kiến trúc dân gian_ làng xóm_ nhà ở

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

15.3.7 Kiến trúc công cộng dân gian

Đặc điểm kiến trúc.

Đình làng là thể loại kiến trúc còn bảo tồn được khá trọn vẹn những nét nghệ

thuật đậm đà tính dân tộc và sắc thái dân gian. Đình vừa là công trình tôn giáo, là nơi

thờ thành hoàng làng đồng thời là kiến trúc công cộng, nơi sinh hoạt chính trị, văn hóa

của làng. Địa điểm xây dựng gắn liền với khu dân cư làng xã, thế đất cần có tầm nhìn

thoáng, tạo cảm giác thiêng liêng. Trước đình thường có sân rộng, hồ nước, cây xanh

cổ thụ tạo cảnh. Tổng thể kiến trúc được nhấn mạnh tính trang nghiêm theo lối bố cục

trung tâm kết hợp với bố cục chiều sâu đối xứng qua trục chính.

Hệ thống kết cấu gỗ : cột xà, kẻ hoặc bẩy liên kết chủ yếu bằng mộng mẹo nên

rất vững chắc. Hệ kết cấu đứng trên đá chân cột bằng sức nặng của mái và ngôi nhà mà

không cần móng. Mái chiếm 2/3 chiều cao với 4 góc xòe rộng và uốn cong theo kiểu

“tàu đao, lá mái”. Bên trong đình, trên các kết cấu và bao che thường được chạm khắc

các chủ đề tứ linh, cảnh sinh hoạt nông thôn… có giá trị nghệ thuật cao.

Công trình kiến trúc tiêu biểu: đình Tây Đằng, đình Chu Quyến, đình Bảng…

15.3.8 Kiến trúc dân gian.

a, Làng xóm.

Làng là đơn vị cơ sở của xã hội Việt Nam và mang tính chất độc lập nhất định

của nó. Đối với Nhà nước, Làng chỉ cần làm tròn nhiệm vụ quốc gia qui định như thuế,

binh lính… ngoài ra Làng có thể tự do xử trí công việc của mình theo lệ làng. Làng

không do luật pháp tổ chức, trái lại luật pháp công nhận là có làng với luật lệ riêng.

Đây là một đặc điểm rất đặc biệt của làng Việt Nam xưa.

Làng là một đơn vị dân cư hợp thành trong quá trình lao động sinh sống và đấu

tranh tồn tại. Ở đây duy trì một lối sống mang tính cộng đồng cao, thương yêu, giúp đỡ

nhau trong lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên và kẻ thù, đoàn kết bảo vệ cho

nhau, đồng thời cũng là nơi gìn giữ những truyền thống dân tộc.

Làng cũng là nơi bảo tồn những nét sinh hoạt văn hoá, phong tục tập quán, tín

ngưỡng thờ cúng lễ giáo. Mỗi làng thường có Chùa để thờ Phật, có đền thờ các vị anh

hùng hay vị thần có công với dân với nước. Đình làng là nơi thờ Thành hoàng, vị thần

linh được coi như che chở cho dân làng được bình yên, thịnh vượng. Đình làng còn

làm nơi hội họp giải quyết mọi việc trong làng.

Đặc điểm không gian làng mang tính chất khép kín, thường có luỹ tre dày bao

bọc, vừa bảo vệ thôn xóm, vừa chống trộm cướp. Làng có cổng chính nhìn ra đường

cái quan, với chòi canh và cánh cửa chắc chắn. Ở đồng bằng sông Hồng, địa bàn sinh

sống lâu đời của người Việt, các làng xóm và những tụ điểm dân cư có cấu trúc thành

cụm lớn nhỏ tuỳ thuộc vào quan hệ huyết thống, điều kiện kinh tế, địa hình cho phép.

Càng vào phía Nam, các làng tập trung dọc theo đường cái quan hoặc theo

kênh rạch. Việc phân bố dân cư và lao động theo đường sông và đường cái đã từ bỏ

truyền thống quy tụ người cùng dòng họ trong vùng lũy tre xanh. Các khu dân cư mới

hình thành một kiểu làng ấp với quy hoạch không khép kín phù hợp với tiến trình của

việc di dân từng bước vào Nam, đồng thời phù hợp với điều kiện khí hậu ấm áp ôn hoà

của phương Nam.

Do đặc điểm khí hậu các vùng khác nhau nên nhà ở đồng bằng sông Hồng có

hướng Nam hay Đông - Nam vùng có gió Lào (Nghệ Tĩnh) hướng Đông còn vùng

đồng bằng sông Cửu Long tương đối tự do, trừ hướng Tây. Việc chọn hướng nhà còn

liên quan đến tín ngưỡng dân gian và giữ gìn sự chung sống thân thiện với hàng xóm.

b, Nhà ở.

Nhà ở của người Việt là những ngôi nhà nền đất, có xuất xứ từ nhà sàn. Tổ tiên

của người Việt, từ thời các Vua Hùng, đã tiến ra cư trú ở những vùng đất rộng lớn từ

trung du tới đồng bằng. Và để thích ứng với điều kiện thiên nhiên khí hậu và chống

thú dữ... người ta đã xây dựng những ngôi nhà sàn - một kiểu nhà rất thích hợp với

những triền đất đốc cũng như vùng đất còn lầy lội. Hai hình ảnh những ngôi nhà sàn

thường được thấy trên trống đồng: (1) kiểu mái cong hình mui thuyền, sàn thấp, đuôi

mái gối sát sàn nhà và làm nhiệm vụ của tường ngoài; (2) Một loại khác là mái võng ở

giữa, hai mái đổ xuống hai bên và đâm thẳng xuống sàn, của được trổ ở hai đầu.

Trong tiến trình lịch sử ông cha ta từ vùng núi, qua trung du rồi về đồng bằng

cư trú và trồng lúa nước. Ngôi nhà sàn cũng chuyển dần thành ngôi nhà nền đất ngày

nay. Nhà nền đất vùng xuôi có kết cấu khung tre lợp tranh rạ, hoặc kết cấu khung gỗ

lợp ngói. Nhà miền xuôi thường bao gồm: nhà chính, nhà phụ, nhà bếp và chuồng gia

súc cùng sân vườn, ao, giếng nước và hàng rào quây quanh. Nhà chính là nơi cư trú

của cả gia đình, có bố cục gian lẽ: 1,3,5 hay 7 và có chái.

Bố cục và tính chất kiến trúc các loại nhà rất phong phú, tuỳ thuộc điều kiện địa

lý, khí hậu, và vật liệu khác nhau. Đặc điểm nổi bật là ngôi nhà ở nông thôn luôn luôn

gắn bó sân vườn với thiên nhiên cây cỏ, ngôi nhà nằm lọt giữa vườn cây ăn quả, ao

cá… Sân gạch hay sân đất trải rộng phía trước nhà là trung tâm bố cục của khu đất

mang nhiều chức năng như sinh hoạt, kinh tế, tạo không gian thoáng mát… Điều kiện

kinh tế, cuộc sống tự cấp tự túc đã gắn liền người nông dân Việt Nam với mảnh vườn,

ao cá… như một tập tục lâu đời. Không gian cư trú và hoạt động không còn bó hẹp ở

trong ngôi nhà còn kéo dài ra ngoài hiên, sân phơi, dưới dàn cây, trong góc vườn...

Bố trí không gian trong nhà chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo phong kiến

và chế độ gia trưởng phụ quyền. Trong nhà chính có không gian lớn chính giữa giành

cho bàn thờ, chỗ tiếp khách phía trước, hai bên là nơi nghỉ của khách, chồng, ông nội;

nơi sinh hoạt gia đình; nơi học hành của con cái… Bên trái làm buồng ngủ của vợ, bên

phải là buồng ngủ của bà già, cháu nhỏ hoặc làm kho.

Công trình kiến trúc tiêu biểu: Nhà ở dân gian các vùng miền.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro