KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

NGHI THỨC TRÌ TỤNG

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẵng ai bằng.

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loại.

Quy y trọn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ.

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận.

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng,

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,

Lưới đế châu ví đạo tràng,

Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,

Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ:

Nam

mô tận hư không, biến pháp giới, quá hiện, vị lai thập phương chư Phật, tôn pháp, hiền thánh tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam mô Sa bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ, đương lai hạ sanh Di Lặc tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lỵ Bồ tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ tát, Đạo tràng hội thượng Phật Bồ tát. (1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ:

Nam Mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh đại hải chúng Bồ tát. (1 lạy)

TRÌ TỤNG

Cành dương nước tịnh,

Rưới khắp tam thiên.

Tính không tám đức,

Lợi lạc nhân thiên.

Thấm nhuần pháp giới,

Tịnh nghiệp tăng diên.

Phúc sinh tội diệt,

Lửa hóa hồng liên.

Nam

mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát (3 lần)

BÀI TÁN LƯ HƯƠNG

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa,

Lòng con kính ngưỡng thiết tha,

Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.

Nam

mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.

(3 lần)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần)

Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô A rị gia bà lô kiết đế thước bát ra gia. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đõa bà gia. Ma ha ca rô ni ca gia. Úm tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị gia, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hệ rị ma ha bàn đa sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng, a thệ đựng, tát bà tát đá na ma bà già ma phạt đặt đậu.

Đát điệt tha. Úm a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. Di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma la ma la. Ma hê ma hê, rị đà đựng, cu ru cu ru kiết mông.

Cu ru cu ru, phạt xà gia đế. Ma ha phạt xà gia đế.

Đà ra đà ra địa rị ni, thất Phật ra gia.

Giá la giá la, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê, y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lị.

Phạt sa phạt sâm, Phật ra xá gia. Hu lu hu lu ma la. Hu lu hu lu hê lị, sa ra sa ra, si ri si ri, su ru su ru. Bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ.

Di đế rị gia, na la cẩn trì, địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na sa bà ha. tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ sa bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ sa bà ha. Na la cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra sa bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, sa bà ha.

Sa bà ma ha, a tất đà dạ, sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma kiết tất đá dạ, sa bà ha.

Na la cẩn trì bàn già ra gia, sa bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, sa bà ha. Úm tất điện đô mạn đá ra bạt đà gia, sa bà ha. (3 lần)

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)

KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,

Ngàn muôn ức kiếp dễ hay đâu.

Con nay nghe thấy xin vâng giữ,

Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ NHẤT_

_PHẨM THỨ NHẤT_

Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Thế Tôn trụ trên Trời Tịnh Quang, Chúng Bồ Tát thanh tịnh chưa từng có, chẳng thể nghĩ bàn, tập hội tại Bồ Đề Đạo Trường. Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Tịnh Quang Thiên Tử: "Nay Bồ Tát này là Vị Tằng Hữu Bất Tư Nghị Hạnh Tối Thượng Thần Thông Biến Hóa Tam Ma Địa Giải Thoát Đạo Trường Bồ Tát dùng Chân Ngôn Cú lợi ích tất cả chúng sinh, không có bệnh, sống lâu. Nguyện cho tất cả chúng sinh viên mãn phú quý."

Bấy giờ Tịnh Quang Thiên Tử ấy chắp tay, cung kính, phát lời như vầy: "Đức Thế Tôn đã nói Tam Ma Địa tối thượng mà Bồ Tát đã hành, ngồi tòa Kim Cương, giáng phục Ma oán, chuyển bánh xe Diệu Pháp. Lìa tất cả sự khổ não, bệnh tật, nghèo túng của Thế Gian, hành Chân Ngôn của Thế Gian khiến cho tất cả ước nguyện viên mãn. Tất cả lời dạy bảo của Đức Như Lai vì làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Nay con suy nghĩ việc đó như vậy." Lúc đó Đức Thích Ca Mâu Ni Phật quán sát trên cõi Trời Tịnh Quang, nhập vào Tam Ma Địa tên là Thanh Tịnh Cảnh Giới Phá Ám Quang Minh. Khi nhập vào Định ấy thời từ tam tinh của Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn, tên là Khai Hoa Chiếu Bồ Tát. Lại phóng ra vô số trăm ngàn na do tha câu chi ánh sáng nhiễu quanh Đức Phật ba vòng. Nhiễu xong, đi qua ba ngàn Đại Thiên Thế Giới. Lại vượt hơn trăm ngàn hằng hà sa đẳng Thế Giới ở phương Đông Bắc, chỗ ấy có Thế Giới tên là Khai Hoa, Đức Phật Thế Tôn ấy tên là Khai Hoa Vương Như Lai, cõi ấy có Đồng Tử tên hiệu là Diệu Cát Tường, quá khứ thực hành Đại Nguyện Lực cùng với Bồ Tát Ma Ha Tát trụ chung một chỗ. Vị ấy nhìn thấy ánh sáng xong, khuôn mặt mỉm cười bảo bảo các chúng Bồ Tát ấy rằng: "Này Phật Tử! Ánh sáng soi chiếu, chúng ta có thể cùng nhau đi."

Khi ấy Diệu Cát Tường Đồng Tử Bồ Tát Ma Ha Tát vui vẻ quán sát hết thảy ánh sáng, hướng mặt về phương đó rồi trụ.

    

Bấy giờ ánh sáng ấy lại chiếu Thế Giới Khai Hoa đó với Đức Thế Tôn khai Hoa Vương Như Lai ấy. Lại nhiễu quanh ba vòng, sau đó nhập vào trên đỉnh đầu của Diệu Cát Tường Đồng Tử. Khi ấy Diệu Cát Tường Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Đức Thế Tôn Khai Hoa Vương Như Lai ba vòng, cúi đầu mặt làm lễ, quỳ gối phải sát đất, bạch với Đức Khai Hoa Vương Như Lai rằng: "Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác phóng ánh sáng triệu con. Nay con muốn qua chỗ của Đức Thích Ca Mâu Ni Phật ở Thế Giới Sa Bà cung kính, đỉnh lễ, tùy hỷ tất cả Chân Ngôn Hạnh, Thành Tựu Kết Đàn, Nghi Quỹ bí mật, tranh vẽ gia trì với Nhất Thiết Như Lai Quán Đỉnh Bí Mật Tâm Ấn hay khiến cho tất cả chúng sinh viên mãn ước nguyện"

Như vậy nói xong. Lúc đó Khai Hoa Vương Như Lai bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Nay thích hợp với hết thảy việc vui Nguyện của ông, ông mau đến chốn ấy. Nếu thấy Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thì thay Ta hỏi thăm Ngài có ít bệnh, ít phiền não, cư ngụ đi đứng có nhẹ nhàng an vui lợi ích chăng ?"

Bấy giờ Đức Thế Tôn Khai Hoa Vương Như Lai lại bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Đồng Tử! Đây là Chân Ngôn Hạnh (Kết Đàn, Nghi Quỹ bí mật, Quán Đỉnh, Tâm Ấn, vẽ tượng, Gia Trì Hạnh, Hộ Ma Hạnh của trăm ngàn hằng hà sa Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Giác tất cả ước nguyện thảy đều viên mãn, tất cả chúng sinh yêu kính Minh Châu Phẩm Nghi. Chân Ngôn Thọ Ký của Trí Vương Tự Tại trong ba đời quá khứ vị lai hiện tại; nếu có trì tụng thì quốc thổ an vui, hay giáng phục oán địch của phương khác. Nghi Quỹ Pháp Phẩm này; tất cả Thế Gian, Xuất Thế Gian, Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát Địa khiến được thọ hành"

Nói xong, lại nói: "Ta cũng nguyện như vậy, vui tùy hỷ. Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Hết thảy việc ngày nay tùy theo nơi ông đã di, ở trước mặt của Đức Phật Thích Ca, nghe Chính Pháp này với vì ông nói Chân Ngôn này:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến đát-dã, bát-la để hạ đá xá, sa nẵng nam, án, la la, sa-ma la, a bát-la để hạ đá xá, sa nẵng, câu ma la, lỗ ba, đà lý noa, hồng hồng, phả tra, phả tra, sa-phộc hạ"

Đây là Diệu Cát Tường Đồng Tử Căn Bản Chân Ngôn là Tâm của tất cả Như Lai mà tất cả Như Lai đã cùng tuyên nói.

Ta cũng lại nói, nay ông sẽ nói. Ông đến Thế Giới Ta Bà rộng vì giải nói, hay làm tất cả Phật sự.

Lại nói Nội Tâm Chân Ngôn mà Đức Thích Ca Như ai đã nói:

"Án, phộc cát - dã na, nẵng mạc"

Lại nói Ngoại Tâm Chân Ngôn:

"Phộc cát - dã, hồng"

Khi ấy Đức Khai Hoa Vương Như Lai vì Diệu Cát Tường Đồng Tử nói Tam Ma Địa tên là Trang Nghiêm Nhất Thiết Bồ Tát Hạnh Lệnh Đắc Bồ Đề.

Lúc đó Diệu Cát Tường Đồng Tử nhập vào Định này thời, bốn phương vô biên, trên dưới rộng lớn, tất cả chư Phật đầy khắp Thế Giới này, rồi lại khen rằng:"Lành thay! Lành thay Phật Tử! Ông hay nhập vào Tam Ma Địa tối thượng này! Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật còn chẳng thể vào cho đến Hành Giả được vào Thập Địa Bồ Tát cũng chẳng thể vào Tam Ma Địa này"

Bấy giờ Khai Hoa Vương Như Lai, Đức Phật Thế Tôn ấy đồng nói Diệu Cát Tường Đồng Tử Nội Tâm Bí Mật Nhất Thiết Sự Thành Tựu Chân Ngôn tên là Nhất Tự Nội Bí Mật khiến cho tất cả chúng sinh làm việc tối thượng, đối với Hạnh Chân Ngôn riêng biệt cũng được thành tựu việc tối thượng

Khi ấy Đức Thế Tôn Khai Hoa Vương Như Lai yên lặng trong phút chốc, dùng con mắt Phật quan sát tất cả Thế Gian, tất cả chư Phật. Các Đức Thế Tôn ấy dùng Từ Ý triệu thỉnh, đồng nói Chân Ngôn:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam. Hàm"

Đây là Diệu Cát Tường Nội Tâm hay làm tất cả việc.

Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử từ Tam Ma Địa ấy khởi dậy, như khoảng tráng sĩ duỗi cánh tay, lại được Tam Ma Địa Tốc Tật Trí tên là Tối Thượng Biến Hóa, dùng sức Thần Thông trong khoảng sát na đi qua Thế Giới Sa Bà ở trong hư không trên cõi Trời Tịnh Quang, ngồi tại đất báu Đại Ma Ni, phóng ánh sáng lớn chiếu tất cả chư Thiên ở Trời Tịnh Quang, nhập vào Tam Ma Địa tên là Minh Châu Trang Nghiêm Chiếu.

Khi Diệu Cát Tường Đồng Tử nhập vào Định này thời hiện ra vô số lầu gác Bảo trang nghiêm vô số lọng báu dài rộng trăm ngàn Do Tuần, ao Trời, Đại Y, các Anh Lạc báu thanh tịnh trang nghiêm. Hoa cõi Trời, phướng, Phan, lưới báu, chuông mõ phát ra âm thanh vi diệu. Lại tuôn mưa hương và bột hương của cõi Trời với Bất Thoái Vị Bồ Tát cúng dường Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni của Ta Bấy giờ, Tịnh Quang Thiên Tử ấy nhìn thấy Thần Thông biến hóa của vị Bồ Tát kia thì nghi sợ chưa từng có, lông trên thân dựng đứng lên, chấn động cung Trời, mê mờ kinh sợ. Nay vì sao Thần Thông của Ta đều mất hết! Suy nghĩ tướng này rồi cao giọng xóng lên rằng: "Nguyện xin Đức Phật Thích Ca Mâu Ni của con hãy rũ thương cứu giúp"

Khi ấy, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni bảo các Thiên Tử của Trời Tịnh Quang rằng: "Đừng sinh kinh sợ! Vị Thánh ấy là Diệu Cát Tường Đồng Tử Bồ Tát Ma Ha Tát từ cõi Phật Khai Hoa Vương Như Lai đi đến chỗ của Ta, cung kính lễ bái, tùy vui với Đại Sự Chân Ngôn Phương Quảng Vị Tằng Hữu Thậm Thâm Pháp Cú.

Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử nhiễu quanh Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni ba vòng, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật, vui vẻ chiêm ngưỡng, dùng âm vi diệu nói lời khen ngợi là:

Quy mệnh Điều Ngự Đại Trượng Phu

Quy mệnh Vô Thượng Đại Trượng Phu

Quy mệnh Tối Thượng Đại Trượng Phu

Hay làm tất cả việc thành tựu

Quy mệnh Sư Tử Đại Trượng Phu

Hay phá tất cả các việc ác

Quy mệnh Vô Úy Đại Trượng Phu

Hay phá tất cả các nẻo ác

Quy mệnh Bạch Liên Đại Trượng Phu

Hương thơm Phước Trí không bờ mé

Quy mệnh Liên Hoa Đại Trượng Phu

Thanh tịnh vượt qua bùn ba cõi

Quy mệnh Giải Thoát Đại Trượng Phu

Hay lìa tất cả các khổ não

Quy mệnh Tịch Tĩnh Đại Trượng Phu

Hay khéo điều phục tất cả ác

Quy mệnh Thành Tựu Đại Trượng Phu

Khéo biết tất cả Chân Ngôn Ngữ

Quy mệnh Cát Tường Đại Trượng Phu

Mọi điều chẳng lành, hay tốt lành

Quy mệnh Phật Đà Đại Trượng Phu

Khéo biết tất cả các Pháp Tạng

Quy mệnh Như Lai Nhất Thiết Pháp

Khéo vào chân thật, không hý luận

Quy mệnh Như Lai Nhất Thiết Trí

Nhất Thiết Trí Trí lìa Pháp huyễn

Hết thảy ba Thừa, Đạo Vô Lậu

Khiến vào Niết Bàn mà an trụ"

Bấy giờ Diệu Cát Tường Đồng Tử khen ngợi, quy mệnh xong, lại nói rằng: "Thế Tôn! Con đi qua trăm ngàn hằng hà sa Thế Giới thuộc phương Đông Bắc, ở chỗ kia có cõi Phật tên là Khai Hoa, nơi ấy có Đức Thế Tôn tên là Khai Hoa Vương Như Lai, Ứng Cúng Chính Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn nói Pháp: chặng đầu tốt lành, chặng giữa tốt lành, chặng sau tốt lành. Nghĩa ấy sâu xa, lời ấy xảo diệu, thuần nhất không có tạp, tròn đầy tướng Phạm Hạnh trong sạch. Đức Phật ấy như vậy an trụ tướng nói Pháp, cho đến lại nói nghĩa của Chân Ngôn Hạnh, tu Bồ Tát Tạng, phương tiện cứu độ, khiến thực hành con đường của Ba Thừa, đắc được sự an vui sâu xa vì tất cả chúng sinh ấy, tuyên nói như vậy.

Nay khi con đi thời Đức Khai Hoa Như Lai sai con đến tôn kính dưới chân, thăm hỏi Ngài có ít bệnh, ít phiền não, cư ngụ đi đứng có nhẹ nhàng an vui lợi ích chăng?

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rất là hiếm có, ở thời Mạt Thế hiện bày nói Pháp, nơi Đạo của Ba Thừa lợi lạc cho Người,Trời thảy đều bình đẳng, thực hành đại tinh tiến chặt đứt khổ của ba cõi, khiến cho các hữu tình ấy đối với con đường Niết Bàn được an vui lớn. Đức Phật Thế Tôn của con như vậy biết Tâm của Đức Phật này".

Đồng Tử lại nói rằng: "Làm thế nào có thể được sự chưa từng có chẳng thể nghĩ bàn? Đức Phật Thế Tôn tự tại biến hóa Tâm, Trí, Ý, Hạnh vào sâu trong tướng của Pháp, trăm ngàn na do tha câu chi Kiếp nói tất cả Chính Pháp ấy khéo phá tất cả sắc tướng, rốt ráo chân thật, thông đạt Vô Tướng. Hạnh Đức như vậy thời Đức Thế Tôn có thể biết, chứ con chẳng thể biết"

Lúc đó Diệu Cát Tường Đồng Tử dùng Thần Lực của mình hóa làm tòa hoa sen báu to lớn, chiêm ngưỡng Đức Thích Ca Thế Tôn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nghe Diệu Cát Tường Đồng Tử Bồ Tát Ma Ha Tát dùng mọi loại ngôn thuyết nói về việc quá khứ của Đức Khai Hoa Vương Như Lai với ước nguyện diễn nói Pháp của Bồ Tát Hạnh, Nghi Quỹ sâu xa màu nhiệm. nên Đức Phật dùng tiếng Phạm Âm Ca Lăng Tần Già tương ứng với quần cơ (vạn vật, hay mọi căn cơ) bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Lành thay Diệu Cát Tường! Pháp Hành của bậc Thượng Nhân kia được tất cả Phật nói, vì tất cả Bồ Tát khiến cho được tất cả Chân Ngôn Cú, Quán Đỉnh bí mật, Ấn, Đàn, Nghi Quỹ, sống lâu, ít bệnh, tùy ý tự tại, tất cả viên mãn đều được thành tựu Nghi Quỹ của Nhất Thiết Trí Trí. Quá khứ, vị lai, hiện tại lược nói khiến cho chúng sinh viên mãn ước nguyện.

Nếu đủ Giới Đức truyền Chân Ngôn Hạnh khiến cho kẻ khác yêu kính. Hoặc cầu Trí Tuệ, hoặc muốn ẩn thân, hoặc đi trên hư không mà chân chẳng chạm đất, hoặc lại vào trong lòng đất, hoặc giáng phục tất cả chỗ ham muốn đều được. Hoặc Dạ Xoa với Dạ Xoa Nữ, Dạ Xoa quyến thuộc, Tỳ Xá Ni, Tỳ Xá Chi, tất cả Bộ Đa thảy đều giáng phục. Hoặc kẻ ít tuổi, người nhiều tuổi, người già đều được sống lâu. Nói lược là tất cả Ý Nguyện viên mãn. Việc Giáng Phục, Tăng Ích, Tức Tai như có chỗ làm đều được thành tựu.

Bồ Tát Tạng Đại Bảo Nghi Quỹ Pháp Phẩm này được tất cả Phật nói. Ta khiến ông biết Chân Ngôn Hạnh Nghi Quỹ Pháp Tạng này hay thanh tịnh người, hay lợi cho nhiều người... tất cả chúng sinh trên Trời, ở nhân gian đều được an vui"

Khi ấy Diệu Cát Tường Đồng Tử nhập vào Bồ Tát Tam Ma Địa tên là Nhất Thiết Phật Uy Đức Minh Châu Trang Nghiêm Chiếu. Khi vào Định này thời phóng ánh sáng lớn chiếu hằng hà sa đẳng thế giới cõi Phật với vô số Thanh Tịnh Bồ Tát, bên trên đến cõi Trời Sắc Cứu Kính, bên dưới đến Địa Ngục A Tỳ, hết thảy tất cả chúng sinh có tội khổ liền trừ được tai hoạn.

Chiếu tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật xong, lại nhập vào trong đỉnh đầu của Diệu Cát Tường Bồ Tát. Lại chiếu chư Phật Như Lai tại hết thảy cõi Phật trong thế giới ở phương Đông, vì Pháp tập hội. Các vị ấy tên là: Thiện Càn Thát Bà Diệu Cát Tường Như Lai, Dược Sư Quang Vương Như Lai, Phổ Chiếu Cát Tường Như Lai, Xuất Sinh Vương Như Lai, Đa La Vương Như Lai, Nhân Vương Như Lai, Vô Lượng Thọ Như Lai, Chính Đẳng Trí Vương Như Lai, Vô Biên Chiếu Vương Như Lai, Tối Thượng Quang Minh Vương Như Lai. Nhóm Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác như vậy đều có Bồ Tát vây quanh thảy đều tập hội trên trời Tịnh Quang

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác muốn vì Diệu Cát Tường Đồng Tử nói Bồ Tát Hạnh Chân Ngôn Cú Nghĩa Nghi Quỹ Phẩm. Thời lại có tất cả chư Phật ở tất cả cõi Phật trong phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn góc, phương trên, phương dưới nhận ánh sáng ấy chiếu khắp, cũng đến tập hội. Mỗi một Đức Phật ấy đều có Bồ Tát, Thanh Văn theo hầu vây quanh, đều muốn tùy theo Phật nghe nhận Như Lai Vô Năng Thắng Giáo Chân Ngôn Nghi Quỹ Tối Thượng Tam Ma Địa. Các vị ấy là: Bồ Tát Diệu Tý, Bồ Tát Diệu Thật, Bồ Tát Diệu Giới, Bồ Tát Diệu Nhãn, Bồ Tát Diệu Lạc, Bồ Tát Diệu Pháp, Bồ Tát Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu, Bồ Tát Nhất Thiết Xuất Sinh, Bồ Tát Pháp Xuất Sinh, Bồ Tát Bảo Sinh, Bồ Tát Bảo Cát Tường, Bồ Tát Diệu Cát Tường, Bồ Tát Bất Tư Nghị Cát Tường, Bồ Tát Quang Minh Cát Tường, Bồ Tát Quang Cát Tường, Bồ Tát Trí Cát Tường, Bồ Tát Nhất Thiết Nghĩa Cát Tường, Bồ Tát Nhất Thiết Bảo Thủ, Bồ Tát Bảo Kế, Bồ Tát Bảo Thủ, Bồ Tát Diệu Tràng Thủ, Bồ Tát Biến Chiếu Tạng, Bồ Tát Bảo Tạng, Bồ Tát Trí Tạng, Bộ Tát Diệu Tư Nghị Tạng, Bồ Tát Xuất Pháp Tạng, Bồ Tát Tràng Phan, Bồ Tát Diệu Tràng, Bồ Tát Vô Biên Tràng, Bồ Tát Quang Minh Tràng, Bồ Tát Vô Cấu Tràng, Bồ Tát Vô Dư Tràng, Bồ Tát Hư Không Tràng, Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Hống Thanh, Bồ Tát Cổ Âm Vương, Bồ Tát Vô Biên Chiếu Trí Vương, Bồ Tát Phá Nhất Thiết Hắc Ám Vương, Bồ Tát Phá Nhất Thiết Quang Vương, Bồ Tát Nhất Thiết Hành Thâm Trí Vương, Bồ Tát Nhân Vương, Bồ Tát Thâm Ý Vương, Bồ Tát Tiêu Trừ Vương, Bồ Tát Vô Kế Vương, Bồ Tát Nhật Vương, Bồ Tát Vô Tính Xuất Sinh Vương, Bồ Tát Tự Tính Xuất Sinh Vương, Bồ Tát Vô Tính Tự Tính Xuất Sinh Vương, Bồ Tát Bất Thoái Địa Vương, Bồ Tát Tự Tại Quang, Bồ Tát Phước Đức Quang, Bồ Tát Thế Gian Quang, Bồ Tát Cam Lộ Quang, Bồ Tát Vô Biên Quang, Bồ Tát Thiên Vương Quang, Bồ Tát Tự Tính Quang, Bồ Tát Vô Tính Quang, Bồ Tát Ẩn Thân, Bồ Tát Vô Xúc, Bồ Tát Vô Tác, Bồ Tát Bất Cứu Cánh, Bồ Tát Vô Cấu, Bồ Tát Vô Hỏa, Bồ Tát Tu Đề, Bồ Tát Mạt Để, Bồ Tát Nga Đế, Bồ Tát An Lạc, Bồ Tát Mục Khư, Bồ Tát Lý Di Nễ Di, Bồ Tát Kế Đô, Bồ Tát Hoan Hỷ, Bồ Tát Nhân Quang, Bồ Tát Nễ Phộc, Bồ Tát Thiên Trung Thiên, Bồ Tát Nẵng Tỳ, Bồ Tát Đại Xa, Bồ Tát Thế Gian, Bồ Tát Tức Tai, Bồ Tát Thâm Hỷ, Bồ Tát Cổ Âm, Bồ Tát Thành Tựu, Bồ Tát Bạch Quang, Bồ Tát Tối Thượng, Bồ Tát Tịnh Thiên, Bồ Tát Năng Nhẫn, Bồ Tát Năng Giáng, Bồ Tát Nan Đắc, Bồ Tát Viễn Hành, Bồ Tát Viễn Ly, Bồ Tát Viễn Trụ, Bồ Tát Cao, Bồ Tát Cực Cao, Bồ Tát Hư Không Minh, Bồ Tát Phổ Chiếu, Bồ Tát Tự Minh, Bồ Tát Tiên Nhân, Bồ Tát Quang Tịnh, Bồ Tát Bất Lạc, Bồ Tát Diệu Ý, Bồ Tát Đại Thiên, Bồ Tát Thanh Tịnh, Bồ Tát Ly Cấu, Bồ Tát Điều Phục, Bồ Tát Tự Tức, Bồ Tát Diệu Tướng, Bồ Tát Bạch Tràng, Bồ Tát Y Di, Bồ Tát Kế Di, Bồ Tát Đồng Tử, Bồ Tát Vô Lương, Bồ Tát Diên Thọ, Bồ Tát Diệu Sinh, Bồ Tát Ám Tràng, Bồ Tát Phan Tràng, Bồ Tát Bạch Tràng, Bồ Tát Diệu Tràng, Bồ Tát Thiên Tràng, Bồ Tát An Trụ, Bồ Tát Đại Tổ, Bồ Tát Phụ Sư, Bồ Tát Thiện Liễu, Bồ Tát Bảo Bình, Bồ Tát Thế Hiện, Bồ Tát Phổ Hiện, Bồ Tát Đại Hiện, Bồ Tát Tăng Ích, Bồ Tát Thâm Quang, Bồ Tát Khẩn Ca La, Bồ Tát Bình Đẳng Tâm, Bồ Tát Thế Gian Lợi, Bồ Tát Nhật Quang, Bồ Tát Nhiên Đăng, Bồ Tát Đa Văn, Bồ Tát Nhất Thiết Nghĩa Thành, Bồ Tát Đắc Thành Tựu, Bồ Tát Khai Quang, Bồ Tát Chiếu Diệu, Bồ Tát Cổ Âm Thanh, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Diệu Thanh, Bồ Tát Vô Biên Âm, Bồ Tát Tràng Âm, Bồ Tát Thật Tiên Nhân. Nhóm Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy đi đến tập hội.

Lại có bảy Đức Phật Như Lai là Kim Tiên Nhân Như Lai, Yết Câu Thôn Như Lai, Ẩm Quang Như Lai, Hỏa Đỉnh Như Lai, Tác Biến Hóa Như Lai, Thắng Quán Như Lai, Năng Nhân Như Lai. Chư Phật như vậy nương theo ánh sáng chiếu khắp đi đến cọi Trời Tịnh Quang, ngồi trên hoa sen báu.

Cũng có Bồ Tát Ma Ha Tát đầy đủ sắc tướng chân thật, đều đến Hội ngồi. Ấy là: Bồ Tát Bảo Thủ Bồ Tát Kim Cương Thủ, Bồ Tát Diệu Thủ, Bồ Tát Hư Không Thủ, Bồ Tát Vô Biên Thủ, Bồ Tát Địa Thủ, Bồ Tát Thế Gian Thủ, Bồ Tát Thâm Thanh Tịnh, Bồ Tát Diệu Tích, Bồ Tát Đa Tích, Bồ Tát Ma Ni Bảo Tích Bồ Tát Bảo Tượng Bồ Tát Phổ Tượng, Bồ Tát Hương Tượng, Bồ Tát Diệu Hành, Bồ Tát Thanh Tịnh Hạnh, Bồ Tát Thế Gian Hành, Bồ Tát Tốc Hành, Bồ Tát Vô Biên Hành, Bồ Tát Vô Biên Xưng, Bồ Tát Diệu Xưng, Bồ Tát Vô Cấu Xưng, Bồ Tát Hành Xưng, Bồ Tát Ly Cấu Xưng, Bồ Tát Xưng, Bồ Tát Xưng Tôn, Bồ Tát Vô Tôn Vi Tôn, Bồ Tát Thế Tôn, Bồ Tát Phổ Tôn, Bồ Tát Từ, Bồ Tát Vô Biên Từ, Bồ Tát Bình Đẳng Từ, Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Diệu Nhãn Từ, Bồ Tát Vô Lượng Từ, Bồ Tát Tam Thế Từ, Bồ Tát Chân Thật, Bồ Tát Tam Bảo Từ, Bồ Tát Tam Quy Từ, Bồ Tát Tam Thừa Từ, Bồ Tát Biến Hóa, Bồ Tát Diệu Ý Thù, Bồ Tát Diệu Pháp Tự Tại, Bồ Tát Vô Tính Tự Tại, Bồ Tát Phổ Biến Tự Tại, Bồ Tát Thế Gian Tự Tại, Bồ Tát Quán Tự Tại, Bồ Tát Diệu Quán Tự Tại, Bồ Tát Thắng Quán Tự Tại, Bồ Tát Thế Gian, Bồ Tát Tôn Diệu Tôn, Bồ Tát Cổ Âm Hống, Bồ Tát Thanh Tịnh Tự Tại, Bồ Tát Tâm Tự Tại, Bồ Tát Thánh Chúng, Bồ Tát Diệu Tướng, Bồ Tát Thắng Tôn, Bồ Tát Danh Xưng, Bồ Tát Nhật Quang, Bồ Tát Quang Thiên, Bồ Tát Thiện Tự Tại, Bồ Tát Thiện, Bồ Tát Thâm Thiện, Bồ Tát Vô Biên Cát Tường, Bồ Tát Phổ Biến Cát Tường, Bồ Tát Thế Cát Tường, Bồ Tát Hư Không, Bồ Tát Hư Không Tự Tại Tạng, Bồ Tát Địa Tự Tại, Bồ Tát Đại Tự Tại, Bồ Tát Đại Địa, Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, Bồ Tát Phổ Điều Phục, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Hiền Hộ, Bồ Tát Diệu Tài, Bồ Tát Diệu Tức, Bồ Tát Diệu Hoa, Bồ Tát Diệu Hư Không, Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Nhất Thiết Nghĩa Tạng, Bồ Tát Nhất Thiết Xuất, Bồ Tát Bất Trụ, Bồ Tát Bất Tứ Trụ Địa Diệt Tội, Bồ Tát Bất Thoái, Bồ Tát Bất Thoái Chuyển, Bồ Tát Nhất Thiết Pháp Bất Kế. Nhóm Bồ Tát Ma Ha Tát như vậy đồng đến chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên Trời Tịnh Quang.

Lại có Bồ Tát Ma Ha Tát thực hành vô lượng nghĩa, biến thân làm hình người nữ dùng Pháp Thế Gian dẫn lối cho tất cả chúng sinh, khiến cho Tâm bền chắc, chẳng lùi Ý Đạo, được Minh Cú Đà La Ni chẳng thể nghĩ bàn. Hoặc biến thành mọi loại hình Phi Cầm, hình Dạ Xoa, hình La Sát, hình báu Ma Ni, hình người, hình Phi Nhân. Sắc tướng thù dị đã làm như thế, tùy theo ý giáo hóa tất cả chúng sinh, khiến vào Bồ Tát Hạnh, ở Pháp Minh Vương, tùy thuận hiểu thấu. Như Pháp Bộ của Như Lai, Liên Hoa, Kim Cương được vào Tam Muội thì tất cả Thế Gian Xuất Thế Gian chẳng thể vi phạm sự chân thật đã nói, an trụ Tam Bảo, Uy Đức chẳng bị đứt đoạn. Có Đại Minh Vương luôn luôn thủ hộ. Ấy là: Xuất Sinh Minh Vương, Cực Cao Minh Vương, Bạch Tản Cái Minh Vương, Vô Biên Cái Minh Vương, Phổ Cái Minh Vương, Tối Thắng Minh Vương, Thế Gian Cao Minh Vương, Tôn Thắng Minh Vương, Cực Quảng Đại Minh Vương, Liên Hoa Quang Minh Minh Vương, Kim Quang Minh Minh Vương, Bạch Quang Minh Minh Vương, Trang Nghiêm Tôn Thắng Minh Vương, Kim Tích Minh Vương, Bạch Tích Minh Vương, Quang Tích Minh Vương, Bảo Tích Minh Vương, Phổ Tích Minh Vương, Xứng Xứng Minh Vương, Bảo Tích Minh Vương, Chân Xứng Minh Vương, Vô Tính Tự Tính Tích Minh Vương, Bất Hư Cuống Xứng Minh Vương Nhóm Tôn Thắng Minh Vương như vậy nhập vào vô biên Pháp Giới như Ta viên mãn Nguyện của chúng sinh, khiến được đầy đủ Tâm của tất cả Phật.

Lại, nhóm Tôn Thắng Minh Vương này đầy đủ Pháp Lực rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn, không có gì sánh bằng, như hư không không có bờ mé, trải qua trăm ngàn na dữu đa câu chi Kiếp, nói chẳng thể hết. Nay vì các ông lược nói mà thôi.

Lại nơi đây, lại có Minh Vương: My Minh Vương, Nhãn Minh Vương, Tiệp Minh Vương, Nhĩ Minh Vương, Yết Minh Vương, Vô Úy Minh Vương, Bi Minh Vương, Từ Minh Vương, Mẫn Minh Vương, Trí Tuệ Minh Vương, Quang Minh Minh Vương, Ý Minh Vương, Quang Minh Vương, Vô Cấu Minh Vương, Y Minh Vương Nhóm Minh Vương như vậy biến hóa vô lượng vô biên sắc tướng của Như Lai, ấy là: Như Lai Bát, Như Lai Pháp Luân, Như Lai Ngọa Cụ, Như Lai Thừa, Như Lai Chiếu Diệu, Như Lai Ngôn, Như Lai Thần, Như Lai Bễ, Như Lai Cấu, Như Lai Tràng, Như Lai Phan, Như Lai Tiêu Xí. Nhóm sắc tướng của Như Lai như vậy là điều mà Chân Ngôn đã nói.

Lại có Phẫn Nộ Minh Vương với Minh Vương của các nhóm Khẩn Ca La, Khẩn Ca Lý, Tức Tra, Tức Trí, Nỗ Đa, Nỗ Để, Dược Xoa, Dược Xoa Ni, Nhân và Phi Nhân được nhập vào Tối Thượng Pháp Vân Trang Nghiêm Tam Ma Địa. Lại có vô lượng vô biên trăm ngàn câu chi quyến thuộc vây quanh, cúng dường, cung kính tất cả Minh Vương. Nhóm chúng như vậy thảy đều tập hội trong cõi Trời Tịnh Quang.

Lại có chúng Đại Minh Vương của Liên Hoa Tộc, ấy là: Thập Nhị Tý Minh Vương, Lục Tý Minh Vương, Tứ Tý Minh Vương, Hạ La Hạ La Minh Vương, Bất Không Sách Minh Vương, Mã Thủ Minh Vương, Vô Biên Cảnh Minh Vương, Diệu Cảnh Minh Vương, Thanh Cảnh Minh Vương, Diệu Hạng Minh Vương, Bạch Hạng Minh Vương, Thanh Hạng Minh Vương, Thế Hạng Minh Vương, Quang Minh Minh Vương, Quán Chiếu Minh Vương, Quán Tự Tại Minh Vương, Thiên Quang Minh Vương, Ý Minh Vương, Thâm Ý Minh Vương, Xứng Ý Minh Vương, Liên Hoa Thủ Minh Vương, Ý Nguyện Minh Vương, Cứu Độ Minh Vương, Hoan Hỷ Minh Vương, Diệu Phát Minh Vương, Xích Phát Minh Vương, Tinh Minh Vương, Tinh Vương Minh Vương, Thâm Thiện Minh Vương, Thiện Thần Điều Phục Minh Vương. Nhóm Tôn Thắng Minh Vương của Liên Hoa Tộc như vậy được Vô Lượng Vô Biên Pháp Vân Tam Ma Địa cũng đi đến dự hội.

Lại có vô số Nữ Thân Minh Vương được Tam Ma Địa, sắc tướng đoan nghiêm như Quán Tự Tại, ấy là Đa La Minh Vương, Tô Đa La Minh Vương, Nẵng Trí Minh Vương, Bộ Lý Câu Chi Minh Vương, A Nan Đá Trí Minh Vương, Lộ Ca Trí Minh Vương, Bộ Di Bát La Bá Trí Minh Vương, Vĩ Tả La Trí Minh Vương, Tất Đa Thấp Phộc Đá Minh Vương, Ma Hạ Thấp Phộc Đá Minh Vương, Bạch Y Minh Vương, Thế Y Minh Vương, Vô Cấu Y Minh Vương, Giác Hữu Y Minh Vương, Liên Hoa Y Minh Vương, Thập Phương Y Minh Vương, Xứng Ý Minh Vương, Phước Đức Minh Vương, Đại Phước Đức Minh Vương, Ổ Lộ Ca Minh Vương, Tận Cấu Minh Vương, Đắc Thanh Tịnh Minh Vương, Phổ Vi Minh Vương, Tận Khổ Minh Vương, Bức Quỷ Minh Vương, Cát Tường Minh Vương, Đại Cát Tường Minh Vương, Tháp Cát Tường Minh Vương, Vô Biên Cát Tường Minh Vương, Thế Cát Tường Minh Vương, Danh Xưng Cát Tường Minh Vương, Thế Mẫu Minh Vương, Phổ Mẫu Minh Vương, Phật Mẫu Minh Vương, Bà Nghệ Nễ Minh Vương, Bà Nghệ La Thể Minh Vương, Tô La Thể Minh Vương, La Tha Phộc Đế Minh Vương, Nẵng Nga Nan Đa Minh Vương, Nại Ma Nễ Minh Vương, Bộ Đa Phộc Đế Minh Vương, A La Lý Sa Ni Minh Vương, Án Bộ Đa La Thấp Di Minh Vương, Tô La Sa Minh Vương, Tô La Phộc Đế Minh Vương, Bát La Mẫu Nại Minh Vương, A Tức Lý Phộc Đế Minh Vương, Đát Trí Minh Vương, Tam Mãn Đa Đát Trí Minh Vương, Quang Minh Minh Vương, Thâm Thiện Minh Vương, Đại Thiện Minh Vương, Khổng Tước Minh Minh Vương, Đại Tài Minh Vương, Thí Tài Minh Vương, Đại Thiên Minh Vương, Đại Thế Minh Vương, Dương Diệm Minh Minh Vương, Đại Hỏa Minh Vương, Trường Thọ Minh Vương, Cao Thanh Minh Vương, Diệu Hống Minh Vương, Đại Địa Minh Vương, Trừ Bệnh Minh Vương, Ly Nhất Thiết Bệnh Minh Vương, Vô Ngã Minh Vương, Hiền Thánh Minh Vương, Đức Xưng Minh Vương, Kính Ái Minh Vương, Tốc Tác Minh Vương, Vô Úy Cát Tường Minh Vương, Tiêu Trừ Bất Cát Minh Vương, Nguyệt Minh Vương, Diệu Nguyệt Minh Vương, Đại Nguyệt Minh Vương, Bát La Noa Thiết Phộc Lý Minh Vương, Tảm Ngu Lệ Minh Vương, Mạt Nẵng Tế Minh Vương, Nỗ Đa Minh Vương, Nỗ Đế Minh Vương, Tức Tra Minh Vương, Tức Trí Minh Vương, Khẩn Ca La Minh Vương, Khẩn Ca Lý Minh Vương, Dạ Xoa Minh Vương, Dạ Sát Minh Vương, La Xoa Sa Minh Vương, La Xoa Tế Minh Vương, Tỳ Xá Tả Minh Vương, Tỳ Xá Chỉ Minh Vương. Nhóm Nữ Thân Minh Vương như vậy nhập vào Liên Hoa Tộc Tam Muội Diệu Quán Vô Biên Chính Pháp, Tự Tính lặng yên trong suốt (trạm nhiên) giống như hư không, thực hành Bồ Tát Hạnh, yêu thích biến hóa cùng với Thanh Tịnh Bồ Tát đi đến chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trên Trời Tịnh Quang, đứng trước mặt Đức Phật, cung kính cúng dường.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ HAI_

_PHẨM THỨ NHẤT_CHI HAI_

Bấy giờ, Bồ Tát Kim Cương Thủ, bảo chúng Minh Vương của mình rằng: "Các ông hôm nay tập hội ở chỗ của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở Trời Tịnh Quang.

Nay Minh Vương này có đủ tướng phẫn nộ cùng với hàng Ma Hạ Nỗ Để (Đại Sứ Giả Nữ) phụng Giáo Sắc ấy, đều đem quyến thuộc, trong khoảng một niệm đều đến tập hội. Ấy là: Tối Thượng Minh Vương, Hữu Minh Minh Vương, Năng Thành Tựu Minh Vương, Diệu Tý Minh Vương, Thắng Quân Minh Vương, Ly Dục Minh Vương, Ái Lạc Minh Vương, Viên Mãn Minh Vương, Kim Cương Quân Minh Vương, Năng Kim Cương Minh Vương, Kim Cương Tác Minh Vương, Kim Cương Tý Minh Vương, Kim Cương Thủ Minh Vương, Kim Cương Tràng Minh Vương, Kim Cương Phan Minh Vương, Kim Cương Phong Đỉnh Minh Vương, Kim Cương Đỉnh Minh Vương, Kim Cương Nha Minh Vương, Kim Cương Thanh Tịnh Minh Vương, Kim Cương Mao Minh Vương, Kim Cương Tập Minh Vương, Kim Cương Diện Minh Vương, Kim Cương Y Giáp Minh Vương, Kim Cương Cảnh Minh Vương, Kim Cương Ức Minh Vương, Kim Cương Tề Minh Vương, Kim Cương Năng Minh Vương, Kim Cương Tường Minh Vương, Kim Cương Cung Thành Minh Vương, Kim Cương Khí Trượng Minh Vương, Kim Cương Cung Minh Vương, Kim Cương Tiễn Minh Vương, Kim Cương Nẵng La Tả Minh Vương, Kim Cương Câu Minh Vương, Kim Cương Tỏa Minh Vương, Kim Cương Địa Minh Vương, Kim Cương Phẫn Nộ Nhãn Minh Vương, Kim Cương Phẫn Nộ Minh Vương, Nhạ Nan Đa Thấp Phộc La Minh Vương, Bộ Đát La Thấp Phộc La Minh Vương, Mãn Đà Nan Đa Thấp Phộc La Minh Vương, Ma Hạ Mông Lỗ Đát Đa Thấp Phộc La Minh Vương, Ma Hứ Thấp Phộc La Đát Thấp Phộc La Minh Vương, Nan Nẵng Phệ Nại La Đa Thấp Phộc La Minh Vương, Tát Lý Phộc Vĩ Nễ Dã Đá Thấp Phộc La Minh Vương, Cụ La Minh Vương, Tô Cụ La Minh Vương, Sát Ba Minh Vương, Ổ Sát Ba Minh Vương, Bá Na Nễ Sát Ba Minh Vương, Vĩ Na Dã Kiến Đá Sát Ba Minh Vương, Tô Vĩ Đát Dã Sa Sát Ba Minh Vương, Ổ Sô Sắt Ma Sát Ba Minh Vương, Mạt La Minh Vương, Mạt Hạ Mạt La Minh Vương, Bà La Ma La Minh Vương, Bộ Lăng Nga Lý Trí Minh Vương, Cốt Lỗ Đà Minh Vương, Ma Hạ Cốt Lỗ Đà Minh Vương, A Nhạ Nga La Minh Vương, Nhập Phộc La Thú Sa Minh Vương, Nẵng Hiến Đá Minh Vương, Nan Noa Minh Vương, Nễ La Nan Noa Minh Vương, A Nga Na Minh Vương, La Câu Nga Minh Vương, Phộc Nhật La Nan Noa Minh Vương, Di Già Minh Vương, Ma Hạ Di Già Minh Vương, Ca La Minh Vương, Ca La Câu Tra Minh Vương, Thất Chế Đát La Minh Vương, Lỗ Nga Minh Vương, Tát Lý Phộc Bộ Đa Minh Vương, Tán Sát Bát Ca Minh Vương, Thú La Minh Vương, Ma Hạ Thú La Minh Vương, A Lý Đế Minh Vương, Ma Hạ A Lý Đế Minh Vương, Dạ Ma Minh Vương, Phệ Phộc Thấp Phộc Đá Minh Vương, Dụ Hiến Đá Ca La Minh Vương, Cật Lý Sắt Noa Ba Xoa Minh Vương, Cụ La Minh Vương, Cụ La Lỗ Bế Minh Vương, Bán Trí Sa Minh Vương, Đô Ma La Minh Vương, Nga Na Minh Vương, Bát La Ma Tha Nẵng Minh Vương, Nga La Sa Nẵng Minh Vương, Tăng Hạ La Minh Vương, A Lý Ca Minh Vương, Dụ Hiến Đá Lý Ca Minh Vương, Bát La Noa Hạ La Minh Vương, Thiết Đát Lỗ Cận Nẵng Minh Vương, Nỉ Phệ Sa Minh Vương, A Ma Lý Sa Minh Vương, Tịnh Bình Minh Vương, Cam Lộ Bình Minh Vương, Vô Biên Bình Minh Vương, Bảo Bình Minh Vương, Tý Minh Vương, Đại Tý Minh Vương, Ma Hạ Lỗ Nga Minh Vương, Nỗ Sắt Tra Minh Vương, Tát Lý Ba Minh Vương, Vĩ Tát Lý Ba Minh Vương, Câu Sắt Xá Minh Vương, Nhạ Dã Nại La Tha Minh Vương, Vĩ Nại La Phộc Ca Minh Vương, Bà Xoa Ca Minh Vương, A Đát Lý Bát Đa Minh Vương, Ổ Sô Ma Minh Vương. Minh Vương như vậy hiện đại phẫn nộ, bên trong hàm chứa Từ Nhẫn, giáng phục hữu tình khiến tin Phật Pháp, dứt trừ tai hại, tăng ích tốt lành. Cũng có trăm ngàn na do tha câu chi quyến thuộc đồng đến chỗ của Đức Phật, đỉnh lễ, chiêm ngưỡng Đức Thích Ca Mâu Ni với Diệu Cát Tường Đồng Tử xong, lại lễ Kim Cương Thủ Bồ Tát, rồi an lành ngồi ngay trong Đại Chúng.

Lại Kim Cương Thủ Bồ Tát này lại có Đại Minh Vương của nhóm Đại Cam Lồ Nỗ Đát-Dã luôn gần gũi theo hầu, khéo hay quán sát Tự Tính của Pháp Giới như hư không không có ngăn ngại, cũng cùng với trăm ngàn na do tha quyến thuộc đi đến chỗ của Phật. Ấy là: Bảo Đới Minh Vương, Diệu Đới Minh Vương, Kim Cương Tỏa Minh Vương, Kim Cương Hào Minh Vương, Kim Cương Thiệt Minh Vương, Kim Cương My Minh Vương, Kim Cương Nhãn Minh Vương, Kim Cương Thân Minh Vương, Kim Cương Tần Túc Minh Vương, Kim Cương Nhĩ Minh Vương, Kim Cương Lệ Khư Minh Vương, Kim Cương Châm Minh Vương, Kim Cương Quyền Minh Vương, Kim Cương Câu Minh Vương, Kim Cương Y Minh Vương, Kim Cương Bạc Minh Vương, Kim Cương Sách Minh Vương, Xá La Minh Vương, Phộc Đế Xá La Minh Vương, Vĩ La Trí Minh Vương, Phộc La Trí Minh Vương, Ca Nhĩ Nễ Minh Vương, Ca Ma Phộc-Lý Ni Minh Vương, Bát Thế Ca Minh Vương, Bát Thế Nễ Minh Vương, Ma Hạ Bát Thế Nễ Minh Vương, Thế Khư La Phộc Tất Nễ Minh Vương, Bí Mật Minh Vương, Mật Ý Minh Vương, Mật Trụ Minh Vương, Môn Trụ Minh Vương, Dục Kim Cương Minh Vương, Ý Tốc Minh Vương, Cực Tốc Minh Vương, Cấp Tốc Minh Vương, Diệu Nhãn Minh Vương, Đại Thiên Minh Vương, Bà Ma Nễ Minh Vương, Bà La Ma Nễ Minh Vương, Viễn Hành Minh Vương, Thành Tựu Minh Vương, Vô Phong Minh Vương, Trường Phát Minh Vương, Bạn Noa Nễ Minh Vương, Đát Lý Nhạ Nễ Minh Vương, Nỗ Đế Minh Vương, Bà Nỗ Đế Minh Vương, Ma Ma Kế Minh Vương, Phộc Ma Nễ Minh Vương, Lỗ Bế Ni Minh Vương, Lỗ Ba Phộc Đế Minh Vương, Thắng Minh Vương, Tối Thắng Minh Vương, Vô Năng Thắng Minh Vương, Tăng Ích Minh Vương, Hoan Hỷ Minh Vương, Hỷ Kim Cương Minh Vương, Đại Thế Minh Vương, Xứng Ý Minh Vương, Đại Kim Cương Minh Vương, Diệu Thọ Minh Vương, Tam Thế Minh Vương, Kính Ái Minh Vương, Trượng Minh Vương, Đại Trượng Minh Vương, Thiện Ngôn Minh Vương, Đại Ái Kính Minh Vương, Đại Tài Minh Vương, Đại Nghĩa Minh Vương, Đích Để Lý Minh Vương, Tài Lực Đích Để Lý Minh Vương, Bạch Minh Vương, Năng Hóa Minh Vương, Diệu Thanh Tịnh Minh Vương, Chung Minh Vương, Kiếm Lợi Minh Vương, Năng Châm Minh Vương, Đắc Thanh Minh Vương, Diệu Y Minh Vương, Nhu Nhuyễn Minh Vương, Thâm Nhuyễn Minh Vương, Bí Mật Chủ Minh Vương, Chướng Ngại Minh Vương, Xử Minh Vương như vậy nhóm Giáng Nhất Thiết Bộ Đa, Đại Nỗ Đát-Dã Minh Vương cùng với vô số chúng Nỗ Để quyến thuộc đều đến tập hội.

Lại có vô số Đà La Ni chính ý khéo quán tướng Tam Ma Địa, điều phục chúng sinh, đoạn trừ các ác. Ấy là: Kim Cương Hỏa Mê Hoặc Đà La Ni, Diệu Đỉnh Lâu Các Đà La Ni, Đại Tài Đà La Ni, Bảo Sơn Lâu Các Đà La Ni, Diệu Tích Đà La Ni, Đa Tích Đà La Ni, Hoa Tích Đà La Ni, Nan Noa Đà La Ni, Nễ Nga La Hạ Đà La Ni, A Lý Ca Sa Noa Đà La Ni, Kế Dụ La Đà La Ni, Kế Dụ La Phộc Để Đà La Ni, Đặc Phộc Nhạ Nga La Đà La Ni, La Đát Nẵng Nga La Kế Dụ La Đà La Ni, Lộ Ca Nga La Kế Dụ La Đà La Ni, Bát Đa Ca Nga La Kế Dụ La Đà La Ni, Đát Lý Bát Lý Phộc Lý Đá Đà La Ni, Lộ Ca Phộc Lý Đá Đà La Ni, Sa Hạ Sa La Phộc Lý Đá Đà La Ni, Phệ Phộc Thấp Phộc Đá Phộc Lý Đá Đà La Ni, Tát Lý Phộc Bộ Đá Phộc Lý Đá Đà La Ni, Kế Đô Phộc Đế Đà La Ni, La Đát nẵng Phộc Đế Đà La Ni, Ma Ni La Đát Nẵng Tổ Noa Đà La Ni, Giác Chi Đại Lực Đà La Ni, Vô Biên Tràng Đà La Ni, Phổ Tràng Đà La Ni, Bảo Tràng Đà La Ni, Danh Xưng Tràng Đà La Ni, Nhất Thiết Bộ Đa Tràng Đà La Ni, A Nhĩ La Phộc Để Đà La Ni, Án Ma La Đà La Ni, Diệu Thanh Tịnh Đà La Ni, Lục Diện Đà La Ni, Vô Cấu Đà La Ni Vô số Đà La Ni của nhóm Thế Xưng Đà La Ni như vậy lại có trăm ngàn câu chi Đà La Ni dùng làm quyến thuộc, được Vô Biên Phật Đại Uy Đức Đại Bồ Tát Tam Ma Địa đều đến Phật Hội.

Lại có cõi Phật không có Đại Giác Thế Tôn chỉ có chúng Thánh Bích Chi, miệng có nanh kiếm, trụ ở đời trải qua Kiếp, vì các chúng sinh luân hồi sinh tử mà khởi Đại Bi giải nói con mắt Pháp khiến co ý lặng yên, sau đó lại hồi Tâm quán sát Bồ Đề. Lại quán nỗi khổ ngăn che của nghiệp quá khứ, được vào Nhất Địa, Nhị Địa, Tam Địa, Tứ Địa cho đến địa vị chẳng thoái lùi của Bát Địa, chặt đứt hẳn luân hồi, chẳng thọ nhận mọi khổ cùng với các Đồ Chúng đều đến chỗ của Đức Phật. Ấy là: Hương Túy Bích Chi Phật, Phổ Xứ Bích Chi Phật, Phổ Quang Bích Chi Phật, Xa Bích Chi Phật, Thời Bích Chi Phật, Nễ Di Bích Chi Phật, Ổ Ba Nễ Nhĩ Bích Chi Phật, Hoan Hỷ Bích Chi Phật, Thâm Hỷ Bích Chi Phật, Ổ Ba Lý Bích Chi Phật, Tát Bá Lý Thấp Phộc Bích Chi Phật, Tô Bá Lý Thấp Phộc Bích Chi Phật, Cổ Bích Chi Phật, Xứng Thế Bích Chi Phật, Thế Quang Bích Chi Phật, Đắc Thắng Bích Chi Phật, Sào Trần Bích Chi Phật, Trần Bích Chi Phật, Vi Trần Bích Chi Phật, Phần Bích Chi Phật, Cực Phần Bích Chi Phật, Tiêu Xí Bích Chi Phật, Diệu Xí Bích Chi Phật, Nhật Quang Bích Chi Phật, Diệu Tác Quang Minh Bích Chi Phật, Quang Chiếu Bích Chi Phật, Minh Chiếu Bích Chi Phật, Thiện Văn Bích Chi Phật, Diệu Văn Bích Chi Phật, Ái Lạc Bích Chi Phật, Thiện Năng Điều Bích Chi Phật, Vô Biên Xứ Bích Chi Phật, Đoạn Luân Hồi Bích Chi Phật, Bạch Tràng Bích Chi Phật, Tiêu Xí Tràng Bích Chi Phật, Diệu Tràng Bích Chi Phật, Để Sa Bích Chi Phật, Tối Thượng Liên Hoa Bích Chi Phật, Liên Hoa Sinh Bích Chi Phật, Vị Tằng Hữu Bích Chi Phật, Diệu Trí Bích Chi Phật, Ý Bích Chi Phật, Đại Vương Bích Chi Phật, Đại Tích Bích Chi Phật, Bảo Bình Bích Chi Phật, Toàn Nhãn Bích Chi Phật, Thiện Tác Bích Chi Phật, Thâm Thiện Tác Bích Chi Phật, Tự Tức Bích Chi Phật, Thiện Ý Bích Chi Phật, Pháp Bích Chi Phật, Diệu Pháp Bích Chi Phật, Biến Chiếu Bích Chi Phật, Hoa Bích Chi Phật, Đại Thanh Bích Chi Phật, Tăng Ích Bích Chi Phật, Quyến Thuộc Bích Chi Phật, Viễn Ly Bích Chi Phật, Nan Nhẫn Bích Chi Phật, Kim Bích Chi Phật, Vô Cấu Bích Chi Phật, Tràng Bích Chi Phật, Nguyệt Bích Chi Phật, Diệu Nguyệt Bích Chi Phật, Quân Bích Chi Phật, Thắng Quân Bích Chi Phật, Đế Thích Bích Chi Phật, Thiên Vương Bích Chi Phật, Na La Diên Bích Chi Phật Nhóm như vậy có trăm ngàn na do tha câu chi Bích Chi Phật, trụ Bất Khả Tư Nghị Vô Đẳng Vô Nguyện Pháp Giới, Tự Tính không có ngăn ngại giống như hư không, nhập vào Thật Hạnh của Trung Thừa. đều đến chỗ tập hội của Đức Phật Thích Ca, nghe Pháp.

Lại có vô số trăm ngàn câu chi Tôn Giả, chúng Đại Thanh Văn cùng với quyến thuộc. Ấy là: Đại Ca Diệp Tôn Giả, Già Gia Ca Diệp Tôn Giả, Ưu Lưu Tần Loa Ca Diệp Tôn Giả, Pha La Đọa Nhạ Tôn Giả, Tần Đầu Lô Tôn Giả, Phộc La Nại Phộc Nhạ Tôn Giả, Mục Kiền Liên Tôn Giả, Đại Mục Kiền Liên Tôn Giả, Xá Lợi Tử Tôn Giả, Đại Xá Lợi Tử Tôn Giả, Tu Bồ Đề Tôn Giả, Đại Tu Bồ Đề Tôn Giả, Kiều Phạm Ba Đề Tôn Giả, Ca Đa Diễn Nẵng Tôn Giả, Đại Ca Đa Diễn Nẵng Tôn Giả, Ưu Ba Ly Tôn Giả, Ba Nại Lý Ca Tôn Giả, Yết Tân Na Tôn Giả, Nan Đà Tôn Giả, A Nan Đà Tôn Giả, Tôn Đà La Nan Đà Tôn Giả, Ổ Ba Nan Đà Tôn Giả, Lộ Ca Bộ Đa Tôn Giả, Ma Lý Ngu Ca Tôn Giả, Ổ Ba Ma Lý Ngu Ca Tôn Giả, Nan Nễ Ca Tôn Giả, Ổ Ba Nan Nễ Ca Tôn Giả, A Nậu Lâu Đà Tôn Giả, Bố La Noa Tôn Giả, Tam Bố La Noa Tôn Giả, Ổ Ba Bố La Noa Tôn Giả, Đề Sái Tôn Giả, Bố Nẵng Lý Phộc Tô Tôn Giả, Lỗ Lỗ Tôn Giả, Lao Nại La Ca Tôn Giả, Lao La Phộc Tôn Giả, Câu Lỗ Bán Tức Ca Tôn Giả, Ổ Ba Bán Tức Ca Tôn Giả, Ca La Tôn Giả, Tô Ca La Tôn Giả, Lý Phộc Na Tôn Giả, La Hộ La Tôn Giả, Hạ Lý Đa Tôn Giả, Ổ Ba Hạ Lý Đa Tôn Giả, Đạt Dã Nẵng Tôn Giả, Nễ Đạt Dã Dĩ Ca Tôn Giả, Ổ Ba Dĩ Ca Tôn Giả, Ổ Ba Nại Dĩ Ca Tôn Giả, Thất Lý Dã Sa Tôn Giả, Ca Nại La Tôn Giả, Vĩ Dũ Bổ Đát La Tôn Giả, Thâm Tài Tôn Giả, Ô Bế Đa Tôn Giả, Kiện Noa Tôn Giả, Để Sa Tôn Giả, Ma Hạ Để Sa Tôn Giả, Tam Mãn Đa Để Sa Tôn Giả, A Tha Dã Nẵng Tôn Giả, Đắc Xưng Tôn Giả, Danh Xưng Tôn Giả, Hữu Tài Tôn Giả, Tài Hải Tôn Giả, Đa Tài Tôn Giả, Tất Na Phộc Tha Tôn Giả, Tinh Già La Tôn Giả, Kim Pha La Tôn Giả, Đa Quả Tôn Giả, Vô Biên Quả Tôn Giả, Chính Quả Tôn Giả, Đồng Tử Tôn Giả, Đồng Tử Ca Diệp Tôn Giả, Ma Hộ Na Tôn Giả, Số Noa Xá Phộc Lăng Nghĩ Ca Tôn Giả, Nan Hoan Hỷ Na Nẵng Tôn Giả, Thâm Hỷ Tôn Giả, Nhẫm Ma Tế Nẵng Tôn Giả, Giáng Ma Tôn Giả, Ma Hứ Thấp Phộc Sa Tôn Giả, Phộc Thiết Ca Tôn Giả, Câu Lỗ Câu La Tôn Giả, Ô Ba Câu Lỗ Câu La Tôn Giả, Câu Chi Ca La Noa Tôn Giả, Thất La Phộc Noa Tôn Giả, Tố Lỗ Ba La Đa Ca Tôn Giả, Ngưỡng Nghĩ Dã Ca Tôn Giả, Nghĩ Lý Ca Lý Ni Tôn Giả, Ca Câu Chi Ca Lý Ni Ca Tôn Giả, Phộc Lý Sử Ca Tôn Giả, Tế Đa Tôn Giả, Tố Nhĩ Đa Tôn Giả, Cát Tường Mật Tôn Giả, Thế Mật Tôn Giả, Sư Mật Tôn Giả, Ngu Lỗ Ca Tôn Giả, Nhũ Để La Sa Tôn Giả, Nga My Ca Tôn Giả, Hạ Di Ca Tôn Giả, Đô Sa Nhẫm Di Ca Tôn Giả, Vĩ Sa Câu Chi Ca Tôn Giả, A Nẵng Phệ Na Tôn Giả, Ô Ba Phộc Lý Đa Nẵng Tôn Giả, Vĩ Phộc Lý Đa Nẵng Tôn Giả, Ô Ma Đa Ca Tôn Giả, Nhũ Đa Tôn Giả, Tam Mãn Đa Tôn Giả, Bạt Na La Tôn Giả, Tô Bà Nại La Lộ Tôn Giả, Bà Nga Đa Tôn Giả, Ô Ba Nga Đa Tôn Giả, Lộ Già Nga Đa Tôn Giả, Khổ Tận Tôn Giả, Hiền Kiếp Tôn Giả, Đại Hiền Tôn Giả, Sự Hành Tôn Giả, Tôn Phụ Tôn Giả, Nga Để Ca Tôn Giả, Bổ Sắt Sa La Tôn Giả, Bổ Sắt Ba Ca Thi Ca Tôn Giả, Ô Ba Ca Thi Ca Tôn Giả, Đại Dược Tôn Giả, Đại Phước Đức Tôn Giả, Ma Hộ Nhạ Tôn Giả, A Nỗ La Đà Tôn Giả, La Phệ Ca Tôn Giả, La Thi Ca Tôn Giả, Chính Phạm Tôn Giả, Thích Duyệt Tôn Giả, Chính Thế Tôn Giả, Biến Diệu Tôn Giả, Chính Diệu Tôn Giả. Tôn Giả như vậy ở vô biên Pháp Giới thấu ngộ vị Giải Thoát, tu Hạnh của Ba Thừa, được Quả Tiểu Thừa, thực hành bốn Vô Lượng Quán, ba Giải Thoát, đầy đủ Uy Nghi, chặt đứt hẳn Luân Hồi, thân tâm thanh tịnh, trụ cõi Niết Bàn thảy đều bình đẳng, tất cả không có ngăn ngại, đi đến chỗ Tập Hội của Đức Đại Mâu Ni trên Trời Tịnh Quang, nghe Pháp.

Lại có vô số Tôn Giả Đại Bật Sô Ni đều chứng Niết Bàn, quán tưởng Chính Đạo, phóng ánh sáng Trí Tuệ, trong sạch lìa Dục, luôn ở nước Phật gom chứa Đức không cùng tận, Người Trời cúng dường làm Ruộng Phước to lớn, ở trong Thế Gian là thù thắng bậc nhất. Bình đẳng hưng khởi lòng yêu thương giúp đỡ cho hết thảy loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, không có chân đều được lợi lạc. Ấy là: Gia Thù Đà La Tôn Giả, Gia Thù Tôn Giả, Ma Hạ Bát La Nhạ Bát La Tôn Giả, A Nan Đa Tôn Giả, Tô Nhạ Đa Tôn Giả, Nan Na Tôn Giả, Tốt Thổ La Na Tôn Giả, Tô Nan Na Tôn Giả, Địa Dã Dĩ Nễ Tôn Giả, Tôn Na Lý Tôn Giả, Vĩ Xá Khư Tôn Giả, Ma Noa La Tha Tôn Giả, Nhạ Dã Phộc Để Tôn Giả, Vĩ La Tôn Giả, Nỉ Phộc Đa Tôn Giả, Tô Nỉ Phộc Đa Tôn Giả, A Ngật La Ca Tôn Giả, Thất Lý Dã Tôn Giả, Bát La Phộc La Tôn Giả, Bát La Bát Lý Diệm Phộc Na Tôn Giả, Lỗ Hứ Ni Tôn Giả, Hộ Quốc Tôn Giả, Hộ Chủ Tôn Giả, Tam Ma Na Tôn Giả, Phộc Bố Sa Tôn Giả, Thất La Đà Tôn Giả, Bát Lý Ma Tôn Giả, Đầu Kế Tôn Giả, Diệu Kế Tôn Giả, Phổ Kế Tôn Giả, Đoạn Luân Hồi Tôn Giả, Diệu Quán Tôn Giả, Ý Tốc Tôn Giả, Kế Xá Phộc Tôn Giả, Vĩ Sắt Nữ La Tôn Giả, Vĩ Sắt Nữ Mạt Để Tôn Giả, Diệu Ý Tôn Giả, Đa Ý Tôn Giả, Tăng Ích Tôn Giả, Ly Khổ Tôn Giả, Tác Nghiệp Tôn Giả, Nghiệp Quả Tôn Giả, Tối Thắng Tôn Giả, Tôn Thắng Tôn Giả, Phộc Sa Phộc Tôn Giả, Thiên Tôn Giả, Pháp Thí Tôn Giả, Pháp Đảm Một La Tôn Giả, Bà Đảm Một La Tôn Giả, Đại Xưng Tôn Giả, Đại Ý Tôn Giả, Hoan Hỷ Tôn Giả, Siêu Tam Giới Tôn Giả, Ly Tam Độc Tôn Giả, Trừ Khử Khỗ Não Tôn Giả, Nễ Lý Vĩ Noa Tôn Giả, Tam Sắc Tôn Giả, Liên Hoa Sắc Tôn Giả, Đại Liên Hoa Tôn Giả, Liên Hoa Quang Tôn Giả, Liên Hoa Tôn Giả, Bát Nại Ma Phộc Để Tôn Giả, Tam Tướng Tôn Giả, Thất Sắc Tôn Giả, Ưu Bát La Sắc Tôn Giả. Nhóm Đại Tôn Giả Thanh Văn Bật Sô Ni như vậy đều đến chỗ của Đức Phật, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Phật, tùy vui với Thần Thông của Bồ Tát, nguyện nghe Chân Ngôn Pháp Cú, rồi ngồi an lành trong Đại Chúng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni quán Tâm Ý của tất cả Đại Chúng ấy có Tính thanh tịnh lìa các nhiễm, giống như hư không vượt qua ba cõi, rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Nay ông hãy nghe cho kỹ! Này Diệu Cát Tường! Ông tu Bồ Tát Hạnh. Phật nói Nghiệp Quả, Chân Ngôn Hạnh Nghĩa tùy theo chỗ ý ưa thích đều khiến cho ông được Pháp Cú, Nghiệp Cú, Tức Tai Cú, Giải Thoát Cú. Chỉ thực hành bình đẳng, đừng sinh nghi ngờ, cũng được Thập Lực, Phổ Lực, Đại Lực của Như Lai. Hay giáng phục Ma Oán, tên là Bồ Tát Tam Ma Địa Như Như Quán Sát.

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử nhập vào Tam Ma Địa. Dùng Thần Lực của mình chấn động trăm ngàn vi trần số ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, ánh sáng lớn chiếu khắp. Lúc đó, Đức Như Lai nói Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, ma bà phộc sa-phộc bà phộc, tam mãn nga đá nam Nẵng mạc bát-la đát-dã ca một đà dã, thất-la phộc ca xá Nẵng mô mạo địa tát đát-phộc nam, nại xá bộ nhĩ, bát-la để sắt-sỉ đế sa-phộc la noa, mạo địa tát đát-phộc nam, ma hạ tát đát-phộc nam Đát nễ-dã tha: Án, khư khư, khư hứ khư hứ, nỗ sắt-trá tát đát-phược nại ma ca, a tất, mưu sa la, ba la thú, ba xá, hạ tát-đá, tả đổ lý-bộ nhạ, tả đổ lý-mục khư, sa nhập- phộc la noa, nga tha nga tha, ma hạ vĩ cận-nẵng, già đá ca,vĩ cật-lý đá nẵng nẵng, tát lý-phộc bộ đá, bà diệm ca la, a trá trá hạ sa, nẵng nỉ nễ, vĩ-dã già-la tả lý-ma nễ, phộc tát nẵng, câu lỗ, tát lý-phộc ca lý-hàm, thế na thế na, tát lý-phộc mãn đát-la, tần na tần na, ba la mẫu nại-la ma ca lý-sa, tát lý-phộc bộ đán, nễ lý-ma tha, nễ lý-ma địa, tát lý- phộc thế sắt-tráng, bát-la phệ xá dã, bát-la phệ xá dã, mạn noa la, mạt địa-dã, phệ phộc thấp-phộc đá, nhĩ vĩ đát đá la, câu lỗ câu lỗ, ma ma, ca lý-diệm, na hạ na hạ, bát tả bát tả, ma vĩ lăng phộc, ma vĩ lăng phộc, tam ma dã mạt đổ sa-ma la, hồng hồng, phả trá phả trá, tát-phổ trá dã, tát-phổ trá dã, tát-phổ trá dã, tát lý-phộc xá ba lý bố la ca, hứ hứ bà nga tông, khẩn tức la dã tất, ma ma, tát lý-phộc la-thải, sa đà dã, sa-phộc hạ"

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn này xong, thời Diệu Cát Tường Đồng Tử hóa làm vị Đại Phẫn Nộ Minh Vương tên là Diệm Mạn Đức Ca. Nhóm Diêm Ma Vương kia rất ư kinh sợ huống chi là người khác. Rồi tự mình đứng ở trước mặt Đức Thế Tôn.

Lúc đó, chúng sinh trong Đại Hội thấy vị Phẫn Nộ Minh Vương này đều run rẩy kinh sợ, Tâm sinh lo lắng buồn rầu rối tác niệm này: "Không có ai khác để quy mệnh, không có ai khác để xin thương xót, không có ai khác làm Chủ Tể được, chỉ có Đức Phật Thế Tôn. Nguyện xin rũ thương cứu giúp"

Tác niệm này xong. Bấy giờ, hết thảy Mẫu Hộ Lý Đa vô biên Thế Giới, bốn góc, phương trên, phương dưới: Loài sinh từ bào thai, loài sinh từ trứng, loài sinh ở nơi ẩm thấp, loài hóa sinh, loài ở trên hư không, loài ở dưới nước, loài ở trên bờ, tất cả có Duyên. ở khoảng sát na đều đến tập hội.

Bấy giờ Đại Phẫn Nộ Minh Vương tự ban cáo sắc rằng: "Nếu Đà La Ni Pháp Cú này ở trước tượng Phật, trong tháp Xá Lợi, nơi cúng dường Kinh Pháp với trước mặt người thanh tịnh lìa Dục thì có thể đọc tụng. Nếu ở trước mặt người ham muốn tình dục mà trì Chân Ngôn này thì người ấy chẳng bao lâu, thân thể sẽ bị khô gầy rồi mau bị chết

Nếu muốn cầu việc thì chẳng được trì tụng ở chỗ ồn ào náo loạn. Ý ấy thế nào? vì người trì Pháp, Tâm chẳng thanh tịnh, sau đó bị nạn lớn đáng sợ, ắt bị chết Đức Phật Thế Tôn, Bồ Tát Ma Ha Tát khởi Bi Mẫn tối thượng, một hướng thực hành Pháp khiến cho các chúng sinh đều vào Nhất Thiết Trí Trí, an trụ con mắt Pháp, đến bờ Niết Bàn, thông đạt ba Thừa, chẳng đứt đoạn Tam Bảo. Lại dùng sức Đại Bi nói Chân Ngôn Chú giáng phục Ma Vương, phá hoại chướng ngại, xa lìa việc ác, tăng ích cát tường.

Như lại có người mê muộn té ngã rồi được tỉnh lại. Hoặc thân thể bị bệnh gầy yếu được điều phục vui sướng, sống lâu không có bệnh, tăng thêm phú quý, thành tựu việc của mình. Đức Như Lai Đại Từ Đại Bi Đại Hỷ Đại Xả, đầy đủ Uy Nghi nói Chân Ngôn Hạnh này vì tất cả Nhân thù thắng, đừng nên nghi ngờ.

Bấy giờ, lại có Long, Đại Long, Dạ Xoa, Đại Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả, Đại Tỳ Xá Tả, Bố Đan Na, Ca Tra Bố Đan Na, Đại Ca Tra Bố Đan Na, Ma Đa Lỗ, Đại Ma Đa La, Cung Bạn Noa, Đại Cung Bạn Noa, Vĩ-Dã Noa, Đại Vĩ-dã Noa, Phệ Đa Noa, Đại Phệ Đa Noa, Ca Mạo Nhạ, Bà Nghệ Đô-Dụ, Đại Bà Nghệ Đô-Dụ, Noa Chỉ Nễ-Dụ, Đại Noa Chỉ Nễ-Dụ, Tổ Sử Ca, Đại Tổ Sử Ca, Ổ Sa Đá La Ca, Đại Ổ Sa Đá La Ca, Nhân Thí Ca, Đại Nhân Thí Ca, Khẩn Ba Ca Lỗ Nga, Đại Khẩn Ba Ca Lỗ Nga, A Ba Sa Ma La, Đại A Ba Sa Ma La, Nga La Hạ, Đại Nga La Hạ, A Ca Xá Ma Đá Lỗ, Đại A Ca Xá Ma Đá Lỗ, Lỗ Bế Noa, Đại Lỗ Bế Noa, Vĩ Lỗ Bế Noa, Đại Vĩ Lỗ Bế Noa, Cật Lan Na Nẵng, Đại Cật Lan Na Nẵng, Tha Dã, Đại Tha Dã, Tất Lý Sa Ca, Đại Tất Lý Sa Ca, Khẩn Ca La, Đại Khẩn Ca La, Dược Sát Noa, Đại Dược Sát Noa, Nhập Phộc La, Đại Nhập Phộc La, Tả Đổ Lý Tha Ca, Đại Tả Đổ Lý Tha Ca, Nễ Đát-Dã Nhập Phộc La, Vĩ Sa Ma Nhập Phộc La, Xá Đá Nễ Ca, Mô Đát Lý Để Ca, Phộc Để Ca, Bái Để Ca, Thất Ni Sáp Bế Ca, Phiến Để Ba Tức Tả, Tức Tả, Đại Tức Tả, Tất Đà, Đại Tất Đà, Dụ Nghệ Nẵng, Đại Dụ Nghệ Nẵng, Tiên Nhân, Đại Tiên Nhân, Khẩn Nẵng La, Đại Khẩn Nẵng La, Ma Hộ La Nga, Đại Ma Hộ La Nga, Kiền Đạt Bà, Đại Kiền Đạt Bà, Thiên, Đại Thiên, Nhân, Đại Nhân, Tụ Lạc (Thôn xóm), Đại Tụ Lạc, Hải, Đại Hải, Hà, Đại Hà, Sơn, Đại Sơn, Khố Tạng, Đại Khố Tạng, Địa, Đại Địa, Thụ, Đại Thụ, Cầm, Đại Cầm, Vương, Đại Vương, Đế Thích, Đại Thiên, Na La Diên Thiên với Quỷ Chủ Lý Xá Nỗ, Diệm Ma, Phạm, Đại Phạm, Phệ Phộc Thấp Phộc Đá, Tài Chủ, Trì Quốc, Quảng Mục, Tăng Trưởng, Câu Tỳ La, Mãn Hiền, Châu Hiền, Bát Chi Ca, Kim Tỳ La, Câu Sắt Ma La, Hạ Lý Đa, Hạ Lý Chỉ Xá, Hạ Lý Đế, Tân Nga La, Tất Lý Diệm Ca La, A La Tha Ca La, Nhạ Lăng Nại La, Lộ Kế Nại La, Ổ Bế Nại La, Bí Mật, Tả La, Tả Ba La, Nhạ La Tả La, Sa Đá Nẵng, Nghệ Lý (ngọn núi), Kim Sơn, Đại Sơn, Tích Nhãn, Tam Đầu. Như vậy lại có vô số Đại Dạ Xoa Thú Chủ cùng với trăm ngàn na do tha câu chi Dạ Xoa quyến thuộc, dùng uy lực Thần Thông của Bồ Tát đều đến tập hội trong Trời Tịnh Quang để nghe Pháp.

Lại có vô số Đại La Sát Vương cùng với trăm ngàn na do tha câu chi La Sát quyến thuộc đi đến tập hội. Ấy là Thập Đầu La Sát, Kim Sơn La Sát, Năng Phá La Sát, Loa Nhĩ La Sát, Bình Nhĩ La Sát, Phổ Nhĩ La Sát, Diệm Ma La Sát, Ác Tướng La Sát, Xú Ác La Sát, Đại Ác La Sát, Thâm Ác La Sát, A Xoa La Sát, Diệm Ma Chung La Sát, Ấn Nại La Nhĩ La Sát, Lộ Ca Nhĩ La Sát, Dũng Mãnh La Sát, Đại Dũng Mãnh La Sát, Xoa La Sát, Tam Xoa La Sát, Tam Đầu La Sát, Vô Biên Đầu La Sát đến trong Đại Chúng để nghe Pháp.

Lại có vô số Đại Tỳ Xá Tả cùng với trăm ngàn na do tha câu chi quyền thuộc là: Bế Nỗ Tỳ Xá Tả, Ổ Ba Bế Nỗ Tỳ Xá Tả, Tô Bế Nỗ Tỳ Xá Tả, Vô Biên Bế Nỗ Tỳ Xá Tả, Ý Nguyện Tỳ Xá Tả, Vô Nguyện Tỳ Xá Tả, Cực Não Tỳ Xá Tả, Chấp Trì Tỳ Xá Tả, Tô Đà Ma Tỳ Xá Tả, Ác Tỳ Xá Tả, Ác Hình Tỳ Xá Tả đều đến tập hội để nghe Pháp.

Lại có vô số Đại Long Vương cùng với trăm ngàn na do tha câu chi quyến thuộc, dùng sức Uy Thần của Minh Vương cũng đến tập hội. Ấy là: Nan Đà Long Vương, Ổ Ba Nan Đà Long Vương, Kiếm Mạt La Long Vương, Ổ Ba Ca Mạt La Long Vương, Phộc Tô Chỉ Long Vương, Vô Biên Long Vương, Đắc Xoa Ca Long Vương, Liên Hoa Long Vương, Đại Liên Hoa Long Vương, Tăng Già Ba La Long Vương, Thương Già Long Vương, Thương Già Ba La Long Vương, Yết Câu Tra Ca Long Vương, Câu Lệ Ca Long Vương, A Lệ Ca Long Vương, Ma Ni Long Vương, Ca La Thú Na La Long Vương, Câu Lệ Thi Ca Long Vương, Tán Bế Dã Long Vương, Ma Ni Nẵng Nga Long Vương, Ma Na Bà Nhạ Long Vương, Noa Cúng La Long Vương, Ổ Ba Noa Cúng La Long Vương, Lạc Câu Tra Long Vương, Sa Phệ Đa Long Vương, Sa Phệ Đá Bà Nại La Long Vương, Nễ La Long Vương, Nễ La Một La Long Vương, A Ba La La Long Vương, Hải Long Vương, Đại Hải Long Vương đều ngồi một bên để nghe Pháp.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ BA_

_PHẨM THỨ NHẤT_CHI BA_

Lại có vô số chúng Đại Tiên đều đến tại Hội. Ấy là: Á Đát Lý Dã Đại Tiên, Phộc Tất Sắt Tra Đại Tiên, Kiều Đát Ma Đại Tiên, Bà Nghệ La Tha Đại Tiên, Nhạ Hận Noa Đại Tiên, Ám Nghệ Sa Đại Tiên, A Ma Tất Đế Đại Tiên, Mô La Tất Đế Đại Tiên, A Nga Tất Đế Đại Tiên, Vĩ Dã Sa Đại Tiên, Cật Lý Sắt Noa Đại Tiên, Cật Lý Sắt Noa Kiều Đát Ma Đại Tiên, Ám Tỳ La Sa Đại Tiên, Dạ Ma Nại Nghệ Nẵng Đại Tiên, A Tất Đế Ca Đại Tiên, Mâu Ni Đại Tiên, Mâu Ni Phộc La Đại Tiên, A Phộc La Đại Tiên, Phệ Xá Bán Dạ Nẵng Đại Tiên, Bá La Xá La Đại Tiên, Ba La Thú Đại Tiên, Dụ Nghệ Thấp Phộc La Đại Tiên, Bế Già La Na Đại Tiên, Phộc Lệ Bế Ca Đại Tiên, Ma La Kiến Noa Đại Tiên. Nhóm Đại Tiên như vậy cùng với trăm ngàn chúng Thiên Tiên quyến thuộc đều đến nghe Pháp, đỉnh lẫ bàn chân của Đức Phật rồi lui ra ngồi một bên.

Lại có chúng La Hầu La Vương. Ấy là: Tỳ Lỗ Noa La Hầu La Vương, Bà Lỗ Ni La Hầu La Vương, Ma Lỗ Noa La Hầu La Vương, Ma Lý Tả La Hầu La Vương, Ma Lý Tức La Hầu La Vương, Nỉ Bát Đá La Hầu La Vương cùng với các quyến thuộc đều đến tập hội.

Lại có vô số chúng Ca Lâu La. Ấy là: Tô Ba La Noa Ca Lâu La, Thấp Phộc Đá Ba La Noa Đại Tiên Ca Lâu La, Bán Nẵng Nga Đại Tiên Ca Lâu La, Ba La Noa Nga Ca Lâu La, Tô Nhạ Đá Bác Xoa Ca Lâu La, A Nhạ Đá Dạ Xoa Ca Lâu La, Ma Nỗ Nhạ Bác Ca Lâu La, Bán Nẵng Nga Nẵng Xá Nẵng Ca Lâu La, Y Nẵng Đế Dã Ca Lâu La, Lý Nẵng Đế Dã Ca Lâu La, Phệ Nẵng Đế Dã Ca Lâu La, Bà La Đà Nhạ Ca Ca Lâu La, Xá Câu Nẵng Ca Lâu La, Ma Hạ Xá Câu Nẵng, Cầm Vương cùng với trăm ngàn quyến thuộc đều đến tập hội.

Lại có chúng Đại Khẩn Na La Vương. Ấy là Nại Lỗ Ma Khẩn Na La Vương, Ổ Ba Nại Lỗ Ma Khẩn Na La Vương, Tô Nại Lỗ Ma Khẩn Na La Vương, A Nan Đà Nại Lỗ Ma Khẩn Na La Vương, Lộ Ca Nại Lỗ Ma Khẩn Na La Vương, Lộ Nại Lỗ Ma Khẩn Na La Vương, Ma Nỗ La Tát Ca Khẩn Na La Vương, Ma Hộ La Tát Ca Khẩn Na La Vương, Ma Hộ Nhạ Tát Ca Khẩn Na La Vương, Ma Hộ Nhạ Dã Khẩn Na La Vương, Hạ Vĩ Hạ Khẩn Na La Vương, Vĩ Lỗ Đá Khẩn Na La Vương, Tô Thấp Phộc Khẩn Na La Vương, Ma Nỗ Nga-Dã Tức Đổ Ba Nại Ca La Khẩn Na La Vương, Ổ Ba Nại Khẩn Na La Vương, Ổ Ba Na Khẩn Na La Vương, Ổ Ba Đa Khẩn Na La Vương, Ổ Bế Xoa Ca Khẩn Na La Vương, Ca Lỗ Noa Khẩn Na La Vương, A Lỗ Noa Khẩn Na La Vương Nhóm như vậy cùng với vô số trăm ngàn quyến thuộc đều đến ngồi trong Hội để nghe Pháp.

Lại có chư Thiên của cõi Sắc, Cõi Dục trong Thế Giới Sa Bà. Ấy là: Phạm Chúng Thiên, Phạm Phụ Thiên, Đại Phạm Thiên, Thiểu Quang Thiên, Vô Lượng Quang Thiên, Cực Quang Tịnh Thiên, Thiểu Tịnh Thiên, Vô Lượng Tịnh Thiên, Biến Tịnh Thiên, Quảng Quả Thiên, Phước Sinh Thiên, Vô Vân Thiên, Vô Tưởng Thiên, Vô Phiền Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Hiện Thiên, Thiện Kiến Thiên, Sắc Cứu Kính Thiên. Bên dưới đến Dục Giới: Tha Hóa Tự Tại Thiên, Hóa Lạc Thiên, Đâu Suất Đà Thiên, Dạ Ma Thiên, Đao Lợi Thiên, Tứ Đại Vương Thiên, Hằng Kiêu Thiên, Trì Man Thiên, Kiên Thủ Thiên.

Hoặc có hàng trụ trên núi, hàng trụ trên đỉnh núi, hàng trụ trên đỉnh núi cao, hàng trụ ở nơi hoang vắng, hàng trụ ở thành hào, hàng trụ ở hư không, hàng trụ ở khoảng giữa, hàng trụ trên mặt đất, hàng trụ ở rừng rú, hàng trụ ở nhà cửa. Với A Tu La Vương: Bát La Hạ Na A Tu La Vương, Vĩ Ma Tức Đá A Tu La Vương, Tố Tức Đát La A Tu La Vương, Khất-Sử Ma Tức A Tu La Vương, Nỉ Phộc Tức Đát La A Tu La Vương, La hộ. Vô số A Tu La Vương cùng với trăm ngàn na dữu đa câu chi quyến thuộc ấy, dùng uy lực Thần Thông của Phật Bồ Tát đều đến tập hội, làm lẫm cung kính cũng ngồi một bên.

Lại có Đại Diệu ở trên hư không. Ấy là Nhật Nguyệt Đại Diệu, Kim Đại Diệu, Mộc Đại Diệu, Thủy Đại Diệu, Hỏa Đại Diệu, Thổ Đại Diệu, La Hộ Đại Diệu, Kiếm Ba Đại Diệu, Kế Đô Đại Diệu, A Xá Nễ Đại Diệu, Nễ Lý Cụ Đa Đại Diệu, Đá La Đại Diệu, Đà Phộc Nhạ Đại Diệu, Khu La Đại Diệu, Độ Một La Đại Diệu, Độ Ma Đại Diệu, Phộc Nhật La Ất Lý Ất Xoa Đại Diệu, Vật Lý Sắt Tra Đại Diệu, Ô Ba Vật Lý Sắt Tra Đại Diệu, Nẵng Sắt Tra La Tha Đại Diệu, Nễ Lý Nẵng Sắt Tra Đại Diệu, Hạ Sa Đa Đại Diệu, Ma Sắt Trí Đại Diệu, Ất Lý Sắt Trí Đại Diệu, Nột Sắt Đại Diệu, Lộ Kiến Đa Đại Diệu, Khất Xoa Dã Đại Diệu, Vĩ Nễ Bá Đa Đại Diệu, A Bá Đa Đại Diệu, Đát Lý Ca Đại Diệu, Ma Sa Đa Ca Đại Diệu, Du Hiến Đa Đại Diệu, Thấp Ma Xá Nẵng Đại Diệu, Bế Thi Đa Đại Diệu, Lao Nại La Đại Diệu, Thấp Phệ Đa Đại Diệu, A Tỳ Nhĩ Đa Đại Diệu, Mỗi Đát La Đại Diệu, Thương Câu Đại Diệu, Lộ Phộc Đại Diệu, Lao Nại La Ca Đại Diệu, Độ Phộc Nẵng Xá Đại Diệu, Phộc La Phộc Nẵng Đại Diệu, Khu La Đại Diệu, A Lỗ Noa Đại Diệu, Vĩ Hạ Tất Đa Đại Diệu, Ma Nễ Sắt Tra Đại Diệu, Tắc Kiện Na Đại Diệu, Sa Nẵng Đại Diệu, Ô Ba Sa Nẵng Đại Diệu, Câu Ma La Đại Diệu, Cật Lý Noa Nẵng Đại Diệu, Hạ Sa Nẵng Đại Diệu, Bát La Hạ Sa Nẵng Đại Diệu, Nẵng Lý Đa Ba Ca Đại Diệu, Nẵng Lý Đa ca Đại Diệu, Khư Nhạ Đại Diệu, Vĩ Lỗ Ba Đại Diệu. Như vậy vô số Đại Diệu cùng với trăm ngàn quyến thuộc ấy nương theo Uy Đức của Phật đều đến ngồi trong Hội.

Lại có vô số Tinh Tú ở trên hư không. Ấy là A Thấp Vĩ Nễ Tinh, Bà La Ni Tinh, Cật Lý Để Ca Tinh, Lỗ Hề Nê Tinh, Một Lý Ma Thi La Tinh, A La Nại La Tinh, Bố Nẵng Lý Phộc Tô Tinh, Bố Sa Dã Tinh, A Thất Lý Sa Tinh, Ma Già Tinh, Ô Tỳ Lý Phả La Ngu Nễ Tinh, Hạ Sa Đa Tinh, Tức Đát La Tinh, Tát Phộc Đế Tinh, Vĩ Xá Già Tinh, A Nỗ La Đà Tinh, Nhĩ Duệ Sắt Tra Tinh, Một Lỗ La Tinh, Ô Phẩu A Tinh, Sa Xá Tinh, Thất La Phộc Noa Tinh, Đà Nễ Sắt Tra Tinh, Thiết Đa Tỳ Sa Tinh, Ô Phẩu Bạt Nại La Bá Nỗ Tinh, Lý Phộc Đế Tinh, Nỉ Phộc Đế Tinh, A Tỳ Nhạ Tinh, Bố Nẵng Lý Phộc Tinh, Tổ Đế Tinh, Ương Nghĩ La Thi Tinh, Nẵng Khất Xoa Đát Lý Ca Tinh, Ô Ba Phả La Ngu Tinh, Phả La Ngu Đế Tinh, Lộ Ca Bát La Phộc La Tinh, Bát La Phộc La Ni Ca Tinh, Thất Lý Dã Thi Tinh, Lộ Ca Ma Đa Tinh, Y La Tinh, Nhạ Dã Phộc Hạ Tinh, A La Tha Phộc Đế Tinh, Tô Tả A La Tha Tinh cùng với trăm ngàn quyến thuộc ấy nương theo Uy Thần của Phật đều đến tập hội, rồi ngồi xuống nghe Pháp.

Lại có 36 Cung. Ấy là: Dương Cung, Ngưu Cung, Nữ Cung, Giải Cung, Sư Tử Cung, Đồng Nữ Cung, Xứng Cung, Hạt Cung, Cung Mã Cung, Ma Kiệt Ngư Cung, Bình Cung, Ngư Cung, Hầu Cung, Đại Bình Cung, Tịnh Bình Cung, Loa Cung (Kiếm cung), Tượng Cung, Thủy Ngưu Cung,Thiên Cung, Nhân Cung, Cầm Cung, Nhạc Thần Cung, Thế Gian Cung, Chúng Sinh Cung, Diệu Cung, Quang Minh Cung, Nguyệt Minh Cung, Tra Trá Cung, Địa Cung, Ám Cung, Trần Cung, Vi Trần Cung, Khổ Cung, Lạc Cung, Giải Thoát Cung, Bồ Đề Cung.

    

Lại có Bích Chi Phật Cung, Thanh Văn Cung, Thiên Nhân Cung, Phước Đức Cung, Đại Phước Đức Cung, Súc Sinh Cung, Ngạ Quỷ Cung, Địa Ngục Cung, A Tu La Cung, Thần Quỷ Cung, Dược Xoa Cung, La Xoa Sa Cung với Nhất Thiết Bộ Đa Cung.

Hoặc có ở bên trên, ở chính giữa, ở bên dưới. Hoặc có định cư tương ứng. Hoặc thượng đẳng, trung đẳng, hạ đẳng.

Đại Cung như vậy cùng với trăm ngàn quyến thuộc ấy đều đến chỗ của Đức Phật, một lòng lễ bàn chân của Đức Phật, rồi ngồi xuống nghe Pháp.

Lại có vô số Đại Dược Xoa Nữ. Ấy là: Diệu Nhãn Dược Xoa Nữ, Thiện My Dược Xoa Nữ, Trường Phát Dược Xoa Nữ, Diệu Âm Dược Xoa Nữ, Diệu Ý Dược Xoa Nữ, Thiên Ý Dược Xoa Nữ, Hóa Nhãn Dược Xoa Nữ, Viên Mãn Dược Xoa Nữ, Bí Mật Dược Xoa Nữ, Thâm Mật Dược Xoa Nữ, Bảo Đới Dược Xoa Nữ, Như Liên Hoa Dược Xoa Nữ, Vô Úy Dược Xoa Nữ, Thí Vô Úy Dược Xoa Nữ, Đắc Thắng Dược Xoa Nữ, Tối Thắng Dược Xoa Nữ, Lý Phộc Để Ca Dược Xoa Nữ, Diệu Phát Dược Xoa Nữ, Kế Phiến Đổ Dược Xoa Nữ, A Lý La Dược Xoa Nữ, Ma Nỗ Hạ La Dược Xoa Nữ, Ma Nỗ Phộc Đế Dược Xoa Nữ, Câu Tô Ma Phộc Đế Dược Xoa Nữ, Câu Tô Ma Bố La Phộc Tỉ Nễ Dược Xoa Nữ, Băng Nga La Dược Xoa Nữ, Hạ Lý Đế Dược Xoa Nữ, Vĩ La Ma Đế Dược Xoa Nữ, Vĩ La Dược Xoa Nữ, Tô Vĩ La Dược Xoa Nữ, Tô Cụ Noa Dược Xoa Nữ, Cụ Noa Phộc Đế Dược Xoa Nữ, Tô La Tôn Na Lý Dược Xoa Nữ, La Sa Dược Xoa Nữ, Nữ Vương Hứ Dụ Đa Lý Dược Xoa Nữ, Phộc Tra Phộc Tất Nễ Dược Xoa Nữ, A Thú Ca Dược Xoa Nữ, Án Đà La Tô Na Lý Dược Xoa Nữ, A Lộ Ca Dược Xoa Nữ, Tôn Na Lý Dược Xoa Nữ, Bát La Bà Phộc Đế Dược Xoa Nữ, A Để Xá Dã Phộc Đế Dược Xoa Nữ, Lỗ Ba Phộc Đế Dược Xoa Nữ, Lỗ Bá Dược Xoa Nữ, A Di Đa Dược Xoa Nữ, Tảo Di Dã Dược Xoa Nữ, Ca Noa Dược Xoa Nữ, Di Nẵng Dược Xoa Nữ, Nan Nỉ Nỉ Dược Xoa Nữ, Ô Ba Nan Nỉ Nỉ Dược Xoa Nữ, Xuất Thế Gian Dược Xoa Nữ. Đại Dược Xoa Nữ như vậy cùng với trăm ngàn quyến thuộc ấy đều đi đến đỉnh lễ Đức Phật, nghe Pháp.

Lại có vô số Đại Tỳ Xá Chi. Ấy là: Mạn Noa Lý Ca Tỳ Xá Chi, Báng Tố Tỳ Xá Chi, Xá Chi Tỳ Xá Chi, Lao Nại La Tỳ Xá Chi, Ô La Ca Tỳ Xá Chi, Nhập Phộc La Tỳ Xá Chi, Bà Sa Mẫu Nghĩ La Tỳ Xá Chi, Bế Thi Đa Xá Nễ Tỳ Xá Chi, Nỗ Phộc La Tỳ Xá Chi, Phổ Lỗ Ma Nễ Tỳ Xá Chi, Mẫu Hạ Nễ Tỳ Xá Chi, Nga Lý Nhạ Nễ Tỳ Xá Chi, Lỗ Hạ Ni Ca Tỳ Xá Chi, Ngu Lỗ Hạ Ni Ca Tỳ Xá Chi, Lộ Kiến Nễ Ca Tỳ Xá Chi, Bà Phiến Để Ca Tỳ Xá Chi, Bế Lộ Phộc Đế Tỳ Xá Chi, Ma Hộ La Tỳ Xá Chi, Nỗ Lý Nan Đa Tỳ Xá Chi, Ế La Tỳ Xá Chi, Tức Hạ Nẵng Để Ca Tỳ Xá Chi, Độ Ma Tỳ Xá Chi, Để Ca Độ Ma Tỳ Xá Chi, Tô Độ Ma Tỳ Xá Chi. Nhóm Đại Tỳ Xá Chi như vậy cùng với trăm ngàn quyến thuộc ấy đều đến tập hội.

Lại có Ma Đa Lỗ, Đại Ma Đa Lỗ du hành Thế Gian hái thức ăn, hoa, cỏ mê hoặc chúng sinh. Ấy là: Một La Hám Ma Nê Ma Đa Lỗ, Ma Hứ Thấp Phộc Lỗ Ma Đa Lỗ, Phệ Sắt Vĩ Ma Đa Lỗ, Câu Ma Lý Ma Đa Lỗ, Tả Mô Noa Ma Đa Lỗ, Phộc La Hứ Ma Đa Lỗ, Ấn Nại Lý Ma Đa Lỗ, Dạ Ma Dã Ma Đa Lỗ, A Nga Nẵng Duệ Ma Đa Lỗ, Phệ Phộc Sa Phộc Đế Ma Đa Lỗ, Lộ Kiến Đá Ca Lý Ma Đa Lỗ, Phộc Lỗ Ni Ma Đa Lỗ, Ái Xả Nễ Ma Đa Lỗ, Phộc Dã Vĩ Dã Ma Đa Lỗ, Bát La Bá Bát La Noa Hạ La Ma Đa Lỗ, Mục Khư Mạn Ni Nễ Ca Ma Đa Lỗ, Thiết Câu Nễ Ma Đa Lỗ, Đại Thiết Câu Nễ Ma Đa Lỗ, Bố Đá Nẵng Ma Đa Lỗ, Ca Tra Bố Đá Nẵng Ma Đa Lỗ, Tắc Kiến Na Ma Đa Lỗ. Vô số Đại Ma Đá Lỗ của nhóm như vậy cùng với trăm ngàn quyến thuộc đều đến tập hội, quy mệnh Đức Thế Tôn, rồi nói lời như vầy "Nam mô Một Đà Dã"

Như vậy vô số trăm ngàn Trời, Người với Phi Nhân, Chúng Sinh, Phi Chúng Sinh, tất cả nhóm luân hồi Đại Địa Ngục A Tỳ Ngục hoặc thích nghi với Hư Không Giới thảy đều thanh tịnh. Các chúng sinh đó không có yêu ghét. Do sức Uy Thần của Đức Phật trang nghiêm Bồ Tát nên ở trên đỉnh đầu của tất cả chúng sinh như vậy, đều hiện ra vị Hóa Phật.

Bấy giờ Đức Thích Ca Thế Tôn quán tất cả Thế Giới ấy nghiêm tịnh như điều này, rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử: "Ông hãy lược nói Chân Thật Bồ Tát Tạng Chân Ngôn Hạnh Nghĩa Tam Ma Địa như việc đã làm"

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử ở trước mặt Đức Phật Thích Ca muốn nói Bồ Tát Tạng Chân Ngôn Hạnh Nghĩa, liền nhập vào Tam Ma Địa tên là Dụ Hư Không Tự Tính Kim Cương Kiên Cố Trang Nghiêm. Khi Diệu Cát Tường Đồng Tử nhập vào Định này thời đất báu Kim Cương trên Trời Tịnh Quang rộng vô số trăm ngàn Do Tuần.

Lúc đó thân của Kim Cương Thủ Bồ Tát như ngọn núi báu, đủ Uy Đức lớn, an lành ngồi xuống, quán bên trong tất cả chúng sinh giới ấy có vô số Dạ Xoa, La Sát, Càn Thát Bà, Ma Lỗ Đá, Tỳ Xá Tả ganh ghét lẫn nhau.

Bấy giờ Diệu Cát Tường Đồng Tử viết vô số chúng Dạ Xoa này có sức mạnh bạo dũng mãnh, ganh ghét lẫn nhau nên bảo Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương rằng: "Chỉ có Phật Bồ Tát mới có thể hóa làm tướng phẫn nộ của ông. Nay ông ủng hộ tất cả chúng sinh trong Đại Chúng Hội này, kẻ ác thì điều phục, kẻ thiện thì khiến cho tỏ ngộ, kẻ chẳng tin thì khiến cho tin, cho đến nghĩa của Bản Chân Ngôn, Pháp Tạng của Bồ Tát, Phương Quảng Tổng Trì, Nghi Tắc của Mạn Noa La cũng lại như vậy, nên chuyên ủng hộ"

Đại Phẫn Nộ Minh Vương nghe như vậy xong, y theo sự răn dạy phụng hành. Ở trước mặt Đại Chúng hiện tướng Đại Phẫn Nộ giáng phục Chúng ấy, ủng hộ tất cả chúng sinh, lại cùng với vô số trăm ngàn quyến thuộc phẫn nộ khiến khắp các nơi chốn ở bốn phương trên dưới, phát ra tiếng gầm rống lớn: "Các chúng sinh ấy hãy nhiếp Tâm tu thiện, quy y Tam Bảo, chẳng được trái ngược sự răn dạy. Người nghe như vậy, nếu trái ngược với Thánh Sắc thì cái đầu bị vỡ thành trăm phần như cành cây A Lê"

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử nương theo Uy Lực của Phật Bồ Tát lược nói Nghĩa, Pháp Cú, Nghi Quỹ của Chân Ngôn Hạnh. Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát đầy đủ một Pháp thì được thành tựu Chân Ngôn Hạnh. Thế nào là một Pháp? Nếu hay quán thấy một Pháp, tướng không có ngăn ngại của Pháp thì được Chân Ngôn thành tựu.

Nếu Bồ Tát an trụ hai Pháp lại được thành tựu Chân Ngôn Hạnh. Thế nào là hai Pháp? Đối với tất cả chúng sinh, Tâm ấy bình đẳng. Hai Pháp như vậy thành tựu Chân Ngôn.

Nếu Bồ Tát an trụ ở ba Pháp đối với Bản Hạnh của Chân Ngôn thì được thành tựu. Thế nào là ba Pháp? Đối với tất cả chúng sinh thì Tâm chẳng buông lìa. Đối với Giới Hạnh của Bồ Tát thì tinh tiến hộ trì. Đối với Bản Hạnh của Chân Ngôn thì giữ gìn bền chắc chẳng quên. Ba Pháp như vậy thành tựu Chân Ngôn.

Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát khiến cho Bồ Tát mới phát Tâm an trụ bốn Pháp nơi Chân Ngôn Hạnh thì được thành tựu. Thế nào là bốn Pháp? Ấy là: chẳng buông bỏ Bản Chân Ngôn. Chẳng chặt đứt Chân Ngôn khác. Đối với tất cả chúng sinh thì Tâm Từ chẳng bị đứt đoạn. Đối với vô lượng Đại Bi thì rộng thực hành nhiêu ích. Bốn Pháp như vậy khiến cho Bồ Tát mới phát Tâm (Sơ Tâm Bồ Tát) thành tựu Chân Ngôn Bồ Tát Ma Ha Tát an trụ năm Pháp được viên mãn Bồ Tát Tạng Chân Ngôn Hạnh. Thế nào là năm Pháp? Ấy là: nhiếp Tâm cư trú ở nơi vắng lặng. Nhiếp Tâm cư trú ở nơi rừng núi hoang vắng. Quán sát Pháp Hữu Vi của Thế Gian giáo hóa chúng sinh. Trì Giới, Đa Văn luôn trụ Chính Pháp. Như vậy đầy đủ năm Pháp thì thành tựu viên mãn nghĩa của Chân Ngôn Hạnh.

Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát an trụ sáu Pháp thì thành tựu viên mãn nghĩa của Chân Ngôn Hạnh. Thế nào là sáu Pháp? Ấy là: Đối với ruộng Phước Tam Bảo thì tin tưởng trong sạch chẳng có đứt đoạn. Tin tưởng trong sạch Đại Hạnh của Bồ Đề chẳng có đứt đoạn. Chẳng sinh hủy báng Chân Ngôn của Thế Gian. Đối với nghĩa sâu xa của Kinh Điển Đại Thừa, Pháp Giới không có ngăn ngại đã được nói thì không có nghi ngờ. Tinh tiến chẳng thoái lui nơi Chân Ngôn Hạnh. Cung kính Pháp Thiện khiến chẳng bị đoạn diệt. Sáu Pháp như vậy đều được thành tựu nghĩa của Chân Ngôn Hạnh.

Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát an trụ bảy Pháp thì đều được hướng vào Chân Ngôn Hạnh đã mong cầu. Thế nào là bảy Pháp? Ấy là: Quán tưởng Pháp sâu xa của Bát Nhã Ba La Mật Đa. Viết chép, đọc tụng vì người khác diễn nói. Y theo Bồ Tát Hạnh, y theo Thời trì tụng. Yên lặng Hộ Ma mau tu Chính Hạnh. An trụ ý trong sạch của Trí Tuệ. Cầu Đại Bồ Đề hướng vào Pháp sâu xa của Như Lai. Khéo hiểu Đại Từ, Đại Bi, Đại Hỷ, Đại Xả. Khéo quán bờ mé chân thật của Chúng Sinh Giới, Pháp Giới đều không có hai tướng, chẳng buông bỏ tất cả. Chẳng ưa thích Pháp của Tiểu Thừa, bên trên cầu Nhất Thiết Trí Trí. Bảy Pháp như vậy đều được thành tựu nghĩa của Chân Ngôn Hạnh.

Nếu Bồ Tát Ma Ha Tát an trụ tám Pháp thì đều được thành tựu nghĩa của Chân Ngôn Hạnh. Thế nào là tám Pháp? Ấy là: Hành Nhân thấy việc Thần Thông biến hóa của Vi Diệu Sắc Quả Bồ Tát chưa từng thấy. Chẳng sinh Tâm nghi ngờ, chẳng điên đảo. Thọ trì Chân Ngôn, tôn sùng kính trọng Bản Sư. Lại thọ trì Nghi Pháp, Bản Hạnh của Phật Bồ Tát. Hoặc Đất Thắng Điền của Hữu Xứ, Phi Xứ. Quán tài vật của mình như mộng, đều hay chu cấp bố thí cho kẻ đã nhìn thấy. Chặt đứt hẳn gốc rề ganh ghét phiền não. Thường siêng năng tinh tiến cúng dường chư Phật Bồ Tát. Đầy đủ căn lành, mặc Đại Giáp Trụ phá các quân Ma khiến được Đại Phú Bồ Đề Đạo Trường, thành tựu Phước Đức Trí Tuệ của thân mình, gần gũi Thiện Tri Thức.

Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử lược nói tám loại Hành Pháp. Đối với Bản Hạnh của Chân Ngôn đều được thành tựu. Nếu có người tin kính Tam Bảo, chẳng buông bỏ Tâm Bồ Đề. Giả sử lại Phạm Giới mà trì tụng Chân Ngôn Giáo Phẩm của Ta, vô biên Hành Pháp phát ý của Bồ Tát chưa từng có thì đều được thành tựu, không có nghi ngờ.

Bấy giờ Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả Đại Chúng nói như vầy: "Lành thay! Lành thay Phật Tử! Mọi loại tuyên nói Chân Ngôn Pháp Giáo tu hành Nghi Quỹ vì tất cả chúng sinh an tâm hướng vào, hiểu thấu Môn bí mật tối thượng. Nếu có người thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ Pháp Cú của Phẩm này. Hoặc đem mọi thứ hoa dùng để cúng dường thì người ấy nếu ở chốn quân trận với các hiểm nạn, thời ngay lúc ấy, Ta cỡi voi, ngựa hiện trước mặt người ấy khiến cho Oan Trận chẳng lâu tự nhiên lui tan.

Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Sự Nam, Cận Sự Nữ ở nhà cửa của mình viết chép, cúng dường sẽ được Phước Báo to lớn, sống lâu không có bệnh, tăng tưởng cát tường"

Tất cả Đại Chúng nghe Pháp này xong thời yên lặng, ý thấu hiểu.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ TƯ_

BỒ TÁT BIẾN HÓA NGHI QUỸ

_PHẨM THỨ HAI_ CHI MỘT_

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử quán sát tất cả Đại Chúng trong Hội. Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử nhập vào Quán Chiếu Tam Ma Địa. Vào Định này xong, từ vành rốn của Ngài tuôn ra ánh sáng lớn, lại có vô số trăm ngàn na do tha câu chi ánh sáng dùng làm quyến thuộc chiếu tràn khắp tất cả chúng sinh giới với Trời Tịnh Quang.

Khi ấy, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Nay ông tuyên nói Mạn Noa La Pháp Phẩm Nghi Quỹ khiến cho tất cả Bồ Tát với tất cả chúng sinh được vào Tam Muội. Lại khiến cho tất cả chúng sinh hiểu biết rõ Chân Ngôn Cú, đều được thành tựu tất cả Chân Ngôn Hạnh thuộc hết thảy Thế Gian, Xuất Thế Gian"

Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ nói như vậy xong. Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử muốn nói Tối Thượng Bí Mật Mạn Noa La Nghi Quỹ chiếu sáng tất cả, dùng sức Thần Biến ở trên đầu ngón tay phải của Ngài thảy đều hiện khởi tất cả Đại Chúng. Lại tuôn ra vô số trăm ngàn na do tha câu chi ánh sáng chiếu tất cả Chúng Hội trên Trời Tịnh Quang.

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử lược nói Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương Tâm Chân Ngôn, đủ đại vô úy, tất cả chỗ làm, Thỉnh Triệu, Phát Khiển, dứt trừ tai hại, tăng trưởng cát tường, giáng phục các Ma, ẩn mất thân hình, đi ngồi trên hư không, hoặc đi trên đất nhưng bàn chân chẳng chạm đất, khiến cho nhóm yêu kính khác đều được thành tựu, phá tất cả ám tối như đèn sáng rộng lớn. Đại Vô Úy Tam Tự Chân Ngôn này thích hợp thực hành Pháp Lực rất ư bậc nhất Sự mong cầu, chỗ làm, nghĩa của tất cả Chân Ngôn đều được thành tựu.

Liền nói Đại Phẫn Nộ Minh Vương Tâm Chân Ngôn: "Án, ác, hồng"

Đại Phẫn Nộ Minh Vương Tâm Chân Ngôn này. Đại Bồ Tát Diệu Cát Tường khéo nói Mạn Noa La Chân Ngôn Hạnh hay làm tất cả việc, phá tất cả chướng ngại.

Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử nhấc bàn tay phải của mình xoa đầu Phẫn Nộ Minh Vương rồi xưng lời như vầy: "Nẵng ma nhất thiết Phật"

Nói như vậy xong thời chư Phật Thế Tôn, vô lượng Bồ Tát đủ Phước Đức Tam Muội trong hết thảy mười phương Thế Giới đi đến trụ trong Hội. Lúc đó, Phẫn Nộ Minh Vương lại hiện tướng Đại Phẫn Nộ liền đến tìm hết thảy chúng sinh đại lực có Tâm ác trong cõi nước của tất cả Thế Giới, khiến đi đến tập hội trong Đại Chúng trên Trời Tịnh Quang, y theo vị trí an trụ. Lại trên đỉnh đầu của chúng sinh này đều tuôn ra đám lửa sáng rực rỡ.

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử quán Tâm tịnh của Đại Chúng ấy, chiêm ngưỡng rồi bảo rằng: "Này các Đại Chúng! Ông nên nghe cho kỹ! Tam Muội này của Ta, nếu chẳng y theo thực hành, như có vi phạm sẽ khiến cho Phẫn Nộ Minh Vương này hiện Uy Lực lớn mà tự điều phục. Thế nào là chẳng được vi phạm? Là duyên theo Bí Mật Tam Muội Chân Ngôn Hạnh Nghĩa Chư Phật Bồ Tát Đại Đức Bình Đẳng Pháp Môn. Nay ông nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! Ta sẽ vì ông mà nói.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam. Án, la la, tam-ma la, a bát-la để hạ đa xá sa nẵng, câu ma la lỗ ba đà lý nê, hồng hồng, phát tra phát tra, tát-phộc hạ"

Thánh Giả! Đây là Căn Bản Chân Ngôn Thánh Diệu Cát Tường Ấn tên là Ngũ Kế Đại Ấn. Nếu dùng Ấn này trì tụng Căn Bản Chân Ngôn thì tất cả chỗ mong cầu đều được thành tựu.

Lại nói Tâm Chân Ngôn làm tất cả việc tốt lành, khiến cho Tâm vắng lặng:

"Án, phộc chỉ-dã nại, nẵng mạc".

Nói Ấn Pháp này tên là Tam Kế tăng trưởng tất cả Phước Đức.

Lại nói Ngoại Tâm Chân Ngôn:

"Phộc chỉ-dã, hồng"

Nói Ấn Pháp này cũng tên là Tam Kế hay giáng phục tất cả chúng sinh.

Lại nói Nội Tâm Vi Diệu Chân Ngôn:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam_ Mạn"

Nói Ấn Pháp này tên là Khổng Tước Tòa kính yêu tất cả chúng sinh.

Lại có Nhất Thiết Phật Tâm Đại Vô Úy Bát Tự Chân Ngôn tên là Tối Thượng Tăng Ích Đại Cát Tường chặt đứt sinh tử trong ba cõi, tiêu trừ tất cả nẻo ác, hay diệt tất cả tai hại, làm tất cả việc đều được an vui, vắng lặng như hiện tại nhìn thấy Phật. Diệu Cát Tường Bồ Tát này tuyên bố tướng Chân Ngôn bí mật tối thượng vì tất cả chúng sinh. Nếu có người nghĩ nhớ đến thì tất cả ước nguyện đều được viên mãn.

Nếu có người trì tụng thì hết thảy tội nặng năm Nghịch đều được thanh tịnh. Liền nói Chân Ngôn là: "Án, A vĩ ra hồng khư tả lạc"

Thánh Giả! Có Bát Tự Đại Vô Úy Tối Thượng Bí Mật Tâm Chân Ngôn này cùng với Đức Phật trụ ở đời không có khác, hay làm tất cả việc cát tường. Đại Công Đức này, nay Ta vì ông lược tuyên nói. Nếu muốn trình bày rộng thì trải qua vô số trăm ngàn na do tha câu chi kiếp tra xét lượng Công Đức ắt nói chẳng thể hết. Nếu nói thì Ấn Pháp này tên là Đại Tinh Tiến Năng Viên Mãn Nhất Thiết Nguyện

Lại nói Triệu Thỉnh Chúng Thánh Chân Ngôn:

"Án, hứ hứ, câu ma la vĩ thấp-phộc lỗ bế ni, tát lý-phộc phộc la bà sử đá, bát-la mạo đà nễ, a dã hứ, bà nga vãn nẵng dã hứ, câu ma la cát-lý noa đát-bà la, đà lý ni, mạn noa la, mạt địa-dã, để sắt-xá, để sắt-xá, tam ma dã ma noa sa-ma la, a bát-la để hạ đá xá sa nẵng, hồng, ma, vĩ la phộc, lỗ lỗ, phả tra, sa-phộc hạ"

Chân Ngôn này là Diệu Cát Tường Bồ Tát thỉnh triệu tất cả chư Phật, tất cả Bồ Tát, tất cả Bích Chi Phật, Thanh Văn, Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Nga Lỗ Noa, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Tỳ Xá Tả, La Sát Sa, tất cả Bộ Đa Phàm muốn triệu thỉnh, trước tiên dùng nước thơm gia trì bảy biến, rưới vảy sạch sẽ, tất cả rộng khắn trên dưới, bốn góc thì tất cả chư Phật, Bồ Tát, Diệu Cát Tường kèm với quyến thuộc, tất cả Chân Ngôn Thế Gian Xuất Thế Gian, tất cả chúng Bộ Đa, tất cả chúng sinh đều đến Đạo Trường.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam_ A bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam_ Án, độ, độ la độ la, độ ba, phộc tất nễ, độ ba lý-tức sử, hồng, để sắt-xá, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, sa-phộc hạ"

Đây là Hiến Hương Chân Ngôn. Nếu lấy Bạch Chiên Đàn, Long Não, Cung Câu Ma Hương hòa hợp với nhau. Khi đốt hương thời tụng Chân Ngôn này thì tất cả Như Lai với các Bồ Tát, tất cả Thánh Chúng đều nhận cúng dường. Triệu Thỉnh Ấn lúc trước tên là Tối Thượng Liên Hoa Man hay cùng với tất cả chúng sinh làm việc đại cát tường.

Nếu đối với chư Phật Như Lai, tất cả Bồ Tát với hàng Thánh Chúng hiến nước Át Già thì lấy nhóm hương Long Não, Bạch Đàn, Cung Câu Ma đã dùng, lại dùng thêm hoa Nhạ Đế, hoa Thích Ý, hoa Ma Lê Ca, hoa Mạt Lý Sư, Hoa Long, hoa Mạt Câu La, hoa Bảo Ni Đá Nga La. Đem nhóm hương hoa như vậy dìm bên trong nước. Đây gọi là Hiến Át Già Thủy. Hiến Thủy Chân Ngôn:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Hứ hứ, ma hạ ca lỗ ni ca, vĩ thấp-phộc lỗ ba đà lý ni, a lý ngưng-già, bát-la để tha, bát-la để tha ba dã, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, để sắt-xá, để sắt-xá, mạn noa la, mạt địa-dã, bát-la phệ xá dã, tát lý-phộc bộ đá nỗ ba ca, ngật-lý hận noa, hồng, a tô la, vĩ tả lý ni, sa-phộc hạ"

Ấn này tên là Viên Mãn Ấn, hay vì tất cả chúng sinh làm việc viên mãn.

Lại nói Phần Hương Chân Ngôn. Nếu hiến hương ấy, như Chân Ngôn lúc trước:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, nẵng mô tam mãn đá hiến đà phộc sa sa, thất- lý dạ dã, đát tha nga đá dã. Đát nễ-dã: Hiến đệ, hiến đệ, hiến đệ, hiến đà, hiến đà ma noa la nhĩ, bát-la để tha, bát-la để thế nan, hiến đạm, tam mãn đá nỗ tả lý ni, sa-phộc hạ"

Ấn này tên là Ba La Phộc viên mãn tất cả Nguyện.

Lại nói Hiến Hoa Chân Ngôn:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Nẵng mô tam câu tô nhĩ đá la nhạ tả, đát tha nga đá tả. Đát nễ-dã tha: câu tô nhĩ, câu tô ma nễ- duệ, câu tô ma bố la phộc tất nễ, câu tô ma phộc để, sa-phộc hạ"

Phàm muốn hiến thức ăn. Trước tiên đỉnh lễ tất cả Phật Hiền Thánh, sinh tưởng chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có. Nay Chân Ngôn này, Chính Giác chính thuyết. Trước sau hết thảy cúng hiến đều y theo Nghi này, niệm Chân Ngôn này:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Hứ hứ, bà nga phộc, ma hạ tát lý-phộc một đà phộc lộ cát đá, ma vĩ lặng phộc, y nan phộc lệ, nga-lý hận-noa bá dã, nga-lý hận-noa, nga-lý hồng, tát lý-phộc vĩ thấp- phộc, la la, tra tra, tát-phả tra, sa-phộc hạ"

Nay Ấn Chân Ngôn này tên là Đại Lực, tiêu trừ tất cả các ác.

Nhiên Đăng Chân Ngôn:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam, tát lý- phộc đát mộng đà ca la, vĩ đặc-tông tất nam, nẵng mô tam mãn đá tổ để hiến đà phộc bà sa, thất-lý dạ dã, đát tha nga đá dã. Đát nễ-dã tha: hứ hứ, bà nga tông, tổ để la xá- nhĩ, thiết đá, sa hạ sa-la bát-la để mạn ni đá, xá lý la, vĩ câu lý-phộc, ma hạ mạo địa tát đát-phộc, tam mãn đá nhập-phộc la nễ-dụ để đá, một lý-để, cụ lý-na, cụ lý-na, a phộc lộ ca dã, a phộc lộ ca dã, mạn noa la, tát lý-phộc tát đát-phộc nan tả"

Đây là Nhiên Đăng Chân Ngôn Ấn tên là Quảng Khai, quán chiếu tất cả chúng sinh.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ- dã tha: Nhập-phộc, nhập-phộc la, nhập-phộc la, nhập-phộc la dã, nhập-phộc la dã, hồng, vĩ mạo đà ca, hạ lý, cật-lý sắt-noa, tân nga la"

Đây là Nhiên Hỏa Chân Ngôn Ấn tên là Hợp Chưởng Quang chiếu tất cả chúng sinh, là điều mà chư Phật Bồ Tát quá khứ đã nói.

Bấy giờ Diệu Cát Tường Đồng Tử bảo Bí Mật Chủ Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng: "Chân Ngôn bí mật vi diệu này. Minh Vương Tộc Bộ của các ông, bên ngoài hiện phẫn nộ, bên trong hàm chứa Từ Nhẫn. Hết thảy bậc Trí cầu tất cả Chân Ngôn đều được thành tựu. Nếu hàng Kim Cương Liên Hoa Tộc gây chướng ngại thời liền nói Minh này khiến kẻ ấy bị giáng phục.

"Nẵng mô tát lý-phộc một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Án, ca la ca la, câu lỗ câu lỗ, ma ma ca lý-diệm, bạn nhạ bạn nhạ, tát lý-phộc vĩ cận-nan, na hạ na hạ, tát lý-phộc phộc nhật-la vĩ na dã kiếm, bố lý-phộc trá ca, nhĩ vĩ đán đá ca la, ma hạ vĩ cật-lý đá, lỗ ba, đà lý ni, bát tả bát tả, tát lý-phộc nỗ sắt-trá, ma hạ nga noa bát để, nhĩ vĩ đán đá ca la, mãn đà mãn đà, tát lý-phộc nga-la hạ, sa mục khư, sa bộ nhạ, sa tả la noa, lỗ nại-la, ma nẵng dã, vĩ sắt-noa ma nẵng dã, một-la hám- ma nễ-dã, nỉ phộc nẵng nẵng dã, ma vĩ lăng phộc, vĩ lăng phộc, la hộ la hộ, mạn noa la mạt tha-dã, bát-la phệ xá dã, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, hồng hồng hồng hồng hồng hồng, phả tra phả tra"

Nói Chân Ngôn này xong, bảo Bí Mật Chủ rằng: "Đây là Đại Tinh Tiến Tối Thượng Bí Mật tên là Lục Diện Đại Phẫn Nộ Minh Vương hay phá chướng ngại. Nếu trì tụng Minh này được tự tại, Bồ Tát mười Địa còn có thể bị giáng phục, huống chi là các chướng ngại ác. Nếu có trì tụng cúng dường thì đại tác ủng hộ. Nói Ấn Pháp này tên là Đại Xoa phá diệt tất cả chướng ngại.

Lại nói Phẫn Nộ Minh Vương Tâm Chân Ngôn:

"Án, ngật-lý sắt trí-lý đá nẵng nẵng, hồng, tát lý-phộc thiết đát-lỗ, nẵng xá dã, tát- đán bà dã, phả tra phả tra"

Nếu có tất cả Oan Gia bức hại, gây não loạn thời y theo Pháp, niệm Chân Ngôn này khiến cho oan gia ấy nhận lấy bệnh sốt rét cách 4 ngày phát một lần, chịu khổ não lớn.

Nếu người luôn thường trì tụng mà không có Tâm Từ Bi thì việc mong cầu chẳng được thành tựu.

Nếu người chẳng tin Tam Bảo. Tụng Chú này khiến cho kẻ ấy sinh niềm tin, quyết định được thành tựu.

Ấn tên Đại Xoa cùng với Chú đồng dụng, nghiệm ấy ắt thành

Lại nói Ngoại Tâm Chân Ngôn: "Án, ngật-lý, ca la lỗ ba, hồng, khiếm"

Ấn tên Đại Xoa. Nếu đồng dụng với Minh này thì hay điều phục tất cả kẻ ác.

Lại nói Nội Tâm Chân Ngôn tên là Nhất Tự tất cả Phật nói. Ấn tên là Đại Xoa cùng với Minh đồng dụng, hay tiêu trừ tất cả việc ác, giáng phục tất cả Bộ Đa. Khi thành tựu Chú Pháp ở trong Mạn Noa La thì quyết định thấy sự linh nghiệm của Phẫn Nộ Minh Vương

Lại nói Phát Khiển Hiền Thánh Đẳng Chân Ngôn:

"Nẵng mô tát lý phộc một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Nhạ diệm, nhạ dã, tô nhạ dã, ma hạ ca lỗ ni ca, vĩ thất-tả lỗ bế ni, nga tha nga tha, sa-phộc bà phộc nam, tát lý-phộc một đạm thất-tả, vĩ sa lý-nhạ dã, tát ba lý-phộc la, sa- phộc bà phộc nam, tả đát-la, bát-la phệ xá dã, mãn đát-la sa-ma la, tát lý-phộc thất-tả nhĩ, tất điện đổ mãn đát-la bá na, ma nỗ la đạm tả nhĩ, ba lý bố la dã"

Phát Khiển Ấn Chân Ngôn này tên là Bảo Tọa cũng gọi là Hiến Tọa. Nếu muốn Phát Khiển hàng Hiền Thánh. Chuyên Tâm chí, ý niệm bảy biến y theo Pháp gia trì thì hết thảy tất cả Mạn Noa La Chân Ngôn Hạnh thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian đều được Tam Muội thành tựu, các hàng Thánh Chúng vui vẻ mà lui về.

Bấy giờ Diệu Cát Tường Đồng Tử lại quán tất cả Đại Chúng bên trong Trời Tịnh Quang, nói Tự Kỷ Minh Vương Chân Ngôn:

"Nẵng mô tát lý phộc một đà nam, ma bát-la để hạ đá nga để nam. Án, nễ lý trí"

Diệu Cát Tường nói Chân Ngôn này xong thời hóa làm Minh Vương tên là Chỉ Thế Nễ hay làm tất cả việc. Ấn tên là Đại Ngũ Kế. Nếu dùng Ấn Pháp này thì tất cả việc khó làm đều được thành tựu.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Án, nễ trí"

Chân Ngôn này tên là Ổ Ba Chỉ Thế Nễ. Ấn tên là Quảng Khai. Tất cả việc, chỗ mong cầu đều thành. Nếu có tất cả Tú Diệu hung ác thì tự nhiên lui tan.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá nga để nam. Án, nễ"

Chân Ngôn này tên là Nẵng Lệ Nễ. Ấn tên là Bảo Tọa hay thành tất cả việc, hết thảy chúng Dạ Xoa cũng hay khiến đến.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến bộ đá, lỗ bế noản. Án, sảo tráo-lỗ"

Chân Ngôn này tên là Ba Lệ Nễ. Ấn tên là Đại Lực hay điều phục tất cả Quỷ Noa Chỉ Nễ là điều mà Diệu Cát Tường đã nói và tất cả chư Phật đồng nói.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá nga để bát-la tả lý noản. Đát nễ-dã tha: Án, phộc la nỉ"

Minh này tên là Tăng Trưởng Hóa Tướng, Ấn tên là Tam Kế, trì tụng đồng dùng, mau được phú quý.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Án, bộ lý"

Ấn tên là Xoa, đồng dùng thì tiêu trừ tất cả bệnh sốt rét.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Án, đát-la lý"

Minh này tên là Đá La, Ấn tên là Đại Lực hay thành tất cả việc, lại hay diệt trừ chướng ngại.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Đát nễ-dã tha: Án, vĩ lộ chỉ nễ"

Minh này tên là Đại Thế, Ấn tên là Phộc Cật Đát La, giáng phục tất cả Thế Gian đều được khoái lạc.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Đát nễ-dã tha: Án, vĩ thấp-phệ, vĩ thấp-phộc, tam bà phệ, vĩ thấp-phộc lỗ bế ni, ca hạ ca hạ, a vĩ xá vĩ xá, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, lỗ lỗ, để sắt-xá, sa-phộc hạ"

Minh này tên là Đại Tinh Tiến, Ấn tên là Năng Sắt Tra La, cũng tên là Biến Hóa, hay khiến cho tất cả chúng sinh khởi Đại Thí Nguyện ban bố cho tất cả hữu tình.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Đát nễ-dã tha: Án, thấp-phệ đế, thất-lý, phộc bố"

Minh này tên là Đại Hóa, Ấn tên là Khổng Tước Tọa đầy đủ tướng chưa từng có chẳng thể nghĩ bàn, làm tất cả việc mong muốn, không có gì chẳng thành tựu, hay giáng phục Thế Gian, Đồng Nam Đồng Nữ sinh Tâm yêu kính.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Đát nễ-dã tha: Án, khế khế lý, bà ngu lý, tát lý-phộc thiết đát-lỗ, tát-đán bà dã, cữu bà dã, mô hạ dã, phộc xá ma nẵng dược"

Minh này tên là Tương Ứng Đại Minh, Ấn tên là Phộc Cật Đát La hay điều phục chúng sinh làm điều ác.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá nga để bát-la tả lý noa. Đát nễ-dã tha: Án, thất-lý"

Minh này tên là Đại Phước Đức, Ấn tên là Hợp Chưởng. Đức Phật tự nói, hay khiến cho hữu tình được địa vị của quốc vương.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, tát lý-phộc tát đát-phộc bà dã, bát-la nại duệ nam. Đát nễ-dã tha: Án, a nhĩ đế, câu ma lý, lỗ bế ni, nhất hứ, a nga tha, ma ma, ca lý- diệm, câu lỗ"

Đây tên là Vô Năng Thắng Hiện Đồng Nữ Thân Thuyết Cam Lộ Cú, Ấn tên là Hợp Chưởng cùng với Chân Ngôn này đồng dùng thì xa lìa tất cả oan gia.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma tiến để-dã, bộ đá, lỗ bế noa. Đát nễ-dã tha: Án, nhạ duệ, án vĩ nhạ duệ, án a nhĩ đế, án a ba la nhĩ đế"

Bên trong Chân Ngôn này có bốn Tỷ Muội Thân Cận Bồ Tát kinh hành Đại Địa, cứu độ chúng sinh, khiến cho các hữu tình y theo thực hành Chân Ngôn Hạnh, như vượt sông được chiếc thuyền, viên mãn việc đã làm. Ấn tên là Bí Mật

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, lộ ca nga-la địa bát để nam. Đát nễ-dã tha: Án, câu ma la, ma hạ câu ma la, cát-lý noa, sam ma khư, mạo địa tát đát-phộc đổ nhạ- noa đá, ma bố la, ma bố la sa nẵng, thiết cát-duệ đổ nễ-dã đá, ba ni, la cật-đán nga, la cật-đá hiến đà đổ lệ, bát nẵng, tất-lý dã, khư khư, khư hứ khư hứ, hồng hồng, niết-lý đát-dã, niết-lý đát-dã, la cật-đá, bổ sắt-ba tức đá, một lý-để, sa ma dã, ma noa, sa-ma la, bộ-la ma, bộ-la ma, bộ-la ma dã, bộ-la ma dã, la hộ la hộ, ma vĩ lãm ma, tát lý-phộc ca lý-dã ni, nhĩ, câu lỗ, vĩ tức đát-la, lỗ ba, đà lý ni, để sắt-tra, để sắt-tra, hồng hồng, tát lý-phộc một đà nỗ nhạ-noa đế, sa-phộc hạ"

Bấy giờ Diệu Cát Tường Bồ Tát nói Chân Ngôn này thời Đại Địa chấn động theo sáu cách, Đại Tự Tại Thiên hiện tước cực ác, Đồng Tử Thiên đầy đủ Tiêu Xí Hỏa Diệu cùng đến giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh có nghiệp ác. Diệu Cát Tường đã nói Đại Quyền Bồ Tát khởi Tâm Từ Mẫn thực hành Bồ Tát Hạnh lợi lạc tất cả chúng sinh ngu si. Ấn tên là Đại Lực cùng với Chân Ngôn đồng dùng sẽ khiến được quả Phước Đức lớn của hàng Phạm Thiên, huống chi là thân người.

Khi ấy, Diệu Cát Tường Bồ Tát lại nói Chân Ngôn tên là Tam Tự, vì thương xót chúng sinh. Ấn tên là Đại Lực cùng với Chân Ngôn đồng dùng sẽ khiến cho tất cả chúng sinh được Phước Đức lớn:

"Án, hồng, nhược"

Đây là Tam Tự Chân Ngôn, y theo Pháp trì tụng thời việc mong cầu đều thành.

Lại nói Ngoại Tâm Chân Ngôn:

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, tam mãn đổ nễ-dụ để đá một lý để nam. Án, vĩ cật-lý đá, nga-la hạ, hồng, phả tra"

Diệu Cát Tường Bồ Tát vì vị thân cận là Đồng Tử Thiên, nói Chân Ngôn này hay giáng phục tất cả hàng Bộ Đa, Ma Đa La với tất cả Tinh Diệu ác.

Nếu bị hàng Bộ Đa làm cho mê muội với sao Diệu ác chiếu đến y theo Pháp trì tụng thì nhóm ấy thảy đều hoảng sợ mà tự nhiên lui tan, liền được giải thoát, cho đến cầu sinh lên cõi Trời, tất cả đều được. Ấn tên là Đại Lực đồng dùng với Chân Ngôn ấy.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ- dã tha: Án, một-la hám-ma, tô một-la hám-ma, một-la hám-ma phộc lý-tả, phiến để, câu lỗ"

Chân Ngôn này là điều mà Đại Phạm Thiên Bồ Tát đã nói, khiến ngưng dứt tai hại. Nếu bị Bộ Đa gây não loạn thời tụng Chân Ngôn này, trong khoảng sát na liền lui tan, mau được an vui. Ấn tên là Ngũ Kế như nói Đại Phạm Thiên Điều Phục Nghi Quỹ, như bốn Vi Đà Luận

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ- dã tha: Án, nga lỗ noa, phộc hạ nẵng, tác yết-la ba ni, tả đổ lý-bộ nhạ, hồng hồng, tam ma nỗ sa-ma la, mạo địa tát đát-phộc, a nhạ-noa ba dã đế"

Diệu Cát Tường nói Chân Ngôn này, mau hay làm việc cát tường. Ấn tên là Tam Kế cũng hay phá hoại Bộ Đa với Na La Diên. Đây tức đều là phương tiện nhiếp hóa chúng sinh.

"Nẵng mô tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ- dã tha: Án, ma hạ ma hứ tất-tả la, bộ đá địa ba để, một-lý sa đặc-phộc nhạ, bát-la lãm phộc nhạ tra ma câu tra, đà lý ni, tất đá bà sa ma độ, sa lý đá một lý-để, hồng, phả tra phả tra, mạo địa tát đát-mạo, nhạ-noa ba dã để"

Chân Ngôn này, Ta tự tuyên nói, vì thương xót chúng sinh. Ấn tên là Đại Xoa cùng với Minh đồng dùng, cũng phá chúng Bộ Đa.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ NĂM_

BỒ TÁT BIẾN HÓA NGHI QUỸ

_PHẨM THỨ HAI_ CHI HAI_

Chân Ngôn Nghi Quỹ đã nói vì hữu tình với hàng A Tu La sống trên bờ dưới nước, khiến cho đủ mọi loại Công Đức. Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam, ma bát-la để hạ đa xá sa nẵng nam. Đát nễ dã-tha: Án, xá câu nẵng, ma hạ xá câu nẵng, bát nạp-ma, vĩ đát đát, bác cật-xoa, tát lý- phộc bán nẵng, nga nẵng xá ca, khư khư, khư hứ khư hứ, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, hồng, để sắt-tra, mạo tha tát đát-mạo, ba dã để"

Chân Ngôn Hạnh này lại dùng Đại Ấn đầy đủ tinh tiến, hay hóa độ kẻ khó hóa độ, hay điều phục kẻ khó điều phục, người bị bệnh khổ mau được bình an, tiêu mọi thuốc độc, phá các việc ác, chẳng sinh nghi ngờ.

Lại nữa sức Chân Ngôn Hạnh của Bồ Tát hay tùy theo chúng sinh giáo hóa khắp cả, như Kinh Ca Lâu La nói "Bồ Tát thương xót hữu tình, tùy theo các chúng sinh hoặc hiện làm chim Ca Lâu La hình dung rộng lớn, giáng phục Rồng độc khiến cho nó sinh điều tốt lành"

Chân Ngôn Nghi Quỹ này nói: "Như Lai Chân Ngôn Tộc với nhóm Liên Hoa Tộc có nhiều phương biến hóa, lợi ích hữu tình mà không có oán ghét, ví như bà mẹ hiền nuôi dưỡng nhiều đứa con, ban ân thương yêu bình đẳng. Bồ Tát hóa độ các chúng sinh cũng lại như vậy". Ta thực hành Chân Ngôn Hạnh mà chư Phật quá khứ đã nói, nay Ta cũng nói, Diệu Cát Tường lại nói".

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử quán sát tất cả Đại Chúng trên Trời Tịnh Quang với việc chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có, rồi nhập vào Tam Ma Địa tên là Chiếu Kiến Nhất Thiết Tam Muội an trụ Pháp Hành mà Bồ Tát đã hành, khiến cho các chúng sinh đều được lợi lạc. Vào Tam Ma Địa này xong, ở Trời Tịnh Quang hóa ra Ma Ni Bảo Tạng Chủng Chủng Trang Nghiêm Mạn Noa La chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có. Giả sử tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật cho đến Thập Địa Đắc Tự Tại Bồ Tát cũng chẳng thể vẽ được Mạn Noa La này, huống chi là người Phàm Phu.

    

Diệu Cát Tường Đồng Tử có khả năng thông đạt Pháp Hạnh bình đẳng của Man Na La tối thượng này. Chỉ có chư Phật Thế Tôn, tất cả Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Phật mới có khả năng y theo Pháp phụng hành, được nhận Quán Đỉnh. Sức Uy Đức chẳng thể nghĩ bàn của Diệu Cát Tường Đồng Tử thực hành Tam Ma Địa tối thượng của Phật Bồ Tát, nhập vào Tâm Ý của Tam Ma Địa thời đời này chỉ tự mình biết rõ, các Tâm Ý khác làm sao có thể so lường, khởi công khéo léo của Hữu Tướng mà tô vẽ được sao?

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử bảo các Chúng rằng: "Thánh Giả! Hãy nghe cho kỹ! Nhập vào Đại Mạn Noa La Tam Muội thì Như Lai, Bồ Tát còn chẳng thể vi phạm; huống chi là các chúng sinh, Thánh với Phi Thánh khác"

Lúc đó, Diệu Cát Tường Đồng Tử bảo Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ rằng: "Này Phật Tử! Lý Tâm Pháp của Tam Muội lìa khỏi tình người. Nay vì Đức Như Lai nhập diệt mà phương tiện nói, khiến cho các chúng sinh được vào tất cả Chân Ngôn Hạnh của Thế Giới với Xuất Thế Gian"

Bấy giờ, Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Phật Tử! Nếu sau khi Đức Thế Tôn vào Niết Bàn thì hãy vì các chúng sinh nói Mạn Noa La Chân Ngôn Hạnh khiến cho họ tùy vui tu học, đều được thành tựu Phật Đạo vô thượng. Nếu có chúng sinh ngu si chẳng y theo Pháp Hành, vi phạm Tam Muội thì Chân Ngôn chẳng thành. Tuy có Phước lớn, Phạm Hạnh mà chẳng y theo Nghi này thì chẳng được Tam Muội, Chân Ngôn chẳng thành. Nếu chẳng y theo Pháp. Giả sử Đế Thích khéo nói phương tiện thì cũng chẳng được Tam Muội, Chân Ngôn chẳng thành, huống chi là người ở trên mặt đất. Nếu khéo biết Giáo Pháp, y theo Pháp hành sự, khi niệm tụng thời quyết định thành tựu Chân Ngôn Tam Muội của Thế Gian và Xuất Thế Gian. Người được vào Giáo Pháp Mạn Noa La của Diệu Cát Tường Đồng Tử thời tất cả chỗ mong cầu, không có gì chẳng viên mãn"

Khi ấy, Kim Cương Thủ Bí Mật Chủ Đại Bồ Tát thỉnh Diệu Cát Tường Bồ Tát vì các hữu tình, lược nói Mạn Noa La Nghi Quỹ. Như vậy thỉnh xong.

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử nhân vào đấy tuyên nói. Phàm dựng lập Mạn Noa La nên ở ba Trường Nguyệt (tháng 5, tháng 9, tháng Giêng), bên trong tháng này cần được kỳ Bạch Nguyệt (15 ngày đầu của tháng) đừng dùng kỳ Hắc Nguyệt (15 ngày sau của tháng). Ở trong kỳ Bạch Nguyệt hoặc ngày mồng một, hoặc ngày 15, lại nên chọn lựa ngày tốt có Tinh Diệu cát tường thì mới được khởi Đàn.

Nếu ở ngoài ba Trường Nguyệt, muốn dựng Mạn Noa La, khi được ngày cát tường tốt thì sáng sớm có thể dùng. Lại nên chọn lựa đất thanh tịnh, hoặc gần thành quách, hoặc gần bờ đi ra sông biển, hoặc hướng vào trong biển, hoặc A Xà Lê từ chỗ ở của mình đều có thể khởi Đàn.

Nếu gần thành quách thì hướng theo Đông Bắc, chẳng gần chẳng xa liền có thể

dùng. Đất đã dùng không có các loại: cát, đá, gạch ngói, đá vụn, tro, than, đất phân, đầu lâu đều nên loại bỏ khiến cho trong sạch. A Xà Lê an trụ ở đây, hoặc bảy ngày cho đến nửa tháng, y theo Pháp nghiêm trì đất của Đàn. Sau đó dùng nước Ngũ Tịnh không có loài trùng, hương Bạch Đàn, hương Long Não, hương Cung Câu Ma hòa bên trong nước, dùng Ngũ Kế Đại Ấn, niệm Diệm Mạn Đức Ca Đại Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn tám ngàn biến, gia trì vào nước rưới vảy làm sạch mười phương, bốn góc, trên, dưới đều khiến cho thanh tịnh. Ở đất của Đàn, bốn phương đều rộng 16 khuỷu tay, hoặc 20 khủy tay, hoặc 8 khuỷu tay.

Phần này chia ra làm ba nhóm: Thượng, Trung, Hạ Nhất Thiết Trí Trí nói Đàn Pháp này Nếu cầu cho địa vị của quốc quân được an ninh thái bình thì vị vua ấy có thể dùng Thượng Đàn.

Nếu cầu tăng ích Phước Thọ thì có thể dùng Trung Đàn.

Nếu cầu tất cả việc cát tường thì có thể dùng Hạ Đàn rộng 8 khuỷu tay.

Lại nữa nếu làm riêng việc mong cầu thì tô bôi Mạn Noa La ấy. Ở đất của Đàn, đào sâu xuống hai khuỷu tay. Nếu có loại: than, tro, gạch nung, đá, sỏi, xương, tóc, rắn, trùng thì chẳng thể khởi Đàn, nên tìm riêng đất tốt mà làm. Chẳng kể là nơi trong núi, nơi hoang vắng, bờ sông đều không có chướng ngại, cần phải Chính Ý, Tâm tưởng kín đáo nhỏ nhiệm quán sát đất thanh tịnh không có loài trùng. Đất đã được đào lên, lại nên chọn riêng đất sạch cực tốt đem lấp xuống cho đầy, rồi nện cho thật bằng phẳng. Đất đã được lấp này cần phải dùng nước Ngũ Tịnh lúc trước hòa chung lại rồi lấp xuống. Tùy theo ý có thể làm Mạn Noa La của ba hạng (thượng, trung, hạ).

Lại ở bốn phương của Đàn đều đóng một cây cọc gỗ Khư Nỉ La, niệm Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn bảy biến, gia trì vào cây cọc.

Lại dùng sợi dây ngũ sắc, cũng tụng Phẫn Nô Minh Vương Chân Ngôn bảy biến rồi đem sợi dây ngũ sắc này ở bốn phương của Mạn Noa La, ràng quanh Đàn Tướng này.

Trung Vị (vị trí chính giữa) của bốn phương gọi là Nội Viện. Khiến A Xà Lê ngồi ở Trung Vị ấy, niệm Căn Bản Chân Ngôn tám ngàn biến, kết Ngũ Kế Đại Ấn đồng dùng. Tụng Chân Ngôn đầy đủ xong, A Xà Lê ấy đi ra bên ngoài Đàn, xoay nhiễu quanh Mạn Noa La một vòng xong, hướng mặt về phương Đông ngồi xổm trên cái chiếu cỏ, chí Tâm đỉnh lễ tất cả chư Phật với các Bồ Tát. Dùng sợi dây ngũ sắc lúc trước cột buộc trên cây cọc ở bốn phương, nhiễu quang Đàn một vòng để làm sợi dây giới hạn. Tinh thục việc Pháp, trì tụng một đêm Mạn Noa La A Xà Lê ấy giữ bền chắc Thanh Trai (trai giới trong sạch), y theo Căn Bản Nghi Quỹ, cử động dùng Tâm khiến cho người tu Đại Thừa Hạnh y theo Pháp Trì Giới một đêm, đồng thực hành việc Pháp. Lại dùng phấn năm màu, niệm Lục Tự Tâm Chân Ngôn gia trì vào phấn ấy, rồi an trí trong Mạn Noa La.

Lại ở bốn mặt bên ngoài Đàn, trang nghiêm an trí phướng phan, trồng cây Ba Tiêu (cây chuối) rồi khiến nhóm trống, nhạc, loa, bạt (cái nạo bạt) đồng loạt phát ra tiếng. Đây là Cát Tường Âm. Nhóm âm nhạc dừng xong, lại vì bốn Chúng lược nói Pháp Yếu.

Lại ở bốn phương của Mạn Noa La đều đọc Kinh Điển Đại Thừa, phương Nam đọc Kinh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật, phương Tây đọc Kinh Nguyệt Quang Tam Ma Địa, phương Bắc đọc Kinh Thánh Hoa Nghiêm, phương Đông đọc Kinh Thánh Kim Quang Minh.

Như vậy Pháp Sư đọc bốn Bản Kinh Pháp này xong. A Xà Lê từ Mạn Noa La đứng dậy. Đem các thứ hương: Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma, Bạch Sắc hòa chung với hoa tốt nhất rồi để một chỗ, niệm Căn Bản Chân Ngôn gia trì rồi đem hương hoa này rải tán tất cả chỗ của Mạn Noa La A Xà Lê ra bên ngoài, bảy ngày ăn bơ. Lại dùng hai người đến ba người là người có đủ Phước Đức lớn, phát Tâm Bồ Đề, Trì Giới đồng vào trong Mạn Noa La, niệm Căn Bản Chân Ngôn tự làm ủng hộ. Đem phấn năm màu tô bôi trên Đàn này, bột phấn đã dùng là báu có năm màu của nhóm vàng, bạc nhỏ mịn như bụi, hoặc năm màu của nhóm đồng cũng được.

Nếu là quốc vương với người có Phước Đức lớn dựng làm Đàn này thì bên trên cầu Vô Thượng Bồ Đề, quyết định được thành. Nếu có người tùy vui thì cũng được Bồ Đề huống chi là việc cát tường riêng khác, không có gì chẳng thành tựu.

Như sau khi Đức Thích Ca Như Lai diệt độ, thời chúng sinh bạc phước ở đời ác làm sao có thể thấy nghe Pháp của Đại Phước Đức Đàn Nghi như vậy ?"

Bấy giờ, Đại Quang Diệu Cát Tường Đồng Tử vì các chúng sinh nghèo khổ lược nói Mạn Noa La Nghi Quỹ. Dùng gạo tẻ làm bột, nhỏ mịn như miến, rồi nhuộm thành năm màu: xanh, vàng, đỏ, trắng. đen. Mạn Noa La A Xà Lê tự kết Ngũ Kế Đại Ấn, niệm Căn Bản Chân Ngôn gia trì vào phấn ấy, sau đó A Xà Lê ở phương Đông Nam của Mạn Noa La y theo Pháp làm một cái Hỏa Đàn.

Đàn ấy rộng hai khuỷu tay, sâu một khuỷu tay, chung quanh giáp vòng như tướng lá hoa sen. Dùng cây Ba Lá Xá với gỗ của cây Cát Tường Quả làm củi ướt, có thể dài một xích (1/3 m) đều được thấm ướt mới có thể dùng. Lại đem ba loại bơ, Lạc (váng sữa đặc), Mật thấm ướt hai đầu cây củi, kết Dã Sắt Trí Ấn, niệm Căn Bản Chân Ngôn, thỉnh triệu Hỏa Thiên. Lại niệm Nhất Tự Tâm Căn Bản Chân Ngôn 108 biến, liền làm Hộ Ma (tức là thiêu đốt củi lúc trước). Tiếp theo cùng với người vẽ giỏi, đồng thực hành việc Pháp.

Mạn Noa La A Xà Lê tự đội mão lên đầu, Nội Tâm, chí Ý tưởng tượng chư Phật Bồ Tát như đối trước mắt. Lại niệm Hiến Hương Chân Ngôn, chắp tay cung kính, đỉnh lễ chư Phật Bồ Tát, đỉnh lễ Diệu Cát Tường Đồng Tử xong, đem phấn năm màu lúc trước cho người thợ vẽ kia, cùng nhau tô vẽ mặt Đàn

Trước tiên, ở khoảng giữa của Mạn Noa La vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sư tử báu đầy đủ các Tướng như ở trên Trời Tịnh Quang, làm tướng Thuyết Pháp.

Mạn Noa La A Xà Lê với người vẽ đồng sự, lại niệm Căn Bản Chân Ngôn, tự làm ủng hộ. Tiếp theo ban cho tất cả Quỷ Thần, xuất ra Sinh Thực (thức ăn chưa nấu chín) ấy ở bên ngoài Đàn: bốn phương, trên, dưới...rải thí thức ăn uống khiến cho họ no đủ.

A Xà Lê lại nên tắm rửa thân thể, mặc áo sạch mới, ở gần Hỏa Đàn làm Pháp ủng hộ. Lại dùng bơ, hương Cung Câu Ma hòa làm một ngàn cái Đoàn Thực (thức ăn dùng tay bốc).

A Xà Lê ngồi trên cỏ Cát Tường sạch, niệm Căn Bản Chân Ngôn, dùng Đoàn Thực lúc trước để làm Hộ Ma. Lại dùng hạt cải trắng, lại tụng Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương Chân Ngôn 108 biến gia trì vào hạt cải rồi đựng chung trong một vật khí sạch. Hoặc có các hình tướng ác chẳng lành với mọi loại chướng nạn, chỉ dùng hạt cải trắng lúc trước làm Hộ Ma bảy biến thì các ác tự diệt.

Nếu có người gây chướng nạn, dùng hạt cải làm Hộ Ma năm biến thì người gây chướng nạn kia chẳng thành mà tự hàng phục, trải qua một sát na lại bị Quỷ Mỵ bám dính. Giả sử Thiên Đế Thích gây chướng nạn ấy cũng vẫn chẳng lâu thì được vô thường, huống chi là người với hàng Phi Nhân có Tâm ác gây chướng nạn ấy.

Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương này phá hoại việc gây ra sự sợ hãi như vậy

Lại người trì tụng ấy ngồi trên tòa cỏ Cát Tường, tụng Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương xong, ở hai bên tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vẽ hai vị Bích Chi Phật ngồi Kiết Già trên tòa hoa sen.

Lại ở phía trước bàn chân của Đức Phật ấy, vẽ hai vị Đại Thanh Văn, làm tướng nghe Pháp.

Bên phải vị Thanh Văn ấy vẽ Quán Tự Tại Bồ Tát tất cả trang nghiêm như trăng Thu đầy đặn, ngồi trên tòa hoa sen, tay trái cầm hoa sen, tay phải tác tướng Thí Nguyện

Bên phải Quán Tự Tại ấy, vẽ Bạch Y Tôn Thắng tay trái cầm hoa sen, tay phải đỉnh lễ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, cũng ngồi trên hoa sen, đầu đội mão báu, trật áo hở vai phải.

Như vậy lại vẽ Đa La Bồ Tát, Bộ Lý Câu Chi Bồ Tát mỗi đều như Pháp mà ngồi.

Ở bên trên vị Bồ Tát ấy, lại vẽ Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa, Phật Nhãn Phật Đỉnh Tôn Thắng Vương với vẽ 16 vị Đại Bồ Tát là: Phổ Hiền Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Trừ Cái Chướng Bồ Tát, Diệt Tội Bồ Tát, Từ Thị Bồ Tát tay cầm cây phất trắng chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn. Thanh Tịnh Hành Bồ Tát, Vô Cấu Tràng Bồ Tát, Diệu Tài Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát, Vô Cấu Xưng Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Bệnh Bồ Tát, Nhất Thiết Pháp Tự Tại Vương Bồ Tát, Thế Gian Hành Bồ Tát, Đại Tuệ Bồ Tát, Trì Tuệ Bồ Tát. 16 vị Đại Bồ Tát như vậy có sắc tướng trang nghiêm, khắp đều viên mãn.

Lại ở hướng bên trên, lại vẽ Phẫn Nộ Đại Minh Vương với các Minh Vương, Liên Hoa Bộ Tộc y theo Pháp kết Ấn, tùy theo chỗ an trụ.

Ở bốn mặt của Đàn đều có vị trí Không Nhàn (khoảng không) chỉ vẽ hoa sen, thỉnh triệu Hiền Thánh an bài ở đây.

Lại ở bên phải Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vẽ hai vị Bích Chi Phật, vị thứ nhất tên là Hiến Đà Ma Nại Nẵng, vị thứ hai tên là Ổ Ba Lý Sắt Tra. Ở

bên phải

Đức Phật lại vẽ hai vị Bích Chi Phật, vị thứ nhất tên là Tán Nại Nẵng, vị thứ hai tên là Tất Đà. Ở bên dưới bàn chân của Đức Phật, vẽ hai vị Đại Thanh Văn là Đại Ca Diệp Ba, Đại Ca Diễn Nẵng. Hết thảy tất cả Đàn hướng về phương Đông, mở cửa.

Lại ở bên trái vị Thanh Văn, vẽ Thánh Kim Cương Thủ như màu Ưu Ba La (hoa sen xanh), tất cả sắc tướng trang nghiêm viên mãn, tay phải cầm cây phất, tay trái xoa đỉnh đầu Phẫn Nộ Minh Vương. Kim Cương Quyền Minh Vương, Kim Cương Câu Minh Vương, Kim Cương Tỏa Minh Vương, Diệu Tý Minh Vương, Kim Cương Quân Minh Vương tùy theo tướng, tiêu xí tìm chỗ mà ngồi. Tất cả Phẫn Nộ Minh Vương với các Minh Vương kèm quyến thuộc ấy, mỗi mỗi đều y theo Pháp kết Ấn. Ở bên trái vị ấy lại vẽ Yết Ma Kim Cương Chử Ấn, ở bốn mặt Đàn đều như thế. A Xà Lê thỉnh triệu Minh Vương Quyến thuộc an cư ở đây.

Lại ở trên Đàn ấy, lại vẽ tám Tôn Thắng Phật Đỉnh. Thể có màu vàng ròng, toàn thân tỏa ánh sáng đều kết Ấn Pháp tựa như tướng mạo của Đại Luân Minh Vương, viên mãn trang nghiêm chiêm ngưỡng quán Phật. Ấy là Đại Luân Tôn Thắng Phật Đỉnh, Bạch Tản Cái Phật Đỉnh, Tôn Thắng Phật Đỉnh, Tối Thắng Phật Đỉnh, Quang Tụ Phật Đỉnh, Cao Phật Đỉnh.

Ở bên trái vị Bích Chi Phật lúc trước, vẽ cái cửa. Ở bên ngoài cửa, phía bên phải vẽ một vị Đại Bồ Tát tên là Xuất Thế Gian Hành, làm mão giữ búi tóc trên đầu, tay phải cầm tràng hạt, tay trái cầm cái Tịnh Bình, mặt hướng về cửa, làm tướng cau mày vui giận.

Bên trái cái cửa, vẽ một vị Đại Bồ Tát tên là Vô Năng Thắng, dáng tướng thanh tịnh, cũng đội mão, tay trái cầm Bình Trượng, tay phải cầm tràng hạt, làm tướng Thí Nguyện, mắt hướng về cửa, cũng làm tướng cau mày vui giận.

Lại ở bên trong điện báu có bánh xe Pháp, bên dưới bánh xe Pháp có tòa Sư Tử, ở đấy có vị Đại Bồ Tát tức Diệu Cát Tường hiện thân tướng Đồng Tử như màu hương Cung Câu Ma, nghi tướng thanh tịnh, mặt hiện vui giận, tay trái cầm hoa Ưu Bát La, tay phải tác Thí Nguyện cầm quả Cát Tường, đầu có năm búi tóc, đeo châu báu Anh Lạc, mặc áo của Trời Kiều Thi Ca, trật áo hở vai phải, ngồi trên tòa hoa sen, mặt hướng về cửa của Mạn Noa La, quán nhìn Diệm Mạn Đức Ca Minh Vương.

Bên phải vị Bồ Tát ấy, bên dưới tòa hoa sen lại vẽ Diệm Mạn Đắc Ca Minh Vương làm tướng đại ác, khắp thân tỏa ánh sáng, chiêm ngưỡng Bồ Tát như tướng thọ nhận lời răn dạy.

Ở bên phải, bên dưới hoa sen lại vẽ năm vị Đại Bồ Tát làm tướng của Tịnh Quang Thiên Tử Ấy là: Vô Cấu Bồ Tát, Thâm Thiện Bồ Tát, Thanh Tịnh Bồ Tát, Diệt Chướng Bồ Tát, Phổ Chiếu Bồ Tát tất cả như ở trên Trời Tịnh Quang ấy, khắp cả đều có vô số châu báu tỏa ánh sáng, rải mọi loại hoa trang nghiêm thù thắng.

Lại dùng phấn năm màu, ở bốn phương của Mạn Noa La vẽ lầu gác của bốn cửa. Ở Đông Bắc của Mạn Noa La vẽ Thượng Giới Khai Hoa Vương Như Lai, nên vẽ thân Phật nhỏ ngồi trên tòa hoa sen, làm tướng quán nhìn Đức Phật Thích Ca, phóng khắp ánh sáng, ngồi Kiết Già, làm tay Thí Nguyện. Bên phải Đức Phật ấy vẽ Đại Luân Phật Đỉnh Tôn Thắng Ấn, bên trái có Quang Minh Tụ Ấn, Phật Nhãn Ấn, Bát Nhã Ba La Mật Đa Ấn, Thánh Quán Tự Tại Thượng Bát Nhã Ba La Mật Ấn.

Bên phải Đức Thế Tôn, vẽ Vô Lượng Thọ quán nhìn Đức Như Lai, làm tay Thí Nguyện, ngồi trên tòa hoa sen, ánh sáng tràn khắp. Bên trái Đức Phật ấy an Y Bát Ấn. Lại vẽ Khai Hoa Vương Như Lai với Liên Hoa Ấn. Bên phải vẽ Phật Đỉnh Quang Minh Tụ Ấn tỏa ánh sáng tràn khắp. Bên phải vị ấy an Bảo Tràng Như Lai ngồi trên núi báu, làm tướng thuyết Pháp, ở thân Phật ấy tuôn ra mọi loại lửa sáng, làm màu xanh, màu xanh lục, màu hồng tỏa sáng khắp cả.

Bên trái Đức Phật ấy dùng phấn vẽ Tôn Thắng Phật Đỉnh Ấn. Chuyển Pháp Luân Ấn đều có ánh sáng chiếu khắp. Bên trái lại có Ấn: Tích Trượng, Tịnh Bình, tràng hạt, tòa báu y theo thứ tự vẽ.

Lại ở cạnh cửa, dùng phấn vẽ chày Kim Cương ba chấu (Tam Cổ Kim Cương Chủ) tỏa ánh sáng tràn khắp. Ở bên dưới bàn chân của Diệu Cát Tường an Ngũ Kế Đại Ấn, Ưu Bát La Hoa Ấn đều có đủ ánh sáng Tướng của Đàn như vậy đều nên đầy đủ. Hết thảy cửa vào Mạn Noa La, hoặc Đông hoặc Tây an trí đều được. Ở bên ngoài Mạn Noa La, dùng phấn mịn năm màu vẽ lầu gác ở cửa của bốn góc với bốn phương.

Ở bên ngoài của Nội Mạn Noa La, bốn phương đều để trống không khoảng hai khuỷu tay. Ở chỗ này dùng phấn vẽ Đại Phạm Thiên: có đủ bốn đầu (bốn mặt), mặc áo Trời màu trắng, trật áo hở vai phải, dùng sợi dây trắng quấn nách, thân mạo màu vàng ròng, búi tóc đội mão vàng ròng. Hai tay trái phải đều cầm Bình Trượng.

Lại ở bên phải, vẽ Cực Quang Tịnh Thiên Tử, thân màu vàng ròng, mặc áo Kiều Xà Gia, áo Thiên Tiên, làm tướng Thiền Định, mặt hiện vui vẻ, búi tóc đội mão, nách quấn sợi dây trắng, ngồi Kiết Già, làm tướng Thí Nguyện. Bên phải có Sắc Cứu Kính Thiên Tử mặc áo Kiều Xà Gia, áo Thiên Tiên, tất cả trang nghiêm, mặt hiện tướng vui vẻ, ngồi Kiết Già như tại Thiền Định, nách quấn sợi dây trắng, tay phải làm tướng Thí Nguyện. Y theo thứ tự dùng phấn vẽ Đạo Lợi Thiên Tử, Dạ Ma Thiên Tử, Đổ Sử Thiên Tử, Hóa Lạc Thiên Tử, Tha Hóa Tự Tại Thiên Tử hết thảy nghi tướng đều y theo thứ tự, mỗi mỗi đầy đủ.

Lại ở bên dưới bàn chân của Đế Thích: vẽ bốn Đại Vương Thiên Tử, Hằng Kiều Thiên Tử, Trì Man Thiên Tử, Kiên Thủ Thiên Tử y theo thứ tự đầy đủ nghi tướng. Phương Nam vẽ nhóm Thiên Tử: Thiểu Quang Thiên, Phước Sinh Thiên, Vô Nhiệt Thiên, Thiện Kiến Thiên, Thiện Hiện Thiên tùy theo nghi tướng ấy khiến cho đầy đủ. Với vị trí ở giới phương Tây đều vẽ chư Thiên như vậy.

Lại ở lớp thứ hai, bên ngoài Mạn Noa La. Lớp thứ ba, bốn mặt của Mạn Noa La đều y theo thứ tự vẽ bốn vị Thiên Phương, cửa vào Mạn Noa La ở phương Bắc, bên phải vẽ Tài Chủ với các Bảo Tạng, tất cả trang nghiêm như nghi tướng Dạ Xoa. Bên phải y theo thứ tự, lại vẽ Dạ Xoa Chủ: Bảo Hiền, Mãn Hiền với Ha Lợi Đế Mẫu Đại Dược Xoa Nữ ôm ấp Ái Đồng Tử làm tướng chiêm ngưỡng Mạn Noa La.

Lại có Nhóm Dạ Xoa: Bán Chi Ca, Tân Nga La, Tỳ Sa Noa đều gần sát vị trí của Dạ Xoa Ấn. Tiếp theo có Thủy Thiên tay cầm sợi dây.

Lại ở bốn phương, vẽ tám vị Đại Long Vương: Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Đức Xoa Ca Long Vương, Phộc Tô Chỉ Long Vương [thiếu 4 vị Long Vương: Hải Long Vương, Vô Nhiệt Não Long Vương, Cao Ý Long Vương, Thanh Liên Long Vương] Như vậy y theo thứ tự bày vẽ ở vị trí hai bên.

Tiếp theo vẽ Dạ Xoa, La Xoa, Kiền Đạt Bà, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Tiên Nhân, Thánh Nhân, quỷ đói, Ca Lâu La, Người, Phi Nhân.

Lại vẽ thuốc lớn tối thượng, báu Ma Ni tối thượng, núi cao cực lớn, sông ngòi cực lớn, châu thành cực lớn, đều nên vẽ cực lớn bậc nhất.

Phương Nam vẽ 7 vị Ma Đá La với các quyến thuộc.

Phương Đông Nam vẽ Hỏa Thiên tỏa ánh sáng tràn khắp, tay cầm Bình Trượng, tràng hạt, búi tóc đội mão, mặc áo trắng áo Thiên Thiên, trật áo hở vai phải, nách quấn sợi dây trắng, thân làm màu vàng ròng, mọi loại hình tướng tiêu xí trang nghiêm, cũng làm hai vị trí để vẽ.

Bên ngoài Mạn Noa La này, Đại Tự Tại Thiên cỡi con bò, tay cầm Tam Cổ Xoa với Ô Ma Thiên Nữ có thân màu vàng ròng, mọi loại nghiêm sức. Tiếp theo có Đồng Tử Thiên hình như Đồng Tử cỡi con công, tay cầm cây Thương, có sáu đầu mặt, khuôn mặt màu hồng, mặc áo vàng áo Thiên Tiên, tay trái cầm cái chuông, cây phan hồng.

Tiếp theo xếp bày Bộ Lăng Nghĩ Lý Trí, Đại Chúng Chủ, làm tướng cực gầy ốm, Nan Nỉ Chỉ Thấp Phộc La, Đại Hắc Thần, bảy vị Ma Đá La tùy theo nghi tướng tiêu xí ấy, mỗi mỗi trang nghiêm.

Lại vẽ tám vị Trời, vị Tiên Nhân, Na La Diên Thiên có bốn tay cầm bánh xe báu, cây gậy, cái loa, cây kiếm cỡi Kim Sí Điểu, tất cả trang nghiêm.

Lại an tám Tú Diệu, 27 Tinh Tú.

Lại có tám sao Diệu nhỏ, y theo vị trí tô vẽ.

Lại vẽ tướng Hắc, Bạch của 15 ngày, 12 Cung Phần, 12 Tháng, một năm. Bốn chị em ngồi thuyền, năm anh em trụ trong nước ấy, nhóm loại của Bộ còn lại đấy chỉ vẽ Ấn ấy. Hết thảy Hiền Thánh đều xếp bày vị trí ở hai bên.

Mạn Noa La của lớp thứ ba đều xếp bày vị trí của Hiền Thánh.

Mạn Noa La của lớp thứ ba đều làm tướng bốn phương.

Thứ nhất trong Phật Thế Tôn, Chúng Thánh nên vẽ Liên Hoa Tộc Thánh Quán Tự Tại ở bên phải, Kim Cương Tộc Kim Cương Thủ ở bên trái, mỗi mỗi nên vẽ Phổ Hiền Bồ Tát, Diệu Cát Tường Đồng Tử. Đây là thứ nhất trong các Bồ Tát y theo thứ tự cần vẽ. Ngoài ra chỉ vẽ Ấn ấy.

Bên ngoài Nội Mạn Noa La, ở Trung Mạn Noa La tại vị trí phương Đông vẽ Sa Bà Thế Giới Chủ Đại Phạm Thiên Vương với Cực Quang Tịnh Thiên Phương Nam vẽ Sắc Cứu Kính Thiên với bốn Trời Vô Sắc Giới vẽ vị trí không có hình sắc. Phương Bắc: Đế Thích Thiên Chủ, Dạ Ma Thiên Chủ, Đổ Sử Thiên Chủ, Lạc Biến Hóa Thiên Chủ, Tha Hóa Thiên Chủ với Thiểu Quang Thiên Chủ mỗi mỗi nên vẽ Thiên Chủ. Chư Thiên còn lại chi vẽ Ấn của họ.

Ở phương Bắc của Mạn Noa La trong lớp thứ ba, vẽ Y Sa Nẵng Bộ Đa Chủ kèm với Hộ Ma. Ở cửa sát lớp thứ hai, vẽ Đồng Tử Thiên với Diệu Cát Tường cỡi chim công, tay cầm cây thương, thân màu hồng, mặc áo vàng, trật áo hở vai phải, tay cầm cái chuông, cây phan hồng, làm nghi tướng Đồng Tử, chiêm ngưỡng Mạn Noa La. Phương Đông vẽ chim bay, Ma Lý Kiến Noa Tiên Nhân. Còn lại thì vẽ Ấn. Phương Đông Nam vẽ bốn chị em với năm anh em cùng ngồi trên thuyền đi trong biển lớn với Hỏa Thiên. Như vậy, phương Nam vẽ Vĩ Tỳ Sa Noa La Sát Chủ trụ trong núi Lăng Già. Tiếp theo vẽ Kim Tỳ La Thần như hình Dạ Xoa ở ngay dưới cái cây. Đây là vị Bồ Tát. Tiếp theo vẽ Ngạ Quỷ Vương với Tỳ Xá Tả Vương làm tướng xấu ác. Còn lại chỉ vẽ Ấn. Tiếp theo, phương Nam vẽ Nan Đà, Ô Ba Nan Đà Long Vương với Nhật Thiên Tử bậc nhất trong Tú Diệu Phương Tây vẽ Ca Tỳ La Mâu Ni Tiên Nhân với Ni Kiền Tử Ngoại Đạo Tiên Nhân đều làm tướng Ngoại Đạo, y theo thứ tự lại vẽ Ấn ấy. Phương Tây Bắc vẽ Tài Chủ Dạ Xoa Vương, Ngũ Kế Càn Đạt Bà Vương, Đại Thụ Khẩn Na La Vương, còn lại thì vẽ Ấn.

Bên ngoài Mạn Noa La của lớp thứ tư, vẽ đường viền năm màu với đầy đủ tướng Ấn. Bốn phương của Mạn Noa La vẽ lầu gác của bốn cửa với bốn vị Đại Thiên Vương. Như lúc trước, hết thảy đầy đủ tướng Ấn.

Bên phải cửa ra vào, vẽ hoa Ưu Bát La, bên trái vẽ hoa sen hồng với cây búa Kim Cương, cây kiếm, Tam Cổ Xoa, cây gậy báu, bánh xe báu, báu Sa Phộc Tất Để Ca, cái Bình báu, con cá, cái Loa, Quân Trì Tịnh Bình, phướng, phan, sợi dây, cái chuông, cây đao, cây cung, mũi tên, cái chùy vàng. Như vậy tướng trạng của mọi loại tiêu xí, Ấn Pháp, bốn phương đều vẽ. Bên ngoài Đàn ở bốn phương, lại vẽ bốn Đại Ấn.

Lại ở phương Bắc của Mạn Noa La, lại an chày Kim Cương năm chấu tỏa ánh sáng tràn khắp.

Phương Đông làm cái Mạn Noa La nhỏ, làm tướng Tam Giác, an hoa sen tỏa ánh sáng tràn khắp.

Mạn Noa La ở phương Nam làm tướng nửa vành trăng, an cái bát tỏa ánh sáng tràn khắp Mạn Noa La ở phương Tây làm tướng tròn trịa, an hoa sen xanh với cành là tỏa ánh sáng tràn khắp.

Lại ở bốn góc có bốn Ấn. Mạn Noa La ở góc Tây Bắc làm tướng tròn trịa, an sợi dây tỏa ánh sáng tràn khắp Mạn Noa La ở góc Tây Nam làm tướng nửa vành trăng, an cây gậy tỏa ánh sáng tràn khắp Mạn Noa La ở góc Đông Nam làm tướng Tam Giác, an cây búa tỏa ánh sáng tràn khắp Mạn Noa La ở phương Đông Bắc, làm tướng vuông vức, an cây kiếm tỏa ánh sáng tràn khắp. Ở bên ngoài cửa của Mạn Noa La, dùng phấn năm màu vẽ ba Ấn Thượng, Trung, Hạ. Ấy là y theo cát bát, áo giáp, giày dép tỏa ánh sáng tràn khắp. Vì lợi cho chúng sinh, y theo giáo của Mạn Noa La Nghi Quỹ này mà nói.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ SÁU_

BỒ TÁT BIẾN HÓA NGHI QUỸ

_PHẨM THỨ HAI_ CHI BA_

Lại nữa, Diệu Cát Tường Bồ Tát nói rằng: "Nếu Mạn Noa La A Xà Lê thu nhận Đệ Tử thì cần phải là người có sáu căn viên mãn, đầy đủ tướng.

Nếu là Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà thời phải phát Tâm Bồ Đề, thực hành Hạnh Bồ Tát chẳng cầu Quả nhỏ, giữ Giới Bồ Tát, Tín Thiện bền chắc, ưa cầu nhóm Phước Báo của quốc vương rộng lớn thì mới có thể hóa độ được. Nếu là Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di cầu nhận Đàn Pháp thì phải buông bỏ Thượng Tộc, thanh tịnh Tự Tính, cầu Đại Bồ Đề, đọc tụng Kinh Điển, muốn vào Mạn Noa La, Thân Tâm tinh khiết, trì Giới một ngày đêm, mặc quần áo sạch, đầu tóc bôi xoa hương thơm, một ngày tắm rửa ba lần. Tắm xong, yên lặng ăn Long Não Hương, Đinh Hương, hương tốt nhỏ mịn của nhóm Cung Câu Ma, ở bên ngoài Mạn Noa La chẳng gần chẳng xa, ngồi trên tòa cỏ Cát Tường, Tâm sáng suốt trì tụng, tự làm ủng hộ.

Nếu là Đại Quốc Vương với người có thế lực mà trước kia đã thọ nhận Quán Đỉnh Sát Đế Lợi, từ một người cho đến tám người. Hoặc Đồng Nam, hoặc Đồng Nữ chưa biết Thế Pháp (Pháp của Thế Gian) thời Diệu Cát Tường Bồ Tát tự làm hình tướng Đồng Tử cùng với vị vua ấy đồng vui đùa, nhân đây dẫn dắt khiến vào Mạn Noa La. Hoặc đã mong cầu địa vị vua chúa, sống lâu, không có bệnh, phú quý tự tại, tăng trưởng việc tối thượng thì nhóm Đồng Tử này quyết định thành tựu việc cát tường.

Như lúc trước, người cầu Đại Thừa Hạnh đã an trí xong. Mạn Noa La A Xà Lê đốt Long Não Hương y theo Pháp đi ra bên ngoài, dùng nước sạch không có loài trùng, tùy ý nhiều ít, kết Ngũ Kế Đại Ấn, niệm Căn Bản Chân Ngôn 108 biến gia trì vào nước này rồi đem nước sạch sạch tự tắm rửa, mặc áo sạch sẽ, ở gần Hỏa Đàn, hướng mặt về Đông Bắc ngồi trên tòa cỏ Cát Tường. Lấy bông lúa, Long Não Hương, Cung Câu Ma Hương, Bạch Đàn Hương hòa làm Đoàn Thực (món ăn có thể dùng tay vo lại để bốc ăn) bảy ngàn cái để làm Hộ Ma, y theo Nghi Tắc lúc trước Thỉnh triệu Hỏa Thiên, lại dùng Phát Khiển A Xà Lê lui vào Mạn Noa La, lại dùng tám cái Hiền Bình kèm dùng lụa là trang nghiêm, cắm cành hoa, quả trái, năm loại lúa đậu và đem năm thứ báu của nhóm vàng bạc để đầy khắp trên cái bình.

Bình thứ nhất phụng hiến Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni

Bình thứ hai phụng hiến tất cả chư Phật

Bình thứ ba phụng hiến chúng Bích Chi Phật, Thanh Văn

Bình thứ tư phụng hiến các vị Đại Bồ Tát

Bình thứ năm phụng hiến Diệu Cát Tường Bồ Tát

Bình thứ sáu phụng hiến tất cả chư Thiên

Ở bên trong cửa Mạn Noa La của lớp thứ hai, an trí hai cái bình, một cái bình hiến cho tất cả chúng Bộ Đa, một cái bình hiến cho tất cả chúng sinh. Vận Tâm bình đẳng bố thí cho tất cả. Sau đó kết Ngũ Kế Đại Ấn, trì tụng Chân Ngôn, triệu thỉnh tất cả chư Phật, các vị Đại Bồ Tát, tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, Diệu Cát Tường Đồng Tử với tất cả Bộ Đa. Nghi quỹ Thỉnh Triệu như lúc trước đã nói.

Triệu Thỉnh xong rồi. Lại dùng hoa, quả, hương bột, hương xoa bôi, đèn sáng, hiến thức ăn tất cả y theo thứ tự lúc trước. Hết thảy thức ăn uống đã hiến đều dùng nhóm bơ, Lạc, Mật làm ra. Như là nhóm cháo, sữa, bơ, mật, đường có đầy đủ vị ngon ngọt của thức ăn tinh diệu, cúng hiến tất cả Như Lai với các vị Đại Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, chúng Trời Người.

Lại dùng thức ăn có dầu, mật làm viên Hoan Hỷ, tụng Căn Bản Chân Ngôn y theo Pháp gia trì, rồi hiến cho tất cả chúng Bộ Đa ấy.

Lại dùng hương hoa thù diệu, hoa Nhạ Để, hoa Đa Nga Lỗ, hoa Rồng, hoa Bôn Nẵng Nga trước tiên phụng hiến chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, chúng Thánh, Phi Thánh. Như hoa Nhạ Để phụng hiến Như Lai Tộc, hoa sen hồng phụng hiến Liên Hoa Tộc, hoa Ma Câu La phụng hiến Kim Cương Tộc với các nhà Phàm Thánh Thiêu đốt Long Não Hương ở trước mặt Như Lai Tộc. Thiêu đốt Bạch Đàn Hương ở trước mặt Liên Hoa Tộc. Thiêu đốt An Tức Hương ở trước mặt Bí Mật Chủ Kim Cương Thủ Bồ Tát.

Lại thắp nhóm đèn bơ, đèn dầu rồi đem cúng dường tất cả Hiền Thánh, song nên mỗi y theo Pháp, tụng Bản Bộ Chân Ngôn, đầy đủ Mật Hãnh của Nghi Quỹ thì mới thành nhu Pháp Chân Ngôn Hạnh mà Quán Tự Tại với Kim Cương Thủ đã nói, và có thể thực hành y theo Nghi bên trong Nghi Quỹ của Kinh này.

Hết thảy Mạn Noa La A Xà Lê đối với mọi loại nghi tắc Thỉnh Triệu, Cúng Dường này nên học rộng hiểu sâu, tức có thể làm Thầy. Vì hàng Bộ Đa mau dùng thức ăn trong sạch tinh khiết, xếp bày trước vị trí của họ rồi dùng trống, nhạc, loa, cái nạo bạt (một loại nhạc cụ) phát ra âm thanh cát tường...đem hương, hoa, đèn, vòng hoa bày khắp: bốn góc, bên trên, bên dưới để cúng dường.

A Xà Lê ở bên ngoài Mạn Noa La, xoay quanh một vòng, dùng thức ăn uống lúc trước, niệm Căn Bản Chân Ngôn cúng tế tất cả hàng Bộ Đa ấy. A Xà Lê lại tự tắm rửa. Lại đem Lạc, Mật, bơ, gạo tẻ hòa làm Đoàn Thực gồm tám ngàn cái, niệm Lục Tự Căn Bản Chân Ngôn rồi làm Hộ Ma cùng với Đệ Tử trước kia ở Mạn Noa La, làm Pháp ủng hộ.

Nếu Đệ Tử mà Mạn Noa La A Xà Lê đã nhận, như lúc trước đã phát Tâm Bồ Đề, giữ Giới Đại Thừa, buông bỏ vị trí cao cả của mình, phụng sự chư Phật Bồ Tát, thành tựu Trí Tuệ, vì các chúng sinh, Tâm thực hành bình đẳng, đối với Đạo Trường Bồ Đề Vô Thượng, Nhất Thiết Trí Trí, chí cầu chẳng lui. Nhóm hữu tình này vào Mạn Noa La tùy vui khoảng sát na thời chặt đứt các phiền não, liền được giải thoát. Nếu trước kia có tội nặng năm Nghịch, cũng được giải thoát.

Lại Mạn Noa La A Xà Lê dùng áo sạch mới không có dơ bẩn, niệm Căn Bản Chân Ngôn bảy biến gia trì xong. Lại hòa hợp Bạch Đàn Hương, Cung Câu Ma Hương rồi xông ướp xoa bôi trên áo. Người vào Mạn Noa La dùng cái áo sạch này che trùm đầu mặt.

Như trước đã nói Sát Đế Lợi Vương Tử đã thọ nhận Quán Đỉnh Vị hoặc năm 3 tuổi, bên trên đến năm 16 tuổi, đầu kết 5 búi tóc, nên tề chỉnh đoan nghiêm. Hoặc một búi tóc, trọc đầu cũng được. Cho đến người có sức Phước lớn cầu địa vị tối thượng hoặc cầu việc của nhóm sống lâu dùng Hương lúc trước giặt cái áo che đầu mặt ấy, dẫn vào trong Mạn Noa La thứ hai, kết Ưu Bát La Ấn, tụng Diệu Cát Tường Đồng Tử Căn Bản Chân Ngôn. Lại đem Bạch Đàn Hương, Cung Câu Ma Hương hòa hợp nước thơm, xoa sạch bàn tay, rồi chắp tay lại nâng hoa, hướng về Mạn Noa La mà ném. Hoa rơi xuống chỗ nào thì thọ nhận Chân Ngôn của Bản Tôn ấy, đời đời trì tụng, luôn làm bạn tốt lành của Bồ Đề, Người ấy chẳng lâu sẽ được Đại Bồ Đề, viên mãn Nhất Thiết Trí Trí.

Nếu người cầu riêng việc sống lâu, đại phú tối thượng, quyết định thành tựu Tam Muội thì Pháp diệt tội cũng được thành tựu.

Thọ Quán Đỉnh A Xà Lê trước tiên ở bên ngoài Mạn Noa La, chẳng gần chẳng xa, hướng mặt về phương Đông quán tưởng tam tinh của Đệ Tử thọ Pháp, lại tụng Căn Bản Chân Ngôn. Người thọ nhận Pháp chí Tâm chuyên chú, như khi thọ nhận Quốc Vương Quán Đỉnh Vị thời tin sâu ba báu Phật, Pháp, Tăng phát Tâm Bồ Đề thực hành Đại Thừa Hạnh, các căn thanh tịnh, lìa duyên bám níu hư vọng, đối với Chân Ngôn Hạnh luôn sinh yêu thích thì việc đã mong cầu mau được viên mãn. Nếu lại có người sinh Tâm nghi ngờ, thí nghiệm Nghi Quỹ chẳng được nhiếp thọ thì khiến thực hành Đàn Pháp như lúc trước, tin tưởng sâu xa, liền được độ thoát. Pháp của năm loại Quán Đỉnh đều nên đủ Đại Trí Tuệ, Tâm lìa tà vọng, thực hành Tối Thượng Thừa liền cho thọ nhận Pháp. Nếu chẳng phải là nhóm này thì chẳng được cho thọ nhận.

Khi A Xà Lê truyền Giáo thời phát Tâm vui vẻ, y theo Pháp chí thành như cho Sát Đế Lợi thọ nhận địa vị Quán Đỉnh. Song có thể cầm giữ phướng, phan, dù lọng, cây phất trắng, vật cúng dường thanh tịnh, loa, bạt, trống, nhạc, múa hát khen ngợi, phát ra mọi loại âm thanh cát tường, khiến người thọ nhận Pháp nhiễu quanh Mạn Noa La dâng bày cúng dường.

Lại nên chí Tâm đỉnh lễ chư Phật Bồ Tát, lễ bàn chân của A Xà Lê, nói lời như vầy: "Con phát Thắng Tâm. Hết thảy Chân Ngôn Pháp Hành của tất cả chư Phật Bồ Tát, tất cả Giải Thoát bí mật thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian khiến cho con được vào Mạn Noa La Nhất Thiết Pháp Vương Thành Phật. Nay nguyện được vào khiến cho con thành Phật"

Phát nguyện này xong, ngồi trên tòa cỏ Cát Tường, hướng mặt về phương Đông, chiêm ngưỡng Mạn Noa La. Trước tiên cho thọ nhận Bản Tôn Quán Đỉnh khiến người kia, tay kết Ngũ Kế Đại Ấn. Người ấy tùy theo ý thích tụng Chân Ngôn Pháp, ở trên vỏ cây hoa dùng nước Ngưu Hoàng viết chép (chữ của Chân Ngôn). Rồi dùng Bạch Đàn, Cung Câu Ma Hương xoa bôi bàn tay với xoa bôi bên trong một cái bát nhỏ đem an trí dưới bàn chân của Diệu Cát Tường Đồng Tử, tụng Căn Bản Chân Ngôn của vị Minh Vương trên tòa ấy 108 biến, khiến kẻ kia ngồi ngay thẳng trên tòa cỏ Cát Tường, rồi trao cho năm cái bình Quán Đỉnh

Trước tiên, lấy cái Hiền Bình an trí ở cửa gần sát Ngoại Mạn Noa La hiến cho tất cả chúng sinh bình đẳng. A Xà Lê tụng Căn Bản Chân Ngôn y theo Pháp rưới rót đỉnh đầu. Nước Quán Đỉnh xong rồi, đem Chân Ngôn trên vỏ cây hoa lúc trước trao cho, khiến niệm. Như niệm được tinh thục thì Chân Ngôn Hành Pháp mau liền thành tựu.

Nếu là Chân Ngôn Bí Mật Hành Pháp riêng thì khoảng một niệm cũng được thành tựu. Hoặc trước kia có quên mất câu văn, nghĩa của Pháp thì mau được hiện tiền, ghi nhớ rõ chẳng quên,quyết định thành tựu năm loại Pháp Quán Đỉnh của A Xà Lê.

Trước tiên, trao cho Bản Tôn Quán Đỉnh. Việc ấy như vậy Mạn Noa La Quán Đỉnh thứ hai. Dùng Hiền Bình đã phụng hiến cho tất cả chư Thiên ở Mạn Noa La thứ hai, như lúc trước y theo Pháp cho thọ nhận Quán Đỉnh, Nghi Tắc không có khác. Thọ nhận Quán Đỉnh xong, A Xà Lê nói: "Ngươi được sự răn bảo của tất cả Phật mà được giải thoát tất cả phiền não. Tất Cả Mạn Noa La thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian, Tam Muội, tất cả Chân Ngôn Ấn Pháp đều được thành tựu. Tất cả Bồ Tát gia trì hộ niệm việc ấy như vậy Mạn Noa La Quán Đỉnh thứ ba. A Xà Lê đó tự thọ nhận Pháp Quán Đỉnh, dùng Hiền Bình đã phụng hiến tất cả Thanh Văn Bích Chi Phật ở Mạn Noa La thứ ba. Y theo Nghi Quỹ lúc trước, Quán Đỉnh ở trên đầu. Quán Đỉnh xong rồi, A Xà Lê nói: "Ngươi được Giáo Sắc của chư Phật chư Đại Bồ Tát. Hết thảy Chân Ngôn thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian ghi chép tụng niệm với Hạnh của Mạn Noa La bí mật, Chân Ngôn, Nghi Quỹ, Ấn Pháp đều được thành tựu. Đời này tự thực hành, tùy vui với điều đã làm ở quá khứ, cho đến vị lai quyết định thành Phật"

Tiếp đến việc của Tối Thắng Quán Đỉnh Nghi Quỹ Pháp, tất cả như lúc trước. Nay dùng cái Hiền Bình phụng hiến Đức Phật với cái Hiền Bình phụng hiến Bồ Tát cho kẻ kia quán đỉnh. Rưới rót nước xong rồi, A Xa Lê nói lời như vầy: "Ngươi được sự răn dạy của tất cả Phật với sự răn dạy của tất cả các Đại Bồ Tát chúng. Hết thảy tất cả Bộ Đa nhìn thấy ngươi thì chẳng thể gây não hại. Đối với tất cả chúng sinh, được Vô Năng Thắng tối thượng bậc nhất. Đối với tất cả Chân Ngôn Hạnh thì tùy theo ý đã mong cầu đều được thành tựu"

Thời Mạn Noa La A Xà Lê mỗi mỗi cho thọ nhận năm loại Quán Đỉnh. Nếu có người tùy vui đi đến thời y theo thứ tự ấy dẫn vào Mạn Noa Lam khiến kẻ kia đỉnh lễ cúng dường tất cả Phật với các Bồ Tát, lại khiến nhiễu quanh Mạn Noa La ba vòng, rồi khiến lui ra.

Từ đây A Xà Lê lại dạy truyền Chân Ngôn Hạnh cho Đệ Tử Quán Đỉnh lúc trước,trải qua thời gian tạm lại lấy cái Hiền Bình phụng hiến Diệu Cát Tường Đồng Tử, khiến người vào Mạn Noa La hướng mặt về phương Đông, uống ba vốc nước. A Xà Lê lại nói: "Đây là Tam Muội bí mật của Đại Bồ Tát Diệu Cát Tường Đồng Tử.

Nay được Phước lớn, chẳng được vi phạm tất cả tất cả Chân Ngôn, chẳng được hủy báng tất cả chư Phật Bồ Tát, đều nên tôn trọng tùy thuận tu học, Nếu người chẳng thuận theo mà vi phạm lỗi lầm thì Chân Ngôn chẳng thành, lại không có Phước lợi, Thế nên các ngươi cần phải tin nhận"

Lại ở Mạn Noa La dùng Lạc, Mật, bơ, gạo tẻ hòa hợp là Đoàn Thực ấy, tụng niệm Bát Tự Tâm Chân Ngôn để làm Hộ Ma. Làm Hộ Ma xong, A Xà Lê lại vào Mạn Noa La y theo Nghi Quỹ lúc trước, chí Tâm suy nghĩ việc đã làm Pháp, hiến hoa, hiến nước Át Già, đốt hương. Song đối với nơi chốn của tất cả Phật, Bồ Tát, Bích Chi Phật, tất cả Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, La Sát, Tỳ Xá Tả, Bộ Đa, Thánh Nhân, Tiên Nhân với tất cả chúng sinh rải hoa cúng dường.

Lại dùng nước hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma, mỗi mỗi rưới vảy cho sạch, luôn luôn tu sửa Nội Tâm, quán tưởng tất cả Hiền Thánh như đối trước mắt. Sau lại y theo.

Nghi lúc trước phát khiển Hiền Thánh. Sau đó, Mạn Noa La A Xà Lê đem thức ăn uống đã phụng hiến Hiền Thánh với Sinh Thực của Quỷ Ytha62n kèm với phấn ngũ sắc xoa bôi Đàn, đều nên trừ bỏ, đưa vào trong dòng sông, hoặc cho người nghèo cũng được.

Hết thảy đất của Đàn dùng cát sạch lấp vào cho bằng phẳng, dùng đất sạch làm bùn xoa lau. Lại dùng nước sạch rưới quét cho thanh tịnh. Lại dùng phân bò xoa lau, rồi dùng nước thơm rưới vảy cho sạch. Hết thảy người vảo Mạn Noa La thọ nhận Quán Đỉnh, dùng bơ, lạc, thức ăn chay, trai giới tinh khiết lâu dài.

MẠN NOA LA NGHI TẮC

_PHẨM THỨ BA_

Bấy giờ Diệu Cát Tường Đồng Tử quán Chúng Hội đã tụ tập trên trời Tịnh Quang ấy xong, đỉnh lễ tất cả chư Phật với các Đại Bồ Tát. Lại nói bí mật tối thượng của Nhất Tự Chân Ngôn hay tiêu trừ tất cả các độc, hay làm tất cả việc tốt lành. Minh nay tuy ít thể thành tựu được tất cả Mạn Noa La Pháp, nhưng hay thành tựu tất cả Pháp Giáng Phục. Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam. Đát nễ-dã tha: Án nhược"

Diệu Cát Tường Đồng Tử nói Chân Ngôn này xong rồi bạch rằng: "Tất cả Thánh Chúng với tất cả chúng Bộ Đa! Các ông hãy nghe cho kỹ! Nhất Tự Chân Ngôn này là Loại Mạn Noa La Nghi Quỹ thứ hai, nay lại lược nói đất Đàn đã dựng lập, hoặc tám khuỷu tay, hoặc bốn khuỷu tay. Trước tiên vị trí của đất cần phải tinh khiết, bốn phương bằng phẳng ngay ngắn, tùy theo chỗ không có trở ngại, dùng phấn năm màu tô vẽ. A Xà Lê tự mình dùng phấn vẽ, chẳng để cho người khác tô vẽ. Man Noa La ấy nên đầy đủ ba lớp. Trước tiên vẽ Ngũ Đại Kế Ấn, Diệu Cát Tường Ấn, Ưu Bát La Ấn, Nha Ấn, Luân Ấn, Trượng Ấn. Ở bên trên phương Đông của Nội Mạn Noa La vẽ Ấn Tướng lúc trước.

Lại ở bên ngoài cửa của Mạn Noa La, vẽ hoa sen, chày Kim Cương, hoa Tế Bát La, Phướng, Phan, lọng lụa, lầu gác ở cửa, xe, voi, ngựa, trâu, Sa Phộc Tất Để Ca (chữ Vạn), chim công, con dê núi, con dê trắng, nhân vật, Đồng Tử y theo vị trí vẽ bày.

An trí ba lớp Mạn Noa La rồi dùng cây A Ba Ma Lý Nga ấm ướt làm củi, gồm 108 khúc. Lấy bơ, lạc, mật hòa chung với nhau rồi tẩm vào hai đầu khúc củi, mỗi lần lấy một khúc, tụng Chân Ngôn một biến rồi làm Hộ Ma. Làm Hộ Ma xong, tùy theo sức duyên ấy, hiến hoa Át Già, để cơm ở trước mặt Hiền Thánh, Sinh Thực ở trước mặt Quỷ, thắp đèn, đốt hương đều niệm Nhất Tự Chân Ngôn với Triệu Thỉnh, Phát Khiển cũng niệm Chân Ngôn này.

Thực hành Pháp Giáo này. Mạn Noa La ấy, nếu là cầu Đại Phước Đức thì dựng lập ở trong làng xóm.

Nếu cầu phú quý thì dựng lập dưới cây Ni Câu Đà.

Nếu cầu con cái với cầu thê thiếp thì dựng lập dưới cây Bồ Đề.

Nếu cầu giáng phục Rồng thì dựng lập ở bên cạnh ao Rồng lớn.

Nếu trừ bệnh sốt rét một ngày với bốn ngày phát bệnh một lần thì dựng lập ở nhà trống, hoặc nơi vắng lặng ở phương Nam của làng xóm.

Nếu trừ La Sát gây mê hoặc thì dựng lập ở trong rừng Thi Đà, hoặc nhà trống.

Nếu trừ Tỳ Xá Tả gây mê hoặc thì dựng lập dưới cây Vĩ Tỳ Đa Ca, hoặc dưới cây Ti Ma cũng được.

Nếu trừ Ma Ta La với tất cả Tú Diệu gây mê hoặc thì dựng lập ở ngã tư đường, hoặc gần nhà có xác chết cũng được.

Nếu trừ Một La Hám Ma La Sát gây mê hoặc thì dựng lập dưới cây Đa La.

Nếu trừ các Độc đã bị trúng thì ở bên trong Mạn Noa La niệm Nhất Tự Chân Ngôn gia trì vào nước bảy biến rồi khiến người ấy uống thì chất độc tự tiêu tan.

Như vậy, hoặc nam hoặc nữ. Nếu có việc mong cầu riêng thì ở ngã tư đường, hoặc bên trong Tịnh Xá, hoặc dưới cây có quả trái, hoặc dưới cây có chất nhựa như sữa màu trắng, hoặc trong ruộng lúa, hoặc dưới cây trong rừng hoang vắng, nơi không có ngăn ngại đều có thể dựng Đàn chia vẽ. Hoặc có mọi loại bệnh khổ, hoặc bệnh do người nữ gây ra, hoặc bệnh nặng do các nhóm Quỷ Thần ác gây ra đều làm ủng hộ. Hoặc tất cả bệnh do tất cả Noa Chỉ Nễ gây ra, với bệnh do nhóm Một La Hám Ma Ca Ba Lệ gây ra thì hoặc tại nhà trống, hoặc nơi không có người ở, hoặc nơi ẩn mật sâu kín đều có thể dựng Đàn.

Nếu muốn dựng Đàn, nên chọn ngày tốt cát tường; hoặc ở nửa đêm (giờ Tý) hoặc giữa ngày (giờ Ngọ) cũng được, còn giờ khác thì chẳng thể làm. Ở trong Đàn ấy, hiến hoa Át Già với việc của nhóm Phát Khiển đều nên niệm Nhất Tự Chân Ngôn. Như tất cả việc mong cầu lúc trước, chỉ uống nước của Hiền Bình trong Mạn Noa La thì tất cả đều được cát tường, tất cả bệnh khổ đều được giải thoát. Nếu cầu địa vị tối thượng liền được địa vị trong nước. Nếu không có con cái thì khiến cho có con cái, Nghiệp ác thanh tịnh, người nghèo được giàu có. Hoặc nam hoặc nữ cho đến đối với Mạn Noa La, trong khoảng tùy vui thì mọi loại việc mong cầu, không có gì chẳng thành tựu.

THƯỢNG PHẨM TRANH TƯỢNG NGHI TẮC

_PHẨM THỨ TƯ_CHI MỘT_

Lại nữa, Diệu Cát Tường Đồng Tử quán sát Đại Chúng đã tụ tập trên Trời Tịnh Quang xong, cúi năm vóc sát đất lễ bàn chân của Đức Thích Ca Mâu Ni, vui vẻ chắp tay bạch Phật rằng: "Lành thay! Đức Thế Tôn rộng vì lợi ích cho tất cả chúng sinh thành tựu Chân Ngôn, Nghi Tắc, Pháp Hành mây Pháp tuôn mưa đều được sự mong cầu, hết thảy Pháp tắc vẽ Tượng, ruộng Phước Chính Đẳng tối thượng, khiến được sinh ra mầm giống Bồ Đề, Nhất Thiết Trí Trí lược vì họ giải nói, tất cả ước nguyện đều khiến cho viên mãn. Tất cả Chân Ngôn, Chính Hạnh đều khiến cho được quả, việc khó thành tựu thì mau được thành tựu. Tất cả Đại Hạnh của Bồ Tát khiến được viên mãn. Tất cả Ma Vương thì khiến cho hàng ấy chịu sự giáng phục. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót hữu tình, khắp vị họ tuyên diển. Nguyện ưa thích muốn nghe"

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni bảo Diệu Cát Tường ĐồngTử rằng: "Lành thay! Lành thay Diệu Cát Tường! Ông vì thương yêu tất cả chúng sinh, vui thích hỏi Như Lai về Pháp của Nghi Tắc. Các ông hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ! Ta vì ông nói. Nếu muốn cầu thành tựu tất cả Chân Ngôn Hạnh, nên y theo Nghi Tắc đầy đủ Công Đức của tranh tượng chỗ làm, chỗ mong cầu đều được thành tựu. Chư Phật quá khứ đã nói, nay Ta cũng nói.

Trước tiên ở đất thanh tịnh không có bụi bặm, dùng Đâu La Miên tinh khiết trao cho người vào Tam Muội, ở đất thanh tịnh ấy khiến Mạn Noa La A Xà Lê niệm Chân Ngôn này 108 biến gia trì vào bông vải. Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tát lý-phộc một đà, mạo địa tát đát-phộc nam, a bát-la để hạ đá nga để, ma để bát-la tả lý noản. Nẵng mạc tăng thú đà nẵng, nậu khư, bát-la xá ma nễ nại-la, la nhạ dã, đát tha nga đá dã, la-hạ đế, tam ma-dã tam một đà dã. Đát nễ-dã tha: Án, tăng thú đà dã, tát lý-phộc vĩ cận nẵng già đá ca, ma hạ ca lỗ ni ca, câu ma la lỗ ba đà lý ni, vĩ câu lý-phộc, vĩ câu lý-phộc, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, để sắt-xá, để sắt-xá, hồng hồng, phả tra phả tra"

Dùng Chân Ngôn này gia trì xong, lại khiến Đồng Nữ chưa biết Thế Pháp, thuộc tộc tính Bà La Môn hoặc tộc tính Sát Đế Lợi, hoặc tộc tính Tỳ Xá cũng được, còn lại tộc tính bậc dưới thì chẳng dùng. Lại cần đầy đủ các căn, thân tướng đoan nghiêm, dung mạo có màu trắng, người có màu da khác thì chẳng dùng. Lại được cha mẹ nghe hứa, chẳng hứa thì chẳng dùng. Lại Đồng Nữ này nên thọ nhận mười Giới, phát Tâm Bồ Đề, thương yêu chúng sinh thì mới có thể y theo Pháp.

Lại chọn lựa ngày có tinh tú cát tường trong kỳ Bạch Nguyệt, lại cần màu trời trong sáng không có u ám, gió mưa thì mới có thể làm Pháp Khiến Đồng Nữ lúc trước, tắm gội, mặc áo mới sạch. A Xà Lê kết Chân Ngôn Đại Ấn làm Pháp ủng hộ. Dùng nước sạch không có loài trùng cho vào hương Bạch Đàn, hương Cung Câu Ma tụng Chân Ngôn gia trì, rưới vảy làm sạch trên thân Đồng Nữ với bông Đâu La với đem nước này rưới vảy làm sạch đều khắp ở bốn góc, phương trên, phương dưới.

Lại đem nhóm hương: Bạch Đàn, Cung Câu Ma, Long Não thiêu đốt cúng dường.

A Xà Lê với người đồng Pháp Sự y theo Pháp dâng hiến hương, ba lần nghênh thỉnh chư Phật Thế Tôn, Trụ Thập Địa Đại Tự Tại Bồ Tát.

Đã nghênh thỉnh Hiền Thánh đến. A Xà Lê chí Tâm cúng dường hương hoa theo thứ tự. Hoặc có chim công, Uyên Ương, ngỗng, vịt, hạc, nhạn. Như loài chim cát tường này, hoặc từ hư không bay đến, hoặc từ trong nước đi đến, hoặc đi trên mặt đất đến tuôn âm vi diệu, phát tiếng hòa nhã thì người trì tụng biết là cảm ứng tốt lành, ắt được chư Phật Bồ Tát giáng lâm gia bị, quyết định thành tựu việc mà Ta đã mong cầu, làm chỉ thêu tranh cũng được thành tựu.

Lại nữa, nghe tiếng trống, tiếng loa bạt, tiếng chuông, tiếng khánh, đàn Cầm Sắt, Phương Hưởng (một loại nhạc khí), tiếng của mọi loại nhạc hoặc hướng trong hư không, hoặc trên mặt đất cũng là điềm lành cát tường.

Lại, hoặc có người nam, người nữ, đồng nam, đồng nữ mọi lúc nói rằng: "Đây là chỗ làm của Thánh Nhân, điều này rất thù thắng rất có tăng ích, kham nhận Pháp này sẽ được Thắng Quả". Nói như vậy đều là tiếng cát tường A Xà Lê chỉ tự mình biết rõ, ắt được Uy Đức của chư Phật Bồ Tát gia bị. Pháp đã mong cầu này, không có gì chẳng thành tựu.

Hoặc như có người nói: "Bắt ép chẳng hòa hợp, có thể phá hoại việc khổ, không có chỗ này". Lời nói như vậy đều là tiếng chẳng tốt lành.

Lại, hoặc thấy nhóm khỉ vượn, trâu, chồn, sói, con lừa, súc vật, mèo, thú xấu ác, loài có hai chân, bốn chân với nghe tiếng của chúng thời người trì tụng tự nhiên biết rõ Đàn Pháp chẳng xong, việc mong cầu chẳng thành.

Người trì tụng, A Xà Lê nên kết Tịnh Đàn lần nữa, lại làm Pháp. Như vậy thẳng đến bảy lần. Người trì tụng giả sử có năm tội Nghịch, đến lần thứ bảy, quyết định tu được thành tựu.

Đàn đã thành tựu, khiến Đồng Nữ lúc trước hướng mặt về phương Đông, hoặc hướng Bắc, ngồi trên tòa cỏ cát tường. A Xà Lê trì tụng Chân Ngôn cùng làm ủng hộ, khiến Đồng Nữ ăn chay kết Trai, đem chỉ Đâu La dạy cho Đồng Nữ xe bện làm chỉ bông, hoặc mộ lượng, ba lượng. năm lượng, tám lượng cho đến 16 lượng cần phải quyết định số lượng đều tốt tối thượng

Nếu Đàn Pháp Thượng Đẳng là 16 lượng, Trung Đẳng là 8 lượng, Hạ Đẳng là 5 lượng đến 7 lượng.

Nếu làm Pháp Giáng Phục thì tùy theo sức của mình đến khi đến chẳng định. Đàn này nếu thành, như có Túc Nghiệp quá khứ thì trải qua khoảng sát na ắt tự tiêu trừ Đồng Nữ lúc trước đã xe bện sợi bông, để trong vật khí sạch, một lòng quán chú, chẳng theo Duyên khác.

Lại dùng hương Long Não, hương Bạch Đàn, hương Cung Câu Ma đồng đưa vào trong vật khí sạch hòa thấm với chỉ bông. Lấy hoa Ma Lê Ca, hoa Chiêm Bặc Ca đề dùng cúng dường, khiến làm ủng hộ. Nếu tụng Chân Ngôn với tất cả việc chẳng được tán loạn. Vật khí đã dùng đều nên sạch sẽ, không có loài trùng kiến.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ BẢY_

THƯỢNG PHẨM TRANH TƯỢNG NGHI TẮC

_PHẨM THỨ TƯ_CHI HAI_

Lại nữa Tuyến Pháp (Pháp xe bện chỉ) đã thành thì tìm người làm tranh. Người làm ấy cần có thân mạo đoan chính, chẳng mập, chẳng gầy, không có bệnh, không có khổ, chẳng già, chẳng yếu, chẳng ác, chẳng xấu, hô hấp chẳng thô, các Căn đầy đủ, hình sắc đoan nghiêm. Lại cần Tâm Ý nhu hòa, ưa tu Hạnh tốt lành, Trí Tuệ thông đạt, nghề làm khéo léo tối thượng thời có thể nhờ làm tranh. Nếu được người này làm Tranh Tượng ấy thì lợi ích bậc nhất.

Tranh Tượng này có ba Phẩm riêng. Tranh Tượng Thượng Phẩm có Phước lợi Thượng Phẩm, Tranh Tượng Trung Phẩm có Phước lợi Trung Phẩm, Tranh Tượng Hạ Phẩm có Phước lợi Hạ Phẩm. Nếu được người làm Tranh lúc trước thì tiền công chẳng tính nhiều ít, chẳng được sợ hãi keo tiếc, y theo giá cả mà làm. Nếu tự thiếu tiền thì phương tiện nài xin khiến người ấy làm tranh, ắt được thành tựu.

Công Đức của Tranh Tượng, nếu được thành tựu thì dùng hoa hương thù thắng tối thượng với thứ mà Người Trời yêu thích, đồ cổ quý hiếm, thức ăn uống, giường nằm, thuốc thang mỗi mỗi cúng dường, khiến cho tất cả hữu tình được lợi ích lớn... như Đấng Chính Giác tuyên nói chính đúng.

Lại, A Xà Lê trước tiên vì người làm tranh ấy, thọ nhận Trai Giới. Lại nên chọn lực ngày tốt, cần được ba trường thiện Nguyệt (tháng 5, tháng 9, tháng Giêng), kỳ Bạch Nguyệt (15 ngày đầu của tháng), ban ngày (bạch nhật) có Tinh Tú Diệu tốt thì có thể khiến làm tranh. Như cần tháng khác, thì chọn tháng hai hoặc tháng ba khi hoa cỏ nở bày thơm tho hòa với cảnh của mùa Xuân, lúc mặt trời mới mọc liền khiến chế tạo.

Hết thảy vật của nhóm: vật khí cần sử dụng, sợi dây, sợi chỉ để làm tranh, đều nên dùng phân bò, đất sạch hòa chung với nước đồng tẩy rửa. Tẩy rửa xong lại dùng năm loại nước sạch không có loài trùng tẩy rửa lần nữa. Ở đất Tịch Tĩnh hương Bạch Đà, Cung Câu Ma làm Pháp Sái Tịnh (rưới vảy làm cho sạch sẽ) rồi đem vật khí làm tranh lúc trước an trí ở đây. Lại dùng hương hoa, chí Tâm cúng dường.

A Xà Lê tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, đội mão, khoác quần áo lễ, ăn nhóm hương: Bạch Đàn, Kính Câu Ma, Long Não lìa tưởng đói khát, Tâm ôm giữ sự vui vẻ, cầm hạt cải trắng, tụng Chân Ngôn 108 biến, rồi ném hạt cải về bốn phương, bốn góc, phương trên, phương dưới. Lại kết Ngũ Kế Đại Ấn trì vào hạt cải ấy gia trì trên đỉnh đầu người làm tranh để được Đại Ủng Hộ.

Nếu là Tranh Tượng Phẩm thì rộng 4 khuỷu tay dài 8 khuỷu tay. Tranh Trung Phẩm thì rộng 2 khủy tay, dài 5 khuỷu tay. Tranh Hạ Phẩm thì rộng một Phật Xích dài ba khuỷu tay rưỡi. Phật Xích tức thân dài 8 xích (8/3 m), một khuỷu tay là Phật Xích. Đây là định lượng của ba Phẩm Tranh

Lại Tranh Thượng Phẩm hay thành tựu nhóm việc nhập Thánh tối thượng. Tranh Trung Phẩm: sau khi Đức Phật diệt độ thì cầu địa vị tối thượng, cầu Phước Đức tối thượng đều được thành tựu. Tranh Hạ Phẩm cầu khoái lạc của Người Trời, tiền của, lụa là, châu báu với việc giáng phục đều được thành tựu. Nếu y theo Pháp này thì quyết định thành tựu. Nếu chẳng y theo Pháp này thì ngay như Thiên Đế cũng chẳng thành tựu. Y theo Pháp thực hành thì người hèn mọn cũng được thành tựu.

Chư Phật Thế Tôn tuyên bố: Pháp Giáo, Chân Ngôn Mật Hạnh lợi ích cho tất cả chúng sinh làm Nhân Bồ Đề. Nếu người đối với Chân Ngôn Pháp Giáo này, chí ý thọ trì thì hết thảy Mạn Noa La thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian, không có gì chẳng thành tựu. Người ấy chẳng lâu sẽ được Đại Bồ Đề. Nếu Pháp này chẳng lợi ích cho Bồ Đề Hạnh thì Đức Phật chẳng vì đó tuyên nói.

Lại Diệu Cát Tường Đồng Tử đã nói Pháp Tắc của Tranh Tượng. Nếu làm tranh tượng thì chí Tâm chế tạo. Hoặc 5 ngày thành, 8 ngày thành, 16 ngày thành. Nếu người chuyên ý, trải qua một ngày đêm thành. Đây gọi là thành tựu tối thượng, lợi ích rất nhiều. Nếu người làm đi đại tiểu tiện thì lìa đất làm tranh ấy hơn 100 bước. Việc ấy xong rồi thì dùng nước sạch tắm rửa, mặc riêng áo sạch, lại dùng Bạch Đàn xoa bôi thân thể với tay chân, song nên chuyên Tâm chí Ý, kín đáo miên mật bền chắc như Pháp làm tranh. Lại cần thước tấc thích hợp, chẳng được từa thiếu, đầu sợi chỉ còn thừa thì như Pháp cột lại, dùng cây gậy bằng thẳng tốt xỏ treo tranh ấy, lại vào giờ tốt của kỳ Bạch Nguyệt thì khiến làm tranh xong, trả tiền công cho người kia đừng có khuyết thiếu, khiến cho người ấy an Tâm như Pháp thọ dụng.

A Xà Lê đem Tranh Tượng này đến chỗ thanh tịnh, như Pháp an trí. Dùng hương hoa thượng diệu gia trì cúng dường, ủng hộ thân mình với Tuyến Tranh (bức tranh làm bằng chỉ) Đại Lực Diệu Cát Tường Chân Ngôn đã nói thời chư Phật quá khứ cũng nói như vậy. Nay Ta cũng tuyên nói như vậy. Tất cả Chân Ngôn Hạnh, Chân Ngôn Tướng có đủ Đại Tinh Tiến, có Thế Lực lớn hay làm, hay thành mọi loại Phật Sự. Lại hay cứu độ chúng sinh ngu mê trong cõi Nam Diêm Phù Đề: Tà Kiến, điên đảo, vứt bỏ lời của bậc Thánh, luân hồi hắc ám khiến được giải thoát.

Nếu có người tin tưởng, ưa thích Chân Ngôn, y theo Pháp thọ trì,phát đại dũng mãnh thực hành đại tinh tiến, bên trên cầu Bồ Đề thì quyết định thành tựu như Đức Phật đã nói.

Nếu có chúng sinh chẳng tin, chẳng hay gieo trồng mầm giống Bồ Đề ấy thì ví như đất lẫn muối mặn chẳng thể sinh ra mầm của trăm loại lúa đậu gom chứa mầm giống ấy. Niềm tin là gốc rễ của vạn điều tốt lành mà hay sinh ra mầm giống Nhất Thiết Trí. Đối với Chân Ngôn tin hiểu, thọ trì thì việc mong cầu đều được thành tựu.

Nếu A Xà Lê ấy cầu ngượi thợ vẽ vẽ tranh tượng ấy thì cũng nên tự mình đưa cho vật dụng để vẽ. Người vẽ cần có đầy đủ các tướng xảo diệu tối thượng, nhu hòa, từ thiện, hình sắc đoan nghiêm, lìa các lỗi lầm, trở lại khiến cho thọ nhận Giới, gia trì y như nghi tắc để làm tranh.

Màu sắc đã dùng, đều nên sáng bóng cực tốt, lìa các bụi dơ. Rồi dùng nhóm hương Long Não, Bạch Đàn, Cung Câu Ma xông ướp vào màu vẽ, tụng Chân Ngôn 108 biến gia trì vào màu sắc ấy. Lại dùng hoa Rồng, hoa Bôn Nẵng Nga, hoa Phộc Câu La, hoa Vũ, hoa Đà Đổ Sắt Ca Lý, hoa Ma Lệ Ca, hoa Câu Tô Ma đem rải trên bức tranh. Khiến người vẽ kia hướng mặt về phương Đồng, ngồi trên tòa cỏ cát tường, một lòng tưởng niệm chư Phật Bồ Tát để cầu xin gia bị, rồi tế ý tinh tâm (Tâm ý tinh tế nhỏ nhiệm) miêu tả tô vẽ Công Đức, đừng sinh mệt mỏi.

Trước tiên, vẽ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tất cả các tướng đều nên đầy đủ 32 tướng, tám mươi chủng tử, ngồi trên hoa sen báum hào quang tròn trịa rực rỡ, diện mạo vui vẻ, khắp thân tỏa ánh sáng, làm tướng thuyết Pháp, hoa sen đã ngồi có Lưu Ly làm cọng. Ở bên dưới hoa sen, lại có cái ao lớn, trong ao có hai vị Long Vương, vị thứ nhất tên là Nan Đà, vị thứ hai tên là Bạt Nan Đà, tay trái cầm cọng hoa sen, tay phải đỉnh lễ chiêm ngưỡng Đức Như Lai, nửa như thân người, nửa như hình con rắn, thân màu trắng, đầy đủ các thứ trang nghiêm. Lại ao sen ấy, phần lớn có hoa sen, lá sen, thủy tộc, phi cầm.. đủ tướng trang nghiêm, thù diệu, đoan chính. Lại vòng quanh bên trên bên dưới cọng của hoa sen mà Đức Như Lai đã ngồi, tuôn ra vô số hoa sen, thứ tự cao thấp, mỗi mỗi thuận theo chỗ.

Bên trái Đức Thế Tôn, lại có tám vị Đại Bồ Tát đều ngồi trên tòa hoa sen. Thứ nhất là Diệu Cát Tường Bồ Tát như màu sen trắng, hoặc màu Cung Câu Ma, hoặc màu vàng ròng. Làm tướng Đồng Tử, đầu có 5 búi tóc, đầy đủ trang nghiêm, đoan chính thù diệu. Tay trái cầm hoa Ưu Bát La, tay phải đỉnh lễ Đức Như Lai, mặt hiển vui giận, thân đủ hào quang tròn, ngồi Kiết Già. Thứ hai là Liên Hoa Thánh Nguyệt Quang Bồ Tát cũng làm tướng Đồng Tử. Thứ ba là Liên Hoa Diệu Tài Bồ Tát. Thứ tư là Liên Hoa Thượng Chướng Năng Trừ Nhất Thiết Cái Bồ Tát. Thứ năm là Hư Không Tạng Bồ Tát. Thứ sáu là Địa Tạng Bồ Tát. Thứ bảy là Vô Giá Bồ Tát. Thứ tám là Diệu Nhãn Ý Bồ Tát. Các Bồ Tát này đều làm tướng Đồng Tử, mỗi mỗi viên mãn trang nghiêm.

Bên phải Đức Phật ấy, lại có tám vị Đại Bồ Tát đầy đủ mọi loại trang nghiêm.

Thứ nhất là Từ Thị Bồ Tát ngồi sát cạnh tòa của Đức Phật, làm tướng Phạm Hạnh, đầu đội mão báu, thân màu vàng ròng, thể khoác quần áo màu hồng, quàng áo Tiên màu hồng, thân tướng đoan nghiêm, đủ ba loại tiêu xí. Tay trái cầm Bình Trượng, ở trên vai khoác da hươu đen, tay phải cầm tràng hạt đỉnh lễ Đức Như Lai, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn, Tâm như ở trong Định.

Thứ hai là Liên Hoa Thánh Phổ Hiền Bồ Tát, thân làm màu xanh lục tím, đủ tất cả tướng trang nghiêm, tay trái cầm báu Như Ý Ma Ni, tay phải cầm quả Cát Tường, làm tướng Thí Nguyện.

Thứ ba là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, thân như màu trăng thu, đủ tất cả trang nghiêm, đỉnh đội mão báu, sợi dây trắng quấn nách, trong đỉnh đầu đội vị Hóa Vô Lượng Thọ Phật ngồi đoan nghiêm, tay trái cầm hoa sen, tay phải làm tướng Thí Nguyện, khắp thân tỏa ánh sáng, như Tâm tác quán tưởng.

Thứ tư là Thánh Kim Cương Thủ Bồ Tát, thân làm màu vàng ròng, tất cả trang nghiêm, tay trái cầm chày Kim Cương, tay phải làm tướng Thí Nguyện cầm quả trái, thân đeo chuỗi Anh Lạc, đầu đội mão báu, mão có ánh sáng, nách quấn dây châu báu, thể khoác áo trắng, lại quàng Tiên Y màu trắng, trật áo hở vai phải như Quán Tự Tại.

Thứ năm là Liên Hoa Đại Thánh Ý Bồ Tát.

Thứ sáu là Thiện Ý Bồ Tát.

Thứ bảy là Biến Chiếu Tạng Bồ Tát.

Thứ tám là Diệt Tội Bồ Tát. Các vị Bồ Tát như vậy, mỗi mỗi đều có tay cầm Kinh, cầm quả trái. Thân quàng Tiên Y, đầy đủ các tướng, tất cả trang nghiêm.

Bên trên Bồ Tát ấy, lại vẽ tám vị Bích Chi Phật, làm hình tướng Tăng, thân khoác áo hồng, ngồi Kiết Già ở trên hoa sen báu, như Đại Trượng Phu, mặt có tướng hiền thiện, khắp thân tỏa ánh sáng, tay làm tướng rải hoa, rải hoa Ma Lệ, hoa Vũ, hoa Đà Đổ Sắt Ca Lý, hoa Rồng, hoa Bôn Noa Ca ... mỗi mỗi vẽ hoa rải tán trên tranh.

Lại ở bên trái Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bên trên Thánh Diệu Cát Tường, vẽ núi Diệu Cao, cung điện, lầu gác dùng vô số báu màu nhiệm trang nghiêm, hoa Ưu Bát La đầy tràn trên ấy. Ở trong núi ấy lại vẽ tám Đức Phật Thế Tôn. Thứ nhất là Bảo Đỉnh Như Lai, đỉnh đầu có báu lưu ly, báu hoa sen hồng, báu Đế Thanh, báu Đại Thanh, báu Thạch Tạng Thân Phật ấy khoác áo vàng, trật áo hở vai phải, ngồi Kiết Già, đủ 32 tướng, 80 chủng tử, tất cả trang nghiêm, làm tướng Thuyết Pháp Thứ hai là Khai Hoa Vương Như Lai, thân màu vàng ròng, phóng ánh sáng báou lớn, rải hoa Thích Ý, hoa Phộc Câu La, ngồi Kiết Già, quán sát Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát. Thứ ba là Sa Lăng Nai La Vương Như Lai, thân như màu hoa sen vàng ròng, làm tướng Thuyết Pháp. Thứ tư là Diệu Nhãn Như Lai. Thứ năm là Nậu Bát La Sa Hám Như Lai. Thứ sáu là Biến Chiếu Như Lai. Thứ bảy là Dược Sư Lưu Ly Vương Như Lai. Thứ tám là Đoạn Nhất Thiết Khổ Vương Như Lai. Tám Đức Phật như vậy khắp đều có màu vàng ròng, mắt nhìn Đức Thích Ca Như Lai, tay làm tướng Vô Úy. Lại ở trong hư không bên trên Đức Như Lai, có mây tuôn mưa các hương hoa.

Hai góc của bức tranh, vẽ hai vị Tịnh Quang Thiên Tử trụ trong hư không, đỉnh lễ Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, chư Phật.

Trước tiên nói tám vị Bích Chi Phật. Ấy là: Hiến Đà Bích Chi Phật, Ma Nại Nẵng Bích Chi Phật, Tán Nại Nẵng Bích Chi Phật, Ô Bát Lý Sắt Tra Bích Chi Phật, Thấp Thổ Đa Bích Chi Phật, Tất Đa Kế Đổ Bích Chi Phật, Nễ Nhĩ Bích Chi Phật, Tô Nễ Nhĩ Bích Chi Phật.

Ở phía sau Bích Chi Phật, lại vẽ tám vị Đại Thanh Văn Tôn Giả. Ấy là Tôn Giả Xá Lợi Phất, Tôn Giả Đại Mục Kiền Liên, Tôn Giả Đại Ca Diệp, Tôn Giả Tu Bồ Đề, Tôn Giả La Hầu La, Tôn Giả Nan Đà, Tôn Giả Bà Nại Lý Ca, Tôn Giả Kiếp Tân Na. Nhóm Thanh Văn Duyên Giác như vậy đầy đủ các tướng, Phước Đức đoan nghiêm, chắp tay cung kính, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.

Lại ở mặt bên trên Đức Phật Thích Ca, vẽ riêng hai vị Tịnh Quang Thiên Tử, thân mặc áo Hoa Man, tay cầm cái lọng báu, dùng châu báu, Anh Lạc, vòng hoa báu, hoa sen, báu Đại Thanh thù diệu trang nghiêm, che trùm trên đỉnh đầu của Đức Thích Ca Như Lai.

Lại ở bên dưới bàn chân của Đức Phật, có ao hoa sen cùng với chỗ gần sát Diệu Cát Tường với Ô Bạt Nan Đà Long Vương, vẽ một núi báu từ ao sen nhô lên bên trên, có vách đá báu, cây báu vây quanh treo San Hô, dây leo, cỏ cây, hoa quả đều là châu báu trang nghiêm. Có vị Đại Tiên Nhân cư ngụ ở núi. Phía Bắc núi này, vẽ Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương, làm tướng đại ác, tay phải cầm sợi dây, tay trái cầm cây gậy, mặt hiện tướng cau mày, bụng to lớn, thân như màu mực có thể ví như mây đen, râu tóc đều dài làm màu đỏ vàng, hai mắt đều màu hồng, mười móng tay dài, tất cả trang nghiêm, quàng áo Hồ Ly, chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường như tướng nhận sự răn dậy (thọ sắc), khắp thể tỏa lửa sáng hay phá hoại tất cả chướng nạn, ở bên dưới núi ấy, ngồi trên tảng đá lớn.

Lại gần Nan Đà Long Vương, vẽ người trì tụng, tùy theo thân mạo, quần áo ấy mà vẽ, quỳ gối phải sát đất, tay bưng lò hương.

Dưới chân Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni, phía bên phải, từ ao hoa sen nhô lên ngọn núi báu, trang nghiêm thù diệu cũng như tướng của ngọn núi lúc trước, ở mặt bắc của núi, cũng vẽ vị Phẫn Nộ Minh Vương.

Lại ở bên dưới Thánh Quán Tự Tại, lại vẽ ngọn núi ấy, làm màu hoa sen hồng, cũng dùng châu báu trang nghiêm, dùng báu Lưu Ly làm đỉnh ngọn núi. Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát hóa làm một vị Thánh Đa La Bồ Tát thân màu vàng ròng, chẳng mập chẳng gầy, chẳng già chẳng trẻ, mặc mọi loại áo tối tượng, khoác Tiên Y màu hống, làm tướng người nữ, mọi loại trang nghiêm, tay trái cầm hoa Ưu Bát La, tay phải làm tướng Thí Nguyện, mặt hiện vui giận, ngồi Kiết Già, khắp thân tỏa ánh sáng, chiêm ngưỡng Thánh Quán Tự Tại. Ở trên ngọn Lưu Ly lúc trước, lại vẽ cây Long Hoa. Hoa ấy thù diệu nở đầy cây, cành lá rũ bốn bên ngay trên đỉnh đầu của Bồ Tát như dù lọng. Ở trước mặt Bồ Tát, mọi loại châu báu tỏa ánh sáng nghiêm sức. Vị Bồ Tát này hay phá tất cả chướng nạn, chặt đứt các sự sợ hãi. Nếu người trì tụng cùng làm ủng hộ, làm tượng Thiên Nữ cũng là chỗ biến hóa của Đức Phật, hay ban cho nguyện mong cầu của tất cả chúng sinh đều được mãn túc. Lại là mẹ của Diệu Cát Tường Đồng Tử, lợi ích tất cả hữu tình.

Ở trong núi này, cũng vẽ vị Phẫn Nộ Minh Vương. Chư Phật nói rằng vị Đại Minh Vương này có công năng lớn, có thế lực lớn, đủ đại bạo ác, làm đại phẫn nộ, hay phá thất cả chướng nạn. Nếu có chúng sinh cang cường hủy báng Thánh Giáo thì hay khéo điều phục khiến cho kẻ ấy tin nhận. Nếu có người trì tụng thì hay làm ủng hộ.

Lại có người hủy báng Chân Ngôn, khinh chê Tam Bảo với tạo tất cả nghiệp tội,Hoặc ở trên hư không, hoặc trên bốn trụ địa, hoặc ở dưới đất đều khiến điều phục, tùy thuận tu học.

Ở tranh tượng đã vẽ này, khiến cho bốn phương, bốn góc, bên trên, bên dưới giáp vòng ngay ngắn. Ở mặt bên dưới của bức trang, gần đường viền, vẽ vị Đại Hải Long Vương, hình như tướng người, thân thể màu trắng, đoan nghiêm thù diệu, bùng Ma Ni, châu báu trang sức ở thận, khắp thân tỏa ánh sáng. Ở đỉnh kế ấy đội bảy đầu Rồng, đủ Đại Phước Đức, thực hành đại tinh tiến, tên là A Nan Đa cũng gọi là Đại Long, hướng mặt về phương Bắc, chiêm ngưỡng Đức Như Lai, phụng Giáo Sắc của Phật, lợi ích cho tất cả chúng sinh trong Thế Gian, phá các chướng nạn.

Nghi tắc của tranh tượng này rất ư thù thắng. Như Lai quá khứ tùy theo căn cơ diễn nói, Nay Ta lược nói. Nếu có người trì tụng thì người ấy được vô biên Phước. Lại có câu chi kiếp đã gây ra tội nặng thì ở trong sát na mau được tiêu tan. Nếu có mười ác, năm nghịch, phá Giới, làm ác, luân hồi trong nẻo ác làm loại hèn mọn, chưa từng đối với Pháp, thọ trì tùy vui. Nếu gặp bức tranh này mà tùy vui chiêm ngưỡng thì ở khoảng sát na, khiến tội mau diệt, huống chi là người trì tụng đối với Chân Ngôn Diệu Pháp thường thực hành thành tựu.

Nếu lại có người trải qua câu chi kiếp cúng dường tất cả Phật thì Phước Đức đạt được không có đo lường được. Công Đức của người trì tụng kia với người có vẽ tranh cũng lại như vậy, được Phước Đức vô lượng. Nếu lại có người dùng hương, hoa, thức ăn uống cúng dường hằng hà sa số vô lượng chư Phật với chư Bồ Tát, Thanh Văn, Bích Chi Ca thì người ấy được quả Phước chẳng thể đo lường. Nếu người đối với Chân Ngôn Nghi Quỹ này, đọc tụng cúng dường thì Công Đức có được cũng lại như vậy, chẳng thể đo lường. Lại nữa, nếu Đệ Tử có thọ Pháp ở trước bức tranh này, thành tựu tất cả Chân Ngôn Hạnh, cầu Thanh Văn, Bích Chi Phật với Đại Bồ Tát ấy thì người đó quyết định mau được thành tựu.

TRUNG PHẨM TRANH TƯỢNG NGHI TẮC

_PHẨM THỨ NĂM_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni quán tất cả Đại Chúng ấy vui nguyện muốn nghe, rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Ta vì các ông nói Pháp Tắc của Tranh Tượng Trung Đẳng ấy, Nay ông hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ không cho quên mất!

Này Diệu Cát Tường! Nếu nhờ người thợ giỏi khéo, khiến làm chỉ bông với chế vẽ Tranh Tượng, gia trì Quỹ Phạm, mọi loại Pháp Tắc đều như việc của Thượng Đẳng đã nói lúc trước. Nay Trung Đẳng này, hết thảy thước tấc phân lượng với Nghi tắc cầm nắm của nhóm Phật, Bồ Tát, Thanh Văn ấy có chút sai khác.

Nay ở trên bức trang này, trước tiên vẽ cõi Trời Tịnh Quang dùng báu Pha Chi Ca làm mặt đất, Bạch Trân Châu, Anh Lạc nghiêm sức khắp cả, rộng rãi bằng phẳng ngay ngắn, thù diệu bậc nhất. Ở trong cõi Trời này vẽ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi trên tòa Sư Tử bảy báu, tất cả các tướng đầy đủ trang nghiêm, đối trước Người, Trời ấy làm tướng Thuyết Pháp.

Ở bên phải Đức Phật, vẽ Thánh Diệu Cát Tường thân như màu hoa sen hồng, màu Cung Câu Ma hoặc như màu mặt trời. Vai trái treo liền hoa Ưu Bát La, đầu có năm búi tóc, làm hình Đồng Tử, mặt hiện sắc vui, chắp tay cung kính, ngồi dựng đầu gối phải, chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn.

Lại ở bên trái Đức Thế Tôn, vẽ Thánh Quán Tự Tại, mặt như trăng đầy đặn của mùa Thu, các tướng trang nghiêm, đầy đủ như lúc trước nói. Lại thêm tay cầm cây phất trắng, phất phủi thân tướng của Đức Thế Tôn Tiếp theo vẽ Bồ Tát Từ Thị, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Kim Cương Thủ, Bồ Tát Đại Ý, Bồ Tát Thiện Ý, Bồ Tát Hư Không Tạng, Bồ Tát Trừ Cái Chướng. Lại bên trên Bồ Tát ấy, vẽ tám Đức Phật Thế Tôn là: Khai Hoa Vương Như Lai, Bảo Đỉnh Như Lai, Tỳ Xá Phù Như Lai, Yết Câu Thốn Nẵng Như Lai, Kim Tiên Nhân Như Lai, Ca Diệp Như Lai, Diệu Nhãn Như Lai, Câu Na Hàm Mâu Ni Như Lai. Các Như Lai ấy khoác áo hồng nhạt, tay phải làm tướng Thí Nguyện, tay trái nắm góc áo Cà Sa, trật áo hở vai phải, khắp thân tỏa ánh sáng, đầy đủ các tướng.

Ở bên phải Đức Thế Tôn, gần Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát, vẽ Đại Hội Chúng. Lại vẽ tám vị Bích Chi Phật, tám vị Đại Thanh Văn, danh hiệu như lúc trước. Trong đó, Đại Mục Kiền Liên cùng với Xá Lợi Phất đều cầm cây phất trắng đứng hầu bên cạnh Đức Phật.

Y theo thứ tự, lại vẽ Dục Giới: Tứ Thiên Vương, Đế Thích Thiên Chủ, Dạ Ma Thiên Chủ, Đổ Sử Thiên Chủ, Lạc Biến Hóa Thiên Tử, Tha Hóa Thiên Chủ; với Sắc Giới: Đại Phạm Thiên Vương, Tịnh Quang Thiên Tử cho đến Sắc Cứu Cánh Thiên theo thứ tự vẽ.

Lại bên dưới tòa Sư Tử của Đức Thế Tôn thẳng đến đường viền, vẽ nước biển lớn ló ra ngọn núi báu lớn. Ở gần một góc của bức tranh vẽ người trì tụng y theo tướng nghi ấy, quỳ gối phải sát đất, tay bưng lò hương, chí ý cúi đầu. Lại trong núi báu, vẽ Diệm Mạn Đức ca Phẫn Nộ Minh Vương cũng như nghi lúc trước. Lại bên dưới tòa Sư Tử ở bên trái Đức Thế Tôn, bên dưới bàn chân của Thánh Quán Tự Tại, ở trên núi báu, vẽ Bồ Tát Đa La cũng như nghi lúc trước.

Ở trên bức tranh,hai góc gần nhau, vẽ hai vị Tịnh Quang Thiên Tử có thân màu trắng ở trên hư không, nương mây mà trụ, làm tướng tuôn mưa hoa, tuôn mưa xuống dưới: hoa Chiêm Bặc Ca, hoa Ưu Bát La, hoa sen, hoa Ma Lê Ca, hoa Vũ, hoa Đà Đổ Lý Ca, hoa Rồng, hoa Bôn Nẵng Nga, hoa màu nhiệm. Như vậy mọi loại hương hoa, đầy đủ mọi loại sắc tướng.

Đức Phật nói Tranh Tượng Trung Đẳng này ở Thế Gian ấy thành tựu việc tăng ích lợi lạc bậc trung. Nếu có chúng sinh ngu mê, tà ám, luân hồi các nẻo, chẳng thể biết thanh tượng Trung Đẳng của Diệu Cát Tường, chỉ gây tạo tất cả tội nặng năm nghịch, mười ác Nếu trong sát na, tùy vui chiêm lễ thì các nghiệp tội ấy mau được thanh tịnh, lại khiến cho người bệnh được khỏi, người nghèo được tiền, không có con sẽ được con.

Nếu có người thọ trì, đọc tụng, viết chép, cúng dường thì người này được Công Đức lớn. Ở trong Người, Trời nhận Phước khoái lạc. Sau khi người ấy chết, sẽ được thành nơi Phật Đạo vô thượng.

Nếu có người khiến người khác viết chép, tùy vui, thọ trì, cúng dường thì người ấy được Phước, trải qua câu chi Kiếp, nói chẳng thể hết.

HẠ PHẨM TRANH TƯỢNG NGHI TẮC

_PHẨM THỨ SÁU_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Nay Ta nói Nghi Tắc bí mật của Tranh Tượng Hạ Đẳng thứ ba ấy. Nếu có tất cả chúng sinh chây lười biếng nhác, chẳng siêng tu tập mà đối với tranh tượng này tùy vui chiêm lễ thì cũng hay thành tựu lợi ích thù thắng. Như Pháp Tắc làm Tranh, hết thảy nên gia trì vào số chỉ làm tranh vẽ tượng.

Nay bên trong bức tranh này, trước tiên vẽ Diệu Cát Tường ngồi Kiết Già ở trên tòa Sư Tử, làm hình Đồng Tử, các tướng đoan nghiêm, ánh sáng chiếu khắp, làm tướng Thuyết Pháp. Bên trái vẽ Thánh Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên tòa hoa Ưu Bát La, tay phải cầm cây phất, tay trái cầm báu Như Ý, thân làm màu lục tía. Bên phải vẽ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, tay phải cầm cây phất, tay trái cầm hoa sen, khắp thân tỏa ánh sáng. Ở bên dưới tòa Sư Tử của Diệu Cát Tường, đến đường viền của bức tranh, vẽ ngón núi vàng ròng.

Lại ở bên phải tòa Sư Tử, vẽ Diệm Mạn Đức Ca Phẫn Nộ Minh Vương. Bên dưới Minh Vương ấy vẽ người trì tụng, tay bưng lò hương, cũng như lúc trước nói. Ở bên trên Diệu Cát Tường, vẽ Khai Hoa Vương Như Lai, thân Phật ấy dài 60 ngón tay, ngồi tại vách núi báu giống như lầu gác. Bốn mặt của bức tranh ấy đều có núi báu. Mặt bên trên của bức tranh ấy, ngọn núi khiến cao. Ở trên hư không vẽ hai vị Tịnh Quang Thiên Tử, vị thứ nhất tên là Thanh Tịnh, vị thứ hai tên là Diệu Tịnh tuôn mưa mọi loại hương hoa, cũng như Nghi Tắc nói lúc trước, không có khác.

Nay Tranh Tượng Hạ Phẩm thứ ba này có tăng ích lớn. Nếu các hữu tình trải qua trăm ngàn câu chi Kiếp đã làm các tội nặng ác, nếu hay chí Tâm tùy vui chiêm lễ thì tất cả nghiệp chướng đều được tiêu tan.

Nếu lại có người cúng dường chư Phật, trải qua trăm ngàn câu chi Kiếp thì Công Đức có được chẳng bằng một phần mười sáu Công Đức của người trì tụng y theo Pháp của Tranh Hạ Phẩm. Tại sao thế? Vì Pháp của Tranh Tượng Hạ Phẩm này có thế lực thù diệu, chỗ làm, chỗ mong cầu đều được thành tựu.

Lại hay giáng phục Phạm Vương, Tiên Nhân, Thủy Thiên, Nhật Thiên, Câu Phệ La Thiên, La Sát, Tài Chủ, A Tu La Vương, Ma Hầu La Già, Nguyệt Thiên, Phong Thiên, Diệm Ma Thiên với Na La Diên...Dùng Tranh Tượng Chân Ngôn này đều đến chịu hàng phục. Nếu cầu Tức Tai, Tắng Ích Cát Tường thì không có gì chẳng thành tựu Nếu muốn điều phục phá hoại Tình Vật thì chẳng được dùng, Đức Phật chẳng hứa cho làm.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ TÁM_

NGHI TẮC TRANH TƯỢNG THỨ TƯ

_PHẨM THỨ BẢY_

Bấy giờ, Diệu Cát Tường Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch Phật rằng: "Lành thay! Lành thay! Đức Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác vì lợi ích cho tất cả chúng sinh trong Thế Gian, khéo hay nói Chính Pháp Chân Ngôn Nhất Thiết Minh Nghĩa này, khiến các hữu tình y theo Đạo Pháp này, phương tiện tu tập thành tựu Chân Ngôn Hạnh của tất cả Bồ Tát, sẽ được Tối Thượng Bồ Đề Niết Bàn. Nay sự bí mật sâu xa của Chân Ngôn này hay nhổ bứt Thế Gian, đem lại lợi ích rộng lớn.

Như sau khi Đức Phật diệt độ, trong đời ác: tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Thánh Hiền khắp cả đều ẩn mất, lúc đó chúng sinh lười biếng phóng dật, chẳng tin Kinh Pháp, gần gũi bạn ác, hư vọng, gian trá, Tà Kiến, điên đảo nếu nghe Pháp này thì kinh sợ nghi ngờ. Người này khi chết, đi vào Địa Ngục, trôi lăn trong sinh tử, vĩnh viễn chẳng giải thoát. Ngyuện xin Đức Thế Tôn Từ Bi thương xót, phương tiện giải nói Chân Ngôn tương ứng với Nghi Tắc của tranh tượng, khiến các chúng sinh giáng phục được Tâm ấy, đến được Vô Úy Địa"

Khi ấy, Đức Thích Ca Như Lai bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Lành thay! Lành thay Diệu Cát Tường! Ông hay vì chúng sinh đời Mạt Thế hỏi Như Lai về Nghi Tắc màu nhiệm thiết yếu của Chân Ngôn Hạnh Nghĩa bí mật tối thượng thành tựu Tranh Tượng.

Các ông hãy nghe cho kỹ! Ta sẽ vì ông nói. Ta có Lục Tự Chân Ngôn tên là Vi Diệu Tâm, các ông tin nhận không có nghi ngờ. Nếu chúng sinh ấy thành tựu Pháp này, giáng phục Tâm ấy thì quyết định thành tựu Phật Quả Bồ Đề, 76 câu chi Phật quá khứ đã đồng tuyên nói, nay Ta vì ông với chúng sinh đời Mạt Thế mà lược nói.

"Án, phộc cát-dã thế, nhạ dược"

"Án, phộc cát-dã thế, săn sa phộc"

"Án, phộc cát-dã khiếm nhạ dược"

"Án, phộc cát-dã, nễ sắt-trí dược"

"Án, phộc cát-dã, nại ma nặc"

"Án, phộc cát-dã, ma na sách"

Lúc đó, Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn này xong, liền bảo Diệu Cát Tường rằng: "Lục Đạo Lục Tự Vi Diệu Tâm Chân Ngôn này đầy đủ Đại Lực, Đại Tinh Tiến, tối thượng không có gì ngang bằng, là điều thù diệu tối thắng mà tất cả chư Phật đã đồng tuyên nói. Nếu Chân Ngôn này lưu bày ở Thế Gian thì lợi lạc cho chúng sinh như Đức Phật trụ ở đời mà không có khác.

Lại Pháp Giáo này có Thượng, Trung, Hạ. Nay Tâm vi diệu tối thượng bậc nhất, mở lối Bồ Đề, vào Như Lai Tộc thành Chính Giác Thừa, được quả vô thượng. Nếu khi Pháp Giáo của Như Lai sắp muốn diệt, thời nay Chân Ngôn này hay làm ủng hộ khiến được trụ lâu. Nếu lại có người y theo Nghi Quỹ này, chí Tâm trì tụng, cầu Phước Đức tối thượng của Thế Gian thì không có gì chẳng thành tựu. Giả sử lại có người, Tâm chưa tin chắc thật, đối với Đàn Nghi này thí nghiệm dựng lập thì việc mong cầu cũng được thành tựu, huống chi là chí thành y theo Pháp trì tụng".

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn Giáo Pháp của Nghi Tắc Tranh Tượng này vì chúng sinh năm trược trong đời vị lai: đoản mệnh, nghèo túng, lười biếng, ngu si, chẳng thể tinh tiến, tu Hạnh rộng lớn tùy theo căn cơ cạn cợt ấy mà lược nói. Trước tiên, khiến hợp chỉ trắng, hoặc một lượng, hoặc nửa lượng, dùng chỉ bện dệt tấm trang chỉ. Tấm tranh dài một khuỷu tay, rộng nửa khuỷu tay, bên dưới lưu lại chút chân chỉ. Hoặc dùng tơ lụa làm tấm tranh cũng được.

Nếu cần tấm tranh, hoặc dài hai khuỷu tay, bốn khuỷu tay, sáu khủy tay, tám khủy tay, cho đến mười khuỷu tay cũng được. Hết thảy nhóm tóc, lông đều nên loại bỏ di, tinh khiết hộ trì không để cho vấy bẩn. Dùng nhóm hương: Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma xông ướp tấm tranh ấy, rồi an trí một vật khí trong sạch ở đất tinh khiết, đem tấm lụa bỏ đầy trong vật khí ấy. Sau đó đem nhóm hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma, Long não bỏ vào trong nước sạch không có loài trùng rồi hòa chung, rưới vảy thấm ướt tấm tranh chỉ ấy, y theo Pháp an trí ba ngày, làm ủng hộ A Xà Lê chí Tâm thanh tịnh, vào ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, hướng trước tấm lụa, hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường, tụng Chân Ngôn này 800 biến.

"Đát nễ-dã tha: Án, hứ hứ, bà nga tông, phộc hộ, lỗ bát, đà la, vĩ nễ-dã, tác sô săn, a phộc lộ ca dã, a phộc lộ ca dã, hàm, tam ma dã ma nỗ sa-ma, câu ma la lỗ ba, đà lý ni, ma hạ mạo địa tát đát-phộc, khẩn tiến la dã tế, hồng, phả tra phả tra"

A Xà Lê trì Chân Ngôn này đầy đủ xong, chỉ ở bên cạnh tấm lụa, nằm ngủ. Như trong mộng thấy điềm tốt lành thì Pháp của tấm tranh ắt thành, có thể khiến vẽ tượng.

Như trong mộng thấy điềm chẳng lành thì Pháp của tấm tranh chưa thành. Lại ở trong vật khí lấy thân tấm tranh ra, rồi phơi ở bóng mát cho khô. Tấm tranh ấy khô xong, lại dùng riêng vật khí tinh khiết tròn đầy, chứa đầy tấm tranh ấy bên trong, rồi y theo Pháp an trí ở chỗ bí mật của đất thanh tịnh, khiến người trì tụng lại niệm Lục Tự Vi Diệu Tâm Chân Ngôn một Lạc Xoa (10 vạn biến) làm ủng hộ thì tấm tranh ấy quyết định thành tựu

Đủ ba ngày sau, lấy thân tấm tranh ra, chọn ba trường Nguyệt (tháng 5, tháng 9, tháng Giêng khiến vẽ bức tranh này. Nếu muốn tháng khác thì cần gặp thời, nên chọn ngày tốt của kỳ Bạch Nguyệt, lại được Tinh Diệu tốt trực nhật, lại đến nửa đêm, giờ Tý thì khiến người vẽ thọ nhận Giới Phẩm, đến sáng sớm, chọn đất trong sạch, thiếu đốt Long Não Hương rồi khiến vẽ tranh.

Trước tiên, vẽ Diệu Cát Tường Đồng Tử, làm tướng Tiểu Đồng Tử, đầu có năm búi tóc, màu vàng ròng trang nghiêm thân thể, mặc áo màu xanh, lại dùng Tiên Y màu xanh quàng trên thân, ngồi Bán Già ở trên tòa Sư Tử, chân phải đạp ở tòa báu, bên dưới tòa báu lại có hoa sen trắng, làm tướng Thuyết Pháp, trên dưới đoan nghiêm, các tướng viên mãn, mặt hiện tướng vui giận, quán nhìn người trì tụng.

Bên phải là Thánh Phổ Hiền ngồi trên hoa sen trắng, đầy đủ các tướng, tất cả trang nghiêm, thân màu xanh lục tím, mặc áo màu xanh, dùng châu báu Anh Lạc làm dây quấn nách, tay trái cầm viên ngọc báu Như Ý, tay phải cầm cây phất trắng.

Bên trái Diệu Cát Tường, vẽ Thánh Quán Tự Tại cũng ngồi trên hoa sen trắng, thân như màu mặt trăng trung thu, đầy đủ các tướng, tất cả trang nghiêm, cũng mặc áo màu xanh, lại dùng châu báu Anh Lạc làm dây quấn nách, tay trái cầm hoa sen trắng, tay phải cầm cây phất có cán bằng vàng ròng, mặt hiện tướng vui giận, chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường.

Lại hoa sen trắng đã ngồi này từ nước ao sinh ra, ở cọng cán có ba hoa sen, tòa hoa sen trắng ở giữa là Diệu Cát Tường, hoa sen trắng hai bên thì tòa bên phải là Phổ Hiền, tòa bên trái là Quán Tự Tại. Cọng của hoa sen làm màu của vật báu xanh đậm.

Ở ao Đại Vô Nhiệt Não ló ra hai vị Đại Long Vương, vị thứ nhất tên là Nan Đà, vị thứ hai tên là Bạt Nan Đà, thân làm màu trắng, tất cả trang nghiêm, đều ở trên đầu đội bảy đầu Rồng, nửa bên trên như tướng người, nửa bên dưới như hình rắn, ở trong ao này nâng cọng hoa sen trắng, ngẩng đầu chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường Bồ Tát. Bên trong ao ấy có vô số hoa sen, hoặc nở, hoặc chưa nở dùng để trang nghiêm.

Lại ở bên phải của Diệu Cát Tường, gần góc tranh, vẽ người trì tụng như nghi tướng của người ấy mà vẽ, quỳ gối phải sát đất, tay bưng lò hương, chiêm ngưỡng Đạo Trường Hội.

Lại ở bên trên Diệu Cát Tường, gần hai góc tranh, vẽ hai vị Thiên Từ cỡi mây trong hư không, bay đến làm tướng tuôn mưa hoa, tuôn mưa hoa thù diệu xuống dưới tràn khắp ở trên bức tranh, mọi loại mở bày như nghi tắc lúc trước.

Hết thảy Thánh Diệu Cát Tường, Phổ Hiền, Quán Tự Tại với vật cầm nắm ấy kèm A Xà Lê trì tụng đều nên y theo Pháp giáp vòng vẽ đầy đủ. Nếu chẳng y theo Pháp, thiếu đi một việc thì Đàn Pháp chẳng thành, mong cầu không có thành tựu.

Nếu người không có sức, hoặc có thể tùy theo Duyên dựng lập thì Pháp ấy chẳng nhất định. Như tấm lụa đã làm được, hoặc một xích (1/3 m), hoặc một khuỷu tay, hoặc nửa khuỷu tay cũng được làm bức tranh. Người vẽ, hoặc tin Pháp hoặc chẳng tin Pháp, hoặc trì Giới hoặc chẳng trì Giới, hoặc trong sạch hoặc chẳng trong sạch cũng có thể được vẽ.

Nếu người trì tụng, hoặc tự mình hoặc người khác, nên tin trọng Phật Pháp ,trì Giới thanh tịnh, phát Tâm Bồ Đề. Như vậy người ấy đối với Chân Ngôn Hạnh, ắt được thành tựu.

Nếu người đối với Tà Luận của Ngoại Đạo với Tiểu Thừa mà chẳng ưa dính, đối với Đại Thừa thì tin ưa tu tập, ắt được thành tựu Phật Đạo vô thượng.

Nếu người đối với Bạch Pháp (tất cả pháp trong sạch tốt lành) mà chẳng tin thì đối với hạt giống Bồ Đề, cuối cùng không có dụng để sinh ra, ví như lúa khô héo dứt hẳn mầm giống ấy.

Nếu người tin nhận, y theo Pháp thọ trì thì hết thảy tất cả Chân Ngôn thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian với các Hiền Thánh, không có gì chẳng thành tựu Nay Ta lược nói Phẩm Thượng Trung Hạ với việc của Pháp Tắc của bức Tranh nhỏ ấy, tất cả chỗ mong cầu đều được thành tựu.

PHÁP THÀNH TỰU TỐI THƯỢNG THỨ NHẤT

_PHẨM THỨ TÁM_

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Ta vì chúng sinh nói Pháp Tắc Tranh Tượng thù thắng rộng lớn này, hay khiến cho chúng sinh có chút ít điều tốt lành được thành tựu Công Đức rộng lớn. Nay muốn vì ông phân biệt so sánh nghiệp báo của Phước Đức. Nay ông hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ!"

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Lành thay! Lành thay! Nay vì chúng con phân biểt so sánh Công Đức có được của Chân Ngôn Pháp Hạnh. Nguyện xin Đức Thế Tôn Từ Bi thương xót, phương tiện giải nói"

Lúc đó, từ khuôn mặt của Đức Thích Ca Như Lai phóng ra ánh sáng lớn. Ánh sáng ấy có bốn màu: xanh, vàng, đỏ, trắng chiếu khắp Đại Chúng, lại chiếu ba ngàn Đại Thiên Thế Giới. Tất cả Ma Vương bị mất uy lực lớn. Hết thảy ánh sáng của báu ngọc Ma Ni, tất cả Tú Diệu, mặt trời, mặt trăng đều bị che lấp, không có chiếu sáng. Bấy giờ, ánh sáng của Đức Phật lui về nhập vào khuôn mặt của Đức Phật.

Khi ấy, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong Đại Chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu mặt lễ bàn chân của Đức Phật, rồi bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp ba ngàn tất cả Thế Giới? Ắt có Nhân Duyên, Nguyện xin Đức Phật vì con nói"

Đức Thế Tôn bảo Kim Cương Thủ: "Như vậy! Như Vậy! Như Lai hiện điềm lành này ắt có nguyên nhân của nó. Nay vì các ông nói Diệu Cát Tường Căn Bản Nghi Quỹ Chân Ngôn Kinh Vương này, khiến cho chỗ làm chỗ mong cầu của hữu tình ấy, đều được thành tựu, tất cả bình đẳng khiến vào Pháp Hạnh.

Nếu có người tin kính, thọ trì, đọc tụng, viết chép, lễ bái. Dùng hương Long Não, hương xoa bôi với hương đốt, vòng hoa, dù lọng, phướng phan, kỹ nhạc, loa, bạt, diệu âm như vậy tùy theo Duyên cúng dường, phát Tâm hồi hướng, muốn cầu Phước lớn.

Hoặc nghe Pháp Giáo thì y theo Pháp phụng hành, hoặc tùy vui cung kính thời Ta cho người ấy đều thọ nhận A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề Ký. Như vậy phóng ánh sáng để tuyên nói việc nói.

Nếu có người trước tiên nhập vào Tam Muội, trong sạch giữ Giới, thọ nhận Quán Đỉnh đối với Nghi Quỹ Vương, Căn Bản Tâm Chân Ngôn, Ngoại Tâm Chân Ngôn này, hoặc Chân Ngôn riêng với Nhất Tự Chân Ngôn đến chỗ hoang vắng dùng nước, quả trái với lá, rễ của nhóm thuốc làm thức ăn chay, tinh khiết Thân Tâm, tùy theo ý tụng Chân Ngôn lúc trước 30 Lạc Xoa. Lại trên đỉnh núi cao, hướng mặt về phương Tây an trì Tranh Tượng thứ tư. A Xà Lê hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường, dùng nước hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma thấm tẩm vào hoa sen trắng một lạc xoa, hướng về phía trước của bức tranh phụng hiến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni với chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả Hiền Thánh.

Lại dùng Long Não Hương, nhiều loài hoa đẹp, tùy theo Duyên cúng hiến nhóm Trời, Rồng, Thần. Ở trước bức tranh làm lò Hộ Ma như tướng hoa sen.

Chọn ngày 15 trong ba trường Nguyệt, lúc nửa đêm, giờ Tý dùng Bạch Đàn làm củi nhóm lửa. Lại đem Cung Câu Ma, Long Não hòa hợp thành viên tròn, số lượng có thể là tám ngàn viên, dùng làm Hộ Ma để làm ủng hộ.

Thời khắp thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phát ra ánh sánh sáng giống như đám lửa. Ngay lúc đó, A Xà Lê dùng hoa sen trắng đã được ngâm tẩm nước Cung Câu Ma Bạch Đàn, dâng hiến nước Át Già, mau chóng nhiễu quanh bức trang ba vòng, liền đỉnh lễ tất cả chư Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác. Đã đỉnh lễ xong, liền thâu lấy bức tranh thọ trì, chẳng bao lâu mau chóng được Thần Thông. Trải qua khoảng một cái búng tay, vướt qua cõi Phạm Thiên, đến cõi nước Khai Hoa Phật, được thấy Đức Khai Hoa Vương Như Lai với vô số trăm ngàn Bồ Tát cúng dường cung kính.

Ở trước mặt Diệu Cát Tường gần gũi được nghe Pháp, trụ ở Phật Hội ấy, sống đến một kiếp. Tranh Tượng đã trì cũng ở tại nơi ấy, chư Phật Bồ Tát luôn làm hộ niệm, thảy đều thông đạt Pháp Tạng của chư Phật, lại được Thần Thông Đại Lực, vào ngàn cõi Phật biến hiện ngàn thân, cùng với Diệu Cát Tường làm Thiện Tri Thức. Người này quyết định thành Vô Thượng Giác.

PHÁP THÀNH TỰU TỐI THƯỢNG THỨ HAI

_PHẨM THỨ CHÍN_

Bấy giờ, tất cả Đại Chúng ngồi an lành. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong Đại Chúng bảo Thiên Chúng ấy rằng: "Này các ông! Hãy nghe cho kỹ Pháp thành tựu Thánh Diệu Cát Tường Đồng Tử Sở Hạnh Kết Đàn Chân Ngôn, nếu có người trì tụng thời hay làm ủng hộ. Tối Thượng Bí Mật Vi Diệu Tâm Đại Minh Vương Chân Ngôn này được tất cả Phật nói, nếu tụng Minh này thời như tụng tất cả Chân Ngôn, Thiên Chúng các ông chẳng được vi phạm Minh Vương Chân Ngôn này, nên y theo Pháp trì tụng, thỉnh triệu, giáng phục. giả sử Thánh Diệu Cát Tường còn chẳng dám trái nghịch, huống chi là các Bồ Tát khác. Hay phá tất cả chướng nạn, hay phá tất cả Chân Ngôn thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian. Nhất Tự Chân Ngôn này có đủ đại tinh tiến, có thế lực lớn, chỉ có Nhất Tự Chân Ngôn này ở trong tất cả Chân Ngôn là tối thượng, không có sợ hãi mà được bậc nhất"

Thiên Chúng hỏi rằng: "Nay Chân Ngôn này vì sao lại gọi là Nhất Tự? Lại có sức mạnh như thế nào?"

Đức Thế Tôn nói: "Nay Nhất Tự này hay đủ tất cả nghĩa, hay làm tất cả việc, hay chặt đứt tất cả Chú, hay phá thất cả nghiệp tội, cũng hay viên mãn tất cả Chân Ngôn, ở trong tất cả Chân Ngôn thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian là tối thượng, là Tâm của tất cả Như Lai, viên mãn tất cả nguyện, lại không có gì có thể hơn được Chân Ngôn này:

"Án, sắt-tri-lăng"

Đây là bí mật tối thượng của bậc Thánh, hay làm tất cả việc, tên gọi là Nhất Tự Minh Vương chẳng được vi phạm, hay che giúp thân của chúng sinh, khiến cho tất cả Bộ Đa chẳng được nhìn thấy, không có thể được dịp thuận tiện gây hại, là Cát Tường của tất cả Phật, hay thành tựu tất cả Chân Ngôn, hay làm Thầy của tất cả Thế Gian, hay làm tất cả Tâm tự tại, hay thương xót tất cả hữu tình, hay phá hoại tất cả chướng nạn, như điều đã làm theo Ý đều được thành tựu, tất cả Chân Ngôn mà trước kia chưa niệm cũng được tinh thục mà chẳng quên mất. Tự mặc quần áo, lại tụng Chân Ngôn này gia trì trên áo thì người nhìn thấy đều yêu kính. Gia trì vào tăm xỉa răng rồi chà răng thì không có tai vạ Gia trì vào cây Bạch Ca La Vĩ La bảy biến, nếu dùng chà răng thì điều đã mong muốn, chẳng cầu tự được.

Nếu có bệnh về mắt, dùng bột muối gia trì bảy biến, rồi đem chấm vào con mắt thì bệnh mau được trừ khỏi. Nếu bị bệnh về tai, dùng loại nấm sinh trong phân voi với lá cây Cát Một Ca, dùng lửa nhỏ thiêu đốt. Thiêu đốt xong, bỏ vỏ khiến cho ôn hàa rồi bỏ vào bột muối, trộn chung lại, để ở một nơi, gia trì bảy biến. Dùng thuốc chấm vào lỗ tai, thì trong khoảng sát na, liền khỏi bệnh.

Nếu người nữ sinh đẻ khó, chịu sự đau khổ. Dùng rễ thuốc A Tra Lỗ Sa Ca, lầy nước sạch không có loài trùng, mài thuốc rồi xoa bôi trên rốn thì tự nhiên sinh được, mẹ con đều an ổn.

Nếu người bị nhọt ác do đao, tên gây thương tích. Dùng Trần Tô gia trì tám biến, ăn bơ này kèm xoa bôi trê nhọt, thì nhọt ấy liền khỏi.

Nếu bị Khí Bệnh với Tả Lỵ. Lấy Thanh Diêm (một loại muối có màu trắng xanh), hoặc Hồng Diêm (một loại muối ăn) hoặc loại muối khác gia trì bảy biến rồi ăn muối này thì bệnh liền khỏi.

Nếu người bị bệnh nôn ngược ra ngoài. Dùng rễ thuốc Ma Đổ Lung Nga, lấy nước sạch không có loài trùng mài xong, tụng Chân Ngôn này gia trì, hoặc gia trì một biến hai biến đều được trừ khỏi.

Lại người nữ sinh khó. Dùng rễ thuốc A Thấp Phộc Hiến Đà, lấy bơ của con bò vàng chiên nấu xong, lại dùng sữa của con bò vàng mài rồi gia trì 25 biến. Người nữ sau kỳ Kinh Nguyệt ba ngày thì ăn, chẳng được tà nhiễm, người chồng cũng vậy. Nếu hành tà nhiễm thì thuốc ấy không có hiệu lực.

Nếu đứa con ở bên trong bụng mẹ; hoặc một năm, hai năm, ba năm. Năm năm hoặc nhiều năm mà chẳng sinh ra được. Hoặc bị Cấm Chủ của người khác chẳng cho sinh, hoặc bị Dược Pháp chế phục chẳng cho sinh, hoặc tự có bệnh chẳng thể sinh, hoặc đã bị bệnh tiến lui chẳng bình thường khiến chẳng sinh được. Như vậy mọi loại chướng ngại khiến cho sinh đẻ chẳng được. Dùng sức gia trì đều được sinh đẻ, đều được an vui.

Nếu bị Oan Gia làm Pháp gây chướng khại khiến cho khó sinh. Dùng Trần Tô, lông đuôi chim công gia trì 27 biến, hòa chung với nhau rồi nghiện mịn ra. Nghiền xong thì vo thành viên, lớn như hạt Ha Tử. Lại dùng sữa trắng, đường, bơ gia trì hai biến, sau đó ăn chung.

Lại ăn bảy ngày thì được bình yên tốt lành. Nếu bị đau buốt đầu. Dùng lông cánh của con quạ, gia trì bảy biến rồi lấy cái lông cánh ấy phất phủi đầu người bệnh thì mau được an vui.

Nếu trẻ con nam nữ bị các thứ bệnh. Dùng rễ A Lam Mô, rễ Nễ Lê Ca mài chung với nước cốt sữa rồi gia trì 108 biến. Sau đó ăn uống, liền được an vui.

Nếu có bệnh sốt rét cách 4 ngày, hoặc 3 ngày, hai ngày, hàng ngày phát bệnh một lần. Bệnh ác như vậy, dùng cháo sữa hòa chung với bơ, gia trì 108 biến rồi cho ăn, liền được an vui.

Nếu gặp người bị Quỷ Nại Cát Nễ bắt giữ, thì tự miệng mình niệm 108 biến rồi quán nhìn thời người bệnh liền được an vui.

Nếu tất cả người bị Quỷ ác bắt giữ. Ấy là nhóm Ma Đa La, Bố Đan Nẵng, Phệ Đa Noa, Đồng Tử Quỷ thì gia trì vào bàn tay của mình 108 lần rồi dùng tay xoa đỉnh đầu người bệnh, liền được an vui.

Nếu tụng một biến thì tự thân được ủng hộ.

Nếu tụng hai biến thì người đồng hành được ủng hộ. Nếu tụng ba biến thì một nhà được ủng hộ. Nếu tụng bốn biến thì làng xóm được ủng hộ. Nếu tụng năm biến thì một Châu được ủng hộ. Như vậy nếu tụng ngàn biến thì một nước được ủng hộ. Như vậy đều hay ủng hộ với việc Điều Phục kia, tất cả hay làm được. Nếu có quên mất câu văn thì trở lại được ghi nhớ rõ.

Nay Chân Ngôn này tuy có đủ sức điều phục bức hại, nhưng Đức Phật chẳng hứa cho làm, vì sợ hại cho Tình Vật.

Lại nữa, Pháp dựng Đàn. Ở nơi sạch sẽ không có người, hoặc gần bờ sông, bờ biển, hoặc bờ sông Hằng, hoặc bờ sông lớn, sông đào khác. Hết thảy nơi thanh tịnh, người trì tụng một ngày ba thời tắm rửa, thay đổi áo, yên lặng đi xin thức ăn (khất thực) xong, hái quả làm thức ăn. Ăn xong, chí Tâm niệm Chân Ngôn 30 lạc xoa. Như khi có điềm lành, tức sự mong cầu được thành tựu.

Liền ở chỗ gia trì, an trí tranh tượng thứ nhất, xếp bày cúng dường. Hoặc dùng vật khí bằng vàng, hoặc vật khí bằng bạc, hoặc vật khí bằng đồng, hoặc vật khí bằng sành, hoặc vật khí bằng sứ xếp bày hương hoa rồi dùng cúng dường.

Lại khiến một lạc xoa người thắp một lạc xoa ngọn đèn. Dùng dầu hương Đô Lỗ- Sắt (Turuṣka) chứa đầy trong cái chén, lấy nhóm vải trắng làm tim đèn, thắp sáng khắp cả ở trước tượng ấy, chiếu sáng tất cả vùng tương cận. Bức tranh phát ra lửa sáng giống như đám lửa, tức thời trong hư không chợt có tiếng trống, khen rằng: "Lành thay Trì Tụng A Xà Lê!". Nếu nghe tiếng này thì mau chóng hướng về phía trước bức tranh, hiến nước Át Già, nhiểu quanh ba vòng, đỉnh lễ tất cả chư Phật, Hiền Thánh. Liền thu lấy Tranh Tượng rồi làm thọ trì, thì chẳng lâu cùng với người thắp đèn được Đại Thần Thông.

Ở trong hư không có một lạc xoa, một cung trời đi đến nghênh đón người này. Lại có chư Thiên dùng kỹ nhạc, ca múa, hát xướng, Thiên Nữ khen ngợi. Lại được Trì Minh Luân Vương cho người trì tụng ấy thọ nhận Quán Đỉnh. Các người thắp đèn được mọi loại áo Trời để nghiêm thân, khắp thể tỏa ánh sáng ví như mặt trời mọc, trụ một đại kiếp.

Nếu A Xà Lê làm Thiên Luân Vương thì thọ mệnh kéo dài, được các người Đồng Hành với các Thiên Nhân theo làm Thị Giả. Thân thể mịn màng vi diệu, bậc bên dưới khó nhìn thấy. Ở trong tất cả Hiền Thánh là tối thượng tối tôn, Thiên Nhân kính yêu. Ở trong sát na vượt qua cõi Phạm Thiên, cầm tất cả vật cúng dường chư Phật với chúng Bồ Tát. Đức của Thiên Đế cũng chẳng theo kịp huống chi là các Thiên Nhân khác, cùng với Diệu Cát Tường làm Thiện Tri Thức, ở đời vị lai sẽ được thành Phật.

Lại có Pháp thành tựu. Trước tiên nên ở đất tịch tĩnh hoang vắng rộng lớn, lìa các loài người vậy gây ồn ào. Lại có ao hoa sen, bên ao cần có ngọn núi. Ở trên núi này, hết thảy Nhất Tự Chân Ngôn trong Diệu Cát Tường Nghi Quỹ Kinh với Chân Ngôn mà chư Phật Bồ Tát đã nói thời người ấy tùy theo ý thọ trì, làm Pháp. Ăn rễ hoa sen làm Trai, chí Tâm tụng trì Chân Ngôn 36 lạc xoa.

Khóa Tụng xong rồi, cầm nắm bức tranh thứ nhất mà Nghi Quỹ lúc trước đã nói, an trí trên núi. Dùng nước hương: Hoa sen, Bạch Đàn, Cung Câu Ma tẩm cây củi Khư Nỉ La. Trước tiên an trí ba vạn sáu ngàn cọng hoa sen ở bên trong lò, dùng cây Khư Nỉ La đã tẩm, đồng làm Hộ Ma.

Nếu Hộ Ma xong rồi thì Tượng Đức Thế Thích Ca Mâu Ni Phật ở trong bức tranh phóng ánh sáng chiếu người trì tụng. Chiếu xong lại nhập vào bên trong bức tranh, khiến cho người trì tụng được năm Thần Thông, nhập vào Bồ Tát Địa, ánh sáng trong sạch như mặt trời, tùy ý tự tại, sống lâu 36 kiếp.

Lại qua 36 lạc xoa cõi Phật. Uy Lực của Đức Phật ấy khiến cho được thấy 36 câu chi Phật trì Giáo Pháp ấy. Ở cõi Phật ấy mà làm cúng dường, cùng với Thánh Diệu Cát Tường làm Thiện Tri Thức, ở đời vị lai được Bồ Đề vô thượng, Niết Bàn cứu cánh.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ CHÍN_

PHÁP THÀNH TỰU TỐI THƯỢNG THỨ BA

_PHẨM THỨ MƯỜI_

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại nói Pháp thành tựu tối thượng của Nghi Quỹ Vương này. Nếu người tụng ấy, khi làm Pháp thời nương theo thuyền vào sông Hằng lớn, trụ khoảng giữa sông, dùng sữa làm thức ăn, tụng Chân Ngôn 30 lạc xoa, tụng các Chân Ngôn khác đều được. Nếu tụng đủ số thì thấy tất cả Rồng, liền làm lò Hộ Ma như tướng hoa sen, đem bức tranh thứ nhất lúc trước hướng mặt về phương Tây an trí, hiến cúng dường lớn. Người trì tụng hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường, dùng hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma xông ướp hoa Rồng, lại dùng cây Khư Nỉ La làm củi, đưa vào ngay trong lò. Mỗi một hoa Rồng, gia trì bảy biến rồi làm Hộ Ma. Như vậy số Hộ Ma đủ ba vạn lần.

Khi làm Hộ Ma, nếu có Rồng hiện ra, hoặc cầm thuốc hương, hoặc cầm vật báu đem cho thì người trì tụng chẳng được nhận lấy. Nếu Hộ Ma xong thì được Trì Minh Luân Vương mau đủ Thần Thông. Tất cả Long Vương thảy đều hàng phục, như đồng theo hầu, tùy ý tự tại, không có gì có thể thắng được, thọ mệnh 30 Trung Kiếp, gần gũi thấy Thánh Diệu Cát Tường tìm đến xoa đỉnh đầu, có đủ năm Thần Thông, chẳng bao lâu sau được thành Phật Quả.

Lại có Pháp thành tựu tối thượng, cũng ở trong sông Hằng lớn làm Pháp. Trước tiên dùng một đoạn của cây Cát Tường Quả (cây Thạch Lựu) làm cái thuyền bền chắc, lại dùng cây Cát Tường Quả làm mái chèo. Chiếc thuyền được dùng, cần phải làm khéo léo, có nhiều phương tiện để cho chiếc thuyền đi lại an ổn trong dòng nước.

Người trì tụng hết thảy thọ trì Căn Bản Chân Ngôn, hoặc Lục Tự Chân Ngôn với Minh Vương Quyến Thuộc Chân Ngôn làm Pháp thành tựu. Ở trong thuyền, hướng mặt về phương Tây để bức tranh. Người trì tụng hướng mặt về phương Đông, giữ gìn Trai Giới. Dùng nhóm sữa, quả trái, mầm thuốc, rễ thuốc làm thức ăn, một ngày ba thời tắm rửa thay đổi áo, yên lặng chí Tâm ở trước bức tranh ấy, tụng Chân Ngôn lúc trước 60 lạc xoa.

Trì tụng xong, tự mình đưa thuyền đi vào biển lớn, vật đã dùng tùy theo Hạnh thọ trì. Khi vào biển lớn thời chẳng được sợ hãi, chỉ một mình người trì tụng mới có thề quay thuyền trở về, còn người khác thì không được phép, Trong khoảng sát na có thể đi được trăm ngàn Do Tuần. Song, ở trong biển làm Pháp thành tựu.

Trước tiên làm lò Hộ Ma như cái hũ, dùng cây Khư Nỉ La làm củi, hòa hợp Bạch Đàn, Long Não, hoa Rồng làm thành viên rồi chứa đầy trong vật ví bằng sành, hoặc lớn hoặc nhỏ, tạm thời đều được, cần phải đủ 60 lạc xoa viên rồi gia trì làm Hộ Ma.

Cũng như thế, vào lúc Hộ Ma, có La Xoa trụ tại nước Lăng Già là biến hình xấu ác. Lại có cung Rồng tên là Đại Phú Quý, nơi ấy có vị Đại Long Vương từ cung Rồng đi ra, biến mọi loại thân, hiện tướng thiện ác cùng với La Sát ấy phát ra lời nói như vầy: "Ông hãy đứng dậy! Ông hãy đứng dậy vì Ta mà làm Chủ". Như vậy lại có A Tu La, Dạ Xoa, Thiên Nhân, Ma Hộ La Già với tất cả Hiền Thánh phát ra lời nói dịu dàng khéo khéo, khuyến thỉnh khiến cho đứng dậy thời chẳng được đứng dậy, cũng chẳng được kinh sợ. Người trì tụng liền tụng Chân Ngôn, tay trái kết Kỳ Khắc Ấn khắc chế thì nhóm ấy liền sinh sợ hãi, tìm dịp thuận tiện lùi tan.

Làm Hộ Ma xong thời Rồng Quỷ đã không có. Người trì tụng với chiếc thuyền đã có, trong khoảng sát na đi đến trời Sắc Cứu Cánh với các cõi nước, đi lại tự tại, phát Tâm Bồ Đề, nhìn thấy Thánh Diệu Cát Tường, cũng được Đại Lực của năm Thông.

Hết thảy tấy cả Trời, tất cả Rồng, tất cả Dạ Xoa, tất cả A Tu La, tất cả Thiên Nhân, tất cả chúng sinh thày đều hàng phụng, thọ nhận sự chỉ dạy của người tụng. Lại được tất cả chư Phật, Bồ Tát, Thánh Hiền Từ Tâm hộ niệm.

Hết thảy Quỷ Ma Đa (Toái Quỷ) với tất cả Quỷ Thần chẳng nhìn thấy thân ấy, huống chi là có thể gây não loạn.

Lại có Pháp thành tựu tối thượng. Dùng một đoạn cây Cát Tường Quả, ở bên bãi sông Hằng chế làm cái thuyền. Lại khiến 120 người cầm cây đèn, thân mặc áo trắng làm chỗ ủng hộ, rồi đem bức tranh thứ nhất, như nghi tắc lúc trước an trí, hiến đại cúng dường. Lại dùng hoa Rồng, Bạch Đàn, Cung Câu Ma, Long Não hòa hợp làm thành viên với số lượng là ba vạn viên. Lấy cây Khư Nỉ La làm củi dùng làm Hộ Ma.

Làm Hộ Ma xong, thì ngưới với chiếc thuyền trong khoảng sát na đi đến cõi Phạm Thế tùy ý tự tại. Lại nhìn thấy Thánh Diệu Cát Tường, được Bồ Tát Địa, đủ Đại Ngũ Thông, sống lâu một Kiếp, làm Đại Trì Minh Luân Vương. Người cầm đèn ấy được Trì Minh Thiên đồng làm người theo hầu, thường cúng chư Phật, ở đời vị lai sẽ thành Chính Giác.

Lại có Pháp thành tựu tối thượng. Hoặc ở bên bờ sông, bờ biển với trong biển lớn, nơi vắng lặng xa lìa chỗ ồn ào nào nhiệt dựng Đàn trì tụng, cầu Pháp tối thượng đều được thành tựu. Hoặc núi Tuyết, núi Hương, núi Hương Túy, núi A Một Nỉ, núi Tam Phong, với nơi có rừng cây hoa quả lìa các uế tạp, mọi loại ác vui thích trì tụng Chân Ngôn Pháp Hành đều được thành tựu.

Nếu tại Nam Ấn Độ: hoặc ở núi Cát Tường, tháp Xá Lợi cát tường thì cũng được thành tựu.

Nếu tại Bắc Ấn Độ: nước Ca Thấp Di La, nước Nễ Ba La, nước Ca Vĩ Thi, tiếp đến nước Tiểu Chi Na, nước Đại Chi Na hết thảy núi, rừng, sông, biển, nơi thanh tịnh đều được thành tựu Pháp của Chân Ngôn Hạnh.

Nếu ở làng xóm, thành ấp mà làm Pháp thì nên là quốc vương, trọng thần tin kính Phật Pháp, người dân, sĩ thứ hiếu dưỡng cha mẹ, cung kính Hiền Thánh; không có các Ngoại Đạo chúng sinh Tà Kiến. Cõi nước như vậy, ở nơi vắng lặng, hoặc ở trong nhà, hoặc ở đất trống đều có thể dựng Đàn, cầu Pháp thành tựu.

Nếu ở bên trong Trung Thiên Ấn Độ: hết thảy bờ sông Hằng Hà, bờ sông Diệm Mẫu Nẵng, bờ sông Tín Độ, bờ sông Nại Lý-Ma Na, bờ sông Phộc Cật-Sử, bờ sông Tán Nại-La, bờ sông Sa Nga, bờ sông Tịnh, bờ sông Ca Phộc Lý, bờ sông Sa La Bà Để, bờ sông lớn Tỷ Đa. Thắng Địa như vậy có thể được thành tựu Pháp tối thượng.

Lại có Thắng Địa: Tòa Kim Cương, trong tháp lớn, nơi chuyển Pháp Luân, trong tháp an Thụy Tượng (hình tượng điềm lành) với thành Ca Tỳ La, nơi phu nhân Ma Gia sinh Thái Tử, trong núi Linh Thứu, thành lớn Hoa Thị, thành Câu Thi Na, thành Mạt Độ La, thành Khúc Nữ, thành Ô Tế Nễ, thành Quảng Nghiêm. Cõi nước, làng xóm như vậy đều là đất phước đức cát tường thù thắng cỗ làm, chỗ mong cầu đều được thành tựu.

Nếu có chỗ Thiên Nhân cư ngụ, hoặc rừng Thi Đà, hoặc nơi có một một đường một điện an tôn tượng, hoặc dưới cây lớn có hoa quả, hoặc nơi hiển cao đỉnh núi, hoặc trên ao lớn Ưu Lâu Tần Loa, hoặc trong Mãn Thành ở nước Ma Lỗ Ba với sông Nễ Bôn Noa, sông Hằng, nơi cạnh cửa ngõ đi vào biển, Bát La Dã Nga, rừng Đại Thi Đà với chùa tháp miếu của Phật, tất cả đất thù thắng của Thế Gian đều được thành tựu Pháp bí mật tối thượng.

Hết thảy đất biên thùy, đất hoang vắng không có các cây cối hoa quả thì chẳng được làm Pháp.

Hết thảy nơi có người ác tụ tập, chẳng có Luật Nghi, chỉ ở tạm thì được, nếu ở lâu dài, trì tụng, kết Đàn, làm Pháp cuối cùng chẳng thành tựu.

Nếu nơi mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả Thánh Hiền đã đi qua, thời rất ư thù thắng A Xà Lê ấy, trước tiên nên đối với Pháp Chân Ngôn Nghi Quỹ tức Đạo Nghiệp đều nên tinh thục. Lại nên trì Giới thanh tịnh, lìa các Tham Dục, Trí Tuệ thông đạt, lợi ích chúng sinh rồi mới có thể y theo Pháp trì Minh, kết Đàn, tụng Chú, làm nơi Hộ Ma thì mong cầu diệt tội ắt tội ấy đều trừ, mong cầu cát tường ắt tất cả thành tựu.

Như bắt đầu làm Pháp. Trước tiên hướng mặt về phương Tây an trí tranh tượng, người trì tụng ngồi hướng mặt về phương Đông. Dùng đất mà đàn kiến càng đã vận chuyển, đất trên bờ sông Hằng lại dùng nhóm hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma, Long Não hòa hợp làm bùn. Ở trên bức tranh ấy làm một con chim công sinh tại đất sạch sẽ tràn đầy cỏ cát tường. Ở trước bức tranh ấy làm như hình bánh xe. Khiến người trì tụng, tay phải cầm bánh xe, tay trái cầm con chim công.

Vào đêm ngày 15 của kỳ Bạch Nguyệt, ở trước bức tranh làm cúng dường lớn, thiêu đốt Long Não Hương, đến hôm sau khi mặt trời mọc thì con chim công bằng bùn ấy biến thành Đại Khổng Tước Vương, bánh xe cũng phát ra ánh sáng, người trì tụng hiện làm người Trời, thân có ánh sáng như mặt trời mới mọc, mặc áo tối thượng trang nghiêm nơi thân. Tức thời đỉnh lễ chư Phật, Bồ Tát, nhiễu quanh tranh tượng xong, liền tự thâu lấy bức tranh. Trải qua khoảng phút chốc, cỡi con chim công ấy vượt qua cõi Phạm Thiên, có vô số trăm ngàn na do tha câu chi Thiên Nhân làm quyến thuộc, tự mình làm Thiên Luân Vương sống lâu 60 Trung Kiếp, tùy ý tự tại, giàu có đầy đủ không có gì vượt hơn được, gần gũi thấy Thánh Diệu Cát Tường làm Thiện Tri Thức. Người này chẳng lâu sẽ được thành Phật.

Lại có Pháp thành tựu. Như vậy: Trụ Trượng (cây gậy cầm tay để chống đi), Tịnh Bình, tăm chà răng, dây quấn nách, Hùng Hoàng, thuốc về mắt, đao, kiếm, cung, tên, búa, mọi loại khí trượng ưa thích. Hoặc nhóm có hai chân, bốn chân, lạc đà, con lừa, voi, ngựa, sư tử, rồng, cọp Hoặc loài Phi Cầm, nhóm chim: công, Bạch Hạc, Loan, Phượng dùng đất mà đàn kiến càng đã vận chuyển, hoặc đất ở bờ sông với các diệu hương hòa hợp làm bùn. Như Khí Trượng, loài có mạng sống như lúc trước, tùy theo ý ưa thích, dùng bùn tạo làm Hoặc vật để ngồi, vật để nằm, dù, lọng, mão đội đầu, tất cả vật dụng trang nghiêm cũng đều tùy thep ý mà làm. Hoặc là vật mà Tăng Gia (người đi tu, vị tăng) cần dùng: tràng hạt, mũ trụ, giày, áo, bình bát, tích trượng, kéo, dao, kim, thìa.

Nếu là nhóm Tích Trượng, đao, búa đều dùng thép đã tinh luyện tạo làm. Vật khác ấy đều dùng bùn thơm chế tạo. Sửa chữa chế tạo đã thành thục, lại dùng nước Ngũ Tịnh rửa qua, rồi dùng nước Át Già rưới vẩy cho sạch sẽ. Hoặc Nhất Tự Chân Ngôn, hoặc Chân Ngôn riêng, tụng 108 biến để làm Kết Tịnh, làm ủng hộ.

Tiếp theo, như trước đã nói, ở chỗ bí mật thanh tịnh, hướng mặt về phương Tây an trí tranh tượng thứ nhất. Người trì tụng hướng mặt về phương Đông, ngồi trước Tượng ấy, hiến cúng dường lớn, đối nhóm Long Não Hương. Ở đêm ngày 15, cầm nắm tượng vật đã làm, chí Tâm tụng Căn Bản Chân Ngôn lúc trước, đến hôm sau, khi mặt trời mọc thì bức tranh phóng ra ánh sáng lớn, hết thảy bùn thơm, voi, ngựa với loan, phượng ấy cỡi lên liền có thể bay trong hư không tự tại.

Nếu là nhóm đao, kiếm, khí trượng cho đến tràng hạt, mũ trụ, giày thì cầm nắm cũng như thế, thân như mặt trời phóng ra ánh sáng lớn, làm Thiên Luân Vương, làm tất cả Thiên Chủ, sống đến một Đại Kiếp, có vô số trăm ngàn na do tha câu chi Thiên Nhân làm quyến thuộc, ở điện báo Ma Ni tối thượng. Trước tiên, nhóm loài voi, ngựa đã cỡi, luôn tự đi theo thân, đủ thế lực lớn. Ngay Chân Ngôn của mình thường được thành tựu, Chú Pháp của người khác cũng hay phá được, đối với người tự tụng làm ủng hộ lớn, khiến cho A Xà Lê ấy có thế lực lớn, đủ đại tinh tiến, thành thân rộng lớn, được Thánh Diệu Cát Tường khen rằng: "Lành thay" dùng bàn tay xoa đỉnh đầu, làm Thiện Tri Thức, cho đến sẽ được ngồi ở Đạo Trường Bồ Đề thành tựu thân Phật, được tất cả chúng sinh tôn trọng cúng dường, khiến cho các hữu tình đến bờ mé chân thật, được địa vị chẳng lui.

Chính vì thế cho nên, nay Ta lược nói Pháp Hạnh thành tựu tối thượng. Ở đất vắng lặng tối thượng, dựng lập tranh tượng tối thượng bậc nhất, làm Hạnh cúng dường thù thắng đại tối thượng, sự nghiệp Chân Ngôn đại tối thượng bởi thế người trì tụng nương theo hư không tự tại, được địa vị Thiên Luân Vương Đại Bồ Tát, đủ năm Thần Thông, trụ ngàn cõi Phật, ở trước mặt Thánh Diệu Cát Tường thành tựu Nhất Thiết Trí Trí. Lại hay léo mây Đại Pháp, tuôn mưa Pháp Cam Lộ thấm khắp Thế Gian, lợi lạc hữu tình. Do Pháp Lực thành tựu tối thượng nên hay hiện làm chư Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, tất cả Hiền Thánh. Như vậy, tất cả chỗ mong muốn thù thắng, việc cát tường đều được thành tựu.

PHÁP TỊNH HẠNH QUÁN TƯỞNG HỘ MA THÀNH TỰU THỨ TƯ

_PHẨM THỨ MƯỜI_CHI MỘT_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật quán sát chúng ở Đại Hội trong cõi Trời Tịnh Quang có căn cơ thành thực, thuần thiện tương ứng, rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Ta vì các ông, muốn nói việc Nghi Tắc của Tranh Tượng Trung Phẩm có sự nghiệp của Trung Phẩm, Pháp thành tựu của Trung Phẩm. Lành thay! Các ông hãy nghe cho kỹ! Hãy khéo nghĩ nhớ!"

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Đức Như Lai là bậc Thầy của Trời, Người trong tất cả Thế Gian, lợi lạc hữu tình, cứu bạt quần phẩm. Nguyện xin Đức Thế Tôn thương xót chúng con với chúng sinh đời Mạt Thế. Nay hãy vì chúng con lược tuyên nói hết thảy Pháp"

Đức Thế Tôn bảo Diệu Cát Tường: "Nay ông hãy nghe cho kỹ! Nếu có Trì Tụng A Xà Lê hoặc hay tu các Phạm Hạnh, trì Giới thanh tịnh, thân tâm như nhuyễn, thương xót hữu tình. Hoặc an cư ở Pháp thành tựu của tất cả Chân Ngôn này, tác Quán Tưởng ấy, trì tụng, Hộ Ma, quyết định chẳng hư dối thời đều được thành tựu như Nghi Quỹ Vương đã nói.

Nếu Mạn Noa La A Xà Lê nhiếp thọ Đệ Tử khiến vào Mạn Noa La cho kẻ ấy Quán Đỉnh. Đệ Tử đã thọ nhận y theo Pháp tiến tu, luôn nhập vào Tam Muội, thân tâm bình đẳng, Trí Tuệ minh đạt, nói năng thành thật kỹ lưỡng, lìa các niệm hư vọng, dũng mãnh chẳng lui, cung kính, hiếu thuận, chẳng già chẳng trẻ, đối với các lợi dưỡng thì không có yêu dính, đối với Giới Hạng của mình cũng không có khuyết phạm, thương xót hữu tình, tất cả bình đẳng. Người như vậy đối với Mật Hạnh của Chân Ngôn, trước tiên làm cho tinh thục, rồi sau đó cầu Pháp.

Lại A Xà Lê này đối với Mật Hạnh của Diệu Cát Tường Mạn Noa La Chân Ngôn vào sâu không ngăn ngại, được Đại Tổng Trì, khéo hay phân biệt Diệu Hạnh của ba Mật. Đối với Pháp Giới Tính không có sợ, không có dính, đầy đủ tướng con người, sinh trong nhà Quý Tộc, dũng mãnh tinh tiến, khéo chữa trị mọi bệnh, chặt đứt Tham Sân Si. Người có Đức như vậy thì gọi là Mạn Noa La A Xà Lê, cho vị ấy làm Thầy, Hạnh ấy không có gì ngang bằng.

Nếu Đệ Tử ấy, phàm muốn cầu Pháp thời đối với Diệu Cát Tường Đồng Tử Nghi Quỹ Tam Muội ôm giữ sự yêu thích sâu xa, Tâm cung kính, cúi năm vóc sát đất, thành Tâm cáo bạch: "Nay con nguyện cầu nhận Quán Đỉnh, nguyện xin A Xà Lê từ bi nhiếp thọ"

A Xà Lê quán sát Đệ Tử ấy: uy nghi, Phạm Hạnh, Giới Phẩm, thân tâm dược như lúc trước nói thời nhiếp thọ. Y theo Pháp, Quỹ Nghi, thí nghiệm nhóm ấy, cho người ấy Quán Đỉnh, dạy truyền Chân Ngôn, khiến vào Tam Muội, học Ấn bí mật.

Như người này tin thích bền chắc chẳng lùi, liền giúp cho giải thoát, Nghi Quỹ thành tựu của tất cả Chân Ngôn. Nếu chẳng phải là người này thì đối với Nghi Quỹ này chẳng được vì họ nói.

Nếu Đệ Tử ấy được A Xà Lê vui vẻ thì tùytheo sức của mình, duyên như Pháp cúng dường. Thời A Xà Lê dạy truyền, nuôi dưỡng như là cha con. Nghiệp đã có được, lại khiến tùy theo nơi, dựng lập Đạo Trường, hết thảy Nghi Quỹ như trước đã nói.

Chọn lựa đất Đàn tốt, nơi trong sạch không có các uế tạp, gạch, đá vụn, hài cốt an trí tranh tượng, triệu thỉnh Hiền Thánh. Dùng hương, hoa, đèn, đuốc, mọi loại cúng dường, hiến nước Át Già, hiến tòa ngồi với Phát Khiển. Một ngày ba thời tắm gội, mặc áo sạch mới, trì tụng. ngày ngày như vậy.

Lại nữa, A Xà Lê tinh tiến trì Giới, suy tư xem xét kỹ lưỡng Pháp Giới vi diệu, chán ngấy Thế Gian, xa lìa Pháp huyễn, đối với các Chân Ngôn thông đạt không có hai, thành tựu Phán Hành tối thượng sâu xa, tự làm ủng hộ như Đức Phật đã nói. Chân Ngôn Vương này, nếu người y theo thực thành ắt được Thánh Đạo

Lại người trì tụng khéo hay phân biệt nghiệp báo của ba đời, đối với tội nhỏ nhiệm sinh sợ hãi rộng lớn. Hết thảy Chú Pháp của Thế Gian, Chân Ngôn của chư Phật, Kim Cương Bộ Tộc, Liên Hoa Bộ Tộc Pháp Giáo như vậy chẳng nản sợ, siêng năng chịu khó, dũng mãnh tu tập khiến xho thành tựu. Nếu được thành tựu ở nơi vắng lặng, như Lú suy nghĩ, chí Tâm trì tụng, lợi ích hữu tình, thực chứng gốc Đức. Người có Hạnh Đức như vậy thì có thể làm Thầy.

Nếu có người học, viết chép, thọ trì Pháp Hành của Chân Ngôn, làm Mạn Noa La cầu nhận Quán Đỉnh, như được thành tựu thì lợi ích không cùng tận. Lại tự tùy theo sức Duyên của mình cúng dường đến Thầy. Dùng thức ăn uống, quần áo, giường nằm, thuốc thanh, hương, hoa, đèn, quả trái cung kính cúng dường như cúng chư Phật mà không có khác. Đối với bốn uy nghi không khiến cho khuyết phạm, bạo trọng vị Thầy như bảo vệ mạng của mình. Chỗ học thành tựu thì sống lâu không có bệnh, tất cả ước nguyện đều được đầy đủ.

Nếu Đệ Tử ấy tôn trọng, phụng sự Thầy, được vị Thầy vui vẻ thì hết thảy chư Phật Thế Tôn, Thanh Văn, Duyên Giác với các Bồ Tát, tất cả Trời, Người trong quá khứ hiện tại đều sinh vui vẻ.

Nếu vị Thầy có Đức hay không có Đức, có Phạm Hạnh hay không có Phạm Hạnh thì chẳng được hủy phạm. Lại vị Thầy từ Đạo Pháp như Pháp giải nói không có tiếc rẻ che dấu, khiến cho người kia tu học, nuôi lớn con mắt Pháp khiến cho tất cả chúng sinh có chỗ quy y. Như vậy Đệ Tử y theo A Xà Lê được vào Pháp Tạng bí mật của chư Phật. Như vậy A Xà Lê y theo Đệ Tử ấy truyền thông Thánh Pháp khiến gieo trồng mầm Thiện. Chính vì thế cho nên của cải của vị Thầy tương ứng thành tựu, Phật Pháp chẳng đứt đoạn, Tam Bảo được nối tiếp.

Nếu không có Đệ Tử để trao cho Pháp Giáo thì luôn thực hành yêu thương giúp đỡ chúng sinh nghèo khổ, cho kẻ ấy tuyên nói, nhập vào Thánh Pháp Tài (Tín tài, Giới Tài, Tàm Tài, Quý Tài, Văn Tài, Thí Tài, Định Tuệ Tài), Nghi Quỹ, Chân Ngôn, Pháp Giáo của Đại Thừa, đường lối thiết yếu tu hành Phẩm Thượng Trung Hạ, Pháp tối thượng hiếm có khó được, xông ướp sinh mầm Trí mà được thông đạt Pháp Hành tối thượng, y theo Giáo phụng hành, tùy theo chỗ, trở lại tu Pháp Mạn Noa La Như Nghi lúc trước nói, chọn lựa Thắng Địa, ở bờ sông Hằng, bờ sông Tín Độ, hoặc biển lớn, hoặc chỗ hoang vắng rộng lớn, hoặc núi cao, hoặc gần núi, hoặc sâu trong núi, hoặc dưới cái cây, hoặc trong rừng, hoặc trong thôn xóm của đất nước. Nơi thanh tịnh thù thắng như vậy, chí thành trì tụng, Tâm lìa tán loạn, tùy duyên đi xin thức ăn. Ăn xong, yên lặng, Tâm sáng tỏ mật tụng thì Giáng Ma, Tức Tai không có gì chẳng thành tựu.

Nếu lại vì điều mà người đã làm thì cũng nên tin trọng, yêu thích, nhẫn nhục, nhu hòa, các Căn không có thiếu, đầy đủ tướng con người, tất cả việc Pháp theo thứ tự mà dạy truyền. Khiến cho người ấy thức dậy sớm, ở trong biển lớn, lấy nước sông kia, lọc qua không có loài trùng, dùng tự tắm rửa khiến cho thân không có dơ. Lại dùng hương bột, chí ý gia trì, rồi xoa bôi thân, liền khiến vào Đàn A Xà Lê ấy cũng tự tắm rửa, ngồi ờ bên bờ sông, lại dùng đất sạch rửa tay 21 lần, sau đó chà răng, chỉnh đốn quần áo, ở trước mặt Phật cúi đầu mặt làm lễ. Dùng hương, hoa, thức ăn uống, mọi loại cúng dường, mọi loại tán thán...lại dùng hương hoa, hiến nước Át Già. Hiến xong lễ kính, lại tự bạch rằng: "Đệ Tử (họ tên ) từ Vô Thủy trôi lăn trong nghiệp tội vô biên, 7 chi của thân miệng (3 nghiệp của thân là sát sinh, trộm cắp, tà dâm với 4 nghiệp của miệng là nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói thô ác) lỗi ấy chẳng phải là phạm một lần. Nay đối trước mặt Đức Phật, con xin chí thành bày tỏ, nguyện cho tội được tiêu diệt"

Sám Hối như vậy. Lại từ chỗ ngồi đứng dậy, ở trước bức tranh ấy, ngồi trên tòa cỏ cát tường, tay cầm tràng hạt, một lòng trì tụng. Chân Ngôn đã tụng nên y theo sự truyền thụ của Thầt, văn ngôn quyết định, tức hứa cho trì tụng. Nếu chẳng phải được truyền thụ, hoặc nghĩa câu sai lầm với chân ngôn khác thì chẳng được trì tụng sợ chẳng thành tựu.

Lại Đàn Pháp này có Thượng Trung Hạ, nay chỉ nói việc Pháp của Trung Phẩm. Khóa tụng, Nghi Quỹ, Chân Ngôn, Phạm vận đều làm Trung Phẩm. Lại âm vận đã phát ra cũng chẳng được cao, chẳng được thấp, tiếng đều hòa nhã, câu văn rõ ràng.

Đây là Trung Đẳng, tranh tượng cũng thế là điều mà chư Phật quá khứ đã đồng tuyên nói Lại mỗi khi tụng Chân Ngôn, đừng để cho người khác nghe được, sợ kẻ kia nghi ngờ, trở ngược lại thành bị đọa. Nên ở nơi vắng lặng, kết Giới, an cư, chí Tâm trì tụng.

Nếu khi trì tụng thời ở phần thứ tư của đêm (Ngày có sáu phần, đêm có sáu phần. Phần thứ tư của đêm vào khoảng 0 giờ đến 2 giờ) hoặc lúc nửa đêm, ngồi Kiết Già trì tụng đến sáng sớm khi mọc trời mọc, thứ tự đến giữa giờ Ngọ, hiến nước Át Già, phát khiển Hiền Thánh. Việc ấy xong rồi, tuyên dương nghĩa lý, giải nói Pháp Cú. Tiếp theo đọc tụng Kinh Điển, đọc Kinh Thập Địa, Kinh Bát Nhã Ba La Mật Như vậy đọc tụng, cung kính, cúng dường, cúi đầu mặt làm lễ. Lại tụng Căn Bản Chân Ngôn, điều phục các Căn, chuyên tâm Phật Đạo liền được thành tựu Pháp tối thượng.

Lại nữa, khi A Xà Lê nếu vào thôn xóm cầu Hóa Thực (xin thức ăn) thời yên lặng trong sạch đi, ngầm tụng Pháp Cú, nhìn ngó lối đi, chỗ đất không có loài trùng thì mới được đi.

Nhà cho thức ăn là người có Tâm Đạo, Chính Kiến trọng Phật tức được xin thức ăn. Nếu người không có Tâm Đạo, Tà Kiến điên đảo, chẳng phải là Nhân mà tính toán là Nhân...thì chẳng đến chỗ của kẻ ấy, sợ sinh nghi ngờ chê bai, bị rơi vào nhóm ấy.

Lại ở thôn xóm, nếu thấy nhóm cảnh hình sắc, âm thanh mỹ diệu thì chẳng được tham dính, vọng sinh ưa thích, như vào quân trận dũng mãnh không có sợ hãi phá cường địch ấy, như gặp Oan Gia ôm giữ sâu xa mồi hiềm thù chán ghét. Nếu thấy người nữ thi tưởng quán Bất Tịnh, xấu ác, máu mủ, giòi trùng, thối nát, hư hoại như rừng Thi Đà, mọi loại xương khô...sinh tâm chán lìa sâu xa. Nếu kẻ ngu kia, mù quáng sinh cái thấy điên đảo như nơi chấp ưa thích chẳng sạch thì tính toán cho là sạch. Đối với nữ sắc ấy đắm trước chẳng buông bỏ, sợi dây nghiệp ràng buộc khiến rơi vào trong sáu nẻo, luân hồi qua lại không có cùng tận, sinh tử nối tiếp nhau, khổ não chẳng đứt đoạn. Ví như có người cầm sợi dây đánh đu, qua lại cao thấp thì sợi dây chẳng lìa bàn tay. Sợi dây nghiệp cũng thế, sáu nẻo thăng trầm, nghiệp chẳng lìa thân. Như bánh xe cấp nước, như con kiến tuần hoàn mà không có cùng tận.

Đức Phật nói người nữ là gốc rễ của khổ, do đó các khổ nối tiếp nhau mà sinh ra, thế nên Hành Nhân nên khởi Tâm xa lìa Nếu A Xà Lê, hoặc bị người nữ dụ, nếu bị bệnh thì không có tăng ích ấy, chỗ mong cầu chẳng thành. Thượng Phẩm, Trung Phẩm cho đến Pháp thành tựu của Hạ Phẩm đều chẳng thành tựu vì tội phá Giới. Chư Phật, Bồ Tát không có hộ niệm, tất cả Chân Ngôn đều không có Thắng Lực, chút phần khoái lạc thuộc phước báo của người Trời cũng chẳng thể có, huống chi là Pháp tối thượng của Chân Ngôn.

Lại nếu gần gũi người nữ thì ở đời vị lai cầu Bồ Đề, Niết Bàn vĩnh viễn chẳng thành tựu. Tại sao thế? vì nữ sắc hủy hoại người, gây chướng ngại cho Thánh Đạo. Ví như có người chặt đầu cây Đa La thì ở chỗ bị chặt ấy vĩnh viễn chẳng sinh mầm. Mầm giống Trí cũng thế khi bị con dao nữ chặt đứt thì mầm thiện chẳng thể phát. Thế nên lỗi lầm về người nữ rất sâu, cần phải xa lìa.

Nếu bậc Trí kia, tâm chẳng tà loạn, lìa hư vọng, trong sạch quán nữ sắc ấy như hoa trong hư không, như mặt trăng trong nước, chẳng tham, chẳng dính, không được, không buông thì ở Mạn Noa La thành Pháp tối thượng.

Đây gọi là Hạnh khất thực thanh tịnh của Mạn Noa La A Xà Lê

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI_

PHÁP TỊNH HẠNH QUÁN TƯỞNG HỘ MA THÀNH TỰU THỨ TƯ

_PHẨM THỨ MƯỜI_CHI HAI_

Như vậy, A Xà Lê ở thôn xóm trong thành vua xin thức ăn, quay về xong thi an trí cái bát ấy ở chỗ trong sạch. Liền ra bên ngoài phòng, dùng nước sạch không có loài trùng, đưa bàn tay trái tẩy rửa hai bàn chân. Bàn chân đã sạch xong, lại lấy đất sạch tẩy rửa bàn tay, trì tụng Chân Ngôn bảy biến để làm gia trì, rồi dùng vật khí trong sạch chứa đầy phân mới của con bò vàng chưa rơi xuống đất, hòa chung với nước sạch không có loài trùng.

Ở trước mặt Đức Phật ấy làm bảy cái Mạn Noa La vuông vức, bằng phẳng ngay ngắn, hoặc rộng một khuỷu tay hoặc nửa khủy tay. Mạn Noa La thứ nhất rộng khoảng một khuỷu tay dùng phụng hiến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Mạn Noa La thứ hai phụng hiến Bồ Tát, Mạn Noa La thứ ba phụng hiến Bản Tôn Chân Ngôn, Mạn Noa La thứ tư phụng hiến Bích Chi Phật, Mạn Noa La thứ năm phụng hiến Tam Bảo, Mạn Noa La thứ sáu phụng hiến tất cả Hiền Thánh, Mạn Noa La thứ bảy hiến cho tất cả chúng sinh khiến được lợi ích. Nghi Pháp như vậy, ngày ngày nên làm, chẳng được khuyết phạm.

Làm Mạn Noa La xong.

Lại ở nơi vắng lặng, mật tụng Chân Ngôn rồi Sám Hối lần nữa. Sám xong thì đứng dậy, khiến người trong sạch kia lấy nước sạch không có loài trùng ở sông, ở suối chứa đầy bên trong vật khí thanh tịnh, một lòng rửa tay, lại rửa đầu, mặt, lỗ tai, lỗ mũi khiến cho tinh khiết, rồi súc miệng hai ba lần, trì tụng năm biến,liền nâng cái bát trống rỗng đi đến chỗ có dòng nước chảy, nguồn nước, sông, khe suối như Pháp rửa cái bát. Rửa xong thì quay về Viện, đem cái bát chứa đầy cơm đã xin được, lấy ra chút ít để cúng dường Phật với Pháp Giáo của Bản Tôn.

Lại tụng Chân Ngôn Cái bát đã thọ dụng. hoặc làm bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng sành, hoặc lá cây đều có thể làm Ứng Khí (Pātra: cái bát đựng thức ăn đúng theo Pháp) ấy. Đã lấy cơm trong cái bát cúng dường xong, lại chia ra một phần cho người đến sau, hoặc là người khách, hoặc là người nghèo khổ, chẳng được cho nhiều, cần phải lượng sức mà cho, chỉ sợ tự mình chẳng đủ mà bị giảm Khí Lực, có trở ngại cho việc trì tụng với Tịnh tu.

Nếu là thức ăn đã phụng hiến Đức Phật thì tự mình chẳng được ăn, mà chuyển cho người nghèo hoặc nhóm Phi Cầm (chim bay). Nếu tự mình ăn thì chẳng được ăn quá no, khiến cho trì tụng thành bệnh. Thức ăn dư thừa thì đem cho các người nghèo khổ. Như là Đức Phật nói: "Tất cả chúng sinh dùng thức ăn làm mạng sống,đều y theo thức ăn mà trụ"

Giả sử hàng người Trời, A Tu La, Càn Thát Bà, Rồng, Dạ Xoa, Khẩn Na La, La Xoa, Quỷ đói, Tỳ Xá Tả, Bộ Đa, Ô Sa Đá La với hàng Tinh Diệu chưa có ai chẳng y theo thức ăn để trụ mà chẳng ăn.

Hoặc là thức ăn uống tự nhiên, hoặc là tạo làm Đoàn Thực. Như Người, Trời ở Dục Giới chỉ là Đoạn Thực. Như thức ăn uống tinh tế màu nhiệm của chư Thiên ở Sắc Giới thì dùng Thiền Định làm thức ăn. Như Tứ Không (gồm có Hư Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ) của cõi Vô Sắc (Vô Sắc Giới) dùng Hương làm thức ăn. Thế nên Đức Phật nói khiến các chúng sinh y theo thức ăn giúp cho thân tiến tu Đạo Pháp, trì tụng Pháp Giáo, tu các Phạm Hạnh, cung kính Thánh Hiền, hiếu dưỡng cha mẹ, cho đến thành Phật Đạo vô thượng, thành tựu chẳng khó.

Ví như có người, do thức ăn cung cấp mà có sức mạnh, dũng mãnh gánh vác việc nặng, trên con đường đi xa về phía trước, chẳng lấy làm khó. Hành Giả cũng thế, sức thân an kiện thời bên trên cầu Bồ Đề, bên dưới hóa độ hữu tình, làm lợi lạc lớn, cũng chẳng lấy làm khó.

Chính vì thế cho nên, ở đời quá khứ có Đức Phật Thế Tôn tên là Ca Diệp Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác vì tất cả chúng sinh nghèo khổ kia đối với ăn uống của mình, luôn bị thiếu thốn, khiến cho Tâm bức bách, chịu nỗi khổ của cái đói cho nên vì lợi ích của nhóm ấy mà tuyên nói Chân Ngôn tối thượng khiến cho được đầy đủ mọi loại thức ăn uống, tiêu trừ bệnh đói".

Đức Phật nói: "Tất cả hàng Thanh Văn có Bồ Đề Hạnh mà muốn tiến tu thì cần phải mượn Đoạn Thực (thức ăn được băm cắt có thể dùng tay bốc ăn) để giữ thân mệnh. Nay, ông hãy nghe cho kỹ!

Ta sẽ vì ông nói"

Lúc đó, chúng Thanh Văn trong Hội đều rất vui vẻ, rồi bạch Phật rằng: "Thế Tôn Pháp Vương! Thật là hiếm có! Thương yêu giúp đỡ chúng sinh, là bậc nhất trong ba cõi. Nguyện xin nhiêu ích cho chúng con mà nói Chân Ngôn tối thượng này"

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni liền nhận sự cầu thỉnh ầy, phát ra tiếng Ca Lăng Tần Già âm vang dội như tiếng trống sấm, bảo chúng Bộ Đa rằng: "Nay ông hãy nghe cho kỹ! Hết thảy Thế Giới ở mười phương, hiện tại đang tụ hội: loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, không có chân với tất cả chúng sinh thuộc quá khứ, vị lai. Nay Ta vì lợi lạc cho nhóm ấy, khiến được thức ăn uống đầy đủ dư thừa (phong túc)

Liền nói Chân Ngôn mà Đức Ca Diệp Thế Tôn xưa kia đã nói:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Án, nga nga nễ, nga nga nẵng hiến nhạ, a nẵng dã, tát lý-phộc hộ lô hộ lô, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, a ca lý-sa ni, ma vĩ lăng phộc, ma vĩ lăng phộc, dã thể tất-nhĩ đán, nhĩ, tam ba nại dã, sa-phộc hạ"

Bấy giờ, Đức Ca Diệp Thế Tôn Chính Đẳng Chính Giác nói Pháp Chân Ngôn rộng lớn này thời ở trong hư không dấy lên đám mây thức ăn uống lớn, che trùm khắp ba ngàn Đại Thiên Thế Giới. Ở trong đám mây ấy tuôn xuống mọi loại thức ăn ngon khiến cho chúng sinh kia tùy theo ý lấy ăn, đều được no đủ, lìa các khổ của cái đói. Lại có người bị khát thì ở trong đám mây ấy tuôn xuống nước tám Công Đức, ở khoảng sát na khiến đều đầy đủ.

Thời tất cả Đại Chúng trong Hội khen rằng: "Thật chưa từng có!". Vì sao trong đám mây lại có món ăn ngon này? Là uy lực của Chân Ngôn bí mật vi diệu mà Đức Phật Thế Tôn đó đã nói đưa đến chăng? Con được tùy vui, đội trên đỉnh đầu phụng hành". Liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi năm vóc sát đất, lễ bàn chân của Đức Phật rồi lui ra ngồi một bên

"Ta, Thích Ca Thế Tôn cũng vì nhiêu ích, thương nhớ chúng sinh, nói Chân Ngôn tối thượng của Nghi Quỹ Vương này, khiến cho tất cả chúng sinh đói khát kia được thức ăn uống đầy đủ.

Nếu người trì tụng, trước tiên nên y theo Pháp, cầu thành Hạnh thắng diệu của Chân Ngôn. Ở trên đỉnh núi, an trí tranh tượng Trung Phẩm của Thánh Diệu Cát Tường, dùng mọi loại hương, hoa, thức ăn uống hiến cúng dường lớn. Người trì tụng mỗi ngày ăn ba món thức ăn màu trắng (sữa, bơ, gạo), hoặc chỉ dùng sữa ăn cũng được. Liền tụng Chân Ngôn mà Đức Ca Diếp Như Lai Chính Đẳng Giác đã nói, bảy lạc xoa. Rồi đem gỗ Khư Nỉ La ẩm ướt gỗ Ưu Bát Đàm ẩm ướt, gỗ Cát Tường Quả ẩm ướt đều dài một Xích (1/3 m)..lấy bơ, lạc, mật tẩm vào khiến cho thấm ướt, tụng Chân Ngôn lúc trước, làm Hộ Ma tám ngàn lần.

Từ nửa đêm trở đi, ở trên Trời dấy lên đám mây gió đen. Người trì tụng ấy chẳng được sợ hãi, cũng chẳng được đứng dậy, chỉ tụng Thánh Diệu Cát Tường Bát Tự Tâm Chân Ngôn cùng với người Đồng Bạn Pháp Sự làm ủng hộ ấy thì đám mây gió đen kia tức liền tự tan.

Lại ở trong hư không hiện ra tướng người nữ, tất cả trang nghiêm, ánh sáng chiếu diệu, hướng về người tụng, nói: "Ta được thành tựu. Ông, bậc Thượng Nhân hãy đứng dậy". Người tụng dùng hoa Nhạ Đế, hương hiến nước Át Già. Khi làm Pháp này thời người nữ chẳng hiện. Như vậy tự mình cùng với 25 người Đồng Bạn, mong cầu thức ăn uống thì trời tự tuôn mưa xuống với vật tùy ý thọ dụng, đều được đầy đủ.

Người trì tụng hiến nước Át Già, phát khiển Hiền Thánh, nhiễu quanh tranh tượng ba vòng xong; làm lễ chư Phật, tất cả Bồ Tát

Lại nữa, làm Pháp thành tựu của hàng đi trong hư không. Như trước kia đã nói mọi loại đất thanh tịnh, hoặc đất ở núi, hoặc biển. Người trì tụng với người Đồng Bạn y theo Nghi Tắc lúc trước trì tụng Chân Ngôn làm ủng hộ ấy. Đem bức tranh Trung Phẩm hướng mặt về phương Tây an trí. Người trì tụng hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường. Dùng cây Khư Nỉ La làm củi, đem hoa sen trắng, bơ, lạc, mật hòa hớp với nhau làm thành viên, làm tám ngàn viên để Hộ Ma. Mỗi ngày ba thời làm Hộ Ma, như vậy đến 21 ngày, khi đến nửa đêm thời làm Pháp Hộ Ma xong. Người trì tụng liền thấy Thánh Diệu Cát Tường, chỗ mong cầu đều được. Hoặc đi trong hư không, hoặc ẩn mất thân hình, hoặc Đại Phước trường thọ, hoặc được vua yêu kính, cho đến thành tựu Địa của Thanh Văn, Bích Phật Phật, Bồ Tát. Đối với năm Thần Thông cũng được thành tựu.

Nay, Đàn Pháp này có sức Đại Thắng, chỗ mong muốn đều được: thỉnh triệu Thánh Hiền, phát khiển Thần Quỷ, Chú thành thuốc tiên với mọi loại lỗi lầm của ngu mê không có Trí do uy lực của Chân Ngôn cũng được giải thoát"

Lại nữa Đức Thích Ca Mâu Ni nói Pháp thành tựu của Trung Phẩm. Như trước đã nói Thắng Địa thanh tịnh. Hướng mặt về phương Tây an trí tranh tượng, người trì tụng hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ cát tường. Dùng hương, hoa cúng dường, rộng làm việc Pháp. Mỗi ngày ba thời, chí niệm Chân Ngôn. Như vậy số đủ sáu Lạc Xoa. Niệm Tụng xong rồi, dùng hoa Ca Ni Ca La, hương Bạch Đàn, Cung Câu Ma hòa hợp làm thành viên, làm trăm ngàn Hộ Ma. Số ấy đã đủ thì bức tranh tự chấn động, lại phóng ra ánh sáng chiếu diệu khắp cả, chẳng bao lâu sẽ được địa vị của Tam Thập Tam Đế Thích. Nếu đem bức tranh này đội trên đỉnh đầu, thọ trì thì được vào Tam Địa đủ năm Thần Thông, vì đời nói Pháp lại đến Thất Địa cho đến vị lai được thành Chính Giác.

Nếu người trì tụng y theo Nghi Quỹ lúc trước, làm Pháp trì tụng đều được thành tựu. Như Chân Ngôn mà Đức Ca Diệp Thế Tôn đã nói, y theo Pháp trì tụng thì mong cầu thức ăn ngon, nước tám Công Đức quyết định thành tựu, tùy theo ý được đầy đủ dư thừa.

Nếy y theo Nghi Quỹ căn bản của Diệu Cát Tường, kết Giới trì tụng thì mong cầu vàng, bạc, châu báu, ngạc báu Ma Ni, thuốc Tiên thượng diệu không có gì chẳng thành tựu.

Như Pháp Hạnh của Nghi Quỹ trên, nếu A Xà Lê siêng tụng, tu tập thường được thành tựu.

Lại người trì tụng, nếu y theo Pháp trì tụng thì mọi loại thức ăn uống đã xin được. Lúc nếu muốn ăn, trước tiên nên cúng Thánh Hiền, sinh xấu hổ sâu xa, rồi mới tự ăn. Nếu có thức ăn dư thì đưa vào trong dòng sông, hoặc nơi sạch sẽ không có người ban cho súc loại hữu tình. Cho xong, rửa bát, một lòng chuyên chú.

Nếu là cái bát sành, rửa xong thì hong cho khô. Ngoài ra, bát gỗ, bát vàng, bát bạc thì rửa sạch sẽ không có dơ liền được thọ dụng.

Nếu hơi dơ thì chẳng được sử dụng. Như Giáo Sắc của Đức Phật, cái bát dùng để khất thực chẳng được dùng chứa dựng vật tạp nhạp, cũng chẳng được dùng để ăn, cho đến hương, thuốc, quả trái đều chẳng được chứa đựng.

Lại các vị Tỳ Khưu, nếu không có Ứng Khí. Hoặc dùng lá sen đựng thức ăn. Hoặc dùng lá hoa sen, lá Ưu Bát La, lá Diệu Hương Hoa, lá Tối Thượng Hoa, lá Bố La Xoa, lá Ưu Đàm Bát. Nếu là lá với rễ, cành, nhánh của cây Nhược Ni Câu Đà thì chẳng được dùng. Lá cây Sa La, là cây A Một La, lá cây Ba Tra La, lá cây Thất Lý Sa, lá cây Bồ Đề đều chẳng được ở trong lá chứa đựng thức ăn.

Lại có nơi mà Đức Thích Ca Như Lai đã đi, đứng, ngồi, nằm thì hết thảy cây cối hoa quả ở đấy chẳng được thọ dùng.

Nếu có vi phạm tức phá Tam Muội của mình.

Ngoài các lá lúc trước, còn lại lá cây khác thì hứa cho dùng đựng thức ăn.

Nếu là vật khí bằng đồng, bạc, vàng, thủy tinh, lưu ly với vật khí bằng sắt, đá đều được dùng đựng thức ăn.

Lại nếu là hoa sen, hoặc các lá cây, hoặc đã cúng dường chư Phật, Bồ Tát với Thanh Văn, Duyên Giác thì cũng chẳng được dùng.

Nếu người trì tụng, như lá cây đã nói lúc trước với lá hoa, lá cây đã cúng hiến Phật, chúng Thánh đều chẳng được thọ dụng đựng thức ăn.

Nếu người cầu Pháp trì tụng, thọ dụng thức ăn đựng trong lá cúng Phật thời Pháp thành tựu của Hạ Phẩm, quyết định chẳng thành, huống chi là Trung Phẩm, Thượng Phẩm. Cát Tường, Tăng Ích, Tức Tai, Giáng Phục, tất cả việc ước nguyện, quyết định chẳng thành tựu.

Nếu có người ưa thích tu Tịnh Hạnh, tinh cần giữ Giới được thành tựu tất cả Chân Ngôn thì hứa cho ăn chung. Nếu chẳng phải nhóm này thì chẳng được ăn chung, cũng chẳng được hô gọi lẫn nhau đi đến ăn chung. Nếu thức ăn xin được, tuy ít thì nên tác tưởng là đầy đủ.

Nếu các người trì tụng y theo Nghi Quỹ này, như vậy mà thực hành thì đối với tất cả Chân Ngôn cầu thành Pháp, như quán thấy trong lòng bàn tay đều được thành tựu.

Các ông hãy nghe cho kỹ! Nay Ta lại nói uy lực rộng lớn của Khiết Tịnh Chân Ngôn. Nếu người trì tụng, niệm Chân Ngôn này bảy biến thì hết thảy thức ăn uống, dùng bàn tay đè lên, thành thức ăn tinh khiết, có thể được tự ăn. Thiên Nhân với chúng Bộ Đa ở trên thân ấy dùng bàn tay xoa chạm đè lên đều thành Khiết Tịnh. Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Án, tát lý-phộc khẩn tức sa, nẵng xá nễ, nẵng xá dã, nẵng xá dã, tát lý-phộc nột sắt-tra, bát-la dụ cật-đán, tam ma dã nỗ sa-ma la, hồng, nhược, sa-phộc hạ"

Chân Ngôn này, nếu ăn xong, lại tụng bảy biến, dùng bàn tay xoa chạm thân của mình với trên đầu, rồi trải qua khoảng khắc, ở trước bức tranh ấy đọc tụng tất cả Kinh Điển: Kinh Phật Mẫu Bát Nhã, Kinh Thánh Nguyệt Đăng, Kinh Tam Ma Địa, Kinh Thập Địa, Kinh Kim Quang Minh, Kinh Khổng Tước Vương, Kinh Bảo Tràng Đà La Ni. Nhóm Kinh như vậy, sáng sớm đọc tụng, đến giờ Ngọ thời tùy theo ý đọc nhiều ít, tức thời hồi hướng, thu lấy Kinh để trên cái Án, dùng cái áo sạch phủ trùm lên, làm lễ Kinh Quyển, rồi đi ra bờ sông, dùng tay nắm đất sạch, tụng Chân Ngôn này bảy biến, sau đó tắm rửa.

Lại nói Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nễ-dã tha: Án, tát lý-phộc nột sắt-trạm, bát-la nột sắt-trạm, sa-đán bà dã, hồng, ấn nễ đạt la, đạt lý ni, câu ma la cát-lý noa, lỗ bế ni, mãn đà mãn đà, tam ma dã ma noa sa-ma la, phả tra, sa-phộc hạ"

Nay Chân Ngôn này ở Mạn Noa La hay Kết Giới, ủng hộ giáng phục tất cả chướng nạn. Nếu gia trì bảy biến ở trên sợi dây rồi cột buộc ngay trên thân thì đi đến tất cả nơi chốn, làm tất cả việc đều được ủng hộ.

Nếu kết Ngũ Kế Đại Ấn, tụng một lạc xoa thì việc mong cầu, không có gì chẳng thành tựu.

Nếu lấy Cồ Ma Di (phân bò), đất sạch... dùng nước không có loài trùng. Người trì tụng tắm rửa trên thân với xoa tô đất của Đàn kèm vật khí đã dùng thì đều thành tinh khiết. Chẳng được dùng nước đọng chẳng tuôn chảy, nước dơ bẩn, cũng chẳng được hý luận với chúng sinh. Lại nên quán tưởng thân của mình: là khổ, là trống rỗng, không có thường, không có cái ta, không có chủ, không có chúa tể, không có người cứu giúp, không có chỗ quay về, luân hồi không thôi ôm giữ sâu xa tưởng khổ như vào nước sâu, một lòng chuyên chú. Nếu lìa Quán này như chim Uyên Ương xa rời bạn, luôn tăng thêm sự thống khổ.

Lại người tụng ấy luôn nên quán tưởng cảnh giới của chư Phật có ao sen bảy báu, hoa sen lá sen màu xanh, vàng, đỏ, trắng nở rộ đầy ao. Ở bốn bên ao có mọi loại nghiêm sức. Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư Tử tỏa ánh sáng màu vàng ròng, viên mãn tướng tốt thảy đều đầy đủ.

Lại ở bên phải Đức Phật có Thánh Diệu Cát Tường, các tướng trang nghiêm, ngồi trên tòa hoa sen, tay cầm cây phất trắng, Hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc hồng, hoặc trắng, hoặc màu vàng ròng như vậy quán tưởng.

Bên trái Đức Phật ấy có Thánh Quán Tự Tại như màu trăng trung thu, tay cầm cây phất trắng.

Lại có tám vị Bồ Tát: Từ Thị, Phổ Hiền, Địa Tạng, Hư Không Tạng, Trừ Cái Chướng, Diệt Tội, Kim Cương Thủ, Diệu Tài kèm với hai vị lúc trước là mười vị Bồ Tát.

Bên phải có tám vị Bích Chi Phật: Tán Na Nẵng Bích Chi Phật, Hiến Ma Na Nẵng Bích Chi Phật, Kế Đô Bích Chi Phật, Diệu Kế Đô Bích Chi Phật, Bạch Kế Đô Bích Chi Phật, Lý Sắt Tra Bích Chi Phật, Ô Ba Lý Sắt Tra Bích Chi Phật, Nễ Di Bích Chi Phật. Với tám vị Đại Thanh Văn: Đại Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lô, Pha La Đọa, Tất Lăng Già Bà Sa, La Hầu La, Đại Ca Diệp, A Nan Đà. Như vậy quán tưởng.

Lại ở gần Đại Thanh Văn ấy có vô biên chúng Tỳ Khưu, ở gần Bích Chi Phật có vô biên chúng Bích Chi Phật,ở gần tám Đại Bồ Tát có vô biên chúng Bồ Tát, cho đến Đại Chúng tràn khắp hư không giới. Như vậy làm Quán Tưởng ấy.

Lại người trì tụng! Lại quán thân của mình ở trong nước ao, nước ngập đến rốn. Dùng mọi loại hoa tươi đẹp của cõi người, trên Trời: hoa Mạn Đà La, hoa Đại Mạn Đà La, hoa Đà Đổ Sắt Ca Lý, hoa Vũ, hoa Án Nễ Phộc La, hoa sen, hoa sen lớn, các hoa như vậy gom tụ như núi Diệu Cao. với mọi loại phướng, phan, lọng báu, áo trời, hương màu nhiệm. Thắp trăm ngàn na do tha câu chi ngọn đèn rồi dùng cúng dường tất cả chư Phật với các Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, kèm cho tất cả chúng sinh bố thí thức ăn cúng dường Lại tưởng từ Tam Tinh của Đức Thế Tôn phóng hào quang màu trắng chiếu tất cả hữu tình.

Nếu người trì tụng, như vậy y theo Pháp Nghi Quỹ, làm Quán Hạnh này thì chẳng lâu sẽ thành tựu Quả Đại Bồ Đề.

Lại Đức Phật nói Pháp Tắc Quán Hạnh này lợi ích tất cả chúng sinh, đối với người trì tụng là Thắng Hạnh bậc nhất.

Lại như Đức Phật nói ba loại Mạn Noa La, Pháp thành tựu của ba Phẩm, Nghi Tắc của ba nhóm Tranh Tượng. Người trì tụng ấy y theo Pháp thứ tự xem xét, dụng Tâm thanh tịnh làm Quán Tưởng ấy, hay chặt đứt tất cả gốc rễ Tùy Phiền Não.

Sau đó hiến nước Át Già, phát khiển Hiền Thánh. Lại tưởng thân của mình từ trong nước đi ra thì mới được Quán Hạnh tròn trịa. Ông! Người tụng Chân Ngôn luôn khiến tu tập không được quên mất.

Nếu muốn trì tụng thì như Nghi Quỹ lúc trước, quay trở lại ở Tịnh Xá, an bày tranh tượng, kết Giới, thỉnh triệu, cúng dường, gia trì, làm Hộ Ma, cầu ủng hộ mỗi mỗi như lúc trước nói. Nay trong Nghi này lại khiến khen ngợi chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh.

Nếu muốn đi tiêu, đi tiểu thì cách xa Đàn Trường, ở chỗ kín đáo không có gió. Ban ngày thì hướng mặt về phương Đông, ban đêm thì hướng mặt về phương Nam, cũng chẳng được suy nghĩ nhóm việc của Phật Pháp. Việc của chỗ chẳng phải sạch sẽ xong. Dùng đất sạch, nước không có loài trùng rửa tay, tụng Chân Ngôn lúc trước 30 biến, tiệu tiện thì tụng bảy biến. Hoặc khi hỷ mũi, khạc đờm thì cách Đàn chẳng gần chẳng xa, cũng nên rửa sạch hai bàn tay.

Song, ở mỗi ngày rửa chân. Trước tiên rửa chân phải, sau đó rửa chân trái, chẳng được cho hai chân chạm nhau, rồi dùng hương xoa bôi kết Tịnh.

Lại người trì tụng! Lại có năm loại thanh tịnh: thứ nhất là Thân Nghiệp thanh tịnh, thứ hai là Khẩu Nghiệp thanh tịnh, thứ ba là Ý Nghiệp thanh tịnh, thứ tư là Hành Chân Thật thanh tịnh, thứ năm là Thuyết Chân Thật thanh tịnh Pháp. Lại hay thông đạt Pháp vi diệu sâu xa bậc nhất, xa lìa Sát Sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, miệng nói thô ác, nói hai lưỡi, tham, sân, Tà Kiến, phá Giới, Phi Pháp. Nếu thực hành Phi Pháp, sát sinh, trộm cắp, ngu si, Tà Kiến, chê bai Chính Pháp thì người đó muôn Kiếp mãi mãi bị đọa vào Diêm Ma La Giới, làm loài bàng sinh, quỷ đói.

Hoặc vào Hắc Thằng, Đẳng Hoạt cho đến Đại Địa Ngục A Tỳ chịu mọi loại cực đau khổ. Giả sử có được thân người thì chẳng đủ các Căn, ngu mê đần độn, thì làm sao có thể thành tựu Pháp tối thượng!

Thế nên, người trì tụng xa lìa các ác, gần gũi bạn lành, y theo Pháp siêng tu nơi các Chân Ngôn ắt được thành tựu Pháp tối thượng.

Lại Nghi Quỹ này có Thượng Trung Hạ. Nếu người trì tụng mỗi mỗi y theo

Nghi Quỹ ấy, chí Tâm hành Pháp. Việc Pháp hòa hợp, Người, Pháp đầy đủ thì việc mong cầu, tất cả thành tựu.

Lại Hạnh của Chân Ngôn, Quả đã thành toàn ở tại Nghi Quỹ, Nghi Quỹ viên mãn thì việc tương ứng, tức Chân Ngôn có sức, Công Lợi khác thường, chỗ mong muốn, chỗ mong cầu đều quyết định thành tựu.

Tuy tụng Chân Ngôn, nếu thiếu Nghi Quỹ thì Hành chẳng tương ứng, tức Pháp của Chân Ngôn không có Thắng Dụng ấy. Nếu cầu quả lớn ắt chẳng thành tựu.

Lại Nghi Quỹ của ba Phẩm này, mỗi mỗi y theo Pháp, chẳng được dũng lẫn lộn. Hoặc trong Thượng Phẩm dùng Nghi của Trung Phẩm, hoặc trong Trung Phẩm dùng Pháp của Thượng Phẩm, hoặc trong Hạ Phẩm thực hành việc của Trung Phẩm, hoặc trong Hạ Phẩm thực hành Pháp của Thượng Phẩm. Như vậy trợ nhau có dùng lẫn lộn ba Phẩm thì chỗ mong cầu đều chẳng thành tựu.

Nếu Hành Giả ấy bắt đầu làm Pháp thì như Hành Nghi của Pháp, như Nghi mà làm Pháp, Tâm không có hai Duyên là thực hành Chính Pháp thành tựu Chân Ngôn, lại hay lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Nếu khác Nghi này mà thực hành nơi Pháp thì Pháp thành Phi Pháp, Chân Ngôn chẳng thành.

Thực hành có quên bỏ Phước thì không có chỗ đạt được, chư Phật quá khứ nói Tam Muội này có Phước lợi quần sinh

Nếu Phật Tử ấy đối với Nghi Quỹ Vương này, khéo hay thông đạt, y theo Pháp trì tụng, tức Tướng của Chân Ngôn là Bồ Đề Đạo. Người này chẳng lâu sẽ ngồi tại Đạo Trường, viên thành Đại Giác.

Lại nữa, người tụng Pháp đối với việc sâu xa màu nhiệm, Hạnh bí mật của Pháp Tắc Chân Ngôn tuy được thành tựu thì cũng nên luôn giữ Giới Phẩm, tác Thiền Quán lâu dài, chẳng gián đoạn trì tụng.

Như Đàn Pháp chưa thành vì thiếu chút vật cúng thời có thể được tạm dừng. Đàn Pháp đầy đủ rồi thì dũng mãnh tinh tiến, Khóa Tụng nối tiếp nhau đọc, Tam Muội chẳng gián đoạn, Tội của nhiều kiếp chồng chất sẽ được trừ diệt, tất cả chúng sinh đều được Công Đức. Ví như Đại Chuyển Luân Vương, tất cả tài bảo thảy đều đầy đủ, tùy ý thọ dụng mà không có cùng tận.

Nay Chân Ngôn này là điều mà Đức Như Lai đã nói, tất cả Công Đức thảy đều đầy đủ, tùy các Hữu tình, lợi lạc không cùng tận.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI MỘT_

NGHI TẮC CỦA TRÀNG HẠT

_PHẨM THỨ MƯỜI HAI_

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni quán sát chúng Tịnh Quang Thiên, rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Nay ông hãy nghe cho kỹ! Hành Nhân tu hành Hạnh của Minh Chân Ngôn vì tất cả hữu tình trì tụng Chân Ngôn với các Kinh Pháp, Pháp bình đẳng thành tựu, nghi tắc của tràng hạt, tất cả Chân Ngôn. Ông hãy nghe cho kỹ! Hãy dùng Tâm chăm chú đón nhận"

Khi ấy Diệu Cát Tường Đồng Tử nghe nói xong, liền bạch với Đức Thế Tôn rằng:

"Lành thay Thế Tôn! Nguyện vì con nói tất cả Chân Ngôn Hạnh, khiến cho các người tu hành với tất cả hữu tình nghe như vậy xong, thảy đều hay khiến đắc được Tam Muội"

Lúc đó, Đức Thế Tôn bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Nay Ta vì ông phân biệt rộng nói. Hết thảy tất cả các nhóm hữu tình ưa thích Chân Ngôn Hạnh, nếu hay thanh tịnh thọ trì, một lòng chuyên tinh đối với tất cả Nghĩa đều được thành tựu. Nay Ta nói Tối Sơ Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a tiến đát-dã nột-bộ đá, lỗ bế noản. Đát nễ- dã tha: Án, câu lỗ câu lỗ, tát lý-phộc la-tha, sa đà dã, sa đà dã, tát lý-phộc nỗ sắt-tra, vĩ mô hạ nễ, nga nga nẵng mạt la, thấp-phệ, vĩ thú đà dã, sa-phộc hạ"

Chân Ngôn này, nếu có Hành Nhân: phàm muốn tạo làm tràng hạt, tất cả các việc mong cầu thanh tịnh, cho đến dùi, mài, xỏ, xuyên...mọi loại thọ trì.

Phàm việc đã làm thảy đều thành tựu. Thoạt tiên nhìn thấy Châu Thụ (cái cây có hạt có thể dùng làm hạt châu của tràng hạt) mong muốn thu lấy. Trước hết nên gia trì vào cái cây ấy với ủng hộ thân mình, nên chuyên chú thành Tâm niệm Chân Ngôn này 37 biến rồi ở dưới cái cây, ngủ qua một đêm để cầu thấy tướng ứng với thiện ác.

Người ấy, nếu ở trong mộng thấy loài Phi Nhân kia hiện tướng xấu ác thì người Trì Khóa ấy như thật biết xong, lại thêm ngày ngày vào lúc sáng sớm đến dưới cái cây ấy ngắm nhìn, hoặc lại chẳng thấy hạt mà người ấy muốn hái thì biết đây là tướng chẳng tốt. Người trì khóa kia mau nên xa lìa cái cây ấy, đi đến chỗ khác, tìm cây Cát Tường.

Số loại của Châu Thụ là: Thứ nhất là hạt Kim Cương, thứ hai là hạt Ấn Nại La, thứ ba là hạt Bồ Đề, thứ tư là hạt Hoạn (Mộc Hoạn Tử) với nhóm cây khác có đầy đủ hạt.

Nếu được cây có các hạt của nhóm này xong, trước tiên khiến người Đồng Hạnh leo lên cây, nếu không có người Đồng Hạnh thì tự mình leo lên cây, lựa cành tối thượng có đầy đủ hạt, niệm Chân Ngôn lúc trước gia trì. Người trên cây kia, mỗi khi leo lên cây thì tâm chẳng điên đảo, cho đến thân với cành cây, ngọn cây đi thẳng đến, thu hái được hạt ấy, đây là hạt tối thượng. Ta nói hạt này là dụng tối thượng, được thành tựu Pháp tối thượng.

Nếu đến khoảng giữa, hái được hạt của nhóm giữa thì được thành tựu Trung Pháp. Nếu đến bên dưới, hái được hạt châu ở bên dưới thì sẽ thành tựu quả báo cực thấp. Hạt ấy nếu nhỏ bé với bị loài trùng ăn thì đều chẳng thể dùng được. Nếu được hạt ở cành phía Tây làm hạt châu thì được Pháp thành tựu, sẽ được giàu có. Nếu được hạt ở cành phía Bắc làm hạt châu thì sẽ được Thánh Hiền yêu trọng, Dạ Xoa với tất cả Bộ Đa thảy đều chịu hàng phục, cho đến Thiên Nhân, đến hàng Càn Thát Bà, Khẩn Na La, La Sát thảy đều chịu hàng phục. Nếu y theo Nghi Quỹ làm các sự nghiệp thì tất cả việc chính đều được tăng ích, lại được tất cả thành tựu, chỗ mong cầu đều được.

Nếu được cành phía Đông, lại thấy cành đó có quả thấy ngay, nếu được hạt ấy làm hạt châu. Phàm điều mà Trì Khóa Hành Nhân đã tu hành, sẽ được thành tựu Trì Minh, làm mọi loại việc đều được viên mãn, chuyên tâm thọ trì cũng được sống lâu.

Nếu được cành phía Nam mà không có lá, cành ấy tuy có hạt nhưng chẳng thể làm hạt châu. Nếu làm hạt châu sẽ hại mạng của chúng sinh, cho nên người Trì Khóa ấy cần phải một lòng xa lìa.

Cành phía Nam ấy, nếu chẳng dài với có lá, cành ấy hoặc có hạt có thể làm hạt châu thì người Trì Khóa ấy cũng nên buông lìa. Tại sao thế? Do có thể giết chết Oan Gia. Nếu buông bỏ chẳng lấy, liền được Phước vô lượng.

Nếu được cành phía dưới, dài mà chỉ xuống bên dưới, cho đến vào trong lòng đất. Cành ấy có hạt được làm hạt châu thì người Trì Khóa ấy nên y theo Nghi Quỹ, chuyên chú thọ trì. Người niệm tụng, phàm là nơi ở trong lòng đất, vùng núi, hết thảy hang trống nơi có Tu La cư trú thì người Trì Khóa đều có thể vào, cùng với nam nữ Tu La trụ ở trong cung Tu La, trải qua một Kiếp, thọ hưởng khoái lạc tối thượng.

Lúc mới ở trên cây được hạt châu xong, khi xuống dưới cây xong thì người Trì Khóa ấy tụng Chân Ngôn lúc trước để làm ủng hộ. Nên tìm nơi thanh tịnh theo thứ tự làm thành. Hoặc tự mình làm hoặc nhờ người khác làm, tùy theo ước muốn. Tùy nơi cư trú ưa thích xa gần ấy, hoặc chỗ thường ở mong muốn tạo làm. Trước tiên nên mỗi mỗi thanh khiết thân tâm, chuyên chú rồi cầm lấy hạt châu giũa mài cho sáng bóng, mỗi một hạt đều niệm Chân Ngôn, hoặc ba biến, hoặc năm biến, hoặc 21 biến.

Tụng Chân Ngôn xong, bậc Trí nói rằng: "Nay vì việc (……. )", mỗi mỗi nói thuật. Chú Nguyện xong rồi ắt được thể của hạt châu thanh tịnh.

Lại khiến Đồng Nữ se hợp chỉ, nên dùng sợi tơ ngũ sắc se hợp màu như vòng hoa. Hoặc hợp ba sợi, hoặc hợp năm sợi...tùy theo chỗ hạt châu nhận được, cần phải se hợp cho khít.

Bậc Trí lựa hạt cần phải tốt đều, chẳng được mục nát với khuyết giàm. Đều nên tròn đầy mịn màng là tốt nhất. Nhóm hạt Bồ Đề, hạt Kim Cương, hạt Ấn Nại La, hạt Mộc Hoạn ấy với dùng hạt khác, mỗi mỗi chọn lựa riêng các hạt thù diệu thượng đẳng.

Người Trì Khóa kia cần thiết nên một lòng chuyên chú làm cho hoàn thành.

Ngoài ra, hoặc dùng vàng, bạc, trân châu, thủy tinh, xa cừ, mã não với dùng san hô, mọi loại các báu. Hoặc dùng nhóm báu Ma Ni tối thượng... đều nên tròn đầy, trơn láng, đừng dễ bị khuyết giảm.

Phàm lúc xỏ xâu thời nhiếp Tâm chuyên chú, chẳng được tán loạn. Sau khi thành tràng hạt thời hết thảy đều cầu nguyện mau chóng được linh ứng.

  

Nếu không có các nhóm vật: trân bảo, hạt cây, màu sắc như lúc trước thì dùng cỏ Cát Tường kết làm cũng được.

Số hạt châu cũng chẳng nhất định, cũng có ba Phẩm. Thượng Phẩm là 108 hạt, Trung Phẩm là 54 hạt, Hạ Phẩm là 27 hạt. Riêng có Tối Thượng Phẩm nên dùng 1080 làm số hạt.

Lại có dùng vàng, bạc, đồng, sắt, gang, đá, chì, thiếc... đúc thành. Hoặc một loại, hai loại, ba loại đúc thành. Chỉ cần cứng chắng, tròn đầy đừng để khuyết giảm, luôn cần sáng bóng đều như chuỗi Anh Lạc báu.

Phàm Trì Khóa Hành Nhân cần phải trì Giới thanh tịnh, rồi lại đến con sông có dòng nước chảy dài với nước sạch khác tắm gội sạch sẽ xong, lấy tràng hạt ra, trước tiên dùng đất sạch chà mài, sau đó dùng nước tẩy rửa, sau đó lại dùng nước của năm loại hương tẩy rửa. Lại dùng hương xoa bôi thượng diệu với nước của nhóm hương Bạch Chiên Đàn với Cung Câu Ma có màu tốt nhất xoa lau.

Trì Khóa Hành Nhân ấy đem tràng hạt này đền chỗ của tượng Phật, tượng Phật đó hoặc là tượng được nặn đắp, hoặc là tượng vẽ nên tìm kiếm vật nghiêm sức tối thượng. Nhóm tượng bậc nhất là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, bậc Thầy của Trời, Người.

Y theo lời Phật dạy, kết Địa Giới ấy, an trì tượng Phật. Ở trước mặt Phật, ngồi ngay thẳng, một lòng chuyên chú tụng Chân Ngôn 1080 biến, hoặc 108 biến. Dùng hai bàn tay nâng tràng hạt dâng lên Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Phụng hiến Phật xong, chỉ ở trước mặt Phật, an trí tràng hạt này.

Lúc buông tràng hạt này thời để nó như tướng Đàn tròn, hoặc như tướng cuộn tròn, tướng quấn ràng của con rắn. Trì Khóa Hành Nhân ấy đến đêm, ở trên đất trước mặt Phật, trải cỏ, nằm ngủ để cầu tướng lúc trước.

Nếu trong mộng được thấy tướng của Đức Phật với BÍch Chi Phật, Thanh Văn thì điều mong cầu của người ấy quyết định thành tựu.

Nếu thấy Đồng Tử với thấy trẻ con, mọi loại tướng mạo của Đồng Tử, lại được hiến cho tràng hạt thì người Trì Khóa ấy đối với Đà La Ni được tất cả thành tựu.

Hoặc thấy riêng tướng hiền thiện thì nơi việc mong cầu, tất cả dễ được.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

HỘ MA

_PHẨM THỨ MƯỜI BA_

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát các chúng Tịnh Quang Thiên rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Nay nên rộng nói Nghi Tắc tối thượng của nhóm việc Diệu Chân Ngôn Cú, Hộ Ma. Nếu có người y theo thực hành sẽ được thành tựu Trì Minh. Hết thảy an cư Hỏa Thiên, các Hạnh vi diệu, Nghi Tắc tối thượng. Nay Ta sẽ nói. Thế nào là nhóm việc tu hành của tất cả Hành Nhân trì Minh ấy? Nay Ta trước tiên nói Bí Mật Hỏa Tâm Chân Ngôn là:

"Án, ô để sắt-xá, hạ lý, băng nga la, lộ hứ đà khất-xoa, nỉ hứ, nại na ba dã, hồng, phá tra, phát tra, tát lý-phộc vĩ cận-nẵng, nẵng xá dã, tát-phộc hạ"

Này Diệu Cát Tường! Đây là Hỏa Thiên Tối Thượng Tâm Minh.

Nếu có chỗ làm, muốn được tất cả thành tựu, thường phải trước tiên tu trì niệm Đại Hỏa Thiên Tâm Minh này, ba lần gia trì vào bơ làm việc Hộ Ma, thỉnh Hỏa Thiên ắt hay giáng đến.

Nếu có Hành Nhân y theo Pháp tu hành, làm ba loại việc. Ấy là việc của nhóm Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục. Pháp khiến cho cây củi: khô, ướt, dài, ngắn, dầy, mỏng, dùng, chẳng dùng Phàm Pháp Tức Tai nên dùng cây Vô Ưu làm củi. Cây củi ấy có thể dài một Xích (1/3 m), hai xích (2/3 m), có thể dầy ba ngón tay, luôn nên nhẵn bóng, y theo Pháp sử dụng đều được cát tường. Nếu là cây khô mục cùng với thiêu đốt nửa chừng, hoặc bị loài trùng ăn đều chẳng thể dùng.

Hoặc dùng lá thì cần được lá màu xanh lục với màu trắng. Nếu là lá màu đen với lá thiêu đốt nửa chừng, bị loài trùng đục khoét cũng chẳng thể sử dụng Lò Hộ Ma cũng chẳng được cao quá. Phàm chỗ làm lò, nên chọn lựa Thắng Địa, nơi thanh tịnh thành tựu ở vùng núi, hoặc bên bờ sông, hoặc đất an cư, hoặc Hàn Lâm (rừng chứa xác chết), hoặc nhà trống đều có thể làm.

Hoặc là đỉnh núi sâu, chốn Già Lam trống không, chỗ hoang vắng rộng lớn cũng được. Nhóm nơi chốn này là chỗ tu hành tối thượng mà chư Phật Như Lai đã nói.

Chọn được nơi chốn xong. Đất ấy, trước tiên đào sâu xuống một khuỷu tay, hoặc ba, bốn khuỷu tay loại bỏ tất cả vật chẳng lành bên trong đất ấy.

Nếu là đất luôn trong sạch, không có các thứ uế tạp. Đàu sâu xuống một khuỷu tay xong, rồi tìm đất tốt lấp đầy bên trong chỗ ấy. Lò ấy cần rộng hai khuỷu tay, hoặc tròn, hoặc vuông, hoặc có dạng nửa vành trăng. Chung quanh dùng bùn tô trét làm đường viền hoa sen, ở khoảng giữa an chày Kim Cương ba chấu. An trí chày xong, cần chuẩn bị sẵn tất cả vật cần dùng để Hộ Ma. Lại làm cái chiếu cỏ để ngồi, để cách Đàn một khuỷu tay.

Trì Khóa Hành Nhân ngồi ở trên cái chiếu, làm việc Hộ Ma. Người ấy cầu việc tối thượng mau thành tựu thì trước tiên nên tự Tâm quyết định chẳng sinh lo nghĩ.

Nếu làm Tức Tai thì nên ngồi hướng mặt về phương Đông. Nếu làm Tăng Ích thì nên ngồi hướng mặt về phương Bắc. Nếu làm Giáng Phục thì nên ngồi hướng mặt về phương Nam.

Người trì khóa ấy, nếu muốn thành tựu chỗ làm thì thường nên trì tụng đừng để cho gián đoạn.

Khi làm Hộ Ma thời sử dụng củi Vĩ La Thụ, củi A Lý Ca, củi Bố La Xoa, củi Nễ Khất Lỗ Đà. Các cây như trên đều nên thấm ướt để dùng cho nhóm Tức Tai, Tăng Ích.

Nếu làm Giáng Phục thì dùng củi khô. Nếu là củi A Ma Thụ với một đầu nhọn thì tất cả đều chẳng được dùng.

Nếu làm việc của nhóm Tăng Ích, Tức Tai mà không có củi ẩm ướt, tức dùng củi khô.

Khi dùng thời lấy cỏ cát tường xanh tươi mềm mại ràng bọc vòng khắp, màu xanh lục nhu hòa sáng bóng như cổ chim công. Pháp Tắc như vậy dùng làm Hằng Thức (cách thức thông thường).

Cỏ ấy, hoặc màu đỏ với khô ráo thì cũng chẳng được dùng. Nếu sử dụng thì Ta nói người này bị vô lượng tội.

Khi làm Hộ Ma thời tìm nước không có loài trùng, luôn luôn thanh tịnh dùng để rưới vảy cho sạch. Nên rưới vảy vòng khắp ba vòng nơi để Hỏa Thiên. Lại lấy một nắm cỏ làm thành một bó, đặt gần bàn tay để dễ nhúm lửa. Lửa ấy chưa cháy thì chẳng được dùng miệng thổi, với dùng áo chạm vào, lá cây chạm vào, với dùng bàn tay .

Quạt lửa thì nên dùng cây quạt với áo thanh tịnh, vật quạt lửa. Lửa ấy cháy xong, Trì Khóa Hành Nhân làm Hộ Ma, Đẳng Dẫn ba lần thời được rưới vảy sạch sẽ.

Dùng bàn tay phải làm Hộ Ma, lấy Đoàn Thực ném ba lần kèm nhóm bơ, sữa, thức ăn ném hiến xong, tụng Căn Bản Chân Ngôn, lễ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật với tất cả Phật, tùy ý làm lễ.

Tiếp theo, trì tụng Hỏa Thiên Tâm Chân Ngôn bảy biến, thỉnh Hỏa Thiên. Lại dùng hương hoa thượng diệu hiến thỉnh. Người trì tụng ấy cùng với bậc Trí ngồi tại tòa cùa mình, lại chẳng dùng Chân Ngôn khác. Trước tiên dùng nhóm lúa gạo, hoa, mật, lạc hòa chung với nhau, thấm ướt ba miếng củi, làm Hộ Ma Hỏa Thiên.

Nếu làm việc Tăng Ích với việc của Chân Ngôn thì nên thấm hai đầu, mong muốn làm việc Pháp, tụng Chân Ngôn hoặc một Lạc Xoa, hoặc 1008, hoặc 108. Từ lúc bắt đầu ra công trì tụng, một lần tụng thì một lần ném củi vật vào lửa, cho đến đủ số chẳng được gián đoạn. Củi đã dùng với nhóm lạc, sữa, mật cần phải chuẩn bị sẵn, khi vào việc thì dùng chẳng được thiếu.

Người làm Hộ Ma, trước tiên nên biết tướng của lửa, khói, màu lửa rực, Pháp thành tựu, chẳng thành tựu.

Nếu làm Tức Tai Hộ Ma mà lửa sáng rực rỡ lại tu thành một đám, kèm không có khói là tướng cát tường. Tăng Ích cũng thế. Có khói là Pháp Giáng Phục, tướng chẳng tốt lành, Phật chẳng hộ giúp.

Nếu là Tức Tai, được lửa rực sáng màu trắng là tướng cát tường tối thượng, chỗ làm thành tựu, được Chân Ngôn thành tựu.

Nếu màu đỏ thì được Tăng Ích thành tựu. Nếu là khói làm màu đen đỏ thì cũng được ba loại thành tựu.

Nếu là màu mây với mọi loại tướng thì việc đã làm với Chân Ngôn ấy đều chẳng thể thành tựu.

Khi đám lửa rực sáng thời ở bên trong, hoặc thấy màu Đại Địa với mọi loại tướng. Lại như lúc mới bắt đầu dụng công, y theo Pháp. Lại làm trì tụng với Hộ Ma như Cát Tường hiện sẽ được Chân Ngôn thành tựu.

Trước kia đã nói Nghi Tắc của Mạn Noa La với làm Hộ Ma, việc của nhóm Thỉnh Triệu, Phát Khiển Hỏa Thiên, hết thảy Chân Ngôn đều là điều mà chư Phật Như Lai quá khứ đã tuyên nói.

Nếu có Hành Nhân hay ở trước tượng Phật ấy, dùng Tâm mãnh lợi, chẳng sinh lo nghĩ, tụng Chân Ngôn ấy, nếu đầy đủ biến số thì quyết định thành tựu.

Trì Khóa Hành Nhân ấy, nếu ở bên thân, trước kia có tất cả nghiệp tội của Thế Gian, việc chẳng thanh tịnh, Đức Phật chưa gia hộ thì cần phải mỗi mỗi Sám Tạ nhiều lần, thành Tâm trì tụng sau đó ắt có thể thành tựu.

Nếu ở trước tượng, Tâm chẳng gián đoạn, hằng thời (mọi thời) trì tụng hoặc làm Hộ Ma, tất cả việc lúc trước thảy đều hay biết thì ngày sau đắc được địa vị của Bồ Tát với Ngũ Thông Thiên, Chuyển Luân Thánh Vương cũng được làm Địa Hạ Chủ, cũng được làm Hư Không Trường Thọ Bão Ma-Dã Thiên với được Dạ Xoa, Dạ Xoa Nữ, với chúng A Tu La hàng phục, với hay điều phục các hàng Quỷ Thần, với được các Đại Thiên cho đến địa vị Thập Địa của Bồ Tát Ma Ha Tát Trì Khóa Hành Nhân ấy, nếu luôn trì tụng chẳng gián đoạn với làm Hộ Ma rồi ở Thế Gian tạo làm thành tựu, cho đến đối với việc của ba nhóm Tăng Ích, Tức Tai, Giáng Phục thì quyết định đắc được thành tựu tối thượng, được thấy việc quả báo, phẩm trung hạ chẳng lấy làm khó vậy.

Hành Nhân ấy khi làm Hộ Ma thời nên kết Ngũ Kế Ấn, tụng Chỉ Thế Nễ Chân Ngôn, làm tất cả việc ủng hộ thân mình, tụng Chân Ngôn này bày biến hoặc tám biến. Đây là Hằng Thức (cách thức thông thường) Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tát lý-phộc một đà, mạo địa tát đát-phộc ma bát-la để hạ đá nga đế- dựng nga đá nam. Đát nhữ tha: Án, nhập-phộc la, để sắt-tra, hồng, lỗ lỗ, vĩ thấp-phộc, tam bà phộc, tam bà phệ, sa-phộc hạ"

Chân Ngôn này dùng gia trì vào củi với hoa, hương, hương xoa bôi, tất cả vật Hộ Ma hai biến hoặc bảy biến. Ném vào lò lửa, một lần tụng thì một lần ném cho đến nước sạch rưới vảy cũng nên gia trì.

Phàm chỗ làm Niệm Tụng, Hộ Ma, tất cả các việc y theo lúc đầu, thứ tự chẳng mất, nên cầu thành tựu. Trước tiên kết Ngũ Kế Đại Ấn với tụng Chỉ Thế Nễ Chân Ngôn để làm ủng hộ, rồi bắt đầu ra công tụng trì thì sẽ được thành tựu Nhất Thiết Trí.

Nếu hoặc được thấy điềm lành với tiếng diệu thiện thì người ấy được thành tựu Chân Ngôn, ban Nguyện cho việc mà trước kia các Hành Nhân ấy đã mong cầu. Người làm tụng trì Chân Ngôn thì người kia sẽ được tất cả thành tựu.

Nếu trong Hộ Ma được nghe tiếng trống, tiếng màu nhiệm thù thắng thì người trì tụng ấy được nói việc Hộ Ma, thành tựu tất cả nơi chốn.

Nếu lại có điềm tốt lành, diệu âm thù thắng, mọi loại tướng tiếng của loài Phi Cầm. Ta nói tiếng này là Thiện Cát Tường.

Lại nghe mọi loại ngôn âm ưa thích của chư Thiên với hiện tướng lọng Trời, phướng, phan, Thiên Nữ trang nghiêm. Với được điềm cái bình chứa đầy Át Già cho đến lại thấy vô số sắc tướng tối thượng của Thế Gian. Đây lả mọi loại tướng thành tựu của Chân Ngôn Pháp.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

MẠN NOA LA THÀNH TỰU PHÁP

ĐẠI LUÂN NHẤT TỰ MINH VƯƠNG HỌA TƯỢNG NGHI TẮC

_PHẨM THỨ MƯỜI BỐN_

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại quán sát chúng Tịnh Quang Thiên rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này ông, Diệu Cát Tường! Có Pháp thành tựu Minh bí mật, là Đại Chân Ngôn Trí Như Lai Pháp Tạng Pháp Vân trong tất cả Chân Ngôn, nhập vào Tự Tính hư không của tất cả Chân Ngôn, là bậc Thầy tối thượng của Thế Gian Xuất Thế Gian.

Này Diệu Cát Tường! Ví như Đức Như Lai Chính Đẳng Chính Giác Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn ở trong tất cả hữu tình, là bậc Thầy tối tôn bậc nhất.

Này Đồng Tử! Như vậy trong tất cả Chân Ngôn thì Minh Vương này là bậc nhất, tức là chỗ tối thượng mà hằng hà sa đẳng vô số Như Lai quá khứ đã nói: tất cả Pháp Cát Tường bí mật tối thượng thuộc Nội Tâm của Đức Phật Thế Tôn Bảo Tràng Như Lai. Chư Phật khen ngợi, hay ban cho tất cả chúng sinh sự không có sợ hãi, diệt tất cả tội, khiến cho ước nguyện của tất cả chúng sinh được viên mãn. Vì sao Hào Tướng (sợi lông trắng xoắn theo bên phải ở Tam Tinh) ở tam tinh của Đức Thế Tôn Thích Ca mâu Ni phóng ánh sáng lớn, thỉnh triệu tất cả Như Lai ở mười phương. Tất cả cõi Phật ở phương trên, phương dưới, mười phương được ánh sáng ấy chiếu đến, thì tất cả chúng sinh y trụ trong cõi ấy được ánh sáng chiếu đến, đều thọ nhận khoái lạc. Ánh sáng ấy lại quay về nhập vào đỉnh đầu của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật.

Tướng lửa sáng lớn trên đỉnh đầu của Đức Thế Tôn chiếu sáng khắp cả hết thảy chúng sinh, xuất ra Phẫn Nộ Đại Lực Chủng Chủng Sắc Tướng Viên Quang Trang Nghiêm Thân Đại Luân Nhất Tự Vương Minh Vương. Xuất ra xong, ánh sáng chiếu tất cả Minh Vương ở phương trên, phương dưới, tất cả hư không Lại có trăm ngàn câu chi na do tha quyến thuộc vây quanh, dùng tất cả cúng dường của Thế Gian Xuất Thế Gian phụng hiến, khen ngợi Đại Luân Minh Vương dùng sức của tất cả Chân Ngôn an trụ tất cả Phật, an trụ tất cả Bồ Tát Thập Địa đem báu tối thượng tràn đầy tất cả hư không trên dưới, thảy đều trang nghiêm.

Lại dùng báu Đại Ma Ni trang nghiêm thân, hóa trăm ngàn câu chi na do tha mọi loại tướng ánh sáng thanh tịnh đoan nghiêm. Ở mặt bên trên của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, trong hư không trước mặt chiêm ngưỡng cung kính mà trụ, rồi ánh sáng ấy chiếu tất cả Đại Chúng của Trời Tịnh Quang"

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nói rằng: "Đại Luân Nhất Tự Minh này của Ta, là tất cả bí mật tối thượng thuộc Nội Tâm của Bảo Tràng Như Lai, hay ở trước tượng Phật ấy dùng Tâm mãnh lợi, chẳng sinh lo nghĩ, tụng Chân Ngôn ấy như đầy đủ số thì quyết định thành tựu.

Trì Khóa Hành Nhân kia, nếu là bên thân, trước kia có tất cả nghiệp tội của Thế Gian, việc chẳng trong sạch, Đức Phật chưa gia hộ thì cần phải mỗi mỗi Sám Tạ nhiều lần, thành Tâm trì tụng, thì sau đó ắt hay được thành tựu.

Nếu ở trước tượng, Tâm chẳng gián đoạn, hằng thời (mọi thời) trì tụng hoặc làm Hộ Ma, tất cả việc lúc trước thảy đều hay biết thì ngày sau đắc được địa vị của Bồ Tát với Ngũ Thông Thiên, Chuyển Luân Thánh Vương cũng được làm Địa Hạ Chủ, cũng được làm Hư Không Trường Thọ Bão Ma-Dã Thiên với được Dạ Xoa, Dạ Xoa Nữ, với chúng A Tu La hàng phục, với hay điều phục các hàng Quỷ Thần, với được các Đại Thiên cho đến địa vị Thập Địa của Bồ Tát Ma Ha Tát.

Trì Khóa Hành Nhân ấy, nếu luôn trì tụng chẳng gián đoạn với làm Hộ Ma rồi ở Thế Gian tạo làm thành tựu, cho đến đối với việc của ba nhóm Tăng Ích, Tức Tai, Giáng Phục thì quyết định đắc được thành tựu tối thượng, được thấy việc quả báo, phẩm trung hạ chẳng lấy làm khó vậy.

Hành Nhân ấy khi làm Hộ Ma thời nên kết Ngũ Kế Ấn, tụng Chỉ Thế Nễ Chân Ngôn, làm tất cả việc ủng hộ thân mình, tụng Chân Ngôn này bày biến hoặc tám biến. Đây là Hằng Thức Chân Ngôn là:

"Nẵng mạc tát lý-phộc một đà, mạo địa tát đát-phộc ma bát-la để hạ đá nga đế- dựng nga đá nam. Đát nhữ tha: Án, nhập-phộc la, để sắt-tra, hồng, lỗ lỗ, vĩ thấp-phộc, tam bà phộc, tam bà phệ, sa-phộc hạ"

Chân Ngôn này dùng gia trì vào củi với hoa, hương, hương xoa bôi, tất cả ủng hộ. Ta ở tất cả chỗ của Đức Bảo Tràng Như Lai được Đức Phật Sa Lăng Nại La Vương, Đức Phật Vô Lượng Thọ, Đức Phật Nỗ Bát La Sa Hạ, Đức Phật Diệu Nhãn, Đức Phật Diệu Tràng, Đức Phật Hoa Vương, Đức Phật Tô Bế Na Đa, Đức Phật Lộ Ca Mâu Ni, Đức Phật Kim Quang với tất cả Đức Ứng Chính Đẳng Giác quá khứ thảy đều tùy vui tuyên nói Nhất Tự Đại Luân Minh ấy Minh ấy thế nào? Ấy là:

"Án, Bộ-lâm"

Này Diệu Cát Tường! Đây là Nội Tâm vi diệu bậc nhất của tất cả Như Lai, tên là Đại Cát Tường Đại Luân Nhất Tự Minh. Nếu có người mong cầu sẽ được tất cả Chân Ngôn thành tựu.

Này ông, Diệu Cát Tường! Tối Thượng Nghi Quỹ Vương này là Sắc bí mật tối thượng của tất cả Chân Ngôn. Nếu trì tụng thì hết thảy nghiệp chướng đều được thanh tịnh. Người tụng, nên trước tiên tụng ba lạc xoa biến cho đầy đủ biến số.

Này ông, Đồng Tử! Nghi Quỹ Vương này đối với tất cả Thế Xuất Thế, tất cả Pháp, tất cả Chân Ngôn Nghi Quỹ đều được thành tựu. Nếu làm ủng hộ thì hay ẩn thân, vào trong tất cả Bộ Đa không có chỗ chướng ngại, đối với Thế Gian Xuất Thế Gian chẳng thể gây hại".

Lúc đó, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nói Nghi Quỹ trì tụng của Đại Luân Nhất Tự Minh Vương đấy thì tất cã Thế Giới của ba ngàn Đại Thiên chấn động theo sáu cách, ánh sáng chiếu tất cả cõi Phật. Tất cả Như Lai của các cõi Phật ấy thảy đều tập hội, rồi ngồi ở Chúng Hội trên Trời Tịnh Quang.

Hết thảy loài chúng sinh của tất cả cọi Phật ấy được ánh sáng chiếu đến, đều được Phước Đức lớn với được Thanh Văn, Bích Chi Phật cho đến khiến được địa vị chẳng thoái lui của Bồ Tát Thập Địa, cho đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Lại có vô số chúng sinh trong vô lượng vô biên Thế Giới trụ tại Địa Ngục, Quỷ đói, Bàng sinh, nẻo khổ nương vào ánh sáng lớn của Đại Minh Vương ấy chiếu chạm đến, đều được giải thoát khổ não, thọ nhận khoái lạc lớn, vui vẻ vô lượng, ngày sau quyết định đắc được địa vị của ba Thừa".

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát Đại Chúng ấy rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Đồng Tử! Hãy nghe cho kỹ! Đại Luân Minh Vương này có thế lực lớn, tất cả không sợ hãi. Phàm Trì Tụng Hành Nhân viên mãn ước nguyện, được vào Nghi Quỹ rộng lớn của tất cả Chân Ngôn Pháp, hay được thành tựu tất cả Chân Ngôn, hay khiến cho chúng sinh đầy đủ bình đẳng, có đại tinh tiến, hiểu các phương tiện, thành Trí tối thượng, đến ở Bồ Đề, ngồi ở Đạo Trường, được Đại Niết Bàn.

Lại nữa nói Pháp Mạn Noa La Thành Tựu, Nghi Tắc vẽ tượng rộng lớn Nếu có Hành Nhân như lúc trước an trụ Chân Ngôn, cầu thành tựu Pháp chưa từng có của Đại Luân Minh Vương, đối với tất cả Chân Ngôn tự tại tối thượng, có thế lực lớn, hay mãn tất cả ước nguyện, hay phá hoại tất cả tai nạn của Thế Gian, như Đức Phật hiện ra ở đời.

Nếu cầu việc của Phẩm Trung Hạ thì tất cả thành tựu được an vui lớn, vắng lặng cực khéo phá các nghiệp tội.

Này Đồng Tử! Đại Luân Minh Vương này ở các Thế Gian là Thiên Trung Thiên, Mặt trời Phật tối thượng, tên là Nhất Thiết Pháp Tự Tính Trí Chân Như Tế Tối Thượng Nghi Quỹ.

Phàm người đã hành, cần phải thọ nhận kỹ lưỡng. Nếu muốn vẽ thì trước tiên nên dùnh Chính Tâm chuyên chú, tìm vải lụa tối thượng, mịn màng, mới đẹp, trắng tinh không có dơ bẩn. Phàm vải lụa được dệt bằng tơ tằm đều chẳng được dùng.

Tấm vải ấy rộng một khuỷu tay, dài hai khuỷu tay. Nếu không có thì dùng vỏ cây không có loài trùng. Cầu người vẽ thì nên là kẻ sĩ thanh tịnh thuộc hàng trưởng giả, chẳng được trả giá, thuận giá liền đưa đủ.

Ngày bắt đầu vẽ thì nên chọn ngày cát tường của ba Trường Nguyệt. Người vẽ, trước tiên nên tắm gội sạch sẽ, mặc áo sạch mới, trong ngoài tương ứng thuần thiện chuyên chú, luôn cho thọ nhận Tam Quy, Ngũ Giới rồi sau đó bắt đầu vẽ. Trước tiên, vẽ tướng của Bản Tôn Phật, thân như màu vàng ròng, hào quang tròn vòng khắp, ngồi trong cái khám (cái khám thờ) báu lớn tại núi báu lớn, rỗng rãi tương xứng. Rồi dùng trân châu, báu tạp, Anh Lạc, vòng hoa báu trang nghiêm, vòng khắp trong ngoài mọi báu nghiêm sức.

Ở trên đỉnh đầu của Đức Phật vẽ riêng dù lọng, dùng mọi báu trang nghiêm, bên trên cái lọng vẽ hai vị Phi Tiên cầm cái lọng.

Ở bên phải Đức Phật, vẽ Hành Nhân.

Bên dưới chân núi báu ấy, giáp vòng bốn mặt vẽ nước biển lớn, có núi nhô lên từ biển.

Phía trước tượng, vòng khắp vẽ hoa Nẵng Nga Chỉ Sa La, hoa Bôn Nẵng Nga, hoa Phộc Câu La, hoa Dụ Thể Ca, hoa Ma La Ca, hoa Câu Tô Ma, hoa Tất Lý Diệm Ngu, hoa Câu Lỗ Phộc, hoa Ấn Nại Phộc Lam, hoa Táo Nga Địa, hoa Bôn Noa Lý, mọi loại hoa cỏ.

Lại đem nhóm hoa như vậy với mọi Diệu Hương hòa hợp làm Át Già phụng hiến cúng dường.

Nơi vẽ Bản Tôn nên như hoa Ca Ni Ca, hoa Chiêm Bặc Ca đầy đủ sắc tướng. Hoặc như màu vàng ròng thù diệu không gì sánh bằng.

Hoặc vẽ Bảo Thắng Phật, hoặc vẽ Đại Phước Tối Thượng Bảo Tràng Mâu Ni Phật, Đắc Nhất Thiết Pháp Bảo Tự Tại Phật ở trong cái khám báu lớn trên núi báu lớn. Đức Phật ấy có tướng mặt Từ Bi đoan nghiêm, làm tướng Thuyết Pháp Ấn, Thí Vô Úy.

Ở bên ngoài cái khám, vẽ người trì tụng, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, tay bưng lò hương, chiêm ngưỡng cúng dường. Bốn mặt của chân núi vẽ nước biển lớn, có ngọn núi nhô lên từ biển.

Tượng vẽ này, người trì tụng ấy nên y theo Nghi Tắc, như Pháp niệm tụng, làm Tăng Ích kia, mong cầu đều được.

Nay Ta nói Mạn Noa La Thiên ấy. Người trì tụng ấy nếu muốn trì tụng thời thảy đều hay hiểu biết, Chân Ngôn đã trì tụng luôn nên tinh thục với được Quán Đỉnh Chân Ngôn Nghi Quỹ.

Này Diệu Cát Tường! Mạn Noa La đã nói này có đầy đủ Pháp thọ nhận Quán Đỉnh. Quán Đỉnh Mạn Noa La này, tất cả Chân Ngôn đều hay hiểu biết, luôn luôn trì tụng ủng hộ thân mình với ủng hộ người Đồng Hạnh.

Quán Đỉnh A Xà Lê đều tu Giới Hạnh đầy đủ, có Đại Trí Tuệ, đủ tướng Phước Đức, thân tâm như nhuyễn, thương xót Hàm Thức, luôn vì tất cả Hữu Tình nói nơi Đại Thừa. Phàm đệ Tử đã nhiếp thọ, chẳng hơn tám người, nhiều quá liền xa lìa.

Như Mạn Loa La Nghi Quỹ đã nói lúc trước, đều là nơi mà tất cả Như Lai đã tuyên nói. Ông cần phải kính trọng, thường nên tu hành.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI HAI_

ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG HỌA TƯỢNG NGHI TẮC MẠN NOA LA THÀNH TỰU PHÁP

_PHẨM THỨ MƯỜI BỐN_CHI KHÁC

"Này Diệu Cát Tường! Nay Ta lại nói Phấn Đàn Mạn Noa La có thể làm hai khuỷu tay, hoặc bốn khuỷu tay, hoặc tám khuỷu tay, chẳng vượt qua Nghi này Như Pháp Độ lúc trước, tìm chỗ bên bờ sông, đỉnh núi với nơi thanh tịnh tối thượng khác, vạch vẽ vị trí của Đàn, làm bốn phương, mở bốn cửa, bốn góc, bốn đường viền vuông vức ngay ngắn. Dùng phấn ngũ sắc làm hoặc xen lẫn năm màu, mọi loại sắc tướng trang nghiêm.

Người Đồng Sự ấy cần phải ân cần chuyên chú, Tâm không có phiền não, không có hành nghiệp tội, như Pháp biết việc, luôn trì tụng, yên lặng y theo Pháp bắt đầu làm.

Nếu làm Tức Tai, Tăng Ích thì nên ở chính giữa vẽ làm cái khám báu lớn trong ngọn núi báu lớn. Trong cái khám, vẽ Đức Đại Bảo Quang Tràng Như Lai ngồi Kiết Già, tướng Chuyển Pháp Luân. Ở trước tượng làm ba lớp cúng dường với làm Quang Diệm Ấn như Pháp trang nghiêm. Dùng lửa sáng ấy che trùm khắp cả, sáng rực đều tràn đầy ở bên trong. Bản Tôn đã vẽ là Đại Sư của ba cõi, như mặt trời mới mọc, ví như màu hoa Cung Câu Ma như tướng Luân Vương, đầu đội mão báu, thân mặc Thiên Y với mọi loại vòng hoa thù diệu trang nghiêm. Làm khuôn mặt Đại Tiếu như Đại Tinh Tiến Đại Lực Na La Diên Thiên, diệu sắc đoan nghiêm, chẳng già chẳng trẻ, tay phải làm thể ngửi hoa Phộc Câu La, tay trái cầm bánh xe rực rỡ lửa sáng, ngồi trên ngọn núi báu lớn, co một chân duỗi một chân, có ánh sáng vòng khắp đám lửa, như lửa sáng rực, lại như gió thổi.

Như vậy trang nghiêm xong. Người trì tụng ấy ở trước tượng này, hết thảy nguyện cầu, tất cả thành tựu với được thành tựu tất cả Chân Ngôn cho đến các nhóm hữu tình, nếu có phiền não với năm tội Nghịch, phạm các Cấm Giới. Các người không có Trí, nếu y theo Pháp tu hành đều được giải thoát.

Nếu được thấy Mạn Noa La với Trì Luân Thiên Tôn, ở khoảng sát na, thành tâm tùy vui thì tất cả tội nặng đều được tiêu diệt.

Ở cửa Đông của Mạn Noa La làm nhóm cây chuối trang nghiêm với làm Môn Ngạch (Bộ phận bên trên cái xà ngang gác trên cửa)

Ở bên ngoài cửa, tụng Chân Ngôn, làm Sái Tịnh (Rưới vảy cho sạch sẽ) với hiến quả trái, hương, đèn, năm nhóm hương, vòng hoa đều tinh khiết tối thượng, thành tâm trịnh trọng

Ở trước mặt Thiên Tôn, an cái Hiền Bình thù thắng tối thượng, chẳng được động chạm đến

Lò Hộ Ma ấy như Nghi Tắc lúc trước an trí, rồi làm việc Hộ Ma.

Củi sự dụng thì nên dùng cây Khư Nễ La, cây Ba La Xá, cây Cát Tường, cây Ưu Đàm Bát La, cây A Lý Ca, cây A Ba Mạt Lý Nga làm tám ngàn miếng củi hoặc 1080 miếng. Lại dùng Hồ Ma (mè) với hoa lúa gạo hòa chung với Lạc (váng sữa đặc) xong, làm việc Hộ Ma Hành Nhân ấy chọn ngày có tinh tú cát tường. Trước tiên nên tắm rửa, mặc máu sạch mới, ăn ba thức ăn màu trắng. Như vậy thanh tịnh xong, rồi làm Hộ Ma. Tụng Đại Luân Nhất Tự Minh với làm việc Pháp, y theo Pháp mãn túc Đại Nguyện đã mong cầu, thảy đều đắc được Đại Lực, đầy đủ tất cả Vô Úy.

Nếu thời Mạt Kiếp mà Trì Tụng Hành Nhân luôn trì tụng thì đối với tất cả việc của Thế Gian với Xuất Thế Gian đều được thành tựu.

Sức của Đại Minh này được đại tinh tiến, cho đến mười lực với hàng Phạm Thiên, Đế Thích hộ thế Na La Diên Thiên, Nhật Nguyệt Thiên cho đến Dạ Xoa, La Sát, Ma Hầu La, Khẩn Na La, Nga Lỗ Noa, Ma Đa La, người với Tiên Nhân, tất cả hữu tình đã nói Chân Ngôn đều được thành tựu. Nhóm như vậy, trong đây thỉnh triệu thảy đều tập hội.

Nếu tụng Đại Luân Nhất Tự Minh Vương này thì hay giáng phục tất cả Bộ Đa, hay triệu tất cả Hiền Năng, hay được tất cả Thầy tốt (Thiện Sư) với được tất cả hữu tình tin tưởng ưa thích.

Nếu y theo Pháp Hành, như Pháp vẽ tượng, tìm nơi rất thanh tịnh ở bên bờ sông, đỉnh núi.. an trí.

Nếu muốn làm Tức Tai, Tăng Ích. Phàm là những thứ cần dùng đều trước tiên an trí. Người trì tụng ở trước tượng này, hướng mặt về phương Đông, ngồi trên tòa cỏ, chuyên tâm trì tụng chẳng được tán loạn. Tiếng trì tụng chẳng được quá cao, cũng chẳng được quá thấp

Nếu giáng phục Bộ Đa thì mau được thành tựu. Hoặc Tâm Từ thương xót hữu tình trong Thế Gian. Hết thảy lo khổ bức bách, không có chủ, không có chỗ nương cậy với các người bị khổ luân hồi trong nẻo ác, vì họ làm cứu hộ đều được thành tựu. Chỉ ở trước tượng, một lòng suy nghĩ, tưởng làm hết thảy cúng dường tối thượng của nhân gian mà phụng hiến.

Lại ở trước tượng, y theo Pháp làm việc Hộ Ma. Đem Đoàn Thực thanh tịnh hòa chung với nhóm hương Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma làm 108 viên rồi đem thức ăn này ném vào trong lửa để làm cúng dường. Mỗi một viên, một lần ném thì một lần tụng Chân Ngôn.

Dùng cây Khư Nễ La, cây Bát Lạc Xoa, cây Nhữ Nga Lỗ Đà, cây Ba La Xá dùng nhóm cây này làm củi. Nếu không có nhóm cây này thì có thể dùng cây khác. Phàm cây bị loài trùng ăn với khô queo, mục nát đều chẳng được dùng. Tất cả cây có gai cũng chẳng được dùng. Nếu dùng thì tự bị tội nặng.

Đây rộng nói Nhất Tự Chân Ngôn Nghi Quỹ, ở trong tất cả Chân Ngôn là tối thượng, đối với tất cả việc, sự dụng được thành không có nghi ngờ, cho đến Thỉnh Triệu thì đây cũng triệu được.

Nếu làm việc Hộ Ma thì nên dùng nhóm củi Bất Lạc Xoa, Ưu Đàm Bát La, Ni Câu Đà dùng nhóm bơ, mật, lạc tẩm hai đầu củi, chuyên tâm làm Hộ Ma, nên vì Vương Gia tác hộ việc nước.

Nếu vì cầu sinh lên Trời, làm Hộ Ma thì nên dùng Cung Câu Ma với Bạch Đàn Nếu cầu là Trì Minh Thiên Chủ làm Hộ Ma thì dùng 36 lạc xoa hoa sen làm Hộ Ma. Sau đó lại làm Át Già hiến Phật. Nếu được trên tượng Phật ấy, khắp cả có lửa sáng thì người kia ắt được làm chủ, cho đến được sinh lên cõi Phạm Thiên với Sắc Cứu Cánh Thiên cho đến trong A Tu La. Sau này ở trong tất cả Thánh Nhân luôn được làm chủ, hay phá hoại tất cả hàng Bộ Đa, dùng sức tinh tiến, sức đại kiên cố được Pháp thành tựu. Ở trong Trì Minh Thiên luôn được làm vua, sống lâu một Kiếp, sau khi mệnh chung, quyết định hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, có Pháp lược nói. Nếu dùng hoa sen trắng, Bạch Đàn đồng làm Hộ Ma đủ một trăm lạc xoa số thì công thành, quyết định được thấy Đức Phật Bảo Tràng.

Lại có Thế Giới Đại Bảo, cõi ấy có Đức Thế Tôn hiệu là Tối Thượng Mâu Ni Tối Thượng Đệ Nhất Bảo Tràng Như Lai trụ ở trong đó. Người trì tụng ấy được trụ trong đó, quyết định không có nghi ngờ.

Lại nữa, có Pháp tối thượng là Thuyết tối thượng của Như Lai. Dùng hoa Nẵng Nga Chỉ Bà La với nhóm Long Não, Bạch Đàn, Cung Câu Ma hòa hợp với nhau. Người trì tụng làm Hộ Ma 78 lạc xoa. Sau khi làm Hộ Ma thì chỗ muốn Triệu Thỉnh đều được đi đến, được hàng Trời vui vẻ, chỗ mong cầu đều được.

Người trì tụng ấy được Đức Phật xoa đỉnh đầu, ở khoàng xoa đỉnh đầu, chứng địa vị của Bồ Tát Thất Địa, được gọi là Chân Phật Tử, được Thọ Ký xong, quyết định chứng Bồ Đề. Vị ấy có tri kiến đều từ Phật Trí, tu tất cả Chân Ngôn Hạnh, làm đại cúng đường, được năm Thần Thông. Ở khoảng một niệm làm Chân Ngôn Vương đủ mọi loại tướng, cũng khiến cho người khác đầy đủ tất cả tướng, ưu thích Pháp cúng dường, ở trong khoảng sát na, phát Tâm Bồ Đề. Ở các cõi Phật, trăm ngàn.

Thế Giới đều hay đến được, được thất Đức Phật ấy với các Bồ Tát, gần gũi cúng dường, được nghe Pháp Yếu.

Lại nữa, có Pháp. Nếu có Hành Nhân dùng Tâm thanh tịnh, chuyên chú chân thật xem xét kỹ lưỡng, Dùng vật khí bằng vàng bạc, hoặc vật khí bằng đồng, sành chứa đầy bơ, thắp đèn đủ một lạc xoa, số định một trăm ngàn chẳng được thừa chẳng được thiếu. Chỉ dùng người Nam làm Đồng Chấp Sự, chẳng được sai người nữ Chấp Sự, đèn ấy mỗi mỗi cầm giữ, ở trước mặt Phật Đại Luân Vương cúng dường phụng hiến, mỗi mỗi đều khắp. Mỗi một ngọn đèn, tụng Chân Ngôn một biến chẳng được thừa thiếu. Như vậy cúng dường xong, ở khoảng sát na được thành tựu chỗ mong cầu, nghe âm của tiếng trống vang rền khắp, có vô số Thiên Chúng với Phật Bồ Tát trụ trong hư không khen rằng: "Lành thay! Lành thay! Ông thành bậc Trí, khéo hay tu hành. Ông quyết định chẳng bị trầm luân trong biển khổ lần nữa, được con đường tám Chính trong sạch tối thượng, vắng lặng không sợ hãi, an vui lớn. Chỗ mà bậc hiền thiện đã thực hành, thì ông có thể thực hành, ắt hướng đến Niết Bàn, thành được Phật Đạo"

Lại có Pháp. Tu Chân Ngôn Hạnh cầu tướng của Đại Luân Nhất Tự, điều mà bậc Chính Giác đã nói. Pháp Đại Trí của Hạnh tối thượng này, dùng gỗ cây Nễ Ma làm cái chày Kim Cương ba chấu (Tam Cổ Kim Cương): hai đầu, khoảng giữa làm phần bằng nhau, thường thời an trí trước mặt tượng. Nếu khi trì tụng thời cầm nắm, một lòng chuyên chú, đủ 16 lạc xoa, hoặc 8 lạc xoa. Tụng đủ số xong, được Pháp thành tựu.

Nếu được phụng hiến cúng dường ấy với khắp bên trên chày Kim Cương có lửa sáng rực rỡ thì người trì tụng ấy hay đến Phạm Thế với Thiên Giới khác. Ở trong tất cả Thánh Nhân được làm Chủ Tể, được làm Trì Minh Thiên với được Chuyển Luân Vương trên Trời, được chuyển thân của mình làm mọi loại tướng diệu sắc đoan nghiêm, được kéo dài thọ mệnh trụ mười Trung Kiếp, thọ nhận khoái lạc tôn thắng. Lại nữa, dùng Tâm Bồ Đề tu Hạnh bình đẳng, xa lìa tất cả nghiệp tội của nẻo khổ, được làm Thánh Thiên, sau khi chết lại sinh vào nhân gian cũng thọ nhận đại khoái lạc. Nếu y theo Pháp này tu hành, tinh tiến chẳng lùi thì quyết định sẽ chứng quả Bồ Đề.

Lại có mọi loại Pháp. Nếu vì người làm trì tụng cúng dường, tu Đại Luân Vương Quảng Đại Nghi Quỹ này, hoặc cầu các việc thù thắng của hàng Đế Thích, Chuyển Luân Thánh Vương, Trì Minh Thiên...ṭthì nên thành tâm chuyến chú, tất cả thành tựu.

Nếu đã được Pháp Tiên Hành thành tựu, ở trong một đêm, ngồi Kiết Già, trì tụng chẳng gián đoạn cho đến sáng sớm thì người ấy được năm Thần Thông.

Nếu ở trong rừng Thi Đà lấy cái xác chưa bị hư hoại, chuyên tâm trì tụng Nhất Tự Minh một đêm chẳng gián đoạn thì sáng sớm được thành tựu chỗ làm.

Lại nữa, nếu ở trong rừng Thi Đà trì tụng Phẫn Nộ Đại Lực Nhất Tự Minh Vương sáu tháng thì được Pháp thành tựu, mãn được nguyện đã mong cầu. Lại nữa, muốn thành tựu tất cả vật dụng trang nghiêm, ấy là: dù lọng trắng, giày da, vòng đeo tai, chuỗi Anh Lạc, vòng xuyến đeo ở cổ tay cho đến áo, áo da hươu, áo Trời, Tịnh Bình, tăm xỉa răng (Xỉ mộc) với mũ trụ, áo giáp, kiếm báu, dây đai báu cho đến nhóm tràng hạt, hoa sen, tất cả trang nghiêm của Thế Gian đều được thành tựu.

Chỉ ở trước tượng an mọi loại vật thuộc các món lúc trước, cho đến báu trang nghiêm, các khí trượng...ṇên rưới vảy cho sạch, trì tụng tám lạc xoa biến. Nếu được vật của mọi món lúc trước đều có lửa sáng tuôn ra tiếp chạm người trì tụng thì Pháp đấy được thành tựu tối thượng, tùy theo khoảng tiếp chạm, người trì tụng đắc được Thần Thông.

Lại nữa, người trì tụng hoặc đem bùn đất tạo làm các loại khí trượng trang nghiêm. Hoặc chúng hữu tình, loài chim (cầm) cho đến loài vật có tưởng, không có tưởng với mọi loại Giới, mọi loại có mạng sống với tất cả hành Bộ Đa Hoặc tự làm hoặc dạy người khác làm, chỉ ở trước tượng, như Nghi Pháp lúc trước, rưới vảy sạch sẽ, trì tụng đủ sáu lạc xoa cho đến bảy lạc xoa biến. Tụng đủ số xong, nếu ở trên mọi loại vật ấy có lửa sáng hiện ra tiếp chạm người trì tụng thỉ người ấy ở khoảng tiếp chạm đắc được Thần Thông, cũng được thành tựu tối thượng, hay dạo chơi bốn phương được trường thọ khoái lạc, chuyển thân lại được sinh ở trên Trời. Như vậy chỗ làm, chỗ mong cầu đều được thành tựu, cũng được Đại Lực Minh vương vô lượng vui vẻ.

Lại nữa, người trì tụng như vậy tu hành Nghi Quỹ rộng lớn, cầu sức Đại Minh, mau thành tựu. Phàm việc tạo làm đều cầu thanh tịnh, nên dùng người trong sạch, than tâm thanh tịnh, xa lìa chỗ ồn ào náo nhiệt, ưa thích nơi yên tịnh, luôn thường an trụ.

Nên dùng người này trợ tu việc Pháp, được Pháp thành tựu, được quả của Thượng Phẩm.

Nếu dùng người của Phẩm Trung Hạ trợ tu việc Pháp, lại tự không có Tâm tinh chuyên Thượng Phẩm thì quả báo đạt được chỉ thành việc của Phẩm Trung Hạ. Nếu chẳng vì việc lớn thì chẳng làm Hộ Ma, cho đến ở chút thời chuyên tâm trì tụng cũng được Phước Đức. Quốc Vương, Đại Nhân nhìn thấy vui vẻ. Nếu thường trì tụng thì tội chướng tiêu trừ.

Chân Ngôn Vương này, nếu thường trì tụng, mỗi ngày tụng hai biến hoặc 7, 8 biến ủng hộ thân của mình thì ở tất cả nơi chốn thường được cát tường.

Nếu cái áo đã mặc trải qua ba lần gia trì, nếu có người mặc thì hay trừ bệnh khổ.

Nếu gia trì vào ba cái áo (Đại y, thượng y, nội y), người bị bệnh Quỷ, đem áo tiếp chạm thì bệnh tự trừ khỏi.

Nếu có người sân nộ, tưởng mặt mắt của người ấy rồi gia trì. Người ấy nếu nhìn thấy thì sân nộ tự dứt.

Nếu là Bộ Đa, chúng ác với người làm hại gây não loạn. Chỉ tưởng mặt mắt của người bị não loạn ấy, tụng Chân Ngôn Vương 30 biến, dùng tay, miệng của mình gia trì thì người ấy tự tránh được, không bị tổn hại.

Nếu tất cả trẻ con của nhân gian vào lúc ngủ say, lúc ăn uống...hoặc bị nhóm Quỷ Ma ĐaLa luôn làm cho sợ hãi, não loạn. Dùng Chân Ngôn Vương gia trì 60 biến thì Quỷ tự xa lìa, dứt trừ sự sợ hãi.

Nếu hoặc có người trụ bên sông lớn sông nhỏ, thường trì tụng Chân Ngôn Vương thì Quỷ Thần trong nước, loại có độc, loài không có độc tất cả chẳng thể gây hại.

Như vậy Đại Địa, Nhân Gian có mọi loại việc, dùng Đại Minh gia trì thì không có gì chẳng được hiệu nghiệm.

Nếu lại có người thường tụng trì Chân Ngôn Vương này. Hoặc ở nơi thấy chịu khổ não thì mau được an vui, cho đến có tai nạn lớn cũng mau được tiêu trừ.

Nếu dùng hoa sen xanh, hoa gạo với các diệu hương hòa với mật làm Hộ Ma, tụng Đại Luân Minh 600 biến hoặc 1080 biến thì cũng được đẩy lùi nạn Oan Gia, dứt trừ bức não.

Nếu dùng nhóm hoa Ma Lợi Ca, Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma làm Hộ Ma sẽ được Quỷ Thần kính yêu.

Nếu thường trì tụng, luôn làm Hộ Ma thì đối với tất cả việc, không có gì chẳng đạt được, cho đến ba Phẩm linh nghiệm chỉ ở ngay Tâm của người trì tụng: chuyên chú hay chẳng chuyên chú.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

NHẤT THIẾT PHÁP HÀNH NGHĨA

_PHẨM THỨ MƯỜI LĂM_ CHI MỘT_

Bấy giờ Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát ở trong Đại Chúng, từ chỗ ngồi đứng dậy, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật rồi bạch với Đức Thế Tôn rằng: "Lành thay! Đức Thế Tôn khéo hay diễn nói tất cả Minh Tối Thượng Chân Ngôn Tương Ứng Đại Pháp Vân, tất cả Như Lai Tâm, Đại Luân Minh Vương, Pháp Đại Nghi Quỹ khiến cho Hành Nhân kia ở tất cả Nghĩa được quả viên mãn, thực hành Đạo vô thượng, trì tụng Hộ Ma, nhập vào Tam Muội, được tướng Nhân Quả, hiện chứng Đại Thập Lực, Pháp chưa từng có, quyết định được ngồi Bồ Đề Đạo Trường.

Lành thay Thế Tôn! Nguyện xin nói người tu Chân Ngôn Hạnh cầu thành tựu kia, ở trong mộng thấy tướng cát tường, đối với tất cả Minh mà được thành tựu.

Lại nữa, vì Hành Nhân ấy với các chúng sinh làm Đại Nhiêu Ích, tu các Pháp Hành, rồi ở trong mộng thấy tướng cát tường, biết chỗ làm ấy, quyết định thành tựu. Thế Tôn! Làm sao thành tựu điềm lành cát tường? Nguyện vì con diễn nói"

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát rằng: "Lành thay! Lànhthay Kim Cương Thủ! Ông Đại Bi Mẫn làm Dạ Xoa Vương vì phần lớn hữu tình của chúng Thế Gian làm lợi ích an vui. Lại vì các người tu hành mà thưa hỏi Ta: "Người kia ở trong mộng, thấy điềm lành nào mới là cát tường? Ở tất cả Minh, quyết định được thành tựu"

Này Kim Cương Thủ! Hãy nghe cho kỹ! Hãy nghe cho kỹ! Ông hãy khéo nghĩ nhớ! Nay Ta vì ông, mỗi mỗi tuyên nói Kim Cương Thủ! Ta trước tiên nói rằng: Người muốn làm Pháp, trước hết tìm nơi thanh tịnh không có ngăn ngại ấy là nơi ở trong núi, nơi trên đỉnh núi, nơi ở sườn núi, hoặc nơi bên bờ sông, thanh tịnh không có ngăn ngại, làm an cư xong, an trí tượng Phật, hiến cúng dường lớn. Sau đó chọn ba Trường Nguyệt, ngày cát tường của kỳ Bạch Nguyệt, ở đầu đêm dùng nhóm hương Bạch Đàn, Long Não, Cung Câu Ma hòa hợp với nhau, dùng cây củi Khư Nễ La nhóm lửa. Ở trước mặt tượng Phật, ngồi trên mặt đất cách Đức Phật bốn khuỷu tay. Dùng Đoàn Thực một ngàn cái làm Hộ Ma.

Nếu đám lửa lớn thanh tịnh không có khói. Lại dùng hoa sen gồm tám ngàn cái làm Hộ Ma. Dùng Bạch Đàn tẩm hoa sen Hộ Ma. Sau đó kết Bảo Tọa Ấn hiến tòa ngồi. Khi làm Hộ Ma thời dùng Hỏa Thiên Căn Bản Chân Ngôn, hoặc dùng Chân Ngôn này:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nhữ tha: Án, câu ma la, lỗ bế ni, nại lý-xá dã, nại lý-xá dã, a đát-ma nỗ nột-bộ để mô bà phộc dã, sa-phộc bán-nam, nhĩ, nễ phệ nại dã, dã tha bộ đán, hồng hồng, phả tra, phả tra, sa-phộc hạ"

Chân Ngôn này hay làm ủng hộ. Nếu làm tất cả việc Hộ Ma xong, cầu thành tựu ứng cát tường là tướng lúc trước. Nên ở trước tượng, chẳng gần chẳng xa, trải cỏ cát tường. Vào lúc đầu đêm, chẳng ngủ, tác Quán tương ứng, tưởng tất cả Phật với hàng Bồ Tát, thấy rõ ràng xong, đỉnh lễ sám hối. Lại buông xả thân của mình, dâng phụng tất cả Phật, sau đó hướng cái đầu về phương Đông, tùy ý mà nằm.

Nếu ở phần đầu của đêm mà được mộng thì nên biết là chỗ được của Âm. Ở phần thứ hai mà được mộng thì đây là chỗ được của Dương. Ở phần thứ ba mà được mộng là chỗ được của Phong...đều chẳng phải là cát tường.

Nếu là phần thứ tư mà được mộng, thì đây là chân thật.

Từ Âm mà đạt được mộng. Như vậy thấy nhóm của Ma Ni, thủy tinh, trân châu, Anh Lạc. Hoặc thấy biển lớn, sông lớn, nơi nơi tràn đầy nước rồi lại phân chia dòng chảy trôi nổi ở thân của mình. Hoặc thấy nạn nước, nước không có bờ mé, cỡi căn nhà để vượt qua. Hoặc thấy núi tuyết, núi ngọc, núi thủy tinh với thấy mưa lớn. Lại thấy dù lọng trắng, mọi màu trắng trang nghiêm với lưới trân châu, lọng trân châu với nhóm voi trắng, ngựa trắng. Mộng này là từ Âm mà hiện ra.

Lại nữa, thấy người màu trắng, áo trắng, cây phất trắng với tơ Đổ La, lụa, vải, bạc trắng với muối Hoặc lại thấy đường cát, đậu xanh, loại dầu mè vật như trên hoặc tiếp chạm hoặc nhận lấy. Lại nữa, hoặc mộng ăn bánh, ăn cháo với bơ, sữa, dầu, mật, mọi loại vật ăn được vật như trên hoặc tiếp chạm hoặc nhận lấy. Lại nữa, thấy cái yên ngựa rồi cỡi lên, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc tiếp chạm, hoặc cỡi. Mọi loại mộng như trên với loại tương tự đều là chỗ biến từ Âm, chẳng phải là chỗ ứng của cát tường chân thật.

Khi ở phần thứ hai của đêm. Nếu mộng thấy lửa với lửa lớn rực sáng chiếu bốn phương với thấy ánh sáng Thiểm Điện (sấm chớp) chiếu tất cả. Đây là chỗ biến của Dương.

Lại nữa, thấy báu Bát Nạp Ma La Nga với thấy mọi loại báu đều như màu lửa. Lại mộng ở gần lửa với lại thân tiếp chạm dẫn đến nhiệt não. Lại mộng ăn mọi loại thức ăn màu vàng. Lại thấy màu trời hôn ám chẳng thấy ánh sáng mặt trời.

Lại thấy hư không kèm với Đại Địa cho đến núi, đá thảy đều màu vàng. Lại thấy cỡi ngựa, đi xe kèm với voi lớn tất cả trang nghiêm đều là màu vàng ròng, hoặc ngồi, hoặc nằm với dùng bàn tay tiếp chạm đều là chỗ từ Dương mà có được Lại nữa, thấy vòng hoa, quần áo với dây quấn nách ấy, cho đến thân của mình thày đều màu vàng ròng, có ánh sáng có mùi thơm. Như vậy cho đến mộng thấy mọi loại tướng khác đều là màu vàng. Điều này đều là chỗ từ Dương mà có được.

Khi ở phần thứ ba của đêm, mộng thấy ánh sáng chiếu ở hư không, khắp cả bốn phương. Lại mộng thấy Đại Địa rộng rãi, luôn bước đi khắp cả. Lại mộng leo lên cây với leo lên cây có gai cũng là từ Phong (gió) mà có được.

Lại mộng ăn vật đắng với tất cả vật cay nồng. Hoặc lại ăn quả trái, hoặc sống hoặc chín cũng đều cay nồng. Lại nữa, mộng thấy người có tính nóng nảy, cùng nhau nói năng gây gỗ. Hoặc thấy tất cả Bộ Đa múa, hoặc thấy tự thân múa, cho đến thấy mọi loại tướng ác, mọi loại loạn ngôn. Điều này đều là chỗ biến từ Phong.

Lại có ba loại Pháp hợp với ba loại Âm, Dương, Phong ấy là ba loại Tham, Sân, Si. Tham là Âm, Sân là Dương, Si là Phong với tướng tạp loạn, cực tạp loạn.

Nếu ưa thích Thế Pháp (Pháp của đời), tướng của người nữ là chỗ sinh của Âm. Thỏa thích trong sự giận dữ, phần lớn ưa đấu tranh là chỗ sinh của Dương. Si là đen tối, quên mất, ưa thích nhiều tạp loạn là chỗ sinh của Phong. Như vậy các cảnh mộng là chỗ sinh của ba Pháp.

Phàm cầu thành tựu nên tùy theo tướng của cảnh mộng. Lại thùy thuận Âm nói sắc tướng của chúng sinh. Nếu người có nhan sắc trắng tươi, đoan nghiêm, sáng bóng, chẳng ngu, chẳng độn, có Trí, có Tuệ, chấp chí chẳng chuyển biến. Lại nhiều dũng mãnh, có Tâm Đạo, luôn ái ngữ, mạng trường thọ, rất được người Âm phụng trọng, sinh gặp Cát Tinh (sao tốt), lại sinh ở Ngư Cung ắt chủ về quân binh, làm Hộ Quốc Trọng Thần, được đại phú quý. Hết thảy việc mong cầu chẳng phải lìa Chân Ngôn, chẳng phải nhân vào Chân Ngôn, tùy theo Nghiệp Quả của mình sẽ cầu thành tựu. Được thành tựu xong, cầu Phước Đức lớn, cầu việc của Nhất Phẩm đều được thành tựu.

Phàm thức ăn uống được phát ra từ Âm thì tất cả thường chẳng được ăn. Lại tùy thuận Dương nói hành tướng ấy. Tướng thường giận dữ phần lớn đen gầy, thích làm việc ác, phần nhiều làm Tà Hạnh. Song, có dũng mãnh tinh tiến, lại có Trí Lực, phần lớn ưa thích bạn bè, có nhiều học vấn, nói năng khéo léo, có Tâm Đạo, học Nghiệp chẳng lùi, ý có nhiều niệm oán, yêu nói việc giận dữ, biết nhiều Thế Pháp, có Ngã Kiến, đối với cái khổ thì không có sợ, tu Chân Ngôn Hạnh tinh tiến chẳng lùi, ắt được thành tựu. Hết thảy việc mong cầu, tùy theo Nghiệp được thành, làm Pháp Giáng Phục mau được thành tựu, tất cả người tụng đều đến phụng trọng. Hết thảy đối với chúng sinh khác, hoặc giết, hoặc hại, hoặc xâm lấn, hoặc cướp đoạt, hoặc vì mình hoặc vì người khác. Song đối với Pháp được thành Phật thì chẳng phải là chỗ hứa.

Người có tướng sân, nhan sắc phần lớn là màu đen, hoặc màu tím, hoặc tạp sắc, hoặc màu đen xanh, hoặc màu đỏ vàng, xa lìa màu vàng ròng tối thượng. Người này nếu sinh ở Hiết Cung (cung bò cạp) là Đại Diệu A Thất Lệ Sử Tinh hoặc sinh ở Mộc Tinh thì thức ăn thích hợp luôn luôn có vị chua cay, thọ mệnh lâu dài, được Túc Mệnh Trí.

Lại nữa, tùy thuận Phong nói hành tướng của chúng sinh. Người thuận Phong thì thân chi thô ráp xấu xí, chẳng quá mập gầy, tính chẳng thông minh, chí chẳng quyết định, phần lớn có quên mất, chẳng ở yên một chỗ, có nhiều đàm rãi, tùy tiện khạc nhổ mọi nơi. Lại tham ăn, nhiều bệnh, Tâm ưa ganh ghét, đối với các hữu tình có nhiều hiềm oán, hoặc được làm vua thì phần lớn gây tổn hại Phật Pháp, sinh ở Âm Tinh khó biết chân thật. Người này nếu thường trì tụng, làm Giáng Phục, Kính Ái cầu Pháp ắt thành. Nếu có chúng sinh, Tâm phát phong cuồng mê đảo thì người này trì tụng ngăn cấm liền lui. Nếu làm sự nghiệp Thiện khác thì khó được thành tựu.

Lúc trước đã nói cảnh mộng đã được của ba loại Âm, Dương, Phong. Lại hợp với thân sắc đã thọ nhận của ba Pháp Tham Sân Si, nơi tâm tính ưa thích, có thể tu, có thể làm các sự nghiệp Nếu lại khi ở phần thứ tư của đêm thì được cảnh mộng chân thật, tất cả chân thật, đối với các sự nghiệp đều được thành tựu.

Lại nữa, có nhiều loại việc của Cung. Ấy là Dương Cung, Ngưu Cung, Nam Nữ Cung, Giải Cung, Sư Tử Cung, Xứng Cung, Đồng Nữ Cung, Hiết Cung, Nhân Mã Cung, Ma Kiệt Cung, Bảo Bình Cung, Ngư Cung, Thiên Nhân Cung, A Tu La Cung, cung của hàng Càn Thát Bà, Dạ Xoa cho đến cung của hàng Thánh Nhân. Mọi loại cung xứ, mọi loại hữu tình mà ứng thọ sinh, bẩm thọ mọi loại hình tướng, có mọi loại nghĩa nghiệp mà Đức Như Lai đã nói.

Kẻ kia cầu tất cả nghiệp quả, tu hành được Cung cát tường, tinh tú cát tường tương ứng thì sẽ được quả báo rộng lớn. Nếu không có Nhân Nghiệp thì quả báo chẳng thành. Nếu Pháp Nghĩa đầy đủ, được Chân Ngôn thành tựu. Người trì tụng ấy tu đủ Công Đức, biết Lý Chân Như, phân biệt Nhân Quả. Điều này có Công Đức, điều này không có Công Đức. Nếu đầy đủ Nghiệp Hạnh, được Pháp thành tựu. Như Nghiệp Hạnh lúc trước, y theo Pháp đã nói tức là Công Đức Hành Nghiệp của Như Lai quá khứ vì các hữu tình cầu mọi loại cảnh mộng, thấy mọi loại hình tướng, đắc được điềm tốt lành, thích ý ưa thấy

Hoặc lại thấy hình tướng chướng nạn ấy, cảnh mộng đại ác thì người trì tụng kia ắt có ba loại tu tập của Phẩm Thượng Trung Hạ. Cần phải dùng sức đại tinh tiến tối thượng cầu thành tựu ấy, đối với sự nghiệp quyết định, lìa cái thấy nghi ngờ về sự thành tựu, chẳng thành tựu.

Người cầu lìa chướng nạn cần phải y theo Pháp tác Quán Hạnh ấy. Tưởng Tự Tự Đại Minh Đồng Tử hóa làm tướng Lục Diện Lục Tý Đại Minh Vương Đại Phẫn Nộ. Vị Minh Vương ấy có hình sắc như Đại Diệm Ma Bồ Tát mặc áo dá báo, dùng rắn trang nghiêm, tay cầm cây kiếm bén, hiện uy lực lớn, phá các chướng nạn, như mặt trời ra đời thì hắc ám bị tiêu trừ. Hết thảy tất cả loài gây chướng nạn lớn, các Bộ Đa ác thấy vị Minh Vương này thảy đều sợ hãi, chẳng dám tạo làm các việc chướng nạn. Trì Tụng Hành Nhân đều trừ chướng nạn, được Pháp thành tựu.

Lục Tý Đại Minh Vương nói Trừ Chướng Đại Minh Đại Đà La Ni này, các Bộ Đa ấy với Thiên Chúng thảy đều lắng nghe. Đà La Ni là:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, ma bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nhữ tha: Hứ hứ, ma hạ cốt-lỗ đà, sam mục khư, sa trá-tả la noa, tát lý-phộc vĩ cận nẵng, già đá ca, hồng hồng, khẩn tức la dã tất, vĩ nẵng dạ ca, nhạ vĩ đa ca la, nậu sa-phộc bán- nam, nhĩ, nẵng xá dã, la hộ la hộ, tam ma dã ma nỗ sa-ma la, phả tra, phả tra, sa-phộc hạ"

Đại Phẫn Nộ Minh Vương nói Đà La Ni này xong thời hết thảy tất cả loài gây chướng nạn kinh hoàng sợ hãi, thân tâm run rẩy. Lúc đó, Điệu Cát Tường Đồng Tử đỉnh lễ bàn chân của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật, làm lễ kính xong, liền nhập vào Tam Muội.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật quán sát tất cả Đại Chúng trên Trời Tịnh Quang ấy rồi nói như vầy: "Thiên Chúng các ông! Phẫn Nộ Minh Vương này có uy lực lớn, hết thảy người hành trì tụng cầu thành tựu tất cả Chân Ngôn của Thế với Xuất Thế Gian, bị hàng Bộ Đa với chúng sinh ác gây chướng nạn, hành chẳng nhiêu ích thì Phẫn Nộ Vương ấy khiến cho tự Tộc ấy chịu điều phục mà chẳng chặt đứt mạng ấy, sẽ khiến cho tật bệnh, chịu sự khổ não ủng hộ người tụng thì khiến được an trụ, kèm được Phước Đức tăng trưởng. Kẻ gây chướng nạn kia nếu chẳng thuận theo Mệnh ấy thì cái đầu bị vỡ ra bảy phần như cành cây A Lê"

Khi ấy, Đức Thế Tôn nói Thuyết này thời Diệu Cát Tường Đồng Tử ấy liền ra khỏi Tam Muội. Đức Phật bảo Đồng Tử: "Này ông! Do Chân Ngôn có nghĩa sâu xa rộng lớn, trong các Nghi Quỹ là tôn thắng tối thượng. Phẫn Nộ Vương Đà La Ni này ở các Thế Gian, khiến cho người trì tụng, Tâm thường nhớ niệm, ở trong ngày đêm chận đứng Tâm Oán ấy, chướng nạn tự lui, thường tự ủng hộ, chỗ làm thành tựu"

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI BA_

NHẤT THIẾT PHÁP HÀNH NGHĨA

_PHẨM THỨ MƯỜI LĂM_CHI KHÁC_

Nay Ta lại nói tướng mạo của người hiền thiện, trì tụng tu hành nơi Chân Ngôn Hạnh được thành tựu Nghĩa, Pháp của Phẩm Thượng Trung Hạ.

Nếu lại có người thuộc dòng tộc cao quý, chủng tính thanh tịnh, thân tướng khác lạ hiếm có, sắc như vàng ròng, đầu như dù lọng, tóc màu xanh biếc, mặt như trăng đầy, tướng trán rộng rãi bằng phẳng, lông mày chẳng tạp loạn, mắt dài mà hồng, lông mi chẳng giao tạp, mũi thẳng như ống trúc, màu môi đỏ đẹp, lưỡi như cánh sen, răng đều trắng đẹp, tướng râu xanh kín, cằm tròn, vòm miệng sâu, tóc trên đỉnh đầu xoay theo bên phải, tướng tai rũ xuống bên dưới, có tinh thần, lại dũng mãnh, lời nói đáng yêu (ái ngữ) không có giận dữ, ít tham lìa dục, thường ưa thanh tịnh, thích mặc áo đẹp, ưa ăn vị ngon. Tịnh Hạnh tự xem xét bản thân, nói lời chân thật, quy trọng Tam Bảo, cúng dường Hiền Thánh, hiếu thuận với cha mẹ, thương xót hữu tình, Trí Tuệ sâu sắc, lại được sống lâu, tu hành quyết chí tinh tiến chẳng lui, ưa cầu địa vị của Bồ Tát Ma Ha Tát cho đến địa vị Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Người thuộc nhóm này quyết định thành tựu Pháp của Thượng Phẩm, ắt hay hiểu thấu nghĩa thâm sâu của tất cả Nghi Quỹ

Lại nữa, có người hoặc Sát Đế Lợi, với Bà La Môn, các chủng tộc thanh tịnh, đầy đủ tướng người, thân màu tía hoặc màu trắng, ức ngực tròn đầy, tướng vú nhô cao, lông xoắn vòng theo bên phải, bụng lớn rốn sâu, eo lưng to rộng, hai vai đầy đặn ngang bằng, hai nách hai hông sườn như vua sư tử, bàn tay cánh tay dài chẳng hiện gân mạch, trên dưới tương xứng, chẳng lùn chẳng cao, đủ Tâm dũng mãnh, ưa Hạnh bí mật, thích nơi Trì Giới, lại ưa bố thí, ngôn hạnh chân thật, thương xót tất cả, học Pháp không có sợ hãi, luôn ưa thích Trí của Thế Gian Xuất Thế Gian, phát Tâm Bồ Đề, thường cúng dường Tam Bảo, cũng đủ Phước Đức lớn, siêng hành tinh tiến, tu trì chẳng lùi. Người có tướng này đối với Pháp Trung Phẩm, quyết định thành tựu.

Lại nữa, có người chủng tính thanh tịnh, đầy đủ Thân Chi không có thiếu không có giảm, hoặc màu tía hoặc màu trắng, trơn bóng béo tốt, chẳng quá mập gầy, rất thuận phần bên dưới mà có đặc thù, yeo thân to rộng, tướng bắp đùi tròn đầy; ống chân, đầu gối trên dưới chẳng cong lệch như gót chân của vua nai, hai tướng ẩn kín đầy đủ viên mãn, bên trong lòng bàn tay, bàn chân màu hồng mịn màng có tướng bánh xe cát tường, tướng cây phướng, tướng lầu gác trên cửa, tướng con cá, tướng cành phan, tướng hoa Ưu Bát La. .các Tướng như vậy thảy đều nghiêm đẹp. Lại nữa, ưa thích thanh tịnh chẳng lẫn lộn với người ác, ít Tham Sân Si, có Phước Đức lớn, thường hành Từ Mẫn (thương yêu giúp đỡ người khác), ưa hành Bố Thí, cúng dường Tam Bảo, cũng lại cúng dường Tam Thập Tam Thiên, đối với Pháp Thế Xuất Thế tinh tiến tu tập. Người thuộc nhóm tướng này đối với Pháp của Phẩm thứ ba, quyết định thành tựu.

Lại nữa, có người phát Tâm Bồ Đề, tu Bồ Đề Hạnh gom đủ tướng màu nhiệm của ba Phẩm như trên, lại có đủ mọi loại Công Đức, Từ, Bi, Hỷ, Xả, dũng mãnh tinh tiến tu tập Đại Minh Đà La Ni, chí thực hành chẳng lùi, không có sợ, không có lo ngại, quyết định vượt qua các người tu hành, đắc được Pháp thành tựu tốt thượng bậc nhất.

Lúc trước Ta đã nói Trì Tụng Hành Nhân do Phước của đời trước cho nên đủ các tướng màu nhiệm, mà nơi tu hành quyết định thành tựu.

Lại nữa, có tinh tú cát tường, thời phần cát tường, ở một sát na, một cái nháy mắt, một hơi thở luân chuyển ven Trời soi xét (lâm cố) Thế Gian. Hết thảy chúng sinh khi sinh ra mà gặp thời phần này thì có đại cát tường, được Phước Đức lớn, tu các Đại Pháp quyết định thành tựu.

Nếu có chúng sinh không có căn lành của đời trước, nhiều nghiệp ác, cho nên ngay lúc sinh ra, gặp tinh tú ác, quyết định không có Phước, các Căn thiếu hụt chẳng đủ tướng người, chỗ tu Đại Pháp quyết định chẳng thể được thành tựu Nếu lại khi sinh ra ngay lúc sáng sớm, gặp nhóm Quỷ Tú, Khuê Tú, Trương Tú, Tinh Tú, Kháng Tú, Phòng Tú, Giác Tú, Tất Tú, Mão Tú với mặt trời mới mọc, đồng thời soi xét thì chỗ làm, chỗ tu của người này đều được thành tựu.

Lại vào lúc sáng sớm với lúc giữa ngày (giờ Ngọ) kèm tại kỳ Bạch Nguyệt, gặp Kim Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh. Nhóm Tú Diệu này có thế lực lớn soi xét tất cả chúng sinh trong Thế Gian. Nếu người sinh vào lúc này thì chỗ tu Nghiệp thiện với tu hành trì tụng Đại Minh Đà La Ni, tất cả sự nghiệp quyết định thành tựu.

Lại nữa, Kim Tinh, Một Tinh, Thủy Tinh này tùy có một ngôi sao cũng với mặt trời, cùng với mặt trăng đồng cư phương sở soi sét người sinh ra.

Sau khi người này sinh ra ắt đại phú quý, thọ mệnh lâu dài, được đại tự tại, tất cả nhìn thấy tôn trọng.

Lại nữa, có người sinh ra sau giữa ngày (sau giờ Ngọ), lúc mặt trời lặn... và người sinh ra ấy ở thời phần này gặp Ác Tinh soi xét phương sở. Ác Tinh là Thổ Tinh, Hoả Tinh, La Hầu Tinh, Kế Đô Tinh, Đa La Tinh với ngôi sao của nhóm Hắc Ám Lý Sắt Tra. Nhóm tinh tú như vậy cũng chẳng phải là thật ác. Nếu là người Thượng Thượng Phẩm có sức căn lành của đời trước, đầy đủ Phước Tuệ, khi sinh ra mà gặp giờ ấy thì đối với Phước Đức lớn, chuyển tăng uy thế. Nếu là Trung Phẩm thì đối với việc thiện ác đều giảm đi một nửa.

Nếu là Hạ Phẩm thì căn lành bị kém đi, với có nghiệp của đời trước. Người như vậy khi sinh ra mà gặp giờ ấy thì không có Phước Đức kèm không có Trí Tuệ, chẳng tu nghiệp Thiện, nhiều tham sân si

Lại ở giờ này, gặp trời tối tăm mù mịt, gió mưa bạo ác, ánh chớp sáng lòe, sấm sét chấn động lớn, tuôn mưa đá xuống dưới, màu ở trong mây hoặc biến thành đỏ hồng đây đều là điềm rất xấu.

Nếu vào giờ sinh, gặp hiện tượng này thì người ấy bị thiếu hụt các Căn, dung mạo xấu xí, thân bị cong gù, ghẻ chóc đầy dẫy, không có chủ, không có chỗ nương cậy, nghèo túng hèn mọn. Hoặc thọ nhận Giới Luật thì vi phạm chẳng giữ được, Thánh Hiền thương xót cho sự rơi đọa ấy.

Người như vậy, đối với điều ác thì tăng thêm, đối với điều thiện thì chuyển lùi, tất cả cát tường hoàn toàn không có chút phần, đối với Hành Nghiệp tu tập Chân Ngôn thì như người mù điếc chẳng thấy chẳng nghe. Giả sử được nghe thấy cũng chẳng thể sinh niềm tin. Việc như vậy, nói chẳng thể hết.

Lại nữa, chúng sinh như vậy do ít Phước cho nên hoặc bị tất cả Bộ Đa với hàng Ma Đa La, các Quỷ Thần ác trụ ở trong thân mà gây não loạn.

Lại có chúng sinh quy hướng Tam Bảo, phụng trọng Hiền Thánh cho đến ở chỗ của Phật, Bồ Tát Thập Địa, Bích Chi, Thanh Văn gieo trồng gốc thiện. Do tham sân còn nặng nên chẳng được giải thoát. Tuy lại được sinh ở trên Trời, cho đến được sinh ở cõi Trời Vô Sắc Giới, tận bờ mé của ba cõi. Do chưa miễn được Luân Hồi nên lại bị đọa lạc sinh trở lại cõi Diêm Phù, cũng lại thọ nhận thân, hoặc ngu hoặc si, lại bị Bộ Đa với hàng Ma Đa La, các Quỷ Thần ác trụ ở trong thân mà gây não loạn.

Các người có Trí với Thánh Nhân kia nhìn thấy việc này xong, rộng nói Hành Tướng khiến cho Trì Tụng Hành Nhân ấy mỗi mỗi hiểu rõ. Người trì tụng ấy do thường tụng Đại Đà La Ni Đại Minh Lực cho nên các hàng Quỷ Thần chẳng thể gây chướng ngại. Người trì ấy, tâm chẳng hôn mê, đầy đủ uy đức, đối với Đà La Ni được đại tự tại.

Ở Đại Địa này, hết thảy Bộ Đa với hàng Đá La trụ trong thân người gây não loạn, đều hay hô triệu khiến đến hiện ra, mỗi mỗi đều khiến loài ấy như thật tự nói. Dùng sức Đà La Ni lìa thân người kia, lại nữa, cùng với loài kia nói Pháp thâm diệu khiến chịu điều phục. Nhóm Bộ Đa ấy lìa khỏi người xong thì người thường bị bệnh kia được giải thoát. Dùng sức Đà La Ni điều phục điều ác, tăng ích điều thiện, đối với thiện đối với ác mà được tự tại.

Lại lúc trước nói ba loại giới Âm, Dương, Phong hợp với ba loại Pháp Tham, Sân, Si. Do Pháp của Tham Sân Si chẳng ngưng diệt cho nên Âm, Dương, Phong mà có tăng thịnh. Lại hợp với Địa làm bốn Đại. Đất cùng với nước hợp, Lửa cùng với gió hợp. Lại có hư không làm Đại thứ năm. Số bên trên là nơi mà con người luôn biết.

Kẻ kia y theo người bệnh đối với bốn Đại Giới, Tâm sinh nghi ngờ. Thân tuy do bốn Đại thì bệnh từ đâu sinh? Nếu chẳng từ Sinh thì bệnh tự ai có? Đối với Sinh, chẳng Sinh dấy lên hai loại nghi là ngoài bốn Đại riêng có chỗ tạo làm. Người này, Thiên Nhân cho đến Phi Nhân với các hữu tình, hết thảy có tăng giảm. Chỉ trừ Chư Phật Chính Biến Tri Giác của ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều đồng chỗ nói, không có hai, không có khác.

Như vậy thiện ác tùy theo Nhân mà được Quả, mọi loại khổ não đều tự Nghiệp làm. Người Hạ Phẩm này không có Phước, không có chỗ nương dựa, các loài Phi Nhân liền được dịp thuận tiện gây hại. Nếu là người của Thượng Phẩm thì sức Thiện thù thắng, sinh ra hợp với sao tốt, chỉ có ứng với điềm lành kỳ đặc, các loài Phi Nhân với các việc ác thảy đều xa lìa, luôn khéo vắng lặng được an vui lớn. Người ấy có mong cầu Đại Minh Đà La Ni, Nghi Quỹ tối thượng mau được thành tựu. Cho đến các Đức Chính Biến Tri quá khứ, hiện tại, vị lai ở trong Kinh Pháp nói Pháp Vô Ngã tối thượng bậc nhất của Thế Gian, Chân Như Giải Thoát Tối Tịch Tĩnh Cú, Vô Thượng Cú, Chân Ngôn Đại Đà La Ni, Pháp thành tựu của tất cả Nghi Quỹ khiến các Hành Nhân được Nhất Thiết Trí Trí. Ta, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói Pháp Đại Nghi Quỹ như vậy là vua trong các Nghi Quỹ. Nếu nhóm hữu tình y theo Pháp tu hành sẽ được Vô Bệnh Vô Tận Cú, Hằng Tịch Tĩnh Cú, Vô Phiền Não Cú, Bồ Đề Niết Bàn Cú cho đến tất cả Chân Ngôn Cú Nghĩa, ba loại Bồ Đề, Nhất Thiết Trí Trí. Nhân Nghiệp đã được trong các Nghi Quỹ chẳng thể thấy nghe, lại là hàng Phật Bồ Tát vì lợi ích cho các hình tình của tất cả Thế Gian nên đã nói, đã truyền".

Khi Đức Phật nói Quảng Đại Chân Ngôn Vương Nghi Quỹ như vậy thời ở trong ba cõi, hết thảy các Chân Ngông Vương không có ai chẳng hàng phục. Nếu lại mặt trăng Mâu Ni mất, Thế Gian trống rỗng thời Phật Giáo diệt tận. Nghi Quỹ Vương này còn trụ chẳng đi.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Đại Lực Chân Ngôn Vương Nghi Quỹ này là điều mà Đức Phật đã nói. Nếu có chúng sinh sau khi nghe xong, thành Tâm tin trọng, chí nguyện cầu mong thì hết thảy các Pháp của Thế Gian Xuất Thế Gian đều được thành tựu. Chư Phật đã nói không có nói lời hư vọng.

Nếu có Hành Nhân đối với Chân Ngôn Vương luôn trì tụng với ưa thích Pháp Hộ Ma thì người ấy đồng với chỗ truyền thụ của Nhất Thiết Trí Trí ba đời, an trụn trong Pháp Nghi Quỹ của Chân Ngôn Vương không có nghi ngờ. Hết thảy tất cả chúng sinh trong Thế Gian không có Trí Tuệ, đối với việc Thiện Ác, việc chẳng phải là thiện ác, việc tốt, chẳng tốt. Đối với việc như vậy sinh nghi ngờ thì nên vì nhóm này nói tất cả Pháp Giải Thoát tối thượng thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian của Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Giác, khiến làm mọi loại Pháp Chân Ngôn Vương mà Thế Gian đã tôn trọng, làm chỗ gom tụ cho tất cả chúng sinh.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Ông đã mong cầu Ta nói việc Thiện ác ấy với các Pháp Yếu chỉ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, chư Phật quá khứ cũng đồng chỗ nói, có thể khiến cho Mầm Phật vị lai chẳng bị đứt đoạn. Nếu người trì tụng đối với sức Nhất Trí Trí đã nói này, sinh tin tưởng tôn trọng sâu xa, tinh tiến không có nghi ngờ thì Hạnh đã hành, đồng với Nhất Thiết Trí Trí.

Nếu người trì tụng ở đời quá khứ từng làm các nghiệp chướng ác chưa dứt, nên ở đời này chỗ làm sự nghiệp chẳng thành tựu thì nên y theo Hối Pháp mà chư Phật đã nói, chí Tâm sám hối ắt được nghiệp chướng trừ diệt. Lại nên y theo Pháp tu hành, mau được thành tựu. Hoặc là người ngu mê luân hồi, nghiệp nặng chẳng thể y theo Pháp sám hối tu hành thì chỗ làm, chỗ mong cầu chẳng thể thành tựu. Đối với các hữu tình không do đâu mà lợi lạc.

Lại nữa, các người trì tụng nên tu Định Nghiệp, nếu chẳng tu Định thì chẳng thể hướng vào Môn Giải Thoát.

Nếu hay tu Định cùng với Pháp làm Duyên thì quyết định giải thoát, mau chứng Bồ Đề.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

PHÁP NGHĨA

_PHẨM THỨ MƯỜI SÁU_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Nây Ông, Diệu Cát Tường hãy nghe cho kỹ! Vị Dạ Xoa Vương Kim Cương Thủ Bồ Tát kia ở trong Đại Chúng hỏi Ta về sự nghiệp rộng lớn của Pháp vẽ tượng. Ta đã nói như lúc trước. Lại hỏi Ta về mộng mà tất cả Chân Ngôn Hành Nhân đã được, là Thiện là Ác thời Ta vì người trì tụng nói lúc ứng của tất cả mộng này.

Vị Dạ Xoa Vương Kim Cương Thủ Bồ Tát kia, tâm vui vẻ chắp tay, cúi đầu mặt đỉnh lễ bàn chân của Ta rồi bạch rằng: "Thế Tôn! Nay Đức Phật đã nói lợi ích Thế Gian với vì con, lợi ích chúng sinh khiến được khoái lạc. Mộng mà người trì tụng kia đã được, hành tướng thiện ác, Công Đức đã được, chúng sinh cầu làm, nếu có người luôn thực hành Hành Nghiệp tối thượng thì Nhân Quả đã được kèm với tất cả thiện ác quá khứ hiện tại vị lai với Nhất Thiết Trí, cho đến đã được Vô Tướng, Vô Trước (không có dính mắc), Vô Ngại thanh tịnh, Chân Ngôn tối thượng tương ứng với Thiện Tịch Tịnh Cú với tất cả uy lực của Phật, với nói Pháp Hành của Hành Nhân trì Chân Ngôn, vâng theo hình tướng của Thượng Phẩm và mộng phù hợp với mọi loại việc"

Vị Dạ Xoa Vương kia lại nói: "Đấng Tối Thượng Sư Tử Thích Ca Mâu Ni ở trong Hiền Kiếp thành vị Phật thứ tư, ngồi dưới cái cây giáng Ma, hiện uy lực lớn, đủ đại tinh tiến, hiển Đại Trí Tuệ, bày Đại Phước Đức là nơi mà đời đã tôn trọng"

Vị Dạ Xoa Vương Kim Cương Thủ Bồ Tát kia dùng lời nói như vậy khen ngợi xong, đỉnh lễ bàn chân của Đức Phật, rồi quay về chỗ ngồi của mình, yên lặng mà trụ.

Lúc đó, Đại Trí Diệu Cát Tường Đồng Tử phát ra lời hỏi rằng: "Thích Ca Mâu Ni Phật với Phật quá khứ. Lành thay Thế Tôn Ứng Chính Đẳng Giác! Sự Trí (vận dụng Trí Tuệ) rộng lớn kia, cho đến Chúng phần lớn là hữu tình: nơi sinh ra, Tinh Tú, Hành Tướng thiện ác, Sự Trí, Nhân Quả với tu hành mong cầu tăng ích sự nghiệp. Người trì tụng kia, tâm có chỗ nghi ngờ được thành, chẳng thành cho đến cầu Phước tối tôn tối cao tự tại khoái lạc của Thế Gian, cầu tất cả địa vị của Thánh cho đến Nhất Thiết Trí Trí. Nguyện xin Đức Thế Tôn lược giải nói"

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nghe thuyết này xong, vị Phật Tử ấy, phát ra Phạm Âm thanh tịnh, âm của cái trống Pháp đại tinh tiến, lại như âm Ca Lăng Tần Già vi diệu, bảo Đồng Tử Diệu Cát Tường kia rằng: "Này Đồng Tử! Nếu có Hành Nhân vì lợi ích của Thế Gian, tất cả cầu thành tựu thì cần phải thành thật chuyên chú, Tâm Từ thương xót, phát Tâm Đại Thệ Nguyện thanh tịnh. Người như vậy vì lợi cho người khác cho nên quyết định thành tựu.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Nếu Hành Nhân kia đối với Tối Thượng Đại Minh Đại Đà La Ni luôn ưa thích thọ trì thì người ấy đúng là chuyển bánh xe Pháp, giáng phục Ma La (loài Ma), được sự ưa thích tối thượng. Nếu lại chúng sinh, tai nghe, mắt thấy,Tâm sinh yêu thích thì quyết định đắc được khoái lạc thù thắng"

Diệu Cát Tường Đồng Tử bạch Phật rằng: "Uy Lực với Trí tối thượng của Như Lai, không ai có thể biết thì vị Phật Tử kia cũng lại như vậy"

Đức Phật bảo Diệu Cát Tường: "Vị Phật Tử kia, nếu thực hành Hạnh này được tương ứng thành tựu, cho đến người tối thượng của Thế Gian chẳng thể biết được Uy Đức Trí Lực ấy, cho đến Dục Giới Thiên với Sắc Giới, Vô Sắc Giới Thiên với Thiên Chủ kia cũng chẳng thể biết được Uy Đức Trí Lực ấy, cho đến Sơ Địa đến Thập Địa cũng đều chẳng biết. Này Diệu Cát Tường! Chỉ có Phật Như Lai mới có thể biết rõ.

Này Ông! Diệu Cát Tường Tối Thượng Nghi Quỹ, tất cả chư Phật quá khứ, vị lai với hiện tai ấy đều đồng tên gọi. Nếu có người nghe được, trong sạch tu hành, không có các Duyên khác, nhiếp Tâm chẳng loạn thì Hành Nhân ấy được Tịch Tĩnh Trụ, được Tối Thượng Thiện Thú, chỗ làm Thượng Pháp không có các chướng ngại, tu Chân Ngôn Hạnh mau được thành tựu, cầu thành Phật Đạo được đại viên mãn, ở cây Bồ Đề hoặc đi hoặc ngồi vì các chúng sinh, chuyển bánh xe Pháp thì Công Đức này là điều mà chư Phật đã nói

Này Diệu Cát Tường! Danh hiệu của ông, nếu có người niệm thì Đức Phật Công Đức chẳng thể nghĩ bàn, luôn hiện Uy Lực. Hết thảy vô số Chân Ngôn Nghi Quỹ của tất cả Phật quá khứ, không ai có thể nói được. Nhưng ông, Thanh Tịnh Diệu Cát Tường Đồng Tử hay nói Hạnh Chân Ngôn của tất cả chư Phật. Đồng Tử! Ông dùng Phật Trí dạy bảo cho tất cả. Tất cả Đại Chúng ở Trời Tịnh Quang này đều tùy theo sự dạy bảo của ông, không dám trái ngược"

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

TÙY NGHIỆP NHÂN QUẢ

_PHẨM THỨ MƯỜI BẢY_

Bấy giờ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập vào Nhất Thiết Như Lai Thần Thông Biến Hóa Tam Ma Địa, rồi ở tam tinh phóng ra ánh sáng lớn, làm nhóm màu: xanh, vàng, hồng, trắng, phả ly chiếu tất cả Thế Giới, các cõi nước Phật ở mười phương. Ở các Thế Giới, ánh sáng chiếu khắp, trong khoảng phút chốc triệu khắp tất cả hàng Trời, các Tú Diệu. Các Tú Diệu ấy tùy theo Triệu mà đến, đến Chúng Hội xong, lễ kính rồi trụ.

Ánh sáng của Đức Phật có uy che trùm Chúng Hội, chiếu khắp cả xong, quay về từ Tam Tinh của Đức Thế Tôn mà nhập vào. Các Tú Diệu kia với quyến thuộc ấy nhìn thấy ánh sáng nhập vào Tam Tinh của Đức Phật Thế Tôn thỡi mỗi mỗi đều chắp tay, run sợ quy mệnh, trong khoảng phút chốc mê muộn té xuống đất, nương vào Từ Lực của Đức Phật tự sống trở lại.

Lúc đó, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bảo tất cả Tú Diệu với quyến thuộc rằng: "Các ngươi đừng sợ! Hãy thành Tâm nghe cho kỹ! Các Tinh Tú Thiên! Ngươi, chúng Thánh Thiên! Ta nghĩ đến chúng sinh ngu si, không có Trí, chẳng hiểu biết Ý của Ta. Ta muốn các nhóm chúng sinh như vậy ở các Thế Gian, khởi mọi loại Tâm, tu mọi loại Hạnh, lợi ích cho mình cho người khác, hướng đến cầu thân Kim Cương bền chắc bậc nhất của Như Lai. Do mê đảo cho nên ưa thích cầu hàng Người, Trời, A Tu La lại đi vào mọi loại các nẻo hoang vắng của Luân Hồi, tùy theo nghiệp thiện ác đã làm ấy thọ nhận mọi loại thân của Thế Gian. Thân đã thọ nhận, không có chủ tể. Nếu lại chỗ làm tối thượng là chủ của Người, Trời trừ tùy theo Nghiệp Duyên ra, còn lại không có chỗ có được. Nghiệp Duyên ấy chủ yếu là mượn Nhân sinh ra, chỗ sinh của Nhân ấy chủ yếu theo Duyên mà lập Như vậy Nhân Duyên cùng trợ nhau hòa hợp, thích hợp sinh bốn Đại, bốn Đại sinh Uẩn hướng đến vô biên Hành, Hành hướng đến cõi giới khác. Thế nên phân biệt vô lượng sự sinh ra. Sau lại mạng chung (chết) do lửa Vô Trí, gió nghiệp tạo tác cho nên Tính đều thiêu đốt, che trùm làm cho chẳng thực hành Hạnh không có ngăn ngại của ba Thừa bình đẳng. Khi Đại Thừa lớn lên thì tạo làm tùy theo Nhân Duyên. Hạnh Trung Thừa Bích Chi Phật tự vì Trí chẳng lợi cho người khác. Tiểu Thừa Thanh Văn ưa thích trụ Đoạn Kiến, chấp Tâm chẳng quay lại, không cầu lối nẻo khác.

Lại nữa, khi ngu si mê hoặc thời tạo làm mọi loại Nghiệp, trụ ở Thế Gian cầu thành tựu của Thế Gian. Nếu lại đối với Tịch Tĩnh Vô Bệnh Cú, Vô Phiền Não Cú, Đạo Bát Chính Thanh Tịnh Vô Ngại Đối với Pháp như vậy nên siêng năng tu tập, lìa nơi chẳng Thiện, các Nghiệp ác thì người kia tự được trụ Hạnh của ba Thừa không có ngăn ngại"

Lại nữa, bảo Tinh Tú Thiên: "Tức Tai kia có ba loại Pháp. Trì Tụng Hành Nhân tu ba loại Nghiệp, được ba loại Quả, đối với ba loại này cần phải biết rõ.

Lại hai loại Nghiệp điên đảo kia cũng được thấy ba loại Tộc, kẻ kia lại được thấy tám loại Tộc, lại nữa thấy một loại Tộc, tất cả Chân Ngôn trụ Tịch Tĩnh Niết Bàn Tộc thuộc Tâm thanh tịnh của Phật. Như vậy đã nói Nhân Nghiệp đều là tướng của Chân Ngôn. Âm Dương kia cũng thế.

Nói về Thế Gian thành tựu. Nghiệp mà người kia đã làm như vậy, Nhân Quả đã được giống như gieo trồng lúa, thấy nảy mầm thì sẽ biết kết quả trái. Pháp thành tựu kia cũng lại như vậy.

Nếu được điềm tốt lành thì quyết định biết thành tựu. Ví như màu trắng nói là tối thượng. Âm Dương cũng thế, nếu Cát Tường hợp làm các việc đầy đủ, tất cả các Pháp đều là phương tiện, chỉ dùng một Nghiệp để làm tối thượng. Kẻ kia, nếu không có Nghiệp, thân không có chỗ trụ thì làm sao được điềm tốt lành? Nếu đủ hành tướng của điềm lành như thế cùng với Sinh Tộc thì mới biết kẻ kia được mọi loại nghiệp thiện. Nếu đối với tướng, đối với Nghiệp mà không có chỗ có được thì ở khoảng giữa không ai có thể biết được. Lại như người bệnh, Khí Lực suy kém, dung nhan tiều tụy thì mới biết là bị bệnh. Lại nữa, thấy nghiệp của chúng sinh được thân như vậy là thiện, là ác, quả báo, điềm lành nói là Sinh Tướng.

Này Tinh Tú Thiên! Trước kia Ta đã nói Thời Tiết khi tất cả chúng sinh được sinh ra với ngày tốt kia tùy theo Nghiệp đã chiêu cảm hợp với tinh tú cát tường. Lại thấy mọi loại tướng của loài Phi Cầm. Lại nghe tiếng vị diệu của ngữ ngôn với ở trong mộng được tướng cát tường. Điềm lành, nhân duyên, hành tướng như vậy.

Người trì tụng kia ở trong các Chân Ngôn Pháp cầu thành tựu thì cần phải biết rõ tướng thành tựu đấy. Lại nên biết tất cả chướng nạn, các tướng chẳng tốt với mộng mị ác.

Này các Tinh Tú Thiên! Xưa kia, thời quá khứ Đức Sa Lăng Nại La Vương Phật Chính Biến Tri ở Bồ Đề Đạo Trường nói Đại Chân Ngôn Vương phá tất cả chướng nạn với các mộng ác, việc chẳng tốt lành đều được tiêu diệt, khiến được Bồ Đề, Nhất Thiết Trí Trí.

Thời Ma Vương kia thường hưng Tâm ác, gây các chướng nạn, hiện mọi loại tướng đại ác, khiến cho người nhìn thấy sinh rất sợ hãi, đối với các tu hành khiến cho lui khuất. Khi sức Phước của Ma ấy trụ lâu thời người trì tụng kia dùng Chân Ngôn Vương đủ Uy Đức của Phật, đại tiến tinh lực, đại thần thông lực ở khoảng phúc chốc, các chướng nạn kia tiêu diệt tất cả mộng ác, tướng ác với mọi loại việc của chúng sinh ác

Này Tinh Tú Thiên! Các ông hãy nghe cho kỹ! Đức Sa Lăng Nại La Vương Như Lai quá khứ kia vì điều phục các Tinh Tú ác với Thiên Ma ác, tất cả hàng Bộ Đa kèm các quyến thuộc, cho đến mọi loại chúng sinh, các loài ác có hai chân, bốn chân không có chân...sống trên mặt đất (địa cư). Dùng Đại Chân Ngôn Vương điều phục, giáo hóa khiến cho sinh Tâm hiền thiện. đối với hữu tình khác chẳng sinh não loạn.

Các ông hãy lắng nghe! Nói Chân Ngôn Vương là:

"Nẵng mạc tam mãn đá một đà nam, a bát-la để hạ đá xá sa nẵng nam. Đát nhữ tha: Án, khư khư, khư hứ khư hứ, hồng hồng, nhập-phộc la, nhập-phộc la, bát-la nhập- phộc la, bát-la nhập-phộc la, để sắt-xá, để sắt-xá, sắt trí-lý, phả tra, phả tra"

Đức Phật nói: "Chân Ngôn Vương này tên là Đại Phật Đỉnh Sí Thịnh Quang. Nếu có người thường trì tụng thì hay tiêu diệt tất cả các ác, việc chẳng cát tường, hay giáng phục tất cả Bộ Đa, hay phá tất cả chướng nạn, hay thành tựu 80 ngàn mọi loại việc cát tường.

Nếu người tụng trì, vào lúc trì tụng, Tâm chẳng tán loạn, chân thành chuyên chú thời Ta, Thiên Trung Thiên Chính Đẳng Chính Giác trong khoảng phúc chốc đến chỗ cư trú của các Tinh Tú Thiên với tất cả Bộ Đa, loài làm ác dùng sức tinh tiến không có gì ngang bằng, sức đại tịnh tiến của Phật Đỉnh Chân Ngôn Vương để giáng phục, khiến cho loài làm ác kia nhìn thấy vô số Đại Phật Đỉnh Vương, sợ hãi vô lượng cùng với các quyến thuộc thầy đều cầu nhập vào Tam Ma Địa để làm cứu hộ.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI BỐN_

ÂM DƯƠNG THIỆN ÁC TRƯNG ỨNG

_PHẨM THỨ MƯỜI TÁM

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật bảo hết thảy tất cả bậc trụ ở mười phương, tất cả Đại Lực tối thượng, các Tú Diệu Thiên trong tất cả Thế Giới rằng:

"Thánh Giả! Ông hãy nghe cho kỹ! Nay Ta diễn nói nghĩa của tất cả Chân Ngôn Pháp. Có các người cầu thành tựu kèm nương theo sức Tú Diệu của các ông, sẽ được thành tựu. Này các Tú Diệu Thiên! Nay Giáo Sắc với các Nghi Quỹ của Diệu Cát Tường Đại Nghi Quỹ Vương này. Các Ông nên trụ, cũng nên y theo thực hành"

Khi ấy, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật vì lợi ích tất cả chúng sinh, nói Tú Diệu ấy vận hành hợp với thiện ác. Trì Tụng Hành Nhân kia đối với nghĩa của Chân Ngôn với Nhất Thiết Trí, cầu thành tựu, hoặc được việc thành tựu với chẳng thành tựu.

Này Tinh Tú Thiên! Nếu Dương Cung kia có Khuê Tú, Lâu Tú, Vị Tú, ba Tú này trực, lại hợp với Hỏa Tinh trực nhật thì người trì tụng kia đối với việc của ba Phẩm Thượng Trung Hạ, tất cả chỗ mong cầu đều chẳng thành tựu. Tại sao thế? Vì duyên với chỗ chướng ngại của Ác Tinh ấy.

Nếu lại Mão Tú, Tất Tú, Chủy Tú, Sâm Tú, Tỉnh Tú, Quỷ Tú, Liễu Tú, Tinh Tú, Trương Tú, Dực Tú, Chẩn Tú, Giác Tú, Kháng Tú, Đê Tú, Phòng Tú, Tâm Tú, Vĩ Tú, Cơ Tú, Đẩu Tú, Ngưu Tú, Nữ Tú. Mọi Tú như trên thảy đều tốt thiện, đối với người trì tụng thì có lợi ích.

Nếu Nguy Tú, Thất Tú, Bích Tú ba Tú này trực nhật, nếu làm việc ác sẽ được thành tựu.

Lại nữa, Khuê Tú trực nhật, nếu người sinh vào lúc này, có đủ Phước Đức lớn, có đại dũng mãnh với nhiều hiểu biết.

Lại nữa, Hư Tú trực nhật, thì Phước Đức, Chính Hạnh đều được thành tựu.

Ngoài ra có Tinh Tú tối thượng ở thời Mạt Pháp chẳng gây tai vạ, làm Phước. Ấy là Đế Sái-Dã Ô Ba Ba Nại Tinh, Ca Nễ Sắt-Tra Tinh, Nễ Sắt-Tra Tinh, A Lộ Ca Tinh, Bộ Nga Nại Tinh, Du Bà Nại Tinh, A Nễ Lỗ Đà Tinh, Dạ Du Tinh, Đế Nhạ La Tra Tinh, La Nhạ Tinh với Lộ Ca Tinh. Chúng Tinh như vậy, số nhiều đến 64 ngàn. Nhóm Tinh (ngôi sao) này ở thời Mạt Pháp thì chúng không có sức mạnh

Nay Đại Nghi Quỹ Vương mà Ta đã nói, đang có sức mạnh lớn, lợi ích cho chúng sinh. Song, Thế Gian kia, lúc Kiếp Sơ thành thời tất cả chúng sinh ở trong hư không, đi đứng tự tại. Rồi ở thời ấy không có già không có chết. Lai thời ấy không có Tú, không có mặt trời, mặt trăng cũng không có thời tiết, cũng không có Âm Dương, cũng không có hàng Trời, Người, A Tu La.

Lại, thời ấy tuy có chúng sinh nhưng chưa có Tộc Tính. Con người đều thanh tịnh, không có thiện không có ác, cũng không có cái để ăn, cũng không có người ăn, cũng không có trì Trai, cũng không có Chú Pháp. Phần lớn chúng sinh ấy chỉ có Tưởng của Thế Gian, do nghiệp quá khứ dẫn dắt Nhân nên rơi xuống đất chẳng thể bay trên hư không. Lúc đó liền có cái để ăn, liền có tham lam keo kiệt, thân đã nặng trược nên Đại Lực liền bị mất. Khi ấy liền có mặt trời, mặt trăng, tinh tú rồi phân chia ngày đêm, liền có thời tiết cùng với Âm Dương. Liền nói trên Trời, Nhân Gian hơn kém có khác cho nên có Trời, Người, A Tu La. Ta ở thời ấy, thân là Bồ Tát nhìn thấy chúng sinh kia có việc như vậy xong, Tâm thương xót cho nên hiện thân khác. Ấy là: hiện làm thân Tiên Nhân, hoặc hiện thân Phạm Vương, thân Đại Tự Tại Thiên, thân Na La Diên, thân Ca Lâu La cho đến mọi loại thân của hàng Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả Ở trong mỗi một đời vì tất cả chúng sinh luôn thường giải nói nghĩa của Bồ Đề Hạnh.

Lại nữa, khi Ta ở quá khứ làm Bồ Tát thời tất cả chúng sinh trong Thế Gian: ngu si, hắc ám, không có Trí, không có Tuệ. Ta vì nhóm này nói tất cả công xảo kỹ nghệ của Thế Gian, Âm Dương, toán số, Điển Tịch Vi Đà, Chính Pháp, Tà Pháp, Giới Luật, Bản Hạnh cho đến nhóm Thanh Minh Luận..Tuy Ta ở đời quá khứ như vậy, vì Thế Gian nói như việc này, nhưng Ta cũng không có sở đắc, sở tri mà chỉ vì Bồ Đề với nhóm giải thoát. Như vậy tuy đi trong luân hồi nhưng luân hồi ấy chẳng thể cột trói

Ở đấy, khoảng rất lâu, vui cầu Niết Bàn vắng lặng, câu chân chính không có dính mặc không có diệt, thường y nơi Pháp tu Nhân Hạnh ấy, rồi dược Trí tự sinh, thành nghiệp giái thoát, được Phật Bồ Đề.

Lại nữa, quá khứ vì cầu Bồ Đề giống như đói khát ở xứ Ngoại đạo, cầu thoát Luân hồi mà chẳng thể được. Đối với Đạo Bồ Đề lại khó hơn gấp bội phần. Do Ta ưa thích thực hành Nghiệp thiện nên được Trí tự sinh, lại được Niết Bàn, y theo đây tu hành mà thường nói các Luận, mỗi mỗi dẫn dụ chúng sinh được thành tựu giải thoát.

Kẻ kia chẳng biết Pháp và Người nên bị sợi dây dài Nghiệp Duyên của Luân Hồi cột trói. Do Nghiệp Lực này chẳng thể giải thoát Nhân Quả thiện ác, nên Ta nói một Pháp Âm Dương, Tinh Tú phân chia nơi thiện ác với nói bốn nhóm hộ thế là đất, nước, lửa, gió với chỗ mà bốn Đại này hòa hợp tạo làm, phát sinh mọi loại Tập Nhân (nhân gom chứa) của chúng sinh rồi vì lúc ấy tu Chân Ngôn Hạnh khiến được thành tựu.

Người trì tụng kia chuyên tâm hộ trì, tu thiện phá ác, ở các Thế Gian là tối tôn tối thượng, ở thời Mạt Pháp được Chân Ngôn thành tựu. Lại khiến cho hàng Đế Thích với Tự Tại Thiên hiện ra. Vào lúc như vậy, Đức Phật cũng hiện tướng Đại Trí Diệu Cát Tường Đồng Tử của ông đi trong Thế Gian thương xót tất cả chúng sinh, để khiến cho chúng sinh ở trong mỗi mỗi Thời được Pháp thành tựu.

Này Diệu Cát Tường! Có Pháp của Âm Dương Tú Diệu, 28 Tú, 12 Cung Phần, mỗi mỗi đều phân biệt. Nhóm Tú Diệu ấy cùng với Cung tương hợp, tùy theo các hữu tình mỗi mỗi đều sinh ở vị trí của Cung Phần, nhóm Tú Diệu kia hoặc đi hoặc trụ, hoặc nghịch hoặc thuận sinh quả thiện ác.

Nếu có chúng sinh sinh ở Dương Cung hợp với Lâu Tú, Vị Tú. Các Tú của nhóm này có sức mạnh, rất thích hợp với việc mua bán, tài bảo phong phú.

Nếu khi sinh ra, hoặc gặp mặt lời lặn thì người ấy bị việc ác, phần lớn trải qua nạn nguy hiểm, thọ nhận thân gầy xấu, ưa thích Ỷ Ngữ (tất cả ngôn từ bất chính hàm chứa ý dâm dật)

Nếu khi sinh ra, thấy mặt trời làm màu hồng, với Đại Địa trong khoảng sát na chớp mắt có màu hồng thì người ấy có Trọng Đức (người có Đức lớn).

Nếu lại, sinh ra vào lúc Tú Diệu không có ai nhìn thấy thì mọi loại chúng sinh ấy từ nơi Tạp Sinh do Tạp Hạnh sinh ra, cũng được từ Tạp Khoái Lạc mà giàu có thịnh vượng.

Lại giờ (thời) với nơi sinh (sinh xứ) như vậy, nói 30 loại quả báo thiện ác. Nếu Hỏa Tinh trực nhật là nơi sinh xấu, nhưng người ấy có cái bụng to, dung mạo sáng sủa, mắt dài, ái ngữ lại đủ Tâm Lực.

Nếu Mộc Tinh trực nhật, sinh vào giờ Mão với được mặt trời, mặt trăng, tinh tú ở vào phần của ngày đêm, hợp với Bản Vị ấy tức là nơi sinh của Hiền Thánh.

Nếu lại, khi sinh ra mà Tú Diệu đảo ngược thì Quả cảm ứng việc chẳng thật, phần lớn là Tà Ác.

Nếu lại khi sinh ra mà được Chính Thuận ấy, ắt cảm được quả Thiện, ở đất sinh ra ấy mà được an trụ. Nếu lại thân tướng màu trắng là bậc Thượng Nhân.

Nếu có chúng sinh sinh ở Ngưu Cung hợp với Mão Tú, Tất Tú.

Đây là Thượng Cung nơi được Cát Tinh (sao tốt) chiếu đến, khoảng phút chốc mà chúng sinh ấy sinh ra, được phú quá, cát tường, đầy đủ nhẫn nhục, sống lâu có nhiều con, tài bảo dư thừa, lại được làm Quân Chủ. Người sinh ở đây làm Pháp thành tựu, trong khoảng phút chốc biết rõ thiện ác.

Nếu gặp Sâm Tú thì có Pháp hiểu biết là nơi mà người thế gian ưa nhìn (ái kiến) Nếu gặp Mão Tú thì làm Chủ ở trong ba biển.

Nếu khi sinh ra mà Tú Diệu rõ ràng thì được làm Chủ của một nước nhỏ.

Nếu khi sinh ra mà Tú Diệu đầy đủ, lớp lớp soi chiếu thì được làm Chủ của Đại Địa, hoặc năm năm hoặc mười năm ở địa vị lớn ấy.

Nếu sinh ở Âm Dương Cung hợp với sao Bà Lý Nga Phộc trực nhật, lại sinh ra cùng với Chủy Tú, Sâm Tú, Tỉnh Tú hợp nhật thì người này si ngu, chẳng phân rõ thiện ác, ưa thích người nữ, lại nhiều Tà Nhiễm, thọ thân màu đen hoặc màu tía, nhưng chẳng keo kiệt, ưa đại xả tiền của.

Nếu Thổ Tinh trực nhật mà sinh ở trong Cung này thì ở trong ngày ấy, hoặc trong ban đêm, tùy theo Thời Phần ấy cho đến phút chốc được gặp thẳng thì đại phú tự tại, có Tâm Lực lớn, ngoài ra việc thiện ác thì cân nhắc mà nói.

Nếu ở Giải Cung hợp với Quỷ Tú, Liễu Tú mà sinh ra thì người sinh vào giờ này có sự tôn trọng, là nơi sinh bậc nhất. Nếu được sinh vào lúc nửa đêm là người Tối Thượng. Người này thọ thân màu vàng hoặc màu tía, thanh tịnh, cát tường, thù diệu có sự khác lạ kèm có Đại Trí. Nếu y theo Pháp làm nhân thì được thành tựu tất cả nghĩa, cho đến đại tài, đại vị đều đạt được chẳng khó.

Nếu ở Sư Tử Cung hợp với Tinh Tú, Trương Tú với được Thái Dương trực nhật mà sinh ra thì người này có đại dũng mãnh, lại ham ăn thịt, cũng lại ở chỗ hiểm nạn trong núi sâu được làm vua chốn ấy cũng được tự tại. Nếu đủ việc như trên với ở chốn ấy làm vua thì đây quyết định là sinh ra vào lúc mặt trời mọc

Nếu sinh ở Song Nữ Cung hợp với Dực Tú với Chẩn Tú thì người này có dũng mãnh, tâm ưa thích trộm cắp, thường tán loạn, ưa hành Tà Nhiễm, cũng được làm vua, hoặc được làm Quân Chủ. Nếu y theo Cung này sinh ra, hoặc được Một Tinh hợp, với được Mộc làm Bản Mệnh thì đây là tối thượng, thường được hộ trì, gặp chuyện xấu đều thành việc tốt.

Nếu ở Xứng Cung hợp với Giác Tú, Kháng Tú, Đê Tú sinh ra thì người này chuyên chú vào Nhân Nghĩa ngắn. Cung này chẳng Thiện, nếu được Nguyệt chiếu với được Kim, Thổ đồng với phần của Tú này sinh ra, lại sinh vào phần đầu tiên của đêm thì hoặc được làm vua, hoặc có phú quý. Nếu giờ sinh của người này chẳng xác định được hoặc chẳng quý thì là tính Tam Ái, cũng nhiều sân nộ. Nếu đối với Cấm Chú, ưa nơi uống rượu đánh bạc thì cũng được Đại Nhân yêu thích, xem trọng.

Nếu người sinh ở Hiết Cung hợp với Phòng Tú, Tâm Tú, Vĩ Tú sinh ra, lại được Hỏa Tinh làm Bản Mệnh thì người này chủ về Tâm Từ, học Nghiệp thành tựu, lại nhiều dũng mãnh, chẳng sợ nguy nan, hay nhẫn nại được sự lao khổ. Nếu được sinh vào lúc giữa ngày (giờ Ngọ) thì hoặc được làm vua, ở chiến trận lớn quyết định được thắng.

Nếu Hỏa Tinh như hình đồng tử, một khoảng sát na chiếu đến Cung này thì đất ấy thời ấy vẫn còn có Nhân Chủ nhưng chỉ khác con cái, cần phải hộ trì, ắt đủ Đại Trí, thông minh, ghi nhớ nhiều, hiếu thuận, có sức mạnh lại ưa thích bạn bè, thọ mệnh dài lâu. Nếu Hỏa Tinh đảo ngược thì việc liền sai khác.

Nếu người sinh ở Nhân Mã Cung hợp với Cơ Tú, Đẩu Tú sinh ra với được Mộc làm Bản Mệnh. Nếu người sinh ra sau giờ Ngọ với ban đêm thì hoặc cầu địa vị của vua ắt phá dòng tộc của mình, sau đó được thành. Ngay lúc Trung Niên thì được phú quý, tuy được phú quý thì cũng nên ở tại nơi nhỏ bé (tiểu xứ ) ví như ngươi bước qua tuổi Trung Niên như mặt trời đi qua giờ Ngọ, mà ở địa vị lớn, tiền của nhiều thì chút ít cũng khó được. Nếu là Tú Diệu đảo ngược mà thấy người sinh ra thì việc cũng có mọi loại sai khác

Nếu sinh ở Ma Kiệt Cung hợp với Ngưu Tú, Nữ Tú với được Thổ làm Bản Mệnh hoặc được sinh ra lúc đầu đêm, giữa đêm hoặc sáng sớm, lại riêng có Tinh Diệu đại cát đồng chiếu đến thì sẽ được địa vị của vua. Lại nơi người này sinh ra, chẳng chọn lựa tất cả dòng tộc sang hèn, bẩm tính nhu hòa. Pháp chủ về con mắt đỏ, thọ thân màu tía hoặc màu đen, có dũng mãnh, chẳng sợ hãi. Hoặc được địa vị của vua hợp với đất nước có nhiều nước thì làm Chủ nơi ấy, lại sống lâu, hay nhẫn được sự lao khổ. Nếu hoặc Tinh Diệu đảo ngược thì hết thảy việc ắt có sai lầm.

Nếu người sinh ở Bảo Bình Cung hợp với Hư Tú, Nguy Tú sinh ra, lại được Thổ làm Bản Mệnh. Nếu người này được sinh vào ban đêm với lúc sáng sớm, lại được Nguyệt hoặc Kim Tinh chiếu đến thì người này được nhiệp ác thanh tịnh, có Đại Trí Tuệ, phú quý tự tại, thọ dụng khoái lạc. Nếu Tinh Diệu như vậy đảo ngược, chiếu đến thì người này bị nghèo túng, bệnh tật, khổ não.

Nếu người sinh ở Song Ngư Cung hợp với Thất Tú, Tất Tú, Khuê Tú sinh ra, lại được Kim làm Bản Mệnh, lại sinh lúc nửa đêm với giữa ngày (giờ Ngọ), hoặc quá giữa ngày một chút thì sinh ra với được Kim Tinh với sao Diệu tốt khác đồng chiếu đến thì Pháp hợp với phạm Hạnh thanh tịnh, có Đại Trí Tuệ, đủ Tối Thượng Thiện, biết Pháp cát tường. Người sinh vào giờ này, thân màu trắng vàng, dung mạo thù diệu, bẩm tính nhân hiếu, quyến thuộc thuận hòa. Phàm việc đã làm thì tinh tiến bền chắc, sống lâu, có Phước lớn, tất cả vừa ý, hợp làm chủ của đất nước nhỏ ở phương Đông, đất ấy ít lạnh, với đất phần lớn là thấp, phần lớn ở trong nước là do Cung Phần chủ về việc này. Nếu được Thổ, Mộc chiếu đến thì đây là tối thượng, được làm Chủ của đất nước lớn. Nếu người như vậy, thì diều này liền quyết định biết giờ sinh của người ấy, trong Cung phần lớn có mọi loại Tinh Tú cát tường tối thượng.

Lại nữa, tiếp theo nói về năm, tháng, ngày, giờ, lượng của Thọ Mệnh. Bắt đầu từ ngày 01 đến ngày 15 là Bạch Nguyệt, ngày 16 đến ngày 30 là Hắc Nguyệt, hai cái nửa tháng thành một tháng, 12 tháng làm một năm. Ở một năm này chia làm 6 phần hoặc chia làm ba Thời. Thời Mạt Pháp thì Thọ mệnh chính của con người là 100 tuổi. Đốii với số của thọ lượng này cũng có ngắn hoặc dài, Trung Thiên chẳng định Lại nữa, Nhân Gian phần lớn có Phi Nhân xâm hại Thọ Mệnh, hành các việc ác làm cho sợ hãi. Lại hàng Thiên Nhân, A Tu La kia nếu hành chẳng thiện thì cùng nhau chiến đấu. Lúc này thời nhân gian hiện các tướng ác, ấy là động đất chẳng đúng thời, đột nhiên làm gió, mưa đá, sấm chớp khác thường, nơi nơi đều dấy lên lửa Trời, mây đen là sao Kế Đô ấy làm Nhật Nguyệt Thực. Nếu có mọi loại các tướng ác như vậy hiện ra ở nước nào thì quyết định chúng sinh chiêu cảm có mọi lớp bệnh tật, đói khát, chết yểu, quốc vương bị chết, tất cả người dân đều rất lo sợ, các người xuất gia cũng rất sợ hãi.

Lại nữa, phân biệt nói các loại động đất. Nếu lại Lâu Tú, Tỉnh Tú, Tinh Tú. Ngày của nhóm Tú này với đất của Cung Phần, nơi chốn (phương sở) bị động đất thì bên trong nước ấy: nơi nơi đều dấy lên trộm cướp, người ác làm việc xâm hại, quốc vương ở phương Nam ắt có tai vạ lớn Lại nữa, Vị Tú, Ngang, Tất Tú, Sâm Tú.

Ngày của nhóm Tú này với Cung Phần ấy có động đất thì người dân rất sợ với biên giới kia có tất cả người ác tranh nhau làm trộm cướp. Các quốc vương ở bốn cảnh bên ngoài đất nước trợ nhau xâm hại để làm Oan Gia, bệnh tật lưu hành, người chết chẳng thể đếm được. Lại chủ về quốc vương ở phương Tây bị chết.

Lại nữa, Tuy Tú, Quỷ Tú, Liễu Tú, Trương Tú với Dực Tú. Ngày của nhóm Tú này với Cung Phần ấy nếu có động đất thì bên trong đất nước có loạn lớn, người dân chẳng yên, nhân vào sự đói khát ấy mà xâm đoạt lẫn nhau, trở lại bị cột trói, chịu khổ não lớn Lại nữa, Chẩn Tú, Giác Tú, Kháng Tú, Đê Tú, Phòng Tú, Tâm Tú. Ngày của nhóm Tú này với phần của Tú ấy có động đất thì giáp vòng khắp núi Tuyết có người ác, với tất cả Tiểu Vương ở bên trong, biên địa của nước Nễ Ba La quyết định trợ nhau xâm đoạt, giết chóc.

Lại nữa, Vĩ Tú, Cơ Tú. Ngày của nhóm Tú này với phần ấy có động đất thì phương Đông: nước Mãn Thành, nước Ô Tra, nước Ca Ma Lỗ, nước Tông Nga La. Các nhóm quốc vương như vậy bị chết, chẳng nghi ngờ. Lại Chủ của nước Kiểu Noa xâm phạm nước khác, tự mình đến với bệnh ấy hoặc lại bị chết. Lại người trụ ở bờ biển với bờ sông Hằng, tất cả người dân bị trôi nổi với tất cả bệnh dịch.

Nếu Đẩu Tú, Ngưu Tú, Nữ Tú, Nguy Tú, Thất Tú, Bích Tú, Khuê Tú. Ngày của nhóm Tú này với đất của Cung Phần. Nếu lúc giữa ngày (giờ ngọ) có động đất thì hết thảy mọi ngọn núi thuộc vùng đất tương ứng với các ngôi sao ấy, tất cả bị sạt lở. Người trụ ở bốn cảnh giáp vòng Bắc Ấn Độ, Tây Ấn Độ, Nam Ấn Độ... trợ nhau xâm đoạt, có tai vạ lớn dấy lên, nơi nơi đói khát đi đến phá đất nước.

Nếu sáng sớm có động thì tai vạ bên trong đất nước được ngưng dứt, người dân an vui. Nếu Thượng Thời (Thượng Tuần của tháng ba) có động đất ác thì các bậc Thượng Nhân bên trong bên ngoài của nước Ma Kiệt Đà đều chịu khổ, quốc vương có nạn.

Nếu qua sau giờ Ngọ, hoặc xế chiều mà có động thì bên trong đất nước, tất cả người xuất gia có bệnh tật dấy lên, hoặc việc khổ não của bệnh sốt rét, hoặc nổi ung nhọt. Sau bảy ngày đêm thì tai lệ (tai hại tự nhiên) liền lui.

Nếu khi mặt trời đi quá thời (sập tối) mà động đất thì bậc thượng nhân tu hành thuộc bốn Tính chịu sự khổ não. Hoặc vua, hoặc Trọng Thần, người biếp Pháp có tai vạ. Lại hoặc Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Tỳ Xá, Thủ Đà cho đến người có công xảo tối thượng đối với Đệ Nhất Nghĩa khéo hay phân biệt, hiểu rõ với tu hành, cho đến bậc nghe nhiều nhớ nhiều đều bị bệnh khổ.

Nếu sau lúc xế chiều, khi mặt trời lặn có động đất thì tạp loại súc sinh bị bệnh dịch chết.

Nếu khi đầu đêm có động đất với lúc trước và lúc sau của đầu đêm ấy có động kèm hiện điềm chẳng lành như có gió mưa lớn với tuôn mưa đá lớn ắt có binh của nước khác xâm nhiễu, bức đoạt địa vị lớn.

Nếu phần thứ hai của ban đêm có động đất thì binh nước khác vào nước sẽ tự bị đau bụng với các bệnh của Dương Độc, Âm độc, các bệnh dịch dẫn đến bị chết. Người dân trong nước bỏ chạy sang nước khác.

Nếu khoảng giữa phần thứ hai của đêm có động đất với có gió lớn, thì lầu gác, đài tạ bên trong cung vua thảy đều nghiêng hoại, với cây cối ấy cũng đều bị vặn gẫy, cho đến thành, tường, tự xá, điện đường cũng với trú xứ của loài bàng sinh trong núi thảy đều bị phá hoại.

Nếu lúc nửa đêm có động đất thì quốc chủ ở phương Đông có con bị nạn lớn kèm với.

Nếu sau hơn nửa đêm có động đất thì tai nạn của Đại Địa được ngưng dứt, tất cả an vui.

Nếu phần sau nửa đêm có động đất thì vua của Trung Quốc bị bệnh đến chết, sau đó có việc ác, khổ não trợ nhau xâm hại.

Nếu khi phần thứ ba của đêm có động đất. Phàm đây là người hèn kém được khoái lạc. Chỉ có loài muỗi, ruồi, bươm bướm tất cả đều chết, chỉ được Thời Thục (tới thời thì được mùa).

Nếu sáng sớm có động đất thì trong nước có tai vạ về lửa lớn

Nếu tất cả Châu, khi mặt trời mọc mà có động đất thì tất cả xứ ở Trung Quốc dấy lên giặc cướp trợ nhau xâm đoạt, cho đến 7 ngày sau ở Trung Quốc có vị vua bị chết.

Nếu qua 7 ngày thì chẳng quyết định.

Nếu khi động đất hoặc kèm ánh sáng điện của sấp chớp có màu trắng thì cũng rất chẳng lành.

Nếu không có động đất, luôn thường có sét đánh, ánh chớp màu trắng là điềm tốt lành.

Nếu khi động đất, có ánh chớp màu đỏ, có lửa với khói đen thì nhà vua đang băng hà.

Nếu khi động đất, có sét đánh, điện chớp màu vàng với màu đỏ vàng pha lẫn thì có tai nạn lớn.

Người trì tụng ấy nếu ở trong nước tu hành mà nghe âm mỹ diệu thì có Ma nạn.

Nếu nghe tiếng trống, điều tốt đẹp tức là thiện. Nếu nghe tiếng ác, tức là ác, nơi đất ấy có việc cực ác, tương lai quyết định có việc lúa đậu mắc, bị đói khổ.

Nếu người trì tụng đi trong nhân gian, gặp điềm lành với Tú Diệu thì nên dùng Pháp thành tựu để làm lợi ích.

Nếu người làm Pháp, nên cầu Tú Diệu cát thiện trực nhật thì mới có thể làm Pháp Tinh Tú cát thiện là: Lâu Tú, Vị Tú, Quỷ Tú, Thất Tú, Bích Tú, Khuê Tú, Phòng Tú. Tú Diệu như trên trực nhật là cát thiện tối thượng. Nếu được ngày này, tu Pháp thành tựu có nghĩa thành tựu. Hoặc kết Đàn cũng được. Trong Tú Diệu này, ngôi sao màu trắng trực nhất là tốt lành tối thượng.

Nếu ngày 15 với ngày cuối cùng của tháng, hoặc đi qua xứ khác thì chỗ làm chẳng thành, cũng chẳng được làm. Tất cả Chân Ngôn, Mạn Noa La Nghi Quỹ đều chẳng được thành tựu. Ngày này đối với Chân Ngôn ắt có Ma nạn.

Nếu ngày mồng một, ngày mồng ba, ngày mồng năm, ngày 13, ngày 17 của tháng, kết Đàn thì tốt. Nếu làm Hộ Ma cầu Pháp thành tựu, nếu được ngày tốt, sao tốt thì sẽ được thành tựu

Nếu được Mộc Tinh, Kim Tinh, Nguyệt Tinh, Thủy Tinh là tốt. Hợp với nhóm sao tốt này nên làm tất cả việc. Thường thì ngày mồng bốn chiếu đến Thế Gian, hết thảy Đại Địa thì nơi làm Pháp thành tựu, chướng nạn chẳng thành, giải thoát các ác, chuyển ác thành thiện.

Nay nói lượng của Thời Phần. Từ một cái búng ngón tay cho đến 100 cái búng ngón tay là một Sơ Phần Thời. bốn Sơ Phần Thời làm một Trung Phần Thời, bốn Trung Phần Thời làm một Di Phần Thời, bốn Di Phần Thời làm một ngày, gấp đôi điều này là một Trú Dạ Phần (một ngày đêm).

Nay Ta lại nói lượng của Thời Phần. Nhập Diệt Huyễn tức rà rất ứ nhanh chóng, dùng mười Nhập tức là một Diệt Phần, mười Diệt làm một Sát Na Phần, mười Sát Na làm một Tu Du Phần, một trăm Tu Du làm một Trú Dạ Phần (một ngày đêm). Người biết Pháp cần phải hiểu rõ lượng của Thời Phần này. Lại dùng một ngày chia làm ba Thời.

Nếu người tác niệm tụng, Hộ Ma cầu thành tựu thì hết thảy ngồi, nằm, tắm rửa với thức ăn uống ấy, Thời Phần như vậy cần phải biết rõ.

Lại một ban ngày một ban đêm gọi là một ngày, 15 ngày là nửa tháng (bán nguyệt), hai cái nửa tháng là một tháng. Âm Dương nên biết rõ, như vậy 6 tháng là La Hầu Chướng Thời, 12 tháng là một năm, 12 năm là một Đại Niên. Như vậy tất cả Tinh Diệu với A Tu La ở trong Đại Niên này, hoặc thuận hoặc nghịch, làm các thiện ác.

Lại phần Bạch Nguyệt, ngày 15 khi trăng đầy thời La Hầu A Tu La Vương hiện Toàn Thực Nhật Nguyệt, trong Đại Địa có hội đao binh lớn, cần phải hiểu rõ việc như vậy.

Nếu hiện tướng Đại Ác như vậy thì có vô số chướng nạn, đến Mạt Pháp sau này, người của Thế Gian chẳng tu việc Phước thì khiến cho mặt trời mặt trăng hoàn toàn bị Chướng Thực (ngăn che ăn mòn).

Nếu ở phần của Vĩ Tú hoặc bờ mé của mặt trời lặn, hoặc bờ mé của mặt trăng lặn, hoặc lúc chính giữa của mặt trời mặt trăng. Thời như vậy bị ăn mòn tức là chỗ mà ảnh của La Hầu A Tu La Vương đã ngăn che thì vị vua của phương Đông nhất định bị chết, ắt có Chủ ở biên địa của phương Đông đi đến xâm hại.

Nếu Lâu Tú, Tất Tú, Vị Tú. Phần của nhóm Tinh Tú này có Nhật Nguyệt Thực thì Chủ của nước Ô Xá với tất cả người, sinh mọi loại bệnh ấy là bệnh Âm, bệnh Dương, bệnh Phong với phát mọi bệnh.

Nếu Tinh Tú, Trương Tú, Dực Tú, Chẩn Tú, Kháng Tú, Đê Tú. Phần của nhóm Tú này nếu có Nhật Nguyệt Thực, cũng quyết định là La Hầu gây ngăn che thì chủ của nước La Noa ở phương Đông với vua của các nước Tông Nga Tra với Ma Kiệt Đà bị bệnh về mắt, vương tử có tại vạ lớn, lại có Oan Gia có tâm ác đi đến gây việc rất ư đáng sợ.

Nếu Sâm Tú, Tuy Tú, Tỉnh Tú, Quỷ Tú, Liễu Tú. Phần của Tinh Tú như vậy, nếu thấy Nhật Nguyệt Thực thì vua của nước Ma Kiệt Đà bị xâm hại với Trung Thần cho đến người dân hợp có bệnh khổ, việc đáng sợ.

Nếu phần của Phòng Tú, Tâm Tú, nếu thấy Thực (bị ăn mòn) thì tất cả người dân hợp có bệnh dịch, tất cả Thượng Nhân có mọi loại khổ não với việc cấm trói xâm hại.

Nếu Cơ Tú, Đẩu Tú, Nữ Tú. Phần như vậy có Nhật Thực với mặt trăng có vừng sáng đỏ thì phần đất đó quyết định có đói khổ.

Nếu Đẩu Tú, Ngưu Tú, Thất Tú, Nguy Tú. Phần như vậy nếu có Thực (bị ăn mòn) là La Hầu ngăn che ăn mòn thì tất cả người dân bị vua chúa áp bức với trộm cắp gây sợ hãi; bên trong cõi nước, nơi nơi bị đói khát, người dân lo khổ.

Nếu phần của Khuê Tú, Bích Tú nếu có Thực (bị ăn mòn), nếu lúc trước có Nguyệt Thực, lúc sau có Nhật Thực thì ở trong nửa tháng, vua của nước Ma Kiệt Đà bị tổn thất.

Nay, tại đây đã nói nơi Đại Địa chấn động kèm với nơi mà La Hầu đã hiện điềm triệu cát tường (trinh tường), phần của Tinh Tú, Nhật Nguyệt Thực ở bên trong mỗi một cõi nước ấy sinh khởi điềm triệu ứng làm tai nạn lớn, hiển thiện ác ấy. Nếu nơi động đất có khói dấy lên vơi mưa Đại Âm. Nếu có điều như vậy thì trong năm ngày, nước Bộ Phộc có tai nạn lớn, bên phía Bắc của sông Hằng, tất cả người dân bị bệnh dịch chết mất. Cho đến Nhân Vương cũng có bị chết, cho đến núi Tuyết, bốn Châu, bên trong núi sâu thì quân chủ với hàng đại thần của cõi nước ấy có mọi loại lo khổ, bị chết cho đến vương tử, phi hậu cũng chủ về việc bị chết

Nếu phần của Tinh Tú có động đất, xứ ấy có khói hiện không có mưa mà qua năm ngày không có quang tạnh, hoặc nhiều ngày mà con người chẳng nhìn thấy nhau với chẳng thấy nơi có người cư ngụ loài người ấy cùng nhau rất kinh sợ thì nước ấy với nhà vua đều nói có băng tang (vua bị chết)

Nếu khi động đất, hoặc có sét đánh gây kinh sợ tất cả, hoặc có chỗ nói hai, ba việc ác lớn. Trong ban đêm hoặc hiện màu hồng trắng, nếu ở thời Bạch Nguyệt hiện con quạ màu trắng, hoặc thấy loài chim bay quái dị với thời tiết chẳng tốt hiện chim bay quái dị thì ngay tại chỗ ấy có sự kinh sợ lớn

Lại có loài chim bay, bàng sinh có hai chân, bốn chân, không chân, nhiều chân khiến con người rất sợ thì ắt có họa lớn. Chúng như vậy, phần lớn có vô số sự quái dị, khi đã hiện ra thời dấy lên các tai nạn

Hết thảy việc cảm ứng với thiện ác, điềm triệu cát tường như vậy... không có gì chẳng phải nhân vào nghiệp mà chúng sinh đã làm đã tu trong thời quá khứ.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI LĂM_

LƯỢC NÓI ĐẠI LUÂN NHẤT TỰ

_PHẨM THỨ MƯỜI CHÍN_

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại bảo các Tú Diệu Thiên với các quyến thuộc rằng: "Các ông hãy nghe cho kỹ! Diệu Cát Tường Đồng Tử Chân Ngôn Nghi Quỹ Quán Đỉnh Mạn Noa La Pháp Hộ Ma Nghi Tắc này. Tất cả các Ông chẳng được vi phạm. Trì Tụng Hành Nhân ấy đối với Nghi Quỹ tối thượng cầu Minh thành tựu. Người hội ngộ với Âm Dương Hành Bộ, Nhật Thần, Tinh Tú của các ông thì Nhóm Tú Diệu các ông đừng để cho các bọn nhóm ác không có Trí gây chướng ngại, nên khiến cho Phật Pháp, tất cả phụng hành, Thiên Chúng các ông vì người ấy làm ủnh hộ. Hết thảy tất cả các bọn nhóm ác, cần phải giáng phục, phát khiển đừng để cho có dịp thuận tiện gây hại, khiến cho các Hành Nhân y theo Pháp mà trụ"

Khi ấy, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nhập vào Tam Ma Địa tên là Xuất Sinh Nhất Thiết Phật Đỉnh Tiêu Trừ Nhất Thiết Chúng Sinh Chư Ác Chướng Nạn.

Lúc đó, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật nhập vào Tam Ma Địa xong, liền có tất cả Như Lai ở mười phương Thế Giới đi đến cõi Trời Tịnh Quang, tập hội xong đều cùng quán thấy Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật tại Tam Ma Địa.

Bấy giờ, chư Phật, mỗi mỗi đều đến trước chỗ của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật đồng thanh khen thỉnh: "Thế Tôn là bậc Đại Uy Đức chẳng thể nghĩ bàn, dùng Đại Vô Úy lợi ích Thế Gian, khéo nói tất cả Chân Ngôn Nghi Quỹ, cùng với điều mà các Như Lai đã nói, không có khác.

Thế Tôn! Phật Đỉnh Đại Luân Nhất Tự Minh Vương kia có đủ đại tinh tiến, có thế lực lớn, là tối tôn tối thượng. Vào thời Mạt Pháp hay ở Thế Gian làm lợi ích lớn, quyết định hay phá tất cả Bộ Đa với Tinh Tú ác, cho đến hàng Ma Đa La, loài khởi tâm ác gây chướng nạn. Nay thích hợp tuyên nói, lại vì thương xót tất cả chúng sinh, lại nữa ủng hộ Trì Tụng Hành Nhân khiến được như nguyện. Nguyện xin Đức Như Lai vì lợi lạc, nên nói Minh Vương cùng với Nghi Quỹ ấy"

Các Như Lai kia tác lời thỉnh cầu đó xong, yên lặng mà trụ. Lúc đó, Phật Hội với ba ngàn Đại Thiên Thế Giới do Thần Lực của Phật nên hiện ánh sáng lớn như đám lửa lớn. Ở các nơi của Thế Gian mà ánh sáng đã chiếu đến, không có một hữu tình nào mà chẳng khoái lạc.

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật quán sát vòng khắp rồi bảo tất cả Thiên Chúng kèm với tất cả hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật với các Bồ Tát Ma Ha Tát đã trụ trên Trời Tịnh Quang, cho đến các Như Lai đang ở trong Hội rằng: "Tất cả Đại Chúng hãy khéo lắng nghe! Phật Đỉnh Đại Luân Nhất Tự Minh Vương Nghi Quỹ này tức là Nhất Thiết Như Lai Vô Biên Uy Lực Vô Năng Thắng Tối Thượng Đại Luân Đại Minh Vương. Nay Ta sẽ nói"

Khi ấy, Đức Phật nói: "Ta là bậc Đại Sư của ba cõi, ở thời Mạt Pháp hay điều phục kẻ khó điều phục, tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Khẩn Nẵng La, Ma Hầu La Già cho đến mọi loại khác loài, các chúng sinh ác hết thảy cúng dường với mọi loại việc, hay khiến cho Hành Nhân tất cả đều được. Ta nói Phật Đỉnh Đại Luân Nhất Tự Minh Vương ở thời Mạt Pháp, khi Pháp muốn diệt thời vì Pháp ủng hộ, cho đến đối với Pháp của các Như Lai khi muốn diệt thời hay làm Phật Sự, lại hay ủng hộ tất cả Pháp Tạng của chư Phật Như Lai. Các Thiên Chúng các ông với tất cả chúng sinh nên dùng Tâm sâu xa lắng nghe cho kỹ rồi chân thật thọ nhận"

Liền nói Phật Đỉnh Đại Luân Nhất Tự Minh là:

"Bộ Lâm"

Này chư Thiên! Đại Luân Nhất Tự Minh Vương này tức là tướng Nhất Thiết Trí Trí Chân Ngôn của chư Phật Thế Tôn, trụ Đại Bi Hạnh, Thầy của tất cả chúng sinh, là chủ của Cát Tường Chân Ngôn. Pháp Giới của Phật Đỉnh Nhất Tự này như ngọc Ma Ni tù theo màu sắc biến đổi sai khác. Đức Phật nói có hai loại Giới là Giới Hữu Lậu và Vô Lậu. Thân của Như Lai có đầy đủ tướng giới sinh ở Thế Gian làm Hữu Tướng Tôn, nói là Hữu Lậu Sắc Thân Phần. Pháp Giới không có tướng nói là Tối Thượng là Vô Tướng Giới, vì trụ Đại Bi Hạnh ở Thế Gian mà Pháp Giới ấy nói là Vô Lậu Phần Này các hàng Trời! Tướng của chân Ngôn này như ngọc Ma Ni không có khác, Nhất Thiết Trí Trí cũng lại như vậy, song Chân Ngôn này chư Phật đều nói. Nếu là tất cả việc trong Đại Địa đều hay thành tựu. Nay Ta lược nói, nếu hay y theo Pháp làm tất cả việc thì chỗ mong cầu đều được.

Lại nữa, Đại Luân Phật Đỉnh Nhất Tự Minh Vương này sau khi Phật nhập diệt, ở thời Mạt Pháp lưu hành ở Thế Gian, làm Vô Năng Thắng, chủ của các Chân Ngôn, nơi mà chư Phật Bồ Tát đều thọ trì, tức là nơi mà Phật Bồ Tát quá khứ đã truyền nói. Nghi Quỹ tối thượng này, nay Ta lược nói.

Nếu lại, nơi đất đang ở nếu có Hành Nhân kia chuyên tâm trì tụng Đại Minh này, thì ở chỗ ấy, trong địa giới khoảng năm Do Tuần, hết thảy tất cả các Tú Diệu ác chẳng dám đến gần, cho đến tất cả các ác chẳng thể gây hại, cho đến Thiên Nhân, Thánh Nhân cũng chẳng dám gần. Người trì tụng ấy sẽ tự tùy ý.

Nếu lại có người khác đối với Thế Gian Xuất Thế Gian, cầu thành tựu thì hết thảy Pháp của người ấy tức mọi loại Chú Pháp đều hay giải trừ. Hoặc dùng cỏ Cát Tường nắm một nắm xong, tụng Chân Ngôn 800 biến, được đủ số xong, dùng dao chặt đứt, hoặc khiến cho tự đứt.

Nếu làm Chú Pháp thì cỏ kia đều được đứt. Nếu dùng cỏ Cát Tường cột buộc làm hình người, dùng chỉ hộng cột buộc thì người kia ắt bị cột trói. Nếu đem vật khí bằng sành, chú vào 800 biến thì vật khí bằng sành bị phá hoại thì người kia cũng bị phá hoại.

Nếu đem hạt cải, dùng máu người thấm lên rồi rải ở trên đất, lại cùng cành cây Ca Vị La đánh thì người kia liền bị đánh. Trước kia đã nói tất cả Pháp Điều Phục, có thể y theo Pháp làm.

Nếu làm Tức Tai thì nên dùng nước cốt sữa làm Hộ Ma, dùng bơ cũng được. Hoặc Pháp Tăng Ích cũng đồng làm điều này.

Nếu nắm quyền (nắm tay) thì có thể cấm tất cả Chân Ngôn, nếu muốn giải thì Tâm niệm tự giải. Hoặc người muốn cầu Chân Ngôn thành tựu như cấm ấy thành thì tất cả đều được thành tựu. Hoặc cấu riêng Nghi Quỹ thành tựu thì đồng với điều này cũng được.

Nếu Chân Ngôn này thành tựu thì nên dùng Thỉnh Triệu hoặc dùng Phát Khiển, cho đến ủng hộ thảy đầu có thể được, cho đến ẩn thân cũng có thể hay được.

Nếu chẳng y theo Chú Sắc thì việc chẳng thành. Dùng bơ, mật, lạc kèm với mè hợp chung, làm Hộ Ma 8000 biến, một ngày ba thời, đến bảy ngày ắt được thành tựu, ắt y theo Chú Sắc.

Nếu cầu thành Thiên Nhân. Dùng cây Tùng ướt làm củi, gồm 800 miếng, làm Hộ Ma bảy đêm được thành.

Nếu vì giáng phục Rồng. Dùng bơ, mật, lạc làm Hộ Ma thì Rồng đi đến chịu hàng phục.

Nếu giáng phục Dạ Xoa. Dùng Lạc Phạn (cơm nấu với váng sữa đặc) làm Hộ Ma thì Dạ Xoa đi đến chịu hàng phục. Nếu giáng phục Dạ Xoa Nữ thì chỗ dùng cũng thế.

Nếu giáng phục tất cả Càn Thát Bà. Dùng gỗ cây Vô Ưu làm củi với cây Tất Lý Diễn Ngu làm củi kèm với hoa thì giáng phục được. Với hàng Dạ Xoa Nữ, Long Nữ thì Pháp cũng đồng.

Nếu vì Tinh Diệu thì dùng hạt cải trắng. Nếu vì vua thì việc cũng đồng.

Nếu vì Bà La Môn thì dùng hoa. Nếu vì Phệ Xá thì dùng bơ, sữa, lạc. Vì Thủ Đà thì dùng trấu với đất bụi. Vì người nữ thì dùng muối làm Hộ Ma.

Nếu vì Đồng Nữ thì dùng gạo, đậu xanh nấu cháo làm Hộ Ma.

Nếu dùng lúa gạo, hoa kèm với mè hòa với bơ làm Hộ Ma thì được tất cả hàng phục.

Nếu một ngày ba thời làm Hộ Ma, đủ bảy ngày bảy đêm thì đối với tất cả việc đều được như nguyện.

Như vậy làm xong, như Phật Đỉnh Như Lai dạy bảo Thiên Chúng ấy.

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì Thế Gian, nói Pháp thanh tịnh, bảo Tối Thượng Đệ Nhất Phật Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường Đại Bồ Tát! Ta nay đã nói Đại Luân Nhất Tự Minh Vương Nhất Phần Nghi Quỹ. Quảng Đại Tôn Thắng Như Lai Thiên Trung Thiên nếu trải qua kiếp số thì nói cũng chẳng thể hết. Nay Ta vị lợi ích các chúng sinh mà lược tuyên nói"

Khi ấy, Diệu Cát Tường Đại Bồ Tát với tất cả các nhóm Như Lai ở mười phương, ở trên Trời Tịnh Quang ấy thỉnh Đức Đại Vô Úy Chính Đẳng Chính Giác Lưỡng Túc Tôn vì lợi ích cho tất cả chúng sinh thời Mạt Pháp, nên thỉnh nói hết thảy Nghi Tắc của Quảng Đại Vô Úy Đại Minh Vương Chân Ngôn như vậy, mau được thành tựu.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

LƯỢC NÓI NHẤT TỰ ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG

HỌA TƯỢNG THÀNH TỰU

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI_ CHI MỘT_

    

Bấy giờ Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật quán sát cõi Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Hãy nghe cho kỹ! Hết thảy Tối Thượng Đại Luân Nhất Tự Minh Vương Nghi Quỹ trước kia đã rộng nói. Nay Ta lại vì thời Mạt Pháp, chúng sinh lười biếng, độn Căn không có Trí, chẳng thể tu tập Nghi Pháp rộng lớn để cầu thành tựu. Nay vì thương xót các chúng sinh, cho nên liền lược tuyên nói, đồng Pháp tối thượng sẽ được thành tựu.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Nếu có Trì Tụng Hành Nhân cầu thành tựu tối thượng. Trước tiên tìm tấm lụa mới, chẳng cắt chỉ bông, nên loại bỏ bụi khiến thuần thanh tịnh. Dùng màu vẽ thượng diệu, vẽ Đức Nhất Thiết Thế Gian Chủ Tối Thượng Pháp Vương Điều Ngự Trượng Phu Nhị Túc Thế Tôn Bảo Tràng Như Lai với tướng chuyển Pháp Luân, hào quang tròn sáng rực vòng khắp trang nghiêm.

Ở phía trước Đức Phật, mặt bên trái vẽ Thánh Kim Cương Thủ Bồ Tát, tiếp theo vẽ Phạm Vương. Mặt bên phải vẽ Thiên Nhân cầm vòng hoa, tiếp theo vẽ Trì Tụng Hành Nhân. Ở trước tượng này, mỗi ngày ba thời, đốt hương Trầm Thủy, tụng Chân Ngôn 10 lạc xoa. Số viên mãn xong, sau đó thành biện (làm thành công) các Pháp.

Nếu có Hành Nhân cầu thành tựu bánh xe. Trước tiên dùng thép đã tôi luyện làm bánh xe có đủ 12 cây căm. Chọn ngày tốt trong ba trường nguyệt (Tháng 5, tháng 9, tháng giêng) bắt đầu ra công. Ở trước tượng, một ngày ba thời đốt hương Trầm Thủy, tụng Chân Ngôn đủ 10 lạc xoa. Dủ số xong rồi, dùng bàn tay đè lên bánh xe, tụng Chân Ngôn cho đến khi trên bánh xe hiện ra ánh sáng thì công ấy được thành tựu. Người trì tụng ấy cầm bánh xe làm Trì Luân Minh Vương. Nếu người khác, vào lúc ánh sáng hiện ra mà được nhìn thấy thì người ấy cũng được Thần Thông.

Nếu người cầu thành tựu dù lọng. Làm dù lọng trắng thanh tịnh thù diệu, bên trên an bánh xe vàng. Như Pháp làm xong, ở trước tượng, dưới dù lọng, ngồi tụng Chân Ngôn cho đến khi tự đứng dậy, ngày ngày ba thời đốt hương Trầm, tụng Chân Ngôn 10 lạc xoa. Đủ số xong, vào ngày 15 hiến mọi loại cúng dường, tay giơ cao dù lọng, tụng Chân Ngôn cho đến khi lửa sáng hiện ra, dùng tay cầm lấy thì được thành Trì Minh Đại Luân Vương. Chỉ là ba trường nguyệt, chọn ngày mồng năm hoặc ngày 15 đều được thành tựu. Ở khoảng thành tựu này, được biết rõ tất cả Pháp, được tất cả Thần Thông, được chư Phật hộ niệm, được tất cả chúng sinh tôn trọng. Ở trong Thế Gian được một ngàn Luân Vương làm quyến thuộc.

Nếu cầu thành tựu Phật Đỉnh. Nên làm cây gậy (trượng) có thể dài một khuỷu tay, dùng vàng, bạc, hoặc động nhoặc nhóm Ma Ni làm. Dùng bày tay đè lên, tụng Chân Ngôn cho đến khi ánh sáng hiện ra, thọ trì lâu dài được tùy theo Ý, vì tất cả chúng sinh nói Pháp, được sống lâu một Đại Kiếp.

Hoặc cầu thành tựu cái bình báu. Dùng vàng làm cái bình chứa đầy năm báu, năm loại lúa đậu, năm loại thuốc Lấy lụa trắng che trùm miệng bình.

Vào ngày tốt của ba trường nguyệt,bắt đầu làm Pháp, ở tháng tiếp theo được thành tựu. Ở trong cái bình ấy, chỗ mong cầu đều thành tựu.

Hoặc cầu thành tựu báu Như Ý. Nên dùng vàng làm viên ngọc (châu), hoặc dùng viên ngọc bằng Pha Chi Ca (Pha lê). Dùng lụa trắng che trùm, như Nghi, tụng trì được thành tựu thì nơi chỗ đã mong cầu đều được như nguyện. Như vậy được trụ trong Thiên Nhân.

Nếu có trì Phật Vô Năng Thắng Chân Ngôn đủ một câu chi (một trăm triệu) thì đắc được Thần Thông, thân như ngượi của cõi Trời Tịnh Quang, sống lâu một Đại Kiếp.

Thế Tôn! Nhóm Phật Đỉnh Vương Bạch Tản Cái này, nếu tụng 10 lạc xoa, phàm việc đã làm đều được thành tựu. Như vậy Vô Năng Thắng Phật Đỉnh y theo Nghi Quỹ trong Kinh khác thì chỗ làm, chỗ mong cầu đều được thành tựu. Tiếp theo, dùng Phật Đỉnh Đại Luân tụng 10 lạc xoa thì hay thành tất cả Chân Ngôn Minh Đại Luân Vương.

Nếu cầu thành tựu chày Kim Cương. Nên dùng Xích Đàn làm cái chày Độc Cổ Kim Cương. Làm thành xong, vào ngày 15 của ba trường nguyệt, trước tiên dùng nước ngũ tịnh tự tắm rửa xong, ở trước tượng hiến mọi loại cúng dường, thắp 100 chén đèn bơ. Sau đó lại dùng nước thơm rửa chày Kim Cương xong, rồi đem thân mình dâng lên chư Phật Bồ Tát với Phật Đỉnh Vương Bạch Tản Cái này với quyến thuộc của nhóm Quang Tụ, xong rồi kết Giới tự làm ửng hộ, cũng ủng hộ người đồng tu hành. Làm ủng hộ xong, tay phải cầm chày Kim Cương ngồi ở trước tượng, vắng lặng thân tâm, qua phần đầu đêm. Ở phần thứ hai của đêm thời chuyên chú chân thành tụng Chân Ngôn, cho đến khi trên cái chày hiện ra ánh sáng. Tất cả Trì Minh Thiên kia với Rồng, Dạ Xoa cho đến tất cả Thiên Nhân đều đến tập hội, khen ngợi nghênh thỉnh về ở trên Trời, làm Thiên Luân Vương, được thân như hàng Kim Cương Thủ Bồ Tát Kim Cương Lực. Ở một sát na hoặc khoảng phút chốc, đi thẳng lên trên Trời Sắc Cứu Cánh, sống lâu một Đại Kiếp, được thấy Từ Thị Bồ Tát, chiêm lễ nghe Pháp. Sau khi người ấy chết đi, được sinh tùy theo nguyện.

Hoặc có cầu thành tựu cây kiếm. Nên cầu cây kiếm diệu hảo bậc nhất, nhọn bén không bị khuyết thiếu. Được xong, cầm trong lòng bàn tay, trước tiên trì Giới, sau đó chọn ngày tốt của tháng tốt lành, ở trước Phật hiến cúng dường lớn. Tay cầm như Pháp tụng lúc trước, cho đến khi ánh sáng hiện ra thì được thành tựu. Được thành tựu xong kèm với Trợ Bạn đều được Thần Thông. Lại biến thân của mình như 15, 16 tuổi, được phi hành tự tại, sống lâu một Kiếp.

Hoặc có cầu thành tựu Hùng Hoàng. Dùng tâm không sợ hãi, vào ngày Quỷ Tú trực, thu mua Hùng Hoàng cực tốt, chẳng được trả giá, tùy theo yêu cầu liền đưa. Được xong, ở ba ngày đêm trong sạch trì Giới Hạnh. Lại bày thức ăn cúng Trai Tăng xong, cầu xin rũ thương Chú Nguyện. Như vậy làm xong, lại hiến mọi loại cúng dường, thắp một ngàn chén đèn bơ, lại Trai Giới ba ngày đêm, đối với tất cả hữu tình phát Tâm Từ Bi. Đem thân mình phụng hiến chư Phật với Đại Bồ Tát, rồi tụng Chân Ngôn gia trì vào Hùng Hoàng cho đến khi hiện ra ba loại tướng thì Pháp thành tựu. Ấy là tướng Nhiệt (hơi nóng), tướng khói, tướng lửa sáng. Suy nghĩ thành tựu việc như lúc trước.

Nếu thành tựu tướng nhiệt. Dùng hạt cải điểm chấm lớn ở tam tinh thì được tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Bộ Đa, Tất Xá Già trụ ở Nam Thiệm Bộ Châu thường đến ủng hộ giống như người theo hầu, sống lâu một ngàn tuổi.

Nếu thành tựu khói hiện ra. Dùng hạt cải điểm chấm lớn ở tam tinh thì được thành tựu ẩn thân. Nếu muốn ẩn thân vào trong Trời, Rồng thì liền vào được. Ở trong tất cả ẩn thân làm vua, sống lâu ba ngàn tuổi Nếu lửa sáng hiện ra, dùng điểm tam tinh thì được thành Trì Minh Thiên Vương biến thân như Thiên Đồng Tử, tướng đoan chính bậc nhất, vượt qua tất cả Thiên Nhân kèm các quyến thuộc, đều được Thần Thông, sống lâu một Kiếp, sau khi chết được sinh về Trời Đâu Suất.

Nếu cầu thành tựu Tam Kích Xoa, nên dùng thép đã tôi luyện làm cây Tam Kích Xoa. Trước tiên, tụng Chân Ngôn thọ trì một năm, sau đó dựng một cái tháp bằng cát hiến cúng dường lớn, trích riêng thức ăn cho chúng sinh, bố thí tất cả khiến cho có thể nhận được thức ăn này. Xong, ngồi Kiết Già, tay phải cầm cây Tam Kích Xoa, tụng Chân Ngôn cho đến khi chỗ đã ngồi chấn động, hiện ra trăm ngàn ánh sáng là Pháp thành tựu. Ở khoảng phút chốc chuyển thân như Đại Tự Tại Thiên thứ hai, làm Trì Minh Thiên Vương, mặt có ba con mắt, đủ Đại Thần Thông, Uy Đức tự tại, được Đại Tự Tại Thiên với tất cả hàng Thiên Nhân đi đến tuôn mưa hoa cúng dường. Lại được tất cả Trì Minh Thiên với tất cả Thiên Nhân đều đến tuôn mưa hoa cúng dường. Hàng Thiên Nhân ấy đều cùng nhau vây quanh, sống lậu một Đại Kiếp, sau khi chết được sinh về Thế Giới Cực Lạc. Nếu có người thấy lúc thành tựu này mà hay chiêm lễ thì cũng được Thần Thông, hoặc là khởi Tâm ác thì trong khoảng nhìn ngó ấy, liền đều tự lui ra.

Nếu cầu thành tựu thây người chết. Ở trong Thi Lâm (rừng chứa xác chết) chọn lấy một cái xác chưa bị tổn hoại, khắp thân cũng chẳng có vết sẹo, lại cần đầy đủ thân chi. Được xong, dùng bốn cây cọc bằng gỗ Khư Nỉ La đóng vào. Người trì tụng ngồi ở trên cái xác, dùng bột báu làm Hộ Ma, ném bột vào trong miệng thì từ cái lưỡi của xác chết ấy hiện ra báu Như ý. Thấy báu xong thì thu lấy. Thu được báu xong thì thành Thiên Luân Vương.

Hoặc mong muốn các cái bát, khí trượng thì Tâm đã suy nghĩ ắt hay được. Ánh sáng của báu chiếu ra một trăm Do Tuần thảy đều sáng rực, được đại tùy ý. Nếu hết thọ mạng thì tùy theo nơi ưa thích được sinh. Nếu sinh trong nhân gian thì được địa vị của bốn Luân Vương. Sau khi chết lại sinh về Thế Giới Vô Cấu.

Nếu có Pháp thành tựu thây người chết (Khởi Thi Quỷ). Nên tìm cái xác chẳng bị hư hoại như lúc trước, dùng bốn cây cọc bằng gỗ cây táo đóng vào, ném bột vào trong miệng làm Hộ Ma, được cái lưỡi lè ra thì chặt lấy. Thu được xong thì cùng với một trăm quyến thuộc đồng được Thần Thông, sống lạu một Trung Kiếp, ở đỉnh núi Diệu Cao (núi Tu Di) thọ hưởng đại khoái lạc. Sau khi chết lại sinh vào Nhân Gian được đại tự tại.

Nếu cầu thành tựu móc câu. Dùng cỏ Cát Tường làm cái móc câu có thể dài một khuỷu tay. Làm xong, chọn một ngày đêm trong kỳ Hắc Nguyệt, dùng nước Ngũ Tịnh tẩy rửa một đêm. Được sạch sẽ xong, nơi Phật với Kim Cương Thủ Bồ Tát hiến cúng dường lớn, thắp 100 cái chén đèn bơ. Hoặc cầu Kim Cương Câu cũng thế. Dùng Quang Tụ, Bạch Tản Cái trước tiên tự làm ủng hộ, y theo Nghi Tắc của Mạn Noa La liền kết Giới. Trước hết gia trì vào cây cọc, tụng bảy biến, rồi chọn vị trí bên dưới bôn phương mà đóng xuống. Kết Giới xong, ở phần thứ hai của đêm, một lòng chuyên chú, ngồi Kiết Già. Đem móc câu với hương hoa kèm với mọi loại cúng dường, lễ bái phụng hiến chư Phật Bồ Tát xong, tay phải cầm móc câu, tụng Chân Ngôn thẳng đến tất cả hữu tình ở Địa Ngục được tiêu diệt tội khổ xong thì tự được Thần Thông. Lại lễ chư Phật Bồ Tát. Lễ xong, tay cầm Thánh Câu mà đi.

Như Thiên Nhân, tất cả hàng Trời, Rồng, Dược Xoa từ xa nhìn thấy, làm lễ. Sống lâu một Kiếp, sau khi chết được thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát, trụ ở cung của Kim Cương Thủ.

Nếu cầu thành tựu tranh vẽ. Nếu được ánh sáng hiện ra thì được làm Thiên Luân Vương.

Nếu cầu thành tựu Chân Ngôn. Tụng Đại Luân Nhất Tự Minh ấy đủ một lạc xoa xong,. Một đêm thanh tịnh thân tâm, không có tạp loạn, hiến cúng dường lớn xong, dùng cây A Lý Ca làm củi nhúm lửa. Dùng mè với nhóm bơ, Mật, lạc hòa làm 8000 viên làm Hộ Ma. Hộ Ma xong thì Chân Ngôn Vương tự đến, thường như người theo hầu.

Hoặc có cầu thành tựu Đại Tự Tại Thiên. Nơi Đại Tự Tại Thiên, hiến cúng dường lớn. Dùng cây A Lý Ca làm 8000 miếng gỗ nhúm lửa làm Hộ Ma thì Đại Tự Tại Thiên ấy liền đến. Khi đến thời tác tiếng Đại Ác thì chẳng được kinh sợ. Có nói: "Hành Nhân cầu việc gì?". Người tụng bạch rằng: "Đại Tự Tại Thiên! Tôi cầu thành tựu tất cả Minh. Vị Trời nói: "Như ngươi đã mong cầu, tất cả đều được". Nói xong liền chẳng hiện. Như vậy mong cầu hàng Na La Diên Thiên với Phạm Thiên đều được như nguyện.

Trước kia đã nói Nghi Tắc thành tựu hàng Trời ấy. Nếu khi làm, trước tiên tự ủng hộ sâu xa. Hoặc có cầu giáng phục Dạ Xoa Nữ thì niệm tên nữ Dạ Xoa ấy bảy đêm, dùng hoa của cây Vô Ưu làm Hộ Ma, tức đến hàng phục. Làm bảy ngày đêm, liền quyết định phải đến. Khi đến thời cầu làm mẹ, hoặc cầu làm chị em gái, hoặc cầu làm vợ. Hoặc nếu chẳng đến thì bị bệnh, cái đầu bị xé rách. Hoặc giáng phục long Nữ cũng đồng với nghi tắc của Dạ Xoa Nữ.

Nếu giáng phục Dạ Xoa. Nên ở ba trường nguyệt, dùng cơm nấu với váng sữa đặc (lạc phạn) làm Hộ Ma xong, một đêm thân tâm thanh tịnh chẳng được tạp loạn, làm cúng dường lớn hiến Phật, lại trích ra Sinh Thực (thức ăn sống) của Đại Chúng, dâng cho Dạ Xoa. Chỉ trong ý tác niệm khiến cho Dạ Xoa ấy chịu hàng phục Ta. Nếu dùng bơ, mật phụng hòa hợp thành 8000 viên, ở gần cây Ni Câu Đà làm Hộ Ma thì Tỳ Sa Môn Đẳng Dạ Xoa hiện đến, nên phụng hiến hoa A Lý Ca, nước Át Già. Tỳ Sa Môn hỏi rằng: "Muốn cấu điều gì?" Người tụng nói: "Nên ngày ngày khiến một Dạ Xoa đi đến, chủ yếu phục dịch, khiến cho tôi ở bên trong một trăm do tuần, hết thảy chỗ cần thì nên tùy theo nguyện của tôi, chỗ tôi thích đến thì nên tùy theo ý, với nơi cần thiết để thành tựu thuốc đều nên làm". Vị Trời ấy bảo rằng: "Tất cả đều được"

Hoặc cầu thấy Kim Cương Thủ Bồ Tát được thành tựu Nguyện. Nên trước tiên trì tụng tinh thục xong, y theo Pháp tu hành. Hoặc ba hoặc bảy, hết thảy cầu Pháp thành tựu. Vào ngày 15 của ba trường nguyệt làm cúng dường lớn, phụng hiến Như Lai với hiến Kim Cương Thủ Bồ Tát, thiết Trai cho chúng tăng. Như vậy làm xong, hơn phần đầu đêm, ở phần thứ hai của đêm, lắng Tâm suy nghĩ, quán tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát như ngay trước mắt, dùng viên An Tức Hương lớn như hạt sen làm Hộ Ma thành.

Khi phần thứ nhất của đêm, nếu được áo của Bồ Tát lay động với đất chấn động, hoặc nghe tiếng sấm thì chư Thiên Nhân trước tiên đi xuống, tuôn mưa hoa. Tiếp theo, Kim Cương Thủ Bồ Tát cùng với tất cả Minh Vương với quyến thuộc của hàng Tối Thượng Minh Vương, cho đến tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Ngạn Đạt Phộc, Khẩn Na La trước sau vây quanh đi đến chỗ tụng. Bồ Tát đến xong thì tất cả hữu tình chịu khổ não lớn ở Địa Ngục ấy trong khoảng một sát na đều được giải thoát. Người tụng được thấy điềm lành của Bồ Tát, liền lễ bái, hiến nước Át Già, thỉnh Bồ Tát trụ. Vị Bồ Tát liền vì người tụng bảo rằng: "Ngươi cầu việc gì?". Người tụng nói, hoặc cầu làm Thiên Luân Vương, hoặc cầu vào hang Tu La, hoặc cầu làm Luân Vương trong tất cả Thiên Nhân, cho đến cầu thân Kim Cương với trú xứ của Bồ Tát cũng được. Cho đến cầu tất cả Khí Trượng của Kim Cương Thủ, trong khoảng suy nghĩ đều được sinh ra, sống lâu một Đại Kiếp, sau khi chết được sinh về Thế Giới Kim Cương, cho đến chư Thiên đều được như nguyện.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI SÁU_

LƯỢC NÓI NHẤT TỰ ĐẠI LUÂN MINH VƯƠNG

HỌA TƯỢNG THÀNH TỰU

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI_ CHI KHÁC_

Như vậy, lược nói Nghi Tắc. Hết thảy Nghi Tắc của Kim Cương Thủ với Nghi Tắc của Quán Tự Tại, cho đến cầu hàng Phạm Thiên (nghi tắc của Phạm Thiên), Đại Tự Tại Thiên (nghi tắc của Đại Tự Tại Thiên), tất cả Chân Ngôn thành tựu thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian. Nếu chẳng được thành, nên dùng Chân Ngôn này đồng tụng thì quyết định sẽ thành tựu. Nếu lại chẳng thành tựu thì nên ở trước mặt nhóm Đại Tự Tại Thiên, trì tụng, nội trong bảy ngày đêm sẽ hiện. Nếu hàng kia chẳng hiện thì cái đầu bị phá vỡ thành bảy phần.

Nếu cầu thành tựu Thuốc, hoặc dùng bơ với mực làm thuốc chấm vào con mắt. Nếu cầu thành tựu nhóm Hùng Hoàng, Thư Hoàng. Trước tiên, được thuốc ấy xong, rồi tìm sữa người đồng mài, làm năm viên với dùng Trầm Hương, hạt cải trắng đồng làm viên. Vào ngày Nhật Nguyệt trực làm cúng dường lớn với Xuất Sinh (trước giờ Ngọ lấy ra ít thức ăn để cúng thí chúng sinh) cúng dường Nhật Nguyệt Thiên ấy. Nếu được hạt cải phát ra tiếng là thành tựu tối thượng bậc nhất, sẽ được tất cả chúng sinh trong Thế Gian yêu trọng với tất cả mong cầu giáng phục Thế Gian đều được.

Nếu được thuốc có khói tỏa ra thì sẽ làm vua trong tất cả Ẩn Thân, sống lâu một Trung Kiếp.

Nếu được lửa sáng phát ra thì được biến thân như Đồng Tử 15, 16 tuổi, dung mạo như mặt trời mới mọc, được làm vua trong hàng Trời, sống lâu một Đại Kiếp.

Hoặc cầu thuốc chấm vào mắt, dùng thuốc Tố-Lỗ Đan Nhạ Nẵng, hoa sen xanh, Mộc Hương, Bạch Đàn Hương hòa hợp làm thuốc chứa đầy ở trong một vật khí bằng đồng đỏ. Vào lúc Thái Âm trực nhật tụng Chân Ngôn gia trì chó đến khí khói tỏa ra. Thuốc ấy chấm vào mắt thì được Thần Thông với Ẩn Thân, chuyển thân như tướng của Thiên Nhân ở Dục Giới, Sắc Giới. Làm vua ở trong tất cả ẩn thân.

Hoặc cầu chày Kim Cương, dùng thép đã tôi luyện làm cái chày Tam Cổ dài 16 ngón tay. Hoặc cầu nhóm cây Kiếm cho đến Tam Xoa, bánh xe, mũi tên, tất cả khí trượng với áo, bát, giày da, dây quấn nách...Nên ở tháng hai, ngày 13 hoặc ngày 15 ở tháp Xá Lợi, nơi an tượng làm cúng dường lớn, thắp một trăm chén đèn bơ, lại dùng thức ăn Xuất Sinh cúng dường xong, ở trước tượng ngồi trên cỏ cát tường, sau đó tay cầm khí trượng với các nhóm vật, tụng Chân Ngôn cho đến khi chấn động thì được làm vua trong tất cả Thiên Nhân.

Nếu được ánh sáng phát ra thì được làm Thiên Luân Vương có sức mạnh như hàng Kim Cương Thủ. sống lâu một Đại Kiếp, khi chết sinh về Thế Giới Kim Cương. Nhóm Trợ Bạn kia nhìn thấy, cũng được Thần Thông.

Nếu cầu Tức Tai, làm lò như tướng hoa sen, y theo Pháp dùng củi ướt nhúm lửa làm Hộ Ma. Dùng cái muỗng chứa đầy bơ đồng rưới lên trên lửa, lại dùng nhóm bơ (thục tô), Mật, lạc làm đủ tám ngàn viên làm Hộ Ma.

Nếu ba ngày đêm thì được thân với Trợ Bạn dứt trừ tai nạn, nếu bảy ngày đêm thì được một thôn xóm dứt trừ tai nạn lớn.

Nếu dùng tám ngàn cây Xá Nễ La hoặc cây Ưu Đàm cũng được. Dùng bơ, mật, lạc hòa hợp làm Hộ Ma thì chận đứng tất cả tai nạn với cứu Thiên Nạn (nạn do Trời làm).

Nếu Khất Thực, trước tiên tụng ba lạc xoa số, chọn ngày 15 của ba trường nguyệt (táng 5, tháng 9, tháng giêng), khi Thái Âm trực nhật thì bắt đầu, ba ngày đêm chuyên chú, thân tâm thanh tịnh không có nhiễm, dùng nước cốt sữa của con bò đen làm Hộ Ma, tụng 100 biến xong thì được an cư.

Nếu dùng cỏ Nại Lý Phộc hòa với bơ, mật, lạc làm Hộ Ma 8000, đủ mười ngày đêm thì được chận đứng sự chết yểu kèm được kéo dài tuổi thọ.

Nếu gia trì vào cây phướng với cái loa. Ở trước quân trận, cầm giữ, thổi thành tiếng thì quân kia hoặc thấy hoặc nghe, sẽ tự lui tan.

Nếu dùng năm loại lúa đậu với các thứ hương làm nước Át Già tràn đầy cái bình. Dùng nước tắm rửa thì quyết định giải thoát, sẽ được cát tường. Nếu làm Mạn Noa La (Đàn Trường) làm Quán Đỉnh thì diệt tất cả tội.

Nếu bị Tinh Diệu nắm giữ thì nên gia trì vào lông đuôi của chim công, phủi thân sẽ được trừ giải.

Nếu bị bệnh về con mắt, dùng gia trì vào nước rồi tẩy rửa liền khỏi.

Nếu bị bệnh sốt rét, gia trì vào sợi chỉ rồi cột buộc liền khỏi.

Nếu tụng Chân Ngôn cùng với Ấn đồng dùng thì sẽ phá hoại sự cấm đoán xiềng xích của A Tu La.

Nếu dùng cây Khư Nễ La làm tám ngàn miếng củi ướt, hai đầu thấm tẩm nhóm bơ, mật, lạc làm Hộ Ma thì được Đại Phục Tàng (kho tàng lớn bị chôn vùi).

Nếu vào biển với sông. Dùng Xích Đàn Hương thấm tẩm hoa sen gồm 8000 cái rồi ném vào trong biển với sông, được hoa sen gom tụ thành đống thì được kho tàng châu báu lớn, sử dụng không có hết.

Lại dùng quả Cát Tường thấm tẩm bơ, mật, lạc gồm tám ngàn, làm Hộ Ma thì được Đại Phú Quý.

Hoặc cầu thành Thiên Nhân, Nên dùng gỗ cây Trầm Hương ướt làm củi, thấm tẩm bơ, mật, lạc..gồm tám ngàn miếng làm Hộ Ma, một ngày ba thời, đủ 21 ngày đêm thì đắc được.

Nếu dùng bơ, mật, lạc hòa hợp với gạo tẻ làm Hộ Ma thì được Dạ Xoa điều phục.

Lại giáng phục Dạ Xoa, dùng An Tất Hương làm viên, thấm tẩm bơ, mật, lạc... Hộ Ma thì được thành tựu.

Nếu giáng phục Càn Thát Bà thì dùng Nhũ Hương làm Hộ Ma.

    

Giáng phục quỷ đói thì dùng Cát Tường Hương làm Hộ Ma.

Nếu Khẩn Nẵng La thì dùng Sa Lý Nhạ La Sa Hương làm Hộ Ma.

Nếu vì tất cả, mỗi mỗi đều gây chướng nạn, đều dần dần đem vật đã dùng, làm Hộ Ma 108 lần, đủ bảy ngày sẽ trừ diệt được.

Nếu cầu La Nhạ (vua chúa) phụng trọng. Dùng hạt cải trắng cực tốt hòa với dầu, 108 lần làm Hộ Ma, một ngày ba thời, nãn bảy ngày đêm thì thành tựu.

Nếu hướng mặt về mặt trời, tụng một lạc xoa thì được diệt tất cả tội.

Nếu cầu thành tựu tất cả Minh Tăng Ích. Nên trì Trai trong sạch, dùng cỏ Ô Thế La làm hình tướng xong, dùng hoa màu trắng cúng dường, dùng nước cốt sữa, 108 lần làm Hộ Ma. Cũng dùng nước cốt sữa tắm gội, đốt Trầm Hương, tụng Chân Ngôn được tăng ích. Nếu một lần làm Pháp thì được tự ủng hộ mình.

Nấu hai lần làm Pháp thì được ủng hộ người khác. Nếu ba lần làm Pháp thì sẽ ủng hộ một thôn xóm.

Nếu có người bị Cấm Chú khác gây tổn hoại. Dùng cỏ Ô Thế La làm hình tướng, đem hoa màu trắng cúng dường. Ở trước tượng Phật Đỉnh Vương dùng hạt cải trắng, bơ, mật, lạc...hòa với nhau, tám ngàn lần làm Hộ Ma thì người dùng Chú kia giải trừ. Nếu chẳng giải trừ, ắt sẽ tự tổn hại

Nếu có Trì Tụng Hành Nhân đời với chỗ trì tụng bị thiếu với có quên mất. Lấy vỏ cây hoa (Hoa Bì) tối thượng, dùng Ngưu Hoàng viết Minh ấy, tụng tám trăm biến, ở trước Minh Vương hiến cúng dường lớn. Dùng Nhất Tự Minh đồng tụng tám ngàn biến. Ở trước tượng trải cỏ Cát Tường rồi nằm thì việc mong cầu ở trong mộng, mỗi mỗi đến nói.

Hoặc có cầu thành tựu hoa sen. Dùng Xích Đàn Hương làm hoa sen, ở nơi Minh Vương hiến cúng dường lớn. Ở ba ngày đêm thanh tịnh chuyên chú xong, tay phải cầm hoa sen tụng Chân Ngôn, cho đến khi lửa sáng hiện ra thì được làm Thiên Luân Vương, thành Vô Năng Thắng Hành, sau khi chết sinh về Thế Giới Cực Lạc.

Hoặc cầu thành tựu Kim Cương. Dùng đất của con mối trắng (Bạch Nghĩ thổ) hoặc đất cát làm chày Kim Cương Độc Cổ. Làm xong, yên lặng khất thực, tâm chẳng lo nghĩ, cầm chày Kim Cương tụng Chân Ngôn 80 lạc xoa rồi đem chày an trong hạt cải trắng. Chọn ngày Thái Âm trực, tụng Chân Ngôn cho đến khi hạt cải phát ra tiếng thì được thành tựu. Rồi, người tụng cầm chày Kim Cương này xong, hay làm tất cả việc không có gì chẳng tùy theo ý.

Muốn phá đỉnh núi lớn, nghĩ đến liền phá được. Nếu nghĩ đến Rồng thì trái tim của Rồng bị phá. Có thể khiến sông, suối dâng nước lên. Tất cả chất độc của Rồng, chỉ vào liền tiêu diệt. Hoặc có hữu tình si mỵ não loạn, Tâm tưởng liền trừ. Đều hay phá hoại hết thảy tất cả sự cấm ngăn, xiềng xích của Thế Gian.

Đại Phật Đỉnh Luân Thành Tựu Độc Cổ Kim Cương Chủ này. Phàm có chỗ đã làm thì không có gì có thể gay chướng nạn. Mỗi khi trì tụng, dùng Tâm quyết định y theo Nghi Tắc của Phật Đỉnh trì tụng. Luôn trước tiên tụng Phận Nhãn Minh. Như vậy tụng trì đều được thành tựu.

Nếu ở chỗ Bản Tôn, hiến hoa sen, tụng một lạc xoa, hoặc vào sông, biển thì châu báu đã cần, đều được.

 

Hoặc hiến hoa sen, tụng ba lạc xoa thì được tất cả người tôn trọng Nếu hiến hoa sen, tụng năm lạc xoa thì được người trong Nam Diêm Phù Đề tôn trọng.

Hoặc muốn vào hang núi, ở trước hang, an tượng, tụng ba lạc xoa thì tất cả chẳng thể gây chướng ngại, vào bên trong không có nghi ngờ. Ở hang cầu thuốc Thánh, được xong đi ra, hoặc trụ trong đó thì tất cả chẳng sợ, cho đến cũng hay phá hoại được bánh xe của Trời Na La Diên.

Nếu vào ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt, bắt đầu ra công, một ngày ba thời trì tụng. Dùng hoa Nhạ Đế để ngón chân cái đạp lên, tụng Chân Ngôn cho đến khi ngón chân phát sánh sáng, ánh sáng ấy chuyển vòng lại nhập vào thân của người tụng, Người tụng ấy ở khoảng sát na chuyển thân như Đồng Tử làm vua trong hàng Trời kèm các quyến thuộc đều được Thần Thông, sống lâu một Đại Kiếp.

Nếu ở bên bờ biển, an mặt tượng hướng về phương Tây, dùng củi Long Mộc (cỏ râu Rồng) nhúm lửa. Dùng một lạc xoa Long Hoa làm Hộ Ma. Khi nước biển dâng lên hiện các điềm lành thì chẳng được sợ hãi, thẳng đến trong biển, có một người đi ra như tướng Bà La Môn, đến hỏi rằng: "Muốn ta làm điều gì?" Người tụng bào rằng: "Chịu hàng phục Ta, mỗi khi đi đến, đều sai khiến được"

Vẽ trên mặt đất, làm hoa sen ngàn cánh. Người tụng ngồi ở bên trong, tụng Đại Minh một ngàn biến thì đất liền bị phá rách ra, người tụng được Thần Thông, được một ngàn quyến thộc, sống lâu một Đại Kiếp, được làm vua trong hàng Trời, thân đủ ánh sáng chiếu đến người khác, có thể khoảng 50 Do Tuần thảy đều sáng rực.

Hoặc có ở ba trường nguyệt, ngày mồng một của kỳ Bạch Nguyệt thì bắt đầu ra công, dùng hoa Nhạ Để hiến Phật Đỉnh tụng một lạc xoa, cho đến khi Phật Đỉnh phát ra ánh sáng nhập vào trong thân người trì tụng, ở khoảng sát na được năm Thần Thông.

Nếu tụng mười lạc xong, cầu chứng Như Như đều được thành tựu.

Phật Đỉnh này nếu cùng với Minh kia đồng tụng. Nếu tụng Minh ấy thì quyết định đi đến, nếu Minh ấy chẳng đến, sẽ tự phá hoại.

Phật Đỉnh Đại Luân Nhất Tự Chân Ngôn tức là bí mật tối thượng của Như Lai, tất cả Chân Ngôn Minh vương trên Trời và Nhân Gian, cũng là nhóm quyến thuộc bạch Tản Cái với Quang Tụ của Như Lai, tất cả Nghi Quỹ thành tựu của Phật Đỉnh Luân Vương ở tất cả Chân Ngôn được dùng, sẽ thành tựu tất cả Nghi Quỹ, là Pháp thành tựu tối thượng. Nếu ở Phi Xứ (các nơi tập hội được tôn trọng, hoặc trong Linh Miếu, hoặc trước Đại Chúng, hoặc đất cứng chắng cao thấp chẳng ngang bằng khiến cho chẳng an. Các nơi như vậy gọi là Phi Xứ) thì chẳng được dùng, nếu dùng thì chẳng được thành tựu.

Hoặc nếu có người muốn khai mở Phục Tàng (kho tàng bị che dấu). Đến nơi ấy, dùng cái Hiền Bình màu trắng chứa đầy nước hương Bạch Đàn. Lại dùng các thứ hương làm hương xoa bôi để xoa bôi cái bình, tụng tám ngàn biến xong, an trí ở chỗ của Phục Tàng. Nếu có Phục Tàng thì đất tự nứt ra, đào sâu xuống một khuỷu tay trở đi, thì có thể thấy vật ấy. Nếu có nhiều người đi đến, thảy đều thấy nước.

Hoặc nếu cầu thành tựu Sư Tử. Dùng đất của con mối trắng làm sư tử. Dùng Ngưu Hoàng xoa bôi thân sư tử, an trí ở trên tòa làm cúng dường lớn, tụng Chân Ngôn cho đến khi chấn động là được thành tựu. Được thành tựu xong. Mới cỡi sư tử, được chuyển thân như Đồng Tử cùng với năm quyến thuộc đều được Thần Thông, được làm Phạm Thiên, sống lâu một ngàn tuổi, hay đến trong tất cả cõi Trời.

Nếu cầu nhóm voi, ngựa, bò cũng vậy. Nếu sư tử rống thì chấn động tòa ngồi của tất cả Thiên Nhân.

Nếu hoặc ở bên cạnh ao hoa sen, dùng một lạc xoa hoa sen làm cúng dường thì được tôn quý tối thượng, tất cả chỗ mong cầu đều được thành tựu tối thượng.

Đại Luân Phật Đỉnh Vương này, nếu đến cõi Trời Đế Thích thì Đế Thích rời khỏi chỗ ngồi đến nghênh tiếp, tất cả Thiên Nhân nhìn thấy từ xa đều kinh sợ. Ở trong một Do Tuần tất cả Thiên Nhân ẩn mất ánh sáng. Đại Luân Phật Đỉnh Vương này đồng với Như Lai, tất cả Nghi Quỹ Vương ở trên Trời với Nhân Gian thảy đều hành phục.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ NHẤT TỰ CĂN BẢN TÂM CHÂN NGÔN NGHI TẮC

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI MỐT_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát tất cả Thiên Chúng với hàng Bồ Tát, Bích Chi, Thanh Văn...trên cõi Trời Tịnh Quang, rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Tất cả Như Lai đều nói Pháp Tạng chân thật căn bản này đồng với báu Như Ý làm mãn tất cả nguyện của Thế Gian. Vả lại, các Phật Như Lai ở cõi Phật kia, khi nhập vào Niết Bàn với thời Mạt Pháp khi Pháp muốn diệt thời vì khiến cho ủng hộ tất cả Tạng Chân Ngôn của Như Lai.

Này Đồng Tử! Chân Ngôn Nghi Quỹ Vương của ông hay khiến cho tất cả chúng sinh mỗi mỗi đều bình đẳng, viên mãn ý nguyện.

Này Đồng Tử! Nghi Quỹ Vương của ông ở trong Nghi Quỹ Vương của Như Lai được là bậc nhất. Nếu có niệm Đại Luân Nhất Tự Minh Vương này thì giống như tụng Đại Minh Vương của tất cả Như Lai.

Này Đồng Tử! Nhất Tự Nghi Quỹ Vương của ông là câu bậc nhất, là câu tối thượng. Ở thời quá khứ cách nay khoảng 62 căng già sa số Kiếp, thời đó có Được Phật hiệu là Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Quang Minh Vương Như Lai Ứng Cúng, Chính Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sư, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Nếu có chúng sinh tạm được nghe tên của Đức Như Lai này thì tiêu trừ tội của năm Nghịch. Nếu có niệm tên của Đức Như Lai này thì quyết định được Vô Thượng Bồ Đề, huống chi là người đối với Chân Ngôn dùng Tâm quyết định cầu thành tựu.

Nếu có tất cả Trì Tụng Hành Nhân muốn được thành tựu Chân Ngôn trì trước tiên nên đối với Đức Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai tác lời niệm như vầy: "Quy y Thế Tôn Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác với tất cả Như Lai của nhóm Vô Lượng Quang Phật, Bảo Tràng Phật" Rồi đối với chư Phật mỗi mỗi làm lễ xong, tùy theo ý tụng Chân Ngôn thì chỗ mong cầu đều được.

Nếu vì tăng trưởng Phước Đức thì nên niệm danh hiệu của ba Đức Như Lai với lễ tất cả Như Lai, quyết định đắc được vô lượng Phước Đức.

Trì Tụng Hành Nhân ấy nếu được thành tựu Chân Ngôn thì đối với tất cả Pháp thiện lành (thiện Pháp) sẽ được viên mãn, được địa vị của Bồ Tát, ngày sau quyết định đắc được Vô Thượng Bồ Đề Nhất Tự Chân Ngôn này là Tâm của tất cả Như Lai, ở trong tất cả Nghi Quỹ là tối tôn tối thượng, hay thành tựu tất cả sự nghiệp.

Này Diệu Cát Tường! Nghi Quỹ Vương của ông là bí mật sâu xa tối tôn tối thượng, vì Thế Gian làm lợi ích lớn.

Nếu chung sinh kia chẳng phải là Đệ Tử của Phật với không có Tâm chân chính, chẳng tin vào Giáo mà Như Lai đã nói, lại đối với Phật Pháp gia thêm sự hủy báng thì chẳng được truyền thụ Nghi Quỹ của Đại Thừa này.

Lại có người ác Ngã Mạn chẳng tin Kinh Giáo mà Đức Như Lai đã nói, chỉ vui thích cúng dường Thanh Văn, Bích Chi Phật. Nhóm người này cũng chẳng được truyền thụ. Người này đối với sự thành tựu Chân Ngôn không có Kiến Phần (hay Năng Thủ Phần tức chỉ tác dụng Năng Duyên của các Thức, là chủ thể nhận thức sự vật, cũng tức là tác dụng của chủ thể hay chiếu biết cảnh giới Sở Duyên)

Nếu lại có người phát Tâm tối thượng thiện, tin nơi Đại Thừa, đối với Tâm của Phật Bồ Tát thường cúng dường. Như nhóm người này là Chân Hành Nhân thì mới có thể truyền thụ.

Đây là Diệu Cát Tường Đại Luân nhất Tự Vương Chân Ngôn mà Như Lai đã nói, Chân Ngôn này hay ban cho khoái lạc. Chân Ngôn Vương này là Tâm của tất cả Phật, tất cả Chân Ngôn được sinh ra trong điều này, lại là điều mà 67 câu chi Phật quá khứ đã nói, hay vì chúng sinh làm lợi ích lớn, thường vì chúng sinh diệt các nghiệp tội, thường cho chúng sinh chặt đứt các mê đảo, sẽ khiến cho an trụ tại tướng Pháp Giới của Chân Ngôn Diệu Giác. Truyền Đại Lực Nhất Tự Minh này khiến trụ lâu ở đời để khiến cho con mắt Pháp thường quán Thế Gian Nhất Tự Vương này hay thành tựu tất cả việc, hay trừ diệt tất cả ác. Nếu có y theo Pháp làm việc Thiện lớn, trường trì tụng 1008 biến thì quyết định đắc được mọi loại cát tường.

Xưa kia Đức Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Phật nói Diệu Cát Tường Tâm Hàm Tự Chủng Tử Nghĩa kèm với chữ Ô hợp làm một hiệu, cùng làm Chủng Tử lưu hành Thế Gian. Sau khi Đức Phật Diệt Độ, ở thời Mạt Pháp y theo Pháp niệm tụng thì mau được thành tựu.

Đức Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai kia trụ ở cõi Phật tên là Vô Lượng Thọ. Ở trong cõi ấy trụ vô lượng kiếp, chuyển bánh xe Diệu Pháp, rồi Đức Như Lai ấy dùng Chân Ngôn này giao cho Đệ Nhất Phật Tử Đại Lực Đại Tinh Tiến Đại Cần Dũng Bồ Tát. Vị Bồ Tát ấy lại giao cho Phổ Hiền, Phổ Hiền ấy giao cho Phật Tử Diệu Cát Tường. Nay Ta, Như Lai lại vì ông nói Chân Ngôn Đệ Nhất Nghi Quỹ Vương này, là đều mà Đức Pháp Vương tối thượng đã tuyên nói. Ta vì lợi ích cho tất cả hữu tình lại nói tên Phật. Nẵng mô Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác. Nẵng mô Sa La Hoa Vương Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác. Nẵng mô Vô Lượng Thọ Vô Lượng Quang Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác. Cho đến Bảo Tràng Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác. Như vậy quy mệnh đỉnh lễ ba lần, sau đó tụng Nhất Tự Chân Ngôn.

Vì sao mà chúng Thánh Chúng, Đức Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác nói: Ở trong Thế Giới Vô Lượng Thọ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh khiến được khoái lạc. Lại vì thương xót phần lớn chúng sinh trong Chúng vị lai, sau khi Pháp mạt, khi Pháp muốn diệt thời có các người ác hủy báng Tam Bảo. Vì muốn điều phục người như vậy nên tất cả Như Lai ấy có Đệ Nhất Phật Tử Đắc Đại Cần Dũng Bồ Tát Ma Ha Tát, lại truyền cho Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát. Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát ấy lại truyền giao cho Diệu Cát Tường Đồng Tử.

Này Đồng Tử! Nay lại vì tất cả chúng sinh sinh thương xót sâu xa, lại tưởng thời Mạt Pháp ở vị lai, khi Pháp muốn diệt thời vì khiến cho ủng hộ Pháp Tạng của Như Lai, khiến tu Tối Thượng Chân Ngôn Nghi Quỹ như vậy Đồng Tử hãy nghe cho kỹ! Nay Ta lại nói Chân Ngôn Đại Lực Nghi Quỹ của ông. Nếu người muốn thành tựu các sự nghiệp, trước tiên ở chỗ thanh tịnh trên núi, tụng Chân Ngôn 30 lạc xoa làm Pháp Tiên Hành để khiến cho thân tâm, Pháp Hành đều được thành thục. Dùng sữa làm thức ăn, yên lặng trì tụng, chẳng được khởi tư tưởng nơi Pháp Chân Ngôn khác, cần phải phát Tâm Bồ Đề, quy mệnh ba Tôn, thanh tịnh trì Giới.

Lại nên thỉnh nhận Bồ Tát Giới. Như vậy tu thanh tịnh xong thì mới được làm các Pháp thành tựu tối thượng.

Người muốn làm Pháp, trước tiên tìm người vẽ, Tâm vốn thanh tịnh kèm cho thọ nhận Giới, và tìm kiếm màu vẽ cực tốt bậc nhất. Như vậy được xong thì mới có thể làm bức tranh. Bức tranh ấy rộng một khuỷu tay của Phật, dài bốn Xích (4/3 m). Như vậy làm xong, người vẽ ấy khiến phải tinh khiết, ăn ba món thức ăn màu trắng, mặc áo sạch mới, chọn ngày Cát Tinh trực nhật, hoặc ngày 15 trong kỳ Bạch Nguyệt, lúc mặt trời mới mọc thì bắt đầu vẽ đến giờ Ngọ, sau giờ Ngọ liền trụ, ngày ngày như vậy cho đến khi hoàn tất.

Trên bức tranh ấy, trước tiên vẽ Thế Giới Vô Lượng Thọ, đất ấy vẽ khắp các hoa sen báu, hoặc báu Đại Thanh, hoặc báu Pha Chi Ca, báu có màu xanh lục đậm dùng báu như vậy nghiêm sức bên trên bên dưới. Ở giữa vẽ cung điện báu lớn, phướng, phan, dù lọng, các vật cúng dường thảy đều thù diệu, lại có lửa sáng mỗi mỗi đều che trùm bên trên, xinh đẹp trang nghiêm.

Bên trong điện thứ nhất, ở chính giữa vẽ tòa Sư Tử, trên tòa vẽ Đức Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai, làm tướng Thuyết Pháp, thân Phật màu hồng, ánh sáng chiếu bốn phương.

Bên trái vẽ tòa hoa Ưu Bát La báu, trên tòa vẽ Đại Cần Dũng Bồ Tát Ma Ha Tát (Đại Thế Chí Bồ Tát Ma Ha Tát), làm tướng chiêm ngưỡng Như Lai, tay phải cầm cây phất trắng, tay trái cầm Thiên Quả, làm màu xanh lục nhạt, ánh sáng chiếu khắp, dùng mọi loại trang nghiêm để nghiêm sức.

Bên phải vẽ Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát ngồi trên tòa hoa Ưu Bát La báu, thân màu xanh lục nhạt, đỉnh đội mão báu, mặc áo màu xanh thượng diệu, trân câu, Anh Lạc, vòng hoa báu, dây quấn nách, lửa sáng chiếu khắp, tất cả trang nghiêm.

Bên phải, tiếp theo vẽ Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát ngồi trên tòa hoa Ưu Bát La báu, thân màu vàng sáng như tướng Đồng Tử có năm búi tóc, mặt mắt đoan nghiêm, đầy đủ cát tướng, mặc áo màu xanh, dùng báu trân châu làm chuỗi Anh Lạc với làm dây quấn nách, trang nghiêm thân tướng, vui vẻ chắp tay chiêm ngưỡng Như Lai.

Tiếp theo, bên dưới vẽ người trì tụng, tùy theo nghi dung của minh, trang nghiêm sạch mới, quỳ gối phải sát đất, tay cầm vòng hoa sen, cúi đầu làm tướng phụng hiến.

Tiếp theo, phía trước, ở trên góc tranh, bên phải vẽ hai Đức Phật, vị thứ nhất tên là Vô Lượng Quang, vị thứ hai tên là Phước Quang. Bên trái vẽ hai Đức Phật, vị thứ nhất tên là Sa La Hoa Vương, vị thứ hai tên là bảo Tràng. Bốn Đức Như Lai này, thân như màu vàng ròng, ánh sáng rực rỡ, ngồi trên tòa hoa sen trắng, mọi hoa trang nghiêm. Mọi loại nghiêm sức vi diệu bậc nhất, ngồi Kiết Già, làm tướng Thuyết Pháp.

Ở bên trên chư Phật, vẽ mọi loại mây, trong mây vẽ một Bồ Tát tên là Diệu Nhãn, thân thướng đầy đủ, ánh sáng chiếu khắp, tay phái tác Thí Nguyện, tay trái nắm góc áo cà sa. Như hành tướng ấy ở trong mây tuôn mưa mọi loại hoa, tướng cúng dường Như Lai.

Nghi tắc vẽ Đức Thế Tôn Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai Ứng Chính Đẳng Giác này cùng với Nhất Tự Chân Ngôn kia với nhóm sức mạnh, nhóm tinh tiến, sức Công Đức tối thượng rộng lớn chẳng thể nghĩ bàn của Phật Đỉnh Vương, Đại Luân Phật Đỉnh Vương Ta đã lược nói.

Trước tiên, Ta rộng nói hết thảy Nghi Quỹ của Nhất Thiết Phật Đỉnh Vương Đại Luân Nhất Tự, tất cả chỗ làm đều hay thành tựu.

Nếu có Hành Nhân muốn làm Pháp thành tựu cho đến chẳng tu Tiên Hành thì chỗ làm niệm tụng, tất cả hay thành huống chi là đối với Pháp Tiên Hành mà có công tích. Phàm có tu trì, tùy vui được quả. Hoặc cầu phú quý, tất cả đều được Nếu có người ở trước tượng thành tựu của Đức Thế Tôn Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai, Tâm chân thành, một lòng tùy vui thì người này ngày sau quyết định chứng được Vô Thượng Bồ Đề là do Uy Đức của Đức Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai với Tâm của tất cả Phật.

Đây là tất cả Phật Đỉnh Đại Luân Vương. Đây là Vi Diệu Đại Cát Tường Đồng Tử Tâm Nhất Tự Đỉnh Luân Vương. Lược nói sức chẳng thể nghĩ bàn, Uy Đức chẳng thể nghĩ bàn, Thần Thông biến hóa chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai.

Nếu có Hành Nhân làm Pháp Điều Phục. Hoặc chẳng tu Tiên Hành, hoặc chẳng trì Giới cho đến ăn thịt uống rượu cũng được Pháp thành tựu. Trừ kẻ chẳng phát Tâm Bồ Đề với chẳng tin trong cho đến hủy báng Tam Bảo, Nhóm người như vậy nếu làm Pháp phá hoại kèm với Điều Phục ắt chẳng thể thành, huống chi là tu việc của Trung Phẩm, Thượng Phẩm.

Phàm người trì tụng, một lần trì niệm thì ủng hộ thân của mình. Hai lần trì niệm thì ủng hộ người khác. Ba lần trì niệm làm đại ủng hộ xong, cho đến Bồ Tát Thập Địa cũng chẳng thể lạy động được huống chi là sức lực khác mà có thể lay động được. Nếu bốn lần trì niệm thì có thể cứu các việc khổ não của tất cả chúng sinh. Nếu năm lần trì niệm xong, quán tưởng Phật Thế Tôn thì chỗ mong cầu đều được.

Nếu vào ngày tốt của mặt trăng, ngôi sao, y theo Pháp ở trước tượng Phật Bồ Tát, hoặc Kinh Pháp với trước tháp Xá Lợi. Trước tiên, tắm gội, mặc áo sạch mới, chuẩn bị trì Giới một ngày đêm, sau đó lấy nước mới trong sạch không có loài trùng, nhóm hương hoa màu trắng, làm Sái Tịnh (rưới vảy cho sạch sẽ) ở vị trí đất tại nơi làm Pháp, đối hương Bạch Đàn, hương Cung Câu Ma, hương Long Não. Thiêu đốt nhóm hương như vậy xong, làm Pháp Hộ Ma Nếu vì Sát Đế Lợi thì dùng củi ướt A Thấp Phộc Tha nhúm lửa. Nếu vì Bà La Môn thì dùng củi ướt Bát La Xá nhúm lửa. Nếu vì Tỳ Xá thì dùng củi ướt Khư Nễ La nhúm lửa. Nếu vì Thủ Đà thì dùng củi ướt A Ba Ma Lý Nga nhúm lửa. Nhóm như vậy tùy theo sức, kèm dùng hoa lúa gạo đồng làm Hộ Ma, làm Pháp Giáng Phục rất ư bậc nhất, sau này làm Pháp thì dựa theo điều này mà biết.

Nếu vì giáng phục Oan Gia, đều tùy theo mỗi mỗi chỗ dùng ấy, dùng tám ngàn miếng củi ướt ấy làm Hộ Ma, sau đó dùng bơ tám ngàn lần làm Hộ Ma, sau lại lấy tro ném vào nơi chốn an cư của Oan Gia có Tâm ác ấy. Lại khi ném tro thì kết Phật Đỉnh Đại Luân Nhất Tự Vương Ấn, liền dùng Ưu Bát La Ấn thì được Oan Gia chịu thua rút lui.

     

Hoặc riêng có tai nạn lớn với có việc khổ não của Tâm thì dùng điều này được trở về như cũ. Như vậy lại có việc riêng thì tùy theo ý làm Pháp.

Nếu có người bệnh thì cho mặc cái áo đã gia trì, ắt thân được an vui.

Nếu gia trì vào Nhãn Dược rồi chấm vào con mắt thì được tất cả người yêu trọng.

Nếu hướng mặt về phương Nam gia trì thì tất cả khuôn mặt giận dữ quán sát thảy đều chuyển Tâm thiện, yêu trọng.

Hoặc dùng hoa quả với diệu hương ấy, gia trì bảy biến rồi đem cho người khác.

Người kia ngửi thấy thì Tâm tự hạ mình tôn trọng. Hoặc lại có người khác nhìn thấy cũng đều hạ mình tôn trọng.

Tất cả người bệnh với thân rét buốt. Gia trì vào nước ấm cho tắm gội sẽ được an vui

Pháp Điều Phục này đối với chúng sinh khổ não đều chẳng được làm. Hoặc người không có chủ, không có chỗ nương nhờ thì người trì tụng cũng nên thương xót, đối với người nữ, người ngu, người bệnh, người nghèo, người khổ não cho đến người hèn mọn với người có hai Căn đều chẳng được làm.

Nếu đối với Thượng Nhân có dũng mãnh tinh tiến, người đại xan tham, người có đại tài đại lực, người cực ngã mạn. Nơi của người như vậy thì có thể được làm. Lại có người ác hủy báng sự hiền thiện, hoại loạn Chính Pháp, trộm cắp tiến của người khác, người làm các việc ác cũng có thể được làm.

Lại có người chẳng tin tất cả Chân Ngôn với nhóm Pháp tương ứng, Tâm ác, Tà Kiến Nơi nhóm như vậy thì có thể được làm.

Nếu có quy mệnh Tam Bảo, đủ Chính Kiến, nơi có Tâm Đạo thì chẳng được làm.

Lại có Pháp. Nếu có người xa lìa Phật Tăng, thường tác sân nộ thì nên ở chỗ ấy, ném tro gia trì, ắt tự nhiên hồi hướng. Nếu là Oan Gia có súc mạnh lớn thì cũng có thể phá hoại được.

Nếu có tai nạn lớn thì chẳng được làm Pháp này. Nên làm nội trong 21 ngày sẽ được Pháp thành tựu, có thể phá nghịch tất cả Oan Gia. Bảy ngày đầu thì kẻ kia có Tâm phiền muộn, xong 14 ngày thì kẻ kia tự thọ bệnh, nếu đến 21 ngày thì kẻ kia tự phá hoại, xa lìa với đi nơi khác chẳng gặp nhau nữa.

Nếu có hay làm Pháp này, như vậy một hướng là cảm hóa chúng sinh, chẳng vì điều khác, cho nên chẳng được làm. Nếu nghịch với ý của Đức Phật, làm tất cả việc gây hại cho hữu tình thời Đức Phật chẳng có hứa.

Chư Phật đã nói mọi loại Nghiệp lớn, hai quả đen trắng. Nếu làm Nghiệp đen tạp loạn chẳng Thiện thí quyết định được báo tạp loạn chẳng thiện.

Người trì tụng cần phải xa lìa nghiệp đen tạp loạn, nên tu nghiệp trắng hiền thiện trong sạch sẽ được thành quả báo thanh tịnh trắng trong hiền thiện.

Nếu hại chúng sinh sẽ chiêu cảm Địa Ngục. Người trì tụng ấy nên siêng năng nghĩ nhớ, chặt đứt Pháp như vậy.

Người trì tụng xa lìa sát sinh thì chiêu cảm được báo tối thượng, sẽ sinh trên Trời được niềm vui của sự giải thoát.

Lại người trì tụng, nếu được thành tựu Chân Ngôn thì được Thiên Trung Thiên (tối thắng trong chư Thiên, vua của hàng Trời), được Nhất Thiết Trí. Vì giáo hóa chúng sinh, khới mọi loại Hạnh, tu mọi loại Nhân, làm ngàn sự nghiệp, tùy theo ý thành tựu.

Nếu làm Pháp Điều Phục thì chuyên tâm niệm tụng, y theo Pháp Hộ Ma, được thành tựuy Hạ Phẩm, nơi Pháp Trung Phẩm có hứa chút thành tựu, chỉ trì tụng Pháp nói Thượng Trung Hạ. Nếu trì tụng tối thượng được báo tối thượng, nếu trì tụng được Trung thì được Báo của Trung Phẩm, nếu trì tụng Hạ Phẩm thỉ được báo của Hạ Phẩm.

Đối với Pháp Hộ Ma cũng nói ba loại xứng lượng thời tiết. Phàm trì tụng Hộ Ma cần phải tu tập sự nghiệp tối thượng không có hàng nào ngang bằng được.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI BẢY_

NGHI TẮC THÀNH TỰU CHỮ MA, CHỮ ÁN

CỦA TÂM DIỆU CÁT TƯỜNG

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI HAI_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát Chúng Tịnh Quang Thiên rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Ông có riêng Pháp thành tựu Nghi Tắc vẽ tượng hay thành tựu tất cả sự nghiệp Diệu Cát Tường! Nhất Tự Tâm Chân Ngôn của ông, hoặc Lục Tự Căn Bản Ma Tự Chân Ngôn của ông, hoặc Lục Tự Tâm, hoặc Án Tự Chân Ngôn... Nhóm Chân Ngôn Nghi Quỹ Vương như vậy sau khi Đức Phật diệt độ, vào thời Mạt Pháp thì cõi Phật trống rỗng, Thế Gian không có chủ (không có chỗ quy y, không có ngươi tiếp trợ), không có người cứu độ thời Nghi Quỹ Vương này làm Chủ cứu độ khiến cho được an trụ.

Này Diệu Cát Tường! Nay Ta tuyên nói thứ tự của Nghi Quỹ. Như lúc trước dùng tấm lụa mới chẳng cắt chỉ tua, sạch sẽ không dơ bẩn, dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay. Dùng nước Bạch Đàn, Long Não điều hòa màu sắc, vẽ Ta Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật ngồi trên tòa hoa sen tác Thuyết Pháp, mắt quán nhìn tướng của Diệu Cát Tường Đồng Tử.

Ở bên phải, theo thứ tự vẽ Diệu Tài Bồ Tát, Chân Thật Bồ Tát, Thánh Vô Tận Ý Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát với tướng đỉnh lễ Đức Thế Tôn.

Bên trái, theo thứ tự vẽ Phổ Hiền Bồ Tát, Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, Hiền Hộ Bồ Tát hết thảy Như Lai, mỗi mỗi đầy đủ tướng tốt. Tướng của các Bồ Tát thù diệu tối thượng. Lượng thân của Phật Bồ Tát tương xứng tùy theo bức tranh. Hai vị Bồ Tát: Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát với Diệu Tài có tay cầm cây phất trắng.

Ở phía trước, mặt bên dưới, vẽ một vị Địa Thiên tay nâng cái hộp báu, từ dưới đất nhảy vọt lên, nửa thân ló ra trên mặt đất, nữa thân chẳng hiện.

Ở mặt bên trên, trong hư không vẽ hai vị Thiên Nhân, tay cầm vòng hoa, tuôn mưa rải hoa của cõi Trời.

Nhóm Phật Bồ Tát như bên trên, đều có ánh sáng của thân trợ nhau sáng rực, bên trong bên ngoài chói sáng, mỗi mỗi nghiêm khiết.

Vẽ màu sắc xong, cầm tượng vẽ này đến chỗ của tháp Xá Lợi, như Pháp an trí.

    

Vẽ tượng xong, Trì Tụng Hành Nhân ấy trong ngoài nghiêm khiết, Tâm chẳng tán loạn, ở trước tượng này, ngồi hướng mặt về phương Tây, tụng Diệu Cát Tường Tâm hoặc Chân Ngôn của nhóm căn bản, đủ một lạc xoa. Từ lúc bắt đầu ra công cho đến khi thành tựu, một ngày ba thời tắm rửa, ba thời thay áo, trì Giới thanh tịnh, yên lặng khất thực, hoặc rau, hoặc quả, không có các huân tạp. Thức ăn đã xin được, chia ra làm bốn phần. Một phần phụng hiến Tam Bảo, một phần phụng hiến Diệu Cát Tường Bồ Tát, một phần đem cho tất cả hữu tình, một phần tự ăn, đừng để cho thân tâm có chỗ khổ não. Phát ý của Như Lai, vì các chúng sinh chẳng khởi Tâm nhỏ bé chỉ riêng vì chính mình.

   

Tác quán tưởng đấy, cầu nguyện viên mãn, niệm Chân Ngôn, hiến hương (hương đốt), hoa, đèn, hương xoa bôi cho đến nhóm thức ăn với tắm rửa các Thánh. Tắm rửa thì dùng nước thơm tắm tửa tượng ảnh của các Thánh.

Sau đó, ở trước tượng Phật đem các nhóm hoa, hương, thức ăn luôn thường cúng hiến. Mỗi lần hiến thức ăn cúng dường, trước tiên hiến khắp Tam Bảo, sau đó hiến Từ Thị, tiến đến Quán Tự Tại, tiếp đến Phổ Hiền cho đến Hư Không Tạng, Vô Tận Ý, Nguyệt Quang Đồng Tử, Trừ Cái Chướng, Thánh Kim Cương Thủ, Thánh Đa La, Đại Khổng Tước Minh Vương, Thánh Vô Năng Thắng, Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Nhóm hương đốt, hoa, hương xoa bôi, thức ăn.. tất cả như vậy, trước tiên hiến xong, sau đó bố thí từ địa vị của lớn thứ nhất bên ngoài.

Tất cả hình Lạc Đà, Lừa, Voi, Ngựa, loài gây chướng ngại. Dùng đất bọc kín tổ của con mối trắng làm hình tượng ấy. Làm hình tượng xong, dùng mọi loại thức ăn uống với nhóm rau quả, như vậy bố thí xong thì phát khiển xa lìa, sau đó dùng cỏ cát tường làm tòa ngồi. Ngồi xong, phát Tâm tối thượng thiện, niệm danh hiệu của tất cả Phật.

Sau đó, chỉ ở chỗ thanh tịnh sát bên cạnh, trải cỏ Cát Tường rồi nằm ở bên trên với Khiết Thực, đi lại, Kinh Hành, xa lìa các giường nằm tầm thường, một ngày ba thời niệm danh hiệu Phật với làm Quán Tưởng. Nếu là được thấy mộng tốt thù thắng thì chẳng được đến chỗ của người khác, nói có thể ở trước Phật thưa bạch. Như vậy y theo thứ tự mau chóng tụng Chân Ngôn một lạc xoa. Thời khác thường đọc tụng Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa.

Nếu khi niệm tụng thời chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường Đồng Tử. Nếu làm niệm tụng, đừng để cho câu văn bị khuyết thiếu. Nếu đầy đủ biến số xong thì đứng dậy làm lễ. Lại đem mọi loại cúng dường hiến Phật. Nghi Tắc như vậy, trước tiên thực hành cho tinh thục xong, cầm tượng vẽ ấy tùy theo nơi chốn, cầu các thành tựu Tiên Hành này thành xong. Lại dùng Bạch Đàn làm Diệu Cát Tường Bồ Tát ngồi trên tòa hoa sen, tay trái cầm Kinh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật, tay phải cầm quả. Như vậy làm xong, ở đất thanh tịnh thù thắng, an trí hướng mặt về phương Tây.

Ở trước tượng ấy làm Lò Hộ Ma vì tất cả Pháp làm lò vuông vức, sâu hai Xích (2/3 ma), dùng năm loại lúa đậu làm bùn, sơn khắc lò Hộ Ma. Nghi Tắc như vậy dùng củi ướt của cây A Thấp Phộc Tha, hoặc dùng củi ướt của gỗ cây Vô Ưu. Dùng nhóm củi như vậy nhóm lửa.

Lại dùng gạo tẻ hòa với nhóm sữa, lạc, mật đều chứa đầy trong một vật khí bằng đồng. Sau đó dùng Chân Ngôn chú vào củi, tám ngàn lần múc đầy muỗng làm Hộ Ma. Như vậy làm xong, sau đó vì việc đã mong cầu.

Chọn ngày một một của tháng bắt đầu làm Pháp, dùng củi ướt của cây Ni Câu Đà nhúm lửa. Được thấy không có khói xong, dùng Chân Ngôn thỉnh triệu Hỏa Thiên Chân Ngôn là:

"A nga tha, hạ lý bế nột bà la, nễ bát-đá nhĩ hạ-phộc, lộ hứ đá xoa, nỉ hứ, nại nại, (sa-phộc) hạ"

Tụng Chân Ngôn này ba biến, thỉnh triệu Hộ Ma xong, sau đó thỉnh triệu Diệu Cát Tường Bồ Tát ba lần. Chân Ngôn là:

"A nga tha nga tha, câu ma la bộ đa, tát lý-phộc tát đát-phộc la tha mẫu nễ-dã đổ hám, sa hạ diệm ca la-ba dã, hiến đạm, bổ sắt-bán, độ bán, tả, bát-la để ngật-lý hận- noa, sa-phộc hạ”

Tụng Chân Ngôn này bày Thỉnh Triệu xong, hiến các cúng dường hương, hoa, nước Át Già sau đó làm Hộ Ma bảy lần, bảy lần ném Đoạn Thực, như vậy đủ bảy ngày. Lại dùng gạo tẻ, mè với nhóm bơ, sữa làm cháo phụng hiến với thường tự ăn đủ thứ này thì sau này quyết định được thấy Diệu Cát Tường Đồng Tử.

Sau đó dùng Bạch Đàn ướt dài hai ngón tay làm củi gồm một ngàn miếng, làm Hộ Ma. Ngày ngày thiêu đốt một trăm miếng cho đến đầy đủ số thì quyết định được Thí Chủ tối thượng của nhân gian, cúng dường.

Hoặc dùng một ngàn lạc xoa hoa Nhạ Đế làm Hộ Ma thì quyết định được Thí Chủ tối thượng yêu trọng.

Hoặc dùng một ngàn hoa sen, thấm tẩm bơ, mật, lạc làm Hộ Ma thì được tài bảo lớn.

Nếu dùng củi ướt của cây Tam Nhĩ nhúm lửa, dùng mè làm Hộ Ma thì được Đại Tài Chủ.

Nếu sáng sớm ở trong con sông, dùng nước làm Hộ Ma thì được tất cả người yêu trọng.

Hoặc dùng củi ướt của cây A Lý Ca thấm tẩm bơ, mật, lạc một ngàn lạc xoa, làm Hộ Ma thì được ngàn người thọ dụng sung túc.

Hoặc dùng củi ướt của cây A Ba Mạt Lý Nga làm Hộ Ma thì được tiêu trừ tất cả bệnh.

Hoặc dùng củi Nhũ Mộc nhúm lửa, dùng mè làm Đoạn Thực một lạc xoa, làm Hộ Ma thì chỗ mong cầu đều được.

Nếu có quốc vương cầu quốc thổ. Dùng một lạc xoa hoa sen làm Hộ Ma thì được mãn túc Nguyện.

Hoặc dùng một lạc xoa Đại Mạch làm Hộ Ma thì được năm loại lúa đậu thọ dụng không tận. Hoặc dùng An Tức Hương, Tất Lý Diệm Ngu Hương hòa với bơ làm Hộ Ma thì được con cháu.

Nếu dùng hoa Nhạ Đế, cầm mỗi một hoa ở trong nước, làm Hộ Ma rồi đem hoa còn lại cho người khác thì được người ngửi thấy yêu trọng.

Nếu đem hoa Cung Câu Ma, Xạ Hương, Đinh Hương ngậm trong miệng, niệm tụng thì người nhìn thấy đều yêu trọng.

Nếu dùng Hồ Tiêu tụng tám ngàn biến xong, ngậm trong miệng, nói lời sân nộ thì kẻ kia tự yêu trọng. Nếu dùng kết Giới, được thành Ẩn Thân.

Nếu thấy oan gia có ý niệm oán thì tâm ấy tự ngưng.

Nếu luôn trì tụng thì được tất cả người yêu trọng.

Nếu vào sáng sớm, dùng hoa Nhạ Đế với nước sạch, ở trên mặt đất làm Hộ Ma thì được Chân Ngôn thành tựu, không dám vi phạm.

Nếu có sợ hãi thì ý niệm liền trừ.

Nếu kẻ có oán nộ thì nhìn vào mặt thời tự nguôi.

Nếu vì người khác, dùng tất cả hương hoa làm Hộ Ma thì kẻ kia được yêu trọng.

Nếu dùng nước tụng bảy biến, sáng sớm uống vào thì quyết định trừ diệt nghiệp ác khổ não.

Hoặc đem nước trong sạch, tụng bảy biến rồi rửa mặt thì ở Thế Gian tất cả người nhìn thấy thảy đều yêu trọng.

Nếu gia trì vào hoa rồi đem cho người thì được người ấy yêu trọng

Nếu dùng gạo tẻ làm Hộ Ma một lạc xoa thì được tôn quý bậc nhất trong nhân gian.

Dùng mè với hoa sen, một ngàn lần làm Hộ Ma thì được một ngàn đồng tiền.

Nếu chẳng trả giá mua An Tức Hương với Sa Nhạ La Sa Hượng, Cát Tường Hương cùng hòa hợp với nước thơm làm Hộ Ma năm ngày thì nội trong sáu tháng được một ngàn Công Đức Nếu một Thất, ngày ba thời dùng hoa Mạn Đà La làm Hộ Ma thì được con bò.

Nếu dùng hoa A Lý Ca thì được lúa đậu. Dùng hoa Thế Lý Sa thì được con ngựa. Dùng hoa Vô Ưu thì được vàng. Dùng hoa Vĩ Bộ Lý Đa Cát thì được áo.

Lại nữa, nếu dùng hoa Nhạ Đế Hộ Ma với các hoa thượng diệu, ở trong nước làm Hộ Ma, chỉ mong cầu ở trong Tâm thì tất cả Thượng Y đều được.

Nếu gia trì vào Nhãn Dược bảy biến rồi chấm vào con mắt thì người nghèo cũng được đại phú.

Nếu ở ban đêm, ngồi trì tụng rồi ở trong giấc ngủ được cảnh mộng cát tường.

Nếu cấu người cực quý yêu trọng thì lấy đất dưới bàn chân của người ấy hòa hợp với hạt cải trắng, mè làm Hộ Ma bảy ngày, một ngày làm ba thời, ắt được.

Nếu cầu người quý trọng yêu trọng. Dùng Bà La Đát Ca hòa với mè làm Hộ Ma bảy ngày bảy đêm thì đạt được.

Hoặc cầu Bà La Môn yêu trọng. Dùng cháo sữa và bơ làm Hộ Ma thì tất cả đều được.

Nếu muốn Sát Đế Lợi yêu trọng. Dùng gạo, dầu bơ làm Hộ Ma.

Nếu muốn Tỳ Xá yêu trọng. Dùng Đại Mạch, đường cát làm Hộ Ma.

Nếu muốn Thủ Đà yêu trọng. Dùng Đoạn Thực làm Hộ Ma, liền được.

Nếu vì cứu bệnh, tụng 800 biến rồi xoa đỉnh đầu của người bệnh thì tất cả được khỏi. Tất cả bệnh, gia trì vào sợi chỉ rồi cột buộc trên thân thì đều khỏi.

Nếu bị bệnh bướu cổ. Gia trì vào đất của con mối trắng rồi xoa bôi lên, liền khỏi.

Lại có bảy loại Nghi Tắc:

Như trước đã nói, tìm tấm lụa mới thanh tịnh không có tạp, vẽ Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát như tướng Đồng Tử, thân thịt màu hồng, ngồi trên tòa hoa sen, mọi loại trang nghiêm. Bên phải vẽ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, bên trái vẽ Phổ Hiền Bồ Tát, lượng thân nhỏ như Diệu Cát Tường Bồ Tát.

Vẽ tượng thành xong, tìm đất thanh tịnh với nơi có tháp Xá Lợi, như Pháp niệm tụng, đủ một câu chi xong thì được Phước của La Nhạ.

Nếu dùng củi Bạch Đàn ướt, thấm tẩm nước hương Cung Câu Ma Hộ Ma một lạc xoa, đồng với lúc trước.

Nếu dùng củi Trầm Hương ướt, thấm tẩm bơ, Mật, lạc Hộ Ma, đồng với lúc trước.

Nếu dùng hoa Đế Nhạ hòa với bơ, mật, lạc làm Hộ Ma, đồng với lúc trước.

Nếu dùng nhóm hoa sen làm Hộ Ma thì được tiền như đống hoa lớn nhỏ.

Nếu dùng quả Vĩ Bộ Lý Đá Cát một lạc xoa làm Hộ Ma thì được Đại Tài Chủ.

Nếu dùng củi An Tức Hương ướt, đồng Hộ Ma tám ngàn lần thì được lúa đậu.

Nếu luôn dùng mè Hộ Ma thì được lúa đậu không tận.

Nếu dùng gạo tẻ, một lạc xoa Hộ Ma thì được quần áo, thức ăn che giúp cho một ngàn người.

Nếu dùng quả trái có nhiều hạt với quả Xá Nhĩ làm Hộ Ma thì được Diệu Đồng Nữ đến phụng sự.

Nếu dùng lá cây Xá Nhĩ làm Hộ Ma thì tất cả như ý.

Dùng hoa A Nga Tất Đế thấm tẩm sữa làm Hộ Ma thì được người có Tịnh Hạnh phụng trọng.

Nếu dùng hoa Ca La Vĩ La màu trắng với hoa Ca Vĩ Ca La làm Hộ Ma thì được người tối thượng yêu trọng.

Dùng hoa Mạn Đà La làm Hộ Ma thì được người tối thượng yêu trọng.

Dùng hoa Mạn Đà La làm Hộ Ma thì được tất cả Thủ Đà yêu trọng.

Dùng hoa A Lý Ca thấm tẩm bơ, mật, lạc làm Hộ Ma thì cứu tất cả bệnh.

Nếu dùng Nghi Tắc như vậy, dùng hương hoa một lạc xoa, hiến dưới bàn chân của Đức Phật thì thường thọ nhận khoái lạc.

Nếu dùng củi ướt của cây Bồ Đề nhúm lửa, dùng một ngàn hoa Xá Nhỉ làm Hộ Ma thì hay trừ tất cả chỗ mà Tinh Diệu đã nắm giữ.

Nếu dùng Ngưu Hoàng viết Chân Ngôn, đội trên đỉnh đầu rồi đi vào quân trận, thì tất cả khí trượng chẳng thể gây thương tích.

Nếu dùng Chân Ngôn thành tựu, Diệu Cát Tường Bồ Tát cõi voi để ngay trước quân trận. Khi quân nước khác nhìn thấy thì tự lui.

Nếu dùng Bồ Tát với tướng Đồng Tử ngồi trên con chim công vàng, an trên cây phướng, giơ lên trước trận. Khi quân nước khác nhìn thấy thì tự lui.

Nếu dùng hoa Nhạ Đế một lạc xoa hiến dưới bàn chân của Đức Phật, liền ở chốn ấy, trải cỏ cát tường rồi nằm, thì ở trong mộng đều thấy điều đã mong cầu.

Nếu thắp một ngàn chén đèn, trong ấy mỗi chén dùng tơ của ngó sen quấn ràng Cam Thảo làm tim, đốt đèn cúng dường thì người ấy quyết định được thấy Diệu Cát Tường Bồ Tát, như tất cả tướng thù diệu đã khen ngợi.

Lại có Nghi Tắc thứ hai cầu thành tựu:

Dùng vàng bạc chưa từng dùng vào chuyện khác, làm Diệu Cát Tường Bồ Tát, tay phải tác Thí Nguyện, tay trái cầm Kinh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa. Như vậy làm xong, an trí ở trước tháp Xá Lợi, đối trước tượng tụng Chân Ngôn một lạc xoa xong rồi, vào lúc sáng sớm hiến cúng dường lớn. Dùng Đồng Nam, Đồng Nữ làm các ca múa, tự đọc tụng Kinh Pháp Đại Thừa. Cúng dường xong, hiến ba đóa Diệu Hoa với nước Át Già. Hiến xong thì Phát Khiển.

Trước kia đã nói Nghi Pháp có nhóm Ấn Thỉnh Triệu, Phát Khiển.

Nếu lúc niệm tụng thời kết Liên Hoa Ấn

Nếu Thỉnh Triệu thì dùng Tràng Ấn

Nếu hiến tòa ngồi thì dùng Cát Tường Ấn

Nếu hiến Át Già thì dùng Mãn Ấn

Nếu hiến hoa thì dùng Nhất Tôn Ấn

Nếu hiến đèn thì dùng Nguyện Ấn

Hiến hương thì dùng Hợp Chưởng Ấn

Hiến hương xoa bôi thì dùng khổng Tước Tọa Ấn

Hiến thức ăn thì dùng Trượng Ấn

Phàm làm niệm tụng. Các Nghi Quỹ lúc trước đều dùng các Ấn Pháp này, từ lúc mới bắt đầu cho đến khi Pháp thành tựu, nên là Thỉnh Triệu với các Cúng Dường, Pháp Khiển đều dùng Ấn Pháp, cho đến ngày hoàn tất.

Nếu dùng hoa Nhạ Đế hiến Phật với hiến Át Già xong. Nằm ở trước mặt Đức Phật, ở trong mộng được thấy Đức Phật tác tướng Thuyết Pháp, có Bồ Tát vây quanh.

Nếu vì làm mọi loại việc như vậy thì cần phải trì Giới chẳng được tán loạn. Vào ngày mồng một của Kỳ Bạch Nguyệt thì bắt đầu ra công, dùng hương Cát Tường hòa với Mật làm Hộ Ma thì được tôn quý tối thượng.

Nếu tụng một câu chi thì được gần gũi thấy Diệu Cát Tường như người nói chuyện. Nếu được nói Pháp với được ánh sáng chiếu thì được địa vị của Bất Thoái Bồ Tát.

Lại có Nghi Tắc thứ ba:

Dùng Xích Đàn làm tướng Đồng Tử, một bên làm Ái Tử, tiếp đến Ma Gia Phu tay vịn cây Vô Ưu. Một bên an trí muối với hạt cải đen trắng hòa hợp. Dùng Xích Đàn làm hình tướng người kia. Làm xong, chặt đứt đoạn làm Hộ Ma thì kẻ kia tự yêu trọng.

Hoặc dùng hạt cây Ni Câu Luật Đà làm Hộ Ma. Nếu vì người khác làm thì người khác ấy được yêu trọng.

Hoặc dùng hạt Ưu Bát La. Nếu vì người khác làm Hộ Ma thì người khác ấy được yêu trọng.

Hoặc dùng hạt Táo vì người làm Hộ Ma thì người ấy được yêu trọng.

Hoặc dùng hạt Ô Đàm Bát La vì người khác làm Hộ Ma thì người ấy được yêu trọng.

Nếu dùng cây Tất Lý Hiến Tra Ca làm Hộ Ma thì được Bà La Môn yêu trọng.

Nếu dùng ngó sen làm Hộ Ma thì được Sát Đế Lợi yêu trọng.

Nếu dùng Long Hoa (rễ hoa có thể ăn được) làm Hộ Ma thì được Tỳ Xá yêu trọng.

Nếu dùng lúa gạo làm Hộ Ma thì được Thủ Đà yêu trọng.

Nếu dùng muối với sữa, đường hòa làm tám ngàn viên, làm Hộ Ma, một ngày ba thời, bảy ngày thì hoàn tất. Nếu vì người khác làm thì người ấy được yêu trọng.

Nếu dùng lá Khổ Luyện, hạt cải hòa với dầu Hộ Ma, một ngày ba thời, bảy ngày làm xong thì được người kia yêu trọng.

Nếu dùng một lạc xoa hoa sen làm Hộ Ma thì được vàng.

Nếu dùng tám ngàn hoa Ca La Nhạ Lý Ca làm Hộ Ma thì được thôn xóm lớn

Nếu dùng hoa A Tra La làm Hộ Ma thì được lúa đậu không tận.

Nếu dùng hoa Cát Tường làm Hộ Ma thì được vàng.

Nếu dùng rễ Xương Bồ thấm tẩm bơ, mật, lạc làm Hộ Ma thì khi luận nghị với tất cả Luận Giả sẽ được thắng.

Hoặc thuốc Một La Hám Nhị hòa với bơ rồi chứa đầy trong vật khí bằng đồng. Tụng Chân Ngôn cho đến một vạn lần, sau đó tự ăn thì ở trong tất cả Luận Giả sẽ được thắng

Nếu có người sân nộ, tụng tám ngàn lần xong, quán nhìn thì kẻ kia tự nguôi.

Lại có Nghi Tắc thứ tư:

Như lúc trước, dùng tấm lụa mới thanh tịnh không có dơ bẩn xong, khiến người vẽ trì Giới, dùng màu sắc tốt thượng vẽ Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát, ngồi trên tòa hoa sen, làm tướng Thuyết Pháp.

Bên phải, vẽ Thánh Đại Di Khư La

Bên trái, vẽ Thánh Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát thân tướng đoan nghiêm, mặc áo trắng, tất cả nghiêm sức.

Mặt bên dưới, vẽ ao hoa sen, trong ao có mọi loại hoa sen tràn đầy. Vẽ Long Vương với tướng ló ra nửa thân, tay cầm cọng hoa sen.

Bên phải, vẽ tướng Tiêu Trừ Chướng Nạn Thánh Vô Năng Thắng Đại Minh Vương miệng phát ra lửa, làm tướng cau mày.

Bên trái, vẽ Thánh Bát La Noa Xá Phộc Lý Minh Vương (Thánh Diệp y) tay cầm sợi dây, cây búa, màu đen hồng, ủng hộ Trì Tụng Hành Nhân.

Tiếp theo, vẽ người trì tụng, tùy theo nhan sắc hình tướng của mình, tay nâng vòng hoa sen, làm tướng chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường Bồ Tát.

Ở mặt bên trên, vẽ Thiên Nhân cầm vòng hoa, rải hoa.

Đem tượng vẽ này, an trí ở nơi có tháp Xá Lợi của Phật, hướng mặt tượng về phương Tây. Hành Nhân ở trước tượng này, tụng Chân Ngôn một câu chi. Xong rồi hiến đèn lớn cúng dường. Hiến xong, lại tụng Thánh Bát Nhã Ba La Mật Đa Bồ Tát đủ một vạn biến, chú ý chiêm ngưỡng tướng của Diệu Cát Tường Bồ Tát.

Nếu được tượng này cử động thì được tôn quý bậc nhất trong nhân gian.

Nếu được con mắt lay động thì đườc làm Thiên Nhân.

Nếu cười thì được Luân La Nhạ (Chuyển Luân Vương).

Nếu nói năng thì chứng được địa vị Bồ Tát Sơ Địa, được vào các Phật Hội nghe Pháp.

Nếu ở trước tượng này, chọn con bò màu vàng có con nghé, lấy sữa làm bơ. Được bơ xong chứa đầy ở trong vật khí bằng đồng, tụng Chân Ngôn cho đến khi hiện ra ba loại tướng.

Nếu được tướng Nhiệt thì người tụng được Đại Trí Tuệ, Đại Văn Trì. Nếu được Khói bốc lên thì chứng Ẩn Thân tự tại. Nếu là lửa hiện ra thì sẽ được Thần Thông.

Lại dùng rễ Xương Bồ, dùng hoa Nhạ Đế ràng cột, dùng vật khí bằng gốm chưa nung chứa đầy, rồi tụng Chân Ngôn cho đến khi ló ra mầm. Người tụng lấy ăn thì được Văn Trì Tụng một câu chi thì được gần gũi thấy Diệu Cát Tường, lắng nghe nói Pháp.

Nếu dùng vàng làm hoa sen trăm cánh xong. Ở trước tượng, quỳ gối phải sát đất, tụng Chân Ngôn cho đến khi lửa hiện ra. Tay cầm lấy thì được làm Thiên Luân Vương, người khác chẳng thể được thấy.

Nếu dùng Hùng Hoàng hoặc Thư Hoàng hợp với Nhãn Dược, dùng quả Cát Tường chứa đầy, tụng Chân Ngôn cho đến lúc phát ra tiếng. Dùng một chút, chấm trong con mắt thì sẽ được làm Chủ ở trong hết thảy hàng Địa Hành, tất cả Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả.

Nếu dùng cây kiếm thượng đẳng không có sứt mẻ. Ở trước tượng, dùng tay đè lên, tụng Chân Ngôn cho đến khi như con rắn ngóc đầu lên. Nếu cầm lấy thì được làm Thiên Luân Vương, sống lâu một Kiếp.

Nếu lại dùng Hùng Hoàng, dùng ba loại vàng bọc lại thành viên Hùng Hoàng, rồi ngậm trong miệng, tụng Chân Ngôn cho đến khi chấn động thì người tụng được Ẩn Thân, lại được tự tại trong sáu cõi Trời.

Nếu làm Nghi này thì Trì Tụng Hành Nhân ấy nên tu đầy đủ tất cả Thiện Pháp, chẳng được tham dục.

Lại có lấy hạt cây Xá Nhĩ với hạt cây Bồ Đề, ba bọc bằng vàng...rồi ngậm trong miệng, tụng Chân Ngôn cho đến khi chấn động thì được Ẩn Thân, lại được Thần Thông, sống lâu một ngàn tuổi.

Lại dùng bạc làm bánh xe, cầm đến trước hang Tu la, tụng cho đến khi bánh xe đập đánh thì cửa hang Tu La mở ra. Vào bên trong không có chướng ngại, A Tu La nữ kia đi ra nghênh đón. Người tụng vào bên trong, sống lâu một kiếp.

Lại có dùng sắt làm cây Tam Kích Xoa.

Trì Tụng Hành Nhân nếu cầm giữ, ở trước hang A Tu La, làm niệm tụng thì phá hoại tất cả chướng nạn, loài kia tự đi ra nghênh đón. Nếu muốn trụ ở đấy thì được sống lâu một Kiếp, sẽ được thất Đức Di Lặc Thế Tôn.

Lại có Nghi Tắc thứ năm:

Nếu dùng cây A Lý Ca màu trắng làm Diệu Cát Tường Bồ Tát lớn khoảng ngón tay cái. Làm xong, hiến một lạc xoa hoa A Lý Ca thì được địa vị của Quý Nhân.

Nếu dũng rễ Ca La Vĩ La màu trắng lớn khoảng ngón tay cái làm Diệu Cát Tường Bồ Tát. Dùng hoa Ca La Vĩ La hiến một lạc xoa thì được thành tựu Chân Ngôn.

Nếu dùng cây Ca La Hạ Tra làm Diệu Cát Tường Bộ Tát lớn khoảng một Xích (1/3 m). Dùng hoa Hạ Tra hiến một lạc xoa thì được nhiều người yêu trọng, được làm Quân Chủ.

    

Nếu dùng Bạch Đàn làm Diệu Cát Tường Bồ Tát lớn khoảng năm Thốn (5/3 dm). Dùng hoa Nhạ Đế hiến một lạc xoa thì được địa vị của Quý Nhân.

Nếu dùng cây Bồ Đề làm tượng dài một ngón tay, hiến một hũ nước trong sạch thì được nhiều người yêu trọng.

Nếu dùng tất cả Hương làm tượng, hiến tất cả hương hoa thì chỗ mong cầu đều được.

Nếu thường luôn dùng củi ướt của cây Trầm Hương làm Hộ Ma thì trong tất cả người trì tụng, được tôn trọng.

Nếu thường luôn trì tụng thì trừ được tội Đại Ngũ Nghịch, sau khi chết được gần gũi thấy Diệu Cát Tường, nghe Pháp.

Nếu gấp rút tụng tám trăm biến thì ở trong tất cả chúng sinh được Ẩn Thân, được làm Trì Niệm Chủ, tất cả chiêm ngưỡng yêu trọng. Nếu vì người khác làm thì tất cả đều được.

Mọi loại việc của Nghi Tắc của Đồng Tử như vậy thảy đều được làm, chỉ trừ tham dục.

     

Lại có Nghi Tắc Điều Phục thứ sáu:

Như vậy đã nói, ở thời Mạt Pháp nên vì lợi ích chúng sinh, khiến được thành tựu.

Ta lại nói cho Nghi Tắc thứ bảy:

Nên vì thời trược ác, lợi ích cho chúng sinh Phước mỏng, cho truyền Pháp này khiến được đạo ba Thừa của Bồ Tát, khiến cho hiểu phương tiện, việc của Thượng Hạ Phẩm.

Lại vì tất cả chúng sinh thời Mạt Pháp, người tham ái, mê hoặc với sân trược nặng nề với vì kẻ đã bị trói buộc nên làm quả báo thắng thiện của Đạo giải thoát Chân Ngôn Nghi Quỹ mà Như Lai đã nói, có thế lực lớn, đủ đại tinh tiến, sẽ làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sinh thời Mạt Pháp, khiến được Bất Không Thành Tựu Ta, Thích Sư Tử, bậc tối thắng trong loài người, bậc Trời bên trong Trời, sẽ ở trong Pháp của Diệu Cát Tường, lược nói Pháp lợi ích tối thượng như vậy, khiến cho được thành tựu tất cả chỗ làm.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI TÁM_

DIỆU CÁT TƯỜNG LỤC TỰ TÂM CHÂN NGÔN

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI BA_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại quán sát cõi Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Lại có Pháp Bất Không Thành Tựu của Nghi Tắc thứ bảy. Kẻ kia có được sẽ được thành quà báo lớn, lợi ích an vui, hết thảy tất cả nghiệp ác, khổ não của nẻo ác đều được tiêu trừ, ngay sau quyết định đắc được Vô Thượng Bồ Đề.

Này Diệu Cát Tường! Nay Ta nói Lục Tự Tâm Chân Ngôn của ông. Chân Ngôn này vi diệu có sức chẳng thể nghĩ bàn, không có gì ngang bằng được, giải thoát tất cả Luân Hồi trong sáu đường, miễn sự chìm đắm lâu dài trong biển lớn của ba nỗi khổ, giải thoát tất cả ràng buộc, chẳng nhiễm Thế Gian. Tất cả hữu tình, tất cả Bộ Đa không ai có thể thấy, ở trong đường Luân Hồi mà được thanh tịnh, được Pháp Phần của Phật, chư Phật tùy vui, ở tất cả Chân Ngôn là tối tôn tối thượng, lại ở tất cả là đại phú quý"

Liền nói Lục Tự Tâm Chân Ngôn là:

"Án, phộc chỉ-duệ na, nẵng ma"

Này Diệu Cát Tường! Nat Ta nói Pháp thành tựu của Lục Tự Tâm này. Nếu có người cầu thành tựu, nên dùng rau quả làm thức ăn, hoặc khất thực. Một ngày ba thời tắm gội, ba thời thay áo, Thân Tâm thanh tịnh chẳng được tán loạn, tụng Chân Ngôn một lạc xoa làm Tiên Hành, chẳng được bên trong thiếu một biến. Nếu là khuyết thiếu thì Pháp chẳng thành tựu, nên là chuyên chú, Tâm chẳng duyên điều khác.

Như vậy Tiên Hành thành xong, dùng dệt thành tấm lụa chẳng cắt đầu thừa chỉ, lớn nhỏ ướng theo lượng, chẳng thừa chẳng thiếu. Như vậy được xong thì kiếm người vẽ, lại khiến thanh tịnh trì Giới.

Như vậy khiết tịnh xong. Dùng màu sắc cực tốt vẽ Thánh Tượng này. Ở bên trong bức tranh, trước tiên vẽ Diệu Cát Tường Bồ Tát làm tướng Đồng Tử, ngồi trên tòa hoa sen, làm tướng Thuyết Pháp, trật áo hở vai phải, dùng mọi loại vi diệu để làm nghiêm sức. Bên trái, vẽ Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, tay phải cầm cây phất trắng. Bên phải, vẽ Thánh Phổ Hiền Bồ Tát. Mặt bên trên vẽ mây, trong mây vẽ Thiên Nhân cầm vòng hoa, tuôn mưa hoa để làm cúng dường. Ở phía trước, mặt bên dưới vẽ Trì Tụng Hành Nhân tùy theo tướng trạng của mình, tay cầm lò hương, làm tướng chiêm ngưỡng Diệu Cát Tường Bồ Tát Chung quanh vẽ núi. Mặt bên dưới vẽ ao sen, ở bên trong tùy ý, mọi loại nghiêm sức.

Vẽ tượng xong, an trí ở tháp Xá Lợi, hướng mặt tượng về phương Tây. Chọn ngày tốt của kỳ Bạch Nguyệt, hiến cúng dường lớn. Dùng bơ thắp đèn. Lại dùng tám ngàn hoa Nhạ Đế, một lần tụng thì một lần ném, rải trên mặt của Diệu Cát Tường, cho đến khi rải hết. Nếu được thành tựu, hoặc nghe tiếng chữ Hồng, hoặc được tượng chấn động.

Nếu được nghe tiếng chữ Hồng thì được tôn quý tối thượng.

Nếu được tượng chấn động thì ở trong tất cả Luận Giả được làm tốt thượng, lại hay biết rõ tất cả Nghĩa Luận của Thế Gian.

Nếu chẳng được thành tựu như trên thì sẽ ở trong tất cả Pháp trì tụng được sức mạnh.

Nếu dùng cây Trầm Hương ướt làm củi, dài như ngón giữa. Lại dùng cây Khư Nỉ La làm củi, ở ban đêm của kỳ Hắc Nguyệt thấm tẩm dầu Đô Lỗ Sắt-Ca làm Hộ Ma cho đến khi mặt trời mọc thì quyết định sẽ được thấy Diệu Cát Tường Bồ Tát. Nếu được thấy xong, thì hết thảy Thắng Nguyện mà Trì Tụng Hành Nhân đã mong cầu, đều được. Chỉ đối với Tham Dục (Ái dục) thì chẳng được cầu xin.

Hoặc ở ban đêm của kỳ Hắc Nguyệt, thiêu đốt Bạch Đàn chẳng gián đoạn cho đến khi mặt trời mọc thì được Bồ Tát đi đến nói Pháp sâu xa, khiến cho tin hiểu. Được tin hiểu xong, đối với tất cả bệnh sẽ được giải thoát, quyết định đắc được Địa của Bồ Tát.

Lại có Pháp. Dùng cây Xích Đàn khắc làm hoa sen có thể khoảng 6 ngón tay kèm theo cọng, đều dùng Xích Đàn xoa bôi. Lấy ngàn lá gia trì ngàn biến xong, vào ngày 15 của tháng, ở trước tượng, để trên lá sen, dùng bàn tay đè lên, tụng Chân Ngôn cho đến khi lửa hiện ra. Cầm lấy thì phút chốc chuyển thân như người nam 15, 16 tuổi, màu như vàng ròng, hào quang sáng trong vượt hơn Nhật Thiên Tử, được tất cả Thiên Nhân phụng trọng cúng dường, sống lâu một Đại Kiếp. Sau khi chết được sinh về Thế Giới Cực Lạc.

Lại có Pháp. Chọn ngày Thái Dương trực, dùng rễ Xương Bồ, nước Ngũ Tịnh, tẩy rửa cho sạch sẽ rồi an trí trên lá Bồ Đề, tụng Chân Ngôn cho đến khi hiện ra ba Tướng.

Nếu được tướng Nhiệt thì được tất cả người yêu trọng, ở trong tất cả Luận Giả được thắng.

Nếu được tướng Khói thì được thành tựu Ẩn Thân, sống lâu ba vạn tuổi.

Nếu lửa hiện ra thì được đi trong hư không, sống lâu một Đại Kiếp.

Lại có Pháp. Dùng sữa của con bò vàng có một con, làm bơ chứa đầy trong vật khí bằng đồng rồi an trí ở trên bảy lá Bồ Đề, tụng Chân Ngôn cho đến khi hiện ra ba Tướng. Nếu được Nhiệt thì được Văn Trì, khói thì được ẩn thân, lửa thì được đi trong hư không như lúc trước không có khác.

Lại có Pháp. Đem hạt sen (hạt hoa sen xanh) ngậm trong miệng, vào ngày Thái Âm trực, tụng Chân Ngôn cho đến khi chấn động, lại dùng ba cái bao bằng vàng bọc lại rồi ngậm trong miệng, như lúc trước trì tụng đến khi chấn động thì được Ẩn Thân. Nếu bỏ hạt sen trong miệng ra thì tất cả người đều thấy.

Nếu đem Đinh Hương ngậm trong miệng, tụng 6 lạc xoa xong. Phàm nói chuyện với người thì tất cả yêu trọng.

Nếu ăn bơ, tụng 12 lạc xoa thì được làm Thiên Nhân.

Nếu khất thực, ngầm tụng một lạc xoa thì được Ẩn Thân. Nếu tụng một trăm lạc xoa thì được nói Pháp như Diệu Cát Tường, lại như Bồ Tát Thập Địa. Nếu luôn tụng trì thì được tất cả Nghĩa tăng trưởng.

Lại có Pháp. Dùng tất cả thuốc Hương làm hình tượng người, chặt đứt rồi làm Hộ Ma, nội trong bảy đêm thì được yêu trọng.

Lại có Pháp. Dùng An Tức Hương làm thành viên lớn như hạt sen, thấm tẩm bơ, một trăm ngàn, làm Hộ Ma thì được một lạc xoa đồng tiền.

Lại có Pháp. Người trì tụng, hoặc vào sông biển, dùng một trăm ngàn hoa sen ném trong nước, làm Hộ Ma thì được kho tàng lớn chẳng thể cùng tận.

Nếu dùng hạt cải trắng, hương Cung Câu Ma hòa hợp, tám ngàn, làm Hộ Ma thì được La Nhạ yêu trọng.

Nếu dùng dầu mè hòa với bơ, mật, lạc làm thành một trăm ngàn nắm hình tròn, làm Hộ Ma thì được Đại Trưởng Già bố thí cho tất cả.

Lại có Pháp. Nếu dùng Cù Ma Di (Phân bò) chưa rơi xuống đất làm Mạn Noa La (Đàn), dùng hoa A Đề Mục Cật Đa hiến cúng dường lớn, tụng 800 biến, rồi đọc tụng Kinh Pháp Đại Thừa thì nội trong một tháng sẽ được Đại Trí Tuệ.

Lại dùng Ngưu Hoàng, tụng 800 biến xong, chấm vào tam tinh thì được tất cả người yêu trọng.

Nếu gia trì vào đỉnh đầu, tụng bảy biến thì tất cả người chẳng khinh mạn.

Nếu dùng một vạn hoa Chỉ Lý làm Hộ Ma thì được trừ tất cả bệnh.

Nếu ngày ngày tụng bảy biến thì quyết định diệt hết tất cả nghiệp ác.

Nếu khi lâm chung, tụng 800 biến thì được Diệu Cát Tường Bồ Tát hiện tra trước mặt.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

NGHI TẮC TU HÀNH ĐỊA VỊ, THỜI TIẾT

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI BỐN_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại quán sát cõi Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Ông có tất cả Nghi Tắc của Chân Ngôn của nhóm Đại Luân Minh Vương với các nhóm Phật Đỉnh địa vị (địa phương) thành tựu. Nay Ta lược nói nơi chốn mà các Minh Vương được thành tựu. Nước Chi Na với nước Đại Chi Na kia thì được thành tựu Chân Ngôn của Diệu Cát Tường Bồ Tát. Trong nước Quy Tư, trong nước Ô Ni-Dã Nẵng, trong nước Ca Thấp Di La với Tây Ấn Độ kèm bốn mặt của núi Tuyết, một cảnh ở phương Bắc... được thành tựu tối thượng của Phật Đỉnh Vương. Nếu làm Tức Tai thì tất cả nơi chốn trước được thành tựu. Núi Tuyết kia với đất Thiện Tâm trong nhân gian của Trung Quốc làm Tức Tai thì đối với Chân Ngôn của nhóm Liên Hoa Tộc, Kim Cương Tộc với Bảo Tộc sẽ được thành tựu. Lại hết thảy Chân Ngôn của nhóm Bán Chi Ca Dược Xoa với Ha Lợi Đế Dược Xoa Nữ, Hiến Đạt Lý Phộc cũng được thành tựu.

Lại vòng khắp bên trong bên ngoài của nước Ca Vi với nước Ma Già Đà, vòng khắp bên trong bên ngoài của nước Ca Ma Lỗ Bá bên bờ sông Lộ Hứ Nễ-Dã ưa thích thì các xứ ấy cũng được thành tựu.

Tất cả xứ ở Đông Ấn Độ thì Kim Tỳ La Thần với Bảo Hiền Đại Tướng được thành tựu.

Bờ biển, bãi cù lao (Châu), tất cả nơi có nhiều nước, đất ưa thích của nước Sư Tử thì được tất cả Chân Ngôn thành tựu.

Tất cả Chân Ngôn của nhóm Hiền Thánh kia: Đa La, Tỳ Câu Chi, Bạch Tản Cái với bốn Đồng Nữ thì ở trong biển lớn được thành tựu.

Lại địa phương (địa vị) vòng khắp Đông Ấn Độ, trong vùng hoang vắng lớn của núi Mẫn Địa-Dã với vòng khắp núi Ma Hứ Nại-La thì Đồng Tử Thiên ấy với Diệu Cát Tường được thành tựu.

Hoặc có loài gây chướng nạn cho người trì tụng, biến hình như voi một ngà có sức mạnh lớn, hoặc làm hình trạng của nhóm Ngựa với mọi loại tướng mạo, hoặc làm mọi loại tướng mạo tối thượng của Y Xá Na Thiên Tử cũng nói Pháp Chân Ngôn được đất thành tựu. Loài gây chướng như trên ở trong vùng hoang vắng lớn trong núi sâu hay gây chướng nạn.

Lại nói đất thành tựu của mọi loại Ma Đa La, Tú Diệu cực ác với Ngạ Quỷ Vương của nẻo quỷ đói, loài ưa thích ăn thịt người.

Lại nói đấy thành tựu của tất cả Bộ Đa.

Lại có trú xứ của Quỷ Vương ở phương Nam thì Chân Ngôn của Diêm Ma sẽ được thành tựu kèm với đất của các Ngoại Đạo cầu Pháp cực ác, Kim Cương Thủ. kia cũng nói Chân Ngôn làm Pháp ác, ở phương Nam cầu được thành tựu sẽ chiêu cảm nghiệp tội, được quả chẳng lành.

Lại ở phương Nam ấy chỉ có Chân Ngôn do Nhật Thiên đã nói với Chân Ngôn do Y Xá Na Thiên đã nói thì mới có thể ở nơi ấy cầu thành tựu Phương Tây được thành tựu tối thượng. Đại Lực Dược Xoa Vương là Chủ của tất cả tiền tài, được tất cả Bộ Đa, loài ngu si mê hoặc bố thí tiền tài. Nếu có Hành Nhân y theo Pháp tu Pháp đã mong cầu, sẽ được thành, sẽ là Tài Chủ được đại phú quý.

Lại trong Đại Địa này thì Chân Ngôn của Kim Cương Thủ Dược Xoa Bồ Tát được tối thượng thành tựu địa vị của Bồ Tát Thập Địa. Tất cả Chân Ngôn của Kim Cương Thủ được sinh Liên Hoa Tộc Chân Ngôn của tám Tộc như vậy ở tám phương được thành tựu.

Đức Phật đã nói Chân Ngôn ở phương Bắc được thành tựu với phương Đông cũng được thành tựu.

Chân Ngôn do Liên Hoa Tộc đã nói, ở phương Nam được thành tựu. Kim Cương Tộc ở phương Tây được thành tựu. Na Tra kia thì chẳng định phương sở.

Bảo Hiền Tộc ở phương Tây Bắc được thành tựu.

Phương Tây Nam thì tất cả Dược Xoa Tộc được thành tựu.

Phương Đông Nam thì tất cả Thanh Văn Đại Đức Tộc được thành tựu.

Phương Đông Bắc thì Bích Chi Phật Tộc được thành tựu.

Lại có phương bên trên thì tất cả Thiện Hạnh được thành tựu.

Phương bên dưới thì chân ngôn của tất cả Nhập Địa trong Thế Gian được thành tựu.

Trong tám Tộc ấy thì tất cả Chân Ngôn của Phật Đỉnh với Xuất Thế Gian được thành tựu.

Lại nhóm Phật Đỉnh Luân Vương ở tất cả xứ của phương bên trên cũng được thành tựu.

Lại Kim Cương Thủ ở tất cả xứ được thành tựu

Như vậy Chân Ngôn Vương khác, tất cả người sinh trong Kim Cương Tộc, Liên Hoa Tộc ở trong tất cả thời, cũng quyết định được thành tựu.

Ta đã nói tất cả địa vị thành tựu. Nay lại nói Thời Tiết được sinh. Nếu người đối với Chân Ngôn của tất cả Phật, cầu thành tựu với muốn sinh vào Liên Hoa Tộc, Kim Cương Tộc thì cần phải ở trong ba đời chuyên chú chân thật xem xét rõ, trì tụng tu hành được thành tựu tối thượng thì mới được sinh vào Tộc ấy. Lại hoặc một lòng yêu thích, quy tín Tam Bảo, phát Tâm Bồ Đề, tu hành Đại Trí. Lại đối với Chân Ngôn Nghi Quỹ, mỗi mỗi biết rõ. Lại nữa trì Bồ Tát Giới thực hành Bồ Tát Hạnh, chuyên tâm không có hai, tin vâng phụng hành, ở trong một đời cũng hay sinh điều ấy.

Song, Chân Ngôn này như Đức Phật đã nói thì tất cả chúng sinh ngu si, vịnh viễn chẳng thể thấy nghe, huống chi là đối với Pháp mà được thành tựu. Nghi Quỹ rộng lớn của Chân Ngôn Vương này là Phật Nguyệt tối thượng của Ta, là điều mà Đức Như Lai thứ bảy đã tuyên nói:

Này Diệu Cát Tường! Ông hãy nghe cho kỹ! Ông là Phật Tử bậc nhất, là Đại Bồ Tát có uy lực lớn, nghĩa Đại Lực Hạnh của Chân Ngôn của ông đồng với Đức Phật Thế Luôn luôn trụ ở đời như Đại Luân Phật Đỉnh Vương, Quang Tụ Phật Đỉnh Vương mà Đức Phật đã nói. Nhóm Phật Đỉnh Vương như vậy ở tại Thế Gian như Chuyển Luân Vương ở Nam Diêm Phù Đề khi sinh ra lại như Pháp Vương Chính Đẳng Chính Giác Nhị Túc Tôn ở tại Thế Gian. Chân Ngôn đã nói đối với tất cả việc đều được thành tựu.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

NGHI TẮC CỦA LOÀI CHẤP MỴ

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI LĂM_

    

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni lại quán sát cõi Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Hãy nghe cho kỹ! Này Đồng Tử! Trước kia Ta đã nói câu của chúng sinh. Nay lại nói điềm thiện ác của việc đã làm kia"

Lúc đó, Đồng Tử liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đỉnh lễ bàn chân của Đức Thế Tôn, rồi chắp tay cung kính bạch với Đức Thế Tôn rằng: "Lành thay Thế Tôn! Nguyện vì con nói. Phần lớn chúng sinh của Chúng ấy biến nơi thân của mình sinh vào thân của kẻ khác mà gây não loạn. Ấy là: Thiên Nhân, Càn Thát Bà, Dạ Xoa, La Sát, Tỳ Xá Tả, Ma Hầu La Già cho đến hàng Bộ Đa với các loài Người, Phi Nhân, mọi loại Thân nương vào Pháp mà tạo ra, trụ mọi loại Tâm Hành Tam Muội, có mọi loại tướng của vô số tiêu xí Đức Thế Tôn là Bậc Trời trong hàng Trời! Nay chính là lúc, nguyện vì con nói" Diệu Cát Tường Đồng Tử ấy, như vậy thỉnh xong, quay về chỗ ngồi của mình, yên lặng mà trụ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nói cho chúng sinh: mọi loại Căn Bản Tâm Hành, điềm báo, Tiêu Xí, Thời Tiết với hô triệu nhập khắp vào thân kẻ khác, Pháp Chân Ngôn của tất cả chúng sinh.

Ở đây, có chúng sinh do tham ăn cho nên nắm giữ làm mê hoặc (chấp mỵ) người. Lại có kẻ gặp gỡ Oan Gia quá khứ nên khởi Tâm hận, tức giận nắm giữ làm mê hoặc người. Cho đến trong Đại Địa của Thế Gian, tất cả kẻ cực ác gây não loạn cho người. Chỗ kia có bậc Ly Dục Tối Thượng Thiện Nhân trụ Tâm thương xót, đi đến Thế Gian để làm cứu độ. Vị Tối Thượng Thiện Nhân ấy có đầy đủ Pháp Tướng, có thế lực lớn vì cứu Thế Gian, thực hành việc giáo hóa, chiếu sáng cho đời như Nhật Thiên kia.

Nếu lại có người có đủ nghiệp thiện tối thượng, biết Pháp Yếu ấy, đầy đủ thanh tịnh, siêng năng tu tập. Ở kỳ Bạch Nguyệt, lúc mặt trời lặn, hoặc phần đầu đêm, thấy vị kia đi đến. Vị Đại Lực Ly Dục Thượng Nhân ấy hoặc ở tại cõi nước thanh tịnh trong Thế Gian, dùng kỳ Bạch Nguyệt, hoặc ngày 15 lúc trăng tròn đầy, hoặc lúc Bạch Tinh Tú, ngày tốt, giờ tốt đi đến Thế Gian mà có Tiêu Xí. Nếu khi đến thì hình như cây Đa La trụ trong hư không chẳng chạm đất, ngồi Kiết Già (Paryaṅka) rồi phát ra tiếng giống như Phạm Âm nói Pháp tối thượng không có gì ngang bằng, song vị Thượng Nhân ấy có đầy đủ Đỉnh Tướng trụ khoảng sát na, giáng xuống Đại Địa Người trì tụng kia thấy như vậy xong, dùng hoa Nhạ Đế, Bạch Đàn, hoa Cung Câu Ma hòa hợp làm nước Át Già lễ bái, phụng hiến.

Lại dùng kỹ nhạc để làm cúng dường. Người tụng phát Tâm chí thành, chỉ vì lợi ích, cầu ước nguyện ấy. Vị Ly Dục Thượng Nhân kia, Tâm Từ thanh tịnh liền vì người tụng, nói vô số Chính Pháp tối thượng đã ưa thích. Được nghe điều đó xong, thì hiểu biết rõ ràng, Tâm Từ thương xót, chẳng được sinh sợ hãi, chỉ niệm Diệu Cát Tường Bồ Tát với kết Ngũ Kế Ấn với Đỉnh Ấn khác để làm Kết Giới, cũng kết Thượng Hạ Giới. Lúc như vậy, thời hết thảy tất cả Chân Ngôn nói chặng đầu, chặng giữa, chặng cuối đều tốt lành, cho đến quá khứ hiện tại vị lai đều biết như thật. Vị Thiên Thượng Nhân kia mắt nhìn chẳng chớp, quán chiếu thương lo. Phàm lời đã nói ra đều chân thật chẳng hư dối, thành tựu Chân Ngôn mong cầu, thành tựu.

Dược Vật với sinh vào nẻo lành, đến nơi Ứng Cúng, cho đến quyết định chứng Đại Bồ Đề. Hết thảy cầu hỏi việc của nhóm điềm báo, thời tiết như lúc trước thì vị Đại Lực Thiện Nhân kia đều nói tất cả.

Người trì tụng ấy biết như thật xong, ở trong một sát na tác Quán tương ứng thì nơi mình đã mong cầu, tất cả đều được; cho đến Chân Ngôn đã cầu, mau chóng thành tựu; với tất cả phú quý, tùy ý đều được.

Người tụng sau đó hiến nước Át Già, lễ bái, phát khiển. Từ đây về sau, như vậy làm các ủng hộ, y nơi Nghi Tắc thì không có gì chẳng thành tựu.

Nếu hoặc có người đột nhiên té xuống đất chẳng tự tỉnh lại. Dùng Chân Ngôn với Đỉnh Ấn mà đức Phật đã nói, hoặc Ngũ Kế Ấn để làm ủng hộ thì người bị nắm giữ kia, trong phút chóc liền đứng dậy rồi được an vui.

Tất cả chúng sinh không có thế lực lớn, không có Phước, không có Đức bị các chúng sinh ác nắm giữ làm cho mê hoặc (chấp mỵ) thì vị Đại Lực Thượng Nhân kia cùng làm ủng hộ.

Lại vị Đại Lực Thượng Nhân nói về Trời Cứu Cánh (Sắc Cứu Cánh Thiên) trong Sắc Giới cho đến nhóm Tự Tại Thiên trong Dục Giới có các Thiên Nhân muốn đi xuống dưới, sinh trong nước của loài người thì hết thảy sắc tướng cùng với Tiêu Xí, mỗi mỗi đều thấy sinh tại nơi cung điện của đất kia. Hết thảy ngôn ngữ, mỗi mỗi phân biệt xem xét thì có thể biết chân thật.

Nếu nước Ca Thi kia và nước Ma Ca Đà thì hết thảy Chấp Mỵ cho đến ngôn ngữ là Dạ Xoa Chấp Mỵ

Nếu là Ma Hầu La Già hoặc nhóm Khẩn Nẵng La đều nói tiếng nói của Đông Ấn Độ Đại Lực Ca Lâu La kia sinh ở Đông Ấn Độ, cũng nói tiếng của Đông Ấn Độ Khẩn Nẵng La kia cũng nói tiếng nói của Đông Ấn Độ.

Nếu là Thánh Nhân, Thiên Nhân với Bích Chi ca, cho đến các hàng Ngũ Thông Tiên nói tiếng nói của Mãn Thành.

Hết thảy ngôn ngữ bên sông Xá Lý Ma Đa với ngôn ngữ của thành Hạ Lý Kế La chẳng rõ ràng với chẳng chính đúng, phần lớn dùng chữ La làm lời nói, dùng chữ Nại làm cuối câu nói. Đây là tiếng nói của Tỳ Xá Tả.

Như tình trạng của châu Nẵng Ni Kế La, châu Phộc Lỗ Sa, Ngoại Đạo khỏa thân với nước Xá Bà trong biển với các người trụ trong châu quốc thì ngôn ngữ của chúng sinh chẳng chính đúng, phần lớn dùng chữ La làm ngôn ngữ, khó đọc với chẳng rõ ràng. Đây là tiếng nói của Sân Nộ Quỷ.

Như tình trạng của Nam Ấn Độ: nước A Nại La, nước Ca La Noa Tra, nước Nại La Nhĩ Noa, nước Câu Tát La với nước Sư Tử với chúng sinh sinh ở Châu Hải khác, phần lớn dùng chữ Noa làm lời nói. Đây là tiếng nói của La Sát.

Như tình trạng của Tây Ấn Độ: nước Phệ Nễ Thế với nước Ma La Phộc thì ngôn ngữ chỉ thích dũng mãnh. Đây là tiếng nói của Đại Lực Ma Đa La.

Như tình trạng của núi Nại Xá La, núi Cát Tường, núi Kiểu Nhạ Lý. Ngôn ngữ tại các núi như vậy là tiếng nói của Nhật Thiên với các Tinh Diệu.

    

Như tình trạng của Tây Ấn Độ: nước A Lý Bộ Nại với núi Hương Túy với tiếng nói của người sinh ở biên địa, cho đến nói tùy theo phương. Ấy là tiếng nói của Câu Sắt Ma Noa.

Nếu dùng chữ Thiết (ŚI) làm lời nói thì đây là tiếng nói của Tiên Nhân.

Nếu dùng bốn chữ Dã (YA), La (RA), La (LĀ), Phộc (VA) làm lời nói, dùng chữ Già (GHA) làm câu thêm lên thì đấy là tiếng nói của A Tu La.

Nếu nước Ca Thấp Di La với nước Ca Vĩ là Tối Thượng Chân Ngôn Tộc với Kim Cương Thủ Tộc. Sinh trong nước ấy thì nói tiếng trong nước ấy.

Như tình trạng của Trung Ấn Độ: Tộc Tính, Nghi Tắc, Ngôn Hạnh, Tiêu Xí là Liên Hoa Tộc. Sinh trong nước ấy thì nói tiếng của nước ấy. Nếu người muốn nghiệm biết thì nên dùng Chân Ngôn của Phật Bộ mà thí nghiệm.

Lại tất cả đất Tuyết ở bờ Bắc của sông Hằng là nhóm Dạ Xoa, Càn Thát Bà, với Tiên Nhân biến làm thân người ấy, nói tiếng của đất ấy.

Lại đất hoang vắng rộng lớn ở bờ Nam của sông Hằng với trong núi Cát Tường là La Sát, Ô Đa Ca Ngạ Quỷ với loài có hình xấu ác, loài gây chướng nạn, Ma Đa La cho đến Tinh Tú đại ác hại mạng người biến làm thân người ấy, nói tiếng trong chốn ấy.

Lại nữa, vị Ly Dục Thượng Nhân ấy ở bên trên đã nói, tất cả đều biết, tất cả đều đồng với điều mà chư Phật Như Lai đã nói như lúc trước. Trong các cõi nước hết thảy Chúng, phần lớn làm ác, gây não loạn con người. Hết thảy Bản Hình của các nhóm ác với ngôn ngữ, thiện ác, tiêu xí với mọi loại Tâm Hành, mọi loại Sinh Địa (đất sinh sống) cho đến Thời Tiết thì Ta đã nói đủ.

Nếu nơi chúng sinh có việc não loạn như vậy thì vị Ly Dục Đại Thượng Nhân kia đi đến ủng hộ, cùng làm cho an vui.

Nên dùng Diệu Cát Tường Đồng Tử Lục Tự Tâm Chân Ngôn mà làm mọi loại Nghi Pháp. Lại dùng Ngũ Kế Đại Ấn đồng làm ủng hộ, khiến cho nhóm chúng sinh đắc được vô lượng khoái lạc tối thượng.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ MƯỜI CHÍN_

NHƯ LAI TẠNG, ĐẠI PHÁP BẢO PHÁP GIỚI TƯỚNG VÔ SỐ CÔNG ĐỨC, TƯỜNG THỤY

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI SÁU_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát Chúng trên Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Đồng Tử! Như Lai Tạng, Tướng của Pháp Giới, Sắc bí mật tối thượng của báu Đại Pháp kia, nên khiến chúng sinh mỗi mỗi y theo thực hành hết thảy mọi loại việc xứng lượng của: Cầu thành Trí chứng điềm báo, Tiêu Xí với thành tựu vật thọ dụng, nhận biết tiếng nói của tất cả hàng Bộ Đa, âm thanh của chúng sinh thuộc nhóm Phi Tưởng (Hữu Tình, Phi Hữu Tình), với thấy biết ở, chẳng ở mọi loại việc thuộc Pháp Tắc của tất cả Chân Ngôn. Cho đến trong tất cả Pháp của Phật dùng tiếng tối thượng có đủ nghĩa chân thật, dùng tiếng Phi Thường có đủ nghĩa Vô Thường. Đối với nghĩa như vậy chủ yếu là lìa sự phồn tạp. Lại chỗ thiếu của các Chân Ngôn có ba loại việc là nhẹ (khinh), nặng (trọng), vừa (trung).

Nếu âm thanh thù diệu tức là âm của Trì Minh Thiên, được câu văn (văn cú) hoàn toàn đầy đủ, ở trong lời của Kinh Điển với lời của Thế Tục chọn riêng nghĩa chân thật có đủ nghĩa của Chân Ngôn với Pháp Hành riêng, lìa các phồn tạp.

Đối với hết thảy Chân Ngôn của Thế Gian. Hoặc dùng một chữ, hai chữ thành ngôn âm thù diệu của câu văn. Hoặc dùng 6, 7, 8 chữ, hoặc 9 chữ, 10 chữ cho đến 10 lớp chữ...được thành âm nghĩa đầy đủ của Chân Ngôn. Hoặc 20 chữ cho đến 100 chữ.

Lượng của Chân Ngôn này tùy theo câu văn ấy nhiều ít mà kết Chân Ngôn Cú (câu Chân Ngôn) cho đến hiểu thấu nghĩa của một chữ tức đủ trọn nghĩa của tất cả Chân Ngôn.

Như Lai đã nói liền thành Chân Ngôn rộng lớn của Thượng Phẩm. Nếu Phật Tử kia đã nói thì đấy là Trung Phẩm. Nếu tất cả Thiên Nhân trong Thế Gian đã nói thì đây là Hạ Phẩm.

Hoặc dùng một chữ hoặc hai chữ mà Đức Phật đã nói thì điều này có ngàn nghĩa, đây là lượng Chân Ngôn của hàng Phật Bồ Tát. Âm thanh của văn tự mà Chân Ngôn Pháp kia đã dùng đều đủ nghĩa chân thật, nghiêm trì Pháp tốt lành (Thiện Pháp) Chân Ngôn Hành Nhân ấy hoặc cầu thành tựu, dùng tướng của âm thanh làm Pháp thành tựu, y theo năm Âm kia, lìa các ngôn âm sai lầm, giản lược, chẳng chính đúng.

    

Nếu được ngôn âm đầy đủ thì mới là viên mãn, liền được tương ứng thành tựu.

Nếu chẳng y theo Pháp với nghĩa của tiếng chẳng trọn đủ thì nơi các Chân Ngôn chẳng được thành tựu. Nhưng Hành Nhân ấy lâu dài chẳng gián đoạn, yên lặng trì tụng thì khoảng rất lâu ắt được thành tựu Bất Không (chẳng trống rỗng), cho đến ở đời khác thì đối với Pháp dễ được.

Nếu Trì Tụng Hành Nhân đối với ba Phẩm tu hành sự nghiệp, thiết yếu cần phải biết cho đến tất cả Thế Gian của Hạ Phẩm. Hết thảy người với Phi Nhân, tất cả hàng Bộ Đa, loài ganh ghét đã nói văn tự của Chân Ngôn: một, hai, ba số. Hoặc tiếng nói ở mọi loại biên địa với tiếng nói của nước ở giữa, đều như Bản Hành kết tiếng nói của mình, mỗi mỗi đều đã nói có trăm ngàn loại. Hoặc văn nghĩa của bài Kệ Tụng bốn câu có xác định Thể Thức với xác định nghĩa của câu Già Đà đều tùy theo nghĩa gốc trợ nhau, y theo dụng mà được làm như trên.

Hoặc khuyết thiếu văn tự thì là thiếu nghĩa của tiếng. Hoặc sai lầm, giản lược, chẳng chính đúng thì là thiếu sự chẳng rõ ràng. Hoặc văn tự chẳng trọn đủ thì là thiếu nét chấm ngang dọc (điểm họa). Các bật Trí kia cần phải xa lìa.

Như vậy trong cõi nước, tùy theo âm nói của địa phương (phương ngôn), ở trong Chân Ngôn có giảm thiếu thì đối với tất cả Pháp chẳng thể thành tựu.

Nay, ở đây lại nói Hữu Lậu, Vô Lậu. Tướng của tất cả Chân Ngôn. Nếu Chân Ngôn, có nhiều chữ Xá, dùng chữ Án làm nghĩa tối cao, chữ Đát làm tướng ấy thì đây quyết định ở Trung Phẩm được thành tựu.

Nếu Chân Ngôn, trước tiên dùng chữ Án, phía sau dùng chữ Ma, dùng chữ Xá làm câu thêm lên. Tướng của tiếng này đầy đủ thì quyết định ở Tối Thượng được thành tựu.

Chữ Tả đủ tướng của bốn phương, lại không có chữ của câu thêm lên, đầy đủ hai âm của chữ Đa, chữ La (RA) thì hàng Nhị Thừa kia phần lớn dùng Chân Ngôn của nhóm chữ Đa làm Pháp thành tựu.

Chữ Hồng là Đức Sinh. Chữ Tả đủ tướng của bốn phương, bao trùm có thể thành tựu nghĩa của Chân Ngôn.

Nếu chữ Bà, chữ La (RA) cùng hợp nhau, chữ Ma làm phía sau, âm hợp với chữ Ma hoặc hợp với nhóm của chữ Nẵng thì Chân Ngôn này cũng nói là tối thượng.

Nếu trong tất cả Chân Ngôn có nhiều chữ Đa thì Chân Ngôn này nói là Tối Thiện.

Nếu chữ Hồng là Diệm Ma Thiên.

Nếu Chân Ngôn có nhiều chữ Đa là Đế Thích Thiên với Phong Thiên.

Nếu chữ Phộc là Thủy Thiên hay lợi ích Thế Gian mà làm tăng ích.

Nếu Chân Ngôn có nhiều chữ Ê là Ma Hứ Nại La Thiên.

Nếu Chân Ngôn có lời quy mệnh Tam Bảo trước tiên thì đây là Tức Tai, làm các khoái lạc.

    

Nếu quy mệnh riêng tất cả Trời, đều dùng vị Trời ấy làm Bản Sư Chân Ngôn, làm tất cả việc.

Nếu Chân Ngôn dùng nhiều chữ Nại với nhóm chữ Phả Tra, chữ Hồng. Đây là Đại Phẫn Nộ có thế lực lớn, nên đối với tất cả chúng sinh cực ác để mà sử dụng, vì hay phá hoại với chặt đứt mạng, cho nên Trì Tụng Hành Nhân nên một lòng xa lìa. Nếu tự ý quyết đoán tạo làm thì sẽ chiêu cảm tội nặng.

Tạo làm có hai nghĩa:

Nếu vì việc Tức Tai với Tăng Ích thì có thể ở trong khoảng sát na tạo làm. Người trì tụng ấy đối với Chân Ngôn này, trước tiên nên niệm tụng thì có Công Lực lớn.

Nếu vì tất cả Tức Tai, Tăng Ích thì có thể ở bờ sông Câu Ha điều phục tất cả nơi chốn của tất cả nghiệp tội mà làm, chẳng được ở trong Kim Cương Tộc mà làm Pháp Điều Phục thì Đức Phật vốn chẳng hứa.

Nếu Chân Ngôn do Dạ Xoa Vương đã nói, vì điều phục chúng sinh mà hay biến hiện Đại Lực làm tướng giáng phục.

Lại trong tất cả Pháp đã nói có ba loại Tộc, lại có tám loại Tộc. Chỉ có Như Lai cũng tự thành tựu ba loại mà được phối hợp với ba loại của Thượng Trung Hạ Phẩm, ấy là Pháp Tức Tai, Pháp Tăng Ích, Pháp Điều Phục. Sức đã tu hành Chân Ngôn Nghi Quỹ này, chỉ nói chẳng được dùng làm Điều Phục, vì việc của Hạ Phẩm này dùng chặt đứt mạng của chúng sinh, cho nên Ta, bậc Nhất Thiết Trí chẳng có hứa.

Nay Thể Tướng của Chân Ngôn trong Nghi Quỹ Vương đã nói này có Đại Lực, công dụng sâu xa rộng lớn. Nếu y theo làm Pháp, không có việc thiếu sót thì được Đại Thánh Lực, vượt qua tất cả nhóm Chân Ngôn của Thế Gian với Xuất Thế Gian. Người ấy luôn sẽ được vô số Công Đức, thành tựu Chân Ngôn.

Này Diệu Cát Tường! Nay Ta hiển nói số của vô số, cho đến chỉ có Phật Như Lai mới biết được lượng. Nay Ta nói đủ: Số bắt đầu là một, từ 1 đến 10 cho đến 20, 30. Tiếp đến 40, 50. Tiếp đến 60, 70, 80, 90 rồi đến đủ 100.

Này Diệu Cát Tường! Đủ 100 số xong, lại nói mười lần mười. Mười trăm là ngàn, mười ngàn là Ma Dữu Đa, mười Ma Dữu Đa là một Lạc Xoa (100.000), mười lạc xoa là Đại Lạc Xoa, mười Đại Lạc Xoa là Câu Chi, mười Câu Chi là Đại Câu Chi, mười Đại Câu Chi là A Lý Một Nại, mười A Lý Một Nại là Đại A Lý Một Nại, mười Đại A Lý Một Nại là Khát Nga, mười Khát Nga là Đại Khát Nga, mười Đại Khát Nga là Khát Lý Phộc, mười Khát Lý Phộc là Đại Khát Lý Phộc, mười Đại Khát Lý Phộc là Bát Nạp Ma, mười Bát Nạp Ma là Đại Bát Nạp Ma, mười Đại Bát Nạp Ma là Vĩ Phộc Hạ, mười Vĩ Phộc Hạ là Đại Vĩ Phộc Hạ, mười Đại Vĩ Phộc Hạ là Ma Dã, mười Ma Dã là Đại Ma Dã, mười Đại Ma Dã là Tam Mẫu Nại La. Như bên trên là Trí.

Tính đếm thì mười Tam Mẫu Nại La là Đại Mẫu Nại La, mười Đại Tam Mẫu Nại La là Sa Nga La, mười Sa Nga La là Đại Sa Nga La, mười Đại Sa Nga La là Bát La Già La, mười Bát La Già La là Đại Bát La Già La, mười Đại Bát La Già La là A Thế Sa, mười A Thế La là Đại A Thế Sa, mười Đại A Thế Sa là Tăng Xí-Dã. Như bên trên là Lượng.

Tính đếm mười Tăng Xí-Dã là Đại Tăng Xí-Dã, mười Đại Tăng Xí-Dã là A Nhĩ Đán, mười A Nhĩ Đán là Đại A Nhĩ Đán, với ngàn A Nhĩ Đán là Lộ Ca, mười Lộ Ca là Đại Lộ Ca, mười Đại Lộ Ca là Sa Ma Sa, mười Sa Ma Sa là Đại Sa Ma sa, mười Đại Sa Ma Sa là Tổ Để, mười Tổ Để là Đại Tổ Để, mười Đại Tổ Để là Ma Hạ La Thế, mười Ma Hạ La Thế là Thâm, mười Thâm là Thể La, mười Thể La là Đại Thể La, mười Đại Thể La là Phộc Hộ Đát Ma, mười Phộc Hộ Đát Ma là Tha Nẵng, mười Tha Nẵng là Đại Tha Nẵng.

Như bên trên là Trí Dũng Mãnh.

Tính đếm mười Đại Tha Nẵng là Nhĩ Đa, cho đến Nhĩ Đa làm Ma Hạ La Tham, Ma Ha La Tham làm Tô Tô Lỗ Đa, Tô Tô Lỗ Đa làm Ma Hạ La Noa Phộc, Ma Hạ La Noa Phộc làm Bát La Tha Ma, Bát La Tha Ma làm Ma Hạ Bát La Tha Ma, Ma Hạ Bát La Tha Ma làm Tất Lý Sắt Xá, Tất Lý Sắt Xá làm Tế Sắt Xá, Tế Sắt Xá làm Mạn Nễ La Sa, Mạn Nễ La Sa làm A Tiến Đát-Dã, A Tiến Đát-Dã làm Đại A Tiến Đát-Dã, Đại A Tiến Đát-Dã làm Cụ La, Cụ La làm Nại La Nhạ-Dã, Nại La Nhạ-Dã làm Nễ Đạt-Dã Bát Đa, Nễ Đạt-Dã Bát Đa làm Du Bà, Du Bà làm Đại Địa Đa, Đại Địa Đa làm Nhĩ Đa, Nhĩ Đa làm Tức Đa, Tức Đa làm Vĩ Sát Ba, Vĩ Sát Ba làm A Tỳ Lộ Ba-Dã, A Tỳ Lộ Ba-Dã làm Nẵng Tỳ La Ba-Dã, Nẵng Tỳ La Ba-Dã làm Vĩ-Dựng Ma, Vĩ Dựng- Ma làm Đại Vĩ-Dựng Ma, Đại Vĩ-Dựng Ma làm Ám Phộc La, Ám Phộc La làm Đại Ám Phộc La, Đại Ám Phộc La làm Khư Lý Phộc, Khư Lý Phộc làm Đại Khư Lý Phộc. Như bên trên là tính đếm Công Đức của nơi Tức Tai, Tăng Ích. Sau này, bậc Đại Trí đối với Một Lý Sắt Tra với Ô Nại Ca, Tâm sinh chỗ mê mờ.

Đây là tối thượng, cực tối thượng cho đến sự tối thượng của cõi Phật. Sự tính đếm như vậy chẳng phải là chỗ mà người Thế Gian có thể biết, chỉ có Phật Như Lai mới tính biết được số ấy. Lại dùng sự tối thượng của cõi Phật, dùng số hạt bụi nhỏ của hằng hà sa đẳng cõi Phật làm Pháp ví dụ để mà tính đếm. Lượng của số được tính này là lượng mà Nhất Thiết Trí Trí đã biết không có ngăn ngại.

Này Diệu Cát Tường! Ta ở chỗ của các Chính Giác quá khứ như số lượng đó, đã từng cúng dường. Lại ở số Kiếp chẳng thể nghĩ bàn mà làm Bồ Tát, vì các chúng sinh, nên nay được thành Phật. Nay Ta đã nói sự so sánh Công Đức của Nghi Quỹ tối thượng bậc nhất của Chân Ngôn, cho đến tất cả Chính Giác quá khứ hiện tại vị lai cũng đồng nói điều này.

Này Đồng Tử! Ta ở thời Mạt Pháp, vì Thế Gian nói Nghi Quỹ Vương rộng lớn của Chân Ngôn này. Nếu hay y theo đây tu hành thì hết thảy tất cả Thiên Nhân, A Tu La cho đến Đại Lực Na La Diên Thiên với tất cả Đại Lực Hiền Thánh thuộc Thế Gian Xuất Thế Gian cùng với sự tương ứng này, đều được thành tựu.

Này Diệu Cát Tường! Tất cả công xảo kỹ năng, tướng của Hư Không Giới, mọi loại toán số, Pháp Nội Minh, nhóm Nghi Quỹ, Pháp Âm Dương, điềm báo tốt xấu, ngôn ngữ của tất cả Bộ Đa, Tâm Hạnh thiện ác, tiêu xí, Giới Xứ thuộc hết thảy Thế Gian với Xuất Thế Gian ; cho đến Nhân Quả của tất cả chúng sinh với Điển Tịch Vi Đà, việc của nhóm ca múa, Hương Dược, phương thuật, mọi loại việc. Ta ở quá khứ, khi làm Bồ Tát, vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, thường nói việc như vậy để mà dạy Đạo.

Lại vì tất cả chúng sinh ở chốn Luân Hồi, với nơi đói khổ mà trụ rất lâu, tùy theo chỗ ưa thích của chúng sinh ấy thì Ta đều vì họ tạo làm khiến được như Tâm.

Này Diệu Cát Tường! Như Ta vì khéo trụ làm Pháp lợi ích. Khi ấy, khéo trụ mọi loại nghiệp thành tựu, thọ nhận mọi loại thân của chúng sinh. Ta vì họ nói Pháp của nghĩa tương ứng, khiến được phá hoại mọi loại Thân Nghiệp của chúng sinh. Kẻ kia như Pháp làm được, được đầy đủ sắc tướng, phú quý, thọ mệnh Này Diệu Cát Tường! Chỗ lợi ích của Ta thảy đều như vậy.

Lại nữa, khi Ta ở thời quá khứ, dùng Tâm Đại Bi, Tâm Đại Từ, Tâm Đại Nguyện thương các chúng sinh, trì tụng mọi loại Pháp, dùng Tâm lợi ích chuyển các sắc tướng. Hoặc làm tướng Phạm Vương, hoặc làm tướng Đế Thích hoặc làm Đại Tự Tại Thiên, hoặc Na La Diên Thiên với Tài Chủ, Nãi Lý Đa Thiên, lại làm mọi loại hình tướng của Tinh Tú biết Tâm của chúng sinh, tùy theo chỗ ưa thích, mỗi mỗi theo thứ tự khiến được an cư, vắng lặng, khoái lạc. Ta ở lâu dài, luân duyển du hành, quán sát tất cả chúng sinh trong Thế Gian để mà tuyên nói tướng của Chân Ngôn bí mật liễu nghĩa.

Lại y theo Nghi Quỹ, theo thứ tự tu hành Quán Trí. Ở dài lâu thời chuyển sinh Phật Tộc. Lại trụ Hạnh Vô Ngã Quyết Định, như vậy y theo thực hành, thành Phật Bồ Đề, được an vui tối thượng, không có các bệnh não, không có việc, không có lo, Niết Bàn vắng lặng, tất cả giải thoát.

Nay Ta vì các chúng sinh, hiện sinh vào cõi này, chuyển bánh xe Pháp, vì các Hành Nhân diễn nói Nghi Quỹ rộng lớn của Pháp Chân Ngôn như vậy. Nhưng, người tụng kia đối với Nghi Quỹ rộng lớn này chẳng được hư vọng truyền thụ, cho đến Chân Ngôn Nghi Quỹ của Thế Gian đều nên tin trọng, cúng dường, xa lìa tất cả sự khinh mạn hủy báng.

Lại các Hành Nhân đối với Nghi Quỹ rộng lớn này, Âm Dương, điềm báo, nghĩa của Pháp cát tường chẳng được vọng nói, nên trụ Chính Tâm. Ví như các thuốc, nhóm vật được thành tựu ấy là được quả báo, thế nên đối với Già Đà tối thượng của Phật thì nói nghĩa cát tường, hiểu thấu điều nhỏ nhiệm.

Vào ngày tốt của kỳ Bạch Nguyệt hợp với Tinh Tú màu trắng thì bắt đầu ra công trì tụng, cầu Chân Ngôn, thành tựu mọi Pháp Tắc tốt lành. Cần phải xa lìa các việc chẳng lành. Thế nên Ta ở quá khứ vì người trì tụng, cho đến hết thảy hiểu rõ Thuật Pháp Âm Dương của Thế Gian với hiểu các nhóm Nghi Pháp, Nhân Quả, Chính Luận, Pháp Điều Phục Ta nói các Pháp của mọi loại như vậy, nên vì lợi ích cho tất cả chúng sinh, khiến cho tất cả Thọ Trì Chân Ngôn Hành Nhân ấy nhân vào Pháp thành tựu này được hướng đến Phật Đạo, ở trong các Pháp đều được giải thoát.

    

Như vậy, Thọ Trì Chân Ngôn Hành Nhân, hết thảy Pháp thành tựu, chẳng được vọng làm, cho đến tất cả Chân Ngôn Minh tối thượng thuộc Thế Gian với Xuất Thế Gian chẳng được dùng Tâm bất chính mà tăng thêm hủy báng. Nên dùng Tâm chân thành cung tín, cúng dường.

Lại Chân Ngôn Tam Muội này có Giáo Sư của các cõi thực hành Đẳng Dẫn của Phật, thu xếp cho các Phật Tửvào Mạn Noa La cùng với Tam Muội của Phật, sẽ khiến cho quyết định diệt trừ các nghiệp bất thiện trong ba đời quá khứ hiện tại vị lai. Đối với sở đắc của người khác, chẳng phải là Chân Ngôn của bậc Thánh, cũng chẳng được khinh mạn huống chi là đối với bậc Bất Không Thành Tựu, cho đến Đại Lực Chân Ngôn của Thế Gian.

Nếu có phiền não đã sinh ra sắc tướng Tà Đạo thì bậc Bất Không Thành Tựu kia chẳng được hư vọng truyền thụ, cho đến Tâm thường giận dữ, nói năng nhiều thì chũng chẳng được truyền cho Pháp này.

Nếu hoặc truyền thụ cùng tạo làm thì quyết định chẳng được quả báo đã mong cầu.

Nếu hoặc Tâm trụ vắng lặng, luôn tu Đẳng Dẫn, y theo Pháp niệm tụng một Chân Ngôn thì quyết định được quả báo.

Nếu lại mỗi mỗi như chỗ của Nghi Tắc, khởi Tâm quyết định thù thắng tối

thượng, trì tụng tạo làm thì đối với tất cả Pháp không có gì chẳng thành tựu Lại nữa, có người tu Nghiệp thiện lâu dài, Tâm luôn thanh tịnh, ở trong Phật Pháp phát Tâm thù thắng, tin trọng Tam Bảo. Nếu cầu thành tựu thì quyết định được Công Đức của thành tựu tối thượng.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

_QUYỂN THỨ HAI MƯƠI_

QUẢ BÁO SINH VÔ LƯỢNG CÔNG ĐỨC

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI BẢY_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Hết thảy tất cả Chân Ngôn, Nghi Quỹ rộng lớn, tất cả Minh bí mật. Nếu có người tu hành thì sinh vô lượng Công Đức, được tất cả quả báo. Nay Ta vì người tu hành xưng lượng Nghĩa mau chóng thành tựu. Nếu có người nhiều đời đã từng tu hành Nghi Quỹ này thì Pháp dễ thành tựu, mà thành tựu này là Tối Vi Thượng.

Này Đồng Tử! Nếu có chúng sinh hay y theo thứ tự tu tập Pháp của Minh bí mật này, là tu hành tối th ượng, là bậc Đại Trí. Nếu chẳng y theo Pháp thì không do đâu mà được thành. Nếu y theo Pháp tu hành tương ứng hòa hợp thì được câu tối thượng.

Nếu người y theo Pháp tu hành tụng Chân Ngôn thì chẳng được khiến cho miệng phát ra tiếng. Nếu miệng có tiếng tụng thì chẳng phải là tụng, nên yên lặng trì tụng sẽ được thành tựu Trì Tụng Hành Nhân kia cầu Pháp thành tựu, cần phải ăn ba thức ăn màu trắng với các quả, thuốc. Nếu ăn như vậy thì quyết định được thành tựu Pháp tối thượng.

Lại nếu một lòng Quán Tưởng quyết định thì sẽ được an tĩnh, không có buồn bực. Nếu ăn chẳng y theo Pháp với chẳng chuyên chú thì Chân Ngôn đã mong cầu chẳng được thành tựu, cho đến hết thảy Chân Ngôn của Phạm Vương với Đế Thích kia chẳng thể thành tựu, huống chi là hết thảy Chân Ngôn của chư Phật Bồ Tát.

Lại kẻ tham lam, Ngã Mạn với tính lười biếng, luôn ưa thích Thế Pháp, chẳng thể lìa Dục. Người như vậy không có phần thành tựu cho đến Pháp Chân Ngôn của hàng Thiên nhân, A Tu La.

Nếu chẳng y theo Nghi Tắc với chẳng chuyên chú thì cũng chẳng được làm Pháp của nhóm Giáng Phục. Nếu làm thì trở ngược bị mê hoặc cùng với ngu si. Hoặc người làm Pháp có tướng như vậy thì tương lai sẽ chiêu cảm quả của nẻo ác.

Nếu hoặc có thấy người thuộc nhóm như vậy thì nên dùng Chân Ngôn của Phật. Bộ làm Pháp Giáng Phục, rồi ban cho cứu hộ. Được giải thoát xong, người kia lại chuyên chú theo thứ tự, trì tụng trở lại thì cũng được thành tựu. Do sức Uy Đức của Chân Ngôn ấy, cho nên lại được Đại Thiện Tịch Tĩnh, lại được thành tựu Bất Không và làm người giáng phục cứu hộ. Ta nói người này là bạn tốt (thiện hữu) của chúng sinh, mau hay thành tựu đạo vắng lặng bình đẳng của ba Thừa.

Lại có người chuyên chú, thân tâm y theo Pháp niệm tụng mà khó thành tựu thì người này đời trước có nghiệp Luân Hồi, cần phải lớp lớp Sám Hối, cầu tội tiêu diệt ắt được giải thoát. Qua đấy, về sau ở trong Chân Ngôn sẽ được thành tựu, được thấy quả báo, chỗ làm chẳng hư dối.

    

Nếu có Nhân tức có Quả. Nếu không có Nhân thì quyết định là không có Quả. Nhân Quả hòa hợp có sinh có diệt. Nhân vào Pháp của Nghi Tắc mà sinh cõi vắng lặng (tịch tĩnh giới). Do người kia chuyên tâm gần gũi bạn tốt, thực hành Phật Pháp, làm Đại Phật Sự mà sinh Tính Đại Thiện Trì Tụng Hành Nhân kia nếu ở đời Mạt Pháp, khi Tâm người điên đảo thì ở trong Pháp này được thành tựu, ở đời đương lai cũng được thành tựu, cho đến Đại Thiện Tịch Tĩnh rốt ráo. Vì Thế Gian, tuyên nói câu vắng lặng, không có tạo, không có làm (Vô tạo vô tác tịch tĩnh), nghĩa thanh tịnh của chư Phật Như Lai, Thuyết chẳng thể nói của tất cả chư Phật Rồi ở trong ấy, nói câu thành tựu bí mật. Câu bí mật ấy là nơi mà Vô Tính, Tự Tính của Phật Như Lai đã sinh ra. Dùng sức của Đại Pháp vì Thế Gian, sẽ khiến cho chúng sinh quyết định thành tựu.

Nếu lại chúng sinh ở thời Mạt Pháp, tu Chân Ngôn Hạnh, cầu Phật Bồ Đề. Đối với Chân Như, Không Tướng (Tướng trạng của hư không, Thể Tính của Chân Không) chẳng thể thành tựu thì cần phải mau chóng ở trong mỗi mỗi Thời, chẳng được gián đoạn, y theo Nghi Tắc làm Pháp, tu hành, nương vào Công của Chân Ngôn ắt quyết định thành tựu.

Trong Giáo Pháp này có các Hành Nhân, khi Đức Phật còn ở đời, tu Chân Ngôn Hạnh thì mau được thành tựu Tối Thượng. Sau khi Đức Phật diệt độ, ở thời Tượng Pháp, tu Chân Ngôn Hạnh thì được thành tựu Trung Phẩm.

Ở thời Mạt Pháp thì được thành tựu Hạ Phẩm. Ở trong các Thời khéo hay tu tập Pháp Hành của Chân Ngôn, ắt quyết định đắc được ba loại Đại Quả.

Nếu khi Đức Phật còn ở đời, thời đối với Như Lai Tộc luôn được thành tựu. Sau khi Đức Phật diệt độ thì chỉ có Liên Hoa Tộc mới được thành tựu. Ở thời Mạt Pháp thì chỉ có Kim Cương Tộc rất được thành tựu. Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệu Cát Tường Bồ Tát, Đa La Bồ Tát, Bộ Lý Câu Chi Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát. Nhóm Bồ Tát như vậy dùng Nguyện Lực khiến các chúng sinh ở trong Chân Ngôn được quyết định thành tựu.

Nếu tất cả Thời, có các Hành Nhân ở trong Chân Ngôn, thâm tâm yêu thích, quyết định tu tập. Nếu vì cầu các Thành Hiền với giáng phục tất cả Dạ Xoa, La Sát thì dùng Tâm Thượng Phẩm, quyết định thành tựu.

Nếu có Hành Nhân ở thời Mạt Pháp, y theo Tiêu Xí nói. Hết thảy các Tiên Nhân, A Tu La, Dạ Xoa, La Sát, Ca Lâu La, Tỳ Xá Tả của Thế Gian, cho đến chúng Bộ Đa với Tú Diệu kia, loài người, Phi Nhân, loài trụ ở Dục Giới đối với con người, Thế Gian làm điều chẳng nhiêu ích mà làm Điều Phục thì quyết định thành tựu.

Hết thảy bậc có Phước Đức lớn, Phạm Vương, Đế Thích: với Lỗ Nại La, cho đến Y Xá Na Thiên, Na La Diên Thiên Như vậy hàng Trời có Đại Phước, Đại Lực đối với các Hành Nhân thì tất cả chỗ làm thảy đều tùy theo nguyện. Cho đến tất cả Bộ Đa cực ác ở trong các người gây não loạn, dùng sức của Chân Ngôn mà điều phục thì đều được tùy theo Nguyện. Nếu ở thời Mạt Pháp, trong nơi rất đáng sợ mà đối với Chân Ngôn không có Tâm Thượng Phẩm thì chẳng thể đối với Pháp siêng năng tu tập, chẳng được quả báo, ở trong đời khác cũng chẳng thành tựu.

Này Diệu Cát Tường! Nay Ta thọ ký cho ông. Ông ở đời rất đáng sợ trong lúc Mạt Pháp, có thể ở Thời đó cứu độ, hóa đạo chúng sinh có căn lành, người đối với Phật Pháp Tăng có quy tín, cúng dường cho đến đối với người tu Chân Ngôn Hạnh kia mà làm ủng hộ.

KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG BỒ TÁT TẠNG

VĂN THÙ SƯ LỢI CĂN BẢN NGHI QUỸ

NÓI NGHI TẮC CỦA ẤN

_PHẨM THỨ HAI MƯƠI TÁM_

Bấy giờ, Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán sát Chúng trên Trời Tịnh Quang rồi bảo Diệu Cát Tường Đồng Tử rằng: "Này Diệu Cát Tường! Hãy nghe cho kỹ! Chân Ngôn bí mật tối thượng với Ấn Pháp ấy của ông chẳng được vì chúng sinh không có niềm tin với kẻ không có tin trọng Phật Giáo, cho đến kẻ chưa vào Mạn Noa La Tam Muội, kẻ chặt đứt Tam Bảo Tộc, kẻ chẳng gần gũi bạn lành, kẻ không có Phước không có Đức, kẻ gần gũi với người ác, kẻ gần gũi với bạn có tội, kẻ xa lìa Phật Pháp, tất cả kẻ hư vọng, kẻ đối với Nghi Quỹ này chẳng y theo sự dạy bảo của A Xà Lê, kẻ chẳng thọ nhận Quán Đỉnh, kẻ chẳng thấy Đồng Tử Tối Thượng Bí Mật Mạn Noa La Tam Muội của ông, kẻ chẳng y theo Như Lai Tộc Nhóm người như vậy thì chẳng được vì họ nói.

Tại sao thế? Vì Chân Ngôn mà người như vậy đã trì, tất cả Bộ Đa mà chẳng tin nhận với chẳng y theo thực hành. Vì dùng Tâm chẳng tin Phật Pháp, xa lìa Đạo Bồ Đề, cho nên hết thảy Ấn Pháp, Nghi Quỹ chẳng được truyền giao cho nhóm người như vậy. Lại chẳng được đối với nhóm người này mà hiển hiện.

Hoặc có người rất ngu mê, tham ái sâu dầy thì cũng chẳng được truyền giao. Nếu vọng truyền giao thì người kia đối với Pháp chẳng được thành tựu. Người trì tụng kia vì thế mà Tâm bị điên đảo. Người kia nếu được, hoặc tự ý tạo làm, liền ở nơi thân của mình mau bị phá hoại.

Nếu là người có Tâm tin tưởng điều hiền thiện, người đối với Chân Như Tam Muội mà đắc được, người quy trọng Tam Bảo thường cúng dường, người ở trong Phật Pháp thực hành Nghi Quỹ, hoặc có phát Tâm Bồ Đề, biết trang nghiêm Tâm Bồ Đề, luôn hành Bồ Tát Đạo. Nhóm người như vậy thì có thể tuyên nói Ấn Pháp, Nghi Tắc cho họ.

Lại có người thực hành nơi Chân Ngôn Nghi Quỹ Pháp, cầu Tam Muội theo thứ tự, vì muốn cầu thành Đạo Đại Bồ Đề. Lại có người phát Tâm thuộc nhóm Bồ Tát, Bích Chi Phật, Thanh Văn thì được vì họ tuyên nói Ấn Pháp bí mật. Nếu người dùng Tâm tin tưởng, xa lìa sự keo kiệt ganh ghét, y theo Phật Pháp thực hành Hạnh không có ngại thì nên tuyên nói Ấn Pháp bí mật cho họ.

Này Diệu Cát Tường! Ta nói định lượng của Chân Ngôn Ấn Pháp, chính đúng đủ 108, chẳng thêm chẳng bớt, cho đến chư Phật quá khứ cũng đồng với lượng này.

Diệu Cát Tường Đại Nghi Quỹ Pháp của ông bình đẳng không có khác, thì hết thảy Chân Ngôn Tạng của tất cả Phật đã nói, cũng như thế.

Này Diệu Cát Tường! Phàm có chỗ làm lợi ích thành tựu, nên tu Chân Ngôn với Ấn, mỗi mỗi hòa hợp, như hai bánh của cái xe chẳng được thiếu một, nếu thiếu một cái thì không thể vận chuyển. Tất cả Chân Ngôn không có Ấn cũng lại như vậy. Nếu Chân Ngôn với Ấn tương ứng hòa hợp thì việc mau thành tựu, chuyển ba cõi kia. Tất cả hàng Thiên Nhân, A Tu La chẳng thể gây việc khó khăn, huống chi là cầu làm việc của Nhân Gian. Nếu y theo Pháp tu hành thì quyết định được Quả Ấn có Chân Ngôn, hai loại tương ứng, cầu Nghi Tắc thanh tịnh, chế phục Bộ Đa.

Nếu người y theo Chân Ngôn với Ấn của Phật Tử bậc nhất, tu hành thì đối với ba loại việc như trong lòng bàn tay, người tụng được Đại Địa phú quý, tất cả tùy theo ý Hết thảy Chân Ngôn định Ấn với Ấn định Chân Ngôn, Chân Ngôn chẳng được thiếu Ấn, Ấn cũng chẳng được thiếu Chân Ngôn, Ấn với Chân Ngôn nên hòa hợp đủ. Phàm việc đã làm ắt được Quả Chứng. Chân Ngôn, Ấn ấy trợ nhau nương tựa lẫn nhau, như Nhân thành Quả, như Quả đáp trả Nhân. Trì Tụng Hành Nhân nếu y theo Pháp dụng làm thì không có Pháp nào chẳng thành.

Nếu y theo Nghi Tắc, dùng tất cả chỗ ấn của Ấn (Ấn sở ấn), Chân Ngôn đã xác định, làm việc Thỉnh Triệu thì không có gì chẳng thành. Cho đến Thế Giới tối thượng với hết thảy chúng sinh trong Luân Hồi, dùng Thỉnh Triệu cũng không có gì chẳng thành.

Nếu hoặc đối với việc Thỉnh Triệu này có điều chẳng thành thì nên y theo Nghi Tắc thỉnh các Bồ Tát có Đại Lực với Bồ Tát Thập Địa vì mình làm ủng hổ, khiến cho tất cả hàng Bộ Đa, loài gây chướng nạn chẳng thể được thấy, chẳng thể được gần sẽ khiến cho Hành Nhân được Pháp thành tựu.

Nếu đủ Chân Ngôn, Pháp Ấn của tất cả Phật này thì ở trong việc đi, đứng đều được ủng hộ.

Lại trong tất cả Chân Ngôn có Ấn, trong tất cả Ấn cũng có Chân Ngôn, Ấn và Chân Ngôn trợ nhau sinh ra. Nếu người tu hành y theo Pháp niệm tụng với làm Hộ Ma thì tất cả Thánh Đạo trong đây sinh ra.

Nếu Hành Nhân ấy siêng năng tu tập, chẳng lười chẳng biếng nhác, lại chẳng thoái lùi, được tất cả Chân Ngôn Bất Không, thành tựu chỗ Đức Phật đã nói, nói chẳng hư vọng. Nếu người y theo Nghi Quỹ luôn tu hành thì có lợi ích lớn.

Này Diệu Cát Tường Đồng Tử! Nghi Quỹ Vương Chân Ngôn Ấn Pháp này, Ta đều lớp lớp tuyên nói, hết thảy Quả Báo lợi ích rộng lớn cũng lớp lớp tuyên nói. Như vậy tuyên nói Pháp quyết định của Chân Ngôn Ấn rộng lớn bí mật tối thượng".

Thời Diệu Cát Tường ấy dùng tướng Đồng Tử hiện dung mạo vui vẻ, hỏi Đức Thế Tôn rằng: "Tối Thượng Mâu Ni! Do Nhân gì mà Bồ Tát biến hóa nơi sinh ra, được đại tinh tiến, địa vị của mười Địa? Điều mà chư Phật quá khứ đã tuyên nói, nay Thích Sư Tử vì sao cũng nói? Nay con có sự nghi ngờ, nguyện xin mở bày"

Bấy giờ, Đức Như Lai Tối Thượng Mâu Ni dùng Phạm Âm vi diệu của Ca Lăng Tần Già nói nơi Bồ Tát được mười Địa, lại nói nhóm việc lợi ích của Chân Ngôn: "Này Diệu Cát Tường! Trước kia, Ta ở ở nhiều Kiếp trong quá khứ, khi làm Bồ Tát thời có Đức Phật hiệu là Khai Hoa Vương Như Lai, Ta ở chỗ của Đức Phật ấy được Đại Nghi Quỹ Vương bí mật này, liền vì chúng sinh làm lợi ích ấy, dùng Tâm thương xót phái Đại Nguyện ấy, nguyện sinh ở trong Như Lai Phật Pháp tối thượng, ở thời Mạt Pháp dùng Giáo Pháp này chuyển bánh xe Pháp ấy. Ta đã như vậy, trải qua vô lượng Thời vì chúng sinh được địa vị mười Địa. Ở Thời kế tiếp sau này, Ta truyền Nghi Quỹ Vương này cho ông. Sau khi Ta nhập diệt thì Thế Gian trống rỗng, Nam Diêm Phù Đề xa lìa Tạng của Phật Pháp như vậy.

Ông ở Thời đó, trong kỳ Mạt Pháp dạy bảo chúng sinh kia làm Nghi Quỹ này. Ông dùng Nghi Quỹ Vương rộng lớn này vì chúng sinh, phát khởi Đại Hạnh. Nếu ở thời đáng sợ trong kỳ Mạt Pháp. Hoặc có chúng sinh không có Tâm của đường lối chính đạo với có Nhân Vương chẳng thực hành Chính Pháp, luôn dùng Tâm ác não hại chúng sinh. Lại có tất cả người ác, Phi Nhân đối với Đại Giáo này muốn làm phá hoại, ngông cuồng tăng thêm hủy báng nên vì kẻ chẳng nhiêu ích của nhóm này, nói tất cả Chân Ngôn bí mật của Pháp Tạng điều phục này.

Này Đồng Tử! Ông ở quá khứ vì lợi ích cho nên phát Bồ Tát Hạnh, cầu nơi Nghi Quỹ, cho đến sau khi Đức Phật ấy vào Niết Bàn, dùng Di Giáo (Giáo Pháp lưu lại cho đời sau) của Phật để làm Phật Sự, ở trong đời đời làm hình Đồng Tử, tùy theo Hành Xứ của Ta dùng tướng Chân Ngôn giáo hóa chúng sinh.

Này Đồng Tử! Đây là Nguyện Lực mà ông đã làm trong quá khứ. Nay ông lại làm Đồng Tử, được Ta vì ông nói.

Này Đồng Tử! Lại nữa, ông ở cõi nước Phật khác, khi không có Phật ở đời, vì chúng sinh dùng tướng Chân Ngôn, vì tất cả kẻ ngu sinh dạy bảo đường lối, khai hóa khiến cho biết Phật Pháp, cầu Đạo giải thoát, sẽ lại ban cho tất cả phú quý.

Này Đồng Tử! Sau khi Ta diệt độ, ở thời Mạt Pháp vì tất cả chúng sinh trong Thế Gian, hiện hình Đồng Tử tối thượng của ông, cho đến bờ sông Bạt Đề, nơi Ta vào Niết Bàn. Các xứ như vậy tùy theo Tâm Đại Nguyện mà làm Phật Sự.

TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Khi ngài Quán Tự Tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba la mật đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

Này ông Xá lỵ Tử! Sắc chẵng khác Không, Không chẵng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưỡng, Hành, Thức cũng đều như thế.

Này ông Xá lỵ Tử! Tướng Không của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.

Cho nên trong “Chân Không” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát nhã ba la mật đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.

Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát nhã ba la mật đa, được đạo quả vô thượng chánh đẵng chánh giác.

Cho nên biết Bát nhã ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.

Vì vậy nói ra bài chú Bát nhã ba la mật đa, liền nói bài chú ấy rằng:

“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế.

Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha”.

NIỆM PHẬT

Thân Phật thanh tịnh tựu lưu ly.

Trí Phật sáng ngời như trăng sáng

Phật ở thế gian thường cứu khổ.

Tâm Phật không đâu không từ bi.

Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật (10 lần)

Nam mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật (10 lần)

Nam mô Cực Lạc Giáo Chủ A Di Đà Phật (10 lần)

Nam mô Đông Phương Giáo Chủ Dược Sư Lưu Ly Quang Phật (10 lần)

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (3 lần)

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát (3 lần)

Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát (3 lần)

Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát (3 lần)

CHÚC NGUYỆN

Nguyện ngày an lành, đêm an lành,

Đêm ngày sáu thời thường an lành,

Tất cả các thời đều an lành,

Xin nguyện Từ bi thường gia hộ.

HỒI HƯỚNG

Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,

Vô biên thắng phước đều hồi hướng.

Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới,

Đều được vãng sinh về cực lạc.

Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,

Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,

Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,

Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.

Nguyện sinh Cực lạc cảnh phương Tây,

Chín phẩm hoa sen là cha mẹ.

Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,

Bồ tát bất thoái là bạn hữu.

PHỤC NGUYỆN

Kính mong:

Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi,

Mây từ rợp khắp, nguổn đạo dài lâu,

Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa,

Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc.

Cúi xin:

Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh hồi hướng Tây Phương, trang nghiêm Tịnh độ. Báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân. Quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh đồng thành Phật đạo.

NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

Nguyện đem công đức này

Hướng về khắp tất cả.

Đệ tử và chúng sinh,

Đều trọn thành Phật đạo.

ẤN TỐNG

Hiệu Pháp Lạc Huệ

Hiệu Phúc Quốc

Hiệu Phúc Viên

Hiệu Diệu Độ

Hiệu Phúc Quang

Tự Phúc Viên

Hiệu Diệu Lễ

Hiệu Diệu Hạnh

Tự Phúc Thông

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#kinh