Kim Dung toàn tập 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Kim Dung toàn tập 1 - Doraenino

Tiểu sử

Tên thật : Tra Lương Dung

Phồn thể: 查良鏞

Giản thể : 查良镛

Bính âm : Zhā Liángyōng

Quảng Đông: Chàh Lèuhng-yùhng

Việt Nam : Tra Lương Dung

Hàn Quốc : Sa Ryang Yong

Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung (查良鏞 Cha Lieng Yung, Louis Cha), sinh vào tháng 2 năm 1924 tại trấn Viên Hoa, huyện Hải Ninh, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc, trong một gia tộc khoa bảng danh giá. Ông cố Tra Thận Hành là nhà thơ nổi tiếng đời nhà Thanh, ông nội Tra Văn Thanh làm tri huyện Đan Dương ở tỉnh Giang Tô. Tra Văn Thanh về sau từ chức, đến đời con là Tra Xu Khanh bắt đầu sa sút, Tra Xu Khanh theo nghề buôn, sau sinh sáu đứa con, Kim Dung là con thứ hai.

Thuở nhỏ Kim Dung là một đứa trẻ thông minh, hoạt bát, nghịch nhưng không đến nỗi quậy phá. Ông yêu thiên nhiên, thích nghe kể chuyện thần thoại, truyền thuyết, nhất là về những ngọn triều trên sông Tiền Đường. Đặc biệt ông rất mê đọc sách. Dòng họ Kim Dung có một nhà để sách gọi là "Tra thị tàng thư" nổi tiếng khắp vùng Chiết Tây, chứa rất nhiều sách cổ, những cuốn sách này làm bạn với ông từ rất bé.

Sáu tuổi, ông vào trường tiểu học ở quê Hải Ninh. Ông rất siêng học, lại thêm mê đọc sách nên trở thành một học sinh giỏi của lớp. Thầy dạy văn cho ông lúc bé có Trần Vị Đông, là người rất thương yêu và tin tưởng Kim Dung, đă cùng ông biên tập tờ báo lớp. Một số bài làm văn của Kim Dung, nhờ sự giới thiệu của thầy Đông đă được đăng lên Đông Nam nhật báo, tờ báo nổi tiếng nhất Trung Quốc bấy giờ.

Năm lên tám tuổi, ông lần đầu đọc tiểu thuyết võ hiệp, khi đọc đến bộ truyện Hoàng Giang nữ hiệp của Cố Minh Đạo, cảm thấy rất say mê, từ đó thường sưu tầm tiểu thuyết thể loại này.

Năm 13 tuổi, xảy ra sự biến Lư Câu Kiều, Kim Dung được gửi đến học trường trung học Gia Hưng ở phía Đông tỉnh Chiết Giang. Tuy xa nhà nhưng cuộc sống của ông cũng không khác mấy, ngoài đi học vẫn chúi đầu đọc sách, và vẫn đứng đầu lớp. Một hôm nhân dịp về thăm nhà, ông khoe gia đình cuốn sách Dành cho người thi vào sơ trung, một cuốn cẩm nang luyện thi, có thể coi là cuốn sách đầu tiên của ông, viết năm 15 tuổi và được nhà sách chính quy xuất bản. Đến khi lên bậc Cao trung, Kim Dung lại soạn Hướng dẫn thi vào cao trung. Hai cuốn sách in ra bán rất chạy, đem lại cho ông khoảng nhuận bút hậu hĩnh.

Năm 16 tuổi, ông viết truyện trào phúng Cuộc du hành của Alice có ư châm biếm ngài chủ nhiệm ban huấn đạo, người này tức giận, liền ép hiệu trưởng phải đuổi học ông. Cuộc du hành của Alice tuy đem lại tai hại, nhưng đă cho thấy tài tưởng tượng, cũng như tinh thần phản kháng của Kim Dung, mà sau này thể hiện rất rõ trên các tác phẩm. Ông lại chuyển đến học trường Cù Châu. Tại trường này có những quy định rất bất công với học trò, học sinh không được quyền phê bình thầy giáo, nhưng thầy giáo có quyền lăng nhục học sinh. Năm thứ hai tại trường, ông viết bài Một sự ngông cuồng trẻ con đăng lên Đông Nam nhật báo. Bài báo làm chấn động dư luận trong trường, được giới học sinh tranh nhau đọc. Ban giám hiệu trường Cù Châu đành phải bãi bỏ những quy định nọ. Không những vậy, một ký giả của Đông Nam nhật báo là Trần Hướng Bình do hâm mộ tác giả bài báo, đã lặn lội tìm đến trường học để thỉnh giáo, mà không biết tác giả chỉ là một học sinh.

Năm 1941, chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, trường Cù Châu phải di dời, ban giám hiệu quyết định cho học sinh lớp cuối tốt nghiệp sớm để bớt đi gánh nặng. Kim Dung cũng nằm trong số đó. Sau ông thi vào học Luật quốc tế tại học viện chính trị Trung ương ở Trùng Khánh. Thi đậu, nhưng để đến được trường phải trải qua nhiều ngày đi bộ.

Tại học viện chính trị Trung Ương, Kim Dung vẫn học rất giỏi, cuối năm nhất ông được tặng phần thưởng cho sinh viên xuất sắc nhất. Thời kỳ này, ông ngoài tham gia viết bình luận chính trị trên các báo, còn bắt tay vào làm cuốn Anh - Hán tự điển và dịch một phần Kinh Thi sang tiếng Anh, hai công trình này về sau dở dang. Ông học lên năm thứ ba thì tại trường bắt đầu nổi lên các cuộc bạo loạn chính trị. Có lần viết thư tố cáo một vụ bê bối trong trường, Kim Dung lần thứ hai trong đời bị đuổi học, năm 19 tuổi.

Sau ông xin làm việc tại Thư viện trung ương. Ở chung với sách, tri thức nâng cao lên rất nhiều. Ngoài đọc sách sử học, khoa học và những tiểu thuyết võ hiệp đương thời, ông còn đọc những cuốn như Ivanhoe của Walter Scott, Ba người lính ngự lâm, Bá tước Monte-Cristo của Alexandre Dumas (cha), những truyện này đã ảnh hưởng đến văn phong của ông. Tại đây ông bắt đầu nảy sinh ý định sáng tác truyện võ hiệp. Ông cũng sáng lập ra một tờ báo lấy tên Thái Bình dương tạp chí, nhưng chỉ ra được một số đầu, số thứ 2 nhà xuất bản không chịu in, tờ báo đầu tiên của ông xem như thất bại.

Năm 1944, ông đến làm việc cho một nông trường ở Tương Tây. Nơi này rất tịch mịch hẻo lánh, đến năm 1946, không chịu nổi ông xin thôi việc, người chủ nông trường không cản được, tiễn ông bằng một bữa thịnh soạn. Mùa hạ năm đó, ông về lại quê cũ ở Hải Ninh, cha mẹ nghe tin ông bị đuổi học, rất buồn. Điều ấy khiến ông quyết tâm ra đi lập nghiệp.

Năm 1946 từ biệt gia đình, ông về Hàng Châu làm phóng viên cho tờ Đông Nam nhật báo theo lời giới thiệu của Trần Hướng Bình, người ngày xưa đã tìm đến trường ông. Ông làm việc rất tốt, tỏ ra có tài thiên phú về viết báo. Năm sau, theo lời mời của tạp chí Thời dữ triều, ông thôi việc ở Đông Nam nhật báo, sang Thượng Hải tiếp tục nghề viết hay dịch thuật từ máy Radio. Chẳng bao lâu ông lại rời toà soạn Thời dữ triều, xin vào làm phiên dịch của tờ Đại công báo. Lúc này anh trai của Kim Dung là Tra Lương Giám đang làm giáo sư ở học viện Pháp lý thuộc đại học Đông Ngô gần đó, ông liền xin vào học tiếp về luật quốc tế.

Năm 1948, tờ Đại công báo ra phụ bản tại Hồng Kông, ông được cử sang làm việc ở đó, dịch tin quốc tế. Trước khi ra đi vài ngày, ông chạy đến nhà họ Đỗ để ngỏ lời cầu hôn cô con gái 18 tuổi, được chấp nhận. Hôn lễ tổ chức trang trọng tại Thượng Hải, người vợ đầu tiên của ông rất xinh đẹp.

Năm 1950, trong cuộc Cải cách ruộng đất ở Trung Quốc, gia đình ông bị quy thành phần địa chủ, cha ông bị đấu tố, từ đó ông mất liên lạc với gia đ́nh. Trong lúc này, vợ ông không chịu nổi cuộc sống ở Hồng Kông, trở về gia đình bên mẹ, không chịu về nhà chồng nữa. Năm 1951 họ quyết định ly hôn.

Năm 1952, ông sang làm việc cho tờ Tân văn báo, phụ trách mục Chuyện trà buổi chiều, chuyên mục này giúp ông phát huy khả năng viết văn của mình hơn, ông rất thích, một phần vì khán giả cũng rất thích. Ông còn viết phê bình điện ảnh. Từ đó dần đi sâu vào lĩnh vực này. Từ 1953, rời Tân Văn báo, bắt tay vào viết một số kịch bản phim như Lan hoa hoa, Tuyệt đại giai nhân, Tam luyến... dưới bút danh Lâm Hoan. Những kịch bản này dựng lên được các diễn viên nổi tiếng thời bấy giờ như Hạ Mộng, Thạch Tuệ, Trần Tứ Tứ... diễn xuất. Được nhiều thành công đáng kể.

Từ khi mới vào làm cho Tân Văn Báo, ông quen thân với La Phù và Lương Vũ Sinh. Đến năm 1955, được hai người ủng hộ và giúp đỡ, ông viết truyện võ hiệp đầu tay là Thư kiếm ân cừu lục, đăng hàng ngày trên Hương Cảng tân báo, bút danh Kim Dung cũng xuất hiện từ đây. Hai chữ "Kim Dung" 金庸 là chiết tự từ chữ "Dung" 鏞, tên thật của ông, nghĩa là "cái chuông lớn". Thư kiếm ân cừu lục ra đời, tên Kim Dung được chú ý đến, dần dần, ông cùng Lương Vũ Sinh được xem như hai người khai tông ra Tân phái của tiểu thuyết võ hiệp. Ông viết tiếp bộ Bích Huyết kiếm được hoan nghênh nhiệt liệt, từ đó chuyên tâm vào viết tiểu thuyết võ hiệp và làm báo, không hoạt động điện ảnh nữa.

Năm 1959, cùng với bạn học phổ thông Trầm Bảo Tân, ông lập ra Minh Báo. Ông vừa viết tiểu thuyết, vừa viết các bài xă luận. Qua những bài xă luận của ông, Minh Báo càng ngày được biết đến và là một trong những tờ báo được đánh giá cao nhất. Không như một số tờ báo do ông sáng lập khác, Minh Báo theo ông đến khi kết thúc sự nghiệp.

Năm 1972 sau khi viết cuốn tiểu thuyết cuối cùng, ông đă chính thức nghỉ hưu và dành những năm sau đó biên tập, chỉnh sửa các tác phẩm văn học của mình. Lần hoàn chỉnh đầu tiên là vào năm 1979. Lúc đó, các tiểu thuyết võ hiệp của ông đă được nhiều độc giả biết điến. Các tác phẩm đã được chuyển thể thành phim truyền hình. Năm sau, ông tham gia giới chính trị Hồng Kông. Ông là thành viên của ủy ban phác thảo Đạo luật cơ bản Hồng Kông. Ông cũng là thành viên của Ủy ban chuẩn bị giám sát sự chuyển giao của Hồng Kông về chính phủ Trung Quốc.

Vào tháng 10 năm 1976, sau cái chết đột ngột của con trai trưởng của mình, Kim Dung đã quyết định tìm hiểu nhiều vào các triết lý của tôn giáo. Kết quả là ông tự mình quy y Phật giáo hai năm sau đó.[2]

Năm 1993, ông thôi làm chức chủ bút, bán tất cả các cổ phần trong Minh Báo.

Năm 2006, ông xuất bản cuốn tản văn đầu tiên.

Tại sao đọc Kim Dung.

"Kim Dung là đại giang đại hà, một trôi ngàn dặm; cũng là dong nhỏ lửng lờ, réo rắt thì thầm, ngọt ngào bên tai. Kim Dung là rượu, có thể uống say, một say giải ngàn sầu; nhưng cũng có thể sầu ngắn lại sầu dài, sầu lại càng sầu.

Trong Kim Dung có võ hiệp, trong võ hiệp có nhân sinh, trong nhân sinh có thế giới. Trong Kim Dung có tự tình, trong tự tình có nhân sinh, trong nhân sinh có xã hội.

Kim Dung là một góc độ. Vô chiêu là chiêu, là tuyệt chiêu trong cao chiêu; đọc Kim Dung không phải là Kim Dung mà là thế gian, là lòng người, là chín đoạn ruột mềm, ở đó tính cách con người chìm nổi.

Hoa đào bóng rụng, trăng thanh gió mát, gái đọc Kim Dung; Biển biếc triều dâng, cười ngạo trời xanh, trai đọc Kim Dung."

Sách của Kim Dung không ngừng được tái bản, sách của của các tác giả tiểu thuyết võ hiệp khác không được như thế, đào thải còn lại độc giả của Kim Dung, trước mắt cứ thấy ngày càng nhiều. Cuối năm 1998, có 5 hội thảo về tác phẩm của Kim Dung được đồng thời tổ chức ở Trung Hoa đại lục, Đài Loan và Mỹ. Tuổi Kim Dung càng cao, mọi người lại càng trân trong ông hơn. Có nhà phê bình nêu ra rằng: Kim Dung có thể sánh ngang với Lỗ Tấn, làm thành hai cộ mốc lớn của văn hóa Trung Quốc thế kỷ XX. Vậy tại sao đọc Kim Dung?

Đối với người trong thương trường, tiểu thuyết Kim Dung là sách khải thị, đọc nó có thể kiến ta trở thành sáng suốt;

Đối với người trong ngành văn hóa tức là các phần tử tri thức trong khoa học xã hội, tiểu thuyết Kim Dung là sách chẩn đoán, đọc nó có thể khiến người trong ngành văn hóa đổi bỏ rất nhiều thối tật khiến người ta chán ghét. Người trong ngành văn hóa có tu dưỡng về Kim Dung thì không thấy ai có ý coi thường văn hóa, lòng dạ khí độ của họ đều phải coi trọng hơn một chút.

Nói chung tiểu thuyết Kim Dung không phải là truyện dành cho trẻ em, nhưng có ngụ ngôn. Ngụ ngôn bao gồm cả thư tịch điển lệ, xã hội nhân sinh trong đó. Nắm được công thức giải mã đơn giản ấy tiểu thuyết Kim Dung, sẽ mở ra cho chúng ta thấy cuộc sống sống động của chúng ta, thế giới sống động của chúng ta...

-Giang hồ chính là xã hội;

-Võ lâm chính là thương giới, võ lâm chính là văn đàn;

-Môn phái chính là công ty, bang hội chính là đơn vị;

Anh là một chưởng môn nhân, hay bang chủ, giáo chủ, hoặc lớn hoặc nhỏ? Anh là đệ tử đời thứ mấy, hay bang chúng tầm thường? Đều không có gì đáng nói, bởi đạo nghĩa giang hồ, hiệp liệt hoài tình đều tồn tại lâu dài trong lòng ta như nhau thôi.

Còn đối với phụ nữ thì sao?

Ít nhất Kim Dunng cũng cung cấp cho họ một góc nhìn khác về thế giới, cho họ biết rằng một chi tiết nhỏ rất quan trọng.

Người xưa đọc sách mười phần đẹp đẽ, phải có giai nhân phục thị, áo hồng them hương. Hiện nay phụ nữ không đóng vai phục thị và thêm hương nữa, họ khoác áo ra trận, mắt nhìn tay viết.

Áo hồng đọc Kim Dung chẳng vui sao?

Bạn gái đọc Thần Điêu hiệp lữ yêu trọng Dương Quá, vốn đã để con mắt trên trán, bây giờ lại càng thà thiếu đừng thừa, giữ mình như ngọc.

Bạn trai đọc nghiện Kim Dung, lúc ở nơi công cộng dùng tiếng lóng giang hồ nói chuyện yêu đương , chẳng vui sao?

Nếu vào nhà xí đọc Kim Dung, ra bịa là bị táo bón, chẳng vui sao?

Đi sửa giầy gặp phải người mê Kim Dung, người thợ cứ lo nói chuyện Quách Tĩnh, một đôi giầy mà sửa hơn nửa giờ, chẳng vui sao?

Đông Phương Bất Bại sai khiến hàng ngàn giáo chúng, nhưng bị Dương Đình Liên gọi tới quát lui, mà lại giả vợ chồng hờ đóng vai phụ nữ hiền thục; Bất Quới hòa thượng yêu ni cô xinh đẹp sinh ra tiểu ni cô Nghi Lâm, hòa thượng cha-ni cô mẹ cưỡng ép Lệnh Hồ Xung cưới ni cô cô con gái mình làm vợ; Anh hùng võ lâm bình thường, trong chớp mắt trở thành cao thủ; Hiệp nữ cũng có thất tình lục dục, cũng muốn khuấy sóng biển giấm. Tác giả tả phụ nữ gần như giống hệt, có thể nhận học vị Tiến sĩ ngành Phụ Nữ học.Từ xưa đến nay, từ võ lâm đến đời thường, anh hùng khó qua ải mỹ nhân; Trong các mối quan hệ chỗ nào cũng có Kim Dung, trai thanh gái lịch đều mê Kim Dung.

Võ lâm vốn là xã hội, thế giới vốn là giang hồ, luật chơi tương đồng. Chẳng phải nên đọc hay sao?

Tác Phẩm

Kim Dung viết tổng cộng 15 truyện trong đó 1 truyện ngắn và 14 tiểu thuyết. Hầu hết các tiểu thuyết đều được xuất bản trên các nhật báo.

1. Thư kiếm ân cừu lục (1955) (書劍恩仇錄)

2. Bích huyết kiếm (1956) (碧血劍)

3. Xạ điêu anh hùng truyện (1957) (射雕英雄傳)- tại Việt Nam được dịch thành Anh hùng xạ điêu.

4. Thần điêu hiệp lữ (1959) (神雕俠侶).

5. Tuyết sơn phi hồ (1959) (雪山飛狐)

6. Phi hồ ngoại truyện (1960) (飛狐外傳)

7. Bạch mã khiếu tây phong (1961) (白馬嘯西風)

8. Uyên Ương đao (1961) (鴛鴦刀)

9. Ỷ Thiên Đồ Long ký (1961) (倚天屠龍記)

10. Liên thành quyết (1963) (連城訣)

11. Thiên long bát bộ (1963) (天龍八部)

12. Hiệp khách hành (1965) (俠客行)

13. Tiếu ngạo giang hồ (1967) (笑傲江湖)

14. Lộc Đỉnh ký (1969-1972) (鹿鼎記)

15. Việt nữ kiếm (truyện ngắn, 1970) (越女劍)

3 tác phẩm Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu đại hiệp, Ỷ thiên đồ long ký tạo thành Xạ điêu tam bộ khúc, đọc theo lần lượt. Thiên Long bát bộ cũng có thể coi là mở đầu của bộ ba cuốn truyện trên. Tuyết sơn phi hồ và Phi hồ ngoại truyện cũng đi đôi với nhau vì có cùng các nhân vật.

Hai câu thơ sắp thành tựa đề

Sau khi Kim Dung hoàn thành các tác phẩm của mình, một người bạn của ông là Nghê Khuông phát hiện rằng chữ đầu tiên của tựa đề 14 tiểu thuyết tạo thành hai câu thơ thất ngôn:

Phi tuyết liên thiên xạ bạch lộc

Tiếu thư thần hiệp ỷ bích uyên

Tạm dịch

Tuyết bay khắp trời phủ nai trắng,

Sách cười thần hiệp tựa phượng xanh

Thời biểu

Năm Tiểu thuyết

* Thế kỉ 6 TCN Việt Nữ kiếm

* Thế kỉ 11 Thiên long bát bộ

* Thế kỉ 12 Anh hùng xạ điêu

* Thế kỉ 13 Thần điêu đại hiệp

* Thế kỉ 14 Ỷ thiên Đồ Long ký

* Thế kỉ 16 Tiếu ngạo giang hồ*,Hiệp khách hành

* Thế kỉ 17 Bích huyết kiếm, Lộc Đỉnh ký

* Thế kỉ 18 Thư kiếm ân cừu lục, Phi hồ ngoại truyện,Tuyết sơn phi hồ

* : Tiếu ngạo giang hồ không nói rõ xảy ra vào thời gian nào; Kim Dung nói rằng ông cố tình bỏ ngỏ. Tuy vậy độc giả đã phát hiện ra rằng câu truyện có thể xảy ra vào thời Minh, bởi vì phái Võ Đang và Nga Mi (thành lập vào đầu triều Minh) xuất hiện nổi bật, và bởi vì người Mãn Châu không được đề cập. Trong vài bộ phim chuyển thể như Swordsman II với Lý Liên Kiệt đóng vai chính, câu truyện diễn ra vào thời vua Vạn Lịch, tức là cuối triều Minh, trước khi nhà Thanh xâm lấn.

Tác phẩm dựa Kim Dung

Có thể một phần vì muốn hoàn thiện các khe hở tình tiết trong truyện Kim Dung, phần vì muốn phát triển rộng thêm các chi tiết truyện, phần là ăn theo, rất nhiều người đã viết truyện dựa theo cốt, theo nhân vật trong truyện Kim Dung mà tạo dựng nhiều tác phẩm khác, thậm chí dựng thành phim, gọi chung là các tác phẩm dựa Kim Dung xem tại đây:

Tác phẩm và Người dịch Người viết

* Bẻ kiếm bên trời_Hàn Giang Nhạn

* Cự Linh Thần Chưởng_Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh

* Độc Cô Quái Khách_Hàn Giang Nhạn

* Đơn kiếm diệt quần ma_Tiền Phong Từ Khánh Phụng

* Hắc Thánh Thần Tiêu_Thương Lan

* Hậu Anh Hùng Xạ Điêu

* Hậu Cô Gái Đồ Long (Ỷ Thiên Đồ Long Ký hậu truyện)

* Huyết Mỹ Nhân

* Loạn Võ Công Ký_Phạm Thế Tài

* Ma Nữ Đa Tình

* Song Nữ Hiệp Hồng Y_Tiền Phong Từ Khánh Phụng

* Thái A Kiếm_Tiền Phong Từ Khánh Phụng

* Thạch Phá Thiên (Hậu Hiệp Khách hành)

* Tiếng Đàn Ma

* Tiếu Ngạo Giang Hồ Hậu Ký _TMP

* Tiểu Tà Thần_Tiền Phong Từ Khánh Phụng

* Tục Thái A Kiếm

* Tục Tiểu Tà Thần

* Võ Lâm Ngũ Bá (Anh Hùng Xạ Điêu tiền truyện)

* Tục Lộc Đỉnh Ký

Trong Cuộc Khảo sát tổng quát về truyện Kim Dung. Tiểu Thuyết được yêu thích nhất tại Trung Quốc trong tổng 2029 phiếu bình chọn khán giả qua mạng(2005)

1. Tiếu Ngạo Giang Hồ (492p)

2. Anh Hùng Xạ Điêu (367p)

3. Thiên Long Bát Bộ (367p)

4. Thần Điêu Hiệp Lữ (290p)

5. Lộc Đỉnh Ký (280p)

6. Ỷ Thiên Đồ Long Ký (125p)

7. Liên Thành Quyết ( 26p)

8. Bích Huyết Kiếm ( 19p)

9. Hiệp Khách Hành ( 18p)

10.Bạch Mã Kiếu Tây Phong( 14p)

11.Phi Hồ Ngoại Truyện ( 12p)

12.Tuyết Sơn Phi Hồ ( 9p)

13.Thư Kiếm Ân Cưu Lục ( 6p)

14.Uyên Ương Đao ( 4p)

15.Việt Nữ Kiếm ( 3p)

Nhân vật Nam chính truyện được yêu thích:

1. Lệnh Hồ Xung

2. Dương Quá

3. Tiêu Phong

4. Vi Tiểu Bảo

5. Quách Tĩnh

6. Đoàn Dự

7. Trương Vô Kỵ

8. Hồ Phỉ

9. Thạch Phá Thiên

10. Trần Gia Lạc

11. Viên Thừa Chí

Nhân Vật Nữ Chính truyện được yêu thích

1. Hoàng Dung

2. Nhậm Doanh Doanh

3. Tiểu Long Nữ

4. Song Nhi

5. Tiểu Chiêu

6. Triệu Mẩn(Minh)

7. Quách Tường

8. Vương Ngữ Yên

9. A Châu

10. Trình Linh Tố

11. Nghi Lâm

12. Chu Chỉ Nhược

13. Hương Hương Công Chúa

14. Hoắc Thanh Đồng

15. Viên Tử Y

16. Hạ Thanh Thanh

Đôi Tình Nhân được yêu thích nhất

1. Dương Qúa - Tiểu Long Nữ

2. Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh

3. Quách Tĩnh - Hoành Dung

4. Tiêu Phong - A Châu

5. Đoàn Dự - Vương Ngữ Yên

6. Vi Tiểu Bảo - Song Nhi

7. Trương Vô Kỵ - Triệu Mẫn

8. Hư Trúc - Công Chúa Tây Hạ

9. Thạch Phá Thiên - A Tú

10. Viên Thừa Chí - Hạ Thanh Thanh

Nhân Vật đáng thương nhất

1. Tiểu Chiêu

2. Trình Linh Tố

3. Quách Tường

4. Nghi Lâm

5. Mộc Uyển Thanh

6. Công Tôn Lục Ngạn

7. Hoa Tranh

8. A Tử

9. Công chúa A Cửu

10. Trình Anh

Nhân Vật đáng ghét nhất:

1. Nhạc Bất Quần

2. Duyệt Tuyệt Sư Thái

3. Khang Mẩn

4. Quách Phù

5. Công Tôn Chỉ

6. Trần Gia Lạc

7. Doãn Chí Bình

8. Tống Thanh Thư

9. Thành Khôn

10. Đinh Xuân Thu

THẬP ĐẠI CAO THỦ UY CHẤN VÕ LÂM

1. Vô Danh Lão tăng

2. Độc Cô Cầu Bại

3. Tiêu Phong

4. Trương Tam Phong

5. Đông Phương Bất Bại

6. Trương Vô Kỵ

7. Dương Quá

8. Phong Thanh Dương

9. Châu Bá Thông

10. Lệnh Hồ Xung

THẬP TUYỆT HỌC VÕ CÔNG

1. Độc Cô Cửu Kiếm

2. Lăng Ba Vi Bộ

3. Giáng Long Thập Bát Chưởng

4. Lục Mạch Thần Kiếm

5. Ám nhiên tiêu hồn chưởng

6. Cửu Dương Thần công

7. Bắc Minh Thần Công

8. Cửu Dương Chân Kinh

9. Song Thư Hộ Bác

10. Quỳnh Hoa Bảo Điển

CÁC VÕ CÔNG TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG

CÁC BỘ TỔNG HỢP:

* Cửu Âm chân kinh

* Qùy Hoa bảo điển

* Cà Sa Phục Ma công

* Thiên Giám thần công

* Hoá Công đại pháp

* Hấp Tinh đại pháp

* Long Tượng Ban Nhược công

* Vô Vọng thần chú

* Thần Chiếu công

* Đả Cẩu Bổng Pháp

CÁC LOẠI THẦN CÔNG:

* Cửu Dương chân kinh

* Dịch Cân kinh

* Càn Khôn Đại Nã Di

* Tử Hà bí lục

* Tiểu Vô Tướng công

* Bắc Minh thần công

* Phá Nạp công

* Kim Cương Bất Hoại Thể thần công

* Viêm Viêm công

* La Hán Phục Ma thần công

* Hàn Ngọc chân khí

* Hạc Lệ Cửu Tiên thần công

* Hỗn nguyên công

* Cáp Mô Công

* Tiên Thiên thần công

CÁC LOẠI KIẾM PHÁP:

* Độc Cô cửu kiếm

* Tịch Tà kiếm pháp

* Miêu gia kiếm pháp

* Toàn Chân kíêm pháp

* Lục mạch thần kiếm

* Tuyết Sơn kiếm pháp

* Tùng Phong kiếm pháp

* Hoa Sơn kiếm pháp:

o Minh Minh kiếm pháp,

o Ngọc Nữ kiếm thập cửu thức,

o Thục Nữ kiếm pháp,

o Nhất Tự Tuệ kiếm,

o Cuồng Phong Khoái kiếm

* Bát Mặc Phi Ma kiếm

* Thất Huyền Vô Hình kiếm

* Nhất Tự Điện kiếm

* Hành Sơn kiếm pháp:

o Hồi Phong Lạc Nhạn kiếm,

o Thiên Trụ kiếm pháp,

o Ngũ Đại thần kiếm,

o Thạch Lẫm kiếm pháp,

o Vân Vụ Ảo kiếm

* Hằng Sơn kiếm pháp

* Thái Sơn kiếm pháp

* Tung Sơn kiếm pháp

* Ngọc Tiêu kiếm pháp

* Thần Môn thập tam kiếm

* Thái Cực kiếm pháp

* Côn Luân kiếm pháp

* Nga Mi kiếm pháp

* Mộc gia kiếm pháp

* Lưỡng Nghi kiếm pháp

* Liên Thành kiếm pháp

* Ngọc Nữ kiếm pháp

* Viên lao Sơn tam thập lục kiếm

* Chính Lưỡng Nghi kiếm pháp

* Bát Tiên kiếm pháp

* Thất Huyền Vô Hình kiếm

* Việt Nữ kiếm pháp

* Kim Xà kiếm pháp

CÁC LOẠI CHƯỞNG PHÁP:

* Thiên Thủ Như Lai chưởng

* Giáng Long thập bát chưởng

* Tiêu dao Du chưởng pháp

* Lạc anh thần kiếm chưởng

* Bát Nhã chưởng

* Thiên Sơn Lục Dương Chưởng

* Vi Đà chưởng pháp

* Hàn Ý miên chưởng

* Tồi Thâm chưởng

* Yếu Phạn Tróc Xà chưởng

* Ám Nhiên Tiêu Hồn chưởng

* Tứ Tượng chưởng pháp

* Tam Hoả Tụ Đỉnh chưởng

* Ngũ Hành Lục Hợp chưởng

* Thiết chưởng

* Huyền Minh Thần chưởng

* Hóa Cốt Miên Chưởng

CÁC CÔNG PHU ĐIỂM HUYỆT VÀ CHỈ PHÁP:

* Nhất Dương chỉ

* Lan Hoa phất huyệt thủ

* Kim Cương chỉ

* Đa La Diệp chỉ

* Vô Tướng Đoạt chỉ

* Niêm Hoa chỉ

* Nhất chỉ thiền

* Hắc Phong chỉ

* Đàn Chỉ thần công (nghe chữ Thần Công nhưng vẫn là Chỉ Pháp)

CÁC LOẠI BỘ PHÁP:

* Lăng Ba Vi bộ

* Bích Hổ Du Tường

* Thần Hành Bách Biến

* Thê Vân Túng

* Đăng Bình Độ Thủy

CÁC LOẠI QUYỀN PHÁP:

* Hùng Kê Quyền

* Thất Thương quyền

* Mộc gia quyền

* Linh Xà quyền

* Thâu Kê Mô Cẩu quyền

* Thái Tổ trường quyền

* La Hán quyền

* Không Minh quyền

* Phục Hổ quyền

* Yến Thanh quyền

* Bắc quyền tứ gia ( Đàm, Tra, Hoa, Hồng )

* Thái Cực Quyền

* Cầm nã thủ (Tiểu,Đại, cầm nã thủ, Đinh gia Cầm nã pháp)

* Thiên Thủ Như Lai Quyền

CÁC LOẠI TRẢO PHÁP:

* Long trảo thủ

* Cửu Âm Bạch Cốt trảo

* Ngưng Huyết thần trảo

* Ưng trảo công

* Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ

CÁC LOẠI CƯỚC PHÁP:

* Tảo Diệp Thoái pháp

* Liên Hoa thoái pháp

* Thiên Lâm liên hoàn thoái

CÁC LOẠI VÕ CÔNG KHÁC:

* Đại Từ Đại Bi Thiên Diệp Thủ

* Hạc Xà Sinh Tử Bác

* Bách Biến Thiên Ảo Hành Sơn Vân Vụ thập tam thức

* Song Thủ Hỗ Bác

* Phục Ma trượng pháp

* Kim Long tiên pháp

* Bích Hải Triều Sinh khúc

* Phân Cân Thác Cốt thủ

* Phản Lưỡng Nghi đao pháp

* Sư Tử Hống

* Hồ gia đao pháp

* Dương gia thương

* Diệu thủ không không

* Lục Hợp tiên pháp

* Ỷ Thiên Đồ Long Công

CÁC LOẠI TRẬN PHÁP:

* La Hán trận

* Thất Tinh Bắc Đẩu trận

* Chân Võ Thất Tiết trận

* Kiên Bích trận

* Mai Hoa trận

* Đả cẩu Trận

Nhân vật nam

Các nhân vật nam chính thường được mô tả từ khi còn nhỏ, cốt truyện tiếp nối các gian nan, thử thách của họ trước khi đạt tới trình độ võ công cao nhất; Trong truyện Kim Dung, những người đạt tới cảnh giới cao nhất của võ học đều là Nam giới, như Tạ Tốn, Hồng Thất Công, Âu Dương Phong, Độc Cô Cầu Bại...Những nhân vật Nam cũng là thường đầu mối chính trong các xung đột lớn nhỏ, vì ngoài số ít những kẻ chất phác, Kim Dung thường cho những nhân vật nam tính ham công danh lợi lộc, dẫn đến tàn sát lẫn nhau.

* Trần Gia Lạc: Thư kiếm ân cừu lục

* Viên Thừa Chí: Bích huyết kiếm

* Quách Tĩnh: Anh hùng xạ điêu

* Dương Quá: Thần điêu đại hiệp

* Hồ Nhất Đao: Tuyết sơn phi hồ

* Miêu Nhân Phượng: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện

* Hồ Phỉ: Tuyết sơn phi hồ/ Phi hồ ngoại truyện

* Trương Thúy Sơn: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Trương Vô Kỵ: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Viên Quán Nam: Uyên ương đao

* Địch Vân: Liên thành quyết

* Tiêu Phong: Thiên long bát bộ

* Đoàn Dự: Thiên long bát bộ

* Hư Trúc: Thiên long bát bộ

* Thạch Phá Thiên: Hiệp khách hành

* Lệnh Hồ Xung: Tiếu ngạo giang hồ

* Vi Tiểu Bảo: Lộc Đỉnh Ký

Nhân vật Nữ

Mặc dù nữ nhân vật trong nhiều tác phẩm võ thuật được tạo ra để minh hoạ cho tình yêu của các nhân vật nam, nhiều nhân vật nữ lại là trung tâm của cốt truyện, được miêu tả là những cá nhân không bị lệ thuộc, mạnh mẽ, độc lập, thông minh, và có võ thuật tài giỏi. Ví dụ, Hoàng Dung trong Anh hùng xạ điêu' không chỉ là người Quách Tĩnh yêu mến mà còn là một cô gái dí dỏm, thông minh hơn cả chồng mình là Quách Tĩnh. Năng lực trí tuệ của cô cùng với sức mạnh cơ thể của Quách Tĩnh đã bổ sung cho nhau. Hoắc Thanh Đồng trong Thư kiếm ân cừu lục là một người giỏi võ, một người chị biết che chở, một đứa con có hiếu, và là một người sẵn sàng bảo vệ cho lợi ích của những người thân của cô. Công chúa Hương Hương dù không biết võ thuật nhưng cô đóng vai trò quan trọng trong câu truyện. Cuối truyện, cô tỏ ra không chỉ xinh đẹp mà còn đủ thông minh đế biết được sự thèm muốn của Càn Long. Cô có lòng cam đảm để hi sinh chính mình để bảo vệ giá trị của bộ tộc và cảnh báo Trần Gia Lạc trước những âm mưu của Càn Long. Ân Tố Tố, Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược được miêu tả có sự can đảm, quyết tâm và thông minh bằng, nếu không nói là hơn các nhân vật nam khác trong Ỷ Thiên Đồ Long ký.

Các nữ nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung gồm có:

* Hương Hương công chúa: Thư kiếm ân cừu lục

* Hoắc Thanh Đồng: Thư kiếm ân cừu lục

* Lý Nguyên Chỉ: Thư kiếm ân cừu lục

* Hạ Thanh Thanh: Bích huyết kiếm

* A Cửu (Trường bình công chúa): Bích huyết kiếm

* Hoàng Dung: Anh hùng xạ điêu

* Tiểu long nữ: Thần điêu đại hiệp

* Viên Tử Y: Phi hồ ngoại truyện

* Trình Linh Tố: Phi hồ ngoại truyện

* Miêu Nhược Lan: Tuyết sơn phi hồ

* Ân Tố Tố: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Triệu Mẫn: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Tiểu Chiêu: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Chu Chỉ Nhược: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Thích Phương: Liên thành Quyết

* Thủy Sinh: Liên thành Quyết

* A Châu: Thiên long bát bộ

* A Tử: Thiên long bát bộ

* Vương Ngữ Yên: Thiên long bát bộ

* Mộc Uyển Thanh: Thiên long bát bộ

* Chung Linh: Thiên long bát bộ

* Tiêu Trung Tuệ: Uyên ương đao

* Lý Văn Tú: Bạch mã khiếu tây phong

* Đinh Đang: Hiệp khách hành

* A Tú: Hiệp khách hành

* A Thanh: Việt Nữ kiếm

* Nhậm Doanh Doanh: Tiếu ngạo giang hồ

* Nhạc Linh San: Tiếu ngạo giang hồ

* Nghi Lâm: Tiếu ngạo giang hồ

* Song Nhi: Lộc Đỉnh ký

* Tô Thuyên: Lộc Đỉnh ký

* Tăng Nhu: Lộc Đỉnh ký

* Phương Di: Lộc Đỉnh ký

* Mộc Kiếm Bình: Lộc Đỉnh ký

* Kiến Ninh công chúa: Lộc Đỉnh ký

* A Kha: Lộc Đỉnh ký

Nhân vật lịch sử

Kim Dung đã phỏng theo nhiều nhân vật lịch sử vào các tác phẩm của mình. Ông tự do thêm các chi tiết hội thoại, hành động mà trong tiểu sử của những nhân vật này không đề cập đến. Ví dụ như Đà Lôi là con út của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện là bạn thời thơ ấu của Quách Tĩnh; Vi Tiểu Bảo trở thành bạn của vua Khang Hy

* Hoàn Nhan A Cốt Đả: Thiên long bát bộ

* Gia Luật Hồng Cơ: Thiên long bát bộ

* Thành Cát Tư Hãn: Anh hùng xạ điêu

* Đà Lôi: Anh hùng xạ điêu

* Gia Luật Sở Tài: Thần Điêu hiệp lữ

* Toàn Chân giáo, xuất hiện nhiều trong Xạ Điêu tam bộ khúc, gồm: Vương Trùng Dương người sáng lập ra giáo phái Toàn Chân. Mã Ngọc, Khâu Xứ Cơ, Vương Xứ Nhất, Lưu Xứ Huyền, Đàm Xứ Đoan, Hách Đại Thông, Tôn Bất Nhị: bảy đệ tử của Vương Trùng Dương.

* Hốt Tất Liệt: Thần điêu đại hiệp

* Chu Nguyên Chương: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Trần Hữu Lượng: Ỷ Thiên Đồ Long ký

* Khang Hi: Lộc Đỉnh ký

* Càn Long: Thư kiếm ân cừu lục

* Vương quốc Đại Lý : Đoàn Chính Minh, Đoàn Chính Thuần và Đoàn Dự (hay còn gọi là Đoàn Chính Nghiêm): Thiên long bát bộ ,Đoàn Trí Hưng: Anh hùng xạ điêu và Thần điêu đại hiệp

* Lý Tự Thành: Lộc Đỉnh Ký

* Ngô Tam Quế :Lộc Đỉnh Ký

* Ngao Bái: Lộc Đỉnh Ký

* Trần Viên Viên : Lộc Đỉnh Ký

Môn phái, bang hội

Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung thêm nhiều. Các môn phái, bang hội, giáo phái hay gặp nhất trong các tác phẩm của Kim Dung là:

Thiếu Lâm ,Cái Bang ,Võ Đang ,Côn Luân ,Nga Mi ,Không Động ,Minh Giáo

Ngũ Nhạc kiếm phái bao gồm

* Tung Sơn

* Thái Sơn

* Hoa Sơn

* Hành Sơn

* Hằng Sơn

Đại Lý Đoàn Thị

Những môn phái này chia ra hai phe chánh - tà thường xuyên đối chọi nhau, phe chính được kêu là Danh môn chính phái, phe tà bị gọi là Tà ma ngoại đạo. Về chất lượng của các bang, phái, trong truyện Kim Dung thường nhắc đến Thiếu Lâm, Cái Bang (mệnh danh là Thái Sơn và Bắc Đẩu trong võ lâm) và Minh Giáo, về võ công thì Thiếu Lâm là nhất, về bang hội thì Cái Bang mạnh nhất, còn về giáo phái thì Minh Giáo mạnh nhất. Tuy nhiên đọc hết các tác phẩm của ông thì ta thấy đó chỉ là cái hư danh.

Thiên hạ ngũ tuyệt:

"Thiên hạ ngũ tuyệt" (Võ Lâm Ngũ Bá) là năm nhân vật được coi như có võ công cao nhất trong Xạ điêu tam bộ khúc. Ở lần gặp thứ nhất Hoa Sơn luận kiếm (chuyện xảy ra trước bộ Anh hùng xạ điêu nhưng được nhắc lại) đã phân định Vương Trùng Dương là người võ công cao nhất. Ngũ tuyệt gồm có:

* Vương Trùng Dương ở trung tâm (Trung Thần Thông)

* Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)

* Âu Dương Phong ở phương Tây (Tây Độc)

* Đoàn Trí Hưng ở phương Nam (Nam Đế)

* Hồng Thất Công ở phương Bắc (Bắc Cái)

Ngoài ra, Lâm Triều Anh và Cừu Thiên Nhận cũng được coi trọng mặc dù vắng mặt trong cuộc Hoa Sơn luận kiếm thứ nhất.

Lần Hoa Sơn luận kiếm thứ hai, được kể cuối bộ Anh hùng xạ điêu, không phân thắng bại vì Âu Dương Phong đã bị tẩu hỏa nhập ma còn Cừu Thiên Nhận rút lui. Tuy vậy, Chu Bá Thông, sư đệ của Vương Trùng Dương có thể coi là người có võ công giỏi nhất tại thời điểm đó.

Ở lần Hoa Sơn luận kiếm thứ ba, được kể cuối bộ Thần điêu hiệp lữ, không còn Cừu Thiên Nhận và Kim Luân Pháp Vương vì đã chết. Hồng Thất Công và Âu Dương Phong cũng đã mất sau trận kịch đấu bất phân thắng bại. Kết cuộc, Chu Bá Thông, Quách Tĩnh và Dương Quá thế chỗ Vương Trùng Dương, Hồng Thất Công và Âu Dương Phong trong danh sách ngũ tuyệt:

* Chu Bá Thông ở trung tâm (Trung Ngoan Đồng)

* Hoàng Dược Sư ở phương Đông (Đông Tà)

* Dương Quá ở phương Tây (Tây Cuồng)

* Nhất Đăng ở phương Nam (Nam Tăng)

* Quách Tĩnh ở phương Bắc (Bắc Hiệp)

Nhất Đăng là pháp hiệu của Đoàn Trí Hưng sau khi thoái vị và trở thành hòa thượng.

Kim Dung ở Việt Nam

Dịch giả đầu tiên dịch tác phẩm Kim Dung tại Việt Nam được ghi nhận là Tiền Phong Từ Khánh Phụng với bản dịch Cô gái Đồ Long, in trên báo Đồng Nai vào năm 1961. Trên thực tế, trước đó, đã có một số bản dịch như Bích Huyết kiếm của Từ Khánh Phụng (báo Đồng Nai), Anh hùng xạ điêu của Đồ Mập (báo Dân Việt), Thần điêu đại hiệp của Vũ Tài Lục và Hải Âu Tử (báo Mới). Tuy nhiên, đến bản dịch Cô gái Đồ Long ra đời đã thực sự tạo nên cơn sốt truyện Kim Dung tại miền Nam kéo dài mãi đến tận năm 1975. Hai dịch giả truyện Kim Dung nổi tiếng tại Việt Nam thời kỳ này là Hàn Giang Nhạn và Thương Lan. Một số nhà bình luận Kim Dung cũng nổi lên trong thời kỳ này như Đỗ Long Vân với loạt bài "Vô Kỵ giữa chúng ta", theo đó, nhiều nhà văn nổi tiếng cũng tham gia bình luận Kim Dung như Bùi Giáng, Bửu Ý.

Sau 1975, các tác phẩm của Kim Dung bị nhà nước Việt Nam liệt vào danh sách cấm cùng với các tác gia kiếm hiệp khác như Cổ Long, Trần Thanh Vân... với lý do "Văn hóa đồi trụy phản động". Lệnh cấm này duy trì mãi đến năm 1990. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, các bản sách cũ vẫn được lén lút lưu giữ và được nhiều người truyền tay đọc. Đầu thập niên 1990, với ảnh hưởng của phong trào Đổi mới, chính quyền Việt Nam đã bớt dần sự gắt gao với thể loại truyện võ hiệp. Một số phim và sách võ hiệp được phát hành. Thêm vào đó, sự phát triển của Internet đã giúp cho nhiều người có cơ hội đọc sách Kim Dung qua mạng.

Nhà văn Vũ Đức Sao Biển là người đầu tiên giới thiệu sự trở lại của tác phẩm Kim Dung với bạn đọc Việt Nam sau 1975 với tuyển tập "Kim Dung giữa đời tôi". Công ty Văn hóa Phương Nam là công ty đầu tiên có bản quyền và phát hành tất cả các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung từ sau 1975. Từ năm 1999, Phương Nam đã mua toàn bộ bản quyền tác phẩm của Kim Dung, thông qua thương lượng trực tiếp với nhà văn. Các bản văn được mua đều là những bản được chính Kim Dung hiệu đính và chỉnh sửa mới nhất. Kể từ tháng 6 năm 2006, toàn bộ tác phẩm của Kim Dung được dịch lại và phát hành ở Việt Nam theo các bản hiệu đính mới nhất.

Các dịch giả truyện Kim Dung được đánh giá cao trong thời kỳ này có Cao Tự Thanh và Vũ Đức Sao Biển[cần dẫn nguồn]. Ở hải ngoại, dịch giả Nguyễn Duy Chính cũng được xem là dịch giả có chất lượng dịch tốt nhất với hàng loạt bản dịch của ông được lưu truyền trên Internet.

Vinh dự

Ngoài các tiểu thuyết võ hiệp, ông còn viết các truyện lịch sử Trung Quốc. Ông đã được trao tặng nhiều huân chương danh dự.

Kim Dung đã được trao tặng huân chương OBE của Vương Quốc Anh năm 1981, và Légion d'honneur năm 1982, Commandeur de l'Ordre des Arts et des Lettres năm 2004 của chính phủ Pháp.

Ông cũng là giáo sư danh dự của nhiều trường đại học như Bắc Kinh, Triết Giang, Nam Khai, Hồng Kông, British Columbia cũng như là tiến sĩ danh dự của đại học Cambridge

Tìm hiểu thêm về Kim Dung

Tên thật là Tra Lương Dung sinh năm 1924 tại thị trấn Viên Hoa huyện Hải Ninh tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Là con nhà danh gia vọng tộc ở Hải Ninh, Tỉnh Chiếc Giang Trung Quốc.

Kim Dung là người chụi ảnh hưởng lớn của ông nội là Tra Lương Thanh- đậu tiến sĩ đời vua Quang Tự, từng làm tri huyện ở Giang Tô nhưng chán cảnh quan trường nên treo ấn từ quan về ơ ẩn

Khi Tra Kim Dung ra đời, gia tộc ông có 3600 mẫu đất và có 100 tá điền. Ông luôn nhớ 2 điều của ông dạy.

-Học sách suốt đời

-Đừng bao giờ quên người Trung Quốc luôn bị người nước ngoài coi thường ức hiếp.

Gia đình ông có một kho sách lớn chứa mấy vạn cuốn nhưng giá trị nhất là bản khắc gỗ của 900 cuốn Đường Thi, Tống Thi. Từ thuở bé ông cứ mang những bản khắc gổ này ra chơi và đọc thuộc từ lâu thơ Lý Bạch tới Đỗ Phủ, từ thơ Vương An Thạch tới thơ Tô Đông Pha.

Năm 9 tuổi ông đã đọc bộ Giang Nữ Hiệp ( Nữ hiệp nơi song hoang dã) của cố đoạ Minh và mê mẫn ngày đêm từ đó ông luôn đọc truyện kiếm hiệp để giải trí

Năm 1937 khi lên 13 đang học lớp 9 thì quân Nhật chiếm Trung Quốc, học sinh vừa học chữ vừa học quân sự đời sống vất vả. Tốt nghiệp cấp 2 ông cùng người bạn viết cuốn cẩm nang luyện thi sơ cấp đem lại cho ông số tiền khá lớn đủ để đón em ông lên học với ông. Lúc này ông đã rất giỏi cà Hán Văn lẫn Anh Văn.

Chiến tranh kết thúc ông đã tố nghiệp cao trung ( cấp 3) Mấy người bạn muốn giúp Kim Dung tiến thân đã tiến cử ông vào trường Đại Học Ngoại Giao của Chính Phủ Quốc Dân nhưng họ được 1 năm ông bất mãn vì ở trường chỉ nâng đỡ người Quốc Dân Đảng mà o ép các sinh viên khác, ông đã viết báo công kích nên bị đuổi học nhưng từ đó ông đã trở thành nhà báo, làm ký giả báo Đông Nam, chỉ được một năm Kim Dung lại lên Thượng Hải thi vào trường Đại Học Pháp Lý Đông Ngô tốt nghiệp khoa công pháp quốc tế là tại Đại Công báo.

Khi lục địa được giải phóng, Kim Dung sang Hồng Kông một mặt sáng lập tờ Minh Báo một mặt lập hãng phim Trường Thành, lúc đó ở Hồng Kông báo có đăng truyện võ hiệp mới bán chạy nên ông bắt đầu viết truyện truyện Võ Hiệp. Tác phẩm đầu tiên là "Võ Lâm Ngũ Bá" đăng cũng trên Minh báo , tuần số đầu tiên phát hành không tăng nhiều nhưng không ngờ đến tuần thứ 2 đã nhảy vọt. Từ đó ngòi bút của ông mỗi ngày tung hoành thoải mái đến nay đã trờ thành một nhà văn tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng khắp Thế Giới . Hiện Tượng Kim Dung đã qua mặt hiện tượng Tào Tuyết Cần vời tác phẩm Hồng Lâu Mộng vì ngành Hồng Học chứ phát triển khắp Thế Giới như Ngành Kim Dung Học.

Nhà Ông có treo một đôi liễn mang chữ của Khang Hy ca tụng gia đình lớn của ông là "Đường Tống dĩ lai cự tộc ;Giang Nam hữu sở nhân giang" ( Tức : Gia đình danh giá đời Đường Tống tời nay, Giang Nam chỉ có mấy nhà)

Hiện nay bà con của Kim Dung thì một số ở Đại Lục có nhà thơ lớn Tra Lương Tỉnh, ở Đài Loan có nguyên Bộ trưởng Tư Pháp Tra Lương Giám, Hiệu trưởng trường Đại Học Sư Phạm -Tra Lương Chiêu

Sách gối đầu giường ngày xưa của ông là Hồng Lâu Mộng, Thuỷ Hử, Tam Quốc Chí, ông cũng mê cả tiểu thuyết Châu Âu.

Nói về cơ duyên khiến ông trở thành người viết truyện tiểu thuyết võ hiệp là khi ông làm tại Minh báo, những số báo thường bán không chạy, bạn bè đề nghị ông viết tiểu thuyết sôi nổi mới mong tăng số phát hành. Ông đồng ý nhưng mới đầu ông không viết võ hiệp. Ít lâu sao thư ký toà soạn nói cho ông nghe rằng tiểu thuyết nào của ông cũng bị chê, gợi ý cho ông sao không viết một cuốn tiểu thuyết võ hiệp, nghe thế Kim Dung nghĩ lâu nay ông nghiên cứu lịch sử Trung Quốc khá nhiều từ thời kỳ cuối Nguyên đầu Minh sao không thử viết 1cuốn tiểu thuyết võ hiệp theo đó xem sao. Thư ký toà soạn đó lại hỏi tựa cuốn tiểu thuyết ông định viết tên gì, ông buột miệng nói cuốn tiểu thuyết nói vế sách, kiếm, ân và oán. Thư ký đó nhanh chóng kết luân như vậy tên tiểu thuyết sắp đăng mang tựa" Thư Kiếm Ân cừu Lục" . Thư ký biết têm ông có tên tiếng Anh là Lousis Cha nhưng hỏi thêm "Ông viết tiểu thuyết lấy bút danh là gì ?" Ông mỉm cười nói Kim Dung. Từ đó trên tờ Minh Báo mỗi kỳ có 3000 chữ của Kim Dung xuất hiện múa mai quay cuồng.

Ông tự nhận xét từ "Thư Kiếm Ân Cừu Lục" đến "Võ Lâm Ngũ Bá" đều có tiến bộ nhưng đến khi viết "Anh Hùng Xạ Điêu" mới hình thành một phong cách văn chương riêng. Với những sáng tạo ở giai đoạn đầu ông đã vùng vẫy thoải mái trong các bộ Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ, tời Thiên Long Bát Bộ, ông mới tin mình là nhà văn tiểu thuyết võ hiệp. Đỉnh cao sự nghiệp văn chương của ông là bộ Lộc Đỉnh Ký. Kim Dung cũng cho biết tiểu thuyết của ông được yêu thích chỉ vì ông khai thác triệt để cái văn hoá ẩm thực, nền y học cồ truyền của Trung Quốc cũng như tất cả võ phái trong tiểu thuyết đều có thật.

Kim Dung trở thành nhân vật tiêu biểu nồi tiếng nhất trong giới sáng tác tiểu thuyết võ hiệp Trung Quốc. Ngoài ra còn có Lương Vũ Sinh, Cổ Long, Ngoạ Long Sinh, Trần thanh Vân, Đông Phương Ngọc, Ôn Thuỵ An, Tiêu Dật, ...giữa một lượng lớn tác gia tiểu thuyết võ hiệp, nhưng theo đánh giá phê bình và sự phản hồi của quần chúng thì Kim Dung và Lương Vũ Sinh, hoặc cộng thêm Cổ Long, là những tác gia được mội người công nhận là nhân vật cấp đại sư không ai có thể bì kịp trong số các tác gia tiểu thuyết võ hiệp tân phái. Thậm chí Kim Dung và các bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông đả trở thành đối tương nghiên cứu trọng điểm của nhiều người. Giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, các ngành chuyên môn nghiên cứu Kim Dung và các tác phẩm của ông được mệnh danh là "Kim Học" ở Đài Loan, Hương Cảng, TQ cho đến Hoa Kiều ở Hải Ngoại đã có không ít chuyên gia nghiên cứu ngành Kim Học.

Từ thập niên 90 của thế kỷ trước đến nay, Kim Dung củng rất được hoan nghênh nhiết liệt ở Trung Quốc nội địa. Bản thân ông năm 1999 đã nhận chức viện trưởng nhân văn học tại Đại Học Triất Giang, bắt đẩu giảng dạy chính thức giáo trình văn học có liên quan đến các tác phẩm tiểu thuyết của mình. Tiều thuyết võ hiệp của Kim Dung trong lich sử tiều thuyết võ hiệp Trung Quốc Đương Đại công nhận là thành công nhầt và có ảnh hưởng rất lớn, thậm chí người ta nói " Hễ nơi nào có Trung Quốc, là nơi đó có tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung" Vì tiểu thuyết Kim Dung có vô số tinh tuý, hầu như tác phẩm nào cũng để lãi cho người đọc những ấn tương sâu sắc, không những miêu tả võ công thần kỳ, tuyên dương lòng nghĩa hiệp, tạo ra những hỉnh tượng võ hiệp một cách trọn vẹn chân thực mà còn thể hiện cái tình chân thật vĩnh hằng, những tình cảm kích động một cách thâm trẩm sâu sắc, những hoài niệm lịch sử rung động tâm hồn, những mệnh đề văn hoá làm con người bừng tỉnh. Dù đọc giả ở độ tuổi nào, thuộc tầng lớp nào của xã hội cũng đều thích đọc các tác phẩm Kim Dung.

Kim Dung giữa đời tôi_Vũ Đức Sao Biển

Khái quát phong cách xây dựng nhân vật

Trong những năm trước 1975 tại miền Nam người đọc xem Kim Dung tiên sinh, tiểu thuyết gia Hongkong, là một nhà văn lớn. Những tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông, được đăng báo dưới dạng feuilleton hoặc in thành sách, đã hấp dẫn hàng triệu người đọc Việt Nam. Văn của ông đã được truyển trạch để đưa vào giáo trình văn cấp trung học và đại học tại Đài Loan, Hongkong và Hoa Lục. Và ngay trong lòng nước Mỹ, người Hoa đã lập ra "Kim Dung học hội", chuyên nghiên cứu, giới thiệu và dịch những tác phẩm của ông ra tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha....Điều mà người ta dễ nhận ra nhất là bút lực của Kim Dung rất hùng hậu. Mỗi tác phẩm là một bộ (thường trên 10 quyển, trung bình khỏang 500, 600 trang một quyển). Chúng tôi chỉ xin giới thiệu đầu tiên một khía cạnh trong kỹ thuật tiểu thuyết của ông: phong cách xây dựng nhân vật.

Trước năm 1975, sách Kim Dung được in gồm:

1. Thư kiếm ân cừu lục

2. Bích huyết kiếm

3. Xạ điêu anh hùng truyện

4. Thần điêu hiệp lữ

5. Tuyết Sơn phi hồ

6. Phi hồ ngoại truyện (Lãnh nguyệt bảo đao)

7. Ỷ thiên Đồ long ký

8. Liên thành quyết (Tố tâm kiếm)

9. Thiên Long bát bộ (Lục mạch thần kiếm truyện)

10. Hiệp khách hành

11. Tiếu ngạo giang hồ

12. Lộc Đỉnh ký

Một điều cần lưu ý là nếu chúng ta phân biệt rõ 4 khái niệm: Truyện (tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu), Ký (tác phẩm văn xuôi viết về người thật, việc thật) và Lục (cuốn sách) thì Kim Dung sử dụng 3 khái niệm đó với một ý nghĩa duy nhất để chỉ các bộ tiều thuyết võ hiệp của ông.

Khuynh hướng của Kim Dung là thường đặt những cuốn tiểu thuyết của mình vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Trung Quốc. Bộ Thiên Long bát bộ được đặt và khung cảnh lịch sử triều Tống (1127-1279) với sự tương tranh, tương giao của 6 thế lực phong kiến: Tống, Đại Lý, Khiết Đan (Liêu), Tây Hạ, Thổ Phồn và Yên (Tiên Ti, đã suy tàn). Bộ Lộc Đỉnh ký được đặt vào khung cảnh lịch sử triều Khang Hy (1662-1722) nhà Thanh, khi mà các thế lực chống Thanh như Đường Vương, Quế Vương, Lỗ Vương và Thiên Địa hội hoạt động mạnh... Chính vì thế, trong tiều thuyết của ông, có những nhân vật lịch sử như Triệu Hú (Tống Triết Tông), Gia Luật Hồng Cơ (hoàng đế Đại Liêu), Đoàn Chính Minh (hoàng đế Đại Lý), Khang Hy (hoàng đế Thanh), Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam, tổng đường chủ Thiên Địa hội)... Bên cạnh đó là nhưng nhân vật thuần túy hư cấu, thường là nhân vật chính của tiều thuyết... Trong Thiên Long bát bộ, đó là Kiều Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc, Du Thản Chi, Đinh Xuân Thu...Trong Lộc Đỉnh ký, đó là Vi Tiểu Bảo. Những nhân vật tiểu thuyết của ông kết hợp với nhân vật lịch sử tạo thành một phong cách tiều thuyết hư hư, thực thực. Phong cách này khá đậm nét khi ông xây dựng cặp nhân vật Khang Hy-Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Từ 1 thằng bé lưu manh trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu, Vi Tiểu Bảo đã bị hoàn cảnh đẩy đưa lên Bắc Kinh giả làm thái giám rồi thân cận với vua Khang Hy, gia nhập Thiên Địa hội làm một thứ gián điệp hai mang, trờ thành công tước triều Thanh, nhận nhiệm vụ ký hoà ước lịch sử Hắc Long giang 1684 với Phí Diêu Đa La (Féodore) của Nga Ta Lư! Tác giả có ghi chú rõ về chuyện hư cấu của mình nhưng điều ấy vẫn không làm giảm đi sự thú vị trong lòng người đọc.

Một cách khái quát, nhân vật trong tiểu thuyết Kim Dung thường được chi làm 2 tuyến: chính phái (hay bạch đạo) và tà phái (hay hắc đạo). Tuy nhiên, trong tác phẩm Kim Dung không hề rơi vào chủ nghĩa công thức: những kẻ mà ông xếp vào hàng tà thường là những chính nhân quân tử, những kẻ mà ông giới thiệu như là chính nhân quân tử là là kẻ chẳng ra gì. Bất kỳ người Trung Quốc nào cũng gọi Minh giáo (tức Bái hỏa giáo) từ Ba Tư truyền sang là tà đạo. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã chứng minh ngược lại: Minh giáo là một chính giáo, nồng nàn tình cảm yêu nước, xả thân để cứu trăm họ ra khỏi ách thống trị của Mông Cổ. Những Trương Vô Kỵ, Dương Tiêu, Vi Nhất Tiếu, Phạm Dao, Hân Thiên Chính... là những con người quang minh lỗi lạc, hành sự trong sáng, sống rất người. Và chính nghĩa thuộc về họ, chứ không phải thuộc về nhân vật Chu Nguyên Chương, vốn đầy thủ đoạn chính trị, đã cướp công Minh giáo để lên ngôi mở ra nhà Minh. Còn có ai đẹp hơn Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần, chưởng môn phái Hoa Sơn trong Tiếu ngạo giang hồ? Thế nhưng từ cuốn 9 trở đi, Nhạc Bất Quần dần dần hiện nguyên hình là một kẻ độc ác; dùng con gái làm bậc thang để leo lên, giết cả rể, lừa vợ, giết học trò, quyết chiếm được ngôi MInh chủ Ngũ Nhạc phái, tự thiến để trở thành kẻ lại cái. Nguỵ quân tử vẫn nguy hiểm hơn chân tiểu nhân!

Những nhân vật chính trong tác phẩm của Kim Dung thường là những con người bao dung, đôn hậu, không hủ nho, câu nệ, không làm bộ làm tịch. Đó là Kiều Phong tự tử ngoài Nhạn Môn quan để mưu cầu hòa bình cho trăm họ Tống-Liêu. Đó là tiểu anh hùng Hồ Phỉ (Phi hồ ngoại truyện) tìm ra kẻ thủ giết cha mà vẫn không xuống tay hạ sát. Đó là Quách Tĩnh (Xạ điêu anh hùng truyện) liều chết để giữ thành Tương Dương, là Thạch Phá Thiên chỉ biết sống thuần phác khôn hề hại ai... Họ chính là mẫu "người hùng" lý tưởng theo nhận thức đạo đức Trung Hoa.

Chúng ta không nắm rõ lắm về thân thế Kim Dung. Nhưng truyện của ông thường danh tình cảm cho những con người xuất thân rất tầm thường, những đứa bé mồ côi không cha mẹ hoặc không biết ai là cha mẹ. Lệnh Hồ Xung, Hồ Phỉ, Thạch Phá Thiên, Trương Vô Kỵ, Dương Qua...là những chàng trai, những cậu bé như vậy. Đời đã dạy họ cách sống và vốn sống. Và họ đã thành người, những con người rất trung thực, đạo đức.

Kim Dung đặt tên cho những nhân vật mình rất hay. Có những nhân vật mà cái tên biểu hiện đầy đủ tính cách của mình: Nhậm Ngã Hành (chỉ làm theo ý mình), Nhạc Bất Quần (không chơi với ai) nhưng lại có rất nhiều bạn bè. Thông thường, trước mỗi tên nhân vật, tác giả đặt cho một ngoại hiệu. Điều thú vị là loại nhân vật càng xoàng xĩnh thì ngoại hiệu càng "kêu": Đoạn ngạc tam quyền, Đoạt mệnh tam quền, Nhất kiếm chấn Thiên Nam...Nhân vật có ngoại hiệu dài nhất là Giang dương đại đạo vạn lý độc hành thái hoa dâm tặc khoái đao Điền Bá Quang (tướng cưới đường sông biển, tên dâm tặc chuyên hãm hiếp phụ nữ, ngàn dặm đi một mình, đánh đao rất nhanh) và Đả biến thiên hạ vô địch thủ kim diện Phật Miêu Nhân Phượng (đánh khắp thiên hạ không ai địch nổi, Phật mặt vàng). Có ngoại hiệu làm cho người đọc nhận lầm là 3 nhân vậtt khác nhau như Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký). Thực sự, "tam thánh" là lời người đời xưng tụng Hà Túc Đạo cầm thánh, kỳ thánh, kiếm thánh chứ không phải là "3 ông thánh". Có những nhân vật thoạt đọc ngoại hiệu cứ tưởng là một người hoá ra 2 như Hoàng Hà Lão Tổ (Lão Đầu Tử và Tổ Thiên Thu sống trên sông Hoàng Hà - Tiếu ngạo giang hồ). Những nhân vật chính, siêu việt thuờng không có ngoại hiệu hoặc ngoại hiệu rất ngắn : Kiều Phong, Hư Trúc, Đoàn Dự, Bắc cái Hồng Thất... Ngay cách đặt tên nhân vật cũng đã nói lên tài năng của Kim Dung. Đây cũng là chỗ giúp người đọc phân biệt truyệt thật của Kim Dung và những nguỵ tác.

Truyện của Kim Dung thường có những nhân vật quái dị, mỗi nhân vật mang một phong cách riêng, không giống ai. Đó là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh (Tiếu ngạo giang hồ), chưởng môn phái Hành Sơn, vẫn ăn mặc rách rưới, giấu thanh kiếmỏng như lá lúa trong cây đàn; là Đoàn Dự, Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) suốt đời si tình, chạy theo nhan sắc; là Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký) lưu manh nhưng chẳng bao giờ cần che giấu tính lưu manh... Loại nhân vật này tiều biểu cho quan điểm "hoà nhi bất đồng" (có hòa mình vẫn không giống được) của Nho giáo. Những nhân vật của ông sống với cả tính cách, đặc điểm của mình. Họ có thể sống rất tố, cũng có thể rất xấu những mỗi con người như vậy - dù chỉ xuất hiện trong một đọan ngắn ngủi - vẫn để lại những ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Điều ấy đã bao nhiều nhà văn làm được.

Kim Dung sử dụng phong cách xây dựng nhân vật như một cách đánh lừa độc giả và gây cho độc giả sự thú vị khi được "bị lừa" như vậy. Mở đầu Tiếu ngạo giang hồ là hình ảnh tốt đẹp của Lâm Bình Chi. Sau đó, Lâm Bình Chi bị lâm nạn nhà tan, người chết, phải lưu lạc tha hương. Ai cũng nghĩ Lâm Bình Chi là nhân vật trung tâm, con người chính nân quân tử. Nhưng không! Đọc hết bộ sách chúng ta mới thấy cái rởm đời của Lâm Bình Chi, cái chân thật của Lệnh Hồ Xung. Hạnh phúc thuộc về những con người chân thật. Đọc Hiệp khách hành, ta cứ ngỡ Thạch Phá Thiên là một tên tiểu ma đầu tàn bạo, dâm ác, lừa lọc. Nhưng không, cậu chỉ có một cái tội: giống hệt người anh ruột tàn ác, dâm đãng Thạch Trung Ngọc. Chỉ có đôi mắt trẻ thơ của A Tú mới nhìn ra được chỗ khác biệt tốt đẹp đó, điều mà tất cả mọi người lớn không nhìn ra. Và cuối cùng, Thách Phá Thiên đã tìm ra được pho võ công thượng thặng ẩn trong bài thơ Hiệp khách hành của Thi tiên Lý Bạch, không phải do nghiên cứu được ý nghĩa của bài hành, mà nhờ chỉ nhìn nét viết (vì cậu không biết chữ). Kim Dung muốn chứng mình một điều: cái chân thật, cái dốt nát vẫn thắng được cái cơ tâm, cái hiểu biết rộng rãi nhất. Ai không thú vị với những định đề như vậy?

Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta bỏ quên những nhân vật nữ trong tác phẩm Kim Dung. Tuy mang danh là truyện võ hiệp nhưhng tác phẩm Kim Dung thực chất là những tiều thuyết về tình yêu đôi lứa. Các nhân vật nữ của ông xuất thân trong xã hội phong kiến nhưng sống và yêu rất lãng mạn - tất nhiên trong sự cho phép của lễ giáo Trung Hoa. Đó là nhưng con người biết yêu say đắm và biết xả thân vì người yêu: Nhậm Doanh Doanh - Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ), Triệu Mẫn - Trương Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký), Viên Tử Y - Hồ Phỉ (Lãnh nguyệt bảo đao), A Tú - Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), A Châu - Kiều Phong (Thiên Long bát bộ). Tuy nhiên trong mọi tình huống, họ vẫn giữ được tiết sạch giá trong của người phụ nữ phương Đông.

Nói như vậy, không có nghĩa là Kim Dung vẫn giữ nhân vật nữ của mình bo bo trong vòng tư duy cổ điển của lễ giáo Trung Hoa. Không, ông đã tạo ra những tình huống có vấn đề: Kỷ Hiểu Phù đã hứa hôn với Hân Lợi Hanh nhưng lại thất thân với Dương Tiêu, sinh ra đứa con gái và đặt tên là Bất Hối (không hối hận) (Ỷ thiên Đồ long ký). Tiểu Long Nữ là sư phụ, đã bị kẻ khác cưỡng dâm nnhưng vẫn yêu say đắm đồ đệ của mình là Dương Qua (Thiền điêu hiệp lữ). Những nhân vật nữ của ông biết đánh kiếm, đánh chưởng, ám khí, ghen tuông, giận hờn, đau xót vì chia ly. Họ có một vẻ đẹp riêng từ ngoại hình đến tâm hồn, rất lý tưởng, nhưng cũng rất thật.

Cũng có thể nói Kim Dung là nhà văn lớn phương Đông thế kỷ XX. Về mặt trước tác, tác phẩm của ông đồ sộ hơn bất cứ nhà văn nào khác. Bút pháp của ông lôi cuốn, hấp dẫn người đọc một cách lạ lùng. Và hệ thống kiến thức của ông từ y học đấn địa lý, lịch sử, võ thuật, tâm lý, bệnh học, tôn giáo... hoàn chỉnh một cách vô song. Tiếc thay một nhà văn như vậy là chưa có tên trong những nhà văn được nhận giải Nobel văn học. Nhưng dù gì đi nữa, những nhà văn khác cũng đã học tập được từ Kim Dung nhiều kinh nghiệm tiểu thuyết. Ông xứng đáng là nhà văn bậc thầy của những bậc thầy trong thế kỷ chúng ta.

Võ Công

Các nhân vật trong tác phẩm của Kim Dung hợp lại thành một giới - giới võ lâm - và đương nhiên, sinh hoạt của họ là sự thể hiện võ công để giết người, mưu đồ địa vị quyền lực; võ công để cứu người, trừ gian diệt bạo, biểu dương cái lẽ công bằng ở đời. Nói đến những nhân vật của Kim Dung, không thể không nói đến võ công.

Một cách khái quát, Kim Dung đã đặt vào cho những nhân vật của mình những loại hình võ công (hay công phu, kungfu) mà họ cần phải có. Các loại hình võ công bao gồm chưởng pháp (phép đánh bằng tay), quyền pháp (phép đánh bằng nắm tay), chỉ pháp (phép đánh bằng ngón tay), cầm nã thủ pháp (phép đánh bằng câu, bắt, móc, giật) trảo pháp (phép chụp bằng ngón tay), cước pháp (phép đá), bộ pháp (phép di chuyển), khinh công (phép đi nhanh). Nếu các nhân vật của ông chuyên sử dụng vũ khí thì mỗi loại vũ khí được kết hợp với một pháp để hình thành võ công riêng cho họ (đao pháp, thương pháp, kiếm pháp, trượng pháp, côn pháp... Đối với một số nhân vật đặc biệt, Kim Dung đã tạo ra cho họ những thứ võ công đặc biệt: thần công Sư tử hống (tiếng rống của sư tử) của Tạ Tốn (Ỷ thiên Đồ long ký), Hấp tinh đại pháp (phép hút kình lực và công lực kẻ khác làm công lực và kình lực của mình) của Nhậm Ngã Hành (Tiếu ngạo giang hồ), Nhiếp hồn đại pháp (phép thôi miên) của Đinh Xuân Thu (Thiên Long bát bộ)...

Kim Dung tạo ra cho nhân vật của mình những hoàn cảnh, những tình huống để họ thủ đắc võ công. Có những nhân vật không chịu học võ, suốt ngày chỉ lo học sách thành hiền, học kinh Phật như vương tử Đại Lý Đoàn Dự hay như nhà sư trẻ Hư Trúc cùng bị đẩy đưa vào hoàn cảnh phải học võ công để tự cứu mình và cứu người, trở thành bậc thượng thừa. Có kẻ say mê võ công, đi tìm suốt đời mà chẳng thấy. Con đường mà Kim Dung dẫn dắt những nhân vật trung tâm của mình đến với các thứ võ công không khỏi khiến cho người đọc cười thầm.

Nhân vật của Kim Dung thể hiện võ công qua kình lực. Đứng trên quan điểm triết học Trung Hoa, ông chia kình lực ra làm hai loại: dương cương và âm nhu. Dương cương là loại kình lực mãnh liệt, khi xuất chiêu phát ra tiếng động. Âm nhu là kình lực mềm mại, khi xuất chiêu không phát ra tiếng động. Hai loại kình lực đó loại nào cũng có thể giết người, làm tan bia vỡ đá! Ông lấy Nhu chế Cương, lấy Cương chế Nhu. Kẻ thắng cuộc là kẻ có công lực cao hơn. Căn cứ vào võ học Trung Hoa, Kim Dung để cho các nhân vật của mình thi triển võ công theo hai cách: trực tiếp và gián tiếp. trong cách đánh trực tiếp; chưởng, trảo, chỉ, quyền... phải đụng đến người địch thủ. trong cách đánh gián tiếp; chưởng, trảo, chỉ, quyền... không đụng đến người địch thủ, Kim Dung gọi đó là cách không. Cách không điểm huyệt chỉ pháp của Kiều Phong, Lục mạch thần kiếm của Đoàn Dự, Thất thương quyền của Tạ Tốn... đều có cái khả năng cách không này. Đặc biệt Kim Dung có đề cập đến Cách sơn đả ngưu thần công (thần công đánh con trâu cách trái núi). Trong Thiên Long bát bộ, ông đã để cho quốc sư nước Thổ Phồn dùng Tiểu Tu ni chưởng đánh vào đỉnh đồng bên này, đủnh đồng không phát ra tiếng động và vẫn lành lặn nhưng phía bên kia lại lủng. Cách diễn tả như vậy nghe hơi phi khoa học nhưng lại làm thoả mãn trí tưởng tượng vốn phong phú của con người.

Kim Dung đặt tên cho các loại võ công rất độc đáo và riêng trong khía cạnh này, ông cũng đã tự chứng mình được trình độ viết tiểu thuyết của mình. Một là - võ công thường gắn liều với nguồn gốc xuất thân. Thí dụ các nhà sư xuất thân từ phái Thiếu Lâm thì phài biết sử La Hán quyền, Niêm hoa chỉ, Thiếu Lâm trường quyền, Di Đà chưởng, Giáng ma trượng... Ai xuất thân từ đạo gia Võ Đang thì có Thái cực quyền, Võ Đang miên chưởng. Hư Trúc học được võ công của phái Thiên Sơn thì võ công đó được gọi là Thiên Sơn lục dương chưởng, Thiên Sơn lục dương chỉ, Thiên Sơn chiết mai thủ... Hai là - tên của võ công thường gắn liền với những chiêu thức, đòn thế của môn võ công ấy. trong tinh thần này, người đọc tìm thấy Hàng long thập bát chưởng (18 chưởng hạ rồng), Liên hoàn thập tam cước (13 thế đá liền nhau), Độc Cô cửu kiếm (9 thế kiếm của Độc Cô Cầu Bại). Ba là - tên của môn võ công thường gắn liền với sinh hoạt, đặc điểm của động vật. Trong tinh thần này, ta thường gặp trong tác phẩm của Kim Dung những Xà quyền (rắn), Đại Thánh quyền (khỉ), Áp hình công (vịt), Hàm mô công (ếch), Ưng trảo công (chim ưng), Kê trảo công (gà). Ngay cả đến con rồng - một động vật trong linh thoại cổ Trung Hoa - cũng có công phu: Long trảo công. Bốn là - tên của võ công gắn liền với tính chất, hậu quả khi sử dụng võ công đó. Trong tinh thần này, ta thường gặp Tam tiếu tiêu dao tán (thuốc bột làm người ta cười 3 lần trước khi chết), Thất thương quyền (loại quyền pháp muốn luyện được phải bị 7 thứ nội thương trong phủ tạng), Hoá thi phấn (loại thuốc bột làm tan xác chết ra nước)...

Kim Dung có một bề dày kiến thức về y học cổ Trung Hoa. Một cố nhân vật của ông trường vừa giỏi võ công, vừa tinh thâm y thuật, phối hợp y thuật với võ công hoặc để cứu người, hoặc để chế ngự người. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp nhân vật Sát nhân danh y bình Nhứt Chỉ, cứu người chỉ cần một ngón tay và giết người cũng chỉ cần một ngón tay. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, ta gặp Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu và sau đó là Trương Vô Kỵ, giỏi về chữa thương, phục hồi kỳ kinh bát mạch. Thuốc độc và phóng độc cũng là một loại võ công. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp Lam Phượng Hoàng, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam. Trong Phi hồ ngoại truyện, ta gặp Độc thủ dược vương chuyên đánh thuốc độc.

Cũng theo Kim Dung, âm nhạc cũng là một dạng võ công có thể chế ngự địch thủ. Một số nhân vật của ông như Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo (Ỷ thiên Đồ long ký), Cầm điên Khang Quảng Lăng (Thiên Long bát bộ), Nhậm Doanh Doanh và Lưu Chính Phong (Tiếu ngạo giang hồ)... đã dùng tiếng đàn, tiếng sáo, hoặc để chữa thương, hoặc để khắc chế địch thủ. Đoạn cảm động nhất là đoạn Doanh Doanh đàn khúc Thanh tâm phổ thiện trú để xoa dịu thần kinh cho Lệnh Hồ Xung khi chàng trai này bị trọng thương.

Viết về võ công nên kiến thức võ học của Kim Dung rất uyên bác. Ông Yên Thị Đồ Cẩu Khách trên tờ Tân Họa báo cho biết rằng Kim Dung thường tham khảo ý kiến của các võ sư về đòn thế, về cách xuất chiêu, nhả kình lực của từng thế võ. Ông dung hợp võ công với y học Trung Hoa, tạo cho người đọc sự thú vị tuyệt vời, điều mà những tác giả truyện võ hiệp khác chưa làm được. Đặc biệt, khi viết về những võ công của các bang hội, giáo phái khác ngoài lãnh thổ Trung Quốc, kiến thức võ học của ông đã được thực hiện rất tinh tường. Đại thi hào Ba Tư Omar Khayan đã ghi nhận võ công Bái hỏa giáo (Minh giáo) Ba Tư được ghi lại trên 8 tấm thẻ Thánh hỏa lệnh và tâm pháp thì được ghi lại trên những tấm da dê. Kim Dung nghiên cứu đoạn kinh mở đầu của Bái hỏa giáo Ba Tư, đã dung hợp ý kiến của Omar Khayan để xây dựng nên những đoạn mô tả về sinh hoạt của Minh giáo Trung Hoa (Ỷ thiên Đồ long ký).

Một điều cần chú ý là Kim Dung không lạm dụng khuynh hướng đa sát trong tiểu thuyết võ hiệp, điều mà ta thường gặp trong các loại phim cao bồi Viễn Tây (Mỹ) và phim chưởng Hongkong cũng như ở một số tiểu thuyết gia khác viết truyện võ hiệp. Trong 12 bộ tiểu thuyết, Kim Dung có mô tả 2 trận đa sát: một là đoạn Kiều Phong bị quần hùng Trung Nguyên vây hãm ở Tụ hiền trang (Thiên Long bát bộ), hai là đoạn phái Tung Sơn bịt mặt giả làm người của Ma giáo vây hãm phái Hằng Sơn ở Long Tuyền (Tiếu ngạo giang hồ). Chữ Nhân của đạo Khổng đã được ông tôn trọng một cách hết sức nghiêm túc đúng như quan niệm của Khổng Tử: "Nhân giả nhân dã" (Đạo nhân là đạo của con người vây). Đọc văn của ông, người ta chỉ thấy cái thiện chế ngự cái ác, cái chính nghĩa thắng cái gian tà và tinh thần nhân đạo được đề cao triệt để. Những nhân vật bình thường nhất cũng biết tha thứ cho kẻ thù, cũng nói được "Oán thù nên giải chứ không nên kết" hoặc "Hồi đầu thị ngạn" (Quay đầu là bờ)... Và họ đã tha thứ cho nhau. Những nhân vật ma đầu, đầy mình tội lỗi như Đinh Xuân Thu, Du Thản Chi, Lâm Bình Chi, Thạch Trung Ngọc,... cuối cùng rồi cũng chỉ bị phế võ công, đưa cho những người nhân hậu quản chế để khỏi đi gieo rắc cái ác. Không có ai bị giết, bị hành hạ, bị trả thù đau đớn.

Tất cả nỗ lực của Kim Dung nhằm mình họa một nguyên tắc lớn: chữ Võ không bằng chữ Hiệp. Các nhân vật chính phái của ông hành hiệp cứu đời, xả thân vì cuộc sống, cứu vớt kẻ trầm luân, đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ hòa bình hạnh phúc cho trăm họ. Họ không mưu cầu lợi danh, địa vị cho riêng mình. Đoạn tiêu biểu nhất cho cái Hiệp trong tác phẩm Kim Dung là đoạn Trương Vô Kỵ, giáo chủ Minh giáo, chỉ huy các lực lượng kháng Nguyên, bị một thuộc tướng của mình là Chu Nguyên Chương đánh thuốc mê và bắt giam. Chu Nguyên Chương có tham vọng lên ngôi thống lãnh. Trương Vô Kỵ có thể giết Chu Nguyên Chương chỉ với một ngón tay, nhưng đã không làm điều đó. Anh đã lặng lẽ bỏ ra đi để được suốt đời ngồi vẽ lông mày cho người yêu là Triệu Minh. Chu Nguyên Chương kháng chiến chống quân Nguyên thành công lên ngôi cửu ngũ, mở ra nhà Minh, truyền được 263 năm (1380-1643).

Cái mà người ta tìm được trong tác phẩm Kim Dung chính là lòng nhân ái. Lòng nhân ái đó đặt trên cơ sở của tư tưởng Khồng giáo, Phật giáo, Đạo giáo phương Đông. Trong khi các nhân vật của ông sử dụng võ công để đánh nhau, họ vẫn tôn trọng lòng nhân ái mà "hạ thủ lưu tình" (xuống tay nhưng vẫn giữ được tình người). Hai kẻ thù đánh nhau, đến khi chia tay vẫn có thể nói được lời từ biệt: "Non xanh trơ đó, nước biếc còn đây, còn ngày gặp gỡ." Chiêu thức nào có tên gọi độc ác quá, được đổi tên ngay: Thế Lưỡng bại câu thương (đôi bên cùng chết) của phái Võ Đang được đổi tên thành Thiên địa đồng thọ (đất trời cùng tồn tại) và được khuyến khích không đem ra sử dụng. Võ công làm nên tiểu thuyết võ hiệp nhưng không quyết định nội dung tiểu thuyết võ hiệp. Cái quyết định chính là chữ Hiệp, đứng sau chữ Võ.

Rượu

C ũng như nhiều dân tộc khác ở vào vùng khí hậu lạnh, dân tộc trung Hoa thường thích rượu. Khái niệm rượu đã được người xưa kết hợp với khái niệm lễ, không có rượu không thành lễ nghi (vô tửu bất thành lễ). Rược là thức uống kích thích niềm sảng khoái, được dùng trong y dược Trung Hoa như một chất xúc tác. Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế đã có những bài thuốc ngâm rượu, những cách xông hơi rượu ra đời. Trong những tác phẩm võ hiệp tiêu biểu của Kim Dung, rượu luôn luôn có mặt, dàn trải khắp cả câu chuyện.

Chắc hẳn những bạn đọc tác phẩm Kim Dung đều đồng ý rằng đoạn tửu luận của Tổ Thiên Thu trong Tiếu ngạo giang hồ là đoạn gây sảng khoái nhất. Với đoạn văn này, Kim Dung đã nâng nghệ thuật uống rượu lên thành một thứ đạo: tửu đạo - và với cách diễn đạt tài tình, dàn cảnh oái ăm, Kim Dung đã thực sự cuốn hút người đọc. Tổ Thiên thu biết được Lệnh Hồ Xung, người yêu của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, đang bị bệnh mất hết công lực. Anh ta bèn ăn cắp Tục mệnh bát hoàn (8 viên thuốc duy trì mạng sống) của một người bạn thân là Lão Đầu Tử, hòa vào rượu để dẫn dụ cho Lệnh Hồ Xung uống. Nguyên Lão Đầu Tử đã bỏ ra 18 năm để ăn cắp những kỳ trân, dược vật trên thế gian, chế ra 8 hoàn thuốc thuần âm, chữa trị chứng "Tiên thiên bất túc" (một dạng suy dinh dưỡng) cho con gái mình là Tiểu Di. Trong khi đó, bệnh của Lệnh Hồ Xung thuộc trạng thái khí âm hàn. Cho nên, đem thuốc thuần âm cho kẻ dư khí âm hàn uống khác nào sông Trường Giang nước đã đầy, lại được tháo nước hồ Bàn Dương, hồ Động Đình đưa vào cho nước thêm đầy lên, hóa ra càng thêm hại.

Tổ Thiên Thu biết Lệnh Hồ Xung là người khảng khái, không chịu uống thuốc ăn cắp nên y bày đặt ra chuyện tửu luận, kích thích tinh thần Lệnh Hồ Xung. Theo y, bậc danh sĩ phải biết uống từng thứ rượu với từng thứ chung riêng: rượu Bồ đào uống chung Dạ quang; rượu Trúc diệp thanh phải uống chén Dương chi bạch ngọc mà phải Dương chi bạch ngọc đời Bắc Tống; rượu trắng phải uống trong sừng trâu, lấy mùi tanh của sừng chế ngự mùi men nồng của rượu; rượu Bách thảo mỹ tửu được chế với 100 thứ hoa cỏ thơm, phải được uống với chung bằng trúc để thơm hơn...Y nói một hơi 8 thứ rượu và móc trong bọc ra 8 thứ chén, rót rượu vào mời Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung tức khí, nuốt sạch 8 chén rượu; có chén thum thủm mùi cá ươn, có chén cay sè, có chén rào rạt như ngàn dao đâm vào cổ họng...Thiện ý của Tổ Thiên Thu là cứu người, vì hắn dốt nát về y lý hóa ra làm hại người.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung xây dựng nhân vật Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, là một chàng du tử lãng mạn, quý rượu hơn tính mạng mình. Đoạn buồn cười nhất là đoạn Lệnh Hồ Xung xin rượu Hầu nhi tửu của lão ăn xin dưới chân thành Hành Dương. Lệnh Hồ Xung chỉ xin uống một tợp và lão cũng chỉ đồng ý cho uống một tợp mà thôi. Nào ngờ, nghe hơi rượu ngon, Lệnh Hồ Xung đã vận hỗn nguyên khí công uống sạch bầu rượu. Lão ăn xin lăn đùng ra khóc vì tiếc bầu rượu. Lệnh Hồ Xung đành phải xin lỗi và mời lão vào tửu lâu, đãi lão một chầu tuý luý càn khôn.

Trong khi uống rượu, các nhân vật của Kim Dung thường thể hiện phẩm cách người đối ẩm với mình. Đoạn uống rượu đẹp nhất và khiến cho người đọc kinh ngạc nhất là đọan Điền Bá Quang mời rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung bị sư phụ phạt giam trên đỉnh Ngọc Nữ Phong để ăn năn, sám hối. Biết bạn rất nhớ rượu, Điền Bá Quang đã vượt 5000 dặm về tới kinh đô Lạc Dương, vào trong Tuý tiên lâu, hoàng cung của vua Tống, ăn cắp 2 hũ Thiệu Hưng nữ nhi hồng. Thấy trong hầm rượu của hoàng cung còn đến mấy ngàn hũ Thiệu Hưng, Điền Bá Quang phóng cước đá bể tất cả để "bọn vua quan không còn được uống thứ rượu quý này nữa", vì trên đời này "chỉ còn Điền mỗ với Lệnh Hồ huynh đệ mới xứng đáng được uống nó mà thôi". Tuy nhiên, gánh 2 hũ rượu lên Ngọc Nữ Phong là chuyện dễ, mà được đối ẩm với Lệnh Hồ Xung là chuyện cực kỳ khó vì Điền Bá Quang vốn rất sợ sư phụ của Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Hắn bèn nghĩ cách điệu hổ ly sơn làm Nhạc Bất Quần lầm mưu xuống núi đi tìm Điền Bá Quang. Thế là hắn ung dung lên Ngọc Nữ Phong đối ẩm với Lệnh Hồ Xung.

Nhà Nho có câu :"Bậc quân tử lấy văn kết bạn" (quân tử dĩ văn hội hữu). Kim Dung đã mượn chén rượu cho những nhân vật võ lâm của mình giao kết với nhau. Trong tình bạn hay trong tình yêu, chén rượu vẫn làm vai trò của cơ duyên hội ngộ.

Đọc Thiên Long bát bộ, ta thấy cuộc hội ngộ giữa Kiều Phong, bang chúa Cái Bang và Đoàn Dự, vương tử nước Đại Lý, là cuộc hội ngộ trong hương rượu nồng. Thoát ra khỏi cảnh giam cầm ở Thái Hồ, Đoàn Dự tìm đến một quán rượu ngoài thành Vô Tích thì bắt gặp :"Một đại hán mắt sáng như điện, trạc ngoài 30, thân thể cao lớn, mặc áo vải màu tro, phục sức sơ sài, mộc mạc" đang ngồi độc ẩm. Đoàn Dự nhận định :"Đây chắc chắn là hào khách của Yên, Triệu; Giang Nam quyết không thể có nhân vật thế này". Ngoại hình Kiều Phong đã khiến Đoàn Dự kính ngưỡng, bèn mời Kiều Phong uống rượu. Kiều Phong gọi tất cả 30 cân rượu (khoảng 18 lít) và đề nghị Đoàn Dự uống bằng bát lớn. Đoàn Dự nào biết uống rượu? Cho nên uống xong bát đầu tiên, anh đã muốn gục xuống tại chỗ; Kiều Phong chỉ nhìn anh mà tủm tỉm cười. Đến đây thì Kim Dung "cứu" nhân vật của mình. Vốn Đoàn Dự đã học được tuyệt kỹ Lục mạch thần kiếm, quy khí lực vào huyệt Đan điền rồi vận công phóng kiếm khí vô hình ra 6 ngón tay. Từ kiếm khí, Kim Dung cho phép nhân vật của mình phóng ra ...kiếm tửu. Đoàn Dự nạp hết số rượu vừa uống vào huyệt Đại truy, rồi dẫn rượu đi qua các huyệt Thiên tôn, Kiên chân, Tiểu hải, Chi chính, Dưỡng lão, Dương cốc, Hậu thoát và "phóng" rượu ra nơi ngón Thiếu trạch (ngón út). Anh ta cứ gác tay trái lên vách quán rượu, uống bao nhiêu vận nội lựcphóng rượu ra bấy nhiêu khiến Kiều Phong kinh hoàng, tưởng tửu lượng chàng thư sinh cao không kể xiết! Từ cuộc đấu rượu hi hữu đó, họ nhận ra phẩm chất của nhau và kết nghĩa anh em. Cuộc đối ẩm giữa Kiều Phong và Đoàn Dự làm cho người đọc vừa sảng khoái vừa buồn cười.

Rượu nối kết tình bạn và cũng chính rượu tạo ra hào khí. Trong Thiên Long bát bộ, có đoạn nhà sư Hư Trúc, cung chủ cung Linh Thứu, bái kết Kiều Phong làm đại ca trước mặt quần hùng Trung Nguyên khi Kiều Phong đang bị quần hùng vây hãm. Từ nước Khất Đan, Kiều Phong dẫn 18 tên lính trung thành gọi là Yên Vân thập bát kỵ, mang theo 36 da dê đựng rượu quay về chùa Thiếu Lâm, tỉnh Hồ Nam. Nơi đây, anh bị quần hùng vây hãm. Trong cảnh nguy nan, bỗng dưng Đoàn Dự xuất hiện. Hai anh em đang bưng rượu lên uống thì một nhà sư xấu xí trong đội ngũ chùa Thiếu Lâm chạy ra: "Đại ca với tam đệ uống rượu sao không gọi ta ?". Nhà sư đó là Hư Trúc. Hư Trúc đã kết nghĩa với Đoàn Dự nhưng chưa được bái kiến Kiều Phong. Mặc dù quy luật giới tửu (cấm rượu) của chùa Thiếu Lâm rất khắt khe nhưng khi đã thấy đại ca và tam đệ uống rượu để chuẩn bị cho cuộc chiến đấu, Hư Trúc cũng nổi hào khí, muốn uống rượu trước mặt quần hùng để chia sẻ với hai người anh em những hoạn nạn sẽ xảy ra.

Và quả nhiên bầu rượu nghĩa tình đó đã làm nên đại sự. Kiều Phong chế ngự được kẻ đại ác Du Thản Chi, vươn tay xách cổ Cô Tô Mộ Dung Phục như người ta xách một con gà. Đoàn Dự sử dụng 6 thế Lục mạch thần kiếm đánh cho Mộ Dung Phục thất điên bát đảo, làm phơi bày toàn bộ âm mưu đen tối của nhà Mộ Dung. Hư Trúc vận Bắc minh chân khí, biến những giọt rượu của đại ca thành băng làm một thứ Sinh tử phù cấy vào người gã đại ác Đinh Xuân Thu, chế ngự và sanh cầm gã. Bọn Yên Vân thập bát kỵ, mỗi người một túi rượu, phanh cổ áo để lộ ra hình tượng con chó sói được xăm trên ngực của dân tộc Khất Đan, hú lên những tiếng hoang dã và ngửa cổ uống rượu, thể hiện quyết tâm cũng liều chết với chủ tướng Kiều Phong. Chưa có một đoạn nào trong tiểu thuyết cổ kim miêu tả hào khí của con người trước gian nan thử thách hay hơn đoạn của Kim Dung viết về cuộc hội ngộ của 3 anh em Kiều Phong - Hư Trúc - Đoàn Dự dưới chân núi Thiếu Thất.

Nhưng rượu trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung không chỉ uống trong lúc đoàn viên, mà còn được uống trong khi lâm biệt đầy máu và nước mắt. Như trong trận ác đấu của Kiều Phong tại Tụ hiền trang. Từ khi biết mình là người Khất Đan, Kiều Phong chỉ mong tìm về bên kia Nhạn môn quan để suốt đời săn chồn đuổi thỏ, tuyệt không dính dấp đến giới võ lâm Trung Quốc nữa. Nhưng hoàn cảnh đã bó buộc ông phải cứu lấy cô bé A Châu, và ông đã bế nàng tới Tụ hiền trang ra mắt Tiết Mộ Hoa, nhờ viên thần y này giúp đỡ. Hóa ra Kiều Phong đã tự dấn thân vào chốn hung hiểm: quần hùng Trung Nguyên đang họp nhau tại Tụ hiền Trang để bàn kế sách diệt ông, loài Liêu cẩu man rợ! Kiều Phong nhìn những kẻ đang vây hãm mình. Họ là những anh em ruột thịt của ông ngày trước ở Cái Bang, là những bạn bè tốt của ông thuộc các võ phái Trung Quốc, là những người mà ông cha bao giờ có ý niệm thù hằn, căm ghét. Nhưng cục diện ở Tụ hiền trang lúc đó là một mất một còn, là ta sống thì người chết. Kiều Phong đã đề nghị anh em Du Ký, Du Câu - chủ nhân Tụ hiền trang - cho xin mấy vò rượu lớn. Ông rót rượu ra bát lớn, mời anh em Cái bang uống trước để nói lời cuối cùng, dứt tình đoạn nghĩa. Ông uống rượu với bạn bè các môn phái mỗi người một bát. Có kẻ bưng tô rượu dứt tình với Kiều Phong mà nước mắt tuôn rơi. Rồi sau đó, Kiều Phong đại khai sát giới, tìm con đường sống riêng cho mình, chạy về bên kia ải Nhạn môn quan nghìn trùng xa cách.

Có trường hợp uống rượu tưởng như chia biệt lại hóa ra đoàn viên. Đó là trường hợp uống rượu kỳ cục của Cẩu Tạp Chủng (Thạch Phá Thiên), một thiếu niên ngây thơ, trong trắng trước hai ông anh kết nghĩa đầy mưu mô xảo quyệt là Trương Tam và Lý Tứ. Trương Tam, Lý Tứ thật ra chỉ là tên giả mạo; họ chính là hai sứ giả Thưởng Thiện và Phạt Ác của đảo Long Mộc ngoài biển Đông. Trương Tm, Lý Tứ cũng giả vờ kết nghĩa với Thạch Phá Thiên, cũng thề đồng sinh đồng tử, nhưng trong bụng hai lão chỉ muốn chàng thiếu niên này chết đi cho khuất mắt. Trương Tam có bầu rượu dương cương, Lý Tứ có bầu rượu âm nhu, mỗi lão tự uống bầu rượu của mình và lão này rất sợ bầu rượu của lão kia. Kết nghĩa xong, chàng thiếu niên Thạch Phá Thiên đề nghị... uống rượu. Thạch Phá Thiên ngây ngô, xin được uống hai thứ rượu trong dủ hai bầu. Trương Tam, Lý Tứ cả mừng vì đinh ninh thế nào thằng nhỏ này cũng chết tươi vì hai thứ rượu xung đột nhau. Một lần nữa, Kim Dung lại "cứu" nhân vật ngây thơ, trong trắng của mình. Thạch Phá Thiên đã từng ngộ kỳ duyên, con người chàng ta dung hòa được cả hai loại chất độc dương cương và âm nhu. Cho nên uống rượu xong, chẳng những chàng trai trẻ không chết mà công lực còn tăng tiến. Trương Tam, Lý Tứ hối hận và xấu hổ vô cùng. Từ tình bạn giả trá, họ đã đổi ra tình bạn chân thành. Cẩu Tạp Chủng trở thành người em tốt của Thưởng Thiện và Phạt Ác. Đó là chương uống rượu thú vị nhất trong toàn bộ bộ truyện Hiệp khách hành.

Rượu trong truyện võ hiệp Kim Dung còn làm nên tình yêu lứa đôi, giàu chất thơ lãng mạn. Có những lứa đôi gặp gỡ lần đầu tiên qua chén rượu và tình yêu bắt nguồn từ đó. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Trương Thúy Sơn làm quen với Hân Tố Tố qua chén rượu trên con thuyền nhỏ đậu giữa lòng Thái Hồ. Trương Vô Kỵ cũng gặp gỡ và yêu quận chúa Triệu Minh qua chén rượu. Đoạn giàu chất thơ nhất của Ỷ thiên Đồ long ký là đoạn Triệu Minh nhớ Vô Kỵ, tìm lên tửu lâu và ngồi đúng vào cái bàn mà hai người đã từng ngồi đối ẩm. Thiếu vắng Vô Kỵ, cô cũng gọi bình rượu, thức ăn, hai cái chén, hai đôi đũa, hai chung rượu. Cô rót rượu ra đủ hai chung, uống một chung và nước mắt rơi. Đúng lúc đó thì Trương Vô Kỵ xuất hiện. Và họ tìm lại được hơi ấm tình yêu trong chung rượu đối ẩm.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung thường đối ẩm với người yêu là Doanh Doanh. Một nhân vật khác, Lam Phượng Hoàng, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam, cũng rất say đắm Lệnh Hồ Xung. Cô mang vò rượu Ngũ độc mỹ tửu, trong đó có ngâm năm thứ trùng độc, từ Vân Nam đến Giang Nam để chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Cảm xúc tấm thịnh tình đó, Lệnh Hồ Xung đã uống rượu cho cô vui lòng. Tác giả Kim Dung đã để cho Lam Phượng Hoàng hôn Lệnh Hồ Xung trước mặt mọi người, kể cả sư phụ của Lệnh Hồ Xung là Nhạc Bất Quần. Trong con mắt của Lam Phượng Hoàng, kẻ biết uống rượu của cô mới là người tốt.

Trong Thiên Long bát bộ, mỗi khi trở về Nhạn môn quan, Kiều Phong nhớ A Châu là tìm đến chung rượu giải sầu. Đoạn đẹp nhất trong mối tình hai người là đoạn Kiều Phong ngồi nghe A Châu tâm sự: "Đại ca ơi, tiểu nữ nguyện suốt đời đi theo đại ca về Nhạn môn quan săn chồn đuổi thỏ, sống cuộc đời ung dung khoái lạc". Nghe cô bé tâm sự, Kiều Phong cao hứng. Trong cái quán nghèo ngoài biên giới không có một giọt rượu, ông cũng giả vờ nâng cái chén không lên, ngửa cổ ra như đang thực sự thưởng thức men rượu nồng.

Trong Thần điêu hiệp lữ, có cô bé Quách Tương, 16 tuổi, say mê người anh họ mình là Thần điêu đại hiệp Duơng Qua. Mặc dù Dương Qua chạy theo hình bóng của sư phụ là Tiểu Long Nữ, không nghĩ đến mối tình si của Quách Tương, Quách Tương vẫn vượt ngàn dặm ra đi tìm anh. Trong túi hành trang của cô bé, luôn luôn có một bầu rượu. Cô chỉ có mỗi ước mong: cùng Dương Qua đối ẩm. Nhưng ước mong đó không bao giờ thành hiện thực. Quách Tương lên núi đi tu, trở thành sư tổ phái Nga Mi.

Những lứa đôi yêu nhau của tác phẩm Kim Dung uống rượu như ta uống cà phê. Họ gặp nhau là mời nhau chén rượu, trang trọng, cung kính. Không có ai uống rượu đến nỗi quần áo xốc xếch, ong bớm lả lơi. Chén rượu trong tình yêu của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo tính cách đạo đức mặc dù khung cảnh uống rượu lãng mạn vô kể: uống trong quán khuya vắng người, uống trong căn phòng chỉ có hai người, giữa đêm mùa dông tuyết rơi lả tả; uống trên con thuyền nhỏ chơi vơi giữa đêm trăng trên dòng Trường Giang mông mênh.

Nhân vật Tiêu Tương Dạ Vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn trong Tiếu ngạo giang hồ luôn luôn gắn liền tâm hồn mình với chén rượu. Kim Dung mô tả Mạc Đại :"Tướng mạo tiên sinh điêu linh cổ quái, lúc nào cũng như ba phần tỉnh, bảy phần say". Mạc Đại có cây dao cầm rất cũ kỹ, trong cây dao cầm lại giắt một lưỡi kiếm mỏng như lá lúa. Tiên sinh xuất hiện dưới chân núi Hành Sơn, trong quán rượu đầy ấn tượng. Quần hùng gồm 7 gã, uống 7 chung trà, đang ngồi nghị luận rằng võ công Mạc Đại còn kém thua sư đệ mình là Lưu Chính Phong vì Lưu Chính Phong đánh ra một đường kiếm là đứt đầu 5 con chim nhạn. Lúc đang nói chuyện cao hứng thì một ông già gầy gò đi đến, nghẹo cổ nhìn các hán tử và bảo: "Các người nói thúi lắm!". Rồi bỗng dưng, các gã hán tử chỉ thấy trước mắt hoa lên một cái như có một luồng ánh sáng lấp lánh. Ông già gầy gò bỏ đi, tiếng đàn tình tang xa dần. Một cơn gió nhẹ thổi qua trên bàn ruợu, 7 cái miệng chén bị cắt đứt lìa lần lượt rơi xuống mặt bàn, vỡ tan. Hóa ra kẻ lam lũ ấy là Mạc Đại tiên sinh. Ông già say ấy rút kiếm khi nào, chém 7 miệng chén khi nào, đút kiếm vào đáy cây dao cầm khi nào, không ai nhìn rõ được. Chỉ với một đường kiếm tiện đứt 7 miệng chung thì 7 đầu chim nhạn phỏng có là bao! Rõ ràng, trong đoạn này có hai thứ: một thứ trà sinh nói bậy của 7 hán tử và một thứ rượu cực kỳ tỉnh táo của Mạc Đại tiên sinh.

Rượu trong truyện võ hiệp của Kim Dung cũng biến thành một thứ võ khí. Trong Thiên Long bát bộ, bọn Dư Bà Bà của cung Linh Thứu tung bì rượu lên thành thế Mãn thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời) cho chủ nhân mình là Hư Trúc dùng Bắc minh chân khí hóa rượu thành băng, khống chế địch thủ. Rượu được dùng để pha độc được, trừng trị những anh háo sắc. Vợ của Mã Đại Nguyên là Ôn Thị tư tình với Đoàn Chính Thuần, em ruột nhà vua nước Đại Lý. Giận Chính Thuần lòng dạ lang chạ, Ôn Thị đã pha bình Mê xuân tửu dụ cho Đoàn Chính Thuần uống, rồi trói lại và bắt đầu... cắn từng miếng thịt của Đoàn Chính Thuần để trả thù. Trong Lộc Đỉnh ký, Vi Tiểu Bảo đã biết dùng Mê xuân tửu từ thuở bé. Mẹ của y là Vi Xuân Hoa, làm điếm trong thành Dương Châu đã từng pha thuốc mê vào rượu cho bọn làng chơi uống, để trấn lột tiền tài vật dụng. Đắc thủ được bài học lưu manh đó khi làm quan lớn ở Bắc Kinh, Vi Tiểu Bảo cũng pha chế những bình Mê xuân tửu để hãm hại, vu cáo những kẻ thù của mình. Từ rượu độc, Vi Tiểu Bảo nghĩ ra những trò đầu độc khác tệ hại hơn và tất nhiên mực độ lưu manh hạ cấp cao hơn.

Rượu trợ lực cho những màn tác oai, tác quái của bọn quan lại triều Thanh. Để hành hạ Trịnh Khắc Sảng, kẻ tình địch ngày trước của mình, Vi Tiểu Bảo đã cho tiền để bọn thị vệ dưới quyền uống rượu thoải mái. Uống xong, chúng kéo qua tư dinh Trịnh Khắc Sảng, đòi nợ cho "công tước" Vi Tiểu Bảo. Chúng đập phá nhà cửa, tài sản, lăng nhục Trịnh Khắc Sảng và vợ con, bắt cóc, giết người rồi vu cáo...

Đọc tác phẩm Kim Dung, ta biết được người Trung Quốc có nhiều thứ rượu danh tiếng: Thiệu Hưng Nữ nhi hồng, Thiệu Hưng Trạng nguyên hồng, Trúc diệp thanh, Mai quế lộ, Bách thảo tửu, Biên tái tửu, Hầu nhi tửu, Bồ đào tửu, Ngũ gia bì, Kim tước tửu... Đọc Kim Dung, ta mới biết được phong cách uống rượu của người Trung Quốc: rượu thường được hâm nóng trước khi uống, nhất là vào mùa đông. Thỉnh thoảng, trong vài tình huống đặc biệt, khi công nghiệp làm nước đá chưa ra đời, tác giả đã để cho nhân vật mình làm ra băng để uống rượu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, có đoạn Lệnh Hồ Xung cùng Hướng Vấn Thiên tìm về Cô Mai sơn trang ở Giang Nam gặp gỡ Giang Nam tứ hữu. Để mời rượu Lệnh Hồ Xung giữa mùa hè nóng bức, Đan Thanh tiên sinh đã nhờ anh mình là Hắc Bạch Tử dùng Hàn băng chưởng hóa nước thành ra nước đá ướp lạnh rượu bồ đào Thổ Lỗ Phồn!

Đọc Kim Dung, ta mới biết được những cách uống rượu khác nhau. Đối ẩm là hai người uống, thường là tình nhân hoặc bạn hữu thân thiết. Độc ẩm là uống một mình, trong lòng đang lo nghĩ hoặc tưởng nhớ. Cộng ẩm hay Quần ẩm là một nhóm người cùng uống với nhau. Loạn ẩm là một đám đông cùng uống. Trong Tiếu ngạo giang hồ, đoạn loạn ẩm hay nhất là đoạn bọn tà ma ngoại đạo thết tiệc Lệnh Hồ Xung để lấy lòng Thánh cô Doanh Doanh. Thương nhau, quý nhau, người ta mới tặng rượu. Quần hào Cái bang Trung Quốc, tuy là đi ăn mày, đáng lẽ chỉ xin cơm, thì người ta còn xin cả rượu nữa.

Chén rượu của Kim Dung đã làm cho những nhân vật của ông nổi tiếng. Hồng Thất Công nổi tiếng chuyên uống rượu với thịt chó. Kiều Phong nhờ rượu mới phát huy được thần oai, càng uống càng mạnh, càng tỉnh táo. Hư Trúc nhờ uống rượu phá giới mà tìm ra được cô vợ sắc nước hương trời: công chúa Văn Nghi của nước Tây Hạ. Thạch Phá Thiên nhờ uống hai thứ rượu độc mà hóa giải được sự xung đột của âm dương nhị khí, đạt đến mức thượng thừa trong võ học... ở chừng mực nào đó, Kim Dung đã nghĩ đến câu cổ thi:

Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch

Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh

(Xưa nay thánh hiền đều lặng lẽ

Chỉ người uống rượu mới còn danh)

(Lý Bạch)

Tác phẩm của Kim Dung tràn đầy rượu và ruợu. Trừ những nhà sư, các nhân vật của ông ít nhiều đều biết đến chén rượu. Rượu làm nên sự hưng phấn cho cuộc đấu tranh chống cái ác, biểu dương cái thiện và lẽ công bằng ở đời.

Uống rượu nhiều tất có tình trạng say rượu xảy ra. Những người say trong tác phẩm Kim Dung cũng say một cách tử tế. Trong những hội loạn ẩm, họ xai quyền thách đố nhau hoặc cãi cọ chửi bới. Duy nhất trong 12 bộ truyện, có một nhân vật say rượu phạm vào tội đại ác, trở thành một thứ tửu tặc. Nhân vật đó là Thành Khôn, sư phụ của Tạ Tốn trong Ỷ thiên Đồ long ký. Thành Khôn giả say rượu, đã làm nhục và giết hại vợ con của đồ đệ mình. Y lẻn vào chùa Thiếu Lâm làm một nhà tu giả mạo dưới pháp danh Viên Chân. Kẻ tửu tặc ấy đã bị tìm ra, bị trừng trị nhưng rồi cuối cùng cũng được tha thứ.

Rượu trong truyện võ hiệp Kim Dung khác xa với rượu ở miền Viễn Tây Mỹ trong phim cao bồi, khác xa với rượu trong các hộp đêm trên toàn thế giới và cũng khác xa với "rượu" trong các quán bia ôm. Chính vì thế, tôi mạnh dạn gọi rượu trong truyện Kim Dung là một loại rượu đạo đức. Rượu trong truyện Kim Dung thể hiện triết lý nhân sinh gần gũi cuộc sống. Nó làm nên tình yêu, tình bạn, hận thù, sự tha thứ, mối hoài cảm, niềm hối tiếc. Qua rượu, Kim Dung hé mở cho chúng ta nhìn thấy một khoa học mới: tửu học. Với một chữ Rượu, Kim Dung đã vượt xa hơn bất kỳ nhà văn nào khác. Rượu của ông có bài bản, có tính chất triết lý tề chỉnh. Nó góp phần làm nên cái đẹp cho đời sống con người. Men rượu kết hợp với men tình, men võ khiến ta không "uống" được tác phẩm mà lòng vẫn say.

4.Âm nhạc

Kim Dung quan niệm âm nhạc cũng như một thứ võ công, có thể giúp người ta dưỡng thương, chữa bệnh, mê hoặc và khắc chế địch thủ. Trên một đất nước Trung Hoa rộng lớn, đa chủng tộc và sắc tộc, nhiều loại hình âm nhạc đã ra đời và hình thành. Trong những tác phẩm võ hiệp của mình, Kim Dung đã dành cho âm nhạc một vị trí quan trọng. Âm nhạc có ở khắp mọi nơi. Trong tác phẩm võ hiệp của ông, ta bắt gặp "cái vỏ" là sự đấu tranh của võ lâm đầy đau thương, sắt máu nhưng "cái ruột" chính là tâm hồn nghệ sĩ khoáng dật, thanh thoát...

Có những tác phẩm mà âm nhạc như một sợi chỉ xuyên suốt, trở thành cốt lõi, chi phối toàn bộ và tạo nên cái hồn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của Tiếu ngạo giang hồ. Tác phẩm này lấy chủ đề từ một bản nhạc cầm tiêu hợp tấu giữa bạch đạo và hắc đạo, giữa chính và tà. Đó là bản nhạc hợp soạn giữa hai người nghệ sĩ, hai nhân vật võ lâm tiêu biểu: Lưu Chính Phong, sư đệ của chưởng môn phái Hành Sơn và Khúc Dương, trưởng lão của Triêu Dương thần giáo. Vốn xưa, họ là hai người đứng ở hai thái cực, hai thế lực đối nghịch với nhau, coi nhau là cừu hận. Nhưng rồi âm nhạc đã nối kết tình bạn của Lưu-Khúc lại và người này nhìn ra bản chất nghệ sĩ tài hoa của người kia. Khúc Tiếu Ngạo giang hồ ra đời như kết quả của hai tâm hồn đồng thanh, đồng điệu và đồng cảm, một khúc nhạc có khả năng hoá giải sự khác biệt giữa hắc và bạch.

Lưu Chính Phong và Khúc Dương, một cầm một tiêu, đã hoà tấu bản này đạt tới đỉnh cao nhất của âm nhạc "khoan hoà trung chính, khi mau sầm sập, khi khoan thai, chỗ trầm lắng, chỗ cao vút", tương thông tâm ý. Lưu Chính Phong ăn mừng thọ 60 tuổi, muốn rửa tay gác kiếm để tìm những tháng ngày ung dung tự tại giữa một đời đấu tranh trá ngụy. Thế nhưng, phái Tung Sơn mà lãnh tụ là Tả Lãnh Thiền đã huy động hết lực lượng của Hoa Sơn, Hằng Sơn, Thái Sơn nhằm ngăn cản hành động của Lưu Chính Phong, vu cáo rằng "Lưu Chính Phong kết bạn tà ma", buộc Lưu Chính Phong phải tìm cách giết Khúc Dương, chặt đứt mối quan hệ với Triêu Dương thần giáo. Không đồng ý với cách sống bán bạn cầu vinh, Lưu Chính Phong đã chịu một thảm kịch đau đớn: nhà tan người chết, bản thân bị trọng thương. Khúc Dương nhanh tay cứu bạn, đưa bạn chạy về dưới núi Hành Sơn. Nơi đây, hai đại cao thủ đã hợp tấu lần sau cùng trước khi qua đời rồi trao bản nhạc cho đệ tử phái Hoa Sơn là Lệnh Hồ Xung.

Phải chăng khát vọng Tiếu Ngạo giang hồ là không bao giờ có thể thực hiện được giữa một cuộc sống đầy đua tranh, thù hận, chia rẽ và bạo lực? Cầm bản đàn của hai bậc tiền bối, Lệnh Hồ Xung phiêu bạt giang hồ, thân danh tàn tạ, bị khinh miệt, bị đánh, bị vũ nhục, bị vu cáo. Người ta cứ đinh ninh rằng đó là một loại bí lục võ công thượng thặng! Lệnh Hồ Xung gặp nàng Doanh Doanh trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, ngỏ hết nỗi đau thương của đời mình, trong đó có niềm đau về mối tình đầu tan vỡ. Doanh Doanh đã dạy cho Lệnh Hồ Xung khúc đàn Thanh tâm phổ thiện trú để duy trì mạng sống. Âm nhạc trở thành một liều thuốc chữa bệnh tâm thần, tạo nên sự hưng phấn, đem lại nguồn sống cho Lệnh Hồ Xung.

Đoạn dễ thương nhất của Tiếu ngạo giang hồ là đoạn Doanh Doanh đàn Thanh Tâm Phổ Thiện Trú ru cho Lệnh Hồ Xung ngủ. Cuối cùng, âm nhạc cũng không đủ tác dụng vực dậy một tâm hồn đau thương trong một thể xác đã suy tàn, nàng đành cõng tình lang lên chùa Thiếu Lâm, chịu bị cầm tù để tình lang được chữa trị. Kết thúc Tiếu ngạo giang hồ là một kết thúc thật đẹp. Lệnh Hồ Xung chữa được thương thế, cùng Doanh Doanh hợp tấu bản Tiếu ngạo giang hồ, sống cuộc đời thanh bình, hạnh phúc.

Tiếu ngạo giang hồ đưa ra một luận điểm triết lý sâu sắc: con người sinh ra không thể sống một mình, cũng không thể sống hai mình khi tâm ý chẳng tương thông. Khát vọng của Tiếu ngạo giang hồ chính là tình thương yêu con người đằm thắm. Sự giao hoà âm nhạc tạo nên giao hoà tình yêu và chỉ có tình yêu chân chính mới đạt đến hạnh phúc làm người.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp một loại hình âm nhạc khác - âm nhạc lang thang của chưởng môn phái Hành Sơn Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Với vóc dáng "điêu linh cổ quái", người chưởng môn ấy từ chối quyền lực và danh vọng, mang một cây dao cầm trong có dấu một thanh kiếm mỏng như lá lúa, vui chơi bốn biển năm hồ. Kiếm để trừ diệt kẻ ác, dao cầm để di dưỡng tâm hồn. Mạc Đại tiên sinh chính là hình tượng mà Nam Hoa Kinh của Trang Tử thường mơ ước: "Khi cao lên 9000 dặm, nương mây cỡi gió mà bay". Tiếc thay, ông ta chưa đạt được phong cách thần tiên thoát tục đó bởi cái khúc Tiêu Tương dạ vũ mà tiên sinh thường hay hát là một "bài ca buồn bã có đi mà không có lại". Tiếng hát của tiên sinh là tiếng hát lênh đênh trong ảo ảnh sương khói và suốt đời, tiên sinh chỉ là một nghệ sĩ lang thang. Mạc Đại là nhà du ca lớn nhất trong Tiếu ngạo giang hồ và trong toàn bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, một thứ thần tiên bị đọa phải nhập thể và nhập thế. Nếu Doanh Doanh chơi nhạc thính phòng thì âm nhạc của Mạc Đại là nhạc du ca.

Nhưng Tiếu ngạo giang hồ không phải chỉ có chừng đó dạng âm nhạc. Tiếu ngạo giang hồ còn có khúc "Sơn ca Phúc Kiến" của Lâm Bình Chi mang về núi Hoa Sơn dạy cho Nhạc Linh San hát. "Chị em lên núi hái chè", câu sơn ca đó làm tan hồn nát ruột Lệnh Hồ Xung vì mỗi khi Nhạc Linh San hát lên, anh biết nàng ta đang nghĩ tới Lâm Bình Chi và phụ rẫy mối tình đầu của mình.

Tiếu ngạo giang hồ còn có một bài ca rất buồn cười mà bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo đồng thanh hợp ca để tâng bốc Nhậm Ngã Hành khi lão vừa chiếm lại được ngôi giáo chủ: "Thánh giáo văn thành võ đức, nhân nghĩa anh minh, thiên thu trường trị, nhất thống giang hồ. Bọn thuộc hạ đưa lời cung nghinh thánh giáo chủ thương sinh trạch bị, ơn khắp lê dân..." Nguyên cái loại "âm nhạc" này phát xuất từ thời giáo chủ Đông Phương Bất Bại. Khi Đông Phương Bất Bại trở thành "tất bại", bọn giáo chúng Triêu Dương thần giáo mới dùng nó để ca ngợi Nhậm Ngã Hành. Cả ngàn người cùng há miệng hò ca chấn động cả lỗ tai người nghe! Thứ "âm nhạc" này bị coi là nhạc sến!

Trong bộ Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung đã để cho âm nhạc xuất hiện trước tiên với nhân vật Côn Lôn tam thánh Hà Túc Đạo. Hà Túc Đạo tuổi ngoài 40, khuôn mặt xương xương, giỏi kiếm, giỏi cờ, giỏi đàn, được xưng tụng là tam thánh, từ Côn Lôn xuống Trung Nguyên.

Ông ta có một khúc đàn tuyệt vời, có thể sai khiến trăm chim tụ họp về nhảy múa, ca hót gọi là Không sơn điểu ngữ. Cô bé Quách Tương, 19 tuổi, đi tìm Dương Qua, đã gặp người trung niên tài hoa Hà Túc Đạo ngoài rừng chùa Thiếu Lâm, được nghe khúc Bách điểu triều phụng và tiếng muôn chim ca hót. Hình ảnh trong sáng, tươi đẹp của cô đã in ngay vào trong tâm hồn chàng nghệ sĩ trung niên.

Hôm sau, khi chiến đấu với ba cao thủ Thiếu Lâm Tây Vực trước sự chứng kiến của Quách Tương, Hà Túc Đạo chỉ dùng đến một tay, tay còn lại vận Cách không chỉ phóng vào cây dao cầm đang để dưới đất, mời Quách Tương nghe bản nhạc mình mới sáng tác tặng cô. Kiếm chưởng thì sát phạt sắt máu, tiếng đàn lại lãng mạn xuân tình, u uất thương nhớ. Cái công phu phân ý của Hà Túc Đạo quả thật hy hữu! Cô bé Quách Tương thơ ngây nghe hết cung đàn, cảm động và đỏ mặt vì biết Hà Túc Đạo đang dùng âm nhạc tỏ tình với mình. Thế nhưng mối tình của Hà Túc Đạo cũng chẳng tới đâu. Hà Túc Đạo đánh thua sư Giác Viễn, hổ thẹn chạy về núi Côn Lôn. Quách Tương yêu Dương Qua mà tìm nhau không gặp, lên núi Nga My đi tu, mở ra phái Nga My. Âm nhạc của Hà Túc Đạo cũng "có đi mà không có lại". Nó trở thành bài biệt ca của tình yêu.

Nhưng âm nhạc hay nhất, đẹp nhất, mang giá trị nhân bản cao nhất vẫn là bài Hoả ca của giáo chúng Minh giáo (tức Bái Hoả giáo), truyền từ Ba Tư (tên cũ: Perse - thời ấy chưa gọi Iran) sang Trung Quốc. Đây là bài ca được hát trên Quang Minh Đỉnh khi quần hùng Trung Quốc bao vây quần hùng Minh giáo, vu cáo họ là tà giáo, có ý muốn đuổi tận diệt. Theo tác giả Kim Dung, bài Hoả ca lấy từ thơ của nhà thơ lớn Ba Tư Omar Khayam, có những câu được dịch thoát ra như thế này:

Đốt tàn thân xác của ta

Ngọn lửa thánh bốc cháy lên đỏ rực

Sống đã chẳng có chi là hạnh phúc

Thì chết đi nào có khổ đau gì.

Vì thiện lương, ta trừ cái ác

Nẻo quang minh cứ vậy mà đi

Hỷ, Lạc, Sầu, Bi xin gởi về cát bụi

Tội nghiệp thay người đời hoạn nạn lắm khi.

Giữa cảnh đang bị cường địch bao vây, giáo chúng Minh giáo vẫn ung dung tự tại hát lên bài Hoả ca dâng lên đức Giáo chủ Minh Tôn Di Lạc, bày tỏ tấm lòng của mình với cuộc đời và thể hiện khí phách hiên ngang trước cái chết. Trương Vô Kỵ đã nghe được bài ca đó và nhận ra rằng Minh giáo là một đạo nhân bản, rằng những lời kết án Minh giáo là bàng môn tả đạo là những lời xuyên tạc, rằng việc chống lại người Minh giáo là hành động phi nhân. Và chàng đã xả thân cứu quần hùng Minh giáo, nguyện hiến tấm thân vì trăm họ để cho giáo chúng Minh giáo được sống. Chàng được Minh giáo Trung Hoa bầu lên làm giáo chủ, huy động các lực lượng Minh giáo chống lại quân Nguyên, giành lại được giang sơn từ giống nòi di tộc.

Chu Nguyên Chương lên ngôi cũng còn biết nhớ nguồn gốc của mình xuất thân từ Minh giáo nên đặt đế hiệu là Minh Thành Tổ. Người Minh giáo mặc áo đạo bào trắng, trước ngực áo có vẽ ngọn lửa đỏ, gặp nhau chào bằng hai bàn tay chắp lại thành hình ngọn lửa. Và thánh ca của họ chính là bài Hoả ca, bài mang một giá trị nhân bản, nhân đạo tuyệt vời.

Trong Thiên Long bát bộ, âm nhạc mới phong phú làm sao. Trước hết, người ta dễ nhận ra bài ca "chiến thắng" ê a của bọn lính Khất Đan sau những cuộc "hành quân" qua thảo nguyên ngoài ải Nhạn Môn Quan. Bọn chúng bắt đàn bà, giết trẻ em, tước đoạt tài vật của những gia đình lương dân Trung Quốc. Ấy thế mà chúng vẫn hát được!

Cũng trong bộ truyện này, người đọc thật sự cảm thấy thú vị với bài ca bợ đít của bọn đệ tử phái Tinh Tú nhằm ca ngợi Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu. Mỗi khi Đinh Xuân Thu xuất hiện hay lâm trận, bọn đệ tử đồng thanh hát:

Tinh Tú lão tiên

Danh lừng Trung thổ

Oai lực vô biên

Đánh đâu thắng đó

Nhân vật Bao Bất Đồng, một thuộc hạ của Cô Tô Mộ Dung Phục đã làm cho phái Tinh Tú mắc lỡm khi cất giọng solo bài này dưới chân núi Thiếu Thất để bọn Tinh Tú "hợp ca" theo:

Tinh Tú lão tiên

Danh lừng Trung thổ

Oai lực vô biên

...Thối hơn rắm chóĐem "rắm chó" vào trong bài ca để "hướng dẫn" bọn đề đệ Tinh Tú hát theo làm trò cười cho thiên hạ, cách phê phán thói nịnh của Kim Dung vừa bình dân, vừa bác học hết chỗ nói.

Nói đến âm nhạc trong Thiên Long bát bộ, ta không thể quên hai nhân vật quái dị trong nhóm Hàm Cốc bát hữu (tám người bạn ở Hàm Cốc) là Cầm điên Khang Quảng Lăng và Hí mê Lý Quỹ Lỗi. Cầm điên Khang Quảng Lăng đánh địch bằng cây dao cầm. Nghe tiếng đàn của lão, trái tim người ta nhảy loạn lên, đầu óc trở thành u mê, hồ đồ. Tiếng đàn của lão thoạt đông, thoạt tây; khi trên, khi dưới khiến người ta tưởng khinh công của lão xuất thần nhập hoá. Nhạc sĩ Khang Quảng Lăng này rất hồ đồ. Lão tin rằng tiếng đàn của lão có thể làm người chết sống lại: "Vậy mộ của Huyền Khổ đại sư chôn ở đâu ? Dẫn ta đến mau, ta đàn cho đại sư nghe một khúc, không chừng đại sư có thể sống lại (?)". Ngược lại với Khang Quảng Lăng, nhân vật Lý Quý Lỗi là một con hát. Anh ta vừa đánh, vừa hát bội, thậm chí khi bị đánh gãy chân, thay vì rên la, anh ta lại mở miệng hát (!). Hai nhân vật chơi nhạc trong Hàm Cốc bát hữu là hai con người hồn nhiên như trẻ con. Họ xuất hiện rất ngắn nhưng để lại ấn tượng rất sâu trong lòng người đọc.

Trong Thiên Long bát bộ, người ta còn nghe bài ca "Xin cơm" của anh em Cái bang, một bài hát không dùng vào việc xin cơm thông thường mà để kết Đả cẩu trận, khắc chế địch nhân hung hãn.

Khi viết về âm nhạc, kiến thức âm nhạc của Kim Dung tiên sinh cũng rất tinh tường và phong phú. Trong Lộc Đỉnh ký, ông đã trích lại bài ca của danh sĩ Ngô Mai Thôn nói về Trần Viên Viên - một danh kỹ cuối Minh đầu Thanh, người tình của Lý Sấm và Bình Tây Vương Ngô Tam Quế. Trần Viên Viên được mô tả "mặt đẹp như Quan Âm", sống một cuộc đời đau thương chìm nổi đúng như định đề cổ điển của văn học "hồng nhan đa truân". Tất cả những đau thương đó đều được đúc kết thành Viên Viên khúc. Khi đi tu, Viên Viên vẫn hát khúc ca Ngô Mai Thôn viết cho mình với cây dao cầm. Ngô Tam Quế nghe được vài chục câu, Mỹ đao vương Hồ Dật Chi nghe được dăm ba câu. Chỉ có Vi Tiểu Bảo, một kẻ chẳng hiểu âm nhạc là gì, lại có hồng phước nghe được trọn bài. Viên Viên khúc nghe thật buồn bã, đúng là một bài ca mất nước chẳng khác gì Hậu đình hoa của Lý Hậu chủ trong thơ Đỗ Mục:

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu đình hoa

(Con hát biết đâu hờn vong quốc

Bên sông còn hát Hậu đình hoa)

Lộc Đỉnh ký còn có một loại "âm nhạc" ngộ nghĩnh khác: những bài ca nịnh bợ của bọn Thần Long giáo. Đó là những bài ca mang tính chất tự kỷ ám thị dùng trong lúc đánh nhau, đã được Kim Dung viết với một giọng văn thô thiển, phù hợp với "trình độ" của bọn giáo chúng ngu muội:

Hồng giáo chủ thần thông quảng đại

Giáo chúng ta đánh bại khắp nơi

Địch nhân thấy bóng chạy tơi bời

Cứng rắn cũng tan tành xác pháo

Hồng giáo chủ ra oai sấm sét

Chúng đô nhi sức mạnh phi thường

Ta một người trăm địch khôn đương

Địch hàng vạn trăm quân đủ thắng

Hồng giáo chủ thần kinh như điện

Chiếu nhãn quang ra khắp muôn phương....

Những bài hát như vậy mang tính kinh điển, khẩu hiệu, quê muội, tự nó đã nói lên được kiểu lừa bịp trá ngụy của những tà giáo thứ thiệt. Cái hay của Kim Dung là ông chỉ mô tả sự kiện, tường thuật vấn đề không bình luận. Nhưng thông qua sự kiện, vấn đề, người đọc nhận biết được ý đồ của ông, hiểu được ông muốn nói lên điều gì. Bài ca tập thể lạ lùng của giáo chúng Thần long giáo sau đây khiến người ta nghĩ đến "bài ca" của các tiểu tướng Hồng vệ binh ở Trung Quốc trong thời kỳ Cách mạng văn hóa:

Bảo huấn của giáo chủ

Thời khắc ghi tronglòng

Lập công và thắng địch

Trường thọ với non sông.

Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, âm nhạc xuất hiện khắp mọi nơi trên đất nước Trung Hoa rộng lớn. Trong Phi hồ ngoại truyện, ta nghe được tiếng hát vùng Sơn Đông - Triết Giang của tiểu anh hùng Hồ Phỉ. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, ta nghe được khúc sáo ma quái, nhiếp hồn của Đông tà Hoàng Dược Sư. Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta nghe được tiếng hát của dân tộc Miêu Cương của giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam Lam Phượng Hoàng.

Trong Lộc Đỉnh ký, ta nghe được bài ca Trầm Giang hùng tráng trích từ tác phẩm dân ca Đào hoa phiến, ca ngợi cái chết anh hùng của nhà yêu nước Sử Các Bộ, người chịu hy sinh để giành lại đất nước trong bàn tay di tộc. Nhưng không phải ai cũng có thể hát được khúc Trầm Giang. Đi trên sông Liễu Giang giữa đêm mưa gió, cả mấy chục người mà chỉ có Trần Cận Nam - Tổng đường chủ của Thiên Địa hội - và Ngô Lục Kỳ - đường chủ Hồng Thuận đường của Thiên địa hội - mới đủ công lực cất lên tiếng hát át cả tiếng cuồng phong sậu vũ:

Đầy lòng phẫn nộ ngỏ cùng ai

Giọt lệ già nua dạ ái hoài

Trong chốn cô thành mong cứu viện

Tàn quân huyết chiến luống bi ai

Đoái trông cố quốc lòng đau xót

Trùng vây không nỗi vượt ra ngoài

Trường giang một dải ba ngàn dặm

Nỡ để về tay kẻ khác loàị..

Và:

Non nước ngàn thu để tiếng truyền

Đau lòng huyết lệ khắp Tây Xuyên...

Trong Thiên Long bát bộ, ta nghe được tiếng hát bài ca "Hái sen ở Giang Nam" (Giang Nam khả thái liên) hoà với tiếng đàn hồ cầm thánh thót của cô gái đẹp A Bích tại Yến tử ổ, Giang Nam:

Giang Nam khả thái liên

Liên điệp hà điền điền

Ngư hý liên điệp đông

Ngư hý liên điệp tây...

(Giang Nam ta hãy hái sen

Lá sen dày khít mọc chen thành đồng

Cá đùa bên lá sen phía đông

Cá đùa bên lá sen phía tây...)

Nhưng tiếng hát đẹp nhất, mang nặng tính chất triết lý nhất là vẫn là tiếng hát của Tiểu SIêu, cô gái lai người Ba Tư. Tiểu Siêu là cô bé 16 tuổi, được mẹ là Đại Y Ty đưa vào "nằm vùng" trong Minh giáo Trung Quốc, len lỏi lên Quang Minh Đỉnh để tìm cách đánh cắp bộ thần công Đại nã di tâm pháp. Cô trở thành con hầu của giáo chủ Trương Vô Kỵ và thầm yêu trộm nhớ Trương Vô Kỵ. Nhưng cô đã tiên cảm được rằng mối tình đó không đến đâu, số phận của cô không biết sẽ trôi dạt về đâu. Nỗi u oán đó biểu hiện lên trong những khi cô hát cho giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ nghe. Lời ca nguyên là 1 trong 101 bài thơ của Nga Mạc (Omar Khayam) - thi hào Ba Tư đã được Quách Mạt Nhược dịch qua tiếng Quan Thoại. Triết lý trong lời ca là cái khát vọng cắt nghĩa cho được những vấn đề gần gũi nhất của con người: cuộc sống, tình yêu và cái chết:

Lai như lưu thủy hề thệ như phong

Bất tri hà xứ lai hề hà sở chung

(Chợt đến như giòng sông nước chảy

Thoắt tan như gió qua mau

Chẳng biết từ đâu mà đến

Cũng chẳng biết về nơi đâu)

Bài ca này là một bài thánh ca của Bái hỏa giáo Ba Tư và tiếng hát cuối cùng là tiếng hát của Hân Ly trong cơn mê sảng trước khi chết trên một hải đảo vùng Đông Bắc Trung Quốc.

Trong lịch sử văn minh Trung Quốc, không có biên giới giữa Thi và Ca. Trường phái thơ Đường đã dung nạp một cách tự nhiên âm nhạc vào thi ca; biến phong cách này trở thành truyền thống:

Sở thanh phong địch ly đình vãn

Quân hướng Tiêu Tương ngã hướng Tần

Hoặc:

Khương địch hà tu oán Dương liễu?

Xuân phong bất độ Ngọc môn quan

Kim Dung đã đưa âm nhạc vào tiểu thuyết đúng như truyền thống của Đường thi nhưng lãnh vực phản ánh của ông rộng hơn và mức độ phản ánh sâu sắc hơn. Âm nhạc đó hoá giải được tính chất đấu tranh gay gắt, phức tạp của bản chất truyện võ hiệp. Nó làm nên cái hồn tính lãng mạn cho tiểu thuyết võ hiệp, đem lại chất hài hước vui nhộn cho tiểu thuyết võ hiệp. Nói là âm nhạc, nhưng nó chính là võ công, là công phu, là y đạo, và đồng thời là phương thức biểu lộ tình yêu. Ngay chính trong cách dung nạp này, Kim Dung đã chứng tỏ được rằng ông là bậc thầy trong kỹ thuật viết tiểu thuyết. Đọc Kim Dung là lắng nghe chất âm nhạc trong tiểu thuyết của Kim Dung, nhờ âm nhạc, người ta thấy được niềm tin, dù trong đau thương hay trong hạnh phúc.

5.Hoa

Văn chương tiểu thuyết, kể cả văn chương tiểu thuyết võ hiệp, luôn có những đoạn tả cảnh. Cảnh quan thiên nhiên hiện ra trong văn chương đã trở thành một thứ quy luật tất yếu, không thể thiếu được. Vả chăng, người Trung Hoa đã quan niệm "Vạn vật đồng nhất thể" mà con người cũng là một vật trong vạn vật cho nên con người không thể tự tách mình ra khỏi thiên nhiên, ra khỏi cảnh quan và môi trường sống. Văn chương tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng vậy. Con người trong tiểu thuyết của ông luôn luôn gắn liền với thiên nhiên, sống giữa thiên nhiên và hoạt động với thiên nhiên.

Nhưng vượt lên trên tất cả cung cách mô tả thiên nhiên, Kim Dung đã dành cho hoa nhiều cảm tình nhất. Hoa xuất hiện trongg 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông như là biểu tượng cho bốn mùa. Hoa tiêu biểu cho chiều sâu trí tuệ và tâm hồn của người trồng hoa và chơi hoa. Hoa là sản phẩm đặc trưng của từng vùng đất mà đất Trung Hoa vô cùng rộng lớn nên hoa cũng cực kỳ phong phú về chủng loại, đặc sắc về ngoại hình. Ở một chừng mực nào đó, ta có thể thấy Kim Dung đã thể hiện kiến thức của một nhà hoa học trong những bộ tiểu thuyết của mình.

Trong Thiên Long bát bộ, theo gót chân lãng du của vương tử Đại Lý Đoàn Dự, tác giả đưa chúng ta đi về vùng Giang Nam nước Tống. Mùa xuân về trên Thái Hồ, Giang Nam, ta bắt gặp hoa sen và hoa hồng lăng khoe sắc thắm, thoang thoảng hường đưa trong gió. Rồi tác giả đưa chúng ta về Mạn Đàn sơn trang của Vương phu nhân, thưởng thức hoa trà. Đoạn lý luận về hoa trà của Đoàn Dự có thể coi là một chương hoa học kỳ thú trong Thiên Long bát bộ.

Hoa trà - tiếng Phạn là Mạn đà la - là một loài hoa nổi tiếng được trồng phổ biến khắp vùng Vân Nam. Lúc bấy giờ, Vân Nam thuộc nước Đại Lý. Hoa trà trở thành quốc hoa của Đại Lý. Vân Nam có khí hậu ấm, mứa nhiều quanh năm, dân dã bình thường cũng biết trồng hoa trà để thưởng ngoạn. Thế nhưng,Vương phu nhân là đem hoa trà từ Vân Nam (Đại Lý) về trồng ở Giang Nam (Tống) mà lại thiếu kinh nghiệm chăm sóc khiến các gọi là Mạn đà sơn trang của phu nhân dưới mắt Đàon Dự chẳng đáng một xu. Vốn ghét tính cách tàn bạo, ngang ngược của Vương phu nhân, Đoàn Dự thẳng thừng phê phán sự dốt nát của bà khi trồng trà: "Tỷ như khóm trà hoa này chắc phu nhân cho là quý lắm? Cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp.". Khen như vậy khác nào khen quyển sách in đẹp mà nội dung rỗng tuếch. Những kiến thức về hoa trà của Đoàn Dự khiến Vương phu nhân vừa kinh hãi, vửa thẹn thùng. Chậu hoa mà phu nhân gọi là "Ngũ sắc trà hoa" (hoa tra năm màu) thì Đoàn Dự gọi là "Lạc đệ tú tài" (tú tài thi hỏng). Đoàn Dự cho biết loại hoa trá quý nhất là "Thập bát học sĩ" (18 vị học sĩ) gồm 18 bông, màu sắc không bông nào giống bông nào (toàn hồng, toàn trắng, toàn tía...không hỗn tạp), cùng nở một lúc và cùng tàn một giờ. Sau "Thập bát học sĩ" là "Bát tiên quá hải" (8 vị tiên qua biển) chỉ có một gốc, nở ra cùng lúc 8 bông với 8 màu khác nhau. Sau "Bát tiên quá hải" là "Thất tiên nữ" (7 tiên nữ) chỉ có một gốc nở ra 7 bông. Sau "Thất tiên nữ" là "Phong trần tam hiệp" (3 hiệp khách phong trần) chỉ có 1 gốc nở ra đúng 3 bông. Rồi "Nhị Kiều" (hai nàng họ Kiều), rồi chia hạng chánh, phó... đủ kiểu chơi.

Vương phu nhân còn khen ngợi loại trà "Mãn nguyệt" (trăng tròn). Đoàn Dự bác ngay vàlý luận đó phải là loại "Ỷ lan Kiều' (nàng Kiều e thẹn dựa vào lan can). Trồng "Ỷ lan Kiều" phải chọn nơi nửa kín nửa hở để xứng với câu thơ:

E thẹn ôm đàn che nửa mặt

Ai kêu ai gọi cũng làm thinh.

Viết đến đâu, Kim Dung trích dẫn thơ ca đến đó:

Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch

Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng

(Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng

Non hạ mây vương trái vải hồng)

Hoặc:

Thanh quần ngọc diện như tương thức

Cửu nguyệt trà hoa mãn độ khai

(Quần xanh vóc ngọc như từng gặp

Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)

Thật sự, Trung Quốc đã từng có tác phẩm Điền trung trà hoa ký nghiên cứu về hoa trà trong đó có đoạn: "Đại Lý trà hoa tối giáp hải nội, chủng loại thất thập nhị, đại ư mẫu đơn. Nhất vọng nhược hỏa tề vân cẩm, thước nhật chưng hà." (Hoa trà Đại Lý đứng đầu thiên hạ, gồm 72 loại khác nhau, có loại lớn hơn cả hoa mẫu đơn, khiến ta đứng xa vẫn trông đỏ rõ một góc trời như mây gấm hoà vào cho màu trắng ban mai thêm rực rỡ). Thật ít có nhà văn nào đạt được kiến thức hoa học và vận dụng kiến thức ấy - vốn thuộc phạm vi sinh học - vào văn chương một cách nhuần nhuyễn như Kim Dung.

Đúng là Kim Dung đã đưa hoa vào tác phẩm văn chương võ hiệp của mình, dùng hình ảnh tươi đẹp của hoa để chế ngự bớt tính chất căng thẳng và đôi khi tàn nhẫn của thế giới võ hiệp. Hoa là biểu tượng cho một dạng công lực thượng thừa, Kẻ luyện nội công đến mức cao siêu nhất được gọi là "Tam hoa tụ đỉnh". Hoa được dùng để đặt tên cho các pho võ công: Niêm hoa chường, Niêm hoa chỉ của phái Thiếu Lâm; Thiên Sơn thiết mai thủ của phái Tiêu Dao; Lạc anh chưởng pháp của Đào hoa đảo. Hoa trở thành mệnh lệnh tấn công như khi bang chúng Cái bang hát bài Liên hoa lạc (cánh sen rơi) thì có nghĩa là họ kết Đã cẩu trận để chống lại kẻ địch, bao vây kẻ địch.

Hoa trở thành đòn thức, chiêu thế của người sử dụng võ công, và khi sử dụng, giới võ lâm phải thể hiện cho được yếu tính của đòn thức, chiêu thế mang tên hoa đó. Nhà sư Thổ Phồn Cưu Ma Trí khi đánh chiêu Niêm hoa vi tiếu trong Niêm hoa chỉ vẫn giữ được khuôn mặt tươi cười, tư thế ung dung của khái niệm niêm hoa (cánh hoa chưa nở). Nhà sư Hư Trúc sử dụng Thiên Sơn chiết mai thủ với phong cách nhẹ nhàng, khuôn mặt trầm tĩnh đúng như người đang bẻ cành mai trên núi Thiên Sơn mà kình lực có thể làm tan bia, vỡ đá. Phái Thiếu Lâm có chiêu Hoa khai kiến Phật (Hoa nở thấy Phật) bó buột đệ tử Thiếu Lâm chấp hai tay lên trước ngực, vừa hàm ý chào kính kẻ địch, vừa thể hiện đức từ bi của nhà Phật: đấu tranh là phải đấu chứ không muốn giết hại lẫn nhau. Ta bắt gặp trong tiểu thuyết Kim Dung những tên gọi Lạc hoa lưu thủy (hoa rụng nước trôi), Mãn thiên hoa vũ (mưa hoa đầy trời), Liên hoa phất huyệt thủ (đánh huyệt như phất hoa sen), Hồ điệp xuyên hoa (bướm len giữa khóm hoa), Thiên nữ tán hoa (tiên nữ rắc hoa)...

Hoa muôn đời là biểu tượng của người phụ nữ đẹp, là biểu tượng của cô gái trong trắng thơ ngây. Kinh Thi có câu: "Xước ước như xử nữ" (mềm mại như gái trinh) và từ "xước ước" cũng đồng thời là từ diễn tả dáng thanh lịch của ngàn hoa. Những nhân vật nữ của Kim Dung như Nhậm Doanh Doanh, Nhạc Linh San, Nghi Lâm, Lam Phượng Hoàng (Tiếu ngạo giang hồ), Hoàng Dung, Quách Tương, Tiều Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ), Hân Tố Tố, Triệu Minh, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký)... đều có "khuôn mặt đẹp như hoa nở, nụ cười tươi như hoa nở". Những cô gái trinh bạch, xinh đêp ấy được gọi là Hoàng hoa khuê nữ (cô gái trong phòng khuê dịu dáng như hoa cúc) nhưng lĩnh vực hoạt động của họ không phải là phòng khuê nữa mà là giới giang hồ.

Họ là hào khách võ lâm biết yêu hoa: Vương phu nhân yêu hoa trà, Mộc Uyển Thanh yêu hoa mai côi (hoa hồng) và con người cô cũng toát ra mùi hương tự nhiên của mai côi đến nỗi cô có ngoại hiệu là Hương Dược Xoa (Thiên Long bát bộ), Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Giang Lăng thành Lăng Thoái Tư yêu hoa cúc (Liên thành quyết).

Kẻ nào manh tâm chiếm đoạt trinh tiết người phụ nữ bị Kim Dung gọi là tên Thái hoa dâm tặc (tên dâm tặc chuyên hái hoa). Trong Tiếu ngạo giang hồ, có gã Giang dương đại đạo thái hoa dâm tặc vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Hắn gớm ghiếc đến nỗi phụ nữ nhà lành cũng bị cha mẹ cấm không được gọi đến tên. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị tội dâm dật của hắn bằng cách điểm trọng huyệt, xuyên một cặp tụ tiễn (mũi tên nhỏ) vào bộ phận sinh dục để hắn không thể "hái hoa" được nữa. Ngoại hiệu của nhà sư là Bất Giới (không cấm cản chi hết) nhưng nhà sư buộc Điền Bá Quang phải cạo đầu làm sư, đặt lại ngoại hiệu cho hắn là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Cách trừng trị kinh khủng như vậy là nhằm bảo vệ những đời hoa!

Hoa là biểu tượng của tình yêu lứa đôi, và đặc biệt trong võ hiệp tiểu thuyết của Kim Dung, là biểu tượng của tình yêu chung thuỷ. Thời đôi mươi, Vương phu nhân say mê Đoàn Chính Thuần, thất thân với y và sinh ra Vương Ngọc Yến. Đoàn Chính Thuần là hoàng thái đệ của Đoàn Chính Minh, vua Đại Lý; không thể cưới được Vương phu nhân. Tương tư tình lang, Vương phu nhân đem trà Đại Lý về trồng tại Giang Nam, lập nên cái gọi là Mạng đà sơn trang (Thiên Long bát bộ). Còn trong Liên thành quyết, Kim Dung đã thực sự tạo cho hoa cúc một tâm hồn riêng khi ông xây dựng mối tình Đinh Điển - Lăng Sương Hoa.

Đinh Điển luyện thành thần công Thần chiếu kinh, chỉ cần vươn tay ra chộp một cái là kẻ thù phải chết. Anh yêu tiểu thư Lăng Sương Hoa, con gái tri phủ Lăng Thoái Tư thành Giang Lăng, nên ẩn thân vào nhà tù thành Giang Lăng để ngày ngày được ngắm màu hoa cúc vàng trên cửa sổ do chính Lăng Sương Hoa chăm sóc. Lăng Sương Hoa ra sức chăm bón hoa, giữ cho hoa tươi mãi để tạ lòng người yêu. Tình yêu lặng lẽ giữa người tù và cô tiểu thư diễn ra thật nên thơ những cũng rất mạnh mẽ. Tri phủ Lăng Thoái Tư biết được điều đó; lão cố tìm mọi cách để giết Đinh Điển để chiếm đoạt bộ Liên thành quyết - một bí lục mô tả đường đi nước bước của mộ kho báu trị giá liên thành. Lão bức tử con gái, đặt cô vào quan tài rồi tẩm thuốc độc lên vỏ quan tài, chờ Đinh Điển sa bẫy. Quản nhiên một hôm Đinh Điển nhận ra rằng chậu hoa cúc trên cửa sổ của người tình đã héo úa. biết rằng Lăng Sương Hoa đã gặp điều gì đó chẳng lành, Đinh Điển vượt ngụ, thâm nhập vào tư dinh Lăng Thoái Tu. Thấy tấm bài vị đề "Lăng Sương Hoa ái nữ chi linh vị" trên nắp quan tài, anh đau xót ông lấy quan tài khóc rống lên và lập tức bị trúng độc. Đinh Điển chết, dặn dò lại nghĩa đệ là Địch Vân phải hợp táng xương cốt của anh và Lăng Sương Hoa chung một nơi.

Lăng Sương Hoa được chôn trong nghĩa địa phía tây thành Giang Lăng còn Đinh Điển thì chết ở vùng Quan ngoại. Cuối truyện, chàng Địch Vân mang bọc xương cốt của nghĩa huynh Đinh Điển từ ngàn dặm trở lại Giang Lăng, đào mả Lăng Sương Hoa và hợp táng hai người. Anh còn mua hoa cúc, cuốc đất chung quanh mộ rồi trồng cho hai người mấy cụm với ước mong hương hồn họ nhìn thấy bóng hoa và được sống lại với tình yêu cũ. Liên thành quyết có cái buồn và chất thơ lãng mạn xuyên suốt toát ra từ bóng hoa cúc vàng - mối tình của Đinh Điển và Lăng Sương Hoa.

Người yêu hoa thì rất quý hoa, xem hoa như là bạn; còn kẻ ghét hoa thì rất giận hoa, xem hoa là thù địch. Đó là trường hợp của Vi Tiểu bào, một tiểu lưu manh bất học vô thuật, may mắn trở thành quan lớn triều Khang Hy (Lộc Đỉnh ký). Vua Khang Hy ra lệnh cho Vi Tiểu Bảo làm khâm sai đại thần, trở về quê quán thành Dương Châu xây dựng toà Trung liệt từ. Nghe đồn Vi Tiểu Bảo là một thiếu niên, tưởng gã là người có tài văn học, các quan ở Dương Châu bèn mời gã vào uống rượu ngâm thơ trong chùa Thiền Trí. Mùa ấy, hoa thược dược đang nở mà thược dược ở Dương Châu và chùa Thiền Trí là thứ hoa tươi đẹp nhất thiên hạ. Nhìn thấy thược dược tươi hơn hớn, Vi Tiểu Bảo tức muốn sôi gan. Nguyên lai, lúc mới lên chín mười tuổi, gã đã từng cùng bọn tiểu lưu manh thành Dương Châu đột nhập chùa Thiền Trí hái trộm hoa thược dược. Một nhà sư nào đó đã rượt cả bọn chạy, Vi Tiểu bảo nhỏ con, chạy chậm bị nhà sư nắm áo éo lại, tát cho một cái. "Mối thù" ấy âm ỉ mãi trong lòng gã nên khi quay về Dương Châu, thấy lại thược dược đại đóa nở phô hồng khoe tía trong chùa Thiền Trí là gã nổi nóng.

Gã đặt chuyện nói rằng vua Khang Hy đang nuôi bầy ngựa chiến và ra lệnh cho gã chặt hết thược dược trong thiên hạ để làm thức ăn cho ngựa. Nghe câu nói đó, bá quan văn võ Dương Châu và các nhà sư chùa Thiền Trí đều vỡ mật kinh tâm. Mây mắn là viên tuần phủ Dương Châu học rộng biết nhiều. Viên tuần phủ phải nịnh Vi Tiểu Bảo rằng thược duợc là tượng trưng cho người đàn ông thành đạt, công danh hiển hách; rằng Vi Tiểu Bảo về Dương Châu đúng mùa thược dược mãi khai là điều tốt lành, ngày sau ắt thăng quan tiến chức cao sang không biết bao nhiêu mà lường. Cho nên việc chặt hoa thược dược cho ngựa ăn là chuyện rất uổng. Viên tuần phủ còn ngắt một đóa hoa thược dược kình cẩn gài lên mũ của Khâm sai đại thần và chúc phúc. Quả nhiên lời nói khôn khéo đó của viên tuần phủ đã làm nguôi cơn giận của Vi Tiểu Bảo, cứu được ngàn hoa của chùan Thiền Trí và thành Dương Châu.

Kiến thức về hoa của Kim Dung thật phong phú. Loại hoa gì, tính năng ra sao, nở mùa nào, có nhiều ở địa phường nào đều được lý giải một cách cặn kẽ. Mỗi mùa hoa, mang hteo một loại chướng khí. Chướng khí là hậu quả của cây lá rụng xuống ao chằm, rồi bốc lên, tạo thành những dịch bệnh cho con người. Tháng ba âm lịch có Đào hoa chướng, tháng năm chó Lựu hoa chướng, tháng tám có Phù dung chướng. Kim Dung cho biết người Vân Nam vốn yêu hoa trà, coi hoa trà là một loài hoa quý cho nên không lấy tên hoa trà để gọi chướng khí.

Hoa làm đẹp thêm cho tác phẩm võ hiệp của Kim Dung, tạo nên chiều sâu cho tác phẩm. Hoa là nới gửi gắm tâm tình con người. Chất thơ tự có trong hoa biến thành chất thơ cho tác phẩm. Đoc Kim Dung càng nhiều lần, ta càng khám phá ra thêm nhiều vẻ đạp, cáng nhận ra làn u hương thuần nhã của hoa.

Giòng xuân nước gợn hoa trà trắng

Non hạ mây vương trái vải hồng.

Có người nói bóng hoa trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là hình ảnh của Hạ Mộng, người tình của ông. Hạ Mộng đã xa ông như lạc hoa lưu thủy. Và tiểu thuyết của ông giàu bóng hoa, hương hoa bởi Hạ Mộng vẫn sống trong trái tim ông.

6.Y học

Khát vọng sống lâu, mạnh khỏe không chỉ là khát vọng riêng của người Trung Quốc mà còn là của toàn thể nhân loại. Trung Quốc là đất nước có một nền y học cổ truyền rất thâm hậu và những hoạt động y học cổ truyền của đất nước này đã hình thành khái niệm Đông y. Hơn 1.800 năm trước, danh y Hoa Đà đã có những công trình nghiên cứu y học thời danh, trong đó có nguyên tắc luyện khí công gọi là Ngũ thú khí công (hay Ngũ cầm hí), mô phỏng chiêu thức hoạt động của loài cọp, gấu, nai, khỉ và hạc (Hổ hí, Hùng hí, Lộc hí, Hầu hí, Hạc hí). Quan điểm cơ bản của Hoa Đà có thể tóm tắt là mô phỏng hoạt động của năm động vật trên, hít làm không khí thanh lương vào phổi và nạp xuống Đan điền, vận dụng vào từng bộ phận trên cơ thể, giúp con người khỏe mạnh. Võ học thấy rằng sức mạnh đó có thể dùng để chế ngự được kẻ khác. Có thể nói, truyện võ hiệp Kim Dung cũng tràn đầy kiến thức y học.

Đọc truyện võ hiệp Kim Dung, người ta thường bắt gặp hai khái niệm nội công và ngoại công. Nội công là tiềm lực, sức mạnh bên trong của hào khác giang hồ. Ngoại công là chiêu thức, quyền cước bên ngoài. Kẻ có nội công cao, theo Kim Dung mô tả, là kẻ hái một chiếc lá, bẻ một bông hoa cũng có thể sát thương địch thủ. Kẻ có ngoại công cao thì thái dương huyệt gồ cao, khi vũ lộng tay chân, gân cốt nổi lên, các khớp xương kêu răng rắc. Nội công là cái gốc, ngoại công là cái ngọn. Luôn luôn kẻ có nội công cao là kẻ hơn người.

Trong 12 bộ tiểu thuyết, có trường hợp cá biệt Kim Dung để cho ngoại công thắng nội công. Nhạc bất quần, sư phụ Lệnh Hồ Xung, chưởng môn phái Hoa Sơn theo phe Khí tông (lấy khí làm chủ). Y dạy Lệnh Hồ Xung rằng phải vận khí trước rồi mới phóng chiêu thức ra sau, mỗi chiêu thức đều có thuớc tấc, bộ vị nhất định. Khi Lệnh Hồ Xung tình cờ gặp thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương theo phe Kiếm tông (lếy kiếm thức làm chủ), đang ẩn cư trong hang núi Hoa Sơn thì Phong Thanh Dương dạy Lệnh Hồ Xung rằng chỉ cần kiếm chiêu liên miên bất tuyệt, đánh ra theo ý muốn của mình như nước chảy mây trôi là đã khắc chế được địch thủ. Lệnh Hồ Xung đã lĩnh hội được phép sử kiếm ý (ý nghĩ đến đâu, kiếm phóng ra đến đó) chứ không sử kiếm chiêu và gọi đó là biện pháp "liệu địch tiên cơ" (ra tay, chiếm thời cơ trước kẻ địch). Và rõ ràng, phương pháp Kiếm tông đã thắng Khí tông: Lệnh Hồ Xung mất hết công lực vẫn đánh ra một chiêu, đâm mù mắt 15 kẻ địch hùng mạnh (Tiếu ngạo giang hồ).

Các khái niệm nội công, ngoại công, chiêu thức - đầu tiên là khái niệm y học chứ không phải của võ học. Trong mỗi bộ sách của mình, Kim Dung thường xây dựng một hoặc vài ba nhân vật thầy thuốc. Những thầy thuốc này được gọi rất trang trọng: danh y, thần y. Bên cạnh thứ thuốc cứu người, Kim Dung còn xây dựng những nhân vật chuyên đánh thuốc độc, đầu độc kẻ khác. Quan điểm của ông rất mới lạ: thuốc độc cũng là một dạng thuốc cần thiết phải dùng đến. Trong Tiếu ngạo giang hồ, người ta gặp Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Cả ngoại hiệu và tên của người này cũng rất lạ lùng: thầy thuốc nổi tiếng (danh y) nhưng cứu một người thì phải giết một người (sát nhân) và khi cứu người hay giết người, đều chỉ dùng đến một ngón tay (bình nhứt chỉ). Bên cạnh Bình Nhứt Chỉ, Tiếu ngạo giang hồ cũng có một độc vương. Đó là Lam Phượng Hoàng, cô gái người Miêu Cương, giáo chủ Ngũ độc giáo Vân Nam. Tài năng của Bình Nhứt Chỉ hay đến nỗi mới bắt mạch Lệnh Hồ Xung đã biết Lệnh Hồ Xung được uống rượu và truyền máu của bọn Ngũ độc giáo! Trong Thiên Long bát bộ, người ta gặp Thần y Tiết Mộ Hoa. Đối lập với Tiết Mộ Hoa chuyên cứu người là một tay độc vương dễ sợ chuyên đầu độc người. Đó là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu, giáo chủ Tinh Tú phái. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, có hai danh y là Điệp cốc y tiên Hồ Thanh Ngưu và vợ là Vương Nạn Cô. Hai vợ chồng kình chống nhau bằng cách Hồ Thanh Ngưu chữa thương cho thân chủ ban ngày thì ban đêm, Vương Nạn Cô lén đến đầu độc cho thân chủ bệnh trở lại.

Tác phẩm võ hiệp Kim Dung đã đề cập đến những phương pháp y học, biện pháp chữa bệnh lâm sáng mà ngày nay, nhân loại vẫn đang thực hiện. Trong cách truyền máu, Kim Dung đã mô tả phương pháp dùng đỉa hút máu để tiếp máu ấy qua cho người bệnh. Đó là đoạn Lam Phượng Hoàng cùng các nữ đệ tử Ngũ độc giáo tiếp máu cho Lệnh Hồ Xung (Tiếu ngạo giang hồ). Chỉ có một điều đáng tiếc là y lý của Lam Phượng Hoàng còn non nớt nên đã đem máu thuần âm của phái nữ truyền vào cho một nguời bệnh dư khí âm hàn như Lệnh Hồ Xung.

Truyện võ hiệp Kim Dung còn đề cập đến việc dùng thuốc. Thuốc cổ truyền Trung Hoa gồm cao (thuốc dán), đơn (hay thang, thuốc thang), huờn (hay hoàn, thuốc viên), tán (thuốc bột). Những nhân vật của Kim Dung đã dùng thuốc cứu chữa cho bệnh nhân của mình: Trương Vô Kỵ ra toa, cắt thuốc thang cho Thường Ngộ Xuân (Ỷ thiên Đồ long ký); bọn bàng môn tả đạo ăn cắp thuốc cho Lệnh Hồ Xung lại bắt 7 vị thầy thuốc đến coi bệnh cho chàng (Tiếu ngạo giang hồ).

Truyện võ hiệp Kim Dung cũng nói nhiều đến chuyện dùng nội công chữa thương cho những người bị chấn thương vì nội công. Trong trường hợp này, nội công của người thầy thuốc phải cao hơn hoặc tương đương với nội công của người bị thương thì động tác chữa thương mới thực hiện được. Như Trương Vô Kỵ dùng Tiên thiên Cửu dương công chữa trị cho trương Tam Phong, Hân Thiên Chính và bọn quần hào trên Quang Minh Đỉnh; Bình Nhứt Chỉ vỗ Bách hội huệt truyền nội công chữa cho Đào Thực Tiên, Bất Giới hoà thượng trút công lực chữa trị cho Lệnh Hồ Xung.

Triết học Trung Hoa cổ phân biệt rất rõ khái niệm Lưỡng nghi (hai mặt Âm - Dương). Lưỡng nghi sinh Tứ tượng (Thái dương, Thái âm, Thiếu dương, Thiếu âm), Tứ tượng sinh Bát quái (Càn, Khảm, Chấn, Tốn, Cấn, Ly, Khôn, Đoài). Võ công cũng như y học trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đều triệt để dựa trên nền tảng triết học ấy. Nội công dương cương và tính năng dương cương hoàn toàn mâu thuẫn với nội công âm nhu và tính năng âm nhu. Cho nên, trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thu ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của Lão Đấu Tử dùng cho con gái là Bất Tử, bọn Lam Phượng Hoàng truyền máu của các cô gái Miêu cương để cứu chữa cho Lệnh Hồ Xung là sai nguyên tắc y học (và cả triết học nữa). Chính Bình Nhứt Chỉ khi cầm tay Lệnh Hồ Xung chẩn mạch đã khám phá ra lập tức tình trạng pha trộn âm dương trong con người Lệnh Hồ Xung. Lão lại khám phá ra thêm rằng thân chủ của mình bạc nhược tinh thần, bị tình yêu hành hạ, bị rượu làm cho con người hô héo. Lão chửi toáng lên: "Mẹ cha nó! Thật là nát bét đến năm bảy tầng. Người thật là con người chẳng ra gì". Nếu Lệnh Hồ Xung không phải là người yêu của Thánh cô Doanh Doanh, nếu không phải đích thân Doanh Doanh mời lão đến chữa thương cho Lệnh Hồ Xung thì lão đã tát cho Lệnh Hồ Xung mấy cái ra trò vì đã uống thuốc tào lao, nhận máu của bọn Lam Phượng Hoàng, mất hết nội công mà còn nát rượu và bạc nhược tinh thần vì gái!

Thế nhưng, thỉnh thoảng âm dương cũng có thể hoà hợp nau trong một con người. Đó là trường hợp của Thạch Phá Thiên (Hiệp khách hành), uống hai thứ rược âm dương của Trương Tam và Lý Tứ. truyện của Kim Dung cũng mô tả tình trạng dùng lý trí chống lại cơn khao khát tình dục. Người Trung Hoa gọi động tính giao giữa nam nữ là âm dương hoà hợp. Chính vì vậy, để phá thanh danh của hoàng gia Đại Lý, Thanh bào khách Đoàn Diên Khánh đã buộc thế tử Đoàn Dự và Mộc Uyển Thanh (nghi là em cùng cha khác mẹ với Đoàn Dự), uống một loại thuốc kích dục cực mạnh là Âm dương hòa hợp tán. Mộc Uyển thanh không đủ công lực, cơn khát khao tình dục nổi lên nhưng Đoàn Dự vốn là người học đạo Nho, vẫn giữ được lý trí sáng suốt, không thể loạn luân với cô em gái.

Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã đề cập đến các động tác chấn thương chỉnh hình. Dư Đại Nham phái Võ Đang bị Kim Cương chỉ đánh gãy hết các khớp xương phải nằm thoi thóp 20 năm (Ỷ thiên Đồ long ký). Trương Vô Kỵ học được y thuật của Hồ Thanh Ngưu, xin phép Dư Đại Nham gõ vỡ hết các khớp xương để dán thuốc cao chỉnh hình trở lại. Trong truyện này cũng nói đến một ca chấn thương sọ não kỳ lạ. Tống Thanh Thư mưu phản môn phái, bị tứ sư thúc là Dư Liên Châu dùng Thái cực quyền phái Võ Đang đánh vỡ xương sọ. Trương Vô Kỵ nhận chữa bệnh cho bệnh nhân này. Anh diểm huyệt để gây mê, cạo hết tóc, ráp lại xương sọ rồi băng bó. Sau này, Thanh Thư chết vì bị Trương Tam Phong trừng trị nhưng sách võ hịêp vẫn còn để lại một ca chữa chấn thương sọ não khá thú vị.

Thế nhưng, dù y học có tài giỏi đến đâu, y thuật có thâm hậu đến đâu, người ta vẫn đầu hàng những trường hợp bệnh cấp tính, đặc biệt là bệnh vì trúng chất Kỵch độc. Trong trường hợp đó, Kim Dung sử dụng biện pháp cuối cùng: chặt bỏ. Lộc Đỉnh ký có đoạn thuật chuyện bọn Lạt ma Tang Kết từ Tây Tạng xuống Trrung Quốc, truy đuổi Cửu Nạn sư thái và Vi Tiểu Bảo để lấy cho được bộ Tứ thập nhị chương kinh. Vi Tiểu Bảo chống không lại, đã nghĩ cách đầu độc Tang Kết bằng một chất Kỵch độc trong Hoàng cung Thanh triều mà y vẫn thường mang theo bên người: Hoá thi phấn. Y nhúng nước cho Tứ thập nhị chương kinh ướt đi rồi rắc hóa thi phấn vào đó. Quyển kinh đã bị nhiễm độc: những ngón tay dùng để giở các tờ kinh bị ướt nhanh chóng bị nhiễm độc, cụt đi và chảy thành nước vàng. Tang Kết nhanh trí chặt bỏ cánh tay của mình mới toàn mạng sống. Trong Thiên Long bát bộ có đoạn Thần Nông bang chúa Tư Không Huyền bị rắn độc cắn, phải chặt bỏ cánh tay.

Muốn ngăn nọc độc vào tim phổi

Tráng sĩ già gan chặt cánh tay

(Kim Dung)

Truyện võ hiệp Kim Dung đề cập đến khá nhiều động tác phong tỏa huyệt đạo. Muốn phong tỏa huyệt đạo, người học võ phài hiểu toàn bộ hệ thống huyệt đạo con người, phải nhả vào huyệt đạo bao nhiêu kình lực mới đủ sức phong tỏa. Phong tỏa huyệt đạo nhằm khắc chế một địch thủ, nhằm chữa thương cho một người, giúp người đó tránh được cảm giác đau đớn hoặc giảm cảm giác đau đớ. Phong tỏa huyệt đạo còn nhằm ngăn chặn quá trình nhiễm độc, an tĩnh và trấn định thần kinh. Những nhân vật của Kim Dung đã sử dụng thủ pháp châm cứu để phong tỏa huyệt đạo như vậy. Hồ Thanh Ngưu, Trương Vô Kỵ đã dùng gai, dùng tăm tre thay cho kim sắt, châm cứu cho bệnh bệnh nhân. Từ vị trí các huyệt đạo của y học, Kim Dung đã mô tả những đòn thế đánh vào các huyệt đạo để giải khai tình trạng bị phong tỏa, để gây những chấn thương trầm trọng cho địch thủ. Thí dụ các huyệt Đan điền, Thái Dương, Bách hội là những trọng huyệt. Đánh vào đúng những huyệt này có thể làm đối thủ chết hoặc bị thương nặng.

Tác phẩm kiếm hiệp của Kim Dung cũng đề cập đến động tác đả thông huyệt đạo, giúp người luyện võ thăng tiến công lực, đốt giai đoạn trong quá trình rèn luyện để đạt nhanh tới mức thượng thừa. Ông thường nói đến những nhân vật đã được đả thông hai trọng đểm Sinh Tử huyền quan, hoặc Kỳ kinh bát mạch nhưng trong trường hợp của nhà sư trẻ Hư Trúc được Vô Nhai Tử đả thông kinh mạch và truyền cho nội lực thượng thừa.

Tác phẩm võ hiệp Kim Dung cũng phác thảo những ca phẫu thuật hy hữu. Đào Thực Tiên bị kiếm đâm lòi ruột được Bình Nhứt Chỉ khâu vết thương. trương Vô Kỵ trên Tuyết Sơn mổ vết thương cho con vượn già, tìm được bộ Cửu dương chân kinh. Các nhân vật của Kim Dung thường thông thạo cách băng bó, sát trừng, giữ vệ sinh cho những người bị ngoại thương.

Vượt xa những tác phẩm đương đại, Kim Dung cũng thường hay đề cập đến cách luyện độc và dùng độc bởi vì thuốc độc cũng là thuốc. Có kẻ tự nguyện luyện độc như Hân Lý (Ỷ thiên Đồ long ký) luyện môn Thiên châu tuyệt hộ thủ bằng cách cho loài nhện chúa (châu) cực độc hút máu bàn tay của mình và truyền vào đôi tay mình chất Kỵch độc của loài nhện. Với cách luyện này, nếu thành công, hơi thở của Hân Ly sẽ thơm như mùi hoa lan (?) và khi cô chộp vào địch thủ nào thì dẫu địch thủ ấy có sống được thì cũng không thể sinh con đẻ cái được nữa (tuyệt hộ).

Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) đã bị băng tàm trùng độc do nhà sư Tam Tỉnh mang từ Tây Vực về truyền hết chất âm hàn vào người. May mà hắn không chết vì trước đó hắn đã học... trật bộ Dịch Cân Kinh Thiếu Lâm khiến toàn bộ kinh mạch trong người bị đảo lộn. Với nội công âm hàn, hắn chỉ khẽ vỗ vào địch thủ một chiêu cũng khiến cho địch thủ lên cơn rét và biến thành nước đá (!).

Có luyện độc tất có dùng độc. Một cách dùng độc khá hy hữu nhưng cũng rất mới lạ của cung Linh Thứu là cấy Sinh tử phù vào người đối thủ. Hư trúc, dưới chân núi chùa Thiếu Lâm, đã dùng Bắc minh chân khí hoá những giọt rượu của đệ tử tạt lên không gian thành những miếng băng nhỏ, cấy vào những trọng huyệt của Đinh Xuân Thu, khắc chế lão ma đầu này phải quy thuận. Nói theo y học hiện đại, đó là phương pháp cấy một chất kháng nguyên vào người bệnh nhân và khi kháng nguyên phát tác thì bệnh nhân chỉ còn biết đến năn nỉ thầy thuốc chữa trị. Trong Lộc Đỉnh ký, những nhân vật dùng độc khá nhiều. Hải lão công dùng Hủ cốt tán (thuốc làm nát xương dần dần) bỏ vào trà cho Vi Tiểu Bảo uống. Giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông dùng Độc long dịch cân hoàn cho thuộc hạ uống. Giáo chủ Ma giáo Đông Phương Bất bại (Tiếu ngạo giang hồ) lại cho bọn thuộc ha uống Tam thi não thần đan. Tên thuốc thì rất hay nhưng là thuốc độc, uống vào phải trung thành (hoặc giả bộ trung thành) với người cho uống. Nếu có hành vi chống đối, tất không có thuốc giải, phải chịu nhận cái chết thảm thương.

Kim Dung cũng mô tả những thủ pháp đánh độc dược rất tinh tế, đẵc biệt ở dạng thuốc bột. Thuốc bột được bôi lên quan tài (Liên thành quyết), được phủ trong khăn mặt, được hoà vào rượu, trộn vào thức ăn, được rải bay trong gió.

Côn glực là tiềm lực võ thuật của từng cá nhân, không thể đem cho người khác được. Nhưng tiểu thuyết gia Kim Dung cực kỳ lãng mạn: ông cứ cho các nhân vật của mình đem công lực cho kẻ khác. Chính vì vậy, Nhậm Ngã Hành, giáo chủ Ma giáo, đã hút công lực kẻ khác bằng thủ pháp Hấp tinh đại pháp. Đào cốc lục tiên và Bất Giới hoà thượng đem công lực truyền cho Lệnh Hồ Xung. Đoàn Dự hút công lực của các đệ tử Huỳnh Mi Tăng, biến tất cả thành những người võ công tàn phế.

Cáng lãng mạn hơn nữa, Kim Dung cho phép thủ pháp xoá hẳn công lực của một người khác, tu theo một môn phái khác để truyền công lực mới vào. Đó là Vô Nhai Tử xoá hết công lực Thiếu Lâm của Hư Trúc và truyền công lực của phái Tiêu Dao vào, biến nhà sư trở thành đại biểu của phái Tiêu Dao!

Huyệt đạo trong cơ thể con người thường ở vào những vị trí cố định, ai cũng như ai. nhưng với trí tưởng tượng phong phú của Kim Dung, theo tình huống đưa đẩy câu chuyện, ông đã để cho những nhân vật cá biệt của mình luyện tập sai phương pháp; huyệt đạo không còn ở đúng chỗ cũ nữa. Đó là trường hợp của Du Thản Chi (Thiên Long bát bộ) luyện sai Dịch cân kinh Thiếu Lâm, của Âu Dương Phong (Xạ điêu anh hùng truyện) luyện sai Cửu âm chân kinh đến nỗi xuống đời phải đi bằng tay, chúc đầu xuống đất.

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung cũng đề cập đến những vị thuốc mà thường là thuốc quý dùng trong y học. Đọc Thiên Long bát bộ, ta thật sự xúc động khi Tiêu Phong đánh quá tay A Tử, hối hận vì hành động thiếu anh hùng của mình, đã bồng cô ra cùng Đông Bắc Trung Quốc kiếm nhân sâm, tay gấu chữa bệnh cho cô. Tác phẩm của ông cũng từng đề cập đến Linh chi thảo (cỏ linh chi) hoặc Thiên niên Tuyết liên tử (hạt sen ngàn năm trên đất tuyết) có giá trị hồi dương. Cũng trong Thiên Long bát bộ, Đoàn Dự nuôt lộn con nhái đỏ Mãng cổ chu cáp mà trở thành người có nội công đệ nhất.

Vị thuốc nằm trong toa thuốc. Tuy nhiên, có những toa thuốc mang ý nghĩa ẩn dụ một cách tuyệt vời mà các thầy lang bình thường chưa chắc khám phá được, Như toa thuốc mà Hồ Thanh Ngưu ra cho Trương Vô Kỵ: Phòng phong, Độc hoạt, Đương quy, Xuyên sơn giáp, uống vào canh ba. Cậu bé Trương Vô Kỵ 15 tuổi đọc toa thuốc này, hoàn toàn hoài nghi về cách ra toa bừa bãi với các vị thuốc phổ thông của Hồ Thanh Ngưu. Nhưng trí thông minh đã giúp cậu hiểu ra nghĩa ẩn dụ nằm trong những vị thuốc bình thường: coi chừng (Phòng phong), đi một mình (độc hoạt), quay về (Đương quy), bằng cách đi ngang qua núi (Xuyên sơn giáp). Hồ Thanh Ngưu đang lúc lâm nguy, muốn cứu Trương Vô Kỵ nên ra toa thuốc bảo chàng trốn đi vào lúc canh ba ra khỏi Hồ điệp cốc ngay!

Tôi xin nhắc sơ lược đến hai chữ "tình yêu" khá lạ lùng của Kiến Ninh công chúa (Lộc Đỉnh ký) và cặp Đông Phương Bất Bại - Dương Liên Đình (Tiếu ngạo giang hồ). Nếu nhìn dưới nhãn quan y học thì các nhân vật vừa nói ít nhiều đã bị chứng bệnh tâm thần và Kim Dung đã mô tả cho chúng ta (chứ không bình luận) về trạng thái bệnh lý của họ. Kiến Ninh công chúa, cô bé mới 14 tuổi, là một nhân vật bị chứng khổ dâm (Masochisme). Chứng khổ dâm được định nghĩa là "trạng thái mà trong đó chủ thể chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục qua sự đau đớn về thân xác" (Perversion dans laquelle le sujet recherche le plaisir sexuel dans la douleur physique - Petit Larousse). Kiến Ninh công chúa chỉ thực sự tìm thấy khoái lạc khi thái giám giả hiệu Vi Tiểu Bảo bóp cổ, đánh đập, lấy dao rạch, lấy dây quất vào người cô trước khi chăn gối. Còn Đông Phương Bất Bại đã tự thiến để luyện QUỳ hoa bảo điển (một tên gọi khác của Tịch tà kiếm phổ) nên thành ái nam ái nữ. Y chỉ tìm thấy được khoái lạc tình dục khi có Dương Liên Đình, một nhân vật tốt tướng đẹp trai, ăn mặc xa hoa như một nhà hao phú. Khi bị bốn cường địch là Nhận Ngã Hành, Hướng Vân Thiên, Doanh Doanh và Lệnh Hồ Xung bao vây, y chỉ cần chống đỡ bằng một cây kim thêu mà đã đâm Ngã Hành mù một mắt. Phải đến lúc Doanh Doanh hành hạ Dường Liên Đình, Đông Phương Bất Bại nhìn thấy và đau đớn, mới chịu thua và chết dưới tay sát thủ của Nhậm Ngã Hành.

Võ học luôn kết hợp chặt chẽ với y học. Môn phái nào trong võ hiệp Kim Dung cũng biết dùng thuốc, chữa thương, nuôi nấng và chăm sóc người bị thương. Tất cả đều dựa trên y thuật cổ truyền của người Trung Hoa và do vậy, những điều mà Kim Dung điễn đạt đều có cơ sở khoa học. Thỉnh thoảng, trong vài bộ tiểu thuyết của ông cũng có những điều phi khoa học hoặc không được khoa học hiện đại kiểm chứng như chuện thay đổi công lực, đả thông hai huyệt Nhâm D(ốc. Người ta có thể hoài nghi các giả thuyết đó. Nhưng ai cấm được sự hư cấu, vốn là tình thần và nguyên tắc của sáng tạo tiểu thuyết? Ai cấm được nhà văn diễn đạt một cách lãng mạn, vượt ra ngoài quy luật thông thường của cuộc sống.

Một điều rõ ràng là Kim Dung chỉ viết tiểu thuyết chứ không hề viết sách nghiên cứu về y học Trung Hoa. Nhưng dù là nhà tiểu thuyết, rõ ràng ông đã nghiên cứu kỹ lĩnh vực y học của dân tộc ông để dung nạp một cách hài hoà với lĩnh vực võ học. tạo ra nhưng kiến thức y học phong phú cho tác phẩm và đem lại hứng thú cho người đọc. Kiến thức y học cũng như võ học ấy được xây dựng trên nền tảng kiến thức triết học Trung Hoa. Tất cả khời đi với âm dương và cùng trở về trong cái lẽ huyền diệu của âm dương.

7.Tình yêu

T uy tên gọi là tiểu thuyết võ hiệp nhưng bản chất những tác phẩm của Kim Dung là tình yêu đôi lứa nồng thắm. Chính tình yêu đã làm nên tính cách nhân bản và khiến cho hàng tỉ người say mê tác phẩm của Kim Dung.

Một cách khái quát, Kim Dung đã xây dựng những cặp nhân vật hoặc những cụm nhân vật rồi tạo điều kiện cho họ gặp gỡ hiểu biết và yêu nhau. Ông đã rất tinh tế để cho các nhân vật chính phái yêu tà phái, bạch đạo yêu hắc đạo để tạo nên những mâu thuẫn chiều dọc xuyên suốt chiều dài của tác phẩm và những mâu thuẫn chiều sâu trong tâm hồn của từng nhân vật. Điều đặc biệt là những nhân vật nữ của ông thường rất đẹp, rất thông minh, xuất thân từ Ma giáo hoặc ít nhất cũng mang "một chút tà khí trong người". Đó là những cặp và những cụm nhân vật Lệnh Hồ Xung - Nhậm Doanh Doanh (Tiếu ngạo giang hồ), Trương Thuý Sơn - Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ - Triệu Minh - Chu Chỉ Nhược - Hân Ly - Tiểu Siêu (Ỷ thiên Đồ long ký); Kiều Phong - A Châu, Đoàn Dự - Vương Ngọc Yến - Mộc Uyển Thanh - Chung Linh, Du Thản Chi - A Tử, Hư Trúc - Văn Nghi công chúa (Thiên Long bát bộ), Thạch Phá Thiên - A Tú (Hiệp khách hành), Quách Tĩnh - Hoàng Dung - Hoa Tranh công chúa (Xạ điêu anh hùng truyện), Dương Qua - Tiểu Long Nữ (Thần điêu hiệp lữ)...

Những mối tình được được Kim Dung dựng lên là những mối tình thật trong sáng và do vậy, thật đẹp. Tác phẩm Kim Dung lấy bối cảnh lịch sử từ đầu đời Thanh trở về trước (trước thế kỷ XVII), khi mà tư duy phong kiến và nguyên tắc lễ giáo của đạo Nho đang giữ vai trò độc tôn chi phối toàn bộ những sinh hoạt xã hội. Cho nên, những nhân vật của Kim Dung yêu trong sự cho phép của những tư duy và nguyên tắc ấy. Thế nhưng, tính chất lãng mạn - một thuộc tính không thể thiếu trong yêu đương - thì rất phong phú.

Những nhân vật của Kim Dung đã yêu theo phong cách của võ lâm. trước hết, họ đánh nhau, sau đó hiểu nhau rồi mới yêu nhau. Hân Tố Tố, một nữ ma đầu, con gái Bạch mi ưng vương, đã dùng Văn tu châm (kim râu muỗi) không chế Trương Thuý Sơn phái Võ Đang, rồi sau đó mới yêu Trương. Triệu Minh, con gái Như Nam vương triều Nguyên lưa TRương Vô Kỵ lọt xuống hầm sâu rồi sau đó mới yêu Vô Kỵ (Ỷ thiên Đồ long ký). Mộc Uyển Thanh đã đánh cho Đoàn Dự thừa chết thiếu sống, sau đó mới nhận Đoàn Dự làm lang quân (Thiên Long bát bộ). Ở một chừng mực nào đó, các nâhn vật này vượt qua hàng rào của nghi thức phong kiến và ràng buộc giáo điều của lê giáo: họ tự quyết định tình yêu của mình và cảm thấy hạnh phúc khi được lựa chọn như vậy.

Tình yêu được mô tả trong tác phẩm võ hiê5p Kim Dung mang tính phấn đấu rất cao. Các nhân vật vượt lên hoàn cảnh, vượt qua những sự chống đối để bảo vệ tình yêu của mình. Trương Thúy Sơn cưới Hân Tố Tố, Trương Vô Kỵ bỏ hết sự nghiệp đi theo Triệu Minh, Nhậm Doanh Doanh lang thang qua ngàn trùng để bảo vệ Lệnh Hồ Xung, A Châu vượt ngàn dặm ra Nhạn Môn Quan để chờ đợi Kiều Phong... là những chuyện tình đẹp.

Tình yêu được mô tả trong tác phẩm Kim Dung luôn luôn kinh qua một quá trình hy sinh vô tận. Trương Thúy Sơn vì vợ mà tự tử khiến cho Tố Tố cũng tự vẫn để giữ gìn danh tiết, xứng đáng với chồng. Triệu Minh từ bỏ cha và anh ruột để ra đi cùng Trương Vô Kỵ. Tiểu Siêu về Ba Tư, lên ngôi Thánh nữ Minh giáo mà lòng đau như cắt, cảm thấy cuộc đời hoàn toàn vô vị vì cô chỉ muốn suốt đời hầu hạ cho Vô Kỵ thay áo, chảy đầu. Doanh Doanh cõng tình lang Lệnh Hồ Xung lên núi Thiếu Thất, chịu để phái Thiếu Lâm cầm tù mình đổi lấy lời hứa của Phương Chứng đại sư nhận chữa thương cho Lệnh Hồ Xung. Kim Dung đã thực sự biến tác phẩm võ hiệp của mình trở thành những bản tình ca tươi đẹp. Những bản tình ca ấy hoá giải được biên giới của chánh - tà, hắc - bạch, hận - thù. Chúng bành trướng cảm xúc cho người đọc khi đọc tác phẩm.

Kim Dung đã tạo ra được những nhân vật si tình kinh điển, những "giáo chủ" của đạo tình, hoặc là yêu, hoặc là chết. Vương tử Đoàn Dự suốt đời lẽo đẽo đi theo Vương Ngọc Yến chỉ để cho lúc nàng nguy nan là ghé vai cõng nàng chạy trốn. Du Thản Chi chịu bịt chiếc lồng sắt vào đầu, làm một tên Thiết Sửu giúp vui cho A Tử chỉ để được ngắm khuôn mặt thiên kiều bá mị nhưng tràn đầy ác độc của cô. Mỹ đao vương Hồ Dật Chi say mê Trân Viên Viên, hầu thiếp của Bình Tây vương Ngô Tam Quế đến nỗi chịu hóa thân thành một kẻ làm vườn, tưới rau trong mấy chục năm để được lén nhìn Trần. Truyện võ hiệp của Kim Dung đã xây dựng thành công những chàng si tình bậc nhất thiên hạ, xứng đáng đoạt huy chương vàng trong lịch sử tiểu thuyết cổ kim.

Người ta còn tìm thấy trong tác phẩm tiểu thuyết của ông những tình yêu ngang trái, rất người, thoát ra khỏi khuôn mẫu cho phép của lễ giáo phong kiến Trung Quốc. Đó là Tiểu Long Nữ sư phụ, một cô gái trong sáng bị kẻ tà dâm cưỡng bức, yêu say mê đồ đệ Dương Qua. Đó là Kỷ Hiểu Phù, vợ chưa cưới của Hân Lợi hanh phái Võ Đang, đã thất thân và đã yêu một ma đâu của Minh giáo là Dương Tiêu. Sinh ra một đứa con gái, Hiểu Phù đã can đảm đặt tên cho con là Dương Bất Hối (không hôi hận). Đó là Hồng phu nhân, vợ của giáo chủ Thần long giáo và A Kha, một thiếu nữ mất hết trinh tiết, đã trở thành vợ của Vi Tiểu Bảo.

Tiểu Thuyết của Kim Dung cũng đặt ra những trường hợp sa đoạ tình dục hết sức quái dị. Đó là Kiến Ninh công chúa, em gái vua Khang Hy, đã sa ngã với Vi Tiểu Bảo, một gã thái giám giả mạo, từ năm 14 tuổi. Kiến Ninh chỉ muốn được Vi Tiểu Bảo trói cột, đánh đập cho vỡ da toá máu mới được thấy lạc thú của trao thân. Cá biệt, có trường hợp của Đông Phương Bất Bại, giáo chủ Ma giáo, luyện Quỳ hoa bảo điển phải "dẫn đao tự cung", trở thành kẻ ái nam ái nữ, quan hệ "yêu đương" với gã bộ hạ là Dương Liên Đình. Khi xây dựng những nhân vật, những loại "tình yêu" này, ông đã nghiên cứu rất kỹ những biểu hiện của tính cuồng dâm và đồng tính luyến ái.

Tác phẩm của Kim Dung có những đoạn nói đến tình yêu thật đẹp. Những nhân vật của ông không bao giờ thốt ra miệng chữ yêu nhưng tình yêu của họ nồng nàn trong ánh mắt, trong hành động và trong trái tim. Đó là A Châu trở về Nhạn Môn Quan chờ Kiều Phong để suốt đời "theo đại gia cùng đi săn chồn đuổi thỏ". Đó là Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển "về Ba Tư, đừng nói lên ngôi thánh nữ, dẫu có làm đến nữ hoàng đi nữa mà xa công tử thì cuộc đời cũng rất vô vị". Đó là Nhậm Doanh Doanh bắn tin cho giới ma đầu trên giang hồ phải giết ngay Lệnh Hồ Xung vì "ta muốn ngươi ở mãi bên ta để ta chở che, bảo vệ". Đó là Triệu Mẫn với Trương Vô Kỵ: "Lông mày thiếp đã nhạt màu rồi. Công tử kẻ lại giùm cho thiếp đi". Những lời tỏ tình mang đầy tính ẩn dụ và biểu tượng như thế khiến tác phẩm vừa sâu, vừa không dung tục.

Một điểm khác cũng đáng bàn đến là trong tác phẩm của Kim Dung vẫn có những tình yêu trá nguỵ. Nhạc Linh San bỏ Lệnh Hồ Xung để làm vợ gã ái nam ái nữ Lâm Bình Chi bởi mưu đồ chiếm pho Tịch tà kiếm phổ của Nhạc Bất Quần. Chu Chỉ Nhược đánh lừa hứa hôn với Trương Vô Kỵ để đánh cắp bộ Cửu âm chân kinh theo di huấn của sư phụ là Duyệt Tuyệt sư thái. Nhưng tuổi trẻ của Nhạc Linh San, Chu Chỉ Nhược không nghĩ ra được sự trá nguỵ ấy. Phần trá nguỵ, âm mưu thuộc về sự sắp đặt của những người lớn, người thầy, người cha.

Đọc tác phẩm của Kim Dung, người ta khám phá ra cái đẹp của tình yêu. So với những tác giả cùng thời, tình yêu trong tiều thuyết võ hiệp của ông trong sáng, lành mạnh. Thông qua tình yêu, ông giáo dục cho con người cái mỹ cảm về đạo đức. Nói rằng tác phẩm võ hiệp, thật ra chỉ là một cách nói. Chính tình yêu đã làm nên cái hồn, sự sống cho tiểu thuyết võ hiệp. Mỗi tác phẩm của ông ra đời trở thành một bức thông điệp ngọt ngào cho tình yêu lứa đôi.

8.Tình dục

T rong ngôn ngữ Trung Hoa, chữ Dâm (淫) được viết với bộ Thuỷ, có nghĩa là ham mê sắc dục quá độ. Dâm được coi là một cái gì đó rất tự nhiên đối với xã hội phong kiến Trung Hoa: vua được toàn quyền có nhiều phi tần, quan lại và nhà giàu có quyền cưới nhiều thê thiếp. Người phụ nữ trở thành món đồ chơi, phương tiện giải trí của người đàn ông. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung phản ánh về xã hội phong kiến Trung Hoa nhưng cái nhìn của ông đối với thói dâm đãng nói riêng và tình dục nói chung là một cái nhìn nghiêm túc và nghiêm khắc.

Tác phẩm Kim Dung xây dựng khá nhiều những nhân vật dâm đãng chuyên lợi dụng tình dục. Và ông đã dành những hình phạt nặng nề theo luật giang hồ để trừng trị những loại nhân vật đó.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, nhân vật dâm đãng là Điền Bá Quang. Hắn vừa là tên cướp, vừa là dâm tặc, khinh công rất giỏi và đao pháp rất nhanh. Hắn có ngoại hiệu đúng 14 chữ: Giang dương đại đạo, thái hoa dâm tặc, vạn lý độc hành khoái đao Điền Bá Quang. Nhà sư Bất Giới đã trừng trị hắn: xuyên tụ tiễn vào bộ phận sinh dục và buột hắn cạo đầu làm sư với pháp hiệu Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm). Chính nhờ hình phạt đó mà Điền Bá Quang bỏ được con đường tà dâm, trở thành người tử tế. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, nhân vật dâm đãng là Âu Dương công từ. Hắn là cháu của Tây độc Âu Dương Phong, từ Tây Vực xuống Trung Nguyên, võ công cao cường, chuyên hãm hại lương gia phụ nữ. Da mặt hắn lúc nào cũng trắng bệt! Nhưng Âu Dương công tử tà môn vẫn chưa nguy hiểm bằng Doãn Chí Bình chính phái. Doãn Chí Bình là đệ tử hàng thứ ba của phái Toàn Chân. Hắn đi ngang qua núi Chung Nam thì gặp ngay lúc Tiểu Long Nữ phái Cổ Mộ đang thoát y để luyện võ công trong Ngọc Nữ tâm kinh. Thế là hắn quên mất môn quy, điểm huyệt cô gái, lấy áo đạo bào phủ lên mặt cô và đưa cô vào bụi rậm. Tiểu Long Nữ cứ ngỡ đó là Dương Qua, người học trò thân yêu của mình. Doãn Chí Bình ăn mắm mà Dương Qua khát nước!

Kim Dung nói về những hoạt động tình dục, điều mà người ta cho là dung tục, với một bút pháp tinh tế và trang nhã. Chính vì thế mà trong lần trở về thăm và nhận hàm Tiến sĩ danh dự Đại học Bắc Kinh - Đại nhã chi đường của trung Quốc- vào tháng 1-1995, người ta đã mạnh dạn bàn đến cái nhã, cái tục và ca ngợi Kim Dung là một nhà văn thanh nhã từ văn phong đến nội dung. Khi nói đến những hoạt động tình dục, Kim Dung không bao giờ mô tả. Ông chỉ thuật lại bằng một vài câu ngắn gọn và dành phần suy nghĩ, đánh giá tình hình cho độc giả.

Trong Liên thành quyết, Kim Dung xây dựng nhân vật Huyết đao lão tổ từ Tây Tạng xuống như một nhân vật dâm ác hạng nhất. Trong những chương đầu, cái nhìn của Kim Dung về nhân vật này rất nghiêm khắc, phản ánh quan điểm dân tộc hẹp hòi của ông đối với những con người ngoài Há tộc. Huyết đao lão tổ nhận Địch Vân làm đệ tử. Mọi người gọi Địch Vân là tiển dâm tặc. Nhưng hai thầy trò Địch Vân chẳng hề có một hành động dâm dật vơi ai, ngược lại Địch Vân còn là một chính nhân quân tử.

Nếu Huyết đạo lão tổ là tên "dâm tặc" già nhất thì trong Hiệp khách hành, Thạch Trung Ngọc là tên dâm tặc trẻ nhất. Khi được gửi lên phái Tuyết Sơn học, gã thiếu niên 15 tuổi đó đã có hành vi cưỡng bức cô bé A Tú, con của sư phục mình khiến cô bé phải nhảy xuống lũng sâu để tự bảo vệ tiết sạch giá trong. Thạch Trung Ngọc có đứa em song sinh rất giống mình là Thạch Phá Thiên, thường chỉ được gọi với cái tên Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Khi Cẩu Tạp Chủng xuất hiện, mọi người phái Tuyết Sơn đều tưởng là Thạch Trung Ngọc nên muốn giết cậu. Chỉ có đôi mắt ngây thơ của A Tú mới nhìn ra được "vị đại ca hiền lành này không phải là tên tiểu tặc đó". Ấy vậy mà Cầu Tạp Chủng cũng bị mọi người chửi mấy trăm lần là "tiểu dâm tặc".

Nhưng trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, nhân vật dâm đãng số một phải thuộc về Vi Tiểu Bảo (Lộc Đỉnh ký). Xuất thân trong kỹ viện thành Dương Châu, ngay từ nhỏ, Vi Tiểu Bảo đã quen với cảnh ong bướm lả lơi giữa đám khách làng chơi và các kỹ nữ. Cơ duyên đã đưa hắn lên Bắc Kinh, làm thái giám giả mạo trong cung nhà Thanh. Mới 13 tuổi đầu, hắn đã ôm Mộc Kiếm Bình, quận chúa Mộc vương phủ Vân Nam và chớt nhả với Phương Di, lớn hơn hắn 2 tuổi; 15 tuổi, hắn quan hệ thân xác với công chúa Kiến Ninh; 18 tuổi trôi giạt sang Nga, hắn quan hệ với công chúa Tô Phi Á (Sophia), con gái Sa hoàng! Từ thái giám, hắn lên Đô thống Hoàng kỳ, Khâm sai đại thần, Bá tước rồi Công tước. Trong một lần đi công cán về thành Dương Châu, hắn quan hệ một hơi với 4 người phụ nữ: Tô Thuyên (vợ giáo chủ Thần long giáo Hồng An Thông), A Kha (nghi là con gái của Ngô Tam Quế và Trần Viên Viên), Song Nhi (nữ tì), Tăng Nhu (Thiên địa hội). Rồi hắn ăn ở luôn với cả 4 người trên, lấy luôn cả Kiến Ninh, Phương Di, Mộc Kiếm Bình. Suốt đời Vi Tiểu Bảo chỉ biết có tình dục, không hề biết đến tình yêu chân thật là gì. Kim Dung đã không cho hắn có được niềm hạnh phúc được yêu của Vi Tiểu Bảo. Hôm hắn trở lại Dương Châu thăm mẹ dẫn theo một đoàn thê thiếp, Vi Xuân Phương phải thầm khen con trai mình có mắt.

Trong tác phẩm Kim Dung, không thiếu những lời thoá mạ: dâm tặc, rùa đen, chó lộn giống... Ông đứng trên quan điểm của một nhà nhân bản để nhận xét, đánh giá những hành vi tình dục của các nhân vật do chính mình tạo ra. Ông phán xét họ một cách nghiêm khắc - tất nhiên là với cái nghiêm khắc của một nhà văn chứ không phải một quan toà. Ông để cho những nhân vật dâm đãng tự rước lấy sự trừng phạt công mình của cuộc sống (trừ Vi Tiểu Bảo!).

Cá biệt, có một trường hợp mở đầu bằng hành vi cưỡng bức nhưng kết thúa bằng tình cảm tốt đẹp. Đó là Dương Tiêu (Tả sứ Minh giáo) đã bắt cóc và cưỡng bức Kỷ Hiểu Phù (đệ tử phái Nga Mi). Hiểu Phù sinh ra đứa con gái, đặt tên là Dương Bất Hối để tỏ ý không hề hối hận vì đã thất thân với Dương Tiêu. Diệt Tuyệt sư thái, sư phụ của Kỷ Hiểu Phù, vì vậy đã giết Hiểu Phù. Dương Tiêu ở vậy nuôi con, không cưới vợ nữa để giữ mãi hình bóng của người phụ nữ từng là nạn nhân của anh ta.

Người ta thường nói: "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" để chỉ những quan hệ tất yêu nam nữ trong những hoàn cảnh thuận lợi. Câu nói đầy tính ẩn dụ đấy không thể có trong tác phẩm Kim Dung. Nhiều lứa đôi trong tác phẩm của ông thương nhau, sống với nhau một nơi nhưng trai vẫn giữ được phong độ người quân tử, gái vẫn giữ được tiết sạch giá trong. Đó là Vô Kỵ - Triệu Minh - Chỉ Nhược - Tiểu Siêu, Trương Thuý Sơn - Hân Tố Tố, Lệnh Hồ Xung - Doanh Doanh, Quách Tĩnh - Hoàng Dung, Đoàn Dự - Mộc Uyển Thanh - Vương Ngọc Yến - Chung Linh, Hồ Phỉ - Viên Tử Y, Thạch Phá Thiên - A Tú, Địch Vân - Thủy Phương, Kiều Phong - A Châu. Họ đều rất trẻ, sống giang hồ phiêu bạt nhưng vẫn tôn trọng chữ Lễ, biết yêu say đắm, có thèm khát nhưng không vượt quá giới hạn của tình yêu. Có những lứa đôi thành vợ thành chồng, có lứa đôi ly tán nhưng tựu trung, họ đã sống thật đẹp và yêu thật đẹp. Tôi cho rằng đây là một khía cạnh rất đạo đức trong tác phầm Kim Dung. Nó đem lại cho người đọc - nhất là bạn đọc trẻ - những nhận thức đúng đắn về tình yêu và tình dục, giúp con người vươn lên để sống đúng nghĩa với khái niệm con người.

9. Chất hài

Trước nay, văn học thế giới đã để lại cho chúng ta nhiều tác phẩm của các bậc thầy hài hước. Đưa nụ cười vào văn chương, tạo ra sự hứng thú cho người đọc đã có từ những vở Kỵch của Molière (Pháp), Azit Neshin (Thổ Nhĩ Kỳ), Slavemir Mrojek (Ba Lan). Và trong thời đại chúng ta, tiếng cười có nhiều trong các tờ báo chuyên hài hước, các tiểu phẩm trào phúng, châm biếm. Văn học Trung Quốc cũng đã trước bạ tên tuổi của các bậc thầy cười: Ngô Thừa Ân với siêu phẩm Tây Du Ký, Lỗ Tấn với tác phẩm A.Q Chính Truyện. Trên nền tảng cái cười Trung Quốc, Kim Dung tiên sinh cũng đưa nụ cười vào văn chương của ông, dù văn chương đó ở phạm trù văn chương kiếm hiệp.

Những tình huống trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung luôn luôn sôi động với tính chất đấu tranh, bạo lực, mưu toan, thủ đoạn. Vậy thì việc đưa tiếng cười vào trong những tình huống này quả là một điều khó thực hiện nhất là giữ làm sao cho chất cười đó không phá vỡ cái tổng thể của khái niệm võ hiệp tiểu thuyết. Kim Dung đã làm được việc đó với ngòi bút khéo léo của một bậc thầy và trong 12 bộ võ hiệp tiểu thuyết của ông, chất hài hước đã được dàn trải khắp các chương tạo ra niềm hứng thú cho độc giả.

Trong tác phẩm của ông, có những nhân vật khá hài hước về ngoại diện, tâm hồn thật trẻ thơ và hành sự rất tếu. Với bộ Xạ điêu anh hùng truyện, ta bắt gặp một nhân vật đáng yêu như vậy: Lão ngoan đồng Châu Bá Thông. Châu Bá Thông là nhân vật số 2 của phái Toàn Chân, sư đệ của Vương Trùng Dương, dưới tay có cả một đám sư điệt già nua cổ thụ nhưng tâm hồn ông vẫn là tâm hồn của một đứa bé ngây thơ, trong sáng. Ngay ngoại hiệu Lão ngoan đồng (ông già mà chơi như con nít) cũng đủ để mô tả đặc điểm tính cách nhân vật Châu Bá Thông. Theo sư huynh Vương Trùng Dương sang hoàng cung nước Đại Lý, Châu Bá Thông đã quan hệ tình dục với một cung phi của hoàng gia, đẻ ra một đứa con nhưng nuôi không được. Châu Bá Thông là một cao thủ, suốt đời chẳng biết sợ hãi ai nhưng mỗi khi nghe đến tên nàng cung phi đã lỡ thất thân với mình là ông ta chạy dài. Suốt đời Châu Bá Thông chuyên làm những việc cổ quái. Ngay đến môn võ công ông tự suy nghĩ ra cũng có cái tên kỳ dị không kém: Song thủ hỗ bác (hai tay vừa giúp nhau vừa đánh nhau). Đó là kết quả của một cách phân ý thật lý tưởng: tay trái vẽ hình vuông, tay mặt vẽ hình tròn cùng một lúc, sao cho vuông ra vuông, tròn ra tròn. Chỉ có Châu Bá Thông là làm được việc ấy và luyện thành công kỹ thuật Song thủ hỗ bác. Võ công ông ta đạt đến trình độ kinh người nhng chẳng hề giết chóc ai, hãm hại ai. Mỗi khi ông ta xuất hiện là tình huống trở nên vui nhộn.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta gặp rất nhiều nhân vật hài hước. Đó là Lệnh Hồ Xung, đại đệ tử phái Hoa Sơn, một nhân vật được mô tả là "lãng tử vô hạnh, thanh danh tàn tạ". Phái Hoa Sơn nổi tiếng về sự nghiêm khắc giữ gìn thanh quy giới luật nhưng khi cao hứng lên, Lệnh Hồ Xung sẵn sàng bỏ tất cả ra sau gáy. Anh đánh bạc với bọn du thủ, uống rượu xai quyền cùng anh em giang hồ hào sĩ, đánh cho bọn đệ tử Thanh Thành phải "thí cổ hướng hậu bình sa lạc nhạn" (chổng đít ra sau tan tác như nhạn rơi bãi cát). Bị mụ ni cô - vợ của Bất Giới hoà thượng, má của ni cô Nghi Lâm - cạo đầu và suýt bị thiến vì từ chối tình yêu của Nghi Lâm, Lệnh Hồ Xung đã trả thù" hết sức ngộ nghĩnh. Anh hướng dẫn cho Bất Giới đại sư cách điểm huyệt mụ, đưa mụ vào khách sạn và... cởi quần áo mụ ra làm sao mụ còn chạy thoát khỏi tay Bất Giới. Học được kinh nghiệm quái chiêu đó, Bất Giới đã quỳ xuống lạy Lệnh Hồ Xung, xưng tụng là Lệnh Hồ sư phụ, thậm chí là Lệnh Hồ gia gia!

Bất Giới hoà thượng cũng là nhân vật hài hước số một. Lỡ yêu một ni cô, ông ta cũng cạo đầu đi tu. Nhưng quy luật của Phật gia có ngũ giới cấm, trong đó có cấm tà dâm, mà mục đích của Bất Giới là đi tu để ăn ở cho được với người ni cô đó. Ông ta tự đặt cho mình ngoại hiệu là Bất Giới (chẳng cấm cản gì ráo), đã lấy được ni cô và đẻ ra Nghi Lâm. Nghi Lâm cũng đi tu, làm ni cô của phái Hằng Sơn. Cô thầm yêu trộm nhớ Lệnh Hồ Xung, ân nhân đã cứu mình ra khỏi tay dâm tặc Điền Bá Quang. Thế là Bất Giới phải đi tìm Lệnh Hồ Xung, ép buộc anh làm nhà sư để cưới Nghi Lâm vì trên đời này "chỉ có ông sư là cưới được bà vãi". Đối với Điền Bá Quang, Bất Giới trừng trị thẳng tay: cạo đầu buộc làm sư, đặt pháp hiệu là Bất Khả Bất Giới (không thể không cấm được), buộc Điền Bá Quang tôn Nghi Lâm làm sư phụ rồi buộc Điền Bá Quang làm mai "sư phụ" mình với Lệnh Hồ Xung.

Tuy nhiên, nói đến tiếng cười trong Tiếu ngạo giang hồ, người đọc vẫn nhớ đến Đào cốc lục tiên nhiều nhất. Đó là 6 anh em, tên là Đào Hoa Tiên, Đào Chi Tiên, Đào Điệp Tiên, Đào Thực Tiên, Đào Cán Tiên, Đào Căn Tiên. Họ gồm đủ hoa, nhánh, lá, cành, gốc, rễ nhưng bị cái tội hồ đồ, không phân biệt được ai là lão tam; ai là lão tứ ! Võ công cao cường, tâm ý tương thông, họ không sợ bất kỳ địch thủ nào trên đời. Suốt ngày họ đánh nhau, văng tục, cãi lộn.. Mà cái kiếu cãi lộn của anh em nhà họ Đào cũng rất hoạt kê, càng cãi câu truyện càng rối rắm. Nhìn dưới khía cạnh triết lý, Đào Cốc lục tiên chính là những nhà luận lý học hình thức (logique formelle) của phương Đông. Đào Cốc lục tiên mồm năm miệng mười, suốt ngày chỉ nói, nói và nói; đến vua nhà Tống cũng không cấm họ im miệng được.

Nhưng có một người duy nhất có thể buộc họ câm miệng. Đó là Sát nhân danh y Bình Nhứt Chỉ. Bình Nhứt Chỉ có lệ cứu được một người là ra lệnh cho người đó hoặc anh em người đó đi giết một người khác. Trong một lần Đào Thực Tiên bị trọng thương, bọn ngũ tiên bèn khiêng đến cho Bình Nhứt Chỉ chữa nhưng miệng vẫn nói thiên hô bách sát. Bình Nhứt Chỉ quát một tiếng im là năm lão im ngay bởi vì nếu không im, Bình Nhứt Chỉ sẽ buộc bọn tiên giết tên Đào Thực Tiên! Khi Lệnh Hồ Xung được đưa lên gò Ngũ Bá Cương, Bình Nhứt Chỉ thú nhận rằng không thể chữa thương cho chàng được. Bọn Đào Cốc lục tiên bèn trả thù, đặt ra câu hỏi: "Cứu một người thì giết một người. Nay không cứu được người thì giết ai?" Chính cái luận lý học hình thức của bọn lục tiên đã khiến Bình Nhứt Chỉ tự suy nghĩ và cuối cùng, tự vận kinh mạch cho đứt, chết đi để xứng với ngoại hiệu Sát nhân danh y!

Lệnh Hồ Xung, Bất Giới hoà thượng, Bất Khả Bất Giới Điền Bá Quang, Đào cốc lục tiên là cái trục hài hước của Tiếu ngạo giang hồ. Chung quanh cái trục đó còn có nhiều nhân vật hài hước khác như Hướng Vân Thiên, Quang minh tả sứ của Triêu Dương thần giáo; Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn; bọn quần ni phái Hằng Sơn; bọn giang hồ thảo khấu 36 động 72 đảo... góp thêm tiếng cười cho tác phẩm. Vì thế, Tiếu ngạo giang hồ tràn đầy tiếng cười lạc quan, ngay trong những tình huống bi thương nhất.

Chất hài hước trong kiếm hiệp Kim Dung thường xuất hiện trong những tình huống nghịch lý, thoạt tiên thì có vẻ kỳ quái nhưng đọc kỹ thấy thú vị vô cùng. Ta có thể tìm ra một hồi như vậy trong bộ Hiệp khách hành. Phái Tuyết Sơn có nội biến, bọn Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến bắt giam chưởng môn rồi quay ra đánh nhau để dành chức chưởng môn. Ai cũng tự khoe khoang võ công mình cao cường và họ đánh nhau với những chiêu thức độc ác nhất, tinh vi nhất. Giữa khung cảnh như vậy thì Trương Tam và Lý Tứ, hai sứ giả của đảo Mộc Long đến phát thiếp mời chưởng môn phái Tuyết Sơn đi ăn Lạp bát cúc ngoài biển Đông. Mà "ăn lạp bát cúc" có nghĩa là ra đi không có ngày về. Cả bọn Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến, Tiêu Tự Lệ, Thành Tự Học sợ quá, chẳng ai muốn tranh cái chức chưởng môn nữa. Trương Tam và Lý Tứ bó buộc bọn họ phải đấu võ cho phân thắng bại để xác định chưởng môn. Thế là anh nào anh nấy chỉ đấu cầu thua, thậm chí còn đưa tay chân của mình vào đao kiếm địch thủ để được bị thương và dĩ nhiên, càng bị thương nặng càng tốt. Trận đấu có kiếm bay, có máu chảy nhưng chất hài hước của bốn nhân vật cầu thua lại hoá giải được chất sắt máu kia và làm cho chương tiểu thuyết cực kỳ sống động, thú vị.

Trong truyện võ hiệp của Kim Dung, có những nụ cười rất nóng và có những nụ cười rất lạnh. Cười nóng là cười ha hả, cười đau cả ruột, mọi người cùng cười kể cả độc giả. Trong Thiên Long bát bộ, mỗi khi Tinh Tú hải lão ma Đinh Xuân Thu và bọn đệ tử của lão xuất hiện thì tiếng cười nóng lại rộ lên. Ấy bởi vì với phái Tinh Tú, thói nịnh là một thứ võ công hàng đầu so với những thứ võ công khác trên đời. Đã có những tên đệ tử phái Tinh Tú đem sư phụ Đinh Xuân Thu của mình so sánh với Đức Khổng Tử và kết luận Đức Khổng Tử thua Đinh Xuân Thu vì Khổng Tử không có võ công. Giá mà Đức Khổng Tử sống dậy, đọc được những dòng này, chắc hẳn ngài cũng phải bật cười khoan khoái. Ngược lại với cười nóng là cười lạnh, buồn mà cười, thương mà cười. Đó là mối tình của Du Thản Chi với A Tử.

Đoàn A Tử là cô bé ác độc, đệ tử của Đinh Xuân Thu, bắt được Du Thản Chi để hành hạ cho thoả tính tàn bạo. Cô đã ra lệnh đánh Du Thản Chi thừa sống thiếu chết rồi nướng cái lồng sắt đỏ chụp vào đầu y, biến y thành tên Thiết sửu giải trí cho cô. Nhưng oái ăm thay, ngay từ cái nhìn đầu tiên, Du Thản Chi đã say mê tấm dung nhan mỹ miều của A Tử. Hắn có thể hứng chịu cả trăm ngàn đau khổ để được nhìn thấy A Tử nở một nụ cười. Đôi mắt hắn long lên căm hờn khi có ai hướng về phía A Tử một cái nhìn thiện cảm. Hắn có một pho võ công rất kỳ bí là hàn khí của Kim tầm trùng độc làm nội công và đồ hình của Dịch Cân Kinh làm chiêu thức. Hắn đánh ai một chưởng thì người đó hoá thành băng tuyết ngay. A Tử đui hai mắt, không còn nhìn thấy gì trên đời. Thế là Du Thản Chi đi nhờ người ta tháo cái lồng sắt ra khỏi đầu mình và khuôn mặt của hắn trở thành khuôn mặt dị dạng của quỷ sứ. Hắn kiếm một cái khăn trùm đầu, tìm về với A Tử và tự đổi giọng nói, xưng mình là Trang Tụ Hiền; dẫn cô bé chu du giang hồ, khoe với cô rằng mình là kỳ nam tử, đẹp như Phan An, Tống Ngọc! Rõ ràng là khi có mặt A Tử, hắn đã đánh cho nhiều người thất điên bát đảo nên A Tử hết lòng tin cậy. Chính vì để bảo vệ bí mật cho những lời khoe khoang khoác lác đó, hắn đã phải năn nỉ nhiều người khen hộ hắn anh tuấn, đẹp trai để vừa lòng A Tử. Cái hài hước khi xây dựng cặp nhân vật A Tử - Du Thản Chi của Kim Dung tràn đầy nước mắt, bảo cười cũng được mà bảo khóc cũng không sai. Đó cũng là chất hài hước của Lỗ Tấn trong A.Q Chính Truyện khi A.Q được đưa ra pháp trường!

Được cười với những nhân vật của Kim Dung thật là một điều sảng khoái. Cái sảng khoái đó nằm trong những diễn tiến ngộ nghĩnh của câu chuyện, khiến người ta không tin cũng phải tin. Một thí dụ sinh động nhất là chuyện tuyển phu của công chúa Văn Nghi nước Tây Hạ. Công chúa Văn Nghi đã từng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ bắt, cởi trần truồng và đem vào hầm nước đá tối thui cho nằm cạnh nhà sư Hư Trúc. Mục đích của Đồng Mỗ là phá giới Hư Trúc và quả nhiên, nhà sư trẻ đã không thoát qua khỏi vòng trần luỵ. Lòng anh vừa đau khổ nhưng cũng vừa cảm thấy hạnh phúc. Và suốt đời anh vẫn nhớ người trong mộng nhưng không biết nàng tên là gì, ở đâu. Đùng một cái, nước Tây Hạ ra bảng chiêu phu cho công chúa Văn Nghi. Những thế lực chính trị cảm thấy đây là thời cơ để phục hưng nền quân sự của quốc gia vì kẻ nào làm phò mã nước Tây Hạ là kẻ đó có thể nắm thực quyền về quân đội. Đoàn Chính Thuần nước Đại Lý buộc con là thế tử Đoàn Dự phải đi. Cô Tô Mộ Dung Phục cũng đi đến cầu hôn với hy vọng phục hưng binh lực nước Đại Yên. Hoắc Đô Vương tử nước Thổ Lỗ Phồn cũng đến tranh thủ. Chỉ có chàng Hư Trúc là đi chơi, hoàn toàn không nghĩ đến chuyện tuyển phu. Tất cả chương trình tuyển phu chỉ gồm có 3 câu: "Trên đời, người thích ai nhất? Người ấy tên gì, ở đâu?". Các Vương tử, thế tử đều đáp xong. Đến lượt, người ta đùa cợt, đẩy Hư Trúc vào. Đáp câu thứ nhất, Hư Trúc bảo: "Trên đời ta chỉ thích nàng nhất". Câu thứ hai: "Tối quá, ta không biết tên". Câu thứ 3:"Trong hầm nước đá" Và chỉ 3 câu đó, Hư Trúc tìm ra người tình nhân - Mộng Cô - của mình, trở thành phò mã nước Tây Hạ giữa sự ngạc nhiên của mọi người. Hoá ra, trò tuyển phu đó không phải là một đòn phép chính trị nhằm đối địch với ai cả. Đó chỉ là một cách để tìm ra người đàn ông mà công chúa đã từng yêu dấu và trao thân gửi phận.

Thế nhưng, không có tác phẩm nào tập trung cao độ tính hài hước bằng bộ Lộc Đỉnh ký. Từ cách xây dựng nhân vật trung tâm đến tình huống diễn tiến câu chuyện, đến ngôn ngữ nhân vật, Lộc Đỉnh ký là một bộ hài Kỵch lớn. Không chương nào của tác phẩm thiếu tiếng cười. Chuyện bắt đầu khi Vi Tiểu Bảo, một tiểu lưu manh trong động điếm Lệ Xuân viện thành Dương Châu được Mao Thập Bát, một hào khách giang hồ đem lên Bắc Kinh. Bằng thủ đoạn ma mãnh, Vi Tiểu Bảo đã giết được Tiểu Quế Tử thái giám, hoá thân làm Tiểu Quế Tử. Từ đó, hắn thân cận được với vua Khang Hy, trở thành bạn nhỏ của nhà vua, giúp vua giết được loạn thần Ngao Bái, gia nhập thiên địa hội và hoạt động gián điệp. Hắn trở thành Chánh đô thống hoàng kỳ, phong tặng tước hiệu Ba Đồ Lỗ; Khâm sai đại thần đi công cán Vân Nam; Tứ hôn sứ; Bá tước; Nguyên soái cầm quân chinh phạt quân La Sát! Công lao hắn lớn hơn bất kỳ một vị cố mệnh đại thần nào của triều Khang Hy.

Để đạt được tột đỉnh vinh quang đó, hắn chỉ áp dụng hai thứ kinh nghiệm: một là kinh nghiệm sống trong động điếm và hai là những câu chuyện truyền kỳ trong bộ Anh Liệt Truyện mà hắn nghe được thủa còn ở Dương Châu. Thông qua nhân vật Vi Tiểu Bảo, người ta nhận ra một định đề bất ngờ: "Trên đời nầy, kỹ viện và hoàng cung là hai nơi trá nguỵ nhất". Đắc thủ kinh nghiệm từ kỹ viện đến hoàng cung, Vi Tiểu Bảo trở thành nhân vật đệ nhất trá nguỵ. Nhân vật trá nguỵ ấy đã trở thành Hối minh hoà thượng, sư đệ của Hối Thông, phương trượng chùa Thiếu Lâm; rồi sau đó lại trở thành trụ trì chùa Thanh Lương trên Ngũ Đài Sơn ! Nhân vật ấy đủ sức "trị" tên đại Hán gian Ngô Tam Quế; trở thành cố vấn đặc biệt cho Sa hoàng Nga La Tư; thay mặt Khang Hy Hoàng đế quan hệ giao hảo với Mông Cổ và Tây Tạng.

Thế nhưng, nhân vật quan trọng ấy không biết chữ. Trong 3 chữ họ tên của mình, Vi Tiểu Bảo chỉ đọc được chữ Tiểu vì chữ này dễ nhận ra với 3 nét. Ấy thế mà bọn nhà văn có tên tuổi trong lịch sử văn học triều Thanh như Cố Viêm Võ, Tra Y Hoàng phục lăn phục lóc, hết lời ca ngợi. Nhân vật ấy đưa vào trong văn chương một mớ ngôn ngữ thoá mạ bình dân, tục tĩu như "con mẹ nó", "tổ bà quân rùa đen", "phường chó đẻ"... Vi Tiểu Bảo "sáng tạo" ra những thuật ngữ mà chưa một thời đại nào người ta dám đem gán ghép cho những nhân vật cao quý trong xã hội phong kiến: công chúa Kiến Ninh được coi là con đượi non, thái hậu được gọi là mụ điếm già. Mớ ngôn ngữ ấy đã được "truyền bá". Trần Cận Nam, thầy của Vi Tiểu Bảo, cũng biết gọi thái hậu là "mụ điếm già". Vua Khang Hy cũng học thứ ngôn ngữ bình dân của Vi Tiểu Bảo mà mở miệng thoá mạ "con mẹ nó". Chẳng những thế, nhà vua cũng sẵn sàng làm những việc làm hết sức "bình dân", chẳng ra thể thống một Đại Thanh Hoàng đế chút nào. Tôi cho rằng đoạn trích sau đây có thể nói lên chất hài hước cao đó của Lộc Đỉnh ký:

"Sách thánh hiền đọc nhiều quá, toàn những đoạn khô khan. Đột nhiên, nhà vua được nghe những câu "Tổ bà nó", "Té đái vãi phân", tuy thô tục nhưng cũng thấy vui vui liền bắt chước nhưng chỉ khi nói với Vi Tiểu Bảo mới đưa ra. Hôm nay, nhà vua gặp phụ hoàng, vừa hoan hỉ vừa bi thương, nhưng thân cận cha được nửa giờ đã bị đẩy ra ngoài cửa chẳng biết từ nay còn có dịp nào gặp lại, trong lòng rất là khó chịu. May có Vi Tiểu Bảo nói năng thú vị làm vơi nỗi uất ức đi nhiều. Khi bàn tới đại sự trừ phản dẹp loạn, ngài lại nổi hùng tâm.

Nhà vua đứng dậy đi ra ngoài sân mấy bớc, hai tay bê mấy hòn đá bày ra dưới đất, miệng nói:

- Hán quân có tứ vương, nào Đông Vương, nào Tây phiên, nào Bắc biên, phải phân chia ra không thể để chúng liên hiệp với nhau được. Lại còn Định Nam Vương Khổng Hữu Đức nhưng may thằng cha này chết rồi, chỉ để lại một đứa con gái thì cách đối phó chẳng khó khăn gì.

Nhà vua dứt lời, vung chân đá một hòn đá ra ngoài rồi nói tiếp:

- Cảnh Tinh Trung thần dũng hơn đời nhưng lại là kẻ vô mưu nên chẳng có chi đáng ngại. Chỉ cần làm cho hắn không liên minh được với họ Trịnh ở Đài Loan là xong.

Nhà vua lại đá một hòn đá nữa đi rồi nói tiếp:

- Thượng Khả Hỷ thì phụ tử bất hoà. Giữa hai cha con hắn cũng thành thế nước lửa nhằm khuynh loát nhau, chắc chẳng làm nên trò trống gì.

Khối đá thứ ba bị hất tung đi. Chỉ còn một khối đá lớn nhất. Nhà vua nhìn chằm chặp vào khối đá này, ngơ ngẩn xuất thần.

Vi Tiểu Bảo cất tiếng hỏi:

- Tâu Hoàng thượng ! Phải chăng đây là Ngô Tam Quế ?

Vua Khang Hy gật đầu.

Vi Tiểu Bảo mắng liền:

- Thằng giặc thối tha này. Sao mi không chết đi khiến cho Đức Hoàng Đế phải vì mi mà tổn thương cân não. Tâu Hoàng thượng ! Xin Hoàng thượng đái vào người hắn.

Vua Khang Hy cười ha hả, nổi dạ trẻ thơ, vạch quần đái vào phiến đá.

Ngài cười nói:

- Ngươi cũng đái vào đi.

Vi Tiểu Bảo cười rộ. Gã vừa đái vừa nói:

- Hồi sách này kêu bằng Vạn tuế gia cao sơn lưu thuỷ. Tiểu Quế Tử ... Tiểu Quế Tử ...

Gã chợt nhớ thầy đồ nói chuyện Tam Quốc có một hồi kêu bằng "Quan Vân Trường thuỷ yếm thất quân" liền nói tiếp:

- "Tiểu Quế Tử thuỷ yếm thất quân"

Vua Khang Hy không nín được, lại cười ha hả. Ngài vừa thắt quần lại vừa nói:

- Sau nầy mà ta bắt được tên giặc thối tha kia thật sự thì sẽ đái hẳn vào người hắn.

Vi Tiểu Bảo thấy Tiểu Hoàng Đế ra chiều căm hận Ngô Tam Quế thì trong bụng mừng thầm tự nhủ:

- Ta cùng bọn Mộc Vương phủ đánh cuộc về vụ này. Thế là phe mình ăn chắc đến quá nửa rồi."

Và gần như không có nhân vật nào trong Lộc Đỉnh ký không có tính hài hước. Công chúa Kiến Ninh cũng biết chửi tục "Con mẹ nó, té đái vãi phân" và gây ra một hành động kinh thiên động địa mà không phải người phụ nữ nào cũng dám làm: lấy súng bắn nát bộ phận sinh dục của chồng chưa cưới. Hối Thông đại sư, trụ trì chùa Thiếu Lâm, ca ngợi sư đệ của mình là Hối Minh (tức Vi Tiểu Bảo) định lực cao cường khi đối đầu với bọn Cát Nhĩ Đan Vương tử mà chẳng biết Vi Tiểu Bảo sợ quá, thở cũng không nổi và đã "đi" ra đầy cả quần. Trừng Quang đại sư cầm đầu Thập bát La hán chùa Thiếu Lâm ngây thơ đến nỗi nghe Vi Tiểu Bảo đi chơi kỹ viện (động điếm) cũng cho rằng kỹ viện là một "viện" tương đương với Đạt Ma viện của chùa Thiếu Lâm. Thậm chí khi Trừng Quang đại sư nghiên cứu võ công cũng phải nhờ Vi Tiểu Bảo chỉ điểm, hướng dẫn!

Có người cho rằng Lộc Đỉnh ký là tác phẩm của thời đại chúng ta, Vi Tiểu Bảo là con người sống trong thời đại chúng ta. Tôi nghĩ là nhận định đó hết sức nghiêm túc và hợp lý. Với chất hài hước của Lộc Đỉnh ký, thế kỷ 20 hiện thân rành rành trong tiểu thuyết võ hiệp, với những con người, những tình huống, những suy nghĩ của nó.

Không dễ đưa chất hài hước vào văn chương như đưa vào sân khấu hay thơ ca. Tôi đã đọc Kim Dung nhiều lần trong đời. Với Du Thản Chi trong Thiên Long bát bộ, tôi nhỏ nước mắt. Với Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký, tôi cười ha hả. Nhiều đêm, chợt tỉnh giấc ngủ, nhớ đến Vi Tiểu Bảo, tôi bật cười một mình. Con người ngộ nghĩnh, thú vị, sống rất chân thật đó đã trở thành một biểu tợng hài hước của thế kỷ thứ 20 chứ không riêng gì trong tác phẩm võ hiệp của Kim Dung.

Trong hoàn cảnh đất nước chưa hoà bình, chiến tranh vẫn còn tiếp diễn nhiều nơi, lòng người hoang mang ly tán như xã hội miền Nam trước năm 1975, tác phẩm võ hiệp Kim Dung với những màn hài hước đặc sắc vụt trở nên phương tiện giải trí đắt giá. Tâm trạng chung của bạn đọc lúc đó là tìm ra một cái gì vui trong một đời sống có nhiều bế tắc và niềm bi thảm. Ta không thấy làm lạ khi người đọc đón nhận từng chương, từng hồi của tác phẩm Kim Dung đăng trên báo dưới dạng feuilleton. Tôi chưa nói đến giá trị văn học, giá trị tư tưởng, giáo dục. Chỉ một chức năng giải trí, văn chương Kim Dung đã đáp ứng đầy đủ cho người đọc. Hài hước trở thành một thang thuốc bổ, đem lại cho đời nụ cười ý vị.

10. Ghen

Ghen (jalousie) là một tình cảm tự nhiên của con người, đặc biệt là ở phụ nữ. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tuy trọng tâm phản ánh về những sinh hoạt võ lâm, cũng đã có những nhân vật ghen tuông, tình huống ghen tuông thú vị. Nhận định về tình yêu trong tiểu thuyết võ hiệp của ông mà không nhận định về cái ghen quả thật là một thiếu sót.

Một cách khái quát, Kim Dung dùng khái niệm rất cụ thể để nói về cái ghen. Ghe được gọi là "bình giấm chua" hoặc "ghè tương". Còn cái binh giấm chua và ghe tương đó đổ bể trong tình huống nào, đổ bể ở đâu thì lại là chuyện khác.

Ở mức độ sơ cấp, người phụ nữ bày tỏ lòng ghen tuông một cách nhẹ nhàng, đôi khi không khỏi khiến độc giả buồn cười, thương hại. Đó là trường hợp Á bà bà (bà già câm) (Tiếu ngạo giang hồ). Ở tuổi đôi mươi, bà đã xuất gia đi tu và là một nữ ni xinh đẹp. Có một chàng đồ tể cảm mến sác đẹp đó, cứ theo tán tỉnh hoài. Và hắn cũng cạo đầu đi tu, tự đặt pháp hiệu cho mình là Bất Giới hoà thượng. Hắn cho rằng "chỉ có ông sư mới có thể yêu bà vãi" (?) Họ thành vợ chồng và sinh ra cô con gái xinh đẹp là Nghi Lâm. Một lần, Bất Giới nhìn thấy Ninh Trung Tắc, vợ Nhạc Bất Quần. Ông ta lỡ miệng khen Ninh Trung Tắc đẹp, thế là Á bà bà nổi cơn ghen vì "đã có vợ rồi, sao lại còn khen kẻ khác đẹp?". Bà ta bỏ luôn Bất Giới, vào phái Hằng Sơn giả làm mụ già câm điếc, chuyên việc quét chùa, lau tượng trong 18 năm, báo hại Bất Giới đi tìm muốn chết!

Ở mức độ trung cấp, cái ghen bắt đầu có "bài bản" hơn. Đó là trường hợp ghen của Mai Phương Cô (Hiệp khách hành). Mai Phương Cô thầm yêu trộm nhớ Thạch Thanh nhưng Thạch Thanh chỉ yêu và cưới Mẫn Nhu. Họ sinh được hai đứa con trai song sinh: Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên. Thạch Phá Thiên mới 6 tháng tuổi thì... mất tích. Ai bắt? Chính là Mai Phương Cô. Nàng đem cậu bé về hoang sơn dã lĩnh ở Triết Giang nuôi nấng, đặt tên cho bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống) để mỗi khi lòng ghen tuông với hạnh phúc của Mẫn Nhu nổi lên, nàng kêu mấy tiếng "cẩu tạp chủng" cho đỡ buồn!

Cẩu Tạp Chủng lớn lên, thành một chàng trai tuấn tú, hiền lành nhưng hoàn toàn dốt nát. Nhưng chính nhờ đó mà chàng trở thành một con người đệ nhất võ công đắc thủ được trong bài thơ Hiệp khách hành, khác xa người anh ruột dâm ác và tàn bạo Thạch Trung Ngọc. Hiệp khách hàng - một bài thơ danh tiếng của Lý Bạch, đi vào tiểu thuyết Kim Dung, trở thành một tác phẩm tiểu thuyết ca ngợi lòng dũng cảm, đức hy sinh và tâm hồn trung hậu của chàng trai Cẩu Tạp Chủng Thạch Phá Thiên.

Ở mức độ cao cấp, cái ghen được Kim Dung nâng lên thành những âm mưu, thủ đoạn cao cường. Đó là cái ghen của Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên Đồ long ký). Ở trên đảo hoang, để độc chiếm kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, cô đánh thuốc mê cho mọi người, lấy kiếm rạch mặt và giết Hân Ly, trói Triệu Minh và bỏ lên một con thuyền thả lênh đênh, mưu đồ để Triệu Minh chết đói vừa đổ vạ cho nàng. Trở về trung Nguyên, Chu Chỉ Nhược lập tức tiến hành hôn với Trương Vô Kỵ nhưng lại bị Triệu Minh phá ngang, làm Trương Vô Kỵ bỏ hôn lễ và chạy theo Triệu Minh để tìm nghĩa phụ tạ Tốn. Chu Chỉ Nhược vừa thẹn, vừa sợ bại lộ âm mưu, đã sử dụng một chiêu ác độc nhất trong Cửu âm bạch cốt trảo, định đánh vỡ sọ Triệu Minh để bịt đầu mối. Tuy nhiên Triệu Minh chỉ bị thương, và nhờ vết thương đó, Trương Vô Kỵ mới dần hiểu được rằng Chu Chỉ Nhược là người đánh cắp kiếm Ỷ thiên và đao Đồ long, luyện thành Cửu âm bạch cốt trảo giấu trong thân kiếm, bắt cóc cha nuôi của mình là Tạ Tốn và là người giết Hân Ly.

Cái ghen tuông không chỉ có trong những bậc nữ lưu bình thường. Cái ghen trong bậc nữ lưu quý tộc còn ghê gớm hơn. Đó là trường hợp của Đao Bạch Phụng, người tộc Bãi Di, vợ Đoàn Chính Thuần. Thân là Vương phi nước Đại Lý, giận chồng lăng nhăng, đã đem tấm thân ngàn vàng cho gã ăn mày dơ dái ân ái... "Mối tình" chớp nhoáng đó đã sinh ra vương tử Đoàn Dự, danh nghĩa là con Đoàn Chính Thuần nhưng huyết thống là con Đoàn Diên Khánh. Vương phu nhân, gốc người tộc Đảng Hạng (Tiên Ty), còn ghen ghê gớm hơn. Giận Đoàn Chính Thuần, hễ ai họ Đoàn nước Đại Lý lọt vào sơn trang của bà là bà ra lệnh giết để làm phân bón hoa.

Tuy nhiên, cái hay của Kim Dung là không biến những tình huống ghen tuông trong tác phẩm của mình trở thành những vụ án hình sự có nhà tan, người chết. Những nhân vật của ông chỉ ghen như một cách bày tỏ thái độ, chẳng có ai chết cả. Hên ly vẫn không chết do nhát kiếm của Chu Chỉ Nhược, thậm chí, nhờ đó mà độc tính của Thiên châu tuyệt hộ thủ theo máu thoát ra ngoài và cô... sống lại.

Đứng trên quan điểm hôn nhân của chế độ phong kiến, Kim Dung cho phép những nhân vật nam của mình có nhiều vợ, nhiều tình nhân. Đoàn Chính Thuần có một vợ và... 5 tình nhân (có kể lại!); Vi Tiểu Bảo có... 7 vợ và một tình nhân. Tuy nhiên, Kim Dung cũng đã để cho những nhân vật nữ của mình đấu tranh chống lại quan điểm đa thê sai trái đó. Một cách tích cực, ghen tuông được coi là một cách thể hiện phản ứng chế độ đa thê. Những Á bà bà, Đao Bạch Phụng... là những con người đã phản ứng như vậy.

Quả thật đáng buồn nếu có những nhân vật (và ngay cả những người thật) không biết yêu và cũng chẳng biết ghen. trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, người ta yêu tha thiết nhưng ghen tuông cũng cháy chòi lá! Rõ ràng, tuy lấy bối cảnh là xã hội phong kiến Trung Quốc nhưng tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung lại đi sát cuộc đời bởi vì tâm tình trong đó là tâm tình của xã hội phương Đông thời hiện đại.

11. Chất thơ

Đưa thơ vào trong tiểu thuyết, cho tiểu thuyết có chất lãng mạn nhằm tạo thi hứng cho cả người viết lẫn người đọc là đặc điểm cố hữu của 300 tiểu thuyết chương hồi thời Minh - Thanh. Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần có trên vài trăm bài thơ và khi thực hiện phim Hồng Lâu Mộng, các nghệ sĩ Bắc Kinh đã biến những bài thơ này thành nhạc từ - một dạng nhạc phủ - được hát lên, làm giàu thêm chất liệu nghệ thuật cho tác phẩm điện ảnh. Nhà văn Kim Dung đã kế thừa phong cách đưa thơ vào tác phẩm tiểu thuyết như các nhà văn tiền bối mặc dù tiểu thuyết chương hồi của ông là tân văn tiểu thuyết. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung là một nhà thơ thực sự; ông đã viết cả vài trăm bài thơ, đặc biệt là thơ Thiền tông. Những bài thơ này chưa được in ra; người đời chỉ biết ông là nhà văn chứ chưa hề hiểu được ông còn là một nhà thơ. Chúng ta cũng lưu ý rằng ông nội Kim Dung đã từng làm tri huyện huyện Đơn Dương, Triết Giang và là một nhà thơ khá nổi tiếng cuối đời Thanh với thi tập Hải Ninh Sát Thị Sao Thi. Có lẽ âm vang của truyền thống tiểu thuyết Minh - Thanh, âm vang của truyền thống gia đình đã khiến Kim Dung mạnh dạn đưa thơ vào tiểu thuyết võ hiệp, làm cho những tác phẩm văn xuôi của ông mênh mang một màu thi ca lãng mạn, trữ tình.

Có những tác phẩm của Kim Dung lấy thơ làm nguồn cảm hứng chủ yếu. Đó là trường hợp bộ Hiệp khách hành, gồm 14 quyển. Hiệp khách hành là tựa đề một bài thơ dài của nhà thơ Lý Bạch, một trong Đường - Tống bát đại gia mà lịch sử văn học Trung Quốc rất đỗi tự hào. Thơ Lý Bạch có nhiều thể tài: Diễm ca (ca ngợi cái đẹp), Tuý ca (viết trong lúc say), Biệt ca (viết lúc chia tay nhau), Biên tái ca (viết về cuộc đời chinh chiến), Tình ca (ca ngợi tình yêu), Hành ca (ca ngợi chuyện giang hồ mạo hiểm),... Hiệp khách hành là một bài thơ ngũ ngôn, thuộc thể Hành ca, ca ngợi Nguỵ Vô Kỵ, tức Tín Lăng Quân, công tử nước Nguỵ và 2 hiệp khách - Hầu Doanh, người giữ cửa Di Môn cùng Chu Hợi, anh hàng thịt. Hai người đã có công giúp Tín Lăng Quân đưa quân sang cứu nước Triệu, bảo vệ Hàm Đan, chống lại quân Tần thời Chiến quốc.

"Triệu khách mạn hồ anh

Ngô câu sương tuyết minh

Ngân yên chiếu bạch mã

Táp nạp như lưu tinh..."

Đi vào trong tiểu thuyết Kim Dung, cả bài thơ Hiệp khách hành vẫn được giữ nguyên nhưng nó không còn là một bài thơ nữa. Nó chính là một pho võ công mà ai có tấm lòng chân chất nhất, ít cơ tâm nhất mới nhận ra được. Con người đó là một chàng trai không hề biết chữ: Thạch Phá Thiên tức Cẩu Tạp Chủng. Anh cóc cần bài thơ nói lên ý nghĩa gì, câu thơ biểu đạt điều gì. Anh chỉ nhìn nét chữ. Ví dụ chữ Hành gồm 6 nét thì anh khám phá ra sáu thế võ tương ứng với 6 nét đó chứ không cần biết Hành là đi hay chạy. Anh cứ lẳng lặng khám phá tự dạng như thế cho đến chữ cuối cùng và đắc thủ một môn thần công, điều mà có những người bỏ ra mấy chục năm vẫn không khám phá được. Kim Dung gọi đó là lối trước ý.

Thiên Long bát bộ mênh mang một không khí lãng mạn, trữ tình của thơ. Đó là những câu thơ của Kim Dung làm ra để ca ngợi hoa trà, một quốc hoa của nước Đại Lý:

Thanh quần ngọc diện như tương thức

Cửu nguyệt trà hoa mãn lộ khai

(Quần xanh, vóc ngọc tuồng quen mặt

Tháng chín, hoa trà rợp lối đi)

Hoặc:

Xuân câu thuỷ động trà hoa bạch

Hạ cốc vân sinh lệ tử hồng

(Dòng xuân nước gợn hoa trà trắng

Non hạ mây trôi trái vải hồng).

Đó là những câu thơ do chính Kim Dung làm ra nhưng được gắn vào cho những nhân vật của mình, để các nhân vật tỏ tình trước tình nhân. Thí dụ Trấn Nam vương gia Đoàn Chính Thuần, một con người phong tình rất mực, thường "nói" với các tình nhân Vương phu nhân và Tu la đao Tần Hồng Miên. Với Vương phu nhân, một người rất yêu hoa, Đoàn Chính Thuần đọc:

Dưới khóm mẫu đơn đành bỏ mạng

Chết làm quỷ sứ cũng oai phong

Với Tần Hồng Miên, một người chuyên phóng Tu la đao, Đoàn Chính Thuần chỉ "biên tập" hai chữ mẫu đơn:

Dưới lưỡi Tu la đành bỏ mạng

Chết làm quỷ sứ cũng oai phong

Thi ca, từ phú không thể tách rời với thi pháp. Trong những ngày sống chung với Nguyễn Tinh Trúc, Đoàn Chính Thuần đã chép tặng bà này bài Sầm viên xuân, một bài từ danh tiếng:

Sóng thu dường điểm mực

Tóc phượng rủ bên tai

Dung nhan tuấn nhã

Vẻ thiên nhiên càng ngắm càng tươi

Cách hoa nhìn bóng dáng

Vằng vặc ánh sao thưa

Ngồi tựa lan can ngắm

Mặt hồ gươm phẳng lặng như tờ

...Bao giờ quên được

Hình ảnh lúc chia phôi

Khăn là ướt đẫm

Ly biệt đôi đàng dòng lệ rơi.

Đoàn Chính Thuần là một vương gia phong nhã, có riêng một thư pháp. Chính nhờ đó, Tiêu Phong đã đối chiếu nét chữ trên bài từ với nét chữ của một nhân vật ẩn danh được gọi là "Thủ lĩnh đại ca" trong lá thư viết về truyện giết cha ông ngoài Nhạn Môn Quan và biết Đoàn Chính Thuần không phải là người chủ mưu vụ giết cha mình.

Thơ luôn gắn liền với tình yêu, đặc biệt là những mối tình dang dở. Gần như Kim Dung tôn trọng triệt để mô thức đó... Trong Tiếu ngạo giang hồ, Lệnh Hồ Xung và Nhạc Linh San thương yêu nhau. Rồi một người thứ ba - Lâm Bình Chi - hiện ra và Nhạc Linh San say mê Lâm Bình Chi, phụ rẫy mối tình của Lệnh Hồ Xung. Nàng lấy Lâm Bình Chi khi Lâm Bình Chi đã tự thiến (dẫn đao tự cung) để luyện Tịch tà kiếm phổ. Biết chồng mình không còn là đàn ông nữa, Nhạc Linh San đau đớn nhớ thương chàng Lệnh Hồ Xung. Cô đã đề lên trên tấm vải một bài thơ của danh sĩ Lý Thương Ẩn, mượn thơ người để biểu đạt tâm trạng của mình:

Nhớ xưa luyến ái Hàn công tử

Xương trắng thành tro hận chửa tan.

Ngày Nhạc Linh San chết đi, Lệnh Hồ Xung trở về núi Hoa Sơn. Anh vào căn phòng riêng của Nhạc Linh San và đọc được hai câu thơ ấy, biết được tâm trạng Nhạc Linh San và cảm thấy thương yêu cô gái bất hạnh hơn bao giờ hết.

Cũng trong Tiếu ngạo giang hồ, ta đọc được những câu thơ bình dân khá nổi tiếng của người Trung Hoa. Gần như bọn giang hồ hào sĩ thường lấy những câu thơ nầy làm câu cửa miệng, đọc lên trong những tình huống thích hợp. Thí dụ khi chia tay nhau họ đọc:

Thanh sơn bích thuỷ

Hậu hội hữu kỳ

(Non xanh trơ đó

Nước biếc vẫn đây

Còn ngày gặp gỡ)

Hay khi khuyên ai xuống tay giết một người, họ thường đọc hai câu thơ:

Tiểu lượng phi quân tử

Vô độc bất trượng phu

(Lượng nhỏ chẳng thành người quân tử

Không độc sao nên đấng trượng phu)

Những câu thơ thông tục, đặt đúng vào vị trí trong văn cảnh, đã làm tác phẩm tăng thêm chất văn học.

Thơ luôn gắn liền với kinh điển của các tôn giáo, bang hội. Trong kinh của Báo hoả giáo Ba Tư, có đến trên 100 bài thơ của Nga Mạc, đã được nhà thơ Quách Mạt Nhược dịch ra bản Quan thoại. Kim Dung đã khéo léo sử dụng một bài thơ ngắn nói về số phận con người, gắn bài thơ đó vào thân phận Tiểu Siêu, cô gái lai Ba Tư - Trung Hoa trong Ỷ thiên Đồ long ký. Tiểu Siêu thương yêu Trương Vô Kỵ nhưng không hề nói lên lòng thương yêu đó. Cô chỉ vẫn thường hát cho anh nghe:

Lai như lưu thuỷ hề, thệ như phong

Bất tri hà xứ lại hề, hà sở chung

Chỉ có 17 chữ nhưng bài thơ cực kỳ hàm súc. Tôi xin tạm dịch:

Chợt đến như dòng nước chảy

Rồi tàn như gió thoảng mau

Chẳng biết từ nơi nào đến

Và chẳng biết tàn nơi đâu.

Cho đến khi Tiểu Siêu hôn Trương Vô Kỵ, từ biệt anh để trở về Ba Tư, Trương Vô Kỵ mới khám phá ra ý nghĩa của tình yêu nằm trong lời kinh Bái hoả giáo. Cuộc đời con người ngắn ngủi thì tình yêu cũng thế; cũng Lai như lưu thuỷ hề, thệ như phong và bất tri hà xứ lai hề, hà sở chung. Tôi cho đoạn Tiểu Siêu chia tay Trương Vô Kỵ trên biển là đoạn hay nhất, giàu chất thơ nhất trong cả 12 pho tiểu thuyết đồ sộ của Kim Dung.

Thơ chính là Đạo. Kim Dung muốn bạn đọc của mình nhận ra điều ấy. Ông đã để cho những nhân vật của mình xuất khẩu thành thơ, ngôn từ đơn giản nhưng ý tứ - cái Đạo bên trong - lại rất bao la, thâm diệu. Thí dụ như bài thơ của nhà sư Trí Quan đọc cho Kiều Phong khi nghe Kiều Phong lên núi thiên thai, chùa Chỉ Quán, yết kiến ông và hỏi thăm gốc gác của mình. Tự thâm tâm, Kiều Phong rất xấu hổ, rất đau đớn vì mình là người Khiết Đan; mình không thuộc dân tộc Hán. Nhà sư Trí Quan đã giải quyết mối ưu tư nội tại của Kiều Phong bằng một bài thơ mang chất thiền mênh mông:

Khiết Đan với Hán nhân

Bất luận giả hay chân

Ân oán cùng vinh nhục

Không hơn đám bụi trần

Kim Dung đã đẩy tiểu thuyết của mình đi đến bờ cõi bao la của triết học. Và tuỳ trình độ nhận thức, cảm thụ; các nhân vật của ông ngộ hay không ngộ vấn đề. Tất nhiên, bài thơ như thế này rất gần gũi với con người, không đến nỗi bí hiểm như những công án của Thiền tông.

Trong 12 pho tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, thơ Trung Hoa và thơ của Kim Dung xuất hiện đều đặn. Nó trung hoà với tính chất sắt máu của cuộc đấu tranh chánh - tà, thể hiện cái hồn của văn học tiểu thuyết chương hồi truyền thống. Nó kết hợp với thư pháp (phép viết chữ), hình thành nên những pho võ công cho phán quan bút, kiếm pháp, chưởng pháp. Nó làm nên tố chất lãng mạn cho tình yêu, chất triết lý cho tôn giáo, chất trí tuệ cho đời sống. Đưa thơ vào truyện kiếm hiệp như ông quả là thủ pháp của một nhà văn cao cường. Có thể nói, Kim Dung đã vượt xa những bậc tiền bối của mình trong hệ tiểu thuyết chương hồi Minh Thanh. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi Kim Dung là một nhà thơ có tài và tài năng của ông thực sự phát triển rực rỡ khi người tình Hạ Mộng ra đi khỏi vòng tay ông.

1. Ngôn ngữ bình dân

Trước hết, ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên, không ai cấm nhà văn đưa vào hệ thống ngôn ngữ bình dân, đặc biệt là ngôn ngữ thoá mạ, vào trong tác phảm của mình. Có nhiều khi, một từ thoá mạ thô thiển, thậm chí tục tĩu, nằm đúng vào ngữ cảnh của câu văn hoặc tình huống của chương hồi lại tạo ra được yếu tố nghệ thuật bất ngờ, thú vị cho văn chương.

Đọc văn chương Trung Hoa, chúng ta bắt gặp ngôn ngữ thóa mạ gần như là yếu tố khá phổ biến, bàng bạc trong tác phẩm. Bộ tiểu thuyết sử thi Tây Hán chí (Hán Sở tranh hùng) có nhiều đoạn mô tả phương pháp thoá mạ mà các tường lĩnh của Hán vương Lưu Bang và Tây Sở bá vương Hạng Vũ đùng để chửi bới lẫn nhau với mục đích chọc giận kẻ thù, buộc kẻ thù không chịu nhục được, phải mở cửa thành ra đánh. Gặp kẻ thù ngoan cố, chịu nhục giỏi, các tướng lĩnh còn ra lệnh cho bọn mạ thủ (chuyên chửi) cưởi truồng ra mà thoá mạ. trong AQ chính truyện, Lỗ Tấn đã cho phép nhân vật AQ của mình thực hiện phép "thắng lợi tinh thần", thình thoảng cũng thoá mạ cũ Triệu, Vương râu xồm, Đôn oắt tì và Tây giả cầy: "Mày là cái thứ đồ gì? Con ông về sau còn hơn gấp mười lần mày" hoặc "Nó đánh mình như đánh bố nó". Văn chương của Kim Dung là thế giới của bọn hào sĩ giang hồ; trong đó một nửa là bàng môn tả đạo, bắt gà, trộm chó, cướp của, giết người, lại bất học vô thuật nữa cho nên chuyện thoá mạ đối với họ như cơm bữa.

Bộ Hiệp khách hành là bộ tiểu thuyết có lối thóa mạ kỳ lạ nhất. Mỗi khi nghĩ đến tình địch, Mai Phương Cô thoá mạ con của Thạch Thanh và Mẫn Nhu là Cẩu Tạp Chủng, kêu tên Cẩu Tạp Chủng chửi mấy tiếng cho đỡ buồn. Đối với người đàn bà ghen uông ghê gớm này, một nửa Thạch Phá Thiên có chất người của Thạch Thanh, một nửa còn lại có chất "chó má" của Mẫn Nhu! Cậu bé phải mang cái tên Cẩu Tạp Chủng cho đến năm 20 tuổi mới biết được tên mình là Thạch Phá Thiên.

Thiên Long bát bộ cũng có một hệ thống ngôn ngữ thoá mạ phong phú. Một nhà sư trẻ Phật lực cao cường, kinh điển tinh thông, lòng dạ đoan chính như Hư Trúc cũng bị Thiên Sơn Đồng Mỗ cung Linh Thứu núi Phiêu Diễu thoá mạ là "xú hoà thượng, sư chết chém, thầy chùa chết đâm". Bọn "quần tiên" 36 động 72 đảo là một phường bàng môn tả đạo ô hợp; đàn ông thì tự xưng là "lão gia, lão tử", đàn bà thì tự xưng là "lão nương". Bọn đệ tử của Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu thì tán tụng thầy: "Tinh Tú lão tiên thần thông quảngđại thiên hạ vông song. Lão gia đá một phát như trời long đất lở, vẫy tay một cái nhật nguyệt lu mờ" và đối với các phài khác, bọn họ coi chẳng ra gì. Thế như khi Đinh Xuân Thu bị Hư Trúc đánh ngã, cả bọn lại nịnh Hư Trúc và quay ngược thoá mạ Đinh Xuân Thu: "Ánh lửa đom đóm mà dám tranh sáng với mặt trời mặt trăng. Ngươi là kẻ tiểu nhân gian tà, độc ác". Kiểu thoá mạ như vậy gây cho người đọc những nụ cười thú vị về thói nịnh, thói xu viêm phụ nhiệt.

Mà không chỉ có bọn đàn ông mới thoá mạ. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung còn xây dựng một hình tượng phụ nữ khá độc đáo: nàng hoa khôi Ôn Khang, vợ Mã Đại Nguyên. Người đàn bà đẹp này bình thường khép nép, nghiêm cẩn, rõ ra khí tượng của một thiếu phụ khả kính. Nhưng trước khi nàng ta chết, người đọc mới hiểu ra rằng nàng là kẻ dâm loạn với Đoàn Chính Thuần, Bạch Thế Kính. Trước khi chết, Ôn Khang còn ráng thu hết tàn lực thoá mạ Kiều Phong một hồi với mới ngon ngữ vừa tục tĩu vừa độc ác. Và càng thoá mạ, đôi mắt nàng càng sáng lên, gương mặt lại có vẻ cao hứng, phấn khởi!

Bọn quần hào bốn châu Tề, Lỗ, Dự, Ngạc trong Tiếu ngạo giang hồ có trình độ thoá mạ cũng thuộc hạng thượng thừa. Chúng kết hợp với Đào Cốc lục tiên cùng một giuộc, hễ mở miệng ra là "con mẹ nó, 18 đời tổ tôn quân rùa đen, phường đê tiện". Đặc biệt ngôn ngữ thóa mạ còn được dùng như mộ thứ mật khẩu để nhận ra nhau. Lệnh Hồ Xung, chưởng môn Hằng Sơn, bị bọn đệ tử Tung Sơn từng bị chàng đâm mù mắt vây hãm trong hang động tối đen núi Hoa Sơn, tìm mọi cách để giết chàng. Khi phóng kiếm ra trong bóng tối, họ thường chửi: "Cút con bà mày đi!". hoá ra, đó là mật khẩu để nhận ra nhau. Lệnh Hồ Xung thoá chết nhờ biết học và dùng câu "Cút con bà mày đi!". Những kẻ khiếm thị kia cứ ngỡ chàng là đồng bọn! (Tiếu ngạo giang hồ).

Nhưng không ở tác phẩm nào, ngôn ngữ thóa mạ được hệ thống hoá một cách tinh xảo và nâng cao thành ngôn ngữ văn học lạ lùng như trong Lộc Đỉnh ký. Vi Tiểu Bảo Xuất thân từ Lệ Xuân viện thành Dương Châu, 13 tuổi đã lĩnh hội trọn vẹn mớ ngôn ngữ tục tĩu của khách làng chơi và đám kỹ nữ. Khi được vào trong cung nhà Thanh, hắn lại được tu nghiệp thêm với bọn thái giám và thị vệ, trở thành một chuyên gia thoá mạ hạng nhất. Hắn gọi Tổng quản thái giám là "Hải lão con rùa", gọi thái hậu là "mụ điếm già", gọi công chúa Kiến Ninh là "con đượi non", gọi Ngô Tam Quế là "đại Hán gian", gọi Ngô Ứng Hùng là "tiểu Hán gian". Tiến quân ra biên giới Đông Bắc đánh nhau với nước Nga, hắn gọi quân Sa hoàng là "bọn quỷ Hồng mao". Bắt được một số hàng binh Nga, hắn buộc những người này phải ra trận làm mạ thủ, chửi bới viên tư lệnh quân Nga là Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, chọc giận cho quân Nga khai thành tiếp chiến. Tuy nhiên, hắn cực kỳ thất vọng khi hàng binh Nga chỉ biết chửi "người là đồ heo, đồ chó". Hắn vỡ lẽ ra rằng về phương pháp và nội dung thóa mạ, người Trung Quốc cao cường hơn người Nga; câu văn phong phú hơn mà tiết tấu cũng nhịp nhàng hơn. Nghệ thuật chửi bới của Vi Tiểu Bảo xuất thần nhập hóa đến nỗi hai ông thầy của hắn cũng theo học mớ ngôn ngữ tào lao đó. Vua Khang Hy và trần Cận Nam cũng theo cách chửi của Vi Tiểu Bảo, chửi tục. Chửi cho vui!

Văn chương là sự phản ánh cuộc sống xã hội nhất định trong một giai đoạn nhhất định. tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung nói về bọn hào sĩ giang hồ thời phong kiến. Mà cái mặt bằng văn hóa thời phong kiến của xãn hội Trung Hoa quá thấp, là sản phẩm của một nền kinh tế nhỏ và lạc hậu. Chính trong một xã hội như vậy, việc đưa ngôn ngữ thóa mạ vào miệng nhựng nhân vật của mình là một cái gì hết sức tự nhiên. Vấn đề còn lại là ngôn ngữ thóa mạ ấy hiện ra trong ngữ cảnh nào, trong trường hợp nào. Kim Dung đã làm một chuyện hết sức tài hoa: việt được những bộ tiểu thuyết trường thiên, giàu tính nghệ thuật bằng sự pha trộn ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, trong đó có ngôn ngữ thoá mạ.

Ông sáng tác tiểu thuyết tại Hongkong, nhưng văn chương Quan thoại trong tác phẩm của ông cực kỳ trong sáng và nghệ thuật: rất gần gũi với Quan thoại Trung Quốc. Tháng 1/1995, ông về Bắc Kinh diễn thuyết và nhận hàm giáo sư danh dự Đại học Bắc Kinh; các học giả Trung Hoa đã ca ngợi cách thể hiện của Kim Dung, coi ông là nhà văn lớn của nền văn chương Quan thoại hiện đại. Kim Dung đã biết dung nạp cái nhã và cái tục, sử dụng cái tục để tạo ra cái nhã. Thủ pháp diễn đạt của ông là thủ pháp của nhà văn thượng thừa. Có lẽ vì thế mà hôm nay, 12 bộ tiểu thuyết của ông đã được các nhà xuất bản Trung Quốc in lại và được bày bán, trân trọng đón nhận trên toàn cõi Trung Hoa. Kim Dung có thêm cả tỷ độc giả chính thức.

2. Những bộ sách

Trước khi là một nhà văn viết tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là nhà văn hóa. Và là một nhà văn hóa cho nên ông rất chú trọng đến các vấn đề văn hóa, đặc biệt là các vấn đề về thế giới sách. Ông đã dành cho sách một vị trí khá quan trọng, không phải chỉ trong những bài viết trên tờ Minh báo mà còn ngay trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp vốn đầy tính đấu tranh của giới võ lâm. Ta có thể tìm trong thế giới võ hiệp của ông một thế giới vế sách và số phận của những bộ sáfch đó cũng đầy sóng gió như số phận những nhân vật chính trong tác phẩm của ông.

Một cách khái quát, Kim Dung có cách gọi tên sách rất phong phú. Sách được gọi là Thư; như bộ Võ Mục di thư của Nhạc Phi (tức Nhạc Võ Mục) giấu trong bảo đao Đồ Long (Ỷ thiên Đồ long ký), bộ Minh thư tập lược của Cố Viêm Võ và Tra Y Hoàng (Lộc Đỉnh ký). Sách được gọi là Phổ; như Tịch tà kiếm phổ của nhà họ Lâm ở Phúc Châu (Tiếu ngạo giang hồ), Cầm phổ và Tiêu phổ của khúc hợp tấu Tiếu ngạo giang hồ. Sách được gọi là Kinh; như Thần chiếu kinh của Đinh Điển (Liên thành quyết), Lục mạch thần kiếm kinh của chùa Thiên Long và Dịch cân kinh của chùa Thiếu Lâm (Thiên Long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh của Bát kỳ triều Thanh (Lộc Đỉnh ký), Dược vương kinh (Phi hồ ngoại truyện). Sách được gọi là Điển, như Quỳ hoa bảo điển (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Lục, như bộ Tử hà bí lục của phái Hoa Sơn (Tiếu ngạo giang hồ). Sách được gọi là Tâm pháp, như bộ Càn không đại nã di tâm pháp (Ỷ thiên Đồ Long ký). Sách được gọi là Ký, như Minh giáo lưu truyền Trung thổ ký của Dương Tiêu viết về quá trình hình thành Bái hỏa giáo (Minh giáo) ở đất Trung Hoa (Ỷ thiên Đồ Long ký).

Những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến được ghi chép với nhiều dạng văn tự khác nhau trên những phương tiện khác nhau. Vũ Mục di thư, Cửu âm chân kinh chép bằng chữ Hán (khải thư) trên những tờ giấy (hay lụa ???) mỏng vàng khè. Lục mạch thần kiếm kinh chép bằng chữ Hán, có đồ hình hướng dẫn chép trên lụa quý. Tịch tà kiếm phổ lại chép trên áo cà sa. Dịch cân kinh chép bằng tiếng Phạn (Sanskrit) trên giấy. Hấp tinh đại pháp của Nhậm Ngã Hành mà Lệnh Hồ Xung học được được khắc trên tảng sắt nằm trong nhà ngục ở Thái Hồ. Võ công phái Tiêu Dao (Thiên Long bát bộ) hay công phu Hiệp khách hành (Hiệp khách hành) được khắc trên đá). Càn không đãi nã di tâm pháp được chép trên tấm da dê. Võ công Minh giáo Ba Tư được khắc bằng tiếng Ba Tư (Presian) trên 6 tấm Thánh hỏa lệnh dài ngắn khác nhau, xương không ra xương, ngà không ra ngà. Nói cách khác, những bộ sách mà Kim Dung đề cập đến khá phong phú về văn tự, đa dạng về vật liệu làm sách.

Ngay cả cách chép sách cũng lạ: phải vận chỉ công để khắc chữ trên sắt (Hấp tinh đại pháp trong Tiếu ngạo giang hồ); phải đem Thánh hỏa lệnh nhúng vào một lớp sáp rồi viết chữ lên lớp sáp và dùng cường toan (acide) đồ theo những chữ đã viết mới ra tự dạng trên Thánh hỏa lệnh.

Sách đã lạ, cách đọc sách càng lạ hơn. Lệnh Hồ Xung sẽ không đọc được Hấp tinh đại pháp nếu không cởi trần truồng nằm trên tấm sắt cho những chữ khắc đó hằn lên da thịt. Trương Vô Kỵ sẽ không hiểu được võ công Ba Tư nếu như Bảo Thụ vương của Ba Tư không bị đánh Thánh hỏa lệnh trúng vào má cho chữ bị hằn lên để Tiểu Siêu đọc và dịch ra tiếng Hán. Vô Kỵ cũng không biết tấm da dê là Càn khôn đại nã di tâm pháp nếu Tiểu Siêu không trích máu ngón tay nhỏ vào cho chữ hiện ra. Du Thản Chi chỉ có thể lãnh hội được Dịch cân kinh khi cúi đầu xuống đất, chổng chân lên trời. Tựu trung, những bộ sách trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung mang theo nhiều điều bí ẩn khó tả, có người cầm nó trong tay nhưng chẳng biết được giá trị liên thành - chiều sâu chứa đựng trong bộ sách.

Số phận của những bộ sách được Kim Dung hư cấu trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp của ông đã thực sự cuốn hút người đọc, đưa người đọc đi vào một thế giới tiểu thuyết vừa siêu thực nhưng cũng rất hiện thực.

Có những bộ sách trở thành tực đề luôn cho tác phẩm. Đó là trường hợp của khúc hợp tấu cầm - tiêu Tiếu ngạo giang hồ, khúc hợp soạn của hai con người thanh nhã: Lưu Chính Phong, cao thủ Hành Sơn (bạch đạo) và Khúc Dương, trưởng lão Triêu Dương thần giáo (hắc đạo). Xưa nay, người ta vẫn sống theo công thức "hắc bạch không thể hòa, chính tà không thể gặp". Cả Lưu Chính Phong và Khúc Dương đều muốn chứng minh rằng khúc Tiếu ngạo giang hồ của họ có thể hóa giải những biên giới của sự chia rẽ và hận thù. Kết quả là cả Phong lẫn Khúc đều bị hại bởi những con người tự xưng là danh môn chính phái. Bộ sách đó được truyền lại cho Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn; mang nó trong người, chàng gặp phải không biết bao nhiêu điều đau khổ. Nhưng cũng chính Tiếu ngạo giang hồ đã đưa chàng lãng tử vô hạnh này gặp được một ngọc nữ: Nhậm Doanh Doanh, ái nữ của Giáo chủ Triêu Dương thần giáo Nhậm Ngã Hành. Họ yêu thương nhau, đến với nhau, hoá giải được biên giới chính tà, hợp tấu cầm tiêu Tiếu ngạo giang hồ đi đến chỗ tâm linh tương thức - điều mà hai vị tiền bối Lưu - Khúc không thể làm được.

Một bộ sách khác được nhắc đến trong Tiếu ngạo giang hồ là Tịch tà kiếm phổ (sách về những đường kiếm chuyên trừ bọn tà đạo), lưu truyền một lộ kiếm pháp vô địch, tương truyền của dòng họ Lâm. Tổ họ Lâm, Lâm Viễn Đồ, xuất thân là tiêu sư, có được kiếm phổ phải "dẫn đao tự cung" (tự thiến) luyện thành. Kiếm pháp Tịch tà quá đỗi độc ác, ông ta chép lại vào áo cà sa, đi tu và dặn con cháu không được dở ra coi. Con ông là Lâm Chấn Nam võ công tầm thường, bị phái Thanh Thành của Dư Thương Hải tấn công nhằm đoạt Tịch tà kiếm phổ mà không đánh trả được. Cuối cùng, kiếm phổ bị chưởng môn phái Hoa Sơn Nhạc Bất Quần đoạt được. Một mặt, Nhạc liền "dẫn đao tự cung" để luyện, mặt khác lão vu cáo cho học trò là Lệnh Hồ Xung ăn cắp Tịch tà kiếm phổ. Khi Nhạc luyện xong, vứt áo cà sa đi thì Lâm Bình Chi, con trai Lâm Chấn Nam, lấy được và cũng ngay lập tức... "phăng teo" để luyện. Nhạc nghi ngờ, gả con gái là Nhạc Linh San cho cho Lâm và thường xuyên theo dõi xem con gái mình có được "hạnh phúc" hay không. Lâm Bình Chi đã "tự cung" thì làm sao có thể chăn gối được. Nhưng Nhạc Linh San đã cứu mạng Lâm Bình Chi: cô trả lời rằng Lâm đối với cô rất tốt. Nhạc Bất Quần tin lời đó mới tha mạng cho Lâm Bình Chi. Nhưng cuối cùng, Lệnh Hồ Xung với Độc Cô cửu kiếm vẫn đánh bại Tịch tà kiếm pháp "vô địch". Bộ Tịch tà kiếm phổ đó đã khiến ba con người thân bại danh liệt: Nhạc Bất Quần, Lâm Bình Chi và Tả Lãnh Thiền, chưởng môn phái Tung Sơn. Đúng ra, phải gọi nó là Tà môn kiếm phổ.

Những pho sách mà Kim Dung đề cập đến trong tác phẩm của ông có khi là sản phẩm tưởng tượng, cũng có khi là sản phẩm thực tế được lồng vào cốt truyện. Vũ Mục di thư (trong Ỷ thiên Đồ Long ký), Dịch cân kinh (trong Thiên Long bát bộ), Tứ thập nhị chương kinh và Minh thứ tập lược (trong Lộc Đỉnh ký)... là những tác phẩm có thực trong lịech sử văn hóa Trung Hoa. Dù là sản phẩm hư cấu hay sản phẩm thực tế, Kim Dung đã khoác cho những bộ sách của mình một hành tung kỳ bí, một số phận oái oăm, khiến người đọc càng cảm thấy thú vị.

Thí dụ như trường hợp bộ Tứ thập nhị chương kinh, một bộ kinh Phật thông thường mà mọi người Trung Hoa đều có thể biết, trong Lộc Đỉnh ký. Bát kỳ Mãn Châu tấn công Trung Nguyên, tiêu diệt nhà Minh. Hoàng đế Thanh triều Thuận Trị đã giao cho các thủ lĩnh Bát kỳ tám quyển Tứ thập nhị chương kinh, mỗi quyển có bìa sách đúng như màu cờ của Bát kỳ: Bạch kỳ bìa trắng, Hắc kỳ bìa đen, Hồng kỳ bìa đỏ, Thanh kỳ bìa xanh... Tám quyển kinh đó có gì đặc biệt? Có! Thuận Trị đã cắt nhỏ một bản đồ khu vực Oa Tập Sơn (tiếng Mãn; tiếng Hán là Lộc Đỉnh Sơn) rồi chia các miếng vải đã cắt vào trong bìa sách, chia cho Bát kỳ. Thuận Trị dặn con cháu: "Nếu không giữ được thiên hạ (tức đất Trung Nguyên) thì ta ở đâu hãy trở về nơi đó".

Có ít nhất năm thế lực tìm mọi cách để cướp cho được bí mật trong tám quyển Tức thập nhị chương kinh. Đó là hoàng đế Khang Hy, con Thuận Trị. Đó là Cửu Nạn sư thái, nguyên là công chúa Hồng Anh, con vua Sùng Trinh triều Minh. Đó là bọn Thần long giáo, một giáo phái bí mật thông đồng với người La Sát (tức Nga Ta Lư). Đó là Thiên Địa hội, một tổ chức phản Thanh phục Minh do Trần Vĩnh Hoa (Trần Cận Nam) là Tổng đàn chủ. Và đó là Ngô Tam Quế, phản thần triều Minh, được nhà Thanh phong tước Bình Tây vương, trấn vùng Vân Nam. Mỗi thế lực đều tin rằng tấm bản đồ giấu trong tám bìa sách có bí mật riêng. Khang Hy muốn có để đốt đi, bảo vệ long mạch của tổ tiên tại Hắc Long Giang, Lộc Đỉnh Sơn miền Đông bắc Trung Quốc. Bọn Cửu Nạn sư thái và Thiên Địa hội thì muốn phá long mạch của nhà Thanh để đuổi người Mã ra khỏi Trung Nguyên, trả thù cho vua Sùng Trinh và khôi phục nhà Minh. Thần long giáo thì lại tin rằng bản đồ vẽ sơ đồ kho báu... Cuối cùng cả tám quyển Tứ thập nhị chương kinh lọt hết vào tay Vi Tiểu Bảo. Hắn lấy hết các mảnh vải nhỏ sai nữ tì Song Nhi kết lại thành một bản đồ hoàn chỉnh. Hắn giữ lại bản đồ cho mình còn các pho Tứ thập nhị chương kinh thì được may bìa lại để biếu cho Khang Hy, Trần Cận Nam (thầy của Vi Tiểu Bảo) và Cửu Nạn sư thái (cũng là thầy của Vi Tiểu Bảo!).

Một số nhân vật của Kim Dung là văn gia nên đi đâu họ cũng mang sách theo. Sách trở thành vũ khí trong chiến đấu chống kẻ thù, tranh biện với kẻ khác. Nhân vật Chu Đan Thần, một trong Tứ Đại Vệ Hộ nước Đại Lý, có nhiệm vụ bảo vệ Trấn Nam vương Đoàn Chính Thuần, đi đâu cũng cầm theo các tập thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Trước khi chiến đấu, Chu hay ngâm thơ! Trong Thiên Long bát bộ, Chu thường cùng bàn luận thi ca với Đoàn Dự, con Đoàn Chính Thuần. Nhân vật Thư ngai Cẩu Độc (Đồ gàn đọc sách lung tung) trong nhóm Hàm Cốc bát hữu ra trận thường... lục túi, đem sách ra... đấu võ miệng. Trong trận đụng độ với nhà sư Huyền Thống chùa Thiếu Lâm, Cẩu Độc đã đem đủ các sách Luận ngữ, Mạnh Tử ra chất vấn Huyền Thống. Huyền Thống vẫn mặc kệ, đánh tràn. Sực nhớ nhà sư không đọc sách đạo Nho, Cẩu Độc đổi sang trích dẫn kinh điền đạo Phật: "Bể khổ mênh mông, quay đầu là bờ", khiến Huyền Thống chợt ngừng trận đấu. Nhà sư chợt ngộ Thiền cơ trong câu nói đó và viên tịch ngay tại chỗ với nụ cười thư thái giải thoát trên môi.

Sách của Kim Dung đã đề cập đến trong truyện võ hiệp đương nhiên là sách quý, giá trị khôn gbiết bao nhiêu mà lường. Trong Ỷ thiên Đồ Long ký, nhà sư Giác Viễn trước khi chết, đọc một vài đoạn thuộc long trong bộ Cửu dương chân kinh. Quách Tương học lóm vài đoạn mà đã có thể dựng nên phái Nga Mi; Trương Quân Bảo cũng chỉ thuộc vài đoạn mà dựng nên phái Võ Đang. Bọn Doãn Khắc Tây, Tiêu Tương Tử ăn cắp từ chùa Thiếu Lâm bộ sách này, rạch bụng con vượn mà nhét vào. Trước khi chết, chúng di ngôn lại cho Hà Túc Đạo núi Côn Lôn là "kinh để trong hầu". Hà Túc Đạo nghe gà hóa cuốc, nói lại với phái Thiếu Lâm là "kinh để trong dầu"! Chỉ sau này, khi Trương Vô Kỵ giải phẫu cho con vượn già mới tìm lại được bộ sách trân quý của chùa Thiếu Lâm.

Sách quý nên việc bảo quản cũng rất công phu. Những nơi chứa sách được gọi là tàng kinh lâu, tàng kinh các, có quy định rất nghiêm ngặt, cấm người lạ lai vãng. Càng cấm nên sách càng gợi trí tò mò. Từ đó xuất hiện những kẻ ăn cắp sách. Trong Thiên Long bát bộ, nhà sư Ba La Tinh từ Thiên Trúc đến chùa Thiếu Lâm ăn cắp sách, bị phát hiện và bị giam lỏng tại chùa Thiếu Lâm. Tiêu Viễn Sơn, dòng quốc thích Khất Đan, đột nhập vào Tàng kinh các Thiếu Lâm đọc lén võ kinh và học võ công Trung Quốc để trả thù cho vợ. Mộ Dung Bác, tộc Tiên Ty, hậu duệ hoàng tộc Đại Yên thời Thập lục quốc cũng từng đột nhập Thiếu Lâm học lén 72 tuyệt kỹ Thiếu Lâm, trá tử, ẩn nhẫn nuôi mộng trung hưng nước Đại Yên.

Những nhân vật của Kim Dung thường có trí nhớ rất tuyệt vời. Vương Ngữ Yên thuộc làu các sách võ trong thiên hạ, trở thành nhân vật ai cũng hâm mộ. Đoàn Dự chỉ xem qua Lục mạch thần kiếm kinh một lần tài chùa Thiên Long mà tâm đã lãnh hội trọn vẹn. Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung, chỉ có một nhân vật ghét sách thậm tệ, thấy sách và chữ nghĩa là mắt hoa đầu váng. Đó là Vi Tiểu Bảo, Lộng Đỉnh công triều Khang Hy. Vốn hắn dốt đặc cán mai, chỉ thích chơi gái, đánh bạc, uống rượu, nói tục. Ấy thế mà trời lại trao cho hắn tám quyển Tứ thập nhị chương kinh!

Sách chiếm một vai trò rất lớn trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp. Kim Dung đưa các bộ sách vào, tạo cho tác phẩm của mình những tình tiết hấp dẫn, nhữhng mâu thuẫn lạ lùng. Ở chừng mực nào đó, sách làm nên chất văn hóa cho tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp vốn nặng về âm mưu, thủ đoạn, sự tranh đấu, sự giết chóc. Chỉ ngay trong khía cạnh đưa sách vào tiểu thuyết võ hiệp, Kim Dung đã là một bậc thầy trong văn chương tiểu thuyết hiện đại.

3. Thời trang

Thời trang là khái niệm xuất hiện trong thời đại của chúng ta. Trong xã hội phong kiến Trung Quốc ngày xưa không thể có khái niệm thời trang, đơn giản là vì thời ấy chưa hề có người mẫu với những kiểu quần áo mẫu được đưa lên sân khấu biểu diễn cho đông đảo quần chúng mô phỏng theo đó mà may mặc. Tuy nhiên, "ăn theo thuở, ở theo thời", từ ngàn xưa, nhân loại đã biết cách ăn mặc để thích nghi với môi trường sống; việc ăn mặc trở thành một nhu cầu phổ quát ở mọi nơi và vào mọi thời đối với mọi dân tộc. Tác phẩm tiểu thuyết Kim Dung cũng không thoát ra khỏi quy luật phổ quát đó. Căn cứ vào cách ông miêu ta cách ăn mặc của những nhân vật trong 12 bộ tiểu thuyết võ hiệp, ta có thể nhận định về khái niệm "thời trang" như là một thực tế có thật trong các tác phẩm đó.

Có những hình thái thời trang tập thể được nhà văn Kim Dung miêu tả sát với thực tế vì nó bắt nguồn từ những quy luật của các bang hội, tôn giáo của võ lâm Trung Quốc. Đó là những hình thái thời trang mang tính bó buộc và tuyệt đối.

Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Kim Dung miêu tả giáo chúng Minh giáo (Manichéisme) luôn luôn mặc bộ áo choàng dài màu trắng, ngực áo trái và tà áo bên phải có thêu một ngọn lửa đỏ. Ngọn lửa đó chính là Thhánh hỏa, biểu tượng có từ Bái hỏa giáo Ba Tư. Khi đem đạo truyền sang Trung Quốc, Hốt Đa Đán đã đổi tên Bái hỏa giáo thành Minh giáo, gọi tên các chùa là Đại Vân Quang Minh tự. Trong Hán tự, chữ Minh, gồm chữ Nhật kết hợp với chữ Nguyệt. Minh có nghĩa là sáng như mặt trời, mặt trăng và sáng là yếu tính của ngọn lửa.

Trong 12 bộ tiểu thuyết của Kim Dung thì đã có 10 bộ ông nhắc đến các vị sư chùa Thiếu Lâm, thuộc ngọn Tung Sơn, tỉnh Hồ Nam. "Thời trang" của các nhà sư rất dễ nhận ra: ngày lễ các vị đại sư tiền bối mặc tăng y đại hồng, ngày thường mặc cà sa màu vàng; những lớp đệ tử nhỏ hơn mặc tăng y màu xám hoặc nâu. Trong Tiếu ngạo giang hồ có những đoạn Kim Dung đề cập đến phái Thanh Thành ở vùng Tứ Xuyên xuống Phúc Châu hoạt động. Họ mặc một màu áo xanh, và đặc biệt nhấ là luôn luôn đội khăn trắng trên đầu. Kim Dung thật tinh tế khi đưa ra chiếc khăn trắng ở đây! Đất Tứ Xuyên nguyên thuộc về đất Ba Thục của Lưu Bị thời Tam Quốc. Khổng Minh là quân sư của Lưu Bị, được nhân dân Ba Thục kính trọng như thần minh. Khi ông chết đi, cả một dải Ba Thục đều để tang. Tục lệ ấy kéo dài qua 17 thế kỷ và cho đến nay, người Tứ Xuyên ra đường vẫn còn quấn khăn trắng!

Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung có nhắc tới quần nữ cung Linh Thứu, núi Phiêu Miễu. Đây là vùng giáp giới sa mạc Qua Bích (Gobi). Họ mặc áo trường bào màu xanh lục, cưỡi lạc đà. Lối trang phục đó giúp họ dễ nhận ra nhau trên sa mạc chỉ có một màu cát vàng mênh mông. Trong Lộc Đỉnh ký, Thần long giáo chia làm Ngũ kỳ (5 sắc cờ); mỗi kỳ có một màu áo riêng: Thanh long mặc áo xanh, Hắc long áo đen, Xích long áo đỏ, Bạch long áo trắng và Hoàng long áo vàng.

Nếu thời trang tập thể mang tính bó buộc, quy luật thì thời trang cá nhân lại hết sức linh hoạt, tự do, đặc biệt là ở những nhân vật nữ. Nhân vật nữ trung hào kiệt của Kim Dung luôn luôn có nhu cầu làm đẹp và thậm chí, nhu cầu đó rất cao.

Có những nhân vật nữ chỉ thích một màu áo quần và màu sắc ấy làm nên tính cách độc đáo của từng người, khiến ta không thể lầm người này với người khác. Trong Thần điêu hiệp lữ, Tiểu Long Nữ chỉ mặc toàn một màu trắng. Võ công cô học từ phái Cổ Mộ là Ngọc nữ kiếm pháp, thuần về âm nhu. Cô lâm trận, đối địch với những kẻ thù hung bạo mà người ta cứ ngỡ cô đang múa bởi màu áo trắng và những tư thức võ công nhuần nhuyễn, dịu dàng, mỹ lệ. Ngược lại, Mộc Uyển Thanh (trong Thiên Long bát bộ) lại chỉ mặc tuyền một màu đen và bịt mặt cũng bằng khăn màu đen. Người cô tiết ra một mùi hương tự nhiên man mác như hương hoa mai côi (hoa hồng) nên giang hồ thường gọi cô là Hương dược xoa. Tuy gọi "dược xoa" (xấu như quỷ sứ) nhưng thực sự, Mộc Uyển Thanh là một người đẹp trong những người đẹp nhất trong Thiên Long bát bộ.

Khá nhiều trường hợp, màu áo quần của các nhân vật nữ làm thành tên gọi của nhân vật ấy. Trong Thiên Long bát bộ, Đoàn A Châu chỉ mặc một màu đỏ, Đoàn A Tử chỉ mặc một màu tía, A Bích thì màu xanh biếc, màu xanh của vùng sông nước Giang Nam. Trong Phi hồ ngoại truyện, tiểu anh hùng Hồ Phỉ có một cô bạn 16 tuổi cực kỳ thông minh. Cô mặc áo màu tía, tự xưng họ Viên và Hồ Phỉ cứ gọi cô là Viên Tử Y (cô Viên áo tía). A Châu, A Tử, A Bích, Viên Tử Y từ màu sắc trang phục đã trở thành tên nhân vật.

Thời trang còn làm nên chức vụ, vai về của nhân vật. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, có nhân vật Đại Ỷ Ty, một cô gái lai Ba Tư xinh đẹp, gia nhập Minh giáo Trung Quốc, lập được công lớn, đứng đầu tứ đại hộ pháp giáo vương của Minh giáo. Cô mặc áo tía nên được tôn xưng là Tử sam long vương (vua rồng áo tía), đứng trên Bạch mi ưng vương (vua ó mày bạc), Kim mao sư vương (vua sư tử lông vàng) và Thanh dực phức vương (vua dơi cánh xanh). Chiếc áo tím của nàng Đại Ỷ Ty đã làm nên chức vụ (thứ tự Tử, Bạch Kim, Thanh).

Các nhân vật nữ của Kim Dung rất chú trọng việc chăm chút vẻ đẹp. Mẫn Mẫn Đặc Mục Nhĩ, cô gái Mông Cổ, Hán danh là Triệu Mẫn, luôn luôn xuất hiện trước người tình Trương Vô Kỵ với áo khoác ngoài cổ da điêu, phía trong là trường bào bằng gấm. Triệu Mẫn là một kiểu mẫu phụ nữ lý tưởng với nhan sắc đẹp như hoa nở, trí thông minh mẫn tuệ cực kỳ và ứng xử mọi tình huống một cách nhanh nhạy. Đọc Ỷ thiên Đồ long ký, không một độc giả nào có thể chê trách được Triệu Mẫn.

rong Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung xây dựng một nhân vật nữ cự kỳ "hiện đại" so với cả ngàn nhân vật nữ khác. Đó là Lam Phượng Hoàng, người dân tộc Miêu Cương vùng Vân Nam, giáo chủ Ngũ độc giáo. Nghe tiếng chàng Lệnh Hồ Xung là chàng trai phong lưu, cô đã vượt mấy ngàn dặm từ Vân Nam về Hoàng Hà để tương kiến. Lam Phương Hoàng mặc chiếc áo lam in hoa trắng sặc sỡ, mùi hương sực nức, dám ôm cổ Lệnh Hồ Xung hôn lên má trước mặt mọi người, dám vén váy mình lên đặt con đỉa vào hút máu để truyền máu cho Lệnh Hồ Xung. Hành động tự nhiên đó đã làm cho kiếm khách Giang Phi Hồng buồn tình mà tự vận.

Những người đẹp trong truyện võ hiệp Kim Dung không hhề muốn lên sân khấu, chưa hề biết đến biểu diễn thời trang. Cá biệt, có một người muốn biểu diễn thời trang mà người đi dự không thèm để mắt đến, giận đời nên đã gây thành một vụ huyết án động trời. Đó là nàng Ôn Khang (Thiên Long bát bộ), vợ của Mã Đại Nguyên. Mã Đại Nguyên là một anh hùng hảo hán, phó bang chủ Cái bang của Kiều Phong. Trong dịp Bách hoa đại hội, Ôn Khang mặc bộ đồ lụa đẹp nhất, đứng bên cạnh chậu thược dược. Già trẻ đi ngang đó đều nhìn nàng, tim đạp rộn ràng vì không ngờ có một phụ nữ đẹp như thế. Duy chỉ có một người không nhìn đến nàng. Đó là Kiều Phong. Giận vì nhan sắc của mình không được hâm mộ, Ôn Khang xúi chồng tố cáo Kiều Phong là người Khất Đan. Mã Đại Nguyên không nghe lời, Ôn Khang âm mưu cùng Bạch Thế Kinh giết chồng bằng một thế Toả hầu cầm nã thủ rồi vu cáo cho Kiều Phogn đã giết chồng mình để bịt miệng. Quả nhiên, Kiều Phong mất ngôi Bang chủ Cái bang Trung Quốc. Sự trả thù của diêu người mẫu Ôn Khang quả thật siêu việt!

May mắn thay, đó chỉ là một trường hợp cá biệt. Nhan sắc của người đẹp trong truyện võ hiệp Kim Dung không bị đem ra bán đứng, tên tuổi của họ không bị đem ra kinh doanh, nhân phẩm của họ được tác giả bảo về cẩn mật. Trí thông minh, lòng tự trọng và nhan sắc trời ban cho đã giúp họ gặp được những chàng trai như ý, những mối tình tươi đẹp, trong sáng và chung thuỷ. Viện Tử Y với Hồ Phỉ, Hân Tố Tố với Trương Thúy Sơn, Trương Vô Kỵ với Triệu Mẫn, Lệnh Hồ Xung với Doanh Doanh, Tiểu Long Nữ với Dương Qua, Vương Ngữ Yên với Đoàn Dự... là những lức đôi thật đẹp. Ở một nghĩa hết sức biểu tượng, Những lứa đôi đó góp phần làm nên khái niệm anh hùng và giai nhân, giấc mơ lý tưởng của văn học nghệ thuật ngày xưa và hôm nay.

4. Những nhân vật quái dị

Khái niệm nhân vật quái dị không phải là khái niệm do chúng tôi tạo ra mà là một khái niệm nằm trong văn chương tiểu thuyết của Kim Dung tiên sinh. Văn chương của ông thường có các cụm từ "trông lão thật là quái dị" hoặc "khuôn mặt của gã thật là quái dị". Tuy viết như thế nhưng khái niệm quái dị không ngừng lại ở chỗ mô tả ngoại hình, động tác. Khái niệm quái dị đi vào chiều sâu nhân cách của các nhân vật, chủ yếu đưa ra những cách sống, cách tư duy khác đời và lắm khi, đi ngược lại cái lẽ thường của cuộc sống.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, ta bắt gặp nhân vật quái dị tiêu biểu là Tiêu tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh. Thân danh là chưởng môn của phái Hành Sơn, Mạc Đại luôn luôn ăn mặc rách rới như một gã Cái bang, chơi một cây dao cầm (hồ cầm) cũ kỹ và miệng luôn hát bài Tiêu Tương dạ vũ (mưa đêm trên bến Tiêu Tương). Thế nhưng, trong đáy cây dao cầm của tiên sinh có dấu một cây kiếm lưỡi mỏng như lá lúa, rất lợi hại. Mạc Đại được xưng tụng là "cầm trung tàng kiếm, kiếm phát cầm âm" (trong đàn có dấu một cây kiếm, và khi múa kiếm thì lại phát ra tiếng đàn). Khi tiên sinh rút kiếm ra khỏi cây đàn, vận công vào thân cây kiếm khiến kiếm khí phóng ra veo véo nơi đầu mũi. Với "Hành Sơn vân tụ thập tam thức", chưa có một đối thủ nào thoát khỏi tay Mạc Đại tiên sinh.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, Mạc Đại chỉ xuất hiện ra ba đoạn, cộng lại không quá mười trang sách nhưng đã gây được ấn tượng mạnh mẽ và chiếm được cảm tình nồng thắm nơi người đọc. Đoạn thứ nhất, tiên sinh bất ngờ xuất hiện trong tửu quán dưới chân núi Hành Sơn, bất ngờ rút kiếm chém đứt tiện 7 chiếc trà trên bàn mà những giang hồ hảo thủ ngồi quanh không thể hiểu được tiên sinh đã rút kiếm ra và thu kiếm về lúc nào. Đoạn thứ hai, Mạc Đại hiện ra đúng lúc, múa kiếm giết chết Đại tung dương thủ Phí Bân của phái Thái Sơn để cứu sư đệ của mình là Lưu Chính Phong cùng Khúc Dương (trưởng lão Ma giáo), Khúc Phi Yên (con gái của Khúc Dương), Lệnh Hồ Xung (đệ tử Hoa Sơn) và Nghi Lâm (đệ tử Hằng Sơn). Giết xong Phí Bân, tiên sinh đút kiếm vào đàn, ung dung ra đi, giọng đàn dao cầm lại ngân lên khúc tình tang Tiêu Tương dạ vũ. Đoạn thứ ba, Mạc Đại hiện ra giữa đêm khuya bên bến sông Trường Giang, trách cứ Lệnh Hồ Xung là gã vong tình, không lo đi lên chùa Thiếu Lâm cứu người yêu mình là Nhậm Doanh Doanh mà cứ bo bo đi theo bầy nữ đệ tử của phái Hằng Sơn. Lời trách cứ của tiên sinh làm Lệnh Hồ Xung toát mồ hôi. Mạc Đại khoát tay hối Lệnh Hồ Xung ra đi và chính tiên sinh nhận nhiệm vụ bảo toàn cho bọn nữ ni Hằng Sơn về núi.

Con người quái dị ấy thoạt ẩn thoạt hiện, mang phong cách của một đạo gia Lão Trang, ung dung tiêu sái giữa cuộc đời. Duy có tiếng đàn và điệu ca Tiêu Tương dạ vũ của tiên sinh luôn luôn trĩu nặng nỗi u buồn, chưa thoát khỏi vòng hệ luỵ của cuộc sống, như dòng nước có đi mà không bao giờ có lại. Mạc Đại là hình ảnh tiêu biểu của một thứ trích tiên bị đoạ.

Tuy nhiên, trong Tiếu ngạo giang hồ, không phải chỉ có duy nhất nhân vật Mạc Đại là quái dị. Người ta còn tìm thấy một gã Tổ Thiên Thu, con người đầy mình mưu kế, văn võ song toàn nhưng lại ăn mặc như một anh đồ nghèo kiết xác, đã ăn cắp Tục mệnh bát hoàn của một người bạn thân là Lão Đầu Tử nhằm pha rượu cứu mạng Lệnh Hồ Xung. Người ta còn tìm thấy một gã Lão Đầu Tử lùn tịt như trái dưa, võ công cao cường, khi cười khi khóc, hợp cùng Tổ Thiên Thu thành ra cặp nhân vật Hoàng Hà Lão Tổ. Chính Lão Đầu Tử rất căm hận Lệnh Hồ Xung đã "nuốt" mất 8 viên thuốc bửu bối nhằm cứu mạng con gái mình nhưng khi biết được Lệnh Hồ Xung là người tình của Thánh cô Nhậm Doanh Doanh, lão đã tự vả má mình cho vọt máu vỡ da.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, một nhân vật quái dị khác cũng gây ấn tượng không kém là Bình Nhứt Chỉ đại phu, nổi danh Sát nhân danh y, chuyên chẩn bệnh bằng một ngón tay (nhứt chỉ) và hễ cứu một người là giết một người. Không cứu được Lệnh Hồ xụng, lão đã tự vận Kỵnh mạch cho đứt tuyệt để bảo vệ ngọai hiệu Sát nhân danh y.

Nghe đến bốn chữ Đông Phương Bất Bại (không bao giờ thua), người đọc cứ ngỡ đây là một vị anh hùng hảo hán. Không, gã giáo chủ này chỉ là một người lại cái, đã tự thiến bộ phận sinh dục của mình để luyện Quỳ hoa bảo điển, đã quan hệ đồng tính luyến ái với một thủ hạ lân cận là Dương Liên Đình. Tuy nhiên, võ công của Đông Phương Bất Bại cực kỳ cao cường. Gã đã chống trả lại 4 kẻ đại địch là Nhậm Ngã Hành, Nhậm Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung và Hướng Vấn Thiên chỉ với một mũi kim thêu! Nhậm Doanh Doanh đã dùng đến một đòn phép tệ hại nhất: hành hạ "người tình" Dương Liên Đình để phân tâm Đông Phương Bất Bại, giúp cha mình giết chết Đông Phương Bất Bại.

Nhưng nhân vật quái dị được người đọc yêu mến nhất trong Tiếu ngạo giang hồ vẫn là Phong Thanh Dương, sư thúc của Nhạc Bất Quần, phái Hoa Sơn. Phong Thanh Dương là đại biếu của phe Kiếm tông (lấy kiếm làm chủ) trong khi Nhạc Bất Quần là đại biểu của phe Khí tông (lấy nội công làm chủ). Chính Phong Thanh Dương đã mắng Nhạc Bất Quần là kẻ xuẩn tài (có tài mà ngu), biến những kẻ tài năng như đệ tử Lệnh Hồ Xung thành ra ngựa gỗ, trâu đá. Phong Thanh Dương truyền thụ cho Lệnh Hồ Xung 9 thế kiếm của Độc Cô Cầu Bại với một câu quyết duy nhất "sử kiếm liên miên bất tuyệt như nước chảy mây trôi, nghĩ đến đâu là kiếm tới đó để chiếm tiên cơ, đẩy kẻ địch vào thế phải thủ". Toàn bộ lý thuyết của Phong Thanh Dương là "lấy vô chiêu thắng hữu chiêu và lấy công làm thủ ". Lệnh Hồ Xung đã học được bài học quý giá đó từ thái sư thúc tổ, trở thành kẻ đối nghịch với sư phụ Nhạc Bất Quần, hạ Nhạc Bất Quần và môn Tịch tà kiếm phổ của họ Nhạc, trở thành kiếm sĩ đệ nhất giang hồ. Phong Thanh Dương mình gầy như con hạc, sắc mặt điêu linh tiều tuỵ, chỉ xuất hiện một lần mà danh tiếng của Phong đã làm quần hùng chấn động.

Nhân vật quái dị đến đâu cũng là con người nên vẫn mang theo những đặc điểm, yếu tính của con người. Thế nhưng, khác hơn con người nói chung, nhân vật quái dị suy nghĩ, sống và hành động theo ý mình và thông thường sự suy nghĩ, sống và hành động đó lại vượt ra những khuôn sáo bó buộc của lương tâm, luật pháp, đạo đức. Nó gây một sự kinh ngạc và thậm chí, là sự kinh sợ cho người đọc. Một hình tượng tiêu biểu cho motif này là nàng Ôn thị, vợ của Phó bang chúa Cái bang Mã Đại Nguyên trong Thiên Long bát bộ. Tác giả Kim Dung chỉ để cho Ôn thị xuất hiện hai lần trong Thiên Long bát bộ. Lần thứ nhất với vẻ nhu mì và đau thương của một vị vong nhân (đàn bà mới goá chồng), lần thứ hai với toàn bộ phong cách dâm đãng và man rợ của một người mắc chứng cuồng dâm. Hai hình tượng đối lập trong một con người có nhan sắc tuyệt vời thật khiến cho người ta kinh sợ đến dựng cả tóc gáy.

Mọi chuyện bắt đầu từ Bách hoa đại hội, Ôn thị theo chồng là Mã Đại Nguyên, Phó bang chúa Cái bang, đi dự hội hoa xuân này. Nhan sắc tươi đẹp của người phụ nữ này đã làm cho hàng ngàn anh hùng hảo hán kinh ngạc, thán phục. Nhưng có một người không để ý tới tấm nhan sắc đó. Người đó là Bang chúa Cái bang Kiều Phong. Thật ra, Kiều Phong không hề coi thường vẻ đẹp phụ nữ; ông chỉ nghĩ rằng Ôn thị là vợ của thuộc hạ mình, cần phải giữ đúng lễ. Thế nhưng điều đó đã làm Ôn thị căm thù và lập tâm sẽ hại Kiều Phong để ông thân bại danh liệt. Nàng ta dựng lên một nghi án, cáo giác rằng chồng nàng biết Kiều Phong là giòng giống man rợ Khất Đan nên Kiều Phong đã giết chồng nàng để bịt miệng. Trong rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Ôn thị đã xuất hiện trong tư thế một người đàn bà đang chịu tang chồng, tiết lộ thân thế Khất Đan của Kiều Phong đã làm quần hùng Cái bang kinh tâm. Họ trở mặt khinh miệt ông, coi ông là kẻ thù. Kiều Phong phải đau đớn rời bỏ chức vụ, ra đi.

Kiều Phong sẽ không bao giờ hiểu được động cơ nào đã đưa Ôn thị đến việc vu cáo mình đã giết Mã Đại Nguyên, người bạn mà ông rất yêu mến, nếu không có một đêm ông rượt theo dấu vết Đoàn Chính Thuần và tận mắt chứng kiến tấn kịch man rợ tại nhà Ôn thị. Hoá ra, Ôn thị là người tình cũ của Đoàn Chính Thuần; họ đã quan hệ thân xác với nhau và trong cơn say đắm Đoàn Chính Thuần đã thề rằng nếu ông phụ Ôn thị, thân thể sẽ bị lóc thành từng miếng thịt. Gặp lại Đoàn Chính Thuần, Ôn thị vui vẻ mở tiệc rượu cùng Đoàn Chính Thuần ăn uống đùa giỡn rồi bỏ thuốc mê vào rượu đầu độc Đoàn Chính Thuần. Ôn thị trói Đoàn Chính Thuần lại, nhắc lại lời thề xưa và há miệng cắn từng miếng thịt của tình lang! Chính trong dịp này, Ôn thị đã tiết lộ cho Đoàn Chính Thuần biết rằng mụ đã hãm hại Kiều Phong; rằng người giết Mã Đại Nguyên - chồng mụ - không ai khác hơn là Bạch Thế Kính, chấp pháp trưởng lão Cái bang và là một tình lang khác của mụ; và rằng Bạch Thế Kính đã nhại theo chiêu thức Toả hầu cầm nã thủ của Kiều Phong để bóp nát yết hầu Mã Đại Nguyên, dễ dàng thực hiện âm mưu vu cáo! Ôn thị là một nhân vật nữ vô cùng quái dị trong suốt 12 bộ kiếm hiệp tiểu thuyết Kim Dung. Trong văn học thế giới, chưa thấy có một nhân vật nữ nào đáng nể như nàng Ôn thị. Phải chăng, đó chỉ là sản phẩm thuần tuý hư cấu của trí tưởng tượng, trên đời này không hề có một phụ nữ như vậy?

Nhưng Thiên Long bát bộ không chỉ có Ôn thị mà còn có Trấn Nam vương phi Đao Bạch Phụng, vợ chánh thất của Đoàn Chính Thuần, cũng quái dị không kém. Thân danh là Vương phi của nước Đại Lý, Đao Bạch Phụng đã khám phá ra chồng mình ngoại tình với nhiều phụ nữ khác. Vậy là bà ta trả thù và cách trả thù cũng khá độc đáo: cho một gã ăn xin rách rưới hôi hám ăn nằm với mình. Lần ăn nằm đó đã sinh ra một anh thế tử bảnh trai, một nhà nho trẻ lãng mạn, si tình. Đó là Đoàn Dự. Gã ăn mày dơ bẩn đó là ai? Chính là Đoàn Diên Khánh, nhân vật đại biểu của hoàng gia nước Đại Lý, tranh chấp ngai vàng không được, đã để quyền lực cầm đầu nước Đại Lý lọt vào tay Đoàn Chính Minh, anh ruột của Đoàn Chính Thuần.

Kim Dung để cho Đoàn Dự lưu lạc giang hồ, yêu một lúc ba cô gái Mộc Uyển Thanh, Chung Linh, Vương Ngữ Yên; toàn là những người con tư sinh của Đoàn Chính Thuần. Cho đến khi chàng trai tuyệt vọng vì khám phá ra rằng mình đang yêu những cô em cùng cha khác mẹ thì Trấn Nam Vương phi mới kề tai con mà tiết lộ rằng chàng không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà là con của Đoàn Diên Khánh! Một bà vương phi có ngoại hiệu là Ngọc diện Quan Âm mà lãng mạn và liều mạng đến thế thì thôi!

Nhân vật quái dị tuy sống rất khác đời nhưng lại sống rất người. Đối với họ, cái vỏ luân lý, đạo đức của đạo Nho không cứng lắm, có thể phá vỡ để thoát ra được để sống đúng như lòng mình muốn sống. Trong Xạ điêu anh hùng truyện, bất kỳ người anh hùng hào kiệt nào cũng lên án mối tình Tiểu Long Nữ - Dương Qua vì nàng Tiểu Long Nữ là sư phụ mà chàng Dương Qua là đồ đệ. Nho học và cả võ học Trung Quốc chưa hề cho phép một đứa học trò trai được yêu và lấy cô giáo của mình. Kim Dung lãng mạn và cách mạng hơn: ông cho phép họ thương yêu nhau và vượt xa hơn một chút, ông cứ để cho Tiểu Long Nữ mất trinh vì một gã đệ tử hạng bét của phái Toàn Chân. Mất trinh thì mất, Dương Qua chỉ biết yêu cô giáo của mình là Tiểu Long Nữ và ngược lại, trong đôi mắt của Tiểu Long Nữ chỉ có chàng Dương Qua mà thôi. Họ dắt tay nhau đi đâu khi thành Tương Dương bị quân Mông Cổ bao vây? Chính tác giả cũng không biết điều đó. Tình yêu đã đưa họ đi thật xa, xa loài người, xa cuộc đời. Tiểu Long Nữ bỏ đi và Dương Qua tìm kiếm. Và rồi cô bé Quách Tương cũng bỏ đi tìm Dương Qua.

Có thể kể ra hàng trăm nhân vật quái dị trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung. Họ tạo ra đặc điểm riêng cho tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, tạo nên "phong cách quái dị" độc đáo đến nỗi, khi cầm lên một tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp in bằng tiếng Quan thoại cũng ký tên tác giả Kim Dung mà chẳng có "phong cách quái dị" này, ta có thể nói ngay đó là tác phẩm nguỵ tạo (nguỵ tác).

Văn là người. Tư Mã Thiên đau niềm đau của kẻ sĩ bị cung hình, ráng sống để viết nên bộ Sử ký đồ sộ, trở thành viên pháp quan toàn quyền phê phán lịch sử một cách nghiêm khắc và nghiêm túc. Khuất Bình đau niềm đau của kẻ cô trung bị phụ bạc mà viết lên Ly tao rồi tìm cái chết trên dòng sông Mịch La, để lại cho đời những câu phú ngậm ngùi khôn tả. Lỗ Tấn sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đau thương nhất của Trung Quốc, không thể khóc nổi nữa đành phải đi tìm nụ cười ra nước mắt trong A.Q chính truyện. Kim Dung xuất thân từ một gia đình có ông nội làm quan dưới triều vua Quang Tự, đã lớn lên và từ bỏ Hoa lục ra đảo Đài Loan, đã chứng kiến được những tác hại của tư duy giáo điều và chủ nghĩa công thức sơ lược nên ông đã làm người lội ngược dòng nước. Phương pháp luận của triết học là đưa ra một chính đề, phản biện lại thành một phản đề để đi đến một hợp đề khả dĩ chấp nhận. Qua những nhân vật quái dị, Kim Dung đã đưa ra những phản đề và phần hợp đề được ông giao lại cho người đọc, để người đọc tự nhận ra.

Rõ ràng là anh hùng - tiểu nhân, chính phái - tà phái, trinh tiết - bất trinh, Kiếm tông - Khí tông, vương đạo - bá đạo, cao quý - đê tiện, ôn nhu - dâm đãng... là nhữngmặt đối lập khốc liệt. Nào ai đúng, nào ai sai? Người đọc hãy tự lý giải. Kim Dung chỉ dặn dò chúng ta: thấy như vậy nhưng không hẳn là như vậy. Thế thôi.

5. Nghề kĩ nữ

Khái niệm "nghề", theo nhà kinh tế học người Anh Thomas Robert Malthus, là một cái gì có lợi cho bản thân, vừa có ích cho xã hội. Và nếu hiểu theo cái nghĩa nghiêm túc đó thì kỹ nữ không thể là một nghề. Kỹ nữ, người con gái làm nghề bán phấn buôn hương, còn có nghĩa là ả đào, con hát. Nếu người ta có thể chấp nhận ả đào, con hát là một nghề thì người ta khó có thể chấp nhận được chữ nghề trong cái người ta gọi là bán phấn buôn hương. Trong thơ của Đỗ Mục, kỹ nữ còn được gọi là "thương nữ":

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu đình hoa

(Con hát biết chi hờn mất nước

Cách sông còn hát Hậu đình hoa

(Đỗ Mục - Bạc Tần Hoài)

Nói thì nói thế nhưng trong xã hội Trung Hoa ngày xưa, một xã hội vốn trọng nam khinh nữ, coi người phụ nữ là đồ chơi của đàn ông, có thể dễ dàng mua, bán, bắt cóc, sang nhượng hoặc đem làm quà tặng giữa những người đàn ông với nhau thì xuất hiện của nghề kỹ nữ cũng là điều rất bình thường, thậm chí được coi là hợp lý.

Nghề kỹ nữ có từ thời nào? Người ta khó mà xác định được thời điểm xuất hiện của nghề này, tuy nhiên cũng có thể khẳng định được nghề này gắn liền với chén rượu câu khách, mời khách, đàn ca làm vui và bán dâm cho khách. Theo tư liệu của ông Nguyễn Tôn Nhan đăng trên tạp chí Kiến thức ngày nay, ông tổ của nghề kỹ nữ là Bạch mi thần. Thần mày trắng có thể là Hồng Nhai tiên sinh, tên gọi Linh Luân, bầy tôi dưới thời vua Hoàng Đế, người làm ra âm luật đã được ghi trong Lã Thị xuân thu của Lã Bất Vi thời Tần. Thần mày trắng cũng có thể là Liễu Đạo Chích, thời Xuân Thu; Quản Trọng (Quản Di Ngô), thời Xuân Thu, người có công lập ra 700 nhà chứa gái để đàn ông đến mua vui, thu tiền lời để lo tiền quân quốc cho Tề Hoàn Công; cũng có thể là Lã Động Tân trong nhóm Bát tiên, nhân vật chuyên dạy hát kiêm trị bệnh hoa liễu cho phụ nữ làng chơi. Trong bất kỳ thời đại vua chúa nào ở Trung Hoa, nghề kỹ nữ cũng vẫn được hoạt động, các "viện" chứa gái vẫn mọc lên ở khắp nơi. Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung trở thành một bản điều tra xã hội khá ngoạn mục khi ông phản ánh cho độc giả thấy thêm được một nghề: nghề kỹ nữ.

Trong tác phẩm Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung có nhắc tới viện Quần Ngọc dưới núi Hành Sơn. Đây là nơi mà Lệnh Hồ Xung khuyên Điền Bá Quang nên tìm tới để giải trí, buông tha cho ni cô Nghi Lâm bé bỏng tội nghiệp. Cũng chính nơi này, Lệnh Hồ Xung đã tìm tới để dưỡng thương; Nghi Lâm được cô bé Khúc Phi Yên dẫn đến tìm anh để đưa anh đến vùng hoang sơn dã lĩnh, tránh sự truy đuổi của những kẻ thù. Cũng chính nơi này, Dư Thương Hải của phái Thanh Thành tưởng đã có cơ hội làm nhục hai phái Hoa Sơn và Hằng Sơn nếu bắt được Lệnh Hồ Xung và Nghi Lâm ở chung một phòng, nhưng cuối cùng lão đã phải chạm mặt Điền Bá Quang và đánh nhau, bị Điền Bá Quang xuyên tạc là "đánh nhau để giành một cô gái làng chơi tên là Ngọc Bảo".

Nhưng nghề kỹ nữ được mô tả đậm nét nhất vẫn là trong bộ Lộc Đỉnh ký, Vi Tiểu Bảo xuất thân từ kỹ viện Lệ Xuân ở thành Dương Châu. Mẹ của Vi Tiểu Bảo -Vi Xuân Phương - bang giao rộng rãi với các anh em Hán, Mông, Tạng, Hồi Mãn; không khẳng định được cha của Vi Tiểu Bảo là ai. Chính Vi Tiểu Bảo cũng trải qua tâm trạng buồn bực, ghen tị khi má mình đã già (trên 30 tuổi), không có được khách sang, khách sộp của các kỹ nữ trẻ tuổi khác.

Kim Dung cũng cho biết các cấp bậc trong các kỹ viện ở Dương Châu. Má má là chủ viện, người bỏ tiền ra mua gái về, có toàn quyền sinh sát đối với các cô gái. Mụ dầu là những người đàn bà lớn tuổi, chuyên môi giới giới thiệu, làm môi giới mại dâm. Kỹ nữ là người trực tiếp bán dâm trong các kỹ viện, lại kiêm nhiệm vụ mời khách uống rượu và kêu đồ nhậu. Nội dung công việc của họ là khuyến khích bọn khách chơi xài tiền nhiều càng tốt. Quy nô là những chàng trai cô gái có nhiệm vụ phục vụ các công việc vặt trong kỹ viện: nấu nướng thức ăn, pha rượu, dọn bàn ghế, mua đồ ăn cho kỹ nữ và... đánh đập những cô gái nhà lành, dằn mặt họ nếu họ không chịu bán trinh, không chịu tiếp khách.

Chính Vi Tiểu Bảo đã từng mơ ước một ngày có số tiền lớn, tìm đến một viện nào đó ăn xài phung phí cho sướng tay ba ngày ba đêm. Về sau, làm đại thần trong triều Khang Hy rồi, Vi Tiểu Bảo mang số tiền lớn về cho mẹ để mẹ có thể mở một Lệ Thu viện, Lệ Đông viện, Lệ Hạ viện ; cạnh tranh cho cái Lệ Xuân viện mà hắn đã từng lớn lên và chịu nhục phải sụp tiệm, rồi đời. Ngay bà Vi Xuân Phương, khi nhìn thấy đàn con dâu tươi đẹp của mình, trong đó có đủ tất công chúa, phu nhân, tiểu thư quyền quý; đã khen con mình có con mắt tinh đời. Trong tư tưởng khinh doanh kỹ viện của bà già chồng này thì cứ cái đàn gái đó mà lập thành một viện thì ắt thành Dương Châu sẽ không có viện nào còn bóng đàn ông nữa.

Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung xây dựng một tình huống xảy ra tại Lệ Xuân viện khá buồn cười. Trịnh Khắc Sản dẫn A Kha (cô gái mà Vi Tiểu Bảo đang say đắm) hoá trang thành một vị công tử, xuống Lệ Xuân viện ở Dương Châu để đón bắt Vi Tiểu Bảo. Bà Vi Xuân Phương cứ tưởng đây là hai khách sộp, cố gắng rót rượu mời chào, ôm Trịnh Khắc Sản và A Kha hôn hít hoài. Vi Tiểu Bảo thấy cảnh đó vừa bực tức vừa sợ Trịnh Khắc Sản, tình địch của mình sẽ trở thành cha hờ của hắn đêm ấy; vừa buồn cười vì mẹ ruột của mình cứ hôn hít bồ của mình, tưởng A Kha là đàn ông phong lưu.

Thành đô nhộn nhịp có kỹ viện không lạ. Lạ nhất là những nơi tôn nghiêm như chân núi Thiếu Thất dưới chùa Thiếu Lâm, Hồ Nam cũng có kỹ viện. Chính Vi Tiểu Bảo trong lớp áo của Hối Minh thiền sư, phó trụ trì chùa Thiếu Lâm, chịu không nổi cảnh chay tịnh của nhà chùa, đã thay áo đội khăn lén khỏi chùa đến kỹ viện chơi. Lúc hắn đang say sưa cho tiền bọn kỹ nữ, gác tay gác chân lộn xộn thì A Kha và A Kỳ đến tìm hắn để tấn công. Hắn nhanh trí nói dối A Kỳ là vợ lớn, A Kha là vợ nhỏ, nghe hắn đi chơi kỹ viện nổi ghen đến quậy. Để tránh sự truy bắt của A Kỳ, A Kha, hắn dùng kế "kim thiền thoát xác", mượn áo bọn kỹ nữ mặc vào, cho tiền đậm bọn kỹ nữ nhờ chúng chửi bới A Kha, A Kỳ rồi chia hai tốp kéo ra cổng trước và cổng sau. Thấy bọn kỹ nữ kéo ra, A Kỳ và A Kha không dám chém. Vi Tiểu Bảo nhờ thế mà thoát nạn, chỉ thương bọn kỹ nữ vì ăn tiền chửi mắng hăng quá, bị A Kỳ và A Kha đánh cho sứt đầu mẻ trán, kêu khóc om sòm. Sau này A Kỳ và A Kha đem chuyện hắn đi chơi kỹ viện thưa với phương trượng chùa Thiếu Lâm là Hối Thông thiền sư. Vi Tiểu Bảo tưởng đã chết đến nơi, ai ngờ có một nhân vật là Dương Dật Chi đứng ra đỡ đòn cho hắn. Dương Dật Chi cho biết hắn là thái giám được hoàng thượng tin tưởng. Mà thái giám thì còn đi kỹ viện sao được. Cho nên mọi vị sư tăng trong chùa Thiếu Lâm đều kính ngưỡng hắn và cho rằng câu chuyện của A Kỳ và A Kha là chuyện bịa đặt, vu cáo một nhà tu hành đạo đức sáng rỡ!

Nhưng thật ra, kỹ viện không chỉ là nơi mại dâm. Nếu trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung, bọn hào sĩ giang hồ bị bọn quan binh truy nã; người bị thương thì lánh vào kỹ viện trị thương, thì trong thực tế, các danh sĩ thường tìm đến kỹ viện để nghe hát làm thơ, rồi dạy các kỹ nữ hát những bài thơ của mình thành nhạc phổ. Kỹ viện trở thành nơi nương náu của những tâm hồn cô độc, của những người bị vua chúa lưu đày. Trong những trường hợp đó thì kỹ nữ trở thành người bạn tri âm.

Chúng ta đã từng biết Bạch Cư Dị bị giáng làm Tư mã Cửu Giang, đã từng làm bài Tỳ bà hành ca ngợi tiếng đàn của một kỹ nữ dài 622 câu. Trong phần đề tựa, Bạch Cư Dị đã viết: "Năm Nguyên Hoà thứ mười (816), ta bị giáng làm Tư mã huyện Cửu Giang ... tiễn khách ở bến Bồn, giữa đêm nghe tiếng tỳ bà ở trên thuyền ... hỏi ra thì đó là ca nữ ở Trường An". Tác giả ngồi nghe tâm sự của người ca nữ đó. Bản thân người ca nữ đó là một nhân vật có học, có lòng tự trọng, không phải khách nào mời cũng ra:

Di thuyền tương cận yêu tương kiến

Thiên tửu hồi đăng trùng khai yến

Thiên hô vạn hoán thỉ xuất lai

Do bão tỳ bà bán già diện

(Ghé thuyền đến cạnh chào mời

Khêu đèn thêm rượu lại bày tiệc hoa

Nằn nì mời mãi mới ra

Ôm đàn che nửa mặt hoa thẫn thờ)

(Trần Trọng Kim dịch)

Lý Bạch cũng từng tìm thấy nguồn cảm hứng trong những chén rượu mà các nàng Ngô cơ chào mời ông trong bài Kim Lăng tửu tứ lưu biệt:

Phong xuy liễu hoa mãn điếm hương

Ngô cơ áp tửu khuyến khách thường

(Gió đưa hương liễu đầy nhà

Gái Ngô chuốc rượu thiết tha ép nài)

Nhưng có lẽ Đỗ Mục với 10 năm lưu lạc ở Giang Nam mới hiểu được tấm lòng của người hồng nhan tri kỷ xuất thân từ giới kỹ nữ:

Lạc phách giang hồ tái tửu hành

Sở yêu tương tế chưởng trung khinh

Thập niên nhất giác Dương Châu mộng

Dinh đắc thanh lâu bạc hạnh danh

(Lưu lạc giang hồ đã bấy lâu

Cùng người nhỏ bé ở bên nhau

Mười năm sực tỉnh Dương Châu mộng

Mang tiếng trăng hoa nghĩ lại sầu)

(Hàn Giang Nhạn dịch)

Và đúng như truyền thống các bậc nhà văn tiền bối, Kim Dung cũng không hề xây dựng nững nhân vật thuần tuý là những cô gái làng chơi trong tiểu thuyết võ hiệp của mình. Tôi có dịp khắc hoạ nhân vật Trần Viên Viên như một thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, một danh kỹ, tuy xuất thân từ chốn phong trần nhưng đẹp tuyệt vời và thông minh vô hạn, có một quan hệ lạ lùng đến lịch sử Trung Hoa thời Minh mạt - Thanh sơ. Nhân vật có thật này trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho danh sĩ Ngô Mai Thôn đời Thanh viết thành Viên Viên khúc. Và cũng ngay trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng xây dựng nên những đoạn kể chuyện các quan ở Dương Châu chiêu đãi khâm sai đại thần Vi Tiểu Bảo bằng cách mời ba kỹ nữ tài năng. Người thứ nhất là Lương Ngọc Kiều, tuổi ngoài 30, ăn mặc hoa lệ nhưng nhan sắc cũng tầm thường. Người thứ hai lối ba mươi bốn, ba mươi lăm nhưng "cử chỉ thuần nhã, giọng ca thánh thót; gặp những câu khúc chiết vi diệu tiếng hát càng thanh thoát lên bổng xuống trầm, biến hoá vô cùng". Cô hát bài Vọng Hải Triều, thơ của Tần Quan đời Tống, ca ngợi đất Dương Châu. Người thứ ba là một kỹ nữ tuổi ngoài bốn mươi, trán nhiều vết nhăn, mắt nhỏ ti hí nhưng được đánh giá là đệ nhất danh kỹ Dương Châu. Cô ôm tỳ bà hát một bài mới của Tra Thận Thành (viễn tổ của Kim Dung); các quan ở Dương Châu ngồi nghe tâm hồn bay bổng. Chỉ có Vi Tiểu Bảo là chán nản bởi vì gã chỉ thích gái trẻ, mà có hát thì phải hát những bài dâm đãng như Thập bát mô. Cho nên khi gã đòi cô danh kỹ này hát Thập bát mô, cô đã liệng đàn, ôm mặt khóc bỏ chạy khỏi bữa tiệc.

Với tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung đã hé mở cho ta thấy sự tồn tại của giới kỹ nữ và các kỹ viện trong những chế độ quân chủ Trung Hoa. Biết sao được, pháp luật ấy công nhận kỹ nữ là một nghề thực thụ. Điều đáng quý ở nơi ông là ông đã nhìn những kỹ nữ dưới con mắt của nhà văn nhân bản và nhân đạo: không lên án cái nghề ti tiện của họ, mà thậm chí còn có khuynh hướng ca ngợi, biểu dương các danh kỹ như các nhà văn tiền bối đã làm. Nhưng tôi cho rằng cái cam đảm nhất ở ông là đã để cho một thàng nhóc con của một kỹ nữ, lớn lên trong kỹ viện trở thành công tước của triều Thanh, đè đầu cưỡi cổ thiên hạ, kể cả những bậc vương công đại thần, Đó là Vi Tiểu Bảo. Kim Dung muốn chứng minh một định đề: trước những ba động của lịch sử thì một gã lưu manh, một con gái điếm, cũng có thể trở thành người "cao quý " nhất thiên hạ. Định đề đó quả thật buồn và thật đắng cay!

6. Con trâu

Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung không phản ánh về hoạt động nông nghiệp của nông dân Trung Quốc mà chỉ phản ánh thế giới võ hiệp - một thế giới hoàn toàn hư cấu do trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Tuy nhiên, xuất thân từ một đất nước rộng lớn trong một giai đoạn mà nền nông nghiệp còn sản xuất nhỏ và lạc hậu, Kim Dung đã đưa vào trong tiểu thuyết của mình hình ảnh nông thôn Trung Quốc, những nông dân và sinh hoạt nông nghiệp Trung Quốc. Ta thử bàn về con trâu trong tác phẩm của ông.

Trong ngôn ngữ Trung Quốc, trâu là ngưu hoặc hắc ngưu để phân biệt với con bò là hoàng ngưu. Ở chừng mực nào đó, Kim Dung cũng đã thể hiện tình cảm của mình đối với con trâu, sức kéo tiêu biểu trong nông nghiệp truyền thống Trung Quốc. Trong tác phẩm Thần điêu hiệp lữ, trí tưởng tượng của tác giả đã phát huy đến cao độ khi ông để cho chàng trai Dương Qua "mượn" tạm một con trâu của người nông dân, mặc bộ quần áo của trẻ chăn trâu, đốt đuốc phía sau đít trâu để trâu phóng thục mạng vào vòng vây của quân Mông Cổ xâm lược. Con trâu của Dương Qua xông trận còn hữu hiệu hơn cả con ngựa chiến Mông Cổ. Phải chăng đó là hình ảnh tiêu biểu của cuộc khởi nghĩa nông dân tại thành Tương Dương? Cuộc khởi nghĩa Tương Dương đã bị quân Nguyên tắm máu, giang sơn Trung Hoa chìm trong ách Di Địch nhưng hình tượng Dương Qua cỡi trâu xông trận vẫn còn mãi với Thần điêu hiệp lữ và được hiện thực hóa bằng điện ảnh.

Chàng trai Quách Tĩnh trong Xạ điêu anh hùng truyện được thầy mình là Hồng Thất Công đặt tên cho là Thuỷ Ngưu (trâu nước), còn có biệt hiệu là Ngưu Canh Điền (trâu cày ruộng). Ấy bởi vì tướng mạo Quách Tĩnh mộc mạc quê mùa, nước da ngăm ngăm đen, ít miệng lưỡi, chậm hiểu, tướng phục phịch như con trâu.

Con trâu có mặt khắp mọi nơi trong tiểu thuyết Kim Dung. Trâu chết đi để lại cho người thịt và da. Bọn quần tiên 36 động 72 đảo trong Thiên Long bát bộ chuyên ăn thịt trâu khi tấn công lên cung Linh Thứu, núi Phiêu Diễu. Và bọn họ ăn như ngựa, uống như trâu (mã thực, ngưu ẩm). Bọn quần hào Trung Nguyên, từ đám bàng môn tả đạo ủng hộ Lệnh Hồ Xung tấn công lên chùa Thiếu Lâm núi Thiếu Thất trong Tiếu ngạo giang hồ đến bọn lên ủng hộ Thiếu Lâm anh hùng đại hội trong Thiên Long bát bộ đều đánh trống bằng da trâu. Có lẽ da trâu dày hơn da bò mới chịu được công lực của các vị đại gia ấy chăng? Cái tiết tấu ồn ào, phức tạp của họ làm cho ma quỷ, thánh thần cùng kinh hãi. Da trâu được dùng làm vũ khí và đôi khi là công cụ để thi hành hình luật. Đó là roi da trâu, tức ngưu bì tiên, đánh đến đâu nghe đến đó! Sừng trâu được cưa làm chung đựng rượu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Tổ Thiên Thu đã thuyết Lệnh Hồ Xung rằng rượu trắng ngoài quan ngoại đựng trong sừng trâu. Sở dĩ dùng sừng trâu làm chung uống rượu vì chất sừng tanh tanh, có như thế mới chế ngự được mùi vị cay nồng của rượu trắng.

Tên tuổi của con trâu cũng được nhà tiểu thuyết mượn tạm để chế ra môn phái, ám khí và võ công. Các vị đạo sĩ tu theo pheo phái Võ Đang như Xung Hư trong Tiếu ngạo giang hồ, Trương Tam Phong trong Ỷ thiên Đồ long ký được gọi là các lão "lỗ mũi trâu". Mô phỏng theo hình dáng sợi lông trâu, bọn bàng môn tả đạo chế ra thứ ám khí gọi là Ngưu mao châm. Trong Thiên Long bát bộ, Tang Thổ Công, động chủ động Bích Lân, đã bắn thứ này vào bọn Mộ Dung Phục khiến phe Cô Tô Mộ Dung ngứa ngáy vô kể. Tuy nhiên điểm sáng nhất của Kim Dung lại nằm trong môn Cách sơn đả ngưu thần công. Như tên gọi, loại công phu này có điểm cách biệt là đánh được con trâu mà giữa con trâu và người đánh có một vật cản là hòn núi. Tất nhiên cả hai khái niệm trâu và núi đều mang tính ẩn dụ cao độ. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung đã để cho quốc sư nước Thổ Phồn là Cưu Ma Trí biểu diễn công phu này. Cưu Ma Trí vận chưởng của phái Thiếu Lâm, đứng từ xa vung tay đánh cách không vào chiếc lư hương bằng đồng. Phía bên này lư hương vẫn bình thường nhưng ở phía bên kia, phần đồng bị cắt ra một miếng đúng như bàn tay của Cưu Ma Trí. Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung cũng để cho Vi Tiểu Bảo biểu diễn Cách sơn đả ngưu thần công. Hắn vận "công lực" và đấm vào các vị Lạt ma Tây Tạng những thế võ nhẹ hều. Nhưng các nhà sư Tây Tạng lại lăn ra chết. Tại sao vậy? Trong tay áo thùng thình, hắn đang cầm một lưỡi truỷ thủ bén ngọt. Hắn vung tay lên không phải để đánh quyền mà là dùng truỷ thủ đâm lén. Da thịt nào chịu nổi loại thần công gớm ghiếc như vậy?

Người đời thường bảo ngu như trâu, dở như trâu. Nhưng trong tác phẩm võ hiệp Kim Dung, con trâu đã chẳng ngu mà lại chẳng dở chút nào. Cuốn Ỷ thiên Đồ long ký xây dựng một nhân vật thầy thuốc mà y thuật cao đến độ thần thông, mang tên trâu xanh: Hồ Thanh Ngưu. Ngoại hiệu của Hồ Thanh Ngưu là Điệp Cốc y tiên và chỗ ở của ông là Hồ Điệp Cốc. Cả ngoại hiệu và chỗ ở của Hồ Thanh Ngưu cho thấy được chất lãng mạn mênh mông của nhân vật này.

Có một con trâu khác trở thành đối tượng được các cô thiếu nữ nhan sắc kiện tướng công huân say mê như điếu đổ. Đó là chàng Trương Vô Kỵ, khi trốn vào hang núi mới có 15 tuổi. Trong 5 năm học võ, chàng trở thành bậc thượng thừa. Trượt tuyết rớt xuống chân núi gãy cả hai chân, chàng tự xưng là Tăng A Ngưu (Tăng Văn Trâu). Lên đến Quang Minh đỉnh giải vây cho quần hùng Minh giáo, chàng vẫn là Tăng A Ngưu. Tăng A Ngưu có đến bốn cô bạn sắc nước hương trời, một "tài sản" mà không một hoàng đế Trung Hoa nào có được: Triệu Mẫn, quận chúa hoa hậu Mông Cổ; Tiểu Siêu, hoa khôi thánh nữ sứ Minh giáo Ba Tư; Chu Chỉ Nhược, chưởng môn phái Nga Mi; Hân Ly, tức Châu Nhi, em cô cậu. Cuối cùng Tăng Văn Trâu chọn Triệu Mẫn vui chơi bốn biển năm hồ mặc dù anh có đủ tài năng và tư cách lên nắm ghế lãnh đạo cao nhất trong lực lượng khởi nghĩa kháng Nguyên ở Hoài Tứ. Thuộc hạ của anh là Chu Nguyên Chương đã nắm quyền khởi nghĩa thành công, xưng đế hiệu là Minh Thái Tổ, mở ra nhà Minh (1368 - 1643), truyền được 13 đời. Tăng A Ngưu Trung Quốc đi theo đóa hoa lài Mông Cổ nhưng trong trường hợp này chẳng ai dám chế giễu nhà văn Kim Dung đem bông hoa lài cắm bãi cứt trâu!

7. Người Tây

Người Trung Quốc vẫn gọi người châu Âu là Tây dương quỷ (bọn quỷ ở bờ biển phía Tây) hoạc Hồng mao quỷ (bọn quỷ lông tay đỏ). Khi dùng cách gọi như thế, người Trung Quốc đã tự cho họ cái quyền được mạt sát người châu Âu, coi dân châu Âu không phải là người.

Trong Lộc Đỉnh ký, Kim Dung đã có những đoạn, những chương thuật lại các quan hệ với người Tây dương. Đầu tiên là người Nga. Cuộc chiến tranh Trung - Nga dưới triều Khang Hy đã diễn ra tại thành Ni Bố Sở (Nertohinsk) năm 1669. Vi Tiểu Bảo làm nguyên soái, tư lệnh các lộ quân Thanh triều, đi đánh quân Nga. Tư lệnh Nga là Á Nhĩ Thanh Tư Cơ (Alsinsky) bị bắt. Hầu tước Nga là Phí Diêu Đa La (Feodore) phải xin cầu hoà. Trong giai đoạn này, Vi Tiểu Bảo thu nhận hai tay đội trưởng Nga để làm người đưa tin về cho công chúa Tô Phi Á (Sophia). Một người tên là Hoa Bá Tư Cơ (Vabasky) và một người tên là Tề Lạc Nặc Phu (Delanov). Hai người này đã giúp chuyển thư từ, quà cáp của Vi Tiểu Bảo về cho Tô Phi Á và đồng thời cũng đem tin tức, quà cáp của Tô Phi Á lại cho Vi Tiểu Bảo. Do trình độ chữ Hán mập mờ, chữ Nga lại ấm ớ, Vi Tiểu Bảo đọc tên hai người này là Vương Bát Tử Kê (gà chết khốn nạn) và Trư La Noạ Phu (con heo hèn hạ). Lộc Đỉnh ký cũng nhắc đến đại sứ Nga Tư Ba Tháp Lôi (Spartinary) và đoàn quân Nga bị bắt về Bắc Kinh, được vua Khang Hy trọng dụng, kêu bằng Nga La Tư tá lĩnh.

Ngay trong triều đình Khang Hy, nhà vua cũng đã trọng dụng hai nhân tài Tây Dương. Người thứ nhất là Thang Nhược Vọng (Adam Schall), quốc tịch Đức, giám đốc đài Thiên văn Bắc Kinh. Cuộc đời của Thang Nhược Vọng rất may mắn khi gặp được vua Khang Hy. Thời ThuânTrị, Thang Nhược Vọng đã được tin tưởng, cho làm công việc tính thiên văn, lịch pháp. Năm Khang Hy thứ ba (1665), Toà Khâm thiên giám tính lộn ngày nhật thực; Thang Nhược Vọng khám phá ra sơ suất ấy, trình Khang Hy. Dương Quang Tiến, viên quan tính lộn nhật thực, đâm ra thù Thang Nhược Vọng, muốn trả oán. Tiên bèn lấy cuốn Đại Thanh thời hiến lịch do Thang Nhược Vọng viết ra dưới thời Thuận Trị, tiên đoán nhà Thanh chỉ ở ngôi 200 năm, làm một bản tâu lên Khang Hy rằng nhà Đại Thanh có thượng đế phù hộ, sẽ trường tồn vạn năm. Chuyện Thang Nhược Vọng cho rằng Đại Thanh chỉ bền vững 200 năm là nguyền rủa Đại Thanh. Lúc đó, Khang Hy mới 11 tuổi, quyền hành đang ở trong tay cố mệnh đại thần Ngao Bái. Ngao Bái nghe tâu, bèn bắt Thang Nhược Vọng, định xử lăng trì. Nhưng Khang Hy phát giác được chỗ để cứu THang Nhược Vọng. Nhà vua nhỏ tuổi bàn: cuốn Đại Thanh thời hiến lịch làm ra năm Thuận Trị thứ 10 (1653) chẳng ai nói gì; thậm chí vua còn ban cho Thang Nhược Vọng tước vị Thông Huyền giáo sư. Nay đem Thang Nhược Vọng ra giết đi thì chẳng khác nào mạt sát tiên hoàng Thuận Trị là u mê, tối tăm. Nhà vua bàn nên giam Thang Nhược Vọng lại. Khi Ngao Bái bị giết, nhà vua cho thả Thang Nhược Vọng ra, làm giám đốc Thiên văn đài như cũ, phong tước Thông Minh giáo sư (vì tên của Khang Hy là Huyền Hoa, phải kỵ huý nên bỏ tước Thông Huyền giáo sư).

Người thứ hai là Nam Hoài Nhân (Ferdinard Verbiest) gốc Bỉ Lợi Thì (Belgique). Người này rất trung thành với Khang Hy chuẩn bị đánh Ngô Tam Quế, nhà vua đã nhờ đến cả Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng giấm đốc toàn bộ công trình đúc đại bác cho mình, Cả hai đều là giáo sĩ dòng Tên (Jésuite) làm cho quan dưới triều Khang Hy và đã có nhiều đóng góp lớn lao giúp Khang Hy bình định Trung Quốc.

Chính Vi Tiểu Bảo cũng mến mộ hai người Tây dương này. Y gọi họ là "ngoại quốc lão huynh". Vi Tiểu Bảo rất kinh phục kỹ thuật đúc trọng pháo của hai "ngoại quốc lão huynh". Sau đó, đi đánh người Nga La Tư ở Ni Bố Sở, Vi Tiểu Bảo cũng mời các "ngọai quốc lão huynh" cùng đi trong quân để làm người phiên dịch trong đàm phán phân chia ranh giới và viết hoà ước bằng tiếng Latin cho mình.

Lộc Đỉnh ký cũng có những đoạn thuật lại cuộc chiến đấu của quân dân đảo Đài Loan chống lại người Hà Lan. Kim Dung gọi viên tư lệnh Hà Lan là Quỷ Nhất (?). Tra cứu trong chính sử Trung Quốc, chúnh tôi chưa tìm được đích xác tên gốc của viên tư lệnh này. Tất nhiên, đối với những kẻ đến xâm lược đất nước mình. Kim Dung dùng từ "Quỷ" cũng chẳng có gì là quá đáng.

Chính trong tác phẩm của mình, Kim Dung cũng thừa nhận rằng sức mạnh hoả khí của người Tây dương là ghê gớm, không có một thứ "thân công" nào của giới võ lâm Trung Quốc có thể địch nổi. Ngô Tam Quế tặng cho Vi Tiểu Bảo một cặp súng lục của Nga, hắn bắn thử một phát, sạt nửa hòn giả sơn, khiến cho gã sợ hãi muốn... ra quần. Cũng vậy, ra diễn võ trường Bắc Kinh xem thử súng đại bác của Man Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng chế ra, gã kinh hoàng nghe trọng pháo nổ hai lần. Cho nên, nói chuyện võ công là nói chơi, chuyện chiến đấu bằng súng đạn trên chiến trường mới là chuyện thật. Những chiến thắng của quân dân Đài Loan trước quân Hà Lan, của quân Thanh trước quân Nga chẳng qua cũng chỉ là kinh nghiệm dùng cái thô sơ để chống chọi với cái tiên tiến. Người Trung Quốc đã biết đưa quân dùng ván ghép lại để che đạn, cho quân đi sau dùng đoản đao xung phong chặt chân người Tây dương. Lịch sử Trung Quốc gọi đó là Đằng bài quân. Điều may mắn cho họ là ở thế kỉ 17, súng đạn chưa có được sức mạnh sát thương ghê gớm như ngày nay. Cho nên họ đã chiến thắng được Tây dương quỷ.

8. Kĩ thuật

Khái niệm khoa học - kỹ thuật là khái niệm khá mới mẻ, khái quát những phát minh sáng chế sử dụng phục vụ cho con người. Từ ngàn xưa, dân tộc Trung Hoa cũng có những phát kiến khoa học - kỹ thuật riêng của họ. Và thật thú vị khi ta gặp lại một số kỹ thuật sơ đẳng đó trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung.

Kim Dung cho ta biết người Trung Hoa đã biết sử dụng chất cường toan (acid) vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Đầu tiên, chất acid dùng để viết chữ. Bộ Ỷ thiên Đồ long ký có nhắc đến sáu thanh Thánh hỏa lệnh của Bái hỏa giáo Ba Tư do 3 sứ giả của tôn giáo này đem vào Trung Quốc, dùng như một loại vũ khí, trên đó có khắc pho võ công quái dị của người Ba Tư. Trương Vô Kỵ, giáo chủ Bái hỏa giáo Trung Quốc (Kim Dung dùng từ Minh giáo - Manichéisme ) sử dụng võ công tuyệt thế đoạt lấy được các thẻ Thánh hỏa lệnh. Điều đặc biệt là các Thánh hỏa lệnh không phải bằng xương, bằng ngà, bằng thép mà bằng một lọai hợp kim rất lạ. Để viết được tâm pháp võ công trên Thánh hỏa lệnh, người Ba Tư phải nhúng thánh hỏa lệnh vào sáp, lấy cọ cứng viết chữ trên mặt sáp rồi dùng chất cường toan đồ theo nét chữ nhiều lần mới in sâu được chữ vào Thánh hỏa lệnh

Bọn hào sĩ giang hồ của Kim Dung đã biết dùng cường toan làm vũ khí chiến đấu. Trong Ngũ kỳ của Minh giáo Trung Quốc, có đội Hồng thủy kỳ chuyên dùng ống phun cường toan vào kẻ địch. Trên sân chùa Thiếu Lâm, họ đã biểu diển màn đánh cường toan vào bầy chó sói cho quần hùng mục kích. Bộ Tiếu ngạo giang hồ cũng nói đến kỹ thuật đánh cường toan này. Bọn giáo chúng Nhật Nguyệt giáo ngụy trang lên Hằng Sơn chúc mừng lễ nhậm chức chưởng môn của Lệnh Hồ Xung đã đem theo ống phun nước cường toan, vây hãm Lệnh Hồ Xung, Phương Chứng - trụ trì chùa Thiếu Lâm và Xung Hư - chưởng môn phái Võ Đang....

Kim Dung còn đề cập đến kỹ thuật dùng thuốc nổ. Đầu tiên thuốc nổ được dùng như một lọai pháo thăng thiên, nổ trên không trung cho ra những hình ảnh đặc biệt. Đây là cách triệu tập đồng môn, đệ tử của từng môn phái. Từ thuốc nổ làm pháo, Kim Dung bàn đến kỹ thuật chôn thuốc nổ để đánh mìn. Phái Tiêu Dao trong bộ Thiên Long bát bộ có kỹ thuật đánh mìn cực giỏi. Bọn Hàm Cốc bát hữu của phái Tiêu Dao dùng thuốc nổ làm mìn chống lại Đinh Xuân Thu. Trong Tiếu ngạo giang hồ, phái Võ Đang chôn thuốc nổ ở núi Hằng Sơn định tiêu diệt Nhật Nguyệt giáo. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Viên Chân (tức Thành Khôn) chôn thuốc nổ hòng tiêu diệt Minh Giáo. Họ đều biết cách chuyền dây dẫn, kích hỏa, tạo phản ứng nổ...

Lịch sử cho ta biết người Trung Hoa là dân tộc đầu tiên tìm ra thuốc nổ phục vụ nghề làm pháo. Điều thú vị là trong tiểu thuyết Kim Dung không có vụ nổ nào thành công bởi vì cuối cùng chẳng có ai kích hỏa. Tất cả đều kết thúc tốt đẹp, nhân vật giang hồ không ai chết tập thể vì thuốc nổ, dù đã được chôn theo đúng dự kiến.

Bộ Thiên Long bát bộ cho chúng ta biết kỹ thuật sử dụng chất lân (phosphore) làm vũ khí. Phái Tinh Tú của Đinh Xuân Thu lấy chất lân chế ra những viên đạn dùng để bắn vào thân thể người khác. Ngọn lửa xanh biếc của chất lân bám vào quần áo da thịt người bị bắn, bốc cháy khiến cho nạn nhân đau đớn kêu gào rất thảm thiết trước khi chết. Phái Tinh Tú sử dụng loại đạn này để trừng phạt các giáo đồ có âm mưu phản thầy, dối bạn đồng môn.

Sự thật của sức mạnh trong việc đánh nhau chủ yếu vẫn là vũ khí. Vũ khí càng mới mẻ, việc đánh nhau càng dễ đưa đến thành công. Trong Lộc Đỉnh ký nói đến kỹ thuật đúc súng đại bác: vua Khang hy lặng lẽ giao cho 2 giáo sĩ người Tây Dương là Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng luyện kim đúc súng đại bác. Nhà vua chuẩn bị việc đánh nhau với Bình Tây vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam và với quân Nga ở biên giới Đông Bắc. Súng đại bác thời đó chưa có bộ phận kích hỏa, phải đốt mồi lửa sau đuôi trái đạn để tạo phản ứng nổ đẩy trái đạn bay đi. Đây là 1 dạng sử dụng thuốc bồi trong pháo binh hiện đại. Để buổi thao diễn kích thích tinh thần sĩ tốt, Nam Hoài Nhân và Thang Nhược Vọng cho xây sẵn những gò nổng làm mục tiêu, bên trong gò nổng chứa đầy diêm sinh, lưu huỳnh. Quả đạn rơi trúng mục tiêu nổ bùng khiến các chất trên bốc cháy rực trời. Bọn sĩ tốt phấn khởi, hoan hô vạn tuế muốn bể cả võ trường.

Kỹ thuật luyện kim được Kim Dung nhắc đến nhiều nhất trong các bộ tiểu thuyết võ hiệp của ông. Bọn hào sĩ giang hồ đánh nhau thường sử dụng đến 2 thứ vũ khí cổ điển là đao và kiếm. Kim Dung đề cập đến loại bảo đao, bảo kiếm như Đồ long đao và Ỷ thiên kiếm (Ỷ thiên Đồ long ký) chém sắt như chém bùn. Ông cũng đề cập đến các loại trủy thủ (dao găm) chế bằng hợp kim đặc biệt như lưỡi trủy thủ của Vi Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh ký. Loại trủy thủ này bén ngọt đến nổi Vi Tiểu Bảo đâm xuyên qua vách ván giết chết mấy Lạt ma Tây Tạng cứu thầy mình là Cửu Nạn sư thái mà người ở hiện truờng chẳng biết tại sao các Lạt ma chết đi. Trong Hiệp khách hành, ông đề cập đến một thứ lệnh bài làm bằng huyền thiết (thép đen) của Tạ Yên Khách. Tạ Yên Khách lấy kiếm chém vào Huyền thiết lệnh, kiếm gãy mà lệnh bài vẫn không suy suyển chút nào.

Nhắc đến thuật luyện kim, Kim Dung không quên khoác vào cho thuật này chất huyền bí. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, ông kể lại chuyện quần hùng Minh giáo nối lại cây đao Đồ long đã gãy. Trên ngọn lửa đỏ phừng phừng, tất cả các loại kềm gắp bảo đao nóng quá, chảy ra thành chất lỏng mà bảo đao vẫn chưa nối lại được. Trương Vô Kỵ phải cho bọn giáo chúng mượn bốn thanh Thánh hỏa lệnh kẹp bảo đao. Ngọn lửa cháy cao, một thuộc hạ của Vô Kỵ phải múa kiếm đâm bạn mình cho máu phun vào chỗ đương ráp nối, bảo đao mới lành lặn lại được. Câu chuyện nhắc ta nhớ lại huyền thoại luyện 2 thanh kiếm Can tương và Mạc gia (Mạc tà) thời Chiến quốc.

Ỷ thiên Đồ long ký cũng đề cập đến việc sử dụng dầu đá (thạch du - dầu thô lấy từ mỏ ra, chưa được chế biến) của người Trung Quốc cuối đời Nguyên. Trong đội ngũ kháng chiến của Minh giáo có đội Liệt hỏa kỳ chuyên lấy dầu thô phun qua ống thụt để đánh hỏa công. Nói đến việc lấy dầu thô là nói đến kỹ thuật khai thác quặng mỏ. Minh giáo bắt nguồn từ Ba Tư nên rất rành kỹ thuật khai thác loại dầu này.

Nhưng tôi vẫn nghĩ rằng kỹ thuật lạ nhất được Kim Dung đề cập đến là kỹ thuật chưng cất rượu. Kỹ thuật này được đề cập trong Tiếu ngạo giang hồ. Đan Thanh tiên sinh ở Giang Nam đem 3 chiêu kiếm truyền cho kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ nguời Thổ Lỗ Phồn (Thổ Phồn - Tourfan) để đổi được 4 thùng rượu Bồ đào đã cất được 120 năm. Vận chuyển loại danh tửu này từ Thổ Lỗ Phồn về đến Giang Nam phải mất bốn tháng, đường đi lại khó khăn nên đến Giang Nam chất rượu lại chua, không được thuần mỹ. Đan Thanh vào hoàng cung, bắt cóc một chuyên gia của ngự trù phòng chuyên chưng cất rượu cho vua uống đem về Giang Nam buộc gã phải chưng lại mấy thùng Bồ đào tửu cho mình. Rượu được chưng lại đúng 13 tháng thì Đan Thanh gặp được "ông trùm" uống rượu Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung mới uống một hớp Bồ đào tửu đã lấy làm lạ, nhận xét trong cái mới có cái cũ, trong cái cũ có cái mới, dường như đã 120 năm mà cũng dường như mới 12 tháng. Đan Thanh hân hoan cho biết thứ Bồ đào tửu này đã được Mạc Hoa Nhĩ 3 lần cất, 3 lần chưng, về đến Giang Nam lại chưng cất thêm một lần nữa. Cho nên vị rượu vừa 120 tuổi mà cũng vừa 13 tháng là như vậy.

Kỹ thuật sau cùng đáng quan tâm là kỹ thuật dệt kim. Kim Dung giới thiệu một loại bảo y hộ thân rất hiệu nghiệm, được dệt bằng sợi kim ty (tơ kim khí) phối hợp với tơ tằm ngàn năm trên đỉnh Tuyết Sơn. Loại áo này là nội y, mặc lót bên trong, đao kiếm đâm không lủng, quyền chưởng đánh không bị chấn động. Trong Lộc Đỉnh ký, Khang Hy mặc 1 chiếc, Vi Tiểu Bảo mặc 1 chiếc. Quả nhiên không ai chơi nổi cả vua tôi nhà này.

Nhân loại càng tiến bộ, kỹ thuật càng phát triển. Tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đơn thuần là tiểu thuyết, hoàn toàn không có ý định giới thiệu sự tiến bộ trong khoa học- kỹ thuật của người Trung Quốc. Ông cứ viết vậy, chúng ta đọc và tưởng tượng. Còn tưởng tượng đến đâu là quyền chúng ta.

8. Thức ăn Trung Hoa

Miếng ăn bao giờcũng quý giáo đối với con người. Đặc biết đối với dân tộc Trung Hoa ngày trước, một dân tộc sống nhờ vào sản xuất nông hiệp lạc hậu, lải phải luôn đối đầu với những thiên tai khủng khiếp hhàng năm thì miếng ăn quả thật rất cần thiết và rất rất quý. Từ điển tiếng Hoa gọi chung các loại thức ăn là ngọc thực (món ăn vàng ngọc). Làm ra miếng ăn để có ăn đã quý. Thức ăn được chế biến tinh xảo; nhìn sướng mắt, ngửi thơm mũi, chạm vào thấy nóng, ăn vào miệng thấy ngon lại còn quý hơn. Mà trên thế giới, dân tộc Trung Hoa là dân tộc nồi tiếng biết chế biến nhiều món ăn ngon nhất và thậm chí, cầu kỳ nhất. Chính vì vậy, thức ăn trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung - có lẽ là một người Trung Hoa sành ăn - cực kỳ phong phú. Trình độ hiểu biết về các món ăn khắp các miền, hiểu biết cách chế biến thức ăn từ thô sơ đến tinh xảo của tác giả không khỏi khiến chúng ta ngạc nhiên thú vị.

Triều Tống, từ bờ Bắc sông Hoàng Hà ra đến biên giới Ngoại Mông được gọi là miến Bắc. Khí hậu quanh năm tương đối lạnh, Kim Dung cho biết họ thường ăn các loại bánh bao không nhân với các loại thịt cừu, thịt trâu, thịt bò kho. Đọc Thiên Long bát bộ, ta biết các bộ tộc Khất Đan và Nữ Chân nuôi nhiều loại gia súc này dưới dạng chăn thả; thịt để làm thức ăn, da để làm áo quần, lều trại, túi đựng rượu. Thiên nhiên hào phóng và hoang sơ cũng đem lại cho người phương Bắc nhiều thức ăn, mang tính bổ dưỡng cao. Thiên Long bát bộ có đoạn kể chuyện Tiêu Phong bồng A Tử ra Nhạn Môn quan chữa thương, chuyên đánh giết gấu để lấy bàn tay gấu (hùng chưởng) và mật gấu cho A Tử uống. Nơi đây gần núi Trường Bạch, Tiêu Phong cũng dễ kiếm ra củ nhân sâm có giá trị cải tử hoàn sinh cho A Tử dùng. Ông nuôi cô em vợ bằng những thức ăn là dược vật trân quý dẫu có ngàn vàng cũng khó tìm mua.

Từ bờ Nam sông Hoàng Hà đổ về hết phương Nam Trung Quốc, cách chế biến đồ ăn có vẻ ngon lành hơn, tinh vi hơn. Tất nhiên, nơi ăn ngon nhất thiên hạ Trung Quốc vẫn là Bắc Kinh, đặc biệt là trong hoàng cung nội viện. Lộc Đỉnh ký cho biết dưới triều Khang Hy, để phục vụ chuyện ăn uống cho hoàng gia, có cả một ngự trù phòng, đứng đầu là một tay thượng thiện thái giám, phía dưới có hàng trăm thái giám chuyên mua sắm, chế biến thức ăn. Thức ăn chơi gồm bánh mứt - Kim Dung gọi là đồ điểm tâm, khác hẳn khái niệm điểm tâm của chúng ta là ăn sáng - đã gồm cả trăm thứ. Chế biến xong, bọn thái giám đặt lên đầy cả bàn để dâng vua Khang Hy. Nhưng Khang Hy chán lối ngồi ăn trên bàn; nhà vua muốn... ăn vụng. Và nhờ đi ăn vụng bánh nướng, bánh da lợn, nhà vua đã gặp anh bạn trẻ Vi Tiểu Bảo (cũng là trùm ăn vụng!). Cho hay, ăn vụng luôn luôn hấp dẫn đối với con người, cái gì ngay ngắn quá, chính quy quá cũng trở nên phiền toái.

Vâng, đồ ăn trong hoàng cung là ngon nhất và đa dạng nhất bởi hoàng cung quy tụ đủ các anh tài nấu ăn trên toàn cõi Trung Hoa. Sau khi biết Mộc Kiếm Bình là cô gái người Vân Nam, Vi Tiểu Bảo đã ra lệnh cho ngự trù phòng nấu món Tuyên oai hoả thoái - một món canh giò heo thơn ngon nhiều nước mỡ - để đãi cô gái nhỏ này khiến cô vô cùng ngạc nhiên.

Trên nguyên tắc, thứ gì ngon thì đổ vào hoàng cung nhưng trên thực tế, định đề ấy hơi bị sai. Kim Dung chua chát nhận ra rằng bao giờ cũng có nạn tham nhũng, nhà thầu nào đưa đồ ăn ươn thối cho ngự trù phòng mà có món tiền lót tay kha khá thì thức ấy vẫn đáng dâng lên cho vua và thái hậu dùng; nhà thầu nào quên tiền lót tay thì dẫu cá tươi, thịt sống cũng trở thành đồ ươn thối.. Chính nhờ nạn tham nhũng đó mà bọn Tiền Lão Bản trong Thiên Địa hội đưa hai con heo Hoa điêu phục linh trư và Đậu hoàng nhân sâm trư mổ sẵn vào hoàng cung, trong bụng heo nhét được cả... một cô gái (Mộc Kiếm Bình) đưa vào để Vi Tiểu Bảo trao đổi "tù binh" sau này.

Lại cũng từ chuyện hoàng cung là nơi có thức ăn ngon nhất Trung Hoa làm nảy sinh những tay... ăn trộm đồ ăn. Một tay ăn trộm thuộc loại thượng thừa là Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công (Xạ điêu anh hùng truyện) chuyên vào ngự trù phòng, đánh cắp thức ăn đã chế biến sẵn. Lão này ăn cũng dữ mà uống cũng vô địch, suốt đời lấy ăn làm lẽ sống. Một tay trùm ăn mày như vậy cũng đáng để chúng ta học tập làm... ăn mày!

Bọn hào sĩ giang hồ của Kim Dung là phường ăn mạnh, uống đậm. Họ hội họp ở đâu là nơi đó có mùi rượu thịt xông lên nhức mũi. Khi đám bàng môn tả đạo về đầu nhập phái Hằng Sơn, tình nguyện làm đệ tử Lệnh Hồ Xung để cho Lệnh Hồ Xung khỏi mang tiếng cầm đầu một đám nữ ni; Lệnh Hồ Xung đã cấm họ không được đặt chân lên ngọn Kiến Tính (núi chính của Hằng Sơn). Họ giữ lời hứa không lên nhưng vẫn xào heo, nấu bò bày tiệc nhậu; trong chốn cửa Phật thanh tịnh, bỗng vang mùi hành tiêu, mỡ thịt. Cho hay, cái ăn nuôi sống con người; miếng ăn ngon cũng góp phần làm cho phẩm giá con người rực rỡ. Tội gì không ăn!

Có lẽ đất Trung Quốc có nhiều quán cơm (phạn điếm) và tiệm rượu (tửu lâu) nhất thiên hạ. Chẳng vậy mà cô bé A Tử trên đường trốn thầy mình, sẵn sàng kêu rượu và các món nhậu để... thuốc đồng môn. Cô này ăn xài rất phí: gọi đĩa thịt bò ra, ngang nhiên cầm miếng thịt... lau giày, con cá chép còn sống mới chiên xong lại gọi là cá ươn. Đoạn buồn cười nhất của Thiên Long bát bộ là đoạn nhà sư Hư Trúc gặp A Tử trong quán cơm. Nhà sư ăn chay từ nhỏ, chỉ dám gọi độc món mì chay. A Từ đánh lừa cho nhà sư nhìn đi nơi khác rồi lén đổ vào vài muỗng nước mỡ. Hôm ấy Hư Trúc ăn tô mì chay cảm thấy hết sức thơm ngon, khoông ngờ món này khác món chay ở chùa Thiếu Lâm một trời một vực.

Thức ăn chay của Trung Hoa cũng rất phong phú. Đọc Thiên Long bát bộ, ta biết chùa Thiếu Lâm có khu vườn rộng hàng trăm mẫu trồng rau dưa; các nhà sư bị kỷ luật phải gánh nước, gánh phân tưới bón hàng ngày. Quần hùng lên chùa Thiếu Lâm là được thiết đãi cơm chay. Quần hùng Ma Ni giao (Ma giáo, tiếng chỉ chung Manichéisme - Bái hỏa giáo Trung Hoa) cũng ăn chay. Hễ thấy đám nào mặc áo trắng, vào tiệm cơm không gọi thịt cá mà chỉ ggọi rau dưa, đậu hũ thì đó là bọn giáo chúng Manichéisme. Có những tập thể không ăn chay nhưng khi đi ra ngoài hành sự, họ thường mang thức ăn không đi theo để dễ chế biến. Hai loại thức ăn dễ mang theo nhất là bánh bao chay và mì. Trong Hiệp khách hành, bọn Kim Đao trại tấn công Ngô Đạo Nhất ở thành Biện Lương xong, rút ra ngoài đồng hoang nấu mìn lên húp soàn soạt. Loại thức ăn này toàn tinh bột, không có thịt, cũng là món chay.

Trên đây, tôi chỉ mới bàn với các bạn những món ăn chính quy, bài bản, có kẻ nấu bán, có người mua ăn. Đọc Kim Dung ta còn thấy thú vị với những món ăn và cách chế biến thức ăn cực kỳ hoang dã.

Trong Thần điêu hiệp lữ, Kim Dung kể chuyện Dương Qua và Hồng Thất Công bắt được một loại rít lớn trên núi tuyết, nước lên, lột bỏ lớp vỏ kitin đi, còn lại một loại thịt thơm ngon như thịt tôm. Món nước trong tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung rất phong phú. Trong Tiếu ngạo giang hồ, Doanh Doanh đã bắt ếch nướng lên nuôi chàng Lệnh Hồ Xung. Kim Dung mô tả món ếch nướng rất thơm ngon, kể cả những miếng Doanh Doanh lỡ để quên đến nỗi cháy khét!

Con người càng đó lại càng cần ăn. Nhu cầu ham sống quả thật khốc liệt đến nỗi thấy miếng ăn là người ta lao tới, đôi khi không cần đến sự chế biến và đôi khi người ta ăn cả thịt người! Trong Tiếu ngạo giang hồ, có đoạn thuật chuyện Hướng Vân Thiên đã dùng chỉ công đâm vào tĩnh mạch trên cổ ngựa và kê miệng vào uống máu sống. Uống no xong, lão bảo Lệnh Hồ Xung kê miệng vào uống tiếp. Kim Dung cho biết máu ngựa rất tanh nhưng trong hoàn cảnh của hai người, máu ngựa vẫn là một loại thực phẩm cứu đói kịp thời. Khi đã xuống tới thung lũng sâu, Hướng Vân Thiên lại đói bụng, thầm tiếc không tìm ra xác chết nào của bọn thù địch rớt xuống để lão dùng cho đỡ đói!

Như chúng ta đã nói, Trung Quốc xưa là một đất nước có nền nông nghiệp lạc hậu, thường gặp thiên tai, địch hoạ. Cái đói thường xuyên đe doạ người Trung Quốc suốt cả chiều dài lịch sử. Cho nên thật dễ hiểu khi dân tộc này chọn nền kinh tế trọng nông. Một khi cái đói đến thì con người mất hết tính người, sẵn sàng ăn thịt đồng loại. Trong Ỷ thiên Đồ long ký kể chuyện Trương Vô Kỵ 15 tuổi dẫn em bé Dương Bất Hối 6, 7 tuổi tìm lên Thiên Sơn. Đi ngang qua tỉnh Sơn Tây, Vô Kỵ và Bất Hối bị một nhóm thổ phỉ bắt, định làm thịt nấu ăn. Vô Kỵ nhanh trí hái một mớ nấm độc bỏ vào nồi nước sôi, đầu độc những kẻ muốn hại mình và Bất Hối. Sau đó, cậu bé mới được Chu Nguyên Chương, cũng là thổ phỉ, đi tu ở chùa Hoàng Giác, cho ăn thịt bò kho.

Điều thú vị trong tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung là nhiều khi một món ăn tào lao lại trở thành một món thuốc làm tăng trưởng công lực cấp kỳ. Thiên Long bát bộ kể chuyện Đoàn Dự ngẫu nhiên nuốt trúng con Mãng cổ chu cáp (con ếch có tiếng kêu như con bò), là một loại độc vật hạng nhất, tưởng rằng chắc chắn sẽ chết. Oái oăm thay, đó lại là một món thần vật đại bổ, ăn vào phát huy khả năng thần kỳ đến nỗi chàng ta không còn bị nhiễm bất cứ loại độc dược nào. Đoàn Dự trở thành một kẻ "bách độc bất xâm" (trăm thứ độc không thể thâm nhập được), Kim Dung gọi đó là Mãng cổ chu cáp thần công!

Có những thức ăn đối với người này là độc hại, đối với người kia là đại bổ. Ta có thể tìm thấy một thí dụ như vậy trong Tiếu ngạo giang hồ. Trên sông Trường Giang, Lam Phượng Hoàng - giáo chủ Ngũ Độc giáo Vân Nam - tìm đến thăm và chữa bệnh cho Lệnh Hồ Xung. Cô cho chàng trai uống Ngũ Độc tửu. Thế nào là Ngũ Độc tửu? Đó là loại rượu ngâm 5 loại trùng độc hạng nhất của Ngũ Độc giáo: một con rắn, một con rít, một con bò cạp, một con cóc và một con nhện cực độc. Uống xong hũ rượu, Lệnh Hồ Xung còn phải nuốt 5 con trùng độc kia vào bụng. Ngũ Độc giáo gọi đó là Ngũ tiên. Món "Ngũ tiên" kia đối với người Trung Nguyên là độc vật nhưng đối với Lam Phượng Hoàng người Vân Nam là thứ đại bổ, không dễ tìm ra được.

Ăn uống là một dạng nạp năng lượng; có năng lượng mới có sự sống đúng nghĩa. Mà suy cho cùng, quyền gần gũi nhâấ đối với con người là được ăn, được ăn no đủ, được ăn ngon. Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung phản ảnh về cái ăn, thức uống, về cách ăn Trung Hoa khá phong phú. Phải nói đọc tác phẩm của ông, ta có thể hình dung ra một phong cách văn hóa ẩm thực Trung Quốc lẫn khuất sau những bữa ăn, đồ ăn, nơi ăn, trạng thái ăn. Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn đánh nhau tơi bời rồi sau đó, lặng lẽ tìm về một quán cóc nhỏ, ngồi bên nhau ăn những thức ăn nhẹ và đối ẩm mấy chung. Hay như chiếc bánh chưng Hồ Châu (Giang Nam) được xếp loại Hồ Châu tam bảo (sau bút lông và gấm đoạn) dù nó chỉ được gói bằng là chuối, nếp, nhân đậu xanh, nấm, thịt...

Trong những bữa ăn của tiểu thuyết võ hiệp, lấp lánh thứ ánh sáng hạnh phúc ngọt ngào của tình yêu đôi lứa. Doanh Doanh nướng ếch nuôi Lệnh Hồ Xung; Hoàng Dung săn bắn nuôi Quách Tĩnh; Triệu Mẫn gọi thức ăn chờ Vô Kỵ đến cộng ẩm... Tất cả là vì tình yêu đôi lứa. Chính vì có tình yêu làm tố chất nên không cần đến bàn ghế, chén đĩa mà bữa ăn vẫng vang lên tiếng cười hạnh phúc.

10. Tinh thần phật giáo

Đọc quyển lịch sử Phật giáo Trung Quốc của Thượng toạ Thích Thanh Kiểm (NXB Vạn Hạnh 1963), tôi thấy ngài đưa ra 2 thuyết rất đáng tin cậy để cắt nghĩa sự du nhập của Phật giáo vào Trung Quốc. Thượng toạ cho biết thời Hán Ai đế (-6TrCN), một sứ giả nước Đại Nhục Chi (Indo-Scythe) đưa kinh điển của Phù đồ giáo (Bouddho, tức Phật giáo) truyền miệng cho Trần Cảnh Hihến, một viên quan của Hán Ai đế. Sau đó, vua Hán Minh đế (67) phái 18 người sang Tây Vực để thỉnh tượng và kinh điển Phật giáo về. Giữa đường, gặp hai cao tăng nước Thiên Trúc là Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan đang đưa kinh tượng xuống Trung thổ, họ mừng rỡ rước hai cao tăng v62 Trung Quốc. Hán Minh đế cho dựng Bạch Mã tự để xiển dương Phật giáo, làm nơi dịch kinh cho các cao tăng. Bộ kinh Phật đầu tiên được dịch ra Hán văn là Tức thập nhị chương kinh. Đến cuối đời Hậu Hán, Phật giáo gần như đã lan truyền khắp xã hội Trung Quốc.

Có lẽ trong những nhà văn Trung Quốc, Kim Dung là nhà văn thể hiện một cách đều khắp và sâu sắc nhất tinh thần Phật giáo qua các tác phẩm tiểu thuyết của mình. Trong 12 bộ tiểu thuyết, Kim Dung luôn nhắc đến sự tích Đạt Ma sư tổ từ Thiên Trúc sang Đông thổ, lên ngọn Thiếu Thất tỉnh Hồ Nam, diện bích (nhìn vách) chính năm, sáng lập ra phái Thiếu Lâm. Phái Thiếu Lâm được ông gọi là Thái Sơn Bắc Đẩu trong võ lâm Trung Quốc. Hình tượng các nhà sư Thiếu Lâm với tấm tăng bào rộng thùng thình, xuất hiện đúng tình huống tiểu thuyết, Phật lực cao cường. võ công siêu việt, sẵn sàng xả thân tế khổn phò nguy, hàng yêu diệt ma đã quá quen thuộc với bạn đọc tiểu thuyết võ hiệp.

Một số nhân vật tiểu thuyết là tăng sĩ đã trở thành hình tượngg văn học, được tác giả khắc họa một cách tinh tế: Huyền Từ - phương trượng chùa Thiếu Lâm, Trí Quan - trụ trì chùa Chỉ Quán núi Thiên Thai, Hư Trúc - tiểu tăng chùa Thiếu Lâm (Thiên Long bát bộ); Vô Sắc - cao tăng Thiếu Lâm (Ỷ thiên Đồ long ký); Phương Chứng - cao tăng Thiếu Lâm (Tiếu ngạo giang hồ)... Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đủ cả mười tông phái; tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung dành niềm ưu ái lớn cho Thiến tông. Tuy nhiên, Thiền tông trong tiểu thuyết Kim Dung không dừng lại ở chỗ những công án, không nặng nề về chủ trương "dĩ tâm truyền tâm, dĩ ý truyền ý". Thiền tông trong tiểu thuyết Kim Dung là một thú Thiền tông nhập thể và nhập thế: tu học để tinh tường Phật pháp, thấu hiểu cái lẽ huyền vi của cuộc sống; rèn luyện võ công để hành hiệp cứu đời. Phật pháp càng cao, võ công càng siêu viiệt; võ công càng cao, Phật pháp càng tinh tấn. Những nhà sư trong tác phẩm của ông là những nhân vật lý tưởng. Họ là những hiệp khách đích thực trong cuộc chiến đấu chống cái ác và khi cuộc chiến đấu chấm dứt, họ là những triết gia với các triết lý rất gần gũi với cuộc sống.

Ta hãy nghe một bài kệ của nhà sư Trí Quan ứng tác trước khi qua đời, đọc cho Kiều Phong nghe khi Kiều Phong vất vả đi tìm nguồn gốc của mình là người Há hay người Khất Đan (Thiên Long bát bộ):

Khất Đan với Hán nhân

Bất luận giả hay chân

Ân oán cùng vinh nhục

Không hơn đám bụi trần.

Phật giáo trong tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung là một tôn giáo yêu nước, luôn luôn trung thành với sự nghiệp bảo vệ đất nước và giải phóng dân tộc. Trong Ỷ thiên Đồ long ký, Xạ điêu anh hùng truyện, Thần điêu hiệp lữ, các tăng lữ đã xông trận cùng quần hùng Trung nguyên đánh đuổi quân Mông Cổ. Những cuộc hội họp của hào sĩ giang hồ Trung Quốc bàn kế chống giặc giữ nước, dựng cờ khởi nghĩa thường diễn ra trong khuôn viên chùa Thiếu Lâm. Đoạn tiểu thuyết mà tôi cho là giàu tính anh hùng ca nhất là đoạn toàn thể nhà sư chùa Thiếu Lâm sát cánh cùng quần hùng Minh giáo, phá vòng vây quân Mông Cổ định san bằng chùa Thiếu Lâm (Ỷ thiên Đồ long ký).

Mỗi khi đất nước đối đầu với nguy cơ bị ngoại xâm thì Phật giáo là một chỗ dựa vững chắc nhất cho chính quyền quân chủ và nhà sư là những chiến sĩ đi đầu trong việc phá vỡ âm mưu ngoại xâm đó. Trong Thiên Long bát bộ, Khô Vinh đại sư phải hủy bộ Lục mạch thần kiếm kinh là để người Thổ Phồn không thể chiếm được võ công trấn quốc của nước Đại Lý; quần hùng cùng phái Thiếu Lâm xông pha vào phủ Nam viện của Khất Đan ở Yên Kinh cứu Kiều Phong, đưa quần hùng ra Nhạn Môn quan tập kích người Khất Đan để phá vỡ mầm mống xâm lược Trung Quốc có thể xảy ra. Trong Lộc Đỉnh ký, vua Khang Hy đã dựa vào lực lượng tăng lữ chùa Thiếu Lâm để bảo vệ phụ hoàng Thuận Trị, phá vỡ âm mưu chính trị của liên quân Mông Cổ - Tây Tạng.

Có lẽ Kim Dung là một Phật tử thuần thành, am hiểu Phật giáo một cách sâu sắc. Tiểu thuyết là sản phẩm của sự hư cấu, Kim Dung đã hư cấu cho phái Thiếu Lâm có đến 72 môn công phu huyền diệu gọi là Thất thập nhị huyền công. Mỗi môn công phu đều sử dụng kình lực dương cương, có sức mạnh tan bia vỡ đá. Các môn công phu đều có tên gọi xuất phát từ kinh đểin Phật giáo: Niêm hoa chỉ, Bát Nhã chưởng, Vi Đà chưởng, Vô tướng kiếp chỉ, Đa la diệp chỉ, Đạt Ma kiếm pháp, Sư tử hống, Đồ đề chưởng, Phục ma trượng pháp... Trong cuộc đấu tranh, chính pháp huyền môn luôn luôn thắng ta môn ma đạo. Cái thắng ấy nằm trong ước lệ chính đạo thắng bàng môn.

Có khi Kim Dung sử dụng kinh điển Phật giáo là cái hồn cho toàn bộ tác phẩm. Thiên Long bát bộ là một thí dụ cho nhận định này. Thiên Long là tên một ngôi chùa ở Vân Nam, nước Đại Lý (thời Bắc Tống). Thế nhưng trong Pháp hoa kinh, Thiên Long bát bộ "bao gồm tám loại quỷ thần hay quái vật". Thiên Long bát bộ gồm: Thiên thần, Long thần, Dạ xoa, Kiền Đạt Bà, A Tu La, Già Lâu La, Khán La Na và Ma Hô La Gia. Trong Thiên Long bát bộ, Kim Dung xây dựng tám nhân vật lớn, tám sự tích; mỗi nhân vật và sự tích ấy tương ứng với một "bộ" của bát bộ.

Trong Tiếu ngạo giang hồ, tác giả trích luôn Bảo tích kinh và Diệu pháp liên hoa kinh để xây dựng mối tình Nghi Lâm - Lệnh Hồ Xung. Lời kinh cầu cho Lệnh Hồ Xung tai qua nạn khỏi được Nghi Lâm niệm với cả niềm tin, một lòng thành tuyệt vời khiến Lệnh Hồ Xung trong cơn đau đớn vẫn nhận ra nơi người bạn nhỏ hào quang của sự thánh thiện.

Đưa tinh thần Phật giáo vào trong tác phẩm văn học là điều không mới lạ trong lịch sử văn học Trung Quốc. Cái mới lạ là Kim Dung đưa tình thần ấy vào tác phẩm tiểu thuyết võ hiệp và ông chuyên canh một cách sâu sắc. Chất Từ, Bi, Hỉ, Xả, nhân bản, nhân văn trong tinh thần Phật giáo biến những tác phẩm nặng tính tranh đấu, sát phạt trở thành những bài tình ca ca ngợi phẩm giá con người, ca ngợi cuộc sống hòa bình trung chính.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#doraenino