Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phân tích bài học kinh nghiệm Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là hạt nhân tư tưởng HCM, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình cách mạng Việt nam từ khi có Đảng, là cơ sở để Đảng ta giải quyết đúng đắn một loạt vấn đề chiến lược, phương pháp cách mạng trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng XHCN, là nguồn gốc sức mạnh bách chiến bách thắng của cách mạng Việt nam.

Qua tổng kết 15 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội IX đã rút ra 04 bài học chủ yếu cho cách mạng Việt Nam, trong đó Đảng nhấn mạnh bài học “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Những bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra là phản ánh các mối quan hệ rất cơ bản đặt ra và được Đảng xử lý, giải quyết thành công trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới. Những bài học đó là hệ thống các vấn đề có liên quan mật thiết với nhau trong một chỉnh thể tác động lẫn nhau. Tuy nhiên, bài học kinh nghiệm kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có tính bao trùm, định hướng và chi phối các bài học khác. Bởi đây là vấn đề lớn không chỉ có ý nghĩa thời đại, là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng và của cách mạng Việt Nam.

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, đòi hỏi toàn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu sâu hơn để thấy rõ những nội dung, hiểu rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn của các bài học kinh nghiệm. Đảng ta đã chỉ rõ việc nắm vững và vận dụng những bài học kinh nghiệm là đảm bảo cho thành công của sự nghiệp phát triển đất nước trong thời kỳ mới.

Ở đây, chúng ta sẽ tìm hiểu làm rõ những nguồn gốc lý luận và thực tiễn để Đảng đưa ra bài học “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Thứ nhất, độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công CNXH và củng cố nền độc lập dân tộc càng vững chắc hơn.

Từ năm 1930 khi Đảng CSVN ra đời, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chiến đấu kiên cường , chịu nhiều gian khổ hy sinh, sau nhiều thập kỷ đến năm 1975 mới giành được nền độc lập, thống nhất đất nước. Thắng lợi đó là nhờ đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH từ năm 1930. Trong sự nghiệp xây dựng CNXH, nhất là trong công cuộc đổi mới, ngọn cờ độc lập dân tộc càng có mối quan hệ mật thiết với CNXH. Bởi vì, nước nhà đã độc lập đi vào xây dựng CNXH những nguy cơ xâm lược vẫn còn. Nền độc lập tuy đã giành được những chỉ được bảo vệ vững chắc khi sự nghiệp xây dựng CNXH đạt hiệu quả cao. Xây dựng CNXH thắng lợi mới có được một tiềm lực kinh tế, quốc phòng vững mạnh, mới đảm bảo được an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hơn thế nữa, có độc lập dân tộc mới có hoà bình ổn định để xây dựng. Đại hội VII của Đảng khẳng định “Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết cơ bản để xây dựng CNXH, bảo đảm cho việc xây dựng CNXH được thành công” . Đất nước không độc lập, không tự chủ thì không thể xây dựng CNXH được.

Mục tiêu độc lập dân tộc trong quá trình xây dựng CNXH được hiểu với nội dung phong phú, đa dạng hơn. Độc lập dân tộc là độc lập toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền quốc gia, là độc lập trong việc quyết định con đường đi của đất nước. Quán triệt mục tiêu độc lập dân tộc để phát huy sức mạnh, ý chí toàn diện của cả dân tộc, xây dựng CNXH bằng chính sức mạnh của dân tộc, nội lực là chính, kết hợp tối đa sức mạnh của hợp tác quốc tế.

Trong thời đại ngày nay, yếu tố dân tộc phải được giải quyết theo lập trường của giai cấp vô sản. Vì giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến nên trở thành giai cấp trung tâm của thời đại và đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc. Trước khi giải phóng mình, giai cấp công nhân phải giải phóng toàn dân tộc. Vận mệnh của dân tộc gắn liền với vận mệnh của giai cấp công nhân. Yếu tố dân tộc còn phải kết hợp với yếu tố quốc tế mới có đủ sức mạnh để lấy nhỏ thắng lớn, để từ nghèo nàn lạc hậu tiến lên giàu mạnh và văn minh, đó cũng là một tất yếu lịch sử.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta phải đánh giá đúng vai trò các thành phần kinh tế và gắn liền với nó là vị trí của các giai cấp, các tầng lớp xã hội trong nền sản xuất hiện nay. Chúng ta chưa quên bài học phải trả giá về quan điểm coi kinh tế tư bản và giai cấp tư sản như là sức cản lực lượng sản xuất phát triển trong thời kỳ quá độ. Độc lập dân tộc vẫn là động lực lớn của cách mạng XHCN trong thời kỳ đổi mới xây dựng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là phù hợp với lợi ích chung, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội và mỗi cá nhân.

Chúng ta tiếp tục phát huy chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tinh thần tự lực tự cường; xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát huy thế mạnh mà đất nước có được như tài nguyên đa dạng, sức lao động dồi dào,…để xây dựng CNXH có hiệu quả.

Bài học giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng. Về cơ bản, Đảng ta đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó. Tuy nhiên, cũng có lúc Đảng ta phạm sai lầm như: chưa đánh giá đúng yếu tố dân tộc, chưa quan niệm và nhận thức đúng đắn, khoa học vè CNXH,…

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam trong 81 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt là qua gần 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã đi đến kết luận hết sức đúng đắn là phải kết hợp đúng đắn mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trong quá trình đổi mới. Đổi mới là thay đổi nhận thức, cách làm, bước đi cho phù hợp để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải là thay đổi con đường, thay đổi mục tiêu XHCN, mà đổi mới vì sự thắng lợi của CNXH trên đất nước ta. Nhân dân ta chiến đấu hy sinh biết bao xương máu để giành độc lập dân tộc, nhất định không chịu chấp nhận con đường TBCN hay CNXH dân chủ, bởi vì những con đường đó sẽ dẫn đến kết cục mất độc lập dưới hình thức này hay hình thức khác.

Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá, các nước đang mở cửa hội nhập, những thời cơ và thách thức lớn, hợp tác đi đôi với cạnh tranh thì vấn đề độc lập dân tộc càng có ý nghĩa to lớn. Ănghen đã từng nói “Sự cần thiết phải có độc lập dân tộc như con người ta có đất dưới chân, ánh sáng không khí và không gian rộng rãi. Nếu không tất cả chỉ là chuyện ba hoa. Độc lập dân tộc là cơ sở cho bất kỳ sự hợp tác quốc tế nào”.

Thứ hai, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới.

Trên con đường bôn ba tìm đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc đã đến nhiều nước trên thế giới, Người đã tìm hiểu kỷ các cuộc cách mạng tư sản điển hình, tiếp xúc với nhiều lớp người, nhiều tư tưởng, học thuyết, cuối cùng Người đi đến kết luận: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mac - Lê nin”. Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở học thuyết này mục tiêu, con đường và điều kiện để giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động, con đường cách mạng mà Hồ Chí Minh lựa chọn cho dân tộc là con đường giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Ngay từ năm 1930, trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta đã khẳng định “Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, giai cấp lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm gốc”.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là đỉnh cao của tư duy nhân loại, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học và cách mạng, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của các Đảng Cộng sản và công nhân trong đấu tranh xoá bỏ mọi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội XHCN và xã hội CSCN. Vì chủ nghĩa Mác- Lênin là một nguồn gốc – nguồn gốc chủ yếu nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh, là một bộ hữu cơ - bộ phận cơ sở, nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Vì vậy, đối với cách mạng Việt Nam, không thể đặt tư tưởng Hồ Chí Minh ra ngoài hệ tư tưởng Mác - Lênin, hay nói cách khác không thể tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi nền tảng của nó là chủ nghĩa Mác - Lênin mà chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong sự thống nhất hữu cơ, là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta.

Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới một cách toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta đã khẳng định một cách đúng đắn vị trí của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để đảm bảo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày càng phát triển vững chắc, đúng hướng, sớm tiến kịp các nước có nền kinh tế tiên tiến trong khu vực và thế giới trên cơ sở nắm vững lập trường và phương pháp của chủ nghĩa Mác- Lê nin chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu sâu sắc và phổ biến rộng rãi hơn nữa tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng một cách sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới. Đảng và nhân dân ta trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh rằng nhờ trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng CSVN đã lãnh đạo cách mạng giành từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Ngày nay, xây dựng CNXH trong thời kỳ đổi mới chúng ta càng phải dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để kiến tạo, hình thành con đường định hướng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN, hình thành mô hình chế độ xã hội mới Việt Nam. Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nắm vững vũ khí lý luận và định hướng đúng đắn về tư tưởng, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.

Tuy nhiên, trung thành tuyệt đối với chủ nghĩa Mác - Lênin không có nghĩa là giáo điều, rập khuôn, máy móc mà phải hiểu rõ những nguyên lý cơ bản và vận dụng sáng tạo nó trong hoàn cảnh cụ thể của đất nước trong những giai đoạn cách mạng cụ thể. Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để đáp ứng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tiễn của nước ta”.

Từ thực tiễn về sự tan rã của các nước XHCN ở Liên Xô và Đông Âu càng giúp cho Đảng ta bài học sâu sắc về quán triệt, vận dụng và sự trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Lịch sử cách mạg nước ta chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ánh sáng soi đường cho Đảng ta, cho cách mạng Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước.

Thứ ba, trong công cuộc đổi mới Đẳng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng CN Mác Lê nin và tư tưởng HCM

Ngay từ khi mới ra đời, trong những Cương lĩnh của mình, Đảng ta đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH và trong suốt hơn 80 năm qua Đảng ta luôn kiên trì mục tiêu đó.

Sau khi giải phóng miền Nam , thống nhất đất nước, bên cạnh những thuận lợi và những thành tựu đã giành được trong giai đoạn đầu xây dựng đất nước chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới. Tư tưởng chủ quan say sưa với thắng lợi, nóng vội muốn tiến nhanh lên CNXH trong một thời gian ngắn, việc bố trí sai cơ cấu kinh tế, cộng với những khuyết điểm của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ ngày càng rõ, làm cho tình hình KT-XH rơi vào trì trệ, khủng hoảng. Nước ta lại bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới tây nam và biên giới Tây Bắc xãy ra... để đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng đó, vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải đổi mới mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Cuối những năm 70, ở một số địa phương bắt đầu có những tìm tòi, thử nghiệm cách làm ăn mới, đưa ra những lời giải đáp cho những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Qua những thành công bước đầu đạt được trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm đó, Đảng và nhân dân ta càng nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới cách làm nhằm xây dựng CNXH một cách có hiệu quả hơn.

Đối với đảng ta, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức và xây dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là đổi màu, hội nhập nhưng không phải là hòa tan vào thế giơi tư bản; đổi mới có nguyên tắc mà nguyên tắc hàng đầu là bảo đảm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho đất nước. Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định rằng đổi mới không phải xa rời chủ nghĩa MLN và tư tưởng HCM, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của đảng.

Trong những năm đổi mới, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí và nội dung tư tưởng HCM, đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng HCM. Việc Cương lĩnh năm 1991 của Đảng ta đưa tư tưởng HCM vào nền tảng tư tưởng của Đảng là một bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng. Trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta, tư tưởng HCM và chủ nghĩa MLN là một thể thống nhất. Do đó, không được đối lập tư tưởng HCM với chủ nghĩa MLN vì làm như vậy tức là phủ nhận mối liên hệ nội tại cả về lịch sử và logic của tư tưởng HCM với CNMLN.

Trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa MLN, tư tưởng HCM; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là những điều kiện bảo đảm cho thắng lợi sắp tới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp của tình hình thế giới.

Trong quá trình đổi mới chúng ta không phủ định sạch trơn thành tựu của quá khứ, mà trân trọng và kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của cha ông, những thành tựu của cách mạng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những thành quả của văn minh nhân loại.

5 nguyên tắc cơ bản bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới:

Một là, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta; xây dựng nước VN XHCN là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng những quan niệm đúng đắn về CNXH, những bước đi, biện pháp thích hợp.

Hai là, CN Mác Lê nin luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp của Đảng.

Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Bốn là, xây dựng nền dân chủ XHCN mà thực chất là phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống XH, vừa là mục tỉêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng CNXH.

Năm là, kết hợp CN yêu nước với chủ nghĩa quốc tế XHCN, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong bối cảnh lịch sử mới.

Nội dung của công cuộc đổi mới:

1. Chúng ta phải đổi mới nhận thức đúng đắn hơn về CNXH, đổi mới những hình thức tổ chức, đổi mới cả cách làm, sao cho có hiệu quả chính trị, kinh tế - xã hội cao nhất, có bước đi phù hợp để xây dựng CNXH đạt kết quả cao hơn; đổi mới vì CNXH. Nói cách khác giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới một cách toàn diện, mà thực chất là nhạn thức đúng đắn và sâu dắc hơn về CN M-L và tư tưởng HCM.

2. Đổi mới không xa rời mục tiêu, con đường; không xa rời những nguyên lý cơ bản của CN Mac – Lenin và tư tưởng HCM mà càng phải nắm vững hơn nữa các nguyên lý cơ bản của CN Mac-Lenin, quan điểm tư tưởng HCM; nắm vững bản chất linh hồn sống của CN M-L và tư tưởng HCM, tiếp tục vận dụng sáng tạo, phát triển CN M-L và tư tưởng HCM trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Quá trình kiến tạo, hình thành và xây dựng XH mới – XHCN đúng định hướng, đúng mục tiêu, càng quán triệt, tuân thủ, trung thành với những nguyên lý cơ bản của học thuyết M-L. Để đảm bảo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vẹn tổ quốc ngày càng phát triển vững chắc, đúng hướng, sớm tiến kịp các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới trên cơ sơ nắm vững lập trường và phg pháp của CN M-L chúng ta cần tieps tục nghiên cứu sâu sắc và phổ biến rộng rãi hơn nữa tư tưởng HCM, vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp đổi mới.

3- Học tập lý luận, phương pháp luận để xử lý mọi công việc; nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, thực hiện “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Để tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, điều cơ bản quyết định là phải tiếp tục giữ vững và phát huy bản chất giai cấp của Đảng. Đảng ta ra sức nâng cao trách nhiệm và năng lực lãnh đạo việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng tự nhận thức rằng trong điều kiện một đảng cầm quyền thì càng cần có phương thức lãnh đạo thật dân chủ. Đảng lãnh đạo bằng cách đề ra cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách lớn, bằng tuyên truyền thuyết phục nhân dân, bằng tính tiên phong gương mẫu của đảng viên và bằng kiểm tra thường xuyên cán bộ, đảng viên, trước hết đối với cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Đảng ta không có lợi ích gì khác ngoài lợi ích của nhân dân, cho nên Đảng hoàn toàn cần thiết và có thể thu hút nhân dân tham gia xây dựng Đảng.

4- ĐLDT và CNXH hiện nay vừa là mục tiêu tổng quát, vừa là động lực toàn diện để thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, XH dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, DLDT hiện nay không chỉ là giữ vững nền ĐLDT là chống xâm lược như trước đây mà hiện nay ĐLDT là phải giữ vững toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, giữ vững vùng trời, vùng biển, hải đảo, biên cương của tổ quốc;

5- ĐLDT hiện nay có nội dung rộng hơn mới hơn: ĐLDT không chỉ là đấu trah để giành ĐLDT như trước đây mà ĐLDT hiện nay là toàn bộ yếu tố dân tộc, sức mạnh dân tộc là giữ vững ĐL tự chủ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, ch trị, XH, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,… Vấn đề dân tộc, vấn đề giai cấp cũng khác trước đây. Nếu trước đây trong cách mạng dân tộc dân chủ có thể đặt lên hàng đầu mâu thẫu dân tộc thì trong giai đoạn CM XHCN hiện nay không thể đặt lên hàng đầu mâu thuẫn dân tộc mà phải đồng thời giải quyết mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trong sự đan xen lẫn nhau. Bởi thực tế hiện nay, trong vấn đề dân tộc có vấn đề giai cấp và ngược lại trong vấn đè giai cấp có vấn đề dân tộc.

6- ĐLDT vừa là điều kiện tiên quyết để xây dựng thành công CNXH và xây dựng CNXH sẽ tạo nên sức mạnh to lớn để giữ vững ĐLDT, giữ vững toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền quốc gia. Thật vậy, trong tình hình đặc điểm hiện nay, sự kết hợp ĐLDT và CNXH không chỉ có giá trị ở VN mà còn có tính phổ biến của thời đại. Kể từ sau thắng lợi của CM XHCN tháng 10 Nga, đặc bietj là từ khi CNXH ở L Xô và đông âu tan rã hệ thống XHCN đi vào thoái trào, thì thành công hay thất bại của cách mạng các nước trên TG có nhiều ng nhân cụ thể, có nhiều lý giải khác nhau, nhưng xé cho cùng vẫn tùy thuộc vào năng lực kết hợp mục tiêu ĐLDT với CNXH trong từng quốc gia dân tộc, trước hết là những người lãnh đạo cách mạng.

7- ĐLDT và CNXH hiện nay là mục tiêu “phức hợp”, vừ là mục tiêu nhưng cũng đ thời được thể hiện trong bản thân hành trình đi đến mục tiêu đó. Đảng ta rất có lý khi cho rằng: “đặc điểm nổi bật trong giai đoạn cách mạng hiện nay của thời đại là đấu trah giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp… CNXH hiện đứng trước nhiều khó khăn thử thách. L sử TG đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”

8- Thế giới đang đổi thay nhưng thời đại không thay đổi. CM VN vẫn tiếp tục đi theo con đường đã vạch ra, là từng bước quá độ đi lên CNXH; con đường đó phù hợp với thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Như vậy, rõ ràng rằng, trong cu thế toàn cầu hóa hiện nay, trong thời đại khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, xu thế hội nhập hòa bình, hợp tác và phát trienr, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường, cuộc đấu tranh đẻ lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình. CNXH trên TG từ những bài học thành công và thất bại cũng như sự khát vọng và sự thức tỉnh của dân tộc có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người cuối cùng, nhất định sẽ tiến tới CNXH.

Liên hệ địa phương: Khái quát tình hình quảng trị sau 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới:

Kết thúc nhiệm kỳ Đại hội XIII của tỉnh Đảng bộ, Đảng bộ và nhân dân Quảng trị đã thực hiện 20 năm sự nghiêp đổi mới của Đảng. Bức tranh toàn cảnh nền kinh tế-xã hội của tỉnh Quảng Trị bước vào sự nghiệp đổi mới và trước ngày tỉnh được lập lại là một nền kinh tế thuần nông, phương thức canh tác lạc hậu; công nghiệp hầu như không có gì; cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội vô cùng khó khăn, thiếu thốn; thu nhập đời sống của các tầng lớp nhân dân hết sức thấp kém.

Hơn 20 năm tính từ ngày thành lập tỉnh, cùng cả nước trên con đường đổi mới, Quảng Trị đã đi lên, lập được những thành tựu nổi bật:

Nông nghiệp phát triển khá toàn diện. Diện tích các loại cây trồng liên tục được mở rộng; năng suất, sản lượng không ngừng được nâng cao. Từ chỗ Trung ương phải trợ cấp lương thực, đến nay không những đảm bảo an ninh lương thực mà còn co cả sản phẩm hàng hoá bán ra ngoài địa bàn. Các loại cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, đặc biệt cao su, hồ tiêu, cà phê đã phát triển thành các vùng nguyên liệu phục vụ công nghiệp chế biến và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nuôi trồng thuỷ, hải sản phát triển khá.

Công nghiệp những ngày đầu lập lại tỉnh chưa có gì đáng kể, đến nay đã được đầu tư phát triển đúng hướng, nhất là công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất chế biến nông-lâm-thuỷ sản, sản xuất hàng tiêu dùng…Giá trị sản xuất công nghiệp ngày càng cao, tỷ trọng đóng góp vào GDP có mức tăng trưởng đáng kể. Trên địa bàn toàn tỉnh đã hình thành các KCN như KCN Nam Đông Hà, Quán Ngang...

Thương mại-Dịch vụ tiếp tục phát triển chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế của tỉnh. Cơ chế, chính sách đầu tư cho phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch tiếp tục được đổi mới, bước dầu thu hút được nhiều dự án cho đầu tư phát triển, nhất là đối với khu kinh tế-thương mại đặc biệt Lao Bảo.

Cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội từ chỗ thấp kém, thiếu thốn đến nay đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, tạo tiền đề cơ bản cho phát triển thời kỳ trước mắt, chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển những năm tiếp theo.

Sự nghiệp giáo dục-đào tạo được tiến bộ đáng trân trọng, mặt bằng dân trí được nâng cao. Văn hoá-xã hội với nhiều hoạt động thiết thực, đi vào chiều sâu tạo dựng được nền tảng phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư tiếp tục phát triển, đảm bảo số lượng và chất lượng”. Công tác XĐGN, hỗ trợ nhà ở cho gia đình chính sách, hộ nghèo đồng bào dân tộc thiểu số và các hộ nghèo thuộc các đối tượng khác trong xã hội, chính sách đối với các gia đình có công, thương binh, liệt sĩ, các bậc lão thành cách mạng, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt…được toàn xã hội quan tâm, tích cực thực hiện.

Sự nghiệp y tế, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được đẩy mạnh. Các dịch bệnh nguy hiểm được phát hiện và dập tắt kịp thời góp phần đảm bảo sức khoẻ, an toàn tính mạng và tài sản nhân dân.

Quốc phòng được củng cố tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững.

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoạt động của Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng được đẩy mạnh. Đoàn kết nội bộ có chuyển biến tích cực góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của các cấp chính quyền và vai trò của Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp, tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư, biến thành sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương.

Có được những thành tựu quan trọng 20 năm thực hiện đổi mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết ĐH ĐB tỉnh lần thứ XIII, trước hết bắt nguồn từ đường lối đổi mới của Đảng, sự vận dụng đúng đắn của các cấp uỷ Đảng và sự nổ lực phấn đấu của cả HTCT và nhân dân toàn tỉnh, thường xuyên nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy nội lực, tận dụng tiềm năng lợi thế, vượt lên khó khăn, thách thức để đi lên. Bên cạnh đó, sự quan tâm lãnh đạo, sự đầu tư hỗ trợ thiết thực của Trung ương; sự chi viện giúp đỡ quý báu của Đảng bộ và nhân dân các tỉnh, thành trong cả nước; viện trợ của các tổ chức Quốc tế; sự quan tâm động viên về nhiều mặt của con em Quảng Trị đang sinh sống trên mọi miền đất nước luôn hướng về quê hương…tạo cho Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị có thêm nguồn lực mới phấn đấu để sớm bắt kịp tiến trình phát triển của cả nước.

Tuy vậy, từ xuất phát điểm thấp của nền kinh tế; thiên nhiên khắc nghiệt, địa bàn thiếu hấp dẫn thu hút đầu tư, và những hạn chế yếu kém trong quy hoạch chưa có tầm bao quát toàn diện; quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện quy hoạch còn có khuyết điểm; thiếu những doanh nghiệp có quy mô, có khả năng ảnh hưởng lớn và chi phối dẫn dắt; thiếu những doanh nhân giỏi; chất lượng lao động còn chưa đảm bảo yêu cầu phát triển, hội nhập; tâm lý e ngại đầu tư vốn để phát triển sản xuất kinh doanh còn phổ biến và tình trạng mất đoàn kết xảy ra đã ảnh hưởng phát triển kinh tế-xã hội trong những năm vừa qua.

Mặc dù đến nay tỉnh Quảng Trị vẫn còn là tỉnh nghèo, nhưng nhìn toàn cảnh so với trước thời điểm thực hiện công cuộc đổi mới và ngày đầu mới lập lại tỉnh, Quảng Trị đã có những thay đổi to lớn và toàn diện. Những thành tựu đạt được trên đây có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài và đang tạo đà, tạo thế để Quảng Tị phát triển nhanh, bền vững, mở ra triển vọng và khả năng hội nhập kinh tế trong và ngoài nước.

Tóm lại :Thực tiễn cho thấy, không có Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không có công cuộc đổi mới, không có sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng Cộng sản Việt Nam thì không có được công cuộc đổi mới theo định hướng đúng đắn. Càng đổi mới, càng đổi mới sâu rộng thì càng cần tăng cường vai trò, chức năng lãnh đạo của Ðảng như Hiến pháp đã quy định. Không thể đổi mới thành công nếu không có sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng. Bản lĩnh, nghị lực và những kinh nghiệm dày dạn của Ðảng ta non một thế kỷ phải được thể hiện trong sự nghiệp lãnh đạo công cuộc đổi mới. Thời gian cũng cho thấy các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội không ngừng đả kích và xuyên tạc Ðảng Cộng sản Việt Nam. Và, các thế lực thù địch càng đả kích, xuyên tạc, thì chúng ta càng cần nâng cao vai trò và năng lực lãnh đạo của Ðảng đối với công cuộc đổi mới. Ðương nhiên chúng ta cần quán triệt điều mà chính Cương lĩnh của Ðảng cũng đã đề ra: Ðảng ta phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, để xứng đáng với trọng trách lãnh đạo công cuộc đổi mới.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro