part 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chuyên đề 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

I. KHÁI NIỆM HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 

Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.

Hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế  Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và các đoàn thể nhân dân.

I. CÁC TỔ CHỨC TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ 

1. Đảng Cộng sản Việt Nam

Vị trí pháp lý, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định tại Điều 4, Hiến pháp năm 2013: 

“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng Cộng sản Việt Namgắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Namhoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết và tất yếu để bảo đảm cho hệ thống chính trị giữ được bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân.

Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:

- Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn phát triển kinh tế - xã hội để Nhà nước thể chế hoá thành pháp luật; đồng thời Đảng là lực lượng lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.

- Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị và xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.

- Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

- Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.

2. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Vị trí pháp lý của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013: 

“1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. 

3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị  ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở tôn trọng quy luật khách quan của thị trường.Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống chính trị. Chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị, trong đời sống xã hội được thể hiện bằng mối quan hệ giữa Nhà nước với Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật và chính sách làm công cụ để thực hiện quản lý nhà nước đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Việc xác định đúng vị trí, vai trò và nhiệm vụ của Nhà nước trong hệ thống chính trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo, lấn sân giữa các thành tố trong hệ thống chính trị, nhất là trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.

Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.

Cơ quan tư pháp gồm Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, bảo đảm việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, thống nhất.

Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Để bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước.

Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đó là tổ chức trung tâm thực hiện quyền lực chính trị, là trụ cột của hệ thống chính trị, là bộ máy thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội theo quy định của pháp luật; thay mặt nhân dân thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Để Nhà nước hoàn thành nhiệm vụ quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện quyền lực nhân dân giao phó, phải thường xuyên chăm lo kiện toàn các cơ quan nhà nước, với cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực chuyên môn giỏi; thường xuyên giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; có cơ chế và biện pháp ngăn ngừa tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm...; nghiêm trị những hành động gây rối, thù địch; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, của các tổ chức xã hội, xây dựng và tham gia quản lý nhà nước.

Nhận thức về vai trò quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa, cần thấy rằng:

Một là, toàn bộ hoạt động của cả hệ thống chính trị, kể cả sự lãnh đạo của Đảng cũng phải trong khuôn khổ pháp luật, chống mọi hành động lộng quyền, lạm quyền, coi thường và vi phạm pháp luật;

Hai là, duy trì mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ giữa Nhà nước và nhân dân, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, quản lý đất nước vì lợi ích của quảng đại nhân dân, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc chứ không phải vì quyền lợi hoặc lợi ích của thiểu số;

Ba là, không có sự đối lập giữa nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng với tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Phải luôn luôn bảo đảm sự thống nhất để tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Tính hiệu lực và sức mạnh của Nhà nước chính là thể hiện hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh và đoàn thể nhân dâncó vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên, thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Vị trí pháp lý, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dânđược quy định tại Điều 9, Hiến pháp năm 2013: 

“ 1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. 

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động”.

III. BẢN CHẤT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực nhà nước và tổ chức ra hệ thống chính trị của mình. Do đó, nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ  đại diện.

Bản chất của hệ thống chính trị nước ta được quy định bởi các cơ sở nền tảng sau:

- Cơ sở chính trị của hệ thống chính trị nước ta là chế độ nhất nguyên chính trị với một Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội trên nền tảng dân chủ xã hội chủ nghĩa.

- Cơ sở kinh tế của hệ thống chính trị là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp. Đồng thời, cơ sở kinh tế này tạo ra các xung lực để đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị, nâng cao khả năng tác động tích cực vào quá trình phát triển kinh tế.

- Cơ sở xã hội của hệ thống chính trị là dựa trên nền tảng liên minh giai cấp giữa công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với cơ sở xã hội là khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hệ thống chính trị nước ta không chỉ là hình thức tổ chức của chính trị nhằm thực hiện quyền lực của nhân dân mà còn là hình thức tổ chức đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền lợi của mọi tầng lớp nhân dân, là biểu tượng của đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Cơ sở tư tưởng của hệ thống chính trị là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là các căn cứ lý luận để xây dựng hệ thống chính trị với chế độ nhất nguyên chính trị và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sự nhất quán về cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội và tư tưởng là nhân tố vừa bảo đảm tính định hướng chính trị vừa bảo đảm tính năng động và khả năng thích ứng của hệ thống chính trị trước sự vận động phát triển của đất nước và thế giới.

Hệ thống chính trị ở nước ta là một hệ thống các thiết chế và thể chế gắn liền với quyền lực chính trị của nhân dân và để thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn do nhân dân giao phó và uỷ quyền. Về thực chất, hệ thống chính trị không phải là một hệ thống tổ chức có quyền lực tự thân, quyền lực của hệ thống chính trị bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân, phát sinh từ sự uỷ quyền của nhân dân, thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Mọi quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Trong chế độ do nhân dân là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực chính trị, nhân dân uỷ quyền cho một hệ thống các tổ chức bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc  Việt Nam và các đoàn thể nhân dân.

Hệ thống chính trị ở nước ta là một hình thức tổ chức thực hành dân chủ; mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị đều là những hình thức để thực hiện dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp của nhân dân. Các tổ chức này được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc dân chủ và vì các mục tiêu dân chủ. Điều đó bắt nguồn từ bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Mỗi một tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là một hình thức thực hành dân chủ, tổ chức các quá trình dân chủ vừa là công cụ bảo đảm dân chủ trong xã hội, một trường học dân chủ để giáo dục ý thức dân chủ, nâng cao năng lực làm chủ của nhân dân.

IV. ĐẶC ĐIỂM CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

1. Tính nhất nguyên chính trị của hệ thống chính trị

Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền, mặc dù trong những giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ chính trị Việt Nam ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên hai Đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, về thực chất chế độ chính trị không tồn tại các đảng chính trị đối lập.

Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp đoàn kết quần chúng, đại diện ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân) vừa là tổ chức đóng vai trò là phương tiện để Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị của mình.

Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó quy định tính nhất nguyên tư tưởng, nhất nguyên ý thức hệ chính trị của toàn bộ hệ thống và của từng thành viên trong hệ thống chính trị.

2. Tính thống nhất của hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau tạo thành một thể thống nhất. Sự đa dạng, phong phú về tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị tạo điều kiện để phát huy “tính hợp trội” của hệ thống, tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức thành viên và của toàn bộ hệ thống chính trị.

Nhân tố quyết định tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta là sự lãnh đạo thống nhất của một Đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động là nhân tố cơ bản bảo đảm cho hệ thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tính thống nhất của hệ thống chính trị còn thể hiện ở mục tiêu chính trị là xây dựng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nội dung: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống chính trị được tổ chức như một chỉnh thể thống nhất từ Trung ương đến địa phương và cấp cơ sở.

Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đều được các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong Điều lệ của từng tổ chức.

3. Hệ thống chính trị gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân

Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị mà còn gắn với xã hội. Do vậy trong cấu trúc của hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức chính trị như Đảng, Nhà nước và các tổ chức vừa có tính chính trị vừa có tính xã hội như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

Hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội như những lực lượng chính trị áp bức xã hội như trong các xã hội bóc lột mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện ngay trong bản chất của các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị: Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.

Sự gắn bó giữa hệ thống chính trị với nhân dân còn được xác định bởi ý nghĩa: hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân; mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.

4. Hệ thống chính trị có sự kết hợp chặt chẽ giữa tính giai cấp và dân tộc

Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Giai cấp và dân tộc hoà đồng, các giai cấp, tầng lớp xã hội đoàn kết, hợp tác để cùng phát triển. Trong mọi giai đoạn xây dựng và phát triển của hệ thống chính trị (kể cả thời kỳ còn mang tên hệ thống chuyên chính vô sản) vấn đề dân tộc, quốc gia luôn là cơ sở đoàn kết mọi lực lượng chính trị - xã hội để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Vấn đề đặt ra đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là đoàn kết giai cấp, tập hợp lực lượng trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội quy định hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp công nhân, đại diện trung thành lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Do vậy trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp đều mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Nhờ vậy hệ thống chính trị luôn là đại biểu cho dân tộc, là yếu tố đoàn kết dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân và là hệ thống của dân, do dân, vì dân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro