kinh Trung Bo Toat Yeu 3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 31

Tiểu kinh rừng Sừng bò

I. TOÁT YẾU

Cùlagosinga Sutta - The shorter discourse in gosinga.

The Buddha meets three bhikkhus who are living in the concord, "blending like milk and water", and inquires how they succeed in living together so harmoniously.

Bản kinh ngắn tại rừng Gosinga (Sừng bò).

Phật gặp ba tỳ kheo sống chung hòa hợp "như nước với sữa" và hỏi họ làm cách nào họ sống được hòa hợp như vậy.

II. TÓM TẮT

Phật đến rừng Gosinga, nơi ba tôn giả Anuruddha, Nandiya và Kimbila (A na luật, Nan đề và Kim tỳ la) đang cư trú, và hỏi thăm cách sinh hoạt của họ.

1. Trước hết Ngài hỏi họ có sống hòa hợp với nhau như nước với sữa không? Họ đáp có. Phật hỏi họ làm thế nào để sống hòa hợp như vậy. Họ đáp rằng, vì nghĩ đến lợi ích của sự sống chung, họ đối với nhau bằng tâm từ với cả ba nghiệp thân, ngữ, ý trước mặt cũng như sau lưng. Rồi họ quyết định từ bỏ tâm của mình và chỉ sống với tâm của người khác. Do vậy tuy khác thân nhưng cũng như đồng một tâm.

2. Kế đến, Ngài hỏi họ có sống nhiệt tâm tinh cần, không phóng dật hay không. Họ cũng đáp có. Bằng cách mỗi người tự ý thức để làm các công việc trong đời sống chung, không cần so đo tính toán.

3. Cuối cùng, Phật hỏi, sống tinh cần như vậy, nhưng có đắc các pháp siêu việt con người không? Tôn giả A na luật, với tâm mình biết tâm của hai vị kia, nên đáp rằng họ có thể chứng bốn thiền cho đến Diệt thọ tưởng, không có lạc trú nào cao hơn nữa. Phật xác nhận họ nói đúng.

Sau đó, Trường quỷ Dạ xoa - Dìgha Parajana đến đảnh lễ Phật, tỏ sự vui mừng cho dân chúng Vajji (Bạt kỳ) vì nơi này đã có đức Thế tôn cư trú, lại có ba tôn giả ấy cư trú. Lời Trường quỷ Dạ xoa ca tụng danh đức ba thiện nam tử vang dội khắp tất cả các cung trời cho đến cõi Phạm thiên, và Phật dạy đúng thế, gia đình nào, bà con dòng họ nào, làng xóm xứ sở nào từ đó ba vị tôn giả xuất thân, cũng như bất cứ người nào nơi nào khác, kể cả chư thiên, nếu biết nghĩ nhớ đến ba vị tôn giả với tâm hoan hỷ, thì những người ấy, gia đình ấy, nơi chốn ấy, sẽ được an lạc hạnh phúc lâu dài. Vì ba vị ấy sống "vì an lạc cho chúng sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc an lạc cho chư thiên và loài người."

III. CHÚ GIẢI

A na luật là em họ của Phật, Nan đề và Kim tỳ la là bạn thân của A na luật từ khi còn tại gia.

Từ thân nghiệp, ngữ và ý nghiệp là ba trong sáu nguyên tắc sống chung gọi là Lục Hòa.

Dạ xoa Luận nói vị này là vua trời trong số 28 tướng Dạ xoa đề cập trong kinh Trường bộ số 32.

IV. PHÁP SỐ

Ba nghiệp, bốn thiền, bốn định, chín định thứ đệ.

V. KỆ TỤNG

Phật thăm A na luật

Cùng hai bạn đồng tu

Trong khu rừng Sừng bò

Hỏi họ có vui hòa?

- Thưa vâng, bạch Thế tôn

Chúng con thật hòa hợp

Vì thấy sự lợi lạc

Được sống chung bạn lành

Chúng con thương kính nhau

Sau lưng như trước mặt

Ai cũng bỏ tâm mình

Sống theo tâm kẻ khác.

Vậy nên, bạch Thế tôn

Chúng con dường như thể

Chỉ có đồng một tâm

Mặc dù khác thân thể.

Lành thay, Phật ngợi khen

Và hỏi A na luật:

"Các ngươi có tinh cần

Hay buông lung biếng nhác?"

- Chúng con không phóng dật

Luôn siêng năng tinh cần

Không so bì công tác

Trong đời sống cộng đồng.

Lành thay, A na luật,

Các ngươi sống tinh cần

Có chứng pháp thượng nhân

Và tri kiến bậc thánh?

- "Bạch Phật, làm sao không?

Chúng con tùy ý muốn

Chứng bốn thiền, bốn không

Cho đến Diệt thọ tưởng.

Tri kiến ấy cao thượng

Lậu hoặc được đoạn trừ

Chỗ chứng của bậc thánh

Không gì an lạc hơn."

Phật khen ngợi cả ba

Rồi trở về tinh xá

Gặp Trường quỷ Dạ xoa

Đến lễ bái chào mừng:

"Lành thay, bạch Thế tôn

Dân chúng ở Bạt kỳ

Được đón đấng Chính giác

Và ba vị thánh tăng."

Lời chúc tụng ngân vang

Xưng tán ba tôn giả

Qua hăm tám tầng trời

Cho đến Phạm thiên giới.

Phật bèn bảo Dạ xoa:

Khắp thế giới Sa bà

Nơi nào có nghĩ đến

Ba thiện nam tử này

Mà ca tụng "lành thay"

Thì trong thế giới ấy

Chư thiên và loài người

Sẽ an lạc lâu dài.

Ba thiện nam tử ấy

Vì hạnh phúc chúng sinh

Vì an lạc muôn loài

Nên đã sống trên đời.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 32

Đại kinh Rừng Sừng bò

I. TOÁT YẾU

Mahàgosinga Sutta - The greater discourse in Gosinga.

On a beautiful moonlit night a number of senior disciples meet together in a sàla tree wood and discuss what kind of bhikkhu could illuminate the wood. After each has answered according to his personal ideal, they go to the Buddha, who provides his own answer.

Bản kinh dài trong rừng Gosinga.

Vào một đêm trăng sáng, một số cao đệ của Phật tụ họp trong rừng cây sa la thảo luận về hạng tỳ kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng. Sau khi mỗi người đã trả lời theo lý tưởng riêng mình, họ cùng đi đến Phật. Ngài đưa ra câu trả lời của chính Ngài.

II. TÓM TẮT

Rừng Gosinga, nơi Phật và chúng tăng đang cư trú, có nhiều cây sa la đang độ trổ bông. Vào một đêm trăng sáng, một số đông đệ tử nổi tiếng của Phật đi đến chỗ tôn giả Xá lợi Phất. Tôn giả lần lượt hỏi quan điểm riêng của mỗi người về một mẫu tỳ kheo lý tưởng trong đạo Phật, với cách nói bóng bảy: "Hạng tỳ kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga".

A nan trả lời: Hạng đa văn.

Ly bà đa: Hạng độc cư thiền định.

A na luật: Hạng có thiên nhãn.

Ca diếp: Hạng khổ hạnh.

Mục kiền liên: Hạng giỏi luận thuyết.

Khi họ hỏi lại quan điểm của Xá lợi phất, tôn giả trả lời "hạng có khả năng điều phục tâm".

Tất cả cùng đi đến Phật để xin Ngài quyết đoán ai đúng ai sai. Phật dạy tất cả đã khéo trả lời đúng với sở trường mình; như A nan đa văn nên cho đa văn là lý tưởng. Rồi Phật dạy theo Ngài, hạng tỳ kheo lý tưởng là người khất thực về, ăn xong ngồi kiết già lưng thẳng cho đến khi tâm giải thoát tất cả lậu hoặc, không có chấp thủ [tức là vị tỳ kheo đã chứng quả A la hán].

III. CHÚ GIẢI

Luận thuyết, Abhidhamma: Mặc dù đây không thể là tạng Luận A tỳ đàm, sản phẩm Phật giáo xuất hiện sau Nikàyas, nó cũng cho thấy vào thời Phật, đã có sự phân tích giáo lý làm nền tảng cho tạng Luận sau này.

Trong khi những câu trả lời của mỗi đệ tử nêu lên một khía cạnh đặc biệt của đời sống xuất gia đang tầm cầu giải thoát, thì câu trả lời của Phật nói ngay cái mục tiêu cuối cùng của đời sống ấy là đoạn tận lậu hoặc.

IV. PHÁP SỐ

Năm thành phần của pháp thân: Giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

V. KỆ TỤNG

Trong rừng Go-sin-ga

Vào một đêm trăng rằm

Hoa sa la rộ nở

Tỏa hương khắp không gian.

Buổi chiều hôm êm ả

Từ độc cư thiền tịnh

Nhiều tỳ kheo thượng tọa

Viếng Sa-ri-put-ta.

"Lành thay chư tôn giả

Đêm rằm thật khả ái

Rừng sa la hoa nở

Tỏa hương khắp cung trời."

"Hiền giả A-nan-đa

Bạn nghĩ tỳ kheo nào

Có thể làm chói sáng

Khu rừng Go-sin-ga."

Hiền giả Ly bà đa (Revata)

Theo ý kiến của bạn

Tỳ kheo nào chói sáng

Khu rừng Go-sin-ga?

"Thưa ngài Xá lợi phất,

Tỳ kheo thích độc cư

Không gián đoạn thiền định

Chói sáng Go-sin-ga."

Tôn giả A na luật

Đáp Sariputta:

"Tỳ kheo có thiên nhãn

Chói sáng Go-sin-ga."

Đến lượt Đại Ca diếp

Đáp lời Xá lợi phất:

"Người khổ hạnh miên mật

Chói sáng Go-sin-ga."

Tôn giả Mục kiền liên:

"Ai thành tựu biện tài

Tỳ kheo ấy chói sáng

Khu rừng Go-sin-ga."

Chúng tôi đã nói qua

Ý kiến của riêng mình

Hãy nói lên, Hiền giả

Ai chói sáng Gosinga?

Xá lợi phất từ tốn

Bảo Moggallàna:

"Tỳ kheo điều phục tâm

Chói sáng Gosinga.

Nhưng này, chư tôn giả

Ta hãy đến Thế tôn

Thuật lại vấn đề này

Để nghe lời chỉ giáo."

Rồi Sa-ri-put-ta

Bạch hỏi đức Thế tôn

Ai đã khéo trả lời

Câu hỏi được đặt ra?

"Tất cả đều khéo đáp

Đúng với cương vị mình.

Hãy nghe Như lai bảo

Ai sáng chói khu rừng.

Tỳ kheo sau bữa ăn

Khi đi khất thực về

Ngồi kiết già lưng thẳng

Tâm không vấn vương gì.

Giải thoát các lậu hoặc

Hoàn toàn không chấp thủ

Một tỳ kheo như vậy

Sáng chói Go-sin-ga."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 33

Đại kinh người chăn bò

I. TOÁT YẾU

Mahàgopàlaka Sutta - The greater discourse on the cowherd.

The Buddha teaches eleven qualities that prevent a bhikkhu's growth in the Dhamma and eleven qualities that contributes to its growth.

Bản kinh lớn về người mục đồng.

Phật dạy 11 tính chất khiến tỳ kheo không lớn mạnh trong Pháp và 11 tính chất đưa đến sự tăng tiến Pháp.

II. TÓM TẮT

Người xuất gia muốn tu hành tiến bộ cần có 11 đức tính như người chăn bò thiện xảo:

1. Biết sắc, tức biết về bốn đại và sắc do 4 đại tạo.

2. Biết tướng, là biết phân biệt cách hành xử của kẻ ngu và bậc trí.

3. Biết trừ bỏ trứng bọ chét, là biết trừ khử ngay trong mầm mộng các ý niệm dục, sân, hại và những bất thiện khác.

4. Biết băng bó vết thương, là chế ngự tâm khi căn trần xúc đối.

5. Biết xông khói, là thuyết giảng rộng rãi chính pháp đã được nghe.

6. Biết chỗ nước có thể lội qua, là biết cầu học những vị đa văn về ba tạng kinh điển.

7. Biết chỗ nước uống, là tin hiểu Pháp và Nghĩa, có được sự hân hoan liên hệ đến pháp.

8. Biết con đường, là biết Thánh đạo tám ngành.

9. Biết nơi đàn bò có thể ăn cỏ, là biết bốn niệm xứ.

10. Biết giữ sữa, không vắt cho đến khô kiệt, là không lạm dụng sự cúng dường của thí chủ.

11. Biết săn sóc đặc biệt con bò đầu đàn, là biết kính ái bậc tôn túc trưởng lão, sau lưng như trước mặt.

III. CHÚ GIẢI

Nghĩa tín thọ: tin nhận ý nghĩa của Pháp.

Pháp tín thọ: tin nhận văn tự trình bày Pháp.

IV. PHÁP SỐ

Bốn đại, bốn niệm xứ, sáu căn, tám thánh đạo.

V. KỆ TỤNG

Phật dạy các tỳ kheo:

Đầy đủ mười một pháp

Người chăn giữ đàn bò

Khiến đàn bò hưng thịnh:

Biết sắc và biết tướng

Biết trừ bỏ bọ chét

Biết băng bó vết thương

Và lại biết xông khói.

Biết chỗ để lội qua

Đưa bò qua khe suối

Biết chỗ có nước uống

Và có cỏ non mềm.

Không vắt sữa bò cái

Cho đến nỗi khô kiệt

Biết chăm sóc đặc biệt

Con bò chúa đầu đàn.

Tỳ kheo cũng như vậy

Muốn tu hành hưng thịnh

Trong Pháp và Luật này

Cần đủ mười một pháp.

Biết sắc là tứ đại

Và tứ đại tạo thành

Biết tướng người ngu, trí

Do quan sát ba hành.

Biết bỏ trứng bọ chét

Là trừ khử mầm mộng

Các bất thiện trong tâm

Liên hệ dục, hại, sân.

Biết băng bó vết thương

Là chế ngự tâm mình

Khiến bất thiện không khởi

Khi căn trần xúc đối

Tỳ kheo biết xông khói

Là giảng Pháp rộng rãi

Biết chỗ nước lội qua

Là tham vấn gần xa.

Biết chỗ cho bò uống

Là pháp vị cam lồ

Tỳ kheo thường tỉnh thức.

Biết đường tức bát chính.

Nơi cho bò ăn cỏ

Là trú Bốn niệm xứ

Không vắt sữa cạn khô:

Không lạm dụng tín đồ

Biết chăm sóc đặc biệt

Là đối với bề trên

Thường khởi tâm hiếu kính

Sau lưng như hiện tiền.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 34

Tiểu kinh người chăn bò

I. TOÁT YẾU

Cùlagopàlaka Sutta - The shorter discourse on the cowherd.

The Buddha explains the types of of bhikkhus who "breast Màra's stream" and get safely across to the further shore.

Bản kinh ngắn về người chăn bò.

Phật giải thích các hạng tỳ kheo "vượt qua được sông ma" để vượt qua bờ kia một cách an ổn.

II. TÓM TẮT

Như kẻ chăn bò vô trí không quan sát kỹ, lùa bò qua sông tại chỗ không thể lội qua, đàn bò gặp tai nạn. Cũng thế, có những tu sĩ không khéo biết đời này đời sau, không biết ma giới và phi ma giới, cảnh giới tử thần và cảnh giới bất tử. Những ai nghe và tin theo những vị ấy sẽ phải bất hạnh, đau khổ lâu dài. Phật như người chăn có trí, biết rõ đời này, đời sau, ma giới và phi ma giới, tử thần giới và phi tử thần giới, nên Ngài đã đưa nhiều hạng người an toàn vượt qua dòng sông sinh tử, cảnh giới của Ma: những bậc A la hán, như con bò đầu đàn; A na hàm, như bò đực đã thuận; bậc Nhất lai, như bò con đã lớn; Dự lưu, như bò con còn bú; những bậc Tùy pháp hành, tùy tín hành, như bò con mới sinh còn chạy theo mẹ.

III. CHÚ GIẢI

A la hán có hai hạng: Tâm giải thoát do lúc tu thiền về Định; Tuệ giải thoát do lúc tu thiền về Tuệ.

A na hàm hay Bất hoàn: trừ năm hạ phần kết sử.

Tư đà hàm hay Nhất lai: trừ ba kết sử và làm suy yếu tham, sân, si.

Dự lưu: trừ ba kết sử là thân kiến [chấp thân này là tôi, của tôi], nghi [đối với Ba ngôi báu], và giới cấm thủ [giữ các khổ hạnh không đưa đến giải thoát].

Tùy tín hành: người đắc Dự lưu đạo tu nhờ tu quán vô thường. Từ đây trở đi cho đến quả vị A la hán, vị ấy được gọi là bậc Tín giải thoát.

Tùy pháp hành: người đắc Dự lưu đạo nhờ tu quán vô ngã. Ở các địa vị trên Dự lưu đạo, gọi là bậc Kiến chí. Khi đắc A la hán quả, vị ấy được gọi là bậc Tuệ giải thoát.

IV. PHÁP SỐ

Bốn quả sa môn.

V. KỆ TỤNG

Kẻ chăn bò vô trí

Không quan sát bờ sông

Lùa bò lội chỗ hiểm

Đàn bò chết giữa dòng.

Người chăn bò có trí

Khéo quan sát bờ sông

Lùa bò qua an ổn

Bò đực dẫn đầu đàn.

Bậc trí khéo trình bày

Đời sau và đời này

Cảnh giới của ác ma

Và phi-ma cảnh giới.

Bậc Chính giác, Trí giả

Biết rõ mọi thế giới

Cửa bất tử rộng mở

Hành lộ đến Niết bàn.

Những ai tin theo Phật

Cắt đứt các trói buộc

Vượt qua dòng sinh tử

Được an lạc dài lâu:

Hoặc thành bậc La hán

Như bò đực đầu đàn;

Hoặc thành bậc Bất hoàn

Như bò đực khỏe mạnh;

Hoặc thành bậc Nhất lai

Như bò tơ đương độ;

Hoặc thành bậc Dự lưu

Như bê con còn bú.

Tất cả đệ tử Phật

Đều vượt thoát an toàn

Cắt ngang dòng sông Ma

Đạt niết bàn an ổn.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 35

Tiểu kinh Saccaka

I. TOÁT YẾU

Cùlasaccaka Sutta - The shorter course to Saccaka.

The debater Saccaka boast that on debate he can shake the Buddha up and down and thump him about, but when he finally meets the Buddha their discussion takes some unexpected turns.

Bản kinh ngắn giảng cho Saccaka.

Saccaka, người giỏi biện luận thuộc phái khổ hạnh Ni kiền tử khoe khoang rằng ông ta có thể tranh biện với Phật làm Ngài phải run lên, vần quanh Ngài. Nhưng cuối cùng khi ông gặp Phật, cuộc đàm luận đã có những chuyển biến bất ngờ.

II. TÓM TẮT

Ni kiền tử Saccaka, tính ưa tranh luận, thường khoe mình có thể đánh bại tất cả giáo chủ. Ông cùng một số đông dân chúng Licchavis đến nơi Phật, cốt cho những người này chứng kiến tài biện bác của ông.

Mở đầu, ông hỏi Phật dạy đệ tử những gì. Phật trả lời, Ngài dạy các tỳ kheo rằng 5 uẩn là vô thường, vô ngã. Tất cả hành vô thường, tất cả pháp vô ngã, đó là giáo huấn của Ngài.

Saccaka phản bác lời ấy bằng một ví dụ: như đất là chỗ nương của tất cả cây cỏ, cũng vậy tự ngã con người nương tựa vào năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức, mà làm các việc thiện hay ác.

Phật gạn hỏi: Có phải ông chủ trương sắc, thọ, tưởng, hành, thức là tự ngã của ta? Saccaka xác nhận như vậy, và còn thêm rằng tất cả đại chúng đây ai cũng xác nhận điều ấy [nghĩ rằng cái gì đa số chấp nhận thì không thể sai lầm].

Phật hỏi Saccaka, có phải vua có quyền đối với thần dân của ông ta không? Saccaka đáp phải.

Phật: Ông nói sắc, thọ... là tự ngã của ông, vậy ông có quyền hành gì đối với sắc, thọ... hay không? Saccaka làm thinh.

Phật hỏi đến lần thứ hai, thứ ba, ông buộc lòng phải trả lời không.

Phật dạy ông đã nói trái với lời trước.

Khi ấy Phật hiển thị cho Sacca thấy:

1. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ, cái gì đã vô thường, khổ, thì thực không hợp lý để xem là tôi và của tôi. Do vậy, 5 uẩn là vô thường, khổ, vô ngã.

2. Ai ái luyến khổ, chấp trước khổ, xem nó là tôi và của tôi, thì không thể liễu tri khổ, không trừ diệt được khổ.

3. Như người tìm cầu lõi cây mà chặt về một cây chuối hoàn toàn không lõi, Sacca cũng vậy, đã tự tỏ ra trống rỗng.

Saccaka chấp nhận mình bị luận bại, và hỏi Phật đệ tử Ngài chấp hành giáo lý ấy như thế nào để đạt giải thoát.

Phật trả lời có hai hạng: Có đệ tử tuệ tri tất cả sắc, tho, tưởng, hành, thức, quá khứ vị lai hiện tại, thô hay tế, trong hay ngoài, đều không phải là tôi, của tôi, hay tự ngã của tôi; hạng ấy thành tựu vô úy. Có đệ tử sau khi thấy chân chính với trí tuệ, giải thoát tất cả chấp thủ, thành tựu ba vô thượng là vô thượng kiến, vô thượng đạo và vô thượng giải thoát. Vị ấy chỉ kính lễ Như lai, bậc đã giác ngộ, đã điều phục, đã tịch tĩnh, đã vượt qua, đã chứng niết bàn.

III. CHÚ GIẢI

Thành tựu vô úy, đoạn tận nghi hoặc, là bậc hữu học.

Giải thoát tất cả chấp thủ chỉ bậc A la hán.

Ba vô thượng: Kiến vô thượng chỉ tuệ thế gian và siêu thế; vô thượng đạo là sự thực hành tuệ ấy; và vô thượng giải thoát là kết quả của thực hành.

Hoặc có thể giải thích cả ba hoàn toàn siêu thế:

Vô thượng kiến là cái thấy chân chính thuộc A la hán đạo;

Vô thượng đạo là bảy địa vị còn lại;

Vô thượng giải thoát là quả vị A la hán.

Hoặc 1 là tri kiến Niết bàn; 2 là các yếu tố thuộc đạo; 3 là quả tối cao.

IV. PHÁP SỐ

Ba pháp ấn, Năm uẩn.

V. KỆ TỤNG

Ni kiền tử Sacca

Đến hỏi Gotama

Dạy gì cho đệ tử

Xin Ngài hãy nói ra?

Phật ôn tồn đáp lại:

Tỳ kheo được giảng dạy

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Là vô thường, vô ngã.

Tôn giả Go-ta-ma

Như các giống cây cỏ

Đều nương tựa vào đất

Mà hưng thịnh, tăng trưởng,

Tự ngã của con người

Cũng nương tựa năm uẩn

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Làm các nghiệp dữ lành.

Phải chăng ông muốn bảo

Sắc thọ tưởng hành thức

Là tự ngã của ta?

Đúng thế, Gotama.

Không những mình tôi nói

Mà cả đại chúng đây

Cùng có quan điểm ấy:

Năm uẩn là tự ngã.

Không nói tới đại chúng

Hãy nói quan điểm ông.

- Như vầy, thưa tôn giả:

Năm uẩn là tự ngã.

Ông có quyền trên chúng

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Bảo nó phải như vầy

Không được như thế khác?

Ni kiền tử ngơ ngác

Phật hỏi lần thứ ba

Ông phải đáp rằng không

Mâu thuẫn lời nói trước.

Này hỡi Ni kiền tử

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức

Là thường hay vô thường?

Vô thường, thưa tôn giả.

Vô thường vui hay khổ?

Là khổ, thưa tôn giả.

Vậy có hợp lý chăng

Xem là tôi, của tôi?

Ai ái luyến tự ngã

Tham đắm đống khổ này

Có thể liễu tri khổ

Và trừ diệt khổ chăng?

Thưa không, bạch tôn giả.

Thật tôi đã sai lầm

Khi đến đây tranh luận

Như xin hỏi Gotama

Đệ tử tuân chỉ giáo

Thành tựu như thế nào?

- Bậc hữu học đoạn nghi

Thấy như thật mọi sắc

Và thọ tưởng hành thức

Không tôi, không của tôi

Không tự ngã của tôi

Thành tựu được vô úy.

Lại có những đệ tử

Nhờ thấy được như trên

Tận trừ các chấp thủ

Đạt vô thượng giải thoát.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 36

Đại kinh Saccaka

I. TOÁT YẾU

Mahàsaccaka Sutta - The greater discourse to Saccaka.

The Buddha meets again with Saccaka and in the course of a discussion on development of body and development of mind he relates a detailed narrative on his own spiritual quest.

Bản kinh dài giảng cho Saccaka.

Phật lại gặp Saccaka và trong một cuộc thảo luận về thân tu tập và tâm tu tập, Ngài thuật lại chi tiết về cuộc tầm đạo của chính mình.

II. TÓM TẮT

Ni kiền tử Saccaka cho rằng những người tu tập về thân bị đau đớn về thân, và tâm cũng trở nên điên loạn, vì tâm không được tu tập. Ngược lại có người tu tập về tâm mà không tu tập thân, cũng cảm thọ thống khổ, tâm cuồng vì thân không được tu tập. Và ông ta nghĩ chắc chắn đệ tử Phật thuộc hạng thứ hai, nghĩa là chỉ tu tâm, không tu thân.

Phật hỏi ông nghĩ thế nào là tu thân, ông đáp đó là các kiểu ép xác của lõa thể ngoại đạo, tiết chế ăn uống trong thời gian tu tập. Phật hỏi sau đó thì sao, Ni kiền tử đáp sau đó họ lại ăn đủ thứ béo bổ để lấy lại sức. Phật dạy như vậy là họ trở lại với những gì họ từ bỏ, thì có tu cũng như không. Phật lại hỏi tu tâm là thế nào, Saccaka không đáp được.

Do đó Phật giảng cho nghe thế nào là tu thân và tu tâm trong giới luật bậc thánh :

Khi lạc thọ khởi lên vị thánh đệ tử không tham đắm, theo đuổi lạc ấy.

Khi lạc thọ chấm dứt, khổ thọ khởi lên, vị thánh đệ tử không sầu muộn than khóc.

Vị ấy không bị lạc thọ chi phối, vì có tu tập về thân.

Vị ấy không bị khổ thọ chi phối, vì có tu tập về tâm.

Khi ấy Saccaka hỏi Phật : có bao giờ lạc thọ khởi lên xâm chiếm tâm Ngài, có bao giờ khổ thọ khởi lên xâm chiếm tâm Ngài không.

Để trả lời, Phật kể lại, sau khi thoát ly gia đình, Ngài nhận thấy nếu không xả ly các dục về thân mà tu khổ hạnh, thì cũng vô ích như cọ xát một khúc cây còn ướt để lấy lửa. Do đó Ngài từ bỏ các dục, khởi sự tu khổ hạnh. Ngài cảm thọ những khổ thọ khốc liệt, nhưng khổ thọ ấy không chi phối được tâm Ngài. Tuy vậy, vì khổ hạnh đã không giúp Ngài chứng được pháp thượng nhân, nên Ngài nhớ lại một kinh nghiệm thiền lạc mà Ngài đã nếm trải lúc còn thơ ấu. Ngài khởi sự nghĩ không phải tất cả lạc thọ đều đáng sợ, mà còn có thứ lạc thọ vô hại này, đó là lạc thọ ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú các thiền... Nhưng không thể nào chứng được các lạc thọ ấy với một thân thể gầy yếu. Và từ đấy Ngài ăn uống trở lại để tham thiền, và đã đắc đạo. Như vậy lạc thọ của các thiền chứng đã khởi lên nơi Ngài nhưng Ngài không bị lạc thọ ấy chi phối.

Saccaka hỏi : Ngài có cho phép ngủ ngày không ? Phật dạy có, mỗi khi khất thực về, cảm thấy mệt mỏi, Ngài cũng đặt lưng xuống ngủ trong chính niệm tỉnh giác.

Saccaka bảo : Như vậy là Ngài còn trú trong si ám. Phật dạy, si ám là chưa đoạn trừ lậu hoặc, còn những phiền não đưa đến sinh, già, chết trong tương lai.

Saccaka khen Phật dù bị chất vấn công kích mặt vẫn không biến sắc như các đạo sư khác. Rồi ông cáo từ.

III. CHÚ GIẢI

Theo Luận giải, lần này Saccaka đến gặp Phật với ý định bài bác giáo lý của Ngài, vì lần trước [kinh số 35] đã bị thất bại. Nhưng lần này ông đi một mình, để rủi có bị luận bại cũng không ai biết. Ông định bài báng Phật với câu hỏi về chuyện ngủ ngày, nhưng để dành câu hỏi ấy cho đến đoạn cuối cuộc đàm luận.

Thân tu tập theo Saccaka, là thực hành ép xác khổ hạnh. Vì không thấy các tỳ kheo của Phật tu khổ hạnh, ông nghĩ họ không tu thân.

Nhưng theo Luận, tu thân trong Phật giáo là thiền quán, còn tu tâm là thiền tịnh chỉ. Khi thánh đệ tử cảm thọ lạc, vị ấy không bị xâm chiếm bởi lạc thọ ấy, vì nhờ tuệ quán, vị ấy biết cảm thọ là vô thường, khổ, không thực chất. Khi cảm thọ khổ, tâm vị ấy cũng không bị khổ thọ xâm chiếm, vì nhờ tu tập định, vị ấy có thể thoát khỏi khổ thọ bằng cách nhập vào một định chứng.

Theo Luận giải, Phật gặp Saccaka đến hai lần và chịu khó đàm luận với ông ta mặc dù ông không quy thuận, vì Ngài biết trước ông ta sẽ tái sinh tại Tích lan, nơi đây ông sẽ thành vị A la hán với tên Hắc Phật Hộ [Kàla Buddharakkhita].

IV. PHÁP SỐ

Ba lậu, ba minh, bốn thiền, bốn sự thật.

V. KỆ TỤNG

1. Ni kiền tử cho rằng ép xác là tu thân

Sacca nêu vấn đề

Tu thân và tu tâm

Cho rằng đệ tử Phật

Không tu tập về thân

Vì không có khổ hạnh.

Phật giải thích rõ ràng

Về tu thân, tu tâm

Trong giới luật bậc Thánh.

2. Tu thân và tu tâm theo Phật giáo

Khi lạc thọ khởi lên

Không đam mê cuồng nhiệt

Như vậy thánh đệ tử

Gọi là có tu thân

Khi lạc dứt, khổ sinh

Tâm không bị điên đảo

Vị thánh đệ tử ấy

Được gọi có tu tâm.

3. Khổ, lạc khởi lên nhưng không chi phối tâm Phật

Phật cho biết xưa kia

Ngài từng tu khổ hạnh

Những khổ thọ chết người

Không khiến Ngài nao núng

Nhưng thể xác gầy mòn

Mà không đạt tri kiến

Xứng đáng bậc thượng nhân

Ngài từ bỏ khổ hạnh.

Ngài nhớ thuở ấu thời

Đã nếm qua thiền lạc

Một cảm thọ vô hại

Có thể đây con đường

Dẫn Ngài đến giác ngộ

Can gì phải từ bỏ ?

Bởi vậy Ngài ăn uống

Để lấy sức tu thiền.

Ngài chứng thiền thứ nhất

Hỷ lạc ly dục sinh

Tâm không bị chi phối

Ngài chứng thiền thứ hai

Tâm không hề thay đổi

Cho đến thiền thứ tư

Được xả niệm thanh tịnh

Tâm Ngài vẫn như như.

Hướng đến túc mạng minh

Nhớ nhiều đời quá khứ

Như vậy lạc thọ sinh

Ngài hướng Sinh tử trí

Thấy sống chết chúng sinh

Lạc thọ cũng khởi lên

Tâm Ngài không chướng ngại

Hướng đến trí Lậu tận

Hoàn toàn hết lỗi lầm.

4. Ni kiền tử bác chuyện ngủ ngày

Khi ấy Ni kiền tử

Hỏi trong giáo lý Ngài

Có cho phép ngủ ngày ?

Nếu có, còn si ám.

- Trong giáo pháp Như lai

Ai lậu hoặc chưa trừ

Còn già chết tương lai

Mới gọi là si ám.

Lành thay Gotama

Dầu bị tôi công kích

Sắc mặt vẫn hoan hỷ

Vẫn không đổi màu da.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 37

Tiểu kinh đoạn tận ái

I. TOÁT YẾU

Cùlatanhàsankhaya Sutta - The shorter discourse on the destruction of craving.

The venerable Mahà Moggallàna overhears the Buddha give a brief explanation to Sakka, ruler of gods, as to how a bhikkhu is liberated through the destruction of craving. Wishing to know if Sakka understood the meaning, he makes a trip to the heaven of the Thirty-three to find out.

Bản kinh ngắn về sự diệt ái.

Tôn giả Mục kiền liên nghe lỏm một bài kinh ngắn Phật giảng cho Đế thích thiên chủ, làm thế nào một tỳ kheo giải thoát nhờ diệt ái. Vì muốn biết Thiên chủ có hiểu được ý nghĩa lời dạy ấy không, tôn giả Mục Liên lên đến cõi trời 33 để tìm hiểu.

II. TÓM TẮT

Thiên chủ Đế thích đến xin Phật giảng vắn tắt thế nào là một tỳ kheo ái tận giải thoát, thành tựu mục đích của đời sống phạm hạnh. Phật dạy, sau khi tỳ kheo được nghe rằng không có gì đáng chấp thủ, vị ấy biết rõ tất cả pháp, biết một cách rốt ráo, và nhờ biết rốt ráo tất cả pháp, mỗi khi một cảm thọ khởi lên, thuộc loại lạc, khổ hay bất khổ bất lạc, vị ấy đều quán vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ. Do quán như vậy, vị ấy không chấp trước, do không chấp trước nên không phiền não, chứng niết bàn. Vị ấy tuệ tri Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại đời này nữa.

Đế thích hoan hỷ tín thọ lời Phật dạy rồi biến mất tại chỗ.

Tôn giả Mục liên muốn biết Đế thích có tín thọ lời Phật dạy hay không, liền bay lên cõi trời 33, gặp Đế thích đang thụ hưởng thiên lạc với vô số thiên nữ trong lâu đài Vejayanta mà ông xây cất sau khi chiến thắng a tu la. Đế thích rất hãnh diện về thành tích này. Tôn giả hóa phép khiến cho lâu đài bị chấn động, thiên chủ hoảng sợ. Tôn giả yêu cầu thiên chủ nhắc lại lời Phật dạy mà ông đã được nghe. Đế thích lặp lại không sai sót. Tôn giả biến mất ở cõi trời 33, trở về bạch Phật. Phật xác nhận đã giảng cho Đế thích pháp môn giải thoát nhờ đoạn ái.

III. CHÚ GIẢI

Đế thích hỏi về giai đoạn tu tập chuẩn bị của tỳ kheo hướng đến quả vị A la hán, do tu tập này mà vị ấy được giải thoát nhờ đoạn diệt ái.

Tất cả pháp ở đây là 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới. Chúng được xem là không đáng tham lam chấp thủ [ái và kiến] vì cuối cùng, trên thực tế, chúng hóa ra trái ngược: Chúng được bám víu vì tưởng là thường, lạc và ngã, nhưng kỳ thực là vô thường, khổ, vô ngã. Thánh đệ tử thắng tri chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và liễu tri chúng bằng cách đi sâu vào vào sự thực ấy. Quán vô thường, vv. được thực hiện nhờ các loại thắng trí: sinh diệt trí, hoại trí... Vị ấy không chấp thủ - do ái và kiến - vào một hành nào, không bị ái lung lạc, tự thân chứng niết bàn vì đã dập tắt tất cả cấu uế.

Đế thích gọi tôn giả Mục liên là bạn đồng tu phạm hạnh, vì bản thân ông trước kia đã chứng quả Dự lưu - theo kinh Trường bộ số 21, và như vậy trước sau gì ông cũng đạt đến giải thoát như tôn giả.

IV. PHÁP SỐ

Ba thọ: khổ, lạc, bất khổ bất lạc.

Bốn cách quán các pháp: vô thường, ly tham, đoạn diệt, từ bỏ.

V. KỆ TỤNG

Trời Đế thích hỏi Phật:

Tỳ kheo làm thế nào

Đạt cứu cánh phạm hạnh

Giải thoát mọi khát ái.

Phật trả lời Đế thích:

Tỳ kheo được giảng giải

Trong tất cả các pháp

Không gì đáng chấp thủ

Vì tất cả các pháp

Vô thường, vô ngã, khổ.

Khi tuệ tri như vậy

Cảm thọ nào khởi lên

Lạc, khổ hay trung tính

Vị ấy quán ngay liền:

Tánh vô thường, ly tham,

Tánh đoạn diệt, từ bỏ

Đối với cảm thọ ấy.

Nhờ vậy không chấp trước;

Nên không có phiền não,

Chứng giải thoát, niết bàn.

Tuệ tri: "Sinh đã tận

Phạm hạnh đã viên thành

Việc cần làm đã làm

Một đi không trở lại."

Tỳ kheo được như vậy

Đạt vô thượng an ổn.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 38

Đại kinh đoạn tận ái

I. TOÁT YẾU

Mahàtanhàsankhàya Sutta - The greater discourse on the destruction of craving.

A bhikkhu named Sati promulgates the pernicious view that the same consciousness transmigrates from life to life. The Buddha reprimands him with a lengthy discourse on dependent origination, showing how all phenomena of existence arise and cease through conditions.

Bản kinh dài về Đoạn ái dục.

Một tỳ kheo tên Sati tuyên bố tà kiến cho rằng cũng một tâm thức ấy lưu chuyển đời này sang đời khác. Phật quở trách ông với một bài thuyết giảng dài về lý duyên sinh, chỉ rõ tất cả pháp hiện hữu [hiện tượng] đều sinh và diệt do những điều kiện.

II. TÓM TẮT

Tỳ kheo tên Sati khởi lên ác tà kiến cho rằng Thức này cứ luân chuyển qua các cõi luân hồi nhưng không có đổi khác. Phật cho gọi ông để hỏi có thực ông nghĩ vậy không. Khi Sati xác nhận ông hiểu đúng như vậy, Phật dạy đấy là xuyên tạc lời Ngài dạy, và là một kiểu chấp ngã.

Phật thường dạy tất cả pháp do duyên sinh. Thức cũng thế, nếu không có các duyên hay điều kiện, thì thức không hiện khởi. Thức được đặt tên do những điều kiện phát sinh ra nó, như do duyên mắt và sắc, có tên là nhãn thức; do duyên tai và tiếng, có tên là nhĩ thức; do duyên mũi và mùi, có tên là tỷ thức; do duyên lưỡi và vị, có tên là thiệt thức; do duyên thân và xúc, có tên là thân thức; do duyên ý và pháp, có tên là ý thức. Như lửa đốt bằng củi thì gọi là lửa củi, lửa đốt bằng rơm gọi là lửa rơm, đốt bằng trấu gọi là lửa trấu.

Tất cả các sinh vật tác thành nhờ thức ăn, nếu thức ăn đoạn diệt, sinh vật cũng đoạn diệt. Có bốn loại thức ăn, nương vào đấy các hữu tình an trú, đó là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực, và thức thực. Bốn loại thức ăn này có nguyên nhân là ái, ái có ra từ thọ, nguyên nhân thọ là xúc, nguyên nhân xúc là sáu nhập, nhân của sáu nhập là danh-sắc, nhân của danh-sắc là thức, nhân của thức là hành, nhân của hành là vô minh. Do mê mờ bốn chân lý nên có sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.

Cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không; cái này sinh nên kia sinh; cái này diệt, nên kia diệt. Tỳ kheo biết như vậy sẽ không truy tầm quá khứ hay theo đuổi vị lai để đi tìm tự ngã. Họ cũng không thờ một bậc thầy nào khác ngoài Phật, bậc đạo sư đã công bố Duyên khởi. Họ cũng không còn có những giới cấm thủ như ngoại đạo với mục đích tái sinh vào các cõi. Vị ấy thành tựu Giới, từ bỏ năm triền cái, chứng và trú bốn thiền, sống với tâm vô lượng. Khi cảm thọ khởi lên, vị ấy đoạn trừ tâm thuận nghịch, nghĩa là không còn ưa cái này ghét cái nọ. Nhờ không tham nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên già chết sầu bi khổ não diệt. Đây là sự chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này, gọi là "Ái tận giải thoát."

III. CHÚ GIẢI

Theo Luận, tỳ kheo Sàti vì lý giải sai lạc sự kiện tái sinh, đã đi đến kết luận rằng có một cái thức trường cửu di chuyển từ đời này sang đời khác mới có thể giải thích được hiện tượng tái sinh. Phần đầu kinh này lặp lại đề tài "nắm giữ Pháp một cách sai lạc" như phần đầu của kinh Bắt rắn số 22, chỉ khác là kinh Bắt rắn đề cập kiến chấp về dục [dục thủ], còn kinh này đề cập kiến chấp về thức [kiến thủ].

"Chính thức ấy nói, cảm thọ kết quả các hành vi thiện ác chỗ này chỗ kia..." Đây là một trong sáu loại kiến chấp về tự ngã nói ở kinh số 2, Tất cả lậu hoặc.

Mục đích của ví dụ này là để chứng tỏ không có thức lưu chuyển qua các giác quan [căn môn]. Hệt như lửa đốt bằng củi cháy nhờ củi, và tắt khi hết củi chứ không lưu chuyển đến tro để thành lửa tro. Thức cũng vậy, khởi lên do duyên nhãn căn và hình sắc thành nhãn thức sẽ chấp dứt khi các điều kiện này chấm dứt, chứ không chuyển qua lỗ tai, vv. thành nhĩ thức vv. Phật dạy: "Trong sự sinh khởi của thức, còn không có chuyện lưu chuyển từ căn môn này qua căn môn khác, thì làm sao có chuyện lưu chuyển từ đời này sang đời khác."

Có cảm thọ nào khởi lên, vị ấy không hoan nghênh thọ ấy; ... do dục hỷ diệt nên thủ diệt: [Kệ: Khi cảm thọ khởi lên, đoạn trừ tâm thuận nghịch]. Lời này cho thấy sợi xích duyên sinh bị bẽ gãy tại chỗ nối thọ với ái. Thọ hay cảm giác đương nhiên phải khởi lên, vì đã có ra cái thân thể do nghiệp quá khứ. Nhưng nếu hiện tại, ta không thích thú trong các cảm thọ, thì ái sẽ không có cơ hội khởi lên kèm theo những phản ứng thuận nghịch để cung cấp thêm nhiên liệu cho vòng tái sinh. Chu kỳ tái sinh như vậy sẽ chấm dứt.

IV. PHÁP SỐ

Bốn niệm xứ, bốn thiền, bốn thức ăn, năm triền cái, Sáu căn, sáu trần, sáu thức, mười hai nhân duyên.

V. KỆ TỤNG

Tỳ kheo tên Sati

Khởi lên ác tà kiến

"Thức này cứ luân chuyển

Nhưng không có khác gì."

Đây là lời xuyên tạc

Vì Phật vẫn thường dạy

Nếu không có các duyên

Thì thức không hiện khởi.

Thức do duyên mà sinh

Duyên nào mang tên ấy

Do duyên mắt và sắc

Có tên là nhãn thức

Do duyên tai và tiếng

Có tên là nhĩ thức

Do duyên mũi và mùi

Có tên là tỷ thức

Do duyên lưỡi và vị

Có tên là thiệt thức

Do duyên thân và xúc

Có tên là thân thức

Do duyên ý và pháp

Có tên là ý thức.

Như lửa đốt bằng củi

Thì gọi là lửa củi

Lửa được đốt bằng rơm

Được gọi là lửa rơm

Duyên trấu mà lửa sinh

Thì gọi là lửa trấu.

Tất cả các sinh vật

Tác thành nhờ thức ăn

Nếu thức ăn đoạn diệt

Sinh vật cũng đoạn diệt.

Có bốn loại thức ăn

Khiến hữu tình an trú

Là đoàn thực, xúc thực

Tư niệm thực, thức thực.

Bốn loại thức ăn này

Có nguyên nhân là ái

Ái có ra từ thọ

Nguyên nhân thọ là xúc

Nguyên nhân xúc, sáu nhập

Nhân sáu nhập, danh-sắc

Nhân danh-sắc là thức

Nhân của thức là hành

Nhân của hành, vô minh

Do mê mờ bốn đế

Đấy là sự tập khởi

Toàn bộ khổ uẩn này.

Cái này có, kia có

Cái này không, kia không

Cái này sinh, kia sinh

Cái này diệt, kia diệt.

Tỳ kheo biết như vậy

Không truy tầm quá khứ

Hay theo đuổi vị lai

Để đi tìm tự ngã.

Không thờ thầy nào khác

Không còn giới cấm thủ.

Vị ấy thành tựu Giới

Từ bỏ năm triền cái.

Chứng và trú bốn thiền

Sống với tâm vô lượng

Khi cảm thọ khởi lên

Đoạn trừ tâm thuận nghịch

Không tham nên Thủ diệt

Thủ diệt nên Hữu diệt

Hữu diệt nên Sinh diệt

Sinh diệt, Già chết diệt

Sầu bi khổ... cũng diệt

Đây là sự chấm dứt

Toàn bộ khổ uẩn này

Gọi "Ái tận giải thoát."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 39

Đại kinh xóm ngựa

I. TOÁT YẾU

Mahà-assapura Sutta - The greater discourse at assapura.

The Buddha elucidates "the things that make one a recluse" with a discourse covering many aspects of the bhikkhús training.

Bản kinh dài giảng ở xóm ngựa.

Phật kể ra những "pháp làm nên một sa môn ẩn sĩ" với một bài giảng bao quát nhiều phương diện tu tập của một tỳ kheo.

II. TÓM TẮT

Tại ấp có tên "Xóm ngựa" của dân Anga [Ương già], Phật dạy chúng tỳ kheo về các pháp làm nên Sa môn, Bà la môn. Ở đây hai danh từ này phải hiểu như định nghĩa của Phật ở cuối kinh: Sa môn là người đã "dừng lại các ô nhiễm đáng sợ, đem lại khổ quả tái sinh, già chết trong tương lai"; còn Bà la môn là người "đã tắm rửa sạch sẽ tất cả các ác bất thiện pháp, những ô nhiễm đưa đến tái sinh, già chết."

Khi đã tự xưng và được người ta gọi là sa môn, tỳ kheo phải tu tập và thành tựu các sa môn hạnh như sau:

1. Tàm và quý nhưng không khen mình chê người;

2. Thân hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

3. Khẩu hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

4. Ý hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

5. Mạng sống thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

6. Hộ trì các căn nhưng không lấy làm tự mãn;

7. Tiết độ trong ăn uống nhưng không tự mãn;

8. Chú tâm cảnh giác vào mọi lúc, tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại nhưng không tự mãn;

9. Chính niệm tỉnh giác trong bốn uy nghi nhưng không tự mãn;

10. Thiền định, gột sạch 5 triền cái tham, sân, hôm trầm, trạo hối, nghi; nhờ vậy tuần tự chứng đắc bốn thiền, ba minh, liễu tri bốn chân lý, thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Vị ấy đã xa lìa các bất thiện đưa đến sinh, già, chết trong tương lai, tuệ tri "Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không còn đời nào khác."

III. CHÚ GIẢI

Tàm [hiri] và quý [otappa]: hai đức tính bổ túc cho nhau, trong kinh Tăng chi, được Phật gọi là những vị "hộ trì thế gian" vì đấy là nền tảng của Giới. Tàm có đặc tính là ghê tởm trước điều ác, do một ý thức về tính tự trọng. Tàm được thể hiện là sự tự trách mình. Quý có đặc tính là sợ hãi điều quấy, quan tâm đến dư luận.

Sa môn hạnh là con đường bát chính. Cứu cánh của sa môn hạnh là diệt tận tham sân si.

Tắm rửa ở đây ám chỉ lễ tắm rửa của một người bà la môn khi thời gian làm đệ tử một vị thầy đã hoàn tất.

IV. PHÁP SỐ

Bốn vật dụng, bốn thiền, năm triền cái, năm thiền chi.

V. KỆ TỤNG

Phật dạy các tỳ kheo

Hãy tu tập các pháp

Làm nên bậc sa môn

Xứng với danh xưng ấy.

Pháp tác thành sa môn

Gồm có tàm và quý;

Thân hành phải thanh tịnh;

Khẩu, ý hành cũng vậy.

Cách sinh hoạt thanh tịnh;

Hộ trì các căn môn;

Tiết độ trong ăn uống;

Cảnh giác các chướng ngại

Vào tất cả các thời

Giữ chính niệm tỉnh giác

Trong tất cả uy nghi

Gột trừ 5 triền cái.

Như hết nợ, khỏi bệnh

Ra tù, hết nô lệ

Đến đất lành an ổn

Hết triền cái cũng vậy:

Chứng bốn thiền ba minh;

Biết như thật bốn đế;

Tự thân được giải thoát

Sinh tận, phạm hạnh thành.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 40

Tiểu kinh Xóm ngựa

I. TOÁT YẾU

Cùla-assapura Sutta - The shorter discourse at assapura.

The Buddha explains "the way proper to the recluse" to be not the mere outward practice of austerities but the inward purification from defilements.

Bài pháp ngắn giảng tại xóm ngựa.

Phật giải thích "con đường chân chính của sa môn" để ám chỉ không những chỉ có khổ hạnh bề ngoài, mà còn sự tịnh hóa những ô nhiễm nội tâm.

II. TÓM TẮT

Sa môn hạnh không chỉ tùy thuộc vào việc mang y ca sa hoại sắc, hay thực hành các loại khổ hạnh, mà tùy thuộc vào việc đoạn trừ các ô nhiễm: tham dục, sân hận, phẫn nộ, thù hằn, giả dối, não hại, tật đố, xan lẫn, man trá, xảo quyệt, ái dục, tà kiến. Khi tự ngã đã diệt hết những ô nhiễm không xứng sa môn hạnh, vị ấy được giải thoát, từ đấy tuần tự phát sinh theo nhân quả, các tịnh pháp như sau: hân hoan, hỷ, [thân] khinh an, lạc, định. Với tâm định tĩnh, vị ấy biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy các phương khác. Nhờ đoạn trừ các lậu hoặc, vị ấy tự mình chứng tri ngay trong hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, thành bậc sa môn chân chính.

III. CHÚ GIẢI

Kinh trước nói về sa môn pháp hay các pháp tác thành bậc sa môn; kinh này nói về tư cách sa môn. Mười pháp trước trong 12 "cấu uế của sa môn" cũng được nói trong "16 ấu uế của tâm" ở kinh số 7.

IV. PHÁP SỐ

Bốn phạm trú hay bốn vô lượng, năm triền cái.

V. KỆ TỤNG

Xuất gia có kết quả,

Là khi có thực hành

Các pháp của sa môn

Xứng với sa môn hạnh:

Trừ khử tâm tham, sân

Phẫn nộ và hiềm hận

Não hại và giả dối

Xan lẫn và tật đố

Man trá và xảo quyệt

Ác dục và tà kiến.

Đấy là những cấu uế

Tỳ vết của sa môn

Khiến sinh vào đọa xứ

Thọ lãnh các đường dữ.

Dù khoác y ca sa

Cũng không vì như thế

Mà thành hạnh sa môn

Dù tu các khổ hạnh

Cũng không vì như thế

Mà thành hạnh sa môn

Khi các cấu uế tâm

Không chuyên lo trừ diệt.

Như con dao hai lưỡi

Được bọc trong bao nhung

Sa môn còn cấu uế

Khoác vỏ ngoài cũng thế.

Trừ khử cấu uế tâm

Gột sạch bất thiện pháp

Tự ngã được giải thoát

Do vậy, hân hoan sinh.

Do hân hoan, hỷ sinh:

Do hỷ, thân khinh an

Do khinh an, được lạc

Do lạc, tâm định tĩnh.

Nội tâm được an trú

Biến mãn khắp mười phương

Với từ bi hỷ xả

Quảng đại và vô biên.

Như hồ nước mát trong

Có sen thơm ngào ngạt

Người lữ hành bốn phương

Nóng bức, cổ cháy khát

Đi đến hồ sen này

Được giải trừ nóng khát.

Pháp Luật của Như Lai

Cũng như hồ sen ấy

Người từ các dòng họ

Khổ sinh tử bức bách

Thoát ly khỏi gia đình

Thọ lãnh Pháp Như lai

Đoạn trừ các lậu hoặc

Thành tựu bậc Sa môn.

-ooOoo-

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 41-42

Sàleyyaka - Veranjaka

I. TOÁT YẾU

The brahmins of Sàla and of Veranja.

In these two nearly identical suttas, the Buddha explains to the groups of brahmin householders the courses of conduct leading to rebirth in lower realms and the courses leading to higher rebirth and deliverance.

Các bà la môn ở Sàla và ở Veranja.

Trong hai kinh gần giống nhau này, Phật giảng cho các nhóm gia chủ Bà la môn về các nghiệp đạo đưa đến tái sinh ở các cõi thấp, và các nghiệp đạo đưa đến tái sinh cao cấp và đưa đến giải thoát.

II. TÓM TẮT

Phật giảng tại thôn Sàla cho dân chúng nước Kosala, và tại Xá vệ cho dân Veranja đến viếng, về mười ác nghiệp và 10 thiện nghiệp, khi được hỏi do nhân gì sau khi chết có hữu tình sinh vào đọa xứ, có hữu tình vào cõi lành. Sinh vào đọa xứ là do ba ác nghiệp về thân: sát sinh, trộm cắp, tà dâm; bốn ác nghiệp về khẩu: nói láo, nói hai lưỡi, nói thô ác, nói lời vô ích; và ba ác nghiệp về ý: tham, sân, tà kiến. Ai từ bỏ mười ác nghiệp này, hành đúng chính đạo, thì tùy ý muốn, có thể sinh vào các dòng họ cao quý trong loài người, hoặc sinh vào các cõi trời dục giới hay sắc giới, vô sắc giới.

III. CHÚ GIẢI

Có tà kiến "Không có bố thí" nghĩa là tà kiến phủ nhận quả báo của bố thí. "Không đời này, đời sau" phủ nhận tái sinh. "Không mẹ, không cha" phủ nhận quả báo của sự bất hiếu hay có hiếu với cha mẹ. "Không có sa môn..." phủ nhận hiện hữu của Phật và các bậc A la hán. Đây toàn là những loại chấp "không tưởng" của chủ nghĩa duy vật.

"Hành đúng pháp, đúng chính đạo" được nói trong Kinh, là điều kiện cần để tái sinh vào các cõi trời và diệt tận lậu hoặc, nhưng chưa phải là đủ. Ví dụ, muốn tái sinh vào cõi Phạm thiện trở lên, cần phải đắc các thiền chứng. Muốn tái sinh vào các cõi Tịnh cư [ngũ tịnh cư thiên] thì phải đắc quả Bất hoàn. Muốn tái sinh vào các cõi vô sắc, phải đắc các thiền chứng vô sắc tương ứng, như Không vô biên, Thức vô biên, vv. Muốn đạt đến Diệt tận lậu hoặc, cần phải thực hành trọn vẹn thánh đạo tám ngành cho đến A la hán đạo.

IV. PHÁP SỐ

Ba thân hành, ba ý hành, bốn khẩu hành, mười ác nghiệp, mười thiện nghiệp, 28 cõi trời.

V. KỆ TỤNG

Phật đến làng Sa la

Trong xứ Kosala

Dân chúng nghe tin đồn

Đi đến yết kiến Phật

- Bạch tôn giả, nhân gì

Hữu tình sinh cõi dữ

Lại do nhân duyên gì

Được sinh cõi tốt lành?

- Do nhân hành phi pháp

Hữu tình sinh cõi ác

Do nhân hành đúng pháp

Một số sinh cõi lành.

Ba thân hành phi pháp

Là sát sinh, trộm cắp

Tà hạnh trong dâm dục.

Bốn khẩu hành phi pháp

Nói láo và hai lưỡi

Lời thô, lời vô ích.

Ba ý hành phi pháp

Là tham, sân, tà kiến.

Từ bỏ mười ác pháp

Sống đúng theo chính đạo

Biết thương xót hữu tình

Không trộm cắp tài vật

Không tà hạnh dâm dục:

Ba thân hành đúng pháp.

Tránh nói dối, hai lưỡi,

Tránh lời ác, phù phiếm:

Bốn ngữ hành đúng pháp.

Không tham lam sân hận

Và lại có chính kiến:

Ba ý hành đúng pháp.

Ai loại trừ mười ác

Và thực hành mười thiện

Có thể tùy ý muốn

Sinh vào các cõi lành.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 43

Đại kinh Phương quảng

I. TOÁT YẾU

Mahàvedalla Sutta - The greater series of questions and answers.

These two discourses take form of discussions on various subtle points of Dhamma, the former between the venerable Mahà Kotthila and the venerable Sàriputta, the latter between the bhikkhunì Dhammadinnà and the lay follower Visàkha.

Tập hợp lớn các vấn đáp.

Hai kinh này mang hình thức đàm luận những điểm tế nhị về Pháp. Kinh trước là giữa hai tôn giả Câu thi la và Xá lợi phất, kinh sau giữa tỳ kheo ni Dhammadinnà và cư sĩ Visàkha.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Xá lợi phất luận đàm với Ma ha Câu thi la về các điểm:

1. Liệt tuệ và trí tuệ: Liệt tuệ là không tuệ tri bốn chân lý; trí tuệ là có tuệ tri 4 chân lý. Trí tuệ là thắng tri, liễu tri và đoạn tận.

2. Khác nhau giữa Tuệ tri và Thức tri: Tuệ tri là do tu tập và từ bỏ. Thức tri là biết các cảm thọ lạc, khổ và trung tính. Giữa tuệ và thức có tương quan, nghĩa là cái gì thức biết thì tuệ cũng biết, nên rất khó phân biệt.

3. Giữa Thức, tưởng, thọ có tương quan, nên rất khó phân biệt; vì cái gì được cảm tho, cũng được nhận thức, và cái gì được nhận thức thì cũng được liễu biệt.

4. Ý thức biệt lập 5 giác quan thì thế nào: có thể đưa đến Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.

5. Các điều kiện [duyên] cho chính tri kiến: có hai, là tiếng người khác, và như lý tác ý. Làm thế nào để chính tri kiến đưa đến hai quả giải thoát - tâm và tuệ giải thoát - cùng công đức của hai giải thoát ấy: cần 5 yếu tố là Giới, Văn, Thảo luận, Chỉ và Quán.

6. Có bao nhiêu hữu: có ba, là dục, sắc và vô sắc.

7. Tái sinh tương lai xảy ra thế nào: do vô minh và tham ái, thích thú chỗ này chỗ kia. Nếu xả ly vô minh và tham ái thì tái sinh không xảy ra.

8. Thiền thứ nhất từ bỏ gì, thành tựu gì: Ly dục, ly bất thiện pháp, từ bỏ 5 triền cái: tham, sân, hôn trầm, trạo hối, và nghi; thành tựu 5 thiền chi là tầm, tứ, hỷ, lạc, nhất tâm.

9. Năm căn: có đối tượng sai khác, có ý làm chỗ nương, ý lãnh thọ các cảnh giới của 5 căn, 5 căn lại do duyên tuổi thọ mà trú. Tuổi thọ lại do duyên hơi ấm, và hơi ấm do duyên tuổi thọ, cũng như do ánh sáng mà thấy tim đèn, do tim đèn mà ánh sáng hiện.

10. Thọ hành và cảm thọ là một hay khác: khác, vì nếu là một thì một vị chứng Diệt thọ tưởng định sẽ chết luôn, nhưng sự thực là vị ấy có thể xuất định và có cảm giác trở lại.

11. Sự chết: Lúc nào thì thân xác được xem là đã chết: lúc ba pháp được từ bỏ: tuổi thọ, hơi ấm và thức. Khác nhau giữa thây chết và tỳ kheo nhập Diệt thọ tưởng định: nơi tỳ kheo nhập Diệt thọ tưởng định, tuổi thọ và thức vẫn còn an trú nên còn hơi ấm, nơi người chết, hai thứ ấy đã chấm dứt.

12. Điều kiện để chứng nhập tâm Giải thoát bất khổ bất lạc có 4: xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng trú thiền thứ tư với xả niệm thanh tịnh.

13. Điều kiện để chứng nhập tâm Giải thoát Vô tướng: có hai, là tác ý vô tướng giới và không tác ý tất cả pháp.

14. Vô lượng TGT, vô sở hữu TGT, không TGT và vô tướng tâm giải thoát: những pháp này có khi khác nghĩa, có khi đồng nghĩa. Khác nghĩa khi nói về nhân tu, như:

Vô lượng tâm giải thoát là do tu bốn phạm trú từ bi hỷ xả;

Vô sở hữu là do vượt trên Thức vô biên xứ, chứng trú Vô sở hữu xứ;

Không tâm giải thoát là thiền quán về sự trống rỗng, không có ngã hay ngã sở;

Vô tướng tâm giải thoát là do không tác ý tất cả tướng, an trú định vô tướng.

Cả bốn tâm giải thoát đồng nghĩa, vì nó là đặc tính của quả chứng, tức tâm giải thoát bất động, không bị động vì tham sân si. Tham sân si là nguyên nhân của giới hạn, nên không tham sân si là tâm giải thoát vô lượng; tham sân si là chướng ngại, nên không tham sân si là Không tâm giải thoát và vô sở hữu tâm giải thoát; tham sân si là cái tạo ra các tướng, nên không tham sân si gọi là giải thoát vô tướng.

III. CHÚ GIẢI

Tôn giả Ma ha Câu thi la được Phật tuyên bố là đệ nhất về trí phân tích, tài biện thuyết.

Trong thiền định, thân hành là hơi thở ra vào; khẩu hành là tầm tứ; ý hành là thọ, tưởng. Luận nói, bình thường, các căn bị ô nhiễm vì đối tượng giác quan, như một tấm gương đặt tại ngã tư đường cái; nhưng các căn của một vị ở trong Diệt định thì trong sáng như một tấm gương đặt trong hộp.

Thọ hành, àyusankhàrà, theo Luận, chỉ sinh khí, khác với cảm thọ, vì nó giữ cho thân xác một vị đã chứng Diệt thọ tưởng vẫn sống. Thiền chứng này, trong đó mọi tâm hành đều ngưng, chỉ được chứng đắc bởi một vị đã đắc quả Bất hoàn hay A la hán mà đồng thời cũng đã làm chủ tám thiền về tịnh chỉ.

Vô tướng tâm giải thoát là quả chứng. Tướng là sắc, vv.; vô tướng giới là Niết bàn, trong đó vắng bóng mọi tướng hữu vi sinh diệt. Luận giải Không tâm giải thoát, sunnatà cetovimutti, là tuệ chứng nhân và pháp đều vô ngã, không tự tính. Trong bốn tâm giải thoát, chỉ có Vô tướng giải thoát là thuộc siêu thế. Ba giải thoát trước đấy, vô lượng là Bốn phạm trú, Vô sở hữu là định vô sắc thứ ba trong bốn vô sắc, và Không giải thoát - tuệ thấy rõ các hành là không - đều thuộc thế gian.

Tham, sân, si làm nên những hạn lượng, pamànakarana, vì chúng áp đặt giới hạn trên phạm vi và chiều sâu của tâm thức. Nhưng theo Luận giải, vì nó khiến người ta đo lường một người nào là phàm phu, Dự lưu, Nhất lai hay Bất hoàn.

Luận nói có 12 tâm giải thoát là: 4 phạm trú, 4 đạo, 4 quả. Tâm giải thoát bất động là quả A la hán. Nói tâm trống rỗng tham, sân, si, là tâm giải thoát siêu thế nhờ không tướng vì tham sân si tạo ra các tướng.

Có chín tâm giải thoát nhờ không tướng: vô sở hữu xứ và 4 đạo, 4 quả.

Theo Luận, những cái tạo nên tướng, nimittakarana, là tham sân si vì chúng dán nhãn hiệu lên một người là phàm hay thánh, là tham hay sân hay si. Nhưng cũng có thể hiểu rằng ô nhiễm tham sân si này khiến tâm gán cho sự vật các đặc tính sai lạc như trường tồn, khả ái, có tự ngã, đẹp đẽ.

Luận giải: có 13 vô tướng tâm giải thoát là: tuệ, vì nó tẩy trừ các tướng thường, lạc, ngã; 4 định vô sắc, vì chúng không có tướng vật chất; và 4 đạo 4 quả, vì chúng không có ô nhiễm.

Cả 4 tâm giải thoát đều đồng nghĩa vì chúng đều ám chỉ quả A la hán, và vì bốn tên vô lượng, không, vô tướng, vô sở hữu đều là tên khác của Niết bàn.

IV. PHÁP SỐ

Ba thọ, bốn chân lý, bốn phạm trú, bốn không, bốn tâm giải thoát, năm pháp trợ duyên cho chính kiến đưa đến giải thoát: giới, văn, thảo luận, chỉ, quán.

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Xá lợi phất

Định nghĩa và phân biệt

Chỗ tế nhị các pháp

Với Đại Câu thi la.

Không biết bốn chân lý

Thị gọi là Liệt tuệ

Trí tuệ là thắng tri,

Liễu tri và đoạn tận.

Tuệ tri do tu tập

Thức tri biết cảm thọ

Lạc, khổ và trung tính.

Tuệ, thức có tương quan.

Ý thức biệt lập căn:

Chứng Không vô biên xứ

Từ đấy Thức vô biên

Và Vô sở hữu xứ.

Có hai điều kiện này

Đưa đến chính tri kiến:

Là tiếng của người khác,

và như lý tác ý.

Đạt Tâm, tuệ giải thoát

Nhờ chính kiến kèm thêm:

Giới, Văn, và Thảo luận,

Tịnh chỉ và Tuệ quán.

Tái sinh trong tương lai

Do vô minh, tham ái,

Thích thú các khoái lạc

Ở chỗ kia chỗ này.

Thiền thứ nhất bỏ gì:

Ác dục, bất thiện pháp,

Cùng với 5 triền cái

Tham sân ngủ hối nghi

Thành tựu 5 thiền chi

Tầm, tứ, hỷ, lạc, định.

Năm căn đối tượng khác

Nhưng cùng nương vào Ý

Do tuổi thọ mà trú

Tuổi thọ do hơi ấm,

Hai thứ duyên lẫn nhau

Như đèn với bấc, dầu.

Thọ hành khác cảm thọ:

Thọ hành là sinh mạng

Chứng Diệt thọ tưởng định

Dứt cảm thọ, còn mạng

Nên không phải chết luôn

Xuất định, lại cảm giác.

Thân chết khi từ bỏ

Thọ mạng, hơi ấm thức.

Muốn đạt tâm giải thoát

Vượt ngoài khổ và lạc

Phải xả lạc, xả khổ,

diệt hỷ ưu đã thọ,

chứng trú thiền thứ tư

với xả niệm thanh tịnh.

Muốn giải thoát Vô tướng

Cần có hai điều kiện:

Tác ý vô tướng giới

Và không tác ý gì.

Bốn tâm giải thoát này

Khác nghĩa do nhân tu

Đồng nghĩa do quả chứng:

Vô lượng do phạm trú

Quán từ bi hỷ xả;

Vô sở hữu giải thoát

Do quán Thức là không.

Đạt Không tâm giải thoát

Do quán ngã ngã sở

Trống rỗng, không có gì.

Vô tướng tâm giải thoát

Do đắc định vô tướng.

Bốn tâm ấy đồng nghĩa

Chỉ quả vị La hán

Vì ám chỉ bất động,

Không động tham sân si

Vì chính tham sân si

Mới làm nên hạn lượng,

Mới làm nên chướng ngại

Và tạo ra các tướng.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 44

Tiểu kinh Phương quảng

I. TOÁT YẾU

Cùlavedalla Sutta - The shorter series of questions and answers.

Tập hợp ngắn các vấn đáp. (Xem kinh 43.)

II. TÓM TẮT

Ni sư Dhammadinna giảng cho nam cư sĩ Visakha về những điểm:

1. Tự thân: năm thủ uẩn là tự thân. Tập khởi của tự thân là khát ái câu hữu hỉ, tham, tìm cầu hỉ lạc chỗ này chỗ khác. Tự thân diệt là đoạn diệt khát ái. Con đường đoạn diệt là thánh đạo tám ngành.

2. Thủ và uẩn: có dục tham đối với năm uẩn thì gọi là thủ uẩn.

3. Thân kiến là sự chấp trước của phàm phu, xem 5 uẩn là tự ngã, hay xem tự ngã có năm uẩn, hay xem 5 uẩn ở trong tự ngã, hay xem tự ngã ở trong 5 uẩn. Phi thân kiến là không có những quan điểm như vậy.

4. Tám thánh đạo và ba uẩn. Thánh đạo là hữu vi, không phải vô vi; Ba uẩn thâu nhiếp tám thánh đạo: Giới uẩn là chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng; Ðịnh uẩn là chính tinh tấn, chính niệm, chính định; Tuệ uẩn là chính kiến, và chính tư duy.

5. Ðịnh, định tướng, định cư tụ, và định tu tập: Nhất tâm là định; 4 niệm xứ là tướng của định, bốn chính cần là tư cụ của định, tu tập các pháp ấy gọi là tu tập định.

6. Ba hành là thân, khẩu, ý. Thở vô thở ra là thân hành vì lệ thuộc thân; tầm tứ là khẩu hành vì do suy tư mà có lời nói; tưởng, thọ là ý hành vì hai pháp này tùy thuộc về tâm.

7. Nhập và xuất Diệt thọ tướng định: Một người nhập định này không khởi lên ý nghĩ tôi sẽ nhập, đang nhập hay đã nhập, chỉ do tu tập nên đưa đến trạng thái ấy. Khi nhập định này, thứ tự diệt ba hành là khẩu, thân, ý. Khi xuất, thứ tự sinh khởi trở lại ba hành là ý, thân, khẩu. Khi xuất Diệt định, vị ấy cảm thọ ba loại xúc là không, vô tướng, vô nguyện. Tâm vị ấy hướng về độc cư.

8. Ba thọ: đối với lạc thọ, thì trú là lạc, biến hoại là khổ. Ðối với khổ thọ, thì trú là khổ, biến hoại là lạc. Ðối với bất khổ bất lạc, thì có trí là lạc, vô trí là khổ. Trong lạc thọ, có tham tùy miên; trong khổ thọ có sân tùy miên; trong bất khổ bất lạc có si tùy miên. Tuy nhiên, ba thọ này ở trong thiền định thì không có tùy miên tham, sân, si. Ví dụ lạc thọ ở sơ thiền không có tham tùy miên; ưu tư muốn đạt các cảnh giới cao thượng là một loại khổ thọ nhưng không có sân tùy miên; và xả niệm thanh tịnh ở tứ thiền là bất khổ bất lạc thọ nhưng không có vô minh tùy miên.

9. Minh và vô minh;

10. Giải thoát và niết bàn.

III. CHÚ GIẢI

Visàkha là một thương gia giàu có ở thành Vương xá. Dhammadinnà khi còn tại gia, là vợ ông ta. Sau khi xuất gia làm tỳ kheo ni, bà đắc quả A la hán, được Phật công bố là đệ tử ni xuất sắc nhất về giảng Pháp.

Năm thủ uẩn là toàn bộ chân lý về Khổ, nên bốn câu hỏi đặt ra đầu tiên về Bốn chân lý liên hệ đến bản ngã hay Khổ.

Thủ ở đây chỉ tham ái, là một phần của hành uẩn, nên nó không phải năm uẩn; nhưng vì nó không tách rời 5 uẩn, nên cũng không có thủ ở ngoài năm uẩn.

Kiến chấp bản ngã có 20 kiểu. Luận dẫn 4 hình thức chấp ngã liên hệ đến sắc uẩn như sau. Hoặc chấp hình chất là ngã, như ngọn lửa là một với màu sắc ngọn lửa. Hoặc chấp ngã có một hình chất như cây có cái bóng cây. Hoặc chấp hình chất ở trong ngã, như mùi hương ở trong hoa. Hoặc chấp ngã ở trong hình chất, như viên ngọc nằm trong cái hộp.

Thứ tự diệt và tái sinh khởi ba hành trong thiền định: tầm tứ hay khẩu hành diệt trước, trong nhị thiền; kế đến là hơi thở hay thân hành diệt ở tứ thiền; và cuối cùng thọ và tưởng hay ý hành diệt khi chứng nhập Diệt định. Khi xuất diệt định, trước hết là tâm hành, tức ý thức về sự đắc quả khởi lên, cùng với nó là thọ và tưởng tương ứng; kế tiếp là khi hữu phần tâm khởi lên, thì hơi thở hay thân hành bắt đầu trở lại. Cuối cùng, khi thiền giả trở về với sinh hoạt bình thường, thì khẩu hành khởi lên.

Tương đương, patibhàga, chỉ sự tương quan giữa hai pháp vừa đối nghịch vừa phụ thuộc vào nhau, như sáng với tối.

Vô minh là tương đương với bất khổ bất lạc, vì cảm thọ này rất vi tế khó nhận diện.

Niết bàn cũng có cái đối nghịch là các pháp hữu vi, nhưng theo nghĩa tuyệt đối, nó không có pháp phụ thuộc vì làm sao có cái gì phụ thuộc vào Niết bàn là pháp vô vi, vô điều kiện?

IV. PHÁP SỐ

Ba hành, ba thọ, ba tùy miên, ba uẩn [giới định tuệ], bốn chân lý, năm triền cái, năm thiền chỉ, năm uẩn, tám thánh đạo.

V. KỆ TỤNG

1. Cư sĩ Visakha

Hỏi Dhammadinna

Về tập khởi của thân

Và đoạn diệt của nó.

Năm uẩn là tự thân

Có ra vì khát ái

Câu hữu với hỉ, tham

Tìm hỉ lạc khắp chỗ.

Sự chấm dứt tự thân

Là xả ly ái, thủ

Con đường dứt ái thủ

Là thánh đạo tám ngành.

2. Thủ khác với năm uẩn

Hay thủ, uẩn là một?

Thủ không khác năm uẩn

Vì ở trong năm uẩn

Thủ thuộc về hành uẩn.

Nhưng khi có dục tham

Ðối với thân năm uẩn

Mới gọi là thủ uẩn.

3. Thân kiến nghĩa là gì

Kẻ phàm phu chấp trước

Xem sắc là tự ngã,

Hoặc tự ngã có sắc,

Hoặc sắc ở trong ngã,

Hoặc ngã ở trong sắc

Với thọ, tưởng, hành, thức

Thành hai mươi thân kiến.

4. Tám thánh đạo, ba uẩn.

Thánh đạo là hữu vi

Bao gồm trong ba uẩn

Giới uẩn là chính ngữ,

Chính nghiệp và chính mạng;

Ðịnh uẩn chính tinh tiến,

Chính niệm cùng chính định;

Tuệ uẩn là chính kiến

Cùng với chính tư duy.

5. Gì là Ðịnh, định tướng,

Tư cụ và tu tập?

Nhất tâm gọi là định;

Tướng định: 4 niệm xứ;

Tư cụ: bốn chính cần;

Tu tập các pháp ấy

Gọi là tu tập định.

6. Ba hành nghĩa là gì?

Thân, khẩu, và ý hành.

Thân hành là hơi thở

Vì do thân sinh ra;

Khẩu hành là tầm tứ

Vì nghĩ trước, nói sau.

Ý hành là tưởng, thọ

Vì do tâm mà có.

7. Trạng thái nhập Diệt định

Xảy ra do tu tập

Không do móng khởi tâm

"Ta sẽ nhập, trú, xuất"

Tỳ kheo nhập định này

Ngữ hành tầm tứ diệt

Rồi thân hành, ý hành.

Khi xuất Diệt tận định

Ý khởi, đến thân, khẩu.

Cảm thọ ba loại xúc:

Vô tướng, vô nguyện, không.

8. Ðối với cảm thọ lạc,

Trú lạc, biến hoại khổ.

Ðối với cảm thọ khổ,

Trú khổ, biến hoại lạc.

Với bất khổ bất lạc,

Trí lạc, vô trí khổ.

Trong lạc, tham tùy miên,

Trong khổ, sân tùy miên,

Trong xả, si tùy miên.

Tuy vậy trong các thiền

Có thọ, không tùy miên:

Hỉ lạc ở sơ thiền

Không có tham tùy miên;

Ưu tư muốn đắc thiền

Là khổ thọ không sân

Xả niệm ở tứ thiền

Không vô minh tiềm ẩn.

Lạc lấy khổ làm đối

Khổ lấy lạc đắp đổi

Bất khổ bất lạc thọ

Là vô minh gần kề.

9. Vô minh lấy gì đối?

- đối xứng và đối nghịch -

Lấy "Minh" làm tương đương

Minh lấy gì để đối?

Giải thoát là tương đương.

Giải thoát lấy gì đối?

Giải thoát đối Niết bàn

Ðến đây là hết đối.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 45

Tiểu kinh Pháp hành

I. TOÁT YẾU

Cùladhammasamàdàna Sutta - The shorter discourse on ways of undertaking things.

The Buddha explains, differently in each of the two suttas, four ways of undertaking things, distinguished according to whether they are painful or pleasant now and whether they ripen in pain or pleasure in the future.

Bản kinh ngắn về những lối hành xử.

Phật giải thích trong hai kinh này, bốn cách thọ lãnh các pháp, khác nhau ở chỗ hiện tại chúng là lạc hay khổ và trong tương lai, chúng kết thành quả báo vui hay khổ.

II. TÓM TẮT

Có bốn pháp hành: hiện tại lạc, vị lai khổ; hiện tại khổ, vị lai cũng khổ. Hiện tại khổ, vị lai lạc; và hiện tại lạc, vị lai cũng an lạc.

Loại 1 là pháp hành của các sa môn bà la môn tham đắm dục lạc, tương lai bị quả báo ở ba đường ác.

Loại 2 là khổ hạnh thuộc giới cấm thủ của ngoại đạo.

Loại 3 là những người bẩm sinh nhiều tham sân si, nhưng chịu khó tu hành một cách vất vả, sống phạm hạnh trong sạch, khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi lành.

Loại 4 là những người bẩm sinh ít tham sân, có trí tuệ, lại ly dục, ly bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, khi chết sinh thiên giới.

III. CHÚ GIẢI

IV. PHÁP SỐ

Ba độc, ba thọ, bốn thiền, bốn loại pháp hành, năm thiền chi.

V. KỆ TỤNG

Phật dạy chư tỳ kheo

Có bốn loại pháp hành:

Hiện giờ vui, sau khổ,

Như tham đắm dục lạc,

Chết đọa ba đường ác.

Hiện khổ, sau cũng khổ

Như ngoại đạo khổ hạnh

Tà kiến sa địa ngục.

Hiện khổ về sau vui

Như nặng về tham ái

Vẫn cố sống phạm hạnh

Mạng chung sinh cõi lành

Hiện vui, sau cũng vui

Như kẻ ít tham sân

Ly dục, ly bất thiện

Chứng và trú các thiền

Khi chết sinh thiên giới.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 46

Ðại kinh pháp hành

I. TOÁT YẾU

Mahàdhammasamàdàna Sutta - The greater discourse on ways of undertaking things.

Bản kinh dài về những lối hành xử. (Xem kinh 45)

II. TÓM TẮT

Phật dạy, chúng sinh phần lớn đều mong bớt khổ, thêm vui, nhưng chỉ gặp ít vui, nhiều khổ. Nguyên nhân là phàm phu không tu học thánh pháp, chuyên làm những việc không đáng làm và tránh né những việc đáng làm, khiến cho khổ pháp tăng trưởng, lạc pháp giảm thiểu.

Có bốn pháp hành: hiện tại khổ, tương lai khổ; hiện tại vui, tương lai khổ; hiện tại khổ, tương lai vui; hiện tại vui, tương lai vui.

Hiện tại khổ, tương lai khổ, là trường hợp người hiện tại làm mười nghiệp ác trong tâm trạng đau khổ, khi thân hoại mạng chung sinh vào cõi xấu. Như thuốc đã đắng mà lại độc, làm chết người uống.

Hiện tại vui, tương lai khổ, là trường hợp làm 10 nghiệp ác trong tâm trạng hân hoan, khi chết đọa vào cõi dữ. Như thuốc độc bỏ vào đồ uống ngon ngọt.

Hiện tại khổ, tương lai vui, là trường hợp người từ bỏ 10 nghiệp ác với tâm trạng đau khổ; do duyên từ bỏ ác nghiệp, khi thân hoại mạng chung được sinh vào cõi lành. Như thuốc đắng nhưng làm khỏi bệnh.

Hiện tại vui, tương lai vui, là trường hợp người từ bỏ 10 nghiệp ác với tâm trạng hân hoan, do duyên ấy khi chết tái sinh vào cõi lành. Như thuốc ngon ngọt, lại làm khỏi bệnh.

III. CHÚ GIẢI

Những điều nên làm và không nên làm được đề cập đầy đủ trong kinh số 114 Trung bộ (tập 3).

IV. PHÁP SỐ

Bốn pháp hành, Mười ác nghiệp.

V. KỆ TỤNG

Hữu tình đều mong mỏi

Giảm khổ và tăng lạc

Nhưng gặp điều ngược lại

Là vui ít, khổ nhiều.

Giai do vì phàm phu

Ngu si không hiểu biết

Không tu học thánh pháp

Chuyên làm chuyện không đáng

Tránh né việc đáng làm

Khiến khổ tăng, lạc giảm.

Hiện tại khổ, sau khổ

Là kẻ làm việc ác

Trong tâm trạng đau khổ

Khi thân hoại mạng chung

Sinh vào cõi bất an

Như thuốc đắng lại độc

Làm chết người uống ăn.

Hiện tại vui, sau khổ

Là làm 10 nghiệp ác

Trong tâm trạng hân hoan

Chết đọa vào cõi dữ

Như thuốc độc giấu ngầm

Trong đồ uống ngọt ngon.

Hiện tại khổ, sau vui,

Là từ bỏ 10 ác

Với tâm trạng đau khổ

Khi thân hoại mạng chung

Ðược sinh vào cõi lành

Như thuốc đắng, khỏi bệnh.

Hiện tại vui, sau vui

Là từ bỏ 10 ác

Với tâm trạng hân hoan

Chết sinh vào cõi lành

Như thuốc ngon lại bổ.

Lại như mặt trời lên

Tan mây mù hắc ám

Pháp hành hiện tại lạc

Quả tương lai cũng vui

Do Như Lai giảng dạy

Phá tan mọi tà thuyết.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 47

Kinh tư sát

I. TOÁT YẾU

Vìmamsaka Sutta - the inquirer.

The Buddha invites the bhikkhus to maek a thorough investigation of himself in order to find out whether or not he can be accepted as fully enlightened.

Người tìm hiểu.

Phật khuyên các tỳ kheo nên làm một cuộc tra tầm toàn diện về bản thân Ngài để tìm hiểu xem Ngài có đáng được chấp nhận là hoàn toàn giác ngộ hay không.

II. TÓM TẮT

Phật dạy các tỳ kheo cần phải tìm hiểu về Như Lai xem Ngài có thực là Chính đẳng giác hay không. Có bảy việc đáng tìm hiểu.

1. Những pháp ô nhiễm do mắt tai nhận thức có còn hiện khởi nơi Ngài không.

2. Những tạp pháp khi nhiễm khi tịnh do mắt tai nhận thức, có hiện khởi không.

3. Những pháp hoàn toàn thanh tịnh do mắt tai nhận thức, có hiện khởi không.

4. Thiện pháp này thành tựu nơi Ngài trong một thời gian dài hay ngắn.

5. Khi nổi danh, một số nguy hiểm có xảy ra cho Ngài không.

6. Xét Ngài do sợ hãi tiếng xấu mà từ bỏ hay vì đã đoạn diệt tham ái mà từ bỏ; để nhận rằng Ngài do vô úy mà từ bỏ, vì dù ở giữa chúng hay ở một mình Ngài vẫn vậy; và Ngài không chỉ trích những người theo ác giới, chuyên trọng tài vật.

7. Sau khi tìm hiểu, phải hỏi lại Phật chính những điều ấy. Một đệ tử cần phải đến gần một bậc đạo sư như vậy để nghe pháp, chứng tri pháp ấy, đạt đến cứu cánh, và khi ấy sẽ khởi lòng tịnh tín: "Thế tôn là bậc Chính đẳng giác, Pháp được Ngài khéo giảng, chư tăng khéo hành trì." Lòng tin như thế được gọi là căn cứ trên chính kiến, không thể bị phá hoại bởi bất cứ ai trên thế giới với chư thiên, ma, Phạm, sa môn, bà la môn...

III. CHÚ GIẢI

Do mắt tai nhận thức: Thân hành và ngữ hành là những pháp do mắt tai nhận thức. Cũng như thấy sóng gợn, bọt nổi mà biết trong nước có cá, do hành vi hay lời nói nhiễm ô, người ta có thể biết cái tâm phát sinh ra những hành vi và lời nói ấy cũng nhiễm ô.

Tạp pháp, vìtimissà dhammà, ám chỉ hành vi của người đang thanh lọc hành vi mình, nhưng không thể kiên trì giới hạnh, khi Phật khi ma.

Nguy hiểm là kiêu căng ngã mạn, vv. Một vài người, khi chưa nổi danh thì những nguy hiểm này không rõ rệt, họ có vẻ an tịnh; nhưng khi nổi tiếng, có đồ chúng, họ lại cư xử bất đáng, đả kích người khác như một con báo vồ đàn nai.

IV. PHÁP SỐ

Ba loại pháp: nhiễm, tịnh, và hỗn tạp.

V. KỆ TỤNG

Phật dạy các tỳ kheo

Cần tìm hiểu Như Lai

Ðúng bậc Chính đẳng giác

Theo bảy cách tư sát.

1. Một là những ô nhiễm

Do mắt tai nhận thức

Còn khởi lên nơi Ngài

Hay là không hiện khởi.

2. Ðược biết không hiện khởi

Lại xét những tạp pháp

Có khi nhiễm khi tịnh -

Cũng không còn hiện khởi

3. Rồi xét những tịnh pháp

- Pháp hoàn toàn thanh tịnh -

Do mắt tai nhận thức

Có khởi nơi Như Lai.

4. Kế đến, hãy tìm hiểu

Phật thành tựu việc này

Trong thời gian ngắn, dài

Ngài thành tựu từ lâu.

5. Lại xét khi nổi danh

Có nguy nào xảy đến

Phật không gặp nguy nào

Như là tham, mạn, kiến...

6. Lại xét do nhân gì

Ngài tu hạnh viễn ly

Thấy Ngài do diệt ái

Mà tu hạnh viễn ly.

Giữa chúng hay một mình

Ngài vẫn không đổi khác

Không khinh kẻ ác giới

Chuyên chú trọng tài vật.

7. Sau khi tìm hiểu qua

Lại xin Phật xác minh

Về những điều tìm thấy

Ðể biết thực không ngoa.

Ðệ tử phải đến gần

Một đạo sư như vậy

Ðể nghe pháp, suy tư

Và chứng tri pháp ấy

Ðạt đến chỗ cứu cánh

Và khởi lên tịnh tín

Ðối với đức Thế tôn

"Là bậc Chính đẳng giác

Pháp được Ngài khéo giảng

Chư tăng khéo hành trì."

Lòng tin ấy đáng gọi

Căn cứ trên chính kiến

Không thể bị phá hoại

Bởi một ai trên đời".

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 48

Kosambiya

I. TOÁT YẾU

Kosambiya Sutta - The kosambians.

During the period when the bhikkhus at Kosambi are divided by a dispute, the Buddha teaches them the six qualities that create love and respect and conduce to unity. He then explains seven extraordinary knowledges possed by a noble disciple who has realised the fruit of stream-entry.

Những người xứ Câu diệm bì.

Trong thời gian chư tỳ kheo ở Câu diệm bì chia rẽ vì một cuộc tranh cãi, Phật giảng dạy cho họ sáu đức tính tạo nên tình thương yêu và tương kính, đưa đến hòa hợp. Rồi Ngài giải thích bảy thắng trí mà một vị thánh đệ tử có được khi chứng quả Dự lưu.

II. TÓM TẮT

Nhân các tỳ kheo ở Kosambi chia rẽ vì cãi nhau, Phật giảng sáu pháp hòa thuận và bảy yếu tố của Dự lưu quả.

1. Từ thân hành đối với nhau trước mặt như sau lưng.

2. Từ khẩu hành;

3. Từ ý hành;

4. San sẻ lợi lộc vật chất;

5. Cùng nhau thành tựu giới luật;

6. Cùng nhau thành tựu tri kiến bậc thánh. Trong đây, tri kiến bậc thánh là nòng cốt của lục hòa.

Bảy yếu tố của quả Dự lưu là bảy yếu tố của tri kiến bậc thánh:

1. Thiền định để gột trừ năm triền cái.

2. Ðạt đến tịnh chỉ.

3. Quán sát bằng tri kiến này không có trong giới luật ngoại đạo.

4. Phát lộ khi phạm giới.

5. Giúp đỡ bạn đồng tu.

6. Lóng tai nghe Pháp.

7. Thành tựu nghĩa tín thọ, pháp tín thọ, và hân hoan liên hệ Pháp.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này bắt nguồn từ cuộc tranh cãi ở Câu diệm bì, khởi từ sự hiểu lầm một tiểu giới nhưng đã nhanh chóng bùng lên và lan rộng, chia đại đa số tăng chúng và tín đồ ở địa phương thành hai phe thù nghịch.

IV. PHÁP SỐ

Năm triền cái, sáu hòa, bảy yếu tố của Dự lưu quả [trừ 5 triền cái, tịnh chỉ; trí quán sát; phát lộ ngay khi phạm tiểu giới; giúp đỡ đồng tu; lóng tai nghe pháp; hiểu rõ ý nghĩa và hân hoan trong Pháp].

V. KỆ TỤNG

1. Chúng ở Kosambi

Chia rẽ vì cãi nhau

Không chấp nhận hòa giải

Phật giảng pháp lục hòa.

Cùng với bảy yếu tố

Ðưa đến Dự lưu quả.

2. Một là từ thân hành

Hai là từ khẩu hành

Ba là từ ý hành

Sau lưng như trước mặt

Bốn, san sẻ lợi lộc

Năm, cùng thành tựu giới

Sáu, cùng tri kiến thánh

- Nòng cốt của lục hòa.

Bảy yếu tố Dự lưu

Là tri kiến bậc thánh:

Một bỏ năm triền cái,

Dứt trừ sự tranh cãi;

Hai là đạt tịnh chỉ;

Ba là trí quán sát

Thấy rõ tri kiến này

Không có trong ngoại đạo.

Bốn phát lộ lỗi lầm;

Năm giúp đỡ đồng tu;

Sáu lóng tai nghe Pháp;

Bảy thành tựu sức mạnh

Nghĩa và Pháp tín thọ

Hân hoan liên hệ Pháp.

Thành tựu bảy chi này

Là đắc quả Dự lưu.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 49

Phạm thiên cầu thỉnh

I. TOÁT YẾU

Brahmanimantanika Sutta - The invitation of a brahmà.

Baka the Brahmà, a high divinity, adopts the pernicious view that the heavenly world over which he presides is eternal and that there is no higher state beyond. The Buddha visits him to dissuade him from that wrong view and engages him in a contest of Olympian dimensions.

Sự mời mọc của Phạm thiên.

Vị trời Baka cõi Phạm thiên, có tà kiến rằng cõi trời mà ông làm chủ là trường cửu, không có cõi nào cao hơn. Phật viếng thăm ông ta để giải trừ tà kiến ấy nơi ông, và đưa ông vào một cuộc tranh tài có tầm cỡ thế vận hội.

II. TÓM TẮT

Phạm thiên Baka khởi lên tà kiến chấp cõi trời của ông là trường tồn, toàn diện, không có giải thoát nào cao hơn thế. Phật viếng thăm và nói ông ta đã sai lầm. Khi ấy Ác ma nhập vào một vị trời để bảo Phật chớ can thiệp, và xác nhận Phạm thiên là số một trên thế gian, ai phỉ báng sẽ phải đọa, ai tán dương Phạm thiên, khi thân hoại mạng chung sẽ được sung sướng. Khi ấy Phật bảo Ác ma Ngài biết rõ Phạm thiên cũng trong tay Ác ma, nhưng Phật thì không, Ngài đã thoát khỏi tầm tay của ma.

Phạm thiên lặp lại tà kiến cho rằng cõi trời ấy trường cửu, toàn diện, không biến hoại, và nói nếu Phật nương vào 4 đại, chúng sinh... cho đến các cõi trời, thì Phật sẽ ở trong lãnh địa ông ta. Phật xác nhận uy quyền của Phạm thiên trong giới hạn ấy, nhưng Ngài còn biết nhiều cõi trời cao hơn cõi Phạm thiên, như cõi Quang âm thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên... tuy vậy Ngài không chấp thủ bốn đại và bất cứ một pháp nào. Do vậy Ngài vượt xa Phạm thiên.

Ðể trổ tài, Phạm thiên nói ông sẽ biến mất trước Phật, nhưng ông không biến được. Trái lại, Phật hiện thần thông khiến thiên chúng không thấy được Ngài, nhưng nghe tiếng Ngài nói "Do thấy nguy hiểm của hữu, Như Lai tìm phi hữu; và đối với hữu, Như Lai không tôn trọng, không chấp thủ." Thiên chúng tán dương thần lực của Phật.

Ác ma nhập vào một vị trời để khuyến cáo Phật đừng giảng Pháp, vì xưa kia có những vị xuất gia do nói pháp, hướng dẫn đệ tử mà khi chết phải đọa. Phật nhận diện ác ma và nói Ngài biết ác ma đang nghĩ: "Những ai được sa môn Gotama thuyết pháp, sẽ thoát ngoài tầm ảnh hưởng của ta."

III. CHÚ GIẢI

Kinh số 1, Pháp môn căn bản, cũng được giảng khi Phật ở rừng Subhaga tại Ukkatthà. Ðề tài tương đồng giữa hai kinh này rất đáng chú ý. Có thể nói kinh này là một trình diễn có kịch tính những ý tưởng đã nêu trong kinh Pháp môn căn bản dưới hình thức triết lý trừu tượng. Vậy, Phạm thiên Baka tiêu biểu tự ngã trong hình thức trổi nhất, mù quáng trong tưởng tri với những ảo tưởng về thường, lạc, ngã. Bên dưới là khát ái, tượng trưng bởi Ác ma - không lộ liễu giữa chúng hội, nhưng lại là tác giả thực sự của mọi tưởng, chính ác ma nắm toàn thể vũ trụ trong tay.

IV. PHÁP SỐ

Bốn đại.

V. KỆ TỤNG

Phạm thiên tên Baka

Khởi lên ác tà kiến

Chấp cõi mình trường tồn

Không cõi nào cao hơn.

Biết tâm tư vị này

Phật xuất hiện nơi đây

Bảo ông đã lầm sai

Có tà kiến điên đảo.

Ác ma nhập thân trời

Bảo Phật chớ can thiệp

Phạm thiên là Sinh chủ

Số một trên thế gian

Ai phỉ báng phải đọa

Ai tôn sùng được an.

Phật bèn bảo Ác ma

"Ta biết rõ Phạm thiên

Cũng trong tầm tay ngươi

Nhưng Như Lai không vậy

Ðã thoát khỏi lưới ma."

Phạm thiên lại nói rằng

Cõi trời ấy thường hằng

Toàn hảo, không biến hoại

Ai y cứ bốn đại

Sẽ được gần gũi ta.

Phật xác nhận như vậy

Uy quyền của Phạm thiên

Nằm trong giới hạn ấy.

Nhưng Như Lai còn biết

Những cõi trời cao hơn

Như cõi Quang âm thiên

Biến tịnh và Quảng quả...

Tuy vậy Phật không chấp

Bốn đại và tất cả

Nên vượt xa Phạm thiên.

"Nếu Ngài không lãnh thọ

Bất cứ một pháp nào

Thức Ngài sẽ trống không

Và không có giới hạn.

Nay tôi sẽ biến mất

Ngay trước mặt tôn giả."

"Ðược, ông hãy biến đi."

Phạm thiên không biến được

Trái lại, thần thông Phật

Khiến chúng không thấy Ngài

Chỉ nghe tiếng Như Lai

"Do thấy nguy của hữu

Như Lai tìm phi hữu

Như Lai không tôn trọng

Cũng không chấp thủ hữu."

Trước thần lực của Phật

Thiên chúng rất tán dương.

Lo sợ Phật thuyết pháp

Ác ma lại khuyên Ngài

Ðừng có giảng Phật pháp,

Có những vị xuất gia

Giảng pháp, độ đệ tử

Mà khi chết phải đọa.

Phật nhận diện ác ma:

Ta biết ngươi đang nghĩ

"Ai nghe Gotama,

Sẽ thoát ảnh hưởng ta."

Nhưng này hỡi ác ma

Như Lai đấng Lậu tận

Dù nói pháp, không nói

Thì vẫn là Như Lai.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 50

Hàng ma

I. TOÁT YẾU

Màratajjanìya Sutta - The rebuke to Màra.

Màra attempts to harass the venerable Moggallàna, but the latter relates a story of the distant past to warn Màra of the dangers in creating trouble for a disciple of the Buddha.

Hàng phục Ác ma.

Ác ma cố quấy nhiễu tôn giả Mục kiền liên, Ngài bèn thuật lại một câu chuyện từ quá khứ lâu xa để cảnh cáo cho Ác ma biết những nguy hiểm xảy đến khi quấy rối một đệ tử của Phật.

II. TÓM TẮT

Trong vườn Lộc uyển, tôn giả Mục kiền liên đang kinh hành ngoài trời, bỗng dưng cảm thấy bụng nặng. Ngài trở vào ngồi thiền quán, thấy ác ma đang ở trong bao tử. Ngài bảo ác ma không nên quấy nhiễu đệ tử Phật, sẽ mang họa lâu dài. Khi ác ma đi ra, tôn giả kể cho nghe thuở xa xưa, dưới thời đức Phật Câu lưu tôn [Kakusandha] Ngài cũng là ác ma tên Dusi, còn ác ma bây giờ thuở ấy là con trai của chị Ngài, gọi Ngài bằng cậu. Phật Câu lưu tôn có hai đệ tử xuất sắc tên Vidhura giỏi thuyết pháp và Sanjiva giỏi chứng thiền. Ác ma Dusi nhập vào các gia chủ, dùng những lời thô ác để thóa mạ những tỳ kheo giới đức. Phần lớn gia chủ này sau khi chết phải đọa vào cõi dữ. Các tỳ kheo được Phật Câu lưu tôn dạy biến mãn tâm từ không hận không sân, nên không bị ảnh hưởng bởi những lời phỉ báng. Khi ấy ác ma Dusi đổi phương pháp, nhập vào các gia chủ đến đảnh lễ tôn trọng cúng dường các tỳ kheo giới đức, hầu mong chi phối những vị này. Các gia chủ ấy sau khi chết được sinh vào cõi lành. Còn các tỳ kheo được Phật Câu lưu tôn dạy tu thiền quán bất tịnh, vô thường để sinh tưởng nhàm chán, nên không bị chi phối vì cung kính lợi dưỡng. Ác ma Dusi không hại được tôn giả Vidhura bằng phỉ báng cũng như tán dương, nên nhập vào một đứa trẻ khiến nó liệng đá vỡ đầu tôn giả, máu chảy đầm đìa, trong khi Ngài đang đi sau lưng đức Phật. Khi Phật quay lại nhìn, nghĩ rằng ác ma này thật sự đã làm điều quá đáng, liền khi ấy ác ma Dusi mạng chung, đọa vào đại địa ngục cọc sắt, bị nấu sôi hàng vạn năm.

Tôn giả Mục kiền liên kể xong, Ác ma thất vọng biến mất tại chỗ.

III. CHÚ GIẢI

Dùsì tên của ác ma, có nghĩa là kẻ hư hỏng, hoặc kẻ làm hư hỏng.

Vidhura có nghĩa là Vô song.

Sanjìva là Người sống sót. Những mục đồng thấy Ngài nhập Diệt định ở giữa rừng, tưởng là thây chết, đốt thân Ngài bằng cỏ khô và phân bò rồi bỏ đi. Sau khi xuất định, Ngài ôm bát đi khất thực, chúng tưởng Ngài sống lại.

IV. PHÁP SỐ

Bốn phạm trú.

V. KỆ TỤNG

Trong ngôi rừng Lộc uyển,

Tôn giả Mục kiền liên

Ðang kinh hành lui tới

Bỗng cảm thấy bụng nhói.

Ngài trở vào tọa thiền

Quan sát thấy ác ma

Ðã chui vào bao tử

Liền khuyên hãy đi ra.

Ngài kể chuyện đời trước

"Thời Phật Câu lưu tôn

Ta cũng là ác ma

Với tên "Kẻ xấu xa"

Còn ngươi vào thuở ấy

Là con trai chị ta

Vậy ngươi là cháu ta

Có họ hàng ruột thịt.

Hai đệ tử xuất sắc

Của Phật Câu lưu tôn

Một là Vidhura

Vô song về thuyết pháp

Vị kia Sanjiva

Giỏi nhập Diệt thọ tưởng.

Dusi, Kẻ Xấu Xa

Nhập vào các gia chủ

Dùng toàn lời thô ác

Thóa mạ đệ tử Phật.

Phần lớn gia chủ này

Chết đọa vào địa ngục.

Các tỳ kheo bị nhục

Biến mãn mười phương cõi

Từ tâm không hận sân

Nên không bị chi phối.

Ma nhập vào gia chủ

Ðến đảnh lễ cúng dường

Các tỳ kheo giới đức

Ðể phá hạnh sa môn.

Các gia chủ cúng dường

Chết sinh vào cõi tốt.

Tỳ kheo được lợi dưỡng

Quán bất tịnh, vô thường

Sinh nhàm chán, yểm ly

Tâm không hề lay động.

Tôn giả Vidhura

Ðang theo sau đức Phật

Ác ma tiền thân ta

Liền nhập vào đứa trẻ

Liệng đá làm bể đầu

Máu chảy ra lai láng.

Khi Phật quay lại nhìn

Và nghĩ "thật quá quắc

Là ác ma Dusi"

Ta mạng chung tức thì

Ðọa vào đại địa ngục

Bị nấu hàng vạn năm."

Mục kiền liên kể xong

Ác ma bèn ẩn mất.

-ooOoo-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro