Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nghi-Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh

(Dùng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh mà tụng kinh, thời phước đức vô lượng, nên trước khi tụng kinh cần phải sám-hối, sám-hối tức là làm cho 3 nghiệp thanh tịnh)

Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Chư Phật. (1 lạy)

Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt thiết Tôn Pháp. (1 lạy)

Nam-mô thập-phương tận hư-không giới nhứt-thiết Hiền Thánh Tăng (1 lạy)

 

(Quì, tay cầm hương cúng-dường phát nguyện)

Nguyện mây hương mầu này

Khắp cùng mười phương cõi

Cúng-dường tất cả Phật.

Tôn Pháp, các Bồ-Tát,

Vô biên chúng Thanh-văn

Và cả thảy Thánh-hiền

Duyên khởi đài sáng chói

Trùm đến vô biên cõi,

Khắp xông các chúng-sanh

Ðều phát lòng Bồ-đề,

Xa lìa những nghiệp vọng

Trọn nên đạo vô-thượng.

(cầm hương lạy 1 lạy)

 

(Ðứng chắp tay xướng)

Sắc thân Như-Lai đẹp

Trong đời không ai bằng

Không sánh, chẳng nghĩ bàn

Nên nay con đảnh lễ

Sắc thân Phật vô-tận

Trí-tuệ Phật cũng thế,

Tất cả Pháp thường-trụ

Cho nên con về nương,

Sức trí lớn nguyện lớn

Khắp độ chúng quần-sanh,

Khiến bỏ thân nóng khổ

Sanh kia nước mát vui.

Con nay sạch ba nghiệp

Qui-y và lễ tán

Nguyện cùng các chúng-sanh

Ðồng sanh nước An-Lạc.

Án phạ nhựt ra vật. (7 lần)

Chí Tâm Ðảnh Lễ

(Câu này thông cả 9 câu dưới, đều xướng ở đầu câu)

Thường-tịch-quang tịnh độ

A-Di-Ðà Như-Lai

Pháp-thân mầu thanh-tịnh

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Thật báo trang nghiêm độ

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân tướng hải vi-trần

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Phương-tiện thánh cư độ

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân trang-nghiêm giải-thoát

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương Tây

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân căn giới đại-thừa

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương Tây

A-Di-Ðà Như-Lai

Thân hóa đến mười phương

Khắp pháp-giới chư Phật (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Giáo hạnh lý ba kinh

Tột nói bày y chánh

Khắp pháp-giới Tôn Pháp (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Quán-thế-Âm Bồ-tát

Thân tử-kim muôn ức

Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Ðại Thế-Chí Bồ-tát

Thân trí sáng vô-biên

Khắp pháp-giới Bồ-tát (1 lạy)

Cõi An-Lạc phương tây

Thanh-tịnh đại-hải-chúng

Thân hai nghiêm: Phước, trí

Khắp pháp-giới Thánh-chúng (1 lạy)

( Ðứng chắp tay nguyện: )

' Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh ' Trong pháp-giới, đều nguyện

dứt trừ ba chướng(1)' nên qui mạng (2) sám-hối(3)'

(1 lạy quỳ chắp tay sám hối)

Chí Tâm Sám Hối:

Ðệ tử... và chúng sanh trong pháp giới, từ đời vô thỉ nhẫn đến ngày nay, bị vô minh che đậy nên điên đảo mê-lầm, lại do sáu căn ba nghiệp (4) quen theo pháp chẳng lành, rộng phạm mười điều dữ cùng năm tội vô-gián (5) và tất cả các tội khác, nhiều vô-lượng vô-biên nói không kể hết. Mười phương các đức Phật thường ở trong đời, tiếng pháp không dứt, hương mầu đầy lấp, pháp vị ngập tràn, phóng ánh sáng sạch trong chiếu soi tất cả Lý mầu thường trụ đầy dẫy hư-không.

Con từ vô-thỉ đến nay, sáu căn che mù, ba nghiệp tối tăm, chẳng thấy, chằng nghe, chẳng hay chẳng biết, vì nhân duyên đó trôi mãi trong vòng sanh tử, trải qua các đường dữ (6) trăm nghìn muôn kiếp trọn không lúc nào ra khỏi. - Kinh rằng: 'Ðức Tỳ-Lô-Giá-Na thân khắp cả chỗ, chỗ của Phật ở gọi là Thường-Tịch-Quang, cho nên phải biết cả thảy các pháp đều là Phật-pháp, mà con không rõ lại theo giòng vô-minh, vì thế trong trí Bồ-đề mà thấy không thanh-tịnh, trong cảnh giải thoát mà sanh ràng buộc. Nay mới tỏ ngộ, nay mới chừa bỏ ăn năn, phụng đối trước các đức Phật và A-Di-Ðà Thế-Tôn mà pháp lồ (7) sám hối làm cho đệ tử và pháp-giới chúng-sanh, tất cả tội nặng do ba nghiệp sáu căn, gây tạo từ vô thỉ, hoặc hiện tại cùng vị-lai, chính mình tự gây tạo hoặc biểu người, hay là thấy nghe người gây tạo mà vui theo, hoặc nhớ hoặc chẳng nhớ, hoặc biết hoặc chẳng biết, hoặc nghi hoặc chẳng nghi, hoặc che giấu hoặc chẳng che giấu, thảy đều được rốt ráo thanh tịnh.

Ðệ-tử sám-hối rồi, sáu căn cùng ba nghiệp trong sạch, không lỗi lầm, căn lành tu tập cũng trọn thanh-tịnh, thảy đều hồi hướng dùng trang-nghiêm Tịnh-Ðộ khắp với chúng-sinh, đồng sanh về nước An-Dưỡng.

Nguyện đức A-Di-Ðà Phật thường đến hộ trì, làm cho căn-lành của đệ tử hiện-tiền tăng-tấn, chẳng mất nhân duyên Tịnh-độ, đến giờ lâm chung, thân an niệm chánh, xem nghe đều rõ ràng, tận mặt thấy đức A-Di-Ðà cùng các Thánh-chúng, tay cầm đài hoa tiếp dẫn đệ tử, trong khoảng sát-na sanh ra trước Phật, đủ đạo-hạnh Bồ-tát, rộng độ khắp chúng-sanh đồng thành Phật-đạo.

Ðệ-tử sám-hối phát nguyện rồi qui mạng đảnh lễ: Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới, đại-từ đại-bi, A-Di-Ðà Như-Lai, biến pháp-giới Tam-Bảo (1 lạy)

( lạy xong tiếp Nghi Thức tụng kinh )

 

Thích Nghĩa Sám Pháp

(1) Phiền não, nghiệp nhân, quả báo ba món đều hay làm chướng ngại đường giải thoát nên gọi: 'Ba món

chướng.'

(2) Ðem thân mạng về nương, giao phó cho Phật, Pháp, Tăng chính là nghĩa của hai chữ 'Nam-mô'.

(3) Nói đủ là Sám-ma hối quá. 'Sám ma' là tiếng Phạm, nghĩa là 'hối quá', tức là ăn năn tội trước, ngừa giữ lỗi sau.

(4) Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý: sáu căn, và ba nghiệp: thân, khẩu, ý.

(5) Giết cha, giết mẹ, giết thánh nhơn, ác tâm làm thân Phật ra máu, phá hòa hiệp Tăng, gọi là năm tội

Nghịch, nếu phạm sẽ bị đọa vào ngục Vô-gián nên gọi là tội Vô-gián - Ngục Vô-gián là chỗ thọ khổ không có lúc nào ngừng ngớt.

(6) A-tu-la, Súc-sanh, Ngạ quỉ, Ðịa ngục, các đường đó vui ít khổ nhiều, do nghiệp dữ cảm ra.

(7) Bày lộ tội lỗi ra trước Chúng-Nhơn không chút giấu che thời gọi là phát lồ, trái với phú tàng (che giấu). Có phát lồ thời tội mới tiêu, như bịnh cảm mà đặng phát hạn (ra mồ hôi).

________________________

Nghi Thức Trì Tụng

----------------

Bài Tán Lư Hương

Lò hương vừa nhen nhúm

Pháp-giới đã được xông

Các Phật trong hải hội đều xa hay

Theo chỗ kết mây lành

Lòng thành mới ân cần

Các Phật hiện toàn thân.

Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát Ma-ha-tát (3lần)

 

Chân Ngôn Tịnh Pháp Giới

Án lam ( 7 lần )

( Trì chú này thì thân tâm, cảnh vật đều thanh tịnh )

Chân Ngôn Tịnh Khẩu Nghiệp

Tu rị tu rị, ma ha tu rị, tu tu rị ta bà ha. (7 lần)

( Trì chú này thì hơi miệng trong sạch )

Án ta phạ, bà phạ thuật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ bà phạt thuật độ hám (3 lần)

(Trì chú này thì hoa hương cùng tiếng tụng niệm sẽ khắp cúng-dường cả mười phương)

 

Văn Phát Nguyện

Nam-mô Thập-phương Thường-trụ Tam-bảo (3 lần)

Cúi lạy đấng Tam-giới Tôn,

Qui mạng cùng mười phương Phật

Tôi nay phát nguyện rộng

Thọ-trì kinh Pháp-Hoa

Trên đền bốn ơn nặng

Dưới cứu khổ tam đồ ( súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục )

Nếu có kẻ thấy nghe

Ðều phát lòng Bồ-đề

Hết một báo-thân này

Sanh qua cõi Cực-Lạc.

Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật (3 lần)

 

Bài Khai Kinh

Pháp vi-diệu rất sâu vô-lượng

Trăn nghìn muôn ức khó gặp

Tôi nay nghe thấy được thọ trì

Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Như-Lai.

 

Bài Khen Ngợi Kinh

Hơn sáu muôn lời, thành bảy cuốn

Rộng chứa đựng vô-biên nghĩa mầu

Trong cổ nước cam-lộ rịn nhuần

Trong miệng chất đề-hồ nhỏ mát

Bên răng ngọc trắng tuôn xá-lợi

Trên lưỡi sen hồng phóng hào quang

Dầu cho tạo tội hơn núi cả

Chẳng nhọc Diệu-Pháp vài ba hàng.

Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát. ( 3 lần )

 

1.- Lúc bấy giờ, đức Thế-Tôn từ chính định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trí-tuệ của các đức Phật rất sâu vô-lượng, môn trí-tuệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh-văn cùng Tích-Chi-Phật đều không biết được. Vì sao?

Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức, vô-số các đức Phật, trọn tu vô-lượng đạo-pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh-tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.

Xá-Lợi-Phất! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhơn-duyên, các món thí-dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương-tiện dìu dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp. Vì sao? Ðức Như-Lai đã đầy-đủ phương-tiện, tri-kiến và ba-la-mật.

Xá-Lợi-Phất! Tri-kiến của Như-Lai rộng lớn sâu xa, đức vô-lượng vô-ngại lực, vô sở-úy, thuyền-định, giải-thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.

Xá-Lợi-Phất! Như-Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời-lẽ im dịu vui đẹp lòng chúng.

Xá-Lợi-Phất! Tóm yếu mà nói đó, vô-lượng vô-biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.

2.- Thôi Xá-Lợi-Phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chơn-thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tính như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhơn như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt-ráo như vậy.

Bấy giờ, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói bài kệ rằng:

3.- Ðấng Thế-Hùng khó lường

Các trời cùng người đời

Tất cả loài chúng-sanh

Không ai hiểu được Phật

Trí-lực, vô-sở-úy

Giải-thoát các tam-muội

Các pháp khác của Phật

Không ai so lường được

Vốn từ vô-số Phật

Ðầy đủ tu các đạo

Pháp nhiệm mầu rất sâu

Khó thấy khó rõ được

Trong vô-lượng ức kiếp

Tu các đạo đó rồi

Ðạo tràng được chứng quả

Ta đều đã thấy biết

Quả-báo lớn như vậy

Các món tính tướng nghĩa

Ta cùng mười phương Phật

Mới biết được việc đó

 

4.- Pháp đó không chỉ được

Vắng bặt tướng nói năng

Các loài chúng sinh khác

Không có ai hiểu được

Trừ các chúng Bồ-tát

Người sức tin bền chặt

Các hàng đệ-tử Phật

Từng cúng-dàng các Phật

Tất cả lậu đã hết

Trụ thân rốt sau này

Các hạng người vậy thảy

Sức họ không kham được,

Giả-sử đầy thế-gian

Ðều như Xá-Lợi-Phất

Cùng suy chung so lường

Chẳng lường được Phật-trí

Chính sử khắp mười phương

Ðều như Xá-Lợi-Phất

Và các đệ-tử khác

Cũng đầy mười phương cõi

Cùng suy chung so lường

Cũng lại chẳng biết được.

Bậc Duyên-giác trí lành

Vô-lậu thân rốt sau

Cũng đầy mười phương cõi

Số đông như rừng tre,

Hạng này chung một lòng

Trong vô-lượng ức kiếp

Muốn xét Phật thật trí

Chẳng biết được chút phần.

Bồ-tát mới phát tâm

Cúng-dàng vô-số Phật

Rõ thấu các nghĩa thú

Lại hay khéo nói pháp

Như lúa, mè, tre, lau

Ðông đầy mười phương cõi

Một lòng dùng trí mầu

Trải số kiếp hằng-sa

Thảy đều chung suy lường

Chẳng biết được trí Phật

Hàng Bất-thối Bồ-tát

Số đông như hằng-sa

Một lòng chung suy cầu

Cũng lại chẳng hiểu được.

5.- Lại bảo Xá-Lợi-Phất

Pháp nhiệm-mầu rất sâu

Vô-lậu khó nghĩ bàn

Nay ta đã được đủ

Chỉ ta biết tướng đó

Mười phương Phật cũng vậy,

Xá-Lợi-Phất phải biết

Lời Phật nói không khác

Với Pháp của Phật nói

Nên sinh sức tin chắc

Pháp của Phật lâu sau

Cần phải nói chơn thật

Bảo các chúng Thanh-văn

Cùng người cầu Duyên-giác

Ta khiến cho thoát khổ

Ðến chứng được Niết-Bàn

Phật dùng sức phương-tiện

Dạy cho ba-thừa-giáo

Chúng-sinh nơi nơi chấp

Dắt đó khiến ra khỏi.

6.- Khi đó trong đại-chúng có hàng Thanh-văn lậu-tận A-la-hán, ngài A-Nhã Kiều-Trần-Như v.v... một nghìn hai trăm người và các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam cùng Cận-sự-nữ, hạng người phát tâm Thanh-văn, Duyên-giác đều nghĩ rằng: 'Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân-cần ngợi-khen phương-tiện mà nói thế này: 'Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh-văn cùng Duyên-giác không thể đến được.'

Ðức Phật nói một nghĩa giải-thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu?

7.- Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất biết lòng nghi của bốn-chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Nhơn gì duyên gì mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương-tiện thứ nhất nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật?

Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn-chúng thảy đều có lòng nghi. Cúi xin đức Thế-Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế-Tôn ân cần khen-ngợi pháp nhiệm-mầu rất sâu khó hiểu?

Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8.- Ðấng Huệ-Nhật Ðại-Thánh

Lâu mới nói pháp này,

Tự nói pháp mình chứng

Lực, vô-úy, tam-muội,

Thuyền-định, giải-thoát thảy

Ðều chẳng nghĩ bàn được.

Pháp chứng nơi đạo-tràng

Không ai hỏi đến được,

Ý con khó lường được

Cũng không ai hay hỏi.

Không hỏi mà tự nói

Khen-ngợi đạo mình làm

Các đức Phật chứng được

Trí-tuệ rất nhiệm-mầu.

Hàng vô-lậu La-Hán

Cùng người cầu Niết-bàn

Nay đều sa lưới nghi

Phật cớ chi nói thế?

Hạng người cầu Duyên-Giác.

Tỷ-Khiêu, Tỷ-Khiêu-ni,

Các trời, rồng, quỉ, thần

Và Càn-thát-bà thảy

Ngó nhau cưu lòng nghi

Nhìn trông đấng Túc-Tôn,

Việc đó là thế nào

Xin Phật vị dạy cho?

Trong các chúng Thanh-Văn

Phật nói con hạng nhất

Nay con nơi trí mình

Nghi lầm không rõ được

Vì là pháp rốt-ráo

Vì là đạo Phật làm

Con từ miệng Phật sanh

Chắp tay nhìn trông chờ

Xin ban tiếng nhiệm-mầu

Liền vì nói như thực

Các trời, rồng, thần thảy

Số đông như hằng-sa

Bồ-tát cầu thành Phật

Số nhiều có tám muôn

Lại những muôn ức nước

Vua Chuyển-Luân-Vương đến

Ðều lòng kính chắp tay

Muốn nghe đạo đầy-đủ.

9.- Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Thôi thôi! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi-ngờ.'

10.- Ngài Xá-Lợi-Phất lại bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Vì sao?

Trong hội đây có vô-số trăm nghìn muôn ức A-tăng-kỳ chúng-sinh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí-tuệ sáng-suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin'.

Lúc ấy, ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Ðấng Pháp-Vương vô-thượng

Xin nói chuyện đừng lo

Vô-lượng chúng hội đây

Có người hay kính tin.

11.- Ðức Phật lại ngăn Xá-Lợi-Phất: 'Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, a-tu-la đều sẽ kinh nghi Tỷ-khiêu Tăng-thượng-mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.'

Khi đó đức Thế-Tôn lại nói kệ rằng:

Thôi thôi! Chẳng nên nói

Pháp ta diệu khó nghĩ

Những kẻ tăng-thượng-mạn

Nghe ắt không kính tin.

12.- Lúc ấy ngài Xá-Lợi-Phất bạch Phật rằng: 'Thưa Thế-Tôn! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức. Ðời đời đã từng theo Phật học-hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an-ổn nhiều điều lợi-ích.

Khi đó ngài Xá-Lợi-Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

Ðấng Vô-thượng-lưỡng-túc

Xin nói pháp đệ-nhất

Con là trưởng-tử Phật

Xin thương phân-biệt nói.

Vô-lượng chúng-hội đây

Hay kính tin pháp này

Ðời đời Phật đã từng

Giáo-hóa chúng như thế

Ðều một lòng chắp tay

Muốn muốn nghe lãnh lời Phật.

Chúng con nghìn hai trăm

Cùng hạng cầu Phật nọ

Nguyện Phật vì chúng này

Cúi xin phân-biệt nói

Chúng đây nghe pháp ấy

Thời sinh lòng vui-mừng.

13.- Bấy giờ, đức Thế-Tôn bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Ông đã ân-cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói. Ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân-biệt giải-nói.'

14.- Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ, cả thẩy năm nghìn người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng-thượng-mạng, chưa được mà nói đã được, chưa chứng mà đã cho chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Ðức Thế-Tôn yên lặng không ngăn cản.

15.- Bấy giờ, Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hạt chắc. Xá-Lợi-Phất! Những gã tăng-thượng-mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói.'

Ngài Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Vâng thưa Thế-Tôn con nguyện ưa muốn nghe'.

16.- Ðức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Pháp mầu như thế, các đức Phật Như-Lai đến khi đúng thời mới nói, đó như hoa linh-thoại đến thời-tiết mới hiện một lần. Xá-Lợi-Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.

17.- Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật theo thời-nghi nói pháp ý-thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên, lời lẽ thí-dụ diễn nói các pháp.

Pháp đó không phải là suy-lường phân-biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. Vì sao? Các đức Phật Thế-Tôn, chỉ do một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế-Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra đời? Các đức Phật Thế-Tôn vì muốn cho chúng-sinh khai tri-kiến-Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; vì muốn chỉ tri-kiến-Phật cho chúng-sinh mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh tỏ ngộ tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời; vì muốn cho chúng-sinh chứng vào đạo tri-kiến-Phật mà hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất! Ðó là các đức Phật do vì một sự nhơn-duyên lớn mà hiện ra nơi đời'.

18.- Ðức Phật bảo Xá-Lợi-Phất: 'Các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem tri-kiến-Phật chỉ cho chúng-sinh tỏ ngộ thôi.'

Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai chỉ dùng một Phật-Thừa mà vì chúng-sinh nói pháp không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.

Xá-Lợi-Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.

Xá-Lợi-Phất! Thuở quá-khứ các đức Phật dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời-lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp. Vì pháp đó đều là một Phật-thừa, nên các chúng-sinh đó theo chư Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí.'

Xá-Lợi-Phất! Thuở vị-lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật-thừa nên các chúng sinh đó theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.

Xá-Lợi-Phất! Hiện-tại nay, trong vô-lượng trăm nghìn muôn-ức cõi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế-Tôn nhiều điều lợi-ích an-vui cho chúng-sinh. Các đức Phật đó cũng dùng vô-lượng vô-số phương-tiện các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ mà vì chúng-sinh diễn nói các pháp, vì pháp đó đều là một Phật-thừa, các chúng-sinh ấy theo Phật nghe pháp rốt-ráo đều được chứng 'nhất-thiết chủng-trí'.

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo-hóa Bồ-tát, vì muốn đem tri-kiến-Phật mà chỉ cho chúng-sinh, vì muốn đem tri-kiến-Phật cho chúng-sinh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng-sinh chứng vào tri-kiến-Phật vậy.

Xá-Lợi-Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng-sinh có những điều ưa-muốn, thân-tâm mê-chấp, ta tùy theo bản-tính kia dùng các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ cùng sức phương-tiện mà vì đó nói pháp.

Xá-Lợi-Phất! Như thế đều vì để chứng được một Phật-thừa 'nhất-thiết chủng-trí.'

20.- Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước ở mười phương còn không có hai thừa hà-huống có ba!

Xá-Lợi-Phất! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền-não trược, chúng-sinh trược, kiến trược, mệnh trược. Như thế, Xá-Lợi-Phất, lúc kiếp loạn trược chúng-sinh nhơ nặng, bỏn-sẻn, tham-lam, ghét-ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương-tiện, nơi một Phật-thừa, phân-biệt nói thành ba.

21.- Xá-Lợi-Phất! Nếu đệ-tử ta tự cho mình là A-la-hán cùng Duyên-giác mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như-Lai chỉ giáo-hóa Bồ-tát, người này chẳng phải là đệ-tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên-giác.

Lại-nữa, Xá-Lợi-Phất! Các Tỷ-Khiêu, Tỷ-khiêu-ni đó tự cho mình đã được A-la-hán, là thân rốt sau rốt-ráo Niết-Bàn, bèn chẳng lại chí-quyết cầu đạo Vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng-thượng-mạn. Vì sao? nếu có Tỷ-khiêu thực chứng-quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ hiện-tiền không Phật. Vì sao? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ-trì đọc tụng hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rõ.

Xá-Lợi-Phất! Các ông nên một lòng tin hiểu thọ-trì lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như-Lai nói không hư-vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật-thừa thôi.

Khi ấy đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

22.- Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni

Cựu lòng tăng-thượng-mạng

Cận-sự-nam ngã-mạn

Cận-sự-nữ chẳng tin,

Hàng bốn-chúng như thế

Số kia có năm nghìn

Chẳng tự thấy lỗi mình

Nơi giới có thiếu-sót

Tiếc giữ tội quấy mình

Trí nhỏ đó đã ra,

Bọn cám tấm trong chúng

Uy-đức Phật phải đi,

Gã đó kém phước-đức

Chẳng kham lãnh pháp này,

Chúng nay không cành lá

Chỉ có những hột chắc

23.- Xá-Lợi-Phất khéo nghe!

Pháp của các Phật được

Vô-lượng sức phương-tiện

Mà vì chúng-sinh nói.

Tâm của chúng-sinh nghĩ

Các món đạo ra làm

Bao nhiêu những tánh dục

Nghiệp lành dữ đời trước

Phật biết hết thế rồi

Dùng các duyên thí-dụ

Lời-lẽ sức phương-tiện

Khiến tất cả vui-mừng.

Hoặc là nói thế-kinh

Cô-khởi cùng bổn-sự.

Bổn-sinh, vị-tằng-hữu

Cũng nói những nhân-duyên

Thí-dụ và Trùng-tụng

Luận-nghị cộng chín kinh.

Căn-độn ưa pháp nhỏ.

Tham-chấp nơi sinh-tử

Nơi vô-lượng đức Phật

Chẳng tu đạo sâu mầu

Bị các khổ-não loạn

Vì đó nói Niết-bàn.

Ta bày phương-tiện đó

Khiến đều vào tuệ Phật,

Chưa từng nói các ông

Sẽ được thành Phật-đạo

Sở-dĩ chưa từng nói

Vì giờ nói chưa đến,

Nay chính là đến giờ

Quyết định nói đại-thừa.

24.- Chín bộ pháp của ta

Thuận theo chúng-sanh nói

Vào đại-thừa làm gốc

Nên mới nói kinh này.

Có phật-tử tâm tịnh

Êm dịu cũng căn lợi,

Nơi vô-lượng các Phật

Mà tu đạo sâu mầu,

Vì hàng phật-tử này

Nói kinh đại-thừa đây.

Ta ghi cho người đó

Ðời sau thành Phật-đạo

Bởi thâm tâm niệm Phật

Tu trì tịnh-giới vậy

Hạng này nghe thành Phật

Rất mừng đầy khắp mình,

Phật biết tâm của kia.

Nên vì nói đại-thừa.

Thanh-Văn hoặc Bồ-tát,

Nghe ta nói pháp ra

Nhẫn đến một bài kệ

Ðều thành Phật không nghi.

25.- Trong cõi Phật mười phương

Chỉ có một thừa pháp

Không hai cũng không ba

Trừ Phật phương-tiện nói

Chỉ dùng danh tự giả

Dẫn dắt các chúng-sanh

Vì nói trí-tuệ Phật.

Các Phật ra nơi đời

Chỉ một việc này thực

Hai thứ chẳng phải chơn.

Trọn chẳng đem tiểu-thừa

Mà tế độ chúng-sinh,

Phật tự trụ đại-thừa

Như pháp của mình được

Ðịnh, huệ, lực trang-nghiêm

Dùng đây độ chúng-sanh.

Tự chứng đạo vô-thượng

Pháp bình-đẳng đại-thừa

Nếu dùng tiểu-thừa độ

Nhẫn đến nơi một người

Thời ta đọa sân tham

Việc ấy tất không được,

Nếu người tin về Phật

Như-Lai chẳng dối gạt

Cũng không lòng tham ghen

Dứt ác trong các pháp

Nên Phật ở mười phương

Mà riêng không chỗ sợ.

Ta dùng tướng trang-nghiêm

Ánh-sáng soi trong đời

Ðấng vô-lượng chúng trọng

Vì nói thực-tướng ấn

26.- Xá-Lợi-Phất! nên biết

Ta vốn lập thệ-nguyện

Muốn cho tất cả chúng

Bằng như ta không khác,

Như ta xưa đã nguyện

Nay đã đầy-đủ rồi

Ðộ tất cả chúng-sanh

Ðều khiến vào Phật-đạo

Nếu ta gặp chúng-sanh

Dùng Phật-đạo dạy cả

Kẻ vô-trí rối sai

Mê-lầm không nhận lời.

Ta rõ chúng-sanh đó

Chưa từng tu cội lành

Chấp chặt nơi ngũ-dục

Vì si-ái sinh khổ,

Bởi nhân-duyên các dục.

Sanh vào ba đường dữ

Xoay lăn trong sáu nẻo

Chịu đủ những khổ độc

Thân mọn thụ bào thai

Ðời đời tăng trưởng luôn

Người đức mỏng ít phước

Các sự khổ bức ngặt

Vào rừng rậm tà-kiến

Hoặc chấp có, chấp không

Nương gá các chấp này

Ðầy đủ sáu mươi hai

Chấp chặt pháp hư-vọng

Bền nhận không bỏ được

Ngã-mạn tự khoe cao

Dua-nịnh lòng không thực

Trong nghìn muôn ức kiếp

Chẳng nghe danh-tự Phật

Cũng chẳng nghe chính-pháp

Người như thế khó độ.

27.- Cho nên Xá-Lợi-Phất!

Ta vì bày phương-tiện

Nói các đạo dứt khổ

Chỉ cho đó Niết-Bàn

Ta dầu nói Niết-Bàn

Cũng chẳng phải thực-diệt,

Các pháp từ bản-lai

Tướng thường tự vắng-lặng

Phật-tử hành-đạo rồi

Ðời sau được thành Phật

Ta có sức phương tiện

Mở bày khắp ba-thừa.

Tất cả các Thế-Tôn

Ðều nói đạo nhất-thừa

Nay trong đại-chúng này

Ðều nên trừ nghi-lầm

Lời Phật nói không khác

Chỉ một, không hai thừa.

28.- Vô-số kiếp đã qua

Vô-lượng Phật diệt-độ

Trăm nghìn muôn ức Phật

Số nhiều không lường được.

Các Thế-Tôn như thế

Các món duyên thí-dụ

Vô-số ức phương-tiện

Diễn nói các pháp tướng,

Các đức Thế-Tôn đó

Ðều nói pháp nhất-thừa

Ðộ vô-lượng chúng-sanh

Khiến vào nơi Phật-đạo

Lại các đại-thánh-chúa

Biết tất cả thế-gian

Trời người loài quần-sanh

Thâm-tâm chỗ ưa-muốn

Bèn dùng phương-tiện khác

Giúp bày nghĩa đệ-nhất.

29.- Nếu có loài chúng-sinh

Gặp các Phật quá-khứ

Hoặc nghe pháp bố-thí

Hoặc trì-giới nhẫn-nhục

Tinh-tấn, thuyền, trí thảy

Các món tu phước-tuệ,

Những người như thế đó

Ðều đã thành Phật-đạo

Sau các Phật diệt-độ

Nếu người lòng lành dịu

Các chúng-sinh như thế

Ðều đã thành Phật-đạo

30.- Các Phật diệt-độ rồi

Người cúng-dàng Xá-Lợi

Dựng muôn-ức thứ tháp

Vàng, bạc và pha-lê

Xà-cừ cùng mã-não

Ngọc mai-khôi, lưu-ly

Thanh-tịnh rộng nghiêm sức,

Trau-giồi nơi các tháp,

Hoặc có dựng miếu đá

Chiên-đàn và trầm-thủy

Gỗ mật cùng gỗ khác

Gạch ngói bùn đất thảy,

Hoặc ở trong đồng trống

Chứa đất thành miếu Phật

Nhẫn đến đồng-tử giỡn

Nhóm cát thành tháp Phật,

Những hạng người như thế

Ðều đã thành Phật-đạo.

31.- Nếu như người vì Phật

Xây dựng các hình-tượng

Chạm-trổ thành các tướng

Ðều đã thành Phật-đạo.

Hoặc dùng bảy báu làm

Thau, đồng bạch, đồng đỏ

Chất nhôm cùng chì kẽm

Sắt, gỗ cùng với bùn

Hoặc dùng keo, sơn, vải

Nghiêm-sức làm tượng Phật

Những người như thế đó

Ðều đã thành Phật-đạo

Vẽ vời làm tượng Phật

Trăm tướng phước trang-nghiêm

Tự làm hoặc bảo người

Ðều đã thành Phật-đạo.

Nhẫn đến đồng-tử giỡn

Hoặc cỏ cây và bút

Hoặc lấy móng tay mình

Mà vẽ làm tượng Phật

Những hạng người như thế

Lần lần chứa công-đức

Ðầy đủ tâm đại-bi

Ðều đã thành Phật-đạo

Chỉ dạy các Bồ-tát

Ðộ thoát vô-lượng chúng.

32.- Nếu người nơi tháp-miếu

Tượng báu và tượng vẽ

Dùng hoa, hương, phan, lọng

Lồng kính mà cúng-dàng

Hoặc khiến người trổi nhạc

Ðánh trống, thổi sừng ốc

Tiêu địch, cầm, không-hầu

Tỳ-bà, chụp-chả đồng

Các tiếng hay như thế

Ðem dùng cúng-dàng hết

Hoặc người lòng vui-mừng

Ca ngâm khen đức Phật

Nhẫn đến một tiếng nhỏ

Ðều đã thành Phật-đạo

33.- Nếu người lòng tán-loạn

Nhẫn đến dùng một hoa

Cúng-dàng nơi tượng vẽ

Lần thấy các đức Phật

Hoặc có người lễ lạy

Hoặc lại chỉ chắp tay

Nhẫn đến giơ một tay

Hoặc lại hơi cúi đầu

Dùng đây cúng-dàng tượng

Lần thấy vô-lượng Phật

Tự thành đạo vô-thượng

Rộng độ chúng vô-số

Vào vô-dư Niết-bàn

Như củi hết lửa tắt.

Nếu lòng người tán-loạn

Vào nơi trong tháp-miếu

Một xưng Nam-mô Phật

Ðều đã thành Phật-đạo

Nơi các Phật quá-khứ

Tại-thế, hoặc diệt-độ,

Có người nghe pháp này

Ðều đã thành Phật-đạo

34.- Các Thế-Tôn vị-lai

Số nhiều không thể lường

Các đức Như-Lai đó

Cùng phương-tiện nói pháp.

Tất cả các Như-Lai

Dùng vô-lượng phương-tiện

Ðộ thoát các chúng-sinh

Vào trí vô-lậu Phật,

Nếu có người nghe pháp

Không ai chẳng thành Phật.

Các Phật vốn thệ-nguyện

Ta tu hành Phật-đạo

Khắp muốn cho chúng-sinh

Cũng đồng được đạo này.

Các Phật đời vị-lai

Dầu nói trăm nghìn ức

Vô-số các pháp-môn

Kỳ-thực vì nhất-thừa.

Các Phật lưỡng-túc-tôn

Biết pháp thường không tính

Giống Phật theo duyên sinh

Cho nên nói nhất-thừa.

Pháp đó trụ ngôi pháp

Tướng thế-gian thường còn

Nơi đạo-tràng biết rồi

Ðức Phật phương tiện nói.

Hiện-tại mười phương Phật

Của trời người cúng-dàng

Số nhiều như hằng-sa

Hiện ra nơi thế-gian

Vì an-ổn chúng-sanh

Cũng nói pháp như thế.

Biết vắng-bặt thứ nhất

Bởi dùng sức phương-tiện

Dầu bày các món đạo

Kỳ-thực vì Phật-thừa

Biết các hạnh chúng-sinh

Thâm-tâm nó nghĩ nhớ

Nghiệp quen từ quá-khứ

Tính-dục, sức tinh-tấn

Và các căn-lợi độn

Dùng các món nhân-duyên

Thí-dụ cùng lời-lẽ

Tùy-cơ phương-tiện nói.

Từ nay cũng như vậy

Vì an-ổn chúng-sinh

Dùng các món pháp-môn

Rao bày nơi Phật-đạo

Ta dùng sức trí-tuệ

Rõ tính dục chúng-sinh

Phương-tiện nói các pháp

Ðều khiến được vui-mừng.

Xá-Lợi-Phất nên biết!

Ta dùng mắt Phật xem

Thấy sáu đường chúng-sinh

Nghèo cùng không phước-tuệ

Vào đường hiểm sinh-tử

Khổ nối luôn không dứt

Sâu tham nơi ngũ-dục

Như trâu 'mao' mến đuôi

Do tham-ái tự che

Ðui mù không thấy biết

Chẳng cầu Phật thế lớn

Cùng pháp dứt sự khổ

Sâu vào các tà-kiến

Lấy khổ muốn bỏ khổ

Phật vì chúng-sinh này

Mà sinh lòng đại-bi

36.- Xưa, tu ngồi đạo-tràng

Xem cây cùng kinh-hành

Suy-nghĩ việc như vầy:

Trí-tuệ của ta được

Vi-diệu rất thứ nhất

Chúng-sinh các căn chậm

Tham vui si làm mù

Các hạng người như thế

Làm sao mà độ được?

Bấy giờ các Phạm-Vương

Cùng các Trời Ðế-Thích

Bốn Thiên-Vương hộ đời

Và trời Ðại-tự-tại

Cùng các thiên-chúng khác

Trăm nghìn ức quyến-thuộc

Chắp tay cung-kính lễ

Thỉnh ta chuyển-pháp-luân.

Ta liền tự suy-nghĩ

Nếu chỉ khen Phật-thừa

Chúng-sanh chìm nơi khổ

Không thể tin pháp đó

Do phá pháp không tin

Rớt trong ba đường dữ

Ta thà không nói pháp

Mau vào cõi Niết-Bàn

Liền nhớ Phật quá-khứ

Thực-hành sức phương-tiện

Ta nay chứng được đạo

Cũng nên nói ba thừa.

37.- Lúc ta nghĩ thế đó

Mười phương Phật đều hiện

Tiếng phạm an-ủi ta

Hay thay! đức Thích-Ca

Bậc Ðạo-sư thứ nhất

Ðược pháp vô-thượng ấy

Tùy theo tất cả Phật

Mà dùng sức phương-tiện

Chúng ta cũng đều được

Pháp tối-diệu thứ nhất

Vì các loại chúng-sinh

Phân-biệt nói ba-thừa.

Trí kém ưa pháp nhỏ

Chẳng tự tin thành Phật

Cho nên dùng phương-tiện

Phân-biệt nói các quả

Dầu lại nói ba-thừa

Chỉ vì dạy Bồ-tát.

38.- Xá-Lợi-Phất nên biết!

Ta nghe các đức Phật

Tiếng nhiệm-mầu rất sạch

Xưng: 'Nam-mô chư Phật!'

Ta lại nghĩ thế này

Ta ra đời trược-ác

Như các Phật đã nói

Ta cũng thuận làm theo

Suy-nghĩ việc đó rồi

Liền đến thành Ba-Nại.

Các pháp-tướng tịch-diệt

Không thể dùng lời bày

Bèn dùng sức phương-tiện

Vì năm Tỷ-khiêu nói.

Ðó gọi chuyển-pháp-luân

Bèn có tiếng Niết-bàn

Cùng với A-La-Hán

Tên pháp, tăng sai khác.

Từ kiếp xa nhẫn lại

Khen bày Pháp Niết-Bàn

Dứt hẳn khổ sống chết

Ta thường nói như thế

39.- Xá-Lợi-Phất phải biết

Ta thấy các Phật-tử

Chí-quyết cầu Phật-đạo

Vô-lượng nghìn muôn ức

Ðều dùng lòng cung-kính

Ðồng đi đến chỗ Phật

Từng đã theo các Phật

Nghe nói pháp phương-tiện

Ta liền nghĩ thế này

Sở-dĩ Phật ra đời

Ðể vì nói Phật-tuệ

Nay chính đã đúng giờ.

40.- Xá-Lợi-Phất phải biết!

Người căn chậm trí nhỏ

Kẻ chấp tướng kiêu-mạo

Chẳng thể tin pháp này

Nay ta vui vô-úy

Ở trong hàng Bồ-tát

Chính bỏ ngay phương-tiện

Chỉ nói đạo vô-thượng.

Bồ-tát nghe pháp đó

Ðều đã trừ lưới nghi

Nghìn hai trăm la-hán

Cũng đều sẽ thành Phật

Như nghi-thức nói pháp

Của các Phật ba đời

Ta nay cũng như vậy

Nói pháp không phân-biệt

Các đức Phật ra đời

Lâu xa khó gặp-gỡ

Chính sử hiện ra đời

Nói pháp này khó hơn

Vô-lượng vô-số kiếp

Nghe pháp này cũng khó,

Hay nghe được pháp này

Người đó cũng lại khó

Thí như hoa linh-thoại

Tất cả đều ưa-mến

Ít có trong trời, người

Lâu lâu một lần trổ.

41.- Người nghe pháp mừng khen

Nhẫn đến nói một lời

Thời là đã cúng dàng

Tất cả Phật ba đời

Người đó rất ít có

Hơn cả hoa Ưu-đàm.

Các ông chớ có nghi

Ta là vua các pháp

Khắp bảo các đại chúng

Chỉ dùng đạo nhất thừa

Dạy bảo các Bồ-tát

Không Thanh-Văn đệ-tử

42.- Xá-Lợi-Phất các ông!

Thanh-Văn và Bồ-tát

Phải biết pháp mầu này

Bí yếu của các Phật

Bởi đời ác năm trược

Chỉ tham ưa các dục

Những chúng-sinh như thế

Trọn không cầu Phật-đạo

Người ác đời sẽ tới

Nghe Phật nói nhất-thừa

Mê lầm không tin nhận

Phá pháp đọa đường dữ

Người tàm quí trong sạch

Quyết chí cầu Phật-đạo

Nên vì bọn người ấy

Rộng khen đạo nhất-thừa.

Xá-Lợi-Phất nên biết

Pháp các Phật như thế

Dùng muôn ức phương-tiện

Tùy thời nghi nói pháp

Người chẳng học tập tu

Không hiểu được pháp này

Các ông đã biết rõ

Phật là thầy trong đời

Việc phương-tiện tùy-nghi

Không còn lại nghi lầm

Lòng sinh rất vui mừng

Tự biết sẽ thành Phật.

________

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

_________________

QUYỂN THỨ NHẤT

________

Một sáng chiếu phương đông, thể diệu toàn bày, chẳng phải chỗ suy lường mà suy lường được, thầm hiểu ở trong lòng, phương-tiện truyền bày một đạo nhả hương trời.

Nam-mô Pháp-hoa Hội-Thượng Phật Bồ-tát (3 lần)

Thế-Tôn hiện điềm tốt, Di-Lặc nghi tướng lành, Văn-Thù vì chúng rộng phô bày: Phật xưa phóng hào-quang. Ba phen mời đấng Pháp Vương vì nói hương Diệu-Liên.

Nam-mô quá-khứ Nhật-Nguyệt-Ðăng-Minh Phật (3 lần)

THÍCH NGHĨA

(1) KINH: Pháp thường, mười phương ba đời các đức Phật đều nói như vậy. Nói đủ là 'Khế Kinh' nghĩa là  'pháp thường khế hiệp chân-lý cùng khế hiệp căn-cơ chúng-sinh'. DIỆU PHÁP LIÊN HOA: Pháp mầu khó nghĩ lường, thắng hơn tất cả các pháp. Kinh pháp này là bậc nhất trong kinh pháp khác của Phật nói, dụ như hoa sen, vì hoa sen sánh với hoa khác có 5 điều đặc-biệt:

1. Có hoa là có gương: nhân quả đồng thời.

2. Mọc trong bùn lầy mà vẫn trong sạch thơm tho.

3. Cọng hoa từ gốc tách riêng nhưng không chung cành với lá.

4. Ong và bướm không bu đậu.

5. Không bị người dùng làm trang điểm (Xưa đàn bà Ấn-Ðộ quen dùng hoa kết thành tràng để đeo đội v.v...)

(2) Ðức Phật Thích-Ca Mâu-Ni.

(3) Các điều vọng lầm hay làm lọt mất công-đức lành.

(4) Tự mình đã được thoát khỏi khổ sinh-tử luân hồi.

(5) Ba cõi: Cõi dục, cõi sắc, cõi vô-sắc.

(6) Từ quả A-na-hàm trở xuống chưa được giải thoát còn phải học tập nên gọi 'Hữu-học'. Quả A-la-hán đã được giải thoát, về trong tiểu thừa pháp, thời không còn phải học nữa nên gọi Vô-học.

(7) Quả chứng của Phật.

(8) Tổng trì: Gồm nhiếp các Pháp.

(9) Tài biện luận ưa giảng nói pháp.

(10) Chỗ rốt ráo, trọn vẹn, nên xong hoàn toàn.

(11) Tên của vị vua 33 nước trời Ðao-lỵ ở trên đỉnh núi Tu-Di.

(12) Ba thứ tiếng vang dội và 3 thứ rung động của hình sắc.

(13) (16) Các loài thần hầu hạ cõi Ðao-lỵ.

(14) Thần phi-thiên: có phúc như trời mà đức kém hơn trời.

(15) Chim cánh vàng (kim sí-điểu)

(17) Thần rắn.

(18) 1) Trời, 2) Người, 3) A-tu-la, 4) Thú, 5) Quỉ, 6) Ðịa ngục.

(19) Phật là vua pháp (pháp-vương). Bồ-tát cũng như con của Phật nên là: Pháp-vương-tử.

(20) Người thụ tam-qui ngũ-giới tu tại-gia gần gũi hộ thờ Tam-Bảo nên gọi cận-sự, đàn ông là Nam, đàn bà là nữ, ta quen gọi là 'Cư-sĩ'.

(21) Vô-số (một số lớn). Kiếp có: tiểu-kiếp, trung-kiếp, đại-kiếp. Một tiểu-kiếp có 16.798.000 năm. Một trung-kiếp có 20 tiểu-kiếp. Một đại-kiếp có 4 trung-kiếp: Thành, Trụ, Hoại, Không.

(22) 1) Khổ-đế, 2) Tập-đế, 3) Diệt-đế, 4) Ðạo-đế.

(23) 1) Vô-minh, 2) Hành, 3) Thức, 4) Danh sắc, 5) Lục nhập, 6) Xúc, 7) Thụ, 8) Ái, 9) Thủ, 10) Hữu,

11) Sinh, 12) Lão-tử . 12 món này làm nhân duyên lẫn nhau.

(24) Cũng gọi là 6 độ: 1) Bố-thí-độ, 2) Trì-giới-độ, 3) Nhẫn-nhục-độ, 4)Tinh-tấn-độ, 5) Thuyền-định-độ,

6) Trí-tuệ-độ.

(25) Trí của Phật.

(26) 1) Ðông-thắng-thần châu. 2) Nam-Thiệm-bộ châu (quả địa-cầu), 3) Tây-ngưu-hóa châu, 4) Bắc-câu-lô

châu.

(27) (THỌ-KÝ): Trao cho lời ghi chắc về sau, bao nhiêu năm cõi nào sẽ thành Phật hiệu là v.v...

(28) Sông Hằng một con sông lớn xứ Ấn-Ðộ, trong sông và hai bờ có cát rất mịn, trong kinh thường dùng số

cát ấy để chỉ một một số đông nhiều.

(29) Ông thầy dắt dẫn.

(30) Thanh-Văn thừa, Duyên-Giác thừa, Phật-thừa.

(31) Phương-chước hay phương-pháp tiện-lợi dễ-dàng.

 

SỰ-TÍCH

TẢ KINH PHÁP HOA

ÔNG NGHIÊM CUNG

Nước Tàu, triều nhà Trần niên hiệu Ðại-Kiến năm đầu, ở xứ Dương-Châu có ông Nghiêm-Cung tả kinh Pháp-Hoa để phát cho người trì tụng.

Lúc đó có thần ở miếu Cung-Ðình-Hồ mách mộng cho khách buôn đem hết của trong miếu đưa sang trao cho ông Cung để chi phí về việc tả kinh.

Lại một hôm ông Cung mang tiền ra phố mua giấy viết lỡ thiếu 3.000 đồng điếu, bỗng thấy từ trong chợ đi ra một người cầm 3.000 đồng điếu trao cho ông Cung mà nói: 'Giúp ông mua giấy'. Nói xong biến mất.

Rốt đời Tùy, giặc cướp đến Giang-Ðô đều dặn nhau không nên phạm đến xóm của ông Nghiêm Pháp-Hoa (Nghiêm-Cung). Nhờ đó mà cả xóm an-lành.

Ðến cuối đời Ðường, nhà họ Nghiêm vẫn nối nhau tả kinh không thôi.

'Vậy thời tả kinh, hay in kinh công-đức lớn biết dường nào, không nói đến phước báu tốt đẹp ở nhiều đời sau, mà ngay trong hiện-tại cũng không thể lường được, chẳng những là mình khỏi khổ ngay mà mọi người ở gần cũng được nhờ, cả thần thánh cũng thường theo hộ trợ như truyện ông Nghiêm-Cung đây vậy.'

 

Phẩm 'Thí Dụ' Thứ Ba

1.- Lúc bấy giờ ngài Xá-Lợi-Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm-ngưỡng dung-nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: 'Nay con theo đức Thế-Tôn nghe được tiếng pháp này, trong lòng hớn hở được điều chưa từng có. Vì sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thụ-ký thành Phật mà chúng con chẳng được dự việc đó tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như-Lai.

Thế-Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vậy: Chúng ta đồng vào pháp-tính, tại sao đức Như-Lai lại dùng pháp tiểu-thừa mà tế-độ cho?

Ðó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế-Tôn vậy. Vì sao? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở-nhân thành-đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác thời chắc do pháp đại-thừa mà được độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương-tiện theo cơ-nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.

Thế-Tôn! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách mình, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước khi hề nghe, dứt các lòng nghi hối, thân ý thơ-thới rất được an-ổn. Ngày nay mới biết mình thật là Phật-tử, từ miệng Phật sinh ra, từ pháp hóa sinh, được pháp phần của Phật.

Khi ấy, Ngài Xá-Lợi-Phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

2.- Con nghe tiếng pháp này

Ðược điều chưa từng có

Lòng rất đổi vui mừng

Lưới nghi đều đã trừ,

Xưa nay nhờ Phật dạy

Chẳng mất nơi đại-thừa.

Tiếng Phật rất ít có

Hay trừ khổ chúng-sinh

Con đã được lậu-tận (1)

Nghe cũng trừ lo khổ.

Con ở nơi hang núi

Hoặc dưới cụm cây rừng

Hoặc ngồi hoặc kinh-hành

Thường suy nghĩ việc này,

Thôi ôi! Rất tự trách

Sao lại tự khi mình

Chúng ta cũng Phật-tử

Ðồng vào pháp vô-lậu

Chẳng được ở vị-lai

Nói pháp vô-thượng đạo,

Sắc vàng, băm hai tướng (2)

Mười lực (3) các giải-thoát.

Ðồng chung trong một pháp

Mà chẳng được việc đây

Tám mươi tướng tốt đẹp

Mười tám pháp bất-cộng (4)

Các công-đức như thế

Mà ta đều đã mất

3.- Lúc con kinh-hành riêng

Thấy Phật ở trong chúng

Danh đồn khắp mười phương

Rộng lợi-ích chúng-sinh

Tự nghĩ mất lợi này

Chính con tự khi dối

Con thường trong ngày đêm

Hằng suy-nghĩ việc đó

Muốn đem hỏi Thế-Tôn?

Là mất hay không mất?

Con thường thấy Thế-Tôn

Khen ngợi các Bồ-tát (5)

Vì thế nên ngày đêm

Suy-lường việc như vậy

4.- Nay nghe tiếng Phật nói

Theo cơ-nghi dạy Pháp

Vô-lậu khó nghĩ bàn

Khiến chúng đến đạo-tràng.

Con xưa chấp tà-kiến

Làm thày các Phạm-Chí (6)

Thế-Tôn rõ tâm con

Trừ tà nói Niết-bàn.

Con trừ hết tà-kiến

Ðược chứng nơi pháp không

Bấy giờ lòng tự bảo

Ðược đến nơi diệt-độ

Mà nay mới tự biết

Chẳng phải thực diệt-độ.

Nếu lúc được thành Phật

Ðủ ba mươi hai tướng

Trời, người, chúng, dạ-xoa

Rồng, thần đều cung-kính

Bấy giờ mới được nói

Dứt hẳn hết không thừa

Phật ở trong đại-chúng

Nói con sẽ thành Phật

Nghe tiếng pháp như vậy

Lòng nghi hối đã trừ

5.- Khi mới nghe Phật nói

Trong lòng rất sợ nghi

Phải chăng ma giả Phật

Não loạn lòng ta ư?

Phật dùng các món duyên

Thí-dụ khéo nói phô,

Lòng kia an như biển

Con nghe, lưới nghi dứt.

Phật nói thuở quá-khứ

Vô-lượng Phật diệt-độ

An-trụ trong phương-tiện

Cũng đều nói pháp đó.

Phật hiện-tại, vị-lai.

Số nhiều cũng vô-lượng

Cũng dùng các phương-tiện

Diễn nói pháp như thế.

Như Thế-Tôn ngày nay

Từ sinh đến xuất-gia

Ðược đạo chuyển-pháp-luân

Cũng dùng phương-tiện nói

Thế-Tôn nói đạo thực

Ba tuần (7) không nói được

Vì thế con định biết

Không phải ma giả Phật

Con sa vào lưới nghi

Cho là ma làm ra.

Nghe tiếng Phật êm-dịu

Sâu xa rất nhiệm-mầu

Nói suốt pháp thanh-tịnh

Tâm con rất vui mừng.

Nghi hối đã hết hẳn

An trụ trong thực trí

Con quyết sẽ thành Phật

Ðược trời, người cung-kính

Chuyển pháp-luân vô-thượng

Giáo-hóa các Bồ-tát.

6.- Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Ta nay ở trong hàng Trời, người, sa-môn, bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật vì đạo vô-thượng nên thường giáo-hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thụ học, ta dùng phương-tiện dẫn dắt ông sinh vào trong pháp ta'.

Xá-Lợi-Phất! Ta thuở xưa dạy ông chí-nguyện Phật-đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đã được diệt-độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bản nguyện cùng đạo đã làm, mà vì các Thanh-Văn nói kinh đại-thừa tên là: 'Diệu-Pháp Liên-Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ-Niệm'.

7.- Xá-Lợi-Phất! Ông đến đời vị-lai, quá vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì kiếp, cúng-dàng bao nhiêu nghìn muôn ức Phật, phụng trì chính-pháp đầy đủ đạo tu-hành của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Quang Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-tri, Minh-hạnh-túc, Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Ðiều-ngự trượng-phu, Thiên-nhơn-sư, Phật, Thế-Tôn.

Nước tên: Ly-Cấu, cõi đó bằng thẳng thanh-tịnh đẹp đẽ an-ổn giàu-vui, trời người đông-đảo. Lưu-ly làm đất, có tám đường giao-thông, dây bằng vàng ròng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có hoa trái. Ðức Hoa-Quang Như-Lai cũng dùng ba thừa giáo-hóa chúng-sinh.

Xá-Lợi-Phất! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải là đời ác mà bởi bản nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là 'Ðại-Bửu Trang-Nghiêm'. Vì sao gọi là 'Ðại-Bửu Trang-Nghiêm'? Vì trong cõi đó dùng Bồ-tát làm 'Ðại-Bửu' vậy. Các Bồ-tát trong số đông vô-lượng vô-biên bất-khả-tư-nghì, tính kể hay thí-dụ đều không đến được, chẳng phải sức trí-tuệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi thì có hoa đỡ chân.

Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đã trồng cội từ lâu. Ở nơi vô-lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh hằng được các Phật khen. Thường tu trí-tuệ của Phật đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp-môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững bậc Bồ-tát như thế, khắp đầy nước đó.

Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật Hoa-Quang thụ mười hai tiểu-kiếp, trừ còn làm Vương-tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thụ tám tiểu kiếp. Ðức Hoa-Quang Như-Lai quá mười hai tiểu-kiếp thụ-ký vô-thượng chính-đẳng chính-giác cho Kiên-Mãn Bồ-tát mà bảo các Tỷ-khiêu: Ông Kiên-mãn Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa-Túc An-Hành Như-Lai, Ứng-cúng, Chánh-biến-Tri, cõi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.

Xá-Lợi-Phất! Sau khi Phật Hoa-Quang đó diệt-độ, chính pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu-kiếp, tượng pháp trụ đời cũng ba mươi hai tiểu-kiếp.

Lúc ấy, đức Thế-Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

8.- Xá-Lợi-Phất đời sau

Thành đấng Phật trí khắp

Hiệu rằng: Phật Hoa-Quang

Sẽ độ vô-lượng chúng.

Cúng-dàng vô số Phật

Ðầy đủ hạnh Bồ-tát

Các công-đức thập-lực

Chứng được đạo vô-thượng

Quá vô-lượng kiếp rồi

Kiếp tên Ðại-Bửu-Nghiêm

Cõi nước tên Ly-Cấu

Trong sạch không vết nhơ

Dùng lưu-ly làm đất

Dây vàng giăng đường sá

Cây bảy báu sắc đẹp

Thường có hoa cùng trái

Bồ-tát trong cõi đó

Chí-niệm thường bền vững

Thần-thông Ba-la-mật

Ðều đã trọn đầy đủ

Nơi vô-số đức Phật

Khéo học đạo Bồ-tát

Những Ðại-Sĩ như thế

Phật Hoa-Quang hóa-độ.

Lúc Phật làm Vương-tử

Rời nước bỏ vinh-hoa

Nơi thân cuối rốt sau

Xuất-gia thành Phật-đạo

Phật Hoa-Quang trụ-thế

Thọ mười hai tiểu-kiếp

Chúng nhân-dân nước đó

Sống lâu tám tiểu-kiếp

Sau khi Phật diệt-độ

Chính-pháp trụ ở đời

Ba mươi hai tiểu-kiếp

Rộng độ các chúng-sanh

Chính-pháp diệt hết rồi

Tượng-pháp cũng băm hai

Xá-lợi rộng truyền khắp

Trời, người, khắp cúng-dàng

Phật Hoa-Quang chỗ làm

Việc đó đều như thế.

Ðấng lưỡng Túc-Tôn kia

Rất hơn không ai bằng

Phật tức là thân ông

Nên phải tự vui mừng.

9.- Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỷ-khiêu, Tỷ-khiêu-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ và cả đại-chúng: Trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, A-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, v.v... thấy Xá-Lợi-Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác, lòng rất vui mừng hớn-hở vô-lượng. Mỗi người đều cởi-y trên của mình đang đắp để cúng-dàng Phật.

Thích-Ðề Hoàn-Nhân cùng Phạm-Thiên-Vương v.v... và vô-số thiên-tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời Mạn-đà-la, Ma-ha Mạn-đà-la v.v... cúng-dàng nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư-không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư-không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: 'Ðức Phật xưa ở thành Ba-La-Nại, ban đầu chuyển pháp-luân rất lớn vô-thượng'.

Lúc đó các thiên-tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

10.- Xưa ở thành Ba-Nại

Chuyển pháp-luân bốn-đế

Phân-biệt nói các pháp

Sanh-diệt của năm nhóm (8)

Nay lại chuyển pháp-luân

Rất lớn diệu vô-thượng,

Pháp đó rất sâu-mầu

Ít có người tin được.

Chúng ta từ xưa lại

Thường nghe Thế-Tôn nói

Chưa từng nghe thượng-pháp

Thâm-diệu như thế này,

Thế-Tôn nói pháp đó

Chúng ta đều tùy-hỉ,

Ðại-trí Xá-Lợi-Phất

Nay được lãnh Phật ký

Chúng ta cũng như vậy

Quyết sẽ được thành Phật,

Trong tất cả thế-gian

Rất tôn không còn trên

Phật-đạo chẳng thể bàn

Phương-tiện tùy-nghi nói

Ta bao nhiêu nghiệp-phước

Ðời nay hoặc quá-khứ

Và công-đức thấy Phật.

Trọn hồi-hướng Phật-đạo.

11.- Bấy giờ, Xá-Lợi-Phất bạch rằng: 'Thế-Tôn! con nay không còn nghi hối, tự mình ở trước Phật được thụ-ký thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác. Các vị tâm tự-tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu-học, Phật thường dạy rằng: 'Pháp của ta hay lìa sinh, già, bệnh, chết rốt-ráo Niết-bàn'. Các vị hữu-học vô-học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không v.v... nói là được Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế-Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi-lầm. Hay thay Thế-Tôn! Xin Phật vì bốn-chúng nói nhân-duyên đó, khiến lìa lòng nghi-hối.'

12.- Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: Ta trước đâu không nói rằng: 'Các Phật Thế-Tôn dùng các món nhân-duyên lời lẽ thí-dụ phương-tiện mà nói pháp đều là vô-thượng chính-đẳng chính-giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy Bồ-tát vậy. Nhưng Xá-Lợi-Phất! Nay ta sẽ dùng một thí-dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó, những người có trí do thí-dụ mà được hiểu.'

13.- Xá-Lợi-Phất! Như trong quốc ấp, tụ-lạc có vị Ðại Trưởng-giả tuổi đã già suy, của giầu vô-lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông; hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.

Các người con của Trưởng-giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó.

14.- Trưởng-giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ-sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an-ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ-sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.

Xá-Lợi-Phất! Ông Trưởng-giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghe đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.

Nhà này đã bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: 'Các con mau ra!' Cha dầu thương-xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ-sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? gì là nhà? thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.

15.- Bấy giờ, Trưởng-giả liền nghĩ nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không ra liền chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương-tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.

Cha biết các con đều vẫn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có, chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: 'Ðây này là những món ít có khó được mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn-năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây tùy ý các con muốn, cha đều sẽ cho các con'.

Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình nên lòng mỗi người đều mạnh-mẽ xô đẩy lẫn nhau cùng đua nhau ruổi chạy tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng-giả thấy các con được an-ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư nơi đất trống không còn bị chướng-ngại, tâm ông thơ-thới vui mừng hớn-hở.

Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: 'Cha lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho.'

16.- Xá-Lợi-Phất! Khi đó Trưởng-giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan-can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch thân hình mập đẹp, có sức rất mạnh bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi-tớ để hầu-hạ đó.

Vì cớ sao? Vì ông Trưởng-giả đó của giàu vô-lượng, các thứ kho-tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: 'Của cải của ta nhiều vô-cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên-lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô-lượng nên lấy lòng bình-đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác.'

Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy các người con đều ngồi xe lớn được điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.

17.- Xá-Lợi-Phất! Ý của ông nghĩ sao? Ông Trưởng-giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư-vọng chăng? Xá-Lợi-Phất thưa: 'Thưa Thế-Tôn! Không, ông Trưởng giả chỉ làm cho các con được khỏi nạn lửa, toàn thân mệnh chúng nó chẳng phải là hư-vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mệnh bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương-tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

Thế-Tôn! Dầu ông Trưởng-giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư-vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng-giả đó trước có nghĩ như vầy: Ta dùng trước phương-tiện cho các con được ra khỏi, vì nhân-duyên đó nên không hư-vọng vậy. Huống gì ông Trưởng-giả tự biết mình của giầu vô-lượng muốn lợi-ích các con mà đồng cho xe lớn!'

18.- Phật bảo ngài Xá-Lợi-Phất: 'Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá-Lợi-Phất! Như-Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế-gian, ở nơi các sự sợ-hãi suy-não lo buồn vô-minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô-lượng tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy; có sức đại thần-thông cùng sức trí-tuệ đầy-đủ các món phương-tiện. Trí-tuệ Ba-la-mật, đại-từ đại-bi thường không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam-giới cũ mục này, để độ chúng-sinh ra khỏi nạn lửa; sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ-não, ngu-si tối-tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng-sinh được vô-thượng chính-đẳng chính-giác.

19.- Ta thấy, các chúng-sinh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ-não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục (9) tài lợi mà bị các điều thống-khổ. Lại vì tham mê đeo đuổi tìm cầu nên hiện đời thụ các điều khổ, đời sau thụ khổ địa-ngục, súc-sinh, ngã-quỉ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn-khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế chúng-sinh chìm trong đó vui-vẻ dạo chơi, chẳng hay biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh lòng nhàm không cầu giải-thoát; ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.

20.- Xá-Lợi-Phất! Ðức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng-sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô-lượng vô-biên món trí-tuệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.

Xá-Lợi-Phất! Ðức Như-Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần-thông cùng sức trí-tuệ bỏ chước phương-tiện, mà vì chúng-sanh khen-ngợi các món tri-kiến, trí-lực, vô-sở-úy của Như-Lai, ắt chúng-sinh chẳng có thể do đó mà được độ thoát.

Vì sao? Vì các chúng-sinh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu-đốt trong nhà lửa tam-giới, làm sao có thể hiểu được trí-tuệ của Phật.

21.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân-cần phương-tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, rồi sau đều cho xe trân báu lớn.

Ðức Như-Lai cũng lại như thế, dầu có trí-lực cùng sức vô-úy (10) mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí-tuệ phương-tiện nơi nhà lửa tam-giới cứu vớt chúng-sinh, vì chúng-sinh nói ba-thừa Thanh-văn, Duyên-giác cùng Phật-thừa mà bảo rằng: 'Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam-giới, chớ có ham mê các món sắc, thanh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sinh ái-nhiễm thời sẽ bị nó đốt; các ngươi mau ra khỏi ba cõi sẽ được chứng ba-thừa: Thanh-văn, Duyên-giác và Phật-thừa.

Nay ta vì các người mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các người chỉ nên siêng-năng tinh-tấn tu hành'. Ðức Như-Lai dùng phương-tiện ấy để dụ dẫn chúng-sinh thẳng đến, lại bảo: 'Các ngươi nên biết rằng pháp ba-thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen-ngợi, là pháp tự-tại không bị ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi, thánh-đạo (11), thuyền-định vô-lậu cùng giải-thoát tam-muội v.v... để tự vui sướng, được vô-lượng sự an-ổn khoái-lạc.

22.- Xá-Lợi-Phất! nếu có chúng-sanh nào bề trong có trí-tính, theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh-tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh-văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng-sanh nào theo đức Thế-Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh-tấn, cầu trí-tuệ tự-nhiên ưa thích riêng lẻ vắng-lặng, sâu rõ nhơn-duyên của các pháp, gọi đó là Duyên-giác-thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.

Nếu có chúng-sanh nào theo đức Phật Thế-Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh-tấn cầu nhất-thiết-trí, Phật-trí, tự-nhiên-trí, vô-sư-trí, các món tri-kiến-lực, vô-úy của Như-Lai, có lòng thương xót làm an-vui cho vô-lượng chúng-sanh, lợi-ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Ðại-thừa, Bồ-tát vì cầu được thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.

23.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả kia thấy các con được an-ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô-úy, ông tự nghĩ, ta của giầu vô-lượng, nên bình-đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Ðức Như-Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng-sinh, nếu thấy có vô-lượng nghìn ức chúng-sinh do cửa Phật-giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi được sự vui Niết-Bàn.

Bấy giờ, đức Như-Lai bèn nghĩ: 'Ta có vô-lượng vô-biên trí-tuệ, lực vô-úy v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng-sinh này đều là con của ta đồng ban cho pháp đại-thừa, chẳng để có người được diệt-độ riêng, đều đem pháp diệt-độ của Như-Lai mà cho chúng-sinh nó diệt-độ.

Những chúng-sinh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thuyền-định, giải-thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen-ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất.

24.- Xá-Lợi-Phất! Như ông Trưởng-giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn vật báu trang-nghiêm an-ổn thứ nhất, song ông Trưởng-giả kia không có lỗi hư-dối. Ðức Như-Lai cũng như thế, không có hư-dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng-sanh sau rồi chỉ dùng đại-thừa mà độ giải-thoát đó.

Vì sao? Như-Lai có vô-lượng tạng pháp trí-tuệ, lực, vô sở-úy, có thể ban pháp đại-thừa cho tất cả chúng-sanh, chỉ vì chúng-sanh không thụ được hết.

Xá-Lợi-Phất! Vì nhân-duyên đó nên phải biết các đức Như-Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật-thừa phân-biệt nói thành ba.

Ðức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

25.- Thí như ông Trưởng-giả

Có một căn nhà rất lớn

Nhà đó đã lâu cũ

Mà lại rất xấu xa,

Phòng nhà vừa cao nguy

Gốc cột lại gẫy mục

Trính xiêng đều xiêu vẹo

Nền móng đã nát rã,

Vách phên đều sụp đổ

Ðất bùn rơi rớt xuống,

Tranh lợp sa tán loạn

Kèo đòn tay rời khớp,

Bốn bề đều cong vạy

Khắp đầy những tạp nhơ,

Có đến năm trăm người

Ở đỗ nơi trong đó.

Chim xi, hiêu, điêu, thứu,

Quạ chim thước, cưu, cáp

Loài ngoan-xà, phúc-yết,

Giống ngô-công, do-diên,

Loài thủ-cung, bá-túc

Dứu, ly-cùng hề-thử

Các giống độc trùng dữ

Ngang dọc xen ruổi chạy,

Chỗ phẩn giải hôi thối.

Ðồ bất tịnh chảy tràn

Các loài trùng khương-lương

Bu nhóm ở trên đó,

Cáo, sói cùng dã-can

Liếm nhai và dày đạp

Cắn xé những thây chết

Xương thịt bừa bãi ra,

Do đây mà bầy chó

Ðua nhau đến ngoạm lấy,

Ốm đói và sợ-sệt

Nơi nơi tìm món ăn

Giành giựt cấu xé nhau

Gầm-gừ gào sủa rên,

Nhà đó sự đáng sợ

Những biến trạng đường ấy.

Khắp chỗ đều có những

Quỉ, lỵ, mị, vọng, lượng

Quỉ Dạ-xoa quỉ dữ

Nuốt ăn cả thịt người,

Các loài trùng độc dữ

Những cầm thú hung-ác

Ấp, cho bú sản sanh

Ðều tự giấu gìn giữ

Quỉ Dạ-xoa đua đến

Giành bắt mà ăn đó,

Ăn đó no nê rồi

Lòng hung-dữ thêm hăng

Tiếng chúng đánh cãi nhau

Thật rất đáng lo sợ.

Những quỉ Cưu-bàn-trà

Ngồi xổm trên đống đất

Hoặc có lúc hỏng đất

Một thước hay hai thước

Qua rồi lại, dạo đi

Buông lung chơi cùng giỡn

Nắm hai chân của chó

Ðánh cho la thất-thanh

Lấy chân đạp trên cổ

Khủng-bố chó để vui.

Lại có các giống quỉ

Thân nó rất cao lớn

Trần truồng thân đen xấu

Thường ở luôn trong đó

Rền tiếng hung ác lớn

Kêu la tìm món ăn

Lại có các giống quỉ

Cổ nó nhỏ bằng kim,

Lại có các giống quỉ

Ðầu nó như đầu trâu

Hoặc là ăn thịt người

Hoặc là ăn thịt chó,

Ðầu tóc rối tung lên

Rất ác lại hung hiểm,

Bị đói khát bức ngặt

Kêu la vừa rong chậy

Dạ-xoa cùng quỉ đói

Các chim muông ác độc

Ðói gấp rảo bốn bề

Rình xem các cửa sổ

Các nạn dường thế đấy

Vô-lượng việc ghê sợ (12)

26.- Nhà cũ mục trên đó

Thuộc ở nơi một người

Người ấy vừa mới ra

Thời-gian chưa bao lâu

Rồi sau nhà cửa đó

Bỗng nhiên lửa cháy đỏ

Ðồng một lúc bốn bề

Ngọn lửa đều hừng hực,

Rường cột và trính-xiêng

Tiếng tách nổ vang-động

Nát gẫy rơi rớt xuống

Vách phên đều lở ngã,

Các loại quỉ thần thảy

Ðồng cất tiếng kêu to,

Các giống chim điêu, thứu

Quỉ Cưu-bàn-trà thảy

Kinh sợ chạy sảng-sốt

Vẫn không tự ra được,

Thú dữ loài trùng độc

Chui núp trong lỗ hang

Các quỉ Tỳ-xá-xà

Cũng ở trong hang đó

Vì phước đức kém vậy

Bị lửa đến đốt bức

Lại tàn hại lẫn nhau

Uống máu ăn thịt nhau.

Những loại thú dã-can

Thời đều đã chết trước

Các giống thú dữ lớn

Giành đua đến ăn nuốt.

Khói tanh bay phùn-phụt

Phủ khắp bít bốn bề,

Loài ngô-công, do-diên

Cùng với rắn hung độc

Bị lửa lòn đốt cháy

Tranh nhau chạy khỏi hang

Quỉ Bàn-trà rình chờ

Liền bắt lấy mà ăn.

Lại có các ngã-quỉ

Trên đầu lửa bực cháy

Ðói khát rất nóng khổ

Sảng-sốt chạy quàng lên,

Nhà lửa đó dường ấy

Rất đáng nên ghê sợ

Ðộc hại cùng tai lửa

Các nạn chẳng phải một.

27.- Lúc bấy giờ chủ nhà

Ðứng ở nơi ngoài cửa

Nghe có người mách rằng:

Các người con của ông

Trước đây vì dạo chơi

Mà đến vào nhà này

Thơ bé không hiểu biết

Chỉ vui ham ưa đắm.

Trưởng-giả vừa nghe xong

Kinh sợ vào nhà lửa

Tìm phương-nghi cứu-tế

Cho con khỏi thiêu-hại

Mà dụ bảo các con

Nói rõ các hoạn-nạn:

Nào ác quỉ độc trùng

Hỏa tai lan-tràn cháy

Các sự khổ thứ lớp

Nối luôn không hề dứt

Loài độc xà, ngươn phúc

Và các quỉ Dạ-xoa

Cùng quỉ Cưu-bàn-trà

Những dã-can, chồn, chó

Chim điêu, thứu xi, hiêu

Lại giống bá túc thảy

Ðều đói khát khổ gấp

Rất đáng phải ghê sợ

Chỗ khổ-nạn như thế

Huống lại là lửa lớn.

Các con nhỏ không hiểu

Dầu có nghe cha dạy

Cứ vẫn còn ham ưa

Vui chơi mãi không thôi.

28.- Bấy giờ trưởng-giả kia

Mới bèn nghĩ thế này:

Các con như thế đó

Làm ta thêm sầu não.

Nay trong nhà lửa này

Không một việc đáng vui

Mà các con ngây dại

Vẫn ham mê vui chơi

Chẳng chịu nghe lời ta

Toan sẽ bị lửa hại.

Ông bèn lại suy-nghĩ

Nên bày các phương-tiện

Bảo với các con rằng:

Cha có rất nhiều thứ

Các đồ chơi trân kỳ

Những xe báu tốt-đẹp

Nào xe dê, xe hươu

Cùng với xe trâu lớn

Hiện để ở ngoài cửa

Các con mau ra đây

Cha chính vì các con

Mà sắm những xe này

Tùy ý các con thích

Có thể để dạo chơi.

Các con nghe cha nói

Các thứ xe như vậy

Tức thời cùng giành đua

Rảo chạy ra khỏi nhà

Ðến nơi khoảng đất trống

Rời những sự khổ-nạn

Trưởng-giả thấy các con

Ðược ra khỏi nhà lửa

Ở nơi ngã tư đường

Ðều ngồi tòa sư-tử

Ông bèn tự mừng rằng

Ta nay rất mừng vui

Những đứa con ta đây

Ðẻ nuôi rất khó lắm

Chúng nhỏ dại không hiểu

Mới lầm và nhà hiểm

Có nhiều loài trùng độc

Quỉ lỵ mị đáng sợ

Lửa lớn cháy hừng-hực

Bốn phía đều phựt lên

Mà các trẻ con này

Lại ham ưa vui chơi

Nay ta đã cứu chúng

Khiến đều được thoát nạn

Vì thế các người ơi!

Ta nay rất vui mừng.

Khi ấy các người con

Biết cha đã ngồi an

Ðều đến bên chỗ cha

Mà thưa cùng cha rằng:

Xin cha cho chúng con

Ba thứ xe báu lạ

Như vừa rồi cha hứa

Các con mau ra đây

Sẽ cho ba thứ xe

Tùy ý các con muốn

Bây giờ chính phải lúc

Xin cha thương cấp cho.

29.- Trưởng-giả giầu có lớn

Kho đụn rất nhiều đầy

Vàng bạc cùng lưu-ly

Xa-cừ ngọc mã-não,

Dùng những món vật báu

Tạo thành các xe lớn

Chưng dọn trang-nghiêm đẹp

Khắp vòng có bao-lơn

Bốn mặt đều treo linh

Dây vàng xen thắt tụi

Lưới mành kết chân-châu

Giăng bày phủ phía trên

Hoa vàng các chuỗi ngọc

Lòng thòng rủ khắp chỗ

Các màu trang sức đẹp

Khắp vòng xây quanh xe

Dùng nhiễu hàng mềm-mại

Ðể làm nệm lót ngồi

Vải quí mịn rất tốt

Giá-trị đến nghìn muôn

Bóng láng trắng sạch-sẽ

Dùng trải trùm trên nệm

Có trâu trắng to lớn

Mập khỏe nhiều sức mạnh

Thân hình rất tươi tốt

Ðể kéo xe báu đó

Ðông những tôi và tớ

Mà chực hầu giữ-gìn

Ðem xe đẹp như thế

Ðồng ban cho các con

Các con lúc bấy giờ

Rất vui mừng hớn-hở

Ngồi trên xe báu đó

Dạo đi khắp bốn phương

Vui chơi nhiều khoái-lạc

Tự-tại không ngăn-ngại.

30.- Bảo Xá-Lợi-Phất này

Ðức Phật cũng như vậy

Tôn cả trong hàng Thánh

Cha lành của trong đời

Tất cả các chúng-sanh

Ðều là con của ta

Say-mê theo thế-lạc

Không có chút tuệ-tâm

Ba cõi hiểm không an

Dường như nhà lửa cháy

Các nạn khổ dẫy-đầy

Rất đáng nên ghê-sợ

Thường có những sanh, già

Bệnh, chết và rầu lo

Các thứ lửa như thế

Cháy hừng chẳng tắt dứt

Ðức Như-Lai đã lìa

Nhà lửa ba-cõi đó

Vắng lặng ở thong-thả

An-ổn trong rừng nội

Hiện nay ba-cõi này

Ðều là của ta cả

Những chúng-sanh trong đó

Cũng là con của ta

Mà nay trong ba-cõi

Có nhiều thứ hoạn-nạn

Chỉ riêng một mình ta

Có thể cứu hộ chúng

Dầu lại đã dạy bảo

Mà vẫn không tin nhận

Vì nơi các dục nhiễm

Rất sanh lòng tham mê

Bởi thế nên phương-tiện

Vì chúng nói ba-thừa

Khiến cho các chúng-sanh

Rõ ba-cõi là khổ

Mở bày cùng diễn nói

Những đạo pháp xuất thế,

Các người con đó thảy

Nếu nơi tâm quyết định

Ðầy đủ ba món minh (13)

Và sáu món thần-thông (14)

Có người được Duyên-Giác

Hoặc bất thối Bồ-tát.

Xá-Lợi-Phất phải biết

Ta vì các chúng-sanh

Dùng món thí-dụ này

Ðể nói một Phật-thừa

Các ông nếu có thể

Tin nhận lời nói đây.

Tất cả người đều sẽ

Chứng thành quả Phật-đạo

31.- Phật-thừa đây vi-diệu

Rất thanh-tịnh thứ nhất

Ở trong các thế-giới

Không còn pháp nào trên

Của các Phật vui ưa,

Tất cả hàng chúng-sanh

Ðều phải nên khen ngợi

Và cúng-dàng lễ bái

Ðủ vô-lượng nghìn ức

Các trí-lực, giải-thoát

Thuyền-định và trí-tuệ

Cùng pháp khác của Phật

Chứng được thừa như thế

Khắp cho các con thảy

Ngày đêm cùng kiếp số

Thường được ngồi dạo chơi

Cho các hàng Bồ-tát

Cùng với chúng Thanh-Văn

Nương nơi thừa báu này

Mà thẳng đến đạo-tràng.

Vì bởi nhân-duyên đó

Tìm kỹ khắp mười-phương

Lại không thừa nào khác

Trừ Phật dùng phương-tiện

Bảo với Xá-Lợi-Phất!

Bọn ông các người thảy

Ðều là con của ta

Ta thời là cha lành.

Các ông trải nhiều kiếp

Bị các sự khổ đốt

Ta đều đã cứu vớt

Cho ra khỏi ba-cõi

Ta dầu ngày trước nói

Các ông được diệt-độ

Nhưng chỉ hết sanh-tử

Mà thực thời chẳng diệt.

Nay việc nên phải làm

Chỉ có trí-tuệ phật.

Nếu có Bồ-tát nào

Ở trong hàng chúng này

Có thể một lòng nghe

Pháp thực của các Phật,

Các đức Phật Thế-Tôn

Dầu dùng chước phương-tiện

Mà chúng-sanh được độ

Ðều là Bồ-tát cả

32.- Nếu có người trí nhỏ

Quá mê nơi ái-dục

Phật bèn vì bọn này

Mà nói lý khổ-đế,

Chúng-sanh nghe lòng mừng

Ðược điều chưa từng có

Ðức Phật nói khổ-đế

Chân thực không sai khác

Nếu lại có chúng-sanh

Không rõ biết gốc khổ

Quá say nơi khổ nhân

Chẳng tạm rời bỏ được

Phật vì hạng người này

Dùng phương-tiện nói dạy

Nguyên nhơn có các khổ

Tham dục là cội gốc

Nếu dứt được tham-dục

Khổ không chỗ nương đỗ

Dứt hết hẳn các khổ

Gọi là đế thứ ba

Vì chứng diệt-đế vậy

Mà tu hành đạo-đế

Lìa hết các khổ phược

Gọi đó là giải-thoát

Người đó nơi pháp gì

Mà nói được giải-thoát?

Chỉ xa rời hy-vọng

Gọi đó là giải-thoát

Kỳ thực chưa phải được

Giải-thoát hẳn tất cả

Ðức Phật nói người đó

Chưa phải thật diệt-độ

Vì người đó chưa được

Ðạo quả vô-thượng vậy.

Ý của ta không muốn

Cho đó đến diệt-độ,

Ta là đấng Pháp-Vương

Tự-tại nơi các Pháp

Vì an-ổn chúng-sinh

Nên hiện ra nơi đời.

Xá-Lợi-Phất phải biết

Pháp-ấn của ta đây

Vì muốn làm lợi-ích

Cho thế-gian nên nói

Tại chỗ ông đi qua

Chớ có vọng tuyên-truyền.

Nếu có người nghe đến

Tùy-hỷ kính nhận lấy

Phải biết rằng người ấy

Là bậc bất-thối-chuyển

Nếu có người tin nhận

Kinh pháp vô-thượng này.

Thời người đó đã từng

Thấy các Phật quá-khứ

Cung-kính và cúng-dàng

Cũng được nghe pháp này.

Nếu người nào có thể

Tin chịu lời ông nói

Thời chính là thấy Ta

Cũng là thấy nơi ông

Cùng các chúng Tỷ-khiêu

Và các hàng Bồ-tát.

33.- Phật vì người trí sâu

nói kinh Pháp-Hoa này

Kẻ thức cạn nghe đến

Mê-lầm không hiểu được.

Tất cả hàng Thanh-Văn

Cùng với Tích-Chi-Phật

Ở trong kinh pháp này

Sức kia không hiểu được.

Chính ông Xá-Lợi-Phất

Hãy còn nơi kinh này

Dùng lòng tin được vào

Huống là Thanh-văn khác.

Bao nhiêu Thanh-Văn khác

Do tin theo lời Phật

Mà tùy thuận kinh này

Chẳng phải trí của mình.

34.- Lại này Xá-Lợi-Phất!

Kẻ kiêu-mạn biếng lười

Vọng so chấp lấy ngã

Chớ vì nói kinh này,

Hạng phàm-phu biết cạn

Quá mê năm món dục

Nghe pháp không hiểu được

Cũng chẳng nên vì nói.

Nếu có người không tin

Khinh hủy chê kinh này

Thời là dứt tất cả

Giống Phật ở thế-gian.

Nếu có người sịu mặt

Mà cưu lòng nghi-hoặc

Ông nên lóng nghe nói

Tội báo của người đó

Hoặc Phật còn tại-thế

Hoặc sau khi diệt-độ

Nếu có người chê bai

Kinh điển như thế này

Thấy có người đọc tụng

Biên chép thụ trì kinh

Rồi khinh tiện ghét ghen

Mà cưu lòng kết hờn

Tội báo của người đó

Ông nay lại lóng nghe.

Người đó khi mệnh-chung

Sa vào ngục A-tỳ

Ðầy đủ một kiếp chẵn

Kiếp mãn hết lại sinh

Cứ xoay vần như thế

Nhẫn đến vô-số kiếp.

Từ trong địa-ngục ra

Sẽ đọa vào súc-sinh,

Hoặc làm chó, dã-can

Thân-thể nó ốm gầy

Ðen điu thêm ghẻ lác

Bị người thường chọc ghẹo

Lại còn phải bị người

Gớm nhờm và ghét-rẻ

Thường ngày đói khát khổ

Xương thịt đều khô-khan,

Lúc sống chịu khổ sở

Chết bị ném ngói đá

Vì đoạn mất giống Phật

Nên thụ tội báo đó

Hoặc sinh làm lạc-đà

Hoặc sinh vào loài lừa

Thân thường mang kéo nặng

Lại thêm bị đánh đập

Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ

Ngoài ra không biết gì

Vì khinh chê kinh này

Mà mắc tội như vậy

Có khi làm dã-can

Ði vào trong xóm làng

Thân-thể đầy ghẻ lác

Lại chột hết một mắt

Bị bọn trẻ nhỏ vây

Theo đánh đập liệng ném

Chịu nhiều các đau khổ

Hoặc có lúc phải chết

Ở đây vừa chết rồi

Liền lại thụ thân rắn

Thân thể nó dài lớn

Ðến năm trăm do-tuần

Ðiếc ngây và không chân

Lăn lóc đi bằng bụng

Bị các loài trùng nhỏ

Cắn rúc ăn thịt máu

Bị khổ cả ngày đêm

Không tạm có ngừng nghỉ

Vì khinh chê kinh này

Mà mắc tội như vậy.

Nếu được sinh làm người

Các căn đều ám độn

Lùn xấu lại lệch què

Ðui điếc thêm lưng gù

Có nói ra lời gì

Mọi người không tin nhận

Hơi miệng thường hôi thối

Bị quỉ mỵ dựa nhập

Nghèo cùng rất hèn hạ

Bị người sai khiến luôn,

Nhiều bệnh thân ốm gầy

Không có chỗ cậy nhờ

Dù nương gần với người

Mà người chẳng để ý

Nếu có được điều chi

Thời liền lại quên mất,

Nếu học qua nghề thuốc

Theo đúng phép trị bịnh

Mà bệnh người nặng thêm

Hoặc có khi đến chết,

Nếu tự mình có bệnh

Không người chữa lành được

Dù có uống thuốc hay

Mà bệnh càng thêm nặng,

Hoặc người khác phản-nghịch

Cướp giật trộm lấy của

Các tội dường thế đó

Lại tự mang vạ lây.

Những người tội như đây

Trọn không thấy được Phật

Là vua trong hàng Thánh

Thường nói pháp giáo-hóa

Những người tội như đây

Thường sinh chỗ hoạn-nạn

Tâm cuồng-loạn, tai điếc

Trọn không nghe pháp được,

Trải qua vô-số kiếp

Như số cát sông Hằng

Sinh ra liền điếc câm

Các căn chẳng đầy đủ

Thường ở trong địa-ngục

Như dạo chơi vườn nhà,

Ở tại các đạo khác

Như ở nhà cửa mình

Lạc-đà, lừa, lợn, chó

Là chỗ kia thường đi

Vì khinh chê kinh này

Mắc tội dường thế đó.

Nếu được sinh làm người

Ðiếc, đui lại câm, ngọng

Nghèo cùng các tướng suy

Dùng đó tự trang-nghiêm.

Sưng bủng bệnh khô khát

Ghẻ, lác, cùng ung-thư

Các bệnh như trên đó

Dùng làm y-phục mặc,

Thân-thể thường hôi-hám

Nhơ-nhớp không hề sạch

Lòng chấp ngã sâu chặt

Thêm nhiều tính giận-hờn

Tình dâm-dục hẫy hừng

Ðến chẳng chừa cầm-thú,

Vì khinh chê kinh này

Mắc tội dường thế đó.

35.- Bảo cho Xá-Lợi-Phất!

Người khinh-chê kinh này

Nếu kể nói tội kia

Cùng kiếp cũng chẳng hết

Vì bởi nhân-duyên đó

Ta vẫn bảo các ông

Trong nhóm người vô-trí

Chớ nên nói kinh này

Nếu có người lợi-căn

Sức trí-tuệ sáng-láng

Học rộng và nhớ dai

Lòng mong cầu Phật-đạo

Những hạng người như thế

Mới nên vì đó nói

Nếu có người đã từng

Thấy trăm nghìn ức Phật

Trồng các cội đức lành

Thâm-tâm rất bền vững

Hạng người được như thế

Mới nên vì đó nói.

Nếu có người tinh-tấn

Thường tu tập lòng từ

Chẳng hề tiếc thân-mệnh

Mới nên vì đó nói

Nếu có người cung-kính

Không có sinh lòng khác

Lìa xa các phàm phu

Ở riêng trong núi chầm

Những hạng người như thế

Mới nên vì đó nói

Lại Xá-Lợi-Phất này!

Nếu thấy có người nào

Rời bỏ ác tri-thức

Gần-gũi bạn hiền-lành

Người được như thế ấy

Mới nên vì đó nói.

Nếu thấy hàng Phật-tử

Giữ giới hạnh trong sạch

Như minh-châu sáng sạch

Ham cầu kinh đại-thừa

Những người được như thế

Mới nên vì đó nói.

Nếu người không lòng giận

Chắc thực ý dịu-hòa

Thường thương xót mọi loài

Cung-kính các đức Phật

Hạng người tốt như thế

Mới nên vì đó nói.

Lại có hàng Phật-tử

Ở tại trong đại-chúng

Thuần dùng lòng thanh-tịnh

Các món nhân cùng duyên

Thí-dụ và lời lẽ

Nói pháp không chướng-ngại

Những người như thế ấy

Mới nên vì đó nói

Nếu có vị Tỷ-khiêu

Vì cầu nhất-thiết-trí

Khắp bốn phương cầu pháp

Chắp tay cung-kính thụ

Chỉ ưa muốn thụ-trì

Kinh-điển về đại-thừa

Nhẫn đến không hề thụ

Một bài kệ kinh khác

Hạng người được như thế

Mới nên vì đó nói.

Như có người chí tâm

Cầu Xá-Lợi của Phật

Cầu kinh cũng như thế

Ðược rồi đỉnh lễ thụ

Người đó chẳng còn lại

Có lòng cầu Kinh khác

Cũng chưa từng nghĩ tưởng

Ðến sách vở ngoại đạo

Người được như thế ấy

Mới nên vì đó nói.

Bảo cùng Xá-Lợi-Phất!

Ta nói các sự tướng

Của người cầu Phật-đạo

Cùng kiếp cũng chẳng hết

Những người như thế đó

Thời có thể tin hiểu

Ông nên vì họ nói

Kinh Diệu-Pháp Liên-Hoa.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa

Phẩm 'Tín Giải' Thứ Tư

1.- Lúc bấy giờ, các Ngài Tuệ-Mệnh Tu-Bồ-Ðề, Ðại Ca-Chiên-Diên, Ðại Ca-Diếp, Ðại Mục-Kiền-Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Ðức Thế-Tôn dự ghi cho Ngài Xá-Lợi-Phất sẽ thành Vô-lượng chính-đẳng chính-giác, sinh lòng hi-hữu hớn-hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa y-phục trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chấp tay cúi mình cung-kính chiêm-ngưỡng dung-nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng: 'Chúng con ở đầu trong hàng Tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đã được Niết-bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác.'

Ðức Thế-Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi toà thân-thể mỏi-mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: không, vô-tướng, vô-tác, đối với các pháp du-hí thần-thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng-sinh của Bồ-tát, lòng chúng con không ưa thích.

Vì sao? Ðức Thế-Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi được chứng Niết-bàn, lại nay đây chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo vô-thượng chính-đẳng chính-giác của Phật dạy Bồ-tát không hề sinh một niệm ưa thích.

Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thụ-ký cho Thanh-Văn sẽ được vô-thượng chính-đẳng chính-giác, lòng rất vui mừng được pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên được pháp hi-hữu, tự rất mừng may được lợi lành lớn, vô-lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự được.

 

2.- Thế-Tôn! chúng con hôm nay xin nói thí-dụ để chỉ rõ nghĩa đó.

Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha chốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm; người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, giong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn-quốc.

Người cha từ trước đến nay, tìm con không được bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giầu lớn của báu vô-lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu-ly, san-hô, hổ-phách, pha-lê, châu v.v... thảy đều đầy tràn; tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ bò dê nhiều vô-số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.

Bấy giờ, gã nghèo kia dạo đến các tụ-lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.

Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thời của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân-cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp được con ủy-phó của cải, thản nhiên khoái-lạc không còn sầu lo.

3.- Thưa Thế-Tôn! Bấy giờ gã cùng-tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư-tử, ghế báu đỡ chân, các hàng Bà-la-môn, sát-đế-lợi, cư-sĩ đều cung-kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuổi ngọc chân-châu giá trị nghìn vạn để trang-nghiêm, kẻ lại-dân tôi-tớ tay cầm phất-trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy, cho v.v... có các sự nghiêm sức dường ấy, uy-đức rất tôn-trọng.

Gã cùng-tử thấy cha có thế lực lớn liền sanh lòng lo sợ, hối-hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: 'Ông này chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải là chỗ của ta làm thuê mướn được tiền vật.

Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức dễ được đồ mặc vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm'. Gã nghĩ như thế rồi, liền chạy mau đi thẳng.

4.- Khi đó, ông Trưởng-giả ngồi nơi tòa sư-tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng mà tự nghĩ rằng: 'Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp được, nay bỗng nó tự đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già có vẫn tham tiếc'. Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.

Lúc ấy, kẻ sứ-giả chạy mau qua bắt, gã cùng-tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: 'Tôi không hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt?' Kẻ sứ-giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng-tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ-sệt mê ngất ngã xuống đất.

Người cha xa thấy vậy bèn nói với kẻ sứ-giả rằng: 'Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới trên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói chi với nó'.

Vì sao? Cha biết con mình chí ý hạ-liệt, tự biết mình giầu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương-tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ-giả nói với cùng-tử: 'Nay ta thả ngươi đi đâu tùy ý'.

Gã cùng-tử vui mừng được điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.

5.- Bấy giờ ông Trưởng-giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương-tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tụy không có uy-đức: 'Hai người nên qua xóm kia từ từ nói với gã cùng-tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng-tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì? Thời nên nói với nó rằng: 'Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm.' Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng-tử, rồi thuật đủ việc như trên.

5.- Bấy giờ gã cùng-tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm-o tiều-tụy, phân đất bụi-bặm dơ-dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn-màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: 'Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!' Dùng phương-tiện đó được đến gần người con.

Lúc sau lại bảo con rằng: 'Gã nam-tử này! Ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi; những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, ngươi chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo'.

Vì sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không lòng dối khi trễ nải giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng-giả lại đặt tên cho cùng-tử gọi đó là 'con'.

Khi đó gã cùng-tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn tự cho mình là khách, là người làm công hèn, vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.

7.- Thế-Tôn! Bấy giờ Trưởng-giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng-tử rằng: 'Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân, báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta.

Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác, nên gắng dụng tâm chớ để sót mất'.

Khi ấy cùng-tử liền nhận lời bảo-lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân, báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ-liệt cũng chưa bỏ được.

8.- Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông-thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Ðến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc-vương, quan đại-thần, dòng sát-lợi, hàng cư-sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: 'Các ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sinh ra, ngày trước trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nổi trôi khổ sở, hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở tại thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp được nó. Nó thực là con ta, ta thực là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết.'

Thế-Tôn! Khi đó gả cùng-tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: 'Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến'.

9.- Thế-Tôn! Ông phú Trưởng-giả đó là đức Như-Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Ðức Như-Lai thường nói chúng con là con.

Thưa Thế-Tôn! Chúng con vì ba món khổ (16) nên ở trong sinh-tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu-thừa. Ngày nay đức Thế-Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hí-luận (17). Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh-tấn được đến Niết-bàn, cái giá một ngày. Ðã được đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật; do siêng-năng tinh-tấn nên chỗ được rộng nhiều.

Nhưng đức Thế-Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu-thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì phân-biệt rằng: Các ông sẽ có phần bảo tàng tri-kiến của Như-Lai.

Ðức Thế-Tôn dùng sức phương-tiện nói bày trí-tuệ của Như-Lai. Chúng con theo Phật được giá Niết-bàn một ngày, cho là nhiều rồi, đối với pháp đại-thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhân trí tuệ của Phật, vì các vị Bồ-tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.

Vì sao? Ðức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu-thừa, nên dùng sức phương-tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thực là Phật-tử. Ngày nay chúng con mới biết đức Thế-Tôn ở nơi trí-tuệ của Phật không có lẫn tiếc.

Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thực là Phật-tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu-thừa, nếu chúng con có tâm ham đại-thừa, thời Phật vì chúng con mà nói pháp đại-thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp nhất-thừa. Lúc xưa đức Phật ở trước Bồ-tát chê trách Thanh-Văn ham pháp tiểu-thừa.

Nhưng đức Phật thực dùng đại-thừa để giáo-hóa, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp-vương tự-nhiên đến, như chỗ nên được của Phật-tử đều đã được có.

Bấy giờ ngài Ma-ha Ca-Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

10.- Chúng con ngày hôm nay

Nghe âm-giáo của Phật

Lòng hớn-hở mừng rỡ

Ðược pháp chưa từng có.

Phật nói hàng Thanh-Văn

Sẽ được thành quả Phật

Ðống châu báu vô-thượng

Chẳng cầu tự-nhiên được.

Ví như gã đồng-tử

Thơ bé không hiểu biết

Bỏ cha trốn chạy đi

Ðến cõi nước xa khác

Nổi trôi khắp nước ngoài

Hơn năm mươi năm dài

Cha gã lòng buồn nhớ

Kiếm tìm khắp bốn phương

Kiếm tìm đó đã mỏi

Liền ở lại một thành

Xây dựng nên nhà cửa

Năm món dục tự vui.

Nhà ông giầu có lớn

Nhiều những kho vàng, bạc

Xa-cừ, ngọc mã-não

Chân châu, ngọc lưu-ly

Voi ngựa cùng trâu dê

Kiệu, cán đủ xe cộ

Ruộng đất và tôi tớ

Nhân dân rất đông nhiều

Xuất nhập thâu lời lãi

Bèn khắp đến nước khác

Khách thương người buôn bán

Không xứ nào không có,

Nghìn muôn ức chúng hội

Vây quanh cung kính ông,

Thường được bậc vua chúa

Mến yêu nhớ tưởng đến,

Các quan, hạng hào tộc

Ðều cũng đồng tôn trọng

Vì có các sự duyên

Người tới lui rất đông,

Giầu mạnh như thế đó

Có thế lực rất lớn

Mà tuổi đã già nua

Lại càng buồn nhớ con

Ngày đêm luống suy nghĩ

Giờ chết toan sắp đến

Con thơ dại bỏ ta

Hơn năm mươi năm tròn,

Các của vật kho tàng

Sẽ phải làm thế nào?

11.- Bấy giờ gã cùng-tử

Ði tìm cầu ăn mặc

Ấp này đến ấp khác

Nước này sang nước nọ,

Hoặc có khi được của

Hoặc có khi không được,

Ðói thiếu hình gầy gò

Thân-thể sanh ghẻ lác.

Lần lựa đi trải qua

Ðến thành cha gã ở

Xoay vần làm thuê mướn

Bèn đến trước nhà cha.

Lúc ấy ông Trưởng-giả

Ðang ở trong nhà ông

Giăng màn châu báu lớn

Ngồi tòa sư-tử cao

Hàng quyến thuộc vây quanh

Ðông người đứng hầu hạ,

Hoặc có người tính toán

Vàng, bạc, cùng vật báu

Của cải ra hoặc vào

Biên chép ghi giấy tờ.

Gã cùng-tử thấy cha

Quá mạnh giầu tôn nghiêm

Cho là vị quốc-vương

Hoặc là đồng bậc vua,

Kinh sợ tự trách thầm

Tại sao lại đến đây?

Lại thầm tự nghĩ rằng:

Nếu ta đứng đây lâu

Hoặc sẽ bị bức ngặt

Ép buộc sai khiến làm.

Suy-nghĩ thế đó rồi

Rảo chạy mà đi thẳng

Hỏi thăm xóm nghèo-nàn

Muốn qua làm thuê mướn.

12.- Lúc bấy giờ Trưởng-giả

Ngồi trên tòa sư-tử

Xa trông thấy con mình

Thầm lặng mà ghi nhớ,

Ông liền bảo kẻ sứ

Ðuổi theo bắt đem về.

Gã cùng-tử sợ kêu

Mê ngất ngã trên đất

Người này theo bắt tôi

Chắc sẽ bị giết chết

Cần gì đồ ăn mặc

Khiến tôi đến thế này!

Trưởng-giả biết con mình

Ngu dại lòng hẹp hèn

Chẳng chịu tin lời ta

Chẳng tin ta là cha

Ông liền dùng phương-tiện

Lại sai hai người khác

Mắt chột, thân lùn xấu

Hạng không có uy-đức!

Các người nên bảo nó

Rằng ta sẽ thuê nó

Hốt dọn các phân nhơ

Trả giá bội cho nó.

Gã cùng-tử nghe rồi

Vui mừng theo sứ về

Vì dọn các phân nhơ

Sạch sẽ các phòng nhà

Trưởng-giả trong cửa sổ

Thường ngó thấy con mình

Nghĩ con mình ngu dại

Ưa thích làm việc hèn.

Lúc đó ông Trưởng-giả

Mặc y-phục cũ rách

Tay cầm đồ hốt phân

Qua đến chỗ con làm

Phương-tiện lần gần-gũi

Bảo-rằng: rán siêng làm!

Ðã thêm giá cho ngươi

Và cho dầu thoa chân

Ðồ ăn uống đầy đủ

Thêm đệm chiếu đầy ấm

Cặn kẽ nói thế này:

Ngươi nên siêng làm việc!

Rồi lại dịu-dàng bảo

Như con thực của ta.

13.- Ông Trưởng-giả có trí

Lần lần cho ra vào

Trải qua hai mươi năm

Coi sóc việc trong nhà,

Chỉ cho biết vàng, bạc,

Ngọc trân-châu, pha-lê

Các vật ra hoặc vào

Ðều khiến gã biết rõ.

Gã vẫn ở ngoài cửa

Nương-náu nơi am tranh

Tự nghĩ phận nghèo-nàn

Ta không có vật đó.

Cha biết lòng con mình

Lần lần đã rộng lớn

Muốn giao tài vật cho

Liền nhóm cả thân-tộc

Quốc-vương các đại-thần

Hàng Sát-Lợi, cư-sĩ

Rồi ở trong chúng này

Tuyên nói chính con ta

Bỏ ta đi nước khác

Trải hơn năm mươi năm,

Từ gặp con đến nay

Ðã hai mươi năm rồi

Ngày trước ở thành kia

Mà mất đứa con này

Ta đi tìm khắp nơi

Bèn đến ngụ nơi đây

Phàm của-cải ta có

Nhà cửa cùng nhân-dân

Thảy đều phó cho nó

Mặc tình nó tiêu dùng.

Người con nhớ xưa nghèo

Chí ý rất kém hèn

Nay ở nơi cha mình

Ðược quá nhiều châu-báu

Và cùng với nhà cửa

Gồm tất cả tài vật,

Lòng rất đỗi vui mừng

Ðược điều chưa từng có.

14.- Ðức Phật cũng như thế

Biết con ưa tiểu-thừa

Nên chưa từng nói rằng

Các ngươi sẽ thành Phật

Mà chỉ nói chúng con

Ðược có đức vô-lậu

Trọn nên quả tiểu-thừa

Hàng Thanh-Văn đệ-tử

Ðức Phật bảo chúng con

Nói đạo pháp tối-thượng

Người tu-tập pháp này

Sẽ được thành Phật quả

Chúng con vâng lời Phật

Vì các Bồ-Tát lớn

Dùng các món nhân-duyên

Cùng các món thí dụ

Bao nhiêu lời-lẽ hay

Ðể nói đạo Vô-thượng.

Các hàng Phật-tử thảy

Từ nơi con nghe pháp

Ngày đêm thường suy-gẫm

Tinh-tấn siêng tu-tập.

Bấy-giờ các đức Phật

Liền thụ-ký cho kia:

Các ông ở đời sau

Sẽ được thành Phật-đạo.

Pháp mầu rất bí tàng

Của tất cả các Phật

Chỉ để vì Bồ-tát

Mà dạy việc thực đó,

Nhưng chẳng vì chúng con

Nói pháp chân yếu này

Như gã cùng-tử kia

Ðược gần bên người cha

Dầu lãnh biết các vật

Nhưng lòng chẳng mong cầu,

Chúng con dầu diễn nói

Tạng pháp báu của Phật

Tự mình không chí-nguyện

Cũng lại như thế đó.

15.- Chúng con diệt bề trong (18)

Tự cho là đã đủ

Chỉ xong được việc này

Lại không biết việc khác.

Chúng con dầu có nghe

Pháp tịnh cõi nước Phật

Cùng giáo-hóa chúng-sinh

Ðều không lòng ưa vui.

Như thế là vì sao?

Vì tất cả các pháp

Thảy đều là không lặng

Không sinh cũng không diệt

Không lớn cũng không nhỏ

Vô-lậu và vô-vi,

Suy nghĩ thế đó rồi

Chẳng sinh lòng ưa muốn.

Chúng con đã từ lâu

Ðối với trí-huệ Phật

Không tham không ưa thích

Không lại có chí-nguyện,

Mà đối với pháp mình

Cho đó là rốt-ráo.

Chúng con từ lâu nay

Chuyên tu-tập pháp không

Ðược thoát khỏi hoạn-nạn

Khổ não của ba cõi

Trụ trong thân rốt sau

Hữu-dư-y Niết-bàn (19)

Ðức Phật dạy bảo ra

Chứng được đạo chẳng luống

Thời là đã có thể

Báo được ơn của Phật.

Chúng con dầu lại vì

Các hàng Phật-tử thảy

Tuyên nói pháp Bồ-tát

Ðể cầu chứng Phật-đạo

Mà mình đối pháp đó

Trọn không lòng ham muốn

Ðấng Ðạo-sư buông bỏ

Vì xem biết lòng con

Ban đầu không khuyên gắng

Nói những lời có thực

Như ông Trưởng-giả giầu

Biết con chí kém hèn

Bèn dùng sức phương-tiện

Ðể hoà phục tâm con

Vậy sau mới giao phó

Tất cả tài vật báu

Ðức Phật cũng thế đó

Hiện ra việc ít có

Biết con ưa tiểu-thừa

Bèn dùng sức phương-tiện

Ðiều phục tâm của con

Rồi mới dạy trí lớn.

Chúng con ngày hôm nay

Ðược pháp chưa từng có

Chẳng phải chỗ trước mong

Mà nay tự-nhiên được

Như gã cùng-tử kia

Ðược vô-lượng của báu

16.- Thế-Tôn! Chúng con nay

Ðược đạo và chứng quả

Ở nơi pháp vô-lậu

Ðược tuệ-nhãn thanh-tịnh

Chúng con từ lâu nay

Gìn tịnh-giới Phật chế

Mới ở ngày hôm nay

Ðược hưởng quả báo đó,

Trong pháp của Pháp-Vương

Lâu tu-hành phạm-hạnh

Ngày nay được vô-lậu

Quả báo lớn vô-thượng

Chúng con ngày hôm nay

Mới thực là Thanh-văn

Ðem tiếng đạo của Phật

Cho tất cả đều nghe

Chúng con ngày hôm nay

Thực là A-La-Hán

Ở nơi các thế-gian

Trời, người và ma, phạm,

Khắp ở trong chúng đó

Ðáng lãnh của cúng-dàng

Ơn lớn của Thế-Tôn

Ðem việc ít có này

Thương xót dạy bảo cho

Làm lợi-ích chúng con

Trải vô-lượng ức kiếp

Ai có thể đền được.

Tay lẫn chân cung cấp

Ðầu đỉnh lễ cung-kính

Tất cả đều cúng-dàng

Ðều không thể đền được.

Hoặc dùng đầu đội Phật

Hai vai cùng cõng vác

Trong kiếp số hằng-sa

Tận tâm mà cung-kính,

Lại đem dưng đồ ngon

Y phục báu vô-lượng

Và các thứ đồ nằm

Cùng các món thuốc thang

Gỗ ngưu-đầu chiên-đàn

Và các vật trân-báu

Ðể dựng xây tháp miếu

Y báu lót trên đất

Như các việc trên đây

Ðem dùng cúng-dàng Phật

Trải kiếp số hằng-sa

Cũng không đền đáp được.

Các Phật thật ít có

Ðấng vô-lượng vô-biên

Ðến bất khả tư nghì

Ðủ sức thần-thông lớn,

Bậc vô-lậu vô-vi

Là vua của các Pháp

Hay vì kẻ hạ liệt

Nhẫn việc cao-thượng đó,

Hiện lấy tướng phàm-phu

Tùy cơ nghi dạy nói

Các Phật ở nơi pháp

Ðược sức rất tự-tại

Biết các hàng chúng-sinh

Có những điều ưa muốn

Và chí lực của nó

Theo sức nó kham nhiệm

Dùng vô-lượng thí-dụ

Mà vì chúng nói pháp

Tùy theo các chúng-sinh

Trồng căn lành đời trước

Lại biết đã thành thục

Hay là chưa thành thục

Suy lường những điều đó

Phân biệt biết rõ rồi

Ở nơi đạo nhất-thừa

Tùy cơ nghi nói ba.

____________

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

_________________

QUYỂN THỨ HAI

________

Bậc thượng căn lãnh ngộ, hàng trung hạ nổi nghi, mở quyền bày thực hội ba thời. Pháp mầu tuyệt sự nói suy, của báu không riêng tư, toàn giao phó cho con nhà.

Nam-mô Pháp-Hoa Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)

Ðức Như-Lai dụ nói ba cõi làm nhà, ngoài cửa ba cõi bày ba thứ xe, các con đua giành ồn-ào, Trưởng-giả mừng khoe, thụ-ký quả Phật không sai.

Nam-mô Vị-Lai Hoa-Quang Phật. (3 lần)

THÍCH NGHĨA

(1 ) LẬU TẬN: Nhiễm tâm phiền-não đã hết sạch, đồng nghĩa với: 'vô-lậu'.

(2 ) Thân Phật sắc vàng tử-kim đủ 32 tướng tốt.

(3 ) Trí của Phật có 10 lực dụng:

1. Thị-xứ phi-xứ trí-lực,

2. Nghiệp trí-lực,

3. Thuyền-định trí-lực,

4. Căn-tính trí-lực,

5. Nguyện dục trí-lực,

6. Giới trí-lực,

7. Ðạo chí xử trí-lực,

8. Túc-mệnh trí-lực,

9. Thiên-nhãn trí-lực,

10. Lậu-tận trí-lực.

(4 ) BẤT CộNG: Bồ-tát cùng Thanh-văn Duyên-giác đều không có, riêng Phật là có 18 pháp này.

(5 ) BỒ-TÁT: 'Bồ-đề': Giác; 'tát đõa': Hữu-tình; nói tắt là Bồ-tát, tức là bậc đã tự hay giác-ngộ và có thể

cứu độ giác ngộ loài hữu tình.

(6 ) Tức là Bà-la-môn.

(7 ) Tên của Ma-Vương ở đầu cõi dục.

(8 ) NGŨ UẨN: Sắc uẩn, thụ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Cũng gọi là ngũ ấm.

(9 ) NGŨ DụC: 1. Tài (sắc), sắc, danh, thực (sự ăn), thùy (ngủ nghỉ). 2. Sắc, thanh, hương, vị, xúc.

(10) Bốn đức vô-sở-úy của Phật:

1. Nhất-thiết-trí vô-úy,

2. Lậu tận vô-úy,

3. Thuyết đạo vô-úy,

4. Thuyết khổ tận đạo vô-úy.

(11) NĂM CĂN: Tín căn, tinh-tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. NĂM LỰC: tín lực, tinh tấn lực, niệm

lực, định lực, tuệ lực. BẨY GIÁC CHI: Trạch pháp, niệm, tinh tấn, hỉ, khinh an, định, xả. TÁM

CHÍNH ÐẠO: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính niệm, chính

Tinh tấn, chính định.

(12) Súy: Cú tai mèo; Hiêu, Ðiêu, Thứu: Loài chim dữ, tiếng xấu.

THƯỚC: Chim khách.

CƯU: Tu-hú.

CÁP: Bồ câu.

NGOAN-XÀ: Rắn độc.

PHÚC-YẾT: Bò-cạp.

NGÒ-CÒNG: Rít.

DO-DIÊN: Trùng, rận ở trong áo tơi.

DỨU -LY: Chồn, cáo.

H"-THỬ: Giống chuột.

KHƯƠNG-LƯƠNG: Bọ hung.

(13) Thiên-nhãn minh, Túc-mệnh minh, Lậu-tận minh.

(14) Thiên-nhãn thông, thần-túc thông, thiên-nhĩ thông, tha-tâm thông, túc-mệnh thông, lậu-tận thông.

(15) TIN: lòng tin.

(16) Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ.

(17) HÍ-LUẬN: Lời luận nói suông không sự thực, đồng nghĩa với Hư-vọng.

(18) Diệt lòng phiền-não: 1. Kiến sở đoạn 2. Tư sở đoạn.

(19) NIẾT-BÀN: Tịch tịnh; viên tịch, nghĩa là vắng bặt. Còn vọng động phiền-não là còn tạo nghiệp thự báo

sanh-tử. Dứt hẳn vọng động phiền-não khỏi báo sanh-tử yên lặng nhàn vui nên gọi Niết-bàn.

HỮU-DƯ Y: Thân người hiện còn thừa lại rốt sau cả.

SỰ-TÍCH TẢ KINH THOÁT KHỔ

Nhà Ðường, niên-hiệu Long-sóc năm thứ ba, xứ Trường-An, mẹ vợ ông Lưu-Công-Tín chết.

Không bao lâu cô họ Trần, vợ ông Tín, cũng bỗng chết, thần-hồn đi đến một ngục đá, thấy mẹ mình ở trong cửa đá thụ nhiều sự khổ.

Khóc bảo con gái rằng: 'Mau vì mẹ tả một bộ kinh Pháp-Hoa ngõ hầu thoát khỏi tội này'. Nói vừa xong cửa đá liền khép lại.

Cô họ Trần sống lại, thuật chuyện gặp mẹ với chồng. Ông Tín nhờ ông Triệu-Sư-Tử tả kinh, ông Triệu bèn đem một bộ kinh Pháp-Hoa hiện đã thành tả rất tốt giao cho ông Tín sửa sang, mà bộ kinh đó vốn là của một người họ Phạm ra tiền mướn tả, mà ông Tín thực chưa biết cũng tin là ông Triệu tả cho mình.

Không bao lâu, cô họ Trần lại nằm chiêm bao thấy mẹ đòi kinh, cô nói rằng đã tả xong rồi. Mẹ liền khóc rằng: 'Mẹ chính vì bộ kinh đó mà càng bị khổ thêm. Bộ kinh đó vốn là nhà của họ Phạm tu phước, sao lại cướp làm công của mình?' 'Sau khi thức dậy, cô Trần và ông Tín đi hỏi thăm lại, thời quả thực họ Phạm ra hai trăm tả kinh mà chính là bộ trên đó.

Vợ chồng liền thuê người tả một bộ khác để cúng-dàng hồi-hướng công-đức cho mẹ.

Than-ôi! Công-đức tả kinh hay ấn tống lớn biết là dường nào? tội nặng bị khổ ở địa-ngục nhờ người tả một bộ kinh Pháp-Hoa mà còn có đủ phước để thoát khổ huống nữa là mình tự ra công tiền ư!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro