Ke tam xuong LL

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

“Xương là cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay đổi, không

lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những thiếu sót của

những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay nấu chín, thì

chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý. Xương cốt

không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”

Trích Kẻ tầm xương – tiểu thuyết đầu tiên trong series tiểu thuyết trinh

thám về nhân vật Lincoln Rhyme

I

VUA MỘT NGÀY

Thực tại ở New York

quá hùng mạnh khiến cho quá khứ phải biến mất.

JOHN JAY CHAPMAN

MỘT

10:30 PM thứ Sáu đến 3:30 PM thứ Bảy

Cô chỉ muốn ngủ.

Máy bay hạ cánh chậm hai tiếng và hành khách xếp hàng dài dằng dặc

để đợi lấy hành lý. Xe phục vụ đưa đón họ đã về được một tiếng. Còn

bây giờ họ đang đợi taxi.

Cô đứng trong hàng người, thân hình mảnh dẻ nghiêng đi dưới sức

nặng của chiếc máy tính xách tay. John đang huyên thuyên về lãi suất

và những cách thức điều chỉnh hợp đồng, nhưng tất cả những gì cô có

thể nghĩ tới là 10:30 thứ Sáu, mình muốn ráo mồ hôi và ăn uống gì đấy.

Nhìn vào dòng chảy vô tận của những chiếc Yellow Cab. Có điều gì

đó ở màu sắc và sự giống nhau của những chiếc xe gợi cho cô nhớ tới

bọn côn trùng. Cô rùng mình vì cảm giác bò trườn ghê sợ mà cô vẫn

nhớ từ hồi còn bé ở trên núi, khi cô và anh trai nhìn thấy một con lửng

gan dạ bị giết hay đang cố kháng cự lại tổ kiến lửa đỏ, cô đã nhìn

chằm chằm vào một khối chân cẳng và thân thể ẩm ướt, quằn quại.

T.J. Colfax lê chân về phía trước khi chiếc taxi tạt vào lề đường và

phanh kít lại. Người lái xe mở cốp nhưng vẫn ngồi trong xe. Họ phải tự

xếp đồ, việc đó làm

John khó chịu. Anh đã quen được người khác làm cho mọi thứ.

Tammie Jean không quan

tâm; đôi khi cô vẫn ngạc nhiên vì thấy mình có thư ký đánh máy và lập

hồ sơ giúp. Cô ném vali vào cốp xe, đóng lại và trèo vào trong xe.

John vào sau cô, sập cửa, nhăn bộ mặt béo phị vào cái đầu hói của

anh ta, cứ như nỗ lực cho cái túi đựng bộ vét của anh ta vào cốp xe đã

làm anh ta kiệt sức.

“Đến Bảy mươi hai Đông trước”, John lầm bầm qua lớp kính chắn.

“Sau đó đến Upper West Side1”, T.J. nói thêm. Lớp kính chắn Plexi

giữa hàng ghế đầu và hàng ghế sau xước xát đến mức cô gần như

không thấy người tài xế.

Chiếc taxi lao bắn khỏi vỉa hè và nhanh chóng chạy trên đường cao tốc

hướng về phía Manhattan.

“Xem kìa”, John nói, “kia là lý do tại sao lại đông người đến thế”.

Anh chỉ vào một bảng quảng cáo chào mừng các đoàn đại biểu đến dự

hội nghị hoà bình của Liên Hiệp Quốc. Sẽ có khoảng mười nghìn

khách đến thành phố. T.J. ngước nhìn tấm bảng – những người da đen,

da trắng và châu Á, vẫy tay và tươi cười. Tuy vậy vẫn có điều gì đó

không ổn trong bức tranh. Tỷ lệ và màu sắc đã bị phai. Các khuôn mặt

trông có vẻ nhợt nhạt.

T.J. nói thầm: “Bọn ba bị.”

1 Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm

giữa Công viên

Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)

Họ chạy trên con đường cao tốc rộng rãi, trông bóng loáng và có màu

vàng không dễ chịu dưới ánh sáng đèn đường. Chạy qua khu Cảng Hải

quân cũ, qua những chiếc cầu cảng của Brooklyn.

Cuối cùng John cũng ngừng nói, lôi chiếc Texas Instruments ra và bắt

đầu gõ. T.J. dựa lưng vào ghế, nhìn sang vỉa hè bốc khói và những

khuôn mặt buồn thảm của những người ngồi trên các bậu cửa đá nâu

trông ra đường. Họ hình như đã bị hôn mê trong cái nóng.

Trong xe nóng bức nên T.J. thò tay bấm nút mở cửa sổ. Cô không

ngạc nhiên khi thấy cửa kính xe không mở được. Cô vươn qua người

John. Cửa sổ bên anh cũng hỏng. Và đó là lúc cô nhận thấy xe không

có khoá cửa.

Cả tay nắm cửa cũng không có.

Tay cô lần tìm nút tay nắm cửa. Chẳng có gì – cứ như ai đó đã cắt nó

đi bằng cưa

máy.

mất.

“Gì vậy?” John hỏi.

“À, cánh cửa… Ta mở cửa thế nào bây giờ?”

John nhìn từng cánh cửa khi biển hiệu Đường hầm Midtown xuất hiện

rồi biến

“Này!” John gõ vào tấm kính chắn. “Ông lỡ mất chỗ rẽ rồi. Chúng ta

đang đi đâu

thế này?”

“Có lẽ ông ta định qua Queensboro”, T.J. nói. Qua cầu đường sẽ dài

hơn nhưng không phải trả phí qua hầm. Cô ngồi dịch lên và gõ nhẫn

vào tấm kính Plexi.

“Ông định qua cầu đấy à?” Người lái xe lờ đi.

“Này!”

Ngay sau đó họ qua chỗ rẽ Queensboro.

“Chết tiệt”, John hét lên. “Ông định đưa chúng tôi đi đâu? Harlem. Tôi

cá là hắn ta định đưa chúng ta đến Harlem.”

T.J. nhìn ra ngoài cửa sổ. Một chiếc xe đang chạy song song với họ và

chậm rãi vượt lên. Cô đập thật mạnh vào cửa sổ.

“Cứu!” Cô gào to. “Làm ơn đi…”

Người lái xe liếc cô một lần, rồi lần nữa, vẻ không bằng lòng. Anh ta

giảm tốc độ và lùi lại sau họ nhưng chiếc taxi đã đột ngột quặt vào

đường nhánh xuống Queens, vòng vào một con phố và chạy dọc theo

một khu nhà kho trống trải. Có lẽ họ đã phải chạy với tốc độ hơn sáu

mươi dặm2 một giờ.

“Ông đang làm cái trò gì thế?”

T.J. đập vào tấm kính chắn. “Chạy chậm lại. Chúng ta đang ở đâu?”

2 Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một

trăm km một giờ.

“Ôi, trời ơi, không”, John thì thầm. “Nhìn kìa.” Người tài xế đã đeo

một chiếc mặt nạ trượt tuyết. “Ông muốn gì?” T.J. hét lên.

“Tiền à? Chúng tôi sẽ đưa tiền cho ông.” Nhưng phía trước xe vẫn im

lặng.

T.J. mở tung chiếc túi hiệu Targus của cô và lôi chiếc máy tính xách tay

màu đen ra. Cô ngả người về phía sau và phang góc máy tính vào cửa

sổ. Kính vẫn còn nguyên

vẹn mặc dù tiếng đập có vẻ đã làm người tài xế hết hồn. Chiếc taxi đổi

hướng và suýt

đâm vào bức tường của toà nhà họ vừa chạy qua.

“Tiền? Bao nhiêu? Tôi sẽ đưa cho ông rất nhiều tiền!” John lắp bắp,

nước mắt rơi lã chã xuống hai cái má béo phị của anh ta.

T.J phang máy tính vào cửa sổ thêm một lần nữa. Cú phang mạnh đến

nỗi màn hình bắn ra nhưng cửa sổ vẫn y nguyên.

Cô thử lại lần nữa, thân máy tính mở tung và rơi khỏi tay cô. “Mẹ

kiếp…”

Cả hai lao mạnh về phía trước khi chiếc xe trượt bánh trên đường và

dừng lại trên một ngõ cụt tăm tối, bẩn thỉu.

Người lái xe chui ra khỏi xe, trong tay hắn là một khẩu súng lục nhỏ.

“Đừng, xin ông”, cô van xin.

Hắn ta đi ra phía sau xe và cúi người xuống, nhìn qua lớp kính bị trầy

xước. Hắn đứng đó khá lâu trong khi cô và John lùi lại phía sau, dựa

vào cánh cửa đối diện, thân thể

đầm mồ hôi của họ dán vào nhau. Người tài xế khum tay che ánh đèn

đường và nhìn họ

thật gần.

Bất ngờ có tiếng nổ vang rền trong không trung. T.J. co rúm người.

John thét lên một tiếng.

Phía xa, đằng sau người lái xe, bầu trời tràn ngập những chấm lửa xanh

đỏ. Lại có thêm những tiếng nổ và tiếng rít. Hắn ta quay lại và nhìn lên

trong khi một con nhện khổng lồ màu da cam đang trải mình phía bên

trên thành phố.

Pháo hoa, T.J. nhớ lại tờ Thời báo: Món quà của Thị trưởng và Tổng

thư ký Liên

Hiệp Quốc cho các đoàn đại biểu, chào mừng họ tới thành phố vĩ đại

nhất thế giới.

Người lái xe quay lại chiếc taxi. Hắn ta kéo tay nắm cửa với một tiếng

động lớn và từ từ mở cửa.

Một cuộc gọi nặc danh. Như mọi khi

Như thế thì chẳng có cách gì kiểm tra xem người báo tin có định nói về

khu đất hoang nào. Trung tâm gọi đến: “Anh ta nói Ba mươi bảy gần

Mười một. Chỉ có thế thôi.”

Những người báo tin thường không biết rõ hướng tới hiện tượng vụ án.

Đã toát mồ hôi mặc dù lúc này mới có chín giờ sáng, Amelia Sachs đẩy

một bệ cỏ cao. Cô đang tìm theo vạch – cách gọi của những người làm

việc tại hiện trường vụ án – một sơ đồ hình chữ S. Chẳng có gì. Cô

nghiêng đầu nói vào cái mic kẹp trên ve bộ đồng phục màu xanh hải

quân của cô.

“5885. Không tìm thấy gì, thưa Trung tâm. Các anh có yêu cầu gì thêm

không?” Người trực tổng đài nói qua tiếng lẹt xẹt tĩnh điện: “Không cần

gì tại đó nữa,

5885. Nhưng có một điều… người báo tin nói anh ta hi vọng nạn nhân

đã chết. Nghe rõ.” “Trung tâm, xin nhắc lại.”

“Người báo tin này nói anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì lợi ích của

chính nạn nhân. Nghe rõ.”

“Nghe rõ.”

Hy vọng nạn nhân đã chết?

Sachs leo qua một dây xích rũ xuống và tìm một khoảng trống khác.

Không có gì. Cô muốn bỏ cuộc. Gọi đến 10-90, báo cáo vô căn cứ,

và quay trở lại với Deuce,

khu tuần tra thường xuyên của cô. Đầu gối cô bị đau và cô đang nóng

như bị hầm trong cái thời tiết tháng Tám tệ hại này. Cô muốn lẻn vào

Ban quản lí Cảng, nói chuyện với các chàng trai và uống một hộp trà

đá Arizona. Sau đó, lúc 11:30 – chỉ cách đó một, hai giờ đồng hồ – cô

có thể đã dọn dẹp tủ đồ đạc của mình ở Nam Midtown3 và chuẩn bị

đi tập.

Nhưng cô không, không thể thì đúng hơn, bỏ qua cuộc gọi này. Cô

tiếp tục đi: dọc theo vỉa hè nóng bức, qua khoảng trống giữa hai khu

đất hoang và một khu vườn nhiều cây cối khác.

Ngón tay trỏ rất dài của cô thọc vào chiếc mũ đồng phục đỉnh phẳng,

qua những lớp tóc đỏ dày được búi cao trên đầu. Cô gãi mạnh khi

chạm đến phía dưới chiếc mũ, rồi gãi thêm một lúc nữa. Mồ hôi chảy

dọc trán cô buồn buồn và cô gãi lông mày.

Suy nghĩ: Hai giờ cuối cùng của mình ngoài phố. Mình chịu được.

Khi Sachs đi sâu hơn vào bụi cây, cô cảm thấy sự bất ổn đầu tiên

trong buổi sáng hôm nay.

Ai đó đang nhìn mình.

Gió nóng thổi xào xạc trên những bụi cây khô, xe hơi và xe tải ầm ĩ qua

lại Đường hầm Lincoln. Cô nghĩ tới điều mà một sĩ quan tuần tra

thường làm: thành phố này quá ầm ĩ đến mức ai đó có thể lẻn tới sau

mình, trong tầm dao, mà mình không hề hay biết.

Hoặc phóng ra những tia nhìn thép chiếu vào lưng mình… Cô quay lại

thật nhanh.

Chẳng có gì ngoài những chiếc lá, những cỗ máy rì rầm và rác rưởi.

Trèo lên một đống đá, mặt mũi cau có. Amelia Sachs – ba mươi mốt

tuổi – gần được ba mươi mốt, mẹ

cô chắc sẽ nói thế – đã bị viêm khớp. Cô được thừa kế chứng bệnh

đó từ ông ngoại, cũng

rõ ràng như cô đã nhận được thân hình mảnh dẻ từ mẹ, vẻ ngoài xinh

đẹp cũng như sự

3 Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan,

Thành phố New York.

nghiệp từ cha (màu tóc đỏ thì tuỳ theo suy đoán của mọi người). Lại

thêm một cơn đau nhói khi cô đi qua một bức rèm được tạo thành từ

các bụi cây chết khô cao ngất. Cô may mắn dừng lại khi chỉ cách cái

vách sâu ba mươi feet4 đúng một bước chân.

Phía dưới cô là một cái khe tối tăm – cắt sâu xuống nền đá của West

Side. Chạy qua đó là đường sắt Amtrak cho những đoàn tàu đi lên

phía bắc.

Cô hé mắt, liếc nhìn đáy khe cách không xa nền đường sắt. Cái gì thế?

Một vòng tròn đất mới lật, một nhánh cây nhỏ cắm bên trên? Trông nó

giống

như…

Ôi! Lạy chúa!

Một cảnh tượng làm cô rùng mình. Cảm thấy cơn buồn nôn dâng lên,

châm vào da

của cô như một làn sóng lửa. Cô kìm nén được cái phần nhỏ nhoi

trong cô, cô muốn quay đi chỗ khác và làm ra vẻ như mình chưa hề

trông thấy gì.

Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân.

Cô chạy theo chiếc cầu thang sắt dẫn tới vỉa hè xuống phía dưới nền

đường. Cô vươn tay và định bám vào tay vịn cầu thang nhưng cô đã

kịp dừng lại. Khốn kiếp. Thủ phạm có thể tẩu thoát theo đường này.

Nếu chạm vào đó, cô có thể xoá mất dấu tay hắn để lại. Được, ta làm

cách khó vậy. Thở thật sâu để nén cơn đau khớp, cô bắt đầu trèo

xuống theo mặt đá, cố lùa đôi giày mới của cô – đôi giày được đánh

bóng như gương cho ngày đầu tiên nhận nhiệm vụ mới – vào những

khe đá nứt. Cô nhảy từ độ cao bốn feet xuống nền đường và chạy tới

nấm mồ.

“Ôi, trời…”

Đó không phải là một nhánh cây nhô lên khỏi mặt đất mà là một cánh

tay. Thân thể bị chôn đứng và đất được đắp lên tới cánh tay, cổ tay và

bàn tay thò ra ngoài. Cô nhìn chằm chằm vào ngón đeo nhẫn; tất cả thịt

đã bị bóc sạch và một chiếc nhẫn kim cương của phụ nữ có hình ly

cocktail được lồng vào đoạn xương máu me, trần trụi.

Sachs quỳ xuống và bắt đầu đào.

Cô đào bới làm cho đất bắn tung toé, cô nhận thấy những ngón tay

chưa bị cắt trông xiên xẹo và kéo dãn ngoài mức có thể uốn cong.

Điều đó nói với cô rằng nạn nhân vẫn còn sống khi bị những xẻng đất

cuối cùng hất vào mặt.

Và có thể vẫn còn sống.

Sachs giận dữ đào chỗ đất còn tơi, cắt tay vào mảnh chai, máu đen

của cô trộn lẫn với màu đất còn đen hơn. Sau đó, cô đào đến tóc và

vầng trán phía dưới, vầng trán đã xanh xám lại vì thiếu oxy. Tiếp tục

đào cho tới khi cô có thể nhìn thấy hai con mắt mờ đục và cái miệng đã

bị vặn xoắn thành vẻ mặt kinh hoàng khi nạn nhân cố gắng trong một

vài giây cuối cùng để ngoi lên khỏi đợt thuỷ triều đất đen.

Không phải là một phụ nữ. Dù tay đeo chiếc nhẫn. Đó là một người

đàn ông trên năm mươi tuổi, đậm người. Chết khi đất vùi kín anh ta.

4 Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây

là khoảng 10m.

Lùi lại phía sau, cô không thể rời mắt khỏi cái xác chết và suýt vấp phải

đường tàu. Cô không thể nghĩ được điều gì khác trong gần một phút.

Ngoài việc nếu bị chết như thế thì sẽ ra sao.

Sau đó: Nào, em yêu. Em đã tự dẫn mình đến hiện trường vụ án và em

là sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường.

Em biết phải làm gì chứ:

ADAPT

A là Arrest: bắt kẻ tình nghi.

D là Detain: thẩm tra nhân chứng và vật chứng. A là Assess: đánh giá

hiện trường vụ án.

P là….

P là gì nhỉ?

Cô nghiêng đầu nói vào mic. “5885 gọi Trung tâm. Báo cáo tiếp. Tôi

gặp 10-29 trên đường tàu hoả ở Đại lộ Ba mươi tám và Mười một.

Giết người, nghe rõ. Cần thám tử, CS5, xe bus, và bác sĩ pháp y.

Nghe rõ.”

“Đã rõ, 5885. Nghi phạm đã bị bắt chưa, nghe rõ?” “Không có nghi

phạm.”

“Năm-tám-tám-năm, nghe rõ”

Sachs nhìn chằm chằm vào ngón tay, ngón tay bị lóc thịt đến tận

xương. Một chiếc nhẫn không phù hợp. Hai con mắt. Và vẻ mặt nhăn

nhúm… Ôi, cái vẻ mặt nhăn nhúm kinh dị này. Cơn rùng mình chạy

dọc cơ thể cô. Amelia Sachs đã từng bơi với rắn trong những con sông

khi đi nghỉ hè và đã từng huênh hoang một cách chân thực rằng, cô

không có vẫn đề gì khi chơi bungee-jumping6 từ cây cầu cao một trăm

feet. Nhưng cứ để cô nghĩ về sự giam cầm… nghĩ tới việc bị rơi vào

bẫy, hoàn toàn bất động thì cơn hoảng loạn sẽ tóm lấy cô như bị sốc

điện. Đó là lí do vì sao Sachs đi nhanh và lái xe như chớp.

Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta… Cô nghe thấy một

tiếng động và ngẩng đầu. Tiếng ầm ầm, sâu và ngày càng lớn hơn.

Những mẩu giấy vụn bay tung trên đường ray. Những đám bụi bay

quanh cô như những con ma giận dữ.

Sau đó là tiếng rền rĩ nhỏ…

5 CS: Khám nghiệm hiện trường.

6 Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn

hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.

Sĩ quan tuần tra Amelia Sachs, chỉ cao một feet chín, thấy mình đang

đối diện với một chiếc đầu máy xe lửa nặng ba mươi tấn của Amtrak,

một khối sắt đỏ, trắng và xanh đang lao tới với tốc độ mười dặm một

giờ.

“Dừng lại ngay!” Cô hét lên. Người kỹ sư lờ cô đi.

Sachs nhảy vào, đứng ngay giữa đường ray, giạng chân, vẫy tay ra hiệu

cho anh ta dừng lại. Chiếc đầu máy kêu rít lên rồi dừng lại. Người kĩ

sư thò đầu ra ngoài cửa sổ.

“Anh không đi qua đây được”, cô nói với anh ta.

Anh ta hỏi ý cô là gì. Cô nghĩ anh ta trông quá trẻ để có thể lái đoàn

tàu lớn như

vậy.

“Đây là hiện trường vụ án. Vui lòng tắt động cơ.”

“Thưa quý cô, tôi không hề nhìn thấy hiện trường vụ án nào cả.”

Nhưng Sachs không nghe. Cô đang nhìn lên khoảng trống trong chuỗi

xích bên

phía tây của cây cầu tàu phía trên, gần Đại lộ Mười một.

Chỉ có thể có một cách để đưa xác chết đến đây mà không bị phát

hiện – đỗ xe ở Đại lộ Mười một và kéo xác qua một con đường hẹp

dẫn đến vách đá. Còn trên Đại lộ Ba mươi bảy, chỗ giao lộ, hắn ta có

thể bị phát hiện từ hai tá cửa sổ của các căn hộ.

“Đoàn tàu này, thưa ngài. Xin cứ để nó đấy.” “Tôi không thể để nó ở

đây được.”

“Vui lòng tắt động cơ.”

“Chúng tôi không tắt động cơ của những con tàu kiểu này. Lúc nào

chúng cũng

chạy.”

“Và hãy gọi điện cho điều phối viên. Hay ai đó. Yêu cầu họ dừng cả

các đoàn tàu

đi về phía nam.”

“Chúng tôi không được làm thế.”

“Ngay bây giờ. Tôi có thể lấy số của chiếc xe đó, được không?”

“Chiếc xe?”

“Tôi khuyên anh nên làm ngay”, Sachs quát.

“Cô định làm gì, thưa quý cô? Gắn phiếu phạt tôi chắc?”

Nhưng Amelia Sachs đã lại trèo lên trên bức tường đá, các khớp

xương đáng thương của cô kêu cót két, môi cô cảm thấy vị bụi đá vôi,

đất sét và mồ hôi của chính mình. Cô chạy về phía con đường cô vừa

nhìn thấy từ dưới kia, sau đó quay lại, nghiên cứu Đại lộ Mười một và

Trung tâm Javits ở bên kia đường. Gian đại sảnh đầy người – những

người đến xem và báo chí. Một biểu ngữ khổng lồ tuyên bố Chào

mừng các đại biểu Liên Hiệp Quốc! Nhưng sáng hôm nay, khi con phố

vắng người, tên tội phạm có thể dễ dàng tìm thấy một nơi đỗ xe ở đây

là kéo cái xác đến đường ray mà không bị phát hiện. Sachs chạy tới

Đại lộ Mười một, nghiên cứu đại lộ sáu làn xe đang tắc nghẽn.

Làm thôi!

Cô khó nhọc vượt qua một biển xe hơi, xe tải và chặn làn đường đi lên

phía bắc. Mấy người lái xe cố chạy vớt, cô đã phải xé hai phiếu phạt

và sau cùng cô kéo thùng rác ra giữa phố như một chiến lũy để đảm

bảo những người dân lương thiện thực hiện nghĩa vụ công dân của họ.

Cuối cùng thì Sachs cũng đã nhớ ra quy tắc tiếp theo trong các quy tắc

ADAPT

của sĩ quan đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ án.

P là Protect: bảo vệ hiện trường vụ án.

Âm thanh của những chiếc còi xe giận dữ bắt đầu tràn ngập bầu trời

buổi sáng mờ sương, sau đó được thay thế bằng những tiếng thét giận

dữ hơn của các tài xế. Một lúc sau, cô nghe tiếng còi hụ tham gia ầm ĩ

khi những chiếc xe khẩn cấp đầu tiên lao tới.

Bốn mươi phút sau, nơi này tràn ngập cảnh phục và các điều tra viên,

có đến vài chục người – đông hơn vụ diễn ra tại Hell’s Kitchen rất

nhiều, bất kể là nguyên nhân cái chết có khinh khủng hơn đến mấy.

Nhưng Sachs đã học được từ những cảnh sát khác, đây là một vụ

nóng, một vụ thu hút báo giới – nạn nhân có thể là một trong những

hành khách đến sân bay JFK7 đêm trước, bắt taxi vào thành phố. Họ

có thể không bao giờ về được đến nhà.

“CNN8 đang theo dõi.” Một người mặc cảnh phục thầm thì.

Vì thế Amelia Sachs không ngạc nhiên khi thấy Vince Peretti tóc vàng,

giám đốc IRD9, bộ phận theo dõi đơn vị hiện trường vụ án, trèo qua

hàng rào và dừng lại lúc anh ta phủi bộ vét trị giá cả nghìn đô la của

mình.

Cô ngạc nhiên khi thấy anh nhận ra cô và ra hiệu cho cô, một nụ cười

giả tạo xuất hiện trên khuôn mặt sắc nét của anh ta. Cô nhận ra rằng cô

sẽ nhận được một cái gật đầu cảm ơn về hành động Cliffhanger10  vừa

rồi. Bảo vệ dấu tay trên cái cầu thang đó, các chàng trai. Có thể sẽ có

cả khen ngợi. Trong giờ tuần tra cuối cùng của ngày làm việc cuối cùng

ở Đội Tuần tra. Ra đi với ánh hào quang của sự vẻ vang.

Anh ta nhìn cô từ trên xuống dưới. “Sĩ quan tuần tra, cô không phải là

lính mới, đúng không? Giả định của tôi đúng chứ?”

“Tôi xin lỗi, thưa ngài?”

“Cô chắc không phải lính mới, tôi giả định thế.”

7 JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.

8 CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin

tức nổi tiếng của

Mỹ.

9 IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận

Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.

10 Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.

Cô không phải lính mới, không tuân theo quy tắc, mặc dù cô mới có ba

năm phục vụ, khác với hầu hết các sĩ quan tuần tra khác ở độ tuổi cô;

họ đã có chín hay mười năm phục vụ. Sachs bị lỡ mất mấy năm trước

khi vào học viện. “Tôi không biết ngài định hỏi gì.”

Anh ta trông bực tức, nụ cười biến mất khỏi khuôn mặt. “Cô là sĩ quan

đầu tiên có mặt tại hiện trường, đúng vậy không?”

“Vâng, thưa ngài”

“Vì sao cô lại chặn Đại lộ Mười một? Cô nghĩ gì vậy?”

Cô nhìn dọc theo con phố rộng vẫn đang bị cái thùng rác chiến lũy của

cô chặn lại. Cô đã quen với tiếng còi nhưng giờ mới nhận ra là nó rất

ồn, dòng xe kéo dài tới vài dặm.

“Thưa ngaì, nhiệm vụ đầu tiên của một sĩ quan là bắt nghi phạm, thẩm

vấn mọi nhân chứng, bảo vệ…”

“Tôi biết quy tắc ADAPT, sĩ quan ạ. Cô chặn phố để bảo vệ hiện

trường vụ án à?” “Vâng thưa ngài. Tôi không nghĩ rằng nghi phạm sẽ

đỗ xe tại giao lộ. Hắn ta có

thể dễ dàng bị trông thấy từ các căn hộ trên kia. Ngài nhìn thấy chứ,

trên kia? Đại lộ

Mười một có thể là lựa chọn tốt hơn.”

“Được. Nhưng đó là một sự lựa chọn sai lầm. Không có dấu chân ở

phía bên kia đường ray, và có hai loạt dấu chân đi lên cầu thang tới Đai

lộ Ba mươi bảy.”

“Tôi đã chặn cả Đại lộ Ba mươi bảy nữa.”

“Đó là ý tôi. Đó là tất cả những gì cần chặn. Còn đoàn tàu?” Anh ta

hỏi. “Vì sao cô lại chặn đoàn tàu?”

“Vâng thưa ngài. Tôi nghĩ rằng một đoàn tàu đi qua hiện trường có thể

làm ảnh hưởng đến chứng cứ. Hay cái gì đó.”

“Hay cái gì đó, sĩ quan?”

“Tôi diễn đạt ý mình không được tốt lắm, thưa ngài. Ý tôi là…” “Còn

sân bay Newark thì sao?”

“Vâng thưa ngài.” Cô nhìn quanh tìm sự giúp đỡ. Có mấy sĩ quan ở gần

đó, nhưng họ đang bận phớt lờ người bị quở trách. “Chính xác thì

Newark là thế nào?”

“Sao cô không đóng cửa nó luôn đi?”

Ồ, tuyệt vời. Một bài học. Đôi môi Julia Roberts của cô căng lên

nhưng cô nói vừa phải. “Thưa ngài, theo nhận định của tôi, có thể

là…”

“Xuyên lộ New York cũng có thể là lựa chọn tốt. Jersey Pike và Xxa

lộ Long

Island. I-70 và các con đường đến St.Louis. Đó cũng có thể là phương

cách trốn chạy.”

Cô hơi cúi đầu và nhìn lại Peretti. Hai người cao bằng nhau dù đế giày

của anh ta cao hơn.

“Tôi có điện thoại từ ngài chánh thanh tra.” Anh ta tiếp tục. “Từ giám

đốc của Ban quản lý Cảng, văn phòng Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc,

giám đốc triển lãm..” Anh ta hất đầu về phía Trung tâm Javits. “Chúng

ta đã phá hỏng lịch trình hội nghị, bài phát biểu

của một thượng nghị sĩ Mỹ và toàn bộ giao thông bên West Side.

Đường ray cách nạn nhân mười lăm feet còn con phố mà cô chặn lại

cách chỗ đó một trăm feet và trên đó ba mươi feet. Ý tôi là ngay cả

Bão Eve cũng không ảnh hưởng như vậy tới Hành lang Đông Tây của

Amtrak.”

“Tôi chỉ nghĩ rằng…”

Peretti cười. Vì Sachs là một phụ nữ đẹp – trong những năm tháng

“chìm đắm” của cô trước khi gia nhập Học viện Cảnh sát, có thời gian

cô đã làm việc thường xuyên cho Công ty Người mẫu Chantelle – nên

viên cảnh sát lựa chọn tha thứ cho cô.

“Tuần tra viên Sachs” – anh ta liếc nhìn bảng tên trên ngực cô, được

dán một cách đơn giản trên chiếc áo chống đạn hiệu American Body

Armor – “một bài học. Nhiệm vụ tại hiện trường vụ án là một việc đòi

hỏi sự cân bằng. Sẽ rất tốt nếu chúng ta có thể rào cả thành phố sau

mỗi vụ giết người và thẩm vấn ba triệu người. Nhưng chúng ta không

thể làm điều đó. Tôi nói điều này là có tính xây dựng. Để khai sáng cho

cô”.

“Trên thực tế, thưa ngài”, cô nói cộc cằn. “Tôi sắp chuyển khỏi Đội

Tuần tra. Điều đó có hiệu lực từ trưa hôm nay.”

Anh ta gật đầu, cười vui vẻ. “Thế thì nói đủ rồi. Nhưng để biết thôi, có

phải cô

quyết định dừng đoàn tàu và phong tỏa đường phố?”

“Đúng vậy, thưa ngài”, cô nói một cách dứt khoát. “Không có sai lầm

nào trong việc đó cả.”

Anh ta viết điều này vào cuốn sổ theo dõi màu đen của mình với nét

bút mạnh mẽ bằng chiếc bút máy dính đầy mồ hôi.

Ôi, làm ơn đi…

“Còn bây giờ, chuyển những thùng rác ấy đi. Cô sẽ điều khiển giao

thông đến khi đường thông. Cô có nghe rõ tôi nói không?”

Không “vâng, thưa ngài”, hay “không, thưa ngài”, hay bất kỳ sự khẳng

định nào khác, cô đi ra Đại lộ Mười một và bắt đầu chậm chạp di

chuyển những chiếc thùng rác. Người lái xe nào đi ngang cô cũng cau

có hoặc lẩm bẩm điều gì đó. Sachs nhìn đồng hồ.

Còn một tiếng nữa. Mình chịu được.

HAI

Với một cú vẫy cánh ngắn, con chim ưng đỗ xuống rìa cửa sổ. Ánh

sáng bên ngoài, vào giữa buổi sáng, thật rực rỡ và không khí có vẻ

nóng dữ dội.

“Mày đây rồi”, người đàn ông thầm thì. Sau đó anh ta ngẩng đầu khi

nghe tiếng chuông cửa ở tầng dưới.

“Có phải ông ta không?” Anh hét về phía cầu thang. “Phải không?”

Lincoln Rhyme không nghe thấy tiếng trả lời và quay lại cửa sổ. Con

chim xoay đầu, một động tác nhanh, dữ dằn nhưng đối với loài chim

ưng nó lại thật lịch thiệp. Rhyme thấy móng nó dính máu. Một miếng

thịt đang đung đưa dưới cái mỏ khoằm hình vỏ quả hạch màu đen bị

vỡ. Nó vươn cái cổ ngắn và thả lỏng mình trong tổ những cử động

khiến ta nhớ tới loài rắn chứ không phải loài chim. Con chim ưng thả

miếng thịt vào cái miệng đang ngửa lên của một con chim non màu

xanh lông lá. Ta đang nhìn, Rhyme nghĩ, vào một tạo vật sống duy nhất

ở New York mà không có thú săn bắt. Có lẽ ngoại trừ chính Chúa

Trời.

Anh nghe thấy tiếng chân bước chậm chạp lên cầu thang. “Có phải ông

ta không?”Anh hỏi Thom.

Người thanh niên trả lời: “Không.”

“Ai đó? Chuông cửa vừa kêu, đúng không?”

Ánh mắt Thorn hướng về cửa sổ. “Con chim đã quay lại rồi. Nhìn này,

có vết máu trên bậu cửa sổ của anh. Anh thấy không?”

Con chim ưng cái dần xuất hiện trong tầm nhìn. Xanh xám như một con

cá, óng ánh ngũ sắc. Đầu nó ngẩng lên nhìn bầu trời.

“Chúng luôn đi cùng nhau. Chúng có kết bạn cả đời không nhỉ?” Thom

tự hỏi thành tiếng. “Như ngỗng trời ấy?”

Ánh mắt Rhyme quay lại nhìn Thom, anh chàng này đang cúi cái eo

lưng trẻ trung, gọn gàng của mình ngắm nhìn cái tổ qua cánh cửa sổ

vấy bẩn.

“Ai thế?” Rhyme nhắc lại. Chàng thanh niên đang bị kẹt, điều này làm

Rhyme khó

chịu.

“Một người khách.”

“Một người khách? Ha.” Rhyme khịt mũi. Anh cố nhớ lại người khách

cuối cùng

đã ở đây. Chắc phải đến ba tháng trước. Đó là ai nhỉ? Một phóng viên,

có thể, hay một người họ hàng xa. À, Peter Taylor, một trong những

chuyên gia cột sống của Rhyme. Và Blaine cũng đến vài lần. Nhưng cô

ấy tất nhiên không phải là người-khách.

“Lạnh quá”, Thom than phiền. Phản ứng của anh ta là mở cửa sổ. Sự

thỏa mãn tức thì. Tuổi trẻ.

“Đừng mở cửa sổ”, Rhyme hạ lệnh. “Và nói cho tôi biết đấy là ai.”

“Lạnh quá.’

“Cậu đang làm phiền con chim đấy. Cậu có thể giảm điều hòa nhiệt độ.

Tôi sẽ

giảm điều hòa.”

“Chúng ta ở đây trước”, Thom nói, nâng tiếp cánh cửa sổ to tướng lên.

“Con chim chuyển đến khi đã biết rất rõ về anh.” Con chim ưng nhìn

về phía tiếng ồn, giận dữ. Nhưng chúng luôn luôn nhìn giận dữ như thế.

Chúng vẫn đậu trên thành cửa sổ, làm chủ khoảng đất của mình trên

những ngọn cây bạch quả xanh xao và những người đỗ xe bên kia phố.

Rhyme nhắc lại. “Ai vậy?” “Lon Sellitto”.

“Lon?”

Hắn ta làm gì ở đây thế?

Thom nhìn căn phòng. “Chỗ này thật lộn xộn."

Rhyme không thích phải bận bịu dọn dẹp. Anh không thích sự hối hả,

không thích tiếng ồn của máy hút bụi – thứ mà anh cảm thấy thực sự

khó chịu. Anh thấy thoải mái ở đây, thực sự như vậy. Căn phòng này,

anh gọi là văn phòng của anh, nằm trên tầng hai của ngôi nhà theo

phong cách gothic ở Upper West Side của thành phố, nhìn ra Công

viên Trung tâm. Căn phòng rộng, hai mươi nhân hai mươi, và gần như

từng foot vuông của nó đều có đồ. Đôi khi anh nhắm mắt, chơi một trò

chơi cố gắng phân biệt mùi của những đồ vật khác nhau trong phòng.

Hàng nghìn cuốn sách và tạp chí, xếp thành từng chồng nghiêng như

Tháp Pisa, những cái bóng bán dẫn nóng rực trong ti vi. Cái bóng đèn

phủ bụi, một cái bảng ghim giấy. Mùi của nhựa vinyl, nước oxy già,

nhựa mủ và vải bọc ghế.

Ba loại whisky Scotch dòng thuần mạch nha khác nhau. Con chim ưng

kia.

“Tôi không muốn gặp hắn ta. Nói với hắn ta tôi bận.”

“Và một cậu cảnh sát trẻ tuổi. Ernie Banks. Không, anh ta là một cầu

thủ bóng chày, đúng không? Thực sự anh phải để tôi dọn dẹp. Anh

không bao giờ nhận ra một chỗ có thể bẩn thỉu đến thế nào cho tới khi

có người nói cho anh hay.”

“Nói cho anh hay? Trời, nghe có vẻ hoài cổ. Thời Victoria. Điều này

nghe thế nào? Bảo với họ biến khỏi đây. Thế nghe có đạo đức hơn

không?”

Lộn xộn…

Thom đang nói về căn phòng nhưng Rhyme lại cho rằng anh ta ám chỉ

cả sếp của

mình.

Tóc Rhyme đen và dày như tóc một thanh niên mới hai mươi tuổi –

mặc dù anh

gấp đôi – nhưng những lọn tóc lại lộn xộn và bờm xờm, cần được cắt

gội. Mặt anh lởm chởm râu ba ngày chưa cạo, trông bẩn thỉu, và anh

có thể thức giấc với cảm giác buồn buồn ngứa ngáy không ngừng trong

tai, có nghĩa là lông ở đó cũng cần phải được cắt tỉa. Móng Rhyme dài,

cả ở chân lẫn tay, và anh mặc bộ quần áo suốt một tuần – một bộ

pyjama sọc, xấu kinh khủng. Mắt anh hẹp, nâu đậm và nằm trên một

khuôn mặt mà như Blaine thỉnh thoảng nói với anh, trông giàu tình cảm

và có thể coi là đẹp trai.

“Họ muốn nói chuỵen với anh”, Thom tiếp tục. “Họ nói đó là việc rất

quan trọng.” “Ừ, hoan hô họ”

“Anh không gặp Lon cả năm nay rồi.”

“Vì sao điều đó lại có nghĩa tôi phải gặp hắn ta lúc này? Cậu có làm

cho con chim sợ không? Tôi sẽ rất bực nếu cậu làm nó sợ.”

“Quan trọng đấy, Lincoln.”

“Rất quan trọng. Tôi nhớ cậu đã nói thế. Bác sĩ đâu nhỉ? Ông ta có thể

đã gọi điện đến. Lúc nãy tôi ngủ gật. Còn cậu đang ở ngoài.”

“Anh tỉnh dậy từ lúc sáu giờ sáng.”

“Không”. Rhyme dừng lại. “Tôi có dậy, đúng. Nhưng sau đó tôi lại ngủ

gật. Giọng tôi nghe buồn ngủ lắm. Cậu đã kiểm tra tin nhắn chưa?”

Thom nói: “Rồi. Chẳng có gì của ông ta.”

“Ông ta nói ông ta sẽ đến vào tầm giữa buổi sáng."

“Bây giờ là mười một giờ hơn. Có lẽ chúng ta cũng chưa nên gọi tìm

kiếm cứu nạn vội. Anh thấy thế nào?”

“Cậu có dùng điện thoại không?” Rhyme hỏi bất ngờ. “Có thể ông ta

đã gọi đến khi cậu đang nghe máy.”

“Tôi có nói chuyện với…”

“Tôi có nói gì không?” Rhyme hỏi. “Giờ thì cậu tức giận rồi. Và tôi có

nói là cậu không được dùng điện thoại không? Cậu được dùng chứ.

Cậu luôn luôn được dùng. Ý của tôi chỉ là ông ta có thể gọi điện đến

khi cậu đang nghe điện thoại.”

“Không, ý anh là sáng hôm nay phải thật tệ hại.”

“Lại nữa rồi. Cậu biết không, người ta có một thứ – gọi là chờ cuộc

gọi. Cậu có thể nhận hai cuộc điện thoại một lúc. Tôi mong là chúng ta

có dịch vụ này. Ông bạn cũ, Lon của tôi muốn gì thế nhỉ? Và bạn của

hắn ta nữa, anh chàng cầu thủ bóng chày ấy mà.”

“Hỏi họ xem.”

“Tôi đang hỏi cậu.”

“Họ muốn gặp anh. Tôi chỉ biết thế thôi.” “Có điều gì đó r… ất quan…

trọng.”

“Lincoln.” Thom thở dài. Cậu thanh niên đẹp trai vò mớ tóc vàng của

mình. Cậu ta đang mặc quần nâu và áo sơ mi trắng, đeo chiếc ca vát

hoa xanh, thắt đẹp không chê vào đâu được. Khi thuê Thom một năm

trước, Rhyme đã nói cậu ta có thể mặc áo phông và quần bò nếu cậu

ta muốn. Nhưng hằng ngày cậu ta vẫn ăn mặc chỉnh tề, kể từ hồi đó.

Rhyme không biết vì sao điều đó lại góp phần cho quyết định để cậu ta

ở lại, nhưng đúng là có thế thật. Không một người nào trước Thom làm

được quá sáu tuần. Số người tự bỏ việc đúng bằng số người bị đuổi.

“Được rồi, họ nói với cậu những gì?”

“Tôi nói với họ cho tôi mấy phút để bảo đảm anh ăn mặc tươm tất khi

họ lên. Ngắn gọn thế thôi.”

“Cậu đã nói thế. Không hỏi ý kiến tôi. Cám ơn rất nhiều.”

Thom lùi mấy bước và gọi vọng xuống cầu thang dưới tầng một. “Lên

thôi, thưa các quí ông.”

“Họ nói gì đó với cậu, đúng thế không?” Rhyme nói. “Cậu giấu tôi.”

Thom không trả lời còn Rhyme nhìn hai người đang lại gần. Khi họ vào

phòng, Rhyme nói trước. Anh nói với Thom. “Hạ rèm xuống. Cậu đã

chọc giận con chim quá mức rồi đấy.”

Nhưng điều đó thực ra có nghĩa là anh đã thấy quá đủ ánh nắng mặt

trời.

Câm lặng.

Miếng băng dính hôi hám dán trên miệng làm cô không thể nói được,

nó làm cô cảm thấy bất lực còn hơn chiếc còng đang bó chặt cổ tay

cô. Hơn cả những ngón tay ngắn ngủn, mạnh mẽ của hắn đang bóp

chặt bắp tay cô.

Người lái taxi, vẫn đeo mặt nạ trượt tuyết, dẫn cô đi theo một hành

lang ẩm ướt, bụi bặm, dọc theo những hàng ống nước và ống cáp. Họ

đang ở trong tầng hầm của một tòa nhà văn phòng. Cô chẳng biết là ở

đâu.

Nếu mình có thể nói chuyện với hắn…..

T.J. Colfax là một tay chơi. Một kẻ gớm ghiếc trên tầng ba của

Morgan Stanley11. Một nhà đàm phán.

Tiền? Mày cần tiền? Tao sẽ đưa mày tiền, rất nhiều tiền. Hàng đống

tiền. Cô đã nghĩ tới điều đó hàng chục lần, cố gắng bắt ánh mắt hắn ta,

tựa như cô có thể thực sự đẩy ngôn ngữ vào đầu óc hắn.

Làm ơn đi, cô thầm van xin và bắt đầu nghĩ đến cách lấy tiền từ quỹ

hưu trí của mình để đưa cho hắn. Ôi, làm ơn đi…

Cô nhớ lại đêm qua: Người đàn ông quay lại không nhìn pháo hoa, lôi

họ ra khỏi taxi, còng tay họ. Hắn ném họ vào cốp và lái xe đi. Đầu tiên

qua đoạn đường sỏi mấp mô và đoạn đường trải nhựa đầy ổ gà, sau

đó là một đoạn đường êm, rồi lại xóc. Cô nghe thấy tiếng vèo vèo khi

xe qua cầu. Lại cua, lại đoạn đường xóc. Cuối cùng, chiếc taxi dừng lại

và người tài xế ra khỏi xe, hình như hắn ta mở một cánh cổng hay mấy

cánh cửa. Hắn cho xe vào ga ra, cô nghĩ thế. Toàn bộ âm thanh của

thành phố bị gián đoạn và tiếng ống xả xe hơi ngày càng lớn hơn, dội lại

từ những bức tường xung quanh.

Rồi cốp xe bật mở và người đàn ông kéo cô ra. Hắn giật chiếc nhẫn

kim cương từ ngón tay cô và đút vào túi. Sau đó, hắn dẫn cô đi qua

những bức tường có những khuôn mặt ma quái, hình vẽ những con mắt

đã phai nhạt nhìn cô chằm chằm, một tên đồ tể, một

11 Morgan  Stanley: Một công ty dịch vụ tài chính toàn cầu ở Thành

phố New York.

con yêu tinh, ba đứa trẻ đáng thương – được vẽ trên lớp vữa nát vụn.

Kéo cô xuống tầng hầm tối và ném cô xuống sàn. Hắn đi lộp cộp lên

gác, bỏ cô lại trong bóng tối, bao quanh là một mùi ghê đến phát ốm –

mùi thịt thối, rác rưởi. Cô nằm ở đây hàng giờ, có ngủ được một chút,

và khóc lóc rất nhiều. Cô bất ngờ tỉnh dậy khi nghe một tiếng động lớn.

Một tiếng nổ sắc nhọn. Ngay gần. Rồi lại là giấc ngủ bất an.

Nửa giờ trước hắn lại đến chỗ cô. Dẫn cô ra cốp xe và lái đi khoảng

hai mươi phút. Tới đây. Dù cô chẳng biết đây là chỗ nào.

Giờ thì họ đang bước trong một căn phòng mờ tối dưới tầng hầm. Ở

giữa phòng là một cái cổng đen dày; hắn còng tay cô vào đấy, sau đó

tóm chân cô kéo thẳng ra trước, đẩy cô ngồi dậy. Hắn quỳ xuống và

trói chân cô bằng một sợi dây mảnh – việc này mất đến vài phút; hắn

đeo đôi găng da. Sau đó hắn đứng lên, nhìn cô rất lâu, cúi xuống và

phanh áo cô. Hắn vòng ra sau cô, và rồi cô thở gấp, cảm thấy bàn tay

hắn trên vai cô, dò dẫm, bóp chặt xương bả vai.

Khóc lóc, van xin qua lớp băng dính. Biết được điều gì sẽ xảy đến.

Hai bàn tay đi xuống dưới cánh tay cô, sau đó vòng xuống dưới và

vòng qua phía trước thân người cô. Nhưng hắn không chạm vào ngực

cô. Không, khi hai bàn tay đan

lưới trên làn da cô. Hắn chọc và vuốt ve xương sườn cô. T.J rùng mình

cố thoát ra. Hắn

tóm lấy cô chặt hơn và săn sóc thêm chút nữa, ấn mạnh, cảm nhận sự

đàn hồi của xương.

Hắn đứng dậy. Cô nghe thấy tiếng chân xa dần. Im lặng một lúc lâu,

chẳng có gì ngoài tiếng rên rỉ của những chiếc máy điều hòa và thang

máy. Rồi cô thốt ra một tiếng làu bàu kinh sợ vì một tiếng động ngay

phía sau cô. Tiếng ồn lặp lại. Xoẹt. Xoẹt. Nghe rất quen, nhưng cô

chẳng thể nhận ra. Cô cố quay lại xem hắn định làm gì nhưng không

được. Cái gì thế nhỉ? Lắng nghe một âm thanh nhịp nhàng, lặp đi lặp

lại. Âm thanh ấy đưa cô trở lại nhà mẹ cô.

Xoẹt. Xoẹt.

Sáng thứ Bảy, trong một căn nhà nhỏ ở Bedford, Tennessee. Đó là

ngày duy nhất mẹ cô không đi làm và bà dành toàn bộ thời gian để dọn

nhà. T.J. sẽ thức dậy khi mặt trời đã chiếu nắng nóng và chạy xuống

nhà để giúp mẹ. Xoẹt. Cô khóc khi chợt nhớ tới kỷ niệm này, khi cô

nghe âm thanh đó và tự hỏi vì sao hắn lại quét nhà cẩn thận với những

nhát chổi chính xác và cẩn thận đến vậy.

Anh thấy sự ngạc nhiên và không thoải mái trên khuôn mặt họ.

Điều mà ta không thường xuyên thấy ở những viên cảnh sát điều tra án

mạng của

Thành phố New York.

Lon Sellito và anh chàng trẻ tuổi Banks (Jerry, không phải Ernie) ngồi

xuống chỗ mà Ryhme vừa dùng cái đầu tổ quạ của anh ra hiệu cho họ

ngồi: chiếc ghế mây bẩn thỉu, không thoải mái.

Ryhme đã thay đổi rất nhiều từ lần cuối cùng Sellitto đến đây và viên

thám tử không giấu được cú sốc của mình. Banks thì không có tiêu chí

nào để so sánh với những gì anh ta nhìn thấy, nhưng anh ta vẫn bị sốc

như thường. Căn phòng nhếch nhác, một kẻ

du mục đang nghi ngờ nhìn họ. Mùi thì quá chắc chắn – mùi nội tạng

đang bao quanh một tạo vật được gọi là Linconl Ryhme.

Anh lấy làm tiếc là đã để họ lên.

“Sao anh không gọi điện trước hả, Lon?” “Anh sẽ bảo chúng tôi đừng

đến.”

Đúng thật.

Thom trèo lên cầu thang. Ryhme chặn trước.

“Không, Thom, chúng tôi sẽ không cần đến cậu.” Anh chợt nhớ là

chàng thanh niên này luôn hỏi xem khách có muốn ăn uống gì không.

Đồ Martha Stewart1 chết tiệt.

Im lặng một lúc. Sellitto to lớn, nhăn nhúm – một cựu chiến binh hai

mươi năm – nhìn vào một cái hộp cạnh giường và bắt đầu nói. Điều

anh ta định nói lập tức bị chặn lại khi anh ta nhìn thấy những cái bỉm

dành cho người lớn.

Jerry Banks nói: “Tôi có đọc sách của ngài, thưa ngài.” Chàng cảnh sát

trẻ tuổi này cạo râu thật kém, rất nhiều vết đứt. Còn vết bò liếm trên

tóc anh ta trông thật duyên dáng! Lạy Chúa tôi, anh ta không thể quá

mười hai tuổi được. Thế giới càng mệt mỏi, cư dân ở đó trông càng trẻ

trung, Rhyme nghĩ.

“Cuốn nào vậy?”

“À, hướng dẫn về hiện trường vụ án, tất nhiên rồi ạ. Nhưng ý tôi là

cuốn sách ảnh. Cuốn sách khoảng hai năm trước.”

“Trong đó cũng có cả chữ nữa. Thực ra, chủ yếu là chữ. Cậu có đọc

nó không?” “Ồ, tất nhiên rồi”, Banks nói nhanh.

Một chồng cao ngất các cuốn sách The Scenes of the Crime2 còn lại

đang dựa vào một bức tường trong phòng.

“Tôi không biết anh và Lon là bạn bè”, Banks nói thêm.

“À, Lon không cho cậu xem cuốn kỷ yếu sao? Cho cậu xem mấy bức

ảnh? Xắn tay áo và chìa mấy cái sẹo rồi nói với cậu rằng những vết

thương này tôi đã bị cùng Lincoln Rhyme?”

Sellitto không cười. Được thôi, mình có thể cho hắn ta ít thứ để cười

hơn nếu hắn ta muốn. Viên thám tử có thâm niên đang lục lọi trong

chiếc cặp của anh ta. Hắn ta có cái gì trong ấy nhỉ?

“Các anh đã cộng tác bao lâu rồi?” Banks hỏi, tìm cách nói chuyện.

“Có một động từ cho cậu đấy”, Rhyme nói và nhìn đồng hồ.

1 Martha Stewart:  Chủ bút một tờ báo gia đình, một kiểu chị Thanh

Tâm ở Mỹ.

2 The Scences of the Crime: Những hiện trường vụ án.

“Chúng tôi không phải cộng sự của nhau”, Sellito nói. “Tôi làm ở Ban

Án mạng, anh ta là giám đốc IRD.”

“Ồ”. Bank mói, tỏ ra bị ấn tượng hơn nữa. Lãnh đạo IRD là một trong

những công việc uy tín nhất trong sở.

“Ừ”, Rhyme nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ, tựa hồ bác sĩ của anh

sẽ tới qua con chim ưng. “Hai người lính ngự lâm”.

Bằng một giọng kiên nhẫn nhưng lại làm cho Rhyme khó chịu. Sellito

nói: “Bảy năm liên tục, chúng tôi làm việc cùng nhau.’

“Những năm tháng tốt đẹp”, Rhyme nhấn nhá.

Thom cau có, nhưng Sellitto không nhận thấy sự mỉa mai này. Mà đúng

hơn là lờ đi. Anh ta nói: “Chúng tôi có vấn đề, Lincoln. Chúng tôi cần

giúp đỡ.”

Soạt. Chồng giấy đổ xuống cái bàn đầu giường.

“Giúp đỡ?” Tràng cười nổ ran từ chiếc mũi mà Blaine luôn ngờ rằng đó

là sản phẩm của phẫu thuật thẩm mỹ, mặc dù không phải như vậy. Cô

cũng luôn nghĩ rằng đôi môi của anh quá hoàn hảo (nếu thêm một vết

sẹo, có lần cô đã đùa như vậy khi họ suýt cãi nhau). Mà tại sao hôm

nay sự hiện diện đầy nhục cảm của cô lại cứ dâng mãi lên như vậy nhỉ,

anh tự hỏi. Buổi sáng anh thức dậy với ý nghĩ về người vợ cũ của mình

và tự nhiên muốn viết cho cô một lá thư, lá thư đó vẫn còn ở trên màn

hình máy tính vào lúc này. Anh đang lưu nó vào đĩa. Sự im lặng tràn

ngập cả căn phòng khi anh nhập lệnh vào máy tính bằng một ngón tay.

“Lincoln?” Sellitto hỏi.

“Vâng, thưa ngài. Sự giúp đỡ. Của tôi. Tôi nghe thấy.”

Banks vẫn giữ nụ cười không đúng chỗ trên mặt anh ta khi anh ta ngọ

nguậy đầy khó chịu trên ghế.

“Tôi sắp có một cuộc hẹn, ngay bây giờ”, Rhyme nói. “Một cuộc hẹn.”

“Một bác sĩ.”

“Thật không?” Banks hỏi, chỉ để cố gắng phá tan sự im lặng lại vừa

tràn ngập căn

phòng.

Không chắc lắm là cuộc nói chuyện đang đi đến đâu, Sellitto hỏi: “Anh

thế nào?” Banks và Sellitto không hỏi tới sức khỏe của anh khi họ tới.

Đó là câu hỏi mọi

người thường tránh khi họ gặp Lincoln Rhyme. Câu trả lời có thể sẽ rất

phức tạp, và gần

như chắc chắn là sẽ khó chịu.

Anh nói đơn giản: “Tôi ổn, cám ơn. Còn anh? Betty?” “Chúng tôi đã li

dị”, Sellitto nói nhanh.

“Thế à?”

“Cô ta được ngôi nhà còn tôi thì một nửa đứa con.” Viên cảnh sát lùn,

đậm người với một giọng vui vẻ giả tạo, cứ như anh ta đa nói điều này

trước đó, và Rhyme nói rằng

có một chuyện đau đớn đằng sau cuộc chia tay. Câu chuyện mà anh

chẳng hề muốn nghe. Tuy vậy, anh cũng chẳng ngạc nhiên khi thấy

cuộc hôn nhân này thất bại. Sellitto là một con ngựa thồ. Anh ta là một

trong khoảng một trăm thám tử hạng nhất trong lực lượng và đã từng

giữ vị trí này nhiều năm – anh ta lên hạng vì có công trạng thực sự chứ

không phải chỉ vì thâm niên. Anh ta làm việc tới tám mươi giờ một tuần.

Rhyme không hề biết anh ta đã lấy vợ trong mấy tháng đầu tiên họ

cùng làm việc.

“Giờ anh đang sống ở đâu?” Rhyme hỏi, hy vọng rằng một cuộc nói

chuyện xã giao sẽ làm họ kiệt sức và biến đi.

“Brooklyn. Tại Heights. Đôi khi tôi đi bộ đi làm. Anh biết chế độ ăn

kiêng định kỳ của tôi rồi chứ nhỉ? Vấn đề không phải ăn kiêng. Mà là

tập luyện.”

Anh ta trông không béo hơn hay gầy hơn so với Lon Sellitto ba năm

rưỡi trước đây. Hoặc Sellitto cách đây mười lăm năm.

Banks nói: “Vậy, anh nói đó là một bác sĩ. Để cho…”

“Một dạng điều trị mới à?” Rhyme hoàn thành câu hỏi. “Chính xác.”

“Chúc may mắn.”

“Cám ơn cậu rất nhiều”

Giờ là 11:36. Đã quá nửa buổi sáng từ lâu. Chậm trễ là điều không thể

tha thứ đối với người làm trong ngành y.

Anh nhìn thấy Banks ngó chân anh hai lần. Anh tóm được cậu bé lần

thứ hai và không ngạc nhiên khi thấy viên thám tử đỏ mặt.

Rhyme nói: “Tôi sợ rằng tôi không có thời gian để giúp đỡ các anh.’

“Nhưng bác sĩ vẫn chưa đến, đúng không?” Lon Sellitto hỏi bằng một

giọng cứng rắn mà anh ta thường dùng để xuyên thủng các câu chuyện

bịa đặt của những nghi phạm giết người.

Thom xuất hiện ở cửa với một ấm cà phê. “Đồ ngốc”, Rhyme buột

miệng.

“Lincoln quên mời các quý vị mấy thứ.” “Thom đối xử với tôi như một

đứa trẻ.” “Nếu đúng thế”, anh chàng trợ lý trả miếng.

“Được rồi”, Rhyme thủng thẳng. “Mời dùng cà phê. Tôi sẽ uống ít sữa

mẹ.”

“Quá sớm, quán vẫn chưa mở cửa.” Thom nói. Và anh ta cũng khiến

mặt Rhyme ửng đỏ.

Ánh mắt Banks lại quét một lần nữa trên cơ thể Rhyme. Có thể cậu ta

nghĩ chỉ toàn da bọc xương. Nhưng hiện tượng teo cơ đã chấm dứt

không lâu sau tai nạn và những nhân viên vật lý trị liệu đầu tiên của anh

đã làm anh kiệt sức với các bài tập. Thom cũng là một nhân viên vật lý

trị liệu tốt, mặc dù đôi khi cậu ta giống như một thằng ngốc, nhưng

những lần khác lại tỏ ra như một con gà mái già. Hằng ngày, cậu ta bắt

Rhyme

thực hiện các bài tập ROM1 thụ động. Kỹ càng ghi lại các chỉ số đo

góc – thang đo dùng để đo mức độ chuyển động được anh ta áp dụng

vào từng khớp xương trong cơ thể Rhyme. Kiểm tra cẩn thận mức độ

suy căng cơ khi cậu ta tập cho chân tay anh bằng những chu kỳ dang

khép cố định. Bài tập ROM không phải phép màu nhưng nó tạo ra

một chút rắn chắc cho cơ bắp, giảm những cơn co cứng làm ta đuối

sức và giữ cho máu lưu thông. Với một người mà hoạt động cơ bắp chỉ

giới hạn ở vai, đầu và ngón đeo nhẫn bên tay trái trong ba năm rưỡi thì

tình trạng của Lincoln Rhyme không phải là tệ.

Viên thám tử trẻ rời mắt khỏi bảng điều khiển ECU2  màu đen, rắc rối,

nằm cạnh ngón tay Rhyme, được nối với những bộ điều khiển khác,

những ống dẫn và dây cáp loằng ngoằng, được nối với một chiếc máy

tính và một màn hình treo trên tường.

Cuộc đời của anh chàng đã bị trói buộc, trước đó rất lâu, một nhân

viên trị liệu đã nói với Rhyme như thế. Ít nhất, đó là những anh chàng

giàu có. Những anh chàng may mắn.

Sellitto nói: “Sáng nay có một vụ giết người ở West Side.”

“Chúng tôi nhận được báo cáo về một số người đàn ông, phụ nữ vô

gia cư mất tích trong mấy tháng qua”, Banks nói. “Đầu tiên chúng tôi

nghĩ có thể là một trong số họ. Nhưng không phải vậy”, cậu ta nói

thêm đầy kịch tính. “Nạn nhân là một trong những người đêm qua.”

Rhyme tỏ  vẻ trống rỗng trước khuôn mặt  lấm chấm của chàng  trai. 

“Những

người?”

“Anh ta không xem thời sự”, Thom nói. “Nếu cậu nói về vụ bắt cóc thì

anh ta chưa nghe đến.”

“Anh không xem thời sự?” Sellitto cười phá. “Ở SOB3  anh đọc bốn

tờ báo một ngày và ghi lại bản tin địa phương để xem khi đi làm về.

Blaine nói với tôi một đêm anh gọi cô ấy là Katie Couric4 trong khi làm

tình.”

“Giờ tôi chỉ đọc văn học”, Rhyme nói một cách khoa trương, giả dối.

Thom nói thêm: “Văn học luôn là tin mới.”

Rhyme lờ cậu ta đi.

Sellitto nói: “Một người đàn ông và một phụ nữ đi công tác từ Bờ Biển

về. Lên một chiếc Yellow Cab tại sân bay JFK. Không bao giờ về đến

nhà.”

“Có báo cáo lúc khoảng mười một giờ ba mươi. Chiếc taxi chạy theo

hướng BQE1 tại khu Queens. Hành khách nam và nữ da trắng ngồi

ghế sau. Có vẻ họ đã thử đập cửa sổ. Đập kính. Không người nào có

thẻ ghi hay đeo hình trái tim có lồng ảnh.”

1 ROM: Một dạng bài tập kéo dãn cơ.

2 ECU (viết tắt của Environment Control Unit): Thiết bị Điều khiển

Môi trường.

3 SOB (viết tắt của Son of a Bitch): Một cách nói khinh bỉ về cơ quan

trước đó của

Rhyme.

4 Katherine Anne (Katie) Couric: Sinh năm 1975 tại Arlington,

Virginia, một nhà báo, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ.

“Nhân chứng – người nhìn thấy chiếc taxi ấy có nhìn rõ tay tài xế

không?” “Không”.

“Hành khách nữ?”

“Không có dấu hiệu gì của cô ta.”

11:41. Rhyme đang điên tiết vì bác sĩ William Berger. “Làm ăn chán

chết”, anh lầm bầm một cách trống rỗng.

Sellitto thở dài não nề.

“Tiếp đi, tiếp đi”, Rhyme nói.

“Anh ta đeo chiếc nhẫn của cô ta”, Banks nói. “Ai đeo cái gì?”

“Nạn nhân. Người ta vừa tìm thấy anh ta sáng nay. Tay anh ta đeo

chiếc nhẫn của người phụ nữ. Người hành khách kia.”

“Cậu chắc đấy là nhẫn của cô ta chứ?”

“Có tên viết tắt của cô ta ở mặt trong chiếc nhẫn.”

“Thế là anh có một đối tượng”, Rhyme tiếp tục, “kẻ muốn anh biết hắn

ta đã bắt được người phụ nữ và cô ta vẫn còn sống”.

“Đối tượng gì?” Thom hỏi.

Sellitto nói khi Rhyme lại lờ cậu ta đi: “Đối tượng chưa biết.”

“Nhưng anh biết hắn làm thế nào để đeo vừa nó vào ngón tau nạn nhân

không?” Banks hỏi, hơi nhướn mắt để thêm ấn tượng với Ryhme. “Cái

nhẫn của cô ta ấy mà?”

“Tôi chịu.”

“Lóc hết da trên ngón tay anh ta. Hết sạch. Đến tận xương.’ Rhyme

nặn ra nụ cười nhợt nhạt. “Hắn ta thông minh đấy chứ?” “Vì sao lại là

thông minh?”

“Để đảm bảo là không ai dám đến lấy chiếc nhẫn đi. Nó đầy máu,

đúng không?” “Kinh lắm.”

“Đầu tiên là rất khó nhận ra chiếc nhẫn. Rồi thì AIDS, viêm gan. Kể cả

nếu ai đó nhận ra, nhiều người cũng sẽ bỏ qua món chiến lợi phẩm đó.

Tên cô ta là gì, Lon?”

Viên thám tử lớn tuổi gật đầu ra hiệu với đồng nghiệp, anh này mở cuốn

sổ ghi chép của mình.

“Tammine Jean Colfax. Cô ta hay dùng cách gọi T.J. Hai mươi tám

tuổi. Làm việc cho Morgan Stanley.”

1 BQE: Đường cao tốc Brooklyn-Queen ở New York.

Rhyme nhận thấy Banks cũng đeo nhẫn. Một dạng nhẫn biểu tượng

của trường học. Cậu chàng này bóng bẩy quá mức, chỉ đơn thuần là tốt

nghiệp trung học hay Học viện Cảnh sát. Không có tí mùi quân đội nào

ở cậu ta. Sẽ không ngạc nhiên nếu viên đá quý kia có tên là Yale1.

Một thám tử điều tra án mạng ư? Thế giới này đang đi về đâu?

Viên cảnh sát trẻ ôm cốc cà phê bằng hai bàn tay đang run lẩy bẩy.

Bằng một động tác nhỏ, Rhyme rê ngón tay đeo nhẫn trên bảng điều

khiển ECU của công ty Everest & Jennings2 được kẹp ở bàn tay trái

của anh và bấm vào hệ thống phục vụ cá nhân một lệnh chỉnh giảm điều

hòa nhiệt độ. Anh thường không mất công kiểm soát những thứ như lò

sưởi và điều hòa mà dành sức cho những thứ cần thiết hơn như ánh

sáng, máy tính và cái khung lật trang của anh. Nhưng khi phòng quá

lạnh thì anh bị sổ mũi. Và đó là sự tra tấn thực sự đối với một anh

chàng như anh.

“Không có thư đòi tiền chuộc à?” Rhyme hỏi. “Chẳng có gì.”

“Anh là sĩ quan điều tra vụ này?” Rhyme hỏi Sellitto.

“Dưới quyền Jim Polling. Đúng thế. Và chúng tôi muốn anh nghiên cứu

báo cáo hiện trường vụ án.”

Một tiếng cười nữa. “Tôi? Đã ba năm rồi tôi chưa đọc báo cáo hiện

trường vụ án nào cả. Liệu tôi có thể nói gì với anh?”

“Anh có thể nói cho chúng tôi rất nhiều thứ, Linc.’ “Bây giờ ai là giám

đốc IRD?”

“Vince Peretti.”

“Con trai của thượng nghị sĩ”, Rhyme nhớ lại. “Cứ để anh ta đọc đi.”

Một khoảnh khắc ngại ngùng. “Chúng tôi vẫn muốn anh.”

“Chúng tôi là ai?”

“Sếp trưởng. Và người bạn trung thành của anh.”

“Thế còn, Đại úy Peretti sẽ cảm thấy ra sao với lá phiếu không tín

nhiệm này?” Rhyme hỏi, cười như một cô bé.

Sellitto đứng dậy và bước qua phòng, nhìn xuống những chồng tạp chí.

Tạp chí Khoa học Điều tra Pháp y. Catalog sản phẩm của Công ty

thiết bị khoa học Harding & Boyle. Niên kỷ Điều tra Pháp lý New

Scotland Yard.  Tạp chí của Đại học Giám định Pháp y Mỹ. Báo cáo

của Hiệp hội Các giám đốc Phòng thí nghiệm Tội phạm Mỹ. Giám

định Pháp y của CRC Press3. Tạp chí của Viện Khoa học Pháp y

Quốc tế.

1 Yale: Đại học Yale, nơi Banks tốt nghiệp; đây là một cách nghĩ chế

nhạo về Banks.

2 Công ty Everest & Jennings:  Một công ty chế tạo giường bệnh và hệ

thống hỗ trợ của

Rhyme.

3 CRC Press: Tên một nhà xuất bản chuyên về Pháp y.

“Nhìn chúng này”, Rhyme nói. “Đăng ký hết hạn từ lâu rồi. Còn chúng

thì phủ đầy bụi.”

“Mọi thứ ở đây đều bụi bặm kinh tởm, Linc. Sao anh không ngồi dậy

mà dọn dẹp cái chuồng lợn này đi?”

Banks trông đầy sợ hãi. Rhyme xổ ra một tràng cười mà chính bản thân

anh cũng cảm thấy xa lạ. Người canh gác của anh đã trượt chân và sự

khó chịu biến thành ngạc nhiên. Ngay tức khắc anh cảm thấy tiếc vì

anh và Sellitto đã rời xa nhau. Sau đó anh dập tắt ngay cái cảm giác

đó. Anh càu nhàu: “Tôi không giúp anh được. Xin lỗi.”

“Chúng ta có một hội nghị về hòa bình bắt đầu vào thứ Hai. Chúng

tôi…” “Hội nghị nào?”

“Tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Các đại sứ, nguyên thủ quốc gia. Sẽ có

hàng nghìn nhân vật đáng kính đến thành phố. Anh có nghe về việc vừa

diễn ra ở London hai ngày trước không?”

“Việc?” Rhyme cay độc nhắc lại.

“Có kẻ đã cố gắng đánh bom khách sạn nơi UNESCO họp. Thị

trưởng lo hết hồn nếu có kẻ nào lại tiếp tục làm thế với hội nghị ở đây.

Ông ta không muốn có một tiêu đề kinh khủng nào đó trên tờ Bưu

điện.”

“Có một vấn đề nhỏ”, Rhyme nói nghiêm khắc. “Đó là cô Tammie

Jean sẽ không còn thích thú với chuyện về nhà của mình nữa.”

“Jerry, nói cho anh ta thêm một vài chi tiết. Kích thích khẩu vị của anh

ta đi nào.” Banks đã chuyển sự chú ý từ chân Rhyme sang chiếc

giường của anh, thứ mà –

như chính Rhyme đã phải công nhận – thú vị hơn nhiều. Đặc biệt là

bảng điều khiển.

Trông nó giống như thứ gì đó lấy từ tàu con thoi và cũng đắt tiền đúng

như thế. “Mười tiếng sau khi họ bị bắt, chúng tôi tìm thấy hành khách

nam – John Ulbrecht – bị bắn và chôn sống trên đường tàu Amtrak

gần Đại lộ Ba mươi bảy và Mười một. Đúng ra là chúng tôi tìm thấy

anh ta đã chết. Anh ta đã bị chôn sống. Viên đạn cỡ .32.” Banks nhìn

lên và nói thêm. “Honda Accord của các loại đạn dược.”

Có nghĩa là không có suy luận ác ý nào về thứ vũ khí không rõ ràng.

Anh chàng Banks này có vẻ thông minh, Rhyme nghĩ, và tất cả những

gì anh ta phải chịu đựng là tuổi trẻ, tuổi trẻ mà anh ta có thể trưởng

thành để thoát khỏi nó, hoặc là không. Lincoln Rhyme tin rằng bản thân

anh chưa bao giờ trẻ cả.

“Đạn có rãnh xẻ không?” Rhyme hỏi. “Sáu đường gân và đường xẻ,

xoáy trái.”

“Vì thế hắn tìm cho mình một khẩu Colt”, Rhyme nói và liếc nhìn sơ đồ

hiện trường vụ án một lần nữa.

“Anh nói hắn”, viên thám tử trẻ tuổi tiếp tục. “Nhưng thực ra đó là

chúng.” “Cái gì?”

“Đối tượng. Có hai tên. Có hai nhóm dấu chân giữa ngôi mộ và chân

chiếc cầu thang sắt dẫn lên phố”, Banks nói, chỉ vào sơ đồ hiện trường

vụ án.

“Có dấu chân nào trên cầu thang không?”

“Không có gì. Nó đã bị lau đi. Chúng đã làm rất tốt. Dấu chân đi ra

huyệt và quay lại cầu thang. Nói chung là phải có hai tên mới có thể

kéo được nạn nhân. Anh ta nặng hơn một trăm pound1. Một người

không thể làm được việc đó.”

“Tiếp đi.”

“Chúng kéo anh ta tới huyệt, vứt anh ta xuống, bắn và chôn anh ta, sau

đó quay lại cầu thang, trèo lên và biến mất.”

“Bắn anh ta dưới huyệt?” Rhyme hỏi.

“Đúng thế. Không hề có vết máu quanh cầu thang và trên đường đến

huyệt.” Rhyme thấy mình có vẻ hơi quan tâm. Nhưng anh nói: “Các anh

cần tôi làm gì?”

Sellitto cười, nhe hàm răng vàng lởm chởm. “Chúng tôi vớ được một

điều huyền bí, Linc. Một mớ vật chứng chẳng có ý nghĩa chết tiệt gì.”

“Thì sao?” Đây là một hiện trường vụ án hiếm có, ở đó mọi chứng cứ

vật lý đều có ý nghĩa.

“Đúng hơn là điều đó thực sự kỳ dị. Đọc báo cáo mà xem. Làm ơn đi.

Tôi sẽ để nó ở đây. Cái này làm việc thế nào nhỉ?” Sellitto nhìn Thom

đang gắn tập báo cáo vào khung lật trang.

“Tôi không có thời gian đâu, Lon”, Rhyme phản đối.

“Cái này thực kỳ lạ”, Banks phát biểu, nhìn vào cái khung. Rhyme

không trả lời. Anh đang nhìn vào trang đầu tiên và đọc chăm chú. Di

chuyển ngón đeo nhẫn sang trái đúng một mm. Một chiếc đũa thần

bằng cao su lật trang giấy.

Đọc. Suy nghĩ. Ừ, đúng là quái lạ.

“Ai chịu trách nhiệm về hiện trường?”

“Chính Peretti. Khi anh ta biết rằng nạn nhân là một trong những hành

khách taxi, anh ta đến đó và tiếp nhận vụ này.”

Rhyme tiếp tục đọc. Trong khoảng một phút, những từ ngữ thiếu sáng

tạo trong bản báo cáo của cảnh sát làm anh quan tâm. Rồi chuông cửa

reo và trái tim anh nhảy lên vì một cơn rùng mình. Ánh mắt anh hướng

đến Thom. Chúng lạnh lùng và cho thấy rõ ràng là thời gian đùa bỡn đã

chấm dứt. Thom gật đầu và ngay lập tức đi xuống cầu thang.

Tất cả mọi ý nghĩ về những người lái taxi, về vật chứng và những nhân

viên ngân hàng bị bắt có biến khỏi đầu óc Lincoln Rhyme.

“Đấy là bác sĩ Berger”, Thom nói qua máy đàm thoại nội bộ. Cuối

cùng. Sau bao nhiêu lâu.

“Được rồi, tôi xin lỗi, Lon. Tôi sẽ phải đề nghị các anh ra về. Thật vui

khi gặp lại anh.” Một nụ cười. “Một vụ rất thú vị, vụ này ấy mà.”

1 Pound: Một pound tương đương với 453,59g. Ở đây tương đương

với bảy mươi lăm kg.

Sellitto ngần ngừ rồi đứng dậy. “Nhưng anh sẽ đọc qua báo cáo chứ,

Lincoln? Nói cho chúng tôi những gì anh nghĩ chứ?”

Rhyme  nói:  “Chắc rồi”,  sau  đó  ngả  đầu  xuống  gối.  Những  người

 bệnh  như Rhyme, có khả năng chuyển động được đầu và cổ, có thể

kích hoạt cả chục chức năng điều khiển chỉ nhờ chuyển động đầu ba

chiếu. Nhưng Rhyme đã tránh xa các thiết bị đeo trên đầu. Giờ đây,

khi chỉ còn rất ít sự sung sướng nhờ các giác quan còn lại, anh không

muốn tước đi sự thoải mái khi được dựa đầu vào chiếc gối hai trăm đô

la của mình. Những người khách đã làm anh mệt. Không chỉ buổi trưa,

mà lúc nào anh cũng buồn ngủ. Cơ cổ anh run rẩy vì đau đớn.

Khi Sellitto và Banks đã ra đến cửa, Rhyme nói: “Lon, đợi đã.” Viên

thám tử quay lại.

“Có một điều anh nên biết. Anh mới chỉ tìm thấy một nửa hiện trường

vụ án. Hiện trường quan trọng chính là nửa còn lại – hiện trường chính.

Nhà hắn ta. Đó là nơi hắn sẽ

đến. Và sẽ rất khó tìm.”

“Sao anh lại nghĩ rằng còn một hiện trường khác?”

“Vì hắn ta không bắn nạn nhân dưới huyệt. Hắn bắn anh ta ở chỗ kia –

tại hiện trường chính. Và đấy có thể là nơi hắn giữ người phụ nữ. Đó sẽ

là một tầng hầm hay một nơi rất vắng vẻ trong thành phố. Hoặc cả hai.

Vì… Banks ạ…” – Rhyme đoán trước câu hỏi của viên thám tử trẻ –

“hắn ta không muốn có rủi ro khi phải bắn ai đó và bị bắt nếu đó

không phải là một nơi yên tĩnh và riêng tư.”

“Có thể hắn dùng ống giảm thanh.”

“Không có dấu màng ngăn cao su hay bông trên viên đạn”, Rhyme

ngắt lời. “Nhưng làm thế nào mà người đàn ông bị bắn ở đó được?”

Banks phản đối. “Ý tôi

là, không hề có máu vương ở hiện trường.”

“Tôi giả định là nạn nhân bị bắn vào mặt”, Rhyme tuyên bố.

“À, vâng”, Banks trả lời, nở một nụ cười ngu ngốc. “Làm sao mà anh

biết?”

“Rất đau đớn, rất hiệu quả, rất ít máu với một viên đạn cỡ .32. Ít khi

chết người nếu không trúng não. Với một nạn nhân cỡ như vậy, đối

tượng có thể dẫn anh ta đi bất cứ đâu hắn muốn. Tôi nói đối tượng, số

ít vì chỉ có một đối tượng thôi.”

Im lặng. “Nhưng… có hai nhóm dấu chân”, Banks gần như thì thầm,

như thể anh ta đang gỡ mìn.

Rhyme thở dài. “Đế giày là một. Chúng do một người đi hai vòng để

lại. Để lừa chúng ta. Và những dấu chân đi về phía bắc có cùng độ sâu

như những dấu chân đi về phía nam. Như thế là hắn ta không vác một

khối lượng hai trăm pound đi theo đường này và không vác khi đi

đường kia. Nạn nhân có phải đi chân đất không?”

Banks lật nhanh ghi chép của mình. “Đi tất.”

“Được rồi, thế thì thủ phạm đi giày của nạn nhân trong chuyến đi dạo

thông minh của hắn tới cầu thang và ngược lại.”

“Nếu hắn không đi xuống cầu thang thì làm thế nào hắn tới được

huyệt?”

“Hắn tự kéo người đó theo đường ray xe lửa. Có thể từ phía bắc.”

“Nhưng không có cầu thang nào xuống đường tàu từ cả hai phía.”

“Nhưng  có  những  đường  hầm  chạy song  song  với đường  ray”, 

Rhyme  tiếp. “Chúng nối với tầng hầm của một vài nhà kho cũ dọc Đại

lộ Mười một. Một kẻ gangster tên là Owney Madden đã cho đào

chúng trong thời kỳ cấm rượu để hắn có thể chuyển rượu whisky  lậu 

lên các đoàn tàu từ  nhà ga  Trung  tâm New York  đi Albany  hay

Bridgeport.”

“Thế tại sao không chôn nạn nhân gần đường hầm? Sao lại mạo hiểm

vì có thể bị nhìn thấy khi kéo anh chàng đi qua gầm cầu?”

Đã hết kiên nhẫn. “Anh biết hắn đang nói gì với chúng ta đúng không?”

Banks định nói, nhưng sau đó lắc đầu.

“Hắn phải để xác ở nơi có thể được tìm thấy”, Rhyme nói. “Hắn cần ai

đó tìm thấy nó. Đó là lý do tại sao hắn để tay nạn nhân trên không.

Hắn đang vẫy chúng ta. Để được

chúng ta chú ý. Xin lỗi, các anh có thể có một đối tượng nhưng hắn lại

quá thông minh để

có thể là hai. Có một cánh cửa ra vào đường hầm ở gần đâu đó. Hãy

đến đó và thử tìm dấu tay. Sẽ không có gì đâu. Nhưng các anh phải

làm đúng như thế. Báo chí, các anh biết rồi đấy. Khi câu chuyện bắt

đầu xuất hiện… Được rồi, chúc may mắn, thưa các quý ngài. Giờ thì

cho tôi xin lỗi chứ, Lon?”

“Có?”

“Đừng quên hiện trường chính. Bất kể điều gì xảy ra, anh phải tìm bằng

được nó. Và nhanh lên.”

“Cảm ơn, Linc. Đọc báo cáo nhé.”

Rhyme nói tất nhiên anh sẽ đọc và thấy họ tin vào điều nói dối đó.

Hoàn toàn tin.

BA

Ông ta có cách hành xử bên giường bệnh tốt nhất mà Rhyme từng biết.

Và nếu ai đó có kinh nghiệm về cách hành xử bên giường bệnh thì đó

chính là Lincoln Rhyme. Anh đã thử tính một lần và thấy anh từng gặp

bảy mươi tám bác sĩ có bằng cấp trong vòng ba năm rưỡi qua.

“Cảnh đẹp đấy chứ”, Berger nói, nhìn ra cửa sổ. “Đúng không? Đẹp

thật.”

Mặc dù do chiều cao của cái giường mà Rhyme chẳng hề nhìn thấy gì

ngoài bầu trời mù sương phía trên Công viên Trung tâm. Nó – và

những con chim – về cơ bản là những gì anh nhìn thấy từ khi chuyển từ

bệnh viện phục hồi chức năng cuối cùng về đây khoảng hai năm rưỡi

trước. Phần lớn thời gian anh buông rèm cửa.

Thom đang bận lật ông chủ của mình – công việc này giúp giữ sạch

phổi – sau đó thông bàng quang cho Rhyme, điều này cần phải làm

cách sáu, bảy giờ một lần. Sau chấn thương cột sống, cơ thắt có thể bị

kẹt trong trạng thái mở hay trạng thái đóng. Rhyme may mắn vì cơ thắt

của anh bị kẹt đóng – may mắn, với điều kiện có ai đó ở bên để mở

chiếc ống nhỏ thiếu cộng tác đó bằng một cái que thông và kem K-Y

bốn lần trong ngày.

Bác sĩ Berger quan sát quy trình này một cách chuyên nghiệp về

phương diện lâm sàng và Rhyme không hề để ý tới vấn đề thiếu riêng

tư. Một trong những việc làm đầu tiên mà một kẻ tàn phế cần phải

vượt qua là sự e ngại. Khi mà việc che cơ thể lúc tắm rửa, di chuyển

hay khám nghiệm được thực hiện với những nỗ lực nửa vời thì những

kẻ tàn phế nghiêm trọng, thực sự tàn phế, rất tàn phế không quan tâm.

Tại trung tâm phục hồi chức năng đầu tiên của Rhyme, sau khi một

bệnh nhân đi dự tiệc hay đi hò hẹn đêm trước về, tất cả những người

cùng phòng sẽ lăn xe tới giường anh ta để kiểm tra nước giải, đó là

phong vũ biểu chỉ mức độ thành công của cuộc đi chơi. Một lần

Rhyme đã chiếm được sự kính trọng mãi mãi của những người tàn tật ở

cùng bệnh viện khi anh cho ra đến một nghìn bốn trăm ba mươi cc.

Anh nói với Berger: “Bác sĩ hãy nhìn rìa cửa mà xem. Tôi có thiên thần

hộ mệnh của riêng mình.”

“Ồ, diều hâu à?”

“Chim ưng. Thường thì chúng làm tổ cao hơn. Tôi không hiểu vì sao

chúng lại chọn sống cùng với tôi.”

Berger liếc nhìn những con chim rồi rời khỏi cửa sổ, lại hạ rèm xuống.

Chim chóc không làm ông ta quan tâm. Ông ta không to lớn nhưng

trông gọn gàng, một người tập chạy, Rhyme đoán thế. Ông ta trông

khoảng gần năm mươi nhưng mái tóc đen chưa hề có sợi bạc và đẹp

trai như một phát thanh viên truyền hình.

“Đúng là một cái giường.” “Ông thích nó chứ?”

Cái giường của hãng Clinitron, một hình chữ nhật to tướng. Đó là một

cái giường có đệm không khí – chất lỏng và có gần một tấn hạt bọc

silicon. Không khí nén được thổi

qua các hạt này và chúng đỡ cơ thể Rhyme. Nếu anh có thể có cảm

giác, anh sẽ cảm thấy như mình đang trôi nổi.

Berger đang uống cà phê do Rhyme ra lệnh cho Thom đem đến. Anh

ta đem nó lên, đảo mắt thì thầm trước khi mời: “Có phải chúng ta đang

quá xã giao không vậy?”

Người bác sĩ hỏi Rhyme: “Anh đã từng là cảnh sát, có đúng anh nói với

tôi thế không?”

“Đúng. Tôi là giám đốc giám định pháp y của NYPD23.” “Anh bị bắn

à?”

“Không. Tìm kiếm trên hiện trường vụ án. Mấy người công nhân tìm

thấy một xác chết tại công trường xây dựng ga tàu điện ngầm. Đấy là

một cảnh sát tuần tra trẻ tuổi, bị mất tích sáu tháng trước – chúng tôi có

một kẻ giết người hàng loạt chuyên bắn cảnh sát. Tôi được yêu cầu xử

lý riêng vụ này và khi tôi đang tìm kiếm ở đó thì một thanh rầm sập

xuống. Tôi bị vùi trong bốn giờ.”

“Thực sự là có ai đó lang thang tìm giết cảnh sát à?”

“Giết ba người và làm bị thương một người. Thủ phạm cũng là một

cảnh sát. Dan

Sherperd. Một trung úy trong Đội Tuần tra.”

Berger liếc nhìn vết sẹo hồng trên cổ Rhyme. Một dấu hiệu tiêu biểu

của chứng liệt tứ chi – một vết cắt mờ đế đưa ống thông khí vào cổ

họng và giữ ở đó vài tháng sau tai nạn. Đôi khi là vài năm, đôi khi là

mãi mãi. Nhưng Rhyme – với bản chất ương bướng cùng với những nỗ

lực hết mình của các bác sĩ trị liệu – đã có thể dứt bỏ được ống thông

khí. Giờ thì anh có hai lá phổi mà anh cá là có thể giúp anh lặn dưới

nước đến năm phút.

“Như vậy là chấn thương cổ.” “C4.”

“À, vâng.”

C4 là khu phi quân sự của chấn thương cột sống. Một SCI24 phía trên

đốt sống cổ thứ tư có thể đã giết anh. Dưới đốt sống cổ thứ tư thì anh

có thể hồi phục một phần bàn tay và cánh tay, nếu không nói là chân.

Chấn thương đốt sống cổ thứ tư không mấy nổi tiếng giúp anh sống

nhưng bị liệt hẳn tứ chi. Anh hoàn toàn không còn sử dụng được tay

chân. Cơ ổ bụng và cơ liên sườn gần như mất hết khả năng và anh chủ

yếu thở bằng cơ hoành. Anh có thể cử động đầu và cổ, nhúc nhích vai

một chút. Sự may mắn duy nhất là chiếc rầm gỗ sồi rơi xuống đã bỏ

qua một sợi thần kinh vận động độc nhất, nhỏ xíu. Điều đó cho phép

anh động đậy ngón đeo nhẫn bên tay trái.

Rhyme đã không kể cho bác sĩ nghe về vở diễn của cuộc đời anh trong

năm tiếp sau tai nạn đó. Một tháng nứt sọ: những chiếc kẹp kẹp những

cái lỗ khoan vào đầu anh để kéo cột sống anh thẳng lại. Mười hai tuần

dùng một thiết bị bao quanh đầu như vầng hào quang – một cái tạp dề

nhựa và một giàn giáo thép bọc quanh đầu giữ cho cổ bất động. Để

giúp phổi anh tiếp tục bơm không khí, một ống thông khí lớn được

dùng trong suốt

23 NYPD (viết tắt của New York Police Department): Sở Cảnh sát

New York.

24 SCI (viết tắt của Spinal Cord Injury): Chấn thương cột sống.

một năm, sau đó là một bộ kích thích dây thần kinh cơ hoành. Que

thông. Phẫu thuật. Tắc ruột do liệt, những chỗ loét nội tạng, quá căng

thẳng và làm giảm nhịp tim, nằm nhiều biến chứng thảnh lở nằm, co

cứng cơ vì mô bắt đầu co lại và đe dọa lấy mất khả năng cử động quý

báu của ngón tay, những cơn đau ảo khiến ta điên dại – cảm giác bỏng

và đau ở đầu các chi vốn không còn cảm giác.

Tuy vậy anh đã nói với Berger về tiến triển mới nhất. “Mất phản xạ tự

phát.”

Gần đây vấn đề này xảy ra ngày càng thường xuyên hơn. Tim đập

mạnh, huyết áp quá cao, những cơn đau đầu dữ dội. Những thứ này

có thể xuất hiện chỉ vì một nguyên nhân đơn giản như táo bón.

Chuyên gia SCI của Rhyme, bác sĩ Peter Taylor trở nên lo lắng về tần

suất của những lần đột quỵ. Lần cuối cùng – khoảng một tháng trước –

nguy hiểm tới mức Taylor đã phải hướng dẫn Thom xử lý tình huống

mà không đợi cấp cứu đến và bắt người trợ lý phải nạp số điện thoại

của bác sĩ vào danh mục quay số nhanh. Taylor đã cảnh báo rằng, điều

đó đủ nguy hiểm và có thể dẫn đến trụy tim hay đột quỵ.

Berger lắng nghe với một chút thông cảm, sau đó nói: “Trước khi

chuyển sang công việc này, tôi chuyên về tình hình lão khoa. Chủ yếu là

công việc thay khớp và hông. Tôi không biết nhiều về thần kinh. Cơ hội

hồi phục ra sao?”

“Bằng không, tình trạng này là vĩnh viễn”, Rhyme nói, có vẻ hơi vội

vàng. Anh nói thêm: “Bác sĩ hiểu vấn đề của tôi, đúng không?”

“Tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi muốn nghe anh nói điều đó.”

Lắc đầu để tự dọn dẹp mấy sợi tóc nổi loạn, Rhyme nói: “Ai cũng có

quyền tự

sát.”

Berger đáp: “Tôi nghĩ tôi không đồng ý với điều này. Trong hầu hết các

xã hội, có

thể anh có quyền lực nhưng không có quyền. Khác nhau đấy.”

Rhyme cười cay đắng. “Tôi chẳng phải là nhà triết học. Nhưng tôi thậm

chí cũng chẳng có quyền lực. Chính vì thế mà tôi cần đến bác sĩ.”

Lincoln Rhyme đã đề nghị bốn bác sĩ giết anh. Tất cả đều từ chối. Anh

nói, cũng được, anh sẽ tự làm và đơn giản là không ăn nữa. Nhưng quá

trình tự loại bỏ mình cho đến chết trở thành sự tra tấn thuần túy. Nó

làm cho dạ dày anh đau dữ dội và tạo ra những cơn đau đầu khủng

khiếp. Anh không thể ngủ được. Vậy là anh bỏ ý định và sau đó trong

một cuộc nói chuyện kinh khủng, anh đã yêu cầu Thom giết mình.

Chàng thanh niên gần phát khóc – lần đầu tiên cậu ta thể hiện nhiều tình

cảm đến thế – và nói cậu ta ước gì mình có thể làm được. Cậu ta có

thể ngồi nhìn Rhyme chết, cậu ta có thể từ chối không cứu sống anh.

Nhưng cậu ta không thể giết anh được.

Thế rồi có một phép màu. Nếu có thể gọi như vậy.

Sau khi cuốn The Scenes of the Crime được xuất bản, phóng viên bắt

đầu xuất hiện để phỏng vấn anh. Một bài báo – trên Thời báo New

York – có đoạn trích dẫn cay độc dưới đây của tác giả Rhyme:

“Không, tôi không có dự định viết thêm cuốn sách nào nữa. Thực tế,

dự án lớn tiếp theo của tôi sẽ là tìm cách tự sát. Đây thực sự là một

thách thức. Tôi đã cố gắng tìm ai đó có thể giúp được tôi trong suốt

sáu tháng qua.”

Dòng chữ chấn động này đã thu hút sự chú ý của dịch vụ tư vấn của

NYPD và một số người trước đây đã biết Rhyme, nhất là Blaine

(người đã nói với anh rằng anh là đồ điên khi tính đến điều đó, anh phải

ngừng việc chỉ nghĩ về bản thân anh đi – giống như khi họ còn ở với

nhau – và bây giờ, khi mà cô đã đến, cô nghĩ cô cần nói rằng, cô sắp

tái hôn).

Trích dẫn này cũng thu hút sự chú ý của William Berger, người một

đêm đột ngột gọi điện cho anh từ Seattle. Sau một vài phút trao đổi xã

giao,Berger nói ông ta đã đọc bài báo về Rhyme. Sau một khoảng lặng

trống rỗng, ông hỏi: “Anh đã bao giờ nghe nói đến Hội Bến mê chưa?”

Rhyme đã được nghe. Đó là một nhóm ủng hộ chết tự nguyện không

đau đớn mà anh đã cố gắng theo đuổi trong nhiều tháng. Hội này nguy

hiểm hơn rất nhiều so với Con đường An lạc hay Hội Độc cần25.

“Những người tình nguyện của chúng tôi bị truy nã để thẩm vấn về hàng

chục vụ tự tử có trợ giúp trên toàn quốc”, Berger giải thích. “Chúng tôi

phải cố giữ bí mật.”

Ông ta nói ông ta muốn xem xét yêu cầu của Rhyme. Berger không

đồng ý hành động nhanh chóng và họ đã có một vài cuộc trao đổi

trong bảy hoặc tám tháng qua. Hôm nay là buổi gặp mặt đầu tiên của

họ.

“Vậy là anh không có cách nào để tự mình vượt qua, phải không?”

Vượt qua…

“Nếu như kiểu của Gen Harrod thì không. Và cũng có phần không

được chắc chắn

lắm.”

Harrod là một thanh niên sống ở Boston, một người tàn tật, anh ta

muốn tự tử.

Không tìm được người giúp đỡ, cuối cùng anh ta quyết định tự làm

bằng cách duy nhất mà anh ta có thể. Với một chút khả năng kiểm soát

mà anh ta có, anh ta đốt căn hộ của mình, khi căn hộ cháy anh ta lái

chiếc xe lăn vào trong đám cháy và tự thiêu. Anh ta chết vì bỏng độ

ba.

Vụ này thường được những người ủng hộ quyền được chết đưa ra như

ví dụ về thảm kịch mà luật chống quyền được chết không đau đớn có

thể gây ra.

Berger cũng biết vụ này và lắc đầu thông cảm. “Không, như thế thì

không ai muốn chết.” Ông ta phân tích cơ thể Rhyme, đám dây dẫn và

bảng điều khiển. “Kỹ năng cơ học của anh ra sao?”

Rhyme giải thích về ECU – Bộ điều khiển E&J do ngón tay đeo nhẫn

của anh vận hành, bộ điều khiển bằng cách hút và thổi cho miệng anh,

những cái cần điều khiển bằng cằm, một máy tính đọc chính tả có thể

đưa ra màn hình các từ anh đọc.

“Nhưng mọi thứ phải được người khác thiết lập cho anh, đúng không?”

Berger hỏi. “Ví như ai đó phải đến cửa hàng, mua khẩu súng, giương

lên, lên cò và nối nó vào bộ điều khiển của anh.”

“Đúng thế.”

25 Con đường An lạc, Hội Độc cần: Tên của những hội ủng hộ việc

chết theo ý muốn.

Làm cho người đó cảm thấy có tội âm mưu giết người, cũng như ngộ

sát. “Thiết bị của anh thế nào?” Rhyme hỏi. “Hiệu quả không?”

“Thiết bị nào?”

“Anh dùng gì? Hừm, để làm việc đó ấy mà?”

“Rất hiệu quả. Tôi chưa bị bệnh nhân nào than phiền cả.”

Rhyme nháy mắt và Berger cười. Rhyme cười với ông ta. Nếu anh

không thể cười vì cái chết thì anh còn cười vì điều gì được nữa?”

“Anh xem đi.”

“Anh đem nó theo à?” Hy vọng bừng lên trong tim Rhyme. Lần đầu

tiên sau nhiều năm anh cảm nhận được cảm giác ấm áp đó.

Bác sĩ mở chiếc ca táp của ông ta ra – lấy ra một chai rượu mạnh, hành

động của ông ta hơi mang vẻ nghi lễ. Một lọ thuốc nhỏ. Một chiếc túi

nhựa và một băng cao su.

“Thuốc gì vậy?”

“Seconal. Không còn ai kê nữa. Ngày xưa tự tử dễ dàng hơn nhiều.

Những em bé này chắc chắn sẽ làm tốt, không cần thắc mắc. Giờ đây

thì không thể nào tự giết mình được với những thứ thuốc an thần hiện

đại. Halcion, Librium, Dalmane, Xanax… Anh có thể sẽ ngủ rất lâu

nhưng rồi cuối cùng thì anh cũng sẽ tỉnh lại.”

“Còn cái túi?”

“À, cái túi.” Berger nhặt nó lên. “Đây là biểu tượng của Hội Bến mê.

Tất nhiên là phi chính thức – không giống như logo của chúng ta. Nếu

thuốc và rượu mạnh chưa đủ, chúng ta sẽ dùng đến cái túi. Trùm lên

đầu, buộc sợi dây cao su quanh cổ. Chúng tôi cho vào đó một ít đá vì

sau mấy phút nó sẽ khá nóng.”

Rhyme không thể rời mắt khỏi bộ ba dụng cụ. Cái túi, sợi dây cao su

dày như tấm tạp dề của thợ sơn. Chai rượu rẻ tiền và lọ thuốc là loại

thông thường, anh nghĩ.

“Thật là một ngôi nhà đẹp”, Berger nhình quanh và nói. “Phía tây Công

viên

Trung tâm…. Anh có nhận trợ cấp tàn tật không?”

“Có một ít. Tôi còn tư vấn cho cảnh sát và FBI26. Sau tai nạn, công ty

xây dựng đền bù cho tôi ba triệu đô la. Họ thề rằng họ không có trách

nhiệm gì nhưng rõ ràng có một quy tắc luật pháp quy định rằng một

người liệt toàn thân động thắng trong bất kỳ vụ kiện nào chống lại các

công ty xây dựng, bất kể đó là lỗi của ai. Ít nhất nếu nguyên đơn đến

tòa để bày trò.”

“Rồi anh viết cuốn sách đó, đúng không?”

“Tôi nhận được một ít tiền từ đó. Không nhiều. Đó là một cuốn ‘bán

khá chạy’. Chưa phải là cuốn bán chạy nhất.”

Berger nhặt một cuốn The Scene of the Crime, lật qua. “The Scene of

the Crime

nổi tiếng. Nhìn này.” Ông ta cười. “Ở đây có đến bốn mươi, năm mươi

hiện trường?”

“Năm mươi mốt.”

Rhyme nhớ lại – trong trí nhớ và trí tưởng tượng của anh, vì anh đã viết

cuốn sách sau vụ tai nạn – tất cả các hiện trường vụ án xưa cũ của

Thành phố New York mà anh có thể nhớ được. Một số vụ được giải

quyết, một số không. Anh viết về Nhà máy Bia Cũ, một căn phòng

khét tiếng tại Five Points, nơi mười ba vụ giết người không liên quan

đến nhau đã xảy ra trong một đêm vào năm 1839. Viết về Charles

Aubridge Deacon, người đã giết mẹ mình vào ngày Mười ba tháng Sáu

năm 1863, trong một cuộc nổi loại chống quân dịch thời kỳ Nội chiến.

Hắn đổ cho những người cựu nô lệ đã giết bà và gây ra một cơn thịnh

nộ chống lại người da đen. Viết về vụ giết người vì cuộc tình tay ba của

kiến trúc sư Stanford White bên trên Khu vườn Quảng trường

Madison và về sự mất tích của Thẩm pháp Crater. Về George

Metesky, kẻ đánh bom mất trí trong những năm 1950 và Murph Lướt

sóng, kẻ ăn trộm viên kim cương Ngôi sao Ấn Độ.

“Vật liệu xây dựng thế kỷ XIX, những dòng chảy ngầm, trường đào

tạo quản gia”, Berger trích dẫn, lật qua các trang sách, “nhà tắm đồng

tính, nhà thổ khu Chinatown27, nhà thờ Chính thống giáo Nga… Làm

thế nào anh biết được tất cả những điều đó về thành phố?”

Rhyme nhún vai. Trong những năm lãnh đạo IRD, anh đã nghiên cứu

rất nhiều về thành phố, nhiều như anh từng nghiên cứu về ngành pháp

y. Lịch sử, chính trị, xã hội học, cơ sở hạ tầng của thành phố. Anh nói:

“Các nhà hình sự học không tồn tại trong chân không. Anh càng biết

nhiều về môi trường, anh càng ứng dụng tốt hơn…”

Vừa nghe thấy âm hưởng nhiệt tình trong giọng nói của mình, anh đột

ngột dừng

lại.

Tự giận dữ với bản thân vì đã bị mắc bẫy dễ như vậy. “Làm hay lắm,

bác sĩ Berger”, Rhyme nói đầy căng thẳng. “Nào. Hãy gọi tôi là Bill.

Làm ơn đi.”

Rhyme không có ý định trệch đường ray lần nữa. “Tôi nghe điều này

nhiều lần rồi.

Hãy lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn nhụi và viết ra tất cả những lý

do vì sao tôi nên tự tử. Sau đó, lại lấy một tờ giấy thật to, sạch sẽ, nhẵn

nhụi khác và viết ra tất cả lý do vì sao tôi không nên. Những từ như

kiểu năng suất, hữu ích, thú vị, thách thức sẽ hiện trong đầu. Những từ

đao to búa lớn. Những từ đáng giá cả mười đô la. Chúng chẳng có ý

nghĩa chết tiệt gì với tôi cả. Ngoài ra, tôi cũng chẳng thể cầm được một

cái bút chì của nợ lên để mà cứu rỗi tâm hồn mình.”

“Lincoln”, Berger mềm mỏng nói tiếp. “Tôi cần đảm bảo anh là ứng cử

viên phù hợp cho chương trình.”

“Ứng  cử viên? Chương trình?  À, sự độc tài của học thuyết quyền

được chết không đau đớn”, Rhyme cay đắng nói. “Này bác sĩ, tôi đã

quyết định rồi. Tôi muốn làm việc này ngay hôm nay. Thực sự là ngay

bây giờ.”

“Vì sao lại là hôm nay?”

Ánh mắt Rhyme trở lại với đám chai lọ và cái túi. Anh thì thầm: “Sao lại

không? Hôm nay là ngày nào? Hai mươi ba tháng Tám? Cũng là một

ngày tốt để chết như những ngày khác thôi mà.”

Ông bác sĩ mấp máy đôi môi mỏng. “Tôi phải có thời gian nói chuyện

với anh, Lincoln. Nếu tôi được thuyết phục là anh thực sự quyết tâm

tiến hành…”

“Tôi muốn”, Rhyme nói. Như mọi lần, anh nhận ra rằng ngôn từ của

chúng ta yếu ớt đến đâu khi không có điệu bộ cơ thể hỗ trợ. Anh thực

sự muốn đặt tay mình lên tay Berger hay nhấc bàn tay mình lên cầu xin.

Không cần xin phép, Berger lấy trong túi ra một gói Marlboros và cái

bật lửa. Ông ta lấy chiếc gạt tàn kim loại gấp trong túi và mở nó ra. Bắt

tréo đôi chân gầy guộc. Ông ta trông giống như một chàng công tử bột

trong phòng hút thuốc của một trường đại học hàng đầu. “Lincoln, anh

hiểu vấn đề của chúng ta ở đây, đúng không nào?”

Chắc chắn rồi, anh hiểu. Đó chính là lý do vì sao Berger đến đây và vì

sao một trong những bác sĩ của Rhyme chưa “làm nhiệm vụ”. Đem một

cái chết không thể tránh khỏi đến ngay lập tức là một chuyện; gần một

phần ba số bác sĩ hành nghề điều trị cho những bệnh nhân không thể

qua khỏi đã kê hoặc cho kê những đơn thuốc quá liều. Phần lớn các

công tố viên làm ngơ trước điều đó, trừ khi chính bác sĩ tiết lộ – như

trường hợp của Kevorkian.

Nhưng còn một người liệt tứ chi? Người bán thân bất toại? Người liệt

toàn thân? Người tàn tật? Ồ, đó lại là chuyện khác. Lincoln Rhyme

năm nay bốn mươi tuổi. Anh không còn phải dùng máy thở, nếu không

vì một số gen ẩn nào đó trong dòng họ Rhyme thì không có lý do y học

nào khiến anh không thể sống đến tám mươi tuổi.

Berger nói thêm: “Tôi xin phép được thô lỗ một chút, Lincoln. Tôi cần

đảm bảo rằng đây không phải là một cái bẫy.”

“Một cái bẫy?”

“Các công tố viên. Trước đây tôi cũng đã từng mắc bẫy.”

Rhyme cười. “Chưởng lý New York là một người bận bịu. Ông ta sẽ

không mất công nghe trộm một người tàn tật đang tìm cho mình một

người ủng hộ quyền được chết không đau đớn đâu.”

Liếc nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án.

… cách nạn nhân khoảng mười feet về phía tây nam, tìm thấy vài thứ

trên một đống cát trắng: một cuộn sợi đường kính khoảng sáu cm, bắt

đầu phai màu. Sợi đã được phân tích trong máy X-quang tán xạ năng

lượng và cho thấy có chứa A2 B5 (Si, Al)8 O22 (OH)2. Không tìm

thấy nguồn, không phân biệt được sợi. Mẫu đã đuợc gửi tới văn phòng

PERT28 của FBI để phân tích.

28 PERT: Nhóm Phản ứng Vật chứng.

“Tôi phải thận trọng”, Berger nói tiếp. “Việc này là cả sự nghiệp của

tôi. Tôi đã hoàn toàn từ bỏ ngành lão khoa. Nói chung, đó không chỉ là

công việc. Tôi quyết định dành cuộc đời mình để giúp người khác chấm

dứt cuộc đời họ.”

Bên cạnh cuộn sợi còn tìm thấy hai mẩu giấy cách đó khoảng ba

inch29. Một mẩu là loại giấy báo bình thường, trên đó có mấy từ “3:00

 PM”  in với phông chữ Times Roman bằng loại mực in báo thương

mại thông thường. Mẩu giấy kia có vẻ như là góc của một trang sách

trên đó có in số trang “823”.  Phông chữ Garamond và được ghi ngày.

Phân tích ALS30  và phân tích ninhydrin31 tiếp theo không cho thấy

dấu vết in hằn trên mặt giấy. Không thể phân loại được.

Có vài điều hối thúc Rhyme. Thứ nhất là cuộn sợi. Vì sao Peretti lại

không biết được ngay đó là gì nhỉ? Cái đó thật rõ ràng. Và vì sao

những vật chứng này – những mẩu giấy và cuộn sợi – lại nằm cạnh

nhau? Ở đây có gì đó không ổn.

“Lincoln?” “Tôi xin lỗi.”

“Tôi đang nói là… Anh không phải nạn nhân bỏng đang chịu cơn đau

không thể chịu đựng nổi. Anh không phải là người vô gia cư. Anh có

tiền, anh có tài năng. Việc tư vấn cho cảnh sát của anh… việc đó giúp

được rất nhiều người. Nếu anh muốn, anh có thể có… một cuộc sống

hữu ích phía trước. Một cuộc đời dài.”

“Dài, đúng. Thế mới là vấn đề. Một cuộc đời dài.” Anh cảm thấy mệt

vì phải tỏ ra có thái độ cư xử tốt. Anh nói: “Nhưng tôi không muốn

một cuộc đời dài. Đơn giản thế thôi.”

Berger chậm rãi nói: “Nếu có bất kỳ một cơ hội nhỏ nhất nào mà anh

lại tiếc nuối về quyết định của mình, thì, xem nào, tôi là người phải sống

với nó. Không phải anh.”

“Ai mà có thể chắc chắn về một điều gì đó tương tự được?” Ánh mắt

anh lại quay về với bản báo cáo.

Tìm thấy được một con ốc kim loại bên trên các mẩu giấy. Đó là một

con ốc hình lục lăng, trên đầu có đóng các chữ “CE”.  Dài hai inch,

xoắn theo chiều kim đồng hồ, đường kính 15/16 inch.

“Mấy ngày tới tôi bận”, Berger nhìn đồng hồ nói. Đó là một chiếc

Rolex. Hừm, cái chết luôn sinh lời. “Giờ thì chúng ta có khoảng một

tiếng. Hãy nói chuyện một lúc, sau đó anh có một ngày nghỉ ngơi và tôi

sẽ quay lại.”

29 Inch: Một icnh tương đương với 2.54 cm.

30 ALS: Xem phần phụ lục.

31 Ninhydrin: Xem phần phụ lục.

Điều gì đó hối thúc Rhyme. Một cơn ngứa điên người – lời nguyền của

tất cả những người liệt tứ chi – mặc dù trường hợp này là một cơn

ngứa trí tuệ. Kiểu ngứa ngáy ám ảnh cả cuộc đời anh.

“Này bác sĩ, làm ơn giúp tôi một chút, được không? Bản báo cáo ở

kia. Anh có thể lật qua nó, được không? Tìm cho tôi bức hình của một

con ốc.”

Berger ngần ngại. “Một bức hình?”

“Một bức hình Palaroid chụp lấy ngay. Nó phải được gắn đâu đó ở

cuối. Cái khung lật trang này chậm quá.’

Berger nhấc bản báo cáo ra khỏi cái khung và lật trang giúp Rhyme.

“Ở đó. Dừng.”

Anh nhìn vào bức hình và một cảm giác khẩn cấp khó chịu chiếm lấy

anh. Ôi, không phải ở đây, không phải lúc này. Làm ơn đi, không.

“Tôi xin lỗi, anh có thể lật lại trang lúc nãy được không?” Berger lật lại.

Rhyme không nói gì, chăm chú đọc. Những mẩu giấy…

3:00 PM… trang 823

Tim Rhyme đập mạnh, đổ mồ hôi trán. Anh nghe tiếng ù ù trong tai.

Đây là một tiêu đề bài báo trong một tờ báo khổ nhỏ. MỘT NGƯỜI

CHẾT KHI NÓI CHUYỆN VỚI BÁC SĨ TỬ THẦN…

Berger chớp mắt. “Lincoln? Anh ổn chứ?” Đôi mắt từng trải của người

đàn ông quan sát Rhyme thật kỹ lưỡng.

Cố gắng tỏ ra bình thường nhất có thể, Rhyme nói: “Tôi hiểu, bác sĩ, tôi

xin lỗi. Nhưng tôi cần làm mấy việc.”

Berger chậm rãi gật đầu, không chắc chắn lắm. “Cuối cùng thì vụ này

không được ổn lắm, phải không?”

Cười. Lãnh đạm. “Tôi băn khoăn không biết có thể yêu cầu ông quay

lại đây sau vài giờ nữa đươc không?”

Cẩn thận. Nếu ông ta cảm nhận được mục đích, ông ta sẽ coi anh là

loại không muốn tự sát, lấy lại đám chai lọ và cái túi nhựa của ông ta

rồi bay về xứ Starbucks.

Mở cuốn sổ hẹn ra, Berger nói: “Ngày hôm nay không được. Ngày

mai… Không. Tôi sợ rằng sớm nhất là thứ Hai. Ngày kia.”

Rhyme ngần ngừ. Chúa ơi… Sự mong chờ cuối cùng đã gần như nằm

trong tay anh, điều mà anh mơ tới hằng ngày trong mấy năm qua. Có

hay không?

Quyết định.

Cuối cùng, Rhyme nghe thấy mình nói: “Được. Thứ hai.” Cố nặn ra

một nụ cười vô vọng.

“Chính xác thì vấn đề là gì?”

“Một người cùng làm với tôi trước kia. Anh ta muốn có lời khuyên của

tôi. Tôi chưa thực sự quan tâm tới điều đó, như tôi cần phải làm. Tôi

phải gọi cho anh ta.”

Không, đó chẳng phải là liệt phản xạ, đó là một cơn lo lắng.

Lincoln Rhyme cảm thấy điều gì đó mà lâu lắm anh chưa hề cảm thấy.

Anh đang cực kỳ vội vàng.

“Ông có thể gọi Thom lên đây được không? Tôi nghĩ cậu ta ở dưới

nhà, trong

bếp.”

“Vâng, tất nhiên rồi. Rất vui lòng.”

Rhyme có thể nhìn thấy điều gì đó khác thường trong mắt Berger. Cái

gì vậy? Có

thể. Gần như là sự thất vọng. Khi tiếng chân người bác sĩ nhỏ dần dưới

cầu thang, Rhyme hét lên với chất giọng trầm như bom nổ: “Thom?

Thom!”

“Gì vậy?” Giọng người thanh niên trả lời.

“Gọi cho Lon. Bảo anh ta quay lại đây. Ngay bây giờ.”

Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Đã quá trưa. Họ chỉ còn chưa đầy ba giờ

nữa.

BỐN

“Hiện trường vụ án bị dàn cảnh”, Lincoln Rhyme nói.

Lon Sellitto phanh áo khoác, để lộ một chiếc áo sơ mi nhàu nhĩ. Anh ta

đang ngửa lưng về phía sau, khoanh tay, dựa vào một cái bàn đầy sách

báo.

Jerry Banks cũng đã quay lại, đôi mắt xanh nhợt của anh ta đang nhìn

vào mắt

Rhyme; cái giường và bảng điều khiển không còn làm anh ta quan tâm

nữa.

Sellitto nghiêm nghị. “Vậy đối tượng định nói gì với chúng ta?”

Trên hiện trường vụ án, đặc biệt là những vụ giết người, đối tượng

thường chơi đùa với PE32 hòng lừa điều tra viên. Một số tên khá thông

minh, nhưng phần lớn không như vậy. Chẳng hạn một người chồng

đánh vợ mình đến chết rồi tạo hiện trường như vụ cướp – mặc dù anh

ta chỉ nghĩ tới việc ăn trộm đồ nữ trang của cô ta – mà vẫn để lại chiếc

vòng cổ vàng và chiếc nhẫn kim cương hồng của mình trong ngăn kéo.

“Điều thú vị”, Rhyme nói tiếp. “Không phải là điều đã xảy ra, Lon. Mà

là điều sẽ

xảy ra.”

Sellitto nghi ngờ hỏi: “Điều gì khiến anh nghĩ vậy?” “Những mẩu giấy.

Chúng có nghĩa là ba giờ chiều nay.” “Hôm nay?”

“Nhìn này!” Hất đầu về phía bản báo cáo, một cái hất đầu thiếu kiên

nhẫn.

“Mẩu giấy đó nói ba giờ chiều”, Banks chỉ ra. “Nhưng mẩu kia chỉ có

số trang. Tại sao anh nghĩ như thế có nghĩa là hôm nay?”

“Đấy không phải là số trang.” Rhyme nhướn mày. Họ vẫn chưa hiểu.

“Logic! Lý do duy nhất khi bỏ lại dấu vết là để nói gì đó với chúng ta.

Nếu đúng như vậy thì 823 phải có ý nghĩa gì khác hơn là số trang, vì

chẳng có dấu hiệu gì để chỉ ra nó được lấy từ cuốn sách nào. Và nếu

đó không phải là số trang thì sẽ là gì được?”

Im lặng.

Điên tiết. Rhyme quát lên: “Đấy là ngày tháng. Tám hai mươi ba. Ngày

Hai mươi ba tháng Tám. Điều gì đó sẽ xảy ra lúc ba giờ chiều nay. Còn

bây giờ, một cuộn sợi? Đấy là abestos33.”

“Abestos?” Sellitto hỏi.

“Trong bản báo cáo? Công thức? Đó  là hornblende34. Silicon

dioxide. Đó  là

abestos. Vì sao Peretti lại gửi nó cho FBI thì tôi không hiểu. Như vậy

thì sao. Chúng ta có

32 PE (viết tắt của Physical Evidence): Vật chứng – Xem phần phụ

lục.

33 Amiăng: Tên một nhóm các khoáng chất có trong tự nhiên dưới

dạng sợi và được sử dụng trong một số ngành công nghiệp.

34 Hornblende: Tên một loại khoáng chất.

abestos trên lòng đường ray, nơi mà không thể có được. Và chúng ta

có một con ốc sắt với phần đầu hoen gỉ nhưng phía dưới thì không.

Điều đó có nghĩa là con ốc này đã được vặn ở đâu đó rất lâu và mới

được tháo ra.”

“Có thể nó được moi từ dưới đất lên”, Banks đề xuất. “Khi hắn ta đào

huyệt?” Rhyme nói: “Không. Ở Midtown nền đá rất gần với mặt đất,

điều đó có nghĩa là

tầng ngậm nước cũng vậy. Tất cả đất từ Phố Ba mươi tư lên tới khu

Harlem chứa đủ nước

để làm oxy hóa sắt trong vòng vài ngày. Nếu bị chôn, nó sẽ phải gỉ

hoàn toàn chứ không chỉ phần đầu. Không phải, nó đã được tháo ra ở

đâu đó, được đem tới hiện trường và được bỏ lại đó. Còn cát… Nào,

cát trắng làm gì trên đường tàu ở Midtown Manhattan? Thành phần đất

ở đây là đất mùn, phù sa, đá vôi, nền cứng và đất sét mềm.”

Banks bắt đầu nói nhưng Rhyme đột ngột cắt lời anh ta. “Và tất cả

những thứ đó được tập hợp lại để làm gì? Ồ, nghi phạm của chúng ta,

hắn định nói điều gì đó với chúng ta. Chắc chắn là thế. Banks, còn cánh

cửa để vào thì sao?”

“Anh đã đúng”, người thanh niên nói. “Họ tìm thấy một cánh cửa cách

huyệt khoảng một trăm feet về phía bắc. Bị phá từ bên trong. Anh cũng

đúng về dấu tay. Chẳng có gì. Cũng chẳng có vết lốp xe hay dấu vết

nào.”

Một cuộn abestos bẩn, một con ốc, một tờ báo rách… “Hiện trường?”

Rhyme hỏi. “Vẫn nguyên trạng chứ?” “Đã giải phóng rồi.”

Lincoln Rhyme, một kẻ tàn tật với lá phổi của tên sát nhân, ầm ĩ thở hắt

ra, đầy kinh tởm. “Ai mắc sai lầm này?”

“Tôi không biết”, Sellitto nói, vẻ không thuyết phục. “Có thể là người

chỉ huy giám sát.”

Đó là Peretti, Rhyme hiểu. “Giờ thì các anh kẹt với những gì các anh

có.”

Bất kỳ dấu vết nào để chỉ ra kẻ bắt cóc là ai và hắn đang mưu tính điều

gì hoặc đã nằm trong báo cáo, hoặc đã vĩnh viễn biến mất; đã bị chân

của cảnh sát, người đến xem và nhân viên đường sắt giẫm lên. Đào bới

– hỏi han dân cư xung quanh hiện trường vụ án, phỏng vấn nhân

chứng, thu thập chứng cứ, những công việc truyền thống của thám tử

– được tiến hành một cách nhàn nhã. Nhưng hiện trường vụ án phải

được khảo nghiệm “như sét đánh”, Rhyme thường hạ lệnh cho sĩ quan

của mình ở IRD. Anh đã đuổi việc vài kỹ thuật viên CSU35, những

người di chuyển không được nhanh như anh yêu cầu.

“Có phải Peretti tự xử lý hiện trường không?” Anh hỏi. “Peretti và toàn

thể bộ sậu.”

“Toàn thể bộ sậu?” Rhyme hỏi chế giễu. “Toàn thể bộ sậu là cái gì?”

Sellitto nhìn Banks, người trả lời: “Bốn kỹ thuật viên ảnh, bốn người lấy

dấu. Tám nhân viên tìm kiếm. Bác sĩ khám nghiệm ME.”

“Tám nhân viên tìm kiếm hiện trường vụ án?”

35 CSU (viết tắt của Crime Scene Unit): Đơn vị Khám nghiệm Hiện

trường.

Trong khám nghiệm hiện trường vụ án, có một đường cong dạng

chuông. Hai sĩ quan được xem là hiệu quả nhất khi khám nghiệm hiện

trường giết người. Một mình, anh có thể bỏ qua vài thứ, ba người trở

lên anh còn đánh mất nhiều thứ hơn. Lincoln Rhyme luôn khám nghiệm

hiện trường một mình. Anh để nhân viên lấy dấu vân tay, dấn chân,

chụp ảnh, quay phim. Còn anh luôn tự mình đan lưới.

Peretti. Khoảng sáu, bảy năm trước Rhyme đã thuê người thanh niên

này, con trai một chính trị gia giàu có và anh ta đã chứng tỏ được mình

là một thám tử hiện trường tốt, rất sách vở. Đơn vị khám nghiệm hiện

trường luôn được coi là một nơi béo bở và thường phải xếp hàng khá

dài để vào được đơn vị. Rhyme luôn thích thú khi được rút ngắn hàng

người đợi này bằng cách cho họ xem album ảnh gia đình – một bộ sưu

tập những bức ảnh hiện trường vụ án kinh khủng nhất. Một số sĩ quan

tái mặt, một số khác cười khẩy. Một vài người trả lại cuốn album,

nhướn lông mày như muốn hỏi, Thì sao? Và đó lại là những người mà

Lincoln Rhyme sẽ thuê. Peretti là một người như vậy.

Sellitto hỏi một câu. Rhyme thấy người thám tử này đang nhìn anh.

Sellitto nhắc lại: “Anh sẽ cùng chúng tôi làm vụ này chứ, Lincoln?”

“Làm việc với anh?” Lincoln vừa ho vừa cười. “Không được đâu, Lon.

Không. Tôi chỉ đưa ra cho các anh vài ý tưởng thôi. Anh có chúng rồi

đấy. Dùng chúng đi. Thom, gọi Berger cho tôi.” Anh đang nuối tiếc

việc lùi cuộc gặp mặt đối mặt với bác sĩ tử thần. Có thể vẫn chưa quá

muộn. Anh không thể chịu đựng nổi ý nghĩ phải chờ thêm một, hai ngày

nữa cho sự ra đi của mình. Và thứ Hai… Anh không muốn chết vào

thứ Hai. Điều này xem ra quá tầm thường.

“Hãy nói làm ơn đi.” “Thom!”

“Được rồi”,. người trợ lý trẻ tuổi nói, giơ hai tay đầu hàng.

Rhyme liếc nhìn vào một điểm trên chiếc bàn đầu giường của anh, cái

lọ, những viên thuốc và cái túi nhựa đã được đặt ở đó – quá gần,

nhưng lại giống với tất cả những thứ khác trong cuộc đời này, hoàn

toàn nằm ngoài tầm với của Lincoln Rhyme.

Sellitto gọi một cuộc điện thoại, nghiêng đầu khi cuộc gọi thông. Anh ta

tự giới thiệu. Chiếc đồng hồ trên tường chỉ 12:30.

“Vâng, thưa ngài.” Giọng viên thám tử trầm xuống thành tiếng thì thầm

kính trọng. Thị trưởng, Rhyme đoán. “Về vụ bắt cóc ở sân bay

Kennedy. Tôi đã nói chuyện với Lincoln Rhyme… Vâng, thưa ngài,

anh ta đã có một vài ý tưởng về việc này.” Viên thám tử bước về phía

cửa sổ, nhìn chằm chằm con chim ưng một cách trống rỗng và đang cố

gắng giải thích một điều không thể giải thích cho người đàn ông đang

điều hành thành phố bí ẩn nhất thế giới này. Anh ta dập máy và quay lại

phía Rhyme.

“Ông ta và cả sếp muốn có anh, Linc. Họ đòi riêng anh. Chính

Wilson.”

Rhyme cười. “Lon. Nhìn quanh phòng xem. Nhìn tôi đây! Có giống

như là tôi đang làm vụ này không?”

“Không phải một vụ bình thường, không. Nhưng đây là một vụ không

bình thường lắm, phải không nào?”

“Tôi xin lỗi. Tôi không có thời gian. Người bác sĩ lúc nãy. Việc điều trị.

Thom, cậu đã gọi ông ta chưa?”

“Vẫn chưa. Sẽ gọi ngay bây giờ đây.”

Thom nhìn Sellitto. Đi về phía cửa, bước ra ngoài. Rhyme biết cậu ta

sẽ không gọi. Thế giới này thật tệ hại.

Banks chạm tay vào một vết sẹo cạo râu hình chấm và ngắt lời: “Hãy

nói cho chúng tôi một vài suy nghĩ của anh. Làm ơn đi. Kẻ nghi phạm

đó, hắn…”

Sellitto xua tay để cậu ta im lặng. Anh ta vẫn nhìn Rhyme.

Ôi, đồ đê tiện, Rhyme nghĩ. Sự lặng im ngày xưa cũ. Chúng ta thường

ghét nó đến đâu và luôn vội vàng để lấp đầy nó. Biết bao nhiêu nhân

chứng và nghi phạm đã ẩn nấp dưới những sự im lặng nóng bỏng, dày

đặc như thế này. Đúng, anh và Sellitto đã từng làm việc với nhau rất ăn

ý. Rhyme hiểu chứng cứ còn Sellitto hiểu con người.

Hai người lính ngự lâm. Và nếu có người thứ ba, thì đó là Sellitto im

lặng tinh khiết đầy nghiêm nghị.

Ánh mắt của viên thám tử chìm sâu vào bản báo cáo hiện trường vụ án.

“Lincoln, theo anh nghĩ điều gì sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều nay?”

“Tôi không có ý tưởng gì”, Rhyme tuyên bố. “Không phải thế chứ?”

“Rẻ tiền quá, Lon. Tôi sẽ trị anh đấy.”

Cuối cùng, Rhyme nói. “Hắn ta sẽ giết cô ấy – người phụ nữ trên chiếc

taxi. Và giết một cách rất tệ hại, tôi đảm bảo với các anh đấy. Một

kiểu có thể sánh ngang với chôn sống.”

“Chúa ơi”, Thom thì thầm phía ngoài cửa.

Vì sao họ lại không để anh yên? Liệu có tốt hơn không khi anh nói cho

họ biết về cơn đau anh đang cảm thấy ở cổ và trên vai? Hay là những

cơn đau ma quái – yếu hơn nhiều và khó chịu hơn nhiều – đang lang

thang khắp cơ thể xa lạ của anh? Về sự kiệt sức mà anh phải chịu

đựng hằng ngày khi cố gắng để làm mọi thứ, sự thực là thế. Về sự vô

vọng lớn nhất – việc phải trông cậy hoàn toàn vào người khác?

Có thể anh sẽ nói với họ về con muỗi bay vào phòng tối qua và châm

chích đầu anh suốt một tiếng đồng hồ; Rhyme chóng cả mặt khi cứ

phải gật đầu để xua nó đi cho tới khi con côn trùng đáp xuống tai anh,

chỗ mà anh chấp nhận cho nó đốt, vì đó là chỗ mà anh có thể dụi

xuống gối cho đỡ ngứa.

Sellitto nhướn mày.

“Hôm nay”, Rhyme thở dài. “Một ngày. Thế thôi.”

“Cảm ơn, Linc. Chúng tôi nợ anh.” Sellitto kéo chiếc ghế lại gần

giường. Ra hiệu cho Banks làm theo. “Còn bây giờ. Cho tôi biết suy

nghĩ của anh. Trò chơi của thằng khốn này là gì?”

Rhyme nói: “Đừng nhanh quá như thế. Tôi không làm việc một mình.”

“Một kỹ thuật viên của IRD. Người giỏi nhất trong phòng thí nghiệm.

Tôi muốn anh ta ở đây với những thiết bị cơ bản. Và chúng ta hãy sẵn

sàng với đội chiến thuật. Cấp cứu. Và tôi muốn có vài số điện thoại.”

Rhyme hạ lệnh, liếc nhìn chai Scotch trên ngăn kéo của mình. Anh nhớ

lại chai rượu mạnh Berger có trong bộ đồ nghề của ông ta. Không đời

nào anh lại ra đi bằng cái thứ rác rưởi rẻ tiền đó. Buổi Ra đi Cuối cùng

của anh ít nhất sẽ phải là loại Lagavulin mười sáu năm hay Macallan

được để vài chục năm. Hoặc – mà sao lại không nhỉ? – cả hai.

Banks rút điện thoại di động. “Số loại nào? Chỉ cần…” “Số cố định.”

“Ở đây?”

“Tất nhiên là không phải rồi”, Rhyme quát lên.

Sellitto  nói:  “Ý anh ta là anh muốn người khác gọi điện thoại. Từ Đại

Bản

Doanh36.”

“Ồ.”

“Gọi vào thành phố”, Sellitto ra lệnh. “Bảo họ cho ta ba đến bốn điều

phối viên.” “Lon”, Rhyme hỏi. “Ai là người khám nghiệm tử thi ngày

hôm nay?”

Banks nuốt vào một nụ cười. “Những Chàng trai Dũng cảm.”

Một cái liếc mắt của Rhyme tước bỏ nụ cười khỏi khuôn mặt anh ta.

“Thám tử

Bedding và Saul, thưa ngài”, chàng thanh niên vội nói.

Nhưng sau đó ngay cả Sellitto cũng nhăn mặt. “Những Chàng trai

Dũng cảm. Mọi người đều gọi họ thế cả. Anh không biết họ đâu, Linc.

Họ làm trong Nhóm Đặc nhiệm Điều tra Trọng án của thành phố.”

“Thứ nhất là họ trông hơi giống nhau”, Banks giải thích. “Thứ hai là kết

quả của họ cũng hơi buồn cười.”

“Tôi không muốn bọn diễn viên hề.”

“Không, họ giỏi đấy”, Sellitto nói. “Những điều tra viên hiện trường tốt

nhất của chúng tôi. Anh có biết con quái vật đã bắt cóc cô bé tám tuổi

ở Queens năm ngoái không? Bedding và Saul đã điều tra đấy. Họ thẩm

vấn toàn bộ vùng lân cận – thu được hai nghìn hai trăm lời khai. Điều

đó giúp chúng tôi cứu được cô bé. Khi chúng tôi được biết nạn nhân

sáng nay là hành khách từ sân bay JFK, sếp Wilson đã phái họ đi.

“Giờ họ đang làm gì?”

“Chủ yếu là nhân chứng. Quanh đường ray. Và đánh hơi xung quanh

tìm người lái xe và chiếc taxi.”

Rhyme quát Thom ở phía cuối hành lang: “Cậu đã gọi cho Berger

chưa? Không, tất nhiên là cậu chưa gọi. Cậu có hiểu từ ‘bất tuân

thượng lệnh’ không? Ít nhất hãy tỏ ra

36  Đại Bản Doanh (nguyên văn là Big Building): Cách gọi One Police

Plaza (sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York) của cảnh sát New

York.

có ích một chút. Hãy đưa cái báo cáo hiện trường vụ án lại gần hơn và

lật trang đi.” Anh hất đầu về phía cái khung lật trang. “Cái của nợ này

là của Edsel đấy.”

“Chẳng phải hôm nay chúng ta đang có tâm trạng vui vẻ hay sao?”

Người trợ lý đối đáp.

“Nâng nó cao lên. Tôi bị lác đến nơi rồi.” Anh đọc khoảng một phút,

rồi nhìn lên.

Sellitto đang nói điện thoại, nhưng Rhyme ngắt lời anh ta. “Bất kể là

điều gì sẽ diễn ra lúc ba giờ chiều nay, nếu chúng ta có thể tìm được nơi

hắt ta đang nói tới thì đó cũng sẽ là một hiện trường vụ án. Tôi cần ai

đó khám nghiệm chỗ này.”

“Tốt”, Sellitto nói. “Tôi sẽ gọi Peretti. Ném cho anh ta một cái xương.

Tôi biết là mũi anh ta sẽ vểnh lên vì chúng ta đang đi rón rén quanh anh

ta.”

Rhyme gầm gừ. “Tôi có càn đến Peretti đâu?”

“Nhưng anh ta là chàng trai vàng của IRD”, Banks nói.

“Tôi không muốn anh ta”, Rhyme cằn nhắn. “Sẽ có ai đó khác mà tôi

muốn.” Sellitto và Banks nhìn nhau. Viên thám tử lớn tuổi hơn cười,

xoa tay một cách vô

nghĩa vào chiếc áo sơ mi nhàu nát của anh ta. “Bất cứ người nào anh

muốn, Linc, anh sẽ

có người đó. Hãy nhớ rằng hôm nay anh là vua.”

Nhìn chằm chằm vào con mắt mờ đục.

T.J. Colfax, kẻ trốn chạy có mái tóc đen từ vùng đồi Đông Tennessee,

tốt nghiệp Trường Quản trị Kinh doanh, Đại học New York, một

người buôn bán tiền tệ nhanh như chớp, vừa bơi ra khỏi giấc mộng sâu.

Mái tóc rối bù của cô vướng vào gò má, mồ hôi chảy thành dòng trên

mặt, cổ và ngực.

Cô thấy mình đang nhìn vào một con mắt đen – một cái lỗ trong một

ống hoen gỉ, đường kính khoảng sáu inch, một cái đĩa truy cập nhỏ đã

được lấy ra từ đó.

Cô hít thứ không khí mốc meo vào mũi. Miệng cô vẫn đang bị dán

chặt, có vị nhựa, chất hồ dán cay. Đắng.

Còn John? Cô băn khoăn. Anh ta đâu rồi? Từ chối không nghĩ tới tiếng

nổ lớn trong tầng hầm đêm qua. Cô lớn lên ở Đông Tennessee và cô

biết tiếng súng nghe như thế nào.

Làm ơn đi, cô cầu nguyện cho sếp. Hãy để anh ta bình an.

Bình tĩnh nào, cô nổi giận với chính mình. Mày lại sắp khóc rồi đấy,

mày nhớ điều gì đã xảy ra mà. Trong tầng hầm, sau tiếng súng nổ, cô

đã mất phương hướng hoàn tàn, suy sụp, thổn thức trong cơn hoảng

loạn và gần như bị chết ngạt.

Đúng rồi. Bình tĩnh.

Nhìn vào con mắt đen trên cái ống. Tưởng như nó đang nháy mắt với

mày. Con mắt của thiên thần hộ mệnh.

T.J. ngồi trên sàn, bị hàng trăm đường ống, những đường ống dẫn,

những đường cáp điện ngoằn ngoèo như rắn bao quanh. Nóng hơn cả

bữa ăn tối tại nhà anh cô, nóng hơn cả cái ghế sau chiếc Nova của Jule

Whelan mười năm trước. Nước nhỏ xuống, stalactite37 rơi xuống từ

những cái xà nhà trên đầu cô. Khoảng nửa tá bóng đèn màu vàng

nhỏ xíu là nguồn chiếu sáng duy nhất. Trên đầu cô – ngay trên đỉnh đầu

– là một cái biển báo. Cô không thể đọc được nó một cách rõ ràng, dù

cô có thể nhìn thấy đường viền đỏ. Phía sau cái thông điệp gì đó có

một dấu chấm than to tướng.

Cô cố thử lại một lần nữa, nhưng cái còng giữ cô chặt quá, chọc cả

vào xương. Từ cổ họng cô dâng lên một tiếng hét tuyệt vọng, tiếng kêu

thét của thú vật. Nhưng miếng băng dính dày trên miệng cô và tiếng ồn

ào không nghỉ của máy móc đã nuốt mất âm thanh đó; không ai có thể

nghe thấy tiếng của cô.

Con mắt đen tiếp tục nhìn chằm chằm. Mày sẽ cứu tao, đúng không?

Cô nghĩ.

Bất ngờ, sự im lặng bị phá vỡ bởi một tiếng lanh lảnh, một cái chuông

sắt, ở rất xa. Như cánh cửa của một con tàu bị sập lại. Tiếng động đến

từ cái lỗ trên miệng ống. Từ con mắt thân thiện của cô.

Cô thúc còng vào cái ống và cố đứng dậy. Nhưng cô không thể di

chuyển được quá vài inch.

Được rồi, không hoảng loạn. Thư giãn. Mày sẽ ổn thôi.

Đó chính là lúc cô nhìn thấy cái biển báo trên đầu. Trong khi cố thả

lỏng, cô đã đứng thẳng lên được một chút và nghiêng đầu sang một

bên. Điều đó khiến cô có thể nhìn thấy rõ hơn các từ.

Ôi không, Chúa trong tim con… Và nước mắt lại rơi.

Cô hình dung ra mẹ cô, tóc buộc ngược phía sau, khuôn mặt tròn, mặc

bộ đồ ở nhà màu xanh – vàng râu ngô, thì thầm: Ổn thôi, con yêu.

Đừng lo lắng gì.”

Nhưng cô không tin những lời đó. Cô tin vào điều mà biển báo đó nói.

Rất nguy hiểm! Hơi siêu nóng dưới áp suất cao. Không nhấc đĩa ra

khỏi ống. Gọi

Edison Hợp nhất để truy cập. Rất nguy hiểm.

Con mắt đen mở nhìn cô, con mắt mở vào trái tim của đường ống dẫn

hơi nước. Nó nhìn thẳng vào phần thịt màu hồng trên ngực cô. Từ đâu

đó tít ở sâu trong cái ống xuất hiện một tiếng kim loại đập vào kim loại,

những người công nhân đang đập búa, vặn chặt lại những mối nối cũ.

37 Stalactite:  Thạch nhũ.

Trong khi Tammie Jean Colfax khóc lóc, cô nghe thấy một tiếng va

đập nữa. Sau đó là một tiếng rên từ xa, rất nhẹ. Và qua hàng lệ, cô

thấy hình như cuối cùng con mắt đen đã nhấp nháy.

NĂM

“Tình hình là như thế này”, Lincoln Rhyme tuyên bố. “Chúng ta có một

nạn nhân bị bắt cóc và thời điểm là ba giờ chiều nay.”

“Không có việc đòi hỏi tiền chuộc”, Sellitto thêm vào phần tóm tắt của

Rhyme, sau đó anh ta quay đi để trả lời cuộc điện thoại gọi đến.

“Jerry”, Rhyme nói với Banks, “tóm tắt cho họ biết về hiện trường vụ

án sáng nay”.

Trong căn phòng tối tăm của Lincoln Rhyme đang có nhiều người lượn

lờ hơn lúc nào hết. Ồ, sau tai nạn, thỉnh thoảng bạn bè cũng đến mà

không báo trước (tất nhiên khả năng Rhyme ở nhà là rất cao), nhưng

anh đã không ủng hộ việc này. Và anh cũng không trả lời điện thoại,

ngày càng ẩn dật hơn, trôi dần vào sự cô đơn. Anh dành nhiều thời gian

cho việc viết sách và khi không còn cảm hứng để viết thêm cuốn nào

nữa, thì anh đọc. Khi chán đọc đã có phim thuê, truyền hình trả tiền và

âm nhạc. Rồi sau đó anh bỏ cả ti vi và dàn âm thanh, chuyển sang

ngắm nghía hàng giờ liền các phiên bản in nghệ thuật mà người trợ lý đã

treo lên bức tường đối diện chiếc giường nằm. Cuối cùng, những bức

tranh này cũng được hạ xuống.

Cô độc.

Đó là tất cả những gì anh cầu xin, và bây giờ thì anh nhớ nó biết bao.

Jim Polling đang đi lại, trông có vẻ căng thẳng. Lon Sellitto là sĩ quan

phụ trách vụ án, nhưng những sự kiện như thế này cần có một đại úy

chỉ huy và Polling đã tình nguyện làm việc đó. Vụ này là một quả bom

hẹn giờ và có thể phá tung sự nghiệp trong nháy mắt, do đó sếp và đội

truyền thông của sở sẵn sàng để anh ta đứng ra chắn đạn. Họ sẽ thực

hành môn nghệ thuật tạo khoảng cách và khi máy quay phim hoạt

động, những cuộc họp báo của họ sẽ được rắc đầy những từ như kiểu

ủy quyền, chỉ định và nhận lời khuyên của… Họ sẽ nhanh chóng liếc

sang Polling khi có những câu hỏi khó khăn. Rhyme chẳng thể hình

dung được tại sao bất kỳ cảnh sát nào trên thế giới cũng có thể tình

nguyện làm công việc đó trong một vụ như thế này.

Polling là một người kỳ lạ. Một con người nhỏ bé đã tự khai phá

đường đi cho mình qua khu vực Bắc Midtown như một trong những

thám tử điều tra các vụ giết người thành công và nổi tiếng nhất thành

phố. Nổi tiếng nóng tính, anh ta đã gặp rắc rối nghiêm trọng khi giết

chết một nghi phạm không có vũ khí. Nhưng thật kỳ lạ là anh ta lại có

thể khôi phục sự nghiệp của mình bằng cách kết thúc thành công vụ

Shepherd – vụ giết cảnh sát hàng loạt, vụ mà Rhyme bị thương. Được

thăng cấp đại úy sau lần bắt bớ rất công khai này, Polling trải qua một

trong những thay đổi khó khăn nhất của cuộc đời – từ bỏ

chiếc quần jeans xanh và những bộ vét Sears38  để đổi lấy những bộ

vét sang trọng của

Brooks Brothers (hôm nay anh ta mặc một bộ Calvin Klein màu xanh

hải quân) – và bắt

đầu cuộc leo trèo lì lợm của mình lên một góc văn phòng xa hoa ở One

Police Plaza.

Một sĩ quan khác đang dựa vào cái bàn gần đó. Tóc húi cua, vóc dáng

cao chắc chắn, Bo Haumann là một đại úy và chỉ huy ESU39. Đội đặc

nhiệm SWAT40 của NYPD.

38 Sears: Một thương hiệu bình dân.

39 ESU (viết tắt của Emergency Services Unit): Đơn vị Phản ứng

nhanh.

Banks kết thúc phần giới thiệu tóm tắt của mình đúng lúc Sellitto kết

thúc cuộc điện đàm của anh ta. “Những Chàng trai Dũng cảm.”

“Có thêm thông tin gì về chiếc taxi không?” Polling hỏi. “Không có gì.

Họ vẫn đang đập bụi.”

“Có bất kỳ dấu hiệu gì chứng tỏ cô ta ngủ với ai đó mà cô ta không

nên hay không?” Polling hỏi. “Có thể là một thằng bạn trai thần kinh?”

“Không. Không có bạn trai. Chỉ hẹn hò bình thường với mấy anh

chàng. Trông có vẻ như không có ai theo đuổi.”

“Không có ai gọi điện đòi tiền chuộc?” Rhyme hỏi. “Không.”

Chuông cửa reo. Thom ra mở cửa.

Rhyme nhìn về phía những giọng nói đang lại gần.

Một khoảnh khắc sau đó, người trợ lý dẫn một sĩ quan cảnh sát mặc

cảnh phục lên cầu thang. Từ xa trông cô ta có vẻ rất trẻ, nhưng khi lại

gần anh áng chừng cô ta khoảng ba mươi tuổi. Cô ta cao và có vẻ đẹp

“vênh váo” của những người đàn bà trên trang bìa của các tạp chí thời

trang.

Chúng ta nhìn người khác theo cách tự nhìn chính mình, vì thế sau tai

nạn, Lincoln Rhyme rất ít khi nghĩ về mọi người từ phương diện cơ thể

của họ. Anh quan sát chiều cao của cô, cái hông gọn gàng, mái tóc đỏ

rực. Người khác có thể nhìn những đặc điểm này và nghĩ, đẹp quá.

Nhưng với Lincoln Rhyme, ý nghĩ này không đến. Điều làm anh ấn

tượng là cái nhìn trong mắt cô.

Không có sự ngạc nhiên – rõ ràng rồi, chắc ai đó đã báo trước anh là

người tàn tật

– nhưng là cái gì đó khác. Một biểu hiện mà trước đó anh chưa hề nhìn

thấy. Tựa như hoàn cảnh của anh lại làm cô thấy thoải mái. Hoàn toàn

trái ngược so với phản ứng của mọi người. Như thể cô đi vào phòng và

cô đang thư giãn.

“Sĩ quan Sachs?” Rhyme nói.

“Vâng thưa ngài”, cô nói, tự ngăn được mình trước khi chìa tay ra.

“Thám tử

Rhyme.”

Sellitto giới thiệu cô với Polling và Haumann. Cô cũng đã biết hai người

này, ít nhất qua uy tín của họ nếu không phải vì điều gì khác nữa, giờ thì

ánh mắt cô lại càng tỏ ra thận trọng.

Cô quan sát căn phòng, bụi bặm, tăm tối. Liếc nhìn một trong những

bức ảnh nghệ thuật. Nó bị mở ra lưng chừng, nằm dưới gầm bàn.

Nighthawks41, tác giả Edward Hopper.

40  SWAT  (viết tắt của Special Weapon And Tactics): Đội Chiến

thuật và Vũ khí Đặc nhiệm.

41  Nighthawks:  Đại bàng đêm, tác giả Edward Hopper (1882 –

1967), một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.

Những người cô đơn ngồi bên bàn ăn lúc tối muộn. Một trong những

bức tranh cuối cùng bị dỡ xuống.

Rhyme giải thích ngắn gọn về thời hạn ba giờ chiều. Sellitto gật đầu bình

thản nhưng Rhyme có thể nhìn thấy một thoáng gì đó trong ánh mắt cô,

cái gì nhỉ? Sự sợ hãi? Ghê tởm?

Jerry Banks, những ngón tay đang lúng túng với cái nhẫn học sinh chứ

chẳng phải một cái đai đám cưới, ngay lập tức bị vẻ đẹp của cô hấp

dẫn và nở một nụ cười tươi hơn bình thường. Nhưng cái liếc mắt đáp

lời duy nhất của Sellitto đã cho thấy rõ ở đây không hề có việc mối mai

nào cả. Và có lẽ sẽ không bao giờ có.

Polling nói: “Có thể đây là một cái bẫy. Chúng ta tìm thấy chỗ hắn

muốn dẫn ta đến, bước vào và ở trong là một quả bom.”

“Tôi nghi ngờ điều đó”, Sellitto nhún vai nói. “Vì sao lại tạo ra tất cả

những rắc rối đó? Nếu anh muốn giết một tên cớm thì anh chỉ việc đi

tìm lấy một tên và bắn hắn chết toi.”

Một khắc im lặng lúng túng khi Polling nhìn thoáng từ Sellitto sang

Rhyme. Suy nghĩ đó tập hợp được từ vụ Shepherd; chính trong vụ đó

Rhyme bị thương.

Nhưng sự lỡ lời này chẳng có nghĩa lý gì với Rhyme, anh tiếp tục: “Tôi

đồng ý với Lon. Nhưng tôi sẽ nói với tất cả nhóm S&S42 và nhóm

HRT43 phải đề phòng mai phục. Anh chàng của chúng ta có vẻ đang

viết ra quy tắc riêng cho mình.”

Sachs nhìn bức tranh của Hopper một lần nữa. Rhyme dõi theo ánh

mắt cô. Có thể những người trong bữa ăn tối không thực sự cô đơn,

anh ngẫm nghĩ, thì trông họ đều rất hài lòng.

“Ở đây ta có hai loại vật chứng”, Rhyme nói tiếp. “Vật chứng chuẩn.

Những thứ mà nghi phạm không muốn bỏ lại. Tóc, lông, sợi, vân tay,

có thể là máu, dấu giày. Nếu ta có thể tìm đủ vật chứng loại này – và

nếu ta may mắn – chúng có thể dẫn ta đến hiện trường thứ nhất. Đây là

nơi hắn ta sống.”

“Hay là hang ổ lẩn trốn của hắn”, Sellitto gợi ý. “Một chỗ ở tạm.”

“Một nơi ẩn nấp an toàn?” Rhyme gật đầu đăm chiêu. “Chắc là anh

đúng đấy, Lon. Hắn cần một nơi để hành động.” Anh tiếp tục: “Sau đó

là những vật chứng được cố ý để lại. Ngoài hai mẩu giấy – nói với

chúng ta ngày tháng – chúng ta có một con ốc, một cuộn asbestos và

cát.”

“Một cuộc săn tìm kho báu chết tiệt”, Haumann gầm gừ, vuốt mớ tóc

cắt ngắn của mình. Anh ta trông vẫn giống anh chàng trung sĩ tập sự mà

Rhyme còn nhớ.

“Điều đó đồng nghĩa với việc tôi có thể báo cáo lên cấp trên là ta có

khả năng tìm được nạn nhân đúng lúc?” Polling hỏi.

“Tôi nghĩ thế, có thể.”

42 S&S: Tìm kiếm và giám sát.

43 HRT (viết tắt của Hostage Rescue Team): Nhóm Giải cứu con tin.

Viên đại úy gọi điện thoại và đi về phía góc phòng để nói chuyện. Khi

dập máy anh ta càu nhàu: “Thị trưởng. Sếp đang ngồi với ông ấy. Sẽ

có một cuộc họp báo sau một tiếng nữa và tôi sẽ phải đến đó để đảm

bảo cái của quý của họ vẫn còn trong quần và được kéo khóa. Tôi còn

có gì để nói thêm với họ nữa không?”

Sellitto liếc nhìn Rhyme, anh lắc đầu. “Chưa có gì đâu”, viên thám tử

nói.

Polling cho Sellitto số di động của anh ta và đi ra, đúng hơn là chạy ra

khỏi cửa.

Một khắc sau, một người đàn ông khoảng ba mươi tuổi, hói, gầy guộc

thư thả đi lên gác. Mel Cooper là một người mà lúc nào cũng có vẻ

ngớ ngẩn, một nhân vật hàng xóm luộm thuộm trong một vở hài kịch

tình thế. Đi sau anh ta là hai cảnh sát trẻ khênh cái rương nồi hấp và hai

chiếc va li trông có vẻ nặng cả nghìn pound. Hai viên sĩ quan đặt món

hàng nặng nề của mình xuống và ra về.

“Mel.”

“Thám tử.” Cooper đi tới chỗ Rhyme và siết chặt cánh tay vô dụng của

anh. Sự tiếp xúc vật lý duy nhất trong ngày với những người khách của

anh, Rhyme ghi nhận. Anh và Cooper đã từng làm việc cùng nhau

trong nhiều năm. Có bằng hóa hữu cơ, toán và vật lý, Cooper là

chuyên gia cả trong lĩnh vực nhận dạng – lấy dấu tay, DNA, tái tạo

pháp lý – và phân tích vật chứng.

“Nhà hình sự học hàng đầu thế giới hôm nay thấy thế nào?” Cooper

hỏi anh. Rhyme cảm thấy một sự giễu cợt thiện ý. Danh xưng này được

báo chí gắn cho

anh mấy năm trước, sau khi một bản tin gây ngạc nhiên về việc FBI đã

chọn anh – một cảnh sát thành phố – làm tư vấn cho việc thành lập

PERT của họ. Không thỏa mãn với “nhà pháp y hàng đầu”, các phóng

viên đã gọi Rhyme là “nhà hình sự học”.

Thuật ngữ này thực ra đã tồn tại nhiều năm, đầu tiên được dùng tại Mỹ

cho Paul Leland Kirk44 huyền thoại, người điều hành Trường Hình sự

học của Đại học California ở UC Berkeley. Ngôi trường được sếp

August Vollmer huyền thoại hơn thành lập và là ngôi trường đầu tiên

thuộc loại này ở nước Mỹ. Gần đây tên gọi đó trở thành mốt, và khi

các kỹ thuật viên trên toàn quốc rụt rè làm quen với các cô gái tóc

vàng tại những buổi tiệc cocktail, họ giới thiệu mình là các nhà hình sự

học thay vì là những nhà khoa học pháp y.

“Ác mộng của mọi người”, Cooper nói, “anh vào taxi nhưng hóa ra lại

có một thằng khùng đang lái xe. Cả thế giới đang quan sát Quả Táo

Lớn45 vì cái hội nghị đó. Tôi sẽ lấy làm lạ nếu họ không lôi anh ra khỏi

chỗ nghỉ hưu vì việc này.”

“Mẹ anh thế nào?” Rhyme hỏi.

“Vẫn than phiền về mọi cơn đau nhức. Vẫn khỏe hơn tôi.”

44 Paul Leland Kirk (1902 – 1970): Nhà hóa học, nhà khoa học pháp

lý nổi tiếng của

Mỹ.

45 Quả Táo Lớn: Tên lóng của New York.

Cooper sống với người phụ nữ lớn tuổi đó trong một ngôi nhà ở

Queens, nơi anh ta sinh ra. Niềm đam mê của anh ta là khiêu vũ dạ hội

– tango là hàng độc của anh ta. Cớm thường đàm tiếu trong IRD về xu

hướng giới tính của anh ta. Rhyme không quan tâm đến cuộc sống cá

nhân của các nhân viên của mình nhưng cũng đã ngạc nhiên như những

người khác khi gặp Greta, bạn gái lâu năm của Cooper, một phụ nữ

Bắc Âu lộng lẫy dạy toán tại Columbia.

Cooper mở cái rương lớn lót nhung. Anh ta lấy ra các bộ phận của ba

cái kính hiển vi lớn và bắt đầu lắp ráp.

“Ồ, điện trong nhà.” Anh ta thất vọng liếc nhìn ổ cắm, đẩy cái kính

gọng kim loại cao hơn lên mũi.

“Vì đây là một ngôi nhà mà, Mel.”

“Tôi đã giả định rằng anh sống trong một cái phòng thí nghiệm. Liệu

điều đó có quá ngạc nhiên không?”

Rhyme nhìn chăm chăm các thiết bị, màu đen và màu xám, bầm dập.

Giống như những thiết bị anh đã từng ở cùng trong hơn mười lăm năm.

Một cái kính hiển vi tiêu chuẩn và một cái dùng ánh sáng phân cực.

Cooper mở những cái va li, trong đó có nhiều loại chai lọ, bình và thiết

bị thí nghiệm của một Thầy Phù thủy. Trong một thoáng, ngôn từ trở lại

với Rhyme, những ngôn từ đã từng là một phần trong vốn từ vựng hằng

ngày của anh. Những cái ống lấy máu chân không EDTA46, acetic

acid, orthotolidine, thuốc thử luminol, Magna-Brush, hiện tượng màu

tím Ruhemann…

Người đàn ông gầy gò nhìn quanh phòng. “Giống hệt như văn phòng

trước kia của anh. Làm thế nào mà anh có thể tìm thấy bất cứ thứ gì ở

đây? Ví dụ, tôi muốn có một ít không gian ở đây.”

“Thom.” Rhyme hướng đầu về phía cái bàn ít bừa bộn nhất.. Họ bỏ

sang bên các loại báo, tạp chí, sách và để lộ ra cái mặt bàn mà Rhyme

đã không nhìn thấy nhiều năm qua.

Sellitto nhìn bản báo cáo hiện trường vụ án. “Chúng ta gọi đối tượng là

gì nhỉ? Ta vẫn chưa có số cho vụ này.”

Rhyme liếc nhìn Banks. “Chọn một số đi. Số nào cũng được.” Banks

đề nghị: “Số trang. Ừ, ý tôi là ngày tháng.”

“Đối tượng 823. Tốt như bất kỳ số nào khác.” Sellitto viết con số này

vào bản báo cáo. “Vâng, cho tôi xin lỗi? Thám tử Rhyme?”

Đó là giọng của nữ cảnh sát tuần tra. Rhyme quay về phía cô. “Tôi

phải quay lại Đại Bản Doanh vào buổi trưa.”

“Sĩ quan Sachs…”, anh đã ngay lập tức quên mất cô. “Cô là sĩ quan

đầu tiên đến hiện trường sáng nay à? Chỗ vụ giết người gần đường

ray.”

46 EDTA: Tên viết tắt của hợp chất hóa học

ethylenediaminetetraacetic acid.

“Đúng thế. Tôi đã nhận cuộc gọi.” Cô nói với Thom.

“Tôi ở đây, thưa sĩ quan.” Rhyme lạnh lùng nhắc cô, cố gắng kiểm soát

cơn nóng giận. “Đằng này.” Khi người ta nói với anh qua người khác,

qua những người khỏe mạnh, anh tức giận.

Cô xoay đầu lại rất nhanh và anh biết bài học đã được tiếp thu. “Vâng,

thưa ngài”, cô nói. Trong giọng cô có sự mềm mại, nhưng trong mắt cô

là băng giá.

“Tôi đã giải ngũ. Cứ gọi tôi là Lincoln.”

“Liệu anh có thể làm ơn chấm dứt chuyện này, được không?” “Thế

nghĩa là sao?” Anh hỏi.

“Lý do anh đưa tôi đến đây. Tôi xin lỗi. Tôi đã không suy nghĩ. Nếu

anh muốn xin lỗi bằng văn bản, tôi sẽ viết. Có điều là tôi đã bị muộn

cho nhiệm vụ mới và tôi không có

cơ hội gọi điện cho chỉ huy của tôi.”

“Xin lỗi?” Rhyme hỏi.

“Vấn đề là tôi không hề có kinh nghiệm thực tế về hiện trường vụ án.

Tôi chỉ là dân nghiệp dư.”

“Cô đang nói gì thế?”

“Chặn đoàn tàu và phong tỏa Đại lộ Mười một. Chính vì lỗi của tôi mà

ngài thượng nghị sĩ đã không kịp phát biểu ở New Jersey và một vài

quan chức cao cấp Liên Hiệp Quốc không đến kịp cuộc họp từ sân

bay Newark.”

Rhyme chặc lưỡi. “Cô có biết tôi là ai không?”

“À. Tôi cũng có nghe về anh. Tôi nghĩ là anh đã…” “Đã chết?” Rhyme

hỏi.

“Không, ý tôi không phải như vậy.” Dù ý cô đúng là như vậy. Cô

nhanh chóng nói tiếp: “Tất cả chúng tôi đều dùng sách của anh trong

học viện. Nhưng chúng tôi không nghe nhiều về anh. Ý tôi là về chuyện

cá nhân…” Cô nhìn lên bức tường và căng thẳng nói: “Theo suy nghĩ

của tôi, như một sĩ quan đầu tiên đến hiện trường, tốt nhất là phải chặn

đoàn tàu và phong tỏa đường phố để bảo vệ hiện trường. Và đó chính

là điều tôi làm, thưa ngài…”

“Gọi tôi là Lincoln. Và cô là…” “Tôi…”

“Tên cô?” “Amelia.”

“Amelia. Từ gốc là nữ phi công à?” “Không. Một cái họ.”

“Amelia, tôi không muốn một lời xin lỗi. Cô đúng và Vince Peretti đã

sai.”

Sellitto nhúc nhích khi thấy sự vô ý đó, nhưng Lincoln Rhyme không

quan tâm. Cuối cùng thì anh là một trong số vài người trên thế giới có

thể vẫn cứ nằm ườn ra ngay

cả khi tổng thống Mỹ bước vào phòng. Anh tiếp tục: “Peretti khám

nghiệm hiện trường như thể Thị trưởng đang nhòm qua vai anh ta, và

đó là cách thức số một để làm hỏng việc. Anh ta có quá nhiều người,

anh ta hoàn toàn sai lầm khi cho đoàn tàu và các phương tiện giao

thông chuyển động; anh ta không bao giờ được giải phóng hiện trường

sớm như anh ta đã làm. Nếu chúng ta giữ được đường ray, biết đâu

chúng ta lại chẳng tìm thấy một hóa đơn thẻ tín dụng với một cái tên ở

đó. Hay là một dấu vân tay thật đẹp.”

“Có thể”, Sellitto tế nhị nói. “Nhưng giữ điều đó cho chúng ta thôi.”

Khi ra mệnh lệnh im lặng, ánh mắt anh ta quay về phía Sachs, Cooper

và Jerry Banks trẻ tuổi.

Rhyme phì ra một nụ cười bất kính. Sau đó quay lại phía Sachs, anh

bắt gặp cô đang nhìn chân và cơ thể anh dưới tấm chăn màu vàng mơ,

như Jerry Banks sáng nay. Anh nói với cô: “Tôi gọi cô đến đây để xử

lý hiện trường tiếp theo cho chúng tôi.”

“Cái gì?” Lần này thì không phải nói qua người phiên dịch.

“Làm việc cho chúng tôi”, anh nói ngắn gọn. “Hiện trường vụ án tiếp

theo.” “Nhưng…” Cô cười. “Tôi đâu có phải là IRD. Tôi thuộc Đội

Tuần tra. Tôi chưa

bao giờ làm công việc xử lý hiện trường.”

“Đây là một vụ bất thường. Như chính thám tử Sellitto đã nói với cô.

Nó thực sự là kỳ quặc. Đúng không, Lon? Đúng, nếu đó là một vụ cổ

điển, chúng tôi không cần cô. Nhưng trong vụ này chúng tôi cần một

cặp mắt mới.”

Cô liếc nhìn Sellitto, anh ta chẳng nói gì. “Tôi chỉ… Tôi hoàn toàn

không giỏi việc này. Tôi chắc đấy.”

“Được rồi”, Rhyme kiên nhẫn nói. “Sự thật nhé?” Cô gật đầu.

“Tôi cần ai đó có gan dừng cả đoàn tàu trên đường ray để bảo vệ hiện

trường và chịu đựng được rắc rối sau đó.”

“Cảm ơn vì đã cho tôi cơ hội, thưa ngài, Lincoln. Nhưng…” Rhyme

nói ngắn gọn. “Lon.”

“Sĩ quan”, viên thám tử càu nhàu với Sachs, “cô không có lựa chọn

nào ở đây. Cô đã được phân công vào vụ này để trợ giúp tại hiện

trường vụ án.”

“Thưa ngài, tôi phải phản đối. Tôi đã chuyển khỏi Đội Tuần tra. Ngày

hôm nay. Tôi được chuyển vì lý do sức khỏe. Quyết định đó có hiệu

lực cách đây một giờ.”

“Lý do sức khỏe?” Rhyme hỏi.

Cô ta chần chừ, rồi lại miễn cưỡng nhìn chân anh. “Tôi bị viêm khớp.”

“Đúng thế à?” Rhyme hỏi.

“Viêm khớp mãn tính.” “Tôi rất tiếc.”

Cô nhanh chóng tiếp tục: “Tôi nhận cuộc gọi sáng nay vì ai đó bị ốm

phải nằm ở nhà. Tôi không định làm việc đó.”

“Đúng thế, được rồi. Tôi cũng có chương trình khác”, Lincoln Rhyme

nói. “Giờ thì ta hãy nghiên cứu một số bằng chứng.”

SÁU

“Con ốc.”

Nhớ lại nguyên tắc nghiên cứu hiện trường vụ án cổ điển: Phân tích

bằng chứng bất thường nhất đầu tiên.

Thom liên tục xoay xoay cái túi nhựa trên tay khi Rhyme nghiên cứu cái

đinh vít, nửa gì nửa không. Cùn. Mòn.

“Anh chắc về dấu vân tay chứ? Anh đã dùng, chất thử vi hạt chưa? Đó

là loại tốt nhất cho các vật chứng bị tiếp xúc với các nguyên tố.”

“Đúng”, Mel Cooper khẳng định.

“Thom”, Rhyme hạ lệnh, “bỏ cái tóc này khỏi mắt tôi! Trả nó lại chỗ

cũ. Tôi đã nói với cậu chải lại nó sáng nay rồi”.

Người trợ lý thở dài và chải mớ tóc đen rối bù. “Cẩn thận”, anh ta thầm

thì oán giận với ông chủ của mình và Rhyme lại hất đầu một cách thô

bạo, làm cho tóc càng rối hơn. Amelia Sachs sưng sỉa ngồi ở góc

phòng. Chân cô đặt dưới ghế trong tư thế xuất phát của vận động viên

chạy nước rút, và chắc chắn là cô ta trông như thể đang chờ tiếng súng

xuất phát.

Rhyme quay lại với con ốc.

Khi còn lãnh đạo IRD, Rhyme bắt đầu xây dựng cơ sở dữ liệu. Ví dụ

như chỉ mục sơn xe hơi liên bang hay hồ sơ thuốc lá BATF47. Anh

thiết lập hồ sơ tiêu chuẩn đạn, sợi, vải, lốp xe, giày, công cụ, dầu xe,

dầu hộp số. Anh dành hàng trăm giờ biên soạn các danh mục, đặt chỉ

mục và tham chiếu chéo.

Dù vậy, ngay cả trong thời kỳ cầm quyền mê đắm của Rhyme, IRD

cũng chưa bao giờ lập catalog cho dụng cụ. Anh băn khoăn tại sao lại

không làm như vậy, anh tự giận mình vì không dành thời gian để làm,

và còn tức giận Peretti hơn nữa vì anh ta cũng không nghĩ tới điều đó.

“Ta phải gọi cho tất cả các nhà sản xuất và buôn bán ốc vít khu Đông

Bắc. Không, cả nước. Hỏi xem họ có làm loại ốc nào như thế này

không và họ bán nó cho ai. Hãy gửi fax các bản miêu tả và ảnh của

con ốc cho nhân viên điều phối của chúng ta ở Phòng Truyền thông.”

“Quỷ thật, có thể phải là hàng triệu”, Banks nói. “Từng cửa hàng Ace

Hardware và siêu thị Sears trên toàn quốc.”

“Tôi không nghĩ vậy”, Rhyme trả lời. “Đó phải là một dấu tích có ý

nghĩa. Hắn sẽ không để nó lại nếu nó vô dụng. Nguồn cung cấp những

con ốc này chắc cũng có hạn thôi. Tôi cá với anh đấy.”

Sellitto gọi điện và ngẩng lên sau vài phút. “Tôi đã có điện thoại viên

cho anh rồi đây, Lincoln. Bốn người. Chúng tôi lấy danh sách các nhà

sản xuất ở đâu?”

47 BAFT (viết tắt của Bereau of Alcohol, Tobacco, Firearms and

Explosives): Cục Phụ trách các vấn đề về rượu, thuốc lá, vũ khí và

chất nổ, một tổ chức của chính phủ Mỹ.

“Cho nhân viên tuần tra đến Phố Bốn mươi hai.” Rhyme trả lời. Thư

viện công cộng. Ở đó họ có danh bạ điện thoại của các công ty. Trước

khi lấy được nó, hãy để điện thoại viên của chúng ta dùng Những

Trang Vàng Kinh Doanh.”

Sellitto nhắc lại vào điện thoại.

Rhyme nhìn đồng hồ. Một giờ ba mươi. “Còn bây giờ là sợi abestos.”

Trong một khoảnh khắc, từ này rực sáng trong đầu anh. Anh cảm thấy

choáng váng – nơi mà không thể cảm thấy choáng váng được. Abestos

thì có gì quen thuộc nhỉ? Điều gì đó mà anh vừa mới đọc hay nghe

được – mới đây thôi, mặc dù Lincoln Rhyme không còn tin tưởng vào

cảm nhận thời gian của mình nữa. Khi ta nằm đông cứng một chỗ từ

tháng này qua tháng khác, thời gian trôi đi chậm chạp gần như chết.

Anh có thể nghĩ tới một số thứ mà anh đã đọc được cách đây hai năm.

“Ta biết gì về abestos?” Anh đăm chiêu. Không ai trả lời câu hỏi này,

nhưng không quan trọng; anh sẽ tự trả lời. Như anh vẫn thường thích

làm. Abestos là một phân tử phức hợp, polime sillic. Nó không cháy,

vì giống như kính, nó đã bị oxy hóa hoàn toàn.

Khi anh khám nghiệm hiện trường vụ án của những vụ giết người ngày

trước – làm việc với các nhà pháp y học, nhân chủng học và các bác sĩ

nha khoa – Rhyme thường thấy mình ở trong các tòa nhà được bao

bọc abestos. Anh nhớ cái vị đặc biệt của những chiếc mặt nạ họ phải

đeo trong khi dọn dẹp abestos ở ga tàu điện ngầm City Hall ba năm

rưỡi trước, tại đó nhân viên tìm thấy xác của một trong những cảnh sát

bị Dan Shepherd giết và vứt vào phòng máy nổ. Khi Rhyme chậm

chạp cúi xuống để nhặt sợi từ chiếc áo khoác màu xanh dương nhạt

của viên sĩ quan, anh nghe thấy tiếng gãy và tiếng rắc của thanh xà gỗ

sồi. Chiếc mặt nạ có thể đã cứu anh không bị ngạt thở đến chết trong

đám bụi bặm và bùn đất xung quanh.

“Có thể hắn đưa cô ta đến một công trường phá dỡ”, Sellitto nói. “Có

thể”, Rhyme đồng ý.

Sellitto ra lệnh cho người trợ lý trẻ tuổi của mình. “Gọi EPA48 và Sở

Môi trường

Thành phố. Tìm xem có công trường phá dỡ nào đang được tiến hành

ngay lúc này không.”

Viên thám tử gọi điện.

“Bo”, Rhyme gọi Haumann, “đội của cậu đã sẵn sàng triển khai chưa?”

“Sẵn sàng chiến đấu.” Viên đội trưởng ESU khẳng định. “Dù vậy tôi

vẫn phải nói rằng chúng tôi chỉ có một nửa lực lượng vì phải phục vụ

cho hội nghị của Liên Hiệp Quốc. Họ bị Ủy ban Mật vụ và An ninh

của Liên Hiệp Quốc mượn.”

“Tôi đã có vài thông tin về EPA ở đây.” Banks ra hiệu cho Haumann

và họ đi ra góc phòng. Họ dẹp sang bên một vài chồng sách. Khi

Haumann trải một trong những tấm bản đồ chiến thuật New York của

ESU lên bàn, có thứ gì đó rơi xuống nền nhà.

48 EPA (viết tắt của Environmental Protection Agency): Cục Bảo vệ

Môi trường.

Banks nhảy dựng lên. “Chúa ơi.”

Từ góc nhìn nơi anh đang nằm, Rhyme không thể thấy cái gì vừa bị rơi.

Haumann chần chừ một giây, sau đó cúi xuống để nhặt lên một đoạn

xương sống đã bạc màu và đặt nó lên mặt bàn.

Rhyme cảm thấy ánh mắt vài người nhìn anh nhưng anh không nói gì về

khúc xương. Haumann cúi người nhìn tấm bản đồ, Banks cũng vậy,

đang nghe điện thoại và cung cấp cho Haumann thông tin về các công

trường thu dọn abestos. Viên chỉ huy đánh dấu chúng bằng bút sáp. Có

vẻ như có rất nhiều công trường, tản mát ở khắp năm quận của thành

phố. Tình hình không mấy khả quan.

“Ta phải tiếp tục khoanh vùng gọn hơn. Xem nào, cát”, Rhyme nói với

Cooper. “Phóng đại lên xem. Nói cho tôi biết anh nghĩ gì.”

Sellitto chuyển cái phong bì đựng vật chứng cho kỹ thuật viên, anh này

đổ những thứ bên trong vào một cái khay khám nghiệm tráng men.

Chất bột lóng lánh để lại một đám mây bụi nhỏ. Ở giữa có một hòn đá,

đã bị bào mòn, nó lăn vào giữa đống cát.

Cổ họng Lincoln Rhyme nghẹn lại. Không phải vì những gì anh thấy –

anh vẫn chưa biết anh đang nhìn vào cái gì – nhưng vì một xung thần

kinh đứt đoạn phóng ra từ não anh và tắt ngấm nửa đường khi đến

cánh tay phải vô dụng, thúc bách cầm lấy một cái bút chì và thử. Lần

đầu tiên trong thời gian khoảng một năm, anh cảm thấy sự thúc bách

đó. Điều này suýt làm anh phát khóc và niềm an ủi duy nhất của anh là

ký ức về cái lọ nhỏ đựng Seconal, cái túi nhựa mà bác sĩ Berger mang

theo, những hình ảnh bay lượn trong phòng như thiên thần hộ mệnh.

Anh hắng giọng. “Lấy thử dấu tay đi.” “Cái gì?” Cooper hỏi lại.

“Hòn đá.”

Sellitto nhìn anh dò hỏi.

“Hòn đá ở đó không hợp”, Rhyme nói. “Táo và cam. Tôi muốn biết vì

sao. Lấy dấu đi.”

Sử dụng một cái kẹp có đầu bằng sứ, Cooper nhấc hòn đá lên và

nghiên cứu nó. Anh ta đeo kính, dùng chiếc đèn PoliLight chiếu vào

hòn đá – bộ đèn có ắc quy lớn như ắc quy xe hơi với một cây đũa thần

gắn ở đó.

“Chẳng có gì”, Cooper nói. “VMD?”

VMD, lắng chân không kim loại là kỹ thuật hiển thị vân tay ẩn trên

những bề mặt không xốp. Nó làm bay hơi vàng hay kẽm trong một

buồng chân không có chứa đối tượng cần kiểm tra; kim loại sẽ phủ lên

dấu vân tay ẩn, làm thấy rõ hoa tay và những điểm đỉnh.

Nhưng Cooper không đem theo máy VMD. “Vậy thì anh có gì?”

Rhyme hỏi, vẻ không vui.

“Sudan đen, thuốc tráng phim ổn định, iodine, amido đen, DFO và

thuốc nhuộm chữa bỏng, Magna-Brush.”

Anh ta còn đem theo ninhydrin để phát hiện dấu tay trên những bề mặt

xốp và khuôn Keo Siêu dính cho những bề mặt nhẵn. Rhyme nhớ lại

những tin tức chấm động đã tràn qua cộng đồng giám định vài năm

trước: Một kỹ thuật viên làm việc trong phòng thí nghiệm giám định của

quân đội Mỹ ở Nhật bản đã dùng Keo Siêu dính để sửa chiếc máy

quay bị vỡ của mình và vô cùng ngạc nhiên khi thấy khói bốc lên từ

chất keo dính đã làm hiện ra dấu tay tốt hơn phần lớn các loại hóa chất

được tạo ra cho mục đích này.

Đó chính là phương pháp Cooper sử dụng. Dùng một cái kẹp, anh ta

đặt hòn đá vào một hộp thủy tinh nhỏ và rỏ một ít keo vào cái đĩa nóng

đặt bên trong. Vài phút sau, anh ta lấy hòn đá ra.

“Ta có gì đó rồi đây này”, anh ta phủ một lớp bụi UV bước sóng dài

lên hòn đá và dùng đèn PoliLight soi vào nó. Có thể nhìn thấy rõ ràng

một dấu vân tay. Đúng trung tâm. Cooper chụp ảnh nó bằng một cái

máy Palaroid CU-5, tỷ lệ 1:1. Anh ta đưa bức ảnh cho Rhyme.

“Đưa nó lại gấn hơn tí nữa.” Rhyme liếc mắt khi xem bức ảnh. “Đúng

rồi! Hắn ta đã xoay nó.”

Dấu vân tay xoay – xoa ngón tay lên một bề mặt – tạo ra ấn tượng

khác so với khi nhặt vật thể đó lên. Đó là một khác biệt rất nhỏ – ở

chiều rộng giữa các đường vân tại những điểm khác nhau của sơ đồ

vân tay – nhưng là sự khác biệt mà Rhyme có thể nhìn thấy rất rõ.

“Nhìn này, cái gì đây?” Anh đăm chiêu. “Đường kẻ này.” Có một dấu

hiệu hình vòng cung mờ nhạt bên trên dấu vân tay.

“Nó trông giống như là…”

“Đúng thế”, Rhyme nói, “móng tay của cô ấy. Thường thì ta sẽ không

có dấu hiệu này. Nhưng tôi cá là hắn đặt hòn đá để người ta nhặt nó.

Nó để lại một vết hằn nhờn dầu. Giống như vân tay.”

“Vì sao hắn làm thế?” Sachs hỏi.

Lại phật ý vì xem ra chẳng có ai hiểu ra vấn đề nhanh như mình, Rhyme

cục cằn giải thích: “Hắn nói với ta hai điều. Thứ nhất, hắn muốn ta biết

nạn nhân là phụ nữ. Trong trường hợp ta không liên kết được cô ta với

các xác sáng nay.”

“Hắn làm thế để làm gì?” Banks hỏi.

“Trộn đỗ với thóc.” Rhyme nói.”Để làm ta toát thêm ít mồ hôi. Hắn

cho ta biết có một người phụ nữ đang gặp nguy hiểm. Hắn đánh giá

nạn nhân – như tất cả chúng ta làm

– kể cả khi chúng ta nói là chúng ta không làm vậy.” Rhyme tình cờ

nhìn vào tay Sachs. Anh ngạc nhiên khi thấy rằng, một người phụ nữ

đẹp như Sachs mà các ngón tay lại xấu

tệ hại. Bốn đầu ngón tay dán băng Band-Aid và mấy ngón khác bị gặm

đến tận thịt. Lớp biểu bì ở một ngón bị phủ một lớp máu nâu. Anh còn

nhận thấy da dưới lông mày cô bị

viêm đỏ, do bị kéo, anh đoán. Và một dấu xước cạnh tai cô. Tất cả

những thói quen tự hủy hoại. Có hàng triệu cách để phê, ngoài thuốc

và rượu Armagnac.

Rhyme nói: “Có một điều nữa hắn nói với chúng ta mà tôi đã cảnh báo

trước với các anh. Hắn biết chứng cứ. Hắn đang nói. Đừng quan tâm

đến những vật chứng pháp lý thông thường. Tôi cũng sẽ không để lại

gì. Tất nhiên đó là điều hắn nghĩ. Nhưng chúng ta sẽ tìm thấy gì đó. Tôi

cá là chúng ta sẽ thấy.” Đột nhiên Rhyme nhăn mặt. “Bản đồ! Ta cần

bản đồ. Thom!”

Người trợ lý buột miệng: “Bản đồ nào?” “Cậu biết ý tôi nói cái bản đồ

nào mà.” Thom thở dài. “Tôi chịu, Lincoln.”

Nhìn ra cửa sổ và nói, một nửa là với chính mình, Rhyme đăm chiêu.

“Cầu vượt qua đường ray, đường hầm buôn rượu lậu và những cánh

cửa ra vào, abestos – đều là những thứ cũ. Hắn thích New York lịch

sử. Tôi muốn bản đồ Randel.”

“Ở đâu?”

“Hồ sơ nghiên cứu cho cuốn sách của tôi. Còn ở đâu được nữa hả?”

Thom lục lọi trong đống cặp hồ sơ và lấy ra một bản sao của một tấm

bản đồ

Manhattan dài, nằm ngang. “Cái này à?”

“Cái đó, đúng rồi!”

Đó là Khảo sát của Randel, vẽ năm 1811 cho các ủy viên Hội đồng

thành phố quy hoạch mạng lưới phố xá của Manhattan. Tấm bản đồ

được in ngang, với Công viên Battery, phía nam, bên trái và Harlem,

phía bắc, sang phải. Vẽ theo cách này, hòn đảo tạo thành một con chó

đang nhảy lên, cái đầu hẹp của nó ngẩng lên, chuẩn bị tấn công.

“Gắn nó lên đây. Tốt.”

Trong khi viên trợ lý làm, Rhyme nói: “Thom, chúng ta sẽ cử cậu làm

đại diện. Đưa cho anh ta một cái phù hiệu bóng loáng hay cái gì đó đi,

Lon.”

“Lincoln”, cậu ta lắp bắp.

“Chúng tôi cần cậu. Nào. Chẳng phải là lúc nào cậu cũng muốn trở

thành Sam

Spade49 hay Kojak50 đó sao?”

“Chỉ là Jury Garland51 thôi.” Người trợ lý đáp lời.

“Thế thì là Jessica Fletcher52  vậy. Cậu sẽ viết hồ sơ. Làm đi, lấy cái

bút Mont

Blanc lúc nào cũng dính trong túi áo cậu ra đi.”

Chàng thanh niên đảo mắt khi cậu ta lấy cái bút Parker ra và nhặt một

cuốn sổ màu vàng từ chồng sách vở dưới một cái bàn.

49 Sam Spade: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay

truyện tranh.

50 Kojak: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện

tranh.

51 Jury  Garland: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay

truyện tranh.

52 Jessica Beatrice Fletcher: Một nhân vật hư cấu trong series chương

trình truyền hình của Mỹ: Murder, she wrote.

“Không, tôi có ý hay hơn”, Rhyme tuyên bố. “Treo một trong những

bức tranh kia lên. Những bức tranh nghệ thuật ấy. Xoay ngược nó lại

rồi viết ra mặt sau bằng bút đánh dấu. Viết thật to vào. Để tôi còn đọc

được.”

Thom chọn bức tranh hoa huệ tây của Monet, dán lên tường.

“Trên cùng”, nhà hình sự học nói, “viết ‘Đối tượng 823’ sau đó kẻ bốn

cột. ‘Ngoại hình. Nơi ở. Phương tiên đi lại. Khác.’ Đẹp rồi. Giờ thì bắt

đầu thôi. Chúng ta biết gì về hắn ta?”

Sellitto nói: “Phương tiện đi lại… Hắn ta có chiếc Yellow Cab.”

“Đúng thế. Và trong cột ‘Khác’ cần thêm hắn ta biết quy trình khám

nghiệm hiện trường.”

Sellitto nói: “Điều đó có thể có nghĩa là hắn đã từng gặp chuyện rắc

rối.” “Thế nghĩa là gì?” Thom hỏi.

“Có nghĩa là hắn có thể có tiền án.” Viên thám tử giải thích. Banks nói:

“Ta có cần thêm là hắn có khẩu Colt cỡ .32 không?” “Mẹ kiếp, có”,

sếp của anh ta khẳng định.

Rhyme đóng góp: “Và hắn biết về FRs…” “Cái gì?” Thom hỏi.

“Vân ma sát – dấu vân tay. Cậu biết đấy, đó là những đường vân trên

bàn tay và chân chúng ta để tạo ma sát. Và viết thêm là có thể hắn ta

có khả năng hành động từ một

nơi ẩn nấp an toàn. Tốt lắm, Thom. Nhìn cậu ta này. Cậu ta quả là một

người thực thi

pháp luật nhà nòi.”

Thom đỏ mặt, rời khỏi bức tường, phẩy mạng nhện vương trên chiếc

áo sơ mi. “Đây rồi, anh em”, Sellitto nói. “Hình ảnh đầu tiên của chúng

ta về Ngài 823.”

Rhyme quay về phía Mel Cooper. “Còn bây giờ là cát. Chúng ta có

thể nói gì về nó nhỉ?”

Cooper kéo cái kính lên vầng trán nhợt nhạt của anh ta. Anh ta đổ một

mẫu vào thanh trượt, đẩy nó xuống dưới cái kính hiển vi ánh sáng phân

cực rồi điều chỉnh núm điều khiển.

“Hừm. Lạ thật. Không thấy có khúc xạ đúp.”

Kính hiển vi phân cực cho thấy khúc xạ đúp của tinh thể hay sợi và một

số vật liệu khác. Cát bãi biển có tính khúc xạ đúp lớn.

“Thế thì không phải cát”, Rhyme lẩm bẩm. “Đó là một thứ bị xay

nhỏ… Anh có thể nhận dạng cá thể được không?”

Nhận dạng cá thể… Mục tiêu của nhà hình sự học. Phần lớn vật chứng

có thể được nhận dạng. Nhưng ngay cả khi ta biết được đó là gì, nó có

thể xuất phát từ hàng trăm hay hàng nghìn nguồn. Vật chứng đã được

nhận dạng cá thể là một thứ mà chỉ có thể xuất phát từ một nguồn hay

một số lượng nguồn rất hạn chế. Một dấu vân tay, một hồ

sơ DNA, một mẩu sơn vừa vào chỗ tróc trên xe của nghi phạm giống

như một mảnh của một bức tranh đố ghép hình.

“Có thể”, kỹ thuật viên trả lời. “Nếu tôi có thể xác định được đó là cái

gì.” “Bột kính nghiền?” Rhyme gợi ý.

Kính về bản chất là cát bị nung chảy nhưng quá trình chế tạo kính đã

thay đổi cấu trúc tinh thể. Bột kính nghiền không khúc xạ đúp. Cooper

cẩn thận nghiên cứu mẫu.

“Không, tôi không nghĩ đó là kính. Tôi không biết nó là cái gì. Giá mà

tôi có

EDX53 ở đây.”

Một công cụ thông dụng trong phòng thí nghiệm hình sự là kính hiển vi

quét điện tử kết hợp với một thiết bị tia X phân tán năng lượng; nó xác

định thành phần hóa học của các mẫu dấu vết được tìm thấy tại hiện

trường vụ án.

“Tìm cho anh ta một cái”, Rhyme ra lệnh cho Sellitto, sau đó nhìn

quanh phòng. “Chúng ta cần thêm thiết bị. Tôi muốn có thêm cả thiết bị

lấy dấu vân tay chân không kim loại. Và GC-MS54.” Một loại máy

sắc ký khí dùng để phân tách các hợp chất thành những nguyên tố

thành phần và quang phổ kế ánh sáng để nhận dạng từng nguyên tố.

Những thiết bị này cho phép các nhà hình sự học kiểm tra một mẫu

chưa biết với khối lượng nhỏ tới một phần triệu g và tìm kiếm nó trong

một cơ sở dữ liệu hàng trăm nghìn

các hợp chất đã biết, được phân loại theo nhận dạng và tên nhãn hiệu.

Sellitto gọi điện tới phòng thí nghiệm CSU thông báo danh mục thiết bị

cần thiết. “Nhưng ta không thể đợi tới khi có đồ, Mel. Anh phải làm

theo cách truyền thống

thôi. Nói cho tôi thêm một chút về cái thứ cát rởm của chúng ta nào.”

“Nó lẫn một ít bụi. Có đất mùn, những đốm thạch anh, chất feldspar và

mica. Có rất ít mảnh lá cây và thực vật phân rã. Một số đốm có thể là

bentonite.”

“Bentonite.” Rhyme thỏa mãn. “Đó là tàn tro núi lửa mà các nhà xây

dựng sử dụng trong hồ xi măng khi họ đào móng trong những vùng có

nước của thành phố, nơi nền đá ở rất sâu. Dùng chống xói mòn. Vậy

chúng ta phải tìm những công trường xây dựng gần nước, có thể ở phía

nam Phố Ba mươi tư. Phía Bắc, vùng đó nền đá khá gần mặt đất nên

họ không cần dùng hồ xi măng.”

Cooper xê dịch thanh trượt. “Nếu phải đoán, tôi sẽ nói rằng đó chủ

yếu là calcium. Đợi chút, ở đây có gì đó dạng sợi.”

Cái núm lại bị xoay và Rhyme sẽ trả mọi thứ để có thể được nhìn vào

cái ống ngắm kia. Nhớ lại tất cả những buổi tối anh dán mắt vào cái

viền ống ngắm cao su màu xám, quan sát sợi hay những mẩu vỏ bào

kim loại trôi ra trôi vào tiêu điểm.

“Ở đây còn mấy thứ nữa. Hạt lớn. Ba lớp. Một giống như cái loa kèn.

Sau đó là hai lớp calcium. Màu sắc hơi khác nhau. Những mẩu khác

trong suốt.”

53 EDX (viết tắt của Energy dispersive X-ray spectroscopy): Một

phương pháp phân tích trong ngành hóa học.

54 GC-MS: Xem phần phụ lục.

“Ba lớp?” Rhyme giận dữ quát lên. “Của nợ, đấy là vỏ sò.” Anh cảm

thấy bực tức với bản thân. Anh phải nghĩ tới điều đó chứ.

“Đúng rồi, nó đấy.” Cooper gật đầu. “Tôi nghĩ là con hàu.”

Những bãi hàu quanh thành phố chủ yếu nằm ngoài bờ biển Long

Island và New Jersey. Rhyme đã hy vọng là nghi phạm hạn chế khu

vực địa lý cần tìm kiếm trong Manhattan – nơi nạn nhân được tìm thấy

sáng nay. Anh lẩm bẩm: “Nếu hắn mở rộng ra cả thành phố thì việc tìm

kiếm là vô vọng.”

Cooper nói: “Tôi đang nhìn thấy một thứ khác. Tôi nghĩ đấy là đá vôi.

Rất cổ. Dạng hạt.”

“Có thể là bê tông.” Rhyme gợi ý. “Có thể. Đúng.”

“Thế thì tôi không hiểu vỏ sò”, Cooper nói thêm, vẻ trầm ngâm.

“Những bãi sò quanh New York đầy bùn và thực vật. Thứ này bị trộn

lẫn với bê tông và thực sự là

không hề có chất gì liên quan đến thực vật.”

Bất thình lình Rhyme quát lên: “Cạnh! Cạnh của cái vỏ sò ấy như thế

nào, Mel?” Nhân viên kỹ thuật nhìn vào ống ngắm: “Đứt đoạn, không

bị mòn. Nó bị tán vụn

dưới áp lực. Không bị nước bào mòn.”

Ánh mắt Rhyme trượt sang tấm bản đồ Randel, quét từ phải sang trái.

Tập trung vào vùng mông con chó đang nhảy.

“Có rồi!” Anh hét lên.

Năm 1913, F.W. Woolworth xây một cấu trúc sáu mươi tầng đến bây

giờ vẫn còn mang tên ông, bọc gốm, được bao phủ bởi miệng máng xối

và điêu khắc gothic. Trong suốt mười sáu năm, đó là tòa nhà cao nhất

thế giới. Vì nền đá ở khu vực này của Manhattan nằm cách Broadway

ba mươi mét, những người công nhân đã phải đào đường trục rất sâu

để neo tòa nhà. Không lâu sau khi động thổ, những người công nhân

đã tìm thấy thi hài của nhà công nghiệp Manhattan, Talbott Soames,

người bị bắt cóc năm 1906. Xác của ông ta bị chôn trong một bãi dày,

một thứ trông giống như cát nhưng thực ra là vỏ sò bị nghiền nát, một

việc mà báo chí lá cải đã làm ầm ĩ, nhắc đến sự đam mê của nhà tư

bản đối với đồ ăn ngon. Vỏ sò rất phổ biến dọc theo mũi thấp phía

đông Manhattan

đến mức chúng được sử dụng để lấn biển. Đó cũng là lý do Phố

Pearl55 lại được đặt tên

như vậy.

“Cô ta ở đâu đó trong khu trung tâm.” Rhyme tuyên bố. “Có thể ở phía

đông. Cũng có thể gần phố Pearl. Cô ta đang ở dưới lòng đất, sâu

khoảng năm đến mười lăm feet. Có thể là một công trường xây dựng,

có thể là một tầng hầm. Một tòa nhà cũ hay một đường hầm.”

“Kiểm tra chéo bản đồ của EPA đi Jerry”, Sellitto ra lệnh. “Những chỗ

họ dọn dẹp abestos.”

55 Pearl: Ngọc trai.

“Trên phố Pearl? Không có gì.” Viên sĩ quan trẻ nâng tấm bản đồ mà

anh ta và Haumann đang nghiên cứu lên. “Có khoảng ba tá công

trường phá dỡ – ở Midtown, Harlem và Bronx. Nhưng ở trung tâm

không có gì.”

“Abestos… abestos…”, Rhyme lại trầm ngâm. Có gì đó rất quen ở

đây. Đã là 2:05.

“Bo, ta phải đi thôi. Hãy đưa người của anh tới đó và bắt đầu tìm kiếm.

Tất cả các tòa nhà dọc theo Phố Pearl. Cả Phố Water nữa.”

“Trời”, viên cảnh sát thở dài, “thế thì rất nhiều.” Anh ta ra đến cửa.

Rhyme nói với Sellitto: “Lon, tốt hơn là anh cũng nên đi. Sẽ là cuộc

chạy đua sát nút đấy. Họ cần tất cả những nhân viên truy tìm mà họ có

thể có. Amelia, tôi muốn cả cô cũng đi.”

“Nhưng này, tôi đang nghĩ xem…”

“Sĩ quan”, Sellitto quát, “đây là mệnh lệnh…”.

Một ánh hồng nhạt đảo qua khuôn mặt xinh đẹp của cô. Rhyme hỏi

Cooper: “Mel, anh đến đây bằng xe bus à?” “RRV56”, anh ta trả lời.

Những chiếc xe bus thành phố dành cho hiện trường vụ án lớn là những

chiếc xe tải lớn – chứa đầy thiết bị và vật tư phục vụ cho việc thu nhập

chứng cứ, được trang bị tốt hơn phòng thí nghiệm của những thành phố

nhỏ. Nhưng khi Rhyme điều hành IRD, anh đã đặt mua những chiếc xe

phục vụ hiện trường vụ án nhỏ hơn – những chiếc xe kiểu wagon – với

những thiết bị thu nhập và phân tích cơ bản nhất. Những chiếc RRV

trông bình thường nhưng Rhyme đã bắt Phòng Vận chuyển gắn cho

chúng động cơ turbo của Đội Cảnh sát Cơ động. Chúng thường vượt

xe của Đội Tuần tra để đến hiện trường trước; đã có lần sĩ quan đầu

tiên đến hiện trường lại là những kỹ thuật viên hiện trường dày dạn. Đó

chính là giấc mơ của mọi công tố viên.

“Đưa chìa khóa cho Amelia.”

Cooper đưa chìa khóa cho Sachs, cô lườm anh, sau đó ra khỏi phòng

và chạy xuống cầu thang. Ngay cả tiếng bước chân của cô nghe cũng

có vẻ giận dữ.

“Được rồi, Lon. Anh nghĩ gì?”

Sellitto nhìn hành lang trống rỗng và lại gần Rhyme. “Anh thực sự muốn

có P.D

cho vụ này à?” “P.D?”

“Ý tôi là cô ta. Sachs. P.D là biệt hiệu.” “Cho cái gì?”

“Đừng nói điều đó với cô ta. Bỏ cô ta đi. Cha cô ta là một cảnh sát

tuần tra trong bốn mươi năm. Đó là lý do vì sao cô ta được gọi là P.D

(Con gái cớm tuần tra).”

56 RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản

ứng nhanh.

“Anh không nghĩ rằng tôi nên chọn cô ta?”

“Không. Tôi không nghĩ thế. Vì sao anh lại muốn cô ta?”

“Vì cô ta đã trèo xuống một bờ ngăn cao ba mươi feet để bảo vệ hiện

trường vụ án. Cô ta phong tỏa đại lộ chính và đường ray của Amtrak.

Đó là sáng kiến.”

“Thôi nào, Linc. Tôi biết hàng chục cảnh sát đã làm như thế.”

“Được rồi, cô ta là người tôi muốn.” Rhyme ném cho Sellitto một cái

nhìn nghiêm nghị, nhắc nhở anh ta, tế nhị không tranh cãi, về những

điều khoản trong thỏa thuận của họ.

“Điều tôi muốn nói là”, viên thám tử nói nhỏ, “tôi vừa mới nói chuyện

với Polling. Peretti đang cay cú vì bị gạt sang một bên và nếu – không,

tôi nói là khi nào – hắn biết ai đó trong Đội Tuần tra đi xử lý hiện

trường thì khi đó sẽ rắc rối to.”

“Chắc là vậy”, Rhyme nói nhẹ nhàng, vẫn nhìn vào tấm áp phích hồ sơ,

“nhưng tôi có cảm giác đó là ngày ít rắc rối nhất của chúng ta”.

Và anh ngửa cái đầu mệt mỏi của mình xuống chiếc gối dày phía dưới.

BẢY

York.

Chiếc xe lao nhanh vào khe núi tăm tối, bẩn thỉu của Phố Wall, trung

tâm New

Ngón tay Amelia Sachs nhẹ nhàng nhảy múa trên vô lăng khi cô cố

gắng hình

dung nơi T.J. Colfax có thể bị giam giữ. Việc tìm kiếm cô ta xem ra vô

vọng. Quận Tài chính mà cô đang tiến đến gần, chưa bao giờ trông nó

lại lớn đến vậy, đầy những ngõ ngách, đầy những miệng cống, đầy

những cửa ra vào và những tòa nhà lấm tấm những ô cửa sổ màu đen.

Quá nhiều chỗ để giấu con tin.

Cô nhớ lại cái cảnh mà cô đã nhìn thấy, một bàn tay thò ra từ lỗ huyệt

bên cạnh đường ray. Chiếc nhẫn kim cương trên ngón tay máu me,

xương xẩu. Sachs nhận ra kiểu nữ trang đó. Cô gọi chúng là những

chiếc nhẫn an ủi – kiểu nhẫn mà những cô gái giàu có, cô đơn hay mua

cho mình. Kiểu nhẫn mà cô sẽ đeo nếu cô giàu có.

Lao nhanh xuống phía nam, vượt qua những người đưa tin đi xe đạp và

những chiếc taxi.

Ngay cả trong buổi chiều chói chang này, dưới ánh mặt trời bực bội,

đây vẫn cứ là vùng kinh khủng của thành phố. Những tòa nhà tỏa bóng

râm kinh dị và bị bao phủ bởi bóng tối khủng khiếp như máu khô.

Sachs rẽ với tốc độ bốn mươi, trượt bánh xe trên mặt đường nhựa

mềm như bọt biển và lại nhấn ga để tăng tốc độ lên sáu mươi.

Động cơ hết ý, cô nghĩ. Và quyết định thử xem chiếc xe sẽ tuyệt như

thế nào khi điều khiển với tốc độ bảy mươi.

Nhiều năm trước, trong khi cha cô ngủ – ông thường làm ca từ ba giờ

tới mười một giờ – thiếu nữ Amie Sachs thường lấy chìa khóa chiếc

Camaro của ông, nói với mẹ là cô đi mua đồ và hỏi xem mẹ có muốn

mua gì ở cửa hiệu thịt lợn Fort Halminton hay không. Trước khi mẹ cô

kịp trả lời: “Không, nhưng con đi tàu thôi, không được lái xe đâu nhé”,

thì cô bé đã biến mất ngoài cửa, khởi động xe và lao về phía tây.

Về nhà sau ba tiếng, không có thịt lợn, Amie sẽ lẩn lên cầu thang để rồi

phải đối mặt với người mẹ đang vô cùng giận dữ với trò tiêu khiển của

con gái mình, bà sẽ lại giảng giải cho cô về nguy cơ mang thai và

chuyện đó sẽ phá hoại cơ hội kiếm hàng triệu đô la bằng nghề người

mẫu nhờ khuôn mặt xinh đẹp của cô như thế nào. Rồi cuối cùng, khi

biết được rằng cô không ngủ lang đâu đó mà chỉ lái xe với tốc độ một

trăm dặm một giờ trên đường cao tốc Long Island, bà lại càng giận dữ

và tiếp tục giảng giải cho cô về việc làm hỏng mất khuôn mặt xinh đẹp

và chuyện đó sẽ phá hoại cơ hội kiếm hàng triệu đô la bằng nghề người

mẫu như thế nào.

Mọi thứ trở nên tồi tệ hơn nữa khi cô có bằng lái xe.

Còn bây giờ thì Sachs đang bị kẹp giữa hai chiếc xe tải hai tầng, hy

vọng không hành khách hay tài xế nào lại tự nhiên mở cửa. Trong nháy

mắt, cô đã vượt qua họ.

Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta…

Lon Sellitto xoa khuôn mặt béo tròn của anh ta bằng những ngón tay

chuối nắn và không buồn để ý đến việc lái chiếc Indy 500. Ông nói

chuyện với đối tác của mình về vụ án như một kế toán viên nói về bảng

cân đối lỗ lãi. Còn Banks, anh ta không đắm đuối nhìn trộm đôi mắt và

cặp môi của Sachs nữa mà bắt đầu nhìn tốc kế mỗi phút một lần.

Họ trượt đi trong một cú cua điên dại khi qua cầu Brooklyn. Cô lại

nghĩ về việc giam giữ người phụ nữ, hình dung ra những chiếc móng tay

dài, lịch thiệp của T.J. khi cô gõ tay mình lên vô lăng. Cô ta lại hiện lên

trong tâm trí cô, hình ảnh đó không chịu biến mất: một cánh tay như

nhánh cây thò ra khỏi lỗ huyệt ẩm ướt. Một cái xương máu me.

“Anh ta có vẻ hơi điên điên”, cô đột nhiên nói, để đổi hướng suy nghĩ.

“Ai?” Sellitto hỏi.

“Rhyme.”

Banks thêm: “Hỏi tôi đây này, anh ta trông giống em của Howard

Hughes57.” “Đúng, điều đó làm tôi thấy ngạc nhiên”, viên thám tử lớn

tuổi hơn công nhận.

“Trông không ổn lắm. Đã từng là một anh chàng đẹp trai. Nhưng mọi

người biết đấy. Sau

tất cả những gì anh ta phải trải qua. Làm thế nào mà cô lại lái xe như

thế, Sachs, cô là cảnh sát tuần tra à?”

“Khi tôi bị chỉ định. Họ không yêu cầu. Họ nói với tôi.” Giống như anh

vừa làm xong, cô nghĩ. “Anh ta có thực sự giỏi như thế không?”

“Rhyme? Giỏi hơn thế. Hầu hết các anh chàng CSU ở New York xử lý

khoảng hai trăm cái xác một năm. Tối đa. Rhyme làm gấp đôi. Ngay

cả khi anh ta điều hành IRD. Ví dụ như Peretti, anh ta là người tốt

nhưng anh ta chỉ ra ngoài hai tuần một lần và chỉ ở những vụ lên báo.

Cô không nghe thấy tôi nói điều đó đấy chứ, sĩ quan?”

“Không. Thưa ngài.”

“Nhưng Rhyme thì tự khám nghiệm hiện trường. Có khi anh ta không

khám nghiệm hiện trường thì anh ta ra ngoài và đi dạo.”

“Làm gì?”

“Chỉ đi dạo thôi. Ngắm nghía mọi thứ. Anh ta đi bộ hàng cây số. Đi

khắp thành phố. Mua bán, nhặt nhạnh, sưu tập các thứ.”

“Những thứ gì?”

“Tiêu chuẩn chứng cứ. Bùn đất, thức ăn, tạp chí, nắp tròn đậy trục

bánh xe, giày, sách y học, thuốc, cây cối… Anh ta sẽ tìm và ghi chúng

vào mục lục. Cô biết đấy – khi có vật chứng nào đó xuất hiện anh ta

có thể sẽ có ý tưởng rõ ràng hơn về việc thủ phạm có thể đã ở đâu hay

hắn ta đang làm gì. Nếu cô tìm anh ta, có thể anh ta sẽ ở Harlem hay

Lower East Side hay Hell’s Kitchen.”

“Cảnh sát từ trong máu?”

57 Howard Robard Hughes (1905 – 1976): Phi công, nhà tư bản công

nghiệp, đạo diễn, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Mỹ.

thế.”

“Không. Cha anh ta là nhà khoa học ở phòng thí nghiệm quốc gia hay

gì đó kiểu

“Rhyme học ngành đó à? Khoa học ấy?”

“Đúng. Học ở Champaign-Urbana, nhận được một, hai cái bằng nào

đấy. Hóa học

và lịch sử. Mà tôi thì chẳng hiểu tại sao. Ông cụ nhà anh ta mất từ khi

tôi biết anh ta, trời ạ, có thể đã mười lăm năm rồi. Và anh ta thì chẳng

có anh chị em gì cả. Anh ta lớn lên ở Illinois. Vì thế mà có tên là

Lincoln.”

Cô muốn hỏi anh ta đã lập gia đình chưa, nhưng lại thôi. Cô hỏi: “Anh

ta có thực sự là cái thứ…”

“Cô cứ nói đi, sĩ quan.” “Củ chuối?”

Banks phá lên cười.

Sellitto nói: “Mẹ tôi có cách diễn đạt thế này. Bà nói ai đó ‘có đầu óc’.

Câu ấy mô tả đúng Rhyme. Anh ta là người có đầu óc. Có lần một cậu

kỹ thuật viên ngu ngốc đã phun luminol – cái chất thử máu ấy – lên một

dấu vân tay, thay vì dùng ninhydrin. Làm hỏng hết dấu vân tay. Rhyme

đuổi việc anh ta ngay lập tức. Lần khác, một cảnh sát đi giải tại hiện

trường và giật nước bồn cầu. Trời ạ, Rhyme phát khùng, nói với anh ta

xuống ngay tầng hầm và đem tất cả những gì có ở chỗ chắn cống lên.”

Sellitto cười. “Tay cảnh sát, cũng là dạng có cấp bậc, nói: ‘Tôi sẽ

không làm việc đó, tôi là trung úy.’ Và Rhyme đáp: ‘Đã nghe. Còn bây

giờ anh là thợ sửa ống nước.’ Tôi có thể kể mãi được. Mẹ kiếp, sĩ

quan, cô đang chạy với tốc độ tám mươi đấy à?”

Họ lao qua Đại Bản Doanh và cô đau đớn nghĩ, đó là chỗ đáng ra bây

giờ mình đang có mặt. Gặp các sĩ quan thông tin đồng sự, ngồi trong

lớp đào tạo, hít thở không khí có điều hòa.

Chúa ơi, nóng. Nóng, bụi bặm, nóng châm chích, nóng thiêu đốt. Giờ

tệ hại của thành phố. Tâm trạng bùng phát như dòng nước màu xám

phụt ra từ những cái vòi cứu hỏa ở Harlem. Hai Giáng sinh trước, cô

và bạn trai có một ngày nghỉ lễ ngắn – từ mười một giờ tối đến nửa

đêm, thời gian rỗi trùng nhau duy nhất mà những ca trực của họ cho

phép – trong một buổi tối lạnh bốn độ. Cô và Nick, ngồi ở Trung tâm

Rockefeller, bên ngoài, gần sân trượt băng, cùng uống cà phê và rượu

brandy. Họ đồng ý rằng chẳng thà chịu một tuần lạnh giá còn hơn là

một ngày tháng Tám nóng bức.

Cuối cùng, khi đang lao nhanh trên phố Pearl, cô nhìn thấy trạm chỉ huy

của Haumann. Để lại một dấu phanh trượt dài gần tám feet, Sachs đưa

chiếc RRV vào giữa xe của anh ta và chiếc xe bus EMS.

“Mẹ kiếp, cô lái xe siêu quá.” Sellitto chui ra. Vì một lý do nào đó

Sachs thấy vui khi nhìn dấu tay đầy mồ hôi của Jerry Banks để lại, hiện

rõ trên kính cửa sổ khi anh ta mở cửa hậu của xe.

Các sĩ quan EMS và đồng phục của Đội Tuần tra ở khắp nơi, có đến

năm mươi hay sáu mươi người. Và còn những người khác đang đến.

Có vẻ như toàn bộ tâm trí của One Police Plaza đang tập trung vào

trung tâm New York. Tự nhiên Sachs nảy ra ý nghĩ

nếu ai đó muốn một vụ ám sát hay chiếm Biệt thự Gracie hay một lãnh

sự quán nào đó, thì có lẽ bây giờ là lúc thích hợp nhất.

Haumann chạy đến chỗ chiếc xe. Anh ta nói với Sallitto: “Chúng tôi

đang khám từng nhà, xem xét từng công trường xây dựng trên Phố

Pearl. Chẳng ai biết gì về công trường dọn asbestos và không ai nghe

thấy tiếng kêu cứu cả.”

Sachs sửa soạn ra khỏi xe, nhưng Haumann nói: “Không, sĩ quan.

Nhiệm vụ của cô là ở lại đây với chiếc RRV.”

Cô vẫn bước ra.

“Vâng, thưa ngài. Ai ra lệnh đó vậy?”

“Thám tử Rhyme. Tôi vừa nói chuyện với ông ấy. Cô phải gọi điện đến

Trung tâm khi cô ở CP58.”

Haumann đi khỏi. Sallitto và Banks vội vàng chạy tới trạm chỉ huy.

“Thám tử Sallitto”, Sachs gọi.

Anh ta quay lại. Cô nói: “Tôi xin lỗi, thưa thám tử. Vấn đề là ai là

người chỉ huy giám sát của tôi? Tôi phải báo cáo với ai?”

Anh ta nói ngắn gọn: “Cô báo cáo cho Rhyme.”

Cô phá lên cười: “Nhưng tôi không thể báo cáo với anh ta.” Sallitto

nhìn cô trống rỗng.

“Ý tôi là, ở đây không có vấn đề gì như kiểu trách nhiệm hay sao? Luật

pháp? Anh ta là dân thường. Tôi cần ai đó, một cái khiên, để tôi còn

báo cáo.”

Cuối cùng, Sellitto nói: “Nghe này, sĩ quan. Tất cả chúng ta đều báo

cáo với Lincoln Rhyme. Tôi không quan tâm anh ta là dân thường hay

anh ta là sếp hay tên Thập Tự Chinh khốn kiếp. Hiểu chưa?”

“Nhưng…”

“Nếu cô muốn than phiền, làm văn bản đi và ngày mai hãy làm.”

Và anh ta đi mất. Sachs nhìn theo anh ta một lúc rồi sau đó quay lại

chiếc ghế trước của xe, gọi điện đến Trung tâm báo cáo cô đang

10-8459  tại hiện trường. Chờ chỉ thị.

Cô cười nhăn nhó khi giọng một phụ nữ vang lên: “Mười-bốn, 5885.

Hãy chú ý. Thám tử Rhyme sẽ liên lạc lại sớm. Nghe rõ.”

Thám tử Rhyme.

“Mười-bốn, nghe rõ.” Sachs trả lời và nhìn ra đằng sau chiếc xe, băn

khoăn không hiểu trong cái vali đen có gì.

58 CP (viết tắt Commanding Post): Trạm chỉ huy

59 10-84: Tên một mẫu biểu thủ tục hành chính cảnh sát.

2:40.

Điện thoại nhà Rhyme reo. Thom trả lời. “Điều phối viên từ sở chỉ

huy.” “Nối máy đi.”

Điện thoại tải loa bắt đầu hoạt động. “Thám tử Rhyme, anh không nhớ

tôi nhưng tôi làm việc cho IRD khi anh còn ở đấy. Dân thường. Làm

chi tiết điện thoại. Emma

Rollins.”

“Tất nhiên, tôi nhớ. Các con cô thế nào, Emma?” Rhyme nhớ lại một

người phụ nữ da đen to béo, vui vẻ, làm hai công việc để nuôi năm đứa

con. Anh nhớ những ngón tay chuối mắn của cô bấm nút mạnh đến nỗi

đã có lần cô làm hỏng một chiếc điện thoại công.

“Jeremy sẽ vào đại học sau hai tuần nữa và Dora vẫn đóng kịch, hoặc

nó nghĩ là nó đang đóng kịch. Bọn trẻ con thì đều ổn cả.”

“Lon Sellitto gọi cho cô, đúng không?”

“Không. Tôi biết anh làm vụ này và tôi đã đuổi vài cô cậu đi làm 911.

Emma sẽ làm việc này, tôi nói với họ thế.”

“Cô có gì cho chúng tôi nào?”

“Chúng tôi đang lập danh mục những công ty sản xuất ốc vít. Và một

cuốn sách liệt kê những nơi họ bán buôn. Và đây là thứ chúng tôi tìm

được. Đó là nhờ những chữ cái. Những chữ cái đóng trên con ốc. CE.

Họ chế tạo riêng cho Công ty Con Ed.”

Quý thật. Tất nhiên rồi.

“Chúng được đánh dấu như thế vì chúng có kích thước khác với phần

lớn ốc vít do công ty này bán – đường kính mười lăm inch sáu phần

mười, và thân dài hơn hầu hết các con ốc khác. Đó là công ty

Michigan Tool và Die ở Detroit. Họ dùng chúng trong những đường

ống cũ chỉ có ở New York. Những đường ống được làm sáu mươi,

bảy mươi năm trước. Cách các thành phần của đường ống gắn với

nhau làm cho chúng phải được gắn thật chặt. Phải gắn chặt hơn cô dâu

chú rể trong đêm tân hôn, anh chàng ấy nói với tôi thế. Cố làm tôi đỏ

mặt.”

“Emma, tôi yêu chị. Chị sẽ trực, đúng không?” “Chắc chắn rồi.”

“Thom!” Rhyme hét. “Cái điện thoại này không dùng được. Tôi phải tự

gọi điện. Chức năng kích hoạt bằng tiếng nói trong máy tính, tôi sử

dụng nó, được không?”

“Anh đã bao giờ đặt mua nó đâu.” “Tôi chưa?”

“Chưa.”

“Vậy thì tôi cần nó.”

“Nhưng chúng ta không có.”

“Làm gì đi. Tôi muốn gọi điện thoại.”

“Tôi nghĩ là có bộ ECU điều khiển bằng tay ở đâu đó.” Thom đào bới

trong một cái hộp cạnh tường. Anh ta tìm thấy một màn hình điện tử

nhỏ, cắm một đầu vào điện thoại và đầu kia vào que điều khiển gắn

cạnh má Rhyme.

“Cái này kinh quá.”

“Nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có. Nếu chúng ta gắn hồng

ngoại lên trên lông mày anh như tôi gợi ý thì anh đã có thể gọi điện

thoại sex từ cách đây hai năm rồi.”

“Nhiều dây dợ quá thể”, Rhyme quát.

Cổ anh bất ngờ đau thắt và làm rơi cái điều khiển ra khỏi tầm với. “Mẹ

kiếp.” Chính phút đó, Lincoln thấy nhiệm vụ – chưa nói đến sứ mệnh

của họ – tự nhiên

có vẻ bất khả thi. Anh kiệt sức, cổ anh đau, đầu anh. Nhất là mắt anh.

Chúng nhức nhối –

và điều đó càng làm anh đau đớn hơn – anh có nhu cầu khẩn thiết dụi

lưng bàn tay lên đôi mắt đang nhắm. Một cử chỉ thư giãn nhỏ xíu mà

phần còn lại của thế giới làm hằng ngày.

Thom đặt lại cái cần điều khiển. Rhyme lấy lại được kiên nhẫn từ đâu

đó và hỏi người trợ lý: “Cái này hoạt động thế nào?”

“Có một màn hình. Anh thấy nó trên bộ điều khiển chứ? Chỉ cần dịch

cần điều khiển tới con số anh cần quay, đợi một giây và nó đã được

nhớ. Sau đó, quay số tiếp theo giống như thế. Khi có được bảy số, ấn

cái cần vào đây để gọi.”

Anh thử. “Không hoạt động.” “Phải tập chứ.”

“Chúng ta không có thời gian!”

Thom càu nhàu: “Tôi trả lời điện thoại hộ anh quá lâu rồi đấy.”

“Được rồi”, Rhyme hạ giọng – đó là cách anh xin lỗi. “Tôi sẽ tập sau.

Cậu có thể gọi tới Con Ed giúp tôi được không? Tôi cần nói chuyện

với giám sát viên.”

Sợi dây làm cô đau, cái còng làm cô đau nhưng chính tiếng động lại

làm cô hoảng sợ nhất.

Tammie Jean Colfax cảm thấy mồ hôi của cả cơ thể đang chảy trên

mặt cô, ngực cô, tay cô khi cô cố kéo sợi xích của cái còng tay tới lui

trên một con ốc gỉ. Cổ tay cô tê dại, nhưng có vẻ cô đã cắt được một

phần sợi xích.

Cô dừng lại, kiệt sức và bẻ tay xuôi ngược để không bị chuột rút. Cô

lại lắng nghe. Đó là tiếng công nhân đang bắt ốc và đóng các cấu kiện

lại với nhau. Những tiếng búa cuối cùng. Cô hình dung họ đang kết

thúc công việc trên đường ống và chuẩn bị về nhà.

Đừng đi, cô gào thầm. Đừng bỏ tôi. Chừng nào họ còn làm việc, cô

còn được an

toàn.

Tiếng đập cuối cùng, sau đó là sự im lặng tuyệt đối. Ra khỏi đó thôi,

con gái. Nào.

Mẹ ơi…

T.J. khóc mất vài phút, nghĩ về gia đình cô ở Đông Tennessee. Mũi cô

dính đặc, nhưng khi bắt đầu ngạt, cô hỉ mũi thật mạnh và cảm thấy

được rất nhiều nước mắt và nước mũi. Sau đó cô lại thở được. Điều

đó làm cô cảm thấy tự tin. Sức mạnh. Và cô tiếp tục cưa.

“Tôi hiểu sự khẩn cấp của ngài, thưa thám tử. Nhưng tôi không biết tôi

có giúp được gì cho ngài không. Chúng tôi dùng ốc vít khắp nơi trong

thành phố. Đường ống dầu, đường ống gas…”

“Được rồi”, Rhyme nói cộc lốc và hỏi giám sát viên của Con Ed tại trụ

sở chính của công ty trên Phố Mười bốn. Các chị có dùng asbestos để

cách nhiệt đường ống không?”

Một chút ngần ngừ.

“Chúng tôi đã dọn tới chín mươi phần trăm loại này đi rồi”, người phụ

nữ nói chắc chắn. “Chín mươi nhăm”.

Người ta có thể khó chịu đến mức ấy được ư. “Tôi hiểu. Tôi chỉ cần

biết asbestos còn được dùng bọc đường ống ở đâu nữa không thôi.”

“Không”. Cô ta nói một cách cứng rắn. “Vâng, không bao giờ dùng

cho điện. Chỉ cho hơi nước và đó là phần nhỏ nhất trong dịch vụ của

chúng tôi.”

Hơi nước!

Đó là tiện ích ít nổi tiếng nhất và hiếm hoi nhất của thành phố. Con Ed

đun nước lên  một  nghìn  độ  sau  đó  thổi  nó  qua  mạng  đường  ống

 hàng  trăm dặm  nằm  dưới Manhattan. Luồng hơi nước nóng bỏng

được đun lên rất nóng – khoảng ba trăm tám mươi độ – và lao qua

thành phố với tốc độ bảy mươi lăm dặm một giờ.

Rhyme nhớ lại một bài báo. “Có phải tuần trước các chị có chỗ bị

thủng đường ống không?”

”Vâng, thưa ngài. Nhưng không có asbestos bị rò rỉ. Chỗ này đã được

dọn nhiều năm trước.”

“Nhưng trong các đường ống của các chị ở khu trung tâm vẫn còn

asbestos, đúng không?”

Cô ta ngần ngừ. “À…”

“Chỗ ống thủng ấy ở đâu?” Rhyme nhanh chóng tiếp tục. “Broadway.

Cách Chambers một khối nhà lên phía bắc.” “Có phải có một bài trên

tờ Thời báo nói về điều đó?” “Tôi không biết. Có thể. Vâng.”

“Bài báo ấy có nhắc đến asbestos không?”

“Có”, cô ta khẳng định, “nhưng nó chỉ nói là trước đây việc ô nhiễm

asbestos đã từng là vấn đề.”

“Đường ống thủng ấy… đã chạy qua hay có chạy qua phía nam Phố

Pearl không?”

“Để tôi xem. Có, nó có chạy qua đó. Ở Phố Hanover. Phía bắc.”

Anh hình dung ra T.J. Colfax, người phụ nữ có những ngón tay thon và

móng tay dài, sắp phải chết.

“Và hơi nước sẽ được bơm lại lúc ba giờ?” “Đúng thế. Bất kỳ lúc nào.”

“Không được.” Rhyme quát. “Có người đã can thiệp vào đường ống.

Các chị không được bơm hơi nước!”

Cooper ngẩng đầu lên khỏi cái kính hiển vi của mình. Nhân viên giám

sát nói: “À, tôi không biết…”

Rhyme quát Thom. “Gọi Lon, bảo anh ta là cô ấy trong một tầng hầm

ở Phố

Hanover và Phố Pearl. Phía bắc.” Anh nói với cậu ta về hơi nước. “Gọi

đội cứu hỏa đến đấy nữa. Mặc quần áo chống nhiệt.”

Rhyme quát vào điện thoại. “Gọi đội công nhân! Ngay bây giờ! Họ

không được bơm hơi nước lại. Họ không thể!” Anh nhắc lại từng từ

một cách trống rỗng, ghê tởm sự tưởng tượng kỳ dị của mình, trong đó

hình ảnh về da thịt một người phụ nữ chuyển thành màu hồng, rồi đỏ,

sau đó bị xé nát dưới đám mây hơi nước trắng, dữ dội, nóng bỏng cứ

quay vòng không kết thúc.

Cái bộ đàm trong xe kêu lục cục. Lúc này là 2:57 theo đồng hồ của

Sachs. Cô trả lời cuộc gọi.

“5885, nghe rõ…”

“Quên thủ tục đi, Amelia”, Rhyme nói. “Chúng ta không có thời gian

đâu.” “Tôi…”

“Chúng tôi nghĩ rằng mình đã biết cô ấy đang ở đâu. Phố Hanover và

Phố Pearl.”

Cô liếc nhìn qua vai và thấy mấy chục sĩ quan ESU đang ra sức chạy

đến một tòa nhà cũ.

“Anh có muốn tôi…”

“Họ sẽ tìm cô ấy. Còn cô hãy sẵn sàng khám nghiệm hiện trường.”

“Nhưng tôi có thể giúp…”

“Không. Tôi muốn cô ra sau xe. Ở đó có một cái va li đánh dấu 02.

Hãy đem nó theo. Và trong một cái hộp nhỏ có một chiếc đèn

PoliLight. Cô đã thấy nó trong phòng

tôi. Mel đã dùng nó. Lấy cả chiếc đèn nữa. Trên cái va li đánh dấu 03

cô sẽ thấy cái tai

nghe và mic. Cắm nó vào bộ đàm Motorola của cô rồi đi tới tòa nhà

chỗ những sĩ quan làm việc. Gọi lại cho tôi khi cô đã trang bị đủ. Kênh

ba mươi bảy. Tôi sẽ dùng điện thoại cố định nhưng cuộc gọi của cô sẽ

được chuyển đến tôi.”

Kênh ba mươi bảy. Tần số cho các nhiệm vụ đặc biệt trên toàn thành

phố. Tần số ưu tiên.

“Cái gì?…” Cô hỏi. Nhưng bộ đàm không trả lời.

Cô có một cây đèn halogen dài màu đen đeo ở thắt lưng nên cô để

chiếc đèn pha mười hai volt cồng kềnh lại xe, vơ chiếc đèn PoliLight và

cái va li nặng trịch. Nó phải nặng tới hai mươi lăm pound. Đúng là thứ

mà đám khớp xương của nợ của mình đang cần. Cô nắm tay, nghiến

răng lại vì đau, chạy vội tới chỗ giao lộ.

Sellitto chạy như muốn đứt hơi về phía tòa nhà. Banks chạy theo họ.

“Cô nghe thấy chưa?” Viên thám tử già hỏi. Sachs gật đầu.

“Nó đấy à?” Cô hỏi.

Sellitto gật đầu về phía con đường. “Hắn phải đưa cô ta theo lối này.

Dưới sảnh có trạm bảo vệ.” Họ đang chạy trên con đường rải sỏi phủ

bóng râm, nóng như thiêu, bốc mùi nước tiểu và rác rưởi. Cạnh đó là

những cái thùng rác màu xanh, méo mó.

“Đằng kia”, Sellitto quát. “Mấy cái cửa kia kìa.”

Các nhân viên cảnh sát chạy tản ra. Ba trong số bốn cánh cửa bị khóa

chặt từ bên

trong.

Cánh cửa thứ tư đã được mở bằng xà beng và giờ nó bị khóa bằng

xích. Khóa và

dây xích vẫn còn mới.

“Đây rồi!” Sellitto vươn tay chạm vào cánh cửa, hơi ngần ngừ. Có thể

anh ta nghĩ đến dấu tay. Sau đó, anh ta nắm lấy tay nắm và giật mạnh.

Cánh cửa hé mở mấy inch nhưng sợi xích giữ nó lại. Anh ta cho ba sĩ

quan mặc đồng phục đi vòng cổng trước để xuống tầng hầm từ bên

trong. Một người cảnh sát nhặt một viên sỏi trên đường và bắt đầu đập

vào nắm đấm cửa. Vài cú đập mạnh, thêm vài cú nữa. Anh ta nhăn mặt

khi tay đập phải cánh cửa, máu phun ra từ ngón tay rách toạc của anh

ta.

Một nhân viên cứu hỏa ôm dụng cụ Halligan chạy tới – đó là một tổ

hợp giữa cuốc chim và xà beng. Anh ta ấn một đầu vào sợi xích và kéo

tung ổ khóa. Sellitto nhìn Sachs chờ đợi. Cô chằm chằm nhìn lại.

“Được rồi, đi thôi sĩ quan!” Anh ta quát lên. “Cái gì?”

“Anh ta không nói với cô à?”

“Ai?” “Rhyme.”

Khỉ thật, cô quên cắm tai nghe. Cô lần mò tìm kiếm, cuối cùng cũng

cắm được nó vào. Và nghe thấy: “Amelia, cô…”

“Tôi đây.”

“Cô có ở tòa nhà không?” “Có.”

“Vào trong đi. Họ đã khóa hơi nước nhưng tôi không biết có còn kịp

hay không. Hãy đem theo nhân viên y tế và một sĩ quan ESU. Hãy vào

phòng nồi hơi. Có lẽ cô sẽ

nhìn thấy cô ta ngay, Colfax ấy. Hãy đến gần cô ta, nhưng đừng đi

thẳng từ cửa đến chỗ cô ta. Tôi không muốn cô làm mất dấu chân nào

mà hắn ta có thể để lại. Hiểu chứ?”

“Vâng.” Cô gật đầu dứt khoát, không nghĩ rằng anh ta không nhìn thấy

cô. Ra hiệu cho nhân viên y tế và một sĩ quan ESU đi theo, Sachs

bước vào cái hành lang bẩn thỉu, bóng tối khắp nơi, tiếng rên rẩm của

máy móc, nước nhỏ giọt.

“Amelia”, Rhyme gọi. “Có.”

“Chúng tôi đang nói tới một cuộc phục kích ở đây. Từ những gì mà tôi

biết về hắn ta lúc này, tôi không nghĩ như vậy. Như thế thì phi lý.

Nhưng cứ sẵn sàng tay súng nhé.”

Phi lý.

“Được rồi.”

“Đi thôi! Nhanh lên!”

TÁM

Một cái hang âm u. Nóng bức, đen tối và ẩm ướt.

Ba người họ nhanh chóng đi dọc theo hành lang bẩn thỉu về phía cánh

cửa duy nhất mà Sachs có thể nhìn thấy. Một cái biển viết PHÒNG

NỒI HƠI. Cô đi sau viên sĩ quan ESU được trang bị đầy đủ áo giáp

chống đạn và đội mũ bảo hiểm. Nhân viên y tế đi sau cùng.

Khớp ngón phải và vai cô nhói lên dưới sức nặng của chiếc va li. Cô

chuyển nó sang tay trái, suýt thì đánh rơi và phải điều chỉnh lại cái tay

cầm. Họ đi tiếp về phía cánh cửa.

Đến nơi, viên sĩ quan SWAT lao vào trong và chĩa súng quanh căn

phòng sáng lờ mờ. Chiếc đèn pin gắn ở nòng súng chiếu một tia sáng

nhợt nhạt vào những luồng hơi nước. Sachs ngửi thấy mùi ẩm mốc. Và

một thứ mùi khác, ghê sợ.

Cách. “Amelia?” Giọng nói như tiếng nổ của Rhyme làm cô hết hồn.

“Cô đang ở đâu thế, Amelia?”

Tay run run, cô vặn tiếng nhỏ đi. “Bên trong”, cô hổn hển.

“Cô ta còn sống không?”

Sachs đung đưa trên hai chân, nhìn chằm chằm vào cảnh tượng đó. Cô

nhìn nghiêng, không chắc chắn mình đang nhìn gì. Rồi cô hiểu ra.

“Ôi, không.” Cô thì thầm. Cảm thấy buồn nôn.

Mùi thịt luộc kinh khủng thoảng quanh cô. Nhưng đó vẫn chưa phải là

điều tệ hại nhất. Cũng không phải là hình ảnh da của người phụ nữ, đỏ

tươi, gần như màu cam, bị tróc ra từng mảng lớn. Hay khuôn mặt bị lột

hết da. Không, điều kinh dị nhất là cái góc do cơ thể T.J. Colfax tạo

ra, tay chân và thân hình vặn xoắn khi cô ta cố thoát khỏi luồng hơi

nóng tàn phá.

Anh ta hi vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân…

“Cô ta còn sống không?” Rhyme nhắc lại.

“Không.” Sachs thầm thì. “Tôi không thấy có cách nào… không.”

“Căn phòng đã an toàn chưa?”

Sachs nhìn viên sĩ quan, người đã nghe thấy cuộc điện đàm và gật đầu.

“Hiện trường an toàn.”

Rhyme nói với cô: “Tôi muốn sĩ quan ESU ra ngoài, sau đó cô và nhân

viên y tế xem xét cô ta.”

Cô nôn khan một lần nữa vì mùi thịt rồi ép mình kiểm soát phản xạ. Cô

và nhân viên y tế đi theo đường chéo tới chỗ đường ống. Anh ta

nghiêng người về phía trước một cách vô cảm rồi sờ tay vào cổ người

phụ nữ. Anh ta lắc đầu.

“Amelia?” Rhyme hỏi.

Xác chết thứ hai trong ca trực. Cả hai trong cùng một ngày. Nhân viên

y tế nói: “DCDS60.”

Sachs gật đầu, nói vào mic: “Đã chết. Khẳng định chết tại hiện trường.”

“Chết do bỏng?” Rhyme hỏi.

“Có vẻ như thế.”

“Bị trói vào tường?”

“Đường ống. Bị còng, tay sau lưng. Chân bị trói bằng dây phơi. Miệng

bị dán băng dính. Hắn đã mở đường ống hơi nước. Cô ta chỉ cách đó

có mấy bước. Chúa ơi!”

Rhyme tiếp tục: “Cho nhân viên y tế đi ra theo đường các vị đã vào.

Ra đến cửa. Để ý bước chân.”

Cô làm theo, vừa nhìn vào cái xác. Làm sao mà da lại có thể đỏ thế

được nhỉ? Như cua luộc.

“Được rồi, Amelia. Cô sẽ khám nghiệm hiện trường. Mở cái va li ra.”

Cô không nói gì, vẫn tiếp tục nhìn.

“Amelia, cô có đứng ở cửa không?... Amelia?”

“Cái gì?” Cô quát lên.

“Cô có đứng ở cửa không?”

Giọng của anh ta bình tĩnh quá thể. Hoàn toàn khác biệt với giọng nói

xỏ xiên, đòi hỏi mà cô còn nhớ trong phòng ngủ. Bình tĩnh… và còn gì

đấy khác nữa. Cô không biết là gì.

“Có. Tôi đang đứng ở cửa. Anh biết đấy, chuyện này thật điên rồ.”

“Cực kỳ điên khùng”, Rhyme đồng ý, gần như vui vẻ. “Cái va li đã mở

ra chưa?” Cô bật mở nắp và nhìn vào trong. Kìm và kẹp, một cái

gương quay trên một cái

cán, những viên bông, thuốc nhỏ mắt, kéo răng cưa, ống hút, bàn xẻng,

dao mổ… Những thứ này là cái gì?

… Ống thổi bụi, vải màn, phong bì, màng lọc, chổi lông, kéo, những

cái túi bằng nhựa và bằng giấy, những cái hộp sắt, chai lọ – năm phần

trăm nitric acid, ninhydrin, silicone, iodide, đồ lấy dấu vân tay.

Không thể được. Cô nói vào mic: “Tôi không nghĩ là anh tin tôi, thám

tử. Tôi thực sự không biết gì về công việc khám nghiệm hiện trường.”

Mắt nhìn về cơ thể bị tàn phá của người phụ nữ. Nước nhỏ xuống từ

cái mũi đã bị lột da của cô ta. Một khoảng màu trắng – xương – chìa

ra trên má. Còn khuôn mặt cô ta bị biến dạng thành một kiểu cười đau

khổ. Giống hệt như nạn nhân sáng nay.

60 DCDS: Xem phần phụ lục.

“Tôi tin cô, Amelia”, anh ta nói một cách thô bạo. “Còn bây giờ thì đã

mở va li ra chưa?” Anh đã bình tĩnh và giọng anh ta nghe… thế nào nhỉ.

Đúng rồi, đúng cái tông ấy. Quyến rũ. Anh ta nói như một người tình.

Mình ghét hắn ta, cô nghĩ. Thật sai trái khi ghét một người tàn tật.

Nhưng mình căm ghét hắn ta.

“Cô đang trong tầng hầm, phải không?” “Vâng, thưa ngài.”

“Nghe này, cô phải gọi tôi là Lincoln. Chúng ta sẽ rất hiểu nhau khi vụ

này kết

thúc.”

Tối đa là khoảng sáu mươi phút.

“Cô sẽ thấy mấy sợi dây cao su trong va li, nếu như tôi không nhầm.”

“Tôi thấy mấy sợi.”

“Đeo chúng quanh giày của cô. Chỗ gót chân ấy. Nếu có bị lẫn lộn dấu

chân thì cô

sẽ biết dấu nào là của cô.” “OK. Đã xong.”

“Lấy mấy cái túi vật chứng và phong bì. Bỏ vào túi cô khoảng một tá.

Cô có biết dùng đũa không?”

“Anh vừa nói gì?”

“Cô sống ở thành phố, đúng không? Cô có bao giờ tới Phố Mott

chưa? Để ăn món thịt gà của Tướng Tso61? Mì nguội, có vị vừng?”

Bụng cô dâng lên khi nghe nói đến thức ăn. Cô cố không nhìn người

phụ nữ đang đung đưa trước mặt mình.

“Tôi biết dùng đũa”, giọng cô lạnh băng.

“Hãy nhìn vào va li. Tôi không chắc có có tìm thấy chúng không. Họ

luôn để chúng ở đấy khi tôi khám nghiệm hiện trường.”

“Tôi chẳng thấy đôi nào.”

“Thế thì cô tìm mấy cái bút chì vậy. Cho chúng vào túi. Bây giờ thì cô

sẽ đan lưới. Từng inch một. Cô sẵn sàng chưa?”

“Đã sẵn sàng.”

“Đầu tiên nói cho tôi biết cô nhìn thấy gì?”

61  Món thịt gà của Tướng Tso: Đây là món gà chiên ngọt tẩm gia vị

thường thấy tại các nhà hàng Trung Quốc ở Mỹ. Có một giả thuyết

không chắc chắn cho rằng, tên gọi của món ăn này xuất phát từ câu

chuyện: vợ của Tướng Tso – tên là Zuo Zongtang (1812-

1885), một vị tướng người Hồ Nam dưới triều nhà Thanh – đã chế

biến món ăn này, dâng lên chồng mình và các cộng sự của ông, nó trở

thành đặc sản của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

“Một căn phòng lớn. Khoảng hai mươi nhân ba mươi. Đầy ống gỉ. Nền

xi măng nứt. Tường gạch. Mốc.”

“Có cái hộp nào không? Có gì trên sàn không?”

“Không, chẳng có gì. Trừ những cái ống, hộp dầu, nồi hơi. Có cát – vỏ

sò, một đống cát bị văng ra từ vết nứt trên tường. Và có thứ gì đó màu

xám nữa…”

“Thứ gì đó?” Anh ta chớp lấy. “Tôi không nhận ra từ này. Thứ gì là cái

gì?”

Một cơn giận bùng lên trong cô. Cô bình tĩnh lại và nói: “Đấy là

asbestos, nhưng không phải gói bùi nhùi như sáng nay. Đây là dạng

tấm bị vỡ vụn.”

“Tốt. Còn bây giờ là lần quét thứ nhất. Cô đang tìm kiếm dấu chân và

bất kỳ dấu vết nào mà hắn để lại cho chúng ta.”

“Anh nghĩ hắn có để lại thêm à?”

“Ồ, tôi cá đấy”, Rhyme nói. “Đeo kính vào và dùng đèn PoliLight đi.

Đi thấp. Đan lưới khắp phòng. Từng inch một. Cô biết cách đan lưới

chứ?”

“Biết.”

“Như thế nào?”

Cô nổi giận. “Không cần phải kiểm tra tôi.” “À, thế thì đùa với tôi đi.

Như thế nào?”

“Tiến và lùi theo một hướng. Sau đó tiến và lùi theo hướng vuông góc.”

“Từng bước một, bước không dài quá một foot.” Cô không biết điều

này. “Tôi biết”, cô nói.

“Làm thôi.”

Cây đèn PoliLight tỏa ra thứ ánh sáng ma quái từ thế giới khác. Cô

biết cái đó gọi là ALS, nó làm cho dấu tay, tinh dịch, máu và một số

dấu giày tỏa sáng. Ánh sáng xanh màu mật rực rỡ làm cho những cái

bóng nhảy nhót múa may và đã mấy lần cô suýt nữa bắn vào một hình

thù đen ngòm mà hóa ra lại là một con ma bóng tối.

“Amelia?” Giọng Rhyme sắc ngọt. Cô lại giật bắn mình. “Có? Cái gì?”

“Cô có nhìn thấy dấu chân nào không?”

Cô tiếp tục nhìn chăm chăm xuống sàn. “Tôi, à, không. Tôi có nhìn

thấy mấy vệt trên đất. Hay là cái gì đó.” Cô co rúm lại khi nghe những

lời nói sơ suất này. Nhưng Rhyme, không giống Peretti sáng nay,

không để ý. Anh ta nói: “Vậy à. Sau đó hắn đã quét đi rồi.”

Cô ngạc nhiên. “Đúng thế, là nó! Vết chổi. Làm sao mà anh biết

được?”

Rhyme cười – âm thanh làm Sachs gai người trong cái nấm mồ này –

rồi nói: “Hắn đủ thông minh để xóa dấu vết của mình vào buổi sáng

hôm nay; không có lý do gì để ngừng lại. Anh chàng này giỏi đấy.

Nhưng chúng ta cũng giỏi. Làm tiếp đi.”

Sachs cúi xuống, khớp xương cô đang bốc lửa, cô bắt đầu tìm kiếm.

Cô tìm từng bước chân trên sàn. “Không có gì ở đây. Hoàn toàn

không có gì.”

Anh nhận thấy dấu hiệu muốn chấm dứt trong giọng nói của cô.

“Chúng ta mới bắt đầu thôi, Amelia. Hiện trường vụ án có ba chiều.

Hãy nhớ điều đó. Hãy bắt đầu từ điểm cách xa luồng hơi nước nhất và

tìm từng inch một.”

Cô từ từ đi vòng quanh con rối ghê sợ ở giữa phòng. Cô nghĩ về trò

chơi Maypole

– cây nêu ngày mùng Một tháng Năm cô đã từng chơi trong những lần

vui chơi trên phố Brooklyn lúc cô mới khoảng sáu, bảy tuổi, khi cha cô

tự hào đem phim về nhà. Đi vòng quanh thật chậm. Đấy là một căn

phòng nhỏ nhưng có hàng nghìn chỗ để tìm kiếm.

Vô vọng… Không thể.

Nhưng không phải như vậy. Trên gờ tường, cách sàn nhà khoảng sáu

feet, cô tìm thấy nhóm chứng cứ tiếp theo. Cô bật ra một tràng cười

nhanh. “Tôi tìm được gì rồi này.”

“Một cụm chứ?”

“Đúng thế. Một mảnh gỗ lớn màu đen.” “Đũa.”

“Cái gì?” Cô hỏi.

“Dùng bút chì đi. Lấy bút chì để nhặt nó lên. Nó có bị ướt không?”

“Mọi thứ ở đây đều ướt.”

“Chắc chắn rồi, phải thế mà. Hơi nước. Cho nó vào trong túi vật chứng

bằng giấy. Nhựa sẽ giữ bọn vi khuẩn lại và trong cái nóng như thế này

thì vi khuẩn sẽ hủy hoại dấu vết trên vật chứng. Ở đó còn gì nữa?” Anh

hăng hái hỏi.

“Đó là, tôi không biết, lông. Tôi nghĩ thế. Ngắn, đã được cắt. Một nắm

lông.” “Rời nhau hay bị dính vào da?”

“Rời nhau.”

“Trong va li có một cuộn băng dính rộng. Nhãn 3M. Dùng nó để lấy

lông lên.” Sachs nhặt gần hết nắm lông lên, đặt chúng vào cái phong bì

giấy. Cô nghiên cứu

chỗ gờ tường quanh nắm lông. “Tôi thấy có mấy vết bẩn. Trông như gỉ

sắt hay là máu.” Cô nghĩ nên soi chỗ đó bằng đèn PoliLight. “Chúng

phát sáng.”

“Cô có thể làm bài thử giả định máu không?” “Không.”

“Cứ giả sử đó là máu. Có thể là máu của nạn nhân không?”

“Không giống thế. Chỗ này quá xa và không dẫn đến chỗ xác cô ta.”

“Nó có dẫn đến đâu không?”

”Có vẻ như vậy. Tới một viên gạch trên tường. Viên gạch này lỏng lẻo.

Trên đó không có dấu tay. Tôi sẽ đi sang bên cạnh. Tôi – ôi Chúa ơi!”

Sachs hổn hển, vội lùi lại

khoảng một hoặc hai feet, bị vấp và suýt ngã.

“Cái gì thế?” Rhyme hỏi.

Cô nghiêng người ra phía trước, không tin vào mắt mình. “Amelia. Nói

với tôi nào.”

“Một cái xương. Một cái xương máu me.”

“Xương người?”

”Tôi không biết”, cô trả lời. “Làm sao mà tôi…? Tôi không biết.” “Vụ

giết người vừa rồi?”

“Có vẻ thế. Dài khoảng hai inch và hai inch đường kính. Trên đó vẫn

còn máu với thịt. Nó bị cưa đứt. Thằng khốn nào có thể làm thế

được…”

“Đừng cuống lên.”

“Nếu hắn lấy cái xương này từ nạn nhân khác thì sao?”

“Thì chúng ta lại càng phải tìm ra hắn thật nhanh. Amelia, cho nó vào

túi đi. Túi nhựa để đựng xương.”

Trong khi cô đang làm, anh ta hỏi: “Có dấu tích dàn cảnh nào khác

không?” Anh ta có vẻ lo lắng.

“Không.”

“Chỉ có thê thôi à? Lông, một cái xương và một mảnh gỗ. Hắn không

thể để cho việc đó quá dễ dàng, đúng không?”

“Tôi có cần đem nó về… văn phòng của anh không?”

Rhyme đang cười. “Hắn muốn chúng ta đem nó đi. Nhưng chưa đâu.

Ta vẫn chưa xong. Hãy tìm hiểu thêm chút nữa về Đối tượng 823 nào.”

“Nhưng ở đây chẳng có gì.”

“Ồ, có đấy Amelia. Ở đó có địa chỉ và số điện thoại của hắn, hy vọng

và cảm hứng của hắn. Mọi thứ đếu ở quanh cô.”

Cô điên người vì giọng lưỡi giáo sư của anh ta nhưng vẫn giữ im lặng.

“Cô có đèn không?”

“Tôi có cái đèn halogen được cấp…”

“Không”, anh ta càu nhàu. “Đèn pin được cấp chiếu quá hẹp. Cô cần

cây đèn mười hai volt có vùng chiếu rộng hơn.”

“Thế à, tôi không đem theo rồi”, cô phản ứng. “Liệu tôi có phải quay

lại lấy không?”

“Không có thời gian đâu. Kiểm tra đường ống đi.”

Cô tìm kiếm khoảng mười phút, leo lên trần nhà, và dùng cây đèn rất

sáng soi vào những điểm mà có lẽ chưa từng được soi sáng trong cả

năm mươi năm rồi. “Không, tôi chẳng nhìn thấy gì cả.”

“Quay ra cửa đi. Nhanh lên.”

Cô ngần ngừ rồi quay lại. “Được rồi. Tôi đang ở đây.”

“Bây giờ thì nhắm mắt lại. Cô ngửi thấy gì nào?”

”Mùi? Có phải anh vừa nói mùi không?” Anh ta có điên không nhỉ?

“Lúc nào cũng phải ngửi không khí ở hiện trường vụ án. Nó có thể nói

với cô nhiều điều.”

Cô vẫn mở mắt và hít vào. Cô nói: “Nhưng tôi không biết tôi đang ngửi

thứ gì?” “Đó không phải câu trả lời được chấp nhận.”

Cô thở ra một cách bực tức và hy vọng tiếng rít có thể đến ống nghe

của anh ta vừa ầm ĩ vừa rõ ràng. Cô nhắm chặt hai mắt, hít vào và lại

cảm thấy buồn nôn. “Mùi mốc, mùi nước nóng từ đám hơi nước.”

“Cô không biết nó từ đâu đến. Cứ tả nó thôi.” “Nước nóng. Mùi nước

hoa của người phụ nữ.” “Cô có chắc đấy là nước hoa của cô ta

không?” “À, không.”

“Cô có dùng nước hoa không?” “Không.”

“Nước hoa dùng sau khi cạo râu thì sao? Nhân viên y tế? Sĩ quan

ESU?”

“Tôi không nghĩ vậy. Không.” “Tả nó xem.”

“Khô. Như rượu gin.”

“Đoán thử xem, mùi nước dùng sau khi cạo râu của đàn ông hay nước

hoa phụ

nữ.”

Nick dùng gì nhỉ? Arrid Extra Dry?

“Tôi không biết”, cô nói. “Loại đàn ông.” “Đi đến chỗ cái xác đi.”

Cô liếc nhìn đường ống, sau đó nhìn xuống sàn. “Tôi…”

“Đi đi”, Lincoln Rhyme nói.

Cô đi. Da bị lột trông giống như gỗ bulô đỏ và đen. “Ngửi cổ cô ta

xem.”

“Nó… Ý tôi là, không còn nhiều da ở đó nữa đâu.”

“Tôi xin lỗi, Amelia, nhưng cô phải làm thế. Ta phải xem đó có đúng là

nước hoa

của cô ta không?”

Cô làm theo, hít vào. Nôn khan, suýt nôn thốc ra.

Mình sẽ nôn mất, cô nghĩ. Giống như lần mình và Nick trong cái đêm ở

Pancho, say mềm vì hỗn hợp rượu rum đông lạnh chết tiệt. Hai cảnh

sát cứng cựa uống cạn thứ đồ uống nhạt thếch có con cá kiếm nhựa

màu xanh bơi lội bên trong.

“Cô có ngửi thấy mùi nước hoa không?” Nó đến rồi… lại nôn khan.

Không. Không được! Cô nhắm mắt, tập trung vào các khớp xương

đau nhức của mình. Phần đau nhất – đầu gối. Và thật thần kỳ, cơn

buồn nôn lại qua đi. “Đó không phải là nước hoa của cô ta.”

“Tốt. Có thể anh chàng của chúng ta đủ kiêu ngạo để bôi thật nhiều

nước hoa dùng sau khi cạo râu. Đó có thể là dấu hiệu của giai tầng xã

hội. Hoặc có thể hắn muốn che giấu thứ mùi gì đó mà hắn có thể để lại.

Tỏi, xì gà, cá, whisky. Ta sẽ phải xem. Giờ thì nghe thật kỹ đây,

Amelia.”

“Cái gì?”

“Tôi muốn cô là hắn ta.”

Ồ. Thằng điên thối tha. Đúng là thứ mình cần.

“Tôi thực sự không nghĩ rằng ta có thời gian cho việc này.”

“Không bao giờ có đủ thời gian cho khám nghiệm hiện trường”, Rhyme

dịu dàng nói tiếp. “Nhưng điều đó không ngăn được chúng ta. Chỉ cần

đi vào trong đầu hắn. Cô đã nghĩ theo cách chúng ta nghĩ. Giờ tôi muốn

cô nghĩ theo cách hắn nghĩ.”

“Vậy à. Tôi phải làm thế nào?”

“Hãy dùng trí tưởng tượng. Đó là lý do Chúa đem nó đến cho chúng

ta. Rồi, giờ cô là hắn. Cô đã còng và bịt miệng cô ta. Cô đưa cô ta

đến căn phòng ở đó. Cô còng cô ta vào đường ống. Cô dọa cô ta. Cô

đang tận hưởng điều đó.”

“Làm sao anh biết hắn tận hưởng điều đó?”

“Cô đang tận hưởng. Không phải là hắn. Làm sao mà tôi biết được? Vì

chẳng có ai lại đâm đầu vào ngần ấy rắc rối để làm những việc anh ta

không thấy thích. Giờ thì cô biết đường rồi. Trước kia cô đã tới đây

chưa?”

“Sao anh lại nghĩ thế?”

“Cô cần kiểm tra trước – để tìm một chỗ hoang vắng với một đường

ống dẫn trong hệ thống hơi nước. Và để lấy những thứ manh mối mà

hắn để lại trên đường ray.”

Sachs bị thôi miên bởi giọng nói êm ái, nhỏ nhẹ của anh ta. Cô hoàn

toàn quên mất rằng cơ thể của anh ta đã bị hủy hoại. “Ồ. Đúng rồi.”

“Cô tháo bỏ nắp đường ống dẫn hơi. Cô nghĩ gì vậy?” “Tôi không biết.

Tôi chỉ muốn làm cho xong. Ra ngoài.”

Nhưng những lời nói đó chưa kịp bật ra khỏi miệng cô trước khi cô

nghĩ: Sai rồi. Rồi cô không ngạc nhiên khi nghe tiếng Rhyme tặc lưỡi

trong tai nghe. “Cô có thực sự

nghĩ thế không?” Anh ta hỏi.

“Không. Tôi muốn nó kéo dài.”

“Đúng! Tôi nghĩ đó đúng là điều cô muốn. Cô đang nghĩ xem hơi nước

sẽ làm gì cô ta. Cô còn cảm thấy gì nữa?”

“Tôi…”

Một ý nghĩ hình thành trong đầu cô. Mờ nhạt. Cô nhìn thấy người phụ

nữ đang vật lộn để thoát thân. Nhìn thấy thứ gì đó khác nữa… một ai

đó khác nữa. Hắn, cô nghĩ. Đối tượng 823. Nhưng hắn thì sao? Cô

gần như hiểu ra. Cái gì… cái gì? Nhưng đột nhiên ý nghĩ tan biến. Mất

hút.

“Tôi không biết”, cô thì thầm.

“Cô có cảm thấy vội vàng không? Hay cô đang thấy thích những điều

mình đang

làm?”

“Tôi đang vội. Tôi phải đi. Cảnh sát sẽ tới đây bất cứ lúc nào. Nhưng

tôi vẫn…” “Cái gì?”

“Suỵt”, cô ra lệnh. Rồi quét căn phòng lần nữa, tìm kiếm bất cứ thứ gì

có thể gieo

mầm lại cho ý nghĩ vừa biến mất trong đầu cô.

Căn phòng đang bơi, một đêm đen đầy sao. Những vòng xoáy của

bóng tối và khoảng cách, ánh sáng vàng vọt. Chúa ơi, đừng để con bị

ngất.

Có thể hắn…

Kia! Đúng rồi. Ánh mắt Sachs chạy theo đường ống dẫn hơi. Cô đang

nhìn vào một cái nắp nằm sâu trong hốc tường tối của căn phòng. Đó

có thể là một chỗ trốn tốt hơn cho cô gái – ta không thể nhìn thấy nó từ

ô cửa nếu ta đi ngang qua – và cái nắp thứ hai chỉ có bốn con ốc trên

đó, không phải tám, như cái hắn đã chọn.

Tại sao không phải cái ống kia? Rồi cô chợt hiểu.

“Hắn không muốn…Tôi chưa muốn bỏ đi vội vì tôi còn muốn để mắt

tới cô ta.” “Sao cô nghĩ vậy?” Anh ta hỏi, bắt chước lời lẽ của cô vài

phút trước đó.

“Có một cái ống khác mà tôi có thể xích cô ta vào, nhưng tôi đã chọn

một cái ở chỗ trống trải.”

“Để cô có thể nhìn thấy cô ta?” “Tôi nghĩ thế.”

“Tại sao?”

“Có thể để chắc chắn là cô ta không chạy mất. Có thể để bảo đảm là

miệng cô ta đã được dán chặt… Tôi không biết.”

“Tốt. Amelia. Nhưng điều đó nghĩa là gì? Chúng ta sử dụng sự việc

này như thế

nào?”

Sachs nhìn quanh phòng để tìm kiếm chỗ hắn ta có thể nhìn cô gái rõ

nhất mà

không bị trông thấy. Hóa ra đó là khoảng bóng tối giữa hai thùng dầu

đốt nóng.

“Đúng rồi!” Cô phấn khích nói, nhìn xuống nền nhà. “Hắn đã ở đây”.

Quên mất trò chơi đóng vai. “Hắn đã quét nhà.”

Cô quét khu vực đó bằng ánh sáng xanh mật của chiếc đũa thần

PoliLight.

“Không có dấu chân”, cô nói đầy thất vọng. Nhưng khi cô nhấc cây

đèn lên để tắt nó đi, một vết mờ mờ tỏa sáng trên một cái thùng.

“Tôi có dấu tay rồi!” Cô tuyên bố. “Một dấu tay?”

“Anh sẽ nhìn thấy cô gái rõ hơn nếu anh vươn người ra trước và dựa

vào cái thùng. Đó là điều hắn đã làm. Tôi chắc chắn thế. Có điều, thật

kỳ quặc. Lincoln. Nó bị…

biến dạng. Tay hắn ấy.” Cô rùng mình khi nhìn vào bàn tay ác quỷ.

“Trong vali có một bình xịt dán nhãn DFO. Đó là thuốc nhuộm huỳnh

quang. Phun nó vào chỗ dấu tay, chiếu đèn PoliLight vào đó rồi chụp

ảnh bằng máy Polaroid tỷ lệ 1:1.”

Khi xong việc, cô báo với Lincoln. Anh ta nói: “Còn bây giờ hút bụi

chỗ giữa hai cái thùng. Nếu ta may mắn hắn có thể đánh rơi một sợi tóc

hay cắn móng tay.”

Thói quen của mình, Sachs nghĩ. Đó là một trong những thứ phá hoại

sự nghiệp người mẫu của cô – móng tay dây máu, hàng lông mày lo

lắng. Cô đã cố thử, thử và thử ngừng lại. Nhưng cuối cùng đành đầu

hàng, chán nản, điên cuồng vì chỉ một thói quen nhỏ nhặt đã làm thay

đổi hẳn định hướng cuộc đời cô.

“Cho bộ lọc chân không vào túi.” “Túi giấy?”

“Đúng rồi, túi giấy. Giờ đến thi thể, Amelia.”

“Cái gì?”

“À, cô phải xử lý thi thể.”

Tim cô chùng xuống. Ai đó khác chứ, làm ơn đi. Để ai đó khác làm

việc ấy đi. Cô nói: “Nhưng không được làm trước khi khám nghiệm

pháp y. Đó là quy định.”

“Hôm nay không có quy định, Amelia. Chúng ta sẽ đặt quy tắc cho

mình. Đội khám nghiệm pháp y sẽ nhận cô ta sau chúng ta.”

Sachs lại gần người phụ nữ. “Cô biết quy trình chứ?”

“Vâng.” Cô bước lại gần cơ thể bị hủy hoại.

Rồi đông cứng. Cánh tay chỉ cách lớp da nạn nhân vài inch.

Tôi không làm được. Cô rùng mình. Tự nhủ phải tiến lên. Nhưng cô

không thể; cơ bắp không tuân lệnh.

“Sachs, cô có đấy không?” Cô không thể trả lời.

“Tôi không làm được…Chỉ đơn giản thế thôi. Không thể. Tôi chịu.”

“Sachs?”

Và rồi cô nhìn sâu vào trong con người mình, bằng cách nào đó cô

nhìn thấy cha mình, mặc đồng phục, khom thấp người trên vỉa hè nóng

bức, lồi lõm ở Phố Bốn mươi hai Tây, vòng tay ôm một kẻ say rượu

hèn hạ để đưa anh ta về nhà. Rồi cô nhìn thấy Nick của cô lúc anh

đang cười và uống bia với một tên cướp máy bay trong quán rượu khu

Bronx, kẻ sẽ lập tức giết anh nếu hắn biết anh là cảnh sát chìm. Hai

người đàn ông trong cuộc đời cô, làm việc họ cần phải làm.

“Amelia?”

Hai hình ảnh đó lấp loáng trong ý nghĩ của cô, và vì sao chúng làm cô

bình tĩnh lại, hay sự bình thản đó đến từ đâu, cô không thể biết. “Tôi

đây”, cô trả lời Lincoln Rhyme và làm công việc như cô đã được huấn

luyện. Cạo móng tay, chải lấy lông và tóc

– trên đầu và trên mu. Tường thuật với Rhyme những gì cô làm lúc cô

thực hiện điều đó.

Lờ đi đôi nhãn cầu mờ đục… Lờ đi phần thịt đỏ ngầu.

Cố lờ đi cái mùi đó.

“Lấy quần áo của cô ta”, Rhyme nói. “Cắt mọi thứ. Trước hết lót phía

dưới một tờ báo để lấy tất cả các mảnh vụn rơi ra.”

“Tôi có cần kiểm tra túi không?”

“Không, ta sẽ kiểm tra ở đây. Gói các thứ vào giấy.” Sachs cắt cái váy

và chiếc áo dài tay ra, quần áo lót. Cô vươn tay định lấy cái mà cô

tưởng là chiếc áo ngực, đang đung đưa trước ngực người phụ nữ. Cảm

giác thật kỳ lạ, nó như rã ra trong tay cô. Sau đó, như bị một cái tát,

cô nhận ra mình đang cầm thứ gì và cô thét lên. Không phải vải, mà là

da.

“Amelia? Cô ổn chứ?”

“Vâng!” Cô hổn hển. “Tôi ổn.”

“Hãy tả lại những thứ hắn dùng để giam hãm cô ta.”

“Miệng bị dán băng dính, rộng hai inch. Còng số tám loại chuẩn để

còng tay, dây phơi để trói chân.”

“Soi đèn PoliLight vào cơ thể cô ta. Hắn có thể đã dùng bàn tay trần

để chạm vào người cô ta. Tìm dấu tay xem.”

Cô làm theo. “Không có gì.”

“Được rồi. Bây giờ thì cắt sợi dây phơi – nhưng không cắt vào nút,

được chứ. Cho nó vào túi. Túi nhựa.”

Sachs làm theo. Sau đó Rhyme nói: “Ta cần cái còng.” “Được rồi. Tôi

có chìa khóa còng đây.”

“Không. Amelia. Đừng mở còng”

“Cái gì?”

“Cơ chế khóa còng là một trong những cách tốt nhất để lấy dấu vết từ

nghi phạm.” “Thế thì làm thế nào để tôi tháo nó ra mà không cần chìa?”

Cô cười.

“Trong va li có một lưỡi cưa sắt.” “Anh muốn tôi cưa cái còng à?”

Rhyme dừng một chút rồi nói: “Không, không phải cái còng đâu,

Amelia.”

“Thế thì anh muốn tôi làm gì…Anh không nói nghiêm túc đấy chứ? Nói

nghiêm túc đấy chứ? Tay cô ta?”

“Cô phải làm.” Anh ta khó chịu vì sự ngần ngại của cô.

Được rồi, thế thôi. Sellitto và Polling đã chọn một thằng khùng làm

cộng sự. Có thể sự nghiệp của họ sẽ gặp rắc rối, nhưng mình sẽ không

đi theo họ.

“Quên đi.”

“Amelia, đó chỉ là một cách thu thập vật chứng thôi mà.”

Vì sao anh ta lại nói nghe có lý đến vậy? Cô gắng sức nghĩ ra một lý

do. “Cái còng sẽ dính đầy máu nếu tôi cắt…”

“Tim cô ta ngừng đập rồi. Ngoài ra…”, anh ta nói như một đầu bếp

trên truyền hình, “máu đã bị nấu đông lại rồi.”

Bụng cô lại dâng đầy lên.

“Nào, Amelia. Đến chỗ cái va li đi. Lấy cái cưa. Trên nắp ấy.” Anh ta

lãnh đạm nói thêm: “Làm ơn.”

“Thế thì vì sao anh lại bắt tôi cạo móng tay cô ta? Tôi có thể đem về cả

bàn tay cho anh cơ mà!”

“Amelia, ta cần cái còng. Ta phải mở nó ra ở đây và ta không thể đợi

đội khám nghiệm pháp y được. Cần phải làm việc này.”

Cô quay lại cửa. Tháo sợi dây, nhấc cái cưa trông xấu xí ra khỏi hộp.

Cô nhìn chăm chăm vào người phụ nữ đang đông cứng ở giữa phòng

trong tư thế bị tra tấn.

“Amelia? Amelia?”

Bên ngoài, bầu trời vẫn bao phủ bởi thứ không khí vàng vọt, tù đọng.

Những ngôi nhà bên cạnh bị bọc bởi lớp xút như những cái xương bị

thiêu cháy thành than. Nhưng Sachs lại chưa bao giờ vui như lúc này,

khi được ở ngoài không khí của thành phố. Va li khám nghiệm hiện

trường ở một tay, tay kia là chiếc cưa sắt, cái tai nghe câm lặng đong

đưa quanh cổ cô. Sachs bỏ qua đám đông cảnh sát và những người tò

mò đang nhìn cô, đi thẳng về phía chiếc xe.

Khi đi ngang qua Sellito, cô đưa cho anh ta cái cưa mà không buồn

dừng lại, đúng ra là quẳng nó cho anh ta. “Nếu Rhyme thực sự muốn

làm việc đó, nói với anh ta là anh ta có thể xuống đó mà tự làm lấy.”

II

NGUYÊN TẮC LOCARD

Trong đời thực, anh chỉ có một cơ hội tại hiện trường vụ án giết người.

VERNON J. GEBERTH

TRUNG ÚY CHỈ HUY (ĐÃ NGHỈ HƯU) SỞ CẢNH SÁT NEW

YORK

CHÍN

4:00 PM đến 10:15 PM thứ Bảy

“Tôi đang gặp rắc rối, thưa ngài.”

Người đàn ông ngồi phía bên kia của chiếc bàn làm việc trông giống

như hình mẫu lý tưởng về ngài phó chánh thanh tra cảnh sát một thành

phố lớn trong một chương trình truyền hình. Mà đấy chính là cấp bậc

của ông ta. Tóc trắng, xương hàm trông cá tính, kính gọng vàng, tư thế

tuyệt hảo.

“Vấn đề gì vậy, sĩ quan?”

Phó Chánh thanh tra Randolph C. Eckert nhìn dọc theo cái mũi dài của

ông với một cái nhìn mà Sachs lập tức nhận ra; việc chấp nhận bình

quyền của ông ta có nghĩa là phải đối xử nghiêm khắc với các nữ sĩ

quan như các nam sĩ quan.

“Tôi có khiếu nại, thưa ngài”, cô căng thẳng nói. “Ngài đã nghe về vụ

bắt cóc trên một chiếc taxi rồi chứ ạ?”

Ông gật đầu. “À, vụ đã đưa cả thành phố vào tình trạng khó hiểu.”

Cô tin rằng đó là trò nhảy dây bình thường ở trường học, nhưng không

muốn sửa lời của ngài phó chánh thanh tra.

“Cái hội nghị chết tiệt của Liên Hiệp Quốc”, ông ta tiếp, “cả thế giới

đang theo dõi. Thật không công bằng. Người ta không nói đến tội ác ở

Washington. Hay Detroit. Ừ, họ có nói về Detroit thật. Còn Chicago.

Không bao giờ. Không, chính New York là nơi người ta chõ mũi vào.

Năm ngoái Richmond, Virginia có tỷ lệ giết người tính trên đầu người

nhiều hơn chúng ta. Tôi đã điều tra rồi. Và tôi thà nhảy dù không có vũ

khí vào Trung tâm Harlem còn hơn là mở cửa sổ trong lúc lái xe qua

khu Đông Nam thủ đô vào bất kỳ ngày nào.”

“Vâng, thưa ngài.”

“Tôi hiểu rằng người ta tìm thấy cô gái đã chết. Có trên tất cả các báo.

Bọn nhà báo này…”

“Ở trung tâm. Vừa mới xong.” “Thật đáng tiếc.”

“Vâng, thưa ngài.”

“Chúng chỉ giết cô ta thôi ư? Thế thôi ư? Không có yêu cầu tiền chuộc

hay gì đó

à?”

“Tôi không nghe nói gì về tiền chuộc cả.” “Khiếu nại của cô là gì?”

“Tôi là sĩ quan đầu tiên tại hiện trường một vụ giết người có liên quan

sáng nay.”

“Cô là sĩ quan tuần tra?” Eckert hỏi.

“Tôi đã là sĩ quan tuần tra. Tôi dự kiến được thuyên chuyển sang

Phòng Quan hệ công chúng từ trưa nay. Để tham gia khóa đào tạo.”

Cô giơ hai bàn tay dán băng Band- Aids lên, rồi thả chúng rơi xuống

đùi. “Nhưng họ bắt cóc tôi.”

“Ai?”

“Thanh tra Lon Sellitto, thưa ngài. Đại úy Haumann. Và Lincoln

Rhyme.” “Rhyme?”

“Vâng, thưa ngài.”

“Không phải anh chàng gánh vác IRD mấy năm về trước đấy chứ?”

“Vâng, thưa ngài. Đúng là anh ta.”

“Tôi tưởng anh ta đã chết rồi.”

Những kẻ tự phụ như thế chẳng bao giờ chết. “Vẫn còn sống khỏe

mạnh, thưa ngài.”

Ngài phó chánh thanh tra nhìn ra ngoài cửa sổ. “Anh ta không còn

phục vụ trong lực lượng nữa. Thế anh ta liên quan gì đến chuyện này?”

“Chắc là cố vấn, thưa ngài. Đây là vụ của Lon Sellitto. Đại úy Polling

làm giám sát. Tôi chờ đợi lần thuyên chuyển này đã tám tháng. Nhưng

họ bắt tôi khám nghiệm hiện trường. Trước đây, tôi chưa bao giờ khám

nghiệm hiện trường. Nó chẳng có ý nghĩa gì và nói thực là tôi ghét bị

bắt phải làm việc mà mình chưa được đào tạo.”

“Hiện trường vụ án?”

“Rhyme ra lệnh cho tôi khám nghiệm toàn bộ hiện trường vụ án. Tự

tôi.”

Eckert không hiểu. Những ngôn từ đó không được chấp nhận. “Tại

sao một dân thường lại ra lệnh được cho sĩ quan mặc cảnh phục làm

bất cứ điều gì?”

“Ý kiến cá nhân của tôi, thưa ngài”. Cô kéo cần. “Ý tôi là, tôi sẽ giúp

đỡ đến một mức độ nào đó. Nhưng tôi không sẵn sàng xẻ thịt nạn

nhân…”

“Sao?”

Cô chớp mắt như thể ngạc nhiên vì ông ta không nghe ra. Cô kể lại

chuyện cái

còng.

“Chúa trên thiên đường, họ nghĩ cái quái quỷ gì vậy? Xin lỗi đã nói

tiếng Pháp.

Chẳng lẽ họ không biết là cả nước đang theo dõi hay sao? Suốt cả

ngày trên CNN phát vụ bắt cóc này. Cắt tay cô ta? Cô có đúng là con

gái của Herman Sachs không?”

“Đúng thế.”

“Một sĩ quan giỏi. Một sĩ quan xuất sắc. Tôi đã trao tặng bằng khen

cho ông. Đó thực sự là một cảnh sát khu vực mẫu mực. Nam

Midtown, đúng không?”

“Hell’s Kitchen. Khu của tôi.” Khu cũ của tôi.

“Herman Sachs có lẽ đã ngăn chặn được nhiều tội ác hơn cả một sư

đoàn cảnh sát làm trong một năm. Chỉ cần làm mọi việc bình ổn, cô

biết đấy.”

“Đúng là cha tôi. Chắc rồi.”

“Tay cô ta?” Eckert khịt mũi. “Gia đình cô gái sẽ kiện chúng ta. Ngay

khi họ phát hiện ra điều đó. Người ta kiện chúng ta vì mọi thứ. Có một

tên hiếp dâm kiện chúng ta vì hắn bị bắn vào chân khi đang cầm dao

lao vào một sĩ quan. Luật sư của hắn ta đưa ra cái lý thuyết gọi là ‘lựa

chọn ít chết chóc nhất’. Thay vì bắn, ta phải phang hắn hay dùng gậy.

Hay phải hỏi chúng một cách lịch sự, tôi không biết. Tôi chắc phải

cảnh báo sếp và Thị trưởng về việc này. Tôi sẽ gọi vài cuộc, sĩ quan.”

Ông ta nhìn lên đồng hồ treo tường. Hơn bốn giờ một chút. “Phiên của

cô hôm nay hết rồi, phải không?”

“Tôi phải tới nhà ở của Lincoln Rhyme. Đó là nơi chúng tôi làm việc.”

Cô nghĩ đến cái cưa sắt. Cô lạnh lùng nói. “Thực ra là phòng ngủ của

anh ta. Đó là trung tâm chỉ huy của chúng tôi.”

“Phòng ngủ của một dân thường là trung tâm chỉ huy của cô?”

“Tôi đánh giá cao tất cả những gì ngài có thể làm, thưa ngài. Tôi đã đợi

lần thuyên chuyển này rất lâu rồi.”

“Cắt tay cô ta. Lạy Chúa lòng lành!”

Cô đứng dậy, đi ra cửa và đi vào một trong những cái hành lang mà

sắp sửa trở thành nhiệm vụ mới của cô. Có điều cảm giác nhẹ nhõm

đến với cô muộn hơn cô mong đợi.

Hắn đứng cạnh khung cửa sổ kính vỏ chai, nhìn xuống một đàn chó

hoang đang rình mò trên bãi đất bên kia phố.

Hắn đang ở tầng một của tòa nhà cũ kỹ này, tòa nhà kiểu liên bang

được lát đá cẩm thạch, xây dựng từ những năm 1800. Được bao

quanh bởi những bãi đất trống và những tòa nhà – một số đã bị bỏ

hoang, một số được thuê mặc dù phần lớn là bị chiếm dụng bất hợp

pháp – tòa nhà cũ kỹ này đã bị bỏ không trong nhiều năm.

Kẻ Tầm Xương nhặt mẩu giấy ráp lên và tiếp tục đánh. Hắn nhìn xuống

cái sản phẩm thủ công của mình. Sau đó lại nhìn ra ngoài cửa sổ.

Tay hắn xoay trong những chuyển động tròn đều chính xác. Mẩu giấy

ráp nhỏ xíu khẽ kêu suỵt, suỵt… Như tiếng một người mẹ đang nựng

con.

Một thập kỷ trước, trong những ngày đầy hứa hẹn của New York,

một nghệ sĩ điên khùng đã chuyển đến ở đây. Ông ta chất đầy những

thứ đồ cổ vỡ nát và gỉ sét vào tòa nhà hai tầng nhớp nháp này. Những

cái chấn song sắt uốn, những gờ tường hình vương miện, những ô kính

hình vuông bẩn thỉu chằng chịt như tơ nhện, những cột trụ nứt nẻ. Một

vài tác phẩm của nghệ sĩ này vẫn còn được treo trên tường. Những

bức bích họa trên lớp vữa cũ: những bức tranh tường chẳng bao giờ

được hoàn thành vẽ những người công nhân, trẻ em, những đôi tình

nhân đầy lo lắng. Những khuôn mặt tròn trịa, vô cảm – chủ đề con

người – những cái nhìn trống rỗng như thể linh hồn đã bị lôi ra khỏi cơ

thể nhẵn nhụi của họ.

Người họa sĩ chưa bao giờ quá thành công, thậm chí là sau những ý

tưởng tiếp thị cứng rắn nhất – vụ ông ta tự sát – và ngân hàng đã tịch

thu tòa nhà này mấy năm trước.

Suỵt…

Kẻ Tầm Xương tìm thấy nơi này vào năm ngoái và hắn ta ngay lập tức

nhận ra rằng đó chính là nhà mình. Sự cách biệt của khu nhà hàng xóm

chắc chắn rất quan trọng đối với hắn ta – và rõ ràng đó là điều cần

thiết. Nhưng còn nhiều sự hấp dẫn khác, riêng tư hơn: khu đất trống

bên kia phố. Trong một lần đào bới vài năm trước, máy xúc đã đào lên

được nhiều xương người. Hóa ra đó là một trong những nghĩa trang cũ

của thành phố. Những bài báo viết về việc này cho rằng, những nấm

mồ có thi hài không chỉ của những người New York Liên bang và

Thuộc địa mà còn cả của những người da đỏ Manate và Lenape.

Lúc này hắn đặt sang một bên thứ mà hắn đang mài bằng giấy ráp –

một khối xương bàn tay tinh tế – rồi nhặt lên một khúc xương cổ tay

mà hắn ta đã rất thận trọng tách ra từ xương khuỷu và xương ngón

đêm trước khi ra sân bay Kennedy để bắt những nạn nhân đầu tiên.

Nó đã được phơi khô hơn một tuần và đã bong gần hết thịt, nhưng vẫn

phải cố gắng lắm mới tách được các nhóm xương gắn kết với nhau.

Chúng tách nhau ra với một tiếng rơi tõm nhạt nhòa, như tiếng cá quẫy

trên mặt hồ.

Ồ, bọn cớm, chúng giỏi hơn hắn trông đợi rất nhiều. Hắn đã theo dõi

khi chúng tìm kiếm trên Phố Pearl, băn khoăn không hiểu chúng có tìm

ra nơi hắn giấu người phụ nữ từ sân bay không? Hắn ngạc nhiên khi

thấy chúng chạy đến đúng tòa nhà. Hắn đoán chúng chỉ có thể cảm

nhận được manh mối sau hai hay ba nạn nhân. Tất nhiên là chúng

không cứu được cô ta. Nhưng chúng có thể. Chỉ cần sớm một, hai

phút là mọi chuyện đã khác đi.

Cũng giống như nhiều thứ khác trong cuộc đời.

Xương thuyền, xương lưỡi liềm, xương móc câu, xương đầu…những

chiếc xương đan chéo vào nhau như cái vòng đố ghép hình kiểu Hy

Lạp, tách rời nhau ra dưới sức mạnh ngón tay hắn. Hắn nhặt những

mẩu thịt và gân ra khỏi chúng. Hắn chọn một mẩu đa giác lớn hơn –

chỗ đã từng là gốc ngón tay cái – và lại bắt đầu mài.

Suỵt…

Kẻ Tầm Xương nheo mắt nhìn ra ngoài và hình dung hắn nhìn thấy một

người đàn ông đang đứng bên cạnh một trong những ngôi mộ cũ. Đó

chắc là hình dung của hắn vì người đàn ông đó đội một cái mũ chơi

bowling và mặc bộ quần áo vải gabardine màu vàng nhạt. Anh ta đặt

mấy bông hồng cạnh bia mộ và quay đi, vừa đi vừa phải tránh xe ngựa

trên con đường dẫn tới một cây cầu uốn cung tao nhã bên trên nhánh

hồ Collect ở Phố Canal. Anh ta đến thăm ai vậy? Cha mẹ? Một người

anh em? Gia đình người đó có thể bị chết vì lao phổi hay một trong

những đợt dịch cúm đã tàn phá thành phố vừa qua…

Vừa qua?

Không, tất nhiên là không phải vừa qua. Một trăm năm trước… đó là

ý hắn.

Hắn nheo mắt và nhìn thêm lần nữa. Không có dấu hiệu nào của xe

ngựa hay ngựa. Hay của người đàn ông đội mũ chơi bowling. Mặc dù

trông họ thực như bằng xương bằng thịt.

Bất kể là họ thực đến đâu.

Suỵt, suỵt.

Quá khứ lại tràn về. Hắn nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trước đây,

những điều xảy ra sau đó, cứ như chúng xảy ra lúc này. Hắn có thể

kiểm soát điều đó. Hắn biết là hắn có thể.

Nhưng khi nhìn ra cửa sổ thì hắn nhận ra rằng, tất nhiên là chẳng có

tương lai cũng như quá khứ. Không dành cho hắn. Hắn trôi ngược xuôi

theo thời gian, một ngày, năm năm, một trăm năm hay hai trăm năm,

như chiếc lá khô trong ngày trời gió.

Hắn nhìn xuống đồng hồ. Đến giờ phải đi rồi.

Đặt khúc xương lên mặt lò sưởi, hắn rửa tay kỹ càng – như một bác sĩ

phẫu thuật. Sau đó, hắn lăn chiếc lô phủi lông thú vật trên áo khoảng

năm phút để làm sạch hết bụi xương hay bụi bẩn hay lông cơ thể có thể

dẫn cớm đến chỗ hắn.

Hắn đi qua một bức tranh vẽ dở một tên đồ tể mặt tròn mặc một cái

tạp dề màu trắng máu me để tới chỗ nhà để xe ngựa. Kẻ Tầm Xương

bắt đầu chui vào taxi nhưng lại thay đổi ý định. Bất định là cách phòng

thủ tốt nhất. Lần này hắn sẽ đi xe ngựa… chiếc sedan, chiếc Ford.

Hắn khởi động, lái xe vào phố, đóng và khóa cửa ga ra phía sau hắn.

Không có trước đây hay sau này…

Khi hắn đi ngang qua nghĩa địa, một đàn chó ngẩng lên nhìn chiếc Ford

rồi quay lại ẩu đả trong bụi cây, tìm chuột và làm ầm ĩ khi tranh nhau

nước trong cái nóng không thể chịu đựng nổi.

Không có sau đó hay bây giờ…

Hắn lấy ra chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi găng tay từ trong túi, đặt

chúng xuống ghế bên cạnh trong khi lao ra khỏi khu dân cư cũ. Kẻ

Tầm Xương đi săn mồi.

MƯỜI

gì.

Có thứ gì đó trong phòng đã thay đổi, nhưng cô chưa thể xác định

ngay được nó là

Lincoln Rhyme nhìn thấy điều ấy trong mắt cô.

“Chúng tôi nhớ cô, Amelia”, anh ta bẽn lẽn nói. “Chuyện vặt vãnh à?”

Cô tránh không nhìn anh ta. “Rõ ràng không có ai nói với chỉ huy mới

của tôi là

hôm nay tôi sẽ không đi làm. Tôi nghĩ ai đó phải nói chứ.” “À, ừ.”

Cô đang nhìn vào tường, dần dần hiểu ra điều đó. Ngoài những thiết bị

căn bản mà

Mel Cooper đã đem đến, trong phòng còn có cái kính hiển vi điện tử

quét với bộ phận chiếu X-quang, các bộ ống kính nổi và hot-stage để

thử kính, một kính hiển vi so sánh, một ống đo biến thiên mật độ để thử

đất và cả trăm ống nghiệm, bình, lọ, hóa chất.

Ở giữa phòng là niềm tự hào của Cooper – một máy sắc ký khí điều

khiển bằng máy tính và một bộ phổ kế thường thấy. Và một cái máy

tính khác, nối mạng với bộ xử lý trung tâm của chính Cooper tại phòng

thí nghiệm ở IRD.

Sachs bước qua những sợi cáp trườn xuống dưới cầu thang – nguồn

điện trong nhà cũng ổn, đúng, nhưng dòng điện quá nhỏ trong ổ cắm

phòng ngủ. Với những bước đi tao nhã, đã được luyện tập ấy, Rhyme

thấy cô thật đẹp. Chắc chắn là người phụ nữ đẹp nhất trong sở cảnh

sát.

Trong một khoảnh khắc, anh thấy cô thật hấp dẫn. Người ta nói rằng

tình dục là trong đầu ta và anh thấy đúng. Cắt dây không cắt đứt được

sự thèm muốn. Anh nhớ lại, vẫn còn một chút kinh hoàng về một đêm,

sáu tháng sau tai nạn. Anh và Blaine đã thử. Chỉ để xem điều gì sẽ xảy

ra, họ nói vậy, chỉ thử thôi mà. Không có vấn đề gì lớn.

Hóa ra lại là chuyện lớn. Trước hết, tình dục là một chuyện rắc rối,

nhưng khi ta thêm vào phương trình này cả ống và túi thông tiểu thì ta

phải có sức khỏe tốt, tính hài hước và nền tảng tốt hơn người khác.

Nhưng chủ yếu điều làm anh cụt hứng rất nhanh là vẻ mặt của cô. Anh

nhìn thấy nụ cười gắng gượng, khó khăn trên mặt Blaine Chapman

Rhyme, nụ cười nói rằng cô làm việc đó chỉ vì thương hại và điều đó

đâm thủng tim anh. Hai tuần sau anh nộp đơn li dị. Blaine có phản đối

nhưng cô đã ký ngay đợt đầu.

Sellitto và Banks đã quay lại và đang sắp xếp vật chứng do Sachs thu

thập. Cô nhìn họ làm, chỉ hơi có vẻ quan tâm.

Rhyme nói với cô: “Đơn vị Ngầm chỉ tìm được tám chứng cứ không

hoàn chỉnh khác, nhưng chúng lại thuộc về hai người công nhân bảo trì

trong tòa nhà.”

“Thế à.”

Anh gật đầu mạnh. “Chỉ có tám.”

“Anh ta đang khen cô đấy.” Thom giải thích. “Tận hưởng đi. Nhiều

nhất thì cô cũng chỉ nhận được từ anh ấy ngần ấy thôi.”

“Không cần phiên dịch, Thom, nhưng cảm ơn.”

Cô trả lời: “Tôi vui vì đã giúp được.” Cảm thấy vui.

Ồ, cái gì thế nhỉ? Rhyme đã nghĩ cô sẽ lao vào phòng và ném cái túi vật

chứng lên giường anh. Có thể là cả cái cưa, thậm chí cả cái túi nhựa

đựng hai bàn tay hư hại của nạn nhân. Anh đã chờ bị đánh gục, lôi khỏi

sàn đấu; người ta hiếm khi bỏ găng tay khi họ đánh nhau với một kẻ tàn

tật. Anh đã nghĩ về cái nhìn trong mắt cô khi cô gặp anh, có thể đó là

bằng chứng của một sự giống nhau mơ hồ nào đó giữa họ.

Nhưng không, giờ anh thấy là anh đã sai. Amelia cũng giống như những

người khác – xoa đầu anh và tìm lối ra gần nhất.

Trong phút chốc, trái tim anh đông cứng. Anh nói như thể đang nói với

lớp mạng nhện giăng trên trần và những bức tường phía xa. “Chúng tôi

đang nói về thời hạn cho nạn nhân tiếp theo, thưa sĩ quan. Không có vẻ

gì là có thời gian xác định cả.”

“Điều chúng tôi nghĩ là”, Sellitto nói tiếp, “bất kể tên quái vật này có kế

hoạch gì cho nạn nhân tiếp theo thì điều đó cũng đang diễn ra. Hắn

không biết chính xác khi nào nạn nhân sẽ chết. Lincoln nghĩ có thể hắn

đang chôn vài tên khốn ở đâu đó, nơi mà có rất ít không khí”.

Mắt Sachs nheo lại một phút khi nghe câu này. Rhyme nhận thấy điều

đó. Chôn sống. Nếu ta phải có một nỗi sợ hãi, nó giống như bất cứ thứ

gì.

Câu chuyện của họ bị hai người đàn ông mặc bộ vét màu xám làm gián

đoạn. Họ lên cầu thang và đi vào phòng như thể họ sống ở đây.

“Chúng tôi có gõ cửa”, một người nói. “Chúng tôi có bấm chuông”,

người kia nói. “Không ai trả lời.”

Họ khoảng bốn mươi tuổi, một người cao hơn một chút nhưng cả hai

đều có mớ tóc màu cát như nhau. Họ cùng nở một nụ cười giống nhau

và trước khi giọng nói lè nhè vùng Brooklyn kịp phá hỏng hình ảnh mà

Rhyme đã nghĩ: Những anh chàng nhà quê. Một người có lớp bụi tàn

nhang kiểu trung thực với Chúa trên sống mũi nhợt nhạt của anh ta.

“Các quý ông.”

Sellitto giới thiệu Những Chàng trai Dũng cảm: hai thám tử Bedding và

Saul, nhóm điều tra. Kỹ năng chính của họ là đi vận động – phỏng vấn

những người sống gần hiện trường vụ án để tìm nhân chứng và dấu vết.

Đây là một nghệ thuật nhưng Rhyme chưa bao giờ học được, và không

có ý định học. Anh hài lòng với việc phát hiện sự thật trần trụi và

chuyển chúng cho các sĩ quan như họ, những người khi được trang bị

các dữ liệu này sẽ trở thành cái máy sống phát hiện nói dối có thể phá

tan những câu chuyện bịa đặt hay nhất của nghi phạm. Không ai trong

số họ cảm thấy chuyện phải báo cáo với một thường dân ốm liệt

giường là kỳ quặc.

Saul, viên thám tử cao hơn, người có tàn nhang nói: “Chúng tôi tìm thấy

ba mươi

sáu…”

“tám, nếu anh tính cả hai thằng nghiện. Nhưng anh không tính. Tôi thì

có.” “… đối tượng. Đã phỏng vấn tất cả bọn họ. Không may mắn

lắm.”

Vèo.”

“Hầu hết họ đều mù, điếc hay quên. Anh biết đấy, như lệ thường.”

“Không có dấu hiệu gì của chiếc taxi. Chúng tôi đã lùng sục ở West

Side. Zero.

Bedding: “Nhưng cho họ biết tin tốt đi.” “Chúng tôi tìm được một nhân

chứng.”

“Một nhân chứng?” Banks phấn chấn hỏi. “Tuyệt vời.”

Rhyme, kém nhiệt tình hơn nhiều, nói: “Tiếp đi.”

“Vào khoảng thời gian nạn nhân chết sáng nay ở gần đường tàu.”

“Anh ta nhìn thấy một người đàn ông đi dọc theo Đại lộ Mười một,

rẽ…” “Bất thình lình, anh ta nói thế…”, Bedding, mặt không tàn nhang

nói thêm.

“… và đi qua một con đường dẫn tới cầu vượt đường sắt. Hắn đứng

đó một lúc…” “Nhìn xuống.”

Rhyme bị điều đó làm cho lo lắng. “Không có vẻ giống như anh chàng

của chúng

ta. Hắn quá thông minh để bị nhìn thấy như vậy.”

“Nhưng…”, Saul tiếp tục, giơ một ngón tay lên và liếc nhìn đối tác của

mình. “Chỉ có một cửa sổ trong toàn khu vực mà từ đó ta có thể nhìn

thấy chỗ ấy.” “Và đó là chỗ nhân chứng của ta đứng.”

“Dậy sớm, cầu Chúa phù hộ cho quả tim anh ta.”

Trước khi nhớ lại là anh đang bực mình với cô, Rhyme hỏi: “Amelia, cô

thấy thế

nào?”

bảy.”

“Xin lỗi?” Cô chuyển sự chú ý khỏi cửa sổ.

“Đúng”, Rhyme nói. “Cô đã khóa Đại lộ Mười một, không phải Đại lộ

Ba mươi

Cô không biết phải trả lời thế nào nhưng ngay lập tức Rhyme quay trở

lại với hai

anh em sinh đôi. “Miêu tả?”

“Nhân chứng của chúng ta không thể nói được nhiều.” “Say khướt

rồi.”

“Anh ta nói đó là một anh chàng nhỏ người. Không có màu tóc. Chủng

tộc…”

“Có lẽ là người da trắng.” “Mặc gì?” Rhyme hỏi.

“Thứ gì đó tối màu. Anh ta chỉ nói được đến thế.” “Và làm gì?” Sellitto

hỏi.

“Tôi trích dẫn: Hắn ta chỉ đứng đấy và nhìn xuống. Tôi nghĩ là hắn ta sẽ

nhảy. Anh biết đấy, vào đầu tàu. Nhìn đồng hồ mấy lần.”

“Sau đó bỏ đi. Nhân chứng nói hắn ta tìm kiếm gì đó xung quanh.

Trông có vẻ như không muốn bị ai nhìn thấy.”

Hắn ta làm gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Xem nạn nhân chết? Hay đó là

lúc trước khi hắn chôn xác, kiểm tra xem nền đường có ai không?”

Sellitto hỏi: “Đi bộ hay lái xe?”

“Đi bộ. Chúng tôi đã kiểm tra tất cả các bãi đỗ xe...” “Và ga ra.”

“... trong vùng lân cận. Nhưng nơi đó gần trung tâm hội nghị nên chỗ

đỗ xe ngập đến tận tai. Có nhiều chỗ đỗ đến nỗi nhân viên bãi đỗ đứng

ngoài phố, cầm cờ vàng để

vẫy cho xe vào.”

“Nhưng do hội nghị nên đến bây giờ một nửa bãi đỗ đã đầy xe. Chúng

tôi có một danh sách khoảng chín trăm biển số.”

Sellitto lắc đầu. “Các anh theo tiếp vụ này nhé...” “Đã nhận”, Bedding

nói.

“... nhưng tôi dám cá là đối tượng không để xe trong bãi.” Viên thám

tử nói tiếp. “Hay mua vé để xe.”

Rhyme gật đầu đồng tình và hỏi: “Tòa nhà ở Phố Pearl?”

Một người hay cả hai anh em sinh đôi đồng thanh: “Điều tiếp theo trong

danh sách của chúng tôi. Chúng tôi đang trên đường.”

Rhyme nhìn thấy Sachs đang xem đồng hồ, cái đồng hồ đeo trên cổ tay

trắng trẻo gần những ngón tay hồng hào của cô. Anh yêu cầu Thom

thêm những đặc điểm mới đó của nghi phạm vào sơ đồ hồ sơ.

“Anh có muốn phỏng vấn anh chàng đó không?” Banks hỏi. “Anh

chàng đứng cạnh đường ray ấy.”

“Không, tôi không tin tưởng nhân chứng”, Rhyme nói đầy kiêu hãnh.

“Tôi muốn quay lại với công việc.” Anh nhìn Mel Cooper. “Lông, máu,

xương và một mẩu gỗ. Cái xương đầu tiên”, Rhyme hạ lệnh.

Morgen62...

Monelle Gerger trẻ tuổi mở mắt và chậm rãi ngồi dậy trên chiếc giường

đệm trũng. Suốt thời gian hai năm ở Greenwich Village, cô không thể

làm quen được với buổi sáng.

Thân hình tròn trịa hai mươi mốt tuổi của cô nghiêng về phía trước và

luồng ánh sáng tàn nhẫn buổi sáng tháng Tám chiếu thẳng vào đôi mắt 

lờ mờ của cô. “Mein Gott63...”

62 Morgen: Ngày mai (tiếng Đức).

63 Mein Gott: Lạy Chúa (tiếng Đức).

giờ...

Cô rời câu lạc bộ lúc năm giờ, về nhà lúc sáu giờ và làm tình với Brian

đến bảy

Giờ là mấy giờ nhỉ?

Sáng sớm, cô chắc chắn thế.

Cô nhăn mặt nhìn đồng hồ. Ôi. 4:30. Không phải früh morgens64 lắm.

Cà phê hay đi giặt đồ?

Vào khoảng thời gian này cô thường lang thang tới Dojo để ăn sáng với

bánh kẹp

nhân rau và ba cốc cà phê đặc. Ở đó, cô gặp những người cô biết,

những người đi chơi đêm như cô – những người trong trung tâm thành

phố.

Nhưng vừa rồi cô đã bỏ đi nhiều thứ, những thứ đồ trong nhà. Vì thế,

cô mặc hai cái áo phông lụng thụng để giấu đi thân hình tròn trịa của

mình, đeo năm sáu chuỗi xích quanh cổ và nhặt giỏ đồ bẩn, đổ Wisk65

vào.

Monelle tháo ba con ốc đang chặn cửa. Cô nhấc giỏ đồ bẩn lên và đi

xuống cái cầu thang tối tăm của khu chung cư. Cô dừng lại ở tầng hầm.

Irgendwas stimmt hier nicht66.

Cảm thấy không ổn, Monelle nhìn quanh cầu thang không người, hành

lang tối

tăm.

Có cái gì đó khang khác thì phải?

Ánh sáng, đúng rồi! Những cái bóng đèn trong hàng lang đã bị cháy.

Không – cô

nhìn kỹ hơn – chúng đã bị mất. Bọn trẻ con mất dạy lấy trộm mọi thứ.

Cô chuyển tới đây, Deutsche Haus – vì về nguyên tắc, đây là nơi cư trú

cho các nhạc công và nghệ sĩ Đức. Nhưng hóa ra đấy chỉ là một tòa

nhà bẩn thỉu, giá thuê quá cao ở khu East Village, giống như tất cả các

tòa nhà cho thuê khác ở đây. Sự khác biệt duy nhất là cô có thể chửi

rủa người quản lý bằng tiếng mẹ đẻ của cô.

Cô đi tiếp qua cánh cửa tầng hầm vào phòng đốt rác, tối tăm đến mức

cô phải sờ soạng lần đường dọc theo bờ tường để chắc chắn không bị

vấp vào rác thải trên sàn nhà.

Đẩy cửa mở ra, cô bước vào lối hành lang dẫn đến phòng giặt đồ. Có

tiếng lê bước. Tiếng bước chân lướt nhanh trên sàn.

Cô quay lại thật nhanh nhưng không nhìn thấy gì ngoài những cái bóng

bất động. Mọi tiếng động mà cô nghe thấy là tiếng xe cộ, tiếng rên rỉ

của một tòa nhà cũ kỹ.

Đi qua bóng tối lờ mờ. Đi qua những chồng hộp và đám bàn ghế cũ

hỏng. Những dây cáp ngầm bị bao bọc bởi lớp bụi nhớp nháp.

Monelle tiếp tục đi đến phòng giặt đồ. Ở đây cũng chẳng có bóng đèn.

Cô cảm thấy không thoải mái, nhớ đến một điều gì đó đã

64 Früh morgens: Sớm sủa lắm (tiếng Đức).

65 Wisk: Tên một loại bột giặt.

66 Irgendwas stimmt hier nicht: Có gì đấy không ổn (tiếng Đức).

không xảy ra với cô trong nhiều năm. Đi bộ cùng cha cô theo con

đường hẹp bên ngoài Lange Strasse, gần Obermain Brücke, trên

đường đến vườn bách thú. Lúc đó chắc cô năm hay sáu tuổi gì đó. Bất

ngờ cha bóp vai cô, chỉ về phía cây cầu và kể với cô, giọng đầy nghiêm

trọng, về những người khổng lồ độc ác đói bụng đang đi phía dưới.

Khi họ đi qua cầu về nhà, ông nhắc cô phải đi nhanh. Lúc này cô cảm

thấy một gợn sóng của cơn hoảng loạn đang dựng lên theo cột sống lan

tới tận mái tóc vàng hoe cắt ngắn của cô.

Thật ngu xuẩn. Người khổng lồ ư…

Cô tiếp tục đi xuống lối hàng lang tăm tối, lắng nghe tiếng rền rền của

mấy thứ thiết bị điện. Xa hơn nữa, cô nghe thấy bài hát của những

người anh em thù hận ở Oasis67.

Phòng giặt đồ tối om.

Được, nếu những cái bóng đèn này mà cháy nữa, thì thế là hết. Cô sẽ

chạy lên gác, đập cửa phòng Herr Neischen cho tới khi hắn phải bỏ

chạy. Cô sẽ cho hắn ta một trận vì những cái bản lề gãy ở cửa trước,

cửa sau và vì những đứa trẻ lu bù bia bọt mà hắn ta không bao giờ

đuổi ra khỏi cửa. Cô cũng sẽ cho hắn ta một trận vì những cái bóng

đèn cháy này nữa.

Cô thò tay vào trong và bật công tắc.

Ánh sáng chói chang. Ba cái bóng đèn lớn cháy sáng như mặt trời cho

thấy một căn phòng bẩn thỉu nhưng trống rỗng. Monelle đi tới chỗ bốn

cái máy giặc và vứt đồ trắng vào một cái, đồ màu vào một cái. Cô

chọn ra mấy đồng hai mươi lăm cent, nhét chúng vào khe và kéo cần

gạt.

Chẳng thấy gì.

Monelle lắc lắc cái cần gạt. Rồi đá vào cái máy giặc. Không có phản

ứng. “Chết tiệt. Cái tòa nhà gottverdammte68 này.”

Sau đó cô nhìn thấy dây điện. Thằng ngu nào đó đã rút dây điện khỏi

máy. Cô biết đấy là ai rồi. Neischen có một thằng con trai mười hai

tuổi, là thủ phạm của hầu hết các vụ rắc rối quanh tòa nhà. Năm ngoái

khi cô đang khiếu nại một vụ gì đó thì thằng trời đánh này đã cố đá cô.

Cô nhặt sợi dây lên, bò xuống, vươn ra sau chiếc máy và tìm ổ điện.

Cô cắm

phích.

Và cảm thấy hơi thở của một người đàn ông nơi cổ mình.

Nein69!

Hắn ta đứng kẹp giữa bức tường và mặt sau cái máy giặt. Gào lên một

tiếng, cô

thoáng thấy một cái mặt nạ trượt tuyết và bộ quần áo đen khi cánh tay

hắn ta kẹp chặt tay cô như một hàm răng thú vật. Cô mất thăng bằng

và hắn dễ dàng hất cô ra phía trước. Cô

67 Oasis (Ốc đảo): Một nhóm nhạc rock của Anh.

68 Gottverdammte: Chết tiệt (tiếng Đức).

69 Nein: Không (tiếng Đức).

ngã xuống nền nhà, đập mặt vào nền bê tông và nuốt tiếng thét đang

thành hình trong cổ họng.

Hắn ngồi lên cô ngay lập tức, gí chặt tay cô xuống sàn, dán một miếng

băng dính dày màu xám vào miệng cô.

Hilfe70!

Nein, bitte nicht71. Bitte nicht.

Hắn không to lớn nhưng khỏe. Hắn dễ dàng lật cô nằm sấp xuống và

rồi cô nghe thấy tiếng lạch xạch của chiếc còng khóa cổ tay mình.

Sau đó hắn ta đứng lên. Một lúc lâu im lặng, chẳng có tiếng động gì

ngoài tiếng nước nhỏ giọt, tiếng thở hổn hển của Monelle, tiếng động

của một động cơ nhỏ đâu đó trong tầng hầm.

Cô chờ đợi một bàn tay sờ soạng cơ thể mình, xé toang quần áo mình.

Cô nghe tiếng hắn ta ra cửa nhìn để chắc chắn họ chỉ có một mình.

Ồ, hắn được riêng tư hoàn toàn, cô biết, điên cuồng với chính cô; cô là

một trong số ít những người thuê nhà sử dụng phòng giặt quần áo.

Phần lớn họ tránh sử dụng vì nó rất trống trải, rất gần với cửa hậu và

cửa sổ, rất xa sự giúp đỡ.

Hắn quay lại và lật ngửa cô ra. Thì thầm điều gì đó cô không nghe rõ.

Rồi: “Hanna.”

Hanna? Nhầm rồi. Hắn nghĩ mình là người khác. Cô lắc đầu thật mạnh,

cố làm hắn hiểu điều đó.

Nhưng sau đó, khi nhìn vào mắt hắn, cô ngừng lại. Ngay cả lúc hắn

đeo mặt nạ trượt tuyết, rõ ràng là có điều gì đó không đúng. Hắn bực

mình. Hắn quét cơ thể cô, lắc đầu. Hắn nắm những ngón tay đeo găng

của hắn quanh cánh tay bụ bẫm của cô. Bóp mạnh vai cô, véo một véo

mỡ. Cô rùng mình vì đau.

Đó chính là điều cô nhìn thấy: sự thất vọng. Hắn bắt được cô nhưng lúc

này hắn không chắc là hắn có muốn cô hay không.

Hắn cho tay vào túi và chầm chậm rút tay ra. Tiếng động của con dao

tựa như cơn sốc điện. Nó khởi đầu cho một cơn thổn thức.

Nein, nein, nein!

Tiếng thở xẹt qua kẽ răng hắn nghe như cơn gió thổi qua hàng cây

trong mùa đông. Hắn cúi xuống cô, suy nghĩ.

“Hanna”, hắn thì thầm. “Mình làm gì bây giờ?”

70 Hilfe: Cứu tôi (tiếng Đức).

71 Nein, bitte nicht: Làm ơn, đừng (tiếng Đức).

Thế rồi hắn đột nhiên quyết định. Hắn cất con dao đi và kéo cô đứng

dậy, dắt cô ra phía hành lang qua cửa hậu – cánh cửa có ổ khóa bị

hỏng mà cô đã từng bắt Herr Neischen phải sửa.

MƯỜI MỘT

Nhà hình sự học là một con người của thời kỳ Phục Hưng.

Anh ta phải có kiến thức về thực vật học, địa lý, đạn đạo học, y học,

hóa học, văn học và nghề kỹ sư. Nếu anh ta hiểu thực tế – ví dụ như

tàn tro có chứa nhiều stronti có thể phát tích từ các đám cháy trên

đường cao tốc, rằng faca trong tiếng Bố Đào Nha có nghĩa là “con

dao” và những người Ethiopia khi ăn tối không dùng dụng cụ ăn mà chỉ

dùng tay phải, rằng viên đạn với vết xẻ nòng kiểu lốm đốm, xoay bên

phải, không thể được bắn ra từ một khẩu súng ngắn Colt – nếu anh ta

biết được những điều đó, anh ta có thể đưa ra những liên kết đặt nghi

phạm vào hiện trường vụ án.

Một lĩnh vực mà tất cả các nhà hình sự học đều biết là giải phẫu. Và

đó chắc chắn là chuyên môn của Lincoln Rhyme, vì anh đã giành ba

năm rưỡi để tìm hiểu về logic quanh co của xương và dây thần kinh.

Lúc này anh đang nhìn túi vật chứng lấy được từ phòng nồi hơi mà

Jerry Banks đang đung đưa trên tay và tuyên bố: “Xương chân. Không

phải xương người. Vì thế không phải của nạn nhân tiếp sau.”

Đó là một vòng xương đường kính khoảng hai inch, bị cưa đều đặn.

Trên những đường cưa do lưỡi cưa để lại vẫn còn vết máu.

“Một con thú cỡ vừa”, Rhyme tiếp tục. “Một con chó lớn, hay cừu, dê.

Tôi đoán là cái xương này có thể đỡ khối lượng khoảng một trăm

pound. Tuy vậy cứ thử để chắc chắn đó là máu động vật. Vì nó vẫn có

thể là máu nạn nhân.”

Đã có những tên tội phạm dùng xương để đánh hay đâm chết nạn

nhân. Bản thân Rhyme đã gặp ba trường hợp tương tự; vũ khí được

dùng là xương đầu gối bò, một cái xương chân hươu và trong một

trường hợp khó chịu lại chính là xương khuỷu tay của nạn nhân.

Mel Cooper thực hiện phép thử thẩm thấu gel để tìm nguồn gốc máu.

“Chúng ta phải đợi một lúc mới có kết quả”, anh ta giải thích, vẻ có lỗi.

“Amelia”, Rhyme nói, “chắc cô giúp được chúng tôi. Hãy dùng kính lúp

và xem xét thật kỹ cái xương. Nói xem cô thấy gì?”.

“Không phải kính hiển vi à?” Cô hỏi. Anh nghĩ cô sẽ phản đối nhưng

cô lại đi tới chỗ cái xương, tò mò nhìn nó.

“Phóng đại nhiều quá”, Rhyme giải thích.

Cô đeo kính lên và cúi xuống cái khay tráng men màu trắng. Cooper

bật cây đèn hình cổ ngỗng lên.

“Những vết cắt”, Rhyme nói. “Chúng mấp mô hay phẳng?” “Chúng

khá là phẳng.”

“Một cái cưa khỏe.”

Rhyme băn khoăn không biết con thú có còn sống khi hắn làm việc đó

hay không. “Cô thấy gì bất thường không?”

Cô nhìn chăm chăm một lúc vào cái xương, nói nhỏ: “Tôi không biết.

Tôi không nghĩ thế. Nó trông chỉ giống như một khúc xương bình

thường.”

Chính lúc đó Thom đi ngang qua và nhìn vào cái khay. “Đó là dấu vết

của các vị à? Buồn cười thật.”

“Buồn cười”, Rhyme nói. “Buồn cười?” Sellitto hỏi: “Anh có ý kiến gì

chăng?”

“Chẳng có ý kiến gì.” Anh ta cúi xuống ngửi khúc xương. “Đây là osso

bucco.”

“Cái gì?”

“Chân bê. Tôi đã nấu món này cho anh một lần rồi, Lincoln. Món osso

bucco. Món chân bê om.” Anh ta nhìn Sachs và nhăn mặt. “Anh ta chê

nó nhạt.”

“Mẹ kiếp.” Sellitto kêu to. “Hắn mua cái này ở cửa hàng thực phẩm!”

“Nếu ta may mắn thì...”, Rhyme nói, “hắn mua nó ở cửa hàng thực

phẩm của

hắn”.

Cooper khẳng định phép thử kết tủa cho thấy âm tính với máu người

trên mẫu

được Sachs đem về. “Có thể đó là máu bò”, anh ta nói. “Nhưng hắn

định nói gì với chúng ta nhỉ?” Banks hỏi.

Rhyme không biết. “Hãy tiếp tục đi. À, có gì trên khóa móc và xích

không?”

Cooper nhìn vật nằm trong cái túi nhựa giòn. “Giờ không còn ai khắc

tên nhãn hiệu lên xích nữa. Như vậy ở đây ta không may mắn rồi. Cái

khóa này là loại hàng trung bình của Secure-Pro. Nó không an toàn

lắm và chắc chắn không phải loại chuyên nghiệp. Phải mất bao lâu để

phá nó?”

“Mất ba giây”, Sellitto nói.

“Thấy chưa. Không có số thứ tự. Người ta bán nó ở tất cả các cửa

hàng kim khí trên cả nước.”

“Khóa chìa hay khóa số?” Rhyme hỏi. “Khóa số.”

“Gọi cho nhà sản xuất. Hỏi họ xem nếu ta tháo tung nó ra rồi khôi phục

lại tổ hợp số từ lẫy khóa, điều đó có cho ta biết được nó nằm trong

đợt hàng nào và đi đến đâu

không?”

Banks huýt sáo. “Ôi giời, xa quá.”

Cái nhìn của Rhyme làm mặt anh chàng đỏ lựng. “Sự nhiệt tình trong

giọng nói của anh cho thấy, thưa thám tử, anh đúng là người phù hợp

để làm việc đó.”

“Vâng, thưa ngài.” Chàng trai trẻ tuổi nhấc điện thoại di động. “Tôi làm

đây.” Rhyme hỏi: “Có vết máu trên xích không?”

Sellitto nói: “Của một trong những người của ta. Anh ta tự làm mình bị

thương khá nặng lúc phá khóa.”

“Như vậy là nó đã bị ô nhiễm.” Rhyme cau có. “Anh ta cố cứu cô ấy

thôi”, Sachs nói với Rhyme.

“Tôi hiểu. Anh ta rất tốt bụng. Nhưng nó vẫn bị ô nhiễm rồi.” Rhyme

nhìn lại về phía cái bàn cạnh Cooper. “Dấu tay?”

Cooper nói anh ta đã kiểm tra và chỉ thấy mỗi dấu vân tay của Sellitto

trên dây

xích.

“Được rồi, mẩu gỗ Amelia tìm được. Kiểm tra dấu tay xem.”

“Tôi làm rồi”, Sachs nói nhanh. “Tại hiện trường.”

P.D., Rhyme nhớ lại. Cô nàng không có vẻ giống như biệt hiệu. Những

người đẹp ít khi thế.

“Hãy thử vũ khí hạng nặng xem, để cho chắc chắn”, Rhyme nói và ra

lệnh cho

Cooper. “Dùng DFO hoặc ninhydrin. Sau đó chiếu nit-yag.” “Cái gì?”

Banks hỏi.

“Tia laser neodymium:yttrium aluminum garnet.”

Kỹ thuật viên làm mẩu gỗ sủi bọt bằng một thứ chát lỏng từ lọ xịt nhựa

và chiếu tia laser lên đó. Anh ta đeo kính và xem xét nó một cách cẩn

trọng. “Không có gì.”

Anh ta tắt đèn và xem xét cẩn thận miếng gỗ. Nó là một miếng gỗ dài

khoảng sáu inch, màu tối. Trên đó có một vết bẩn, giống như nhựa

đường và bị dính đầy bụi. Anh ta cầm nó bằng một cái kẹp.

“Tôi biết Lincoln thích dùng đũa”, Cooper nói. “Nhưng khi đến Ming

Wa72  tôi luôn gọi dĩa.”

“Anh có thể làm vỡ tế bào”, nhà hình sự học càu nhàu. “Tôi có thể.

Nhưng tôi không làm vỡ”, Cooper đáp lời.

“Loại gỗ gì?” Rhyme băn khoăn. “Có cần chạy máy phân tích tàn tro

không?” “Không cần, đó là gỗ sồi. Chắc chắn thế.”

“Có dấu cưa hay bào gì không?” Rhyme vươn người ra trước. Bất ngờ

cổ anh bị co thắt, không thể chịu đựng nổi những cơn đau cơ vì chuột

rút. Anh hổn hển, nhắm mắt và xoay cổ, cố gắng kéo dãn cơ. Anh cảm

thấy bàn tay mạnh mẽ của Thom xoa bóp vùng cổ. Cuối cùng thì cơn

đau cũng bớt.

“Lincoln?” Sellitto hỏi. “Anh ổn chứ?” Rhyme thở sâu: “Tốt rồi. Không

có gì đâu.”

“Đây này.” Cooper đem khúc gỗ lại phía giường, đeo kính phóng đại

lên mắt cho

Rhyme.

Rhyme kiểm tra mẫu vật. “Bị cắt theo hướng của thớ gỗ bằng cưa

khung. Vết cắt rất không đều. Vì thế tôi đoán đây là một cây cột hay

xà nhà được xẻ hơn một trăm năm trước. Có lẽ là cưa hơi nước. Đưa

nó lại gần hơn một chút đi, Mel. Tôi muốn ngửi nó.”

Anh ta để mẩu gỗ dưới mũi Rhyme.

“Có tẩm creozot – dung dịch than-nhựa đường. Dùng để bảo vệ gỗ

trước khi các công ty xẻ gỗ xử lý áp suất. Làm cầu tàu, ụ tàu, tà

vẹt…”

“Có thể lại có kẻ hâm mộ đường sắt”, Sellitto nói. “Hãy nhớ đến

đường ray sáng

nay.”

“Có thể”, Rhyme ra lệnh. “Kiểm tra ép tế bào đi, Mel.”

72 Ming Wa: Một nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.

Anh ta dùng kính hiển vi xem xét mẩu gỗ. “Nó được ép rất tốt. Nhưng

ép dọc theo thớ. Không phải ngược lại. Không phải tà vẹt. Đấy là cột

chống hay cọc đỡ. Mang trọng lượng…”

Một khúc xương… một cái cột gỗ cũ…

“Tôi thấy trong gỗ có bụi. Điều đó có nói với chúng ta thứ gì không?”

Cooper trải một tờ báo lớn lên bàn, xé bìa đi. Anh ta cầm mẩu gỗ trên

tờ báo và chải một ít bụi từ khe nứt trên mẩu gỗ. Anh ta xem xét những

chấm nhỏ trên tờ giấy trắng

– một chòm sao ngược.

“Anh có đủ để thử biến thiên mật độ không?” Rhyme hỏi.

Trong phép thử biến nhiệt mật độ, bụi được đổ vào một cái ống chứa

những chất lỏng có trọng lượng riêng xác định, khác nhau. Đất sẽ phân

rã ra và mỗi hạt sẽ lơ lửng ở lớp chất lỏng có trọng lượng riêng tương

ứng. Rhyme đã thiết lập một thư viện rất đầy đủ hồ sơ biến thiên mật

độ của đất từ cả năm khu. Không may là phép thử này chỉ có tác dụng

khi ta có đủ một lượng đất nhất định; Cooper không nghĩ rằng họ có

đủ đất. “Ta có thể sử nhưng sẽ phải dùng tất cả mẫu. Và nếu nó không

có tác dụng, ta chẳng còn gì cho các phép thử khác.”

Rhyme bảo anh ta xem xét bằng mắt thường trước rồi phân tích nó trên

GC-MS. Tay kỹ thuật viên chải một ít đất vào bàn trượt. Anh ta nhìn

nó vài phút qua kính

hiển vi. “Lạ thật, Lincoln. Đó là đất bề mặt. Với mức độ thực vật cao

bất thường. Nhưng dưới dạng rất lạ. Bị thối rữa và phân hủy rất nặng.”

Anh ta ngẩng lên và Rhyme nhận thấy những vệt màu đen phía dưới

mắt anh ta vì tỳ vào ống ngắm. Anh nhớ rằng sau nhiều giờ làm việc

trong phòng thí nghiệm, những vệt đen này nổi lên khá rõ và một kỹ

thuật viên giám định thường ra khỏi phòng thí nghiệm ở IRD để được

chào đón với dàn

hợp xướng Rocky Raccoon73.

“Đốt nó lên”, Rhyme ra lệnh.

Cooper đặt một mẫu vào thiết bị GC-MS. Cái máy rùng rùng sống dậy

và phát ra tiếng xì xì. “Đợi một, hai phút.”

“Trong khi ta chờ”, Rhyme nói, “cái xương… tôi vẫn băn khoăn về cái

xương. Soi nó bằng kính hiển vi xem nào, Mel”.

Copper cẩn thận đặt khúc xương vào dưới kính hiển vi. Anh ta nghiên

cứu nó rất kỹ càng. “Ồ, có thứ gì đây này.”

“Cái gì?”

“Rất nhỏ. Trong suốt. Đưa cho tôi cái kẹp cầm máu”, Cooper nói với

Sachs, hất đầu về phía một cái kẹp bấm. Cô đưa nó cho anh ta và anh

ta cẩn trọng tìm kiếm trong phần tủy của khúc xương. Anh ta nhặt thứ

gì đó lên.

“Một mẫu cellulose tái chế”, Cooper tuyên bố.

“Là giấy bóng kính”, Rhyme nói. “Cho tôi biết thêm đi.”

73 Rocky Raccoon: Chồn Đá, một bài hát nổi tiếng của The Beatles.

“Có dấu bị kéo và giật. Tôi có thể nói hắn ta không cố tình để nó lại;

không có cạnh nào bị cắt. Nó không mâu thuẫn với giấy bóng kính

bền”, Cooper nói.

“Không mâu thuẫn.” Rhyme cau có. “Tôi không thích kiểu phòng vệ

của hắn.” “Chúng ta phải phòng vệ, Rhyme.” Cooper tươi tỉnh nói.

“Liên quan đến. Khuyến nghị. Tôi đặc biệt ghét không mâu thuẫn.”

“Rất nhiều khả năng”, Cooper nói. “Khả năng gần nhất của tôi là giấy

bóng kính ở cửa hàng thịt hay cửa hàng thực phẩm. Không phải Saran

Wrap. Chắc chắn không phải giấy gói của một thương hiệu vô danh.”

Jerry Banks từ hàng lang đi vào phòng. “Tin xấu. Công ty Secure-Pro

không giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra

chúng ngẫu nhiên.”

“À.”

“Nhưng điều thú vị là họ nói họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi

của cảnh sát về sản phẩm của họ và anh là người đầu tiên nghĩ tới việc

truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã.”

“Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?” Rhyme càu nhàu và

quay về phía

Mel Cooper, anh ta đang lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS.

“Gì thế?”

“Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa.

Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng

nhiều mẫu hơn.”

Rhyme bảo anh ta làm. Ánh mắt anh quay lại phía khúc xương. “Mel,

con vật bị giết lâu chưa?”

Mel xem xét vài mảnh nhỏ dưới kính hiển vi điện tử.

“Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ

thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng.”

“Như thế là hắn mới mua nó”, Rhyme nói.

“Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó”, Sellitto đề xuất.

“Không”, Cooper nói. “Nó không bị đông lạnh. Không có vết biểu bì

bị tinh thể băng phá hoại. Và nó không ở trong tủ lạnh quá lâu. Không

bị khô; tủ lạnh hiện đại làm thức ăn bị khô.”

“Dấu vết tốt đấy”, Rhyme nói. “Hãy điều tra thêm một chút đi.”

“Điều tra thêm?” Sachs cười. “Ý anh nói là chúng ta sẽ gọi điện cho tất

cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai

bán xương bê không à?”

“Không”, Rhyme nói. “Mà là trong hai ngày qua.” “Anh có cần gọi

Những Chàng trai Dũng cảm không?”

“Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem cô ấy còn

làm việc không? Và nếu không, gọi cô ấy quay lại văn phòng cùng với

những điều phối viên khác

để họ làm ngoài giờ. Đưa cho cô ấy danh sách tất cả các cửa hàng

thực phẩm trong thành

phố. Tôi cá là anh chàng của chúng ta không mua thực phẩm cho gia

đình bốn người, vì thế nói với Emma giới hạn danh sách xuống những

người chỉ mua dưới năm thứ.”

“Lệnh bắt?” Banks hỏi.

“Hễ có ai đó giật mình, ta sẽ có lệnh bắt”, Sellitto nói. “Nhưng cứ thử

không có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực sự cộng

tác. Người ta nói với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra.”

“Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai đã mua chân bê?” Sachs

hỏi. Cô không còn lơ đãng như trước. Trong giọng nói của cô đã có

chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu sự khó chịu của cô có phải là triệu

chứng của điều mà chính anh đôi khi cũng tự cảm thấy – gánh nặng của

bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình sự học không phải là có

quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.

“Kiểm tra máy quét”, Rhyme nói. “Họ đăng ký giao dịch bán hàng trên

máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, nói đi. Tôi thấy hình

như có điều gì đó trong đầu cậu? Nói ra đi. Lần này tôi không đẩy cậu

đi Siberia nữa đâu.”

“Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng một chuỗi mới có

máy quét, thưa ngài”, viên thám tử trẻ tuổi nói. “Có hàng trăm cửa

hàng riêng lẻ và hàng thịt không có máy quét.”

“Ý hay. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ không đến một cửa hàng nhỏ. Hắn sẽ

mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân.”

Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và nói với Emma những gì họ

cần làm. “Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem”, Rhyme

nói với Cooper.

Người kỹ thuật viên đặt mẫu nhỏ này vào kính phân cực, sau đó đặt

máy ảnh

Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là một tấm ảnh màu, một

chiếc cầu vồng với một vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu

tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng nói lên điều gì với họ, nhưng có thể so

sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng một

nguồn gốc hay không.

Rhyme nảy ra một ý nghĩ. “Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn

trương.” “Tới đây?” Sellitto hỏi.

“Chúng ta sẽ chuẩn bị một chiến dịch.” “Anh chắc chứ?” Viên thám tử

hỏi. “Đúng thế! Tôi cần họ ngay.”

“Được rồi.” Anh ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.

“Còn bây giờ những dấu vết để lại khác thì sao – mấy sợi lông mà

Amelia tìm

thấy.”

Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính

hiển vi đối

pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào một đối tượng, luồng

ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn một chút – lệch pha – sao cho

mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.

“Không phải của người”, Cooper nói. “Tôi có thể nói ngay với anh như

vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, không phải lông phía dưới.”

Ý anh ta là nó từ bộ lông của động vật.

“Con gì? Chó?”

“Con bê?” Banks đề xuất, một lần nữa đầy sự nhiệt tình và trẻ trung.

“Kiểm tra vảy”, Rhyme ra lệnh. Ý anh là những vảy nhỏ tạo thành lớp

vỏ ngoài sợi lông.

Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que

nhỏ đầy vảy hiện ra trên màn hình. “Nhờ anh đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở

dữ liệu không?”

Ở IRD, Rhyme đã tập hợp một bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh

các loại lông khác nhau. “Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn

thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà anh cho chúng

vào máy tính được?”

“Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG.”

Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ đã vượt qua

Rhyme. Thật lạ lùng...

Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về

điều anh đã băn khoăn cả ngày – câu hỏi cứ hiện lên: Vì sao lại có

những dấu vết? Con người thật tuyệt vời nhưng trên hết đó chỉ là – một

con thú. Một con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ

nhưng luôn luôn hành động có lý do – một động cơ đẩy con thú đến

với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme không tin vào sự

tình cờ, hay sự ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng

có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và anh biết phải có lý

do gì đó để Đối tượng 823 nói chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu

như vậy.

Cooper gọi: “Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị

cạo.”

“Dấu vết kiểu gì vậy?” Banks nói. “Có hàng triệu con chuột trong thành

phố. Nó không dẫn tới chỗ nào cả. Hắn định nói gì với chúng ta vậy?”

Sellitto nhắm mắt một khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs

không nhận thấy cái gì đó. Cô đang tò mò liếc nhìn Rhyme. Anh ta

ngạc nhiên là cô không nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng

anh ta không nói gì. Anh thấy không có lý do gì phải chia sẻ phần kiến

thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.

Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu hắn nhớ

không nhầm, trong số đó có thiên thần nhỏ bé O’Connor, là vợ của

một người nhập cư cần cù, người đã xây một căn nhà giản dị gần Phố

Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.

Chính nhờ sự dũng cảm của người phụ nữ không may mắn này mà

cảnh sát phát hiện ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt

có dòng máu Đức – Do Thái và được kính trọng trong một cộng đồng

gần gũi ở đó cô, chồng cô và sáu đứa con nhỏ của họ (một đứa đã mất

khi sinh) sinh sống.

Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo

biển hạn chế tốc độ dù hắn biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông

New York không chặn ai lại vì một lý do nhỏ như lái xe vượt quá tốc

độ.

Hắn dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên một tấm bảng dán thông

cáo của

Liên Hợp Quốc khác. Mắt hắn nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười,

nhạt nhẽo – như

những khuôn mặt ghê sợ được vẽ trên tường của khu nhà lớn – rồi nhìn

ra xa, thành phố quanh hắn. Đôi khi hắn thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và

thấy những tòa nhà thật to lớn, những mái đua bằng đá thật cao, kính

thật phẳng, những chiếc xe thật đẹp và con người thật tầm thường.

Thành phố mà hắn biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và

bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh

có ở khắp nơi – một số tên chỉ mới mười hay mười một tuổi – có thể

đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ đi với đồng hồ và ví tiền của ta... đó chính

là thành phố của Kẻ Tầm Xương.

Đôi khi hắn thấy mình trong tình trạng này – lái chiếc xe Taurus XL

màu bạc thật bảnh của mình trên con đường nhựa êm ái nghe đài

WNYC74 và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt

đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố không cho ta rẽ

phải khi có đèn đỏ.

Hắn nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng

tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức không ai có thể nghe thấy sự chống cự

của Hanna.

Đèn xanh.

Tất nhiên đó là một sự kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ đã thoát

khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu trên phố vào buổi tối,

không có quý ông đi kèm; và ngày nay thì điều này còn đặc biệt hơn

nữa. Nhưng vào cái đêm không may mắn ấy, Hanna không còn lựa

chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc

lát. Đứa con út của cô bị sốt và chồng cô đang thành tâm cầu nguyện

trong nhà thờ gần đó, cô lao vào bóng đêm đi mua thuốc đắp cho cái

trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, cô nó với con gái cả

của mình.

“Đóng cửa thật chặt con nhé. Mẹ sẽ về sớm.”

Nhưng, Chúa ơi, lời nói của cô không thành hiện thực. Ngay sau đó cô

gặp James

Schneider.

Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này

– gần nơi hắn chôn nạn nhân đầu tiên – là Hell’s Kitchen, khu West

Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland,

ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty

quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.

Hắn ngửi thấy mùi phân bón và không ngạc nhiên khi bống dưng nhìn

thấy một con ngựa lồng lên trước mặt.

Sau đó hắn nhận thấy con vật đó không phải là ma quỷ từ những năm

1800 mà là con ngựa được thắng vào một chiếc xe ngựa hai bánh chạy

trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa

của họ đặt ở đây.

Hắn cười với chính mình. Mặc dù đó là một âm thanh ghê rợn.

Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì đã xảy ra, vì chẳng có một

nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá rõ ràng sự

khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ đang cố chống cự vào con

đường nhỏ, đâm cô, ý định dã man của hắn ta là chưa giết ngay cô ta

mà chỉ khuất phục cô, đó là thói quen của hắn. Nhưng với sức mạnh

trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình

chắc chắn sẽ phải

74 WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New

York.

trở về với những đứa con còn non nớt của cô đã làm con quái thú thật

ngạc nhiên khi cô liên tục tấn công hắn; cô đấm liên tục vào mặt hắn,

rứt tóc trên đầu hắn.

Ngay lập  tức cô thoát  được và từ miệng cô vang lên tiếng thét khủng

khiếp. Schneider hèn nhát đánh cô thêm một, hai cú nữa rồi bỏ chạy.

Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó cô

đã chết trên tay một viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.

Câu chuyện trên xuất hiện trong một cuốn sách lúc này đang nằm trong

túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York75. Hắn không thể

giải thích được sự hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với

hắn. Nếu phải miêu tả mối quan hệ của hắn với cuốn sách, hắn có thể

nói hắn nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình

trạng rất tốt, một hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và

vật ban phước lành cho hắn. Hắn tìm thấy nó trong một nhánh nhỏ của

thư viện công cộng và hắn đã thực hiện một trong những vụ ăn cắp

hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra

khỏi tòa nhà.

Hắn đọc trong chương nói về Schneider hàng trăm lần và gần như đã

thuộc lòng. Lái xe thật từ từ. Họ đã gần đến nơi.

Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể không

còn sức sống của cô, anh ta nhìn vào mặt cô: lần cuối trước khi người

ta đưa cô đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người

chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và anh ta nhận thấy trên

gò má trắng như sứ của cô có vết thâm tím mang hình một biểu tượng

lạ lùng. Đấy là một biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và

một dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía trên.

Cảnh sát nói rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để

lại khi hắn đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử đã nhờ đến sự giúp

đỡ của một nghệ sĩ và anh ta đã phác thảo một hình ảnh bản gốc (Bạn

đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta đã thẩm vấn một số thợ kim

hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ một số người đã mua

chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý

ông đã mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài sự nghi ngờ, vì một người

là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong một trường

đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là một người đàn ông mà từ lâu

cảnh sát đã nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là

James Schneider.

Quý ông này đã từng có ảnh hưởng trong một số tổ chức từ thiện của

Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội

Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm

của cảnh sát khi một vài người lớn tuổi trong các nhóm nói trên biến

mất không lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị

kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra,  ông ta biến mất khỏi

tầm ngắm.

Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết một cách tàn bạo, có một cuộc truy

tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn không

tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp

khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa

75 Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.

ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hắn không hề e sợ; một

thảm kịch thực sự, chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát

tàn khốc đã xảy đến với thành phố đang nằm trong bàn tay ghê tởm

của hắn.

Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố nhỏ. Hắn mở

cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào một đường

hầm dài.

Sau khi chắc chắn nơi này không có ai, hắn đi ra sau xe. Hắn mở cốp

và lôi Hanna ra. Cô ta đầy thịt, béo, như một cái bao vải mềm oặt.

Hắn lại càng giận dữ và lôi cô ta xềnh xệch xuống một đường hầm rộng

khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy trên đầu họ. Hắn

nghe tiếng cô ta khò khè và đã định giơ tay tháo miếng băng dán miệng

thì hắn cảm thấy cô ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển

vì phải cố gắng kéo cô ta, hắn đặt cô ta xuống nền đường hầm và nới

lỏng miếng băng dính dán trên miệng cô ta. Không khí yếu ớt nhỏ giọt

vào trong. Cô ta có bị ngất không? Hắn lắng nghe tim cô ta. Hình như

nó vẫn đập tốt.

Hắn cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân cô ta, nghiêng về phía trước và

thầm thì: “Hanna, kommen Sie mit mir mit76”, Hanna, Goldschmidt...”

“Nein”, cô ta lẩm bẩm, giọng cô ta nhỏ dần rồi im bặt.

Hắn cúi gần hơn, tát nhẹ vào mặt cô ta. “Hanna, cô phải đi cùng tôi.”

Và cô ta hét lên: “Mein name ist micht Hanna77.” Rồi đánh trúng hàm

hắn.

Một chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu hắn và hắn nhảy sang bên

cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm

dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng hắn chạy rất nhanh theo cô. Hắn

bắt được cô khi cô chạy chưa được mười thước78. Cô ngã rất mạnh,

hắn ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.

Hắn nằm nghiêng khoảng một phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở,

tóm áo cô ta vì cô ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, cô ta cố

gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có – hai chân, cô ta nhấc chân

đạp rất mạnh vào tay hắn. Một cơn đau nhói xuyên suốt người hắn và

làm găng tay hắn tuột ra. Cô ta lại nhấc chân lên, hắn thoát được gọt

giày của cô ta chỉ vì cô ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi

nếu trúng chắc chắn hắn sẽ gãy xương.

“So nicht!79” Hắn gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng

cô ta, bóp mạnh cho tới khi cô ta quằn quại van xin, rồi không còn

quằn quại van xin được nữa. Cô ta giật giật vài cái rồi bất động.

Khi hắn nghe tim cô ta thì tiếng đập đã rất yếu. Lần này là thật. Hắn

nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo cô qua đường hầm để chỗ cái cột

trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng cô. Khi cô tỉnh

lại, bàn tay hắn lang thang trên cơ thể cô. Đầu tiên cô kinh ngạc sau đó

co rúm lại khi hắn chăm chút phần thịt sau tai cô. Khuỷu tay cô,

76 Kommen Sie mit mir mit: Đi với tôi (tiếng Đức).

77 Mein Name ist micht Hanna:  Tao không phải Hanna (tiếng Đức).

78 Thước (yard): Thước Anh, tương đương với 0,914m.

79 So nicht: Thôi đi (tiếng Đức).

quai hàm cô. Trên người cô không có nhiều chỗ làm hắn thích động

chạm. Cô ta như cái bị thịt... điều này làm hắn thấy ghê tởm.

Nhưng phía dưới lớp da... Hắn nắm chân cô thật chặt. Đôi mắt cô mở

to nhìn hắn lần tìm trong túi lấy ra một lưỡi dao. Không một chút chần

chừ, hắn luồn con dao xuyên qua da cô sâu, tới tận đoạn xương màu

vàng trắng. Cô thét lên qua lớp băng dính, một tiếng khóc điên dại, đá

thật mạnh nhưng chân đã bị trói chặt. Thích không, Hanna? Cô gái sụt

sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế hắn phải nghiêng tai xuống tận chân cô để nghe

tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đi đưa lại trên đoạn xường.

Kí... t...

Rồi hắn cầm tay cô.

Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát cô thảm hại lắc đầu, âm thầm van

xin. Ánh mắt hắn rơi xuống cánh tay mập mạp của cô, và nhát cắt tiếp

theo cũng thật sâu.. Cả người cô cứng lại vì đau. Thêm một tiếng thét

man dại, câm lặng nữa. Một lần nữa hắn cúi đầu như một nhạc sĩ, lắng

nghe tiếng lưỡi dao cạo trên xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít... Một lúc

sau hắn nhận ra cô đã bất tỉnh.

Cuối cùng hắn cũng dứt được mình ra và đi về phía chiếc xe. Hắn đặt

những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe một cây chổi và cẩn

thận quét hết dấu chân của họ. Hắn lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại,

vẫn để động cơ chạy và đi xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh

xe.

Hắn dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn cô ta, chỉ nhìn không

thôi. Bất ngờ, một nụ cười thoáng hiện trên môi Kẻ Tầm Xương. Hắn

ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên đã xuất hiện. Một tá

những cặp mắt nhỏ tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá... Có vẻ chúng đang

nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với một chút tò mò... và có thể cả đói

nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của hắn; Chúa biết, những hình ảnh

đó cũng đủ rõ ràng.

MƯỜI HAI

“Mel, nghiên cứu chỗ quần áo của Colfax xem. Amelia, cô làm ơn giúp

anh ấy một tay, được chứ?”

Cô vui vẻ gật đầu với anh ta, kiểu gật đầu lịch sự. Rhyme nhận ra là

anh đã khá giận cô.

Theo sự hướng dẫn của kỹ thuật viên, cô đeo găng tay cao su, nhẹ

nhàng mở đống quần áo, đặt phía dưới một tờ báo lớn và dùng bàn

chải lông ngựa chải vải. Mấy mảnh vụn nhỏ rơi xuống. Cooper dùng

băng dính nhặt chúng lên và soi dưới kính hiển vi.

“Không có gì nhiều”, anh ta báo cáo. “Hơi nước đã xóa hầu hết dấu

vết. Tôi thấy một ít đất, không đủ để làm D-G. Đợi chút... Tuyệt vời.

Tôi có một, hai sợi vải. Nhìn chúng này...”

Tôi chịu, Rhyme giận dữ nghĩ.

“Màu xanh hải quân, vải pha len và acrylic, tôi đoán thế. Nó không đủ

thưa để làm thảm và không cong. Như vậy đây là vải quần áo.”

“Trời nóng thế này chắc hắn sẽ không đi tất dày và mặc áo len. Mặt nạ

trượt tuyết?”

“Tôi cũng cá vậy”, Cooper nói.

Rhyme suy tư: “Như vậy hắn đã rất nghiêm túc trong việc cho ta cơ hội

cứu họ. Nếu hắn nghiêng về việc giết chóc, việc họ nhìn thấy hắn hay

không cũng không quan trọng.”

Sellitto thêm: “Còn có nghĩa là thằng khốn này nghĩ hắn có thể chạy

thoát. Không hề có ý định tự sát. Chỉ cho chúng ta thêm một ít quyền

lực đàm phán nếu hắn bắt con tin khi ta tóm hắn.”

“Tôi thích sự lạc quan của anh, Lon ạ”, Rhyme nói.

Thom ra mở cửa khi nghe tiếng chuông, một khắc sau Jim Polling leo

lên cầu thang, trông có vẻ phờ phạc và mệt nhọc. Được rồi, phải chạy

qua chạy lại giữa các cuộc họp báo, văn phòng ngài thị trưởng và tòa

nhà kiểu liên bang đã làm anh ta ra nông nỗi này.

“Cá hồi tệ quá”, Sellitto nói với anh ta. Sau đó giải thích cho Rhyme:

“Jimmy của chúng ta là một trong những người đi câu cá thực thụ. Tự

mắc mồi và làm những thứ khác. Còn tôi, tôi lên thuyền dự dạ hội với

sáu lon bia và tôi thấy vui.”

“Ta phải tóm thằng khốn này trước rồi nghĩ tới cá mú sau.”, Polling nói,

uống ly cà phê Thom để lại trên bậu cửa sổ. Anh ta nhìn ra ngoài và

chớp mắt ngạc nhiên khi nhìn thấy hai con chim lớn đang nhìn mình.

Anh ta quay lại phía Rhyme và giải thích vì có vụ bắt cóc mà anh ta đã

phải hoãn chuyến đi câu cá ở Vermont. Rhyme chưa bao giờ đi câu –

chưa bao giờ có thời gian hay xu hướng tìm cho mình bất kỳ mối quan

tâm nào khác – nhưng anh thấy ghen tị với Polling. Sự bình yên khi câu

cá hấp dẫn anh. Đó là môn thể thao mà anh có thể chơi một mình. Thể

thao của người tàn tật thường là những môn đối mặt. Đối kháng.

Chứng minh cho cả thế giới... và cho chính mình. Bóng rổ, xe

lăn, tennis, cuộc chạy marathon. Rhyme quyết định nếu anh cần phải

chơi môn thể thao nào thì sẽ là câu cá. Dù quăng dây câu bằng một

ngón tay có thể vẫn nằm ngoài tầm của công nghệ hiện đại.

Polling nó: “Báo chí gọi hắn ta là tên bắt cóc hàng loạt.” Nếu đúng thế,

Rhyme suy tư.

“Thị trưởng đang phát điên. Muốn gọi cho những nhân viên FBI. Tôi

đã thuyết phục sếp không làm gì trong vụ này. Nhưng chúng ta không

thể đánh mất thêm một nạn

nhân nữa.

“Chúng tôi sẽ cố hết sức” Rhyme chua cay nói.

Polling  hớp  một  ngụm cà  phê  đen  và  đến  gần  chiếc  giường. 

“Anh ổn  chứ, Lincoln?”

Rhyme nói: “Ổn cả.”

Polling đánh giá anh thêm một chút nữa, sau đó gật đầu với Sellitto.

“Hãy tóm tắt cho tôi. Chúng ta sẽ có một cuộc họp báo nữa, trong

vòng nửa tiếng. Cậu đã thấy cuộc họp trước chưa? Nghe những câu

hỏi của nhà báo chưa? Chúng ta nghĩ gia đình nạn nhân cảm thấy thế

nào khi cô ta bị hấp đến chết?”

Banks lắc đầu. “Trời ạ.”

“Tôi suýt chút nữa đánh thằng khốn đó.”, Polling nói.

Ba năm rưỡi trước, Rhyme nhớ lại, trong vụ điều tra sát hại cảnh sát,

viên đại úy này đã đập vỡ máy quay mới của nhân viên quay phim khi

một phóng viên hỏi rằng, có phải Polling quá xông xáo trong cuộc điều

tra vì nghi phạm, Dan Shepherd, là nhân viên trong lực lượng hay

không?

Polling và Sellitto đi về phía góc phòng và viên thám tử báo cáo với

anh ta. Khi viên đại úy xuống cầu thang, Rhyme nhận ra, sự sôi nổi của

anh ta không còn được một nửa.

“Được rồi”, Cooper tuyên bố. “Ta có được một sợi tóc. Trong túi cô

ta.”

“Nguyên một cọng?” Rhyme hỏi, không hy vọng nhiều lắm và không

ngạc nhiên khi thấy Cooper thở dài. “Xin lỗi, không có chân tóc.”

Không có chân tóc đi cùng, sợi tóc không được xem như chứng cứ cá

nhân; nó còn chưa chắc đã phải là một loại vật chứng. Ta không thể

dùng nó để kiểm tra DNA và gắn nó với một nhân vật cụ thể nào.

Nhưng nó vẫn có giá trị thử nghiệm tốt. Nghiên cứu nối tiếng của

Canadian Mounties mấy năm trước kết luận rằng nếu tóc để lại hiện

trường trùng với tóc của nghi phạm, thì xác suất hắn là người để lại sợi

tóc chỉ khoảng 4.500/1. Vấn đề của tóc là ta không thể tìm được nhiều

thông tin về chủ nhân của nó. Không thể xác định giới tính qua tóc,

cũng không thể xác định chính xác chủng tộc. Chỉ có thể ước lượng

qua tóc của trẻ vị thành niên. Không thể tin được màu tóc vì các loại

thuốc nhuộm và màu trang điểm, và ai cũng rụng mỗi ngày mấy chục

sợi tóc nên không thể nói được nạn nhân có bị hói đầu hay không.

“So sánh với tóc nạn nhân xem. Đếm kích thước và so sánh màu tóc

gốc’, Rhyme ra lệnh.

Một khắc sau, Cooper ngẩng đầu lên khỏi kính hiển vi, nói, “Không

phải tóc của

Colfax.”

“Miêu tả?” Rhyme hỏi.

“Nâu nhạt. Không xoăn nên tôi có thể nói không phải người da đen.

Màu tóc gốc nói rằng không phải người châu Á.”

“Vậy là người da trắng”, Rhyme nói, gật đầu về phía sơ đồ trên tường.

“Khẳng định điều nhân chứng đã nói. Tóc hay lông trên cơ thể?”

“Có rất ít biến đổi trong phân bố đồng dạng hạt màu tóc. Tôi sẽ nói đó

là tóc.” “Chiều dài?”

“Ba cm.”

Thom hỏi anh ta có cần thêm vào hồ sơ là tóc tên bắt cóc màu nâu hay

không. Rhyme nói không. “Ta sẽ đợi thêm những chứng cứ chắc chắn

hơn. Chỉ cần viết là

ta biết hắn đeo mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân. Cạo móng tay có

gì không, Mel.” Cooper xem xét dấu vết nhưng không tìm thấy gì hữu

ích.

“Dấu tay mà cô tìm thấy. Trên tường ấy. Hãy nhìn nó đi. Amelia, cô

cho tôi xem, được không?”

Sachs ngần ngừ một chút, sau đó đem bức hình Polaroid ra chỗ anh ta.

“Con quái vật của cô”, Rhyme nói. Đó là một bàn tay to lớn, biến

dạng, thực sự kỳ quái, không có những đường rẽ nhánh và xoắn ốc

thanh lịch của vân tay mà là hình hoa văn lốm đốm với những đường

thẳng nhỏ xíu.

“Một bức tranh tuyệt đẹp – cô gần như là Edward Weston80  rồi,

Amelia. Nhưng đáng tiếc đấy không phải là bàn tay. Kia không phải

vân tay. Đấy là găng tay. Da. Đã cũ. Đúng không, Mel?”

Tay kỹ thuật viên gật đầu.

“Thom, hãy viết là hắn có một đôi găng tay cũ”, Rhyme nói với những

người khác. “Chúng ta bắt đầu có vài ý tưởng về hắn. Hắn không để lại

dấu vân tay của hắn ở hiện trường. Nhưng hắn để lại dấu găng tay.

Nếu tìm thấy đôi găng tay do hắn sở hữu, chúng ta vẫn có thể đưa hắn

vào hiện trường. Hắn nhanh trí. Nhưng chưa thật thông minh.”

bụi?”

Sachs hỏi: “Những tên tội phạm thông minh mặc đồ gì?”

“Đồ da lộn vải bông”, Rhyme nói. Sau đó hỏi: “Cái túi lọc đâu? Của

máy hút

Tay kỹ thuật viên đổ những thứ trong bộ lọc hình nón – trông như bộ

lọc trong

máy pha cà phê – ra một tờ giấy trắng.

Vật chứng dấu vết...

80 Edward Henry Weston (1886 - 1958): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng

người Mỹ.

Công tố viên, các nhà báo và quan tòa thích những chứng cứ rõ ràng.

Những đôi găng đẫm máu, dao, những khẩu súng vừa nhả đạn, các

bức thư tình, tinh dịch và dấu vân tay. Nhưng chứng cứ yêu thích của

Rhyme là dấu vết – bụi hay những thứ phát sinh từ hiện trường vụ án,

rất dễ bị bọn tội phạm bỏ qua.

Nhưng máy hút bụi không hút được gì hữu ích.

“Được rồi”, Rhyme nói. “Ta tiếp tục nào. Hãy nhìn cái còng tay.”

Sachs cứng người khi Cooper mở cái túi nhựa và đổ chiếc còng lên

một tờ báo. Như Rhyme đã dự kiến, có rất ít máu. Bác sĩ lưu động từ

văn phòng giám định y khoa đã dùng cái cưa sắt, sau khi luật sư của

NYPD fax giấy phép đến Phòng Giám Định Y khoa.

Cooper xem xét cái còng rất cẩn thận. ”Hãng Boy & Keller. Loại hạng

bét. Không có số thứ tự.” Anh ta phun chrome với DFO lên đó và

chiếu đèn PoliLight. ”Không có có dấu tay, chỉ có một vết bẩn dây từ

găng tay.”

“Mở nó ra xem sao.”

Cooper dùng chìa khóa đa năng mở còng. Anh ta dùng khí nén rửa

kính thổi vào ổ

khóa.

“Cô vẫn giận tôi đấy à, Amelia?” Rhyme nói. “Về vụ hai bàn tay ấy.”

Câu hỏi làm cô bất ngờ. “Tôi không giận.” Cô nói sau một lúc. “Tôi

nghĩ thế là

không chuyên nghiệp. Cái điều anh bảo tôi làm.” “Cô có biết Edmond

Locard là ai không?” Cô lắc đầu

“Một người Pháp. Sinh năm 1877. Ông ta sáng lập Viện Hình sự học

của trường Đại học Tổng hợp Lyon. Ông ta phát minh ra một quy tắc

mà tôi luôn tuân thủ khi điều hành IRD. Nguyên tắc Trao đổi của

Locard. Ông ta nghĩ rằng bất cứ khi nào hai người tiếp xúc với nhau,

một thứ gì đó từ một người sẽ được trao đổi với người khác và ngược

lại. Có thể là bụi, tế bào da, bùn đất, sợi, mạt kim loại. Nhưng việc

trao đổi này có xảy ra

– vì thế chúng ta có thể bắt được nghi phạm.”

Câu chuyện này chẳng làm cô quan tâm tí nào.

“Cô may mắn đấy”, Mel Cooper nói với Sachs mà không nhìn lên.

“Anh ta đã định bắt cô và bác sĩ xem xét những thứ trong dạ dày của

cô ta đấy.”

“Điều đó có thể có ích”, Rhyme nói, tránh ánh mắt cô. “Tôi thuyết

phục anh ta thôi đấy”, Cooper nói.

“Khám nghiệm tử thi”, Sachs nói và thở dài, tựa như chẳng có điều gì

mà Rhyme nói có thể làm cho cô ngạc nhiên.

Tại sao, thậm chí cô ta còn chẳng ở đây nữa, anh giận dữ nghĩ. Đầu óc

cô ta lơ lửng cách đây hàng nghìn dặm.

“À”, Cooper nói. “Tôi tìm thấy gi này. Tôi nghĩ đó là một mẩu găng

tay.” Cooper đặt mẩu nhỏ lên kính hiển vi. Xem xét nó.

“Da. Nhuộm đỏ. Một mặt được đánh bóng.”

“Màu đỏ, thế là tốt”, Sellitto nói. Với Sachs, anh ta giải thích: “Quần áo

của bọn chúng càng man dại, càng dễ tìm ra chúng. Họ không dạy cô

điều này trong học viện, tôi cá là như thế. Lúc nào đó tôi sẽ kể cô nghe

chúng tôi đã tóm cổ Jimmy Plaid, trong băng nhóm của Gambino như

thế nào. Cậu còn nhớ chuyện đó chứ, Jerrry?”

“Ta có thể phát hiện cái quần đùi đó cách hàng dặm”, viên thám tử trẻ

tuổi nói. Cooper nói tiếp: “Da đã bị khô. Không có nhiều dầu trong

hạt. Anh đúng khi nói

đôi găng đã cũ.”

“Da gì vậy?”

“Tôi sẽ nói đấy là cừu non. Chất lượng cao.”

“Nếu đôi găng tay mới, điều đó có thể có nghĩa là hắn ta giàu”, Rhyme

lẩm bẩm. “Nhưng vì đấy là găng cũ, hắn có thể tìm thấy chúng hoặc

mua hàng dùng rồi. Có vẻ là không thể suy luận được từ đồ phụ kiện

của nghi phạm 823. Được rồi, Thom, thêm vào hồ sơ đôi găng tay da

cừu đó. Ta còn có thêm gì nữa nhỉ?”

“Hắn sử dụng nước hoa dùng sau dao cạo râu”, Sachs nhắc anh.

“Tôi quên mất. Tốt. Có thể dùng để che giấu mùi khác. Đôi khi bọn tội

phạm cũng làm thế. Viết đi, Thom. Nó có mùi như thế nào, Amelia?

Cô tả xem nào.”

“Không. Như rượu gin.”

“Dây phơi thì sao?” Rhyme hỏi.

Cooper xem xét sợi dây. “Trước đây tôi từng thấy loại này rồi. Dây

nhựa. Bện từ vài tá dây nhỏ làm từ sáu tới mười loại nhựa khác nhau

và một – không phải, hai sợi dây kim loại.”

“Tôi muốn có nhà sản xuất và nguồn.”

Cooper lắc đầu. “Không được. Quá chung chung.” “Mẹ kiếp”, Rhyme

lẩm bẩm. “Nút thắt thì sao?”

“Đây là thứ khác thường. Rất hiệu quả. Xem nó được quấn vòng hai

lần như thế nào này. Dây là từ nhựa PVC là loại dây khó thắt nút nhất,

nhưng cái nút này không tuột được.”

“Họ có cơ sở dữ liệu nút thắt ở trung tâm không nhỉ?” “Không”

Không thể tha thứ được, anh nghĩ.

“Thưa ngài?”

Rhyme quay về phía Banks.

“Tôi đã từng lái thuyền buồm...” “Ở Westport”, Rhyme nói.

“À, thật ra là đúng như vậy. Sao anh biết?”

Nếu ta điều tra pháp lý về xuất xứ của Jerry Banks, kết quả sẽ là

Connecticut. “Đoán mò ấy mà.”

“Nó không thuộc hàng hải. Tôi không nhận ra nó.”

“Thật tốt khi biết điều đó. Treo nó lên kia đi.” Rhyme hất đầu về phía

bức tường, bên cạnh tấm hình Polaroid của miếng giấy bóng kính và

bức tranh của Monet. “Ta nghiên cứu nó sau.”

Chuông cửa reo và Thom biến đi mở cửa. Rhyme cảm thấy một chút

tệ hại khi nghĩ đó là bác sĩ Berger trở lại để nói với anh rằng ông ta

không còn quan tâm đến việc trợ giúp anh trong “dự án” của họ nữa.

Nhưng tiếng bốt giẫm nặng nề nói với Rhyme ai đang đến.

Những sĩ quan của Đội Đặc nhiệm, tất cả đều to lớn, tất cả đều u ám,

mặc đồng phục chiến đấu, lịch sự vào phòng, gật đầu chào Sellitto và

Banks. Họ là những người đàn ông hành động và Rhyme cá là phía sau

hai mươi con mắt bất động kia là mười phản ứng rất tệ hại trước hình

ảnh một người đàn ông phải nằm ngửa vĩnh viễn.

“Các quý ông, các anh đã biết về vụ bắt cóc tối qua và cái chết của

nạn nhân chiều nay”, anh tiếp tục nói bằng một giọng khẽ khàng nhưng

chắc chắn. “Nghi phạm của chúng ta có một nạn nhân khác. Chúng tôi

có một số dấu vết cho vụ này và tôi cần các anh đến mấy nơi quanh

thành phố để lấy vật chứng. Lập tức và đồng thời. Mỗi người, một

chỗ.”

“Ý anh là...”, một sĩ quan để ria mép hỏi không chắc chắn, “không có

yểm trợ?”. “Anh sẽ không cần đến.”

“Với tất cả sự tôn trọng, thưa ngài. Tôi không có ý định tham gia vào

bất cứ tình huống chiến thuật nào mà không có yểm trợ. Ít nhất phải có

một công sự chứ.”

“Tôi không nghĩ sẽ có đấu súng. Mục tiêu là chuỗi những cửa hàng

thực phẩm lớn trong thành phố.”

“Cửa hàng thực phẩm?”

“Không phải tất cả. Chỉ cần một cửa hàng nằm trong chuỗi các cửa

hàng J&G’s, ShopRite, Food Warehouse,...”

“Chính xác là chúng tôi sẽ làm gì?” “Mua chân bê.”

“Cái gì?”

“Một gói từ mỗi cửa hàng. Tôi e là tôi phải yêu cầu các anh tự trả tiền,

thưa các quý ông. Nhưng thành phố sẽ thanh toán cho cách anh. Ồ,

mà chúng tôi cần nó càng sớm càng tốt.”

Cô nằm nghiêng, bất động.

Mắt cô đã quen với bóng tối lờ mờ của đường hầm và cô có thể nhìn

thấy những con vật khốn khiếp đang lại gần hơn. Cô đặc biệt để mắt

đến một con.

Chân Monelle đau ghê gớm, nhưng cơn đau chính lại nằm ở cánh tay,

chỗ hắn cắt sâu vào da thịt. Vì tay bị còng ra sau nên cô không nhìn

thấy vết thương, không biết mình chảy bao nhiêu máu. Nhưng chắc là

rất nhiều; cô cảm thấy rất uể oải và có thể cảm nhận được vết thương

rỉ máu dinh dính trên tay và bên sườn.

Có tiếng cào – những cái móng hình kim cào trên nên xi măng. Những

khối màu nâu xám hối hả lao trong bóng tối. Những con chuột cống

tiếp tục giật cục đi về phía cô. Chúng phải có đến hàng trăm con.

Cô bắt mình nằm im và theo dõi con chuột đen. Schwarzie, cô đặt tên

cho nó. Nó đứng ngay trước mặt, đi tới đi lui, nghiên cứu cô.

Monelle Gerger đã đi vòng quanh thế giới hai lần khi cô mới mười chín

tuổi. Cô đi nhờ xe dọc Sri Lanka, Campuchia và Pakistan. Đi qua

Nebraska, nơi những người đàn bà nhìn bộ ngực không áo lót và

những cái vòng đeo lông mày của cô với vẻ khinh miệt. Đi qua Iran, nơi

những người đàn ông nhìn cánh tay trần của cô như lũ chó động đực.

Cô ngủ trong công viên thành phố ở Thành phố Guatemala và ở ba

ngày với lực lượng nổi loạn ở Nicaragua lúc bị lạc đường khi đến khu

bảo tồn động vật hoang dã.

Nhưng chưa bao giờ cô hoảng sợ như lúc này.

Mein Gott.

Và điều cô hoảng sợ nhất chính là điều cô sắp làm với bản thân mình.

Một con chuột chạy tới gần, thân thể màu nâu của nó lao tới trước, lùi

lại sau, rồi lại tiến lên mấy inch. Bọn chuột đang sợ, cô nghĩ vậy, vì

chúng chuyển động giống bò sát hơn bọn gặm nhấm. Một cái mũi rắn,

cái đuôi rắn. Và những cặp mắt đỏ ngầu khốn khiếp.

Đằng sau đó là Schwarzie, to gần bằng một con mèo nhỏ. Nó đứng

trên hai chân sau nhìn thứ làm nó phấn khích. Quan sát. Chờ đợi.

Thế rồi con chuột con tấn công. Vội vàng trên bốn cái chân nhọn hoắt,

lờ đi tiếng thét bị bóp nghẹt của cô, nó lao tới, nhanh và thắng. Nhanh

như sóc, nó rứt một miếng thịt từ cái chân bị cắt của cô. Vết thương

nhói lên như bị bỏng. Monelle kêu ré lên – vì đau, và vì giận dữ. Tao

không cần mày. Cô đạp gót giày rất mạnh lên lưng nó với một tiếng rắc

khô khốc. Nó giãy một cái rồi nằm im.

Một con khác xông lên cổ cô, rứt một miếng rồi chạy lui, nhìn chằm

chằm vào cô, nháy nháy mũi như thế nó đang liếm mép, hưởng thụ mùi

vị của cô.

Dieser Schmerz81...

Cô rùng mình vì cơn đau rát tỏa ra từ vết cắn. Dieser Schmerz! Đau

quá! Monelle bắt mình nằm im.

Kẻ tấn công tí hon định lao lên lần nữa, nhưng rồi động đậy và quay đi.

Monelle biết tại sao. Schwarzie cuối cùng đã tiến lên hàng đầu. Nó đi

lấy cái nó muốn.

Tốt, tốt.

81 Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).

Nó là con chuột cô đang chờ đợi. Vì có vẻ như nó không quan tâm

đến máu thịt cô; cách đây hai mươi phút nó đã tới gần, phấn khích với

miếng băng dính màu bạc dán trên miệng cô.

Con chuột bé hơn vội vàng chạy đến nhập đàn khi Schwarzie tiến lên

trên những cái chân tí hon, bẩn thỉu. Dừng lại. Lại tiến lên. Sáu feet,

năm.

Rồi ba.

Cô nằm im như chết. Thở thật nhẹ hết mức có thể, sợ hơi thở của mình

sẽ làm con chuột sợ hãi.

Schwarzie dừng lại. Rồi tiến lên. Sau đó dừng hẳn. Cách đầu cô hai

feet. Không được động đậy.

Lưng nó vồng cao, môi nó liên tục đưa đẩy trên hàm răng nâu vàng.

Nó tiến lên thêm một foot nữa và dừng lại, mắt đảo điên. Ngồi dậy,

xoa hai cái chân đầy móng vuốt vào nhau, rồi lại tiến lên.

Monelle Gerger giả chết.

Chỉ còn sáu inch nữa thôi. Vorwärts82!

Nào!

Thế rồi nó đến sát mặt cô. Cô ngửi thấy mùi rác rưởi và dầu mỡ trên

cơ thể nó, mùi phân, mùi thịt thối. Nó đánh hơi và cô cảm thấy những

cái râu của nó cù mũi cô buồn không chịu nổi khi những cái răng nhỏ

xíu thò ra khỏi miệng và bắt đầu gặm miếng băng dính.

Nó gặm quanh miệng cô tới năm phút. Có lúc, một con chuột khác

xông tới, cắn vào mắt cá chân của cô. Cô nhắm mắt và cố quên cơn

đau. Schwarzie đuổi nó đi rồi đứng trong bóng tối nghiên cứu cô.

Vorwärts, Schwarzie! Nào!

Nó từ từ quay lại chỗ cô. Lệ ròng ròng trên má, Monelle miễn cưỡng

hạ thấp miệng mình xuống cho nó.

Gặm, gặm… Nào!

Cô cảm thấy hơi thở nóng bức, ghê tởm của nó trong miệng mình khi

nó cắn xuyên qua lớp băng dính và bắt đầu rứt ra những miếng nhựa

lớn lấp loáng màu bạc. Nó kéo những mẫu nhựa từ miệng ra, tham lam

kẹp chúng giữa hai chân trước.

Không hiểu đã đủ lớn chưa? Cô tự hỏi. Phải thế thôi. Cô không thể

chịu nổi nữa.

Cô chậm rãi nhấc đầu lên, từng mm một. Schwarzie nháy mắt và

nghiêng về phía trước, vẻ tò mò.

82 Vorwärts: Lên đi (tiếng Đức).

Monelle há rộng miệng và nghe thấy âm thanh tuyệt vời khi miếng băng

dính rách toang. Cô hít không khí thật sâu vào phổi. Cô lại thở được

rồi!

Và cô đã có thể kêu cứu.

“Bitte, helfen Sie mir!83”

Schwarzie lùi lại, giật mình vì tiếng hú dựng tóc gáy của cô, đánh rơi cả

miếng băng dính bạc quý báu của nó. Nhưng nó không chạy xa. Nó

dừng và quay lại, đứng lên hai chân sau béo mập.

Lờ đi cái cơ thể gù đen ngòm của nó, cô đá cái cột mà cô đang bị trói

vào. Bụi và bùn đất rơi xuống như một màn tuyết nâu nhưng cây cột gỗ

không động đậy. Cô la hét cho tới khi họng bỏng rát.

“Bitte!84”

Dòng xe cộ nhớp nháp nuốt chửng âm thanh đó.

Bất động một lúc. Sau đó Schwarzie bắt đầu đi lại phía cô. Lần này nó

không đi một mình. Một đàn chuột gian xảo đi theo nó. Run rẩy, căng

thẳng. Nhưng cương quyết tiến lên khi ngửi thấy mùi máu hấp dẫn của

cô.

Xương và gỗ, gỗ và xương.

“Mel, anh có gì đằng kia thế?” Rhyme hất đầu về phía cái máy tính gắn

với máy

GC-MS. Cooper đang thử lại chỗ bụi họ tìm thấy trong mẫu gỗ. “Vẫn

rất giàu nitrogen. Vượt ngưỡng.”

Ba lần thử riêng biệt, kết quả như nhau. Kiểm tra chẩn đoán cho thấy

thiết bị làm việc tốt. Cooper suy tư rồi nói: “Nhiều nitrogen như vậy thì

có thể là nơi sản xuất súng hoặc đạn dược.”

“Thế thì phải là Connecticut, không phải Manhattan.” Rhyme nhìn đồng

hồ. 6:30. Ngày hôm nay thời gian trôi thật nhanh. Ba năm rưỡi qua nó

trôi mới chậm làm sao. Anh cảm thấy như anh đã thức nhiều ngày liền.

Viên thám tử trẻ tuổi miệt mài trên tấm bản đồ Manhattan, đẩy miếng

xương đốt sống nhợt nhạt vừa rơi xuống nền nhà lúc nãy sang một bên.

Cái đĩa đó là do một chuyên gia cột sống của Rhyme, Peter Taylor, để

lại. Trong một lần gặp trước với anh ta. Người bác sĩ lành nghề đã

khám cho anh, sau đó ngồi vào chiếc ghế mây kêu sột soạt và lấy thứ

gì đó trong túi ra.

“Thời gian để diễn và nói”, người bác sĩ nói. Rhyme liếc nhìn bàn tay

mở rộng của Taylor.

83 Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).

84 Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).

“Đây là đốt sống thứ tư. Giống như đốt sống ở cổ anh. Cái đốt sống bị

vỡ. Anh có thấy mẩu đuôi bé ở đây không?” Tay bác sĩ xoay khúc

xương lại một lúc rồi hỏi. “Anh nghĩ gì khi anh nhìn thấy nó?”

Rhyme kính trọng Taylor – người không đối xử với anh như một đứa

trẻ hay thằng dở hơi hay sự bất tiện lớn – nhưng ngày hôm đó anh

không có tâm trạng chơi trò gây cảm hứng. Anh không trả lời.

Taylor vẫn nói tiếp: “Vài bệnh nhân của tôi nghĩ nó giống như con cá

đuối. Một số khác cho rằng đó là tàu vũ trụ. Hoặc một cái máy bay.

Hay xe tải. Bất cứ lúc nào tôi hỏi câu này, người ta thường so sánh nó

với cái gì đó to lớn. Không ai nói: ‘Ồ, một mẩu calcium và magnesium.’

Thấy không, họ không thích ý tưởng là một thứ gì đó rất tầm thường

như thế lại biến cuộc sống của họ thành địa ngục.”

Rhyme nhìn lại ông ta với vẻ nghi ngờ nhưng ông bác sĩ tóc bạc, điềm

tĩnh này là một tay cứng rắn với các bệnh nhân SCI nên ông ta lịch sự

nói: “Đừng làm tôi cụt hứng chứ, Lincoln.”

Taylor đưa cái đĩa lại gần mặt Rhyme. “Anh nghĩ rằng không công

bằng khi một thứ nhỏ thế này có thể đem đến cho anh nhiều đau khổ

đến vậy. Nhưng quên nó đi. Quên nó đi. Tôi muốn anh nhớ những điều

trước khi xảy ra tai nạn. Những điều tốt và điều xấu trong cuộc đời

anh. Hạnh phúc, khổ đau… Anh có thể cảm thấy những điều này lần

nữa.” Khuôn mặt ông bác sĩ chuyển thành bất động. “Nhưng thành

thực mà nói, tất cả những gì tôi đang nhìn thấy lúc này là một kẻ đang

đầu hàng.”

Taylor để khúc xương lại trên cái bàn đầu giường. Có vẻ như tình cờ.

Nhưng sau đó Rhyme nhận thấy trong hành động này có sự tính toán.

Mấy tháng qua, khi Rhyme đang cố quyết định có nên tự tử hay

không, anh thường nhìn cái đĩa nhỏ đó. Nó đã trở thành biểu tượng cho

luận điểm của Taylor – luận điểm ủng hộ cuộc sống. Nhưng cuối cùng

phía này đã thua; những lời nói của ông bác sĩ, có đúng đến đâu chăng

nữa cũng không thể vượt qua được gánh nặng của những cơn đau, đau

đầu và kiệt sức mà Lincoln Rhyme phải chịu đựng ngày này qua ngày

khác.

Lúc này anh tránh nhìn chiếc đĩa – quay sang Amelia Sachs – và nói:

“Tôi muốn cô nghĩ lại về hiện trường một lần nữa.”

“Tôi đã nói với anh mọi thứ tôi nhìn thấy.”

“Không phải là nhìn thấy. Tôi muốn biết tất cả những gì cô cảm thấy.”

Rhyme nhớ lại hàng nghìn lần anh khám nghiệm hiện trường. Đôi khi

phép màu cũng xảy ra. Anh có thể nhìn ngó xung quanh và bằng cách

nào đó các ý tưởng về đối tượng sẽ đến với anh. Anh không thể giải

thích được nó như thế nào. Những nhà hành vi học nói về việc lập hồ

sơ như thể chính họ là người sáng chế ra nó. Nhưng các nhà hình sự

học đã lập hồ sơ từ hàng trăm năm nay. Đan lưới, đi ở chỗ hắn đã đi,

tìm những thứ hắn để lại, nghĩ ra hắn sẽ đem gì theo – và ta sẽ rời khỏi

hiện trường với một hồ sơ rõ ràng như một bức chân dung.

“Nói tôi biết”, anh hỏi. “Cô cảm thấy gì?”

“Khó chịu. Căng thẳng. Nóng bức.” Cô nhún vai. “Tôi không biết, tôi

thực sự không biết. Xin lỗi.”

Nếu có thể di chuyển, Rhyme đã nhảy ra khỏi giường, nắm lấy vai cô

mà lắc. Hét lên: Nhưng cô biết tôi đang nói gì mà! Tôi biết là cô biết.

Tại sao cô không làm việc với tôi?… Tại sao cô lờ tôi đi?

Nhưng anh hiểu ra một điều gì đó… Hiểu rằng cô đã ở đó, trong cái

tầng hầm ngột ngạt. Cúi người xuống cơ thể bị phá nát của T.J. Ngửi

thứ mùi ghê tởm. Anh nhìn thấy điều đó trong ngón tay cái bị cậy đến

bật máu của cô, anh nhìn thấy điều đó trong cách cô giữ một khoảng

cách lịch sự giữa họ. Cô ghê tởm việc có mặt trong cái tầng hầm kinh

khủng đó và cô căm thù anh vì anh nhắc nhở cô rằng, một phần của cô

vẫn còn ở đó.

“Cô đã đi ngang qua phòng”, anh nói.

“Tôi thực sự không nghĩ rằng tôi có thể giúp gì thêm.”

“Chơi thôi mà”, anh nói, cố dẹp cơn giận. Anh cười. “Nói cho tôi biết

cô nghĩ gì?” Khuôn mặt cô bất động và cô nói: “Chỉ là… những ý nghĩ.

Những ấn tượng thì ai

cũng có.”

“Nhưng cô đã ở đó. Mọi người thì không. Nói cho chúng tôi nghe đi.”

“Kiểu như… rất đáng sợ.” Cô nói và cảm thấy hối tiếc vì những từ ngữ

vụng về.

Nghiệp dư.

“Tôi cảm thấy…”

“Ai đó đang nhìn cô?” Anh hỏi.

Điều đó làm cô ngạc nhiên. “Đúng. Chính xác là thế.”

Rhyme cũng đã từng cảm thấy như vậy. Nhiều lần. Anh cảm thấy điều

đó ba năm rưỡi trước, khi cúi mình xuống cơ thể đang phân hủy của

người cảnh sát trẻ tuổi, nhặt một sợi vải trên bộ cảnh phục. Anh chắc

chắn có ai đó ở gần. Nhưng chẳng có ai – chỉ là một cái rầm gỗ sồi lớn

chọn đúng khoảnh khắc đó để gầm lên, tăng tốc và rơi trúng đốt sống

cổ thứ tư của Lincoln Rhyme với sức nặng của cả quả đất.

“Cô còn nghĩ gì nữa, Amelia?”

Cô không chống cự nữa. Môi cô thư giãn, mắt cô trôi theo bức tranh

Nighthaws – những người ăn tối, cô đơn hay đơn độc một cách mãn

nguyện. Cô nói: “Được rồi, tôi nhớ là tôi nói với chính mình: ‘Trời ạ,

chỗ này cổ thật.’ Nó giống như những bức tranh mà ta nhìn thấy ở đó

các nhà máy trong giai đoạn chuyển giao thế kỷ. Và tôi…”

“Đợi đã”. Rhyme quát lên. “Hãy nghĩ về điều này xem. Cổ xưa…”

Ánh mắt anh lướt qua tấm bản đồ Randel Survey. Trước đó anh đã

nhận xét về sự quan tâm của nghi phạm về New York lịch sử. Tòa nhà

nơi T.J. chết cũng là một tòa nhà cổ. Và đường hầm nơi họ tìm thấy

xác chết đầu tiên cũng vậy. Tàu hỏa Trung tâm New York đã từng

chạy trên mặt đất. Có quá nhiều tai nạn gây thương vong đến mức Đại

lộ Mười một được đặt tên là Đại lộ Death và tuyến đường sắt cuối

cùng bị bắt buộc phải đi ngầm.

“Và Phố Pearl”, anh lẩm bẩm một mình, “là con đường vòng chính của

New York trước kia. Vì sao hắn lại quan tâm đến những thứ đồ cổ?”.

Anh hỏi Sellitto: “Terry Dobyns còn làm việc cho chúng ta không?”

“Ồ, anh chàng bác sĩ tâm thần? Còn. Chúng tôi cùng làm một vụ năm

ngoái. Nhân tiện, anh ta có hỏi anh. Nói là anh ta có gọi điện một, hai

lần, và anh không bao giờ…”

“Được rồi, được rồi, được rồi”, Rhyme nói. “Gọi anh ta đến đây. Tôi

muốn anh ta suy nghĩ về khuôn mẫu của 823. Còn bây giờ, Amelia, cô

còn nghĩ gì nữa?”

Cô nhún vai nhưng tỏ ra rất lãnh đạm. “Chẳng có gì.” “Không có?”

Thế thì cô có giữ lại cảm giác của mình không? Anh băn khoăn, nhớ lại

điều gì đó mà Blaine có nhắc tới một lần khi nhìn thấy một người phụ

nữ đẹp bước đi trên Đại lộ Năm: Hàng càng đẹp càng khó mở.

“Tôi không biết…Được rồi, tôi nghĩ tôi có nhớ một việc tôi đã nghĩ

đến. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Nó không giống như một

quan sát, thế nào nhỉ, chuyên nghiệp.”

Chuyên nghiệp…

Thật tệ hại khi tự mình đặt tiêu chuẩn cho mình, phải không Amelia?

“Hãy cứ nghe xem thế nào”, anh nói với cô ta.

“Khi anh nói với tôi hãy giả vờ tôi là hắn? Và tôi tìm thấy chỗ mà hắn

đứng để nhìn cô ta?”

“Tiếp tục đi.”

“Tôi nghĩ…” Trong một khoảnh khắc có vẻ như lệ sắp tràn lên đôi mắt

đẹp của cô, anh nhận thấy chúng có sắc xanh óng ánh. Ngay lập tức

cô kiểm soát được mình. “Tôi băn khoăn không biết cô ta có nuôi chó

không. Cô Colfax ấy mà.”

“Chó? Tại sao cô lại băn khoăn về điều đó?”

Cô ngừng lại một lát rồi nói: “Bạn tôi… vài năm trước. Chúng tôi có

nói chuyện mua một con chó khi, đúng hơn là nếu, chúng tôi dọn đến ở

với nhau. Tôi luôn muốn có một con. Một con chó giống collie. Thật

buồn cười. Đó là giống chó mà bạn tôi cũng rất thích. Thậm chí trước

cả khi chúng tôi biết nhau.”

“Một con chó.” Tim Rhyme nổ bục như một con ruồi lao đầu vào cửa

kính mùa hè. “Và?”

“Tôi nghĩ rằng người phụ nữ đó…” “T.J.” Rhyme nói.

“T.J.” Sachs tiếp tục. “Tôi chỉ nghĩ thật buồn nếu cô ta có con vật cưng

nào mà không thể về nhà và chơi đùa với chúng nữa. Tôi không hề nghĩ

về chồng hay bạn trai cô ta. Tôi chỉ nghĩ về bọn thú cưng.”

“Nhưng vì sao lại là ý nghĩ đó? Chó, những con vật cưng? Tại sao?”

“Tôi không biết tại sao.”

Im lặng.

Cuối cùng cô nói: “Tôi hình dung tôi nhìn cô ta bị trói ở đó…Và tôi

nghĩ cách hắn đứng tránh sang một bên để nhìn cô ta. Đứng giữa

những cái thùng dầu. Giống như hắn đứng nhìn một con vật ở một bãi

chăn được rào kín.”

Rhyme nhìn những sơ đồ sóng hình sin trên màn hình máy tính GC-MS.

Thú vật…

Nitrogen…

“Phân!” Rhyme kêu lên.

Mọi người quay lại nhìn anh.

“Đấy là phân.” Nhìn chằm chằm vào màn hình.

“Đúng, tất nhiên rồi!” Cooper vò đầu nói. “Toàn nitrogen. Đấy là phân

bón. Và là loại phân bón cũ.”

Thình lình Rhyme có cảm giác về một trong những khoảnh khắc mà

trước đây anh đã gặp. Một ý nghĩ vừa lao vào đầu anh. Hình ảnh của

những con cừu.

Sellitto hỏi: “Anh ổn chứ?”

Một con cừu, lang thang trong phố. Giống như hắn đứng nhìn một con

vật… “Thom”, Sellitto nói, “anh ấy ổn chứ?”

… ở một bãi chăn được rào kín.

Rhyme có thể hình dung ra con vật vô tư. Một quả chuông treo trên

cổ, hàng chục con khác theo sau.

“Lincoln”, Thom nói một cách gấp gáp, “anh đang đổ mồ hôi đấy, anh

ổn chứ?” “Suỵt…”, nhà hình sự học ra lệnh.

Anh cảm thấy cơn ngứa lan xuống mặt. Cảm hứng và trụy tim; triệu

chứng giống nhau một cách kỳ lạ. Nghĩ, nghĩ đi…

Xương, cột trụ gỗ và phân bón…

“Rồi!” Anh thì thầm. Con cừu Judas85, dẫn đàn của mình đến chỗ

chết.

“Trại chăn nuôi”, Rhyme nói với cả phòng. “Cô ta bị nhốt ở trong một

trại chăn

nuôi.”

85 Judas:  Tên một nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa

Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.

MƯỜI BA

“Nhưng ở Manhattan không có cái trại chăn nuôi nào cả.”

“Trước đây, Lon ạ”, Rhyme nhắc anh ta. “Những thứ cổ xưa làm hắn

phấn khích. Làm cho máu hắn chảy. Ta phải nghĩ đến những trại chăn

nuôi cũ. Càng cũ càng tốt.”

Khi nghiên cứu để viết cuốn sách của mình, Rhyme đã đọc về một vụ

giết người mà tên tội phạm quý tộc Owney Madden bị kết tội: bắn chết

một đối thủ bán rượu lậu ngay bên ngoài nhà hắn tại Hell’s Kitchen.

Madden không bao giờ bị kết án – dù sao đi nữa cũng không phải vì

một vụ án mạng ngoại lệ. Hắn đứng lên, bằng một giọng Anh đầy nhịp

điệu, hắn đã giảng bài cho phòng xử án về sự phản bội. “Toàn bộ vụ

này là do đối thủ của tôi vu cáo, những người đã nói dối về tôi. Thưa

quý tòa, các ngài có biết điều đó khiến tôi nhớ đến cái gì không? Trong

khu tôi sống, ở Hell’s Kitchen, những đàn cừu được dẫn qua phố đến

lò mổ trên Phố Bốn mươi mốt. Ngài có biết ai dẫn dắt chúng không?

Không phải chó, không phải người. Mà là một trong số chúng. Một

con cừu Judas với một cái chuông đeo quanh cổ. Nó dẫn đàn cừu đi

trên con đường đó. Nhưng sau đó nó dừng lại và những con còn lại sẽ

vào trong. Tôi là một con cừu vô tội và những nhân chứng chống lại

tôi, chúng là những con cừu Judas.”

Rhyme tiếp tục. “Banks, gọi điện cho thư viện. Họ chắc sẽ có một nhà

sử học.” Viên thám tử trẻ tuổi mở điện thoại di động và gọi. Giọng anh

ta hạ thấp dần khi

nói. Sau khi nói điều mình cần, anh ta dừng lại và nhìn vào tấm bản đồ

thành phố.

“Gì vậy?” Rhyme hỏi.

“Họ đang tìm ai đó. Họ có…”, anh ta cúi đầu khi có người trả lời và

lặp lại yêu cầu của mình.

Anh ta bắt đầu gật đầu và nói với cả phòng: “Tôi có hai chỗ… không

phải, ba.” “Ai đấy?” Rhyme cục cằn hỏi. “Cậu đang nói chuyện với ai

đấy?”

“Người phụ trách việc lưu trữ của thành phố… Ông ta nói trước đây

có khoảng ba trại chăn nuôi chính tại Manhattan. Một ở West Side,

quanh Phố sáu mươi…Một ở

Harlem, trong những năm 1930 hoặc 1940. Và một ở Lower East

Side trong thời kỳ Cách

mạng.”

“Ta cần địa chỉ, Banks. Địa chỉ!” Lắng nghe.

“Ông ta không chắc chắn.”

“Sao ông ta lại không tìm được. Nói với ông ta tìm đi.”

Banks trả lời: “Ông ta nghe thấy ngài nói rồi, thưa ngài… Ông ta nói: Ở

đâu? Tìm chúng ở đâu? Khi đó họ vẫn chưa có Những Trang Vàng.

Ông ta đang nhìn vào cổ xưa…”

“Bản đồ dân số của khu vực thương mại không có tên phố”, Rhyme

càu nhàu. “Rõ ràng quá, cứ để ông ta đoán.”

“Đúng là ông ta đang làm thế. Ông ta đang đoán.” Rhyme nói: “Ta cần

ông ta đoán nhanh lên.” Banks lắng nghe, gật đầu.

“Cái gì, cái gì, cái gì, cái gì?”

“Quanh  Phố  Sáu  mươi  và  Mười.”  Viên  sĩ  quan  trẻ  tuổi nói.  Một

 khắc  sau: “Lexington gần sông Harlem…và sau đó…trang trại

Delancey ở đâu? Có phải gần phố Delancey không?...”

“Tất nhiên rồi. Từ Tiểu Ý con đường đi thẳng xuống sông Đông. Rất

nhiều khu vực. Hàng dặm. Ông ta có thể thu hẹp lại một chút, được

không?”

“Quanh Phố Catherine. Lafayette…Walker. Ông ta không chắc.”

“Gần tòa án”, Sellitto nói và bảo Banks. “Gọi đội của Haumann. Chia

họ ra. Khám xét tất cả ba khu vực.”

Viên thám tử trẻ tuổi gọi điện, sau đó ngẩng đầu lên. “Giờ thì sao?”

“Chúng ta đợi”, Rhyme nói.

Sellitto càu nhàu: “Tôi ghét phải đợi.”

Sachs hỏi Rhyme: “Tôi dùng điện thoại của anh, được không?” Rhyme

hất đầu về phía cái bàn đầu giường.

Cô ngần ngừ. “Anh có cái nào ở ngoài kia không?” Cô chỉ ra phía

hàng lang.

Rhyme gật đầu.

Với một dáng đi hoàn hảo, cô bước ra khỏi phòng ngủ. Anh có thể

nhìn thấy cô trong tấm gương ở hành lang, khoan thai gọi cuộc điện

thoại quý giá. Ai vậy? Anh băn khoăn. Bạn trai, chồng? Trung tâm

chăm sóc ban ngày? Vì sao cô lại chần chừ trước khi nhắc đến “người

bạn” của cô, lúc cô nói với họ về con chó giống collie? Chắc là có một

câu chuyện đằng sau, Rhyme đoán thế.

Người cô gọi không có ở đó. Anh thấy mắt cô biến thành những viên

cuội màu xanh thẫm khi không thấy ai trả lời. Cô ngẩng đầu lên và bắt

gặp Rhyme đang nhìn cô qua tấm gương bụi bặm. Cô quay lưng lại.

Điện thoại trượt xuống cái giá đỡ và cô quay lại phòng anh.

Yên lặng trong năm phút. Rhyme không có một cơ chế mà ai cũng có

để làm giảm tình trạng căng thẳng. Anh là một người tính khí thất

thường khi anh còn đi lại được, điều đó làm cho mọi sĩ quan trong IRD

phát khùng. Lúc này, mắt anh đang hăng hái quét trên tấm bản đồ

Randel khi Sachs đưa tay lên mũ tuần tra để gãi đầu.

Mel Cooper vô hình đang sắp xếp vật chứng, bình tĩnh như một bác sĩ

phẫu thuật. Tất cả, trừ một người trong phòng, đều nhảy bật lên khi

nghe điện thoại của

Sellitto reo. Anh ta nghe, mặt mũi nhăn nhó.

“Được rồi!” Một trong những sĩ quan của Haumann đang ở Phố Mười

một và Sáu mươi. Họ nghe thấy tiếng thét của phụ nữ ở đâu đó quanh

đấy. Họ không biết chắc chắn là ở đâu. Họ đang tìm kiếm từng nhà.”

“Đi giày chạy của cô vào”, Rhyme ra lệnh cho Sachs.

Anh thấy mặt cô xịu xuống. Cô nhìn điện thoại của Rhyme, như thể nó

có thể đổ chuông với một cuộc gọi ân xá từ văn phòng Thị trưởng vào

bất kỳ lúc nào. Sau đó nhìn Sellitto, lúc này đang cúi người trên bản đồ

chiến thuật ESU của West Side.

“Amelia”, Rhyme nói, “ta đã mất một người. Thế là quá tệ. Nhưng

chúng ta không phải mất thêm ai nữa.”

“Nếu anh nhìn thấy cô ấy”, cô thì thầm. “Nếu mà anh nhìn thấy hắn làm

gì với cô

ấy…”

“Ồ, nhưng tôi có thấy, Amelia”, anh nói đều đều, ánh mắt anh nghiêm

khắc và

thách thức. “Tôi thấy điều gì xảy đến với T.J. Tôi đã nhìn thấy điều gì

xảy đến với những cơ thể bị để cả tháng trong cốp xe nóng nực. Tôi

nhìn thấy điều mà nửa cân C4 làm với tay, chân và mặt. Tôi đã khám

nghiệm đám cháy tại Happy Land. Hơn tám mươi người bị bỏng đến

chết. Chúng tôi chụp ảnh Polaroid mặt nạn nhân hoặc những gì còn lại

của họ để gia đình họ nhận dạng – vì chẳng có một ai sau khi đi qua

những hàng xác chết đó mà không bị điên. Ngoại trừ chúng tôi. Chúng

tôi không có lựa chọn nào khác.” Anh hít vào, chống lại cơn đau đang

tràn qua cổ. “Thấy không, nếu cô muốn tồn tại được trong cái ngành

này, Amelia… Nếu cô muốn tồn tại trong cuộc đời, cô phải học được

cách bỏ qua người đã chết.”

Từng người một trong phòng dừng công việc mình đang làm và nhìn về

phía họ. Không một lời xã giao từ Amelia Sachs. Không một nụ cười

lịch sự. Trong một

khắc, cô thử tạo ra cái nhìn trở nên bí ẩn. Nhưng nó chỉ trong suốt như

thủy tinh. Cơn

giận của cô – không tương xứng với những nhận xét của anh ta – chọc

giận lại cô; khuôn

mặt dài của cô gập lại vì một sức mạnh đen tối. Cô hất mớ tóc đỏ lười

biếng sang bên và nhặt cái tai nghe trên bàn. Cô dừng lại phía trên cầu

thang và nhìn anh ta với cái nhìn khinh miệt, nhắc nhở Rhyme rằng,

chẳng có gì lạnh lùng hơn một nụ cười lạnh lùng của người phụ nữ đẹp.

Và vì lý do nào đó, anh thấy mình đang nghĩ: Chào mừng cô quay trở

lại, Amelia.

hình?”

“Anh có gì vậy? Anh có bánh kẹo, anh có một câu chuyện, anh có

những bức

Scruff ngồi trong quán rượu phía East Side, Manhattan, Đại lộ Ba – với

thành phố

thì nó giống như khu mua bán nhỏ ở vùng ngoại thành. Đó là một quán

rượu bẩn thỉu, sắp sửa tràn ngập đám dân công sở trẻ nửa mùa.

Nhưng lúc này nó là nơi trú ngụ của những người dân địa phương ăn

mặc tồi tàn, ăn bữa tối với món cá đáng ngờ và món sa lát héo rũ.

Một người đàn ông gầy gò, có làn da giống như gỗ mun lốm đốm mặc

áo sơ mi rất trắng và bộ vét màu xanh lá. Anh ta nghiêng lại gần Scruff

hơn. “Anh có tin, anh có mã bí mật, anh có thư không? Anh có phân

không?”

“Này. Ha”

“Anh không cười khi anh nói: ha”, Fred Dellray nói, thực ra là D’Ellret

vài thế hệ trước. Anh ta cao sáu feet bốn, hiếm khi cười ngay cả với

chuyện đùa Jabberwocky và là nhân viên sáng giá trong văn phòng FBI

ở Manhattan.

“Không đâu. Tôi không cười.”

“Thế thì anh có gì?” Dellray bóp chặt đầu mẩu điếu thuốc đang ở bên

tai trái.

“Mất thời gian đấy ông bạn”, Scruff, một người đàn ông thấp bé, vừa

gãi mái tóc nhờn của mình vừa nói.

“Nhưng anh không có thời gian đâu. Thời gian rất quý báu, thời gian

đang trôi đi, và thời gian là thứ mà anh. Không. Có.”

Dellray cho bàn tay to lớn của mình xuống dưới gầm của cái bàn có hai

ly cà phê bên trên, bóp đùi Scruff thật mạnh đến nỗi hắn phải rên rỉ.

Sáu tháng trước, anh chàng trắng trẻo, nhỏ thó đó bị tóm khi đang cố

bán mấy khẩu M16 tự động cho mấy tên điên cánh hữu, mà họ – bất

kể có phải như thế hay không

– lại là nhân viên mật của BATF.

Tất nhiên nhân viên an ninh liên bang không muốn Scruff, một của nợ

nhỏ thó tóc nhờn. Họ muốn bắt những kẻ cung cấp súng cho anh ta.

ATF86 đã lội ngược dòng khá xa nhưng không tìm được gì đáng giá,

vì thế họ giao anh ta cho Dellray, nhân viên quản lý đặc tình Numero

Uno số một của Cục, để xem anh ta có đem lại lợi ích gì không?

Nhưng cho tới lúc này, anh ta vẫn chỉ tỏ ra là một gã khó chịu, một thứ

chuột bọ gầy nhẳng, mà rõ ràng chẳng có tin tức, mã bí mật, thậm chí

là phân cho nhân viên liên bang.

86 ATF: Viết tắt của BATF.

“Cách duy nhất anh có thể thoát án, mọi bản án, là anh phải cung cấp

cho chúng tôi thứ gì đó vừa đẹp lại vừa dính. Chúng ta đồng ý vụ này

chứ?”

“Lúc này thì tôi chẳng có quái gì cho các anh, đó là điều tôi đang nói.

Ngay lúc

này.”

“Không đúng, không đúng. Mày đã có gì đó rồi. Tao có thể nhìn thấy

điều đó trên

mặt mày. Đúng là mày biết điều gì đó, thằng hâm.”

Chiếc xe bus đỗ xịch bên ngoài, tiếng phanh hơi rin rít. Một đám người

Pakistan trèo ra khỏi cửa.

“Anh bạn, cái hội nghị khốn kiếp của Liên Hiệp Quốc”, Scruff lẩm

bẩm, “họ đến đây làm chó gì thế? Thành phố này đã quá đông rồi. Cái

lũ ngoại quốc ấy.”

“Hội nghị khốn kiếp. Đồ chết đói, đồ đê tiện”, Dellray cắn cảu. “Mày

có gì phản đối hòa bình thế giới thế?”

“Chẳng có gì.”

“Thế thì nói cho tao điều gì đó hay ho đi.” “Tao chẳng biết điều gì hay

ho cả.”

“Mày đang nói chuyện với ai đây?” Dellray độc ác nhăn mặt. “Tao là

loài thằn lằn. Tao có thể cười vui vẻ, nhưng tao cũng có thể chơi trò

bóp cẳng đấy.”

“Đừng anh bạn, đừng”, Scruff ré lên. “Mẹ kiếp, đau quá. Thôi ngay

đi.”

Nhân viên quầy bar nhìn họ và một cú liếc ngắn của Dellray buộc anh

ta quay lại công việc đánh bóng cốc chén của mình.

“Được rồi, có lẽ là tao biết một việc. Nhưng tao cần giúp đỡ. Tao

cần…” “Bóp thêm tí nữa phải không?”

“Mẹ mày. Con mẹ mày.”

“Ồ, đó là một cuộc nói chuyện rất thông minh”, Dellray đáp trả. “Mày

nói như bọn trong mấy bộ phim tệ hại, mày biết đấy, người tốt và kẻ

xấu cuối cùng cũng gặp nhau. Như Stallone gặp kẻ khác. Và tất cả mọi

điều chúng có thể nói với nhau là ‘con mẹ mày’,

‘không, con mẹ mày’, ‘không, con mẹ mày cơ’. Bây giờ thì mày nói

tao nghe điều gì đó hữu ích. Đồng ý không?”

Và nhìn chằm chằm Scruff cho đến khi anh ta đầu hàng. “Ok, đây. Tôi

tin anh đấy, anh bạn. Tôi…”

“Rồi. Rồi. Rồi. Mày có gì?”

“Tôi vừa nói chuyện với Jackie. Anh biết Jackie chứ?” “Tao biết

Jackie.”

“Và hắn nói với tôi.”

“Hắn nói gì với mày?”

“Hắn nói với tôi là nếu tôi có đến đó, đến hoặc đi đâu đó trong tuần

này, đừng có đi bằng máy bay.”

“Vậy thì cái gì đến hoặc đi? Lại thêm 16s nữa à?”

“Tôi nói với anh rồi, anh bạn. Tôi chẳng có gì cả. Tôi chỉ nói với anh

điều

Jackie…”

“Nói với mày.”

“Đúng rồi, anh bạn. Rất chung chung, anh biết chứ?” Scruff mở to mắt

nhìn

Dellray. “Tôi có cần nói dối anh không?”

“Đừng có bao giờ đánh mất phẩm giá”, viên đặc vụ long trọng cảnh

cáo, chỉ ngón tay cứng như đá vào ngực Scruff. “Bây giờ, có gì ở sân

bay? Sân bay nào? Kennedy? La Guardia?”

“Tôi không biết. Tất cả những gì tôi biết là có tin đồn sẽ có ai đó ở sân

bay. Ai đó

rất tệ.”

về.”

“Cho tao cái tên.” “Không có tên.” “Jackie ở đâu?”

“Không biết. Nam Phi. Tôi nghĩ thế. Có thể ở Liberia.”

“Tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì?” Dellray bóp điếu thuốc của anh ta

lần nữa. “Tôi đoán có khả năng sắp có điều gì đó xảy ra, anh biết đấy,

như kiểu lại có hàng

“Mày đoán.” Scruff rúm người, nhưng Dellray không có ý định tiếp tục

tra tấn anh

chàng nhỏ thó này thêm nữa. Anh ta đã nghe thấy chuông báo động:

Jackie – tên buôn vũ khí mà cả Cục đã biết đến khoảng một năm – có

thể nghe được điều đó từ một trong những khách hàng của hắn ta,

những người lính ở châu Phi và Trung Âu, những đơn vị dân quân ở

Mỹ, về một tên khủng bố sẽ tấn công sân bay. Thường thì Dellray

không nghĩ về điều đó, ngoại trừ vụ bắt cóc ở sân bay JFK đêm qua.

Anh ta không chú ý lắm đến điều này – đó là việc của NYPD. Nhưng

lúc này anh lại nghĩ đến vụ nổ lựu đạn không thành công tại cuộc họp

của UNESCO ở London hôm trước.

“Anh chàng của mày không nói thêm gì nữa à?”

“Không, anh bạn ạ. Không còn gì nữa. Mà này, tôi đói. Chúng ta có

thể ăn gì

chứ?”

”Nhớ tao nói gì với mày về phẩm giá không? Đừng rên rỉ nữa”. Dellray

đứng dậy.

“Tao phải gọi điện.”

Chiếc RRV phanh kít trên Phố Sáu mươi.

Sachs nhặt chiếc vali khám nghiệm hiện trường, cây đèn PoliLight và

cây đèn pin mười hai volt to tướng.

“Các anh đến đúng lúc chứ?” Sachs hỏi một binh sĩ ESU. “Cô ấy có

sao không?”

Đầu tiên không ai trả lời. Sau đó cô nghe thấy tiếng thét.

“Có chuyện gì thế?” Cô lẩm bẩm, chạy đứt hơi về phía một cánh cửa

lớn vừa bị ESU phá vỡ. Cảnh cửa mở ra một con đường rộng dẫn

xuống một tòa nhà gạch đã bị bỏ hoang. “Cô ấy vẫn còn ở đó?”

“Đúng thế.”

“Tại sao?” Amelia Sachs bị sốc, hỏi lại. “Họ bảo chúng tôi không được

vào.”

“Không được vào? Cô ấy đang gào thét kìa. Các anh không nghe thấy

à?”

Viên cảnh sát ESU nói: “Họ bảo chúng tôi đợi cô.”

Họ. Không, không phải là họ. Lincoln Rhyme. Thằng khốn.

“Chúng tôi chỉ phải tìm cô ta thôi”, viên sĩ quan nói. “Cô là người phải

vào trong.” Cô bật tai nghe. “Rhyme!” Cô quát. “Anh ở đâu?”

Không trả lời…Đồ hèn nhát.

Bỏ qua người đã chết… Đồ chó. Giận dữ như lúc cô vừa chạy xuống

cầu thang nhà anh ta mấy phút trước, nhưng lúc này cơn giận dữ tăng

gấp đôi.

Sachs liếc nhìn ra sau và nhận thấy một nhân viên y tế đang đứng cạnh

chiếc xe

EMS.

toàn.”

“Anh kia, đi với tôi.”

Anh ta bước tới một bước và nhìn thấy cô rút súng. Anh ta dừng lại.

“Ấy, từ từ đã”, nhân viên y tế nói. “Tôi không đi cho tới khi khu này

được an

“Đi ngay! Đi thôi!” Cô quay ngoắt lại, chắc là anh ta nhìn thấy nhiều

nòng súng

hơn anh ta muốn. Anh ta nhăn mặt và vội vã chạy theo cô.

Từ phía dưới lòng đất họ nghe tiếng kêu: “Aiiiii! Hilfe!” Sau đó là tiếng

thổn thức. Lạy Chúa. Sachs bắt đầu chạy về phía cánh cửa tối tăm,

cao mười hai feet, bên

trong tối như hũ nút.

Cô nghe thấy giọng anh ta trong đầu mình: Cô là hắn ta, Amelia. Cô

nghĩ gì vậy?

Biến đi, cô thầm nói.

Nhưng Lincoln Rhyme không biến mất.

Cô vừa là tên giết người vừa là kẻ bắt cóc, Amelia. Cô sẽ đi đâu, cô

sẽ chạm vào

cái gì?

nào…

Quên đi! Tôi đến để cứu cô ta. Mặc kệ hiện trường vụ án… “Mein

Gott! Nàm ơn đi. Có ai không? Nàm ơn giúp tôi!”

Đi thôi, Sachs. Chạy nhanh! Hắn không có ở đây. Mày an toàn rồi.

Cứu cô ta đi, đi

Cô tăng nhịp bước, dây lưng khí tài của cô kêu lanh canh theo từng

bước chạy. Khi chạy được khoảng hai mươi feet trong đường hầm, cô

dừng lại. Tự tranh luận. Bên nào thắng cô cũng không thích.

“Ôi, mẹ kiếp”, cô quát lên. Cô đặt cái vali xuống rồi mở ra. Cô nói với

nhân viên y tế: “Này, tên anh là gì?”

Chàng thanh niên căng thẳng trả lời: “Tad Walsh. Ý tôi là, điều gì đang

xảy ra thế?” Anh ta nhìn vào bóng tối.

“Ôi… Bitte, helfen Sie mir!”

“Yểm trợ cho tôi”, Sachs thầm thì.

“Yểm trợ cho cô? Đợi chút, tôi không làm đâu.” “Cầm lấy súng đi,

được không?”

“Tôi yểm trợ cho cô khỏi cái gì mới được chứ?”

Nhét khẩu tự động vào tay anh ta, cô quỳ xuống. “Chốt an toàn mở rồi

đấy, cẩn

thận.”

Cô nhặt hai đoạn băng cao su, bọc giày. Lấy lại súng, cô bảo anh ta

làm theo. Tay run rẩy, anh ta đeo băng cao su vào.

“Tôi nghĩ…”

“Im lặng. Có thể hắn vẫn còn ở đây.”

“Đợi chút, thưa cô”, nhân viên y tế thầm thì. “Cái này không có trong

phần công

việc của tôi.”

“Của tôi cũng chẳng có. Cầm lấy đèn này.” Cô đưa cho anh ta cái đèn

pin.

“Nhưng mà nếu hắn ở đây, có thể hắn sẽ bắn vào chỗ sáng. Ý tôi là,

nếu là tôi, tôi sẽ bắn như vậy.”

“Thế thì nâng cao nó lên. Trên vai tôi đây này. Tôi sẽ đi trước. Và nếu

có ai đó dính đạn, người ấy sẽ là tôi.”

“Lúc ấy thì tôi làm gì?” Tad hỏi như một cậu bé.

“Tôi sẽ chạy như điên”, Sachs lầm bầm. “Giờ thì theo tôi. Và giữ đèn

cho chắc

vào.”

Tay trái kéo lê cái va li CS, súng giương trước mặt, cô nhìn xuống nền

đất khi

bước vào trong bóng tối. Cô lại nhìn thấy vết chổi quen thuộc, giống

như tại hiện trường lúc trước.

“Bitte nicht, bitte bicht, bitte…”, một tiếng thét ngắn, sau đó im lặng.

“Có chuyện quái quỷ gì ở đây thế?” Tad thầm thì.

“Suỵt”, Sachs ngăn lại.

Họ bước đi từ từ. Sachs thổi vào các ngón tay đang nắm chặt khẩu

Glock – để làm khô mồ hôi – và thận trọng ngắm nhìn những mục tiêu

ngẫu nhiên là những cây cột gỗ,

bóng tối và bỏ qua những thứ máy móc bị cây đèn pin không ổn định

trong tay Tad chiếu sáng.

Cô không tìm thấy dấu chân nào.

Tất nhiên là không rồi. Hắn thật thông minh.

Nhưng ta cũng thông minh, cô nghe thấy Lincoln nói trong đầu. Cô bảo

anh ta câm đi.

Giờ thì đi chậm hơn.

Năm feet nữa. Dừng lại. Rồi chậm chạp tiến lên phía trước. Cố không

để ý đến tiếng rên la của cô gái. Cô lại cảm thấy nó – cái cảm giác bị

theo dõi, những móng vuốt trơn trượt của cái nhìn sắt đá đang theo dõi

mình. Áo giáp không thể chống lại được đạn vỏ kim loại. Một nửa bọn

người xấu dùng đạn Black Talons – vì thế một phát súng vào tay hay

vào chân cũng giết chết anh ngon lành như một phát vào ngực. Mà còn

đau đớn hơn rất nhiều. Đã có lần Nick nói với cô rằng, một trong

những viên đạn như vậy có thể xé tung cơ thể; một trong những đồng

sự của anh đã chết trên tay anh khi bị hai viên đạn ác hiểm này bắn

trúng.

Phía trên và đằng sau…

Nghĩ đến anh, cô nhớ lại một đêm, nằm dựa vào lồng ngực vững chãi

của Nick, nhìn ngắm khuôn mặt Italia đẹp trai của anh trên gối, khi anh

kể cho cô nghe về cuộc tấn công giải cứu con tin – “Nếu ai đó bên

trong muốn hạ anh khi anh đi vào, hắn sẽ làm điều đó từ phía trên và

đằng sau…”

“Mẹ kiếp.” Cô khom người quỳ xuống, quay người lại, chĩa khẩu

Glock lên trần, sẵn sàng nhả hết băng đạn.

“Gì thế?” Tad rúm người lại thầm thì. “Gì thế?”

Cảm giác trống rỗng tóm lấy cô.

“Không có gì.” Hít thở thật sâu, cô đứng dậy. “Đừng làm thế.”

Có tiếng ríu rít đằng trước họ.

“Lạy Chúa”, giọng nói the thé của Tad lại vang lên. “Tôi ghét chuyện

này.”

Thằng cha này tệ thật, cô nghĩ. Mình biết thế vì hắn cứ nói ra mọi điều

mà chính mình cũng muốn nói ra.

Cô ngừng lại. “Chiếu đèn vào đây. Phía trước.” “Ôi, lạy Chúa tôi…”

Sachs ngay lập tức hiểu được đám lông mà cô tìm thấy tại hiện trường

lần trước là gì. Cô nhớ đến cái nhìn mà Sellitto và Rhyme trao đổi với

nhau. Anh ta biết điều đối tượng đã chuẩn bị. Anh ta biết điều này sẽ

xảy ra với cô ta – nhưng anh ta vẫn bắt đội ESU phải đợi. Cô lại càng

ghét anh ta hơn.

Trước mặt họ là một cô gái tròn trĩnh nằm vạ vật trên sàn nhà, giữa

một vũng máu. Cô ta nhìn về phía ánh sáng bằng ánh mắt đờ đẫn rồi

ngất đi. Vừa lúc đó, một con chuột

đen khổng lồ – to như một con mèo nhà – bò lên bụng cô ta rồi tiếp

tục hướng về phía cổ họng. Nó nhe những chiếc răng bẩn thỉu, chuẩn bị

cắn vào cằm cô gái.

Sachs nhẹ nhàng nâng khẩu Glock cồng kềnh lên, bàn tay trái cô đỡ

báng súng. Cô ngắm thật cẩn thận.

Bắn súng cũng giống như hít thở.

Hít vào, thở ra. Bóp cò.

Đó là lần đầu tiên cô bắn kể từ lúc bắt đầu đi làm. Bốn phát. Con

chuột khổng lồ đang đứng trên ngực cô gái nổ tung. Cô bắn một con

khác ở phía sau trên sàn và một con nữa, trong cơn hoảng loạn nó đã

lao về phía Sachs và anh chàng nhân viên y tế. Những con khác lặng lẽ

biến mất, như nước thấm xuống cát.

“Lạy Chúa”, anh chàng nhân viên y tế nói. “Cô có thể bắn cả cô ta

đấy.” “Cách ba mươi feet ư?” Sachs nói. “Khó lắm.”

Máy bộ đàm lên tiếng và Haumann hỏi có phải họ bị bắn hay không.

“Không”, Sachs trả lời. “Chỉ bắn vài con chuột thôi.”

“Nghe rõ.”

Cô lấy chiếc đèn pin từ anh chàng nhân viên y tế, chiếu nó xuống thấp

và tiến lên phía trước.

“Ổn rồi”, Sachs nói. “Em sẽ ổn thôi.” Cô gái mở mắt, quay đầu sang

hai bên. “Bitte, bitte…”

Trông cô ta rất nhợt nhạt. Đôi mắt xanh của cô ta dán vào mắt Sachs,

cứ như cô ta sợ phải nhìn ra chỗ khác. “Bitte, bitte, nàm ơn đi...”

Cô ta điên dại khóc lóc rồi bắt đầu sụt sùi và run rẩy vì hoảng sợ khi

anh chàng nhân viên y tế băng những vết thương cho cô ta.

Sachs đỡ mái đầu vàng óng, đầy máu của cô gái, nựng nịu: “Em sẽ ổn

thôi, em bé, em sẽ ổn thôi…”

MƯỜI BỐN

Trong văn phòng, cao phía trên trung tâm Manhattan, nhìn xuống khu

Jersey. Những thứ vớ vẩn trong không khí càng làm cho buổi hoàng

hôn trở nên tuyệt đẹp.

“Ta phải làm.” “Không thể được.”

“Phải làm”, Fred Dellray nhắc lại và nhấp một ngụm cà phê – tệ hơn cả

cà phê của nhà hàng mà Scruff và anh ta vừa ngồi cách đây một lúc.

“Lấy của họ đi. Họ sẽ chấp nhận.”

“Đây là một vụ của địa phương”, đặc vụ FBI, người phó phụ trách văn

phòng Manhattan đáp lời. ASAC là một người đàn ông kỹ tính, người

không thể hoạt động nằm vùng – vì chỉ cần nhìn thấy anh ta, người ta sẽ

nghĩ ngay, ô kìa, đặc vụ FBI.

“Đây không phải vụ địa phương. Họ coi nó như vụ địa phương thôi.

Nhưng đây là một vụ lớn.”

“Chúng ta bị mất tám mươi người vào vụ Liên Hiệp Quốc.” “Nhưng

việc này có liên quan”, Dellray nói. “Tôi chắc chắn.”

“Thế thì ta sẽ thông báo cho Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Để

mọi người…Thôi nào, đừng có nhìn tôi thế.”

“Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc? Hội đồng Bảo an Liên Hiệp

Quốc? Này, anh có biết từ mâu thuẫn nghĩa là gì không?... Billy, anh

đã xem tấm ảnh chưa? Hiện trường vụ án sáng nay ấy? Một cái tay thò

lên khỏi mặt đất, ngón tay bị lột hết da? Cái thằng khốn bệnh hoạn đó

vẫn còn lang thang ngoài kia.”

“NYPD vẫn tiếp tục cung cấp thông tin cho ta”, ASAC nói. “Ta sẽ để

Chuyên gia về Hành vi trực điện thoại nếu họ muốn.”

“Lạy Chúa trên Thánh giá thiêng liêng. ‘Chuyên gia về Hành vi trực

điện thoại’? Ta phải tóm thằng sát nhân ấy, Billy. Bắt hắn đi. Không

phải đoán xem hắn định làm trò gì.”

“Nói lại tôi nghe xem đặc tình của anh đã nói gì?”

Nếu một hòn đá có kẽ nứt thì Dellray sẽ nhận ra và không để nó có cơ

hội liền lại. Giờ là lúc tăng hỏa lực: nói về Scruff và Jackie ở

Johannesbug hoặc Monrovia và những lời đồn đại trong vụ buôn lậu vũ

khí về điều gì đó đang diễn ra tại sân bay New York trong tuần này

nên phải tránh xa chỗ đó ra. “Đấy là hắn ta”, Dellray nói. “Chắc chắn

thế.”

“NYPD đã thành lập nhóm đặc nhiệm.”

“Không phải Đội Chống khủng bố (A-T). Tôi đã gọi điện. Chẳng có

người nào trong A-T biết tí gì về chuyện này. Đối với NYPD thì: khách

du lịch bị giết có nghĩa là quan hệ công chúng kém. Tôi muốn vụ này,

Billy.” Sau đó Fred Dellray nói hai từ mà anh ta chưa bao giờ thốt ra

trong suốt tám năm làm mật vụ chìm. “Làm ơn.”

“Anh có căn cứ gì không?”

“Ôi giời, hỏi vớ vẩn”, Dellray nói, chỉ tay như một thầy giáo quở trách

học sinh. “Xem nào, chúng ta đã có một bộ luật chống khủng bố thật là

bảnh. Nhưng nếu anh thấy thế vẫn chưa đủ, chắc anh còn muốn quyền

hạn pháp lý? Tôi sẽ cho anh quyền hạn pháp lý. Trọng tội Bang. Bắt

cóc. Tôi có thể lý luận rằng thằng khốn ấy lái taxi nên nó có thể ảnh

hưởng đến thương mại liên bang. Chúng ta không phải chơi những cái

trò ấy chứ, phải không Billy?”

“Anh chẳng nghe gì cả, Dellray. Tôi có thể trích dẫn Luật Hoa Kỳ ngay

khi đang ngủ, cảm ơn anh. Tôi muốn biết nếu chúng ta làm vụ này,

chúng ta sẽ nói gì để mọi người hài lòng? Vì anh hãy nhớ rằng, sau khi

đối tượng này quậy phá chúng ta phải tiếp tục làm việc với NYPD. Tôi

sẽ không đưa đại ca của tôi đi chiến đấu với đại ca của họ mặc dù tôi

có thể làm thế. Bất kỳ lúc nào tôi muốn. Lon Sellitto đang điều tra vụ

án và anh ta là người tốt.”

“Một tay trung úy?” Dellray khịt mũi nghi ngờ. Anh ta cầm điếu thuốc

gắn sau tai đưa lên mũi ngửi.

“Jim Polling chịu trách nhiệm.”

Dellray ngửa người ra sau, giả vờ hoảng sợ. “Polling? Chàng Adolph

Nhí? Cái anh chàng Polling luôn dọa dẫm: Mày có quyền im lặng vì tao

sắp đập vỡ mẹ cái đầu mày ra. Anh ta đấy à?”

ASAC không đáp lại. Anh ta nói: “Sellitto giỏi. Một con người thực

sự. Tôi đã làm việc với anh ta trong hai đội đặc nhiệm OC.”

“Tên này đang giết người lung tung và rất có thể hắn ta sẽ mở đường

lên trên.” “Nghĩa là gì?”

“Trong thành phố có thượng nghị sĩ, có hạ nghị sĩ, có lãnh đạo Nhà

nước. Tôi cho rằng hắn ta giết những người vừa rồi chỉ là để thực tập.”

“Anh đã nói chuyện với Chuyên gia về Hành vi mà không cho tôi biết?”

“Đó là điều tôi đánh hơi thấy.” Dellray sờ mũi.

ASAC thở ra. “Người đưa tin là ai?”

Dellray không cho rằng Scruff là người đưa tin đáng tin cậy, nghe cứ

như trích đoạn trong tiểu thuyết của Dashiell Hammett87.

Phần lớn bọn đưa tin đều là những bộ xương, có nghĩa là bọn trộm vặt

gầy nhẵng, kinh tởm. Hoàn toàn phù hợp với Scruff.

“Hắn là đồ mạt rệp”, Dellray công nhận. “Nhưng Jackie, anh chàng mà

hắn nghe được tin thì rất chắc chắn.”

“Tôi biết anh muốn vụ này, Fred. Tôi hiểu.” ASAC nói với một chút

thông cảm. Vì anh ta biết chắc chắn đằng sau yêu cầu của Dellray là gì.

87 Dashiell Hammet  (1894 – 1961): Một nhà văn người Mỹ nổi tiếng

với tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn. Ông được coi là cây bút viết

truyện thám xuất sắc mọi thời đại.

Kể từ khi còn là một cậu bé ở Brooklyn, Dellray đã muốn làm cớm.

Kiểu cớm gì không quan trọng, chỉ cần anh ta có thể dành hai mươi tư

giờ trong ngày để mà làm cớm. Nhưng ngay sau khi vào cục, anh ta đã

tìm được nghề nghiệp đích thực của mình – cớm chìm.

Cùng với cộng sự thẳng thắn và thiên thần hộ mệnh của mình là Toby

Dolittle, Dellray đã đưa nhiều tên tội phạm vào tù với thời gian rất dài –

tổng cộng lên tới cả nghìn năm (“Này Toby-o, bọn chúng gọi mình là

Đội Thiên Niên Kỷ đấy”, có lần anh ta đã tuyên bố với người cộng sự

của mình như vậy). Mấu chốt thành công của Dellray là biệt hiệu của

anh ta, “Kỳ nhông”. Biệt hiệu này được đặt cho anh ta khi chỉ trong

vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, anh ta đóng giả một tên nghiện say

thuốc trong tiệm ma túy tại Harlem và ngay sau đó là một quan chức

Haiti trong buổi dạ tiệc tại tòa lãnh sự Panama, với một chiếc băng đỏ

vắt chéo qua ngực và giọng nói Haiti không sai biệt tí nào. Họ

thường xuyên được điều sang làm việc cho ATF và DEA88, đôi khi

cho cả các sở cảnh sát. Ma túy và vũ khí là chuyên môn của họ, mặc

dù thỉnh thoảng họ cũng làm vài vụ

buôn lậu.

Sự mỉa mai của nghề cớm chìm là anh càng giỏi thì anh càng về hưu

sớm. Tin đồn sẽ lan truyền, vì thế những ông lớn, những tên tội phạm

đáng giá khó bị bịp hơn. Dolittle và Dellray thấy mình không còn làm

nhiều ngoài hiện trường nữa mà chuyển sang quản lý đặc tình và mật

vụ. Đó chẳng phải là sự lựa chọn hàng đầu của Dellray – chẳng có gì

khiến anh ta phấn khích hơn đường phố – đường phố vẫn lôi anh ta

khỏi văn phòng thường xuyên hơn tất cả các đặc vụ khác trong Cục.

Chưa bao giờ anh ta nghĩ tới chuyện chuyển đổi.

Cho tới hai năm trước – một buổi sáng tháng Tư ấm áp ở New York.

Đúng lúc Dellray chuẩn bị rời văn phòng để bắt chuyến bay ở sân bay

La Guardia thì anh ta nhận được cuộc gọi của trợ lý giám đốc Cục từ

Washington. FBI là một mớ hỗn độn các thứ bậc và Dellray chẳng hình

dung ra vì sao chính ông lớn lại gọi điện. Cho tới khi anh ta nghe thấy

giọng nói u sầu của giám đốc điều hành cho biết tin Toby Dolittle cùng

trợ lý công tố viên đến từ Manhattan có mặt ở tầng trệt của tòa nhà liên

bang Thành phố Oklahoma vào buổi sáng hôm ấy, chuẩn bị cho buổi

hỏi cung mà Dellray sẽ đến.

Ngày hôm sau thi thể của họ được đưa về New York.

Đó cũng là ngày Dellray nộp lá đơn RFT-2230 đầu tiên của mình đề

nghị được thuyên chuyển sang A-T của Cục.

Với Fred Dellray, người luôn coi thường mọi vấn đề liên quan đến

chính trị và triết học, vụ đánh bom này lại là tội ác của mọi tội ác. Anh

ta cho rằng lòng tham và sự thác loạn chẳng phải là những thói quen

xấu của người Mỹ – này, những thói quen đó được khuyến khích ở

khắp mọi nơi, từ Phố Wall cho tới Capital Hill. Và nếu như những kẻ

làm ăn bằng lòng tham và sự thác loạn đôi khi vượt quá biên giới của

luật pháp thì Dellray sẵn sàng theo họ đến cùng – nhưng anh ta chẳng

bao giờ làm việc đó chỉ vì lòng thù hận cá nhân. Còn giết người vì niềm

tin của họ – mẹ kiếp, giết cả trẻ con trước khi chúng biết mình tin điều

gì – lạy Chúa, đó là nhát dao đâm vào trái tim đất nước. Ngồi

88 DEA: Cơ quan phòng chống ma tuý.

một mình trong căn hộ hai phòng thoáng đãng của mình ở Brooklyn sau

đám tang của

Toby, Dellray có quyết định đó chính là loại tội ác mà anh ta muốn săn

đuổi.

Nhưng không may là tiếng tăm của Kỳ nhông đã vượt trước anh ta.

Cớm chìm giỏi nhất của Cục giờ đây là người quản lý tốt nhất của họ,

điều hành mật vụ và đặc tình của cả vùng East Coast. Các sếp của anh

ta không thể để anh ta chuyển sang một trong những phòng ban yên ả

hơn của FBI. Dellray là một truyền thuyết nhỏ hơn, người đã đem đến

những vụ thành công lớn nhất mới đây của Cục. Vì vậy, yêu cầu tha

thiết của anh ta bị từ chối với sự tiếc nuối lớn.

ASAC biết rõ về câu chuyện của Dellray, và lúc này anh ta nói rất

chân thành: “Fred, tôi ước tôi có thể giúp được anh. Tôi xin lỗi.”

Nhưng trong những lời nói đó, Dellray lại thấy vết nứt đã rộng hơn.

Con Kỳ nhông biến màu, nhìn chăm chăm vào ông chủ của mình. Anh

ta ước mình vẫn còn chiếc răng vàng giả. Gã đàn ông đầu đường xó

chợ Dellray là một thằng cha khó trị, có cái nhìn hung dữ của một tay

anh chị. Trong cái nhìn đó chứa đựng một thông điệp mà bất kỳ tên

giang hồ nào cũng hiểu ngay tức khắc: Tao đã hầu mày, giờ đến lượt

mày hầu tao.

Cuối cùng thì ASAC cũng ấp úng nịnh bợ: “Chỉ là chúng tôi cần có thứ

gì đó?” “Thứ gì đó?”

“Móc”, ASAC nói, “chúng tôi cần một cái móc.”

Ý anh ta là một lý do để lôi vụ này ra khỏi NYPD. Chính trị, chính trị,

chính trị mẹ nó ấy.

Dellray cúi đầu, nhưng đôi mắt, nâu như xi giày, không rời ASAC một

mm. “Billy, sáng nay hắn lóc da tay nạn nhân. Đến tận xương. Rồi chôn

sống anh ta.”

Hai tay chống cằm, ASAC chậm rãi nói: “Tôi có một ý. Phó thanh tra

NYPD. Tên là Eckert. Anh biết ông ta chứ? Ông ta là bạn tôi.”

Cô gái nằm trên cáng, nhắm mắt, tỉnh táo, nhưng váng vất. Vẫn nhợt

nhạt. Ống tiếp đường gắn vào cánh tay. Sau khi được tiếp đường, cô

đã suy nghĩ mạch lạc hơn và bình tĩnh đến mức đáng ngạc nhiên, sau

mọi chuyện vừa rồi.

Sachs quay lại những cánh cổng địa ngục và đứng đó nhìn xuống khung

cửa màu đen. Cô bấm bộ đàm gọi Lincoln Rhyme. Lần này thì anh ta

trả lời.

“Hiện trường trông thế nào?” Rhyme hỏi một cách tự nhiên.

Cô trả lời cộc lốc. “Chúng tôi đã đưa cô ấy ra, nếu như anh quan tâm.”

“À, tốt. Cô ta thế nào?”

“Không ổn.”

“Nhưng còn sống chứ?” “Gần chết.”

“Cô tức giận vì bọn chuột, phải không Amelia?”

Cô không trả lời.

“Vì tôi không cho người của Bo vào ngay. Cô còn đó không, Amelia?”

“Tôi ở đây.”

“Có năm yếu tố làm ô nhiễm hiện trường”, Rhyme giải thích. Cô nhận

thấy anh ta lại chuyển sang cách nói chậm rãi, đầy quyến rũ. “Thời tiết,

gia đình nạn nhân, đối tượng,

những kẻ săn tìm đồ lưu niệm. Nhưng yếu tố cuối cùng là tệ hại nhất.

Cô đoán xem đó là

gì?”

“Nói tôi nghe.”

“Cảnh sát. Nếu tôi để ESU vào, họ có thể phá hủy mọi dấu vết. Giờ thì

cô biết cách xử lý hiện trường rồi. Tôi cá là cô giữ mọi thứ trong tình

trạng tốt.”

Sachs cần phải nói: “Tôi không nghĩ là cô ấy sẽ hồi phục như xưa sau

vụ này. Lũ chuột bò đầy lên người cô ấy.”

“Đúng. Tôi có thể hình dung ra bọn chúng. Đấy là bản chất của chúng

mà.”

Bản chất của chúng…

“Nhưng năm hay mười phút thì có khác biệt gì đâu. Cô ấy…”

Cách.

Cô tắt bộ đàm, đi ra chỗ Walsh, anh chàng nhân viên y tế. “Tôi muốn

phỏng vấn cô ta. Cô ta có quá váng vất không?”

“Không đến mức thế. Chúng tôi đã gây mê tại chỗ cho cô ấy – để

khâu những vết rạch và vết cắn. Khoảng nửa tiếng nữa cô ấy cần

thuốc giảm đau.”

Sachs mỉm cười và quỳ xuống cạnh cô gái: “Chào em, em thế nào?”

Cô gái, béo nhưng rất đẹp, gật đầu.

“Tôi hỏi em vài câu, được không?”

“Được. Nàm ơn. Em muốn chị tóm được hắn.”

Sellitto đến và bước thong thả đến chỗ họ. Anh ta mỉm cười với cô gái,

người nhìn lại anh ta bằng ánh mắt trống rỗng. Anh ta đưa cho cô ta

xem cái thẻ mà cô ta không thèm quan tâm và xưng danh.

“Cô ổn chứ, thưa cô?” Cô gái nhún vai.

Đổ mồ hôi ròng ròng trong cái nóng oi bức, Sellitto gọi Sachs sang một

bên. “Polling đến đây chưa?”

“Không nhìn thấy anh ta. Có thể anh ta ở nhà Lincoln.”

“Không, tôi vừa gọi điện đến đó. Chắc anh ta phải đến ngay Tòa Thị

chính.” “Có chuyện gì thế?”

Sellitto hạ giọng, khuôn mặt bềnh bệch của anh ta nhăn nhúm. “Chuyện

tệ hại –

liên lạc của chúng ta đúng ra phải được mã hóa an toàn. Nhưng bọn

nhà báo khốn kiếp

không hiểu đã làm thế nào mà giải mã được. Chúng nghe thấy chúng ta

không vào ngay để cứu nạn nhân.” Anh ta hất đầu về phía cô gái.

“Ừ. Chúng ta không vào ngay”, Sachs cay nghiệt trả lời. “Rhyme bảo

ESU chờ tôi

đến.”

Viên thám tử cau mày. “Trời ơi, tôi hy vọng họ không ghi lại được câu

đó. Ta cần

Polling để kiểm soát thiệt hại.” Anh ta gật đầu với cô gái. “Cô phỏng

vấn cô ta chưa?”

“Chưa. Tôi vừa bắt đầu.” Với một chút tiếc nuối, Sachs bấm nút bộ

đàm và nghe giọng nói khẩn cấp của Rhyme.

“… cô có đấy không? Cái thứ chết tiệt này không…” “Tôi đây”,

Sachs lạnh lùng nói.

“Có chuyện gì thế?”

“Nhiễu sóng, chắc thế. Tôi đang ở cùng nạn nhân.”

Cô gái chớp mắt khi nghe cuộc trao đổi và Sachs mỉm cười.

“Chị không nói chuyện một mình”, cô chỉ cái mic. “Trụ sở cảnh sát.

Tên em là

gì?”

“Monelle. Monelle Gerger.” Cô ta nhìn cánh tay bị cắn xé xủa mình,

kéo lớp băng

bó và kiểm tra vết thương.

“Phỏng vấn cô ta nhanh”, Rhyme hạ lệnh, “sau đó khám nghiệm hiện

trường.”

Lấy tay che mic, cô thì thầm giọng gắt gỏng với Sellitto: “Làm việc với

ông này khó chịu quá. Thưa ngài.”

“Đùa với anh ta đi, sĩ quan.”

“Amelia!” Rhyme quát. “Trả lời tôi đi!”

“Chúng tôi đang phỏng vấn cô ấy, được chưa?” Cô đáp trả.

Sellitto hỏi: “Cô có thể nói chúng tôi biết điều gì xảy ra được chứ?”

Monelle bắt đầu nói, một câu chuyện rời rạc về phòng giặt là của khu

chung cư tại

East Village. Hắn đã nấp đợi cô.

“Khu chung cư nào?” Sellitto hỏi.

“Deutsche Haus. Ông biết đấy, ở đó chủ yếu là sinh viên và người nhập

cư Đức.” “Sau đó chuyện gì đã xảy ra?” Sellitto hỏi tiếp. Sachs nhận

thấy mặc dù viên thám

tử to lớn trông có vẻ thô lỗ hơn, xấu tính hơn Rhyme, nhưng thực ra

anh ta lại là người tử

tế.

“Hắn ném tôi vào cốp xe và chở đến đây.” “Cô có nhìn thấy hắn ta

không?”

Cô gái nhắm mắt lại. Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nói cô không

nhìn thấy;

hắn ta đeo chiếc mặt nạ trượt tuyết màu xanh hải quân, đúng như

Rhyme đã đoán.

“Und89 găng tay.”

“Cô tả lại đôi găng tay đi.”

Màu tối. Cô ta không nhớ chính xác là màu gì. “Có điều gì bất thường

không? Tên bắc cóc ấy?”

“Không. Hắn là người da trắng. Em có thể chắc với chị như thế.” “Cô

có nhìn thấy biển số của chiếc taxi không?” Sellitto hỏi. “Was90?” Cô

gái hỏi lại bằng tiếng mẹ đẻ.

“Cô có nhìn thấy…”

Sachs nhảy dựng lên khi Rhyme cắt ngang. “Das Nummernschild91.”

Nghĩ thầm: Thế quái nào mà anh ta biết hết mọi thứ được nhỉ? Cô nhắc

lại câu đó, cô gái lắc đầu sau đó hé mắt nhìn. “Ý anh là gì, taxi?”

“Chẳng phải là hắn lái chiếc Yellow Cab hay sao?” “Taxi? Nein.

Không. Một chiếc xe bình thường.” “Nghe thấy không, Lincoln?”

“Rồi. Anh chàng của chúng ta có chiếc xe khác. Hắn cho cô ta vào

cốp xe, có nghĩa đó không phải là xe van hay loại hatchback.”

Sachs nhắc lại câu đó. Cô gái gật đầu. “Giống như chiếc sedan.”

“Cô có ý tưởng gì về chất liệu hay màu sắc không?” Sellitto tiếp tục.

Monelle trả lời. “Tôi nghĩ là màu sáng. Có thể là màu bạc hay màu

xám. Hoặc là, màu gì ý nhỉ? Nâu sáng.”

“Màu be.”

Cô ta gật đầu.

“Có thể là màu be”, Sachs nói thêm hộ Rhyme.

Sellitto hỏi: “Có gì trong cốp xe không? Bất kỳ thứ gì? Dụng cụ, quần

áo, va li?” Monelle nói không có gì. Cốp xe trống rỗng.

Rhyme hỏi. “Trong cốp xe có mùi gì không?”

Sachs chuyển tiếp câu hỏi. “Tôi không biết.”

“Mùi dầu mỡ?”

“Không. Nó có mùi… sạch sẽ.”

89 Und: Và (tiếng Đức).

90 Was: Cái gì (tiếng Đức).

91 Das Nummernschild: Loại xe (tiếng Đức).

“Thế thì có thể là xe mới”, Rhyme đoán.

Trong một khắc, Monelle bật khóc. Sau đó cô ta lắc đầu. Sachs cầm

tay cô ta và cô ta tiếp tục. “Chúng tôi đi rất lâu. Có vẻ như rất lâu.”

“Em làm tốt lắm, em bé ạ”, Sachs nói.

Giọng Rhyme cắt ngang. “Bảo cô ta cởi quần áo ra.” “Cái gì?”

“Cởi quần áo cô ta ra.” “Không đâu.”

“Bảo nhân viên y tế đưa cho cô ta cái áo choàng dài. Ta cần quần áo

của cô ấy, Amelia.”

“Nhưng”, Sachs thì thầm. “Cô ấy đang khóc.”

“Làm ơn đi”, Rhyme khẩn khoản nói. “Quan trọng lắm đấy.”

Sellitto gật đầu và Sachs, môi mím chặt, giải thích cho cô gái chuyện

quần áo và thấy ngạc nhiên khi Monelle gật đầu. Hóa ra cô ta cũng

đang rất muốn thoát khỏi bộ quần áo đẫm máu. Để cô ta được riêng

tư, Sellitto ra chỗ khác nói chuyện với Bo Haumann. Monelle mặc

chiếc áo choàng do nhân viên y tế đưa và một thám tử chìm bọc cô ta

lại bằng cái áo khoác thể thao của anh ta. Sachs cho chiếc quần bò và

cái áo phông vào túi.

“Tôi lấy được rồi”, Sachs nói vào máy bộ đàm.

“Bây giờ thì cô ta phải cùng đi khám nghiệm hiện trường với cô”,

Rhyme nói. “Cái gì?”

“Nhưng phải chắc là cô ta đi sau cô. Để cô ta không làm ô nhiễm vật

chứng.”

Sachs nhìn người phụ nữ trẻ tuổi đang nằm trên cáng lăn cạnh hai chiếc

xe bus

EMS.

“Cô ấy không có khả năng làm việc đó đâu. Hắn đã cắt cô ấy đến tận

xương. Cô

ấy bị mất máu và bị chuột cắn.”

“Cô ta có đi lại được không?”

“Có thể. Nhưng anh có biết cô ấy vừa trải qua điều gì không?”

“Cô ta có thể dẫn cô đi theo đường họ đã đi. Cô ta có thể nói với cô,

nơi hắn đã

đứng.”

“Cô ấy phải được cấp cứu. Cô ấy mất rất nhiều máu.”

Một chút ngần ngừ. Anh ta nói, vẻ vui mừng: “Hỏi cô ta xem.”

Nhưng sự vui mừng của anh ta đầy giả tạo, điều mà Sachs nghe thấy

chỉ là sự nôn

nóng. Cô có thể nói Rhyme là người không quen với việc chiều chuộng

người khác, là người không phải chiều chuộng người khác. Anh ta là

người quen với việc làm theo cách của mình.

Anh ta dai dẳng: “Chỉ cần đan lưới một lần thôi.”

Chết mẹ anh đi, Lincoln Rhyme. “Việc này…”

“Quan trọng. Cô biết mà.”

Từ đầu dây bên kia chẳng có gì.

Cô đang nhìn Monelle. Sau đó cô nghe thấy một giọng nói, không,

giọng nói của chính cô đang nói với cô gái: “Chị sẽ xuống dưới kia tìm

chứng cứ. Em có đi với chị không?”

Ánh mắt của cô gái đâm sâu vào tim cô. Lệ tuôn trào: “Không, không,

không. Em không đi đâu. Bitte nicht, oh, bitte nicht…”

Sachs gật đầu, nắm chặt tay cô gái. Cô bắt đầu nói vào mic, lên tinh

thần để đáp lại phản ứng của anh ta. Nhưng Rhyme làm cô ngạc nhiên

khi nói: “Được rồi, Amelia. Thế thì thôi. Chỉ cần hỏi cô ta khi họ đến

đó thì chuyện gì xảy ra?”

Cô gái kể lại cô đã đá hắn như thế nào và chạy vào đường hầm kề

bên.

“Em đá hắn lần nữa”, cô nói với một chút hài lòng. “Đánh hắn rơi cả

găng tay. Sau đó hắn nổi điên và bóp cổ em. Hắn…”

“Không đeo găng tay?” Rhyme thốt lên.

Sachs nhắc lại câu hỏi và Monelle nói: “Vâng.”

“Dấu tay, tuyệt vời!” Rhyme hét, giọng anh ta lạc đi trong mic. “Chuyện

ấy xảy ra lúc nào? Cách đây bao lâu?”

Monelle đoán khoảng tiếng rưỡi trước.

“Chết tiệt”, Rhyme lầm bầm. “Dấu tay trên da chỉ tồn tại khoảng một

tiếng hoặc chín mươi phút là cùng. Cô có lấy được dấu tay trên da

không, Amelia?”

“Tôi chưa bao giờ làm.”

“Thế hả. Thế thì giờ cô sẽ làm. Nhưng nhanh lên. Trong va li CS có

một cái gói dán nhãn Kromekote. Lấy một cái thẻ ra.”

Cô tìm thấy một chồng thẻ bóng nhoáng, kích thước năm nhân bảy,

trông giống giấy ảnh.

“Có rồi. Tôi có cần phun bụi vào cổ cô ấy không?”

“Không. Đè cái thẻ, mặt bóng xuống dưới, lên da cô ta, chỗ mà cô ta

nghĩ hắn đã chạm vào. Giữ nó khoảng ba giây.”

Sachs làm theo, trong khi đó Monelle nhìn vô định lên trời. Sau đó,

theo chỉ thị của Rhyme, cô phun bụi kim loại lên tấm thẻ bằng ống thổi

Magna-Brush.

“Thế nào?” Rhyme sốt ruột hỏi.

“Không tốt. Có hình dạng của ngón tay, nhưng không thấy vân tay rõ

ràng. Tôi vứt nó đi được chứ?”

“Không bao giờ vứt đi bất kỳ thứ gì từ hiện trường vụ án, Sachs”,

Rhyme lạnh lùng lên lớp. “Đem nó về, đằng nào tôi cũng muốn xem

nó.”

“Có một việc mà em nghĩ là em quên”, Monelle nói. “Hắn chạm vào

em?” Sachs dịu dàng hỏi: “Ý em là hắn quấy rối em. Hiếp dâm?”

“Không, không. Không theo kiểu tình dục. Hắn chạm vai em, mặt,

mông, tai em. Khuỷu tay. Hắn bóp em. Em không hiểu vì sao?”

“Anh nghe thấy chứ, Lincoln? Hắn chạm vào cô ấy. Nhưng có vẻ việc

đó không làm cho hắn được thỏa mãn.”

“Ừ.”

“Und… em quên một việc nữa.” Monelle nói. “Hắn nói được tiếng

Đức. Không tốt lắm. Giống như hắn có học ở trường. Và hắn gọi em là

Hanna.”

“Gọi cô ấy là gì?”

“Hanna”, Sachs nhắc lại vào mic. “Em có biết vì sao không?” Cô hỏi

cô gái. “Không. Nhưng hắn chỉ gọi em thế thôi. Hắn có vẻ thích gọi cái

tên ấy.” “Anh nghe được chứ, Lincoln.”

“Có, tôi nghe được. Giờ thì khám nghiệm hiện trường. Thời gian đang

bị lãng phí

đấy.”

Khi Sachs đứng lên, Monelle bất ngờ vươn tay nắm lấy cổ tay cô.

“Chị… Sachs, chị có phải người Đức không?”

Cô mỉm cười trả lời. “Lâu lắm rồi. Vài thế hệ trước.”

Monelle gật đầu. Cô ép tay Sachs lên má: “Vielen Dank92. Cám ơn

chị, Sachs.

Danke schön93.”

92 Vielen Dark: Cảm ơn nhiều (tiếng Đức).

93 Danke schön: Cảm ơn (tiếng Đức).

MƯỜI LĂM

Ba cây đèn halogen của ESU bật sáng, chiếu luồng ánh sáng trắng ma

quái vào đường hầm tăm tối.

Đơn độc tại hiện trường, Sachs nhìn xuống sàn trong một khắc. Có gì

đó đã thay đổi. Gì vậy?

Cô lại rút súng, khom người xuống. “Hắn ở đây”, cô thầm thì, bước ra

sau một cây

cột.

“Cái gì?” Rhyme hỏi.

“Hắn đã quay lại. Lúc nãy ở đây có mấy con chuột chết, giờ chúng đâu

hết rồi.” Cô nghe tiếng Rhyme cười.

“Có gì buồn cười vậy?”

“Không, Amelia. Bạn bè chúng đem xác chúng đi rồi.” “Bạn bè

chúng?”

“Có một vụ ở Harlem. Một cái xác bị cắt rời, phân rã. Có rất nhiều

xương bị giấu

trong một vòng tròn lớn xung quanh thân thể. Sọ trong cái trống dầu,

ngón chân cái ở dưới đống lá… Nó làm cho cả khu hoảng loạn. Báo

chí viết về những người thờ phụng quỷ Sa tăng, những kẻ giết người

hàng loạt. Nhưng cuối cùng, thủ phạm là ai, cô biết không?”

“Chịu”, cô căng thẳng nói.

“Chính là nạn nhân. Đó là một vụ tự tử. Chồn hôi, chuột và sóc đã xử

lý thi hài. Như chiến lợi phẩm. Không ai biết vì sao nhưng chúng thích

đồ lưu niệm của chúng. Còn bây giờ, cô đang ở đâu?”

“Phía dưới đoạn đường dốc.” “Cô thấy gì?”

“Một đường hầm rộng. Hai đường hầm bên cạnh, hẹp hơn. Trần nhà

phẳng, được chống bằng cột gỗ. Các cây cột đều bị mòn và có khía.

Sàn nhà bằng bê tông cũ, phủ đầy

bụi.”

“Và phân bón?”

“Trông giống thế. Ở giữa, ngay trước mặt tôi là cây cột mà cô ta bị trói

vào.” “Cửa sổ?”

“Không có. Cũng không có cửa.” Cô nhìn xuyên qua đường hầm rộng,

nền nhà biến vào một vũ trụ đen cách hàng nghìn dặm. Cô cảm thấy

nanh vuốt của sự thất vọng. “Quá rộng! Diện tích phải khám nghiệm

quá rộng.”

“Amelia. Thư giãn đi.”

“Tôi sẽ không tìm được bất cứ thứ gì ở đây.”

“Tôi biết việc này có vẻ quá sức. Nhưng hãy nhớ rằng chỉ có ba loại

vật chứng chúng ta quan tâm. Vật thể, vật chất trên cơ thể và ấn tượng.

Thế thôi. Nếu cô nghĩ thế thì sẽ bớt nản chí.”

Nói thì dễ.

“Còn hiện trường cũng không rộng như vẻ bề ngoài. Chỉ cần chú ý vào

những nơi họ đi qua. Đến chỗ cây cột đi.”

Sachs đi trên con đường. Mắt nhìn xuống.

Đèn ESU sáng chói nhưng chúng cũng làm cho những cái bóng lộ rõ

hơn, cho thấy vài chỗ tên bắt cóc có thể lẩn trốn. Một cơn lạnh chạy

dọc sống lưng cô. Đừng rời xa, Lincoln, cô miễn cưỡng nghĩ. Tôi bực

mình, chắc chắn rồi, nhưng tôi muốn nghe thấy anh. Hơi thở hay gì đó.

Cô dừng lại, chiếu đèn PoliLight lên sàn nhà. “Mọi thứ bị quét sạch sẽ

rồi à?” Anh ta hỏi. “Đúng vậy. Giống như vụ trước.”

Áo giáp siết ngực cô, mặc dù cô đã mặc áo ngực thể thao, áo lót và

cũng nóng như bên ngoài, nhưng ở trong này thì không thể chịu đựng

được. Da cô nhức nhối và cô cảm thấy thèm được thò tay dưới áo để

gãi ghê gớm.

“Tôi đến chỗ cột rồi.”

“Hút bụi chỗ ấy để tìm dấu vết.”

Sachs bật máy Dustbuster94. Cô ghét tiếng ồn. Nó át đi tiếng bước

chân đến gần, tiếng bóp cò súng, tiếng rút dao. Tự nhiên cô miễn

cưỡng nhìn ra sau lưng, một lần, hai lần. Suýt đánh rơi máy hút bụi khi

tay cô lần tìm khẩu súng.

Sachs nhìn vào dấu vết do cơ thể của Monelle để lại trên lớp bụi. Mình

là hắn ta. Mình kéo cô ta theo. Cô ta đá mình. Mình vấp…

Monelle chỉ có thể đá theo một hướng, ngược với phía đường dốc. Đối

tượng không bị ngã, cô ta nói thế. Có nghĩa là hắn đã tiếp đất bằng

chân. Sachs bước sâu vào bóng tối khoảng một, hai thước.

“Trúng rồi!” Sachs hô lên. “Gì thế? Nói tôi nghe?”

“Dấu chân. Hắn bỏ qua một chỗ không quét.”

“Không phải dấu chân của cô ta chứ?”

“Không. Cô ấy đi giày chạy. Còn đây là loại giày đế phẳng. Giống như

giày dạ hội. Hai dấu giày rất rõ. Chúng ta sẽ biết hắn đi giày cỡ nào.”

“Không, dấu giày không nói với ta về cỡ chân. Đế giày có thể to hay

bé hơn phần trên. Nhưng nó vẫn có thể nói với ta điều gì đó. Trong va

li CS có máy in tĩnh điện. Đó là

94 Dustbuster: Tên một loại máy bút hụi cầm tay.

một cái hộp nhỏ với một cây đũa bên trên. Sẽ có mấy tờ giấy acetate

bên cạnh. Tách giấy ra, đặt acetate lên dấu chân và quét cây đũa lên

trên.”

Cô tìm thấy thiết bị đó và in được hai bức hình dấu chân. Thận trọng

cho chúng vào một cái phong bì giấy.

Sachs quay lại chỗ cây cột. “Ở đây có vài cọng từ cái chổi.” “Từ cái

gì?...”

“Xin lỗi”, Sachs nói nhanh. “Ta không biết những cái cọng đó từ đâu

rơi ra. Một mẩu cọng rơm. Tôi đang nhặt nó lên và cho nó vào túi.”

Ngày càng sử dụng bút chì thành thạo hơn. Này, Lincoln, đồ khốn nạn,

có biết ta sẽ làm gì để ăn mừng ngày xa rời vĩnh viễn hiện trường vụ án

không? Ta sẽ đi ăn đồ Tàu.

Những  ngọn  đèn  halogen  của  ESU  không  chiếu  được  trong 

đường  hầm  mà Monelle đã chạy vào. Sachs ngừng lại ở ranh giới

sáng tối, rồi lao vào trong bóng tối. Chùm sáng của cây đèn quét trên

nền nhà phía trước cô.

“Nói với tôi đi, Amelia.”

“Không nhìn thấy gì nhiều. Hắn quét cả ở đây. Lạy Chúa, hắn đã tính

trước mọi

điều.”

“Cô nhìn thấy gì?” “Chỉ có dấu trên đất.”

Mình chặn cô ta lại. Vật cô ta xuống. Mình phát khùng. Điên cuồng.

Mình bóp cổ

cô ta…

Sachs nhìn xuống nền nhà.

“Có gì đó ở đây này – dấu đầu gối. Khi hắn bóp cổ cô ta chắc chắn là

hắn phải kẹp eo cô ta. Dấu đầu gối trái của hắn và hắn bỏ qua không

quét.”

“Dùng máy in tĩnh điện đi.”

Cô làm theo, lần này đã nhanh hơn. Đã quen với thiết bị. Khi đang đưa

bản in vào phong bì thì có gì đó khiến cô chú ý. Một vết nữa trên đất.

Cái gì thế nhỉ?

“Lincoln… Tôi đang nhìn một chỗ ở đây,… có vẻ như cái găng đã bị

rơi ở đây. Khi họ đánh nhau.”

Cô bấm đèn PoliLight. Và không thể tin vào mắt mình. “Một dấu tay.

Tôi có một dấu vân tay!”

“Sao?” Rhyme ngạc nhiên hỏi. “Không phải của cô ta đấy chứ?”

“Không, không thể là dấu tay cô ấy. Tôi có thể nhìn thấy bụi chỗ cô ấy

nắm. Tay cô ấy lúc nào cũng bị còng. Đây là chỗ hắn nhặt găng tay.

Có thể hắn nghĩ hắn đã quét nhưng vẫn bỏ quên mất chỗ đó. Một cái

dấu tay, to, đẹp hết ý!”

“Rắc bụi, chiếu sáng và chụp ảnh cỡ một-một thằng chó ấy đi.”

Cô chỉ cần chụp hai lần là có được tấm hình Polaroid rõ nét. Cô thấy

mình như vừa nhặt được tờ một trăm đô la ngoài phố.

“Hút bụi chỗ đó rồi quay lại chỗ cây cột. Đan lưới đi”, anh nói với cô.

Cô chậm rãi đi tới lui trên sàn nhà. Từng foot một.

“Nhớ nhìn lên trên”, anh ta nhắc cô. “Đã có lần tôi tóm được thủ phạm

chỉ nhờ một sợi tóc trên trần nhà. Hắn nạp đạn .357 vào khẩu .38 và

phản lực đã thổi một sợi tóc của hắn dính lên phào trần.”

“Tôi đang tìm. Đây là mái ngói. Bẩn thỉu. Chẳng có gì khác. Chẳng có

chỗ nào để giấu. Không gờ tường, không khung cửa.”

“Thế còn dấu tích dàn cảnh?” Anh hỏi. Tới, lui. Năm phút trôi qua.

Sáu, bảy.

“Có thể lần này hắn không để lại gì”, Sachs đề xuất. “Có thể Monelle

là nạn nhân cuối cùng.”

“Không”, Rhyme nói chắc chắn.

Sau đó phía sau cây cột, một chớp sáng lọt vào mắt cô. “Có gì đấy

trong góc… Đúng rồi. Chúng đây rồi.” “Chụp ảnh trước rồi hãy động

vào nó.”

Cô chụp ảnh, sau đó dùng bút chì nhấc lên một búi vải trắng. “Đồ lót

phụ nữ.

Ướt.”

“Tinh dịch?”

“Tôi không biết”, cô nói. Băn khoăn không hiểu anh ta có bắt cô ngửi

không. Rhyme ra lệnh. “Thử đèn PoliLight. Protein sẽ phát sáng.”

Cô nhặt cây đèn, bật lên. Chỗ vải tỏa sáng, nhưng chất lỏng thì không.

“Cho nó vào túi. Túi nhựa. Còn gì nữa?” Anh ta thiết tha hỏi.

“Một cái lá. Dài, mỏng, một đầu nhọn.”

Nó bị cắt đã lâu, khô và ngả sang màu nâu.

Cô nghe tiếng Rhyme thở dài thất vọng. “Có khoảng tám nghìn loại cây

lá rụng ở

Manhattan”, anh ta giải thích. “Không có ích mấy. Có gì phía dưới cái

lá?” Vì sao anh ta lại nghĩ phía dưới có gì?

Nhưng hóa ra lại có. Một mẩu giấy báo. Một mặt trắng trơn, mặt bên

kia in các tuần trăng.

“Mặt trăng?” Rhyme trầm ngâm. “Có chữ gì không? Thử phun

ninhydrin và quét sáng thật nhanh xem sao?”

Chùm sáng cây đèn PoliLight không phát hiện được gì. “Tất cả chỉ có

vậy.”

Một khắc im lặng. “Những manh mối đó được đặt trên cái gì?” “Ồ. Tôi

không biết.”

“Cô phải biết.”

“À, trên nền nhà”, cô trả lời thăm dò. “Bụi bặm.” Chúng còn được đặt

trên cái gì nữa nhỉ?

“Có giống bụi quanh đấy không?”

“Có.” Sau đó cô nhìn kỹ hơn. Khỉ thật, có khác. “À, không hẳn thế.

Nó khác

màu.”

Anh ta lúc nào cũng đúng.

Rhyme ra lệnh: “Cho vào túi. Túi giấy.”

Khi cô đang xúc lên. Anh ta nói: “Amelia?” “Sao?”

“Hắn không ở đấy đâu”, Rhyme nói chắc chắn. “Tôi đoán thế.”

“Tôi nghe thấy có gì đó trong giọng cô.”

“Tôi ổn”, cô nói ngắn gọn. “Tôi đang ngửi không khí. Tôi ngửi thấy mùi

máu. Mùi

mốc và nấm. Và cả mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.” “Giống lần

trước?”

“Đúng thế.” “Đến từ đâu?”

Vừa ngửi không khí, Sachs vừa đi theo hình xoắn ốc, lại là Maypole,

cho tới khi cô đi đến một cây cột gỗ khác.

“Ở đây. Đúng là chỗ này có mùi rõ nhất.”

“Chỗ này là cái gì, Amelia. Cô vừa là chân, vừa là mắt của tôi. Cô nhớ

chứ?”

“Một trong những cái cột gỗ ấy. Như cái cột mà cô ấy bị trói vào.

Cách đó khoảng mười lăm feet.”

“Có thể hắn đã dựa vào đấy. Có dấu tay, dấu chân gì không?” Cô

phun ninhydrin lên đó và chiếu sáng.

“Không. Nhưng mùi rất mạnh.”

“Lấy một mẫu từ cái cột, chỗ có mùi mạnh nhất. Có cái MotoTool

trong vali. Màu đen. Một cái khoan tay. Hãy dùng mũi khoan lấy mẫu

– giống như mũi khoan lỗ – và gắn nó vào máy khoan. Có một thứ gọi

là cái bàn cặp. Đó là…”

“Tôi có một cái máy khoan bàn”, cô nói cộc lốc. “Ồ”, Rhyme nói.

Cô khoan ra một mẫu cột gỗ, sau đó lau mồ hôi trán. “Cho nó vào túi

nhựa?” Cô hỏi. Anh ta đồng ý. Cô cảm thấy choáng váng, cúi đầu

xuống để lấy hơi. Trong này chẳng có tí không khí nào cả.

“Còn gì nữa không?” Rhyme hỏi. “Không còn gì mà tôi có thể nhìn

được.”

“Tôi tự hào vì cô, Amelia. Hãy đem kho báu của cô về đây nào.”

MƯỜI SÁU

“Cẩn thận tí chứ”, Rhyme quát. “Tôi là chuyên gia cơ mà.” “Mới hay

cũ đấy?”

“Suỵt”, Thom nói.

“Ôi trời, vì Chúa. Lưỡi dao cạo, mới hay cũ đấy?” “Đừng thở... À, đây

rồi. Nhẵn như mông em bé.” Họ không khám nghiệm mà trang điểm.

Thom đang cạo râu cho Rhyme, lần đầu tiên trong tuần. Anh ta cũng

gội đầu và chải tóc ngược ra sau cho Rhyme.

Nửa tiếng trước, trong khi đợi Sachs vá chứng cứ trở về, Rhyme đã

bảo Cooper ra khỏi phòng khi Thom khéo léo dùng K-Y thông đường

tiểu cho anh và nối lại ống. Sau khi xong việc, Thom nhìn anh và nói:

“Trông anh tệ lắm. Anh có thấy thế không?”

“Tôi không quan tâm. Sao tôi lại phải quan tâm chứ?” Bất ngờ phát

hiện ra anh có quan tâm.

“Cạo râu, được không?” Chành thanh niên hỏi. “Ta không có thời

gian.”

Sự quan ngại thực sự của Rhyme là nếu bác sĩ Berger thấy anh chỉnh tề

quá, có thể ông ta sẽ không muốn tiếp tục vụ tự tử. Một bệnh nhân

nhếch nhác là bệnh nhân đã nản lòng.

“Và tắm rửa nữa.” “Không.”

“Lincoln, chúng ta đang có khách đấy.”

Cuối cùng thì Rhyme cũng càu nhàu: “Được rồi.” “Và thay luôn bộ

pyjama chứ? Anh thấy thế nào?” “Có gì không ổn đâu?”

Lúc này, sau khi được tắm rửa, mặc quần bò và áo sơ mi trắng,

Rhyme lảng tránh cái gương người trợ lý đang giơ trước mặt anh.

“Cất nó đi.”

“Tốt hơn rất nhiều.”

Lincoln Rhyme nhạo báng khịt mũi. “Tôi sẽ đi dạo một chút trước khi

họ đến”, anh tuyên bố và ngả đầu lên gối. Mel Cooper quay sang nhìn

anh với vẻ mặt khó hiểu.

“Trong đầu anh ấy”, Thom giải thích. “Đầu anh?”

“Tôi tưởng tượng”, Rhyme tiếp. “Một trò ảo thuật”,Cooper nói.

“Tôi có thể đi qua bất cứ khu vực lân cận nào tôi muốn mà không bao

giờ bị trấn lột. Leo núi nhưng không bao giờ mệt. Trèo núi nếu tôi

muốn. Đi bát phố trên Đại lộ Năm. Tất nhiên là những thứ tôi nhìn thấy

chưa chắc đã có ở đó. Nhưng thế thì đã sao? Sao trên trời cũng thế

mà.”

“Như thế nào?” Cooper hỏi.

“Ánh sáng của các vì sao mà ta đang nhìn thấy có tuổi thọ hàng nghìn

hay hàng triệu năm. Khi chúng đến được Trái Đất thì những ngôi sao

đã dịch chuyển. Chúng không còn ở chỗ mà ta nhìn thấy chúng nữa.”

Rhyme thở dài vì cơn mệt mỏi lan tỏa khắp người. “Tôi cho rằng trong

số chúng có cả những vì sao đã cháy hết và biến mất.” Anh nhắm mắt.

“Hắn làm mọi thứ khó khăn hơn đây.”

“Không nhất thiết”, Rhyme trả lời Lon Sellitto.

Sellitto, Banks và Sachs vừa từ hiện trường trại chăn nuôi trở về.

“Đồ lót, mặt trăng và cây cối”, Jerry Banks bi quan nhưng vui vẻ nói.

“Chính xác là bản đồ đường đi.”

“Cả bụi bẩn nữa”, Rhyme nhắc, anh luôn coi trọng bùn đất. “Anh có ý

tưởng gì về ý nghĩa của chúng không?” Sellitto hỏi. “Vẫn chưa”, Rhyme

nói.

“Polling đâu nhỉ?” Sellitto lẩm bẩm. “Anh ta vẫn chưa trả lời tin nhắn.”

“Không thấy anh ta đâu”, Rhyme nói.

Một bóng người xuất hiện trên ô cửa.

“Vẫn sống và hít thở”, một giọng nam trung mượt mà vang lên.

Rhyme gật đầu ra hiệu cho một người đàn ông lênh khênh vào phòng.

Trông anh ta có vẻ ủ rũ, nhưng khuôn mặt gầy guộc của anh ta nở một

nụ cười ấm áp, trông có vẻ không hợp cảnh. Terry Dobyns là đại diện

tiêu biểu của Phòng Khoa học Hành vi của NYPD. Anh ta học cùng

với các nhà hành vi học của FBI ở Quantico, có bằng tâm lý học và

khoa học pháp y.

Nhà tâm lý học này yêu opera và bóng bầu dục. Khi Lincoln Rhyme

tỉnh dậy trong bệnh  viện  ba  năm rưỡi trước đây,  Dobyns  ngồi cạnh 

anh,  nghe  vở  Aïda trên  máy Walkman. Anh ta dành ba giờ sau đó

để thực hiện phiên tư vấn đầu tiên trong rất nhiều phiên tư vấn về chấn

thương của Rhyme.

“Giờ thì tại sao tôi lại nhớ đến cuốn sách nói về những người không trả

lời điện thoại?”

“Để sau hãy phân tích tôi, Terry. Cậu đã nghe về đối tượng của chúng

ta rồi chứ?”

“Một chút”, Dobyns nói, quan sát Rhyme. Anh ta không phải bác sĩ

nhưng anh ta hiểu về cơ thể học. “Cậu ổn chứ, Lincoln? Trông hơi

xanh xao đấy.”

“Hôm nay tôi có chỉnh trang chút”, Rhyme thừa nhận. “Tôi có ngủ trưa.

Cậu biết tôi lười thế nào rồi chứ.”

“Ừ, rồi. Cậu là người gọi tôi dậy vào lúc ba giờ sáng để hỏi vài câu về

tội phạm và không hiểu vì sao tôi lại ở trên giường. Có chuyện gì thế?

Cậu đang tìm hồ sơ à?”

“Bất kỳ thứ gì cậu có thể nói với chúng tôi đều có ích.”

Sellitto tóm tắt tình hình cho Dobyns, người mà theo ký ức của Rhyme

hồi còn làm việc cùng nhau, không bao giờ ghi chép nhưng vẫn nhớ

được mọi thứ trong cái đầu tóc đỏ sậm của anh ta.

Nhà tâm lý học đi đến trước bản sơ đồ treo trên tường, thỉnh thoảng

liếc nhìn nó trong khi lắng nghe viên thám tử nói.

Anh ta giơ một ngón tay lên chặn Sellitto. “Nạn nhân, nạn nhân… Tất

cả bọn họ đều được phát hiện dưới lòng đất. Bị chôn, trong tầng hầm,

trong đường hầm của trại chăn nuôi.”

“Đúng thế”, Rhyme khẳng định. “Tiếp đi.”

Sellitto tiếp tục nói về vụ giải cứu Monelle Gerger.

“Tốt, được rồi”, Dobyns nói một các trống rỗng. Sau đó ngừng, rồi

quay lại nhìn sơ đồ trên tường lần nữa. Anh ta giạng chân, tay chống

nạnh, nhìn chăm chăm vào những thông số rời rạc về Đối tượng 832.

“Nói tôi nghe suy nghĩ của anh đi, về việc hắn thích những cổ xưa ấy.”

“Tôi không biết điều đó có đem lại gì không. Cho tới nay thì những

manh mối về hắn đều có liên quan đến New York lịch sử. Vật liệu xây

dựng từ hồi đầu thế kỷ, trại chăn nuôi, hệ thống hơi nước.”

Bất ngờ Dobyns tiến lên và gõ vào tờ giấy. “Hanna. Nói tôi nghe về

Hanna.” “Amelia?” Rhyme hỏi.

Cô nói với Dobyns việc đối tượng đã gọi Monelle Gerger là Hanna mà

không có một lý do rõ ràng nào cả. “Cô ấy nói hắn thích gọi cái tên đó.

Và nói với cô ấy bằng tiếng

Đức.”

“Và hắn cũng tranh thủ sờ soạng cô ta, đúng không?” Dobyns nhận

xét. “Taxi, sân bay – an toàn đối với hắn. Nhưng nấp trong phòng giặt

là… Hắn ta chắc chắn phải có động lực thực sự để bắt một người

Đức.”

Dobyns xoáy một búi tóc rối bù quanh ngón tay, ngồi phịch xuống một

cái ghế mây và duỗi chân trước mặt.

“Được rồi, thử cái này xem. Dưới lòng đất… đó là chìa khóa. Nó nói

với tôi rằng hắn là người đang giấu giếm điều gì đó và khi tôi nghe điều

này tôi bắt đầu nghĩ đến chứng loạn thần kinh.”

toán.”

“Hắn ta không có vẻ cuồng loạn”, Sellitto nói. “Hắn cực kỳ bình tĩnh và

tính

“Không phải chứng loạn thần kinh theo nghĩa ấy. Đây là một kiểu rối

loạn tâm lý.

Triệu chứng biểu hiện khi có một chấn thương xảy ra trong cuộc đời

bệnh nhân và vô thức chuyển đổi chấn thương này thành một thứ khác.

Đó là một cố gắng bảo vệ bệnh nhân. Với việc chuyển đổi truyền thống

của chứng cuồng loạn, anh sẽ thấy những triệu chứng bệnh lý – buồn

nôn, đau đớn, liệt. Nhưng tôi nghĩ ở đây chúng ta đang xử lý vấn đề có

liên quan. Sự phân tách – đó là tên chúng tôi gọi khi phản ứng của

chấn thương ảnh hưởng đến tư duy chứ không phải thể xác. Chứng

quên cuồng loạn, các trạng thái điên, bỏ nhà lang thang. Đa nhân

cách.”

“Jekyll và Hyde95?” Mel Cooper vờ là một gã đồng tính, đấm Banks.

“À, tôi không nghĩ hắn thực sự có bệnh đa nhân cách”, Dobyns nói

tiếp. “Đây là một triệu chứng rất hiếm thấy. Những trường hợp đa nhân

cách truyền thống thường là người trẻ tuổi và có chỉ số IQ thấp hơn

anh chàng của các cậu.” Anh ta hất đầu về phía tấm áp phích hồ sơ

trên tường. “Hắn ta khéo léo và thông minh. Một kẻ tấn công rõ ràng

và có tổ chức.” Dobyns nhìn ra ngoài cửa sổ một lát. “Thú vị thật đấy,

Lincoln. Tôi nghĩ đối tượng của cậu khoác lên mình một nhân cách

khác khi nó phù hợp với hắn ta – khi hắn ta muốn giết người – và đó là

điều rất quan trọng.”

“Vì sao?”

“Hai lý do. Thứ nhất, điều đó nói cho ta vài điều về nhân cách chính

của hắn. Hắn là một người được đào tạo – có thể trong công việc, có

thể khi đi học – để giúp người khác, không phải làm họ tổn thương.

Một thầy tu, một luật sư, chính trị gia, nhân viên hoạt động xã hội. Thứ

hai, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là hắn đã tìm được cho mình một bản đồ

chi tiết. Nếu các anh tìm ra nó là gì, có thể các anh sẽ tìm được manh

mối dẫn tới hắn.”

“Bản đồ chi tiết kiểu gì?”

“Có thể hắn đã muốn giết chóc từ lâu rồi. Nhưng hắn không hành động

cho tới khi hắn tìm cho mình một hình mẫu. Có thể là một cuốn sách

hay bộ phim. Hoặc ai đó hắn biết. Nếu đó là người mà hắn có thể bị

đánh đồng cùng, ai đó mà tội ác của họ đã cấp cho hắn giấy phép giết

chóc. Còn chỗ này thì tôi thấy có vẻ hơi khập khiễng…”

“Tiếp đi”, Rhyme nói: “Tiếp đi.”

“Sự đam mê đối với lịch sử của hắn nói với tôi rằng nhân vật của hắn là

ai đó trong quá khứ.”

“Đời thực?”

“Tôi không chắc. Có thể là tưởng tượng, có thể không phải. Hanna,

bất kể cô ta là ai, phải là một nhân vật trong một câu chuyện đâu đó.

Cả ở Đức. Hay là người Mỹ gốc Đức.”

“Cậu có biết điều gì đó có thể làm hắn ra như vậy?”

95 Jekyll và Hyde: Hai nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Louis

Stevenson. Nói về sự rối loạn đa nhân cách của con người.

“Freud nói đó là – còn gì được nữa? – xung đột tình dục trong giai

đoạn Oedip96. Ngày nay, mọi người nhất trí rằng sự vấp váp mang

tính phát triển chỉ là một trong những nguyên nhân – bất kỳ chấn

thương nào cũng có thể dẫn đến điều đó. Và nó không nhất thiết chỉ là

một sự kiện duy nhất. Có thể là nứt vỡ nhân cách, một loạt thất vọng

về cuộc sống cá nhân hay sự nghiệp. Khó nói.” Mắt anh ta chăm chú

nhìn hồ sơ. “Nhưng tôi rất hy vọng cậu sẽ tóm được hắn, Lincoln. Tôi

rất muốn được làm việc với hắn trong mấy tiếng đồng hồ.”

“Thom, cậu ghi lại cả chưa?” “Rồi, bwana.”

“Nhưng có một câu hỏi”, Rhyme bắt đầu.

Dobyns ngoảnh lại. “Tôi sẽ nói đấy chính là câu hỏi, Lincoln: Vì sao

hắn để lại manh mối, đúng thế không?”

“Đúng vậy. Tại sao?”

“Nghĩ xem hắn đã làm gì… Hắn đang nói chuyện với cậu. Không dông

dài, rời rạc như Con trai của Sam hay sát thủ Zodiac97. Hắn không bị

tâm thần phân liệt. Hắn đang giao tiếp – bằng ngôn ngữ của cậu. Ngôn

ngữ pháp y. Vì sao?” Đi đi lại lại, mắt anh ta nhìn lên tấm áp phích.

“Tất cả những gì tôi có thể đoán lúc này là hắn muốn chia sẻ tội lỗi.

Giết chóc đối với hắn rất khó khăn. Sẽ dễ dàng hơn nếu hắn lôi chúng

ta vào. Nếu chúng ta không cứu được nạn nhân thì họ chết, một phần

là do lỗi của chúng ta.”

“Nhưng thế thì tốt, đúng không?” Rhyme hỏi. “Thế có nghĩa là hắn sẽ

tiếp tục cho chúng ta những manh mối có thể giải đoán. Nếu không,

nếu câu đó quá khó, hắn sẽ không chia sẻ được gánh nặng.”

“Ừ, đúng vậy”, Dobyns nói, nụ cười đã tắt. “Nhưng vẫn còn những yếu

tố khác

nữa.”

Sellitto đưa ra câu trả lời: “Tăng cường hoạt động liên tục.” “Đúng thế”,

Dobyns khẳng định.

“Làm sao hắn có thể tấn công thường xuyên hơn được?” Banks lẩm

bẩm. “Ba giờ

một lần chưa đủ nhanh hay sao?”

“Hắn sẽ tìm được cách”, nhà tâm lý học nói tiếp. “Chủ yếu là hắn sẽ

nhắm tới nhiều nạn nhân.” Đôi mắt nhà tâm lý học nheo lại. “Thế nào

Lincoln, cậu ổn chứ?”

Trán nhà hình sự học lấm tấm mồ hôi, anh ta liếc mắt nhìn. “Mệt. Quá

nhiều điều phấn khích trong một ngày cho một kẻ tàn tật già nua.”

96 Oedip: Hay còn gọi là Hội chứng Oepidus theo lý thuyết của nhà

tâm lý học người Áo Zigmud Freud. Hội chứng này được đặt tên theo

tên nhân vật Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là nhân vật đã giết

cha mình là Laius, và kết hôn với mẹ mình, Jocasta.

Theo lý thuyết này, hội chứng đó thường xuất hiện trong giai đoạn trẻ

từ ba đến năm tuổi.

Đứa trẻ sẽ cảm thấy ham muốn về giới tính đối với mẹ, là người khác

giới và mong muốn cái chết của cha, là người cùng giới.

97 Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.

“Một điều cuối cùng. Hồ sơ của nạn nhân rất quan trọng trong tội ác

hàng loạt. Nhưng ở đây chúng ta gặp các giới tính, tuổi tác, và tấng lớp

kinh tế khác nhau. Tất cả đều da trắng nhưng hắn chủ yếu đi săn trong

ao da trắng nên điều này không có ý nghĩa nhiều về mặt thống kê. Với

những gì ta đã biết, ta không thể lần ra được vì sao hắn lại chọn những

người này. Nếu cậu có thể lần ra, cậu sẽ đi trước hắn.”

“Cám ơn, Terry”, Rhyme nói. “Ở lại một lúc nữa nhé.” “Được thôi,

Lincoln. Nếu cậu muốn.”

Sau đó Rhyme hạ lệnh. “Hãy xem vật chứng từ hiện trường trại chăn

nuôi. Chúng ta có gì nhỉ? Đồ lót?”

Mel Cooper gom những cái túi do Sachs đem về từ hiện trường. Anh

ta nhìn một cái túi đựng đồ lót. “Loại D’Amore của hãng thời trang

Katrina”, anh ta tuyên bố. “Bông một trăm phần trăm, dây chun. Vải

dệt tại Mỹ. Cắt và may tại Đài Loan.”

“Chỉ cần nhìn mà anh đã biết ngay ư?” Sachs ngạc nhiên hỏi. “Không,

tôi đọc thôi”, anh ta trả lời, chỉ vào cái mác.

“Ồ…”

Mấy viên cảnh sát cười rộ.

“Có thể hắn nói với chúng ta rằng, hắn đã bắt được một người phụ nữ

khác chăng?” Sachs hỏi.

“Có khả năng.” Rhyme nói.

Cooper mở cái túi. “Tôi không biết chất lỏng đó là gì. Tôi sẽ đo sắc

ký.”

Rhyme bảo Thom giơ mẩu giấy có tuần trăng lên. Anh thận trọng

nghiên cứu nó. Một mẩu giấy như vậy là một bằng chứng xác lập cá

thể tuyệt vời. Anh có thể nối nó với tờ báo mà nó bị xé ra và liên kết

chứng với nhau chặt chẽ như dấu tay. Tất nhiên vấn đề ở đây là họ

không có tờ báo nguyên bản. Anh tự hỏi, không biết họ có thể tìm

được nó hay không. Đối tượng có thể hủy nó ngay sau khi hắn xé mẩu

giấy. Nhưng Lincoln Rhyme vẫn thiên về ý nghĩ rằng hắn không làm

thế. Anh muốn hình dung ra nó ở đâu đó. Đang đợi anh tìm thấy. Theo

cách mà anh luôn hình dung ra bằng chứng gốc: một mẩu sơn xe hơi bị

cào rớt, một ngón tay bị mất móng, cái nòng súng bắn ra viên đạn súng

trường được tìm thấy trong cơ thể nạn nhân. Những nguồn này – luôn

ở gần đối tượng – có nhân cách riêng của chúng trong trí óc Rhyme.

Chúng có thể hống hách hay độc ác.

Hay bí hiểm.

Tuần trăng.

Rhyme hỏi Dobyns liệu đối tượng của họ có động cơ nào để hắn hoạt

động theo chu kỳ hay không.

“Không. Giờ không phải là lúc trăng tròn. Tới hôm nay mới được bốn

ngày.” “Như thế mặt trăng ở đây có ý nghĩa khác.”

“Có thể ngay từ đầu nó cũng không có nghĩa là mặt trăng”, Sachs nói.

Vui vẻ, mà hoàn toàn có cơ sở, Rhyme nghĩ. Anh nói: “Ý hay đấy,

Amelia. Có thể hắn nói về những vòng tròn. Về mực. Về giấy. Về hình

học. Hành tinh…”

Rhyme nhận ta cô đang nhìn anh. Có thể cô vừa nhận thấy anh đã cạo

râu và chải tóc, thay quần áo.

Tâm trạng của cô ta là gì? Anh tự hỏi. Giận anh, hay không quan tâm?

Anh không đoán được. Lúc này Amelia cũng bí ẩn như Đối tượng 823.

Tiếng bíp của máy fax vang lên trong hành lang. Thom ra ngoài và quay

lại với hai tờ giấy.

“Từ Emma Rollins”, anh ta nói. Anh ta giơ tờ giấy lên để Rhyme có thể

nhìn thấy. “Bản khảo sát các cửa hàng thực phẩm của chúng ta. Trong

hai ngày qua có mười

một cửa hàng ở Manhattan bán chân bê cho những khách hàng mua ít

hơn năm món hàng.” Anh ta bắt đầu viết lên tờ áp phích, sau đó quay

lại nhìn Rhyme: “Tên các cửa hàng?”

“Tất nhiên rồi. Ta cần nó để sau này còn tham chiếu chéo.” Thom viết

lên bản hồ sơ.

B’way & 82nd,

ShopRite

B’way & 96th, Anderson Foods

Greenwich & Bank, ShopRite

2nd Ave., 72nd-73nd,

Grocery World

Battery Park City,

J&G’s Emporium

1709 2nd Ave., Anderson Foods

34th & Lex.,

Food Warehouse

8th Ave. & 24th, ShopRite

Houston & Lafayette, ShopRite

6th Ave. & Houston,

J&G’s Emporium

Greenwich & Franklin, Grocery World

“Như thế là cả thành phố còn gì”, Sachs nói. “Kiên nhẫn”, Lincoln

Rhyme bồn chồn nói.

Mel Cooper đang xem xét sợi rơm mà Sachs tìm được. “Chẳng có gì

đặc biệt.” Anh ta ném nó sang một bên.

“Nó còn mới không?” Rhyme hỏi. Nếu nó còn mới, họ có thể tham

chiếu chéo tới những cửa hàng vừa bán chổi, vừa bán chân bê trong

một ngày.

Nhưng Cooper nói: “Tôi đã nghĩ tới điều này rồi. Khoảng sáu tháng

hoặc lâu hơn.” Anh ta bắt đầu lắc các bằng chứng dấu vết trong đống

quần áo của cô gái Đức xuống một tờ báo.

“Có mấy thứ ở đây”, anh ta nói trong khi soài người trên tờ báo. “Bụi

bẩn.” “Có đủ để phân tích biến thiên mật độ không?”

“Không. Thực ra chỉ là ít bụi. Có thể là từ hiện trường.”

Cooper xem xét phần còn lại của những thứ mà anh ta chải ra được từ

đám quần áo máu me.

“Bụi gạch. Sao lại lắm gạch thế?”

“Từ bọn chuột bị tôi bắn. Tường chỗ đó bằng gạch.” “Cô bắn chúng?

Tại hiện trường?” Rhyme cau mày.

Sachs chống cự: “Vâng, đúng thế. Nhưng chúng bò đầy trên người cô

ấy.”

Tức giận, nhưng anh bỏ qua. Chỉ nói: “Đủ các thứ ô nhiễm sinh ra lúc

bắn súng. Chì, thạch tín, carbon, bạc…”

“Đây này… một mẩu da màu đỏ. Từ găng tay. Và… ta có một mẩu

sợi. Một mẫu

khác.”

Các nhà hình sự học rất thích sợi. Đó là một nhúm sợi nhỏ xíu, rất khó

nhìn thấy

bằng mắt thường.

“Tuyệt vời”, Rhyme nói. “Còn gì nữa?”

“Và đây là ảnh hiện trường”, Sachs nói, “và dấu tay. Một trên cổ họng

cô gái và một ở chỗ hắn nhặt găng tay”. Cô giơ chúng lên.

“Tốt”, Rhyme nói và xem xét chúng cẩn thận.

Trên khuôn mặt cô tỏa sáng ánh hào quang của một chiến thắng miễn

cưỡng – một cơn sốt chiến thắng, mặt trái của việc căm thù bản thân vì

là một kẻ không chuyên.

Rhyme đang nghiên cứu tấm ảnh Polaroid thì anh nghe thấy tiếng bước

chân trên cầu thang và Jim Polling đến. Anh ta vào phòng ra vẻ ngạc

nhiên khi nhìn thấy Lincoln Rhyme được chỉnh trang và bước đến chỗ

Sellitto.

“Tôi vừa ở hiện trường vụ án”, anh ta nói. “Các bạn đã cứu được nạn

nhân. Làm rất tốt.” Anh ta gật đầu về phía Sachs, ra ý là anh ta tính cả

cô trong đó. “Nhưng thằng khốn đó lại tóm được người khác rồi à?”

“Hoặc chuẩn bị tóm”, Rhyme lẩm bẩm, vẫn chăm chăm nhìn tấm ảnh.

“Chúng tôi đang nghiên cứu manh mối”, Banks nói.

“Jim, tôi đang cố tìm anh”, Sellitto nói. “Tôi đã thử gọi đến cả văn

phòng Thị trưởng.”

“Tôi làm việc với sếp. Phải van lạy để xin thêm vài tay tìm kiếm. Tôi

kiếm được thêm năm mươi người nữa từ đội an ninh cho Liên Hiệp

Quốc.”

“Đại úy, có vài chuyện ta cần bàn. Chúng ta đang có vấn đề. Điều gì

đó xảy ra tại hiện trường cuối cùng…”

Một giọng nói cho tới lúc này chưa ai nghe thấy vang lên trong phòng.

“Vấn đề? Ai có vấn đề? Ở đây chẳng có vấn đề gì cả, đúng không?

Không hề có vấn đề nào hết.”

Rhyme nhìn lên, một người đàn ông cao gầy trên ngưỡng cửa. Anh ta

đen tuyền, mặc bộ vét nực cười màu xanh lá và đôi giày bóng loáng

như hai tấm gương màu nâu. Tim Rhyme chùng xuống. “Dellray.”

“Lincoln Rhyme. Người hùng của New York. Chào Lon. Cả Jim

Polling nữa này, công việc thế nào, anh bạn?”

Phía sau Dellray là nửa tá đàn ông và phụ nữ. Rhyme biết ngay tức

khắc vì sao đặc vụ liên bang lại có mặt ở đây. Dellray nhìn lướt những

sĩ quan có mặt trong phòng, sự chú ý của anh ta bùng lên một khắc khi

thấy Sachs rồi tan biến.

“Anh muốn gì?” Polling hỏi.

Dellray nói: “Các vị vẫn chưa thấy sao? Các vị đã bị loại. Chúng tôi

đến tiễn chân các vị. Đúng thế, thưa ngài. Đóng cửa ổ đề.”

MƯỜI BẢY

Một người trong chúng ta.

Đó là cách Dellray nhìn Lincoln Rhyme khi anh ta bước vòng quanh

giường. Vài người đã làm thế. Bại liệt là một câu lạc bộ trong đó họ tổ

chức dạ hội với chuyện đùa, những cái gật đầu, nháy mắt. Anh biết là

tôi mến anh mà, vì tôi sẽ trêu đùa với anh.

Lincoln Rhyme biết rằng thái độ này sẽ biến mất nhanh chóng.

“Nhìn này”, Dellray vừa nói vừa chỉ Clinitron. “Cảnh trong Star Trek.

Chỉ huy

Riker, lên tàu ngay.”

“Biến đi, Dellray”, Polling nói. “Đây là vụ của chúng tôi.” “Tình hình

bệnh nhân của ta ra sao, bác sĩ Crusher?”

Viên đại úy tiến  lên phía trước,  viên đặc vụ  FBI  cao  kều cúi người 

xuống. “Dellray, anh nghe tôi nói không? Biến đi.”

“Ái chà, Rhyme, tôi sẽ cố kiếm cho mình một cái giường thế này. Nằm

xem thế nào cũng không tệ. Nghiêm chỉnh đấy, Lincoln, anh thế nào?

Mấy năm rồi còn gì.”

“Họ có gõ cửa không?” Rhyme hỏi Thom. “Không, họ chẳng buồn gõ

cửa.”

“Các anh không gõ cửa”, Rhyme nói. “Thế thì tôi khuyên các anh nên

đi ra.”

“Tôi có giấy phép đây”, Dellray lẩm bẩm, búng búng vào tờ mớ giấy tờ

trong túi áo ngực.

Móng tay trỏ của Amelia Sachs cậy ngón tay cái của cô tới mức gần

bật máu. Dellray nhìn quanh phòng. Rõ ràng là anh ta bị ấn tượng bởi

phòng thí nghiệm

ngẫu hứng của họ nhưng lại nhanh chóng che đậy cảm giác đó. “Xin

lỗi. Chúng tôi tiếp

quản vụ này.”

Trong hai mươi năm làm cảnh sát, chưa bao giờ Rhyme gặp tình huống

tiếp quản bắt buộc như vụ này.

“Mặc mẹ nó, Dellray”, Sellitto bắt đầu. “Anh chuyển vụ này rồi mà.”

Viên đặc vụ quay khuôn mặt đen bóng của mình lại cho tới khi anh ta

nhìn xuống viên thám tử.

“Chuyển? Chuyển? Tôi không hề nghe gì về vụ này. Anh có gọi điện

cho tôi không?”

“Không.”

“Thế thì ai thả xu98?”

“Thế thì…”, Sellitto ngạc nhiên, liếc nhìn Polling. Anh ta nói: “Các anh

có tư vấn. Đó là mọi thứ chúng tôi phải gửi cho anh.” Lúc này anh ta

cũng đang chống chế.

“Tư vấn. Được đấy. Này, mà nó được chuyển thế nào nhỉ? Có phải

bằng Pony Ex- press99 không? Hay qua đường bưu điện? Nói tôi

nghe, Jim, tư vấn qua đêm thì có ích lợi gì cho một chiến dịch đang

triển khai?”

Polling nói: “Chúng tôi không thấy nhu cầu.”

“Chúng tôi?” Dellray hỏi nhanh. Như một phẫu thuật gia tìm thấy một

khối vi u. “Tôi thấy không cần thiết”, Polling vặc lại. “Tôi nói với ngài

Thị trưởng nên giữ

vụ này như một vụ của địa phương. Chúng tôi kiểm soát được nó. Giờ

thì biến đi,

Dellray.”

“Và anh nghĩ anh có thể làm xong nó cho kịp bản tin mười một giờ?”

Rhyme giật mình khi Polling quát: “Chúng tôi nghĩ gì không phải việc

của anh, khốn kiếp. Vụ chết tiệt này là của chúng tôi.” Anh biết tính khí

nổi tiếng của viên đại úy, nhưng chưa bao giờ được chứng kiến.

“Thực… ra, bây giờ thì vụ chiết tiệt này là của chúng tôi.” Dellray đi

ngang qua cái bàn đặt thiết bị của Cooper.

Rhyme nói: “Đừng làm thế, Fred. Chúng tôi đang nắm được thằng cha

này. Hãy làm việc cùng chúng tôi, nhưng đừng lấy vụ này. Đối tượng

không giống với bất kỳ kẻ nào anh đã gặp.”

Dellray mỉm cười. “Hãy xem, tin mới nhất mà tôi nghe được từ vụ ‘chết

tiệt’ này là gì? Các anh để một thường dân xét nghiệm pháp y.” Viên

đặc vụ ném một cái nhìn về phía chiếc giường Clinitron. “Các anh để

một cảnh sát tuần tra đi khám nghiệm hiện trường. Các anh bắt quân

lính đi mua thực phẩm.”

“Tiêu  chuẩn  chứng  cứ,  Frederick”,  Rhyme  nghiêm  khắc  nhắc 

nhở.  “Đấy  là

SOP100.”

98 Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý nói người nào chỉ điểm.

99 Pony Express: Nói kháy, một dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ,

dùng ngựa Pony để vận chuyển.

100 SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.

Dellray trông có vẻ thất vọng. “Nhưng đó là ESU, Lincoln? Tiền của

người nộp thuế cả đấy. Rồi còn cưa người ta ra, cứ như trong Texas

Chainsaw101 vậy…”

Thế quái nào mà tin này lại rò rỉ ra được? Tất cả mọi người đã thề là sẽ

bảo vệ bí mật vụ cưa cắt này rồi cơ mà.

“Rồi tôi còn nghe nói quân của Haumann tìm thấy nạn nhân nhưng

không vào cứu cô ta ra ngay, đúng không? Kênh Năm có mic trên đó.

Nghe được cô ta kêu gào tới năm phút trước khi các anh cho người

vào.” Anh ta ném cho Sellitto một cái liếc nhăn nhở. “Lon, bạn tôi, đây

có phải là vấn đề mà ta vừa nói đến không?”

Họ đã đi khá xa, Rhyme nghĩ. Họ đã cảm nhận được hắn, bắt đầu học

được ngôn ngữ của hắn. Bắt đầu nhìn thấy hắn. Với một chút ngạc

nhiên anh hiểu ra rằng, một lần nữa anh đang làm những gì anh yêu

thích. Sau bao nhiêu năm. Nhưng bây giờ có người muốn tước đoạt

điều đó từ anh. Cơn giận dữ dâng lên trong anh.

“Lấy vụ này đi, Fred”, Rhyme gầm gừ. “Nhưng đừng gạt chúng tôi ta.

Đừng làm

thế.”

“Các anh đã mất hai nạn nhân”, Dellray nhắc.

“Chúng tôi chỉ mất một”, Sellitto sửa lại. Anh ta nhìn Polling lúc này

đang cáu

kỉnh. “Chúng tôi chẳng làm gì được với nạn nhân đầu tiên. Anh ta là

quân bài đã hạ.”

Dobyns đứng khoanh tay, quan sát cuộc cãi vã. Nhưng Jerry Banks

nhảy vào: “Chúng tôi đã nắm được cách thức hoạt động của hắn.

Chúng tôi sẽ không để mất thêm ai nữa.”

“Các anh sẽ đánh mất nếu các anh tiếp tực để đội ESU ngồi nghe nạn

nhân la hét.” Sellitto nói: “Đó là…”

“Quyết định của tôi”, Rhyme nói. “Của tôi.”

“Nhưng anh là dân thường, Lincoln. Như vậy, không thể là quyết định

của anh được. Đó có thể là gợi ý của anh. Đó có thể là khuyến nghị

của anh. Nhưng tôi không nghĩ đó là quyết định của anh.”

Dellray lại chuyển sự chú ý sang Sachs. Mắt nhìn cô, anh ta nói với

Rhyme: “Anh bảo Peretti đừng khám nghiệm hiện trường? Thật ngạc

nhiên đấy, Lincoln. Sao anh lại làm một điều như thế nhỉ?”

Rhyme nói: “Tôi giỏi hơn anh ta.”

“Peretti không hài lòng lắm đâu. Không hề. Anh ta và tôi đã nói chuyện

với

Eckert.”

Eckert? Phòng Truyền thông? Ông ta dính dáng gì ở đây?

Anh đã hiểu ra khi liếc nhìn Sachs, nhìn vào đôi mắt xanh được bao

bọc bởi những lọn tóc đỏ rối bù đang cố tình lảnh tránh ánh mắt anh.

Rhyme đóng đinh cô bằng một cái nhìn mà cô nhanh chóng lờ đi. Và

anh nói với

Dellray: “Xem nào… Peretti? Chẳng phải anh ta là người đã cho thông

xe qua chỗ đối

101 Texas Chainsaw:  Cưa máy Texas, một bộ phim kinh dị.

tượng đứng nhìn nạn nhân đầu tiên của hắn? Chẳng phải anh ta là người

giải phóng hiện trường trước khi chúng tôi có cơ hội thu thập được một

dấu vết quan trọng nào đó? Hiện trường mà Sachs của tôi ở đây đã

nhìn thấy trước là phải chặn đường giao thông. Sachs của tôi đã làm

đúng trong khi Vince Peretti và những người khác làm sai hết. Đúng

thế, cô ấy đúng.”

Cô nhìn chăm chăm ngón tay cái, cái nhìn cho thấy một cảnh tượng

quen thuộc, rồi cho tay vào túi lấy ra một tờ giấy thấm quấn quanh

ngón trỏ đẫm máu.

Dellray tổng kết: “Đáng ra các anh phải gọi cho tôi ngay từ đầu.”

“Cút đi ngay”, Polling lầm bầm. Có gì đó xuất hiện trong mắt anh ta và

anh ta cao giọng. “Cút ngay khỏi đây!” Anh ta gào lên.

Một người bình tĩnh như Dellray cũng phải giật mình lùi lại phía sau vì

nước bọt bắn ra từ miệng viên đại úy.

Rhyme nhăn mặt vì Polling. Rất có thể họ sẽ cứu vớt được chút gì

trong vụ này, nhưng sẽ hỏng hết nếu Polling lên cơn giận. “Jim…”

Viên đại úy lờ anh đi. “Cút!” Anh ta quát lên lần nữa. “Các anh không

được lấy vụ này!” Mọi người trong phòng đầu giật bắn mình, Polling

lao lên, tóm ve áo màu xanh lá của viên đặc vụ FBI rồi dồn anh ta vào

tường. Sau một khắc im lặng ngạc nhiên, Dellray đẩy viên đại úy ra,

đơn giản chỉ bằng một ngón tay và móc chiếc điện thoại di động. Anh

ta đưa nó cho Polling.

“Gọi cho Thị trưởng. Hay sếp Wilson.”

Polling lùi xa ra khỏi Dellray theo bản năng – người thấp luôn giữ một

khoảng cách với người cao. “Nếu anh muốn vụ này, anh có mẹ nó rồi

đấy.” Viên đại úy bước ra cầu thang và đi xuống. Cửa trước sập mạnh.

“Lạy chúa, Fred”, Sellitto nói, “làm việc với bọn tôi. Chúng ta có thể

tóm thằng khốn đó.”

“Chúng ta cần A-T của Cục”, Dellray nói, giọng anh ta nghe đầy thuyết

phục. “Các anh chưa nhìn từ góc độ khủng bố.”

“Góc độ chống khủng bố nào?” Rhyme hỏi.

“Hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc. Đặc tình của tôi nói, có tin đồn

rằng có gì đó xảy ra tại sân bay. Chỗ hắn ta tóm nạn nhân.”

“Tôi không cho rằng hắn ta là khủng bố”, Dobyns nói. “Bất kể điều gì

diễn ra trong con người hắn đều có động cơ tâm lý. Không có vấn đề ý

thức hệ.”

“Nhưng, sự thật là Quantico và chúng tôi nghĩ về hắn theo một cách.

Tôi đánh giá cao việc các anh nghĩ khác. Nhưng đây là cách chúng tôi

xử lý vụ này.”

Rhyme đầu hàng. Sự mệt mỏi làm anh nản chí. Anh ước gì sáng nay

Sellitto và viên trợ lý mặt sẹo của anh ta không đến đây. Anh ước gì

anh không gặp Amelia Sachs. Anh ước gì anh không mặc cái áo sơ mi

bảnh bao ngớ ngẩn này, nó chỉ làm anh thấy nghẹt cổ và tạo ra cảm

giác như không có gì dưới nó.

Anh nhận thấy Dellray đang nói với mình.

cứ.”

“Xin lỗi?” Rhyme nhướn mày.

Dellray hỏi: “Ý tôi là, liệu chính trị có thể là động cơ của hắn không?”

“Tôi không quan tâm tới động cơ”, Rhyme trả lời. “Tôi chỉ quan tâm tới

chứng

Dellray nhìn vào cái bàn của Cooper một lần nữa. “Như vậy vụ này là

của chúng

tôi. Mọi người nhất trí chứ?”

“Lựa chọn của chúng tôi là gì?” Sellitto hỏi.

“Các anh hỗ trợ người tìm kiếm cho chúng tôi. Hoặc các anh có thể

dừng hoàn toàn. Tất cả chỉ còn lại có thế. Giờ thì, nếu các anh không

phiền, chúng tôi lấy vật chứng được rồi chứ?”

Banks ngần ngừ.

“Đưa cho họ đi”, Sellitto ra lệnh.

Viên cảnh sát trẻ tuổi nhặt những cái túi đựng vật chứng thu lượm được

từ hiện trường mới đây lên, cho chúng vào trong một cái túi nhựa to.

Dellray chìa tay ra. Banks nhìn vào những ngón tay gầy guộc rồi ném

cái túi xuống bàn, sau đó đi ra góc xa của căn phòng – phía cảnh sát.

Lincoln Rhyme là khu phi quân sự phân cách họ, Amelia Sachs đứng

như trời trồng cạnh chân giường của Rhyme.

Dellray nói với cô: “Sĩ quan Sachs?”

Sau một khoảng lặng cô trả lời, mắt vẫn nhìn Rhyme: “Có?”

“Trưởng ban Eckert muốn cô đi cùng chúng tôi để báo cáo về các hiện

trường vụ án. Ông ta có nói gì đó về việc cô sẽ bắt đầu công việc mới

vào thứ Hai.”

Cô gật đầu.

Dellray quay lại phía Rhyme và chân thành nói: “Anh đừng lo, Lincoln.

Chúng tôi sẽ tóm được hắn. Lần sau anh sẽ được nghe là hắn đã bị bêu

đầu ngoài cổng thành phố.”

Anh ta gật đầu ra hiệu cho những cộng sự của mình, họ đang đóng gói

vật chứng và đi xuống cầu thang. Từ ngoài hành lang, Dellray gọi

Sachs. “Cô đi luôn chứ, sĩ quan?”

Cô đứng đó, hai tay nắm vào nhau như một cô học trò tại buổi dạ hội

mà cô ta thấy hối hận vì đã đến.

“Tôi đi ngay.”

Dellray biến mất dưới cầu thang.

“Bọn quái vật”, Banks lẩm bẩm, vứt quyển sổ ghi chép của mình xuống

bàn. “Không thể tin được, phải không?”

Sachs đung đưa trên gót chân.

“Amelia, cô nên đi thì hơn”, Rhyme nói. “Xe đang đợi cô.” “Lincoln.”

Cô lại gần giường.

“Được rồi”, anh nói. “Cô làm điều cô phải làm.”

“Tôi chẳng có gì liên quan đến khám nghiệm hiện trường”, cô buột

miệng. “Tôi không bao giờ thích.”

“Và cô sẽ không còn phải làm nữa. Như mong muốn, phải không

nào?”

Cô đã bắt đầu đi ra cửa, nhưng quay lại và thốt lên: “Anh chẳng quan

tâm đến cái gì khác ngoài chứng cứ, đúng không?”

Banks và Sellitto bồn chồn, nhưng Sachs lờ họ đi. “Này, Thom, cậu

tiễn Amelia, được không?”

Sachs tiếp tục. “Với anh đây chỉ là trò chơi, đúng không? Monelle…?”

“Ai?”

Mắt cô tóe lửa. “Đó. Thấy chưa? Anh còn không nhớ cả tên cô ta.

Monelle Gerger. Cô gái trong đường hầm... cô ấy chỉ là một phần

trong câu đố của anh. Chuột bọ bò đầy người cô ấy, còn anh nói: ‘Đấy

là bản chất của chúng? Đấy là bản chất của chúng? Cô ấy sẽ không

bao giờ trở lại được như xưa, còn anh thì chỉ quan tâm đến mấy thứ

chứng cứ quý báu của anh?”

“Khi những nhân chứng còn sống”, anh lên giọng đều đều, dạy dỗ, “vết

cắn của loài gặm nhấm chỉ là những vết thương bề mặt. Ngay khi

những con vật đó nhỏ nước dãi vào cô ta là cô ta đã phải tiêm phòng

dại. Vậy thì thêm mấy vết cắn nữa cũng có quan trọng không?”

“Sao anh không hỏi ý kiến cô ấy?” Nụ cười của Sachs lúc này khác đi.

Nó trở nên độc địa, như nụ cười của những hộ lý và trợ lý trị liệu,

những kẻ căm ghét người tàn tật. Họ lúc nào cũng lượn quanh khu hồi

phục chức năng với kiểu cười như vậy. Ừ, đằng nào thì anh cũng

không thấy hài lòng với cô Amelia Sachs lịch sự; anh muốn một người

nóng tính...

“Trả lời tôi đi chứ, Rhyme. Thực sự thì vì sao anh lại muốn tôi?

“Thom, vị khách của chúng ta không còn được chào đón nữa. Cậu làm

ơn...” “Lincoln”, người trợ lý nói.

“Thom”, Rhyme cáu kỉnh, “tôi đang bảo cậu làm việc đấy”.

“Vì tôi chẳng biết cái con khỉ gì, đúng không?” Sachs buột miệng.

“Chính thế đấy! Anh không muốn một kỹ thuật viên CS thực sự vì lúc

đó anh sẽ không có quyền. Còn tôi, anh có thể bắt tôi đi ra đây, ra kia.

Tôi làm đúng những thứ anh cần, không hề than vãn hay oán trách.”

“À, binh biến...”, Rhyme nói, ngước mắt lên trần nhà.

“Nhưng tôi không phải lính. Ngay từ đầu tôi đã không muốn thế.”

“Tôi cũng không muốn. Nhưng giờ thì ta ở đây. Trên giường với nhau.

Ồ, ít nhất là một người trong chúng ta.” Anh biết, nụ cười lạnh lùng của

anh băng giá gấp nhiều lần nụ cười lạnh lùng nhất của cô.

“Vì sao, Rhyme, anh chỉ là một đứa trẻ hỗn xược được nuông chiều

mà thôi.” “Này sĩ quan, hết giờ rồi đấy”, Sellitto quát.

Nhưng cô vẫn tiếp tục: “Anh không còn làm công việc khám nghiệm

hiện trường được nữa, tôi lấy làm tiếc về điều đó. Nhưng anh đang làm

ảnh hưởng tới cuộc điều tra chỉ vì muốn ve vuốt lòng tự ái của mình và

tôi nói như thế thật vớ vẩn.” Cô vơ lấy chiếc mũ tuần tra và lao ra khỏi

phòng.

Anh nghĩ sẽ có tiếng sập cửa rất mạnh, có thể cả tiếng kính vỡ. Nhưng

chỉ có một tiếng va nhẹ, rồi im lặng.

Khi Jerry Banks nhặt cuốn sổ của mình lên và lần giở nó với vẻ tập

trung thái quá, Sellitto nói: “Lincoln, tôi xin lỗi. Tôi...”

“Không sao”, Rhyme nói, ngáp thật dài, hy vọng làm cho trái tim nhức

nhối của anh bình ổn. “Hoàn toàn không sao.”

Mấy viên cảnh sát đứng cạnh cái bàn gần như trống trơn trong sự im

lặng đáng sợ, sau đó Cooper nói: “Gói ghém đi thôi.” Anh ta nhấc hộp

kính hiển vi lên bàn, bắt đầu tháo ống ngắm với sự chăm chút của một

nhạc công đang tháo cây kèn saxophone của mình.

“Được rồi, Thom”, Rhyme nói. “Mặt trời lặn rồi đấy. Cậu có biết thế

nghĩa là gì không? Các quầy bar mở cửa.”

Phòng chiến trận của họ thật ấn tượng. Nó vượt xa phòng ngủ của

Rhyme.

Ba tá đặc vụ, máy tính và bảng điện tử như trong phim của Tom

Clancy chiếm nửa tầng trong tòa nhà liên bang. Các đặc vụ trông như

luật sư hay nhân viên ngân hàng đầu tư. Sơ mi trắng, cà vạt. Bảnh bao

là từ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Amelia Sachs đứng giữa phòng, nổi

bật trong bộ đồng phục màu xanh hải quân, thấm đầy máu chuột, bụi

bẩn và tế bào của đám súc vật đã chết hàng trăm năm.

Cô đã hết run rẩy vì cuộc cãi vã với Rhyme và mặc dù đầu óc cô quay

cuồng với hàng nghìn điều cô muốn nói, ước gì cô đã nói, cô bắt mình

tập trung vào những gì đang diễn ra xung quanh.

Một đặc vụ cao mặc bộ vét xám không chê vào đâu được đang hội ý

với Dellray – hai người đàn ông cao lớn, cúi đầu nghiêm nghị. Cô tin

rằng anh ta là Thomas Perkins, đặc vụ phụ trách văn phòng Manhattan,

nhưng cô không chắc chắn lắm; quan hệ với FBI của một nhân viên

Đội Tuần tra cũng không nhiều hơn của nhân viên tạp vụ hay là nhân

viên bán bảo hiểm. Anh ta trông có vẻ thiếu hài hước, có năng lực và

luôn luôn nhìn lên tấm bản đồ Manhattan to tướng treo trên tường.

Perkins gật đầu mấy lần khi Dellray báo cáo với anh ta, sau đó anh ta

bước đến chỗ cái bàn gỗ ép, trên đó đầy những cặp tài liệu, nhìn xuống

nhóm đặc vụ và bắt đầu nói.

“Mọi người làm ơn chú ý… Tôi vừa nói chuyện với giám đốc và

chưởng lý tại Washington. Tất cả chúng ta đều biết về đối tượng tại sân

bay Kennedy. Đây là một hồ sơ không bình thường. Bắt cóc, không có

yếu tố tình dục, thường thì đó không phải động cơ giết người hàng loạt.

Trên thực tế, đây là đối tượng đầu tiên của loại này mà chúng ta bắt

gặp tại Quận Nam. Tính đến khả năng có quan hệ với những sự kiện

tại Liên Hiệp Quốc trong tuần này, chúng ta đang phối hợp với trụ sở

trung tâm, Quantico và văn phòng Tổng thư ký. Chúng ta được quyền

hoàn toàn chủ động trong vụ này. Mức ưu tiên cao nhất.”

SAC nhìn Dellray đang nói: “Chúng ta tiếp quản vụ này từ NYPD

nhưng chúng ta sẽ dùng họ làm lực lượng hỗ trợ và nguồn nhân lực.

Chúng ta có một sĩ quan hiện trường vụ án tại đây để báo cáo về hiện

trường.” Ở đây, giọng Dellray khác hẳn. Không còn là ngày Nhặng

nữa.

“Cô đã đăng ký vật chứng chưa?” Perkins hỏi Sachs.

Sachs thừa nhận cô chưa làm. “Chúng tôi bận cứu nạn nhân.”

Điều này làm SAC khó chịu. Nếu không khi xử án, những vụ ngon ăn

thường bị đình trệ vì không đăng ký vật chứng. Đó là điều đầu tiên mà

luật sư của tội phạm tóm lấy.

“Nhớ làm trước khi ra về.” “Vâng, thưa ngài.”

Vẻ mặt Rhyme thật tệ khi anh ta đoán mình ton hót với Eckert và buộc

họ phải đóng cửa. Thật tệ…

Sachs của tôi nghĩ ra, Sachs của tôi bảo toàn hiện trường…

Cô lại cậy móng tay. Thôi đi, cô nhủ thầm như cô vẫn thường làm, và

lại tiếp tục chọc móng tay vào thịt. Cảm giác đau đớn thật tốt. Đó là

điều mà bác sĩ trị liệu không bao giờ hiểu.

SAC nói: “Đặc vụ Dellray? Anh có thể báo cáo với mọi người cách

chúng ta sẽ làm không?”

Dellray nhìn lướt qua SAC và các đặc vụ khác rồi tiếp tục: “Tại thời

điểm này chúng ta có đặc vụ hiện trường đánh tất cả các nhóm khủng

bố chính trong thành phố và theo đuổi bất kỳ manh mối nào mà chúng

ta có để dẫn chúng ta đến nơi ở của đối tượng. Tất cả CI, tất cả đặc vụ

ngầm. Điều đó có nghĩa ta sẽ làm tổn thương một số chiến dịch hiện tại,

nhưng chúng tôi quyết định nó xứng đáng với rủi ro.”

“Việc của chúng ta ở đây là phản ứng nhanh. Các anh sẽ được chia

thành từng nhóm sáu đặc vụ và sẵn sàng truy đuổi với bất cứ manh mối

nào. Các anh phải sẵn sàng cứu con tin và hỗ trợ tấn công chiến lũy.”

“Thưa ngài”, Sachs nói.

Perkins ngẩng lên, nhăn mặt. Rõ ràng không ai có quyền làm gián đoạn

buổi báo cáo trước phần hỏi đáp được phép. “Có việc gì thế, sĩ

quan?”

“À, tôi chỉ có chút băn khoăn. Còn nạn nhân thì sao, thưa ngài?”

“Ai? Cô gái người Đức? Cô nghĩ chúng ta phải thẩm vấn cô ta lần nữa

à?” “Không, thưa ngài. Ý tôi là nạn nhân tiếp theo.”

Perkins trả lời: “Tất nhiên chúng ta luôn nhận thức được là có thể sẽ có

những mục tiêu khác.”

Sachs nói tiếp: “Hắn đã có rồi.”

“Thật không?” SAC liếc nhìn Dellray đang nhún vai. Perkins hỏi Sachs:

“Làm sao cô biết?”

“À, chính xác thì tôi không biết, thưa ngài. Nhưng hắn ta đã để lại

manh mối ở hiện trường cuối cùng và hắn sẽ không làm thế nếu hắn

không có nạn nhân khác. Hoặc đang chuẩn bị bắt một nạn nhân.”

“Đã ghi nhận, thưa sĩ quan”, SAC tiếp tục. “Chúng ta sẽ huy động mức

nhanh nhất có thể để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với họ.”

Dellray nói với cô: “Chúng tôi nghĩ rằng tốt nhất ta nên tập trung chủ

yếu vào con quái vật.”

“Thám tử Sachs…”, Perkins bắt đầu.

“Tôi không phải thám tử, thưa ngài. Tôi là sĩ quan Đội Tuần tra.”

“Được rồi”, SAC tiếp tục, nhìn chồng tài liệu. “Nếu có thể, hãy cho

chúng tôi một số điểm chính, sẽ rất hữu ích.”

Ba mươi đặc vụ nhìn cô. Có hai phụ nữ.

“Cứ nói cho chúng tôi nghe những gì cô nhìn thấy”, Dellray nói, cắn

một điếu thuốc chưa đốt giữa hai hàm răng tuyệt đẹp.

Cô đưa cho họ tóm tắt về những lần tìm kiếm của cô tại hiện trường

cùng kết luận của Rhyme và Terry Dobyns. Hầu hết các đặc vụ cảm

thấy lo lắng về phương thức MO102 kỳ lạ của đối tượng.

“Như một trò chơi chết tiệt”, một đặc vụ lẩm bẩm.

Một người hỏi liệu trong những manh mối đó họ có thể giải mã được

thông điệp chính trị nào không?

“Thưa ngài, thực sự chúng tôi không cho rằng hắn là kẻ khủng bố”,

Sachs khăng

khăng.

Perkins chuyển sự chú ý đặc biệt của mình sang Sachs. “Cho phép tôi

hỏi, sĩ quan,

cô công nhận là hắn thông minh, đúng không?” “Rất thông minh.”

“Hắn có thể bịp hai lần không?”

“Ý của anh là gì?”

“Cô... Tôi phải nói rằng NYPD nghĩ hắn là một trường hợp tâm thần.

Ý tôi là nhân cách tội phạm. Nhưng có phải hắn đủ thông minh để

khiến cô nghĩ thế hay không? Trong khi có thể điều gì khác đang diễn

ra.”

“Điều gì?”

“Manh mối hắn để lại chẳng hạn. Có thể là nghi binh?”

“Không, thưa ngài. Đó là hướng dẫn”, Sachs nói. “Dẫn chúng tôi đến

chỗ nạn

nhân.”

102 MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.

“Tôi hiểu”, Thomas Perkins nhanh trí nói. “Nhưng hắn cũng có thể làm

thế để đưa chúng ta ra xa mục tiêu của hắn, đúng không nào?”

Cô chưa nghĩ tới điều này. “Tôi cho rằng cũng có thể.”

“Sếp Wilson cũng đang cố lấy người từ nhóm phục vụ an ninh cho Liên

Hiệp Quốc để làm vụ bắt cóc này. Đối tượng có thể đang làm mọi

người bị phân tán để hắn tự do thực thi sứ mạng thực sự của hắn.”

Sachs nhớ lại là trước đây cô cũng có những ý tưởng tương tự khi nhìn

thấy những nhân viên tìm kiếm trên Phố Pearl. “Và mục tiêu đó có thể

là Liên Hiệp Quốc?”

“Chúng tôi nghĩ vậy”, Dellray nói. “Bọn tội phạm đứng đằng sau vụ

đánh bom

UNESCO ở London có thể muốn thử lại lần nữa.”

Có nghĩa là Rhyme đang đi theo hướng hoàn toàn sai. Ý nghĩ này làm

gánh nặng của cô nhẹ đi đôi chút.

“Sĩ quan, giờ cô có thể kiểm tra từng chứng cứ cho chúng tôi chứ?”

Dellray đưa cho cô bảng danh sách mọi thứ cô tìm được và cô đọc

từng hạng mục. Khi nói chuyện, cô nhận thấy những hoạt động sôi sục

quanh mình – vài đặc vụ nhận điện thoại, một số đứng thì thầm với

người khác, số khác ghi chép. Nhưng khi nhìn vào bảng danh sách, cô

nói thêm: “Tôi có lấy được một dấu vân tay của hắn tại hiện trường

cuối cùng”, cô nhận thấy căn phòng tuyệt đối im lặng. Cô nhìn lên. Mọi

khuôn mặt trong văn phòng đều nhìn chăm chăm vào cô như một cơn

sốc vừa đi qua – nếu như đặc vụ liên bang còn có khả năng bị sốc.

Cô bất lực nhìn Dellray, anh ta đang ngẩng đầu lên. “Có phải cô bảo

cô vớ được một dấu tay?”

“Vâng, đúng như thế. Hắn bị rơi găng tay khi vật lộn với nạn nhân cuối

cùng, khi nhặt lên tay hắn quét xuống sàn.”

“Ở đâu?” Dellray hỏi nhanh.

“Lạy Chúa”, một đặc vụ kêu lên. “Sao cô chẳng nói gì?” “À, tôi…”

“Tìm đi. Tìm nó ngay đi!” Một người khác kêu lên.

Tiếng xì xầm lan khắp phòng.

Tay run run, Sachs lục lọi trong cái túi đựng vật chứng và đưa cho

Dellray bức hình Polaroid chụp dấu tay. Anh ta giơ nó lên, nhìn thật

cẩn thận. Đưa cho một người mà cô đoán là chuyên gia về dấu tay

xem. “Tốt”, đặc vụ này nói. “Chắc chắn là loại A.”

Cô biết dấu tay được phân thành các loại A, B và C, và phần lớn các

cơ quan thực thi pháp luật không chấp nhận loại thấp hơn. Nhưng niềm

kêu hãnh của cô về kỹ năng tìm kiếm vật chứng của mình đã bị đập tan

bởi sự chê bai mang tính tập thể của họ khi cô đã không nhắc tới điều

đó sớm hơn.

Và mọi thứ bắt đầu nhất loạt diễn ra. Dellray chuyển nó cho một đặc

vụ, người này vội chạy đến chỗ một cái máy tính phức tạp ở góc văn

phòng và đặt nó lên một bề mặt cong lớn của một cỗ máy có tên gọi

Optic-Scan. Một đặc vụ khác bật máy tính và gõ

lệnh trong khi Dellray vội vàng nhấc điện thoại. Anh ta sốt ruột giậm

chân, và cúi đầu như thể có ai đó ở đầu dây bên kia đang trả lời điện

thoại.

“Ginnie, Dellray đây. Vụ này rất xương đấy, nhưng tôi cần anh cắt tất

cả các yêu cầu AFIS103 từ khu Đông Bắc để làm cái tôi gửi cho anh

đây… Tôi có Perkins ở đây. Anh ấy đồng ý rồi, nếu thế chưa đủ tôi sẽ

gọi cho người ở Washington… Việc có liên quan đến Liên Hiệp

Quốc.”

Sachs biết AFIS được các sở cảnh sát toàn quốc sử dụng. Chính là hệ

thống

Dellray lúc này đang dừng lại.

Đặc vụ ngồi máy tính nói: “Quét rồi. Chúng tôi đang gửi đi.” “Sẽ mất

bao lâu?”

“Mười, mười lăm phút.”

Dellray ép các ngón tay bẩn thỉu vào nhau. “Làm ơn, làm ơn, làm ơn

đi.”

Xung quanh cô là một cơn lốc các hoạt động. Sachs nghe những giọng

nói về vũ khí, trực thăng, xe hơi, các nhà đàm phán chống khủng bố.

Gọi điện thoại, gõ bàn phím, trải bản đồ, kiểm tra súng ngắn.

Perkins đang nghe điện, nói chuyện với những người giải cứu con tin

hoặc Thị trưởng, hoặc Giám đốc. Có thể là tổng thống. Ai biết được?

Sachs nói với Dellray: “Tôi không biết là dấu tay lại quan trọng đến

thế.”

“Luôn là chuyện lớn. Ít nhất là khi có AFIS. Trước kia ta chỉ lấy dấu

tay để diễn. Để nạn nhân và báo giới biết là chúng ta có làm gì đó.”

“Anh đùa a?”

“Không, không đùa tẹo nào. Ví dụ Thành phố New York. Cô đi tìm

khan – tức là khi cô chẳng có đối tượng nào – cô đi tìm khan theo kiểu

thủ công, một kỹ thuật viên sẽ mất năm mươi năm để xem hết thẻ dấu

tay. Không đùa đâu. Còn tìm tự động? Mười lăm phút. Thường thì cô

sẽ nhận dạng được đối tượng với xác suất khoảng một, hai phần trăm.

Giờ ta đạt được gần hai mươi, hai mươi hai phần trăm. Ồ, dấu tay quý

như vàng đấy. Cô nói cho Rhyme biết chưa?”

“Anh ta biết, chắc chắn thế.”

“Thế mà anh ta không khua khoắng tất cả mọi người à? Ôi trời ơi, anh

chàng này đang trượt dốc.”

“Này, sĩ quan”, SAC Perkins gọi, giữ tay trên điện thoại. “Tôi muốn cô

điền luôn thẻ đăng ký vật chứng. Tôi muốn chuyển vật chứng cho

PERT.”

PERT. Sachs nhớ Lincoln đã từng là người được Cục thuê để làm việc

này. “Tôi sẽ làm. Chắc chắn rồi.”

“Mallory, Kemple, đưa chỗ vật chứng này đến văn phòng và đưa cho

vị khách của chúng ta vài tờ biểu đăng ký vật chứng. Cô có bút không,

sĩ quan?”

103 AFIS: Xem phần phụ lục.

“Có.”

Cô đi theo hai sĩ quan sang một văn phòng nhỏ, căng thẳng bấm cây

bút bi trong khi họ đi tìm kiếm và quay lại với một xấp biểu đăng ký vật

chứng do Cục ban hành. Cô ngồi xuống, mở gói.

Giọng nói vang lên đằng sau cô là của Dellray phiền muộn. Một nhân

cách đang cố gắng bật ra. Trên đường đến đây, ai đó đã gọi anh ta là

Kỳ nhông và cô đang dần hiểu ra lý do.

“Chúng tôi gọi Perkins là Dict Lớn. Không phải là ‘dick104’ như cô

hiểu đâu.

‘Dict’ như trong từ điển ấy. Nhưng đừng lo cho anh ta. Anh ta thông

minh, hơn thế nữa dây của anh ta có thể giật đến tận Washington, là

chỗ cần giật trong những vụ như thế này.” Dellray đưa điếu thuốc là lên

mũi ngửi, tựa như đó là điếu xì gà hảo hạng. “Cô biết không sĩ quan,

cô gian như cáo khi làm điều cô đang làm đấy.”

“Là gì?”

“Ra khỏi Ban Tội phạm Nguy hiểm. Cô không muốn nó đâu.” Khuôn

mặt đen đúa gầy gò, bóng nhoáng, chỉ có chút nếp nhăn ở mắt, lần đầu

tiên trông có vẻ chân thành kể từ khi cô gặp anh ta. “Việc tốt nhất cô

từng làm, là chuyển sang Phòng Quan hệ Công chúng. Ở đó cô sẽ có

ích và công việc không biến cô thành bụi. Chắc chắn đấy là điều sẽ xảy

ra. Công việc biến cô thành bụi.”

Một trong  những nạn  nhân  cuối  cùng chịu  sự  áp  bức  điên  loạn 

của  James Schneider, chàng trai trẻ tuổi tên là Ortega, đến Manhattan

từ Thành phố Mexico, nơi bạo loạn chính trị (cuộc nổi dậy của một kẻ

theo thuyết dân túy bắt đầu trước đó một năm) đã làm cho công việc

làm ăn trở nên khó khăn. Tuy nhiên, doanh nhân tham vọng này đã biến

mất khi tới thành phố chưa được một tuần. Người ta thấy anh ta lần

cuối cùng là trước cửa một quán rượu ở khu West Side, các cơ quan

chức năng ngay lập tức nghi ngờ rằng anh ta lại là một nạn nhân khác

của Schneider. Đáng buồn điều đó lại là sự thực.

Kẻ Tầm Xương lượn xe trên phố khoảng mười lăm phút quanh Đại

học New York, Quảng trường Washington. Rất nhiều người lang thang

ngoài phố, nhưng chủ yếu là trẻ con. Sinh viên theo các khóa học hè.

Trẻ trượt ván. Không khí vui vẻ, lạ thường. Ca sĩ, nghệ nhân tung

hứng, nhào lộn. Những thứ đó làm hắn nhớ đến “bảo tàng” dưới Phố

Bowery, rất phổ biến trong những năm 1800. Đó tất nhiên không phải

là những bảo tàng mà chỉ là những con đường có mái vòm, ở đó tràn

ngập những buổi trình diễn hài kịch tục tĩu, triển lãm quái vật, những tên

liều mạng và những người bán dạo bán đủ mọi thứ từ bưu ảnh của

Pháp cho tới những mẩu gỗ trên Thánh giá thiêng liêng.

Hắn ta đi chậm lại hai lần nhưng không có ai cần đi taxi, hoặc đủ tiền

để đi taxi. Hắn quay về phía nam.

104 Dick: Dương vật.

Schneider buộc đá vào chân Señor Ortega105  và lăn anh ta xuống

dưới cầu cảng ra sông Hudson để nước và cá sẽ biến cơ thể anh ta

thành xương. Thi thể được tìm thấy hai tuần sau khi anh ta biến mất và

người ta chẳng có cách nào biết được nạn nhân bất hạnh còn sống

hoặc hoàn toàn tỉnh táo khi bị vứt xuống nước hay không. Tuy nhiên,

người ta vẫn nghi ngờ như vậy. Vì Schneider đã tàn bạo cắt ngắn dây

trói để cho mặt của Señor Ortega  chỉ cách mặt nước vài inch – tay

anh ta chắc chắn đã điên loạn khua khoắng khi anh ta nhìn tầng không

khí cứu tinh bên trên.

Kẻ Tầm Xương nhìn thấy một chàng thanh niên bệnh hoạn đứng trên

vỉa hè. AIDS, hắn nghĩ. Nhưng xương cốt của mày còn mạnh khỏe –

và thật hoàn mỹ. Xương cốt của mày sẽ sống mãi... Anh ta không cần

đi taxi và khi xe đi ngang qua, Kẻ Tầm Xương thèm thuồng nhìn anh ta

qua kính chiếu hậu.

Hắn quay lại đúng lúc để vòng xe tránh một người đàn ông đứng tuổi

vừa bước xuống đường, cánh tay gầy gò của ông ta giơ ra gọi xe.

Người đàn ông nhảy lui, nhanh hết mức có thể, và chiếc taxi phanh kít,

vượt qua ông ta rồi dừng lại.

Người đàn ông mở cửa sau xe nghiêng người vào trong. “Anh phải nhìn

xem mình đi đâu chứ.” Ông ta nói câu này như một lời hướng dẫn.

Không chút giận dữ.

“Xin lỗi”, Kẻ Tầm Xương nói, vẻ hối lỗi.

Người đàn ông đứng tuổi ngần ngừ một chút, nhìn quanh phố nhưng

không thấy chiếc taxi nào khác. Ông ta trèo vào xe.

Cánh cửa đóng sập.

Nghĩ: già và gầy. Da chắc trượt trên xương như lụa. “Đi đâu đấy?” Hắn

nói.

“East Side.”

“Có ngay”, hắn nói trong khi trùm chiếc mặt nạ trượt tuyết lên đầu và

đánh tay lái sang phải. Chiếc xe lao về phía tây.

105 Señor Ortega:  Ngài Ortega.

III

CON GÁI CỚM TUẦN TRA

Đảo lộn, đảo lộn, đảo lộn! Đó là châm ngôn của New York... Xương

cốt của tổ tiên chúng ta không được phép nằm yên trong một phần tư

thế kỷ, và một thế hệ con cháu đang cố tình dỡ bỏ tất cả những di vật

của những người đi trước.

PHILIP HONE

THỊ TRƯỞNG  NEW YORK, NHẬT KÝ, 1845

MƯỜI TÁM

10:15 PM thứ Bảy đến 5:30 AM Chủ nhật

“Rót thêm đi, Lon.”

Rhyme uống bằng ống hút, Sellitto uống bằng cốc. Cả hai đều uống

whisky không pha. Viên thám tử ngồi trên chiếc ghế mây kêu kin kít và

Rhyme cho rằng anh ta trông hơi giống Peter Lorre trong phim

Casablanca.

Terry Dobyns đã về sau khi đưa ra vài nhận định tâm lý gay gắt về

bệnh tự yêu bản thân và về những người được chính phủ liên bang thuê

mướn, Jerry Banks cũng đã ra về. Mel Cooper đang vất vả tháo và

đóng gói thiết bị của anh ta.

“Này Lincoln, ngon quá.” Sellitto nhấp ly whisky Scotch của mình.

“Mẹ kiếp, tôi làm gì có tiền mua cái thứ này. Nó bao nhiêu tuổi?”

“Tôi nghĩ loại này khoảng hai mươi năm.”

Viên thám tử nhìn chất rượu nâu óng. “Quý thật, nếu đây là đàn bà, thì

cô ta đã trưởng thành, rồi thì sau đó.”

“Nói tôi nghe một chuyện, Lon. Polling? Cơn điên của anh ta ấy mà.

Câu chuyện đó là thế nào nhỉ?”

“Bé Jimmy?” Sellitto cười. “Giờ thì anh ta đang gặp rắc rối. Anh ta là

người can thiệp để loại Peretti ra khỏi vụ này và giữ nó xa tầm tay của

FBI. Thực sự là anh ta liều mạng. Anh ta cũng đòi cả anh, việc này tốn

chút công sức. Cần phải tác động mấy chỗ. Tôi không phải nói anh.

Chỉ là một thường dân trong một vụ nóng thế này.”

“Polling yêu cầu tôi à? Tôi tưởng đấy là sếp.”

“Đúng. Nhưng Polling làm thầy dùi cho ông ta ngay từ đầu. Anh ta gọi

ngay khi nghe về vụ bắt cóc và ở hiện trường lại có mấy vật chứng

ma.”

Và anh ta muốn có mình? Rhyme băn khoăn. Thật lạ. Rhyme không có

liên hệ gì với Polling suốt mấy năm qua – từ vụ giết cảnh sát mà anh bị

thương. Polling làm vụ này và cuối cùng cũng tóm được Dan Shepherd.

“Cậu có vẻ ngạc nhiên”, Sellitto nói.

“Về việc anh ta yêu cầu tôi? Có chứ. Chúng tôi không hợp nhau lắm. Ít

nhất là trước đây.”

“Sao lại thế?”

“Tôi 13-43106 anh ta.”

Mẫu đơn khiếu nại của NYPD.

“Năm, sáu năm trước khi anh ta còn là một viên thiếu úy, tôi thấy anh

ta thẩm vấn nghi phạm ngay tại hiện trường đã được bảo vệ. Làm nó bị

ô nhiễm. Tôi nổi đóa. Cho

106 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như một động từ.

chuyện này vào báo cáo và nó được trích dẫn trong một lần đánh giá

nội bộ của anh ta –

lần anh ta bắn nghi phạm không có vũ khí.”

“Thế à, thế thì tôi nghĩ cậu đã được tha thứ, vì anh ta đã rất cần cậu.”

“Lon, làm ơn gọi điện giúp tôi được chứ?”

“Tất nhiên.”

“Không”, Thom vừa nói vừa lấy chiếc điện thoại trên tay viên thám tử.

“Cứ để anh ta tự làm.”

“Tôi không có thời gian học sử dụng nó.” Rhyme nói, hất đầu về phía

thiết bị quay số ECU mà Thom đã nối lúc trước.

“Anh không dành thời gian. Khác biệt lớn đấy. Anh gọi cho ai?”

“Berger”

“Không, anh sẽ không gọi”, Thom nói. “Muộn rồi.”

“Tôi đã nhìn đồng hồ”, Rhyme lạnh lùng trả lời. “Gọi cho ông ấy. Ông

ấy ở One

Police Plaza.”

“Không.”

“Tôi bảo cậu gọi cho ống ấy.”

“Đây.” Người trợ lý quăng một mẩu giấy xuống cạnh bàn ở xa nhưng

Rhyme có thể đọc dễ dàng. Chúa có thể tước của Lincoln Rhyme

nhiều thứ, nhưng Ngài đã ban tặng cho anh đôi mắt của một chàng trai.

Anh quay số điện thoại bằng cằm và cái cần điều khiển. Dễ hơn anh

nghĩ nhưng anh cố tình rình rang và lầm bầm khi làm. Bực mình, Thom

lờ anh đi và xuống cầu thang.

Berger không có nhà. Rhyme bỏ máy, điên tiết vì không thể dập được

điện thoại thật mạnh.

“Có vấn đề à?” Sellitto hỏi. “Không”, Rhyme càu nhàu.

Ông ta đâu nhỉ? Rhyme bực mình nghĩ. Muộn rồi. Lúc này Berger phải

về phòng khách sạn rồi mới đúng. Rhyme bị châm chọc bởi một cảm

giác lạ lùng – ghen tị vì ông

bác sĩ tử thần của anh đang giúp người khác được chết.

Sellitto bất ngờ nhẹ nhàng chép miệng. Rhyme ngước nhìn. Viên cảnh

sát đang ăn thanh kẹo. Anh quên mất rằng đồ ăn sẵn là thực đơn chính

của anh chàng khổng lồ này khi họ còn làm việc với nhau. “Tôi đang

nghĩ. Anh nhớ Bennie Ponzo không?”

“Đội đặc nhiệm OC, mười năm trước?” “Có.”

Rhyme thích làm việc với tội phạm có tổ chức. Bọn này là đội chuyên

nghiệp. Hiện trường vụ án đầy thách thức. Nạn nhân cũng hiếm khi vô

tội.

“Ai thế?” Mel Cooper hỏi.

“Một tay giết thuê từ Bay Ridge”, Sellitto nói. “Anh có nhớ sau khi ta

tóm hắn, bánh kẹp kẹo.”

Rhyme cười, gật đầu.

“Chuyện thế nào?” Cooper hỏi.

Sellitto nói: “Được rồi. Khi đó chúng tôi ở Central Booking. Lincoln,

tôi và mấy người nữa. Và Bennie, cậu nhớ không, một anh chàng to

lớn, hắn đang ngồi gập cong người, đói meo. Bất ngờ hắn nói: ‘Này

chúng mày, tao đói. Tao muốn một cái bánh kẹp kẹo.’ Chúng tôi nhìn

nhau ngơ ngác, rồi tôi hỏi: ‘Bánh kẹp kẹo là cái gì?’ Hắn nhìn tôi như

thể tôi vừa rơi trên Sao Hỏa xuống rồi nói: ‘Thế mày nghĩ nó là cái mẹ

gì? Mày lấy thanh kẹo Hersey, mày kẹp nó vào giữa hai miếng bánh mì

rồi chén. Đấy là bánh kẹp kẹo.”

Họ cười vang. Sellitto đưa thanh kẹo cho Cooper, anh ta lắc đầu, sau

đó đưa cho Rhyme. Tự nhiên anh thấy muốn cắn một miếng. Một năm

nay rồi anh chưa được ăn chocolate. Anh tránh những thức ăn loại này

– đường, kẹo. Những thức ăn rắc rối. Những thứ nhỏ nhặt trong cuộc

đời trở thành gánh nặng lớn nhất, những thứ làm anh kiệt sức và đau

khổ nhất. Được, anh sẽ chẳng bao giờ còn được đi lặn hay leo núi

Alps. Thế thì sao? Bao nhiêu người khác cũng chẳng làm những trò

này. Nhưng mọi người đều đánh răng. Và đến nha sĩ, hàn răng, đón tàu

về nhà. Mọi người xỉa răng để moi một mẩu lạc giắt trong răng hàm ra

khi không ai để ý.

Tất cả mọi người, trừ Lincoln Rhyme.

Anh lắc đầu với Sellitto và hút một hơi dài whisky Scotch. Ánh mắt anh

quay lại màn hình máy tính, nhớ tới bức thư tạm biệt anh đang viết cho

Blaine khi Sellitto và Banks làm anh bị gián đoạn sáng hôm đó. Anh

vẫn còn muốn viết thêm một vài bức thư.

Người mà anh dừng không viết cho nữa là Peter Taylor, chuyên gia cột

sống. Phần lớn thời gian, Rhyme và Taylor không nói chuyện về tình

hình bệnh nhân mà họ nói về cái chết. Ông bác sĩ này là người phản đối

kịch liệt việc chết tự nguyện có trợ giúp. Rhyme thấy anh nợ ông ta một

bức thư giải thích vì sao anh quyết định tự tử.

Và Amelia Sachs?

Con gái cớm tuần tra cũng sẽ nhận được một lời nhắn, anh quyết định

thế. Người tàn tật rộng lượng, người tàn tật tử tế, người tàn tật sắt

đá…

Người tàn tật chẳng là gì nếu không tha thứ…

Amelia thân mến:

Amelia thân mến của tôi: Amelia:

Sĩ quan Sachs thân mến:

Vì chúng ta đã có vinh dự được làm việc cùng nhau, tôi muốn nhân dịp

này để nói rằng mặc dù tôi coi cô là tên Judas phản bội nhưng tôi đã

tha thứ cho cô. Hơn nữa, tôi chúc cô thành công trong sự nghiệp tương

lai của cô với tư cách là kẻ hôn đít báo chí…

“Chuyện của cô ta như thế nào, Lon? Sachs ấy mà.”

“Ngoài việc cô ta có tính cách kinh khủng mà tôi không biết ra?” “Cô

ta kết hôn chưa?”

“Không. Khuôn mặt và dáng người như thế thì chắc chắn anh sẽ nghĩ

cô ta đã có một anh chàng đẹp giai nào đó rồi. Nhưng cô ta thậm chí

còn chưa có người yêu. Chúng

tôi nghe nói vài năm trước cô ta có một anh chàng, nhưng chẳng bao

giờ cô ta nói đến

chuyện đó.” Anh ta hạ giọng: “Có tin đồn cô ta là ô môi. Nhưng tôi

không biết gì hơn thế

– cuộc sống xã hội của tôi chỉ là bắt gái ở hiệu giặt đồ vào tối thứ Bảy.

Này, có tác dụng

đấy. Tôi còn nói gì được nữa?”

Cô phải học cách bỏ qua người đã chết...

Rhyme nghĩ về vẻ mặt cô khi anh nói điều đó với cô. Như thế là thế

nào nhỉ? Sau đó anh thấy giận dữ với bản thân vì đã tốn thời gian nghĩ

đến cô. Và làm thêm một hớp whisky lớn nữa.

Chuông cửa reo, sau đó là tiếng chân bước trên cầu thang. Rhyme và

Sellitto nhìn ra cửa. Tiếng giày bốt của một người đàn ông cao lớn,

mặc quần bó do thành phố cấp và đội chiếc mũ bảo vệ màu xanh

dương. Một trong những cảnh sát chọn lọc của NYPD. Anh ta đưa

cho Sellitto một chiếc phong bì kềnh càng và quay xuống cầu thang.

Viên thám tử mở phong bì. “Hãy nhìn chúng ta có gì này.” Anh ta đổ

những thứ bên trong ra bàn. Rhyme bực dọc ngước lên. Ba hoặc bốn

tá túi nhựa đựng chứng cứ, tất cả đều dán nhãn. Những cái túi đựng

một mẩu giấy bóng kính từ túi đựng chân bê mà họ đã gửi đội ESU đi

mua.

“Một tin nhắn từ Haumann.” Anh ta đọc: “Gửi: L. Rhyme, L. Sellitto.

Từ: B. Haumann, TSRF.”

“Cái quái gì thế?” Cooper hỏi. Sở cảnh sát là tổ của các loại chữ viết

tắt và rút gọn. RMP – tuần tra di động từ xa, thực ra là xe tuần tra.

IED – thiết bị nổ ứng tác, tức là một quả bom. Nhưng TSRF là một

chữ viết tắt mới. Rhyme nhún vai.

Sellitto tiếp tục đọc, vừa đọc vừa chặc lưỡi. “Đội đặc nhiệm chiến

thuật siêu thị. Về việc: Chân bê. Lần tìm kiếm toàn thành phố phát hiện

được bốn mươi sáu đối tượng, tất cả đều bị bắt và bị vô hiệu hóa với

nỗ lực tối thiểu. Chúng tôi đã đọc cho chúng nghe quyền của mình và

chuyển chúng đến nơi giam giữ là nhà bếp của mẹ sĩ quan

T.P.Giancarlo. Sau khi thẩm vấn, nửa tá nghi phạm sẽ được chuyển

cho các anh giám hộ. Đã được đun nóng ba trăm năm mươi độ trong

ba mươi phút.”

Rhyme cười. Sau đó thêm một ngụm whisky, thưởng thức mùi vị. Đó là

một điều anh sẽ nhớ, hơi thở ám khói của rượu. (Mặc dù trong sự bình

yên của giấc ngủ vô cảm, làm thế nào mà ta nhớ được điều gì đó?

Giống như chứng cứ, lấy đi tiêu chuẩn tối thiểu, thế là anh chẳng còn gì

để đánh giá sự mất mát của mình; anh sẽ mãi mãi an toàn.)

Cooper xòe mấy mẫu ra. “Bốn mươi sáu mẫu giấy bóng kính. Mỗi

chuỗi siêu thị và các cửa hàng độc lập lớn một mẫu.”

Rhyme nhìn các bản mẫu. Những thứ này rất tốt để phân loại. Phân

loại đơn lẻ giấy bóng kính có thể là một công việc rất khó khăn – mẩu

giấy được tìm thấy trong manh mối xương bê chưa chắc đã trùng với

các mẫu giấy này. Tuy nhiên, vì các công ty

mẹ thường mua vật tư tương đồng cho các cửa hàng trong chuỗi của

họ, anh có thể biết

823 mua thịt bê ở chuỗi nào và thu hẹp được các khu vực sinh sống

của hắn. Có thể anh

phải gọi nhóm vật chứng của Cục và…

Không, không. Nên nhớ: bây giờ đấy là vụ chiết tiệt của họ.

Rhyme ra lệnh cho Cooper: “Gom chúng lại và gửi cho những người

anh em liên bang của chúng ta.”

Rhyme định tắt máy tính nhưng ngón tay đôi khi vụng về của anh lại

bấm nhầm nút. Loa phóng thanh phát ra một tràng thanh khóc dài ầm ĩ.

“Mẹ kiếp”, Rhyme lầm bầm khó chịu. “Máy móc chết tiệt.”

Không thoải mái với cơn giận bất ngờ của Rhyme, Sellitto liếc nhìn cốc

của mình và đùa: “Quỷ thật, Rhyme, rượu ngon thế này chắc phải làm

anh say đấy.”

“Tin mới đây”, Thom chua chát trả lời. “Anh ta say rồi.”

Hắn đỗ xe gần một đường ống thoát nước khổng lồ.

Lúc trèo ra khỏi xe, hắn có thể ngửi thấy mùi nước hôi thối, nhầy nhụa,

chín nẫu. Họ đang ở trong một ngõ cụt dẫn đến một ống dẫn nước thải

rộng chạy từ Xa lộ West Side xuống sông Hudson. Ở đây không ai có

thể nhìn thấy họ.

Kẻ Tầm Xương quay xe lại, tận hưởng cảnh tượng người tù nhân lớn

tuổi của hắn. Như hắn đã tận hưởng cảnh tượng cô gái bị hắn trói

trước đường ống hơi nước. Và cánh tay lắc lư cạnh đường ray sáng

sớm ngày hôm nay.

Nhìn chăm chăm vào đôi mắt đang hoảng sợ. Người đàn ông này gầy

hơn hắn nghĩ. Tóc bạc hơn. Tóc rối bù.

Cơ thể già nhưng xương cốt trẻ…

Người đàn ông co rúm tránh xa hắn, hai cánh tay bắt chéo phòng vệ

trước bộ ngực lép của ông ta.

Mở cửa xe, Kẻ Tầm Xương gí súng lục vào xương ngực người đàn

ông.

“Xin ông”, tù nhân của hắn thì thầm, giọng ông ta run run. “Tôi không

có nhiều tiền nhưng ông có thể lấy hết. Ta có thể ra máy ATM. Tôi

sẽ…”

“Ra ngoài.”

“Xin ông đừng hại tôi.”

Kẻ Tầm Xương lấy đầu ra hiệu. Người đàn ông yếu đuối kinh hoàng

nhìn quanh rồi tiến lên phía trước. Ông ta đứng bên cạnh xe, rúm ró,

hai tay vẫn khoanh trước ngực, nổi gai ốc mặc dù trời nóng gay gắt.

“Sao ông làm thế?”

Kẻ Tầm Xương lùi lại và tìm chiếc còng tay trong túi. Vì đeo găng tay

dày nên phải mất vài giây hắn mới tìm thấy sợi xích crom. Khi lôi chiếc

còng tay ra, hắn nghĩ hắn có nhìn thấy một chiếc thuyền bốn buồm chạy

trên sông Hudson. Dòng chảy ngược ở đây không mạnh như sông

Đông, nơi các con tàu phải tốn rất nhiều thời gian để đi từ cầu tàu

East, Montgomery và Out Ward lên phía Bắc. Hắn liếc mắt. Không

phải, từ từ đã – đấy không phải thuyền buồm mà chỉ là một chiếc tàu

có động cơ sang trọng, đầy đám thị dân trưởng giả.

Vươn đôi tay bị còng ra trước, người đàn ông tóm chặt áo kẻ bắt giữ

mình. “Xin ông. Tôi đang đến bệnh viện. Vì thế tôi mới gọi ông. Tôi bị

đau ngực.”

“Câm mồm.”

Bất ngờ, người đàn ông chộp lấy mặt Kẻ Tầm Xương, hai cánh tay đồi

mồi nắm lấy cổ và vai hắn bóp mạnh. Một cơn đau lan tỏa từ chỗ

móng tay màu vàng của ông ta đâm vào. Với một cơn bực tức bùng

phát, hắn giằng tay nạn nhân ra và thô bạo còng tay ông ta.

Dán một miếng băng dính vào miệng người đàn ông. Kẻ Tầm Xương

kéo ông ta trên con đường bờ sông trải sỏi tới miệng ống, đường kính

khoảng bốn feet. Hắn dừng lại, xem xét người đàn ông.

Lột mày đến tận xương thật là dễ.

Xương cốt… chạm vào nó. Nghe tiếng nó.

Hắn nhấc tay người đàn ông lên. Hai con mắt kinh hoàng nhìn lại hắn,

môi ông ta run rẩy. Kẻ Tầm Xương vuốt ve những ngón tay của người

đàn ông, bóp chặt những đốt ngón tay ông ta trong những đốt ngón tay

hắn (ước gì hắn có thể tháo găng tay, nhưng hắn không dám). Sau đó

hắn nhấc bàn tay người đàn ông lên, áp chặt nó vào tai.

“Gì thế?...”

Bàn tay trái hắn nắm ngón tay út của người tù nhân và từ từ kéo cho

đến khi hắn nghe thấy tiếng xương kêu lách cách. Một âm thanh ngọt

ngào. Người đàn ông kêu thét lên, nhưng tiếng hét bị dập tắt qua miếng

băng dính. Và rơi xuống đất.

Kẻ Tầm Xương kéo ông ta đứng thẳng dậy và dẫn người đàn ông

bước đi vấp váp xuống tới miệng ống. Hắn đẩy người đàn ông lên phía

trước.

Họ nổi lên phía dưới một cây cầu cảng cũ kỹ, mục nát. Một nơi kinh

tởm, vung vãi đầy xác thú vật và cá đang thối rữa, rác rưởi trên những

hoàn đá, và lớp bùn tảo bẹ mà xanh xám. Dưới nước là một đám rong

biển nổi lên, chìm xuống, chất thành đống như một người béo phì. Mặc

dù cả thành phố đang phải chịu cái nóng buổi tối, nhưng dưới này lại

lạnh như một ngày tháng Ba.

Señor Ortega…

Hắn dìm người đàn ông xuống sông, còng ông ta vào trụ cầu cảng, bóp

cho cái còng siết chặt vào cổ tay ông ta lần nữa. Khuôn mặt xám ngoét

của người đàn ông còn cách mặt nước khoảng ba feet. Kẻ Tầm Xương

thận trọng đi trên những hòn đá trơn tuột về phía ống cống. Hắn quay

lại, ngừng một chút để nhìn, rồi tiếp tục nhìn. Hắn không quan tâm liệu

cớm có tìm được những nạn nhân khác hay không. Hanna, người đàn

bà trên taxi. Nhưng người này, Kẻ Tầm Xương hy vọng chúng không

kịp thời tìm được ông ta. Thực sự là họ đừng nên tìm thấy ông ta. Để

hắn có thể quay lại sau một hoặc hai tháng, kiểm tra xem con sông

thông minh này có cọ sạch được bộ xương hay không.

Quay lại con đường trải sỏi, hắn tháo mặt nạ và để lại manh mối cho

hiện trường tiếp theo, cách nơi hắn đỗ xe không xa. Hắn giận dữ, điên

cuồng với bọn cớm, vì vậy lần này hắn giấu manh mối đi. Và hắn còn

để lại một điều ngạc nhiên đặc biệt. Một thứ mà hắn đã luôn giữ cho

chúng. Kẻ Tầm Xương quay lại chỗ chiếc taxi.

Gió thổi nhẹ, mang theo mùi của con sông ô nhiễm. Tiếng xào xạc của

cỏ, và như thường lệ, cả tiếng xoẹt của xe cộ.

Nghe như tiếng giấy ráp cọ trên xương.

Hắn dừng lại và lắng nghe âm thanh đó, ngẩng đầu như thể hắn đang

nhìn lên hàng tỷ ngọn đèn của các tòa nhà, kéo dài ra phía bắc như một

thiên hà hình chữ nhật. Đúng lúc đó xuất hiện một người phụ nữ chạy

rất nhanh trên đường chạy cạnh đường cống và thiếu chút nữa thì va

vào hắn.

Mặc quần soóc và áo thể thao tím, người phụ nữ tóc nâu gầy gò nhảy

sang bên để tránh đường hắn. Cô ta dừng lại, thở hổn hển, lâu mồ hôi

trên mặt. Dáng đẹp – bắp thịt căng đầy – nhưng không xinh. Mũi

khoằm, miệng rộng, da lem nhem.

Nhưng phía dưới thì…

“Anh không được… Anh không nên đỗ xe ở đây. Đây là đường

chạy…”

Giọng nói cô ta nhỏ dần khi nỗi sợ hãi dâng lên trong ánh mắt cô, ánh

mắt chuyển từ mặt hắn sang chiếc taxi, rồi tới chiếc mặt nạ trượt tuyết

vo viên trong tay hắn.

Cô ta biết hắn là ai. Hắn mỉm cười khi nhìn thấy xương đòn của cô ta

nổi rõ lên. Mắt cá chân phải của cô ta hơi xê dịch, chuẩn bị chạy đi.

Nhưng hắn tóm được cô

ta trước. Hắn vờ cúi xuống để chặn cô ta. Cô ta thét lên một tiếng, hạ

tay xuống để cản hắn, Kẻ Tầm Xương liền đứng vụt dậy, đánh khuỷu

tay vào thái dương cô. Một tiếng cắc vang lên như tiếng vụt thắt lưng.

Cô ta ngã vật xuống sỏi, nằm im. Hoảng sợ, Kẻ Tầm Xương quỳ sụp

xuống đỡ lấy đầu cô ta. Hắn ta rên rỉ: “Không, không, không…” Giận

dữ với chính mình vì đánh quá mạnh, thực sự đau khổ vì hắn có thể đã

làm vỡ một hộp sọ hoàn hảo nằm phía dưới mái tóc rối bù và một

khuôn mặt tầm thường.

Amelia Sachs điền thêm một thẻ COC107 nữa rồi đề nghị giải lao. Cô

tạm dừng, đi tìm máy bán hàng tự động và mua một cốc cà phê có mùi

vị kinh khủng. Cô quay lại cái văn phòng không cửa sổ, nhìn những

chứng cứ mà cô thu lượm được.

Có thể vì những điều cô phải trải qua để thu thập chứng cứ – các khớp

xương của cô đau nhức và cô vẫn còn rùng mình mỗi khi nghĩ đến cảnh

tượng thi thể bị chôn sáng nay, một cánh tay máu me, cảnh tượng da

thịt lủng lẳng của T.J. Colfax. Cho đến hôm nay thì vật chứng không có

ý nghĩa gì với cô. Vật chứng chỉ là những bài học chán ngán trong

những buổi chiều mùa xuân buồn ngủ ở học viện. Vật chứng là toán

học, là những đồ thị và biểu đồ, là khoa học. Nó chết.

107 COC: Xem phần phụ lục.

Không, Amelia Sachs sẽ là cảnh sát của công chúng. Tuần tra, xử lý

bọn du côn, dọn dẹp ma túy. Truyền bá sự tôn trọng pháp luật – như

cha cô đã làm. Hay nhét chúng vào. Như Nick Carelli đẹp trai, cựu

chiến binh năm năm, ngôi sao của Tội phạm Đường phố, cười cả thế

giới với nụ cười mày có vấn đề gì thế? của anh.

Đó là con người mà cô muốn trở thành.

Cô nhìn cái lá khô giòn màu nâu mà cô tìm thấy trong đường hầm bãi

chăn gia súc. Một trong những manh mối 823 để lại cho họ. Và cái

quần lót. Cô nhớ ra đặc vụ liên bang đã lấy vật chứng trước khi

Cooper khám nghiệm xong bằng cái máy... Tên nó là gì nhỉ? Sắc ký

khí? Cô tự hỏi chất lỏng trên lớp vải bông đó là gì?

Nhưng những ý nghĩ đó dẫn cô đến Lincoln Rhyme và anh ta lại là

nhân vật mà cô không hề muốn nghĩ tới lúc này. Cô tiếp tục đăng ký

nốt những vật chứng còn lại. Mỗi thẻ COC có những dòng kẻ trống để

liệt kê danh sách những người quản lý vật chứng, theo thứ tự từ lúc

phát hiện được trên hiện trường cho tới khi xử án. Sachs đã có vài lần

chuyển giao vật chứng và tên cô cũng xuất hiện trên các tấm thẻ COC.

Nhưng đó là lần đầu tiên A. Sachs, NYPD 5885 nằm ở dòng đầu tiên.

Cô nhấc cái túi nhựa đựng chiếc lá lên lần nữa.

Hắn đã sờ vào chiếc lá này. Hắn. Kẻ đã giết T.J. Colfax. Kẻ cầm cánh

tay mập mạp của Monelle Gerger và cắt sâu vào đó. Kẻ lúc này đang

tìm kiếm nạn nhân khác – nếu như hắn chưa tóm được một ai.

Kẻ chôn sống người đàn ông sáng ngày hôm nay, khi anh ta vẫy tay

cầu xin lòng nhân từ mà anh không bao giờ nhận được.

Cô nghĩ tới Nguyên tắc Trao đổi của Locard. Con người khi giao tiếp,

ai cũng sẽ chuyển cho người khác thứ gì đó. Dù lớn hay nhỏ. Và hầu

hết mọi người lại không biết đến điều này.

Liệu 823 có để lại gì trong cái lá này không? Một tế bào da? Một giọt

mồ hôi? Thật ngạc nhiên khi cô cảm thấy sự rung động của niềm phấn

khích, của nỗi sợ hãi, như thể tên sát nhân đang ở ngay đây, trong căn

phòng nhỏ xíu thiếu không khí này cùng với cô.

Quay lại với những tấm thẻ COC. Cô điền chúng trong khoảng mười

phút và khi hoàn thành chiếc thẻ cuối cùng thì cánh cửa bật mở làm cô

giật mình. Cô quay lại.

Fred Dellray đứng trong khung cửa, bộ vét màu xanh lá của anh ta xộc

xệch, chiếc áo sơ mi được hồ cứng lúc này nhàu nát. Những ngón tay

lần sờ điếu thuốc lá cài ở tai. “Ra ngoài một, hai phút được không, sĩ

quan. Thời điểm thanh toán đã tới. Tôi nghĩ cô cũng muốn có mặt ở

đó.”

Sachs đi theo anh ta vào một hành lang ngắn, cách anh chàng đang

nhảy cẫng lên này hai bước.

“Đã có kết quả AFIS.” Dellray nói.

Phòng chiến sự trông bận bịu hơn bao giờ hết. Các đặc vụ không mặc

áo vét lượn lờ bên bàn làm việc. Họ đều được trang bị vũ khí – những

khẩu Sig-Sauer và Smith & Weson tự động, mười mm và .45s. Nửa tá

đặc vụ đặc đang tập hợp quanh màn hình máy tính bên cạnh máy

Opti-Scan.

Sachs không thích cách Dellray lấy vụ này, nhưng cô buộc phải công

nhận đằng sau cái vẻ ngoài của một anh chàng mê nhạc jazz dẻo mỏ,

Dellray là một cảnh sát rất giỏi. Các đặc vụ – trẻ cũng như già – đến

hỏi ý kiến anh ta và anh ta kiên nhẫn trả lời họ. Anh ta giật điện thoại,

phỉnh phờ hoặc nhiếc móc người phía đầu dây bên kia để có được thứ

anh ta cần. Thi thoảng, anh ta nhìn quanh căn phòng đang sôi sục và

gầm lên: “Ta sẽ tóm được cái thằng khốn đó chứ? Chắc chắn rồi, ta sẽ

tóm được nó”. Và mọi người ném cho anh ta những cái nhìn khó chịu,

nhưng đều công nhận nếu có ai bắt được hắn, người đó phải là Dellray.

“Đây rồi, có rồi đây”, một đặc vụ nói.

Dellray quát: “Tôi muốn có một đường dây mở đến DMV108 New

York, Jersey và Connecticut. Cả bộ phận Cải tạo và Tuần tra. INS

nữa. Bảo họ chờ yêu cầu nhận dạng. Những người khác phải đợi.”

Các đặc vụ tỏa ra và bắt đầu gọi điện thoại. Màn hình máy tính có tín

hiệu.

Cô không thể tin rằng Dellray lại có thể thực sự chắp tay cầu nguyện.

Im lặng tuyệt đối trong phòng.

“Có hắn rồi!” Đặc vụ đang ngồi bên bàn phím la lên.

“Không còn nghi phạm nữa rồi”, giọng Dellray như hát, anh ta cúi nhìn

màn hình. “Mọi người nghe đây. Ta có tên rồi: Victor Pietrs. Sinh ở

đây, năm 1948. Cha mẹ hắn ta đến từ Belgrade. Như vậy là chúng ta

có mối liên hệ với người Serbia. Nhận dạng được New York D of C

cung cấp. Đã có tiền sử buôn ma túy, tấn công, có một vụ giết người.

Đã lĩnh án. Được rồi, nghe này – có bệnh án tâm thần, ba lần bị buộc

nhập viện. Bệnh nhân tại bệnh viện tâm thần Bellevue và Manhattan.

Ngày ra viện cuối cùng là ba năm trước. LKA Washington Heights.

Anh ta nhìn lên. “Ai làm việc với các công ty điện thoại?” Vài đặc vụ

giơ tay.

“Gọi điện đi”, Dellray ra lệnh. Năm phút dài như vô tận.

“Không có ở đây. Không có trong danh bạ điện thoại New York.”

“Chẳng có gì ở New Jersey, một đặc vụ khác nói.

“Connecticut, không có gì.”

“Mẹ kiếp”, Dellray lầm bầm. “Đảo tên lên xem. Thử các tổ hợp khác

nhau. Tìm cả những số điện bị cắt do không trả tiền.’

Trong mấy phút, giọng nói dâng khắp nơi như thủy triều lên.

Dellray đi đi lại lại như điên, và Sachs hiểu ra vì sao người anh ta lại

khẳng khiu như vậy.

108 DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.

Bất ngờ một đặc vụ la lớn: “Tìm thấy hắn rồi”. Mọi người quay đầu lại

nhìn.

“Tôi đang liên lạc với New York DMV109”, một đặc vụ khác gọi.

“Họ đã tìm thấy hắn. Tin đang đến đây… hắn lái taxi. Dùng bằng giả.”

“Sao tin này lại chẳng làm mình ngạc nhiên nhỉ?” Dellray lẩm nhẩm.

“Mình phải nghĩ tới điều đó mới phải. Tổ ấm ở đâu?”

“Morningside Height. Cách con sông một khối nhà.” Nhân viên đặc vụ

viết địa chỉ, giơ nó lên cao khi Dellray đi qua lấy. “Tôi biết khu này.

Hầu hết bị bỏ hoang. Rất nhiều bọn buôn ma túy.”

Một đặc vụ khác nhập địa chỉ vào máy tính của anh ta. “Được rồi, đã

kiểm tra… Một ngôi nhà cũ. Thuộc về một ngân hàng. Chắc hắn thuê

nhà.”

“Anh cần HRT chứ?” Một đặc vụ gọi từ phía bên kia căn phòng đang

sôi sục. “Tôi có Quantico đang nghe điện đây.”

“Không còn thời gian”, Dellray tuyên bố. “Ta dùng đội SWAT trực

chiến. Bảo họ chuẩn bị đi.”

Sachs hỏi: “Thế còn nạn nhân tiếp theo thì sao?” “Nạn nhân tiếp theo

nào?”

“Hắn đã tóm được ai đó. Hắn biết ta đã có manh mối được khoảng

một, hai tiếng. Hắn đã bắt được nạn nhân tiếp theo rồi. Một lúc trước.”

“Không có báo cáo mất tích”, một đặc vụ nói. “Nếu hắn tóm được họ,

có thể họ đang ở nhà hắn.”

“Không, họ sẽ không ở đó.” “Sao không?”

“Họ sẽ thu nhặt quá nhiều vật chứng.” Cô nói. “Lincoln Rhyme nói hắn

có một nơi ẩn nấp an toàn.”

“Được rồi, khi bắt được hắn, hắn sẽ nói cho ta biết họ ở đâu.” Một

đặc vụ khác nói: “Ta phải thật thuyết phục.”

“Đi thôi”, Dellray gọi. “Này mọi người, hãy cám ơn sĩ quan Amelia

Sachs. Cô ấy là người tìm thấy dấu vân tay và lấy được nó.”

Cô đỏ mặt. Cô có thể cảm thấy điều đó và căm thù nó. Nhưng cô

không thể giúp được mình. Khi nhìn xuống, cô thấy giày của mình có

những đường lạ lẫm. Liếc mắt nhìn, cô nhận ra mình vẫn còn đeo

những dải băng cao su.

Khi ngẩng lên cô nhìn thấy căn phòng đầy đặc vụ liên bang trông

nghiêm nghị đang kiểm tra vũ khí và đi ra cửa khi họ liếc nhìn cô. Như

người thợ rừng nhìn khúc gỗ mới đốn, cô nghĩ.

109 New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New

York.

MƯỜI CHÍN

Năm 1911, thảm họa khủng khiếp giáng xuống thành phố của chúng ta.

Ngày Hai mươi lăm tháng Ba, hàng trăm công nhân nữ đang làm việc

hăng say trong một xưởng may, một trong nhiều xưởng may nổi tiếng

với tên gọi “Cửa  hiệu mồ hôi” ở Greenwich Village, trung tâm

Manhattan.

Những người chủ của công ty đam mê lợi nhuận tới mức họ không cho

các cô gái đáng thương này những tiện nghi sơ đẳng nhất mà các nô lệ

còn được hưởng. Họ cho rằng không thể tin tưởng để công nhân được

nhanh chóng đi vệ sinh, vì thế họ khóa kỹ xưởng may và xưởng cắt.

Kẻ Tầm Xương lái xe về tòa nhà của hắn. Hắn đi qua một xe cảnh sát,

nhưng hắn luôn nhìn thẳng về phía trước. Cớm không bao giờ chú ý tới

hắn.

Trong ngày định mệnh đó, đám cháy bắt đầu từ tầng tám của tòa nhà,

chỉ trong vòng vài phút đã lan ra khắp nhà máy. Những người công

nhân trẻ tuổi gắng sức thoát ra ngoài. Tuy nhiên, cửa khóa nên họ

chẳng thể thoát ra. Nhiều người chết tại chỗ và nhiều người khác vì quá

sợ lửa đã lao ra ngoài không trung, cách mặt sỏi một trăm feet và chết

khi va vào nền đất mẹ cứng rắn.

Có một trăm bốn mươi sáu nạn nhân trong trận hỏa hoạn Triangle

Shirtwaist. Tuy nhiên, cảnh sát đã rất ngạc nhiên khi không thể tìm

được một nạn nhân, một người phụ nữ trẻ, Esther Weinraub, người mà

một vài nhân chứng nhìn thấy, đã tuyệt vọng nhảy ra khỏi cửa sổ tầng

tám. Không cô gái nào cùng nhảy sống sót. Phải chăng điều kỳ diệu đã

xảy đến với cô? Vì thực tế là khi thi thể nạn nhân được xếp ngoài phố

để gia đình tới nhận diện, người ta không tìm được cô Weinraub tội

nghiệp.

Có những báo cáo về một con ma cà rồng, một người đàn ông vác

một cái túi lớn ra khỏi hiện trường đám cháy. Cảnh sát rất giận dữ vì đã

có người xâm phạm thi thể thiêng liêng của người phụ nữ vô tội, tới

mức họ bắt đầu một cuộc tìm kiếm âm thầm nhằm vào người đàn ông.

Sau vài tuần, những nỗ lực của họ đã đem lại kết quả. Hai người dân

sống ở Greenwich Village khai báo rằng họ đã nhìn thấy một người đàn

ông vác một túi nặng “trông như một tấm thảm” trên vai và rời khỏi

hiện trường. Cảnh sát nắm được dấu vết của hắn và theo hắn đến phía

tây thành phố, ở đó họ phỏng vấn những người láng giềng và biết được

người đàn ông phù hợp với mô tả là Jame Schneider, kẻ vẫn đang tự

do.

Họ thu hẹp phạm vi tìm kiếm tới một nơi đổ nát tại con ngõ nhỏ ở

Hell’s Kitchen, cách bãi chăn trên Phố Sáu mươi không xa. Khi họ tiến

vào, một mùi hôi thối kinh khủng chào đón họ…

Hắn đang lái xe qua chỗ đám cháy Triangle – có thể sự vô thức đã dẫn

hắn đến đây. Tòa nhà Asch – một cái tên mỉa mai cho cấu trúc trước

kia là nhà máy định mệnh – đã biến mất, và mảnh đất đó lúc này là một

phần của Đại học New York. Quá khứ và hiện tại… Kẻ Tầm Xương

không ngạc nhiên khi nhìn thấy những nữ công nhân mặc áo khoác lao

động trắng, những vệt lửa và làn khói ngột ngạt, rơi xuống chết quanh

hắn ta như những bông tuyết.

Khi tấn công vào nơi ở của Schneider, những nhà chức trách  thấy một

cảnh tượng mà ngay cả những người dày dạn nhất trong số họ cũng

phải chóng mặt vì hoảng sợ. Thi thể của Esther Weinbraun đáng

thương – (hay là những gì còn lại) – được tìm thấy dưới tầng hầm.

Schneider đang thích thú hoàn thành nốt công việc dang dở của đám

cháy, chậm rãi lóc thịt người phụ nữ bằng những công cụ quá ghê tởm

để có thể kể ra ở đây.

Cuộc tìm kiếm ở nơi ghê rợn này dẫn đến việc khám phá ra một căn

phòng, bên ngoài tầng hầm, chứa đầy xương cốt đã vị lóc hết thịt.

Dưới giường của Schneider, một cảnh sát tìm thấy cuốn nhật ký mà kẻ

điên khùng ghi lại những hành động ác quỷ của hắn. “Xương” –

Schneider viết – “là  cốt lõi tối thượng của con người. Nó không thay

đổi, không lừa dối, không đầu hàng. Một khi bề ngoài da thịt, những

thiếu sót của những chủng tộc hạ đẳng, giới tính yếu ớt, bị đốt cháy hay

nấu chín, thì chúng ta – tất cả chúng ta – còn lại là xương cốt cao quý.

Xương cốt không dối trá. Nó là vĩnh cửu.”

Những lời văn điên loạn ghi lại những thí nghiệm khủng khiếp của hắn

để tìm ra cách thức hiệu quả nhất nhằm lóc thịt ra khỏi xương nạn

nhân. Hắn thử nấu chín thi thể, đốt, dùng dung dịch kiềm, cho súc vật

ăn và dìm nước.

Nhưng có một phương pháp được hắn yêu thích nhất cho hành động

rùng rợn này. “Cách  tốt nhất, theo kết luận của tôi” – (tiếp tục nhật ký

của hắn) – “là  chôn thi thể xuống đất màu và để Tự nhiên làm nốt phần

công việc buồn chán. Đó là phương pháp tốn thời gian nhất nhưng lại

gây ít nghi ngờ nhất vì không bốc mùi. Tôi thích chôn các cá thể còn

sống, lý do thì tôi không thể nói chắc chắn”.

Bên trong căn phòng cho tới nay vẫn còn là bí mật, người ta tìm thấy

thêm ba thi thể nữa, trong tình trạng tương tự. Những cánh tay xiên

xẹo, những khuôn mặt mong chờ của các nạn nhân tội nghiệp chứng tỏ

họ đã thực sự còn sống khi Schneider lấp những xẻng đất cuối cùng

lên sự tột cùng đau khổ của họ.

Chính những mưu đồ đen tối đó khiến cho các nhà báo đặt cho

Schneider một cái tên làm hắn nổi tiếng mãi cho tới sau này – “Kẻ tầm

xương”.

Hắn lái xe đi tiếp, suy nghĩ của hắn trở lại với người phụ nữ đang nằm

trong cốp xe, Esther Weinraub. Khuỷu tay gầy guộc của cô ta, xương

đòn thanh tú của cô ta như đôi cánh chim. Hắn tăng tốc, thậm chí vượt

hai đèn đỏ. Hắn không thể chờ đợi thêm nữa.

“Tôi không mệt”, Rhyme cáu kỉnh.

“Mệt hay không mặc kệ, anh phải nghỉ ngơi.” “Không, tôi muốn uống.”

Những chiếc va li đen nằm cạnh tường, chờ đợi các sĩ quan từ Đồn

Mười hai chuyển giúp về phòng thí nghiệm IRD. Mel Cooper đang vác

hộp kính hiển vi xuống dưới cầu thang. Lon Sellitto vẫn ngồi trên chiếc

ghế mây, nhưng anh ta không nói nhiều. Anh ta vừa kết luận rằng,

Rhyme Lincoln không hề say.

Thom nói: “Tôi chắc là huyết áp của anh lại lên đấy. Anh cần phải nghỉ

ngơi.” “Tôi muốn uống”.

Quỷ tha ma bắt cô, Amelia Sachs, Rhyme nghĩ. Mà không hiểu vì sao.

“Anh phải bỏ đi. Uống chẳng có ích gì cho anh cả.”

Được rồi, tôi đang bỏ, Rhyme lặng lẽ đáp lời. Bỏ hẳn. Thứ Hai. Không

cần kế hoạch mười hai bước; chỉ là kế hoạch một bước.

“Rót cho tôi cốc nữa”, anh ra lệnh. Nhưng không thực sự muốn.

“Không.”

“Rót ngay cho tôi!” Rhyme cáu kỉnh. “Không.”

“Lon, làm ơn rót tôi cốc nữa, được chứ?”

“Tôi…”

Thom nói: “Anh ta không được uống thêm nữa. Khi tâm trạng như thế

này, thật không thể chịu nổi anh ta. Chúng ta sẽ không đầu hàng anh

ta”.

“Cậu từ chối tôi à? Tôi có thể đuổi cậu đấy.” “Thoải mái đi.”

“Lạm dụng người tàn tật! Tôi sẽ cho cậu ra tòa! Bắt hắn ta ngay, Lon.”

“Lincoln”, Sellitto xoa dịu. “Bắt hắn ta!”

Viên thám tử ngạc nhiên vì sự hằn học trong lời nói của Rhyme.

“Này anh bạn, cậu làm ơn nhẹ nhàng hơn một chút, được không?”

Sellitto nói. “Ôi, lạy Chúa”, Rhyme rên rỉ. Anh bắt đầu rên ầm ĩ.

Sellitto buột miệng: “Gì thế?” Thom im lặng, nghi ngờ theo dõi.

“Gan của tôi.” Rhyme nhăn nhó. “Có thể là xơ gan.”

Thom quay lại, giận dữ. “Tôi không vào tròng với cái trò ấy đâu. Được

chưa?” “Không, không ổn…”

Giọng một phụ nữ vang lên từ ô cửa: “Chúng ta không có nhiều thời

gian.”

“… tí nào.”

Amelia Sachs vào phòng, nhìn những cái bàn trống. Rhyme cảm thấy

trên môi mình dính nước bọt. Anh quá tức giận. Vì cô nhìn thấy nước

dãi. Vì anh đã mặc chiếc áo sơ mi trắng bảnh bao đó chỉ vì cô. Và vì

anh tuyệt vọng muốn được cô đơn, mãi mãi, cô đơn trong sự yên bình

bất động – nơi anh là hoàng đế. Không phải vua một ngày. Mà là

hoàng đế mãi mãi.

Nước bọt chảy ra cù anh buồn buồn. Anh cố co gân cổ đang rất đau

đớn, thử liếm khô môi. Thom khéo léo rút một tờ giấy lau trong hộp,

lau khô miệng và cằm cho ông chủ của mình.

“Sĩ quan Sachs”, Thom nói. “Xin chào. Một ví dụ tiêu biểu của sự

trưởng thành. Ta không thấy điều đó nhiều ngay lúc này.”

Cô không đội mũ, áo choàng xanh để hở cổ. Mái tóc đỏ dài của cô thả

rơi xuống cổ. Mái tóc này không làm ai gặp khó khăn khi phân tích

dưới kính hiển vi.

“Mel cho tôi vào”, cô nói, hất đầu về phía cầu thang. “Quá giờ đi ngủ

của cô phải không, Sachs?”

Thom vỗ vai. Cử chỉ có nghĩa là phải biết cư xử chứ. “Tôi vừa ở văn

phòng FBI”, cô nói với Sellitto.

“Tiền thuế của chúng ta thế nào rồi?” “Họ tóm được hắn rồi.”

“Cái gì?” Sellitto hỏi. “Đơn giản thế thôi hả? Lạy Chúa. Họ biết chuyện

ấy rồi à?”

“Perkins vừa gọi cho Thị trưởng. Hắn là tài xế taxi. Hắn sinh ra ở đây,

nhưng cha hắn là người Serbia. Vì vậy họ nghĩ hắn đang đòi công lý với

Liên Hiệp Quốc, hay cái gì đó. Có giấy vàng. Và cả vấn đề về tâm

thần. Lúc này Dellray và nhóm SWAT liên bang đang đến đấy.”

“Họ làm thế nào nhỉ?” Rhyme hỏi. “Tôi đoán đó là nhờ dấu tay.” Cô

gật đầu.

“Tôi nghĩ rằng điều này quá rõ ràng. Nói tôi nghe, họ quan tâm tới nạn

nhân tiếp theo đến đâu?”

“Họ có quan tâm”, cô nói đều đều. “Nhưng chủ yếu là họ muốn tóm

đối tượng.” “À, đấy là bản chất của họ. Để tôi đoán xem. Họ nghĩ họ

sẽ moi ra chỗ nạn nhân

tiếp theo sau khi họ tóm được hắn.”

“Anh nói đúng.”

“Chắc cần chút cố gắng đấy”. Rhyme nói. “Tôi có thể đưa ra nhận định

này mà không cần đến sự chỉ dẫn của Tiến sĩ Dobyns và phân tích

hành vi. Thế nào Amelia, điều gì làm cô thay đổi ý định vậy? Sao cô

quay lại?”

“Bởi vì bất kể Dellray có xích được hắn hay không thì tôi cũng không

nghĩ chúng ta còn thời gian để chờ đợi. Ý tôi là, để cứu nạn nhân tiếp

theo.”

“Ồ, nhưng chúng ta đã bị giải tán, cô chưa nghe à? Đóng cửa, phá

sản.” Rhyme nhìn màn hình máy tính tối om cố xem xem tóc anh có

được chải không?

“Anh đầu hàng?” Cô hỏi.

“Sĩ quan”, Sellitto bắt đầu, “ngay cả khi chúng ta muốn làm gì đó,

chúng ta cũng không có vật chứng. Đó là liên kết duy nhất…”

“Tôi có.” “Cái gì?”

“Tất cả. Dưới cầu thang, trong xe RRV.”

Viên thám tử nhìn ra ngoài cửa sổ.

Sachs tiếp tục: “Từ hiện trường cuối cùng. Từ tất cả mọi hiện trường.”

“Cô có nó?” Rhyme hỏi. “Sao thế được?”

Nhưng Sellitto cười phá: “Mẹ kiếp, Lincoln, cô ta cướp chúng.”

“Dellray không cần tới chúng”, Sachs chỉ ra. “Trừ khi dùng cho việc xử

án. Họ đã có đối tượng, chúng ta sẽ cứu nạn nhân. Cũng được, phải

không?”

“Nhưng Mel Cooper vừa về rồi.”

“Không, anh ta dưới cầu thang. Tôi bảo anh ta đợi.” Sachs bắt tréo

tay. Cô nhìn đồng hồ. Quá mười một giờ. “Ta không có nhiều thời

gian”, cô nhắc lại.

Anh cũng nhìn đồng hồ. Chúa ơi, anh mệt. Thom nói đúng; cả năm nay

chưa bao giờ anh thức khuya như vậy. Nhưng anh thấy ngạc nhiên –

không, đúng hơn là bị sốc – khi thấy rằng ngày hôm nay anh có thể

giận dữ, khó xử hay bị đâm trộm bởi những rắc rối vô cảm, nhưng

những giây phút vừa qua không hề đặt lên tâm hồn anh một gánh nặng

nóng bỏng nào cả. Như chúng vẫn vậy, trong suốt ba năm qua.

“Được rồi, hết ý.” Rhyme bật một tràng cười. “Thom? Thom! Chúng ta

cần cà phê. Suất đúp. Sachs, đưa những mẫu giấy bóng kính đó đến

phòng thí nghiệm cùng với bức ảnh Polaroid của mẩu giấy mà Mel nhặt

được từ cái xương bê. Tôi muốn có kết quả so sánh phân cực sau một

giờ nữa. Và gọi cái bóng của anh đến đây đi, Lon. Cái anh chàng có

tên như cầu thủ bóng chày ấy.”

Chiếc xe tải màu đen lao nhanh trên phố.

Đây là đường vòng tới chỗ tên tội phạm nhưng Dellray biết anh ta đang

làm gì; các chiến dịch chống khủng bố phải đi đường vòng, tránh những

con phố lớn, những con phố thường bị đồng phạm của chúng giám sát.

Dellray, ngồi phía sau chiếc xe đi đầu, đang siết chặt dây khóa dán

Velcro của chiếc áo chống đạn. Còn mười phút nữa là họ đến nơi.

Anh ta nhìn những căn hộ đang bị hỏng, những lô đất đầy rác rưởi khi

họ chạy ngang qua. Lần cuối cùng, Dellray đến khu vực đổ nát này là

khi anh còn là Rastafarian Peter Haile Thomas đến từ Queens. Dellray

mua một trăm ba mươi bảy pound cocaine của một gã Puerto Rican

nhỏ thó, nhưng anh chàng này đến phút cuối lại quyết định ăn cướp

người mua hàng của mình. Hắn cầm chỗ tiền nhử mồi của Dellray, chĩa

súng vào háng Dellray và bình thản bóp cò như thể đang nhặt một mớ

rau. Cạch, cạch, cạch. Đạn thối. Toby Dolittle và nhóm yểm trợ nhanh

chóng hạ tên khốn và đồng bọn trước khi hắn kịp hồi tỉnh, để lại cho

Dellray một sự choáng váng vì thực tế đầy mỉa mai là anh ta suýt bị giết

vì tên tội phạm thực sự tin vào màn kịch của viên điệp vụ – tin rằng anh

ta là tên buôn ma túy, không phải cớm.

“ETA110, còn bốn phút’, người lái xe nhắc.

110 ETA: Dự kiến thời gian đến nơi.

Vì lí do nào đó, ý nghĩ của Dellray quay về với Lincoln Rhyme. Anh ta

lấy làm tiếc đã xử tệ như vậy khi tiếp quản vụ này. Nhưng anh ta

không có nhiều lựa chọn. Sellitto là người gan lì còn Polling là đồ điên

– mặc dù Dellray có thể xử lý được họ. Rhyme là người làm cho anh

thấy khó xử nhất. Sắc như dao cạo (quỷ thật, chính là nhóm của anh ta

tìm thấy dấu tay của Pietrs, dù họ đã không khai thác nó đúng lúc).

Ngày xưa, trước tai nạn, ta đã không thể đánh bại được Lincoln

Rhyme nếu như anh ta không muốn bị đánh bại. Cũng chẳng thể nào

lừa được anh ta.

Lúc này thì Rhyme là một thứ đồ chơi hỏng. Thật buồn khi điều tệ hại

đó xảy ra cho anh ta, khi anh ta nên chết nhưng lại còn sống. Dellray

đã vào phòng của anh ta – phòng ngủ của anh ta – và đã chơi anh ta

một vố thật đau. Đau hơn mức cần thiết.

Có thể anh ta sẽ gọi. Anh ta có thể….

“Giờ diễn”,  người lái xe thông  báo và Dellray quên hết  mọi thứ  về

Lincoln

Rhyme.

Chiếc xe rẽ vào con phố nơi Pietrs sống. Hầu hết những con phố khác

mà họ đi qua đều đầy những người dân nhễ nhại mồ hôi cầm chai bia

hay điếu thuốc lá, cố gắng có được một, hai ngụm không khí mát mẻ.

Nhưng con phố này thì tăm tối và vắng vẻ.

Chiếc xe từ từ dừng lại. Khoảng hai tá đặc vụ trong bộ đồ chiến thuật

đen trèo ra khỏi xe, xách những khẩu H&K được gắn ống ngắm laser

và đèn chiếu sáng. Hai người vô gia cư nhìn họ; một người giấu nhanh

chai wisky mạch nha Colt 44 vào trong áo.

Dellray liếc nhìn cửa sổ trong tòa nhà của Pietrs; nó tỏa ra ánh sáng

vàng nhợt

nhạt.

Người lái xe lùi chiếc xe đầu tiên vào chỗ đỗ xe trong bóng tối và thì

thầm với

Dellray: “Perkins đấy.” Gõ vào tai nghe của anh ta. “Anh ta đang nói

chuyện với giám đốc. Họ muốn biết ai là người chỉ huy cuộc tấn công?”

“Là tôi”, con Kỳ nhông cáu kỉnh. Anh ta quay lại nhóm của mình. “Tôi

muốn giám sát toàn bộ con phố và các ngõ hẻm. Thiện xạ, ở đây, ở

đây và ở đây. Và tôi muốn mọi người sẵn sàng năm phút trước khi tấn

công. Tất cả rõ chưa?”

Xuống cẩu thang, tiếng gỗ kêu cót két.

Tay hắn ôm lấy cô, hắn dẫn người phụ nữ đang nửa tỉnh nửa mê vì cú

đánh vào đầu xuống tầng hầm. Tới chân cầu thang, hắn quăng cô

xuống nền nhà bụi bặm và nhìn cô chăm chăm.

Esther…

Mắt cô ngước lên nhìn hắn. Tuyệt vọng, van xin. Hắn không hề nhận

thấy. Những gì hắn thấy chỉ là cơ thể cô. Hắn bắt đầu cởi quần áo cô,

bộ quần áo chạy thể dục màu tía. Không thể tin được là bây giờ phụ

nữ lại có thể ra khỏi nhà với bộ quần áo như đồ lót. Hắn không nghĩ

Esther Weinbraub là một con điếm. Cô ta là một công nhân, may áo sơ

mi với giá một xu năm cái.

Kẻ Tầm Xương quan sát xương đòn của cô ta nhô ra nơi cổ họng.

Trong khi người đàn ông khác có thể nhìn ngực và núm vú tối màu của

cô ta, hắn ta nhìn chỗ lõm vào của chuôi ức và những chiếc xương

sườn tỏa ra từ đó như những cái chân nhện.

“Anh làm gì vậy?” Cô ta hỏi, vẫn còn lảo đảo vì cú đánh vào đầu.

Kẻ Tầm Xương nhìn cô ta thật kỹ, nhưng thứ mà hắn thấy không phải

là một người phụ nữ không còn trẻ, mắc bệnh chán ăn, mũi quá rộng,

môi quá dày với làn da như cát bẩn. Hắn nhìn thấy phía dưới những thứ

không hoàn thiện này chứa đựng vẻ đẹp hoàn hảo của cấu trúc cơ thể

cô ta.

Hắn săn sóc thái dương cô, nhẹ nhàng xoa vuốt nó. Đừng để nó bị nứt,

làm ơn

đi…

Cô ta ho làm cho hai lỗ mũi nở rộng – dưới này khói mù mịt, mặc dù

hắn gần như

không nhận thấy chúng.

“Đừng đánh tôi nữa”, cô ta thì thầm, đầu lắc lư. “Đừng đánh tôi. Làm

ơn”.

Hắn lấy dao trong túi ra, cúi xuống và cắt đồ lót của cô ta. Cô ta nhìn

thân thể lõa lồ của mình.

“Anh muốn à?” Cô ta nói gần đứt hơi. “Được, anh có thể chơi tôi.

Được.” Khoái lạc thân xác, hắn nghĩ… Không đúng rồi.

Hắn kéo cô ta đứng lên và cô ta giãy ra khỏi hắn như điên rồi tập tễnh

chạy ra cánh cửa nhỏ ở gần tầng hầm. Không phải chạy, không thực

sự cố tẩu thoát. Chỉ sụt sùi,

vươn tay ta vẫy về phía cửa.

Kẻ Tầm Xương, nhìn cô ta, bị mê hoặc bởi cái dáng đi chậm chạp,

đáng thương của cô ta.

Ô cửa, đã từng mở hướng ra một đường máng đổ than, giờ đây dẫn

đến một đường hầm chật hẹp nối với tầng hầm của một tòa nhà bị bỏ

hoang cạnh đó.

Esther cố đến được cánh cửa kim loại và kéo nó mở ra. Cô ta trèo

vào bên trong. Chưa đến một phút sau hắn ta nghe thấy tiếng la thét

rền rĩ. Nối tiếp là những

tiếng thét đứt hơi, giật giọng: “Trời ơi, không, không, không…” Còn

những tiếng la hét khác, chìm đắm trong tiếng gào kinh hoàng.

Rồi từ đường hầm cô ta chạy ra, đã nhanh hơn, phủi tay khắp người

như thể cô ta đang cố gắng giũ bỏ những thứ cô ta vừa nhìn thấy.

Đến với ta nào, Esther.

Loạng choạng trên nền nhà bụi bặm, nức nở.

Đến với ta.

Chạy thẳng tới bệnh nhân của hắn, những cánh tay chờ đợi, ôm chầm

lấy cô. Hắn siết chặt người đàn bà như thể họ là tình nhân, cảm thấy

chiếc xương đòn tuyệt diệu dưới ngón tay mình, và từ từ kéo người

đàn bà điên dại quay lại cửa đường hầm.

HAI MƯƠI

Tuần trăng, chiếc lá, thứ đồ lót quỷ quái, bụi. Cả nhóm đã quay lại

phòng ngủ của Rhyme, trừ Polling và Haumann; để đại úy chỉ huy tham

gia vào một chiến dịch rõ ràng là không hợp lệ, một thử thách quá lớn

đối với lòng trung thành của NYPD.

“Cậu đã G-C chất lỏng trên đồ lót rồi phải không, Mel?”

“Phải làm lại thôi. Chúng ta đã bị cắt ngang trước khi có kết quả.”

Anh ta thấm một mẫu chất lỏng và bơm nó vào máy sắc ký khí. Khi

chạy máy, Sachs giả vờ nhìn vào các đỉnh và đáy của đồ thị đang hiện

lên trên màn hình.Giống như chỉ số chứng khoán. Rhyme nhận ra cô

đang đứng gần anh, hình như cô lân la lại gần khi anh không nhìn. Cô

hạ giọng nói. “Tôi…”

“Vâng?”

“Tôi đã lỗ mãng hơn tôi nghĩ. Ý tôi là lúc trước. Tôi rất nóng tính. Tôi

không hiểu sao tôi lại như thế. Nhưng tôi đã làm vậy.”

“Cô nói đúng", Rhyme nói.

Họ dễ dàng chấp nhận ánh mắt của nhau và Rhyme nghĩ tới những lúc

anh cùng Blaine nói chuyện nghiêm chỉnh. Khi nói, họ luôn tập trung

vào một vật nằm giữa họ – một con ngựa sứ do cô sưu tầm, một cuốn

sách, một chai vang Merlot hay Chardonnay gần cạn.

Anh nói: “Tôi có cách khám nghiệm hiện trường không giống với các

nhà hình sự khác. Tôi cần một người không có định kiến. Nhưng tôi

cũng cần người biết tự suy nghĩ.”

Những phẩm chất đối nghịch mà người ta tìm thấy ở những cặp tình

nhân hoàn hảo. Mạnh mẽ và yếu đuối, cân bằng nhau.

Cô nói: “Khi tôi nói chuyện với Eckert, tôi chỉ muốn được chuyển công

việc. Đó là tất cả những gì tôi muốn. Không bao giờ tôi nghĩ rằng câu

chuyện có thể đến tai nhân viên của Cục và họ lại lấy mất vụ này.”

“Tôi biết.”

“Tôi vẫn để mình giận dữ. Tôi xin lỗi.”

“Đừng thụt lùi, Sachs. Tôi cần có ai đó nói với tôi rằng, tôi là đồ ngốc

khi tôi ra vẻ như vậy. Thom làm thế. Nên tôi thích cậu ta.”

“Đừng có lấy lòng tôi, Lincoln.” Thom nói với lại, từ phía phòng bên

kia.

“Chưa có ai nặng lời với tôi. Lúc nào họ cũng nâng như nâng trứng. Tôi

ghét bị như thế.”

“Có lẽ gần đây không mấy người đến nói chuyện với anh.” Một lúc

sau, anh nói: “Đúng thế.”

Trên màn hình máy sắc ký khí – phổ kế những đỉnh và đáy đã thôi

không chuyển động và trở thành một trong những chữ ký nhiều vô hạn

độ của thiên nhiên. Mel Cooper

gõ bàn phím và đọc kết quả. “Nước, dầu diesel, phosphate, sodium,

dấu vết của khoáng chất… không hiểu nó có ý nghĩa gì.”

Thông điệp gì nhỉ? Rhyme băn khoăn. Là chiếc quần lót? Là chất lỏng?

Anh nói: “Tiếp tục đi, tôi muốn xem chỗ bẩn.”

Sachs đem cái túi đến chỗ anh. Nó đựng ít cát màu hồng, có một ít đất

sét và đá

cuội.

“Gan  bò”,  anh tuyên  bố.  “Hỗn  hợp đá  và cát.  Ở  ngay  bên trên 

nền đã của

Manhattan. Có lẫn sodium silicate không?”

Cooper chạy máy sắc ký khí. “Có. Nhiều lắm.”

“Thế thì ta phải tìm một nơi ở trung tâm, cách mép nước khoảng mười

lăm thước…” Rhyme cười to khi thấy cái nhìn ngạc nhiên của Sachs.

“Chẳng có phép lạ gì đâu. Tôi chỉ làm bài tập ở nhà thôi. Các nhà thầu

thường trộn sodium silicate với gan bò để gia cố nền đất trước khi đào

móng ở những khu vực nền đá sâu gần nước. Điều đó có nghĩa là nó

phải ở trung tâm. Còn giờ hãy xem cái lá”.

Cô giơ cái túi lên.

“Chẳng hiểu nó là cái gì”, Rhyme nói. “Tôi cho là mình chưa bao giờ

nhìn thấy cái lá nào như vậy. Không phải ở Manhattan.”

“Tôi có một danh mục các trang web về nghề làm vườn”, Cooper nói,

vẫn nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. “Tôi phải lướt web một tí.”

Rhyme đôi lúc cũng lên mạng, lang thang Internet. Cũng như với sách

vở, phim ảnh và áp phích, mối quan tâm của anh với Internet cuối cùng

cũng tiêu tan. Có thể vì thế giới của chính anh đã quá ảo, mà mạng thì

cũng vậy, rốt cuộc lại trở thành một nơi đau khổ đối với Rhyme.

Màn hình của Cooper nhấp nháy, nhảy múa khi anh ta bấm những

đường siêu liên kết và thâm nhập vào trang web. “Tôi đang tải mấy file

về. Có lẽ mất khoảng mười đến hai mươi phút.”

Rhyme nói: “Được rồi. Những manh mối còn lại mà Sachs tìm thấy…

Những manh mối không phải được để lại. Những thứ khác. Chúng có

thể nói cho ta biết hắn đã ở đâu. Hãy xem thử vũ khí bí mật của chúng

ta, Mel.”

“Vũ khí bí mật?” Sachs hỏi. “Chứng cứ dấu vết.”

Đặc vụ Fred Dellray tổ chức đợt xâm nhập mười người. Hai đội cộng

thêm nhóm S&S. Mấy đặc vụ mặc áo chống đạn đứng trong bụi cây

đổ mồ hôi như tắm. Bên kia phố, trên tầng gác một tòa nhà bỏ hoang

bằng đá nâu, nhóm S&S có máy nghe trộm và máy quay hồng ngoại

chiếu vào nhà nghi phạm.

Ba thiện xạ nằm trên mái nhà cùng những khẩu Remingtons vĩ đại, lên

đạn và sẵn sàng. Một người quan sát cầm ống nhòm quỳ cạnh họ như

những bà mụ.

Dellray – mặc áo gió FBI và quần bò thay vì bộ vét màu xanh lá

Leprechaun –

đang lắng nghe qua tai nghe.

“Giám sát báo cáo chỉ huy. Chúng tôi đã có kết quả hồng ngoại trong

tầng hầm. Dưới đó có người đang đi lại.”

“Cảnh tượng thế nào?” Dellray hỏi. “Không nhìn thấy gì. Cửa sổ bẩn

quá,”

“Một mình hắn? Có nạn nhân ở đó không?” Có thể sĩ quan Sachs nói

đúng; lúc này chắc hắn đã tóm được ai đó rồi.

“Không biết. Chúng tôi chỉ thu được chuyển động và nhiệt.”

Dellray cử một sĩ quan khác chạy qua bên cạnh ngôi nhà. Họ báo cáo:

“Không có bóng dáng ai ở tầng một và tầng hầm. Ga ra bị khóa.”

“Thiện xạ?” Dellray hỏi. “Báo cáo.”

“Xạ thủ một báo cáo chỉ huy. Tôi đã chiếm được cửa trước. Hết.”

Những ngưới khác đã vào hành lang và một phòng ở tầng một. “Sẵn

sàng.” Dellray rút khẩu tự động ra.

“Được rồi, ta có giấy tờ”, Dellray nói. Có nghĩa là giấy phép. Họ

không cần phải gõ cửa. “Đi nào! Nhóm một, nhóm hai dàn trận, dàn

trận, dàn trận.”

Nhóm đầu tiên phá cửa trước bằng một thanh gỗ trong khi nhóm thứ

hai có cách thức văn minh hơn là phá cửa sổ sau nhà rồi mở chốt. Họ

tràn vào, Dellray đi theo sĩ quan cuối cùng trong nhóm một vào căn nhà

cũ kỹ, bẩn thỉu. Mùi thịt thối thật kinh khủng, và Dellray, mặc dù đã

quá quen với những hiện trường vụ án cũng phải nuốt khan, cố gắng

không nôn thốc nôn tháo.

Nhóm thứ hai chiếm được tầng trệt, sau đó xông lên cầu thang tới

phòng ngủ, trong khi nhóm thứ nhất chạy xuống tầng hầm, tiếng giày

nện ầm ầm trên cầu thang gỗ.

Dellray chạy xuống tầng hầm bốc mùi ghê sợ. Anh ta nghe thấy tiếng

cửa bị phá đâu đó phía dưới và nghe tiếng thét: “Không động đậy! Đặc

vụ liên bang đây. Đứng im. Đứng im. Đứng im!”

Nhưng khi đến cửa tầng hầm, anh ta nghe thấy vẫn tiếng đặc vụ đó cáu

kỉnh quát nhưng với giọng hoàn toàn khác. “Quái quỷ gì thế này? Ôi,

lạy Chúa.”

“Mẹ kiếp”, một đặc vụ khác nói. “Kinh quá!”

“Thối như cứt”, Dellray la lên, bị nghẹt thở khi bước vào trong. Cố

gắng nuốt khan vì mùi quá kinh khủng.

Một xác người nằm trên sàn, chảy ra một thứ nước đen. Cổ họng bị

cứa đứt. Anh ta đã chết, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà nhưng thân

hình anh ta trông có vẻ động đậy

– phồng lên, dịch chuyển. Dellray sởn gai ốc, anh ta chưa bao giờ miễn

dịch được với cảnh tượng nhung nhúc những côn trùng. Số lượng giòi

bọ cho thấy nạn nhân chết ít nhất

đã được ba ngày.

“Vì sao hồng ngoại lại dương tính?” Một đặc vụ hỏi.

Dellray chỉ một con chuột cùng những vết răng chuột và cạnh mạng

sườn sưng vù của nạn nhân. “Chúng chắc chỉ loanh quanh đâu đây. Ta

làm gián đoạn bữa trưa của chúng.”

“Chuyện gì xảy ra vậy? Một nạn nhân đã hạ được hắn?” “Anh nói gì

thế?” Dellry cáu kỉnh.

“Không, phải hắn đấy ư?”

“Không, đó không phải là hắn ta”, Dellray nổi giận, mắt nhìn vết

thương trên thân thể nạn nhân.

Một người trong nhóm nói với vẻ nghiêm trọng.: “Này Dellray. Đúng là

hắn đấy. Ta có ảnh hắn. Chính hắn là Pietrs.”

“Tất nhiên đấy là thằng Pietrs chết tiệt. Nhưng hắn không phải đối

tượng của chúng ta. Không hiểu à?”

“Không, ý cậu là gì?”

Mọi thứ trở nên rõ ràng với anh ta. “Thằng khốn.”

Điện thoại của Dellray rung làm anh ta nhảy lên. Anh ta mở nó ra, nghe

khoảng một phút. “Cô ta làm cái gì? Cứ như là tôi cần lắm… Chưa,

vẫn chưa tóm được thằng khốn đó.”

Anh ta nhấn phím tắt, chỉ ngón tay giận dữ vào hai đặc vụ SWAT.

“Các cậu đi với

tôi.”

“Có gì thế, Dellray?”

“Chúng ta sẽ có một chuyến viếng thăm. Khi đến đó chúng ta sẽ như

thế nào?”

Hai đặc vụ nhìn nhau, cau mày. Nhưng Dellray đã có câu trả lời:

“Chúng ta sẽ không tử tế chút nào cả.”

Mel Cooper đổ những thứ bên trong phong bì lên một tờ báo. Dùng

kính lúp kiểm tra đám bụi. “Được rồi, có bụi gạch. Và một ít đá kiểu

khác. Tôi nghĩ là đá cẩm thạch.”

Anh ta để một mẩu lên thanh trượt và xem xét nó dưới kính hiển vi.

“Đúng rồi, đá cẩm thạch. Màu hồng.”

“Trong đường hầm ở bãi chăn, chỗ cô tìm thấy cô gái người Đức ấy,

có tí đá cẩm thạch nào không?”

“Không”, Sachs trả lời.

Cooper gợi ý có thể chúng từ nơi ở của Monelle, chỗ cô ta bị Đối

tượng 823 bắt. “Không, tôi biết khu Deutsche Haus. Đó chỉ là mấy tòa

nhà East Village được

chuyển đổi. Loại đá tốt nhất ở đó chỉ là đá hoa được đánh bóng. Có

thể, chỉ có thể thôi,

đây là một mẩu từ hang ổ của hắn. Nó có gì đặc biệt không?”

“Dấu đục.” Copper nói, vẫn đang cúi mình trên kính hiển vi, “Thế à,

tốt. Có rõ không?”

“Không rõ lắm. Không đều.”

“Như vậy là máy cắt đá hơi nước cũ.” “Ừ, tôi đoán thế.”

“Viết đi, Thom.” Rhyme chỉ thị, hất đầu về phía tấm áp phích. “Trong

nhà hắn có đá cẩm thạch. Cẩm thạch cũ.”

“Nhưng tại sao ta lại phải quan tâm đến nơi ẩn nấp an toàn của hắn

nhỉ?” Banks vừa hỏi vừa nhìn đồng hồ. “Đặc vụ liên bang sẽ đến đây

bất kỳ lúc nào.”

“Thông tin không bao giờ đủ, đúng không, Banks. Nhớ lấy điều đó. Ta

còn gì nữa

nào?”

“Một mẩu găng tay nữa. Da màu đỏ. Cái gì thế này?” Anh hỏi Sachs,

cô đang giơ

cái túi nhựa đựng mẩu gỗ lên.

“Mẫu nước hoa dùng sau khi cạo râu. Chỗ hắn chạm vào cột.” “Tôi có

phải đọc lại bài cũ không?” Cooper băn khoăn.

“Để tôi ngửi thử đã”, Rhyme nói.

Sachs đưa cái túi lại chỗ anh. Trong đó là một mẩu gỗ nhỏ hình tròn.

Cô mở túi và anh ngửi không khí bên trong.

“Tuyệt. Sao mình có thể bỏ qua được nhỉ? Thom, viết thêm là anh bạn

của chúng ta dùng nước hoa bán trong cửa hàng.

Cooper tuyên bố: “Ta có thêm một sợi lông nữa.” Kỹ thuật viên gắn nó

lên kính hiển vi so sánh. “Rất giống với thứ ta tìm thấy trước đây. Có

thể từ cùng một nguồn. Lincoln, cái này cho anh đấy. Tôi có thể nói nó

giống nhau. Màu nâu.”

“Đoạn cuối bị cắt hay gãy tự nhiên?” “Bị cắt.”

“Tốt rồi. Ta có kết luận về màu tóc”, Rhyme nói.

Thom viết màu nâu đúng lúc Sellitto nói: “Đừng viết vội.” “Sao thế?”

“Rõ ràng đây không phải màu nâu”, Rhyme tiếp. “Tôi nghĩ…”

“Thứ gì đó nhưng không thể là màu nâu. Màu vàng, màu cát, đen,

đỏ…”

Viên thám tử giải thích: “Trò rất cũ. Cậu đến một ngõ phố, lấy mấy sợi

tóc trong cửa hiệu cắt tóc. Vứt chúng quanh hiện trường.”

“Ồ”, Banks cất điều này vào đâu đó trong bộ óc đầy nhiệt huyết của

anh ta. Rhyme nói: “Được rồi. Đám sợi.”

Cooper đưa nó vào kính hiển vi phân cực. Anh ta nói trong khi điều

chỉnh các nút vặn: “Khúc xạ đúp .053.”

Rhyme thốt lên: “Nylon 6. Trông nó thế nào, Mel?”

“Rất thưa. Mặt cắt dạng thùy. Xám nhạt.” “Thảm.”

“Được rồi. Tôi sẽ kiểm tra cơ sở dữ liệu.” Một lúc sau anh ta ngẩng

đầu lên. “Sợi

Hampstead Textile 118B.”

Rhyme thở dài, vẻ chán nản. “Sao thế?” Sachs hỏi.

“Vải bọc cốp xe thông dụng nhất nước Mỹ. Có ở hơn một trăm loại xe

trong suốt năm mươi năm. Vô vọng… Mel, có gì trong cái sợi ấy

không? Dùng SEM111 nhé.”

Kỹ thuật viên bật kính hiển vi điện tử quét. Màn hình bật lên ánh sáng

xanh dương

– xanh lá ma quái. Mẩu sợi trông như một sợi dây khổng lồ.

“Có gì đây này. Tinh thể. Rất nhiều. Họ dùng titanium dioxide để làm

cho thảm mất độ bóng. Có thể là nó đấy.”

“Đốt nó lên. Quan trọng đấy.”

“Không đủ, Lincoln. Tôi sẽ phải đốt tất cả sợi.” “Thế thì đốt đi.”

Sellitto tế nhị nói: “Mượn chứng cứ liên bang là một chuyện. Còn phá

hủy nó? Tôi không biết, Lincoln. Nếu như có xử án…”

“Ta phải làm.’

“Trời ơi”, Banks nói.

Sellitto miễn cưỡng gật đầu và Cooper gắn mẫu vào máy. Chiếc máy

rít lên. Một lúc sau màn hình nhấp nháy, các đồ thị cột hiện ra. “Đây

này, đây là phân tử polyme chuỗi dài. Nylon. Nhưng đường sóng nhỏ

này là thứ khác. Chlorine, chất tẩy… Đó là chất giặt tẩy.”

“Nhớ rằng cô gái Đức nói chiếc xe có mùi sạch sẽ. Hãy tìm xem đó là

loại gì.” Rhyme nói.

Cooper nhập thông tin vào cơ sở dữ liệu tên thương hiệu. “Sản phẩm

của Pfizer Chemicals. Nó được Baer Automotive Products bán với

thương hiệu Tidi-Kleen ở Teterboro.”

“Tuyệt hảo!” Lincoln Rhyme la lên. “Tôi biết công ty này. Họ bán sỉ

cho các đội xe. Phần lớn là các công ty cho thuê xe. Đối tượng của ta

dùng xe thuê.”

“Hắn không đủ điên để lái một chiếc thuê đến hiện trường gây án, đúng

không?” Banks hỏi.

“Xe đánh cắp”, Rhyme lẩm bẩm, như thể người thanh niên hỏi anh hai

cộng hai bằng mấy. “Và nó sẽ có biển xe ăn cắp. Emma vẫn làm với

chúng ta chứ?”

“Giờ này chắc cô ta về nhà rồi.”

111 SEM: Xem phần phụ lục.

“Gọi cô ta dậy, bảo cô ta tìm kiếm kẻ đánh cắp của Hertz, Avis,

National và

Budget.”

“Sẽ làm”, Sellitto nói, dù không thoải mái lắm, có thể vì anh ta ngửi

thấy mùi vật chứng liên bang bị hỏa thiêu đang phảng phất trong không

khí.

“Dấu chân?” Sachs hỏi.

Rhyme nhìn bức hình tĩnh điện do cô đem về.

“Giày bị mòn kiểu khác thường. Hãy xem phần đế giày dưới ngón chân

cái bị vẹt đi này?”

“Ngón quặp?” Thom nói thành tiếng.

“Có thể, nhưng lại không thấy phần mòn tương ứng của gót chân.”

Rhyme nghiên cứu vết chân. “Tôi nghĩ có thể hắn ta là người đọc

sách.”

“Một người đọc sách?’

“Cô ngồi xuống ghế ở kia”, Rhyme nói với Sachs. “Cúi xuống bàn, vờ

như đang đọc sách.”

Cô ngồi xuống, rồi ngẩng lên hỏi: “Và?” “Giả vờ lật trang đi.”

Cô làm theo, một vài lần. Lại ngẩng lên.

“Tiếp tục đi. Cô đang đọc Chiến tranh và hòa bình.”

Tiếp tục lật trang, đầu cô hơi cúi. Sau một lúc, không nghĩ ngợi, cô bắt

tréo chân. Phần tiếp xúc duy nhất với mặt đất là cạnh ngoài của chiếc

giày.

Rhyme chỉ ra điều này. “Đưa nó vào hồ sơ đi Thom. Nhưng đánh dấu

hỏi.” “Giờ hãy xem đường vân.”

Sachs nói cô không lấy được được dấu tay tốt, dấu tay họ có thể dùng

nhận dạng đối tượng. “Nó vẫn trong tòa nhà kiểu liên bang.”

Nhưng  Rhyme  không  quan  tâm  đến  dấu  tay  đó.  Mà  là  dấu  tay 

khác,  dấu

Kromekote mà Sachs lấy được trên da cô gái người Đức. Anh muốn

xem nó.

Không quét được”, Cooper tuyên bố. “Thậm chí không được loại C.

Tôi sẽ không phát biểu gì nếu như tôi phải có ý kiến.”

Rhyme nói: “Tôi không quan tâm đến nhận dạng. Tôi quan tâm đến

đường này.” Đó là một đường hình trăng lưỡi liềm nằm ngay giữa ngón

tay.

“Cái gì thế?” Sachs hỏi.

“Tôi nghĩ là vết sẹo”, Cooper nói. “Từ một vết cắt cũ. Rất sâu. Có vẻ

sâu đến tận xương.”

Rhyme nhớ lại những dấu vết và dị dạng trên da mà anh đã nhìn thấy

trong nhiều năm qua. Thời gian trước, khi công việc còn chưa phải chủ

yếu là sắp xếp giấy tờ và gõ bàn phím, thì có thể đoán được một người

làm nghề gì chỉ nhờ nhìn tay anh ta: những ngón tay biến dạng vì đánh

máy, những vết đâm của máy khâu và kim khâu da, vết mực

và dấu quản bút trên tay người ghi tốc ký và kế toán viên, những mẩu

giấy từ xưởng in, những vết sẹo của người cắt khuôn, những vết chai

khác biệt từ các loại hình lao động chân tay khác nhau….

Nhưng vết sẹo kiểu này chẳng nói với họ điều gì.

Ít nhất là chưa phải lúc này. Chưa phải tới lúc họ có được bàn tay của

nghi phạm để kiểm tra.

“Còn gì nữa? Dấu đầu gối. Tốt. Cho ta biết hắn mặc gì. Giơ nó lên đi,

Sachs. Cao lên. Quần thụng. Có vết ly rất sâu, vì thế đó là sợi tự nhiên.

Với thời tiết thế này thì tôi nghĩ rằng đó là vải bông. Không phải len.

Ngày nay người ta không mặc quần thụng lụa nhiều nữa.”

“Nhẹ, không phải vải bông chéo”, Cooper nói.

“Bộ đồ thể thao”, Rhyme kết luận. “Thêm điều đó vào hồ sơ của ta đi,

Thom.” Cooper quay lại màn hình máy tính và nhập thêm dữ liệu.

“Không may mắn lắm

với cái lá. Không trùng hợp với bất cứ thứ gì ở Smithsonian112.”

Rhyme ngả đầu xuống gối? Họ còn được bao nhiêu thời gian? Một

giờ? Hai giờ? Mặt trăng. Bụi bẩn. Nước biển…

Anh liếc nhìn Sachs đang đứng một mình ở góc nhà. Cô cúi đầu, mái

tóc đỏ dài xuôi xuống nền nhà. Cô đang nhìn một cái túi chứng cứ, vẻ

mặt nghiêm nghị, hoàn toàn tập trung. Không biết bao nhiêu lần Rhyme

đã đứng trong tư thế ấy, gắng sức để…

“Tờ báo!” Cô la lớn, ngẩng nhìn. “Cái mẩu giấy báo đâu rồi?” Ánh mắt

cô đầy phấn khích khi tìm kiếm trên những mặt bàn. “Báo hôm nay?”

“Gì thế, Sachs?” Rhyme hỏi.

Cô giật tờ Thời báo New York từ Jerry Banks và nhanh chóng lướt

qua.

“Thứ chất  lỏng… từ đồ lót”, cô nói với Rhyme. “Có thể là nước biển

được không?”

“Nước muối?” Cooper cúi nhìn đồ thị GC-MS. “Tất nhiên rồi! Nước,

natrium và những khoáng chất khác. Dầu và phosphate. Đó là nước

biển bị ô nhiễm.”

Mắt cô gặp mắt Rhyme và họ đồng thanh nói: “Thủy triều!”

Cô giương tờ báo, đã được lật đến bản đồ thời tiết. Nó có sơ đồ tuần

trăng giống với sơ đồ được tìm thấy tại hiện trường. Phía dưới là sơ đồ

thủy triều. “Còn bốn mươi phút nữa thủy triều lên.’

Mặt Rhyme nhăn nhó vì khó chịu. Anh chưa bao giờ giận chính mình

đến thế. “Hắn sẽ dìm chết nạn nhân. Họ đang ở dưới một cầu cảng ở

trung tâm.” Anh nhìn vô vọng vào bản đồ Manhattan với bờ biển dài

nhiều dặm. “Sachs, đến lúc đua xe rồi. Cô và Banks đo theo hướng

tây. Lon, sao anh không đi về hướng đông? Vòng quanh cảng South

Street. Còn Mel, nghĩ xem cái lá là cái quái quỷ gì thế!”

112 Smithsonian:  Cơ sở đào tạo quốc gia của Mỹ, với nhiều viện

nghiên cứu và bảo tàng.

Một con sóng thình lình vỗ vào đầu ông đang gục xuống ngực.

William Everett mở mắt và phì mạnh chỗ nước lạnh ngắt từ mũi ra. Nó

lạnh như đá và ông cảm thấy trái tim đau yếu của mình đập thình thịch

khi nó gắng sức bơm luồng máy ấm trong cơ thể ông.

Ông suýt ngất đi lần nữa, như lúc tên khốn đó bẻ ngón tay của ông.

Rồi ông tỉnh lại, nghĩ đến người vợ quá cố của mình – và các lý do cho

những lần họ đi du lịch cùng nhau. Họ đến Giza. Và đến Guatemala.

Nepal. Teheran (một tuần trước khi đại sứ quán bị chiếm).

Chiếc máy bay của hãng hàng không Đông Nam Trung Quốc hỏng

một trong hai động cơ, sau một giờ cất cánh từ Bắc Kinh, Evelyn cúi

đầu, trong tư thế khẩn cấp, chờ chết nhưng mắt vẫn đọc một bài báo

trong tờ tạp chí trên máy bay. Bài báo cảnh báo không nên uống chè

nóng ngay sau bữa ăn. Sau đó, khi ngồi trong quán rượu Raffles ở

Singapore, bà đã kể lại cho ông nghe chuyện này. Họ đã cười như

điên, cười đến chảy cả nước mắt.

Ông nghĩ tới ánh mắt lạnh lùng của tên bắt cóc. Răng, đôi găng tay thô

thiển của

hắn.

Bây giờ, trong cái nhà mồ ướt át ghê rợn này, một cơn đau không chịu

nổi trườn

theo tay ông lên tới cằm.

Do ngón tay gãy hay cơn suy tim? Ông băn khoăn. Có thể là mỗi thứ

một chút.

Everett nhắm mắt cho tới khi cơn đau dịu đi. Ông nhìn xung quanh. Cái

cống nơi ông bị còng nằm dưới một cầu cảng hôi thối. Một vành gỗ thò

từ bờ rìa cầu cảng xuống mặt nước, lúc này còn cách nó khoảng sáu

inch. Ánh sáng từ những con thuyền trên sông và những nhà máy của

Jersey phản chiếu trên rạch nước hẹp. Nước đã ngập tới cổ ông và

mặc dù nóc cầu cảng còn ở cách đầu ông mấy feet, nhưng cái còng tay

giữ chặt ông tại chỗ.

Cơn đau tràn qua ngón tay ông, đầu Everett giãy giụa trong cơn hấp

hối, rơi xuống nước khi ông ngất đi. Nước đầy mũi và cơn ho khốn

khổ khiến ông tỉnh lại.

Mặt trăng kéo nước dâng cao thêm. Với một tiếng oạp ẩm ướt, cái

cống bị tách khỏi dòng sông bên ngoài. Căn phòng tối om. Ông nghe

thấy tiếng gầm gừ của những con sóng và tiếng rên rỉ đau đớn của

chính mình.

Ông biết mình đã chết, biết mình chẳng thể giữ đầu cao hơn mặt nước

nhầy nhụa được quá vài phút nữa. Ông nhắm mắt, úp mặt vào cây cột

đen đúa, trơn tuột.

HAI MƯƠI MỐT

“Tiến thẳng vào trung tâm, Sachs”, giọng Rhyme vang lên trong máy bộ

đàm.

Cô nhấn ga chiếc RRV, đèn đỏ nhấp nhoáng khi họ lao vào thành phố

theo Xa lộ

West Side. Lạnh như băng, cô tăng tốc lên tám mươi113.

“Được, tuyệt”, Jerry Banks nói.

Đếm ngược. Phố Hai mươi ba, Hai mươi, một cú ngoặt cháy đường

gần bến phà chở rác trên Phố Mười bốn. Khi họ lao qua Village, quận

bán thịt, một chiếc xe lao từ phố bên cạnh ra chèn đường cô. Thay vì

đạp phanh, cô đánh mạnh tay lái vọt qua vỉa hè trung tâm như kỵ sĩ

vượt rào, kéo theo câu chửi thề phều phào của Banks và một tiếng còi

hơi rền vang của chiếc xe tải trắng vừa kịp hoành tráng quay ngoắt lại.

“Ối chà”, Amelia Sachs thốt lên và quay lại làn đường đi về phía nam.

Cô nói với

Rhyme: “Anh nói lại đi. Tôi bỏ mất đoạn này.”

Giọng nói yếu ớt của Rhyme vang lên trong tai nghe của cô: “Vào trung

tâm là tất cả những gì tôi có thể nói với cô. Cho tới khi chúng tôi tìm ra

ý nghĩa của chiếc lá.”

“Chúng tôi đang đến Battery Park City”.

“Còn hai mươi nhăm phút nữa thuỷ triều sẽ lên”, Banks nhắc nhở.

Có thể đội của Dellray sẽ xác định được vị trí chính xác của hắn ta. Họ

có thể lôi Ngài 823 vào một con hẻm nào đó với một túi táo. Nick có

nói với cô về cách họ thuyết phục bọn tội phạm “hợp tác”. Lấy một túi

hoa quả đập vào bụng chúng. Rất đau. Mà không để lại dấu vết. Khi

đang ở tuổi trưởng thành, cô không thể nghĩ được rằng cảnh sát có thể

làm như vậy. Nhưng giờ thì cô đã thấy được sự khác biệt.

Banks đập vai cô. “Kia. Có mấy cái cầu cảng cũ” Gỗ thối, bẩn thỉu.

Những nơi chốn rùng rợn.

Họ phanh kít, nhảy ra khỏi xe, chạy tới mép nước. “Anh có đấy không,

Rhyme?”

“Nói với tôi nào, Sachs. Cô ở đâu?”

“Một cái cầu cảng phía bắc Battery Park City.”

“Tôi vừa được Lon báo cáo về từ phía đông. Anh ta không tìm thấy

gì.”

“Vô vọng lắm”, cô nói. “Có khoảng một tá cầu cảng. Cả một đoạn

đường đi bộ nữa... Còn cảng tàu cứu hoả, bến phà và cầu cảng ở

Battery Park... Ta cần đến ESU.”

“Ta không có ESU mà, Sachs. Họ không còn ỏ phe ta nữa rồi.” Hai

mươi phút nữa là thuỷ triều lên.

Mắt cô đảo quanh mép nước. Vai cô trĩu nặng vì bất lực. Tay cầm

súng, cô lao về phía con sông. Jerry Banks chạy ngay theo sau.

113 Tốc độ tám mươi: Hơn một trăm năm mươi km một giờ.

“Cho tôi thứ gì đó về cái lá đi, Mel. Phỏng đoán, gì cũng được. Bịa ra

đi.” Bồn chồn lo lắng, Cooper nhìn từ kính hiển vi lên màn hình máy

tính.

Tám nghìn loại lá cây ở Manhattan.

“Nó không có cấu trúc tế bào giống với bất kỳ thứ gì cả.” “Nó già rồi”,

Rhyme nói. “Bao nhiêu tuổi?”

Cooper lại nhìn vào cái lá. “Đã biến thành xác ướp. Tôi có thể đoán

khoảng một trăm năm, hoặc ít hơn thế một chút.”

“Những thứ gì có thể tuyệt chủng trong một trăm năm qua?”

“Cây cối không bị tuyệt chủng trong một hệ sinh thái như Manhattan.

Chúng luôn tái sinh.”

Một tiếng binh vang lên trong đầu Rhyme. Anh gần nhớ ra điều gì đó.

Anh vừa thích vừa ghét cảm giác này. Anh có thể tóm lấy ý nghĩ như

tóm một con ruồi bay chậm. Hoặc nó có thể biến mất hoàn toàn, làm

anh cụt hứng.

Mười sáu phút nữa là thuỷ triều lên.

Ý nghĩ đó là gì nhỉ? Anh nhắm mắt, cố nắm bắt lấy nó... Cái gì thế nhỉ?

Nghĩ đi!

Cầu cảng... những con tàu... bốc dỡ... hàng hoá. Bốc dỡ hàng hoá.

Mắt anh bật mở. “Mel, đấy có phải cây trồng không?”

“Ôi, quỷ thật. Tôi đi tìm những trang về cây hoang dại, không phải loại

cây trồng.” Anh ta gõ máy tính quá lâu.

“Thế nào?”

“Chờ đã, chờ đã. Đây là danh sách mã nhị phân đã được mã hoá.”

Anh ta quét nó. “Linh lăng, lúa mạch, củ cải đường, yến mạch, thuốc

lá...”

“Thuốc lá! Thử nó xem.”

Cooper bấm chuột và hình ảnh chậm chạp hiện ra trên màn hình.

“Đúng nó!”

“Tháp trung tâm Thương mại Thế giới.” Rhyme tuyên bố. “Mảnh đất

phía bắc đã từng được dùng để trồng thuốc lá. Thom, phần nghiên cứu

cho cuốn sách của tôi – tôi

muốn tấm bản đồ từ những năm 1740. Và cả tấm bản đồ mới mà Bo

Haumann đã dùng

để tìm những nơi đang dọn dẹp asbestos. Đặt chúng lên bàn, cạnh

nhau.”

Người trợ lý tìm thấy tấm bản đồ cũ trong tập hồ sơ của Rhyme. Anh

ta dán chúng lên bức tường gần giường. Được vẽ một cách thô thiển,

tấm bản đồ cũ đã cho thấy phần phía bắc của thành phố – một cụm

phía dưới hòn đảo – là các trang trại. Có ba cầu tàu thương mại trên

sông, khi đó còn chưa được gọi là Hudson mà là sông Tây. Rhyme

nhìn vào bản đồ thành phố hiện tại. Tất nhiên là khu đất nông nghiệp đã

biến mất, các cầu tàu

cũng vậy, nhưng bản đồ hiện tại cho thấy một cái cầu tàu bị bỏ hoang ở

đúng vị trí một cầu cảng cũ của nhà xuất khẩu thuốc lá.

Rhyme cố gắng vươn người tới trước để đọc tên phố gần đó. Anh đã

định quát Thom đưa bản đồ lại gần hơn thì từ phía cầu thang, anh nghe

thấy một tiếng la lớn đấy giận dữ dưới nhà và cánh cửa bật tung vào

bên trong. Kính vỡ tan.

Thom xuống cầu thang.

“Tôi muốn gặp anh ta.” Có giọng nói nhát gừng tràn ngập hành lang.

“Chỉ là...” Người trợ lý bắt đầu.

“Không. Không phải chờ một phút. Không phải chờ một giờ. Mà là

ngay. Mẹ kiếp. Bây giờ.”

“Mel”, Rhyme thì thầm, “giấu chứng cứ ngay, tắt máy.” “Nhưng...”

“Làm đi!”

Rhyme lắc đầu thật mạnh, giằng rời cái míc trên tai nghe. Nó rơi xuống

cạnh chiếc giường Clinitron. Tiếng bước chân nện ầm ầm trên cầu

thang.

Thom là tất cả những gì có thể để câu giờ nhưng những người khách là

ba nhân viên FBI, hai người trong số họ cầm súng. Họ từ từ đẩy anh ta

giật lùi để lên cầu thang.

Chúa phù hộ cho anh ta, chỉ trong năm giây, Cooper đã tháo tung cái

kính hiển vi điện tử và đang bình thản tháo dỡ linh kiện với một sự quan

tâm quá mức khi FBI lên hết cầu thang và lao vào phòng Rhyme.

Những cái túi đựng vật chứng đã được nhét xuống gầm bàn và phủ lên

bằng tạp chí Địa lý Quốc gia.

“À, Dellray”, Rhyme hỏi, “Tìm được đối tượng rồi chứ?” “Sao anh

không nói với chúng tôi?”

“Nói với các anh cái gì?”

“Rằng dấu tay ấy là đồ giả.” “Có ai hỏi tôi đâu?”

“Đồ giả?” Cooper ngạc nhiên hỏi.

“Thực ra thì đó là dấu tay thật”. Rhyme nói như thể đó là điều rõ ràng.

“Nhưng không phải của đối tượng. Anh chàng của chúng ta cần một

chiếc taxi để đi câu. Và thế là hắn ta gặp – tên hắn ta là gì nhỉ?”

“Victor Pietrs”, Dellay lẩm bẩm và kể lại câu chuyện về người lái taxi.

“Rất hay”, Rhyme nói với một chút ngưỡng mộ thực sự.

“Nhặt một anh chàng Serbia có tiền án và vấn đề về tâm thần. Tôi

không hiểu hắn phải mất bao lâu để tìm ứng viên này. Tuy nhiên, 823

giết ngài Pietrs tội nghiệp và ăn trộm taxi của anh ta. Cắt một ngón tay.

Hắn giữ nó và nghĩ nếu chúng ta tới quá gần, hắn sẽ để lại hiện trường

một dấu tay rõ đẹp để lừa chúng ta. Tôi đoán việc này đã phát huy tác

dụng.”

Rhyme liếc nhìn đồng hồ. Còn mười bốn phút.

“Sao anh biết?” Dellray nhìn những tấm bản đồ trên nhà Rhyme, nhưng

ơn Chúa, anh ta không quan tâm đến chúng.

“Dấu tay đã khô và nhăn nheo. Tôi đoán thi thể cũng tệ hại. Anh tìm

thấy nó trong tầng hầm phải không? Tôi đoán đúng chứ? Nơi anh

chàng của chúng ta thích giấu nạn nhân.”

Dellray lờ anh đi và đánh hơi quanh phòng y như một con chó săn

khổng lồ. “Anh giấu chứng cứ của chúng tôi ở đâu?”

“Chứng cứ? Tôi không biết anh nói gì. Nói đi, anh có phá cửa nhà tôi

không? Lần trước anh vào mà không gõ cửa. Lần này thì anh phá

cửa.”

“Này Lincoln, tôi đã có ý định xin lỗi anh rồi đấy...” “Anh thật rộng

lượng, Fred.”

“Nhưng giờ thì tôi sắp tóm cổ anh.”

Rhyme nhìn chiếc tai nghe có ống nói đang lủng lẳng trên nền nhà. Anh

hình dung giọng Sachs thỏ thẻ trên tai nghe.

“Trả chứng cứ cho tôi, Rhyme. Anh không biết là anh đang gặp rắc rối

thế nào

đâu.”

“Thom”, Rhyme chậm rãi nói, “đặc vụ Dellray làm tôi giật mình đánh

rơi cái tai

nghe máy Walkman. Cậu giúp tôi treo nó vào thành giường, được

chứ?”.

Người trợ lý đoán ý rất nhanh. Anh ta để chiếc mic cạnh đầu Rhyme,

khỏi tầm mắt

Dellray.

“Cảm ơn”, Rhyme nói với Thom. Rồi nói thêm. “Cậu biết đấy tôi vẫn

chưa được tắm. Tôi nghĩ đến lúc rồi, cậu thấy thế nào?”

“Tôi đang băn khoăn không biết lúc nào thì anh yêu cầu”. Thom nói,

như một diễn viên bẩm sinh.

“Rhyme, nói đi. Lạy Chúa, anh đang ở đâu?”

Thế rồi cô nghe thấy một giọng nói trong tai nghe. Giọng của Thom.

Rỗng tuếch, khoa trương. Có gì đó không ổn.

“Tôi vừa mua miếng bọt biển mới đấy”, Thom nói. “Trông cũng được

đấy”, Rhyme trả lời.

“Rhyme?” Sachs cáu kỉnh. “Chuyện quái gì thế?”

“Mười bảy đô la đấy. Phải tốt chứ. Tôi sẽ lật anh lại đấy?

Những giọng nói khác vang lên trong tai nghe, nhưng cô không phân

biệt được. Sachs và Banks đang chạy theo mép nước, nhìn xuống

những chiếc cầu cảng vươn

ra dòng nước màu nâu xám của sông Hudson. Cô ra hiệu để Banks

dừng lại, gập người

cho đỡ cơn chuột rút dưới mỏ ác, nhỏ nước bọt xuống sông. Cố gắng

lấy lại hơi thở.

Cô nghe tiếng nói qua tai nghe: “... không lâu đâu. Các vị thứ lỗi cho

chúng tôi.” “...chúng tôi sẽ đợi, anh không phản đối chứ?”

“Tôi phản đối", Rhyme nói. "Tôi muốn được riêng tư một chút?”

“Rhyme, anh có nghe tôi nói không?” Sachs tuyệt vọng gọi. Anh ta làm

cái trò quái quỷ gì vậy nhỉ?

“Không. Không có riêng tư gì cho bọn trộm vật chứng.”

Dellray! Anh ta đang ở trong phòng Rhyme. Thế thì xong rồi. Xong đời

nạn nhân. “Tôi muốn lấy lại vật chứng”, viên đặc vụ cáu kỉnh nói.

“Thế à, thứ mà anh có được chỉ là toàn cảnh một người đàn ông tắm

bằng bọt biển thôi, Dellray.”

Banks định nói, nhưng cô vẫy tay bảo anh ta im lặng. Mấy người nói

vài câu cô không hiểu.

Tiếng quát tháo giận dữ của viên đặc vụ.

Sau đó là giọng nói bình thản của Rhyme: “... Anh biết không Dellray,

trước kia tôi hay đi bơi lắm. Ngày nào cũng bơi.”

“Ta còn chưa đến mười phút”, Sachs thì thầm. Sóng vẫn bình thản vỗ

bờ. Hai con tàu lặng lẽ lướt qua.

Dellray lầm bẩm gì đó.

“Tôi thường bơi ở sông Hudson. Sông lúc đó sạch hơn bây giờ nhiều.

Ý tôi là nước rất sạch.”

Đường truyền có vấn đề. Anh nói lảng đi.

“...cầu cảng cũ. Cái cầu cảng mà tôi thích không còn nữa. Chỗ đó

trước đây từng là nhà của Hudson Dusters. Băng đảng đó, anh có nghe

nói về bọn chúng không? Từ những năm 1890. Phía bắc của Battery

Park City bây giờ. Trông anh có vẻ buồn chán. Mệt mỏi vì phải nhìn

mông thằng tàn tật rồi ư? Chưa à? Hợp với anh à? Cái cầu nằm giữa

North Moore và Chambers. Tôi sẽ nhảy xuống nước, bơi quanh cầu

cảng...”

“North Moore và Chambers!” Sachs la lớn. Quay ngoắt lại. Họ bỏ qua

nó vì họ đã đi quá sâu xuống phía nam. Nó cách chỗ hiện tại của họ

khoảng một phần tư dặm. Cô có thể nhìn thấy những cọc gỗ màu nâu

lở loét, một miệng cống lớn ngập nước thuỷ triều. Còn được bao lâu

nữa? Chẳng còn mấy. Họ chẳng còn cách gì cứu được ông ta.

Cô giật tai nghe và chạy nhanh ra xe, Banks chạy theo sau. “Cậu biết

bơi không?” Cô hỏi.

“Tôi ấy hả? Chỉ một, hai vòng trong bể bơi câu lạc bộ thôi.” Họ không

làm được rồi.

Sachs dừng bất ngờ, vòng nhanh xe lại, nhìn con phố vắng vẻ.

Nước dâng gần đến mũi ông.

Một con sóng nhỏ vỗ vào mặt William Everett đúng lúc ông hít vào,

dòng chất lỏng mặn chát cháy vào cổ họng ông. Ông ho sặc sụa, phát

ra âm thanh trầm đục, ghê rợn. Vặn vẹo. Nước tràn vào phổi. Ông tuột

tay khỏi cây cột của cầu cảng chìm xuống nước, co cứng người rồi lại

cố ngoi lên lần nữa, rồi lại chìm xuống.

Không, lạy Chúa... làm ơn đừng để con...

Ông lắc cái còng tay thật mạnh, cố gắng thoát ra. Chỉ có thể là phép

màu thì những bắp thịt đáng thương của ông mới có thể uốn cong con

ốc khổng lồ mà ông bị còng vào.

Ông xì nước trong mũi ra, đầu gục gặc trong cơn hoảng loạn. Trong

một khắc, phổi ông được thông thoáng trở lại. Cơ cổ cháy bỏng – đau

như ngón tay gãy của ông – vì ông phải ngửa đầu ra sau để tìm lớp

không khí mỏng manh ngay bên trên mặt.

Ông được nghỉ một lát.

Rồi một con sóng nữa, cao hơn... Và thế là hết.

Ông không thể chiến đấu được nữa. Đầu hàng. Về với Evelyn, nói lời

tạm biệt...

William Everett buông xuôi. Ông bập bềnh dưới mặt nước rác rưởi,

đầy đồ thải và cọng rong biển.

Rồi kinh hoàng tỉnh lại. Không, không...

Hắn đang ở đây. Tên bắt cóc. Hắn quay lại.

Everett nhao lên mặt nước, hít thêm nước vào phổi, tuyệt vọng tìm

cách thoát ra. Người đàn ông chiếu ánh sáng chói vào mắt Everett và

chìa con dao về phía ông.

Không, không...

Dìm ông chưa đủ, hắn còn muốn đâm ông chết. Không nghĩ ngợi gì,

Everett lao về phía hắn. Nhưng tên bắt cóc biến xuống nước… và sau

đó, soạt một tiếng, tay Everett được tự do.

Ông già quên phắt những lời từ biệt thầm lặng, lao như điên lên mặt

nước, gấp gáp hít không khí, giật tung mảnh băng đang dán miệng. Hổn

hển, nhổ nước. Đầu ông đập mạnh vào nền cầu cảng gỗ sồi ở phía

trên, nhưng ông cười lớn. “Ôi, lạy Chúa, lạy Chúa...”

Sau đó, xuất hiện một khuôn mặt khác… Cũng trùm đầu, trong tay là

một ngọn đèn sáng chói và Everett chỉ kịp nhận ra huy hiệu của NYPD

trên bộ quần áo ướt sũng của người đàn ông. Họ không cầm dao mà là

kìm sắt cắt. Một người nhét miếng cao su đắng ngắt vào miệng Everett

và ông hít vào một hơi oxy mát rượi đến kinh ngạc.

Người thợ lặn vòng tay ông quanh anh ta, họ cùng nhau bơi đến rìa cầu

cảng. “Hít thật sâu nào, một phút nữa là ta thoát khỏi đây.”

Ông hít căng hai lá phổi chật hẹp, nhắm mắt, cùng người thợ lặn ngụp

sâu xuống làn nước được chiếc đèn vàng của người đàn ông chiếu sáng

một cách ma quái. Chuyến

đi ngắn nhưng thật khổ sở, ngụp thẳng xuống ngoi lên trên qua lớp

nước mờ đục, vẩn bụi. Có lúc ông trượt khỏi tay người thợ lặn, họ tách

rời nhau trong một khắc. Nhưng với một cú quạt nước, William Everett

quay lại. Sau buổi tối hôm đó, bơi một mình trên dòng nước bập bềnh

của sông Hudson chỉ còn là chuyện nhỏ.

Cô không có ý định bắt taxi. Xe bus của sân bay cũng quá tối.

Nhưng Pammy đã quá mệt mỏi vì thiếu ngủ – cả hai người đã thức suốt

từ năm giờ sáng – và cô cảm thấy bồn chồn. Con bé phải được đi ngủ

ngay, nó đã rúc vào chăn với chai Hawaii Punch của nó. Ngoài ra,

chính Carole cũng không thể đợi tới khi họ đến Manhattan – cô chỉ là

một cô gái gầy gò vùng Trung Tây, người chưa bao giờ rời Ohio trong

bốn mươi mốt năm, và cô đang ao ước được nhìn thấy Quả Táo Lớn.

Carole lấy hành lý của cô và họ đi về phía cửa ra. Cô kiểm tra để chắc

chắn mình không quên gì khi đi khỏi nhà Kate và Eddie buổi chiều hôm

đó.

Pammy, gấu Pooh, ví, chăn, va li, ba lô màu vàng.

Đủ hết.

Bạn bè đã cảnh báo cô về thành phố. Eddie nói: "Họ sẽ xô đẩy cậu.

Bọn trộm ví, móc túi...”

"Đừng chơi bài ngoài phố”, Kate nói thêm, như mẹ dặn con.

"Trong phòng khách nhà tớ mà tớ còn không chơi bài”, Carole cười,

nhắc bạn mình. "Thế thì sao tớ lại chơi bài trên đường phố của

Manhattan?”

Nhưng cô trân trọng sự quan tâm của họ. Gì thì gì, cô cũng đã tới nơi,

một người đàn bà goá và một đứa con ba tuổi, đến thành phố lộn xộn

nhất Trái Đất để tham dự hội nghị Liên Hiệp Quốc – chưa bao giờ cô

nhìn thấy nhiều người nước ngoài, quỷ thật, nhiều người ở một chỗ cùng

lúc như ở đây.

Carole tìm được điện thoại công cộng và gọi cho khách sạn để kiểm

tra đăng ký của mình. Nhân viên trực đêm nói phòng đó đã sẵn sàng

và đang chờ họ. Anh ta sẽ gặp cô sau khoảng bốn mươi nhăm phút

nữa.

Họ đi qua cánh cửa tự động, không khí mùa hè làm họ sốc đến ngột

thở. Carole dừng lại, nhìn quanh. Một tay nắm chặt tay Pammy, tay kia

chiếc va li cũ kỹ. Cái ba lô màu vàng nặng trịch đè trĩu trên vai cô.

Họ xếp hàng cùng những hành khách khác để chờ taxi trên bến đỗ.

Carole liếc nhìn tấm bảng quảng cáo bên kia đường cao tốc, nó viết

Chào mừng các đoàn đại biểu Liên Hiệp Quốc!. Tấm bảng được trang

trí tệ hại, nhưng cô vẫn nhìn nó một lúc lâu; một người trên đó giống

Ronnie.

Một thời gian, sau khi anh mất, khoảng hai năm trước, hầu như mọi thứ

đều gợi cho  cô nhớ tới người chồng đẹp trai có kiểu tóc húi cua của

mình.  Cô  lái xe qua McDonald và nhớ anh thích Big Macs. Những

diễn viên trong phim chẳng giống anh chút nào, nhưng họ có thể có

cách nghiêng đầu giống anh. Đọc tờ rơi quảng cáo máy cắt cỏ, cô nhớ

anh thích cắt cỏ cho mảnh sân nhỏ xíu cuả họ ở Arlington Heights.

Nước mắt lại trào ra. Và cô quay lại dùng Prozac114  hay

imipramine115. Nằm cả tuần trên giường. Miễn cưỡng chấp nhận đề

nghị của Kate, đến nhà của cô ấy và Eddie một đêm. Hay một tuần.

Hay một tháng.

Nhưng cô không khóc nữa. Cô đến đây để bắt đầu cuộc đời mới. Sự

đau khổ giờ đã ở lại phía sau.

Lắc mái tóc màu vàng sẫm khỏi bờ vai đẫm mồ hôi, Carole đẩy

Pammy và đá túi hành lý lên phía trước khi hàng người nhúc nhích. Cô

nhìn quanh, cố tìm một chút gì đó của Manhattan. Nhưng cô chẳng

nhìn được gì ngoài xe cộ chạy trên đường, những cái đuôi mây bay và

một biển người, taxi, ô tô. Hơi nước bốc lên từ lỗ cống như những con

ma ghê rợn, trời đêm lẫn lộn đen, vàng và mù sương.

Được rồi, thế nào mình cũng nhìn thấy thành phố ngay thôi. Cô hy vọng

Pammy đã đủ lớn để có những ký ức đầu tiên về cảnh tượng thành

phố.

"Con có thích chuyến phiêu lưu của chúng ta không, con yêu?”

"Phiêu lưu. Con thích phiêu lưu. Con muốn uống Waiin Punch. Mẹ làm

ơn cho con một ít được không?”

Làm ơn... Từ này mới đây. Cô bé lên ba bắt đầu học cách bắt mạch

cha mẹ. Carole cười: "Mẹ sẽ mua cho con ngay thôi.”

Cuối cùng thì họ cũng có xe. Cốp xe bật mở và Carole quăng hành lý

vào trong, dập nắp. Họ trèo vào ghế sau và đóng cửa.

Pammy, gấu Pooh, ví...

Người  lái  hỏi:  “Ta  đi  đâu?”  Carole  cho  anh  ta  địa  chỉ  khách 

sạn  Midtown

Residence, cô phải hét qua tấm kính ngăn Plexi.

Chiếc xe nhập dòng xe cộ. Carole dựa lưng và để Pammy ngồi trong

lòng mình. “Ta có đi qua trụ sở Liên Hiệp Quốc không?” Cô hỏi.

Nhưng người đàn ông đang tập trung để chuyển làn đường và không

nghe thấy cô. “Tôi đến tham dự hội nghị", cô giải thích. “Hội nghị Liên

Hiệp Quốc.”

Vẫn không thấy trả lời.

Cô tự hỏi có phải anh ta không thạo tiếng Anh hay không. Kate cảnh

báo cô rằng tất cả tài xế ở New York đều là người nước ngoài. (“Lấy

mất việc làm của người Mỹ”, Eddie gầm gừ. “Nhưng đừng để tôi nói

đến chuyện này.”). Cô không nhìn rõ người lái xe qua tấm kính ngăn

xước xát.

Có thể anh ta chỉ không thích nói chuyện.

Họ quành vào một con đường cao tốc khác – và bất thình lình, nó kia

rồi, ngay trước mặt cô, đường chân trời góc cạnh của thành phố. Chói

loà. Như những đồ pha lê mà Kate và Eddie sưu tập. Một cụm khổng

lồ những khối nhà màu xanh dương, màu vàng,

114 Prozac: Một loại thuốc giảm đau.

115 Imipramine: Một loại thuốc an thần.

màu bạc nằm giữa hòn đảo và một cụm khác bên trái. Nó to hơn tất cả

những gì mà Carole đã từng nhìn thấy trong đời; trong một khoảnh

khắc, hòn đảo trông như một con tàu khổng lồ.

“Nhìn kìa, Pammy, chúng ta đến đó đấy, trông thật đẹp, phải không

con?”

Một khắc sau, quang cảnh biến mất khi chiếc xe ra khỏi đường cao tốc

và quành thật nhanh xuống phía cuối đoạn đường dốc. Sau đó xe chạy

trên những con phố nóng bức, trống trải, bị bao bọc bới nhưng toà nhà

xây bằng gạch.

Carole nghiêng người ra trước. “Có đúng đường này đi về thành phố

không?” Lại không trả lời.

Cô đập mạnh vào lớp kính ngăn Plexi. “Anh có đi đúng đường không

đấy? Trả lời tôi. Trả lời tôi đi!”

“Mẹ ơi, có chuyện gì thế?” Pammy nói và bắt đầu khóc. “Anh đi đâu

thế?” Carole quát.

Nhưng người đàn ông cứ vẫn lái xe – bình thản, đèn đỏ nào cũng

dừng, không bao giờ vượt quá giới hạn tốc độ cho phép. Và khi hắn rẽ

vào một bãi đỗ xe trống trải phía

sau một nhà máy tối tân, bỏ hoang, hắn vẫn bật đèn xi nhan đúng luật.

Ôi không... không!

Hắn đeo chiếc mặt nạ trượt truyết rồi ra khỏi xe. Đi lại phía sau, hắn

đưa tay mở cửa. Nhưng rồi hắn ngần ngại trong giây lát, cánh tay thõng

xuống. Hắn cúi xuống, mặt đối diện cửa xe và gõ vào cửa kính.

Một lần, hai lần, ba lần. Như gọi bọn thằn lằn trong gian nuôi bò sát ở

vườn bách thú. Hắn nhìn người mẹ và cô con gái một lúc lâu trước khi

mở cửa.

HAI MƯƠI HAI

“Cô làm thế nào hả, Sachs?”

Đứng cạnh sông Hudson hôi thối, cô nói chuyện với Rhyme qua máy

bộ đàm. “Tôi nhớ là tôi có nhìn thấy cảng tàu cứu hoả ở Battery Park.

Họ kiếm mấy người thợ lặn và đến chỗ cầu cảng chỉ trong ba phút.

Trời ạ, anh phải xem cái tàu ấy chạy! Một ngày nào đó tôi cũng muốn

lái thử một cái.”

Rhyme kể với cô về người lái xe taxi cụt ngón.

“Thằng chó chết!” Cô nói, tặc lưỡi ghê tởm. “Con chồn ấy lừa tất cả

chúng ta.” “Không phải tất cả chúng ta”, Rhyme rụt rè nhắc cô.

“Tức là Dellray đã biết tôi lấy chứng cứ. Anh ta có tìm tôi không?”

“Anh ta nói anh ta quay về toà nhà kiểu liên bang. Có thể để quyết định

xem bắt ai trong chúng ta trước. Hiện trường ở đó thể nào, Sachs?”

“Tệ lắm”, cô báo cáo. “Hắn đỗ xe trên sỏi...” “Tức là không có dấu

chân.”

“Còn tệ hơn thế. Thuỷ triều làm dâng nước trong ống cống và chỗ hắn

đỗ xe bây giờ đang ngập nước.”

“Quỷ thật”, Rhyme lẩm bẩm.” Không dấu vết, không dấu tay, chẳng có

gì. Họ sẽ để ông ta trong bệnh viện một, hai ngày.”

“Ông ta không nói cho chúng ta biết thông tin gì ư?”

Sachs đến chỗ Banks. Anh ta đang phỏng vấn William Everett.

“Hắn không to lắm”, người đàn ông nghiêm trọng nói, cẩn thận quan

sát thanh nẹp bó bột được nhân viên y tế buộc vào tay mình. “Hắn ta

không được khoẻ lắm, không phải là người có cơ bắp. Nhưng hắn

khoẻ hơn tôi. Tôi tóm hắn nhưng hắn kéo tay tôi ra.”

“Mô tả?” Banks hỏi.

Everett nhớ lại bộ quần áo tối màu và chiếc mặt nạ trượt tuyết. Đó là

tất cả những gì ông có thể nhớ được.

“Tôi phải nói với cậu một việc”, Everett giơ cánh tay băng bó của mình

lên. “Hắn rất ác. Tôi đã nói với cậu là tôi tóm lấy hắn. Tôi không nghĩ

ngợi gì – đơn giản là tôi đã hoảng loạn. Nhưng hắn đã lên cơn điên

thực sự. Vì thế hắn bẻ ngón tay tôi.”

“Trả thù à?” Banks hỏi.

“Tôi đoán thế. Nhưng đó không phải là phần kỳ quặc.” “Không?”

“Kỳ quặc là hắn lắng nghe.”

Viên thám tử trẻ tuổi ngừng viết. Nhìn sang Sachs.

“Hắn ép tay tôi thật chặt vào tai hắn và bẻ ngón tay tôi khi nó gáy.

Như thế hắn lắng nghe. Và thích thú.”

“Anh có nghe thấy không, Rhyme?”

“Có. Thom, thêm điều này vào hồ sơ của chúng ta. Thế nhưng tôi vẫn

không biết điều này nghĩa là gì. Ta sẽ phải suy nghĩ về nó.”

“Có dấu hiệu nào của vật chứng không?” “Vẫn chưa.”

“Đan lưới đi Sachs. À, mà lấy cả... của nạn nhân.”

“Quần áo? Tôi đã bảo ông ta rồi. Tôi – Rhyme, anh ổn chứ?” Cô nghe

thấy tiếng

ho.

Đường truyền bị đứt ngay tức khắc. Một giây sau anh trở lại. “Anh có

đấy không,

Rhyme? Mọi việc ổn chứ?”

“Ổn cả”, anh nói nhanh. “Đi thôi. Đan lưới đi.”

Cô khảo sát hiện trường đang được những ngọn đèn halogen của ESU

soi sáng. Thật khó chịu. Hắn đã ở đây. Hắn đã đi trên con đường trải

sỏi cách đây vài feet. Nhưng bất kể hắn có để lại vật chứng gì thì

chúng đã nằm sâu mấy inch dưới làn nước mờ đục. Cô chậm rãi kiểm

tra nền đất. Lui và tới.

“Tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Manh mối có thể đã bị cuốn đi mất rồi.”

“Không đâu, hắn quá thông minh để không tính đến thuỷ triều. Manh

mối sẽ ở trên chỗ đất khô đâu đó.”

“Tôi có một ý”, cô bất ngờ nói. “Anh đến đây đi.” “Cái gì?”

“Khám nghiệm hiện trường cùng tôi, Rhyme.” Im lặng.

“Rhyme, anh nghe tôi nói không?” “Cô đang nói với tôi đấy à?” Anh

hỏi.

“Anh trông giống như De Niro116. Anh không diễn giỏi như De Niro.

Anh biết không? Một cảnh trong phim Taxi Driver?”

Rhyme không cười. Anh nói: “Lời thoại là: Mày đang nhìn tao đấy à?

chứ không phải nói với tao.”

Sachs tiếp tục, không chút bối rối. “Tới đây đi. Khám nghiệm hiện

trường với tôi.” “Tôi sẽ sải đôi cánh của mình. Không, tốt hơn là tôi sẽ

tự phóng tôi ra đó. Thần

giao cách cam, cô biết rồi đấy.”

“Đừng đùa nữa. Tôi nghiêm chỉnh đấy.” “Tôi...”

“Chúng tôi cần anh. Tôi không thể tìm được manh mối để lại.”

“Nhưng mà chúng sẽ ở đó. Cô chỉ cần cố thêm chút nữa thôi.” “Tôi

đan lưới hai lần rồi.”

“Thế thì cô đã khoanh vùng hơi hẹp. Thêm vài feet nữa và tiếp tục đi.

823 vẫn chưa kết thúc đâu, không phải bây giờ.”

“Anh đang đánh trống lảng đấy. Đến đây và giúp tôi với.”

“Bằng cách nào?” Rhyme hỏi. “Tôi làm việc ấy bằng cách nào?”

“Tôi có một người bạn cũng gặp khó khăn”, cô bắt đầu, “và anh ta...”.

116  Robert  Mario  De Niro, Jr.: Nam diễn viên đã hai lần giành được

giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ, đạo diễn, nhà sản xuất

phim. Ông được coi là một trong những diễn viên vĩ đại và có ảnh

hưởng nhất mọi thời đại.

chắn.

“Ý cô là, anh ta là một người tàn tật”, Rhyme chỉnh lại. Mềm mỏng

nhưng chắc

Cô tiếp tục: “Sáng nào người sĩ quan phụ tá cũng đặt anh ấy vào xe lăn

và anh ấy

tự lái xe đi khắp nơi. Đi xem phim, đi...”

“Những cái xe lăn ấy...”, giọng Rhyme uể oải vang lên. “Không có tác

dụng gì với

tôi...”

Cô ngừng nói.

Anh tiếp tục: “Vấn đề không phải ở chỗ tôi bị thương. Vấn đề là nếu

tôi lên xe lăn

sẽ rất nguy hiểm. Nó có thể...” – anh ngần ngại – “làm cho mọi chuyện

xấu đi”. “Tôi xin lỗi. Tôi không biết.”

Một lúc sau anh nói: “Tất nhiên là cô không biết.” Hỏng mất vụ này rồi.

Ôi trời. Người anh em...

Nhưng Rhyme không có vẻ gì tệ hơn sau lời nói hớ của cô. Giọng anh

ta vẫn đều đặn, vô cảm. “Nghe này, cô phải tiếp tục tìm kiếm. Đối

tượng của chúng ta đang khiến mọi thứ khó khăn hơn. Nhưng không

phải là không thể... Tôi có một ý. Hắn là người dưới lòng đất, đúng

không? Có thể hắn sẽ chôn chúng.”

Cô nhìn lên hiện trường.

Có thể ở kia... Cô nhìn thấy một ụ đất và lá cây trong một khóm cỏ

cao gần con đường trải sỏi. Trông có gì bất ổn, cái ụ đất trông có vẻ

như mới được đắp lên.

Sachs quỳ xuống cạnh nó, cúi đầu và dùng một cái bút chì gạt lá ra.

Cô quay mặt sang trái, thấy mình đang nhìn vào một cái đầu vươn cao,

đầy răng

nanh... vũ khí.

“Lạy Chúa tôi”, cô hét lớn, vấp ngã ra sau, phệt mông xuống đất, vội

vàng lần tìm

Không...

Rhyme thét lên: “Cô không sao chứ?”

Sachs ngắm mục tiêu và cố gắng giữ vững, khẩu súng trên hai tay run

rẩy. Jerry

Banks chạy tới, khẩu Glock của anh ta đã được rút ra. Anh ta dừng lại.

Sachs lồm cồm đứng dậy, nhìn vào thứ trước mặt họ.

“Trời ạ”, Banks thì thầm.

“Một con rắn – thật ra là bộ xương rắn”, Sachs nói với Rhyme. “Con

rắn chuông. Mẹ kiếp.” Cô cất súng. “Nó được gắn vào một cái bảng.”

“Một con rắn?Hay đấy.” Giọng Rhyme có vẻ tò mò.

“Đúng rồi. Thực sự là thú vị”, cô lẩm bẩm. Cô đeo đôi găng cao su và

nhấc những cái xương bị cuộn tròn. Cô lật ngược nó lại. "Sự biến hình"

“Cái gì?”

"Nhãn dán dưới đế. Tên cửa hàng bán thứ này, tôi đoán thế. 604

Broadway.”

Rhyme nói: “Tôi sẽ bảo Những Chàng trai Dũng cảm của chúng ta

kiểm tra xem. Chúng ta có gì nhỉ? Nói tôi nghe về manh mối đi.”

Chúng nằm phía dưới con rắn. Trong một cái túi. Tim cô đập mạnh khi

quỳ xuống bên cái túi.

“Một cuốn sách bằng diêm”, cô nói.

“Được rồi, có thể hắn nghĩ tới việc đốt nhà. Trên đó có in gì không?”

“Không. Nhưng có vết bẩn gì đó. Như dầu bôi trơn Vaseline. Có điều

nó bốc

mùi.”

“Tốt, Sachs – luôn phải ngửi thử vật chứng mà ta không chắc chắn

lắm. Có điều

cần chính xác hơn.”

Cô cúi xuống gần hơn.”Ối...” “Thế là không chính xác.” “Có thể là lưu

huỳnh.”

“Có thể có gốc nitrate. Chất nổ. Tovex117. Có phải màu xanh dương

không?”

“Không, trắng như sữa.”

“Thậm chí nó có thể sai bét, tôi hình dung đó là loại chất nổ thứ cấp.

Loại ổn định. Còn gì nữa không?”

“Một mẩu giấy nữa. Có gì đó ở đây.”

“Cái gì, Sachs? Tên hắn, địa chỉ của hắn, thư điện tử?”

“Giống như giấy từ một tờ tạp chí. Tôi thấy một bức ảnh đen trắng

nhỏ. Giống như một phần của toà nhà nhưng không nhìn thấy được là

phần nào. Dưới đó có một dòng ngày tháng. Ngày Hai mươi sáu tháng

Năm năm 1906.”

“Năm, hai mươi, không-sáu. Không hiểu có phải mã gì không. Hay là

một địa chỉ. Tôi phải nghĩ thêm về điều này. Còn gì nữa không?”

Cô nghe thấy anh ta thở dài.”Được rồi. Về thôi, Sachs. Mấy giờ rồi

nhỉ? Lạy Chúa tôi, gần một giờ sáng rồi. Lâu lắm rồi tôi không thức

muộn thế này. Về thôi, để xem ta có gì.”

Trong tất cả các khu của Manhattan, Lower East Side là nơi ít thay đổi

nhất trong lịch sử thành phố.

Tất nhiên là nhiều thứ đã biến mất. Những bãi chăn thả. Những toà nhà

kiên cố của John Hancock và những người nổi tiếng trong chính quyền

thời đó. Der Kolek, hồ nước ngọt lớn (cái tên Hà Lan của nó cuối cùng

bị biến thành “The Collect”, miêu tả chính xác hơn thì là một cái ao ô

nhiễm khủng khiếp). Khu Five Points nổi tiếng – trong những năm

1800 là dặm vuông nguy hiểm nhất trên thế giới – nơi mà chỉ một toà

nhà cho

117 Tovex: Một loại chất nổ dạng gel nước.

thuê, như toà nhà Gates of Hell đổ nát, có thể là nơi chứa chấp tới hai,

ba trăm tên giết người mỗi năm.

Nhưng vẫn còn lại hàng nghìn toà nhà cũ – những toà nhà cho thuê từ

thế kỷ XIX và những ngôi nhà khung xây kiểu thuộc địa, những ngôi

nhà hàng phố bằng gạch kiểu liên bang trước đó, những hội trường

Baroque, một vài toà nhà công cộng kiểu Ai Cập được xây dựng theo

lệnh của viên Nghị sĩ tha hoá Fernando Wood. Một số khác đã bị bỏ

hoang, mặt tiền của chúng bám đầy cây cỏ, sàn nhà bị lũ cây non ương

bướng làm nứt vỡ. Nhưng nhiều toà nhà vẫn còn được sử dụng; đó là

mảnh đất tội lỗi của Tammany Hall, của xe đẩy và công xưởng khổ sai,

toà nhà định cư Phố Henry, những vở hài kịch tục tĩu của Minsky và

Yiddish Gomorra nổi tiếng – tên mafia người Do Thái. Khu vực sinh ra

những hình thái như vậy không thể chết một cách dễ dàng.

Khu vực này chính là nơi Kẻ Tầm Xương, lái chiếc taxi chở người phụ

nữ gầy gò và cô con gái của cô ta đến.

Thấy cảnh sát đang theo dõi mình, James Schneider lại trườn xuống

đất, như một con rắn, tìm kiếm nơi ẩn nấp – người ta nghi ngờ là ở

trong những căn phòng của rất nhiều toà nhà cho thuê của thành phố

(mà độc giả có thể tình cờ nhận ra là “nhà trọ” vẫn còn đang rất thịnh

hành). Và hắn im hơi lặng tiếng suốt mấy tháng.

Khi lái xe về nhà, Kẻ Tầm Xương thấy quanh mình không phải là

Manhanttan của những năm 1990 – những quán ăn nhanh Hàn Quốc,

những cửa hàng bánh sừng bò ướt át bẩn thỉu, những cửa hiệu cho

thuê phim khiêu dâm, những cửa hàng quần áo trống rỗng – mà là một

thế giới mộng mơ của những người đàn ông đội mũ quả dưa, những

người phụ nữ mặt váy phồng sột soạt, viền và gấu dây đầy bùn bẩn

ngoài phố. Những chiếc xe độc mã và tam mã, không khí tràn ngập

mùi khí metal đôi khi dễ chịu, đôi khi thật kinh tởm.

Nhưng có động cơ xuẩn ngốc, không mỏi mệt nào đó bên trong thúc

giục hắn phải làm mới bộ sưu tập của mình, ép hắn ra khỏi nơi lẩn trốn

để tìm kiếm một người công dân lương thiện nữa; một thanh niên mới

tới thành phố để hợc đại học.

Lái xe qua Quận Mười tám nổi tiếng, nơi đã từng là chỗ trú ngụ của

gần mười lăm nghìn người, bị nhồi nhét vào một nghìn khu nhà đổ nát.

Khi mọi người nghĩ tới thế kỷ XIV, họ nghĩ tới màu nâu đỏ – màu của

những bức ảnh chụp thời đó. Nhưng không phải vậy, Manhattan xưa

kia có màu đá. Với làn khói bụi làm nghẹn thở, sơn tường đắt giá và

ánh sáng mờ mờ, thành phố hình thành từ nhiều sắc độ của màu xám và

màu vàng.

Schneider lẩn lút theo sau chàng trai  và chuẩn bị tấn công. Nhưng cuối

cùng lương tâm của thần May mắn lên tiếng. Hai cảnh sát đã xuất hiện

đúng lúc. Họ nhận ra Schneider và đuổi theo. Tên sát nhân chạy sang

phía đông, chạy qua kỳ quan thiết kế khi đó, cầu Manhattan, cây cầu

được xây xong vào năm 1909 hai năm trước khi sự việc này xảy ra.

Nhưng hắn dừng lại giữa đường khi nhìn thấy cảnh sát chạy tới từ phía

Brooklyn; họ đã nghe thấy tiếng huýt còi và tiếng súng từ những đồng

nghiệp phía Manhattan.

Schneider, không mang vũ khí, lại bị pháp luật bao vây nên chỉ còn

cách trèo lên thành cầu. Hắn hét lên những câu chỉ trích cảnh sát điên

loạn, kết tội họ đã phá hoại cuộc đời hắn. Từ ngữ của hắn ngày càng

điên loạn hơn. Lúc cảnh sát lại gần, hắn nhảy từ thành cầu xuống sông.

Một tuần sau, một người hoa tiêu phát hiện ra thi thể hắn trên bờ đảo

Welfare, gần Hell Gate. Chẳng còn lại gì nhiều, vì cua cáy và rùa đã

làm việc rất

cần cù. Chúng chẳng để lại cho Schneider chút gì ngoài những khúc

xương mà hắn đã từng tôn thờ.

Hắn đánh chiếc taxi vào con phố trải sỏi East Van Brevoort, và dừng

lại trước một toà nhà. Hắn kiểm tra hai sợi dây bẩn thỉu mà hắn đã

chăng thấp dưới cửa để bảo đảm rằng không có ai vào nhà. Một

chuyển động bất ngờ làm hắn giật mình và hắn lại nghe thấy tiếng gầm

gừ sâu trong cổ họng của những con chó, mắt chúng màu vàng, răng

màu nâu, cơ thể lấm tấm sẹo và vết lở loét. Hắn lần tay tìm khẩu súng

ngắn nhưng chúng bất ngờ quay đi, vừa sủa ăng ẳng vừa đuổi theo một

con mèo hay con chuột trong ngõ.

Hắn không nhìn thấy ai trên vỉa hè nóng bức. Hắn mở khoá cửa nhà để

xe ngựa, sau đó quay về xe và lái nó vào ga ra, đỗ bên cạnh chiếc

Taurus.

Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu

thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công

dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những

trang viết của hắn có một điều chắc chắn là (nếu như những tuyên bố

của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng

liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục

hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy

vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với

một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình

những ân huệ.

Hắn dừng lại, gạt mồ hôi ra khỏi miệng. Cái mặt nạ trượt tuyết làm hắn

ngửa. Hắn kéo người phụ nữ và đứa con gái ra khỏi cốp xe, vào gạt

ra. Cuối cùng thì hắn cũng còng được họ.

“Thằng khốn nạn!” Cô ta rống lên. “Không được động vào con tao.

Mày mà động vào nó, tao giết mày.”

Hắn ôm chặt quanh ngực cô ta và dán miệng cô ta lại. Sau đó hắn cũng

làm thế với đứa bé con.

“Thịt da có thể khô héo và yếu ớt”  – (tên tội phạm viết bằng nét chữ

thô bạo nhưng chắc chắn ) – “xương cốt là phần khỏe nhất của cơ thể.

Da thịt chúng ta có già đi, nhưng xương cốt chúng ta luôn trẻ mãi. Đó

là mục tiêu cao quý của tôi, tôi không hiểu tại sao lại có người muốn

tranh cãi với nó. Tôi làm điều tử tế cho tất cả bọn họ. Giờ đây họ bất

tử. Tôi giải phóng họ. Tôi đã lấy họ đến tận xương”.

Hắn kéo họ xuống tầng hầm và đẩy mạnh người phụ nữ xuống sàn nhà,

đứa con gái ở cạnh cô ta. Buộc còng tay của họ vào tường bằng dây

phơi. Sau đó quay lên cầu thang.

Hắn nhặt chiếc ba lô màu vàng của cô ta ở sau xe taxi, đi qua một cánh

cửa gỗ bắt vít vào phòng chính của toà nhà. Hắn định vứt chúng vào

góc nhà nhưng vì một lý do nào đó hắn lại thấy tò mò về những đồ vật

này. Hắn ngồi xuống trước một bức bích hoạ – một bức tranh vẽ tên

đồ tể, một tay cầm dao, một tay cầm khúc thịt bò.

Hắn đọc nhãn hành lý. Carole Ganz. Carole với chữ E. Tại sao lại thừa

một chữ? Hắn băn khoăn. Cái va li chẳng có gì ngoài quần áo. Hắn lục

lọi cái ba lô. Hắn thấy tiền ngay lập tức. Phải có đến bốn, năm nghìn

đô la. Hắn nhét lại nó vào ngăn kéo khoá.

Có một tá đồ chơi trẻ con: búp bê, hộp màu nước, một gói đất nặn, bộ

đồ chơi Mr. Potato Head118. Trong đó còn có một máy chơi nhạc

dòng Discman đắt tiền, nửa tá đĩa CD và cái đài đồng hồ du lịch hiệu

Sony.

Hắn nhìn mấy bức ảnh. Ảnh Carole và đứa con. Trong hầu hết các

bức ảnh, người phụ nữ trông rất sầu não. Một số, trông cô ta có vẻ vui

hơn. Không có ảnh nào có cả Carole và chồng dù cô ta đeo nhẫn

cưới. Nhiều bức ảnh là hai mẹ con với một cặp – một người đàn bà to

béo mặc bộ đồ bà già cũ kỹ và một người đàn ông hói, để râu, mặc áo

sơ mi vải flanenl.

Kẻ Tầm Xương nhìn rất lâu vào bức hình đứa bé con.

Số phận của Maggie O'Connor đáng thương, một cô bé mỏng manh

chưa đấy tám tuổi, đặc biệt bất hạnh. Vận đen của cô bé, như cảnh sát

phỏng đoán, là cô bé đã bắt gặp James Schneider khi hắn đi phi tang

một trong những nạn nhân của mình.

Một cô bé, cư dân khu “Hell's Kitchen” nổi tiếng, ra ngoài nhổ lông

đuôi ngựa. Trong khu vực nghèo khó này của thành phố có rất nhiều

súc vật chết. Bọn trẻ ở đây đã quen với việc đan lông đuôi ngựa thành

nhẫn và vòng đeo cổ – đồ nữ trang duy nhất mà những đứa trẻ cù bơ

cù bất như nó có thể dùng để trang điểm cho mình.

Da và xương, da và xương.

Hắn đặt bức ảnh lên bệ lò sưởi, cạnh đống xương nhỏ mà hắn đang

làm dở sáng nay và một số thứ hắn ăn trộm ở cửa hàng nơi hắn tìm

thấy con rắn.

Người ta ngờ rằng Schneider đã thấy Maggie gần hang ổ của hắn

chứng kiến cảnh tượng rùng rợn khi hắn giết một trong những nạn nhân.

Hắn hạ cô bé nhanh hay chậm, điều này ta không đoán được. Nhưng

không giống như những nạn nhân khác của hắn, những người mà cuối

cùng thi thể của họ cũng được tìm thấy – thi thể của Maggie O'Connor

yếu đuối không bao giờ được tìm thấy.

Kẻ Tầm Xương xuống cầu thang.

Hắn giật tấm băng dính trên miệng người mẹ, người phụ nữ hổn hển hít

không khí, nhìn hắn với cơn giận dữ lạnh lùng. “Mày muốn gì?” Cô ta

the thé hỏi. “Cái gì?”

Cô ta không gầy như Esther nhưng, ơn Chúa, cô ta không giống Hanna

Goldschmidt chút nào. Hắn có thể nhìn thấy thật nhiều tâm hồn cô ta.

Hàm dưới hẹp, xương đòn. Và qua lần váy mỏng màu xanh, dấu

xương chậu – một kết nối của xương chậu, đốt háng và xương mu.

Những cái tên nghe như những vị thần La Mã.

Con bé con vặn vẹo người. Hắn nghiêng người ra trước và đặt tay lên

đầu nó. Xương sọ không phát triển từ một miếng xương duy nhất mà

từ tám miếng xương riêng biệt, và đỉnh đầu nối lên như những mảnh

tam giác trên mái vòm sân Astrodome. Hắn chạm vào xương chẩm và

xương đỉnh của đầu con bé. Và hai mảnh xương nhạy cảm, ưa thích

của hắn quanh hốc mắt – xương bướm và xương sàng.

118 Mr. Potato Head: Một loại đồ chơi của Mỹ gồm một mô hình củ

khoai tây bằng nhựa có thể được trang trí bằng những bộ phận khác

nhau như tai, mắt để tạo ra một khuôn mặt. Đồ chơi này được George

Lerner sáng chế năm 1949, do Công ty Hasbro sản xuất

và phân phối lần đầu tiên vào năm 1952.

“Thôi đi!” Carole lắc đầu giận dữ. “Tránh xa con bé ra.”

“Suỵt...” Hắn đưa ngón tay đeo găng của mình lên môi. Hắn nhìn con

bé con, nó đang khóc và ép chặt người vào mẹ.

“Maggie O'Connor”, hắn thủ thỉ, nhìn khuôn mặt con bé. “Maggie bé

bỏng của

ta.”

Người phụ nữ giận dữ nhìn hắn.

“Con có mặt không đúng lúc, đúng nơi rồi. Con đã nhìn thấy ta làm gì

rồi?”

Trẻ trung đến tận xương cốt.

“Mày đang nói gì thế?” Carole thì thầm. Hắn chuyển sự chú ý sang cô.

Kẻ Tầm Xương luôn băn khoăn về người mẹ của Maggie O'Connor.

“Chồng cô đâu?”

“Anh ấy chết rồi.” Cô cục cằn nói. Sau đó nhìn đứa con và nói nhẹ

nhàng hơn.

“Anh ấy bị giết hai năm trước. Này, chỉ cần thả con gái tôi thôi. Nó

không thể nói bất cứ điều gì về anh với người khác. Này anh kia... anh

có nghe tôi nói không? Làm gì thế?”

Hắn tóm tay Carole và nhấc lên.

Hắn gập xương bàn tay, chỗ cổ tay. Các đốt ngón tay – những ngón

tay nhỏ xíu. Bóp vào xương.

“Không, đừng làm thế. Tôi không thích thế. Làm ơn đi!” Giọng cô vang

lên trong cơn hoảng loạn.

Hắn mất tự chủ và không thích cảm giác này chút nào. Nếu hắn muốn

thành công ở đây, với các nạn nhân, với kế hoạch của hắn thì hắn phải

chiến thắng sự ham muốn đang xâm chiếm hắn – cơn điên đang kéo

hắn sâu hơn vào quá khứ, lẫn lộn ngày đó và bây giờ.

Trước đây và sau đó...

Hắn cần đến tất cả trí tuệ và sự khéo léo của mình để kết thúc những gì

hắn đã bắt

đầu.

Và lúc này... lúc này...

Cô ta thật nhỏ nhắn, cô ta thật hoàn hảo. Hắn nhắm mắt và hình dung

lưỡi dao cào

trên xương ống chân cô ta sẽ hát lên như mã vĩ của một cây đàn violin

cổ.

Hắn thở gấp gáp, mồ hôi đổ như tắm.

Cuối cùng, khi mở mắt hắn thấy mình đang nhìn vào đôi giày của cô.

Hắn không có nhiều xương chân trong tình trạng tốt. Những người vô

gia cư bị hắn bắt trong mấy tháng qua... họ đều bị còi xương và loãng

xương, ngón chân họ bị những đôi giày không vừa chân làm hỏng.

“Tôi muốn thoả thuận với cô”, hắn nghe thấy mình đang nói. Cô nhìn

xuống con gái. Đang ép chặt hơn vào người cô.

“Tôi sẽ thoả thuận. Tôi sẽ để cô đi nếu cô để tôi làm mấy việc.”

“Việc gì?” Carole thầm thì. “Cho tôi bóc da cô.”

Cô chớp mắt.

Hắn thầm thì. “Cho phép tôi. Làm ơn đi? Một chân. Chỉ một chân thôi.

Nếu cô làm thế tôi sẽ để cô đi.”

“Cái gì...?”

“Đến tận xương.”

Cô hoảng sợ nhìn hắn chằm chằm. Nuốt nước bọt.

Điều đó có ý nghĩa gì? Hắn nghĩ. Kiểu gì thì cô ta cũng đã gần đó lắm

rồi, thật gầy, thật góc cạnh. Đúng là có gì đó khác biệt ở cô ta – không

như những nạn nhân khác.

Hắn cất khẩu súng ngắn và lấy dao trong túi. Mở nó ra với một tiếng

động làm giật

mình.

cô.

Cô không động đậy, ánh mắt cô trượt xuống đứa con gái. Quay lại

phía hắn. “Mày để bọn tao đi?”

Hắn gật đầu: “Cô chưa nhìn thấy mặt tôi. Cô không biết đây là đâu.”

Một lúc lâu. Cô nhìn quanh tầng hầm. Cô lẩm nhẩm một cái tên. Ron

hay Rob.

Mắt vẫn nhìn hắn, cô giơ chân ra và đưa về phía hắn. Hắn kéo giày ra

khỏi chân

Hắn nắm lấy chân cô. Xoa nắn những mạch máu dễ vỡ.

Cô ngửa người ra sau, những sợi gân nổi lên trên cổ cô thật đẹp. Mắt

cô nhắm

chặt. Hắn chăm sóc da cô bằng lưỡi dao.

Tay nắm chắc con dao.

Cô nhắm mắt, hít vào và phát ra một tiếng khóc yếu ớt. “Làm đi”, cô

thầm thì. Và xoay mặt con bé ra chỗ khác. Ôm nó thật chặt.

Kẻ Tầm Xương hình dung ra cô trong bộ quần áo thời Victoria, váy

lồng đăng ten đen. Hắn thấy ba người họ ngồi với nhau ở Delmonico

hay đi trên Đại lộ Năm. Hắn nhìn thấy Maggie nhỏ bé cùng với họ, mặc

bộ váy diêm dúa, đang dùng gậy đánh vòng khi họ đi qua cầu Canal.

Ngày đó và bây giờ…

Hắn đặt lưỡi dao hoen gỉ vào vòng cung chân cô. “Mẹ ơi!” Con bé hét

lên.

Có điều gì đó trong người hắn bật ra. Hắn bàng hoàng một lúc vì khiếp

sợ điều hắn đang làm. Sợ chính hắn.

Không! Hắn không thể làm điều đó. Không phải với cô ta. Với Esther

hay Hanna thì được. Hay với người tiếp theo. Nhưng không phải cô ta.

Kể Tầm Xương lắc đầu buồn bã và chạm bàn tay vào gò má cô. Hắn

lại dán miệng cô bằng băng dính và cắt sợi dây buộc chân cô.

“Nào”, hắn lẩm bẩm.

Cô vùng vẫy hết sức nhưng hắn giữ chặt đầu cô và kẹp mũi cô cho tới

khi cô ngất đi. Sau đó hắn vác cô lên vai và đi lên cầu thang, thận trong

nhấc các túi bên cạnh lên. Rất cẩn thận. Hắn không muốn nó rơi. Lên

cầu thang. Chỉ dừng lại một lần để nhìn Maggie O’Conner bé nhỏ, tóc

quăn đang ngồi trên bụi bẩn, tuyệt vọng ngẩng đầu nhìn hắn.

HAI MƯƠI BA

Anh ta tóm họ ngay trước nhà Rhyme.

Nhanh như rắn, Jerry Banks đang bê cạnh sườn, như một món quà từ

Santa Fe. Dellray và hai đặc vụ bước từ trong ngõ ra. Anh ta tuyên bố

với vẻ thoải mái: “Có

tin mới đây, bé yêu. Cô đã bị bắt vì tội ăn cắp chứng cứ đang thuộc sự

quản lý của chính

phủ Mỹ.”

Lincoln Rhyme đã nhầm. Dellray không hề về tòa nhà kiểu liên bang.

Anh ta theo dõi chỗ ở của anh.

Banks đảo mắt. “Bình tĩnh nào, Dellray. Chúng tôi đã cứu được nạn

nhân.”

“Con giai, con làm được việc thật tốt rồi đấy. Nếu không, chúng ta sẽ

kết án con tội giết người.”

“Nhưng chúng tôi cứu được ông ta”, Sachs nói. “Còn anh thì không.”

“Vớ vẩn.”

“Còng quý cô trẻ tuổi này lại”, con Kỳ nhông bất ngờ nói với đặc vụ

lực lưỡng đứng cạnh anh ta.

Cô bắt đầu. “Chúng tôi tìm thấy thêm manh mối, đặc vụ Dellray. Hắn

đã bắt được một nạn nhân khác. Tôi không biết chúng ta còn bao

nhiêu thời gian.”

“À, còn phải mời cả anh bạn này tới dự tiệc cùng chúng ta nữa chứ.”

Dellray hất đầu về phía Banks. Một nữ đặc vụ FBI đang tiến lại chỗ

anh ta, còn anh ta có vẻ như đang nghĩ đến việc đánh nhau với cô ta.

Dellray nói vui vẻ: “Đừng, đừng, đừng. Cậu không muốn thế đâu.”

Banks miễn cưỡng chìa tay ra.

Sachs  giận  dữ  nở  một  nụ  cười  lạnh  lùng  với  viên  đặc  vụ. 

“Chuyến  đi  đến

Morningside Heights của anh thế nào?”

“Hắn đã giết chết chàng lái taxi ấy. Các chàng trai PERT của chúng tôi

đang lồm cồm khắp nhà như giòi bò trong phân.”

“Và đó là tất cả những gì họ sẽ tìm thấy”, Sachs nói. “Đối tượng này

biết về hiện trường vụ án tốt hơn anh và tôi.”

“Về trung tâm.” Dellray tuyên bố, hất đầu về phía Sachs. Cô có quyền

được yên lặng. Cô có…”

“Được rồi’, một giọng nói vang lên phía sau họ. Sachs quay lại và nhìn

thấy Jim Polling đang sải bước lên vỉa hè. Cái áo thể thao thùng thình,

tối màu anh ta đang mặc thật nhàu nát. Giống như là anh ta đã mặc nó

khi đi ngủ, mặc dù khuôn mặt u ám của anh ta nói rằng đã mấy ngày

nay anh ta chưa được ngủ. Có thể nhìn thấy bộ râu cả ngày chưa được

cạo và mái tóc thực sự rối bù của anh ta.

Dellray chớp mắt một cách khó chịu, không phải viên cảnh sát làm anh

ta thấy bất ổn mà là thân hình cao lớn của chưởng lý quận Nam đang ở

phía sau Pollong. Và sau nữa là SAC Peskins.

“Được rồi, Fred. Để họ đi.” Giọng nói của viên chưởng lý.

Con Kỳ nhông nói bằng giong nam trung của phát thanh viên chương

trình âm nhạc đài FM: ”Cô ta lấy trộm vật chứng, thưa ngài.Cô ta...”

“Tôi chỉ làm vài phân tích pháp y thôi”, Sachs nói. “Nghe này...”,

Dellray bắt đầu.

“Không”,  Polling  nói,  hoàn  toàn  làm chủ.  Không  hề  có  âm 

hưởng  giận  dữ. “Không, chúng tôi không nghe.” Anh ta quay sang

Sachs và cáu kỉnh: “Còn cô thì đừng cố làm trò.”

“Không, thưa ngài. Xin lỗi, thưa ngài.”

Viên chưởng lý nói với Dellray: ”Fred, anh hành động theo suy luận và

đã thất bại. Đó là sự thật.”

“Một đầu mối tốt”, Delllray nói.

“Chúng tôi thay đổi hướng điều tra”, viên chưởng lý tiếp tục.

Perkins nói: “Chúng tôi đã họp với giám đốc và với phòng Nghiên cứu

Hành vi. Chúng tôi quyết định rằng hướng điều tra của các thám tử

Rhyme và Sellitto là đúng.”

“Nhưng đặc tính của tôi biết chắc rằng điều gì đó đã xảy ra tại sân bay.

Và đó không phải là thứ mà anh ta thích lắm.”

“Chúng ta sẽ quay lại chuyện đó, Fred”, viên chưởng lý nói cộc lốc.

“Bất kể là tên khốn này muốn gì thì nhóm của Rhyme cũng đã cứu

được nạn nhân.”

Nhứng ngón tay dài ngoẵng của Dellray cuộn lại thành nắm đấm,

nhưng sau đó lại mở ra: “Tôi đánh giá cao việc này, thưa ngài.

Nhưng...”

“Đặc vụ Dellray, chúng tôi đã quyết định rồi.”

Khuôn mặt đen bóng – thật hăng hái khi anh điều binh khiển tướng

trong toà nhà kiểu liên bang – lúc này ủ rũ, dè dặt. Trong một khắc,

anh chàng mê nhạc jazz biến mất. “Vâng, thưa ngài.”

“Con tin gần đây nhất có thể bị chết nếu thám tử Sachs không can

thiệp”, viên chưởng lý nói.

“Là sĩ quan Sachs, thưa ngài”, cô chỉnh lại. “Vả lại phần lớn là nhờ

Lincoln

Rhyme. Tôi chỉ là tay sai của anh ta thôi. Có thể nói như vậy.”

“Vụ này trả về thành phố”, viên chưởng lý tuyên bố. “A-T của Cục vẫn

tiếp tục xử lý mối liên hệ với người đưa tin liên quan tới khủng bố

nhưng với số lượng người ít hơn. Tất cả những thông tin mà họ có

được đều phải chuyển cho các thám tử Rhyme và Sellitto. Dellray, anh

phải chuyển người sang để họ sử dụng cho bất kỳ nỗ lực tìm kiếm,

theo dõi hay giải cứu con tin nào. Hoặc bất cứ thứ gì họ cần. Anh hiểu

chứ?”

“Vâng, thưa ngài.”

“Tốt. Ạnh nên tháo còng cho các sĩ quan này ngay.”

Dellray bình tĩnh mở khóa còng và thả nó vào túi mình. Anh ta đi ra chỗ

một chiếc xe lớn đậu gần đó. Khi Sachs nhặt cái túi đựng vật chứng

lên, cô nhìn thấy anh ta đứng một mình bên rìa một vệt sáng đèn

đường, đằng sau xe của anh ta, ngón tay trỏ vuốt vuốt điếu thuốc. Cô

có một chút cảm thông với nhân viên liên bang này, sau đó cô quay lại

chạy lên cầu thang, hai bậc một, theo sau Jerry Banks và con rắn

chuông của anh ta.

“Tôi nghĩ ra rồi. À, hầu hết.”

Sachs bước và phòng Rhyme đúng lúc anh đưa ra tuyên bố này. Anh

ta khá hài lòng với bản thân.

“Mọi thứ, trừ con rắn và cái mớ hỗn độn này.”

Cô giao vật chứng mới cho Mel Cooper. Căn phòng lại được chuyển

đổi, những cái bàn được chất đầy lọ thủy tinh, cốc thí nghiệm, hộp tròn

đựng thuốc, thiết bị phòng thí nghiệm và những cái hộp. Không nhiều

như ở trụ sở FBI nhưng với Amelia Sachs, kỳ lạ thay nó lại khiến cô

thấy như đang ở nhà.

“Nói tôi nghe”, cô nói.

“Ngày mai là Chủ Nhật… xin lỗi – hôm nay là Chủ nhật. Hắn sẽ đốt

một nhà thờ.” “Làm thế nào mà anh nghĩ ra được?”

“Ngày tháng.”

“Trên mẩu giấy? Nó có ý nghĩa gì?”

“Cô đã bao giờ nghe nói tới những người vô chính phủ chưa?”

“Những người Nga nhỏ bé mặc áo choàng mang theo những quả bom

trông như quả bóng bowling phải không?” Banks nói.

“Từ một anh chàng đọc truyện tranh” Rhyme khô khan nhận xét.

“Cội-rễ-truyện- tranh-sáng-thứ-Bảy của anh ta đang thể hiện đây,

Banks. Chủ nghĩa vô chính phủ là một phong trào xã hội cũ kêu gọi loại

bỏ chính phủ. Một người vô chính phủ – Enrico Malatesta – có tuyên

ngôn ‘tuyên truyền bằng hành động’. Dịch ra là giết người và gây lộn

xộn. Một trong những kẻ theo gót ông ta, một người Mỹ tên là Eugene

Lockworthy, sống ở New York. Một buổi sáng Chủ nhật, hắn ta khóa

cửa một nhà thờ ở Upper East

Side119 ngay sau khi buổi lẽ bắt đầu và đốt nơi đó. Giết mười tám

người đi lễ.”

“Và nó xảy ra vào ngày Hai mươi tháng Năm năm 1906?” Sachs hỏi.

“Đúng.”

“Tôi sẽ không hỏi làm thế nào mà anh nghĩ ra được.”

Rhyme nhún vai.  “Rõ ràng quá. Đối tượng của chúng ta thích lịch sự,

đúng không? Hắn cho ta vài que diêm để nói với ta rằng, hắn lên kế

hoạch cho một vụ hỏa

119 Upper East Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm

giữa Công viên

Trung tâm ở sông Đông.

hoạn. Tôi vừa nghĩ tới những vụ cháy nổi tiếng của thành phố –

Triangle Shirtwaist, Crystal Palace120, du thuyền Tướng Slocum… tôi

xem lại ngày tháng – Ngày Hai mươi tháng Năm là đám cháy nhà thờ

First Methodist.”

Sachs hỏi: “Nhưng ở đâu? Cũng chỗ nhà thờ ấy?”

“Tôi nghĩ là không phải”, Sellitto nói. “Bây giờ chỗ đó là một cao ốc

thương mại,

823 không thích những chỗ mới. Tôi có một vài người dự phòng nhưng

ta không chắc là

hắn sẽ đi nhà thờ.”

“Và chúng ta nghĩ”, Rhyme nói thêm, “hắn sẽ đợi cho tới khi buổi lễ bắt

đầu.” “Vì sao?”

“Có một điều, vì đó là cách Lockworthy đã làm”, Sellitto tiếp tục.

“Hơn nữa, chúng tôi cũng nghĩ tới điều Terry Dobyns nói với chúng ta –

tăng tiền cược. Nhiều nạn

nhân hơn.”

“Như vậy là ta có thêm chút thời gian. Cho tới khi buổi lễ bắt đầu.”

Rhyme nhìn lên trần nhà. “Rồi, có bao nhiêu nhà thờ ở Manhattan?”

“Hàng trăm cái.”

“Nghe hoa mỹ lắm, Banks. Ý tôi là – chúng ta tiếp tục xem xét manh

mối. Hắn sẽ phải thu gọn còn vài cái thôi.”

Tiếng chân bước trên cầu thang. Lại là hai anh em sinh đôi.

“Chúng tôi gặp Fred Dellray ở ngoài kia.”

“Anh ta chẳng thân mật chút nào.” “Hay vui vẻ.”

“Ôi trời, nhìn này.” Saul – Rhyme tin rằng đó là Saul ; anh ta quên mất

ai là người có tàn nhang – hất đầu về phía con rắn. “Trong một đêm,

tôi đã phải nhìn thấy thứ này nhiều hơn là tôi muốn rồi đấy.”

“Rắn?” Rhyme hỏi.

“Chúng tôi đến Metamorphosis. Đó là…”

“… một chỗ rất ghê rợn. Có gặp ông chủ ở đấy. Một anh chàng kỳ

quặc. Các anh chắc cũng đoán được.”

“Để râu dài lắm. Chúng tôi ước là mình không đến đấy tối đó”,

Bedding tiếp. “Họ bán dơi nhồi bông và côn trùng…”

“Dài tới năm inch.”

“… và có những con quái vật như con này.” Sachs hất đầu về phía con

rắn. “Bọ cạp, rất nhiều bọ cạp.”

120 Crystal  Palace: Cung điện Pha Lê, một địa danh ở New York.

“Thôi được, khoảng một tháng trước họ bị đột nhập và đoán thử xem

cái gì bị mất? Một bộ xương rắn chuông.”

“Họ có báo không?” Rhyme hỏi. “Có.”

“Nhưng tổng giá trị tài sản mất cắp chỉ khoảng một trăm đô la. Vì thế

Larceny không muốn lôi tất cả mọi người vào, các anh biết đấy.”

“Nhưng nói với họ.”

Sachs gật đầu. “Con rắn không phải là thứ duy nhất bị mất. Kẻ trộm

còn lấy đi mấy chục cái xương.”

“Xương người à?” Rhyme hỏi.

“Đúng. Người chủ nghĩ điều đó thật hài hước. Những con côn trùng...”

“Quên năm inch đi, một số con dài tới tám inch. Dễ.”

“...chúng trị giá ba, bốn trăm. Nhưng tất cả vật chứng bị lấy là con rắn

và xương.” “Có xương nào đặc biệt không?”

“Một nhóm. Giống như mẫu Whitman của anh.” “Hắn ta nói thế, không

phải chúng tôi.”

“Chủ yếu là xương nhỏ. Tay và chân. Và xương sườn, có thể là cả hai

cái.” “Anh ta không chắc lắm.”

“Có báo cáo hiện trường nào không?” “Cho xương bị đánh cắp?

Không đâu.”

Những Chàng trai Dũng cảm lại đi ra, vào thành phố, tới hiện trường

cuối cùng để điều tra khu vực lân cận.

Rhyme băn khoăn về con rắn. Có phải nó cho họ biết địa điểm không?

Nó có liên quan đến đám cháy Nhà thờ First Methodist không? Nếu

bọn rắn chuông là đặc thù của Manhattan thì những công trình phát

triển thành phố đã từ lâu đóng vai trò Thánh Patrick và đã quét dọn

chúng ra khỏi đảo rồi. Hắn có chơi chữ rắn hay chuông không?”

Bất ngờ Rhyme tin rằng anh ta đã hiểu ra. “Con rắn là dành cho chúng

ta.” “Chúng ta?” Banks cười.

“Một cái tát vào mặt.” “Mặt ai?”

“Tất cả những ai đang tìm hắn. Tôi nghĩ đây là một chuyện đùa độc

địa.” “Tôi không cười quá to đâu”, Sachs nói.

“Câu của cô khá là buồn cười đấy.” Banks nhăn mặt.

“Tôi nghĩ chúng ta khá hơn hắn tưởng và hắn không thích điều này. Hắn

phát điên và hắn đổ nó sang cho chúng ta. Thom, thêm điều này vào hồ

sơ của chúng ta đi. Hắn đang nhạo báng chúng ta.”

Điện thoại của Sellitto đổ chuông. Anh ta nghe và trả lời. “Emma thân

yêu. Cô có gì thế?” Anh ta gật đầu trong khi ghi chép. Sau đó ngẩng

lên và thông báo. “Những tên trộm xe cho thuê. Hai chiếc Avis đã biến

khỏi chỗ của chúng ở Bronx trong tuần qua, một chiếc ở Midtown.

Chúng để ở ngoài vì màu không đúng: đỏ, xanh và trắng. Không có tính

dân tộc. Bốn chiếc Hertz bị đánh cắp. Ba chiếc ở Manhattan – một

chiếc từ địa điểm của họ ở trung tâm East Side, một chiếc từ Midtown

và một chiếc từ Upper West Side. Hai cái màu xanh và – có thể đây là

nó – một cái màu nâu. Nhưng chiếc Ford bạc bị lấy từ White Plains.

Đó là sự bầu chọn của tôi.”

“Đồng ý”, Rhyme tuyên bố. “White Plains.”

“Làm sao anh biết?” Sachs hỏi. “Monelle nói có thể nó màu be hay

màu bạc.”

“Vì anh chàng của chúng ta đang ở trong thành phố”, Rhyme giải thích,

“và nếu hắn ta lấy một thứ to như một chiếc xe hơi thì hắn sẽ làm việc

đó càng xa hang ổ của hắn càng tốt. Một chiếc xe Ford, anh vừa nói

thế à?”

Sellitto hỏi Emma, sau đó ngẩng lên. “Taurus. Kiểu của năm nay. Nội

thất màu xám tối. Biển số không trùng.”

Rhyme gật đầu. “Thứ đầu tiên mà hắn thay đổi sẽ là biển số xe. Hãy

cảm ơn cô ấy và bảo cô ấy chợp mắt một chút. Nhưng đừng rời điện

thoại quá xa.”

“Tôi có gì này, Lincoln”, Mel Cooper gọi. “Gì thế?”

“Mớ hỗn độn. Tôi đã chạy nó qua cơ sở dữ liệu thương hiệu.” Anh ta

bật màn hình. “Tham chiếu chéo… Xem nào, phù hợp nhất có lẽ là

Kink-Away. Đó là loại thuốc duỗi tóc được bán trong cửa hàng.”

“Không phù hợp lắm về mặt chính trị, nhưng có ích. Điều này đưa ta

đến Harlem, các anh có nghĩ thế không? Thu hẹp số lượng nhà thờ một

cách đáng kể.” Banks đang lướt qua mục buổi lễ tôn giáo trong danh

bạ của ba tờ báo thành phố. “Tôi đếm được hai mươi ba.”

“Buổi lễ sớm nhất là lúc nào?”

“Ba nơi làm lễ lúc tám giờ. Sáu nơi lúc chín giờ. Một nơi vào lúc chín

rưỡi. Còn lại vào mười hay mười một giờ.”

“Hắn ta sẽ đến nhà thờ làm lễ đầu tiên. Hắn đã cho chúng ta vài giờ để

tìm kiếm chỗ này rồi.”

Sellitto nói. “Tôi sẽ bảo Haumann tập hợp các anh chàng ESU của

chúng ta lại.” “Còn Dellray thì sao?” Sahcs nói. Cô hình dung ra viên

đặc vụ đáng thương đứng

một mình trong góc phố phía bên ngoài. “Hắn ta thì sao?” Sellitto lẩm

bẩm.

“À,cho anh ta nhập cuộc với. Anh ta muốn bắt thằng cha kia lắm đấy.”

“Perkins nói anh ta sẽ phải giúp đỡ”, Banks khuyến nghị. “Cô thực sự

muốn có hắn ư?” Sellitto nhăn nhó hỏi.

Sachs gật đầu. “Chắc chắn.”

Rhyme đồng ý. “Được rồi, anh ta có thể chỉ huy các nhóm S&S của

liên bang. Tôi muốn mỗi nhà thờ có một nhóm ngay lập tức. Tất cả các

lối vào. Nhưng họ phải đứng cách đó thật xa. Tôi không muốn đánh

động hắn. Ta có thể bắt quả tang hắn.”

Sellitto nhận một cuộc gọi. Anh ta ngẩng lên, mắt nhắm. “Lạy Chúa.”

“Ồ, không”, Rhyme lẩm bẩm.

Viên thám tử lau khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi và gật đầu. “Trung tâm

nhận được một cuộc gọi 911 từ nhân viên trực đêm mở một khu nào

đó? Khách sạn Midtown Residence? Một người phụ nữ và con gái cô

ta gọi cho anh ta từ La Guardia, nói rằng họ sẽ bắt đầu lên taxi đến.

Một lúc trước; nhưng họ lại không đến. Biết tin tức về vụ bắt cóc, anh

ta nghĩ anh ta nên gọi điện. Tên cô ta là Carole Ganz. Đến từ

Chicago.”

“Quỷ thật”, Bank lẩm bẩm. “Có cả một đứa bé gái. Chắc là ta phải

dừng hết taxi ngoài phố cho tới khi tóm được hắn.”

Rhyme vô cùng mệt mỏi. Đầu anh điên đảo. Anh nhớ lại lúc khám

nghiệm hiện trường tại một nhà máy sản xuất bom. Nitroglycerin rơi ra

từ một ít thuốc nổ thấm vào chiếc ghế bành mà Rhyme phải tìm kiếm

dấu vết trên đó. Nitroglycerin làm cho ta đau đầu dữ dội.

Màn hình máy tình của Cooper nhấp nháy. “Thư điện tử”, anh ta nói và

mở thông điệp. Anh ta đọc những dòng chữ nhỏ xíu.

“Họ đã phân cực tất cả các mẫu giấy bóng kính mà ESU thu thập

được. Họ cho rằng mẩu giấy chúng ta tìm thấy trên khúc xương ở hiện

trường Phố Pearl là từ cửa hàng thực phẩm ShopRite. Giống nhất với

loại giấy bóng kính mà họ sử dụng.”

“Tốt”, Rhyme nói. Anh hất đầu về phía tấm áp phích. “Gạch bỏ tất cả

cửa hàng thực phẩm trừ ShopRite đi. Ta còn những địa điểm nào.”

Anh nhìn Thom xóa tên các cửa hàng, chỉ để lại bốn. B’way & 82nd

Greenwich & Bank

8th Ave. & 24th

Houston & Lafayette

Side.”

“Như thế là ta còn lại Upper West Side, West Village, Chelsea và

Lower East

“Nhưng hắn có thể đến bất cứ đâu để mua.”

“Chắc chắn là hắn có thể rồi, Sachs. Hắn có thể mua chúng ở White

Plains khi hắn

ăn trộm xe. Hay ở Cleveland khi đi thăm mẹ hắn. Nhưng nghe nay, có

một điểm là bọn thủ phạm cảm thấy thoải mái với sự lừa dối của chúng

và chúng không còn quan tâm đến

việc che giấu dấu vết nữa. Những kẻ ngu xuẩn – hay lười biếng – ném

khẩu súng còn bốc khói xuống hố rác ngay sau nhà mình và vui vẻ biến

đi. Những kẻ thông mình ném nó vào một thùng Spackle rồi vứt vào

Hell Gate. Những kẻ xuất sắc lẻn vào nhà máy lọc dầu và làm nó bốc

hơi trong lò nóng năm nghìn độ. Nghi phạm của chúng ta thông minh,

chắc chắn rồi. Nhưng hắn cũng giống như tất cả các tên tội phạm khác

trong lịch sử thế giới. Hắn cũng có giới hạn. Tôi cá là hắn nghĩ chúng ta

không có thời gian hay ý định tìm kiếm hắn hay hang ổ của hắn vì chúng

ta quá bận bịu với những manh mối để lại. Nhưng tất nhiên là hắn hoàn

toàn sai lầm. Đó chính xác sẽ là cách chúng ta tìm ra hắn. Còn bây giờ,

hãy xem liệu ta có đến gần được hang ổ của hắn hay không? Mel, có gì

trong quần áo của nạn nhân từ hiện trường vừa rồi không?”

Những đợt sóng thủy triều đã giặt sạch hầu hết mọi thứ trên quần áo

của William

Everett.

“Cô nói là họ có đánh nhau, phải không Sahcs? Nghi phạm và ông

Everett này.” “Không hắn là một vụ đánh nhau. Everett tóm áo hắn.”

Rhyme tặc lưỡi. “Chắc là tôi mệt rồi. Nếu tôi nghĩ đến việc đó thì tôi đã

bảo cô cạo móng tay ông ta. Kể cả khi ông ta chìm dưới nước thì vẫn

có một chỗ...”

“Đây này, cô nói và chìa ra hai cái túi nhựa.” “Cô có cạo?”

Cô gật đầu.

“Nhưng sao lại hai túi?”

Nhấc lần lượt từng cái lên, cô nói: “Tay phải, tay trái.”

Mel Cooper bật cười. “Ngay cả anh cũng chẳng bao giờ nghĩ đến việc

dùng hai túi cho hai tay. Ý hay tuyệt.”

Rhyme gầm gừ. “Phân tích hai tay có khả năng cùng có giá trị giám

định.”

“Ôi trời”, Cooper vẫn cười. “Thế có nghĩa là anh ta nghĩ đó là một ý

tuyệt vời và anh ta tiếc rằng mình không phải là người đầu tiên nghĩ ra

nó.”

Kỹ thuật viên nghiên cứu chỗ cạo móng tay. “Ở đây có ít gạch.”

“Chẳng có tí gạch nào quanh ống cống hay ngoài hiện trường”, Sachs

nói. “Nó bị gãy vụn. Nhưng có cái gì dính vào đó. Tôi không biết đấy

là thứ gì.”

Banks hỏi: “Có thể là từ đường hầm chỗ bãi chăn không? Ở đó có rất

nhiều gạch, đúng không?”

“Và tất cả xuất phát từ cô Annie Oakley121 đây”. Rhyme nói, buồn

bã hất đầu về phía Sachs. “Không, nhớ lại đi, thủ phạm đã bỏ đi trước

khi cô ta rút súng sáu.” Sau đó anh nhăn nhó, thấy mình cố vươn ra

phía trước. “Mel, tôi muốn xem mẩu gạch đó. Trên kính hiển vi. Có

cách nào không?”

121 Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.

Cooper nhìn ra chỗ máy tính của Rhhyme. “Tôi nghĩ ta có thể làm gì

đó.” Anh ta kéo một sợi cáp từ cổng video của chiếc kính hiển vi tới

máy tính của anh ta và sau đó đào bới trong cái va li. Anh ta lôi ra một

sợi cáp to, dây màu xám. “Đây là cáp nối tiếp”. Anh ta kết nối hai máy

tính với nhau và truyền một phần mềm gì đó sang chiếc Compaq của

Rhyme. Sau năm phút, Rhyme phấn chấn nhìn được đúng những gì mà

Cooper đang nhìn qua ống ngắm kính hiển vi của anh ta.

Đôi mắt của nhà hình sự học quét qua mẩu gạch, đã được phóng đại

khổng lồ. Anh cười thành tiếng. “Hắn ta đã tự đánh bẫy mình. Có thấy

những đốm trắng màu trắng dính vào mẩu gạch không?”

“Cái gì đấy?” Sellitto hỏi.

“Trông giống như hồ dán”, Cooper đề xuất.

“Chính xác. Từ cuộn băng dính làm sạch lông thú vật trên quần áo.

Những tên tội phạm thực sự cẩn thận dùng thứ này để xóa sạch dấu

vết khỏi quần áo chúng. Nhưng chúng bị phản pháo. Vài mẩu hồ rơi ra

khỏi cuộn băng dính và dính vào quần áo của hắn. Như vậy ta biết đó

là từ nơi ẩn nấp an toàn của hắn. Chính mẩu hồ giữ sạch mẩu gạch lại

cho tới khi móng tay của Everett nhặt nó lên.”

“Mẩu gạch ấy có nói cho ta biết điều gì không?” Sachs hỏi.

“Nó đã cũ. Và đắt tiền – gạch rẻ tiền rất xốp có trộn chất làm đầy. Tôi

nghĩ chỗ của hắn có thế là một cơ quan hay tòa nhà của ai đó rất giàu

có. Tòa nhà ít nhất đã một trăm năm. Có thể cổ hơn.”

“À, đây rồi”, Cooper nói. “Có vẻ là một mẩu găng tay nữa. Nếu thứ

này cứ tiếp tục phân rã thì chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có dấu vân

tay của hắn thôi.”

Màn hình của Rhyme nhấp nháy và một khắc sau anh nhận thấy có một

mẩu da nhỏ xuất hiện trên màn hình. “Có thứ trông buồn cười này”,

Cooper nói.

“Không phải màu đỏ”, Rhyme nhận xét. “Như mẩu kia. Mẩu này lại

màu đen. Cho nó qua máy GC-MS xem.”

Cooper thử, sau đố gõ lên màn hình của anh ta. “Đó là da. Nhưng

thuốc nhuộm khác. Có thể nó đã bị dây bẩn hoặc phai màu.”

Rhyme nghiêng người về phía trước, căng thẳng, nhìn kỹ mẩu da trên

màn hình và anh nhận ra mình gặp rắc rối. Rắc rối nghiêm trọng.

“Này, anh ổn chứ?” Sachs chính là người thốt lên.

Rhyme không trả lời. Cổ và cằm anh bắt đầu rung bần bật. Một cảm

giác như cơn rối loạn tràn lên từ cạnh cột sống đã gãy của anh và lan

lên đầu. Sau đó, tựa như bộ điều chỉnh nhiệt được bật lên, cơn lạnh và

gai ốc biến mất, anh bắt đầu toát mồ hôi. Mồ hôi túa ra trên mặt anh và

cù anh buồn phát điên.

“Thom!” Anh thì thầm. “Nó đến đấy.”

Sau đó anh thở hổn hển, cơn đau đầu dâng lên và lan tỏa theo thành

hộp sọ. Anh nghiến chặt răng, lắc đầu, làm bất cứ điều gì có thể để

ngăn chặn cơn đau không thể chịu đựng được. Nhưng chẳng có ích gì.

Đèn trong phòng nhấp nháy. Cơn đau dữ dội tới mức

phản ứng của anh là chạy trốn khỏi nó, chạy trên đôi chân bại liệt đã

không nhúc nhích được trong nhiều năm.

“Lincoln!” Sellitto la lớn.

“Nhìn mặt anh ấy kìa”, Sachs hổn hển, “nó đỏ rực”.

Còn tay anh thì trắng bệch như ngà voi. Cả người anh dước kinh độ

C4122 thần kỳ đang trắng bệch. Máu của Rhyme, trong một sứ mệnh

tuyệt vọng, sai lầm là phải đến được chỗ nó nghĩ nó cần đến, đang dồn

lên những ống mao dẫn trên não anh, khiến chúng dãn ra, đe dọa làm

nổ tung những mạch máu yếu ớt.

Dù cơ đột quỵ càng ngày càng tệ hại hơn, nhưng Rhyme vẫn biết được

Thom đang vươn trên người anh, kéo tung cái chăn ra khỏi giường.

Anh vẫn biết Sachs tiến về phía trước, đôi mắt xanh dương tỏa sáng

của cô co lại vì lo lắng. Điều cuối cùng anh nhìn thấy trước khi bóng tối

trùm xuống là con chim ưng đang tung bay ra khỏi bờ tường trên đôi

cánh to lớn của nó, bị giật mình vì những hoạt động rối loạn bất ngờ

trong phòng, tìm kiếm sự quên lãng dễ dàng trong làn không khí nóng

bỏng bên trên những con phố trống vắng của thành phố.

122 C4: Đốt sống C4.

HAI MƯƠI BỐN

Khi Rhyme ngất đi, Sellitto là người đầu tiên chạy tớ chỗ cái điện thoại.

“Quay 911 gọi EMS”, Thom ra lệnh. “Sau đó quay số này. Quay số

nhanh. Đó là

Peter Taylor, chuyên gia cột sống của chúng tôi.” Sellitto gọi điện.

Thom quát: “Tôi cần giúp đỡ. Có ai đó không?”

Sachs đứng gần nhất. Cô gật đầu, bước lại phía Rhyme. Viên trợ lý ôm

dưới nách người đàn ông bất tỉnh nhân sự và kéo anh ta nằm cao hơn.

Anh ta giật tung chiếc áo sơ mi và ấn tay vào lồng ngực nhợt nhạt, vừa

làm vừa nói. “Những người còn lại, làm ơn đi ra chỗ khác.”

Sellitto, Banks và Cooper vẫn ngần ngừ trong giây lát rồi bước ra

ngoài. Sellitto đóng cánh cửa phía sau họ.

Một chiếc hộp màu be xuất hiện trên tay viên trợ lý. Bên trên nó có

mấy cái công tắc và núm xoay, một sợi dây nối từ đó ra một chiếc đĩa

phẳng được người trợ lý đặt lên ngực Rhyme và dán xuống.

“Bộ kích thích thần kinh cơ hoành. Nó giúp anh ta thở.” Anh bật máy.

Thom quấn cái vòng đo huyết áp và cánh tay trắng như thạch cao của

Rhyme. Sachs nhận thấy ngay từ đầu là cơ thể anh ta gần như không

có nếp nhăn. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi nhưng cơ thể anh ta là của

một thanh niên hai mươi nhăm tuổi.

“Sao mặt anh ấy lại đỏ thế? Trông anh ta giống như sắp nổ tung.”

“Đúng thế”, Thom nghiêm trọng nói, lôi bộ dụng cụ bác sĩ từ dưới cái

bàn đầu giường. Anh mở nó ra rồi tiếp tục đo huyết áp. “Mất phản

xạ... Sự căng thẳng ngày hôm nay. Tinh thần và thể chất. Anh ấy không

quen với nó.”

“Anh ta nói suốt là bị mệt.”

“Tôi biết. Nhưng tôi không thường xuyên chú ý. Suỵt. Tôi phải nghe

đã.” Anh ta cắm ống nghe vào tai, thổi căng chiếc vòng đo huyệt áp và

từ từ xả khí. Nhìn đồng hồ. Hai cánh tay anh ta vững như đá. “Tâm

trương một trăm hai mươi lăm. Mẹ kiếp.”

Lạy Chúa, Sachs nghĩ. Anh ta sẽ bị đột quỵ mất.

Thom hất đầu về phía cái túi đen. “Chị tìm một chai nifedipine. Rồi mở

một cái ống rò ra.” Trong khi cô tìm kiếm, Thom tụt chiếc quần pyjama

của Rhyme xuống, vơ lấy một cái ống thông tiểu cạnh giường, xé luôn

cái túi nhựa đựng nó. Anh ta bôi chất K-Y vào một đầu rồi nâng cái

dương vật nhợt nhạt của Rhyme lên., nhẹ nhàng nhưng nhanh chóng

nhét chiếc ống thông vào trong.

“Đây là một phần của vấn đề. Áp lực trong ruột và bang quang cơ thể

gây ra đột quỵ. Hôm nay anh ấy uống nhiều hơn mức cho phép.”

Cô mở kim tiêm dưới da ra, nhưng nói: “Tôi không biết tiêm.”

“Tôi sẽ làm.” Anh ta ngẩng lên nhìn cô. “Tôi muốn nhờ cô… cô không

thấy phiền khi làm việc này chứ? Tôi không muốn ống bị xoắn.”

“Được chứ. Chắc chắn rồi.” “Cô cần găng tay không?”

Cô đi găng tay, thận trong nắm lấy dương vật của Rhyme bằng tay trái,

tay phải giữ ống. Đã rất, rất lâu rồi cô mới chạm vào chỗ đó của đàn

ông. Da mềm mại và cô nghĩ thật lạ lùng khi gần như trung tâm của sự

tồn tại của người đàn ông lúc nào cũng mềm như lụa.

Thom tiêm thuốc rất thành thục. “Nào, Lincoln…”

Có tiếng còn hụ vẳng lại từ xa.

“Họ gần đến nơi rồi.” Cô nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ.

“Nếu ta không làm anh ấy tỉnh lại ngay bây giờ thì họ cũng chẳng giúp

được gì.” “Phải bao lâu thuốc mới có tác dụng?”

Thom liếc nhìn Rhyme đang vô cảm, nói: “Nó phải có hiệu lực ngay

bây giờ. Nhưng nếu liều cao quá anh ấy có thể bị sốc.” Viên trợ lý cúi

xuống và lật mi mắt Rhyme ra. Đồng từ xanh lơ đờ đẫn, không tập

trung.

“Không tốt rồi.” Anh ta lại đo huyết áp. “Một trăm năm mươi. Chúa

ơi.” “Nó giết anh ta mất”, cô nói.

“Ồ. Không vấn đề gì.”

“Cái gì?” Amelia Sachs choáng váng thì thầm.

“Anh ấy không quan tâm đến cái chết.” Anh thoáng nhìn cô như thể cô

vẫn chưa hiểu ra chuyện gì. “Anh ấy chỉ không muốn bị bại liệt hơn bây

giờ.” Anh chuẩn bị một mũi tiêm khác. “Có thể anh ấy đã bị rồi. Ý tôi

nói là một cơn đột quỵ. Điều đó làm anh ấy hoảng sợ.”

Thom cúi người về phía trước và tiêm thêm một liều thuốc nữa.

Tiếng còi hụ đã rất gần. Cả tiếng còi xe. Xe hơi có thể chặn đường xe

cấp cứu, không hề có ý định vội vã tránh đường – một đặc thù về

thành phố làm cho Sachs giận giữ.

“Cô có thể lấy ống thông ra được rồi.”

Cô thận trong rút cái ống ra. “Tôi có cần...” Cô hất đầu về phía túi

nước tiểu. Thom cố nở một nụ cười yếu ớt. “Đó là việc của tôi.”

Vài phút trôi qua. Xe cứu thương có vẻ như không động đậy, nhưng

rồi đột nhiên một giọng nói vang lên trong loa phóng thanh và tiếng còi

hụ lại gần hơn.

Bất thình lình Rhyme động đậy. Đầu anh lắc nhẹ. Sau đó ngẩng lên cúi

xuống, dựa vào gối. Tông màu đỏ rực trên da anh đã nhạt bớt.

“Lincoln, anh nghe tôi nói không?” Anh rên rỉ: “Thom...”

Rhyme đang run rẩy dữ dội. Thom lấy chăn đắp cho anh.

Sachs thấy mình đang vuốt mái tóc rối bời của Rhyme. Cô lấy khăn

thấm mồ hôi trên trán anh.

Tiếng bước chân thình thịch trên cầu thàng và hai nhân viên y tế lực

lưỡng của EMS xuất hiện, tiếng bộ đàm khụt khịt. Họ chạy vội vào

phòng, đo huyết áp Rhyme và kiểm tra bộ kích thích thần kinh. Một

giây sau, bác sĩ Peter Taylor lao vào phòng.

“Peter”, Thom nói. “Là mất phản xạ.” “Huyết áp.”

“Giảm rồi. Nhưng tệ lắm. Trên một trăn năm mươi.” Ông bác sĩ nhăn

mặt.

Thom giới thiệu Taylor với các nhân viên y tế của EMS. Họ có vẻ chào

mừng vì đã có chuyện gia ở đây và lùi lại khi Taylor đến gần giường.

“Chào bác sĩ.” Rhyme run rẩy nói.

“Hãy kiểm tra mắt đã nào.” Taylor chiếu đền vào đồng tử Rhyme.

Sachs nhìn mặt ông bác sĩ để thăm dò phản ứng và cô thấy lo lắng vì

vẻ mặt nhăn nhó của ông ta.

“Không cần máy kích thích thần kinh làm gì”, Rhyme thầm thì.

“Cậu và lá phổi của cậu, đúng không?” Ông bác sĩ hỏi chế giễu. “Được

rồi, cứ để nó đấy một lúc, sao lại không nhỉ? Chỉ cho tới khi ta biết

chắc chuyện gì đang xảy ra.” Ông ta nhìn Sachs. “Có thể cô nên đợi

dưới nhà.”

Taylor cúi xuống gần hơn và Rhyme nhận thấy những giọt mồ hôi đang

lấm tấm trên đầu ông ta, dưới lớp tóc mỏng.

Ông bác sĩ khéo léo lật mi mắt và nhìn vào một đồng tử, sau đó là

đồng tử còn lại. Ông ta đo huyết áp cho Rhyme, ánh mắt xa xắm vẻ

tập trung cao độ của những bác sĩ trong giây phút quan trọng.

“Đang trở lại bình thường”, ông ta tuyên bố. “Nước tiểu thế nào?”

“Bảy trăm cc”, Thom nói.

Taylor quắc mắt. “Coi thường mọi thứ rồi à? Hay chỉ là uống quá

nhiều?”

Rhyme quắc mắt nhìn lại: “Chúng tôi bị rối trí, thưa bác sĩ. Tối nay tôi

bận quá.” Taylor nhìn theo hướng đầu của Rhyme và đảo mắt quanh

phòng, ngạc nhiên như

thể ai đó đã đưa trộm thiết bị vào khi ông không nhìn. “Tất cả những

thứ này là gì?” “Họ không cho tôi nghỉ hưu nữa.”

Vẻ mặt nhăn nhó của Taylor biến thành nụ cười. “Đúng lúc đấy. Tôi đã

chạy theo cậu vài tháng để bắt cậu phải làm gì đó với cuộc sống của

mình. Còn tình hình bụng dạ thế nào?”

Thom nói: “Khoảng mười hai, mười bốn giờ.” “Cậu vô tâm quá”,

Taylor rầy la.

“Không phải lỗi của cậu ta”, Rhyme càu nhàu. “Cả ngày hôm nay nhà

tôi có rất nhiều người.”

“Tôi không muốn nghe thanh minh”, ông bác sĩ quát lại. Đó chính là

Peter Taylor, người không bao giờ nói chuyện với Rhyme qua bất kỳ ai

và không bao giờ cho bệnh nhân bắt nạt ông.

“Chúng ta cần chăm sóc mọi thứ một chút.” Ông đi đôi găng tay phẫu

thuật, cúi xuống thân hình Rhyme. Những ngón tay ông bắt đầu làm

việc trên bụng Rhyme và bắt các cơ quan nội tạng phải làm công việc

của mình. Thom nhấc chăn và lấy bỉm dùng một lần.

Một lát sau, việc đã xong và Thom vệ sinh cho ông chủ.

Taylor bất ngờ nói: “Tôi hy vọng cậu đã bỏ cái thứ vớ vẩn ấy đi rồi

chứ?” Nghiên cứu Rhyme một cách kỹ lưỡng.

Cái thứ vớ vẩn ấy...

Ý ông ta là vụ tự tử. Liếc nhìn Thom, Rhyme nói: “Cũng không nghĩ

đến nó được một lúc.”

“Tốt.” Taylor nhìn vào các thiết bị trên bàn. “Đây là việc mà cậu phải

làm. Có thể

Sở sẽ lại trả lương cho cậu đấy.”

“Tôi không nghĩ là tôi có đủ sức khỏe.” “Đầu cậu thế nào?”

“Có thể dùng một tá cuốc chim để mô tả nó. Cổ tôi cũng thế. Bị hai lần

chuột rút là rất tệ hại trong ngày hôm nay.”

Taylor đi ra sau chiếc giường Clinitron, ấn các ngón tay của ông vào

hai bên cột sống của Rhyme, chỗ mà – Rhyme nghĩ, mặc dù tất nhiên là

anh chưa bao giờ nhìn thấy chỗ đó – có những vết sẹo rõ ràng từ

những cuộc phẫu thuật mà anh phải chịu đựng trong những năm qua.

Taylor thành thục xoa bóp cho Rhyme, ấn sâu vào những sợi cơ căng

cứng trên cổ và vai anh. Cơn đau từ từ biến mất.

Anh cảm thấy những ngón tay cái của bác sĩ dừng lại ở chỗ mà anh

đoán là đốt xương sống bị vỡ.

Còn tàu vũ trụ, con cá đuối...

“Một ngày nào đó họ sẽ chữa được”, Taylor nói. “Một ngày nào đó,

nó sẽ chẳng tệ hơn là gãy chân. Cậu nghe tôi. Tôi tiên đoán điều đó.”

Mười lăm phút sau, Peter Taylor xuống cầu thang và góp mặt với

những viên cảnh sát đang đứng trên vỉa hè.

“Anh ta ổn chứ?” Amelia Sachs lo lắng hỏi.

“Huyết áp giảm rồi. Chủ yếu là cậu ta cần được nghỉ ngơi.”

Bác sĩ, một người đàn ông trông rất bình thường, chợt nhận ra rằng

mình đang nói chuyện với một phụ nữ tuyệt đẹp. Ông vuốt lại mái tóc

muối tiêu đang mỏng dần và phóng một cái nhìn vào thân hình yểu điệu

của cô. Ánh mắt ông chuyển sang những chiếc xe đặc nhiệm đỗ trước

nhà và hỏi: “Cậu ta giúp các bạn vụ nào vậy?”

Sellitto lưỡng lự, như tất cả những thám tử khác trước câu hỏi tương tự

của một thường dân. Những Sachs đoán Taylor và Rhyme rất gần gũi

nên cô nói: “Những vụ bắt cóc. Ông có nghe nói về chúng không?”

“Vụ tay lái xe taxi? Có trên tất cả các báo. Thế là tốt cho cậu ấy. Công

việc là thứ tốt nhất có thể đến với cậu ấy. Cậu ấy cần bạn bè và cậu ấy

cần mục đích.”

Thom xuất hiện bên trên cầu thang. “Anh ấy nói cám ơn, Peter. Thực

ra anh ấy không nói cám ơn. Nhưng  ý anh ấy thế. Ông biết anh ấy

mà.”

“Với tôi thế là được”, Taylor hỏi, giọng ông ta lúc này hạ xuống, đầy

toan tính. “Cậu ta còn định nói chuyện với họ nữa không?”

Và sau khi Thom nói “không”, có cái gì đó trong giọng điệu anh ta nói

với Sachs là anh ta đang nói dối. Cô không biết điều đó là gì và nó có

thể quan trọng đến đâu. Nhưng nó làm cô khổ sở.

Định nói chuyện với họ?

Nhưng có vẻ như Thom không lừa được Taylor. Ông ta nói: “Ngày

mai tôi quay lại, xem cậu ấy thế nào.”

Thom nói anh ta đánh giá cao việc đó và Taylor khoác túi lên vai rồi đi

khỏi.Viên trợ lý ra hiệu cho Sellitto. “Anh ấy muốn nói chuyện với anh

một lúc.” Viên thám tử nhanh chóng đi lên cầu thang. Anh ta biến mất

vào trong phòng, sau khoảng vài phút anh ta và Thom cùng đi ra ngoài.

Sellitto lúc này cũng nghiêm trang liếc nhìn cô. “Đến lượt cô đấy.” Va

hất đầu về phía sau cánh cửa.

Rhyme nằm trên cái giường khổng lồ, tóc rối bù, mặt đã hết đỏ, tay

không còn trắng bệch. Căn phòng bốc mùi nội tạng khắm khú. Trên

giường đã có vải trải giường mới và anh đã được thay quần áo mới.

Lần này là một bộ Pyjama màu xanh lá như bộ véc của Dellray.

“Đây là bộ pyjama màu xấu xí nhất mà tôi từng nhìn thấy”, cô nói. “Vợ

cũ của anh mua đấy à?”

“Làm thế nào cô đoán ra? Quà tặng kỷ niệm ngày cưới. Xin lỗi vì đã

làm cô sợ.” Anh ta nói, không nhìn vào cô. Anh ta bỗng có vẻ ngại

ngùng và điều này làm cô khó chịu. Cô nghĩ đến cha mình trong phòng

tiền phẫu thuật ở viện Sloan-Kettering trước khi họ đưa ông vào một

cuộc phẫu thuật mang tính thăm dò mà sau đó ông không bao giờ tỉnh

lại.

“Xin lỗi?” Câu hỏi của cô thật đáng sợ. “Đừng làm trò khỉ ấy nữa,

Rhyme.”

Anh ngắm nhìn cô khoảng một phút rồi nói: “Hai người sẽ ổn thôi.”

“Hai chúng tôi?”

“Cô và Lon. Tất nhiên là cả Mel nữa. Và Jim Polling.” “Ý anh là gì?”

“Tôi rút lui.” “Anh cái gì?”

“Quá nặng nề đối với một hệ thống cũ kỹ. Tôi sợ là như thế.”

“Nhưng anh không thể rút lui dược.” Cô vẫy tay về phía tấm áp phích

Monet. “Hãy nhìn tất cả những thứ mà chúng ta tìm được về 823.

Chúng ta gần hắn lắm rồi.”

“Thề thì các bạn càng không cần đến tôi nữa. Tất cả những gì các bạn

cần là một chút may mắn.”

“May mắn? Phải mất mười mấy năm mới tóm được Bandy. Còn tên

giết người

Zodiac thì sao? Còn Người Sói?”

“Chúng ta có thông tin tốt. Thông tin chắc chắn. Cô sẽ tìm được những

manh mối tốt. Cô sẽ tóm được hắn, Sachs. Thiên thần may mắn của cô

sẽ cất tiếng trước khi họ đưa cô sang Phòng Quan Hệ Công chúng.

Tôi có cảm giác Đối tượng 823 đang trở nên tự mãn; thậm chí hắn có

thể bị tóm ngay ở nhà thờ.”

“Trông anh ổn lắm”, một lát sau cô nói. Mặc dù trông anh ta không hề

ổn tí nào. Rhyme cười. Sau đó nụ cười nhạt đần. “Tôi rất mệt. Và đau.

Quỷ thật, tôi nghĩ là

tôi thấy đau ở những chỗ mà bác sĩ bảo tôi không thể cảm thấy đau.”

“Làm như tôi nói đi. Ngủ một lúc.”

Anh cố tạo ra một nụ cười nhạo báng nhưng giọng anh rất yếu. Cô

ghét phải nhìn thấy anh như thế. Anh ho nhẹ, nhìn xuống cái máy kích

thích thần kinh, nhăn mặt như thể anh cảm thấy ngượng ngùng vì mình

phải phụ thuộc vào máy móc. “Sachs,… tôi không nghĩ là chúng ta sẽ

tiếp tục làm việc cùng nhau. Tôi chỉ muốn nói rằng trước mắt cô là sự

nghiệp sáng lạng, cô có những lựa chọn đúng đắn.”

“Được rồi, tôi sẽ quay lại và gặp anh sau khi đá đít hắn.”

“Tôi cũng muốn thế. Tôi rất mừng vì hôm qua sĩ quan đầu tiên lại là cô.

Tôi không muốn đan lưới cùng ai khác. »

“Tôi…”

“Lincoln”, một giọng nói vang lên. Cô quay lại và nhìn thấy một người

đàn ông đang đứng ngoài cửa, Ông ta tò mò nhìn quanh phòng, để ý

đến tất cả các loại thiết bị.

“Ở đây trông có vẻ phấn khích quá nhỉ?”

“Chào bác sĩ”, Rhyme nói. Mặt anh ta tươi lên thành một nụ cười.

“Làm ơn, vào nhà đi.”

“Bác sĩ William Berger, còn đây là Amelia Sachs.”

Nhưng Sachs có thể thấy cô không còn tồn tại trong vũ trụ của Lincoln

Rhyme nữa. Tất cả những gì còn lại cần được nói – và cô cảm thấy có

điều gì đó, rất nhiều điều – phải đợi. Cô đi ra cửa. Thom, đang đứng ở

hành lang bên ngoài, đóng cửa sau lưng cô, và luôn đúng mực, ngừng

lại gật đầu để cô đi trước anh ta.

Khi Sahcs bước vào màn đêm nóng bức, cô nghe thấy một giọng nói

gần đó. “Xin

lỗi.”

Cô quay lại và thấy bác sĩ Peter Taylor đứng một mình dưới gốc cây

bạch quả.

“Tôi nói chuyện với cô một phút, được không?”

Sachs đi theo Taylor lên vỉa hè cách đó mấy nhà.

“Vâng?” Cô hỏi. Ông ta dựa vào bức tường đá và lại vô thức vuốt tóc.

Sachs nhớ lại không biết bao nhiêu lần cô đã dọa nạt được những

người đàn ông chỉ bằng một lời nói hay cái liếc mắt. Cô nghĩ,  ý nghĩ

thường xuyên đến với cô: Quyền lực của sắc đẹp mới vô dụng làm sao.

“Cô là bạn cậu ấy, đúng không?” Ông bác sĩ hỏi cô. “Ý tôi là cô làm

việc với cậu ấy nhưng cô cũng là bạn cậu ấy chứ.”

“Chắc rồi. Tôi đoán thế.”

“Người đàn ông vừa vào nhà. Cô biết ông ta là ai không?” “Tôi nghĩ là

Berger. Ông ta là bác sĩ.”

“Ông ta có nói ông ta đến từ đâu không?” “Không.”

Taylor ngẩng nhìn cửa số phòng ngủ của Rhyme trong một khắc. Ông

hỏi: “Cô có biết Hội Bến mê không?”

“Không, ồ, đợi đã… đó là nhóm ủng hộ chết theo yêu cầu, đúng

không?”

Taylor gật đầu. “Tôi biết tất cả bác sĩ của Lincoln. Và tôi lại chưa bao

giờ nghe nói đến Berger. Tôi vừa nghĩ không biết ông ta có phải là một

trong số họ không?”

“Cái gì?”

Anh ta vẫn nói chuyện với họ…

Như vậy họ nói về chuyện ấy.

Cô có cảm giác mình trong trạng thái không trọng lượng vì bị sốc.

“Anh ấy có…

trước đây anh ấy có nói nghiêm túc về chuyện này không?”

“Ồ, có chứ.” Taylor thở dài, nhìn lên bầu trời đêm mờ sương. “Có

chứ.” Rồi ông nhìn vào tấm thẻ ghi tên của cô. “Sĩ quan Sachs, tôi đã

nói chuyện hàng giờ, thuyết phục cậu ta từ bỏ ý định ấy. Hằng ngày.

Nhưng tôi cũng đã làm việc với những bệnh nhân bại liệt nhiều năm và

tôi biết họ bướng bỉnh thế nào. Có thể cậu ta sẽ nghe cô. Chỉ vài lời

thôi… Tôi đang nghĩ… Cô làm được không?...”

“Ồ, quỷ tha ma bắt, Rhyme”, cô lẩm bẩm, bắt đầu rời vỉa hè và chạy,

không để ông bác sĩ nói hết câu.

Cô đã ở cổng ngôi nhà đúng lúc Thom định đóng cửa. Cô đẩy cửa, đi

ngang qua anh ta. “Tôi quên cuốn nhật ký tuần tra.”

“Của cô?...”

“Tôi quay lại ngay.”

“Cô không thể lên trên đó. Anh ấy đang có bác sĩ.” “Tôi chỉ cần một

giây thôi.”

Cô đã ở cầu thang, trước khi Thom đuổi theo.

Chắc anh ta biết đó là trò nói dối nên đã bước hai bậc một. Nhưng cô

đã vượt trước và đẩy tung cửa phòng Rhyme trước khi người trợ lý leo

hết các bậc cầu thang.

Cô bước vào trong, làm cả Rhyme và ông bác sĩ giật mình. Ông ta

đang đứng dựa lưng vào bàn, khoanh tay trước ngực. Cô đóng rồi

khóa cửa. Thom bắt đầu đập cửa. Berger quay lại phía cô với một nét

nhăn nhó, tò mò trên mặt.

“Sachs”, Rhyme buột miệng. “Tôi phải nói chuyện với anh.” “Về cái

gì?”

“Về anh.” “Để sau.”

“Để sau là bao lâu, Rhyme?” Cô mỉa mai hỏi. “Ngày mai? Tuần sau?”

“Ý cô là gì?”

“Anh muốn tôi sắp xếp lịch hẹn, một tuần sau từ thứ Tư? Liệu anh có

làm được không? Anh có còn đó nữa không?”

“Sachs…”

“Tôi muốn nói chuyện với anh. Một mình.” “Không.”

“Thế thì chúng ta sẽ dùng biện pháp mạnh.” Cô bước tới chỗ Berger,

“Ông đã bị bắt. Vì tội âm mưa giết người có trợ giúp.” Chiếc còng tay

sáng loáng lên. Cách, cách, luông sáng bạc siết chặt cổ tay ông ta.

Cô đoán đây là một nhà thờ.

Carole Ganz nằm trên nềm nhà dưới tầng hầm. Một tia sáng lạnh lẽo

xiên chéo trên tường, chiếu sáng một bức hình Chúa Jesus bầu bĩnh và

một chồng truyện Sách Vàng Kinh Thánh mốc meo. Một nửa tá ghế

nhỏ xinh – cho học sinh ngoại khóa ngày Chủ nhật, cô đoán – được

đặt giữa phòng.

Chiếc còng và miếng băng dính dán miệng vẫn ở nguyên chỗ cũ. Hắn

còn buộc cô vào đường ống gần tường bằng một sợi dây phơi dài

khoảng bốn feet.

Trên cái bàn cao gần đó, cô có thể nhìn thấy đỉnh của một chiếc bình

thủy tinh lớn.

Nếu làm nó rơi xuống, cô có thể dùng mảnh thủy tinh cắt sợi dây phơi.

Cái bàn có vẻ nằm ngoài tầm với nhưng cô lật nghiêng ngừoi và bắt

đầu bò như một con sâu về phía nó.

Điều này làm cô nhớ tới Pammy lúc còn nhỏ, nó xoay vòng trên

giường, giữa cô và Ron; cô nghĩ tới con gái, một mình trong tầng hầm

kinh khủng và bật khóc.

Pammy, gấu Pooh, ví.

Trong một giây, một giây ngắn ngủi, cô thấy mình yếu đuối. Cô ước gì

mình chưa bao giờ rời Chicago.

Không, không được nghĩ thế nữa! Đừng tiếc nuối cho chính mình! Đó

là một việc hoàn toàn đáng làm. Mày làm thế vì Ron. Và cho cả bản

thân mày nữa. Anh sẽ tự hào vì mày. Kate đã nói với cô như vậy hàng

nghìn lần. Và cô tin.

Cố thêm một lần nữa. Cô dịch chân tới gần bàn hơn. Lảo đảo, không

thể nào suy nghĩ chính xác được.

Cổ họng cô rát bỏng vì khát. Vì bụi và mốc trong không khí.

Cô bò ra xa hơn một chút, sau đó lật nghiêng, cố lấy hơi, nhìn lên trên

bàn. Trông có vẻ vô vọng. Có ích gì chứ? Cô nghĩ.

Không hiểu Pammy nghĩ gì.

Thằng khốn! Carole nghĩ. Vì thế tao sẽ giết mày.

Cô vặn vẹo, cố dịch xa hơn trên nền nhà. Nhưng thay vào đó, cô mất

thăng bằng và ngã ngửa. Cô thở hổn hển, cô biết điều gì sắp đến!

Không! Cổ tay bị gãy của cô phát ra một tiếng kêu lớn. Cô gào lên

qua lớp băng dính. Ngất đi. Khi tỉnh lại, cơn buồn nôn xâm chiếm lấy

cô.

Không, không, không… Nếu nôn cô sẽ chết. Với miếng băng dính trên

miệng, sẽ là kết thúc.

Nén nó xuống. Nén nó xuống. Nào. Mày làm được. Đây rồi… cô nôn

khan một lần. Lần nữa.

Không được! Kiểm soát nó. Trào lên họng.

Kiểm soát… Kiểm soát nó…

Rồi cô cũng làm được. Thở bằng mũi, cô tập trung tư tưởng vào Kate,

Eddie và Pammy, cái ba lô màu vàng đựng tất cả tài sản quý giá của

cô. Nhìn thấy nó, chụp ảnh nó dưới mọi góc độ. Cả cuộc sống của cô

nằm trong nó. Cuộc sống mới của cô.

Ron, em không muốn làm hỏng chuyện này. Em đến đây vì anh, anh

yêu… Cô nhắm mắt. Nghĩ: Thở sâu. Hít vào, thở ra.

Cuối cùng thì cơn buồn nôn cũng qua đi. Một lát sau, cô thấy khá hơn

và mặc dù cô đang khóc lóc vì cơn đau nơi cổ tay bị gãy, nhưng cô

vẫn cố gắng vặn vẹo để bò được tới chỗ cái bàn. Một foot. Hai.

Cô cảm thấy đỉnh đầu và vào chân bàn. Cô mới chỉ bám được vào nó

và không thể di chuyển xa hơn được nữa. Cô ngửa đầu lấy đà, đập

mạnh vào chân bàn vài lần. Cô nghe tiếng cái bình đổ khi bị xê dịch

trên mặt bàn. Cô nhìn lên.

Một phần của cái bình thò ra ngoài mặt bàn. Carole ngửa đầu và đập

vào chân bàn lần cuối.

Không! Cô đã đẩy chân bàn ra ngoài tầm với. Cái bình nghiêng đi một

chút nhưng rồi lại đứng thẳng. Carole co người, cố gắng làm chùng sợi

dây phơi nhưng không thể.

Mẹ kiếp. Ôi mẹ kiếp! Khi tuyệt vọng ngẩng đầu lên nhìn cái bình bẩn

thỉu, cô nhận ra rằng nó đựng đầy chất lỏng và thứ gì đó trôi nổi bên

trong. Cái gì thế nhỉ?

Cô bò lùi về phía tường một, hai feet và nhìn lên.

Thứ bên trong trông giống cái bóng điện. Không, không phải là cả cái

bóng điện mà chỉ có dây tóc và đế, được xoắn vào đui đèn. Một sợi

dây dẫn chạy từ đui đèn ra khỏi cái bình đến một trong những cái đồng

hồ định giờ mà ta hay dùng để tắt bật đèn khi đi nghỉ. Nó trông giống

như…

Một quả bom! Giờ thì cô đã nhận ra mùi xăng thoang thoảng. Không,

không…

Carole bắt đầu lăn lộn tránh xa cái bàn nhanh hết mức có thể, nghẹn

ngào vì tuyệt vọng. Cạnh tường có một tủ hồ sơ. Nó sẽ bảo vệ cho cô.

Cô giơ hai chân lên cao sau khi

cảm thấy một cơn hoảng loạn lạnh người và vội vàng gỡ chúng ra. Cử

động này làm cô

mất thăng bằng. Cô kinh hoàng nhận ra rằng mình bị lật ngửa thêm một

lần nữa. Ồ, dừng lại. Đừng… Cô cố gắng bình tĩnh, hoàn toàn bất

động một lúc lâu, run rẩy trong lúc cố gắng dồn trọng lượng cơ thể về

phía trước. Nhưng sau đó cô tiếp tục lăn, ngã đèn lên cánh tay bị còng,

cổ tay gãy của cô chịu sức nặng của toàn cơ thể. Có một thoáng đau

đớn cùng cực, và ơn phước, cô lại ngất đi lần nữa.

HAI MƯƠI LĂM

“Không đời nào, Rhyme. Anh không thể làm thế.”

Berger lo lắng quan sát. Rhyme cho rằng trong công việc của mình, ông

ta đã từng nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng điên rồ xảy ra vào những lúc

như thế này. Vấn đề lớn nhất của Berger không phải là những người

muốn chết, mà là những người muốn tất cả những người còn lại phải

sống.

Thom đập cửa.

“Thom”, Rhyme gọi. “Được rồi. Cậu cứ để chúng tôi một mình.” Sau

đó nói với Sachs. “Chúng ta đã nói lời chia tay rồi mà. Tôi và cô. Còn

đây là một cách tồi tệ để phá hỏng một sự ra đi hoàn mỹ.”

“Anh không thể làm thế.”

Ai là người thổi còi? Có thể là Peter Taylor. Ông bác sĩ này chắc đã

đoán được anh và Thom nói dối.

Rhyme nhìn thấy ánh mặt cô lướt qua ba đồ vật trên bàn. Những thứ

quà tặng của Magi: rượu cô nhắc, những viên thuốc và cái túi nhựa. Có

thêm sợi dây cao su giống như những sợi dây Sachs dùng buộc giày.

(Đã bao nhiêu lần anh từ hiện trường vụ án về nhà và thấy Blaine nhìn

chăm chăm vào những sợi dây buộc giày chồng mình, và hoảng sợ?

“Mọi người sẽ nghĩ rằng chồng em không có tiền mua giày mới. Anh ấy

phải lấy dây chun buộc để đế giày không bị rơi ra. Thật đấy, Lincoln!).

“Sachs, tháo còng cho bác sĩ đây. Và lần cuối cùng, tôi mời cô ra khỏi

nhà.”

Cô cười lên một tiếng. “Tôi xin lỗi. Đây là một hành vi phạm pháp ở

Thành phố

New York. Công tố viên quận có thể biến nó thành tội giết người nếu

ông ấy muốn thế.”

Berger nói: “Tôi chỉ nói chuyện bình thường với bệnh nhân.”

“Đó là lý do vì sao tôi danh chỉ là âm mưu giết người. Cho tới lúc này.

Có thể chúng tôi sẽ đưa tên và dấu tay của anh qua NCIC. Để xem

chúng tôi tìm được gì.”

“Lincoln”, Berger nói nhanh, vẻ lo lắng. “Tôi không thể…”

“Chúng tôi sẽ giải quyết việc này”, Rhyme nói. “Sachs, làm ơn đi.”

Đứng giạng chân, hai tay chống nạnh, khuôn mặt lộng lẫy của cô đầy

vẻ độc đoán. “Đi thôi”, cô quát viên bác sĩ.

“Sachs, cô không biết điều này quan trọng đến thế nào đâu.” “Tôi sẽ

không cho phép anh tự giết chết mình.”

“Cho phép tôi?” Rhyme vặc lại. “Cho phép tôi? Chính xác là vì sao tôi

lại cần đến sự cho phép của cô?”

Berger nói: “Này cô,… sĩ quan Sachs, đấy là quyết định của anh ấy và

quyết định này hoàn toàn có ý thức. Lincoln là người hiểu biết hơn tất

cả những bệnh nhân tôi đã từng xử lý.”

“Bệnh nhân? Ý ông là nạn nhân?”

“Sachs!” Rhyme buột miệng, cố gắng giấu sự tuyệt vọng trong giọng

nói. “Mất cả năm tôi mới tìm được người trợ giúp đấy, cô biết không?”

“Có thể vì điều đó không đúng. Đã bao giờ anh nghĩ thế chưa? Sao lại

là bây giờ, Rhyme? Ngay giữa vụ án?”

“Nếu tôi lên cơn một lần nữa và bị đột quỵ. Tôi có thể mất toàn bộ khả

năng giao tiếp. Tôi có thể có ý thức trong bốn mươi năm nữa nhưng

không thể cử động. Và nếu tôi chưa bị tê liệt não, sẽ chẳng có một ai

trong cả vũ trụ chịu rút phích cắm. Ít nhất là lúc này, tôi vẫn còn có thể

truyền đạt quyết định của mình.”

“Nhưng tại sao?” Cô buột miệng.

“Sao lại không?” Rhyme trả lời. “Nói tôi nghe. Sao lại không?”

“Được rồi…” Có vẻ như đối với cô những luận chứng chống lại việc tự

sát quá rõ ràng tới mức cô cảm thấy khó mà nói được thành lời. “Là

vì…”

“Vì sao, Sachs?”

“Thứ nhất, vì hèn nhát.”

Rhyme cười. “Cô có muốn tranh luận không, Sachs? Muốn không?

Được rồi. Hèn nhát là điều cô nói. Điều đó dẫn ta đến với ngài Thomas

Browne: Khi cuộc sống kinh khủng hơn cái chết, những người dũng

cảm nhất sẽ sống. Can đảm đối mặt với muôn vàn khó khăn… Một

luận cứ cổ điển ủng hộ sự sống. Nhưng nếu điều đó đúng thì tại sao lại

đánh thuốc mê bệnh nhân khi phẫu thuật? Bán aspirin để làm gì? Sao

lại phải bó bột cánh tay bị gãy? Hà cớ gì mà Prozac lại là loại thuốc

được kê nhiều nhất ở Mỹ? Xin lỗi, nhưng đau đớn chẳng có gì là tốt

đẹp cả.

“Nhưng anh không đau đớn.”

“Cô định nghĩa thế nào là đau đớn, Sachs? Không có cảm giác cũng có

thể là đau đớn chứ.”

“Anh có thể cống hiến rất nhiều. Hãy xem anh biết những gì. Mọi thứ

về pháp y, mọi thứ về lịch sử.”

“Luận cứ cống hiến xã hội. Một luận cứ phổ biến.” Anh liếc nhìn

Berger nhưng viên bác sĩ giữ im lặng. Rhyme thấy ông ta tập trung sự

quan tâm vào khúc xương trên bàn – một chiếc đĩa bạc thếch từ một

đốt sống. Ông ta nhặt nó lên, xoa vuốt nó bằng đôi bàn tay bị còng của

mình. Ông ta từng là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình, Rhyme nhớ lại.

Anh tiếp tục nói với Sachs: “Nhưng ai nói là chúng ta bắt buộc phải

cống hiến gì đó cho cuộc đời? Ngoài ra, kết cuộc có thể là tôi đóng

góp điều gì đó không tốt. Tôi cũng có thể gây tác hại nữa chứ. Cho

bản thân tôi hay cho ai đó.”

“Nhưng cuộc sống là thế.”

Rhyme cười. “Nhưng tôi chọn cái chết, không phải cuộc sống.”

Sachs trông không thoải mái khi cô phải vắt óc suy nghĩ. “Chỉ có

điều… cái chết không tự nhiên. Cuộc sống thì có.”

“Không? Freud sẽ không đồng ý với cô. Ông ta đã từ bỏ nguyên tắc

khoái lạc và bắt đầu cảm thấy còn có một sức mạnh khác – sự hung

dữ phi tình dục bản năng, đó là

cách mà ông ta gọi nó. Làm việc để tháo gỡ nhưng kết nối mà chúng ta

tạo dựng trong cuộc sống. Sự phá hoại của chính chúng ta là một sức

mạnh thiên nhiên hoàn hảo. Mọi thứ đều chết; còn gì để tự nhiên hơn

điều đó?”

Một lần nữa cô lại phải động não.

“Được rồi”, cô nói. “Cuộc sống đối với anh thách thức hơn với nhiều

người khác. Nhưng tôi nghĩ… mọi thứ mà tôi nhìn thấy ở anh nói với

tôi rằng anh là một người thích thác thức.”

“Thách thức? Để tôi nói cô nghe về thách thức. Tôi nằm với ống thông

phổi trong suốt một năm. Cô có nhìn thấy vết sẹo mở khí quản này trên

cổ tôi không? Rồi nhờ các bài tập thở áp suất dương – và với sức

mạnh ý chí vĩ đại nhất mà tôi có thể có – tôi đã thoát ra được cái máy

đó. Trên thực tế, tôi có lá phổi hoàn toàn bình thường. Chúng khỏe

như phổi của cô. Đối với một người tàn tật C4, đó là trường hợp điển

hình, Sachs ạ. Điều nay tiêu tốn của tôi tám tháng cuộc đời. Cô có hiểu

tôi nói gì không? Tám tháng chỉ để xử lý một chức năng động vật rất

cơ bản. Tôi không nói đến việc vẽ Nhà thờ Sistine hay chơi violin. Tôi

chỉ mới nói về sự hít thở chết tiệt ấy thôi.”

“Nhưng anh có thể khá hơn. Năm tới, họ có thể tìm ra cách chữa.”

“Không. Không phải năm sau. Không phải mười năm nữa.”

“Anh không biết việc đó. Chắc chắn là họ đang nghiên cứu.”

“Chắc chắn là như thế. Cô có muốn biết không? Tôi là một chuyên gia.

Cấy mô thần kinh bào thai vào mô hỏng để thúc đẩy việc tái tạo theo

trục.” Những ngôn từ đó phát ra một cách dễ dàng từ đôi môi thật đẹp

của anh ta. “Không có hiệu quả đáng kể. Một vài bác sĩ sử dụng

phương pháp hóa học tại vùng bị ảnh hưởng để tạo ra những loài cấp

cao. Những dạng thức thấp của sự sống cho thấy kết quả khá tốt. Nếu

là một con ếch thì lúc này chắc tôi đã đi lại được. Thôi được, hy vọng

là thế.”

“Như vậy là vãn có người nghiên cứu chuyện đó?” Sachs hỏi.

“Tất nhiên rồi. Nhưng không ai trông đợi có bước đột phá trong

khoảng hai mươi hay ba mươi năm.”

“Nếu họ đã trông đợi”, cô đối đáp, “thì khi đó sẽ chẳng còn là đột phá

nữa, đúng thế không?”

Rhyme cười. Cô ấy giỏi thật.

Sachs hất lọn tóc đỏ khỏi mắt và nói: “Sự nghiệp của anh là thực thi

pháp luật, nhớ chứ. Tự tử là bất hợp pháp.”

“Đó còn là tội lỗi nữa”, anh đáp lời. “Những người da đỏ Dakota tin

rằng hồn ma của những kẻ tự tử bị kéo lê mãi mãi xung quanh cái cây

mà họ tự treo cổ. Nhưng điều này có dừng được việc tự tử không?

Không. Họ chỉ dùng những cái cây bé hơn.”

“Biết không, Rhyme. Đây là luận cứ cuối cùng của tôi.” Cô hất đầu về

phía

Berger, và nắm lấy sợi xích còng. “Tôi mượn và đăng ký ông ta. Phản

biện lại nó đi.” “Lincoln”, Berger căng thẳng nói, mắt ông ta hoảng

loạn.

Sachs nắm vai ông bác sĩ và dẫn ông ta ra cửa. “Đừng. Đừng làm thế.”

Ông ta nói.

Nhưng Sachs đã mở cửa và Rhyme gọi với ra: “Sachs, trước khi cô

làm thế, trả lời tôi mấy câu.”

Cô dừng lại. Một tay để trên tay nắm cửa. “Một câu hỏi.”

Cô quay lại.

“Cô đã bao giờ muốn làm thế chưa? Tự tử?” Cô mở khóa cửa với một

tiếng tách lớn.

Anh nói: “Trả lời tôi đi!”

Sachs không mở cửa. Cô đứng quay lưng lại phía anh. “Không. Không

bao giờ.” “Cô có hạnh phúc với cuộc sống của mình không?”

“Giống như những người khác thôi.” “Cô có bao giờ bị trầm cảm

không?”

“Tôi không nói thế. Tôi nói tôi chưa bao giờ muốn tự tử.”

“Cô có nói với tôi là cô thích lái xe. Những người thích lái xe thường

thích lái xe nhanh. Cô cũng thế, đúng không?”

“Đúng thế, đôi khi.”

“Tốc độ nhanh nhất của cô là bao nhiêu?” “Tôi không biết.”

“Trên tám mươi?”

Một nụ cười không đồng tình. “Đúng.” “Trên một trăm?”

Cô chỉ ngón tay cái lên trên.

“Một trăm mười? Một trăm hai mươi?” Anh hỏi, cười vì quá ngạc

nhiên. “Đã có lần lên một trăm sáu mươi tám.”

“Trời ơi, Sachs. Cô thật là ấn tượng. Được rồi, lái xe nhanh như thể thì

cô có nghĩ là có thể, chỉ có thể thôi, sẽ có chuyện gì đó xảy ra? Tay

đòn hay trục xe có thể gãy, lốp có thể nổ, một vết dầu trên đường?”

“Cũng khá an toàn. Tôi không điên.”

“Khá an toàn. Nhưng lúc lái xe nhanh như lái máy bay cỡ nhỏ thì cũng

không an toàn tuyệt đối. Đúng không?”

“Anh đang mớm cung đấy.”

“Không, tôi không mớm cung. Theo ý kiến của tôi nhé. Cô lái xe nhanh

thì cô phải chấp nhận rằng cô có thể gặp tai nạn và chết, đúng không?”

“Có thể”, cô nhượng bộ.

Berger, tay bị còng phía trước, sốt ruột theo dõi, tay vẫn mân mê chiếc

đĩa xương sống màu vàng nhạt.

“Như vậy, cô cũng đến rất gần giới hạn đó rồi, đúng không? À, cô biết

tôi nói về điều gì rồi chứ. Tôi biết là cô hiểu – ranh giới giữa nguy cơ tử

vong và chắc chắn tử vong. Thấy không, Sachs, nếu cô đem cái chết

theo mình thì rất dễ bước qua ranh giới đó. Một bước ngắn là đến với

chúng.”

Cô cúi đầu, khuôn mặt cô trở nên bất động khi mái tóc che lấp đôi mắt

của cô.

“Bỏ qua người đã chết”, anh thầm thì, cầu mong cô đừng đem Berger

đi, biết rằng anh đã tới rất gần để đẩy cô vượt qua ranh giới. “Tôi nói

đến chuyện rất nhạy cảm. Cô muốn theo người chết đến đâu? Hơn một

chút, Sachs ạ. Nhiều hơn một chút rất nhiều.”

Cô chần chừ. Anh biết anh đã đến rất gần trái tim cô.

Cô giận dữ quay lại phía Berger, nắm lấy sợi dây còng. “Đi thôi.” Đẩy

ông ta ra

cửa.

Rhyme gọi theo: “Cô biết tôi nói gì, đúng không?” Cô dừng lại lần nữa.

“Đôi khi… sự việc xảy ra, Sachs ạ. Đôi khi cô không thể trở thành

người mà cô

phải trở thành, cô không thể có thứ mà cô phải có. Và cuộc sống luôn

thay đổi. Có thể chỉ một chút, có thể là rất nhiều. Và đến một lúc nào

đó, không còn đáng để tiếp tục chiến đầu, sửa những sai lầm.”

Anh nhìn họ đứng đó, bất động ở ô cửa. Căn phòng im lặng một cách

đáng sợ. Cô quay lại và nhìn anh.

“Cái chết chữa lành sự cô đơn”, Rhyme tiếp tục. “Nó chữa khỏi chứng

căng cơ. Chữa khỏi những cơn ngứa.” Giống như trước đó cô nhìn

chân anh, lúc này anh liếc nhanh những ngón tay nát nhừ của cô.

Cô thả tay khỏi chiếc còng của Berger và đi về phía cửa sổ. Những

giọt lệ trên má cô lấp lánh trong ánh sáng vàng ngoài phố.

“Sachs, tôi thấy mệt mỏi”, anh nói một cách chân thành. “Tôi không thể

nói với cô là tôi mệt mỏi đến thế nào. Cô biết cuộc sống khó nhọc như

thế nào khi bắt đầu với. Hàng núi gánh nặng. Rửa ráy, ăn uống, bài tiết,

gọi điện thoại, cài cúc áo, gãi mũi… Rồi thì hàng nghìn thứ khác. Và

sau đó nữa.”

Anh im lặng. Sau một lúc lâu, cô nói: “Chúng ta sẽ thỏa thuận.” “Gì

thế?”

Cô hất đầu về phía tấm áp phích. “823 đang giữ người mẹ và đứa

bé… Giúp chúng tôi cứu họ. Chỉ họ thôi. Nếu anh đồng ý, tôi sẽ cho

ông ta một giờ để nói chuyện riêng với anh.” Cô liếc nhìn Berger. “Với

điều kiện sau đó ông ta phải biến khỏi thành phố.”

Rhyme lắc đầu. “Sachs, nếu tôi bị đột quỵ, nếu tôi không còn giao tiếp

được nữa…”

“Nếu điều đó xảy ra”, cô nói đều đều, “nếu anh không còn nói được

một lời, thỏa thuận của chúng ta vẫn còn nguyên giá trị. Tôi sẽ bảo đảm

để các anh có một giờ đồng hồ với nhau”. Cô lại khoanh tay, đứng

giạng chân, một hình ảnh yêu thích về Amelia Sachs đối với Rhyme.

Anh ước anh có thể nhìn thấy cô ở đường tàu sáng nay, lúc chặn đoàn

tàu. Cô nói: “Đó là điều tốt nhất tôi sẽ làm.”

Một khoảnh khắc trôi qua. Rhyme gật đầu. “Được rồi. Thỏa thuận.”

Anh nói với

Berger: “Thứ Hai?”

“Được rồi, Lincoln. Cũng được.” Berger, vẫn còn đang run rẩy, cảnh

giác nhìn Sachs khi cô mở còng. Có vẻ như ông ta sợ cô sẽ đổi ý. Khi

được tự do, ông ta nhanh chóng đi ra cửa. Rồi nhận ra rằng mình vẫn

đang cầm mẩu xương đốt sống, ông ta quay lại và đặt nó – gần như

cung kính – bên cạnh báo cáo hiện trường vụ án giết người đầu tiên

buổi sáng hôm nay.

“Sướng như lợn vầy bùn”, Sachs nhận xét, thả người xuống chiếc ghế

mây kêu răng rắc. Đó là Sellitto và Polling, sau khi cô nói với họ rằng

Rhyme đã đồng ý với vụ này thêm một ngày nữa.

“Đặc biệt là Polling”, cô nói. “Tôi nghĩ anh chàng nhỏ bé này sẽ ôm lấy

tôi. Đừng nói với anh ta là tôi gọi anh ta như thế. Anh cảm thấy thế

nào? Trông anh khá hơn đấy.” Cô nhấp một ngụm whisky và đặt trả

chiếc cốc vào cái bàn cạnh giường, bên cạnh tủ của Rhyme.

“Không tệ.”

Thom đang thay ga giường. “Anh đổ mồ hôi như tắm”, cậu ta nói.

“Nhưng chỉ bên trên cổ”, Rhyme nói. “Ý tôi là đổ mồ hôi.”

“Đúng thế à?” Sachs hỏi.

“Đúng thế. Như thế đấy. Nhiệt kế phía dưới đã nổ. Tôi không bao giờ

phải dùng đến nước hoa cho tứ trụ.”

“Trụ?”

“Các chỗ lõm”, Rhyme cằn nhằn. “Nách. Viên trợ lý thứ nhất của tôi

không bao giờ nói nách. Anh ta nói: ‘Lincoln, tôi sẽ cầm trụ nhấc anh

lên.’ À, và: ‘Nếu anh muốn nôn, thì cứ thoải mái đi, Lincoln.’ Anh ta tự

gọi mình là ‘săn sóc viên’. Anh ta viết cả từ này vào lý lịch. Tôi không

hiểu vì sao tôi lại thuê anh ta. Chúng tôi rất mê tín, Sachs ạ. Chúng tôi

nghĩ rằng gọi thứ gì đó bằng một cái tên khác có thể làm nó thay đổi.

Tội phạm. Thủ phạm. Nhưng người trợ lý đó, anh ta chỉ là một ý tá bị

ngập trong phân đến tận nách. Đúng không, Thom? Chẳng có gì phải

ngượng ngùng. Đó là một nghề cao thượng. Hỗn loạn nhưng cao

thượng.”

“Tôi lớn nhanh trong sự hỗn loạn. Vì thế mà tôi làm việc cho anh.”

“Cậu là gì? Trợ lý hay săn sóc viên?”

“Tôi là một vị thánh.”

“Ha, đối đáp rất nhanh. Tiêm cũng rất nhanh. Cậu ta đem tôi trở về từ

cõi chết. Hơn một lần rồi.”

Rhyme đột nhiên hoảng sợ, anh lo rằng Sachs đã nhìn thấy anh trần

truồng. Mắt chăm chú nhìn vào hồ sơ thủ phạm, anh hỏi: “Nói xem tôi

có nợ cô một lời xin lỗi nào không, Sachs? Cô có đóng vai Clara

Barton123 không đấy?” Anh căng thẳng chờ câu trả lời của cô, không

biết là anh còn có thể nhìn nữa không nếu cô đã trông thấy.

“Không”, Thom trả lời. “Một mình tôi cứu anh. Không muốn bất cứ

linh hồn nhạy cảm nào bị tổn thương bởi đôi mông xập xệ của anh.”

Cảm ơn Thom, anh nghĩ. Sau đó quát: “Giờ thì biến đi. Chúng tôi phải

bàn về vụ án, Sachs và tôi.”

“Anh cần phải ngủ một chút.”

“Tất nhiên là tôi cần. Nhưng chúng tôi vẫn phải bàn về vụ này. Chúc

ngủ ngon, chúc cậu ngủ ngon.”

Sau khi Thom ra về, Sachs rót một ly Macallan. Cô cúi đầu ngửi mùi

rượu hơi oi

khói.

“Ai tiết lộ?” Rhyme hỏi. “Peter?” “Ai?” Cô hỏi.

“Bác sĩ Taylor, người của SCI.”

Cô cố tỏ ra chần chừ để anh biết đó chính là Taylor. Cuối cùng cô nói:

“Ông ấy rất

quan tâm đến anh.”

“Tất nhiên là ông ta quan tâm. Đó là vấn đề… Tôi muốn ông ta quan

tâm ít đi một chút. Ông ta có biết về Berger không?”

“Ông ấy nghi ngờ.”

Rhyme nhăn mặt. “Nghe này, nói với ông ta Berger chỉ là một người

bạn cũ. Ông ta… Sao?”

Sachs chậm rãi thở ra, như thể thổi khói thuốc từ đôi môi mọng của cô.

“Anh không chỉ muốn tôi để anh tự tử mà anh còn muốn tôi nói dối với

người có thể thuyết phục anh đừng làm việc đó.”

“Ông ấy không thuyết phục được tôi đâu”, Rhyme đáp lời. “Thế thì sao

anh muốn tôi nói dối?”

Anh cười. “Cứ để bác sĩ Taylor hoàn toàn không biết gì trong vài ngày

nữa.” “Được rồi”, cô nói. “Lạy Chúa, anh là người rất khó xử lý đấy.”

Anh nhìn cô thật gần. “Sao cô không nói điều đó với tôi?” “Điều gì?”

“Ai là người chết? Những người mà cô vẫn chưa bỏ qua?”

“Họ, rất nhiều.”

123 Clara Barton  (1821 – 1912): Nữ y tá người Mỹ, nhà nhân đạo,

người sáng lập Hội

Chữ thập đỏ Mỹ.

“Ví dụ?”

“Đọc báo mà xem.” “Thôi nào, Sachs.”

Cô lắc đầu, uống cạn ly whisky Scotch với nụ cười nhạt nhòa trên môi.

“Không, tôi không nghĩ thế.”

Anh coi sự im lặng của cô là do miễn cưỡng phải nói chuyện thân mật

với một người mà cô mới được biết có một ngày. Mọi việc nghe có vẻ

mỉa mai, nếu tính đến việc cô ngồi cạnh một tá ống thông tiểu, một ống

kem K-Y và mộthộp Depends. Dù vậy anh vẫn không thúc ép và

không nói thêm gì nữa. Vì thế anh ngạc nhiên khi bất ngờ cô ngẩng lên

và buột miệng, “Chỉ là… chỉ là, ôi quỷ thật.” Khi cơn nức nở bắt đầu,

cô đưa tay lên mặt, gạt nửa chai whisky Scotch hạng nhất đổ lênh láng

ra sàn.

HAI MƯƠI SÁU

“Không thể tin được em lại kể điều đó với anh.” Cô ngồi cuộn mình

trên ghế, chân co lên, đôi giày chuyên dụng được tháo ra. Lệ đã khô,

mặc dù cô vẫn còn đỏ ửng như màu của mái tóc.

“Tiếp đi”, anh khuyến khích.

“Anh chàng mà em đã kể với anh? Bọn em định cùng nhau mua một

căn hộ.”

“Ồ, cùng với một con chó giống collie. Em không nói đó là một anh

chàng. Bạn trai của em à?”

Người tình bí mật? Rhyme băn khoăn. “Anh ấy đã từng là bạn trai của

em.”

“Anh đã nghĩ có thể đó là người cha đã mất của em.”

“Không. Đúng là cha em đã mất – ba năm trước. Bị ung thư. Nhưng

gia đình em biết điều đó sẽ đến. Nếu điều đó làm em phải sẵn sàng thì

em nghĩ em đã sẵn sàng. Nhưng còn Nick…”

“Anh ấy bị giết?” Rhyme dịu dàng hỏi.

Nhưng cô không trả lời. “Nick Carelli. Một người trong hàng ngũ của

chúng ta. Một cảnh sát. Một thám tử, cấp ba. Làm việc trong nhóm

Tội phạm Đường phố.”

Cái tên nghe quen quen. Rhyme không nói gì để cô tiếp tục.

“Bọn em sống với nhau một thời gian. Đã nói đến chuyện hôn nhân.”

Cô ngừng lại, có vẻ như đang sắp xếp lại ý nghĩ như sắp xếp lại các

tấm bia trong trường bắn. “Anh ấy là mật vụ. Vì thế bọn em giữ bí mật

về mối quan hệ của mình. Anh ấy không thể để tin đồn lan trên phố

rằng bạn gái anh ấy là cảnh sát.” Cô hắng giọng. “Rất khó giải thích.

Anh biết không, bọn em có… một thứ đó giữa hai người. Đó là… điều

đó không thường xuyên xảy ra với em. Quỷ thật, điều đó chưa bao giờ

xảy ra trước Nick. Bọn em có mối quan hệ thực sự sâu sắc. Anh ấy

biết em phải làm cảnh sát và đó không phải là vấn đề đối với anh ấy.

Em cũng nghĩ như vậy về công việc cớm chìm của anh ấy. Như một

dạng… bước sóng. Anh biết đấy, như lúc anh vừa hiểu được hoàn

toàn về một người nào đó? Anh đã bao giờ cảm nhận được điều em

đang nói không? Với vợ anh?”

Rhyme mỉm cười nhợt nhạt. “Anh có cảm thấy. Đúng thế. Nhưng

không phải với Blaine, vợ anh.” Và đó là tất cả những gì anh muốn nói

về vấn đề này. “Hai người gặp nhau thế nào?” Anh hỏi.

“Bài giảng nhiệm vụ tại học viện. Khi có người đứng lên và nói cho anh

nghe những nhiệm vụ mà đơn vị của họ thực hiện. Nick giảng bài về

công tác mật vụ. Anh ấy rủ em đi chơi ngay lập tức. Lần hẹn hò đầu

tiên của bọn em là ở Rodman’s Neck.”

“Trường bắn?”

Sachs gật đầu, sịt mũi. “Sau đó bọn em tới nhà mẹ anh ấy ở Brooklyn

và ăn mì ống, uống một chai Chianti. Bà véo em rất mạnh và nói em

quá gầy để có thể có con. Bắt em ăn hai suất cannoli. Bọn em về nhà

em và tối hôm đó, anh ấy đã ở lại. Lần hẹn hò đầu

tiên đáng kể đấy chứ? Từ đó, bọn em gặp nhau thường xuyên. Chắc

chắn sẽ nên chuyện, Rhyme ạ. Em cảm thấy thế, chắc chắn mọi chuyện

sẽ tốt đẹp.”

Rhyme nói: “Chuyện gì xảy ra?” “Anh ấy…”

Một ngụm lớn. “Chuyện là anh ấy đã lợi dụng. Cả quãng thời gian em

biết anh

ấy…”

“Thế à?”

“Ăn trộm. Trộm lớn. Em không hề có bất kỳ manh mối nào. Không

một manh mối

khốn kiếp nào. Anh ấy giấu nó ở vài ngân hàng quanh thành phố. Anh

ấy lấy khoảng hai trăm nghìn đô la.”

Lincoln im lặng một lúc. “Anh xin lỗi, Sachs. Ma túy?”

“Không. Chủ yếu là đồ dùng. Đồ điện tử, ti vi. Và quần áo. Họ gọi đó

là Liên kết

Brooklyn. Báo chí.”

Rhyme gật đầu. “Đó là lý do anh nhớ đến nó. Có khoảng gần một tá

người liên quan, đúng không? Tất cả đều là cảnh sát.”

“Chủ yếu. Một số người của ICC124 nữa.” “Chuyện gì xảy ra với cậu

ấy? Nick ấy?”

“Anh biết chuyện gì xảy ra khi cớm xử cớm rồi. Họ đánh anh ấy nhừ

tử. Nói rằng anh ấy chống cự, nhưng em biết là không phải. Gãy ba

xương sườn, hai ngón tay, mặt nát nhừ. Bị kết án nhưng anh ấy vẫn bị

tù hai mươi đến ba mươi năm.”

“Vì tội chiếm đoạt tài sản?”

“Anh ấy tự làm một, hai vụ. Dùng súng đập một lái xe, bắn người kia.

Chỉ để dọa anh ta thôi. Em biết là chỉ để dọa anh ta. Nhưng quan tòa

đã quăng anh ấy đi.” Cô nhắm mắt, mím môi thật chặt.

“Khi anh ấy bị bắt, bên Nội vụ theo anh ấy rất chặt. Họ kiểm tra điện

thoại. Bọn em rất thận trọng trong việc gọi điện cho nhau. Anh ấy nói

thỉnh thoảng bọn tội phạm nghe trộm điện thoại của anh ấy. Nhưng vẫn

có mấy cuộc gọi đến chỗ em. Bên Nội vụ bám theo em luôn. Vì thế

Nick gạt em ra. Ý em là anh ấy phải làm thế. Nếu không em sẽ xuống

dốc luôn cùng anh ấy. Anh biết bên Nội vụ rồi đấy – lúc nào cũng là

những tên thợ săn phù thủy.”

“Chuyện gì xảy ra?”

“Để thuyết phục họ rằng em chẳng là gì đối với anh ấy… thì anh ấy đã

nói vài câu về em.” Cô nuốt khan, mắt nhìn xuống nền nhà. “Khi bên

Nội vụ thẩm vấn, họ hỏi anh ấy về em. Nick nói: ‘ À, P.D. Sachs? Tôi

có chơi cô ta vài lần. Hóa ra cô ta cũng vớ vẩn. Nên tôi đá cô ta.” Cô

ngửa đầu ra sau, lấy tay lau nước mắt. “Biệt hiệu? P.D.”

“Lon có nói với anh.”

124 ICC (viết tắt của International Criminal Court): Tòa án Hình sự

Quốc tế, một tòa án xử tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại

và diệt chủng.

Cô nhăn mặt. “Ông ấy có nói nó nghĩa là gì không?” “Con gái cớm

tuần tra. Từ cha em.”

Cô cười uể oải. “Nó khởi đầu như thế đấy. Nhưng đó không phải là

cách kết thúc. Trong cuộc điều tra, Nick nói em là thứ vớ vẩn đến mức

nó phải có nghĩa là ‘săn bướm’, bởi vì có lẽ em thích con gái hơn. Anh

đoán xem điều này lan truyền trong sở nhanh đến thế nào.”

“Chỗ đó có cùng mẫu số mà, Sachs.”

Cô hít một hơi dài. “Em thấy anh ấy ở tòa vào cuối cuộc điều tra. Anh

ấy nhìn em một lần và… em không thể tả được điều gì trong mắt anh

ấy. Thực sự là cõi lòng tan nát. Anh ấy làm điều đó để bảo vệ em.

Nhưng vẫn cứ… Anh đã đúng, anh biết không. Về sự cô đơn.”

“Anh không có ý…”

“Không”, cô nói mà không cười. “Em đánh anh, anh đánh em. Thế là

công bằng. Và anh đúng. Em ghét sự cô đơn. Em muốn ra ngoài, em

muốn gặp ai đó. Nhưng sau Nick, em đã mất hứng thú với tình dục.”

Sachs cười chua chát. “Mọi người đều nghĩ rằng có ngoại hình như em

là tuyệt vời. Em có thể chọn anh chàng của mình, đúng không? Thật vớ

vẩn. Những thằng cha mời em đi chơi là những thằng cha muốn chơi

em. Thế nên em đầu hàng. Tự làm còn dễ hơn. Em ghét điều đó, nhưng

dễ hơn”

Cuối cùng thì Rhyme đã hiểu phản ứng của cô khi lần đầu tiên nhìn thấy

anh. Cô thoải mái với anh vì đấy là người đàn ông không phải là mối đe

dọa đối với cô. Không thúc ép tình dục. Một người mà cô không phải

phòng ngự. Có thể có một chút tình đồng nghiệp nữa – như thể họ

cũng thiếu mất một loại gen thiết yếu.

“Em biết đấy”, anh đùa, “anh và em, ta cần đến với nhau và không

được có chuyện gì”.

Cô cười. “Thế thì kể cho em nghe về vợ anh. Hai người lấy nhau được

bao lâu?” “Bảy năm. Sáu năm trước tai nạn. Và một năm sau đó.”

“Và cô ấy bỏ anh?”

“Không. Anh bỏ cô ấy. Anh không muốn cô ấy cảm thấy có lỗi trong

việc này.” “Anh quá tốt.”

“Cuối cùng thì anh cũng làm cô ấy bỏ đi được. Anh là một tên khốn.

Em mới chỉ nhìn thấy mặt tốt của anh thôi.” Một lúc sau, anh hỏi. “Câu

chuyện của Nick… có liên

quan gì tới lý do em bỏ Đội Tuần tra không?”

“Không. Thực ra là có.” “Chim bị tên sợ cây cong?”

Cuối cùng cô gật đầu. “Cuộc sống ngoài phố giờ khác rồi. Đó là thứ

đã làm cho Nick như vậy. Thứ làm biến đổi anh ấy. Nó không còn

giống như khi cha em đi tuần trong khu của ông nữa. Khi đó mọi thứ

tốt hơn.”

“Ý em là nó không giống như những câu chuyện cha kể cho em nghe?”

“Có thể”, cô nhượng bộ. Sachs ngồi thụp xuống ghế. “Bệnh than?

Đúng như thế nhưng không nghiêm trọng đến mức như em giả bộ.”

“Anh biết”, Rhyme hỏi.

“Anh biết? Sao anh biết được?”

“Anh chỉ cần nhìn vào chứng cứ và rút ra một số kết luận.”

“Đó là lý do anh theo vụ của em cả ngày? Anh biết là em giả vờ?”

“Anh theo vụ của em”, anh nói, “vì anh biết em giỏi hơn em nghĩ”. Cô

nhìn anh thăm dò.

“À Sachs này, em làm anh nhớ đến chính mình.” “Thế ư?”

“Để anh kể cho em nghe một chuyện. Anh làm công việc khám nghiệm

hiện trường được gần một năm thì nhận được một cuộc gọi từ Đội

Trọng án. Có một người chết trong một ngõ hẻm ở Greenwich Village.

Tất cả trung sĩ chỉ huy đã ra ngoài nên anh được chọn để khám nghiệm

hiện trường. Lúc đó, anh nhớ anh mới hai mươi sáu tuổi. Anh tới đó,

kiểm tra và phát hiện ra người chết là giám đốc Sở Y tế và Nhân đạo

của thành phố. Lúc đó xung quanh ông ta có rất nhiều ảnh Palaroid.

Chắc em đã nhìn thấy vài tấm ảnh đó – ông ta đã đến một trong những

hộp đêm S&M125 trên Phố Washington. À, anh quên không nói, khi

họ tìm thấy ông ta thì ông ta mặc một bộ váy ngắn màu đen và đi

đôi tất chân mắt lưới.

Thế là anh bảo vệ hiện trường. Bất ngờ ông đại úy xuất hiện và đi qua

dây chắn. Anh biết ông ấy có ý định làm cho những tấm ảnh đó biến

mất trên đường đến phòng vật chứng nhưng anh lại ngây thơ tới mức

không quan tâm đến những tấm ảnh – anh chỉ quan tâm đến việc ai đó

đi ngang qua hiện trường.”

“Peretti là bảo vệ hiện trường vụ án.”

Rhyme tặc lưỡi. “Thế là anh không cho ông ấy vào. Lúc ông ấy đứng

ngoài hàng rào quát tháo thì một nhân viên của Sở đến và cố gắng kết

thúc sự việc. Anh nói không với ông ấy. Ông ấy cũng bắt đầu quát tháo

anh. Hiện trường phải được giữ nguyên cho tới khi IRD xong việc, anh

nói với họ thế. Đoán thử xem cuối cùng là ai đến?”

“Thị trưởng?”

“Gần đúng. Phó Thị trưởng.”

“Và anh bắt cả họ phải đứng ngoài.”

“Không ai vào được hiện trường, trừ bên chụp ảnh. Tất nhiên cái giá

mà anh phải trả là sáu tháng làm nhân viên in ấn. Nhưng bọn anh bắt

được thủ phạm nhờ vào một vài manh mối và dấu vân tay trên một bức

hình Palaroid – hóa ra đấy là bức hình được tờ Bưu điện in trên trang

nhất. Giống như việc em làm sáng hôm qua, Sachs ạ. Chặn tàu và xe

trên Đại lộ Mười một.”

“Em không nghĩ tới điều đó”, cô nói. “Em chỉ làm thôi. Sao anh lại nhìn

em thế?”

125 Hộp đêm S&M: Hộp đêm ở đó có các trò bạo dâm và khổ dâm.

“Nào, Sachs. Em biết là em cần ở đâu mà. Ngoài phố. Tuần tra, Các

vụ Trọng án, IRD, không quan trọng… Nhưng Phòng Quan hệ Công

chúng ư? Ở đó em sẽ thối rữa. Đó là công việc tốt đối với một số

người, nhưng không phải dành cho em. Đừng đầu hàng nhanh thế.”

“Ồ, thế còn anh thì không đầu hàng à? Còn Berger thì sao?” “Với anh

mọi chuyện hơi khác.”

Cái nhìn của cô dò hỏi. Đúng thế không? Rồi cô đi quanh tìm khăn

giấy. Khi quay lại ghế, cô hỏi: “Anh không đem xác chết nào theo anh

đấy chứ?”

“Cũng có khi. Nhưng giờ chúng đã được chôn cất rồi.” “Kể em nghe

đi.”

“Chẳng có gì cả đâu, thật đấy…”

“Không đúng. Em thấy thế. Nào, em đã kể cho anh nghe chuyện của

em rồi.”

Anh cảm thấy một cơn ớn lạnh lạ lùng. Anh biết đấy không phải cơn sai

lệch phản xạ. Nụ cười của anh biến mất.

“Rhyme, kể đi”, cô dai dẳng. “Em muốn nghe.”

“Được rồi, có một vụ vài năm trước”, anh nói. “Anh đã phạm sai lầm.

Một sai lầm tệ hại.”

“Kể em nghe.” Cô rót cho hai người thêm một ngấn whisky Scotch

nữa.

“Đó là một cuộc gọi nội địa báo giết người – tự sát. Một cặp vợ chồng

trong một căn hộ ở Chinatown. Ông ta bắn vợ, rồi tự sát. Anh không

có nhiều thời gian khám nghiệm hiện trường; anh làm rất nhanh. Và anh

phạm một sai lầm cũ rích – anh đã biết trước mình sẽ tìm thấy gì trước

khi anh bắt đầu tìm kiếm. Anh tìm thấy một ít sợi vải mà anh không biết

đặt vào đâu nhưng anh giả định rằng cặp vợ chồng này đã lôi nó vào.

Anh tìm thấy mảnh đạn nhưng không so nó với khẩu súng tìm được tại

hiện trường. Anh nhận thấy phương cách nạp đạn tự động nhưng

không đan lưới để tìm vị trí chính xác của khẩu súng. Anh tìm xong, ký

giấy rồi về văn phòng.”

“Chuyện gì đã xảy ra?”

“Hiện trường bị dàn cảnh. Thực ra, đó là một vụ cướp của giết người.

Tên tội phạm chưa rời căn hộ.”

“Cái gì? Hắn vẫn ở đó?”

“Sau khi anh ra về hắn bò từ gầm giường ra và bắt đầu bắn. Hắn giết

chết một nhân viên pháp y và làm bị thương một người trợ lý. Hắn chạy

ra phố và bắn nhau với mấy cảnh sát tuần tra chạy đến khi nghe gọi

10-13. Tên tội phạm bị bắn – sau đó cũng đã chết – nhưng hắn giết

chết một cảnh sát và làm bị thương người khác. Hắn cũng bắn một gia

đình vừa ra khỏi nhà hàng Trung Quốc gần đó. Dùng đứa con làm lá

chắn.”

“Ôi, trời ơi.”

“Colin Stanton là tên người cha. Ông ta không hề bị thương và ông ta

là một bác sĩ quân y – EMS nói ông ta đã có thể cứu được vợ và cả

hai đứa con nếu ông ta cố gắng

cầm máu, nhưng ông ta đã quá hoảng loạn và cứng đơ người. Ông ta

cứ đứng, nhìn họ chết dần trước mắt mình.”

“Lạy chúa, Rhyme. Nhưng đó không phải lỗi của anh. Anh…” “Để anh

kể nốt. Đó vẫn chưa phải là đoạn kết.”

“Chưa ư?”

“Người chồng về nhà – ở phía bắc New York. Ông ta bị suy nhược

thần kinh và phải vào bệnh viện tâm thần một thời gian. Ông ta thử tự

tử. Đầu tiên ông ta tự cắt cổ tay mình bằng một mảnh giấy – bìa tạp

chí. Sau đó ông ta lẻn vào thư viện và tìm thấy một cốc nước trong

phòng tắm của người thủ thư, đập nó ra và dùng mảnh kính vỡ cứa vào

cổ tay. Người ta đã khâu lại vết thương cho ông ta và giữ ông ta trong

bệnh viện tâm thần khoảng một năm. Cuối cùng thì người ta cũng thả

ông ra. Khoảng một tháng sau khi ra viện, ông ta lại thử lần nữa. Lần

này thì dùng dao.” Rhyme lạnh lùng nói thêm. “Lần này thì có kết quả.”

Anh biết về cái chết của Stanton nhờ một tờ cáo phó được fax từ nhân

viên điều tra đột tử ở Albany tới Phòng Quan hệ Công chúng của

NYPD. Ai đó đã gửi nó cho Rhyme bằng đường công văn nội bộ với

một tờ giấy vàng dán kèm: FYI – có thể anh sẽ quan tâm, người sĩ

quan đó viết.

“IA điều tra nội bộ. Lỗi chuyên môn. Họ đập cổ tay anh. Anh nghĩ họ

có thể đuổi việc anh.”

Cô thở dài và nhắm mắt trong giây lát. “Và anh nói với em là anh

không thấy có lỗi trong chuyện này?”

“Hết rồi.”

“Em không tin anh.”

“Anh đã chịu án rồi, Sachs ạ. Anh sống với những xác chết này một

thời gian. Sau đó anh bỏ chúng đi. Nếu không, làm sao anh tiếp tục làm

việc được.”

Sau một lúc lâu, cô nói: “Khi em mười tám tuổi, em bị phạt. Vì chạy

quá tốc độ. Em chạy với tốc độ chín mươi ở chỗ chỉ được phép chạy

bốn mươi.”

“Rồi.”

“Cha em nói, ông sẽ cho em vay tiền nộp phạt, nhưng em phải trả lại

ông. Có lãi. Nhưng anh biết ông còn nói gì với em nữa không? Ông nói

bố sẽ đánh đòn nếu con vượt đèn đỏ hay lái xe không cẩn thận. Nhưng

chạy nhanh thì ông hiểu. Ông nói với em: ‘Bố biết cảm giác của con,

con yêu ạ. Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.’”, Sachs nói

với Rhyme. “Nếu em không thể lái xe, nếu em không thể chuyển động,

có thể em cũng sẽ làm điều đó. Tự tử.”

“Anh đã từng đi bộ khắp nơi”, Rhyme nói. “Anh lái xe không nhiều.

Không có xe suốt hai mươi năm. Em có xe gì?”

“Chẳng phải là thứ mà một người Manhattan kiêu kỳ như anh sẽ lái

đâu. Một chiếc Chevy. Mác Camaro. Đó là xe của cha em.”

“Ông đã cho em một cái máy khoan hơi? Để sửa xe, anh đoán thế?”

Cô gật đầu. “Và một máy hàn hơi. Một bộ tạo khe bugi. Cờ lê bánh

cóc – món quà sinh nhật lần thứ mười ba của em.” Cười nhẹ nhàng.

“Chiếc Chevy ấy, thật là một chiếc xe với núm tay lỏng. Anh có biết

đấy là gì không? Một chiếc xe Mỹ. Đài, quạt và công tắc điện đều lỏng

lẻo và hạng bét. Nhưng bộ giảm xóc thì như đá, nhẹ như thùng trứng

và em lúc nào cũng qua mặt được BMW126.”

“Anh đoán là em đã làm rồi.” “Một, hai lần gì đấy.”

“Xe hơi có địa vị trong thế giới của người tàn tật”, Rhyme giải thích.

“Bọn anh ngồi – hay nằm – trong khu cách ly của Viện Phục hồi Chức

năng và nói chuyện về

những thứ bọn anh có thể lấy được từ công ty bảo hiểm. Xe tải kiểu xe

lăn thật là đỉnh.

Sau đó là xe điều khiển bằng tay. Tất nhiên là những thứ đó chẳng giúp

gì cho anh.” Anh liếc mắt, kiểm tra bộ nhớ thuần thục của mình. “Anh

không đi xe đã nhiều năm. Anh không nhớ lần cuối là khi nào cả.”

“Em có một ý”, Sachs bất ngờ nói. “Trước khi ông bạn của anh – bác

sĩ Berger – quay lại, để em đưa anh đi một vòng. Hay có vấn đề? Ngồi

dậy? Anh nói là xe lăn không giúp được anh.”

“À, không, xe lăn không thành vấn đề. Nhưng còn xe hơi? Anh nghĩ

chắc là được.” Anh cười. “Một trăm sáu mươi tám? Dặm một giờ?”

“Hôm ấy là một ngày đặc biệt”, Sachs nói và nhớ lại. “Điều kiện tốt.

Không có cảnh sát giao thông.”

Điện thoại reo và Rhyme tự trả lời. Đó là Lon Sellitto.

“Chúng tôi đã có các nhóm S&S ở tất cả các nhà thờ mục tiêu trong

khu Harlem. Dellray chịu trách nhiệm về việc này – anh ta trở thành

một tín đồ thực sự rồi. Anh không còn nhận ra anh ta nữa đâu. Ồ, mà

tôi còn có thêm ba mươi cảnh sát tuần tra và hàng tá nhân viên anh ninh

Liên Hiệp Quốc để đến bất cứ nhà thờ nào mà chúng ta có thể bỏ qua.

Nếu hắn không xuất hiện, chúng tôi sẽ càn quét tất cả các nhà thờ vào

lúc bảy rưỡi, trong trường hợp hắn lẩn được vào mà chúng tôi không

phát hiện ra. Tôi nghĩ chúng ta sẽ tóm được hắn, Linc ạ.” Viên thám tử

nói, nhiệt tình một cách đáng nghi ngờ so với một cảnh sát của Đội

Trọng án Thành phố New York.

“Được rồi, Lon. Khoảng tám giờ tôi sẽ cử Amelia tới Trung tâm chỉ

huy của anh.” Họ dập máy.

Thom gõ cửa trước khi vào phòng.

“Như thể cậu ta sẽ bắt được chúng ta trong tư thế tế nhị.” Rhyme cười

thầm. “Không lý do gì nữa”, anh ta nói. “Đi ngủ. Ngay bây giờ.”

Đã 3:00. Từ lâu rồi, Rhyme đã không còn cảm giác kiệt sức. Anh đang

bay lượn ở đâu đó. Phía trên cơ thể mình. Anh băn khoăn không hiểu

có phải mình gặp ảo giác hay không.

126 BMW: Một thương hiệu xe nổi tiếng của Đức.

“Được rồi, thưa mẹ”, anh nói. “Sĩ quan Sachs sẽ ngủ lại đêm nay,

Thom. Cậu làm ơn lấy giúp một cái chăn.”

“Anh nói gì?” Thom quay lại phía anh. “Một cái chăn.”

“Không, trước đó cơ.” Người trợ lý hỏi. “Cái từ ấy?” “Tôi không biết.

‘Làm ơn’?”

Mắt Thom mở to vì cảnh giác. “Anh ổn chứ? Anh có muốn tôi gọi

Peter Taylor quay lại không? Hay cha cả của Tu viện Columbia? Bác

sĩ phẫu thuật?”

“Thấy thằng khốn này làm phiền tôi chưa?” Rhyme nói với Sachs. “Hắn

không biết là hắn gần đến lúc bị đuổi việc thế nào rồi đâu.”

“Gọi dậy lúc mấy giờ?”

“Sáu giờ ba mươi là ổn,” Rhyme nói.

Khi anh ta đi khỏi, Rhyme hỏi: “Này, Sachs, em có thích nghe nhạc

không?” “Em thích.”

“Loại nào?”

“Nhạc cổ, dòng doo-wop, Motown… Còn anh thì sao? Anh trông có

vẻ giống một anh chàng cổ điển.”

“Em thấy cái tủ chỗ kia chứ?” “Cái này hả?”

“Không, cái khác cơ. Phía bên phải. Em mở nó ra.”

Cô làm theo và há miệng vì ngạc nhiên. Cái tủ quả là một căn phòng

chứa tới gần nghìn đĩa CD.

“Giống như cửa hàng bán đĩa127?”

“Có một bộ dàn, em thấy nó trên giá không?”

Cô lướt nhẹ tay trên dàn máy Harmon Cardon dính đầy bụi.

“Đắt hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của anh”, Rhyme nói. “Anh không

dùng nó

nữa.”

“Sao lại không?”

Anh không trả lời mà nói: “Em cho đĩa gì đó vào đi. Điện còn cắm

không? Thế à?

Tốt. Em chọn nhạc đi.”

Một khắc sau, cô bước ra khỏi tủ và đi lại ghế sofa khi Levi

Stabbs128  và Four

Tops129 bắt đầu hát về tình yêu.

127 Nguyên văn: Tower Records: Chuỗi cửa hàng bán băng đĩa.

128 Levi Stabbs (tên thật là Levi Stubbles): Sinh năm 1936, một ca sĩ

người Mỹ, được biết tới như ca sĩ chính của nhóm nhạc R&B The Four

Tops nổi tiếng của Motown.

Phải đến một năm rồi mới lại có âm nhạc vang lên trong nhà, Rhyme

nghĩ. Anh im lặng, cố gắng trả lời câu hỏi của Sachs vì sao anh lại

ngừng nghe nhạc. Nhưng anh không thể.

án.

Sachs dọn tài liệu và sách ra khỏi ghế. Nằm lên đó và lần giở cuốn

Hiện trường vụ

“Tặng em một cuốn được không?” Cô hỏi. “Em cứ lấy mười cuốn.”

“Anh sẽ…”, giọng cô chợt ngừng lại.

“Ký sách cho em?” Anh cười. Cô cười với anh. “Anh điểm chỉ, được

không? Các

nhà phân tích nét chữ không bao giờ cho em xác suất trùng lặp nét chữ

quá tám mươi phần trăm. Nhưng còn dấu tay? Bất kỳ chuyên gia dấu

vân tay nào cũng có thể khẳng định đó là dấu tay của anh.”

Anh nhìn cô đọc chương một. Mắt cô rũ xuống. Cô gập sách. “Anh

làm cho em một việc, được không?” Cô hỏi.

“Việc gì?”

“Đọc cho em nghe…”

“Đọc cho em nghe. Thứ gì đó trong sách. Khi Nick và em còn bên

nhau…”, giọng cô nhạt dần.

“Sao cơ?”

“Khi Nick và em còn ở bên nhau, nhiều lần Nick đọc cho em nghe

trước khi bọn em ngủ. Bất cứ thứ gì: sách, báo, tạp chí… Một trong

những thứ em nhớ nhất.”

“Anh đọc rất dở”, Rhyme thú nhận. “Anh đọc như thể anh đang trích

dẫn báo cáo khám nghiệm hiện trường. Nhưng anh có trí nhớ… khá là

tốt. Để anh kể em nghe về vài hiện trường vụ án, được không?”

“Thật không?” Cô nằm ngửa, cởi chiếc áo khoác màu xanh hải quân và

tháo cái áo giáp chống đạn hiệu American Body Armor, vứt nó sang

một bên. Phía trong cô mặc một chiếc áo phông nhàu nát và dưới đó là

áo lót ngực thể thao. Cô lại mặc chiếc áo khoác rồi nằm lên ghế, kéo

chăn. Xoay người sang bên rồi nhắm mắt.

Rhyme giảm ánh sáng bằng điều khiển từ xa.

“Anh luôn thấy ngạc nhiên với hiện trường chết chóc”, anh bắt đầu.

“Chúng giống như những đền thờ. Chúng ta luôn quan tâm đến nơi

chôn cất người chết hơn là nơi họ được sinh ra. Ví dụ như John

Kennedy. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến thăm kho sách Texas ở

Dallas. Em nghĩ có bao nhiêu người hành hương đến một phòng sản

phụ ở Boston?”

Rhyme ngả đầu vào chiếc gối mềm mại quý phái “Anh có làm em chán

không?”

129 Four Tops: Nhóm tứ tấu vocal Mỹ, hát các thể loại doo-wop,

jazz, nhạc soul, R&B, disco, nhạc hiện đại và nhạc trình diễn.

“Không”, cô nói. “Làm ơn đừng dừng lại.”

“Em có biết điều làm anh luôn băn khoăn là gì không, Sachs?” “Nói

cho em biết đi”

“Điều đó làm anh ngạc nhiên nhiều năm rồi – Tinh thần Hiệp sĩ. Hai

nghìn năm trước. Còn bây giờ, có một hiện trường vụ án mà anh thích

khám nghiệm. Anh biết em sẽ

nói: Nhưng chúng ta biết bọn tội phạm rồi cơ mà. Có phải như vậy

không? Điều mà

chúng ta thực sự biết được là những gì nhân chứng nói với chúng ta.

Em có nhớ là anh đã nói – đừng bao giờ tin nhân chứng. Có thể những

câu chuyện trong Kinh thánh là không hề có thực. Bằng chứng đâu?

Phải là chứng cứ vật lý. Móng tay, máu, mồ hôi, ngọn giáo, chữ thập,

giấm ăn. Dấu dép và dấu vân tay.”

Rhyme hơi nghiêng đầu sang trái và tiếp tục kể chuyện về những hiện

trường vụ án và chứng cứ cho tới khi ngực Sachs phập phồng đều đặn,

hơi thở của cô làm những sợi tóc đỏ nhẹ nhàng bay. Ngón tay anh lần

tìm nút tắt đèn trên bộ điều khiển ESU, và rồi anh cũng nhanh chóng

chìm vào giấc ngủ.

Ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh xuất hiện trên bầu trời.

Hoàn toàn tỉnh táo, Carole Ganz có thể nhìn thấy lớp kính lõi lưỡi thép

bên trên đầu cô. Pammy, con yêu... Rồi cô nghĩ tới Ron. Và tất cả tài

sản của cô còn đang ở trong cái tầng hầm kinh khủng ấy. Tiền bạc,

chiếc ba lô màu vàng...

Cô nghĩ tới Pammy.

Có thứ gì đó làm cho cô gián đoạn giấc ngủ chập chờn, bất ổn. Gì vậy

nhỉ? Cơn đau ở cổ tay? Nó giật giật khủng khiếp. Cô xoay người một

chút. Cô...

Tiếng rống khó chịu của đàn organ và giọng hát của dàn đồng ca lại

ngập tràn trong phòng.

Đó là thứ đã đánh thức cô. Âm nhạc. Làn sóng âm nhạc ập tới. Nhà

thờ không bị bỏ hoang. Có người ở đây. Cô mỉm cười. Có ai đó sẽ...

Điều này nhắc cô nhớ tới quả bom.

Carole nhìn qua khe tủ hồ sơ. Nó vẫn còn đó, bập bềnh ngoài cạnh

bàn. Nó mang hình dáng thô thiển của một quả bom thật sự và một thứ

vũ khí giết người – không giống những dụng cụ sáng bóng, dễ thương

mà ta vẫn thấy trên phim ảnh. Băng dính quấn xộc xệch, dây dẫn bị

bóc vỏ nham nhở, xăng vẩn đục… có thể chỉ là bom xịt, cô nghĩ. Trong

ánh sáng ban ngày, trông nó không có vẻ nguy hiểm lắm.

Âm nhạc lại vang lên. Nó vang lên ngay trên đầu cô. Kèm theo tiếng lê

chân. Cửa đóng lại. Sàn nhà gỗ kêu kẽo kẹt khi mọi người đi lại. Bụi

bay ra từ rầm nhà.

Giọng hát đang vang lên nửa câu bỗng ngừng lại. Một giây lát sau, họ

lại bắt đầu

hát.

Carole đạp chân, nhưng ở đây nền nhà bằng bê tông, tường gạch. Cô

cố hét lên

nhưng âm thanh bị miếng băng dính dán miệng nuốt chửng. Buổi diễn

tập vẫn tiếp tục, tiếng nhạc nghiêm trang, đầy sinh lực lan xuống tận

tầng hầm.

Sau mười phút, Carole kiệt sức ngã vật xuống sàn. Mắt cô lại nhìn về

phía quả bom. Lúc này đã sáng hơn và cô có thể nhìn thấy cái đồng hồ

hẹn giờ.

Carole nhăn mặt. Cái đồng hồ hẹn giờ!

Đó không phải là một quả bom thối. Kim định giờ đặt ở mức 6:15.

Kim đồng hồ lúc này chỉ 5:30.

Bò xa hơn ra phía sau tủ hồ sơ, Carole lấy đầu gối đập vào thành tủ

kim loại. Nhưng bất kỳ tiếng động yếu ớt nào phát ra đều ngay tức

khắc bị tan biến trong tiếng rền vang của bài hát Sweet Low, Sweet

Chariot từ trên cao vọng xuống, đang ngập tràn tầng nhà thờ.

IV

ĐẾN TẬN XƯƠNG

Các vị thần chỉ chối từ một thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.

ARISTOTLE

HAI MƯƠI BẢY

5:45 AM Chủ nhật đến 7:00 PM thứ Hai

Mùi hương làm anh tỉnh giấc. Như mọi khi.

Và – cũng giống như rất nhiều buổi sáng – anh không vội vàng mở mắt

mà giữ nguyên vị trí nửa nằm, nửa ngồi của mình, cố gắng suy đoán

xem mùi hương không quen thuộc đó là gì.

Mùi không khí buổi bình minh? Giọt sương trên những con phố bóng

như dầu? Mùi vữa ẩm? Anh cố gắng phân biệt mùi hương của Amelia

Sachs nhưng thấy rằng mình không thể.

Ý nghĩ của anh bỏ qua cô và tiếp tục. Mùi gì thế nhỉ? Chất tẩy rửa?

Không phải.

Một thứ hóa chất từ phòng thí nghiệm ngẫu hứng của Cooper?

Không, anh nhận ra được tất cả những thứ mùi đó. Đó là… à, đúng

rồi… mùi bút viết bảng.

Đến lúc này anh đã có thể mở mắt – sau khi liếc nhìn Sachs vẫn đang

ngủ để chắc chắn là cô chưa bỏ đi – và thấy mình đang nhìn vào tấm

áp phích Monet treo trên tường. Mùi tỏa ra từ đó. Không khí nóng

bức, ẩm thấp của buổi sáng tháng Tám này đã làm giấy khô đi và mùi

xuất phát từ đó.

•    Hiểu biết quy trình khám nghiệm hiện trường

•    Có thể có tiền án

•    Hiểu biết về dấu vân tay

•    Súng = Colt .32

•    Trói nạn nhân bằng nút thắt khác thường

•    “Cổ xưa” hấp dẫn hắn

•    Gọi một nạn nhân là “Hanna”

•    Biết tiếng Đức cơ bản

•    Thích những chỗ dưới lòng đất

Những con số nhợt nhạt trên đồng hồ chỉ 5:45. Ánh mắt anh quay lại

chỗ tấm áp phích. Anh không thể nhìn thấy rõ ràng, chỉ thấy những hoa

văn xám trên nền trắng tuyệt đối. Nhưng ánh sáng nhợt nhạt của bầu

trời buổi sáng cũng đủ để đọc được phần lớn các từ.

•    Đa nhân cách

•    Có thể là thầy tu, nhân viên hoạt động xã hội, luật sư

•    Giày mòn kiểu khác thường, đọc nhiều?

•    Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay nạn nhân

•    Bỏ lại con rắn để chế giễu cuộc điều tra

Những con chim ưng đã tỉnh giấc. Anh cảm thấy những tiếng đập cánh

run rẩy bên ngoài. Ánh mắt Rhyme quay lại với tấm áp phích. Trong

văn phòng của anh ở IRD, anh treo khoảng một tá bảng trắng và trên

đó anh ghi lại những đặc tính quan trọng nhất của nghi phạm trong

những vụ án lớn. Anh nhớ lại: đi lại, ngắm nghía, suy nghĩ về những

người mà họ mô tả.

Những phân tử sơn, bùn, phấn hoa, lá cây…

•    Tòa nhà cũ, đá cẩm thạch hồng.

Nghĩ tới tên trộm đá quý gian xảo mà anh và Lon tóm mười năm trước.

Tại Central Booking, tên trộm rụt rè nói họ sẽ không bao giờ tìm được

những thứ hắn lấy từ những vụ trước đó, nhưng nếu họ xem xét lệnh ân

xá, hắn sẽ nói cho họ biết hắn giấu ở đâu. Rhyme trả lời: ” Được rồi,

bọn tao có một chút rắc rối khi tìm xem chúng ở đâu.”

“Chắc chắn rồi”, tên trộm nói.

“Xem này”, Rhyme nói. “bọn tao đã biết tới bức tường đá trong phòng

đựng than của một ngôi nhà nông thôn kiểu thuộc địa trên sông

Connecticut. Cách Long Island Sound khoảng năm dặm về phía bắc.

Tao chỉ chưa biết là ngôi nhà này ở bờ phía đông hay bờ phía tây của

dòng sông mà thôi”.

Khi câu chuyện lan ra ngoài, câu nói mà mọi người dùng để mô tả nét

mặt của tên trộm lúc đó là: mẹ kiếp, chắc chắn là mày phải đến đấy rồi

chứ.

Có thể đấy chính là phép thuật, Sachs ạ. Anh nghĩ.

•    Ít nhất một trăm năm tuổi, có thể là một biệt thự hay cơ

quan

Anh nhìn lướt tấm áp phích một lần nữa rồi nhắm mắt, ngả đầu xuống

chiếc gối tuyệt vời của mình. Đúng lúc đó anh cảm thấy choáng váng.

Giống như có ai đó tát vào mặt mình. Cơn sốc lan lên đầu anh như lửa

cháy. Mắt mở to, nhìn chằm chằm vào tấm áp phích.

•    “Cổ xưa” hấp dẫn hắn

“Sachs!” Anh la lên. “Dậy ngay!”

Cô giật mình và ngồi dậy. “Cái gì? Gì thế...?” Cổ xưa, cổ xưa, cổ

xưa...

“Anh sai mất rồi”, anh nói cộc lốc. “Có vấn đề rồi.”

Đầu tiên cô nghĩ đó là vấn đề sức khỏe, vì thế cô nhảy khỏi ghế, vớ lấy

túi cứu thương của Thom.

“Không, manh mối cơ, Sachs, manh mối... Anh hiểu sai.” Hơi thở của

anh gấp gáp, anh nghiến răng trong lúc suy nghĩ.

Cô mặc quần áo, ngồi thẳng dậy, những ngón tay cô tự động đưa lên

gãi đầu. “Gì vậy, Rhyme? Điều gì vậy?”

“Nhà thờ. Có thể nó không phải ở Harlem.” Anh nhắc lại. “Anh sai

rồi.”

Giống như với thủ phạm giết gia đình Colin Stanton. Trong ngành hình

sự học, ta có thể xác định chính xác hàng trăm manh mối, nhưng manh

mối mà ta bỏ qua lại khiến cho người ta mất mạng.

“Mấy giờ rồi?” Cô hỏi.

“Hơn sáu giờ kém mười lăm một chút. Lấy tờ báo đi. Lịch biểu lễ nhà

thờ.” Sachs tìm thấy tờ báo, lướt qua. Sau đó cô ngẩng lên. “Anh nghĩ

gì vậy?”

“823 đam mê những thứ cổ xưa. Nếu hắn muốn một nhà thờ cổ của

người da đen thì có thể ý hắn không phải là khu phố trên. Philip Payton

thành lập công ty bất động sản

Mỹ-Phi tại Harlem năm 1900. Còn có hai khu người da đen nữa trong

thành phố. Khu

trung tâm, chỗ tòa án hiện nay và San Juan Hill. Ở đây chủ yếu là

người da trắng... Ôi quỷ thật, anh đang nghĩ gì vậy nhỉ?”

“San Juan Hill ở đâu?”

“Phía bắc Hell’s Kitchen. West Side. Nó được đặt tên để tôn vinh tất

cả những người lính da đen đã chiến đấu trong cuộc chiến Mỹ – Tây

Ban Nha.”

Cô đọc lướt qua tờ báo.

“Các nhà thờ trong khu trung tâm”, cô nói. “Nếu ở khu Battery Park

thì ở đó có viện Seamen. Có một nhà thờ tại đây, họ có làm lễ. Chúa

ba ngôi. Thánh Paul.”

“Đó không phải khu của người da đen. Xa hơn nữa về phía bắc và

phía đông.” “Nhà thờ Trưởng lão trong khu Chinatown.”

“Có nhà thờ Tin lành hay Phúc âm nào khồng?”

“Không, không có gì ở khu này. Đây… ôi, quỷ thật.” Ánh mắt cam

chịu, cô thở dài. “Ôi, không.”

Rhyme hiểu ra. “Lễ chào mặt trời.”

Cô gật đầu: “Tín lành Bánh thánh… Không, Rhyme có một lễ hát

Thánh ca bắt đầu lúc sáu giờ sáng. Đại lộ Năm mươi chin và Mười

một.”

“Đó là San Juan Hill! Gọi cho họ đi!”

Cô vơ lấy điện thoại và quay số. Cô đứng cúi đầu, nhíu mày trong lúc

lắc đầu. “Trả lời đi, trả lời đi… Quỷ thật. Máy ghi âm. Mục sư chắc đã

rời khỏi văn phòng.” Cô nói vào ống nghe. “Đây là NYPD. Chúng tôi

có lý do để tin rằng trong nhà thờ của ngài có bom. Hãy sơ tán càng

nhanh càng tốt.” Cô dập máy, rồi đi giày.

“Đi đi, Sachs. Em phải tới đó ngay. Ngay bây giờ.” “Em?”

“Chúng ta ở gần đó hơn đồn gần nhất. Sau mười phút là em tới đó rồi.”

Cô chạy ra cửa, vừa chạy vừa đeo thắt lưng thiết bị vào eo.

“Anh sẽ gọi điện cho đồn.” Anh nói với theo khi cô nhảy xuống cầu

thang, tóc như một đám mây đỏ quấn quanh đầu. “Sachs này, nếu em

muốn lái xe thật nhanh thì bây giờ là lúc đấy.”

Chiếc xe RRV trượt bánh trên Phố Tám mươi mốt, lao nhanh về phía

tây.

Sachs lao đến ngã tư ở Broadway, trượt bánh và va phải chiếc máy

bán báo Bưu điện New York, hất nó bắn qua cửa sổ hiệu Zabar trước

khi cô điều khiển được chiếc xe. Cô nhớ tới tất cả các loại thiết bị

khám nghiệm hiện trường vụ án chở phía sau. Một chiếc xe nặng mông,

cô nghĩ; không được quặt khi đang chạy với tốc độ năm mươi.

Sau đó chạy dọc Broadway. Phanh lại ở ngã tư. Nhìn phải, nhìn trái.

Không có gì. Nhấn ga!

Cô thoát ra Đại lộ Chín tại trung tâm Lincoln và sau đó chạy xuống

phía nam. Mình chỉ…

Quỷ tha ma bắt!

Lốp xe rít lên khi bị phanh gấp. Phố bị cấm.

Một dãy rào cản chặn Đại lộ Chín để chuẩn bị cho hội chợ đường phố

buổi sáng nay. Một khẩu hiệu viết Đồ thủ công mỹ nghệ của tất cả các

dân tộc. Tay trong tay,

chúng ta là một.

Ôi trời… quỷ tha ma bắt Liên Hiệp Quốc. Cô lùi lại một nửa khối nhà

và tăng tốc độ lên năm mươi trước khi lao vào dây rào chắn đầu tiên.

Rẽ tung những chiếc bàn gấp bằng nhôm và giá bày hàng gỗ, cô rẽ một

đường qua hội chợ không người. Sau hai khối

nhà, chiếc xe lao qua rào cản phía nam và cô rẽ về hướng tây sang Phố

Năm mươi chín, lao lên vỉa hè một đoạn nhiều hơn cô muốn.

Có một nhà thờ cách đó khoảng một trăm thước.

Giáo dân đứng trên bậc cầu thang – cha mẹ, một cô bé con mặc bộ

váy diềm màu trắng hồng, những cậu bé mặc vét tối màu và áo trắng,

tóc nhuộm bạc hay tạo thành những núm lạ mắt.

Từ dưới cửa sổ đường hầm, một đám khói xám nhỏ đang bốc lên. Cô

đạp cần ga chạm sàn, động cơ gầm rú.

Vớ lấy máy bộ đàm. “RRV Hai gọi Trung tâm, nghe rõ?”

Đúng lúc cô nhìn xuống chiếc bộ đàm Motorola để xem âm thanh đã

được vặn lên hết cỡ hay chưa, một chiếc Mercedes lớn lao ra khỏi

ngõ, đúng đường đi của cô.

Một cái liếc nhìn rất nhanh gia đình đang ngồi trong xe, mọi người mắt

mở to vì sợ hãi khi người cha đạp phanh.

Sachs theo bản năng đánh mạnh tay lái sang trái, đưa chiếc xe sang

trạng thái trượt có điều khiển. Nào, nào, cô van xin những cái lốp xe…

bám vào, bám vào, bám vào! Nhưng mặt đường nhựa trơn trượt đã bị

mềm đi dưới sức nóng của mấy ngày qua và bị phủ sương. Chiếc xe

trôi trên đường như đi tàu cánh ngầm.

Đuôi xe va mạnh vào đầu chiếc Mercedes với tốc độ năm mươi dặm

một giờ. Sau một tiếng động lớn, chiếc 560 cắt đứt sườn bên trái của

chiếc xe thùng. Những chiếc va li khám nghiệm hiện trường bay lên

không, mở tung và đổ những thứ bên trong ra phố. Những người đi

nhà thờ cúi xuống tránh mảnh kính vỡ, nhựa và kim loại.

Túi khí tung ra và phồng lên làm Sachs giật mình. Cô lấy tay che mặt

khi chiếc xe thùng nhảy tung qua một dãy xe hơi, qua một cửa hiệu báo

và trượt trên đường cho tới khi dừng hẳn, lộn ngược. Báo và túi đựng

vật chứng trên mặt đất như những người lính dù tí hon.

Bị dây an toàn treo lộn ngược, tóc che kín mắt, Sachs gạt máu chảy ra

từ vết thương trên trán và môi, cố gắng mở khóa. Nó chặt cứng. Xăng

nóng chảy vào xe và chảy theo tay cô buồn buồn. Cô rút con dao gấp

ở túi sau, mở ra và cắt dây an toàn. Chút nữa bị rơi vào con dao, cô

nằm đó, thở hổn hển, ngạt vì khói xăng.

Nào cô bé, ra thôi. Ra nào!

Cửa xe bị kẹt, phía sau của chiếc xe thùng đã bị bẹp nên cũng không

có đường thoát. Sachs bắt đầu đạp cửa sổ. Kính không vỡ. Cô co

chân đạp thật mạnh vào lớp kính chắn gió đã bị nứt. Không ảnh hưởng

gì, ngoại trừ việc cô suýt bong gân chân.

Súng!

Cô sờ vào hông; khẩu súng đã rơi khỏi bao và lăn lóc đâu đó trong xe.

Cảm thấy làn mưa xăng nóng bỏng trên tay và trên vai, cô tìm kiếm

điên cuồng trong đám giấy và thiết bị khám nghiệm hiện trường vương

vãi trên nóc xe.

Sau đó cô nhìn thấy khẩu Glock nặng nề của mình gần cái chao đèn.

Cô phủi nó và nhắm vào cửa bên.

Làm đi. Bên ngoài thoáng, vẫn chưa có ai đến xem.

Sau đó cô ngần ngừ. Liệu lửa nòng có làm xăng bắt cháy không?

Cô giữ khẩu súng cách xa bộ đồng phục thấm xăng của cô hết mức có

thể, suy nghĩ. Rồi bấm cò.

HAI MƯƠI TÁM

Năm phát, theo hình sao. Mặc dù vậy kính của chiếc General Motors

vẫn y nguyên.

Ba phát nữa, nổ inh tai trong không gian chật hẹp của chiếc xe thùng.

Nhưng kính vẫn không vỡ.

Cô tiếp tục đạp. Cuối cùng cánh cửa sổ bung ra bên ngoài thành một

dòng thác những viên băng nhỏ màu xanh. Đúng lúc cô vừa lăn ra

ngoài, nội thất của chiếc xe thùng nổ.

Cởi hết áo chỉ để lại áo phông, cô ném áo khoác và áo chống đạn

ngấm xăng, ném tai nghe có mic sang bên cạnh. Cảm thấy mắt cá lung

lay nhưng cô vẫn lao về cửa chính của nhà thờ, chạy qua những người

đi lễ và dàn đồng ca đang chạy trốn. Tầng trệt đầy khói. Gần đó, một

phần của nền nhà bị gợn sóng, nóng lên và bùng cháy.

Bất ngờ vị mục sư xuất hiện, bị ngạt khói, nước mắt ròng ròng. Ông ta

kéo theo một người phụ nữ bất tỉnh. Sachs giúp ông ta đưa người phụ

nữ ra cửa.

“Tầng hầm ở đâu?” Cô hỏi. Ông ta ho dữ dội, lắc đầu.

“Ở đâu?” Cô quát lên, nghĩ tới Carole Ganz và đứa con nhỏ của cô.

“Tầng hầm?”

“Đằng kia, nhưng…”

Phía bên kia nền nhà đang bốc cháy.

Sachs gần như không nhìn thấy nó, khói quá dày. Một bức tường đổ

xuống trước mặt họ, những cái rầm và cột nhà cũ đằng sau nó kêu lách

tách, phun ra những tia lửa và những luồng khí nóng vào căn phòng mù

mịt khói. Cô ngần ngại một chút, rồi bắt đầu đến cửa tầng hầm.

Mục sư nắm tay cô. “Đợi đã.” Ông ta mở kho và lấy một bình cứu

hỏa, giật khóa bảo vệ . “Đi thôi.”

Sachs lắc đầu. “Ông không phải đi. Ông cứ kiểm soát khu vực này.

Nói với lính cứu hỏa là có một sĩ quan cảnh sát và một nạn nhân khác

đang ở dưới tầng hầm.”

Lúc này thì Sachs đang tăng tốc.

Khi ta di chuyển…

Cô nhảy qua lỗ thủng lớn trên nền nhà. Nhưng khói làm cho cô đánh

giá sai khoảng cách tới bức tường, nó gần hơn cô tưởng nên cô va phải

bức vách gỗ và ngã ra sau, lăn tròn khi tóc cô quét qua ngọn lửa, một

vài lọn tóc bắt lửa. Nôn khan vì hít phải mùi, cô dập lửa và cố gắng

đứng lên. Nền nhà, đã bị ngọn lửa phía dưới làm yếu đi, vỡ ra dưới

chân làm cô ngã đập mặt xuống nền gỗ sồi. Cô cảm thấy lưỡi lửa dưới

tầng hầm đang liếm cánh tay và cổ tay mình khi cô giật tay về.

Lăn ra khỏi rìa lỗ thủng, cô đứng dậy và với tay đến cái nắm tay của

cửa xuống tầng hầm. Bất ngờ cô dừng lại.

Này cô bé, nghĩ cho kỹ vào! Hãy cảm nhận cánh cửa trước khi mở.

Nếu bên trong quá nóng và mày lại để oxy lọt vào trong căn phòng

siêu nóng, nó sẽ bùng nổ và hơi phản hồi sẽ thiêu cháy mày ngay. Cô

chạm vào gỗ. Nóng như thiêu.

Sau đó cô nghĩ: thế mình có thể làm được gì khác nào?

Nhổ nước bọt vào tay, cô nắm rất nhanh cái tay nắm cửa, xoay cho nó

mở và thả tay ra trước khi bàn tay kịp bị bỏng.

Cánh cửa mở tung, một đám mây khói và tia lửa cuồn cuộn trào ra.

“Có ai trong đó không?” Cô gọi và bắt đầu đi xuống.

Những bậc thang dưới cùng đang cháy. Cô phun một lượt carbon

dioxide rồi nhảy xuống tầng hầm ẩm mốc. Cô đạp gãy bậc thang gần

cuối cùng, chúi người về phía trước. Bình cứu hỏa rơi loảng xoảng

xuống nền nhà khi cô nắm vội lấy tay vịn cầu thang, vừa đúng lúc

không để chân bị gãy.

Kéo mình ra khỏi bậc thang gãy, Sachs liếc nhìn qua làn khói mịt mù.

Dưới này khói không đến nỗi quá tệ – nó bay lên trời cao – nhưng còn

lửa thì lại bốc cháy quanh cô.

khói.

Bình cứu hỏa lăn xuống dưới cái bàn đang cháy. Quên nó đi! Cô chạy

qua đám

“Có ai không?” Cô la lớn. Không ai trả lời.

Sau đó cô nhớ ra thủ phạm 823 thường dùng băng dính; hắn thích

những nạn nhân

câm lặng.

Cô đá tung một cánh cửa nhỏ và ngó vào trong phòng nồi hơi. Có một

cánh cửa dẫn ra ngoài nhưng rác thải cháy đã chặn nó lại. Phía trong là

một bình nhiên liệu, lúc này đang bị ngọn lửa bao vây.

Nó sẽ không nổ, Sachs nhớ lại bài học từ học viện – bài giảng về hỏa

hoạn. Dầu nhiên liệu không nổ. Đá rác rưởi sang một bên và đẩy cửa

mở ra. Dọn đường rút lui cho mình. Sau đó mới đi tìm người phụ nữ và

đứa bé.

Cô chần chừ, nhìn những lưỡi lửa đang liếm quanh thùng dầu nhiên liệu.

Nó sẽ không nổ, nó sẽ không nổ đâu.

Cô bắt đầu tiến lên phía trước, lần bước ra cửa.

Nó sẽ không...

Thùng nhiên liệu bất thình lình nổ bục như một lon soda và nứt đôi ở

đoạn giữa. Dầu phụt lên không trung, bùng cháy thành một đám bọt

màu cam khổng lồ. Một bể lửa đang thành hình trên nền nhà và chảy

về phía Sachs.

Nó không nổ. Được rồi. Nhưng lại cháy không tệ chút nào. Cô nhảy

lùi qua cửa, đóng sập nó lại. Đường rút lui của cô thế là hết.

Đi giật lùi về phía cầu thang, ho sặc sụa, người cúi thấp, cố gắng tìm

kiếm bất kỳ một dấu vết nào của Carole Ganz và Pammy. Liệu 823 có

thay đổi quy luật hay không?

Liệu hắn ta có bỏ qua tầng hầm và đưa những nạn nhân này lên tầng

gác mái của nhà thờ hay không?

Rắc...

Cô ngẩng đầu lên nhìn rất nhanh. Một thanh rầm gỗ sồi, bốc lửa đùng

đùng bắt đầu rơi xuống.

Sachs nhảy sang một bên với tiếng thét lớn nhưng bị vấp rồi ngã ngửa,

nhìn lên một thanh gỗ khổng lồ đang lao thẳng xuống mặt và ngực cô.

Cô giơ hai tay lên đỡ theo bản năng.

Một tiếng động ầm ĩ phát ra khi thanh gỗ hạ cánh trúng chiếc ghế học

sinh trường

Chủ nhật. Nó dừng lại cách đầu cô chỉ vài inch. Cô bò ra và đứng lên.

Nhìn quanh phòng, nhìn xuyên qua lớp khói đang đen dần.

Quỷ thật. Không, mình sẽ không đánh mất thêm một nạn nhân nào

nữa. Sặc sụa, Sachs quay lại chỗ đống lửa và lần bước tới góc phòng

mà cô chưa kiểm tra.

Lúc cô đang chạy tới trước, một cẳng chân thò ra từ phía sau tủ hồ sơ

ngáng ngã

cô.

Tay bay tới trước, Sachs sấp mặt tiếp đất, chỉ cách bể dầu cháy vài

cm. Cô lăn

nghiêng, rút súng và chĩa nó vào khuôn mặt hoảng loạn của một người

phụ nữ tóc vàng đang cố gắng ngồi dậy.

Sachs gỡ băng dính ra khỏi miệng cô ta và người phụ nữ nhổ ra một

bãi nước nhầy màu đen. Cô ta nôn khan một lúc, phát ra những âm

thanh trầm, chết chóc.

“Carole Ganz?” Cô ta gật đầu.

“Con gái chị đâu?” Sachs la lớn.

“Không có… ở đây. Tay tôi! Cái còng.”

“Không còn thời gian đâu. Đi nào.” Sachs lấy dao cắt dây, giải phóng

mắt cá chân cho Carole.

Sau đó cô nhìn thấy một chiếc túi nhựa đang nóng chảy đối diện với

bức tường gần cửa sổ.

Manh mối để lại! Những manh mối nói cho ta biết đứa bé gái đang ở

đâu. Cô bước lại chỗ nó. Nhưng với một tiếng nổ inh tai, phòng nồi hơi

đứt làm đôi, phun ra một làn sóng cao sáu inch dầu sôi lên sàn nhà,

bao vây chiếc túi. Nó tan biến tức khắc.

Sachs nhìn nó trong giây lát rồi cô nghe thấy tiếng thét của người phụ

nữ. Cả cầu thang lúc này đang cháy. Sachs đá bình cứu hỏa ra khỏi

gầm cái bàn đang âm ỉ cháy. Cái tay cầm và vòi phun đã nóng chảy,

không thể cầm vỏ bình kim loại vì quá nóng. Cô dùng dao cắt một

mảnh áo khoác đồng phục và nắm cổ chiếc bình cứu hỏa nóng rẫy ném

lên trên những bậc cầu thang đang bốc cháy. Nó dừng lại trong một

khắc, giống như một con ky sau đó rơi xuống dưới.

Sachs rút khẩu Glock và khi cái trục đỏ lăn được nửa đường, cô bắn

hết một băng.

Chiếc bình cứu hỏa nổ tung; những mảnh vỏ vỡ bay qua đầu họ. Một

đám mây hình nấm carbon dioxide và bột xuất hiện trên cầu thang,

ngay lập tức dập tắt phần lớn ngọn lửa.

“Đi thôi!” Sachs la lớn.

Họ cùng nhau nhảy ra hai bậc cầu thang một, Sachs mang trọng lượng

của cả người cô và một nửa của người phụ nữ, cùng nhau lao qua cửa

vào hỏa ngục của tầng

trệt. Họ bám vào tường lần mò bước ra cửa, trong khi đó phía trên họ,

những cánh cửa sổ kính màu vỡ tan tạo ra một cơn mưa mảnh vụn

nóng bỏng – thân hình nhiều màu sắc của

Jesus và Mathew, Mary và Chúa Trời – xuống hai tấm lưng cúi gập

của hai người phụ nữ đang trốn chạy.

HAI MƯƠI CHÍN

Bốn mươi phút sau, Sachs đã được xoa thuốc, băng bó, khâu và thở

nhiều oxy nguyên chất đến mức cô có cảm giác mình đang say thuốc.

Cô ngồi bên cạnh Carole Ganz. Họ đang nhìn những gì còn lại của nhà

thờ. Thực ra chẳng còn lại gì ở đó. Chỉ là hai bức tường, thật lạ kỳ là

một phần của tầng ba, vươn lên không gian phía bên trên đống tro tàn

và mảnh vỡ trong tầng hầm, quang cảnh giống như trên mặt trăng.

“Pammy, Pammy…” Carole rên rỉ, sau đó nôn khan rồi nhổ. Cô ta

cầm chiếc mặt nạ oxy của mình đưa lên mặt, ngửa người ra sau, mệt

mỏi và đau đớn.

Sachs xem xét miếng giẻ tẩm cồn mà cô đang lau máu trên mặt. Đầu

tiên chúng có màu nâu còn bây giờ bắt đầu chuyển sang màu hồng.

Những vết thương không thực sự nghiêm trọng – một vết cắt trên trán,

những vết bỏng độ hai trên cánh tay và cẳng tay. Môi cô không còn

hoàn mỹ nữa, môi dưới đã bị cắt rất sâu trong vụ đâm xe, vết rách phải

khâu ba mũi.

Carole bị ngạt khói và gãy cổ tay. Một cái nẹp tạm thời bọc lấy cổ tay

trái của cô ta, cô ta nâng nó, đầu cúi xuống, nói qua hàm răng nghiến

chặt. Mỗi hơi thở là một tiếng khò khè đầy đe dọa. “Thằng khốn ấy.”

Ho. “Vì sao… lại là Pammy? Vì sao vậy? Một đứa trẻ ba tuổi!” Cô ta

gạt những giọt nước mắt giận dữ bằng mu bàn tay không bị thương.

'“Có thể hắn ta không muốn làm hại con bé. Cho nên hắn chỉ đưa một

mình cô đến nhà thờ.”

“Không”, cô ta giận dữ quát. “Hắn không quan tâm đến nó. Hắn là đồ

bệnh hoạn! Tôi nhìn thấy cách hắn ta nhìn con bé. Tôi sẽ giết hắn. Tôi

sẽ giết chết hắn.” Ngôn từ ác nghiệt biến cơn ho thành ác nghiệt hơn.

Sachs nhăn mặt vì đau. Cô lại vô thức chọc móng tay vào đầu ngón tay

bỏng rát. Cô lấy cuốn nhật ký tuần tra. “Chị có thể kể lại cho tôi những

gì xảy ra, được không?”

Giữa những cơn ho sâu trong họng và tiếng nức nở, Carole kể lại cho

cô câu chuyện về vụ bắt cóc.

“Chị có muốn tôi gọi điện cho ai đó không?” Sachs hỏi. “Chồng chị

chẳng hạn.” Carole không trả lời. Cô ta kéo đầu gối lên tới cằm, tự ôm

lấy mình, khò khè một

cách nặng nhọc.

Bằng cánh tay phải bị bỏng, Sachs bóp chặt bắp tay người phụ nữ và

nhắc lại câu

hỏi.

“Chồng tôi…”, cô ta nhìn Sachs với cái nhìn khủng khiếp. “Chồng tôi

chết rồi.” “Ồ, tôi xin lỗi.”

Thuốc an thần làm Carole cảm thấy lảo đảo, một nữ nhân viên y tế đưa

cô vào

nghỉ trong xe cứu thương.

Sachs nhìn lên, thấy Lon Sellitto và Jerry Banks đang chạy lại phía cô

từ nhà thờ cháy trụi.

“Lạy chúa, sĩ quan.” Sellitto đang khảo sát cảnh thương vong trên phố.

“Bé gái sao rồi?”

Sachs gật đầu: “Hắn ta vẫn giữ con bé.” Banks nói : “Cô ổn chứ?”

“Không có gì nghiêm trọng.” Sachs nhìn về phía chiếc xe cấp cứu.

“Nạn nhân, Carole, cô ta không còn tiền, không có chỗ nghỉ ngơi. Cô

ta đến đây để làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Tôi nghĩ anh có thể gọi vài

cú điện thoại, được không thám tử? Để xem họ có bố trí được gì cho

cô ta một thời gian không?”

“Tất nhiên rồi”, Sellitto nói.

“Có để lại manh mối gì không?” Banks hỏi. Anh ta nhăn mặt khi chạm

phải dải băng trên lông mày phải của mình.

“Mất rồi”, Sachs nói. “Tôi có nhìn thấy chúng. Ở dưới tầng hầm.

Không lấy được chúng đúng lúc. Cháy và bị lấp mất tiêu rồi.”

“Ôi, trời.” Banks lẩm bẩm. “Chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé đây?” Anh

ta nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra với đứa bé?

Cô đi lại chỗ chiếc xe thùng IRD và tìm thấy cái tai nghe. Cô đeo nó

vào và đã định yêu cầu gọi cho Rhyme nhưng sau đó chần chừ rồi ngắt

mic. Cô có thể nói gì với

anh được? Cô nhìn nhà thờ. Khám nghiệm hiện trường thế nào được

khi không có hiện

trường.

Cô đứng chống nạnh, nhìn chăm chăm vào đống tro tàn khổng lồ đang

âm ỉ của tòa nhà, rồi cô nghe thấy một âm thanh mà cô không quen.

Một âm thanh rền rĩ của máy móc. Cô không để ý thấy nó cho tới khi

cô thấy Lon Sellitton dừng phủi bụi trên chiếc áo sơ mi. Anh ta nói:

“Tôi không thể tin chuyện này.”

Cô quay về phía con phố.

Một chiếc xe hòm lớn màu đen đỗ cách đó một dãy nhà. Một chiếc

cầu thủy lực chìa ra ngoài, bên trên có thứ gì đó. Cô liếc nhìn. Có vẻ

như một con rô bốt phá bom. Cái cầu hạ xuống vỉa hè và con rô bốt

lăn bánh.

Cô cười lớn.

Chiếc máy kỳ quặc quay về phía họ và bắt đầu chuyển động. Chiếc xe

lăn làm cô nhớ tới một chiếc Pontiac Thunderbird, màu đỏ kẹo. Đó là

kiểu xe lăn chạy điện, bánh sau nhỏ, ắc quy lớn và động cơ lắp bên

dưới.

Thom đi bên cạnh nhưng chính Lincoln Rhyme lái xe – hoàn toàn kiểm

soát, cô châm biếm nhận thấy – bằng một cọng rơm ngậm trong miệng.

Kỳ lạ là chuyển động của anh trông lại trang nhã. Rhyme ghé vào chỗ

cô và dừng lại.

“Được rồi, anh đã nói dối”, anh bất ngờ nói.

Cô thở dài. “Về cái lưng của anh? Khi anh nói anh không dùng được

xe lăn?” “Anh đang thú nhận mình nói dối. Em sẽ điên lên đấy, Amelia.

Thế thì cứ điên

lên đi rồi vượt qua nó.”

“Anh có nhận ra là, khi tâm trạng tốt anh gọi em là Sachs, còn lúc nào

tâm trạng tệ hại anh gọi em là Amelia không?”

“Tâm trạng anh không tệ”, anh cáu kỉnh.

“Anh đúng là rất tệ đấy”, Thom đồng ý. “Anh ta rất ghét bị bắt quả

tang.” Người trợ lý hất đầu về phía chiếc xe lăn. Cô nhìn về phía đó.

Nó được công ty Action chế tạo, hiệu Storm Arrow130. Anh ta cất nó

trong kho dưới nhà trong khi lại kể ra câu chuyện thảm hại của mình.

Ồ, vì thế tôi sẽ để anh ta chịu đựng.”

“Không bình luận, Thom, cảm ơn cậu. Tôi đang xin lỗi, được

chưa?Tôi. Xin.

Lỗi.”

“Anh ta có nó mấy năm rồi”, Thom tiếp tục. “Học điều khiển nó bằng

cách thổi

với hút. Điều khiển bằng cọng rơm đó. Anh ta thực sự rất giỏi chuyện

này. Và anh ta lúc nào cũng gọi tôi là Thom. Tôi chưa bao giờ được

goi bằng họ.”

“Tôi rất mệt khi bị nhìn ngó”, Rhyme nói một cách thành thực. “Vì thế

tôi lái xe nữa.” Sau đó nhìn cánh môi rách của cô, anh hỏi. “Có đau

không?”

Cô chạm tay vào miệng, lúc này nó đã bị bẻ cong thành nét nhăn nhó.

“Nhức kinh khủng.”

Rhyme nhìn sang bên: “Chuyện gì xảy ra với cậu thế, Banks? Cạo râu

trên trán

à?”

“Đâm đầu vào xe cứu hỏa.” Anh chàng nói và lại sờ vào chỗ dải băng.

“Rhyme”, Sachs bắt đầu, không cười nữa. “Chẳng có gì ở đây cả. Hắn

ta có đứa

bé còn em không kịp lấy được vật chứng để lại”

“À, Sachs, bao giờ cũng có thứ gì đó. Hãy tin vào lý thuyết của Ngài

Locard.”

“Em nhìn thấy chúng cháy hết, manh mối ấy. Và nếu còn lại gì đó thì nó

cũng bị chôn dưới hàng tấn mảnh vỡ rồi.”

“Thế thì ta sẽ tìm kiếm những manh mối mà hắn không định để lại. Ta

sẽ cùng khám nghiệm hiện trường, Sachs ạ. Em và anh. Đi thôi.”

Anh thổi hai hơi ngắn vào cọng rơm và tiến lên phía trước. Họ tiến tới

gần nhà thờ thêm ba mét thì bất ngờ cô nói. “Đợi đã.”

Anh phanh lại.

“Anh bắt đầu lơ đễnh rồi đấy, Rhyme. Buộc ít dây cao su vào bánh xe

đi chứ. Anh không muốn nhầm dấu vết của anh với dấu vết của tội

phạm đấy chứ?”

“Chúng ta nên bắt đầu từ đâu?”

“Ta cần mẫu tro”, Rhyme nói. “Có mấy hộp sơn sạch ở sau xe. Xem

em có tìm được một hộp không?”

Cô nhặt một cái hộp từ chỗ xác chiếc RRV.

“Em biết lửa phát ra từ đâu không?” Rhyme hỏi.

130 Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.

“Cũng biết.”

“Lấy một mẫu tro – khoảng một, hai hộp – càng gần chỗ phát lửa càng

tốt.”

“Được rồi”, cô nói, trèo lên một bức tường gạch cao năm feet – tất cả

những gì còn lại ở mặt phía bắc của nhà thờ. Cô nhìn xuống cái hố bốc

khói dưới chân mình.

Một nhân viên cứu hỏa gọi: “Này sĩ quan, chúng tôi vẫn chưa dọn sạch

khu này đâu. Nguy hiểm đấy.”

“Không nguy hiểm như lần trước tôi đến đây”, cô trả lời. Răng cắn quai

hộp sơn, cô bắt đầu trèo xuống.

Khi Lincoln Rhyme nhìn cô, anh như đang nhìn thấy chính mình, ba

năm rưỡi trước, lúc cởi áo vét để trèo xuống công trường xây dựng ở

cửa vào của ga tàu điện ngầm gần Tòa Thị chính. “Sachs”, Rhyme gọi.

Cô quay lại. “Cẩn thận đấy. Anh đã nhìn thấy chiếc RRV còn lại những

gì. Anh không muốn mất em hai lần trong một ngày đâu.”

Cô gật đầu và biến mất qua bờ tường.

Sau vài phút, Rhyme quát Banks: “Cô ấy đâu rồi?” “Tôi không biết.”

“Ý tôi là cậu đi xem cô ấy thế nào, hiểu không?”

“Ồ, tất nhiên rồi.” Cậu ta đi ra chỗ bức tường, nhìn qua. “Ổn chứ?”

Rhyme hỏi.

“Lung tung lắm.”

“Tất nhiên là lung tung. Cậu có nhìn thấy cô ấy không?” “Không.”

“Sachs?” Rhyme la lớn.

Có tiếng gỗ kẽo kẹt khá lâu, sau đó là tiếng chạm. Bụi bốc lên.

“Sachs? Amelia?”

Không có tiếng trả lời.

Đúng lúc anh định gửi nhóm ESU vào tìm cô thì họ nghe thấy giọng của

cô. “Tôi lên đây.”

“Jerry?” Rhyme gọi.

“Sẵn sàng”, viên thám tử trẻ tuổi trả lời.

Chiếc hộp bay từ dưới tầng hầm lên. Banks dùng một tay bắt nó.

Sachs trèo ra khỏi tầng hầm, chùi tay vào quần, nhăn mặt.

“Ổn chứ?” Cô gật đầu.

“Bây giờ thì khám nghiệm cái ngõ”, Rhyme ra lệnh. “Chỗ này lúc nào

cũng có xe cộ đi lại nên hắn sẽ không muốn đỗ xe ở phố khi hắn lôi cô

ta vào trong. Đó là chỗ hắn đỗ

xe. Dùng cái cánh cửa ở ngay đây.”

“Làm sao anh biết?”

“Có hai cách để mở những cánh cửa khóa – không dùng chất nổ, thế

thôi. Khóa và bản lề. Cánh cửa này đã bị bắt vít bên trong nên hắn

tháo ốc bản lề. Thấy không, hắn không thèm bắt chúng lại đủ chặt khi

hắn bỏ đi.”

Họ bắt đầu từ cánh cửa và đi dần ra phía sau một khe núi, tòa nhà

đang âm ỉ bốc khói nằm phía bên phải họ. Di chuyển từng foot một,

Sachs chiếu đèn PoliLight lên lớp sỏi. “Anh muốn tìm vết lốp xe”,

Rhyme nói. “Anh muốn biết xe tải của hắn đỗ ở đâu.”

“Ở đây”, cô nói, kiểm tra mặt đất. “Dấu lốp. Nhưng em không biết lốp

trước hay lốp sau. Hắn có thể lùi xe.”

“Nó mờ hay rõ? Vết lốp ấy?” “Hơi mờ.”

“Thế thì là lốp trước.” Anh cười vẻ mặt hoang mang của Sachs. “Em là

chuyên gia về xe cộ, Sachs. Lần sau em thử vào trong xe, khởi động

xem thử em có xoay tay lái

một chút trước khi đi không nhé. Để kiểm tra xem lốp có thẳng hướng

hay không. Vết lốp

trước luôn mờ hơn vết lốp sau. Còn bây giờ, chiếc xe bị mất là chiếc

Ford Taurus những năm 1997. Chiều dài của nó là 195,7 inch từ đầu

đến đuôi, khoảng cách giữa hai bánh là

108,5 inch. Khoảng cách từ tâm bánh sau đến cốp xe khoảng bốn

mươi lăm inch. Đo khoảng cách ấy rồi hút bụi đi.”

“Nào Rhyme, sao anh biết được tất cả những thứ ấy?” “Vừa tra cứu

sáng nay. Em lấy quần áo nạn nhân chưa?”

“Rồi. Cả móng tay và tóc nữa. Mà Rhyme này, còn điều này nữa: đứa

bé tên là Pammy nhưng hắn gọi nó là Maggie. Giống như hắn đã làm

với cô gái người Đức – hắn gọi cô ta là Hanna, nhớ không?”

“Ý em là nhân cách khác của hắn làm như thế”, Rhyme nói. “Anh băn

khoăn không biết ai là nhân vật trong vở kịch nhỏ của hắn.”

“Em sẽ hút bụi quanh cửa nữa”, cô tuyên bố. Rhyme nhìn cô – mặt bị

rạch, tóc rối bù, vài chỗ bị cháy sém. Cô hút bụi phía dưới cửa và

đúng lúc anh định nhắc cô là hiện trường vụ án có ba chiều thì cô đã

khua máy hút bụi lên lần theo khung cửa.

“Có thể hắn nhìn vào trong trước khi đưa cô ta vào”, cô nói và bắt đầu

hút bụi cả bậu cửa sổ.

Đó chính là mệnh lệnh tiếp theo của Rhyme.

Anh lắng nghe tiếng động của máy hút bụi Dustbuster. Nhưng anh dần

dần tan biến. Vào quá khứ, mấy giờ trước.

“Em đang…”, Sachs bắt đầu. “Suỵt…”, anh nói.

Như những lần dạo anh đã đi, như những buổi hòa nhạc anh đã dự,

như rất nhiều cuộc trao đổi anh đã có, Rhyme trượt sâu dần vào tâm

thức của mình. Và khi anh tới một

nơi – anh cũng không biết đó là nơi nào – anh thấy không chỉ có một

mình anh. Anh hình

dung ra một người đàn ông thấp bé đeo găng tay, mặc bộ quần áo thể

thao tối màu, đeo

mặt nạ trượt tuyết. Trèo ra ngoài chiếc xe Ford Taurus, tỏa mùi chất

tẩy rửa và mùi xe mới. Người phụ nữ – Carole Ganz – nằm trong cốp

xe, đứa con gái của cô bị giữ trong một tòa nhà xây bằng đá cẩm thạch

hồng và gạch đắt tiền. Anh nhìn thấy người đàn ông kéo người phụ nữ

ra khỏi xe.

Điều đó thật là rõ ràng. Gần như là ký ức.

Bật bản lề, mở cửa ra, kéo cô ta vào, trói lại. Hắn bắt đầu đi ra nhưng

rồi dừng lại. Hắn đến một nơi mà từ đó hắn có thể nhìn lại và thấy rõ

Carole. Giống như hắn đã nhìn xuống người đàn ông mà hắn đã chôn

cạnh đường ray buổi sáng hôm qua.

Giống như hắn đã xích Tammie Jean Colfax vào đường ống giữa

phòng. Để hắn có thể nhìn cô thật rõ.

Nhưng mà vì sao? Rhyme băn khoăn. Vì sao hắn ta lại nhìn? Để đảm

bảo nạn nhân không thể trốn chạy? Để đảm bảo hắn không để lại thứ

gì? Để…

Mắt anh bật mở; hình ảnh của thủ phạm 823 biến mất. “Sachs! Có nhớ

hiện trường Coltfax không? Chỗ em tìm thấy dấu găng tay?”

“Có chứ.”

“Em nói hắn nhìn cô ta, đó là lý do hắn xích cô ta ở chỗ thoáng. Nhưng

em không biết tại sao. Được rồi, anh đã nghĩ ra. Hắn nhìn nạn nhân vì

hắn phải nhìn.”

Vì đấy là bản chất của hắn.

“Ý anh là gì?” “Nào!”

Rhyme hút mạnh ống hút hai lần để xoay chiếc xe lăn Arrow ngược lại.

Sau đó thổi thật mạnh và anh tiến lên phía trước.

Anh lăn xe đến vỉa hè, hút mạnh để dừng xe. Anh liếc mắt nhìn xung

quanh. “Hắn muốn nhìn nạn nhân, anh cá là hắn cũng muốn nhìn giáo

dân nữa. Từ một chỗ nào đó mà hắn nghĩ là an toàn. Chỗ mà hắn

không buồn quét trước khi bỏ đi.”

Anh đang nhìn qua phố, tập trung vào một vị trí hẻo lánh, thuận lợi

trong khu nhà:

hàng hiên ngoài đường của một nhà hàng đối diện nhà thờ. “Đằng kia!

Quét nó thật sạch vào, Sachs.”

Cô gật đầu, nạp một băng đạn mới vào khẩu Glock, lấy chiếc túi đựng

vật chứng, một cặp bút chì và cái máy hút bụi. Anh nhìn thấy cô chạy

qua phố và thận trọng đi lên cầu thang, vừa đi vừa kiểm tra các bậc

thang. Hắn đã ở đây, cô nói to. “Có vết găng tay, và cả dấu giày – nó

bị mòn giống như cái dấu giày kia.”

Đúng rồi! Rhyme nghĩ. Ồ, cảm giác thật dễ chịu. Mặt trời ấm áp,

không khí, những người xem. Và sự phấn khích của cuộc săn đuổi

Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.

Được rồi, nếu chúng ta di chuyển nhanh hơn, chúng ta có thể.

Rhyme tình cờ nhìn vào đám đông và thấy có mấy người nhìn anh chằm

chằm. Nhưng còn nhiều người nhìn Amelia Sachs hơn.

Cô mải mê khoảng mười lăm phút tại hiện trường và khi quay lại cô giơ

chiếc túi nhỏ đựng vật chứng.

“Em tìm thấy gì thế, Sachs? Giấy phép lái xe của hắn? Giấy khai sinh?”

“Vàng”, cô mỉm cười nói. “Em tìm được một ít vàng.”

BA MƯƠI

“Nào mọi người”, Rhyme nói. “Ta phải xử lý vụ này thôi. Trước khi

hắn đưa đứa bé đến hiện trường tiếp theo. Ý tôi nói là di chuyển!”

Thom chuyển Rhyme từ xe lăn lên giường, nhanh chóng nhấc anh lên

một tấm bảng trượt rồi thả anh xuống chiếc giường Clinitron. Sachs

nhìn vào chiếc thang nâng cái xe lăn được gắn vào một trong những cái

tủ trong phòng ngủ – đó là cái tủ anh không muốn cô mở ra khi anh chỉ

cho cô bộ dàn và đĩa CD.

Rhyme nằm yên một lúc, thở sâu vì đã quá nỗ lực.

“Manh mối đã bị mất”, anh nhắc lại với họ. “Chẳng có cách nào giúp ta

biết được hiện trường tiếp theo ở đâu. Vậy chúng ta sẽ đánh quả lớn –

hang ổ của hắn.”

“Cậu nghĩ là chúng ta có thể tìm thấy chỗ đó ư?” Sellitto hỏi.

Ta có lựa chọn nào khác không nhỉ? Rhyme nghĩ nhưng không nói gì.

Banks vội vàng đi lên cầu thang. Anh ta không vào phòng trước khi

Rhyme buột miệng. “Họ nói gì? Nói tôi nghe. Nói tôi nghe.”

Rhyme biết mảnh vàng Sachs tìm được nằm ngoài khả năng của phòng

thí nghiệm ngẫu hứng của Mel Cooper. Do đó, anh đã yêu cầu viên

thám tử trẻ tuổi chạy nhanh đến phòng thí nghiệm tại văn phòng PERT

của FBI để phân tích nó.

“Nửa tiếng nữa họ sẽ gọi cho chúng ta.”

“Nửa tiếng?” Rhyme lầm bầm. “Họ có ưu tiên cho nó không?”

“Chắc chắn là họ sẽ ưu tiên. Dellray đang ở đấy. Anh phải gặp anh ta.

Anh ta ra lệnh dừng tất cả các vụ khác lại và nói nếu báo cáo luyện

kim đó không được đưa ngay cho anh thì họ sẽ rắc rối to – anh biết

cách anh ta nói thế nào rồi đấy.”

“Rhyme”, Sachs nói. “Cô Ganz còn kể một chuyện chắc cũng quan

trọng. Hắn ta nói hắn sẽ để cô ấy đi nếu cô ấy đồng ý cho hắn vụt

chân.”

“Vụt da chân?” “Lóc da chân.”

“À, lột da131 chân”, Rhyme chữa lại.\

“Ồ. Nhưng hắn chẳng làm gì. Cô ta nói là có vẻ như cuối cùng hắn

cũng không thể bắt bản thân hắn cắt vào chân cô ấy được.”

“Như ở hiện trường đầu tiên – người đàn ông cạnh đường tàu.” Sellitto

khuyến

nghị.

“Hay thật…”, Rhyme trầm ngâm. “Tôi nghĩ hắn cắt ngón tay nạn nhân

để không

ai dám ăn trộm chiếc nhẫn. Nhưng có thể không phải như vậy. Hãy

xem hành vi của hắn: Cắt đứt ngón tay người lái taxi và đem nó theo.

Cắt tay chân cô gái người Đức. Ăn trộm

131  Lột da – Flail (vụt) và flay (lột da): Từ đồng âm khác nghĩa, một

cách chơi chữ.

xương và bộ xương rắn. Lắng nghe khi bẻ gãy ngón tay Everett… Có

gì đó trong cách hắn nhìn nạn nhân. Cái gì đó mang tính…”

“Giải phẫu.”

“Chính xác đấy, Sachs.”

“Ngoại trừ cô Ganz”, Sellitto nói.

“Quan điểm của tôi là”, Rhyme nói. “Hắn có thể cắt chân cô ta mà vẫn

giữ cô ta còn sống cho chúng ta. Nhưng có gì đó ngăn hắn lại. Cái gì

vậy?”

Sellitto nói: “Cô ta có gì khác biệt? Không thể chỉ vì cô ta là phụ nữ.

Hoặc cô ta là người ngoại tỉnh. Cô gái Đức cũng vậy.”

“Có thể hắn không muốn làm đau cô ta trước mặt đứa con gái”, Banks

nói. “Không”, Rhyme nói dứt khoát, “lòng thương không phải là thứ

hắn có.” Sachs bất ngờ nói: “Nhưng có một điều khác biệt – cô ấy là

một bà mẹ.”

Rhyme xem xét điều này. “Cũng có thể. Mẹ và con gái. Không đủ sức

nặng để hắn thả họ ra. Nhưng đủ để ngăn hắn không tra tấn cô ta.

Thom, viết vào nhé. Với một dấu hỏi.” Anh hỏi Sachs: “Cô ta có nói gì

thêm về ngoại hình hắn không?”

Sachs lật cuốn sổ.

“Vẫn như trước”, cô đọc, “mặt nạ trượt tuyết, thân hình nhỏ bé, găng

tay đen, hắn…”

“Găng tay đen?” Rhyme nhìn lên tờ giấy trên tường. “Không phải màu

đỏ à?” “Cô ấy nói là màu đen. Em đã hỏi lại xem cô ấy có chắc

không.”

“Mẩu da khác cũng có màu đen, đúng không, Mel? Có thể đó chính là

đôi găng tay. Thế thì miếng da đỏ ở đâu ra?”

Cooper nhún vai: “Tôi không biết nhưng ta tìm thấy một, hai miếng.

Như vậy đó là thứ gần gũi với hắn.”

Rhyme nhìn vào những cái túi vật chứng. “Ta còn tìm được gì nữa

nhỉ?”

“Dấu vết ta hút được trong ngõ và trên bậc cửa.” Sachs đổ túi lọc bụi

ra một tờ báo và Cooper dùng kính lúp để soi. “Chẳng có gì hết”, anh

ta tuyên bố. “Chủ yếu là đất. Một ít khoáng chất. Đá phiến diệp thạch

mica vùng Manhattan. Chất feldspar132.”

Những thứ này có khắp nơi trong thành phố. “Tiếp tục đi.”

“Lá cây mục. Thế thôi.”

“Còn quần áo của cô Ganz thì sao?”

Cooper và Sachs mở tờ báo ra và xem xét dấu vết.

132 Feldspar: Tên của nhóm các khoáng chất tạo thành đá và tạo

thành sáu mươi phần trăm lớp vỏ Trái Đất.

“Chủ yếu là đất”, Cooper nói. “Vài mẩu trông giống như đá.” “Tuyệt!”

Rhyme la lớn. Nói với Cooper: “Đốt nó lên đi. Chỗ đất ấy.”

Cooper đặt một mẩu vào máy GC-MS. Họ nóng lòng chờ đợi kết quả.

Cuối cùng thì màn hình máy tính cũng nhấp nháy. Tấm lưới trên màn

hình gợi nhớ khung cảnh mặt trăng.

“Được rồi, Lincoln. Thú vị đấy. Tôi đọc thấy có chất tannin và…”

“Sodium carbonate?”

“Ngạc nhiên chưa?” Cooper cười. “Sao anh biết?”

“Người ta dùng nó trong các xưởng thuộc da thế kỷ XVIII và XIX.

Tannic acid xử lý da sống còn kiềm làm cho nó chắc hơn. Như thế là

nơi ẩn nấp an toàn của hắn ở gần một xưởng thuộc da cũ.”

Anh cười. Không thể dừng được. Anh nghĩ: Mày có nghe tiếng bước

chân không,

823? Chúng ta đang theo sau mày đấy.

Mắt anh lướt sang tấm bản đồ Randel Survey. “Vì chúng bốc mùi nên

không ai muốn có xưởng thuộc da trong khu của họ, do đó ủy ban

thành phố đã hạn chế chúng. Tôi biết một vài nơi ở bên Lower East

Side. Và ở West Greenwich Village – khi nó thực sự còn là một khu

làng, khu ngoại ô thành phố. Sau đó là phía West Side trong những

năm

1950 – gần đường hầm ở bãi chăn, nơi ta tìm thấy cô gái người Đức.

Ồ, cả ở Harlem

trong những năm 1900.”

Rhyme  nhìn danh sách  những cửa hàng  thực phẩm –  vị trí những

cửa hàng ShopRite có bán chân bê. “Chelsea bị loại. Không có thuộc

da ở đây. Harlem cũng vậy – không có cửa hàng ShopRite ở đây. Như

vậy còn lại West Village, Lower East Side hay Midtown West Side –

lại là Hell’s Kitchen. Có vẻ hắn thích chỗ này.”

Chỉ khoảng mười dặm vuông, Rhyme đánh giá sơ bộ. Từ ngày đầu tiên

đi làm anh đã nhận ra rằng trốn ở Manhattan còn dễ hơn ở North

Woods.

“Tiếp tục đi. Còn hòn đá trong quần áo của Carole thì sao?” Cooper

đang cúi xuống kính hiển vi. “Được rồi. Có rồi.” “Chuyển sang cho tôi

đi, Mel.”

Màn hình máy tính của Rhyme hoạt động trở lại, anh ngắm nghía những

mảnh đá và tinh thể, trông như những thiên thạch kim cương.

“Di chuyển nó đi”, Rhyme hạ lệnh. Ba vật chất bám dính lấy nhau.

“Mẩu bên trái là đá cẩm thạch hồng”, Cooper nói. “Giống như mẫu đá

trước đây ta tìm thấy. Ở giữa, thứ màu xám…”

“Là vữa. Và cái kia là đá cát kết nâu.” Rhyme tuyên bố. “Nó từ một

ngôi nhà kiểu liên bang, như Tòa Thị chính năm 1812. Chỉ có mặt tiền

được lát đá cẩm thạch; phần còn lại là đá cát kết nâu. Họ làm thế để

tiết kiệm chi phí. À, họ làm thế để tiền mua đá cẩm thạch có thể tìm

được đường vào túi. Còn bây giờ, chúng ta có gì nữa nhỉ? Tàn tro.

Thử tìm chất phát hỏa xem.”

Cooper đưa mẫu tro vào máy GC-MS. Anh ta nhìn chăm chăm vào

đường cong xuất hiện trên màn hình.

Xăng mới được lọc, có chứa phẩm màu và chất phụ gia của nhà sản

xuất, mang tính đặc thù và có thể lần ngược tới một nguồn duy nhất nếu

các lô xăng khác nhau không bị trộn lẫn ở trạm mà tội phạm mua xăng.

Cooper nói xăng tuyệt đối trùng với loại bán ở các trạm bảo dưỡng xe

hơi Gas Exchange.

Banks vớ lấy Những Trang Vàng và mở ra. “Ta có sáu trạm xăng ở

Manhattan. Ba trạm trong nội thành. Một ở Đại lộ Sáu và Houston,

một ở Delancey, 503 East. Một ở Đại lộ Mười chín và Tám.”

“Đại lộ Mười chín quá xa về phía Bắc”, Rhyme nói. Anh nhìn bảng hồ

sơ. “East

Side hay West Side. Ở đâu nhỉ?”

Cửa hàng thực phẩm, xăng…

Một thân hình gầy guộc bất ngờ lấp đầy cánh cửa.

“Tôi vẫn được mời dự tiệc ở đây đấy chứ?” Frederick Dellray hỏi.

“Còn tùy”, Rhyme đáp lời. “Xem anh có đem quà đến không?”

“À, tha hồ mà quà.” Viên đặc vụ nói, vẫy cái phong bì có trang trí hình

tròn quen thuộc của biểu tượng FBI.

“Anh có bao giờ gõ cửa không, Dellray?” Sellitto hỏi. “Mất thói quen

đó rồi, anh biết đấy.”

“Vào đi”, Rhyme nói. “Anh có gì nào?”

“Không biết chắc lắm. Chẳng có ý nghĩa gì với tôi. Nhưng mà tôi biết

gì nào?” Dellray đọc qua báo cáo rồi nói: “Tony Farco ở PERT, nhân

tiện anh ta gửi lời

chào anh đấy, Lincoln, đã phân tích mẫu vật chứng mà các cậu tìm

thấy. Hóa ra đấy là một lá vàng. Có thể khoảng sáu mươi đến tám

mươi năm tuổi rồi. Anh ta còn thấy mấy sợi cellulose dính ở đó nên anh

ta nghĩ nó rơi ra từ một cuốn sách.”

“Tất nhiên rồi! Phần mạ vàng đầu trang”, Rhyme nói.

“Anh ta còn tìm thấy mấy hạt mực trên đó. Anh ta nói, tôi trích dẫn

nhé: ‘Nó không phải không nhất quán với loại mực Thư viện Công

cộng New York dùng để đóng dấu ở đầu sách’. Anh ta nói thật khôi

hài, phải không?”

“Một cuốn sách thư viện”, Rhyme trầm ngâm.

Amelia Sachs nói: “Một cuốn sách bìa da đỏ của thư viện.”

Rhyme nhìn cô chăm chăm. “Đúng rồi!” Anh la lớn. “Đó chính là gốc

của những miếng da đỏ. Không phải găng tay. Đó là một cuốn sách mà

hắn luôn mang theo. Có thể là Kinh Thánh của hắn.”

“Kinh Thánh?” Dellray hỏi. “Anh nghĩ hắn là một kẻ cuồng tôn giáo hay

sao?” “Không phải là Kinh Thánh đó, Fred. Banks, gọi lại cho thư viện

đi. Có thể đó

chính là cách hắn mài mòn đôi giày của hắn – trong phòng đọc. Tôi

biết, đoán thế là quá

xa. Nhưng chúng ta không có nhiều lựa chọn. Tôi muốn có danh sách

tất cả các cuốn sách cổ bị lấy cắp từ các nơi trong phạm vi Manhattan

trong năm qua.”

“Sẽ làm.” Chàng thanh niên xoa xoa vết sẹo cạo râu khi anh ta gọi đến

nhà Thị trưởng, thẳng thừng xin phép ngài liên hệ với giám đốc thư viện

công cộng và nói với ông ta những gì họ cần.

Nửa tiếng sau, máy fax reo chuông và nhả ra hai trang giấy. Thom kéo

giấy ra khỏi máy. “Ôi trời, ngón tay của độc giả thành phố này dính

quá”, cậu ta nói khi đem nó đến cho Rhyme.

Tám mươi tư cuốn sách có tuổi đời năm mươi năm hoặc lâu hơn đã

biến khỏi các chi nhánh của thư viện công cộng trong vòng mười hai

tháng qua, ba mươi lăm cuốn ở Manhattan.

Rhyme lướt qua danh sách. Dickens, Austen133, Hemingway,

Dreiser134… Sách về âm nhạc, triết học, rượu vang, phê bình văn

học, truyện cổ tích. Giá của những cuốn sách này thấp đến mức đáng

ngạc nhiên. Hai mươi, ba mươi đô la. Anh nghĩ rằng không cuốn nào

trong số này là bản in lần thứ nhất, nhưng có lẽ bọn trộm không biết

điều này.

Anh tiếp tục lướt qua danh sách. Không có gì. Không có gì. Có thể

là… Và rồi anh nhìn thấy nó.

Crime in Old New York, tác giả Richard Wille Stephans, do Bountiful

Press xuất bản năm 1919. Giá của nó được liệt kê là sáu mươi lăm đô

la, và nó bị đánh cắp từ chi nhánh Phố Delancey của Thư viện Công

cộng New York chín tháng trước. Nó được mô tả là có kích thước

năm nhân bảy inch, được bọc bằng da dê mềm, bìa sau phủ cẩm thạch,

gáy mạ vàng.

“Tôi muốn một bản. Tôi không quan tâm làm sao mà có được. Cho ai

đó đến Thư viện Quốc hội nếu cần.”

Dellray nói: “Để tôi lo vụ này.”

Cửa hàng thực phẩm, xăng, thư viện…

Rhyme cần quyết định. Có khoảng ba trăm nhân viên tìm kiếm – cảnh

sát, quân đội bang và đặc vụ liên bang – nhưng họ sẽ bị trải siêu mỏng

nếu như họ phải tìm cả West Side và East Side của khu trung tâm New

York.

133 Austen: (1775 – 1817): Tiểu thuyết gia người Anh. Xã luận và

cách sử dụng điệu nghệ ngôn ngữ tự do gián tiếp và mỉa mai đã làm

cho Austen trở thành một trong những tiểu thuyết gia được tôn trọng và

có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học Anh.

134 Dreiser: Theodore Herman Albert Dreiser (1871 – 1945), tác giả

người Mỹ thuộc trường phái tự nhiên, nổi tiếng vì sự gai góc, mạnh

bạo.

Anh nhìn lên bảng hồ sơ.

Nhà máy ở West Village phải không? Rhyme lặng lẽ hỏi 823. Liệu mày

có đánh cắp sách và mua xăng ở East Side để lừa bọn tao không? Hay

đó thực sự là khu của mày? Không, vấn đề không phải là mày thông

minh đến đâu, mà là mày nghĩ mày thông minh đến đâu. Mày tự tin về

chuyện bọn tao không thể tìm những mảnh li ti của mày đến mức nào,

những mảnh nhỏ mà Ngài Locard bảo đảm với bọn tao là mày sẽ phải

để lại?

Cuối cùng Rhyme ra lệnh. “Đi tìm ở Lower East Side. Quên West

Village đi. Đưa tất cả mọi người tới đó. Tất cả lính của Bo, tất cả lính

của anh nữa, Fred. Đây là thứ mà các anh cần tìm: một ngôi nhà lớn

kiểu liên bang gần hai trăm năm tuổi, mặt tiền đá cẩm thạch hồng, hai

bên và phía sau là đá cát kết nâu. Có thể đã từng là một biệt thự hay

một tòa nhà công cộng. Có một cái ga ra hoặc nhà để xe ngựa bên

cạnh. Một chiếc Taurus sedan hay Yellow Cab qua lại trong vài tuần

qua. Thường xuyên hơn vào những ngày gần đây.”

Rhyme nhìn Sachs.

Bỏ qua người đã chết…

Sellitto và Dellray gọi điện.

Sachs nói với Rhyme: “Em cũng đi.” “Anh không trông chờ điều gì

khác.”

Khi cánh cửa đóng lại phía dưới nhà, anh thì thầm. “Chúc may mắn,

Sachs. Chúc may mắn.”

BA MƯƠI MỐT

Ba chiếc xe tuần tra chậm rãi chạy dọc theo những con phố của Lower

East Side. Hai tên cớm trong một xe. Ánh mắt tìm kiếm.

Một lát sau, hai chiếc xe độc mã đen xuất hiện… ý hắn là hai chiếc

sedan. Không được đánh dấu, nhưng ánh đèn tìm kiếm dưới gương

chiếu hậu bên trái đã không để lại chút nghi ngờ nào về việc họ là ai.

Hắn biết họ sẽ thu hẹp vùng tìm kiếm, tất nhiên là như vậy, chỉ là vấn

đề thời gian trước khi họ tìm thấy nhà hắn. Nhưng hắn bị sốc khi thấy

họ ở gần như vậy. Và đặc biệt hắn khó chịu khi mấy tên cớm đã ra

khỏi xe và kiểm tra chiếc Taurus màu bạc đỗ trên phố Canal.

Làm thế quái nào mà chúng tìm được xe ngựa của hắn? Hắn biết rằng

ăn trộm xe có rủi ro rất lớn nhưng hắn nghĩ phải mất vài ngày Hertz mới

biết đến chiếc xe bị mất cắp. Mà kể cả họ có phát hiện được thì hắn

chắc chắn rằng cớm sẽ không bao giờ liên kết hắn với kẻ trộm. Chà,

họ giỏi đấy chứ.

Một trong những tên cớm có ánh mắt độc ác liếc nhìn chiếc xe của

hắn.

Nhìn thẳng về phía trước, Kẻ Tầm Xương chậm rãi rẽ vào Phố

Houston, biến mất trong một đám đông xe taxi khác. Nửa tiếng sau,

hắn bỏ rơi chiếc taxi, chiếc Hertz Taurus, đi bộ về nhà.

Maggie bé nhỏ ngước nhìn hắn.

Con bé đang hoảng sợ, nhưng nó đã không khóc nữa. Hắn băn khoăn

không biết có nên giữ con bé hay không. Kiếm cho mình một đứa con

gái. Nuôi nấng nó. Ý nghĩ này xuất hiện trong đầu hắn chỉ một khoảnh

khắc rồi biến mất.

Không, sẽ có quá nhiều câu hỏi. Ngoài ra, còn có điều gì đó ghê rợn

trong cái cách con bé nhìn hắn. Trông con bé có vẻ già trước tuổi. Nó

sẽ luôn nhớ hắn đã làm những gì. Ồ, nhưng có thể nó sẽ nghĩ đó chỉ là

giấc mơ. Nhưng rồi một ngày nào đó, sự thực sẽ lộ ra. Luôn luôn là

vậy. Có giấu thế nào chăng nữa, sự thực vẫn sẽ lộ ra.

Không, hắn không thể tin con bé nhiều hơn hắn tin bất cứ ai khác. Cuối

cùng thì bất cứ linh hồn tội nghiệp nào cũng có thể làm hại hắn. Mày có

thể tin tưởng sự căm thù. Mày có thể tin tưởng xương cốt. Tất cả

những thứ còn lại chỉ là sự phản bội.

Hắn quỳ xuống cạnh Maggie và bóc miếng băng dính khỏi miệng cô

bé. “Mẹ ơi!” Con bé gào khóc. “Cháu muốn mẹ!”

Hắn không nói gì, chỉ đứng đó và nhìn xuống con bé. Nhìn vào hộp sọ

mỏng manh của nó. Những cánh tay mỏng manh của nó.

Nó la hét như còi báo động.

Hắn lấy đôi găng tay. Những ngón tay của hắn lơ lửng trên đầu con bé

trong giây lát. Sau đó hắn vuốt ve mớ tóc mềm mại của nó. (“Có thể

lấy được dấu tay trên da thịt, nếu lấy trong vòng chín mươi phút sau khi

tiếp xúc (Xem KROMEKOT) nhưng chưa có

ai lấy được và tái tạo lại dấu vân tay từ tóc người.” Lincoln Rhyme,

Vật chứng, xuất bản lần thứ tư, New York: Forensic Press, 1994.)

Kẻ Tầm Xương chậm rãi đứng dậy và leo lên cầu thang, vào một

phòng khách lớn trong tòa nhà, đi qua những bức vẽ trên tường –

những người công nhân, những người phụ nữ và trẻ em đang nhìn chằm

chằm. Hắn nghiêng đầu lắng nghe tiếng động mờ nhạt phía bên ngoài.

Sau đó lớn dần – tiếng kim loại va vào nhau loảng xoảng. Hắn vơ vũ

khí và vội vã chạy ra phía sau tòa nhà. Mở chốt cánh cửa rồi bất thình

lình đẩy nó mở tung, hắn đã ở tư thế hai tay giương súng.

Một đàn chó hoang đang nhìn hắn. Chúng nhanh chóng quay trở lại với

cái thùng rác vừa bị chúng lật đổ. Hắn đút súng vào túi và quay lại

phòng khách.

Hắn lại thấy mình đứng cạnh ô cửa sổ kính chai, nhìn ra bãi tha ma cũ.

Đúng rồi. Đằng kia! Lại có một người đàn ông mặc đồ đen đứng trong

nghĩa địa. Phía xa, bầu trời bị đâm thủng bởi cây cột buồm của những

con thuyền cao tốc và thuyền buồm đang đậu trên sông Đông dọc theo

bờ Out Ward.

Kẻ Tầm Xương cảm thấy một nỗi buồn nặng trĩu. Hắn băn khoăn

không hiểu có phải vừa xảy ra thảm kịch gì hay không. Có thể là đám

cháy lớn năm 1776 vừa mới phá hủy hầu hết những tòa nhà ở

Broadway. Hay dịch sốt vàng da năm 1795 đã tàn sát cộng đồng

người Ireland. Hay đám cháy trên du thuyền tướng Slocum năm 1904

vừa giết chết hơn một nghìn phụ nữ và trẻ em, tàn phá khu kiều dân

Đức ở Lower East Side.

Hoặc hắn đang cảm thấy những thảm kịch sắp diễn ra.

Sau vài phút, tiếng la hét của Maggie đã lắng xuống, thay vào đó là

những âm thanh của thành phố xưa, tiếng gầm của động cơ hơi nước,

tiếng chuông leng keng, tiếng súng nổ, tiếng vó ngựa cộng hưởng trên

những con đường trải sỏi.

Hắn tiếp tục nhìn, quên đi những tên cớm đang theo dấu hắn, quên đi

Maggie, chỉ còn nhìn hình ảnh ma quái đang trôi trên phố.

Ngày đó và bây giờ.

Mắt hắn tập trung ra ngoài cửa sổ một lúc lâu, lạc lối vào một thời đại

khác. Vì thế hắn không nhận thấy những con chó hoang, chúng đã đi

qua cánh cửa hậu hắn để mở tung. Chúng nhìn hắn qua ô cửa phòng

khách và chỉ dừng lại một thoáng trước khi quay lại và lặng lẽ nhảy ra

phía sau ngôi nhà.

Mũi hếch lên ngửi mùi, tai lắng nghe những tiếng động của một nơi

chốn xa lạ. Nhất là tiếng khóc lóc yếu ớt vang lên từ đâu đó bên dưới

chúng.

Đó là dấu hiệu của sự tuyệt vọng, khi mà những Chàng trai Dũng cảm

cũng phải tách nhau ra.

Bedding tìm kiếm khoảng nửa tá khu nhà quanh Delancey, Saul ở xa

hơn về phía nam. Sellitto và Banks, ai cũng có khu vực tìm kiếm của

mình, cùng với hàng trăm sĩ quan, đặc vụ FBI và quân nhân khác. Họ

đang tìm kiếm từng nhà, hỏi về một người đàn ông nhỏ bé, một đứa trẻ

kêu khóc, một chiếc Taurus màu bạc, một tòa nhà kiểu liên bang bị bỏ

hoang, mặt tiền là đá cẩm thạch, phần còn lại là đá cát kết nâu.

Hả? Ý anh muốn nói cái gì, kiểu liên bang?... Có nhìn thấy đứa bé

không à? Anh hỏi tôi có nhìn thấy một đứa bé ở Lower East Side

không ư? Này Jimmy, cậu có nhìn thấy đứa bé nào quanh đây không?

Ít nhất là không phải trong sáu mươi giây vừa qua?

Amelia Sachs đang thả lỏng người. Cô đòi được tham gia nhóm của

Sellitto, nhóm đi đến cửa hàng ShopRite ở Đông Houston, nơi đã bán

chân bê cho thủ phạm 823. Và đến trạm xăng đã bán xăng cho hắn.

Thư viện nơi hắn chôm cuốn Crime in Old New York.

Nhưng họ không tìm thấy manh mối gì ở đây và tản ra như những con

sói ngửi thấy quá nhiều mùi. Mỗi con chọn lấy một lãnh địa để tự nhận

là của mình.

Sachs khởi động chiếc RRV mới để đến một khối nhà khác, cô cảm

thấy sự bất ổn quen thuộc khi khám nghiệm hiện trường trong mấy

ngày qua: quá nhiều chứng cứ, quá nhiều sân phải bao. Cảm thấy sự

vô vọng của nó. Ở đây, trên những con phố nóng bức, khó chịu, rẽ

nhánh thành hàng trăm con phố và ngõ khác, chạy qua hàng nghìn ngôi

nhà – tất cả đều đã cũ – việc tìm kiếm nơi ẩn nấp cũng có vẻ bất khả

thi như tìm kiếm một sợi tóc như Rhyme đã kể với cô, bị dính lên trần

nhà do sức giật của khẩu ổ quay .38.

Cô định đến từng con phố, nhưng thời gian trôi đi và khi cô nghĩ đến

đứa bé bị chôn dưới hầm sắp chết, cô bắt đầu tìm kiếm nhanh hơn, lao

trên các con phố, nhìn sang hai bên để tìm tòa nhà bằng đá cẩm thạch

hồng. Sự hoài nghi làm cô đau đớn. Cô có bỏ qua tòa nhà nào vì quá

vội vàng không? Hay cô cần lái xe nhanh như chớp và qua nhiều phố

hơn?

Tiếp tục. Một khối nhà, thêm khối nữa. Vẫn chẳng có gì.

Sau cái chết của tên tội phạm, dấu vết của hắn được các thám tử thu

thập và nghiên cứu kỹ. Nhật ký của hắn cho thấy hắn đã giết tám công

dân lương thiện của thành phố. Hắn cũng là kẻ trộm mộ, vì từ những

trang viết của hắn có một điều chắn chắn là (nếu như những tuyên bố

của hắn được coi là sự thực) hắn đã xâm hại một số nơi yên nghỉ thiêng

liêng trong các nghĩa địa quanh thành phố. Không nạn nhân nào sỉ nhục

hắn; phần lớn họ là những công dân trung thực, cần cù và vô tội. Tuy

vậy, hắn vẫn không thấy mình có lỗi. Thực sự, hắn có vẻ hoạt động với

một sự ảo tưởng điên rồ rằng, hắn đang ban cho nạn nhân của mình

những ân huệ.

Ngón tay trái của Lincoln Rhyme động nhẹ và chiếc khung lật trang

giấy màu vỏ hành của cuốn Crime in Old New York, cuốn sách được

hai nhân viên liên bang đem tới mười phút trước, dịch vụ này được

cung cấp nhờ phong cách không thể bắt chước của Fred Dellray.

“Thịt da tan biến và cơ thể yếu đuối – (tên tội phạm viết bằng nét chữ

thô thiển nhưng đều đặn) – xương cốt là phần mạnh nhất của cơ thể.

Có thể thịt da chúng ta già cỗi, nhưng xương cốt chúng ta luôn tươi trẻ.

Đó là mục đích cao quý của tôi, nó vượt qua tôi và làm sao mà ai đó

lại có thể tranh luận về nó được. Tôi ban ơn cho họ. Tất cả bọn họ giờ

đã bất tử. Tôi giải phóng họ. Tôi chiếm hữu họ đến tận xương.”

Terry Dobyns đã đúng. Chương Mười: “James Schneider: Kẻ Tầm

Xương”, là bản thiết kế cho hành vi của Đối tượng 823. MO giống hệt

nhau – lửa, động vật, nước, luộc sống. 823 lảng vảng ở những nơi

Schneider đã đến. Hắn nhầm một khách du lịch người Đức với Hanna

Goldschmidt, một người nhập cư đầu thế kỷ, và hắn đã bị lôi kéo đến

khu dân cư người Đức để tìm kiếm nạn nhân. Và hắn gọi Pammy Ganz

bé nhỏ bằng một cái tên khác – Maggie. Rõ ràng hắn nghĩ rằng cô bé

là O’Connor, một trong những nạn nhân của Schneider.

Trong cuốn sách có một bức tranh khắc acid rất tệ, được bọc bằng

giấy, minh họa

James Schneider ma quái đang ngồi trong tầng hầm, ngắm nghía cái

xương chân.

Rhyme nhìn chăm chăm vào tấm bản đồ Randel Survey của thành phố.

Xương cốt…

Rhyme nhớ lại một hiện trường vụ án mà anh đã một lần khám nghiệm.

Anh được gọi đến một công trường xây dựng ở Lower Manhattan, nơi

máy xúc phát lộ ra một cái sọ người nằm cách mặt đất vài feet trong

một khu đất trống. Ngay lập tức Rhyme thấy rằng cái sọ đã rất cũ và

anh mời nhà pháp y nhân chủng học tham gia vào vụ này. Họ tiếp tục

đào và phát hiện thêm một số xương và sọ người nữa.

Một  nghiên cứu  nhỏ  cho  thấy năm 1741  có  một  cuộc nổi loạn của

nô  lệ ở Manhattan, một số nô lệ – và những người da trắng theo chủ

nghĩa bãi nô – đã bị treo cổ trên một hòn đảo nhỏ ở Collect. Hòn đảo

này trở thành một pháp trường treo cổ. Một vài nghĩa địa không chính

thức và mỏ đất sét đã được tìm thấy trong khu vực.

Collect là ở chỗ nào nhỉ? Rhyme cố nhớ lại. Gần nơi giao nhau giữa

Chinatown và

Lower East Side. Nhưng khó nói được chắc chắn vì cái ao đã bị lấp

rất lâu rồi. Nó đã là…

Đúng rồi! Anh nghĩ, tim đập mạnh. Collect bị lấp đi vì nó đã ô nhiễm

tới mức ủy ban thành phố coi nó là nguy cơ lớn đối với sức khỏe. Một

số nơi gây ô nhiễm chính là những xưởng thuộc da phía Đông.

Đã khá thuần thục với bộ quay số, Rhyme không quay nhầm số nào và

chỉ cần một lần anh đã gọi được cho Thị trưởng. Tuy nhiên, người thư

ký nói hiện giờ ông ta đang ăn sáng với Liên Hiệp Quốc. Nhưng khi

Rhyme xưng tên, người thư kí nói. “Xin chờ một phút, thưa ngài.”

Không phải chờ lâu đến thế, anh đã được nói chuyện với một người

đàn ông vừa nói miệng vừa đầy thức ăn: “Nói đi, thám tử. Công việc

của các anh có cái mẹ gì hay không?”

“5885, nghe rõ.” Amelia Sachs trả lời máy bộ đàm. Rhyme nghe thấy

sự bực dọc trong giọng nói của cô.

“Sachs.”

“Không hay rồi.” Sachs nói với anh. “Chúng ta không gặp may.” “Anh

nghĩ anh đã tóm được hắn rồi.”

“Cái gì?”

“Khối nhà sáu trăm, East Van Brevoort. Gần Chinatown.” “Làm sao

anh biết?”

“Thị trưởng vừa giúp anh liên lạc với giám đốc Hội Sử học. Ở đó có

một khu khai quật khảo cổ. Một nghĩa địa cũ. Đối diện với chỗ trước

đây từng là một xưởng thuộc da. Ở đó trước đây đã có mấy ngôi biệt

thự kiểu liên bang. Anh nghĩ hắn ở gần đấy.”

“Em đi đây.”

Anh nghe thấy tiếng lốp xe rít lên, sau đó là tiếng còi hụ.

“Anh đã gọi cho Lon và Haumann”, anh nói thêm. “Họ cũng đang trên

đường tới

đó.”

“Rhyme”, giọng nói khẩn cấp của cô vang lên. “Em sẽ cứu cô bé ra.”

À, em có một trái tim nhân hậu của một cảnh sát, Amelia, một trái tim

chuyên

nghiệp, Rhyme nghĩ. Nhưng em vẫn chỉ là lính mới. “Sachs?” Anh nói.

“Vâng?”

“Anh đã đọc cuốn sách ấy. 823 đã chọn một kẻ xấu xa làm hình mẫu

cho hắn. Một kẻ thực sự xấu xa.”

Cô không nói gì.

“Điều anh định nói là”, anh tiếp tục, “bất kể cô bé có ở đó hay không,

nếu em tìm thấy hắn và hắn phản ứng, em phải hạ hắn ngay.”

“Nhưng ta có thể bắt sống hắn, hắn có thể dẫn ta đến chỗ cô bé. Ta

có thể…” “Không, Sachs. Nghe anh này. Em hạ hắn. Khi có bất kỳ

dấu hiệu nào cho thấy

hắn lấy vũ khí, bất kỳ thứ gì… em hãy hạ hắn.”

Tiếng tĩnh điện loạt xoạt. Sau đó anh nghe thấy giọng nói bình thản của

cô. “Em đang ở East Van Brevoort, Rhyme ạ. Anh đã đúng. Trông

giống như chỗ của hắn.”

Mười tám chiếc xe không số, hai xe thùng ESU và chiếc RRV của

Sachs tụ tập gần một con phố ngắn, hoang vắng ở Lower East Side.

East Van Brevoort trông như ở Sarajevo. Các tòa nhà bị bỏ hoang,

một vài tòa nhà đã bị đốt trụi. Phía đông con phố là một bệnh viện đổ

nát, mái của nó đã trũng xuống. Bên cạnh là một cái hố lớn trên mặt

đất, không có dây chắn, với tấm biển Cấm vào có đóng dấu của Tòa

án Quận – một khu khai quật khảo cổ mà Rhyme đã nhắc đến. Một

con chó gầy giơ xương đã chết nằm trong ống máng, bị chuột gặm.

Ở giữa bên kia phố là một ngôi nhà mặt tiền cẩm thạch, màu hồng nhạt

với một nhà xe bên cạnh, trông khả dĩ hơn một chút so với những ngôi

nhà đổ nát dọc Van Brevoort.

Sellitto, Banks và Haumann đứng cạnh chiếc xe thùng ESU trong khi

một tá sĩ quan khác đang mặc áo giáp chống đạn và kiểm tra những

khẩu M-16. Sachs đi cùng họ, không hỏi han, nhét mớ tóc vào mũ bảo

hiểm và bắt đầu mặc áo giáp.

Sellitto nói: “Này Sachs, cô không phải là lính chiến thuật.”

Kéo dây chiếc áo khóa dán Velcro xuống, cô nhìn chằm chằm vào

viên thám tử, lông mày nhướn cao, cho tới khi anh ta chịu nhượng bộ:

“Được rồi, nhưng cô ở hàng chặn hậu. Đó là mệnh lệnh.”

Haumann nói: “Cô sẽ ở Nhóm Hai.”

“Vâng, thưa ngài. Tôi chịu được việc này.”

Một sĩ quan ESU đưa cho cô khẩu súng máy MP-5. Cô nghĩ tới Nick

– cuộc hẹn hò của họ ở trường bắn tại Rodman’s Neck. Họ tập bắn

súng tự động trong hai giờ, bắn theo hình chữ Z qua cửa, nạp đạn

nhanh bằng cái kẹp đạn hình quả chuối và tháo súng M-

16 để lau sạch cát. Nick thích bắn từng loạt ngắn nhưng Sachs không

thích hỏa lực hỗn loạn của những thứ vũ khí lớn cho lắm. Cô đề nghị

một trận đấu giữa chúng với khẩu Glock và đã thắng anh ba lần liên

tiếp từ khoảng cách mười lăm feet. Anh cười và hôn cô say đắm khi

những vỏ đạn cuối cùng văng ra, nảy trên nền trường bắn.

“Tôi dùng súng của mình thôi”, cô nói với viên sĩ quan ESU.

Những Chàng trai Dũng cảm chạy tới, lom khom như thể sợ xạ thủ bắn

tỉa. “Chúng tôi có tin đây. Chẳng có ai ở đây. Khu này…”

“Hoàn toàn trống rỗng.”

“Cửa sổ nhà hắn đều bị chặn. Lối vào phía sau…” “Đi theo ngõ. Cửa

mở.”

“Mở?” Haumann hỏi, nhìn các sĩ quan của mình.

Saul khẳng định: “Không những không khóa mà mở.” “Bẫy à?”

“Chúng tôi không nghĩ vậy. Nhưng không có nghĩa là…”

“Không có gì.”

Sellitto hỏi: “Trong ngõ có cái xe nào không?” “Không.”

“Hai cửa vào. Một cửa chính đằng trước…”

“Trông có vẻ đóng chặt. Cửa vào thứ hai là của nhà để xe. Cửa kép,

đủ rộng cho hai xe. Dùng khóa xích.”

“Nhưng đều nằm trên sàn cả.”

Haumann gật đầu: “Như vậy có thể hắn vẫn ở trong nhà.”

“Có thể”, Saul nói, “nói cho anh ta nghe chúng ta nghĩ chúng ta nghe

thấy gì.” “Rất nhỏ. Có thể là tiếng khóc.”

“Có thể là tiếng la hét.” Sachs hỏi: “Cô bé?”

“Có thể. Nhưng đã ngừng. Làm sao mà Rhyme nghĩ ra chỗ này?”

“Các cậu nói tôi nghe đầu óc anh ta làm việc như thế nào?”, Sellitto

nói.

Haumann gọi một chỉ huy của mình lại và ra lệnh. Ngay sau đó, hai

chiếc xe thùng của ESU lao tới ngã tư đường và chặn cả hai đầu phố.

“Nhóm Một, cửa trước. Lấy mìn phá cửa. Cửa gỗ nên để mìn thấp

xuống, được chứ? Nhóm Hai, vào ngõ. Nghe tôi đếm đến ba, rõ

chưa? Vô hiệu hóa nhưng có thể cô bé còn trong đó nên phải nhìn

phông trước khi siết cò. Sĩ quan Sachs, cô chắc là cô muốn làm việc

này chứ?”

Một cái gật đầu chắc chắn.

“Được rồi, các chàng trai, cô gái. Đi tóm hắn thôi.”

BA MƯƠI HAI

Sachs và năm sĩ quan khác trong Nhóm Hai chạy vào một con ngõ

nóng như điên đã bị những chiếc xe của ESU phong tỏa. Những cây

cỏ dại mọc lởm chởm đang ngoi lên khỏi lớp đá cuội và làm nứt nẻ nền

móng, sự tiêu điều hoang vắng làm Sachs nhớ lại ngôi mộ bên cạnh

đường ray sáng hôm qua.

Anh ta hy vọng nạn nhân đã chết. Vì chính nạn nhân…

Haumann đã ra lệnh cho các sĩ quan leo lên nóc những tòa nhà xung

quanh, cô nhìn thấy nòng những khẩu Colt của họ dựng đứng lên như

những chiếc ăng ten.

Cả nhóm dừng lại ở cửa sau. Những người đồng sự nhìn cô khi cô

kiểm tra những sợi băng cao su đeo trên giày. Cô nghe thấy một người

trong số họ thì thầm điều gì đó về sự mê tín.

Sau đó cô nghe thấy trong tai nghe.

“Nhóm trưởng Nhóm Một ở cửa trước, mìn đã cài. Chúng tôi sẵn

sàng, nghe rõ.” “Nghe rõ, nhóm trưởng Nhóm Một. Nhóm Hai?”

“Nhóm Hai, vào vị trí. Nghe rõ?”

“Nghe rõ, nhóm trưởng Nhóm Hai. Hai nhóm, tấn công nhanh. Nghe

tôi đếm đến

ba.”

Kiểm tra vũ khí lần cuối.

“Một…”

Lưỡi tôi chạm vào một giọt mồ hôi đọng ở vết thương đang sưng trên

môi cô.

“Hai…”

Được rồi, Rhyme bọn em vào đây.

“Ba!”

Tiếng nổ nghe rất dịu, một tiếng bốp từ xa, và sau đó các nhóm di

chuyển. Nhanh.

Cô chạy sau những sĩ quan ESU khi họ luồn vào trong và tản ra, những

chiếc đèn pin gắn trên nòng súng quét ngang dọc với những tia sáng

chói lóa như ánh sáng mặt trời chiếu qua cửa sổ. Sachs thấy chỉ có

mình cô khi những người còn lại trong nhóm tản ra, kiểm tra tủ, giá

quần áo và bóng tối phía sau những bức tượng lố bịch đầy trong căn

nhà.

Cô quay vào góc. Một khuôn mặt nhợt nhạt lờ mờ hiện ra. Một con

dao…

Tim đập thình thịch. Tư thế sẵn sàng chiến đấu, súng giương cao. Cô

ấn mạnh cò súng trước khi cô nhận ra rằng mình đang nhìn vào một

bức vẽ trên tường. Một tên đồ tể ghê rợn mặt tròn, một tay cầm dao,

tay kia là một miếng thịt.

Người anh em…

Hắn chọn một chỗ tuyệt vời để làm nhà.

Những sĩ quan ESU lộp cộp lên cầu thang, khám xét tầng một và tầng

hai.

Nhưng Sachs lại tìm kiếm một thứ khác.

Cô tìm thấy một cánh cửa dẫn xuống tầng hầm. Nó hé mở. Được rồi.

Tắt đèn. Phải nhìn qua trước đã. Nhưng cô nhớ lại điều Nick từng nói:

không bao giờ ngó vào góc ở tầm đầu hay ngực – đó chính là nơi hắn

chờ đợi ta. Quỳ xuống. Hít thật sâu. Nhìn!

Không có gì. Đen ngòm. Trở lại nơi ẩn nấp.

Lắng nghe…

Đầu tiên cô không nghe thấy gì. Sau đó chắc chắn có tiếng gãi. Tiếng

loảng xoảng. Âm thanh thở gấp gáp hay tiếng khụt khịt.

Hắn đang ở trong đó và đào lối ra!

Cô nói vào mic: “Tôi thấy có động tĩnh dưới tầng hầm. Cần yểm trợ.”

“Nghe rõ.”

Nhưng cô không đợi được. Cô nghĩ đứa bé đang ở dưới đó với hắn.

Cô bắt đầu bước xuống cầu thang. Dừng lại và lắng nghe. Sau đó cô

nhận ra mình đang đứng với nửa thân dưới hoàn toàn không có bảo vệ.

Cô nhảy xuống sàn nhà, tiếp đất với tư thế lom khom trong bóng tối.

Thở sâu.

Còn bây giờ, hành động thôi!

Cây đèn halogen trên tay trái cô xuyên một tia sáng chói lòa khắp căn

phòng. Nòng súng nhắm vào giữa chiếc đĩa trắng đang đong đưa từ

trái sang phải. Chiếu luồng sáng xuống thấp. Hắn cũng có thể đang lom

khom. Nhớ lại điều Nick nói với cô: bọn tội phạm không biết bay.

Chẳng có gì. Không một dấu hiệu của hắn. “Sĩ quan Sachs?”

Một sĩ quan ESU đang đứng trên đầu cầu thang.

“Ôi, không”, cô lầm bầm khi luồng sáng chạm vào Pammy Ganz, đang

cứng người trong góc tầng hầm.

“Đừng di chuyển”, cô nói với người lính đặc nhiệm.

Cách cô bé vài inch là một đàn chó hoang gầy gò, đang hít ngửi mặt,

ngón tay, chân của cô bé. Đôi mắt mở to của cô bé nhìn hết con chó

này sang con chó khác. Khuôn ngực nhỏ bé của bé phập phồng, nước

mắt chan hòa trên mặt. Miệng bé há ra, cái lưỡi nhỏ xinh của nó như

thể đã dính chặt vào vành môi bên phải.

“Cứ ở trên đó”, cô nói với người lính đặc nhiệm. “Đừng làm chúng sợ.”

Sachs ngắm nhưng không bắn. Cô có thể giết chết hai, ba con nhưng

những con còn lại có thể hoảng loạn và vồ lấy cô bé. Một con thôi

cũng có thể bẻ gãy cổ cô bé chỉ bằng một cái lắc đầu.

“Hắn có dưới đó không?” Sĩ quan ESU hỏi.

“Không biết. Anh gọi bác sĩ tới đây. Chỉ đứng ở đầu cầu thang thôi.

Đừng ai xuống.”

“Rõ.”

Đầu ruồi súng của cô trượt từ con chó này sang con khác. Sachs chậm

rãi tiến lên phía trước. Từng con một, lũ chó cảm nhận được cô và rời

khỏi Pammy. Cô bé con chỉ là chút thức ăn; Sachs là thú săn mồi.

Chúng gầm gừ, chân trước run rẩy trong khi chân sau duỗi thẳng, sẵn

sàng nhảy lên.

“Cháu sợ”, Pammy rít lên, thu hút sự chú ý của lũ chó.

“Suỵt, cháu yêu”, Sachs dỗ dành. “Đừng nói gì cả. Yên lặng nào.”

“Mẹ. Cháu muốn mẹ cháu!” Tiếng gào khóc của cô bé làm lũ chó phát

khùng. Chúng nhảy nhót tại chỗ, vung vẫy những cái mũi méo mó sang

hai bên, gầm gừ.

“Từ từ, từ từ…”

Sachs bước sang trái. Lúc này lũ chó đối mặt với cô, nhìn từ mắt xuống

cánh tay cô đang duỗi ra và khẩu súng. Chúng tách làm hai bầy. Một

bầy vẫn ở gần Pammy. Bầy kia đi vòng quanh Sachs, cố tấn công bên

sườn cô.

Cô luồn vào giữa cô bé và ba con chó gần nhất.

Khẩu Glock được nâng lên hạ xuống, một con lắc. Những con mắt đen

của chúng dán vào khẩu súng đen bóng.

Một con chó vàng ghẻ lở gầm gừ và bước sang bên phải Sachs. Cô bé

con đang thút thít: “Mẹ ơi…”

Sachs di chuyển chậm rãi. Cô cúi xuống, kẹp tay vào áo cô bé và kéo

nó ra sau cô. Con chó vàng tiến lại gần hơn.

“Xùy…”, Sachs nói. Vẫn tiến lại gần hơn. “Cút đi!”

Những con chó đằng sau con chó vàng căng thẳng khi nó nhe bộ răng

vàng lởm

chởm.

“Cút con mẹ mày đi!” Sachs gầm lên rồi đập nòng khẩu Glock vào mũi

con chó.

Con chó chớp mắt vì mất tinh thần, ré lên và chạy lên cầu thang.

Pammy gào lên khiến những con chó khác phát điên. Chúng bắt đầu

đánh nhau, tạo ra một cơn lốc xoáy răng và nước bọt. Một con

Rottweiler135 đầy sẹo ném một con chó lai xuống sàn như một búi giẻ

đầy bụi ngay trước mặt Sachs. Cô giẫm mạnh chân cạnh vật thể gầy

còm màu nâu và nó nhổm lên, chạy vụt lên cầu thang. Những con chó

khác đuổi theo nó như lũ chó săn đuổi một con thỏ.

Pammy bắt đầu nức nở. Sachs quỳ xuống cạnh cô bé và dùng cây đèn

quét tầng hầm lần nữa. Không có dấu hiệu gì của tên tội phạm.

135 Rottweiler:  Một giống chó lớn có nguồn gốc từ Đức.

“Ổn rồi, cháu yêu.Chúng ta sẽ về nhà ngay thôi. Cháu sẽ ổn thôi.

Người đàn ông ở đây? Cháu còn nhớ ông ta không?

Cô bé gật đầu. “Ông ta đi chưa?”

“Cháu không biết. Cháu muốn mẹ.”

Sachs nghe tiếng những sĩ quan khác báo cáo. Tầng một và tầng hai an

toàn. “Chiếc xe và chiếc taxi?” Sachs hỏi. “Có dấu hiệu gì không?”

Một người lính nói: “Chúng không có đây. Chắc là hắn đã đi rồi.”

Hắn không ở đó, Amelia. Như thế là phi logic.

Từ trên cầu thang một sĩ quan gọi: “Tầng hầm an toàn chưa?” Cô nói:

“Tôi sẽ kiểm tra, chờ chút.”

“Chúng tôi xuống đây.”

“Không được”, cô nói. “Chúng ta có một hiện trường vụ án khá sạch

sẽ và tôi muốn giữ nó được như thế. Chỉ cần đưa nhân viên y tế xuống

đây để kiểm tra cô bé.”

Một nhân viên y tế trẻ, tóc màu cát đi xuống rồi quỳ xuống cạnh

Pammy.

Chính lúc đó Sachs nhìn thấy một dấu vết dẫn tới phía sau tầng hầm –

tới một cánh cửa sắt thấp sơn đen. Cô đi tới đó, tránh không giẫm lên

đường để bảo vệ dấu chân, rồi cô quỳ xuống. Cánh cửa khép hờ và có

vẻ như có một đường hầm phía bên kia, tối tăm nhưng không hoàn

toàn đen kịt, dẫn tới một tòa nhà khác.

Một đường thoát. Thằng khốn.

Cô dùng xương nắm tay trái đẩy cánh cửa mở rộng hơn. Nó không

kêu rên rỉ. Cô ngó vào trong đường hầm. Có ánh sáng mờ mờ cách đó

hai mươi, ba mươi feet. Không có cái bóng chuyển động nào.

Nếu Sachs nhìn thấy thứ gì trong bóng mờ tối thì đó là thân hình biến

dạng của T.J. đang đung đưa trên đường ống màu đen, là cơ thể tròn

trịa, yếu ớt của Monelle Gerger lúc con chuột đen trèo lên cổ họng cô

ta.

“5885 báo cáo Trung tâm”, Sachs nói vào mic. “Nói đi, nghe rõ”,

Haumann trả lời cộc lốc.

“Tôi thấy một đường hầm dẫn tới một tòa nhà phía nam tòa nhà của thủ

phạm. Cho người bọc lót cửa lớn và cửa sổ đi.”

“Sẽ làm, nghe rõ.”

“Tôi sẽ vào”, cô nói với anh ta.

“Vào đường hầm? Chúng tôi sẽ cho người yểm trợ cô, Sachs.”

“Không. Tôi không muốn hiện trường bị ô nhiễm. Chỉ cần cho người

để ý đến cô

bé.”

“Nói lại xem nào.”

“Không. Không cần yểm trợ.” Cô tắt đèn và bắt đầu bò.

Tất nhiên trong học viện không có khóa học xử lý chuột cống. Nhưng

những điều Nick nói với cô về việc bảo vệ hiện trường không thân

thiện quay lại với cô. Giữ súng gần người, không chĩa quá xa, vì có thể

sẽ bị đánh bật ra. Ba bước – à, lê chân – tới trước, dừng lại. Nghe

ngóng. Thêm hai bước. Dừng lại. Nghe ngóng. Lần sau bốn bước.

Đừng làm điều gì có thể đoán trước được.

Quỷ thật, tối quá.

Nhưng mùi gì thế nhỉ? Cô sởn gai ốc vì kinh tởm khi ngửi thấy thứ mùi

nóng nực, kinh khủng.

Nỗi sợ bị giam cầm bao lấy cô như một đám khói dầu và cô phải dừng

lại một lúc, tập trung vào bất kỳ thứ gì ngoài bức tường. Cơn hoảng

loạn trôi qua nhưng mùi thì kinh khủng hơn. Cô nôn khan.

Yên nào, cô bé. Yên nào!

Sachs kiểm soát được phản xạ và đi tiếp.

Tiếng gì thế nhỉ? Thứ gì đó như điện. Tiếng rù rì, dâng lên rồi chìm

xuống.

Mười feet nữa là hết đường hầm. Qua ô cửa, cô có thể nhìn thấy một

tầng hầm lớn thứ hai. Âm u, mặc dù không tối như tầng hầm nhốt

Pammy. Ánh sáng lọt vào qua một cái cửa sổ nhờn dầu. Cô thấy

những hạt bụi bay lượn trong bóng tối.

Không, không được cô bé. Cô giữ súng trước mặt quá xa. Chỉ một cú

đánh ra xong. Kéo nó lại gần mặt. Giữ trọng tâm thấp và lùi ra sau!

Tay để ngắm bắn, mông giữ thăng bằng.

Cô đến được chỗ ô cửa.

Cô lại nôn khan, cố gắng dập tắt âm thanh. Hắn có đợi mình không

nhỉ?

Thò đầu ra, nhìn thật nhanh. Mày có mũ bảo hiểm. Nó sẽ chống được

mọi thứ trừ đạn bọc kim loại hay Teflon, nhớ rằng hắn chỉ có khẩu .32.

Súng nữ.

Được rồi. Nghĩ đã. Xem nhìn bên nào trước?

Cẩm nang tuần tra không giúp được gì còn Nick thì không có lời

khuyên nào trong lúc này. Tung đồng xu vậy.

Sang trái.

Cô thò đầu ra thật nhanh, nhìn sang trái. Rồi thụt vào đường hầm. Cô

không nhìn thấy gì. Một bức tường trống, bóng tối.

Nếu hắn đứng phía bên kia chắc chắn hắn đã thấy mày và có vị trí

nhắm bắn tốt.

Được rồi, kệ mẹ nó. Cứ đi thôi. Nhanh lên.

Khi ta di chuyển…

Sachs nhảy lên.

… chúng không thể bắt được ta.

Cô nặng nề rơi xuống sàn, lăn tròn. Xoay người lại.

Một hình người trốn trong bóng tối trên bức tường bên phải, phía dưới

cửa sổ. Nhắm mục tiêu, cô chuẩn bị bắn. Nhưng rồi đông cứng.

Amelia Sachs thở dốc. Ôi, trời ơi…

Cô không thể rời mắt khỏi thân thể một người phụ nữ bị dựng đứng

vào tường.

Từ eo trở lên, cô ta là người gầy gò, tóc màu nâu tối, một khuôn mặt

gầy hốc hác, ngực nhỏ, tay xương xẩu. Ruồi bâu kín làn da cô ta –

tiếng vù vù mà Sachs đã nghe thấy.

Còn từ eo trở xuống, cô ta…chẳng có gì. Những chiếc xương hông

máu me, xương đùi, xương sống, bàn chân…Toàn bộ thịt đã bị hòa tan

trong một bể tắm ghê sợ bên cạnh cô ta – một món thịt hầm kinh

khủng, màu nâu đậm, những khúc thịt trôi nổi bên trong. Có thể là dung

dịch kiềm hay acid. Khói làm mắt Sachs cay sè, trong khi sự khủng

khiếp – và cơn giận dữ – sôi sục trong tim cô.

Tội nghiệp…

Sachs xua đuổi một cách vô nghĩa lũ ruồi đang túi bụi bay vào mặt kẻ

đột nhập

mới.

Cánh tay người phụ nữ đang thư giãn, bàn tay ngửa lên trên như thể cô

ta đang

trầm tư. Mắt nhắm. Bộ quần áo chạy thể thao đang nằm cạnh cô ta.

Cô ta không phải là nạn nhân duy nhất.

Một bộ xương khác – đã bị lóc sạch thịt – nằm cạnh một cái bể chứa

tương tự, cũ hơn, không còn chất acid kinh khủng nhưng bị bao bọc

bởi lớp cặn máu và thịt đen sì. Bộ xương không có cẳng tay và cánh

tay. Và đằng sau nó là một bộ xương khác – nạn nhân này bị chặt nhỏ,

những cái xương bị lóc thịt kỹ lưỡng, rửa sạch và đặt cẩn thận trên sàn.

Một chồng giấy ráp được xếp cạnh xương sọ. Những đường cong tao

nhã của cái đầu bóng loáng lên như một chiếc cúp.

Rồi cô nghe thấy ở phía sau.

Một hơi thở. Mờ nhạt nhưng không thể nhầm lẫn. Tiếng khò khè của

không khí sâu trong họng.

Cô quay lại, tự giận dữ với bản thân vì sự bất cẩn của mình.

Chỉ có tầng hầm trống rỗng nhìn cô. Cô quét tia sáng trên sàn nhà bằng

đá, vì vậy không hiện dấu chân rõ như nhà của 823 bên cạnh.

Một hơi thở nữa. Hắn ở đâu? Ở đâu?

Sachs khom người xuống thấp hơn, chiếu tia sáng sang bên, lên

xuống… Không có gì cả.

Hắn ở chỗ chết tiệt nào nhỉ? Đường hầm khác? Một lối thoát ra phố?

Cô nhìn xuống nền nhà một lần nữa và phát hiện một thứ mà cô nghĩ là

dấu vết mờ nhạt dẫn vào vùng bóng tối của căn phòng. Cô đi theo nó.

Dừng lại. Nghe ngóng. Hơi thở?

Có. Không.

Cô quay lại một cách ngu ngốc, nhìn lần nữa vào người phụ nữ đã

chết.

Nào!

Quay lại nhìn lần nữa. Đi dọc nền nhà.

Chẳng có gì. Làm sao mình nghe thấy nhưng không thể nhìn thấy hắn?

Bức tường phía trước cô kín mít. Không có cửa hay cửa sổ. Cô lùi lại,

về phía những bộ xương.

Từ đâu đó, lời nói của Rhyme quay lại với cô. “Hiện trường vụ án có

ba chiều.”

Bất thình lình Sachs nhìn lên, chiếu tia sáng trước mặt cô. Hàm răng

của một con chó giống Doberman136  khổng lồ phản xạ ánh sáng về

phía cô – những miếng thịt màu xám đong đưa. Cách đó khoảng hai

feet trên bờ tường cao. Nó đang chờ đợi cô, như một con mèo hoang.

Trong một khắc, không ai động đậy. Hoàn toàn chết cứng.

Sau đó Sachs cúi đầu xuống theo bản năng. Trước khi cô kịp giương

súng, nó lao mình vào mặt cô. Hàm răng của nó cắn vào chiếc mũ.

Ngậm chặt sợi dây trong miệng, nó giật điên cuồng, những muốn bẻ cổ

cô khi họ cũng ngã xuống, bên cạnh cái thùng đựng đầy acid. Khẩu

súng bay khỏi tay cô.

Con chó vẫn giữ chặt mũ bảo hiểm của cô trong khi chân sau của nó

nhảy lên, hai hàm răng thọc sâu vào áo giáp, vào bụng và vào đùi cô.

Cô đấm nó thật mạnh nhưng nó giống như một khúc gỗ trì độn; nó

không hề cảm thấy cú đánh.

Thả chiếc mũ bảo hiểm ra, nó lùi lại, sau đó lao vào mặt cô. Cô đấm

tay trái vào mắt nó khi nó ngoạm cánh tay cô. Cô cảm thấy những

chiếc răng kẹp vào da mình, cô lôi con dao gấp trong túi ra và thọc

vào xương sườn con chó. Một tiếng tru chói tai, nó lăn ra khỏi người

cô và lao thẳng ra cửa.

Sachs nhặt khẩu súng ngắn và ngay lập tức đuổi theo nó, quờ quạng

chạy trong đường hầm. Cô lao ra ngoài để nhìn thấy con thú đang lao

thẳng tới chỗ Pammy và nhân viên y tế, anh này đang đứng chết cứng

khi nhìn thấy con Doberman lao lên không trung.

Sachs quỳ xuống bắn hai phát. Một phát trúng đầu con chó, phát thứ

hai đập vào bức tường gạch. Con chó ngã vật xuống thành một đống

thịt run rẩy dưới chân nhân viên y tế.

136 Doberman: Một giống chó địa phương (Mỹ).

“Tiếng súng”, cô nghe thấy tiếng nói trong bộ đàm và khoảng nửa tá

lính đặc nhiệm lao xuống cầu thang, kéo con chó ra và dàn hàng quanh

cô bé.

“Được rồi!” Sachs la lớn. “Là tôi đấy.” Nhóm đặc nhiệm đứng lên.

Pammy đang la hét: “Con chó chết rồi… Cô ấy giết nó.” Sachs cất

súng và nhấc cô bé lên hông mình.

“Mẹ ơi!”

“Cháu sẽ gặp mẹ ngay thôi”, Sachs nói. “Các cô sẽ gọi cho mẹ cháu

ngay.”

Lên trên cầu thang, cô đặt Pammy xuống sàn và quay sang một sĩ quan

ESU đang đứng gần đó. “Tôi đánh mất chìa khóa còng rồi. Anh làm ơn

tháo cho cô bé, được chứ? Mở nó ra một tờ báo sạch, gói nó vào giấy

và cho tất cả vào một cái túi nhựa.”

Viên sĩ quan đảo mắt. “Nghe này người đẹp, đi tìm lính mới mà ra

lệnh.” Anh ta bước ra chỗ khác.

“Anh lính”, Bo Haumann quát, “anh sẽ làm những gì cô ấy nói.” “Thưa

ngài”, anh ta chống trả, “tôi là lính đặc nhiệm.”

“Tin mới đây”, Sachs lầm bầm, “bây giờ anh là dân khám nghiệm hiện

trường.”

Carol Ganz nằm trong phòng ngủ màu be rất đậm, nhìn lên trần nhà,

nghĩ tới thời gian khoảng vài tuần trước khi cô, Pammy và nhóm bạn

ngồi quanh đám lửa trại ở Winsconsin tại nhà của Kate và Eddie, nói

chuyện, kể chuyện, hát.

Giọng của Kate không hay lắm, nhưng Eddie thì có thể trở thành ca sĩ

chuyên nghiệp. Anh ấy chơi được ghita. Anh ấy hát bài Tapestry của

Carole King cho mình cô nghe và Carole vừa thì thầm hát vừa khóc.

Cô nghĩ, có thể, chỉ là có thể thôi, cô đã thực sự để cái chết của Ron

lại phía sau và tiếp tục cuộc sống của mình.

Cô nhớ tới giọng của Kate đêm đó: “Khi ta giận dữ, cách duy nhất để

xứ lý nó là gói nó lại và quẳng đi. Đưa nó cho ai đấy. Cậu có nghe thấy

không? Đừng giữ nó bên trong cậu. Cho nó đi.”

Lúc này cô đang giận dữ. Điên cuồng.

Một đứa trẻ – một thứ rác rưởi không có suy nghĩ – đã lấy mất chồng

cô, bắn vào lưng anh. Còn bây giờ, một thằng điên nào đó đã bắt con

gái cô. Cô những muốn nổ tung. Cô đã phải dùng toàn bộ ý chí để

không cho phép mình ném các thứ vào tường và tru lên như chó sói.

Cô nằm trên giường và thận trọng đặt cổ tay bị gãy của mình lên bụng.

Cô đã uống Demerol, nó giúp giảm đau nhưng cô không thể ngủ được.

Cô không làm gì ngoài việc ở trong nhà cả ngày, cố gắng liên lạc với

Kate và Eddie, chờ tin tức của Pammy.

Cô cứ hình dung ra Ron, hình dung ra cơn giận của cô, thực sự hình

dung cô đang cho nó vào trong một cái hộp, gói ghém cẩn thận, đóng

dấu…

Rồi điện thoại reo vang. Cô nhìn nó một lát rồi nhấc máy.

“Tôi nghe.”

Carole lắng nghe một nữ cảnh sát nói với cô là họ đã tìm thấy Pammy,

rằng con bé đang trong bệnh viện nhưng nó ổn. Một lát sau, Pammy

nói vào điện thoại và cả hai cùng vừa khóc vừa cười.

Mười phút sau, cô đã trên đường đến bệnh viện Manhattan, ngồi ở ghế

sau một chiếc xe cảnh sát màu đen.

Thực sự là Carole đã chạy hết tốc lực theo hành lang dẫn tới phòng

Pammy và thấy ngạc nhiên khi bị một cảnh sát đứng gác chặn lại. Như

vậy là họ vẫn chưa bắt được thằng khốn ấy ư? Nhưng cô chỉ cần nhìn

thấy con gái mình, cô đã quên hắn ta, quên nỗi sợ hãi khi ở trong chiếc

taxi và cái tầng hầm ghê rợn. Cô vòng tay ôm đứa con gái bé bỏng của

mình.

“Ôi, con yêu, mẹ nhớ con! Con ổn chứ? Ổn cả chứ con?” “Cô ấy, cô

ấy giết con chó…”

Carole quay lại và nhìn thấy một người nữ cảnh sát cao, tóc đỏ đang

đứng gần đó, người đã cứu cô ra khỏi tầng hầm của nhà thờ.

“… nhưng không sao vì nó muốn ăn thịt con.”

Carole ôm lấy Sachs: “Tôi không biết phải nói gì… Tôi chỉ… Cảm ơn

cô. Cảm ơn

cô.”

“Pammy ổn rồi”, Sachs quả quyết với cô. “Vài vết xước… không có gì

nghiêm

trọng… và con bé bị ho một chút.”

“Bà Ganz?” Một thanh niên vào phòng, đem theo vali và chiếc ba lô

màu vàng của cô. “Tôi là thám tử Banks. Chúng tôi có hành lý của bà

ở đây.”

“Ôi, ơn Chúa.”

“Có bị mất gì không?” Anh ta hỏi cô.

Cô nhìn cẩn thận chiếc ba lô. Tất cả các thứ đều ở đó. Tiền, con búp

bê của Pammy, gói đất nặn, bồ đồ chơi Mr. Potato Head, đĩa CD, cái

đài đồng hồ… Hắn chẳng lấy gì cả. Từ từ đã…” Anh biết không, tôi

nghĩ là có mất một tấm hình. Tôi không chắc lắm. Tôi nghĩ tôi có nhiều

hơn thế này. Nhưng các thứ quan trọng thì ở đây cả.”

Viên thám tử đưa cô ký vào tờ biên lai.

Một bác sĩ nội trú trẻ tuổi vào phòng. Anh ta đùa với Pammy về con

gấu Pooh của con bé trong lúc đo huyết áp.

Carole hỏi anh ta: “Khi nào thì chúng ta đi được?”

“À, chúng tôi chỉ giữ cháu ở đây vài ngày. Chỉ để đảm bảo rằng….”

“Vài ngày? Nhưng con bé ổn mà.”

“Con bé hơi bị viêm phế quản nên tôi muốn theo dõi. Và…”, anh ta hạ

giọng. “Chúng tôi cũng có một chuyên gia về chuyện lạm dụng. Chỉ để

chắc chắn hơn.”

“Nhưng ngày mai con bé phải đi với tôi. Đến những buổi lễ của Liên

Hiệp Quốc. Tôi đã hứa với nó rồi.”

Người nữ cảnh sát nói thêm: “Tốt hơn là để con bé được bảo vệ ở

đây. Chúng tôi vẫn chưa biết thủ phạm – tên bắt cóc – ở đâu. Chúng

tôi sẽ cử một sĩ quan trông cháu.”

“Vậy thì chắc là được. Tôi có thể ở lại với cháu một lúc, được không?”

“Chắc chắn rồi”, bác sĩ nội trú nói. “Chị có thể ở lại qua đêm. Chúng

tôi sẽ đem một chiếc giường trẻ em đến.”

Sau đó Carole được ở một mình với con gái. Cô ngồi xuống giường và

vòng tay quanh đôi vai hẹp của con bé. Cô có một chút khó chịu khi

nhớ lại hắn, tên điên khùng ấy, đã chạm vào Pammy như thế nào. Ánh

mắt của hắn khi hắn hỏi cô xem liệu hắn có được lột da cô hay

không… Carole sởn gai ốc và bắt đầu khóc.

Pammy là người đưa cô trở lại thực tại. “Mẹ ơi, kể chuyện cho con

nghe… Không, không, hát bài gì đó cho con nghe. Hát bài hát bạn bè

đi mẹ. Làm ơn mà!”

Lấy lại bình tĩnh, Carole hỏi: “Con muốn nghe bài đấy à?” “Vâng ạ!”

Carole đặt con bé vào lòng mình, bắt đầu hát bài You’ve got a friend

bằng cái giọng khàn khàn. Pammy hát theo cô từng đoạn.

Đó là một trong những bài hát ưa thích của Ron và mấy năm qua, từ

khi anh mất, cô không thể nghe hết vài đoạn trong bài hát mà không ứa

nước mắt.

Ngày hôm nay, cô và Pammy đã cùng nhau hát hết bài hát này, khá

đúng nhạc, mắt ráo lệ và cười vui.

BA MƯƠI BA

Cuối  cùng  thì  Amelia  Sachs  cũng  về  đến  căn  hộ  của  cô  ở 

Caroll  Gardens, Brooklyn.

Cách nhà cha mẹ cô đúng sáu khối nhà, nơi mẹ cô đang sống. Vừa

bước vào trong nhà, cô bấm nút quay số nhanh chiếc điện thoại trong

bếp.

“Mẹ. Con đây. Con sẽ đưa mẹ đi Plaza ăn bữa trưa. Thứ Tư. Đó là

ngày nghỉ của

con.”

“Để làm gì? Để ăn mừng nhiệm vụ mới của con? Phòng Quan hệ Công

chúng thế

nào? Không thấy con gọi điện.”

Một nụ cười thoáng qua. Sachs nhận ra mẹ cô không hề biết cô đã làm

gì trong hơn một ngày qua.

“Mẹ có xem thời sự không ạ?”

“Mẹ à? Mẹ là người hâm mộ bí mật của Brokaw137 mà, con biết

đấy.” “Mẹ có nghe về kẻ bắt cóc mấy ngày vừa rồi không?”

“Ai mà không biết… Con định nói gì với mẹ thế, con yêu?” “Con có tin

nội bộ sốt dẻo đây.”

Và cô kể cho người mẹ đang kinh ngạc của cô câu chuyện – về việc

cứu sống các nạn nhân, về Lincoln Rhyme, và với một chút chỉnh sửa,

về những hiện trường vụ án.

“Amie, cha con sẽ rất tự hào.”

“Thế thì báo ốm thứ Tư mẹ nhé. Plaza. Được chứ?”

“Quên nó đi, con yêu. Tiết kiệm tiền chứ. Mẹ có bánh quế và đồ ăn

của hiệu Bob

Evans138 trong tủ lạnh. Con có thể đến đây.”

“Không đắt lắm đâu mẹ ơi.” “Không đắt lắm ư? Cả gia tài đấy.”

“Thế thì thế này”, Sachs nói, cố tỏ ra tự nhiên, “mẹ thích Pink Teacup,

đúng không?”

Một quán nhỏ ở West Village bán món trứng và bánh kếp ngon nhất

vùng East

Cost với giá gần như cho không.

137 Brokaw (Thomas John Brokaw – sinh năm 1940 tại Webster,

South Dakota): Phóng viên truyền hình nổi tiếng người Mỹ. Trước đó

làm các bộ phim tài liệu tin tức được chiếu thường xuyên cho mạng

truyền hình NBC, cựu phát thanh viên của NBC News, tổng biên tập

chương trình NBC Nightly News with Tom Brokaw.

138 Bob Evans: Một công ty dịch vụ, xử lý và bán lẻ thực phẩm có trụ

sở chính tại Columbus, Ohio. Công ty điều hành hai chuỗi nhà hàng ăn

tối ở Mỹ, gồm có Bob Evans Restaurants và Mimi.

Ngừng một lát. “Nghe được đấy.”

Đó là chiến lược mà Sachs sử dụng thành công trong nhiều năm nay.

“Con phải nghỉ chút, mẹ ạ. Ngày mai con gọi lại.”

“Con làm việc nhiều quá. Amie, cái vụ này của con… không nguy hiểm

chứ?”

“Con chỉ làm bên kỹ thuật thôi mà mẹ. Hiện trường vụ án. Chẳng có gì

an toàn hơn được.”

“Họ chỉ định đúng con!” Người mẹ nói. Sau đó nhắc lại: “Cha con

chắc sẽ rất tự hào về con.”

Họ cúp máy và Sachs vào phòng ngủ, thả mình xuống giường.

Sau khi rời khỏi phòng của Pammy, Sachs đến thăm hai nạn nhân còn

sống sót khác của thủ phạm 823. Monelle Gerger, băng bó lốm đốm

và đã được tiếp đầy huyết thanh phòng dại, đã được ra viện và trở về

với gia đình ở Frankfurt “nhưng chỉ đến cuối mùa hè”, cô ta cứng rắn

nói, “không phải đi luôn, chị biết đấy”. Và cô chỉ vào bộ dàn và bộ sưu

tập CD trong căn hộ đổ nát ở khu Deutsche Haus để chứng minh rằng

không có thằng điên nào ở New World có thể xua được cô ra khỏi

thành phố.

William Everette vẫn còn trong bệnh viện. Ngón tay gãy tất nhiên

không phải là vấn đề nghiêm trọng nhưng tim ông lại có vấn đề. Sachs

ngỡ ngàng khi biết được ông có một cửa hiệu ở Hell’s Kitchen nhiều

năm trước và nghĩ có thể ông biết cha cô. “Tôi biết tất cả cảnh sát tuần

tra”, ông ta nói. Cô cho ông ta xem bức hình một người đàn ông mặc

cảnh phục trong ví cô. “Tôi nghĩ thế, tôi không chắc lắm, nhưng tôi nghĩ

thế.”

Những cuộc gặp gỡ chỉ có tính xã giao nhưng Sachs vẫn đem theo nhật

ký tuần tra. Tiếc là cả hai nạn nhân chẳng thể nói cho cô biết thêm điều

gì về nghi phạm 823.

Lúc này trong căn hộ của mình, Sachs đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô

nhìn thấy những cây bạch quả và cây phong rung rinh trong cơn gió

mạnh. Cô cởi bỏ bộ cảnh phục, gãi ngực – chỗ lúc nào cũng ngứa như

điên vì bị ép chặt dưới lớp áo giáp chống đạn. Cô mặc chiếc áo

choàng tắm.

Thủ phạm 823 không nhận được nhiều cảnh báo nhưng chừng đó cũng

đủ. Nơi ẩn nấp tại Van Brevoort đã được rửa sạch hoàn toàn. Mặc dù

chủ nhà nói hắn chuyển đến đã khá lâu – tháng Một vừa rồi (với một

giấy chứng minh giả, không ai ngạc nhiên về điều này) – 823 đã để lại

tất cả những gì hắn đem đến, kể cả rác rưởi. Sau khi Sachs khám

nghiệm hiện trường, Phòng Mật vụ NYPD đã đến hút bụi tất cả các

mặt phẳng có ở đó. Nhưng các báo cáo ban đầu hoàn toàn không

đáng khích lệ.

“Có vẻ cả khi đi ị hắn cũng đeo găng tay”, Banks báo cáo với cô.

Một đơn vị Cơ động đã tìm thấy chiếc xe hơi và chiếc taxi. Nghi phạm

823 đã ranh mãnh đỗ chúng gần Đại lộ D và Phố Chín. Sellitto đoán

chỉ cần bảy, tám phút là các băng nhóm địa phương đã bóc chiếc xe

chỉ còn khung. Bất kỳ vật chứng nào có thể còn trong xe lúc này đã

nằm trong khoảng một tá cửa hàng phụ tùng quanh thành phố.

Sachs xoay người quanh bồn tắm và thấy tin mới. Chẳng có gì liên

quan tới vụ bắt cóc. Tất cả các câu chuyện đều xoay quanh những buổi

lễ khai mạc của hội nghị hòa bình Liên Hiệp Quốc.

Cô nhìn chằm chằm vào Bryan Gumbel139, nhìn chăm chú Tổng thư

ký Liên Hiệp Quốc, các nhà ngoại giao đến từ Trung Đông, chăm chú

hơn nhiều so với mức độ quan tâm của cô. Thậm chí cô còn đọc cả

quảng cáo như là cô muốn học thuộc chúng.

Vì có một điều mà chắn chắn là cô không muốn nghĩ tới: thỏa thuận của

cô với

Lincoln Rhyme.

Thỏa thuận rất rõ ràng. Lúc này Carole và Pammy đã an toàn, đến lượt

cô vào cuộc. Cho anh một giờ riêng với bác sĩ Berger.

Giờ là ông ta, Berger… Cô không hề thích vẻ ngoài của ông bác sĩ đó.

Ta có thể nhìn thấy một cái tôi lớn tướng trong thân hình rắn chắc, khỏe

mạnh của ông ta, trong đôi mắt lẩn tránh của ông ta. Mái tóc đen của

ông ta được chải một cách hoàn hảo. Quần áo đắt tiền. Tại sao Rhyme

lại không thể tìm được ai đó như Kevorkian140? Ông ta có vẻ

mưu mô, nhưng ít nhất trông ông ta còn giống một người ông thông

thái.

Mí mắt cô sụp xuống.

Bỏ qua người đã chết…

Thỏa thuận là thỏa thuận. Nhưng mà quỷ tha ma bắt, Rhyme…

Được rồi, cô không thể để anh ta ra đi mà không thử lần cuối. Anh ta

đã tóm được cô trong phòng ngủ của anh ta. Cô đã bối rối. Không

nghĩ ra được lý lẽ nào thực sự tốt. Thứ Hai. Cô còn có thời gian đến

ngày mai để thuyết phục anh ta không làm việc đó. Hoặc ít nhất là đợi

một thời gian. Một tháng. Quỷ thật, một ngày.

Cô có thể nói gì với anh ta? Cô viết ra những lý lẽ của mình. Viết một

bài diễn văn

ngắn.

Mở mắt ra, cô trèo ra khỏi giường để tìm cây bút và mấy tờ giấy. Mình

có thể… Sachs cảm thấy ớn lạnh, hơi thở của cô rít lên trong phổi như

gió thổi bên ngoài. Hắn mặc bộ đồ đen, chiếc mặt nạ trượt tuyết và đôi

găng tay đen như dầu.

Thủ phạm 823 đang đứng giữa phòng ngủ của cô.

Cánh tay cô theo bản năng vươn tới cái bàn đầu giường – khẩu Glock

và con dao.

Nhưng hắn đã sẵn sàng. Chiếc xẻng vung lên thật nhanh và đập vào

cạnh đầu cô. Ánh sáng vàng bùng lên trong mắt cô.

139 Bryan Gumbel (Bryan Charles Gumbel): Một nhân vật trên truyền

hình Mỹ cho các chương trình tin tức và thể thao. Ông ta nổi tiếng với

mười lăm năm làm việc như người đồng dẫn chương trình The Today

Show của đài NBC.

140 Kevorkian (Jack Kevorkian): Ông được ghi nhận là người công

khai tuyên truyền cho quyền được chết của bệnh nhân thập tử nhất sinh

thông qua cái chết nhẹ nhàng, ông tuyên bố đã hỗ trợ ít nhất một trăm

ba mươi bệnh nhân làm việc này. Câu nói nổi tiếng của ông là: “Chết

không phải là phạm tội.”

Cô quỳ cả hai chân, hai tay, một bàn chân đá vào lồng ngực làm cô

ngã quỵ, và cô cố vùng vẫy để thở. Cô cảm thấy tay cô đã bị còng ra

sau, một đoạn băng dính dán trên miệng cô. Chuyển động nhanh, hiệu

quả. Hắn lật ngửa cô ra; chiếc áo choàng tắm mở tung.

Giận dữ khua chân, gắng sức như điên hòng dứt đứt sợi dây còng.

Một cú đánh nữa vào dạ dày. Cô nôn khan nhưng vẫn cảm thấy hắn

giơ tay nắm lấy mình. Tóm dưới nách cô, hắn kéo cô ra cửa sau và đi

vào một khu vườn lớn kín đáo phía sau căn hộ.

Ánh mắt hắn vẫn trên mặt cô, thậm chí không buồn nhìn núm vú của

cô, cái bụng phẳng, xương mu với vài sợi lông xoăn màu đỏ của cô. Cô

có thể sẵn sàng cho hắn những thứ đó nếu điều đó có thể cứu được

mạng sống của cô.

Nhưng không, chẩn đoán của Rhyme là đúng. Tình dục không phải

động cơ của

823. Trong đầu hắn còn có thứ gì khác. Hắn ném thân hình mảnh dẻ

của cô xuống một bụi hoa và cây lá dày, mặt ngửa lên trời, khuất tầm

mắt hàng xóm. Hắn nhìn quanh, lấy hơi. Hắn nhặt cái xẻng lên và thọc

lưỡi xẻng xuống đất.

Amelia Sachs bắt đầu khóc.

Anh dụi gáy vào gối.

Hành vi mang tính bắt buộc, một bác sĩ đã nói với anh như vậy sau khi

quan sát hành vi này của anh – một ý kiến Rhyme không yêu cầu hay

mong muốn. Rhyme nghĩ việc dụi đầu vào gối của anh cũng giống như

việc Amelia Sachs dùng móng tay bóc thịt ngón tay.

Anh thả lỏng cơ cổ, xoay xoay đầu trong khi nhìn lên tấm áp phích treo

trên tường. Rhyme tin rằng toàn bộ câu chuyện về sự điên rồ của người

đàn ông đó đang nằm trước mặt anh. Trong những dòng chữ viết tay

màu đen, mấp mô – và những khoảng trống giữa các từ. Nhưng anh

chưa thể đọc được đoạn kết của câu chuyện. Tạm thời thì chưa.

thích.

Anh nhìn một lần nữa vào những manh mối. Chỉ còn vài thứ vẫn chưa

được giải

Vết sẹo trên ngón tay. Nút buộc.

Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu.

Vết sẹo đối với họ là vô ích nếu như họ không có được một nghi phạm

để có thể

kiểm tra ngón tay. Chẳng có gì may mắn trong việc nhận dạng kiểu nút

buộc – chỉ có ý kiến của Banks cho rằng đó không phải là nút buộc

kiểu hải quân.

Mùi nước hoa dùng sau khi cạo râu rẻ tiền thì sao? Giả sử phần lớn thủ

phạm không xịt nước hoa khi bắt cóc, vì sao hắn lại làm khác? Rhyme

chỉ có thể kết luận rằng hắn làm thế để át đi một thứ mùi khác, dễ lộ

hơn. Anh điểm qua các khả năng: Thức ăn, rượu, hóa chất, thuốc lá…

Anh cụp mắt xuống và nhìn sang phải.

Những điểm đen trong hố mắt xương xẩu của con rắn nhìn về phía

chiếc giường Clinitron. Đó là một trong những manh mối không phù

hợp. Nó chẳng có mục tiêu gì, ngoài việc nhạo báng họ.

Bất chợt có điều gì đó nảy ra trong anh. Sử dụng cái khung lật trang,

anh chậm rãi lật lại cuốn Tội phạm ở New York xưa. Đến chương nói

về James Schneider. Anh tìm thấy đoạn văn mà anh vừa nhớ ra.

Một bác sĩ thần kinh nổi tiếng (người thực hành môn “tâm lý” đã được

báo chí nhắc  đến  rất  nhiều  trong  thời  gian  vừa  qua)  cho  rằng  ý

định  thực  sự  của  James Schneider không phải là hãm hại nạn nhân

của hắn. Mà thực sự – người bác sĩ giàu kinh nghiệm đó cho rằng – tên

tội phạm đang tìm cách báo thù những người mà hắn cho là có hại: sở

cảnh sát thành phố và có thể là cả xã hội.

Ai mà biết được gốc gác sự thù hận của hắn nằm ở đâu? Có thể giống

như dòng sông Nile cổ xưa, không ai trên thế giới biết được nó bắt

nguồn từ đâu; có thể chính bản thân hắn cũng không hay biết. Tuy vậy,

một lý do có thể được tìm thấy trong một sự kiện ít người biết đến là,

James Schneider khi còn nhỏ, lúc mới mười tuổi, đã nhìn thấy cha mình

bị cảnh sát lôi đi, để rồi chết trong nhà tù vì tội cướp giật và sau đó ông

ta đã được chứng minh là vô tội. Sau lần bắt bớ không may đó, mẹ cậu

bé sống cuộc sống đường phố và bỏ rơi đứa con, đứa bé lớn lên trong

sự bảo trợ của bang.

Có phải ngẫu nhiên mà tên điên đó gây ra những tội ác này để cười

vào mặt chính ngành cảnh sát đã vô ý làm tan nát gia đình hắn không?

Chắc chắn chúng ta sẽ không bao giờ biết được.

Tuy nhiên, điều có vẻ rõ ràng nhất là, cùng với việc chế nhạo sự bất lực

của những người bảo vệ công dân, James Schneider – “Kẻ Tầm

Xương” – đã ném sự trả thù lên chính thành phố cũng như những nạn

nhân vô tội của hắn.

Lincoln ngửa đầu lên gối và nhìn lại bản hồ sơ trên tường.

Đất nặng hơn tất cả mọi thứ.

Chính là đất, bụi từ một lõi sắt, và nó không giết người bằng cách chặn

không khí vào phổi mà bằng cách nén chặt các tế bào cho tới khi

chúng chết đi vì nỗi hoảng loạn.

Sachs ước gì cô đã chết. Cô cầu nguyện được chết. Thật nhanh. Từ

nỗi sợ hãi hay cơn đau tim. Trước khi xẻng đất đầu tiên rơi xuống mặt

cô. Cô cầu xin điều đó, khẩn thiết hơn Lincoln Rhyme cầu xin những

viên thuốc và cốc rượu của anh.

Nằm trong nấm mồ mà tên tội phạm đã đào sẵn trong sân sau nhà

mình, Sachs cảm nhận được đất màu, dày đặc và đầy giun, đang dịch

chuyển dần trên người cô.

Hắn từ từ chôn cô một cách tàn bạo, chỉ hất xuống từng xẻng đất nhỏ,

cẩn thận rắc xuống xung quanh cô. Hắn bắt đầu từ chân cô. Đến bây

giờ hắn đã đến ngực cô, đất luồn vào trong áo choàng tắm và quanh

bầu vú của cô như những ngón tay của người tình.

Nặng dần, nặng dần, ép chặt, trói lấy phổi cô; mỗi lần thở, cô chỉ hít

vào được một chút không khí. Hắn dừng lại một, hai lần để nhìn cô, rồi

lại tiếp tục.

Hắn thích nhìn…

Tay bị trói ở dưới, cổ căng cứng để giữ cho đầu cao hơn làn sóng triều

của đất.

Thế rồi ngực cô bị chôn kín hoàn toàn. Vai, rồi cổ họng. Đất lạnh leo

lên làn da mặt cô nóng bỏng, chèn quanh đầu làm cô không thể động

đậy. Cuối cùng, hắn cúi xuống và giật miếng băng dính ra khỏi miệng

cô. Sachs định hét lên thì hắn đổ một ít đất vào mặt cô. Cô sởn gai ốc,

ho sặc sụa vì đất đen. Có tiếng rung trong tai, và vì một lý do nào đó,

cô nghe thấy một bài hát đã lâu lắm rồi, từ thuở ấu thơ The green

leaves of summer, một bài hát mà cha cô đã bật đi bật lại trên máy thu.

Một bài hát buồn bã, ám ảnh. Cô há miệng lần nữa và lại nhận được

một cốc đầy đất.

Bỏ qua người đã chết…

Rồi cô bị lấp kín.

Tuyệt đối yên lặng. Không có tiếng ho hay tiếng thở hổn hển – đất là

chất hàn hoàn hảo. Trong phổi cô không còn không khí, không thể tạo

ra bất kỳ tiếng động nào. Im lặng, trừ giai điệu ma quái của tiếng gầm

ngày càng lớn lên trong tai cô.

Rồi áp lực trên mặt cô biến mất khi cơ thể cô tê cứng, tê cứng như cơ

thể của

Lincoln Rhyme. Đầu cô ngừng hoạt động.

Bóng tối, bóng tối… Không một lời nào của cha cô. Chẳng có gì từ

Nick… Không có những ước mơ đổi số từ số năm sang số bốn để

đẩy đồng hồ tốc độ lên ba con số.

Bóng tối.

Bỏ qua…

Sức nặng đè lên cô, đẩy, đẩy xuống. Cô chỉ còn nhìn thấy một hình

ảnh: cánh tay thò ra từ nấm mộ buổi sáng hôm qua, vẫy vẫy cầu xin sự

may mắn. Khi không có chỗ cho sự may mắn.

Vậy gọi cô đi theo. Rhyme, em sẽ nhớ anh. Bỏ qua…

BA MƯƠI TƯ

Thứ gì đó đập vào đầu cô. Rất mạnh. Cô cảm thấy cú đánh mạnh

nhưng không thấy đau.

Gì thế, gì thế nhỉ? Cái xẻng của hắn? Một viên gạch? Có thể là trong

một thoáng lòng tốt của 823, hắn cho rằng cái chết từ từ như thế này là

quá sức chịu đựng đối với bất kỳ ai và hắn tìm cổ họng cô để cắt đứt

mạch máu.

Một cú nữa, rồi một cú nữa. Cô không mở được mắt nhưng cô cảm

nhận được ánh sáng đang bừng lên quanh cô. Màu sắc. Và không khí.

Cô phun đám đất trong miệng ra và lấy hết sức mình hít vào một hơi

thở mong manh. Bắt đầu ho ầm ĩ, nôn khan, nhổ bọt.

Cô mở choàng mắt, và qua làn lệ cô nhìn thấy Lon Sellitto người đầy

bùn đất đang quỳ bên trên cô, bên cạnh là hai nhân viên y tế EMS, một

người đang móc đất trong miệng cô bằng những ngón tay đeo găng cao

su và lôi ra đám nhầy nhụa, người thứ hai chuẩn bị sẵn sàng mặt nạ oxy

và một thùng nước màu xanh.

Sellitto và Banks tiếp tục đào, hắt đất ra xung quanh bằng những cánh

tay lực lưỡng của họ. Họ kéo cô lên, vứt lại chiếc áo choàng tắm như

một lớp da bị lột bỏ. Sellitto, người đàn ông bỏ vợ, trong trắng nhìn ra

chỗ khác khi choàng chiếc áo khoác của anh ta lên vai cô. Tất nhiên,

chàng thanh niên Jerry Banks có nhìn, nhưng cô vẫn thấy quý anh ta

như thường.

“Các… anh… có?” Cô khò khè nói, nhưng lập tức dừng lại vì một

cơn ho nổ phổi. Sellitto nhìn Banks một cách trông đợi, anh ta trông

kiệt sức hơn. Anh ta chắc đã

cố hết sức lúc đuổi theo thủ phạm. Viên thám tử trẻ tuổi lắc đầu: “Hắn

chạy mất rồi.” Ngồi thẳng dậy, cô thở bình oxy một lúc.

“Làm thế nào?” Cô khò khè. “Làm thế nào các anh biết được?”

“Rhyme”, anh ta trả lời. “Đừng hỏi tôi làm thế nào. Anh ấy ra lệnh

10-13 cho tất cả mọi người trong đội. Khi anh ấy biết chúng tôi ổn,

anh ấy bảo chúng tôi tới đây càng sớm càng tốt.”

Sau đó tình trạng tê liệt trôi qua, nhanh như chớp. Và lúc này cô mới

thực sự nhận thấy điều gì đã diễn ra. Cô đánh rơi chiếc mặt nạ oxy, lùi

lại trong cơn hoảng loạn, lệ tuôn trào, cất tiếng khóc thảm thiết, cơn

hoảng loạn của cô lớn dần, lớn dần. “Không, không, không….”

Tự tát vào mặt, vào đùi, cố gắng phủi đi nỗi kinh hoàng đang bám chặt

lấy cô như một bầy ong nhiều vô kể.

“Trời ơi, trời ơi… Không…”

“Sachs?” Banks lo lắng hỏi. “Này, Sachs?”

Viên thám tử lớn tuổi hơn ra hiệu cho cộng sự của mình đi chỗ khác.

“Ổn thôi.” Anh ta ôm lấy cô khi cô bò bốn chân trên mặt đất, nôn mửa

kịch liệt, nức nở, nức nở, bóp chặt đất giữa các ngón tay như thể cô

muốn bóp chết nó.

Cuối cùng, Sachs cũng bình tĩnh lại và ngồi trên đôi chân trần của cô.

Cô bắt đầu cười, đầu tiên thật dịu dàng, sau đó lớn dần, lớn dần, điên

dại, cô ngỡ ngàng khi thấy bầu trời rộng lớn hơn và trời đang mưa –

những cơn mưa mùa hè nặng hạt – thế mà cô đã không nhận ra.

Quàng tay quanh cổ anh. Mặt áp vào mặt anh. Họ ngồi như thế một

lúc lâu. “Sachs... Ôi, Sachs.”

Cô rời khỏi chiếc giường Clinitron và thả người xuống cái ghế bành cũ

ở góc phòng. Sachs – mặc quần thể thao bông màu xanh hải quân và

áo phông của trường Cao

đẳng Hunter – ngồi lọt thỏm xuống ghế và đong đưa đôi chân tuyệt

đẹp của cô như một

nữ sinh.

“Sao lại là chúng ta hả, Rhyme? Vì sao hắn lại đuổi theo chúng ta?”

Giọng cô vẫn thì thầm, khàn khàn vì bụi đất mà cô vừa nuốt phải.

“Vì những người hắn bắt cóc không phải nạn nhân thực sự. Chúng ta

mới là nạn

nhân.”

“Chúng ta là ai?” Cô hỏi.

“Anh không chắc. Có thể là xã hội. Hay là thành phố. Liên Hiệp Quốc.

Cảnh sát.

Anh đọc lại cuốn kinh thánh của hắn – chương viết về James

Schneider. Em có nhớ giả thuyết của Terry về việc vì sao hắn để lại

manh mối không?”

Cô nói: “Như thể biến chúng ta thành kẻ đồng loã. Để chia sẻ tội lỗi.

Để cho hắn giết người dễ dàng hơn.”

Rhyme gật đầu, rồi nói: “Nhưng anh vẫn không nghĩ đó là lý do thực

sự. Anh nghĩ manh mối là cách hắn dùng để tấn công chúng ta. Mỗi

nạn nhân đã chết là một mất mát đối với chúng ta.”

Mặc bộ đồ cũ, tóc buộc túm ra sau, lúc này trông Sachs đẹp nhất

trong hai ngày qua. Nhưng mắt cô vô hồn. Có thể cô ấy đang sống lại

cái ký ức với từng xẻng đất, anh nghĩ. Và Rhyme thấy ý nghĩ về việc cô

bị chôn sống nặng nề tới mức anh phải nhìn đi chỗ khác.

“Hắn có gì để chống lại chúng ta?” Cô hỏi.

“Anh không biết. Cha của Schneider bị bắt nhầm và chết trong nhà tù.

Thủ phạm của chúng ta? Ai mà biết được vì sao? Anh chỉ quan tâm

đến vật chứng...”

“... không phải động cơ.” Amelia Sachs nói nốt câu.

“Nhưng vì sao hắn lại theo chúng ta nhanh như thế?” Banks hỏi, hất

đầu về phía

Sachs.

“Chúng ta tìm thấy hang ổ của hắn và cứu được cô bé. Tôi không nghĩ

hắn lại

muốn chúng ta đến sớm thế. Có thể hắn bực mình. Lon, chúng ta cần

có bảo mẫu hai mươi tư trên hai mươi tư giờ, cho tất cả chúng ta. Có

thể hắn sẽ biến mất một thời gian sau khi chúng ta cứu được cô bé,

nhưng hắn vẫn loanh quanh đâu đó và gây thêm tội ác. Anh và Jerry,

tôi, Cooper, Haumann, Polling, tất cả chúng ta đều nằm trong danh

sách của hắn, chắn chắc thế. Trong lúc này, chúng ta phải đưa lính của

Peretti đến chỗ Sachs.

Tôi chắc là hắn đã dọn sạch nhưng có thể còn thứ gì đó. Hắn phải rời

đi nhanh hơn hắn dự tính nhiều.”

“Tốt nhất là em tới đó”, Sachs lên tiếng. “Không”, Rhyme nói.

“Em phải khám nghiệm hiện trường.”

“Em phải nghỉ ngơi một chút”, anh ra lệnh. “Đó mới là điều em phải

làm, Sachs. Em không phản đối anh nói chứ, trông em tệ lắm đấy.”

“Đúng rồi, sĩ quan”, Sellitto nói. “Đó là mệnh lệnh. Tôi yêu cầu cô nghỉ

hết ngày hôm nay. Chúng tôi có hơn hai mươi đặc vụ liên bang nữa.”

“Tôi có một hiện trường vụ án ở sân sau nhà mình mà tôi lại không

được khám nghiệm nó?”

“Đúng”, Rhyme nói, “tóm lại là như thế”.

Sellitto đi ra cửa. “Có vấn đề gì không, sĩ quan?” “Không, thưa ngài.”

“Nào, Banks, ta còn có việc phải làm. Cô cần đi nhờ không Sachs?

Hay họ vẫn giao xe cho cô?”

"Không, cảm ơn, tôi có xe dưới nhà rồi", cô trả lời.

Hai viên thám tử đi ra. Rhyme nghe thấy giọng nói của họ vọng lại từ

đại sảnh. Sau đó, cửa đóng và họ đi hẳn.

Rhyme thấy đèn trần đang bật sáng. Anh bấm vài lệnh và điều chỉnh

ánh sáng mờ

đi.

Sachs vươn vai.

“Được rồi”, cô nói, đúng lúc Rhyme hỏi: “Thế nào đây?” Cô nhìn đồng

hồ. “Muộn rồi.”

“Đúng thế.”

Cô đứng dậy, đi lại chỗ cái bàn nơi cô để chiếc ví. Cô nhặt ví lên, mở

ra, tìm chiếc

gương nhỏ và bắt đầu xem xét vết cắt trên môi. “Trông cũng không tệ

lắm”, Rhyme nói.

“Như quỷ nhập tràng”, cô nói, vẻ kích động. “Sao họ không dùng chỉ

khâu có màu tươi hơn chứ?” Cô để chiếc gương sang bên, vắt chiếc ví

lên vai. “Anh vừa kê lại giường”, cô nhận ra. Nó được kê lại gần cửa

sổ hơn.

“Thom làm đấy. Anh có thể nhìn xuống công viên nếu anh muốn.” “Thế

à. Thế thì tốt.”

Cô bước lại gần cửa sổ. Nhìn xuống.

Ồ, vì Chúa, Rhyme nghĩ thầm. Nói đi chứ. Có chuyện gì được nhỉ?

Anh buột miệng thật nhanh: “Em có muốn ở lại không? Ý anh là, muộn

rồi. Nhóm Mật vụ còn hút bụi nhà em mấy tiếng nữa.”

Anh cảm thấy sự hy vọng bùng nổ trong anh. Được rồi, giết nó đi, anh

nghĩ, giận dữ với chính mình. Cho tới khi cô nở một nụ cười thật tươi.

“Em cũng muốn thế.”

“Tốt quá.” Hàm anh nổi gai ốc vì adrenaline. “Tuyệt vời. Thom!”

Nghe nhạc, uống chút whisky Scotch. Có thể anh sẽ kể cô nghe vài vụ

án nổi tiếng. Nhà sử học trong anh cũng tò mò về người cha của cô, về

công việc của cảnh sát những năm 1960 và 1970. Về đồn cảnh sát vô

danh ở khu Nam Midtown ngày xưa.

Rhyme la lớn: “Thom! Lấy ít khăn trải giường. Cả chăn nữa. Thom!

Anh không biết cậu ta đang làm cái quái gì nữa. Thom!”

Sachs định nói gì đó nhưng người trợ lý đã xuất hiện ngoài cửa và gắt

gỏng: “Chỉ cần quát một lần là được rồi, anh biết chứ, Lincoln.”

“Amelia ở lại đêm nay. Cậu đem giúp mấy cái chăn và gối vào đi văng,

được không?”

“Không, không phải đi văng nữa chứ”, cô nói. “Ngủ trên đó như nằm

trên đá ấy.

Sự từ chối của cô đâm vào người Rhyme như một lưỡi dao. Anh buồn

bã nghĩ: Phải mấy năm rồi mình mới có được cảm xúc ấy. Cam chịu,

nhưng anh vẫn cười và nói: “Dưới nhà có một phòng ngủ. Thom sẽ sửa

soạn cho em.”

Nhưng Sachs đã để ví xuống. “Được rồi, Thom. Anh không phải

chuẩn bị gì đâu.” “Không sao mà.”

“Được rồi. Chúc ngủ ngon, Thom.” Cô đi ra cửa.

“Thế à, tôi...” Cô cười.

“Nhưng…”, anh ta bắt đầu, nhìn cô rồi quay sang Rhyme, anh đang

nhăn mặt, lắc

đầu.

“Chúc ngủ ngon, Thom”, cô nói một cách kiên quyết. “Cẩn thận không

vấp đấy.”

Và cô chậm rãi đóng cửa khi anh ta quay lại hành lang. Nó đóng lại với

một tiếng cạch lớn.

Sachs tháo giày, cởi quần áo. Cô mặc chiếc áo lót dây và quần lót

rộng thùng thình. Cô trèo lên chiếc giường Clinitron rồi nằm cạnh

Rhyme, thể hiện tất cả quyền năng mà người phụ nữ đẹp nắm giữ khi

ngủ cùng một người đàn ông.

Cô nằm cuộn tròn và cười.” Đúng là một cái giường hết ý.” Cô nói,

vươn người như một con mèo. Mắt vẫn nhắm, cô hỏi.”Anh không phản

đối chứ?”

“Tất nhiên là anh không phản đối.” “Rhyme?”

“Sao?”

“Kể em nghe về cuốn sách của anh, được chứ? Những hiện trường vụ

án khác?”

Anh bắt đầu kể về một tên giết người hàng loạt ranh mãnh ở Queens,

nhưng chưa đầy một phút cô đã ngủ say.

Rhyme nhìn xuống và thấy ngực cô đang áp vào ngực anh, đầu gối cô

gác lên đùi anh. Một sợi tóc phụ nữ vương trên mặt anh, lần đầu tiên

sau nhiều năm. Nó cù anh buồn buồn. Anh hoàn toàn quên mất điều

đó. Với một người thường xuyên sống trong quá khứ, với trí nhớ tốt

như thế, anh rất ngạc nhiên khi thấy mình không thể nhớ tốt như thế,

anh rất ngạc nhiên khi thấy mình không thể nhớ được chắc chắn lần

cuối cùng mình có được cảm giác này là lúc nào. Điều anh nhớ là sự

lộn xộn của những buổi tối với Blaine, anh nghĩ, trước khi tai nạn xảy

ra. Anh nhớ rằng anh đã chịu bị cù buồn, không gạt những lọn tóc ra

chỗ khác để không làm vợ mình thức giấc.

Còn bây giờ, tất nhiên anh sẽ không thể gạt những lọn tóc của Sachs

sang chỗ khác, thậm chí, nếu chính Chúa Trời ra lệnh. Nhưng anh cũng

không nghĩ đến việc gạt nó đi. Ngược lại, anh muốn cảm giác đó kéo

dài cho tới khi cả vũ trụ tan tành.

BA MƯƠI LĂM

Sáng hôm sau, Lincoln Rhyme lại ở một mình. Thom đã đi mua sắm và

Mel Cooper đang ở phòng thí nghiệm IRD tại trung tâm. Vince Peretti

đã làm xong công việc khám nghiệm hiện trường tại khu biệt thự ở East

Van Brevoort và nhà của Sachs. Họ tìm được rất ít manh mối mặc dù

Rhyme cho rằng đó là do thủ phạm quá thông minh chứ không phải do

tài năng không ổn định của Peretti.

Rhyme đang đợi báo cáo hiện trường vụ án. Nhưng cả Dobyns và

Sellitto đều tin rằng 823 đã trốn bặt – ít nhất là tạm thời. Trong mười

hai giờ qua, không có vụ tấn công cảnh sát và nạn nhân nào bị bắt cóc.

Người canh phòng cho Sachs – một sĩ quan tuần tra to lớn từ MTS –

đã cùng đi với cô tớ gặp bác sĩ tai mũi họng tại bệnh viện ở Brooklyn;

đất có ảnh hưởng lớn đến họng của cô. Rhyme cũng có vệ sĩ – một sĩ

quan mặc cảnh phục từ Đồn Hai mươi, đóng ngay trước khu nhà của

anh – một cảnh sát thân thiện mà anh đã biết nhiều năm qua, người

Rhyme rất thích tranh luận về ảnh hưởng của than bùn đến việc sản

xuất whisky ở Ireland và Scotland.

Rhyme đang rất vui. Anh gọi xuống dưới nhà qua máy liên lạc nội bộ.

“Tôi có hẹn với bác sĩ trong một, hai giờ tới. Cậu có thể cho ông ta

lên.”

Viên cảnh sát nói, anh ta sẽ làm theo.

Bác sĩ William Berger bảo đảm với Rhyme rằng lần này ông ta sẽ đến

đúng giờ.

Rhyme ngả đầu xuống gối và nhận ra trong phòng không chỉ có mình

anh. Trên gở cửa sổ, những con chim ưng đang bước đi. Õng ẹo một

cách hiếm thấy, chúng có vẻ bất ổn. Một cơn đau nữa lại đến. Cửa sổ

của Rhyme cho thấy bầu trời yên bình, nhưng anh tin tưởng lũ chim.

Chúng là dụng cụ đo khí áp chính xác.

Anh nhìn lên cái đồng hồ treo trên tường. Đã 11:00. Như hai hôm

trước, anh đang chờ sự xuất hiện của bác sĩ William Berger. Cuộc đời

là thế, anh nghĩ: trì hoãn hết lần này đến lần khác, nhưng cuối cùng với

chút may mắn, ta vẫn đến được nơi ta cần đến.

Anh xem ti vi khoảng hai mươi phút, tìm kiếm tin tức về những vụ bắt

cóc. Nhưng tất cả các đài đều đưa tin đặc biệt về ngày khai mạc hội

nghị Liên Hiệp Quốc. Rhyme thấy những tin tức này buồn chán và

quay lại với Matlock141, rồi chuyển sang kênh CNN với nữ phóng

viên xinh đẹp đứng bên ngoài toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc, cuối

cùng anh

tắt máy.

Chuông điện thoại reo, anh làm một loạt động tác phức tạp để nhấc

máy. “Tôi

nghe.”

Một  khoảng  im  lặng  trước khi giọng  một  đàn ông  vang  lên: 

“Lincoln,  đúng

không?” “Đúng.”

“Jim Polling đây. Anh thế nào?”

Rhyme nhận ra rằng từ sáng sớm hôm qua anh đã không gặp viên đại

uý, ngoại trừ chương trình tin tức hội nghị tối hôm qua, lúc anh ta nhắc

vở cho Thị trưởng và sếp Wilson.

“Ổn rồi. Có tin gì về thủ phạm của ta không?” Rhyme hỏi.

“Chưa có gì. Nhưng chúng ta sẽ tóm được hắn.” Một khoảng im lặng

nữa. “Này, anh ở nhà có một mình à?”

“Ừ.”

Một khoảng im lặng lâu hơn. “Tôi đến, được chứ?”

“Chắc rồi.”

“Nửa tiếng nữa, được chứ?”

“Tôi sẽ ở đây”, Rhyme vui vẻ nói.

Anh ngả đầu xuống gối, ánh mắt anh lướt qua sợi dây phơi buộc nút

treo bên cạnh tấm áp phích. Vẫn chưa có câu trả lời về cái nút buộc.

Đó là – anh cười thành tiếng vì câu đùa – là phần còn thừa. Anh thấy

khó chịu với ý tưởng bỏ vụ này mà không phát hiện ra

141 Matlock: Chương trình truyền hình pháp luật của đài ABC, Mỹ.

đó là kiểu nút thắt nào. Rồi anh chợt nhớ ra Jim Polling là người câu cá.

Có thể anh sẽ nhận ra...

Polling, Rhyme trầm ngâm. James Polling...

Cái cách viên đại uý dai dẳng yêu cầu Rhyme tham dự vụ án thật là

buồn cười. Cách anh ta đấu tranh để giữ anh trong vụ này thay vì

Peretti – người sẽ là lựa chọn tốt hơn, về mặt chính trị cho Polling. Nhớ

lại cái cách anh ta nổi giận với Dellray khi viên đặc vụ này cố chiếm lấy

vụ điều tra từ NYPD.

Bây giờ anh nghĩ tới việc đó, toàn bộ sự liên quan của Polling vào vụ

này là một điều bí ẩn. 823 không phải là loại tội phạm mà anh tự

nguyện – ngay cả khi anh muốn có một vụ ngon lành để thêm vào lý

lịch công việc. Quá nhiều rủi ro để mất nạn nhân, quá nhiều cơ hội cho

báo chí – và giới quan chức – đánh hơi anh để làm thịt.

Polling... nhớ lại cách anh ta lao vào phòng anh, kiểm tra tiến độ công

việc rồi bỏ

đi.

Tất nhiên rồi, anh ta báo cáo cho Thị trường và sếp. Nhưng – một ý

nghĩ bất ngờ

vụt hiện trong đầu Rhyme – liệu Polling còn báo cáo cho ai đó khác

hay không?

Ai đó muốn tìm hiểu về cuộc điều tra? Có thể chính là hắn? Nhưng làm

thế nào mà Polling có quan hệ với 823? Có vẻ như... Thế rồi điều đó

khiến anh sợ hãi.

Liệu Polling có thể là thủ phạm không?

Tất nhiên là không. Thật lố bịch. Nực cười. Ngay cả không tính đến

động cơ và phương tiện, ta vẫn còn câu hỏi về cơ hội. Viên đại úy đã ở

đây, trong phòng của Rhyme, khi mấy vụ bắt cóc diễn ra...

Nhưng có phải thế không?

Rhyme nhìn lên bản hồ sơ treo trên tường.

Quần áo tối màu và chiếc quần dài bông nhàu nát. Polling mặc quần áo

thể thao tối màu suốt mấy ngày qua. Nhưng thế thì sao? Nhiều người

cũng làm thế...

Cánh cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại. “Thom?”

Không có tiếng trả lời. Người trợ lý sẽ không trở lại sau vài giờ nữa.

“Lincoln?”

Ồ không. Quỷ thật. Anh bắt đầu quay số bằng bộ ECU.

9-1-

Cằm anh đấy con trỏ sang số 2. Tiếng bước chân dưới cầu thang.

Anh thử quay số lại, nhưng trong cơn tuyệt vọng anh đẩy thanh điều

khiển ra khỏi tầm với.

Jim Polling vào phòng. Rhyme đã hy vọng người lính canh sẽ gọi anh

trước. Nhưng tất nhiên là anh chàng cảnh sát tuần tra sẽ để viên đại úy

mà không cần suy nghĩ.

Cái áo khoác tối màu của Polling mở phanh ra và Rhyme nhìn thấy

khẩu tự động anh ta đeo bên hông. Anh không biết liệu đó có phải

súng anh ta được cấp hay không. Nhưng anh biết Colt.32 là loại súng

trong danh sách vũ khí cá nhân được chấp nhận của NYPD.

“Chào Lincoln”, Polling nói. Anh ta trông rõ ràng có vẻ bất ổn, cảnh

giác. Anh ta nhìn khúc xương sống trắng bệch.

“Cậu thế nào, Jim?” “Không tệ.”

Polling là người ưa hoạt động. Liệu vết sẹo trên ngón tay có thể là dấu

tích của nhiều năm quăng dây câu? Hay một sự cố với con dao săn?

Rhyme cố nhìn nhưng Polling vẫn đút tay trong túi. Anh ta có giấu gì

trong đó không? Một con dao?

Chắc chắn Polling hiểu về hiện trường vụ án và pháp y – anh ta biết

làm thế nào để không để lại vật chứng.

Cái mặt nạ trượt tuyết? Nếu Polling là thủ phạm, chắc chắn anh ta phải

đeo mặt nạ

– vì một trong những nạn nhân sau này có thể nhìn thấy anh ta. Và

nước hoa dùng sau khi cạo râu... Nếu nghi phạm thực sự không dùng

nước hoa dùng sau khi cạo râu mà chỉ đem theo một lọ để phun ra hiện

trường khiến họ tin rằng hắn có dùng? Như vậy, khi Polling tới đây,

không dùng tí nước hoa nào, sẽ chẳng có ai nghi ngờ anh ta.

“Anh có một mình thôi à?” Anh ta hỏi. “Trợ lý của tôi...”

“Viên cảnh sát dưới nhà nói anh ta sẽ đi vắng một lúc.”

Thân hình Polling nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh, tóc màu cát. Lời nói của

Terry Dobyns trở lại trong đầu anh: một người hữu ích, thẳng thắn. Một

nhân viên hoạt động xã hội, luật sư, nhà chính trị. Người hay giúp đỡ

kẻ khác.

Như một cảnh sát.

Rhyme đang băn khoăn liệu anh sắp phải chết hay chưa. Và thấy sốc

khi nhận ra mình không muốn. Không phải kiểu này, không phải theo

điều kiện của người khác.

Polling tiến về phía chiếc giường.

Nhưng anh chẳng thể làm được gì. Hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhân

từ của người đàn ông này.

“Lincoln”, Polling nói, vẻ nghiêm trọng.

Ánh mắt họ gặp nhau và một cảm giác về sự liên kết như luồng điện

chạy qua người họ. Những tia lửa khô khốc. Viên đại úy nhìn nhanh ra

cửa sổ. “Anh cũng đang băn khoăn, đúng không?”

“Băn khoăn?”

“Lý do tôi muốn anh vào vụ này.” “Tôi nghĩ đó là vì tính cách của tôi.”

Viên đại uý không cười.

“Vì sao anh lại muốn tôi, Jim?”

Các ngón tay của viên đại uý đan vào nhau. Mảnh dẻ, nhưng mạnh mẽ.

Bàn tay của một người câu cá, môn thể thao có vẻ hiền lành, nhưng

mục tiêu lại là lôi con vật tội nghiệp ra khỏi nhà của nó, mổ bụng nó

bằng một lưỡi dao sắc ngọt.”

“Bốn năm trước, vụ Shepherd. Chúng ta làm cùng nhau.” Rhyme gật

đầu.

“Những người công nhân tìm thấy xác viên cảnh sát đó trong ga tàu

điện ngầm.”

Tiếng răng rắc, Rhyme nhớ lại, như âm thanh của tàu Titanic đang chìm

trong phim A night to remember. Sau đó là tiếng nổ như tiếng súng khi

thanh rầm rơi xuống cái cổ không may mắn của anh, và bụi đất bao

trùm lấy anh.

“Và anh tự khám nghiệm hiện trường, như mọi khi.” “Đúng thế.”

“Anh có biết chúng tôi kết án Shepherd thế nào không? Chúng tôi có

một nhân chứng.”

Một nhân chứng? Rhyme chưa được nghe điều đó. Sau vụ tai nạn, anh

đã mất hết tất cả manh mối liên quan đến vụ án, ngoại trừ việc

Shepherd đã bị kết án và ba tháng sau đã bị một kẻ tấn công đâm đến

chết trên đảo Riker. Tên này không bao giờ bị bắt.

“Một nhân chứng”, Polling nói tiếp. “Hắn có thể đặt Shepherd với vũ

khí giết người vào nhà một nạn nhân.” Viên đại úy tiến lại gần giường

hơn, đứng khoanh tay. “Chúng tôi có nhân chứng một ngày trước khi

phát hiện cái xác cuối cùng – cái xác dưới tàu điện ngầm. Trước khi tôi

yêu cầu anh khám nghiệm hiện trường.”

“Anh nói gì thế, Jim?”

Mắt viên đại úy cắm xuống sàn.

“Chúng tôi không cần anh. Chúng tôi không cần báo cáo của anh."

Rhyme im lặng.

Polling gật đầu. “Anh hiểu điều tôi nói chứ? Tôi đã rất muốn bắt tên

Shepherd đó... Tôi muốn có một vụ thật chặt chẽ. Và anh biết là báo

cáo hiện trường vụ án của

Lincoln Rhyme sẽ làm điều gì với luật sư bảo vệ rồi đấy. Nó làm cho

bọn họ sợ mất

mật.”

“Nhưng Shepherd có thể vẫn bị kết án mà không cần đến báo cáo về

hiện trường dưới tàu điện ngầm của tôi.”

“Đúng thế, Lincoln. Nhưng còn tệ hơn thế nữa. Anh biết không tôi

được bên thiết kế giao thông cho biết chỗ đó không an toàn.”

“Ga tàu điện ngầm. Và anh vẫn để tôi khám nghiệm hiện trường trước

khi họ chống lại nó?”

“Shepherd giết cảnh sát.” Mặt Polling nhăn nhúm vì ghê tởm. “Tôi rất

muốn bắt được hắn. Tôi sẽ làm mọi thứ để tóm hắn. Nhưng...” Anh ta

lấy tay che mặt.

Rhyme im lặng. Anh nghe thấy tiếng răng rắc của thanh rầm, tiếng nổ

tung của gỗ gãy. Sau đó là tiếng xào xạc của đám bụi xung quanh anh.

Sự bình an ấm áp, lạ lùng trong cơ thể lúc trái tim anh phập phồng vì

hoảng sợ.

“Jim...”

“Chính vì thế tôi muốn anh vào vụ này, Lincoln. Anh thấy không?” Một

cái nhìn khốn khổ xuất hiện trên khuôn mặt cứng rắn của viên đại úy;

anh ta nhìn chằm chằm vào đốt xương sống trên bàn. “Tôi vẫn được

nghe những câu chuyện nói rằng cuộc đời anh coi như đã vứt đi. Anh

đang bị bỏ phí ở đây. Định tự tử. Tôi thấy có lỗi kinh khủng. Tôi muốn

trả lại anh một phần cuộc sống.”

Rhyme nói: “Và anh đã sống với điều này suốt ba năm rưỡi qua?”

“Anh biết tôi rồi đấy, Lincoln. Mọi người biết tôi. Tôi bắt được ai đó,

hắn phản ứng lại, hắn sẽ toi. Tôi đã chơi rắn với vài tên, tôi không dừng

lại tới khi thằng khốn bị đóng gói rồi dán nhãn. Tôi không kiểm soát

được điều đó. Tôi biết là đôi khi tôi đã quá tay với mọi người. Nhưng

chúng là tội phạm – hay ít nhất là nghi phạm. Chúng không phải người

của tôi, chúng không phải cảnh sát. Điều này xảy ra với anh... là tội ác.

Là quá sai.”

“Tôi không  phải lính  mới”,  Rhyme  nói.  “Tôi không  phải khám 

nghiệm hiện trường nếu tôi nghĩ nơi đó không an toàn.”

“Nhưng...”

“Không đúng lúc chăng?” Một giọng nói khác vang lên ngoài cửa.

Rhyme ngẩng lên, nghĩ rằng sẽ trông thấy Berger. Nhưng đó là Peter

Taylor, ông ta đang lên cầu thang. Rhyme nhớ là ông ta đã đến đây

ngày hôm nay để chăm sóc bệnh nhân sau khi bị mất phản xạ. Anh

cũng nghĩ rằng ông bác sĩ sẽ lại cho anh một bài về Berger và Hội Bến

mê. Anh thì không có tâm trạng cho việc này; anh muốn có thời gian ở

một mình – để tiêu hoá lời thú tội của Polling. Lúc này, nó cũng chỉ nằm

đó, tê liệt như chính bắp đùi của Rhyme. Nhưng anh nói: “Vào nhà đi,

Peter.”

“Cậu có hệ thống an ninh rất buồn cười, Lincoln ạ. Người bảo vệ hỏi

tôi có phải là bác sĩ không rồi anh ta cho tôi lên. Sao thế? Vậy luật sư

và kế toán bị đá đít à?”

Rhyme cười. “Tôi chỉ cần một giây thôi.” Rhyme quay lại với Polling.

“Số phận thôi, Jim ạ. Điều xảy ra với tôi ấy mà. Tôi chỉ ở không đúng

nơi và không đúng lúc thôi. Thỉnh thoảng điều đó vẫn xảy ra.”

“Cảm ơn, Lincoln.” Polling đặt tay lên vai Rhyme và bóp nhẹ.

Rhyme gật đầu, và để tránh sự biết ơn không dễ dàng, anh giới thiệu

hai người với nhau. “Jim, đây là Peter Taylor, một trong những bác sĩ

của tôi. Còn đây là Jim Polling, chúng tôi đã từng làm việc với nhau.”

“Rất vui được gặp anh”, Taylor nói, chìa tay phải ra. Đó là một cử

động dài và ánh mắt Rhyme nhìn theo nó, vì một lý do nào đó anh nhận

ra vết sẹo hình vành trăng sâu trên ngón tay trỏ của Taylor.

“Không!” Rhyme la lớn.

“Vậy mày cũng là cớm.” Taylor nắm chặt tay Polling trong khi hắn thọc

ba lần lưỡi dao đang được hắn nắm chắc bên tay trái vào ngực viên đại

úy, xuyên qua kẽ xương sườn với sự tinh tế của một bác sĩ phẫu thuật.

Chắc chắn là hắn không phạm đến chiếc xương quý giá.

BA MƯƠI SÁU

Chỉ với hai bước dài Taylor đã đến bên chiếc giường. Hắn vớ lấy bộ

điều khiển

ECU đang nằm dưới ngón tay Rhyme và ném nó đi.

Rhyme lấy hơi để thét gọi. Nhưng tên bác sĩ nói: “Hắn cũng chết rồi.

Tên cớm.” Hất đầu về phía cửa, chỉ người cận vệ dưới nhà. Taylor

thích thú nhìn Polling đang giãy giụa như một con thú gãy lưng, phun

máu ra nền nhà và lên tường.

“Jim!” Rhyme gào lên. “Không, ôi, không...”

Hai bàn tay viên đại uý ôm lấy lồng ngực bị rạch nát của anh ta. Tiếng

ằng ặc đáng sợ của anh ta tràn ngập căn phòng, cộng với tiếng đế giày

đập như điên dại xuống sàn khi anh ta chết. Cuối cùng, anh ta giật bắn

người một lần nữa rồi nằm yên. Hai con mắt mờ đục, lấm tấm máu của

anh ta nhìn lên trần nhà.

Quay lại phía Rhyme, hắn nhìn chằm chằm vào anh khi đi vòng quanh

chiếc giường. Đi vòng quanh, dao trên tay. Hơi thở lạnh lùng.

“Ông là ai?” Rhyme thở hổn hển.

Taylor từ từ tiến lại gần hơn, đặt các ngón tay lên tay Rhyme và bóp

xương vài lần, có thể mạnh, có thể đau, có thể không. Bàn tay hắn lần

xuống ngón tay đeo nhẫn bên trái của Rhyme. Hắn nhấc nó ra khỏi bộ

điều khiển ECU và chăm sóc nó bằng lưỡi dao đang nhỏ máu. Thọc

đầu nhọn con dao vào móng tay.

Rhyme cảm thấy một cơn đau mờ nhạt, một cảm giác buồn nôn. Sau

đó đau hơn. Anh thở hổn hển.

Sau đó, Taylor nhận thấy điều gì đó và cứng đờ người. Hắn thở hổn

hển. Cúi người ra trước. Nhìn chằm chằm vào cuốn sách Crime in Old

New York trên chiếc giá lật trang.

“Ra thế... Mày tìm được nó đấy... Ồ, bọn cớm chắc phải tự hào lắm vì

có mày trong đội ngũ, Lincoln Rhyme ạ. Tao đã nghĩ phải mất nhiều

ngày thì bọn mày mới tìm được ngôi nhà. Tao nghĩ lúc đó Maggie đã bị

lũ chó xé nát rồi.”

“Sao ông lại làm thế?” Rhyme hỏi.

Nhưng Taylor không trả lời, hắn đang cẩn thận xem xét Rhyme, lẩm

bẩm như nói với chính mình: “Trước đây, mày không được giỏi thế này,

mày biết không? Ngày xưa ấy mà. Khi đó mày bỏ qua nhiều thứ quá,

đúng không? Ngày xưa ấy mà.”

Ngày xưa... ý hắn ta là gì?

Hắn lắc lắc cái đầu hói, tóc hoa râm – không phải nâu – và liếc nhìn

cuốn sách pháp y của Rhyme. Có sự thừa nhận trong mắt hắn và

Rhyme dần dần hiểu ra.

“Ông đọc sách của tôi”, nhà hình sự học nói. “Ông nghiên cứu nó.

Trong thư viện, đúng không? Chi nhánh thư viện công cộng gần nhà

ông?”

Cuối cùng thì 823 cũng là một kẻ đọc sách.

Vì thế hắn biết quy trình khám nghiệm hiện trường của Rhyme. Vì thế

hắn quét chúng cẩn thận, vì thế hắn đeo găng tay khi sờ vào những bề

mặt mà hầu hết bọn tội phạm không nghĩ là sẽ để lại dấu tay, vì thế hắn

phun nước hoa dùng sau khi cạo râu tại hiện trường – hắn biết chính

xác Sachs sẽ tìm kiếm thứ gì.

Và tất nhiên cẩm nang đó không phải là cuốn duy nhất hắn đọc.

Cả Scenes of The Crime nữa. Cuốn này cho hắn ý tưởng về những

manh mối để lại

– những manh mối New York cổ xưa. Những manh mối chỉ Rhyme

mới có thể giải mã.

Taylor nhặt đĩa có đốt xương sống mà hắn đưa cho Rhyme tám tháng

trước lên. Hắn lơ đãng xoay xoay nó giữa các ngón tay. Và Rhyme

nhìn thấy món quà, khi đó thật cảm động, nhưng giờ hoá ra lại là một

lời nói đầu thật kinh khủng.

Mắt hắn không tập trung, nhìn xa xăm. Rhyme nhớ lại trước đây anh đã

nhìn thấy điều đó – khi Taylor khám cho anh trong những tháng qua.

Anh đã xem điều đó là sự tập trung của một bác sĩ nhưng giờ anh hiểu,

đó là sự điên loạn. Khả năng kiềm chế mà anh đang cố duy trì dần biến

mất.

“Nói cho tôi biết”, Rhyme hỏi. “Vì sao?”

“Vì sao à?” Taylor thầm thì, lướt tay trên chân Rhyme, ấn thử lần nữa,

đầu gối, da, mắt cá chân. “Vì mi rất tuyệt vời, Rhyme ạ. Độc đáo. Mi

là người không có điểm yếu.”

“Ý ông là gì?”

“Làm sao có thể trừng phạt được một người đang muốn chết? Nếu ta

giết hắn, ta đã làm điều hắn muốn. Vì thế ta phải làm cho mi muốn

sống.”

Cuối cùng thì câu trả lời cũng đến với Rhyme.

Ngày xưa...

“Đồ giả phải không?” Anh thầm thì. “Bản cáo phó từ nhân viên điều tra

đột tử ở

Albany. Chính ông viết nó.”

Collin Stanton. Bác sĩ Taylor chính là Colin Stanton.

Người đàn ông có gia đình bị tàn sát ngay trước mắt ông ta, trên những

con phố của khu Chinatown. Người đàn ông đứng đó, tê liệt trước thi

thể của vợ và hai đứa con, nhìn họ mất máu cho đến chết, ghê sợ khi

không dám lựa chọn cứu ai trong số họ.

Mi bỏ qua nhiều thứ. Ngày xưa.

Miếng ghép cuối cùng đã vào đúng chỗ, nhưng quá muộn.

Việc hắn nhìn các nạn nhân: T.J. Colfax, Monelle và Carole Ganz. Hắn

chấp nhận nguy cơ bị bắt để đứng lại và nhìn họ – đúng như Stanton

đứng nhìn gia đình mình, nhìn họ đã chết dần. Hắn muốn báo thù nhưng

hắn lại là bác sĩ, hắn đã thề không bao giờ giết người, vì thế để có thể

giết chóc hắn phải trở thành tổ tiên tinh thần của chính mình – Kẻ Tầm

Xương, James Schneider, một tên điên loạn của thế kỷ XIX, người có

gia đình bị cảnh sát làm tan nát.

“Sau khi ra khỏi nhà thương điên, ta quay lại Manhattan. Ta đọc báo

cáo điều tra về việc mi đã bỏ qua tên giết người tại hiện trường vụ án

như thế nào, hắn thoát khỏi căn hộ đó ra sao. Ta biết ta phải giết mi.

Nhưng ta không thể. Ta không biết vì sao... Ta cứ đợi, đợi điều gì đó

xảy ra. Rồi sau đó, ta tìm thấy cuốn sách. James Schneider... Hắn đã

trải qua chính xác những gì mà ta đã trải qua. Hắn đã làm được, ta

cũng làm được.”

Ta sẽ lóc họ đến tận xương.

“Bản cáo phó”, Rhyme nói.

“Đúng thế. Chính ta viết nó trên máy tính. Fax nó đến NYPD để họ

không nghi ngờ. Sau đó, ta trở thành một người khác. Bác sĩ Peter

Taylor. Mãi về sau ta mới nhận ra vì sao ta chọn cái tên này. Mi nghĩ ta

được không?” Stanton nhìn lên tấm bảng trên tường. “Câu trả lời ở

đó.”

Rhyme nhìn qua hồ sơ.

•    Biết tiếng Đức cơ bản

“Schneider”, Rhyme nói, thở dài mệt mỏi. “Tiếng Đức là thợ may142.”

Stanton gật đầu. “Ta đã ở thư viện hàng tuần, đọc về chấn thương cột

sống và sau đó gọi điện cho mi, nói rằng ta được SCI Columbia giới

thiệu. Ta định giết mi ngay từ lần đầu tiên, lóc từng rẻo thịt của mi ra,

để cho mi mất máu đến chết. Sẽ phải mất vài giờ, thậm chí vài ngày.

Nhưng chuyện gì xảy ra?” Mắt hắn mở to.” Ta thấy mi muốn tự giết

mình.”

Hắn cúi xuống gần Rhyme. “Lạy Chúa, ta vẫn nhớ lần đầu tiên ta nhìn

thấy mi. Đồ khốn kiếp. Mi chết rồi. Thế là ta biết ta phải làm gì – ta

phải là cho mi muốn sống. Ta phải cho mi mục tiêu để sống.”

Tức là hắn bắt ai không quan trọng. Ai cũng được. “Thậm chí ông

không quan tâm nạn nhân sống hay chết.”

“Tất nhiên là không. Điều tao muốn là bắt mi cố cứu họ.”

“Nút thắt”, Rhyme hỏi, nhìn thấy là vòng dây phơi treo cạnh tấm áp

phích. “Đấy là mũi khâu phẫu thuật.”

Hắn gật đầu.

“Tất nhiên rồi. Còn vết sẹo trên tay ông?”

“Ngón tay ta?” Hắn nhăn mặt. “Làm sao mi... Cổ cô ta! Mi lấy dấu tay

trên cổ Hanna. Ta biết là có thể. Ta không nghĩ đến điều đó.” Tự giận

mình. “Ta đập vỡ cốc trong thư viện của nhà thương điên”, Stanton

tiếp tục. “Để tự cắt cổ tay. Ta bóp cho đến khi nó vỡ tan.” Hắn cà

điên dại vào vết sẹo trên ngón tay trỏ.

“Những người đã chết”, Rhyme nói đều đều. “Vợ và các con ông. Đó

là tai nạn. Một tai nạn khủng khiếp, đáng sợ. Nhưng không phải là cố

tình. Đó là một sự sai lầm. Tôi rất lấy làm tiếc cho ông và cho họ.”

Bằng một giọng ngân nga, Stanton quở trách: “Có nhớ mi đã viết gì

không?... Trong lời mở đầu cuốn sách giáo khoa của mi?” Hắn trích

dẫn một cách chính xác. “Một nhà hình sự học biết rằng mỗi hành động

đều có hậu quả. Sự hiện diện của tội phạm làm biến đổi mọi hiện

trường vụ án, bất kể nó mờ nhạt đến đâu. Chính vì thế chúng ta có thể

phát hiện, định vị được bọn tội phạm và nắm được công lý.” Stanton

nắm tóc Rhyme và kéo đầu anh ra phía trước. Họ chỉ cách nhau vài

inch. Rhyme có thể ngửi thấy hơi thở của tên điên loạn, thấy được

những giọt mồ hôi trên làn da màu xám. “Được rồi, ta là hậu quả cho

những hành động của mi.”

“Ông sẽ đạt được điều gì? Ông có giết tôi thì tôi cũng không tệ hơn

bây giờ.”

142 Thợ may: Tailor, đọc như Taylor, có nghĩa là thợ may.

“Ồ, nhưng ta chưa giết ngươi. Chưa đâu.” Stanton thả tóc Rhyme ra,

lùi lại.

“Mi có biết ta sẽ làm gì không?” Hắn thầm thì. “Ta sẽ giết tay bác sĩ

của ngươi, Berger. Nhưng không theo cách giết của hắn. Ồ, không

thuốc ngủ, không rượu. Ta sẽ xem hắn có thích chết theo cách truyền

thống không. Sau đó là bạn mi, Sellitto. Còn sĩ quan Sachs? Cả cô ta

nữa. Cô ta là người may mắn đấy. Nhưng lần sau ta sẽ tóm được cô

ta. Một lần chôn cất cho cô ta nữa nhé. Tất nhiên cả Thom nữa. Nó sẽ

chết ngay ở đây, trước mặt mi. Ta sẽ lóc nó đến tận xương... đẹp đẽ

và chậm rãi.” Hơi thở của Stanton gấp gáp. “Có thể ta sẽ chăm sóc nó

ngay hôm nay. Khi nào thì nó về nhỉ?”

“Tôi đã sai lầm. Đó là...” Bất ngờ Rhyme ho dữ dội. Anh hắng giọng,

cố lấy lại hơi thở. “Đó là lỗi của tôi. Ông làm gì tôi cũng được.”

“Không. Không phải là mi. Đó là...”

“Làm ơn di. Ông không thể...” Rhyme lại bắt đầu ho. Cơn ho biến

thành những cơn rung toàn thân. Anh không thể điều khiển được mình

nữa rồi.

Stanton nhìn anh.

“Ông không thể làm đau họ. Tôi sẽ làm điều gì đó...” Giọng của Rhyme

gấp gáp. Đầu anh lật ra sau, mắt lồi ra.

Hơi thở của Lincoln Rhyme ngừng hẳn. Đầu anh lắc lư, vai rung bần

bật. Gân cổ cứng như dây thép.

“Rhyme!” Stanton gào lên.

Sùi bọt mép, môi phun nước bọt, Rhyme giật người một lần, hai lần

như thể một cơn động đất tràn qua cơ thể mềm oặt của anh. Đầu anh

rơi ra sau, khoé miệng rỉ máu.

“Không!” Stanton hét lên. Ấn tay vào ngực Rhyme. “Mi không được

chết!” Viên bác sĩ lật mí mắt Rhyme, nhìn thấy toàn lòng trắng.

Stanton mở tung hộp cứu thương của Thom và lấy mũi tiêm huyết áp

dưới da, tiêm thuốc. Hắn ném cái gối khỏi giường và kéo Rhyme nằm

thẳng ra. Hắn lật ngửa đầu Rhyme, lau môi và áp miệng hắn vào miệng

Rhyme, thỏi mạnh vào hai lá phổi đã tê liệt của Rhyme.

“Không!” Stanton phát khùng. “Ta không cho mi chết! Mi không được

chết.” Không một chút phản hồi.

Một lần nữa. Hắn kiểm tra đôi mắt bất động. “Nào! Nào!”

Một lần hà hơi nữa. Đập vào bộ ngực bất động.

Sau đó hắn lùi lại, chết cứng vì hoảng loạn và sốc, nhìn, nhìn chằm

chằm người đàn ông đang chết trước mặt hắn.

Cuối cùng hắn cúi xuống và thổi thật sâu vào miệng Rhyme lần cuối

cùng.

Và đúng vào lúc Stanton nghiêng đầu, ghé tai để lắng nghe một âm

thanh yếu ớt của hơi thở, bất kỳ tiếng thở ra yếu ớt nào, Rhyme phóng

về phía trước như một con rắn đang mổ. Anh cắn chặt răng vào cổ

Stanton, xé tung động mạch cảnh và cắn môi vào một phần xương

sống của người đàn ông.

Đến tận...

Stanton gào lên vào quờ quạng vật ra sau, kép Rhyme ngã khỏi giường

và rơi đè lên hắn. Họ nằm trên sàn. Máu nóng phun ra, ngập trong

miệng Rhyme.

... xương

Lá phổi của anh, hai lá phổi sát thủ của anh, đã không có không khí

suốt một phút, nhưng anh từ chối không nhả ra để lấy hơi, bỏ qua cơn

đau đớn khủng khiếp bên trong má, nơi làn da mềm mại bị anh cắn đến

chảy máu để làm cho cơn đột quỵ do mất phản xạ của anh đến nhanh

hơn. Anh gầm gừ trong cơn giận dữ – tưởng tượng cảnh Amelia Sachs

bị chôn dưới đất, tưởng tượng cảnh hơi nước phun lên cơ thể T.J.

Colfax – anh lắc đầu, cảm thấy tiếng lạo xạo của xương và sụn.

Stanton lại gào lên, đập dữ dội vào ngực Rhyme. Đạp chân để thoát

khỏi con quái vật đã cắm chính nó vào hắn ta.

Nhưng không thể thoát khỏi hàm răng của Rhyme. Dường như tinh

thần của tất cả các cơ bắp thịt đã chết trong cơ thể anh dồn cả lên hai

hàm răng.

Stanton bò tới cái bàn đầu giường và cố với được con dao của hắn.

Hắn đánh mạnh vào Rhyme. Một lần, hai lần. Nhưng những nơi duy

nhất hắn có thể với tới là tay chân của nhà hình sự học. Cơn đau là thứ

làm người ta tê liệt, nhưng cơn đau lại là thứ Rhyme hoàn toàn miễn

dịch.

Hai hàm răng anh nghiến chặt hơn, tiếng thét của Stanton tắt ngấm lúc

khí quản hắn đứt rời. Hắn thọc dao sâu vào tay của Rhyme. Con dao

bị chặn lại khi chạm đến xương. Hắn bắt đầu rút nó ra để đâm lần nữa,

nhưng cơ thể của tên điên loạn đột nhiên đông cứng rồi quẫy mạnh,

một lần, hai lần, và hoàn toàn mềm oặt.

Stanton đổ vật xuống sàn, kéo theo Rhyme. Đầu nhà hình sự học đập

bộp xuống nền gỗ sồi. Nhưng anh không buông tha. Anh bám chặt,

tiếp tục nghiến ngấu cổ của người đàn ông, lắc, xé thịt như con sư tử

đói say máu và điên loạn bởi sự khoái lạc vô biên của cơn khát thèm

được thoả mãn.

V

KHI TA DI CHUYỂN, CHÚNG KHÔNG THỂ BẮT ĐƯỢC TA

Nghĩa vụ của người bác sĩ không chỉ là kéo dài cuộc sống, mà còn là

chấm dứt sự khổ đau.

BÁC SĨ JACK KEVORKIAN

BA MƯƠI BẢY

7:15 PM đến 10:00 PM thứ Hai

Khi Sachs bước vào phòng anh thì mặt trời đã sắp lặn.

Cô không mặc đồ thể thao. Cũng không phải cảnh phục. Cô mặc quần

bò và chiếc áo khoác màu xanh lá cây. Trên khuôn mặt xinh đẹp của

cô có vài vết sẹo mà Rhyme không nhận thấy, mặc dù anh đoán với

những sự kiện trong ba ngày qua thì những vết thương này không phải

tự có.

“Ái chà”, cô nói trong khi đi vòng quanh phần sàn nhà nơi Stanton và

Polling đã chết. Chỗ đó đã được lau sạch bằng chất tẩy rửa – khi tên

tội phạm đã vào trong quan tài thì pháp y trở thành thừa thãi – nhưng

vết bẩn thì thật khổng lồ.

Rhyme nhìn Sachs dừng lại và lạnh lùng gật đầu chào bác sĩ William

Berger, ông ta đang đứng cạnh ô cửa sổ của con chim ưng với chiếc

va li bên cạnh.

“Anh tóm được hắn rồi, đúng không?” Cô hỏi, hất đầu về phía vết

máu. “Ừ”, Rhyme nói. “Hắn toi rồi.”

“Một mình anh?”

“Cũng không công bằng lắm”, anh nói. “Anh phải cố kìm chế mình.”

Phía bên ngoài, mặt trời đang xuống thấp, đổ thứ ánh sáng rực rỡ

xuống thắp sáng những ngọn cây và đường viền của những toà nhà tinh

tế dọc theo Đại lộ Năm phía bên kia công viên.

Sachs liếc nhìn bác sĩ Berger, ông này nói: “Lincoln và tôi vừa có cuộc

trao đổi

nhỏ.”

“Đúng thế ư?”

Một khoảng im lặng thật dài.

“Amelia”, anh bắt đầu. “Anh sẽ tiến hành thôi. Anh quyết định rồi.”

“Em thấy rồi.” Đôi môi tuyệt đẹp của cô, đang bị những mũi khâu nhỏ

xíu làm

hỏng, hơi mím lại một chút. Đó là phản ứng duy nhất của cô. “Anh biết

không, em rất ghét khi bị anh đem tên riêng ra gọi. Em rất ghét.”

Làm thế nào mà anh giải thích được cho cô biết rằng cô là lý do chính

để anh chọn cái chết cho mình? Buổi sáng hôm đó, khi thức dậy và có

cô bên cạnh, anh buồn bã nhận ra rằng rồi cô sẽ bước xuống giường,

mặc quần áo và đi ra cửa – trở lại với cuộc sống riêng của cô, cuộc

sống bình thường. Vì sao, câu chuyện tình của họ đã kết thúc – nếu

như anh dám nghĩ về họ như một đôi tình nhân. Việc cô tìm thấy một

anh chàng Nick khác để yêu chỉ là vấn đề thời gian. Vụ 823 đã chấm

dứt, và không có nó để liên kết họ lại thì cuộc sống của họ sẽ trôi ra

rất xa nhau. Điều đó là chắc chắn.

Ồ, Stanton thực sự thông minh hơn anh nghĩ. Rhyme đã bị lôi kéo tới

bờ vực của thế giới thực thêm một lần nữa và, đúng thế, anh đã vượt

qua nó, rất xa.

Sachs, anh nói dối đấy. Đôi khi ta không thể bỏ qua những người đã

chết. Đôi khi ta phải cùng đi với họ...

Hai bàn tay nắm chặt, cô đi về phía cửa sổ. “Em đã cố gắng nghĩ ra

một lý lẽ đủ mạnh mẽ để thuyết phục anh đừng làm điều đó. Anh biết

đấy, một điều thực sự hấp dẫn. Nhưng em không thể. Tất cả những gì

em có thể nói là em không muốn anh làm điều đó.”

“Thoả thuận là thoả thuận, Sachs ạ.”

Cô nhìn Berger. “Mẹ kiếp, Rhyme.” Bước tới phía giường, cô quỳ

xuống. Cô đặt tay lên vai anh, vuốt tóc trên trán cho anh. “Nhưng anh

làm cho em một việc nhé.”

“Việc gì?”

“Cho em một vài giờ.”

“Anh không thay đổi ý định đâu.”

“Em hiểu. Chỉ cần hai giờ thôi. Có một việc anh cần phải làm trước

đã.”

Rhyme nhìn Berger. Ông ta nói: “Tôi không thể ở lại lâu hơn được nữa,

Lincoln. Máy bay của tôi... Nếu anh muốn đợi thì một tuần nữa tôi có

thể quay lại...”

“Được rồi, bác sĩ...”, Sachs nói. “Tôi sẽ giúp anh ấy.” “Cô?” Ông bác

sĩ nghi ngờ hỏi.

Cô miễn cưỡng gật đầu. “Vâng.”

Đó là bản chất của cô. Rhyme có thể thấy rất rõ điều đó. Anh nhìn vào

đôi mắt xanh của cô, tràn lệ nhưng thật trong sáng.

Cô nói: “Khi em bị... khi hắn chôn sống em, Rhyme ạ, em không cử

động được. Không một ly. Trong một khắc, em rất mong được chết.

Không phải sống nữa, chỉ làm sao để chấm dứt điều đó. Em hiểu cảm

giác của anh.”

Rhyme chậm rãi gật đầu rồi nói với Berger: “Được rồi, bác sĩ. Anh có

thể để lại... Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ?”

“Đồ dùng cá nhân được không?” Berger đề xuất. “Ông có thể để nó

trên bàn, ở đằng kia.”

“Cô chắc chứ?” Ông ta hỏi Sachs. Cô lại gật đầu.

Người bác sĩ để những viên thuốc, chai brandy và cái túi nhựa lên

chiếc bàn đầu giường. Sau đó ông ta lục lọi trong va li. “Tôi sợ tôi

không có dây chun. Buộc cái túi.”

“Được rồi”, Sachs nói, nhìn xuống đôi giày của cô. “Tôi có vài sợi.”

Sau đó Berger đi lại gần giường, đặt tay lên vai Rhyme. “Tôi chúc anh

tự giải thoát bình yên”, ông ta nói.

“Tự giải thoát”, Rhyme châm biếm nói khi Berger đi khỏi. Sau đó nói

với Sachs: “Còn bây giờ, anh cần làm gì nhỉ?”

Cô quay xe lúc đang chạy với tốc độ năm mươi dặm một giờ, trượt

mạnh trên đường và êm ả chuyển sang số bốn.

Gió thốc vào qua cửa sổ mở rộng, thổi tóc họ bay tung. Gió dữ dội

nhưng Sachs chưa bao giờ nghe nói tới chuyện lái xe mà đóng cửa sổ.

“Thế thì không phải là kiểu Mỹ rồi”, cô tuyên bố và vượt ngưỡng một

trăm dặm một giờ.

Khi ta di chuyển...

Rhyme cho rằng sẽ sáng suốt hơn nếu họ lái xe trong bãi tập của

NYPD nhưng anh không ngạc nhiên khi Sachs tuyên bố đó là đường

chạy vớ vẩn; cô đanh bại nó ngay trong tuần đầu tiên tại học viện. Vậy

là họ chạy ra Long Island, câu chuyện về lý do để “đối  phó”   với 

cảnh   sát   Hạt   Nassau   của   họ đã   sẵn  sàng,   vì họ đã   luyện 

qua và nó có vẻ đáng tin.

“Vấn đề của xe có năm số là số cao nhất không phải là số nhanh nhất.

Đó là số chạy đường trường, em thì không quan tâm đến tiết kiệm xăng

và đường trường”. Sau đó cô nắm lấy tay trái anh đặt chiếc núm tròn

màu đen, trùm tay cô lên tay anh, về số.

Động cơ gầm lên và họ vọt lên tốc độ một trăm hai mươi dặm một giờ,

những ngôi nhà và hàng cây lao qua vun vút, những con ngựa đang ăn

cỏ trên cánh đồng lo lắng ngẩng lên nhìn theo vệt đen của chiếc

Chevrolet đang lao qua.

“Đỉnh quá, phải không Rhyme?” Cô nói to. “Hết ý, hơn cả sex. Hơn

mọi thứ”. “Anh cảm thấy sự chuyển động”, anh nói. “Anh nghĩ là anh

cảm thấy được. Ở

ngón tay anh.”

Cô cười. Anh tin rằng cô siết chặt tay anh trong bàn tay cô. Cuối cùng

họ cũng chạy hết đoạn đường vắng, xung quanh lại đông người. Sachs

miễn cưỡng giảm tốc độ, quay xe hướng về phía vầng trăng lưỡi liềm

vừa mọc trên thành phố xa xa, gần như vô hình trong không khí tháng

Tám ngột ngạt.

“Thử chạy với tốc độ một trăm năm mươi xem sao”, cô đề nghị.

Lincoln Rhyme nhắm mắt, thả mình vào trong gió, mùi cỏ mới cắt và

tốc độ.

Đó là buổi tối nóng nhất trong tháng.

Từ điểm quan sát mới của mình, Lincoln Rhyme có thể nhìn xuống

công viên, nhìn ngắm những kẻ lập dị ngồi trên ghế đá, những người

chạy bộ kiệt sức, các gia đình ngồi quây quần quanh khói của chiếc

bếp nướng thịt đang lụi tàn như những kẻ sống sót sau một cuộc chiến

thời trung cổ.

Thom đã cho đĩa CD vào máy – khúc khoan thai bi tráng cho đàn dây

của Samuel Barber143. Nhưng Rhyme nở một nụ cười chế giễu, tuyên

bố rằng điệu nhạc này là một lời chia buồn sáo rỗng và ra lệnh cho cậu

ta thay nó bằng Gershwin144.

143 Samuel Osborne Barber (1910 – 1981): Nhà soạn nhạc opera,

nhạc cho piano và nhạc giao hưởng người Mỹ.

144 George Gershwin (1898 – 1937): Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ

dương cầm người Mỹ.

Amelia Sachs lên cầu thang, vào phòng ngủ của anh và nhận thấy anh

đang nhìn ra ngoài. “Anh nhìn gì vậy?” Cô hỏi.

“Những người nóng bỏng.”

“Và những con chim? Lũ chim ưng?” “À, đúng rồi, chúng nó ở kia.”

“Cũng nóng bỏng chứ?”

Anh  nhìn  con  chim đực.  “Anh không  nghĩ thế.  Hình  như  chúng  nó

vượt  lên trên điều đó”.

Cô đặt cái túi xuống chân giường và nhấc thứ bên trong ra, một chai

brandy đắt tiền. Anh nhắc cô về chai whisky Scotch nhưng cô nói cô

sẽ góp phần rượu. Cô đặt nó bên cạnh những viên thuốc và cái túi

nhựa. Trông như một người vợ chuyên nghiệp vui tươi, vừa từ

Balducci’s145 về nhà đem theo hàng đống rau dưa và đồ biển nhưng

lại có

quá ít thời gian để nấu nướng.

Cô còn mua thêm ít đá, theo yêu cầu của Ryhme. Anh nhớ Berger đã

nói đến sức nóng của cái túi. Cô mở nút chai Courvoisier146, rót cho

mình một ly và đổ đầy cái cốc vại của anh, đưa ống hút vào miệng cho

anh.

“Thom đâu?” Cô hỏi anh. “Ra ngoài”

“Anh ta có biết không?” “Có.”

Họ cùng nhấm nháp rượu.

“Anh có muốn em nhắn gì cho vợ anh không?”

Rhyme suy nghĩ một lúc lâu: chúng ta có nhiều năm để chuyện trò với ai

đó, để giãi bày và khoác lác, để nói về khát vọng, sự giận dữ và những

nỗi hối tiếc – và than ôi, chúng ta đã lãng phí những khoảnh khắc đó

như thế nào. Còn Amelia Sachs, anh mới biết cô có ba ngày và họ đã

cùng thổ lộ tâm tình nhiều hơn những gì anh và Blaine đã làm trong gần

một thập kỷ.

“Không”, anh nói. “Anh đã gửi mail cho cô ấy.” Anh cười thầm. “Thực

sự là một món quà của thời đại chúng ta, phải nói là như thế.”

Uống thêm một chút rượu, vị đắng se se lan tỏa trong miệng anh. Êm

hơn, mờ mịt hơn, nhẹ nhàng hơn.

Sachs cúi xuống giường, chạm cốc với anh.

“Anh có một ít tiền”, Rhyme bắt đầu. “Anh chuyển cho Blaine và Thom

phần lớn. Anh…”

145 Balducci’s: Một trong những công ty thực phẩm đặc biệt lớn nhất

ở Mỹ với mười cửa hàng thực phẩm, bốn nhà hàng và có di sản từ năm

1916.

146 Courvoisier: Một loại rượu cô nhắc.

tay.

Nhưng cô khiến anh im lặng bằng một nụ hôn lên trán và cái lắc đầu.

Có tiếng lóc cóc nhẹ nhàng của đá cuội khi cô đổ những viên Seconals

nhỏ xíu ra

Rhyme nghĩ một cách máy móc: Tia reagent thử màu Dille-Koppanyi.

Thêm một

phần  trăm  cobalt  acetate  vào  chất đang  khám  nghiệm  sau  đó  là

năm  phần  trăm isopropylamine trong metanola. Nếu chất này là thuốc

an thần, tia reagent sẽ chuyển sang màu xanh tím rất đẹp.

“Ta phải làm thế nào?” Cô hỏi, nhìn những viên thuốc. “Em thực sự

không biết”. “Hòa với rượu”, anh đề xuất.

Cô thả chúng vào cốc vại của anh. Chúng nhanh chóng tan ra.

Chúng thật mong manh. Như những giấc mơ mà chúng tạo ra.

Cô dùng ống hút khuấy cho tan. Anh nhìn những móng tay xướt xát

của cô nhưng điều đó cũng không làm anh buồn. Đêm nay là đêm của

anh, và đó là đêm của niềm vui.

Bất chợt Lincoln Rhyme nhớ lại thời thơ ấu của mình, ở ngoại ô Illinois.

Anh chẳng bao giờ uống sữa. Mẹ đã phải mua cho anh ống hút tráng

mùi bên trong để dỗ anh uống. Mùi dâu tây, mùi chocolate. Anh không

nghĩ đến chúng cho tới lúc này. Đó là một phát minh vĩ đại, anh nhớ lại.

Anh luôn chờ suất sữa buổi chiều của mình.

Sachs đẩy ống hút đến gần miệng anh hơn. Anh ngậm nó vào môi. Cô

đặt tay lên tay anh.

Ánh sáng hay bóng tối, âm nhạc hay sự im lặng, những giấc mơ hay sự

nhập định của giấc ngủ không mộng mị? Ta sẽ thấy gì?

Anh bắt đầu uống. Vị chẳng có gì khác với rượu thường. Có thể hơi

đắng hơn một chút. Nó giống như…

Phía  dưới  nhà có tiếng  đập  cửa  thình  thình.  Dùng  cả chân  lẫn 

tay,  có lẽ thế. Cả tiếng người la hét.

Anh nhả ống hút. Nhìn ra phía cầu thang. Cô nhìn anh, nhăn mặt.

“Em ra ngoài xem thế nào”, anh nói với cô.

Cô biến mất dưới cầu thang và một khắc sau đã quay lại, trông có vẻ

không vui. Lon Sellitto và Jerry Banks theo sau. Rhyme nhận thấy viên

thám tử trẻ lại làm trò đồ tể trên mặt anh ta bằng dao cạo râu. Chắc

chắn là anh ta cần học cách kiểm soát nó.

Sellitto nhìn cái túi và cái chai. Ánh mắt anh ta quay sang Sachs, nhưng

cô khoanh tay nhìn lại, thầm ra lệnh cho ông ta ra về. Đây không phải

vấn đề cấp bậc, cái nhìn nói với viên thám tử rằng điều đang diễn ra ở

đây không phải việc của ông ra. Mắt Sellitto nhận thông điệp, nhưng

ông ta không hề có ý định bỏ đi.

“Lincoln, tôi cần nói chuyện với anh.”

“Nói đi, nhưng nhanh lên, Lon. Chúng tôi đang bận.”

Viên thám tử nặng nề ngồi xuống cái ghế mây. “Một giờ trước, một

quả bom đã phát nổ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Ngay cạnh phòng tiệc.

Trong bữa tối chào đón các đại biểu của hội nghị hòa bình.”

“Sáu người chết, năm mươi tư người bị thương”, Banks nói thêm. “Hai

mươi người trong số họ bị thương rất nghiêm trọng.”

“Trời ơi”, Sachs thầm thì.

“Kể cho anh ấy đi”, Sellitto lầm bầm.

Banks tiếp tục: “Liên Hiệp Quốc đã thuê khá nhiều nhân viên thời vụ

phục vụ hội nghị. Tội phạm là một trong số họ – một nhân viên tiếp tân.

Khoảng nửa tá nhân chứng nhìn thấy cô ta đeo một cái ba lô đi làm và

để nó trong kho cạnh phòng tiệc. Cô ta để nó ở đấy, trước khi có tiếng

nổ. Đội công binh cho rằng phải có tới hai cân C4 hay Semtex”.

Sellitto  nói:  “Linc,  quả bom,  đó  là một  cái ba  lô  màu  vàng,  nhân

chứng  nói như vậy.”

“Màu vàng? Sao nghe quen thế nhỉ?”

“Bộ phận nguồn lực của Liên Hiệp Quốc nhận định nhân viên tiếp tân

đó là Carole

Ganz.”

“Người mẹ”, Rhyme và Sachs đồng thanh.

“Đúng thế. Người phụ nữ được các vị cứu trong nhà thờ. Có điều

Ganz là tên giả.

Tên thực của ả là Charlotte Willoughby. Ả là vợ Ron Willoughby. Có

thấy gì không?” Rhyme nói không.

“Tin này được đưa khoảng hai năm trước. Anh ta là trung sĩ quân đội,

được giao nhiệm vụ phục vụ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên

Hiệp Quốc tịa Miến Điện”.

“Tiếp đi”, nhà hình sự học nói.

“Willoughby không muốn đi – anh ta nghĩ một người Mỹ không nên

mặc quân phục UN và không nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai ngoài Quân

đội Mỹ. Ngày nay nó là vấn đề cánh hữu rất lớn. Chưa được một tuần

thì anh ta đã bị một tên du côn ở Rangoon bắn chết. Bị bắn vào lưng.

Anh ta trở thành người tử vì đạo của phe bảo thủ. Bên chống khủng bố

nói là vợ anh ta đã được một nhóm quá khích ở ngoại ô Chicago chiêu

mộ. Vài sinh viên tốt nghiệp Đại học Chiacago hoạt động bí mật.

Edward và Katherine Stone”.

Banks tiếp tục câu chuyện. “Chất nổ được giấu trong gói đất nặn trẻ

em, cùng với những thứ đồ chơi khác. Chúng tôi nghĩ ả sẽ đem cô bé

theo cùng để nhân viên an ninh ở lối vào phòng tiệc không để tâm đến

đất nặn. Nhưng Pammy vẫn ở trong bệnh viện nên ả không  còn  vỏ 

bọc,  ả đã  bỏ qua  phòng  tiệc  và để  nó trong  nhà kho.  Nhưng như

thế cũng đã đủ thiệt hại rồi.”

“Thoát rồi à?”

“Đúng thế. Không để lại một dấu vết.”

“Đứa bé con thì sao?” Sachs hỏi. “Pammy?”

“Đi rồi. Ả đã cho cô bé xuất viện đúng lúc vụ nổ xảy ra. Không có dấu

vết gì của

họ.”

Rhyme nói: “Còn nhóm khủng bố?”

“Nhóm ở Chicago? Chúng cũng biến mất. Có một hang ổ ở

Wisconsin147 nhưng nó cũng đã bị xóa sạch. Chúng ta không biết

chúng ở đâu.”

“Thế  thì đó là  tin  đồn  mà  đặc  tình  của  Dellray  nghe  được”. 

Rhyme  cười. “Carole là người tới sân bay. Chẳng liên quan gì đến thủ

phạm 823”.

Anh thấy Sellitto và Banks đang nhìn mình chằm chằm. Ồ, lại là cái trò

im lặng này.

“Quên đi, Lon.” Rhyme nói, cảm nhận thật rõ ràng cái cốc bên cạnh

mình, đang tỏa hơi ấm đón chào. “Không được đâu.”

Viên thám tử lớn tuổi kéo chiếc áo phông, vẻ khúm núm. “Mẹ kiếp, ở

đây sao lạnh thế, Lincoln. Chúa ơi, cậu thử nghĩ xem. Có hại gì đâu?”

“Tôi không giúp được đâu.”

Sellitto nói: “Có một tin nhắn. Carole viết và gửi tới Tổng thư ký trong

phong bì nội bộ. Lải nhải về việc chính phủ thế giới đang tước bỏ

quyền tự do của Mỹ. Những thứ vớ vẩn kiểu thế.  Nhận trách  nhiệm 

về vụ đánh  bom ở London  và nói sẽ có thêm những vụ khác. Ta cần

tóm chúng, Linc.”

Banks mặt sẹo nói, tỏ vẻ quan trọng: “Cả Tổng thư ký và Thị trưởng

đều mời anh. SAC Perkins nữa. Nếu anh cần thuyết phục thêm, sẽ có

người từ Nhà Trắng gọi tới. Nhưng chúng tôi chắc là anh không cần,

phải không thám tử?”

Rhyme không nhận xét gì về sai lầm liên quan đến chức vụ của anh.

“Nhóm PERT của Cục cũng đã sẵn sàng. Fred Dellray nắm vụ này và

anh ta mời – trân trọng, anh ta dùng đúng từ ấy – anh ta trân trọng mời

anh phụ trách vấn đề pháp y. Hiện trường vụ án thì vẫn còn y nguyên,

ngoại trừ việc người ta đã đưa những người bị thương đi.”

“Thế thì nó không còn nguyên vẹn nữa”, Rhyme cáu kỉnh. “Cực kỳ ô

nhiễm rồi.” “Càng có thêm lý do để chúng tôi cần anh”, Banks liều

mạng, thêm câu “thưa

ngài” để xoa dịu cái nhìn của Rhyme.

Rhyme thở dài, nhìn cái ly và ống hút. Sự bình yên đã tới quá gần. Và

cả đau đớn. Vô hạn.

Anh nhắm mắt. Trong phòng không một tiếng động.

Sellitto nói: “Nếu chỉ có mình ả thì không sao. Nhưng ả còn có cô bé

nữa, Lincoln. Hoạt động bí mật, với một bé gái? Anh có biết là cuộc

đời cô bé sẽ ra sao không?”

Anh sẽ chết với tôi vì câu này đấy, Lon.

Ryhme  tựa đầu  xuống  gối.  Cuối  cùng  anh  mở bừng  mắt.  Anh 

nói:  “Sẽ phải có vài điều kiện”

“Nói đi, Linc.”

147 Wisconsin: Một bang nằm gần trung tâm lục địa Bắc Mỹ.

“Thứ nhất”, anh nói. “Tôi không làm việc một mình.” Rhyme nhìn về

phía Amelia Sachs.

Cô ngần ngừ một thoáng, sau đó mỉm cười và đứng dậy, nhấc cốc

brandy pha thuốc lên. Cô mở rộng cửa sổ, hắt thứ chất lỏng màu vàng

nâu vào làn không khí nóng nực, chín nẫu phía bên trên con ngõ cạnh

tòa nhà. Trong lúc ấy, chỉ cách đó vài feet, con chim ưng ngẩng lên,

nghiêng đầu giận dữ nhìn cử động của cánh tay cô, rồi quay lại cho

những đứa con đang đói meo của nó ăn.

PHỤ LỤC

Trích từ: Từ điển thuật ngữ, Lincoln Rhyme, Chứng cứ vật lý, xuất bản

lần thứ tư. New York: Forensic Press, 1994. Đã được phép in lại.

Nguồn sáng thay thế (ALS): Bất kỳ loại bóng đèn nào có cường độ

sáng cao với bước sóng và màu sắc ánh sáng khác nhau, được sử dụng

để hiển thị những dấu vân tay ẩn, một số loại dấu tích và chứng cứ sinh

học.

Hệ thống nhận  dạng dấu  vân tay tự động (AFIS): Một trong những hệ

thống được máy tính hóa để quét và lưu trữ dấu vân tay.

Birefringence (khúc xạ đúp): Sự khác biệt giữa hai giá trị khúc xạ do

một số loại tinh thể hiển thị. Có ích trong việc nhận dạng cát, sợi và bụi

bẩn.

Thẻ đăng ký vật chứng (COC): Một bản ghi chú của những người đã

sở hữu một vật chứng từ lúc thu được nó lên hiện trường vụ án cho tới

khi đưa nó ra tòa.

COD: Nguyên nhân tử vong.

Mẫu đối chứng:  Vật chứng thu được tại hiện trường vụ án từ những

nguồn đã biết, được sử dụng để so sánh với vật chứng từ một nguồn

chưa biết. Ví dụ: máu, lông, tóc của nạn nhân là mẫu đối chứng.

DCDS: Chết tại hiện trường.

Kiểu thử biến thiên mật độ (D-G): Một kỹ thuật so sánh các mẫu đất

để xác định xem chúng có xuất xứ từ một nơi hay không. Phép đo

bằng cách thả những mẫu đất vào các ống chứa chất lỏng có giá trị mật

độ khác nhau.

Nhận dạng DNA: Phân tích và lập biểu đồ cấu trúc gen trong tế bào

của những loại chứng cứ sinh học nhất định (ví dụ: máu, tóc, tinh dịch)

nhằm mục tiêu so sánh với mẫu đối chứng từ nghi phạm đã biết. Quy

trình bao gồm tách và so sánh các đoạn DNA – deoxyribonucleic acid

– đơn vị tạo dựng cơ bản của nhiễm sắc thể. Một số loại nhận dạng

DNA đưa ra xác suất chứng cư xuất phát từ một cá nhân nhất định chỉ

bằng vài phần trăm triệu. Còn được gọi là “nhận dạng gen” – hay còn

bị gọi sai là “lấy vân tay DNA” hay “lấy vân tay gen”.

Nhà nhân  chứng học pháp y: Một chuyên gia về khung xương, trợ

giúp các nhà điều tra hiện trường vụ án trong việc đánh giá và nhận

dạng hài cốt, khai quật mộ.

Nha sĩ pháp y: Một chuyên gia răng miệng, hỗ trợ các nhà điều tra hiện

trường vụ án trong việc nhận dạng nạn nhân nhờ nghiên cứu những di

cốt của răng và phân tích các chứng cứ vết cắn.

Vân: Những đường nổi lên của da trên ngón tay, bàn tay và bàn chân,

mỗi người có hình dáng vân riêng biệt, duy nhất. Những dấu vân tại

hiện trường vụ án có thể được phân loại thành: (1) nhựa (để lại trên các

vật thể dễ bị ảnh hưởng như mát tít); (2) vật chứng (do da bị phủ các

chất lạ như bụi hay máu để lại); (3) ẩn (do da bị dính chất nhờn của cơ

thể như dầu hay mồ hôi để lại, thường không thấy được bằng mắt

thường).

Sắc ký khí/phổ kế khối lượng (GC-MS): Hai thiết bị được sử dụng

trong phân tích pháp y để xác định các chất chưa biết như ma túy hay

vật chứng đã tồn tại. Chúng thường được kết nối với nhau. Sắc ký khi

tách các thành phần của chất, sau đó đưa chúng sang phổ kế khối

lượng, thiết bị này xác định chính xác từng thành phần.

Lưới: Cách phổ biến được sử dụng để tìm kiếm chứng cớ, theo đó

nhân viên tìm kiếm khắp hiện trường theo một chiều (ví dụ từ trên

xuống dưới), sau đó đi khắp hiện trường theo hướng vuông góc (tây –

đông).

Tàn thuốc súng (GSR): Vật chất – cụ thể là barium và antimony – rơi

rớt trên tay và quần áo của người bắn súng. GSR sẽ ở lại trên da người

trong vòng sáu tiếng nếu không bị cố tình rửa trôi hay vô ý cọ sạch bởi

sự tiếp xúc quá mức khi tội phạm bị bắt, bị còng (rủi ro cao hơn nếu

tay bị còng ra sau lưng).

Nhận  dạng vật chứng:  Xác định loại hay lớp vật chất của một chứng

cứ. Khái niệm này khác với “nhận dạng cá thể” là việc xác định nguồn

duy nhất của vật chứng. Ví dụ, một mẩu giấy báo được tìm thấy tại

hiện trường vụ án có thể được nhận dạng là loại giấy in họa báo nhưng

có thể được nhận rõ là một mẩu trùng khớp với phần bị mất từ một

trang bị xé trong một số nhất định của một tờ họa báo của nghi phạm.

Nhận dạng cá thể, tất nhiên có giá trị chứng minh khác với nhận dạng

vật chứng.

Nhận dạng cá thể: Xem “Nhận dạng vật chứng”

Vết xám: Phần da nạn nhân đã tử vong bị thâm tím, biến màu do máu

bị đông và sẫm lại sau khi chết.

Nguyên tắc trao  đổi của  Locard:  Được Edmond Locard, một nhà

hình sự học người Pháp đưa ra. Lý thuyết này cho rằng luôn có sự trao

đổi vật chứng giữa tội phạm và hiện trường vụ án hay nạn nhân, bất kể

chứng cứ này có thể là nhỏ bé hay khó phát hiện đến đâu.

Phổ kế khối lượng: Xem “Sắc ký khí”.

Ninhydrin: Hóa chất làm hiển thị dấu vân ẩn trên những bề mặt xốp

như giấy, bìa

và gỗ.

Vật chứng (PE): Trong luật hình sự, PE tham chiếu tới những thực thể

được trình

tại tòa để hỗ trợ khẳng định của bị đơn hay công tố viên về việc một

tuyên bố nào đó là đúng sự thật. Vật chứng bao gồm: các đối tượng vô

tri vô giác, các chất của cơ thể và các dấu ấn (như dấu tay).

Thử máu có cơ sở: Số lượng bất kỳ các kỹ thuật hóa học sử dụng để

xác định có máu vương tại hiện trường hay không, ngay cả trong

trường hợp mắt thường không nhìn thấy được. Những phép thử phổ

biến nhất là dùng luminol và orthotolidine.

Kính hiển vi điện tử quét (SEM): Một thiết bị bắn các hạt electron vào

mẫu vật chứng cần nghiên cứu và chiếu hình ảnh thu được lên màn hình

máy tính. Với SEM, có thể nhận được độ phóng đại mười vạn lần so

với độ phóng đại năm trăm lần của kính hiển vi thông thường. SEM

thường được gắn khối tia X tán sắc năng lượng (EDX), có thể xác định

được các chất có trong mẫu khi kỹ thuật viên quan sát.

Dàn cảnh: Nỗ lực của tội phạm nhằm sắp xếp lại, thêm hay bỏ bớt

chứng cứ khỏi hiện trường vụ án để tạo ấn tượng rằng tội ác do hắn

hay do ai đó khác gây ra sẽ không thể tìm thấy.

Chứng cứ dấu tích: Những mẩu vật chất nhỏ, đôi khi siêu nhỏ như bụi,

chất xơ và

sợi.

Đối tượng: Nghi phạm chưa được xác định.

Máy làm lắng chân không kim loại (VMD): Phương tiện hữu hiệu nhất

hiển thị

dấu vân ẩn trên những bề mặt nhẵn. Vàng hay kẽm được làm bốc hơi

trong một buồng chân không bao bọc một lớp kim loại mỏng lên đối

tượng cần được quan sát, do đó làm hiển thị dấu vân.

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

Tôi mang ơn Peter A. Micheels, tác giả cuốn The Detectives – và E.

W. Count, tác giả cuốn Cop Talk, những cuốn sách của họ không chỉ

hữu ích cho tôi khi nghiên cứu mà còn là những cuốn sách tuyệt hay.

Cảm ơn Pam Dorman, sự biên tập khéo léo của anh có mặt khắp nơi

trong câu chuyện này. Và tất nhiên, cảm ơn người đại diện của tôi,

Deborah Schneider… Nếu thiếu chị thì tôi có thể làm được gì đây? Tôi

chân thành cảm ơn Nina Salter ở Calmann-Lévy vì những nhận xét của

cô trong những bản thảo đầu tiên của cuốn sách này, và cảm ơn

Karolyn Hutchinson tại REP ở Alexandria, Virginia vì sự giúp đỡ vô giá

liên quan đến xe lăn và những thiết bị khác dành cho người bị liệt. Tôi

cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Teddy Rosenbaum – bản thân cô cũng là

một thám tử – vì công việc biên tập của cô. Các sinh viên nghiên cứu

về thực thi pháp luật có thể băn khoăn về cấu trúc của NYPD và FBI

được giới thiệu trong cuốn sách này; việc thay đổi sơ đồ tổ chức hoàn

toàn do tôi tự làm. À, tất nhiên – nếu ai đó muốn đọc cuốn Crime in

Old New York có thể sẽ gặp đôi chút khó khăn để tìm được nó. Đây

là một tác phẩm hư cấu, dù tôi có được nghe nói tới sự tồn tại của một

cuốn như thế nhưng đã bị ăn trộm khỏi Thư viện Công cộng New

York – bởi một hay vài người chưa rõ danh tính.

Jeffery Deaver

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro