Khinh công Septimus Heap post by minhvietsubin -chap 47 toi het

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

47. PHÒNG NỮ HOÀNG

Jenna chạy bạt mạng qua những con hẻm và những hành lang, hướng về Cung Điện. Trong tay cô bé nắm chặt chiếc chìa khóa vàng mà bà dì Zelda đã đưa cho cô, chìa khóa đến phòng Nữ Hoàng. Thật tệ hết sức là cô không biết được phòng Nữ Hoàng nằm đâu, và tệ hơn nữa là ở đó biết đâu lại chẳng có gì để cứu được Thuyền Rồng. Nhưng cô chỉ còn mỗi đó là cơ hội cuối cùng, bởi vì bà Marcia rõ ràng là có quen thân với người lạ nọ và như thế thì không thể tin được.

Giờ đây Jenna đã hiểu được cảm giác của Septimus khi bà Marcia không tin là Simon đã bắt cóc cô. Cô bé quẹo ào vào một góc đường và tông thẳng vào con Khạc Lửa.

“Úi!”

“Jen!” Septimus kêu lên ngạc nhiên. “Anh tưởng em ở đó với Thuyền Rồng chứ. Anh đang định đến gặp em đây. Nhưng con Khạc Lửa cứ không chịu ở trong sân. Nó đã ăn gần hết cái cũi rồng mà mấy phó pháp sư đang làm cho nó, xong…” Septimus đột nhiên ngừng lại, nhận thấy vẻ hớt hơ hớt hải của Jenna. “Này Jen, chuyện gì vậy?”

“Ồ, Sep, rồng… rồng chết mất. Mà bây giờ người lạ mặt ngoài bến cảng – ông ta đang ở đây. Ông ta đến để bắt em!”

“Cái gì?”

“Tệ hơn nữa là bà Marcia lại quen biết ông ta! Bà ấy thật sự vui mừng khi gặp ông ta nhé. Bà ấy ôm ông ta.”

Septimus bị sốc. Bà Marcia chưa bao giờ ôm bất cứ ai. Không bao giờ.

“Sep, đi với em. Em sẽ đến Cung Điện. Em định tới phòng Nữ Hoàng. Biết đâu, biết đâu đấy, sẽ có gì ở đó cứu được Thuyền Rồng. Một … một loại độc dược hay gì đó… em không biết. ”

“Ừ, cũng nên thử xem. Lẹ lên, Khạc Lửa. Lối này. Không, lối này. Đợi đã, Jen, em không biết phòng Nữ Hoàng ở đâu mà.”

“Em biết, nhưng dì Zelda nói em sẽ tìm thấy nó vào Thời Điểm Thích Hợp. Biết đâu Thời Điểm Thích Hợp là đúng lúc này.”

Jenna và Septimus tiến thật nhanh cho đến khi tới được nửa đường Pháp Sư, lúc đó Septimus rớt lại đằng sau để cho Khạc Lửa, con rồng vừa mới khiến cho Septimus một phen lúng túng. Jenna dừng lại để xem cái gì giữ chân Septimus lại và thấy Septimus đang ngẩn người ra nhìn một đống phân rồng to tướng ngay giữa đường Pháp Sư, tự hỏi phải làm gì đây. Septimus quyết định điều tốt nhất cần làm là phớt lờ và đi tiếp.

“Này, anh có rồng kia!” Một giọng thét lên đằng sau. Septimus quay lại, thấy một người đàn ông ốm ròm, vẻ nghiêm chỉnh, mặc áo chẽn sợi nhà dệt đang đuổi theo mình với một cái bao và một cái xẻng. Người đàn ông đuổi kịp nó và ấn hai món đồ vào tay Septimus. “Hội Bảo Tồn đường Pháp Sư… Nhân viên Cưỡng chế Kẻ làm bẩn đường phố,” ông ta thở phù phù. “Thật là đáng sỉ nhục khi làm bẩn con đường. Làm ơn dọn dẹp đồ thải của con vật đó rồi mang đi cùng với cậu.”

Septimus ngờ vực nhìn vào cái bao mà người đàn ông vừa dúi vào tay mình. “Được,” nó nói, “nhưng cháu không nghĩ cái bao này đựng được hết.”

Septimus bận rộn với cái xẻng trong khi Jenna mất kiên nhẫn giữ cho cái miệng bao mở ra.

****

Mặt trời đang lặn, và Billy Pot đang đẩy cỗ máy kỳ quặc của mình cất đi sau một ngày cố gắng đặc biệt – lũ thằn lằn cỏ lại giở chứng. Vẻ mặt ông ta bỗng hơn hớn khi trông thấy Jenna, Septimus và Khạc Lửa đi qua bãi cỏ. Billy Pot đã một lần ngửi thấy mùi phân rồng trong khóa học cấp Chứng chỉ Nuôi giữ Thằn Lằn và không bao giờ quên cái mùi ấy – thật ra gần như ai cũng vậy, đã từng một lần ngửi thấy phân rồng thì sẽ không bao giờ quên được nó.

“Cảm phiền, thưa cậu chủ,” Billy Pot mở lời, chạy tới chỗ Septimus. “Xin thứ lỗi cho tôi vì đã quá táo tợn, nhưng tôi thắc mắc… ờm, tôi tự hỏi liệu cậu có thể để lại cái đồ chứa trong bao đó của cậu hay không. Tôi sẽ biết ơn mãi mãi. Không có gì bằng đặt phân rồng ở một vị trí chiến lượng để giữ cho thằn lằn vào khuôn khổ trật tự. Và tôi đang rất tuyệt vọng – kể từ khi con ngựa đó chạy ngang qua cỗ máy kỳ quặc thì bọn thằn lằn đã không thể kiểm soát được và…”

“Ừ,” Septimus nói. “Cầm lấy. Làm ơn.”

“Cậu biết đấy, thưa cậu chủ, tôi vẫn hằng mơ ước có ngày được đặt tay mình lên một ít phân rồng. Chỉ dám mơ thôi. Nhưng ai mà có thể tìm thấy con rồng vào thời nay chứ? Đó là một cơn ác mộng cho một Người Giữ Thằn Lằn như tôi. Ác mộng.” Billy Pot lắc đầu buồn thảm. “Nhưng dĩ nhiên nếu cậu không muốn bỏ bãi phân rồng đó thì tôi cũng hoàn toàn thông cảm.”

“Không… làm ơn, làm ơn cầm lấy đi,” Septimus nói. Nó ấn mạnh cái bao phình to vào Billy Pot, và ông ta mỉm cười, lần đầu tiên trong ngày hôm đó.

Khi Jenna, Septimus và Khạc Lửa đến cửa Cung Điện, giọng phều phào của Godric trôi trong không khí buổi tối. “À, buổi tối tốt lành, Công Chúa. Thật vui được gặp nàng. Chào buổi tối tốt lành, Học Trò. Môn Biến Hình tiến triển thế nào? Đã quán triệt được Tam Hóa Thể chưa?”

“Gần được,” Septimus nói, kéo lê Khạc Lửa đằng sau.

“Cừ lắm.” Godric khen rồi ngủ lại ngay lập tức.

Trong cái tháp canh nhỏ ở đằng đông của Cung Điện, Khạc Lửa ngồi rên rỉ một cách bực bội và cào cào bậc thang đầu tiên của chiếc cầu thang xoắn ốc. Septimus đã buộc chặt con rồng vào một cái hốc tiện lợi trong bức tường thành và bảo nó ở yên đó.

“Em chắc chắn nó ở trên đây,” Jenna nói, chú tâm vào chìa khóa phòng Nữ Hoàng khi dẫn đường lên cầu thang. Đến đựơc chiếu nghỉ nhỏ ở đỉnh tháp canh, Jenna vuột ra một tiếng kêu mừng rỡ. “Húú! Này Sep, nhìn cái gì kìa – em thấy nó rồi!”

“Ở đâu?” Septimus nhìn Jenna, lúng túng.

Jenna bắn cho Septimus một cái nhìn giễu cợt. “Tức cười quá, Sep,” cô bé nói. “Anh không nghĩ nó phải là một cánh cửa bằng vàng với đủ thứ hoa văn trên đó, và lỗ khóa thật lớn nằm ở chính giữa cửa với một viên ngọc lục bảo phía trên… như cái chìa khóa này chứ?”

“Cửa vàng gì?” Septimus hỏi.

Bất giác Jenna hiểu ra, và một niềm vui sướng đến rùng mình bỗng chạy khắp người. “Anh không nhìn thấy nó, đúng không?” Cô bé thì thầm.

“Không,” Septimus trả lời, hơi kính nể. “Không thấy gì. Anh chỉ thấy có mỗi bức tường trống trơn với vài cục vữa rụng ra.”

“Ừm, nó ở đây, Sep. Em thấy nó. Thấy rõ ràng. Em sẽ tra chìa khóa vào ổ khóa đây,” Jenna nói, lần chần. “Anh sẽ đợi em ở đây chứ?”

“Dĩ nhiên anh sẽ đợi.”

“Thật kỳ dị. Để em vặn chìa khóa này nhé?”

“Ừ, tiếp đi, Jen. Ơ, khoan, khoan đã… có phải em nói là lỗ khóa ở giữa cánh cửa không?”

“Ừ, tại sao?” Jenna trông lo lắng.

“Ờ, phải nhớ bảo đảm nhảy ra khỏi lối ngay khi em vặn chìa khóa đấy. Cánh cửa sẽ đổ sập xuống giống như cầu rút qua hào – nó sẽ đè em bẹp dí nếu em không làm thế.”

“Vậy à? Sao anh biết?”

“Ồ, thì anh biết thế thôi, Jen,” Septimus nói vui vẻ.

“Anh thật ngốc,” Jenna nói vẻ trìu mến.

Septimus lùi lại và trải qua một cảm giác lạ lùng nhất khi nhìn Jenna ấn chìa khóa về trước, cho đến khi cái khấc cuối cùng của chiếc chìa khóa biến mất. Bất ngờ cô bé nhảy lùi lại và cười với Septimus. Septimus cũng cười toét. Sau đó nó nhìn cô bé bước tới trước và biến mất qua bức tường vững chắc.

Cánh cửa bằng vàng im lặng đóng lại sau lưng Jenna, và cô bé thấy mình ở trong một căn phòng nhỏ và ấm cúng một cách đáng ngạc nhiên. Một ngọn lửa đang cháy trong vỉ lò và một chiếc ghế dựa đặt bên cạnh lò. Ngồi trong chiếc ghế, đang nhìn mơ màng vào ngọn lửa, là một thiếu phụ trẻ mặc áo chẽn lụa dày màu đỏ đậm, áo chùng vàng khoác qua vai. Mái tóc dài sẫm màu của bà búi lại trong chiếc vòng vàng nhỏ giống hệt cái mà Jenna đang đeo. Trước sự xuất hiện bất ngờ của Jenna, người phụ nữ trẻ đứng phắt dậy, đôi mắt màu tím của bà bừng lên mừng rỡ. Bà bước nhanh một bước tới trước, và trong lúc nôn nóng tiến đến Jenna, bà đi xuyên qua chiếc ghế như thể chiếc ghế không có ở đó.

Nhưng Jenna không thấy gì hết, điều đó thật là tốt. Bởi nếu Jenna thấy được, thì khi hồn ma của Nữ Hoàng đứng trước mặt, nhìn như uống vào đứa con gái mà bà chỉ được gặp lần cuối cùng khi nó mới được một ngày tuổi, Jenna chắc hẳn là khó mà bỏ sót được một vệt máu lớn thấm ướt cả vạt áo chùng bên trái của mẹ mình – mặc dù cô bé có thể sẽ không nhận ra cái lỗ đạn nham nhở, bị che khuất bởi những nếp gấp của chiếc áo chẽn đỏ đậm của mẹ.

Nữ Hoàng bước lùi lại để cho con gái mình đi thơ thẩn quanh căn Phòng. Bà nhìn Jenna ngó trân trân, hết sức hoang mang, vào ngọn lửa đang cháy và chiếc ghế trống không. Bà thấy Jenna vòng tay ôm chặt lấy thân, run lập cập khi di chuyển qua căn phòng, liếc ngang dòm dọc như thể đã bắt gặp cái gì đấy trong khóe mắt, và cô bé đang tuyệt vọng tìm kiếm cái gì đó – bất cứ cái gì – có thể cứu được Thuyền Rồng.

Biết rằng mình cấm không được hiện ra trước con gái, nên Nữ Hoàng chỉ đứng nhìn, để cho Jenna tự một mình tìm thứ mà con bé cần phải tìm. Nhưng Jenna sắp từ bỏ hy vọng đến nơi, vì căn phòng này không phải là nơi đầy Pháp Thuật như cô mong chờ, nó không hơn gì một phòng khách vắng tanh với một ngọn lửa, một tấm thảm, cái bàn nhỏ, một chiếc ghế - và bất thình lình, Jenna mỉm cười – một cửa buồng, và cũng không phải là một cửa buồng cũ kỹ thông thường. Trên cánh cửa có đề: ĐỘC DƯỢC BẤT ĐỊNH VÀ ĐỘC DƯỢC ĐẶC BIỆT.

Jenna mở cánh cửa và bước vào trong.

Trong buồng vắng lặng hệt như căn phòng vậy. Bốn cái kệ chạm trổ phức tạp nhưng hoàn toàn trống rỗng chạy dọc các bức tường đen xì, hoàn toàn vắng bóng những chai độc dược, dược thảo hay thuốc trị bệnh, cũng không thấy những quyển sách thần chú hay sách về những bí mật Thuyền Rồng mà Jenna khao khát muốn thấy. Tuyệt vọng, cô bé dùng cả hai bàn tay sờ lên cái mặt kệ, phòng trường hợp mình bỏ lỡ cái gì đó, nhưng chẳng có gì cả, chẳng có gì ngoài bụi. Thế rồi Jenna nhận thấy một hàng tủ ngăn kéo nhỏ, gần như lẫn hẳn vào trong những ô ván lát tường bằng gỗ gụ sậm màu nằm bên dưới những cái kệ, và hy vọng của cô bé lóe lên. Cô cầm lấy quả đấm nhỏ bằng vàng của ngăn kéo trên cùng và lôi mạnh. Ngăn kéo trượt ra trơn tru và Jenna ngửi thấy mùi mốc hỗn hợp của sô-cô-la bạc hà và bụi; cô khoắng tay khắp mặt trong của ngăn kéo, nhưng nó cũng trống không hệt như những cái kệ. Điên cuồng, Jenna lần lượt kéo mở từng ngăn kéo một, nhưng không tìm thấy gì.

Khi đến được ngăn kéo cuối cùng, Jenna cảm thấy tuyệt vọng khôn tả - cô biết đây là cơ hội cuối, cuối cùng của mình, bởi vì không còn chỗ nào khác để tìm kiếm nữa. Giật mạnh để mở ra, Jenna cảm thấy có cái gì đó bên trong ngăn kéo di chuyển, tựa như mình vừa mới kéo một cái đòn bẩy hay đại loại thế, và đồng thời, cô nghe thấy một tiếng tách nhẹ sau lưng mình, và cánh cửa buồng ập đóng sầm lại. Cô đã bị quăng vào bóng tối.

Jenna đẩy cánh cửa buồng nhưng nó không động đậy. Kinh hãi tột độ, cô đẩy mạnh nó hơn, nhưng cánh cửa vẫn không nhúc nhích – và có cái gì đó mách bảo cô rằng cánh cửa đã bị khóa. Mình sẽ làm gì đây? Mình bị sa bẫy. Không ai ngoại trừ Septimus biết mình đang ở đâu, và cho dù anh ấy có muốn đến thế nào chăng nữa, anh ấy cũng sẽ không thể cứu mình. Mình sẽ ở đây vĩnh viễn, kẹt trong bóng tối…

Chính lúc đó Jenna nhận ra trong buồng không tối như lúc nãy nữa, và rằng lúc này cô có thể thấy một dải ánh sáng mỏng bên dưới cánh cửa. Ngập ngừng Jenna đẩy cánh cửa thêm một cái nữa, và thật vui sướng cho cô, cửa mở bung ra.

Cô bước ra ngoài những phiến đá lát lối đi của ngôi nhà tranh dì Zelda.

Beelzebub xD CLICK HERE xD

Thank

22-Jun-2010 03:20 PM

#52

[D]evil

Điều hành viên

Ngày tham gia:

May 2010

Bài viết:

3,831

GOLD (TOP! 4):

49,650,155

Thanks:

27

Thanked 129 Times in 117 Posts

48. NỮ HOÀNG TRẺ TUỔI

Septimus ngồi trên chiếu nghỉ đầy bụi đất, ngó mảng vữa bị tróc trên tường, thắc mắc khi nào thì Jenna xuất hiện trở lại. Nó cố tưởng tượng xem cô bé đang làm gì trong Phòng Nữ Hoàng, và cái gì đang giữ cô ở lại lâu đến vậy. Nhưng nó không ngại chờ đợi. Có một món đồ mà Septimus đã nóng lòng muốn nhìn kỹ hơn bao giờ hết kể từ khi Jannit moi món đó ra khỏi hộp đồ nghề của bà, đưa cho Septimus và bảo, “Coi bộ đây là thứ mà cậu có thể dùng được, Chủ Soái Septimus.”

Nó thọc tay vào túi áo chẽn và lấy ra bùa Khinh Công.

Cái bùa mang lại cảm giác quen thuộc thật kỳ lạ cho Septimus làm như trước kia nó đã biết bùa này ở đâu đó rồi. Xét theo công lực thì đó là một cái bùa đơn giản đến kinh ngạc, và nước vàng xưa cũ đã bị trầy xước, với chùm đuôi – thật tình mà nói – đã bị bóp méo và cong vêu. Cầm mũi tên nằm im ắng trong lòng bàn tay, Septimus cảm thấy bỗng tê rật cả bàn tay, và có gì xui khiến nó thò tay vào thắt lưng Học Trò, lấy ra đôi cánh bạc mà bà Marcia đã đưa nó khi bà yêu cầu nó là Học Trò của bà. Septimus yêu chiếc đôi cánh này lắm. Với chiếc bùa này, chỉ cần tập trung là nó có thể lơ lửng cách mặt đất khoảng ba mét, nhưng không bay được, không như Simon đã làm được. Septimus thường mơ thấy mình bay, và kỳ thực đã nhiều phen nó thức giấc đinh ninh là mình bay được, nhưng rồi chỉ là thất vọng.

Ngồi bệt dưới sàn nhà bằng đá lạnh lẽo, chẳng thấy dấu hiệu Jenna trở lại, Septimus chìa hai bàn tay xòe ra, mỗi bên đặt một cái bùa. Nó nghĩ cả hai cái đều đẹp theo những cách khác nhau – trong bàn tay trái, nó cảm nhận được linh hồn mạnh mẽ của mũi tên vàng cổ xưa, và trong bàn tay phải là vẻ đẹp tinh tế của đôi cánh bạc. Nhìn vào chúng, Septimus cảm nhận được Pháp Thuật từ cả hai cái bùa thấm qua da mình và làm nhiễu bầu không khí quanh mình.

Và rồi thì – có cái gì đó xê dịch, có cái gì đó chuyển động.

Bất ngờ đôi cánh dựng thẳng đứng lên giữa lòng bàn tay Septimus, bay phấp phới tới lui như một con bướm nhỏ sưởi ấm trong nắng. Mê mẩn, Septimus quan sát đôi cánh bạc dập dờn từ bàn tay phải qua bàn tay trái, tại đó đôi cánh đáp thật điệu nghệ xuống bùa Khinh Công. Một tia chớp Pháp Thuật nháng lên, vàng và bạc của hai bùa trộn lẫn vào nhau khi đôi cánh đáp xuống đúng chỗ của nó là chùm đuôi kỳ lạ của bùa Khinh Công.

Septimus cầm bùa Khinh Công đã hoàn tất lên và giữ nó giữa ngón tay trỏ và ngón tay cái. Cái bùa nóng – quá nóng – để mà chạm vào. Một cảm giác tê tê chạy khắp những ngón tay và Septimus bất giác thấy mình bị thúc ép phải bay. Nó đứng bật dậy và đi đến cửa sổ tháp canh nhỏ trông ra toàn bộ những khu vườn của Cung Điện. Nó thấy những mảng tối dài của buổi chiều muộn giữa mùa hè và nghe thấy tiếng quạ kêu trong những tàn cây, và tất cả những giấc mơ bay của nó chợt ùa về - nó tưởng tượng mình nhào xuống những bãi cỏ, xua bọn quạ và bay la đà trên con sông… ráng cố gắng một chút, Septimus giũ mình ra khỏi cơn mơ màng. Nó đang bận cất bùa Khinh Công trở lại thắt lưng Học Trò của mình – cố tránh khỏi cám dỗ - thì Jenna bước qua bức tường.

Septimus nhảy nhỏm, “Jen..,” nó bắt đầu, và rồi dừng sững lại kinh ngạc khi dì Zelda và Thằng Sói theo cô bé bước ra chiếu nghỉ.

“Ố, Septimus,” dì Zelda nói, trong khi Septimus trố mắt nhìn, miệng há hốc. “Thật tuyệt khi thấy con an toàn… nhưng không để mất thì giờ được. Theo ta. Chúng ta phải đi thẳng tới Thuyền Rồng.” Dì Zelda chạy lóc cóc xuống cầu thang hẹp, và Septimus nghe một tiếng thét ngạc nhiên khi dì đâm sầm vào con Khạc Lửa.

“Xuống, Khạc Lửa. Chà, cũng thật thú vị khi gặp mi. Nào làm ơn bước ra khỏi bàn chân ta.”

Septimus không cần phải tháo dây cho Khạc Lửa bởi vì con rồng đã nhai sạch sợi dây thừng. Cả đám theo sau dì Zelda và Jenna ra đằng cửa phụ ở chân tháp canh rồi đi xuống cổng Cung Điện. Dì Zelda bước đi thoăn thoắt. Với một sự thông thạo đáng ngạc nhiên về những con hẻm, những ngõ ngách hẹp tí của Lâu Đài, dì đi ào ào bước tới trước. Những khách bộ hành đang đi tới sững sờ trước cảnh một cái lều to đùng đầy mảnh vải đắp đang tiến hết tốc lực về phía mình. Họ ép sát người vào tường để tránh đường, và cái lều băng ngang qua họ cùng với Công Chúa, Học Trò của Pháp sư Tối thượng và một thằng bé trông hoang dã có hai bàn tay quấn băng – đó là chưa kể một con rồng – và họ dụi mắt không tin nổi.

Chẳng mấy chốc dì Zelda và đoàn tùy tùng của dì đã hiện ra khỏi đường hầm nằm bên dưới tường thành Lâu Đài dẫn vào xưởng đóng thuyền. Họ nghe thấy tiếng bà Jannit dội vang trên những con thuyền lật úp. “Kéo… kéo… kéo…”

Dì Zelda thét lên một tiếng thê thiết – bởi vì đằng kia, chầm chậm, rất chậm, là thân hình đóng bùn, nhỏ nước ròng ròng của Thuyền Rồng, được nâng lên bởi một toán thợ phụ nhịp nhàng kéo một sợi dây thừng, đang nhô lên khỏi mặt nước. Cái đuôi xanh lá cây với những gai ngạnh vàng óng rủ xuống trong khi đầu Thuyền Rồng vẫn tựa vào một bên bờ kênh đào. Nic** ngồi xếp bằng, chậm rãi vuốt những cái vảy xanh lá cây xuội lơ trên cái mũi dài của rồng.

Rupert Gringe đang ở trên sàn Thuyền Rồng. Người cậu trét kín bùn và ướt chèm nhẹp, cậu vừa mới lặn xuống hào nước và rốt cục cũng đã quàng được những sợi dây kéo khổng lồ bằng vải bạt vào vị trí bên dưới sống thuyền. Với mặt nạ đẩy lên khỏi mắt, Rupert chạy đôn chạy đáo từ bên này sang bên kia, liên tục kiểm tra dây thừng.

Hoảng kinh hồn vía, dì Zelda chạy băng qua xưởng đóng thuyền, luồn lách giữa những sợi dây thừng và mỏ neo, những cột buồm và dây néo cột buồm bỏ đi, rồi ngồi phịch xuống bên cạnh Nic**.

“Dì Zelda?” Nic** nói, không tin vào mắt mình.

“Ừ… là dì đây,” dì Zelda trả lời, thở không ra hơi, chìa tay ra chạm vào cái đầu bất động của rồng. Dì dừng tay mình ở đấy một lát, lắc đầu không tin nổi. “Jenna, Septimus – nhanh lên. Tới ngồi đây bên dì. Tất cả ba chúng ta – Người Giữ Đầm, Nữ Hoàng Trẻ tuổi và Chủ Soái Rồng – phải làm điều này,” dì nói.

“Làm gì ạ?” Jenna hỏi.

“Tam Hóa Thể,” dì Zelda nói, lục lục lọi lọi trong vô số những cái túi vá víu của dì.

“A – Sep làm được đấy,” Jenna vui mừng nói.

“Không, anh không làm được,” Septimus nói.

“Được, anh làm được mà. À, mém được. Em nghe được anh bảo với con ma Godric thế mà.”

“Tại lần đầu tiên ông ấy hỏi anh, anh đã trả lời là ‘không’, anh không làm được, thế là ông ấy nổi xung thiên và bắt đầu than vãn. Sau đó tất cả những Cổ Nhân khác trong Cung Điện cũng bắt đầu than thở. Thật khủng khiếp… và họ không chịu ngưng. Anh đã phải đến gặp bà Marcia, và bà bảo anh đừng chi li thế quá, cứ chiều lòng ông ngốc già đó đi cho rồi. Nhưng mà anh cũng có đọc qua về nó, chỉ để phòng hờ nhỡ Godric có cắc cớ hỏi câu gì. Đó là bốn nguyên tố, phải không dì Zelda?”

“Đúng vậy, Septimus,” dì Zelda trả lời, lấy ra một cái túi bằng da trông xưa thật xưa. “Chẳng ai nhớ được cái này được lưu truyền từ Người Giữ Đầm này sang Người Giữ Đầm khác từ lúc nào. Chúng ta giữ nó trong một hộp được khóa kỹ có tên gọi là Phương sách Cuối cùng. Mỗi Người Giữ Đầm đều hy vọng mình sẽ không cần phải sử dụng đến nó, nhưng mỗi Người Giữ Đầm đều biết rằng một ngày nào đó Thời Điểm sẽ Đến. Có một lời tiên tri được viết trên hộp…”

Thời Điểm sẽ Đến, vì nó phải đến

Khi Người sẽ Bay cùng với Hai trong Ba

Khi ấy Ngươi phải thật Sẵn sàng

Và Giữ Chặt Bộ Ba đó vào Ngươi.

“Không ai thật sự biết bốn câu đó có nghĩa gì, nhưng khi Septimus tìm thấy Nhẫn Rồng thì ta nhận ra rằng, một lần nữa, lần đầu tiên kể từ thời Hotep-Ra, chúng ta có bộ ba: Chủ Soái Rồng, Nữ Hoàng và Người Giữ Đầm. Rồi sau đó khi con và Jenna bay đi với Thuyền Rồng, ta đã biết rằng phần đầu của lời tiên tri đã linh ứng, rằng Thời Điểm đã Đến. Vì thế ta phải chuẩn bị sẵn sàng cho điều gì đó xảy ra, nhưng khi Jenna bước đi ra khỏi buồng độc dược, giống hệt cái người mẹ kính yêu của cô bé vẫn làm mỗi Ngày Hạ Chí, thì ta… ừm, thì ta suýt nghẹn cả cái bánh bắp cải. Giờ thì, chúng ta hãy xem chúng ta có gì ở đây nào… ”

Dì Zelda dốc nghiêng cái túi bằng da và ba cái bát nhỏ đúc bằng vàng, quanh miệng có tráng men xanh da trời rớt xuống tấm thảm đầy bùn của Jannit. Dì giũ cái túi da một lần nữa, nhưng không có gì khác rơi ra. Dì thọc cả bàn tay vào trong túi và sờ quanh, nhưng nó trống rỗng. Vẻ mặt dì Zelda xịu xuống. “Phải có nhiều hơn thế này chứ, chắc chắn vậy,” dì nói. “Không chỉ dẫn – không có gì. Cái cô Betty Crackle này thật tình … quá là tắc trách. Quá là bất cẩn. Chúng ta có thể làm được gì với ba cái bát trống trơn này cơ chứ?”

“Con nghĩ con biết làm gì với chúng.” Septimus nói từ tốn.

Dì Zelda nhìn nó, lại thêm một thứ để nể phục. “Thật không?” Dì hỏi.

Septimus gật đầu. “Dì đặt những cái bát trước Sinh Linh dì muốn Phục Hồi…” nó nói, vắt óc ra suy nghĩ. Septimus đã đọc tất cả sách vở nó có thể tìm được về Tam Hóa Thể, nhưng khi nó hỏi bà Marcia bộ ba cái bát ở đâu, thì bà bảo với nó rằng chúng đã biến mất cách đây nhiều trăm năm.

“Con làm đi, Septimus,” dì Zelda nói. “Là Chủ Soái Rồng, thì chỉ có con mới có quyền làm điều đó.”

Mắt của rồng không chớp khi Septimus, Jenna và dì Zelda sắp hàng thành hình bán nguyệt quanh đầu rồng. Nic** lẳng lặng đứng dậy và rời đi, dẫn Thằng Sói đi cùng với mình. Nic** có thể cảm thấy Pháp Thuật đậm đặc trong không khí và cậu thích giữ khoảng cách hơn. Thằng Sói trông sợ hãi; mắt nó mở to còn những chiếc răng vàng khè nhe ra khi quan sát thằng bạn cựu Thiếu sinh quân cũ của nó trong một vai trò mới lạ - đan kết Pháp Thuật mạnh mẽ.

“Bốn nguyên tố trong lời khấn này,” Septimus nói khẽ, “là Đất, Không Khí, Lửa và Nước. Nhưng chúng ta chỉ chọn duy nhất một trong những nguyên tố đó để Phục Hồi rồng. Con nghĩ đó nên là Lửa.”

Dì Zelda gật đầu đồng ý. “Rồng đã có quá nhiều những thứ kia rồi,” dì thì thầm.

“Jen thấy sao?” Septimus hỏi.

Jenna gật đầu. “Phải,” cô bé thì thầm, “Lửa.”

“Tốt,” Septimus nói. “Giờ mỗi người chúng ta phải chọn ra một nguyên tố từ ba cái còn lại.”

“Đất,” dì Zelda nói. “Đất thật tốt để trồng bắp cải.”

“Nước,” Jenna nói. “Vì rồng quá đẹp khi ở dưới nước.”

“Và con chọn không khí,” Septimus nói, “bởi vì hôm nay con đã lái Thuyền Rồng. Và bởi vì con có thể Khinh Công.”

Dì Zelda bắn cho Septimus một cái liếc châm chọc, nhưng nó bận sắp xếp những cái bát nên không chú ý đến điều đó.

“Giờ,” nó nói, “chúng ta mỗi người lấy một cái bát và đặt nguyên tố của mình vào đó.”

Jenna lom khom bước tới và nhúng cái bát của mình vào hào nước. Dì Zelda từ cầu phao cúi người xuống và cạo lên một ít đất khô. Septimus nhìn cái bát của mình và phân vân không biết phải làm gì. Nó đang nhìn và tự hỏi thì một màn sương đỏ tía xuất hiện ở đáy cái bát vàng. Dì Zelda há hốc miệng – dì đã thấy những dấu hiệu Pháp Thuật xuất hiện quanh Septimus, mái tóc quăn vàng hoe của nó được viền trong một vầng hào quang đỏ tía, lung linh, và bầu không khí ngột ngạt, giống như khí trời trước khi có một cơn bão.

Nhận thấy dì Zelda và Jenna đang nhìn mình chăm chú, Septimus tập trung cả ba cái bát lại, và giữ chúng ép sát vào nhau, nó lẹ làng úp ngược chúng xuống. Đất và nước đổ thẳng xuống tấm thảm, nhưng màn sương đỏ tía chìm xuống từ từ - theo sát chuyển động của màn sương là một cặp mắt màu xanh lá cây, một cặp mắt tím, và một cặp mắt phù thủy xanh da trời – cho đến khi màn sương ấy gặp đống bùn đất loét nhoét trên thảm thì nổ bùng lên thành ngọn lửa. Septimus nuốt nước miếng – đây là phần nó đang lo sợ. Nó chìa tay ra để nắm lấy ngọn lửa, và một tiếng hét từ Thằng Sói, đang khiếp hãi quan sát không bỏ sót gì đằng sau một con thuyền. “412… không!” Thằng Sói thét vang, cảm thấy tay mình lại bùng cháy lần nữa. Septimus không cảm thấy đau đớn gì khi nó gom ngọn lửa lại và đặt vào hai lỗ mũi rồng.

Bất thình lình, một cái hít hơi cực mạnh, và ngọn lửa bị hút sâu vào trong lỗ mũi rồng. Vài giây sau, rồng ngẩng đầu lên, thở phì phì, ho khạc, phun ra một lưỡi lửa màu cam chói lóa, bắt cháy tấm thảm Ba Tư của Jannit và hất dì Zelda, Jenna và Septimus phải nhảy lùi lại chỗ an toàn. Nic** dội một thùng nước dập tắt đám cháy trên tấm thảm. Con rồng thoáng mở mắt ra và sau đó, với một cú rơi đánh sầm, cái đầu xanh lá cây to lớn của rồng gục xuống tấm thảm cháy sém và nằm rũ im lìm như trước.

Cả xưởng đóng thuyền rơi vào im lặng. Thậm chí Jannit cũng dừng việc bốc dỡ của mình và đứng chờ thấp thỏm.

Jenna thất kinh. Cô bé liếc nhìn Septimus dường như để cho vững dạ nhưng Septimus đang sầu thảm nhìn trừng trừng vào Thuyền Rồng, tin rằng Tam Hóa Thể của mình đã thất bại. Dì Zelda bật một tiếng ho nho nhhỏ và vừa mới định nói gì đó thì giọng sang sảng của bà Marcia đã vọng khắp xưởng đóng thuyền.

“Ai đó lấy cái thùng chết tiệt này ra khỏi chân ta được chứ?” Một tay thợ phụ hấp tấp chạy tới giúp bà Marcia, giật cái thùng mà bà đã vô tình bước tọt vào trong lúc vội vã trở lại Thuyền Rồng. Với áo thụng tung bay, bà Marcia tiếp tục tiến bước qua xưởng đóng thuyền, và khi gần đến chỗ rồng, cả Jenna, dì Zelda, và Septimus đều thấy rằng bà đang cầm trong tay một cái chai lớn màu xanh lá cây.

Bà Marcia đến cầu phao, thở hết cả hơi và tháo nút chai ra.

“Marcia, cô tính làm gì vậy?” Dì Zelda hỏi gắt.

“Cứu Thuyền Rồng. Ta biết ta có một ít ở đâu đấy. Đó là thuốc Hồi Sinh chế từ thằn lằn. Ta luôn cất giữ nó dưới ván sàn trong thư viện.”

“Dẹp nó đi,” dì Zelda yêu cầu. “Đừng để thứ đó gần rồng. Nó sẽ giết chết rồng.”

“Đừng lố bịch, Zelda,” bà Marcia đốp chát. “Bà không còn quyền ra lệnh được làm cái gì cho Thuyền Rồng nữa. Giờ ở đây ta là Nguời Giữ Thuyền.”

Mắt của Jenna và mắt Septimus gặp nhau. Sẽ có rắc rối đây.

“Cô…” dì Zelda lắp bắp không tin nổi. “Cô… Người Giữ Đầm?”

“Rõ rành rành,” bà Marcia nói. “Bây giờ Thuyền Rồng ở đây, dưới sự chăm sóc của ta. Bà ở quá xa, không thể tiếp tục bổn phận của bà được… Ơ, làm thế nào bà đến đây nhanh quá vậy?”

Dì Zelda đứng thẳng lên hết cỡ - tuy chiều cao của dì không nhiều để so sánh với bà Marcia, nhưng dù sao đi nữa đứng lên như thế cũng khiến dì Zelda cảm thấy tốt hơn. Đôi mắt phù thủy xanh da trời của dì lóe lên đắc thắng. “Những bí mật của Người Giữ Đầm không được tiết lộ cho bất cứ người nào, Marcia, và ta không được phép nói cho cô biết ta đến đây bằng cách nào. Tất cả những gì muốn sẽ nói là, chừng nào mà ta còn sống, chừng đó ta là Người Gìn Giữ Thuyền Rồng và ta vẫn là Người Giữ Đầm, luôn sẵn sàng cho Thuyền Rồng mọi lúc mọi nơi. Tam Hóa Thể cần có thời gian và không thứ gì, nhất là cái thứ Hồi Sinh thằn lằn cổ xưa đó, được phép can thiệp vào rồng. Giờ thì Marcia, đây là vấn đề sống còn, nhân danh Người Giữ Đầm, ta yêu cầu cô dẹp cái thứ Hồi Sinh đó đi. Ngay lập tức.”

Lần đầu tiên Septimus thấy, bà Marcia không thốt nên lời. Rất khoan thai, bà đóng nút bần trở lại cái chai thuốc Hồi Sinh, và với tất cả vẻ kiêu hãnh, bà đi qua xưởng đóng thuyền, thận trọng tránh cái thùng trên đường ra. Thật không hay tí nào với bản tính cáu bẳn của bà, khi bà phát hiện ra rằng Milo Banda, cùng với Sarah và Silas, từ trong bóng tối của căn nhà giam bị bỏ hoang, đã chứng kiến toàn bộ tình tiết.

Beelzebub xD CLICK HERE xD

Thank

22-Jun-2010 03:45 PM

#53

[D]evil

Điều hành viên

Ngày tham gia:

May 2010

Bài viết:

3,831

GOLD (TOP! 4):

49,650,155

Thanks:

27

Thanked 129 Times in 117 Posts

Chương 49: Khinh công

Bà Marcia bước qua hào nước Cung Điện, tiếng bước chân bà nện vang trên những tấm ván còn nóng ấm của cây cầu gỗ cũ. Bên cạnh bà là Milo Banda, người mang trọng trách xoa dịu bà Marcia suốt quãng đi bộ chóng vánh từ xưởng đống thuyền đến Cung Điện, sau cuộc chạm trán với dì Zelda.

Tại cửa Cung Điện, đứng bên cạnh chiếc ghế vàng nhỏ mà trên đó có con ma Godric ngồi ngủ gật, là một phó pháp sư, một phụ nữ trẻ duyên dáng có đôi mắt xanh lá cây long lanh.

"Chào buổi tối. Chào mừng đến với Cung Điện," cô phó pháp sư tươi cười.

"Chào buổi tối, Hildegarde," bà Marcia đáp lời.

Milo Banda lùi lại, đứng thập thò ở ngưỡng cửa. Bà Marcia để ý ông hơi run run và mắt ngân ngấn nước.

"Ồ," bà nói nhẹ nhàng. "Xin lỗi, Milo. Tôi không nghĩ ra. Ông có muốn chúng tôi để ông một mình một lúc không?"

Milo Banda gật đầu. Ông thơ thẩn đi xuống Lối Dài, nhìn vào những bức tường trống không và lắc đầu buồn bã.

Bất ngờ bà Marcia cảm thấy kiệt sức - quả là một ngày dài. Vụ Nhận Dạng đã để lại trong cái cảm giác trống rỗng một cách kỳ lạ, và hơn hết thảy, bàn chân bà đau thốn vì bị Khạc Lửa cạp hồi sáng. Thở phào một hơi nhẹ nhõm, bà ngồi phịch xuống chiếc ghế của Godric và tháo một chiếc giày ra. Con ma hoảng hồn nhảy khỏi ghế và rơi xuống sàn nhà thành một đống lùng nhùng.

"Ngài Alther," bà Marcia bực bội, "tôi tưởng ngài tống khứ tất cả lũ Cổ Nhân đi rồi chứ. Chúng ta không cần họ nữa. Chúng ta có đám phó pháp sư làm nhiệm vụ giữ cửa rồi."

"Godric rất bực mình khi ta yêu cầu ngài ấy đi, cho nên ta đã bảo ngài ấy ở lại. Dù sao thì," ngài Alther tặc lưỡi, "cô cũng nên có chút kính trọng đối với những Cổ Nhân. Cô rồi cũng sẽ là một Cổ Nhân, vào một ngày nào đó." Ngài Alther phủi bụi cho Godric và dìu ông ấy tới một chiếc ghế bành thỏai mái trong một góc tối u, yên lặng của đại sảnh. Con ma già chìm vào giấc ngủ sâu ngay tức khắc và không thức dậy cho đến nhiều năm sau đó, khi con gái của chính Jenna va phải ông bằng cái xe tập đi của nó.

Thật không may là khi trở về đến Cung Điện, Jenna đã không nhìn thấy ngài Alther và bà Marcia ngồi yên lặng tong một vùng tối mà những hàng nến lung linh đặt khắp đại sảnh không hắt tới được. Người đầu tên cô bé thấy, khi ông ta ló ra khỏi cảnh âm u của Lối Dài, là người lạ mặt của bến cảng. Chợt trông thấy Jenna, ông ta há hốc miệng và dừng sững lại ngay. Jenna thét lên thất thanh.

Bà Marcia đứng phắt dậy. « Jenna… chuyện gì vậy ? » Bà hỏi liếc nhìn quanh lo lắng.

Jenna không trả lời. Cô bé chạy bán sống bán chết ra khỏi Cung Điện và xông đến náu chỗ Septimus, Nic**, dì Zelda và Thằng Sói đang chậm chạp băng qua những bãi cỏ Cung Điện, và con Khạc Lửa cứ nằng nặc đòi rượt theo một con thằn lằn cỏ.

« Ông ấy ở đây ! » Jenna thét om khi đến bên dì Zelda. « Cái ông ấy đấy – ông ấy ở đây ! »

« Ông nào ? » Dì Zelda hỏi, vừa sửng sốt vừa thích thú trước cảnh bà Marcia tất tả chạy qua bãi cỏ về phía họ, chỉ mang có mỗi một chiếc giày.

« Jenna, » bà Marcia nói không kịp thở khi cuối cùng bắt kịp cô bé. « Jenna, có chuyện gì à ? »

« Chuyện gì à ? Chuyện cái ông ấy ấy – cái ông ở bến cảng. Cái ông đã túm lấy Thần Sấm, cái ông đã theo sau con, cái ông đồng lõa với Simon – thế mà bà bảo ông ấy đến Cung Điện của con. Đó ! »

« Nhưng Jenna, » bà Marcia phản đối, « nười đàn ông đó có toàn quyền ở trong Cung Điện. Ông ây là Milo Banda. Ông là… »

« Con không quan tâm ông ấy là ai ! » Jenna hét lớn.

« Nhưng Jenna, Jenna nghe ta này.. ông ấy là cha con. »

Mọi người điếng hồn nhìn bà Marcia sửng sốt.

« Không, không, » Jenna nói lắp bắp. « Ba đang ở dưới xưởng đóng thyền.. với mẹ. »

« Ừ, Silas đang ở dưới xưởng đóng thuyền, » bà Marcia nhẹ nhàng. « và Milo ở đây. Milo chính là cha ruột của con, Jenna. Ông ấy đến thăm con. »

Jenna im lặng một lúc lâu. Rồi bất ngờ cô nói, « Thế tại sao trước đây ông ấy không đén thăm con – khi con còn nhỏ ? » Và cô bé chạy vùng ra khỏi bãi cỏ, đâm thẳng vào con đường dẫn tới mặt sau Cung Điện.

« Ôi trời, » bà Marcia kêu lên.

Silas Heap không đón nhận sự trở về của Milo Banda một cách tử tế cho lắm, đặc biệt là khi Sarah cứ nhất mực đòi tổ chức một bữa tiệc ăn mừng trên mái Cng Điện để chào mừng ông đã về nhà.

« Anh không hiểu làm thế nào mà em có thể ăn mừng khi thằng con cả của chúng ta đang bị kẹt cứng trong Đường Hầm Băng dễ sợ đó, » Silas phản đối.

Sarah đang bận rộn bày biện cái bàn khi Silas đổ người đánh rầm xuống một chiếc ghế vàng của Cung Điện và nhìn đăm đăm một cách thiểu não lên bầu trời mùa hè đang tối dần.

« Em thậm chí còn không muốn nghĩ về Simon nữa, » Sarah nói nhanh. « Đội Tìm Kiếm sẽ sớm tìm ra nó, và sau đó ít ra nó sẽ được về nơi nào đó an toàn và ấm áp. »

« An tòan và ấm áp trong Lâu Đài không phải là điều anh muốn cho nó, Sarah à, » Silas làu bàu.

Sarah lắc đầu. « Silas, nếu anh còn nhớ thì đến hôm qua chúng ta vẫn còn không biết đứa nào đang ở chỗ nào kìa. Hôm nay thì chúng ta đã có ba đứa trở về - bốn chứ, nếu tính cả Simon – và chúng ta nên xem mình là những kẻ may mắc. Từ nay em sẽ nhìn nhận sự việc theo cách đó. » Bà vuốt thẳng tấm khăn trải bàn và bảo nguwofi phục vụ bữa tối đi xem đầu bếp đang nấu nướng thế nào rồi. « Dù sao thì, Silas à, chúng ta cũng phải chào đón Milo Banda. Xét cho cùng thì ông ấy cũng là cha của Jenna. »

« Hứ, » Silấ cục cằn.

«Sarah cẩn thận đặt những giá cắm nến ưa thích của mình vào giữa cái bàn dài. « Chúng ta vẫn biết một ngày nào đó điều này sẽ xảy ra mà. Thật chẳng hay ho gì khi lạ lẫm với chuyện này. »

« Anh không lạ lẫm, » Silas phản đối. « Anh chỉ nghĩ là thật kỳ quái khi ông ta xuất hiện sau ngần ấy năm. Ys anh là, ông ta đã ở đâu suốt thời gian đó ? Với anh thì có vẻ rất đáng ngờ. Hứ ! »

« Đừng có « hứ » hòai, Silas. Làm thế trông anh quái gở lắm. »

« Ờ, có lẽ tôi quái gở thật. Và tôi sẽ cứ nói « hứ » nếu tôi muốn, Sarah. Hứ. »

« Bữa tối kéo dài đến tận đêm khuya. Sarah đã xếp cho Milo Banda ngồi ở đầu cái bàn trải khăn trắng đơn giản. Nó nhắc Jenna nhớ buổi sáng ngày sinh nhật thứ mười của mình, mà bây giờ cảm tưởng như đã là một cuộc đời khác. Jenna cố ngồi càng xa khỏi Milo Banda cang tốt - ở tuốt đầu bàn bên kia – nhưng hóa ra đến lúc ngồi xuống rồi cô bé mới nhận ra mình đang ngồi đối diện với Milo, và cứ hễ nhìn lên là cô bé lại thấy ông đang rángmỉm cười với mình hoặc đang cố bẳt ánh mắt mình. Mất gần trọn bữa ăn Jenna cứ phải nhìn chăm chăm vào đĩa đồ ăn của mình hay chuyện trò dấm dẳng với dì Zelda đang ngồi kế bên cô.

Khi những cây đuốc lụi dần và nửa đêm đến gần, không khí mùa hè thành mát dịu và mọi người bắt đầu ngáp. Dì Zelda chồm qua Jenna và nói thầm, « Ba con là một người đàn ông tốt, Jenna. Con nên nghe những gì ông ấy buộc phải nói. »

« Con không quan tâm ông ấy phải nói gì, » Jenna trả lời.

« Một Nữ Hoàng Trẻ khôn ngoan thì lắng nghe trước đã. Sau đó hẵng phán xét. »

« Bữa tối kết thúc. Bà Marcia, Septimus và Khạc Lửa đã trở lại tháp Pháp sư. Nic** đi về cùng Silas, ông muốn chỉ cho cậu thấy một đội hình đất thủ cờ Cản Bất mà ông vừa mới tìm thấy đằng sau một ống nước trong gác mái của Cung Điện ; Sarah đang chăm sóc Thằng Sói, nó đã ngủ thiếp đi vào lúc bắt đầu bữa tối, và dì Zelda đang ở khu nhà bếp, cố gắngbảo đầu bếp trực khuya luộc một cây bắp cải cho bữa điểm tâm sáng hôm sau. Ngài Alther Mella ngồi yên lặng trong bóng tối, nghiền ngẫm những sự việc đã xảy ra trong ngày.

Và Jenna đang lắng nghe Milo Banda.

“Con biết không,” Milo nói, “mẹ con và ba đều vui mừng khôn xiết khi biết mình sắp có con. Cả ba lẫn mẹ đều hi vọng có một bé gái để sau này cô bé sẽ trở thành Nữ Hoàng. Dĩ nhiên, ba không bao giờ là vua cả - điều đó không có trong luật ở đây, không giống như mấy vương quốc Xa Xôi đâu. Ở đó, con có tin không, người ta trao quyền kế vị cho những đứa con trai. Nhưng ba rất vui là mình không phải làm Vua, bởi vì dù sao ba cũng chỉ là một thương gia bình thường nhưng ba yêu thích công việc của mình. Ba yêu cái sự phấn khích của việc đi đó đi đây và viễn cảnh một ngày nào đó ba sẽ kiếm được cả một gia tài cho riêng mình. Thế rồi, sáu tháng trước ngày con sinh ra, ba đã nắm bắt được một cơ hội đúng như thế. Với lời chúc phúc lành của mẹ con, ba thuê một con tàu ở bến cảng và bắt đầu lên đường. Vận may đến với ba và chả bao lâu sau ba đã có cả một con tàu chất đầy của cải để mang về cho con và mẹ con. Tất cả mọi thứ đều tốt đẹp, ba có một thủy thủ đoàn giỏi giang và những cơn gió bình yên suốt chặng đường về nhà, và ba đã về đến bến cảng ngay đúng ngày con hẳn là sẽ chào đời. Mọi thứ, bà nghĩ, đều hòan hảo. Nhưng rồi thì… khi ba cập cảng…” giọng của Milo nghẹn lại. “Ba… ba nhớ cứ như mới hôm qua thôi… một thủy thủ trên tàu báo tin cho ba, cái tin khủng khiếp đã lan truyền khắp bến cảng… rằng Cerys thân yêu của ba – mẹ của con – đã bị giết. Và con gái bé bỏng của ba cũng vậy.”

“Nhưng con không bị giết,” Jenna làu bàu.

“Ừm. Giờ ba mới biết điều đó. Nhưng khi đó… ba đã không biết. Ba tin những gì mọi người nói.”

“È, họ sai. Thế tại sao ông không đến Lâu Đài và xem có thật vậy không? Tại sao ông không đến tìm tôi? Ông đã chạy trốn.”

“Ừ, Ba cho rằng dường như là thế. Nhưng lúc đó ba không thể chịu nổi để mà ở lại. Bar a đi ngay trong dòng thủy triều kế tiếp và đi lang thang bất cứ nơi đâu cơn gió đưa ba đi – cho đến khi ba bị Deakin Lee bắt giữ.”

“Deakin Lee!” Jenna há hốc miệng. Ngay cả cô, kẻ chẳng ham mê gì về bọn cướp biển, mà còn nghe về tay Deakin Lee khét tiếng đó.

Milo đánh bạo mỉm cười ảo não với Jenna. Cô bé đáp lại ông một nụ cười nửa miệng rụt rẻ.

Ba sẽ không bao giờ quên bảy năm dài đăng đẳng trong ách kìm kẹp của Deakin Lee,” ông xuống giọng. “Từng giờ từng phút bà luôn nghĩ đến điều kinh hoàng đã xảy ra với con và mẹ thân yêu của con…”

“Làm thế nào ba trốn thóat?” Jenna hỏi.

“Một đêm nọ, vào mùa xuân năm ngoái, con tàu gặp phải những cơn sóng dữ. Ba đã nghe nói rằng chúng là song nhồi từ một trận bão Hắc Thuật cách xa hang ngàn dặm, nhưng chúng la những con song tốt lành đối với ba. Deakin Lee bị song đánh rơi xuống biển và thủy thủ đòan của hắn thả bar a. Ba nắm quyền chỉ huy con tàu. Vài tuần sau cập tàu vào một cảng nhỏ và ba đã nghe tin đồn rằng con còn sống. Ba gần như không tin điều đó – ba cảm thấy như cuộc đời mình hồi sinh lại một lần nữa. Ba dong buồm lên đường ngay lập tức và gió yên bình suốt chặng đường đưa ba đến bến cảng. Bọn ba đã căng cờ thông báo cho Hải quan, và Chỉ huy Hải quan xuống tàu ba ngay sang hôm sau. Bà ta nhìn một lượt châu báu trên tàu và bảo chúng ta phải đợi cho đến khi kho hang chính được giải phóng đã – bà ta là một người hung bạo, cái bà quan Nettles đó. Nhưng ba biết ơn bà ta, vì nếu bà ta không làm thế thì ba đã không gặp con vào buổi tối hôm đó.”

Jenna nhớ cảnh ở kho hang. Đến giờ thì mọi thứ đều rõ rang.

Milo kể tiếp, “Khi ba nhìn lên và thấy con đang ngồi trên lưng ngựa, đúng y cung cách mà mẹ con vẫn thế, và rồi ba thấy chiếc vòng nhỏ đội trên đầu con, thì ba biết chắc chắn con là con gái của ba. Nhưng ba xin lỗi, Jenna, ba nghĩ tối hôm đó ba đã làm con hoảng sợ. Ba đã không nghĩ ngợi gì – ba chỉ muốn nói chuyện với com. Jenna… Jenna?”

Jenna đã quay đi và nhìn chăm chăm vào bóng tối, chỗ những ngọn đuốc đang tan chảy trên mái Cung Điện không hắt ánh sáng tới.

“Jenna?” Milo lặp lại.

“Con cảm thấy ai đó đang nhìn mình,” cô nói.

Milo ngọ nguậy vẻ không thỏai mái. “Ba cũng cảm thấy vậy,” ông nói. Milo Banda và con gái nhìn trừng trừng vào những khoảnh tối nhưng cả hai đều không thấy được hồn ma của Nữ Hoàng đang nhìn chồng và con gái mình nói chuyện với nhau lần đầu tiên trong đời.

Ngài Alther bay thấp thoáng đến bên Nữ Hoàng. “Thật tốt khi thấy Người rốt cuộc cũng đánh liều ra khỏi phòng Nữ Hoàng,” ngài nói.

Nữ Hoàng cười buồn bã. “Ta phải trở lại ngay lập tức, ngài Alther; nhưung ta không thể cưỡng lại việc phải nhìn Milo yêu dấu của ta chỉ một lần nữa – và cả con gái nữa.”

“Người có thể an tâm rằng họ đã là cha và con rồi,” ngài Alther nhận xét.

“Ừ, đúng vậy.” Nữ Hoàng gật đầu chầm chậm. “Cái cách họ đứng với nhau, phải vậy không?”

“Trông cô ấy rất giống Người – giống một cách đáng kinh ngạc.”

“Ta biết,” Nữ Hoàng thở dài. “Chúc ngủ ngon, ngài Alther.”

“Ngài Alther nhìn Nữ Hoàng lẳng lặng trôi đi, ngang qua Jenna và Milo Banda, cả hai người đều đang nhìn thẳng vào Nữ Hoàng nhưng không thấy gì. Không lâu sao Nữ Hoàng đã tới tháp canh và khéo léo bước qua bức tường đá dày. Bên trong phòng Nữ Hoàng, ngọn lửa trong lò bừng sáng như vẫn luôn luôn thế và Nữ Hoàng ngồi im lặng trong ghế của Người, nhớ lại những sự việc trong ngày hôm nay – cái ngày mà Người đã đợi chờ rất nhiều năm rồi.

Septimus, bà Marcia và Khạc Lửa thủng thỉnh đi bộ dọc theo đường Pháp Sư. Những ngọn đuốc chiếu sáng rực trong cột trụ bằng bạc, và Khạc Lửa cứ nhảy nhót vào những mảng tối lập lòe hắt xuống vỉa hè. Giờ đã là sau nửa đêm và tất cả những cửa hiệu đều đóng cửa tối om, nhưng khi họ đi ngang qua Văn phòng Sao lục, Septimus nghĩ mình thoáng thấy ánh sáng đằng sau những chồng sách và giấy khổng lồ. Nhưng khi nhìn kỳ hơn thì nó lại không thấy gì.

Bà Marcia đi khập khiễng một cách đau đớn lên những bậc thang bằng đá hoa cương đến tháp Pháp Sư. Septimus đặt Khạc Lửa vào cái cũi rồng cho nó ngủ đêm.

« Phải đảm bảo để nó không ra ngoài được, Septimus, » bà Marcia dặn Septimus khi cánh cửa đôi bằng bạc của tòa tháp mở ra cho Pháp sư Tối thượng. « Và đừng quên cài then đôi cho cánh cửa. »

« Dạ, » Septimus đáp, và bà Marcia liêu xiêu đi vào trong với vẻ biết ơn.

Khạc Lửa nằm xuống ngoan ngoãn đến ngạc nhiên. Septimus đẩy hai cái then sắt khổng lồ xuyên qua cánh cửa và nhón gót đi khỏi tiếng ngáy của con rồng làm rung cả cái cũi.

Đó là một buổi tối đẹp trời. Sân trong của tháp Pháp Sư vắng vẻ ; những ngọn đuốc Pháp Thuật được đặt dọc trên đỉnh những bức tường bao quanh sân thả ánh sáng màu đỏ tía dịu xuống mảnh sân lát đá phiến cũ, lờ mờ đủ cho Septimus vẫn nhìn thấy hàng vạn ngôi sao trên bầu trời đêm.

Septimus kề rề đi vào trong. Nó nhìn lên những vì sao và tất cả những giấc mơ bay xưa cũ ùa về trong nó. Nó biết mình không thể kháng lại nữa rồi – nó lấy bùa Khinh Công, mũi tên vàng với những cái đuôi bạc mới ra, ngồi đó vân vê trong tay, và Septimus cảm thấy một luồng Pháp Thuật chạy xuyên qua mình. Khi chùm đuôi bắt đầu vẩy vẩy, Septimus cảmt aháy mình nâng lên khỏi mặt đất, lên, lên, cho đến khi nó cao bằng với mái vòm lớn. Giữ mũi tên giữa ngón trỏ và ngón cái, nó chỉ mũi tên về phía Cung Điện, sau đó giang rộng cánh tay ra như nó đã có lần nhìn thấy ngài Alther làm – và nó bay.

Nó sà xuống đường Pháp Sư, thấp và nhanh đúng như ngài Alther vẫn thích làm, tăng tốc bay vù qua cổng Cung Điện, và rồi vút lên mái Cung Điện, y như nó vẫn luôn làm trong giấc mơ của mình. Bên dưới nó thấy Jenna và cha ruột của cô bé đang dựa người vào bức tường có lỗ châu mai, rù rì nói chuyện. Phân vân không biết có nên cắt ngang họ hay không, nhưng nó nóng lòng muốn làm Jenna ngạc nhiên và muốn biểu diễn cho cô thấy nó có thể Khinh ông tuyệt đến thế nào. Septimus lượn lờ một lúc, đợi may ra chộp được một khoảng nghỉ trong câu chuyện dông dài của Milo. Chợt có gì đó đập vào mắt nó.

Ở phía bên kia song, một con ngựa phi nước đại qua vùng nông trại. Cưỡi trên lưng con ngựa – vừa mới trộm được từ quán trọ Cá Bơn Sảng Khóai – là bóng dáng quen thuộc. Simon.

Septimus chỉ bùa Khinh Công về phía hình dáng lờ mờ của anh cả mình. “Bám theo,” nó thì thầm với bùa. Trong chớp mắt, nó thấy mình bứt xa khỏi Cung Điện và lao vèo vèo qua những bãi cỏ dẫn tới dòng song. Không lâu sau mùi ẩm ướt của dòng song đã tràn ngập lỗ mũi khi nó bay là đà qua mặt nước ban đêm lạnh giá, làm kinh sợ mấy con vịt đang bơi. Khi tiếng quác quác giận điên của lũ vịt chìm xuống, Septimus đã qua được đến bờ bên kia; nó bay phía trên mái lợp tranh của một căn nhà nông trại đơn độc và chao liệng một lúc, tìm kiếm anh mình. Qủa không sai, ở đằng xa, dọc theo con đường đất quanh co uốn lượn quanh vùng nông trại, Septimus thấy một kỵ sĩ thúc ngựa bươn vào màn đêm Một cú chuỷen tóc dọ chung cuộc thật ngoạn mục đưa Septimus ngang bằng với Simon, và Septimus bay – thọat đầu không bị nhing thấy – sát bên cạnh gà, dễ dàng giữ cho ngang tốc độ với con ngựa mồ hôi nhễ nhại.

Cuối cùng Simon bỗng nhận ra mọi việc không được suôn sẻ, “Mày!” Gã thét lên, dừng kịt lại trong đám mây bụi.

Septimus đáp xuống nhẹ nhàng đằng trước con ngựa.

“Mày… mày… mày lấy bùa Khinh Công của tao,” Simon líu lưỡi, nhìn thấy mũi tên vàng trong bàn tay Septimus.

“Tôi có bùa Khinh Công thật,” Septimus đồng ý, bay gọn ghẽ khỏi tầm với khi Simon lảo đảo chồm tới trước để giằng lấy bùa. “Nhưng bùa Khinh Công không phải là của tôi. Bùa Khinh Công không thuộc về ai cả, Simon. Anh nên biết rằng một lá bùa cổ xưa luôn là chủ nhân của chính nó.”

“Đồ ngu vênh váo,” Simon rít trong hơi thở.

“Anh nói gì?” Septimus hỏi, dù đã nghe rõ mồn một.

“Không gì cả. Biến khỏi đường tao đi thằng ranh, và đừng nghĩ lần này mày có thể thực hiện cái trò Chết Đứng rác rưởi đó.”

“Tôi sẽ không đi,” Septimus đáp, lượn lờ đằng trước con ngựa. “Tôi đến để bảo anh rằng anh phải đi khỏi nơi này.”

“Thế chính xác mày định sẽ làm gì,” Simon gầm lên.

Septimus giữ nguyên vị trí, chặn đường đi của Simon. “Tôi cũng đến để bảo anh rằng nếu anh còn muốn làm hại Jenna lần nữa, thì anh sẽ phải đối đầu với tôi. Hiểu chứ?”

Simon nhìn trừng trừng vào thằng em út. Septimus cũng nhìn trả lại trừng trừng, đôi mắt xanh lá cây rực của nó lóe sáng giận dữ. Simon không nói gì, bởi vì có một sức mạnh tóat lên ở Septimus mà hắn đã nhận ra – sức mạnh của người con trai thứ bảy của người con trai thứ bảy.

“Hiểu không?” Septimus lặp lại.

“Hừm,” Simon ậm ừ.

“Giờ anh có thể đi,” Septimus nói lạnh lùng và đáp xuống đất, đứng dạt qua một bên để Simon có thể đi qua.

Simon nhìn xuống thằng nhóc áo xanh lá cây vô phương tự vệ giữa vùng nông trại hoang vắng, tối mịt mùng vào lúc quá nửa đêm. Chỉ cần một thoáng chớp thôi, làm cho thằng Septimus biến mất thật dễ biết chừng nào – không ai biết chuyện gì đã xảy ra. Không ai mảy may nghi ngờ… nhưng Simon không làm gì. Và rồi bất thình lình gã đá thúc con ngựa đi và phi nước đại vụt biến mất, ngoái đầu lại la lớn, “Tao ước phải chi mày đã chết khi bà mụ nhặt được mày!”

Septimus bay chầm chậm trở lại tháp Pháp Sư với những lời của Simon văng vẳng trong đầu.

Nó mỉm cười. Người cuối cùng trong số các anh trai nó đã chấp nhận nó.

Beelzebub xD CLICK HERE xD

Thank

22-Jun-2010 03:59 PM

#54

[D]evil

Điều hành viên

Ngày tham gia:

May 2010

Bài viết:

3,831

GOLD (TOP! 4):

49,650,155

Thanks:

27

Thanked 129 Times in 117 Posts

Chuyện gì đã xảy ra trước đó...

Billy Pot

Billy Pot từng là chủ một cửa hàng chuyên bán bò sát nuôi trong nhà. Billy mê đám thằn lằn và rắn, anh ta đặc biệt chuyên về gây giống loài trăn màu đỏ tía. Con trăn lớn nhất mà Billy đã từng gây giống sống ở sân sau cửa hàng giày của Terry Tarsal. Terry, vốn chẳng ưa gì loài rắn, đã phải rất miễn cưỡng dùng bộ da đã lột của chúng để làm những đôi giày da trăn mũi nhọn cho bà Marcia.

Khi Bảo hộ Toàn quyền mua một bày rùa đớp từ cửa hàng của Billy và sau đó ra lệnh cho anh ta chuyển đến Cung Điện để trông nom chúng, Billy không dám từ chối. Cháu gái của Billy, Sandra, tiếp quản cửa hàng, và trước sự phản đối kịch liệt của Billy, cô nàng bắt đầu bán chuột đồng làm cảnh và thỏ lông mịn như tơ. Những mặt hàng thú mới của Sandra tỏ ra được rất nhiều người ưa chuộng và không lâu sau cô nàng đề nghị mua luôn cửa hàng thú cưng của Billy.

Với số tiền Sandra đã đưa cho mình để mua lại cửa hàng, Billy lập nên những hang nuôi thằn lằn gần bờ sông, sáng chế ra cỗ máy kỳ quặc và bắt tay vào công việc không bao giờ kết thúc là thực hiện cho được một bãi cỏ hoàn hảo. Khi gia đình Heap chuyển vào Cung Điện với Jenna, Silas mời Billy tiếp tục ở lại và giúp họ tống khứ bọn rùa đớp đi. Billy đồng ý, nhưng công việc cho thấy là không khả thi và anh ta đã bỏ cuộc sau khi suýt mất ngón tay cho một con rùa đặc biệt hung dữ.

Una Brakket

Una Brakket là quản gia ở Doanh trại Thiếu sinh quân khi Septimus mới chập chững biết đi. Una không thích lũ con trai, thậm chí không đoái hoài tới chúng và khiến bọn Thiếu Sinh Quân sợ chết khiếp; chẳng bao lâu sau mụ ta bị thuyên chuyển và trở thành quản gia cho Thợ Săn và đội truy sát của hắn. Una Brakket thật lòng thật dạ ngưỡng mộ Thợ Săn, mặc dù liệu Thợ Săn có thèm chú ý tới mụ hay không vẫn còn là một mối nghi ngờ. Có lần hắn chỉ hỏi mụ xem vớ của hắn đâu, thế mà mụ đã ngơ ngẩn đi loanh quanh trong cơn mộng tưởng suốt nhiều ngày sau đấy. Sau đó mụ bắt đầu thích giấu vớ của Thợ Săn để mong hắn có thể hỏi đến mụ lần nữa, nhưng hắn đã không bao giờ hỏi.

Khi Bảo hộ Toàn quyền chạy trốn và jenna trở về sống trong Cung Điện với tư cách là Công Chúa, Una lợi dụng Dự án Cơ Hội Thứ Hai[1] của ngài Alther và bà Marcia. Mụ xin vào làm quản gia cho Cung Điện, nhưng không thành vì Sarah Heap nghĩ mụ thật đáng sợ. Rốt cuộc, Dự án lại đưa mụ đến yết kiến giáo sư Weasal Van Klamff, ông đành nhận mụ vào làm chỉ bởi vì quá kinh sợ mụ nên không dám từ chối.

Tuy nhiên, cảm tình của Una vẫn dành cho DomDaniel, và mụ tham gia vào Tổ chức Khôi phục, một mạng lưới bí mật của những kẻ mong muốn hắn trở lại. Chúng gặp nhau mỗi tối thứ bảy dưới vỏ bọc là những buổi khiêu vũ kiểu đồng quê. Chính nhờ thông qua chúng mà Una bắt nối được với Simon Heap.

[1] Dự án Cơ Hội Thứ Hai: dự án giúp những kẻ thân bảo bộ có cơ hội hoàn lương và tạo dựng cuộc sống mới. (ND)

Giáo sư Weasal Van Klamff

Weasal Van Klamff xuất thân từ một dòng họ lâu đời gồm những giáo sư. Cách đây nhiều trăm năm, giáo sư Doris Van Klamff đã phát minh ra một công thức bí mật rất phức tạp nhằm trừ khử Những Thứ Ám Ảnh. Những thứ này bao gồm Vong, chẳng hạn như Vong đi theo bà Marcia, và những Bóng Ma, giống như loại đã Chờ Đợi ngài Alther khi ngài còn là Học Trò của DomDaniel. Mặc dù dòng họ Van Klamff có khả năng toán học tuyệt vời, nhưng họ có khuynh hướng rất dễ bị mắc lừa và cực kỳ hay quên; Weasal không phải là ngoại lệ.

Sau khi cho của Weasal, Otto, trong khi pha chế một hợp chất để bay hơi đã tự thôi mình đi mất, cùng với phòng thí nghiệm Van Klamff truyền thống, Weasal quyết định từ bỏ việc thí nghiệm và sống một cuộc sống yên bình bên cạnh hào nước. Khi chuyển đến sống trong ngôi nhà của mình trên bờ trượt Rắn, ông hoảng hốt khi phát hiện ra một phòng thí nghiệm cổ bị giấu kín ở cuối một cụm đường hầm chằng chịt. Weasal đã mất nhiều nằm cố phớt lờ phòng thí nghiệm đó, nhưng cuối cùng sức lôi cuốn quá lớn, và ông quyết định tiếp tục công việc của cha mình. Ông đã hoàn chỉnh Hợp chất của Otto, nhờ đó nó hoạt động như một bức màn tất đắc lực, che chắn được năng lượng. Hắc thuật, và do đó đã vô tình cung cấp một nơi ẩn nấp lý tưởng cho những khúc xương của DomDaniel.

Weasal Van Klamff là một người cả tin và không biết tí ti gì về việc Una Brakket thuộc về Tổ chức Khôi phục.

Beetle

Beetle chỉ một đứa bé. Cậu lớn lên ở khu Mở Rộng – ba mẹ cậu có hai phòng lớn ở ngay tầng bên dưới gia đình Heap. Một trong những kỷ niệm đầu đời của Beetle là mẹ cậu thúc mạnh lên trên trần nhà bằng cán chổi, và thét vang, “Ôi lạy trời yên lặng coi!” Ba mẹ Beetle quyết không cho Beetle lèo bánh hay dính líu bất cứ điều gì tới nhà Heap, và như thể chỉ càng khiến gia đình mang vẻ hấp dẫn hơn đối với Beetle, và chẳng bao lâu sau cậu đã kết bạn với Jo-Jo Heap, đứa bằng tuổi cậu.

Vào lúc mười một tuổi, thật vui mừng khôn xiết đối với bà mẹ, Beetle vượt qua bài kiểm tra tuyển người mang tính cạnh tranh rất cao của Văn phòng Sao lục. Beetle bắt đầu bằng chân chạy việc vặt, và sau khi nhân viên Kiểm tra rời khỏi ván trượt và gãy mắt cá chân, Beetle được tin cậy đủ để tiếp quản vị trí kiểm tra đường hầm băng hàng tuần.

Beetle thích Heaptimus lắm, nó gợi cho cậu nhớ vè Jo-Jo, nhunwng nó cũng chia sẻ sự yên thích của Beetle về Phép Thuật và sở thích những thức uống có ga kỳ lạ. Beetle cùng chia sẻ sự ghê lạnh của Septimus đối với Hắc thuật, như có lần cô đã nói với Septimus khi đang uống ca rễ cây xèo xèo, “Tất cả các thứ Hắc thuật đều đen tối. Cái lão già kinh khủng đó vừa trở về tháp Pháp Sư là con chuột đồng của anh chết luôn, mẹ anh bị một cái nhọt to tướng ở mũi, còn con mèo thì chạy mất. Tất cả chỉ vì cái thứ Hắc thuật bám vào người anh trong khi làm việc, xong rồi anh lại mang nó về nhà. Khủng khiếp.”

Septimus cũng rất thích Beetle. Nó tin cậu hoàn toàn.

Boris Catchpole

Trong trí nhớ của Boris Catchpole thì người ta chỉ gọi hắn bằng họ của hắn. Mẹ hắn đã cố hết sức để gọi hắn là Boris, nhưng cho đến lúc hắn bắt đầu đi được chập chững thì cuối cùng bà cũng phải như những người khác, tức là bỏ cuộc và chuyển qua gọi một cách đơn giản là Catchpole – dù sao cái tên Boris cũng có vẻ quá phổ biến.

Hoài bão của Catchpole là trở thành Thợ Săn. Hắn chạy trốn khỏi nhà và gia nhập đội Truy sát ở Vùng Đất Hoang vào lúc DomDaniel đang chuẩn bị cuộc ám sát Nữ Hoàng. CatchPole đã rèn luyện chăm chỉ trong Đội, nhưng hắn không được chú ý. Hắn đã bỏ việc đánh răng từ khi còn bé và không hề có ý định đánh răng lại bởi vì hắn không có mẹ hắn ở đó để mà nhắc nhở. Khi né, hắn có một thói quen hãi hùng là búng tặc tặc lưỡi lên vòm miệng và khiến cho mọi người dễ bực mình, và trên hết, hắn lớn quá nhanh, chẳng bao lâu hắn đã trở nên quá cao nên không thể trở thành mọt Thợ Săn Giỏi được.

Catchpole, đúng như tên hắn(*), trở thành phố Thợ Săn nhưng không tiến xa hơn được nữa. Sau một cuộc lật đổ Bảo hộ Toàn quyền, hắn tham gia vào Dự án Cơ Hội Thứ Hai và được châp nhận làm một phó Pháp Sư – một vị trí pháp sư mới học hành cho những người trưởng thành hoặc không có kiến thức Pháp Thuật nền.

Hoài bão của Catchpole hiện giờ là trở thành một pháp sư đúng nghĩa. Ít nhất là hắn muốn trở thành một Pháp sư Thường đẳng, nhưng hắn đã quyết định rằng hắn sẽ không từ chối công việc của một Pháp sư Tối thượng nếu hắn được trao cho – Điều đó là điều không bao giờ xảy ra.

Jannit Maarten

Nếu bạn yêu cầu Jannit Maarten diễn tả về mình, bà sẽ nói, “thợ đóng thuyền.” Và bà sẽ chỉ nói như thế. Jannit chỉ dành chút thời gian chính trị, thậm chí cho đám pháp sư còn ít hơn. Bất kỳ chuyện gì diễn ra trong Lâu đài cũng không ảnh hưởng được đến Jannit, cả thế giới của bà chỉ là xưởng đóng thuyền ngay bên ngoài những bức tường Lâu Đài. Bà ngủ ngon lành trong chiếc vòng của mình vào ban đêm, thức dậy lúc bình minh và sung sướng tiêu hết thời gian ban ngày vào việc đóng, sửa, sơn, cào – cũng như hàng trăm việc tỉ mỉ khác mà những con thuyền đòi hỏi.

Mặc dù Nic** thấy thật khó tin, nhưng Jannit cũng đã từng là một bé gái, dù chính bà cũng đã quên điều đó – có thể bởi vì bé gái đó đã lớn lên trong một nông trại nhỏ ở giữa Vùng Nông Trại và rất không thích gà, rất ghét bò, và ghê tởm heo. Ba me của cô bé không bao giờ hiểu tại sao , lúc mười bốn tuổi, Jannit đã ăn bận như một thằng con trai và chạy biến ra biển. Lúc mười chín tuổi, cô trở về với một chiếc thuyền của chính mình và lập xưởng đóng thuyền Jannit Maarten sát bên bến hải quan bỏ hoang của Lâu Đài. Jannit hoàn toàn hạnh phúc với cuộc sống của mình và bất đắt dĩ mới đặt chân ra ngoài xưởng đóng thuyền yêu quý.

Bóng Săn

Bóng Săn đã có thời là một trái banh quần vợt. Nó mất hai năm nằm trong một cái rãnh ướt lũng bũng bên cạnh sân quần vợt của bến cảng sau khi ai đó đã đánh nó ra ngoài cửa sổ trong cơn nóng giận. Nó đã bị chuột gặm thảm hại và từ từ rả ra, cho đến một ngày nọ Simon Heap nhặt lén, đút nó vào túi gà và đưa nó trở về đài quan sát.

Trong vài tháng sau đó, Bóng Săn nằm trong một cái niêm phong được Simon Deap cẩn thận chăm sóc. Hắn thường xuyên chăm đầy khí độc và độc dược và đó, tụng niệm bên nó suốt nhiều giờ dài dằng dặc và bao bọc nó bằng những bùa Đảo Ngược. Khi Bóng Săn dần dần tỉnh lại, nó nghe những câu thần chú được lẩm bẩm phía trên mình vào nửa đêm và ngửi thấy mùi khói Hắc Thuật mà Simon rải đều khắp cái hộp. Nó đã nằm đó, lo lắng phập phồng nhưng thích thú, đợi xem chuyện gì sẽ xảy ra.

Sau đó, một tối nọ, vào đêm Hắc ám của Mặt Trăng, Bóng Săn được thả ra khỏi hộp, lần đầu tiên nó được thấy thế giới, và nó vô cùng vui thích. Simon Heap cũng hài lòng với tạo vật của hắn không kém. Bóng Săn tỏa ánh sáng rực và xem ra khá thông minh; nó biết nghe lời và học hỏi rất nhanh. Chẳng bao lâu nó được theo Chủ Nhân đi khắp mọi nơi và trở thành đầy tờ trung thành và tin cậy nhất của Simon Heap.

Y ta Meredith

Y tá Agnes Meredith, cựu bà mụ chinh, cựu kẻ bắt cóc trẻ con, đến bến cảng sau khi được thả khỏi Nhà Thương Điên của Lâu Đài dành cho những kẻ bị lừa dối và đau khổ. Mụ đi lang thành trên các nẻo đường tìm kiếm thằng con của mình, Merrin, nhưng không gặp. Cuối cùng mụ tiêu cạn tiền trợ cấp của Nhà Thương Điên và tìm được việc làm là chân quét dọn tỏng một nhà trọ xơ xác ở Nhõ Dây Thừng, sát bên nhà của Bộ lạc Phù thủy bến cảng.

Chủ của nhà trọ là bà Lorrie Bundy, một phụ nữ to lớn cộc tính và nhớ dai. Florrie có mối thù sâu sắc, không nguôi với những mụ phù thủy hàng xóm của mình, và nguôi với những mụ phù thủy hàng xóm của mình, và chính từ một cuộc tranh cãi nóng nảy về một gói trà dùng rồi (Florrie cho rằng gói trà đó đã nhắm vào đầu bà một cách có chủ đích) mà dẫn đến sụ kết liễu của bà. Linda, kẻ một ngày nọ không biết làm gì hay hơn là ném gói trà thật vào đầu Florrie thật, cuối cùng đã chán ngấy chuyện bị la hét nên đã đặt một bùa Co Rút vào Florrie. Sau vài tuần, bùa co rút dần dần mòn kích thước của Florrie lại chỉ còn bằng đúng một gói trà, và một buổi sớm sương giá, bà trượt chân trên băng, rơi xuống cái mương bên ngoài cửa sau và chết đuối.

Anges Meredith đã quan sát Florrie co rút lại với vẻ khoái chí vô cùng. Một ngày nọ, khi không thể tìm thấy bà chủ nhà trọ bé tí đâu, y tá Meredith liền tiếp quản căn nhà trọ cứ như không gì xảy ra. Chẳng bao lâu sau mụ biến nó thành của chính mụ - treo giấy dán tường có rắc bột lên, dán lên tường những thông điệp kỳ dị và nhồi ngập căn nhà bằng hoa khô và búp bê. Mụ thích ở bên lũ búp bê của mụ, và sau một thời gian mụ đã ngừng tìm kiếm Merrin. Ít nhất là với búp bê, người ta biết mình đang ở đâu, mụ tự nhủ như vậy.

Maureen

Maureen đã một lần chạy trốn đến bến cảng với trưởng nhóm bóc vỏ khoai tây sau một biến cố trong nhà bếp Cung Điện. Maureen và trưởng nhóm bóc vỏ khoai tây, Kevin, đang dành dụm để mua một quán ăn của riêng mình. Khi Kevin được nhận làm đầu bếp trên một con tàu buôn lớn cho chuyến đi vòng quanh thế giới, Maureen nhận công việc duy nhất mà cô có thể tìm được lúc đó, tứ làm việc trong Nhà Búp Bê. Điều đó không lý tưởng lắm nhưng cô đã xoay xở để dành được tiền boa từ những vị khách dễ chịu, và ít ra thì sống trong cái buồng dưới cầu thang thì cũng có nghĩ là cô không cần phải trả tiền thuê nhà. Cô khát khao mong chờ ngày Kevin trở về và họ sẽ tìm được một nơi nhỏ bé của riêng mình gần bến tàu.

Bộ lạc phù thủy cảng: Veronica

Trong số những phù thủy thuộc Bộ lạc Phù thủy thì Veronica là người ở lâu nhất, nhưng mụ không nắm được chức vụ Mẹ Phù thủy vì tính hay quên, cộng với khuynh hướng hay mộng du ra khỏi Bộ lac rồi đi lạc nhiều ngày liền của mụ. Veronica yêu thích chuột, nỗi đam mê này mụ thừa hưởng từ cha mình, Jack, hiện đang sống trên bãi cỏ tranh gần Đầm Cỏ Thô. Giống cha, Veronica có một bộ sưu tập lớn những con chuột nhốt trong lồng đá mục rửa theo nhiều giai đoạn khác nhau.

Linda

Linda là người trẻ nhất trong đám phù thủy, và như cô ta vẫn tự đắc, “có thể nghĩ ra được bất cứ mưu mẹo gì”. Những phù thủy khác thích sống cùng Linda chứ không thích những trò đùa ác ý của cô ta. Linda tính khí hung hăng và có thiên hướng dùng những câu thần chú khủng khiếp nếu ai đó làm cô ta cáu tiết. Nhưng sau vụ Dorinda mọc tai voi, không ai trong số phù thủy thích cô ta nữa. Pamela, Mẹ phù thủy, thấy rằng Linda có tiềm năng và đang bí mật chuẩn bị cho cô làm người kế vị mình.

Daphne

Daphne là một người im hơi lặng tiếng trong Bộ lạc Phù thủy. Bà hay đi thơ thẩn xung quanh một cách hòa nhã và không thích giao du, sung sướng nuôi một bầy mọt khổng lồ, đang chầm chậm ăn mòn dần ngôi nhà. Daphne yêu lũ mọt và hầu như chỉ chuyện trò với chúng.

Pamela là Mẹ Phù thủy và một phù thủy Hắc ám trong Bộ lạc Phù thủy. Dĩ nhiên tất cả phù thủy đều nghĩ mình là Phù thủy Hắc thuật, nhưng Pamela mới là Hắc thuật thật sự. Mụ đã trả qua vài năm với DomDaniel ở Đài Quan sát và đã trở về với nhiều câu chuyện Hắc thuật để kể, những câu chuyện đó làm kinh sợ những thành viên khác trong Bộ lạc Phù thủy, mặc dù họ thà uống nước ép ếch thối còn hơn là thừa nhận điều đó. Pamela có căn phòng riêng khóa kỹ mà những phù thủy khác phải tránh xa thật xa, và đêm đến, khi những tiếng thét rợn óc vang lên từ căn phòng đó, những người còn lại của Bộ lạc Phù thủy phải nhét ngón tay vào lỗi tai và cố gắng ngủ.

Dorinda

Dorinda không hề phải lo lắng một cách thái quá đến diện mạo của mình cho đến cái đêm tai voi kinh hoàng đó. Cô ta biết mình không thuộc loại ưa nhìn đặc biệt cho lắm, vì mũi hơi bị cong sau cuộc tranh cãi với cái thang thoái hiểm, và cô ta không bao giờ thích mái tóc của mình. Nhưng Dorinda đã từ bỏ bất cứ sự cố gắng chải chuốt riêng tư nào sau khi Linda buộc tội cô ta nghe lén cuộc tình tự riêng tư của Linda với một thầy phù thủy trẻ mà Linda mang về nhà. Dorinda cực lực phủ nhận sự vụ - dẫu cả Bộ lạc Phù thủy đều biết tỏng cô ta hay rón rén đi quanh để lắng nghe qua lỗ khóa. Linda nổi cơn lôi đình và ban cho Dorinda một cặp tai voi (tai voi châu Phi – thứ tai lớn thật sự), bảo rằng “nếu nó định quạt tai lung tung khắp nơi này, thì nó sẽ có cặp tai tươm tất để mà tha hồ quạt.” Kể từ đêm hôm đó Dorina luôn dội một chiếc khăn tắm lớn quấn quanh đầu và luôn giả vờ đối với những người còn lại của Bộ lạc Phù thủy rằng mình vừa mới gội đầu xong, mặc dù họ biết mười mươi – và Dorina biết bọ biết – rằng bên dưới cái khăn tắm khổng lồ là một đôi tai voi châu Phi được gấp lại gọn gàng. Đó là câu thần chú vĩnh cửu, và thậm chí đến Pamela cũng không thể tống khứ nó đi được.

Hugh Fox, Trưởng phòng Sao chép Mật

Hugh Fox đang là một người sao chép văn bản tầm thường ở Văn phòng Sao lục suốt hai mươi lăm năm thì ông ta được chọn để trở thành Trưởng phòng Sao chép Mật.

Khi DomDaniel dụ bà Marcia trở về từ Đầm Cỏ Thô, nắn đã cướp quyển sách bà mang theo bên người, Vô Hiệu Hóa Hắc thuật Gã Thầy Đồng Gọi Hồn đã đưa quyển sách cho Waldo Watkins, lúc đó là Trưởng phòng Sao chép Mật và bắt ông ta dùng Quyền năng Hắc thuật Mật luôn luôn cõ sẵn ở mỗi Trưởng phòng để Mở Khóa những bí mật của nó. Watkins đã tù chối, và tối đó trên đường về nhà Waldo Watkins biến mất, không bao giờ lại nữa.

DomDaniel dứt khoát đòi một sự thay thế ngay lập tức và việc rút thăm được thực hiện. Rút thăm là một nghi thức mỗi người chép văn bản đặt cây bút của mình vào một bình tráng men lớn cổ xưa. Cái bình đó được đưa vào buồng Tuyệt Mật và để lại qua đêm. Sáng hôm sau sẽ có một cây bút được thấy nằm trên bàn, trong khi những cây khác vẫn còn lại trong bình. Theu truyền thống, người chép văn bản trẻ tuổi nhất sẽ được phái vào trong để mang cây bút được chọn ra.

Tuy nhiên, khi Hugh Fox được chọn, DomDaniel đồi đích thân mình phải vào buồng Tuyệt Mật để lấy cây bút. Khi hắn mang ra cây bút bị nhai nát của Hugh Fox, không ai tin nổi. Ngay cả Hugh Fox cũng không tin. Có tin đồn về việc chọn không công bằng, nhưng không gì có thể chứng minh cả.

Sự thật là DomDaniel đã đặt cây bút thuộc về Jillie Djinn, một người chép văn bản đọc giỏi và tài năng, trở lại bình, và kéo cây bút của Hugh Fox ra – bởi vì hắn cho là Hugh Fox là kẻ dễ lôi kéo.

Và vì thế Hugh Fox được cung cấp kiến thức từ trong cuốn sách Chép Tay Thần Bí, được giao những con dấu hành chính, và nhậm chức Trưởng phòng Sao chép Mật một cách hợp lệ. Nhưng thật tức đến phần uất đối với DomDaniel, Hugh Fox gặp những rắc rối lớn trong việc Mở Khóa những bí mật trong quyển sách của bà Marcia, tuy vậy lão ra cũng đã xoay xở tìm thấy bùa Khinh Công – được làm phép Giấu trong bìa sách – ngay đúng lúc DomDaniel trở thành một đống xương trong Đầm Cỏ Thô.

Sau sự kết thúc của DomDaniel và việc trở về tháp Pháp sư của bà Marcia cùng với Septimus, Tổ chức Khôi Phục đe doại Hugh Fox sẽ có số phận giống như số phận đã giáng xuống Watkins đáng thương nếu lão ta không cho Simon vào Đường Hầm Băng. Hugh Fox đồng ý. Và khi Simon Heap đòi hỏi bùa Khing Công, lão ta trao nó cho gã không một lời ú ớ. DomDaniel đã đúng – thật sự, Hugh Fox là một kẻ dễ lôi kéo.

Beelzebub xD CLICK HERE xD

Thank

22-Jun-2010 04:01 PM

#55

[D]evil

Điều hành viên

Ngày tham gia:

May 2010

Bài viết:

3,831

GOLD (TOP! 4):

49,650,155

Thanks:

27

Thanked 129 Times in 117 Posts

Partridge

Colin Partridge đã từng là lính Bảo Hộ. Anh ta bị ép buộc phải tòng quân từ một ngôi làng nhỏ ở ngoại vi vùng chăn thả cừu. Partridge vốn là một đứa trẻ hay mơ mộng mà ngày giờ của nó phải dùng vào việc chăm nom bầy cừa cho cha. Partridge đã làm mất nhiều cừu hơn là cha nó tính, và cha nó tuyệt vọng không tin nó có thể là một người chăn cừu giỏi. Vì thế khi Đoàn Chiêu Mộ lính Bảo Hộ hứa sẽ “rèn luyện nó nên người”, cha của Partridge để anh chàng Colin trẻ tuổi khăn gói và ra đi ngay, trước nỗi hoảng loạn vô cùng của người mẹ lẩm cẩm.

May mắn cho Partridge, anh ta tòng quân ngay lúc kết thúc của triều đại Bảo hộ toàn quyền, và trong vòng một tháng ra quân, anh ta ghi tên vào Dự án Cơ Hội thứ Hai và được Văn phòng Sao lục giành giật ngay. Partridge chưa bao giờ vui hơn thế trong đời.

Những con ma đường hầm băng

Eldred và Alfred Stone là an hem. Họ, giống như nhiều thợ xây đá khác, đã được đưa vào đúng thời Đại họa bên dưới Lâu Đài. Họ làm việc khẩn trương nhiều giờ liền để cố gắng sửa chữa những lỗ thủng trong đường hầm nhưng không có kết quả. Họ thuộc số ba mươi người bị kẹt bởi bùa Đông Cứng Khẩn Cấp và không bao giờ thấy lại ánh sang ban ngày nữa. Cùng với những người đồng hành với mình, họ không ngừng đi lang thang trong cụm đường hầm, không nhận thức được rằng đã hàng trăm năm trôi qua kể từ khi họ bị Đông Cứng. Cả hai anh em tin rằng cuộc sống vẫn đang chờ đợi họ, chỉ cần ai đó chỉ cho họ lối ra.

Ellis Crackle

Ellis Crackle đã từng là Đồ Đệ của DomDaniel khi lần đầu Thầy Đồng Gọi Hồn là pháp sư tối thượng ở Lâu Đài, cách đây nhiều năm. Ellis là một thanh niên trẻ tuổi vụng về, chậm chạp với rất ít khả năng Pháp Thuật, nhưng DomDaniel không quan tâm. Hắn chọn Ellis chẳng qua là vì anh chàng này là em trai của Betty Crackle. Vào lúc đó Betty Crackle là Người Canh Giữ Thuyền Rồng. Bà ta là một phù thủy thiện bừa bãi, người có ý định tốt, nhưng luôn luôn để lại sau mình những chuyện rắc rối, do tính đãng trí và sự thiếu gọn gàng, ngăn nắp nói chung. Cuối cùng dì Zelda đã phải nắm quyền thay cho Betty sau khi dì đi vơ vẩn tới bến cảng vào một đêm mùa đông và bị kẹt lại bởi Trận Gío Bấc.

Ellis Crackle thậm chí còn cẩu thả hơn Betty, nhưng DomDaniel đã suy đóan rằng phải có cái gì đó rất quan trọng ở ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm – một cái gì đó đã ngăn cản hắn kiểm sóat hòan toàn Lâu Đài – và hắn muốn tìn ra cái đó là cái gì. Thuê mướn em trai của Betty Crackle là một cách tốt để luồn lách tìm ra bí mật đó.

Rủi thay cho DomDaniel, sau khi Ellis nhận vị trí Học Trò, thì Betty và Ellis có một trận cãi nhau nảy lửa. Ellis cứ khoe khoang về vị trí mới cực kỳ quan trọng của mình, và Betty, vốn là kẻ hay ghen tị, không thể chịu đựng được. Bà ta ếm bùa lên ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm để khiến Ellis tránh xa ra và không bao giờ nói chuyện với em trai của mình nữa. Và vì vậy cho nên DomDaniel đâm ra không bao giờ phát hiện ra Thuyền Rồng ở ngôi nhà tranh của Người Giữ Đầm – hay thậm chí ngôi nhà tranh đó ở đâu hắn cũng không biết.

Khi dì Zelda thay thế Betty Crackle, Ellis không còn lợi ích gì cho DomDaniel nữa. Hắn nhận Alther Mella làm Học Trò mới và Ellis bị Lơ Lửng – một quy trình Hắc Thuật kinh tởm nhằm hạ ai đó thành Vong. DomDaniel giữ lại Ellis bất hạnh để sử dụng sau này. Sau đó Ellis trở thành hữu dụng ngay, khi hắn thành Vong ám bà Marcia.

Hildegarde

Hildegarde làm việc cho Hội đồng Bảo hộ trong hộ phận tài chánh, và đã tiêu tốn hầu hết thời gian của mình để kiềm chế thói tiêu xài hoang phí của Bảo hộ Toàn quyền. Đó là một nhiệm vụ bất khả thi. Sau đo Hildegarde bị chuyển sang Lực lượng Bán hàng, buộc phải bán tất cả của cải quý giá của Cung Điện. Hildegarde đem long yêu mến những bức tranh cổ và những đồ đạc mà cô buộc long phải đem bán, nhưng cô thực hiện những cuộc mặc cả thật sát ván và bán được chúng với giá cao.

Hildegarde rất vui mừng khi Dự án Cơ hội Thứ hai giúp cô được nhận vào huấn luyện thành phó pháp sư. Cô hơi thấy bất tiện khi làm bổn phận canh gác Cung Điện, và khi nhìn vào những nơi trống rỗng vốn xưa kia từng phủ đầy của cải thì lương tâm cô cắn rứt. Cô hạ quyết tâm sẽ trở thành Pháp sư Thượng đẳng và sẽ thưc hiện bất cứ cuộc sửa chữa nào có thể.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro