kiem tra triet

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Quá trình và nguyên nhân hình thành

Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ với sự kiện Đức tấn công Ba Lan (1-9-1939), sau đó lan rộng ra khắp châu Âu, châu, Phi, châu Á. Tháng 4-1940 Đức tấn công Pháp, Pháp nhanh chóng rơi vào tay của phát xít Đức. Chính phủ phản động Pêtanh lên nắm quyền thi hành tất cả các chính sách trước đây kể cả ở chính quốc vào thuộc địa. Tháng 9-1940 hiệp ước tay ba giữa Đức-Ý-Nhật đượcký kết hình thành nên trục phát xít Berlin-Tokyo-Rome. Ở Đông Dương phát xít Nhật mở rộng xâm chiếm châu Á, phát xít Nhật đã tiến sát vào biên giới Việt Trung chuẩn bị xâm chiếm Đông Dương. Thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị thời chiến mặt khác thoả hiệp với Nhật mở cửa cho Nhật tiến vào Đông Dương. Ngày 22-9-1940 phát xít Nhật chính thức nhảy vào Đông Dương, Pháp đầu hàng Nhật, nhân dân Đông Dương chịu áp bức của hai tầng lớp Nhật, Pháp nên mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Trước tình hình đó Đảng đã đề ra tình hình chiến lược mới giai đoạn 1939-1945 thể hiện qua ba hội nghị trung ương lần thứ VI, VII, VIII của Đảng.

a. Hội nghị trung ương Đảng toàn quốc lần thứ 6 (11-1939)

- Tổ chức tháng 11-1939 tại Bà Điểm-Hoóc Môn- Gia Định do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì

Nội dung:

- Hội nghị nhận định tình hình Đông Dương và thế giới trên cơ sở đó xác định dự báo Nhật vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật.

- Mâu thuẫn chủ yếu và gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế quốc Pháp và các dân tộc Đông Dương.

- Nhấn mạnh nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

- Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của đế quốc và phong kiến” chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc phong kiến phản động chia cho dân cày nghèo, thực hiện giảm tô giảm tức chống cho vay nặng lãi.

- Ban chấp hành thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để quy tụ đông đảo lực lượng cách mạng vào trong mặt trận nhằm đấu tranh đạt mục tiêu chung là giành độc lập

Phương pháp cách mạng:

- Hội nghị bàn đến việc chuẩn bị lực lượng cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

- Hội nghị quyết định chuyển sinh hoạt của Đảng về nông thôn, củng cố xây dựng tổ chức Đảng chống bệnh tả khuynh

Ý nghĩa:

- Mở đầu cho quá trình chuẩn hướng chiến lược cách mạng của Đảng đánh dấu sự trưởng thành của Đảng trong việc cụ thể hoá đề ra trong cương lĩnh tháng 2-1930

b. Hội nghị trung ương 7 (11-1940) diễn ra vào tháng 11-1940 tại Đình Bảng-Bắc Ninh

Nội dung của hội nghị:

- Khẳng định chủ trương của hội nghị trung ương 6 là hoàn toàn đúng đắn

- Quyết định duy trì củng cố lực lượng du kích Bắc Sơn đồng thời đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ

- Hội nghị nhấn mạnh vấn đề khởi nghĩa vũ trang quá trình giành chính quyền coi đây là nội dung trung tâm từ đó đề ra nhiệm vụ phải khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền

- Hội nghị xác định kẻ thù của nhân dân Đông Dương là phát xít Nhật-Pháp

- Ngày 13-1-1941 cuộc binh biến Đô Lương do đội Cung dẫn đầu nổ ra

c. Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 8 (5-1941)

Cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra ác liệt, Đức tiến công Liên Xô, phát xít Nhật mở rộng phạm vi xâm chiếm ra Đông Nam Á-Thái Bình Dương.Trong nước, nhân dân Việt Nam bị áp bức bóc lột nặng nề có mối căm thù sâu sắc đối với bè lũ Nhật Pháp và bọn tay sai đồng thời nổ ra liên tiếp 3 cuộc đấu tranh vũ trang.. thể hiện tinh thần đấu tranh anh dũng của nhân dân ta. Ngày 28-1-1941 Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài Nguyễn Ái Quốc về Bắc Pó-Hà Quảng-Cao Bằng

* Hội nghị trung ương 8:

- Thời gian tiến hành ngày 10 đến 19-5-1941 tại Bắc Pó-Hà Quảng-Cao Bằng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc đại diện cho Quốc tế Cộng Sản chủ trì.

Nội dung:

- Phân tích diễn biến tình hình trong nước và thế giới từ đó đặt ra mâu thuẫn cấp bách cần giải quyết đó là mâu thuẫn giữa nhân dân ta và đế quốc phát xít Pháp Nhật.

- Hội nghị tán thành chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng trong 2 hội nghị trung ương 6 và hội nghị trung ương 7.

- Hội nghị xác định đăt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Quyền lợi của bộ phận giai cấp đặt dưới sự sinh tử tồn vong của dân tộc. Trong lúc này nếu không đòi tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi giai cấp đến ngà vạn năm cũng không đạt được.

- Để tập trung lực lượng chống đế quốc hội nghị tiếp tục gác cách mạng ruộng đất chỉ tịch thu ruộng đất của Việt gian chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức chia lại ruộng công tiến đến dân cày có ruộng.

- Hội nghị trung ương 8 chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc tự quyết từ đó ở Việt Nam thành lập Việt Nam độc lập Đồng Minh gọi tắt là Việt Minh. Hội bao gồm hội cứu quốc, các tổ chức trong mặt trận Việt Minh đều có tên là Cứu quốc.

- Hội nghị chủ trương khởi nghĩa vũ trang, hội nghị khẳng định cách mạng Đông Dương kết thúc bằng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

- Hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

- Hội nghị bầu ban chấp hành trung ương do đồng chí Trường Chinh làm tổng bí thư. Ban thường vụ gồm có: Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt.

- Chủ trương xây dựng Đảng gấp rút đào tạo cán bộ chuyên môn

* Tóm lại: chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng được thể hiện:

- Đảng rút về hoạt động bí mật ở nông thôn

- Xác định kẻ thù của đất nước ta qua từng giai đoạn

- Đảng đã xác định được lực lượng cách mạng là toàn thể dân tộc Việt Nam

- Đảng đã thành lập được các mặt trận khác nhau nhằm tập hơp lực lượng quần chúng

- Đề xuất biện pháp giải quyết vấn đề riêng của toàn thể dân tộc được đề cập tới tại hội nghị trung ương VIII

- Chuyển hình thức đấu tranh chính trị sang khởi nghĩa vũ trang, khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Ý nghĩa:

- Phản ánh sự nhạy bén của Đảng trước tình hình mới có nhiều thay đổi

- Kế thừa và phát huy cương lĩnh của Hồ Chí Minh

- Hội nghị phát triển hoàn chỉnh chủ trương của hội nghị trung ương 6 và 7 đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.

- Chuyển hướng mới đề ra quyền tự giải quyết dân tộc

- Như vậy từ hội nghị 6 đến 8 Đảng ta dần hoàn thiện quá trình chuyển hướng chiến lược nhằm mục tiêu độc lập dân tộc, đây là chủ trương đúng đắn trong tình hình mới.

- Nhiệm vụ giải phóng dân tộc và tập hợp quần chúng, phương pháp cách mạng từ khởi nghĩa vũ trang và đã đề ra được quyền dân tộc tự quyết.

- Sự chuyển hướng chiến lược cách mạng của Đảng trong giai đoạn mới là hoàn toàn đúng đắn và đã dẫn đến thắng lợi của cách mạng tháng 8-1945.

.Hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa sự chuyển hướng chiến lược cách mạng

của Đảng giai đoạn 1939-1945

1. Hoàn cảnh lịch sử

•Thế giới : Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ với 2 giai đoạn.

- Từ 1/9/1939 - 22/6/1941

Tính chất chiến tranh: CT giữa các tập đoàn đế quốc với nhau, tháng 6-1940: Đức tấn công Pháp và Pháp đầu hàng, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.

- Từ 22/6/1941 - 2/9/1945:

22/6/1941: Đức tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất của cuộc chiến tranh thay đổi. Một bên là lực lượng Phát xít & một bên là lực lượng đồng minh chống phát xít.

Trong nước :

- Thực dân Pháp thủ tiêu toàn bộ thành quả của phong trào dân sinh 1936-1939

Đề cương Đường lối cách mạng Đảng cộng sản Việt Nam

+ Đặt Đảng Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật. thẳng tay đàn áp pt đấu tranh của

nd, thủ tiêu dân chủ

+ Giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản của các hội này.

+ vơ vét sc người sc của phục vụ chiến tranh

-22/9/1940: Phát xít Nhật đã tiến vào Lạng Sơn & đổ bộ vào Hải Phòng.

- 23/9/1940: tại Hà Nội, Pháp kí hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó, nhân dân ta chịu cảnh một cổ bị hai tròng áp bức bóc lột của Pháp – Nhật. Mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc, phát xít Pháp – Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.

2. Nội dung chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

• Nội dung được thể hiện trong 3 nghị quyết của Hội nghị Ban Chấp hành TƯ Đảng: Hội nghị lần 6 (11-1939), HN lần 7( 11-1940), HN lần 8 (5-1941). Nội dung chủ trương như sau:

- Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu bởi : Mâu thuẫn chủ yếu của dân tộc ta lúc này là mâu thuẫn giữa dân tộc với phát xít Pháp - Nhật. Ban chấp hành trung ương quyết định tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian cho dân cày nghèo”.

- Xây dựng lực lượng cách mạng: thành lập mặt trận Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng tham gia giải phóng dân tộc. Trực thuộc Mặt trận Việt Minh có Hội công nhân cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc…

Mặt trận Việt Minh được hình thành với một số đặc điểm: Chỉ hoạt động trong phạm vi dân tộc Việt Nam, có cương lĩnh hành động rõ ràng, có cờ đỏ sao vàng, tổ chức hoạt động một cách chặt chẽ.

- xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiên tại , pt llcm bao gồm chính trị quân sự thành lập các khu căn cứ , chú trọng công tác xd đảng, đào tạo cán bộ và đẩy mạnh công tác vận động quần chúng

Phương châm hình thái khởi nghĩa ở nước ta: Nắm vững và dự báo được thời cơ cách mạng. chuẩn bị sẵn sàng ll nhằm lợi dụng cơ hội thuận tiện hơn cả đánh lại quân thù

2 dự báo của Bác tại Hội nghị trung ương 8 (5-1941):

+ Đức chắc chắn sẽ tấn công Liên Xô, nhưng Liên Xô nhất định thắng lợi, mang

lại cơ hội giải phóng dân tộc cho các nước trên thế giới.

+ Cách mạng Việt Nam sẽ thắng lợi vào tháng 8 năm 1945.

3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược

-

Đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vu giải phóng dân

tộc lên hàng đầu.

-

Tập hợp rộng rãi mọi người Việt Nam yêu nước vào mặt trận Việt Minh.

-

Xây dựng lực lượng quân đội thông qua việc thành lập Việt Nam giải phóng

quân.

-

Đường lối là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân.

Đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đường lối đó kết tinh trí tuệ của Trung ương Đảng đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh nhằm thực hiện Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Trong thời kỳ 1939-1945, có 6 nghị quyết quan trọng của Đảng có vai trò quyết định trực tiếp tới thắng lợi. Mỗi nghị quyết được xây dựng trong mỗi hoàn cảnh lịch sử khác nhau, có vị trí, vai trò nhất định, đảm bảo tính phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và thể hiện tập trung sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nghị quyết Trung ương 6 của Đảng ngày 6,7,8.11.1939 được thông qua tại Hội nghị Trung ương do Tổng bí thư Nguyễn Văn Cừ và các đồng chí Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn chủ trì, tại Bà Điểm (Gia Định cũ). Nghị quyết nhận định về chiến tranh thế giới thứ hai và dự báo cách mạng Trung Quốc sẽ thắng “chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương nổ bùng và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh rực rỡ”. Nghị quyết chỉ r” việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương để chống chiến tranh, đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến. Tập trung vào nhiệm vụ lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai phản bội quyền lợi dân tộcẶ Đảng đánh giá khá toàn diện, sâu sắc về vị trí vấn đề dân tộc, thái độ các giai cấp đối với vấn đề dân tộc, kết hợp phong trào giải phóng dân tộc Đông Dương. Chính sách của Đảng cộng sản Đông Dương “không có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải phóng độc lập”.

Nghị quyết Trung ương 6 trình bày khá phong phú, toàn diện, những vấn đề lý luận cách mạng cụ thể, dễ thực hiện. Nội dung nghị quyết đánh đấu sự chuyển hướng bước đầu nhưng dứt khoát về chỉ đạo chiến lược cách mạng trong thời kỳ trực tiếp chuẩn bị đấu tranh giải phóng dân tộc.

Hội nghị Trung ương 7 ngày 6, 7, 8, 9.11.1940 tại Đình Bảng (Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ chủ trì nhận định tình hình thế giới và Đông Dương, chỉ r” kẻ thù lúc này là phát xít Nhật - Pháp và tay sai phản động. “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy. Đảng phải chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mệnh thiêng liêng: lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức Đông Dương v” trang bạo động giành lấy quyền tự do độc lập”. Nghị quyết chỉ r” việc tập trung xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế và đặt hẳn vấn đề mở rộng các đội tự vệ, “trực tiếp v” trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân dân cách mệnh quân, trực tiếp tham gia điều khiển bạo động”. Các cuộc khởi nghĩa Bắc sơn (9.1940), Nam kỳ (11.1940) và cuộc binh biến Đô Lương (1.1941) đã bùng nổ, báo hiệu đấu tranh vũ trang giải phóng của các dân tộc Đông Dương đã bắt đầu

Tháng 2.1941 lãnh tụ Nguyễn ái Quốc về nước. Tháng 5.1941, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng). Sau khi phân tích r” tình hình thế giới và chính sách của Pháp, Nhật, tình hình cách mạng Đông Dương, Nghị quyết chỉ r” “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Nghị quyết quyết định thành lập Việt Minh, bao gồm tất cả các tổ chức quần chúng cứu quốc. Văn kiện đó đã chỉ r” các điều kiện và xúc tiến các công việc lớn chuẩn bị lực lượng toàn quốc cho v” trang khởi nghĩa như xây dựng khu căn cứ du kích, tập trung sự lãnh đạo của Đảng với các tổ chức vũ trang, sẵn sàng khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, mở đường cho tổng khởi nghĩa. Nghị quyết chỉ r” các nội dung về Đảng lãnh đạo Mặt trận Việt Minh.

Nghị quyết Trung ương 8 đã phát triển khá hoàn chỉnh và sâu sắc vấn đề chuyển hướng chỉ đạo chiến lược giải phóng dân tộc. Nó có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi Cách mạng tháng Tám 1945.

Nghị quyết của Thường vụ Trung ương Đảng họp tại V”ng La (Hà Nội ) tháng 2.1943 chỉ r” sau 6.1941, tính chất chiến tranh thế giới thay đổi, chiến tranh sẽ phức tạp, quyết liệt, tàn phá dữ dội; Liên Xô cùng phe dân chủ sẽ thắng; Pháp - Nhật sẽ xung đột, phong trào cách mạng sẽ lớn mạnh “có thể bỗng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao”. Nghị quyết chủ trương mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất chống Nhật - Pháp, đặc biệt chủ trương đặt mình vào tình thế khẩn cấp, gấp chuẩn bị khởi nghĩa, tích cực tuyên tuyền, tổ chức tranh đấu, vận động các giới công vận, nông vận, thanh vận, binh vận, phụ vận, vận động phú hào, dân tộc thiểu số, chuẩn bị kế hoạch toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp tới. “Quân Anh - Mỹ - Trung Quốc sẽ vào Đông Dương diệt Nhật. Khi ấy ta phải lợi đúng dịp tốt khởi nghĩa giành chính quyền đồng thời giao thiệp với Anh - Mỹ - Trung Quốc để họ công nhận quyền tự do độc lập của nhân dân Đông Dương và rút ra kh”i Đông Dương sau khi đã cùng ta đánh bại phát xít Nhật- Pháp “.

Nghị quyết này là bước phát triển mới và thể hiện sự nhạy bén chính trị, tư duy đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta.

Chỉ thị của Ban thường vụ Trung ương Đảng ngày 12.3.1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ra đời trong bối cảnh Nhật đảo chính Pháp 9.3.1945. Chỉ thị của Trung ương đã nhận xét tình hình, chỉ r” nguyên nhân, tính chất và mục đích cuộc đảo chính Nhật - Pháp. Các cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa chín muồi nhanh chóng. Thời cơ tiền khởi nghĩa đã đến. Kẻ thù trước mắt, duy nhất là phát xít Nhật. Nhiệm vụ của Đảng là phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, lãnh đạo toàn dân gấp rút tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Đảng thay khẩu hiệu “Đánh đuổi Nhật - Pháp” bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”; mạnh dạn xuống đường đấu tranh với khẩu hiệu “phá kho thóc để giải quyết nạn đói”; phương pháp đấu tranh là chiến tranh du kích, giải phóng từng vùng, mở rộng căn cứ địa, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích. Trung ương dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa khi quân Đồng Minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, đã bám chắc, tiến sâu vào đất ta và quân Nhật đã kéo ra mặt trận ngăn cản quân Đồng Minh, để phía sau sơ hở. Trung ương còn cảnh báo tinh thần chủ động, phải dựa vào sức mình là chính, không được ỷ lại để nếu quân Đồng Minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi. Cần tổ chức Uỷ ban quân sự cách mạng, tổ chức huấn luyện theo Chương trình Việt Minh và sẵn sàng hưởng ứng quân Đồng Minh.

Bản Chỉ thị ngày 12.3.1945 thể hiện sự nhạy bén, sáng suốt, chỉ đạo rất kịp thời của Thường vụ Trung ương Đảng, khích lệ cao độ tinh thần vận dụng sáng tạo của các cấp uỷ Đảng và cán bộ, đảng viên trong cao trào kháng Nhật cứu nước và có tác dụng quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Nghị quyết của toàn quốc Hội nghị Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 14,15.8.1945 ra đời trong bối cảnh tình thế cách mạng đã xuất hiện trực tiếp trên đất nước ta... Nghị quyết chỉ r” tình hình thế giới và Đông Dương và nêu ra các chủ trương lớn chỉ đạo khởi nghĩa giành độc lập như thành lập Uỷ ban hành chính nơi ta làm chủ; tránh xung đột, giao thiệp thân thiện với quân Mỹ, Anh, Tàu vào nước taẶ Đảng chủ trương tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của Liên Xô, của nhân dân Pháp, nhân dân Trung Quốc; lợi dụng mâu thuẫn giữa Pháp, Anh, Mỹ, Tưởng để tránh đối phó nhiều kẻ thù một lúc; nêu các nhiệm vụ tuyên truyền cổ động, đặt Quốc ca và định Quốc kỳ, quyết định nhiều nhiệm vụ tác chiến quân sự quan trọngẶ

Nghị quyết Hội nghị toàn quốc của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng, thể hiện trí tuệ sáng suốt, sự nhạy bén chính trị, tầm nhìn chiến lược và quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân ta trước giờ phút quyết định vận mệnh của Tổ quốc. Nghị quyết này của Đảng, sau đó là Đại hội quốc dân Tân Trào (16.8) đã chuẩn bị cụ thể, trực tiếp cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Hơn 60 năm đã trôi qua, kể từ khi các Nghị quyết trên của Đảng ra đời chúng ta có nhiều suy nghĩ về phương pháp xây dựng nghị quyết Đảng. Đó là các nghị quyết được xây dựng rất công phu, đúng đắn và sáng tạo. Nội dung rất phong phú. Các nghị quyết đều phân tích kỹ hoàn cảnh lịch sử trong nước, quốc tế, tương quan lực lượng cách mạng, tác động của tình hình đó và dự báo sự phát triển của phong trào cách mạng. Quan điểm và thái độ của Đảng ta trong đánh giá tình hình là thẳng thắn, đúng sự thật. Nêu ra những chủ trương, chính sách lớn, khẩu hiệu, phương pháp và hình thức tiến hành cách mạng. Quan điểm của Đảng là gắn bó cách mạng Việt Nam, Lào và Cămpuchia, nhất quán chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp cách mạng nước ta với cách mạng thế giới. Đảng ta đều chú trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng và củng cố các mặt trận dân tộc thống nhất. Trong bối cảnh phải tổ chức đấu tranh vũ trang và khởi nghĩa giành chính quyền, nghị quyết của Đảng rất chú trọng tới đường lối và nghệ thuật quân sự, dự báo thời cơ và tình thế cách mạng để bám sát và chuẩn bị kỹ khi thời cơ đếnẶ Các nghị quyết Đảng đã phát huy tinh thần độc lập sáng tạo, kịp thời phát hiện những vấn đề mới và uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực hiện.

Hiện nay toàn Đảng đang tiến hành Đại hội Đảng các cấp hướng tới Đại hội X của Đảng. Việc tập trung trí tuệ tập thể các cấp uỷ Đảng, tất cả đảng viên, các nhà khoa học và các tầng lớp nhân dân trong nước, ngoài nước đang nghiên cứu, góp ý kiến vào các dự thảo các văn kiện của Đảng bộ các cấp để trình ra Đại hội, xây dựng thành các nghị quyết mới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tinh thần của các nghị quyết đúng đắn, sáng tạo dẫn tới thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 giúp chúng ta có tinh thần trách nhiệm hơn trong việc xây dựng nghị quyết, hình thành đường lối cách mạng trong thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nướ c

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro