kiểm sát viên, chức năng nhiệm vụ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

PHẦN 1. VIỆN KIỂM SÁT VÀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT

Phần 1. VIỆN KIỂM SÁT VÀ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT

1. VIỆN KIỂM SÁT.

Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân

Các Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta tạo thành một hệ thống thống nhất, bao gồm:

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

- Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

- Các Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

- Các Viện kiểm sát quân sự.

 Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Theo Điều 31 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên và các Điều tra viên.

Cơ cấu tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có: ủy ban kiểm sát, các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng. Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát và Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao là người lãnh đạo thống nhất toàn bộ hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Theo Điều 33 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

1. Lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch công tác kiểm sát và xây dựng Viện kiểm sát nhân dân về mọi mặt; quyết định những vấn đề về công tác kiểm sát không thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm sát;

2. Ban hành quyết định, chỉ thị, thông tư, điều lệ, quy chế, chế độ công tác áp dụng đối với ngành kiểm sát;

3. Chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của ngành kiểm sát;

4. Quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và trình ủy ban Thường vụ quốc hội phê chuẩn; quyết định bộ máy làm việc của các Viện kiểm sát nhân dân địa phương; quy định bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ quốc phòng và trình ủy ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn;

5. Chỉ đạo việc xây dựng và trình dự án luật, dự án pháp lệnh theo quy định của pháp luật; đề nghị ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh khi thấy cần thiết cho việc áp dụng thống nhất pháp luật;

6. Trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án xin ân giảm án tử hình;

7. Tổ chức việc thống kê tội phạm;

8. Tham dự các phiên họp của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật.

Các Phó viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ.

Theo Điều 32 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do ủy ban Thường vụ quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Ủy ban kiểm sát có quyền thảo luật và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân như: Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác của toàn ngành; Dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội; Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Quốc hội, ủy ban Thường vụ quốc hội và Chủ tịch nước; Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình ủy ban Thường vụ Quốc hội về những ý kiến của Viện trưởng không nhất trí với Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội pham gửi Thủ tướng chính phủ; Những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động quan trọng, những vấn đề quan trọng khác do ít nhất một phần ba thành viên ủy ban kiểm sát yêu cầu (Điều 32 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).

Các Nghị quyết của ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước.

Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao còn có các Cục, Vụ, Viện, Văn phòng và Trường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát. Bộ máy làm việc này thừa lệnh Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Theo Điều 34 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó viện trưởng và các Kiểm sát viên, đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Viện trưởng lãnh đạo. Các Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng thực thi nhiệm vụ. Một điểm quy định mới của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 so với Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cũ là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân (Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có ủy ban kiểm sát, các phòng và Văn phòng.

Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, một số Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố thực thuộc Trung ương. Tương tự như ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao, ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không còn là tổ chức tư vấn cho Viện trưởng như Luật cũ quy định nữa, mà có quyền hạn và trách nhiệm thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng như việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo tổng kết công tác với Viện kiểm sát nhân dân tối cao; báo cáo tổng kết công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động quan trọng; những vấn đề quan trọng khác do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định (Điều 35 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).

Nghị quyết của ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên ủy ban kiểm sát biểu quyết tán thành. Trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng, nếu Viện trưởng không nhất trí theo ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Mặt khác, trong các cuộc họp của ủy ban kiểm sát, Viện trưởng có quyền quyết định những vấn đề không thuộc thẩm quyền của ủy ban kiểm sát.

Viện kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

Theo Điều 36 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng và các Kiểm sát viên, do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện không có ủy ban kiểm sát và các phòng nghiệp vụ, mà chỉ có các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc do Viện trưởng, các Phó viện trưởng phụ trách.

Cũng giống như Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp.

Viện kiểm sát quân sự

Các Viện kiểm sát quân sự được tổ chức trong quân đội để thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật (Điều 37 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự đều theo quy định chung của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Viện kiểm sát quân sự gồm có Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực. Viện kiểm sát quân sự Trung ương thuộc cơ cấu Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đồng thời là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, lãnh đạo hoạt động của Viện kiểm sát quân sự các cấp, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước

- Vị trí của Viện kiểm sát nhân dân trong bộ máy nhà nước ta được quy định bởi các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác lập trong Hiến pháp.

Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự là các cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, hoặc trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong thời gian Quốc hội không họp.

Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ương đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.

- Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Viện kiểm sát nhân dân cùng với các cơ quan tư pháp khác là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm, góp phần bảo vệ công lý, quyền con người, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân

Theo Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.

Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm sát nhân dân địa phương thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở địa phương mình. Các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật. Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình bằng những công tác sau đây.

1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

2. Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;

3. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự;

4. Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;

5. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án nhân dân;

6. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.

 Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành quyền công tố. Hoạt động thực hành quyền công tố chỉ diễn ra trong hai giai đoạn của tố tụng hình sự là giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và giai đoạn xét xử các vụ án hình sự. Hoạt động công tố được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình tố tụng hình sự nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người không có tội.

Theo quy định tại Điều 13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; Yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;

2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật;

3. Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;

4. Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật;

5. Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan điều tra;

6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Điều 17 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 quy định Viện kiểm sát nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân liên quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà;

2. Thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm;

3. Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân về việc giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm.

Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát nhân dân chỉ thực hiện hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện thông qua các hoạt động kiểm sát cụ thể như sau:

Thứ nhất, công tác kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, bao gồm các hoạt động  kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Thứ hai, kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, bao gồm các hoạt động: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Toà án nhân dân; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng; kiểm sát các bản án và quyết định của Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật; yêu cầu Toà án nhân dân cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị.

Thứ ba, kiểm sát việc giải quyết của Tòa án đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, các vụ án hành chính và những việc khác theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, kiểm sát thi hành án, bao gồm các hoạt động: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định về hình sự, dân sự đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật

Thứ năm kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, bao gồm các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.

Những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân

- Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta nói chung. Song, do có vị trí, chức năng và nhiệm vụ mang tính đặc thù nên hệ thống các Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc đặc thù. Đó là nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành và nguyên tắc độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương.

- Nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.

Nguyên tắc này  bắt nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ và nhằm bảo đảm tính thống nhất của pháp chế.

Các cơ quan nhà nước ở địa phương một mặt trực thuộc Chính phủ hoặc Bộ chủ quản, mặt khác lại trực thuộc Hội đồng nhân dân hoặc ủy ban nhân dân địa phương. Nguyên tắc này được gọi là nguyên tắc phụ thuộc hai chiều.

Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta không được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phụ thuộc hai chiều nêu trên, mà theo nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành.

Theo nguyên tắc này, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 138 Hiến pháp 1992 sửa đổi và Điều 8 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002). Viện trưởng, Phó viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân các địa phương, Phó viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và khu vực, Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân đều do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tố cao bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức (Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).

Như vậy, tất cả các Viện kiểm sát nhân dân từ trên xuống dưới tạo thành một hệ thống thống nhất. Mọi hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, dù ở cấp nào, đều đặt dưới sự lãnh đạo của Viện trưởng. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân phải chịu trách nhiệm cá nhân về toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát do mình lãnh đạo trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của toàn ngành kiểm sát trước Quốc hội, ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Việc thực hiện nguyên tắc tập trung, thống nhất lãnh đạo trong ngành bảo đảm cho các cấp kiểm sát hoạt động đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh có Ủy ban kiểm sát. Ủy ban kiểm sát làm việc tập thể, thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng như phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, dự án luật, dự án pháp lệnh..v.v… (các điều 32 và 35 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).         Khi Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm sát thì vẫn thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo lên cấp trên (lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nếu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao nếu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh). Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ của tập thể, vừa đề cao trách nhiệm của Viện trưởng.

-  Nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương.

Trong tổ chức và hoạt động của mình, Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất cứ một cơ quan nhà nước nào ở địa phương. Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với nguyên tắc tập trung, thống nhất lành đạo trong ngành. Nguyên tắc này nhằm tạo ra điều kiện để ngành kiểm sát nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất.

Theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân trong năm 2002, toàn bộ hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân được đặt dưới sự giám sát toàn diện, thường xuyên và chặt chẽ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước (Điều 139 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi); Điều 9 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002).

Nội dung nguyên tắc Viện kiểm sát nhân dân không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương thể hiện ở chỗ: Các Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình một cách độc lập, không chịu sự chi phối bởi các cơ quan nhà nước ở địa phương, mà chỉ chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Khi hoạt động, các Viện kiểm sát nhân dân chỉ phụ thuộc vào Hiến pháp, các đạo luật, pháp lệnh và các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Điều đó cũng có nghĩa là các cơ quan nhà nước ở địa phương không có quyền can thiệp vào hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Về mặt tổ chức, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định bộ máy và biên chế của Viện kiểm sát nhân dân các cấp; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên các Viện kiểm sát nhân dân địa phương.

Thừa nhận nguyên tắc không lệ thuộc vào bất kỳ cơ quan nhà nước nào ở địa phương cũng cần lưu ý là, theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân cùng cấp, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân, trả lời chất vấn của các đại biểu Hội đồng nhân dân về tình hình chấp hành pháp luật ở địa phương và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương. Mặt khác, qua thực tiễn hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Viện trưởng có quyền kiến nghị với Hội đồng nhân dân về việc phòng ngừa tội phạm và những biểu hiện vi phạm pháp luật để bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh.

2. KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT

2.1. Tiêu chuẩn Kiểm sát viên.

Tiêu chuẩn chung:


- Căn cứ Điều 2 Pháp lệnh Kiểm sát viên năm 2002 được sửa đổi bổ sung năm 2011 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh Kiểm sát viên) thì Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có trình độ cử nhân luật, đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Pháp lệnh Kiểm sát viên, có sức khoẻ bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên.

- Việc xác định các tiêu chuẩn Kiểm sát viên quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Kiểm sát viên cần căn cứ vào quy định tại Thông tư liên tịch số01/2003/TTLT-TANDTC-BQP-BNV-UBTWMTTQVN để vận dụng cho phù hợp; 

Tiêu chuẩn cụ thể của Kiểm sát viên:

- Tiêu chuẩn cụ thể của Kiểm sát viên sơ cấp:

Theo quy định tại Điều 18 Pháp lệnh Kiểm sát viên thì người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên, có thời gian làm công tác pháp luật từ bốn năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự.

- Tiêu chuẩn cụ thể của Kiểm sát viên trung cấp:

Theo quy định tại Điều 19 Pháp lệnh Kiểm sát viên thì:

+ Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên và đã là Kiểm sát viên sơ cấp ít nhất là năm năm, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với Kiểm sát viên sơ cấp thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện Kiểm sát nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự.

+ Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với Kiểm sát viên sơ cấp, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện Kiểm sát nhân dân; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự.

- Tiêu chuẩn cụ thể của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương:

Theo quy địnl tại các điều 20, 21 Pháp lệnh Kiểm sát viên thì:

+ Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên và đã là Kiểm sát viên trung cấp ít nhất là năm năm, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

+ Trong trường hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Kiểm sát nhân dân, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh Kiểm sát viên và đã có thời gian làm công tác pháp luật từ mười lăm năm trở lên, có năng lực thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, có khả năng hướng dẫn nghiệp vụ kiểm sát đối với Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

+ Trong trường hợp cần thiết, người đang công tác trong ngành Kiểm sát nhân dân hoặc người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều động đến công tác tại ngành Kiểm sát nhân dân, tuy chưa đủ thời gian làm Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp hoặc chưa đủ thời gian làm công tác pháp luật, nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác quy định tại các điều 18, 19, 20 của Pháp lệnh Kiểm sát viên, thì cũng có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp hoặc Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát nhân dân hoặc Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; nếu người đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Kiểm sát viên sơ cấp hoặc Kiểm sát viên trung cấp của Viện kiểm sát quân sự hoặc Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương.



2.2. Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên.

Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên:

Quy trình tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND và Viện kiểm sát quân sự các cấp gồm các bước sau:

- Một là, Ban cán sự Đảng VKSND, Viện kiểm sát quân sự các cấp căn cứ vào nhu cầu cán bộ, xác định chủ trương bổ nhiệm Kiểm sát viên thuộc thẩm quyền quản lý.

- Hai là, cơ quan tham mưu về công tác cán bộ lập hồ sơ trích ngang của cán bộ, tập hợp các loại đơn thư khiếu nại, tố cáo và các báo cáo kết luận có liên quan đến việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đối với cán bộ (nếu có) để báo cáo Ban cán sự Đảng cùng cấp xem xét.

- Ba là, cán bộ thuộc đối tượng bổ nhiệm, bổ nhiệm lại làm bản tự kiểm điểm, đánh giá ưu khuyết điểm việc thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao, kèm theo ý kiến nhận xét đánh giá của thủ trưởng đơn vị.

- Bốn là, đơn vị có cán bộ thuộc đối tượng bổ nhiệm, bổ nhiệm lại tổ chức cho tập thể Kiểm sát viên, cán bộ trong đơn vị tham gia ý kiến. Tổ chức bỏ phiếu thăm dò tín nhiệm (với đối tượng bổ nhiệm lần đầu), lấy ý kiến nhận xét của chi uỷ, chi bộ, cơ sở, trưởng ban công tác mặt trận, tổ dân phố... nơi cư trú thường xuyên của đối tượng được đề nghị xem xét bổ nhiệm. Với cán bộ bổ nhiệm lại thực hiện việc nhận xét, đánh giá cán bộ theo đúng quy trình trước khi xem xét bổ nhiệm lại.

- Năm là, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, thủ trưởng các đơn vị thuộc VKSND tối cao cùng với tập thể lãnh đạo tổng hợp kết quả kết quả tín nhiệm và xác minh, kết luận những vấn đề mới nẩy sinh đối với cán bộ (nếu có).

- Sáu là, Lãnh đạo đơn vị, Thường vụ Đảng uỷ hoặc Đảng uỷ (chi uỷ) cơ quan, đơn vị... nhận xét đánh giá và có y kiến đề nghị bằng văn bản về nhân sự được đề nghị bổ nhiệm.

- Bảy là, Uỷ ban kiểm sát VKSND, Viện kiểm sát quân sự các cấp họp xét chọn và đề nghị Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp tuyển chọn Kiểm sát viên.

- Tám là, Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát các cấp họp tuyển chọn người đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh Kiểm sát viên để trình cấp có thẩm quyền xem xét bổ nhiệm. Trên cơ sở kết quả của Hội đồng tuyển chọn, Viện trưởng VKSND tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao bổ nhiệm Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, cấp huyện, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, khu vực.

Quy trình miễn nhiệm Kiểm sát viên:

Quy trình miễn nhiệm Kiểm sát viên tiến hành như sau:

- Một là, Kiểm sát viên làm đơn xin miễn nhiệm, nêu rõ lý do xin miễn nhiệm;

- Hai là, Uỷ ban kiểm sát họp xét để trình Hội đồng tuyển chọn xem xét;

- Ba là, Hội đồng tuyển chọn họp xem xét, trình cấp có thẩm quyền quyết định;

- Bốn là, trên cơ sở kết quả của Hội đồng tuyển chọn, Viện trưởng VKSND tối cao trình Chủ tịch nước miễn nhiệm Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương; Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh, cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao miễn nhiệm chức danh Kiểm sát viên.

Quy trình miễn nhiệm Kiểm sát viên đối với trường hợp đương nhiên miễn nhiệm theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Pháp lệnh Kiểm sát viên.

- Viện trưởng VKSND tối cao trình miễn nhiệm đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương;

- Viện trưởng VKSND cấp tỉnh đề nghị miễn nhiệm đối với Kiểm sát viên cấp tỉnh, cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đề nghị miễn nhiệm đối với Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, khu vực.

Quy trình đề nghị cách chức Kiểm sát viên VKSND các cấp:

Các bước tiến hành cách chức Kiểm sát viên.

- Một là, Kiểm sát viên bị đề nghị cách chức làm bản tự kiểm điểm;

- Hai là, cơ quan, đơn vị nơi Kiểm sát viên công tác tổ chức kiểm tra xác minh vi phạm và kiểm điểm làm rõ sai phạm của người bị đề nghị cách chức;

- Ba là, Hội đồng kỷ luật cơ quan, đơn vị nơi Kiểm sát viên công tác họp xem xét đề nghị hình thức kỷ luật để cấp có thẩm quyền quyết định ;

- Bốn là, Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát các cấp họp xem xét việc cách chức đối với chức danh Kiểm sát viên;

- Năm là, Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên các cấp họp xem xét đề nghị cách chức chức danh Kiểm sát viên;

- Sáu là, đề nghị cách chức.

Các trường hợp đương nhiên bị cách chức theo khoản 1 Điều 28 Pháp lệnh Kiểm sát viên:

- Viện trưởng VKSND tối cao trình Chủ tịch nước quyết định cách chức đối với Kiểm sát viên VKSND tối cao và Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự Trung ương.

- Chủ tịch Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên VKSND cấp tỉnh đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao cách chức Kiểm sát viên trung cấp và Kiểm sát viên sơ cấp.

- Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao cách chức Kiểm sát viên trung cấp và Kiểm sát viên sơ cấp của Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu và khu vực.

2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên

Nhiệm vụ, quyền hạn chung:

- Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền Viện kiểm sát cấp mình theo phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng.

- Khi thực hiện nhiệm vụ, Kiểm sát viên phải tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp mình, sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Kiểm sát viên có quyền từ chối nhiệm vụ được giao khi có căn cứ cho rằng việc đó là trái pháp luật; nếu Viện trưởng vẫn quyết định thì Kiểm sát viên phải chấp hành, nhưng Viện trưởng phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình; trong trường hợp này Kiểm sát viên có quyền báo cáo lên Viện trưởng cấp trên trực tiếp và không phải chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành quyết định đó.

- Kiểm sát viên phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.

Kiểm sát viên không được làm những việc sau đây:
- Những việc mà pháp luật quy định cán bộ, công chức không được làm;
- Tư vấn cho bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy định của pháp luật; 
- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết các vụ án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án; 
- Đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ quan, nếu không vì nhiệm vụ được giao hoặc không được sự đồng ý của người có thẩm quyền; 
- Tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác trong các vụ án mà mình có thẩm quyền giải quyết ngoài nơi quy định.

Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể:

- Căn cứ Điều 37 BLTTHS thì khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ và quyền hạn sau:

+ Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;

+ Đề ra yêu cầu điều tra;

+ Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;

+ Kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam;

+ Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng, quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà;

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;

+ Kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án;

+ Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.

Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những hành vi và quyết định của mình.

- Căn cứ Điều 45 BLTTDS năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, Kiểm sát viên có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Toà án;

+ Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng;

+ Kiểm sát các bản án, quyết định của Toà án;

+ Tham gia phiên toà xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS và phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc dân sự;

+ Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát.

+ Ngoài các quy định cụ thể trong BLTTHS, BLTTDS thì Kiểm sát viên còn có các nhiệm vụ, quyền hạn khác do pháp luật quy định.

Trách nhiệm của Kiểm sát viên:

- Kiểm sát viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

- Kiểm sát viên trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà gây thiệt hại thì Viện kiểm sát nhân dân nơi người đó công tác phải có trách nhiệm bồi thường và người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật.

- Kiểm sát viên phải giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy định của pháp luật.

- Kiểm sát viên phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.

- Kiểm sát viên phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng; tham gia tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

- Kiểm sát viên có trách nhiệm học tập, nghiên cứu để nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ kiểm sát.

- Kiểm sát viên có có trách nhiệm thực hiện nghiêm túc Quyết định số 296/2008/QĐ-VKSTC ngày 18/6/2008 của Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức ngành Kiểm sát nhân dân.



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ksv