MỤC LỤC

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Lời giới thiệu
Thay lời tựa
Nghi thức tụng niệm
Quyển thứ nhất Sám pháp từ bi đạo tràng
Chương 01: Quy y Tam bảo
Chương 02: Dứt nghi ngờ
Chương 03: Sám hối
Quyển thứ hai
Chương 04: Phát Bồ đề tâm
Chương 05: Phát nguyện
Chương 06: Phát tâm hồi hướng
Quyển thứ ba
Chương 07: Nói rõ quả báo
Quyển thứ
Chương 07: Nói rõ quả báo
Chương 08: Ra khỏi Địa ngục
Quyển thứ năm
Chương 09: Giải oan thích kiết
Quyển thứ sáu
Chương 09b: Giải oan thích kiết
Quyển thứ bảy
Lời thuật khuyến của Sám chủ
Chương 10: Tự vui mừng
Chương 11: Tưởng nhớ ơn Tam bảo
Chương 12: Chủ Sám Lễ tạ Đại chúng
Chương 13: Tổng phát Đại nguyện
Chương 14: Lễ Phật thế các cõi Trời
Chương 15: Lễ Phật thế các vị Tiên
Chương 16: Lễ Phật thế các vị Trời Phạm Vương, Đế Thích...
Quyển thứ tám
Chương 17: Lễ Phật thế A Tu La và hết thảy Thiện thần
Chương 18: Lễ Phật thế các Long Vương
Chương 19: Lễ Phật thế cho Ma vương
Chương 20: Lễ Phật thế cho Nhân đạo, Quốc Vương...
Chương 21: Lễ Phật thế quyến thuộc của Quốc chủ
Chương 22: Lễ Phật thế cha mẹ
Chương 23: Lễ Phật thế cha mẹ các đời trước
Chương 24: Lễ Phật thế Sư trưởng
Chương 25: Lễ Phật thế mười phương Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ny
Chương 26: Lễ Phật thế Tứ chúng quá khứ
Quyển thứ chín
Chương 27: Lễ Phật thế các chúng sanh trong Địa ngục A Tỳ
Chương 28: Lễ Phật thế các chúng sanh trong Địa ngục Khôi Hà, Địa ngục Thiết Hoàn...
Chương 29: Lễ Phật thế các chúng sanh trong những Địa ngục uống nước đồng sôi, Địa ngục Hầm hố...
Chương 30: Lễ Phật thế chúng sanh trong các Địa ngục Đao binh, Địa ngục Đồng phủ...
Chương 31: Lễ Phật thế chúng sanh trong các Địa ngục hỏa thành đao sơn...
Chương 32: Lễ Phật thế chúng sanh trong đường Nhau quỷ
Chương 33: Lễ Phật thế chúng sanh trong đường Súc sanh
Chương 34: Vì sáu đường chúng sanh mà Phát nguyện
Chương 35: Cảnh tỉnh Vô thường
Chương 36: Lễ Phật thế người làm công quả ở chùa
Chương 37: Phát nguyện hồi hướng thế cho chúng sanh
Quyển thứ mười
Chương 38: Bồ tát hồi hướng
Chương 39: Phát nguyện
- Phát nguyện về nhãn căn
- Thứ lại phát nguyện về nhĩ căn
- Kế đến phát nguyện về tỉ căn
- Thứ lại phát nguyện về thiệt căn
- Thứ lại phát nguyện về thân căn
- Thứ lại phát nguyện về ý căn
- Thứ lại phát nguyện về khẩu nghiệp
- Chư hạnh pháp môn
- Phần chúc lũy
Tán Phật chú nguyện

LỜI GIỚI THIỆU

Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ, thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.
Các tội lỗi đã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh
Phật dạy: "Nếu không có phương pháp sám hối thì tất cả các Phật tử không một ai mà được giải thoát".
Cũng như, nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám này thì bà Hy Thị là Hoàng hậu của Vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.
Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám này có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.
Cảm thấy sự phiên dịch của Đại đức Thích Viên Giác rất dày công phu, nên tôi xin có vài lời giới thiệu đến toàn thể các Phật tử xa gần và hy vọng rằng, bộ Lương Hoàng Sám này được phổ biến mười phương và sẽ đem lại sự lợi lạc chung cho tất cả, nếu ai có tín tâm thật hành theo.
Cẩn trí
Trị sự Trưởng G.H.T.G.N.V
Thích Thiện Hòa

THAY LỜI TỰA

Theo lời tựa trong chánh văn thì bộ Lương Hoàng Sám này do Hòa thượng  Chí Công biên tập từ đời vua Lương Võ Đế bên Tàu.
Nguyên Vua Lương Võ Đế có một bà Hoàng hậu yêu quý nhất tên là Hy Thị. Vì được Vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao, Hy Thị ganh tị các cung phi, độc ác với mọi người và hủy báng Tam bảo. Trong triều ngoài Quận ai cũng biết bà Hy Thị là một "quái phi".
Sau bà nhuốm bệnh nặng, các lương y đều thúc thủ, bà phải từ trần. Một hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tịch mịch. Vua Lương Võ Đế nghe tiếng người kêu van thảm thiết.
Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Đế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng không được. Vua bèn lên tiếng hỏi: " Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng nghiêm mật thế này lại vào đây được? " - Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính là Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãng xà. Ngày đêm đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa nhức nhối không thể chịu được.
Nhớ lại tình cầm sắc xưa kia nên thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm phương cứu thiếp. Nói rồi biến mất. Nghe xong, Vua Lương Võ Đế như thoát cơn ác mộng mà lòng đau như cắt! Ngày mai khi lâm Triều, Vua kể lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị.
Trong số các quan có người đề nghị: Xin cung thỉnh Hòa thượng Chí Công là một cao tăng lo việc này. Vua Lương Võ Đế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của Vua, ngài liền triệu tập các danh tăng soạn ra Sám pháp này và lập Đàn tràng làm lễ sám hối cho Hoàng hậu Hy Thị.
Nhà Vua chí tâm, thân hành lễ bái. Vài hôm đầu, người ta nghe có mùi hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng.
Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ Đế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng người, tỏ lòng cám ơn Hòa thượng, Hoàng đế.
Hy Thị cho biết bà đã thoát nạn và đã sanh lên Đao Lợi Thiên Cung, nhờ công đức sám hối.
Từ đó Sám pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thịnh hành.
Bản chánh bằng Hán văn trọn bộ 10 quyển. Danh hiệu Phật và lời sám đều rút trong Tam Tạng Thánh giáo Đại thừa.
Năm 1948-1950, Bồ tát Tuệ Nhuận và một số đạo hữu khá đông ở Bắc Việt đã dịch âm ra Việt văn, thành 02 tập.
Năm 1952, lúc còn tu học ở Phật học viện Báo quốc Huế, tôi bắt đầu dịch nghĩa bộ kinh này ra Tiếng việt, đến nay mới đủ cơ duyên xuất bản.
Tôi xin nguyện nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong đền đáp lại bốn ơn muôn một và cứu giúp muôn loài phần nào.
Tôi nguyện xị nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong hàng sơ cơ một phương pháp tu hành giản dị để cải ác tùng thiện, để đi Tây phương về Lạc Quốc.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này làm cho người tu hành ngày càng tinh tiến, nghiệp chướng chóng tiêu trừ, thân tâm thường an lan và sở cầu được như nguyện.
Tôi cũng xin cầu nguyện cho tất cả người thấy, người nghe, người hủy báng, người tùy hỷ, đều được lợi lạc, thoát khổ não, và nguyện xin cho tất cả chúng sanh xả ly tà kiến, biết sám hối.
SÁM HỐI NGHĨA ?
- Kinh dạy:
- Sám là sám kỳ tiền khiên. - Hối là hối kỳ hậu quả.
- Sám là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm.
- Hối là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.
Chữ Phạn gọi là Sám ma; Tàu dịch là hối quá; ghép cả hai chữ lại mà đọc là Sám hối.
Sám hối cũng có sự sám và là sám.
Sự sám tức là thiết lập Đàn tràng, trang nghiêm Phật tượng, cúng dường hương hoa, ân cần đảnh lễ, thành khẩn nguyện cầu Tam nghiệp như mất, tỏ bầy tội lỗi. Cầu xin chư Phật, chư đại Bồ tát phóng hào quang, dùng thần lực, gia hộ cho kẻ tu hành mau tiêu trừ nghiệp chướng, chóng thoát oan khiên, sạch hết tội lỗi.
Lý sám là sám hối tự tâm
Tội thành do tâm tạo
Tội diệt phải do tâm sám;
Tâm không thì tội cũng không,
Tội diệt thì tâm cũng diệt.
Tội không, tâm diệt thì không còn gì nữa mà sám hối. Như vậy mới là chân thật sám hối.
Sau khi lạy Phật một lạy, tụng một câu, người tu hành nên xét lại tự tâm, diệt sạch vọng tưởng, quán lý vô sanh, phải biết tội do nhân duyên mà thành, thì tội cũng do nhân duyên mà diệt. Nhân duyên là những điều kiện tạo nên tội và phương pháp sám hối.
Tội vốn không thật có. Vì không thật có nên chúng ta có thể chuyển tội thành phước, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.
Khi xướng một câu danh hiệu Phật, chúng ta cần phải thật hiểu nghĩa lý danh hiệu ấy. Hiểu để tu tập, để làm theo những đức tánh cao đẹp của chư Phật.
Ví như chúng ta xướng câu: "Nam mô Phổ Quang Phật", thì ít ra chúng ta cũng phải hiểu sơ như thế này:
Chúng con xin kính lễ (Nam mô) đấng giác ngộ hoàn toàn (Phật) đầy đủ đức tánh cao rộng đẹp đẽ (Phổ) sáng suốt vô biên (Quang).
Ngoài ra chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm bản tâm của chúng ta. Tâm của chúng ta cũng có những đức tánh cao rộng đẹp đẽ như thế.
NAM MÔ - Nghĩa là quy y, kính lễ...
PHỔ - Nghĩa là phổ cập, phổ biến, cùng khắp, không có giới hạn, ngoài thời gian và không gian, không phân biệt người và ta. Trái lại Phổ có nghĩa hàm súc những đức tánh từ bi hỷ xả với tất cả mọi loài, mọi chốn, mọi nơi.
Tâm ta cũng có những tánh chất phổ biến như thế. Từ nay ta phải sống theo tiếng gọi của cõi lòng, không tiêu cực mà tích cực, không ích kỷ mà vị tha, không sân hận mà từ bi, không xan tham nà bố thí, không tật đố mà hỷ xả, không ngu si mà trí huệ.
Quang- Nghĩa là sáng suốt tuyệt đối, soi khắp mười phương, thông suốt ba đời mà không lìa nơi một niệm. Tội nhân và khổ quả của chúng sinh đã gây tạo và sẽ chịu đền trả, từ bao giờ, ở nơi đâu, nhất nhất đều sáng tỏ, hiểu biết hết.
Tâm ta có tính cách sáng suốt như vậy, từ nay trở đi, ta phải hành động, ăn ở theo tâm tánh sáng suốt ấy, không còn ngu si mê mờ mà tạo tội nữa.
Phật - Là đáng giác ngộ hoàn toàn, ta đang kính lễ. Phật cũng tức là tâm sáng suốt thanh tịnh, đầy đủ muôn đức tánh tốt đẹp, trùm khắp pháp giới, ra ngoài thời gian.
Tâm ta cũng có những khả năng giác ngộ, những đức tánh như Phật.
Vậy từ nay trở đi phải noi gương Phật, sống cách sáng suốt, đầy đủ đức hạnh như Phật, không tạo tội nữa.
Đại khái như thế, cứ theo từng danh hiệu một mà quán sát tự tâm để sám hối.
Lần lần những khả năng tốt đẹp trong tâm ta do có sự sám hối sẽ lưu lộ ra, nào là từ bi hỷ xả, trí huệ, phước đức hạnh phúc dồi dào tuôn ra như nước, mặc sức ta thọ dụng.
Người hiểu được và làm được như thế là người chánh kiến, không còn bôn ba chạy theo ngoại cảnh, không tà kiến quy y theo quỷ mị tà thần.
Người chánh kiến chỉ biết quy y, lễ bái, tôn thờ Đức Phật ơ tự tâm, nghe tiếng nói của cõi lòng.
Lễ một Đức Phật tức là lễ hết thảy mười phương chư Phật. Đem tâm từ bi bình đẳng, sự lý viên dung, trùng trùng vô ngại mà bái sám thì lo gì tội không diệt, phước không sanh.
Nếu người không thông lý, cứ y sự mà tu hành, chí tâm bái sám thì cũng nhờ được thân lực của Tam Bảo gia hộ mà giải trừ nghiệp chướng, như trong chánh văn đã thuật rõ.
Phật dạy: "Có hai hạng người mạnh nhất: một là không tạo tội, hai là biết ăn năn"
Phật dạy: "Nếu không có pháp sám hối thì tất cả đệ tử Phật không thể giải thoát "
Nhờ sám hối nên vua A Xà Thế phạm tội ngũ nghịch (giết cha) liền được giải thoát ".
Ông Trương Thiện Hòa sát sanh vô số cũng không đọa địa ngục, vì biết hối hận.
Có một điều đáng chú ý nhất là thân nghiệp và khẩu nghiệp thô tháo bên ngoài dễ trừ. Duy có ý nghiệp, vi tế bên trong, rất khó diệt. Đến quả vị Phật mới hết tham, sân, si.
Do đó người phát đại tâm phải y cứ vào sám pháp đại thừa mới mong chòng trừ diệt được ba độc.
Ngài Phổ Hiền Bồ tát là Trưởng tử của Phật trên Hội Hoa Nghiêm còn phải phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai.
Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận.
Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: "Các vị đại Bồ tát lúc lập đạo tràng an cư từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng".
Trong kinh Bảo Tích, Phật dạy: "Hàng ngày nên đảnh lễ danh hiệu 35 vị Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng ".
Trong luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua.
Trong luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là một việc cần phải có của người chân tu, không thể thiếu sót.
Không sám hối rất có hại: Nghiệp chướng không tiêu trừ, tội lỗi còn mãi, oan khiên nhiều kiếp theo hoài.
Ngài Ngộ Đạt quốc sư mười đời làm cao tăng mà Triệu Thố vẫn còn theo báo mãi
Như thế dù cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế gian, việc đời và việc đạo, đều bị cản trở, tu chứng bất thành.
Kinh sách dùng để sám hối, có rất nhiều: Như bộ Vạn Phật, bộ Tam Thiên Phật, bộ Thủy Sám, Hồng Danh Sám, Chuẩn Đề Sám, và Dược Sư sám...
Nhưng bộ Lương Hoàng Sám này kể rõ tội nhân khổ quả, nghe đến ai cũng phải lạnh mình khiếp sợ mà phải phát tâm cải ác tu thiện ngay. Bộ này lại có công năng diệt trừ tiền khiên, oan trái nhiều kiếp, nhiều đời. Đọc đến phải cảm rơi nước mắt. Mỗi chữ, mỗi câu đều nhằm mục đích đền trả bốn ơn, cứu thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi trầm luân. Cuối cùng lại vì tất cả chúng sanh mà phát nguyện hồi hướng.
Người tu hành đọc đến bộ Lương Hoàng Sám, dù không muốn phát đại tâm cũng phải phát, dù không tin địa ngục cũng phải sợ Tam đồ.
Những người tu Tịnh Độ phát tâm Bồ đề thường nên tu theo pháp sám này, để mau về Cực Lạc.
Có thể nói bộ Lương Hoàng Sám này là "bảo bối" riêng của những người cầu vô thượng đạo, phát bồ đề tâm vậy.
Bộ này có năng lực sanh phước diệt tội không thể nghĩ bàn. Trong chánh văn có bài kệ tán thán công đức sám hối, đại ý như thế này:
Sám vừa cử lên;
Tội lỗi liền tiêu;
Giải được oan trái;
Trừ được tai ương;
Thoát khỏi khổ nạn;
Phước đức vô biên;
Sanh lên Đao Lợi;
Hoặc về Tây phương.
Văn Thủy Sám cũng nói: "Lúc nghiệp báo đến, tội nhân không thể rúc vào núi đá, lặc xuống đáy nước, bay lên không gian hay ẩn núp đâu được. Duy chỉ có nhờ phương pháp sám hối mà thoát được tai nạn mau chóng hơn hết, độc nhất vô nhị."
Sám hối lợi cho mình, lợi cho người, cho tất cả tam đồ, lục đạo pháp giới chúng sanh.
Công đức sám hối nói không cùng nghĩ không tận. Tôi chỉ xin đốt nén hương lòng cầu xin Tam Bảo gia hộ cho tất cả người thấy, người nghe, người ấn tống phát Bồ đề tâm, đồng cầu sám hối, đồng hồi hướng công đức.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT.
Trong lúc phiên dịch văn này, tôi không có hy vọng gì cao xa hơn lag giúp cho hàng sơ cơ một phương pháp tu hành thiết thực để về Tây phương Cực lạc.
Do đó, đầu quyển thứ nhất có nghi thức khai kinh thông thường dễ tụng. Cuối quyển thứ mười có nghi thức Tịnh Độ, cầu sanh An dưỡng là tiêu chuẩn hồi hướng.
Sau hết tôi xin chân thành cảm tạ chư vị đại thiện tri thức trong Hải hội chỉ giáo cho tôi những khiếm khuyết, mong sao kỳ tái bản được hoàn thiện hơn.
Tôi nguyện xin đem công đức này hướng lên cúng dường ngôi Tam Bảo. Đức Quán Thế Âm Bồ tát, đức Vô Biên Thân Bồ tát, và chư vị Hộ pháp đã mật tùy gia hộ cho tôi làm một việc mà tôi tưởng tôi không làm được.
Nguyện xin hồi hướng lên chư vị Đại đức Tăng trong hiện tại đã dìu dắt tôi tu hành. Ni chúng bộ V.N đã phát tâm xuất bản giúp tôi; cùng chư vị thiện nam tín nữ đã ủng hộ tôi nhiều phương diện trong lúc phiên dịch.
Nguyện xin tất cả đều trọn thành Phật đạo.
Dịch giả: Tỳ kheo Thích Viên Giác
Viết xong tại tu viên Giác Hải
Điện Nam Hải Quan Âm ở Vạn Giả
Bắc Nha Trang ngày mãn hạ, năm Canh Tý Phật Lịch 2504 (1960)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro