Khái quát về đôla hóa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Vài nét về "Đôla hóa" nền kinh tế

http://www.saga.vn/Cohoigiaothuong/Thitruong1/forex/9470.saga

( Bình chọn: 4 -- Thảo luận: 3 -- Số lần đọc: 11096)

© SAGA - Saga.vn, 02/01/2008 - Trong những năm gần đây, Việt Nam đã không ngừng nỗ lực thu hút các nguồn ngoại tệ, đặc biệt là USD. Đây là nguồn lực quan trọng giúp chung ta giải quyết được phần lớn các nhu cầu về vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng v.v... Nhưng điều gì cũng có hai mặt của nó. Chính lượng USD ồ ạt đổ vào Việt Nam nếu không được kiểm soát tốt cũng sẽ gây ra hậu quả to lớn, đó là tình trạng đô la hóa nền kinh tế.

Đôla hóa là gì?

Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30% trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.

Đô la hóa được phân ra làm 3 loại như sau:

Đô la hóa không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận. Ở những nước có nền kinh tế bị đô la hóa không chính thức, phần lớn người dân đã quen với việc sử dụng đồng đô la nhưng Chính phủ vẫn cấm niêm yết giá hàng hóa bằng đô la, cấm dùng đô la đối với hầu hết giao dịch trong nước.

Đô la hóa bán chính thức hay còn gọi là đô la hóa từng phần là tình trạng đồng đô la ưđược sử dụng như một đơn vị kế toán, phương tiện trao đổi, dự trữ giá trị và phương tiện thanh toán trong khi đồng nội tệ vẫn tồn tại và lưu thông. Đồng đô la có chức năng như một đồng tiền hợp pháp thứ hai của nền kinh tế. Các nước ở tình trạng này vẫn duy trì một Ngân hàng Trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.

Đô la hóa chính thức hay còn gọi là đô la hóa hoàn toàn xảy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sẻ dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng ngoại tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường, các nước chỉ áp dụng đô la hóa chính thức khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.

Tình trạng đôla hóa ở Việt Nam

Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%.

Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài_những nước có lãi suất tiết kiệm bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương đối lớn, song, hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá.

Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v... Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VN và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.

Nguyên nhân tình trạng đôla hóa

Trên thực tế ta thấy rằng lãi suất tiền gửi VNĐ cao hơn USD. Với mức chênh lệch lãi suất đáng kể đó thì gửi tiết kiệm bằng VNĐ sẽ cho ta mức lãi tiết kiệm cao hơn bất chấp sự chênh lệch tỷ giá. Nhưng người dân vẫn có thói quen tích trữ USD hơn là VNĐ. Tại sao?

Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng USĐ không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.

Một nguyên nhân khác đó là nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh, đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:

Nguồn kiêu hối ngày càng có xu hường tăng mạnh với mức tăng bình quân 10%/năm và tới năm 2010 dự tính sẽ lên tới 5 tỷ USD

Lượng ngoại tệ chi tiêu ở Việt Nam của khách du lịch nước ngoài cũng tăng nhanh cùng với lượng du khách đến Việt Nam.

Tiền lương và thu nhập của người Việt Nam làm việc trong các dự án liên doanh, dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài, dự án quốc tế, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam... được trả bằng ngoại tệ.

Số lượng người nước ngoài đến Việt Nam làm việc, sinh sống, làm ăn, học tập v.v... ngày càng gia tăng, chi tiêu ngoại tệ tiền mặt rất lớn, nhất là tiền thuê nhà của các hộ gia đình người Việt Nam và chi trả các dịch vụ khác.

Tiền viện trợ không hoàn lại, tiền của các tổ chức tài chính vi mô, tổ chức từ thiện quốc tế, tổ chức phi chính phủ nước ngoài v.v... Bên cạnh đó là nguồn vốn tài trợ của các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, Chính phủ các nước.

Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bao gồm cả đầu tư trực tiêp và đầu tư gián tiếp.

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ngày một gia tăng cùng với sự phát triển của nền kinh tế.

Ngoại tệ từ các hoạt động buôn lậu và một số nguồn ngoại tệ qua các hoạt động kinh tế ngầm khác mà chính phủ Việt Nam chưa thể quản lý.

Với lượng tiền mặt ngoại tệ lớn như vậy đang ồ ạt đổ về, buộc Việt Nam phải đứng trước tình trạng đô la hóa nền kinh tế ngày càng trầm trọng.

Trước thực trạng trên, chúng ta cần phải nhận định rõ rằng: Đô la hóa là tình trạng khó tránh khỏi đối với những nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và từng bước hội nhập như Việt Nam. Xóa bỏ đô la hóa không phải là xóa bỏ hoàn toàn và phủ định tất cả vì cũng giống như lạm phát, phải duy trì ở một mức độ phù hợp và ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế. Chúng ta phải chấp nhận sự hiện diện của đô la hóa trên cơ sở kiềm chế, khai thác mặt lợi, hạn chế mặt tiêu cực...

© Lê Phương Trang - www.saga.vn

© SAGA - Kiềm chế tình trạng đô la hóa - Đứng trước con số về thực trạng đô la hóa ở Việt Nam hiện nay lên tới 21%, cao hơn rất nhiều so với các nước châu Á khác như Trung Quốc (9%), Thái Lan (1%), Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, trong đó Ngân hàng nhà nước Việt Nam giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng một đề án với lộ trình tổng thể nhằm đẩy lùi hiện tượng đô la hóa và ngân cao tính chuyển đổi cũng như giá trị VND trong các giao dịch quốc tế.

Các biện pháp trong đề án này sẽ không mang tính hành chính kiểu như: mọi khoản tiền từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam, kể cả khoản tiền cá nhân đều phải chuyển ra VND... mà sẽ mang tính kinh tế để nâng cao niềm tin từ phía doanh nghiệp và người gửi tiển vào đồng nội tệ cũng như vào hệ thống NHTMVN. Điều quan trọng mà đề án hướng tới là phải giảm chi phí giao dịch VND so với USD để nâng cao tính chuyển đổi của nội tệ, nâng cao sự ổn định chính sách kinh tế vĩ mô, ổn định tiền tệ và xã hội để người dân tin tưởng hơn vào đồng nội tệ. Bên cạnh đó, việc nâng cao nhận thức của người dân và doanh nghiệp trong việc gửi tiền bằng VND thay vì gửi bằng USD cũng góp phần đáng kể trong việc giảm thiểu tình trạng đô la hóa

Mặt khác, vấn đề hội nhập với kinh tế thế giới khiến Việt Nam là tụ điểm thu hút các nguồn vốn FDI. Nếu nền kinh tế VN không đủ sức hấp thụ lượng vốn này thì sẽ làm tăng lượn tiền gửi ngoại tệ và do đó hiện tượng đô la hóa sẽ tăng tương ứng. Để giảm thiểu ảnh hưởng của tình trạng này, Chính phủ vẫn tiếp tục duy trì và tăng cường việc mua ngoại tệ ở mức nhất định để đảm bảo cho sự ổn định của VND, đồng thời, sẽ kiểm soát chặt chẽ lượn cung tiền đồng, có thể bằng công cụ lãi suất để kiềm chế lạm phát.

Có ý kiến cho rằng nên cho phép nhà đầu tư nước ngoài mở tài khoản ngoại tệ mua cổ phiếu. Sau giao dịch, số ngoại tệ này sẽ ở trạng thái phong tỏa trong ngân hàng, và khi doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng vốn tới đâu, ngân hàng sẽ chuyển đổi ra VND tới đó. Biện pháp này không những tránh được đô la hóa mà còn giảm lạm phát. Tuy nhiên, điều này sẽ khó thực hiện vì khi các khoản đầu tư nước ngoài chuyển vào Việt Nam thì phải thông qua một tài khoản đặc biệt và sau đó chuyển thành khoản đầu tư. Quy định này trong Pháp lệnh ngoại hối đã được cân nhắc kỹ, nhằm ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, giảm đô la hóa. Khi đầu tư vào Việt Nam, cuối cùng, nhà đầu tư nước ngoài sẽ có nhu cầu rút vốn ra và đồng tiền đó vẫn trở về với giá trị đồng USD. Thêm vào đó, các công cụ và phương tiện tài chính bằng USD tại Việt Nam hiện cũng chưa nhiều, chưa kể là trên thị trường tài chính, doanh nghiệp cũng không bán cổ phần để thu USD và Chính phủ cũng không thu bằng USD. Vì vậy, nếu đầu tư bằng USD thì khả năng đầu tư sẽ không lớn.

http://online.tvu.edu.vn/mod/forum/discuss.php?d=618

Ở Việt Nam, theo thống kê, tỷ lệ đô la hóa luôn ở mức trên 20% trong khi tỷ lệ này ở các nước trong khu vực thấp hơn rất nhiều, như: Indonesia, Thái Lan, Malaysia...chỉ khoảng 7-10%. Mục tiêu của Ngân hàng nhà nước Việt Nam tới năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ này xuống còn 15%.

Những năm qua, lượng tiền gửi tuyệt đối bằng USD tại các ngân hàng đã không ngừng tăng lên, đặc biệt là ở hệ thống ngân hàng tại 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Với nguồn vốn ngoại tệ đồ sộ đó, các ngân hàng thường có 2 cách lựa chọn: một là đem gửi ở ngân hàng nước ngoài_những nước có lãi suất tiết kiệm bằng đồng USD cao hơn trong nước để kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất hoặc thực hiện nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ quốc tế; hai là đầu tư và cho các doanh nghiệp trong nước vay. Cách thứ nhất buộc các ngân hàng phải có một lượng USD tương đối lớn, song, hiệu quả kinh tế không cao, lại luôn tiềm tàng nhiều rủi ro do giá USD trên thị trường thế giới luôn biến đổi thất thường. Điển hình là việc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã từng có giai đoạn bị thua lỗ hàng chục triệu USD do kinh doanh ngoại tệ. Chính vì vậy mà các ngân hàng thường thực hiện theo cách thứ 2: đầu tư cho vay trong nước, và chính điều này đã làm gia tăng các giao dịch, thanh toán bằng USD trên nhiều loại thị trường. Điều này không những đẩy nhanh quá trình đô la hóa mà còn mang lại nhiều rủi ro cho doanh nghiệp vay vốn bằng USD: họ kinh doanh bằng VNĐ nhưng phải trả nợ ngân hàng bằng USD và nghiễm nhiên sẽ phải gánh chịu rủi ro về tỷ giá.

Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như: máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v... Mặc dù hai loại giá được đặt song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái giữa VN và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng liên kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD. Ngoài ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại", "thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.

Tình trạng đô la hoá ở Việt Nam và những giải pháp khắc phục

http://www.caohockinhte.info/forum/showthread.php?t=8597

Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần.

1. Khái niệm về đô la hoá

Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường hợp đô la hoá cao có 19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.

Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization).

- Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.

Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:

• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.

• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.

- Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.

- Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.

Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.

Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay.

35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia.

Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.

2. Nguồn gốc của đô la hoá

Trước hết, đô la hoá là hiện tượng phổ biến xẩy ra ở nhiều nước, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển . Đô la hoá thường gặp khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ giảm sút thì người dân phải tìm các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất giữ giá trị, dần dần đồng ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán hay làm thước đo giá trị.

Tình trạng đô la hoá bao gồm cả ba chức năng thuộc tính của tiền tệ, đó là:

• Chức năng làm phương tiện thước đo giá trị.

• Chức năng làm phương tiện cất giữ.

• Chức năng làm phương tiện thanh toán.

Thứ hai, hiện tượng đô la hoá bắt nguồn từ cơ chế tiền tệ thế giới hiện đại, trong đó tiền tệ của một số quốc gia phát triển, đặc biệt là đô la Mỹ, được sử dụng trong giao lưu quốc tế làm vai trò của "tiền tệ thế giới". Nói cách khác, đô la Mỹ là một loại tiền mạnh, ổn định, được tự do chuyển đổi đã được lứu hành khắp thế giới và từ đầu thế kỷ XX đã dần thay thế vàng, thực hiện vai trò tiền tệ thế giới.

Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá".

Thứ ba, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hoá giao lưu thương mại, đầu tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô la hoá ở đây có khi là nhu cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước.

Thứ tư, mức độ đô la hoá ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia đó sẽ có mức độ đô la hoá càng cao.

Đối với trường hợp Việt Nam ngoài các yếu tố trên, chúng ta cần nhấn mạnh thêm một số nguyên nhân sau đây của hiện tượng đô la hoá:

- Tình trạng buôn lậu, nhất là buôn bán qua biên giới và trên biển khá phát triển và sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền các cấp. Tình trạng các doanh nghiệp, các cửa hàng kinh doanh... bán hàng thu bằng ngoại tệ còn tuỳ tiện và diễn ra phổ biến.

- Thu nhập của các tầng lớp dân cư còn thấp, đa số dân cư có tâm lý tiết kiệm để dành, lo xa cho cuộc sống. Mối quan hệ giữa lãi suất nội tệ và ngoại tệ, xu hướng biến đổi của tỷ giá VNĐ/USD là nguyên nhân quan trọng của xu hướng tích trữ và gửi tiền bằng đô la. Trong các năm đầu thời kỳ đổi mới 1989 - 1992, lạm phát ở mức rất cao. Đồng tiền Việt Nam mất giá mạnh so với đồng đô la Mỹ, vàng tăng giá rất lớn. Do đó nhiều người lựa chọn đô la để cất trưc và gửi ngân hàng. Trong các năm 1999 - 2001, lãi suất đô la Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế tăng lên rất cao, đỉnh diểm giữa năm 2000 lên tới 6,5%/năm. Các ngân hàng thương mại trong nước tăng lãi suất huy động vốn đô la lên tương ứng, đầu tư trên thị trường tiền gửi quốc tế, đem lại lợi ích thu nhập về lãi suất cho người dân và cho hệ thống ngân hàng.

Cũng do tỷ giá ổn định, lãi suất vay vốn đô la Mỹ bình quân chỉ có 3% - 4%/năm, thấp chỉ bằng 1/3 lãi suất vay vốn Việt Nam đồng, nên nhiều doanh nghiệp lựa chọn vay đô la Mỹ, làm cho tỷ trọng và số tuyệt đối dư nợ vốn vay đô la Mỹ tăng lên.

Bên cạnh đó nhiều người có tâm lý do sợ sự mất giá của Việt Nam đồng, nên họ lựa chọn đô la Mỹ để gửi ngân hàng. Thực trạng đó còn do nguyên nhân đồng tiền Việt Nam mệnh giá còn nhỏ, cao nhất là tờ 500.000 đồng mới được đưa ra lưu thông vào cuối năm 2003, song tờ 100 USD lại tương ứng với gần 1,6 triệu đồng. Bởi vậy việc sử dụng đồng đô la tiện lợi trong các giao dịch lớn như: mua bán đất đai, nhà cửa, ô tô... Các hoạt động kinh tế ngầm vẫn diễn biến phức tạp, việc sử dụng đô la Mỹ tiện lợi hơn nhiều đối với họ.

- Thu nhập bằng đô la Mỹ trong các tầng lớp dân cư ngày càng được mở rộng và tăng lên. Đó là thu nhập của những người Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài và các tổ chức quốc tế ở Việt Nam; tiền cho người nước ngoài thuê nhà và kinh doanh du lịch; khách quốc tế đến và chi tiêu đô la bằng tiền mặt ở Việt Nam; người nước ngoài sinh sống và làm việc ở Việt Nam tiêu dùng; tiền của người Việt Nam định cư ở nước ngoài gửi về; tiền của những người đi xuất khẩu lao động, đi học tập, hội thảo, làm việc ngắn ngày mang về.

Số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, lượng kiều hối chuyển về nước ta các năm gần đây không ngừng tăng lên như sau: năm 1991: 35 triệu USD; 1992: 136,6 triệu USD; 1993: 140,98 triệu USD; 1994: 249,47 triệu USD; 1995: 284,96 triệu USD; 1996: 468,99 triệu USD; 1997: 400 triệu USD; 1998: 950 triệu USD; 1999: 1.200 triệu USD; 2000: 1,757 triệu USD; 2001: 1.820 triệu USD; 2002: 2.150 triệu USD; năm 2003: 2.580 triệu USD và 9 tháng đầu năm 2004 ước tính khoảng 2,1 tỷ USD. Đó là con số thống kê được qua hệ thống ngân hàng, chưa kể ngoại hối được chuyên ngoài luồng, ngoại tệ tiền mặt người Việt Nam và Việt kiều mang trực tiếp theo người khi nhập cảnh.

- Lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng tăng nhanh, năm 1996 mới là 1,607 triệu lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu;...; năm 2002 là 2,628 triệu;...; và trong 9 tháng đầu năm 2004 đạt gần 2,9 triệu lượt người. Số lượng khách đó mang theo một số lượng lớn ngoại tệ, và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân.

3. Những tác động của đô la hoá

Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực.

a. Những tác động tích cực:

- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức.

Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.

- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.

- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.

- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được, chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách tiảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.

- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp).

b. Những tác động tiêu cực:

- Ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng kinh tế.

- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :

• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời.

• Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.

• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.

Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.

• Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.

Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.

- Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.

- Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với vác nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung ương đã bị mất.

4. Thực trạng đô la hoá ở nước ta

Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao dịch buôn bán... bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1992, tình trạng đô la hoá đã tăng lên mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng đô la USD. Trước tình trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996. Nhưng tiếp theo đó cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm 2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, đến năm 2003 còn 23,6% và 9 tháng đầu năm 2004 là 22%. Đây là xu hướng tích cực, cho thấy tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng thương mại đang được kiềm chế một cách có hiệu quả. Người dân đã có niềm tin vào đồng tiền nội địa nhiều hơn. Tuy nhiên về số tiền gửi tuyệt đối bằng đô la thì không ngừng tăng lên, hiện nay đã đạt số 7 tỷ USD. Con số này một mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể huy động được cho đầu tư phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở góc độ đô la hoá.

Trái với xu hướng biến đổi của cơ cấu tiền gửi, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi đô la. Đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ cuối tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002.

Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm... có thể thấy mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính xác của đô la hoá là số liệu rất khó xác định.Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô la mà người dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn đô la gửi ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng Công, để kiếm lãi suất cao. Điều này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó đã không được sử dụng để đầu tư trong nước.

Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam không còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn tiền về, con số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi chỉ còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003.

Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam bắt đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các ngân hàng cho vay bằng đô la đã chiếm quá nhiều 28%.

Nếu nhìn về hình thức bên ngoài thì điều này có vè yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ nhận tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ, chúng ta nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt Nam bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt Nam, nhưng họ phải trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro.

Nếu đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất khả năng thanh toán nợ. Khi đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó dẫn đến khủng hoảng kinh tế.

Nhưng trong thời điểm hiện tại, đang diễn ra tình trạng đồng đô la Nỹ bị sụt giá nhanh chóng. Tỷ giá hối đoái của đô la với Euro trong 4 năm qua đã sụt giảm 40%, riêng năm 2003 sụt giá 20%, các nhà quan sát cho rằng đồng đô la Mỹ còn tiếp tục sụt giá với mức độ nghiêm trọng hơn trong thời gian tới vì các lý do sau: nước Mỹ đang bị thâm hụt ngân sách nặng nề (459 tỷ USD, bằng 3,8% tổng GDP của cả nước); tổng số nợ của Chính phủ Mỹ trong năm tài chính 2004 là 7.586 tỷ USD (bằng 67,3% GDP cả nước) vượt quá mức báo động quốc tế; thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai năm 2003 tăng vọt lên đến 530,7 tỷ USD; lượng đầu tư nước ngoài vào Mỹ giảm sút nghiêm trọng, trong năm 2003 giảm 44,9% so với năm 2002. Những vấn đề trên đã trở thành áp lực lớn làm cho đồng đô la sụt giá. Đồng thời mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với thế giới A rập xấu đi, làm cho một loạt nước xuất khẩu dầu mỏ Trung Cận Đông đã giảm bớt cất giữ và sử dụng đô la, mà chuyển qua sử dụng đồng Euro nhiều hơn trong thanh toán quốc tế và dự trữ ngoại tệ. Hơn nữa Liên bang Nga và một số nước khác cũng đã và đang có hành động tương tự. Tất cả những điều này gây thêm sức ép đối với đồng đô la Mỹ, làm tăng khả năng sụt giá của đồng đô la.

Vấn đề đặt ra là nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục sụt giá mạnh thì những thiệt hại gì sẽ xẩy ra, giả sử mức sụt giá là 20%, hệ quả tất yếu là thu ngoại tệ về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tính bằng đô la của tất cả các nước trên thế giới đều bị thiệt hại theo tỷ lệ tương ứng. Ngoài ra, kim ngạch dự trữ ngoại tệ và lượng vốn FDI của tất cả các nước tính bằng đô la cũng sẽ tự nhiên hao hụt tương ứng. Vốn liếng kinh doanh, tiền tiết kiệm, tiền lương, quỹ hưu trí, bảo hiểm, phúc lợi xã hội tính bằng đô la của tất cả mọi người có liên quan đều phải chịu thiệt hại. Ngược lại, các khoản phải trả về nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chưa thanh toán, các khoản nợ vay nước ngoài bao gồm tiền gốc và lãi chưa trả tính bằng đô la đều mặc nhiên được giảm bớt tương ứng với tỷ lệ sụt giá của đồng đô la.

Như vậy, việc sử dụng đồng đô la như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề vô cùng phức tạp. Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô la cũng có một mặt tích cực nào đấy, nhưng cần phải có cách lựa chọn đúng đắn hơn là thực hiện những giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá, tiến tới thực hiện trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất được lưu hành là đồng tiền Việt Nam.

Trong thực tế, chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị đô la hoá, như tại Trung Quốc, các ngân hàng không được phép quyết định lãi suất tiền gửi bằng đô la.

Thông thường đô la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá là yếu kém, và đồng đô la được coi là phương tiện dự trữ có giá trị. Tuy nhiên, không phải bất cứ quốc gia nào có đồng tiền yếu đều bị đô la hoá trực tiếp. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế tương tự Việt Nam như ở Trung Quốc, Thái Lan, Braxin... không cho phép thanh toán các loại hàng hoá dễ dàng bằng đồng đô la. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hoá đồng USD tại Việt Nam để mua các loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn... đã làm tăng quá trình đô la hoá. Như trên đã phân tích, nếu tình hình không sớm được kiềm chế và đẩy lùi, có khả năng sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính vào một thời điểm nào đấy, thật là vô cùng nguy hiểm.

5. Một số giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá ở nước ta

Đô la hoá là tình trạng khó tránh khỏi đối với các nước có xuất phát điểm thấp, đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và đẩy mạnh hội nhập quốc tế như Việt Nam. Tâm lý lo ngại về lạm phát, về sự mất giá của đồng nội tệ, thói quen sử dụng tiền mặt trong giao dịch... không thể một sớm, một chiều xoá bỏ hay giảm triệt để được.

Quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ và ngân hàng Trung ương trong vấn đề đô la hoá là rất rõ ràng: xoá bỏ đô la hoá trong nền kinh tế - xã hội nước ta phải được thực hiện từng bước, từng khâu thích ứng với từng giai đoạn đổi mới, phát triển của đất nước; phải bằng nhiều giải pháp vừa kinh tế, vừa hành chính kết hợp với giáo dục pháp luật, điều chỉnh tâm lý xã hội trong lộ trình thực thi nhiều cơ chế kinh tế nghiệp vụ ngân hàng cụ thể nối tiếp nhau, để nâng vị thế của đồng tiền Việt Nam trong các chức năng thuộc tính của tiền tệ.

Nghị quyết IV của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá 8) trong phần đề cập những chủ trương chính sách lớn, riêng trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng một lần nữa khẳng định yêu cầu "Đẩy nhanh tiến độ thực hiện nguyên tắc trên đất nước Việt Nam phải thanh toán bằng tiền Việt Nam".

Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô la trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội. thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực khách quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh hiện tượng đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hoá. Chúng ta không thể sử dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%, không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ tại một ngân hàng... Những biện pháp hành chính này qua thực tiến thực hiện đã chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn kiều hối chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới. Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của đô la hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây:

(1) Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại tệ hiện có trong dân bằng những biện pháp :

• Thúc đẩy phát triển môi trường kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh thực sự giữa các thành phần kinh tế trong cả sản xuất, thương mại, dịch vụ và kể cả lĩnh vực tài chính, ngân hàng.

• Mở rộng các dự án đầu tư của Chính phủ: dầu khí, cầu đường, điện lực... khuyến khích sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh tế.

• Phát triển các công cụ tài chính như cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, đa dạng hoá các danh mục đầu tư trong nước.

Thay cho dự kiến phát hành trái phiếu ngoại tệ trên thị trường quốc tế, bằng việc mở rộng phát hành trái phiếu ngoại tệ ở trong nước, huy động vốn đô la ở trong dân.

(2) Những giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ

• Cần tiếp tục cơ cấu tích cực mệnh giá đồng Việt Nam, phát triển dịch vụ ngân hàng và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Đẩy mạnh tuyên truyền về sử dụng thẻ, kể cả thẻ tín dụng quốc tế.

• Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ giá ngang giá nên gắn với một "rổ" tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như USD, EURO, JPY và một số đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc...), các đồng tiền này tham gia vào "rổ" tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá như trên nhằm giảm bớt sự lệ thuộc của đồng Việt Nam vào đô la Mỹ, và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các nước bạn hàng lớn.

• Các ngân hàng chỉ được phép cho vay đồng USD đối với những đối tượng có doanh thu trực tiếp và có khả năng chi trả bằng đồng USD. Còn tất cả các dnb trong nước khác vay các ngân hàng thương mại trong nước đều thực hiện bằng đồng bản tệ, khi cần ngoại tệ để thanh toán với quốc tế thì mua ngoại tệ tại thị trường hối đoái để mở LC thanh toán.

• Không được duy trì quyền sở hữu ngoại tệ không có nguồn gốc hợp pháp. Cần có quy chế rõ ràng rằng sở hữu ngoại tệ của dân cư là sở hữu ngoại tệ hợp pháp chuyển từ nước ngoài vào; không cho phép sở hữu số ngoại tệ có được do sự trao đổi lòng vòng ở chợ đen, rồi biến số đó thành sở hữu riêng.

• Sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ (như lãi suất, dự trữ bắt buộc...) để tác động đến điều kiện thị trường nhằm làm cho đồng Việt Nam hấp dẫn hơn đô la Mỹ. Qua đó hạn chế xu hướng chuyển đổi từ đồng Việt Nam sang đô la Mỹ. Trong điều kiện hiện nay, lãi suất cơ bản không thay đổi, Ngân hàng Nhà nước có thể thực hiện điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu nhằm phát tín hiệu để các ngân hàng thương mại tăng lãi suất huy động đồng Việt Nam.

(3) Cần nhất quán chủ trương quản lý lưu hành ngoại tệ theo hướng "Trên đất nước Việt Nam chỉ chi trả bằng đồng Việt Nam". Muốn vậy, cần có các quy định về việc sử dụng ngoại tệ của cá nhân như sau:

• Chi trả bằng ngoại tệ ở Việt Nam, bao gồm tiền mặt hay chuyển khoản cũng không được phép, trừ duy nhất trường hợp trả chuyển khoản cho các tổ chức kinh doanh được Ngân hàng Nhà nước cho phép tiếp tục thu ngoại tệ.

Việc chi trả cho người hưởng trong nước các khoản tiền như kiều hối, tiền lương, thu nhập từ xuất khẩu lao động... bằng ngoại tệ tiền mặt theo yêu cầu cũng nên chấm dứt. Việc này chỉ thực hiện bằng tài khoản tiền gửi ngoại tệ hoặc chi trả bằng tiền Việt Nam.

• Cá nhân có tài khoản ngoại tệ gửi tại ngân hàng thương mại chỉ rút ra bằng tiền mặt ngoại tệ để cất giữ riêng hoặc để đưa đi nước ngoài chi tiêu.

• Ngăn chặn và giảm dần các hoạt động kinh tế ngầm, kiểm soát chặt chẽ tình trạng buôn lậu, tình trạng bán hàng thu ngoại tệ trong nước. Cần có biện pháp hạn chế đến mức tối đa việc lưu thông và sử dụng đô la Mỹ, niêm yết giá bằng đô la Mỹ trên thị trường Việt Nam.

Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá thành công là một tiền để cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở cửa của khu vực tài chính trong những năm tới. và sự tự do hoá giao dịch tài khoản vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá là việc làm rất khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hoá trên thị trường Việt Nam không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hoá thì cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ.

(Nguồn: NCKT)

Hiện tượng Đô La Hóa trong nền kinh tế Việt Nam

05/03/2008

http://www.haingoaiphiemdam.com/Kinh-te/Hiện-tượng-Đô-La-Hóa-trong-nền-kinh-tế-Việt-Nam.php

Views : 1125

Từ ngày 7-11-2007, Việt Nam chính thức là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO, cánh cửa mở ra thế giới của VN đã được mở toan, đưa nền kinh tế VN hội nhập với kinh tế quốc tế với tốc độ nhanh hơn, mức độ lớn hơn. Song cũng trong 1 năm qua, một vấn đề lớn mà chính phủ Việt Nam đang phải "đối mặt", đó là cách xử lý các nguồn vốn ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào Việt Nam với khối lượng rất lớn và ồ ạt. Hàng loạt vấn đề trong cách xử lý vấn đề trên phải được giải quyết

: Làm sao để giảm hiện tượng Đô La hoá trong hệ thống tiền tệ trong nước ? Cơ chế điều hành tỷ giá sẽ như thế nào, để tác động vào cung cầu USD sao cho có lợi nhất đối với nền kinh tế ? Khả năng hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài của nền kinh tế Việt Nam...

Bài viết này sẽ lần lượt trình bày 3 vấn đề có tính cấp bách trên, trong cách xử lý các nguồn vốn nước ngoài đang ồ ạt chảy vào trong nước. Dòng nước lũ của vốn ngoại đó sẽ là phù sa hay bùn đất (theo cách nói của báo TT), tuỳ thuộc vào cách xử lý của những nhà điều hành chính sách kinh tế - tiền tệ tại VN.

Nếu bạn là người trong nước hay là khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, bạn đi từ TP. HCM ra thăm thắng cảnh vịnh Hạ Long, bạn cần chi tiêu khoảng 30 triệu đồng thì bạn cần phải mang 60 tờ 500.000 hoặc 150 tờ 200.000, nếu muốn "dày túi hơn" bạn phải mang 300 tờ 100.000. Nhưng nếu mang USD bạn chỉ cần khoảng 20 tờ 100USD, với đồng Euro bạn còn "xẹp túi" hơn vì chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Còn nếu bạn muốn "lót tay" cho một quan chức nhà nước nào đó, để dự án làm ăn của bạn được thuận lợi, thì với vài trăm triệu VNĐ phong bì nào đựng cho vừa? Sử dụng ngoại tệ quả là tiện lợi!

Bạn cần kết nối Internet để vào X-cà "tán dóc", hay là cần 1 Webcam để người yêu của bạn nhìn thấy bạn mà bớt "xa mặt cách lòng"... Bạn phải đến các cửa hàng bán thiết bị vi tính, bạn cũng sẽ "chạm trán" với giá cả được niên yết bằng USD. Rồi một ngày nào đó, bạn nhận thấy vốn liếng "tiếng anh tiếng em" của mình kém cỏi quá, bạn đến một trung tâm đào tạo ngoại ngữ (do nước ngoài mở tại VN), một lần nữa bạn cũng phải "đối đầu" với học phí được tính bằng USD.

Không đâu như ở Việt Nam, người ta có thể sử dụng bất cứ ngoại tệ nào và ở bất cứ nơi đâu. Trong khi đó ở nước ngoài, nếu phát hiện ra việc thu nhận ngoại tệ, chính quyền phạt rất nặng. Các khách sạn dù có nhận ngoại tệ nhưng họ sẽ không chấp nhận mà đề nghị đổi ra nội tệ. Hoặc quy đổi để thanh toán và khi quy đổi, họ sẽ lấy phí dịch vụ ngoại hối cao hơn rất nhiều so với ở VN. Trong một cuộc trả lời báo chí về việc tại sao hàng triệu đô la được Bùi Tiến Dũng (nguyên TGĐ PMU18) chuyển ra nước ngoài đánh bạc, ông Nguyễn Đồng Tiến, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho biết hiện có nhiều kênh chuyển ngoại tệ ra nước ngoài mà không phải qua ngân hàng. Điều đó phản ánh tình trạng thanh toán sử dụng ngoại tệ có tỷ lệ cao trong nền kinh tế VN, mà nhà nước khó kiểm soát được, hay còn gọi là "đô la hoá". Bạn muốn mua 1 triệu USD ư ? Ở TP. HCM bạn vào bất cứ tiệm vàng nào, họ sẽ đáp ứng yêu cầu đó của bạn. Còn nếu bạn ở Hà Nội, nghe nói phố Hà Trung (một chợ ngoại tệ không chính thức sôi động nhất Hà Nội) bạn cũng sẽ được phục vụ tận tình.

Pháp lệnh Ngoại hối (được UBTV Quốc hội thông qua ngày 13-12-2005, và có hiệu lực từ ngày 1-6-2006), tuy đã cởi mở hơn trong việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, cho phép tự do chuyển ngoại tệ ra nước ngoài với mục đích khám chữa bệnh, du học, thừa kế... Song trong thực tế đã diễn ra việc chuyển ngoại tệ ra nước ngoài có thể được thực hiện với số lượng lớn mà không cần phải xin giấy phép. Phương thức chuyển tiền thật đơn giản. Chẳng hạn, bạn ở trong nước muốn chuyển tiền ra nước ngoài cho người thân hoặc đối tác, bạn chỉ cần đưa tiền cho một tổ chức tư nhân, hoặc cá nhân ở trong nước. Đối tượng này có "chân rết' ở nước ngoài và chân rết sẽ chịu trách nhiệm giao tiền cho người cần được nhận tiền theo yêu cầu của bạn. Phương thức chuyển tiền từ nước ngoài về trong nước cũng tương tự. Như vậy, ngoại tệ trên danh nghĩa không qua khỏi biên giới nhưng đã được chuyển ra vào dễ dàng và nhà nước không thể kiểm soát.

Trong mấy năm qua, nhiều vụ vận chuyển ngoại tệ trái phép đã được các cơ quan chức năng (trong nước và ngoài nước) phát hiện, nhưng xem ra đây cũng chỉ là "phần nổi của tảng băng chìm" của thị trường ngoại hối bất hợp pháp :

- Trong vụ án ma tuý lớn nhất nước (2.354 bánh Heroin) được xét xử vào cuối tháng 1-2005, đường dây chuyển lậu ngoại tệ trái phép từ Việt Nam đi nước ngoài của nhóm Hải "luận", Hạnh "cầm"... thừa nhận đã vận chuyển hơn 740.000 USD ra khỏi biên giới VN.

- Ngày 7-9-2007, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã bắt quả tang một phi công của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam (Vietnam Airlines) vận chuyển trái phép khoản ngoại tệ có giá trị lớn lên đến 300.000 euro (tương đương khoảng trên 6,6 tỉ đồng).

- Ngày 27-12-2007, Chi cục hải quan cửa khẩu Mộc Bài - Tây Ninh phát hiện ông Kalala Muttombo Doris có 213.600 USD, ông Dukhete Nzau có 40.000 USD và ông Kalonji James Fiston (cả ba cùng mang quốc tịch Congo) có 60.000 USD. Tổng số tiền 3 người mang theo khi làm thủ tục xuất cảnh là 313.600 USD không có giấy tờ hợp lệ.

- Ngày 4-6-2006, Hải quan Australia đã bắt giữ phi công Trần Văn Đăng - cơ phó tổ lái chiếc Boeing 777 của Vietnam Airlines - vì hành vi vận chuyển 500.000 USD. Sau đó, Trần Văn Đăng đã bị tòa án ở Sydney kết án 4 năm 6 tháng tù giam.

Cũng giống như nhiều nước đang phát triển khác, các giao dịch thanh toán ngoại tệ diễn ra nhiều ở thị trường "chợ đen", không thông qua ngân hàng... đó cũng là môi trường thuận lợi cho những giao dịch bất hợp pháp như tham nhũng, buôn lậu, rửa tiền. Theo Ngân hàng Nhà nước, mức độ "đô la hóa" trong nền kinh tế Việt Nam hiện là 21%, khá cao so với 9% ở Trung Quốc và 1% ở Thái Lan. Các số liệu sau đây sẽ cho chúng ta thấy mức độ "đô la hoá" trong nền kinh tế Việt Nam : Ngày 31-12-2000, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ tại các NH chỉ vào khoảng 4,5 tỷ USD (chiếm 23,7% tổng phương tiện thanh toán của toàn nền kinh tế). Đến ngày 31-12-2004, số dư tiền gửi bằng ngoại tệ đã hơn 7 tỷ USD (chiếm 23,9% tổng phương tiện thanh toán). Điều này có nghĩa là trong 4 năm, mức độ đô la hoá của nền kinh tế có xu hướng tăng lên. Đó là chưa kể xu hướng sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ cũng ngày một phổ biến hơn. Nếu tính được số tiền mặt bằng ngoại tệ (chủ yếu là USD) đang lưu hành trong nền kinh tế thì mức độ "đô la hoá" còn trầm trọng hơn nhiều.

Chẳng có một quốc gia nào trên thế giới lại muốn có đồng tiền thứ hai cũng được dùng như đồng nội tệ của mình. Chính phủ VN đã đề ra mục tiêu "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam". Hơn nữa, chính phủ của mỗi nước không muốn có tình trạng "đô la hoá" trong nền tài chính tiền tệ, và tìm cách kiềm chế "đô la hoá" vì không muốn đánh mất ưu quyền tiền tệ. Về cơ bản, ưu quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ việc phát hành tiền. Đây được xem là một hoạt động kinh doanh siêu lợi nhuận vì giá in tiền và phát hành tiền thấp hơn nhiều so với giá trị những mặt hàng mà "mảnh giấy lộn" này sẽ mua được.

Bên cạnh việc "đô la hoá" làm mất chủ quyền về tiền tệ, nó còn làm cho thị trường ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ sẽ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. "Đô la hoá" làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng nội tệ, tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước. Nhà nước không những thất thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ. Về dài hạn, "đô la hoá" có những tác động tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế bền vững do nó làm giảm chất lượng hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ, giảm hiệu quả của chính sách tỷ giá, tạo ra nguy cơ mất an toàn hệ thống ngân hàng vì NHNN không thực hiện được vai trò "Người cho vay cuối cùng" của mình.

Vấn đề nào cũng có hai mặt, không thể phủ nhận mặt tích cực của "đô la hoá" trong nền kinh tế Việt Nam. Một trong những điểm tích cực của "đô la hoá" là giúp thu hút đầu tư nước ngoài, tăng cung ngoại tệ... do các nhà đầu tư biết rõ giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ không thay đổi. "Đô la hoá" có thể là yếu tố thu hút khách du lịch, giúp việc mua bán, trao đổi bằng ngoại tệ của khách du lịch nước ngoài được dễ dàng. Nhưng một khi nền kinh tế bị "đô la hoá" cao càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng đô la trên thế giới, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu, thép... ngành xuất khẩu sẽ chịu tác động trực tiếp trước tiên. Chẳng hạn, giá cà phê trên thị trường thế giới giảm mạnh, xuất khẩu cũng giảm, kéo theo nền kinh tế phát triển chậm lại. Nếu đồng nội tệ không hấp thụ bớt tác động của cú sốc bên ngoài đó, nó sẽ truyền thẳng vào các hoạt động kinh tế khác. Chính vì thế Ngân hàng Nhà nước đã đặt ra mục tiêu hạn chế "đô la hoá", đặt mục tiêu đến năm 2010 sẽ giảm tỷ lệ "đô la hoá" xuống dưới 15%.

Tại sao người dân Việt Nam thích sử dụng USD trong thanh toán và cất giữ? Muốn lý giải được vấn đề này phải đi ngược lại thời gian cách đây hơn 20 năm. Những cú sốc về tiền tệ xảy ra trong 20 năm qua, khiến cho người dân VN cảm thấy bị rủi ro rất lớn khi cất giữ tiền đồng. Hai lần phá giá tiền đồng vào các năm 1985 và 1997 - 1998 làm những người cất giữ tiền đồng bị thiệt hại không nhỏ so với việc cất giữ bằng USD. Cộng vào đó là lạm phát phi mã trong nền kinh tế VN trong những năm cuối thập niên 1980 và đầu 1990, làm cho đồng tiền VN càng thêm mất giá quá nhanh. Ngoài ra cũng cần phải nói đến những thay đổi về chính sách kinh tế và tiền tệ của chính phủ trong điều hành đất nước, cũng khiến cho niềm tin của người dân đối với đồng tiền VN cũng vơi đi rất nhiều. Vì thế, việc tạo lòng tin trong công chúng về một mức lạm phát thấp, ổn định và một tỷ giá ngoại hối linh hoạt là điều vô cùng quan trọng. Bên cạnh đó, việc sử dụng đồng tiền VN gặp rất nhiều bất tiện, do hệ thống tiền tệ VN trong những năm trước đây chưa có mệnh giá lớn như 500.000 - 200.000... Xã hội VN thích sử dụng USD cũng vì những tiện lợi của nó đã được trình bày ở phần đầu bài viết này.

Cũng xin được nói thêm, không chỉ có người dân Việt Nam "ưa chuộng" USD, ngay cả các NH thương mại cũng có hiện tượng này. Hiện các NH đang có cơ cấu dự trữ ngoại tệ bất hợp lý, trong khi thừa USD nhưng lại thiếu trầm trọng các ngoại tệ khác như Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật. Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản là những đối tác thương mại ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhưng khi doanh nghiệp có nhu cầu các ngoại tệ ngoài USD thì Ngân hàng lại hầu như không đáp ứng được.

Ngoài những nguyên nhân vừa kể trên, một vấn đề không kém phần quan trọng có ảnh hưởng và tác động trực tiếp đến hiện tượng "đô la hoá" là "tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam". Một khi đồng tiền VN có tính chuyển đổi cao sẽ liên kết kinh tế trong nước với thế giới, thúc đẩy kinh tế phát triển, thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nước ngoài, tạo vị thế quốc gia trên thị trường quốc tế. Có nâng cao và tiến đến thực hiện đầy đủ tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, thì mới có thể xoá bỏ một phần (hoặc hoàn toàn) hiện tượng "đô la hoá" trong nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững. Muốn vậy chính phủ Việt Nam cần phải thông qua thực hiện tự do hoá các giao dịch ngoại hối và vãng lai, từng bước tự do hoá các giao dịch vốn, tăng dự trữ ngoại hối nhà nước và điều quan trọng là phải đảm bảo lợi ích cho người nắm giữ đồng Việt Nam. ( X-Cafe)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐÔ LA HÓA

Thursday, 2. April 2009, 09:50:38

DO LA HOA

1.1 Khái niệm

Đô la hoá có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số chức năng tiền tệ, nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc một phần.

Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la hoá cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ

1.2.Phân loại đô la hóa

Đô la hoá được phân ra làm 3 loại: đô la hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức (semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization).

1.2.1 Đô la hoá không chính thức là trường hợp đồng đô la được sử dụng rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức thừa nhận.

Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:

• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.

• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.

• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.

1.2.2 Đô la hoá bán chính thức là những nước có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.

1.2.3 Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn) xẩy ra khi đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương trình ổn định kinh tế.

Đô la hoá chính thức không có nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ làm đồng tiền hợp pháp.

3. Những tác động của đô la hoá

Tình trạng "đô la hoá" nền kinh tế có tác động tích cực và tác động tiêu cực.

a. Những tác động tích cực:

- Đô la hóa tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một lượng lớn đô la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hoá ở thị trường phi chính thức. Bên cạnh đó, USD là đồng tiền đáng tin cậy nhất thế giới. Bất kỳ nước nào chấp nhận đô la hóa cũng sẽ chấp nhận chính sách tiền tệ của FED ( Cục dự trữ liên bang Mỹ). Nhờ đó, sẽ giảm thiểu các rủi ro về khả năng mất giá tiền tệ.

Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.

Một lượng ngoại tệ lớn được gửi vào các Ngân hàng sẽ tạo thành nguồn vốn lớn để cho vay và đầu tư vào nền kinh tế, hạn chế việc đi vay nước ngoài. Song trong điều kiện cho vay bằng ngoại tệ của Ngân hàng gặp khó khăn, thì với lãi suất trên thị trường quốc tế cao, các ngân hàng trong nước đem gửi ở nước ngoài. Người dân cũng sẽ được hưởng từ lãi suất hơn là cất giữ trong nhà và các ngân hàng cũng có thu nhập về nghiệp vụ tiền gửi và có lợi ích. Quốc gia cũng có thêm nguồn dự trữ ngoại tệ.

Với đô la hóa, các ngân hàng có một lượng ngoại tệ lớn sẽ có điều kiện mở rộng hoạt động của mình, nhất là hoạt động đối ngoại. Hơn nữa sự tồn tại các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước sẽ tạo công cụ hội nhập thị trường trong nước với thị trường khu vực, thị trường thế giới, giảm thiểu các chi phí giao dịch tài chính quốc tế.

Đô la hóa giúp hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.

Với nền kinh tế đô la hóa sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài do các nhà đầu tư biết rõ giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ gặp ít rủi ro. Đô la hóa có thể là yếu tố thu hút khách du lịch bởi việc mua bán và trao đổi ngoại tệ dễ dàng.

Các nước thực hiện đô la hoá chính thức có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô la hoá có thể được chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư.

Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phí chính thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường chính thức (thị trường hợp pháp).

b. Những tác động tiêu cực:

Một nền kinh tế bị đô la hóa cao càng dễ bị tổn thương và nhạy cảm hơn với những thay đổi liên quan đến đồng đô la, cũng như các cú sốc kinh tế như sự dao động của giá dầu. Ngành xuất khẩu sẽ chịu tác động trực tiếp. Do đó, đô la hóa sẽ ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Với một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn thì việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế.

Đô la hóa làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :

• Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán, do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong lưu thông kém chính xác và kịp thời.

• Làm cho đồng nội tệ nhạy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.

• Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ, làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá.

Khi các đối thủ cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.

• Ở trong các nước đô la hoá không chính thức, nhu cầu về nội tệ không ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.

Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị đô la hoá cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô la Mỹ.

Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp đô la hoá chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những chính sách tiền tệ khác nhau.

Nước thực hiện đô la hóa sẽ đánh mất ưu quyền tiền tệ của mình. Về cơ bản, ưu quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ phát hành tiền. Đây là một hoạt động kinh tế rất có lãi vì chi phì in tiền, phát hành tiền thấp hơn rất nhiều so với giá trị hàng hóa mà giấy bạc phát hành thu mua được. Chính phủ Mỹ thu được 25 tỉ USD mỗi năm từ ưu quyền tiền tệ. Và khi người dân các nước khác giữ tờ đô la trong tay, họ đang góp phần làm giàu cho Bộ tài chính Mỹ.

Đô la hoá chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển chưa bị đô la hoá hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song công chúng vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp dụng được đối với đô la Mỹ. Đối với các nước đô la hoá hoàn toàn, khu vực ngân hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của Ngân hàng Trung ương đã bị mất. Tất nhiên, Ngân hàng Trung ương các nước này có thể đề nghị FED hỗ trợ tài chính khẩn cấp. Nhưng trong lịch sử tiền tệ thế giới, FEG chưa hề có sự giúp đỡ hệ thống ngân hàng của nước thực hiện đô la hóa chính thức khi họ gặp cơn nguy khốn.

Thực trạng đô la hóa trên thế giới

Theo đánh giá của IMF năm 1998, 19 nước có mức độ đô la hoá cao với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2 lớn hơn 30%, bao gồm các nước: Argentina, Azerbaijian, Belarus, Bolivia, Cambodia, Costa Rica, Croatia, Georgia, Guinea - Bissau, Laos, Latvia, Mozambique, Nicaragua, Peru, Sao Tome, Principe, Tajikistan, Turkey và Uruguay.

35 nước có mức độ đô la hoá vừa phải với tỷ lệ tiền gửi/M2 khoảng 16,4%, bao gồm các nước: Albania, Armenia, Bulgaria, Cộng hoà Czech, Dominica, Honduras, Hungary, Jamaica, Jordan, Lithuania, Macedonia, Malawi, Mexico, Moldova, Mongolia, Pakistan, Philippines, Poland, Romania, Russia, Sierra Leone, Cộng hoà Slovak, Trinidad, Tobago, Uganda, Ukraine, Uzbekistan, Việt Nam, Yemen và Zambia.

Theo nghiên cứu của Hệ thống dự trữ Liên bang Mỹ, hiện tại người nước ngoài nắm giữ từ 55 đến 70% tổng số đô la Mỹ đang lưu hành trên thế giới.

Ngoài đồng đô la Mỹ, còn có một số đồng tiền của các quốc gia khác cũng được quốc tế hoá như: bảng Anh, mác Đức, yên Nhật, Franc Thuỵ Sỹ, euro của EU... nhưng vị thế của các đồng tiền này trong giao lưu quốc tế không lớn; chỉ có đô la Mỹ là chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 70% kim ngạch giao dịch thương mại thế giới). Cho nên người ta thường gọi hiện tượng ngoại tệ hoá là "đô la hoá".

Theo www.VnEcon.com

http://www.vneconomy.vn/57935P0C6/cac-giai-phap-chong-dola-hoa.htm

Các giải pháp chống Đôla hóa

TS. NGUYỄN ĐẠI LAI

18/07/2008 12:16 (GMT+7)

Phản hồi (1) | In bài viết này | [+] Cỡ chữ [-]

Đưa hoạt động thu đổi ngoại tệ vào nề nếp.

Từ năm 2000 đến nay, cơ chế điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước chủ yếu được công bố theo tín hiệu thị trường.

Đó là việc lấy mức tỷ giá bình quân hình thành trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại thời điểm đóng cửa ngày làm việc hôm trước để công bố cho ngày mở cửa hôm sau và "cộng, trừ" một biên độ hẹp cho các ngân hàng thương mại kinh doanh.

Tuy nhiên, do nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua phát triển khá ổn định, nên cơ bản tỷ giá VND/USD "được neo" tự nhiên và ổn định vào đồng USD là đồng tiền chiếm 90% doanh số thanh toán xuất - nhập khẩu.

"Vũ điệu" tỷ giá sụt - trồi - đứng - tăng mạnh

Riêng năm 2007 do có làn sóng ngoại tệ tràn vào tăng đột biến nên cho dù đã được Ngân hàng Nhà nước can thiệp rất mạnh song tỷ giá vẫn giảm trong suốt cả năm 2007 (tỷ giá chỉ tăng dưới 1% so với lạm phát 2007 là 12,63%), sau đó gần 3 tháng đầu năm 2008 tiếp tục giảm, giá trị đồng USD đã có lúc chạm tới con số 15.300đ/USD trên thị trường tự do.

Nhưng từ tuần cuối tháng 3 đến hết tháng 4/2008, đồng USD đã lại tăng giá đột ngột trở lại, sau đó ổn định tạm thời xung quanh 16.200 đồng/USD rồi từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7/2008 lại tăng mạnh, đặc biệt trong tuần giữa tháng 6/2008 có ngày tăng rất mạnh lên trên 19.500 đồng/USD, nhưng 10 ngày tháng 7/2008 trở lại đây, tỷ giá lại dần trở về trạng thái bình thường xung quanh 16.800 đồng/USD. Đây là những dấu hiệu bất ổn.

Nội hàm của sự bất ổn này nếu loại trừ những nhân tố khách quan tác động từ nước ngoài, thì có 3 nguyên nhân chính từ phía chính sách quản lý ngoại hối còn lỏng lẻo.

Thứ nhất, do tình trạng Đô la hoá trên thị trường tài chính Việt Nam còn khá phổ biến trên tất cả các chức năng tiền tệ, đặc biệt là chức năng phương tiện thanh toán, trao đổi và chức năng tín dụng qua ngân hàng thương mại... đã tạo môi trường cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi xuất hiện những biến động về ngoại tệ.

Thứ hai, nhập siêu 6 tháng đầu năm 2008 đã lên tới trên 14 tỷ USD (chủ yếu rơi vào 4 tháng đầu năm), cao kỷ lục từ trước đến nay.

Thứ ba, không ngoại trừ có một lượng nội tệ nằm tại các quĩ đầu tư và tại các quĩ tiền mặt của các chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam đã mua vào khá nhiều Đôla để chuyển đổi tiền tệ, tạo tâm lý bất ổn để đầu cơ tiền tệ ngay trên thị trường tiền tệ Việt Nam cùng với những hành vi vi phạm của một số đại lý thu đổi ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại đã tự ý găm ngoại tệ để đầu cơ không bán lại cho ngân hàng theo cam kết...

Ngoài ra còn một số lý do gián tiếp khác là các tín hiệu phát ra từ nền kinh tế đầu tầu thế giới là Mỹ rất biến động.

Đề xuất giải pháp quản lý ngoại hối

Vì vậy, về giải pháp chính sách về quản lý ngoại hối nói chung và về điều hành tỷ giá nói riêng, xin đề xuất như sau:

Về quan điểm chính sách, cần đối xử với Đôla như đối xử với một loại hàng hoá nhập khẩu hơn là đối xử như với một liên minh tiền tệ lẫn lộn các chức năng với nội tệ trên thị trường tài chính trong nước. Không nên "cố" neo tỷ giá vào đồng USD, cần phải để thị trường ngoại hối phán quyết sức mua đã "tụt dốc" rất lớn của đồng USD so với hầu hết các đồng tiền quốc gia khác trên thị trường quốc tế.

Trong khi giá cả đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và lãi suất trong chính nước Mỹ giảm thì tại Việt Nam lãi suất huy động và cho vay đồng USD lại có xu hướng gia tăng. Điều đó chứng tỏ cơ chế quản lý ngoại hối là có vấn đề mà chỉ có Việt Nam mới gặp phải.

Lý do là nhiều nước trên thế giới không cho phép có hoạt động tín dụng ngoại tệ, đặc biệt là loại tín dụng ngoại tệ ngắn hạn. Nhiều nước cũng có luật cấm nghiêm ngặt việc thanh toán hàng hoá, dịch vụ trong nội địa bằng ngoại tệ.

Hiện nay, ở nhiều ngân hàng thương mại nước ta đã có dấu hiệu nghịch lý về đồng USD, biểu hiện qua hiện tượng: "thiếu tiền, thừa vốn". Do lãi suất huy động ngoại tệ tăng, cùng với tỷ giá có xu hướng tăng và đứng ở mức cao nên lượng "tiền gửi ngoại tệ" tăng, trong lúc tiền mặt ngoại tệ để "mua đứt bán đoạn" lại hiếm.

Tại Việt Nam tình trạng Đô la hoá rất cao, nên khi lạm phát bùng nổ thì ngoại tệ "lên ngôi" ngay cả khi chính nó đang bị mất giá rất mạnh ở "quê hương" của nó và ở khắp các nền kinh tế công nghiệp phát triển, trong khi tại Việt Nam một số không ít cửa hàng, khách sạn cao cấp lại ngang nhiên niêm yết giá, thu tiền bán hàng bằng Đô la và từ chối thanh toán bằng nội tệ!

Do đó, cần sử dụng cơ chế mua đứt bán đoạn thay cho cơ chế tín dụng ngoại tệ... Cùng với việc chuyển này, cần phải tạo cơ chế cho phát triển mạnh thị truờng ngoại hối kèm theo việc kiểm soát chặt các hoạt động Đô la hoá, trong đó bao gồm cả việc cho phát triển mạnh các giao dịch phái sinh ngoại hối để các bên tham gia thị trường tự bảo vệ truớc những biến động rủi ro về tỷ giá. Phải tuân theo nguyên tắc: "Trên lãnh thổ Việt Nam chỉ tiêu VND".

Cần ban hành ngay văn bản qui phạm pháp luật về việc thanh tra, kiểm soát mọi hành vi vi phạm việc sử dụng đồng ngoại tệ trong thanh toán trao đổi hàng hoá, dịch vụ trên lãnh thổ Việt Nam.

Về thái độ chính sách, phải coi tỷ giá là một phạm trù giá cả trên thị trường ngoại hối để làm phương tiện chuyển đổi quyền sở hữu tiền tệ theo qui luật của nó. Mọi nguồn dự trữ ngoại hối quốc gia phải được thống nhất quản lý, lưu giữ tại Ngân hàng Trung ương.

Nếu có lộ trình đủ hợp lý triển khai các nội dung đề xuất nói trên, người viết bài tin tưởng rằng thị trường ngoại tệ Việt Nam sẽ dần đi vào ổn định và quan hệ tỷ giá sẽ vận động đúng theo quan hệ cung - cầu theo thị trường xuất nhập khẩu và cán cân thanh toán quốc tế thực của Việt Nam.

* Tác giả bài viết là Phó vụ trưởng Vụ Chiến lược phát triển ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước.

Ý KIẾN BẠN ĐỌC VỀ CHỦ ĐỀ NÀY

(Các ý kiến bạn đọc được đăng tải không nhất thiết phản ánh quan điểm của Tòa soạn. VnEconomy có thể biên tập lại ý kiến của bạn nếu cần thiết.) Phùng Nguyễn Hoàng My

24/07/2008 05:27 (GMT+7)

Tôi thật sự thấy thú vị với bài viết này. Cảm ơn tác giả vì một bài viết hay về một chủ đề rất nóng trong thời gian gần đây. Cá nhân tôi có sự quan tâm đặc biệt đến chủ đề này vì đây là đề tài khóa luận tốt nghiệp của tôi.

Tôi hoàn toàn đồng tình với tác giả bài viết về những nguyên nhân làm đô la hóa nền kinh tế Việt Nam trong thời gian gần đây, tuy nhiên, nếu theo toàn mạch của bài viết, người đọc có thể có nhận định là đô la hóa là một cái gì đó rất xấu, rất có hại cho nền kinh tế.

Nhưng như chúng ta đã biết, đô la hóa là một hiện tượng kinh tế mang tính hai mặt và hiện tại, đối với Việt Nam - một quốc gia đang phát triển nơi mà đồng nội tệ còn yếu; nhập siêu còn lớn và đang cần nhiều hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài, thì đô la hóa vẫn đem lại những lợi ích nhất định.

Chính vì vậy, chúng ta không thể và không nên triệt tiêu hoàn toàn Đô la hóa mà là kiểm soát nó, hạn chế nó, hướng nó vận động theo hướng có lợi cho chúng ta nhiều hơn.

Những giải pháp mà tác giả bài viết đưa ra khiến tôi rất tâm đắc. Nhưng nên chăng có thêm một giải pháp nâng cao tính chuyển đổi của VND vì theo tôi, đồng Đô la ngang nhiên hoành hành ở Việt Nam chính bởi vì VND còn quá yếu, không đủ sức, đủ lực, để thua ngay trên chính sân nhà mình.

Tôi biết đây là một giải pháp khó thực hiện, đòi hỏi thời gian và công sức từ nhiều phía, nhưng đây là giải pháp giải quyết cơ bản nhất và an toàn nhất hiện tượng đô la hóa vì với một đồng nội tệ mạnh thì ngoại tệ hóa không thể xảy ra.

Trong thời gian trước mắt, tôi vẫn tin tưởng và ủng hộ chủ trương: thà để Đô la hóa tài sản (Đô la hóa tiền gửi ngân hàng) còn hơn là để Đô la hóa thanh toán, vì rõ ràng Đô la hóa thanh toán rất phức tạp trong kiểm soát và giải quyết hậu quả.

Chính vì vậy, theo tôi, cần ngay lập tức nghiêm cấm hiện tượng các đơn vị kinh tế ngang nhiên niêm yết, thanh toán bằng ngoại tệ. Điều này muốn thực hiện được cần sự phối hợp đồng lòng của người dân, do vậy nhất định phải tạo cho người dân niềm tin vào VND ("Yêu Tổ quốc là yêu VND").

http://www.kinhtechungkhoan.com/chung-khoan-detail.asp?Idbaiviet=5384

Chống đô la hóa: Lưu ý tính hai mặt

Theo chuyên gia tài chính ngân hàng Lê Văn Hinh, từ những năm 1990, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) VN đã có đề án tổng thể về chống đô la hóa và đã triển khai thực hiện. Nhưng đến nay, định nghĩa, cách hiểu và chấp nhận đô la hóa như thế nào vẫn chưa được đề cập một cách cụ thể, khoa học.

Sẽ giao dịch ngầm nếu cấm mua bán cá nhân

Theo quy luật phân bổ tài sản, trong điều kiện lạm phát, đồng nội tệ yếu, người dân luôn có khuynh hướng chuyển sang tích trữ vàng, bất động sản, USD và diễn biến gần đây của VN cũng theo quy luật này. Trong ngắn hạn, chính sách tiền tệ của NHNN đã nhắm đến mục đích chống hiện tượng đô la hóa nhưng chưa hiệu quả. Trong quản lý ngoại hối, USD vẫn được lưu hành quá mức và không thể hiện bằng bút toán kế toán. Ông Hinh lấy dẫn chứng: Tại nền kinh tế tự do như Singapore, các đồng tiền có khả năng chuyển đổi vẫn được chấp nhận thanh toán tại các khách sạn, cửa hàng nhưng bao giờ cũng có hai bút toán mua ngoại tệ khách muốn thanh toán và bút toán bán nội tệ. Tại VN, việc mua bán nhiều khi là trao tay.

TS Nguyễn Minh Phong, Viện Nghiên cứu Kinh tế xã hội Hà Nội, cho rằng chống đô la hóa là việc cần thiết nhưng phải lưu ý xử lý mặt trái vấn đề. Rủi ro lớn có thể xảy ra là khi chống đô la hóa, hệ thống thanh toán chỉ cho phép dùng đồng nội tệ và phải thu gom USD về. Trong quá trình chuyển hóa USD sang VNĐ, xử lý không khéo sẽ tạo áp lực tăng tiền mặt và lập tức gây lạm phát tiền tệ. Đây là bài học đã gặp phải năm 2007 khi ta nhập về hơn 9 tỉ USD.

PGS-TS Nguyễn Văn Công, Trưởng Ban Kinh tế vĩ mô ĐH Kinh tế Quốc dân Hà Nội, cho rằng chỉ có thể giảm tốc độ đô la hóa chứ không loại bỏ được. Ở các nước đang phát triển, đồng nội tệ chưa có khả năng chuyển đổi thì thị trường song hành là tất yếu. Nếu cấm mua bán cho cá nhân như hiện nay, thị trường sẽ chuyển sang giao dịch ngầm, tỉ giá mua vào bán ra chênh lệch lớn, chi phí tốn kém, rủi ro cao, gây thiệt hại cho người dân.

Không nên quy định lãi suất cơ bản USD

Trước diễn biến bất thường của tỉ giá và hiện tượng ngân hàng "xử ép" khách mua bán USD, gần đây có nhiều ý kiến cho rằng NHNN cần xem xét khả năng quy định lãi suất cơ bản đối với USD để ổn định thị trường ngoại hối. Về vấn đề này, Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu cho biết đây sẽ là nội dung nghiên cứu, xem xét khi xây dựng đề án chống đô la hóa.

Tuy nhiên, theo TS Cao Sỹ Kiêm, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, việc quy định lãi suất cơ bản đối với USD sẽ giúp thị trường ổn định hơn, hạn chế bớt yếu tố đầu cơ. Vấn đề này cũng đang được hội đồng bàn thảo và dự định quý III sẽ có quyết định cụ thể về việc ban hành hay không.

TS Nguyễn Minh Phong lại cho rằng đồng USD có ảnh hưởng lớn đối với kinh tế thế giới nhưng chỉ phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Họ đưa ra thế nào thì các nước khác điều chỉnh theo cho phù hợp với giá trị đồng USD tại thị trường quốc tế và cả thị trường nội địa. Do đó, việc ban hành lãi suất cơ bản với USD có thể vượt quá thẩm quyền của một quốc gia. Đồng quan điểm này, ông Lê Văn Hinh cũng cho rằng quy định lãi suất cơ bản với đồng USD không mấy ý nghĩa vì tại bất kỳ thị trường nào, giá trị đồng USD cũng phụ thuộc vào nền kinh tế Mỹ.

Theo chuẩn của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), quốc gia có tiền gửi bằng USD chiếm trên 30% được đánh giá là nền kinh tế đô la hóa cao. Trước đây, VN luôn vượt ngưỡng này và đến năm 2007 giảm xuống còn 28%-29%. Tuy nhiên, tình trạng đô la hóa đã tái diễn, hiện ở ngưỡng "có vấn đề".

Theo VietStock

Ngọc Sơn Việt Nam

7/3/2008 9:04:03 Chiều tối

Tác hại của Đô la hóa đối với nền kinh tế.

Đô la hoá là tình trạng đồng ngoại tệ thay thế đồng bản tệ trong việc thực hiện các chức năng của tiền tệ là dự trữ giá trị, phương tiện thanh toán và đơn vị tính toán. Đây là hiện tượng thường gặp phải ở các nền kinh tế chuyển đổi. Tại Việt Nam, đô la hoá vẫn khá phổ biến với thói quen dự trữ tài sản bằng ngoại tệ, giao dịch, mua bán, niêm yết giá bằng ngoại tệ.

Hiện tượng đô la hóa làm mất chủ quyền về tiền tệ, làm cho thị trường ngoại hối kém phát triển do các quan hệ vay - trả bằng ngoại tệ lấn át các quan hệ mua bán ngoại tệ. Đô la hóa làm giảm khả năng chuyển đổi của đồng tiền, tạo điều kiện cho buôn lậu phát triển, ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất trong nước. Nhà nước không những mất luôn nguồn thu về thuế mà còn mất cả nguồn thu từ việc phát hành đồng nội tệ. Về mặt điều hành tiền tệ, hiện tượng đô la hoá gây ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả thực thi chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Mức cung tiền trở nên khó dự báo hơn và mức cầu nội tệ trong nước không ổn định ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách tiền tệ.

Trong bài trả lời phỏng vấn mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu cho biết: "Trong những thời điểm cung cầu ngoại tệ trên thị trường mất cân bằng như một vài thời điểm trong thời gian vừa qua, tình trạng đô la hoá cũng gây thêm khó khăn cho việc ổn định trở lại thị trường ngoại tệ do đô la hoá làm tăng hiện tượng đầu cơ, bóp méo cung cầu ngoại tệ. Bên cạnh đó, đô la hoá làm giảm nhu cầu phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro trên thị trường ngoại hối, không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển thị trường ngoại hối, mà các doanh nghiệp cũng đối mặt với nguy cơ thiệt hại lớn do không có công cụ phòng ngừa rủi ro khi đồng đô la Mỹ biến động bất thường. Ngoài ra, việc niêm yết giá bằng ngoại tệ cũng khiến cho người dân bị thiệt khi thanh toán tiền mua hàng hoá do các cửa hàng áp dụng tỷ giá không thống nhất.

Như vậy, nhìn chung hiện tượng đô la hoá đã có những tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Đô la hoá bóp méo cung cầu ngoại tệ, khiến cho tỷ giá không phản ánh chính xác cung cầu ngoại tệ và hoạt động đầu cơ ngoại tệ hết sức rủi ro".

Nhận thức được tầm quan trọng của việc hạn chế tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế, ngày 04/7/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 98/2007/QĐ-TTg phê duyệt Đề án nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế. Nhằm thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc NHNN đã tổ chức Hội nghị bàn các biện pháp triển khai, thành lập Ban chỉ đạo ngành Ngân hàng phối hợp với các Bộ: Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Công an, Công thương, Thông tin và Truyền thông lên kế hoạch tổng thể triển khai Đề án.

Cũng theo ý kiến của Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu: "Để hạn chế tình trạng đô la hoá người dân và doanh nghiệp không nên nắm giữ ngoại tệ nếu không có nhu cầu. Đồng thời để bảo vệ lợi ích của mình, người dân cũng như các doanh nghiệp nên cân nhắc, đề phòng những rủi ro do biến động tỷ giá, cũng như tránh chạy theo tâm lý đám đông đầu cơ ngoại tệ".

Theo VietStock

Ngọc Sơn Việt Nam

6/26/2008 8:49:42 Chiều tối

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro