khongcogidenoi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong quá trình đi tìm con đường cứu nước, Hồ Chí Minh chú ý khảo cứu lựa chọn một kiểu nhà nước mới cho Việt Nam để xây dựng sau khi cách mạng giải phóng dân tộc

theo con đường cách mạng vô sản thành công.

Nhà nước đó phải đại biểu quyền lợi " cho số đông người" .

Sau Cách mạng tháng Tám thành công. Nhà nước cách mạng ra đời, Hồ Chí Minh khẳng định : " Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn

đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra ... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đó là điểm khác nhau về bản chất giữa Nhà

nước dân chủ nhân dân với các nhà nước của giai cấp bóc lột trong lịch sử.

- Nhà nước của dân:

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ; dân là người có địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất

nước, dân tộc. HCM đã nhiều lần khẳng định : nước ta là nước dân chủ; địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ; bao nhiêu quyền hạn là của dân; quyền hành và lực lượng đều ở

nơi dân. Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, nghĩa là có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải

bằng mọi nỗ lực, hình thành được các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Cũng với ý nghĩa đó, các vị đại diện của dân, do dân cử ra, chỉ là thừa uỷ

quyền của dân, chỉ là " công bộc" của dân.

- Nhà nước do dân :

Theo HCM, nhà nước do dân là dân làm chủ nhà nước; nhà nước phải tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm chủ nhà nước của dân rất rộn, trước hết thể hiện ở chỗ :

nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử. Đó là Nhà nước do dân lựa chọn, bầu ra

những đại biểu của mình. Nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ đóng thuế để Nhà nước chi tiêu, hoạt động; Nhà nước đó lại do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ. Do đó, Người

yêu cầu tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

- Nhà nước vì dân :

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chỉ có một Nhà nước thực sự của dân, do dân tổ chức, xây dựng và kiểm soát trên thực tế mới có thể là Nhà nước vì dân được. Đó là Nhà nước

phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính.

Người yêu cầu:

" Việc gì lợi ích cho dân, ta phải hết sức làm.

Việc gì hại cho dân, ta phải hết sức tránh"

Cán bộ Nhà nước phải là đầy tớ của nhân dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân. Đầy tớ thì phải trung thành, tận tuỵ, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Người

lãnh đạo phải trí tuệ hơn người, minh mẫn, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi nhân dân, trọng dụng hiền tài. Như vậy, để làm người thay mặt dân phải gồm đủ cả đức và

tài, phải vừa hiền lại vừa minh.

-nhà nước của dân:

đó là nhà nước do nhân dân làm chủ nhà nước,là chủ thể quyền lực nhà nước; nhân dân có toàn quyền quyết định tíh chất ,cơ câus tổ chức ,nhiêm vụ mục tiêu,phương hướng

phát triển của bộ máy nhà nước,sử dụng bộ máy nhà nứoc ,sử dụng bộ máy nhà mước đẻ thực hiện quyền lợi của mình và kiểm tra giám sát sự hoạt động của bọ máy nhà

nước;tất cả các cơ quan nhà nước ,cán bộ viên chức nhà nước, chịu sự giám sát chặt chẽ của nhân dân.

nhan dan thực hiện quyền lực của mình thông qua quốc hội và hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân

-nhà nước do nhân dân:

các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương đều do dân nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp thành lập để thực hiện quyền làmg chủ nhà nước của mình

mọi chủ trương chính sách,pháp luat của nhà nước đều do nhan dân trực tiếp hay gián tiếp tham gia xây dựng và thực hiện

mọi vấn đề quan trọng có ý nghĩa chung của cả nước vad của địa phương đều do nhân dân trực tiếp hay gián tiếp thảo luận,bàn bạc quyết định thực hiện

-nhà nước vì nhân dân:

lầna nước có cơ cấu tổ chức tinh gọn,hiệu quả ,hiệu lưcthuận tiện cho nhân dân sử dung thuận tiện, kiểm tra ,giám sát;có mục đích hoậth động vì lợi ích của nhân dan;mọi

chủ trương chính sách ,pháp luật đều đc xay dung xuất phát từ lợi ích của nhân dan

GS. LÊ XUÂN LỰU

Chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân trong hệ thống chính trị của đất nước. Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt

Nam, Nhà nước Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Mỗi thành phần trong hệ thống chính trị có vai trò riêng của mình trong sự nghiệp cách

mạng.

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đại biểu trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt

Nam là chủ thể lãnh đạo toàn bộ quá trình cách mạng Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bộ máy quyền lực của nhân dân, có chức năng định ra luật

pháp và tổ chức quản lý mọi lĩnh vực của đời sống đất nước bằng luật pháp. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tập hợp các tổ chức chính trị của nhân dân, đại diện cho lợi ích và vị

trí của từng cộng đồng xã hội khác nhau, tham gia vào công việc bảo vệ lợi ích thiết thực của người lao động và động viên cộng đồng nỗ lực trong cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lấy liên minh công nông với đội ngũ trí thức làm nền tảng và là cơ sở chính trị của chính quyền nhà nước. Giữa các bộ phận của hệ thống

chính trị có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, và mỗi bộ phận có vai trò riêng của mình. Vai trò đó thể hiện ở chức năng của từng bộ phận: Đảng lãnh đạo - Nhà nước

quản lý - Nhân dân làm chủ.

Nhân dân là người chủ của đất nước. Nhân dân lập ra bộ máy nhà nước thay mặt mình xây dựng pháp luật và quản lý đất nước thực hiện quyền làm chủ và bảo vệ lợi ích của

nhân dân. Vì vậy, Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Đảng lãnh đạo là vấn đề cốt tử để Nhà nước có thể thực hiện và phát huy chức năng quản lý xã hội của mình. Đảng không làm thay công việc cụ thể của Nhà nước trong công

cuộc quản lý đất nước, quản lý xã hội. Đảng chỉ lãnh đạo Nhà nước và sự lãnh đạo đó được thực hiện thông qua đường lối, cương lĩnh, chiến lược, các định hướng... Sự lãnh

đạo của Đảng không hề đối lập với việc tăng cường hiệu quả quản lý của Nhà nước và chính sự lãnh đạo đó là cội nguồn của sức mạnh và hiệu quả hoạt động quản lý của Nhà

nước. Và Nhà nước ta cũng chỉ có thể làm được chức năng của mình một khi có mối liên hệ gắn bó với nhân dân, biết dựa vào dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân

dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

Bộ máy của Nhà nước ta gồm có: Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, Tòa án nhân dân các cấp và Viện kiểm sát nhân dân các cấp. Quốc

hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, cử ra cơ quan hành pháp, tư pháp và thực hiện việc giám sát theo đúng pháp luật.

Nhà nước tư sản lấy phân chia quyền lực của ba cơ quan: nghị viện, chính phủ, tòa án - lấy tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp, tư pháp) làm nguyên tắc tổ chức bộ

máy nhà nước. Các lý luận gia tư sản hết lời ca tụng nguyên tắc tổ chức này và coi đó là biểu hiện ưu việt của nền dân chủ tư sản... Đây chỉ là điều bịa đặt để lừa mị quần

chúng nhân dân vì thực chất cách tổ chức này là lấy quyền lực để hạn chế quyền lực nhằm chống lại quyền lực độc đoán, tùy tiện trong bộ máy nhà nước mà thực chất là để

chế ngự lẫn nhau và bảo vệ quyền lợi của những phe cánh khác nhau của giai cấp tư sản trong bộ máy nhà nước.

Quan điểm của chúng ta cho rằng, vấn đề bản chất của Nhà nước là nhà nước của ai, do ai và vì ai. Và từ đó mà lựa chọn cách tổ chức. Nhà nước ta thực hiện sự thống nhất

ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, và có sự phân công rành mạch giữa ba quyền đó. Cách tổ chức này bảo đảm cho việc nâng cao tính hiệu quả quản lý, tăng cường

pháp quyền, xây dựng một hệ thống hành pháp và quản lý hành chính thông suốt từ Trung ương đến cơ sở có đủ năng lực và quyền lực để quản lý có hiệu quả mọi lĩnh vực

của đời sống đất nước.

Nhà nước ta được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Không nhận thức đúng đắn nguyên tắc này thì không thể xây dựng được Nhà nước ta. Vì vậy, để xây dựng bộ

máy nhà nước và quản lý có hiệu quả công cuộc xây dựng xã hội mới cần nhận rõ mối quan hệ giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa với kỷ cương, luật pháp xã hội chủ nghĩa. Những

yếu tố này chẳng những không loại trừ nhau mà còn làm tiền đề cho nhau hợp thành một chỉnh thể thống nhất và là một tất yếu khách quan của đời sống xã hội.

Không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội trong đó người dân làm chủ xã hội, làm chủ đất nước. Quyền làm chủ đó được thực hiện

thông qua bộ máy nhà nước do dân cử ra. Vì vậy, bộ máy này phải lấy dân làm gốc, phải biết dựa vào dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, biết phát huy trí tuệ của nhân

dân, biết tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Dân chủ là bản chất của các mối quan hệ trong xã hội xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, cũng phải thấy rằng, không có kỷ cương, luật pháp thì cũng không có chủ nghĩa xã hội. Không có kỷ cương, luật pháp thì cũng không có nhà nước pháp quyền,

không có xã hội ổn định, xã hội trở thành vô chính phủ. Chỉ có dân chủ mà không có luật pháp thì không sao chống được tệ quan liêu cửa quyền, độc đoán, tham nhũng và từ

đó làm sao có được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, và làm sao giải quyết được mối quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa con người với con người, con người với cộng

đồng, giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích xã hội và bảo vệ được tính công bằng xã hội.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa phải đi đôi với luật pháp xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội được tổ chức trên cơ sở luật pháp. Pháp luật là cái thể hiện và

là cái bảo đảm cho quyền làm chủ của nhân dân lao động và là công cụ để quản lý xã hội. Thiếu pháp luật sẽ không có dân chủ và một xã hội càng dân chủ bao nhiêu thì lại

càng phải có luật pháp, kỷ cương và trật tự bấy nhiêu.

Rõ ràng, nguyên tắc tập trung dân chủ định hướng cho sự phát triển của Nhà nước ta và xã hội ta. Nó còn là yếu tố để hình thành nhân cách của con người xã hội chủ nghĩa,

hình thành bầu không khí chính trị đạo đức xã hội chủ nghĩa là dân chủ và kỷ luật.

Trong những năm đổi mới vừa qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và qua rèn luyện trong thực tiễn quản lý sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà nước ta đã trưởng thành

về nhiều mặt, đã thể hiện rõ bản chất của một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật để quản lý

đất nước, về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhất là dân chủ ở cơ sở. Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào dân, thực hiện

việc dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Nhà nước cũng đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng.

Những thành tựu, những tiến bộ trên đây đã tạo nền tảng cho công tác quản lý đất nước. Nhờ vậy, đất nước được ổn định và về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội có bước phát

triển tốt, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Tuy vậy, vẫn còn hai vấn đề cơ bản sau đây cần được

tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng lên một trình độ mới để đáp ứng kịp thời yêu cầu của sự phát triển của cách mạng trong tình hình mới: tiếp tục hoàn thiện hệ

thống pháp luật, nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý việc thực hiện pháp luật; chăm lo bồi dưỡng phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước.

1 - Sự nghiệp cách mạng hiện nay đang đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để làm cơ sở cho sự thống nhất quản lý của nhà nước và hành vi của công dân. Việc xây

dựng luật pháp vừa qua tuy đã có nhiều cố gắng nhưng luật pháp vẫn chưa bao trùm hết các lĩnh vực hoạt động của xã hội.

Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, nhiều lĩnh vực của sản xuất, kinh doanh ngày càng được chia nhỏ và toàn cầu hóa đưa lại việc mở rộng giao lưu kinh tế,

văn hóa, xã hội thì luật pháp cũng phải được mở rộng để làm cơ sở cho quá trình quản lý xã hội. Hơn thế, sự nghiệp cách mạng không ngừng biến đổi và phát triển. Những

biến đổi và phát triển đó cũng đòi hỏi những sửa đổi, bổ sung những quy định của luật pháp đã bị thực tiễn vượt qua. Vì thế, bên cạnh việc tiếp tục xây dựng luật pháp thì sửa

đổi, hoàn thiện luật pháp là công việc thường xuyên của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi phải xây dựng một đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực thường xuyên bám sát đời

sống của từng đạo luật đã ban hành trong xã hội, thường xuyên rút kinh nghiệm và đề xuất những sửa đổi, hoàn thiện pháp luật trước những biến đổi của tình hình.

Điều cơ bản nhất trong xây dựng pháp luật là, phải thể hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, phải hướng vào việc bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu của cách mạng

là: độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Để làm được điều đó thì luật pháp phải bảo đảm cho việc chống lại các nguy cơ mà Đảng ta đã xác định: tụt hậu xa hơn về kinh tế, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, "diễn biến

hòa bình", quan liêu, tham nhũng. Ví dụ: chúng ta đang thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền sản xuất xã hội, nâng cao

đời sống của nhân dân. Nhưng vai trò của các thành phần kinh tế lại khác nhau trong nền kinh tế quốc dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh tế nhà nước đóng

vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và là lực lượng vật chất, là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước và kinh tế

tập thể là nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Tùy theo từng chặng đường phát triển của cách mạng mà những điều đó phải được thể hiện trong Luật Doanh nghiệp nhà nước,

Luật Hợp tác xã. Bỏ quên, xa rời điều đó thì không thể nói tới con đường xã hội chủ nghĩa.

Để luật pháp thực sự là cơ sở pháp lý cho quản lý của Nhà nước và hành vi của công dân thì phải giáo dục rộng rãi luật pháp cho toàn dân. Cần sử dụng có hiệu quả các

phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật cho nhân dân. Đặc biệt, cần tùy theo đối tượng mà lựa chọn luật pháp để đưa vào giáo dục

trong các nhà trường, các đoàn thể chính trị, các tổ chức xã hội, các đơn vị sản xuất kinh doanh, các sinh hoạt chính trị của nhân dân.

Việc quản lý thực hiện pháp luật phải chặt, xử lý các vi phạm phải nghiêm. Chúng ta không ảo tưởng có thể xây dựng một xã hội hoàn toàn trong sạch, loại trừ hoàn toàn mọi

tiêu cực một khi các điều kiện kinh tế - xã hội khách quan với tư cách là nguồn gốc sinh ra tiêu cực còn tồn tại. Tuy nhiên, việc ngăn chặn các tệ nạn xã hội kém hiệu quả lại

chính là do thiếu sót chủ quan của bộ máy nhà nước. Đó là do luật pháp chưa đầy đủ, cơ chế có nhiều sơ hở, ngay cả những vấn đề đã có luật pháp nhưng quản lý việc thi

hành luật pháp không chặt chẽ và xử lý những vụ vi phạm luật pháp không nghiêm, thậm chí, còn có cả tiêu cực trong việc xử lý các vi phạm luật pháp.

2 - Vấn đề cơ bản nhất để xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân là phải ra sức xây dựng một đội ngũ cán bộ viên chức nhà nước có đầy đủ phẩm

chất và năng lực.

Trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường chứa đựng cả mặt tích cực và

tiêu cực. Kinh tế thị trường thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân phát triển, thúc đẩy xu hướng "thương mại hóa" các quan hệ xã hội, thúc đẩy con người chạy theo đồng tiền bằng mọi

giá.

Chủ nghĩa cá nhân, như Hồ Chí Minh đã chỉ rõ là "bệnh mẹ" đẻ ra muôn vàn bệnh tật khác. Một khi con người rơi vào chủ nghĩa cá nhân thì đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích

tập thể, cộng đồng, xa rời phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lâm vào tham ô, hối lộ, xa dân, dối trá, lời nói không đi đôi với việc làm, phá vỡ đoàn kết, phá

hoại kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Trong môi trường kinh tế - xã hội hiện nay, chủ nghĩa cá nhân trong hàng ngũ cán bộ, viên chức nhà nước đang có cơ hội phát triển. Tình trạng tham nhũng trong bộ máy

Đảng, Nhà nước đang trở nên bức xúc. Tham nhũng đã được Đảng đánh giá là quốc nạn. Nó lại gắn liền với quan liêu cửa quyền, hách dịch, lãng phí... Nhiều hiện tượng sa

sút phẩm chất, chạy theo quyền lực bằng mọi cách như xu nịnh, tạo phe cánh để ngoi lên, lừa đảo về bằng cấp, chứng chỉ, thành tích... thậm chí có cả việc đút lót, mua quan

bán tước cũng đã diễn ra.

Thực trạng này đang phá hoại nghiêm trọng mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Vì nhân dân gắn bó máu thịt với Đảng không phải chỉ bằng đường lối,

chủ trương đúng đắn của Đảng mà bằng cả tấm gương đạo đức, lối sống trong sáng hàng ngày của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Vấn đề xây dựng đạo đức đang trở thành vấn đề hàng đầu của công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước. Trong công cuộc xây dựng này, việc chống chủ nghĩa cá nhân, xây

dựng tinh thần tập thể, cộng đồng phải là phương hướng cơ bản của công tác tư tưởng. Chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là chà đạp lên cá nhân con người, phủ nhận

vai trò to lớn của cá nhân trong đời sống xã hội mà là chống cái ác, cái xấu của chủ nghĩa cá nhân, làm cho cá nhân con người phát triển lành mạnh luôn luôn hành động vì lợi

ích của tập thể, của cộng đồng và của bản thân. Phải hết sức coi trọng giáo dục đạo đức nhưng cũng không biến quá trình giáo dục thành một quá trình đạo đức đơn thuần

mà đi đôi với giáo dục phải xử lý nghiêm minh mọi sự vi phạm luật pháp của bất cứ ai.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một việc làm mới mẻ. Mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ, mô hình mới đang được khai phá, thử nghiệm và chưa phải mọi vấn đề đã

sáng tỏ.

Kẻ thù đang ra sức xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và đang thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", gây bạo

loạn lật đổ.

Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã đưa lại sự xuất hiện kinh tế tri thức và "chính phủ điện tử". Để việc quản lý kinh tế tri thức cũng như các lĩnh vực khác của đời

sống xã hội trong thời đại ngày nay được nhạy bén, kịp thời và thực sự khoa học thì sự quản lý đó phải được thực hiện với năng lực, trí tuệ cao và phương tiện kỹ thuật hiện

đại.

Việc thực hiện nhiệm vụ từng bước phát triển kinh tế tri thức như Đại hội IX của Đảng đã đề ra cũng như việc chống lại các nguy cơ nêu trên, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, viên

chức nhà nước có một tầm cao về năng lực trí tuệ, phẩm chất tư duy và năng lực nghiệp vụ.

Chúng ta hiểu quản lý một cách khoa học công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đối với xã hội nói chung cũng như đối với

từng lĩnh vực riêng lẻ của đời sống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan và các xu thế tiến bộ của sự phát triển xã hội vì lợi ích của quần chúng

nhân dân lao động.

Từ những vấn đề trên đây của công tác quản lý cũng như những đặc điểm của tình hình đất nước và đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước hiện nay, công tác đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ cán bộ, viên chức nhà nước phải được hướng vào quán triệt các vấn đề sau: bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, kế hoạch xây dựng đất nước trên từng lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng... và quán triệt tính quy luật phổ biến của quản lý

là hướng một cách tự giác sự phát triển của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vào quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Đặc biệt là, phải quán triệt

tính giai cấp công nhân của công tác quản lý. Công tác quản lý có hai mặt, một mặt, nó đáp ứng nhu cầu khách quan của sản xuất, của đời sống xã hội; mặt khác, nó biểu

hiện lợi ích giai cấp của giai cấp đang quản lý đất nước. Điểm này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong khi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước tư bản. Nghĩa là, phải

phân định và tỉnh táo cái gì nên học và cái gì không nên học.

Công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hướng vào việc chống các hiện tượng tiêu cực của bản thân người cán bộ, tiêu cực trong xã hội; phải xây dựng

dân chủ và kỷ luật làm hai yếu tố cơ bản để hình thành nhân cách con người; hình thành bầu không khí chính trị đạo đức xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là xây dựng tính gương

mẫu về đạo đức của người cán bộ, viên chức nhà nước.

HCM: Câu 6: Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vận dụng tthcm về xây dựng nhà nước trong điều kiện hiện nay.

Saturday, 6. May 2006, 17:35:25

Câu 6: Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân. Vận dụng tthcm về xây dựng nhà nước trong điều kiện hiện nay.

*Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân.

1- Tthcm về nhà nước của dân, do dân, vì dân.

Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong cuốn

"Đường Kách Mệnh" bác chỉ rõ: "Chúng ta đã hy sinh làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để

trong tay 1 bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc." Sau khi giành độc lập, Người khẳng định, "nước ta là nước dân chủ, bao nhiều

quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân...nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Đó là điểm khác nhau giữa Nhà nước ta với nhà nước bóc lột từng

tồn tại trong ls.

- Thế nào là nhà nước của dân?

Điều 1 Hiến pháp nước VNDCCH (năm 1946) nói: "Nước VN là 1 nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thế nhân dân VN, không phân biệt giống,

gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo."

Điều 32, viết "Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết..."thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở

nước ta.

"Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân".

Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng

mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện cho dân cử ra chỉ là thừa ủy quyền của dân, chỉ là công bộc của dân.

- Thế nào là nhà nước do dân?

Nà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình

xây dựng, giúp đỡ. Do đó Bác yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân.

"Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ" nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi

miễn nó.

- Thế nào là nhà nước vì dân?

Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ

chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.

"Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh"

HCM chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa ủy quyền. Là người phục vụ,

nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. "Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân

không ai dẫn đường". Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa

trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài...Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.

2- Tthcm về sự thống nhất giữa bản chất GCCN với tính nhân dân và tính dt của nhà nước ta.

Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, "là nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do GCCN lãnh đạo." Bản chất GCCN biểu hiện ở chỗ:

- Nhà nước tà do đảng của GCCN lãnh đạo. Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối thông qua tổ chức của mình trong quốc hội, chính phủ, các ngành, các cấp của

nhà nước; được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế hoạch của nhà nước.

- Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta đi lên CNXH. "Bằng cách phát triển và cải tạo nền kt quốc dân theo CNXH, biến nền kt lạc hậu thành 1 nền kt XHCN

với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến".

- Bản chất giai cấp của nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. "Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ...mới đọng viên

được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng CNXH."

Bên cạnh dân chủ, bác cũng nhắc đến chuyên chính, "chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai?" "Dân chủ là của quý báu của nhân dân, chuyên

chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại...dân chủ cũng cần chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ."

Bản chất giai cấp của nhà nước ta thống nhất với tính nhân dân và tính dt. Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:

- Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thể hệ CM.

- Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tính nhân dân và tính dt vì nó lấy lợi ích của dt làm nền tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Trong thời gian người lãnh đạo

đất nước, nhờ sách lược mềm dẻo, cũng như Người dung nạp nhiều nhân sĩ, trí thưc, quan lại cao cấp của chế độ cũ vào bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng nhà nước tà

là nhà của khối đại đoàn kết toàn dt.

- Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ chức toàn dân kháng chiến để bảo vệ thành quả của cách mạng.

3- Tư tưởng HCM về 1 nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ.

Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là 1 nhà nước hợp hiến. Vì vậy sau khi giành chính quyền, HCM đã thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập,

tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh nhà nước VNDCCH. Chính phủ lâm thời có địa vị hợp pháp.

Sau đó Người bắt tay xây dựng hiến pháp dân chủ, tổ chức TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân Chủ

Cộng Hòa.

Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. Trong nhà nước dân chủ, dân chủ

và pháp luật luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hóa bằng hiến pháp và pháp luật. Xây dựng một nền

pháp chế XHCN đảm bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm của HCM. Là người sáng lập nhà nước VN dân chủ, có công lớn trong sự nghiệp lập hiến và

lập pháp: một mặt, Người chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của nhà nước ta, mặt khác, Người chăm lo đưa pháp luật và cuộc sống, tạo cơ chế đảm bảo

cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiếm tra, giám sát việc thi hành của các cơ quan nhà nước và của nhân dân.

Để tiến tới 1 nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Bác hồ cho rằng, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có trình

độ văn hóa, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu chuẩn cơ bản của người cầm cân

công lý.

Để đảm bảo công bằng dân chủ trong tuyển dụng cán bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành quy chế công chức. Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi

tuyển công chức để bổ nhiệm vào nghạch, bậc hành chính. Nội dung thi tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kt, pháp luật, địa lý, ls và ngoại ngữ. Điều này thể

hiện tầm nhìn xa, tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ...của tthcm trong việc xây dựng nền móng cho pháp quyền VN.

4-Tthcm về xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả

Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức. Do tập quán của kt tiểu nông, muốn hình thành ngay 1 nhà nước pháp quyền là chưa được, vì vậy một mặt phải

nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cương tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân nhất là giáo dục đạo đức. Đạo đức và pháp luật là 2 hình thái ý thức

xh có thể kết hợp với nhau.

Bên cạnh giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành pháp luật.

Kiên quyết chống ba thứ "giặc nội xâm" là tham ô, lãng phí, quan liêu. Sức mạnh và hiệu quả của luật pháp, một mặt dựa vào tính nghiêm minh của thi hành pháp luật, mặt

khác dựa vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền. Bác nói: "tham ô, lãng phí,quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân

phong kiến,...tôi lỗi ấy cũng nặng như tội việt gian, mật thám." Mác và ăngghen đã từng cảnh tỉnh cán bộ và nhân dân rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn các ĐCS cầm

quyền đến chỗ "đánh mất 1 lần nữa chính quyền vừa giành được". Lênin cũng viết "...chúng ta bị khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở thành tên

quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó."

Vì vậy không thể nói đến 1 nhà nước trong sạch vững mạnh, hiệu quả nếu không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh cuộc đấu tranh về ngăn chặn tận gốc những nguyên

nhân đã gây ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.

* Vận dụng tthcm về xây dựng nhà nước VN ngang tầm nhiệm vụ của giai đoạn lịch sử mới.

1-Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, đảm bảo sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.

2- Cải cách và kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh.

3- Tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với nhà nước; gắn liền với xây dựng, chỉnh đốn đảng với cải cách bộ máy hành chính.

Câu 9: Nội dung tthcm về đoàn kết. Vận dụng tthcm để tăng cường đoàn kết dt, đoàn kết quốc tế hiện nay.

* Nội dung tthcm về đoàn kết

Trong quá trình lãnh đạo CMVN. HCM đã để lại cho chúng ta tư tưởng về đoàn kết, kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đai.

Để đoàn kết dt là nội dung xuyên suốt trong tthcm cũng như trong hoạt động thực tiễn của người. Trong các bài viết, nói, vấn đề đại đoàn kết dt được Bác Hồ đề cập đến

chiếm tỷ lệ 40%.

1- Cơ sở hình thành tthcm về đoàn kết dt.

a) Tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức cố kết cộng đồng dt, đại đoàn kết dt đã hình thành và củng cố trong ls dựng nước và giữ nước của dt, tạo thành truyền thống bền

vững thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người VN. Đối với mỗi người VN, yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết trở thành 1 tình cảm tự nhiên, 1 triết lý sống,

thành phép tư duy và ứng cử chính trị.

Tất cả đã trở thành dấu ấn trong xh truyền thống VN, tạo thành quan hệ 3 tầng: gia đình, lãng xã, quốc gia. Đây cũng chính là sợi dây liên kết các giai tầng, các dt trong xh

VN. Truyền thống đoàn kết, nhân ái được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, được các anh hùng trong ls nâng lên thành phép đánh giặc, trị nước.

Đó là tư tưởng tập hợp lực lượng các dt của các nhà yêu nước trong lịch sử. HCM đã sớm kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa-đoàn kết của dt. Người khẳng định "từ

xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành 1 làn sóng vô cùng to lớn và mạnh mẽ, nó lướt qua mọi sự khó khăn, nguy hiểm, nó nhấn

chím tất cả bè lũ cướp nước..." HCM còn nhấn mạnh phải phát huy truyền thống ấy trong giai đoạn cách mạng mới "phải giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho

tinh thần yêu nước của tất cả mọi người được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến."

b) Từ quan điểm của CNMLN: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra ls, GCVS là lực lượng lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp dt.

Mác nêu khẩu hiệu "VS toàn TG liên hiệp lại". Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước tiền TB, lực lượng công-nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách

mạng, xây dựng khối đại đoàn kết dt, đại đòan kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác được mở rộng "VS toàn thế giới và các dt bị áp bức đoàn kết lại". CNMLN là cơ sở lý luận quan

trọng nhất đối với quá trình hình thành tthcm về đại đoàn kết dt. HCM đến với CNMLN vì người đã tìm thấy con đường giải phóng các dt bị áp bức khỏi ách nô lệ, tìm thấy sự

cần thiết và con đường tập hợp lực lượng CM trong phạm vị từng nước và trên phạm vi toàn TG.

c) Từ thực tiễn đấu tranh CM.

HCM tổng kết, đánh giá các di sản truyền thống về tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước VN tiền bối và các phong trào cách mạng ở nhiều nước trên TG, nhất là

các phong trào gpdt thuộc địa, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hoàn chỉnh tư tưởng về đại đoàn kết của mình. Các phong trào CMVN thực tế vừa hào

hùng, vừa bị tráng đã chứng tỏ nếu chỉ có yêu nước thôi thì không đủ để đánh thắng giặc. "Sử ta đã dạy cho ta rằng, khi nào dân ta biết đoàn kết thì khi đó dân ta giành

thắng lợi".

Yêu cầu của thời đại mới là phải có lực lượng lãnh đạo đủ sức qui tụ cả dt vào đấu tranh cách mạng, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, xây dựng khối đại đoàn kết dt bền

vững thì mới giành thắng lợi. HCM đã thấy hạn chế trong phương pháp tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối, bác đã tìm cách sáng Pháp để tìm hiểu và trở về giúp

đồng bào mình.

Khi ở nước ngoài, HCM khảo sát tình hình các nước TBCN và các nước thuộc địa, bác nhìn thấy tiềm ẩn to lớn của họ và cũng thấy hạn chế là các dt thuộc địa chưa có tổ chức,

chưa biết đoàn kết, chưa có sự lãnh đạo đúng đắn. Trong các phong trào cách mạng thuộc địa và phục thuộc, HCM đặc biệt chú ý đến cách mạng của TQ và Ấn độ, với tư

tưởng là đoàn kết các giai tầng, các đảng phái, các tôn giáo... nhằm thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng.

Thắng lợi của CMT10 Nga, người đã tìm hiểu thấu đáo con đường CMT10 Nga, bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là bài học huy động lực lượng quần chúng công-nông

giành và giữ chính quyền xô-viết non trẻ. Người cho rằng đây là cuộc cách mạng đến nơi, đến chốn.

2-Quan điểm cơ bản của HCM đại đoàn kết dt.

a) Đại đoàn kết dt là vấn đề cơ bản có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách mạng. Tư tưởng HCM về đại đoàn kết dt nhất quán, xuyên suốt toàn bộ tiến trình

CMVN. Đó là chiến lược tập hợp lực lượng nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dt chống kẻ thù của dt, của giai cấp.

Trong từng thời kỳ của cách mạng, có thể phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối tượng, nhưng đại đoàn kết dt phải là vấn đề

sống còn của cách mạng. HCM đã nêu:

"Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi..., đoàn kết là then chốt của thành công"."đoàn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu đều tốt". "đoàn kết,

đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công ".

b) Đại đoàn kết là mục tiêu, là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng.

Tư tưởng đại đoàn kết dt được quán triệt trong mọi đường lối, chính sách của đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của CMVN. Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng lao động

VN năm 1951, HCM nêu mục đích của Đảng lao động VN gồm 8 chữ: "đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc". Trước CMT8 và trong kháng chiến nhiệm vụ của tuyên huấn là

làm sao cho đông bảo hiểu được mấy điều: một là, đoàn kết, hai là, làm cách mạng đòi độc lập dt. Sau kháng chiến Bác lại nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân hiểu: 1 là,

đoàn kết, 2 là, xây dựng CNXH, 3 là, đấu tranh thống nhất nước nhà.

Như vậy, đại đoàn kết không đơn thuần là phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì vấn đề cơ bản của cách

mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dt phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách

mạng do quần chúng tiến hành. Đại đoàn kết dt là 1 chính sách chứ không thể là 1 thủ đoạn chính trị. Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi

hỏi khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch của cuộc đấu tranh vì độc lập cho dt, hạnh phúc cho nhân dân

c) Đại đoàn kết dt là đại đoàn kết toàn dân.

Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng, chỉ toàn bộ con dân nước Việt, "con Lạc, cháu Hồng", "con Rồng, cháu Tiên". Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân là đoàn kết với

tất cả nhân dân không phân biệt: dt thiểu số hay đã số, tín ngưỡng, già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo...Đoàn kết với mỗi người dân cụ thể, với toàn thể đông đảo quần chúng và

cả 2 đối tượng trên đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dt.

Bác hồ nêu "Ta đoàn kết là vấn đề đấu tranh thống nhất và độc lập tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Vậy ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ

quốc và phục vụ nhân dân thì ta đều đoàn kết với họ". Trong khi xây dựng khối đại đoàn kết dt phải tin vào dân, dựa vào dân và phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Mỗi

người "ai cũng ít hay nhiều có tấm lòng yêu nước" tiềm ẩn. Cần thức tỉnh lương tri của mỗi con người thì lòng yêu nước sẽ bộc lộ. Điểm chung để quy tụ khối đại đoàn kết dt

là nên độc lập dt, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Đại đoàn kết dt là nên tảng là gốc rễ là nguồn sức mạnh vô địch, quyết định thắng lợi của CMVN. Trong khi tập hợp khối đại đoàn kết thì "lực lượng chủ yếu của khối đại đoàn

kết dt là liên minh công nông, cho nên liên minh công-nông là nền tảng của mặt trận dt thống nhất". "Đại đoàn kết trước hết là đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đa số nhân

dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác". Về sau HCM mở rộng, "liên minh công-nông và lao động trí óc làm nền tảng của khối đại đoàn kết

toàn dân". "Trong bầu trời không có gì quý bằng dân, trong thế giới không có gì mạnh bằng l/lượng đ/kết của nhân dân".

Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân là: phải kế thừa truyền thống yêu nước-nhân nghĩa, đoàn kết, phẩi có tầm lòng khoan dung, độ lượng. Người mà có lầm lạc,

mà biết lỗi thì đoàn kết với họ, tránh khoét sâu cách biệt. "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dt thì dù người đó trước đây chống lại chúng ta bây

giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ". "Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần thật thà đoàn kết với nhau, giúp nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân ".

d) Đại đoàn kết phải trở thành sức mạnh vất chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức thể hiện khối đại đoàn kết dt là mặt trận dt thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Khối đại đoàn kết dt phải được giác ngộ về mục tiêu, tổ chức thành khối vững chắc và hoạt động theo 1 đường lối chính trị đúng đắn. Và đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp

với từng giai tầng, từng lứa tuổi, giới tính, ngành nghề, tôn giáo, phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Ví dụ có hội hữu ái, hội công, hội nông, hội phụ

nữ...

Mặt trận dt thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước. Trong từng thời kỳ mặt trận có tên gọi khác nhau nhưng đó phải là mặt trận chính trị rộng rãi tập hợp

đông đảo các lực lượng phấn đấu vì hòa bình, vì mục tiêu của dt.

2- Nội dung tthcm về đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại.

a) Nắm bắt chính xác đặc điểm và xu thế phát triển của thời đại, đặt CMVN trong sự gắn bó với cách mạng thế giới. Theo Lênin phải "nhận thức rõ thời đại mà ta đang

sống"..."giai cấp nào đang là giai cấp trung tâm của thời đại"..."xây dựng nội dung căn bản của thời đại, phương hướng phát triển chính của thời đại, những đặc điểm chủ yếu

của bối cảnh ls thời đại ấy".

Thời đại mà HCM hoạt động chính trị đã có nhiều đổi thay nổi bật 2 sự kiện quan trọng:

Một là, CNTB từ tự do cạnh tranh bước sang độc quyền đã phát triển thành hệ thống và làm xuất hiện hệ thống thuộc địa.

Hai là, thắng lợi của CMT10 Nga đã mở ra kỷ nguyên mới, thời đại mở ra mối quan hệ quốc tế giữa các dt làm cho vận mệnh của mỗi dt không tách rời vận mệnh chung của

TG. Thời đại mà 1 nhóm nước lớn do bộn TB tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc. Bởi vậy mà công cuộc giải phóng các nước và các dt bị áp bức

là bộ phận khăng khít của CMVS. Tất yếu khách quan phải liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các nước thuộc địa với GCVS ở các nước đế quốc để chiến thắng kẻ thù chung.

"Cách mạng An-nam là bộ phận của cách mạng TG. Ai làm cách mạng trong thế giới đều là đồng chí của nhân dân An-nam cả". Tại Đại hội Tua năm 1920, HCM đã phát

biểu: "Hôm nay tôi đến đây góp phần cùng các đồng chí vào cách mạng thế giới".

Bác chú ý mối quan hệ giữa cách mạng phương đông và phương tây. Người chỉ ra sự cách biệt của các dt phương đông, do "họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, thiếu sự phối hợp

hành động và cả sự cổ vũ lẫn nhau". HCM kiến nghị ban phương đông của của Quốc tế cộng sản "làm cho các dt hiểu biết nhau hơn là đoàn kết lại để đặt cơ sở cho 1 liên

minh phương đông tương lai, khối liên minh này chắc chắn sẽ là 1 trong những cái cánh của CMVS". Tại đại hội V quốc tế cộng sản, HCM đã phê phán gay gắt giai cấp công

nhân và đảng cộng sản ở chính quốc thờ ơ với cách mạng thuộc địa. "Tôi rất buồn vì điều này, giai cấp tư sản đã tiến hơn 1 bước so với GCVS. Có thể nói Đảng cộng sản Pháp

làm rất ít cho thuộc địa". Do đánh giá thập vị trí của cách mạng thuộc địa ĐCS chưa làm gì để giáo dục GCCN nước mình tinh thần quốc tế chủ nghĩa chân chính, HCM nói "tôi

sẽ thức tỉnh các đồng chí..."HCM cho rằng nền tảng sức mạnh là ở nhân dân thuộc địa, chủ nghĩa đế quốc tập trung nọc độc ở thuộc địa, nhân dân thuộc địa là người thủ tiêu

chủ nghĩa thực dân. HCM đã phát triển và vượt xa so với Mác. Nhờ nắm bắt đặc điểm và xu thế của thời đại NAQ đã xác định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng

đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, gpdt VN theo con đường vô sản.

b) Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, độc lập dt gắn liền với CNXH.

Để kết hợp sức mạnh dt với sức mạnh thời đại, các ĐCS kiên trì đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng sai lầm làm suy yêu khối đại đoàn kết để thống nhất các lực lượng

CMTG. Các ĐCS phải giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân lao động nước mình, làm cho tinh thần yêu nước là 1 bộ phận của tinh thần quốc

tế. NAQ kêu gọi "vì hòa bình thế giới, vì tự do và ấm no, những người bị bóc lột thuộc mọi chủng tộc cần đoàn kết lại và chống bọn áp bức".

Sau cách mạng gpdt giành độc lập, các dt thuộc địa tất yếu đi theo cách mạng XHCN. HCM viết: "trong thời đại ngày nay, cách mạng gpdt là bộ phận khăng khít của CMVS

trong phạm vi toàn thế giới; cách mạng gpdt phải phát triển thành cách mạng XHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn". Phải biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống thành

chủ nghĩa yêu nước XHCN, yêu tổ quốc gắn liền với yêu CNXH, nhờ đó chủ nghĩa yêu nước có thêm sức mạnh và phát triển thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời

đại mới

c) Giữ vững độc lập tự chủ, dựa vào sức mình là chính, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước XHCN, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời không quên nghĩa vụ quốc tế cao

cả của mình.

HCM nêu cao tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính", "muốn người ta giúp cho, thì trước hết phải tự giúp mình đã", "1 dt không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi

chơ dt khác giúp đỡ thì không xứng đanhgs được hưởng độc lập". Với tư tưởng này khi Người gửi lời kêu gọi tới anh em ở thuộc địa có viết: "Anh em phải làm thế nào để được

giải phóng? Vận dùng công thức của Mác, chúng tôi xin với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em." Người

con nói "đem sức ta mà giải phóng cho ta,... họ còn giúp đỡ những người anh em mình ở phương tây trong sự nghiệp giải phóng hoàn toàn".

Muốn tranh thủ sức mạnh thời đại cần phải có 2 đường lối độc lập tự đúng đán. Kết hợp chặt chẽ mục tiêu đấu tranh cho độc lập dt mình với bốn mục tiêu của thời đại: hòa

bình, độc lập dt, dân chủ, CNXH.

Kết hợp chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, nhân dân ta không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả. Bác thường nói: "phải coi cuộc

đấu tranh của bạn như cuộc đấu tranh của ta".

d) Mở rộng tối đa quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng "làm bạn với tất cả các nước dân chủ ".

Trong quá trình tìm đường cứu nước Bác là người đầu tiên đặt nền móng cho tình hữu nghị giữa nhân dân VN với nhân dân các nước trên TG. Bác sớm có tư tưởng đa phương

hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại "tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng

cường."

HCM dành ưu tiên cho quan hệ với các nước láng giềng Châu á, láng giềng gần (TQ, lào, campuchia), láng giềng xa và các nước ĐNA.

Với trí tuệ thiên tài, với tư tưởng quốc tế trong sáng, với đức độ khiêm nhường và thái độ thiện trí, HCM vượt qua mọi trở ngại, từ trong mối

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro