kim binh mai Het

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nói về Tây Môn Khánh bị Kim Liên đón đường dẫn về phòng, thì tới nơi cứ để nguyên quần áo mà ngồi trên giường.

Kim Liên hỏi:

- Sao chàng không thay quần áo cho khỏe ?

Tây Môn Khánh cười khì khì:

- Tôi đang định nói với nàng là đêm nay nàng cho tôi qua bên kia ngủ.

Kim Liên chỉ tay vào mặt Tây Môn Khánh nói:

- Đồ quỷ, chàng ở trong tay tôi mà còn định lừa tôi hay sao? Hồi nãy tôi không đứng đó thì chàng đã tự ý đến với con khốn Như Ý rồi, đâu có nói gì với tôi. Bây giờ còn làm bộ xin với xỏ. Chắc là sáng sớm hôm nay con khốn đã hẹn với chàng phải không ? Hèn gì chàng sai nó đem áo cừu cho tôi, lại bắt nó lạy tạ xin lỗi tôi nữa. Hồi Bình Nhi còn sống, chàng bỏ rơi tôi, có coi tôi ra gì đâu bây giờ lại giả vờ này nọ.

Tây Môn Khánh cười:

- Nàng nói vậy nghe sao được, có bao giờ tôi bỏ nàng đâu. Vả lại Như Ý muốn tạ lỗi với nàng từ trước rồi mà không dám đấy chứ, đến lúc tôi nói, nó mới dám sang. Nó không tạ lỗi thì nàng lại nói này kia.

Kim Liên im lặng một lúc rồi bảo:

- Được rồi, tôi để chàng đi đấy..

Tây Môn Khánh không nói gì, chỉ cười khì khì bước ra. Kim Liên vội gọi lại dặn:

-Này, nghe tôi dặn đã. Chàng không được ngủ chung giường với con khốn đâu nhé. Bên đó còn hai đứa a hoàn, làm vậy hai đứa chúng nó xấu hổ chết. Xong xuôi thì cho con khốn ngủ riêng đi.

Tây Môn Khánh gật đầu cười rồi định bước đi. Kim Liên lại gọi lại mà bảo:

- Tôi đã dặn hết đâu, việc gì mà vội thế ?

Tây Môn Khánh nói:.

-Còn dặn gì nữa ?

Kim Liên bảo:

- Chàng muốn làm dơi làm chuột gì với con khốn thì làm, nhưng cấm không được trò chuyện gì với nó đấy, kẻo nay mai nó lại vác mặt lên, không coi ai ra gì, hơi tí thì đem lời của chàng ra mà nói. Tôi mà nghe được chuyện gì thì chàng biết tôi, đừng hòng vào phòng tôi nữa.

Tây Môn Khánh cằn nhằn:

- Con mụ này thật lắm chuyện quá.

Nói xong bước thẳng sang phòng Bình Nhị Trong này, Xuân Mai nói với chủ:

-Thôi, để cho gia gia đi, nương nương nói nhiều làm gì. Bây giờ chủ tớ mình đánh cờ giải muộn vậy.

Nói xong gọi Thu Cúc bảo đóng cửa, rồi bày bàn cờ lên bàn. Kim Liên thẫn thờ ngồi xuống đánh cờ với Xuân Mai.

Tây Môn Khánh sang phòng Bình Nhi, vén mành bước vào thì thấy Như Ý cùng Nghênh Xuân và Tú Xuân đang ăn cháo, bèn bước sang gian phòng có bàn thờ Bình Nhi, ngồi xuống mà ngắm hình Bình Nhị Lát sau Như Ý bước ra tình tứ cười bảo:

-Gia gia ngồi đây lạnh chết, mời gia gia vào phòng trong.

Tây Môn Khánh theo Như Ý vào phòng trong. Ngồi lên giường. Nghênh Xuân đem trà tới. Tây Môn Khánh uống trà xong, Như Ý đứng bên nói:

- Chúng tôi vừa cúng cơm tối cho lục nương xong, trên bàn thờ hãy còn nguyên một bình rượu Kim Hoa, gia gia có dùng để tôi đem xuống nậng.

Tây Môn Khánh bảo:

- Ta không uống rượu nữa đâu, để rượu đó cho các ngươi ăn cơm thì uống. Bây giờ có hoa quả gì cho ta ăn cũng được. Đoạn bảo Tú Xuân:

-Ngươi đem đèn Tàng Xuân hiên vào thư phòng bảo Vương Kinh đưa bình rượu Bồ Đào, đem về đây ta uống vậy, ta không thích rượu Kim Hoa đâu.

Tú Xuân vâng lời đem đèn đi. Nghênh Xuân vội dọn bàn ra.

Như Ý bảo:

- Em giúp chị chọn ít hoa quả để gia gia dùng. ..

Hai người loay hoay xếp hoa quả vào, đồng thời dọn lên vài món đồ ăn. Lát sau Tú Xuân đem rượu vào. Tây Môn Khánh ra ngồi gần bàn. Như Ý rót rượu đưa tận tay cho ông chủ tình nhân, rồi đứng qua một bên hầu rượu. Tây Môn Khánh hài lòng lắm, vừa uống rượu vừa ngắm nhìn Như Ý.

Nghênh Xuân biết ý cùng Tú Xuân ra phòng ngoài lên giường nằm.

Tây Môn Khánh thấy hai a hoàn đã ra ngoài, bèn kéo Như Ý vào lòng, bảo cùng mình uống rượu, Tây Môn Khánh cầm tay Như Ý, thấy da mịn như nhung trắng như phấn thì bảo:

-Bàn tay ngươi tuyệt đẹp, chẳng khác gì bàn tay Lục nương ngày trước. Ta ngồi với ngươi cũng như ngồi với Lục nương vậy.

Như ý cười:

- Gia gia nói vậy chứ Lục nương còn trắng hơn tôi. Nói về da trắng và đẹp thì cũng phải kể đến Đại nương và Tam nương, Tứ nương. Còn Ngũ nương thì mặt tuy đẹp thật, nhưng da dẻ cũng chỉ vào loại trung bình mà thôi.

Tây Môn Khánh gật đầu cười, nhìn nhận là Như ý nói đúng.

Lát sau Như ý nói:

- Tôi còn chuyện này muốn thưa với gia gia. Nghênh Xuân nó cũng đẹp đấy chứ, vậy mà chẳng có gì Gia Gia có thể cho nó. Cái mũ kim xích mà ngày trước Lục nương vẫn đội hay không ?

Tây Môn Khánh bảo:

- Nếu nó muốn thì để ta cho nó hẳn cái mới, bởi vì rương hòm của Lục nương đều đem vào phòng Đại nương hết rồi, hỏi Đại nương thì không tiện tí nào. Như vậy thì gia gia cho tôi luôn một thể.

Tây Môn Khánh gật đầu:

- Dĩ nhiên, chẳng lẽ Nghênh Xuân nó có mà ngươi không có hay sao.

Như Ý bước xuống lạy tạ rồi bảo:

- Gia gia cũng nên gọi Nghênh Xuân vào cho nó uống chén rượu kẻo nó buồn.

Tây Môn Khánh cất tiếng gọi Nghênh Xuân, nhưng không thấy trả lời. Như Ý ra tận phòng ngoài bảo:

- Nghênh Xuân à, gia gia đang gọi kìa.

Nghênh Xuân ngượng ngập bước vào. Tây Môn Khánh bảo Như Ý gắp đồ ăn và róc rượu cho Nghênh Xuân, Nghênh Xuân cảm tạ rồi đứng mà ăn uống.

Như ý bảo:

-Em cũng nên gọi cả Tú Xuân vào đây cho vui.

Nghênh Xuân ăn qua loa vài miếng, uống một chung rượu rồi ra phòng ngoài. Lát sau trở vào nói:

- Tú Xuân không ăn.

Nói xong xin phép Tây Môn Khánh ra phòng ngoài, lên giường mà ngủ.

Như Ý chuốc rượu cho chủ một lúc nữa rồi dọn giường màn, chăn lụa gối hoa tề chỉnh. Xong xuôi, rót trà cho Tây Môn Khánh uống rồi dìu vào giường, thay quần áo cho Tây Môn Khánh. Đoạn trở ra đóng cửa phòng, để cây đèn lại gần giường, rồi lên giường nằm. Tây Môn Khánh bảo:

- Để ngày mai ta sai chúng nó ra tiệm lấy một xấp lụa để ngươi may áo ngủ mà mặc.

Như Ý cười:

- Vậy thì còn gì bằng.

Tây Môn Khánh lại hỏi:

- Ta quên mất, ngươi năm nay bao nhiêu tuổi nhỉ, ngươi họ gì, là con thứ mấy trong nhà, ta chỉ nhớ mang máng là chồng ngươi họ Thái mà thôi.

Như ý đáp:

- Chồng tôi họ Thái, tên Vượng. Còn tôi họ Chương, là con thứ tư trong nhà, năm nay tôi ba mươi hai tuổi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Vậy là ta hơn ngươi một tuổi, từ nay ta gọi ngươi là Chương Tứ Nhi nhé.

Như Ý cười không đáp. Tây Môn Khánh lại nói:

- Ngươi cứ chịu khó hầu hạ ta cho chu đáo, nay mai Đại nương sanh ca nhi hay tiểu thư thì ngươi lại là nhũ mẫu. Rồi sau đó nếu ngươi may mắn có mụn con với ta thì ta sẽ cất nhắc ngươi lên hàng tiểu nương. Ngươi nghĩ thế nào ?

Như Ý đáp:

-Chồng tôi đã chết rồi. Nhà cha mẹ thì chẳng còn ai, tôi nguyện tận tâm tận lực hầu hạ gia gia, tới chết cũng không ra khỏi nhà này.

Tây Môn Khánh hài lòng bảo:

- Có vậy mới khỏi phụ lòng ta.

Lúc đó đã khoảng canh ba, hai người vui vầy ân ái. Mãi gần canh tư mới ngủ. Sáng hôm sau Như Ý dậy sớm, mở cửa, dọn dẹp trong phòng, đun nước nóng để Tây Môn Khánh rửa mặt.

Tây Môn Khánh rửa mặt chải đầu xong thì lên đại sảnh, gọi Đại An và hai tên quân hầu tới, đem thiếp và bộ đỉnh quý tặng Tống Ngự sử, dặn là phải đưa tận tay Tống Ngự sử và đem thiếp hồi báo về.

Sau đó lại sai Kính Tế viết thiếp và soạn một xấp kim đoạn, một xấp đoạn màu, sai Cầm Đồng cưỡi ngựa đem tới Hà Khẩu biếu Thái Cữu. Cắt đặt xong xuôi, Tây Môn Khánh vào hậu phòng ăn cháo lót lòng. Nguyệt nương hỏi:

- Chẳng lẽ tất cả chúng tôi đều tới nhà Ứng nhị gia hay sao? Cũng phải có người ở nhà chứ ? Hay là để Đại Thư ở nhà coi nhà và bầu bạn với Đại cữu mẫu.

Tây Môn Khánh đáp:

-Nàng tính vậy cũng phải, vả lại tôi đã hứa với Ứng nhị ca là để các nàng đi đông đủ rồi.

Nguyệt nương không nói gì. Quế Thư bước tới nói:

- Đại nương cho con về..

Nguyệt nương bảo:.

- Việc gì phải vội, ở lại một hôm nữa đã..

Quế Thư nói:

-Chẳng giấu gì Đại nương, nhà con không có ai, con đi thế này, ở nhà mẫu thân con không được yên tâm. Để ra giêng con sẽ xin tới ở chơi lâu hơn.

Nói xong quay sang lạy chào Tây Môn Khánh. Nguyệt nương thưởng cho một lạng bạc, cho thêm ít bánh trái rồi cho về.

Tây Môn Khánh áo mũ chỉnh tề bước ra đại sảnh. Bỗng thấy Đại An vào báo:

-Kính lão gia tới.

Tây môn Khánh bước xuống thềm đón tiếp. Hai người bước lên đại sảnh phân ngôi chủ khách mà ngồi. Kinh Đô giám nói:

- Đại nhân thăng chức, tôi tới mừng trễ quá, thật là đắc tội.

Tây Môn Khánh nói:

- Đa tạ đại nhân có lòng ưu ái.

Gia nhân đem trà ra. Tây Môn Khánh mời khách dùng trà.

Kinh ĐÔ giám hỏi :

- Hình như đại nhân sửa soạn đi đâu thì phải.

Tây Môn Khánh đáp:

- Công tử thứ chín của Thái sư đương triều là Thái phủ có việc đi ngang đây, Tống Ngự sử và An bang Trung mượn nhà tôi để đãi tiệc, bây giờ chẳng lẽ tôi không tới bái kiến, chỉ sợ là giờ này Thái tri phủ đã lên đường rồi.

Kinh Đô giám nói:

- Tôi cũng nghe là Tống Ngự sử thường đến uống rượu tại quý phủ, nên muốn nhờ đại nhân nói giúp cho vài lời. Vì sợ rằng cuối năm, Ngự sử có thể đàn hặc quan chức địa phương.

- Được đại nhân cất nhắc cho thì vãn sinh đội ơn lắm, chẳng bao giờ dám quên.

Tây Môn Khánh đáp:

- Chỗ đại nhân với vãn sinh là chỗ thân tình, lẽ nào vãn sinh lại không giúp. Ngày kia Ngự sử lại tới đây dùng tiệc, vụ trốn hầu tuần phủ thăng chức về kinh. Đại nhân cứ an tâm, vãn sinh sẽ nhân dịp này mà nói.

Kinh Đô giám mừng lắm vội đứng dậy vái tạ:

- Đa tạ thịnh tình của đại nhân, tiểu đệ nguyện chẳng quên, tiểu đệ biết là thế nào đại nhân cũng thương mà giúp nên đã viết sẵn thiếp đem theo đây.

Nói xong lấy thiếp trong tay áo ra, hai tay đưa lên. Tây Môn khánh cầm xem, thấy đó là tấm thiếp ghi lý lịch, viết như sau "Sơn Đông kinh bị Đô giám Thanh Hà Vệ Chỉ huy Kiểm sự Kinh Trung, ba mươi hai tuổi, người Đàn Châu, trước là chức chính Thiên hộ, sau trúng khoa võ cử mới được thăng chức này, hiện chỉ huy binh mã Tế Châu.

Tây Môn Khánh gật đầu, sai Vương Kinh cất vào thư phòng. Kinh Đô giám lại đưa thiếp ghi lễ vật lên rồi nói:

- Có chút lễ mọn, xin đại nhân đừng cười mà nhận cho.

Tây Môn Khánh cầm thiếp lên coi thấy ghi hai trăm thạch gạo quý, bèn nói:

- Sao lại thế này ? Chỗ thân giao mà đại nhân cho như thế này, tiểu đệ quả không dám nhận.

Kinh Đô giám nói:

- Đại nhân nhận đây là để chuyển đến Tống Ngự sử dùm tiểu đệ, nếu đại nhân không nhận thì tiểu đệ quả không dám nhờ vả nữa.

Kinh Đô giám nói mãi, Tây Môn Khánh mới chịu nhận lễ vật rồi nói:

- Tiểu đệ tạm nhận rồi ngày mai sẽ đưa tới Tống Ngự sử, sau đó sẽ sai gia nhân đem thiếp tới hồi báo đại nhân.

Kinh Đô giám uống xong chung trà thì đứng dậy vái tạ và cáo từ Tây Môn Khánh tiễn khách xong cùng Cầm Đồng lên ngựa tới bái kiến Thái tri phủ.

Tây Môn Khánh đi rồi, Ngọc Tiêu xuống phòng Kim Liên nói:

- Tối qua sao mãi chẳng thấy Ngũ nương trở lại nghe giảng kinh. Đại nương tôi cứ nói hoài, bảo là Ngũ nương vừa nghe nói ngoài đại sảnh việc vãn là ba chân bốn cẳng chạy ra đón đường dẫn về phòng. Hôm qua là sinh nhật của Tam nương mà cũng chẳng để gia gia đến với Tam nương nữa. Đại nương nói xong thì tam nương bảo là chẳng hơi đâu tranh dành vì trong nhà này chỉ có Ngũ nương là chiếm được gia gia mà thôi.

Kim Liên bảo:

- Nếu vậy thì ta chịu tiếng oan rồi, mà người nào nói vậy là người đó không có mắt. Bộ ngươi tưởng là đêm qua gia gia ở đây?

Ngọc Tiêu ngạc nhiên:

- Ngoài này thì chỉ có phòng Ngũ nương và phòng Lục nương. Lục nương đã mất rồi, gia gia không nghỉ đêm ở đây thì...

Kim Liên đáp: ..

- Ai biết ma ăn cỗ, ai biết tổ chuồn chuồn, nhưng ma vẫn có nơi ăn cỗ và chuồn chuồn vẫn có tổ. Người này chết thì đã có người khác thay thế.

Ngọc Tiêu lại nói:

- Đại nương tôi còn giận Ngũ nương vì chuyện Ngũ nương xin gia gia cái áo cừu của Lục nương mà không thèm nói cho Đại nương biết lấy một tiếng. Đến khi gia gia trả chìa khóa lại, Đại nương trách gia gia là không nghĩ tình người chết, để lại có cái áo mà cũng đem cho người khác.

Kim Liên bảo:

- Trong nhà có người chồng làm chủ là được rồi, chẳng lẽ việc gì cũng phải thưa với khắp mọi người sao. Làm vợ mà muốn lấn quyền chồng sao được, vậy mà cũng còn nói này nói nọ.

Ngọc Tiêu dặn:

- Tôi nghe sao thì nói vậy, xin nương nương để bụng, đừng nói là tôi đã thừa lại với nương nương. Hôm nay Quế Thư cũng về nhà rồi. Đại nương tôi đang cho dọn dẹp nhà cửa, nương nương cũng nên bảo dọn dẹp phòng ốc cho sạch sẽ kẻo Đại nương nói.

Nói xong cáo lui vào hậu phòng. Kim Liên ngồi trước gương trang điểm, rồi sai Xuân Mai tới hỏi Ngọc Lâu là hôm nay mặc xiêm y gì. Ngọc Lâu bảo:

- Nhà mình đang có tang, không nên mặc xiêm y rực rỡ, thật thiếp đồng ý là dùng nữ trang toàn màu thật nhạt. Riêng Nguyệt nương thì đội khăn, mặc áo trầm hương, quần sa lục nhạt, coi sang nhất, rỏ ra là mệnh phụ phu nhân. Lát sau, Nguyệt nương ngồi cỗ kiệu lớn, bốn tiểu thiếp bốn chử nhỏ. Kỳ Đồng, Lai An và Vương Kinh đi theo, quân hầu sau lưng mà tới nhà Bá Tước ăn tiệc đầy tháng. Nhà Như Ý còn một vò rượu Kim Hoa và ít rượu Bồ Đào, trưa cùng Nghênh Xuân, Tú Xuân bày tiệc nhỏ, mời Phan Xuân Mai sang ăn uống, lại mời Lục Đại thư tới đàn hát. Giữa tiệc, Xuân Mai nói:

- Thân Nhị Thư hát cũng hay lắm, mình nên mời xuống hát cho vui..

Nghênh Xuân bèn bảo Tú Xuân vào trong mời Thân Nhị Thự Bỗng thấy Xuân Hồng đi ngang Xuân Mai gọi vào hỏi:

- Đồ quỷ kia hôm nay không phải theo kiệu hay sao?

Xuân Hồng đáp:

Gia gia để Vương Kinh đi, còn tôi được ở nhà trông nhà.

Xuân Mai hỏi:

- Đi đâu mà lân la tới đây ?

Nói xong bảo Nghênh Xuân:

- Thư thư cho hắn một chung rượu uống cho ấm bụng.

Đoạn quay sang bảo Xuân Hồng:

- Anh uống đi, rồi vào nhà trong mời dùm Thân Nhị thư tới đây cho chúng tôi. Tôi muốn mời Nhị Thư hát hầu lão bà đây ít khúc. Nghênh Xuân đưa chung rượu cho Xuân Hồng, Xuân Hồng uống xong cảm ơn rồi bước ra.

Thân Nhị Thư đang cùng Đại cữu mẫu, Đại Thư, Ngọc Tiêu và ba vị sư bà ngồi uống trà nói chuyện. Xuân Hồng vén mành thò đầu vào gọi:

- Thân Nhị Thư à, đại cô nương mời Nhị Thư xuống hát mấy khúc.

Thân Nhị Thư chỉ vào Đại Thư mà bảo:.

- Đại cô nương của ngươi ngồi đây còn đại cô nương nào nữa ?

Xuân Hồng đáp:

- Thì cô nương Xuân Mai chứ còn ai.

Thân Nhị Thư nói:

-Cô nương Xuân Mai của ngươi ăn uống thì đã có Lục Đại Thư đàn hát rồi, việc gì phải gọi đến ta nữa, ta còn phải ở đây đàn hát hầu Đại cữu mẫu đây.

Đại cữu mẫu bảo:.

-Nhị Thư có đi thì cứ đi, lát nữa trở lại cũng được.

Thân Nhị Thư nghe vậy nhưng cứ ngồi yên. Xuân Hồng liền trở ra bảo Xuân Mai:

- Tôi đã gọi rồi, nhưng Thân Nhị Thư không chịu đi.

Xuân Mai bảo:

- Phiền anh trở lên nói rằng tôi gọi thì thế nào Nhị Thư cũng đến.

Xuân Hồng bĩu môi:

- Tôi nói là Đại cô nương ngoài này gọi. Nhị Thư ngồi yên mà hỏi là Đại cô nương nào, nhà này làm gì có Đại cô nương nào nữa, tôi mới nói là cô nương Xuân Mai, thì Nhị Thư bảo là cô nương Xuân Mai ăn uống thì đã có Lục Đại Thư đàn hát rồi, việc gì phải gọi ai nữa. Thân Nhị Thư còn phải hát hầu Đại cữu mẫu. Đại cữu mẫu nghe vậy mới bảo là cứ đi đi, lát nữa trở lại cũng được nhưng Nhị Thư vẫn không chiu nhúc nhích.

Xuân Mai nghe xong tức đỏ mặt, hẩm bầm đứng dậy định vào nhà trong, mọi người ngăn lại cũng không được. Xuân Mai vào thẳng nhà trong chỉ vào mặt Thân Nhị Thư mà mắng:

- Ta nhờ người gọi sao ngươi không chịu tới, lại viện lẽ này lẽ nọ ? Ngươi có phải là bà quan bà tướng gia đâu mà ta không gọi ngươi được ? Nhờ có chúng ta mà ngươi mới được đối đãi tử tế ở cái nhà này. Ngươi là loài dâm phụ, hầu hạ trăm nhà vạn nhà, ngươi tới đây mới được ít lâu mà đã lên mặt với chúng tạ Coi chừng ta đến tận nhà ngươi mắng vào mặt mẹ ngươi cho mà coi, rồi nói với gia gia cấm cửa, không cho ngươi bén mảng tới

đây nữa. Tài nghệ ngươi được bao nhiêu mà làm phách, chẳng qua là học được vài ba khúc hát quê mùa chứ gì. Ca nữ tài ba có không thiếu, mà những người lui tới nhà này là những tỳ nữ có tiếng nhất, ngươi đã tới đâu, ai cần ngươi mà làm dáng, ngươi dựa hơi con dâm phụ vợ Hàn Đạo Quốc. Ngươi có dựa hơi nó ta cũng chẳng sợ đâu. ..

Ngô lại cữu mẫu bảo:

- Xuân Mai đừng có làm ồn như vậy.

Xuân Mai đâu chịu thôi ngay, còn chửi mắng tàn tệ một hồi.

Thân Nhi Thư giận lắm, nhưng chỉ nói:

-Thư thư sao lại ăn nói hàm hồ thô lỗ như vậy, hồi nãy tôi ..., Xuân Hồng có điều gì là quá đáng đâu. Vậy mà thư thư làm ầm làm ĩ lên, thật chẳng ra làm sao cả. Tôi nói thật, nơi này không cần tôi thì có nơi khác, tôi có lo sợ gì..

Xuân Mai nghe vậy lại càng tức giận, mắng rằng:

- Con dâm phụ cứng đầu kia, mày đức hạnh nỗi gì mà dám chê người khác hàm hồ thô lỗ. Mày có thể tới hát ở các nhà khác để xin cơm xin áo thì cút ngay bây giờ đi, từ rày đừng vác mặt lại đây nữa.

Thân Nhị Thư bảo:

- Ta cũng không thèm tới đây nữa đâu.

Xuân Mai đáp:.

Đẫn xác tới đây thì ta cho người ra tống cổ đi.

Ngô Đại cữu mắng Xuân Mai:

- Con này hôm nay lạ nhỉ, tự nhiên đùng đùng tới gây chuyện, mày có ra ngoài đó đi không.

Xuân Mai không chịu đi, cứ đứng ở cửa. Thân Nhị Thư khóc lóc lạy chào Ngô Đại cữu mẫu, rồi nhờ Đại cữu mẫu sai Họa Đồng đưa mình về nhà Đạo Quốc chứ không đợi kiệu tới đón nữa.

Xuân Mai thấy vậy, mắng theo vài câu rồi mới trở ra.

Ngô Đại Cữu mẫu bảo Ngọc Tiêu và Đại Thư:

- Chắc con đó uống rượu say, chứ không tự nhiên sao lại phát điên phát khùng như vậy, có ta ngồi đây mà nó chẳng nể nang gì hết, thật không coi được chút nào hết.

Nói xong giữ Thân Nhị Thư lại, không cho về.

Đại Thư nói:

- Chắc chắn là uống rượu chứ còn gì nữa.

Xuân Mai hầm hầm trở lại bàn tiệc, nói với mọi người.

- Tôi vừa mới cho con dâm phụ một trận mắng nên thân, phải cho nó ăn mấy bạt tai mới đúng, nó chưa biết... (thiếu)

Nghênh Xuân bảo:

- Đây nữa thư thư cũng nên giữ ý tứ một chút, còn có Lục Đại Thư ở... (thiếu)

Xuân Mai nói:

- Con dâm phụ đó làm sao so với Lục Đại Thư đây được. Tại vì nó ghen tức với Đại Thư đây mà thôi. Nó thì hát hỏng ra cái gì mà ghen tức với người ta.

Lục Đại Thư tiếp lời:

-Hát, tôi vừa mới cầm cây đàn tỳ bà lên chưa kịp hát thì Thân anh Thư đã biết đường đi nước bước ra sao, nên có biết Xuân Mai thư thư đây là ai đâu.

Xuân Mai nói:

- Hồi nãy tôi cũng có mắng cho con khốn này là mày tưởng dựa hơi con dâm phụ vợ Hàn Đạo Quốc hay sao, mày có dựa hơi nó tao cũng chẳng sợ.

Phan bà bảo:

- Thôi thư thư ơi, chuyện qua rồi, giận làm gì cho mất vui.

Như ý cũng nói:

- Nói cho bớt giận. Ta rót mời thư thư một chung rượu thư thư uống.

Xuân Mai bảo:

- Nói thì nói vậy chứ tôi hoài hơi mà giận con khốn đó.

Đoạn cười bảo Lục Đại Thư:

- Như ý thư thư có lòng tốt mời rượu tôi, nhọc Đại Thư xem khúc hát nào hay thì hát cho Như ý thư thư nghe.

Đại Thư cầm cây Lý bà lên bảo:

- Thôi thôi dể tôi hát khúc "Oanh Oanh náo ngọa phòng" hầu mọi người cho nó hợp tình hợp cảnh..

Mọi người cùng cười. Như ý bảo:

- Thư thư hát cho hay để tôi rót rượu..

Nghênh Xuân đem bình rượu tới bảo Xuân Mai:

- Xin thư thư đừng giận nữa, uống một chung với lão lão đây và chúng tôi cho vui.

Xuân Mai nói :

- Đồ khỉ, người ta đã hết giận rồi mà cứ nói là người ta giận.

Đoạn quaỵ sang bảo Lục Đại Thư:.

- Đại thư hát khúc "Giang thủy" hay hơn. :

Lục Đại Thư đàn hát, Nghênh Xuân rót rượu mời mọi người.

Trong khi đó, Tây Môn Khánh từ Hà Khẩu về, vừa tới cổng, Bình An đã chạy ra thưa:

- Hôm nay có Hà lão gia ở nha môn sai người lại thỉnh gia gia ngày mai ra nha môn thẩm vấn mấy vụ cướp. Rồi mồi lão gia ở trên phủ cho đem biếu một trăm cuốn lịch năm mới. Kinh lão gia cũng đem biếu dê lợn và rượu, lại có cả bốn gói bạc nữa, cậu Kính Tế đã đưa cho Đại nương rồi. Đã thưởng cho gia nhân của Hồ lão gia và gửi hồi thiếp, còn gia nhân của Kinh lão gia thì nói là tối nay sẽ tới. Rồi Kiều thân gia lại sai đem thiếp đến thỉnh lão gia ngày mai tới dự tiệc. Hồi nãy tôi cũng đem hồi thiếp tới viện Giám sát. Tống Ngự sử nói là ngày mai sẽ tới.

Tây Môn Khánh nghe xong gật đầu vào nhà. Xuân Hồng vội tới báo cho Xuân Mai biết:

- Này, gia gia vừa về đó, còn ở đây mà ăn uống đàn hát.

Xuân Mai bảo:

- Đồ chết dịch, gia gia về thì về chứ sao, Ngũ nương không ở nhà thì gia gia tới đây làm gì.

Mọi người cùng cười, tiếp tục ăn uống.

Tây Môn Khánh vào thượng phòng, Đại cữu mẫu và ba vị sư bà nghe nói Tây Môn Khánh về, đã lánh sang phòng khác.

Ngọc Tiêu giúp chủ thay mũ áo rồi dọn bàn bưng cơm, cho gọi Lai Hưng đến bảo:

- .... là tiệc của Tống Ngự sử, đãi Hầu Tuần phủ, một là tiệc đãi hai Thái giám Lưu Tiết và Chu lão ở Soái phủ, ngươi nhớ chuẩn bị cho tề chỉnh. Lai Hưng vâng lời lui ra. Ngọc Tiêu đứng bên hỏi:

- Gia gia dùng rượu gì để tôi lấy.

Tây Môn Khánh bảo:

- Lấy thử rượu do Kinh lão gia vừa đem tới để ta thưởng thức xem sao.

Vừa nói xong thì Lai An vào thưa:

- Gia gia cho chúng tôi đi đón các nương nương.

Tây Môn Khánh gật đầu. Lai An lui ra. Ngọc Tiêu đem rượu ra rót cho chủ. Tây Môn Khánh uống xong khen vị ngon và thanh, bảo Ngọc Tiêu rót thêm để vừa uống vừa ăn cơm. Lúc đó trời cũng xâm xẩm tối, Lai An và mấy tên quân hầu đón các bà chủ. Nguyệt nương và các tiểu nươngvề tới nhà, kéo nhau vào thượng phòng lạy chào Tây Môn Khánh rồi qua phòng bên chào Đại cữu mẫu và ba vị sư bà. Nguyệt nương ngồi lại nói với chồng:

- Gớm, hôm nay chúng tôi tới, Ứng nhị tẩu mừng lắm.

Trong tiệc lại có cả Mã nương nương ở nhà kế bên, có ứng đại tẩu và Đỗ nhị nương, tất cả cũng khoảng chục người. Thằng bé mặt mũi cũng xinh lắm. Xuân Hoa thì tuy vẫn đẹp nhưng gầy hơn trước. Có điều là bữa tiệc không được tề chỉnh lắm vì nhà neo người, không thể tổ chức chu đáo. Tuy nhiên cũng có hai ca nữ được gọi tới đàn hát. Lúc chúng tôi cáo từ, Ứng nhị gia còn tới lạy tạ nữa, lại nhờ chúng tôi chuyển lời cảm tạ gia gia về lễ

vật hậu hĩnh đem cho.

Tây Môn Khánh bảo:

-Xuân Hoa nó cũng ra chào mọi người hay sao ?

Nguyệt nương đáp:

- Thì con là con người ta, khách khứa đến ăn mừng đầy tháng đứa nhỏ thì người ta phải ra chào chứ sao ?

Tây Môn Khánh nói:.

- Con đó thì đẹp đẽ gì mà ra cho mọi người nhìn.

Nguyệt nương bảo:

- Chàng nói thế mà cũng nghe được, chỉ cố tiểu thiếp của chàng đẹp thì mới ra chào hỏi khách khứa thôi hay sao ?

Vương linh đứng bên nói xem vào:

- Lúc các nương nương mới tới thì Ứng nhị gia chưa ra chào hỏi. mà cứ núp trong cửa sổ nhìn ra. Tôi bắt gặp vậy liền bảo:

-Nhi gia thật bất lịch sự quá, nhị gia nhìn gì vậy? Thế là ứng nhi gia dính đánh tôi.

Tây Môn Khánh cười:

- Thật xấu quá, để ngày mai hắn tới dây, ta nói hắn một mẻ mới được.

Vương Kinh cũng cười:.

- Phải vậy chứ.

Nguyệt nương nạt:

- Thằng quỷ chỉ nói láo, nhị gia nhìn trộm chúng ta hồi nào dâu mà mày đặt điều bịa chuyện như vậy ? Chúng tôi tới thì nhị gia chẳng ra lạy chào đàng hoàng là gì.

Vương Kinh vội lủi ngay, Nguyệt nương cũng sang phòng bên chào Đại cữu mẫu và ba vị sư bà. Đại Thư, Ngọc Tiêu và các gia nhân a hoàn cũng tới lạy chào Nguyệt nương. Sau đó Đại cữu mẫu nói hết cho Nguyệt nương nghe vụ Xuân Mai nhục mạ Thân Nhị Thự Nguyệt nương nghe xong hỏi:

- Thân Nhị Thư đâu sao không thấy ?

Ngọc Tiêu thưa:

- Thân Nhị Thư xin phép về rồi.

Nguyệt nương bảo:

- Hèn gì nó không đợi ta về, đáng lẽ nó phải nói rõ cho ta hay chứ.

Đại cữu mẫu nói:.

- Thì người ta buồn giận nên mới về chứ.

Nguyệt nương giận dữ bảo:

- Người ta không hát thì thôi, sao con khốn Xuân Mai lại dám mắng chửi người ta, con khốn này quả là lộng quá rồi, không còn biết kiêng sợ gì ai nữa. Chẳng qua chủ không ra chủ nên đầy tớ mới không ra đầy tớ. Thế này thi còn nghĩa lý gì nữa, liền bảo Kim Liên: - - Muội muội phải dạy nó, để cho nó không biết nể nang ai như thế hay sao.

Kim liên cười:.

-Cũng chưa biết chuyện thế nào, nhưng không có lửa làm sao có khói, Thân Nhị Thư là ca nữ, đi hát tại trăm nhà vạn nhà, tới nhà người ta thì phải hát chứ. Nếu gọi mà hát ngay thì làm gì có chuyện. Cũng tại Thân Nhị Thư nó cậy thế của ai đó nên mới dám làm bộ như vậy, Xuân Mai có mắng cho cũng phải.

Nguyệt nương nổi giận:

- Ăn nói hay nhỉ, rồi đây để cho con khốn đó nó muốn chửi mắng thì chửi mắng hay sao ? Đã không biết rầy la nó lại còn nối giáo cho nó nữa..

Kim Liên thấy Nguyệt nương giận vội nói:

- Nếu vậy thì để đánh cho nó một trận.

Nguyệt nương giận đỏ mặt nói:.

- Không dạy nó thì để gọi tất cả họ hàng thân thích nhà này đến cho nó chửi mắng.

Nói xong hầm hầm đứng dậy trở lại thượng phòng. Tây Môn Khánh thấy sắc mặt vợ có vẻ giận dữ thì hỏi:

- Chuyện gì vậy?

Nguyệt nương đáp:

- Có chuyện gì nữa, chuyện a hoàn cưng của chàng tự nhiên chửi mắng Thân Nhị Thư ầm ĩ cả lên.

Tây Môn Khánh cười:

- Chắc là bảo hát mà không chịu hát chứ gì. Không sao, để ngày mai sai gia nhân đem hai lạng bạc thưởng cho Thân Nhị Thư vậy.

Ngọc Tiêu đứng bên nói:

- Cái quả đựng lễ vật do Thân Nhị Thư mang đến hãy còn để đây, chưa đem về.

Tây Môn Khánh chỉ cười. Nguyệt nương thấy vậy bảo:

- Tôi tớ trong nhà hỗn láo, không biết răn dạy mà còn cười, không biết cười cái gì mới được chứ.

Tây Môn Khánh chỉ im lặng ăn cơm uống rượu..

Tại phòng bên, đám tiểu thiếp thấy Nguyệt nương giận, đều về phòng.

Nguyệt nương vào phòng riêng thay quần áo, cởi nữ trang rồi hỏi Ngọc Tiêu:

- Bốn gói bạc để trên rương kia là ở đâu đem tới vậy?

Tây Môn Khánh ở ngoài nghe hỏi liền đáp:

- Của Kinh Đô giám đem tới, nhờ tôi nói với Tống Ngự sử về vụ thăng thưởng đó.

Ngọc Tiêu nói thêm:

- Hồi chiều cậu Kính Tế đem vào, nhưng Đại nương vắng nhà, vừa rồi tôi cũng quên không thưa lại với Đại nương.

Nguyệt nương bảo:

- Của người ta đem gửi thì phải cất vào tủ cho cẩn thận chứ.

Ngọc Tiêu vội mở tủ cất bạc. Trong khi đó, tại phòng bên, mọi người đi hết, chỉ riêng Kim Liên ngồi lại, chờ gặp Tây Môn Khánh để đưa về phòng mình, vì hôm nay là ngày Nhâm Tý, Kim Liên muốn uống thuốc đẻ con của Tiết sư bang. Nhưng chờ mãi chẳng thấy Tây Môn Khánh sang, Kim Liên sốt ruột, bước sang thượng phòng, vén mành thò đầu vào bảo:

- Chàng chưa xuống phòng tôi hay sao? Tôi chờ mãi lâu quá, thôi để tôi về phòng trước nhé.

Tây Môn Khánh bảo:

- Được rồi, nàng cứ xuống trước đi, ta ăn xong sẽ xuống sau.

Kim Liên yên lòng bước ra. Trong này, Nguyệt nương bảo chồng:

- Tôi không cho chàng đi đâu, tôi còn chuyện cần nói với chàng. Chàng thấy không, con dâm phụ đó không hiểu nó gấp rút nỗi gì mà dám vào phòng tôi gọi chàng xuống ngủ với nó, thật vô liêm sỉ quá. Bộ chỉ có mình nó là vợ không hay sao, hay nó là chính thất ở cái nhà này ? Tôi thấy từ ngày chàng ở Đông Kinh về tới giờ, đêm nào cũng xuống với nó, bỏ bê tất cả phòng khác, chàng làm vậy, chúng tôi không buồn sao được. Hôm sinh

nhật Tam nương mà nó cũng đón đường dẫn chúng về phòng nó, Nhị nương nữa. Hôm nay thì Tam Nương không chịu, cả một ngày nay ở bên nhà không ăn uống được chút gì cả. Lúc sắp về, nhị tẩu mời một chung rượu, mà Tam nương uống vào lại nôn ra. Bây giờ chàng không vào thăm Tam nương một chút hay sao, hay là ăn uống cho mau rồi xuống với con dâm phụ vô ... (thiếu)

Tây Môn Khánh nghe xong hỏi:

- Thật vậy sao ?

Đoạn quay bảo a hoàn:

- Thôi, dọn dẹp đi, ta không ăn nữa đâu.

Nói xong đứng dậy, tới phòng Ngọc lâu. Tới nơi thấy Ngọc Lâu đã thay quần áo, cởi bỏ nữ trang đang nằm trên giường nôn hỏi ngọc Lâu cứ nôn ọe liên hồi, Tây Môn Khánh hoảng quá :

- Nàng ơi, nàng thấy trong người thế nào, nói với tôi đi rồi sáng sớm mai tôi cho mời lang y tới chẩn mạch cho.

Ngọc Lâu cứ nôn oẹ khan, không nói được gì, hai tay ôm bụng đau đớn. Tây Môn Khánh ngồi xuống giường, nâng Ngọc Lâu dậy hỏi:.

- Nàng thấy trong bụng thế nào?

Ngọc Lâu bảo:

- Chẳng thế nào hết. Tôi có chết chàng cũng không cần biết mà, chàng còn hỏi tôi làm gì.

Tây Môn Khánh ôn tồn:

- Nào tôi có biết, vừa rồi Đại nương nói tôi mới hay, Đại nương nói xong là tôi bỏ ăn vào đây với nàng liền.

Ngọc Lâu giận dỗi:

- Chúng tôi đâu phải vợ chàng, chàng đến làm gì, sao chàng không đến với người vợ yêu quý của chàng đi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nói gì đâu đâu á tôi nói chuyện đàng hoàng còn nàng cứ nói những lời không đâu.

Đoạn quay bảo:.

- Lan Hương! Rót trà cho nương nương ngươi súc miệng. Lan Hương đáp:

- Tôi có rót trà sẵn đây.

Nói xong bưng chung trà tới. Tây Môn Khánh tự tay cầm chung trà đưa lên miệng Ngọc Lâu. Ngọc Lâu giằng lấy chung trà mà bảo:

- Để tôi cầm uống được rồi, khỏi phải làm nhọc công gia gia, mà lại mang tiếng là tranh dành chồng với người tạ Đại nương nói thế mà đúng. Tranh dành làm gì cho thêm phiền. Cả tháng nay gia gia không bước vào phòng tôi cũng chẳng sao.

Tây Môn Khánh nói:.

- Nàng không thấy hay sao, từ ngày ở Đông Kinh về, tôi bận tối mắt, hết chuyện này tới chuyện kia, có lúc nào rảnh đâu.

Ngọc Lâu nói:

- Phải mà, chàng còn thì giờ nào rảnh rang mà nghĩ tới chúng tôi nữa, ngày nào cũng ở với người ta thì còn thì giờ nào rảnh.

Tây Môn Khánh không nói gì, để Ngọc Lâu ngồi dựa vào thành giường. Ngọc Lâu bảo:

- Hôm nay đến cả một hớp rượu tôi cũng không uống được, ai ăn uống gì chứ còn tôi có cái gì trong bụng đâu.

Tây Môn Khánh nói:

- Nếu nàng chưa ăn gì thì để bảo chúng nó đem cơm lên tôi với nàng cùng ăn. Nàng không uống rượu được thì tôi cũng không uống.

Ngọc Lâu bảo :

- Tôi mệt mà đau bụng lắm, không ăn uống gì được đâu, chàng có muốn ăn thì đi đâu mà ăn đi.

Tây Môn Khánh cũng vẫn nhỏ nhẹ:

- Nếu nàng không ăn thì tôi cũng không ăn đâu. Thôi, bây giờ mình đi ngủ, rồi sáng mai tôi cho mời Nhiệm Y quan tới sớm, thăm bệnh cho nàng.

Ngọc Lâu bảo:

- Thôi, không việc gì phải mời y quan y cung cho lôi thôi ra, cứ cho gọi Lưu lão bà tới, tôi uống một hai viên thuốn của lão là khỏi. Người ta lúc nào cũng khoe khôn khoe giỏi chứ chúng tôi thì biết gì.

Tây Môn Khánh ôn tồn:

- Nàng tin lời con dâm phụ đó làm gì, nàng cứ ăn ở đàng hoàng là tự khắc nó phải sợ. Bây giờ nếu công việc có nặng nhọc thì nàng bảo nó giúp đỡ vài phần.

Ngọc Lâu bảo:.

- Đó thấy chưa, rõ ràng là chàng muốn giao việc cho Ngũ nương, nên chàng mới nói thế. Thật tôi không ham đâu, lãnh việc chỉ tổ bận rộn bù đầu tối mắt, thêm mệt nhọc mà lại khiến cho người ta thù con nữa.

Tây Môn Khánh nói:

- Người ta thường nói, lo việc nhà ba năm thì đến con chó nó cũng có lúc ghét mình, nhưng nàng cứ bỏ qua, không để ý gì mới được Thôi, bây giờ thì để tôi săn sóc cho nàng ngủ đêm nay.

Ngọc Lâu thấy Tây Môn Khánh một mực ân cần dịu ngọt thì cũng nguôi giận. Hai người sau một thời gian ngắn không gặp nhau nay muôn phần đậm đà thắm thiết. :

- Trong khi đó Nguyệt nương ngồi uống trà nói chuyện với Đại cữu mẫu và ba vị sư bà. Nguyệt nương hỏi là có gọi kiệu đưa Thân Nhị Thư về không. Đại cữu mẫu kể lại rằng Nhị Thư khóc lóc đòi về, giữ lại chỉ được một lúc, sau đó phải gọi Họa Đồng. đưa Nhị Thư về nhà Hàn Đạo Quốc chứ không đợi kiệu tới đón.

Đại cữu mẫu nói tiếp:

- Cũng không hiểu sao hôm nay con Xuân Mai lại ăn nói thô lỗ quá như vậy tôi nói mà nó cũng chẳng coi ra gì, cứ tiếp tục chửi mắng Thân Nhị Thư tàn tệ. Ngày thường nó có vẻ ngoan ngoãn, ăn nói hiền lành, chắc hôm nay nó uống rượu say nên mới ăn nói bậy bạ như thế.

Ngọc Tiêu đứng bên nói:

- Thưa đúng như vậy đó, họ gồm năm người, bày tiệc ăn uống tại phòng Lục nương suốt cả ngày, lúc gia gia về cũng còn ăn uống.

Nguyệt nương nói:

- Nghe Ngọc Lâu nói tới hai tiếng "viên thuốc", Tây Môn Khanh mới chợt nhớ là hôm qua Lưu Học quan có tặng mười hoàn thuốc Quảng đông Ngưu hoàng lạp, nói là trị bệnh đau bụng, bèn gọi Lan Hương tới bảo:

- Ngươi lên hỏi Đại nương, bảo đưa cho ngươi hai viên thuốc đau bụng do Lưu Học quan tặng hôm qua, rồi đem cả một bình rượu xuống đây.

Lan Hương vâng lời bước ra. Ngoc Lâu nói:

- Tôi đau bụng thường thôi, việc gì phải uống thứ thuốc quý đó.

Lát sau Lan Hương đem về hai viên thuốc bọc sáp ong tới. Tây Môn Khánh bảo lan Hương hâm rượu cho nóng, rồi bẻ vỏ thuốc ra, thấy bên trong là hoàn thuốc óng ánh như vàng, đưa cho Ngọc Lâu, bảo uống với rượu nóng. Ngọc Lâu uống thuốc xong, Tây Môn Khánh đấm lưng vuốt bụng cho Ngọc Lâu một lúc rồi hỏi:

- Nàng ới, nàng uống thuốc vào có thấy dễ chịu chút nào không !

Ngọc Lâu đáp:

- Không còn đau nhiều nữa, chỉ hơi ngâm ngẩm mà thôi.

Tây Môn Khánh cười:

- Không sao, vậy là công hiệu đó rồi, lát nữa là nàng hoàn toàn hết đau.

Một lúc sau Tây Môn Khánh lại nói:

- Hôm nay trong lúc nàng vắng nhà, tôi lại vừa mới đưa cho hai Hưng năm chục lạng bạc để ngày kia làm tiệc giùm cho Tống Ngự sử. Mồng một này, tôi phải làm lễ tạ trời đất về cuộc đi Đông Kinh vừa rồi. Đến mồng ba thì phải bỏ ra hai ngày dọn tiệc khoản đãi thân bằng quyến thuộc và các quan xa gần, cảm tạ người tạ Người ta đem bao nhiêu lễ vật tới chúc mừng tôi thăng chức, mà không có tiệc đãi người ta thì coi không được. Mấy hôm đó tôi giao việc sắp xếp nhà cửa tiệc tùng cho nàng.

Ngọc Lâu nói:

- Đã tiệc hay không đãi tiệc thì cũng chẳng ăn thua gi đến tôi sao chàng không giao phó cho Ngũ nương có được không. Bây giờ lộng quá rồi, không còn coi ai ra gì, mai nó dám chửi mắng tất cả mọi người trong nhà này lắm, nếu vậy thì có chúng tôi ở nhà này làm gì. Thân Nhị Thư đi hát ở cả trăm nhà vạn nhà, rồi kể chuyện này cho khắp nơi nghe, nói là nhà này không còn trật tự gì nữa, trong nhà chẳng biết ai là bà chủ ai là a hoàn. Như vậy thử hỏi còn ra cái gì nữa, mà chúng tôi còn mặt mũi nào trâng thấy ai nữa.

Ngô Đại cữu mẫu bảo:

- Thôi, mặc kệ nó, dượng ấy đã không nói gì thì cô cũng chẳng nên nói, chỉ thêm mất vui cửa nhà mà thôi.

Mọi người nói sang chuyện khác. Một lúc lâu sau mới đi ngủ. Hôm sau Tây Môn Khánh dậy sớm ra nha môn làm việc. Kim Liên nghĩ rằng đêm qua Tây Môn Khánh ở với Nguyệt nương, làm lỡ mất ngày Nhâm Tý, do đó oán hận Nguyệt nương lắm. Thức dậy là Kim Liên sai Lai An gọi kiệu cho mẹ về nhà. Ba vị sư bà cũng cáo từ, Nguyệt nương cho mỗi người năm tiền và một gói trà, rồi đưa riêng cho Tiết sư bà một lạng bạc và dặn:

- Ra giêng tôi sẽ tới am làm lễ cúng chay, sư phụ cầm chỗ này trước để lo nhang đèn, cuối tháng chạp tôi sẽ cho đem thêm các thực phẩm tới để làm cỗ chay.

Tiết sư bà nhận tiền, rồi cùng hai sư bà kia vái chào cảm tạ mà về.

Nguyệt nương vào phòng sai pha trà, mời Đại cữu mẫu và đám đàn bà con gái trong nhà tới dùng trà buổi sáng. Ngọc Lâu cũng tới. Nguyệt nương hỏi ngay:

- Uống thuốc đó vào có bớt đau bụng không ?.

Ngọc Lâu đáp:

- Đa tạ Đại nương, uống vào thì bớt đau ngay, sáng sớm hôm nay nôn ra được toàn nước chua, bây giờ thì khỏi hẳn rồi.

Nguyệt nương quay lại bảo Tiểu Ngọc:

- Ngươi ra đằng trước thỉnh Phan lão bà và Ngũ nương vào dùng trà và điểm tâm.

Ngoc Tiêu thưa:

- Để Tiểu Ngọc ở đây hầu trà, tôi đi cho.

Vào phòng Kim Liên, Ngọc Tiêu chào Kim Liên, rồi nói :

- Nương nương tôi cho mời lão bà và Ngũ nương vào dùng trà và điểm tâm, mà lão bà đâu sao không thấy ?

Kim Liên đáp:

- Là cụ về từ sáng sớm rồi, ở lại mà người ta không vui vẻ thì ở làm gì.

Ngoc Tiêu bảo:

- Nhưng ít ra Ngũ nương cũng phải nói với Đại nương một tiếng, để bà cụ về im lìm như vậy sao được.

Kim Liên im lặng. Ngọc Tiêu lại nói:

- Tôi có để sẵn ít lạp xường và hoa quả bánh trái để biếu lại bà, ai dè lão bà về mất rồi. Thôi thì Ngũ nương nhận dùm thay cho lão bà vậy.

Nói xong đưa một gói lớn cho Thu Cúc. Thu Cúc đem vào trong cất.

Ngọc Tiêu lại hỏi:

-Hôm qua Ngũ nương về phòng rồi, có biết chuyện gì không?

Kim Liên bảo:

- Nào ta có biết gì đâu, mà chuyện gì vậy ?

Ngọc Tiêu thấp giọng:

- Sau khi Ngũ nương về phòng thì Đại nương tôi bảo là Ngũ nương vô liêm sỉ, dám vào phòng Đại nương mà gọi gia gia, cũng như hôm trước dám đón đường gia gia để dẫn về phòng mình, rồi bảo là Ngũ nương quyến rũ mê hoặc gia gia khiến gia gia không thèm đến các phòng khác. Sau đó Đại nương bắt gia gia phải vào thăm Tam nương, rồi gia gia ở cả đêm qua với Tam nương đó. Đại nương còn nói cả với Đại cữu mẫu và ba vị sư bà rằng Ngũ nương dung dưỡng Xuân Mai cho nó hỗn láo, nay mai nó dám chửi mắng mọi người trong nhà này lắm, chủ nào thì tớ nấy. Nghe đâu là gia gia định thưởng cho Thân Nhị Thư hai lạng bạc gọi là an ủi.

Ngọc Tiêu cứ thế mà kể một hồi, không còn thiếu chuyện gì. Kim Liên nghe xong giận lắm. Ngọc Tiêu trở lên thượng phòng thưa với chủ:

- Lão bà dã về từ sớm rồi, Ngũ nương thì sắp vào.

Nguyệt nương nói với Đại cữu mẫu:

- Tẩu tẩu thấy không, hôm qua tôi nói có mấy câu mà Ngũ nương cũng giận hờn, sáng sớm đã bắt mẹ về nhà mà không thèm nói với tôi một tiếng. Thật là con người không biết điều một chút nào hết.

Không ngờ Ngọc Tiêu vừa đi thì Kim Liên cũng đi ngaỵ Những lời Nguyệt nương vừa nói, Kim Liên đứng ngoài mành nghe hết. Cho nên khi Nguyệt nương dứt lời, Ngô Đại cữu mẫu chưa kịp nói gì thì Kim Liên đã bước vào lên tiếng:

- Đại nương nói đúng lắm, tôi không biết điều thật, nhưng tôi không có ngăn cản níu kéo chồng.

Nguyệt nương bảo:.

- Đúng đấy, hôm qua tôi ngăn cản không cho gia gia đến với cô đấy . Nhưng cô thử nghĩ xem, từ hôm gia gia ở Đông Kinh về tới giờ, cô trổ tài quyến rũ, giữ chặt gia gia ở phòng cô, chẳng để gia gia gặp người này người khác. Như vậy là thế nào ? Có phải nhà này chỉ có mình cô là vợ của gia gia hay không ? Hôm qua Lý Quế Thư nó xin về nhà. Đại cữu mẫu đây mới hỏi là tại sao Quế Thư không ở chơi thêm một ngày, hay là gia gia giận Quế Thư chuyện gì. Tôi mới trả lời là cũng không biết giận vì chuyện gì. Vậy mà cô dám bảo là người khác không biết, chỉ mình cô biết. Phải mà, cả ngày cô chỉ lo đón đường dẫn gia gia về phòng, làm sao không hiểu gia gia.

Kim Liên bảo:

- Gia gia mà không muốn xuống phòng tôi, thì chẳng lẽ tôi lấy dây cột lôi đi được hay sao?

Nguyệt nương chỉ vào mặt Kim Liên:

- Cô đừng có nói láo. Tối qua gia gia đang ngồi ăn cơm tại phòng tôi, sao cô lại tới vén mành thò đầu vào mà gọi ? Tôi hỏi lúc đó thì gia gia có muốn xuống phòng cô không ? Cô vác mặt tới gọi ơi ới như vậy còn quá là đem lây tới cột lôi di nữa. Mà tôi hỏi người chồng trong nhà làm thân nam tử đội trời đạp đất, ngày ngày làm việc cực khổ nuôi cả nhà, tội tình gì mà cô đòi đem dây tới cột lôi đi ? Rõ thật là đồ trắc nết vô liêm sỉ. Cô thấy chúng tôi không nói nên cứ tự tung tự tác phải không ? Cô muốn xin áo cừu, cô chỉ thậm thụt nói với gia gia, không thèm nói với tôi một tiếng. Làm chủ nhà mà như vậy thì làm sao dạy nổi đày tớ, đày tớ nó không bắt chước sao được. Do đó nó mới muốn chửi mắng ai thì chửi mắng, nhà này đã loạn đâu, đã chết hết đâu cũng còn có người này người kia chứ.

Kim Liên nói:

- Chuyện con a hoàn của tôi lầm lỗi là trong lúc tôi vắng nhà, tôi có xúi giục gì nó đâu. Còn chuyện cái áo cừu, tôi có hỏi xin gia gia thật, nhưng không phải gia gia lấy chìa khóa mở tủ chỉ là để lấy áo cho tôi, mà còn để lấy nhiều quần áo cho người khác nữa. Cái người đó sao Đại nương không nói ? Không dạy a hoàn, đành rằng đó là lỗi của tôi, nhưng để cho một đứa không ra gì quyến rũ chồng thì đó là lỗi của ai vậy ?

Nguyệt nương nổi giận, mặt đỏ lên mà bảo:

- Thì đó là lỗi của tôi đấy, cô muốn nói gì thì nói. Nhưng tôi là chính thất trong nhà này, tôi về nhà này có cưới có xin linh dình, tôi lại là con nhà quan quyền, chứ không phải hạng đầu đường xó chợ, theo không chồng người ta đâu. Tôi là vợ cái con cột, đứa nào có giỏi cứ việc quyến rũ chồng tôi, tôi không sợ gì cả..

Ngô Đại cữu mẫu khuyên:.

- Thôi, cô nương không nên giận mà nói nhiều.

Nguyệt nương bảo:

- Không nói sao được, nó đã giết được một người bây giờ nó muốn giết cả tôi hay sao ?

Ngọc đâu cũng lên tiếng:

- Thôi, sao hôm nay Đại nương giận quá như vậy ? Không khéo chúng tôi đây vì liên luỵ mà bị đòn cũng nên.

Đoạn quay sang bảo Kim Liên:

- Ngũ thư thư không nhịn Đại nương được một câu hay sao, mà cứ mồm năm miệng mười đối đáp vậy ?.

Ngô Đại cửu mẫu nói:

- Người ta có câu: đánh người thì tay mình trái, mắng người thì miệng mình quấy. Chúng tôi là thân thích tới đây chơi, thấy mấy người tranh dành ông chồng mà cũng phải hổ thẹn.

Xong bảo Nguyệt nương:

- Để tôi về, bảo gia nhân nó cứ làm ầm lên.

Nguyệt nương phân bua:

- Kể lể là mi người thế mà ghệ Bé xé ra to, tự nhiên thì gào khóc

Đoạn bảo Kim Liên:.

- Con hò , có ai nợ đâu mà chưa gì đã dọa, muốn ton hót gì thì cứ việc

Kim Liền bảo:

- Đại nương là vợ cái con cột, tôi nào dám dọa Đại nương.

- Thấy thứ như mi thì càng giận, vừa chỉ tay bảo mỉa mai :

- Nhưng dù không là vợ cái con cột thì cũng chẳng hú hí với trai.

Kim Liên ngẩng lên hỏi:

- Đại nương nói ai hú hí với trai vậy ? Đại nương hay là tôi ?

Đại cữu mẫu thấy càng lúc càng thêm gay go, bèn với Kim Liên ngồi phệt xuống , lôi Kim Liên ra ngoài mà bảo :

- Sao không lờ đi . Ấy mới là khôn.

Vội cùng với Ngọ Lâu đưa Kim Liên về phòng. Ngọc Tiêu chạy ra phụ lực.

Trong này, Đại cữu mẫu bảo Nguyệt nương:

- Tôi đã khuyên hết lời mà cô nương không nghe làm sao ?

Nhị vị Sư bà thấy ngồi lâu bất tiện, bèn ăn vội ăn vàng mấy cái bánh, rồi đứng dậy cáo từ. Nguyệt nương bảo:.

- Xin ba vị đừng cười chúng tôi nhé.

Sư bà đáp:

- Sao Bồ Tát lại dạy vậy ? Bát chéncòn có khi xô nữa là, nhà nào mà chẳng thế. Có điều là mỗi người nhịn đi một tí thì tốt ngaỵ Phật dạy phải nhẫn nhịn, một sự nhịn là chín sự lành mà. Có nhịn thì mới được phúc, còn không nhịn thì ngàn bộ kinh Kim Cương cũng chẳng đem lại phúc. Có nhịn thì mới thành Phật được. Thôi, Bố Tát cho chúng tôi về.

Nói xong vái chào, hai sư bà kia cũng vái theo. Nguyệt nương vội vái trả mà nói:.

- Để ba vị về, rồi tôi sẽ sai người đem đồ chay lại.

Đoạn quay bảo Kiều Nhi:

-Nhị nương tiễn các sư phụ dùm tôi.

Kiều Nhi đưa ba vị sư bà ra. Nguyệt nương ngồi xuống nói với chị dâu:

- Tẩu tẩu coi, tôi mới giận có một chút mà chân đã run đứng không vững nữa, hai bàn tay thì lạnh ngắt thế này này, sáng ra mới chỉ uống có một hớp trà mà bây giờ cũng thấy no lên tận cổ.

Ngô Đại cữu mẫu nói:

- Bởi vậy tôi mới khuyên cô nương đừng giận mà cô nương chẳng nghe tôi. CÔ nương lại đang bụng mang dạ chửa, phài cẩn thận lắm mới được.

Nguyệt nương nói:

- Như tẩu tẩu biết đấy, tôi dối với Ngũ nương hay với các tiểu nương khác, lúc nào cũng hòa hợp. Nhưng tôi muốn hòa hợp với người khác mà người khác lại không muốn hòa hợp với tôi rồi biết làm sao ? Như vừa rồi có phải là cây muốn lặng mà gió chẳng dừng hay không. Tẩu tẩu tính coi, Ngũ Nương cả ngày chỉ tìm cách giữ rịt lấy gia gia, lại dung túng cho con a hoàn làm bậy, mà còn nhiều chuyện vô liêm sỉ lắm, tẩu tẩu cũng thấy là nó không biết xấu hổ lại còn lớn tiếng với tôi, gia gia tôi thì chẳng biết gì , cứ tưởng nó hiền làm. Tôi cứ thử chống mắt xem sau này nó ra thế nào hay lại chết khổ chết nhục mà thôi. Như tẩu tẩu thấy đó, tôi đối với nó lúc nào cũng như bát nước đầy, sáng ra thì sai pha trà, mời hai mẹ con nó lên. Vậy mà nó bắt mẹ về nhà sớm, rồi lên đây làm ầm ĩ, lại còn dọa là về nói lại với gia gia. Tôi...

Tiểu Ngọc đứng bên nói:.

- Ngũ nương hay rình rập lắm. Một buổi tối, tôi đứng cầm đèn bên ngoài thượng phòng, mà Ngũ nương tới lúc nào tôi không hay, không nghe cả tiếng chân đi nữa.

Tuyết Nga nói:

- Con khốn đó hành tung quỷ quái lắm, lúc nào cũng chỉ đi thứ hai thật êm để dễ bề rình rập người này người nọ. Hồi trước đó, nó cũng rình rập tôi, rồi ton hót lại với gia gia, khiến gia gia đánh tôi mấy trận. Hồi đó Đại nương chưa biết nó, lại trách tôi là kiếm chuyện với nó.

Nguyệt nương bảo :

- Nó chuyên môn lấn lướt người khác, hôm nay lại muốn lấn lướt cả tôi nữa. Hồi nãy nó bù lu bù loa, cố tình xổ tung cả đầu tóc, ra là để gia gia về trông thấy đấy, nó muốn dùng khổ nhục kê mà.

Kiệu Nhi trở vào, nghe Nguyệt nương nói vậy thì bảo:

- Đại nương nhận xét tinh tế lắm.

Nguyệt nương nói:.

- Nhị muội không biết, nó là con hồ ly tinh chín đuôi đấy, coi chừng kẻo bị nó làm hại đến tính mạng chứ chẳng phải chơi đâu Nhị muội coi, đàn bà đứng đắn ai lại hành động như loài ở điếm bao giờ, thế mà tối hôm qua nó dám trơ trẽn tới vén mành thò đầu vào phòng tôi rủ rê gia gia, nào là "chàng không tới hay sao, tôi chờ mãi, thôi để tôi về trước nhé", nhị muội xem thế có nghe được không, tôi không giận sao được. Ai đời, gia gia từ Đông Kinh về, ban ngày đã bận nhiều chuyện, ban đêm cũng phải gặp người này người nọ trong nhà trò chuyện chứ, vậy mà còn tìm cách giữ chặt gia gia. Ngày sinh nhật của Tam nương mà cũng không để gia gia được nghỉ đêm với Tam nương nữa.

Ngô Đại cữu mẫu bảo:

- Thôi cô nương à, cô nương đang thai nghén, nên nghỉ ngơi là hơn, tranh dành làm gì.

Mọi người vừa khuyên giải vừa trò chuyện với Nguyệt nương. Tới gần trưa thì Ngọc Tiêu dọn cơm lên, Nguyệt nương:

- Ta không ăn đâu, bụng làm như no, miệng thì nhạt nhẽo, còn đầu đang nhức quá. Ngươi lấy cái gối ra cho ta nằm nghỉ đỡ nơi tràng kỷ đi.

Đoạn bảo Kiều Nhi:.

- Nhị nương mời Đại cữu mẫu dùng cơm.

Lục Đại Thư cũng xin về, Nguyệt nương sai gói cho ít bánh trái, và thưởng cho nạm tiền. Tới trưa thì gia nhân của Kinh Đô giám tới. Tây Môn Khánh về tới nhà, lên đại sảnh, cho gọi gia nhân của Kinh Đô giám vào bảo:

- Đa tạ gia gia ngươi cho nhiều thứ quá, ngươi cứ đem về, việc của gia gia ngươi ta sẽ hết lòng lo liệu..

Gia nhâncủa Kinh ĐÔ giám thưa:

- Chúng tôi đâu dám đem lễ vật về, gia gia tôi quở chết. Lão gia dùng lễ này để lo việc dùm gia gia chúng tôi..

Tây Môn Khánh bảo:.

- Nếu vậy thì ngươi cầm thiếp này về, thưa là ta sẽ hết lòng.

Nói xong đưa hồi thiếp và thưởng một lạng bạc rồi cho gia nhân nhà họ Kinh về.

Sau đó Tây Môn Khánh vào thượng phòng, thấy Nguyệt nương đang nằm ngủ trên tràng kỷ, gọi mấy tiếng cũng không dậy, bèn hỏi a hoàn:

- Sao Đại nương lại nằm đây ?

Chẳng a hoàn nào dám nói. Tây Môn Khánh xuống phòng Kim Liên, thấy Kim Liên đầu tóc rối bời, cũng đang nằm ngủ trên giường, gọi cũng không dậy. Tây Môn Khánh chẳng hiểu chuyện gì, bèn tới phòng Ngọc Lâu gạn hỏi. Ngọc Lâu thuật lại cuộc ấu đã giữa Nguyệt nương và Kim Liên. Tây Môn Khánh nghe xong hoảng lên, liền lên phòng, cầm tay Nguyệt nương lay gọi mà bảo:

- Nàng đang có mang, sao lại để ý tới con dâm phụ đó làm gì.

Nguyệt nương mở mắt đáp:

- Tôi có lám gì đâu, tự nhiên nó tới gây chuyện với tôi, chàng hỏi thử mọi người xem có đúng vậy không. Sáng ra, tôi chẳng biết nó hờn giận chuyện gì, bắt lão mẫu về từ sớm rồi vào gây chuyện với tôi, rồi nó rũ đầu rũ tóc ra, nó nói tôi không còn nước còn cái gì hết. Nếu không nhờ mọi người can ngăn, có lẽ nó dám xông lại đánh tôi chứ không chơi đâu. Ngày thường nó lấn lướt người khác quen rồi, hôm nay nó lại định lấn lướt tôi nữa. Tôi nói một thì nó nói mười, cái mồm nó cứ xoen xoét, tôi làm sao nói lại nổi. Nó còn nói mỉa đợi chàng về, nó sẽ bỏ nhà cả đi, miệng nhạt chẳng muốn ăn gì, người cứ như hâm hấp sốt, mà bây giờ bụng lại đau nữa, thôi để đêm nay tôi kiếm cái dây thắt cổ chết cho rảnh, để chàng ở lại với nó cho vui vẻ. Thà tôi chết trước còn hơn là để giống như Bình Nhi bị nó làm hại.

Nói xong nước mắt rơi lã chã. Tây Môn Khánh nghe xong phát hoảng, vội ôm Nguyệt nương vào lòng mà bảo:

- Nàng ơi, nàng đừng thèm chấp con dâm phụ đó làm gì. Nó một đâu biết phải quấy gì đâu mà giận nó cho mệt, để tôi chửi nó cho.

Nguyệt nương bảo:.

- Chàng mà dám chửi nó, nó bảo là lấy dây cột chàng lại, lôi chàng đến phòng nó đó.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nó dám hỗn láo với tôi như vậy thì để tôi cho nó một trận . Bây giờ thấy trong người thế nào ? Đã ăn uống gì chưa ?

Nguyệt nương đáp:

- Đã ăn uống gì đâu. Sáng sớm uống được mấy hớp nước trà là nó đã tới gây chuyện rồi. Bây giờ bụng cứ như là no hơi, lại nữa đầu thì nhức như búa bổ, tay chân thì lạnh ngắt đây nếu không tin chàng sờ thử xem.

Tây Môn Khánh càng lo sợ: :

- Thế thì làm thế nào bây giờ, để tôi cho người mời Nhiệm Y quan tới ngay vậy.

Nguyệt nương bảo:

- Thôi, mời làm gì cho phiền ra, cứ kệ tôi, sống thì sống, mà lòng sống được thì chết cũng yên. Tôi chết đi để chàng được là vui vẻ với nó, đem nó lên hàng chính thất, người thông minh lanh lợi như nó thì thừa tài giỏi để quán xuyến cái gia đình này.

Tây Môn Khánh bảo:

- Thôi, tôi đã nói là nàng đừng thèm để ý tới con dâm phụ đó nữa, cứ coi nó như đồ nhơ bẩn thối tha, không đáng để mắt. Bây giờ nàng không cho mời lang y tới, lỡ cái thai nó làm sao thì khổ.

Nguyệt nương nói:

- Nếu vậy thì bảo chúng nó mời lưu lão bà tới vậy, lão cho thuốc là khỏi ngay.

Tây Môn Khánh bảo:

- Con mụ Lưu đó thì biết gì về thuốc men với thai sản, nàng nghe tôi, mời Nhiệm Y quan tới là tốt nhất.

Nguyệt nương nói:

- Chàng mời thì cứ mời, chứ tôi không chịu đâu.

Tây Môn Khánh không nghe, bước ra gọi Cẩm Đồng bảo:

- Mau lấy ngựa ra ngoại thành mời Nhiệm lão gia lại đây ngay, nhớ chờ đó, cùng Nhiệm lão gia tới đây ngay.

Cầm Đồng vâng lời dẫn ngựa ra, leo lên phi nước đại phóng ra ngoại thành.

Tây Môn Khánh quay vào quanh quẩn bên Nguyệt nương, lại sai a hoàn nấu cháo, rồi khuyên Nguyệt nương ăn.

Qúa trưa, Cầm Đồng về thưa:

- Nhiệm lão gia lên trên phủ Đông Bình coi mạch đến tối. Tôi nhờ nói lại, sáng mai Nhiệm lão gia sẽ lại.

Nguyệt Nương sực nhớ là Kiều Đại hộ sai người tới mời mấy lần, bèn bảo chồng.

- Mình đã hẹn là ngày mai tới dự tiệc bên Kiều thân gia, bây giờ tôi bệnh thế này, làm sao đi được. Hay là chàng tới đó nói một câu đi, kẻo bên đó không thấy mình tới lại buồn giận. Chàng đi bây giờ đi kẻo muộn.

Tây Môn Khánh nói:

- Tôi đi rồi ở nhà ai săn sóc nàng ?

Nguyệt nương cười mãn nguyện:

- Đồ quỷ khéo lo, ai khiến ở nhà săn sóc. Nói vậy chứ chàng cứ đi đi, tôi không sao dâu, nằm cho khỏe một lát rồi sẽ dậy ăn cơm rồi còn tiếp chuyện Đại cữu mẫu nữa chứ. Chàng việc gì phải hoảng lên vậy.

Tây Môn Khánh bảo Ngọc Tiêu:

- Ngươi ra thỉnh Đại cữu mẫu vào đây trò chuyện với Đại nương.

Đoạn hỏi:

-Lục Đại Thư đâu, gọi vào đây đàn hát cho Đại nương nghe.

Ngọc Tiêu thưa:

- Lục Đại Thư đã xin về rồi.

Tây Môn Khánh quát lên:

- Ai cho nó về ? Ta đã bảo nó ở lại dây vài hôm cơ mà.

Nói xong tức giận chạy tới đạp Ngọc Tiêu một đạp. Nguyệt nương bảo:

- Người ta thấy nhà chàng loạn lên như cái chợ, không về thì ở lại làm gì.

Ngọc Tiêu mếu máo:

- Cái đứa hỗn láo chửi mắng Thân Nhị Thư thì không đánh, lại đi đánh tôi.

Tây Môn Khánh giả vờ không nghe, chỉ đội mũ mặc áo tới nhà Kiều Đại hộ. Nhưng Tây Môn Khánh chỉ đi một lát rồi lại về Đại cẩu mẫu, Kiều Nhi và Ngọc Tiêu đang ngồi xung quanh trò chuyện với Nguyệt nương. Đại cữu mẫu thấy Tây Môn Khánh về thì bước sang phòng bên. Tây Môn Khánh bước vào hỏi Nguyệt nương:

- Nương tử có thấy khỏe hơn chút nào không ?

Nguyệt nương đáp:

- Đại cữu mẫu cho tôi ăn được ít cháo, bây giờ cũng thấy dễ chịu chỉ còn nhức đầu đau lưng mà thôi.

Tấy Môn Khánh bảo: :

- Không sao, ngày mai Nhiệm Y quan tới coi mạch cho thuốc tán khí an thai là khỏi.

Nguyệt nương bảo:

- Tôi đã nói đừng mời mà chàng cứ mời làm gì, tôi không muốn lang y đàn ông tới cầm tay cầm chân bắt mạch đâu, rồi chàng coi, tôi không chịu cho coi mạch đâu. à, mà Kiều thân gia có nói gì không ?

Tây Môn Khánh đáp:

- Kiều thân gia nói rằng tôi từ Đông Kinh về, nên muốn có chén rượu đãi. Hôm nay Kiều thân gia cho dọn tiệc thịnh soạn lại gọi hai ca nữ tới đàn hát. Nhưng tôi lo cho nàng, chăng có bụng dạ nào ngồi ăn uống nên chỉ uống vài chung rượu rồi cáo từ.

Nguyệt nương bĩu môi:

- Thôi đi, tôi đâu có tin lời chàng, chàng là hay nói dối lắm, chàng co nghĩ gì đến tôi, tôi có chết chàng cũng mặc kệ, tôi chết chàng lại càng được yên ấy chứ.

Đoạn hỏi:

- Kiều thân gia không nói gì nữa hay sao ?

Tây Môn Khánh đáp:

- Có, nhưng là chuyện đàn ông với nhau. Kiều thân gia đang muốn có một chức quan hàm với đời, nên đã gói sẵn ba chục lạng bạc, nhờ tôi nói với Hồ Phủ Doãn để giúp chọ Tôi nói là điều đó tôi làm được, nhưng không nhận bạc, Hồ Phủ Doãn mới cho người ta lại, để tôi đến cảm ơn Hồ Phủ Doãn rồi sẽ đem thiếp của Kiều thân gia tới nói luôn một thể. Nhưng Kiều thân gia không chịu, nói mà để tôi dùng mà mua lễ vật.

Nguyệt nương bảo:

- Thôi thì nói giúp, lấy tiền của người ta làm gì.

- Thì tôi có lấy đâu, ngày mai Kiều thân gia mới cho người đem lại, lúc đó mình từ chối cũng được. Mình cũng phải mua một con lợn và một vò rượu để tạ Hồ lão gia.

Hai vợ chồng chuyện trò thân mật. Đêm đó Tây Môn Khánh nghỉ lại với Nguyệt nương. Hôm sau Tây Môn Khánh đích thân đứng trông coi gia nhân bày bàn dọn tiệc. Từ sáng sớm, trên phủ đã cho ba chục quân hầu do hai viên lệnh quan dẫn tới để chạy việc trong nhà Tây Môn Khánh. Cũng từ sáng sớm. Nhiệm Y quan đã cưỡi ngựa tới, Tây Môn Khánh mời lên đại sảnh dùng trà. Nhiệm Y quan nói:

- Hôm qua hân hạnh được đại nhân gọi tới, nhưng tôi lại lên trên phủ, đến tối mới về, sáng sớm hôm nay là phải tới hầu ngay, không dám chậm trễ, dám hỏi vị nào trong quý phủ thân.

Tây Môn Khánh đáp:

- Tiện nội tự nhiên trong người khó chịu, nhức đầu đau bụng đau lưng, phiền tiên sinh coi mạch cho thuốc dùm.

Nhiệm Y quan nói:

- Nghe tin đại nhân thăng chức, lại vừa triều kiến thánh thượng về, tôi không tới chúc mừng được, thật là đắc tội.

Tây Môn Khánh mỉm cười:

- Tôi bất tài, may mắn được thăng chức chỉ là để bù vào chỗ trống của Hạ đại nhân, có gì đáng chúc mừng.

Nói xong quay lại bảo gia nhân:

- Vào thưa với Đại nương là Nhiệm lão gia đã tới, rồi bảo dọn dẹp phòng ngoài để lão gia vào chẩn mạch. ..

Cầm Đồng vâng lời vào trong. Ngô Đại cữu mẫu, Kiều Nhi và Ngọc Lâu đang ngồi trò chuyện với Nguyệt nương thì Cầm Đồng vào thưa:

- Nhiệm tiên sinh đã tới, gia gia bảo là dọn dẹp phòng ngoài để tiên sinh vào coi mạch.

Nguyệt nương nói:

-Tôi đã bảo là đừng mời Nhiệm Y quan mà cứ mời làm gì khong biết. Thà cứ gọi Lưu lão bà tới, uống vài viên thuốc của lão mẫu sẽ khỏi mà đỡ lôi thôi phiền phức.

Ngọc Lâu bảo:

- Đại nương à, gia gia đã mời người ta tới rồi, người ta lại là lương y trong vùng, quen biết lớn, Đại nương không chịu ra coi không tiện, chẳng lẽ lại để người ta về hay sao.

Đại cữu mẫu cũng nói:

- Cô nương à, người ta chẳng gì cũng là vị Thái y, cứ để người ta coi mạch xem bệnh tình cô nương thế nào, có phạm hệ gì không, rồi người ta cắt thuốc an thai hạ khí cho cô nương. Còn theo tôi thì Lưu lão bà có học hành gì đâu mà hiểu biết về mạch lý y dược, lỡ có chuyện gì lại hối hận.

Nguyệt nương đành phải ngồi dậy chải sơ lại đầu. Ngọc Tiêu cầm gương soi mặt tới cho Nguyệt nương mặc áo ngoài. Kiều Nhi và Tuyết Nga thì giúp Nguyệt nương đeo đồ nữ trang và cài trâm giắt thoa trên tóc. Xong xuôi, mọi người dẫn Nguyệt nương ra phòng ngoài, chờ Nhiệm Y quan xuống coi mạch... Tây Môn Khánh sợ Nguyệt nương không chịu để Nhiệm Y quan coi mạch, định xuống để khuyên lơn, nhưng tới nơi đã thấy Nguyệt nương ăn mặc sang trọng trang điểm lộng lẫy ngồi chờ thì mừng lắm, vội trở ra mời Nhiệm Y quan xuống. Nhiệm Y quan vừa bước vào, Nguyệt nương đã đứng dậy thi lễ. Nhiệm Y quan lật đật vái chào cung kính. Nguyệt nương ngồi xuống, mời Nhiệm Y quan ngồi vào ghế đối diện, Cầm Đồng đem một cái gối nhỏ để trên bàn. Nguyệt nương từ từ vén tay áo, để lộ cổ tay trắng ngần khoan thai đặt tay lên gối cho Nhiệm Y quan bắt mạch. Bắt mạch cả hai tay xong, Nguyệt nương đứng dậy vái chào Nhiệm Y quan, hai a hoàn chạy tới đưa vào phòng trong.

Cầm Đồng đem trà ra, Nhiệm Y quan uống trà, nói với Tây Môn Khánh:

- Lệnh phu nhân bẩm sinh khí huyết không được sung mãn, nên lúc htai nghén khí huyết càng thêm bất điều, dễ sinh giận dữ. Hoa? trong gan lại vượng nên đầu nhức, mắt mở, tìm bị trở ngại trì trệ nên lòng hay sầu muộn, lại vì huyết thiếu mà khí đa nên tứ chi thường bải hoải.

Nguyệt nương sai Cầm Đồng ra nói:

- Đại nương tôi hiện đang hơi nhức đầu, bụng dưới và lưng hơi đau, ăn uống chẳng thấy ngon.

Nhiệm Y quan nói với Tây Môn Khánh:

- Thưa điều đó thì tôi đã biết, bây giờ nói vậy lại càng rõ hơn.

Tây Môn Khánh nói:

- Chẳng nói giấu gì tiên sinh, tiện nội đang thai nghén, lại vừa gặp chuyện buồn giận nên mới sinh ra như vậy, xin tiên sinh liệu gia giảm mà tận tình điều trị cho.

Nhiệm Y quan nói:

- Đại nhân không phải nhọc công dặn dò, vãn sinh đâu dám không tận tâm tận lực. Vãn sinh sẽ làm thuốc tễ an thai hạ khí, trừ đau nhức mệt mỏi và bồi bổ khí huyết, tự nhiên lệnh phu nhân sẽ khoẻ khoắn muốn ăn.

Tây Môn Khánh dặn thêm:

- Cần nhất là xin tiên sinh hết lòng lo sao cho cái bào thai được yên.

Nhiệm Y quan đáp:

- Vãn sinh đã hiểu, xin đại nhân cứ yên lòng, cần nhất là an thai điều khí.

Tây Môn Khánh dặn thêm:

- Cần nhất là xin tiên sinh hết lòng lo sao cho cái bào thai được yên.

Nhiệm Y quan đáp:

- Vãn sinh đã hiểu, xin đại nhân cứ yên lòng, cần nhất là an thai điều khí.

Tây Môn Khánh lại nói:

- Đệ tam phòng của chúng tôi hôm kia bị nôn oẹ và đau bụng, tiện đây cũng xin tiên sinh cho thuốc.

Nhiệm Y quan đáp:

- Thưa vâng, vãn sinh sẽ cho đem thuốc lại.

Nói xong đứng dậy cáo từ. Tây Môn Khánh tiễn ra, lúc đi ngang đại sảnh, Nhiệm Y quan thấy gia nhân ra vào rộn rịp, lại có đoàn hát đang dựng rạp, các ca công đang chuẩn bị nhạc khí, bèn hỏi:

- Qúy phủ hôm nay có việc vui mừng gì vậy?

Tây Môn Khánh đáp:

- Hôm nay Tống Ngự sử mượn nơi đây để bày tiệc khoản đãi Hầu Tuần phủ, nhân dịp Tuần phủ thăng chức về kinh.

Nhiệm Y quan nghe xong trong lòng càng thêm kính sợ Tây Môn Khánh. Tới ngoài, Nhiệm Y quan mấy lần khom mình vái chào Tây Môn Khánh rồi mới lên ngựa mà về.

Tây Môn Khánh trở vào, sai lấy một lạng bạc và năm vuông lụa, bảo Cầm Đồng đem tới cho Nhiệm Y quan rồi đợi lấy thuốc mang về.

Nhiệm Y quan về rôi, Kiều Nhi và Ngọc Lâu lại vào ngồi trò chuyện với Nguyệt nương. Ngọc Lâu bảo:

- Đó, nếu Đại nương không chịu cho người ta coi mạch thì làm sao người ta có thể biết được tâm bệnh của Đại nương mà cho thuốc.

Nguyệt nương nói:

- Tôi đâu muốn ra làm gì, chằng qua là gia gia quá lo lắng cho tôi, lại năn nỉ hết lời, tôi không ra sao được. Vả lại các muội muội cứ lôi tôi ra nên tôi phải ra. Chứ nếu không, thử đợi mười năm xem tôi có chịu ra không. Thà tôi chết đi lại được yên tĩnh. Tôi mà chết là người ta được đem lên làm chính thất ngay chứ đừng nói.

Ngọc Lâu bảo:

- Thôi, tôi xin Đại nương, buồn giận mãi làm gì, mà việc gì phải nói những lời như vậy. Không phải tôi nói xấu người khác, nhưng Ngũ nương quả là người chẳng biết điều chút nào, ăn nói hành động hàm hồ quá lắm. Người như thế ai chẳng biết, Đại nương giận làm gì cho mệt.

Nguyệt nương bảo:

- Nếu Ngũ nương chỉ không biết điều như lời Tam muội nói thì đã khá, đằng này tôi sợ tâm địa Ngũ nương chẳng phải vừa, chỉ chuyên nghĩ chuyện làm hại người khác mà thôi.

Ngọc Lâu nói:

- Đại nương là người chủ trong nhà, cai quản chúng tôi, thiết tưởng Đại nương cũng nên rộng lượng một chút cho Ngũ nương được nhờ, nếu đại nương chặt chẽ quá thì Ngũ nương biết làm sao. Người ta thường nói, một người quân tử dung được mười kẻ tiểu nhân, xin Đại nương nghĩ lại.

Nguyệt nương bảo:

- Tôi đâu phải là chủ trong nhà, người ta chỉ cần biết đến gia gia mà thôi, chứ đâu cần biết đến tôi.

Ngọc Lâu nói:

- Làm gì có chuyện đó, Đại nương thấy không, Đại nương không khoẻ trong người nên gia gia không dám xuống phòng Ngũ nương đó.

Nguyệt nương bảo:

- Sao lại không xuống? không xuống thì người ta lấy dây cột vào cổ gia gia mà lôi xuống ấy chứ. Vả lại gia gia thương yêu ai thì cứ đến với người đó, tôi nào dám ngăn cảm, ngăn cản lại mang tiếng này nọ lôi thôi.

Ngọc Lâu nói:

- Đại nương cứ nghĩ quá đi như vậy nên mới buồn giận chứ làm gì có chuyện đó. Thôi, bây giờ Đại nương đừng giận nữa, để tôi gọi Ngũ nương tới đây lạy tạ lỗi Đại nương.

Đại cữu mẫu bước vào, nghe Ngọc Lâu nói vậy, cũng bảo Nguyệt nương:

- Phải đấy, hai người nên làm lành với nhau đi là hơn. Nếu không thì sẽ đưa quan nhân vào chỗ khó xử. Quan nhân có muốn đến với Ngũ nương thì sợ cô nương buồn giận, mà không đến thì Ngũ nương lại giận quan nhân mà giận cả cô nương nữa, như thế rồi cứ xa cách thêm ra, trong nhà mất vui đi.

Ngọc Lâu nói tiếp:

- Nhân có đai cữu mẫu ở đây, Đại nương cũng nên tha thứ cho Ngũ nương để đại cữu mẫu được vui. Hôm nay nhà có đại tiệc, tôi phải đứng ra lo việc, đáng lẽ Ngũ nương phải vào đây giúp đỡ tôi, đằng này cứ nằm trong phòng, tôi cũng không vừa lòng chút nào cả. Kêu Ngũ nương vào đây xin lỗi Đại nương rồi phụ tôi lo việc chứ. Đại cữu mẫu nghĩ vậy có đúng không?

Ngô Đại cữu mẫu đáp:

- Tam nương nói đúng lắm.

Đoạn quay sang Nguyệt nương:

- Cô nương à, Tam cô nương đã nói vậy thì cô nương cũng nên nghĩ lại, để cho quan nhân đỡ phần khó xử.

Nguyệt nương không nói gì, Ngọc Lâu đứng dậy định bước ra thì Nguyệt nương bảo:

- Tam nương đừng gọi nó, nó muốn lại đây thì lại, không việc gì phải mời gọi như vậy.

Ngọc Lâu đứng lại đáp:

- Để tự nhiên thì Ngũ nương đâu dám lại, phải gọi chứ.

Đoạn nói đùa:

- Tôi gọi mà Ngũ nương không chịu lại thì tôi lấy dây cột cổ lôi lại đây ấy chứ.

Nói xong xuống phòng Kim Liên. Tới nơi thấy Kim Liên đang ngồi thừ người trên tràng kỷ, đầu tóc không chải, mặt mũi xanh tái, bèn bảo:

- Ngũ thư thư à, sao không chải đầu trang điểm đàng hoàng, hôm nay nhà có đại tiệc, bận rộn biết bao mà chẳng thấy thư thư vào giúp một tay, cứ ngồi giận dỗi mãi hay sao. Hồi nãy chúng tôi có khuyên can, Đại nương cũng nguôi giận rồi, bây giờ thì thư thư cũng chẳng nên giận nữa, mà nên vào lạy tạ lỗi Đại nương thì hơn, mình là người dưới mà, lời nói lại chẳng mất tiền mua, sao không làm cho êm ấm cửa nhà. Bây giờ thư thư giận thì định giận đến bao giờ, chi bằng bây giờ vào xin lỗi một câu, bao nhiêu chuyện cũ bỏ qua có phải là tốt hơn không. Nếu không thì thư thư chỉ làm cho gia gia khó xử thêm mà thôi, gia gia dù có muốn xuống với thư thư cũng không dám vì sợ Đại nương buồn giận. Thôi thì chỗ chị em trong nhà, cái gì qua đi thì thôi.

Kim Liên nói:

- Thôi thôi, tôi đâu dám làm chị em với người tạ Người ta là con nhà danh giá, cưới xin linh đình, trở thành vợ cái con cột trong nhà, còn tôi là phận nghèo hèn, hư thân trắc nết, theo gia gia về nhà này, làm sao chị em với người ta được.

Ngọc Lâu bảo:

- Sao lại nói vậy, thư thư cũng như tôi, tuy là phận lẽ mọn nhưng cũng là vợ chứ là gì, tuy không cưới xin linh đình, nhưng cũng mai mối đàng hoàng chứ có ai theo gia gia về nhà này đâu. Tuy nhiên tôi cũng xin khuyên là ở đâu cũng vậy, còn có người này người kia, từ nay thư thwu nói năng hành động gì cũng phải nên đắn đo sau trước, nhìn dưới nhìn trên để tránh những chuyện đáng tiếc. Dầu sao thì thư thư cũng có lỗi, có mặt đại cữu mẫu và ba vị sư phụ mà thư thư ăn nói chẳng giữ gìn, khiến cho họ cười chê, trách gì Đại nương không giận. Chuyện này không dàn xếp cho êm đẹp, chẳng lẽ cứ thế này mãi sao. Thôi, thư thư chải đầu trang điểm đi, rồi chúng mình cùng vào thượng phòng.

Kim Liên im lặng một lúc, suy nghĩ về lời Ngọc Lâu rồi nén giận, bước tới trước gương chải đầu trang điểm, rồi thay áo, cùng Ngọc Lâu vào thượng phòng.

Ngọc Lâu bước vào, vén mành nói:

- Đại nương thấy không, tôi nói là thế nào Ngũ nương cũng lại mà.

Rồi quay lại cười bảo Kim Liên:

- Không vào lạy tạ lỗi với Đại nương mau đi.

Đoạn bước vào, đứng qua một bên, bắt chước giọng bà già, nói đùa với Nguyệt nương:

- Thưa thân gia, cháu nó còn trẻ người non dạ chưa hiểu gì cả, nên mới dám cả gan xúc phạm tới thân gia, xin thân gia nể mặt tôi mà tha cho cháu lần này. Lần sau cháu còn tái phạm khiến thân gia buồn phiền, thì lúc đó tùy thân gia đánh đập chửi mắng, tôi không dám xin cho cháu nữa.

Mọi người cười ầm cả lên, Kim Liên ngượng ngùng bước tới lạy Nguyệt nương bốn lạy, rồi đuổi đánh Ngọc Lâu mà bảo:

- Đồ quỷ, cái mặt như vậy mà đòi làm mẹ tôi sao?

Mọi người lại cười, Nguyệt nương cũng không nín cười được. Ngọc Lâu nói đùa với Kim Liên:

- Con nhà bất hiếu, ngươi thấy bà chủ đây khoan hồng cho ngươi thì ngươi lên mặt mắng cả mẹ ngươi hay sao.

Đại cữu mẫu nói:

- Hai chị em đùa giỡn khiến cho cô nương chúng tôi đây cũng được vui vẻ, thảo nào người ta vẫn nói, mẫu đơn tuy đẹp còn nhờ lá xanh.

Nguyệt nương bảo:

- Nhưng từ nãy tới giờ người ta có nói gì với tôi đâu.

Kim Liên vội nói:

- Đại nương cao cả như trời, tôi thấp hèn như đất, Đại nương mở lượng bao dung cho tôi, tôi nguyện ghi khắc trong lòng.

Ngọc Lâu đập vào vai Kim Liên:

- Thôi, vậy là được rồi, bây giờ thì phải giúp tôi lo việc chứ, đứng đó mà nói hay sao?

Kim Liên vội cùng Ngọc Lâu xếp đặt mọi việc cho bữa tiệc.

Lát sau Cầm Đồng đem thuốc về, lại trình cả thiếp của Nhiệm Y quan cho chủ. Tây Môn Khánh sai đem ngay xuống cho Nguyệt nương.

Nguyệt nương gọi Ngọc Lâu bảo:

- Có cả thuốc của Tam nương đây này.

Ngọc Lâu bước lại nói:

- À, hôm nọ Ở nhà Ứng nhị gia về, tôi nôn oẹ, và đau bụng nên gia gia mới bảo Nhiệm Y quan làm thuốc cho đấy.

Nguyệt nương bảo:

- Có lẽ hôm nọ Tam nương bị lạnh, thuốc này chắc là thuốc tiêu hàn đấy.

Nói xong đưa thuốc cho Ngọc Lâu. Ngọc Lâu nhận thuốc, sai a hoàn cất thuốc đi, rồi tiếp tục cùng Kim Liên lo việc.

Trong khi đó, Tống Ngự sử tới, Tây Môn Khánh mời vào thư phòng uống trà nói chuyện. Tống Ngự sử cảm tạ về cái đỉnh quý rồi hỏi:

- Dám xin tiên sinh cho biết giá cả.

Tây Môn Khánh nói:

- Đem đến còn sợ đại nhân không vừa lòng, đâu dám nói giá.

Tống Ngự sử nói:

- Nếu vậy thì tôi biết lấy gì cảm tạ tiên sinh.

Nói xong đứng dậy vái tạ. Tây Môn Khánh cũng đứng dậy đáp lễ. Hai người ngồi xuống, nói sang chuyện qua đám quan lại địa phương. Tây Môn Khánh nói:

- Theo chỗ vãn sinh được biết thì Hồ Tuần phủ có tài có đức, được dân gian ngưỡng vọng, Lý Tri huyện là người mãn cán, dân cũng được nhờ, còn các vị khác thì vãn sinh không được rõ cho lắm.

Tống Ngự sử hỏi:

- Thế còn Chu Tổng binh ở phủ Thủ Bị là người thế nào?

Tây Môn Khánh đáp:

- Chu Tổng binh là người lão thành lịch lãm, nhưng theo vãn sinh thì chưa bằng Kinh Đô giám, tuổi trẻ mà xuất thân võ cử, thao lược trí dũng kiêm toàn, chẳng hay đại nhân có thấy như vậy chăng?

Tống Ngự sử đáp:

- Vãn sinh cũng nghe người ta ca tụng Kính Trung.

Tây Môn Khánh nhân dịp nói ngay:

- Kinh Đô giám với vãn sinh cũng là chỗ tương giao, hôm qua tới đây có đưa cho vãn sinh tấm thiếp, nhờ đại nhân để mắt cho.

Tống Ngự sử nói:

- Nếu vậy thì Kinh Đô giám cũng đáng được nâng đỡ. Tiên sinh còn thấy người nào khác nữa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Chẳng giấu gì đại nhân, vãn sinh có người anh vợ họ Ngô, hiện là Chánh Thiên hộ, vừa rồi có công lo tu bổ và xây dựng kho đụn đúng hạn, kết quả rất tốt đẹp, xứng đáng được thăng chỉ huy, đại nhân để tâm cất nhắc cho thì vãn sinh đội ơn lắm.

Tống Ngự sử nói:

- Đã là thân thích của tiên sinh thì vãn sinh sẽ hết lòng, chẳngg những được thăng chức mà ngay bây giờ vãn sinh có thể đề cử cho làm chức Kiểm sự được.

Tây Môn Khánh đứng dậy vái tạ, rồi lấy thiếp của Ngô Đại cữu và Kinh Đô giám, hai tay đưa cho Tống Ngự sử. Tống Ngự sử xem xong, đưa cho thư lại cất đi rồi dặn:

- Ngày mai nhớ nhắc ta, để ta làm bản tấu trình về triều.

Viên thư lại cất thiếp đi. Tây Môn Khánh sai Đại A lấy ba tiền, ngầm dúi cho viên thư lại, dặn nhớ nhắc gìum.

Hai người đang nói chuyện thì nghe bên ngoài tiếng hò hét dẹp đường rồi tiếng ngựa hý, sau đó gia nhân vào thưa:

- Các quan đã tới.

Tây Môn Khánh bước ra tiếp đón. Tống Ngự sử lững thững ra sau. Các quan theo thứ tự lớn nhỏ mà thi lễ. Tây Môn Khánh dẫn Tống Ngự sử và các quan tới coi phòng tiệc. Tống Ngự sử thấy bàn ghế chỉnh tề, bát đĩa toàn đồ quý, khung cảnhg xung quang trang hòang rực rỡ thì vui lắm, cảm tạ Tây Môn Khánh hết lời rồi nói:

- Thật là tốn kém cho đại nhân quá, chỗ chúng tôi đóng góp thật chẳng thấm vào đâu, thôi thì đại nhân vì tôi mà lo cho, các quan đây không đóng góp thêm nữa đâu.

Tây Môn Khánh cười:

- Có thiếu chút ít thì vãn sinh xin bù thêm, làm gì có chuyện quý quan phải góp thêm nữa.

Nói xong mời mọi người ngồi. Các quan theo thứ tự lớn nhỏ mà ngồi. Tống Ngự sử thấy các quan đủ mặt thì sai người đi mời Hầu Tuần phủ. Lát sau, một quân hầu phi ngựa tới trước báo:

- Hầu lão gia đã tới.

Tây Môn Khánh cho dàn nhạc tấu nhạc vang lừng. Các quan kéo nhau ra tận cổng ngoài nghênh tiếp. Tống Ngự sử thỉ đứng đợi ở cổng trong.

Ngôi kiệu bốn người khiêng hạ xuống tại cổng ngoài. Hầu Tuần phủ mặc triều phục, đeo kim đái bước xuống. Các quan vái chào rồi mời vào. Tới cổng trong, Tống Ngự sử bước ra vái chào và mời vào đại sảnh.

Tại đại sảnh, các quan theo thứ tự lớn nhỏ bước tới làm lễ, sau cùng Tây Môn Khánh mới bước tới bái kiến. Hầu Tuần phủ đã gặp Tây Môn Khánh trong một bữa tiệc tại nhà Lưu Thái giám nên nhớ mặt, chào hỏi thân mật lắm.

Tống Ngự sử mời Hầu Tuần phủ cởi áo ngoài rồi ngồi vào bàn. Các quan ai ngồi chỗ ấy. Gia nhân đem đồ ăn và rượu ra. Tống Ngự sử thân rót rượu mời Hầu Tuần phủ. Dàn nhạc hòa tấu vang lừng. Bữa tiệc bắt đầu, dàn nhạc tấu vài khúc thì đến một đám vũ công trình diễn, tiếp đó là phường hát phô tài. Không khí thật muôn phần tưng bừng vui vẻ.

Tới quá trưa thì Hầu Tuần phủ sai tả hữu lấy năm lạng bạc ra chia thưởng cho nhà bếp, gia nhân hầu tiệc và các ca công vũ nữ cùng phường hát, rồi mặc áo đứng dậy cáo từ. Các quan tiễn ra đến cổng ngoài, Hầu Tuần phủ lên kiệu, tiền hô hậu ủng mà về.

Tống Ngự sử trở vào cảm tạ Tây Môn Khánh rồi cùng các quan cáo từ. Tây Môn Khánh tiễn khách xong, thưởng tiền cho các ca công, vũ nữ và phường hát rồi cho về.

Nhân thấy trời còn sớm, bèn giữ lại mấy ca công, rồi sai dọn tiệc mới, cho mời Ngô Đại cữu, Ứng Bá Tước, Ôn Tú tài, các quản lý phó, Cam, Bôn Tứ và Kính Tế. Trong lúc chờ đợi, Tây Môn Khánh bảo ca công đàn hát, lại sai bẻ mấy cành mai lớn đang nở đẹp, vào cắm tại lục bình, rồi vừa nghe hát, vừa ngắm mai uống rượu.

Lát sau mọi người lần lượt tới đông đủ. Bá Tước vái chào Tây Môn Khánh rồi nói:

- Hôm nọ các tẩu tẩu tới đông đủ là hân hạnh cho tôi lắm rồi, đại ca lại còn cho nhiều thứ quá, thật muôn vàn cảm tạ đại ca.

Tây Môn Khánh cười:

- Đồ quỷ sứ, hôm đó núp trong cửa sổ nhìn trộm các nương nương phải không?

Bá Tước kêu lên:

- Trời ơi, làm gì có chuyện đó, đại ca đừng có nghe lời nói láo của đứa nào đó. À, thôi tôi nhớ ra rồi, không ai khác hơn là thằng Vương Kỉnh, nó ghét tôi nên bịa chuyện hại tôi đây, nó dám ăn không nói có như thế bao giờ không. Để tôi lóc thịt nó ra mới được.

Mọi người uống trà, chờ gia nhân bày tiệc. Ngô Đại cữu muốn vào thăm Nguyệt nương. Tây Môn Khánh dẫn anh vợ vào. Tây Môn Khánh nói:

- Hồi trưa tôi có nói với Tống Ngự sử rồi. Ngự sử xem thiếp của Đại cữu rồi giao cho thư lại, dặn là ngày mai nhắc để làm tờ tấu trình về triều. Tôi có cho viên thư lại ba tiền để nó lo cho Đại cữu. Tống Ngự sử hứa là ngày mai Đại cữu sẽ có tin mừng thăng quan tiến chức. Tôi cũng nói giùm luôn cho Kinh Đô giám nữa.

Ngô Đại cữu nghe xong mừng lắm, vái tạ Tây Môn Khánh rồi nói:

- Thật là khiến dượng phải phí tâm quá.

Tây Môn Khánh nói thêm:

- Tôi cũng nói Đại cữu là anh vợ của tôi. Tống Ngự sử nghe xong bảo là sẽ hết lòng.

Nói xong dẫn Ngô Đại cữu vào phòng Nguyệt nương. Nguyệt nương đứng dậy vái chào anh. Đại cữu chào xong rồi bảo Ngô Đại cữu mẫu:

- Nhà chẳng có ai mà bà cứ ở liền đây mấy ngày, chẳng để mắt đến việc nhà gì cả.

Đại cữu mẫu đáp:

- Cô nương đây cứ giữ tôi đây này, có cho về đâu, còn bảo là mồng ba mới cho tôi về đấy.

Ngô Đại cữu bảo:

- Nếu cô nương đây lưu giữ thì để ngày mồng bốn về cũng được, mồng ba ngày xấu.

Thăm hỏi Nguyệt nương mấy câu, Ngô Đại cữu cùng Tây Môn Khánh trở ra bàn tiệc, cùng mọi người ăn uống nghe đàn hát.

Tiệc đang vui thì Đại An vào thưa:

- Kiều thân gia sai Kiều Thông tới thưa chuyện với gia gia.

Tây Môn Khánh bước ra ngoài thềm. Kiều Thông chạy tới lạy chào rồi thưa:

- Gia gia tôi đã thưa chuyện với lão gia rồi, nay y hẹn xin đem tới ba chục lạng, lại xin gửi thêm năm lạng để lão gia thưởng cho thuộc cấp.

Tây Môn Khánh bảo:

- Ta nể lời gia gia ngươi nên mới nhận ba chục lạng để lo việc, lại còn đưa thêm tiền này tiền nọ làm gì. Ngươi đem về đi. Ngày mai ta nói chuyện với Hồ Phủ doãn, sẽ có tin cho gia gia ngươi.

Đoạn quay lại bảo Đại An:

- Mời nó vào trong đem rượu thịt khoản đãi.

Nói xong trở vào bàn tiệc.

Bữa tiệc hôm đó kéo dài tới canh một mới vãn. Tây Môn Khánh tiễn khách, sai gia nhân dọn dẹp rồi vào phòng Nguyệt nương. Đại cữu mẫu thấy Tây Môn Khánh vào thì lánh sang phòng bên. Tây Môn Khánh hỏi vợ:

- Nàng thấy trong người khá hơn không?

Nguyệt nương tươi tỉnh đáp:

- Cũng khá.

Tây Môn Khánh nói:

- Hôm nay tôi đã nói giùm với Tống Ngự sử cho Đại cữu rồi. Ngự sử hứa sẽ hết lòng, lại nói là sẽ để cử Đại cữu làm Kiểm sự, như vậy là nay mai Đại cữu sẽ là quan Chỉ huy Kiểm sự đấy. Vừa rồi tôi cũng đã nói với Đại cữu, Đại cữu mừng lắm. Có lẽ chỉ trong ít ngày nữa là có tin mừng.

Nguyệt nương bảo:

- Như vậy phải tốn kém bao nhiêu? vài trăm lạng chứ ít sao? đại ca tôi làm gì có tiền?

Tây Môn Khánh cười:

- Ai lấy của Đại cữu đồng xu nào đâu. Tôi nói với Tống Ngự sử, đó là anh vợ của tôi, Ngự sử nói là sẽ đặc biệt lưu tâm, như vậy thì làm gì phải tiền bạc này nọ.

Nguyệt nương bảo:

- Nếu vậy thì tùy chàng lo giùm cho.

Tây Môn Khánh quay lại bảo Ngọc Tiêu:

- Đem thuốc lại đây để ta cho Đại nương uống.

Nguyệt nương bảo:

- Chàng làm gì thì làm đi, để lát đi ngủ tôi uống.

Tây Môn Khánh vừa định bước đi thì Nguyệt nương gọi giật lại hỏi:

- Chàng định đi đâu vậy? nếu chàng định xuống phòng Ngũ nương thì để tôi nói chàng nghe, Ngũ nương đã tới lạy tạ xin lỗi tôi rồi, bây giờ chỉ còn chàng phải xin lỗi người ta mà thôi.

Tây Môn Khánh nói:

- Tôi có xuống đó đâu.

Nguyệt nương bảo:

- Này đừng có che mắt tôi, chàng không tới đo thì tới đâu bây giờ? trước mặt Đại cữu mẫu nó dám bảo là tôi ngăn cản chàng, không cho xuống với nó, vậy thì tôi không cho chàng tới với nó đó.

Tây Môn Khánh ôn tồn:

- Tôi đã nói là nàng đừng để ý tới con dâm phụ đó làm gì.

Nguyệt nương bảo:

- Tôi không cho chàng tới với nó đêm nay đâu. Đêm nay chàng phải tới với Kiều Nhi, rồi đêm mai chàng tới đâu tôi không cần biết.

Tây Môn Khánh nghe vợ nói vậy, không biết làm sao đành tới phòng Kiều Nhị Sáng sớm hôm sau, ngày mồng một tháng mười hai, Tây Môn Khánh tới nha môn, cùng Hà Thiên hộ đăng đường làm việc. Tới gần trưa thì về nhà, sai soạn rượu thịt và ba chục lạng bạc, Đại An đem tới Hồ Phủ doãn trên phủ Đông Bình. Hồ Phủ doãn thâu nhận lễ vật và đưa hồi thiếp đem về.

Trong khi đó, Tây Môn Khánh mời Từ tiên sinh tới, nhờ lập đàn tạ Ơn trời đất. Lễ xong, Từ tiên sinh ở lại ăn uống một lát rồi về.

Lát sau Đại An về, đem theo thiếp của Hồ Phủ doãn và ấn tín cho Kiều Đại hộ, ấn tín thấy ghi "Kiều Hồng, bản phủ Nghĩa quan". Tây Môn Khánh sai Đại An đem hồi thiếp của Hồ Phủ doãn cùng ấn tín và một quả đựng rượu thịt lại cho Kiều Đại hộ. Lại sai gia nhân đem rượu thịt tới biếu Ngô Đại cữu, Ôn Tú tài, Ứng Bá Tước, và Tạ Hy Đại, cùng các quản lý. Mặt khác lại sai viết thiếp mời Chu Thủ bị, Kinh Đô giám, Trương Đoàn luyện, Lưu Thái giám, Tiết Thái giám, Hà Thiên hộ, Hoa Thiên hộ, Ngô Đại cữu, Kiều Đại hộ, Vương Tam và vài thân bằng quyến thuộc khác, ngày mồng ba tới dự tiệc để cảm tạ về sự chúc mừng của họ trong mấy ngày vừa quạ Lại cho gọi các nhạc công và bốn ca công tới đàn hát. Công việc lo tổ chức sắp xếp bữa tiệc lúc trước, Tây Môn Khánh giao cho Ngọc Lâu, nhưng Ngọc Lâu trong người không khỏe nên lại giao cho Kim Liên.

Chiều hôm đó Ngọc Lâu vào hỏi thăm Nguyệt nương:

- Từ hôm qua tới nay, Đại nương uống thuốc của Nhiệm Y quan, trong người thấy thế nào?

Nguyệt nương đáp:

- Quái lạ, ông ta tới nắm tay nắm chân bắt mạch cho thuốc thế nào mà uống vào là hết đau ngay, bây giờ chẳng còn đau đớn gì nữa.

Ngọc Lâu cười:

- Vậy mà Đại nương cứ sợ người ta nắm tay nắm chân.

Ngô Đại cữu mẫu ngồi bên cạnh cũng phải bật cười.

Lát sau Tây Môn Khánh đem bảm tính toán buổi tiệc tới hỏi ý kiến Nguyệt nương. Nguyệt nương bảo:

- Chàng đã tính thì việc gì còn phải hỏi lại nữa. Bây giờ chọn người nào lo việc thì giao cho người đó là xong. Người nào đứng ra lo thì người đó có ý kiến, hỏi tôi làm gì cho mất lòng mất bề ra.

Tây Môn Khánh bèn xuất ba chục lạng bạc ra đưa cho Kim Liên để chi tiêu cho bữa tiệc.

Sắp đặt xong xuôi thì Kiều Đại hộ tới. Tây Môn Khánh mời vào đại sảnh uống trà nói chuyện. Kiều Đại hộ được ấn tín thì vui mừng lắm, cảm tạ Tây Môn Khánh hết lòng rồi đứng dậy vái tạ mà nói:

- Cũng nhờ thân gia phí tâm lo cho, thật không biết lấy gì cảm tạ.

Tây Môn Khánh dặn:

- Mồng ba này thân gia nhớ tới sớm sớm một chút nhé.

Kiều Đại hộ hân hoan:

- Hôm đó chắc là tôi mặt áo đội mũ đeo đai được rồi phải không? nhưng chắc là buồn cười lắm. Tôi sẽ tới hầu tiệc thân gia.

Tây Môn Khánh mời Kiều Đại hộ uống trà rồi quay lại dặn Cầm Đồng:

- Dọn tiệc rựou trong thư phòng cho ta.

Đoạn bảo Kiều Đại hộ:

- Xin thỉnh thân gian vào thư phòng tôi ngồi cho ấm.

Nói xong dẫn Kiều Đại hộ vào thư phòng. Hai người vừa nói xong dẫn Kiều Đại hộ vào thư phòng. Hai người vừa ngồi xuống thì Ứng Bá Tước đến, đem theo nhiều lễ vật. Vái chào hai người xong, Bá Tước nói:

- Đây là lễ mừng đại ca.

Nói xong đưa tấm thiếp lên. Tây Môn Khánh thấy trong thiếp ghi tên những người có lễ mừng, gồm Ngô Đạo quan, Ứng Bá Tước, Tạ Hy Đại, Tôn Thiên Hoá, Chúc Thật Niệm, Thường Trĩ Tiết, Bạch Lãi Quang, Lý Tam, Hoàng Tứ, Đỗ Tam. Tây Môn Khánh bảo gia nhân thâu nhận lễ vật rồi nói:

- Còn bên này gồm Ngô Nhị cữu, Trầm di phu, Nhiệm Y quan, Hoa Đại cữu, Ôn Tú tài và ba ngừoi quản lý thì để ngày mồng bốn sẽ mời.

Đoạn quay lại bảo Cầm Đồng:

- Ngươi lấy ngựa chạy mời Ngô Đại cữu tới đây với Kiều thân gia cho vui.

Lại hỏi:

- Ôn tiên sinh có bên đó không nhỉ?

Lai An đứng sau thưa:

- Ôn tiên sinh không có nhà, nghe nói là đi thăm bạn.

Lát sau thì Ngô Đại cữu tới, Kính Tế và mấy người nữa cũng đến. Tây Môn Khánh mời mọi người nhập tiệc. Qua vài tuần rượu, Tây Môn Khánh nói:

- Kiều thân gia có việc vui mừng, hôm nay đã lãnh ấn tín rồi, hôm nào chúng mình phải chuẩn bị lễ vật tới mừng mới được.

Kiều Đại hộ nói:

- Đâu dám để liệt vị phí tâm như thế.

Đang ăn uống thì sai nhân trên huyện đem hai trăm cuốn lịch năm mới đến. Tây Môn Khánh thưởng tiền cho sai nhân rồi bảo đem hồi thiếp về huyện.

Bá Tước bảo:

- Năm hết tết đến rồi mà tôi cũng chưa biết mặt mũi cuốn lịch mới nó ra làm sao.

Tây Môn Khánh liền lấy ra năm mươi cuốn lịch, chia tặng cho Ngô Đại cữu, Kiều Đại hộ và Ứng Bá Tước. Bá Tước cầm một cuốn lên coi thì thấy niên hiệu năm tới được cải là Trùng Hoa nguyên niên, năm tới lại nhuận tháng giêng.

Tới chiều thì Kiều Đại hộ cáo từ. Bữa tiệc còn kéo dài tới tối, Tây Môn Khánh tiễn khách xong, trở lên đại sảnh dặn gia nhân:

- Ngày mai, chuẩn bị ngựa để ta và Hà Đại nhân ra ngọai thành tiễn Hầu lão gia. Lai An, Xuân Hồng, và bốn tên quân hầu ngày mai theo kiệu Đại nương tới nhà Hạ lão gia.

Dặn dò xong, Tây Môn Khánh xuống phòng Kim Liên.

Tối hôm đó, Kim Liên nghĩ rằng Tây Môn Khánh không đến nên chẳng trang điểm, cứ nằm dài trên giường nghĩ ngợi vẩn vơ, tóc rối không thèm chải, quần áo nhàu nát chẳng muốn thay, trời tối mà chẳng gọi thắp đèn.

Tây Môn Khánh tới, thấy nhà cửa tối om, bên trong yên lặng như tờ, cất tiếng gọi Xuân Mai cũng chẳng thấy thưa, bèn bước vào phòng, trong ánh sáng lờ mờ, thấy Kim Liên nằm trên giường, lên tiếng gọi cũng chẳng thấy trả lời. Tây Môn Khánh ngồi xuống giường, gọi Thu Cúc thắp đèn, rồi lay Kim Liên mà bảo:

- Nàng làm sao vậy? tôi hỏi mà cũng chẳng trả lời hay sao?

Kim Liên vẫn không đáp, chỉ thấy nước mắt tuôn chảy trên nét mặt đẹp thảm sầu. Tây Môn Khánh thấy vậy, rối loạn cả tâm hồn, ôm lầy Kim Liên mà bảo:

- Thật chẳng ra làm sao cả, ngày thường hai người có vẻ hợp nhau, quý mến nhau lắm cơ mà, sao lại xảy ra chuyện như vậy?

Kim Liên lau nước mắt rồi sụt sùi đáp:

- Ai trêu chọc gì người ta đâu, tự nhiên người ta kiếm chuyện rồi chửi mắng tôi đủ điều, bảo là tôi quyến rũ chàng. Người ta là vợ cái con cột, lấy chàng có cưới hỏi linh đình, chàng nên giữ chặt lấy người ta là hơn, xuống đây với tôi làm gì để tôi mang tiếng là quyến rũ chồng người tạ Người ta bảo là đêm nào tôi cũng giữ chàng, nhưng thử hỏi liền trong mấy đêm nay, chàng có ở đây với tôi đâu. Người ta còn hạch hỏi tôi đủ điều, có cái áo cừu mà cũng bắt bẻ là tôi không thưa với người ta một tiếng. Con a hoàn của tôi làm lỗi thì đánh mắng nó, chứ sao lại kiếm cớ đó để gây chuyện với tôi. Chàng là người chồng, chủ gia đình, có quyền định đọat mọi việc, chàng để cho người ta áp bức hành hạ tôi như thế hay sao? vậy mà chàng thấy người ta giận thì sợ hãi lo cuống cả lên, nào săn sóc nâng giấc, nào gọi lang y, nào hỏi han đủ chuyện. Tôi dù có theo chàng vào đây thì cũng là vợ chàng, nhưng điệu này thì tôi có chết trong nhà này, chắc cũng chẳng có ai ngó ngàng tới. Vậy mà như chàng biết đó, tôi đã phải nhẫn nhục tới lạy lục tạ lỗi với người ta để trong nhà được yên vui, mà chàng cũng đỡ khó xử.

Nói xong, nước mắt lại tuôn rơi lã chã. Những giọt nước mắt long lanh như những hạt trân châu lăn dài trên gò má ửng hồng như trái đào chín tới. Tây Môn Khánh chưa biết phải nói gì thì Kim Liên lại gục vào lòng Tây Môn Khánh mà bật khóc lớn, khóc nức nở mãi không thôi. Tây Môn Khánh nâng Kim Liên dậy mà khuyên:

- Thôi mà, mấy hôm nay tôi bận rộn nhiều chuyện, hai người, người nào cũng phải nhịn một chút mới được, chứ tôi thì chẳng biết ai phải ai trái, chẳng biết bênh ai bỏ ai bây giờ. Hôm qua tôi muốn xuống thăm nàng thì Đại nương nói mỉa là tôi xuống xin lỗi nàng, rồi không cho tôi đi mà bắt tôi phải đến với Kiều Nhị Tuy đêm qua tôi nghỉ lại phòng Kiều Nhi nhưng không lúc nào tôi không nghĩ tới nàng.

Kim Liên giận dỗi:

- Thôi đi, tôi đã hiểu rõ lòng chàng rồi, chẳng qua trước mặt tôi thì chàng ăn nói giả dối vậy mà thôi, chứ còn chàng phải để lòng mà thương yêu vợ cái con cột của chàng chứ. Người ta lại đang mang giọt máu của chàng trong bụng thì chúng tôi đây phỏng nghĩa lý gì, làm sao dám sánh với người ta.

Tây Môn Khánh bảo:

- Thôi mà, đừng nói bậy chứ.

Đang ôm ấp khuyên lơn thì Thu Cúc lù lù đem trà ra, Tây Môn Khánh mắng:

- Đồ khỉ, ai gọi mày đem trà mà đem ra vậy? rõ thật nhanh nhẩu đoảng.

Đoạn hỏi:

- Xuân Mai đâu sao không thấy?

Kim Liên nói:

- Chàng hỏi đến nó làm gì, từ hôm ấy đến nay buồn giận thành bệnh nằm trong nhà, ba bốn hôm nay chẳng ăn được miếng cơm miếng cháo nào hết. Nó chỉ khóc đòi chết mà thôi, nó nói là Đại nương mắng chửi nó thì nó nhục nhã lắm.

Tây Môn Khánh hỏi lại:

- Thật vậy sao?

Kim Liên đáp:

- Tôi nói dối chàng để làm gì, chàng thử vào coi.

Tây Môn Khánh vội bước sang phòng nhỏ bên cạnh thì thấy Xuân Mai đầu tóc rối bời, dung nhan tiều tụy, đang nằm ngủ trên giường, bèn gọi:

- Sao không dậy mà cứ nằm vậy?

Gọi thêm ba bốn tiếng nữa cũng chẳng thấy trả lời, Tây Môn Khánh ngồi xuống giường, xốc Xuân Mai dậy, để ngồi dựa vào mình. Xuân Mai mở mắt nói:

- Xin gia gia buông tôi ra, tôi chỉ là đứa ăn kẻ ở trong nhà, đáng gì cho gia gia bận tâm, gia gia làm vậy, chỉ thêm bẩn tay mà thôi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Con nhãi này, Đại nương nói vài câu mà ngươi cũng giận hay sao. Mấy hôm nay ngươi không ăn uống được gì phải không?

Xuân Mai đáp:

- Ăn uống được hay không thì gia gia hỏi làm gì, kẻ ăn người ở trong nhà sống chết có đáng gì quan tâm. Tôi tuy là phận tôi đòi, nhưng có làm điều gì thiệt hại cho nhà này đâu mà Đại nương chửi tôi là con dâm phụ. Rồi tôi lại bị nương nương tôi đánh mắng nữa. Để rôi nay mai vợ Hàn Đạo Quốc vác mặt tới đây, tôi sẽ chửi nó một trận cho mà xem. Chung quy cũng chỉ vì nó giới thiệu con dâm phụ Thân Nhị Thư tới đây mà thôi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Có thêm Thân Nhị Thư tới đây đàn hát cũng tốt chứ sao, ai bảo ngươi kiếm chuyện với nó làm gì.

Xuân Mai cãi:

- Ai bảo nó không chịu hát? khi không tôi chửi mắng hay sao?

Tây Môn Khánh nói lảng:

- Ta tới đây mà ngươi không pha trà cho ta uống hay sao? tay con khốn Thu Cúc không sạch, ta không uống trà do nó pha đâu.

Xuân Mai đáp:

- Gia gia không biết mấy ngày nay tôi không ăn uống gì sao, bây giờ đứng cũng không đứng nổi, làm sao mà đi pha trà.

Tây Môn Khánh bảo:

- Con nhãi, ai bảo ngươi không chịu ăn uống. Nhưng thôi, ta cũng chưa ăn cơm, để ta với ngươi cùng ăn cho vui.

Nói xong quay ra bảo Thu Cúc vào đem cơm và đồ ăn dọn lên bàn. Lát sau cơm dọn chỉnh tề, Tây Môn Khánh và Kim Liên ngồi kề vai mà ăn, Xuân Mai ngồi cạnh cùng ăn với chủ. Cơm nước xong, Kim Liên muốn cho Tây Môn Khánh vui lòng, liền bảo Xuân Mai vào giường ngủ chung với mình và Tây Môn Khánh.

Hôm sau, Tây Môn Khánh dậy sớm, mũ áo chỉnh tề, đợi Hà Thiên hộ tới. Hai người ăn sáng xong, cùng nhau ra ngọai thành tiễn Hầu Tuần phủ.

Ở nhà, Nguyệt nương sai đem lễ vật tới nhà Hạ Đề hình trước, rồi ngồi kiệu tới sau. Bốn tên quân hầu đi trước dẹp đường, Lai An và Xuân Hồng theo kiệu.

Tới gần trưa, Vương bà mở quán nước ngày trước dẫn Hà Cửu tới cổng, thấy Đại An, vội gọi ra hỏi:

- Lão gia có nhà không?

Đại An ngạc nhiên:

- Kìa, Vương ma ma và Hà lão nhân, tới đây có chuyện gì vậy? lâu quá mới gặp.

Vương bà đáp:

- Không có chuyện thì đâu dám tới. Chằng nói giấu gì cậu, người em của lão Cữu đây có chút chuyện, lão không dám tới một mình để cầu xin lão gia giúp đỡ nên phải nhờ tôi dẫn tới.

Đại An nói:

- Lão gia hôm nay ra ngọai thành tiễn đưa Hầu lão gia chưa về, Đại nương tôi cũng vắng nhà. Ma ma và lão nhân chịu khó ngồi đợi một chút, để tôi vào thưa với Ngũ nương.

Nói xong quay vào. Lát sau trở ra bảo:

- Ngũ nương mời ma ma vào chơi.

Vương bà nói:

- Xin cậu dẫn tôi vào, tôi sợ chó dữ lắm.

Đại An liền dẫn Vương bà vào, đi qua hoa viên, tới phòng Kim Liên. Đại An vén mành, Vương bà bước vào, thấy Kim Liên ngồi trên tràng kỷ, mặc áo đoạn bạch, vàng đeo ngọc giắt, vội sụp xuống lạy chào. Kim Liên vội vàng bước tới nâng dậy bảo:

- Chết, sao ma ma lại làm thế, xin ma ma miễn đi cho.

Nói xong mời ngồi. Vương bà khép nép ngồi ghé vào đầu tràng kỷ đối diện, Kim Liên nói:

- Sao lâu lắm chẳng thấy ma ma lại thăm tôi?

Vương bà đáp:

- Lúc nào thì tôi chẳng nhớ nương nương, nhưng quả tình là không dám tới lui gần gũi. Chẳng hay nương nương đã có ca nhi nào chưa?

Kim Liên đáp:

- Chưa, có được đã mừng. À, mà con trai ma ma đã có gia đình chưa?

Vương bà đáp:

- Tôi cũng chưa lo được chuyện vợ con gì cho nó cả. Nó ở Hoài An về nhà đã được hơn năm nay rồi, hiện buôn mì qua ngày, cũng dư giả chút đỉnh. À, mà hôm nay, lão gia có nhà không?

Kim Liên đáp:

- Gia gia tôi hôm nay ra ngọai thành tiễn đưa quan Tuần phủ chưa về, Đại nương tôi cũng vắng nhà, ma ma có chuyện gì chăng?

Vương bà đáp:

- Hà Cữu có chút chuyện nhờ tôi đến nói với lão gia. Chẳng hiểu em trai của lão ta có liên lạc với tụi trộm cướp hay sao mà hiện bị bắt về phủ Đề hình, tính mệnh nằm trong tay lão gia. Người em đó là Hà Thập, thật ra không liên can gì cả, chỉ xin lão gia xét cho mà thương tình thả ra. Hà Thập được thả ra thì sẽ có lễ trọng để tạ Ơn lão gia. Hiện tôi có đem theo tấm thiếp đây.

Nói xong lấy tấm thiếp ra, hai tay đưa cho Kim Liên. Kim Liên cầm xem rồi bảo:

- Được rồi, ma ma cứ để tấm thiếp này lại đây, gia gia tôi về, tôi sẽ nói cho.

Vương bà nói:

- Hà Cữu có theo tôi tới đây, nhưng đâu dám vào, hiện đang đứng chờ ngoài cổng, có gì ngày mai tôi bảo Hà Cửu tới đây xin tin tức nhé.

Kim Liên gật đầu rồi bảo Thu Cúc đem trà ra mời Vương bà. Vương bà uống trà rồi nói:

- Nương nương thật là có phúc lắm.

Kim Liên bĩu môi:

- Phúc gì, được yên là may rồi, hồi này thì ngày nào cũng bực mình, chẳng có gì là êm đềm vui vẻ cả.

Vương bà ngạc nhiên:

- Sao nương nương lại nói vậy? lão gia giàu có nhất trong vùng, hiện làm quan, nương nương ở đây tiền của thiếu gì, kẻ hầu người hạ sung sướng, sao bực mình.

Kim Liên bảo:

- Bề ngoài nhìn thì thấy như vậy đó, nhưng chuyện vợ lớn vợ nhỏ làm sao tránh được, người ta thường bảo một cái bát mà hai cái thìa cũng còn khó nữa là, vì vậy vui làm sao được.

Vương bà nói:

- Nương nương dạy thế chứ nương nương là người thông minh, xử sự khéo léo, chuyện gì rồi cũng qua.

Nói thêm vài câu nữa, Vương bà đứng dậy nói:

- Thôi, để ngày mai tôi bảo lão Cửu tới đây xin tin tức nhé, bây giờ thì nương nương cho tôi về.

Kim Liên bảo:

- Ma ma ngồi chơi đã.

Vương bà đáp:

- Lão Cửu đang nóng lòng chờ tôi ở ngoài, nương nương cho tôi về, bữa khác tôi sẽ xin tới hầu lâu hơn.

Nói xong vái chào bước ra. Tới cổng, Vương bà cúi chào Đại An. Đại An bảo;

- Ma ma cứ về đi, gia gia về nhà, tôi sẽ nhắc cho.

Hà Cửu cũng nói:

- Ngày mai tôi sẽ tới, xin cậu bẩm giùm cho.

Nói xong cùng Vương bà ra về.

Tới chiều, Tây Môn Khánh từ ngọai thành về, Đại An thưa chuyện Vương bà dẫn Hà Cửu tới nhờ cậy. Tây Mon Khánh xuống phòng Kim Liên, coi thiếp, rồi trở lên đại sảnh, sai Vương Kinh cất đi. Đạon sai Kính Tế đưa thiếp mời thực khách dự bữa tiệc ngày mồng bạ Lại sai Cầm Đồng đem ít quà và hai lạng bạc tới nhà Hà Đạo Quốc nhờ đưa lại cho Thân Nhị Thư, dặn là Nhị Thư đừng buồn.

Cầm Đồng đem bạc và quà tới, Vương thị mừng lắm, tươi cười tiếp nhận mà bảo:

- Nhị Thư không dám buồn giận gì đâu, ngươi về thưa lại với gia gia là Nhị Thư chỉ buồn vì đã lỡ xúc phạm tới Xuân Mai thư thư thôi.

Cầm Đồng gật đầu quay về.

Tối hôm đó Nguyệt nương về nhà, vào trong chào Đại cữu mẫu rồi trở ra lạy chào Tây Môn Khánh, rồi nói:

- Hạ Đại nhân nương nương thấy tôi đến thì mừng lắm. Hôm nay Hạ nương nương cũng mời một ít khách đàn bà tới chơi. Lại có thư của Hạ Đại nhân ở kinh gửi về nữa. Hạ Đại nhân cũng viết thư cho chàng, ngày mai gia nhân bên đó sẽ đem lại. Nghe đâu mà mồng sáu mồng bảy này là cả nhà lên đường về kinh. Hạ nương nương cứ năn nỉ để tôi cho Bôn Tứ đưa gia đình bên đó tới kinh giùm. Hôm nay thằng con rể lớn của Bôn Tứ có ra lạy chào tôi. Nguyên là nó hầu tiệc, tôi thấy nó cứ thỉnh thoảng lấm lét nhìn tôi, nhưng tôi không nhận ra nó. Mãi sau Hạ nương nương bảo: "Ngươi không lạy chào Tây Môn phu nhân hay sao?", nó mới dám tới lạy chào tôi, tôi thưởng cho bốn tiền. Thằng đo mặt mũi coi cũng được đấy chứ. Hạ nương nương thấy vậy vui vẻ lắm.

Tây Môn Khánh nói:

- Thằng đó vậy mà có phúc, chứ như người khác, thì ai chứa được nó, bây giờ phần tôi tớ mà được chủ thương thì còn gì bằng nữa.

Nguyệt nương lườm chồng mà bảo:

- Có phải là chàng nói cạnh nói khoé tôi không dung nổi gia nhân vì tôi đã dám mắng a hoàn cưng của chàng chứ gì? vậy mà cũng đòi nói.

Tây Môn Khánh cười, nói sang chuyện khác.

- Để Bôn Tứ đưa gia đình Hạ Đại nhân về kinh thì cửa tiệm của tôi bỏ cho ai đây?

Nguyệt nương bảo:

- Thì tạm đóng cửa ít hôm không được sao.

Tây Môn Khánh bảo:

- Bây giờ mà đóng cửa thì cản trở việc buôn bán lắm, năm hết tết đến, người ta mua bán sắm sửa nhiều, nhất là tơ lụa vải vóc. Chuyện này để ngày mai tính.

Nguyệt nương vào phòng thay áo rồi sang phòng bên trò chuyện với chị dâu. Lát sau lớn nhỏ trong nhà lần lượt tới lạy chào.

Đêm đó Tây Môn Khánh đến với Tuyết Nga.

Hôm sau, Tây Môn Khánh ra nha môn làm việc sớm. Lát sau thì Hà Cửu tới, tìm gặp Đại An, đưa một lạng bạc để hỏi tin tức, Đại An bảo:

- Hôm qua gia gia về tới nhà là tôi có nói giùm lão ngay, gia gia nhớ rồi, chắc sáng nay ra nha môn sẽ lo việc đó ngaỵ Bây giờ lão ra nha môn mà đợi tin, chắc chắn là em lão được thả ra.

Hà Cửu nghe xong mừng lắm, cáo từ để tới phủ Đề hình ngay.

Tây Môn Khánh tới nha môn, đăng đường xét xử vụ trộm cướp, hỏi qua Thập Hà rồi thả ngay ra, còn những tội nhân khác thì cho đánh hai chục bàn vả thị Oai. Trong số đó có cả một vị hoà thượng trụ trì chùa Hoằng Hoá, vị này bị cáo là chứa chấp bọn trộm cướp.

Trong khi đó, bố ca nữ được gọi tới là Ngô Ngân Nhi, Trịnh Ái Nguyệt, Hồng Tứ và Tề Hương cùng nhau vào lạy chào Nguyệt nương và Ngô Đại cữu mẫu. Nguyệt nương đãi trà, các ca nữ đàn hát cho Nguyệt nương nghe.

Đang lúc đàn hát chuyện trò vui vẻ thì Tây Môn Khánh từ nha môn về nhà, vào thẳng thượng phòng. Bốn ca nữ vội buông nhạc khí, tươi cười lạy chào. Nguyệt nương hỏi chồng:

- Sao chàng về trễ vậy?

Tây Môn Khánh đáp:

- Hôm nay nhiều việc quá, phải giải quyết cho hết mới về được.

Thấy Kim Liên cũng có mặt bèn hỏi:

- Hôm qua Vương ma ma tới nói giùm cho người em của Hà Cửu phải không? sáng nay tôi đã thả người đó ra rồi, còn mấy tên khác thì đánh mỗi tên hai chục bàn vả, tạm giam lại để ngày mai làm văn thư giải lên Đông Bình, trong số này lại có cả vị hoà thượng trụ trì chùa Hoằng Hoá nữa chứ.

Đoạn quay sang kể với mọi người:

- Hôm nay còn có một vụ thông gian giữa mẹ vợ và chàng rể. Thằng con rể khoảng hai mươi tuổi, tên là Tống Đắc Nguyên. Mẹ vợ chính của nó đã chết, ông bố vợ mới lấy một bà vợ kế còn trẻ là Chu thị. Chừng hơn một năm sau thì bố vợ chết, Chu thị còn trẻ, không chịu nổi cảnh lạng lùng đơn chiếc, mới thông gian với thằng rể. Sau vì chuyện xích mích với đứa con gái, đứa con gái mới nói toạc ra, hàng xóm hay biết bèn cáo quan. Vụ này sáng nay tôi đã lấy cung xong rồi, ngày mai cũng cho giải lên phủ luôn. Người mẹ kế này đang có tang chồng, lại thông gian với chàng rể, chắc là không thoát khỏi hình phạt thắt cổ.

Kim Liên nói:

- Tôi mà làm quan thì tôi cho gọi đứa con gái lên đánh cho nó một trận rồi ghép vào tử tội luôn, vì chính nó đã gián tiếp tố cáo mẹ kế nó.

Tây Môn Khánh bảo:

- Vậy đâu được, ai làm tội thì người đó phải chịu chứ, có tội là bị tố cáo chứ.

Nguyệt nương nói:

- Người trên không ra gì thì kẻ dưới nó mới không kính trọng. Chung quy chỉ tại người đàn bà có tà tâm, chứ nếu đàng hoàng đứng đắn thì đứa nào nói gì được.

Mấy ca nữ cười bảo:

- Đại nương dạy đúng lắm.

Nguyệt nương bảo a hoàn dọn cơm cho chồng ăn. Cơm vừa dọn ra thì ngoài cổng nghe tiếng người ngựa huyên náo, rồi gia nhân vào thưa:

- Đô giám lão gia tới.

Tây Môn Khánh vội để nguyên mũ măng cân đai ra tiếp. Hai người lên đại sảnh thi lễ rồi phân ngôi chủ khánh ngồi uống trà nói chuyện.

Tây Môn Khánh nói:

- Tôi đã thưa với Tống Ngự sử và đưa thiếp của đại nhân. Tống Ngự sử nhận thiếp rồi hứa là sẽ hết lòng. Như vậy chỉ ít ngày nữa là có tin mừng, tôi xin chia vui trước cùng đại nhân.

Kinh Đô giám vội đứng dậy vái lạy:

- Cảm tạ đại nhân phí tâm lo cho, ơn dẫn dắt này nguyện xin ghi khắc.

Tây Môn Khánh nói thêm:

- Việc của Chu Tổng binh đại nhân, tôi cũng có thưa quan, Tống Ngự sử tất có chú ý.

Hai người đang nói chuyện thì nghe tiếng chiêng trống ngoài cổng rồi hai vị Thái giám Lưu, Tiết ngồi kiệu tới. Tây Môn Khánh nghênh tiếp lên đại sảnh mà thi lễ. Hai vị Thái giám mặc mãng y, được Tây Môn Khánh mời ngồi chính giữa. Tiếp đó Chu Thủ bị tới, cùng mọi người ngồi nói chuyện. Kinh Đô giám nói với Chu Thủ bị:

- Tây Môn Đai nhân đây thực có lòng lắm, hôm qua Tống Ngự sử dùng tiệc tại đây, đại nhân đã ca tụng tài đức Chu đại nhân, Tống công lưu ý lắm.

Chu Thủ bị nghiêng mình cảm tạ Tây Môn Khánh hết lời.

Lát sau thì Trương Đoàn luyện, Hà Thiên hộ, Vương Tam, Phạm Thiên hộ, Ngô Đại cữu, và Kiều Đại hộ cũng lần lượt tới.

Kiều Đại hộ đội mũ đeo đai, có bốn gia nhân theo hầu, bước lên đại sảnh thi lễ cùng mọi người rồi vái tạ Tây Môn Khánh bốn vái. Mọi người thấy vậy đều hỏi thăm và chúc mừng. Tây Môn Khánh nói:

- Thân gia vãn sinh đây chẳng gì cũng là tai mắt tại địa phương này, nên vừa mới được ơn triều đình, thọ chức Nghĩa quan.

Chủ Thủ bị nói:

- Nếu vậy thì chúng tôi phải có lễ mừng lệnh thân gia đây mới được.

Kiều Đại hộ nghiêng mình nói:

- Xin cảm tạ thịnh tình của liệt vị, nhưng quả là không dám làm rộn như vậy.

Qua vài tuần trà, Tây Môn Khánh rót rượu mời mọi người nhập tiệc. Khung cảnh đó thật là:

Bình phong cẩm trướng vây quanh,

Hoa. đường bảo ngọan tranh giành khoe tươi.

Ngoài đàn hát, trong nói cười,

Cao lương mỹ vị đua mời tiệc hoa.

Lúc tiệc rượu bắt đầu thì Vương Tam đã tự động kéo ghế ngồi ở cuối tiệc. Tây Môn Khánh bảo:

- Chư vị đây cũng là chỗ thân tình, ca nhi cứ lên ngồi trên này hầu tiệc chư vị cho tự nhiên.

Vương Tam bất đắc dĩ phải ngồi lên gần đầu tiệc.

Bữa tiệc bắt đầu trong vui vẻ. Đám nhạc công hoà tấu vài khúc, rồi bốn nữ ra trước tiệc lạy chào sau đó kẻ đàn tranh người đàn tỳ bà, kẻ thổi tiêu người gõ phách, cất giọng oanh ca hát. Lưu Thái giám hài lòng lắm, nghe khúc nào hay lại thưởng tiền.

Bữa tiệc kéo dài tới canh một mới vãn. Tây Môn Khánh tiễn khách xong, trở lại đại sảnh thưởng tiền đám nhạc công rồi cho về. Bốn ca nữ vào phòng Nguyệt nương đàn hát một lúc nữa. Nguyệt nương giữ Ngân Nhi lại, cho ba ca nữ kia về. Ba người ra phòng ngoài lạy chào Tây Môn Khánh, Tây Môn Khánh dặn Ái Nguyệt:

- Ngày mai ngươi nhớ gọi cả Quế Thư tới cho vui.

Ái Nguyệt biết hôm nay có Vương Tam nên không gọi Quế Thư cùng đi, nghe Tây Môn Khánh dặn vậy thì cười đáp:

- Gọi thì gọi lúc nào chằng được, nhưng ngày mai gia gia mời những vị nào vậy?

Tây Môn Khánh nói:

- Thì cũng toàn là chỗ thân bằng hoặc đồng liêu chứ có ai xa lạ đâu.

Ái Nguyệt bảo:

- Nếu có ông họ Ứng là tôi không tới đâu, tôi không thích gặp cái nhà ông họ Ứng kỳ quái đó.

Tây Môn Khánh nói dối:

- Ngày mai không có Ứng nhị gia đâu.

Ái Nguyệt nói:

- Vậy thì tốt, chứ có ông ta thì nhất định tôi không đến.

Nói xong, ba người lạy chào rồi lên kiệu về. Tây Môn Khánh sai gia nhân dọn dẹp rồi xuống phòng Bình Nhi, ngủ đêm với Như Ý.

Hôm sau, Tây Môn Khánh ra nha môn làm văn thư giải đám trộm cướp và đôi gian dâm mẹ vợ chàng rể lên phủ Đông Bình, rồi về nhà, bày tiệc, khoãn đãi Ngô Đạo quan, Ngô nhị cữu. Hoa Đại cữu, Trầm di phu, Hàn di phu, Nhiệm Y quan, Ôn tú tài, Ứng Bá Tước, và đám bạn, Lý Tam Hoàng Tứ, Bôn Tứ và các quản lý khác. Tiệc gồm hai chục bàn. Ba ca nữ là Quế Thư, Ngân Nhi và Ái Nguyệt chuốc rượu, ba ca công Lý Minh, Ngô Huệ, và Trịnh Phụng đàn hát trước tiệc.

Bữa tiệc đang vui thì Bình An vào thưa:

- Vân nhị thúc mới được tập chức, đem lễ vật tới bái kiến.

Tây Môn Khánh vội bảo:

- Mời vào.

Mọi người nhìn ra, thấy Vân Lý Thủ mặc triều phục, đội mũ miện, đeo kim đái bước vào, theo sau là gia nhân đem lễ vật. Vân Lý Thủ đưa thiếp lên, Tây Môn Khánh cầm xem thấy viết "Vãn sinh là Vân Lý Thủ mới được tập chức Tả vệ chỉ huy tại huyện Thanh Hà tỉnh Sơn Đông, xin cúi lạy và kính dâng lễ vật gồm một con hải ngư, một bao gạo trắng, bốn cặp vịt quaỵ." Xem xong, Tây Môn Khánh sai gia nhân thâu nhận rồi cảm tạ Vân Lý Thủ. Họ Vân nói:

- Hôm qua tại hạ mới về nhà nên hôm nay vội tới bài kiến lão gia ngaỵ Tại hạ chịu ơn nặng của lão gia, mấy món lễ này chỉ là tỏ ý tri ân mà thôi.

Nói xong, lần lượt thi lễ cùng mọi người trong tiệc. Tây Môn Khánh thấy Vân Lý Thủ bây giờ đã làm quan nên đối đãi kính trọng khác trước, mời ngồi cùng một bàn với Ngô Nhị cữu. Ca nữ tới chuốc rượu, Tây Môn Khánh hỏi thăm chuyện nhà, Vân Lý Thủ đáp:

- Từ lão gia ở bộ Bình thương tiên huynh tôi đang tại chức mà từ trần, nên chức tước tổ tiên được trao cho tôi, hiện tôi còn nhận chức Kiểm thư.

Tây Môn Khánh vui lắm nói:

- Xin thành thật chia mừng, sẽ tới chúc mừng sau.

Nói xong tự tay rót mừng Vân Lý Thủ một chung rượu lớn. Mọi người trong tiệc, mỗi người cũng mừng Vây Lý Thủ một chung. Tây Môn Khánh lại sai ca nữ tới chuốc rượu, khiến họ Vân say mèm.

Bá Tước thì đứng lên ngồi xuống, trò chuyện với người này, đùa cợt với người kia, đặc biệt là trêu chọc hai ca nữ Quế Thư và Ái Nguyệt không ngừng.

Bữa tiệc diễn ra trong vui vẻ ồn ào, mãi tới canh hai mới vãn. Tây Môn Khánh tiễn khách rồi thưởng tiền ba ca nữ và cho về, sau đó vào nghỉ tại thượng phòng với Nguyệt nương.

Hôm sau, Tây Môn Khánh thức dậy rất muộn, đang ngồi ăn cháo lót lòng lại thượng phòng, định là sẽ tới chúc mừng Vân Lý Thủ thì Đại An vào thưa:

- Bôn Tứ đang chờ, thỉnh gia gia ra thưa chuyện.

Tây Môn Khánh biết là việc đưa gia đình Hạ Chỉ huy về kinh, bèn bước ra đại sảnh. Bô Tứ lạy chào, đưa thư của Hạ Chỉ huy lên rồi nói:

- Hạ lão gia muốn sai tiểu nhân đưa gia quyến về kinh, tiểu nhân tới bẩm xem lão gia có cho đi hay không.

Tây Môn Khánh mở thư xem, thấy Hạ chỉ huy bày tỏ lòng nhớ bạn, lại cảm tạ về việc trông nom săn sóc gia đình giúp, và nhờ cho Bôn Tứ đưa giùm gia quyến về kinh. Tây Môn Khánh xem xong bảo:

- Hạ Đại nhân đã nhờ ngươi, chẳng lẽ lại không đi, vậy định bao giờ lên đường?

Bôn Tứ đáp:

- Sáng sớm hôm nay gia nhân bên Hạ lão gia có tới nói là mồng sáu thì khởi hành. Phen này tôi đi cũng phải mất nửa tháng.

Nói xong đưa chìa khoá tiệm tơ lụa ở đường Sư Tử lên cho chủ. Tây Môn Khánh bảo:

- Để ta nhờ Ngô Nhị cữu tới thay thế ngươi vậy.

Bôn Tứ lạy chào rồi về nhà sửa soạn hành lý. Tây Môn Khánh cũng mặc áo đội mũ tới nhà Vân chỉ huy.

Tây Môn Khánh đi rồi thì Ngô Đại cữu mẫu cũng cáo từ. Nguyệt nương sai soạn ba cái quả, chất đầy thức ăn bánh trái và hoa quả để biếu Đại cữu mẫu, rồi thân tiễn ra cổng để Đại cữu mẫu lên kiệu về nhà.

Bỗng nghe tiếng khóc, thì ra Hoa. Đồng đang nép vào cổng sau mà khóc, Bình An đang dỗ, nhưng càng dỗ, Họa Đồng lại càng khóc to hơn. Bình An vừa đánh Hoa. Đồng, nhưng thấy Nguyệt nương tiễn Ngô Đại cữu mẫu ra nên vội dỗ dành. Nguyệt nương tiễn Đại cữu mẫu lên kiệu xong quay lại hỏi Bình An:

- Mày làm gì mà nó khóc vậy? mày lại bắt nạt nó phải không?

Bình An thưa:

- Ôn tiên sinh bên kia cho gọi nó mà nó không sang, lại còn mắng tôi nữa.

Nguyệt nương hỏi Hoa. Đồng:

- Thằng kia, Ôn tiên sinh cho gọi, sao mày không sang, còn đứng đó khóc hay sao?

Họa Đồng nói:

- Không việc gì đến nó, tôi sang hay không kệ tôi, tại sao nó lại đánh tôi?

Nguyệt nương hỏi:

- Tao hỏi mày là tại sao mày không sang?

Hoa. Đồng im lặng. Kim Liên đứng sau Nguyệt nương thấy vậy bèn mắng:

- Thằng chết tiệc này, Đại nương hỏi sao mày không đáp?

Bình An bèn xông tới tát Họa Đồng một cái, Họa Đồng lại càng khóc to hơn. Nguyệt nương mắng Bình An:

- Thằng khốn, sao mày lại đánh nó? mày bảo nó nói đi, tại sao Ôn tiên sinh cho gọi mà không chịu sang?

Đúng lúc đó thì Đại An cưỡi ngựa từ ngoài vào. Nguyệt nương hỏi:

- Gia gia về phải không?

Đại An xuống ngựa thưa:

- Vây chỉ huy đang giữ gia gia ở lại uống rượu, gia gia sai tôi về lấy khăn áo.

Rồi thấy Hoa. Đồng đứng khóc bèn hỏi:

- Sao thế này?

Bình An đáp:

- Ôn tiên sinh bên kia cho gọi nó, nhưng nó không chịu sang.

Đại An bảo:

- Em ơi, Ôn tiên sinh cho gọi mày, tiên sinh chẳng gì cũng có tên là Ôn Nam Phong, ngày thường mày vẫn hầu hạ tiên sinh, sao hôm nay lại không chịu sang, ở đây trở chứng vậy?

Nguyệt nương bảo Đại An:

- Thằng khốn nói cái gì Ôn Nam Phong vậy? Ôn Nam Phong là cái gì?

Đại An đáp;

- Xin Đại nương cứ hỏi nó tât rõ.

Kim Liên vội kéo Hoa. Đồng lại hỏi:

- Này thằng kia, mày nói thật đi. Ôn tiên sinh gọi mày sang làm gì vậy? mày không chịu nói thật, tao thưa Đại nương đánh mày cho mà xem.

Hoa. Đồng nghe vậy cuống lên, bèn kể hết chuyện Ôn tú tài sai sang để dọn dẹp nhà sau, lấy chỗ vui chơi trăng gió với hạng bán phấn buôn hương. Có gì kể ra hết cả. Nguyệt nương nghe vậy thì đỏ mặt hổ thẹn, bèn quát:

- Thôi, thằng khốn im đi, mày không nể mặt tao hay sao.

Đoạn quay sang trách Kim Liên:

- Chuyện đó mà Ngũ muội cũng gạn hỏi nó làm gì, lại còn lắng tai nghe nó nói nữa.

Nói xong lại than:

- Thật không ngờ con người như Ôn tiên sinh lại có thể làm những chuyện đó.

Kim Liên nói:

- Chắc là ở bên đó một mình buồn, nên mới dám làm vậy chứ.

Ngọc Lâu nói:

- Nghe nói là có vợ rồi, sao lại làm chuyện đồi bại vậy.

Kim Liên nói:

- Từ khi Ôn tú tài tới nhà này làm việc thì tôi chưa thấy mặt mũi vợ con ông ta ra sao.

Bình An nói xen vào:

- Làm sao mà nương nương thấy được, từ khi bà ta tới nhà trước mặt đây thì suốt ngày cửa ngoài thấy khoá, cả nửa năm nay, tôi chỉ thấy mặt bà ta có một lần, là lần bà ta về thăm mẹ, nhưng chưa tối đã thấy trở về rồi, còn chằng bao giờ thấy bà ta ra gần cổng.

Kim Liên bảo:

- Bà vợ này chắc cũng đần lắm nên mới suốt ngày giam mình trong nhà như ở tù vậy, người thế thì giữ chồng sao nổi.

Bàn tán vài câu rồi Nguyệt nương dẫn đám tiểu thiếp vào.

Tối hôm đó, Tây Môn Khánh về nhà, vào thượng phòng thay mũ áo.

Nguyệt nương hỏi:

- Vân quản lý giữ chàng ở lại uống rượu phải không?

Tây Môn Khánh gật đầu đáp:

- Thấy tôi đến thì Vân chỉ huy mừng lắm, cứ giữ lại ăn uống. Nay mai Kinh Đô giám thăng chức thì Vân chỉ huy thay thế đấy. Mình phải soạn hai lễ để mừng Kiều thân gia và Vân Chỉ huy mới được. Các quan ở đây đang định là phải có văn chúc mừng nữa. Để bảo Ôn tiên sinh soạn hai bài văn mới được.

Nguyệt nương bảo:

- Còn nói tới cái ông Ôn tiên sinh làm gì nữa, con người như thế mà hoá ra bậy bạ, bày trò trăng gió ngay trong nhà khiến người ngoài cũng biết.

Tây Môn Khánh giật mình hỏi:

- Sao lại có chuyện đó?

Nguyệt nương đáp:

- Chàng đừng có hỏi tôi, cứ hỏi gia nhân của chàng tất rõ.

Tây Môn Khánh hỏi:

- Gia nhân nhưng mà đứa nào mới được chứ?

Kim Liên đứng cạnh đáp:

- Thì cứ hỏi thằng Họa Đồng, chính nó đã nói với Đại nương đấy.

Tây Môn Khánh vẫn còn nửa tin nửa ngờ, bèn quay lại bảo Đại An:

- Ngươi ra gọi nó vào đây cho ta hỏi.

Đại An ra gọi. Họa Đồng vào thượng phòng lạy chào rồi quỳ xuống chờ đợi. Tây Môn Khánh quát:

- Mày phải nói thật, Ôn tiên sinh làm gì bên đó? mày không nói thật, tao kẹp tay chân mày.

Hoa. Đồng hoảng lên vội thưa:

- Bẩm gia gia, lần trước Ôn tiên sinh gọi tôi sang, đổ rượu cho tôi say rồi bắt tôi làm chuyện bậy bạ, nên hôm nay tiên sinh cho gọi, tôi không dám sang nữa. Tiên sinh lại sai Bình An gọi tôi, tôi không chịu sang, Bình An chẳng hiểu gì, xông lại đánh tôi, khiến Đại nương bắt gặp. Thường ngày tiên sinh hay hỏi tôi về những chuyện trong các phòng của các nương nương bên này, nhưng tôi không bao giờ dám nói. Hôm qua trong nhà có tiệc, tiên sinh lại xúi tôi ăn cắp những bát đĩa quí bằng vàng bạc để đưa cho tiên sinh. Hôm lâu rồi, tiên sinh lấy hồ sơ của gia gia đem cho Nghê tiên sinh coi, Nghê tiên sinh lại đem cho Hạ lão gia coi, sau đó Ôn tiên sinh lại dặn tôi là không được nói với ai hết.

Tây Môn Khán chợt hiểu tại sao Hạ Chỉ huy lại biết chuyện mật vụ về thăng thưởng, khiến Địch Quản gia trách cứ, bèn đùng nổi giận bảo:

- Thật đúgn như người ta thường nói, biết người biết mặt, không biết được lòng là vậy. Ta tin dùng cất nhắc nó, vậy mà nó hành động chó má như thế bao giờ không, ta còn dùng làm gì nữa.

Nói xong cho Hoa. Đồng đứng dậy mà dặn:

- Từ nay ta cấm mày không được qua bên đó nữa.

Họa Đồng mừng quýnh, vội lạy tạ rồi lủi ra ngoài. Tây Môn Khánh nói với Nguyệt nương:

- Thảo nào Địch thân gia bảo tôi là không giữ mật những tin tức trong triều. Tôi vẫn không biết ai đã tiết lộ những điều đó, thì ra tên họ Ôn khốn khiếp này làm bậy, thứ chó má đó nuôi trong nhà làm gì nữa.

Nguyệt nương nói:

- Mình không có con trai lớn đi học để giúp đỡ nên mới phải mượn hắn về viết thiếp, lo việc giấy tờ, ngờ đâu hắn lại dám làm yêu làm quỷ như vậy.

Tây Môn Khánh bảo:

- Thôi, không cần nói nhiều, ngày mai tống cổ hắn đi là xong.

Đọan cho gọi Bình An vào dặn:

- Ngươi sang bên đó, thưa với Ôn tiên sinh là gia gia tôi cần nhà để chứa hàng, tiên sinh nên tìm nhà khác mà ở. Nếu hắn có sang đây xin gặp thì nói là ta không có nhà.

Bình An vâng lời bước ra. Tây Môn Khánh bảo Nguyệt nương:

- Sáng nay Bôn Tứ tới thưa với tôi là mồng sáu thì khởi hành, đưa gia quyến Hạ Đại nhân về kinh. Tôi nghĩ là năm hết tết đến, không thể đóng cửa hàng, nên định nhờ Ngô Nhị cữu tới trông coi cửa hiệu giùm ít ngày, nàng nghĩ thế nào?

Nguyệt nương đáp:

- Tôi chẳng nghĩ thế nào cả, chàng tính sao thì làm vậy, tôi nói ra lại mang tiếng nọ kia, người ta lại bảo là tôi lo giúp đỡ cho em tôi.

Tây Môn Khánh cho gọi Kỳ Đồng vào bảo:

- Đi mời Nhị cữu ngươi lại đây.

Kỳ Đồng vâng lời đi ngaỵ Lát sau Ngô Nhị cữu tới. Tây Môn Khánh mời lên đại sảnh uống rượu nói chuyện, rồi đưa chìa khóa cho Nhị cữu, bảo hôm sau ra mở cửa tiệm tơ lụa ở đường Sư Tử để bán hàng.

Về phần Ôn tú tài, thấy Họa Đồng không chịu tới thì hơi chột dạ, cả đêm không ngủ yên, sáng hôm sau, thấy Bình An sang nói:

- Lão gia tôi nói là cần nhà để chứa hàng, xin tiên sinh cảm phiền tìm nhà khác mà ở.

Ôn tú tài nghe xong biến sắc, biết là Hoa. Đồng đã tiết lộ mọi chuyện, vội khăn áo chỉnh tề, định sang gặp Tây Môn Khánh. Bình An thấy vậy nói:

- Gia gia tôi ra nha môn làm việc rồi.

Nói xong cáo từ.

Tới trưa, Ôn tú tài lại khăn áo chỉnh tề sang gặp Tây Môn Khánh, nhưng mới tới cổng thì bị Cầm Đồng chặn lại. Ôn tú tài đưa cho Cầm Đồng ít tiền, nhờ cho vào, nhưng Cầm Đồng không dám nhận, nói:

- Gia gia tôi làm việc mệt nhọc, mới ở nha môn về, đang nghỉ ngơi, tôi không dám vào bẩm.

Ôn tú tài biết là không còn hy vọng gì nữa, bèn tới bàn định với Nghê tú tài, rồi đem gia quyến về nơi ở cũ. Thật là:

Tây giang dâng nước mênh mông,

Cũng không rửa sạch thẹn thùng hôm naỵKhi Ôn Tú tài hổ thẹn dọn nhà về nơi ở cũ thì Tây Môn Khánh cho sửa sang thư phòng của Ôn Tú tài làm thêm nơi tiếp khách.

Một hôm Thượng Cử nhân tới chào Tây Môn Khánh để lên đường tới kinh dự kỳ thi hội, Tây Môn Khánh nhân đó nói:

- Hai thân thích của tôi là Kiều Đại hộ và Vân Lý Thử, người thì được chức hàm, người thì được kế tập quan chức của tổ tiên, các quan ở đây muốn có hai áng văn chúc mừng, phiền tiên sinh múa bút viết giùm, sẽ lễ hậu để tạ Ơn, chẳng hay tiên sinh nghĩ sao?

Thượng Cử nhân cười:

- Lão gia nói gì tới lễ với ơn, có điều vãn sinh bận rộn, hiện vãn sinh có người bạn đồng song họ Nhiếp, tài họ hơn vãn sinh rất nhiều, để vãn sinh nói với ông ta viết văn chúc mừng hầu lão gia.

Tây Môn Khánh hết lời cảm tạ. Sau vài tuần trà, Thượng Cử nhân ra về. Tiễn khách xong, Tây Môn Khánh sai lấy ít lụa và năm tiền, sai Cầm Đồng đem tới nhà Thượng Cử nhân gọi là tiền giấy bút.

Hai hôm sau thì Thượng Cử nhân nhờ người viết xong, hai áng văn chúc mừng được viết trên lụa, văn chương bóng bẩy, nét chữ như rồng bay phượng múa, Tây Môn Khánh cho treo trên tường thư phòng mà ngắm, trong lòng vui vẻ lắm.

Lát sau Bá Tước tới hỏi thăm:

- Việc vui mừng của Kiều Đại hộ và Vân chỉ huy tính thế nào đây? văn chúc mừng đã có chưa? còn Ôn tiên sinh đâu, sao mấy hôm nay không thấy?

Tây Môn Khánh bảo:

- Còn nhắc tới Ôn tiên sinh làm gì nữa cho thêm phiền, thật là mặt người dạ thú.

Rồi kể hết chuyện bậy bạ của Ôn tiên sinh cho Bá Tước nghe, Bá Tước nghe xong bảo:

- Tôi biết ngay mà, Ôn tiên sinh là người ăn nói ba hoa, tính tình phóng lãng, may mà đai ca biết chứ không thì hắn phá hoại nhà này rồi. Nhưng còn văn chúc mừng nhị vị tân quan thì nhờ ai làm bây giờ?

Tây Môn Khánh đáp:

- Hôm kia Thượng Cử nhân có tới chào tôi để tới kinh thi hội, tôi có nói chuyện này thì Thượng Cử nhân nói là có người bạn họ Nhiếp rất giỏi văn chương, do đó nhờ Nhiếp tiên sinh làm gìum. Hiện hai áng văn đã làm xong, để nhị ca coi thử xem thế nào.

Nói xong dẫn Bá Tước vào thư phòng, chỉ cho xem hai bài văn viết trên lụa treo ở tường. Bá Tước vừa ngắm nhìn vừa khen tặng luôn miệng, đoạn nói:

- Như vậy thì tốt đẹp lắm rồi, đại ca nên cho người đem đế Kiều Đại hộ và Vân chỉ huy ngay cho họ mừng.

Tây Môn Khánh nói:

- Ngày mai tốt ngày, sẽ cho đem đi.

Đang nói chuyện, thì Cầm Đồng vào thưa:

- Có con trai của Hạ lão gia tới chào từ biệt để mồng sáu này lên đường về kinh. Tôi nói là gia gia vắng nhà, nên đã gửi thiếp lại.

Nói xong đưa thiếp lên. Tây Môn Khánh cầm xem, thấy viết "vãn sinh Hạ Thừa Ân cúi đầu lạy chào từ biệt". Xem xong bảo Cầm Đồng:

- Nói với cậu Kính Tế viết thiếp rồi mua ngay lễ vật đem tới nhà Hạ lão gia.

Đoạn giữ Bá Tước ở lại thư phòng ăn cơm. Bỗng thấy Bình An tất tả chạy vào trình ba tấm thiếp rồi thưa:

- Các lão gia Uông Gia Nghị, Lôi Bình bị và An Lang trung tới.

Tây Môn Khánh liếc mắt, thấy các tấm thiếp ghi "Uông Bá Nhan, Lôi Khải Nguyên và An Thầm kính bái", vội mặt áo đội mũ đeo đai chuẩn bị nghênh tiếp. Bá Tước thấy vậy nói:

- Thôi, đại ca bận rộn, để tôi về.

Tây Môn Khánh gật đầu:

- Ngày mai mình gặp nhau vậy.

Nói xong bước ra nghênh tiếp ba vị đại quan lên đại sảnh thi lễ. Mọi người uống trà nói chuyện. An Lạnng trung nói:

- Hôm nay chúng tôi tới đây là để làm phiền đại nhân. Nguyên là Triệu Đại doãn ở Triết Giang vừa được thăng Đại lý Tự thừa, chúng tôi muốn nhờ đại nhân đãi tiệc giùm, tiệc định vào ngày mồng chín này, cả chủ lẫn khách cộng chừng năm bàn, đoàn hát thì vãn sinh sẽ gọi tới, chẳng hay tôn ý thế nào.

Tây Môn Khánh đáp:

- Các đại nhân đã dạy thì vãn sinh xin quét dọn nhà cửa để đón chờ.

An Lạng trung mừng lắm, sai thư lại đưa lên ba lạng bạc, gọi là phần đóng góp của ba người. Tây Môn Khánh sai gia nhân thâu nhận. Chuyện trò một lát, ba người cáo từ. Tây Môn Khánh tiễn ra. Lúc sắp về, Lôi Bình bị hỏi Tây Môn Khánh:

- Hôm trước, nhận được thư của Tiền lão gia, nói cha con họ Tôn là người của đại nhân, nên tôi đã cho thả ra ngay, chẳng hay họ đã thưa lại chuyện đó chưa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Dạ đã, cảm tạ đại nhân phí tâm lo cho, ngày khác xin tới tạ.

Lôi Bình bị nói:

- Đại nhân và tôi là chỗ tương giao, sao lại nói vậy?

Nói xong cùng An, Uông, hai người vái chào Tây Môn Khánh, lên kiệu mà về.

Nói về bữa tiệc trước, đáng lẽ Ngọc Lâu đứng ra lo liệu, nhưng lại để cho Kim Liên lọ Kim Liên nắm tiền bạc trong tay, phân phát cho gia nhân mua bán. Gia nhân mua xong, tiền dư đưa lại, nhưng Kim Liên không đếm, lại để cho Xuân Mai đếm. Chẳng hiểu Xuân Mai đếm thừa thiếu thế nào mà bị một gia nhân mắng cho như tát nước vào mặt. Xuân Mai làm ầm lên, và gia nhân này bị Tây Môn Khánh đánh đòn. Do đo các gia nhân trong nhà oán Kim Liên và ghét Xuân Mai lắm, thường bảo nhau:

- Việc tiền bạc chỉ có Tam nương là đàng hòang.

Nay lại nói, hôm sau, sau khi ở nha môn ra, Tây Môn Khánh hỏi, Hà Thiên hộ đáp:

- Thưa vâng, hôm qua bên đó đã cho người tới nói rồi, vãn sinh cũng đã cho gia nhân tới coi nhà.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nếu vậy thì quan anh cùng tôi qua bên đó coi lại nhà cửa xem sao.

Nói xong cùng Hà Thiên hộ cưỡi ngựa tới nhà Hạ chỉ huỵ Người và đồ đạc trong nhà đã đi hết. Vài gia nhân chạy ra lạy chào. Hai người xuống ngựa tiến vào đại sảnh, sau đó Tây Môn Khánh dẫn Hà Thiên hộ đi xem xét một vòng trong ngoài khu nhà, rồi vòng ra phía trước nơi có vườn và nhà mát nhưng khuung cảnh xác xợ Tây Môn Khánh bảo:

- Sau này rồi quan anh cũng nên cho trồng hoa cỏ cho tươi tốt và sửa sag lại ngôi nhà mát này, như vậy là đẹp ngay.

Hà Thiên hộ nói:

- Nhất định là vậy rồi, ngoài ra vãn sinh sẽ cho làm thêm ba gian nhà mát nữa. Ra giêng sẽ khởi sự, xong xuôi là phải thỉnh đại nhân tới khánh thành.

Hai người xem xét một hồi nữa rồi Tây Môn Khánh cáo từ. Hà Thiên hộ dặn dò gia nhân quét dọn trong ngoài sạch sẽ đóng các cổng ngõ, rồi trở về nha môn, viết thư cho gia đình ở kinh. Hôm sau thì Hà Thiên hộ sai dọn hành lý về nhà ở trước.

Tây Môn Khánh về tới nhà thì đã thấy Hà Cửu đem lễ vật tới tạ Ơn, gồm một xấp lụa, bồn món đồ ăn, và một vò rượu. Lưu Thái giám cùng sai người đem lễ tới, gồm chục cân nếp tốt, ít trầm hương, một vò rượu nhà làm và một con lợn. Gia nhân họ Lưu lạy chào mà thưa:

- Công công chúng tôi nói là có chút lễ mọn này để lão gia thưởng cho người dưới.

Tây Môn Khánh nói:

- Thật quấy rầy lão công quá.

Đoạn sai Cầm Đồng đem rượu ra mời gia nhân họ Lưu, lại thưởng cho năm tiền và bảo đem hồi thiếp về. Gia nhân họ Lưu uống rượu, nhận tiền và thiếp rồi lạy chào ra về.

Đến lượt Hà Cửu bước lên thềm đại sảnh lạy chào mà thưa:

- Nhờ ơn trời biển của lão gia, thằng em tôi được cứu sống, ơn đó chúng tôi nguyện ghi khắc không quên, nay có chút lễ mọn để tỏ lòng tri ân, xin lão gia nhận cho.

Nói xong lại bước tới gần, xin được lạy tạ Ơn, nhưng Tây Môn Khánh đã nâng dậy mà bảo:

- Lão Cửu à, lão chẳng gì cũng là người cũ của ta, chẳng nên làm vậy.

Nói xong mời ngồi. Hà Cửu đứng chắp tay thưa:

- Chúng tôi là người hèn mạt, đâu dám vô lễ như vậy, xin lão gia cho đứng thế này là tốt rồi.

Tây Môn Khánh cũng đứng, bảo gia nhân rót trà mời rồi nói:

- Lão phí tâm đem lễ lại như thế này, ta thật không bằng lòng đâu, thôi để ta xin vò rượu vậy, còn lụa và đồ ăn thì lão đem về.

Hà Cửu tạ Ơn một hồi rồi lạy chào, đem lễ vật còn thừa về.

Tây Môn Khánh sai soạn lễ vật, rồi bảo Đại An đem lễ và văn chúc mừng đến cho Kiều Đại hộ và Vương Kinh đem đến cho Vân chỉ huy.

Lát sau Đại An về thưa là được Kiều Đại hộ thưởng năm tiền. Vương Kinh về thưa là được Vân chỉ huy cho uống trà và thưởng một xấp vải xanh, một đôi hài vải, đọan đưa thiếp của Vân chỉ huy lên mà nói:

- Vân chỉ huy cảm tạ gia gia,và nói rằng ngày khác sẽ thỉnh gia gia tới dùng tiệc.

Tây Môn Khánh hài lòng lắm, quay vào phòng Nguyệt nương ăn cơm, nhân đó nói với vợ:

- Bôn Tứ đi rồi, Ngô Nhị cữu hiện đang trông nom việc bán hàng tại cửa tiệm ở đường Sư Tử. Hôm nay tôi cũng rảnh rang, lát nữa tôi tới đó xem sao.

Nguyệt nương bảo:

- Chàng ra tiệm, nếu cần rượu và món ăn thì sai gia nhân về lấy.

Tây Môn Khánh đáp:

- Được rồi, có gì tôi sẽ cho gia nhân về.

Nói xong ngồi xuống ăn cơm. Sau đo sai chuẩn bị ngựa, rồi mặc áo lam, đi hài phấn, đội khăn trung tĩnh, tới cửa tiệm ở đường Sử Tử. Đại An và Cầm Đồng theo hầu.

Tới nơi, thấy Ngô Nhị cữu và Lai Chiêu đang bán hàng túi bụi, nhân buổi cuối năm, người ra vào mua bán tấp nập, hai người chẳng lúc nào ngừng taỵ Tây Môn Khánh xuống ngựa, đi thẳng vào phòng trong. Ngô Nhị cữu bước vào vái chào rồi nói:

- Như thế này thì một ngày lời ít ra là ba chục lạng.

Tây Môn Khánh gọi Lai Chiêu vào bảo:

- Phải có riêng một thằng nhỏ lo việc cơm nước cho Nhị cữu tử tế, không được sơ sót.

Lai Chiêu gọi vợ vào chào Tây Môn Khánh, Vợ Lai Chiêu thưa:

- Việc cơm nước của Nhị cữu do chính tôi lo, quả là không dám lơ là sơ sót.

Tây Môn Khánh nhìn ra ngoài trời, thấy âm u, mây đem kéo về, gió lạnh nổi lên, làm như sắp có tuyết, tự nhiên muốn đến với Ái Nguyệt, bèn hỏi Cầm Đồng:

- Mau về nhà thưa với Đại nương là cho đem rượu và đồ ăn tới cho Nhị cữu, rồi đem cái áo cừu tới cho ta.

Cầm Đồng lên ngựa về nhà. Lát sau đem áo trở lại, hai gia nhân khác cũng đem rượu thịt tới. Tây Môn Khánh ngồi xuống với em vợ vài chén rượu, rồi đứng lên bảo:

- Nhị cữu đêm nay nghỉ lại đây cho tiện, cần cái gì thì bảo chúng nó, bây giờ thì tôi về nhà.

Nói xong lên ngựa cùng hai gia nhân tới nhà Ái Nguyệt. Ra tới ngoài thì trời bắt đầu xuống tuyết, những bông tuyết bay lả tả trên không. Tây Môn Khánh đội tuyết mà đi.

Tới nơi, Tây Môn Khánh xuống ngựa ngoài cổng. Một a hòan chạy vào báo:

- Lão gia tới.

Nói xong chạy ra mở cổng. Trịnh bà hoảng lên, vội bước ra nghênh tiếp vào phòng khách thi lễ, đoạn nói:

- Hôm trước, tiện nữ đã được trọng thưởng, lão gia còn cho quà nữa. Tiện nữ cũng khoe là được Đại nương và Tam nương thưởng khăn tay.

Tây Môn Khánh nói:

- Tôi cũng quấy rầy Nguyệt Thư nhiều lắm chứ.

Nói xong ngồi xuống ghế, gọi Đại An vào bảo:

- Đem ngựa buộc vào ở đằng sau.

Trịnh bà nói:

- Ái Nguyệt nó tưởng là lão gia tới hôm qua nên cứ ra vào chờ đợi suốt cả ngày, đến đêm buồn phiền không ngủ được nên dậy trễ, cả ngày hôm nay nó cũng ngủ, nghe nói lão gia tới nên vội thức dậy hiên đang chải đầu. Xin thỉnh lão gia vào trong cho đỡ lạnh.

Tây Môn Khánh theo Trịnh bà vào phòng trong. Không khí ấm áp hẳn lên nhờ lò sưởi và nhờ cách bài trí ấm cúng trong phòng. Ái Hương bước ra lạy chào và mời trà. Lát sau Ái Nguyệt mới ra, trang điểm lộng lẫy, tươi cười lạy chào rồi nói:

- Hôm nọ Đại nương giữ lại lâu quá, về tới nhà thì đã canh ba.

Tây Môn Khánh cũng cười:

- Hôm đó nàng làm gì mà cùng Quế Thư tấn công Ứng nhị gia quá vậy?

Ái Nguyệt cong cớn:

- Ai bảo ông ta cứ trêu chọc chúng tôi, giữa bữa tiệc à cứ đùa giỡn làm tổn thương người tạ Hôm đó Chúc gia đã say quá, lại bắt chước Ứng gia trêu chọc chúng tôi nữa chứ.

Tây Môn Khánh nói:

- Nhắc tới Chúc gia ta mới nhớ, ta nghe nói là hôm qua Chúc gia lại họp mặt với Vương Tam, mời Vinh Kiều tới vui chơi phải không?

Ái Nguyệt nói:

- Đâu dám gọi Vinh Kiều về nhà, mà là tới nhà Vinh Kiều ở suốt ngày đêm, hôm nay thì nghe đâu là đang ở nhà Trần Ngọc Chi.

Qua vài tuần trà, Ái Nguyệt nói:

- Ngoài này vẫn còn lạnh lắm, thỉnh gia gia vào phòng tôi cho ấm.

Nói xong dẫn Tây Môn Khánh vào phòng riêng, cởi áo cừu cho Tây Môn Khánh rồi chuốc rượu. Uống thêm vài chung nữa, Tây Môn Khánh nói:

- Thôi, ta uống nhiều quá rồi, hồi nãy đang uống rượu ngoài tiệm, thấy trời lạnh nhớ nàng mà đến thăm. Vừa ra tới đường thì tuyết xuống.

Ái Nguyệt nói:

- Gia gia tới chẳng hẹn trước gì cả, tôi cứ tưởng hôm qua gia gia tới chứ, nào ngờ chờ cả một ngày không thấy, hôm nay không thèm chờ nữa thì gia gia lại tới.

Tây Môn Khánh cười:

- Hôm qua có mấy vị quan tới thăm, bận quá, làm sao đến được.

Ái Nguyệt bảo:

- Tôi hỏi gia gia nhé, gia gia xem đâu có lông điêu, mua cho tôi để tôi cài mũ đi.

Tây Môn Khánh nói:

- May quá vừa rồi có người cho ta ít lông điêu thứ sản xuất tận Liêu Đông, các ương nương ở nhà người nào cũng có mũ lông điêu, để ta bảo làm một cái tặng nàng.

Ái Hương ở ngoài bước vào nghe vậy liền nói:

- Cái gì gia gia cũng chỉ lo cho nó, còn tôi thì chẳng có gì.

Tây Môn Khánh cười:

- Nếu vậy thì hai chị em mỗi người một cái.

Hai chịi em vội đứng dậy vái tạ rồi ngồi xuống. Tây Môn Khánh dặn:

- Nhưng mà đừng nói lại với Quế Thư và Ngân Thư làm gì.

Ái Hương đáp:

- Chúng tôi biết rồi, gia gia khỏi dặn. Hôm nọ chúng tôi tới hát hầu gia gia mà Quế Thư cũng biết, sau đó hỏi tôi. Tôi không giấu, nói rằng hôm đó bốn người chúng tôi được gọi, nhưng vì trong tiệc có Vương Tam nên gia gia không tiện cho gọi thư thự Nghe tôi nói xong, Quế Thư im lặng.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nàng trả lời như vậy là tốt lắm. Cũng như Lý Minh đó, ta có cho gọi đâu, sau phải nhờ Ứng nhị gia tới nói khó với ta, ta mới cho gọi đấy chứ. Còn Quế Thư thì ta cứ mặc kệ. Mãi tới hôm sinh nhật Tam nương, Quế Thư mới đem lễ tới, rồi khóc lóc xin lỗi ta, lại nhờ các nương nương nói dùm. Ta cho lui tới nhưng không hậu đãi như trước nữa. Hôm nọ ta giữ Ngân Nhi ở lại một đêm rồi hôm sau trọng thưởng để cho Quế Thư nó mở mắt ra.

Ái Nguyệt nói:

- Chết không, tôi không được biết sinh nhật của Tam nương thành thử không tới lạy mừng được.

Tây Môn Khánh bảo:

- Không biết thì có gì đáng trách. Hôm nào ta đã tiệc thì nàng nhớ gọi Ngân Nhi cùng đến.

Ái Nguyệt đáp:

- Gia gia dặn, tôi xin nhớ.

Nói xong bày bài ra, ba người đánh bài giải trí trong khi đó a hoàn bày rượu thịt. Tiệc bày xong, hai chị em ngồi hai bên lả lơi chuốc rượu cho Tây Môn Khánh. Rồi sau đó hai chị em thay phiên nhau kẻ chuốc rượu người đàn hát, thanh sắc nồng nàn khiến Tây Môn Khánh cảm thấy ngất ngây. Bỗng Tây Môn Khánh chú ý tới bức tranh mỹ nhân treo gần giường Ái Nguyệt, trên đó có đề mấy câu:

- Ngọc tuyết tinh thần như Trọng Diễm,

Quỳnh Lâm tài mạo vượt Văn Quân.

Bên dưới đề mấy chữ "Tam Tuyền chủ nhân tùy bút", Tây Môn Khánh đọc xong cau mày hỏi:

- Tam Tuyền là hiệu của Vương Tam phải không?

Ái Nguyệt thất sắc, vội nói chữa:

- Thưa không, mấy câu thơ này là do Vương Tam làm từ lâu lắm rồi, bây giờ Vương Tam không lấy hiệu là Tam Tuyền nữa, mà lấy hiệu là Tiểu Hiên. Vương Tam nói cho mọi người biết rằng, hiệu của gia gia là Tứ Tuyền, nên hắn không dám lấy hiệu là Tam Tuyền nữa, sợ xúc phạm tới gia gia, do đó mới đổi là Tiểu Hiên.

Nói xong đứng dậy lấy bút xoá mấy chữ "Tam Tuyền tùy bút" đi. Tây Môn Khánh hài lòng lắm, cười bảo:

- Vậy mà ta chưa biết chuyện hắn đổi hiệu đấy.

Ái Nguyệt nói:

- Thì tôi cũng nghe người ta nói lại nên mới biết đấy chứ. Nghe nói phụ thân hắn hiệu là Dật Hiên, nên hắn đổi hiệu là Tiểu Hiên.

Nói vài câu nữa thì Ái Hương kiếm cớ ra ngoài để một mình Ái Nguyệt tiếp Tây Môn Khánh, hai người kề vai áp má uống rượu trò chuyện. Tây Môn Khánh nói:

- Hôm trước Lâm thái thái bày tiệc mời ta tới rồi gọi Vương Tam vào, bảo lạy ta, nhận ta làm nghĩa phụ. Vương tam lạy xong, Lâm thái thái còn khẩn khoản nhờ ta dạy dỗ Vương Tam nữa.

Ái Nguyệt vỗ tay cười:

- Như vậy là gia gia đã chiếm được Lâm thái thái rồi phải không? Toàn là công lao của tôi cả đấy nhé, tôi nói có sai đâu. Rồi nay mai vợ Vương Tam cũng thuộc về gia gia cho mà coi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Để hôm nào ta cũng phải có lễ tạ Lâm thái thái mới được. Rồi ra giêng sẽ mời Lâm thái thái và vợ Vương Tam tới nhà ta xem đèn thưởng tiết Nguyên Tiêu, để xem vợ Vương Tam có chịu đi hay không.

Ái Nguyệt nói:

- Chịu chứ sao không, gia gia chưa thấy đó thôi, vợ Vương Tam quả là trang sắc nước hương trời, muôn phần kiều diễm yểu điệu, năm nay mới mười chín tuổi mà sống trong nhà như một bà goá, bởi vì Vương Tam có bao giờ ở nhà đâu. Gia gia chịu khó bỏ công phu thì thế nào cũng chiếm được.

Uống rượu chuyện trò một lúc nữa, Tây Môn Khánh gọi Đại An vào hỏi:

- Đã có đèn và dù chưa?

Đại An thưa:

- Cầm Đồng đã về nhà lấy rồi.

Tây Môn Khánh đứng dậy cáo từ. Ái Nguyệt nũng nịu nắm tay dẫn ra ngoài. Tây Môn Khánh lên ngựa. Cầm Đồng cầm đèn, Đại An che dù. Ái Nguyệt dặn:

- Lúc nào gia gia nhớ tôi thì cứ đến nhé.

Tây Môn Khánh đáp:

- Biết rồi, khỏi dặn.

Nói xong, chủ tớ ra về. Tới nhà, gặp Nguyệt nương, Tây Môn Khánh nói dối là uống rượu với Ngô Nhị cữu tại tiệm, bây giờ mới về. Đêm đó Tây Môn Khánh nghỉ lại với Nguyệt nương.

Hôm sau là ngày mồng tám, Tây Môn Khánh nghe nói là Hà Thiên hộ đã đem hành lý về nhà mới, liền sai gia nhân đem bốn quả đựng thực phẩm và trà lại tặng.

Lát sau, thì Bá Tước đội tuyết mò đến. Tây Môn Khánh thấy trời gió lớn lạnh quá, bèn giữ Bá Tước ở lại ăn cháo uống rượu. Hai người trò chuyện bên lò sưởi, Tây Môn Khánh bảo:

- Lễ mừng Kiều thân gia và Vân chỉ huy hôm qua tôi đã cho đem đi rồi, tôi lại lo luôn cho phần của nhị ca, như vậy nhị ca khỏi phải lo gì nữa, cứ đợi ngày được mời đi dự tiệc mà thôi.

Bá Tước hết lời cảm tạ rồi hỏi:

- Hôm qua An đại nhân tới đây có chuyện gì vậy? hai vị quan cùng đi là ai thế?

Tây Môn Khánh đáp:

- Hai người cùng đi với An đại nhân thì một người là quan Bình bị họ Lôi, một người là quan Tham nghị họ Uông, đều là người Triết Giang. Ba người tới đây là để nhờ tôi bày tiệc khoản đãi vị Tri phủ họ Triệu ở Hàng Châu vừa được thăng chức Đại lý Tự thừa và đổi về kinh. An đại nhân nhờ vả chẳng lẽ tôi không nhận lời, nhưng họ đưa tiền làm tiệc mà chỉ có ba lạng bạc.

Bá Tước nói:

- Mấy ông quan văn mà chẳng lẽ lại nghèo thế hay sao? ba lạng thì sao đủ, đại ca chắc là phải bù thêm nhiều lắm.

Tây Môn Khánh nói:

- Lôi Bình bị lại là vị quan đã thả cha vợ và em vợ Hoàng Tứ lúc trước, hôm qua ông ta cũng nhắc tới chuyện đó, bảo là không ghép tội gì cả.

Bá Tước nói:

- Chỗ quen biết giúp đỡ như vậy thì đại ca cũng nên bày tiệc giúp lại họ.

Nói chuyện một lúc thì Bá Tước gọi gia nhân của mình:

- Ứng Bảo, ngươi bảo người đó tới lạy chào lão gia đây đi.

Tây Môn Khánh ngạc nhiên:

- Người nào vậy?

Bá Tước đáp:

- À, thằng nhỏ này trước kia cũng là con nhà tử tế, nhưng cha mẹ mất sớm, từ nhỏ ở trong nhà Vương Hoàng thân làm việc lặt vặt, nó cũng đã có vợ nhưng vừa có chuyện bất hoà với đám gia nhân họ Vương nên đã xin ra. Hiệ nó thất nghiệp, chẳng có công ăn việc làm gì cả, nó lại là bạn của thằng Ứng Bảo bên tôi, nên mới nhờ Ứng Bảo tìm cho việc làm. Ứng Bảo thưa với tôi là để xin cho bạn nó và hầu hạ đại ca bên này, nhưng tôi có nói là chẳng hiểu đại ca có dùng hay không.

Đoạn quay ra hỏi Ứng Bảo:

- Bạn mày nó tên gì?

Ứng Bảo đáp

- Nó là Lai Hữu.

Nói xong ra gọi Lai Hữu vào. Lai Hữu lạy chào Tây Môn Khánh rồi lui ra một bên chắp tay đứng chờ đợi. Bá Tước chỉ Lai Hữu nói:

- Đại ca thấy người ngợm nó cũng được đấy chứ.

Tây Môn Khánh hỏi:

- Ngươi bao nhiêu tuổi?

Lai Hữu đáp:

- Thưa, tôi hai mươi.

Tây Môn Khánh lại hỏi:

- Mày có vợ nhưng đã có con chưa?

Lai Hữu đáp:

- Chúng tôi chỉ có hai vợ chồng.

Ứng Bảo đứng bên nói vào:

- Chẳng giấu gì lão gia, vợ nó mới mười chín tuổi, người có nhan sắc mà vá may nấu nướng cái gì cũng giỏi.

Tây Môn Khánh nhìn Lai Hữu một hồi, thấy có vẻ chất phát thật thà bèn hỏi:

- Nhị gia đây đã thương ngươi mà nói với ta thì ngươi nên hết lòng hầu hạ tạ Thôi, để chờ ngày tốt, tới làm giấy rồi vợ chồng ngươi dọn tới đây mà ở.

Lai Hữu vội sụp lạy bốn lạy. Tây Môn Khánh bảo Cầm Đồng:

- Ngươi dẫn Lai Hữu vào trong cho nó lạy chào Đại nương và các nương nương.

Sau khi Lai Hữu vào lạy chào, Nguyệt nương cho vợ chồng Lai Hữu ngụ tại căn nhà của vợ chồng Lai Vượng trước.

Ngoài này, Bá Tước ngồi một lúc nữa rồi cáo từ.

Lai Hữu làm giấy đầu thân có Ứng Bảo đứng ra bảo lãnh rồi giao giấy cho Tây Môn Khánh. Tây Môn Khánh đổi tên Lai Hữu thành Lai Tước.

Lại nói về đám gia nhân được Tây Môn Khánh tin dùng như Đại An, Bình An, Họa Đồng, Cầm Đồng thường được vợ Bôn Tứ mời tới nhà uống trà uống rượu, lâu dần thành quen, những khi Bôn Tứ ở ngoài tiệm về, thấy vậy cũng chẳng nói gì. Thời gian Bôn Tứ đi vắng, nhiều hôm đám gia nhân này tới nhà Bôn Tứ uống rượu đến đêm. Trong khi chén chú chén anh, chuyện gì cũng được đem ra nói, kể cả những chuyện kín trong nhà, do đó chuyện nhà Tây Môn Khánh lọt ra ngoài rất nhiều.

Hôm sau là ngày mồng chín, Tây Môn Khánh bận rộn bày tiệc để cho An Lang trung, Lôi Bình bị và Uông Tham nghị khoản đãi Triệu tri phủ.

Cũng hôm đó, ngay từ sáng sớm, vợ chồng Lai Tước đã dọn đồ đạc tới. Vợ Lai Tước vào thượng phòng lạy chào Nguyệt nương và các tiểu nương. Vợ Lai Tước mặc chiếc áo tía, chiếc quần vải xanh, vóc người thon nhỏ, khuôn mặt đẹp, da trắng, chân tay xinh nhỏ. Nguyệt nương hỏi chuyện may vá bếp núc thì thấy biết nhiều, bèn đổi tên là Huệ Nguyên, để cùng Huệ Tú, Huệ Tường lo việc nấu nướng.

Mấy hôm sau thì Dương cô nương qua đời, An Đồng từ ngọai thành hớt hải vào báo tang. Tây Môn Khánh sai đem năm lạng bạc và rất nhiều lễ vật thực phẩm tới điếu tang. Nguyệt nương và các tiểu nương, trừ Tuyết Nga ở nhà coi nhà, đều tới giúp việc ma chaỵ Cầm Đồng, Kỳ Đồng, Lai Tước, Lai An đi theo.

Tây Môn Khánh sang cửa tiệm tơ lụa ở trước nhà, chọn mấy cái mũ lông điêu, sai Đại An đem tới cho chị em Ái Nguyệt, lại gói mười lạng bạc để Ái Nguyệt ăn tết.

Đại An được Ái Nguyệt giữ lại uống rượu và tặng ba tiền.

Đại An về thưa với chủ:

- Nguyệt di nói là đa tạ gia gia, rồi cho tôi ăn uống và tặng ba tiền.

Tây Môn Khánh bảo:

- Ừ thì giữ lấy mà tiêu.

Chợt nhớ ra điều gì, bèn hỏi:

- Mà này, Bôn Tứ không có nhà, mày đến nhà Bôn Tứ làm gì vậy? hồi sáng tao thấy mày ở đó ra mà.

Đại An vội thưa:

- Từ ngày con gái lớn Bôn Tứ lấy chồng thì trong nhà không có ai làm đỡ công việc, nên vợ Bôn Tứ thường nhờ anh em chúng tôi làm giúp chuyện này chuyện kia, hoặc mua bán giùm thứ này thứ kia.

Tây Môn Khánh gật đầu:

- Nếu vậy thì vợ Bôn Tứ nhờ vả gì, các ngươi nhớ giúp cho tử tế.

Đoạn thấp giọng bảo:

- Này, mày thử tới nói là gia gia muốn tới thăm xem vợ Bôn Tứ nói sao. Nếu chịu thì mày bảo đưa cái khăn tay, mang về cho ta tin.

Đại An gật đầu đáp nhỏ:

- Thưa tôi hiểu rồi.

Nói xong đi ngay.

Tây Môn Khánh về nhà, Vương Kinh đã ra tiệm kim hoàn lấy mấy cây trâm và ít nữ trang về đưa cho chủ. Tây Môn Khánh để bốn cây trâm bạc lại, còn bao nhiêu thì bỏ vào tay áo, rồi xuống phòng Bình Nhi, cho Như Ý một đôi trâm và ít nữ trang. Nghênh Xuân cũng được một đôi trâm bạc. Hai người lạy tạ, Như Ý bảo Nghênh Xuân đem cơm lên, Tây Môn Khánh ăn xong, trở lên thư phòng.

Lát sau Đại An về, nghe nói chủ ở thư phòng, bèn bước vào, nhưng thấy có Vương Kinh nên cứ im lặng, không nói gì. Tây Môn Khánh biết ý, sai Vương Kinh vào nhà sau lo pha trà, Đại An vội bước tới ghé tai chủ nói nhỏ:

- Tôi đem lời gia gia dặn, nói với vợ Bôn Tứ thì vợ Bôn Tứ cười rồi hẹn là tối nay thỉnh gia gia tới, lại đưa cho tôi cái khăn tay này đây.

Nói xong đưa chiếc khăn tay nhỏ bằng gấm thêu, xông mùi thơm ngát. Tây Môn Khánh mừng lắm, bỏ ngay vào trong tay áo, thì vừa lúc Vương Kinh đem trà lên. Tây Môn Khánh uống trà rồi sang căn nhà đối diện coi thợ sửa sang lại phòng ốc. Lát sau gia nhân tới thưa:

- Hoa Đại cữu tới.

Tây Môn Khánh bảo:

- Mời sang bên này.

Nói xong vào thư phòng đợi. Hoa Tử Do bước vào vái chào, cảm tạ về bữa tiệc hôm nọ, Hoa. Đồng đem trà ra, hai người uống trà nói chuyện, Hoa Tử Do nói:

- Ở ngoại thành có người khách buôn cần bán gấp năm trăm bao gạo thứ thượng đẳng, tôi nghĩ là dượng nên mua thì được giá hời.

Tây Môn Khánh bảo:

- Hiện đường sông đang bị nghẽn, gạo đắt lắm, mấy hôm nữa đi lại thông thương, giá gạo sẽ sụt, mua bây giờ để chịu lỗ hay sao? vả lại trong nhà hiện cũng không dư tiền.

Đoạn quay lại bảo Đại An:

- Dọn bàn ra, rồi về nhà lấy rượu thịt sang đây cho đại cữu dùng.

Lại bảo Cầm Đồng:

- Ngươi nhờ Ứng Nhị gia tới đây hầu rượu đại cữu.

Lát sau, Bá Tước đến. Ba người uống rượu trò chuyện. Lại có đồ đệ của Ngô Đạo quan đem lễ vật và sớ cúng đến. Tây Môn Khánh cũng mời ngồi uống rượu, rồi đưa tiền để chuẩn bị cho lễ trăm ngày của Bình Nhi.

Tới chiều thì Hoa Đại cữu và đồ đệ Ngô Đạo quan cáo từ. Tây Môn Khánh sai gia nhân ra tiệm, bảo Cam quản lý đóng cửa tiệm, về uống rựou nói chuyện.

Tới gần tối thì Nguyệt nương và các tiểu nương về tới nhà. Lai An tới báo, Bá Tước hỏi:

- Các tẩu tẩu hôm nay đi đâu vậy?

Tây Môn Khánh đáp:

- Dương cô nương mất rồi, các nương nương tôi tới đó lo mà chay, tôi cũng đã gửi lễ tới điếu rồi.

Bá Tước lại hỏi:

- Chẳng hay lão nhân gia thọ bao nhiêu tuổi?

Tây Môn Khánh đáp:

- Cũng bảy nhăm bảy sáu gì đó, nhưng con trai con gái cũng không có, chỉ nhờ mấy người cháu. Mấy năm nay tôi cũng giúp đỡ nhiều lắm.

Bá Tước bảo:

- Thế là lão nhân gia có phúc lắm đấy chứ. Gia gia giúp đỡ như vậy cũng là làm được điều ân đức.

Qua vài tuần rượu nữa, Bá Tước và Cam quản lý cáo từ. Tây Môn Khánh đứng dậy dặn gia nhân Vương Hiển đóng cỏong rồi về nhà, nhưng nhân lúc vắng người, liền vòng ra sau, vào phòng Bôn Tứ.

Vợ Bôn Tứ trang điểm sẵn, ngồi đợi từ lâu, thấy một bóng đen từ trong tối bước ra thì biết ngay là Tây Môn Khánh, vội mở cửa, Tây Môn Khánh bước vào, vợ Bôn Tứ đóng cửa lại rồi nói:

- Thỉnh gia gia vào trong này ngồi cho đỡ lạnh.

Nói xong dẫn Tây Môn Khánh vào gian buồn nhỏ bên trong, nơi đây đèn nến sáng trưng, xếp dọn ngăn nắp. Vợ Bôn Tứ đem trà ra, hai tay nâng mời rồi nói nhỏ:

- Chỉ sợ Hàn tẩu ở ngay sát vách biết thôi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Không biết được đâu.

Nói xong đưa cho vợ Bôn Tứ một đôi trâm bạc và một gói bạc vụn chừng năm sáu lạng. Vợ Bôn Tứ mừng quýnh, rối rít cám ơn. Tây Môn Khánh bảo:

- Để mua nữ trang đến tết mà đeo.

Nói xong thổi bớt nến trên bàn rồi kéo vợ Bôn Tứ xuống chiếc giường cạnh đó...

Vợ Bôn Tứ đã không còn trẻ trung gì, nhan sắc cũng chỉ trung bình, không có điểm nào hơn người, vậy mà không hiểu sao Tây Môn Khánh lại thích, có lẽ chỉ là ý thích trong giây lát mà thôi.

Sau cuộc mây mưa vụng trộm và ngắn ngủi, vợ Bôn Tứ đưa Tây Môn Khánh ra. Đại An đã chờ sẵn bên ngoài, đưa chủ vào nhà. Chủ tớ cho là không ai hay biết.

Sau đó, Tây Môn Khánh còn đi lại với vợ Bôn Tứ mấy lần nữa.

Thật là:

Đã chẳng ai hay biết

Chuyện gì lại không làm.

Ngờ đâu chuyện kín không lọt khỏi con mắt của Hàn tẩu ở ngay phòng sát vách. Hàn tẩu nói cho Xuân Mai, Xuân Mai kể lại cho Kim Liên. Kim Liên không nói gì.

Ít hôm sau, vào ngày rằm tháng chạp, do lời mời của Kiều Đại hộ, Tây Môn Khánh, Ngô Đại cữu và Bá Tước đều tới uống rượu nghe hát. Tiệc đến canh hai mới vãn.

Hôm sau, Kiều Đại hộ lại sai gia nhân đem lễ tới cảm ơn...

Nay nói về Thôi Bản, sau khi mua hai ngàn lạng hàng hó ở Hồ Châu gồm vải lụa tơ sợi, thượng tuần tháng chạp chở thuyền hàng về. Tới bến Lâm Thanh, Thôi Bản sai Vinh Hải coi thuyền hàng còn mình thì lên bộ để lo thuế má, rồi trở về nhà Tây Môn Khánh.

Cầm Đồng thấy Thôi Bản thì reo lên:

- Thôi đại ca đã về, thỉnh đại ca lên ngồi ở đại sảnh, gia gia hiện đang ở nhà đối diện, để tôi đi mời về.

Nói xong đi ngay, tới nơi, chẳng thấy chủ đâu, Cầm Đồng bèn hỏi Bình An, Bình An đáp:

- Có lẽ gia gia ở hậu phòng chăng.

Cầm Đồng bèn vào hỏi Nguyệt nương, Nguyệt nương bảo:

- Ơ hay, thằng khốn này, gia gia mày đi đâu chứ có ở đây đâu.

Cầm Đồng đi hỏi khắp lượt các phòng các bà chủ, lại vào cả thư phòng trong hoa viên, cũng chẳng thấy đâu. Cầm Đồng tìm mãi không thấy, đứng ngay giữa sân màn nói lớn:

- Lạ quá nhỉ, gia gia ở nhà chứ có đi đâu, mà ban ngày ban mặt tìm khắp nơi trong nhà cũng không thấy. Thôi đại ca chở hàng về rồi, đang ngồi chờ gia gia kia kìa...

Đại An đứng gần đó, nghe vậy cũng chẳng nói gì.

Bỗng thấy Tây Môn Khánh từ phía sau tới, mấy gia nhân giật cả mình. Thì ra Tây Môn Khánh đang ở trong phòng vợ Bôn Tứ, nghe nói là Thôi Bản về nên vội bước ra. Đại An đưa chủ vào đại sảnh.

Tây Môn Khánh vào trong rồi, Bình An chỉ tay vào mặt Cầm Đồng mà bảo:

- Ai bảo mày lo cho Thôi đại ca quá vậy? này, nhanh nhẩu đoảng có bữa ăn đòn đó em ạ.

Tây Môn Khánh bước lên đại sảnh, Thôi Bản sụp xuống lạy chào, giao sổ sách rồi nói:

- Hàng đã về tới bến, chỉ còn chờ đóng thuế là bốc lên xe, ngày mồng một tháng chạp vừa rồi thì tôi lên đường về, tới Dương Châu thì chia tay với mấy người kia, họ đi Hàng Châu, còn tôi thì tới nhà Miêu Thanh nghỉ lại hai ngày. Miêu Thanh lúc nào cũng nhớ ơn gia gia, nên đã bỏ ra mười lạng bạc, mua một thiếu nữ người Dương Châu, mới mười sáu tuổi, tên là Sở Vân, thôi thì da trắng như tuyết, mặt đẹp như ngọc, mắt phượng mày ngài, môi son má phấn, đôi chân nhỏ đúng ba tấc, rõ là trang sắc nước hương trời, có cái vẻ cá lặn nhạn sa, hoa nhường nguyệt thẹn, lại giỏi đàn ca, thuộc tới hơn ba ngàn khúc hát lớn nhỏ. Hiện Miêu Thanh còn giữ tại nhà để chuẩn bị hành lý quần áo, sang xuân khi có thuyền của Lai Bảo và Hàn quản lý ghé đó, sẽ đưa nàng Sở Vân về để gia gia tiêu sầu giải muộn.

Tây Môn Khánh nghe xong mừng lắm, bảo:

- Dưới thuyền ngươi không có vải vóc lụa là hay sao, mà ta ở đây không có nữ trang quần áo hay sao, mà phải phiền Miêu Thanh như vậy, sao không đưa ngay theo thuyền ngươi về đây có được không. Ta thật giận không có phép đằng vân để bay ngay tới Dương Châu chiêm ngưỡng dung nhan người ngọc.

Nói xong sai gia nhân dọn rượu thịt ra, tự tay rót rượu mời Thôi Bản. Sau đó lấy ra năm mươi lạng bạc, viết một phong thư cho Tiền chủ sự, nhờ lo giùm việc thuế má.

Thôi Bản ăn uống no nê, nhận thư và bạc rồi cáo từ để về bên Kiều Đại hộ thưa chuyện buôn bán.

Bên ngoài, Cầm Đồng hiểu chuyện, lo sợ lắm, yên trí rằng phen này không thoát khỏi cực hình đòn vọt. Bình An thấy mãi Tây Môn Khánh không cho gọi Cầm Đồng thì dí ngón tay vào trán Cầm Đồng mà bảo:

- Phúc bảy mươi đời nhà mày đấy em ạ, không hiểu sao hôm nay gia gia có chuyện gì vui mừng mà quên hẳn tội mày, chứ không thì cứ gọi là ốm đòn.

Cầm Đồng nghe vậy mừng lắm, cười bảo:

- Thật chỉ có anh là rõ tính gia gia mà thôi.

Thôi Bản cho xe chở hàng lên chất tại cửa tiệm ở đường Sư Tử xong thì cũng tới hạ tuần tháng chạp. Tây Môn Khánh bận rộn lo gửi lễ vật chúc tết các quan và thân bằng quyến thuộc.

Bỗng có gia nhân của Kinh Đô giám đem thiếp tới, trong thiếp viết:

- Tống Ngự sử đã gửi bản tâu trình về kinh lâu rồi, chắc đã có nói về vụ thăng thưởng cuối năm, phiền đại nhân cho người tới Sát viện hỏi Tống công giùm họ.

Tây Môn Khánh sai ngay mấy viên Tiết cấp tới phủ giám sát ngự sử hỏi thăm tin tức, thì quả nhiên đã có văn thư gửi lên kinh rồi, mấy viên Tiết cấp sao lại văn thư đó đem về trình Tây Môn Khánh. Văn thư viết như sau:

- Sơn Đông tuần án giám sát ngự sử, có nhiệm vụ tiến cử hoặc đàn hặc các quan văn võ địa phương để khuyến khích người đức độ hiền tài, trừng phạt kẻ bất tài tham nhũng, hầu biểu dương thánh đức cho địa phương yên ổn, dân gian an lạc. Do đó hằng lưu tâm đến tất cả các quan lại địa phương rồi cứ theo sự thật mà tâu trần không dám mảy may giấu giếm. Thấy rằng, Sơn Đông Tả Bố chính Trần Tứ Châm là người tiết tháo trung trinh, thanh liên cương trực, được dân tình ca tụng. Đề học phó sứ Trần Chính Vị học hạnh kiêm toàn, một lòng lo nhiệm vụ. Bình bị phó sự Lôi Khải Nguyên được quân dân cảm phục ân uỵ Tế Nam Tri phủ Trương Thúc Dạ có tài kinh tế giúp cho dân no ấm. Đông Bình Tri phủ Hồ Sư Văn thanh liêm cẩn thận, biết thương dân. Mấy người này cần được nâng đỡ thăng thưởng. Lại được biết, Tả Tham nghị Phùng Đình Học gian tham lộng quyền, Đông Xương tri phủ Từ Hùng ăn hối lộ, thao túng công đường. Hai người này nên bãi chức. Lại được biết Tả quan viện Kiểm sự Thủ bị Chu Tú tài ba lão luyện đức độ được quân dân mến phục, giặc cướp xa gần khiếp vía. Tế Châu binh mã Đô giám Kính Trung tuổi trẻ tài cao, xuất thân Võ Cử, xứng tài làm tướng, chỉ huy cực nghiêm minh. Hai người này xứng đáng được thăng chức. Thanh Hà huyện Thiên hộ Ngô Khải tài giỏi đức độ, lo việc binh rất trung kiên, nay lo việc kho đụn khiến quân lính được no đủ, khiến tinh thần quân lính lên cao, rất đáng được thăng thưởng...

Sau đó là mấy câu văn ca tụng thánh triều và bày tỏ lòng vô tư công bằng của Tống Ngự sử.

Tây Môn Khánh xem xong vui lắm, cầm bản sao văn thư vào bảo vợ:

- Tống Ngự sử đã tâu trình, xin thăng thưởng cho đại ca của nàng đây này. Cả Chu Thủ bị và Kinh Đô giám cũng được đề nghị nữa. Bây giờ phải cho mời Đại cữu tới để báo tin mới được.

Nguyệt nương đáp:

- Chànb bảo chúng nó mời đi, tôi lo dọn rượu thịt để anh em ăn uống. Tôi nghĩ là trong vụ thăng thưởng này, thế nào cũng phải tốn kém.

Tây Môn Khánh bảo:

- Không sao, có gì thì tôi cho mượn chứ lo gì.

Nói xong trở ra đại sảnh. Lát sau Ngô Đại cữu tới, Tây Môn Khánh mời ngồi rồi đưa bản sao văn thư tâu trình của Tống Ngự sử. Ngô Đại cữu xem xong mừng lắm, đứng dậy vái tạ:

- Thật là nhờ dượng hết lòng lo cho, ơn này tôi xin ghi khắc.

Tây Môn Khánh bảo:

- Chỗ anh em trong nhà, sao Đại cữu lại nói vậy. Tiệc tùng mừng thăng chức có tôi lo liệu cho, Đại cữu không phải lo gì cả.

Ngô Đại cữu lại vái tạ, rồi vào thăm Nguyệt nương. Lát sau Ngô Đại cữu ăn uống vui vẻ với em gái và em rể.

Tây Môn Khánh lại sai Đại An đem thiếp tới báo tin mừng cho Chu Thủ bị và Kinh Đô giám. Sáng sớm hôm sau Kinh Đô giám đã cưỡi ngựa tới bái tạ, nói:

- Hôm qua nhận được tin mừng, vãn sinh thấy quả là đại nhân có lòng ưu ái lắm, nên đã phi tâm lo cho, ơn này nguyện ghi khắc không quên.

Hai người uống trà nói chuyện một lúc thì Kinh Đô giám đứng dậy cáo từ. Lúc sắp ra về hỏi:

- Vân đại nhân chừng nào cho chúng mình uống rượu mừng?

Tây Môn Khánh đáp:

- chắc là cũng sắp rồi, không mời đâu được.

Nói xong tiễn Kinh Đô giám ra về.

Trở lại đại sảnh, Tây Môn Khánh sai giết một con lợn, một con dê, soạn một vò rượu ngon, một xấp đại hồng thêu, một xấp lụa xanh và một trăm cái bánh, rồi sai Xuân Hồng cầm thiếp đem tới phủ Giám sát tạ Ơn Tống ngự sử.

Xuân Hồng đem lễ tới, Tống Ngự sử cho gọi vào hậu sảnh, thưởng trà và ba tiền, rồi sai đem hồi thiếp về cho chủ.

Xuân Hồng đem thiếp về, Tây Môn Khánh mở ra xem thấy viết:

"Kính gửi đại cẩm y Tây Môn Khánh tiên sinh, đã hai lần vãn sinh quấy rầy quý phủ, được tiên sinh lo cho thập phần chu đáo, nay lại cho lễ hậu như thế này, vãn sinh luống những hổ thẹn, chẳng biết lấy gì báo đáp. Việc của nhị vị Kinh, Ngô như vậy là xong, vãn sinh cũng bớt phần lo lắng. Nay có thiếp này đa tạ đại nhân. Vãn sinh Tống Kiều Niên kính bái".

Sau đó gia nhân của Tống ngự sử đem tới một trăm cuốn lịch năm mới, một xấp giấy tốt gồm một vạn tờ và một con lợn để đáp lễ.

Ít hôm sau thì có văn thư về, thăng Ngô Đại cữu lên chức chỉ huy Kiểm sự. Tây Môn Khánh đưa cho anh vợ ba chục lạng bạc để lo làm tiệc mừng.

Ngày hai mươi bốn thì Ngô Đại cữu nhận được ấn tín mới. Tây Môn Khánh lại sai đem một con dê một vò rượu, và nhờ người viết một áng văn chúc mừng trên lụa, sai gia nhân đem tới mừng.

Sau khi Ngô Đại cữu nhậm chức mới, Tây Môn Khánh lại bày tiệc mời Ngô Đại cữu tới để chúc mừng.

Tiếp đó thì gia quyến của Hà Thiên hộ từ kinh tới. Tây Môn Khánh sai viết thiếp, đề tên Nguyệt nương, rồi cho gia nhân đem trà và bánh tới mừng gia quyến họ Hà.

Ngày hai mươi sáu, Tây Môn Khánh mời Ngô Đạo quan và mười hai vị đạo sĩ của miếu Ngọc Hoàng tới nhà tụng kinh làm lễ trăm ngày cho Bình Nhị Thân bằng quyến thuộc đều đem lễ vật tới. Tây Môn Khánh cho bày tiệc khoản đãi mọi người. Tiệc kéo dài tới tối mới vãn.

Ngày hai mươi bảy, Tây Môn Khánh sai gia nhân đem biếu quà tết cho mọi người. Ứng Bá Tước, Tạ Hy Đại, Thường Trĩ Tiết, các quản lý Phó, Hàn, Cam, Bôn Tứ và Thôi Bản, mỗi nhà được biếu một con lợn, nửa con dê, một vò rượu, một bao gạo và một lạng bạc. Đám ca nữ Quế Thư, Ngân Nhi, Ái Nguyệt mỗi người được tặng một bộ xiêm y và ba lạng bạc.

Nguyệt nương thì sai Lai An đem gạo, mì, hương nến và tiền bạc tới cho hai sư bà Vương, Tiết để làm lễ cuối năm.

Trong nhà bận rộn suốt từ sáng đến tối.

Thấm thóat đã đến ngày cuối năm, nhà nhà rộn rịp đón xuân vui tết, cảnh tưng bừng nhộn nhịp về khắp nơi nơi. Những câu đối viết trên giấy đỏ, dán tại cổng mọi nhà nổi bật dưới trời tuyết trắng.

Tây Môn Khánh làm lễ cúng tất niên cho Bình Nhi, sau đó cho bày tiệc trong hậu đường, cả nhà quây quần ăn uống chuyện trò vui vẻ. Gia nhân a hoàn lớn nhỏ trong nhà kéo nhau tới lạy chào chúc tụng. Tây Môn Khánh và Nguyệt nương đã chuẩn bị sẵn quà như vải lụa, khăn tay và những phong bao đựng tiền để thưởng cho khắp lượt gia nhân.

Hôm sau, ngày Nguyên đán của năm Trùng hoá Nguyên niên, Tây Môn Khánh dậy sớm, mũ áo chỉnh tề, cân đại rực rỡ, làm lễ tế trời đất tại nhà, rồi ăn sáng. Sau đó cưỡi ngựa tới chúc tết Tuần án Ngự sử và các quan trên.

Ở nhà, đám tiểu nương cũng dậy sớm, ăn mặc xiêm y mới, trang điểm lộng lẫy, mỗi người như một đoá hoa tươi, kéo nhau vào thượng phòng lạy mừng chúc tết Nguyệt nương.

Bình An và vài viên tiết cấp mặc áo mới, đứng ở cổng để nhận thiếp chúc tết và đưa đón các quan chức cùng khách khứa ra vào. Đại An và Vương Kính ở đại sảnh lo trà nước, cả hai đều đội khăn, đi hài và mặc quần áo mới. Các quản lý, chủ quản, các bạn hàng buôn bán kéo tới chúc tết như nước chảy. Một mình Kính Tế lo việc tiếp khách, mệt bở hơi tai.

Tới trưa, Tây Môn Khánh chúc tết các quan trong phủ huyện xong, vừa về tới nhà thì Vương Tam mũ áo chỉnh tề tới chúc tết. Tây Môn Khánh mời lên đại sảnh. Vương Tam lạy bốn lạy, vái tám vái rồi xin thỉnh Nguyệt nương ra để lạy mừng. Nhưng Tây Môn Khánh dẫn Vương Tam vào thượng phòng bái kiến. Xong lại mời ra đại sảnh uống rượu.

Đang uống rượu trò chuyện thì thấy Hà Thiên hộ tới chúc tết. Tây Môn Khánh gọi Kính Tế ra tiếp chuyện Vương Tam, còn mình thì nghênh tiếp Hà Thiên hộ.

Vương Tam uống vài chung rượu rồi cáo từ, Kính Tế tiễn ra ngoài.

Lát sau thì Kinh Đô giám, Vân chỉ huy, Kiều đại hộ và nhiều quan chức khác tới. Tây Môn Khánh cho dọn tiệc khoản đãi tới chiều.

Tối mồng một tết, Tây Môn Khánh ngủ tại thượng phòng với Nguyệt nương.

Hôm sau, mồng hai tết, Tây Môn Khánh uống rượu tân niên ở ngoài, tới chiều tối mới về, thì Hàn di phu, Bá Tước, Hy Đại, Trĩ Tiết và Hoa Tử Do tới chúc tết. Tây Môn Khánh sai dọn tiệc khoản đãi, Hàn Di phu và Hoa Tử Do nhà ở ngọai thành nên cáo từ về trước. Mấy người khác tiếp tục ngồi lại uống rượu trò chuyện.

Lát sau Ngô Nhị cữu tới chúc tết mọi người, rồi vào trong chúc tết chị, sau đó mới trở ra dự tiệc. Bữa tiệc kéo dài tới canh một mới vãn. Tây Môn Khánh tiễn khách về, quay vào thấy Đại An đứng hầu, bèn hất hàm ra hiệu. Đại An hiểu ý bước tới ghé tai chủ nói nhỏ:

- Hiện không có ai ở đó.

Nói xong đi trước, Tây Môn Khánh theo sau, vào phòng vợ Bôn Tứ. Vợ Bôn Tứ mặc xiêm y mới, trang điểm đẹp đẽ ra nghênh tiếp. Hai người vui say ân ái. Sau cuộc mây mưa, Tây Môn Khánh hỏi:

- Tiểu danh nàng là gì nhỉ?

Vợ Bôn Tứ đáp:

- Tôi họ Diệp, là con thứ năm trong nhà nên có tiểu danh là Diệp Ngũ Thư.

Nguyên Diệp Ngũ Thư xuất thân là vú em, sau tư thông với Bôn Tứ mà thành vợ chồng, được Bôn Tứ đem về ở chung trong dãy nhà Tây Môn Khánh dựng cho gia nhân ở. Diệp thị năm nay ba mươi hai tuổi, bản tính dốt nát.

Lát sau Diệp thị hỏi:

- Sao Bôn Tứ đi mà giờ này chưa thấy về.

Tây Môn Khánh đáp:

- Đáng lẽ thì phải về rồi, nhưng rất có thể Hạ đại nhân giữ hắn ở lại ít ngày.

Sau đó cho Diệp thị vài lạng bạc rồi nói:

- Ta muốn cho nàng một bộ quần áo, nhưng sợ Bôn Tứ biết thì không tiện, chi bằng nàng cầm ít tiền này mua lụa vải mà may.

Nói xong bước ra. Diệp thị cảm tạ rồi đưa ra cửa. Đại An đã chờ sẵn bên ngoài để đưa chủ vào hậu phòng.

Nghĩ cũng nực cười, trước khi thông gian với Tây Môn Khánh, thì Diệp thị đã thông gian với Đại An trong một thời gian. Bây giờ thì Diệp thị thông gian cùng lúc với cả hai chủ tớ.

Đưa chủ vào trong xong. Đại An trở ra đem một ít rượu thịt, rủ Bình An tới phòng Diệp thị ăn uống cười giỡn cho tới canh hai. No say, Bình An ra căn phòng ngoài cổng mà ngủ. Đại An ngủ lại với Diệp thị.

Diệp thị bảo:

- Tôi hầu hạ gia gia như thế này, chỉ sợ Hàn tẩu ở cạnh đây biết, lỡ có gì xảy ra, các nương nương đánh mắng tôi rồi làm sao?

Đại An bảo:

- Trong nhà này ngoài đại nương và ngũ nương ra thì không đáng sợ. Tuy nhiên, đại nương coi vậy mà còn dễ chịu, có gì cũng đỡ, chỉ ngại nhất là ngũ nương. Bây giờ nàng nghe tôi, nhân tiết xuân, mua cái gì tới chúc mừng đại nương trước đi. Đại nương thì không thiếu gì, nhưng lại thích nhất bánh sữa, nàng mua một ít bánh sữa và với thứ khác đem tới lạy mừng, chắc chắn sẽ được đại nương hậu đãi. Rồi tới mồng chín này là sinh nhật ngũ nương, nàng cũng phải có lễ vật tới chúc thọ, có vậy ngũ nương mới bớt cái miệng gìum nàng một khi chuyện này bị lộ.

Diệp thị nhất nhất theo lời Đại An.

Hôm sau, mồng ba tết, nhân lúc Tây Môn Khánh ăn tiệc tân niên ở ngoài, Đại An mua giùm cho Diệp thị một quả đựng đầy bánh sữa, và các món ăn khác, đem đến thượng phòng. Nguyệt nương hỏi:

- Cái gì đây?

Đại An đáp:

- Đây là Bôn Tứ tẩu nhờ tôi đem tới biếu kính Đại nương.

Nguyệtn nương bảo:

- Chồng nó không có nhà, lấy tiền đâu mà bày vẽ thế này, phí tâm quá.

Nói xong sai a hoàn thâu nhận, lại sai soạn một quả đồ ăn và bánh trái, cho Đại An đem tặng vợ Bôn Tứ, rồi dặn:

- Ngươi bảo nó là ta có lời cám ơn.

Đại An vâng lời, đem các thứ xuống cho Diệp thị.

Tây Môn Khánh về tới nhà thì Ngô Đạo quan tới chúc tết. Hai người uống rượu tại đại sảnh. Lát sau Ngô Đạo quan cáo từ. Tiễn Ngô Đạo quan xong trở vào bảo Đại An:

- Ngươi tìm gặp Văn tẩu, bảo là ta muốn tới chúc tết Lâm thái thái xem Văn tẩu nói sao.

Đai An thưa:

- Gia gia khỏi phải tới, hôm nay Văn tẩu có cưỡi lừa tới đây. Gặp tôi ngoài cổng Văn tẩu có dặn rằng, ngày mai mồng bốn, Vương tam sẽ đi Đông Kinh chúc tết Lục Hoàng thái uý, Lâm thái thái có nhắn là mồng sáu thỉnh gia gia tới thưởng xuân.

Tây Môn Khánh mừng lắm, hỏi lại:

- Có thật Văn tẩu nói vậy không?

Đại An đáp:

- Chẳng lẽ tôi dám bịa chuyện nói dối gia gia hay sao.

Tây Môn Khánh gật đầu, quay vào thượng phòng. Vừa ngồi xuống thì Lai An vào báo:

- Ngô Đại cữu tới.

Tây Môn Khánh chưa kịp bước ra thì đã thấy Ngô Đại cữu cân đai mũ mãng rực rỡ, vào vái chào chúc tết Tây Môn Khánh rồi nói:

- Ngô Khải tôi đội ơn dượng tiến cử, đã quấy rầy dượng nhiều, lại được cho lễ quá hậu, thật không biết lấy gì báo đáp. Hôm qua dượng có quang lâm tới tôi nhưng tôi lại vắng nhà, nay tôi tới đây trước là chúc tết dượng, sau là lạy tạ về tội thất lễ hôm qua.

Nói xong sụp xuống lạy. Tây Môn Khánh hoảng lên, đành sụp xuống lạy trả rồi nâng anh vợ lên mà bảo:

- Xin chúc mừng Đại cữu về việc thăng chức. Còn chỗ anh em trong nhà, Đại cữu phải xử sự tự nhiên thân mật thì vợ chồng tôi mới được yên lòng.

Nói xong lại vái dài, Ngô Đại cữu vội vái trả.

Nguyệt nương xiêm y sang trọng bước ra, phục xuống lạy mừng anh. Ngô Khải vội xua tay:

- Thôi, đại khái là được rồi, chỗ anh em ruột thịt việc gì phải khách sáo, vả lại thường ngày tôi vẫn nhờ vả vợ chồng cô và dượng đây nhiều, cô đừng khiến tôi khó nghĩ.

Nguyệt nương lạy xong đứng dậy nói:

- Giúp đỡ ca ca là bổn phận của vợ chồng tôi.

Ngô Khải nói:

- Cô nói vậy chứ tôi nhờ và nhiều quá, cũng làm phiền cô và dượng lắm chứ.

Ngọc Lâu và Kim Liên nghe nói Ngô Khải đang ở thượng phòng, bèn rủ nhau tới lạy chào chúc tết, rồi ai về phòng nấy.

Tây Môn Khánh bảo:

- Bây giờ chắc Đại cữu cũng chẳng đi đâu nữa, xin Đại cữu cởi áo uống rượu với vợ chồng tôi.

Nói xong gọi a hoàn dọn tiệc. Ngọc Tiêu và Tiểu Ngọc bước ra lạy mừng Ngô Khải rồi dọn tiệc. Ba người ngồi vào bàn. Nguyệt nương dùng chung vàng rót rượu mời anh và chồng. Tây Môn Khánh cũng rót rượu mời anh vợ rồi nói:

- Việc đáo nhậm của Đại cữu đã xong xuôi chưa?

Ngô Khải đáp:

- Cũng xong cả rồi, chỉ còn vài cái đồn là chưa tới thăm được thôi. Ngày mai tốt ngày, tôi sẽ làm lễ khai ấn tại Vệ Môn, dọn một tiệc nhỏ, gọi các thuộc cấp các nơi tới để gặp gỡ, nhất là các quan chức trưởng đồn, sau đó sẽ đi một lượt các đồn để xem công việc. Vị chỉ huy tiền nhiệm Đinh đại nhân làm hỏng mọi việc, nghe đâu đang bị Ngự sử đàn hặc. Nay tôi thay thế thì phải dốc lòng lo việc, đốc thúc thuộc cấp trong việc lương thực thuế má và khai báo minh bạc tại các đồn các kho mới được.

Tây Môn Khánh hỏi:

- Tổng cộnng có khoảng chừng bao nhiêu đồn điền tất cả?

Ngô Khải đáp:

- Thời Thái tổ, cho lập đồn điền làm kế nuôi binh. Từ trước hàng năm chỉ phải nộp lúa một kỳ vào mùa thu gọi là thu lương, sau này vì phép Thanh Miêu của Tể tướng Vương An Thạch, tăng thêm một kỳ vào mùa hạ nữa gọi là hạ thuế. Trong vùng Tế Châu thuộc quyền cai quản của tôi hiện nay, không kể những nơi bỏ hoang thì tổng cộng có chừng hai vạn bảy ngàn đồn điền. Thu lượng hạ thuế bây giờ lại phải nộp bằng tiền, mỗi đồn điền nộp một lạng tám tiền, như vậy tổng cộng số thuế cũng lên tới năm vạn lạng mỗi năm, cứ cuối năm thì phải gom đủ nộp cho phủ Đông Bình để sung vào việc nuôi quân mã.

Tây Môn Khánh lại hỏi:

- Thế còn chỗ lợi tức dư ra thì sao?

Ngô Khải đáp:

- Dư thì kể cũng có dư, nhưng còn phải bù đắp vào những năm mất mùa, lại còn phải giúp đỡ cho dân chúng trong vùng. Mọi việc đều có sổ sách đàng hòang để tránh việc công luận đàm tiếu.

Tây Môn Khánh nói:

- Nhưng làm sao mà đúng theo sổ sách được, mình cũng phải có chút ít bù đắp công khó nhọc chứ

Ngô Khải gật đầu:

- Thì cũng có chút đỉnh, chẳng giấu gì dượng, năm nào mà khá thì cuối năm cũng có được khoảng trăm lạng, rồi thuộc cấp nó biếu gà, vịt, dê, lợn, rượu trà kể cũng tàm tạm. Nhưng mọi chuyện thì cũng đều nhờ dượng đây để ý che chở phù trì cho.

Tây Môn Khánh nói:

- Thì tôi cũng chỉ mong đại cữu được dư giả mà mát mặt với người ta, còn chỗ anh em trong nhà, lúc nào tôi chẳng hết lòng.

Anh em vợ chồng uống rượu nói chuyện cho tới canh một, Ngô Khải mới cáo từ. Tây Môn Khánh tiễn anh vợ rồi xuống phòng Kim Liên.

Hôm sau, vợ Hà Thiên hộ là Lam thị sai gia nhân đem thiếp tới mời Nguyệt nương và các tiểu nương mồng sau tới dự tiệc.

Hôm đó Tây Môn Khánh cùng Ngô Khải và Ứng Bá Tước đến dự tiệc tại nhà Vân chỉ huy, trong tiệc có ca công vũ nữ giúp vui.

Sau đó nhân Nguyệt nương và các tiểu thiếp tới nhà Hà Thiên hộ, Tây Môn Khánh cưỡi ngựa tới phủ Vương Chiêu Tuyên, có Đại An và Cầm Đồng đi theo. Vương Tam vắng nhà.

Vân tẩu đã chờ sẵn, đem thiếp của Tây Môn Khánh vào thưa với Lâm thái thái, rồi trở ra mời Tây Môn Khánh vào. Tây Môn Khánh theo Văn tẩu đi qua đại sảnh, vào thẳng hậu phòng. Lâm thái thái mặc lễ phục đại hồng, châu giăt ngọc đeo, trang điểm lộng lẫy nghênh tiếp. Đôi bên thi lễ, rồi phân ngôi chủ khách mà ngồi, a hoàn đem trà ra, Lâm thái thái mời Tây Môn Khánh uống trà rồi sai gia nhân đem ngựa của chủ tớ Tây Môn Khánh vào đằng sau.

Qua vài tuần trà, Lâm thái thái mời Tây Môn Khánh cởi áo ngoài ra nhập tiệc, đoạn nói:

- Tiện nam đã lên Đông Kinh từ hôm mồng bốn để chúc tết chú vợ của nó là Lục hoàng thái uý, chắc cũng phải sau Nguyên tiêu mới về được.

Tây Môn Khánh cởi áo ngoài đưa cho Đại An cầm, bên trong, Tây Môn Khánh mặc áo đoạn bạch thêu hình phi ngư màu thiên thanh, trông thập phần lịch sự, Lâm thái thái rót rượu vào chung vàng hai tay nâng mời, ánh mắt long lanh bằng muôn vạn câu nói. Tây Môn Khánh vui vẻ ăn uống. Trên bàn tiệc, đũa ngọc chén vàng, sơn hào hải vị la liệt.

Rượu được vài tuần, Tây Môn Khánh tỏ ý mời Lâm thái thái và vợ Vương Tam ngày mai tới dự tiệc và xem đèn. Lâm thái thái đã quá say mê Tây Môn Khánh. Tây Môn Khánh nói gì mà chẳng nghe, do đó vui vẻ nhận lời ngaỵ Tây Môn Khánh mừng lắm. Hai người kề vai áp má mắt đi mày lại mà chén tạc chén thù. Lát sau men rượu nồng nàn, lòng xuân phơi phới, Lâm thái thái cầm tay Tây Môn Khánh dắt vào giường cộng lực truy hoan.

Mây qua mưa tạnh, hai người lại tiếp tục uống rượu cho tới canh hai. Tây Môn Khánh đứng dậy cáo từ. Đại An dẫn ngựa ra cổng sau, cùng Cầm Đồng đưa chủ về.

Tây Môn Khánh về tới cổng. Bình An mở cổng thưa:

- Hôm nay có người của Tiết công công tới đưa thiếp, thỉnh gia gia sáng mai tới hoa viên ở ngoại thành thưởng xuân. Lại có gia nhân của Vân đại nhân đem năm tấm thiếp tới thỉnh các nương nương dự tiệc.

Tây Môn Khánh gật đầu xuống ngựa vào nhà, rồi vào thẳng phòng Nguyệt nương, thấy cả Ngọc Lâu và Kim Liên cũng đang có mặt.

Nguyệt nương và đám tiểu thiếp cũng vừa tới từ nhà Hà Thiên hộ về, đang ngồi nói chuyện thì Tây Môn Khán vào. Mọi người đứng dậy chào. Nguyệt nương hỏi:

- Hôm nay chàng đi những đâu mà giờ này mới về?

Tây Môn Khánh đáp:

- Ứng Nhị ca cứ giữ lại uống rượu, bây giờ mới dứt ra mà về được đấy.

Nguyệt nương nói:

- Tiệc hôm nay tại nhà Hà Thiên hộ cũng vui lắm. Hà nương nương cũng còn nhỏ tuổi, năm nay mới có mười tám, nhan sắc xinh đẹp lắm, mà đức tính nhu mì, tài học thông kim bác cổ, mới về với Hà đại nhân chừng hai năm nay thôi. Trong nhà gia nhân đầy tớ nhiều lắm, hầu hạ riêng Hà nương nương cũng có tới bốn a hòan thân tín và hai người bô già. Rõ là gia đình trâm anh thế phiệt lâu đời.

Tây Môn Khánh ngồi xuống nói:

- Thì Hà nương nương là cháu của Lâm thái thái trong nội cung mà. Nghe nói là sau đám cưới, Hà nương nương đem về nhà chồng nhiều tiền của lắm.

Nguyệt nương hỏi:

- Vân chỉ huy vừa mới sai người đem năm tấm thiếp mời chị em chúng tôi ngày mai tới dự tiệc, chàng có cho chúng tôi đi hay không?

Tây Môn Khánh đáp:

- Bên đó đã mời thì các nàng cứ đi cho đông đủ. Việc gì còn phải hỏi nữa.

Nguyệt nương bảo:

- Như vậy thì cũng phải để tứ nương ở nhà để lo tiếp khách chứ. Ngày tết ngày nhất, khách khứa tấp nập, chẳng lẽ trong nhà không có ai tiếp đãi hay sao?

Tây Môn Khánh gật đầu:

- Để Tuyết Nga ở nhà cũng được, bốn chị em cứ đi đi. Ngày mai Tiết thái giám cũng mời tôi ra ngoại thành thưởng xuân. Tôi lười đi quá, không hiểu thời tiết mùa xuân thế nào mà bệnh đau lưng của tôi lại có vẻ gia tăng.

Nguyệt nương bảo:

- Lưng chàng đau nhiều, sợ là năm trước chàng ngã ở bờ tường, năm nay làm đau lại chăng, nên mời Nhiệm Y quan tới coi rồi cho thuốc thì hơn, cứ ở đó mà than hay sao.

Tây Môn Khánh cười:

- Mặc kệ nó, không sao đâu, vài hôm chắc hết.

Đoạn bàn với vợ:

- Bây giờ cũng bắt đầu tiết hoa đăng, chẳng lẽ ngày mai mình không soạn tiệc mời các bà các cô hay sao. Ít nhất cũng phải mời Hà nương nương, Chủ Thủ bị phu nhân, Kinh Đô giám phu nhân, cụ thân sinh Trương Đoàn luyện, rồi nhị vị cữu mẫu, mẫu thân Thôi Bản, và cả mẫu thân của Vương Tam nữa chứ. Rồi cũng phải gọi đoàn hát trong phủ Vương Hoàng thân tới và ít nhạc công ca nữ. Lại còn chuyện làm dàn pháo bông nữa. Mọi năm Bôn Tứ lo việc đó, năm nay đi Đông Kinh giờ này cũng chưa về, biết sai ai đây.

Nguyệt nương chưa kịp nói gì thì Kim Liên đã mau miệng:

- Bôn Tứ không có nhà thì sai vợ Bôn Tứ cũng được chứ gì.

Tây Môn Khánh lườm Kim Liên:

- Ai hỏi mà nói? có cái miệng cứ bép xa bép xép.

Nguyệt nương nói:

- Đã đành là phải làm tiệc thưởng đăng, nhưng mẹ của Vương Tam thì chúng tôi chưa một lần quen biết. Người ta không quen với mình, làm sao mà mời, chỉ sợ người ta không tới.

Tây Môn Khánh làm vẻ tự nhiên:

- Lâm thái thái đã bắt con trai nhận tôi là cha nuôi, như vậy cũng là chỗ thân thích, mà đã là thân thích thì mình cứ mời cho người ta khỏi trách, còn tới hay không mặc kệ người ta.

Nguyệt nương nói sang chuyện khác:

- Ngày mai tôi không tới nhà Vân chỉ huy đâu, có thai có nghén mà tết nhất cứ vác bụng đi hết nhà này sang nhà khác rồi người ta nói.

Ngọc Lâu bảo:

- Sợ gì mà sợ, bụng đại nương cũng chưa rõ lắm đâu. Người ta mời thì mình cứ đi, không sao cả, tết nhất thì cũng phải đi đây đi đó cho vui.

Mọi người uống trà nói chuyện. Lát sau Tây Môn Khánh vào phòng Tuyết Ngạ Kim Liên thấy Tây Môn Khánh đến với Tuyết Nga thì giận lắm, bỏ về phòng ngay.

Tây Môn Khánh vào với Tuyết Ngạ Sau phút chuyện trò là giây ân ái. Tây Môn Khánh ít đến với Tuyết Nga, nên đêm đo được Tuyết Nga đối xử rất mặn nồng.

Sáng sớm hôm sau Bá Tước tới, nói với Tây Môn Khánh:

- Hôm qua Vân đại nhân có gửi thiếp tới mời tiện nội hôm nay đi hầu tiệc các tẩu tẩu ở đây. Nhưng tiện nội thì quần áo đã thiếu, lại toàn đồ cũ, nữ trang lại chẳng có gì, ngày tết ngày nhất như vậy sợ người ta cười, nhưng chẳng lẽ lại từ chối không đi. Cho nên tôi phải dậy sớm, nói với đại ca, xem các tẩu tẩu có quần áo nữ trang trâm thoa gì không dùng đến, làm ơn cho tiện nội tôi mượn đỡ để đi dự tiệc.

Tây Môn Khánh quay lại bảo Vương Kinh:

- Ngươi vào trong thưa với Đại nương đi.

Bá Tước nói:

- Ứng Bảo nó đang đợi ở ngoài, có gì đại ca cho gói kỹ lại rồi đưa cho nó.

Vương Kinh vào trong, lúc lâu sau ôm ra một gói lớn, đưa cho Ứng Bảo mà dặn:

- Trong này có hai bộ quần áo bằng đoạn hồng thêu kim tuyến, trâm hoa lớn nhỏ năm cái, và một đôi vòng vàng.

Ứng Bảo gật đầu đem về.

Trên đại sảnh, Tây Môn Khánh mời Bá Tước uống trà rồi nói:

- Hôm nay Tiết thái giám mời tôi ra ngọai thành uống rượu thưởng xuân, nhưng tôi ngại đi quá. Ngô Đạo quan cũng gửi thiếp mời ngày mồng chín tới dự lễ khai xuân, chắc tôi không đi được, để thằng rể tôi đi thay vậy. Mấy hôm nay, chẳng hiểu có phải tôi uống nhiều rượu quá hay không mà đau lưng quá, ngồi đứng đã đau, mà nằm cũng đau nữa.

Bá Tước bảo:

- Có lẽ tại đại ca uống nhiều rượu quá nên hỏa nó tụ Ở hạ bộ, đại ca nên bớt rượu đi thì hơn.

Tây Môn Khánh cười:

- Ngày tư ngày tết, đến nhà nào chẳng bị ép uống rượu, làm sao mà bớt được.

Đang nói chuyện thì Đại An đem thiếp vào thưa:

- Hà đại nhân thỉnh gia gia mồng chín tới dự tiệc thưởng xuân.

Tây Môn Khánh bảo Bá Tước:

- Đó, nhị ca thấy chưa, người ta mời như thế này, không đi sao được.

Nói xong cầm thiếp lên coi, thì thấy có ba cái, một cái mời mình, một cái mời Ngô Khải, một cái mời Bá Tước, mỗi thiếp đều có hàng chữ "vãn sinh Hà Thừa Thọ lạy mời".

Đại An đứng bên nói:

- Gia nhân bên đó nói là Hà đại nhân chưa quen biết nhiều với Ngô Đại cữu và Ứng Nhị gia nên không dám đường đột mời, phải nhờ gia gia cho chuyển giùm.

Tây Môn Khánh đưa thiếp cho Bá Tước, Bá Tước cầm coi rồi tắc lưỡi:

- Thế này là làm sao đây, tôi chưa có chút lễ nào đưa tới Hà đại nhân, làm sao mà đi được.

Tây Môn Khánh bảo:

- Không sao, để tôi soạn lễ vật rồi nhị ca sai Ứng Bảo nó đem tới cho Hà đại nhân là được.

Đoạn quay lại bảo Vương Kinh:

- Ngươi soạn hai lạng bạc, hai tấm khăn lụa, rồi viết thiếp, đề tên nhị gia đây cho ta.

Lại bảo Bá Tước:

- Thiếp mời của Vân chỉ huy, nhị ca cầm rồi đấy nhé, tôi khỏi phải sai người đưa đi.

Nói xong gọi Lai An, bảo đem thiếp mời của Vân chỉ huy tới cho Ngô Khải, Vương Kinh viết thiếp xong, đưa cả thiếp và lễ vật cho Bá Tước, Bá Tước thâu nhận rồi đứng dậy nói:

- Cảm tạ đại ca bất tận, đại ca cho tôi về, rồi ngày kia tôi tới đây sớm, cùng đi với đại ca.

Nói xong cáo từ mà về.

Tới trưa, Nguyệt nương và ba tiểu nương trang điểm lộng lẫy, ngồi một cỗ kiệu lớn, và ba cỗ kiệu nhỏ, vợ Lai Tước là Huệ Nguyên cũng được ngồi một kiệu nhỏ đi theo để hầu hạ. Bốn quân hầu dẹp đường đi phía trước, bốn gia nhân là Cầm Đồng, Kỳ Đồng, Xuân Hồng và Đại An đi phía sau, trực chỉ nhà Vân chỉ huy.

Thê thiếp đi rồi, Tây Môn Khánh gọi gia nhân coi cổng là Bình An vào dặn:

- Bất cứ ai tới hỏi đều nói là ta vắng nhà, có thiếp đưa thì nhận là được rồi.

Bình An vâng lời trở ra canh cổng, không dám lơ là.

Tây Môn Khánh lại thấy đau lưng, chợt nghĩ tới mấy viên thuốc Diên thọ đan do Nhiệm Y quan cho, bèn sai nhân lấy ra uống, rồi xuống phòng Bình Nhi.

Như Ý mặc quần áo mới, đeo nữ trang, mặt tươi như hoa ra nghênh tiếp. Tây Môn Khánh bước vào sai Nghênh Xuân dọn rượu và đồ ăn ra. Nghênh Xuân dọn rượu xong, sang bên Kim Liên, cùng Xuân Mai đánh cờ giải trí.

Bên này, Tây Môn Khánh cùng Như Ý uống rượu, sau đó mặc dầu lưng đang đau, Tây Môn Khánh vẫn cùng Như Ý bày cuộc truy hoan.

Đến tối Nguyệt nương và ba tiểu thiếp mới về nhà.

Nguyệt nương nói với chồng:

- Hôm nay tiệc bên Vân chỉ huy vui lắm. Vân phu nhân cũng đang có mang. Hai chúng tôi mời rượu nhau từ đầu tới cuối, rồi vui miệng ước hẹn là nếu một người sinh trai một người sinh gái thì sẽ trở thành thông gia, nếu cùng sinh con trai thì cho học cùng lớp cùng trường, mà cùng sinh con gái thì cho chúng nó kết làm chị em. Ứng nhị tẩu đứng ra làm bảo chứng. Chàng thấy thế nào?

Tây Môn Khánh cười dài.

Hôm sau sinh nhật Kim Liên, Tây Môn Khánh dậy sớm, trước khi ra nha môn, gọi gia nhân dặn dò treo đèn kết hoa các nơi trong nhà, chuẩn bị tiệc mừng sinh nhật và gọi ca nhạc công tới đàn hát.

Kim Liên trang điểm rực rỡ, mặc xiêm y mới, lên đại sảnh thấy Đại An và Cầm Đồng đang treo đèn thì cười bảo:

- Ta cứ tưởng ai đang làm gì trên này, hoá ra hai đứa ngươi treo đèn.

Cầm Đồng cũng cười:

- Hôm nay là sinh nhật của ngũ nương mà, gia gia sai chúng tôi treo đèn cho đẹp. Thế nào chúng tôi cũng lạy mừng chúc thọ và ngũ nương nhớ thưởng cho chúng tôi đấy nhé.

Kim Liên bảo:

- Mày muốn đánh đòn thì ta có chứ còn thưởng thì không có đâu.

Cầm Đồng bảo:

- Trời đất ơi, hễ nghe ngũ nương nói là chỉ toàn thấy đánh với mắng. Chúng tôi cũng như con cái ngũ nương, ngũ nương phải thương chúng tôi chứ sao lại doa. đánh?

Kim Liên bảo:

- Thôi đi thằng khốn, đừng có nhiều lời, lo treo đèn cho tử tế đi. Hôm nọ mày đi tìm gia gia cho Thôi Bản, mày đứng giữa sân nói ầm lên khiến gia gia bực mình, tội mày rành rành ra đấy, mày chưa bị đòn là phúc lắm, còn nói gì nữa.

Cầm Đồng nói:

- Ngũ nương cứ nói đùa hoài, tôi nhát lắm, ngũ nương đừng dọa tôi.

Đại An hơi giật mình, nhưng vờ tự nhiên hỏi:

- Làm sao ngũ nương biết được chuyện đó?

Kim Liên bĩu môi:

- Chuyện lớn nhỏ, chuyện xa gần gì ở đâu ta còn biết, huống hồ chuyện trong nhà này. Hôm nọ gia gia nói với đại nương là mọi năm có Bôn Tứ ở nhà lo dàn pháo bông, năm nay Bôn Tứ đi vắng, không biết phải sai ai, ta mới nói ngay là Bôn Tứ đi vắng thì sai vợ Bôn Tứ cũng được chứ sao. Ta nói vậy là ngươi đủ hiểu.

Đại An giả vờ:

- Nương nương nói sao chứ Bôn Tứ làm quản lý trong nhà, vợ hắn đâu dám làm chuyện đó.

Kim Liên cười khảy:

- Thế mà chuyện lại xảy ra hai năm rõ mười, giữa ban ngày ban mặt mới là lạ chứ.

Cầm Đồng nói:

- Dù sao thì ngũ nương cũng chẳng nên nói ra, Bôn Tứ về nghe được thì còn ra thế nào.

Kim Liên trừng mắt:

- Bộ ngươi tưởng dối gạt mãi được Bôn Tứ hay sao? Bôn Tứ nó ngốc một chút chứ không có ngu như chúng bay tưởng đâu. Nó đi Đông Kinh, bỏ vợ Ở nhà lâu ngày, bọ nó yên tâm được hay sao? chúng bay là gớm lắm, luôn che chở cho thằng già chủ chúng bay làm yêu làm quỷ ở cái nhà này mà tưởng tao không biết hay sao? còn cái con dâm phụ vợ thằng Bôn Tứ nữa, nó cũng gớm lắm, nó đã biếu bánh trái cho đại nương lại còn đem lễ vật đến chúc thọ tao, hy vọng tao sẽ làm ngợ Tao nghĩ trong vụ này chỉ có thằng Đại An khốn kiếp kia đứng ra bày mưu thiết kế cho gia gia mày với vợ thằng Bôn Tứ mà thôi, chứ không còn ai vào đây nữa.

Đại An kêu lên:

- Ngũ nương nói vậy là chết tôi rồi, tôi có biết chuyện gì đâu. Ngũ nương đừng có ghe lời thóc mách của Hàn tẩu, con mụ đó ăn không nói có ghê lắm. Nhà Bôn Tứ ở gần cổng, gia nhân lớn nhỏ trong nhà này ai cũng quen biết, những lúc ra vào thường ghé nhà Bôn Tứ uống chén trà nói câu chuyện, tôi có thỉnh thoảng ghé nhà Bôn Tứ cũng chỉ như những người khác mà thôi.

Kim Liên bảo:

- Con vợ thằng Bôn Tứ, con mắt ướt rườn rượt là tao biết ngay nó đúng là loài dâm phụ, thật y như con vợ thằng Hàn Đạo Quốc, một loài dâm phụ như nhau có khác.

Kim Liên đang đứng nói thì Tiểu Ngọc chạy tới thưa:

- Đại nương tôi cho thỉnh ngủ nương, Phan lão lão cùng tới rồi, đang cần tiền trả cho phu kiệu.

Kim Liên bảo:

- Quái lạ, ta đứng đây nãy giờ mà bà cụ đến, sao ta không biết?

Cầm Đồng mau miệng:

- Có lẽ phu kiệu đưa lão lão tới theo cổng sau cho gần, từ đó tới đây trả chừng sáu tiền cho phu kiệu là vừa.

Kim Liên bảo:

- Nhưng ta làm gì có tiền mang sẵn đây. Bà cụ thật lạ quá, đến nhà người ta mà không đem tiền trả tiền kiệu là thế nào.

Nói xong vào hậu phòng chào Nguyệt nương và mẹ mình, nhưng làm lơ chuyện trả tiền cho phu kiệu, Phan bà hỏi thì Kim Liên chỉ đáp:

- Không có.

Nguyệt nương bảo:

- Ngũ nương cứ đưa tiền cho lão bà rồi tính vào tiền mua thức ăn cũng được.

Kim Liên đáp:

- Gia gia đưa tiền cho tôi là để mua thức ăn làm tiệc chứ không phải để trả tiền kiệu cho ai hết.

Lần lữa mãi, ngoài sân, đám phu kiệu giục trả tiền. Ngọc Lâu thấy vậy bèn lấy trong tay áo ra một tiền, bảo a hoàn đem trả cho phu kiệu để họ đi. Kim Liên cũng chẳng nói gì.

Lát sau thì Đại cữu mẫu, Nhị cữu mẫu và sư bà Đại sư phụ tới. Phan bà trở về phòng con gái, bị Kim Liên cằn nhằn một hồi, Kim Liên nói:

- Không có tiền trả tiền kiệu thì ai bảo lại đây làm gì cho người ta cười như vậy?

Phan bà bảo:

- Con ơi, con không cho tiền thì làm sao ta có tiền?

Kim Liên cau có:

- Lần nào đến là cũng đòi tiền, tôi đào đâu ra tiền mà cho bây giờ. Mẹ thấy đấy, tiêu xài cái gì là có cả chục con mắt dòm ngó, làm sao suy suyển đi đâu được một đồng một chữ của người ta được. Lần sau mẹ có tiền trả tiền kiệu thì hãy tới, còn không thì đừng tới làm gì. Nhà này không cần thứ thân thích khốn cùng như mẹ đâu. Tôi không muốn vì mẹ mà phải nghe những lời chó má nói động đến tôi. Lần trước cũng vậy, chỉ vì mẹ mà tôi bị người ta chửi mắng đủ điều, mẹ tưởng tôi ở đây sung sướng lắm sao, mẹ có nằm trong chăn đâu mà biết chăn có rận.

Kim Liên dứt lời thì Phan bà khóc hu hụ Xuân Mai đứng cạnh nói:

- Nương nương hôm nay làm sao vậy?

Nói xong an ủi Phan bà rồi bưng trà lại mời. Phan bà uống trà xong thì giận dữ bỏ sang phòng bên nằm. Lát sau, a hoàn ra mời vào ăn cơm, Phan bà mới vào hậu phòng với Nguyệt nương.

Tây Môn Khánh cũng vừa từ nha môn trở về, đang sửa soạn ăn cơm thì Đại An vào thưa:

- Kỉnh lão gia vừa được thăng Đông nam thống chế, đang tới bái kiến gia gia.

Nói xong đưa thiếp lên, Tây Môn Khánh cầm xem, thấy viết "Đông nam thống chế tân thăng kiêm đốc tào vận tổng binh Kih Trung cúi lạy". Tây Môn Khánh vừa cởi bỏ mũ áo, lại phải mặc vào bước ra nghênh tiếp. Kinh Thống chế mặc lễ phục kỳ lân đại hồng, đeo đai vàng bước vào, theo sau là đám tùy tùng. Tây Môn Khánh mời lên đại sảnh thi lễ. Đôi bên phân ngôi chủ khách, ngồi uống trà nói chuyện. Kinh Thống chế nói:

- Văn thư thăng chức mới tới hôm nọ nên vãn sinh cũng chưa đáo nhậm chức vụ mới, nhưng phải tới tạ Ơn đại nhân trước đã.

Tây Môn Khánh nói:

- Vãn sinh xin chia mừng cùng tân Thống chế, thế mới biết đại tài thì đại dụng, đó là lẽ tự nhiên. Chúng tôi đây cũng được thơm lây, để hôm khác vãn sinh sẽ tới chúc mừng.

Nói xong sai gia nhân dọn rượu rồi nói tiếp:

- Thỉnh đại nhân cởi áo ngoài, dùng cùng vãn sinh chén rượu xuân.

Kinh Thống chế cám ơn rồi từ chối:

- Vãn sinh tới đây cáo với đại nhân trước hết để tỏ lòng kính trọng cho nen còn phải đi bái kiến nhiều nơi nữa, hôm khác sẽ tới hầu chuyện đại nhân lâu hơn.

Nói xong định đứng dậy cáo từ, nhưng Tây Môn Khánh nhất định giữ lại. Kinh Thống chế đành cởi áo ngoài, ngồi lại uống rượu. Bữa tiệc xuân gồm toàn cao lương mỹ vị, thịt béo rượu nồng. Mới qua một tuầu rượu thì thấy hai ca công Trịnh Xuân và Vương Tương vào lạy chào.

Tây Môn Khánh hỏi:

- Sao giờ này mới tới? còn tên kia là ai?

Trịnh Xuân đáp:

- Đó là Vương Tương, em trai của Vương Quế Nhi.

Tây Môn Khánh gật đầu, bảo hai ca công đàn hát. Lại sai gia nhân đem hai mâm đồ ăn và hai hũ rượu lớn ra khoản đãi đám tùy tùng của Kinh Thống chế. Kinh Thống chế nói:

- Thế này thì quấy quả đại nhân quá, vãn sinh đã được uống rượu mà đám thuộc hạ cũng được khoản đãi, thật không biết lấy gì báo đáp.

Nói xong gọi đám thuộc hạ lên lạy tạ Tây Môn Khánh.

Bữa tiệc lại tiếp tục, Tây Môn Khánh nói:

- Một hai hôm nữa tiện nội sẽ mạo muội thỉnh lệnh phu nhân hạ cố tới xem đèn và dự tiệc thưởng xuân, thế nào cũng xin lệnh phu nhân dời gót tới chọ Hôm đó cũng chỉ có lệnh phu nhân, Trương Đoàn luyện phu nhân, Hà thiên hộ phu nhân và vài thân thích của tiện nội mà thôi.

Kinh Thống chế nói:

- Nếu lệnh phu nhân đây đã có lòng như vậy thì tiện nội nhất định phải đến.

Tây Môn Khánh hỏi:

- Chẳng hay Chu đại nhân có tin tức thăng thưởng gì không?

Kinh Thống chế đáp:

- Tôi nghe noi là cuối xuân này, Chu Thủ bị đại nhân sẽ được thăng chức và thuyên chuyển về kinh.

Tây Môn Khánh nói:

- Vậy cũng mừng.

Ăn uống một lúc lâu, Kinh Thống chế đứng dậy cáo từ, đám tùy tùng la hét dẹp đường mà về.

Tối hôm đó, tiệc mừng sinh nhật Kim Liên được tổ chức tại hậu đường. Tiệc xong, Tây Môn Khánh đến với Kim Liên.

Tây Môn Khánh đi rồi, Nguyệt nương mời Phan bà, Tây Môn Đại Thư, Úc Đại Thư và hai vị sư bà ngồi lại uống rượu chuyện trò.

Trong khi đó, tại phòng riêng, Kim Liên sai Xuân Mai dọn tiệc mới, cùng Tây Môn Khánh thù tạc.

Lát sau Phan bà về phòng con gái, nhưng Kim Liên bảo Thu Cúc đưa Phan bà sang ngủ tại phòng Bình Nhị Phan bà được Như Ý, Nghênh Xuân và Tú Xuân đón tiếp niềm nở, Phan bà nhìn ngắm bàn thờ, và chân dung Bình Nhi ở phòng ngoài rồi vào phòng trong ngồi, nói với Như Ý và Nghênh Xuân:

- Nương nương của các ngươi mất đi, được quan nhân lo thờ phượng săn sóc như thế này, quả là nương nương có phúc lắm.

Như Ý bảo:

- Hôm nọ làm lễ trăm ngà cho nương nương tôi, gia gia tôi có cho mời lão lão, sao không thấy lão lão đến. Hoa Đại cữu mẫu và Ngô Đại cữu mẫu cũng có tới. Hôm đó làm lễ lớn lắm, có mười hai vị đạo sĩ tụng kinh, tới tối mới xong.

Phan bà nói:

- Năm cùng tháng tận bận nhiều việc, hôm đó thằng con trai tôi lại vắng nhà, nhà không có ai nên không bỏ mà đi được.

Đoạn hỏi:

- À mà sao hôm nay không thấy Dương cô nương tới?

Như Ý đáp:

- Vậy thì lão lão không biết rồi, Dương cô nương bệnh mà mất từ hồi trong năm, các nương nương đều có tới lo dùm việc ma chay.

Phan bà nói:

- Tội nghiệp, hèn gì hôm nay không thấy tới, Dương lão cũng bằng tuổi tôi đấy.

Như Ý nói:

- Có sẵn rượu ngon đây, lão lão dùng vài chung cho vui.

Đoạn quay lại bảo Nghênh Xuân:

- Em dọn bàn dọn rượu mời lão lão dùng.

Rựou dọn ra, Như Ý ngồi tiếp Phan bà. Phan bà nói:

- Lục nương quả là người nhân nghĩa. Mỗi lần tôi tới, lục nương đều đối xử ân cần kính trọng, không hề xem tôi là người ngoài. Lần nào cũng mời ăn uống, tối đến lại cùng tôi trò chuyện tới khuya, lúc tôi về nhà lại tặng này tặng nọ, chẳng bao giờ để tôi về tay không. Người như thế mà trời không cho thọ. Chằng giấu gì các thư thư, cái áo tôi đang mặc đây cũng là của lục nương cho tôi ngày trước đó. Thật chẳng bù cho con gái ruột của tôi, chẳng bao giờ nó cho tôi được cái gì. Tôi không phải nói gì chứ, Ai Di Đà Phật, nó mà cho tôi được một đồng một chữ nào, cứ gọi là chặt đầu tôi đi. Đã thế, mỗi lần lục nương cho tôi cái gì, nó lại còn bảo tôi là tham lam, thấy của người khác thì tối mắt lại mà nhận. Cũng như hôm nay đó, có chút ít tiền trả phu kiệu, mà nó cũng nhất định không chịu cho tôi, tôi hỏi hai ba lần, nó một mực bảo là không có. Về sau tam nương phải bỏ tiền ra trả phu kiệu cho tôi. Về tới phòng nó lại còn chửi mắng tôi một hồi, bảo là lần sau không có tiền trả tiền kiệu thì đừng đến nữa. Lần này tôi về, sẽ không bao giờ tới đây nữa, tới làm gì với đứa con vô phúc đó. Thiên hạ nhiều người xấu, nhưng chắc chắn chẳng ai xấu như đứa con chết tử chết tiệt đó đâu. Chắc nay mai tôi chết nó cũng không thèm biết đến nữa. Tôi thường bảo nó là cha mày chết năm mày mới bảy tuổi, vậy mà tao chịu gáo bụa nuôi mày, dạy mày vá may nấu nướng, lại cho đến trường nữ học của Từ tú tài học chữ, đến nay mày mới được thông minh lanh lợi như vậy, thế mà mày nỡ xử tệ với tao, không thèm ngó ngàng đến tao. Con với cái thế đấy.

Như Ý bảo:

- Thì ra ngũ nương lúc nhỏ có được đi học, hèn gì bây giờ giỏi chữ lắm.

Phan bà nói:

- Năm nó bảy tuổi tôi đã cho tới trường nữ học, được ba năm thì nó đọc hay viết giỏi mà thi từ ca phú gì cũng biết ít nhiều.

Đang nói chuyện thì nghe bên ngoài có tiếng gọi cổng, Như Ý hỏi vọng ra:

- Ai đó?

Đoạn quay lại bảo Tú Xuân:

- Em chạy ra xem ai ở ngoài đó vậy?

Tú Xuân bước ra rồi trở vào bảo:

- Chị Xuân Mai tới.

Như Ý vội khóat tay bảo Phan bà:

- Thôi lão lão đừng nói gì nữa, Xuân Mai nó sang đấy.

Phan bà bĩu môi:

- Tôi biết rồi, nó với đứa con bất hiếu của tôi là cùng một phe mà.

Như Ý mời Xuân Mai vào cùng ngồi nói chuyện uống rượu, Xuân Mai nói:

- Tôi sang bên này nói chuyện với lão lão cho vui.

Phan bà hỏi:

- Gia gia và nương nương ngủ chưa?

Xuân Mai đáp:

- Tôi vừa hầu cho gia gia và nương ngương ngủ xong thì sang đây, cũng có ít đồ ăn, và một bình rượu để lão lão dùng.

Đoạn quay lại bảo Tú Xuân:

- Phiền thư thư sang bảo Thu Cúc nó đem qua đây cho tôi mời lão lão.

Tú Xuân bước ra, lát sau đem bình rượu Kim Hoa về. Thu Cúc bưng một mâm đồ ăn theo sau. Như Ý bày rượu và đồ ăn lên bàn. Xuân Mai dặn Thu Cúc:

- Mày về phòng đi, gia gia hay nương nương có gọi thì sang đây kêu tao.

Thu Cúc quay ra, mọi người tiếp tục ăn uống. Cá thịt đầy ăm ắp một bàn.

Tú Xuân ra đóng cổng rồi vào ngồi cùng mọi người. Xuân Mai rót rượu ra chung, hai tay nâng mời Phan bà và Như Ý, rồi gắp đồ ăn vào bát cho Nghênh Xuân và Tú Xuân, đoạn bảo Phan bà:

- Đây toàn là thức ăn ngon từ hậu phòng đem ra, lão lão dùng nhiều đi mới được.

Phan bà đáp:

- Cám ơn thư thư, cứ để tôi tự nhiên. Thật chẳng bao giờ con gái tôi nó dọn tiệc đãi tôi hoặc mời tôi được một tiếng. Thư thư nếu biết thương cha thương mẹ, biết kính trọng người già thì đừng bắt chước con gái tôi, nó là đứa bất hiếu bất nhân, vô ơn vô nghĩa, là thứ oan gia của tôi mà thooi. Hễ tôi khuyên bảo nó thì nó lại sừng sộ với tôi, như hôm nay có thư thư biết đấy, thật nhục nhã cho tôi quá.

Xuân Mai đáp;

- Thôi lão lão cũng đừng chấp nhất. Lão lão biết một mà chẳng biết hai. Nương nương tôi tính tình coi vậy chứ tâm địa chằng có gì, chẳng qua là hơi cứng cỏi, không chịuw nhịn người khác mà thôi. Nương nương tôi làm sao so được với đại nương. Đại nương một tay nắm giữ tiền bạc, còn nương nương tôi làm gì có tiền. Người khác không biết, nhưng tôi biết rõ ràng như vậy. Cho nên lão đừng trách là nương nương tôi có tiền mà không cho lão lão. Gia gia tôi tuy lắm tiền nhiều của thật, nhưng nương nương tôi chẳng bao giờ thèm ngó tới. Cần tiêu pha mua sắm thứ gì thì nương nương thẳng thắn hỏi gia gia, không hề có chuyện giấu giếm tiền bạc làm của riêng bao giờ. Vậy mà lão lão trách là không phải, khong phải là tôi bênh nương nương tôi, nhưng cứ công bằng vô tư mà nói sự thật vậy đó.

Như Ý vờ nói:

- Xuân Mai đây nói phải, mẹ con ruột thịt, nếu ngũ nương có tiền bạc thì chỉ cho lão lão chứ còn cho ai bây giờ, cho nên lão lão cũng đừng phiền trách ngũ nương.

Phan bà đáp;

- Tôi gần đất xa trời, sống nay chết mai, chẳng biết lúc nào, cho nên tôi cũng chẳng thèm giận hờn phiền trách nó làm gì.

Nói xong nâng chung mà uống. Xuân Mai thấy Phan bà uống rượu được, liền bảo Nghênh Xuân:

- Thư thư đem con súc sắc ra đây, mình búng súc sắc uống rượu cho vui.

Nghênh Xuân đem súc sắc ra, mọi người lần lượt gieo súc sắc, uống rượu vui vẻ. Lát sau thì bình rượu lớn đã cạn, người nào cũng có vẻ saỵ Nhưng Nghênh Xuân lại vào trong lấy ra một vò rượu nữa. Mọi người tiếp tục ăn uống. Khoảng canh hai thì Phan bà uống nhiều, vừa say vừa mệt, phải dựa vào gối mới ngồi nổi. Mọi người thấy vậy mới chịu đứng dậy, sửa soạn chỗ ngủ.

Xuân Mai về tới phòng, thì thấy Thu Cúc đang ghé mắt ấp tai vào khe cửa mà nhìn nghe chuyện bên trong của Tây Môn Khánh và Kim Liên. Thu Cúc say mê theo dõi đễn nỗi Xuân Mai bước tới sau lưng cũng không hay biết, Xuân Mai giận quá, đánh Thu Cúc một bạt tai nẩy đom đóm mà mắng:

- Con chêt đâm chết dịch, con dâm phụ voi giầy ngựa xé kia, mày nhìn cái gì?

Thu Cúc bị đanh đau nhưng không dám khóc, chỉ ấp úng:

- Đâu có, tôi có nhìn cái gfi đâu, sao thư thư lại đánh tôi?

Kim Liên từ trong hỏi vọng ra:

- Chuyện gì vậy?

Xuân Mai đáp lớn:

- Thưa không có chuyện gì, tôi bảo Thu Cúc ra đóng cổng, nó không chịu ra nên tôi mắng nó mấy câu mà thôi.

Thu Cúc lầu bầu ra đóng cổng, Xuân Mai lên giường ngủ.

Hôm sau, đám đàn bà như vợ của các quản lý Phó, Cam, Bôn Tứ, Thôi Bản, Đoạn Lục Thư, Trịnh Tam Thư, và Ngô Nhị cữu mẫu đều có mặt.

Lát sau thì Ngô Đại cữu và Bá Tước đến, cùng Tây Môn Khánh cưỡi ngựa, có quân hầu dẹp đường tới nhà Hà thiên hộ dự tiệc. Chu Thủ bị cũng tới. Tiệc gồm đủ các quan trong phủ huyện, canh tiệc có bốn ca nữ đàn hát. Tối hôm đó, Tây Môn Khánh mới về nhà, nhưng ngủ tại phòng Bình Nhi với Như Ý.

Hôm sau, Tây Môn Khánh sai gia nhân đem thiếp tới mời các phu nhân vợ các quan ngày mười hai tới dự tiệc thưởng đăng. Nguyệt nương bảo chồng:

- Mình cũng phải mời Mạnh đại di và đại di của tôi, kẻo sau này hai người đó trách là mời đủ mọi người mà không mời họ.

Tây Môn Khánh nói:

- Cũng may là nàng nhắc sớm chứ không thì quên bẵng đi mất.

Đoạn bảo Kính Tế viết thiếp rồi sai Cầm Đồng đi.

Kim Liên ngồi trong phòng suy nghĩ một hồi, rồi lên thượng phòng giục mẹ về nhà. Nguyệt nương bảo:

- Lão lão việc gì phải vội về như vậy, xin ở lại chơi một hai ngày nữa.

Kim Liên nói:

- Nhà không có ai, xin đại nương để mẫu thân tôi về trông coi nhà cửa.

Nguyệt nương vội sai a hoàn lấy một cái quả lớn ra xếp đồ ăn và bánh trái tặng Phan bà, lại biếu thêm một tiền để trả tiền kiệu rồi tiễn về.

Kim Liên quay lại nói với Kiều Nhi:

- Hôm nay và mấy ngày nữa, nhà này toàn là khách giàu có sang trọng tới, không để bà lão về thì còn giữ lại làm gì. Bà lão nghèo nàn, áo quần chẳng có, xốc xa xốc xếch cứ như con mụ vú già, thật bực cả mình.

Kiều Nhi không nói gì, Nguyệt nương hơi khó chịu nhưng cũng im lặng.

Tây Môn Khánh gọi Đại An vào, sai cầm hai tấm thiếp tới mời Lâm thái thái và vợ Vương Tam tại phủ Vương Chiêu Tuyên. Lại sai gọi bốn ca nữ Quế Nhi, Ngân Nhi, Ái Nguyệt và Hồng Tứ cùn các ca công Lý Minh, Ngô Huệ, và Trịnh Xuân.

Cũng hôm đó, Bôn Tứ từ Đông Kinh về tới. Sau khi ghé nhà tắm rửa, ăn mặc sạch sẽ, khăn áo chỉnh tề, Bôn Tứ tới đại sảnh lạy chào chủ và đưa thư của Hạ chỉ huy, Tây Môn Khánh hỏi:

- Sao bây giờ ngươi mới về?

Bôn Tứ cho biết là bị cảm hàn ở kinh, đoạn nói tiếp:

- Cho nên mãi tới mồng hai tết tôi mới lên đường trở về được. Hạ chỉ huy dặn đi dặn lại là thưa với gia gia rằng rất cảm ơn về sự giúp đỡ của gia gia.

Tây Môn Khánh lại trao chìa khoá cửa tiệm tơ lụa cho Bôn Tứ. Lại mở thêm một tiệm tơ lụa khác để cho Ngô Nhị cữu trông nom. Trao chìa khoá xong, Tây Môn Khánh dặn:

- Hôm nào thuyền hàng ở Tùng Giang về thì chứa hàng tại tiệm ở đường Sư Tử, người cùng với Lai Bảo đứng bán. Ngươi cùng gọi thợ, làm dàn pháo bông tại sân, để tới mười hai này ngươi đốt cho khách xem.

Lát sau, Ứng Bá Tước dẫn Lý Tam tới. Tây Môn Khánh mời hai người uống trà nói chuyện, Bá Tước mở lời:

- Lý Tam đây có chuyện buôn bán muốn thưa với đại ca, chẳng biết đại ca có chịu không?

Tây Môn Khánh hỏi:

- Buôn bán gì vậy?

Lý Tam nói:

- Ở kinh vừa sức văn thư đi mười ba tỉnh, nói là mỗi tỉnh bỏ ra hai vạn lạng bạc để mua những đổ cổ khí. Phủ Đông Bình mình đây lớn, nên cũng xuất ra hai vạn lạng. Hiện Trương Nhị Ở gần huyện đường muốn đứng ra lãnh làm các đồ cổ ngoạn đó để nhận một vạn lạng. Hiện hãy còn một vạn lạng nữa lưu tại phủ Tuần án. Nay tôi bàn với nhị gia đây, thưa với lão gia là một bên là lão gia, cùng với tôi, Hoàng Tứ và một hai người nữa hùn vốn với Trương Nhị, đứng ra nhận làm, tiền lời thì chia đôi. Vụ này lợi lớn trông thấy, chẳng hay tôn ý thế nào?

Tây Môn Khánh hỏi:

- Đồ cổ ngoạn, nhưng là những đồ gì?

Lý Tam đáp:

- Nếu vậy thì lão gia chưa biết, hiện ở kinh, trong hoàng thành mới dựng thêm hai khu gọi là Thọ Nhạc, gồm rất nhiều đền đài điện các, lại xây thêm Thanh Bảo lục cung, Tuyền Thần điện và một ngôi các làm chỗ trang điểm cho An phi nương nương, cần rất nhiều tới các đồ để bày biện như đỉnh, lư, mâm, bình phong, bàn ghế, tràng kỷ, nhưng phải là thứ thật quý và thật tinh xảo.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nếu vậy thì tôi chẳng cần phải hùn hạp với ai, tôi lo một mình việc này cũng được, tôi dám bỏ tiền ra mà.

Lý Tam nói:

- Nếu lão gia đứng ra lo một mình lại càng tốt, lão gia có cần gì thì đã có chúng tôi và nhị gia đây. Chúng tôi và nhị gia đâu phải là người ngoài.

Tây Môn Khánh lại hỏi:

- Văn thư đó hiện ở đâu?

Lý Tam đáp:

- Hiện ở phủ Tuần án, chưa có công bố.

Tây Môn Khánh bảo:

- Được rồi, để tôi viết phong thư và soạn ít lễ, nhờ Tống Ngự sử là được.

Lý Tam nói:

- Xin lão gia đừng chậm trễ, thời buổi bây giờ nhanh chân nhanh tay mới kiếm ăn được, tôi e rằng có thể người khác sẽ đứng ra tranh mất.

Tây Môn Khánh cười:

- Không lo, ngoài Tống Ngự sử thì Tri huyện hay Phủ doãn cũng là chỗ quen biết, tôi không làm thì thôi, chứ không ai tranh được hết.

Nói xong giữ hai người ở lại ăn cơm uống rượu, lại nói:

- Hôm nay tôi viết thư, ngày mai sẽ sai người đem đi.

Lý Tam nói:

- Nhưng còn chuyện này, là Tống công hiện không có ở đây, nghe nói là đã tới Duyện Châu tra xét công việc rồi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nếu vậy thì ngày mai Lý ca theo người của tôi tới Duyện Châu.

Lý Tam nói:

- Như vậy vừa đi vừa về cũng năm sáu ngày, nhưng không sao, để tôi cùng đi cũng được, lão gai cứ viết thư, sai ai đi thì bảo người đó đêm nay tới nghỉ tại nhà tôi, sáng mai đi cho sớm.

Tây Môn Khánh bảo:

- Các gia nhân của tôi thì Tống công không nhớ mặt, ngày thường Tống công tỏ ra quý mến Xuân Hồng, để tôi bảo Xuân Hồng và Lai Tước cùng đi.

Bá Tước nói:

- Đại ca làm việc mau mắn như vậy mới được, mình chậm một chút là lỡ việc ngay.

Cơm rượu dọn ra, hai người ăn uống no nê rồi cáo từ.

Tây Môn Khánh gọi Kính Tế, sai viết thư, rồi lấy ra mười lạng vàng lá, đưa thư và vàng cho Xuân Hồng và Lai Tước rồi dặn:

- Đi đường nên cẩn thận, gặp Tống công thì xin mượn bản văn thư đó, nếu văn thư đã chuyển lên phủ rồi thì nói với Tống công lấy về gìum cho, rồi nhớ về cho sớm.

Lai Tước nói:

- Xin gia gia yên tâm, chúng tôi hiểu rồi, tôi cũng từng hầu hạ Từ Tham nghị Ở Duyện Châu, cũng biết đường đi nước bước.

Nói xong cùng Xuân Hồng nhận thư và vàng, tới nhà Lý Tam ngủ.

Hôm sau, ngày mười một, Xuân Hồng, Lai Tước và Lý Tam từ canh năm đã lên đường đi Duyện Châu.

Ngày mười hai, Tây Môn Khánh ở nhà lo tiệc thưởng đăng khoản đãi phu nhân các quan và đám thân thích đàn bà. Cũng mời Ngô Đại cữu, Ứng Bá Tước, Tạ Hy Đại và Thường Trĩ Tiết tới uống rượu xem đèn với mình.

Đoàn hát tại phủ Vương Hoàng thân đã dọn đồ đạc tới từ sớm.

Chu Thủ bị phu nhân bị đau mắt, không tới được, có sai gia nhân tới báo. Kính Thống chế phu nhân, Trương Đoàn luyện phu nhân, Vân chỉ huy phân nhân, Kiều Đại nương, mẹ Thôi Bản, Ngô Đại di, Mạnh Đại di tới trước. Chỉ còn thiếu Hà Thiên hộ phu nhân, Lâm thái thái và vợ Vương Tam. Tây Môn Khánh vội sai Đại An, Cầm Đồng và mấy quân hầu đi mời một lần nữa. Lại sai cả Văn tẩu tới giục Lâm thái thái và vợ Vương Tam.

Tới trưa mới thấy Lâm thái thái ngồi đại kiệu tới. Thi lễ xong, Tây Môn Khánh hỏi:

- Vương Tam nương sao không thấy tới?

Lâm thái thái đáp:

- Tiện nam vắng nhà, nhà không có ai, nó phải ở nhà coi nhà.

Lát sau thì Hà Thiên hộ phu nhân ngồi trên cỗ đại kiệu bốn người khiêng, gia nhân a hoàn ngồi hàng chục kiệu nhỏ đi theo. Đoàn kiệu tiến vào sân, Hà Thiên hộ phu nhân xuống kiệu. Trong này dàn nhạc thổi lên chào mừng. Nguyệt nương và đám tiểu nương bước ra nghênh tiếp vào thượng phòng. Hà Thiên hộ phu nhân xin mời Tây Môn Khánh vào để bái kiến. Bái kiến xong, Tây Môn Khánh vào hoa viên, Nguyệt nương mời khách ra đại sảnh nhập tiệc. Mọi người phân ngôi thứ mà ngồi.

Tiệc bắt đầu, đoàn hát diễn tích "Tiểu Thiên Hương bán dạ triều nguyên". Sau đó bốn ca nữ đàn hát.

Trong khi đó, tại nhà khách trong hoa viên, Tây Môn Khánh cùng anh vợ và bạn bè nhập tiệc, có ba ca công đàn hát.

Tới tối, tiệc lại được dọn ra, gia nhân đốt đền hoa khắp nơi.

Tại nhà khách trong hoa viên, mọi người tiếp tục ăn uống thì Tây Môn Khánh ngủ gà ngủ gật, Bá Tước hỏi:

- Bộ hôm nay đại ca không vui hay sao mà buồn ngủ vậy?

Tây Môn Khánh đáp:

- Cả đêm hôm qua không hiểu sao mất ngủ nên hôm nay buồn ngủ quá.

Lát sau thì đám ca công vào đàn hát trên đại sảnh, bốn ca nữ vào đàn hát trong nhà khách hoa viên. Bá Tước bảo Ái Nguyệt và Hồng Tứ đàn hát, còn Quế Thư và Ngân Thư chuốc rượu.

Tiệc đang vui thì Đại An vào ghé tai chủ nói nhỏ:

- Lâm thái thái và Hà phu nhân ra về.

Tây Môn Khán bèn bước ra lén nhìn hai người đó lên kiệu.

Hà phu nhân đã thay áo đại hồng kim tuyến. Lâm thái thái thì thay áo đoạn bạch, đeo kiềng vàng vòng ngọc.

Nguyệt nương và đám tiểu thiếp tiễn ra tới cổng mới quay vào. Sau khi nhìn lén Lâm thái thái và Hà phu nhân, Tây Môn Khánh trở lại nhà khách hoa viên, uống rượu nghe hát cùng Ngô Đại cữu, Ứng Bá tước và Thường Trĩ Tiết, Tạ Hy Đại.

Trên đại sảnh, đám khách đàn bà tiếp tục ăn uống một lúc nữa rồi ra sân xem Bôn Tứ đốt pháo bông, sau đó ra về.

Kính Tế sai khoản đãi đoàn hát ăn uống, sau đó thưởng hai lạng bạc rồi cho về, còn ba ca công thì trở vào nhà khách hoa viên, cùng bốn ca nữ thay nhau đàn hát. Bá tước hỏi:

- Ngày mai là sinh nhật Hoa Đại cữu, chằng hay đại ca đã cho đem lễ tới chưa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Sáng sớm nay tôi đã sai đem tới rồi.

Đại An đứng sau nói:

- Hồi trưa Hoa Đại cữu cũng sai Lai Định tới đưa thiếp mời.

Bá tước lại hỏi:

- Ngày mai đại ca có đi không để tôi tới cùng đi với.

Tây Môn Khánh đáp:

- Cũng chưa chắc, để ngày mai coi đã, nhị ca cứ đi trước đi.

Lát sau bốn ca nữ kéo nhau vào hậu phòng. Các ca công vẫn tiếp tục đàn hát, nhưng Tây Môn Khánh lại dựa vào ghế mà ngủ. Ngô Khải nói:

- Suốt mấy hôm nay dượng lo việc mệt nhọc, hôm nay cũng nên đi nghỉ sớm, để chúng tôi về.

Nói xong đứng dậy cáo từ, nhưng Tây Môn Khánh không chịu, nhất định giữ lại. Bữa tiệc kéo dài tới hết canh hai mới vãn.

Tây Môn Khánh thưởng cho ba ca công mỗi người hay chung rượu lớn và sáu tiền rồi cho về. Ba ca công lạy tạ. Tây Môn Khánh dặn:

- Ngày rằm này ta đãi tiệc các quan. Lý Minh nhớ gọi giùm ta mấy ca nữ, đừng có quên đấy.

Lý Minh hỏi:

- Lão gia định cho gọi ai?

Tây Môn Khánh bảo:

- Thì gọi mấy đứa ít tới đây như Tần Ngọc Chi, Phùng Kim Bảo chằng hạn.

Lý Minh đáp:

- Thưa vâyng, tôi hiểu rôi.

Nói xong lạy chào mà về. Tây Môn Khánh vào thượng phòng, Nguyệt nương nói:

- Hôm nay Lâm thái thái và Kinh phu nhân vui nhất. Kinh phu nhân cứ năm lần bảy lượt cảm tạ vợ chồng mình, nói là nhờ có lão gia mà Kinh đại nhân mới được thăng chức vẻ vang. Kinh phu nhân cũng cho biết là sang tháng thì Kinh đại nhân phải đi Hoài An coi việc vận lương. Còn Hà phu nhân thì uống rượu được lắm, lại có vẻ thích làm bạn với Ngũ nương nhà này.

Tây Môn Khánh gật đầu vui vẻ.

Tối hôm đó, Tây Môn Khánh ngủ tại thượng phòng.

Trời vừa sáng, Nguyệt nương đánh thức chồng dậy mà bảo:

- Hồi canh ba đem qua tôi nằm mợ Không biết có phải vì hôm qua Lâm thái thái lúc mới tới mặc áo đại hồng hay không mà tôi nằm mơ thấy chàng mở rương của Lục nương lấy một cái áo đại hồng mặc cho tôi, nhưng lại bị Ngũ nương sấn tới giật mất, rồi mặc vào mình. Tôi giận quá bảo "Áo của muội muội đâu sao không lấy mà mặc, lại giật cái áo gia gia cho tôi?" Ngũ nương giận, xé ngay cái áo ra. Tôi tức quá la lên rồi mắng cho một trận ầm ĩ cả lên. Lúc tỉnh dậy hoá ra chỉ là một giấc mộng.

Tây Môn Khánh bảo:

- Không sao, để tôi bảo may cho nàng một cái áo đại hồng thật đẹp, bởi vì mình ao ước cái gì thì hay nằm mơ thấy cái đó.

Lát sau trở dậy, Tây Môn Khánh thấy đầu nặng, lưng đau, nên lười, không muốn ra nha môn làm việc, chỉ chải đầu rửa mặt rồi lên thư phòng nằm dài, sai Vương Kinh đấm lưng.

Ngọc Tiêu đem sữa và thuốc tới cho chủ uống rồi trở vào thượng phòng. Nguyệt nương lại sai Tiểu Ngọc đem cháo tới cho chồng ăn.

Tới trưa, đến giờ cơm mà không thấy chồng vào. Nguyệt nương không hiểu Tây Môn Khánh đi đâu, bèn đích thân tới thư phòng. Nguyên là Vương Kinh đem tới cho chủ một cái túi, rồi nói là chị mình mời Tây Môn Khánh tới nhà. Tây Môn Khánh mở cái túi ra, thấy một đai gấm thật đẹp, mặt trong là những sợi tơ ngũ sắc bện lại thành một giải đồng tâm kết, lại có một cái túi dùng để đựng bạc, ngoài thêu hai con uyên ương, đường thêu rất khéo. Tây Môn Khánh vui lắm, đang say mê ngắm nghía mấy tặng vật của Vương thị, thì Nguyệt nương thình lình bước vào, bảo:

- Chàng ở ngòai này mà tôi cứ tưởng chàng đi đâu, trong nhà cơm cháo dọn sẵn cả rôi, sao chàng không vào ăn? chàng thấy trong người thế nào?

Tây Môn Khánh vội giấu mấy món đồ ra phía sau rồi đáp:

- Chẳng hiểu sao cứ thấy khó chịu trong người lưng thì đau lắm.

Nguyệt nương bảo:

- Đau thì phải uống thuốc chứ, chàng phải lo thuốc thang cho đầy đủ, đừng có lười mới được.

Nói xong dẫn chồng vào hậu phòng ăn cháo. Lát sau Nguyệt nương bảo chồng:

- Ngày xuân thì chàng cũng phải vui vẻ hoạt động lên một tí chứ. Hôm nay là sinh nhật của Hoa Đại cữu đó, sao chàng không rủ Ứng nhị ca tới đây cùng đi cho vui?

Tây Môn Khánh bảo:

- Chắc là Ứng nhị ca đã đi trước rồi. Thôi, nàng lo rượu và đồ ăn để tôi tới cửa tiệm ở đường Sư Tử, gần chợ đèn, uống rượu trò chuyện với nhị cữu cho khuây khoa? vậy.

Nguyệt nương đáp:

- Chàng cứ đi đi, rồi tôi bảo chúng nó đem rượu thịt tới sau.

Tây Môn Khánh trở ra thư phòng, sai Đại An dắt ngựa ra, gọi Vương Kinh đi theo.

Tới chợ đèn, xe ngựa dập dìu, khách du xuân coi đèn tấp nập, khung cảnh thật tưng bừng nhộn nhịp. Tây Môn Khánh coi đèn một lúc rồi tới tiệm tơ lụa của mình ở cạnh đó. Vương Kinh vào báo, Ngô Nhị cữu và Bôn Tứ vội chạy ra vái chào nghênh tiếp. Tây Môn Khánh hỏi chuyện buôn bán rồi cùng hai người lên lầu. Lát sau Lai An và Cầm Đồng đem hai quả đựng đầy đổ ăn tới, lại có cả một vò rượu đậu chế ở phương nam. Vợ và đứa con lớn của Lai Chiêu dọn tiệc trên lầu. Tây Môn Khánh cùng Ngô Nhị cữu và Bôn Tứ vừa ăn uống vừa nhìn ngắm khung cảnh chợ đèn nhộn nhịp bên dưới.

Lát sau Tây Môn Khánh ngầm sai Vương Kinh tới báo trước cho Vương thị biết. Vương thị nghe nói Tây Môn Khánh sắp tới, vội sửa soạn rượu thịt, dọn dẹp phòng ốc rồi trang điểm thật đẹp mà chờ.

Tây Môn Khánh bảo vợ chồng Lai Chiêu:

- Hôm nay Nhị cữu và Bôn Tứ ngủ luôn tại đây cho tiện, vợ chồng ngươi nhớ lo cơm rượu đầy đủ.

Vợ chồng Lai Chiêu vâng dạ. Lát sau Tây Môn Khánh ngầm sai Cầm Đồng đem một vò rượu tới nhà Vương thị trước, rồi cưỡi ngựa tới sau.

Vương thị chạy ra nghênh tiếp Tây Môn Khánh từ ngoài cổng, rồi mời vào nhà lạy bốn lạy, Tây Môn Khánh bảo:

- Cám ơn ngươi đã cho ta quà tặng quá hậu. À mà ta cho mời mấy lần mà sao ngươi không tới?

Vương thị đáp:

- Thì gia gia thấy đó, nhà còn ai đâu, làm sao mà đi được. Lại không hiểu sao mấy hôm nay trong người tôi hơi khó chịu, chẳng muốn ăn uống gì, mà cũng chẳng muốn đi lại hoạt động gì cả.

Tây Môn Khánh bảo:

- Hay là ngươi nhớ chồng/

Nói xong cười lớn. Vương thị nói:

- Tôi mà nhớ gì tới hắn. Có điều là thấy lâu quá gia gia không tới, tôi vừa buồn vừa lo, vì biết đâu lòng dạ gia gia lại chằng thuộc về người nào khác rồi.

Tây Môn Khánh cười:

- Làm gì có chuyện đó. Chẳng qua là ngày tư ngày tết, bận rộn liên miên mà thôi.

Vương thị hỏi:

- Hôm qua gia gia sọan tiệc đãi khách đàn bà phải không?

Tây Môn Khánh đáp:

- Thì Đại nương ăn tiệc tại các nhà nhiều rồi, ngày tết cũng phải có tiệc mời lại người ta chứ.

Vương thị lại hỏi:

- Đại nương mời những ai vậy?

Tây Môn Khánh đáp:

- Thì cũng mời phu nhân các quan đồng liêu của ta và mọt ít thân thích chứ còn ai.

Vương thị nói:

- Ăn tiệc thưởng đăng, mời đủ mọi người mà chẳng thấy gọi tôi một tiếng.

Tây Môn Khánh nói:

- Đến mười sáu này ta có tiệc mời vợ của các quản lý tới dự, chỉ sợ lúc đó nàng lại kiếm cớ từ chối không tới thôi.

Vương thị nói:

- Nếu Đại nương có lòng thương mà cho một tấm thiếp thì tôi tới chứ sao không tới.

Đoạn nói tiếp:

- Hôm trước chẳng hiểu Thân Nhị Thư làm sao mà để cho Xuân Mai mắng cho, về đây khóc quá, tôi phải dỗ dành mãi. Sau đó gia gia lại phí tâm cho quà và hai lạng bạc, Thân Nhị Thư mới tạm khuây. Chẳng qua thì Xuân Mai nó nóng nảy quá, vuốt mặt cũng phải nể mũi chứ.

Tây Môn Khánh bảo

- Thôi, chấp con khốn đó làm gì, tính tình nó cứ ngang bướng như thế đấy. Nhưng mà nó bảo hát thì cứ hát, có phải là không xảy ra chuyện đáng tiệc không, cãi với nó làm gì.

Vương thị nói:

- Trời ơi, đâu có cái gì. Thân Nhị Thư nói lại với tôi là không có nói gì với Xuân Mai cả, tự nhiên Xuân mai đùng đùng tới, chỉ ngay vào mặt Thân Nhị Thư mà chửi mắng thậm tệ, y như là thù hằn gì từ trước vậy. Thân Nhị Thư về đây với tôi khóc quá, tôi giữ lại đây một đêm khuyên nhủ hết lời rồi sáng hôm sau mới cho về.

Đang nói chuyện thì Phùng lão ra lạy chào, Tây Môn Khánh thưởng cho lão ba tiền, rồi bảo:

- Từ khi Lục nương mất, chằng thấy lão lui tới gì cả.

Vương thị đỡ lời:

- Chủ không còn thì đến với ai, lão cũng thường hay tới đây bầu bạn với tôi, nhờ vậy tôi cũng đỡ buồn.

Lát sau Vương thị dẫn Tây Môn Khánh vào phòng trong đoạn hỏi:

- Gia gia đã dùng cơm chưa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Hồi sáng ta đã ăn cháo rồi, vừa nãy lại ăn uống chút ít với Nhị cữu, cũng hơi no.

Vương thị vẫn sai a hoàn dọn bàn bày rượu, rót mời Tây Môn Khánh. Qua tuần rượu đầu, Vương thị nói:

- Mấy món tôi biếu gia gia đều là do chính tay tôi làm lấy, bao nhiêu công phu đấy, chẳng hiểu gia gia có thích không?

Tây Môn Khánh đáp:

- Đa tạ hậu tình của nàng.

Hai người kề vai ăn uống. Lát sau Tây Môn Khánh hơi say, lại thấy lưng đau hơn, Vương thị dẫn vào giường. Tây Môn Khánh lấy trong mình ra một viên thuốc, Vương thị hâm rượu nóng cho Tây Môn Khánh uống thuốc, rồi hai người quấn quýt truy hoan.

Mây mưa vừa dứt thì Vương Kinh chạy tới cửa phòng hớt hải nói:

- Nhà ai bên cạnh đây không hiểu sao tự nhiên phát hoả, lửa đang cháy phừng phừng kia kìa.

Tây Môn Khánh nghe nói cháy nhà, hoảng lên mặc vội áo bước ra ngoài coi. Vương thị thì sợ xanh mặt, run lên cầm cập, không nói được gì. Tây Môn Khánh nhìn kỹ thì không phải cháy nhà, mà là nhà bếp bên cạnh cúng Nguyên Tiêu, rồi đốt vàng mã trong sân lửa ánh lên xung quanh, liền trở vào cười bảo:

- Cái gì mà nhát như thỏ vậy? cháy nhà đâu mà cháy. Vả lại cháy nhà cũ này thì ta làm cho cái nhà mới cho, việc gì mà lo, đổi cũ thay mới không mừng hay sao?

Vương thị bảo:

- Gia gia nói đổi cũ thay mới như vậy tức là tôi không thể bền lâu với gia gia được. Nhưng theo tôi thì cái cũ bao giờ cũng hơn.

Tây Môn Khánh không nói gì, chỉ lườm yêu Vương thị, rồi ngồi xuống tiếp tục uống rượu. Uống rượu xong, hai người uống trà. Tây Môn Khánh lấy ra một tấm thiếp đưa cho Vương thị mà bảo:

- Nàng cầm thiếp này ra tiệm vài lụa của ta, bảo Cam quản lý chọn cho một bộ quần áo mà mặc. Nàng thích hàng gì, hoa gì thì bảo lấy thứ đó.

Vương thị lạy tạ. Tây Môn Khánh đứng dậy bước ra. Vương Kinh cầm đèn, Cầm Đồng và Đại An dẫn ngựa tới. Lúc đó đã vảo khoảng canh ba, mây trôi lãng đãng, trăng sáng mông lung, ngoài đường vắng ngắt, xa xa vài tiếng chó sủa vang lên trong bầu không khí tịch mịch của đêm xuân.

Chủ tớ đi tới Thạch Thung kiều, bỗng thấy một trận gió buốt thổi qua, rồi một bóng đen từ cầu đi tới, có vẻ muốn ngăn Tây Môn Khánh lại. Con ngựa thấy bóng đen thì tự nhiên kinh hãi định lồng lên. Tây Môn Khánh lạnh run cầm cập, lấy sức quất cho con ngựa một roi thật mạnh, con ngựa chồm tới phóng thẳng như baỵ Ba đứa gia nhân chạy theo không kịp. Về tới cổng nhà, Tây Môn Khánh dừng ngựa lại một lúc, ba gia nhân mới về tới. Vương Kinh cầm đèn soi đường, Tây Môn Khánh đau như gãy lưng ra, không đi nỗi, Đại An và Cầm Đồng phải dìu đi. Tây Môn Khánh vào phòng Kim Liên, tinh thần vẫn còn hơi hoảng hốt.

Kim Liên chưa ngủ, đang nằm trên giường nghĩ ngợi vẩn vơ, nghe gia nhân gọi cửa, vội trở dậy đón Tây Môn Khánh vào, giúp thay mũ áo, thấy Tây Môn Khánh say nhiều nên không dám hỏi gì. Tây Môn Khánh quài tay ra sau đấm lưng rồi hỏi:

- Ta say mà mệt quá, nàng dọn giường cho ta ngủ mau.

Kim Liên đưa vào giường. Tây Môn Khánh mệt nhọc thiếp đi, lay mãi không tỉnh. Kim Liên hoảng sợ, vừa lay vừa hỏi:

- Thuốc của hòa thượng cho bữa nọ đâu, sao không lấy ra uống?

Lay mãi, Tây Môn Khánh mới mở mắt bảo:

- Lạ quá nhỉ, mệt muốn chết mà không để cho ngừoi ta ngủ. Thuốc với men gì, thuốc của hoà thượng đâu có phải là tiên đan, uống vào chẳng ăn thua gì đâu. Hình như là còn để ở cái hộp gấm trong tủ ấy.

Kim Liên lẳng lặng vào mở tủ, lấy hộp gấm, mở ra thấy thuốc trường sinh bất lão của vị hoà thượng cho lúc trước chỉ còn ba bốn hoàn. Kim Liên chằng biết ất giáp gì, sai hâm rượu, còn bao nhiêu thuốc lấy ra hết, nâng Tây Môn Khánh dậy cho uống. Tây Môn Khánh say mèn, cứ nhắm mắt mà uống. Nào ngờ, đang say sưa mệt nhọc, uống thuốc xong, tự nhiên thấy thân thể rạo rực nóng ran, Tây Môn Khánh liền ôm Kim Liên mà vui cuộc mây mưa. Ngay sau đó, nguyên khí đã kiệt, Tây Môn Khánh thiêm thiếp mê man, rồi từ bộ hạ máu tươi chảy ra ướt cả giường, Kim Liên hoảng quá, đốt đèn lay gọi. Lay gọi mãi, Tây Môn Khánh cũng không tỉnh, Kim Liên càng hoảng, la lớn lên:

- Chàng ơi, sao thế này? chàng thấy trong người thế nào?

Lát sau Tây Môn Khánh hơi cựa mình nói:

- Đầu tôi nhức như búa bổ, mắt hoa lên chẳng thấy gì, mình mẩy thì đau đớn lắm.

Nói xong lại mê man như cũ.

Nghĩ cho kỹ, tinh lực con người thì có hạn, mà sắc dục lại vô cùng thì tránh sao được nguy hại, thị dục càng nhiều thì sinh cơ phải kém. Tây Môn Khánh cũng chỉ vì tham dâm lạc sắc mà thành ra nông nỗi đó, thân thể cũng chỉ như ngọn đèn cạn dầu mà thôi. Thật là:

Yểu điệu giai nhân phận liễu bồ,

Tay không cũng giết được ngu phu.

Chẳng cần gươm giáo, không đao kiếm,

Cũng khiến anh hùng cốt tuỷ khộ

Sáng sớm hôm sau, Tây Môn Khánh tỉnh dậy, vô cùng mỏi mệt nhưng cũng gượng đứng chải đầu. Tự nhiên thấy mặt mày tối sầm, lảo đảo suýt ngã, may có Xuân Mai chạy tới kịp, dìu vào ngồi trên tràng kỷ. Ngồi một lúc mới hơi tỉnh, Kim Liên sợ lắm, hỏi:

- Chàng thấy trong người thế nào? sợ là chàng bị suy nhược, có ăn gì không cho khỏe, để tôi bảo nó lấy.

Nói xong sai Thu Cúc đem cháo tới. Thu Cúc xuống nhà bếp hỏi Tuyết Nga:

- Cháo của gia gia đã có chưa?

Đoạn kể bệnh tình đêm qua của Tây Môn Khánh, sau đó nói tiếp:

- Sáng nay gia gia ngủ dậy, không hiểu sao lại lảo đảo suýt ngã, bây giờ Ngũ nương bảo lấy cháo gia gia ăn cho khoẻ.

Không ngờ Tiểu Ngọc cũng đang ở nhà bếp, nghe vậy vội lên thượng phfong thưa với Nguyệt nương. Nguyệt nương cho gọi ngay Thu Cúc tới hỏi đầu đuôi. Thu Cúc sự thực thưa lại đầy đủ, Nguyệt nương nghe xong hồn phi phách tán, vội bảo gia nhân mau nấu cháo, rồi tức tốc xuống phòng Kim Liên, thấy Tây Môn Khánh đang ngồi dựa vào thành ghế, mặt mày xanh xao hốc hát thì hỏi:

- Chàng thấy trong người thế nào? nghe nói chàng xây xẩm mặt mày phải không?

Tây Môn Khánh đáp:

- Tôi cũng không hiểu sao tự nhiên mặt mũi lại tối tăm xây xẩm như vậy.

Kim Liên nói:

- Cũng may là tôi và Xuân Mai chạy tới đỡ kịp chứ không thì ngã nặng rồi.

Nguyệt nương bảo:

- Có lẽ đêm qua về nhà khuya quá, rượu say rồi gặp gió lạnh chứ gì.

Kim Liên nói:

- Đêm qua chẳng biết uống rượu ở đâu mà mãi thật khuya mới về.

Nguyệt nương bảo:

- Hôm qua thì uống rượu với Nhị cữu ở ngoài tiệm.

Kim Liên bảo:

- Uống rượu với Nhị cữu sao lại về khuya như thế được.

Đoạn quay lại bảo Tây Môn Khánh:

- Từ rày chàng cũng nên bớt rượu chè với những người đó đi.

Nguyệt nương nghe vậy bực lắm, muốn mắng cho Kim Liên mấy câu, nhưng không muốn làm Tây Môn Khánh phiền lòng nên đành nhịn.

Lát sau Tuyết Nga cho người tới gọi Xuân Mai bưng cháo.

Xuân Mai bưng cháo lên, Tây Môn Khánh chỉ húp được vài thìa rồi đặt bát cháo xuống bàn, Nguyệt nương bảo:

- Chàng thấy trong người thế nào?

Tây Môn Khánh đáp:

- Chắc không sao đâu, chỉ hơi mệt mỏi, lười ăn uống hoạt động mà thôi.

Nguyệt nương bảo:

- Hôm nay chàng ở nhà nghỉ ngơi đi, đừng ra nha môn làm việc nữa.

Tây Môn Khánh đáp:

- Ừ, tôi không đi đâu, ngồi đây một lát cho khoẻ rồi tôi lên đại sảnh bảo Kính Tế nó viết thiếp, ngày mười lăm này mời Chu Thủ bị và Kinh Thống chế cùng các quan tới dự tiệc Nguyên Tiêu.

Nguyệt nương nói:

- Để tôi bảo nó đem sữa và lấy thuốc cho chàng uống. Chắc là mấy hôm nay chàng vất vả mệt nhọc nên mới sinh ra thế.

Nguyệt nương đâu biết là đêm qua Kim Liên cho Tây Môn Khánh uống một lúc mấy viên thuốc của vị hòa thượng, rồi truy hoan quá độ nên mới xảy ra tình trạng hôm naỵ Còn Tây Môn Khánh thì đêm qua mê man, chẳng nhớ gì. Nguyệt nương bảo Xuân Mai sang nói Như Ý vắt sữa vào chung, lại sai Tiểu Ngọc lên lấy thuốc của Nhiệm Y quan xuống cho Tây Môn Khánh uống thuốc với sữa người.

Tây Môn Khánh uống thuốc xong, cùng Nguyệt nương trở lên đại sảnh, Xuân Mai đi theo. Nhưng vừa ra khỏi hoa viên thì Tây Môn Khánh lại xây xẩm mặt mày, lảo đảo suýt ngã, Xuân Mai và Nguyệt nương vội dìu đi.

Nguyệt nương bảo:

- Theo tôi thì chàng nên nghỉ ngơi hoàn toàn trong vài ngày cho khoẻ, đừng đi đâu, đừng lo nghĩ gì mới được. Chàng muốn ăn gì không? để tôi tự tay làm cho chàng ăn.

Tây Môn Khánh đáp:

- Tôi chằng muốn ăn uống gì, không hiểu sao đau lưng quá!

Về tới hậu phòng, Kim Liên cũng vào theo, Nguyệt nương hỏi:

- Đêm qua gia gia về có say lắm không? có uống thêm rượu cùng muội muội không? hai người có.. làm gì không?

Kim Liên nghe hỏi giận lắm, im lặng một hồi rồi mới đáp:

- Trời ơi, Đại nương còn phải hỏi, gia gia về là đã ngoài canh ba rồi, chằng biết uống rượu ở đâu mà say mèm, chằng biết trời đất gì nữa, bảo tôi dọn giường ngủ, vào tới giường là lăn ra ngủ như chết. Rồi chẳng hiểu sao sáng nay dậy thì như vậy đó. Chứ có chuyện gì khác đâu, chằng biêt nhà này có đứa trời đánh thánh đâm nào đó nói gì mà đại nương lại hỏi tôi như vậy.

Nguyệt nương không nói gì, chỉ cho gọi Đại An và Cầm Đồng vào hỏi:

- Đêm qua gia gia uống rượu ở đâu? hai đứa bay phải nói thật, nếu gian dối điều gì thì đừng trách ta.

Đại An thưa:

- Cả chiều tối hôm qua thì gia gia chỉ uống rựou với Nhị cữu ngoài tiệm chứ không đi đâu cả.

Nguyệt nương lại tức tốc cho gọi Ngô Nhị cữu tới hỏi. Nhị cữu đáp:

- Dượng chỉ ngồi với tôi và Bôn Tứ một lúc rồi đi nơi khác.

Nguyệt nương nghe xong đùng đùng nổi giận, tiễn Nhị cữu ra rồi gọi Đại An, Cầm Đồng vào chửi mắng cho một trận nên thân, lại định đánh đòn. Đại An hoảng quá, vội nói:

- Xin đại nương bớt giận, để chúng tôi xin thưa. Đêm qua gia gia uống rượu tại nhà vợ Hàn Đạo Quốc.

Kim Liên nói ngay:

- Đó, đại nương thấy không, chưa gì đại nương đã hạch hỏi nghi ngờ tôi, bây giờ thì rành rành ra rồi đấy.

Đoạn nói tiếp:

- Đại nương phải hỏi hai thằng khốn này là hôm nọ chúng mình tới nhà Hà Thiên hộ dự tiệc, gia gia cũng mãi tới đêm mới về, để xem hai thằng chết đâm này nói gia gia đi đâu. Chằng lẽ đi chúc tết người ta mà chúc tới đêm hay sao.

Cầm Đồng mở miệng định nói, nhưng Đại An biết là Cầm Đồng nhát gan, thế nào cũng nói thật, biết là không giấu được, vội cướp lời, kể hết chuyện Tây Môn Khánh tư thông với Lâm thái thái.

Nguyệt nương nghe xong ngẩn người, lát sau mới nói:

- Hèn gì gia gia bảo ta đưa thiếp mời Lâm thái thái dự tiệc tại nhà, ta nói là có quen biết gì Lâm thái thái mà mời, nhưng gia gia cứ bắt mời cho bằng được. Thì ra con mụ già không nên nết đó đã tư thông với gia gia. Tới đây thì ăn mặc diêm dúa, son phấn trát trông mà khiếp.

Ngọc Lâu ngồi bên nói:

- Con trai đã trưởng thành, có vợ rồi mà bà mẹ còn làm gì những chuyện dâm bôn như thế, thật không sao hiểu nổi.

Kim Liên bảo:

- Con giặc cái già dâm đó thì còn biết liêm sỉ là gì.

Nguyệt nương nói:

- Tôi cứ nghĩ là mời thì mời chứ con mụ đó đâu có tới, vậy mà nó vẫn dám vác mặt tới.

Kim Liên bảo:

- Bây giờ thì đại nương mới thấy, trước kia đại nương cứ bảo là tại sao tôi chửi mắng con dâm phụ vợ thằng Hàn Đạo Quốc. Tôi biết rõ ràng, nhưng nói với đại nương thì đại nương đâu có tin. Đại nương tưởng rằng không có những chuyện khốn nạn đó hay sao?

Nguyệt nương bảo:

- Còn vợ thằng Vương Tam nữa, muội muội cũng bảo nói là dâm phụ, nhưng nó lại bảo muội muội hồi nhỏ ở cho gia đình nó.

Kim Liên mặt đỏ bừng, vừa thẹn vừa giận, nói:

- Con dâm phụ khốn khiếp, con dâm phụ trăm thằng, tôi ở cho nhà nó bao giờ, chỉ có bà dì tôi lúc trước ở sát cạnh nhà nó mà thôi. Lúc nhỏ tôi ở với bà dì, nên thường qua hoa viên nhà nó chơi đùa, chứ ai đi ở cho nhà nó mà nó dám nói. Tôi có biết nó là ai đâu, thật loài dâm phụ nghiệt súc ăn nói gớm quá.

Nguyệt nương bảo:

- Bây giờ muội muội mới thấy lời nói lợi hại là thế nào. Người ta nói xấu muội muội thì muội muội mắng người ta hay lắm.

Nói tới đây, Nguyệt nương bỏ lửng. Kim Liên cúi gầm mặt im lặng.

Nguyệt nương đứng dậy định ra ngoài bảo Tuyết Nga nấu cháo cho Tây Môn Khánh ăn, nhưng vừa ra tới ngoài thì thấy Bình An từ cổng chạy vào, có vẻ định vào hoa viên, Nguyệt nương bèn gọi lại hỏi:

- Ngươi định đi đâu vậy, có chuyện gì mà vội vã thế?

Bình An đứng lại đáp:

- Lý Minh nói là đã gọi bốn ca nữ rồi, nhưng tới hỏi lại là bữa tiệc ngày rằm này có thành không. Tôi trả lời là thành thì không biết, nhưng bây giờ chưa thấy gia gia cho đem thiếp đi mời. Lý Minh nói là vào hỏi lại gia gia dùm.

Nguyệt nương bảo:

- Thằng ngu, gia gia như vậy mà còn tiệc với tùng gì nữa. Mày không biết đuổi nó về, lại còn vào đây hỏi hay sao?

Bình An vội quay ra cổng. Nguyệt nương dặn Tuyết Nga nấu cháo rồi vào thư phòng, nói với chồng:

- Lý Minh tới hỏi về bữa tiệc ngày rằm, tôi nói là dời lại ngày khác rồi cho nó về rồi.

Tây Môn Khánh gật đầu không nói gì.

Qua đêm, sáng hôm sau Tây Môn Khánh thấy lưng đau dữ dội, đầu nặng tai ù mắt hoa, tiểu tiện đau như muôn ngàn lưỡi dao cắt, nước tiểu lại lờ đờ có máu, mỗi lần tiểu tiện là cả một cực hình.

Trong khi đó quân hầu vẫn chuẩn bị ngựa để đợi Tây Môn Khánh ra nha môn làm việc. Tây Môn Khánh tưởng là có thể ra nha môn được, không ngờ bệnh thêm nặng không thể đi nổi. Nguyệt nương bảo:

- Theo tôi thì chàng nên viết cho Hà Thiên hộ ít chữ dặn công việc rồi ở nhà vài hôm mà điều trị cho lành đã. Rồi cũng bảo chúng nói mời Nhiệm Y quan tới xem bệnh cho thuốc, chàng suy nhược như thế này mà không thuốc men rồi làm sao.

Tây Môn Khánh ngượng vì căn bệnh của mình nên không chịu mời lang y, chỉ nói:

- Không sao đâu, tôi nghỉ ngơi một hai ngày là khỏi, để bảo chúng nó đem ít chữ ra nha môn.

Nhưng nói xong, lại nằm xuống mê man mà ngủ.

Bá Tước nghe tin Tây Môn Khánh lâm bệnh vội tới thăm. Tới nơi, Bá Tước vái chào rồi nói:

- Hôm nộ còn quấy quả đại ca trong tiệc, không ngờ hôm nay đại ca khó ở, thảo nào không thấy đại ca tới mừng sinh nhật Hoa Đại cữu.

Tây Môn Khánh đáp:

- Tôi khỏe thì cũng đi, nhưng không hiểu sao mệt mỏi lười biếng quá.

Bá Tước hỏi:

- Đại ca thấy trong người thế nào?

Tây Môn Khánh đáp:

- Chẳng có gì cả, chỉ thấy đầu nặng, mắt hoa, chân tay rã rời, không đứng lên nỏoi, lưng lại đau lắm, sợ là năm nay bị ngã nặng, bây giờ trở thành nội thương chăng.

Bá Tước nói:

- Tôi thấy đại ca xanh xao hốc hác lắm, đã thỉnh lang y tới coi chưa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Tiện nội cũng vừa bảo là để mời Nhiệm Y quan tới coi mạch cho thuốc, nhưng tôi bảo là có bệnh tật gì đâu, nghỉ ngơi vài ngày là khỏi chẳng cần mời gọi làm gì.

Bá Tước bảo:

- Đại ca dạy như vậy là sai rồi, phải mời Nhiệm Y quan lại coi xem thế nào, rồi thuốc men thì môois khỏi được chứ. Nhân lúc khí hậu đang thay đổi thế này, cũng nhiều người bệnh lắm. Hôm qua thình lình gặp Lý Minh, nó nói là mới đầu đại ca định soạn tiệc khoản đãi các quan, nhưng vì khó ở nên dời lại ngày khác. Tôi nghe nói hoảng lên, vội tới thăm đại ca ngay đấy.

Tây Môn Khánh nói:

- Hôm nay tôi cũng không ra nha môn làm việc được, phải bảo chúng nó treo hạ bài mà nghỉ.

Bá Tước nói:

- Đại ca nghỉ ngơi ở nhà cho khoẻ là phải lắm.

Gia nhân đem trà tới, Bá Tước uống trà xong nói:

- Thôi, tôi về nhé, sẽ tới thăm đại ca sau. Nghe nói là Quế Thư và Ngân Thư cũng đang rủ nhau tới thăm đại ca đó.

Tây Môn Khánh bảo:

- Nhị ca ở lại dùng cơm đã.

Bá Tước đáp:

- Thôi, tôi không ăn đâu.

Nói xong, vái chào mà về.

Không hiểu nghĩ sao, Tây Môn Khánh lại sai gia nhân mời Nhiệm Y quan tới.

Nhiệm Y quan tới chẩn mạch xong nói:

- Bệnh này của lão gia là hư hoa? bốc lên mà thận thì kiệt quệ nên không trấn áp được, bây giờ phải dùng thuốc bổ dương mới khổi.

Nói xong cáo từ về làm thuốc. Tây Môn Khánh sai gói năm tiền, cho gia nhân đem tới nhà Nhiệm Y quan lấy thuốc.

Thuốc đem về, uống xong, thấy hết nặng đầu, nhưng chân tay còn rã rời, chưa đi đứng nổi, lưng lại đau hơn, tưởng chừng như có ai cầm dao chặt đứt xương sống ra vậy.

Tới chiều, Quế Thư và Ngân Thư ngồi kiệu tới thăm, mỗi người mang theo hai quả đựng đồ biếu. Lạy chào xong, hai người nói:

- Gia gia thấy trong người thế nào? tại sao tự nhiên lại khó ở như vậy?

Tây Môn Khánh bảo:

- Hai người có lòng tới thăm là quý rồi, việc gì còn bày vẽ đem lễ tới nữa. Bệnh ta thì như Nhiệm Y quan nói là hư hoa? bốc lên mà sinh ra.

Quế Thư nói:

- Có lẽ trong mấy ngày tết, gia gia uống rượu nhiều quá đấy thôi, nghỉ ngơi vài ngày là khỏi.

Nói vài câu chuyện nữa, hai người vào chào Nguyệt nương. Nguyệt nương mời dùng trà.

Trong khi đó Bá Tước, Tạ Hy Đại và Thường Trĩ Tiết tới thăm. Tây Môn Khánh sai Tiểu Ngọc dọn rượu, rồi bảo Ngọc Tiêu đỡ mình ngồi dậy thù tiếp các bạn. Hy Đại hỏi:

- Đại ca đã dùng cháo chưa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Hồi sáng có ăn mấy thìa, nhưng chẳng muốn ăn gì cả.

Hy Đại nói:

- Nếu vậy thì bảo đem cháo ra đây, chúng tôi hầu đại ca dùng.

Tiểu Ngọc đem cháo lên. Ba người hết lời thúc giục, Tây Môn Khánh mới húp được nửa bát, rồi không thể nào ăn thêm được nữa.

Bá Tước hỏi:

- Quế Thư và Ngân Thư đã tới thăm đại ca chưa?

Tây Môn Khánh đáp:

- Tới rồi, chắc là đang ngồi ở trong nhà.

Bá Tước quay lại bảo Lai An:

- Ngươi vào trong đó gọi hai nàng đó ra đây đàn hát vài khúc cho gia gia ngươi nghe.

Lai An vào thưa, nhưng Nguyệt nương không cho hai ca nữ ra, chỉ nói là đang ăn cơm trong nhà.

Ngoài này, ba người uống rượu, được một lúc thì Bá Tước nói:

- Đại ca ngồi tiếp chúng tôi như thế này, chỉ sợ đại ca mệt mỏi, thôi để chúng tôi về, đại ca cũng nên nằm nghỉ là hơn.

Tây Môn Khánh nói:

- Đa tạ các huynh đã phí tâm.

Ba người vái chào mà về.

Bá Tước ra tới ngoài, gọi Đại An lại dặn nhỏ;

- Ngươi vào thưa với Đại nương, rằng Ứng nhị gia nói là gia gia đã biến sắc, xin đại nương cho thỉnh Hồ Thái y tới coi mạch xem sao, đừng nên chậm trễ e rằng nguy hại.

Đại An không dám trì trễ, vội vào nói lại với Nguyệt nương ngaỵ Nguyệt nương nghe nói thì hoảng lên, vội chạy tới thăm chồng rồi nói:

- Vừa rồi Ứng nhị ca có dặn gia nhân là Hồ Thái y trị bệnh hay lắm, sao chàng không cho mời?

Tây Môn Khánh đáp:

- Lần trước có mời Hồ Thái y tới chữa cho Bình Nhi rồi đó, có công hiệu gì đâu, bây giờ còn mời làm gì nữa.

Nguyệt nương bảo:

- Thuốc men đâu có giết người, lại có câu phước chủ lộc thầy, biết đâu mời Hồ thái y, chàng lại chẳng gặp thầy gặp thuốc, Bình Nhi khác mà chàng khác chứ.

Tây Môn Khảnh bảo:

- Thôi được, nếu nàng nói vậy thì bảo chúng nó đi mời đi.

Lát sau Kỳ Đồng mời Hồi thái y tới, đúng lúc Ngô Đại cữu cũng tới thăm. Hồ thái y xem mạch xong, ra nói với Ngô Khải và Kính Tế:

- Lão gia đây thận khô dương kiệt, nên mới sinh ra đau lưng như vậy, cũng sợ đây là bệnh kín, tiểu tiện không thông.

Nói xong cho uống thuốc.

Tây Môn Khánh uống thuốc của Hồ thái y xong, thấy đầu nặng lại, mà không tiểu tiện được nữa. Nguyệt nương hoảng quá, tiễn Ngân Thư và Quế Thư về rồi cho mời lang y Hà Xuân Tuyền, con của Hà thái y tới.

Hà lang y coi mạch xong bảo:

- Đây là tà hỏa tích ở hạ bộ nên tứ chi bải hoải, lại vì độc viêm lưu tụ nên tâm thận bất giao.

Nói xong ra về, cho người đem thuốc lại.

Nào ngờ Tây Môn Khánh uống thuốc của Hà lang y vào, bệnh lại có vẻ nặng thêm, hư khí xuất ra không ngớt.

Tối hôm đó, Tây Môn Khánh đòi tới nằm tại phòng Kim Liên, bảo là gần hoa viên cho mát. Nguyệt nương chiều lòng, sai gia nhân dìu đi.

Kim Liên là loại dâm nô, yên trí là trước mắt mọi người thì Vương thị, vợ Hàn Đạo Quốc bị coi là kẻ gây bệnh cho Tây Môn Khánh, do đó, đêm đến, Kim Liên yêu sách Tây Môn Khánh truy hoan, chỉ biết khoái lạc trước mắt. Đêm đó, Kim Liên yêu sách tới mấy lần, Tây Môn Khánh mệt mỏi nhưng cũng chiều lòng.

Hôm sau, Hà Thiên hộ sai gia nhân tới báo trước là sẽ tới thăm.

Nguyệt nương tới bảo chồng:

- Hà Thiên hộ sắp tới thăm đó, chàng nên trở vào hậu phòng nằm nghỉ thì hơn, chỗ này không phải là nơi tiếp khách.

Tây Môn Khánh sợ Kim Liên buồn giận, nhưng không biết làm sao, đành gật đầu. Nguyệt nương mặc áo cho chồng rồi dìu lên thượng phòng. Kim Liên phụ giúp. Tây Môn Khánh được đặt nằm đàng hoàng trên giường, gối kê chăn phủ thoa? đáng. Nguyệt nương sai gia nhân xếp dọn ngăn nắp sạch sẽ và đốt trầm.

Lát sau Hà Thiên hộ tới. Kính Tế ra nghênh tiếp, rồi mời vào thượng phòng thăm Tây Môn Khánh. Hà Thiên hộ vái chào rồi hỏi:

- Xin trưởng quan thứ lỗi đã tới thăm trễ, chằng hay trưởng quan thấy trong mình thế nào?

Tây Môn Khánh chỉ ghế mời ngồi rồi đáp:

- Vì nghịch hoa? kết tụ nên chân tay bải hoải và đau lưng, bây giờ thì tiểu tiện không được.

Hà thiên hộ nói:

- Vãn sinh có người quen họ Lưu tên Quất Trai, vốn là người Phần Châu, Sơn Tây, cực giỏi trị bệnh đàn ông, để tôi cho mời tới đây coi thử cho trưởng quan. Người đó mới lên thăm tôi, hiện đang ở tại nhà tôi.

Tây Môn Khánh nói:

- Đa tạ đại nhân phí tâm, để tôi cho người đi mời Lưu tiên sinh cũng được.

Gia nhân đem trà re, Hà thiên hộ uống trà xong đứng dậy nói:

- Xin trưởng quan giữ gìn thân thể, mọi chuyện trong nha môn đã có tôi lo, chuyện gì khó khăn tôi sẽ cho gia nhân tới thỉnh ý trưởng quan.

Tây Môn Khánh nói:

- Thật là phiền đại nhân quá.

Hà thiên hộ vái chào mà về.

Tây Môn Khánh sai Đại An đem thiếp tới nhà Hà thiên hộ mời Lưu tiên sinh. Lưu tiên sinh tới coi mạch rồi cho thuốc sắc uống. Tây Môn Khánh sai lấy một lạng bạc và một xấp lụa Dương châu tạ Ơn.

Tây Môn Khánh uống thuốc của Lưu tiên sinh, cũng chưa thấy công hiệu gì thì Trịnh Ái Nguyệt ngồi kiệu đem lễ tới. Ái Nguyệt vào lạy chào rồi nói:

- Tôi quả không biết gia gia khó ở. Quế Thư và Ngân Thư cũng chẳng nói cho tôi một tiếng, chỉ im lặng rủ nhau tới trước. Tôi tới chậm, xin gia gia thứ lỗi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Trễ gì mà trễ, cảm ơn nàng đã cho quà.

Ái Nguyệt hỏi:

- Gia gia có thấy bớt không? có ăn uống được gì không?

Nguyệt nương nói:

- Ăn uông được thì đã khá, đằng này chằng ăn uống được, từ sáng tới giờ mới chỉ húp được vài thìa cháo. Vừa rồi lang y cũng tới coi mạch cho thuốc.

Ái Nguyệt nói;

- Tôi có đem ít cháo thịt tới, để tôi hầu gia gia ăn. Gia gia như ngọn núi cho mọi người nương tựa mà không chịu ăn uống cho khoẻ rồi làm sao đây.

Nguyệt nương bảo:

- Chẳng hiểu trong người gia gia làm sao mà chẳng chịu cơm cháo gì.

Ái Nguyệt bảo:

- Gia gia phải ăn uống mới được chứ, thuốc men cũng phải có cơm cháo mới được. Người ta thường nói, cơm cháo không ăn mạnh gì thầy, gia gia lười ăn thì thuốc cũng chẳng công hiệu được, mà người cứ yếu dần đi.

Tiểu Ngọc đem cháo đến, Ái Nguyệt cầm bát cháo, tự tay xúc cho Tây Môn Khánh ăn. Tây Môn Khánh gắng gượng ăn được nửa bát rồi lắt đầu, không chịu ăn nữa, Ái Nguyệt đưa bát cháo cho Tiểu Ngọc rồi nói với Tây Môn Khánh:

- Gia gia phải nghe lời tôi, một mặt chịu khó uống thuốc, một mặt phải cố ăn uống mới được.

Ngọc Tiêu đứng sau nói:

- Gia gia đâu có chịu ăn, hôm nay nhờ Ái thư mà gia gia ăn được nhiều đấy.

Nguyệt nương mời Ái Nguyệt vào trong uống trà. Ái Nguyệt ở chơi tới chiều, Nguyệt nương mời uống rượu rồi thưởng cho năm tiền, tiễn về. Trước khi về, Ái Nguyệt vào lạy chào Tây Môn Khánh rồi nói;

- Gia gia chịu khó nghỉ ngơi, tôi sẽ tới thăm.

Nói xong cáo từ lên kiệu mà về.

Gần tối, Tây Môn Khánh lại uống thuốc của Lưu Quất Trai, nhưng vẫn không bớt đau lưng. Tới khoảng canh năm thì tự nhiên ở lưng nổi lên một cục. Tây Môn Khánh luôn miệng kêu đau. Lát sau thì đau quá mà mê đi.

Sáng ra Nguyệt nương vội cho mời Lưu lão bà tới, một mặt sai gia nhân tới phủ Thủ bị hỏi thăm xem hiện thời Ngô Thần tiên ở nơi nào. Vì trước đây Ngô Thần tiên có nói là Tây Môn Khánh năm nay mắc tai ách, Nguyệt nương muốn mời tới hỏi xem sao. Bôn Tứ thưa:

- Không cần phải tới hỏi thăm tại phủ Chu lão gia, vì hiện thời Ngô thần tiên đang ngụ tại miếu Thổ địa ở ngoại thành, xem bói bốc thuốc ở đo.

Nguyệt nương sai Cầm Đồng tới miếu thổ địa mời Ngô thần tiên tới ngay.

Lát sau Ngô thần tiên tới, hình dung xem ra cổ quái hơn lúc trước. Ngô thần tiên vào xem mạch cho Tây Môn Khánh rồi nói:

- Bệnh của quan nhân đây chỉ là tửu sắc quá độ khiến nay thận kiệt khí khô, tà hoa? tích tụ, bệnh đã lên tới cao hoang, khó lòng trị liệu. Bần đạo có mấy câu xin đọc hầu phu nhân.

No say còn muốn giai nhân,

Tinh khô thận kiệt, tâm thần tiêu ma

Sắc tài khuấy động tham tà,

Đèn kia dầu cạn biết là làm sao.

Lời khuyên trước, chằng nghe nào,

Bệnh tình nay đã ăn vào cao hoang.

Sóng kia cạn, núi kia băng,

Thánh y cũng đến cầm bằng khoanh taỵ

Nguyệt nương thấy Ngô thần tiên không nhận lời chữa trị thì lo sợ lắm, vội hỏi:

- Xin thần tiên coi thử giùm cho gia gia tôi có mệnh hệ nào chăng?

Ngô thần tiên đưa tay lên tính toán lẩm bẩm:

- Tuổi Dần, sinh giờ Bính Thìn, ngày Nhâm Ngọ, tháng Mậu Thân, năm Bính Dần. Năm nay là Mậu Tuất, tức là ba mươi ba tuổi, tức là hoa? thổ thương quan, tháng giêng này lại là tháng Mậu Dần, biết làm sao đây. Tôi có bốn câu này, xin đọc hầu phu nhân:

Tai tinh phạm mệnh, có hôm nay,

Sát trọng thân kinh, tai ách này.

Đã chẳng gặp may chân Thái Tuế,

Thần tiên cũng đến phải cau mày.

Nguyệt nương lo sợ hỏi:

- Mệnh đã không tốt như vậy thì thần tiên có cách gì giải cứu cho chăng?

Ngô thần tiên đáp:

- Bạch Hổ đương đầu, Tang Môn toa. mệnh, thì thần tiên cũng chẳng cách gì giải cứu. Số mệnh đã định, dẫu quỷ thần cũng không dời đổi được.

Nguyệt nương chỉ biết lấy một xấp vải tạ Ơn rồi tiễn về.

Sau đó Nguyệt nương sai gia nhân đi xin quẻ và xem bói thì thấy toàn điều hung, trong lòng lo sợ hoảng hốt khôn cùng.

Tới tối, Nguyệt nương cho bày bàn thờ ra giữa sân, thắp hương khấn vái trời đất, phát nguyệt rằng nếu chồng qua khỏi thì sẽ về Tân An Châu ở với mẹ, ăn chay niệm Phật trong ba năm. Ngọc Lâu cũng quỳ khấn phát nguyện, chỉ có Kim Liên và Kiều Nhi là không phát nguyện gì.

Về phần Tây Môn Khánh, tự biết bệnh mình trầm trọng thì lo sợ lắm. Những lúc chợp mắt đi lại thấy toàn Hoa Tử Hư và Võ Đại tới trước giường đòi mạng. Tây Môn Khánh tỉnh dậy sợ lắm nhưng chẳng nói với ai.

Nhân lúc Nguyệt nương và mọi người không có mặt, chỉ có Kim Liên ngồi cạnh. Tây Môn Khánh nắm áo Kim Liên nhỏ lệ bảo:

- Nàng ơi, nàng là oan gia của ta đó. Ta chết rồi thì mấy chị em nhớ giữ gìn linh vị cho ta, đừng để linh hồn ta thất tán.

Kim Liên xúc động nói:

- Tôi thì lúc nào cũng trung thành với chàng, chỉ sợ người ta không dung được tôi mà thôi.

Tây Môn Khánh bảo:

- Để tôi nói cho.

Lát sau Nguyệt nương vào, thấy hai người đang khóc lóc thì bảo:

- Chàng ơi, chàng có điều gì muốn nói thì cứ nói , dầu sao thì tôi với chàng cũng là chỗ vợ chồng.

Tây Môn Khánh thổn thức mãi mới bảo:

- Tôi thấy trong người nguy kịch lắm rồi nên cũng định nói ít lời. Tôi chết đi rồi, nàng sinh con trai hay gái cũng chịu khó nuôi con, mấy chị em cũng nên ở chung mà đùm bọc nhau, đừng có ly tán, khiến cho người ta chê cười.

Đọan chỉ vào Kim Liên mà bảo:

- Kim Liên đây dù trước có lỗi lầm gì, nàng cũng thương mà đùm bọc cho.

Nguyệt nương nghe xong khóc lớn, bi cảm khôn nguôi.

Tây Môn Khánh lại cho gọi Kính Tế đến mà bảo:

- Người ta thường nói có con nhờ con, không con thì nhờ rể, ngươi là rể nhưng chẳng khác nào con trai của tạ Ta có mệnh hệ nào thì ngươi đứng ra lo chôn cất cho ta, sau đó tính toán thế nào giúp cho các nương nương đây sống qua ngày, đừng để người ta đàm tiếu. Tiệm vải lụa trước cửa hiện nay, vốn cũng lên tới năm vạn lạng, trong đó một ít là của Kiều thân gia, tính ra mà trả lại cho Kiều thân gia rồi đóng cửa tiệm đó lại. Tiệm do Bôn Tứ trông coi, vốn là sáu ngày nă trăm lạng, tiệm do Ngô Nhị cữu trông coi, vốn là sáu ngàn năm trăm lạng. Hai tiệm đó, bán cho hết hàng rồi thu tiền lại. Lý Tam và Hoàng Tứ còn thiếu năm trăm lạng vay lúc trước, chưa kể một trăm năm chục lạng tiền lời, nhớ đòi về rồi đừng bao giờ cho vay nữa. Ứng nhị gia có tới nói thì bảo là đi vay nơi khác. Ngươi lo cùng Phó quản lý tiếp tục duy trì cửa tiệm thuốc. Thuyền hàng của Lai Bảo và Hàn quản lý ở Tùng Giang về cũng trị giá bốn ngàn lạng, ngươi lo bốc hàng lên bán cho hết rồi đưa tiền cho Đại nương. Lưu Học quan còn nợ hai trăm lạng. Hoa Chủ bạ còn nợ năm chục lạng, Từ Từ ở ngoại thành còn nợ ba trăm lạng. Tất cả đều có giấy tờ đàng hoàng, phải lo đòi cho sớm. Căn nhà ở đường Sư Tử cũng như căn nhà trước mặt đây, đều nên bán hết đi. Ta chỉ lo là các nương nương không biết lấy gì sống qua ngày mà thôi.

Dặn dò xong thì bật khóc, Kính Tế cũng khóc mà thưa:

- Lời nhạc phụ dặn, con đều ghi nhớ.

Lát sau thì các quản lý Hà, Cam, Ngô nhị cữu, Bôn Tứ, Thôi Bản tới thăm. Tây Môn Khánh dặn dò từng người về chuyện sau này. Mấy người đều nói:

- Xin gia gia cứ yên tâm dưỡng bệnh, không đến nỗi nào đâu.

Tin đồn Tây Môn Khánh bệnh nặng lan tràn khắp nơi, thân bằng quyến thuộc và các quan đồng liêu nườm nượp tới thăm hỏi. Thấy bệnh tình Tây Môn Khánh trầm trọng, người nào cũng than thở mà về.

Nguyệt nương ngày đêm khấn vái, những mong chồng khỏi bệnh, nào ngờ số trời đã định, mấy hôm sau, vào khoảng canh năm ngày hai mươi mốt tháng giêng, Tây Môn Khánh đau đớn dữ dội, mê đi tỉnh lại một hồi rồi từ trần. Thật là:

Sống còn kể biết mấy mươi,

Chết đi vạn sự trên đời cũng không.

Cổ nhân có mấy câu sau đây, ngẫm lại cũng có lý:

Làm người nên tích thiện,

Chớ có ham tiền tài,

Tích thiện thì được phúc,

Tham tài chịu hoa. tai.

Thạch Sùng giàu là thế,

Cũng khó thoát tai ương.

Nhân thế không biết nghĩ,

Chẳng thèm lấy làm gương.

Chỉ lo tích tiền bạc,

Chế nhạo kẻ hiền lương,

Đâu biết giàu đến mấy,

Cũng vào cõi vô thường.

Tây Môn Khánh chết như vậy là chưa kịp chuẩn bị quan tài. Nguyệt nương vội gọi Ngô Nhị cữu và Bôn Tứ đến, mở rương lấy ra bốn đĩnh bạc, nhờ làm quan tài cho chồng.

Nguyệt nương tâm trí đang rối loạn, bận rộn lo việc tang ma thì tự nhiên thấy đau bụng, phải vào giường nằm, lát sau đau quá, gần như mê đi.

Ngọc Lâu, Tuyết Nga và Kim Liên đang lo tắm rửa mặc quần áo mới cho Tây Môn Khánh thì thấy Tiểu Ngọc hốt hoảng chạy tới bảo:

- Đại nương tự nhiên nằm vật ra giường hôn mê bất tỉnh.

Ngọc Lâu hoảng lên, gọi Kiều Nhi cùng vào thăm Nguyệt nương. Thấy Nguyệt nương đã tỉnh lại, hai tay ôm bụng lăn lộn kêu đau. Ngọc Lâu bảo Kiều Nhi săn sóc Nguyệt nương, còn mình thì ra ngoài sai gia nhân đi mời Thái lão nương lại. Kiều Nhi thấy Ngọc Tiêu đứng cạnh, liền sai đi gọi Như Ý. Còn một mình trong phòng, nhân lúc Nguyệt nương đau dữ dội mê đi, Kiều Nhi bèn thò tay vào cái rương mở sẵn từ nãy, lấy cắp năm đĩnh bạc tốt loại Nguyên Bảo, đem về phòng mình cất giấu. Vừa ra tới cửa thì gặp Ngọc Lâu trở vào, Kiều Nhi giấu bạc ra sau lưng mà bảo:

- Để tôi đi tìm thuốc, nhà chẳng còn thứ thuốc gì cả.

Nói xong bước vội ra. Ngọc Lâu cũng chẳng để ý, quay vào săn sóc Nguyệt nương. Nguyệt nương mỗi lúc một đau bụng hơn. Lát sau thì Thái lão nương tới, coi xét xong bảo là Nguyệt nương đã tới kỳ mãn nguyệt khai hoa.

Quả nhiên, tới lúc lên đèn, Nguyệt nương hạ sinh con trai. Trong này, Thái lão nương săn sóc cho Nguyệt nương và đứa trẻ thoa? đáng. Ngoài kia, thi hài Tây Môn Khánh, sau khi mặc quần áo, được đem lên đại sảnh, lớn bé trong nhà khóc vang thảm thiết.

Lát sau khoẻ khắn lại, Nguyệt nương lấy ra ba tiền trả công cho Thái lão nương. Thái lão nương không tiện chê ít, chỉ xịu mặt nói:

- Đại nương hạ sinh con nhi thế này là mừng rồi, đại nương cho tôi bao nhiêu thì tôi nhận lấy nhiêu chứ biết sao bây giờ.

Nguyệt nương bảo:

- Bây giờ lão gia không còn, cho nên không thể so với lúc trước được, lão nương nhận giùm đi, nay mai mọi chuyện lo xong tôi xin thưởng thêm.

Thái lão nương bảo:

- Phải cho tôi một bộ quần áo đấy.

Nguyệt nương gật đầu. Thái lão nương xịu mặt cáo từ mà về.

Nguyệt nương tỉnh táo hơn nhiều, nhìn quanh phòng, chợt thấy nắp rương mở rộng, bèn quay lại mắng Ngọc Tiêu:

- Con khốn, ta đã mê man, nhưng mày cũng mê man hay sao? lúc này trong nhà người ra người vào rầm rập mà mày để nắp rương mở toang hoác thế kia à?

Ngọc Tiêu đáp:

- Thì hồi chiều đại nương mở rương lấy bạc cho Nhị cữu và Bôn Tứ đặt quan tài, rồi sau đó đại nương đau bụng nên quên chưa đóng lại.

Nói xong bước tới khoá lại cẩn thận. Ngọc Lâu ngồi cạnh, nghe Nguyệt nương nói vậy, thấy mình ở lại bất tiện, bèn về phòng. Ra tới ngoài, gặp Kim Liên, Ngọc Lâu bảo:

- Gia gia vừa mới nằm xuống, đại nương đã bắt đầu nghi ngờ người nọ người kia rồi.

Kim Liên không nói gì, hai người đều không biết là Kiều Nhi đã lấy cắp năm đĩnh bạc.

Lát sau, Ngô Nhị cữu và Bôn Tứ mua được áo quan tốt đem về, đó là thứ trong ngoài quách, hai người tẩm niệm Tây Môn Khánh rồi nhập quan để trên đại sảnh.

Từ tiên sinh được mời tới, vào lật tay Tây Môn Khánh coi rồi nói:

- Quan nhân đi vào đúng giờ Thìn, như vậy là bất phạm hung sát.

Đoạn lẩm nhẩm tính tóan rồi ấn định là ngày mồng ba tháng hai thì làm lễ đại niệm, ngày hai mươi sáu làm lễ phá thổ, ngày ba mươi đưa đám. Xong xuôi, Từ tiên sinh ra về.

Từ tiên sinh về thì Ngô Khải và các quản lý đều có mặt đông đủ, mỗi người một việc. Trên đại sảnh người ra vào rầm rập, trong nhà náo loạn cả lên. Nguyệt nương nằm một chỗ lo sai bảo gia nhân. Việc ngoài do Kính Tế và Ngô Đại cữu, Ngô Nhị cữu cùng các quản lý hợp nhau cùng lọ Nguyệt nương một mặt sai viết thiếp báo tang khắp nơi, lại sai đem ấn tín của Tây Môn Khánh giao cho Hà Thiên hộ, một mặt cho gọi thợ dựng rạp ngoài sân trước đại sảnh và trong hoa viên.

Ngày mồng ba, chư tăng và đạo sĩ tới niệm kinh, làm lễ đại liệm. Lớn bé trong nhà quây quần trước linh cữu đáp lễ khánh khứa. Nguyệt nương vẫn nằm cữ, không ra được tới ngoài. Kiều Nhi và Ngọc Lâu lo tiếp khách đàn bà. Kim Liên lo quản trị gia nhân. Tuyết Nga lo chỉ huy bếp nước khoản đãi khách khứa khắp nơi. Ngô Đại cữu và Cam quản lý to tiếp khách đàn ông. Những người khác mỗi người một việc.

Nguyệt nương nhân sinh con vào đúng lúc chồng nằm xuống nên đặt tên con là Tây Môn Hiếu, trong nhà gọi là Hiếu ca nhi.

Khách khứa các nơi tới, vừa điếu tang vừa mừng sinh con trai. Dân gian trong huyện bàn tán không ngớt nói là chính thất của Tây Môn Khánh hạ sinh con trai vào đúng lúc quan nhân từ trần, ngoài kia cha chết thì trong này con sinh, thế gian thật nhiều chuyện kỳ quái. Thôi thì dư luận mỗi người một phách, ồn ào cả lên.

Bá tước nghe tin Tây Môn Khánh từ trần thì vội tới lạy khóc trước linh cữu. Khóc một hồi rồi quay ra chào hỏi một người, đoạn nói:

- Đại ca tôi thất lộc quá mau, thật ra như giấc mộng.

Lại muốn mời Nguyệt nương ra để lạy phân ưu. Ngô Khải nói:

- Em gái tôi không ra được đâu, nó đang ở cữ, nó sinh cháu trai đúng ngày chồng nó nằm xuống.

Bá tước vô cùng ngạc nhiên bảo:

- Thật vậy sao? nhưng thôi, như vậy là đại ca tôi có phúc lắm, gia gia tôi mất đi nhưng nhà này đã có tiểu chủ nối dõi.

Lát sau Kính Tế ra mời trà, Bá tước bảo:

- Lão gia thất lộc, các nương nương là phận đàn bà, biết tính toán ra sao, ngươi là phận rể con trong nhà, cũng nên hết lòng. Gặp chuyện gì thì phải hỏi nhị vị cữu gia đây, nhờ đứng ra chủ trương giùm, không phải ta nói gì nhưng ngươi còn trẻ người non dạ, chuyện đời chưa được thập phần kinh lịch đâu.

Ngô Khải nói:

- Nhị ca nói vậy cũng phải, nhưng tôi còn bận việc quan, không được rảnh rang, với lại dù sao thì cũng có em gái tôi đứng ra lo mọi việc.

Bá tước nói:

- Đại cữu dạy như vậy là đành một lẽ, nhưng còn các việc bên ngoài đại tẩu làm sao lo được, không nhờ nhị vị cữu gia đây thì còn biết ai.

Trò chuyện một lát, Bá tước hỏi:

- Đã chọn ngày phát dẫn chưa?

Ngô Khải đáp:

- Từ tiên sinh đã định là ngày hai mươi sáu thì phá thổ, ba mươi thì hạ huyệt.

Lát sau Từ tiên sinh tới làm lễ đại liệm, dùng đinh lớn đóng nắp quan tài lại. Lớn nhỏ trong nhà lại quây vào mà khóc. Từ tiên sinh để vào minh tinh như sau: "cáo phong Vũ lược Tướng quân Tây Môn công chi cữu".

Hôm đó Hà Thiên hộ tới điếu tang, lạy linh cữu xong. Hà Thiên hộ được Ngô Khải và Bá tước mời dùng trà nói chuyện. Hà Thiên hộ cho đóng cửa nha môn, quân hầu tại nha môn được đưa hết về nhà Tây Môn Khánh để lo chạy việc, hai viên Tiết cấp được uỷ thác chỉ huy quân hầu. Tên nào làm biếng trốn việc sẽ bị nghiêm trị. Lúc sắp ra về, Hà Thiên hộ còn nói với Ngô Khải:

- Những ai còn nợ tiền trưởng quan đây mà không chịu trả, xin đại nhân cứ cho vãn sinh biết để vãn sinh trừng trị.

Nói xong cáo từ, trở lại nha môn, làm văn thư cấp báo về kinh, nói rõ cái chết của Tây Môn Khánh.

Lại nói về Lai tước, Xuân Hồng và Lý Tam tới Duyện Châu, tìm tới Tông Ngự sử đưa thư và lễ vật. Tống Ngự sử đọc xong bảo:

- Các ngươi tới chậm rồi, ta đã chuyển văn thư đi các nơi để lo mua các đồ cổ ngoạn cho đầy đủ và kịp thời hạn, làm sao bây giờ.

Trầm ngâm một lát, nghĩ tới mười lạng vàng lá được tặng, biết là không giúp không được, bèn giữ ba người tạm trú tại công đường, rồi sai thuộc hạ lên gấp phủ Đông Bình, tìm đủ cách lấy lại văn thư, đem về đưa cho Xuân Hồng, lại cho một lạng bạc để làm hộ phí. Ba người lạy chào mà về. Vừa đi vừa về mất hết mười ngày.

Về tới ngọai thành đã nghe dân chúng bàn tán:

- Tây Môn quan nhân chết rồi, hôm nay là ngày mồng ba, trong nhà làm tễ tụng kinh đại liệm.

Lý Tam nghe tin dữ, hỏi lại cho kỹ rồi bàn tính với Xuân Hồng và Lai Tước rằng:

- Lão gia mất rồi, văn thư này đem về cũng vô ích, chi bằng về tới nơi, mình cứ nói là không lấy được, rồi đem văn thư tới cho Trương Nhị lão gia. Ta sẽ chia phần cho mỗi đứa ngươi mười lạng bạc, chỉ cần các ngươi giữ kín, không nói ra là được.

Lai Tước tham tiền bằng lòng ngay, chỉ có Xuân Hồng khó chịu.

Về tới huyện, Lý Tam về nhà ngaỵ Lai Tước, Xuân Hồng về tới cổng đã thấy trướng đối treo la liệt, trong nhà khách khứa ra vào tấp nập điếu tang, bèn lên đại sảnh lạy chào Ngô Khải và Kính Tế.

Ngô Khải hỏi:

- Có đem được văn thư về không? Lý Tam đâu, sao không thấy?

Lai Tước im lặng, Xuân Hồng lấy văn thư và hồi thư của Tống Ngự sử ra đưa lên, rồi nói rõ âm mưu phản trắc của Lý Tam, đoạn nói thêm:

- Tôi không dám vong ân bội nghĩa nên nhất định không chịu, do đó Lý Tam sợ mà không dám tới đây.

Ngô Khải nghe xong vào kể lại với Nguyệt nương rồi nói:

- Thằng Xuân Hồng là đứa biết ân biết nghĩa, chỉ giận cho thằng Lý Tam khốn kiếp nó thấy dượng vừa nằm xuống đã sinh lòng phản trắc.

Đoạn trở ra nói với Bá tước:

- Hồi nãy Hà đại nhân đã dặn vậy, thì bây giờ cứ làm đơn thưa Lý Tam tại nha môn, bắt phải trả tiền nợ lúc trước để lo tang ma cho quan nhân, cả vốn lẫn lãi là sáu trăm năm chục lạng. Điệu này thì thằng Lý Tam nó không chịu trả nợ đâu. Hà đại nhân với quan nhân là chỗ đồng liêu, chắc phải tận tình giúp đỡ. Vả lại giấy vay nợ vẫn còn, như vậy là có bằng chứng hẳn hoi.

Bá tước hoảng lên, vì trong giấy nợ Bá tước là người bảo lãnh, vội nói:

- Lý Tam dù thế nào cũng không dám trốn nợ đâu, xin đại cữu hãy chậm lại một chút, để tôi tới bảo nó đã.

Nói xong cáo từ, tới thẳng nhà Lý Tam, lại cho gọi cả Hoàng Tứ đến mà bảo:

- Quan nhân nằm xuống rồi, hai người còn nợ tiền tất phải lo trả. Vì chuyện tính toán của Lý ca tiết lộ mà Ngô Khải đang định làm đơn thưa tại sở Đề hình. Người ta có câu "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện", huống hồ Hà Thiên hộ với quan nhân là chỗ đồng liêu, lại hứa là sẽ trừng trị những ai nợ tiền quan nhân mà không chịu trả. Cho nên tôi tính thế này, bây giờ trả ngay thì tôi biết hai người không thể trả nổi, vậy phải sọan một lễ thật hậu tới điếu tang, rồi thưa với Ngô Khải và Đại nương, xin làm một tờ giấy nợ khác, hứa là sẽ trả vào một thời hạn nào đọ Như vậy đã không những tránh được thưa kiện mà lại được tiếng thuỷ chung. Rồi một mặt, hai người góp hai chục lạng, rồi tôi đem văn thư tới cho Trương Nhị lão gia, như vậy hai người mỗi người cũng được hai trăm lạng, hai người tính sao?

Hòang Tứ nói:

- Nhị gia dạy rất phải, làm như vậy là tiện nhất.

Lý Tam nói:

- Nhị gia tính việc thật là thần tốc.

Tối hôm đó, biết Ngô Khải đã về nhà, Bá tước dẫn Hoàng Tứ, đem hai chục lạng bạc tới nhà Ngô Khải kể rõ đầu đuôi, rồi nói:

- Bây giờ chỉ xin đại cữu giúp cho.

Ngô Khải hôm trước nghe em gái nói là Tây Môn Khánh dặn không nên buôn bán hùn hạp gì với ai, nay lại tối mắt trước hai chục lạng bạc, do đó nhận lời.

Hôm sau, Lý Tam và Hoàng Tứ soạn lễ vật thật hậu, có cả lễ tam sinh tới điếu tang. Ngô Khải vào nói với em gái là nên làm một tờ giấy nợ mới để Lý, Hoàng hai người lo buôn bán rồi sẽ trả sau, bây giờ một lúc không thể trả ngay được. Nguyệt nương cũng bằng lòng, Ngô Khải trở ra làm giấy nợ mới, rồi lén dúi văn thư vào tay Bá tước.

Lý, Hòang cáo từ mà về, Bá tước cũng tới gặp ngay Trương Nhị.

Thật là:

Lửa kia cho biết vàng ròng,

Tiền kia cho biết tấm lòng trắng đen.

Nghĩ cho cùng, kẻ vong ân bội nghĩa trong đời cũng nhiều, đâu phải chỉ có Bá tước, Lý Tam, hay Ngô Khải.

Trong khi mười sáu vị tăng của chùa Báo Ân được mời tới nhà Tây Môn Khánh tụng kinh thì Bá Tước mời Hoa Tử Do, Tạ Hy Đại, Chúc Thật Niệm, Tôn Thiên Hoá, Thường Trĩ Tiết và Bạch Lãi Quang tới nhà mà bảo:

- Tây Môn đại quan nhân mất rồi, chúng mình với đại quan nhân là chỗ thâm giao, thường ăn uống tại nhà quan nhân, thường được giúp đỡ tiền bạc vật dụng và nhiều việc khó khăn khác. Nay đại quan nhân nằm xuống mà mình làm như không biết thì tránh sao miệng thế chê cười, mà mình cũng chẳng được yên tâm. Quan nhân xuống tới Ngũ điện Diêm Vương, chắc cũng chẳng tha tội vô ơn bất nghĩa cho chúng mình. Bây giờ mình có bảy người, mỗi người góp một tiền, cộng là bảy tiền, sọan một lễ đem tới, lại mua một tấm lục rồi nhờ Thủy tiên sinh làm một bài văn tế, đọc lên trước linh cữu quan nhân, rồi chúng mình tới tế, gọi là tri ân phần nào, mọi người nghĩ sao?

Mọi người đều khen phải, rồi góp mỗi người một tiền, giao cho Bá Tước. Bá Tước lấy tiền mua lễ vật tử tế rồi đến nhờ Tuỷ tú tài làm văn tế.

Thuỷ tú tài vốn biết bọn Bá Tước là đám bạn tiểu nhân của Tây Môn Khánh, nên nhận lời làm giùm văn tế, nhưng ngầm châm chọc bên trong.

Bá Tước và các bạn đem lễ tới bày trước linh cữu. Kính Tế mặc đồ tang chống gậy bên linh cữu đáp lễ. Bảy người vào lạy linh cữu. Trong khi Bá Tước mở bài văn tế ra đọc. Đám bạn này toàn là người dốt nát, tuy nghe đọc nhưng làm sao hiểu được ý nghĩa lời văn.

Văn tế rằng:

"Duy, Trùng Hoà Nguyên niên tuế Mậu Tuất, Nhị nguyệt Mậu Tý sóc, việt sơ tam nhật Canh Dần. Chúng vãn sinh là Ứng Bá Tước, Tạ Hy Đại, Hoa Tử Do, Chúc Thật Niệ, Tôn Thiên Hoá, Thường Trĩ Tiết và Bạch Lãi Quang có chút lễ mọn, kính cẩn tới tế cố Cẩm y Tây Môn đại quan nhân chi linh. Nhớ lúc sinh tiền, tính tình bộc trực, lòng dạ kiên cương. Gặp người nhũn nhặn đã không sợ, trước kẻ ương ngạnh cũng không hàng. Thường tế độ lúc khốn khó, lại giúp đỡ khi nguy nan. Tài ba dũng lược, chí khí hiên ngang. Công danh nọ so như cẩm tú, phú quý kia để mấy kho tàng. Đám tiểu tử thọ ân chúng tôi: kẻ thì chốn chương đài hay trà rượu, người thì nơi đình tạ vẫn xướng cuồng. Những tưởng muôn năm hưởng phúc, nào ngờ một phút tai ương. Quan nhân nơi nước Nhược đã xa chơi khuất bóng. Chúng tôi cõi hồng trần biết lấy ai tựa nương. Khiến chúng tôi lòng đau lệ nhỏ, khiến chúng tôi tiếc nhớ xót thương. Nay tạm: một chung rượu nhạt, mấy khúc đoạn trường. Hồn có linh xin về chứng giám. Ô hộ Thượng hưởng".

Tế xong, Kính Tế mời bảy người ra ngoài rạp khoản đãi rượu thịt.

Cũng hôm đó, Lý bà ở ca viện soạn một lễ hậu, rồi chị em Quế Khanh, Quế Thư ngồi kiệu tới điếu tang. Nguyệt nương nằm trong hậu phòng, chỉ có Kiều Nhi và Ngọc Lâu ra tiếp đãi. Quế Thư ghé tai Kiều Nhi hỏi nhỏ:

- Mẫu thân cháu nói rằng, người ta đã chết rồi, mình vốn nghề này, khó lòng giữ trinh tiết thuỷ chung. Cho nên bây giờ cô nương có tiền bạc của cải gì thì ngầm đưa cho Lý Minh đem về nhà trước, phòng lúc sau này, bởi vì sớm muộn gì cô nương cũng ra khỏi nhà này chứ làm sao ở đây mãi được. Nói ít cô nương hiểu nhiều.

Lý Kiều Nhi nghe xong gật đầu, trong bụng ngầm tính toán.

Vợ Hàn Đạo Quốc là Vương thị hôm đó cũng sọan lễ vật, rồi trang điểm thật đẹp ngồi kiệu tới điếu tang. Tới nơi, Vương thị bày lễ vật trước linh cữu rồi đứng đợi, đợi mãi chẳng thấy ai ra tiếp đãi. Ngô Khải thấy vậy, sai Lai An vào thưa với Nguyệt nương. Nguyệt nương nghe nói có Vương thị đến thì đùng đùng nổi giận mắng:

- Thằng khốn kia, có thế mà mày cũng phải vào thưa với cử hay sao. Con dâm phụ khốn nạn đo là yêu là quỷ, chính nó đã khiến cho nhà này gia bại nhân vong, phụ nam tử bắc, ly tán phu thệ Bây giờ nó còn dẫn xác tới đây làm gì nữa.

Lai An thấy chủ giận dữ, vội trở ra đại sảnh. Ngô Khải bảo:

- Ngươi đã thưa với đại nương cho người ra tiếp chưa?

Lai An chỉ lắc đầu không đáp. Ngô Khải gặng hỏi mãi, Lai An mới nói:

- Đại nương đang định cho tứ mã phân thây người ta đo.

Ngô Khải vội vào hậu phòng bảo em gái:

- Sao cô nương lại làm vậy? phải cho người ra tiếp người ta chứ. Người ta thường bảo, người ác chứ lễ vật đâu có ác. Chồng người ta còn nắm giữ vốn liếng lớn lao của nhà này, phải liệu tiếp đãi thế nào chứ. Không ra được thì cũng nên cho người ra tiếp ngừoi ta mới phải. Nếu không thiên hạ sẽ đàm tiếu phiền phức lắm.

Nguyệt nương không nói gì, mãi sau mới bảo Ngọc Tiêu ra tiếp Vương thị, mời dùng trà. Sau vài câu chuyện nhạt nhẽo, Vương thị cáo từ mà về.

Trong hậu phòng, Quế Khanh, Quế Thư và Ngân Nhi thấy Nguyệt nương chửi mắng vợ Hàn Đạo Quốc là dâm phụ này dâm phụ kia, thì cũng thấy trong lòng không yên, nên nán ngồi thêm một lát rồi cáo từ, nhưng Nguyệt nương khẩn khoản lưu giữ mà bảo:

- Thì ở đây tới mai hãy về, việc gì phải vội.

Do đó Quế Thư và Ngân Nhi ở lại, chỉ có Quế Khanh về trước.

Đến tối, khi các vị tăng về thì các quản lý và thân bằng quyén thuộc như Ngô Đại cữu, Ngô Nhị cữu, Trầm di phu, Hoa Da, Ứng Bá Tước, Tạ Huy Đại, Thường Trĩ Tiết.. khoảng hai chục người, bày tiệc ngoài rạp, rồi gọi một đoàn hát tới diễn tuồng. Đoàn hát diễn tuồng "sát cẩu khuyến phu". Đám khách đàn bà con gái quây quần tại các bàn tiẹc trên đại sảnh, buông mành xuống, rồi uống rượu, nhìn qua mành coi hát.

Hát xong vài tích tuồng, mọi người trở lên đại sảnh làm lễ cúng rượu cho Tây Môn Khánh, rồi trở lại bàn tiệc. Lý Min và Ngô Huệ đàn hát cạch tiệc. Bữa tiệc kéo dài tới canh ba mới vãn.

Tiệc xong, vợ chồng Kiều Đại hộ bày lễ vật trước linh cữu rồi cùng nhiều người khác tế lễ. Tế xong, Ngô Nhị cữu và Cam quản lý lại mời mọi người ra rạp uống trà nói chuyện.

Đám khách đàn bà thì rút cả vào hậu phòng. Hôm đó Ái Nguyệt cũng tới điếu tang và được mời lại. Ái Nguyệt thấy Quế Thư và Ngân Nhi cũng có mặt thì trách là hai người đã không cho mình biết tin sớm, đoạn quay lại nói với Nguyệt nương:

- Đại nương hạ sinh ca nhi như thế này chính là chuyện mừng lớn, chỉ tiếc là gia gia đi sớm quá. Nhưng nay thì trong nhà đã có tiểu chủ, cũng chẳng đáng buồn.

Nguyệt nương không nói gì.

Tới tuần nhị thất của Tây Môn Khánh, Ngô Đạo quan ở miếu Ngọc Hoàng cùng mười sáu vị đạo sĩ tới niệm kinh làm lễ.

Hôm đó đám võ quan địa phương như Hà Thiên hộ, Chu Thủ bị, Kinh Thống chế, Trương Đoàn luyện, Vân chỉ huy và hai thái giám Lưu, Tiết hẹn nhau đem lễ vật và văn tế tới điếu tang.

Đám võ quan bày lễ vật la liệt rồi từng người vào lạy trước linh cữu. Kính Tế nhất nhất đáp lễ cung kính. Sau đó dọn tiệc khoản đãi. Các quan ăn uống no say mới cáo từ.

Nguyệt nương thấy tất cả những người từ trước có liên hệ với chồng mình, trên thì các quan lại, giữa thì thân bằng quyến thuộc, dưới thì gia nhân nô bộc, tất cả đều là hạng tham tiền, vì tiền mà đến, không người nào có thể nhờ cậy được. Chỉ riêng Xuân Hồng là đứa trung thành có thể giúp đỡ ít nhiều nhất là trong việc đề phòng kẻ có gian tâm, do đó Nguyệt nương sai Xuân Hồng vào hầu hạ trong phòng Kiều Nhi, vì Kiều Nhi có thái độ và hành động đáng nghi ngờ hơn cả. Căn nhà Bình Nhi ở lúc trước nay được khoá kỹ lại.

Thật đúng là:

Tường hoa cột chạm còn đây,

Mà người xu phụ một ngày vắng tăm.

Trong thời gian này, Lý Minh giả danh là ở lại nhà Tây Môn Khánh để giúp đỡ công việc, nhưng kỳ thật là để giúp giục Kiều Nhi lấy cắp tiền bạc của cải để chuyển về nhà. Ngô Nhị cữu tuy biết gian ý của Kiều Nhi nhưng lại không nói ra.

Đến ngày mồng chín là tuần tam thất của Tây Môn Khánh, các tăng sĩ đạo sĩ lại tới nhà lập đàn tụng kinh. Nguyệt nương bắt đầu ra khỏi phòng, đi lại coi sóc mọi việc nhà. Nguyệt nương thấy tang ma kéo dài bất tiện, bèn cho mời Từ tiên sinh lại đổi ngày. Do đo, ngày mười hai, Kính Tế cùng Từ tiên sinh đi làm lễ phá thổ, và ngày hai mươi thì đưa đám. Như vậy sớm hơn được mười ngày.

Tuy đám ma được coi là trọng thể, nhưng không linh đình bằng đám ma Bình Nhi lúc trước. Linh cữu ra tới cổng thì ngừng lại để các vị tăng của chùa Bảo Ân đọc kệ. Đọc xong, Kính Tế làm lễ đốt vàng rồi linh cữu tiếp tục di chuyển. Toàn gia lớn nhỏ cất tiếng khóc vang động. Sau linh cữu là kiệu của Nguyệt nương và đám tiểu thiếp cùng kiệu của khách đàn bà. Sau đó là khách đàn ông đi xe đi ngựa. Đám tang trực chỉ Nam môn, tiến ra ngọai thành.

Kính Tế chuẩn bị một giải lụa tốt, nhờ Vân chỉ huy làm lễ để chủ.

Đám khách đàn ông đưa ma chỉ lèo tèo ít người như Ngô Đại cữu, Kiều Đại hộ, Hà Thiên hộ, Trầm di phu, Hàn di phu và vài người quản lý. Ngô Đạo quan cho mười hai vị đạo sĩ đi theo dọc đường niệm kinh.

Chôn cất xong, về tới nhà, Nguyệt nương thưởng tiền đám lính hầu rồi cho về nha môn. Kính Tế thưởng tiền cho tăng sĩ, đạo sĩ, đoàn hát, các ca nhạc công rồi cho về.

Đến tuần ngũ thất của chồng, Nguyệt nương mời ba vị sư bá là Vương, Tiết và Đại sư phụ cùng mười hai vị tăng ni khác đến tụng kinh cầu siêu. Ngô Đại cữu mẫu và Trịnh Tam thư ở thượng phòng bầu bạn với Nguyệt nương.

Nguyên là hôm đưa đám, nhân lúc không ai để ý, Quế Thư rỉ tai Kiều Nhi:

- Mẫu thân nói rằng cô nên thu nhặt đồ tế nhuyễn và của cải mà về nhà, ở lại đây làm gì. Cô nương con cái không có thì ở lại phỏng có lợi ích gì. Hôm nọ Ứng Nhị gia tới nhà chơi, có nói rằng Trương Nhị quan nhân đang muốn bỏ ra năm trăm lạng để cưới cô nương đó. Về vôois Trương quan nhân, cô nương tuy chỉ là nhị phòng, nhưng một tay lo liệu việc nhà, có tiền bạc lại có uy quyền. Chẳng hơn là chết già chết nghèo ở đây hay sao. Vả lại dù sao thì cô cháu mình cũng là ca nữ, lấy việc lá gió chim cành làm gốc, người nào giàu có thế lực thì mình tìm đến. Cô nương nên nghĩ kỹ, đừng để lỡ dịp may.

Kiều Nhi nghe xong cho là phải.

Qua tuần ngũ thất của Tây Môn Khánh, Kim Liên tìm Tuyết Nga bảo:

- Hôm đưa đám, tôi thấy Ngô Nhị cữu và Lý Kiều Nhi thầm thì trò chuyện gì với nhau trong hoa viên. Rồi hôm sau thì chính mắt Xuân Mai thấy Kiều Nhi đưa một gói gì cho Lý Minh đem về nhà.

Tuyết Nga nói lại với Nguyệt nương. Nguyệt nương tức tốc gọi Ngô Nhị cữu vào mắng cho một trận nên thân, rồi bắt ra tiệm coi hàng, không cho tự ý vào nhà nữa.

Nguyệt nương lại gọi Bình An vào dặn là không cho Lý Minh lai vãng, tới cổng là phải đuổi ra. Lý Kiều Nhi không còn ai để sai chuyển đồ ăn cắp về nhà, nên buồn thẹn quá hoá giận, nhân Nguyệt nương sai pha trà mời Ngô Đại cữu và Ngọc Lâu tới mà không mời mình, Kiều Nhi liền kiếm cớ cãi nhau với Nguyệt nương một trận tơi bời. Kiều Nhi lăn khóc đùng đùng, la hét rầm rĩ rồi đập vào bàn thờ Tây Môn Khánh mà khóc lóc kể lể.

Hôm sau, Kiều Nhi giả vờ thắt cổ tự tử, a hoàn tri hô lên, Nguyệt nương hoảng sợ, vội bàn tính với Ngô Khải, cho gọi Lý bà tới trao trả Kiều Nhi về ca viện. Lý bà nghe tin Nguyệt nương đuổi Kiều Nhi ra tay không, lieenf tới nói với Nguyệt nương:

- Người trong gia đình chúng tôi mấy năm nay ở đây chịu khổ chịu cực làm người dưới của đại nương, nay đại nương không dung được thì xin đại nương cho nó đem quần áo tư trang về để cho người đời khỏi đàm tiếu nó mà đại nương cũng được tiếng là rộng lượng.

Nguyệt nương hỏi ý kiến Ngô Khải, Ngô Khải không trả lời. Nguyệt nương quyết định không bằng lòng cho đem hết quần áo tư trang và tất cả những gì thuộc Kiều Nhi, hoặc mua sắm cho Kiều Nhi, theo Kiều Nhi về nhà. Nhưng Kiều Nhi lại nhất định đòi phải cho hai a hoàn Nguyên Tiêu và Tú Xuân theo mình. Nguyệt nương không chịu bảo:

- Có phải định dụ dỗ con nhà tử tế vào đường ca hát chăng?

Kiều Nhi sợ quá, không dám đòi nữa, chỉ cùng Lý bà tươi cười vái chào Nguyệt nương lên kiệu mà về.

Nghĩ cho cùng, đám ca nhi kỹ nữ xưa nay chỉ biết bòn rút của cải khánh chơi làm lẽ sống, lấy phấn son thanh sắc làm kế sinh nhai, quen đưa người cửa trước rước người cửa sau, thấy tiền thì mắt sáng lên, cho nên hành động của Kiều Nhi cũng chỉ là lẽ thường tình. Kiều Nhi về với Tây Môn Khánh cũng chỉ vì ham danh lợi, nay danh lợi hết tất phải bỏ đi, chứ đâu phải vì tình nghĩa gì mà giữ lại được. Vả lại người ta thường nói giữ người ở lại chứ ai giữ được người đi, ngựa quen đường cũ biết làm sao.

Kiều Nhi đi xong thì Nguyệt nương than khóc một hồi. Mọi người phải xúm lại khuyên can. Kim Liên bảo:

- Thôi, đại nương à, chẳng nên buồn khổ làm gì. Người ta ở đây cũng như là kế sinh nhai, bây giờ người ta đi rồi cũng chẳng nên buồn nên tiếc.

Bỗng thấy Bình An từ cổng chạy vào thưa:

- Có Tuần diêm thái ngự sử tới, hiện Ngự sử đang ngồi ngoài đại sảnh. Tôi thưa là lão gia thất lộc rồi, Ngự sử hỏi là mất được bao lâu, tôi thưa là mất ngày hai mươi mốt tháng Giêng vì bệnh, nay đã qua tuần ngũ thất rồi. Ngự sử lại hỏi là linh vị để tại đâu, tôi thưa là linh vị để tại hậu phòng, sớm chiều cúng vái. Bây giờ Ngự sử muốn được vào lạy linh vị lão gia nên sai tôi vào thưa với đại nương.

Nguyệt nương bảo:

- Cậu Kính Tế đâu, sao không bảo ra tiếp chuyện Ngự sử?

Bình An lật đật đi tìm Kính Tế mặc đồ tang ra hầu chuyện.

Lát sau, hậu phòng được sắp xếp gọn gàng, Thái Ngự sử được dẫn tới lạy trước linh vị Tây Môn Khánh. Nguyệt nương mặc áo đại tang ra lạy trả, nhưng không nói lời nào. Lạy xong, Thái Ngự sử nói với Nguyệt nương:

- Thỉnh phu nhân hồi phòng.

Nói xong theo Kính Tế ra đại sảnh. Thái Ngự sử nói:

- Ta thường tới đây quấy quả quan nhân, nay mãn nhiệm ở ngoài, đang trên đường về kinh nên mới ghé qua đây, định vào lạy chào, nào ngờ quan nhân đã thành người thiên cổ. Chẳng hay quan nhân mất vì bệnh gì vậy?

Kính Tế đáp:

- Nhạc gia chúng tôi bị bệnh viêm hoa? mà mất.

Thái Ngự sử than:

- Thật đáng tiếc lắm.

Nói xong gọi quân hầu tới, lấy ra hai xấp lụa Hàng Châu, hai xấp gấm Dương Châu, bốn con cá lớn và bốn vò mật ong, đoạn bảo Kính Tế:

- Chút lễ mọn này gọi là để cúng quan nhân.

Lại sai gói năm chục lạng bạc, đưa cho Kính Tế mà bảo:

- Số bạc này là lúc trước quan nhân đây giúp tôi, nay xin hoàn lại, để gọi là vẹn toàn nghĩa thuỷ chung.

Lại nhắc Kính Tế:

- Xin cho đem vào trình Đại nương.

Kính Tế sai Bình An đem bạc và lễ vật vào.

Gia nhân bưng trà lên, Thái Ngự sử uống xong chung trà, cáo từ lên kiệu mà đi.

Nguyệt nương tự nhiên có năm chục lạng, trong lòng mừng rỡ, rồi lại buồn thảm nghĩ rằng, lúc chồng mình còn sống, thì những vị quan to như Thái Ngự sử mỗi lần tới là một lần đại lễ tưng bừng, chứ đâu có ra về lặng lẽ như vậy.

Nói về Lý Kiều Nhi, về tới nhà thì vui vẻ lắm. Bá Tước nghe tin Kiều Nhi đã về, vội sai ngươi đến báo cho họ Trương Tiết.

Nguyên Trương Nhịi nhỏ hơn Tây Môn Khánh một tuổi, tức tuổi Mão năm nay ba mươi ba tuổi còn Kiều Nhi đã ba mươi ba tuổi, nhưng Lý Bà nói dối là chỉ mới hai mươi tám tuổi.

Hôm sau Trương Nhị đem ba trăm lạng lại cưới Kiều Nhi về làm đệ nhị phòng. Cũng từ đó, Tôn Thiên Hoá và Chúc Thật Niệm lại cùng Vương Tam lui tới với Quế Thư như trước.

Bá Tước, Lý Tam và Hoàng Tứ bảo cho Trương Nhị bản văn thư được trăm lạng, lấy tiền đó ăn chơi phung phí tại các nhà kỹ nữ ca nhi.

Trương Nhị sau khi lấy Kiều Nhi, lại bỏ ra năm ngàn lạng bạc, nhờ người nói với Trịnh Hoàng thân ở khu mật viện trên phủ Đông Bình, chạy chọt với Chu Thái úy ở triều, để được làm chức Thiên hộ, thay thế Tây Môn Khánh đầu tại sở Đề hình Sơn Đông. Một mặt bỏ tiền ra xây cất thêm nhà cửa và làm hoa viên sang trọng.

Bá Tước ngày nào cũng thì thụt ra vào nhà Trương Nhị, bao nhiêu chuyện lớn nhỏ trong nhà Tây Môn Khánh kể ra vanh vách, lại nói:

- Hiện trong nhà Tây Môn Khánh còn người thiếp thứ năm là Phan Kim Liên, đẹp chẳng khác người trong tranh, lại giỏi thi ca từ phú, đàn ngọt hát hay, thông hiểu sách vở chữ nghĩa, thi hoa. cầm kỳ, năm nay chưa tới ba mươi, thật là người hiếm có lắm.

Trương Nhị nghe xong khoái lắm, hỏi:

- Có phải người đó trước là vợ của tên bán bánh Võ Đại lang đó không?

Bá Tước đáp:

- Chính vậy, Tây Môn Khánh chiếm làm vợ tới nay cũng được sáu năm gì đó, có điều là chẳng hiểu nàng ta có chịu lấy chồng khác hay không.

Trương Nhị khẩn khoản:

- Nếu vậy thì nhờ nhị ca theo dõi giùm, có gì tôi xin cưới về ngay, tốn kém bao nhiêu cũng chịu.

Bá Tước nói:

- Tôi hiện đang có đứa người quen là gia nhân trong nhà Tây Môn Khánh tên gọi Lai Tước, để tôi bảo nó dò xét, có gì sẽ báo cho quan nhân ngaỵ Quan nhân mà cưới được nàng Kim Liên thì bằng cưới được trăm ngàn mỹ nhân khác. Lúc Tây Môn Khánh cưới Kim Liên tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, lại còn hao tâm tổn sức. Nhưng mà vật nào cũng có chủ, vật quý lại khó tìm, có tốn bao công phu tiền bạc, mới có được mỹ nhân. Quan nhân mà có được nàng Kim Liên thì mới không uổng cuộc đời vinh hoa phú quý. Để tôi bảo Lai Tước dò xét trước, rồi có gì tôi sẽ nói thêm vào, quan nhân chỉ bỏ tiền ra là được ngay.

Qua những lời của Bá Tước, ai cũng thấy, phàm những kẻ ăn nhờ sống bám đều là loại tiểu nhân, ham lợi mà phản trắc. Tây Môn Khánh đối với Bá Tước lúc nào cũng như bát nước đầy, hai người như keo như sơn, thiết tưởng anh em ruột cũng không bằng. Bá Tước ăn uống, may mặc và sống là nhờ Tây Môn Khánh, vậy mà Tây Môn Khánh mới nằm xuống, thịt xương chưa lạnh mà Bá Tước đã làm biết bao điều bất nghĩa.

Thật là:

Họa hổ hoa. long, nan họa cốt,

Tri nhân tri diện, bất tri tâm

Nói về Hàn Đạo Quốc và Lai Bảo, sau khi mua bốn ngàn lạng bạc hàng ở Giang Nam, trên đường về ghé Dương Châu, tìm đến nhà Miêu Thanh. Miêu Thanh thấy có thư của Tây Môn Khánh thì mừng lắm, lại nghĩ tới ơn cứu mạng của Tây Môn Khánh, nên cung phụng hai người quản lý thập phần chu đáo. Miêu Thanh đã mua được một thiếu nữ tuyệt sắc tên là Sở Vân, nuôi tại nhà để gởi về cho Tây Môn Khánh.

Trong thời gian ở nhà Miêu Thanh, Đạo Quốc và Lai Bảo chẳng nghĩ gì tới chuyện về hay chuyện buôn bán làm ăn, mà chỉ ngày đêm tầm hoa vấn liễu, la cà nơi tửu điếm trà đình, ngủ đêm tại các nhà ca nhi kỹ nữ.

Một hôm, Đạo Quốc mời một ca nhi là Ngọc Kỹ, Lai Bảo mời một ca nhi là Tiểu Hồng, cùng một người buôn muối ở Dương Châu là Vương Hải Phong và Miêu Thanh tới du ngọan tại hồ Ứng Bảo suốt một ngày. Hôm sau lại là sinh nhật của Vương ma, mụ tú bà cai quản Ngọc Kỹ, Đạo Quốc bỏ tiền làm tiệc thật lớn mừng sinh nhật của Vương mạ Lại sai đàn em là Hồ Tú mời thêm hai khách buôn là Uông, Đông Kiều và Tiền Tình Xuyên. Nhưng Uông, Tiền và Vương Hải Phong đã tới, còn Hồ Tú thì mãi tới chiều mới thấy về. Đạo Quốc mắng:

- Thằng khốn đi la cà ăn uống ở đâu mà giờ này mới dẫn xác về, mồm miệng sặc sụa mùi rượu thế kiả khách mời đã đến tự bao giờ mà mày thì mất mặt. Để rồi ta sẽ xử tội mày.

Hồ Tú lườm Đạo Quốc rồi vào trong nhà, miệng lẩm bẩm:

- Mày tưởng hay lắm hay sao mà lên mặt mắng tao. Mày làm dơi làm chuột ở đây thì vợ mày ở nhà cũng làm yêu làm quỷ. Lão gia muốn rảnh rang lui tới với vợ mày nên sai mày đem tiền mua hàng xa, mày đâu có biết, cứ tưởng là ghê gớm lắm.

Vương ma nghe được, vội lôi Hồ Tú vào trong nhà bảo:

- Chết, Hồ gia say quá rồi, hay là vào trong phòng mà ngủ đi.

Hồ Tú quát tháo ầm lên, không chịu vào phòng. Đạo Quốc đang thù tạc cùng bạn bè bên ngoài, nghe Hồ Tú la lối thì giận lắm, xồng xộc chạy vào đạp cho Hồ Tú mấy đạp mà mắng:

- Thằng khốn khiếp, tao cấp cho mày một ngày mấy tiền mà mày dám hỗn láo như vậy hay sao? tao đuổi mày ra khỏi đây.

Nói xong định xô Hồ Tú ra. Hồ Tú không vừa, la lên rằng:

- Tôi làm gì mà anh đuổi tôi? tôi ăn tàn phá hại hay làm hỏng chuyện buôn bán gì đâu, hay là anh mê chơi rồi đuổi tôi? để rồi về nhà tôi nói với lão gia cho mà xem.

Lai Bảo vội chạy vào khuyên Hàn Đạo Quốc:

- Thôi, làm ầm lên làm gì.

Đoạn lôi Hồ Tú vào trong mà bảo:

- Còn thằng chó chết này nữa, mày say mèm rồi ăn nói bậy bạ.

Hồ Tú ương ngạnh nói:

- Bảo thúc cứ kệ tôi, tôi uống rượu cũng mặc kệ tôi, để xem Đạo Quốc làm gì tôi.

Lai Bảo vội lôi Hồ Tú vào phòng trong, rồi trở ra. Đạo Quốc sợ bạn bè chê cười, cũng theo Lai Bảo ra, cùng mọi người vui vẻ ăn uống. Ngọc Kỹ và hai chị em Thái Hồng, Tiểu Hồng đàn hát ca múa. Trong tiệc bẻ cành mai mà làm tửu lệnh, ăn uống ồn ào. Bữa tiệc tới canh ba mới vãn.

Hôm sau, Đạo Quốc định đánh Hồ Tú. Hồ Tú tỉnh rượu, van xin mà nói:

- Hôm qua quả là tôi không biết gì hết.

Miêu Thanh cũng hết lời khuyên can, Đạo Quốc mới thôi.

Mấy hôm sau, chơi đã chán, Đạo Quốc và Lai Bảo tính chuyện chở hàng về, nhưng nàng Sở Vân lại bị bệnh thình lình, chưa thể đi được. Miêu Thanh nói:

- Thôi, nhị vị ca về trước vậy, cho khỏi lỡ công việc, để hôm nào nó khỏi bệnh, tôi sẽ nhờ người đưa tới sau cũng được.

Nói xong sai sọan lễ vật thật hậu, viết thư cho Tây Môn Khánh, rồi đưa hai người lên đường.

Ngọc Kỹ và chị em Thái Hồng, Tiểu Hồng bày tiệc tại bến sông mà đưa tiễn.

Khởi hành từ Dương Châu ngày mồng mười tháng giêng, lên đường bình an vô sự.

Một hôm, thuyền tới Lâm Giang. Đạo Quốc ra đứng đầu thuyền ngắm cảnh hai bên bờ. Bỗng thấy một chiếc thuyền nhỏ từ phia trước lướt tới, người ngồi trên thuyền là Nghiêm Tứ Lang, cũng quen biết Đạo Quốc. Hai thuyền tới gần nhau, Nghiêm Tứ Lang nhận ra Đạo Quốc, bèn khoát tay nói lớn:

- Hàn đại ca, lão gia ở nhà mất rồi, mới cách nay mấy hôm thôi.

Nói vừa xong thì hai thuyền qua khỏi nhau. Đạo Quốc im lặng suy nghĩ.

Thời gian đó đang gặp lúc các tỉnh Hà Nam, Sơn Đông bị đại hạn, ruộng đất bỏ hoang, cảnh thóc cao gạo kém khiến cho vật giá gia tăng, thứ gì cũng đắt như vàng. Mỗi xấp vải lụa có thể lời gấp bạ Thương gia các nơi đổ xô tới bến Lâm Thanh mà mua hàng.

Đạo Quốc liền gọi Lai Bảo bàn rằng:

- Bây giờ giá hàng đang lên, hàng mình đem bán lúc này có thể lời gấp ba, chi bằng mình bán ngay đi, đem về nhà cũng chỉ bán được vậy là cùng, mà còn phải nạp thuế nữa, Bảo ca tính sao?

Lai Bảo đáp:

- Hàn đại ca nói rất đúng, có điều mình không phải là chủ nên không quyết định được, bây giờ mình bán đi rồi về biết ăn nói làm sao?

Đạo Quốc bảo:

- Lão gia có nói gì, tôi xin nhận hết.

Lai Bảo thấy Đạo Quốc quyết ý nên cũng chiều theo, hai người đem hàng lên bến bán, nhưng chỉ bán một phần tư số hàng mà thôi, tiền tu được cũng trên hai ngàn lạng.

Tới huyện Thanh Hà, Đạo Quốc bảo:

- Bảo ca ở lại thuyền lo việc nạp thuế, để tôi về nhà trước bảo cho lão gia biết.

Lai Bảo dặn:

- Hàn đại ca về nhớ thứ với lão gia là viết một phong thư cho Tiền Chủ sự lão gia, nhờ chuyện thuế mà để dỡ hàng sớm.

Đạo Quốc gật đầu, thu hết tiền hàng bán được, vào huyện Thanh Hà rồi về nhà.

Lúc đó trời đã về chiều, trên đường về, Đạo Quốc tình cờ gặp một người quen là Trương An. Trương An thấy Hàn Đạo Quốc thì gọi bảo:

- Hàn đại thú đã về đấy à? ngày mai là ngày làm lễ cho Tây Môn lão gia đó.

Đạo Quốc càng yên tâm là Tây Môn Khánh đã chết thật, nhưng chỉ đáp:

- Thật tội nghiệp cho gia gia tôi quá.

Trên đường đi, Đạo Quốc nghe dân trong huyện bàn tán xôn xao về cái chết của Tây Môn Khánh, lại càng tin chắc là Tây Môn Khánh chết thật rồi, bèn hối hả đi mau về nhà để bàn tính với vợ. Đạo Quốc nghĩ bụng:

- Cứ về nhà xem vợ mình nó tính thế nào, rồi nghỉ một đêm ở nhà mai tới nhà Tây Môn Khánh lão gia cũng không muộn, chứ bây giờ cũng gần tối rồi.

Nghĩ xong, cho Tiểu Lang về trước, rồi cùng Vương Hán trực chỉ đường Sư Tử, tới cổng nhà gọi vợ.

Vương thị mừng rỡ chạy ra đón chồng. Vương Hán khệ nệ Ôm hành lý vào nhà. Vương thị trước hết đưa chồng vào lạy bàn thờ Phật rồi giúp chồng thay áo, lại gọi a hoàn đem trà ra. Đạo Quốc ngồi uống trà kể hết chuyện buôn bán trong thời gian qua rồi nói:

- Trên đường về tôi gặp Nghiêm Tứ ca, vừa rồi lại gặp Trương An, đều nói là lão gia đã từ trần, không hiểu tại sao lão gia lại từ trần mau vậy?

Vương thị bảo:

- Trời đất còn có khi mưa gió bất thường thì trách sao con người chẳng có họa phúc bất ngờ. Ai có thể tự cho mình luôn luôn bình an vô sự.

Hàn Đạo Quốc không nói gì, mở bao ra, lấy cho vợ xem nhiều quần áo mua cho vợ tại Giang Ninh và nhiều món đồ khác, lại lấy ra mấy gói bạc, cộng là hai ngàn lạng đưa cho vợ. Vương thị thấy bạc nhiều quá, lấp lánh như tuyết thì trố mắt mà nhìn, rồi sau mới hỏi:

- Ở đâu ra đây?

Đạo Quốc thấp giọng đáp:

- Trên đường về, tôi nghe tin lão gia từ trần nên đã tự ý bán trước một ít hàng.

Nói xong lại đưa ra mấy túi bạc vụn nữa, chừng mấy trăm lạng, đưa cả cho vợ rồi hỏi:

- Trong thời gian tôi vắng nhà, lão gia có hay tới đây không?

Vương thị cúi đầu nói lảng:

- Lão gia còn thì không nói làm gì, bây giờ lão gia mất rồi, chàng cũng định đem hết số bạc này đến cho đại nương hay sao?

Đạo Quốc đáp:

- Chính vì vậy mà tôi phải về nhà trước để bàn tính với nàng. Hay là mình giữ lại một nửa, chỉ đưa một nửa mà thôi?

Vương thị cười khảy:

- Chàng đã ngốc quá rồi, lần này chằng nên ngốc nữa. Sao chàng lại có thể tính toán nực cười như vậy? người ta đã chết rồi, thì mình coi như không còn liên hệ gì nữa. Bây giờ chàng đem một nửa lại, vợ con người ta lại hạch hỏi lôi thôi rồi làm sao? chi bằng bây giờ vợ chồng đã nắm số bạc lớn này, thì liệu mau mau lên kinh đô mà sống, lại được gần con gái mình, có phải hay hơn không. Lại còn Địch thân gia trong phủ Thái sư giúp đỡ mình nữa. Mình đã đi xa rồi thì chẳng còn phải lo sợ gì cả.

Đạo Quốc nghe xong bảo:

- Mình đi gấp quá, còn ngôi nhà này thì sao? chẳng lẽ bỏ à?

Vương thị bảo:

- Chàng sao vụng tính quá, mình gọi người nào tới, cho ít tiền, bảo coi nhà cho mình, rồi sẽ tính sau, chứ ở đây mà chờ bán nhà hay sao? trường hợp mà gia nhân của Tây Môn Khánh có tới tìm thì mình chỉ cần nói là con gái mình mời mình lên Đông Kinh ở. Như vậy thì có ba đầu sáu tay, vợ Tây Môn Khánh cũng chẳng dám tìm lên phủ Thái sư tìm mình, mà có dám lên chăng nữa thì lúc đó mình cũng chằng sợ.

Đạo Quốc nói:

- Chẳng gì thì từ trước tới nay vợ chồng mình cũng chịu ơn Tây Môn lão gia nhiều, nay trở mặt quá như vậy thì khó coi.

Vương thị nguýt chồng:

- Cứ làm gì cũng phải cho dễ coi thì đến không có cơm mà ăn. Người ta chiếm đoạt tôi rồi bỏ ra ít lạng bạc, như vậy là tốt lắm hay sao? hôm nọ, tôi nghĩ tình, cũng soạn lễ vật tới điếu tang, con dâm phụ vợ lớn của hắn đã không chịu ra tiếp lại không cho ai ra tiếp, mà còn ở trong nhà chửi mắng tôi nữa. Lúc đó thật tôi đi cũng dở mà ở không xong. Mãi sau con vợ thứ ba của hắn mới miễn cưỡng ra tiếp tôi. Tôi chỉ nói vài ba câu rồi lên kiệu về ngaỵ Thật là vừa tốn tiền lại vừa tức mình. Đấy, nhân nghĩa đấy.

Đạo Quốc không nói gì. Vương thị dọn cơm rượu ra hai vợ chồng ăn uống rồi đi ngủ. Vợ chồng xa nhau lâu ngày, chuyện chăn gối vô cùng nồng đượm.

Hôm sau, mới canh năm, Đạo Quốc đã cho gọi em là Hàn Nhị tới, kể sơ mọi chuyện, bảo coi nhà rồi cho hai chục lạng bạc để làm vốn. Tên du thủ du thực này vui vẻ nhận lời ngay, lại nói:

- Ca ca và tẩu tẩu cứ việc đi, để đó tôi lo cho.

Đạo Quốc bèn gọi hai cỗ xe lớn, chất rương hòm hành lý. Trời vừa sáng thì vợ chồng đem theo tên Vương Hán và hai đứa a hoàn, ngồi xe trực chỉ kinh đô.

Cũng hôm đó, Nguyệt nương bồng con trai là Hiếu ca nhi, cùng Ngọc Lâu, Kim Liên, Tây Môn Đại thư, nhũ mẫu Như Ý và Kính Tế tới mộ phần Tây Môn Khánh làm lễ dâng hương đốt vàng.

Dọc đường, gặp Trương An tới báo:

- Hàn Đại thúc về rồi đó, hôm qua tôi có gặp.

Nguyệt nương ngạc nhiên:

- Hắn về rồi sao không tới gặp tả chắc là hôm nay hắn tới.

Nói xong làm lễ mau chóng rồi vội vã trở về nhà.

Về tới nhà, gọi gia nhân lên hỏi, gia nhân nói là chưa thấy Đạo Quốc tới. Nguyệt nương sai ngay Kính Tế tới nhà Đạo Quốc gọi.

Kính Tế tới nhà Đạo Quốc hỏi thì Hàn Nhị ra trả lời:

- Cháu gái tôi ở kinh đô mời vợ chồng đại ca tôi lên ở đó rồi.

Kính Tế thất sắc hỏi:

- Còn thuyền hàng hiện ở đâu?

Hàn Nhị đáp:

- Chuyện đó tôi không được biết.

Kính Tế hoảng lên, vội về thưa lại với Nguyệt nương. Nguyệt nương cũng hết hồn, sai Kính Tế cưỡi ngựa dọc bờ sông hỏi thăm. Kính Tế cưỡi ngựa đi một hồi lâu, gặp ai cũng hỏi, mãi sau mới tìm được thuyền hàng. Gặp Lai Bảo, Lai Bảo đã hỏi ngay:

- Hàn quản lý đã đem hai ngàn lạng bạc hàng tơi nhà chưa?

Kính Tế đáp:

- Có thấy tông tíhc hắn đâu. Mãi sáng nay Đại nương trên đường tới phần mộ lão gia, tình cờ gặp Trương An, Trương An nói là hôm qua có gặp Hàn Đạo Quốc tại huyện. Đại nương sai tôi tới nhà tìm, thì mới hay là vợ chồng hắn lên Đông kinh ở rồi. Do đó đại nương mới phải sai tôi đi tìm ca ca đây.

Lai Bảo nghe xong không nói được lời nào, trong bụng nghĩ thầm:

- Thằng khốn này đã lừa mình, thì ra nó đã biết trước mà sắp đặt kế gian rồi.

Thật là:

Mặt gần nhau gang tấc

Lòng xa cách nghìn trùng.

Nghĩ ngợi một lúc, Lai Bảo mời Kính Tế vào một tửu lầu gần bến sông, gợi rượu thịt và ca nữ, bảo Kính Tế ăn uống để mình lo việc, rồi nhân đó chuyển ngầm một ít hàng trị giá chừng một ngàn lạng, đem vào gửi lại tửu lầu, sau đó mới lo khai báo thuế má, rồi cùng Kính Tế gọi xe chở hàng về.

Từ khi Tây Môn Khánh chết, tiệm tơ lụa ở đường Sư Tử đóng cửa. Còn tiệm tơ lụa ở đối diện nhà thì Thôi Bản và Cam quản lý bán hết hàng xong, giao tiền bạc minh bạch rồi cáo từ mà đi. Ngôi nhà đó cũng được bán đi. Chỉ còn tiệm thuốc là được duy trì, do Phó quản lý và Kính Tế trông coi.

Nguyên là Lai Bảo và vợ là Huệ Tường có đứa con trai năm tuổi đặt tên là Tăng Bảo. Vương thị, vợ Hàn Bảo Quốc có đứa cháu gái bốn tuổi, do đó hai bên kết làm thông gia, Nguyệt nương không biết chuyện này.

Lại nói về Lai Bảo, sau khi chở hàng về, gặp Nguyệt nương, mọi việc đổ hết lên đầu Đạo Quốc, nói là Đạo Quốc đã bán hàng lấy tiền trốn đi.

Nguyệt nương liền sai Lai Bảo lên Đông Kinh tìm Đạo Quốc. Lai Bảo nói:

- Trời ơi, vợ chồng hắn bây giờ ở trong phủ Thái sư, ai mà dám vào hỏi. Trước kia là lão gia sai đi có việc thì mới dám vào chứ bây giờ thì chịu.

Nguyệt nương bảo:

- Địch quản lý gia dầu sao cũng là chỗ thân tình với lão gia trước, chẳng lẽ không giúp đỡ được gì sao.

Lai Bảo đáp:

- Đại nương nói tới Địch quản lý gia làm gì, con gái vợ chồng Đạo Quốc được thời, hiện là vợ cưng của Địch quản gia, thì một bên là cha mẹ vợ, một bên là nhà mình, chẳng lẽ Địch quản gia chịu giúp nhà mình hay sao? có khi mình gây chuyệ lại còn mang hoa. nữa. Thôi thì đại nương cứ coi như không có số bạc đó, đừng nên nhắc tới nữa.

Nguyệt nương vô kế khả thi, đành nén giận mà bỏ quan, sau đó gọi Kính Tế vào cùng Lai BẢo bàn tính chuyện bán số hàng mới đem về. Bàn tới chuyện chia lời, Lai Bảo thấy phần mình ít nên không chịu, nói rằng:

- Cậu không buôn bán, không biết chuyện buôn bán cực như thế nào. Tôi kinh nghiệm buôn bán ở chốn giang hồ, biết bao nhiêu vất vả khổ nhọc mới mua được hàng tốt giá rẻ đem về bán được lời nhiều. Giả sử sai một người khác, trẻ người non dạ, thiếu kinh nghiệm, ham ăn chơi thì đừng nói gì lời lãi, mà cả đến tiền vốn cũng không còn. Bây giờ cậu tính thế nào thì tính.

Nguyệt nương bảo:

- Mình không còn tiệm để mà bán hàng, vả lại cũng không thể bán từ từ như trước, bây giờ cứ gọi nhà buôn nào tới, đắt rẻ gì mình bán luôn số hàng cho người ta, rồi sẽ tính sau.

Lai Bảo và Kính Tế đi gọi người, bán được số hàng với giá ngoài hai nghìn lạng, bán đổ bán tháo cho mau mà thôi. Kính Tế đem tiền đưa cho Nguyệt nương. Nguyệt nương thưởng cho Lai Bảo ba chục lạng. Lai Bảo vênh mặt không nhận, nói:

- Bấy nhiêu thì đại nương nên cất đi làm vốn. Lão gia đã mất, đại nương cũng nên có chút ít sống qua ngày, đưa tôi làm gì. Đại nương cứ cất đi, tôi không cần đâu.

Nói xong bỏ ra ngoài uống rượu.

Lát sau trở và gặp Nguyệt nương trắng trợn hỏi:

- Lão gia chết rồi, đại nương còn đang tuổi thanh xuân, chằng lẽ ôm ca nhi đây mà chịu lạnh lùng hay sao?

Nguyệt nương giận uất người lên, không nói được tiếng nào. Lai Bảo cười ha hả bỏ đi.

Một hôm, nhận được thư của Địch quản gai từ Đông Kinh gửi về, trước là chia buồn về cái chết của Tây Môn Khánh, sau thì cho biết là Hàn Đạo Quốc nói Tây Môn Khánh hiện có bốn a hoàn là ca nữ, giỏi đàn hát mà lại xinh đẹp, nên muốn hỏi giá tiền để mua lên Đông Kinh hầu hạ lão thái thái vợ Thái sư.

Nguyệt nương xem thư xong hoảng lên, gọi Lai Bảo tới bàn tính. Lai Bảo nghênh ngang bước vào. Nguyệt nương kể rõ sự việc rồi hỏi:

- Bây giờ nên cho chúng nó đi hay là giữ lại?

Lai Bảo không gọi Nguyệt nương là đại nương nữa mà gọi bằng nương tử. Hắn nói:

- Nương tử nghĩ sao mà lại hỏi như vậy? giữ chúng nó lại để mà rước hoa. vào thân hay sao? tôi nói cho nương tử biết, con gái vợ chồng Đạo Quốc hiện hầu Lão Thái sư thái thái, vợ chồng Đạo Quốc lại sống chung với con, thì chuyện gì trong nhà này mà phủ Thái sư chẳng biết. Lúc trước, quan nhân nhà này đưa con gái Đạo Quốc lên Đông Kinh làm thiếp của Địch quản gia, tôi đã nói là như vậy chỉ gây mầm họa mà thôi, bây giờ mới thấy lời tôi nói là đúng. Nương tử muốn giữ bốn đứa chúng nó lại cũng không được. Bởi vì phủ Thái sư sẽ sức giấy cho phủ huyện này sai người tới đem đi, lúc đó nương tử không chịu cũng không được, hoặc có muốn gì thì cũng trễ rồi. Chỉ còn cách thế này, là chọn hai đứa gửi đi, thay vì phải gửi bốn đứa. Như vậy còn tạm.

Nguyệt nương ngẫm nghĩ, Lan Hương và Xuân Mai còn phải hầu hạ Ngọc Lâu và Kim Liên, nên không thể cho đi được, Tú Xuân thì phải coi giữ Hiếu ca nhi, chỉ còn Ngọc Tiêu và Nghênh Xuân mà thôi, bèn cho gọi hai đứa vào hỏi xem có chịu đi Đông Kinh hay không. Hai đứa bằng lòng. Nguyệt nưogn bèn sai thu dọn quần áo hành trang, rồi thuê xe, sai Lai Bảo đưa hai đứa lên Đông Kinh. Nào ngờ, trên đường đi, Lai Bảo lần lượt thông gian nhiều lần với cả Ngọc Tiêu lẫn Nghênh Xuân.

Tới kinh đô, tìm vào phủ Thái sư, gặp vợ chồng Hàn Đạo Quốc, Lai Bảo đem hết chuyện ra kể lại, không quên kể công là mình đã che chở cho Đạo Quốc. Đạo Quốc mừng lắm, tạ Ơn Lai Bảo rồi nói:

- Nếu không có ca ca đỡ đần cho thì cũng mệt cho tôi. Đành rằng tôi không sợ gì, nhưng cũng mất công lắm.

Về phần Địch quản gia, thấy Ngọc Tiêu và Nghênh Xuân mới chỉ mười bảy mười tám tuổi, xinh đẹp lại giỏi đàn hát thì mừng lắm, vội dẫn ngay vào hầu hạ lão thái thái vợ Thái sư, rồi trở ra đưa hai đĩnh bạc cho Lai Bảo. Lai Bảo ở chơi vài ngày rồi trở về huyện Thanh Hà.

Tới nhà, Lai Bảo giấu đi một đĩnh, chỉ đưa cho Nguyệt nương một đĩnh bạc, rồi tìm đủ cách làm cho Nguyệt nương sợ hãi, đoạn nói:

- Nếu không phải tôi mà sai người khác đi thì chẳng được chút bạc nào đâu. Nương tử không biết, bây giờ vợ chồng Đạo Quốc vinh hoa phú quý, hai vợ chồng được ở riêng một toà nhà nguy nga trong phủ Thái sư, gia nhân đầy tớ chật nhà. Địch quản gia xưng hô thì một điều nhạc gia, hai điều nhạc mẫu cung kính lắm. Đứa con gái là Hàn Ái Thư thì phần được Địch quản gia cưng chiều, phần lại được Lão Thái sư thái thái quý mến, nên muốn gì được nấy, muốn một thì được mười, nói một tiếng là ai cũng phải sợ. Bây giờ nó lại trổ mã nữa, đẹp như tiên nga giáng thế, thôi thì gấm lụa đầy thân, vàng đeo ngọc giắt khắp mình, phú quý không sao nói hết. Vậy mà nó nói chuyện với tôi thì một điều Bảo thúc, hai điều Bảo thúc, lễ phép lắm.

Nguyệt nương nghe xong, vội cảm ơn Lai Bảo rồi sai a hoàn dọn rượu thịt thết đãi, sau đo tặng vài lạng bạc nhưng Lai Bảo không thèm nhận. No say xong, Lai Bảo về nhà, đưa một đỉnh bạc cho vợ.

Hôm sau, Lai Bảo cùng đứa em vợ là Lưu Thương ngầm trở lại tửu lầu ở bến sông, lấy số hàng cất giấu ra bán được khoảng ngàn lạng, về mua một ngôi nhà lịch sự Ở ngoài, gần nhà em vợ, mở tiệm tạp hoá. Lai Bảo chỉ ngày ngày uống rượu rong chơi.

Một hôm, vợ Lai Bảo là Huệ Tưởng muốn tới nhà mẹ Vương thị chơi, bèn giả vờ xin Nguyệt nương cho nghỉ một ngày, nói là về thăm mẹ mình, nhưng lại trở về nhà riêng, mặc quần áo sang trọng, trang điểm lộng lẫy, đeo nữ trang đỏ ối, ngồi kiệu mà đi. Lúc về, lại về nhà riêng trước, trút bỏ hết các thứ ra, mặc quần áo cũ rách rồi mới đi bộ về nhà chủ, Nguyệt nương hoàn toàn không hay biết.

Lai Bảo thì thường uống rượu say, vào phòng Nguyệt nương buông lời thô lỗ chọc ghẹo tán tỉnh, nhưng điều bị Nguyệt nương mắng, phải quay ray.

Đám nữ gia nhân trong nhà lại nói với Nguyệt nương:

- Vợ chồng Lai Bảo kết thông gia với nhà họ Vương, bên vợ của Hàn Đạo Quốc. Hôm nọ vợ Lai Bảo mặc quần áo đẹp, trang điểm loè loẹt, ngồi kiệu mà đến thăm Vương lão, mẹ vợ Đạo Quốc.

Kim Liên cũng biết chuyện đó, có nói với Nguyệt nương mấy lần, nhưng Nguyệt nương không nói gì. Huệ Tường biết chuyện, tức giận lắm, thường nói đông nói tây, chửi xiên chửi xéo. Lai Bảo thì thường nói với đám gia nhân rằng:

- Chúng bay ở nhà mà biết gì, đừng có chõ mõm vào việc người tạ Như Đạo Quốc đó, nó lấy tiền của chủ cả mấy ngàn lạng bạc rồi lên Đông Kinh ở sung sướng, có đứa nào dám động đến lông chân nó đâu. Vợ chồng tao đàng hoàng tử tế thì lại nói là ăn cắp tiền của chủ mà may mặc sắm sửa. Rõ là ở đời người ta chỉ nghe lời nói dối chứ chẳng ai chịu nghe lời nói thật, do đó mới có đứa dám đặt điều cho vợ chồng tao.

Có lúc lại mắng:

- Thật đáng ghét cho con dâm phụ nào thối miệng, bảo vợ chồng tao chuyển tiền của chủ về nhà, có biết đâu là vợ chồng tao thiếu thốn, phải vay tiền của bà dì mà may mặc sắm sửa đấy chứ. Vậy mà có những con dâm phụ nói ra nói vào, chắc là chúng nó muốn vợ chồng tao ra khỏi nhà này. Được rồi, vợ chồng tao đi chứ chẳng sợ gì, đi rồi chống mắt nhìn xem mấy con dâm phụ đó có ở được lâu trong nhà Tây Môn Khánh này hay không.

Vợ chồng Lai Bảo ngày càng làm quá, ăn nói vô lễ, hành động hỗn láo ngang ngược. Nguyệt nương giận lắm, nhưng biết là không thể trừng trị được, đành gọi vợ chồng Lai Bảo lên, đuổi ra khỏi nhà.

Vợ chồng Lai Bảo vênh váo dọn đồ đạc đi, vừa dọn vừa mắng mèo quèo chó. Sau đó hai vợ chồng nghiễm nhiên làm chủ cửa tiệm tạp hoá đồ sộ.

Thật là:

Thế bại, tớ khinh chủ,

Vận suy, quỷ hại người.

Gia nhân đày tớ là như vậy, cho nên nuôi gia nhân đầy tớ trong nhà cũng nên cẩn thận phòng xa. Từ khi Tây Môn Khánh chết, Kim Liên và Kính Tế không còn kiêng sợ gì nữa, đêm đêm hai người gặp nhau hoặc trong hoa viên, hoặc ngay tại phòng Kim Liên. Ban ngày, có chuyện cần hẹn hò, nhưng trước mặt mọi người khó nói thì hai người thường viết thư trao lén cho nhau. Hành động gian dâm vô liêm sỉ thật chẳng khác loài cầm thú.

Thời gian qua đi, một hôm vào khoảng tháng tư, Kim Liên lấy ra một cái khăn tay, một cái túi gấm nhỏ và một mớ tóc của mình, gói lại đẹp đẽ, lại viết một bài từ kèm theo, rồi đem lên thư phòng đưa cho Kính Tế, rồi sợ người khác thấy, đưa xong là về phòng ngay.

Kính Tế mở các tặng vật ra coi, trong lòng mừng lắm,lại đọc bài từ như sau:

Đây tấm khăn tơ

Đây là túi gấm

Lại kết thêm một món tóc mây

Tặng chàng những kỷ vật này

Đêm đêm sầu nhớ ngày ngày tương tư

Lệ châu nhỏ giọt

Bóng nguyệt mơ hồ

Dàn trà my những đợi đêm nay

Kính Tế đọc xong, biết là Kim Liên hẹn mình đêm nay tại dàn trà my trong hoa viên thì mừng lắm, vội lấy ra một cây quạt bằng trúc Tương phi, viết ít lời đề tặng Kim Liên lên quạt, rồi gói lại, đem tới định tặng lại Kim Liên.

Lúc đó Nguyệt nương đang ngồi trong phòng Kim Liên, nhưng Kính Tế không hay biết, chưa tới cửa đã gọi lớn:

- Người nhớ người thương có nhà không đây?

Kim Liên hỏang hồn, nhưng vốn là người lanh trí, vội chạy ra cửa vén rèm nhìn ra, thấy Kính Tế ở ngoài đang giơ tay vẫy, nhưng lờ đi, quay vào nói với Nguyệt nương:

- Tôi cứ tưởng ai, hoá ra cậu Kính Tế đang đi tìm Đại thư.

Rồi lại trở ra vén mành bảo Kính Tế:

- Đại thư không có ở đây, hình như là đang hái hoa trong hoa viên. Cậu nên tới đo mà tìm.

Kính Tế bước tới gần, nhìn qua cửa sổ thấy Nguyệt nương ngồi trong phòng, liền ngầm đưa cái quạt cho Kim Liên rồi quay ra. Kim Liên giấu ngay cái quạt vào tay áo, đoạn quay vào.

Nguyệt nương hỏi:

- Nó lại đây làm gì vậy?

Kim Liên đáp:

- Thì tôi vừa nói với đại nương đó, cậu ấy đi tìm Đại thư nhưng tôi nói là đại thư đang ở trong hoa viên nên cậu ấy vào hoa viên rồi.

Nguyệt nương không hỏi nữa. Sau vài câu chuyện, Nguyệt nương đứng dậy về hậu phòng.

Kim Liên lấy cái quạt trong tay áo mở ra coi, thấy đó là một cái quạt làm bằng trúc Tương phi và lụa bạch, giáo quạt có kết tua kim tuyến trên quạt có mấy câu như sau:

Trúc quý lụa thơm

Làm thành cây quạt đẹp

Cầm trong tay lúc trời nồng

Xin đừng để mất, phụ lòng tri âm.

Kim Liên đọc đi đọc lại mấy câu vừa rồi, trong lòng vui vẻ lắm.

Tối hôm đó, khi trăng bắt đầu lên, Kim Liên bảo Xuân Mai và Thu Cúc dọn rượu ra, rồi trang điểm thật đẹp, đứng tựa cửa sổ chờ Kính Tế.

Tối hôm đó Tây Môn Đại thư lại tới phòng Nguyệt nương nghe Vương sư bàn giảng kinh Phật, chỉ có a hoàn Nguyên Tiêu ở lại. Kính Tế cho Nguyên Tiêu một tấm khăn lụa rồi bảo:

- Ngươi ở nhà coi nhà cẩn thận, ta tới phòng Ngũ nương đánh cờ, đại cô nương về thì ngươi xuống đó gọi ta.

Nguyên Tiêu vâng lời. Kính Tế vào hoa viên, thẳng đường tới phòng Kim Liên. Trước cửa sổ phòng Kim Liên là một dàn trà my thật đẹp, Kính Tế đi nhẹ bước tháo mũ ra, chui vào dàn trà my, tiến lại cửa sổ, thấy Kim Liên đang đứng chờ đợi, vội đứng thẳng người lên. Kim Liên hết hồn, lùi lại một bước để tay lên ngực kêu khẽ:

- Đồ quỷ, làm người ta hết vía. May là tôi đứng đây đợi, giả dụ người khác đứng đây rồi chàng xử trí làm sao?

Kính Tế cười:

- Nàng thì tôi mới đùa vậy chứ người khác thì sao được.

Nói xong bước vào phòng. Kim Liên hỏi:

- Chàng tới đây, Đại thư có biết không?

Kính Tế đáp:

- Biết sao được mà biết, vợ tôi đang ngồi nghe giảng kinh trong phòng đại nương. Tôi có dặn Nguyên Tiêu rồi, có gì thì xuống đây gọi.

Kim Liên không hỏi nữa, mời Kính Tế ngồi uống rượu. Hai người chỉ uống vội vàng vài chung rồi dắt nhau tìm thú truy hoan.

Kể từ khi Tây Môn Khánh chết, thỉnh thoảng Kim Liên mới gặp Kính Tế trong phút mây mưa, do đó lần ái ân vụng trộm nào cũng khiến Kim Liên thập phần hoan lạc, chẳng khác gì đại hạn gặp mưa.

Mưa tạnh mây tan, hai người còn quyến luyến chưa rời, thì tiếng Nguyên Tiêu vang lên ngoài cửa.

- Đại cô nương về rồi.

Kính Tế lật đật ngồi dậy chỉnh đốn y phục rồi về phòng.

Sau lần gặp gỡ này, hai người càng thêm khăng khít, Kim Liên không thể chịu nổi những đêm dài cô đơn, nên từ đó thường tìm cách gọi Kính Tế tới giao hoan, dần dần, đêm nào hai người cũng lén gặp nhau.

Căn nhà Kim Liên ở, dưới là nơi ở, trên lầu là bàn thờ Phật Quan Âm, hai bên lầu là khó chứa dược phẩm. Một hôm, Kim Liên dậy sớm, trang điểm xong thì lên lầu thắp hương trước bàn thờ Phật. Tình cờ Kính Tế cũng theo lối sau lên lầu, cầm chìa khoá để mở kho lấy dược phẩm đem ra tiệm. Hai người gặp nhau thình lình, tình xuân khôn xén, cùng nhau vui thú giao hoan. Không ngờ đang lúc say sưa thì Xuân Mai đem trà lên để cúng, bắt gặp hai người mải mê hoan lạc. Xuân Mai ngỡ ngàng, lùi xuống không kịp, mà hai người không đề phòng nên cũng không biết phải xử trí làm sao. Nhưng sự hoảng hốt của đôi bên chỉ là khoảnh khắc, sau đó thì Kính Tế trỗi dậy, theo cầu thang phía sau mà xuống. Còn Xuân Mai cũng quay bước xuống lầu.

Kim Liên vội vã chạy theo gọi:

- Xuân Mai ơi, em trở lên đây với ta, ta có câu chuyện muốn nói với em.

Xuân Mai ngừng lại ngẫm nghĩ rồi trở lên lầu. Kim Liên bước tới nắm tay Xuân Mai mả bảo:

- Thôi em đã biết rồi thì ta nói cho em nghe. Cậu Kính Tế đây cũng chẳng phải người xa lạ gì, hai chúng tôi tâm đầu ý hợp, đã trót thương nhau và không thể xa nhau. Bây giờ em biết thì xin giữ trong lòng, dầu gì cũng đừng hở ra cho bất cứ một ai.

Xuân Mai đáp;

- Sao nương nương lại dạy vậy, tôi hầu hạ nương nương mấy năm nay, há lại không biết rõ tâm sự nương nương hay sao, lẽ nào tôi lại nói với ai.

Kim Liên cười:

- Nếu em đã có lòng che chở cho bọn ta thì em cũng phải.. vui thú cùng Kính Tế thì ta mới tin em. Còn nếu em không chịu, tức là em không thương bọn ta.

Xuân Mai đỏ bừng mặt lên, không nói gì.

Lát sau, Kính Tế lại mon men lên lầu, đứng xa ra theo dõi, Kim Liên vẫy Kính Tế lại, rồi lấy tay chỉ Xuân Mai mà cười. Kính Tế mỉm cười bước tới. Kim Liên bỏ mặc hai người mà xuống lầu. Trên này, Kính Tế giở thói cợt liễu đào hoa, Xuân Mai không tỏ vẻ kháng cự. Lát sau thì hai người đã xong phút giao hoan.

Từ đo hai chủ tớ Kim Liên và Xuân Mai cùng nhau tư thông với Kính Tế, không ngày nào là Kính Tế không đến với hai người. Việc tư thông tương đối êm xuôi, chỉ còn có sự hiện diện của Thu Cúc là hơi bất tiện mà thôi.

Thời gian lặng lẽ trôi qua, hôm đó là ngày mồng một tháng sáu, Phan bà bệnh già mà chết có người tới báo, Nguyệt nương sai sọan lễ vật hậu hỹ, bảo Kim Liên ngồi kiệu đem về lo tang cho mẹ.

Hai hôm sau, mồng ba tháng sau, Kim Liên trở về nhà, vào nói lại mọi chuyện với Nguyệt nương.

Lúc ở hậu phòng ra, Kim Liên đi ngang phòng vợ chồng Kính Tế. Kính Tế nghe tiếng chân bên ngoài, nhỏm dậy nhìn qua cửa sổ, thấy Kim Liên, bèn hỏi nhỏ:

- Đi đâu vậy?

Kim Liên bước tới gần cửa sổ bảo:

- Chàng đấy ư? tôi vừa mới về tới, đại thư không có trong đó sao?

Kính Tế đáp:

- Đại thư đang ngủ ở trong phòng, đêm qua nói chuyện với đại nương tới canh ba mới đi ngủ, sáng nay lại dậy sớm nên bây giờ đang ngủ như chết.

Kim Liên hỏi:

- Đêm qua chàng ở đâu?

Kính Tế đáp:

- Thì cùng Đại thư hầu chuyện đại nương ở thượng phòng tới khuya.

Kim Liên bảo:

- Chàng gớm lắm, định nói dối tôi hay sao? a hoàn nói là đêm qua chàng uống rượu tại phòng Tam nương phải không?

Kính Tế nói:

- Làm gì có chuyện đó, cả hai chúng tôi cùng ngồi nói chuyện với đại nương chứ có đi đâu đâu.

Đang nói chuyện thì nghe xa xa có tiếng chân người đi tới. Kim Liên vội lánh vào một chỗ khuất. Từ xa Lai An vào nói với Kính Tế:

- Phó quản lý mời cậu ra dùng cơm.

Kính Tế bảo:

- Được rồi, ngươi cứ ra nói là Phó quản lý dùng cơm trước đi, ta chải đầu rồi ra sau.

Lai An bước ra. Kim Liên chờ Lai An đi khuất rồi bước lại gần cửa sổ dặn nhỏ:

- Tối nay chàng cứ ở trong phòng, tôi sẽ sai Xuân Mai tới gọi.

Kính Tế cười:

- Xin tuân lệnh.

Kim Liên mỉm cười về phòng. Kính Tế chải đầu mặc áo ra tiệm thuốc tính toán sổ sách rồi ăn cơm với Phó quản lý.

Tối hôm đó trời không trăng sao mà rất nóng nực, Kim Liên bảo Xuân Mai chuẩn bị nước tắm. Tắm xong, Kim Liên ngồi sửa móng tay móng chân, bảo Xuân Mai đuổi muỗi rồi buông tấm rèm cửa xuống cho muỗi khỏi vào. Xuân Mai hỏi:

- Nương nương có thích hoa phượng tiên không?

Kim Liên hỏi lại:

- Ở đâu có?

Xuân Mai đáp:

- Tôi mới tìm được vài gốc trong hoa viên, để tôi nhổ mấy gốc về, nương nương bảo Thu Cúc nó trông vào mấy cái bồn, mình để ngay trước thềm này.

Kim Liên vẫy Xuân Mai tới gần ghé tai dặn nhỏ:

- Ngươi tới phòng cậu Kính Tế, mời cậu tới đây ta nói chuyện.

Xuân Mai mỉm cười gật đầu bước ra. Kim Liên ngồi trang điểm.

Lát sau Xuân Mai đem mấy gốc phượng tiên về, bảo Thu Cúc trồng vào bồn. Thu Cúc trồng hoa xong, Kim Liên gọi vào thưởng cho mấy chung rượu rồi bắt vào nhà sau ngủ sớm. Sau đó bảo Xuân Mai trải nệm ra ngoài thềm nằm cho mát. Xuân Mai lo nệm gối cho chủ rồi ra khép hờ cổng lại.

Thật là cảnh:

Chờ trăng, mái tây lạnh

Đón gió, cổng khép hờ.

Nhìn bóng hoa lay động.

Ngờ rằng người ước mơ.

Nguyên là Kính Tế đã hẹn với Kim Liên là lấy bóng hoa lay động làm dấu hiệu, nên khi Kim Liên thấy bóng hoa bên tường lay động thì biết là Kính Tế đã tới, bèn đằng hắng cho biết là mình đang đợi. Kính Tế nghe tiếng đằng hắng, thì đẩy nhẹ cánh cổng mà vào.

Kim Liên hỏi:

- Lúc chàng tới đây thì trong phòng có những ai?

Kính Tế đáp:

- Đại thư hôm nay ở phòng trong, nhưng tôi đã dặn Nguyên Tiêu là có gì thì phải gọi tôi ngay.

Đoạn thấp giọng hỏi:

- Thu Cúc ngủ chưa?

Kim Liên đáp:

- Nó ngủ say rồi.

Đoạn lấy ra năm lạng bạc vụn đưa cho Kính Tế mà bảo:

- Mẫu thân tôi mất, nhưng lúc lão gia sinh thời đã cho tiền mẫu thân tôi mua sẵn quan tài rồi. Đại nương cũng đã cho tiền và lễ vật để tôi về lo tang mạ Ngày mai thì đưa đám, tôi có ít bạc vụn này nhờ chàng ngày mai tới nhà mẫu thân tôi, lo mọi chuyện gìum cho, thế nào cho chôn cất xong xuôi, mồ yên mả đẹp.

Kính Tế nhận bạc nói:

- Được rồi, ngày mai tôi sẽ đi thật sớm, lo việc xong xuôi sẽ về nói lại nàng hay.

Hai người chuyện trò lả lơi với nhau một lúc rồi Kính Tế sợ vợ hỏi tới nên vội về phòng ngay.

Sáng sớm hôm sau, Kính Tế ra ngọai thành, tới nhà Phan bà thật sớm, mãi quá trưa mới về nhà. Tới nhà là vào phòng Kim Liên ngay, tặng Kim Liên mấy đoá hoa Mạt Ly hái được ở chùa Chiêu Hoa để Kim Liên cài tóc. Kim Liên hỏi:

- Tống táng xong xuôi chưa?

Kính Tế đáp:

- Không xong xuôi tốt đẹp thì tôi đâu dám về nói lại với nàng. Chi phí xong xuôi còn thừa chừng một lạng sáu bảy tiền gì đó, tôi đưa cho em nàng rồi. Em nàng cảm ơn lắm, lại dặn nói lại với nàng rằng hôm nào sẽ tới tạ Ơn nàng sau.

Kim Liên nghĩ tới mẹ giờ này nằm yên dưới ba tấc đất thì cũng ngậm ngùi. Lát sau mới bảo Xuân Mai:

- Ngươi đem trà ra đây mời chàng uống.

Sau vài tuần trà, Xuân Mai lại dọn rượu thịt ra mời Kính Tế. Kính Tế ăn uống qua loa rồi lên nhà trên.

Một hôm vào khoảng tháng bảy, Kim Liên gặp Kính Tế dặn:

- Hôm nay chàng đừng đi đâu, tôi sẽ tới phòng thăm chàng.

Kính Tế gật đầu. Không ngờ hôm đó Kính Tế bị Thôi Bản mời ra ngoại thành chơi với mấy người bạn, ăn uống no say rồi kéo nhau vào nhà kỹ nữ vui chơi. Về tới nhà, Kính Tế mệt mỏi say sưa, nằm lăn ra giường mà ngủ như chết, không còn biết trời đất gì nữa.

Đến tối, Kim Liên tìm tới, thấy Kính Tế nằm ngủ trên giường, lay gọi mãi không tỉnh, biết là Kính Tế quá say sưa. Chợt Kim Liên thấy trong áo tay Kính Tế có vật gì cồm cộm, bèn thò tay vào lấy ra coi, thì đó là một chiếc trâm vàng rất đẹp, trên có khắc hàng chữ:

Nhà vàng, ngựa quý đang kêu, hương thơm chật đất,

Lầu ngọc, người say chưa tỉnh, hoa hạnh đầy trời.

Kim Liên đọc tới hai chữ "Lầu Ngọc" thì biết đó là cây trâm của Ngọc Lâu, bèn nghĩ thầm:

- Tại sao cây trâm này lại ở đây? chắc là hai người có chuyện dan díu gì đây, nếu không tên khốn này làm sao có được cây trâm quý của Ngọc Lâu. Để ta viết ít chữ, đợi lúc hắn tỉnh dậy sẽ biết. Nghĩ xong, tìm bút viết ngay lên tường mấy câu:

Tìm đến cùng chàng, thấy vẫn say,

Uổng công tiên nữ tới nơi này.

Tương Vương rõ thật vô tình nhỉ,

Khiến kẻ si tình luống đắng cay.

Kim Liên viết xong, buông bút mà về phòng.

Lúc lâu sau, Kính Tế dã rượu thức giấc, thấy trời đã tối, chợt nhớ tới lời hẹn của Kim Liên, tự hỏi là không biết Kim Liên đã tới hay chưa. Chợt ngẩng đầu nhìn lên tường, thấy rành rành bốn câu thơ nét mực chưa khô, đọc xong biết là Kim Liên đã tới trong lúc mình say rượu nằm ngủ, trong lòng hối hận khôn nguôi, nghĩ thầm:

- Bây giờ chắc cũng khỏang canh một, Đại thư và Nguyên Tiêu đều đang ở trong hậu phòng với Nguyệt nương, tại sao mình không đến với Kim Liên?

Nghĩ xong bèn tìm tới phòng Kim Liên ngay, nhưng tới nơi, thấy ngoài cổng đóng chặt, Kính Tế vội lay mấy bụi hoa làm hiệu, cũng chẳng thấy bên trong động tĩnh gì, liền leo tường mà vào.

Kim Liên thì từ lúc về phòng buồn giận vô cùng, thay quần áo rồi lên giường nằm ngủ. Hai a hoàn cũng đi ngủ sớm.

Kính Tế vào tới nơi, thấy trong nhà im lặng, rón rén vào tới cửa thấy cửa chỉ khép hờ. Nhìn vào trong, nhờ ánh trăng lờ mờ chiếu qua cửa sổ, chiếu vào giường, thấy Kim Liên đang nằm ngủ, Kính Tế khẽ lên tiếng gọi, gọi mấy lần cũng không thấy Kim Liên trả lời, liền nhẹ bước tới bên giường thấp giọng bảo:

- Nàng đừng giận tôi, không phải là tôi quên lời nàng hẹn, nhưng bị Thôi Bản kéo ra ngọai thành ăn uống với vài người bạn nữa, không ngờ quá saỵ Về tới nhà là lăn ra ngủ mà không biết nàng tới. Xin nàng tha tội cho tôi.

Kim Liên vẫn im lặng. Kính Tế một mặt tiếp tục ngọt ngào năn nỉ, một mặt ôm lấy Kim Liên mà nựng nịu. Kim Liên gạt phắt tay Kính Tế ra mà mắng:

- Đồ khốn nạn phụ bạc, có nói nhỏ không đám a hoàn nghe được hết bây giờ. Không phải nhiều lời nữa, tôi biết chàng có người khác rồi nên mới không ngó ngàng gì đến tôi.

Kính Tế nói:

- Quả thật là tôi bị Thôi Bản tới rủ đi ăn uống với bạn bè, chơi trò bắn tên rồi uống rượu quá say, về nhà lỡ ngủ quên nên mới thất hẹn với nàng chứ có người nào đâu mà nàng giận. Tôi thấy nàng đề thơ trên tường thì biết nàng giận lắm, nhưng xin nàng tha tội cho tôi.

Kim Liên rít lên:

- Đồ khốn đừng có lẻo mép dối gạt tôi. Hôm nay chàng đi những đâu, làm những gì tôi không cần biết, chỉ biết là về nhà, chàng ngủ say, trong tay áo có cái trâm mà thôi. Cây trâm đo của ai? làm sao chàng có được?

Kính Tế đáp:

- Cây trâm đo là hôm nọ tôi lượm được trong hoa viên đó.

Kim Liên cười nhạt:

- Vẫn còn cố tình chạy tội, nhặt được ở đâu mà nhặt, chàng nhặt được một cái nữa như thế này thì tôi mới tin. Này, vểnh tai ra mà nghe lời tôi nói đây, cây trâm này là của con dâm phụ Mạnh Ngọc Lâu chứ còn của ai nữa, tôi biết rõ quá mà, cây trâm có khắc tên rành rành ra đây mà còn định dối gạt tôi hay sao? hôm nọ tôi về nhà mẹ, con dâm phụ đó mời chàng tới phòng uống rượu rôi hai người hú hí với nhau. Vậy mà lúc tôi hỏi, chàng còn chối dài. Thì ra chàng đã đem chuyện của tôi kể cho con dâm phụ đó, thảo nào gặp tôi, nó cứ cười tủm tỉm. Như vậy là hết rồi, từ nay tôi cùng chàng kể như không còn gì nữa.

Kính Tế cuống quá, không biết làm sao, vội thề độc rồi khóc nói:

- Tôi là Kính Tế, có dính dấp gì với Tam nương thì xin trời đất thánh thần không cho tôi sống được tới năm ba mươi tuổi, mà từ nay đến đó thì cho tôi lên đinh mọc nhọt, bệnh tật khổ sở, không cơm không cháo...

Kim Liên vẫn không tin:

- Chàng là đồ yêu đồ quỷ, thề là thề cá trê chui ống mà thôi. Tin chàng thì có mà đổ thóc giống ra mà ăn.

Đôi bên cứ nói đi nói lại hồi lâu, tới khuya thì Kính Tế cởi áo lên giường, nằm chung với Kim Liên. Kim Liên nằm nghiêng, co người lại, xoay lưng ra ngoài, không thèm nói lời nào. Kính Tế kề tai năn nỉ dỗ dành, Kim Liên vẫn nhất quyết không thèm để ý. Kính Tế cũng không dám hành động liều lĩnh vì sợ Kim Liên có thể làm ầm lên.

Cứ như thế cho tới khi trời gần sáng thì Kính Tế sợ các a hoàn dậy sớm bắt gặp, vội trèo tường mà về phòng. Kim Liên hành hạ Kính Tế suốt một đêm, trong lòng cũng hơi hối hận.

Mấy hôm sau, tới ngày rằm tháng bảy, Nguyệt nương ngồi kiệu tới Địa Tạng am, nhờ Vương sư bà làm lễ cầu siêu cho Tây Môn Khánh, Kim Liên, Ngọc Lâu, Tuyết Nga và Đại thư chỉ đưa Nguyệt nương ra tới cổng rồi quay vào. Ba người kia vào hậu đường, Kim Liên lững thững về phòng, tình cờ gặp Kính Tế vừa ở kho hàng trên lầu đi xuống, vội gọi lại mà bảo:

- Hôm nọ tôi có nói mấy câu mà chàng giận, không thèm đến với tối nữa phải không?

Kính Tế đáp:

- Nàng nói vậy mà nghe được, mấy đêm nay không đến với nàng là sợ bị nàng xua đuổi, chứ có đêm nào tôi ngủ được đâu, nàng nhìn mặt tôi thì biết, gầy xọp đi đây này.

Kim Liên nguýt Kính Tế mà bảo:

- Đồ quỷ, chỉ được cái khéo nói, đêm nọ sao bỏ về vậy?

Kính Tế kêu lên:

- Trời ơi, không về thì nằm đó để sáng ra mọi người thấy hay sao?

Kim Liên cười:

- Nếu vậy thì tối nay đến với tôi đi.

Kính Tế cũng cười:

- Đêm nay tới với nàng chắc là lại phải thức trắng một đêm như đêm nọ mất, có elx tôi phải ngủ trước mới được.

Kim Liên đưa một ngón tay lên;

- Không đến thì biết tay tôi.

Kim Liên nói xong ngoe nguẩy về phòng. Kính Tế đem hàng ra tiệm, cùng phó quản lý bán hàng một lúc rồi về phòng ngủ một giấc, mãi tới chiều mới thức dậy. Ăn cơm xong, định tới với Kim Liên vì trời cũng đã tối, thì bỗng nhiên trời đất vần vũ rồi mưa xuống như thác đổ. Kính Tế lẩm bẩm:

- Trời với đất gì chán quá, nàng đã hẹn đi hẹn lại như vậy mà không đi đến được thì phen này biết ăn nói làm sao.

Rồi cứ đi ra đi vào chờ tạnh mưa, nhưng mưa mãi không tạnh. Kính Tế nóng lòng sốt ruột, chờ tới canh một thì mặc dầu mưa chưa dứt cũng khoác áo tơi mà đi.

Nguyệt nương đã về từ nãy, Đại thư và Nguyên Tiêu hiện đang ở hậu phòng trò chuyện với Nguyệt nương.

Kính Tế đóng cửa phòng lại rồi đội mưa băng qua hoa viên tới phòng Kim Liên.

Kim Liên biết đêm nay sớm muộn gì Kính Tế cũng đến, nên bảo Xuân Mai phục rượu cho Thu Cúc. Thu Cúc say rượu đi ngủ sớm. Xuân Mai dọn rượu và thức ăn ra bàn, trong khi Kim Liên trang điểm. Hai chủ tớ ngồi nghe mưa mà đợi.

Kính Tế vào thẳng phòng trong, bỏ áo mưa, ngồi xuống ghế. Kim Liên rót rượu ra mời rồi hỏi:

- Bây giờ chàng phải nói thật, nếu quả chàng không có tình ý gì với Ngọc Lâu thì sao chàng lại có cây trâm đó?

Kính Tế nhăn nhó:

- Thì tôi đã nói là tôi nhặt được trong hoa viên mà, tôi nói dối nàng thì hco trời tru đất diệt.

Kim Liên bảo:

- Nếu vậy thì để tôi cất cây trâm đó đi, tôi sẽ tặng chàng một cây trâm khác, đẹp không kém gì.

Hai người thân thiện trở lại, kề vai áp má chén tạc chén thù, chẳng khác gì vợ chồng.

Tại nhà sau, Thu Cúc chợt tỉnh giấc, nghe như có tiếng đàn ông nói chuyện đâu đây, nhưng sau đó lại ngủ mất.

Đầu canh năm hôm sau, gà vừa mới gáy thì Thu Cúc đã dậy định đi tiểu, bỗng nghe tiếng mở cửa, rồi một bóng đàn ông từ phòng Kim Liên đi ra. Thu Cúc rón rén theo sau. Người đàn ông ra tới sân, ngoài trời mưa nhỏ chưa dứt hột, ánh trăng mờ mờ, Thu Cúc nhận ra Kính Tế, nghĩ bụng:

"Thì ra đêm nào cậu này cũng đến đây ngủ với Ngũ nương, thật không ngờ Ngũ nương dám làm chuyện ám muội đó, hèn gì tối nào Ngũ nương cũng cho mình uống rượu say để đi ngủ cho sớm".

Sáng ra, khi xuống bếp lấy thức ăn sang cho chủ. Thu Cúc kể hết chuyện cho Tiểu Ngọc nghe. Nào ngờ Tiểu Ngọc lại thân với Xuân Mai, bèn tìm gặp Xuân Mai bảo:

- Thu Cúc nó vừa nói với tôi là Ngũ nương gian dâm với cậu Kính Tế. Nó nói rằng đêm qua cậu ấy ngủ tại phòng Ngũ nương, canh năm sáng nay mới ra.

Xuân Mai nói ngay với Kim Liên, đọan bảo:

- Nương nương không đánh cho nó một trận để nó chừa cái tật bép xép đó đi thì không được đâu.

Kim Liên đùng đùng nổi giận, gọi ngay Thu Cúc tới bắt quỳ trước mặt mà mắng:

- Tao bảo mày vào bếp lấy cháo, chứ tao có bảo mày bép xép chuyện này chuyện kia đâu. Hồi này tao không đánh mày nên mày ngứa thịt chứ gì?

Nói xong cầm roi da quất liên hồi lên mình Thu Cúc, đánh đến nát da nát thịt, Thu Cúc thét lên từng chập.

Xuân Mai đứng cạnh bảo:

- Nương nương đánh vậy chưa đã ngứa cho nó đâu, bây giờ lột áo nó ra, gọi gia nhân tới dùng trượng mà đánh vài chục trượng thì may ra nó mới sợ. Nương nương đánh như vậy cứ như phủi bụi mà tưởng là nó sợ hay sao?

Đoạn bảo Thu Cúc:

- Kẻ ăn người làm thì phải kín mồm kín miệng, chuyện trong không nói, chuyện ngoài không hay mới được, chứ như mày thì chỉ rước hoa. cho chủ mà thôi, cho mày chết.

Thu Cúc rên rỉ:

- Tôi có nói gì đâu.

Kim Liên nghiến răng rít lên:

- Quân nỏ mồm, quân phản chủ, mày nói gì thì mày biết.

Nói xong lại đánh một hồi nữa rồi mới đuổi Thu Cúc ra nhà sau.

Một đêm vào khoảng trung tuần tháng tám, Kim Liên hẹn với Kính Tế tới uống rượu thưởng trăng. Đêm đó uống rượu say sưa, lại hoan lạc liên miên với Kim Liên và Xuân Mai, sáng ra Kính Tế ngủ mê mệt quên cả dậy.

Thu Cúc dậy sớm, vào ngay thượng phòng thưa với Nguyệt nương. Nhưng Nguyệt nương đang chải đầu, Tiểu Ngọc đứng ngoài cửa, Thu Cúc liền gọi Tiểu Ngọc mà bảo:

- Cậu Kính Tế đêm qua lại đến ngủ với Ngũ nương, hiện giờ vẫn còn chưa dậy. Hôm nọ tôi nói cho chị biết mà bị một trận đòn thừa sống thiếu chết. Hôm nay thì ban ngày ban mặt rành rành tôi quyết không chịu ếm nhẹm chuyện này, phải thưa với Đại nương để Đại nương đến bắt quả tang mới được.

Tiểu Ngọc mắng:

- Đồ phản chủ, Đại nương đang chải đầu, làm sao đi được.

Nguyệt nương nghe tiếng nói chuyện bèn hỏi vọng ra:

- Chuyện gì vậy?

Tiểu Ngọc không biết nói sao, chỉ đáp:

- Ngũ nương cho Thu Cúc tới thỉnh Đại nương xuống nói chuyện.

Nguyệt nương chải đầu xong, liền xuống phòng Kim Liên. Nhưng từ xa, Xuân Mai đã nhìn thấy Nguyệt nương, vội hoảng lên vào báo cho chủ, Kim Liên và Kính Tế còn đang nằm trong chăn chưa dậy. Nghe nói Nguyệt nương tới, cả hai thất kinh, không biết tính sao, Kim Liên bèn đẩy Kính Tế nằm sát vào tường, rồi gấp hai cái chăn bông, che kín. Vừa xong thì Nguyệt nương bước vào phòng ngoài, ngồi xuống ghế mà hỏi:

- Ngũ muội đâu, sao giờ này chưa dậy?

Nói xong đứng dậy bước vào phòng trong, Kim Liên đang mặc áo ngoài. Nguyệt nương lại gần, cầm chéo áo lên coi rồi khen:

- Áo đẹp quá nhỉ, lụa đẹp mà hoa cũng đẹp, tại cái eo áo lại có giải dây lưng đồng tâm kết, hôm nào tôi cũng phải may một cái như vậy mới được.

Kim Liên thấy Nguyệt nương vui vể thì lấy lại bình tĩnh bảo:

- Xuân Mai, đem trà thỉnh Đại nương dùng.

Nguyệt nương uống trà, nói vài câu chuyện rồi đứng dậy bảo:

- Ngũ muội chải đầu rồi vào hậu phòng ngồi nói chuyện chơi.

Kim Liên đáp:

- Thưa vâng.

Rồi tiễn Nguyệt nương ra, rồi vội quay vào bảo Kính Tế theo lối sau mà ra. Kính Tế ra rồi, chủ tới Kim Liên và Xuân Mai cùng toát mồ hôi. Kim Liên bảo:

- Mới sáng sớm ra, không hiểu tại sao Đại nương lại tới đây nói chuyện bâng quơ như vậy?

Xuân Mai bảo:

- Chắc lại do cái mồm con Thu Cúc mà thôi.

Quả nhiên lát sau Tiểu Ngọc tới bảo:

- Sáng sớm nay, Thu Cúc tới nói với tôi là cậu Kính Tế ngủ tại đây hôm qua, sáng nay vẫn chưa dậy, định thỉnh đại nương xuống bắt quả tang. Tôi mắng nó mấy câu thì Đại nương nghe được, hỏi chuyện gì, tôi thưa là Ngũ nương sai Thu Cúc tới thỉnh Đại nương, do đó Đại nương mới xuống đây. Tôi cho Ngũ nương biết, nhưng Ngũ nương cứ nên để bụng mà đề phòng con Thu Cúc thôi, đừng đánh mắng nó ầm ỹ lên làm gì, chỉ thêm bất lợi.

Thật ra không phải là Nguyệt nương không biết chuyện gian dâm của Kim Liên với Kính Tế, nhưng một phần nghĩ rằng Kim Liên lòng xuân phơi phới, khó ở một mình, phần lại thương Đại Thư hiền lành ngoan ngoãn, không muốn làm ra chuyện. Do đó, Nguyệt nương sai dọn dẹp căn phòng cũ của Kiều Nhi, gần phòng mình, bảo vợ chồng Kính Tế vào đó ở, mỗi đêm bắt Kính Tế phải luân phiên với Phó quản lý, ngủ tại tiệm thuốc coi hàng, cổng ra vào giữa hậu phòng và hoa viên mỗi tối đều được khóa kỹ, mỗi lần Kính Tế lên lầu lấy hàng đều có Đại An theo ra theo vào. Các a hoàn và gia nhân, nếu không được sai bảo, không được vào hoa viên, vì muốn tới phòng Kim Liên phải qua hoa viên. Mọi sự đều được Nguyệt nương đích thân kiểm soát, do đó Kim Liên và Kính Tế bị ngăn trở. Thật là:

Thế gian trở ngại thiếu gì,

Cố bít bưng, cũng ít khi lâu bền.

Thấm thoát đã hơn một tháng Kim Liên không trao đổi tin tức hẹn hò gì được với Kính Tế, lại không đánh mắng Thu Cúc, vì nghĩ là Nguyệt nương đã biết chuyện, chỉ không muốn làm cho ra lẽ mà thôi. Từ đó Kim Liên đêm đợi ngày chờ, ra ngơ vào ngẩn, đêm đêm trằn trọc lạnh lùng, biếng hoạt động, lười ăn ít ngủ, chỉ nằm ngồi dật dựa buồn phiền.

Một hôm, Xuân Mai thấy chủ quá buồn phiền, liền bảo:

- Nương nương buồn phiền cũng chẳng ích gì. Hôm nay tôi nghe nói là hai sư bà tới giảng kinh Phật trong nhà, chắc là mọi người tụ cả lại mà nghe. Để tôi giả vờ ra chuồng ngựa gần cổng nói là lấy cỏ khô về nhồi gối, rồi lẻn ra ngoài tiệm nhắn cậu Kính Tế lại, cùng nương nương gặp gỡ một phen, nương nương nghĩ sao?

Kim Liên sáng mắt lên:

- Em ơi, nếu em thương ta thì gọi Kính Tế cho ta, ơn của em ta sẽ chẳng quên.

Xuân Mai bảo:

- Sao nương nương lại dậy vậy? tôi với nương nương cũng như là một rồi, nói chuyện ân nghĩa làm gì. Nay gia gia không còn, chẳng lẽ nương nương chết già ở đây sao. Nay mai nương nương đi đâu thì tôi đi đó, chủ tớ mình lúc nào cũng có nhau.

Kim Liên bảo:

- Nếu em có lòng như vậy thì còn gì bằng.

Chiều hôm đó, Kim Liên làm vẻ thiểu não, vào hậu phòng nói với Nguyệt nương là trong người khó chịu, không thể nghe giảng kinh Phật tối nay được, nói xong về phòng.

Đến tối, Nguyệt nương cho đóng cổng trong sớm.

Kim Liên bảo Xuân Mai:

- Hôm nay tới phiên Kính Tế ngủ lại ngoài tiệm phải không? em làm ơn gọi chàng tới mau với ta đi.

Xuân Mai đáp:

- Để tôi chuốc cho con quỷ cái Thu Cúc mấy chung rượu cho nó say mèm đã, rồi đi ngay.

Nói xong bày rượu thịt ra mời Thu Cúc ăn uống, ép Thu Cúc uống say, Thu Cúc lên giường ngủ thì Xuân Mai vờ đem một cái giỏ ra chuồng ngựa, nói là lấy cỏ khô nhồi gối, rồi lẻn ra khỏi cổng, tới tiệm thuốc gọi cửa.

Đêm đó Phó quản lý ở nhà, tới lượt Kính Tế ngủ lại ngoài tiệm. Vừa đặt mình định ngủ, Kính Tế nghe tiếng gọi cửa, vội ra mở cửa, thấy Xuân Mai thì cười toe toét bảo:

- Trong tiệm chỉ có mình tôi, mời nàng vào chơi.

Nói xong mời Xuân Mai vào rồi khép cửa lại, Xuân Mai hỏi:

- Gia nhân đâu cả rồi?

Kính Tế đáp:

- Đại An và mấy đứa rủ nhau đi chơi rồi, đêm chúng nó không về đâu, chỉ có mình tôi ngủ lại đây thôi. Thật là cô đơn lạnh lùng lắm.

Xuân Mai bảo:

- Nương nương tôi mời cậu tới ngay, hồi này chẳng thấy cậu tới gì cả, nương nương tôi bảo là hay cậu vì Mạnh Tam nương mà quên nương nương tôi rồi.

Kính Tế nhăn nhó:

- Sao lại nói vậy? từ hôm đó tới nay, không thấy Đại nương sai khoá cổng trong hay sao? ai dám bẻ khoá mà tới được.

Xuân Mai đáp:

- Hồi này nương nương tôi tưởng nhớ cậu đến quên ăn quên ngủ, lúc nào cũng thẫn thờ ủ dột, hôm nay cậu đến với nương nương tôi đi. Hôm nay Đại nương và mọi người nghe giảng kinh, yên tâm là cậu ngủ ở đây, cổng trong lại khóa kỹ rồi, cậu đến với nương nương tôi ngay, nương nương tôi không giờ nào là không tưởng nhớ tới cậu.

Kính Tế nói:

- Hậu tình của nương nương nàng, tôi làm sao báo đáp. Bây giờ nàng về trước đi, tôi thu dọn rồi tới ngay.

Nói xong lấy ra một cái khăn tay, một món trang sức bằng bạc đưa cho Xuân Mai, Xuân Mai xách giỏ đầy cỏ nói với Kim Liên:

- Cậu Kính Tế thấy tôi tới thì mừng lắm, nói là sẽ tới ngaỵ Lúc đưa tôi về, còn tặng tôi một chiếc khăn tay và một món nữ trang bằng bạc nữa.

Kim Liên nóng ruột:

- Bây giờ ngươi ra cửa xem chàng đã tới chưa, ở đó mà nói dông dài.

Đêm đó là đem trung tuần tháng chín, trăng chiếu mờ mờ. Kính Tế về tới cổng, nhờ Bình An ra tiệm coi giùm, nhưng Bình An không chịu. Kính Tế bèn theo cổng nhỏ vào hoa viên, lay động mấy bụi hoa làm hiệu, Xuân Mai đã chờ sẵn, vội ra dẫn vào.

Kim Liên cười tít hỏi:

- Đồ quỷ, sao chẳng thấy đến với người ta gì cả vậy?

Kính Tế đáp:

- Tình cảnh thế này mà đến sao được, chỉ sợ xảy ra chuyện gì thì lụy tới nàng mà thôi.

Xuân Mai đóng hết cửa ngõ lại. Trong này hai người tay nhập tiệc, kề vai áp má mà uống rượu, Xuân Mai ngồi cạnh rót rượu.

Trong lúc ba người đang chén tạc chén thù nói cười lơi lả thì Thu Cúc ở nhà sau thức giấc. Nghe văng vẳng tiếng cười nói, Thu Cúc đi vòng lối sau, tới cửa sổ phòng Kim Liên ghé mắt nhìn vào, nhìn rõ mồm một cảnh âu yếm lả lơi, trong bụng nghĩ thầm:

- Chỉ giỏi đánh mắng mình, bây giờ thì mắt mình thấy hai năm rõ mười, để sáng sớm mai phải nói với Đại nương, xem họ còn chạy tội được hay không.

Nghĩ xong, lại vào nhà sau ngủ tiếp.

Ngoài kia, ba ngừoi uống rượu tới canh ba mới dẫn nhau tìm cuộc truy hoan. Kim Liên thèm khát lâu ngày, đêm đó được thập phần mãn nguyện.

Sáng hôm sau, Xuân Mai đã dậy, vào nhà sau xem động tĩnh, thấy cửa phòng Thu Cúc mở toang, nhưng Thu Cúc vẫn còn trong phòng, liền hỏi:

- Cửa sao mở toang ra thế này?

Thu Cúc đáp:

- Việc gì phải hỏi, đêm không cho người ta đi tiểu hay sao, không mở cửa đi tiểu thì tiểu ở đâu bây giờ?

Xuân Mai bảo:

- Con yêu tinh kia, tao đã để cái bô trong phòng cho mày, sao mày không đi tiểu vào đo, còn phải đi đâu.

Thu Cúc bảo:

- Để mà không dặn thì ai biết được.

Lúc đó Kính Tế đã đi rồi, Kim Liên nghe phía sau có tiếng cãi cọ thì hỏi:

- Cái gì mà ồn lên trong đó vậy?

Xuân Mai trở ra cho biết là Thu Cúc đêm qua có mở cửa ra ngoài. Kim Liên giận lắm, muốn đánh Thu Cúc.

Thực ra sáng hôm đó, Thu Cúc đã tới thưa chuyện với Nguyệt nương, nhưng Nguyệt nương gạt đi vờ mắng:

- Con phản chủ này cứ lằng nhằng mãi, lần trước mày nói là cậu Kính Tế ngủ suốt đêm ở đó, tới sáng còn ngủ, tao xuống có thấy gì đâu, chủ mày ngồi trên giường mà tiếp chuyện tao, chứ có thấy ai đâu, mày là đày tớ phản chủ, mày gieo tai tiếng cho nhà này, khiến cho người ta nói là gia gia mày mất đi, các nương nương ở đây đều thành yêu thành quỷ hết. Nếu không có những đứa đầy tớ như mày, bép xép bịa điều đặt chuyện thì làm sao người ngoài có thể đàm tiếu được.

Nói xong định ra lệnh đánh đòn Thu Cúc, Thu Cúc hoảng lên chạy một mạch về phòng, thì lát sau Xuân Mai tới hỏi này nọ.

Sáng ra, Tiểu Ngọc kể lại việc Nguyệt nương đuổi mắng Thu Cúc, Kim Liên còn không tin, nhưng sau đó thì biết đó là sự thật, nên lại càng không kiêng sợ gì cứ tiếp tục hẹn hò gặp gỡ Kính Tế.

Sau thì Tây Môn Đại Thư cũng nghe phong thanh chuyện gian dâm, bèn vặn hỏi chồng, nhưng Kính Tế đáp:

- Nàng thật là người vợ không biết điều, làm gì có chuyện đó. Hồi này nàng không thấy đó sao, một đêm tôi ở với nàng, một đêm tôi phải ngủ ngoài tiệm. Tối đến cổng ngõ trong ngoài lại khoá chặt, làm sao vào được hoa viên.

Đại Thư bảo:

- Thôi đừng có nỏ mồm chối cãi, từ nay mà tôi nghe được phong thanh gì nữa, hoặc Đại nương nói với tôi, thì chàng có đường có nẻo ra khỏi nhà này ngay chứ đừng hòng ở lại một ngày.

Kính Tế bảo:

- Người ta thường bảo, chuyện thị phi thì ngày nào chẳng có, nhưng mình không nghe, không tin thì chuyện đó không có. Đại nương có thèm tin những chuyện đó đâu.

Đại Thư bảo:

- Được như chàng nói thì còn chuyện gì nữa.

Thật là:

Lòng chàng sao quá đơn sơ,

Nào hay ý thiếp như tơ rối bời. Một hôm, Nguyệt Nương mời Ngô đại cữu tới, bàn chuyện đi Thái An Châu dâng hương. vì khi Tây Môn Khánh bệnh nặng Nguyệt Nương có phát nguyện.

Ngô đại cữu bảo :

- Nếu cô nương muốn đi thì để tôi cùng đi.

Nguyệt Nương sai chuẩn bị hương nến, đồ mã và các đồ lề khác, chọn Đại An đi theo, rồi dặn Ngọc Lâu, Tuyết Nga, Kim Liên và Tây Môn Đại Thư phải coi nhà cẩn thận. Nhũ mẫu Như Ý và các a hoàn phải trông coi Hiếu ca nhi tử tế.

Cổng trong phải thường xuyên khoá lại, gia nhân vô sự không được ra ngoài.

Lại gọi Kinh Tế tới dặn phải cùng Phó quản lý trông nom cửa tiệm, hẹn là khoảng cuối tháng sẽ về.

Ngày mười lăm, buổi sáng Nguyệt Nương làm lễ đốt vàng cho Tây Môn Khánh, buổi chiều, đặt tiệc rượu nhỏ để tạm biệt. Chìa khoá các kho các phòng giao hết cho Tiểu Ngọc giữ.

Sáng sớm hôm sau, Nguyệt Nương cùng gia nhân lên đường. Lúc đó vào tiết cuối thu, ngày ngắn đêm dài, gió sương thấm lạnh, đi được sáu bảy chục dặm thì trời chiều, phải ghé khách điếm mà nghỉ qua đêm.

Sáng hôm sau lại tiếp tục hành trình. Trời thu ảm đạm. từng bầy nhạn bay kín một khoảng trời. cây cỏ điêu tàn, cảnh vật tiêu sơ, khiến kẻ hành nhân không tránh khỏi nỗi bi cảm ngậm ngùi.

Đi mấy ngày thì tới Thái An Châu, từ xa đã nhìn thấy ngọn Thái sơn cao ngất, đỉnh núi mờ mịt trong mây, nguy nga hùng vĩ vô cùng. Ngô đại tẩu thấy trời đã chiều, đề nghị vào khách điếm nghỉ ngơi.

Sáng sớm hôm sau thì mọi người lên núi để tới miếu Đại Nhạc. Đây là một ngôi miếu cổ có từ nhiều triều đại, từng dược sắc phong. Cảnh trí xung quanh đượm vẻ thần tiên, chẳng khác gì cảnh non Bồng nước Nhược.

Hàng thông trên núi, xung quanh miếu lúc nào cũng như quyện lẫn sương núi mây ngàn. Toàn bộ khu miếu nguy nga đồ sộ, chiếm một vùng đất bao la.

Ngôi miếu thì tường hoa cột chạm, ngói đỏ cửa son, thập phần trang nghiêm cổ kính, khói hương không lúc nào ngưng, dân gian các nơi tới dâng hương bốn mùa tấp nập.

Ngô đại cữu dẫn em gái vào chính diện dâng hương, chiêm bái tượng thánh rồi vái chào các đạo sĩ nhờ làm lễ đốt vàng tạ ơn trời đất thánh thần. Mọi người ở lại dùng cơm chay rồi tiếp tục lên Kim điện thờ đức Nương nương ở tận đỉnh núi. Leo khoảng bốn năm chục dặm trong mây khói sương sa mới tới điện.

Thấy biển đề ba chữ thếp vàng sơn son chói lọi > Nguyệt Nương vào hậu cung chiêm bái thánh tượng Nương nương, thấy thánh tượng mặt hoa da phấn, uy nghi khác thường, đầu cài trâm phi phượng, mình mặc áo kim tuyến, quần màu ngọc Lam Điền, di hài bạch đoạn. Thánh tượng toát ra vẻ cao sang như Dao Trì Vương mẫu, vẻ lộng lẫy của nguyệt điện Hằng Nga.

Nguyệt Nương làm lễ dâng hương trước bàn thờ, vái lạy thánh tượng Nương nương. Đứng cạnh bàn thờ là một đạo sĩ khoảng bốn mươi tuổi, hình dung tuấn tú, mặt mũi khôi ngô. Nguệt Nương dâng hương xong thì đạo sĩ đọc văn hoàn nguyện cho Nguyệt Nương. rồi là m lễ đốt vàng mã, sau đó sai tiểu đồng thâu nhận lễ vật tiền bạc của Nguyệt Nương.

Vị đạo sĩ nảy chẳng phải người tu hành chân chính, trước là cao đệ của vị đạo sĩ trụ trì miếu Đại Nhạc, nguyên họ Thạch, tên Bá Tài. tính nết tham tiền hiếu sắc Đạo sĩ Thạch Bá Tài lại dựa hơi em vợ của quan Tri châu Cao Liêm, là Ân Thiên Tích. ân Thiên Tích thường dẫn đám bạn bè du thủ du thực đem cung tên chó săn lên núi, hoặc la cà tại các chùa miếu trên núi chọc ghẹo đàn bà nhan sắc từ bốn phương tới lễ bái, Đạo sĩ Thạch Bá Tài thường tìm cách quyến rũ thí chủ đàn bà vào trong phương trượng để cho bọn ân Thiên Tích gian dâm mà mình cũng dự phần hoan lạc.

Bá Tài thấy Nguyệt Nương dung nhan kiều mỹ, mặc đồ tang, lại chỉ có một người đàn ông tóc hoa râm cùng hai gia nhân đi theo. thì biết Nguyệt Nương goá chồng, và không là vợ quan thì cũng thuộc hành hào phú, thì để ý lắm.

Lễ bái xong xuôi, Bá Tài bước tới cúi đầu thật thấp nói :

- Xin cung thỉnh nhị vị thí chủ vào trong phương trượng dùng trà.

Ngô đại cữu đáp :

- Chúng tôi không dám quầy quả cửa thiền, vì còn phải xuống núi gấp.

Bá Tài nói :

- Bây giờ cũng còn sớm. xin dùng tạm chung trà đã.

Nói xong dẫn hai người vào phương trượng. Nơi đây bài trí cực kỳ thanh nhã, bên ngoài hoa rủ liễu kề, bên trong có treo một bức họa bạch mẫu đơn, hai bên có đôi liễn :

Học múa trong gió mát Kinh niệm dưới trăng thanh Bá Tài hỏi :

- Xin cho biết quý tính của đại nhân.

Ngô đại cữu đáp :

- Chúng tôi họ Ngô, còn đây là xá muội Ngô thị, nhân trước phát nguyện cho chồng, nên nay mới tới đây quấy quả cửa thiền.

Bá Tài làm bộ cung kính mời ngồi rồi gọi tiểu đạo pha trà. Nguyên là Bá Tài có hai tên đồ đệ thân tín, một tên là Quách Thủ Thanh, một tên là Quách Thủ lễ cùng mười sáu tuổi, mặt mũi dễ coi, mặc áo đạo đều bằng lụa xanh, chuyên lo việc trà rượu khoản đãi thí chủ thập phương.

Thủ Thanh, Thủ Lễ đem trà lên xong thì tự động bày tiệc chay, gồm toàn những món cực ngon. Hai người uống trà rồi ăn vài mòn đồ chay.

Tiệc chay xong, tên tiểu đạo lại dọn tiệc mặn ra. gà vịt ê hề, rượu quý từng hũ. Nguyệt Nương thấy dọn rượu ra. thì đứng dậy gọi Đại An tới lấy một xấp vải và hai lạng bạc ra tạ ơn Thạch đạo sĩ.

Ngô đại cữu nói :

- Hôm nay quấy quả cũng nhiều, xin tiên trưởng nhận giùm lễ mọn này.

bây giờ trời cũng đã chiều, chúng tôi xin kiếu.

Thạch Bá Tài nói :

- Tiểu đạo bất tài, nhờ phúc ấm của đức Nương nương mà được trụ trì tại Bích Hà cung này, sống nhờ thí chủ thập phương mà không khoản đãi được thí chủ. nay thí chủ lại cho lễ hậu như thế này, không nhận thì tiểu đạo mang tội bất kính mà nhận thì tiểu đạo lại hổ thẹn vô cùng.

Từ chối lấy lệ một câu rồi Bá Tài sai đồ đệ nhận lễ, lại khẩn khoản mời hai người ngồi lại mà nói :

- Cung thỉnh nhị vị thí chủ ngồi lại dùng vài chung rượu để cho tiểu đạo được tròn bổn phận.

Ngô đại cữu và Nguyệt Nương bất đắc dĩ phải ngồi lại. Bá Tài nâng chung lên mời, nhưng lại đặt chung rượu xuống bảo đồ đệ :

Rượu nầy không dùng được, đãi người khác thì được chứ Ngô lão gia đây thì các người phải lấy vò rượu Hà Hoa do Tử Tri phủ lão gia biếu hôm nọ mới được. Lấy mau ra đây.

Đồ đệ đem rượu mới ra, Bá Tài rót đầy một chung hai tay nâng mời Ngô đại cữu rồi lại mời Nguyệt Nương. Nguyệt Nương từ chối. Ngô đại cữu nói :

- Xá muội không biết uống rượu đâu.

Bá Tài nói :

- Phu nhân đây đi đường trải mấy phong sương dùng chút rượu cho ấm, nào có hại gì. Phu nhân không dùng nhiều thì cũng nhấm nháp vài hớp cho tiểu đạo được vui.

Nói xong chỉ rót nửa chung hai tay nâng mời, Nguyệt Nương e dè đón nhận. Bá Tài quay sang hỏi :

- Ngô lão gia dùng rượu này thấy hương vị thế nào ?

Ngô đại cữu uống thêm một hớp, thấy hương vị cực thơm ngon liền đáp :

- Rượu này ngon tuyệt.

Bá Tài nói :

- Chẳng giấu gì lão gia, đây là rượu do Từ tri phủ ở Thanh Châu đem biếu, trước là để cúng dường tức Nương nương sau là đề khoản đãi khách quý thập phương hạ cố tới đây.

Trong khi trên nầy uống rượu nói chuyện thì hai đồ đệ của Bá Tài mời Đại An và Bình An xuống nhà dưới ăn uống no say.

Rượu được vài tuần Ngô đại cữu thấy trời chiều. bèn đứng dậy. Bá Tài nói ngay:

- Bây giờ đã chiều rồi, xuống núi e không kịp, nếu lão gia và phu nhân đây không chê thì xin nghỉ lại phương trượng này một đêm, sáng sớm mai xuống núi cho khỏe.

Ngô đại cửu nói :

- Đồ đạc hành lý chúng tôi hiện ở tại khách điẽm ở lại e không tiện.

Bá Tài cười :

- Xin lão gia đừng lo chuyện đó, quyết chắc là hành lý đồ đạc tại khách điếm không mảy may suy suyển. Khách điếm đã biết là lão gia lên đây lễ bái thì tuyệt không để phường đạo tặc nào lộng hành. Đám cường đạo biết lão gia lên Bích Hà cung này thì chính chúng cũng phải lánh xa, không dám đụng chạm tới đồ đạc hành lý của lão gia.

Ngô đại cữu nghe vậy lại ngồi xuống. Bá Tài sai lấy chung lớn ra rót rượu mời, nhưng Ngô đại cữu thấy rượu uống vào say khác thường thì từ chối, đứng dậy nói là thay áo, rồi vào trong quan sát các nơi.

Nguyệt Nương cũng thấy trong người mệt mỏi, phải tới cái giường cạnh đấy ngả lưng. Bá Tài thấy vậy đứng dậy khép cửa rồi ra ngoài.

Nguyệt Nương nhắm mắt lim dim, chợt nghe sau lưng có tiếng động, vội quay lại thì thảy từ khung cửa phía sau, một người đàn ông bước vào tuổi độ tam tuần, đội khăn sấm thanh mặc áo gấm tía tới ôm chặt lấy Nguyệt Nương mà bảo :

- Tiểu sinh là Ân Thiên Tích, em vợ của Cao Thái thú nơi đây, từ lâu đã nghe danh nương tử là trang thiên hương quốc sắc nên vẫn ngày đêm ngưỡng mộ tôn nhan, nay hội ngộ nơi đây quả là tam sinh hữu hạnh, nguyện mong nương tử đoái hoài, đến chết cũng chẳng dám quên.

Nguyệt Nương hoảng sợ vùng vẫy kêu ầm lên :

- Trời ơi, giữa buổi thanh bình, lại giữa ban ngày ban mặt như thế này mà có kẻ cường đồ dám tới cưỡng bức đàn bà có chồng, có ai vào cứu tôi không.

Kêu xong vùng vẫy định chạy, nhưng Thiên Tích giữ chặt lại rồi quỳ xuống mà nói :

- Xin nương tử chớ lớn tiếng, nương tử nên thương xót tiểu sinh...

Nguyệt Nương càng kêu cứu rầm rĩ. Đại An, Bình An nghe tiếng kêu của chủ, vội chạy vào trong gọi Ngô đại cữu mà bảo :

- Xin đại cữu tới phương trượng ngay, đại nương đang kêu cứu trong đó không hiểu chuyện gì.

Ngô đại cữu hoảng lên, chạy vào phương trượng thấy nháy cửa đóng chặt bên trong Nguyệt Nương tiếp tục kêu cứu. Ngô đại cử gào to lên :

- Cô nương đừng sợ có tôi tới đây rồi.

Nói xong bước xuống sân vác một tảng đá. phá cửa mà vào. ân Thiên Tích thấy có người tới, vội chui xuống gầm giường trốn mất. Nguyên tên tà đạo Thạch Bá Tài đã làm sẵn một đường ngầm dưới gầm để giúp thiên Tích chạy trốn một khi bị chống cự.

Ngô đại cữu phá cửa xông vào hỏi:

- Cô nương có bị ô nhục gì chưa?

Nguyệt Nương run rẩy đáp :

- Chưa hề gì. Thằng khốn kiếp đó chui xuống gầm giường trốn mất rồi.

Ngô đại cữu cho tìm Thạch Bá Tài, nhưng Bá Tài tránh mặt chỉ cho đồ đệ ra dàn xếp. Ngô đại cữu nổi giận, thét Đại An và Bình An đập phá tan tành mọi đồ vật thờ tự trong chùa, rồi cùng Nguyệt Nương rời khỏi Bích Hà cung ngay, đưa Nguyệt Nương lên kiệu mà xuống núi.

Lúc đó đã hoàng hôn tới gần nửa đêm mới về đến khách điếm.

Ngô đại cữu kể hết lại cho chủ khách điếm là Tiểu Nhị nghe. Tiểu Nhị nghe xong kêu khổ luôn miệng rồi nói :

- Đúng là thằng ân thiên Tích rồi, nó là em vợ của vị Thái thú kiêm Tri châu tại châu này, nó còn có tên là Ân Thấi Tuế nữa. Nhiều đàn bà con gái lên lễ bái trên đó đã bị nó làm nhục, bây giờ nó càng ngày càng lộng lắm. Bị phu nhân đây cự tuyệt, chắc chắn nó không chịu thôi đâu, đại nhân nên đi ngay thì hơn.

Ngô đại cữu nghe xong, đang đêm sai thu dọn hành lý đưa Nguyệt Nương lên kiệu đi ngay. Trong khi đó ân Thiên Tích uất hận lắm, tụ họp khoảng hơn hai mươi tên Côn đồ thủ hạ, đứa dao đứa gậy, đuổi theo.

Ngò đại cữu dẫn em gái và gia nhân đi tới canh tư thì tới một vùng núi cây cối rậm rạp, xa xa thãp thoáng trong lùm cây có ánh đèn, bèn tìm tới thì thấy đó là một thạch động, bên trong có vị lão tăng đang cầm đuốc mà tụng kinh.

Ngô đại cửu bước vào chấp tay hỏi:

- Kính lão sư, chúng tôi lên núi dâng hương. Bị cường tặc làm nhục và đuổi theo ráo riết. chúng tôi đêm tối chỉ biết chạy, không ngờ lạc đường tới đây.

dám hỏi lão sư, địa phương này là đâu, và đi đường nào thỉ có thể về được huyện Thanh Hà.

Vị lão tăng ngẩng lên đáp :

- Đây là dãy núi phía đông của Đại Nhạc, động này tên gọi Tuyết Giản động, còn bần tăng có hiệu là Tuyết Giản Thiền sư, pháp danh Phổ Tinh, tu hành tại nơi nầy đã gần ba chục năm. Đại nhân gặp bần tăng hôm nay quả là hữu duyên. Xin đại nhân đừng đi tới nữa. nơi đây hổ báo rắn rết nhiều lắm. hãy tạm nghỉ tại đây, trời sáng sẽ đi. Có đi thì cứ theo con đường lớn là tới được huyện Thanh Hà.

Ngô đại cữu nói :

- Chỉ sợ bọn cường tặc đuổi theo kịp.

Vị lão tăng đứng dậy, đi lên một chỗ cao nhìn xuống mà bảo:

- Không sao, bọn cường tặc đó đuổi tới chân núi phía dưới kia thì quay về rồi.

Đoạn trở vào động, hỏi :

- Còn phu nhân đây quý tinh là gì ?

Ngô đại cữu đáp :

- Đây là xá muội Ngô thị, vợ của Tây Môn Khánh, vì phát nguyện cho chồng nên mới tới miếu dâng hương. Nay chúng tôi được gặp lão sư, ơn cứu tử này quyết chẳng dám quên.

Vị lão tăng dọn dẹp lấy chỗ cho mọi người nằm nghỉ trong động.

Trời vừa sáng. Nguyệt Nương thức dậy lấy một xấp vải tạ ơn lão tăng, nhưng lão tăng không nhận mà bảo :

- Bần tăng không nhận đâu, chỉ xin một đứa con của phu nhân để làm đồ đệ, ý phu nhân thê nào?

Ngô đại cữu đỡ lời :

- Em gái tôi hiện chỉ có một mụn con trai để nối dõi tông đường, chồng nó lại vừa mãn phần, chứ nếu có nhiều con thì cũng để một đứa theo lão sư làm đồ đệ Nguyệt Nương nói tiếp :

- Tiểu nhi ở nhà lại còn nhỏ quá, hiện mới được chín tháng, làm sao theo lão sư được.

Tuyết Giản Thiền sư bảo :

- Chỉ cần phu nhân hứa một lời, đến năm nó mười lăm bần đạo mới xin.

Nguyệt Nương nghĩ là mười lăm năm cũng còn xa xôi quá, có gì tính sau cũng kịp, do đó nhận lời, rồi cùng anh đứng dậy cáo từ.

Hai anh em và hai gia nhân theo con đường lớn trực chỉ huyện Thanh Hà mà về... Trong thời gian Nguyệt nương vắng nhà, Kim Liên và Kính Tế mặc sức làm yêu làm quỷ, ngày đêm ôm ấp không rời.

Một hôm Kim Liên thấy trong người mệt mỏi, mắt nặng không muốn mở, lười ăn uống, bụng thì càng ngày càng lớn, bèn gọi Kính Tế tới bảo:

- Tôi có chuyện này muốn nói cùng chàng, ít hôm nay tôi mệt mỏi rã rượi, mắt nặng trĩu chỉ muốn ngủ, cơm cháo chằng muốn ăn, mà bụng thì cứ lớn ra. Hồi gia gia sinh tiền, tôi mong có thai mà không được, lại nhờ Tiết sư bà cho thuốc cầu tự cũng chằng thấy công hiệu gì. Nay gia gia không còn, đi lại với chàng chín mười tháng nay thì lại có con. Thật ra thì tôi tắt đường kinh từ hồi tháng ba, nay như vậy là cái thai đã được sáu tháng. Từ trước tới nay tôi luôn nói xấu người khác, bây giờ thì chính thân tôi như thế này, biết tính làm sao. Chi bằng nhân lúc Đại nương vắng nhà, chàng phải mau mau tìm thuốc phá thai chứ không còn cánh nào nữa. Nếu không thì tôi chỉ còn cái chết, chứ không còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ đâu.

Kính Tế ngẫm nghĩ rồi nói:

- Thuốc phá thai thì ngoài tiệm mình cũng có ít vị, nhưng không biết là những vị nào, lại không biết đơn thuốc phá thai ra làm sao. Nhưng nàng yên tâm, huyện này có Hồ thái y chuyên trị bệnh đàn bà, lại từng quen biết với nhà này, để tôi tới xin đơn phá thai cho nàng vậy.

Kim Liên bảo:

- Vậy thì chàng đi mau đi, cứu mạng cho tôi.

Kính Tế gói ba tiền, tới nhà Hồ thái ỵ Hồ thái y niềm nở ra tiếp đón vì biết Kính Tế là con rể Tây Môn Khánh. Thi lễ xong xuôi, Hồ thái y mời Kính Tế ngồi dùng trà rồi hỏi:

- Lâu quá không gặp, chằng hay hôm nay đại nhân hạ cố tới có điều chi dạy bảo?

Kính Tế đáp:

- Chằng giấu gì tiên sinh, hôm nay vãn sinh tới đây là để xin tiên sinh cho thuốc hạ thai, nguyện mong tiên sinh hết lòng giúp cho.

Nói xong đưa gói bạc ba tiền lên bàn.

Hồ thái y nghiêm giọng bảo:

- Đức của thiên hạ lấy sự hiếu sinh làm gốc, mọi người trong thiên hạ chỉ cầu thuốc an thai, sao đại nhân lại hỏi thuốc phá thai? thuốc đó thì quả tôi không có, quả tôi không có.

Kính Tế hoảng lên, vội đưa thêm hai tiền nữa rồi nói:

- Xin tiên sinh chớ để ý chuyện đó làm gf, thuốc nào thì cũng có chỗ dùng nó, người đàn bàn này sinh đẻ không được bình thường, nhờ tôi xin thuốc phá thai, chớ thật tình không có làm hại ai cả.

Hồ thái y thấy đưa thêm tiền mới đổi sắc mặt thấp giọng bảo:

- Nếu vậy thì được, để tôi cho đơn này, uống vào không sao cả. Người đàn bà chỉ hơi mệt một chút rồi cái thai tự nhiên ra.

Nói xong kê đơn cho Kính Tế. Kính Tế hết lòng cảm tạ. Về ngay tiệm thuốc nhà, cân đúng theo đơn, đem về cho Kim Liên.

Tối hôm đó, Kim Liên sai sắc thuốc. Uống xong, thì bụng đau như thắt, lăn lộn trên giường. Xuân Mai phải tận tình chăm sóc.

Gần nửa đêm thì cái thai bị tống ra. Xuân Mai thấy cái thai sáu tháng đã thành hình, nhận ra là con trai, vội thu dọn kỹ lưỡng rồi sai Thu Cúc bỏ vào cầu tiêu.

Hôm sau Kính Tế tới, biết là cái thai đã ra thì yên tâm lắm. Kim Liên mừng rỡ vì trút được gánh nặng.

Nhưng ở đời:

Chuyện lành chằng được nói ra

Chuyện ác lại thấy bay xa nghìn trùng.

Cho nên chỉ vài hôm sau là lớn nhỏ trong nhà tự nhiên đều biết chuyện Kim Liên ăn ở với Kính Tế đến mang thai rồi dùng thuốc phá thai.

Ít ngày sau thì Nguyệt nương về tới nhà. Vừa đi vừa về cũng mất nửa tháng. Gia nhân ùa ra tiếp đón lạy mừng.

Thay quần áo xong, Nguyệt nương lập bàn thờ giữa sân lạy tạ trời đất, rồi vào lạy tạ trước linh vị chồng, sau đó mới trở lại thượng phòng. Mọi người quây quần hỏi thăm. Nguyệt nương kể lại chuyện không may trong miếu Đại Nhạc cho mọi người nghe, kể xong thì khóc nức nở. Mọi người phải hết lòng an ủi. Như Ý bồng Hiếu ca nhi ra, mẹ con gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Sau đó Nguyệt nương sai dọn rượu, mời Ngô Đại cữu tới để cảm tạ.

Đến tối là một tiệc khác, mọi người trong nhà ăn mừng Nguyệt nương trở về bình an.

Hôm sau, Nguyệt nương vì đi đường mệt nhọc vất vả, phơi gió sương, lại gặp chuyện sợ hãi, nên trong người mệt mỏi hâm hấp sốt. Vài ngày sau mới bình phục.

Thu Cúc định lên kể cho Nguyệt nương nghe về chuyện Kính Tế và Kim Liên phá thai mà nó được mục kích tận mắt, nhưng vừa tới cửa thượng phòng đã gặp ngay Tiểu Ngọc. Tiểu Ngọc biết ngay ý định của Thu Cúc, liền chặn Thu Cúc lại, đánh hai bạt tai rồi mắng:

- Con khốn, có cút ngay không, Đại nương mới đí xa về ốm đau mệt nhọc, mấy hôm nay chưa dậy được, bây giờ mày định vào làm Đại nương giận mà ốm thêm phải không?

Thu Cúc nuốt giận lui ra.

Ít hôm sau, Kính Tế có việc lên lầu lấy hàng, Kim Liên đã chờ sẵn, hai người diễn cảnh mây mưa. Thu Cúc biết rõ, vội tới gặp Nguyệt nương mà thưa:

- Kẻ nô tỳ bao lần nói mà Đại nương không chịu tin. Trong lúc Đại nương vắng nhà, hai người công khai ăn ngủ cùng nhau cả ngày lẫn đêm, lại có cả Xuân Mai quanh quẩn chung vui. Hôm nọ hai người đem thuốc phá thai về, Ngũ nương uống vào, nửa đêm truỵ thai, đó là con trai. Vậy mà bây giờ họ lại đang ăn nằm với nhau trên lầu, tôi không dám nói dối, xin Đại nương tới ngay sẽ bắt gặp quả tang.

Nguyệt nương biết là không thể đừng được, vội rảo bước qua hoa viên mà tới. Xuân Mai ở dưới nhà thấy Nguyệt nương từ xa, vội chạy lên lầu, hai người vẫn chưa rời nhau. Xuân Mai kêu lên:

- Nguy rồi, Đại nương tới.

Hai người kinh hoàng rời nhau ra, nhưng không có chỗ nào lẩn trốn. Kính Tế vội mặc quần áo rồi xuống thang lầu mà chạy, nhưng bị Nguyệt nương bắt gặp, gọi lại mắng:

- Thằng khốn kiếp kia, mày vào đây làm gì?

Kính Tế luống cống đáp:

- Thưa con lên lầu lấy hàng.

Nguyệt nương quát hỏi:

- Ta đã dặn rằng muốn lấy gì thì cứ việc sai gia nhân, tại sao mày vào phòng của người góa bụa? mày vào làm gì? thằng khốn kiếp vô liêm sỉ kia?

Kính Tế không biết nói sao, vội ba chân bốn cẳng lủi mất. Kim Liên thì hổ thẹn quá, không dám xuống lầu, nhưng bị Nguyệt nương gọi xuống mà mắng:

- Ngũ muội, từ nay phải ngưng trò vô liêm sỉ đó đi, muội muội cũng như tôi đều là quả phu, không thể so sánh với những người có chồng được. Sao muội muội làm điều bất chính với thằng khốn đó để gia nhân đầy tớ nó bàn tán xôn xao. Gia nhân đầy tớ nó nói bao lần, tôi đều không tin, nhưng hôm nay thì chính tôi bắt gặp quả tang, muội muội không còn chối cãi gì được nữa. Từ nay muội muội phải sửa đổi đừng để thiên hạ chê cười là loài trắc nết. Đàn bà phải đoan chính, đến như tôi bị cường tặc cưỡng bức mà còn giữ được lòng đoan chính, nếu không thì đã không mặt mũi nào trở lại cái nhà này nhìn thấy mọi người. Tôi nói ít, muội muội phải hiểu nhiều.

Kim Liên nghe Nguyệt nương mắng, mặt cứ đỏ lên rồi tái đi từng chập, mãi mới cúi gầm mặt xuống mà nói lí nhí:

- Tôi đang thắp hương trên lầu thì cậu Kính Tế cũng tình cờ lên lầu lấy hàng. Làm gì có chuyện này kia.

Nguyệt nương nghe vậy thì đùng đùng nổi giận, mắng cho một hồi nữa. Thấy Kim Liên nín lặng, không dám đối đáp, mới chịu về phòng.

Tối hôm đó Tây Môn Đại thư lại gọi chồng vào phòng trà mắng:

- Đồ khốn nạn vô luân, vô liêm sỉ, chuyện rành ràng ra vậy mà từ trứoc tới giờ cái miệng cứ chối leo lẻo. Con dâm phụ đó muốn cướp chồng tôi mà trước mặt mọi người thì nói xấu hết người này người nọ, thật đáng tởm. Còn chàng, chuyện đã như thế này, chàng còn mặt mũi nào ăn hột cơm nhà này nữa.

Kính Tế thẹn quá, hoá giận mắng lại:

- Đồ lăng loàn, tôi ăn tiền của tôi chứ không ăn nhờ ai hết, tôi cũng đem về nhà này bao nhiêu tiền của chứ có phải không đâu.

Nói xong giận dữ bước ra.

Từ đó Kính Tế không dám lén lút tới phòng Kim Liên, cần lấy hàng chỉ sai Đại An và Bình An về lấy. Cửa ngõ trong nhà ljai được đóng kỹ và do chính tay Nguyệt nương đích thân kiểm soát. Chuyện tư thông giữa Kính Tế và Kim Liên lại bị gián đọan.

Cũng trong thời gian đó, Trương Đoàn luyện, vốn là cậu của Kính Tế, bị cách chức nằm nhà, ngày ngày Kính Tế thường qua bên nhà cậu ăn cơm. Nguyệt nương cũng chằng thèm hỏi.

Thấm thoát hai người đã xa cách nhau được hơn một tháng, Kim Liên ra vào thẩn thơ, thấy ngày dài đằng đẳng, đêm tối lạnh lùng, chỉ mong ước được gặp gỡ giao hoan. Nhưng càng mong đợi thì âm tích càng cách tuyệt, Kính Tế cũng vô kế khả thi.

Một hôm, Kính Tế chợt nghĩ nên viết một bức thư tỏ tình thương nhớ để nhờ Tiết tẩu lén đưa cho Kim Liên.

Hôm sau Kính Tế lấy cớ ra ngoại thành có việc, cưỡi lừa tìm tới nhà riêng của Tiết tẩu mà hỏi:

- Tiết ma ma có nhà không?

Con dâu của Tiết tẩu là Kim Đại thư, vợ của Tiết Kỷ con trai Tiết tẩu, đang bồng con, nghe người gọi thì chạy ra hỏi:

- Ai vậy?

Kính Tế đáp:

- Tôi đây, tôi hỏi Tiết ma ma có nhà không?

Kim Đại thư mời Kính Tế vào nhà, rót trà mời rồi đáp:

- Ma ma tôi tới nhà dượng tôi rồi, đại nhân có chuyện gì xin cứ nhắn lại cũng được.

Vừa nói xong thì Tiết tẩu về, hỏi:

- Cậu tới có gì dạy bảo không?

Kính Tế uống một hớp trà rồi nói:

- Tất nhiên là có chuyện mới tới đây phiền Tiết ma mạ Nguyên là tôi và Ngũ nương ở nhà đi lại với nhau nhưng bị con a hoàn Thu Cúc tố cáo, khiến Đại nương và Đại thư lãnh đạm với tôi, lại cấm đường cấm nẻo ra vào khiến tôi và ngũ nương không trao đổi tin tức gì được. Nay thì thời gian xa cách cũng đã lâu, muốn gửi vài chữ cho nhau cũng chằng biết nhờ ai. Hôm qua tôi đã nhờ ma ma đây đưa giùm, nay tới đây hỏi tin tức, nhân gặp chị thì xin chị giúp tôi.

Nói xong lấy ra một lạng bạc, đặt lên bàn mà bảo:

- Đây là chút lễ mọn, nhờ chị đưa lại cho ma ma.

Kim Đại thư nghe xong vỗ tay cười bảo:

- Đời thuở nhà ai, chàng rể lại tằng tịu với vợ bế của cha vợ bao giờ. Thế gian thật có lắm chuyện nực cười. Này, nhưng mà tôi hỏi thật, đại nhân làm thế nào mà dụ được Ngũ nương vậy?

Kính Tế hơi khó chịu:

- Thôi chị đừng cười giưỡn nữa. Tôi có đem theo thêm một lá thư nữa đây, ngày mai nếu chị có tới đó thì tìm cách đưa giùm tôi.

Nói xong lấy bức thư trong tay áo ra. Kim Đại thư, tức Tiét tẩu, cầm lầy phong thư rồi nói:

- Từ hôm Đại nương đi Thái An Châu dâng hương tới giờ tôi cũng chưa gặp, thôi được, để ngày mai tôi tới thăm Đại nương sẽ đưa giúp cho, cũng là một công đôi việc.

Kính Tế hỏi:

- Tôi phải tới đâu để nhận tin của Tiết tẩu?

Tiết tẩu đáp:

- Tôi sẽ tới tiệm tìm gặp cậu.

Kính Tế cáo từ mà về.

Hôm sau Tiết tẩu tới thăm Nguyệt nương, nói chuyện một hồi rồi sang phfong Ngọc Lâu, sau đó mới tới phòng Kim Liên, làm như lần lượt thăm hỏi mọi người.

Lúc đó Kim Liên đang ngồi ăn cháo, mặt mày ủ dột. Xuân Mai đứng bên cạnh nói:

- Nương nương chớ quá sầu si, ai muốn nói gì cũng mặc, nay thì gia gia đã mất, Đại nương cũng chẳng có thể giữ được chủ tớ mình. Nương nương phải vui lên mà tính chuyện sau này. Ở đời sống phong lưu sung sướngn được ngày nào hay ngày nấy.

Nói xong đem rượu ra rót mời chủ:

- Nương nương dùng chung rượu này cho ấm bụng giải phiền.

Kim Liên thờ thẫn cầm chung rượu, nhìn hai con chó đang đùa giỡn trước thềm mà bảo:

- Loài súc sinh kia mà còn được cùng nhau vui sướng, con ngừoi lại không đựoc như vậy hay sao?

Chủ tớ đang uống rượu chuyện trò thì Tiết tẩu bước vào vái chào cười bảo:

- Gớm, thầy trò vui quá nhỉ.

Nhân thấy hai con chó đùa giỡn trước thềm, bèn nói:

- Nương nương nhìn xem, thế này là có điềm lành tin vui rồi đấy nhé.

Kim Liên hỏi:

- Lâu quá không thấy Tiết tẩu lại chơi, hôm nay đi đâu mà tới đây?

Nói xong chỉ ghế mời ngồi. Tiết tẩu ngồi xuống đáp:

- Tôi bận rộn suốt ngày, có lúc nào được nhàn hạ đâu. Nhân lâu ngày không tới thăm Đại nương, lại gặp lúc Đại nương mới đi dâng hương về, nên tới chào hỏi kẻo Đại nương giận. Tôi cũng vừa thăm Tam nương xong, Tam nương cho tôi mấy cái thoa cài đầu, lại cho tám tiền, chỉ có Tứ nương chằng cho được gì, gớm người sao mà bần tiện thế, mà sao hôm nay không thấy Ngũ nương ở trong hậu phòng vậy?

Kim Liên đáp:

- Tôi mấy hôm nay trong người khó ở nên lừoi, chằng muốn đi đâu.

Xuân Mai rót rượu mời. Tiết tẩu cảm ơn rồi nói:

- Nương nương tử tế quá, tôi tới lần nào cũng được uống rượu.

Kim Liên bảo:

- Tiết tẩu sao không sanh thêm lấy một đứa con gái cho cvui.

Tiết tẩu đáp:

- Tôi mà còn sanh đẻ gì được. Con dâu tôi là Kim Đại thư vừa sinh được đứa cháu gái, bây giờ mới hai tháng.

Chuyện trò một lát, Tiết tẩu bảo:

- Lão gia mất đi, nương nương ở đây chắc cũng lạnh lùng lắm nhỉ.

Kim Liên nói:

- Tất nhiên làm sao so được với lúc gia gia tôi còn sống. Chằng có giấu gì Tiết tẩu, nhà này người đông lắm chuyện, Đại nương tôi lại mới có con trai nên cách đối xử với chúng tôi cũng thay đổi, chỗ chị em không được thân mật như ngày trứoc. Ít hôm nay phần tôi trong người khó ở, phần vì chuyện này chuyện kia, tôi cũng chằng vào hậu phòng làm gì.

Xuân Mai ngồi bên nói:

-Cũng chỉ tại con Thu Cúc nhà này đặt điều bịa chuyện cho nương nương tôi, cả tôi cũng bị dính vào nữa.

Tiết tẩu nói:

- Thì ra cũng tại nó, xưa nay gia nhân là phải bênh vực chủ chứ sao lại hành động như vậy bao giờ.

Kim Liên quay bảo Xuân Mai:

- Coi xem con khốn đó đâu, nó dám lén lắm đó.

Xuân Mai đáp:

- Nó đang ở dưới bếp, thật không ai như con khốn khiếp đó, chủ có chuyện gì là đem đi học lại với người khác hết.

Tiết tẩu uống một chung rượu rồi nói:

- Bây giờ không có ai thì để tôi xin thưa chuyện. Hôm qua cậu Kính Tế có tới gặp tôi kể hết mọi chuyện, lại nói rằng Đại nương sai đóng hết các cửa ngỏ, chẳng còn cách gì ra vào. Lâu nay cậu ấy không gặp được nương nương, trong lòng thương nhớ lắm, mới khẩn khảon nhờ tôi tới thăm nương nương và đưa thư cho nương nương. Tôi nghĩ là gia gia đã mất, nương nương đầu còn xanh tuổi còn trẻ, chẳng việc gì phải sợ, đã đốt hương sao còn sợ khói.

Nói xong lấy bức thư trong tay áo ra đưa cho Kim Liên. Kim Liên mở ra coi, thấy vắn tắt mấy câu:

Lửa đâu đốt cháy gan ruột

Buồn khổ đâu chất nghẹn yết hầu.

Tiêu hao vắng bặt

Nhớ nhung lã chã giọt châu

Chuyện cũ đã như vậy

Đằng nào cũng đã chịu nhơ

Chằng bằng gần nhau cho thoa? ước mơ.

Bên dưới đề bốn chữ "Kính Tế bách bái". Kim Liên đọc xong bỏ lá thư vào tay áo. Tiết tẩu bảo:

- Nương nương có viết hồi thư hay có gửi vật gì không, kẻo cậu ấy lại bảo là tôi không đưa thư cho nương nương.

Kim Liên bảo Xuân Mai ngồi tiếp Tiết tẩu, rồi vào trong lấy một cái khăn tay, dùng son viết lên ít chữ, gói lại cẩn thận rồi trở ra đưa cho Tiết tẩu rồi dặn:

- Tiết tẩu nói lại với cậu ấy rằng đừng nên giận mà qua bên nhà cậu mợ ăn cơm như vậy, rồi bên đó bảo là đang ở nhà vợ buôn bán, sao lại phải tới đó ăn cơm, như vậy rồi phiền thêm ra. Nếu Đại thư trong này không cho đem cơm ra thì cứ bảo là lấy tiền bán mà mua cơm, cùng ăn với Phó quản lý. Nếu giận mà không chịu về nhà thì chỉ có nghĩa là nhận mình có lỗi mà thôi.

Nói xong đưa tặng năm tiền. Tiết tẩu nhận tiền, cảm ơn rồi bảo:

- Để tôi sẽ nói lại.

Nói xong đứng dậy cáo từ.

Sau đó Tiết tẩu tới tiệm thuốc gọi Kính Tế ra chỗ vắng, đưa cái khăn của Kim Liên mà bảo:

- Ngũ nương dặn tôi nói lại rằng cậu đừng giận mà bỏ nhà sang bên Trương cữu ăn cơm như vậy, chỉ thêm phiền. Cậu cứ việc đi đi về về ăn uống cho đầy đủ, nếu không thì lấy tiền bán hàng ra mà ăn.

Đoạn lại lấy thêm năm tiền đưa cho Kính Tế coi mà bảo:

- Cái này là Ngũ nương thưởng cho tôi đấy.

Kính Tế nói:

- Thật là phiền Tiết ma ma nhiều quá.

Nói xong cáo từ. Vừa đi được vài bước thì Tiết tẩu gọi lại mà bảo:

- Còn chuyện này tôi quên nói; hồi nãy hầu chuyện với Đại nương, lúc tôi cáo từ thì Đại nương cho Tú Xuân gọi tôi trở vào bảo là tối nay tôi trở lại đem Xuân Mai đi bán cho nhà khác, vì Xuân Mai toa rập với cậu và Ngũ nương.

Kính Tế hơi giật mình, ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Ma ma cứ đem Xuân Mai về nhà, tôi sẽ đến gặp Xuân Mai bàn tính.

Nói xong bước đi.

Tối hôm đó Tiết tẩu tới nhà Tây Môn Khánh, vào gặp Nguyệt nương, Nguyệt nương bảo:

- Hồi trước tôi đưa cho tẩu tẩu mười sáu lạng mua nó thì bây giờ tẩu tẩu cũng bán nó với giá mười sáu lạng cho tôi.

Nói xong quay lại bảo Tiểu Ngọc:

- Ngươi ra bảo nó sửa soạn mà đi, không cho nó mang theo cái gì cả, chỉ mặc quần áo trên người mà thôi.

Tiết tẩu tới gặp Kim Liên bảo:

- Đại nương sai tôi tới lãnh Xuân Mai đem bán, nói là Xuân Mai toa rập với nương nương tác tệ. Lại dặn tôi là phải bán lại đúng giá như cũ.

Kim Liên nghe nói đem Xuân Mai đi bán bàng hoàng không nói được lời nào, chỉ thấy hai hàng lệ dài mãi sau mới bảo:

- Tiết tẩu coi đó, gia gia mất đi, tôi đã sầu khổ bao nhiêu, chỉ có Xuân Mai làm bạn, vậy mà Đại nương lại bắt bán nó đi, thật là người không còn biết tình nghĩa là gì. Đại nương cậy có tí con trai mà coi người khác như đất bùn. Lý Bình Nhi lúc trước cũng vậy mà sau chết cả mẹ lẫn con, cho hay trời cũng có mắt lắm.

Tiết tẩu hỏi:

- Nghe nói lúc sinh tiền, gia gia yêu quý Xuân Mai lắm phải không?

Kim Liên đáp:

- Còn phải nối, Xuân Mai nó đòi một là được mười, nó nói gì gia gia cũng nghe.

Tiết tẩu bảo:

- Nếu vậy thì Đại nương hành động sai lầm rồi. Người được gia gia yêu quý như thế mà nỡ đuổi đi, lại dặn là không cho đem theo gì ngoài quần áo trên người, như vậy thì luân lý xóm giềng họ sẽ nghĩ sao?

Kim Liên hỏi:

- Đại nương dặn tẩu tẩu như vậy phải không?

Tiết tẩu đáp:

- Đại nương không nói với tôi nhưng dặn Tiểu Ngọc như vậy, lại sai Tiểu Ngọc tới đây kiểm soát xem Xuân Mai có đem gì theo không.

Kim Liên không nói gì, chỉ khóc. Xuân Mai đứng nghe từ nãy, nhưng vẫn bình thản như thường, thấy chủ khóc thì bảo:

- Nương nương việc gì phải khóc cho hại sức khỏe, nương nương cứ buồn phiền như vậy rồi thành bệnh, tôi đi rôi lấy ai săn sóc cho nương nương. Đại nương đuổi tôi đi, không cho đem quần áo đồ đạc gì cũng chằng sao, tôi có đến nỗi gì thiếu cơm ăn áo mặc đâu.

Đang nói thì Tiểu Ngọc tới nói:

- Ngũ nương thấy Đại nương hành độg như vậy có lạ không, Xuân Mai hầu hạ Ngũ nương mấy năm nay, bây giờ tự nhiên đem bán đi, lại không cho đem theo thứ gì. Thôi thì Ngũ nương xem có quần áo nào đẹp lấy ra tặng Xuân Mai một hai bộ gọi là kỷ niệm rồi đưa Tiết tẩu cầm giùm chọ Đó cũng là tình chủ tới mầy năm nay.

Kim Liên bảo"

- Ngươi cư xử như vậy mới là người nhân nghĩa.

Tiểu Ngọc nói:

- Thì ở đời có ai biết chắc là mình lúc nào cũng vô sự, vả lại thế tử hồ bi, tình chị em làm sao quên được.

Nói xong tự tay mở rương quần áo của Xuân Mai, lấy ra những đồ trâm thoa, bảo Xuân Mai giấu đi, Kim Liên cũng chọn mấy bộ quần áo đẹp, vài đôi hài, gói lại đưa cho Tiết tẩu giữ giùm. Lại tặng Xuân Mai ít trâm thoa và một cái nhẫn. Tiểu Ngọc cũng rút hai cây trâm trên đầu mình mà tặng Xuân Mai.

Ngoài ra, những quần áo tốt và nữ trang sắm cho Xuân Mai từ trước vẫn để nguyên trong rương, không đụng chạm tới, và sẽ được Tiểu Ngọc đem vào hậu phòng.

Lúc từ biệt, Xuân Mai cúi lạy Kim Liên và vái chào Tiểu Ngọc, mới nước mắt dầm dề. Kim Liên bảo Xuân Mai nên tới chào Nguyệt nương và mọi người, nhưng Tiểu Ngọc xua tay nói là không cần.

Tiết tẩu cũng cáo từ, Xuân Mai theo Tiết tẩu mà đi, không ngoái cổ lại. Tiểu Ngọc nhờ một gia nhân đem rương quần áo đồ đạc của Xuân Mai vào hậu phòng rồi thưa với Nguyệt nương:

- Xuân Mai đi rồi, đi người không, tôi không cho đem theo gì cả. Các thứ trong rương vẫn y nguyên.

Về phần Kim Liên, Xuân Mai đi rồi, Kim Liên thấy trống vắng lạ lùng, nhớ tới lúc trước chuyện gì chủ tớ cũng có nhau, nay nhất đán chia lìa, tránh sao khỏi tiếc nhớ thương tâm, càng nghĩ, nước mắt càng tuôn rơi lã chã... Hôm sau, Kính Tế giả vờ đi công việc, cưỡi lừa tới nhà Tiết tẩu. Tiết tẩu mời vào ngồi uống nước. Tiết tẩu vờ hỏi:

- Cậu tới đây có điều chi dạy bảo không?

Kính Tế đáp:

- Hôm qua tôi nghe nói là Xuân Mai đã ra khỏi nhà họ Tây Môn và đang ở đây. Nhân tiện hôm nay đi lo công việc nên tới thăm.

Tiết tẩu cười:

- Thì Xuân Mai thư thư vẫn còn ở đây với tôi, chưa đi đâu hết.

Kính Tế bảo:

- Nếu vậy thì xin cho tôi được gặp để nói vài câu chuyện.

Tiết tẩu cố tình làm khó:

- Cậu à, chuyện đó thì hôm qua Đại nương không có dặn tôi. Chỉ vì mấy người thông đồng tác tệ nên Đại nương mới bảo tôi lãnh Xuân Mai thư thư ra đem bán. Nay cậu tới đây sớm quá, lỡ ra Đại nương sai người tới hỏi chuyện gì mà bắt gặp thì phiền cho tôi lắm. Đại nương có thể nghĩ là tôi cũng thông đồng với mấy người.

Kính Tế cười khì khì, lấy một lạng bạc mà bảo:

- Có chút đỉnh để ma ma mua trà uống, xin nhận tạm cho, ngày khác sẽ xin hậu tạ.

Tiết tẩu mỉm cười nhận bạc nhưng còn bảo:

- Cậu biết ơn biết nghĩa vậy là quý lắm, nhưng còn chuyện này, tháng chạp năm ngoái tôi túng quá, phải đem đi cầm hai cái gối hoa, nay đã một năm rồi mà chưa chuộc lại được, tiền vốn và tiền lời là tám tiền, cậu chuộc về cho tôi nhé.

Kính Tế đáp:

- Được rồi, để mai tôi chuộc về cho.

Nói xong, đứng dậy dẫn Kính Tế vào phòng trong gặp Xuân Mai, lại lấy ra một bình rựou, hai cái chung và ít thức ăn để hai người dùng.

Xuân Mai bảo Kính Tế:

- Cậu à, chỉ vì cậu mà chủ tới tôi bị người ta ghét bỏ, chịu bao nhiêu khổ sở đắng cay, bây giờ đã đến nông nỗi này rồi đây.

Kính Tế nói:

- Thôi nàng ơi, nàng đã ra khỏi nhà đó thì tôi cũng chằng ở lại lâu đâu. Mỗi người chúng mình cũng phải tìm lấy một con đường sống. Nàng bảo Tiết ma ma tìm cho một gia đình khá giả dễ chịu mà ở. Còn tôi thì tôi cũng phải tính. Có lẽ tôi sẽ lên Đông Kinh, bàn với cha tôi, rồi về đây bỏ con vợ này, chỉ lấy lại những đồ đạc của cải gia đình tôi gửi từ trước mà thôi. Như vậy là xong.

Hai người ăn uống nói chuyện, Tiết tẩu cũng ngồi bên thù tiếp. Tiết tẩu nói:

- Đại nương thế mà độc ác, một người lanh lợi như thư thư đây mà nỡ đuổi ra khỏi nhà, lại không cho đem theo quần áo tư trang gì, như vậy ròi tới nhà khác coi sao được. Đại nương lại còng bắt tôi phải bán lại với gía cũ nữa chứ. Cũng may là là có Tiểu Ngọc thư thư nghĩ tình, bảo Ngũ nương giúp cho ít tư trang quần áo, nếu không, tới nhà khác, lấy gì mà dùng.

Qua mấy tuần rượu, Tiết tẩu bảo con dâu bồng con sang nhà bên cạnh chơi, lại bảo hai người cứ tự nhiên, sau đó thì ra phòng ngoài.

Kính Tế hiểu ý Tiết tẩu, bèn đóng cửa phòng trong lại, rồi dắt Xuân Mai vào giường truy hoan cộng lạc.

Sau vài phút chung chạ, Xuân Mai bảo:

- Chàng phải làm sao mua ra khỏi cái nhà đó đi, lại phải làm sao cho Ngũ nương ra khỏi nhà đó luôn, nếu chàng không sống chung được với chúng tôi thì cũng để tôi được sống với Ngũ nương, chúng tôi đã hẹn là dù thế nào cũng có nhau.

Kính Tế chỉ ậm ừ cho quạ Nói mấy câu chuyện nữa là lại thêm một lần chăn gối lệch mây tụ mưa rơi.

Ngoài này, Tiết tẩu thấy lâu quá, sợ rằng Nguyệt nương có thể sai người tới thình lình, vội vào gõ cửa giục Kính Tế về.

Hôm sau Kính Tế chuộc lại hai cái gối hoa cho Tiết tẩu và đem tới tặng Xuân Mai mấy cái khăn tay, mấy đôi bít tất mùa đông, rồi bỏ tiền ra bảo Tiết tẩu soạn rượu thịt ăn uống.

Hai người đang chén tạc chén thù trong này, thì ngoài kia, Lại An được Nguyệt nương sai tới giục Tiết tẩu mau bán Xuân Mai để đem bạc tới nạp. Lúc vào cũng như lúc ra, Lai An đều để ý tới con lừa của Kính Tế buộc ngoài cửa, bèn về nói lại với Nguyệt nương.

Nguyệt nương giận lắm, sai gọi ngay Tiết tẩu tới mắng như tát nước rồi bảo:

- Ngươi lãnh nó ra để bán mà cứ hẹn nay hẹn ai hẹn lần hẹn lữa, thì ra ngươi giữ nó tại nhà để thằng khốn đó tới làm chuyện tồi bại. Ngươi ăn được của nó được bao nhiêu tiền mà dám làm vậy? nếu ngưoi bán không được thì đem trả con Xuân Mai lại cho ta, ta sẽ nhờ Phùng lão bán, rồi từ nay ngươi cũng đừng vác mặt tới đây nữa.

Tiết tẩu vội mồm năm miệng mười:

- Trời đất quỷ thần ơi, Đại nương giận tôi là sai rồi. Đại nương đã sai tới, tôi đâu dám chậm trễ, chẳng qua là hồii này tôi xui quá, mấy hôm nay tôi đã dẫn Xuân Mai đi mấy nhà, nhưng chẳng nhà nào chịu mua với giá mười sáu lạng cả, làm sao tôi bán được, tôi bán để rồi lấy tiền đâu mà bù cho Đại nương đây.

Nguyệt nương quát lớn:

- Nhưng còn chuyện thằng khốn Kính Tế hồi nãy ăn uống trong nhà ngươi thì sao? gia nhân đã về thưa với ta rõ ràng rồi.

Tiết tẩu vội lấp liếm:

- Oan cho tôi quá Đại nương ơi, nguyên là tháng mười hai năm ngoái tôi có đem cầm hai cái gối hoa tại tiệm nhà ta ở đường Sư Tử, tôi đã nạp tiền chuộc, nhưng chưa kịp lãnh đồ về thì tiệm nhà ta đóng cửa, hôm nay thì cậu Kính Tế đem tới trả tôi. Cậu ấy vội vội vàng vàng, trả lại xong là cưỡi lừa đi ngay, tôi mời uống trà mà không chịu, làm gì có chuyện ăn uống. Có lẽ là chú gia nhân nào đó đặt điều bịa chuyện mà thôi.

Nguyệt nương thấy Tiết tẩu đối đáp trôi chảy thì dịu giọng bảo:

- Ta chỉ sợ thằng khốn đó tìm tới bày chuyện nguyệt hoa làm cản trở công việc mà thôi.

Tiết tẩu cười:

- Dù tôi có là đứa trẻ lên ba cũng không ngu dại gì để cho chuyện đó xảy ra. Vả lại cậu Kính Tế cũng sợ Oai sợ phép Đại nương lắm, có dám đứng lâu đâu, mời trà cũng còn không dám ngồi nán lại uống nữa là. Nhưng nếu nay Đại nương gấp như vậy thì được rồi, để tôi sẽ tới phủ Thủ bị, vì nghe đâu Chu lão gia đang cần mua một a hoàn với giá mười hai lạng, tôi nói xem Chu lão gia có chịu thêm một hai lạng hay không. Chu lão gia từng dùng tiệc tại quý phủ đây, tất biết rõ nhan sắc xinh đẹp và tài ba đàn hát của Xuân Mai, có lẽ chằng tiếc gì một hai lạng mà trả thêm.

Nói xong cáo từ mà về.

Sáng hôm sau, Xuân Mai trang điểm lộng lẫy, thoa cài trâm giắt, mặc áo đọan hồng đọan xanh, đi hài loan, ngồi kiệu theo Tiết tẩu tới phủ Chu Thủ bị.

Chu Thủ bị thấy Xuân Mai có vẻ đẹp hơn hồi còn ở nhà Tây Môn Khánh thì mừng lắm. Trả giá giờ lâu, Chu Thủ bị bằng lòng mua với gia năm chục lạng.

Tiết tẩu tới gặp Nguyệt nương nói:

- Chu lão gia bằng lòng với giá mười ba lạng, ấy là tôi phải nói mãi đấy.

Nói xong lấy ra mười ba lạng bạc đưa cho Nguyệt nương, lại đưa ra một lạng nữa mà khoe:

- Đây là Chu lão gia thưởng công cho tôi, còn Đại nương không thưởng gì cho tôi sao?

Nguyệt nương biết là không thể từ chối được, đành phải lấy năm tiền mà chọ Tiết tẩu hý hửng ra về, vì như vậy là chỉ trong một lúc mà kiếm được tới ba mươi bảy lạng bạc.

Thế mới biết cái nghề mối lái, người nào cũng như người nào, toàn một giống mê tiền ham bạc mà thôi.

Về phần Kinh Tế, thấy Xuân Mai đã bị bán, Kim Liên thì xa cách, trong lòng sầu khổ lắm. Nguyệt nương thì chằng thèm để ý gì tới Kính Tế, cửa ngỏ ngày đêm vẫn nghiêm cẩn, tối tối Nguyệt nương thân cầm đèn đi kiểm soát các nơi trong nhà. Do đó Kính Tế không xoay trở gì được, chỉ còn biết gây gổ với vợ, mắng chửi rầm rĩ, lại nói:

- Tôi là con rể trong nhà này, nhưng không ăn của ai, gia đình nàng hiện còn giữ của tôi mấy rương kim ngân tiền của. Nàng là vợ tôi, đã không biết giữ của cho tôi còn dám bảo là tôi sống nhờ ăn hại, ai sống nhờ ăn hại của ai thì biết đấy.

Tây Môn Đại thư chỉ biết khóc.

Mấy hôm sau là tới ngày hai mưoi bảy tháng mười một, sinh nhật của Ngọc Lâu, Ngọc Lâu bớt ra ít đồ ăn, bảo Xuân Hồng đem ra ngoài tiệm cho Kính Tế và Phó quản lý, nhưng Nguyệt nương ngăn lại mà bảo:

- Nó là thằng không biết điều, mặc kệ nó, không phải lo lắng gì cho nó. Nếu muốn cho Phó quản lý thì đem tới nhà mà cho, Phó quản lý về nhà sẽ ăn, còn thằng khốn đó thì thừa cũng không cho nó ăn.

Tuy Nguyệt nương nói vậy nhưng Ngọc Lâu không nghe, cứ ngầm sai Xuân Hồng đem rượu thịt ra tiệm.

Kính Tế và Phó quản lý cùng ăn uống. Phó quản lý chỉ nhấm nháp đôi chút, gần như một mình Kính Tế uống hết cả một vò rượu, nhưng cũng chưa đủ, sai Lai An về lấy thêm. Phó quản lý bảo:

- Thôi không cần lấy thêm nữa, như vậy là đủ rồi. Tôi cũng không uống nữa đâu.

Kính Tế không chịu, bắt Lai An phải về lấy rượu.

Lát sau Lai An trở lại nói:

- Nhà không có rượu.

Kính Tế giận lắm, bỏ tiền ra sai người mua rượu rồi mắng Lai An:

- Thằng khốn đừng có nói láo, chủ mày đã coi rẻ tao, bây giờ chúng mày là kẻ ăn đứa ở cũng ra mặt khinh bỉ tao nữa hay sao? tao là con rể trong nhà, nhưng chưa từng ăn một hột cơm uống một hớp rượu của nhà vợ. Gia gia lúc sinh tiền quý mến tao biết chừng nào, vậy mà gia gia chết đi, Đại nương lại đem lòng rẻ rúng khinh khi tao. Mọi việc trong nhà chỉ sai người ở chứ không thèm nhờ tao. Chủ mày coi tao không bằng người ở nên người ở như mày mới khinh tao chứ gỉ nhưng tao nói cho mà biết, tao không sợ gì đâu.

Phó quản lý vội khuyên can:

- Thôi cậu ơi, sao cậu lại nói vậy? Đại nương không quý cậu tin cậu thì quý ai tin ai bây giờ? chắc là trong nhà từ khi gia gia thất lộc thì nhiều chuyện này kia bận rộn nên cũng có điều thiết sót đấy thôi. Cậu nói vậy, nhà có ngạch vách có tai không tiện. Chắc là cậu say nên nóng nẩy vậy thôi.

Kính Tế bảo:

- Phó thúc thúc ơi, tôi uống rượu thì uống chứ việc nào ra việc ấy, rượu thì ở trong bụng mà việc thì ở trong đầu, không lẫn lộn được đâu. Mẹ kế của vợ tôi nghe lời đứa tiểu nhân mà gây chuyện được thị phi, ra mặt khinh rẻ tôi. Người ta tưởng là có thể hại được tôi nhưng tôi cũng có thể hại lại người ta chứ. Người ta tưởng rằng tôi có thể bị đưa lên quan vì tôi gian dâm với tiểu thiếp của cha vợ, nhưng biết đâu là tôi có thể trước hết bỏ con gái nhà người ta, không chịu lấy làm vợ nữa, sau đó tôi sẽ làm đơn, một lá đưa lên quan tại đây, một lá đưa lên tận kinh đô, tố cáo người ta đã sang đọat những rương kim ngân tiền bạc mà tôi đem gửi. Lúc đó thi nhà cửa này, tiệm buôn này chỉ còn nước mà bán hết đi mà hầu kiện. Nhưng nói cho cùng, tôi chỉ muốn khuấy nước chơi chứ đâu muốn bắt cá. Cho nên, biết điều ra thì nên đối xử với tôi đàng hoàng tử tế như xưa, như vậy lại còn có lợi hơn.

Phó quản lý thấy Kính Tế nói vậy thì bảo:

- Thôi, chắc là cậu quá say rồi. Uống rượu vào là ăn nói chằng chịu giữ gìn.

Kính Tế trừng mắt mắng:

- Đồ chó chết, sao dám bảo la ta say? ta việc gì phải giữ gìn. Ta là rể, tức cũng như khách của nhà này, còn ngươi chẳng qua chỉ là tên quản lý, cũng định học thói khinh rẻ ta hay sao? này, ta nói cho mà biết, trong bao nhiêu năm nay, ngươi bòn rút giấu giếm bao nhiêu tiền bạc của nhà vợ ta là ta biết hết, bây giờ cơm đầy bụng tiền đầy túi, lại định giở trò hất ta ra để tranh quyền buôn bán một mình phải không? nay mai ta làm đơn kiện, cũng sẽ ghi tên ngươi vào, tố cáo tội trạng của ngươi cho mà coi.

Phó quản lý vốn tính nhút nhát, thấy vậy bèn đứng dậy rút êm về nhà. Kính Tế cũng nằm lăn ra mà ngủ. Gia nhân thu dọn bát đĩa rồi đóng cửa hàng.

Sáng sớm hôm sau Phó quản lý đã tới gặp Nguyệt nương kể hết những lời Kính Tế nói hôm qua, rồi khóc lóc xin thôi việc, trao lại tiền bạc sổ sách, Nguyệt nương ôn tồn bảo:

- Quản lý à, ngươi cứ yên tâm lo buôn bán, đừng để ý tới thằng khốn đó làm gì. Nó như đống rác thối, bới ra chỉ tổ thối thêm mà thôi. Để ta nói cho ngươi được haỵ Hay trước nhà nó vì chuyện quan mà phải chạy trốn, vợ chồng nó tới đây ở nhờ, chứ làm gì có kim ngân tiền bạc nào, chỉ có vài rương quần áo đồ đạc đem theo mà thôi. Cha nó trốn tránh sợ tội, nhờ lão gia nhà này lo cho, bây giờ mới được sống yên ổn ở kinh. Lúc nó tới đây, chỉ mới mười sáu mười bảy tuổi, chỉ như một đứa con nít, nào đã biết gì, bây giờ nhờ bên vợ nuôi nấng dạy bảo, mới lớn khôn biết buôn biết bán như ngày naỵ Vậy mà nó định lấy ân lám oán hay sao? nhưng dù nó có ăn nói hay hành động gì chăng nữa thì cũng để trời đất xét xử cho nó. Quản lý à, ngươi cứ nghe lời ta chăm chỉ buôn bán làm ăn, tự nhiên nó sẽ hổ thẹn.

Phó quản lý nghe vậy cũng được yên tâm.

Một hôm, trong nhà có việc, mọi người lớn nhỏ tề tựu cả tại đại sảnh, nhũ mẫu Như Ý một tay bồng Hiếu ca nhi, một tay đem bình trà ra rót cho Phó quản lý. Hiếu ca nhi cứ nhèo nhẹo khóc. Kính Tế ngồi cạnh bảo:

- Này, đừng có khóc, chóng ngoan.

Hiếu ca nhi nín khóc, trố mắt nhìn Kính Tế. Kính Tế nửa nạc nửa mỡ bảo mọi người:

- Thằng nhỏ này có giống con tôi đẻ ra không? tôi bảo nso nín là nó nín ngay.

Mọi người nghe câun nói của Kính Tế, kẻ giật mình, người khó chịu, Như Ý bảo:

- Cậu này ăn nói hay quá nhỉ, để tôi vào thưa lại với Đại nương mới được.

Kính Tế đứng dậy đạp cho Như Ý một đạp rồi nửa đùa nửa thật:

- Này, ngươi mà nói gì là ta đánh chết đó.

Như Ý bồng Hiếu ca vào trong khóc lóc kể lại lời nói hỗn của Kính Tế. Nguyệt Nương đang ngồi chải đầu trước gương, nghe Như Ý kể lại như vậy thì giận uất lên, ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Tiểu Ngọc và Như Ý hoảng lên, vừa vực Nguyệt nương lên giường, vừa tri hô rầm rĩ.

Tuyết Nga nấu nước gừng đổ cho Nguyệt nương, lúc sau thì Nguyệt nương dần dần tỉnh lại, nức nở khóc mà không nói được lời nào.

Như Ý kể lại lời nói hỗn của Kính Tế cho Ngọc Lâu và Tuyết Nga nghe, rồi nói thêm:

- Đã vậy mà cậu ta còn đạp tôi một đạp, khiến tôi cũng giận muốn chết.

Lát sau mọi người tản mát hết, Tuyết Nga mới ngồi cạnh Nguyệt nương nói nhỏ:

- Đại nương không nên giận như vậy, giận thì vừa mệt mình, vừa sinh chuyện lôi thôi. Thằng khốn kiếm chuyện hỗn láo chỉ vì nó tức là không được tới lui với con dâm phụ họ Phan. Điệu này thì nó dám kiếm chuyện lôi thôi chứ không đâu, mình mà tỏ ra nhát sợ là nó lấn lướt. Người ta cứ bảo là ném chuột sợ vỡ lọ quý, tôi cũng thương Đại thư lắm, nhưng gặp đứa khốn nạn như vậy thì chẳng còn cách gì hơn là lừa gọi nó vào trong này, sai gia nhân đánh cho nó một trận nhừ tử, rồi đuổi nó về nhà nó, hạng người như thế mà giữ lại làm gì. Sau đó thì gọi con mụ họ Vương mở quán trà khi trước, giao trả con dâm phụ Kim Liên để tùy gả hay bán cho nhà khác. Con dâm phụ đó mình để ở nhà chỉ gây thêm tai hoa. mà thôi, biết đâu nay mai nó chằng thêm chuyện này chuyện khác.

Nguyệt nương ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Tứ muội nói cũng đúng.

Thế là đêm đó hai người bàn định xong xuôi.

Sáng hôm sau, Nguyệt nương cho mai phục a hoàn gia nhân, bảy tám người đứng sau rèm, người nào cũng cầm roi cầm gậy, rồi sai Lai An đi gọi Kính Tế, bảo là vào có chuyện cần nói.

Kính Tế vào tới hậu phòng thì lập tức các cổng ngõ được khóa lại. Nguyệt nương bắt Kính Tế quỳ trước mặt mình rồi quát bảo:

- Mày biết tội mày chưa?

Kính Tế không chịu quỳ, mà vênh mặt lên không thèm trả lời. Nguyệt nương nổi giận, hô lên một tiếng, tức thì Tuyết Nga và vợ Lai Hưng, vợ Lai Chiêu, con lớn của Lai Chiêu, Tiểu Ngọc, Tú Xuan, sáu bảy người tay roi tay gậy ào ra vây lấy Kính Tế mà đán túi bụi Kính Tế tuy là đàn ông, nhưng một mình khó địch nổi sáu bảy người đàn bà, lại nữa tay không làm sao chống lại được với roi gậy, do đó bị đánh một trận bò lên bò càng dưới đất, đứng lên không nổi. Tây Môn Đại thư có mặt nhưng chỉ đứng tránh qua một bên chứ không tiếp cứu chồng.

Kính Tế đau quá không biết làm sao, bèn tụt ngay quần ra, tồng ngồng giữa nhà. Đám đàn bà con gái thấy vậy thì bỏ cả roi quảng cả gậy mà chạy vào trong.

Nguyệt nương vừa tức giận vừa buồn cười, lớn tiếng mắng:

- Thằng côn đồ khốn nạn kia, mày dám làm trò đó hay sao?

Kính Tế tự giải vây nhờ mẹo vặt, bèn đứng dậy xốc quần chạy mất.

Nguyệt nương gọi gia nhân vào bảo:

- Ra bảo thằng Kính Tế giao phó sổ sách đàng hòang cho Phó quản lý rồi ra khỏi nhà này.

Kính Tế cũng biết là đến nước này thì không thể ở lại được, bèn về phòng thu xếp quần áo hành lý, ra khỏi nhà ngay, chằng thèm tính toán sổ sách gì. Ra khỏi nhà vợ, Kính Tế đến tá túc tại nhà cậu họ Trương.

Về phần Kim Liên, nghe tin Kính Tế bị vây đánh nhừ tử rồi đuổi đi, trong lòng càng thêm ưu phiền khổ não.

Hôm sau, Nguyệt nương cho gọi Vương bà tới.

Vương bà thì từ hồi con trai là Vương Triều buôn bán ở Hoài Thượng tới nay, trong nhà cũng có cả trăm lạng bạc, do đó không mở quán bán trà nữa, mà mở tiệm bán đồ đồng như lư đinh mâm thau.

Nghe gia nhân của Tây Môn Khánh tới gọi, Vương bà vội mặc áo đi ngaỵ Người được sai đi gọi Vương bà là Đại An. Đại An cùng Vương bà đi một lượt. Trên đường đi, Vương bà bảo Đại An;

- Lâu lắm, không gặp chú em, đã có vợ con gì chưa?

Đại An đáp:

- Vợ con ở đâu mà có.

Vương bà hỏi:

- Gia gia mất rồi thì ai trong nhà cho gọi tôi vậy? hay là Ngũ nương sinh con trai, gọi tôi tới để bồng.

Đại An đáp:

- Ngũ nương nhà tôi không có đẻ đái gì hết, mà chỉ tằng tịu với ông con rể trong nhà thôi. Hôm nay Đại nương cho gọi lão tới là để lãnh Ngũ nương ra chứ chẳng có chuyện gì hết.

Vương bà kêu lên:

- Trời đất quỷ thần ơi, Ngũ nương mà có hành động của loài dâm phụ như vậy sao? gia gia thất lộc đi rồi thì phải thủ tiết chứ. Nhưng đã là dâm phụ thì làm sao mà thủ tiết được. À mà cậu rể đó họ gì?

Đại An đáp:

- Họ Trần, tên Kính Tế.

Vương bà nói:

- Con dâm phụ thế thì tệ thật, đến ngay với tôi đây là người mai người mối mà nó đối xử cũng chẳng ra gì. Năm ngoái tôi tới vì vụ Hà Cửu, có ghé thăm thì chỉ được một chung trà nguội mà thôi. Lúc làm mai con dâm phụ đó cho lão gia, tôi những tưởng nó phải ở trong nhà lão gia tới trọn đời, ngờ đâu lại có ngày phải tới lãnh nó ra như hôm nay.

Đại An nói:

- Ngũ nương và cậu rể làm chuyện đồi bại, Đại nương tôi đã khuyên dạy nhiều lần mà không được. Vừa rồi cậu ta làm cho Đại nương giận tới ngất đi, nên Đại nương đã đuổi đi rồi. Chỉ còn Ngũ nương thì bây giờ mời lão tới lãnh ra đây.

Vương bà bảo:

- Lúc tới thì ngồi kiệu, bây giờ đi cũng phải gọi một cỗ kiệu tới rước mới được. Lúc tới có rương hòm đồ đạc thì lúc ra cũng nên cho đem theo.

Đại An đáp:

- Cái đó thì còn tùy Đại nương tôi, tôi làm sao biết được.

Tới nơi, Đại An dẫn Vương bà vào hậu phòng gặp Nguyệt nương. Vương bà lạy chào. Nguyệt nương mời ngôi dùng trà rồi bảo:

- Lão Vương à, nếu vô sự thì đã không mời lão tới đây làm gì.

Đọan kể hết chuyện Kim Liên và Kính Tế cho Vương bà nghe, rồi nói tiếp:

- Bây giờ thì nhờ lão lãnh nó ra, tùy lão gả bán cho nhà nào cũng được. Lão gia tôi thất lộc đi rồi, giữ của nợ đó trong nhà chỉ thêm rước lấy sự chê cười của thiên hạ mà thôi. Lão gia tôi sinh thời đem nó về nhà tốn kém biết bao nhiêu tiền của, không biết thế nào mà tính, nên bây giờ tùy lão, bán được bao nhiêu thì bán, xong rồi sớm giao hoàn tiền bạc cho tôi, để tôi lấy tiền đó làm lễ tụng kinh cho lão gia, chứ bây giờ không như ngày trước, tôi cũng túng bấn lắm.

Vương bà cười:

- Đại nương dạy vậy chứ Đại nương đâu thiếu gì tiền mà phải cần tới món tiền đo, chằng qua là Đại nương muốn tống cái họa đó ra khỏi nhà cho sớm mà thôi. Nhưng Đại nương đã dạy như vậy thì để tôi xin cố.

Vương bà ngừng lại ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp:

- Hôm nay là ngày tốt, lãnh ra ngay cũng được, tuy nhiên có điều này thưa với Đại nương. Lúc con dâm phụ đó tới quý phủ đây thì cũng có rương hòm đồ đạc đem theo, lại ngồi kiệu mà tới, vậy xin Đại nương cho gọi kiệu và cho phép đem quần áo đồ đạc, cho người ngoài khỏi chê cười.

Nguyệt nương bảo:

- Cho đem theo một cái rương, còn không cho ngồi kiệu.

Tiểu Ngọc đứng bên nói:

- Đai nương giận mà dạy vậy, chứ cũng nên cho gọi một cỗ kiệu đưa Ngũ nương ra, đến làm sao thì đi làm vậy cho đôi bên hàng phố khỏi chê cười.

Nguyệt nương không nói gì, chỉ sai Tú Xuân gọi Kim Liên vào.

Kim Liên vừa bước vào, nhìn thấy Vương bà thì đã chột dạ, nhưng cũng lạy chào Nguyệt nương, vái chào Vương bà rồi ngồi xuống một bên. Nguyệt nương im lặng. Vương bà mở lời:

- Hôm nay Đại nương cho gọi tôi tới đây để lãnh nương tử ra, xin nương tử thu xếp đồ đạc mau mau cho.

Kim Liên bình tĩnh:

- Lão gia thất lộc chưa được bao lâu, tôi có tội tình gì mà nay đuổi tôi như thế này?

Vương bà bảo:

- Nương tử không nên nói vậy, theo tôi cứ im lặng là hơn. Người ta thường nói, rắn chui đầu thì rắn biết, cho nên nương tử làm gì thì nương tử biết, sao lại hỏi người khác? vả lại với ai chứ với tôi thì nương tử chằng cần phải dùng tới xảo ngữ ngoa ngôn làm gì, mà cũng chằng cần phải nhiều lời nữa.

Kim Liên thấy ngay thế bất lợi của mình, biết là không thể ở lại được nữa, bèn ngẩng lên, nhìn thẳng vào mặt Nguyệt nương mà bảo:

- Đại nương chẳng nên ỷ thế mà đối xử cạn tàu ráo máng. Tôi làm thiếp ở nhà này suốt mấy năm nay chứ không phải một ngày một buổi gì, vậy mà Đại nương lại tin lời của đứa ăn kẻ ở để hành động tuyệt tình đoạn nghĩa như thế này. Đại nương đuổi tôi đi, tôi sẽ đi, chỉ mong là Đại nương thủ tiết được tới già mà thôi.

Nguyệt nương không nói gì, chỉ đứng dậy, xuống phòng Kim Liên kiểm tra đồ đạc, cho Kim Liên hai cái rương, bốn bộ quần áo , vài món trâm thoa nữ trang, một cái chăn và hai đôi hài. Còn bao nhiêu thì sai Thu Cúc thu dọn hết đem vào hậu phòng. Xong xuôi Nguyệt nương khoá trái phòng Kim Liên lại.

Kim Liên trang điểm sơ sài, tới trước bàn thờ Tây Môn Khánh khóc lóc một hồi, rồi trở lại lạy từ Nguyệt nương, sau đó vào chào Ngọc Lâu, cho trọn tình chị em trong bấy lâu naỵ Trước phút phân ly, cả hai cùng khóc. Ngọc Lâu lén cho Kim Liên một cặp trâm vàng, một bộ quần áo bằng đoạn, rồi bảo:

- Thư thư à, tôi với thư thư gần ít xa nhiều, chằng biết bao giờ có dịp gặp lại nhau, thôi thì thư thư tìm nhà nào khá giả mà tiến thân, chừng nào yên chỗ rồi thì sai người về đây nói cho tôi biết, tôi sẽ lựa dịp tới thăm.

Nói xong nước mắt ròng ròng. Kim Liên cũng khóc như mưa.

Tiểu Ngọc tìm đến, lén tặng Kim Liên một chiếc thoa bạc. Kim Liên bảo:

- Cảm ơn em đã có chút tình với ta.

Trong khi đó, Vương bà đã gọi người đem đồ đạc của Kim Liên đi trước. Lúc Kim Liên ra thì chỉ có Ngọc Lâu và Tiểu Ngọc tiễn cổng, một cỗ kiệu nhỏ đã đợi sẵn, Kim Liên gạt lệ bước lên kiệu về nhà Vương bà.

Con trai Vương bà là Vương Triều bây giờ đã trưởng thành, rõ ra là người đàn ông mạnh khỏe, hiện cũng chưa có vợ. Từ ngày Kim Liên về ở với Vương bà thì Vương Triều dọn giường ngủ của mình ra phòng ngoài, Kim Liên ở với Vương bà tại phòng trong. Ngày ngày, Kim Liên nhàn nhã ra vào, không soi gương đánh phấn thì lại lấy đàn tỳ bà ra đàn hát. Những lúc Vương bà vắng nhà thì Kim Liên thường cùng Vương Triều đánh bài đánh cờ tiêu khiển. Hai người trước còn lả lơi sau thành gối chăn. Đêm đêm, lúc Vương bà ngủ say, Kim Liên lại ra phòng ngoài ngủ với Vương Triều.

Một hôm Kính Tế dò hỏi, biết là Kim Liên đang tá túc tại nhà Vương bà, bèn đem hai xâu tiền đồng mà tìm tới. Vương bà đang quét tước trước cửa nhà thì Kính Tế bước tới trước mặt vái chào. Vương bà hỏi:

- Chú em đây là ai vậy? tới có chuyện gì?

Kính Tế đáp:

- Xin cho vào nhà thưa chuyện.

Vương bà mời vào nhà ngồi, Kính Tế nói:

- Tôi tới đây hỏi thăm một vị nương tử mới ở nhà Tây Môn đại quan nhân ra ít ngày nay.

Vương bà e dè hỏi:

- Xin lỗi, cậu là ai?

Kính Tế cười:

- Chằng giấu gì lão, tôi là em trai của Phan nương nương đây.

Vương bà nheo mắt nhìn kỹ nhìn Kính Tế đầu tới chân rồi bảo;

- Phan nương tử có em trai em gái gì đâu, cậu đừng có dối lão. Cậu chắc ra con rể của đại quan nhân đây mà, không lừa lão nổi đâu.

Kính Tế cười khì khì móc ra hai xâu tiền đồng để lên bàn mà bảo:

- Có chút đỉnh để lão bà mua trà uống. Xin lão bà cho chúng tôi gặp mặt ngày khác xin hậu tạ.

Vương bà đỏng đảnh:

- Tiền bạc ơn nghĩa gì, Đại nương đã dặn tôi là không cho ai được gặp Kim Liên trước khi gả bán. Bây giờ cậu muốn gặp thì phải cho lão năm lạng, gặp hai lần thì cho mười lạng, nghĩa là cứ một lần gặp là năm lạng, thì lão mới thuận. Còn nếu cậu muốn cưới về thì xin cho đủ trăm lạng, ấy là tiền mai mối lão không tính đâu. Chứ còn hai xâu tiền đồng này, thời buổi bây giờ mà làm được cái gì.

Kính Tế thấy Vương bà ham tiền làm khó, bèn rút cây trâm bạc chừng năm tiền trên đầu xuống, rồi quỳ ngay trước mặt Vương bà mà nói:

- Xin lão bà nhận tạm giùm vật này, hôm khác sẽ đưa thêm một lạng nữa, quyết chẳng dám sai lời. Chỉ xin lão bà cho chúng tôi gặp mặt nói vài câu chuyện mà thôi.

Vương bà đưa ta nhận cây trâm, rồi vơ luôn cả hai xâu tiền trên bàn, đọan dặn:

- Bây giờ cậu vào trong gặp gỡ chuyện trò rồi ra sớm sớm gìum tôi, đừng có ở trong đó mà cà kê dê ngỗng dông dài. Còn một lạng bạc cậu hứa đó, ngày mai nhớ đem đến cho, quên là không được đâu đấy.

Nói xong vén rèm cho Kính Tế vào.

Kim Liên thấy Kính Tế thì mừng lắm, nhưng lại oán trách:

- Vì chàng mà bây giờ tôi ra nông nỗi này, không nơi ăn ở chằng chón nương tựa. Rồi từ hôm đó tới nay chẳng thấy tăm hơi bóng dáng chàng đâu. Thử hỏi vì ai mà chủ tớ tôi phải bơ vơ lạc lõng mỗi người một ngả như thế này?

Nói xong thì nắm áo Kính Tế mà khóc. Vương bà ở ngoài nói vọng vào:

- Đừng có khóc, coi chừng có người ngoài nghe được đấy.

Kính Tế bảo:

- Nàng ơi, nàng vì tôi mà chịu khổ nhục, nhưng tôi cũng vì nàng mà bị một trận đòn chí tử rồi bị đuổi ra khỏi nhà đó rồi. Còn nàng trách tôi không tới, chỉ vì tôi không được tin tức gì. Mãi hôm qua tới nhà Tiết tẩu hỏi thăm mới biết Xuân Mai bây giờ đã yên ổn tại phủ Chu Thủ bị, còn nàng thì tá túc tại đây. Cho nên hôm nay tôi phải tìm gặp nàng ngay để bàn tình cùng nàng. Hai đứa mình ân nặng tình sâu khó thể chia lìa, bây giờ tôi tính là trước hết bỏ con vợ đó, sau tìm cách đòi lại tiền bạc của cải mà tôi đã gửi tại nhà đó. Nếu bên đó không chịu trả thì tôi sẽ lên Đông Kinh làm đơn tố cáo, lúc đó dù có hai tay bưng trả tôi thì cũng đã muộn. Rồi một mặt toi giả tên họ, cưới nàng về để hai đứa được sống với nhau lâu dài trong nghĩa vợ chồng. Nàng nghĩ thế nào?

Kim Liên bảo:

- Như chàng biết đó, Vương lão bà đòi đủ một trăm lạng, liệu chàng có đủ số bạc đó ngay không?

Kính Tế bảo:

- Sao đòi nhiều quá vậy?

Vương bà từ nãy vẫn lắng nghe hai người nói chuyện bên trong, vội nói vọng vào:

- Vậy đâu có nhiều. Bà mẹ vợ của cậu nói rằng lúc trước cha vợ cậu cưới Kim Liên về, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, nhưng bây giờ chỉ đòi đủ một trăm lạng mà thôi, do đó, không thể thiếu một tiền một lạng nào cả. Tiền công của tôi là không tính đấy.

Nói xong bước vào phòng trong cùng ngồi, Kính Tế nói:

- Chằng giấu gí lão, hiện tôi và Kim Liên khăng khít quá rồi, chia lìa không nổi, nguyện mong lão bà nghĩ lại mà bớt cho bốn năm chục lạng mới được. Tôi sẽ vay mượn cậu mợ tôi, rồi mua một căn nhà nhỏ, chừng ba gian để cưới Kim Liên về chung sống. Lão bà nghĩ lại xem có thể nhân nhượng mà giúp cho chăng?

Vương bà cong cớn:

- Đừng nói gì năm sáu chục lạng, cậu cứ thử trả tám chục lạng xem Kim Liên đã về tay cậu chưa. Tôi nói cho mà biết, mới hôm qua đây này, Hà quan nhân buôn bán tơ lụa ở Hồ Châu trả bảy chục lạng, rồi Trương Nhị lão gia trả tám chục lạng, rồi quan Đề hình sai hai viên Tiết cấp trả tám chục lạng, nhưng tôi đều từ chối cả. Cậu còn trẻ, tôi không dám nói nhiều sợ tổn thương tới cậu, chứ cỡ như cậu thì khó lòng lắm.

Nói xong ngoe nguẩy bỏ đi, vừa đi vừa cười khảy bảo:

- Đời thuở nhà ai, con rể đòi đi cưới mẹ vợ, lại còn đến đây ăn nói nghe rác cả tai.

Kính Tế vội chạy theo níu Vương bà lại quỳ xuống nói:

- Thôi được, tôi bằng lòng trả đủ trăm lạng, nhưng xin lão bà hãy chậm chậm lại ít ngày, tôi về nhà cho tôi ở Đông Kinh lấy tiền mới có.

Kim Liên cũng nói:

- Nếu chàng thực tâm thì mau mau lo bạc cưới tôi đi, nếu chậm thì tôi về nhà người khác mất, không sống với chàng được đâu.

Kính Tế đứng dậy bảo:

- Nàng yên tâm, tôi đi bất kể ngày đêm thì chỉ chừng mười ngày là về đây rồi, không trễ đâu.

Vương bà dặn:

- Mất lòng trước, được lòng sau, công của tôi là mười lạng, cậu phải trả đủ, không tính vào một trăm lạng đó, ấy tôi cứ nói trước cho phân minh, kẻo sau này lại lôi thôi.

Kính Tế bảo:

- Cái đó dĩ nhiên, ơn lão bà tôi phải báo đáp chứ.

Nói xong vái chào Vương bà, từ biệt Kim Liên về nhà cậu sửa soạn hành lý.

Canh năm hôm sau, Kính Tế lên đường trực chỉ Đông Kinh. Sau khi đuổi Kim Liên ra khỏi nhà, Nguyệt nương sai Xuân Hồng đi gọi Tiết tẩu tới để lãnh Thu Cúc ra đem bán.

Trên đường đi, Xuân Hồng tình cờ gặp Ứng Bá tước, Bá tước hỏi:

- Ngươi đi đâu vậy?

Xuân Hồng đáp:

- Đại nương sai tôi đi gọi bà mối Tiết tẩu tới.

Bá tước hỏi tiếp:

- Gọi tới làm gì vậy?

Xuân Hồng đáp:

- Để đem bán con a hoàn Thu Cúc, a hoàn cũ của Ngũ nương đó.

Bá tước lại hỏi:

- Còn Ngũ nương làm sao lại bị đuổi vậy?

Xuân Hồng đáp:

- Vì Ngũ nương tằng tịu với cậu Kính Tế, Đại nương biết được, trước hết cho đem bán Xuân Mai, tiếp đó thì đánh cho cậu Kính Tế một trận rồi đuổi ra khỏi nhà, sau cùng thì đuổi Ngũ nương đi.

Bá tước nghe xong gật gù bảo:

- Thì ra Ngũ nương thông gian với Kính Tế, thật không còn trời đất nào nữa.

Đoạn hỏi Xuân Hồng:

- Gia gia ngươi mất rồi, ngươi còn ở đó làm gì? ngươi có tính về Nam với chủ cũ hay là ngươi có tính đến nhà khác không?

Xuân Hồng đáp:

- Nhị gia hỏi cũng đúng. Sau ngày gia gia tôi mất thì Đại nương nghiêm khắc riết róng trong mọi việc, mấy cửa tiệm cũng dẹp đi, nhà cửa ở ngoài cũng bán đi, tiền bạc các nơi thâu góp hết lại, gia nhân trong nhà thì cứ thải hồi dần dần cho bớt miệng ăn. Cầm Đồng, Họa Đồng cũng bỏ đi rồi. Tôi muốn về Nam nhưng không ai dẫn về, mà muốn tìm chủ khác ở đây thì không ai mách bảo, biết làm sao?

Bá tước bảo:

- Đồ ngốc, không có người này thì có người kia chứ sao, vả lại thiên sơn vạn hải, ngươi mò về Nam làm gì, mày có tài ca hát, lo gì không tìm được chủ mới giàu có cao sang. Thôi để ta chỉ cho, hiện Trương Nhị lão gia tại huyện này, gìau nứt đố đổ vách, lại sắp làm chức Chưởng hình thiên hộ thay thế cho gia gia ngươi tại sở Đề hình này. Hiện Nhị nương của ngươi trước đã trở thành nhị phòng của Trương lão gia. Lão già thấy ngươi mặt mũi dễ coi, lại giỏi hát Nam khúc thì thế nào cũng trọng dụng, cho ngươi làm gia nhân thân tín, chẳng hơn là ở lại với chủ cũ hay sao? Trương lão gia tính tình lại tốt, người hãy còn trẻ, ngươi mà được vào hầu hạ thì phúc bảy mươi đời đấy.

Xuân Hồng nghe xong, sụp xuống ngay giữa đường lạy như tế sao mà nói:

- Nếu vậy thì xin nhị gia làm ơn làm phúc tiến dẫn cho, xong việc tôi sẽ có lễ tạ Ơn nhị gia.

Bá tước lôi Xuân Hồng dậy mà bảo:

- Đồ ngốc, mày có đứng dậy không, giữa đường giữa chợ mà làm gì vậy? tao chỉ quen giúp người, há lại mong mày trả ơn hay sao? mày làm gì mà có tiền.

Xuân Hồng lại hỏi:

- Nhưng nếu tôi bỏ đi, Đại nương cho người tìm thì sao?

Bá tước bảo:

- Không sao, để tao nói với Trương lão gia, viết thiếp và cho đem một lạng bạc tới để hỏi mua mày, Đại nương ở nhà thấy vậy đã chẳng dám nhận tiền, mà còn hai tay dẫn mày sang với Trương lão gia là khác.

Xuân Hồng mừng lắm, cám ơn Bá tước rồi cáo từ để tới nhà Tiết tẩu.

Tiết tẩu lãnh Thu Cúc ra chỉ bán được năm lạng, giao lại cho Nguyệt nương.

Hôm sau, Bá tước hẹn Xuân Hồng rồi dẫn tới ra mắt Trương Nhị. Trương Nhị thấy Xuân Hồng mặt mày thanh tú, lại giỏi hát Nam khúc thì hài lòng lắm, thâu nhận ngaỵ Lại theo Bá tước, viết thiếp và gói vài lạng bạc sai người đưa tới cho Nguyệt nương.

Hôm đó Nguyệt nương dọn rượu đãi Phạm thị, vợ Vân chỉ huy.

Nguyên là Vân chỉ huy được bổ làm Tả vệ đồng tri tại huyện Thanh Hà, thấy Tây Môn Khánh đã chết, Nguyệt nương ở goá nuôi con, trong nhà tiền bạc của cải cũng nhiều, lại nhân lúc trước Nguyệt nương và Phạm thị chỉ bụng kết làm thân gia, nay Nguyệt nương sinh con trai, mà Phạm thị cũng sinh con gái được mấy tháng, bèn bảo Phạm thị soạn lễ vật thật hậu tới, nhắc lại lời hứa hôn lúc trước. Nguyệt nương vui mừng lắm, dọn tiệc thết đãi, bàn chuyện hôn nhân cho hai đứa trẻ. Nguyệt nương lại lấy ra một cặp vòng vàng đưa cho Phạm thị gọi là sính lễ con trai mình.

Hai người đang uống rượu chuyện trò thì Đại An đem thiếp và bạc của Trương Nhị vào thưa:

- Xuân Hồng xin vào hầu hạ Trương lão gia rồi. Trương lão gia cho đem thiếp và bạc tới để xin quần áo đồ đạc của Xuân Hồng.

Nguyệt nương nghĩ là Trương Nhị sắp nhậm chức Đề hình, có từ chối cũng không được, nên không nhận bạc, mà cho đem quần áo của Xuân Hồng đi.

Lúc trước, Bá tước có nói với Trương Nhị về nhan sắc và tài ba của Kim Liên, nay lại nói thêm:

- Nay thì Tây Môn Đại nương đuổi Kim Liên ra rồi, hiện nàng đang tác túc tại nhà Vương bà.

Trương Nhị mấy lần sai gia nhân tới nhà Vương bà trả giá, nhưng Vương bà nhất định đòi đủ trăm lạng, chưa kể tiền công. Trương Nhị đã trả tới tám chục lạng mà Vương bà chưa chịu.

Đang định trả hơn, thì được nghe Xuân Hồng nói về vụ thông gian giữa Kim Liên và Kính Tế, nên Trương Nhị bỏ ý định cưới Kim Liên, lại bảo Bá tước:

- Con người như thế thì ham làm gì, vả lại trong nhà tôi hiện có đứa con trai mười lăm tuổi, đang gắng công đèn sách, đem thứ đó về chỉ tổ làm hư thằng nhỏ mà thôi.

Lại nghe Kiều Nhi nói:

- Lúc trước Kim Liên dùng thuốc độc giết hại chồng là Võ Đại để được lấy Tây Môn Khánh, lại từng dùng thủ đọan ác độc để làm hại cả hai mẹ con Bình Nhi.

Do đó Trương Nhị lại càng không dám nhắc tới chuyện cưới Kim Liên về làm thiếp nữa.

Nói về Xuân Mai, nhờ đẹp đẽ lanh lợi, có tài đàn hát nên Chu Thủ bị yêu quý lắm, cho ở riêng một căn nhà ba gian trong phủ, có một tiểu a hoàn phục dịch, lập làm nhị phòng, ngày đêm vui thú.

Vợ lớn của Chu Thủ bị thì tu hành ăn chay trường, không thiết chuyện đời, nên một mình Xuân Mai tay hòm chìa khoá coi sóc việc nhà. Vợ lớn Chu Thủ bị có một con gái nhưng còn nhỏ dại.

Một hôm, Tiết tẩu tìm đến bảo Xuân Mai:

- Kim Liên bị đuổi ra rồi, hiện đang tạm trú tại nhà Vương bà để chờ gả bán.

Xuân Mai nghe xong sầu thương khóc lóc, nói với Chu Thủ bị:

- Hai chúng tôi trước kia quý mến nhau, hẹn rằng lúc nào cũng có nhau. Ngũ nương thương tôi, chẳng khác gì ruột thịt, nào ngờ ngày nay tan tác chia lìa, Ngũ nương lại bị đuổi ra khỏi nhà để gả bán cho người khác. Nếu chàng thương tôi thì bỏ tiền ra cưới Kim Liên về cho chúng tôi được sống bên nhau.

Lại tán tụng Kim Liên:

- Kim Liên đẹp vô cùng, lại giỏi thi ca từ phú, thông minh lanh lợi và có tài đánh đàn tỳ bà tuyệt diệu. Kim Liên tuổi Thìn, năm nay ba mươi hai. Nếu Kim Liên về đây, tôi tình nguyện xuống làm đệ tam phòng.

Chu Thủ bị nghe Xuân Mai nói mãi cũng xiêu lfong, bèn gọi hai gia nhân thân tín là Trương Thắng và Lý An, đem mấy vuông lụa và hai tiền, tới hỏi thăm Vương bà về chuyện Kim Liên.

Vương bà nói:

- Tây Môn Đại nương đòi đúng một trăm lạng, chưa kể tiền công của tôi.

Trương Thắng và Lý An cò kê lên tám chục lạng nhưng Vương bà vẫn một mực không chịu.

Trương Thắng và Lý An về thưa lại, Chu Chủ bị bảo là tám mưoi lăm lạng. Hai người tới nói nhưng Vương bà bảo:

- Không phải là tôi ra giá mà trả tới trả lui, chính Tây Môn Đại nương đã nhất định là một trăm lạng, không thể cục cựa gì được đâu.

Hai gia nhân về thưa lại, Chu Thủ bị thấy quá đắt nên định thôi, nhưng Xuân Mai khóc lóc nói:

- Xin chàng cố thêm ít lạng nữa, Kim Liên về làm bạn với tôi, tôi có chết cũng can tâm.

Chu Thủ bị đành thêm năm lạng là chín chục lạng, sai quản gia Chu Trung tới gặp Vương bà. Vương bà lại càng đỏnh đảnh:

- Nếu chỉ với giá chín chục lạng thì Kim Liên đã về với Trương lão từ lâu rồi, còn đâu nữa mà hỏi.

Chu Trung thấy Vương bà lên mặt quá đáng thì lớn tiếng đáp:

- Con mụ giặc già kia đừng có ăn nói hồ đồ, mụ biết lão gia ta là ai không mà đem Trương Nhị ra doạ? lão gia ta có phải khi không sai chúng ta nói ngon nói ngọt với mụ đâu, chằng qua là muốn có thêm một người thiếp cho vui nhà vui cửa nên mới sai chúng ta tới đây, nếu không thì chúng ta thèm nói chuyện với cái mặt mụ hay sao?

Lý An cũng đi theo, thấy vậy kéo áo Chu Trung mà bảo:

- Thôi, quản gia, năm lần bảy lượt tới đây mà mụ cứ đỏng đảnh làm gìa, bây giờ mình về thưa lại với lão gia, để bắt mụ lên công đường, kẹp chân kẹp tay trừng trị tội vô lễ.

Vương bà vì tham hơn trăm lạng bạc của Kính Tế nên ráng chờ, hai người chửi mắng gì cũng mặc.

Chu Trung về thưa với chủ:

- Trả tới chín chục lạng mà mụ vẫn không chịu, lại còn nói hỗn.

Chu Thủ bị bảo:

- Thôi ngày mai đem một trăm lạng rồi gọi một cái kiệu tới trả tiền mà đem người về cho xong.

Chu Trung kêu lên:

- Một trăm lạng đã xong đâu, mụ còn nói là tiền công mai mối chưa tính, như vậy ít ra cũng phải tốn thêm năm mười lạng nữa. Con mụ này hỗn láo lắm, không biết ai vào với ai, lão gia cho bắt mụ ta lên công đường, kẹp chân kẹp tay mụ cho một trận họa may mụ mới sợ.

Chủ tớ cứ loay hoay bàn tính...

Bây giờ mới nói về Võ Tòng. Khi tới làm lính thú tại Mạnh Châu thì Võ Tòng được viên quản doanh là Thi Ân biệt đãi. Sau đó Thi Ân uống rượu tại Lâm tửu điếm, có chuyện tranh chấp với một người là Tưởng Môn Thần, bị Môn Thần đả thương. Thi Ân nhờ Võ Tòng trả thù. Võ Tòng đánh cho Tưởng Môn Thần một trận tơi bời. Nhưng em gái Tưởng Môn Thần là Tưởng Ngọc Lan, lại là vợ của Trương Đô giám. Võ Tòng bị Trương Đô giám bắt tới đánh đập tàn nhẫn rồi đầy đi lính thú tại trại An Bình. Trên đường đi, tại bến Phi vân, Võ Tòng phà gông, giết hai viên công sai áp giải, rồi quay lại Mạnh Châu giết cả Trương Đô giám và Tưởng Môn Thần cùng tòan thể gia quyến hai người này, sau đó trốn tại nhà Thi Ân. Thi Ân viết một phong thư, kèm theo một trăm lạng bạc, bảo Võ Tòng đem đến trại An Bình, nhờ vị quan Tri trại là Lưu Cao nâng đỡ. Nhưng trên đường đi thì gặp đúng lúc Thái tử được lập làm Đông cung, triều đình đại xá cho tội nhân trong thiên hạ, do đó Võ Tòng cũng được ân xá, trở về huyện Thanh Hà nhận lại chức Đô đầu như cũ.

Về tới huyện, vào trình diện với huyện quan nhận chức, Võ Tòng mũ áo xênh xang tìm lại người hàng xóm cũ là Đào Nhị lang, người đã được Võ Tòng gửi gắm Nghênh Nhi từ trước.

Nghênh Nhi lúc đó đã mười chín tuổi, Võ Tòng đó cô cháu gái về ngôi nhà cũ cùng ở.

Mấy hôm sau Võ Tòng sai dọn tiệc khoản đãi tạ Ơn Đào Nhị lang, đồng thời hỏi tin tức Tây Môn Khánh và Kim Liên. Đào Nhị lang cho biết vắn tắt là Tây Môn Khánh đã chết vì bệnh, Kim Liên thì mới bị đuổi ra khỏi nhà Tây Môn Khánh, hiện đang tá túc tại nhà Vương bà, cũng sắp lấy chồng khác nay mai.

Hôm sau, Võ Tòng mũ áo xênh xang đến nhà Vương bà. Kim Liên đang đứng trong rèm nhìn ra đường, thấy Võ Tòng tới thì nhận ra ngay, vội lui vào trong.

Võ Tòng vén rèm hỏi:

- Vương ma ma có nhà không?

Vương bà đang lúi húi bên trong vội bước ra lên tiếng:

- Ai hỏi gì vậy?

Nhưng vừa chợt nhận ra Võ Tòng, vội khúm núm vái chào, Võ Tòng cũng đáp lễ tử tế. Vương bà ngượng cười hỏi:

- Võ nhị gia về hồi nào vậy?

Võ Tòng đáp:

- Tôi được đại xa, mới về mấy hôm naỵ Cảm ơn ma ma đã trông coi giùm căn nhà kế bên đây của anh tôi, ngày khác sẽ hậu tạ.

Vương bà thấy Võ Tòng ăn nói điềm đạm, không có vẻ gì hung hãn thì cũng hơi yên lòng, bèn cười hì hì mà bảo:

- Chà, Võ nhị gia đi ít năm mà trông phương phi đẹp đẽ hẳn ra, lại cư xử đúng là người biết lễ.

Đoạn mời Võ Tòng vào nhà ngồi, đem trà ra mời, Võ Tòng ngồi xuống nói:

- Tôi có chuyện này muốn nói với ma ma.

Vương bà chột dạ:

- Có chuyện gì xin nhị gia cứ dạy.

Võ Tòng bảo:

- Tôi nghe nói Tây Môn Khánh đã chết, mà chị dâu cũ của tôi hiện đang ở đây. Vậy cảm phiền ma ma nói với chị dâu tôi rằng, nếu đã ưng ai rồi thì thối, còn chưa có đám nào thì tôi xin bỏ tiền ra cưới về để có người trông nom cháu Nghênh Nhị Nghênh Nhi đã lớn cần có người dạy bảo, và lại một nhà đoàn tụ như vậy thì thiên hạ cũng khỏi chê cười.

Vương bà nghe xong nín lặng giây lâu mới đáp:

- Phan nương tử tuy là đang ở đây với tôi, nhưng chuyện chồng con thì tôi không được biết, để tôi nói thử xem sao.

Kim Liên từ nãy ngồi trong vẫn lắng nghe, nay thấy Võ Tòng có ý cưới mình, lại thấy Võ Tòng đẹp trai hơn xưa, ăn nói dịu ngọt hơn xưa trong bụng nghĩ thầm:

- Thật là may mắn, thân mình nào ngờ lại được về với Võ Tòng.

Do đó không đợi Vương bà vào hỏi, đã bước ra tươi cười chào hỏi võ Tòng rồi long lanh sóng mắt đưa tình mà nói:

- Nếu quả thúc thúc đã có lòng cho tôi được về trông nom dạy dỗ cháu Nghênh Nhi tới lúc không lớn có chồng có con, thì như vậy còn gì bằng, tôi cũng chẳng mong gì hơn nữa.

Vương bà vội nói:

- Nhưng còn một trăm lạng bà Tây Môn Đại nương đòi thì.. thì..

Võ Tòng ngắt lời:

- Gì mà nhiều quá vậy?

Vương bà bảo:

- Lúc trước Tây Môn Đại quan nhân cưới nương tử đây tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, số bạc quan nhân bỏ ra có thể đúc thành một người bằng bạc lớn bằng người thật ấy chứ, bây giờ một trăm lạng bạc có ý nghĩa gì.

Võ Tòng bảo:

- Không sao, tôi đã có ý rước tẩu tẩu đây về nhà thì một trăm lạng cũng được. Tôi sẽ bỏ ra thêm năm lạng để tạ Ơn lão bà.

Vương bà cười tít mắt:

- Quả Võ nhị gia là người biết lễ, mấy năm nay từng trải chốn giang hồ, bây giờ rõ ra là người lịch duyệt.

Kim Liên quay vào pha một chung trà nóng, hai tay bưng ra nâng lên mời Võ Tòng uống. Vương bà nói thêm:

- Hiên nay một mặt thì Tây Môn Đại nương hối thúc, một mặt thì cũng có ba bốn người tới hỏi, nhưng số bạc chưa đủ nên chưa ngã ngũ. Vậy xin nhị gia mau mau đem bạc tới thì hơn. Người ta thường nói, cưới vợ thì cưới liền tay mà. Nay nhị gia về đây thì rõ là việc nhân duyên dù xa xôi vạn lý cũng là do tiền định, nhị gia chớ để nương tử đây lọt vào tay người khác.

Kim Liên cũng đốc xúi thêm:

- Nếu quả thúc thúc có thương tôi thì cũng xin gấp gấp lên cho.

Võ Tòng bảo:

- Được rồi, sáng mai tôi đem bạc đến, chiều là rước tẩu tẩu về được rồi.

Nói xong cáo từ mà về. Kim Liên mừng rỡ như người chết đi sống lại, còn Vương bà thì vẫn còn nghi ngại, không tin là Võ Tòng có nổi số bạc trăm lạng.

Hôm sau, Võ Tòng mở rương lấy ra số bạc trăm lạng mà lúc trước Thi Ân bảo đem cho quan Trưởng trại Lưu Cao, lại lấy thêm năm lạng bạc vụn, đem tất cả tới nhà Vương bà, đặt lên bàn bảo đếm lại cẩn thận. Vương bà thấy bạc long lanh trắng xoá một bàn thì cứ ngẩn ra mà nhìn, trong bụng nghĩ thầm:

- Tuy Kính Tế có hứa trả đúng trăm lạng, lại thưởng mười lạng, nhưng lên Đông Kinh lấy bạc, biết ngày nào mới về, mà biết có lấy được bạc đem về hay không. Nay thì Võ Tòng đem tới đủ số bạc, lại có năm lạng tiền thưởng, chi bằng nhận ngay là hơn.

Nghĩ xong, đếm bạc cẩn thận, gói lại kỹ càng rồi lạy tạ Võ Tòng, miệng nói:

- Cảm tạ nhị gia đã biết rõ công khó của tôi.

Võ Tòng bảo:

- Lão bà đã nhận bạc rồi, hôm nay cho tôi được rước tẩu tẩu đây.

Vương bà kêu lên:

- Trời ơi, đi đâu mà gấp quá vậy? cũng còn phải từ từ để chuẩn bị này kia chứ, nhị gia không chờ được đến chiều hay sao? để tôi đem bạc tới giao lại cho Tây Môn Đại nương, rồi về đây đưa nương tử đến cho đại gia.

Đoạn lại nheo mắt cười:

- Đằng nào thì tối nay nhị gia cũng trở thành vị tân lang mà.

Võ Tòng bất đắc dĩ phải về.

Tiễn Võ Tòng ra xong, Vương bà quay vào nhà ngẫm nghĩ:

- Đại nương chỉ nói mình gả bán Kim Liên mà chưa định rõ giá cả thế nào, mình chỉ nên đưa một vài chục lạng mà thôi.

Nghĩ vậy, chỉ đem theo hai chục lạng, tới giao cho Nguyệt nương.

Nguyệt nương hỏi:

- Người nào bỏ tiền ra cưới vậy?

Vương bà đáp:

- Thế mới biết lá rụng về cội thật, người bỏ tiền ra cưới Kim Liên chính là em chồng Kim Liên ngày trước.

Nguyệt nương giật mình nghĩ thầm:

- Người ta thường nói, kẻ thù gặp nhau, người ngoài khó biết.

Đoạn nói với Ngọc Lâu:

- Chỉ sợ sau này chết vì tay người em chồng đó mà thôi. Người đó từng giết người không gớm tay, chắc chẳng bỏ qua thù anh đâu.

Vương bà về tới nhà thì cũng quá trưa, sai con là Vương Triều xếp dọn rương hòm đồ đạc cho Kim Liên, đem tới nhà Võ Tòng trước.

Hôm nay, Võ Tòng trở về ngôi nhà cũ của anh, gọi quân hầu tới quét dọn sạch sẽ, lại chuẩn bị tiệc rượu sẵn sàng.

Tới chiều thì Kim Liên trang điểm rực rỡ, mặc bộ xiêm y mới nhất đẹp nhất, theo Vương bà tới.

Đứng ngoài cổng nhìn vào đã thấy trong nhà đèn nến lung linh, vào tới cửa lại thấy ngay bàn thờ của Võ Đại được thiết lập giữa nhà, hương khói nghi ngút.

Kim Liên vừa thoạt trông đã giật mình nghi ngại, chỉ biết theo Vương bà đi qua bàn thờ, vào phòng trong như kẻ mất hồn.

Võ Tòng gọi Nghênh Nhi ra khoá chặt cửa trước đóng chặt cửa sau lại. Vương bà thấy vậy hơi hoảng nói:

- Thôi, bây giờ xin nhị gia cho tôi về, nhà cũng chẳng có ai.

Nhưng Võ Tòng ngăn lại bảo:

- Đâu được, mời bà lão ngồi lại dùng chén rượu đã chứ.

Nói xong bảo Nghênh Nhi dọn rượu và thức ăn vào bàn trong, mời Vương bà và Kim Liên cùng ăn. Hai người chưa kịp đụng đũa thì Võ Tòng đã tự rót rượu ra chung lớ, uống một hơi năm chung đầy. Vương bà thấy vậy, vội uống một chung nhỏ rồi đứng dậy bảo:

- Thôi, tôi uống rồi, xin nhị gia cho tôi về, để hai người tự do trò chuyện.

Võ Tòng dằn mạnh chung rượu xuống, trừng mắt bảo:

- Lão đừng có ăn nói hồ đồ, ngồi xuống đi, tôi có chút chuyện muốn nói.

Dứt lời, chỉ nghe một tiếng "soạt", đã thấy một lưỡi đao dài hai thước lấp lánh trong tay Võ Tòng. Vương bà và Kim Liên quá sợ đến không kịp kêu lên, chỉ ngồi sững bất động. Võ Tòng lăm lăm cây đao, mắt đổ hào quang, tóc mai dựng ngược, trỏ vào mặt Vương bà mà bảo:

- Xưa nay ân có trả oán có đền, mụ đừng giả vờ mê ngủ, cái chết của anh ta là do mụ cả.

Vương bà chết giun chết dế lắp bắp:

- Nhị gia ôi, đêm đã khuya đâu mà nhị gia say sưa như vậy, thôi đừng đùa nữa, khiếp lắm.

Võ Tòng quát:

- Thôi đừng nói nhảm. Võ nhị này dẫu chết cũng chưa từng biết sợ ai. Nhưng để ta hỏi tội con dâm phụ này trước đã, rồi sẽ nói chuyện với mụ sau. Mụ mà nhúc nhích tất tính mạng khó toàn.

Đoạn quay sang Kim Liên, trỏ mặt mà mắng:

- Con dâm phụ khốn khiếp nghe đây, anh ta vốn người hiền lành, tại sao mày lại mưu hại? khôn hồn thì khai thật ra, bằng không ta quyết chẳng tha đâu.

Kim Liên mặt cắt không còn hạt máu, lập cập đáp:

- Thúc thúc ơi, làm gì có chuyện đó, anh của thúc thúc bệnh đau bụng mà chết, người nào cũng biết, tôi có tội tình gì đâu.

Chưa dứt lời thì Võ Tòng đã đạp đổ ngay bàn rượu, chén bát rơi vỡ loảng xoảng, rồi một tay cầm đao, một tay nắm tóc Kim Liên lôi ra phòng ngoài, trước bàn thờ Võ Đại. Kim Liên bị lôi xềnh xệch dưới đất, quá sợ không kêu lên được. Vương bà thấy vậy hoảng hồn, nhân lúc Võ Tòng lôi kéo Kim Liên, vội chạy ra cửa ngoài hòng thoát thân, nhưng cửa đã khoá chặt. Võ Tòng nhảy tới, cởi giây lưng trói chặt tay chân Vương bà như trói con lợn con dệ Vương bà nằm còng queo dưới đất, kêu khóc mà bảo:

- Võ Đô đầu ơi, mọi chuyện của nương tử đây là do một mình nương tử chứ tôi nào dính dấp gì đâu. Xin Đô đầu bớt giận cho tôi nhờ.

Võ Tòng mắng:

- Con chó già không phải lẻo mép nhiều lời, mày làm gì hay không, ta đều biết cả. Chính mày xúi Tây Môn Khánh tìm cách đày tao đi xa, tưởng là tao phải chết ở nơi rừng thiêng nước độc, nào ngờ có ngày ta trở về như hôm naỵ Tây Môn Khánh đã chết rồi, ấy là phúc cho nó. Bây giờ ta xử tội con dâm phụ này trước đã, rồi sẽ tính đến mày sau.

Nói xong hoa đao một vòng trước mặt Kim Liên. Kim Liên rú lên rồi khóc nói:

- Thúc thúc ơi, xin tha cho tôi, tôi sẽ xin nói hết.

Võ Tòng hạ đao xuống, lôi Kim Liên tới, bắt quỳ trước bàn thờ rồi quát:

- Con dâm phụ nói mau đi.

Kim Liên hồn bất phụ thể, chỉ biết thuật lại tỷ mỉ đầu đuôi, từ lúc buông mành trúng đầu Tây Môn Khánh, rồi cùng Tây Môn Khánh thông gian, tới lúc Tây Môn Khánh đả thương Võ Đại, Vương bà bày mưu dùng độc dược hại Võ Đại, dùng thần thế tiền bạc hại Võ Tòng, cho tới lúc được Tây Môn Khánh cưới về, nhất nhất thuật lại, không giấu giếm mảy may.

Vương bà nằm nghe, chỉ luôn miệng kêu khổ, khi Kim Liên dứt lời thì Vương bà kêu lên:

- Con khốn kia, mình mày gây tội thì ráng chịu tội, sao lại đặt điều bịa chuyện đổ lỗi cho tao?

Võ Tòng tới bàn thờ anh, thắp thêm một tuần hương, rót thêm một tuần rượu, đốt vàng mã rồi khấn rằng:

- Anh ơi, hồn anh chẳng xa, xin về chứng giám. Em là Võ Tòng rửa thù cho anh.

Kim Liên biết là không thoát, bèn tri hô lên, nhưng vừa mở miệng đã bị Võ Tòng xé áo nhét chặt vào miệng. Đoạn đè ngửa Kim Liên ra, xé áo Kim Liên để lộ khoảng bụng trắng ngần, mà bảo:

- Con dâm phụ mặt mũi đẹp đẽ lắm, nhưng đề xem lòng dạ mày thế nào.

Nói xong cầm mũi dao rạch một đường trên làn da bụng mịn màng, máu tươi toé ra. Kim Liên ú ớ trong họng, hai chân đạp lung tung. Võ Tòng đưa lưỡi đao lên miệng cắn chặt, khom người xuống, hai đầu gối đè chặt hai chân Kim Liên không cho dẫy dụa, hai tay luồn vào trong bụng Kim Liên, lôi hết tim gan lục phủ ngũ tạng ra. Cả một gian phòng nhuộm đầy máu đỏ. Nghênh Nhi thấy máu thì hay tay ôm mặt không dám nhìn.

Kim Liên tắt thở, hưởng dương ba mươi hai tuổi.

Thật là:

Một mối oan cừu, thanh xuân táng mệnh

Một cây đao sáng, hồng phấn vong thân

Chín vía du du về Diêm la điện

Ba hồn diểu diểu tới Uổng tử thành

Tuyết sơ xuân làm gãy liễu kim tuyền

Gió lạp nguyệt thổi rơi cành mai ngọc

Thân kia chôn ở chốn nào

Hồn kia rồi sẽ tìm vào nhà ai.

Thấy Kim Liên bị thảm sát, Vương bà quên cả sợ, tri hô lên:

- Trời ơi, kẻ giết người...

Tức thì một làn chớp bạc loá lên, đầu Vương bà đã lìa khỏi cổ. Giết hai người xong, Võ Tòng đem lục phủ ngũ tạng Kim Liên, dùng đao đào hố, chôn ở sau nhà.

Xong xuôi thì khoảng canh một, Võ Tòng quay vào. Nghênh Nhi nói:

- Chú ơi, cháu sợ quá.

Võ Tòng bảo:

- Cháu ơi, chú không biết làm sao hơn.

Đoạn qua nhà Vương bà định giết luôn cả Vương Triều. Nhưng số Vương Triều chưa chết, nghe tiếng kêu của mẹ lúc nãy, Vương Triều biết là Võ Tòng bạo hành, vội chạy sang xô cửa trước, đẩy cửa sau, tất cả đều khoá chặt bên trong, vội chạy ra tri hô lên rồi đi tìm toán lính tuần. Đôi bên hàng xóm sợ Oai Võ Tòng, không ai dám lên tiếng, chứ đừng nói gì chạy tới tiếp cứu.

Lúc Võ Tòng vượt tường sang nhà Vương bà thì thấy đèn vẫn sáng, nhưng trong ngoài không có một ai, bèn mở tung rương tủ của Vương bà thấy ngoài quần áo, còn có tám chục lạng bạc và ít tư trang. Võ Tòng gói hết lại, xách đao về nhà dặn dò cháu gái, rồi đang đêm ra khỏi huyện, tìm đến với vợ chồng Trương Thanh ở Thập tự pha.

Về sau, Võ Tòng trở thành Đầu đà, lên Lương Sơn tụ nghĩa. Lúc Vương Triều gọi được lính tuần tới thì Võ Tòng đã xa chạy cao baỵ Bên nhà Võ Đại, cửa trước mở tung, vào trong nhà thấy máu chảy đầy đất, hai xác người nằm giữa nhà, xác Kim Liên bị mổ bụng tanh banh mất hết ruột gan, Vương bà thì xác một nơi đầu một nẻo. Một mình Nghênh Nhi ngồi ngơ ngác chết khiếp tại phòng trong, hỏi thì chỉ khóc. Bên nhà Vương bà rương tủ bị phá, quần áo vứt tứ tung, vật dụng ngổn ngang bừa bãi, tiền bạc mất hết. Mọi người biết là Võ Tòng đã trốn đi sau khi giết người, lấy của.

Hôm sau, sự việc được đem len huyện. Lúc đó chức tri huyện Thanh Hà đã đổi, vị Tri huyện mới cũng họ Lý, nhưng tên là Xương Kỳ, vốn người huyện Tảo Cường, phủ Chân Định tỉnh Hà Bắc. Lý Tri huyện cho đòi đôi bên hàng xóm và khổ chủ của hai nhà tới.

Vương Triều khai rằng Võ Tòng mời Vương bà và Kim Liên uống rượu rồi hạ sát. Lý Tri huyện một mặt lập thành văn án, một mặt khám nghiệm nạn nhân, đồng thời sức văn thư đi các nơi truy tìm thủ phạm.

Cũng hôm đó hai gia nhân của Chu Thủ bị là Lý An và Trương Thắng được chủ sai đem đủ trăm lạng tới nhà Vương bà để cưới Kim Liên. Tới nơi thì quan binh đang khám nghiệm tử thi, mới hay Vương bà và Kim Liên đã bị Võ Tòng sát hại, vội ôm bạc về thưa lại với chủ.

Xuân Mai nghe tin Kim Liên bị giết thì vật mình lăn khóc mấy ngày đêm, bỏ ngủ bỏ ăn. Chu Thủ bị cho gọi cả một đòan hát vào diễn tuồng vui, nhưng Xuân Mai cũng chẳng bớt bị thương, chỉ hỏi Lý An và Trương Thắng xem thủ phạm Võ Tòng đã bị bắt chưa.

Về phần Kính Tế, chỉ một lòng lên Đông Kinh xin tiền cha để cưới Kim Liên làm vợ. Giữa đường thì gặp gia nhân của cha mình là Trần Định từ Đông Kinh xuống, nói là:

- Lão gia bệnh nặng, nãi nãi sai tôi xuống thỉnh đại gia về để lo hậu sự.

Kính Tế nghe vậy ngày đêm vượt đường mà đi.

Mấy hôm sau tới Đông Kinh, Kính Tế tìm tới nhà người dượng, chồng của cô mình, là Trương Thế Khang, nhưng Thế Khang đã chết từ lâu.

Về tới nhà thì cha là Trần Hồng đã chết được ba hôm, trong nhà đang tang ma bận rộn. Kính Tế bước vào nhà thăm xác cha rồi dạy chào mẹ và cộ Mẹ Kính Tế thấy con đã khôn lớn trưởng thành thì cứ ôm lấy con mà khóc. Lát sau mẹ con, cô chấu ngồi hàn huyên.

Mẹ Kính Tế là Trương bà, bảo:

- Tuy vậy chứ cũng là một chuyện vui, một chuyện buồn.

Kính Tế ngạc nhiên hỏi:

- Sao vậy? chuyện gì là vui mà chuyện gì là buồn?

Trương bà đáp:

- Vui là vì thái tử được lập làm Đông cung, triều đình đại xá, buồn là giữa lúc này thì cha con lại bệnh mà chết. Nhưng nay thì việc của con là phải đem linh cữu gia gia về quê mai táng cho tử tế, như vậy mới là trọn nghĩa.

Kính Tế nghĩ bụng:

- Bây giờ gặp phải chuyện này thì chậm trễ việc cưới Kim Liên mất. Chi bằng cho chở vài xe rương hòm của cải vàng bạc về trước, rồi đợi cưới Kim Liên xong, hãy đem linh cữu gia gia về cũng không muộn.

Nghĩ xong liền thưa với mẹ:

- Nay đường xá cách trở, đạo tặc lại nhiều, đi lại thập phần khó khăn, chi bằng trước hết hãy chở các rương kim ngân tế nhuyễn về trước để xem đường đi thế nào, lỡ có gặp đạo tặc thì chỉ mất tiền của mà thôi. Sau đó mới đem lih cữu gia gia con về, làm lễ tụng kinh tại chùa rồi mai táng cũng không muộn.

Trương bà nghe theo lời con, sửa soạn kiểm điểm của cải tư trang, cho đóng rương, chở bằng hai cỗ xe lớn, giả làm xe chở đồ, ngày mồng một tháng chạp khởi hành từ Đông Kinh, ít hôm sau thì tới huyện Thanh Hà.

Kính Tế tới thưa với cậu là Trương Đoàn luyện rằng:

- Phụ thân con đã mất, ít ngày nữa mẫu thân con sẽ đem linh cữu về, nay con chở ít hành lý đồ đạc về trước để lo thu dọn nhà cửa, đón tiếp linh cữu phụ thân con.

Người cậu nói:

- Nếu vậy thì để về nhà trước lo mọi việc.

Nói xong sai gia nhân thu dọn đồ đạc mà đi.

Kính Tế mừng lắm, nghĩ bụng:

- Bây giờ ta chỉ việc cưới Kim Liên về đây, phụ thân ta đã chết, mẫu thân lại thương yêu ta, việc gì mà lọ Sau đó làm giấy bỏ vợ rồi làm đơn tố cáo nhà vợ sang đọat của cải, để đòi lại mà chi dùng.

Nghĩ xong hý hửng gói một trăm mười lạng bạc, ôm tới nhà Vương bà. Nhưng tới nơi, đứng ngoài nhìn vào, thấy trong nhà đặt hai cái quan tài, đèn nhang nghi ngút, ngoài cửa lại có tấm bố cáo của huyện quan, viết rằng:

- Hung phạm Võ Tòng đã sát hại Phan thị và Vương bà, bản huyện vì chuyện án mạng mà bố cáo rằng ai bắt được Võ Tòng hay chỉ chỗ cho quan binh tới bắt, sẽ được thưởng năm chục lạng bạc.

Kính Tế ngẩn người, đang đứng vẩn vơ chưa biết tính sao thì hai người lính từ trong chạy ra quát mắng:

- Ngươi là ai mà tới đây đứng vơ vẩn thế này, chuyện án mạng chứ không phải giỡn, thủ phạm thì chưa bị bắt, ngươi đứng vớ vẩn, chúng ta bắt ngươi bây giờ.

Kính Tế hoảng lên lủi mất.

Đi tới tửu lầu ở Thạch Kiều, Kính Tế gặp một người đầu đội khăn chữ vạn, mình mặc áo xanh, bước tới bảo:

- Ca ca to gan thật, dám tới đó định thăm hỏi dò xét hay sao?

Kính Tế nhìn lại thì ra một người bạn quen, là Dương Đại lang, hiện là một chức việc trong huyện.

Hai người vái chào nhau. Dương Đại lang hỏi:

- Lâu quá không gặp ca ca, đi đâu biệt tăm vậy?

Kính Tế đem chuyện cha chết tại Đông Kinh kể ra rồi nói tiếp:

- Người thiếu phụ bị giết chính là Phan thị, một tiểu thiếp của nhạc phụ tôi lúc trước. Hồi nãy tôi đi ngang mới biết, chẳng hiểu sao lại bị thảm sát như vậy.

Dương Đại lang nói:

- Thủ phạm là Võ Tòng, em chồng cũ của Phan thị. Võ Tòng lúc trước phạm tội, bị đày ở Mạnh Châu, nhân gặp đại xá mới trở về đây. Lúc xưa Võ Tòng có gửi đứa cháu gái tại nhà dượng tôi là Đào nhị lang. Bây giờ dượng tôi lại lãnh đứa cháu gái đó về để gả chồng cho nó. Hiện hai cái xác cứ để đó, chẳng biết bao giờ mới được đem chôn, vì biết ngày nào năm nào mới bắt được hung phạm. Chỉ khổ cho đám lính huyện phải ngày đêm canh gác.

Nói xong, Dương Đại lang mời Kính Tế lên tửu lầu, gọi là đãi chung rượu tẩy trần.

Kim Liên chết, Kính Tế đau khổ vô cùng, lòng dạ rối bời, chỉ uống qua loa vài chung rượu rồi cáo từ mà về.

Tối hôm đó, Kính Tế mua ít nén hương và trăm vàng giấy, đem tới chân cầu Thạch Kiều, vọng về phía nhà Vương bà, thắp hương đốt vàng mà khấn:

- Kim Liên nàng ơi, tôi là Kính Tế có nén hương trăm vàng tới đây đốt cho nàng, chẳng qua cũng tại tôi chậm trễ mà khiến nàng uổng mạng. Nàng sống khôn chết thiêng, sớm xui khiến cho quan binh bắt được hung phạm Võ Tòng, để tôi được ra pháp trường xem xử trảm nó, có vậy mới rửa được thù này.

Khấn xong, thì đứng lại khóc lóc một lúc rồi mới về nhà.

Về tới nhà, Kính Tế đóng hết cả cửa lại, lên giường mà nằm. Còn đang mông lung nửa thức nửa ngủ thì thấy Kim Liên toàn thân đầy máu, tới gần Kính Tế khóc mà nói:

- Tôi chỉ mong được cùng chàng sum họp, ngờ đâu chờ mãi chẳng thấy chàng về, tôi chết đi như thế này quả là khổ lắm. Sau khi bị thằng Võ Tòng sát hại thì hồn tôi không được nhập âm ty, ngày ngày phiêu du lãng đãng khắp nơi, đêm đêm thì tìm chỗ vắng vẻ mà tá túc. Hồi chiều, chàng cho được trăm vàng, tôi cảm ơn lắm. Có điều là hung thủ chưa bị bắt, thây của tôi để ở bên đường, chàng có nghĩ tới tình xưa thì đứng ra xin chôn cất cho tôi.

Kính Tế cũng khóc mà bảo:

- Nàng ơi, tôi cũng muốn chôn cất tử tế cho nàng, nhưng sợ tôi đứng ra thì con mụ kế mẫu vô nhân vô nghĩa của vợ tôi sẽ có dịp hại tôi. Chi bằng nàng hãy tới phủ Chu lão gia bảo Xuân Mai đứng ra lo tống táng cho nàng thì tiện hơn.

Kim Liên bảo:

- Hồi nãy tôi cũng có tới phủ Thủ bị, nhưng bị vị thần coi cửa nạt nộ xua đuổi, thôi để tôi tới thử lần nữa xem sao.

Kính Tế khóc lóc bưới tới nắm áo Kim Liên, nhưng bị Kim Liên hất tay ra mà tỉnh mộng. Lúc đó đúng canh ba, Kính Tế tỉnh dậy rồi mà cò như thấy mùi máu tươi phảng phất, Kính Tế bi cảm trằn trọc cho tới sáng.

Thật là:

Tỉnh mộng tuôn rơi giòng cảm luỵ,

Một mình thức trắng đến thâu canh.

Mãi tới hơn hai tháng sau, quan binh mới được tin là Võ Tòng đã trốn lên Lương Sơn, do đó huyện quan mới cho lệnh thân nhân của hai xác chết tới lãnh xác về chôn cất.

Xác Vương bà đã có con trai là Vương Triều lo tống táng. Còn xác Kim Liên thì không được ai nhận bảo lãnh.

Trong thời gian đó, cứ vài ngày Xuân Mai lại sai Lý An và Trương Thắng ra ngoài hỏi tin tức, nhưng lần nào về cũng nói rằng chưa bắt được thủ phạm.

Đến tháng giêng, vào một đêm thượng tuần, Xuân Mai mộng thấy Kim Liên tóc tai rũ rượi mình mẩy đầy máu tới bảo:

- Xuân Mai em ơi, chị chết đi như thế này khổ lắm, đến với em nào có dễ gì, vì mỗi lần tới là một lần bị thần gác cổng nạt nộ xua đuổi. Nay hung phạm Võ Tòng đã đào thoát nơi xa mà thi thể chị thì cứ phơi bày đã quá lâu, không ai tới lãnh. Chị nhìn đi nhìn lại chẳng còn ai thân thích, chỉ còn có em. Nếu em còn nghĩ tới tình nghĩa ngày trước thì đứng ra chôn cât cho chị, như vậy ở chốn âm ty chị cũng được ngậm cười.

Nói xong khóc như mưa mà đi. Xuân Mai bước theo nắm lại định hỏi nữa, nhưng Kim Liên xô đẩy mà tỉnh mộng. Tỉnh dậy, Xuân Mai thương cảm khóc lóc không thôi.

Hôm sau, Xuân Mai gọi Trương Thắng và Lý An tới dặn:

- Hai người ra huyện coi đã có ai đứng ra lãnh chôn cất thi hài thiếu phụ chưa.

Hai gia nhân vâng lời ra đi. Lát sau trở về thưa:

- Hung phạm đã đào thoát lên Lương Sơn, không còn cách gì bắt được. Huyện quan đã cho lệnh thân nhân được phép lãnh thi hài nạn nhân về mai táng. Thi hài lão bà thì có con trai lãnh rồi, chỉ còn thi hài thiếu phụ là chưa có ai nhận, hiện cứ để bên đường.

Xuân Mai bảo:

- Nếu vậy ta nhờ hai ngươi lo việc đó giùm, ta sẽ trọng thưởng.

Hai gia nhân thưa:

- Tiểu phu nhân dạy vậy, sợ rằng lão gia biết được rầy mắng, chúng tôi đâu dám làm.

Xuân Mai vào trong lấy ra mười lạng bạc và hai xấp lụa, đưa cho hai gia nhân và bảo:

- Không sao, để ta thưa lại với lão gia, thiếu phụ nạn nhân đó là một người chị họ xa của ta, trước làm thiếp của Tây Môn Đại quan nhân, sau thì ra khỏi nhà đó và bị thảm sát. Hai người lấy bạc này mua một cỗ áo tốt rồi lo chôn cất tử tế tại nơi nào thuận tiện ở ngoại thành gìum ta, về đây ta sẽ trọng thưởng.

Trương Thắng thấy bạc thì híp mắt lại nói:

- Nếu vậy thì tiểu phu nhân cứ để chúng tôi lo.

Lý An bảo:

- Chỉ sợ trên huyện không cho chúng tôi nhận lãnh thi hài, hay là lấy thiếp của lão gia đưa lên huyện quan mới được.

Trương Thắng nói tiếp:

- Thì cứ nói em gái của nạn nhân hiện là tiểu phu nhân trong phủ này, chằng lẽ trên huyện dám làm khó hay sao? cần gì phải đưa thiếp.

Nói xong nhận bạc và lụa, cùng Lý An bước ra.

Trên đường đi, Trương Thắng bảo Lý An:

- Chắc là thiếu phụ kia và tiểu phu nhân mình đây trước cùng là thiếp của Tây Môn Đại quan nhân, nên thân thiết với nhau chứ chẳng phải chị em họ hàng gì đâu. Mày nhớ không, lúc án mạng mới xảy ra, tiểu phu nhân khóc than mấy ngày bỏ cả ăn cả ngủ, lão gia gọi đàn hát về nhà mà tiểu phu nhân cũng chẳng được vui. Nay ngừoi ta chết mà không có ai nhận lãnh, tiểu phu nhân phải đứng ra lo chứ chẳng lẽ để sình thối lên hay sao? hai đứa mình chịu khó giúp tiểu phu nhân việc này, tất nhiên tụi mình sẽ được cất nhắc, vì hiện tại tiểu phu nhân nói gì, lão gia cũng răm rắp nghe theo. Vả lại mình làm việc này cũng là được phúc.

Sau đó hai gia nhân tới huyện xin lãnh chôn cất Kim Liên, lại nói:

- Hiện em gái của Phan thị là tiểu phu nhân của lão gia chúng tôi, chính tiểu phu nhân sai chúng tôi nhận lãnh tử thi để chôn cất.

Trên huyện nghe vậy thì chấp thuận ngay.

Hai gia nhân mua quan tài chỉ mất sáu lạng, lấy lụa sẵn đem theo mà khâm liệm tử tế.

Trương Thắng bảo:

- Bây giờ mình nên chôn tại khu đất của lão gia ở cạnh chùa Vĩnh Phúc, ở đó rộng rãi lắm.

Thế là hai gia nhân thuê xe chở quan tài Kim Liên tới chùa Vĩnh Phúc, nói với vị trưởng lão trụ trì rằng:

- Đây là người chị họ của tiểu phu nhân trong phủ, xin trưởng lão cho chôn tại khu đất hương hoa? của lão gia chúng tôi ở đây.

Vị trưởng lão nghe vậy thì chấp nhận ngay, cho chôn Kim Liên ở dưới gốc bạch dương.

Công việc xong xuôi, hai gia nhân trở về thưa lại với Xuân Mai, lại giao bốn lạng bạc còn thừa. Xuân Mai bảo:

- Lấy hai lạng đem đến cho trưởng lão, bảo lập đàn tụng kinh cầu siêu giùm cho, còn hai lạng thì hai người mỗi đứa một lạng.

Hai người lạy tạ nhưng không dám nhận bạc thưởng, mà chỉ nói:

- Việc này có khó khăn nặng nhọc gì, chúng tôi không dám nhận thưởng, nếu phu nhân có lòng thương xót thì xin tiến cử hai chúng tôi để nhờ lão gia cất nhắc cho, ơn đó chúng tôi chẳng bao giờ dám quên.

Xuân Mai bảo:

- Chuyện đó không khó gì, nhưng ta thưởng mà hai ngươi không nhận thì ta giận đó.

Hai người hoảng lên vội nhận bạc, lạy tạ rồi lui ra, vừa đi vừa nói chuyện với nhau về lòng tốt của tiểu phu nhân.

Lại nói, Trần Định đưa linh cữu Trần Hồng cùng gia quyến về tới ngoại thành huyện Thanh Hà, rồi đem linh cữu vào chùa Vĩnh Phúc để làm lễ tụng kinh, sau đó thì chôn cất thoa? đáng.

Ngay từ lúc tới nơi, chằng ai thấy Kính Tế đâu, mãi sau Kính Tế mới tới chùa Vĩnh Phúc lạy chào mẹ. Trương thị giận bảo:

- Sao ngươi không ra tiếp tay với ta cho sớm?

Kính Tế đáp:

- Ở nhà không ai coi nhà, vả lại mấy hôm nay trong người con cũng không khoẻ.

Trương thị lại hỏi:

- Còn cữu cữu và cữu mẫu đâu, sao không thấy?

Kính Tế đáp:

- Cữu cữu nghe nói mẫu thân xuống thì dọn nhà về rồi.

Trương thị bảo:

- Sao không bảo cữu cữu cứ ở đó, dọn về làm gì.

Lát sau Trương Đòan luyện nghe tin chị về, cũng tìm tới thăm, hai chị em hàn huyên khóc lóc. Trương thị sai dọn tiệc rượu đãi em.

Hôm sau Trương thị sai Kính Tế đem năm lạng bạc tới chùa Vĩnh Phúc nhờ vị sư trưởng tổ chức lễ niệm kinh cho Trần Hồng.

Kính Tế cưỡi lừa đi, giữa đường gặp hai người bạn là Lục Đại lang và Dương Đại lang, bèn xuống lừa mà gọi. Đôi bên vái chào nhau. Hai người bạn hỏi:

- Huynh đi đâu đây?

Kính Tế đáp:

- Linh cữu cha tôi đã được đem về, bây giờ tôi tới chùa Vĩnh Phúc để nhờ sư trưởng làm lễ niệm kinh cho cha tôi.

Hai người nói:

- Chúng đệ không biết là linh cữu lão bá đã về nên thất lễ không tới điếu táng được, xin huynh niệm tình thứ lỗi.

Lại hỏi:

- Chừng nào thì làm lễ an táng?

Kính Tế đáp:

- Chắc cũng chỉ một hai ngày nữa mà thôi, niệm kinh xong là an táng ngay.

Hai người định cáo từ thì Kính Tế hỏi Dương Đại lang:

- Thi hài của Phan thị đâu rồi? ai lãnh chôn cất vậy? huynh có biết không?

Dương Đại lang đáp:

- Chừng nửa tháng trước đây, được tin báo là Võ Tòng đã lên Lương Sơn làm giặc, không thể bắt được nữa, huyện quan mới cho thân nhân tới lãnh xác về mai táng. Vương bà thì có con trai lo, còn thi hài Phan thị thì mãi ba bốn hôm sau mới có hai gia nhân của phủ Thủ bị tới lãnh, đem chôn tại chùa Vĩnh Phúc.

Kính Tế biết là Xuân Mai đã lo việc đó, bèn hỏi tiếp"

- Có phải chùa Vĩnh Phúc ở ngoại thành phía nam không?

Dương Đại lang cười:

- Thì còn chùa Vĩnh Phúc nào nữa, ở đó có đất hương hoa? của Chu lão gia.

Kính Tế vui vẻ nghĩ thầm:

- Kim Liên được an táng tại đó thật là may lắm.

Đọan cáo từ hai người, lên lừa hối hả tới chùa Vĩnh Phúc.

Tới nơi, gặp sư trưởng, Kính Tế chưa nói gì tới việc tụng kinh cho cha mà đã hỏi ngay.

- Nghe nói là bên phủ Chu lão gia vừa cho mai táng một người đàn bà tại đây phải không?

Sư trưởng đáp:

- Có, đã mai táng cạnh cây bạch dương ở sau chùa, nghe nói người đó là chị họ của tiểu phu nhân trong phủ Chu lão gia.

Kính Tế nghe xong, không thèm tới viếng linh cữu cha, mà vội ra cổng chùa mua hương hoa đèn nến, tới mộ Kim Liên, thắp hương đốt vàng, khóc mà khấn:

- Nàng ơi, tôi là Kính Tế tới đốt cho nàng trăm vàng nữa đây, nàng sống khôn chết thiêng về mà nhận.

Lại khóc lóc một hồi rồi mới trở vào phương trượng, tới trước linh cữu cha tế lễ đốt vàng. Rồi đưa bạc cho sư trưởng dặn tới ngày hai mươi, gọi tám vị tăng tới tụng kinh làm lễ đoạn thất. Kính Tế về nhà thưa lại với mẹ mọi chuyện.

Sau đám tang của Trần Hồng, hai mẹ con Kính Tế ở lại huyện Thanh Hà sống với nhau qua ngày.

Một hôm vào thượng tuần tháng hai, nhân nhàn rỗi, Nguyệt nương cùng Ngọc Lâu, Tuyết Nga, Tây Môn Đại thư và Tiểu Ngọc ra đứng ở cổng lớn chuyện trò và nhìn quang cảnh sinh hoạt ngoài đường phố. Ngoài đường, nhân tiết xuân ấm áp, người qua lại nhộn nhịp, xe cộ lui tới dập dìu. Bỗng từ xa, một vị hoà thượng đi tới, theo sau đó có một thanh niên và một thiếu nữ. Hoà thượng chân đi đất, áo cà sa cũ kỹ, thấy Nguyệt nương cùng đám đàn bà con gái đang đứng ở cổng thì bước tới vái chào mà nói:

- Dinh cơ của Bồ Tát thi chủ đây quả là đồ sộ, rõ ra là gia đình giàu sang. Bần tăng từ Ngũ Đài Sơn tới đây, được gặp thí chủ như thế này kể cũng là thiện duyên. Bần đạo hiện đang nhờ thí chủ thập phương bố thí công quả để về trùng tu tam bảo Phật đài, nguyện mong thí chủ bỏ ra ít tài vật làm điều công đức.

Nguyệt nương nghe vậy thì sai Tiểu Ngọc vào lấy ra một xấp vải, một xâu tiền đồng và một đấu gạo trắng. Nguyệt nương vốn là người hay bố thí, giúp đỡ tăng ni, nên hoà thượng này tới là được bố thí ngaỵ Tiểu Ngọc đem các thứ ra, Nguyệt nương bảo:

- Ngươi đem ra bố thí cho sư phụ đây.

Tiểu Ngọc uốn éo bước ra, đỏng đảnh nói:

- Này, hoà thượng kia ơi, Đại nương tôi bố thí các thứ này đây, hoà thượng bước vào mấy bước mà lấy, rồi còn lạy tạ Đại nương tôi nữa chứ.

Nguyệt nương vội mắng Tiểu Ngọc:

- Đồ nghiệt súc ăn nói như vậy hay sao? người ta là đệ tử của Phật mà ngươi dám nhạo báng như vậy hay sao? cái miệng mày như thế, lúc chết đi không để đâu hết tội cho mà coi.

Hoà thượng bước tới gần, Tiểu Ngọc cười bảo:

- Đại nương coi, ông hoà thượng này kỳ không, cứ đăm đăm nhìn ngó tôi từ đầu tới chân là thế nào?

Nói xong đưa các thứ cho hoà thượng. Hoà thượng đưa hai tay ra nhận rồi hướng về Nguyệt nương:

- Đa tạ Bồ tát thí chủ.

Tiểu Ngọc bảo:

- Ơ, cái ông này vô lễ quá nhỉ, còn tôi đây, ông không cám ơn sao?

Nguyệt nương vội mắng:

- Con khốn dám ăn nói vậy hả? hoà thượng đây là con Phật, lại phải cám ơn mày hay sao?

Tiểu Ngọc hỏi:

- Đại nương bảo hoà thượng này là con trai Phật thì ai là con gái Phật? ai là con rể Phật? ai là con dâu Phật?

Nguyệt nương bảo:

- Thì các tăng nữ các ni cô là con gái của Phật chứ sao.

Tiểu Ngọc bảo:

- Như vậy tức là Vương sư bà, Tiết sư bà là con gái Phật, nhưng còn ai là con rể Phật?

Nguyệt nương phì cười mắng:

- Thôi, con tiểu dâm phụ có câm miệng đi không? chỉ được cái ăn nói bậy bạ là giỏi thôi.

Tiểu Ngọc kêu lên:

- Đại nương cứ mải mắng tôi, để cho ông hoà thượng kia cứ nhìn tôi chòng chọc kia kìa.

Ngọc Lâu bảo:

- Hoà thượng nhìn ngươi là để nhớ mặt ngươi rồi sẽ độ thoát cho ngươi.

Tiểu Ngọc nói:

- Nếu ông ấy độ cho tôi thì tôi chịu.

Đám đàn bà cười khúc khích. Hoà thượng cũng vái chào mà đi.

Tiểu Ngọc nói:

- Đại nương cứ mắng tôi là nhạo báng ông hoà thượng đó, Đại nương thấy không? lúc đi, ông ta còn ngoái đầu lại liếc tôi một cái rồi mới chịu đi.

Đang nói chuyện thì thấy Tiết tẩu từ xa tới vái chào. Nguyệt nương hỏi:

- Đi đâu vậy? sao hồi này không thấy tới đây chơi?

Tiết tẩu đáp:

- Hồi này tôi bận quá, chằng có lúc nào rảnh rang. Mấy hôm nay tôi và Văn tẩu lại bận tối mắt về chuyện mai mối cho con trai của Trương Đề hình với cháu gái của Từ Thái giám, tiếp đó là tiệc tùng của hai nhà thân gia. Tiểu phu nhân trong phủ Chu lão gia cũng cho gọi mà tôi chưa tới được, chằng biết có giận tôi hay không.

Nguyệt nương hỏi:

- Bây giờ thì đang đi đâu đây?

Tiết tẩu đáp:

- Tôi có chút việc, phải tới thưa với Đại nương.

Nguyệt nương hỏi:

- Chuyện gì vậy? thì vào đây một lát đã.

Nói xong dẫn Tiết tẩu vào thượng phòng, cho ngồi uống trà.

Tiết tẩu ngồi xuống nói:

- Chắc là Đại nương chưa biết rằng tháng chạp năm ngoái, Trần thân gia của quý phủ đây đã chết vì bệnh tại Đông Kinh, rồi cả nhà dọn về đây, đưa linh cữu về hồi tháng giêng, tụng kinh tại chùa Vĩnh Phúc, bây giờ thì chôn cất xong xuôi rồi. Tôi cứ nghĩ là Đại nương ở đây đã biết tin, vậy mà chằng thấy tới điếu tang, Trần lão bà có ý trông đợi Đại nương mãi.

Nguyệt nương ngạc nhiên:

- Tôi nào hay biết gì đâu, lại cũng chẳng ai nói gì với tôi cả, chúng tôi ở đây mới chỉ biết chuyện Phan thị bị em chồng sát hại mà thôi. Rồi sau đó cũng chẳng biết là chuyện ra sao nữa.

Tiết tẩu nói:

- Thế mới biết ông bà nói đúng, người ta ai sinh ra cũng có nơi, nhưng chết đi, chưa chắc ai cũng có chốn. Ngũ nương chằng qua là người ngu dại, làm những chuyện bậy bạ nên mới chết thảm thương như vậy, chứ nếu biết giữ bổn phận mà ở lại đây thì làm sao người em chồng có thể sát hại được. Âu cũng là oan gia túc trái cho nên mới phải chết đường chết chợ chết thảm thương như vậy. Cũng may là có Xuân Mai thư thư còn nặng tình nghĩa cũ, mới sai người đứng ra lo chôn cất, nếu không thì có ai nhận lãnh đâu, rồi thi thể biết làm sao.

Tuyết Nga đứng bên nói:

- Xuân Mai được bán cho phủ Thủ bị mới đây mà sao đã có tiền đứng ra chôn cất vậy? mà Chu lão gia cũng không nói gì hay sao?

Tiết tẩu đáp:

- Trời ơi thế là nương nương đâu có biết gì. Chu lão gia mua Xuân Mai thư thư về, thấy xinh đẹp lanh lợi, lại có tài đàn hát thì mừng lắm, đâu có cho làm a hoàn, mà nhắc lên làm đệ nhị phòng, một mình ở căn nhà ba gian đồ sộ, a hoàn đày tớ xung quanh cả đống, nói một thì Chu lão gia nghe mười. Hồi bán Xuân Mai xong, Chu lão gia thưởng cho tôi một lạng bạc và một xấp lụa. Chu phu nhân thì đã năm mưoi tuổi, mắt kém, lại tu hành ăn chay trường, chằng thiết gì việc nhà cả. Cô con gái thì hãy còn vụng dại, cho nên Xuân Mai bây giờ là tiểu phu nhân, một mình tay hòm chìa khoá cai quản việc trong phủ, tiền rừng bạc bể nào có thiếu gì.

Mọi người nghe xong đều im lặng. Tiết tẩu nói vài câu chuyện nữa rồi đứng dậy cáo từ. Nguyệ nương dặn:

- Ngày mai ngươi trở lại đây, ta soạn ít lễ vật, vải lụa vàng hương, nhờ ngươi đem tới điếu tang Trần thân gia giùm.

Tiết tẩu hỏi:

- Còn Đại nương có đi không?

Nguyệt nương bảo:

- Nhờ ngươi nói là trong người ta không khoẻ, hôm khác sẽ tới bái kiến Trần lão bà.

Tiết tẩu nói:

- Vậy thì Đại nương cứ cho chuẩn bị sẵn đi, sáng mai tôi sẽ tới.

Nguyệt nương lại hỏi:

- Bây giờ ngươi đến phủ Thủ Bị phải không? nếu bận thì không đến cũng được chứ gì?

Tiết tẩu đáp:

- Đâu được, bận gì cũng phải đến chứ, tiểu phu nhân ở đó đã cho gọi, không đến rồi tiểu phu nhân giận thì khổ. Tiểu phu nhân sai người gọi tôi mấy lần rồi đó.

Nguyệt nương hỏi tiếp:

- Gọi ngươi có chuyện gì vậy?

Tiết tẩu đáp:

- Đại nương không biết đâu, tiểu phu nhân Xuân Mai hiện có mang được mấy tháng rồi, nay chắc là Chu lão gia mừng, gọi tôi đến để thưởng tôi chứ gì.

Nói xong cáo từ mà đi.

Tuyết Nga thấy Tiết tẩu đi rồi, bèn nói:

- Con mẹ này ăn nói thấy ghét, mà chẳng hiểu con Xuân Mai mới về phủ Chu Thủ bị đây, sao đã có mang mau quá vậy? cũng chẳng hiểu Chu lão gia có bao nhiêu thê thiếp, mà con Xuân Mai được sùng ái quá thế?

Nguyệt nương nói:

- Chu lão gia chỉ có người chánh thất và đứa con gái chứ không có hầu thiếp nào khác ngoài Xuân Mai.

Tuyết Nga bảo:

- Nó chỉ là hầu thiếp mà con mẹ Tiết vừa rồi cứ bốc nó lên đến tận trời.

Thật ra không ngờ mấy câu nói này đã đem tai họa lại cho Tuyết Nga về sau.

Thật là:

Chuyện thị phi ở đâu đâu

Mà tai hoa. rớt xuống đầu không hay.

Cho nên người quân tử lúc nào cũng nên thận trọng lời nói, tai hoa. thường do cái miệng mà vào vậy.

Sáng hôm sau, Nguyệt nương cho soạn lễ vật thật hậu, chờ Tiết tẩu tới đem sang nhà họ Trần. Nguyệt nương lại sai Tây Môn Đại thư mặc đồ tang, ngồi kiệu tới thay mặt mình phúng điếu.

Tiết tẩu đem lễ vật tới thì Kính Tế đang đứng ở cửa, thấy vậy bèn hỏi:

- Ở đâu vậy?

Tiết tẩu đáp:

- Thôi cậu ơi, cậu đừng có làm bộ không biết, đây là lễ vật của mẹ vợ cậu sai tôi đem tới điếu lão gia, có cả Đại cô nương tới nữa đấy.

Kính Tế mỉa mai:

- Thì ra bên vợ tôi tới điếu đấy hả? phụ thân tôi đã gần xanh cỏ rồi mà mới thấy tới điếu, sao sớm quá vậy?

Tiết tẩu bảo:

- Kìa, sao cậu lại nói thế? đại nương bây giờ là thân goá bụa, có ra khỏi nhà đâu mà biết đến chuyện gì, lại cũng chẳng có ai tới báo tang, làm sao mà biết. Do đó mới trễ nãi như thế này. Mãi hôm qua tôi tới nói chuyện, Đại nương mới biết đó. Xin cậu đừng giận.

Đang nói thì kiệu của Đại thư ngừng ở cửa, Kính Tế làm bộ hỏi Tiết tẩu:

- Ai vậy?

Tiết tẩu bảo:

- Đừng có giả vờ, còn ai vào đây nữa, thì Đại cô nương vợ cậu chứ ai. Hôm nay đại nương khó ở trong mình nên Đại cô nương đi thay, vả lại đại cô nương là phận dâu con thì phải đến chứ sao.

Kính Tế nói lớn:

- Đuổi con dâm phụ đó về đi, dâu con gì nó, nhà này không cần nó.

Tiết tẩu bảo:

- Kìa sao cậu quá nóng giận như vậy? dầu sao thì cũng là chỗ vợ chồng.

Kính Tế bảo:

- Nó không phải là vợ tôi nữa, tôi không cần nó nữa.

Đoạn nhìn ra, thấy Đại thư xuống kiệu, vội chạy tới đạp người phu kiệu một đạp rồi quát:

- Có đem kiệu đi không, tao đập nát kiệu ra bây giờ, mà con dâm phụ kia cũng khó yên với tạ Cút đi mau.

Hai người phu kiệu thấy Kính Tế làm dữ, vội khiêng kiệu đi.

Tiết tẩu vào nhà gọi được Trương bà ra thì kiệu đã đi xa rồi. Tiết tẩu không biết sao, đành thưa với Trương bà nhận lễ vật rồi trở về thưa chuyện lại với Nguyệt nương.

Nguyệt nương nghe chuyện xong giận uất lên bảo:

- Thằng khốn đó hành động như vậy thì quả là không còn trời đất nào nữa. Sao lúc gia gia sinh tiền làm quan thì nó vác mặt tới đây ở suốt mấy năm, mà bây giờ nỡ lây oán để báo ân như vậy. Chẳng qua là nó làm điều bậy bạ nhơ nhuốc, ta đánh mắng nó nên nó thù đấy thôi.

Đoạn quay sang bảo Đại thư:

- Con à, cha mẹ vợ nó đã không coi ra gì, nhưng con là vợ nó, mà đã là vợ thì sống làm người bên chồng, chết làm ma bên chồng, ta cũng không dám giữ con ở nhà, sợ tiếng đời chê trách. Vậy thì ngày mai con cứ tới lần nữa, đừng sợ nó, nó không dám to gan lớn mật giết nổi con đâu, chẳng lẽ không còn vương pháp luật lệ gì hay sao, mà nó có thể muốn làm gì thì làm.

Sáng hôm sau, Nguyệt nương lại cho gọi kiệu đưa Đại thư tới nhà Kính Tế, có Đại An đi theo.

Kính Tế vắng nhà, vì phải tới trông coi đắp mộ cho chạ Mẹ Kính Tế,, Trương bà, là người biết lễ, giữ Đại thư lại rồi bảo Đại An:

- Ngươi về thưa với Đại nương là ta rất cảm tạ về lễ vật đem tới, xin Đại nương đừng chấp Kính Tế, hôm qua nó ăn nói hành động xằng bậy vì nó say rượu đấy thôi, để rồi ta sẽ dạy nó.

Đọan sai khỏan đãi Đại An rồi cho về.

Đến tối, Kính Tế về tới nhà, vừa thấy Đại thư là xông tới đánh đá mà mắng:

- Con dâm phụ, mày bảo tao ăn nhờ ở đậu, vậy còn tới đây làm gì nữa? mày biết không? nhờ có của cải kim ngân tao đem tới mà mày mới có được cái sản nghiệp như ngày naỵ Gia đình mày sang đọat của cải của tao chứ tao không có hề ăn một hột cơm nào của gia đình mày đâu. Cha tao chết chôn đã cả tháng nay, bây giờ tao cần mẹ con mày tới điếu tang hay sao?

Đại thư cũng không vừa mắng lại rằng:

- Đồ khốn kiếp vô liên sỉ, con dâm phụ đó bị đuổi ra rồi bị giết, bây giờ anh lại trút giận lên đầu tôi phải không?

Kính Tế nghe nói tới Kim Liên thì càng giận hơn nhảy tới nắm tóc vợ mà đánh. Trương bà phải chạy lại can, Kính Tế xô mẹ ra. Trương bà khóc nói:

- Thằng chết ôn chết dịch bất hiếu bất nghĩa kia, mày không coi tao là mẹ nữa hay sao mà xô đẩy tao như thế?

Ồn ào lên một hồi rồi Kính Tế ra đường gọi một cỗ kiệu tới, đuổi vợ về mà bảo:

- Con dâm phụ còn vác mặt lại đây nữa thì tao giết mày.

Đại thư về tới nhà thì sợ hãi lắm, ở lì trong nhà, không dám đi đâu nữa.

Thật là:

Ai ngờ câu chuyện thêm phiền phức

Buồn giận thành ra oán hận sâu.

Một hôm vào tiết Thanh Minh tháng ba, Nguyệt nương sai soạn vàng hương, rượu thịt và nhiều lễ vật khác để ra ngọai thành làm lễ tảo mộ cho Tây Môn Khánh, Tuyết Ngà và Đại thư ở nhà coi nhà. Ngọc Lâu, Tiểu Ngọc và nhũ mẫu Như Ý bồng Hiếu ca nhi đi theo. Lại có cả vợ chồng Ngô Đại cữu cùng đi.

Cảnh vật ở ngoại thành muôn phần xanh tươi đẹp, hoa hồng liễu lục, mây trắng trời xanh. Người ngựa nườm nượp, xe cộ dập dìu, thật một năm bốn mùa không mùa nào bằng được mùa xuân. Ngày xuân thì gọi là lệ nhật, gió xuân thì gọi là hòa phong, con ngựa ngày xuân gọi là bảo mã, cỗ kiệu ngày xuân gọi là hương xa, con đường mùa xuân gọi là phương kính, thậm chí đến bụi đất mùa xuân cũng được gọi là hương trần. Thấy hoa đua sắc, cỏ đua tươi thì bảo là xuân tín, thời gian mùa xuân thì gọi là thiều quang.

Đi chừng năm dặm thì tới mộ phần của Tây Môn Khánh, nơi đây được xây cất thành một toà biệt thự có đủ phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp y như dành cho người sống. Đại An đem các lễ vật vào, gia nhân lo nhóm lửa nấu đồ ăn để cúng.

Nguyệt nương, Ngọc Lâu và mọi người ngồi trên nhà khách dùng trà, trong khi Đại An và các gia nhân lo bày lễ tam sinh và các thứ rượu thịt lên tế đài trước phần mộ chủ.

Nguyệt nương thấy mọi việc đã chuẩn bị xong xuôi mà chưa thấy vợ chồng Ngô Đại cữu tới. Nguyên vợ chồng Ngô Đại cữu, mới đầu thì hẹn cùng đi, nhưng phút chót lại nói là sẽ đến sau.

Mãi tới giờ Tỵ mới tháy vợ chồng Ngô Đại cữu cưỡi lừa, đem một vài gia nhân tới. Nguyệt nương chạy ra rước vào hỏi:

- Sao tẩu tẩu không dùng kiệu, lừa này làm sao cưỡi nổi.

Đoạn mời vào phòng trong thay áo, trở ra dùng một tuần trà, rồi bắt đầu tới trước phần mộ của Tây Môn Khánh. Nguyệt nương châm năm nén hương lớn, đưa cho vợ chồng Ngô Đại cữu hai cây, Ngọc Lâu một cây, nhũ mẫu Như Ý cầm giùm Hiếu ca nhi một cây, còn mình thì cầm một cây, vái lạy trước mộ rồi khấn rằng:

- Chàng ơi, nay nhân tiết Thanh minh, tôi là Ngô thị, cùng Mạnh Tam nương và con chúng ta là Tây Môn Hiếu, tới trước mộ chàng, có nén hương trăm vàng đốt cho chàng. Chàng sống khôn thác thiêng, xin về chứng giám, phù hộ cho vợ cho con, cho những người ra tảo mộ chàng hôm naỵ Chàng ơi, tình phu thê gắn bó, nghĩa chồng vợ đậm đà, chàng về chứng giám cho tôi.

Khấn xong thì cắm hương vào bát rồi phục xuống mộ mà khóc. Ngọc Lâu cũng bước tới khấn vái rồi phục xuống mà khóc cùng Nguyệt nương. Nhũ mẫu Như Ý bồng Hiếu ca nhi tới trước mộ, quỳ lạy khấn vái rồi cũng khóc. Sau cùng là vợ chồng Ngô Đại cữu tới khấn vái.

Làm lễ xong, Đại An đem vàng mã ra đốt rồi vào phòng khách dọn tiệc rượu. Nguyệt nương mời vợ chồng Ngô Đại cữu nhập tiệc. Ngọc Lâu ngồi cạnh Nguyệt nương. Cuối cùng là Tiểu Ngọc, Như Ý bồng Hiếu ca nhi và một a hoàn của Ngô Đại cữu là Lan Hương. Mọi người uống rượu trò chuyện.

Nguyên đêm hôm trước, Xuân Mai nằm với Chu Thủ bị, giả vờ nằm mộng mà khóc thút thít. Chu Thủ bị hỏi thì Xuân Mai đáp:

- Tôi nằm mơ thấy mẫu thân tôi về bảo là tiết Thanh minh, nhà nào cũng tảo mộ đốt vàng, mà tôi là con, lại chằng ngó ngàng gì tới mẹ. Do đó, tỉnh dậy, tôi buồn mà khóc.

Chu Thủ bị bảo:

- Như vậy tức là nàng cũng có hiếu, đó là điều đáng khen, nhưng không biết mộ mẹ nàng ở đâu?

Xuân Mai nín khóc đáp:

- Ở sau chùa Vĩnh Phúc, phía nam ngọai thành đó.

Chu Thủ bị bảo:

- Tưởng xa xôi gì chứ chùa Vĩnh Phúc thì ngày mai để bảo chúng nó soạn lễ vật cho nàng ra tảo mộ mẹ.

Thì ra Xuân Mai lúc đứng ra chôn cất cho Kim Liên đã giấu Chu Thủ bị, và bây giờ lại bịa chuyện để được đi tảo mộ Kim Liên.

Hôm sau, Chu Thủ bị sai gia nhân soạn lễ vật thật hậu, đem ra phần đất hương hoa? của gia đình, dành để an táng người trong nhà, nơi đây có cả một trang viện nguy nga, có hoa viên đình đài rộng rãi. Chu Đại nương cùng con gái và Xuân Mai, mỗi người ngồi trên một cỗ kiệu bốn người khiêng, gia nhân xúm xít trong ngoài, quân hầu dẹp đường mà đi.

Trong khi đó, tại mộ phần của Tây Môn Khán, ăn uống xong xuôi, Nguyệt nương sai gia nhân dọn dẹp các thứ, rồi gọi thêm một cỗ kiệu cho Ngô Đại cữu mẫu, mọi người ra đường ngoạn cảnh. Ngô Đại cữu cưỡi lừa đi cạnh, gia nhân theo sau.

Đi ba dặm thì tới Đào Hoa điếm, năm dặm thì tới Hạnh Hoa thôn, dọc đường đúng là cảnh "ngựa xe như nước áo quần như nêm", trai thanh gái lịch dập dìu, người đi tảo mộ, kẻ thưởng xuân vui tiết Hàn thực, vui hội Đạp thanh.

Đang đi thì thấy trước mặt, bên gốc hòe lớn xanh tươi là một ngôi chùa lớn. Nguyệt nương hỏi:

- Ngôi chùa nhỏ này tên gì vậy?

Ngô Đại cữu giục lừa tới gần đáp:

- Đây là viện hương hoa? của Chu lão gia, tên gọi Vĩnh Phúc Thiền Lâm. Lúc sinh tiền, dượng nhà ta từng cúng rất nhiều tiền để trùng tu Phật điện, cho nên bây giờ mới được sáng sủa khang trang như vậy đó.

Nguyệt nương bảo chị dâu:

- Chúng mình cũng nên vào chùa thăm cảnh Phật một chút.

Mọi người xuống kiệu vào chùa. Một tiểu sa di trông thấy vội vào báo với vị trưởng lão:

- Có một đám người sang trọng lắm, đang vào chùa đấy.

Trưởng lão vội bước ra nghênh tiếp, nhận ra Ngô Đại cữu, Trưởng lão vội cung kính thi lễ, rồi sai các tiểu tăng mở hết các cửa trong chùa, đoạnn nói:

- Kính thỉnh liệt vị Bồ Tát thí chủ du ngọan cảnh Phật.

Lại sai một tiểu tăng hướng dẫn đi coi khắp nơi trong chùa. Lát sau mọi người trở lại phương trượng, vị Trưởng lão sai đem trà mời dùng, mọi người an toạ. Ngô Đại cữu hỏi:

- Dám hỏi đạo hiệu của trưởng lão đây.

Vị trưởng lão đáp:

- Đạo hiêiuj của bần tăng là Đạo Liên, còn chùa này là viện hương hoa? của ân chủ Chu lão gia trong soái phủ, hiện trong chùa có tất cả một trăm mười vị tăng, không kể rất nhiều vị tăng khác vân du tới trạm trú toa. thiền tại đây để đáp báo công đức chí thí chủ tứ phương.

Đoạn gọi tiểu tăng dọn tiệc chay tại phương trượng khoản đãi. Nguyệt nương nói:

- Chúng tôi chẳng dám quấy quả trưởng lão.

Nói xong lấy ra năm tiền, bảo Ngô Đại cữu đưa cho trưởng lão, rồi nói:

- Có chút ít để trưởng lão mua hương cúng Phật.

Trưởng lão cảm tạ rồi nói:

- Liệt vị Bồ Tát thí chủ tới đây, chúng tôi mới chỉ có chung trà nhạt tiếp đãi mà đã cho nhiều quá.

Lúc đó tiệc chay đã dọn xong, trưởng lão mời mọi ngừoi dùng. Bữa tiệc vừa mới bắt đầu thì có hai quân hầu hung hăng bước vào bảo:

- Trưởng lão, không mau ra mà nghênh tiếp hay sao? Tiểu phu nhân trong phủ tới đó.

Vị trưởng lão lật đật đứng dậy xốc lại mũ đạo và áo cà sa rồi nói:

- Cảm phiền liệt vị thí chủ tạm lánh sang tiểu phòng bên cạnh đây chốc lát, đợi tiểu phu nhân niệm hương xong thì lại xin mời tiếp tục dùng tiệc chay với bần tăng.

Nói xong, sai ngay sa di dọn dẹp bàn tiệc.

Ngô Đại cữu và Nguyệt nương đứng dậy cáo từ nhưng vị trưởng lão cứ nhất định giữ lại.

Trong khi đó chuông chùa được đánh lên từng hồi để tiếp đón Xuân Mai. Vị trưởng lão ra tận cổng chùa đứng đợi, đám tiểu tăng đứng dọc hai bên cổng. Kiệu Xuân Mai hãy còn ở xa, đám quân hầu lăng xăng chạy trước hô hoán dẹp đường. Khoảnh khắc kiệu Xuân Mai ngừng tại cổng chùa, a hoàn vén rèm kiệu, Xuân Mai yểu điệu bước xuống. Vị trưởng lão cúi mình chắp tay nói:

- Tiểu tăng không được biết sớm là tiểu phu nhân tới nên không ra nghênh tiếp từ xa được, xin tiểu phu nhân tha tội.

Xuân Mai đáp:

- Làm phiền trưởng lão quá.

Nói xong gọi gia nhân dẫn thẳng vào nơi có mộ phần Kim Liên, sai đặt bàn dọn lễ vật. Các thứ xong xuôi, gia nhân quân hầu lui ra đứng hai bên. Xuân Mai từ từ bước tới thắp hương, vái bốn vái rồi khấn:

- Nương nương oi, hôm nay tôi là Bàng thị tới đốt vàng cho nương nương đây, nương nương may mắn được lên Niết bàn, còn không may thì về nhận tiền này. Lúc trước tôi đã hết lòng nói để Chu lão gia cưới nương nương về cùng tôi sum họp một nhà, nào ngờ tôi chậm trễ quá để nương nương phải chết thảm vì tay kẻ thù. Xin nương nương hiểu cho lòng tôi.

Khấn xong, sai gia nhân đốt vàng mã rồi cất tiếng khóc bi ai.

Trong khi đó, Nguyệt nương ngồi tại tăng phòng, nghe nói là có tiểu phu nhân đến, nhưng chờ mãi không thấy vào, liền hỏi một vị hoà thượng, vị này đáp:

- Cách đây ít lâu, trong phủ Chu lão gia cho táng ở sau chùa một thiếu phụ, nói là thư thư của tiểu phu nhân, nên hôm nay nhân tiết Thanh minh, tiểu phu nhân tới đốt vàng cho chị, hiện còn đang ở ngoài mộ phần.

Ngọc Lâu bảo;

- Hay là không phải Xuân Mai tới.

Nguyệt nương cũng nói:

- Xuân Mai thì có người chị nào táng ở đây đâu.

Bèn hỏi vị hoà thượng:

- Tiểu phu nhân trong phủ quý tính là gì vậy?

Vị hoà thượng đáp:

- Tiểu phu nhân họ Bàng, hôm nọ có đưa cho trưởng lão chúng tôi bốn năm lạng bạc để làm lễ tụng kinh siêu độ.

Ngọc Lâu bảo:

- Hồi sinh tiền, gia gia có lần nói với tôi là Xuân Mai họ Bàng, là con lớn trong nhà nên gọi là Bàng đại thự Chắc là nó đó.

Đang nói chuyện thì nghe tiếng vị trưởng lão gọi sa di:

- Mau sửa soạn trà lên nhé.

Sau đó là tiếng gia nhân đầy tớ ồn ào, rồi Xuân Mai tiến vào phương trượng. Nguyệt nương và mọi người hé tấm mành trong tăng phòng nhìn ra, thì thấy đúng là Xuân Mai, nhưng đẹp đẽ sang trọng hơn trước bội phần. Xuân Mai có vẻ mập ra, khuôn mặt đầy đặn như vầng trăng, vàng đeo ngọc giắt đầy người, mặc áo đại hồng, quần thúy lam thêu kim tuyến, thập phần quý phái.

Vị trưởng lão đón tiếp Xuân Mai vào ngồi trong phương trượng. Tiểu sa di đem trà ra, trưởng lão hai tay nâng mời mà nói:

- Tiểu tăng quả tình không biết là tiểu phu nhân tới đây tế trước phần mộ do đó không chuẩn bị được gì, nguyện mong tiểu phu nhân thứ tội.

Xuân Mai nói:

- Đâu dám, tôi còn phải nhờ trưởng lão nhiều nữa chứ, tiện đây cũng cảm tạ trưởng lão về lễ niệm kinh hôm nọ.

Vị trưởng lão đáp:

- Không dám, tiểu phu nhân dạp quá lời, đó là bổn phận tiểu tăng phải báo đáp cho ân chủ, hôm nọ lại được tiểu phu nhân sai đem cho quá nhiều lễ vật và tiền bạc. Hôm đó tiểu tăng hết lòng cho thoa? đáng, tụng kinh cả một ngày mới xong, đến tối hai vị quản gia mới ra về, tiểu tăng có nhờ hai vị đó trình lại với tiểu phu nhân.

Xuân Mai gật đầu, tiếp lấy chung trà mà uống. Vị trưởng lão lại nói;

- Thỉnh tiểu phu nhân ngồi lại uống thêm chung trà nữa.

Vị trưởng lão cứ cà kê dê ngỗng khiến Nguyệt nương và mọi người ngồi chờ trong này sốt ruột, muốn ra về lại sợ bất tiện.

Lát sau Nguyệt nương sợ trời chiều, về nhà quá tối, bèn nhờ vị hoà thượng mời trưởng lão vào để cáo từ, Trưởng lão không chịu, nhất định lưu lại, rồi trở ra phương trượng thưa với Xuân Mai:

- Tiểu đạo còn chuyện này muốn bẩm với tiểu phu nhân.

Xuân Mai bảo:

- Trưởng lão có điều gì xin cứ dạy.

Vị trưởng lão nói:

- Bên trong tăng phòng hiện có mấy vị nữ thí chủ nhân đi du ngoạn, có tới đây thăm cảnh Phật, bây giờ các vị đó muốn ra về, tôn ý tiểu phu nhân thế nào, xin chỉ dạy cho.

Xuân Mai bảo:

- Sao trưởng lão không thỉnh các vị đó ra đây ngồi?

Vị trưởng lão vào mời ra. Nguyệt nưogn không chịu, đáp:

- Trưởng lão cứ nói là không gặp chúng tôi, trời chiều rồi, xin cho chúng tôi về.

Vị trưởng lão nghĩ rằng mình đã nhận tiền bố thí mà chưa khoản đãi được gì thì không yên lòng, nên cứ giục Nguyệt nương và mọi người ngồi ngoài phương trượng, Nguyệt nương không từ chối được, bèn cùng Ngọc Lâu và Ngô Đại cữu mẫu bước ra.

Xuân Mai vừa nhìn thấy đã nói:

- Tưởng ai, hoá ra nhị vị nương nương và đại cữu mẫu.

Nói xong đứng dậy mời ba người ngồi, rồi trước tiên sụp lạy Ngô Đại cữu mẫu.. Ngô Đại cữu mẫu hoảng lên đứng dậy tránh ra một bên mà nói:

- Kìa, tiểu phu nhân, bây giờ không phải ngày trước, xin tiểu phu nhân đừng để tôi mang tội thất kính.

Xuân Mai cứ lạy rồi đứng dậy nói:

- Sao đại cữu mẫu lại dạy vậy? Tôi đâu phải như người khác, tôn ty thượng hạ là lẽ tự nhiên, bỏ sao được.

Đoạn lần lượt sụp lạy Nguyệt nương và Ngọc Lâu. Hai người đều lạy trả lễ, nhưng Xuân Mai không chịu, nâng hai người dậy mà nói:

- Tôi quả không biết liệt vị có mặt tại nơi này, nếu biết sớm thì đã thỉnh ra bái kiến.

Nguyệt nương nói:

- Từ bấy đến nay chúng tôi bận rộn không tới quý phủ thăm hỏi thư thư được, xin thư thư đừng giận.

Xuân Mai đáp:

- Sao đại nương lại dạy như vậy, tôi đâu dám giận gì.

Lại thấy Như Ý bồng Hiếu ca nhi đứng sau thì bảo:

- Mới có ít lâu mà ca nhi mau lớn quá.

Nguyệt nương bảo Như Ý:

- Ngươi và Tiểu Ngọc không ra lạy chào thư thư hay sao?

Như Ý và Tiểu Ngọc tươi cười bước ra lạy chào, Xuân Mai đều đỡ dậy.

Nguyệt nương bảo:

- Thư thư à, cứ để cho chúng nó bái kiến.

Xuân Mai chỉ cười, rút trên đầu ra một đôi trâm vàng, cài lên mũ Hiếu ca nhi, Nguyệt nương thấy vậy nói:

- Đa tạ thư thư.

Rồi bảo Như Ý:

- Không bắt ca nhi lạy tạ hay sao?

Như Ý bảo Hiếu ca nhi chắp tay vái Xuân Mai. Xuân Mai vui vẻ lắm. Ngọc Lâu bảo:

- Hôm nay mà thư thư không tới đây thì làm sao chúng tôi được gặp vui vẻ như thế này?

Xuân Mai đáp:

- Chằng giấu gì nhị vị nương nương. Ngũ nương tôi tứ cố vốn thân, nên tôi cho chôn cất sau chùa này, hôm nay nhân tiết Thanh minh, tới đây đốt cho Ngũ nương ít vàng gọi là cho trọn nghĩa tình ngày xưa. Nếu không có tôi thì ai đứng ra lo lắng cho Ngũ nương bây giờ.

Nguyệt nương nghe xong không nói gì. Ngô Đại cữu mẫu bảo:

- Thật thư thư là người có ân có nghĩa lắm, đã đứng ra lo mai táng lại còn nhớ tới tảo mộ đốt vàng nữa.

Xuân Mai nói:

- Thì đại cữu mẫu nghĩ coi lúc trước, Ngũ nương đối với tôi rất tốt, vậy mà khi chết thì chết tủi chết nhục, thi hài lại không ai nhận lãnh, nên tôi phải đứng ra lo cho trọn nghĩa.

Trong khi nói chuyện thì tiệc chay đã dọn xong, tiệc gồm hai bàn toàn món ăn chay thịnh sọan, trưởng lão mời mọi người ăn uống.

Tiệc xong, mọi người ngồi uống trà nói chuyện. Ngọc Lâu muốn đốt cho Kim Liên ít vàng gọi là trọn nghĩa chị em, bèn lấy ra năm tiền, nhờ một tiểu sa di mua vàng hương. Vị trưởng lão thấy vậy bèn bảo:

- Nương nương không phải mua, ở đây tiểu tăng còn nhiều, để xin lấy ra kính biếu nương nương.

Nhưng Ngọc Lâu cứ đưa tiền cho vị trưởng lão, rồi nhờ sa di đưa vào thăm mộ Kim Liên.

Tới nơi thấy mộ cao ba thước, dọn dẹp sạch sẽ, bèn bước tới thắp hương, vái một vái rồi khấn:

- Ngũ thư thư oi, tôi là Mạnh Ngọc Lâu, không biết thư thư được an táng ở đây, nay mới tới đốt cho thư thư được trăm vàng, xin thư thư về mà nhận.

Khấn xong thì khóc.

Như Ý thấy Ngọc Lâu vào thăm mộ Kim Liên thì cũng định bồng Hiếu ca nhi thẻoa, nhưng Nguyệt nương bảo:

- Đừng bồng ca nhi đi đâu, làm ca nhi sợ.

Như Ý nói:

- Không sao đâu, đại nương yên tâm.

Nói xong cứ bồng Hiếu ca nhi ra. Tới mộ Kim Liên thì thấy Ngọc Lâu đang vừa đốt vàng vừa khóc.

Trong phương trượng, sau vài tuần trà, Xuân Mai sai gia nhân lấy đồ ăn mặn bày ra đầy hai bàn, mời Ngô Đại cữu mẫu và Nguyệt nương dùng. Lát sau Ngọc Lâu vào, cũng được mời dự tiệc mặn. Cuối tiệc là Như Ý và Tiểu Ngọc.

Xuân Mai lại sai dọn riêng một bàn tiệc đem vào tăng phòng cho Ngô Đại cữu. Đang ăn uống chuyện trò vui vẻ thì thấy hai quân hầu vào quỳ bẩm:

- Lão gia đang ở trang viện, sai chúng tôi tới thỉnh tiểu phu nhân tới coi hát tuồng, đai phu nhân và tiểu thư cũng đang ở đó, xin tiểu phu nhân tới ngay cho.

Xuân Mai chậm rãi bảo:

- Ngươi về trình với lão gia là ta biết rồi.

Hai quân hầu lạy chào mà đị. Nguyệt nương thấy vậy cùng Đại cữu mẫu đứng dậy bảo:

- Thôi, trời cũng đã chiều, hôm nay làm phiền thư thư cũng nhiều rồi, thư thư lại hữu sự, xin cho chúng tôi về.

Nhưng Xuân Mai không chịu, nhất định giữ lại, sai gia nhân đem chung lớn tới uống rượu rồi bảo:

- Liệt vị nương nương và tôi gặp ít xa nhiều, nay gặp nhau đây thì xin ngồi lại cho thoa? tình mong nhớ, còn chút thân tình, xin đừng để đứt. Tôi ở đây cũng chằng có ai thân thích, tôi sẽ tới lui thăm viếng liệt vị nương nương.

Nguyệt nương bảo:

- Thư thư à, thư thư nói vậy là quý rồi, chúng tôi đâu dám làm nhọc thư thư, để rồi chúng tôi sẽ tới vấn an thư thư.

Lát sau Nguyệt nương nói:

-Thôi bây giờ cũng muộn rồi, sợ chúng tôi về không kịp, đại cữu mẫu đây hôm nay lại không có kiệu.

Xuân Mai sốt sắng:

- Nếu đại cữu mẫu không có kiệu thì tôi có sẵn nhiều ngựa đây, để bảo gia nhân thỉnh đại cữu mẫu lên ngựa đưa về tận nhà.

Nhưng đại cữu mẫu từ chối nói là đã có lừa rồi.

Sau đó mọi người đứng dậy, Xuân Mai gọi gia nhân lấy một xấp vải và năm tiền, đưa cho trưởng lão. Trưởng lão cảm tạ rồi tiễn mọi người ra cổng.

Tới cổng, Xuân Mai bái biệt mọi người, chờ cho mọi người lên kiệu hết, mới lên kiệu mà đi. Gia nhân lại xúm xít, quân hầu lại hô hoán dẹp đường.

Mọi người ra khỏi chùa Vĩnh Phúc, theo đường lớn mà đi. Đại An đã đặt tiệc trước tại tửu lầu ở Hạnh Hoa thôn, và đang đứng đợi tại đó. Thấy mọi người tới, Đại An chạy ra tiếp đón rồi hỏi:

- Sao bây giờ Đại nương mới đến?

Nguyệt nương đáp:

- Xuân Mai mời ở lại chùa dùng tiệc nên mới chậm trễ.

Rồi kể sơ cho Đại An nghe về việc gặp gỡ Xuân Mai.

Đại An hướng dẫn mọi người lên lầu, phân ngôi thứ ngồi uống rượu thưởng xuân, từ trên lầu nhìn xuống cảnh người ngựa kiệu xe tấp nập dưới đường.

Trong lúc mọi người đang ngồi trên tửu lầu uống rượu, ngắm cảnh chuyện trò, thì dưới đường một đám người ngựa ồn ào kéo tới, cũng khoảng hai ba chục người đàn ông thanh niên. Nguyên đó là đám bạn bè và tùy tùng của con trai Lý Tri huyện là Lý Nha Nội, tên thật là Lý Củng Bích. Lý Nha Nội khoảng ngòai ba mươi, hiện đang theo học tại Quốc tử giám, vốn người phong lưu bác lãng, lười chuyện sách vở thi thư mà chỉ thích nuôi chó, cưỡi ngựa, săn bắn và lui tới các nhà ca nhi kỹ nữ, các nơi tửu tiếm trà đình, do đó còn có danh hiệu là Lý Lãng tử.

Hôm nay Lý Nha Nội đội mũ kim đỉnh, mặc áo lụa mềm, chân đi hài vàng, cùng với viên Lang lại là Hà Bất Vi, dẫn bạn bè thủ hạ, đeo cung tên cưỡi ngựa đi săn bắn và thưởng xuân.

Đám người ngựa dừng lại ở chân tửu lầu, bỗng Lý Nha Nội ngước nhìn lên, tình cờ thấy một đám đàn bà con gái đang ngồi uống rượu trên lầu, bất giác lòng dạ xao xuyến, ngây người mà nhìn không chớp mắt, rồi nhìn Nguyệt nương mà nghĩ thầm:

- Không biết đàn bà con gái nhà ai thế kia, có chồng hay chưa mà xinh đẹp quá.

Đoạn gọi thủ hạ là Trương Nhàn tới dặn nhỏ:

- Ngươi thử dò hỏi xem ba người đàn bà mặc đồ trắng kia là ai, ở đâu, rồi cho ta biết ngay.

Trương Nhàn vâng lời chạy đi, lát sau trở lại thưa:

- Mấy người đó là thê thiếp của Tây Môn Khánh ở huyện này. Người già nhất, có chồng họ Ngô, là chị dâu. Người mảnh mai là Ngô Nguyệt nương, chính thất của Tây Môn Khánh, người mập hơn một chút là vợ thứ ba của Tây Môn Khánh họ Mạnh, tên Ngọc Lâu. Hiện mấy người đó đều đang ở goá.

Lý Nha Nội thưởng tiền cho thủ hạ rồi lại xoay qua nhìn ngắm Ngọc Lâu không chớp mắt.

Trong khi đó, trên tửu lầu, Nguyệt nương ra lệnh cho Đại An sửa soạn các thứ để ra về.

Lại nói về Tuyết Nga và Tây Môn Đại Thư ở nhà rảnh rang, quá trưa, ăn cơm xong, hai người ra đứng trước cổng lớn nhìn cảnh qua lại ngoài đường.

Đang đứng thì thấy một người hàng xén, gánh các thứ phấn son quơng lược đi tới. Thường thường những người này kiêm cả nghề mài quơng chùi quơng. Đại Thư nói:

- Tấm quơng của tôi mờ quá, tiện đây đem ra cho tráng thuỷ hay chùi lại mới được.

Bèn sai Bình An gọi người mài quơng lại.

Người nọ tới đặt gánh xuống nói:

- Tôi không biết chùi gương mài kính, mà chỉ bán trâm thoa phấn son gương lược thôi.

Nói xong đứng đợi ngoài cổng, mắt lom lom nhìn Tuyết Nga.

Tuyết Nga bảo:

- Nếu ông không biết chùi gương mài kính thì đi đi, sao lại đứng đó nhìn tôi chòng chọc vậy?

Người bàn hàng bảo:

- Tứ nương và Đại cô nương không nhận ra tôi hay sao.

Đai thư ngẫm nghĩ rồi nói:

- Trông cũng quen lắm.

Người bán hàng nói:

- Tôi là Lai Vượng, bị đuổi ngày trước đây.

Tuyết Nga ngạc nhiên:

- Mấy năm nay ngươi đi đâu, sao bây giờ lại về đây?

Lai Vương đáp:

- Hồi đó tôi bị đuổi về quê ở Từ Châu, thất nghiệp chẳng biết làm gì, mới xin vào ở cho một vị lão gia, vị này tới kinh làm quan, nhưng tới nửa đường, nghe tin cha từ trần, lại quay về. Sau đó thì tôi vào ở cho một tiệm kim hoàn, và học được nghề kim hòan mà mưu sinh độ nhật. Bây giờ thì tôi về đây làm việc với một ngừoi thợ kim hoàn khác, làm mấy món trâm thoa lặt vặt và mua ít đồ khác đem bán. Hôm nay đi ngang đây, thấy tứ nương và Đại cô nương đứng ngoài này, nhưng tôi không dám tới chào hỏi. Chưa biết tính sao thì Tứ nương và Đại cô nương cho Bình An tới gọi. Thế mà tôi đứng đây rồi, cũng vẫn chưa dám nói ngay.

Tuyết Nga bảo:

- Vậy mà ta nhận mãi cũng không ra. Nhưng đã là ngừoi cũ thì ngươi ngại gì mà không nói trước.

Lại hỏi:

- Ngươi bán những món gì đây? đem thử vào trong này cho chúng ta coi.

Lai Vượng gánh hàng vào bên trong cổng, lấy ra một ít trâm thoa và các đồ trang sức rẻ tiền cho hai người coi. Tuy là những thứ tầm thường, nhưng cách làm lại rất tinh xảo mỹ thuật. Tuyết Nga và Đại Thư coi một lúc rồi hỏi:

- Lai Vượng à, ngươi có các thứ hoa bạc để cài đầu cài mũ không?

Lai Vượng lấy ra đủ loại đưa cho hai người coi. Đại Thư và Tuyết Nga mỗi người chọn một ít hàng. Đại Thư trả tiền phần mình. Tuyết Nga không sẵn tiền bèn bảo Lai Vượng:

- Ngày mai ngươi đến đây lấy tiền nhé. Hôm nay Đại nương cùng Tam nương và ca nhi tới mộ phần cúng cho gia gia rồi.

Lai Vượng nói:

- Năm ngoái tôi cũng nghe người ta nói là gia gia đã thất lộc và Đại nương thì hạ sinh ca nhi, chắc ca nhi bây giờ cũng lớn rồi.

Tuyết Nga nói:

- Ca nhi cũng đã được một năm, trong nhà lớn bé ai cũng quý ca nhi như vàng như ngọc, nhờ có ca nhi mà cũng vui cửa vui nhà.

Đoạn sai Lai Chiêu đem trà ra cho Lai Vượng uống. Lai Vượng tiếp lấy chung trà, cảm ơn Lai Chiêu mà uống. Lai Chiêu nhân tiện cũng chuyện trò hàn huyên cùng Lai Vượng, rồi dặn rằng:

- Ngày mai ca ca tới đây sớm mà chào Đại nương.

Lai Vượng gật đầu, trả chung trà, rồi vái chào Tuyết Nga và Đại Thư, gánh hàng đi.

Đến tối, Nguyệt nương và mọi người về tới nhà. Tuyết Nga và Đại Thư dẫn a hoàn gia nhân vào lạy chào.

Nguyệt nương bảo Tuyết Nga và Đại Thư:

- Hôm nay tình cờ gặp Xuân Mai ở chùa Vĩnh Phúc. Nó đứng ra lo chôn cất cho Kim Liên đó. Hôm nay nó tới thăm mộ Kim Liên ở sau chùa nên chúng ta mới gặp. Nó chào hỏi tử tế lắm. Vị trưởng lão dọn tiệc chay thết đãi, sau đó Xuân Mai lại cho dọn tiệc mặn, mời chúng ta uống rượu. Nó thấy ca nhi thì tặng ca nhi một đôi trâm vàng. Gớm, hồi này nó sang trọng lắm, ngồi cỗ kiệu thật lớn, gia nhân quân hầu xúm xít xung quanh. Nó cũng đẹp ra nữa. Thật nó may mắn không biết thế nào mà nói. Thế mới biết người ta ai cũng có cái số.

Ngọc Lâu ngồi cạnh bảo:

- Tôi còn hỏi thăm thì biết Xuân Mai đang có thai và cũng sắp ở cữ rồi, Chu lão gia không có con trai, thấy vậy không yêu chiều sao được. Tiết tẩu nói vậy mà đúng.

Mọi người tiếp tục nói chuyện. Lát sau Tuyết Nga mới nói:

- Hôm nay Đại nương và Tam nương vắng nhà, tôi và Đại Thư ra đứng gần cổng chơi thì Lai Vượng tới. Bây giờ nó có nghề kim hoàn, về đây sinh sống, ngày ngày gánh hàng đi bán. Mới đầu chúng tôi đâu có nhận ra, mãi tói lúc gọi nó vào mua hàng, nó mới nói. Nó lại hỏi thăm Đại nương, tôi nói là Đại nương cùng Tam nương và ca nhi đi tảo mộ cho gia gia rồi.

Nguyệt nương bảo:

- Sao không bảo nó đợi tôi về.

Tuyết Nga đáp:

- Chúng tôi cũng dặn là sáng mai nó tới sớm để bái kiến Đại nương.

Đang nói chuyện thì Như Ý từ trong ra thưa:

- Từ lúc về nhà tới giờ, ca nhi cứ ngủ mê man không dậy, mà người thì lạnh lắm.

Nguyệt nương hoảng lên, chạy vào ôm con, quả nhiên thấy Hiếu ca nhi ngủ mê man, người thì lúc lạnh lúc nóng, bèn mắng Như Ý:

- Đồ khốn, chắc là lúc ngồi kiệu ngươi không đắp ấm cho ca nhi chứ gì?

Như Ý nói:

- Tôi có lấy chăn nhỏ quấn thật ấm, làm sao bị lạnh được.

Nguyệt nương bảo:

- Hay là tại ngươi bồng ca nhi ra mộ con quỷ Kim Liên nên bây giờ ca nhi mới thế này chứ gì? ta đã không cho tới đó, vậy mà ngươi không chịu nghe, cứ bồng ca nhi đi.

Như Ý nói:

- Có Tiểu Ngọc thấy đó, tôi bồng ca nhi tới đó nhìn qua rồi vào ngay, làm sao có chuyện gì được.

Nguyệt nương sấn tới đạp cho Như Ý một đạp mà mắng:

- Vậy mà mầy còn nỏ mồm cãi phải không?

Đoạn gọi Lai An, sai đi mời Lưu lão bà lại ngay.

Lát sau Lưu bà tới coi xét một hồi rồi bảo:

- Đây là ca nhi vừa bị lạnh, vừa bị tà ma quấy phá.

Nói xong lấy ra hai viên chu sa hoàn, cho Hiếu ca nhi uống với nước uống, rồi bảo Như Ý cuốn chặt, bồn trong lòng cho ấm.

Lát sau thì Hiếu ca nhi ra được mồ hôi, nhiệt độ trở lại bình thường và ngủ yên. Nguyệt nương mừng lắm, mời Lưu bà uống trà rồi tặng ba tiền.

Hôm sau, Lai Vượng gánh hàng tới cổng nhà Tây Môn Khánh. Lai Chiêu bước ra, Lai Vượng vái chào rồi nói:

- Hôm qua Tứ nương có mua của tôi ít hàng, dặn là hôm nay lại lấy tiền rồi nhân tiện bái kiến Đại nương.

Lai Chiêu bảo:

- Ca ca đi đi, hôm khác hãy tới, hôm qua Đại nương về tới nhà thì ca nhi đau, phải mời Lưu bà tới cho thuốc, rồi loạn lên cả đêm. Hôm nay Đại nương còn tâm trạng đâu mà lấy tiền trả cho ngươi.

Lưu bà theo đúng lời Nguyệt nương dặn, đã tới từ sớm thăm bệnh cho Hiếu ca nhi, xong xuôi thì cáo từ Nguyệt nương và Ngọc Lâu tiễn ra cổng.

Lai Vượng vừa định gánh hàng đi thì thấy ba người ra, vội quỳ xuống lạy chào Nguyệt nương và Ngọc Lâu. Nguyệt nương bảo:

- Lâu quá không thấy ngươi, sao không tới đây thăm hỏi chúng ta?

Lai Vượng tóm tắc chuyện mình từ trước tới giờ rồi thưa:

- Cũng muốn tới lắm, nhưng lại sợ không tiện.

Nguyệt nương bảo:

- Ngươi là gia nhân cũ ở đây thì tới lui là chuyện thường, có gì phải ngại. Ngày trước cũng chỉ vì con dâm phụ Phan thị mà vợ ngươi chết oan, rồi lấy không làm có vu oan giá hoa. cho ngươi, đuổi ngươi đi. Nay thì trời cũng có mắt, đã trừng phạt nó rồi.

Lai Vượng nói:

- Chuyện đó cũng chẳng nên nhắc lại làm gì, chỉ cần Đại nương hiểu cho như vậy là được rồi.

Nguyệt nương hỏi:

- Ngươi bán những món gì vậy?

Lai Vượng lấy hàng ra cho Nguyệt nương coi. Nguyệt nương chọn vài thứ nữ trang rồi trả tiền ba lạng hai tiền, luôn cả tiền còn thiếu hôm qua, rồi bảo Lai Vượng vào nhà dưới, sai Tuyết Nga lấy rượu thịt ra khoản đãi.

Tuyết Nga nhân lúc vắng người, tới gần Lai Vượng dặn nhỏ:

- Sợ gì mà sợ, cứ lui tới đây thường thường, có chuyện gì tôi sẽ nhờ vợ Lai Chiêu nói lại. Còn tối mai thì tôi chờ ở căn phòng nhỏ, cạnh bức tường màu tím ở cổng trong. Nhớ đến nhé.

Hai người đưa mắt cho nhau. Lai Vượng hỏi nhỏ:

- Nhưng cổng trong ban đêm có đóng không?

Tuyết Nga dặn:

- Nên tới sớm, rồi vào phòng Lai Chiêu mà đợi, đến tối thì trèo qua bức tường tím đó mà vào.

Nói xong bỏ đi, sợ có người thấy, Lai Vượng mừng đến quên cả ăn. Lát sau cáo từ gánh hàng đi.

Hôm sau, Lai Vượng không đi bán hàng, nhưng ăn mặc bảnh bao tới trước cổng nhà Tây Môn Khánh. Chờ mãi mới thấy Lai Chiêu ra. Lai Vượng vội vái chào, Lai Chiêu hỏi:

- Hôm qua ca ca đã tới, hôm nay lại tới, có chuyện gì vậy?

Lai Vượng cừoi:

- Không có việc thì đâu dám tới. Hôm qua Tứ nương có lấy thêm ít hàng, dặn hôm nay tới lấy tiền.

Lai Chiêu mời Lai Vượng vào phòng mình ngồi chơi, Lai Vượng hỏi:

- Tẩu tẩu đâu, sao không thấy?

Lai Chiêu đáp:

- Ban ngày thì vợ tôi phải ở nhà bếp lo nấu nướng.

Lai Vượng lấy ra một lạng bạc đưa cho Lai Chiêu mà bảo:

- Xin ca ca nhận chỗ bạc này, kiếm ít rượu để tôi được mời ca ca và tẩu tẩu.

Lai Chiêu nói:

- Gì mà nhiều thế.

Đoạn gọi con trai là Thiết Côn ra. Thiết Côn chừng mười lăm tuổi nhưng đã lanh lợi lắm, Lai Chiêu sai con cầm bình đi mua rượu, rồi vào bếp bảo vợ lén cho ít đồ ăn.

Trong khi Thiết Côn đi mua rượu thì một gia nhân nhà bếp tới, thấy Lai Vượng thì reo lên:

- A, Vượng đại ca ở đây sao?

Lai Vượng lấy ít bạc ra đưa cho gia nhân này mà bảo:

- Em cầm chút ít này, xuống làm món ăn cho ta đãi Chiêu ca.

Tên gia nhân nhà bếp nhận tiền nhưng vẫn nói:

- Không có công lao gì, nhận thế này đâu được.

Nói xong tất tả đi xuống nhà bếp đem thật nhiều đồ ăn tới, bày ra bàn. Vợ Lai Chiêu nghe gia nhân đó nói là Lai Vượng tới, vội bỏ nhà bếp mà lên. Lai Vượng vài chào rồi mời ngồi vào bàn, đọan rót hai chung rượu, lần lượt hai tay nâng mời vợ chồng Lai Chiêu mà nói:

- Lâu quá không gặp ca ca và tẩu tẩu, trong lòng nhớ lắm, hôm nay có chung rượu nhạt này gọi là để hiếu kính ca ca và tẩu tẩu.

Vợ Lai Chiêu nhận chung rượu rồi bảo:

- Thôi đừng vờ vịt nữa, vợ chồng tôi khi không lại đi uống rượu của ai. Cho nên đối với người chân thật thì đừng nên nói những lời giả dối. Này, tối qua Tứ nương đã nói với tôi về chuyện của ca ca rồi, lại nói rằng tình cũ của hai người vẫn còn, rồi nhờ vợ chồng tôi đây chu toàn mọi việc gìum chọ Vậy thì bây giờ tôi cũng nói thẳng ra như vậy. Nay mai ca ca có được vui vẻ thì cũng nên nhớ tới vợ chồng chúng tôi, có cái gì thì cũng chẳng nên hưởng một mình.

Lai Vượng quỳ ngay xuống mà nói:

- Chỉ xin ca ca và tẩu tẩu che chở cho thì ơn ấy nguyện xin báo đáp chứ chẳng dám quên.

Đoạn ngồi lên mời rượu vợ chồng Lai Chiêu. Ba người vui vẻ ăn uống. Lát sau thì vợ Lai Chiêu vào nhà trong nói cho Tuyết Nga biết. Lai Vượng cũng ngồi lại một lúc rồi cáo từ.

Tới chiều, Lai Vượng trở lại, đem theo rượu thịt thết đãi vợ chồng Lai Chiêu. Ba người ăn uống cho tới quá canh một.

Đợi đến khi cổng ngoài cổng trong đóng hết, mọi người trong nhà đi ngủ cả, Lai Vượng mới từ phòng Lai Chiêu rón rén tới chân tường, bên cạnh là cổng trong, bên trong là căn phòng nhỏ. Bốn bề vắng lặng, chờ một lát thì Lai Vượng nghe tiếng Tuyết Nga đằng hắng trong phòng bèn vượt tường mà vào. Đây là căn phòng nhỏ, chứa đồ đạc, Tuyết Nga đã dọn dẹp qua loa để có chỗ nằm ngồi thuận tiện. Hai người thầm thì trò chuyện rồi bày cuộc giao hoan. Xong xuôi, Lai Vượng xốc lại quần áo định chia taỵ Tuyết Nga đưa cho Lai Vượng một túi nhỏ gồm vài món nữ trang và mấy lạng bạc vụn, lại tặng hai bộ quần áo bằng đoạn, rồi dặn là tối mai lại tới, đọan nói:

- Tôi còn ít tư trang nữa, sẽ đưa cho chàng để chàng tìm mua một căn nhà kha khá mà ở trước. Khi nào không thể ở được trong nhà này nữa, tôi sẽ ra ngoài với chàng kết nghĩa vợ chồng. Chàng hiện có nghề trong tay lo gì vợ chồng mình không sống qua ngày.

Lai Vượng bảo:

- Hiện tôi có người dì ở đông môn ngoại thành, có gì mình trốn ra đó tá túc, nếu không có chuyện gì rắc rối xảy tới, mình sẽ về quê của tôi, bỏ tiền mua ít mẫu ruộng mà trồng trọt cũng tốt.

Hai người bàn định một hồi rồi Lai Vượng lại vượt tường trở lại phòng Lai Chiêu, đợi trời sáng, cổng ngoài mở thì lén ra. Đến chiều, lại vào phòng Lai Chiêu chờ đến tối để gặp Tuyết Nga.

Như thế được ít ngày thì Tuyết Nga ăn trộm được khá nhiều tiền bạc nữ trang, các đồ kim ngân và quần áo đưa cho Lai Vượng. Vợ chồng Lai Chiêu cũng được chia ít nhiều.

Một hôm, vì mệt mỏi, Nguyệt nương đi ngủ sớm. Trong phòng Tuyết Nga có một a hoàn tên là Trung Thụ Nguyên Trung Thu là a hoàn của Đại Thư, sau được Nguyệt nương cho sang hầu hạ Tuyết Nga, đổi cho Nguyên Tiêu, a hoàn cũ của Kiều Nhi, sang hầu hạ Đại Thự Hôm đó Tuyết Nga dò biét Nguyệt nương ngủ sớm, bèn bảo Trung Thu đi ngủ, rồi soạn những đồ vật đã ăn trộm được trong nhà, cùng quần áo vật dụng. Bởi vì Tuyết Nga đã hẹn với Lai Vượng chờ ở phòng Lai Chiêu, rồi hai người cùng trốn đi.

Trước đó, Lai Vượng báo cho Lai Chiêu biết chuyện này. Lai Chiêu bảo:

- Nếu tôi mở cổng cho hai người đi, sáng ra Đại nương sẽ có bằng chứng buộc tội thông đồng cho tôi, chi bằng ca ca vào phfong của Tứ nương, rồi leo lên mái gỡ ngói ra, như vậy thì rõ ràng là Tứ nương trốn đi mà không gây phiền luỵ gì tới ai.

Lai Vượng bảo:

- Ca ca nói đúng lắm.

Lát sau thì Tuyết Nga tới, tặng vợ chồng Lai Chiêu ít quần áo, nữ trang và vật dụng bằng bạc. Vợ chồng Lai Chiêu dọn rượu thết đãi.

Tới canh tư, Lai Chiêu giúp Lai Vượng trèo lên mái nhà dỡ ngói ra, lộ một khoảng lớn, rồi trở lại phòng mình, rót hai chung rượu, đưa cho Tuyết Nga và Lai Vượng uống mà bảo:

- Hai người uống rồi đi, phải can đảm lên mới được, chúc may mắn.

Đoạn giúp hai người leo thang, vượt tường cao bên ngoài mà đi. Lúc đó ngoài đường chưa có ai đi lại, lính tuần cũng vằng bóng. Hai người yên tâm mà đi.

Nhưng tới góc đường thì lính tuần từ phía trước đi tới, quát hỏi:

- Hai người kia đi đâu vậy?

Tuyết Nga cuống lên đứng lặng. Lai Vượng bình tĩnh bước tới vài chào đám lính mà nói:

- Hôm nay vợ chồng chúng tôi ra Nhạc miếu ở ngọai thành để dâng hương, nhưng dậy quá sớm nên đi sớm thế này, xin các quan nhân tha thứ cho.

Đám lính lại hỏi:

- Cái túi gì lớn đeo ở sau lưng kia?

Lai Vượng đáp:

- Thưa đó là hương nến vàng mã.

Đám lính bảo:

- Nếu vợ chồng ngươi đã đi dâng hương, thì đó cũng là việc phúc, thôi đi đi.

Lai Vượng mừng quá, vái chào cảm tạ đám lính tuần rồi dắt Tuyết Nga rảo bước.

Tới Đông môn thì cửa thành vừa mở, hai người ra khỏi cổng thành, tìm đến nhà Khuất lão là người dì của Lai Vượng. Ở ngoại thành có mấy đường ngỏ nhỏ, nhà Khuất lão lại ở trong một cái ngõ nhỏ hẹp, yên tĩnh nhất, nhà cửa cũng lèo tèo thưa thớt, và toàn là những gia đình nghèo.

Lúc đó Khuất lão còn ngủ, Lai Vượng gọi cửa một hồi mới thấy ra mở cửa. Khuất lão mời hai người vào nhà. Lai Vượng nói:

- Đây là vợ mới cưới của cháu, dì nương ở đây, rộng rãi, xin để cho vợ chồng cháu ở tạm một gian chừng nào tìm được nhà, chúng cháu sẽ đi.

Nói xong lấy ra ba lạng bạc mà tặng. Khuất lão được tiền mừng lắm, nhận lời ngay.

Khuất lão có người con trai là Khuất Đang, vốn tham tiền, thấy vợ chồng Lai Vượng có nhiều tiền bạc của cải, thì lén ăn trộm vài món đồ đem bán, không ngờ bị bắt đem lên quan. Lý Tri huyện cho đưa Khuất Đang về nhà, khám xét thấy Lai Vượng và Tuyết Nga có nhiều đồ quý, bèn cho bắt luôn cả hai người. Tuyết Nga xanh mặt, vội thay quần áo lam lũ, tháo hết nữ trang trên người ra rồi theo về huyện.

Người đi đường bu lại xem, có người nhận được, nói rằng:

- Đây là một tiểu thiếp của Tây Môn Khánh, bị một gia nhân cũ là Lai Vượng quyến rũ, lấy cắp của cải tiền bạc trong nhà, trốn theo Lai Vượng ra ngoại thành mà ở, rồi nhân đứa em hộ lấy cắp đem đi bán mà bị phát giác.

Thế rồi một đồn trăm, trăm đồn nghìn, cả huyện ai cũng biết.

Về phần Nguyệt nương, ngay hôm Tuyết Nga trốn đi, sang ngủ dậy, a hoàn Trung Thu phát giác là rương tủ trong phòng bị mở, đồ đạc quần áo không còn, vội báo ngay với Nguyệt nương, Nguyệt nương kinh ngạc hỏi:

- Ngươi ở với Tứ nương mà Tứ nương bỏ trốn, ngươi không biết sao?

Trung Thu đáp:

- Cách đây ít lâu, tối nào Tứ nương cũng bỏ phòng ra ngoài, đến khuya thật khuya mới trở vào, đêm qua cũng vậy nên tôi không để ý, Tứ nương lại bảo tôi đi ngủ sớm nữa, thành thử không biết.

Nguyệt nương gọi Lai Chiêu vào hỏi:

- Ngươi trông coi cổng trong ngoài, vậy mà ai ra vào, ngươi không biết gì hay sao?

Lai Chiêu đáp:

- Đêm hôm cổng ngoài cổng trong đều khoá kín cả, chẳng lẽ bay ra ngoài mà đi hay sao?

Sau đó phát giác ngói trên mái nhà bị gỡ. Nguyệt nương tin là Tuyết Nga đã có người ngoài vào giúp trốn đi, nhưng không dám làm to chuyện, chỉ nuốt giận bỏ qua.

Nào ngờ ít hôm sau xảy ra vụ Khuất Đang. Tri huyện bắt Khuất Đang nạp hết các đồ vật và tiền bạc ăn cắp được, gồm bốn món nữ trang bằng vàng, ba món nữ trang bằng bạc, hai bộ quần áo, một ít khăn taỵ Lại tịch thâu được của Lai Vượng và Tuyết Nga khoảng ba chục lạng bạc và rất nhiều vật dụng, nữ trang bằng vàng bằng bạc cùng các loại quần áo. Tri huyện ghép Lai Vượng vào tội trồm, Khuất Đang bị ghép tội ăn cắp, cả hai bị năm năm khổ sai. Khuất lão bị ghép tội che chở trộm cắp, nên bị kẹp chân tay rồi cho về. Còn Tuyết Nga vì là tiểu thiếp của Tây Môn Khánh nên được miễn tội, nhưng bị huyện quan sai lính đưa về trả tận nhà, gọi người trong nhà ra lãnh.

Nguyệt nương cho mời ngay Ngô Đại cữu tới bàn chuyện. Ngô Đại cữu tới bảo:

- Nó đã trộm cắp, trốn theo trai thì còn nhận lãnh làm gì.

Nguyệt nương thưởng tiền cho lính huyện, rồi nhờ thưa lại với huyện quan là không nhận lãnh Tuyết Nga.

Huyện quan cho gọi người mối đến để lãnh Tuyết Nga đem bán.

Gia nhân phủ Chu Thủ bị biết tin, kể lại cho Xuân Mai nghe, nói là tiểu thiếp của Tây Môn Khánh là Tôn Tuyết Nga ăn trộm tiền bạc của cải trong nhà rồi trốn theo tên gia nhân cũ là Lai Vượng. Nay bị huyện quan bắt, trả về, nhưng gia đình Tây Môn Khánh không nhận. Hiện huyện quan đang cho người lãnh đem bán để lấy tiền trả lại cho gia đình Tây Môn Khánh.

Xuân Mai nghe xong, liền nảy ý định là mua Tuyết Nga về cho trông coi bếp núc để trả mối hận thời trước, bèn nói với Chu Thủ bị:

- Tuyết Nga giỏi bếp núc lắm, biết làm đủ các món ăn ngon. Mình nên mua về để sai làm bếp, có phải hơn không.

Chu Thủ bị nghe theo, sai Lý An và Trương Thắng cầm thiếp tới thưa với huyện quan, mua được Tuyết Nga với gia tám lạng, đưa về phủ.

Trước hết, Tuyết Nga được dẫn vào lạy chào đại phu nhân, sau đó phải vào lạy chào tiểu phu nhân Xuân Mai.

Xuân Mai đang nằm trên chiếc giường kim sàng chăn loan nệm thuý, trước gấm rèm nhung, nghe báo gia nhân mới vào lạy chào thì từ từ chống tay ngồi dậy, a hoàn xúm xít xung quanh.

Tuyết Nga được dẫn vào, vừa nhận ra Xuân Mai thì bàng hoàng cả người, nhưng cũng phải bước tới lạy bốn lạy.

Xuân Mai trừng mắt quát a hoàn:

- Bảo con nô tỳ này vấn lại tóc, thay hết loại quần áo đang mặc, rồi cho nấu nướng tại nhà bếp để làm món ăn ta dùng.

Tuyết Nga nghe xong ruột đau gan quặn lại muốn khóc mà không khóc nổi. Tới nông nỗi này, Tuyết Nga chẳng còn biết làm gì hơn là tuân lời chủ. Từ đó suốt ngày đầu tắt mặt tối trong bếp.

Thật là:

Đã đày vào kiếp phong trần,

Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi.Một hôm, nhân Tiết tẩu tới nói chuyện về Tuyết Nga cho Kính Tế nghe, Kính Tế liền nhờ Tiết tẩu tới nói với Nguyệt nương, báo trước ý định của mình.

Tiết tẩu tới gặp Nguyệt nương mà thưa:

- Cậu Kính Tế hiện gặp ai cũng nói rằng cậu đã bỏ Đại Thư, không nhận làm vợ nữa, đồng thời làm đơn thưa lên quan Tuần án Tuần phủ, là lúc sinh tiền lão gia đã sang đoạt nhiều rương chứa kim ngân tiền của mà thân phụ cậu ta đã gửi lão gia lúc trước.

Nguyệt nương nghe xong, thấy nhiều chuyện tới dồn dập. Chưa hết buồn giận vì việc Tuyết Nga lấy trộm tiền bạc đồ vật, thì Lai An lại bỏ đi, rồi vợ Lai Hưng là Huệ Tú lại mới chết, vừa mới cho chôn cất xong, trong nhà còn đang ngổn ngang rối loạn. Nay nghe Tiết tẩu nói vậy, Nguyệt nương lại càng lo sợ, vội gọi kiệu cho Đại Thư đến với Kính Tế, lại sai Đại An và vài gia nhân khác đem hết giường tủ rương hòm của Đại Thư theo.

Kính Tế bảo:

- Những thứ này chỉ là của riêng của Đại Thư lúc lấy tôi, còn rương hòm kim ngân mà tôi gửi đâu, sao không thấy đem trả?

Tiết tẩu cũng theo tới, đáp:

- Mẹ kế của vợ cậu nói rằng lúc lão gia sinh tiền, thì chỉ nhận giữ giùm những thứ này mà thôi, không biết đồ đạc rương hòm nào khác.

Kính Tế lại đòi cả a hoàn Nguyên Tiêu, Tiết tẩu và Đại An trở về thưa với Nguyệt nương:

- Cậu Kính Tế đòi cả a hoàn Nguyên Tiêu nữa.

Nguyệt nương không chịu, bảo:

- Nó là a hoàn của Kiều Nhi lúc trước, nay phải ở đây để trông coi ca nhị Nay ta cho a hoàn Trung Thu đi mà thôi, vì con Trung Thu mua về là để hầu hạ Đại Thư.

Tiết tẩu và Đại An lại tới nói với Kính Tế, Kính Tế nhất định đòi Nguyên Tiêu chứ không chịu Trung Thụ Bà mẹ là Trương bà thấy vậy phải nói với Đại An:

- Ngươi về thưa lại với Đại nương là quý phủ nhiều a hoàn đầy tớ, thì cũng chẳng nên tiếc gì một con a hoàn Nguyên Tiêu. Trông coi ca nhi thì sai người nào khác chẳng được. Con trai ta nhất định đòi thì Đại nương giữ lại làm gì.

Đại An trở về thưa lại với chủ. Nguyệt nương không biết làm sao, đành phải cho a hoàn Nguyên Tiêu đến với Kính Tế. Kính Tế mừng lắm, bảo:

- Có thế chứ, chẳng lẽ dám trái ý ta sao.

Lại nói về con trai của Lý Tri huyện là Lý Nha Nội, từ dịp thanh minh, được nhìn mặt Nguyệt nương và Ngọc Lâu thì đêm mơ ngày tưởng tới nhan sắc xinh tươi mặn mà của hai người, nhưng Ngọc Lâu được Nha Nội chú ý nhiều hơn.

Nguyên là Nha Nội nhân dịp gia đình có tang nên về nhà ở đã lâu. Trong thời gia đó, thường nhờ mai mối tìm cho mình người vợ, nhưng đã nhiều đám mà chẳng đám nào được Nha Nội vừa ý. Đến khi thấy nhan sắc Ngọc Lâu, trong lòng bồi hồi rung động, thập phần vừa ý, thì lại không có cách gì tới cầu thân, lại không biết là Ngọc Lâu có định lấy chồng nữa hay không.

Nhân có vụ Tuyết Nga trộm tiền bạc đồ vật, Nha Nội suốt ngày cứ quanh quẩn tại công đường, nơi cha làm việc, hy vọng là Nguyệt nương sẽ cho người tới nhận lại các thứ bị trộm. Nhưng Nguyệt nương sợ, không dám cho người tới xin lãnh về.

Nha Nội thất vọng, không biết làm sao, mới bàn với viên Lang lại Hà Bất Vị Bất Vi đề nghị là sai một bà mối là Đào ma tới thẳng nhà Tây Môn Khánh cầu thân. Nha Nội cho gọi ngay Đào ma ma tới, hứa là thưởng năm lạng và nhiều đồ vật khác.

Đào ma mà hí hửng đi ngay.

Tới nơi, thấy Lai Chiêu đang đứng ở cổng, Đào ma ma tươi cừoi tới vái chào mà nói:

- Xin cảm phiền quản gia cho hỏi một câu. Đây có phải là phủ Tây Môn lão gia chăng?

Lai Chiêu nói:

- Lão ở đâu tới? lão gia tôi thất lộc rồi, có chuyện gì muốn thưa chăng?

Đào ma ma đáp:

- Phiền quản gia vào bẩm lại rằng tôi là bà mai do tiểu lão gia Lý Nh Nội, con trai của Lý Tri huyện lão gia sai tới. Nghe nói là trong quý phủ có một vị tiểu phu nhân muốn bước đi bước nữa nên cung kính xin tới cầu thân.

Lai Chiêu quát:

- Này, lão bà kia đừng có ăn nói hàm hồ. Lão gia ta mất đi hơn năm nay, trong nhà chỉ còn nhị vị phu nhân thủ tiết. Người ta thường nói, gió mưa sấm chớp cũng chẳng dám tới cửa nhà quả phụ, lão nghĩ thế nào mà dám tới đây nói chuyện cầu thân. Có đi ngay không, kẻo các phu nhân trong nhà biết được thì lão không tránh được khỏi ăn đòn.

Đào ma ma cười xum xoe:

- Quản gia ơi, xin đừng vội nóng. Tôi chỉ là thiên lôi chỉ đâu đánh đấy, tiểu lão gia tôi không sai bảo, làm sao tôi dám đến. Bây giờ thì dù vị tiểu phu nhân tại quý phủ đây có muốn đi bước nữa hay không thì cũng cứ phiền quản gia vào bẩm giùm cho một tiếng, như vậy tôi mới dám về thưa lại với tiểu lão gia tôi.

Nói xong đưa ra ít tiền, Lai Chiêu dịu giọng:

- Được rồi, giúp người cũng như giúp mình. Để tôi vào thưa giùm lão một tiếng vậy. Nhưng tôi cũng nói cho lão biết, là hai vị phu nhân phủ này thì một vị hiện đã có ca nhi, một vị thì không con, chằng hiểu có vị nào muốn bước đi bước nữa hay không.

Đào ma ma cười:

- Tiểu lão gia chúng tôi nói rằng có hân hạnh chiêm ngưỡng dung nhan nhị vị phu nhân quý phủ, nhưng trong lòng thì muốn kết thân với vị phu nhân người đậm đà hơn.

Lai Chiêu quay vào thượng phòng thưa với Nguyệt nương:

- Trên huyện sai người mai tới, hiện đang đứng chờ ở ngoài.

Nguyệt nương kinh ngạc hỏi:

- Nhà này có bắn tiếng gì với bên ngoài đâu, sao người mai lại tới được?

Lai Chiêu nói:

- Tiểu lão gia con trai của Tri huyện lão gia bảo là dịp Thanh minh có gặp nhị vị nương nương ở ngoại thành, và muốn xin kết thân với vị nương nương người đậm đà.

Nguyệt nương bảo:

- Thế thì đúng là Mạnh Tam nương rồi, thật không ngờ là Tam nương lại muốn bỏ nhà này mà đi.

Thật là:

Dò sông dò biển dễ dò,

Đố ai lấy thước mà đo lòng người.

Nguyệt nương xăm xăm vào phòng Ngọc Lâu, ngồi xuống hỏi:

- Tam muội à, tôi có chuyện này muốn hỏi thẳng muội muội, hiện có người mai do Lý Nha Nội, con trai Lý Tri huyện sai tới, nói là muội muội có ý bước thêm bước nữa, có phải muội muội định như vậy thật không? người mai nói là Lý Nha Nội có được gặp muội muội nhân dịp Thanh minh ở ngọai thành bữa nọ đó.

Nguyên là hôm Thanh minh đó, Ngọc Lâu ngồi trên lầu nhìn xuống, thấy Nha Nội tướng mạo khôi ngôi tuấn tú, cũng trạc tuổi mình, lại đeo cung cưỡi ngựa, muôn vẻ hào hùng, gia nhân đầy tớ xung quanh thập phần quý phái, thì cứ yên lặng mà nhìn, có lúc bốn mắt nhìn nhau, hai lòng dường đã có tình có ý. Nhưng Ngọc Lâu không biết là Nha Nội đã có vợ con gì chưa, rồi lại nghĩ bụng:

- Chồng mình đã chết, thân mình không biết nương tựa vào đâu, Đại nương có con trai, nay mai còn được nhờ, mình là người dưng nước lã, không máu mủ ruột thịt, rồi biết ra sao.

Lại thấy Nguyệt nương từ hồi có con trai, cách cư xử thay đổi nhiều, nên nghĩ thầm:

- Chi bằng mình nên bước thêm bước nữa, tìm người tử tế mà nương tựa chứa ở goá mãi trong nhà này làm gì, cho uổng phí tuổi thanh xuân.

Đến nay nghe Nguyệt nương hỏi, biết rằng người nhờ mai mối chính là người mình đã nhìn thấy trong ngày Thanh minh ở ngoại thành, thì trong lòng vui lắm, nhưng ngượng ngùng hổ thẹn, mà chỉ đáp:

- Đại nương tin làm gì lời nói hàm hồ của người ta, tôi làm gì có ý đó.

Nói xong, bất giác hai má ửng hồng, cúi mặt xuống lúng túng.

Nguyệt nương thấy vậy bảo:

- Người nào cũng có ý nghĩ riêng, tôi không dám ngăn cản ai cả.

Đoạn quay gọi Lai Chiêu vào bảo:

- Ngươi mời người mai đó vào đây.

Lai Chiêu dẫn Đào ma ma vào, Đào ma ma vái chào cung kính. Nguyệt nương mời ngồi, gọi a hoàn đem trà ra, rồi mở lời:

- Lão bà tới đây có chuyện gì không?

Đào ma ma đáp:

- Tiểu lão gia chúng tôi nói là hôm nọ ngày Thanh minh đã có hân hạnh gặp nhị vị phu nhân, và muốn xin được kết thân với vị phu nhân người đậm đà.

Đoạn quay sang Ngọc Lâu nói tiếp:

- Thưa, chắc là vị phu nhân đây. Quả là tiểu lão gia tôi nhận xét không sai. Phu nhân là trang sắc nước hương trời, quả xứng đáng trở thành chánh thất của tiểu lão gia tôi.

Nguyệt nương im lặng. Ngọc Lâu thì cười bảo:

- Thôi, lão đừng dông dài.

Đoạn hỏi:

- Tiểu lão gia năm nay niên kỷ bao nhiêu, đã có gia thất gì chưa, có chức phận gì chưa, xin lão cứ sự thật mà nói, đừng có dối.

Đào ma ma cười:

- Trời ơi, phu nhân lầm rồi, tôi tuy là người mai mối, nhưng không quen dối trá như những người mai mối khác đâu. Tôi có một thì nói một, có hai thì nói hai, chứ quyết không dối trá thêm bớt. Xin thưa để phu nhân biết rằng, Lý Tri huyện lão gia năm nay ngoài năm mươi tuổi mà chỉ được có một mình tiểu lão gia tôi. Tiểu lão gia tôi năm nay ba mươi mốt tuổi, sinh giờ Thìn ngày hai mươi tháng giêng, hiện chưa có chức phận gì, nhưng đang theo học tại Quốc tử giám, nay mai cũng Cử nhân tiến sĩ, công danh không biết sao nói trước. Tiểu lão gia rành việc cung tên, lại văn chương đầy bụng, tài học hơn người, vậy mà chưa từng có gia thất, nên mới muốn có được người chánh thất về coi sóc việc nhà. Nếu được phu nhân đây ưng thuận thì không còn gì hơn.

Ngọc Lâu lại hỏi:

- Đành là chưa có gia thất, nhưng đã có con cái gì chưa, mà quên quán ở mãi đâu, tôi sợ là xa quá thì không theo được.

Đào ma ma đáp:

- Tiểu lão gia tôi làm gì có mụn con nào, chính vì vậy mà mong sớm lập gia thất. Quê quán thì ở huyện Tảo Cường phủ Chân Định, thuộc Bắc Kinh, qua Hoàng Hà chừng sáu bảy dặm là tới. Tại đó ruộng nương đầy dãy, trâu ngựa từng bầy, gia nhân đầy tớ vô số, của cải không sao kể hết. Nay phu nhân về làm chính thất thì tiền của không thiếu gì, mà mai đây tiểu lão gia tôi thi đậu làm quan thì phu nhân cũng đường đường là bậc mệnh phu, đội mũ Ngũ hoa, ngồi kiệu Thất hương, chẳng nói hết vinh hoa phú quý.

Trong khi hai người nói chuyện thì Nguyệt nương cứ ngồi yên. Ngọc Lâu nghe Đào ma ma nói trong lòng chịu lắm, vội bảo Lan Hương:

- Ngươi dọn bàn, đem rượu thịt ra để ma ma dùng.

Đoạn quay ra bảo:

- Tôi nói câu này ma ma đừng giận, chứ mồm miệng của các bà mai thật khó lòng tin được, tôi chỉ sợ bị dối gạt mà thôi.

Đào ma ma kêu lên:

- Trời đất ơi, phu nhân dạy thế thì chết tôi còn gì. Tôi đã thưa là có sao nói vậy, không dám thêm bớt chút nào, xin đừng nghi ngại. Nếu phu nhân ưng thuận thì xin cho vài chữ để tôi đem về thưa lại với tiểu lão gia.

Ngọc Lâu đứng dậy lấy một vuông đoạn đại hồng, sai Đại An đem ra ngoài tiệm, bảo Phó quản lý viết giùm ngày sinh tháng đẻ của mình.

Nguyệt nương im lặng từ nãy tới giờ mới bảo:

- Lúc trước muội muội về đây là do Tiết tẩu làm mai, bây giờ cũng phải cho mời Tiết tẩu lại nói chuyện, mới là người biết lễ.

Đoạn quay lại bảo Đại An mời Tiết tẩu đến.

Lát sau Tiết tẩu đến. Ngọc Lâu nhờ Tiết tẩu làm bà mai đằng gái, đem vuông lụa viết ngày sinh tháng đẻ của mình tới tư dinh Tri huyện.

Thật là:

Cung Quảng Hằng Nga tìm phối ngẫu,

Vu Sơn thần nữ lấy Tương Vương.

Đào ma ma cũng cáo từ cùng đi với Tiết tẩu. Hai bà mai vừa đi vừa trò chuyện. Đào ma ma hỏi:

- Tẩu tẩu làm mai cho Tam nương về với Tây Môn Khánh lão gia phải không?

Tiết tẩu đáp:

- Đúng vậy.

Đào ma ma hỏi:

- Trước khi về với Tây Môn Khánh lão gia thì Tam nương là con gái ở nhà hay là quả phụ?

Tiết tẩu cứ sự thật thuật lại cho Đào ma ma nghe, đoạn nói:

- Tam nương tuổi thật là ba mươi bảy tuổi, lớn hơn tiểu lão gia tới sáu tuổi, có ngại gì chăng?

Đào ma ma bảo:

- Để mình ghé vào đâu nhờ thầy bói coi tuổi Tam nương có tốt không rồi có gì mình nhờ sửa lại vài tuổi cũng chẳng sao.

Đi một khúc đường thì gặp một tấm bảng vẽ hình bát quái, dưới có mấy hàng chữ:

Coi người sướng hay khô?

Xem số đoán nghèo giàu

Đặt quẻ xong tất biết

Thật tình không dối đâu.

Hai bà mai bước vào vái chào. Thầy bói mời ngồi. Tiết tẩu nói:

- Phiền tiên sinh coi gìum một quẻ cho người nhà.

Đoạn lấy ba quan đặt lên bàn mà nói:

- Xin tiên sinh đừng hiềm ít, nhân đi có việc mà ghé đây nên không sẵn đem theo nhiều, tiên sinh nhận giùm cho.

Thầy số bảo:

- Xin cho biết ngày sinh tháng đẻ.

Đào ma ma đưa vuông lụa viết ngày sinh tháng đẻ của Ngọc Lâu ra. Thầy số thấy vậy bảo:

- Thì ra chuyện hôn nhân.

Đoạn coi rồi nhẩm tính trong miệng, lát sau bảo:

- Người này năm nay ba mươi bảy tuổi, sinh giờ Tý ngày hai mươi bảy tháng mười một, tức là giờ Canh Tý, ngày Tân Mão, tháng Giáp Tý, số này nay mai vinh hoa phú quý, có quyền hành của người chính thất phu nhân, số này là số ítch phu phát lộc, được chồng sủng ái, nhưng phải qua một hai đời chồng rồi thì mới tốt, chẳng hay có đúng vậy không?

Tiết tẩu gật đầu:

- Đã qua hai đời chồng rồi.

Thầy số bảo:

- Nếu vậy thì tốt lắm, chỉ ay mai là phú quý vinh hoa.

Tiết tẩu hỏi:

- Sau này người đó có con trai không?

Thầy số đáp:

- Số này may lắm, tuy muộn màng, nhưng tới năm bốn mươi mốt tuổi sẽ có con trai.

Đoạn lấy bút viết ngay vào tấm lụa rằng:

Dung nhan như đoá hoa mai,

Má hồng mày liễu khó ai sánh cùng.

Nhờ con mà lại giúp chồng,

Vinh hoa phú quý thoa? lòng ước mơ.

Tiết tẩu lại hỏi:

- Phiền tiên sinh có thể giảng rõ hơn chăng? để chúng tôi còn về thưa lại.

Thầy số nói:

- Nếu người này có chồng tuổi Dần thì tuy được chồng yêu thương, nhưng chỉ là phận lẽ mọn, còn nếu lấy chồng tuổi Ngọ thì tức là gặp quý phu, sẽ được hưởng vinh hoa phú quý, sống tới sáu mươi tám tuổi và có được một con trai. Vợ chồng sống với nhau tới già mà lúc nào cũng ấm êm hoà thuận.

Tiết tẩu nói:

- Tiên sinh quả là thần số, đúng là người này sắp lấy chồng tuổi Ngọ, chỉ hiềm là lớn hơn mấy tuổi, nay cảm phiền tiên sinh sửa gìum năm sanh trong này có được chăng?

Thầy số bảo:

- Nếu vậy thì sửa lại là tuổi Đinh Mão, ba mươi tư tuổi được chăng?

Tiết tẩu hỏi:

- Tuổi Mão với tuổi Ngọ hợp chăng?

Thầy số đáp:

- Đinh thì thuộc hoa? mà Canh thì thuộc kim, kim gặp hoa? thì được luyện thành đại khí, hợp lắm chứ sao không.

Nói xong cầm bút sửa lại cho Ngọc Lâu còn ba mươi tư tuổi.

Hai bà mai hí hửng vái tạ mà đi.

Tới cổng nhà dinh Huyện quan, hai ngừoi nhờ lính hầu vào báo, rồi được dẫn vào, lạy chào Lý Nha Nội. Nha Nội chỉ Tiết tẩu mà hỏi:

- Người này ở đâu tới đây?

Đào ma ma vội đáp:

- Đây là người mai của đằng gái.

Rồi kể hết chuyện mai mối vừa thành tựu, đoạn nói tiếp:

- Nương tử bên đó quả là trang sắc nước hương trời, chỉ hiềm niên kỷ hơi lớn một chút nên tôi không dám tự tiện, xin tiểu lão gia cho biết tôn ý, hiện có gửi hôn thiếp theo đây.

Nói xong đưa tấm lụa viết ngày sinh tháng đẻ của Ngọc Lâu lên. Nha Nội cầm xem, thấy viết:

- Ba mươi tư tuổi, sinh giờ Tý ngày hai mươi bảy tháng mười một năm Đinh Mão.

Đọan bảo:

- Như vậy là hơn tôi ba tuổi.

Tiết tẩu tươi cười nói ngay:

- Bẩm, tiểu lão gia là người lịch duyệtn, kiến thức rộng lớn, há chẳng nghe câu nói từ thời cổ là "vợ hơn hai tuổi vàng bạc đầy nhà, vợ hơn ba tuổi trọn đời vinh hoa" hay sao. Huống chi nương tử chúng tôi nhan sắc hơn người, tính tình nhu thuận, chữ nghĩa cũng đủ hiểu được Chư tử bách gia. Mong tiểu lão gia nghĩ cho kỹ.

Nha Nội bảo:

- Ta đã được chiêm ngưỡng dung nhan rồi, bất tất phải nói nhiều, bây giờ hãy chọn ngày tốt, đem lễ qua là được.

Đào ma ma hỏi:

- Còn chúng tôi thì bao giờ phải tới hầu tiểu lão gia?

Nha Nội bảo:

- Có lẽ chằng nên để lâu lắc làm gì, ngày mai hai ngươi tới đây, rồi sang bên đó nói chuyện.

Nói xong thưởng cho mỗi người một lạng bạc. Hai người hoan hỷ lạy tạ ra về.

Về phần Nha Nội, thấy chuyện hôn nhân thành tựu thì vui mừng lắm, cho gọi viên Lang lại Hà Bất Vi tới bàn tính, rồi một mặt thưa với cha là Lý Tri huyện, một mặt mời thầy âm dương chọn ngày.

Thầy âm dương định ngày mồng tám tháng tư thì làm lễ hỏi, ngày rằm tháng tư thì cưới về.

Nha Nội xuất bạc đưa cho Hà Bất Vi và Trương Nhàn mua sắm lễ vật, chuẩn bị các thứ. Trong dinh Trinh huyện tấp nập bận rộ chuẩn bị đám cưới của tiểu chủ.

Hôm sau, hai bà mai tới, được Nha Nội cho biết ngày giờ, rồi rủ nhau qua nhà Tây Môn Khánh, thưa lại với Nguyệt nương và Ngọc Lâu.

Thật là:

Hôn nhân cũng có tiền duyên,

Như người trồng ngọc Lam Điền lúc xưa.

Ngày giờ qua mau, tới ngày mồng tám tháng tư, Nha Nội cho soạn mười sáu mâm hoa quả bánh trái, một cái mũ kim ty, một cặp kiềng vàng, một cái đai mã não cùng với nhiều nữ trang vàng bạc khác, lại có bốn xấp gấm đại hồng, bốn bộ quần áo lụa quý, và ba mươi lạng bạc. Hà Bất Vi cùng hai chục gia nhân đội mâm lễ tới nhà Tây Môn Khánh, hai bà mai cũng đi theo. Tới nơi, giao lễ, hẹn ngày đón dâu, Nguyệt nương đãi trà chu đáo.

Đến ngày mười lăm, Nha Nội đã cho lính hầu và gia nhân tới trước đem rương hòm quần áo và các đồ đạc của Ngọc Lâu. Nguyệt nương cho Ngọc Lâu đem theo tất cả những đồ đạc vật dụng có từ trước. Ngọc Lâu chỉ xin đem theo a hoàn Lan Hương đi theo, còn để a hoàn Tiểu Loan lại giúp Nguyệt nương trông coi Hiếu ca nhi, nhưng Nguyệt nương không chịu, bảo:

- A hoàn của muội muội thì muội muội cứ đem đi, sao tôi lại giữ được. Trông nom ca nhi thì đã có các a hoàn Trung Thu, Tú Xuân và nhũ mẫu Như Ý là đủ rồi.

Ngọc Lâu để lại một cặp bình bằng bạc, bảo là để tặng ca nhi cho ca nhi chơi làm kỷ niệm.

Tới chiều thì một cỗ đại kiệu bốn người khiêng, tám cỗ đèn hoa, tám tên quân hầu tới đón. Ngọc Lâu đội mũ kim lương, mặc áo đại hồng, vàng đeo ngọc giắt đầy người, vào lạy từ trước bàn thờ Tây Môn Khánh, rồi trở ra lạy chào Nguyệt nương. Nguyệt nương bảo:

- Tam muội à, tam muội ác lắm, bây giờ bỏ đi để tôi ở lại một mình, không ai bầu bạn.

Nói xong thì khóc, Ngọc Lâu cũng khóc. Lát sau, Nguyệt nương tiễn Ngọc Lâu ra cửa. Hai bà mai đưa Ngọc Lâu lên kiệu, che rèm mà đi. Nguyệt nương là quả phụ, không thể đưa Ngọc Lâu tới nhà chồng, phải nhờ một người chị đi giùm.

Kiệu ra tới đường, đôi bên hàng phố xầm xì:

- Đây là người thiếp thứ ba của Tây Môn lão gia, bây giờ lấy công tử Nha Nội, con trai Tri huyện tướng công, hôm nay tốt ngày nên cho rước về.

Có người lại nói:

- Lúc xưa Tây Môn lão gia sinh tiền, nhà cửa hưng thịnh biết bao, thê thiếp đầy nhà, gia nhân đầy tớ rộn rịp, vậy mà bây giờ chỉ còn một mình Đại nương có con trai là ở lại thủ tiết, còn bao nhiêu thì tan tác hết. Gia nhân a hoàn cũng chỉ còn lèo tèo vài người.

Dân chung trong huyện cứ xôn xao bàn tán, mỗi người một phách.

Có người lại chỉ vào kiệu của Ngọc Lâu mà nói nhỏ:

- Vợ nhỏ của Tây Môn Khánh bây giờ bỏ đi lấy người khác đó. Tên Khánh lúc sống chuyên làm những chuyện hại người, lại tham tiền hiếu sắc, gian dâm với vợ người, bây giờ chết đi, đám tiểu thiếp, người thì trộm đồ vật tiền bạc, người thì theo trai, người thì lấy chồng khác, mới biết quả báo nhỡn tiền là thế.

Kiệu của Ngọc Lâu đi giữa muôn lời bàn tán chê khen đó.

Tới nơi, thấy tư dinh huyện quan trang hoàng rực rỡ, đèn nến sáng trưng. Nha Nội cùng đám gia nhân ra rước vào, mở tiệc khoản đãi. Tiệc xong, người chị Ngọc Lâu cáo từ mà về. Hai bà mai thì được thưởng mỗi người năm lạng bạc, một xấp đoạn hoa.

Đêm đó, Nha Nội và Ngọc Lâu vào phòng riêng uống rượu hợp cẩn rồi thành thân. Đôi bên tình ý dạt dào không sao nói hết.

Hôm sau, Nguyệt nương, Mạnh Đại cữu, Mạnh Nhị cữu mẫu và Mạnh Đại di đều sai người đem lễ tới huyện. Nha Nội viết thiếp mời mọi người đằng gái tới dự tiệc "tam nhật".

Bữa tiệc đó được chuẩn bị linh đình, ca công kỹ nữ và cả một đoàn hát được gọi tới giúp vui.

Hôm đó Nguyệt nương mặc áo đại hồng, quần bách hoa, thắt dây lưng vàng, ngồi kiệu lớn tới dự tiệc.

Vì là bữa tiệc khoản đãi các nữ thân quyến bên gái nên được tổ chức tại hậu sảnh. Tri huyện phu nhân ngồi ghế chủ tiệc, thân rót rượu mời mọi người. Xong tiệc, Nguyệt nương về đến nhà, âm thầm vào phòng, chợt nghĩ tới ngày trước Tây Môn Khánh lúc còng sống, mỗi lần Nguyệt nương đi đâu về thì các tiểu thiếp và a hoàn chạy tới lạy chào, mọi người đông đúc vui vẻ, nay thì vắng lặng lạnh lùng quá.

Nghĩ tới đó thì bất giác thương tâm, chạy vào bàn thờ của chồng mà khóc. Tiểu Ngọc phải khuyên lơn mãi mới thôi. Từ đó, Nguyệt nương lúc nào cũng sầu muộn không vui.

Về phần Nha Nội và Ngọc Lâu, từ ngày sống với nhau thì nhwu cá gặp nước, khắng khít như keo sơn, ra vào một bước cũng chẳng rời nhau. Nha Nội phần thì vui mừng vì Ngọc Lâu có nhan sắc hơn người, phần thì vui mừng vì Ngọc Lâu có hai a hoàn, Lan Hương mười tám tuổi, giỏi đàn hát, Tiểu Loan mười lăm tuổi cũng xinh đẹp ngoan ngõan.

Nguyên Nha Nội lúc trước đã có một đời vợ. Người vợ trước này có một a hoàn, hiện đã ba mươi tuổi và còn ở lại hầu hạ trong nhà, tên là Ngọc Trâm. Ngọc Trâm ở với chủ đã lâu nên thường làm lộng, coi rẻ mọi người, lại ăn mặc diêm dúa, trang điểm loè loẹt. Lúc Nha Nội chưa cưới Ngọc Lâu thì Ngọc Trâm hàng ngày lo hầu hạ Nha Nội trong việc ăn uống nằm ngồi, lúc nào cũng hết lòng. Nhưng từ khi Ngọc Lâu về làm vợ Nha Nội thì Ngọc Trâm buồn khổ ghen tức trước sự gắn bó của hai người.

Một hôm, Nha Nội đang ngồi đọc sách tại thư phòng, Ngọc Trâm pha trà thơm, để vào khay, hai tay bưng tới, miệng cười toe toét đứng chờ. Không ngờ Nha Nội đọc sách mỏi mệt rồi gục ngay xuống án thư mà ngủ. Ngọc Trâm gọi mà bảo:

- Gia gia, tôi đem trà đến mà gia gia không thèm uống, lại ngủ hay sao? suốt ngày suốt đem gia gia ngủ với người ta trong chăn êm đệm ấm chưa chán hay sao mà bây giờ phải ngồi đâu ngủ đó?

Không thấy Nha Nội thức dậy, Ngọc Trâm sầm mặt bảo:

- Đồ bạc nghĩa, chẳng hiểu đêm qua thức làm những gì trong phòng mà bây giờ mệt mỏi ngủ vùi ngủ dập như thế này.

Đoạn nói lớn:

- Dậy mà uống trà.

Nha Nội giật mình tỉnh dậy quát:

- Con khốn, đem trà tới thì để đó cho ta, làm gì gào lên vậy? có cút vào trong không?

Ngọc Trâm vừa thẹn vừa giận, mặt mũi đỏ bừng, đặt mạnh khay trà xuống bàn, rồi bỏ đi, vừa đi vừa lầm bầm:

- Thật là người không biết điều, lại chẳng biết ơn biết nghĩa, người đem trà đến cho mà uống mà nỡ nào nạt nộ như thế bao giờ. Bây giờ có mới thì nới cũ ra, mới để trong nhà cũ để ngoài sân. Vậy mà lúc trước đi lại với người ta thì nói năng ôn tồn nhỏ nhẹ, rắn trong lỗ cũng phải bò ra.

Không ngờ Nha Nội nghe được, vội chạy theo đạp cho một đạp.

Từ đó Ngọc trâm ngày càng lộng, không thèm lo trà nước cho Nha Nội nữa. Gặp Ngọc Lâu cũng không thèm gọi là nương nương, mà chỉ xưng hô trống không hoặc vô lễ. Vào phòng riêng thì có khi ngồi lên cả giường Ngọc Lâu. Ngọc Lâu cũng không thèm chấp.

Ngọc Trâm lại hay bắt nạt Lan Hương và Tiểu Loan, bảo:

- Hai đứa bay không được kêu tao bằng thư thư, mà phải kêu bằng di nương, tao và nương nương của chúng bay chỉ là người lớn người nhỏ thôi. Tao không có ngang hàng với chúng bay đâu.

Nhưng lại dặn thêm:

- Trước mặt gia gia thì đừng gọi tao là di nương, chúng bay khôn hồn thì nghe lời tao, còn không thì coi chừng ăn đòn đấy.

Nha Nội cũng chẳng thèm để ý. Ngọc Trâm thấy vậy càng coi thường. Sáng ra thì ngủ tới nửa buổi chưa chịu dậy, nhà không chịu quét, cơm nước không chịu làm.

Ngọc Lâu phải dặn Lan Hương và Tiểu Loan:

- Hai ngươi đừng nhờ cậy gì Ngọc Trâm hết, hãy xuống bếp làm cơm để gia gia và ta dùng.

Hai a hoàn nghe lời chủ, xuống bếp làm cơm pha trà. Ngọc Trâm thấy vậy càng tức, thường mắng mèo quéo chó, mắng Lan Hương, đánh đập Tiểu Loan.

Một hôm Ngọc Trâm kiếm chuyện rồi mắng Lan Hương và Tiểu Loan rằng:

- Hai đứa bay không biết trước sau là thế nào hay sao? tao với chủ mày, ai là trước, ai là sau? chính chủ mày tới đây chiếm chỗ của tao mà còn phách lối. Đến nay vị nương nương lúc trước cũng chẳng bao giờ gọi thẳng tên tao, vậy mà bây giờ chủ mày một điều Ngọc Trâm, hai điều Ngọc Trâm. Mới vào được mấy ngày trong nhà này mà đã gọi tên gọi họ tao ra như vậy hay sao? Tao đâu phải kẻ ăn người ở của ai đâu. Cho chúng mày biết là lúc trước tao với gia gia là ăn cùng mâm, nằm cùng chiếu, chung chăn chung gối đấy. Nhưng từ ngày có chủ mày về đây, tao mới bị bạc đãi như thế này, mà cũng khiến cho đường nhân duyên của tao phải tan nát. Bao ngày nay tao phải sống lạnh lùng buồn khổ biết bao. Chủ mày ở nhà Tây Môn Khánh chỉ là tiểu thiếp thứ ba chứ là cái gì mà về đây lên mặt lên mũi hô hoán người nọ sai bảo người kia, chủ mày mua được gia nhân nào mà hô hoán sai bảo như thế? gia nhân nhà này có ai dưới quyền chủ mày đâu.

Lan Hương và Tiểu Loan không trả lời, chỉ yên lặng cho quạ Ngọc Trâm có ý nói lớn tiếng. Ngọc Lâu trong phòng nghe được, giận uất lên, nhưng cũng không nói lại với chồng.

Một hôm, nhân lúc trời nóng bức, Nha Nội sai lấy nước và chuẩn bị vật dụng để hai vợ chồng tắm chung. Ngọc Lâu bảo chồng:

- để gọi Lan Hương, bảo nó làm, đừng sai Ngọc Trâm làm gì.

Nha Nội bảo:

- Ngọc Trâm nó hầu hạ tôi quen rồi, để bảo nó làm.

Nói xong sai Ngọc Trâm chuẩn bị nước tắm để tắm ngay trong phòng. Ngọc Trâm nghe nói hai người tắm chung, mà mình lại phải đi lấy nước tắm thì giận lắm đem cái bồn tắm vào phòng, liệng mạnh xuống đất, rồi vừa đi ra vừa lẩm bẩm:

- Con dâm phụ này gớm thật, cứ làm như là chủ mình không bằng, tự nhiên lại bày đặt ra trò quái quỷ tắm chung, làm phiền tới lão nương này. Thật là trò tồi bại quá lắm.

Nha Nội và Ngọc Lâu đều nghe rõ. Ngọc Lâu không nói gì, nhưng Nha Nội thì giận lắm, nhất định đòi đuổi Ngọc Trâm ra khỏi nhà. Ngọc Lâu ngăn lại mà bảo:

- Nó nói gì mặc nó, chàng đừng chấp làm gì.

Nha Nội không chịu, bảo:

- Nàng cứ để tôi trị cho con nô tài vô lễ này một trận.

Nói xong gọi Ngọc Trâm vào, túm ngay lấy tóc, đánh đá như mưa. Ngọc Lâu can ngăn thế nào cũng không được. Ngọc Trâm bị đánh đau quá, hoảng quá quỳ ngay xuống khóc nói:

- Xin gia gia đừng đánh tôi nữa, nếu gia gia không dung được tôi thì xin bán tôi cho nhà khác, tôi cũng không cần ở đây nữa đâu.

Nha Nội lại càng thêm giận, nhảy tới đánh đá. Ngọc Lâu phải ôm lại mà bảo:

- Nó đã muốn ra khỏi nhà này thì chàng cũng không nên giận dữ đánh đập làm gì.

Nha Nội nghe vậy mới chịu thôi, rồi cho gọi Đào ma ma lại ngay, lãnh Ngọc Trâm đem bán cho nhà khác.

Thật là:

Có mồm thì cắp có nắp thì đậy,

Cổ nhân đã dạy, chẳng chỗ nào sai. Đào ma ma lãnh Ngọc Trâm đem bán được tám lạng, giao về cho Nha Nội. Nha Nội sai Đào ma ma mua một a hoàn khác mười tám tuổi tên là Mãn Đường.

Nói về Kính Tế, từ khi Đại Thư về ở, tuy đem về được ít đồ đạc của cải, nhưng vợ chồng cứ hai ba ngày lại đánh nhau cãi nhau ầm ỹ.

Một hôm người cậu là Trương Đoàn luyện tới vay mẹ Kính Tế là Trương bà năm chục lạng để lo công việc, nhưng Kính Tế nói hỗn, giận mà đi vay chỗ khác.

Trương bà cũng giận con mà thành bệnh, suốt ngày nằm trên giường, lang y tới điều trị cũng không bớt.

Kính Tế lại đòi mẹ phải bỏ tiền ra cho mình buôn bán. Mới đầu Trương bà không chịu, nhưng sau Kính Tế kèo nhèo quá, phải bỏ ra hai trăm lạng cho Kính Tế, bắt phải mở cửa tiệm buôn bán ngay tại nhà, có Trần Định phụ giúp.

Nhưng từ khi mở tiệm buôn bán thì Kính Tế chẳng lo việc làm ăn, chỉ suốt ngày tụ họp bạn bè như đám Lục Tam lang, Dương Đại lang, đàn hát ăn uống và cờ bạc. Do đó lời lãi chẳng thấy đâu mà tiền vốn thì ngày càng thâm thủng.

Trần Định nói lại với Trương bà, Trương bà giận mắng Kính Tế. Kính Tế vu cáo là Trần Định trộm hàng đem bán lấy tiền giấu đi, rồi không dùng Trần Định nữa mà mời Dương Đại lang về làm quản lý cho cửa tiệm của mình.

Dương Đại lang tên là Quang Ngạn, chuyên bày chuyện cười hoa cợt liễu, lại là người ăn không nói có, dối trá xảo quyệt, tham tiền.

Kính Tế lại bắt mẹ phải bỏ thêm ba trăm lạng nữa, giao cho Quang Ngạn đi mua vải lụa tại Lâm Thanh về bán.

Kính Tế và Quang Ngạn đem theo hành lý tới bến Lâm Thanh. Nơi đây là đất buôn bán nên hiện rõ cảnh phồn hoa đô hội, ngoài đường ngựa xe rầm rập ngày đêm không lúc nào ngơi, có tới ba mươi hai khu bán phấn buôn hương, bảy mươi hai nhà ca nữ. Kính Tế trẻ người non dạ, bị Dương Đại lang dẫn dắt tới các trà đình tửu điếm, các nhà kỹ nữ ca nhị Kính Tế gặp được một ca nhi là Phùng Kim Bảo, rất xinh đẹp, giỏi đàn hát, thật là thanh sắc vẹn toàn, do đó đem lòng say đắm.

Một hôm Kính Tế cùng Dương Đại lang tới nhà Kim Bảo uống rượu nghe hát. Kính Tế hỏi:

- Kim Bảo năm nay thanh xuân bao nhiêu?

Mụ chủ đáp:

- Em nó là con gái lớn của lão, lão chỉ có một mình nó, năm nay nó mới vừa đôi chín.

Kính Tế liền bỏ ra năm lạng bạc, ở lại với Kim Bảo trong hai ba đêm liền.

Dương Đại lang thấy Kính Tế quá say mê ca nhi này, nên hết lời tán tụng vun vào. Kính Tế ngỏ ý muốn cưới Kim Bảo về nhà, mụ chủ đòi đúng một trăm hai chục lạng. Kính Tế cò kè bớt được hai chục lạng, rồi bỏ tiền ra, đem Kim Bảo về. Còn dư được ít tiền, mới mua vài loại vải lụa đem về.

Trên đường về, Kim Bảo ngồi kiệu, Kính Tế và Dương Đại lang cưỡi ngựa theo, đằng sau là xe chở hàng.

Kính Tế về tới nhà, Trương bà đang bệnh, nghe con đem tiền cưới ca nhi về thì giận uất lên mà chết.

Kính Tế phải thu vén tiền bạc ma chay tụng niệm cho mẹ. Trương bà được chôn tại đất của tổ tiên, cạnh mộ chồng.

Căn nhà nhỏ hiện tại chỉ có ba gian, một gian làm tiệm buôn bán, gian giữa là bàn thờ Trương bà, còn một gian Kính Tế để Kim Bảo ở. Đại Thư thì bị đuổi xuống ở tại một phòng ở nhà dưới.

Kính Tế mua một a hoàn để hầu hạ riêng Kim Bảo. Mọi việc buôn bán, Kính Tế giao hết cho Dương Đại lang, để suốt ngày đêm rượu chè vui vầy với Kim Bảo. Đại Thư thì không được ngó ngàng gì tới.

Ít hôm sau Kính Tế nghe tin Lý Tri huyện thăng chức Thông phán Triết Giang và đã theo đường bộ đến nhận chức tại nhiệm sở mới. Kính Tế chợt nhớ là trước đó có nhặt được một cây trâm của Ngọc Lâu rơi trong hoa viên nhà cha vợ, liền nảy ra ý định là sẽ đem cây trâm tới cho Lý Thông phán coi rồi nói là trước kia Ngọc Lâu thông gian với mình, tặng mình cây trâm, lúc lấy Lý Nha Nội, Ngọc Lâu đem theo nhiều rương vàng bạc, toàn là của Dương Đề đốc lúc trước gửi. Làm vậy, Kính Tế tin tưởng là Lý Thông phán vốn là vị văn quan nghiêm khắc, sẽ đuổi Ngọc Lâu đi, và lúc đó Kính Tế sẽ đem Ngọc Lâu về làm vợ mình.

Thật là:

Việc xong, bắt thỏ cung trăng,

Mưu thành, bắt cả quạ vàng trong mây.

Tính toán xong, Kính Tế sai Trần Định coi nhà và coi tiệm, lại mở rương của mẹ, thấy có một ngàn lạng bạc, liền để lại một trăm lạng ở nhà cho Kim Bảo giữ, rồi đem chín trăm lạng theo, cùng Dương Đại lang trước hết tới Hồ Châu mua một thuyền vải lụa tơ sợi, đậu thuyền tại bến Thanh Giang, lên khách điếm của Trần Nhị Ở trên bờ, bảo Trần Nhị dọn tiệc.

Trong tiệc, Kính Tế bảo Dương Đại lang:

- Quản lý à, hãy ở lại khách điếm này vài ngày và coi thuyền hàng, tôi và gia nhân Trần An đem lễ vật tới phủ Nghiêm Châu thuộc Triết Giang, thăm một người chị của tôi có chồng tại đó, mau thì ba ngày, chậm thì năm ngày tôi sẽ về.

Dương Đại lang nói:

- Đại ca có việc xin cứ yên tâm mà đi, tôi sẽ ở lại coi hàng đợi đại ca.

Hôm sau, Kính Tế đem theo ít bạc và một số lễ vật, cùng gia nhân Trần An lên đường tới Nghiêm Châu. Tới nơi, Kính Tế vào tá túc tại một ngôi chùa trong thành, dò hỏi biết được Lý Thông phán mới đáo nhậm được chừng một tháng, gia quyến và đồ đạc thì mới theo tới được ba ngày. Kính Tế không chậm trễ, ngày hôm sau liền mũ áo chỉnh tề, sai Trần An đem theo lễ vật gồm vải lụa và rượu, cùng mình tới phủ nhạ Đến cổng phủ, Kính Tế bước tới vái chào người giữ cổng rồi nói:

- Xin cảm phiền vào bẩm là có Mạnh Nhịi cữu, em trai của con dâu Lý Thông phán lão gia tới thăm.

Người giữ cổng vội vào báo với Nha Nội, Nha Nội đang ngồi trong thư phòng đọc sách, nghe nói có em vợ tới thì vội xốc lại mũ áo, sai gia nhân mời vào.

Kính Tế được mời lên đại sảnh, cùng Nha Nội thi lễ. Hai bên phân ngôi chủ khách mà ngồi. Gia nhân đem trà ra. Nha Nội mời Kính Tế dùng trà rồi hỏi:

- Hôm trước lễ cưới, sao không thấy nhị cữu tới?

Kính Tế đáp:

- Lúc đó thì tôi đang cất hàng tại Xuyên Quảng, tôi cũng mới về nên không rõ là thư thư tôi đã kết hôn cùng đại ca đây, do đó hôm nay có chút lễ để tới thăm.

Nha Nội nói:

- Tôi cũng chưa được biết nhị cữu, thật là thất lễ, xin thứ lỗi.

Qua vài tuần trà, Nha Nội bảo gia nhân:

- Các ngươi đem các lễ vật này vào trình với nương nương là nhị cữu tới thăm.

Gia nhân đem lễ vào thưa với Ngọc Lâu:

- Có nhị cữu đem lễ tới.

Ngọc Lâu nghĩ thầm:

- Nhị cữu nào, chẳng lẽ là nhị ca Mạnh Duệ của mình, đường sá xa xôi cách trở thế này, đem lễ tới thăm làm gì.

Gia nhân lại đưa thiếp lên, Ngọc Lâu cầm xem thì rõ là viết bốn chữ "quyến sinh Mạnh Duệ", bèn một mặt sai Lan Hương dọn dẹp hậu đường cho sạch sẽ, một mặt sai gia nhân ra mời vào.

Lát sau gia nhân vào báo là nhị cữu vào. Ngọc Lâu đứng trong mành nhìn ra, thấy chồng mình đang dẫn một người vào, hai đứa mình còn dang díu hay sao? Nếu không thì cây trâm này làm sao lại lọt vào tay tôi được? cây trâm lại có khắc tên chị rành rành đây này. Chị cùng với con mụ Nguyệt nương âm mưu sang đoạt kim ngân của cải do gia đình tôi gửi giữ. Nhưng tôi nói cho biết, đó toàn là của cải của quan Đề đốc Dương Tấn lúc trước. Bây giờ chị đem theo những của cải đó về nhà chồng này. Được lắm, tôi sẽ nói chuyện với chị sau.

Ngọc Lâu nghe vậy vội trở ra, thấy quả là cây trâm ngày trước thất lạc trong hoa viên, hiện đang nằm trong tay KínH Tế, sợ là Kính Tế nói năng ầm ỹ, gia nhân nghe biết, nên vội làm mặt tươi cười bảo:

- Này, tôi đùa một tí mà giận thật hay sao? cậu tốt với tôi thì tôi cũng tốt với cậu chứ.

Kính Tế nguôi giận, thấp giọng bảo:

- Hiện tôi đang có một thuyền hàng đang đợi ở Thanh Giang. Nếu thư thư có lòng hạ cố thì đêm nay xin trốn theo tôi về làm vợ chồng. Gia đình này là gia đình văn quan, tôi nói ra thì thư thư chắc là bị đuổi, nhưng nếu thư thư trốn theo tôi, thì họ vì thể diện mà không dám làm gì cả. Thư thư tính sao?

Ngọc Lâu ngẫm nghĩ rồi đáp:

- Đã vậy thì... thôi cũng được, tối nay cậu đợi ở dãy tường sau phủ, tôi sẽ chuyển qua tường một bao kim ngân cho cậu, rồi sau đó trốn ra theo cậu về thuyền.

Thế mới biết:

Giai nhân thực quả có lòng,

Thì đâu có sá cổng trong tường ngoài.

Hai người ăn uống một hồi rồi Kính Tế cáo từ ra về. Trần An đợi sẵn ở ngoài cùng đi.

Nha Nội vào hỏi vợ:

- Nhị cữu hiện trú ngụ tại đâu, cho tôi biết để tôi tới thăm đáp lễ, rồi cũng phải có ít lễ vật đem biếu nữa chứ.

Ngọc Lâu bảo:

- Nhị cự nhị kiếc gì, nó có phải em tôi đâu, nó chính là con rể của Tây Môn Khánh. Nó giả danh em trai tôi tới đây là để dụ dỗ tôi bỏ nhà theo nó. Tôi đã vờ hẹn với nó là canh ba đêm nay sẽ ra sau phủ để trốn đi với nó. Sở dĩ như vậy là ý tôi muốn tương kế tựu kế, nhân dịp này bắt nó, ghép tội là đạo tặc để trừ hậu hoạn sau này, ý chàng như thế nào?

Nha Nội ngạc nhiên:

- Quả thật có chuyện như vậy hay sao? thằng đó sao vô lại quá như vậy? người ta có câu "vô độc bất trượng phu", không phải là tôi đi tìm mà hại nó, nhưng như thế này thì quả là nó tự đến đây tìm cái chết.

Nói xong bước ra gọi gia nhân tâm phúc và thủ hạ thân tín tới dặn dò mọi chuyện.

Kính Tế ngốc nghếch khờ dại, chưa biết cơ mưu bại lộ, canh ba đêm đó cùng gia nhân Trần An, mò tới bức tường phía sau phủ, đằng hắng làm hiệu. Trong này một sợi dây được thòng qua tường, rồi một bao bạc truyền ra. Bao này đựng hai trăm lạng bạc, nguyên là tiền phạt để trong phủ. Kính Tế mừng rỡ bảo Trần An bước tới đỡ lấy. Tức thì từ trong tối, bốn năm người trai tráng khoẻ mạnh xông ra tri hô ầm ỹ:

- Có trộm, có trộm!

Đoạn xông lại trói nghiến Kính Tế và Trần An lại, dẫn vào trình Lý Thông phán. Thông phán sai giam ngay vào đề lao.

Nguyên viên Tri phủ Nghiêm Châu họ Từ, tên Từ Phong, người phủ Lâm Thao tỉnh Thiểm Tây, Tiến sĩ khoa Canh Tuất, tính tình cự thanh liên cương trực.

Hôm sau, Lý Thông phán đăng đường, quan lại các cấp theo thứ tự ngồi thành hai hàng dài. Quan coi kho trình sự việc lên:

- Canh ba đêm qua có hai tên trộm lẻn vào phủ bẻ khoá nhà kho, lấy trộm hai trăm lạng bạc tiền phạt, rồi vượt trường phía sau phủ định tẩu thoát, nhưng bị quân lính canh gác bắt lại. Nay đem trình các lão gia, hai tên hỏi ra thì tên là Trần Kính Tế và Trần An.

Đoạn quát lính dẫn Kính Tế và Trần An ra quỳ giữa công đường. Tri phủ thấy Kính Tế trẻ tuổi, hình dung thanh tuấn thì đập bàn hỏi:

- Tên kia, mày quê quán ở đâu mà đang đêm dám lẻn vào phủ bẻ khóa nhà kho trộm tiền bạc của triều đình?

Kính Tế chỉ biết rập đầu kêu oan.

Tri phủ quát:

- Tội trạng rõ ràng còn kêu oan nỗi gì?

Lý Thông phán nghiêng mình nói với Tri phủ:

- Lão tiên sinh bất tất phải nhọc công hỏi nó làm gì. Tội trạng của nó đã rành rành ra đó, mình cứ gia hình là xong việc.

Từ Tri phủ ra lệnh đánh Kính Tế hai chục trượng. Lý Thông phán bồi theo:

- Hạng gian tà như nó thì không đánh không được, nếu không đánh đau thì nó không coi phép nước ra gì.

Lính lôi Kính Tế và Trần An ra đánh. Trượng rơi tới tấp, hai ngừoi quần áo tả tơi, thịt máu tuôn, muôn phần đau đớn. Kính Tế la lớn lên:

- Oan tôi lắm, oan tôi lăm, đây là con dâm phụ Mạnh thị hại tôi mà thôi.

Từ Tri phủ vốn người thông minh, nghe vậy biết là chuyện này còn nhiều uẩn khúc, vội ra lệnh ngưng đánh đòn, sai giam vào nhà lao chờ hôm sau tái xét.

Lý Thông phán bảo:

- Xin lão tiên sinh chớ quá rộng lượng với tên này, nó nguy hiểm lắm. Sợ rằng đêm nay nó có thể phản cung mà bày đặt thêm chuyện nọ kia.

Từ Tri phủ đáp:

- Không sao, tôi đã có chủ ý.

Ngục tốt dẫn Kính Tế và Trần An vào giam lại.

Từ Tri phủ bảo với tả hữu:

- Nên cho người tâm phúc vào nhà lao dò hỏi nguồn gốc lai lịch Kính Tế rồi cho ta biết.

Một viên cán sư giả làm tội nhân, bảo ngục tốt đưa vào nhà lao, rồi lân la làm quen với Kính Tế. Lát sau viên cán sự bảo:

- Tôi thấy huynh thanh xuân tuấn tú, nhất định không phải là trộm cướp, vậy duyên cớ gì lại sa vào vòng quan ty lao lý như thế nầy?

Kính Tế đáp:

- Tôi vốn là rể của Tây Môn Khánh ở huyện Thanh Hà. Mạnh thị, vợ của con trai Lý thông phán đây, trước là thiếp thứ ba của cha vợ tôi. Mạnh thị lúc trước có dan díu với tôi. Cũng ngày trước, lão gai tôi là Dương Đề đốc có gửi cha vợ tôi giữ giùm nhiều rương kim ngân của cải. Nay Mạnh thị lấy con trai Thông phán, đem của cải đó về đây. Tôi bèn tới đây hỏi đòi lại, nào ngờ Mạnh thị đã không trả, còn tìm cách ám hại tôi, vu oan cho tôi là trộm, khiến tôi bị đánh đòn đau đớn, giam cầm khổ nhục như thế này.

Viên cán sự nghe xong, vờ nói chuyện vài câu chuyện nữa rồi lẻn ra trình lại với Từ Tri phủ. Từ Tri phủ bảo:

- Ta biết ngay mà, thằng đó không phải là trộm đạo gì, nghe nó kêu oan rồi gọi tên Mạnh thị, ta nghĩ ngay là có chuyện bí ẩn gì đây.

Hôm sau, khi đăng đường, Từ Tri phủ cho đòi Kính Tế và Trần An ra, xét cho vô tội rồi truyền lệnh phóng thích. Lý Thông phán khẩn khoản nói:

- Sao tiên sinh lại làm vậy, tên này tội trạng rành rành làm sao thả được.

Từ Tri phủ gọi cán sự tới nói lại lời Kính Tế cho Lý Thông phán nghe, đoạn nói:

- Bản chức là chính quan trong phủ này, làm việc là làm việc cho triều đình, chứ không thể vì chuyện riêng của gia đình tiên sinh được. Tên này rõ là bị gia đình tiên sinh vu oan tội trộm. Con trai tiên sinh cưới thiếp thứ ba của Tây Môn Khánh, Mạnh thị đem về nhà chồng nhiều tiền bạc của cải. Nó là con rể của Tây Môn Khánh, tìm tới đây là để đòi lại những bạc tiền của cải đọ Như vậy làm sao tiên sinh bảo bản chức phải giúp gia đình tiên sinh oan cho nó được. Làm việc quan mà như vậy thì còn vương pháp công đạo gì nữa.

Lý Thông phán ngồi yên, hổ thẹn không sao kể xiết, tức giận nhưng không dám nói gì.

Mãn việc, Lý Thông phán về tư dinh, gặp phu nhân bảo:

- Thật dâu con chẳng ra gi khiến hôm nay bị Tri phủ làm nhục giữa công đường, trước mặt đông đủ đồng liêu, nhục nhã quá như thế này thật chỉ muốn chết cho xong.

Lý phu nhân hoảng lên hỏi:

- Mà chuyện gi vậy?

Lý Thông phán chỉ luông miệng kêu:

- Tức chết mất thôi.

Đoạn cho gọi con trai tới bảo:

- Mày đã rước giặc về nhà, mày có biết con vợ mày lúc trước là thiếp thứ ba của Tây Môn Khánh không? nó về đây đem theo tiền bạc của cải bất nghĩa. Còn thằng Kính Tế chính là con rể của Tây Môn Khánh tới đây để đòi tiền của cải đó. Vậy mà mày lấy bạc trong kho ra rồi vu cho nó là ăn trộm. Nào tao có biết đầu đuôi gì đâu, vậy mà vừa rồi tao bị Từ Tri phủ hạ nhục giữa đông đủ đồng liêu ngay tại công đường. Như vậy mày là con mà làm cho cha thọ nhục, con cái như thế thì tao còn cần làm gì nữa.

Nói xong sai tả hữu đem trượng ra đánh tới tấp. Thương cho Nha Nội máu rơi thịt nát. Lý phu nhân gào khóc khuyên can chồng. Ngọc Lâu núp trong rèm nhìn ra chỉ biết gạt lệ khóc thầm.

Đánh được ba chục trượng thì Lý Thông phán cho lệnh ngưng, rồi quát:

- Đuổi con Mạnh thị ra khỏi phủ, cho nó tìm chồng khác để ta được toàn danh tiết.

Nha Nội làm sao bỏ được Ngọc Lâu, nên chỉ quỳ trước mặt mẹ khóc mà nói:

- Xin mẫu thân nói giùm con, thà là phụ thân cho đánh con chết, chứ xin đừng đuổi vợ con.

Lý Thông phán sai xích chân Nha Nội tại hậu đường. Lý phu nhân thương con, thấy không nén được thương tâm, khóc nói với chồng.

- Xin tướng công xét lại cho, tường công làm quan bao nhiêu năm nay, nhưng chỉ có mình nó là giọt máu duy nhất nối dõi tông đường. Nay tướng công xử với nó khắc nghiệt quá, lỡ nó phẫn chí làm liều, rồi nay mai tướng công về hưu, biết nhờ cậy vào ai?

Lý Thông phán nói:

- Thà là ta không có con còn hơn là để vì con mà phải nhục với mọi người như thế này.

Lý phu nhân nói:

- Nếu tướng công còn giận mà không dung được nó ở đây, thì sao không cho vợ chồng nó về dinh cơ mình ở quê nhà.

Lý Thông phán ngẫm nghĩ một lúc rồi nghe theo lời vợ, cho thả Nha Nội ra, hạn ba ngày vợ chồng phải dọn dẹp hành trang đồ đạc, thuê xe lên đường về huyện Tảo Cường.

Về phần Kính Tế và Trần An, sau khi được phóng thích thì vội về chùa lấy hành lý rồi trở lại tửu điếm của Trần Nhị Ở bến Thanh Giang tìm Dương Đại lang.

Tới nơi, được Trần Nhị cho biết:

- Ba hôm trước, Dương Đại lang nói là huynh có gửi tin về, bảo hắn là cứ đem thuyền hàng về trước, huynh sẽ về sau chứ không ghé đây nữa, do đó hắn đem thuyền hàng đi rồi.

Kính Tế nghe xong không tin, còn đi dọc theo bến sông mà tìm nhưng không thấy thuyền hàng của mình đâu cả. Lúc đó mới vò đầu bứt tai mà than:

- Thế này thì có chết tôi không, sao không đợi mà lại về trước như vậy?

Kính Tế lúc đi không đem theo nhiều tiền, lại vừa bị lôi thôi cửa quan, đành phải cùng Trần An cầm bán áo quần, lấy tiền thuê thuyền mà về. Chủ tớ hộc tốc vội vàng như ma đuổi.

Lúc đó là vào cuối thu, cây cối rụng lá, gió lạnh thổi về, cảnh vật muôn phần thê lương ảo não.

Một hôm, Trần Định đang đứng ngoài cửa thì thấy Kính Tế từ xa đi tới, quần áo lam lũ, mặt mày hốc hác, thì giật mình chạy tới đón vào nhà, đọan hỏi:

- Thuyền hàng hiện tới đâu rồi?

Kính Tế giận uất lên, nghẹn lời, không nói được gì, mãi sau mới kể lại chuyện lôi thôi tại Nghiêm Châu, đoạn nói:

- Cũng may là có vị Tri phủ công minh, chứ không thì đã chết rụt xương rồi. Vậy mà về tới Thanh Giang thì tên Dương Đại lang đã đem thuyền hàng đi mất, chẳng hiểu là nó ở nơi nao.

Nói xong sai ngay Trần Định tới nhà Dương Đại lang dò hỏi. Gia đình Dương Đại lang trả lời rằng chưa thấy về.

Kính Tế lại thân đi dò hỏi khắp nơi cũng không có tin tức gì, về tới nhà thì Tây Môn Đại Thư và Kim Bảo đang lời qua tiếng lại. Nguyên là từ khi Kính Tế vắng nhà, hai người ngày nào cũng có chuyện nọ chuyện kia, nay KínH Tế về thì hai người gây chuyện đấu khẩu.

Đại Thư bảo:

- Kim Bảo ở nhà lấy tiền lén đưa cho mẹ mang về nhà, mẹ con ngày nào cũng rượu thịt thịnh soạn, trong lúc tôi ở nhà không có một miếng mà ăn. Ngày ngày thì ngủ tới trưa mới dậy rồi cứ lóng ngóng ra vào, chẳng biết làm chuyện gì.

Kim Bảo cãi lại:

- Đại Thư cả ngày chỉ lo ăn uống, làm bánh trái và các món ăn ngon, đem vào phòng cùng ăn với a hoàn Nguyên Tiêu.

Kính Tế bênh Kim Bảo, mắng Đại Thư rằng:

- Con dâm phụ ăn hại, lấy tiền bạc trong nhà ra để lo chuyện ăn uống hay sao?

Nói xong sấn tới đạp Đại Thư mấy đạp rồi lôi Nguyên Tiêu ra đánh cho một trận. Đại Thư giận quá, bước tới chỉ thẳng vào mặt Kim Bảo mà mắng:

- Con dâm phụ, con điếm giật chồng người, mày trộm tiền nhà này đưa cho mẹ mang về, lại còn đặt điều bịa chuyện để chồng tao giở trò vũ phu với tao. Mày coi chừng tao, tao không để mày sống làm gì đâu.

Kính Tế nạt vợ:

- Con dâm phụ, mày dọa nạt nhưng làm gì được người tả mày chưa bằng cái móng chân người ta mà.

Nói xong lại sấn tới nắm tóc Đại Thư mà đánh đá, khiến Đại Thư đổ cả máu mồm máu mũi. Kính Tế thấy vậy mới chịu bỏ vào phòng với Kim Bảo.

Đại Thư về phòng nức nở mãi không thôi. Tới nửa đêm thì quá buồn giận mà phẫn chí, dùng dây thắt cổ tự ải. Thương thay cho Đại Thư, năm đó mới hai mươi bốn tuổi.

Hôm sau, Kính Tế sai a hoàn của Kim Bảo là Trùng Hỷ tới gọi Đại Thư, nhưng cửa phòng Đại Thư đóng chặt. Trùng Hỷ gọi mãi không được, đành trở ra thưa lại với Kính Tế. Kính Tế quát:

- Con dâm phụ gớm thật, giờ này mà còn ngủ chưa chịu dậy sao? ta tông cửa vào lôi con dâm phụ ra đánh cho một trận nên thân bây giờ.

Đoạn lại sai Trùng Hỷ vào gọi lần nữa. Trùng Hỷ vạch cửa sổ nhòm vào, miệng nói:

- Đại nương nương dậy rồi, hình như đang đánh đu hay chơi nghịch gì đây này.

Nguyên Tiêu ngạc nhiên chạy tới nhìn kỹ lại rồi thất thanh la lên:

- Gia gia ơi, nguy rồi, nương nương tôi tự ải rồi.

Kính Tế lúc đó mới hỏang lên, cùng Kim Bảo chạy xuống phá cửa xông vào hạ Đại Thư xuống, cứu cấp tức thì. Nhưng Đại Thư đã là xác không hồn lạnh ngắt, không còn cứu cấp gì được nữa.

Kính Tế sợ quá, vội cho người đến báo ngay cho Nguyệt nương biết. Nguyệt nương nghe gia nhân nói là Kính Tế lấy vợ ca nữ, bạc đãi Đại Thư khiến Đại Thư tự ải chết, thì vội gọi bảy tám gia nhân a hoàn theo mình tới nhà Kính Tế.

Đến nơi, thấy tử thi Đại Thư cứng đờ, mặt tím bầm thì Nguyệt nương phục xuống mà khóc lớn, đọan túm lấy Kính Tế mà vừa chửi vừa đánh. Kim Bảo sợ quá, chui xuống gầm giường mà trốn, cũng bị Nguyệt nương sai gia nhân lôi ra mà đánh.

Sau đó Nguyệt nương hô gia nhân đập phá nhà Kính Tế, rồi dọn hết đồ đạc của Đại Thư về.

Tới nhà, Nguyệt nương sai mời Ngô Đại cữu và Ngô Nhị cữu tới bàn định. Đại cữu nói:

- Nếu không nhân dịp này làm cho ra lẽ thì nay mai Kính Tế túng thiếu, lại gởi trò đòi tiền bạc của cải, làm phiền mình. Nếu không biết lo trước thì nguy hại lắm. Bây giờ phải đem việc này lên quan, cho thằng Kính Tế bị tội tù rục xương thì mới khỏi lo hậu hoạn.

Nguyệt nương nghe xong bảo:

- Ca ca dạy rất đúng.

Nói xong chuẩn bị đơn từ.

Hôm sau, Nguyệt nương thân tới huyện đường nạp đơn tố cáo Kính Tế. Nguyên vị Tri huyện mới họ Hoắc, tên Đại Lập, người Hồ Quảng, cử nhân xuất thân, vốn là người cương trực, nghe nói có việc liên quan tới nhân mạng thì vội cho gọi Nguyệt nương vào mà nhận đơn, thấy đơn viết như sau:

"Người tố cáo là Ngô thị, chánh thất của cố Thiên hộ Tây Môn Khánh, tố cáo tên rể ác độc là Trần Kính Tế, nghe lời của hạng ca nữ điếm đàng mà bức tử vợ. Nguyên Kính Tế vì gia đình gặp chuyện tội tình nên phải nhờ vả gia đình chúng tôi mấy năm nay, tính hay uống rượu, hành hung người khác, không biết an phận thủ thường, do đó chúng tôi lo sợ mà phải đuổi ra khỏi nhà. Nào ngờ Kính Tế lấy đó làm oán hận, thường ngày hay đánh đập sỉ nhục vợ là Tây Môn thị. Nào ngờ gần đây, Kính Tế đem một kỹ nữ ở bến Lâm Thanh về nhà, tức là Phùng Kim Bảo, rồi tin lời con kỹ nữ này mà ngược đãi con gái chúng tôi thậm tệ. Hôm qua thì Kính Tế nắm tóc con gái chúng tôi mà đánh đá không tiếc tay, khiến con gái chúng tôi thương tích đầy mình, đau đớn chịu không nổi, nên đã từ trần vào canh ba đêm hai mươi ba tháng tám vừa rồi. Sau đó Kính Tế treo cổ con gái chúng tôi, bảo là thắt cổ tự ải mà chết. Kính Tế thấy chúng tôi là mẹ goá con côi nên thường khinh khi lăng nhục, có lần dọa giết cả chúng tôi. Nay chúng tôi rập đầu trình tướng công, mong tướng công cứu xét cho cái chết oan ức của con gai chúng tôi, trừng phạt kẻ hung ác để người hiền lương được sống yên, mà kẻ chết cũng được ngậm cười. Nay kính cáo".

Tri huyện xem đơn xong, nhìn thấy Nguyệt nương mặc đồ tang, dung nhan xinh đẹp, cử chỉ đoan trang, lại là chánh thê của một vị quan ngũ phẩm, thì nghiêng mình nói:

- Bản chức coi đơn, biết nãi nãi là phu nhân của cố mệnh quan, cho nên tình lý trong đơn, bản chức đã rõ. Xin nãi nãi cứ về, chỉ cần cho một quản gia tới đây hầu án là được.

Nguyệt nương lạy tạ Tri huyện rồi bước ra lên kiệu mà về, sai Lai Chiêu ở lại hầu án.

Tri huyện tống trát, sai ngay hai viên công sai tới bắt Kính Tế và Kim Bảo, đồng thời mời cả hai bên hàng xóm tới huyện đường thẩm vấn.

Kính Tế đang cuống lên vì cái chết của vợ, thấy công sai trên huyện đem trát tới bắt thì chân tay rụng rời, hồn vía lên mây. Kim Bảo thì bị gia nhân của Nguyệt nương đánh đau, đang nằm trên giường, nghe nói trên huyện tới bắt, cũng hoảng lên, không biết làm sao.

Công sai vào đưa trát ra, bắt trói Kính Tế và Kim Bảo giải lên huyện. Hàng xóm là Phạm Cương, Tôn Kỷ, và Vương Khoan cũng được mời đi.

Đôi bên nguyên, bị và nhân chứng đã đủ mặt. Tri huyện đăng đường, cho gọi tất cả vào. Lai Chiêu quỳ một bên, Kính Tế và Kim Bảo quỳ một bên, nhân chứng đứng giữa.

Tri huyện đập án quát Kính Tế:

- Tên ác phu kia, làm sao mày nghe lời con đàn bà dâm độc mà hành hung và bức tử vợ mày là Tây Môn thị?

Kính Tế rập đầu thưa:

- Cúi xin đèn trời soi xét, tiểu nhân đâu dám hành hung và bức tử vợ. Nhân vì buôn bán nơi xa, bị viên quản lý lừa hết vốn liếng, về nhà đang bực tức trong lòng, hỏi vợ bảo dọn cơm ăn thì vợ chưa làm cơm, nên có tức giận đạp nó hai đạp. Không ngờ vợ tiểu nhân quá giận, đang đêm thắt cổ tự ải.

Tri huyện nạt:

- Ngươi đã cưới tiểu thiếp, sao lại bắt vợ lớn làm cơm? rõ ràng là người không chối tội nổi. Vả lại theo đơn tố cáo của Ngô thị đây, thì ngươi đã đánh chết vợ, rồi treo cổ lên, bảo là tự ải mà chết. Ngươi còn chối nữa hay sao?

Kính Tế lại rập đầu nói:

- Ngô thị có thù với tiểu nhân, nên mới vu oan như thế, xin lão gia xét lại gìum cho.

Tri huyện nổi giận quát:

- Nhưng con gái người ta chết rành rành ra đây này, ngươi còn nói quanh co gì được nữa?

Đoạn quát tả hữu lôi Kính Tế ra đánh hai chục trượng. Lại bảo:

- Còn con Phùng Kim Bảo kia thi cho kẹp tay chân, sau đó giam hết vào nhà lao.

Sau đó Tri huyện hỏi qua làng xóm của Kính Tế, rồi cho thuộc cấp trở lại nhà Kính Tế khám nghiệm tử thi Tây Môn Đại Thư, thấy quả trên người nhiều thương tích bầm tím, cổ thì hằn vết dây thừng. Gia nhân và hàng xóm đều khai rằng Đại Thư bị đánh đau rồi phẫn uất tự ải mà chết.

Thuộc cấp về thưa lại. Tri huyện nghe trình là tử thi thương tích đầy mình thì lập tức cho dẫn Kính Tế ra sai đánh mười trượng, Kim Bảo cũng bị đánh mười roi. Sau đó Tri huyện ghép Kính Tế vào tội chồng đả thương vợ trí mạng, hình phạt là giảo hình.

Kính Tế hoảng lê, lúc Trần Định vào thăm thì vội đưa thiếp cho Trần Định, bảo về bán hết hàng còn lại trong tiệm, được khỏang trăm lạng, ngầm đem tới cho Tri huyện.

Tri huyện nhận bạc, rồi đêm đó sửa lại bản án, chỉ ghép vào tội bức tử, hình phạt là đày đi xa năm năm, làm việc khổ sai để chuộc tội.

Nguyệt nương nghe tin, thân tới huyện đường quỳ xin gia tăng hình phạt. Tri huyện bảo:

- Nương tử à, con gài nương tử tại cổ còn vết dây thừng, làm sao ghép vào tội đả thương trí mạng được. Không phải là tôi thiên vị đâu. Tôi còn biết rõ là nương tử sợ rằng sau này Kính Tế tìm cách trả thù chứ gì? Nhưng không sao, tôi sẽ bắt nó làm tờ cam kết là không bao giờ được bén mảng tới cửa nương tử nữa. Nếu hắn vi phạm, tất tôi không tha.

Đoạn một mặt cho phép mai táng Đại Thư, một mặt làm văn thư trình lên phủ. Kính Tế bị vố này, gia sản sạch trơn, nhà cửa cầm bán, Kim Bảo được thả ra cũng bỏ đi mất.

Sau khi được thoát chết và làm tờ cam kết, từ đó Kính Tế không dám kiếm chuyện với Nguyệt nương nữa.

Thật là:

Họa phúc là do mình chuốc lấy

Cho hay vui lắm tất buồn nhiều. Kính Tế thoát chết, nhưng vốn liếng bị Dương Đại lang lừa hết, tiền bạc trong nhà không còn, căn nhà cũng phải cầm đi, gia nhân Trần Định trong lúc Kính Tế nằm nhà lao đã vơ vét đồ đạc đánh giá trong nhà đem bán rồi ôm tiền đi luôn. Kim Bảo thì bỏ về ca lâu. Kính Tế muôn phần thiếu hụt, chỉ ngày ngày tới nhà Dương Đại lang hoặc tìm gặp các bạn hàng dọ hỏi tin tức Dương Đại lang.

Một hôm, Kính Tế tìm đến nhà Dương Đại lang gọi cổng:

- Quang Ngạn có nhà không?

Dương Đại lang hiệ đã về nhà, sau khi đem thuyền hàng bán hết ở ngoài, nhưng thấy Kính Tế gặp chuyện tù tội, nhà cửa sa sút, nay tới gọi cổng, thì xui em trai là Dương Nhị Phong ra, nạt nột Kính Tế rằng:

- Huynh đem đại ca tôi đi, nói là buôn bán gì mà cả mấy tháng nay biệt vô âm tín, hay là huynh đã liệng đại ca tôi xuống khúc sông nào để đọat tiền bạc. Đã ám hại đại ca tôi như vậy mà bây giờ còn làm bộ tới đây hỏi han để che tội hay sao? Hàng hoá của huynh không quan trọng, tính mệnh đại ca tôi mới là quan trọng, huynh làm sao trả lời tôi đây.

Nguyên Dương Nhị Phong cũng là tên côn đồ, chuyên làm tiền thiên hạ, nay phùng mang trợn mắt, hoa chân múa tay mà nạt nộ Kính Tế, nói xong lại sấn tới túm lấy Kính Tế quát lớn:

- Đừng có giả mù che mưa, không cho ta biết tính mạng đại ca ta thì không xong với ta đâu. Ta đang định đi tìm ngươi thì ngươi dẫn xác tới, đã vậy ta quyết không tha, ta đánh ngươi một trận xem ngươi ăn nói làm sao?

Nói xong hoa quyền định đánh. Kính Tế hoảng lên, vuột ra mà chạy bán sống bán chết về nhà, đóng chặt các cửa trong ngoài lại.

Dương Nhị Phong làm dữ đuổi theo tới tận cửa, lấy gạch đá ném vào nhà rầm rầm rồi lớn tiếng chửi bới, réo cha réo mẹ Kính Tế ra mà chửi. Kính Tế ngồi yên trong nhà, không dám ra lời, vả lại vừa mới bị đánh thừa sống thiếu chết tại huyện đường, nên không dám hó hé gì.

Thật là:

Cỏ non sợ sương, sương sợ mặt trời,

Kẻ ác chỉ sợ kẻ ác hơn thôi.

Ít ngày sau thì Kính Tế phải bán luôn cả căn nhà, được bảy chục lạng bạc, rồi thuê một căn phòng nhỏ ở trong hẻm mà ở. Sau đó lại bán a hoàn Trùng Hỷ đi, chỉ giữ lại a hoàn Nguyên Tiêu và coi như vợ của mình.

Ít lâu sau thì gia nhân Trần An cũng bỏ đi, kế đó Nguyên Tiêu cũng bị bệnh mà chết, Kính Tế trơ trọi một mình, đồ đạc quần áo bán dần hết. Rồi tiền nhà cũng không trả nổi, bị chủ nhà đuổi ra, lang thang đầu đường xó chợ, được bọn thanh niên du thủ du thực giúp đỡ, cho làm thuê làm mướn những công việc lặt vặt.

Một đêm vào khỏang tháng chạp, tuyết rơi ngập trời, gió thổi như cắt da, lạnh như xé thịt, Kính Tế lang thang các đường các hẻm, run lên bần bật, chợt thấy một đứa bạn lạnh quá, gục xuống một chân tường, vội đi kiếm cỏ tới đốt sưởi cho tên bạn đó, rồi mệt mỏi ngả lưng xuống cạnh đó mà thiếp đi.

Trong giấc ngủ chập chờn, Kính Tế nằm mơ thấy mình sống trong nhà Tây Môn Khánh, vinh hoa phú quý, cùng Kim Liên lén lút gặp gỡ trao tình. Lát sau tỉnh dậy bật khóc.

Mấy đứa bạn du thủ du thực kéo đến, thấy vậy hỏi:

- Sao lại khóc?

Kính Tế tủi thân đáp:

- Các huynh không biết được nỗi khổ của tôi đâu, xin đừng hỏi làm gì. Tôi nay vợ đã chết, không có cái áo mà mặc, hột cơm mà ăn, đồ đạc cửa nhà bán hết, gia nhân đầy tớ bỏ đi, chỉ còn một thân một mình lang thang đây đó, la cà các nơi trà đình tửu điếm mà kiếm miếng cơm thừa, đêm thì ngủ đường ngủ chợ, thân tôi rồi biết ra sao.

Hôm sau, Kính Tế lại tiếp tục cuộc sống lang thang như vậy, có lúc đói đã phải xin cơm mà ăn, thực sự là một kẻ ăn mày.

Trong huyện Thanh Hà có một ông gìa họ Vương tên Tuyên, tự là Đinh Dụng, tuổi ngoài lục tuần, vốn người từ tâm, trọng nghĩa kính tài, chuyên cứu giúp kẻ khốn cùng nghèo khổ, lại có lòng tin tưởng trời phật quỷ thần, chăm lễ bái, sinh được hai con trai đều đã thành gia thất. Con trưởng là Vương Càn, hiện được kế tập chức tước tổ tiên, làm Chánh Thiên hộ tại sở Mục mã. Con thứ hai là Vương Thần, hiệ là học sinh tại trường phủ.

Vương Tuyên lại hùn với một người quản lý, mở một tiệm cầm đồ, lợi tức dồi dào nên trong nhà được sung túc. Vương Tuyên suốt ngày phong lưu nhàn hạ, thường đọc kinh, nghe giảng đạo hoặc ra đứng cửa bố thí cho những kẻ khốn cùng.

Sau vườn nhà có hai cây hạnh, Vương Tuyên lập một cái am nhỏ để tới đó tụng kinh niệm Phật. Do đó lấy hiệu là Hạnh Am cư sĩ.

Một hôm Hạnh An cư sĩ khăn áo chỉnh tề, đứng cửa nhìn ra đường, thấy KínH Tế từ xa đi lại, ngừng ở trước cổng, hướng vào trong mà lạy. Hạnh Am cũng vội vái trả lễ rồi bước ra hỏi:

- Cậu là ai? lão già rồi mắt nhìn không rõ nên nhất thời không thể nhận ra.

Kính Tế đứng dậy run rẩy thưa:

- Chẳng giấu gì lão ông, tiểu nhân là Trần Kính Tế, con của Trần Hồng.

Hạnh Am ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi lại:

- Cậu đúng là lệnh lang của Trần Đại Khoan sao?

Kính Tế đáp:

- Đại Khoan chính là thân phụ của tiểu nhân.

Hạnh Am thấy Kính Tế áo quần lam lũ, hình dung tiều tuỵ thì hỏi:

- Hiền điệt ơi, làm sao mà ra nông nổi này? phụ mẫu bây giờ ở đâu, có được bình an chăng?

Kính Tế chảy nước mắt đáp:

- Phụ thân tiểu điệt mất tại Đông Kinh, mẫu thân tiểu điệt thì cũng mãn phần cách nay ít lâu.

Hạnh Am nói:

- Ta nghe nói là hiền điệt ở với nhà vợ mà.

Kính Tế đáp:

- Nhạc phụ tiểu điệt đã qua đời, nhạc mẫu lại đuổi tiểu điệt ra ngoài, tiện nội cũng đã thất lộc. Sau đó nhạc mẫu tiểu điệt lại tố cáo tiểu điệt tại huyện đường là bức tử vợ, tiểu điệt bị đánh đòn, về phải bán hết nhà cửa đồ đạc. Có chút tiền vốn lại bị một người bạn lừa hết, hiện nay tiểu điệt không nơi trú ngụ, không cách mưu sinh.

Hạnh Am hỏi:

- Vậy hồi này hiền điệt sống như thế nào? ăn ở tại đâu?

Kính Tế nín lặng không đáp, mãi sau mới nước mắt ròng ròng kể hết nỗi khổ cực hiện tại cho Hạnh Am nghe. Hạnh Am nghe xong thương xót lắm, bảo:

- Thật không ngờ ngày nay hiền điệt lại phải đi xin ăn. Nhớ hồi xưa gia đình hiền điệt muôn phần vinh hoa phú quý. Ta với phụ thân hiền điệt là chỗ tương giao thân tình, nay thấy hiền điệt còn nhỏ tuổi này là phải mài miệt kinh sử tạo công danh, vậy mà lưu lạc không nơi nương tựa, thất đáng thương lắm. Chắc là cũng phải còn họ hàng thân thích, sao hiền điệt không tìm tới nương nhờ?

Kính Tế đáp:

- Tiểu điệt cũng còn người cậu họ Trương, nhưng không còn tại chức nữa, gia tư chẳng có gì nên không tiện nhờ vả.

Hạnh Am mời Kính Tế vào nhà, sai gia nhân dọn rượu thịt lên cho ăn. Kính Tế ăn uống đến cứng bụng mới thôi, lâu lắm rồi Kính Tế mới được ăn ngon và no như thế.

Hạnh Am thấy Kính Tế quá thiểu não, bèn sai lấy ra cho một cái áo lụa, một cái mũ nhỏ, một đôi giày, một lạng bạc và một xâu năm trăm tiền đồng, rồi dặn:

- Hiền điệt à, mũ áo giày dép này là để hiền điệt mặc tạm, tiền đồng là để hiền điệt sống qua ngày, còn một lạng bạc lấy làm vốn, buôn bán chút ít vật dụng gì đó mà sống. Cũng nên thuê tạm một căn phòng mà ở, chứ lang thang như thế này mãi sao được, tiền phòng tháng tháng hết bao nhiêu, cứ lại đây ta sẽ giúp cho.

Kính Tế sụp xuống đất lạy tạ mà nói:

- Vạn tạ lão bá, tiểu điệt xin tuân lời.

Nói xong nhận các tặng vật rồi cáo từ mà đi.

Nhưng Kính Tế chẳng tìm phòng mà thuê, cũng chẳng làm ăn buôn bán gì, chỉ dùng năm trăm tiền đồng, hàng ngày vào tiệm ăn uống, số bạc một lạng cũng đem đổi tiền mà ăn uống phung phí. Chẳng bao lâu, mũ áo, giày do Hạnh Am cho cũng cởi ra đem bán, rồi lại xin ăn như cũ.

Một hôm, Kính Tế cùng đường, lại lần mò đến nhà Vương Hạnh Am. Hạnh Am đang đứng tại cửa, lại thấy Kính Tế tới sụp lạy, quần áo lam lũ, mặt mày tiều tuỵ y như lúc trước, lạnh run cầm cập, thì ngạc nhiên, nhưng cũng đáp lễ rồi hỏi:

- Hiền điệt làm ăn buôn bán ra sao? bây giờ cần tiền trả tiền thuê nhà phải không?

Kính Tế nín lặng. Hạnh Am gạn hỏi mãi mới đáp:

- Tiểu điệt chẳng còn gì, xin lão bá thương cho.

Hạnh Am bảo:

- Hiền điệt thế thì tệ quá, chẳng chịu chăm chỉ làm ăn, khiến bây giờ lại phải đi xin ăn để người ta chê cười khinh miệt, đến nhục cả tổ tiên. Tại sao không nghe theo lời ta?

Nói xong lại gọi Kính Tế vào nhà, sai gia nhân An Đồng dọn cơm rượu ra cho ăn.

Kính Tế ăn no xong, Hạnh Am cho ít quần áo, một xâu tiền đồng và một đấy gạo mà bảo:

- Cầm lấy đi, số tiền nhỏ này cũng có thể giúp hiền điệt buôn bán mấy thứ lặt vặt mà sông qua ngày, không phải đi xin ăn nữa.

Kính Tế chỉ vâng vâng dạ dạ nhận tặng vật mà đi.

Nhưng chỉ ít hôm sau, Kính Tế lấy tiền đãi bọn du thủ du thực ăn uống hết, đến cả quần áo vừa được cho cũng đem bán luôn, và lại trở về cuộc sông lang thang như trước.

Một hôm tháng giêng, Kính Tế đói khổ quá, không chịu thấu, lại mon men tới lảng vảng gần nhà Vương Hạnh Am. Hạnh Am nhìn thấy Kính Tế nhưng cứ làm ngợ Kính Tế không biết sao, đành phải bước tới gần, bò rạp xuống đất tiến vào cổng mà sụp lạy, rồi cứ phủ phục trên đất, không đứng dậy. Vương lão ông thấy Kính Tế chứng nào tật ấy, rách rưới khổ sở như trước thì bảo:

- Thật ta không còn biết nói sao, đời hiền điệt tuy còn dài nhưng ngày tháng như thoi đưa, không lo làm ăn chăm chỉ thì làm sao sống được. Thôi, cứ đứng dậy để ta nói cho mà nghe, có một nơi mà hiền điệt có thể tới được, vừa yên thân lại được thanh nhàn, nhưng chỉ sợ hiền điệt không chịu.

Kính Tế ngẩng đầu lên, nhưng vẫn quỳ, khóc mà nói:

- Nếu được lão bá thương chỉ cho một chỗ an thân thì tiểu điệt xin nghe lời.

Vương lão ông bảo:

- Cách thành không xa có ngôi miếu, vùng đó thuộc bến Lâm Thanh, địa phương trù mật, dân sinh phong túc, thuyền bè xe cộ tấp nập, bạc tiền trong miếu dồi dào nhờ khách thập phương cúng quảy, vị đạo sĩ trụ trì tại đó lại là chỗ cực thân tình với ta, hiện có dưới tay vài ba đồ đệ. Nay ta tính là sọan một lễ cho hiền điệt tới đó xuất gia làm đồ đệ của đạo sĩ đó, để học kinh học đạo mà làm điều phúc cho người, hiền điệt nghĩ sao?

Kính Tế đáp ngay:

- Được lão bá thương mà giúp cho như vậy thì còn gì bằng.

Vương lão ông bảo:

- Nếu vậy bây giờ đi đâu thì đi, ngày mai là ngày tốt, tới đây rồi ta sẽ dẫn đi.

Kính Tế lạy tạ mà đi.

Vương lão ông gọi thợ may bảo may hai bộ quần áo đạo sĩ, lại sai mua một mũ đạo, một đôi giày đạo và chuẩn bị sẵn lễ vật.

Sáng hôm sau Kính Tế tới, Vương lão ông bảo vào trong tắm rửa sạch sẽ, đội mũ đạo, mặc áo đạo, đi giày đạo, lại sai gia nhân cho mượn một con ngựa để cưỡi, hai gia nhân An Đồng và Hỷ Đồng đem một quả lễ vật gồm hoa quả bánh trái, một hũ rượu và năm lạng bạc đi theo.

Ra tới ngôi miếu ở ngoại thành, đường xa bảy mươi dặm, đi gần một ngày. Vương lão ông xuống ngựa, dẫn mọi người vào miếu. Nơi đây tùng bách sum suê cao vút, phong cảnh thật thanh tĩnh.

Tiểu đồng trông thấy, vội vào báo với Nhiệm đạo sĩ. Nhiệm đạo sĩ mũ áo chỉnh tề ra nghênh tiếp. Vương lão ông bảo Kính Tế và gia nhân đứng ngoài chờ rồi theo Nhiệm đạo sĩ vào phương trượng.

Vào tới Tùng Hạc hiên trong phương trượng, hai người bạn già thi lễ rồi phân ngôi chủ khách mà ngồi dùng trà. Nhiệm đạo sĩ nói:

- Lâu lắm không thấy Vương lão cư sĩ quá bộ tới tệ miếu, nay tới đây quả là hân hạnh cho tiểu đạo lắm.

Vương lão ông đáp:

- Cũng vì chuyện nhà bận rộn nên lâu không tới bái vọng đạo trưởng được, xin thứ lỗi.

Qua một tuần trà, Nhiệm đạo sĩ nói:

- Bây giờ cũng chiều rôi, thỉnh lão cư sĩ nghỉ lại đêm nay.

Đoạn quay lại bảo tiểu đồng:

- Ra dẫn ngựa vào chuồng ngựa sau miếu.

Vương lão ông nói:

- Nếu vô sự thì tiểu đệ không dám tới làm rộn cửa tam bảo, hôm nay tới đây là có một việc phiền đạo huynh, chẳng hay tôn ý thế nào, có sẵn lòng giúp cho chăng?

Nhiệm đạo sĩ nói:

- Sao lão cư sĩ lại dạy thế? có điều gì, xin cứ dặn, tiểu đạo đâu dám trái mệnh.

Vương lão ông nói:

- Có đứa con trai của người bạn cũ của tiểu đệ, họ Trần, tên Kính Tế, năm nay hai mươi bốn tuổi, hình dung cũng thanh tú, trí óc cũng không quá đần độn. Vì phụ mẫu sớm qua đời nên nó thất học từ nhỏ. Gia đình nó cũng không phải thua kém gì ai, nhưng gặp cơn gia biến mà cửa nhà tan nát, của cải tiêu ma, nó hiện không nơi nương tựa, không có người dạy bảo. Tiểu đệ nghĩ tình cố tri với cha nó mà muốn xin cho nó được theo làm đồ đệ của đạo huynh, vậy xin đạo huynh cho biết tôn ý.

Nhiệm đạo sĩ đáp:

- Hiềm tiểu đệ ít đức, nên tuy có hai tên đồ đệ mà chẳng đứa nào ra hồn, còn người này chẳng hay có thật tâm không?

Vương lão ông đáp:

- Thằng nhỏ này coi cũng có vẻ thành thật, nó cũng có nguyện tâm, lại là đứa lanh lợi, dạy được nhiều việc, xin lão đạo huynh yên tâm. Nó có thể là đồ đệ của lão huynh được.

Nhiệm đạo sĩ hỏi:

- Bao giờ thì người đó tới?

Vương lão ông đáp:

- Hiện tôi đã dẫn tới và nó đang đứng hầu ở ngoài, tôi cũng có chút lễ bạc, xin lão đạo huynh đừng chê cười mà nhận giùm cho.

Nhiệm đạo sĩ vội bảo:

- Sao lão cư sĩ không nói sớm.

Đoạn quay lại bảo tiểu đồng:

- Ra mời vào.

Kính Tế và hai gia nhân đem lễ vật vào. Nhiệm đạo sĩ cầm thiếp coi, thấy viét một xấp đoạn, mười cân cá, hai cặp vịt quay, năm cân hoa quả, năm lạng bạc và một hồ rượu. Bên dưới đề: "Văn sinh Vương Tuyên kính bái". Nhiệm đạo sĩ đọc xong vội đứng dậy vái tạ:

- Lão cư sĩ cho nhiều quá, khiến cho tiểu đạo không nhận thì mang tội bất kính, mà nhận thì trong lòng hổ thẹn.

Lại nhìn sang Kính Tế, thấy ăn mặc đạo y tề chỉnh, mặt mày thanh tú, răng trắng môi hồng, da như thoa phấn, trong lòng vui vẻ lắm.

Kính Tế bước tới lạy tám lạy.

Nhiệm đạo sĩ hỏi:

- Thanh xuân bao nhiêu?

Kính Tế đáp:

- Con tuổi Ngọ, năm nay hai mươi bốn tuổi.

Nhiệm đạo sĩ bảo:

- Ta coi ngươi quả là lanh lợi, nay đặt cho pháp danh là Trần Tông Mỹ.

Nguyên Nhiệm đạo sĩ có hai đồ đệ, đại đồ đệ họ Kim, tên Tông Minh, nhị đồ đệ họ Từ, tên Tông Thuận, do đó mới đặt pháp danh cho Kính Tế là Tông Mỹ.

Lúc đó trời cũng nhà nhem tối, Nhiệm đạo sĩ sai tiểu đồng thắp đèn dọn bàn, bày cơm rượu, đầy bàn toàn là thịt cá gà vịt ngon lành.

Nhiệm đạo sĩ ân cần mời rượu Vương lão ông, nhưng Vương lão ông không uống được nhiều, chỉ qua vài tuần rượu là đã ăn cơm. Sau đó được dẫn vào trai phòng, giường chiếu dọn sạch sẽ, Vương lão ông nghỉ đêm tại đó.

Sáng sớm hôm sau, tiểu đồng đem nước rửa mặt tới. Vương lão ông rửa mặt đội khăn mặc áo tề chỉnh rồi ra ngoàoi uống trà với Nhiệm đạo sĩ. Sau vài tuần trà là bữa ăn sáng, bữa này cũng có rượu.

Ăn uống xong, Vương lão ông đứng dậy cáo từ. Nhiệm đạ sĩ sai tiểu đồng dẫn ngựa ra cho Vương lão ông, lại thưởng tiền cho hai gia nhân.

Lúc sắp ra về, Vương lão ông gọi Kính Tế ra dặn:

- Ở đây phải gắng công học tập kinh điển, lại phải nghe lời chỉ dạy của sư phu, ta sẽ tới đây thăm ngươi luôn, đem các vật dụng cần thiết tới cho ngươi.

Đoạn lại quay sang nói với Nhiệm đạo sĩ:

- Nếu nó không chịu nghe lời giáo huấn, xin lão đạo huynh cứ thẳng tay trừng trị, tiểu đệ không dám che chở cho nó.

Rồi lại quay lại dặn Kính Tế lần nữa:

- Từ nay ngươi nhất đinh phải sửa đổi tính tình mà chuyên tâm học đạo, nếu ngươi lại không chịu an phận thì ta không ngó ngàng tới nữa đâu.

Kính Tế luôn miệng vâng dạ.

Vương lão ông cáo từ Nhiệm đạo sĩ, lên ngựa mà về.

Từ đó Kính Tế trở thành một đạo sĩ.

Nhiệm đạo sĩ tuy tuổi già nhưng thân hình cao lớn tráng kiện, mặt mũi phương phi, râu rậm như chổi, tiếng nói sang sảng, giỏi nói chuyện, uống rượu nhiều, chuyên lo việc tiếp đón khách khứa tới lui. Mọi việc trong miếu đều do đại đồ đệ Kim Tông Minh lo liệu.

Nơi đây gần bến Lâm Thanh, thuyền bè qua lại rất nhiều. Khách thương qua lại thường tới miếu hoặc tế thần cầu phúc, hoặc xin xâm đoán quẻ. Tiền bạc cúng vào miếu do đó dồi dào, phẩm vật đem tới không thiếu thứ gì. Vì tiền bạc dồi dào, nên Nhiệm đạo sĩ bỏ tiền ra cho đồ đệ mở một cửa tiệm buôn bán tại bến Lâm Thanh để sinh lời.

Đại đồ đệ Kim Tông Minh cũng chẳng phải là người tốt đẹp gì, năm nay ngoài ba mươi tuổi, thường la cà tửu điếm ca lâu và các nhà kỹ nữ, rõ ràng là phường tửu sắc. Theo Kim Tông Minh còn có hai tiểu đồng giúp việc cũng thường được theo Tông Minh tới đủ các nơi.

Tông Minh thấy Kính Tế hình dung nho nhã thanh tao, mặt mày tuấn tú thì gọi tới, bảo ở chung phòng với mình. Tối đầu tiên, Kim Tông Minh dọn rượu, cùng Kính Tế uống tới đêm. Lúc đi ngủ, Tông Minh cho Kính Tế nằm cùng giường, nhưng sau thì chê chân Kính Tế đi giày có mùi hôi, bèn đuổi qua giường bên cạnh. Kính Tế không nói gì, nhưng trong bụng nghĩ thầm:

"Tên này láo thật, nó coi mình không ra gì. Được rồi, cứ để đó, mình sẽ dịu ngọt với nó để nó chia cho mình ít tiền. Nhưng bây giờ thì phải cho nó biết tay đã".

Nghĩ xong, cất tiếng kêu lớn lên. Tông Minh sợ Nhiệm đạo sĩ nghe được, vội nhỏm dậy chạy sang bịt miệng Kính Tế mà bảo:

- Kìa, hiền đệ, đừng kêu lớn như vậy, hiền đệ muốn gì tôi cũng nghe theo. Đừng có làm ồn.

Kính Tế thấy sự thử thách bước đầu có lợi, liền tấn công ngay:

- Nếu vậy thì đạo huynh phải nghe theo tôi ba điều mới được.

Tông Minh bảo:

- Điều gì cũng được, tôi nghe theo hiền đệ hết.

Kính Tế bảo:

- Từ nay huynh không được ngủ chung với hai tên tiểu đạo của huynh nữa. Điều thứ nhì là chìa khoá tất cả các cửa lớn nhỏ trong miếu, huynh phải để tôi giữ. Còn điều thứ ba là tôi muốn đi đâu thì đi, huynh không được ngăn cản hoặc mách lại với sư phụ. Nếu huynh chịu ba điều đó thì tôi không tố cáo chuyện gì của huynh cả.

Tông Minh đáp:

- Không sao, tôi bằng lòng hết.

Từ đó hai người ngủ chung, chuyện trò thân mật tương đắc lắm.

Tông Minh cũng giữ đúng lời hứa, giao hết các chìa khoá cho Kính Tế. Hai người toa rập nhau trong việc lén lút ăn chơi.

Trước mặt Nhiệm đạo sĩ, Tông Minh luôn luôn khen ngợi Kính Tế là thành tâm học đạo. Nhiệm đạo sĩ tin lắm, giao chuyện tiền bạc cho Kính Tế. Thỉnh thoảng, Kính Tế lại giấu bớt tiền bạc do khách thập phương cúng, để ra bến Lâm Thanh, ăn chơi tại các nhà kỹ nữ ca nhi.

Một lần, Kính Tế quen được với một ca nữ là Trần Tam Nhị Tam Nhi cho biết là mụ đầu của Phùng Kim Bảo đã chết rồi, Kim Bảo bị đem bán cho nhà họ Trịnh, hiện Kim Bảo đang tiếp khách tại tửu lầu của nhà họ Tạ, Trần Tam Nhi kể xong lại hỏi:

- Chàng có muốn tới đó thăm nó không?

Kính Tế nghe vậy, tưởng nhớ tới Kim Bảo khôn nguôi, bèn trở về miếu trộm thêm tiền, rồi cùng Trần Tam Nhi tới ngôi đại tửu lầu trên bến Lâm Thanh.

Thật là:

Oan gia năm đời tụ hội,

Nhân duyên mấy kiếp tương phùng.

Toà tửu lầu này lớn và đẹp bậc nhất tại bến Lâm Thanh, trên dưới có cả trăm phòng cho khách tới uống rượu vui chơi, xung quanh có lan can, lưng dựa vào núi, mặt ngó ra sông, quả là nơi ăn chơi sang trọng nhất. Trước mặt thuyền khách đậu hàng dài, xe ngựa chen chúc, vương tôn công tử và các khách thương giàu có lui tới tấp nập. Khung cảnh trong tửu lầu lộng lẫy đến hoa cả mắt, suốt ngày đêm là ca vũ đàn kịch.

Trần Tam Nhi dẫn Kính Tế lên ngồi tại một phòng trên lầu, gọi tửu bảo dọn cơm rượu, rồi xuống lầu tìm Kim Bảo.

Lát sau, có tiếng chân bước lên trên cầu thang, rồi Kim Bảo bước vào. Hai người nhìn nhau, không nói được lời nào mà chỉ khóc.

Thật là:

Mặt nhìn mặt, luống ngỡ ngàng

Nghẹn lời không nói, đôi hàng châu sạ.

Qua phút bàng hoàng, Kính Tế mới kéo Kim Bảo ngồi xuống mả hỏi:

- nàng ơi, bấy lâu nay nàng ở đâu mà tôi tìm hỏi không ra?

Kim Bảo gạt lệ đáp:

- Từ sau khi chia ly, mẫu thân tôi vì lo sợ nên chẳng bao lâu thì qua đời, tôi bị đem bán cho Trịnh Ngũ ma ma, bây giờ thì tôi tiếp khách tại các tửu lầu, nhưng thường ở tửu lầu này nhất. Hôm qua Tam Nhi có nói là chàng coi sóc cửa tiệm tại đây, hôm nay gặp lại chàng thật không biết nói gì.

Nói xong lại khóc. Kính Tế rút khăn lau nước mắt cho Kim Bảo rồi nói:

- Nàng ơi, xin đừng quá phiền não, tôi bây giờ lại khá rồi. Sau khi gặp chuyện không may như nàng đã biết, nhà cửa của cải tôi chẳng còn gì, phải vào làm đạo sĩ trong miếu gần đây, nhưng tôi được trưởng đạo tin cậy lắm, lại cũng có đồng ra đồng vào, từ nay tôi sẽ đến với nàng luôn.

Lại hỏi:

- Hiện nay nàng cư ngụ tại đâu?

Kim Bảo đáp:

- Tôi ở ngay tại tửu lầu này với Lưu Nhị. Tửu lầu này có tới một trăm mười phòng, các ca nhi kỹ nữ đều được ở luôn tại đây.

Hai người trò chuyện một lúc thì Kim Bảo mời Kính Tế về phòng mình dọn rượu khoản đã, lại lấy đàn tỳ bà ra đàn hát cho Kính Tế uống rượu. Hát rằng:

Ba chén ly bôi

Ly bôi ba chén

Lệ chảy đôi hàng

Đôi hàng lệ chảy

Loan Phụng chia lìa

Tơ duyên chợt gãy

Loan xa phượng rồi

Ánh tà huy thoi thóp bên trời

Đêm về ngày hết

Vẫn còn quyến luyến bồi hồi

Dùng dằng mãi không thôi.

Đàn hát xong, Kim Bảo ngồi cạnh chuốc rượu cho Kính Tế. Lát sau, tình cũ dâng lên lai láng, hai người chung gối chung chăn.

Tới chiều, Kính Tế đưa cho Kim Bảo một lạng bạc, lại thưởng cho Tam Nhi ba trăm tiền đồng. Lúc về, Kính Tế còn dặn Kim Bảo:

- Tôi sẽ đến với nàng luôn để cùng nàng gặp gỡ nơi đây, nàng có cần gì thì cứ nhờ Tam Nhi.

Lúc xuống lầu, Kính Tế trả cho chủ tửu lầu là Tạ Nhị lang ba tiền cơm rượu. Kim Bảo theo tiễn một quãng đường xạ Hai người bịn rịn chia tay, Kính Tế thẳng đường về miếu. Từ đó vài ba ngày, Kính Tế lại tới gặp gỡ truy hoan với Kim Bảo một lần, mỗi khi chậm trễ thì Kim Bảo lại nhờ Trần Tam Nhi tới miếu vờ ghé vào niệm hương rồi lén đưa thư từ tặng vật của Kim Bảo cho Kính Tế và nhắn Kính Tế tới tửu lầu. Mỗi lần đến với Kim Bảo, Kính Tế tốn kém ít nhất cũng năm tiền, thường thường thì một lạng. Đi như vậy, Kính Tế đều nói dối là ra tiệm ngoài bến coi sóc công việc hoặc đem tiền về cho sư phụ. Nhưng mỗi lần như vậy, Nhiệm đạo sĩ thấy Kính Tế về miếu là mặt đỏ gay, một lần gọi lại hỏi:

- Ngươi đi uống rượu ở đâu về vậy?

Kính Tế đáp:

- Viên quản lý ngoài tiệm mời một hai chung, gọi là đi đường cho ấm bụng.

Đạo huynh Tông Minh lại hết lời che chở nên Nhiệm đạo sĩ không hỏi thêm nữa.

Thời gian qua đi, tiền bạc của Nhiệm đạo sĩ bị trộm quá nửa mà đạo sĩ vẫn không hay biết.

Nguyên Lưu Nhị Ở tửu lầu họ Tạ, có biệt hiệu là Toa. Địa Hổ, lại là cậu của Trương Thắng, gia nhân trong phủ Chu Thủ bị. Lưu Nhị mở nơi chứa ca nhi kỹ nữ tại tửu lầu để kiếm lợi, chuyên hiếp đáp kẻ yếu, giỏi chuyện hành hung, bạn bè thủ hạ lại nhiều nên không ai dám chống cự, Lưu Nhị cũng chuyên cho vay lãi cắt cổ và dùng bạo lực cướp đoạt tiền bạc của các con nợ.

Một hôm Lưu Nhị biết chuyện dan díu giữa Kính Tế và Kim Bảo, lại biết Kính Tế là đạo sĩ trong miếu của Nhiệm đạo sĩ, bèn hùng hổ vung tay trợn mắt tới hỏi Tạ Tam lang, chủ tửu điếm:

- Kim Bảo đâu?

Tạ tam lang vội đáp:

- Lưu Nhị thúc có chuyện gì vậy? nàng hiện đang ở căn phòng thứ hai trên lầu.

Lưu Nhị nhảy hai ba bực thang một mà lên lầu. Lúc đó Kính Tế đang uống rượu trò chuyện cùng Kim Bảo trong phòng. Mành ngoài cửa phòng buông xuống và cửa phòng khoá chặt.

Lưu Nhị tới giựt tấm mành xuống, thấy cửa khoá thì đập cửa gọi lớn:

- Kim Bảo đâu ra đây.

Kính Tế sợ hãi, không dám thở mạnh. Lưu Nhị đạp tung cửa bước vào, Kim Bảo vái chào rồi hỏi:

- Lưu Nhị thúc có chuyện gì tới đây vậy?

Lưu Nhị mắng:

- Con dâm phụ, mày thiếu tao ba tháng tiền phòng, mà còn ở đây sao? không cút đi cho rồi.

Kim Bảo tươi cười:

- Nhị thúc làm gì nóng vậy, cứ về nhà đi rồi tôi sẽ bảo ma ma tôi đem tiền tới nạp.

Lưu Nhị đánh ngay Kim Bảo một quyền. Kim Bảo ngã xuống đất, đập đầu vào cạnh cửa chảy máu chan hoà rồi mắng:

- Con dâm phụ, còn đợi đến bao giờ mới chịu đem tới, bây giờ tao cần tiền ngay.

Đoạn quay sang, thấy Kính Tế còn đứng đó, liền hất tung bàn tiệc bát đĩa rơi vỡ lảong xoảng. Kính Tế bảo:

- Á à, ngươi là ai mà dám tới đây hành hung đập phá như thế này?

Lưu Nhị trừng mắt quát lớn:

- Tao là ai à? tao đẻ ra đạo sĩ như mày.

Nói xong nắm đầu Kính Tế dìm xuống đất mà đánh đấm túi bụi.

Khách khứa đang ăn uống vui chơi, thấy vậy đều lảng đi hết. Chủ nhân Tạ tam lang mới đầu thấy Lưu Nhị có vẻ say lại quá hung hăng nên không dám ngăn cản, sau thấy Lưu Nhị đánh người quá tàn nhẫn, mới bước vào khuyên:

- Lưu Nhị thúc à, xin bớt giận, người này không biết đại danh của nhị thúc nên mới hỏi vậy, xin nhị thúc đừng chấp, hãy nể mặt tôi mà tha cho người ta.

Nhưng Lưu Nhị nào có chịu nghe, cứ đánh đấm đến lúc Kính Tế mềm nhũn dưới đất mới thôi, lại gọi đàn em đem dây tới trói cả Kính Tế lẫn Kim Bảo lại, đoạn quát:

- Sáng sớm mai đem nó tới phủ lão gia.

Nguyên là gần đây Chu Thủ bị cho Lưu Nhị làm công việc tìm bắt trộm đạo tại địa phương, kiêm luôn việc coi giữ an ninh trên sông, nên bây giờ Lưu Nhị mới nói vậy.

Đêm đó, Nhiệm đạo sĩ thấy Kính Tế không về miếu thì nghĩ rằng Kính Tế ngủ lại ngoài tiệm.

Sáng sớm hôm sau, đám lính tuần đem Kính Tế và Kim Bảo giải tới phủ Chu Thủ bị, nói với hai quản gia Trương Thắng và Lý An rằng:

- Lưu Nhị thúc bảo chúng tôi giải hai tên này tới đây, một tên là đạo sĩ trong miếu của Nhiệm trưởng đạo, một tên là ca nữ Kim Bảo của nhà họ Trịnh, xin nhị vị quản gia không nên coi thường chúng.

Lại kể thêm một lô tội trạng mà Lưu Nhị bịa đặt ra.

Trương Thắng và Lý An đòi có tiền trà nước. Lính tuần hạch Kính Tế, bắt đưa tiền, Kính Tế đáp:

- Đang đem thì tôi bị Lưu Nhị hành hung, thương tích đầy mình, quần áo rách nát như thế này, làm gì có tiền mà đưa, chỉ có cây trâm bạc này thôi.

Nói xong rút cây trâm trên đầu xuống đưa cho lính tuần. Bọn lính tuần ngắm nghía cây trâm, rồi đưa cho Trương Thắng và Lý An mà nói:

- Nó không có tiền, chỉ có cây trâm bạc này thôi.

Trương Thắng bảo:

- Dẫn nó lại gần đây, để ta hỏi nó.

Lính tuần dẫn Kính Tế tới, bắt quỳ trước mặt Trương Thắng. Trương Thắng hỏi:

- Ngươi vào làm đồ đệ của Nhiệm đạo sĩ từ bao giờ, sao ta không biết ngươi? tục danh của ngươi là gí?

Kính Tế đáp:

- Tôi nguyên là con nhà tử tế, cũng mới vào làm đạo sĩ chưa được bao lâu.

Trương Thắng bảo:

- Ngươi đã làm đạo sĩ thì phải chuyên tâm học đạo niệm kinh, sao lại la cà nơi tửu điếm trà đình, giao thiệp với ca nhi kỹ nữ? ngươi có biết soái phủ đây là nơi nào không, mà tới đây lại không chịu nạp tiền? mà ta hỏi tục danh ngươi là gí?

Kính Tế đáp:

- Tục danh của tôi là Trần Kính Tế.

Trương Thắng bảo:

- Cây trâm này của ngươi nào có giá trị gì, ta đâu thèm.

Tuy nhiên vẫn bỏ cây trâm vào tay áo rồi bảo đám lính tuần:

- Để thưa với lão gia vụ này, nó làm đạo sĩ, tiền bạc thí chủ thập phương cúng vào thiếu gì mà nó keo kiệt không chịu đưa. Lát nữa sẽ đánh trượng hoặc kẹp tay chân cho nó biết mùi.

Đoạn bảo dẫn Kim Bảo tới gần. Kim Bảo bước tới, đưa ra ba lạng bạc, Trương Thắng nhận bạc rồi dịu giọng bảo:

- Để lát nữa lão gia đăng đường, nếu lão gia nổi giận thì chúng ta cũng nhẹ tay, gia hình sơ sài qua loa, còn nếu lão gia vui vẻ thì chúng ta tha cho ngươi về.

Lát sau Chu Thủ bị đăng đường, quan lại ngồi nghiêm chỉnh hai bên, ngoài là lính hầu sắp hàng đứng đợi.

Nguyên Xuân Mai đã hạ sinh một con trai, nay cũng được khoảng nửa năm. Đứa nhỏ mặt đầy như mâm xôi, môi như thoa son, mắt như sao sáng. Chu Thủ bị yêu quý vô ngần, coi như bảo vật vô giá. Ít tháng sau khi Xuân Mai sinh nở, đại phu nhân chết, Xuân Mai được nâng lên hàng chính thất, tới ở tại chính phòng, gồm năm gia nhà nguy nga lộng lẫy. Chu Thủ bị lại cho mua hai nhũ mẫu là Ngọc Đường và Kim Quý, cùng hai tiểu a hoàn là Thúy Hoa và Lan Hoa, bốn người đó lo hầu hạ ca nhị Để hầu hạ riêng Xuân Mai còn có hai a hoàn rất được sủng ái, giỏi đàn hát là Hải Đường và Nguyệt Quế, đều mới mười bảy tuổi.

Ca nhi lại chỉ thích được Trương Thắng bồng ra ngoài chơi.

Những khi Chu Thủ bị đăng đường xử việc, Trương Thắng thường bồng ca nhi đứng ở thềm hậu đường nhìn ra.

Lần này cũng vậy, Chu Thủ bị đăng đường thì Trương Thắng lui vào, bồng ca nhi ra đứng trên thềm hậu đường nhìn ra.

Kính Tế và Kim Bảo được dắt lên quỳ trước thềm công đường, Chu Thủ bị xem văn thư ghi tội trạng rồi quát:

- Tên kia, ngươi đã làm đạo sĩ, sao không giữ gìn giới luật mà đêm hôm lại tới nhà ca nữ uống rượu vui chơi, khiến cho rối loạn trật tự địa phương, ngươi đã có hành động nhơ bẩn như vậy thì phải bị trừng phạt.

Đoạn quát tả hữu lôi Kính Tế ra giữa sân đánh hai chục trượng, lột mũ áo đạo, bắt phải hoàn tục. Còn Kim Bảo thì bị kẹp chân tay rồi sẽ đuổi về cho tiếp tục làm ăn.

Tả hữu lôi Kính Tế ra sân, lột bỏ mũ áo đạo rồi đem trượng đến đánh hai chục trượng. Thương cho Kính Tế đau đớn quần quại, thịt nát máu rơi, muôn phần thảm khốc.

Ca nhi trên tay Trương Thắng thấy vậy thì xua tay ra ý ngăn cản, rồi nhoài người ra phía Kính Tế như muốn đòi bồng mà khóc ầm lên. Trương Thắng sợ Chu Thủ bị nghe được, vội bồng ca nhi vào hậu đường. Ca nhi vẫn la khóc, Xuân Mai vội hỏi:

- Làm sao để ca nhi khóc vậy?

Trương Thắng đáp:

- Trần đạo sĩ, ở miếu của Nhiệm đạo sĩ mắc tội bị lão gia sai đánh đòn tại sân, ca nhi trông thấy khóc và như là muốn vị đạo sĩ đó bồng, tôi bồng vào, nhưng ca nhi vẫn khóc.

Xuân Mai nghe nói họ Trần thì trong lòng hơi ngờ vực, vội dời gót ra sau mành lén nhìn ra, thì thấy người bị đánh trông rất giống Kính Tế, liền nghĩ bụng:

- Tại sao Kính Tế lại xuất gia làm đạo sĩ như vậy?

Đoạn quay lại hỏi Trương Thắng:

- Người này tên thật là gì?

Trương Thắng đáp:

- Bẩm phu nhân, người này tục danh là Trần Kính Tế, hồi nãy tôi có hỏi nên biết.

Xuân Mai thầm nghĩ:

- Đúng Kính Tế rồi, bây giờ biết làm sao đây...

Đoạn quay lại bảo Trương Thắng:

- Ngươi ra thỉnh lão gia vào hậu đường cho ta thưa chuyện.

Tả hữu đang đánh đòn Kính Tế và kẹp tay chân Kim Bảo thì Chu Thủ bị được Trương Thắng nói là phu nhân mời có chuyện, bèn bảo tả hữu tạm ngưng rồi đứng dậy quay vào hậu đường.

Xuân Mai nói:

- Vị đạo sĩ đang bị đánh chính là người em họ con bà cô của tôi, xin gia gia vì tôi mà tha tội cho một lần.

Chủ Thủ bị vội bảo Trương Thắng:

- Nếu vậy ngươi ra bảo chúng nó tha ngay.

Đoạn quay lại bảo Xuân Mai:

- Phu nhân có cần gặp tiểu cữu đó chăng?

Xuân Mai nghe vậy liền bảo Trương Thắng:

- Ừ, ngưoi gọi người đó vào đây cho ta.

Trương Thắng vừa quay đi thì Xuân Mai ngẫm nghĩ rồi gọi lại bảo:

- Nhưng thôi, ngươi cứ cho người đó về, để hôm khác ta sẽ gọi tới cũng được. Cứ để người đó đội mũ đạo, mặc áo đạo, đừng lột ra bắt hoàn tục.

Do đó Kính Tế được tha ra, đội mũ mặc áo rồi về thẳng miếu.

Trong khi ấy, Nhiệm đạo sĩ được người tới báo:

- Đồ đệ của đạo trưởng là Trần Tông Mỹ, tối qua tới tửu lầu uống rượu với ca nữ Kim Bảo, rồi không hiểu sao bị Toa. Địa Hổ Lưu Nhị đánh cho nhừ tử, rồi cả Tông Mỹ và Kim Bảo đều bị giải lên phủ Thủ bị, nghe đâu bị đánh đòn, lột mũ áo và bắt hòan tục.

Nhiệm đạo sĩ nghe xong, quay vào phòng riêng, mở rương tiền bạc ra coi thì thấy hao hụt quá nhiều, tức giận lắm, rồi vì phần tuổi già, phần vì quá mập, nen uất lên mà ngã xuống đất. Đám đồ đệ và tiểu đồng hoảng lên chạy tới cứu cấp và gọi lang y tới cho thuốc. Nhưng cứu cấp gì cũng không tỉnh lại. Tới nửa đêm thì tắt thở, thọ sáu mươi ba tuổi.

Lúc đó Kính Tế được tha ra, mò về miếu, thì người hai bên đường bảo:

- Ngưoi còn dám về miếu nữa hay sao? sư phụ ngươi uất giận vì ngươi mà tịch rồi.

Kính Tế hết hồn, ba chân bốn cẳng tức tốc quay về huyện Thanh Hà.

Lại nói về Xuân Mai, sau khi can thiệp thả Kính Tế ra thì thấy người khó ở, quay vào phòng rieng, cởi bớt áo ngoài, lên giường nằm nghỉ. Lát sau thì tự nhiên đau bụng dữ dội, kêu gào luôn miệng. Lớn bé trong phủ náo loạn cả lên, con gái lớn của Chu Thủ bị tới hỏi:

- Phu nhân làm sao vậy? thấy trong mình thế nào?

Nhưng Xuân Mai xua tay bảo:

- các ngươi lui hết đi, để mặc ta.

Chu Thủ bị cũng vừa xong việc ngoài công đường trở vào, thấy Xuân Mai nằm trên giường kêu đau luôn miệng thì hoảng lên, bước vào cầm tay hỏi:

- Phu nhân thấy trong người thế nào?

Xuân Mai không đáp, mà hỏi:

- Người đạo sĩ vừa được tha không lạy tạ gia gia hay sao?

Chu Thủ bị bảo:

- Hay là hồi nãy tôi cho đánh em họ của phu nhân nên phu nhân đau lòng mà sinh ra thế này?

Xuân Mai không nói gì, cứ nhăn nhó kêu đau.

Chu Thủ bị không biết làm sao, liền bước ra ngoài gọi Trương Thắng và Lý An tới hỏi:

- Các ngươi biết đạo sĩ đó là em họ của phu nhân, sao không chịu nói sớm cho ta biết, để ta sai đánh đòn người đó, khiến pu nhân xúc động, rồi thành bệnh như thế này? mà ta đã có ý muốn cho gọi người đó vào bái kiến phu nhân, sao các ngươi lại cho về? thật các ngươi không được việc gì cả.

Trương Thắng đáp:

- Bẩm lão gia, hồi nãy chính phu nhân ra lệnh cho tiểu nhân là bảo người đó cứ về, ngày khác phu nhân sẽ cho gọi, tiểu nhân đâu dám tự ý cho về.

Nói xong chạy vào phòng Xuân Mai khóc lóc mà thưa:

- Xin phu nhân nói với lão gia một tiếng, kẻo lão gia đang trách phạt tiểu nhân và Lý An.

Xuân Mai chau mày bảo:

- Thỉnh lão gia vào đây.

Chu Thủ bị bước vào, Xuân Mai nói:

- Tự nhiên trong người tôi khó chịu, có liên can gì tới chúng nó đâu mà gia gia trách phạt chúng nó. Còn cậu em họ của tôi là đạo sĩ mà hành vi bất chính cũng là có lỗi, để rồi tôi sẽ cho gọi và khuyên dạy sau.

Nhờ Xuân Mai nói vậy mà Chu Thủ bị mới chịu tha cho Trương Thắng và Lý An. Rồi thấy Xuân Mai còn đau đớn, bèn sai hai người:

- Mau thỉnh y quan lại đây coi bệnh cho phu nhân.

Hai gia nhân lạy tạ bước ra.

Lát sau y quan tới chẩn mạch Xuân Mai rồi nói:

- Lệnh phu nhân đây vì lục dục thất tình xung động khiến cho khí tạ tại tâm mà thành bệnh.

Nói xong cho thuốc rồi cào từ. Xuân Mai không chịu uống thuốc. A hoàn không dám nói gì, chỉ thưa riêng với Chu Thủ bị. Chu Thủ bị phải thân vào dỗ dành, Xuân Mai chỉ chịu uống một hớp rồi nhất định không uống nữa. Chu Thủ bị không biết sao, đành bước ra.

Lát sau đại a hoàn Nguyệt Quế bưng bát thuốc tới thưa:

- Thỉnh phu nhân dùng thuốc cho mau khoẻ.

Xuân Mai cầm bát thuốc hắt vào mặt Nguyệt Quế mà mắng:

- Con khốn này, mày chỉ muốn đem những thứ cay đắng đến cho tao uống hay sao? bụng dạ tao có gì đâu mà phải uống này uống kia.

Nói xong phạt Nguyệt Quế quỳ trước mặt.

Lát sau một tiểu thiếp của Chu Thủ bị là Tôn Nhị nương đi ngang thấy Nguyệt Quế đang quỳ trong phòng Xuân Mai thì hỏi a hoàn Hải Đường:

- Nguyệt Quế làm sao mà bị đại phu nhân phạt quỳ vậy?

Hải Đường nói nhỏ:

- Nguyệt Quế đem thuốc lại thỉnh đại phu nhân dùng, nhưng phu nhân nói là trong bụng không làm sao, không phải uống thuốc, rồi đổ cả bát thuốc lên đầu Nguyệt Quế mà bắt quỳ.

Tôn Nhị nương bước vào nói:

- Nguyệt Quế nó không hiểu gì nên mới hành động ngu dại, thôi xin đại phu nhân tha cho nó.

Đoạn quay lại bảo Hải Đường:

- Từ sáng tới giờ đại phu nhân chưa dùng thức gì, ngươi xuống bếp đem cháo thịt lên đây để ta thỉnh đại phu nhân dùng.

Xuân Mai cho Nguyệt Quế đứng dậy. Hải Đường xuống bếp múc một bát cháo thịt bốc khói cùng bốn đĩa đồ ăn, để vào mâm, cung kính bưng vào phòng Xuân Mai. Thấy Xuân Mai nằm quay mặt vào tường, không ai dám vào, chờ đến lúc Xuân Mai trở mình, quay mặt ra mới dám mời ăn. Hải Đường thưa:

- Thỉnh phu nhân dùng chút cháo cho tỉnh.

Xuân Mai không nói gì, từ từ nhắm mắt lại. Hải Đường lại thưa:

- Thỉnh phu nhân dùng cháo kẻo nguội.

Tôn Nhị nương đứng bên cũng nói:

- Đại phu nhân từ sáng tới giờ chưa dùng gì, e mất sức, xin ngồi dậy dùng tạm miếng cháo cho khoẻ.

Xuân Mai uể oải ngồi dậy. Hải Đường bưng bát cháo tới, Xuân Mai cầm bát cháo húp một miếng rồi liệng bát cháo vào mâm, nhũ mẫu Kim Quỹ đến bên nhanh tay đỡ được, chỉ đổ cháo chứ không vỡ bát, trong khi Xuân Mai nhăn mặt bảo Tôn Nhị nương:

- Con tiện tỳ nó nấu cháo thế này thì ai ăn được.

Đoạn quay sang bảo Kim Quỹ:

- Ngươi tát vào mặt con tiện tỳ này mấy tát cho ta.

Kim Quỹ vội sấn tới tát Hải Đường mấy tát.

Tôn Nhị nương bảo:

- Đại phu nhân không dùng được cháo này, thì cũng phải ăn cái gì cho đỡ đói chứ.

Xuân Mai bảo:

- Ai chẳng muốn ăn, nhưng bụng dạ tôi không cho tôi ăn nên không ăn được.

Lát sau Xuân Mai gọi tiểu a hoàn Lan Hoa tới bảo:

- Ngươi xuống bếp bảo con tiện tỳ dâm phụ đầu bếp, nói là ta muốn ăn canh thịt gà, bảo nó rửa tay cho sạch, làm một con gà nấu canh ta ăn, bảo nó cho thêm ít dấm sao cho chua chua ta mới dễ ăn.

Tôn Nhị nương bảo:

- Phu nhân đã muốn ăn như vậy thì nhớ bảo Tuyết Nga nó làm mau mau lên, đừng để phu nhân chờ.

Lan Hoa nghe vậy không dám chậm trễ, chạy ngay xuống bếp bảo Tuyết Nga.

- Phu nhân muốn ăn canh thịt gà, bảo chị làm đó, chị làm mau mau lên kẻo phu nhân chờ.

Tuyết Nga nghe vậy, lật đật bắt giết một con gà giò thật béo, chuẩn bị các vật liệu, dùng dao lóc thịt gà, thái nhỏ thành tơ rồi nấu được hai bát canh gà, đưa cho Lan Hoa bưng lên.

Lúc đó đã tối, Xuân Mai sai thắp đèn lên rồi húp canh, nhưng mới húp được một miếng đã nhăn mặt thét lớn:

- Sao thế này? hỏi con dâm phụ là nó nấu thứ canh gì thế này? canh lạt lẽo vô vị như thế này mà bắt ta ăn hay sao? hay là nó muốn chọc giậ ta đây?

Lan Hoa sợ run lên, ba chân bốn cẳng chạy xuống bếp bảo Tuyết Nga:

- Phu nhân chê canh lạt lẽo vô vị, đang chửi mắng rầm lên kia kìa.

Hải Đường bưng canh xuống, Tuyết Nga nuốt giận, im lặng thêm gia vị, nếm thử lại rồi bảo Lan Hoa bưng lên.

Xuân Mai húp một miếng, nhăn mặt kêu mặn rồi hât luôn bát canh nóng xuống đất. Lan Hoa nhanh chân nhảy tránh được nên chỉ bị nước canh văng sơ sài vào quần áo mà không bị phỏng, trong khi Xuân Mai quát:

- Mày xuống bảo con dâm phụ đầu bếp là nó thù oán ta, muốn làm gi thì làm chứ đừng bắt ta phải ăn những thứ như thế này.

Lan Hoa quét dọn nước canh đổ, nhặt mảnh bát đêm xuống bếp nói lại với Tuyết Ngạ Tuyết Nga giận lắm nhưng chỉ nói:

- Mới ngày nào còn là hàng nô tỳ của ta mà bây giờ thì phách lối áp bức ta.

Không ngờ Lan Hoa lên nhà trên học lại với chủ. Xuân Mai mặt đỏ bừng, nghiến răng trợn mắt thét lớn:

- Lôi đầu con nô tỳ dâm phụ đó lên đây cho ta.

Thế là ba bốn a hòan chạy xuống bếp, xúm nhau lại lôi kéo Tuyết Nga lên, bắt quỳ trước mặt Xuân Mai. Xuân Mai nổi giận đùng đùng, túm ngay lấy tóc Tuyết Nga, dầm đầ xuống đánh mà mắng:

- Con dâm phụ nô tài, mày nói cái gì, ngày nào làm sao mà bây giờ làm sao? dù có ở trong nhà Tây Môn Khánh, mày cũng không phải là chủ ta cơ mà. Còn bây giờ tao bỏ tiền ra mua mày về là để hầu hạ cho tao. Vậy mà sai mày nấu canh, mày nấu canh lạt lẽo như nước ốc, rồi sau mày lại làm mặn như chát như chườm, tao rầy mắng thì mày lại bảo là áp bức, như thế này thì tao còn nuôi mày làm gì.

Nói xong gọi Trương Thắng, Lý An tới, sai dẫn Tuyết Nga ra sân lột áo đánh ba chục côn.

Gia nhân đốt đuốc lên sáng trưng. Tuyết Nga quỳ giữa sân. Trương Thắng, Lý An cầm côn đứng đợi cho Tuyết Nga cởi áo ra, nhưng Tuyết Nga không chịu cởi.

Chu Thủ bị thấy ồn ào cũng bước vào xem chuyện gì, đến lúc rõ chuyện cũng chỉ im lặng, sợ nói gì sẽ làm Xuân Mai giận thêm. Chỉ có Tôn Nhị nương đứng bên khuyên:

- Đại phu nhân muốn trừng phạt nó thế nào cũng được, muốn sai đánh nó bao nhiêu cũng được, nhưng cho nó được miễn cởi áo, có gia gia ở đây, nhà lại nhiều nam gia nhân, làm vậy e không tiện, xin phu nhân nghĩ lại.

Xuân Mai tức quát thét lên:

- Can ngăn ta thì ta sẽ giết ca nhi rồi thắt cổ tự ải theo, muốn bênh con tiện tỳ đó thì giữ nó lại, để ta chết cho xong.

Thét xong, thì vật vã rồi lăn ra giường hôn mê bất tỉnh. Chu Thủ bị hoảng lên, bước tới đỡ dậy mà bảo:

- Kìa, có ai dám can ngăn gì đâu, nàng muốn thế nào cũng được.

Xuân Mai từ từ tỉnh dậy, thở hồng hộc, không nói được gì.

Chu Thủ bị đưa mắt. Thế là Trương Thắng và Lý An vội bước tới lột trần Tuyết Nga ra mà đánh tới tấp. Thương cho Tuyết Nga thân thể loã lồ, máu tuôn thịt nát, đau đớn tới ngất đi.

Đánh đủ ba chục côn thì Trương Thắng và Lý An ngừng ta, vã nước cho Tuyết Nga tỉnh lại.

Đang đêm như vậy mà Xuân Mai cho gọi Tiết tẩu lại lập tức sai đem Tuyết Nga đi bán, lại dặn riêng Tiết tẩu rằng:

- Ta cũng chỉ cần bán đúng tám lạng thôi, nhưng với điều kiện là ngươi phải bán con tiện tỳ đó vào nhà ca nhi kỹ nữ. Làm đúng lời ta, ngươi sẽ có thưởng, còn làm trái lời ta thì đừng nhìn mặt ta nữa.

Tiết tẩu đáp:

- Làm trái lời phu nhân rồi làm sao tôi sống.

Nói xong lãnh Tuyết Nga về nhà ngaỵ Tuyết Nga khóc lóc tới sáng. Tiết tẩu khuyên:

- Thôi, đừng khóc nữa, chẳng qua la oan gia cả. Lão gia thì thương thư thư lắm, nhưng thư thư lại có oán cừu cũ với phu nhân nên mới bị xử ác như thế này. Phu nhân bây giờ có con trai nên lão gia không dám nói gì, chỉ biết chiều theo. Cả Tôn Nhị nương cũng phải nể sợ. Cho nên thư thư bị bạc đãi cũng không có gì lạ, vậy thì chẳng việc gì phải khóc.

Tuyết Nga cảm tạ Tiết tẩu rồi gạt lệ nói:

- Bây giờ tôi chỉ mong tẩu tẩu tìm nhà nào tử tế cho tôi vào ở, miễn sao có cơm ăn áo mặc là được.

Tiết tẩu nói:

- Chẳng giấu gì thư thư, phu nhân buộc tôi phải bán thư thư vào nhà ca nhi kỹ nữ chứ không được bán vào nhà nào khác, nhưng tôi có con có cháu cũng phải giữ cái đức, để rồi tôi tìm nơi nào chồng một vợ một hoặc một nơi tử tế nhân từ cho thư thư nương tựa.

Tuyết Nga hết lời cảm ơn Tiết tẩu rồi gắng đổi sầu làm vui.

Hai hôm sau, một người hàng xóm có cửa hàng buôn bán là Trương ma ma tới gọi Tiết tẩu:

- Nhà tẩu tẩu có vị nương tử nào mới tới mà cứ âu sầu khóc lóc vậy?

Tiết tẩu ló đầu ra bảo:

- Mời Trương ma ma vào chơi.

Trương ma ma bước vào, Tiết tẩu mời ngồi rồi nói:

- Nương tử đây vì không hợp ý một vị phu nhân nên vừa ra khỏi, hiện tạm ngụ tại đây với tôi ít ngày rồi tìm nơi nương tựa. Tôi tính là tìm cho nương tử nơi nào chồng một vợ một, tử tế nhân từ để sau này khỏi khổ.

Trương ma ma bảo:

- Ở gần đây tôi biết có một người khách thương buôn bông gòn ở Sơn Đông, ông ta họ Phan, là con thứ năm trong nhà, năm nay ba mươi bảy tuổi, thường tới nhà tôi chơi. Ông ta goá vợ đã lâu, hiện còn một mẹ già ngoài thất tuần đang nằm bệnh, nhà cũng neo người nên thường khẩn khoản nhờ tôi tìm cho một người vợ tử tế chăm chỉ, nhưng tôi chưa thấy đám nào xứng đáng. Nay nương tử đây tuổi cũng tương đương, có muốn kết thân với ông ta không?

Tiết tẩu bảo:

- Chẳng giấu gì ma ma, nương tử đây năm nay ba mươi lăm tuổi, có nhan sắc, giỏi chuyện nữ công gia chanh, lại quen ở trong gia đình quyền quý cao sang, hiện phủ Thủ bị đòi đúng giá ba chục lạng, nếu được thì ma ma giúp giùm cho.

Trương ma ma hỏi:

- Có của cải đồ đạc gì đem theo không?

Tiết tẩu đáp:

- Đồ đạc rương hòm thì không có, nhưng có nữ trang trâm thoa trên người.

Trương ma ma bảo:

- Vậy thì để tôi nói với người ta, có gì người ta tới đây coi mặt.

Nói xong cáo từ mà về.

Tới chiều, Trương ma ma tới gặp người họ Phan nói chuyện.

Hôm sau, Trương ma ma dẫn người họ Phan lại. Người này thấy Tuyết Nga có nhan sắc, còn vẻ trẻ trung lại nghe Tiết tẩu và Trương ma ma nói dối là mới hai mươi lăm tuổi, nen trả giá hai mươi lăm lạng. Tiết tẩu không kỳ kèo gì thêm, làm giấy tờ ngay rồi cho người họ Phan đem Tuyết Nga về.

Sau đó Tiết tẩu nhờ người sửa lại giấy tờ, ghi là bán với giá tám lạng, rồi đem giấy tờ và bạc vào đưa cho Xuân Mai, nói là đã bán cho nhà kỹ nữ ca nhi rồi.

Về phần Tuyết Nga, khi về với người họ Phan, thì ngay canh năm hôm sau, theo người này lên xe tới Lâm Thanh. Lúc đó là vào tháng sáu, ngày dài đêm ngắn, tới nơi thì mới chỉ xế chiều. Người họ Phan đưa Tuyết Nga tới một đại tửu lầu hơn trăm phòng, dẫn vào một phòng, trong đó có một người đàn bà khoảng ngọai ngũ tuần đang ngồi trên giường, năm bảy người con gái khoảng mười bảy mười tám tuổi đang đàn hát vui chơi, người nào cũng phấn son loè loẹt, ăn mặc mỏng manh hở hang.

Nhìn khung cảnh đó, Tuyết Nga hiểu ngay là tên Phan Ngũ chỉ là một loại Mã Giám Sinh buôn người, và nàng đã sa chân vào chốn thanh lâu, chỉ còn biết ngậm ngùi than khổ.

Tuyết Nga được đặt tên là Ngọc Nhi, ngày ngày theo đồng bạn đi các phfong tại tửu lầu đàn hát chuốc rượu mua vui cho khách bốn phương ghé lại tìm vui.

Mới đầu thì Tuyết Nga không chịu, nhưng Phan Ngũ đánh nàng một trận ê ẩm cả người, rồi nhốt trong phòng luôn mấy ngày, mỗi ngày chỉ cho hai bát cơm, bắt phải học đàn hát, học mà không thuộc là bị đòn đến thâm tím mình mẩy.

Khi học tập tạm được, Phan Ngũ mới cho quần áo đẹp, nữ trang và vật dụng son phấn quơng lược, bắt ngắm vuốt cho đẹp, rồi ra đứng cửa cười cợt chào mời.

Từ đó:

Dập dìu lá gió cành chim,

Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh.

Một hôm Trương Thắng được Chu Thủ bị sai tới bến Lâm Thanh mua mười thạch men rượu để về phủ làm rượu. Tọa Địa Hổ Lưu Nhị thấy anh rể mình tới thì mời lên tửu lầu, chọn một căn phòng đẹp, bày tiệc khoản đãi. Đám tửu bảo xun xoe tới thưa:

- Bẩm nhị thúc, có cho gọi mấy ca nữ lên chuốc rượu chăng?

Lưu Nhị dặn:

- Ngươi gọi mấy đứa mới mới một chút, chẳng hạn như con Thư Nhi của nhà họ Vương, con Kiều Nhi của nhà họ Triệu, con Kim Nhi và Ngọc Nhi của nhà họ Phan. Gọi bốn đứa đó lên đây hầu hạ quan nhân đâyh.

Tửu bảo vâng dạ xuống lầu. Lát sau nghe tiếng cười khúc khích, rồi bốn ca nữ lộng lẫy như bốn bông hoa, quần áo bằng lụa mỏng dính kéo nhau tới trước tiệc sụp lạy bốn lạy rồi đứng một bên chờ lệnh.

Trương Thắng nhìn bốn ca nữ, rồi chợt giật mình nghĩ thầm:

- Sao trong này có một người lại giống như Tuyết Nga... làm sao mà nàng lại tới nông nỗi này?

Tuyết Nga cũng nhận ra Trương Thắng,nhưng chỉ cúi đầu im lặng.

Trương Thắng hỏi Lưu Nhị:

- Ca nhi kia là của nhà ai?

Nói xong đưa mắt về phía Tuyết Ngạ Lưu Nhị đáp:

- Nó là Ngọc Nhi, do Phan Ngũ mua về nuôi mới được ít hôm. Con Kim Nhi kia cũng là của Phan Ngũ. Con kia là Thư Nhi của nhà họ Vương, còn con sau cùng là Kiều Nhi của nhà họ Triệu.

Trương Thắng bảo:

- Tôi thấy Ngọc Nhi có vẻ quen quen.

Đọan vẫy Tuyết Nga tới gần hỏi nhỏ:

- Nàng là Tuyết cô nương phải không? làm sao lại đến nỗi này?

Tuyết Nga nghe hỏi thì nước mắt ròng ròng mà đáp:

- Nói ra thì dài dòng lắm. Nguyên là tôi bị Tiết tẩu lừa gạt, bán với gia hai mươi lăm lạng cho một kẻ buôn người, do đó bị dẫn về đây làm ca nữ.

Nói xong gạt nước mắt, yểu điệu với tay rót rượu cho Trương Thắng. Trương Thắng từ lâu thấy Tuyết Nga xinh đẹp mà bị chủ bạc đãi, trong lòng đã thầm để ý, nay gặp cảnh này lấy làm đau xót lắm.

Tuyết Nga ngồi cạnh, ân cần tiếp đãi. Chỉ lát sau, hai người đã chuyện trò thân mật. Tuyết Nga lại lấy đàn tỳ bà tới đàn hát một khúc cho Trương Thắng nghe. Hát xong, được Trương Thắng mời ngồi cùng uống rượu, kể lể tâm tình, lấy làm hợp ý lắm.

Lưu Nhị thấy vậy, bảo Tuyết Nga đêm nay nghỉ với Trương Thắng. Tuyết Nga nhận lời ngaỵ Đêm đó, hai người khăng khít chẳng khác vợ chồng. Trương Thắng cảm thấy mình si mê Tuyết Nga thật sự.

Sáng hôm sau, Lưu Nhị lại cho bày tiệc khoản đãi Trương Thắng và Tuyết Nga. Ăn uống no say, Trương Thắng mới sai gia nhân xếp dọn hành lý và các vật dụng đã mua để về phủ Chu Thủ bị. Lúc ra về, Trương Thăng tặng Tuyết Nga ba lạng bạc, lại ân cần dặn dò Lưu Nhị phải che chở Tuyết Nga, không để ai bắt nạt.

Từ đó Trương Thắng luôn luôn tìm tới gặp gỡ ái ân với Tuyết Nga. Hàng tháng, Trương Thắng cho Phan Ngũ vài lạng bạc để bao luôn Tuyết Nga, không cho tiếp khách nữa. Lưu Nhị muốn lấy lòng Trương Thắng nên không thu tiền phòng của Tuyết Nga. Nhờ vậy, Tuyết Nga sống dư giả dễ chịu. Lại nói về trong nhà Tây Môn Khánh, sau khi Tây Môn Đại Thư tự ải chết, thì ít lâu sau, đại quản gia Lai Chiêu cũng bị bệnh mà qua đời. Vợ Lai Chiêu đem con là Thiết Côn đi lấy chồng khác. Lai Hưng thay thế Lai Chiêu, cai quản đám gia nhân và trông coi nhà cửa.

A hoàn Tú Xuân lại xuất gia đầu Phật, theo Vương sư bà làm đồ đệ.

Lai Hưng từ khi vợ là Huệ Tú chết, vẫn ở một mình. Về sau, nhũ mẫu Như Ý thường bồng Hiếu ca nhi tới phòng Lai Hưng chơi. Lai Hưng thấy Như Ý không đẹp nhưng có duyên, thường mời ăn thức này thức kia, dần dần hai người quyến luyến, ăn nằm với nhau. Nguyệt nương biết chuyện, gọi cả hai lên mắng cho một trận, rồi chọn ngày tốt, cho Như Ý một bộ quần áo mới và bốn cây trâm bạc, cho về làm vợ Lai Hưng. Từ đó ban ngày, vợ chồng mỗi người một việc, nhưng ban đem thì sum họp đầm ấm.

Thời gian qua mau, thấm thoát đã tới rằm tháng tám, sinh nhật của Nguyệt nương. Ngô Đại cữu mẫu, Nhị cữu mẫu và ba vị sư bà cùng tới đưa lễ mừng và ở lại ăn tiệc sinh nhật. Đến tối, mọi người ngồi cả tại phòng cũ của Ngọc Lâu uống trà trò chuyện. Lát sau thì ba vị sư bà thay nhau giảng Phật pháp và đọc kệ.

Khoảng canh hai, Nguyệt nương gọi đem trà, chẳng có a hoàn nào thưa, Nguyệt nương phải trở lên thượng phòng tự mình lấy trà. Nhưng vừa đẩy cửa bước vào, thì thấy ngọn đèn trong phòng đượ vặn nhỏ lại, Đại An và Tiểu Ngọc đang ôm nhau ngồi trên tràng kỷ thầm thì trò chuyện. Hai đứa thấy chủ vào, vội buông nhau ra. Nguyệt nương chỉ mắng:

- Đồ khốn, không coi trà nước gì cả, cứ ngồi đây mà làm yêu làm quỷ hay sao?

Tiểu Ngọc vặn đèn lên rồi ngượng ngùng đáp:

- Để tôi bảo Trung Thu nó pha trà đem lên.

Nói xong lủi ra ngoài mất. Đại An cũng nhân dịp lẻn ra theo.

Hôm sau, khi khách khứa về hết, Nguyệt nương gọi Lai Hưng lên, bảo dọn nhà ra căn nhà Lai Chiêu ở trước để tiện cho Đại An. Nguyệt nương lại gọi Đại An lên cho một cái giường, một bộ quần áo mới, một cái mũ mới, một đôi hài mới, cũng gọi Tiểu Ngọc tới cho hai cái trâm bạc, hai món nữ trang bằng vàng và hai bộ quần áo lụa, rồi chọn ngày tốt, cho hai người thành vợ chồng. Ban ngày mỗi người một việc, ban đem thì vợ chồng sum họp đầm ấm.

Từ đó Tiểu Ngọc thường lén lấy đồ ăn bánh trái trong phòng Nguyệt nương đem về phòng cho chồng ăn. Nguyệt nương biết nhưng cứ lời đi. Thật đúng như người ta thường nói:

Qúa yêu không còn sáng suốt,

Tham lam không biết chán chê,

Làm chủ mà quá dễ dãi,

Gia nhân đâu biết nể vì.

Về phần Bình An, thấy Đại An được lấy Tiểu Ngọc làm vợ, lại được Nguyệt nương cho áo quần đồ đạc, thì trong lòng không vui. Bình An năm nay hai mươi hai tuổi, nghĩa là lớn hơn Đại An hai tuổi, vậy mà chưa được chủ lo cho yên bề gia thất.

Nguyên tiệm dược phẩm của Tây Môn Khánh cũng còn là tiềm cầm đồ. Một hôm có người tới cầm hai món nữ trang để lấy ba chục lạng bạc, hẹn là một tháng sau sẽ trả cả vốn lẫn lời để chuộc đồ về. Phó quản lý cất đồ vào tủ như thường lệ. Không ngờ Bình An thấy của tối mắt, lòng tham nổi dậy, đánh cắp hai món nữ trang đó, bán lấy tiền, tới nhà một kỹ nữ, gọi luôn một lượt hai kỹ nữ ngủ đêm với mình và ở luôn đó hai đêm.

Chủ chứa thấy Bình An lạ mặt, lại tiêu tiền như rác thì nghi ngờ, sợ liên luỵ, liền báo với lính tuần. Lính tuần tới đánh Bình An hai bạt tai, trói lại mà dẫn đi.

Lại nói về Ngô Điển Ân, mới thăng chức Tuần kiểm, đang cưỡi ngựa đi trên đường, tình cờ trông thấy đám lính tuần đang dẫn một người đi thì gọi là hỏi:

- Người này là ai, phạm tội gì vậy?

Lính tuần quỳ thưa:

- Tên này ở đâu tới xóm kỹ nữ, ăn tiêu phung phí, trong người nhiều tiền bạc, rất khả nghi, nên bắt lại tra hỏi.

Ngô Điển Ân bảo:

- Dẫn nó lại phủ cho ta thẩm vấn.

Nói xong cưỡi ngựa về trước. Bình An bị dẫn vào phủ Tuần kiểm. Ngô Điển Ân ngồi vào án thư tại sảnh đường, quân hầu đeo cung tên cầm giáo mác đứng dọc hai bên. Bình An quỳ trước án thư, nhận ra Ngô Điển Ân, nghĩ bụng:

- Lúc trước người này là quản lý của gia gia mình, nếu nhận ra mình tất sẽ tha ngay.

Do đó thưa rằng:

- Tiểu nhân là Bình An, gia nhân trong nhà Tây Môn lão gia.

Ngô Điển Ân hỏi:

- Ngươi đã là gia nhân, sao lại lấy cắp nữ trang tiền bạc của chủ?

Bình An đáp:

- Mấy món nữ trang đó là do Đại nương tôi cho một người thân thích ở ngọai thành mượn, hôm qua sai tôi đi đòi về, nhưng đường xa về trễ, cổng thành đã đóng, không vào thành được, nên tôi phải ngủ đỡ một đêm ở ngàoi, không ngờ lại bị hiểu lầm mà phải tới đây.

Ngô Điển Ân quát:

- Đừng nói láo, chủ mày nữ trang nhiều, tiền bạc lắm, đồ đạc vật dụng bằng kim ngân trong nhà không thiếu, nhất định là mày đã ăn cắp để tới xóm yên hoa vui thú. Có gì thì khai thật hết ra, đừng để ta phải dùng tới cực hình.

Bình An nói:

- Quả là Đại nương tôi sai tôi đòi mấy món nữ trang đó, tôi không dám nói dối.

Ngô Điển Ân đập bàn thét:

- Thằng này gớm thật, không đánh không được.

Nói xong quát tả hữu:

- Đem đại côn ra trị tên này cho ta.

Tức thì lính tráng đem côn ra đè Bình An xuống mà đánh, Bình An đau quá kêu rống lên rồi nói lớn:

- Xin cho ngừng tay, tôi xin khai thật.

Ngô Điển Ân ra lệnh ngưng đánh mà bảo:

- Ngươi khai thật thì khỏi bị đòn thêm.

Bình An nói:

- Tôi lấy cắp ngoài tiệm của chủ. Đó là mấy món nữ trang do người ta đem đến cầm thế.

Ngô Điển Ân hỏi:

- Vì cớ gì mày lại lấy cắp của chủ như thế?

Bình An nói:

- Chẳng giấu gì lão gia, năm nay tôi đã hai mưoi hai tuổi rồi mà Đại nương chưa lo gia thất cho tôi, vậy mà thằng Đại An cũng là gia nhân trong nhà, năm nay mới hai mươi tuổi, lại được Đại nương gả a hoàn cho nó, lại cho nó nơi ăn chốn ở, đồ đạc của cải, vì thế mà tôi uất ức, mới lấy trộm mấy món đó.

Ngô Điển Ân ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Chắc là thằng Đại An và chủ mày là Ngô thị có tình ý gì với nhau nên mới gả a hoàn cho nó để có người liên lạc che mặt thế gian. Có thật như thế thì mày cứ khai ra, mày sẽ không liên can gì cả, ta thả mày ra ngay.

Bình An nói:

- Chuyện đó có hay không thì quả tôi không được biết.

Ngô Điển Ân bảo:

- Mày không nói thật thì tao kẹp mày.

Nói xong thét tả hữu lấy kẹp ra. Bình An hoảng lên:

- Xin đừng dùng cực hình, để tôi nói vậy.

Ngô Điển Ân bảo tả hữu cất kẹp đi rồi nói:

- Mày nói thật thì được yên lành, chớ có cứng đầu mà khổ.

Bình An không biết nói sao, chỉ thưa:

- Quả là Đại nương tôi và thằng Đại An có tư tình. Đại An đòi lấy con a hoàn Tiểu Ngọc, Đại nương bằng lòng ngay, lại còn cho nó quần áo nữ trang nữa.

Ngô Điển Ân sai thư lại lấy khẩu cung của Bình An, ghi vào giấy đàng hoàng, rồi cho giam Bình An lại. Đoạn cho trát gọi Nguyệt nương, Đại An và Tiểu Ngọc tới.

Lại nói về Phó Quản lý khi thấy mấy món nữ trang trong tủ biến mất thì hoảng lên, hỏi Đại An. Đại An đáp:

- Đồ đạc cầm thế tôi có biết gì đâu.

Phó quản lý bảo:

- Ta để trong tủ này mà sao biến đi đâu mất.

Nói xong sai Đại An tìm Bình An, nhưng tìm mãi cũng không thấy. Phó quản lý càng hoảng. Người cầm đồ lại tới hỏi chuộc lại, phó quản lý cứ hẹn lần hẹn lữa. Người này tới lui mấy lần không chuộc được, bèn không chịu về, cứ đứng tại tiệm làm rầm lên:

- Tôi cầm thì tôi chuộc lại, món đồ của tôi trị giá bảy tám chục lạng chứ có ít đâu. Tiền vốn tiền lời tôi trả đủ, sao không cho tôi chuộc?

Phó quản lý phải năn nỉ hết lời, người này mới chịu về và hẹn là hôm sau sẽ tới.

Bình An đi cả mấy ngày đêm không về, Phó quản lý biết chắc là Bình An đã lấy cắp, bèn cho người đi tìm kiếm khắp nơi trong huyện.

Hôm sau người cầm đồ lại tới làm rầm lên. Phó quản lý không biết làm sao, đành phải thưa thật với Nguyệt nương là Bình An ăn trộm đồ rồi trốn đi. Nguyệt nương bảo Phó quản lý lấy năm chục lạng bạc mà đền, nhưng người cầm đồ không chịu, nói:

- Món đồ của tôi trị giá bảy tám chục lạng chứ đâu có rẻ như thế.

Phó quản lý đề nghị thêm mười lạng nữa nhưng người này vẫn không chịu, đòi đúng bảy chục lạng. Đôi bên đang lời qua tiếng lại thì có người tới báo:

- Thằng Bình An ăn cắp đồ nữ trang, đem tới nhà kỹ nữ mua vui, hiện đang bị giam tại ty Tuần kiểm, sao không cho người tới lãnh nó ra?

Phó quản lý vội sai Đại An vào báo với chủ. Nguyệt nương bảo:

- Ngô Tuần kiểm là quản lý cũ của nhà này, chuyện có gì đáng lo.

Nói xong sai mời Ngô Đại cữu tới bàn tính. Ngô Đại cữu bảo là nên làm đơn xin lại những đồ vật đã bị trộm.

Hôm sau Phó quản lý cầm đơn tới ty Tuần kiểm, nghĩ bụng là Ngô Điển Ân nghĩ tình cũ, công việc sẽ dễ dàng, nào ngờ Ngô Điển Ân quát mắng thậm tệ, lại còn dọa đánh đòn, sau thì bảo:

- Thằng gia nhân đó khai là Ngô thị và Đại An thông gian, ta đang cho gọi Ngô thị tới để xét hỏi, vậy mà mày dám dẫn xác tới đây đòi nọ đòi kia hay sao?

Phó quản lý đã không lấy lại được vật bị trộm, lại còn bị một phen hoảng vía, liền ba chân bốn cẳng chạy về thưa lại hết với Nguyệt nương, không dám giấu giếm. Nguyệt nương nghe xong lạnh tóat cả người, chưa biết tính sao. Trong khi đó, người cầm đồ tìm tới cổng la lối:

- Mấy người tính sao đây? đồ của tôi không trả mà cũng không chịu đền là thế nào? cứ hẹn lần hẹn lữa dối gạt tôi, hôm nay nói là đi lấy lại đồ vật, rút cục cũng không có cho tôi. Hôm nay mà tính không xong thì biết.

Phó quản lý phải chạy ra dùng lời ngọt ngào nói:

- Xin cứ để cho chúng tôi thêm một hai ngày nữa, đồ vật sẽ được trả lại, làm sao mà mất được, mà nếu không lấy lại đựoc thì chúng tôi xin bồi thường xứng đáng.

Người này vùng vằng bỏ về.

Nguyệt nương trong lòng hết sức lo ngại, cho mời ngay Ngô Đại cữu tới để tìm người tới nói với Ngô Điển Ân, cho dẹp vụ này đi.

Ngô Đại cữu bảo:

- Chỉ sợ là hắn cố tình từ chối, có lẽ mình nên cho hắn ít tiền bạc phẩm vật.

Nguyệt nương bảo:

- Lúc hắn chưa làm quan thì hắn là quản lý cũ của nhà này, lúc đó gia gia tôi có cho hắn vay một trăm lạng, nhưng lại vị tình nên không làm giấy tờ gì cả, nay hắn nỡ lấy ân làm oán như thế này hay sao.

Ngô đại cữu nói:

- Hắn là kẻ vong ân bội nghĩa như vậy thì biết làm sao.

Nguyệt nương nói:

- Xin ca ca tính giùm cho chuyện này, hay là mình cho hắn chục lạng bạc để hắn dẹp vụ này đi, cho mình lãnh lại vật mất trộm mà còn trả lại cho ngừoi ta chứ.

Nói xong sai a hoàn dọn cơm rượu mời Ngô Đại cữu. Ăn xong, Ngô Đại cữu ra về. Nguyệt nương tiễn anh ra cổng.

Tình cờ trông thấy Tiết tẩu dẫn một a hoàn đi ngang. Nguyệt nương gọi lại hỏi:

- Tiết tẩu đi đâu mà ngang đây vậy? sao lâu quá không thấy lại chơi?

Tiết tẩu đáp:

- Đại nương trách cũng phải, nhưng hồi này quả là tôi bận quá, chẳng có lúc nào rảnh rang mà đi được tới đâu.

Nguyệt nương hỏi:

- Tiểu phu nhân Xuân Mai hồi này thế nào?

Tiết tẩu đáp:

- Không còn là tiểu phu nhân nữa mà là đại phu nhân rồi.

Nguyệt nương ngạc nhiên:

- Làm sao mà trở thành đại phu nhân được?

Tiết tẩu đáp:

- Nếu vậy thì Đại nương chưa biết, Xuân Mai thật là tốt số lắm, sinh được con trai ít tháng thì vị đại phu nhân bị bệnh qua đời, Chu lão gia nâng ngay Xuân Mai lên hàng chính thất, rồi lại mua riêng cho Xuân Mai hai nhũ mẫu trông con, bốn a hoàn để hầu hạ, lại còn a hoàn thân tín biết đàn hát nữa. Ôi thôi, bây giờ thì đại phu nhân muốn đánh ai thì đánh, muốn đuổi ai thì đuổi. Chu lão gia chỉ nhất nhất theo lời, vì chỉ sợ đại phu nhân giận. Cách nay ít lâu, chằng hiểu vì sao đại phu nhân sai lôi Tuyết Nga ra, lột áo đánh cho một trận nhừ tử rồi đang đêm cũng cho gọi tôi đến, bảo đem Tuyết Nga đi bán. Hôm nay cũng là vì chuyện đại phu nhân sai mà tôi phải tất tả thế này đây, vậy mà về chưa chắc đã khỏi bị mắng.

Nguyệt nương hỏi:

- Mà sai đi chuyện gì vậy?

Tiết tẩu đáp:

- Thì đại phu nhân đưa tiền cho tôi, bảo là đặt làm mấy thứ nữ trang, hôm nay đi lấy về.

Nguyệt nương bảo:

- Mời Tiết tẩu vào trong này, cho ta xem qua mấy thứ đó được chăng?

Nói xong dẫn Tiết tẩu vào thượng phòng. Tiết tẩu mở chiếc khăn tay đưa ra mấy món nữ trang mới đặt làm cho Xuân Mai. Món nào cũng hình phượng hình rồng, thập phần tinh xảo, lại nhận hạt trân châu, rất sang trọng quý phái. Tiết tẩu cầm từng món, nói giá tiền và tiền công, khoe khoang hết lời.

Hai người đang nói chuyện thì Đại An bước vào.

Hai người đang nói chuyện thì Đại An bước vào.

Nguyệt nương bảo:

- Người cầm đồ lại mới đến đây la lối om sòm, nhất định đòi đồ lại, còn đòi làm dữ nữa chứ. Phó quản lý phải hết lời năn nỉ mới tạm yên. Phó quản lý buồn rầu lắm, về tiệm rồi.

Đại An chưa kịp nói ghì thì Tiết tẩu đã hỏi:

- Có chuyện gì rắc rối vậy?

Nguyệt nương thở dài kể.

- Thằng khốn Bình An cạy tủ trộm mấy món nữ trang do người ta đem cầm rồi đem ra ngoại thành ăn chơi với mấy con kỹ nữ, sau đó thì nó bị bắt giam tại ty Tuần kiểm. Người cầm đồ tới chuộc đồ không được, năm lần bảy lượt tới tiệm rồi tới cả đây làm dữ. Vậy mà Ngô Tuần kiểm lại làm khó, không cho Phó quản lý nhận đồ về trả lại cho người ta, hình như Ngô Tuần kiểm có ý làm tiền. Bây giờ tôi chưa biết tính sao. Phận goá bụa thật khổ, chồng chết đi bị đủ mọi người áp bức khinh bỉ.

Nói xong tủi thân mà khóc, hai hàng nước mắt ròng ròng.

Tiết tẩu nói:

- Đại nương à, có chỗ để Đại nương nhờ cậy, sao không tìm kiếm, lại buồn rầu khóc lóc làm gì. Phu nhân Xuân Mai bây giờ danh giá, lại là người tốt, không quên tình xưa nghĩa cũ, sao Đại nương không cho viết một tấm thiếp rồi tôi đem đi chọ Phu nhân sẽ nhờ Chu lão gia nói với Ngô Tuần kiểm một câu thì chuyện gì cũng xong chứ đừng nói chuyện nhỏ như thế này.

Nguyệt nương bảo:

- Chu Thủ bị là võ quan, đâu có cai quản ty Tuần kiểm.

Tiết tẩu đáp:

- Vậy là Đại nương không biết rồi, triều đình vừa mới gởi sắc thư về, uỷ quyền rộng rãi cho Chu lão gia, hiện lão gia có trách nhiệm về đủ mọi việc, từ việc sông ngòi, việc tiền gạo xe ngựa cho đến việc an ninh tại địa phương. Hôm nọ vụ trộm đạo ở mãi tận Hà Đông mà cũng do tay lão gia xét xử đó.

Nguyệt nương nghe xong bảo:

- Nếu vậy thì phiền tẩu tẩu tới nói với đại phu nhân nhờ lão gia can thiệp gìum tôi. Nếu Ngô Tuần kiểm chịu cho nhận lại những đồ đã bị trộm thì tôi sẽ tặng riêng tẩu tẩu năm lạng để đền ơn.

Tiết tẩu bảo:

- Đại nương nói chuyện tiền bạc làm gì. Chẳng qua là tôi tình cờ biết được chuyện này thì góp ý kiến vậy thôi, chứ đâu trông hòng tiền bạc gì. Thấy Đại nương lo buồn như vậy tôi đâu đành lòng. Bây giờ Đại nương cho viết thiếp rồi tôi đem về nói với phu nhân chọ Có tin tức gì, thành hay không thành, tôi cũng trở lại báo cho Đại nương biết.

Nguyệt nương gọi Tiểu Ngọc đem trà thêm. Tiết tẩu xua tay:

- Thôi, tôi không uống nữa đâu, Đại nương bảo viết thiếp ngay đi, tôi bận rộn nhiều việc lắm, Đại nương không biết.

Nguyệt nương bảo:

- Không uống trà thì tẩu tẩu dùng ít điểm tâm vậy.

Nói xong bảo Tiểu Ngọc dọn bánh trái hoa quả ra mời Tiết tẩu. Nguyệt nương cũng ăn. Tiết tẩu chọn hai cái bánh cho Tiểu Ngọc, bảo cùng ăn. Nguyệt nương cho gọi a hoàn đi theo Tiết tẩu vào phòng, bảo ngồi ăn điểm tâm rồi hỏi:

- Con nhỏ này bao nhiêu tuổi rồi?

Tiết tẩu ngừng ăn đáp:

- Nó mới mười hai, còn nhỏ lắm.

Trong khi Tiết tẩu ăn uống thì Nguyệt nương bảo Đại An viết thiếp. Viết xong vào đưa cho Tiết tẩu. Tiết tẩu bỏ tấm thiếp vào tay áo, rồi đứng dậy cáo từ, đem nữ trang và dắt a hoàn về phủ Chu Thủ bị.

Xuân Mai đang nằm trên giường, đại a hoàn Nguyệt Quế vào thưa:

- Có Tiết tẩu lại.

Xuân Mai ngồi dậy, bảo Nguyệt Quế gọi Tiết tẩu vào, đồng thời sai Tiết tẩu a hoàn Thúy Hoa mở hết các cửa trong phòng. Ánh nắng tràn vào rực rỡ.

Tiết tẩu bước vào tưoi cười:

- Giờ này mà pu nhân chưa dậy hay sao?

Nói xong giở gói nữ trang ra cung kính đưa lên. Xuân Mai bảo:

- Tẩu tẩu cứ tự nhiên, đừng quá chấp lễ như thế, hôm nay trong người tôi hơi mệt mỏi nên dậy trễ quá.

Đọan hỏi:

- Mấy món nữ trang làm xong rồi đấy à?

Tiết tẩu đáp:

- Mãi tối hôm qua họ mới làm xong, tôi phải chờ ở đó xem họ làm, rồi lấy về, hôm nay đem tới trình phu nhân. Chắc là phu nhân đợi lắm.

Xuân Mai hờ hững liếc mắt ngó qua mấy món nữ trang, chê là làm chưa vừa ý, bảo Nguyệt Quế cất đi, và gọi đem trà lên.

Tiết tẩu gọi đứa a hoàn mười hai tuổi vào, bảo lạy chào.

Xuân Mai hỏi:

- Ở đâu đem tới vậy?

Tiết tẩu đáp:

- Nhị nương ở đây và tôi có bàn chuyện là a hoàn Hà Hoa thì chỉ lo việc cơm nước, cần thêm một đứa nữa cho học may vá để sai bảo. Hôm nay tôi dẫn con này tới, nó là con nhà tử tế chất phát ở nhà quê, năm nay mười hai tuổi, ngoan ngoãn chịu khó lắm, mà mặt mũi cũng dễ coi.

Xuân Mai bảo:

- Tìm cho nhị nương thì sao không tìm đứa nào ở thành thị, lanh lợi thạo việc hơn, chứ thứ quê mùa như thế này thì biết gì.

Đoạn hỏi:

- Bao nhiêu đây?

Tiết tẩu đáp:

- Nó quê mùa nên chỉ xin có bốn lạng thôi.

Xuân Mai bảo Hải Đường:

- Ngươi đưa nó qua phòng nhị nương. Tiền bạc ta sẽ trả sau.

Đoạn sai Nguyệt Quế dọn ít đồ ăn và lấy rượu Kim hoa ra mời, nhưng Tiết tẩu vội bảo Nguyệt Quế:

- Xin Nguyệt thư đừng dọn ra vội, để tôi có chuyện này thưa với phu nhân đã. Vả lại hồi nãy tôi cũng có ăn rồi, bây giờ chưa đói.

Xuân Mai hỏi:

- Mới sáng ra đã ăn ở đâu vậy?

Tiết tẩu đáp:

- Chằng giấu gì phu nhân, hồi nãy Tây Môn Đại nương có gọi tôi vào mời ăn điểm tâm rồi. Thật đáng thương cho Đại nương, ngồi nói chuyện với tôi mà cứ khóc. Chẳng là thằng khốn Bình An ăn cắp cái gì không ăn cắp, lại nhè ngay đồ nữ trang người ta đem tới cầm mà ăn cắp, rồi đem ra ngoại thành vui chơi với mấy con kỹ nữ. Sau đó thì nó bị bắt giam tại ty Tuần kiểm, người cầm đồ tới đòi chuộc lại, không có đồ nên làm ầm cả lên. Đại nương có sai Phó quản lý làm đơn tới ty xin lãnh đồ vật đã mất, nhưng Ngô Tuần kiểm không cho, lại còn làm khó dễ đủ điều. Thật không biết sao mà nói, Ngô Tuần kiểm trước là quản lý của Tây Môn lão gia, nhờ lão gia giúp đỡ mà được như ngày nay, vậy mà nỡ vô ân bội nghĩa, đánh đập thằng Bình An, nạt nộ Phó quản lý và còn muốn đòi hối lộ. Đại nương bây giờ góa bụa chằng biết cậy nhờ ai, nên hồi sáng có khóc lóc nhờ tôi thưa lại với phu nhân, xin phu nhân nghĩ tình, nói với lão gia để lão gia bảo Ngô Tuần kiểm trả lại đồ vật cho Đại nương, hầu Đại nương trả lại cho người tạ Xong việc, Đại nương sẽ tới đây bái tạ phu nhân.

Xuân Mai bảo:

- Được rồi, lão gia hôm nay đi khám xét ở ngoài, chắc đến tối mới về, để tôi nói cho, mà có thiếp gì không?

Tiết tẩu đáp:

- Đại nương có nhờ tôi trình phu nhân tấm thiếp này đây.

Nói xong lấy tấm thiếp trong tay áo ra. Xuân Mai đọc xong tiện tay để lên bàn phấn ở đầu giường.

Lát sau a hoàn dọn rượu thịt ra, rót rượu đầy chung mời Tiết tẩu. Tiết tẩu nói:

- Tôi làm sao uống hết chỗ này?

Xuân Mai cười:

- Không uống hết thì không xong với tôi đâu. Uống mà phải ăn nữa.

Đoạn bảo Nguyệt Quế:

- Tiết tẩu không uống hết thì ngươi cứ đổ rượu vào mũi Tiết tẩu cho ta.

Tiết tẩu nói:

- Phải để tôi ăn miếng gì lót lòng trước rồi mới uống rượu được.

Xuân Mai cười:

- Con mụ này nói chuyện hay thật, vừa rồi nói là ăn điểm tâm tại nhà Tây Môn Đại nương rồi, bây giờ lại đòi ăn lót lòng trước rồi mới uống rượu, thế là thế nào?

Tiết tẩu đáp:

- Cũng có ăn, nhưng không bao nhiêu, uống rượu phải ăn nhiều mới không say.

Nguyệt Quế nói:

- Tẩu tẩu phải uống hết chung lớn này đã, nếu không tôi sẽ đổ rượu vảo mũi cho mà xem. Phu nhân đã dặn, tôi không làm theo, phu nhân sai đánh đòn tôi rồi sao?

Tiết tẩu không biết sao đành nhắm mắt uống cạn chung rượu lớn. Uống xong thì mặt đỏ rần lên, mắt hoa đầu váng, ngồi không vững.

Xuân Mai bĩu môi, rồi bảo Hải Đường:

- Rót đầy một chung lớn như vậy để ta uống. Rồi rót một chung nữa cho Tiết tẩu.

Tiết tẩu xua tay:

- Thôi thôi, thỉnh phu nhân dùng, tôi không uống được nữa đâu.

Hải Đường cười:

- Chị Nguyệt Quế rót mời thì tẩu tẩu uống, còn tôi rót thì tẩu tẩu chê hay sao? tôi mời mà tẩu tẩu không chịu uống rồi phu nhân sai đánh đòn tôi làm sao?

Tiết tẩu hoảng lên vội quỳ ngay xuống van xin, Xuân Mai bật cười:

- Thôi, ngồi dậy ăn món gì đi vậy. Mà phải vừa ăn vừa uống rượu mới được.

Tiết tẩu ngồi dậy ăn uống. Lát sau Nguyệt Quế bảo:

- Có ai quý tẩu tẩu như tôi không, tôi để dành cho tẩu tẩu ít bánh mai côi ngon lắm.

Nói xong bưng một đĩa bánh ra. Tiết tẩu chỉ ăn một cái. Xuân Mai bảo:

- Còn bao nhiêu đem về cho ông ấy ở nhà ăn.

Nguyệt Quế gói ít bánh cho Tiết tẩu. Hải Đường lại ép Tiết tẩu uống rượu, đến lúc Tiết tẩu ói ra mới thôi.

Hai a hoàn dọn dẹp bát đĩa thì Tiết tẩu đứng dậy cáo từ. Xuân Mai dặn:

- Sáng mai tới đây sớm để biết chuyện thằng Bình An, rồi tôi trả tiền về con a hoàn luôn.

Tiết tẩu lạy chào bước ra. Xuân Mai dặn theo:

- Mấy món nữ trang hôm nay làm chưa khéo, để rồi tôi bỏ tiền ra làm mấy món khác cho tôi.

Tiết tẩu đáp:

- Thưa vâng.

Đoạn dừng lại nói:

- À, mà xin phu nhân cho ai đưa tôi ra kẻo chó cắn tôi.

Xuân Mai cười:

- Chó phủ này có mắt lắm, chỉ cắn kẻ gian mà thôi.

Nói xong sai Lan Hoa đưa ra cổng.

Đến gần tối, Chu Thủ bị về tới phủ là vào ngay hậu sảnh, vào thăm Xuân Mai. A hoàn xúm xít xung quanh cởi mũ áo.

Chu Thủ bị nhìn vợ nhìn con, vui vẻ ngồi xuống. Hải Đường đem trà tới trong khi Nguyệt Quế dọn cơm rượu.

Chu Thủ bị kể chuyện đi khám xét các nơi cho vợ nghe. Qua vài tuần trà thì ăn cơm. Xuân Mai ngồi bên cùng ăn và tiếp cho chồng.

Cơm xong, trời vừa tối, a hoàn đốt đèn lên, Chu Thủ bị và Xuân Mai uống trà, sau đó lại bày rượu, vừa uống rượu vừa trò chuyện. Chu Thủ bị hỏi:

- Hôm nay ở nhà có chuyện gì lạ không?

Xuân Mai lấy tấm thiếp của Ngô Nguyệt nương ra đưa cho chồng mà nói:

- Tên gia nhân của Tây Môn Đại nương là thằng Bình An lấy trộm nữ trang, bị Ngô Tuần kiểm bắt giam và đánh đập. Đại nương sai người làm đơn tới xin lãnh vật mất trộm về, Ngô Tuần kiểm đã không chịu, lại còn đòi hối lộ rồi vu cáo cho Đại nương là thông gian với tên gia nhân Đại An, lại doa. là đem chuyện này lên phủ lên huyện.

Chu Thủ bị coi thiếp xong nói:

- Việc này là thuộc thẩm quyền của tôi, đem lên phủ lên huyện nào? tên Ngô Tuần kiểm như vậy là gian ác, để mai tôi cho nắm đầu nó lại đây. Tôi biết tên Ngô Tuần kiểm này trước là quản lý của Tây Môn Khánh được chủ sai đem lễ lên phủ Thái sư ở Đông Kinh rồi được chủ xin xỏ cho mà có chức tước, sao bây giờ lại dám vu cáo cho vợ chủ.

Xuân Mai bảo:

- Chính vì vậy mà ngày mai chàng nên xử vụ này cho Tây Môn Đại nương được nhờ.

Uống rượu trò chuyện một lát, vợ chồng vào giường an nghỉ.

Hôm sau, Chu Thủ bị cho làm công văn sai Trương Thắng và Lý An đòi Nguyệt nương và cả Ngô Tuần kiểm tới hầu.

Trương, Lý tới nhà Nguyệt nương trước, được Nguyệt nương sai dọn rượu thịt thết đãi. Mỗi người lại được thưởng một lạng bạc gọi là đền công nhọc mệt. Phó quản lý không khoẻ nên Ngô Nhị cữu đi thay.

Ngô Tuần kiểm thì mấy hôm liền, không thấy Nguyệt nương cho người tới hối lộ, đang định cho làm văn thư trình lên huyện và phủ thì nghe có hai người công sai của phủ Thủ bị mang công văn tới.

Ngô Tuần kiểm đọc công văn, thấy triện son đỏ chói, bút phê của Chu Thủ bị rành rành đòi lên hầu thì hoảng lên, biết là bị Nguyệt nương phản công, liền dúi cho Trương, Lý mỗi người hai lạng bạc, rồi lật đật tới phủ Thủ bị đứng chờ, không quên cho lính dẫn Bình An đi theo.

Chu Thủ bị đăng đường, quan lại ngồi hai bên nghiêm chỉnh, quân lính gươm giáo sáng quắc đứng hầu. Chu Thủ bị gọi Ngô Tuần kiểm vào trình nội vụ. Ngô Tuần kiểm khúm núm đưa hồ sơ lên. Chu Thủ bị coi xong cau mày bảo:

- Chuyện này là thuộc thẩm quyền của ta, sao Tuần kiểm không trình sớm, mà cứ giam người tại ty là thế nào? thật là tệ.

Tuần kiểm khúm núm:

- Bẩm đại quan, tiện chức đang cho làm văn thư, đợi làm xong thì trình ngay.

Chu Thủ bị nạt:

- Ngươi là tên cẩu quan đáng ghét, dám lộng quyền khinh mạn phép vuạ Ta nhận sắc thư của triều đình lo mọi việc tại địa phương này, vừa coi quân vụ, vừa giữ gìn an ninh, trừng trị trộm cướp, vừa coi việc sông ngòi, chức chưởng của ta được ấn định rõ ràng, ngươi cố tình không biết, dám tự động bắt giam người, đánh đập người, lại còn vu cáo cho người nữa, rõ ràng là ngươi hành động tác tệ, còn chối cãi gì?

Ngô Tuần kiểm lật đật lột mũ ra, quỳ xuống rập đầu thưa:

- Xin thượng quan minh xét chọ.

Chu Thủ bị quát:

- Đáng lẽ là bản chức phải trừng trị ngươi, nhưng vì tình mà tha cho lần này, lần tới tái phạm, bản chức quyết không dung.

Nói xong, cho gọi Bình An tới, đập án thư mà quát:

- Tên nô tài kia, mày đã trộm đồ vật của chủ lại còn vu oan cho chủ. Đứa nào cũng như mày, thế gian này còn ai dám nuôi kẻ ăn người ở nữa?

Đoạn quay lại quát tả hữu:

- Lôi cổ nó ra đánh ba chục trượng cho tạ Bao nhiêu đồ vật trộm được sẽ giao hoàn khổ chủ, đồ vật nào lỡ bán đi cũng phải lấy lại.

Một mặt gọi Ngô Nhị cữu lên, trả lại lá đơn đã có lời phê, rồi sai cùng Trương Thắng đem thiếp của mình tới báo cho Nguyệt nương biết.

Nguyệt nương dọn rượu thịt khoản đãi Trương Thắng rồi thưởng thêm một lạng bạc nữa. Trương Thắng ăn uống xong, nhận bạc rồi cảm tạ, trở về thưa lại với Chu Thủ bị và Xuân Mai.

Tới chiều, người cầm đồ tới đòi, Nguyệt nương trả đủ số vật đã mất, người này nhận lại rồi đi, không nói một lời.

Phó quản lý mới đầu cảm sốt rồi sau thành thương hàn, điều trị không bớt, bảy ngày sau thì từ trần. Nguyệt nương sai Nhị cữu và Đại An trông coi tiệm dược phẩm để kiếm lời sông qua ngày.

Ít hôm sau, Nguyệt nương cho gọi Tiết tẩu tới đền ơn mấy lạng bạc, nhưng Tiết tẩu từ chối:

- Tôi không dám lấy đâu, lấy như vậy rồi ăn nói làm sao với phu nhân Chu lão gia.

Nguyệt nương bảo:

- Tẩu tẩu cũng có công lao mệt nhọc, tôi còn phiền luỵ nhiều, cứ lấy đi, tôi không nói ra thì làm sao phu nhân biết được.

Nói xong lại nhờ Tiết tẩu đem lễ vật, gồm bốn món ăn, nửa con lợn, nửa con dê, một vò rượu và một xấp đoạn, đem tới phủ Thủ bị tạ Ơn Xuân Mai. Đại An ăn mặc tử tế cầm thiếp đi theo.

Hai người đem lễ vật vào hậu đường, Xuân Mai bước ra, đầu đội mũ kim lương, mình mặc quần áo gấm thêu, a hoàn xúm xít xung quanh.

Đại An bước tới sụp lạy mà đưa thiếp. Xuân Mai nhận thiếp rồi sai a hoàn đem trà mời uống. Đoạn bảo:

- Chuyện không đáng gì mà Đại nương ở nhà phải phí tâm, xin miễn đi cho mới phải. Đại nương cho quá nhiều như thế này, làm sao ta dám nhận, sợ lão gia ta không bằng lòng.

Đại An thưa:

- Đại nương tôi nói rằng chuyện tên Bình An khiến cho lão gia và phu nhân đây phải phí tâm, chẳng biết lấy gì báo đáp, chỉ có chút lễ mọn, xin phu nhân nhận cho, để thưởng cho người dưới.

Xuân Mai lắc đầu:

- Nhận làm sao được.

Tiết tẩu ngồi bên nói:

- Nếu phu nhân không nhận rồi tôi biết ăn nói làm sao với Đại nương?

Xuân Mai đành nhận món ăn và rượu thịt, còn xấp đọan thì trả về, lại thưởng cho Đại An mấy cái khăn và ba tiền, đọan hỏi:

- Ca nhi ở nhà mạnh không?

Đại An đáp:

- Ca nhi chơi đùa mạnh khoẻ lắm.

Xuân Mai lại hỏi:

- Ta nghe nói ngươi và Tiểu Ngọc đã thành vợ chồng, từ bao giờ vậy?

Đại An đáp:

- Mới hồi tháng tám.

Xuân Mai bảo:

- Ngươi về thưa với Đại nương là lão gia và ta cám ơn lắm, hôm nào rảnh, thỉnh Đại nương sang đây chơi. Hồi này ta cũng rảnh, đợi ra giêng, ca nhi ở đây đầy năm xong là ta cũng tới thăm Đại nương.

Đại An nói:

- Để tôi về thưa lại, Đại nương tôi sẽ tới thăm phu nhân.

Nói xong đứng dậy cáo từ. Tiết tẩu bảo:

- Chú mày cứ về trước, ta còn ở lại hầu chuyện phu nhân đây.

Đại An ra về. Tới nhà thưa với chủ:

- Phu nhân tiếp đãi tử tế lắm, nói là hôm nào thỉnh Đại nương quá bộ qua chơi. Phu nhân mời tôi uống trà, hỏi thăm ca nhi, cho tôi mấy chiếc khăn và ba tiền, lại dặn là cảm ơn Đại nương nhiều lắm, ra giêng sẽ qua thăm Đại nương.

Nguyệt nương chưa kịp nói gì, Đại An đã kể tiếp:

- Phu nhân sang trọng lắm, một mình ở nguyên một toà hậu đường năm gian đồ sộ, đầu đội mũ kim lương, mặc toàn quần áo gấm thêu, hồi này mập mạp hơn trước, gia nhân a hoàn chật nhà.

Nguyệt nương hỏi:

- Có thật Xuân Mai nói là ra giêng sẽ tới thăm ta không?

Đại An đáp:

- Thật mà, phu nhân dặn tôi phải thưa lại như vậy.

Nguyệt nương bảo:

- Nếu vậy thì ta sẽ cho người tới rước.

Lại hỏi:

- À, còn Tiết tẩu đâu, sao không thấy?

Đại An đáp:

- Lúc tôi về thì Tiết tẩu còn ngồi lại nói chuyện với phu nhân.

Từ đó hai nhà đi lại với nhau mật thiết lắm.

Thật là:

Thế thái nhiều khi ấm lạnh,

Nhân tình có lúc nhạt nồng.

Nói cho cùng, trò đời là như vậy, ăn ở tiền khinh hậu trọng đâu phải chỉ có một mình Nguyệt nương. Quang âm thấm thoắt, ngày hai mươi mốt tháng giêng, Xuân Mai nói với chồng, soạn lễ vật rất hậu, gồm hoa quả báng trái rượu thịt, sai gia nhân là Chu Nhân đem tới biếu Nguyệt nương, một là để giỗ Tây Môn Khánh, Tây Môn Khánh mất đã ba năm, hai là để mừng sinh nhật của Hiếu ca nhi.

Nguyệt nương nhận lễ vật, thưởng cho Chu Nhân một chiếc khăn và ba tiền mà cho về. Lại viết thiếp, sai Đại An đem tới phủ Thủ Bị. Thiếp viết rằng:

- Kính gửi Chu phu nhân, cảm tạ phu nhân đã cho lễ quá hậu, nên có chén rượu nhạt, kính thỉnh phu nhân tới để tạ ơn, xin phu nhân dời gót quang lâm cho, chớ nên phụ lòng, Tây Môn Ngô thị bái thỉnh.

Xuân Mai nhận thiếp mời, khoảng gần trưa thì tới. Hôm đó Xuân Mai vàng đeo ngọc giắt đầy người, mình mặc áo đại hồng bằng gấm thêu hình kỳ lân, quần gấm thuý lam thêu bách hoa, ngồi cỗ kiệu lớn bốn người khiêng, quân hầu đi trước hô hoán dẹp đường, gia nhân a hoàn xúm xít theo sau, lại cho đem thêm lễ vật tới. Đoàn người ngừng lại trước cổng. Gia nhân vào báo.

Trong này Nguyệt nươnng đã mời Ngô Đại cữu mẫu tới phụ mình tiếp khách, cũng cho gọi hai ca nữ tới để đàn hát trước tiệc. Mọi thứ chuẩn bị sẵn sàng thì nghe gia nhân báo là Xuân Mai tới, Nguyệt nương và Ngô Đại cữu mẫu ra tận cổng trong nghênh tiếp. Hôm đó Nguyệt nương đội mũ ngũ lương, đeo nhiều trang sức quý, mặc áo đoạn bạch, quần đoạn thuý lam.

Đôi bên chủ khách cùng lên đại sảnh thi lễ rồi ngồi trò chuyện. Nguyệt hương bảo:

- Lần trước thư thư phí tâm lo việc giùm tôi mà không chịu nhận hết lễ vật tạ ơn, hôm nay lại cho lễ hậu quá, tôi thật muôn vàn cảm kích.

Xuân Mai nói:

- Đại nương dạy quá lời, chẳng biết có gì đem tới, chỉ có chút lễ mọn để tỏ cái tình mà thôi. Tôi muốn thỉnh Đại nương tới chơi mà chưa thỉnh được.

Nguyệt nương hỏi:

- Xin cho biết sinh nhật của thư thư là vào ngày nào để tôi sẽ đem lễ tới mừng.

Xuân Mai đáp:

- Sinh nhật của tôi là ngày hai mươi lăm tháng tư.

Nguyệt nương nói:

- Tôi nhớ rồi, nhất định là ngày đó tôi sẽ tới.

Xuân Mai lại xin Nguyệt nương ngồi để lạy hai lạy, sau đó lại lạy chào Ngô Đại cữu mẩu, hai người đều đáp lễ cung kính. Sau đó mọi người an toạ.

Nguyệt nương gọi hết gia nhân a hoàn tới lạy chào Xuân Mai. Xuân Mai thấy nhũ mẫu Như Ý bồng Hiếu ca nhi thì gọi lại hỏi han.

Nguyệt nương hỏi:

- Đại ca không lạy chào thư thư đi, hôm nay thư thư tới đây là mừng sinh nhật của đại ca đấy.

Hiếu ca nhi tụt xuống, chạy tới trước mặt Xuân Mai mà vái chào. Nguyệt nương mắng yêu con:

- Thằng này sao không quỳ lạy tử tế mà chỉ đứng vái vậy?

Nguyệt nương bắt con lạy tạ rồi nói:

- Thật làm thư thư phí tâm quá.

Tiếp đó Tiểu Ngọc và Như Ý cùng đến lạy chào. Xuân Mai cho Tiểu Ngọc một cặp trâm vàng, cho Như Ý hai bông hoa bạc. Nguyệt nương bảo:

- Chắc là thư thư chưa biết, Như Ý bây giờ là vợ của Lai Hưng, vợ cũ của Lai Hưng chết rồi.

Xuân Mai nói:

- Như vậy cũng tốt. Hai vợ chồng chịu khó ở đây mà hầu hạ Đại nương.

Qua vài tuần trà, Nguyệt nương nói:

- Để mời thư thư vào hậu sảnh ngồi, ngoài này hơi lạnh.

Xuân Mai vào trong, ngừng lại trước bàn thờ Tây Môn Khánh thắp hương vái lạy rồi ứa nước mắt.

Thắp hương xong, Xuân Mai theo Nguyệt nương vào hậu sảnh, nơi đây bàn tiệc dọn sẵn, nhưng Nguyệt nương mời dùng thêm vài tuần trà nữa.

Lát sau, Nguyệt nương mời Xuân Mai thay áo rồi nhập tiệc. Xuân Mai thay áo tơ màu tía đinh hương, quần đoạn bạch thêu kim tuyến cực kỳ trang nhã.

Nguyệt nương hỏi:

- Ca nhi ở nhà chơi ngoan không? Sao hôm nay không cho ca nhi đi theo?

Xuân Mai đáp:

- Đáng lẽ cũng cho cháu tới lạy chào Đại nương, nhưng lão gai tôi sợ là trời lạnh, ra ngoài e gặp gió nên không cho đem đi. Mấy hôm nay không hiểu sao cháu chẳng chịu chơi mà chỉ khóc.

Nguyệt nương hỏi:

- Thư thư đi thế này rồi ca nhi ở nhà không có mẹ, khóc đòi mẹ thì sao?

- Xuân Mai đáp:

- Ở nhà đã có hai nhũ mẫu thay phiên chăm sóc, lại có bốn a hoàn trông giữ rồi.

Nguyệt nương bảo:

- Chu lão gia cũng lớn tuổi, nay được thư thư cho một đứa con trai như vậy quả là đại phúc. À mà nghe nói Tôn Nhị nương cũng có một thư nhi, năm nay được mấy tuổi rồi?

Xuân Mai đáp:

- Thư nhi của nhị nương trong phủ chúng tôi tên là Ngọc Thư, năm nay mới bốn tuổi.

Nguyệt nương hỏi tiếp:

- Nghe nói là lão gia bên quý phủ còn có hai nàng hầu phải không?

Xuân Mai đáp:

- Hai đứa đó là a hoàn, cho học đàn hát để mua vui trong nhà thôi.

Nguyệt nương lại hỏi:

- Lão gia có hay gọi chúng nó lên hầu không?

Xuân Mai đáp:

- Lão gia tôi làm gì có thời giờ ở nhà nhiều mà nghĩ chuyện này kia, thường là ở ngoài nhiều hơn. Hồi này trộm đạo nổi lên nhiều nơi trong hạt mình, triều đình gửi sắc thư về bắt lão gia tôi kiêm thêm nhiều việc nữa, nào là trấn thủ địa phương, nào là tuần lý sông ngòi, nào là trị tội trộm cướp, nào là thao luyện nhân mã, nhọc nhằn vất vả lắm, ít khi ở nhà.

Qua vài tuần rượu, Xuân Mai nói:

- Xin đại nương cho phép tôi được qua hoa viên để tới thăm lại phòng cũ của Ngũ nương tôi lúc trước.

Nguyệt nương đáp:

- Thư thư không biết, từ sau khi lão gia tôi tạ thế thì hoa viên phòng ốc không ai chăm sóc, cây cối trong vườn tàn héo cả mà phòng ốc thì dơ bẩn lạnh lẽo lắm.

Xuân Mai đáp:

- Không sao, Đại nương cứ cho phép tôi tới thăm lại phòng cũ của Ngũ nương tôi lúc trước một chút thôi.

Nguyệt nương không từ chối được, phải sai Tiểu Ngọc lầy chìa khoá mở cổng hoa viên, rồi cùng Ngô Đại cữu mẫu dẫn Xuân Mai vào.

Cảnh trong hoa viên ngày nay thật tiêu điều, tường hoa rêu phủ, đình tạ ngả nghiêng, cỏ dại mọc đầy những lối đi, che khuất cả những hàng gạch quý lót đường. Những dàn hoa đẹp ngày trước nay đã xác xơ, ao hồ lúc trước đẹp biết bao, nay nước dơ đục, cây cỏ rác rến nổi lều bều trên mặt nước, những toà nhà mát lúc xưa bây giờ là nơi ra vào của dơi và chuột.

Xuân Mai chậm bước, nhìn lại cảnh xưa, trong lòng không khỏi bâng khuâng xúc động.

Qua toà nhà Bình Nhi ở trước, xung quanh cỏ cao tới cửa, mài ngói rêu phong, quang cảnh u tịch tiêu điều. Tới toà nhà Kim Liên ở trước, thấy bên trong dơ dáy trống trơn, bèn quay lại hỏi Tiểu Ngọc:

- Cái giường cũ của Ngũ nương lúc trước đâu rồi, sao không thấy?

Tiểu Ngọc đáp:

- Lúc Tam nương lấy chồng thì Đại nương cho Tam nương chiếc giường đó đem theo.

Nguyệt nương giải thích thêm:

- Lúc sinh tiền, gia gia lấy cái giường đẹp của Tam nương mà cho Đại Thư, sau Đại Thư đem giường đó về bên chồng, nên lúc Tam nương ra đi, tôi phải lấy cái giường của Ngũ nương để Tam nương đem theo.

Xuân Mai gật gật đầu không nói, nhưng xót xa nghĩ thầm:

- Mình tới đây mong nhìn lại vật cũ, không ngờ lại về tay người khác rồi.

Lát sau lại hỏi:

- Còn cái giường quý mà lão gia mua cho Lục nương lúc trước bây giờ đâu?

- Chuyện dài dòng lắm, nhưng nói tóm tắt là từ ngày lão gia mất đi, trong nhà túng thiếu, nên đã phải nhờ người đem bán đi rồi.

Xuân Mai hỏi:

- Bán được bao nhiêu?

Nguyệt nương đáp:

- Chỉ bán được độ ba mươi lăm lạng.

Xuân Mai nói:

- Tiếc quá nhỉ, lúc trước tôi có nghe lão gia nói giường đó giá hơn sáu chục lạng. Nếu biết sớm thì tôi đã xin Đại nương để lại cho tôi rồi.

Nguyệt nương bảo:

- Thế thì tiếc thật, nhưng không biết thì làm thế nào.

Đang chuyện trò thì gia nhân của Chu Thủ bị tìm đến thưa:

- Lão gia nói là phu nhân liệu về sớm một chút, ca nhi ở nhà nhớ phu nhân, cứ khóc hoài.

Xuân Mai gật đầu rồi cùng mọi người trở lại hậu đường, Nguyệt nương lại bảo Tiểu Ngọc khoá cổng hoa viên lại, rồi vào tiệc tiếp tục mời Xuân Mai.

Nguyệt nương và Ngô Đại cữu mẫu thay phiên nhau tự tay rót rượu mà mời. Hai ca nữ, một người đàn tranh, một người đàn tỳ bà, đàn hát trước tiệc. Gia nhân tiếp tục đem thêm thức ăn lên, toàn những cao lương mỹ vị.

Bữa tiệc kéo dài tới gần tối. Một đám gia nhân của phủ Thủ Bị đem đèn tới rước chủ về, nhưng Nguyệt nương lưu giữ Xuân Mai lại, đoạn gọi hai ca nữ tới bảo quỳ trước mặt Xuân Mai mà đàn hát, rồi dặn thêm:

- Hai ngươi lựa những khúc thật hay đàn hát hầu Chu phu nhân đây cho ta.

Đồng thời bảo Tiểu Ngọc rót đầy một chung rượu lớn, rồi tự mình nâng lên mời Xuân Mai mà nói:

- Thư thư thích khúc hát gì, bảo hai đứa này nó đàn hát, cho thư thư uống chung rượu này.

Xuân Mai nói:

- Thưa Đại nương, quả là tôi không uống được nữa, vả lại cần về sớm không cháu ở nhà khóc.

Nguyệt nương nói:

- Thì ở nhà đã có hai nhũ mẫu và bốn a hoàn coi sóc ca nhi rồi. Vả lại cũng hãy còn sớm, đi đâu mà vội.

Xuân Mai quay hỏi ca nữ:

- Các ngươi tên gì, ở nhà nào?

Hai ca nữ quỳ xuống thưa:

- Chúng tôi một người là Hàn Ngọc Xuyến em của Hàn Kim Xuyến, một người là Trịnh Kiều Nhi cháu của Trịnh Ái Hương.

Xuân Mai hỏi:

- Các ngươi có thuộc khúc "Biếng điểm trang" không?

Hai ca nữ đáp:

- Dạ chúng tôi thuộc.

Nguyệt nương bảo:

- Hai ngươi đã thuộc thì đàn hát cho thật hay để ta mời rượu Chu phu nhân.

Tiểu Ngọc rót một chung rượu đầy để Nguyệt nương mời Xuân Mai, trong khi hai ca nữ đàn hát, một người đàn tranh, một người đàn tỳ bà, hát rằng:

Tình oan sao cứ theo ta, Nào hay xuân lại thu qua bao giờ.

Ai kia thấu nỗi tương tư, Biết ta sầu muộn ngóng chờ vì ai.

Để ta lệ thảm lăn dài, Cho ta buồn khổ, cho ai hững hờ.

Nguyệt nương mời rượu, Xuân Mai uống cạn thì khúc hát cũng dứt.

Nguyệt nương bảo Trịnh Kiều Nhi mời rượu Xuân Mai. Xuân Mai nói:

- Xin để tôi mời Đại nương một chung.

Nói xong tự tay rót rượu mà mời. Hai ca nữ lại hát:

Vì ai lệ chảy đêm mưa, Vì ai nhan sắc bơ phờ nhớ thương.

Vì ai lệ chảy canh trường, Vì ai phụ bạc cho vương vấn sầu.

Nguyệt nương uống cạn chung rượu. Xuân Mai lại nói:

- Để tôi xin được rót mời Đại cữu mẫu một chung.

Nguyệt nương bảo:

- Đại cữu mẫu không uống được nữa đâu. Để bảo Tiểu Ngọc lấy chung nhỏ rót mời Đại cữu mẫu vậy .

Tiểu Ngọc rót rượu, hai tay nâng mời Ngô Đại cữu mẫu. Hai ca nữ tiếp tục hát:

Nhớ ai ngơ ngẩn canh thâu, Vì ai đứng thảm ngồi sầu ngày đêm.

Thân gầy đứng tựa bên rèm, Gót sen hờ hững bên thềm cô đơn.

Xưa kia khăng khít nào hơn, Ai đi để khổ để buồn cho ai.

Xuân Mai lại rót một chung, bảo Tiểu Ngọc uống. Nguyệt nương nói:

- Phiền thư thư quá, nó không biết uống rượu đâu.

Xuân Mai bảo:

- Không sao, Đại nương không biết chứ nó có thể uống được vài ba chung, hồi trước còn ở đây, tôi đã có lần uống rượu với nó.

Nói xong gọi Tiểu Ngọc lại bảo uống. Hai ca nữ lại hát:

Nhớ thương suốt tháng ngày dài, Buồn đau thành bệnh u hoài trong tâm.

Giường cao tựa gối mà nằm, Một giòng lệ chảy cả trăm nỗi sầu.

Những khúc hát thật buồn, nhưng sở dĩ Xuân Mai bắt ca nữ hát khúc này chỉ vì trong lòng lúc nào cũng nhớ đến Kính Tế. Nghe hai ca nữ hát xong, Xuân Mai có cảm tưởng đã được người nói dùm nỗi lòng mình, bèn gọi gia nhân Chu Nhân tới, thưởng cho mỗi ca nữ hai tiền. Hai ca nữ buông đàn sụp lạy tạ ơn.

Xuân Mai lại thưởng cho nhà bếp ba tiền, cho các a hoàn ba tiền, rồi đứng dậy cáo từ.

Nguyệt nương khẩn khoản lưu giữ không được, đành tiễn ra tận cổng.

Xuân Mai lên kiệu mà về, gia nhân cầm tám cái đèn lồng xúm quanh kiệu, quân hầu đi trước dẹp đường.

Thật là:

Hết thời, vàng cũng phai màu, Được thời, gang sắt làu làu huy quang.

Từ ngày ăn tiệc ở nhà Nguyệt nương về, Xuân Mai chỉ tơ tưởng đến Kính Tế, không biết giờ này Kính Tế lưu lạc nơi nào, do đó cả ngày chỉ nằm trên giường, âu sầu ủ rũ. Chu Thủ bị đoán biết là Xuân Mai nhớ tới Kính Tế, nhưng vẫn yên trí rằng Kính Tế là em họ của Xuân Mai, bèn gọi Trương Thắng, Lý An tới hỏi:

- Ta đã dặn hai ngươi là phải tìm người em họ của phu nhân, mời tới đây cho phu nhân gặp mặt, sao hai ngươi không chịu nghe lời?

Trương Thắng đáp:

- Hai chúng tôi đã dụng công tìm kiếm, nhưng mãi không thấy, nên đã có trình lại với phu nhân rồi.

Chu Thủ bị bảo:

- Ta hẹn cho hai ngươi năm ngày phải tìm cho ra.

Trương Lý xịu mặt xuống, lạy chào cùng nhau lang thang khắp nơi dò hỏi tông tích Kính Tế ...

Về phần Kính Tế, từ hôm được thả ra, tìm về miếu, nghe nói là sư phụ vì giận mình mà chết, thì sợ, không dám vào miếu, lại cũng mặt mũi nào tìm đến với Vương Hạnh An, nên lại trở lại cuộc sống như trước, ngày ngày lang thang kiếm ăn, đêm đêm ngủ vật vạ đầu đường xó chợ.

Một hôm Kính Tế đang lang thang trên đường thì tình cờ trông thấy Dương Đại lang đầu đội mũ lụa, mình mặc áo đoạn, cưỡi lừa mà đi, theo sau lại có một tên gia nhân. Kính Tế định thần nhìn kỹ lại rồi lập tức chạy tới nắm đầu ngựa mà bảo:

- Dương đại ca, sao lâu nay đi đâu mà tôi tìm không thấy. Từ ngày đại ca đem thuyền hàng của tôi từ bến Thanh Giang đi, tôi có tới nhà đại ca tìm kiếm, nhưng lại bị Dương Nhị Phong chửi mắng đuổi đánh, đuổi đến tận nhà tôi. Chỉ vì đại ca mà bây giờ tôi phải nghèo khổ như thế này, bây giờ đại ca tính sao?

Dương đại lang mới đầu giật mình sợ hãi, nhưng sau khi nhìn lại Kính Tế, thì cười sằng sặc mà bảo:

- Hôm nay ta ra ngõ gặp gái hay sao mà đụng phải thằng du thủ du thực này. Mày đói quá hoa cả mắt rồi hay sao mà ăn nói bậy bạ điên rồi vậy? Cỡ mày mà có một thuyền hàng hay sao? Mày có buông ra không, tao đánh cho một trận bây giờ?

Kính Tế bảo:

- Bây giờ huynh có tiền, còn tôi thì cùng khốn, huynh phải cho tôi chút ít qua ngày, nếu không mời huynh tới cửa quan trả lời.

Dương Đại lang chẳng nói chẳng rằng, nhảy ngay xuống dùng roi ngựa quất Kính Tế mấy cái thật lực rồi quát tên gia nhân:

- Ngươi đuổi nó đi cho ta, ai quen biết gì nó.

Tên gia nhân sấn tới xô Kính Tế ra, Dương Đại lang lại nhảy theo đánh đá. Người đi đường bu lại coi, rồi một người cao lớn, mũ áo chỉnh tề, mặt đỏ như gấc vẹt đám đông bước vào, gạt Dương Đại lang ra một bên mà bảo:

- Sao lại xử sự như vậy? Người ta nhỏ tuổi, lại yếu đuối bần cùng, huynh đánh người ta làm gì? Vả lại nãy giờ tôi theo dõi thì người này chưa có lời gì xúc phạm tới huynh cả. Lúc trước người ta có tiền, huynh kết giao với người ta, bây giờ người ta nghèo khổ, huynh không thèm kết giao nữa thì thôi, sao lại đánh đập người ta? Tôi đi ngang thấy chuyện bất bình nên không thể không nói.

Dương Đại lang bảo:

- Huynh không biết, nó vu oan là tôi cướp một thuyền hàng của nó. Huynh xem nó bần cùng như thế này mà làm sao có được một thuyền hàng?

Người nọ nói:

- Chắc là trước đây hắn cũng khá giả, bây giờ mới cùng khốn mà thôi.

Theo tôi thì chẳng gì huynh cũng có kết giao với hắn lúc trước, bây giờ huynh có tiền, nên cho hắn chút ít là hơn.

Dương Đại lang nghe người nọ nói vậy, lại không muốn lôi thôi, bèn lầy ra bốn năm tiền, đưa cho Kính Tế, rồi chào người nọ, lên lừa mà đi.

Kính Tế bị đánh ngã xuống đất, bây giờ mới lồm cồm bò dậy, ngẩng mặt nhìn người nọ, thì không ai xa lạ, chính là một tên đàn anh của Kính Tế trong thời gian lang thang lúc trước, tên là Hầu Lâm, có biệt hiệu là Phi Thiên Quỷ.

Hầu Lâm hiện có công ăn việc làm tử tế, đang chỉ huy năm chục nhân công, dựng điện Già Lam cho Hiểu Nguyệt Trưởng lão tại Thuỷ Nguyệt tự ở phía nam ngoại thành.

Hầu Lâm cũng nhận ra Kính Tế, bèn cầm tay dắt dậy mà bảo:

- Hiền đệ à, hồi nãy nếu không có tôi thì làm sao thằng đó chịu bỏ tiền ra cho hiền đệ. Tôi nói mà nó không nghe, tất nó sẽ ăn đòn ngay. Bây giờ thì hiền đệ theo tôi, mình vào một tửu điếm nói chuyện.

Hai người vào một tửu điếm gần đó. Hầu Lâm gọi rượu rồi hỏi:

- Hiền đệ ăn cơm hay ăn mì?

Tửu bảo đứng bên nói:

- Cơm hai mì ở tiệm này đều ngon cả.

Kính Tế đáp:

- Tôi ăn mì.

Tửu bảo đem mì tới, Hầu Lâm chỉ ăn một bát, Kính Tế ăn liền hai bát.

Hầu Lâm lại gọi thêm vài đĩa đồ ăn, hai người uống rượu.

Hầu Lâm bảo:

- Hiền đệ à, tối nay hiền đệ về nghỉ với tôi, ngày mai tôi dẫn hiền đệ tới chùa Thuỷ Nguyệt, giới thiệu với Hiểu Nguyệt Trưởng lão để giúp hiền đệ có việc làm. Hiện tôi đang lãnh dựng điện Già Lam cho nhà chùa và xây hai tăng phòng. Tôi cai quản năm chục nhân công, hiền đệ tới đó, chẳng phải làm gì nhiều, chỉ cần gánh vài gánh đất là tôi tính cho hiền đệ một công, được bốn năm phân tiền. Tôi cũng có căn phòng nhỏ, hiền đệ về ở với tôi, có đi đâu thì cứ khoá cửa lại, như vậy có phải hơn là lang thang như trước không, hiền đệ nghĩ thế nào?

Kính Tế đáp:

- Được huynh thương mà giúp cho như vậy thì còn gì bằng, nhưng công việc hiện tại liệu có được lâu bền chăng?

Hầu Lâm đáp:

- Việc này làm ít ra là phải mười tháng mới xong, mà mới chỉ làm được chừng một tháng. Sau đó thì lại kiếm việc khác, tới đâu hay đó, lo gì.

Hai người chén chú chén anh thù tạc, chốc lát đã hết hai bình rượu lớn.

Tửu bảo tính tiền, cả thảy là một tiền năm phân rưỡi. Kính Tế móc tiền ra trả, nhưng Hầu Lâm gạt đi mà bảo:

- Đồ ngốc, ai bảo trả tiền, tôi có tiền đầy rồi.

Nói xong, móc tiền ra trả rồi cùng Kính Tế rời khỏi tửu điếm.

Sáng hôm sau, Hầu Lâm đưa Kính Tế tới chùa Thuỷ Nguyệt. Nơi đây đám nhân công đã tề tựu đông đủ. Thấy Kính Tế mới hai mươi lăm tuổi, mặt mày lại thanh tú thì họ xúm cả lại mà chọc ghẹo. Một người hỏi:

- Thằng oắt con kia, mày tên gì?

Kính Tế đáp:

- Tôi họ Trần, tên Kính Tế.

Một người bảo:

- Mày đến tế ai ở đây mà phải kính cẩn thế?

Cả bọn cười ồ lên. Một người khác nói:

- Bộ mày yếu đuối quá, trói gà không chặt thế kia thì làm sao làm việc nặng nhọc ở đây được.

Cả bọn lại cười. Hầu Lâm nạt nộ:

- Chúng bay không lo làm đi, ở đó mà chọc ghẹo người ta hay sao?

Nói xong cắt đặt người nào việc nấy. Kẻ gánh đất, người trộn hồ, kẻ cưa cây, người xếp gạch.

Công việc nấu ăn cho đám thợ được Hiểu Nguyệt Trưởng lão giao cho một vị đầu đà họ Diệp trông coi. Diệp đầu đà không biết kinh kệ, nhưng thành tâm mộ Phật, lại có tài ma y thần tướng.

Một hôm, đám thợ vừa ăn xong, kẻ nằm người ngồi, nghỉ ngơi chuyện gẫu thì Kính Tế tới tìm Diệp đầu đà để hỏi trà uống. Diệp đầu đà chỉ nhìn ngắm Kính Tế từ đầu tới chân mà không nói gì. Một người bảo:

- Diệp lão à, thằng này mới tới làm ở đây, lão thử coi tướnng giùm nó xem sao.

Một người khác bảo:

- Lão xem nó có khá được không chứ bây giờ thấy nó có bộ bết lắm.

Cả đám cười ồ lên. Diệp đầu đà gọi Kính Tế tới gần, nhìn kỹ một lúc rồi bảo:

- Da dẻ mày mịn màng thế kia là suốt đời được đàn bà yêu thích, mắt mày sáng thế kia là mày khôn ngoan xảo quyệt, nhưng năm tám tuổi, mười tám tuổi và hai mươi tám tuổi là mày gặp nạn, mày làm việc gì cũng được người ta tin dùng, nhưng kỳ thực mày lộng giả thành chân, mày đừng giận tao là nói thẳng, năm nay mày bao nhiêu tuổi?

Kính Tế đáp:

- Tôi hai mươi bốn tuổi.

Diệp đầu đà bảo:

- Tra n mày hôn ám thế kia là năm ngoái mày có nạn lớn, vợ chết con chết, nhà cửa tiền bạc tiêu tan, mũi mày như cái bếp lửa là gia tư lụn bại, môi mày không che kín răng là suốt đời gặp chuyện thị phi. Mới đây tất mày gặp chuyện thưa kiện lôi thôi, táng gia bại ản, có phải vậy không?

Kính Tế đáp:

- Quả có vậy.

Diệp đầu đà gật gù bảo:

- Tướng mày là tướng phá gia chi tử, tất lúc trước ông bà cha mẹ để lại cho mày sản nghiệp lớn lao lắm, nhưng vào tay mày tiêu tan như băng tuyết dưới mặt trời. Số mày lại phải ba đời vợ, mày đã goá vợ lần nào chưa?

Kính Tế đáp:

- Đã có một lần rồi.

Diệp đầu đà bảo:

- Tướng mày coi vậy cũng không đến nỗi nào, ngoài ba mươi có thể khá, nhưng mày phải ít lui tới những nơi liễu ngõ hoa tường, buông hương bán phấn mới được.

Một người bảo:

- Chắc là Diệp lão đoán sai rồi, thằng này sức lực bao nhiêu mà những ba vợ lận?

Mọi người cười ầm cả lên. Lát sau thì người nào việc nấy.

Từ đó Kính Tế làm việc tại chùa Thuỷ Nguyệt sông qua ngày.

Một hôm vào trung tuần tháng ba, Kính Tế gánh đất mệt mỏi, đang ngồi dựa vào tường mà nghỉ thì chợt thấy một người đội khăn chữ vạn, mặc áo lụa xanh, ngồi trên ngựa, tay cầm một giỏ hoa tươi. Người này nhìn thấy Kính Tế thì vội vàng xuống ngựa bước tới vái chào mà nói:

- Tôi tìm bao lâu nay không thấy, nào ngờ Trần cừu lại ở nơi đây.

Kính Tế hoảng lên, lật đật dậy đáp lễ rồi hỏi:

- Chẳng hay huynh từ đâu tới?

Người nọ đáp:

- Tôi là Trương Thắng, quản gia trong phủ Thủ Bị, gia nhân thân tín của Chu lão gia. Từ khi Trần cữu rời phủ mà đi thì phu nhân ngày đêm không vui, lão gia sai tôi đi tìm Trần cữu khắp nơi cũng không thấy, ngờ đâu lại gặp tại nơi này. May là hôm nay phu nhân sai tôi ra ngoại thành tìm mua thảo thược dược tươi, đi ngang đây mới gặp Trần cữu, thật là phúc đức cho tôi quá. Bây giờ thì xin Trần cữu cảm phiền mà lên ngựa với tôi về phủ, phu nhân đang trông đợi Trần cữu lắm.

Đám thợ thấy chuyện lạ thì bu lại mà coi, nhưng không ai dám nói tiếng nào.

Kính Tế trả chìa khoá phòng lại cho Hầu Lâm rồi lên ngựa cùng Trương Thắng về phủ Thủ bị.

Thật là:

Tuổi xanh đắc ý là đâu,

Đêm nay trăng sáng trên lầu nhà ai. Tới phủ Thủ Bị, hai người xuống ngựa, Trương Thắng chạy vào thưa với Xuân Mai là đã tìm được Kính Tế mời về phủ. Xuân Mai bảo Trương Thắng dọn cho Kính Tế một phòng riêng để ở, sai a hoàn nấu nước thơm cho Kính Tế tắm gội, lại lấy ra một bộ quần áo, một cái mũ mới, một đôi giày mới, bảo a hoàn đem tới cho Kính Tế thay.

Lúc đó Chu Thủ bị đang làm việc tại công đường. Xuân Mai trang điểm thật đẹp rồi cho mời Kính Tế vào hậu đường.

Kính Tế tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc bảnh bao rồi vào lạy bốn lạy, vái tám vái mà chào. Xuân mai mời ngồi. Đôi bên rơi lệ kể lể nỗi niềm trong những ngày ly biệt.

Chuyện trò một lát, Xuân Mai đề phòng chồng nghi ngờ, bèn nhìn xung quanh, thấy vắng người, thì thấp giọng dặn:

- Tôi dặn chàng điều này, nên nhớ kỹ, lão gia có hỏi thì phải nói chàng là em cô cậu của tôi, tôi lớn hơn chàng một tuổi, sinh ngày hai mươi lăm tháng tư, giờ Ngọ.

Kính Tế gật đầu:

- Tôi nhớ rồi.

A hoàn đem thêm trà ra, Xuân Mai mời Kính Tế uống thêm rồi hỏi:

- Tại sao có một dạo lại xuất gia làm đạo sĩ vậy?

Kính Tế còn đang lúng túng, chưa biết trả lời sao thì Xuân Mai lại nói:

- Hồi đó biết cữu cữu là thân thích của tôi thì lão gia đây hối hận lắm, tha ra ngay. Đáng lẽ hồi đó tôi muốn mời cậu vào gặp mặt, nhưng hiềm vì Tuyết Nga đang là gia nhân trong nhà này, sợ không tiện. Nay thì tôi đã đuổi Tuyết Nga đi rồi, nên mới sai Trương Thắng tìm cậu. Tìm khắp nơi trong bao ngày cũng không gặp, ngờ đâu cậu lại làm công ở chùa Thuỷ Nguyệt. Tại sao lại đến nông nổi ấy?

Kính Tế buồn rầu đáp:

- Thư thư đã hỏi thì tôi chẳng dám giấu, nhưng câu chuyện dài lắm. Từ khi thư thư ra đi, tôi định cưới Kim Liên, nhưng lại gặp đúng lúc phụ thân tôi từ trần ở Đông Kinh, tôi về đây trễ quá, vì Kim Liên đã bị tên Võ Tòng sát hại. Sau biết là Kim Liên được thư thư thương tình cho chôn cất tại chùa Vĩnh Phúc, tôi có tới thắp hương đốt vàng. Tiếp đó thì mẫu thân tôi cũng tạ thế, vừa tang ma xong thì bị tên bạn lừa hết vốn liếng. Sau đó thì Đại Thư chết, rồi bị con dâm phụ mẹ kết Đại Thư làm đơn tố cáo là tôi cố sát vợ, do đó mới bị đem tới đây, bị giam, bị đánh khổ cực trăm điều. Nhà cửa bán hết, của cải sạch trơn, may nhờ có người bạn cũ của phụ thân tôi là Vương lão bá giúp đỡ, đưa tôi vào miếu của Nhiệm đạo sĩ tu hành cho yên thân. Nào ngờ tôi lại bị bọn côn đồ hành hung rồi trói dẫn tới phủ đây. Sau khi ở đây ra, tôi tìm đến người thân thì người thân lánh mặt, tìm về bằng hữu thì bằng hữu đuổi xô, không biết tựa nương nhờ vả vào đâu, phải tìm vào làm công cho nhà chùa. Không ngờ lại được thư thư đoái tưởng mà cho Trương Thắng đi tìm, hôm nay nhờ vậy mà mới được thấy mặt thư thư, thật là đúng như chết đi mà được cứu sống vậy.

Nói tới đây thì thương tâm, hai hàng nước mắt ròng ròng.

Hai người đang hàn huyên trò chuyện thì gia nhân vén mành lên, Chu Thủ bị bước vào. Kính Tế vội quỳ xuống sụp lạy. Chu Thủ bị hoảng lên, vội bước tới nâng dậy chào hỏi rồi bảo:

- Lúc trước tôi không được biết cữu cữu nên bọn thuộc hạ của tôi mới dám làm phiền, xin cữu cữu chớ giận.

Kính Tế vòng tay đáp:

- Tôi bất tài vô đức nên mới phải thọ nhục. Từ đó tới nay cũng không có lễ tới thăm, cúi xin tha thứ.

Nói xong lại sụp lạy. Chu Thủ bị lại lật đật nâng dậy mời ngồi. Kính Tế không dám ngồi đối diện, chỉ kéo cái đôn ngồi ghé một bên. Gia nhân đem trà lên. Chu Thủ bị mời Kính Tế rồi hỏi:

- Năm nay cữu cữu được bao nhiêu tuổi, sao tôi không được biết cữu cữu, mà tại sao lại xuất gia vậy?

Kính Tế đáp:

- Tiểu đệ năm nay hai mươi bốn tuổi, kém thư thư đây một tuổi, thư thư sinh giờ Ngọ ngày hai mươi lăm tháng tư. Nhân vì phụ mẫu qua đời sớm, gia sản tan tác, tiện nội cũng từ trần, nên buồn mà xuất gia, do đó không biết là thư thư đây đã về quý phủ, nên không tới mừng được, thật là thất lễ.

Chu Thủ bị nói:

- Từ sau ngày cữu cữu rời phủ này thì thư thư đây suốt ngày buồn rầu. Tôi đã có cho gia nhân tìm cữu cữu khắp nơi mà không gặp, nào ngờ hôm nay lại được hội diện như thế này, thật là tam sinh hữu hạnh.

Thật ra, trước đây Chu Thủ bị với Tây Môn Khánh là chỗ tương giao, thường hay lui tới, nếu để ý, Chu Thủ bị có thể nhận ra Kính Tế, nhưng Chu Thủ bị là người thật thà hiền lành, tuy tới nhà Tây Môn Khánh luôn nhưng chẳng bao giờ để ý tới những người trong nhà, do đó không nhận ra được. Vả lại, lần đầu gặp Kính Tế thì thấy là đạo sĩ, dù có gặp mặt, nhưng cách ăn mặc khác đi thì cũng khó nhận ra. Chính vì vậy mà bây giờ Chu Thủ bị mới bị hai người toa rập lừa dối dễ dàng, làm sao Chu Thủ bị ngờ được rằng Kính Tế chính là con rể của Tây Môn Khánh, lại đã từng dan díu ăn nằm với vợ mình, mà chỉ yên trí Kính Tế là em con cô con cậu của Xuân Mai.

Qua vài tuần trà, vài câu chuyện, Chu Thủ bị quát gia nhân a hoàn dọn tiệc. Chỉ chốc lát, bàn tiệc thịnh soạn đã được bày xong, cao lương mũ vị chật bàn, bình ngọc chén vàng la liệt, Chu Thủ bị đích thân rót rượu mời Kính Tế. Ba người vui vẻ ăn uống cho tới chiều, khi trong nhà lên đèn mới dứt.

Chu Thủ bị sai đại quản gia Chu Nhân dọn dẹp thư phòng ở phía tây cho Kính Tế nghỉ ngơi, nơi đây giường màn chăn gối sẵn sàng, tất cả đều do Xuân Mai đích thân xem lại. Xuân Mai cũng chọn một bộ quần áo lụa để Kính Tế thay, lại sai một tiểu gia nhân là Hy Nhi túc trực hầu hạ.

Hàng ngày, cứ tới giờ cơm, Xuân Mai lại sai a hoàn tới mời Kính Tế vào hậu đường cùng ăn.

Thế mới biết:

Một sớm một chiều thời vận đến Chuyện này chuyện khác chẳng do người.

Quang âm thấm thoắt, thời gian đi tựa tên bay. Kính Tế ở tại phủ Thủ Bị đã được hơn một tháng.

Hôm đó là ngày hai mươi lăm tháng tư, sinh nhật của Xuân Mai, Nguyệt nương cho người đem lễ vật tới mừng, gồm hoa quả bánh trái mấy mâm, hai cặp gà, hai cặp vịt và một vò rượu. Đại An đem lễ vật và thiếp tới.

Chu Thủ bị ngồi trên đại sảnh thì gia nhân vào thưa:

- Tây Môn phu nhân cho người đem lễ tới.

Rồi Đại An bước lên đưa thiếp mà lạy chào. Chu Thủ bị đọc thiếp rồi bảo:

- Cảm tạ phu nhân ngươi đã phí tâm.

Đoạn quay lại bảo gia nhân:

- Cất lễ vật đi, đem trà ra rồi cầm thiếp ngày vào trình cho cữu cữu nhờ cữu cữu viết thiếp cảm tạ, nhớ lấy một cái khăn tay và ba tiền ra đây để ta thưởng cho gia nhân của Tây Môn phu nhân.

Nói xong dặn Đại An ngồi lại uống trà, rồi đứng dậy mặc áo bước ra. Đại An đứng vơ vẩn trên đại sảnh, tay cầm chung trà, mắt nhìn lơ đãng ra ngoài để chờ hồi thiếp. Bỗng Đại An thấy từ dãy nhà phía tây, một thanh niên bước ra, đội mũ thư sinh, mặt áo sa xanh, đưa hồi thiếp và tiền thưởng cho một gia nhân, sau đó quay vào ngay. Đại An giật mình nghĩ thầm:

- Quái lạ, sao lại có chuyện này, người vừa rồi sao giống cậu Kính Tế quá.

Nhưng làm sao cậu ta lại ở đây?

Đang nghĩ ngợi thì gia nhân tới đưa tiền thưởng, khăn thưởng và hồi thiếp cho Đại An để đem về cho chủ. Tấm thiếp viết: "Chu môn Bàng thị bái tạ".

Đại An đem thiếp về đưa cho chủ. Nguyệt nương coi thiếp xong hỏi:

- Ngươi không gặp phu nhân Xuân Mai sao?

Đại An đáp:

- Cô Xuân Mai thì không thấy, chỉ thấy cậu ấy mà thôi.

Nguyệt nương cười:

- Thằng khỉ ăn nói hay nhỉ, cậu nào vào đây, Chu lão gia là người có tuổi rồi, dù là chồng Xuân Mai mày cũng không được gọi là cậu mới phải.

Đại An vội nói:

- Tôi đâu có nói là Chu lão gia, cậu ấy là cậu Kính Tế nhà mình cơ mà.

Lúc tôi tới thì chỉ có Chu lão gia ở đại sảnh. Tôi bước lên đưa thiếp rồi lạy chào.

Lão gia coi xong nói là cảm tạ Đại nương đã phí tâm, rồi sai gia nhân đem trà cho tôi uống. Chu lão gai lại bảo gia nhân vào nói với "cữu cữu" viết hồi thiếp và lầy tiền thưởng cho tôi. Nói xong thì Chu lão gia mặc áo bước ra, không biết là có việc đi đâu. Tôi đứng trên đại sảnh mà chờ, lát sau thấy từ hậu đường một người bước ra đưa thiếp và tiền thưởng cho một gia nhân để tới đưa lại cho tôi.

Tôi nhìn kỹ thì đúng là cậu Kính Tế chứ không còn ai vào đó nữa.

Nguyệt nương cau mày:

- Thằng khốn ăn nói hàm hồ thế nào chứ làm gì có chuyện đó. Tên Kính Tế lưu lạc khổ cực, không chết rét thì cũng chết đói lâu rồi, sao lại ở trong phủ Chu lão gia được, mà nó ở đó làm gì? Chẳng lẽ Chu lão gia hay Xuân Mai lại nuôi nó.

Đại An nói:

- Xin Đại nương đừng mắng oan tôi, tôi nhìn kỹ lắm, không thể nào lầm lẫn được. Mà dù cậu Kính Tế có thay hình đổi dạng thế nào tôi cũng nhìn ra, chứ đừng nói là rõ ràng ban ngày ban mặt.

Nguyệt nương hỏi:

- Nó ăn mặc thế nào?

Đại An đáp:

- Đội mũ thư sinh, mặc áo sa xanh, trông sang trọng lịch sự lắm.

Nguyệt nương bảo:

- Ngươi nói vậy chứ ta thì ta nhất định không tin. Người giống người là thường mà.

Hai chủ tớ cứ nói chuyện dây dưa.

Trong khi đó, Kính Tế viết hồi thiếp, sai đưa cho Đại An xong thì vào hậu đường thăm Xuân Mai. Xuân Mai đang ngồi trước gương trang điểm. Kính Tế đưa thiếp của Nguyệt nương cho Xuân Mai coi rồi hỏi:

- Sao bên đó lại đem lễ vật tới đây? tôi chẳng hiểu gì cả.

Xuân Mai kể lại đầu đuôi từ việc gặp Nguyệt nương ở ngoại thành trong chùa Vĩnh Phúc, tới chuyện Bình An ăn cắp đồ vật, vu oan cho chủ, rồi Ngô Tuần kiểm làm khó, Chu Thủ bị giúp đỡ, Nguyệt nương đem lễ đến tạ ơn, rồi nói thêm:

- Từ đó hai nhà thường thường đi lại thăm hỏi nhau. Hồi tháng giêng vừa rồi tôi cũng có tới thăm Tây Môn phu nân, vừa để giỗ Tây Môn lão gia, vừa để mừng sinh nhật Hiếu ca nhi. Hôm đó Tây Môn phu nhân có hứa là ngày sinh nhật của tôi sẽ đích thân tới đây dự tiệc mừng.

Kính Tế nghe xong lườm Xuân Mai:

- Thư thư à, thư thư còn nghĩ tới con dâm phụ dó mà giao thiệp với nó làm gì. Chính nó đã đuổi Kim Liên để nàng phải chết oan, chính nó khiến chúng mình phải xa nhau. Đáng lẽ ra là suốt đời không nên nhìn mặt, không nên tới lui mới phải, đằng này thư thư lại còn giúp đỡ cho nó nữa. Sao không để cho Ngô Điển Ân bắt thằng Đại An tới đánh đập tra khảo cho nó khai hết chuyện gian dâm ra có hơn không. Nếu con dâm phụ đo không có tình ý gì với thằng Đại An thì tại sao lại gả a hoàn thân tín là Tiểu Ngọc cho Đại An? Nếu lúc đó mà tôi có mặt ở đây, nhất định là tôi không chịu để thư thư giúp đỡ con dâm phụ đó. Nó là kẻ thù của thư thư lẫn Kinh Liên và tôi, lui tới giao thiệp với nó làm gì?

Kính Tế nói một thôi một hồi, Xuân Mai im lặng, không nói được gì, sau mới bảo:

- Chuyện gì đã qua rồi thì cho qua đi là hơn. Vả lại tôi không còn nghĩ gì tới thù oán ngày trước nữa.

Kính Tế nói:

- Vẫn biết thư thư là người tốt, nhưng chẳng biết người ta có tốt lại với thư thư không.

Xuân Mai đáp:

- Thì người ta đã sai đem lễ vật lại đó. Vả lại người ta đem biếu, mình không nhận hay sao? Đại nương giờ này chắc là đang chờ tôi cho người đem thiếp tới mời đó.

Kính Tế bực bội:

- Mời làm gì mới được chứ? Từ nay đừng giao thiệp gì với con dâm phụ đó là hơn. Cứ mặc kệ nó.

Xuân Mai bảo:

- Không mời coi sao được, cứ gửi thiếp tới, người ta đến hay không đến là tuỳ ý người ta chứ mình mời thì vẫn phải mời. Nếu người ta đến thì cậu cứ tạm lánh mặt ở trong là được rồi. Sau lần này, tôi không mời mọc gì nữa.

Kính Tế vẫn còn giận, không nói gì, bỏ về thư phòng viết thiếp. Kính Tế viết xong, Xuân Mai sai gia nhân Chu Nghĩa đem thiếp tới mời Nguyệt nương.

Được thiếp mời, Nguyệt nương trang điểm lộng lẫy, ăn mặc sang trọng, ngồi một cỗ kiệu lớn, Như Ý bồng Hiếu ca nhi ngồi một cỗ kiệu nhỏ, Đại An theo hầu, chủ tớ đến phủ Chu Thủ bị.

Xuân Mai và Tôn Nhị nương khăn áo chỉnh tề nghênh tiếp Nguyệt nương vào hậu đường. Chủ khách thi lễ rồi an toạ. Đại An và Như Ý cũng lạy chào, rồi Đại An thì đứng ngoài thềm, Như Ý bồng Hiếu ca nhi đứng trong phòng, phía sau Nguyệt nương.

Kính Tế nghe nói Nguyệt nương tới thì nằm chết dí trong thư phòng, không dám ló mặt ra ngoài.

Tại hậu đường, sau vài tuần trà, Xuân Mai cho lệnh dọn tiệc lớn, gọi hai ca nữ tới đàn hát là Hàn Ngọc Xuyến và Trịnh Kiều Nhi.

Đại An cũng được mời xuống nhà dưới ăn uống. Thấy một gia nhân từ thư phòng phía tây bước ra, Đại An gọi lại hỏi:

- Huynh đi đâu vậy?

Gia nhân nọ đáp:

- Tôi đi dọn đồ ăn cho cữu cữu.

Đại An hỏi:

- Cữu cữu đây quý tính là gì vậy?

Gia nhân đáp:

- Họ Trần.

Nói xong vào trong lấy đồ ăn.

Lát sau bưng đồ ăn trở ra để đem tới thư phòng cho Kính Tế. Đại An cũng đứng dậy đi theo gia nhân đó. Tới nơi, gia nhân vén màn lên, bước vào. Đại An nép mình ngoài thềm nhìn vào, thấy rõ ràng là Trần Kính Tế đang nằm trên giường. Gia nhân dọn đồ ăn lên bàn, Kính Tế ngồi dậy, bước tới bàn, bắt đầu ăn uống.

Đại An thấy hai năm rõ mười thì không còn hồ nghi gì nữa, vội nhẹ nhàng trở về nhà dưới ngồi ăn uống như cũ.

Tới lúc lên đèn, bữa tiệc trong hậu đường mới vãn. Nguyệt nương cáo từ lên kiệu mà về.

Đến nhà, Đại An thuật lại tất cả sự thật cho chủ nghe.

Từ đó, Xuân Mai bị Kính Tế ngăn cản, không cho giao thiệp với Nguyệt nương nữa, hai nhà trở nên lạt lẽo, không lui tới với nhau như trước.

Cũng từ đó, Kính Tế và Xuân Mai lén lút thông gian, nhưng chưa một ai hay biết. Những lúc Chu Thủ bị vì việc quan phải vắng nhà thì Xuân Mai ngang nhiên mời Kính Tế vào phòng uống rượu đánh cờ, nói cười trò chuyện, bày tiệc nguyệt hoa. Những ngày Chu Thủ bị ở nhà, Xuân Mai vẫn đích thân tới thư phòng trò chuyện cả buổi với Kính Tế. Hai người nối lại tình xưa, xem chừng còn tha thiết mặn nồng hơn trước. Xuân Mai thì chỉ cần lừa dối một mình Chu Thủ bị, vì mọi người trong nhà, dù biết cũng chẳng ai dám hé răng.

Một hôm vào tiết Đoan ngọ tháng năm, Chu Thủ bị dẫn tùy tùng tới các địa phương tra xét công việc. Xuân Mai cho dọn tiệc rượu tại ngôi nhà mát trong hoa viên, cùng Kính Tế ăn uống vui chơi. Tôn Nhị nương cũng được mời tới chung vui. A hoàn gia nhân đứng dài hai bên hầu tiệc. Thời gian này, hai a hoàn Hải Đường và Nguyệt Quế đã được nâng lên hàng hầu thiếp của Chu Thủ bị.

Xuân Mai sai hai người đàn hát trước tiệc làm vui.

Bữa tiệc kéo dài tới xế chiều, trận mưa nhẹ hạt khiến không khí mùa hè được mát mẻ, Xuân Mai nâng chén hà hoa mà mời Tôn Nhị nương liên tiếp. Chỉ lát sau, Tôn Nhị nương say mèm, phải đứng dậy cáo từ về phòng nằm nghỉ. Chỉ còn Xuân Mai và Kính Tế chén tạc chén thù.

Tới lúc lên đèn thì hai nhũ mẫu Kim Quy và Ngọc Đường bồng con Xuân Mai là Kim ca nhi đi ngủ.

Lát sau thì Kính Tế lấy cớ say rượu, về thư phòng mà nằm. Xuân Mai ngồi uống rượu mà chờ, nhưng mãi không thấy Kính Tế trở ra, bèn sai Hải Đường vào mời. Kính Tế không chịu ra, Xuân Mai bảo Nguyệt Quế:

- Ngươi vào mời lần nữa xem sao, nếu cữu cữu không chịu ra thì ngươi lôi cữu cữu ra cho ta. Ngươi không lôi được cữu cữu ra đây thì ta cho đánh ngươi mừoi bàn vả.

Nguyệt Quế tới thư phòng, đẩy cửa bước vào, thấy Kính Tế nằm yên trên giường, bèn nói:

- Phu nhân sai tôi vào thỉnh cữu cữu ra, cữu cữu không ra thì tôi bị đòn.

Kính Tế càu nhàu:

- Ngươi bị đòn thì có ăn thua gì đến ta, ta say quá rồi, không uống được nữa.

Nguyệt Quế sấn ngay lại lôi Kính Tế dậy mà nói:

- Cữu cữu không dậy thì tôi lôi dậy xem cữu cữu có chịu đi hay không cho biết.

Kính Tế giả vờ nửa say nửa tỉnh, nửa đùa nửa thật giở tò trêu hoa ghẹo liễu. Nguyệt Quế nổi giận:

- Cữu cữu làm gì vậy? Tôi vào đây là vâng lệnh phu nhân thỉnh cữu cữu mà cữu cữu dám giở trò bất chính đó hay sao?

Kính Tế giả lả:

- Nàng ơi, xin bớt giận, nếu nàng chịu thì càng tốt đẹp chứ sao.

Nói xong dắt tay Nguyệt Quế, cùng trở ra hoa viên.

Tới trước tiệc, Nguyệt Quế nói:

- Phu nhân doạ dánh đòn nên tôi phải lôi bằng được cữu cữu ra đây.

Xuân Mai sai Hải Đường rót rượu mời Kính Tế. Hai người uống rượu mà mắt qua mày lại.

Lát sau, trời gần khuya, Xuân Mai cho đám a hoàn đi ngủ hết, chỉ còn hai hầu thiếp Hải Đường và Nguyệt Quế. Xuân Mai lại sai hai người vào trong nấu nước pha trà.

Ngoài này, Xuân Mai và Kính Tế âu yếm lả lơi. Một bên xuất thân nghèo hèn nay được giàu sang, ham trò hưởng thụ, một bên vốn là phường hiếu sắc giỏi chuyện nguyệt hoa. Một bên quen với hành động lẳng lơ của chủ cũ là Kim Liên, một bên bắt chước thói đa tình của cha vợ là Tây Môn Khánh. Thôi thì ý tình dào dạt không sao kể xiết.

Đang lúc kề sai áp má như vậy thì Hải Đường bước ra đằng hắng rồi thưa:

- Mời phu nhân vào hậu phòng, ca nhi thức giấc đang khóc đòi phu nhân.

Xuân Mai quyến luyến chưa nỡ rời, nên nán lại mời Kính Tế vài chung nữa rồi mới chịu đứng dậy vào hậu đường với con. Kính Tế cũng ngẩn ngơ trở lại thư phòng.

Ngày tháng thoi đưa, ít hôm sau triều đình hạ sắc chỉ, sai Chu Thủ bị đem quân binh bản bọ hợp cùng Tri phủ Tế Châu là Trương Thúc Dạ chinh phục giặc Tống Giang ở Lương Sơn. Việc binh gấp rút, chỉ vài ngày sẽ lên đường. Chu Thủ bị dặn vợ:

- Nàng ở nhà coi sóc ca nhi, rồi nhờ mai mối tính chuyện hôn nhân cho cữu cữu. Phen này đánh giặc, tôi sẽ ghi tên cữu cữu trong quân, nếu mã đáo thành công, tâu lên thánh thượng thì cữu cữu cũng được một chức quan, nàng chắc cũng vui mừng.

Xuân Mai nhất nhất vâng dạ.

Chu Thủ bị kiểm điểm binh mã xong thì kéo quân đi, gia nhân Chu Nhân được đi theo hầu. Trương Thắng và Lý An ở lại coi soc việc phủ.

Ít hôm sau, Xuân Mai cho gọi Tiết tẩu đến bảo:

- Lúc lâm hành, lão gia có dặn ta phải lo việc hôn nhân cho cữu cữu, vậy nhờ tẩu tẩu tìm giùm cho một nơi môn đăng hộ đối, xinh đẹp hiền lành, chừng mười sáu mười bảy tuổi là được. Nhớ là phải xinh đẹp thông minh lanh lợi đấy.

Tiểu tẩu đáp:

- Tôi hiểu rồi, phu nhân không cần dặn nhiều. Tính nết cữu cữu thế nào tôi đã biết, đến ngay Tây Môn Đại thư đẹp đẽ là thế mà cữu cữu còn chưa vừa bụng nữa là.

Xuân Mai cười:

- Nếu tìm người không đẹp thì không xứng đáng làm em dâu của ta đâu.

Nói xong gọi a hoàn đem trà ra mời. Lát sau thì Kính Tế bước vào. Tiết tẩu đứng dậy vài chào nói:

- Chào cậu, lâu quá không gặp cậu, bây giờ biết cậu ở đây, tôi mừng lắm.

Vừa rồi phu nhân có sai tôi tìm người đẹp đẽ xứng đáng để lo chuyện hôn nhân cho cậu đấy, cậu định đền ơn tôi thế nào đây?

Kính Tế xịu mặt xuống không đa p. Tiết tẩu bảo:

- Lạ nhỉ, chuyện vui mừng mà sao cậu chẳng nói chẳng rằng vậy?

Xuân Mai bảo:

- Tẩu tẩu đừng gọi bằng cầu nữa, bây giờ không phải là ngày trước, nên kêu bằng cữu cữu mới phải.

Tiết tẩu lật đật đáp:

- Chết, thật tôi vụng về quá, cái miệng tôi thật đáng bị vả, vâng thì từ nay tôi xin gọi là cữu gia.

Kính Tế bật cười:

- Vậy mới là hợp ý ta.

Tiết tẩu vừa tát vào miệng mình vừa nói:

- Cái miệng này thật không biết ăn nói giữ gìn hết, khiến cữu gia đây phiền hạ.

Xuân Mai và Kính Tế cười nghiêng ngả. Xuân Mai sau đó sai Nguyệt Quế dọn rượu thịt ra khoản đãi Tiết tẩu. Tiết tẩu ăn uống no say rồi nói:

- Để tôi ráng tìm một người thật xinh đẹp xứng đáng với cữu gia đây rồi sẽ tới trình phu nhân và cữu gia.

Xuân Mai dặn:

- Không cần giàu có sang trọng gì hết, không cần đồ đạc của cải đem theo, chỉ cần thật đẹp là được, không đẹp thì không thể vào phủ này đâu.

Tiết tẩu đáp:

- Tôi hiểu rồi, xin phu nhân và cữu gia cứ tin cậy nơi tôi.

Kính Tế bước ra, về thư phòng. Tiết tẩu hỏi nhỏ Xuân Mai:

- Cậu Kính Tế tới đây bao giờ vậy?

Xuân Mai kể hết đầu đuôi cho Tiết tẩu nghe, không giấu chuyện gì, đoạn nói:

- Bây giờ ta cho tìm về, nhận là em họ của ta.

Tiết tẩu nheo mắt cười:

- Hay lắm hay lắm, phu nhân quả là có mắt tinh đời.

Đoạn hỏi:

- Hôm trước, sinh nhật phu nhân, nghe nói là Đại nương có tới đây dự tiệc phải không?

Xuân Mai đáp:

- Đại nương cho người đem lễ vật tới nên ta mời gửi thiếp mời đến dự tiệc.

Tiết tẩu nói:

- Hôm đó không phải là tôi dám quên sinh nhật của phu nhân, nhưng vì bận rộn quá, muốn lại lạy mừng mà không thể lại được.

Đoạn hỏi:

- Hôm đó Trần cữu cữu có ra gặp mặt Đại nương không?

Xuân Mai đáp:

- làm gì có chuyện đó, đến việc mời Đại nương tới đây mà cậu Kính Tế cũng không chịu nữa là, cũng vì chuyện đó mà tôi và cậu ta lời qua tiếng lại đó.

Cậu ta còn trách tôi là đã giúp đỡ Đại nương, đáng lẽ để mặc cho Ngô Điển Ân làm khó Đại nương mới phải, vì trước kia Đại nương đối xử với cậu ta chẳng ra gì.

Tiết tẩu nói:

- Vậy đâu được, gì thì gì chứ chuyện thù oán cũ nên quên đi mới phải.

Hành động như phu nhân đây mới là cao quý.

Xuân Mai nói:

- Thì phải vậy chớ sao, người ta đã đem lễ tới, mình không mời coi sao được. Người ta đã mang tiếng là bất nhân, chẳng lẽ ta đây mang tiếng bất nghĩa hay sao?

Tiết tẩu bảo:

- Lòng dạ phu nhân quảng đại như vậy, hèn gì phu nhân được hưởng phúc lớn như thế này.

Chuyện trò thêm vài câu nữa thì Tiết tẩu cáo từ mà về.

Hai hôm sau, Tiết tẩu tới nói:

- Nhà Chu Thiên hộ trong thành này có một vị tiểu thư, năm nay mới mười lăm tuổi, cực kỳ xinh đẹp, nhưng hiềm là mất mẹ từ nhỏ.

Xuân Mai chê còn nhỏ quá. Tiết tẩu lại nói:

- Nếu vậy thì đưa con gái thứ nhì của Ứng Bá Tước, năm nay hai mươi hai tuổi, cũng xinh đẹp lắm.

Nhưng lúc đó Bá Tước cũng đã chết rồi, Xuân Mai sợ rằng chẳng còn gì để lại cho con gái đem về nhà chồng, nên không thuận.

Mấy hôm sau, Tiết tẩu lại tìm đến, đưa ra một vuông đoạn đại hồng, trên ghi: "Con gái Cát viên ngoại, sinh giờ Tý ngày rằm tháng mười một năm Dậu".

Đoạn nói:

- Người này thì chẳng những rất xinh đẹp mà tính tình ôn nhu hiền hậu, năm nay mới hai mươi tuổi, giỏi chuyện may vá thêu thùa, ngôn công dung hạnh thật hoàn toàn, cha mẹ lại còn đầy đủ, gia tư giàu có, hiện đang có một cửa tiệm buôn tơ lụa rất lớn tại huyện này, thường đi buôn hàng từ Tô Châu, Hàng Châu và Nam Kinh của cải đem về nhà chồng chắc là nhiều.

Xuân Mai bảo:

- Nếu quả như vậy thì nên lo đám này đi.

Tiết tẩu vội ba chân bốn cẳng tới thông báo cho gia đình Cát viên ngoại.

Thật là:

Dầu mong lựa được người nhan sắc, Cũng phải tùy theo sự mối manh.

Chuyện nhân duyên, dù là cách xa thiên ý, nhưng nếu thành tựu thì chỉ trong một sớm một chiều. Được Tiết tẩu tới thông báo, Cát viên ngoại mừng lắm, nhờ thêm một bà mai họ Trương, cho theo Tiết tẩu tới phủ Chu Thủ bị để bàn tính.

Sau đó Xuân Mai cho soạn lễ vật rất hậu, sai Tôn Nhị nương ngồi kiệu tới nhà Cát viên ngoại xem mặt cô dâu.

Tôn Nhị nương trở về nói:

- Quả là trang tuyệt sắc, rõ ràng là đoá hoa quỳ xinh tươi, xứng đáng lắm, gia đình bên đó cũng giàu có nữa.

Xuân Mai liền chọn ngày tốt làm lễ hỏi, gồm mười sáu mâm bánh trái phẩm vật, bốn vò rượu, hai con dê, một mâm nữ trang các loại, bốn bộ y phục bốn mùa cùng hai chục lạng bạc, cho đem đằng gái.

Thầy bói cho biết ngày mồng tám tháng sáu là ngày tốt, nên làm đám cưới. Xuân Mai lại hỏi Tiết tẩu:

- Bên nhà gái có cho a hoàn theo không?

Tiết tẩu đáp:

- Của cải đem theo thì nhiều, nhưng không có a hoàn theo, vì nhà người ta tuy giàu có, nhưng là nhà buôn bán, không nuôi nhiều gia nhân đầy tớ.

Xuân Mai bảo:

- Nếu vậy thì nhờ tẩu tẩu tìm mua cho ta một đứa a hoàn chừng mười ba mười bốn tuổi để hầu hạ cữu cữu.

Tiết tẩu đáp:

- Được rồi, có ngay. Ngày mai tôi sẽ dẫn tới.

Nói xong cáo tự.

Hôm sau, Tiết tẩu dẫn một đứa a hoàn tới nói:

- Đây là đứa a hoàn lúc trước hầu hạ con trai của thương gia Hoàng Tứ.

Chẳng hiểu Hoàng Tứ làm ăn buôn bán ra sao, vì chuyện tiền bạc thế nào mà bị bắt lên quan, giam giữ cả năm nay, bây giờ gia sản khánh tận, nhà cửa cũng bán hết, Lý Tam cũng bị tố cáo, nhưng đã chết, nên con trai là Lý Mạnh phải ở tù thay cha. Còn con Lai Bảo là Tăng Bảo hiện cũng lưu lạc, làm đày tớ cho người ta, Lai Bảo thì bây giờ đổi tên là Thang Bảo rồi.

Xuân Mai gật đầu hỏi:

- Thì ra con a hoàn này trước ở cho Hoàng Tứ, bây giờ đòi bao nhiều đây?

Tiết tẩu đáp:

- Hoàng Tứ trong nhà giam cầm tiền, nên chỉ bán với giá bốn lạng rưỡi mà thôi.

Xuân Mai bĩu môi:

- gì mà tới bốn lạng rưỡi, thôi để cho ta ba lạng rưỡi đi.

Nói xong sai lấy ba lạng rưỡi ra trả cho Tiết tẩu, lại sai làm giấy tờ đàng hoàng, đổi tên đứa a hoàn này là Kim Tiền.

Thấm thoát đã tới ngày mồng tám tháng sau, Xuân Mai đội mũ thuý phụng, mặc áo gấm đại hồng, đeo dây lưng kim nhưỡng bích ngọc, ngồi trên đại kiệu, tới nhà Cát viên ngoại đón dâu. Kính Tế cưỡi bạch mã theo sau. quân hầu tiền hô hậu ủng.

Hoàn cảnh Kítnh Tế lúc đó thật là:

Hạn hán gặp mưa lớn Tha hương gặp cố tri.

Đêm động phòng hoa chúc, Thua gì lúc vinh quy.

Đám rước dâu trở về phủ Thủ Bị, tới cổng thì hạ kiệu, cô dâu xinh đẹp tuyệt vời, ăn mặc sang trọng, trang điểm lộng lẫy, bước xuống kiệu và được dẫn vào lễ đường tế lạy trời đất, sau đó thì tiệc tùng, cuối cùng là giây phút động phòng.

Đêm đó Kính Tế và Cát tiểu thư vui vầy không sao kể xiết.

Liền trong ba hôm sau, Xuân Mai cho soạn tiệc lớn khoản đãi tất cả thân bằng quyến thuộc của hai họ.

Tử đó, Kính Tế có vợ, Xuân Mai lại càng ngang nhiên thông gian mà không nể nang e dè gì. Ngày ngày, cả hai vợ chồng Kính Tế đều vào hậu đường cùng ăn cơm với Xuân Mai, riêng Cát tiểu thư và Xuân Mai thì thân thiết lắm.

Đám a hoàn đầy tớ tuy phong phanh biết chuyện nhưng chẳng ai dám hé môi.

Vợ chồng Kính Tế được Xuân Mai cho ở gian nhà phía tây, sau thư phòng.

Nơi đó đồ đạc sang trọng, trang hoàng lộng lẫy, mà Kính Tế ra thư phòng làm việc cũng tiện. Kính Tế từ đó chuyên lo việc ghi chép, viết lách và giao dịch cho phủ Thủ Bị.

Xuân Mai cũng hay lui tới thư phòng trò chuyện cùng Kính Tế. Hai người lả lơi âu yếm, rồi bày chuyện gió trăng, lúc thì ở thư phòng, lúc thì ngay trong phòng Xuân Mai.

Cuộc sống của Kính Tế thật vô cùng sung sướng đầy đủ... Sau đó ít lâu, Chu Thủ bị cùng Tri phủ Tế Nam là Trương Thúc Dạ bắt được ba mươi sáu người trong đám giặc Tống Giang ở Lương Sơn, lại chiêu hàng được hơn một vạn giặc, địa phương được yên ổn, tin thắng trận được tâu về triều.

Tri phủ Trương Thứ Dạ được thăng chức Ngự sử Sơn đông An phủ Đại sứ, còn Chu Thủ bị được thăng chức Tế nam Bình mã Chế trí. Các bộ hạ tòng chinh mỗi người được thăng một cấp. Chu Thủ bị tâu công cho Kính Tế, Kính Tế được thọ chức Tham mưu, lương mỗi tháng là hai thạch gạo, sống đời vinh hoa phú quý.

Trung tuần tháng mười, Chu Thủ bị dẫn binh mã về, sai người báo tin mừng cho Xuân Mai biết. Xuân Mai vui mừng vô tận, sai Kính Tế cùng Trương Thắng, Lý An dẫn gia nhân ra ngoại thành nghênh tiếp.

Trong khi đó thì Xuân Mai cho dọn tiệc lớn tại đại sảnh. Quan lại các cấp trong phủ huyện kéo nhau tới đưa lễ vật tấp nập.

Binh mã đưa Chu Thủ bị về tới phủ. Chu Thủ bị xuống ngựa vào phủ.

Xuân Mai và Tôn Nhị nương ra lạy chào. Kính Tế mặc phẩm phục, mũ áo xênh xang, cùng vợ là Cát thị ra lạy chào. Gia nhân lớn nhỏ trong phủ cũng sắp hàng ra ngoài thêm mà lạy mừng. Chu Thủ bị thưởng cho vợ chồng Kính Tế mỗi người một bộ quần áo và mười lạng bạc. Gia nhân lớn nhỏ cũng được thưởng.

Tiếp đó là tiệc tẩy trần. Cả phủ nhộn nhàng vui vẻ. Tối hôm đó, Chu Thủ bị cùng Xuân Mai uống rượu tại phòng riêng, hàn huyên sau ít ngày xa cách.

Xuân Mai nói:

- Vì chuyện hôn nhân của em tôi mà phải tốn kém ít nhiều.

Chu Thủ bị bảo:

- Không sao, em nàng tôi đây thì phải lo cho nó thành gia thất tử tế, có tốn kém ít nhiều cũng không đáng ngại. Em nàng chứ có phải người ngoài đâu.

Xuân Mai nói:

- Nay em tôi lại được chàng lo bề công danh cho như vậy thì quả là đầy đủ quá rồi, nó cũng sung sướng một đời.

Chu Thủ bị nói:

- Sắc chỉ triều đình chỉ ít ngày nữa là tới, tôi sẽ phải tới phủ Tế Nam nhậm chức mới, nàng ở nhà coi sóc việc nhà, rồi bảo cữu cữu cùng với một quản lý nào đó lo việc buôn bán, nàng bỏ tiền ra mà kiếm lời. Bảo cữu cữu làm sổ sách cho phân minh, tiền vốn tiền lời cho rõ ràng là được.

Xuân Mai nói:

- Chàng dạy rất phải.

Trò chuyện một lúc thì hai vợ chồng đi nghỉ.

Thượng tuần tháng mười một, Chu Thủ bị cho sửa soạn hành lý rồi đem Trương Thắng, Lý An theo tới phủ Tế Nam nhậm chức mới. Chu Nhân, Chu Nghĩa ở nhà coi nhà, Kính Tế tiễn Chu Thủ bị ra ngoài thành rồi mới quay về.

Xuân Mai bảo Kính Tế:

- Lão gia dặn là cậu phải tìm một người quản lý để làm ăn buôn bán để kiếm thêm lợi tức mà chi dùng trong nhà.

Kính Tế mừng lắm, để ý tìm người giúp mình buôn bán.

Một hôm, đang đi ngoài đường, tình cờ Kính Tế gặp một người bạn cũ là Lục Bỉnh Nghĩa. Bỉnh Nghĩa thấy Kính Tế thì vài chào nói:

- Lâu lắm không gặp huynh.

Kính Tế đứng lại chào hỏi rồi đáp:

- Tôi lúc trước vì vợ chết, gặp chuyện thưa kiện lên quan, lại bị tên Dương Quang Ngạn lừa hết vốn liếng, khiến tôi phải sống nghèo nàn cực khổ, nhưng bây giờ thì khá rồi. Ấy cũng là nhờ chị tôi hiện là phu nhân của Chu Thủ bị lão gia, hiện tại tôi cũng tục huyền rồi. Lại có quan chức, hiện tôi làm chức Tham mưu. Nay tôi đang định tìm một người quản lý, trông coi việc buôn bán, ngặt là giờ này tìm chưa ra.

Lục Bỉnh Nghĩa nói:

- Tên Dương Quang Ngạn sau khi lừa huynh thì làm quản lý cho một người họ Tạ, hiện mở tiệm rượu tại bến Lâm Thanh, lại làm thêm nghề dắt mối cho các ca nhi kỹ nữ nên bây giờ cũng khá giả lắm. Hắn mặc áo tốt suốt ngày rượu thịt, chừng năm ba ngày thì cưỡi lừa tới tiệm tính toán tiền lời, bạn bè cũ bị gạt ra hết, hắn chẳng thèm ngó ngàng tới ai. Em hắn ở nhà thì mở sòng bạc, lại tổ chức đá gà đua chó không ai dám đụng chạm tới.

Kính Tế nói:

- Năm ngoái tôi có tình cờ gặp hắn, nhưng hắn trở mặt đánh chửi tôi. Lần đó may tôi nhờ một người bạn tới can thiệp chứ không thì bị nó đánh chết rồi, bây giờ tôi hận nó tới xương tuỷ.

Nói xong Kính Tế kéo Lục Bỉnh Nghĩa vào một quán rượu, gọi rượu thịt cùng ăn uống.

Kính Tế hỏi:

- Bây giờ phải đối phó với thằng Quang Ngạn thế nào để rửa được mối hận của tôi?

Lục Bỉnh Nghĩa nói:

- Người ta thường bảo, không hạ độc thủ không phải trượng phu, nay nếu mình nói năng tử tế thì không đời nào hắn chịu nghe. Bây giờ huynh không phải lo gì, cứ làm một lá đơn, bắt nó phải bồi thường tiền bạc hàng hoá đã sang đoạt của huynh lúc trước, như vậy tức là huynh đoạt được tiệm rượu của nó hiện nay, rồi bỏ thêm ít tiền sửa sang thêm thắt cho lớn ra, rồi tôi tới nói với Tạ Tam ca, cùng trông nom việc buôn bán cho huynh. Năm ba ngày, huynh chỉ việc tới đó một lần để tính toán sổ sách. Như vậy thì hàng tháng xoàng ra huynh cũng có cả trăm lạng bạc lợi tức. Buôn bán nào cho bằng, huynh thử nghĩ xem.

Kính Tế nghe nói mừng lắm bảo:

- Nếu quả được như vậy thì để tôi về nói lại với thư thư tôi và thư phu tôi đã. Nếu việc này thành thì chắc chắn là huynh và Tạ Tam ca sẽ là quản lý cho tôi.

Bàn định xong, Kính Tế trả tiền rượu, cùng Bỉnh Nghĩa bước ra.

Tới đường, Kính Tế dặn:

- Lục huynh à, phải nên kín miệng mới được.

Lục nhị lang đáp:

- Tôi hiểu rồi, huynh cứ yên tâm.

Nói xong hai người chia tay.

Kính Tế về phủ kể hết lại cho Xuân Mai nghe, Xuân Mai bảo:

- Nhưng bây giờ lão gia không có nhà thì làm sao?

Gia nhân già là Chu Trung đứng bên thưa:

- Không sao, cữu cữu làm đơn, ghi rõ số tiền tài hoá vật bị sang đoạt, rồi kèm tấm thiếp của lão gia, bỏ hết vào phong bì, tôi sẽ đem tới sở Đề hình, nhờ bắt tên họ Dương đó, đánh cho một trận mà tra hỏi, nhất định nó phải bồi thường.

Kính Tế bảo:

- Vậy thì hay lắm.

Nói xong mừng rỡ viết đơn, kèm theo một tấm thiếp của Chu Thủ bị, bỏ tất cả vào phong bì tử tế rồi sai Chu Trung đem tới viện Đề hình.

Tới nơi thì hai vị quan trong viện cũng vừa đăng đường xét việc. Lính hầu thưa:

- Chu gia ở Soái phủ sai người đem thư tới.

Hà Thiên hộ cùng Trương Nhị, lúc đó đã là Phó Thiên hộ, cho gọi Chu Trung vào hỏi thăm về việc thăng chức của Chu Thủ bị. Chu Trung thưa lại đầu đuôi. Sau đó hai người mở phong bì ra coi, thấy đơn và thiếp, lập tức hạ trát tìm bắt Dương Quang Ngạn, tức Dương đại lang. Đoạn viết thiếp hồi báo, đưa cho Chu Trung mà bảo:

- Người về thưa lại với phu nhân là để chúng ta ở đây bắt tên họ Dương trả lại tiền bạc đầy đủ, rồi sẽ cho người tới lãnh về.

Chu Trung cầm thiếp về thưa lại với Xuân Mai:

- Nhị vị Đề hình cho trát truy tầm tên họ Dương ngay, lại nói rằng khi nào nó bồi thường tiền bạc đầy đủ thì mình sẽ tới lãnh về.

Kính Tế cầm thiếp coi thấy ghi tên Hà Thiên hộ và Trương Nhị thì mừng lắm. Hai ngày sau, cả hai anh em Dương Quan Ngạn và Dương Nhị Phong đều bị bắt giải về viện Đề hình. Hai quan Đề hình cứ y theo đơn của Kính Tế mà thẩm tra. Anh em họ Dương bị đánh đập tra khảo chết đi sống lại, phải sai người nhà vơ vét tiền bạc, bán đồ đạc của cải, được ba trăm năm chục lạng, lại có một trăm xấp vải, đồ đạc trong tửu điếm đáng giá năm chục lạng, để lo bồi thường cho Kính Tế. Nhưng trong đơn, Kính Tế đòi chín trăm lạng, như vậy là vẫn còn thiếu nhiều. Anh em họ Dương phải bán cả nhà cửa đất đai, gia tài khánh tận, mới trả đủ cho Kính Tế.

Kính Tế sau khi đoạt được tửu điếm của Dương Quan Ngạn, lại có thêm nhiều tiền, liền cho Tạ Tam trông coi. Lại bỏ ra thêm ngàn lạng, đưa cho Lục nhị lang để sửa sang khuếch trương tửu điếm, tạo thành một đại tửu lầu nguy nga trăng lệ, đủ các món sơn hào hải vị.

Trung tuần tháng giêng thì Kính Tế tới làm lễ khai trương. Từ đó mỗi ngày có thể lời tới năm chục lạng. Mỗi việc đều trong tay Tạ Tam và Lục Nhị lang. Hai người dành riêng một căn phòng trên lầu, trần thiết đẹp đẽ để dùng làm nơi nghỉ ngơi vui thú. Ca nữ Trần Tam Nhi cũng thường lui tới.

Một hôm, vào thượng tuần tháng ba, tiết xuân êm đẹp, cảnh vật xinh tươi, liễu rũ bên đường, hoa vương ngoài ngỏ. Kính Tế ngồi trên tửu lầu nhìn ngắm cảnh sinh hoạt tấp nập nhộn nhịp bên dưới. Lát sau Kính Tế lại quay nhìn bến sông phía sau tửu lầu, thấy hai chiếc thuyền lớn cập bến. Bốn năm người lực lưỡng chuyển những rương đồ đạc vào những căn phòng trong bên dưới tửu lầu.

Trên thuyền lại có một người đàn bà trạc tuổi trung niên nhưng nhan sắc mặn mà, ăn mặc sang trọng, bên cạnh lại có một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp, chỉ khoảng hai mươi tuổi, cả hai đứng trông coi việc vận chuyển các rương đồ đạc, rồi sau cùng vào tửu lầu.

Kính Tế quay hỏi Tạ Tam:

- Ai vậy? Sao lại phải ghé đây?

Tạ Tam đáp:

- Hai người này từ Đông Kinh tới, hiện chưa có nơi trú ngụ, phải ở tạm tại đây vài ngày. tôi cũng đang định thưa với quan nhân thì quan nhân đã hỏi.

Kính Tế đang giận chưa biết nói gì thì thiếu nữ trẻ lúc nãy đã bước tới vái chào cung kính mà nói:

- Xin quan nhân bớt giận, đó không phải là lỗi của quản lý đây mà là lỗi của chúng tôi. Chúng tôi tới đây không kịp kiếm nơi ở nên phải tạm trú tại đây, lại vì mới tới nên chưa kịp thông báo với quan nhân. Chúng tôi xin nạp tiền phòng đầy đủ, năm ba ngày nữa sẽ dọn đi.

Kính Tế chỉ nhìn thiếu nữ từ đầu đến chân mà không nói gì. Thiếu nữ cũng đưa mắt liếc lại Kính Tế, bốn mắt đưa tình, hai lòng xao xuyến.

Kính Tế nghĩ thầm:

- Hình như mình đã gặp người này ở đâu rồi, trông quen quá.

Người đàn bà cũng bước tới, rồi như nhận ra Kính Tế, bèn bước tới gần hơn mà hỏi:

- chẳng hay quan nhân đây có phải là người rể họ Trần của Tây Môn lão gia chăng?

Kính Tế giật nẩy mình hỏi:

- Nương tử là ai mà nhận được tôi?

Người đàn bà đáp:

- Chẳng giấu gì cậu, tôi là vợ của Hàn Đạo Quốc, quản lý cũ của Tây Môn lão gia. Còn đây là con gái của tôi tên Ái Thư.

Kính Tế nhớ ra Vương thị, bèn hỏi:

- Mấy người ở cả Đông Kinh kia mà, sao bây giờ lại tới đây? Còn Đạo Quốc đâu?

Kính Tế vội sai tửu bảo xuống thuyền mời Đạo Quốc lên.

Lát sau, Đạo Quốc tới vái chào, trông già hẳn đi. Đạo Quốc nói:

- Mới đây sáu đại thần tại triều đình là Thái Thái sư, Đồng Thái uý, Lý Thừa tướng, Chu Thái uý, Cao Thái uý, và Lý Thái giám bị tên học sinh tại Quốc tử giám là Trần Đông dâng biểu hạch tội, sau lại bị các quan Ngự sử đàn hặc, do đó Thánh thượng hạ chiếu bắt giam, giao cho Tam pháp ty luận tội. Cả sáu người bị đày làm lính thú ở xa cho đến suốt đời. Con trai Thái sư là Lễ bộ Thái thượng thư thì bị xử trảm, gia sản bị tịch thu, sung vào công quỹ. Vợ chồng chúng tôi và cháu Ái Thư đây phải tìm về huyện Thanh Hà để tìm người em chúng tôi là Hàn Nhị, nhưng nó đã bán hết nhà cửa rồi bỏ đi nơi nào không biết nữa. Chúng tôi dùng thuyền tới đây tìm chỗ tạm trú ít ngày, không ngờ lại được gặp cậu, thật là may mắn vô cùng.

Lại hỏi:

- Cậu bây giờ hiện vẫn ở tại nhà Tây Môn lão gia chứ?

Kính Tế lắc đầu:

- Ta đâu còn ở đó nữa, hiện ta là quan Tham mưu, ở chung với anh rể ta là Chu Thủ bị. Ta nay đã có chức tước vinh hiển, mới nhờ hai người quản lý mở tửu lầu tại bến Lâm Thanh này để kiếm thêm lợi tức. Nay vợ chồng con cái ngươi đã may mắn được gặp ta thì khỏi phải đi đâu nữa, cứ ở đây cho yên thân.

Vợ chồng Đạo Quốc nghe vậy thì nhất tề sụp lạy tạ ơn, rồi quay ra tiếp tục dọn đồ đạc vào. Kính Tế thấy vậy liền sai mấy gia nhân ra dọn đồ giúp. Vương thị nói:

- Thật không dám làm cậu phải phí tâm nhiều quá.

Kính Tế bảo:

- vợ chồng ngươi và ta trước kia cùng ở một nhà, có gì mà phải ngại ngùng.

Lát sau Kính Tế lên ngựa ra về, dặn các quản lý là đem trà bánh cho vợ chồng Đạo Quốc.

Đêm đó Kính Tế chỉ mơ tưởng đến Hàn Ái Thư.

Hai ngày sau, Kính Tế ăn mặc sang trọng, đem gia nhân tới tửu lầu ở bến Lâm Thanh. Đang tính toán tiền bạc thì Đạo Quốc sai người mời tới uống trà.

Kính Tế đang muốn sang thăm vợ chồng Đạo Quốc, nay thấy mời, thì đứng dậy đi ngay.

Sang tới phòng Đạo Quốc, đã thấy Ái Thư tươi như hoa bước ra vái chào rồi nói:

- Xin thỉnh quan nhân qua bộ vào chơi.

Vợ chồng Đạo Quốc cũng bước ra mời vào ngồi dùng trà. Đôi bên kể lể chuyện mình trong thời gian qua. Trong khi trò chuyện, Kính Tế không rời mắt khỏi Ái Thư. Ái Thư cũng luôn luôn đưa mắt liếc lại, đúng là tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Sau vài tuần trà, Đạo Quốc xin phép ra ngoài. Ái Thư quay sang hỏi Kính Tế:

- Chẳng hay quan nhân năm nay thanh xuân bao nhiêu?

Kính Tế được lời như cởi tấm lòng, vội đáp:

- Tôi năm nay mới hai mươi sáu.

Lại hỏi:

- Còn thư thư năm nay thanh xuân bao nhiêu?

Ái Thư cười:

- Tôi với quan nhân quả là nhất duyên nhất hội, thưa năm nay tôi cũng hai mươi sáu. Lúc trước tôi đã có hân hạnh được gặp quan nhân một lần, nay không ngờ lại có may mắn được gặp lại, thật đúng như người ta nói là "hữu duyên thiên lý năng tương ngộ" đó thưa quan nhân.

Vương thị ngồi cạnh thấy Kính Tế và con gái mình đã bắt đầu trò chuyện thân mật thì kiếm cớ xin phép lui vào trong. Ngoài này chỉ còn lại hai người. Ái Thư dùng lời ngon ngọt khoé mắt tình mồi chài Kính Tế, còn Kính Tế thì vì bản chất đa tình lẳng lơ, cũng buông lời trêu hoa ghẹo nguyệt, có những cử chỉ lả lơi.

Chỉ lát sau thì Ái Thư đã xích lại ngồi sát cạnh Kính Tế, uốn éo nói:

- Quan nhân ơi, cho tôi coi cây trâm quan nhân đang cài trên đầu một chút được không?

Kính Tế chưa kịp đưa tay lên lấy xuống thì Ái Thư vừa nói xong, đã tự gỡ trâm trên đầu Kính Tế xuống coi. Coi xong rồi cười khanh khách mà bảo:

- Xin mời quan nhân lên lầu, tôi có chuyện này muốn thưa, chuyện hay lắm.

Nói xong đứng dậy, vừa cười vừa đi trước, Kính Tế vội bảo bước theo sau.

Lên tới trên lầu, Kính Tế hỏi:

- Thư thư có chuyện gì muốn nói vậy?

Ái Thư cười tình tứ:

- Tôi với quan nhân quả là có nhân duyên từ kiếp trước, nay gặp nhau đây, xin được đính ước cùng nhau.

Kính Tế mở cờ trong bụng, nói:

- Được, thư thư thương đến như vậy thì còn gì hơn. Nhưng xin hỏi thư thư là thứ mấy trong nhà.

Ái Thư đáp:

- Phụ mẫu tôi chỉ có mình tôi, vì tôi sinh đúng ngày Đoan ngọ nên được đặt tên là Ái Thư.

Nói xong với tay cài trâm lại trên đầu cho Kính Tế, rồi thầm thì:

- Từ khi gia đình tôi từ Đông Kinh về đây, không nơi nương tựa, thiếu thốn đủ thứ, nếu chàng có sẵn bạc thì xin cho phụ mẫu tôi vay tạm năm lạng, sẽ xin hoàn trả đủ vốn lãi, không dám làm chàng phiền lòng đâu.

Kính Tế gật đầu:

- Nàng đã cần tất là tôi phải có.

Nói xong ôm lấy Ái Thư, kéo tới chiếc giường cạnh đó mà bày chuyện nguyệt hoa. Ái Thư chẳng những không cự tuyệt mà còn hết sức hết lòng chiều chuộng. Ân ái chan hoà, không sao nói hết.

Mưa tạnh mây tan, Ái Thư mời Kính Tế uống trà rồi ngỏ ý giữ Kính Tế ở lại ăn cơm trưa. Kinh Tế nói:

- Tôi còn nhiều việc lắm, không ăn cơm cùng nàng được đâu, để lát nữa tôi cho đem tiền lại.

Ái Thư níu tay nói:

- Nếu chàng bận thì chiều nay trở lại đây đi, tôi có chung rượu nhạt mời chàng, tưởng chàng chẳng nên từ khước.

Kính Tế gật đầu trở xuống tính toán tiền nong, ăn cơm trưa với hai người quản lý. Sau đó tản bộ trên đường phố. Bỗng người sư huynh cũ là Kim Tông Minh bước tới vái chào. Kính Tế cũng đứng lại chào hỏi. Tông Minh kể lại những chuyện trong miếu sau khi Kính Tế bị bắt, rồi nói:

- Quả tôi không được biết sớm là hiền đệ đã trở thành thân thích trong phủ Thủ Bị, lại tới đây mở tửu lầu, nên không có lễ tới mừng, thật là có lỗi nhiều lắm. Để sáng mai tôi sẽ cho người đem lễ tới, hiền đệ nếu rảnh mời quá bộ tới miếu chơi, chúng mình nói chuyện.

Nói xong cáo từ mà đi. Kính Tế tản bộ một lát rồi trở lại tửu lầu. Lục Quản lý ra đón nói:

- Hàn đại gia cho người thỉnh quan nhân tới uống rượu mà tìm quan nhân chẳng thấy đâu.

Vửa dứt lời thì gia nhân của Đạo Quốc đã tới thưa:

- Thỉnh quan nhân tới dùng rượu, có cả hai vị quản lý đây, ngoài ra không có ai khác.

Kính Tế gật đầu, cùng hai người quản lý vào phòng Đạo Quốc. Nơi đây tiệc rượu đã dọn xong. Kính Tế được mời ngồi giữa, một bên là Đạo Quốc, một bên là Lục Nhị lang và Tạ Tam lang. Vương thị và Ái Thư ngồi cạnh Đạo Quốc.

Gia nhân đem trà lên trước. Sau tuần trà, Đạo Quốc thân rót rượu mời Kính Tế và hai người quản lý.

Rượu được vài tuần, hai người quản lý đứng dậy nói:

- Để quan nhân ngồi dùng rượu, chúng tôi xin phép trở lại quầy để lo việc.

Nói xong cùng bước ra.

Kính Tế tuy tửu lượng không cao, nhưng vì vui sướng trong lòng nên uống rượu hơi nhiều, chỉ lát sau là ngà ngà say.

Ái Thư hỏi:

- Hôm nay quan nhân có định về phủ không? thôi, hay là ở lại đây mà nghỉ cho khoẻ.

Kính Tế gật đầu:

- Bây giờ có về cũng trễ rồi, nghỉ lại một đêm ở đây rồi mai về sớm cũng được.

Lát sau vợ chồng Đạo Quốc cáo lui, chỉ còn lại Kính Tế và Ái Thư. Kính Tế lấy trong tay áo ra năm lạng đưa cho Ái Thư, Ái Thư cảm tạ rồi vào đưa cho mẹ, sau đó trở ra chuốc rượu cho Kính Tế.

Hai người kề vai áp má ăn uống tới tối. Ái Thư vào trong trang điểm lại thật đẹp rồi mời Kính Tế lên căn phòng trên lầu nằm nghỉ.

Hai người sau cơn chăn gối xô lệch, cùng nhau thề thốt đủ điều.

Trong thời gian làm thiếp của Địch Quản gia tại phủ Thái sư ở Đông Kinh, lại được hầu cận lão thái thái nên cũng được học đàn hát và chữ nghĩa ít nhiều.

Kính Tế biết được mừng lắm, thấy Ái Thư quả không thua kém gì Kim Liên ngày trước, trong lòng say mê khôn cùng. Một đêm đó mấy lần ân ái.

Hôm sau Kính Tế mệt mỏi ngủ quên, dậy qua trễ. Vương thị đã nấu sẵn cháo gà, sai người dọn lên cho Kính Tế và Ái Thư ăn. Ái Thư cũng rót rượu mời Kính Tế.

Vừa ăn xong thì hai người quản lý lại mời ăn uống. Kính Tế rửa mặt chải đầu, khăn áo chỉnh tề, ăn uống với hai quản lý rồi trở lại từ giã Ái Thư. Ái Thư nắm áo Kính Tế mà khóc, Kính Tế bảo:

- Tôi về rồi năm ba ngày nữa lại đến với nàng, nàng đừng buồn.

Nói xong lên ngựa, cùng gia nhân về thành. Dọc đường, Kính Tế hết lời dặn dò gia nhân là về phủ không được nói gì về chuyện Hàn Đạo Quốc tới ngụ tại tửu lầu. Gia nhân đáp:

- Chúng tôi hiểu rồi, cữu cữu không cần dặn nhiều.

Về tới phủ, Kính Té nói là công việc tại tửu lầu bận rộn, ngồi tính toán tiền nong mọi việc, không ngờ trời muộn nên không thể về sớm được, phải nghỉ lại một đêm. Nói xong giao tiền lời lại cho Xuân Mai, gồm hơn ba chục lạng.

Xuân Mai nhận tiền nhưng còn cằn nhằn một hồi. Kính Tế chẳng nói gì.

Về tới phòng riêng lại bị vợ là Cát thị cằn nhằn:

- Sao đêm qua chàng lại nghỉ ở ngoài vậy? chắc là lại vui với loài liễu ngõ hoa tường, bỏ tôi ở nhà vò võ mà không thèm ngó ngàng tới.

Kính Tế cũng im lặng. Nhưng Cát thị lại nói với Xuân Mai. Xuân Mai giữ luôn Kính Tế ở nhà gần mười ngày, không cho đi đâu. Việc thu tiền lời tại tửu lầu ở bến Lâm Thanh thì chỉ sai gia nhân đi. Hai viên quản lý tính toán đàng hoàng, gió bạc lại cẩn thận, giao cho gia nhân đem về không sót mảy may.

Trong khi đó vợ chồng Hàn Đạo Quốc cạn tiền mà Kính Tế vẫn biệt tăm.

Đạo Quốc lại là kẻ chuyên sống bám vào vợ, bèn bàn tính với vợ là tìm xem thương gia nào giàu có thì làm quen, mời về nhà uống trà uống rượu, Vương thị và Ái Thư ra tiếp, đem tấm thân mà kiếm tiền. Vương thị tuy ngoài bốn mươi, nhưng nhan sắc còn mặn mà, lại thêm Ái Thư trẻ trung hấp dẫn, thừa sức để quyến rủ bất cứ người đàn ông hiếu sắc nào.

Mấy hôm sau thì nhờ người giới thiệu, một thương gia buôn bán tơ lụa người Hồ Châu là Hà quan nhân tìm tới. Ái Thư ra tiếp đãi.

Hà quan nhân tuổi ngoại ngũ tuần, là tay đại thương gia, giàu có vô cùng.

Ái Thư tiếp Hà quan nhân được một lần, nhưng thấy Hà quan nhân đã già, lại chỉ nhớ mong Kính Tế nên không chịu tiếp đãi nữa. Hà quan nhân cho mời năm lần bảy lượt, Ái Thư vẫn không chịu, Đạo Quốc lo cuống lên, phải bảo vợ là Vương thị ra tiếp đãi.

Hà quan nhân thấy Vương thị tuy lớn tuổi nhưng có da có thịt, mắt nhìn như say, má đỏ môi hồng, lại ăn nói ngọt ngào cử chỉ lão luyện thì chịu lắm, bỏ ra một lạng bạc gọi tửu bảo dọn rượu thịt, cùng Vương thị sánh vai ăn uống.

Đêm đó Hà quan nhân nghỉ lại với Vương thị. Vương thị già dặn trường đời, chiều chuộng Hà quan nhân thập phần chu đáo. Hà quan nhân cũng thập phần mãn nguyện.

Hàn Đạo Quốc ngủ ở dưới nhà. Ái Thư ngủ ở phòng bên, mặc cho mẹ tiếp khách.

Từ đó Hà quan nhân bị Vương thị quyến rũ mê mệt, cứ vài ba hôm lại mò đến với Vương thị một đêm. Đạo Quốc nhờ đó cũng có được khá tiền. Còn Ái Thư thấy Kính Tế mãi không trở lại thì ngày mong đêm nhớ, một ngày dài tựa ba thu. Đến lúc nóng lòng sốt ruột quá, phải sai gia nhân vào thành, tìm đến phủ Thủ Bị dò la tin tức.

Người này lảng vảng bên ngoài, tình cờ gặp gia nhân vẫn theo Kính Tế ra bến Lâm Thành, vội hỏi:

- Sao hồi này chẳng thấy quan nhân ra tửu lầu vậy?

Gia nhân phủ Thủ Bị đáp:

- Ít hôm nay cữu cữu chúng tôi khó ở trong mình nên không đi tới đâu.

Người ấy trở về nói lại với Ái Thư. Ái Thư bàn tính với mẹ, mua nửa con lợn, hai cặp vịt quay, hai cặp cá lớn, ít bánh trái hoa quả, rồi viết thiếp, sai người đem vào phủ Thủ Bị biếu Kính Tế. Lại dặn rằng:

- Ngươi vào phủ, phải xin gặp mặt Trần quan nhân cho bằng được để xin hồi thiếp nhé.

Người này vâng lời, đem thiếp và lễ vật tới phủ Thủ Bị. Gia nhân quen là Tiểu Cương Nhi chạy ra hỏi:

- Huynh lại tới đây có chuyện gì nữa vậy?

Người này vội nói nhỏ:

- Tôi tới đây là để xin được diện kiến cữu gia, một là để biếu lễ vật, hai là cũng có chuyện cần muốn thưa riêng với cữu cữu, phiền huynh vào báo cho cữu gia biết, tôi chờ ngoài này.

Tiểu Cương vào trong một lúc thì Kính Tế tất tả bước ra. Lúc đó là vào khoảng tháng tư, trời bắt đầu nóng, Kính Tế mặc áo lụa mỏng đi hài mát mà ra.

Gia nhân của Đạo Quốc vội vái chào mà thưa:

- Được biết quan nhân quý thể bất an nên Ái Thư chúng tôi có tấm thiếp và ít lễ vật tới kính biết quan nhân.

Nói xong đưa thiếp lên. Kính Tế cầm thiếp hỏi:

- Ái Thư mạnh không?

Người này đáp:

- Thấy quan nhân mãi không trở lại thì Ái Thư ngày đêm sầu muộn chỉ mong sao quan nhân sớm trở lại.

Kính Tế im lặng mở thiếp ra coi, thấy viết:

- Trần Đại quan nhân tình lang nhã giám, từ khi xa cách chàng, em những đêm nhớ ngày trông chẳng lúc nào nguôi. Nhớ lời hẹn ước, em chỉ biết tựa cửa ngóng chờ, nhưng chờ mãi chẳng thấy chàng đến. Hôm qua nhân hỏi thăm, biết được chàng quý thể khiếm an, em những bồi hồi tấc dạ, ngồi đứng không yên, giận là không có đôi cách để bay tới bên chàng. Nhưng chàng ở nhà đã có vợ đẹp thiếp yêu, có biết còn đoái tưởng đến phận bèo bọt này hay không. Nay em có chút lễ mọn, sai đem tới thỉnh an với tất cả lòng thành. Dù chàng có cười cũng xin nhận cho. Hàn Ái Thư kính bái.

Bên dưới lại ghi thêm:

"Em có chiếc túi gấm uyên ương, xin tặng chàng để chàng thấu rõ tấm lòng. Hàn Ái Thư tái bái".

Người nọ đưa chiếc túi gấm. Kính Tế cầm lên, thấy có thêu mấy chữ "tặng tình lang Trần quân", liền giấu ngay vào túi áo, rồi bảo Tiểu Cương:

- Ngươi dẫn người này ra tửu điếm gần đây, chờ ta viết hồi thiếp. Còn lễ vật thì cho đem vào phòng riêng ủa ta. Nương nương có hỏi thì cứ nói là của Tạ Tam sai đem tới biếu ta.

Tiểu Cương vội gọi thêm mấy gia nhân, đem lễ vật vào, rồi trở ra dẫn gia nhân của Đạo Quốc tới tửu điếm uống rượu.

Kính Tế vào thư phòng viết thiếp trả lời, đoạn lấy năm lạng bạc, đem ra tửu điếm, hỏi:

- Ngươi ăn uống xong chưa?

Người này đáp:

- Đa tạ quan nhân, tôi uống rượu rồi, rượu ngon lắm, bây giờ tôi xin cáo từ.

Kính Tế đưa bạc và thiếp mà bảo:

- Về nhà nói lại rằng ta cảm tạ Ái Thư nhiều lắm. Năm lạng bạc này để Ái Thư tạm chi dùng, vài ba hôm nữa ta sẽ ra thăm.

Người này nhận thiếp và bạc rồi cáo từ đi ngay.

Kính Tế quay về phủ. Vừa vào tới phòng, Cát thị đã hỏi:

- Ai sai đem lễ vật tới vậy?

Kính Tế đáp:

- Tạ Tam ở ngoài tửu lầu nghe nói là tôi khó ở nên sai người đem lễ tới vấn an đó mà.

Cát thị tin thật, bàn tính với chồng, gọi a hoàn Kim Tiền vào, sai đem một cặp vịt, một cặp cá và ít bánh trái hoa quả lên biếu Xuân Mai. Xuân Mai cũng không hạch hỏi gì.

Về phần gia nhân của Hàn Đạo Quốc, gần tối hôm đó mới về tới, đưa thiếp và bạc của Kính Tế cho Ái Thư. Ái Thư nhận bạc rồi mở thiếp ra coi, thấy viết:

"Kính Tế trân trọng phúc đáp Ái khanh Hàn Ái Thư, đang lúc mong đợi hội ngộ thì tôi được nàng thương mà hỏi thăm, lại cho lễ hậu, thật muôn vàn cảm kích. Nàng còn cho tôi chiếc túi gấm quý giá, thật không biết lấy gì báo đáp.

Mấy hôm nay trong người tôi khó ở nên mới lỡ hẹn để nàng buồn giận. Nhưng chỉ vài ba hôm nữa, tôi sẽ tới thăm nàng. Tiện đây tôi xin gửi năm lạng bạc và một chiếc khăn tay tặng lại nàng, mong nàng nhận cho. Kính Tế cẩn bái".

Ái Thư lại mở chiếc khăn tay ra xem, thấy có mấy câu thơ:

Lụa ngà thêu bức hồi văn, Rượu say múa bút muôn vàn nhớ thương.

Ái ân gửi đến tình nương, Ước ao loan phụng vấn vương nghìn đời.

Xem xong, Ái Thư vào kể lại với mẹ và đưa bạc cho mẹ. Vương thị mừng rỡ khôn xiết. Từ đó hai mẹ con chỉ đêm ngày chờ mong Kính Tế.

Chuyện đời bướm cuồng say hoa đẹp đâu phải chỉ có riêng Kính Tế say đắm Ái Thư... Hai hôm sau, ngày rằm tháng tư, sinh nhật Xuân Mai, phủ Thủ Bị tiệc tùng tới đêm mới vãn.

Sáng sớm hôm sau, Kính Tế gặp Xuân Mai nói:

- Lâu nay tôi không ra tửu lầu để tính toán tiền nong coi sóc mọi việc.

Hôm nay nhân rảnh rang, để tôi ra đó một ngày, nhân tiện cũng nghỉ mát tránh nắng một thể.

Xuân Mai dặn:

- Cữu cữu đi thì ngồi kiệu cho khoẻ.

Nói xong gọi quân hầu đem kiệu tới. Kính Tế ngồi kiệu mà đi. Tiểu Cương đi theo. Gần trưa thì tới nơi. Kiệu hạ xuống. Kính Tế bước vào tửu lầu.

Hai viên quản lý chạy ra đón tiếp rồi hỏi thăm:

- Quan nhân hôm nay quý thể đã khang an chưa?

Kính Tế đáp:

- Cảm tạ nhị vị có lòng, hôm nay tôi đã khá rồi.

Hai viên quản lý mời uống trà, Kính Tế chỉ nghĩ tới Ái Thư, uống xong chung trà thì đứng dậy dặn:

- Hai vị tính toán sổ sách đi, bây giờ để tôi vào thăm Hàn đại gia một chút đã.

Gia nhân vào báo cho vợ chồng Hàn Đạo Quốc và Ái Thư biết. Ái Thư đang ngồi trên lầu buồn rầu lấy bút làm thơ, nghe báo Kính Tế thì vội quăng bút chạy xuống, cùng mẹ tươi cười đón tiếp Kính Tế.

Gặp mặt nhau, Ái Thư nói:

- Người ta bảo quý nhân nan kiến diện quả là đúng, hôm nay sao chàng lại tới đây được vậy?

Kính Tế vái chào rồi chỉ cười. Hai mẹ con mời vào ngồi dùng trà. Sau vài tuần trà và dăm câu chuyện, Ái Thư nói:

- Mời chàng lên phòng thiếp trên lầu ngồi chơi.

Nói xong dẫn Kính Tế đi. Vào phòng riêng, hai người mừng mừng tủi tủi hàn huyên, kề vai áp má chuyện dứt không ra. Lát sau Kính Tế thấy trên bàn còn giấy bút ngổn ngang, thì với tay cầm tờ giấy lên coi. Ái Thư bảo:

- Chàng không tới, tôi ngồi buồn làm chơi một bài thơ cho bớt nhớ mong, để chàng coi chỉ sợ làm bẩn mắt chàng thôi.

Kính Tế cười, thấy bài thơ như sau:

Giường một chờ mong luống thẫn thờ, Dung nhan sầu muộn hoá bơ phờ.

Tình lang chờ mãi nào đâu thấy, Biết mấy ngày đêm vẫn ngóng chờ.

Kính Tế đọc xong, vui vẻ khen hay.

Lát sau Vương thị sai dọn tiệc trên lầu để khoản đãi Kính Tế. Ái Thư rót rượu, hai tay nâng lên mà nói:

- Bấy nay vắng bóng chàng, ngày đêm chẳng lúc nào là tôi không mong nhớ. Hôm nọ được chàng thương mà chu cấp ít nhiều, cả gia đình tôi cảm kích lắm.

Kính Tế đỡ chung rượu mà đáp:

- Giận là trong người không khoẻ nên phải lỡ hẹn, xin nàng đừng buồn.

Nói xong nâng chung uống cạn, rồi rót một chung rượu mời lại Ái Thư.

Lát sau vợ chồng Đạo Quốc cũng lên ngồi cạnh thù tiếp. Nhưng chỉ sau vài tuần rượu, vợ chồng lại xin phép xuống lầu để hai người được tự do.

Kề vai áp má ăn uống no say, hai người tìm cuộc giao hoan. Xa cách ít ngày, ân ái trăm phần nồng nhiệt. Qua phút mây mưa, Kính Tế mệt mỏi lăn ra ngủ.

Trong khi đó thì Hà quan nhân tìm đến. Vương thị dọn tiệc dưới lầu thết đãi. Đạo Quốc ra phố mua thêm rượu thịt. Lát sau, trở về, ba người cùng ăn uống.

Tới xế chiều thì Lưu Nhị uống rượu say sưa, mặt mũi đỏ gay, phanh áo múa tay tới tửu lầu mà quát lớn:

- Dẫn tên họ Hà ra đây cho ta mau.

Hai viên quản lý giật mình, vội bước ra vái chào tươi cười đáp:

- Kính chào Lưu Nhị ca, Hà quan nhân không tới đây.

Toạ Địa Hổ Lưu Nhị chẳng nói chẳng rằng, xồng xộc bước vào phòng Đạo Quốc, tung mành xông vào, thấy Hà quan nhân đang kề vai Vương thị uống rượu thì nổi giận đùng đùng thét lớn:

- Thằng họ Hà khốn kiếp kia, tao tìm mày mãi, không ngờ lại gặp ở đây.

Mày bao hai con kỹ nữ tại tửu lầu của tao, nằm với chúng nó mấy đêm mà không chịu thanh toán tiền bạc gì cả, lại còn thiếu ta hai tháng tiền phòng, vậy mà dám tới đây hú hí với con mụ này hay sao?

Hà quan nhân đứng dậy nói:

- Lưu nhị ca đừng giận, nếu nhị ca không bằng lòng thì để tôi ra khỏi nơi này.

Lưu nhị thét:

- Thằng chó chết, ăn nói vậy mà nghe được sao?

Vừa nói vừa cử quyền đánh ngay vào mặt Hà quan nhân. Hà quan nhân nhịn đau cướp đường mà chạy. Lưu Nhị sấn tới đạp tung bàn tiệc, đoạn mắng:

- Con dâm phụ kia, mày ở đâu tới đây, tên tuổi là gì, sao không tới báo cho tao biết? Bây giờ thì mày có đường có nẻo phải dọn đi lập tức, chậm trễ là ta cho ăn đòn.

Vương thị nói:

- Ngươi là tên côn đồ ở đâu tới mà dám làm nhục ta như vậy? Thật tức chết mất thôi, nhục thế này thì sông sao được nữa.

Nói xong bật khóc. Lưu Nhị mắng:

- Con dâm phụ khốn nạn, mày tới đây mà không biết tao là ai hay sao?

Vì chuyện ồn ào, khách qua đường xúm lại coi đông đảo. Một người bảo:

- Vương tẩu à, Vương tẩu mới tới đây nên chưa biết đó thôi. Lưu Nhị ca đây là tiểu cữu của Trương Đại gia, quản gia của Chu Thủ bị lão gia đó. Lưu Nhị gia đây có hiệu là Toạ Địa Hổ, cai quản đám ca nhi kỹ nữ trong các tửu lầu nơi đây. Vương tẩu nên nhị đi là hơn, dân ở đây không ai dám làm phật lòng Toạ Địa Hổ đâu.

Hai quả lý Lục, Tạ cũng hết lời ngon ngọt khuyên can Lưu Nhị.

Kính Tế đang ngủ trên lầu, nghe bên dưới ồn ào, thấy trời bên ngoài đã chạng vạng liền hỏi:

- Cái gì ồn ào dưới đó vậy?

Đạo Quốc chẳng biết đã trốn đâu mất, chỉ thấy Vương thị tóc tai rũ rượi chạy lên nói:

- Tự nhiên có một tên côn đồ hung ác, xưng là Toạ Địa Hổ Lưu Nhị, Tiểu cữu của Truong Thăng trong phủ Chu Thủ bị, nó đến đây gây chuyện với khách uống rượu rồi đập phá đồ đạc và hành hung tôi, lại còn hạ nhục đủ điều.

Nói xong thì khóc lớn. Kính Tế cho gọi hai viên quản lý lên hỏi. Hai người đáp:

- Lưu Nhị tới đây tìm Hà quan nhân để đòi tiền, gặp Hà quan nhân đang uống rượu thì hành hung đập phá. Hà quan nhân chạy rồi, Lưu Nhị quay sang hạ nhục và hành hung Hàn nương tử đây. Người qua đường xúm lại coi, thật chẳng ra gì cả.

Kính Tế nhớ lại là chính tên Lưu Nhị này đã hành hung mình lúc trước, nên tuy muốn can thiệp nhưng lại sợ Lưu Nhị dữ dằn hung ác, lại thấy trời đã muộn bèn hỏi:

- Tên Lưu Nhị đó hiện giờ ở đâu?

Hai viên quản lý đáp:

- Nhờ người can gián nên hắn đã bỏ đi rồi.

Kính Tế quay lại an ủi Vương thị và Ái Thư.

- Hai mẹ con nàng cứ an tâm, không sao đâu, còn có tôi đây, để tôi về phủ sẽ có cách.

Nói xong bảo hai viên quản lý đưa tiền lời rồi lên kiệu mà về.

Về tới phủ thì đã gần khuya, Kính Tế giao tiền bạc cho Xuân Mai rồi về phòng ngủ với vợ.

Sáng hôm sau, Kính Tế định tìm gặp Xuân Mai nói rõ mọi chuyện, nhưng lại nghĩ rằng:

- Thôi, hay là hãy cứ tạm gác lại đã, để mình để ý tìm lỗi lầm của tên Trương Thắng, rồi nói với Xuân Mai, để cho Trương Thăng mất mạng vì tay Chu Thủ bị mới được. Thằng này nó biết rõ gốc gác mình, lại ỷ có công tìm đưa mình về đây, nên coi thường mình lắm. Để rồi coi nó có thoát khỏi tay mình không.

Nghĩ vậy, Kính Tế tạm gác chuyện báo thù Trương Thắng và Lưu Nhị lại để chờ dịp tốt.

Một hôm, Kính Tế đến tửu lầu ở bến lâm Thanh, bảo mẹ con Vương thị rằng:

- Hôm nọ để hai mẹ con phải buồn giận, thật tôi khổ tâm lắm.

Lại hỏi hai vị quản lý:

- Từ hôm đó thằng Lưu Nhị còn tìm tới đây gây chuyện nữa không?

Lục quản lý đáp:

- Từ hôm đó tới nay không thấy hắn tới nữa.

Kính Tế lại hỏi Ái Thư:

- Còn ông Hà quan nhân nào đó có đến đây nữa không?

Ái Thư đáp:

- Cũng không thấy tới.

Kính Tế ăn cơm uống rượu xong tính toán tiền bạc xong, trở lên lầu vui vầy với Ái Thư, sau đó cho gọi gia nhân Trần Tam nhi tới hỏi về những hành động lầm lỗi của Trương Thắng. Trần Tam nhi nói:

- Sau khi Tuyết Nga bị đuổi ra khỏi phủ thì trở thành ca nữ ở bến Lâm Thanh này, Trương Thắng tìm đến bao bọc Tuyết Nga, lại thêm Lưu Nhị dựa hơi làm bậy, thật thanh danh của lão gia chẳng còn gì.

Kính Tế nghe xong mừng lắm, ghi nhớ trong lòng. Lát sau, cho Ái Thư ba lạng bạc, bảo hai quản lý tính toán tiền lời, mang tiền lên ngựa mà về.

Trong thời gian đó, giặc Kim xâm lấn nội địa, thanh thế rất mạnh, tin tức báo về thập phần nguy cấp. Vua Huy Tông hoảng lên, bàn tính với các đại thần.

Các đại thần bàn là nên cử người tới nước Kim ở phương Bắc xin giảng hoà. Huy Tôn ưng thuận, lại bằng lòng theo điều kiện của nước Kim là hàng năm phải nạp kim ngân lụa gấm.

Sau đó, Huy Tông truyền ngôi cho Thái tử Đăng Cơ. Thái tử lên ngôi, đổi niên hiệu Tuyên Hoà thứ bảy thành Tĩnh Khang nguyên niên, lấy đế hiệu là Khâm Tông Hoàng đế. Huy Tông thì tự xưng là Thái Thượng Đạo quân Hoàng đế, trở về ngụ trong cung Long Đức. Đại thần Lý Cương được thăng Binh bộ Thượng thư, cho Chủng Sư đạo làm Đại tướng, cai quản hết quân vụ trong ngoài.

Ít hôm sau, Binh bộ ban sắc thư, thăng Chu Thủ bị làm Sơn Đông Đô Thống chế, sai đem một vạn binh mã hội với Trần phủ Đô Ngự sử Trương Thúc Dạ phòng ngự địa phương, chống giữ với kinh Kim.

Chu Thủ bị nhận sắc thư, không dám chậm trễ, liền gọi hai gia nhân thân tín là Trương Thắng và Lý An tới dặn:

- Hai ngươi lo thu xếp hành lý, sửa soạn rương hòm để chở đồ quý về nhà.

Nguyên Chu Thủ bị làm quan ở Tế Nam mới chừng một năm nhưng đã kiếm chác được một số kim ngân đáng kể.

Chu Thủ bị dặn thêm:

- Đồ đạc mang về nhà giao cho phu nhân cẩn thận, lúc đi đường phải coi chừng. Chỉ ít hôm nữa ta và Tuần phủ Trương lão gia sẽ dẫn binh mã bốn lộ về qua Thanh Hà đó. Về tới phủ cũng phải ngày đêm canh giữ trong ngoài.

Hai người vâng lời, chở một xe kim ngân, dưới hình thức những rương hành lý. Về tới phủ, giao lại cho Xuân Mai minh bạch.

Sau đó Trương, Lý hai người chia nhau canh phòng trong ngoài rất cẩn thận.

Kính Tế nghe tin Chu Thủ bị thăng Đô Thống chế, tất sẽ về qua phủ, lúc đó sẽ kể tội Trương Thắng.

Một hôm, vợ là Cát thị đau, về nhà cha mẹ dưỡng bệnh, Kính Tế ngồi một mình tại thư phòng cho đèn nghĩ ngợi. Bỗng Xuân Mai một mình đẩy cửa bước vào. Kính Tế thấy không có a hoàn đi theo, biết là Xuân Mai tới ngủ với mình, bèn đóng cửa lại, cùng Xuân Mai vui vầy chăn gối. Sau phút hoan lạc, Kính Tế kể hết chuyện Trương Thằng làm bậy ở ngoài cho Xuân Mai nghe.

Nào ngờ trước đó, Trương Thắng đi tuần phòng khắp nơi trong phủ, khi tới gần thư phòng, nghe như có tiếng đàn bà cười khúc khích trong thư phòng, liền rón rén tới áp tai nghe. Sau khi biết chắc là Xuân Mai thông gian với Kính Tế, Trương Thắng cố gắng nghe xem hai người nói những chuyện gì, do đó biết được Kính Tế định hại mình. Trương Thắng nín thở nghe tiếp. Bên trong, Kính Tế nói:

- Thằng Trương Thắng đó dám khinh khi tôi, cậy có công tìm đem tôi về đây, nên mấy lần sai thuộc hạ làm nhục tôi. Nó thấy tôi mở tửu lầu tại bến Lâm Thanh liền sai đứa cậu nó là thằng Toạ Địa Hổ Lưu Nhị tới giở thói côn đồ đạp phá đồ đạc trong tửu lầu. Trương Thắng lại ỷ thế lão gia, làm nhiều chuyện tổn thương danh giá lão gia. Nó ăn bớt tiền bạc, dám bao con Tuyết Nga để ngày đêm hú hí. Nó lừa dối lão gia và thư thư nhiều chuyện lắm, nhưng tôi không dám nói. Bây giờ chuyện chẳng đừng mới phải nói ra. Hôm nào lão gia về, thư thư phải nói để lão gia trừng trị nó, chứ như thế này thì tôi không dám tiếp tục làm ăn buôn bán ở bến Lâm Thanh nữa đâu.

Xuân Mai cau mày:

- Thằng đó gớm thật, tôi đã cho bán con Tuyết Nga đi rồi, sao nó còn dám bao bọc con đó ở ngoài như vậy?

Kính Tế nói:

- Thế mới đáng nói, nó khinh thường tôi chẳng nói làm gì, đằng này nó dám khinh thường cả thư thư nữa chứ.

Xuân Mai gật đầu:

- Để lão gia về đây, tôi phải nói để lão gia trị tội nó mới được.

Trong này hai người nói những gì, Trương Thắng núp bên ngoài nghe được rõ ràng đầy đủ hết. Trương Thắng nghĩ thầm:

- Thì ra đôi gian phu dâm phụ này đang tính kế hại mình, như vậy làm sao mình thoát, chi bằng ra tay trước thì hơn, giết phăng cả hai đứa đi là yên chuyện.

Nghĩ xong vội trở về phòng riêng, lấy cây đao sáng quắc, bướca ra tảng đá giữa sân liếc lại cho sắc rồi xăm xăm bước tới thư phòng.

Cho hay tử sinh hữu mạng, số Xuân Mai chưa chết về tay Trương Thắng, nên ngay sau khi Trương Thắng bỏ đi thì tiểu a hoàn Lan Hoa hớt hải tới thưa:

- Xin phu nhân về phòng mau, không hiểu Kim ca nhi bị gió hay sao mà đang làm kinh trong kia kìa.

Xuân Mai hoảng lên, lật đật theo Lan Hoa về hậu phòng.

Xuân Mai vừa ra khỏi thì Trương Thắng rón rén tới cửa thư phòng, nghe ngóng một chút rồi đẩy cửa xông vào. Kính Tế đang nằm trên giường, thấy Trương Thắng cầm đao xông vào, mặt mày hung dữ thì thất kinh nhỏm dậy hỏi:

- Ngươi vào đây làm gì vậy?

Trương Thắng rít qua hài hàm răng:

- Tao đến để giết mày. Mày vừa nói gì với con dâm phụ thì mày biết đấy.

Chằng phải là tao đã tìm đem mày về phủ này sống đời sung sướng hay sao, vậy mà mày lấy oán đền ơn để ám hại tao. Thứ vô ơn bạc nghĩa như mày không thể để sống.

Kính Tế định đứng dậy thoát thân, nhưng Trương Thắng đã hoa đao lên:

- Đừng hòng chạy, mày phải chết vì lưỡi đao này, hôm nay là ngày giỗ của mày đó.

Kính Tế sau cơn ái ân mỏi mệt đang nằm nghỉ ngơi quần áo cũng chưa kịp mặc, chỉ biết quấn cái khăn mỏng quanh người, thấy nguy, vụt đứng dậy định chạy. Nhưng lưỡi dao vung lên như một lằn chớp chém xả xuống vai Kính Tế.

Kính Tế kêu lên đau đớn, gục xuống giường, máu đỏ tuôn ra. Trương Thắng nhảy tới đâm một đao vào bụng. Kính Tế không cựa quậy gì nữa. Trương Thắng cúi xuống cắt đầu Kính Tế.

Thật là:

Sống còn muôn sự chan chan Một khi nằm xuống muôn vàn cũng không.

Thương cho Kính Tế, vì không cẩn thận mà phải chết thảm thương.

Trương Thắng giết xong Kính Tế, tìm quanh phòng không thấy Xuân Mai đâu thì trở ra định vào hậu đường tìm giết nốt Xuân Mai. Nhưng vừa bước ra thì gặp Lý An đang đi tuần tới đó, Lý An thấy Trương Thắng cầm lưỡi đao đẫm máu, dáng điệu chằng khác hung thần thì thất kinh hỏi:

- Huynh đi đâu vậy?

Trương Thắng chằng nói chẳng rằng, rảo bước mà đi. Lý An bước theo nắm lại. Trương Thắng thình lình quay lại vung đao chém, nhưng Lý An đã lẹ làng nhảy tránh được. Lý An tránh xong lưỡi đao thì quát lớn:

- Mày không biết chú tao là Sơn Đông Dạ Xoa Lý Quý hay sao? Mày đã vậy thì tao nhất định không tha.

Nói xong nhảy tới phòng cước đá rơi cây đao trong tay Trương Thắng.

Trương Thắng luống cuống bị Lý An xông tới vật ngã, đè xuống cởi dây lưng trói nghiến lại. Lý An trói xong Trương Thắng, chạy vào thưa với Xuân Mai:

- Bẩm phu nhân, Trương Thắng xách đao định xâm nhập hậu đường, bị tôi bắt trói ngoài kia.

Xuân Mai vừa cứu con tỉnh dậy, nghe Lý An nói vậy, thì thất sắc chạy ngay tới thư phòng, thấy Kính Tế bị giết thêm thảm, máy chảy đầy đất, thì ôm mặt khóc lớn, rồi sai người thông báo cho nhà vợ Kính Tế là Cát viên ngoại biết.

Lát sau Cát thị hốt hoảng chạy tới, thấy chồng bị giết thì ngã lăn ra đất bất tỉnh. Xuân Mai vội cứu tỉnh, rồi sai phái gia nhân lo mọi việc, mua quan tài tẩm liệm cho Kính Tế, sai giam Trương Thắng vào ngục để đợi Chu Thống chế về xét xử. Cả phủ loạn lên suốt mấy ngày.

Mấy hôm sau, quân về báo là Thống chế dẫn binh mã các lộ về tới. Các quan bản hạt đang nghênh tiếp, Thống chế sắp về phủ.

Tới gần trưa thì Chu Thống chế về phủ, vào thẳng hậu đường thăm vợ.

Xuân Mai kể lại việc Trương Thắng hạ sát Kính Tế. Lý An đem cây đao dính máu tới trình mọi việc. Chu Thống chế nổi giận hầm hầm bước ra đại sảnh cho dẫn Trương Thắng lên, rồi không hỏi han gì, sai ngay quân hầu đánh Trương Thắng một trăm trượng. Thương cho Trương Thắng, không chịu nổi đòn mà chết.

Chu Thống chế hạ trát truy nã Toạ Địa Hổ Lưu Nhị.

Tôn Tuyết Nga thấy Lưu Nhị bị bắt, sợ tội bèn vào nhà thắt cổ tự tử.

Lưu Nhị bị dẫn tới phủ. Chu Thống chế cũng sai đánh trăm trượng, đánh xong thì Lưu Nhị chết.

Cả một huyện Thanh Hà, cả một bến Lâm Thanh náo động.

Thế mới biết:

Một đời làm ác hại người, Nay gặp trời xanh báo ứng.

Sau khi đánh chết Trương Thắng và Lưu Nhị, trừ hại cho dân địa phương, Chu Thống chế sai Lý An bán ngôi tửu lầu tại bến Lâm Thanh, đem tiền bạc về giao cho Xuân Mai, lại dặn Xuân Mai lo tang ma cho Kính Tế và cho chôn tại đất chùa Vĩnh Phúc.

Sau đó mấy ngày, Chu Thơng chế sai Lý An và Chu Nghĩa coi nhà, còn mình thì dẫn quân binh lên đường phòng thủ, hai gia nhân Chu Nhân và Chu Trung đi theo để hầu hạ trong quân.

Lúc ra đi, Xuân Mai và Tôn Nhị nương bày tiệc rượu tiễn đưa. Xuân Mai rót rượu cho chồng, nước mắt lã chã mà nói:

- Lần này tướng công ra đi vì việc vua việc nước, chưa biết ngày nào mới về. Đời chinh chiến xin tướng công bảo trọng thân mình. Giặc kia hung ác, tướg công chằng nên khinh suất.

Chu Thống chế dặn:

- Hai nàng ở nhà nên giữ lòng trong sạch, bớt điều ham muốn, lo lắng cho ca nhi đầy đủ, đừng quá buồn rầu mà hại đến sức khoẻ. Còn ta thì hưởng tước lộc triều đình nên phải tận trung báo quốc. Chuyện cát hung ở nơi chiến địa thì phó mặc cho trời.

Dặn xong, uống cạn rượu mà đi. Quân binh các lộ đã tề chỉnh ở ngoại thành. Chu Thống chế tiền hô hậu ủng, giương cờ gióng trống dẫn quân đi.

Quân binh tới phủ Đông Xương thì Chu Thống chế sai đem cờ lệnh vào thành thông báo. Tuần phủ Trương Thúc Dạ cùng Đông Xương Tri phu Đạt Thiên Đạo ra ngoại thành rước vào.

Mọi người lên đại sảnh của Tri phủ mà thi lễ, sau đó cùng ngồi bàn chuyện quân cơ.

Hôm sau, vì việc binh cấp bách, Chu Thống chế dẫn binh lên đường ra quan ải phòng giặc...

Lại nói về mẹ con Vương thị, vẫn ở lại ngôi tửu lầu cũ, nay được bán lại cho Tạ Tam, nghe tin Kính Tế bị thảm sát thì buồn rầu lo lắng. Riêng Ái Thư thì ngày đêm khóc lóc, bỏ cả ăn uống, nhất định đòi được vào phủ Thống Chế nhìn mặt Kính Tế lần cuối, có chết cũng cam lòng. Cha mẹ và người xung quanh khuyên giải thế nào cũng không được. Hàn Đạo Quốc đành phải sai gia nhân vào thành dò hỏi tin tức trước, thì được biết Kính Tế đã được chôn cất tại đất chùa Vĩnh Phúc. Gia nhân về nói lại, Ái Thư lại nhất định đòi tới mộ Kính Tế để thắp hương đốt vàng. Vợ chồng Hàn Đạo Quốc đành chiều theo, gọi một chiếc kiệu đưa Ái Thư tới chùa Vĩnh Phúc.

Tới nơi, Ái Thư hỏi vị trường lão là Kính Tế được chôn ở đâu. Trưởng lão sai một sa di đưa Ái Thư ra mộ Kính Tế ở sau chùa. Tới nơi, Ái Thư bày đồ lễ ra, thắp hương khóc mà khấn:

- Tình lang ơi, em những mong được cùng chàng se tơ kết tóc tới già, nào ngờ nhất đán chàng đang tâm bỏ đi như thế này...

Khấn tới đây thì nghẹn lời, khóc nấc lên, khóc đến lăn lộn trước mộ. Vợ chồng Hàn Đạo Quốc đi theo, thấy vậy phải tới nâng dậy khuyên giải, nhưng Ái Thư bị thảm quá mà ngất đi. Vợ chồng Hàn Đạo Quốc lay gọi không tỉnh thì hoảng cả lên.

Hôm đó lại đúng tuần tam nhật của Kính Tế, Xuân Mai và Cát thị ngồi kiệu đem gia nhân và lễ vật tới mộ Kính Tế. Tới nơi, thấy một thiếu phụ trẻ đẹp mặc đồ tang khóc ngất trước mồ, lại có một người đàn ông và một người đàn bà trung niên đang lay gọi, Xuân Mai bước tới hỏi:

- Mấy người ở đâu tới thế này?

Đạo Quốc đứng dậy vái chào, kể sơ mối liên hệ với Kính Tế rồi nói:

- Còn đây là con gái chúng tôi, tên là Ái Thư.

Xuân Mai nghe nhắc tới tên Ái Thư, thì nhớ lại mọi chuyện ngày trước, và hiểu rằng đây là vợ chồng Đạo Quốc, nhìn kỹ lại thì nhận đúng Vương thị, vì lúc trước Xuân Mai có gặp Vương thị một hai lần tại nhà Tây Môn Khánh.

Đạo Quốc kể sơ qua vụ Thái Thái sư ở Đông Kinh bị tội, rồi nói tiếp:

- Con gai tôi với Trần quan nhân là chỗ thâm giao, nay quan nhân chẳng may mất đi nên nó cứ đòi tới thắp hương trước mộ cho trọn nghĩa nào ngờ bị cảm quá độ mà khóc đến ngất đi.

Nói xong lại cùng vợ lay gọi Ái Thư, lát sau Ái Thư mới tỉnh, tỉnh dậy lại khóc, nhưng cổ đã khan, khóc không thành tiếng nữa. Thấy Xuân Mai và Cát thị đứng cạnh, Ái Thư vội sụp lạy bốn lạy mà nói:

- Tuy tôi và Trần lang không chính thức là vợ chồng, nhưng chúng tôi đã thề nguyền là suốt đời bên nhau, nào ngờ trời xanh không chút xót thương, chàng chết đi để tôi đau đớn vô cùng. Tôi đang định xin về làm bé làm mọn trong phủ thì chàng không còn nữa. Sinh thời, chàng có tặng tôi một chiếc khăn có đề mấy câu thơ, phu nhân và thư thư không tin, tôi xin trình để phu nhân và thư thư coi.

Nói xong đưa ra một chiếc khăn lụa. Xuân Mai và Cát thị cầm xem, thấy bốn câu thơ rõ ràng là nét chữ Kính Tế.

Ái Thư lại nói:

- Tôi cũng có tặng chàng một chiếc túi gấm, hai bên có năm bông sen, trên mỗi bông sen có thêu một chữ, cộng lại năm chữ là "Tặng tình lang Trần quân". Chàng vẫn đem theo chiếc túi gấm đó bên mình.

Xuân Mai hỏi Cát thị:

- Có thấy cái túi gấm đó không?

Cát thị đáp:

- Có thấy, nhưng tôi đã cho vào quan tài trong lúc tẩm niệm rồi.

Xuân Mai và Cát thị bày lễ vật, thắp hương đốt vàng, rồi mời vợ chồng Đạo Quốc và Ái Thư vào chùa dùng cơm chay. Xuân Mai khuyên Ái Thư ăn uống cho khoẻ.

Ăn uống xong, Vương thị giục chồng con về. Nhưng Ái Thư tới quỳ trước mặt Xuân Mai và Cát thị khóc mà nói:

- Tôi nguyện xin được theo phu nhân và thư thư về phủ trông nom bài vị cho Trần lang, không về nhà cha mẹ nữa. Nay mai tôi có chết thì cũng được coi như vợ bé của chàng, như vậy cho trọn ân tình.

Nói xong lại khóc như mưa như gió. Cát thị im lặng, Xuân Mai bảo:

- Chỉ sợ thư thư còn trẻ quá, chủ tiết không được mà lại làm uổng phí tuổi thanh xuân của thư thư mà thôi.

Ái Thư nói:

- Sau phu nhân lại dạy như vậy, tôi đã vì chàng thủ tiết thì quyết thủ tiết trọn đời, nhất định không lấy ai.

Nói xong quay lại thưa với vợ chồng Đạo Quốc:

- Thôi, xin phụ thân và mẫu thân về đi, con ở lại theo phu nhân và thư thư đây về phủ.

Vương thị nước mắt ròng ròng:

- Tưởng đâu con ở lại nuôi cha mẹ tới lúc cha mẹ già chết, nào ngờ con lại nghĩ quẩn như thế. Con về với cha mẹ đi.

Ái Thư đáp:

- Con không về đâu, nếu cha mẹ buộc con về thì con cũng đến tự tử mất thôi.

Vợ chồng Hàn Quốc Đạo thấy con gái cương quyết như vậy thì không biết làm sao, đành khóc lóc dắt nhau trở về ngôi tửu lầu ở bến Lâm Thanh.

Ái Thư cùng Xuân Mai và Cát thị ngồi kiệu về phủ Thống chế.

Về phần Vương thị, vè tới tửu lầu thì cứ than khóc không thôi. Đạo Quốc bảo:

- Người ta thường nói nữ nhi ngoại tộc quả là không sai chút nào, nó đã muốn vậy thì mặc kệ nó, việc gì phải khóc lóc buồn thương... Chỉ ít ngày sau, vì không còn sự giúp đỡ của Kính Tế nữa, vợ chồng Đạo Quốc lại lâm cảnh túng thiếu, phải nhờ Trần Tam Nhị mời Hà quan nhân tới. Hà quan nhân thấy Lưu Nhị đã chết, mối hại ở địa phương không còn, nên lại tiếp tục lui tới với Vương thị.

Một hôm Hà quan nhân bảo vợ chồng Đạo Quốc rằng:

- Con gái hai người đã vào phủ Thống chế sống đời goá bụa rồi, nó cũng yên thân nó, bây giờ để tôi lo bán hết hàng hoá tại đây rồi hai người theo về ở với tôi tại Hồ Châu, hơn là cứ ở đây lông bông như thế này.

Đạo Quốc nói:

- Quan nhân đã có lòng đoái tưởng như vậy thì còn gì bằng.

Ít hôm sau, Hà quan nhân bán hết hàng, thuê thuyền đem vợ chồng Đạo Quốc về Hồ Châu.

Về phần Ái Thư, cùng Cát thị ở goá thủ tiết thờ Kính Tế, hai người xưng hô với nhau là chị em, rất là tương đắc. Ngày ngày hai người bầu bạn với Xuân Mai trong thời gian Thống chế xa nhà.

Thời gian thấm thoát trôi qua, Kim ca nhi ngày một lớn.

Năm đó Kim ca nhi đã sáu tuổi, con gái của Tôn Nhị nương cũng đã tám tuổi. Sinh hoạt trong nhà cứ bình thản êm đềm, nhờ có hai đứa trẻ nên cũng không buồn thảm lắm. Xuân Mai thì đường đường là một bậc mệnh phụ phu nhân, ăn ngon mặc đẹp, trân châu bảo ngọc kim ngân trong nhà không thiếu thứ gì, chỉ phải sống đời cô độc chăn gối lạnh lùng.

Trong thời gian đó, Lý An chăm chỉ trông coi mọi việc trong nhà, được Xuân Mai đem lòng để ý, vì Lý An cũng không phải là người xấu xí, lại có công cứu Xuân Mai thoát khỏi bàn tay sát nhân của Trương Thắng ngày trước.

Một đêm trời đông tháng giá, sau khi tuần phòng quanh phủ, Lý An về ngủ tại phòng riêng, bỗng nghe có tiếng gõ cửa nhè nhẹ, vội nhỏm dậy hỏi:

- Ai đó?

Chỉ nghe tiếng đàn bà nói nhỏ:

- Mở cửa mau đi.

Lý An bước ra mở cửa. Cánh cửa vừa hé mở, một người đàn bà lách vội vào. Lý An quay lại vặn đèn lớn lên, nhận ra nhũ mẫu Kim Quỹ, bèn hỏi:

- Chị tới đây giờ này có chuyện gì vậy?

Kim Quỹ đáp:

- không phải tôi tự ý đến mà là phu nhân sai đến.

Lý An lại hỏi:

- Phu nhân cần dạy bảo chuyện gì?

Kim Quỹ cười:

- Làm sao anh biết được, phu nhân sai tôi đến đây xem anh đã ngủ chưa để cho anh cái này.

Nói xong lấy ra một bộ quần áo, nói tiếp:

- Đây là mấy bộ quần áo đàn ông và đàn bà, phu nhân bảo đem thưởng cho anh và mẹ anh, để gọi là đền công anh đã chở kim ngân từ Tế Nam về, lại để cảm tạ anh đã cứu phu nhân, nếu không có anh thì phu nhân đã bị Trương Thắng hại rồi.

Để mấy bộ quần áo lên bàn, Kim Quý nói tiếp:

- Mà còn chuyện này nữa, chút nữa thì quên.

Nói xong lấy ra năm lạng bạc nguyên bảo sang chói đưa cho Lý An rồi vội vã bước ra.

Lý An tự nhiên được tiền bạc quần áo thì cứ ngẩn ngơ chẳng hiểu tại sao.

Sáng sớm hôm sau, Lý An đem các thứ về nhà đưa cho mẹ. Mẹ hỏi:

- Ở đâu mà ra vậy?

Lý An kể lại chuyện đêm qua. Người mẹ nghe xong dậm chân kêu khổ mà bảo:

- Ngày trước thằng Trương Thắng vì làm chuyện này nọ mà bị đánh tới chết. Nay ngươi có hiểu ý phu nhân khi cho người những thứ này không? Ta nay ngoài sáu mươi tuổi rồi, từ khi cha ngươi qua đời, ta chỉ lo lắng săn sóc cho ngươi, nay nếu ngươi chạm vào chuyện tội lỗi gì thân già ta biết nương tựa vào đâu. Bây giờ ngươi ở nhà đi, đừng vào phủ nữa.

Lý An chợt hiểu ra, nhưng hỏi lại:

- Con không vào phủ thì phu nhân cho người tới gọi, biết làm sao?

Bà mẹ nói:

- Ngươi cứ trả lời là ta bị cảm hàn, ngươi phải ở nhà săn sóc ta ít hôm.

Lý An nói:

- Nhưng sớm muộn gì cũng lại phải vào phủ, vả lại lỡ lão gia về, không thấy con thì biết ăn nói làm sao?

Bà mẹ bảo:

- Thì ngươi tạm đến ở với thúc thúc ngươi là Sơn Đông Dạ Xoa Lý Quý ít tháng đi. Rồi xem sự thể ra sao sẽ tính sau.

Lý An vốn là người có hiếu, nghe mẹ nói vậy thì chuẩn bị hành lý, ngay hôm đó tìm đến Thanh Châu ở với chú là Lý Quý.

Xuân Mai thấy Lý An không vào phủ lo việc thì năm lần bảy lượt sai gia nhân tới nhà hỏi. Bà mẹ lúc đầu nói là mình cảm hàn, Lý An phải ở nhà săn sóc, sau thì nói là Lý An đã về quê quán làm ăn.

Xuân Mai vừa buồn vừa giận, nhưng không biết làm sao.

Thời gian qua mau, thấm thoắt đã tới thượng tuần tháng giêng, Chu Thống chế xa nhà đã lâu, liền sai Chu Trung đem thư về, bảo Xuân Mai đem Tôn Nhị nương vài hai đứa trẻ cùng gia nhân, xếp hành lý lên xe tới cư ngụ tại phủ Đông Xương cho gần. Lại sai Chu Trung về quê gọi người em của mình là Chu Tuyên tới coi nhà tại huyện Thanh Hà.

Sau đó Chu Trung cùng Chu Tuyên, Cát thị và Ái Thư cùng một ít gia nhân ở lại phủ, còn Chu Nhân dẫn Xuân Mai, Tôn Nhị nương, hai đứa trẻ và một số gia nhân lên đường tới phủ Đông Xương.

Dọc đường bình an. Tới nơi, Chu Thống chế thân ra đón tiếp gia quyến.

Thấy thê thiếp vợ con bao năm xa cách, Chu Thống chế mừng rỡ khôn cùng, đem tất cả về cư ngụ tại công thự sau phủ Thống chế.

Xếp đặt xong xuôi, mọi người họp mặt uống trà, Chu Nhân thưa lại mọi chuyện. A hoàn gia nhân lần lượt tới lạy chào. Chu Thống chế hỏi:

- Lý An đâu, sao không thấy?

Xuân Mai đáp:

- Nhắc đến nó làm gì nữa, tôi thấy nó có công cứu tôi thoát khỏi tay thằng Trương Thắng, lại có công tuần phòng canh giữ phủ nên đối với nó rất tốt, cho tiền bạc quần áo để nó đem về cho mẹ nó. Nào ngờ, mới đây nó lén vào trong hậu đường, có gó bạc năm chục lạng để trên bàn, nó ăn trộm luôn rồi trốn đi. Tôi mấy lần sai gia nhân tới hỏi mẹ nó thí mới đầu mẹ nó còn nói dối quanh, sau mới nói thật là nó trốn về quê ở Thanh Châu rồi.

Chu Thống chế bảo:

- Tôi cứ nghĩ là thằng đó trung thành, không ngờ cũng là đứa phụ ân như vậy, để rồi thủng thẳng tôi sẽ cho người bắt nó.

Hôm đó, Xuân Mai không nói tới vụ Hàn Ái Thư.

Hôm sau, Xuân Mai lo trông coi gia nhân sửa soạn lại nhà cửa, trang hoàng chỗ ăn ở cho hợp ý mình.

Liên tiếp mấy hôm nữa, Chu Thống chế suốt ngày bận việc quân binh, bận rộn mệt nhọc quên cả ăn ngủ, ngày đêm không được nghỉ ngơi, đến cả chuyện chăn gối cũng hững hờ. Xuân Mai thấy vậy buồn bực lắm, vì được ở gần chồng mà cũng như không. Do đó Xuân Mai để ý tới người con trai thứ của lão gia nhân Chu Trung là Chu Nghĩa, mới mười chín tuổi, mặt mũi khôi ngô, mi thanh mục tú, liền tìm cách gần gũi mua chuộc rồi mắt qua mày lại, giở trò quyến rũ. Chu Nghĩa trẻ tuổi hiếu sắc, toa rập với Xuân Mai làm chuyện tồi bại.

Chủ tớ lén lút tư thông. Xuân Mai thường gọi Chu Nghĩa vào phòng riêng đánh cờ uống rượu, không cần che đậy, chỉ cần giấu một mình Chu Thống chế mà thôi.

Sau đó ít lâu, Hoàng đế nước Đại Kim ở phía Bắc diệt được nước Liêu, rồi đem đại binh theo hai đường sang quấy nhiễu Trung Nguyên. Đại nguyên soái nước Kim là Niêm Một Hát đem mười vạn binh mã theo đường Thái Nguyên tiến về Đông Kinh. Phó soái nước Đại Kim là Cán Ly Bất do đường Đàn châu vào đánh phá ải Cao Dương. Binh mã biên phòng của Trung Quốc không chống nổi. Binh bộ thượng thư Lý Cương và Đại tướng Chủng Sư Đạo hoảng lên, phải ra lệnh cho quan binh tại Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc, Quan Đông ra Thiểm Tây phải cố sức phòng ngự.

Chu Thống chế được văn thư từ triều đình, ra lệnh phòng ngự thì vội vàng chỉnh đốn nhân mã, tiến binh ra gần biên giới. Nhưng chưa tới nơi thì đã nghe tin Phó soái nước Đại Kim là Cán Ly Bất hạ ải Cao Dươn, tướng sĩ triều đình tử trận vô số.

Lúc đó là vào thượng tuần tháng năm, gió lốc mù mịt, cát bụi bay đầy trời.

Chu Thống chế vẫn đem binh tiến đanh, nhưng Cán Ly Bất phản công dũng mảnh. Chu Thống chế bị một mũi tên ghim trúng yết hầu, ngã xuống ngựa mà tử trận. Các tướng bộ hạ thấy vậy xô tới cứu, bị quân Kim dùng tên bắn ngã rất nhiều. Quan binh thiệt hại nặng nề, số tử trận và bị thương không sao đếm hết.

Thương cho Chu Thống chế, phận tướng tài một phút vong thân. Năm đó mới bốn mươi bảy tuổi.

Thật là:

Tôi trung tướng giỏi là đâu Biên cương thân giãi, địa đầu máu loang.

Tuần phủ Trương Thúc Dạ thấy Chu Thống chế đã tử trận, thì lui binh về phủ Đông Xương cố thủ, kiểm điểm sĩ tốt rồi cấp báo về triều.

Các tướng bộ hạ đem được tử thi Chu Thống chế về phủ Đông Xương.

Xuân Mai và toàn gia vật mình lăn khóc không thôi. Sau đó mới lo việc tẩm liệm đồng thời trao trả binh phù ấn tín của chồng lại cho triều đình.

Lễ nghi quân cách xong xuôi, Xuân Mai cùng Chu Nhân và toàn gia đem linh cữu Chu Thống chế về huyện Thanh Hà làm đám tang.

Lại nói về Cát thị và Hàn Ái Thư, từ khi Xuân Mai tới phủ Đông Xương thì hai người ở nhà ăn uống thanh đạm, thủ tiết thờ Kính Tế.

Một hôm vào tiết cuối xuân sơ hạ, trời bắt đầu nóng nực, hai người tản bộ tới ngôi nhà mát ngoài hoa viên, gần thư phòng, thấy trong vườn muôn hoa nở đẹp, trên cành oanh hót yến cười. Ái Thư thấy cảnh xinh tươi, nghĩ tới người tình đã chết, bất giác rơi lệ, lòng đau như thắt. Cát thị cũng không ngăn nổi bi thương.

Hai người đang ngồi ủ rũ sầu thương thì Chu Tuyên em trai Chu Thống chế tới khuyên giải:

- Hai chị em đừng nên buồn rầu nữa, chuyện gì qua rồi thì thôi, vì còn phải nghĩ tới chuyện hiện tại. Để tôi nói chuyện này cho mà nghe. Luôn mấy hôm nay không hiểu sao cứ đêm nằm làm tôi mộng mị toàn những chuyện chẳng lành. Đêm qua tôi lại mơ thấy một cây cung treo trên cột cờ, cột cờ gãy làm đôi, không hiểu là điềm lành hay điềm dữ.

Ái Thư nói:

- Chắc nhị gia muốn nói tới việc chẳng lành xảy ra cho lão gia ở biên cương phải không?

Ba người còn đang phân vân nghĩ ngợi thì thấy lão gai nhân Chu Nhân mặc tang phục lật đật chạy vào lạy chào mà thưa:

- Tai hoạ lớn lắm, lão gia đã vị quốc vong thân. Nguyên hồi thượng tuần tháng năm, vào ngày mồng bảy, lão gia tử trận gần ải Cao Dương. Hiện phu nhân và toàn gia quyến đã đem linh cữu lão gai về tới.

Ba người sững sờ kinh ngạc. Chu Tuyên vội sai phái gia nhận sắp đặt nhà cửa để nghênh tiếp linh cữu, bày bàn thờ tế lễ.

Toàn gia phục xuống mà kêu khóc. Chu Tuyên sai mời các vị tăng tới lập đàn tụng niệm. Sau đó ít ngày thì chọn ngày tốt an táng tại nghĩa địa tổ tiên.

Sau đó Chu Tuyên làm đơn về triều xin cho Kim can nhi được tập chức của cha. Ít ngày sau, triều đình gửi sắc thư về. Sắc thư viết:

- Binh bộ thấy cố Thống chế Chu Tú vong thân báo quốc, chết vì việc quân vương, lòng trung dũng thật đáng khen thưởng, do đó truy phong chức Đô đốc, con trai được nuôi dưỡng theo lệ cũ và được kế tập chức tước của cha.

Xuân Mai mừng lắm, quên cả tang chồng, được yên về phần con, nên chỉ đêm ngày nghĩ chuyện dâm loạn vui thú. Chu Nghĩa thường xuyên lui tới tư thông với Xuân Mai, nhiều khi bị Xuân Mai giữa chặt trong phòng cả mấy ngày đêm.

Xuân Mai dâm dục quá độ, sinh bệnh mệt mỏi, mới đầu uống thuốc, sau thì không ăn không ngủ được, thân thể gầy còm, tinh thần hỗn loạn, nhưng tính dâm vẫn không bớt, Chu Nghĩa vẫn phải tận lực thoả mãn.

Chẳng bao lâu, vào đầu tháng sáu, Xuân Mai từ trần. Chu Nghĩa thấy Xuân Mai chết thì vội mở rương lấy trộm nhiều kim ngân châu báu mà trốn đi. A hoàn và đám gia nhân lúc đó mới thưa sự thật với Chu Tuyên. Chu Tuyên một mặt sai giam Chu Nhân lại, một mặt sai gia nhân tìm kiếm Chu Nghĩa. Chu Nghĩa đang ẩn náu tại nhà cô ở ngoại thành thì bị bắt trói đem về.

Chu Tuyên không muốn chuyện vỡ lỡ, sợ tai tiếng, triều đình có thể không cho kim ca nhi kế tập chức tước của cha, bèn cho dẫn Chu Nghĩa tới đại sảnh, không thèm hỏi han, ra lệnh đánh bốn chục trượng. Thương cho Chu Nghĩa, không chịu nổi đau mà chết.

Sau khi cho chôn cất Chu Nghĩa. Chu Tuyên cũng cho các nhũ mẫu và a hoàn như Hải Đường, Nguyệt Quế ra khỏi phủ. Cát thị và Ái Thư khuyên can Chu Tuyên thế nào cũng không được.

Sau đó ít lâu, binh Đại Kim tiến vào Đông Kinh. Thái thượng Hoàng đế và Tĩnh Khang Hoàng đế đều bị bắt về nước Kim. Trung Nguyên vô chủ, trộm cướp giặc giã nổi lên như ong khắp nơi, dân gian điêu linh không sao kể xiết. Binh Kim lại kéo nhau tới các tỉnh các huyện mà cướp phá.

Khi binh Kim kéo tới tỉnh Sơn Đông, dân trong tỉnh lũ lượt bồng bế nhau chạy giặc, cha mất con vợ mất chồng, kêu khóc vang trời.

Cát thị được cha mẹ đem về, đưa đi trốn nạn. Ái Thư không biết nương tựa vào đâu, nhưng cũng phải thu vén của cải và ít quần áo rồi ra khỏi huyện Thanh Hà, đến bến Lâm Thanh định tìm cha mẹ. Nào ngờ tới nơi thì tửu lầu của Tạ Tam đã đóng cửa im ỉm, hỏi thăm thì biết Tạ Tam đã bỏ đi lánh nạn, may gặp Trần Tam Nhi. Tam Nhi bảo:

- Phụ mẫu của thư thư đã theo Hà quan nhân về Hồ Châu từ trước rồi.

Ái Thư không biết làm sao, đành lang thang trên đường về Hồ Châu tìm cha mẹ. Dọc đường, tiền bạc hết, Ái Thư phải ôm cây đàn nguyệt, đàn hát rong ngoài đường để sống qua ngày. Đêm nghỉ ngày đi, khổ cực trăm phần không sao nói hết.

Đi như vậy được mấy tháng thì tới Từ Châu. Ái Thư thấy trời đã chiều, ghé vào một ngôi nhà xin tá túc. Một bà lão khoảng thất tuần đang ở trong bếp nấu cơm, thấy vậy chạy ra. Ái Thư vái chào mà nói:

- Cháu là người huyện Thanh Hà, vì loạn lạc nên muốn đến Hồ Châu, đi ngang đây thì trời đã chiều, muốn xin tá túc lão bà qua đêm, sáng mai sẽ xin đi sớm. Chuyện tiền bạc xin đưa đủ, không dám thiếu.

Bà lão ngắm nghía Ái Thư, thấy dung nhan xinh đẹp, cử chỉ đoan trang ăn nói dịu dàng, không phải con nhà nghèo hèn, bèn đáp:

- Nếu quả nương tử muốn nghỉ đỡ tại đây đêm nay thì mời vào trong này ngồi nghỉ, lão còn phải lo làm cơm cho mấy người lo việc vét sông tới ăn.

Nói xong thì thấy mấy người đàn ông kéo vào, người nào cũng đội nón, đóng khố , chân tay mình mẩy, bê bết bùn đất. Đám người này hỏi:

- Lão nương đã có cơm cho chúng tôi chưa?

Lão bà vội dọn cơm ra, gồm một thau cơm, mấy đĩa đậu kho và vài món thức ăn đạm bạc, đoạn bảo:

- Xong xuôi rồi đấy, vào mà ăn đi.

Mấy người quây xung quanh mâm cơm mà ăn uống ngon lành. Trong số có một người khoảng ngoài tứ tuần, mặt mũi hồng hào. Người này thấy Ái Thư đang ngồi trong giường thì hỏi bà lão:

- Ai ngồi trong đó vậy?

Lão bà đáp:

- Nương tử đây là người huyện Thanh Hà, đang trên đường tới Hồ Châu, đi ngang đây thì trời tối nên ghé đây tạm trú qua đêm.

Người nọ hỏi Ái Thư:

- Chẳng hay quý tính nương tử là gì?

Ái Thư đáp:

- Tôi họ Hàn, cha tôi là Hàn Đoạ Quốc.

Người này đứng vụt dậy, bước tới gần mà nói:

- Cháu ơi, vậy cháu là Hàn Ái Thư, cháu gái của ta phải không?

Ái Thư cũng vừa nhận ra, bèn hỏi lại:

- Còn thúc thúc đây là em của phụ thân cháu, tên là Hàn Nhị phải không?

Chú cháu cầm tay nhau mà khóc.

Lát sau Hàn Nhị mới hỏi:

- Thế bây giờ cha mẹ cháu đâu? còn cháu thì ở Đông Kinh cơ mà, sao lại lưu lạc tới đây?

Ái Thư gạt nước mắt kể lại đầu đuôi mọi chuyện rồi nói thêm:

- Gần đây cháu về làm vợ một người trong phủ Thủ bị, nhưng chồng chết, cháu ở goá thờ chồng. Trong khi đó thì cha mẹ cháu theo Hà quan nhân tới Hồ Châu. Gặp cảnh loạn lạc hiện nay, tuy không ai mong dẫn dắt, cháu vẫn một mình tìm đường tới Hồ Châu mong thấy lại mẹ cha. Dọc đường cháu phải đàn hát rong để kiếm tiền độ nhật, không ngờ lại may mắn gặp thúc thúc nơi đây.

Hàn Nhị nói:

- Từ khi cha mẹ cháu lên Đông Kinh với cháu thì ta không kế sinh nhai, phải bán cả nhà cửa của cha mẹ cháu đi mà ăn, rồi san phải tìm đến nơi này làm phu vét sông, kiếm miếng cơm qua ngày. Bây giờ chú cháu đã gặp nhau thì ta và cháu cùng tới Hồ Châu tìm cha mẹ cháu.

Ái Thư đáp:

- Nếu có thúc thúc cùng đi thì còn gì bằng.

Hàn Nhị quay ra lấy một bát cơm và ít thức ăn cho Ái Thư. Cơm gạo xấu, đồ ăn lại chẳng ra gì. Ái Thu cố lắm mới ăn được nửa bát, rồi đi nghỉ.

Sáng sớm hôm sau, đám phu vét sông kéo nhau đi làm việc. Hàn Nhị trả tiền trọ cho Ái Thư rồi chào lão bà, dắt Ái Thư đi.

Ái Thư thân thể yếu đuối, sau mấy tháng đi đường bộ đã hao mòn sức khoẻ, nay còn chút ít tư trang, liền đem bán đi, lấy tiền đáp thuyền, cùng Hàn Nhị tới Hồ Châu.

Thuyền đi ít ngày sau thì tới nơi. Chú cháu dắt nhau lên bờ hỏi thăm nhà Hà quan nhân, không ngờ Hà quan nhân đã chết, vợ chồng Hàn Đạo Quốc được hưởng ít của cải và vài mẫu ruộng mà sông. Sau đó ít lâu thì Đạo Quốc cũng bệnh mà chết. Vương Hy sống với đứa con gái sáu tuổi của Hà quan nhân.

Hàn Nhị và Ái Thư hỏi thăm, tìm được tới nhà Vương thị. Vương thị lúc trước vốn tư thông với Hàn Nhị, gặp lại, hai người nối lại tình xưa, sống thành vợ chồng, lo làm ruộng mà sống.

Có một người con nhà hào phú ở Hồ Châu, thấy Ái Thư có nhan sắc thì nhờ người tới cầu thân, nhưng Ái Thư nhất định không chịu, quyết thủ tiết cùng Kính Tế. Hàn Nhị và Vương thị khuyên lơn ép buộc, Ái Thư liền cắt tóc vào chùa làm ni cô. Đến năm ba mươi mốt tuổi thì bị bệnh mà chết.

Thật là:

Sắc đẹp vùi sâu ba tấc đất Hồn trinh bay bổng chín từng trời.

Lại nói binh mã Đại Kim tràn qua phủ Đông Xương rồi tới huyện Thanh Hà, thì chỉ thấy cảnh điêu tàn hoang vắng, quan lại dân gian lánh nạn hết, cửa thành mở toang, bốn bề lạnh lẽo. Rải rác đây đó một vài tử thi hoặc sinh thối hoặc khô đét của những người vô gia cư chết vì đói. Đường phố hoang tàn, đồ đạc ngổn ngang. Những con chó đói, những con chuột chạy lang thang ngoài đường kiếm ăn.

Một số gia đình không biết chạy đâu, liền ở lại đóng cửa, sống nơm nớp qua ngày. Khi nghe tin quân Kim kéo tới, những gia đình này hoảng lên, thu nhặt quần áo tư trang tìm đường chạy trốn.

Nguyệt nương cũng thu vén kim ngân châu báu, giắt vào người.

Lúc đó thì Ngô Đại cữu đã chết vì bệnh, chỉ có Ngô Nhị cữu, Đại An và Tiểu Ngọc, dẫn Hiếu ca nhi, năm đó đã mười lăm tuổi, cùng Nguyệt nương định tới phủ Tế Nam nương nhờ Vân chỉ huy. Nhà cửa khoá hết cả lại. Nguyệt nương định tới Tế Nam, một là để lánh nạn binh đao, hai là để lo chuyện hôn nhân cho Hiếu ca nhi.

Dọc đường, chỉ thấy toàn người bồng bế gánh gồng chạy loạn, người nào cũng kinh hoàng. Nhóm Nguyệt nương năm người cũng đi lẫn vào đám người chạy loạn.

Đi tới một vừng hoang dã thì thấy một vị hoà thượng, mặc áo cà sa, tay chống gậy, chân đi dép cỏ, vai đeo một túi vải, từ xa tới, chặn Nguyệt nương lại, vái chào rồi lớn tiếng hỏi:

- Ngô nương tử đi đâu vậy? trả đứa đồ đệ này cho tôi chứ?

Vừa nói vừa chỉ Hiếu ca nhi. Nguyệt nương thất sắc hỏi lại:

- Sư phụ bảo tôi trả đứa đồ đệ nào? sao có chuyện lạ vậy?

Vị hoà thượng nói:

- Xin nương tử đừng giả vờ không biết. Hẳn nương tử còn nhớ mười lăm năm trước, nương tử bị tên Ân Thiên Tích lùng đuổi, phải tới động của tôi ở ngọn núi phí Đông Đại Nhạc tá túc qua đêm. Tôi là Tuyết động hoà thượng, pháp danh Phổ Tĩnh đây. Nương tử có hứa là cho tôi một đứa con làm đồ đệ, sao bây giờ lại thất hứa?

Ngô nhị cữu đứng bên nói:

- Sư phụ là người tu hành, đức độ cao thành, cũng thấy rằng thời buổi loạn ly này, thư thư tôi bỏ nhà cửa mà lánh nạn, bên mình chỉ có mỗi đứa con trai, sau này còn mong nối dõi tông đường, lo việc hương hoả, chẳng lẽ thư thư tôi lại chịu bỏ con, cho làm đồ đệ đi theo sư phụ hay sao?

Hoà thượng hỏi Nguyệt nương:

- Có thật nương tử nhất định không cho tôi tên đồ đệ này phải không?

Ngô nhị cữu bảo:

- Sư phụ à, xin đừng nói chuyện dông dài mất thì giờ của chúng tôi, dùng dằng thế này, lỡ quân giặc đuổi tới đằng sau thì sao?

Vị hoàng thượng nói:

- Bây giờ trời cũng chiều rồi, có đi cũng chẳng được xa, binh Kim dù tới, cũng không đến nơi này, chi bằng mọi người theo tôi về chùa gần đây nghỉ đỡ một đêm, rồi mai đi sớm cũng không sao.

Nguyệt nương hỏi:

- Sư phụ hiện trụ trì chùa nào vậy?

Vị hoà thượng lấy tay chỉ mà bào:

- Chùa gần ngay đây thôi.

Nói xong dẫn mọi người tới chùa. Nguyệt nương nhận ra là chùa Vĩnh Phúc, đã có dịp đến một lần. Vào tới nơi, thấy cảnh chùa hoang vắng, các hoà thượng bỏ đi gần hết, chỉ còn vài vị ở lại. Trên điện Phật có mấy nén hương đang cháy, bên cạnh có ngọn đèn leo lét. Nhsom Nguyệt nương năm người được mời, vào nghỉ trong phương trượng. Sa di đem ít cơm ra, mọi người ăn qua loa đỡ bụng. Trong lúc đó, vị Phổ Tĩnh thiền sư gõ mõ tụng kinh.

Trời tối hẳn, Phổ Tĩnh thiền sư mời Nguyệt nương, Tiểu Ngọc và Hiếu ca nhi vào ngủ trong trai phòng còn Ngô Nhị cữu và Đại An thì ngủ ngoài phương trượng.

Một ngày đường mệt nhọc khiến mọi người đặt lưng là ngủ, riêng Tiểu Ngọc ngủ không say, thỉnh thoảng lại trở mình trằn trọc. Lát sau, Tiểu Ngọc trở dậy, trở ra phương trượng ngồi xem Phổ Tĩnh thiền sư tụng kinh, Tiểu Ngọc cứ ngồi như thế cho đến canh ba. Bên ngoài trăng chiếu lờ mờ, cảnh vật hoàn toàn tịch mịch. Trên điện Phật,ngọn đèn leo lét toả một vùng sáng nhỏ nửa vàng nửa xanh.

Phổ Tĩnh thiền sư nhân buổi loạn ly, quan binh dân chúng chết nhiều, kẻ thân phơi chiến địa, người xá bỏ dọc đường thì động lòng từ bi, tụng một hơi một trăm thiên kinh giải oan để cầu cho các vong hồn được siêu sinh tịnh độ.

Lát sau thì những cơn gió buốt thấu xương theo nhau thổi tới, chập chờn trong gió như có hàng trăm hàng ngàn bóng người, kẻ cụt đầu kẻ mất tay, người mất chân, vỡ trán, kéo nhau tới nghe kinh, kẻ đứng người ngồi la liệt hai bên.

Phổ Tĩnh thiền sư nói:

- Chúng sinh các ngươi chẳng qua là oan oan tương báo, tuy chết đi cũng không thể giải thoát, nay hãy nghe ta để vong hồn được siêu độ, nghe xong thì đi.

Nói xong đọc một bài kệ rằng:

Khuyên người đừng tạo oan Oan sâu không giải được Oan sâu đã kết thành Ngàn năm cũng khó giải Nếu lấy oan giải oan Như mặt trời tan tuyết Nếu lấy oan báo oan Đến bao giờ mới diệt Những kẻ đã toạ oan Sẽ bị oan đeo miết Sám hối đi là vừa Tỉnh ngộ sẽ thấu triệt Nếu nghe theo lời ta Oan kia tự nhiên hết Nhờ kinh kệ lực thâm Xoa tan giúp ác nghiệp Các ngươi nếu thác sinh Oan khiên chẳng nên kết.

Đám oan hồn nghe xong đều lạy tạ mà đi. Tiểu Ngọc ngồi im lặng, vừa sợ vừa nhìn khắp các oan hồn, nhưng không nhận được ai. Lát sau có một người đàn ông thân hình cao lớn, mặt mũi tuấn tú, họng dính mũi tên, bước vào:

- Ta là Thống chế Chu Tú, nhân giao tranh với binh Kim mà tử trận, nay được sư phụ giải thoát, sẽ tới Đông Kinh, thác sinh là con trai thứ ba của Trầm Trấn.

Lại thấy một thiếu phụ ôm bụng bước vào, bụng đầy máu me mà nói:

- Tôi là vợ Võ Đại, họ Phan, sau làm thiếp của Tây Môn Khánh, bất hạnh bị kẻ thù là Võ Tòng sát hại, nay được sư phụ gia ân giải thoát, sẽ tới Đông Kinh làm con gái nhà họ Lê.

Lami thấy một thanh niên toàn thân đầy máu bước vào nói:

- Tôi là Trần Kính Tế, lúc trước bị Trương Thắng giết, nay nhờ sư phụ giải thoát, sẽ tới Đông Kinh, thác sinh là con của nhà họ Vương.

Lại thấy một người đàn ông nhỏ bé, mặt xanh như tàu lá bước vào nói:

- Tôi là Võ Đại, Vương bà xui Phan thị dùng thuốc đầu độc tôi, nay được sư phụ giải thoát, sẽ tới Từ Châu làm con một người nông dân họ Phạm.

Lại thấy một thiếu phụ mặt mày gầy gộc võ vàng, quần bê bết máu, bước vào nói:

- Tôi là Lý thị, trước là vợ Hoa Tử Hư, sau làm thiếp của Tây Môn Khánh, bị bệnh băng huyết mà chết, nay được sư phụ giải thoát, sẽ lên Đông Kinh, thác sinh làm con gái của Viên Chỉ huy.

Lại thấy một người đàn ông bước vào nói:

- Tôi là Hoa Tử Hư, bị vợ làm nổi giận, mang bệnh mà chết, nay được sư phụ giải thoát, sẽ lên Đông Kinh, thác sinh làm con của Trịnh thiên hộ.

Lại thấy một thiếu phụ cổ đeo dây thừng bước vào nói:

- Tôi là Tống thị, vợ của Lai Vượng, gia nhân trong nhà Tây môn Khánh, tự ải mà chết, nay nhờ sư phụ giải thoát, sẽ thác sinh làm con gái nhà họ Chu ở Đông Kinh.

Lại thấy một thiếu phụ mặt mày xanh mét bước vào nói:

- Tôi là Bàng thị, vợ của Chu Thống chế, vì dâm dục quá độ mà chết, nay được sư phụ giải thoát, sẽ thác sinh làm con gái nhà họ Cự ở Đông Kinh.

Lại thấy một người đàn ông, quấn áo tả tơi, toàn thân nát bấy vì trượng, bước vào nói:

- Tôi là Trương Thắng, bị đánh trượng chết, nay được sư phụ giải thoát sẽ thác sinh làm con của người nhà nghèo họ Cao ở đường Đại Hưng Đông Kinh.

Lại thấy một thiếu phụ, quanh cổ có sợi dây thừng bước vào nói:

- Tôi là tôn tuyết Nga, thiếp của Tây Môn Khánh, tự ải mà chết, nay được sư phụ giải thoát sẽ lên ngoại ô Đông Kinh làm con gái người nhà nghèo họ Đào.

Lại có một người con gái trẻ tuổi, bước vào nói:

- Tôi là Tây Môn Đại thư, con gái của Tây Môn Khánh, vợ của Trần Kính Tế, tự ải mà chết, nay được giải thoát, sẽ tới làm con nhà họ Phan ở ngoại ô Đông Kinh.

Lại thấy một thanh niên mình đầy vết trượng bước vào nói:

- Tôi là Chu Nghĩa, bị đánh trượng mà chết, nay được giải thoát, sẽ thác sinh làm con nhà họ Cao ở ngoại ô Đông Kinh.

Mọi người nói xong thì vụt biến mất. Tiểu Ngọc ngồi chết lặng, nghĩ thầm:

- Thì ra vị hoà thượng này nói chuyện được cả với ma quỷ.

Nói xong vào trai phòng, định báo với chủ. Trong khi đó Nguyệt nương giật mình thức dậy, kiểm điểm kim ngân, dắt kỹ trong mình, rồi dắt gia quyến lên đường đi Tế Nam.

Tới nơi hỏi thăm đường tìm đến nha môn của Vân Chỉ huy. Vân Chỉ huy lúc đó đã thăng chức Tham tướng. Vân Tham Tướng nghe nói Nguyệt nương đem Hiếu ca nhi lại thì mừng rỡ ra nghênh tiếp. cách đối xử nồng hậu chẳng khác ngày xưa.

Chủ khách thi lễ xong ngồi uống trà nói chuyện. Vân phu nhân bất hạnh đã qua đời cách nay không lâu. Do đó Vân Tham tướng phải nhờ người hàng xóm là Vương bà sang tiếp đãi Nguyệt nương, mời vào hậu đường dùng đại tiệc.

Ngô Nhị cữu và Đại An được khoản đãi tại đại sảnh.

Tiệc xong, Nguyệt nương giao một số lớn kim ngân tư trang cho Vân Tham tướng, gọi là làm lễ cầu thân cho con trai mình với con gái tham tướng, theo lời ước lúc xưa. Vân Tham tướng nhận hết, nhưng không đả động gì tới chuyện hôn nhân.

Tối hôm đó, Vân Tham tướng lại nhờ Vương bà khoản đãi Nguyệt nương.

Trong tiệc, Vương bà nói:

- Tham tướng đây chẳng may goá vợ, nhưng là người hiền hậu lắm. Tuy là võ quan, nhưng cũng là người có học, từng đọc sách thánh hiền, nên có đức độ của người quân tử. Ở đây chỉ là chức tham tướng, nhưng trên thì lo việc vua, dưới thì lo việc dân, một tay nắm quyền sinh quyền sát trong vùng. Nếu nương tử đây không chê thì duyên Tấn Tần sẵn đó, nương tử cùng Tham tướng vui điều loan phụng, mà ca nhi cũng thành đôi lứa. Nương tử tạm ở đây, chờ lúc thái bình trở về nhà cũ cũng không muộn. Chẳng hay tôn ý nương tử thế nào?

Nguyệt nương nghe xong thì kinh ngạc thất sắc, không nói được gì, mãi sau mới bảo:

- Tôi không biết phải nghĩ sao, chuyện này cứ để đó đã.

Vương bà không nói gì thêm. Hôm sau thưa lại với Vân tham tướng.

Tối hôm sau, Vân tham tướng thết tiệc tại hậu đường, thân ngồi tiếp rượu mà nói:

- Tẩu tẩu không biết, tôi tuy là chức quan nhỏ cai quản nơi xa, nhưng dưới tay cũng mấy vạn nhân mã, lại cũng không đến nỗi thiếu thốn, kim ngân gấm lụa không thứ gì là không có, chỉ thiếu mỗi một người làm chủ mọi việc trong nhà. Từ bao lâu nay, tôi chỉ tưởng nhớ tẩu tẩu như người khát nước, như đại hạn mong mưa. Không ngờ ngày nay tẩu tẩu tới đây lo chuyện hôn nhân cho lệnh lang, âu cũng là duyên trời đã định, việc con đã xong mà chuyện mẹ cũng vuông tròn, mẹ con cùng ở lại đây sống sung sướng, chẳng hay tẩu tẩu nghĩ thế nào?

Nguyệt nương nghe xong nổi giận tái sắc mà mắng:

- Vân Lý Thủ, không ngờ ngươi mặt người dạ thú. Chồng ta lúc sinh tiền chưa hề bạc đãi nhà ngươi, nay sao ngươi dám buông lời vô lễ như vậy.

Vân Tham tướng không giận, trái lại còn tươi cười nói:

- Xin nương tử bớt giận, linh vị lão gia đã để ở nhà, nếu chung thuỷ với lão gia thì nương tử tìm tới đây làm gì? thú thật với nương tử, từ lúc gặp được lại nương tử, chiêm ngưỡng tôn nhan, hồn vía tôi đã bay đâu mất, bây giờ tôi biết sao. Thôi thì nương tử nên suy nghĩ để cho việc tốt lành được thành tựu.

Nói xong, lại rót rượu cung kính mà mời. Nguyệt nương bảo:

- Nếu vậy thì đại quan phải cho mời em trai tôi vào đây bàn chuyện.

Vân Tham tướng cười:

- Em trai nương tử và Đại An đã bị tôi giết rồi.

Đoạn quát gia nhân:

- Đem cái đó vào đây cho nương tử coi.

Gia nhân đem vào một cái hộp gỗ, bên trong đựng đầu của Ngô Nhị cữu và Đai An, máu me bê bết.

Nguyệt nưog nhìn qua, thất kinh biến sắc, rồi khóc ngất đi, ngã xuống đất.

Vân tham tướng vội ôm dậy lay gọi mà bảo:

- Nàng đừng quá buồn phiền, em nàng đã chết nhưng nàng sẽ trở thành vợ tôi. Tôi chẳng gì cũng là chức Tham tướng, có gì là không xứng đáng với nàng đâu.

Nguyệt nương nghĩ thầm:

- Thằng khốn này nó đã hại em mình và gia nhân của mình, nếu mình không thuận theo nó tất cũng bị nó giết... nghĩ vậy bèn làm mặt vui vẻ mà bảo:

- Nhưng nếu chàng nghe lời tôi thì tôi mới chịu cùng chàng kết nghĩa vợ chồng.

Vân Tham tướng đáp:

- Chuyện gì tôi cũng xin nghe theo nàng hết.

Nguyệt nương bảo:

- Chàng phải lo việc hôn nhân cho con trai tôi xong đã.

Vân Tham tướng bảo:

- Chuyện đó dễ.

Đoạn cho gọi con gái là Vân tiểu thư ra, bảo gặp mặt Hiếu ca nhi, rồi sai gia nhân dọn phòng hoa chúc cho hai trẻ làm lễ hợp cẩn rồi động phòng ngay.

Sau đó Vân Tham tướng kéo Nguyệt nương về phòng riêng của mình nài ép chuyện mây mưa. Nguyệt nương không chịu, giẫy giụa cự tuyệt. Vân Tham tướng nhỏm dậy nổi giận mắng:

- À thì ra nàng lừa ta phải không? nàng để con gái ta thất thân với con trai nàng rồi nàng cự tuyệt ta. Nàng tưởng ta không dám giết con trai nàng hay sao?

Nói xong đứng dậy với thanh kiếm treo trên tường, xồng xộc chạy tới giết Hiếu ca nhi. Nguyệt nương chạy theo tới, thấy con trai mình nằm chết giữa nhà, máu chảy lênh láng. Nguyệt nương thấy con đã chết thì thất kinh kêu lên một tiếng. Ngờ đâu bừng tỉnh dậy, mới biết tất cả những chuyện vừa rồi chỉ là cơn ác mộng, tức thì mồ hôi tháo ra như tắm, tứ chi bải hoải, miệng lầm bầm:

- Lạ thật, lạ thật.

Tiểu Ngọc nằm cạnh thức dậy hỏi:

- Sao Đại nương giật mình kêu khóc vậy?

Nguyệt nương đáp:

- Ta vừa trải qua cơn ác mộng.

Đoạn kể lại đầu đuôi cho Tiểu Ngọc nghe. Thì ra chủ tớ còn đang nằm trong trai phòng của chùa Vĩnh Phúc. Tiểu Ngọc nghe xong nói:

- Hồi nãy tôi không ngủ, lén ra ngoài phương trượng coi, thì thấy lão hoà thượng nói chuyện với ma quỷ. Hồi nãy Ngũ nương, Lục nương, cậu Kính Tế, Chu Thủ bị, Tứ nương, vợ Lai Vượng, và Đại Thư đều có tới nói chuyện với hoà thượng, sau đó thì tất cả cùng biến mất.

Nguyệt nương bảo:

- Mấy người đó đều được mai táng sau chùa này, đêm khuya yên tĩnh, hồn họ đi ra đi vào là chuyện thường.

Chủ tớ thì thầm trò chuyện, trong khi bên ngoài gà gáy sáng, trời canh năm đã thấy tờ mờ. Nguyệt nương dậy rửa mặt chải đầu rồi quần áo chỉnh tề vào lễ trước Phật đài, thắp hương khấn khứa.

Phổ Tĩnh thiền sư ngồi trên giường gần đó cao giọng bảo:

- Ngô nương tử, bây giờ thì nương tử đã tỉnh ngộ chưa?

Nguyệt nương vội bước tới trước giường quỳ lạy mà nói:

- Bẩm với tôn sư, đệ tử là Ngô thị người trần mắt thịt, không biết tôn sư là Phật sống, rõ cả giấc mộng vừa rồi của đệ tử. Sau giấc mộng đó thì đệ tử đã tỉnh ngộ rồi.

Thiền sư bảo:

- Nếu đã tỉnh ngộ thì đừng đi đâu cả, ngươi có đi thì cũng chỉ đến như giấc mơ hồi nãy mà thôi, nghĩa là cả năm người đều có thể mất mạng. Con trai ngươi có phận có duyên nên mới gặp ta, ấy cũng là nhờ ngươi bình nhật vẫn một lòng làm điều thiện, nếu không thì khó tránh khỏi cảnh cốt nhục phân ly. Lúc người chồng ngươi là Tây Môn Khánh tạo ác gây tội, nên đứa con này mới thác sinh vào gia đình ngươi để phá gia sản ngươi. Nay ta thấy vậy nên mới thu nhận nó làm đồ đệ để độ thoát cho nó. Vả lại người đời có câu, một đứa con xuất gia thì tổ tiên từ chín đời trở xuống cũng được thăng thiên, cho nên oan khiên của người chồng ngươi cũng nhờ đó mà tiêu tán. Nếu ngươi không tin, theo ta ra đây, ta chỉ cho coi.

Nói xong, bước ra phương trượng. Hiếu ca nhi đang nằm ngủ chưa dậy.

Thiền sư cầm cây gậy chỉ vào Hiếu ca nhi, tức thì Nguyệt nương và mọi người thấy Hiếu ca nhi lăn trở trên giường rồi đột nhiên biến thành Tây Môn Khánh cổ đeo gông, chân tay bị xiềng xích, đang lăn lộn thê thảm. Thiền sư chỉ đầu gật một cái, lại thấy Hiếu ca nhi đang nằm ngủ như cũ. Nguyệt nương bất giác ôm mặt khóc lớn.

Thì ra Hiếu ca nhi chính là Tây Môn Khánh thác sinh.

Lát sau Hiếu ca nhi thức dậy. Nguyệt nương gọi con lại hỏi:

- Bây giờ ta muốn cho con theo sư phụ đây làm đồ đệ để tu hành, con nghĩ sao?

Hiếu ca nhi thuận ngay.

Thiền sư đưa Hiếu ca nhi vào Phật đài làm lễ, rồi cắt tóc cho. Hiếu ca nhi tỏ vẻ mừng rỡ lắm, không hề có vẻ buồn rầu hối tiếc gì cả. Nguyệt nương thì buồn thảm khóc lóc khôn nguôi, kể lể rằng:

- Bao công lao mang nặng đẻ đau mới có ngươi, lại chịu bao cực khổ nuôi ngươi khôn lớn, những mong ngươi nối dõi tông đường, nào ngờ lại có ngày nay.

Ngô Nhị cữu, Tiểu Ngọc và Đại An cũng không nén được xúc động.

Thiền sư đặt pháp danh cho Hiếu ca nhi là Minh Ngộ, bảo Minh Ngộ lạy từ mẹ và cậu, cáo biệt hai gia nhân, rồi theo mình đi.

Lúc sắp đi, Thiền sư dặn Nguyệt nương:

- Các ngươi đừng đi đâu cả, binh Kim cũng sắp triệt thoái nay mai, rồi nam bắc sẽ chia làm hai triều đình, trung nguyên cũng đã có hoàng đế rồi. Chỉ trong vòng mười ngày nữa, chuyện can qua sẽ hết, địa phương sẽ trở lại yên tĩnh, các ngươi sẽ về nhà sống yên ổn như thường.

Nguyệt nương hỏi:

- Bẩm sư phụ, nay sư phụ dẫn con tôi đi, vậy đến bao giờ mẹ con tôi lại được nhìn thấy mặt nhau?

Hỏi xong, không ngăn nổi bi thương, lại ôm mặt khóc lớn.

Thiền sư bảo:

- Không việc gì phải khóc, có nín ngay không? kìa, binh Kim kéo đến rồi kìa.

Mọi người hốt hoảng quay nhìn ra ngoài. Tức thì Phổ Tĩnh thiền sư cùng Minh Ngộ hoá thành trận gió mà đi, không còn thấy bóng dáng đâu nữa.

Nguyệt nương cùng em trai và hai gia nhân tạm trú tại chùa Vĩnh Phúc khoảng mười ngày, quả nhiên vua Đại Kim lập Trương Bang Xương làm Hoàng đế tại Đông Kinh, lập thành triều đình có đủ văn võ bá quan.

Còn Khang Vương vượt sông, tức vị tại Kiến Khang, tức là Cao Tông Hoàng đế, phong Tòng Trạch làm đại tướng, lấy lại được Sơn Đông Hà Bắc, lập thành Nam triều.

Thiên hạ trở lại thái bình, dân gian trở về nghiệp cũ.

Nguyệt nương về nhà, kiểm điểm lại, thấy đồ đạc nhà còn y nguyên, không mất mát gì.

Về sau Nguyệt nương đổi họ cho Đại An thành Tây Môn An, hưởng sản nghiệp của chủ để thờ phụng chủ. Người trong huyện gọi Đại An là Tây Môn Tiểu viên ngoại.

Nguyệt nương được hai vợ chồng Đại An nuôi nấng phụng dưỡng tuổi già, hưởng thọ ngoài thất tuần, đó cũng là nhờ Nguyệt nương bình sinh không phải là người dâm bôn, nên mới được hưởng phúc như vậy.

Có thơ rằng:

Sách xưa ý tứ mang mang.

Cho hay là lẽ tuần hoàn cao xa.

Tây Môn tuyệt tự mới là.

Còn Trần Kính Tế phải sa cực hình.

Nguyệt nương phúc thọ riêng mình.

Bình, Mai dâm đãng, lênh đênh hoàng tuyền.

Hung tàn báo lại Kim Liên.

Dâm ô tiếng xấu bia truyền nghìn năm.

Hết

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro