kinh Trung Bo Toat Yeu 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 51

Kinh Kandaraka

I. TOÁT YẾU

Kandaraka Sutta - To Kandaraka.

The Buddha discusses four kinds of persons found in the world - the one who torments himself, the one who torments others, the one who torments both himself and others, and the one who torments neither but lives a truly holy life.

Kinh nói cho Kandaraka.

Phật bàn đến bốn hạng người được tìm thấy trên đời: hạng người tự hành khổ, hạng người hành khổ người, hạng vừa tự hành khổ vừa hành khổ người, hạng không tự hành khổ, không hành khổ người mà lại sống một đời thực thánh thiện.

II. TÓM TẮT

Du sĩ Kandaraka cùng cư sĩ Pessa con trai người huấn luyện voi, đến yết kiến Phật. Quan sát sự thanh tịnh của chúng tỳ kheo [1], du sĩ ca tụng Phật khéo hướng dẫn, và hỏi chư Phật trong quá khứ, tương lai có được những chúng tỳ kheo thanh tịnh như hiện nay không [2]. Phật xác nhận là có, trong chúng tỳ kheo này, có vị là a la hán lậu tận, việc tu hành đã thành mãn; có vị là bậc Hữu học khéo kiên trì giới luật, luôn an trú Bốn niệm xứ [3] để nhiếp phục tham ưu ở đời.

Pessa công nhận sự vi diệu của pháp tu này, vì thỉnh thoảng ông cũng tu quán bốn niệm xứ [4]. Ông tán thán Phật đã thấu hiểu về hạnh phúc và bất hạnh của chúng sinh. Với tư cách người huấn luyện voi, Pessa nhận xét rằng con voi có khi cũng quỷ quyệt nhưng không bằng người; con người quả thực rắc rối hơn loài thú [5], miệng nói khác, lòng nghĩ khác. Phật dạy thật có như vậy, và đề cập bốn hạng người [6] sống ở đời: hạng tự hành khổ, hạng làm khổ người, hạng làm khổ cả hai, hạng không làm khổ mình không làm khổ người, tự ngã trú vào Phạm thể [7].

Phật hỏi trong bốn hạng, Pessa thích ý hạng nào. Cư sĩ trả lời ba hạng đầu không đáng thích ý, chỉ có hạng thứ tư làm ông khoái. Nói xong ông từ giã Phật vì còn bận nhiều công việc.

Khi Pessa bỏ đi, Phật bảo chúng tỳ kheo rằng, giá mà Pessa ở lại thêm chốc lát, ông sẽ được lợi ích lớn, tuy vậy ông cũng đã khá được ích lợi từ cuộc luận đàm ngắn ngủi ấy [8]. Kế đến Phật giảng rộng cho chúng tỳ kheo về 4 hạng người:

hạng tự hành mình là những kẻ tu khổ hạnh [9] không đưa đến giải thoát.

hạng làm khổ kẻ khác là người hành những nghề nghiệp gây đau khổ cho người và vật.

hạng tự làm khổ và làm khổ người là kẻ theo ác giới [10].

hạng không làm khổ mình không làm khổ người là những vị xuất gia thành tựu giới, từ bỏ các nghiệp ác của thân, lời, hộ trì căn, tu 4 niệm xứ, chứng 4 thiền và 3 minh, thành bậc a la hán [11].

III. CHÚ GIẢI

1. Kinh sớ: Vì tôn trọng Phật và theo luật, tỳ kheo không nói chuyện với nhau cũng không dám ho mỗi khi Phật thuyết pháp. Thân không giao động, tâm không xao lãng, họ ngồi vây quanh đức Thế tôn như những cụm mây vây quanh đỉnh núi Tu di. Du sĩ Kandaraka có lẽ thầm so sánh hội chúng tỳ kheo này với các hội chúng du sĩ được mô tả trong kinh 76.

2. Theo kinh sớ, Kandaraka không có tri kiến về chư Phật quá khứ vị lai. Ông chỉ nói lên lời này để tỏ lòng ngưỡng mộ đối với chúng tỳ kheo thanh tịnh, khéo được hướng dẫn. Nhưng Phật thì xác nhận lời của du sĩ trên căn bản thắng trí của Ngài.

3. Bốn niệm xứ được đưa vào đây để chỉ rõ nguyên nhân uy nghi tịch tịnh của tăng chúng. Xem kinh số 10.

4. "Chúng con cũng vậy, khi có cơ hội, chúng con cũng tu tập tứ niệm xứ; chúng con không hoàn toàn xao lãng thiền định."

5. Lời này ngụ ý rằng con vật đôi khi cũng láu cá và lừa bịp, nhưng sự khôn lanh của nó rất giới hạn, trong khi sự khôn lanh của con người thì vô cùng tận.

6. Luận giải thích đoạn này được nói để tiếp theo lời Pessa rằng đức Thế Tôn biết rõ gì là an lạc gì là nguy hiểm cho hữu tình; vì Phật hiển thị 3 hạng người đầu hành xử đưa đến lợi lạc. Ðoạn này cũng có thể liên hệ đến lời ca tụng của du sĩ đối với tăng chúng; vì Phật sẽ hiển thị 3 lối Ngài không huấn luyện chúng tỳ kheo, và 1 lối theo đó chư Phật quá khứ hiện tại vị lai đều huấn luyện chúng tỳ kheo.

7. Vị "không tự hành khổ, không làm khổ người, tự ngã trú vào Phạm thể "cảm thọ lạc thọ của các thiền, đạo, quả, và niết bàn. Phạm thể ở đây có nghĩa là thánh thiện hay thù thắng.

8. Pessa đáng lẽ chứng quả Dự Lưu, nhưng anh đã rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy khi Phật chưa giảng xong bài Pháp. Tuy vậy anh cũng nhận được 2 lợi lạc: thêm lòng tin đối với tăng chúng, và hiểu thêm về Bốn niệm xứ.

9. Ðoạn kinh về "tự hành khổ "nói chi tiết về những khổ hạnh mà nhiều người đương thời Phật đang tu tập, và chính Phật cũng đã từng tu trong thời gian nỗ lực đạt giác ngộ. Xem kinh 12.

10. Ðoạn kinh về "tự làm khổ và làm khổ người "mô tả sự tu tập của người tự hành hạ mình với hy vọng được phước, bằng cách lập tế đàn trong đó nhiều con vật bị giết, nhiều kẻ làm công bị áp bức.

11. Ðoạn kinh về hạng "không tự hành khổ, không làm khổ người "lại sống thánh thiện, cảm thọ thuần lạc thọ, ám chỉ bậc A la hán. Ðể hiển thị vị ấy không tự hành mình cũng không làm khổ người, đức Phật mô tả con đường tu tập của vị ấy để chứng quả.

IV. PHÁP SỐ

Ba nghiệp, ba minh, bốn chân lý, bốn niệm xứ, bốn hạng người, bốn thiền, năm triền cái.

V. KỆ TỤNG

Bạn Kan-da-ra-ka

Cùng cư sĩ Pessa

Làm nghề huấn luyện voi

Cùng đến yết kiến Phật.

Du sĩ ca tụng Phật

Khéo hướng dẫn chư tăng

Hỏi quá khứ vị lai

Chúng được như vậy chăng?

Phật dạy: "Cả ba thời

Chư Phật cùng một Pháp

Tỳ kheo tu pháp này

Có vị thành La hán.

Hoặc thành bậc Hữu học,

Khéo kiên trì giới luật,

An trú Bốn niệm xứ

Ðể nhiếp phục tham ưu."

Pessa tiếp lời Phật:

- Thế tôn khéo trình bày

Pháp Bốn niệm xứ này

Con thỉnh thoảng tu tập

Con quán thân nơi thân

Quán thọ nơi cảm thọ

Quán tâm ngay nơi tâm

Quán pháp nơi các pháp

Chánh niệm và tỉnh giác

Ðể nhiếp phục tham ưu.

Thế tôn quả thấu suốt

Vui khổ của hữu tình.

Cởi mở thay, loài thú

Rắc rối thay loài người

Sống rối ren xảo quyệt

Lòng với miệng khác nhau.

"Kẻ tự hành, hành người

Kẻ làm khổ cả hai,

Kẻ không làm ai khổ,

Ngươi thích ý hạng nào?"

- Bạch Phật, ba hạng đầu

Không làm con thích ý

Chỉ có hạng thứ tư

Làm con thấy khoái ý.

Biết chân khổ, ưa vui

Sao lại tự hành mình?

Và hành hạ kẻ khác?

Hoặc hành xác cả hai?

Hạng không khổ mình, người

Quả làm con thích ý.

Rồi Pessa cáo từ

Vì bận nhiều công việc.

Phật dạy chúng tỳ kheo:

"Nếu nán lại chốc lát

Kẻ huấn luyện voi ấy

Sẽ được nhiều lợi lạc.

Có kẻ tu khổ hạnh

Về cách ăn mặc ở

Ðều theo lối khổ sở

Ðây là tự hành mình.

Có hạng làm nghề ác

Sát sinh và trộm cắp

Hoặc tra tấn dã man

Là hành hạ người khác.

Làm khổ mình lẫn người

Là kẻ có tà kiến

Giết vô số sinh loài

Cùng phá hoại cây cối.

Mong tẩy sạch tội lỗi

Chúng dựng những tế đàn

Làm khổ người và vật

Bản thân cũng gian nan.

Không làm khổ mình, người

Xuất gia thành tựu giới,

Từ bỏ 10 nghiệp ác

Hộ trì 5 giác quan

Tu tập 4 niệm xứ

Chúng 4 thiền 3 minh

Ðạt vô thượng an ổn

Ðệ tử Phật, người này."

-ooOoo

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 52

Bát thành

(Atthakanagarasuttam)

I. TOÁT YẾU

Atthakanàgara Sutta - The man from Atthakanagara

The venerable Ànanda teaches eleven "dơrs to the Deathless "by which a bhikkhu can attain the supreme security from bondage.

Người từ thành Bát.

Tôn giả Ànanda dạy 11 "cửa bất tử ", qua cửa này một tỳ kheo có thể đạt đến vô thượng an ổn khỏi trói buộc.

II. TÓM TẮT

Gia chủ Dasama đến gặp tôn giả Ànanda hỏi về pháp môn độc nhất mà nếu tinh tấn tu hành, sẽ khiến tâm chưa giải thoát được hoàn toàn giải thoát, lậu hoặc chưa trừ hoàn toàn được đoạn trừ, đạt vô thượng an ổn. Tôn giả giảng, đó là pháp môn ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú sơ thiền với 5 thiền chi, lần lượt chứng đến tứ thiền chỉ còn xả niệm thanh tịnh; an trú bốn phạm trú: biến mãn 10 phương với Từ tâm giải thoát, Bi tâm giải thoát, Hỉ tâm giải thoát, Xả tâm giải thoát; tu tập ba trong bốn Không định là: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.

Mười một quả vị ấy đều thuộc hữu vi, do suy tư tác thành. Nếu khi đắc một thiền chứng nào, hành giả tuệ tri "cái này thuộc hữu vi, do suy tư tác thành, nên vô thường, bị hoại diệt", vị ấy sẽ tận trừ lậu hoặc. Nhưng nếu lậu hoặc chưa đoạn, do tham luyến pháp này, do hoan hỉ pháp này, vị ấy diệt trừ năm hạ phần kết sử, được hóa sinh vào cõi trời Ngũ tịnh cư, khỏi trở lui đời này. Như vậy là pháp độc nhất do Thế tôn giảng. Nếu tỳ kheo nào không phóng dật, nhiệt tâm tinh tấn hành trì pháp ấy, thì tâm được giải thoát, lậu hoặc được trừ diệt, vô thượng an ổn được chứng đạt.

Khi nghe tôn giả Ananda nói vậy, gia chủ Dasama bạch: "Bạch tôn giả, như người đi tìm một kho tàng lại được 11 kho; con đi tìm một pháp môn bất tử mà được nghe 11 pháp môn. Như ngôi nhà cháy có 11 cửa, chỉ do một cửa người ta cũng có thể thoát ra an toàn. Cũng vậy chỉ với một cửa bất tử trong 11 cửa này, con có thể đạt an toàn cho con." Rồi gia chủ cúng dường Ananda và chúng tăng.

III. CHÚ GIẢI

1. Lời Dasama nói "tâm chưa giải thoát được hoàn toàn giải thoát, lậu hoặc chưa trừ hoàn toàn được đoạn trừ, đạt vô thượng an ổn "ám chỉ quả vị A la hán.

2. "Thuộc hữu vi, do suy tư tác thành "thường được sử dụng liên kết, chứng tỏ một trạng thái có điều kiện, mà tư tâm sở hay ý hành (volition ) là yếu tố chính.

3. Một phương pháp phát triển tuệ quán từ một thiền tịnh chỉ: Sau khi đắc 1 thiền chứng, hành giả xuất khỏi thiền ấy và quán sát trạng thái này là pháp duyên sinh - được phát sinh nhờ điều kiện - yếu tố chính là tư tâm sở hay ý hành. Trên căn bản này, vị ấy xác quyết tính vô thường của nó, rồi quán sát thiền ấy bằng tuệ thâm nhập 3 đặc tính vô thường khổ vô ngã. Xem thêm kinh 64, một phương pháp hơi khác với phương pháp này để phát triển tuệ giác trên căn bản các thiền chứng.

4. "Do tham luyến pháp này, hoan hỉ pháp này "có nghĩa là dục tham đối với tịnh chỉ và tuệ quán. Nếu hành giả có thể từ bỏ tất cả dục tham đối với chỉ và quán, vị ấy trở thành một A la hán; nếu không thể từ bỏ dục tham, vị ấy không thể trở thành một A la hán; nếu không thể từ bỏ dục tham, vị ấy thành một vị Bất Hoàn và được tái sinh vào cõi Tịnh cư thiên.

5. Mười một cửa bất tử là 4 thiền, 4 phạm trú, và 3 thiền chứng Vô sắc: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, được dùng làm cơ sở để phát triển tuệ quán đạt đến A la hán quả. Phi tưởng phi phi tưởng xứ không được đề cập ở đây, vì nó quá vi tế không thể làm đối tượng cho tuệ quán.

IV. PHÁP SỐ

Bốn thiền, bốn phạm trú hay bốn vô lượng, năm triền cái, năm thiền chi.

V. KỆ TỤNG

Gia chủ Dasama

Ðến thầy Ananda

Xin giảng pháp độc nhất

Do Thế tôn giảng dạy

"Khiến tâm được giải thoát

Lậu hoặc được đoạn trừ

An ổn khỏi trói buộc

Nếu tinh cần gắng tu.

Ly dục, ly bất thiện,

Chứng và trú sơ thiền

Thấy thiền này hữu vi

Do suy tư tác thành

Tu chứng cả bốn thiền

Vẫn thấy nó hữu vi

Không tham đắm thiền này

Ðạt lậu tận, giải thoát.

Tu đến bốn vô lượng

Nhập Không vô biên xứ,

Ðến Thức vô biên xứ,

Cùng Vô sở hữu xứ

Vẫn thấy là hữu vi

Do suy tư tác thành

Không tham đắm Ðịnh này

Ðạt lậu tận, giải thoát

Nếu tham luyến, hoan hỉ

Với một thiền, định nào

Vị ấy sẽ hóa sinh

Vào cõi Tịnh cư thiên

Do vì đã đoạn trừ

Năm hạ phần kết sử

Nhập niết bàn tại đấy

Khỏi trở lui đời này."

Gia chủ Dasama

Bạch thầy Ananda:

Như tìm một kho tàng

Ðược mười một kho báu

Con tìm cửa bất tử

Lại được mười một cửa;

Như nhà lửa bốc cháy

Có mười một lối ra

Ở đây cũng như vậy

Bốn thiền và ba không

Cùng bốn tâm vô lượng

Cửa giải thoát an toàn."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 53

Hữu học

I. TOÁT YẾU

Sekha Sutta - The Disciple in Higher Training.

At the Buddha's request the venerable Ànanda gives a discourse on the practices undertaken by a disciple in higher training.

Ðệ tử trên đạo lộ hữu học.

Phật bảo tôn giả Ananda giảng về các pháp tu của một bậc hữu học.

II. TÓM TẮT

Những gia chủ dòng họ Sakya thỉnh Phật và chư tăng đến khánh thành một ngôi giảng đường [1] ở Kapilavastu. Sau khi thuyết pháp, Phật nằm xuống nghỉ và bảo tôn giả Ananda giảng Hữu học đạo.

Tôn giả giảng về sáu giai đoạn tác thành một bậc Hữu học như sau:

1. Thành tựu giới;

2. Giữ gìn tâm ý khi sáu căn tiếp xúc sáu trần;

3. Tiết độ ăn uống;

4. Chú tâm cảnh giác hay chánh niệm tỉnh giác trong bốn uy nghi;

5. Thành tựu bảy diệu pháp là tín, tàm, quý [2], tấn, văn, niệm [3], tuệ [4].

6. Lạc trú bốn thiền một cách không khó khăn mệt nhọc.

Khi thành tựu được sáu phép ấy, vị thánh đệ tử được gọi là đi trên đường Hữu học, có trứng không bị hư thối, có khả năng phá vỡ vỏ vô minh để đạt vô thượng an ổn khỏi các trói buộc.

Khi chứng tứ thiền với xả niệm thanh tịnh [5], thánh đệ tử được túc mạng minh, nhớ các đời trước của mình với đại cương và chi tiết, như phá vỡ lớp vỏ đầu tiên. Vị ấy với thiên nhãn thấy được sống chết và nghiệp quả của chúng sinh, như phá lớp vỏ thứ hai. Vị ấy đoạn trừ tất cả lậu hoặc, chứng đạt an trú ngay hiện tại, vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát [6], như phá lớp vỏ thứ ba. Như gà ấp trứng, nếu ấp ủ đúng mức thì dù không ước mong gì, cũng sẽ có lúc gà con mổ vỏ chui ra.

Thành tựu giới, hộ trì căn, tiết độ ăn uống, chú tâm cảnh giác, đầy đủ bảy diệu pháp, hiện tại lạc trú bốn thiền thuộc tăng thượng tâm [7], sáu thứ này thuộc về Hạnh đức của vị ấy. Ba minh thuộc về Trí đức vị ấy.

Rồi tôn giả nhắc lại bài kệ của phạm thiên Sanankumàra:

Chúng sinh tin giai cấp,

Vương tộc là tối thượng,

Vị minh hạnh cụ túc,

tối thắng trên nhân thiên [8].

III. CHÚ GIẢI

1. Người ta tin rằng trước khi sử dụng ngôi nhà mới xây, nếu mời 1 vị tu cao đến ở trước dù chỉ 1 đêm, sẽ được phước. Niềm tin này vẫn còn tiếp diễn tại các xứ Phật giáo ngày nay, nên những phật tử xây nhà mới thường mời các tỳ kheo đến tụng kinh cầu an trước khi dọn vào ở.

2. Tàm và quý thường đi đôi, được Phật gọi là vị "hộ trì thế gian "vì nó là nền tảng của đạo đức. Tàm có đặc tính biết tự trọng, ghê tởm điều xấu xa, quý là quan tâm đến dư luận, sợ làm điều quấy.

3. Kinh giải thích danh từ sati, niệm, bằng cách nhắc đến ý nghĩa nguyên thủy của nó là ký ức. Tương quan giữa 2 nghĩa của niệm - ký ức và chú ý - có thể nói như sau: sự chú ý sâu sắc đối với những hình dáng hiện tại là nền tảng để có ký ức chính xác về quá khứ. Luận nhắc đến niệm ở đây để ám chỉ nó là pháp đầu tiên trong 7 yếu tố của giác ngộ.

4. Theo Kinh sớ, tuệ ở đây là trí sinh diệt thuộc đạo, có thể thâm nhập sự sinh diệt của 5 uẩn. Trí thuộc đạo được gọi là thâm nhập bởi vì nó chọc thủng và nhổ tận cái khối tham sân si; Trí thuộc tuệ quán được gọi là thâm nhập vì nó tạm thời chọc thủng tham sân si, và vì nó đưa đến sự thâm nhập bằng đạo lộ.

5. Ðây nói về thiền thứ 4, nền tảng của 3 loại trí tiếp theo.

6. Ở điểm này, vị ấy chấm dứt làm bậc hữu học và thành bậc A la hán.

7. Những pháp này là 15 yếu tố truyền thống làm nên Hạnh. Trong toàn thể quá trình tu tập, Hạnh đi đôi với Minh là 3 loại trí. "Minh hạnh túc "chỉ chư Phật và A la hán.

8. Câu này được Phật xác nhận trong kinh Truờng bộ III. Phạm thiên Sanankumàra, "trẻ mãi "theo sớ, là 1 thanh niên đã đắc thiền, khi chết tái sinh vào Phạm Thiên giới mà vẫn giữ sắc đẹp đã có trong hiện hữu cõi người. Xem Trường bộ, Kinh 18.

IV. PHÁP SỐ

Ba minh, bốn thiền, sáu căn, bảy thánh tài.

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Ananda

Giảng sáu pháp tác thành

Một bậc thánh Hữu học

Cho bộ tộc Sakya:

Một là thành tựu giới;

Hai gìn giữ sáu căn

Ba tiết độ ăn uống;

Bốn chú tâm cảnh giác

Ðề phòng ô nhiễm khởi.

Năm, tu bảy thánh tài:

Tín, tàm, quý, tấn, văn,

Chánh niệm và tuệ quán.

Sáu lạc trú bốn thiền

Không khó khăn mệt nhọc.

Thành tựu sáu pháp ấy,

Là một vị Hữu học,

Có trứng không bị thối,

Có khả năng phá vỡ

Các lớp vỏ vô minh

Ðạt vô thượng an ổn.

Bốn thiền, túc mạng trí

Là phá vỏ đầu tiên

Thiên nhãn Sinh tử trí

Như phá vỏ thứ hai.

Ðoạn trừ hết lậu hoặc,

Chứng trú ngay hiện tại,

Tâm và tuệ giải thoát,

Là lớp vỏ thứ ba.

Như gà mái ấp trứng

Khi ấp ủ đến thời

Dù không có mong ước

Gà con cũng chui ra.

Sáu yếu tố đầu tiên

Giữ giới đến bốn thiền

Là thuộc về Hạnh đức

Ba minh thuộc Trí đức.

Chúng sanh tin giai cấp,

Vương tộc là tối thượng,

Vị minh hạnh cụ túc,

Tối thắng cõi trời, người.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 54

Potaliya

I. TOÁT YẾU

Potaliya Sutta - To Potaliya.

The Buddha teaches a presumptuous interlocutor the meaning of the "cutting off affairs" in his discipline. The sutta offers a striking series of similes on the dangers in sensual pleasures.

Giảng cho Potaliya.

Phật giảng dạy cho một người hợm hĩnh đến tham vấn, ý nghĩa của "đoạn trừ tục sự" trong pháp luật của Ngài. Kinh này đưa ra một loạt những ví dụ đặc sắc về những nguy hiểm của dục lạc.

II. TÓM TẮT

Gia chủ Potaliya đến viếng Phật, bất mãn khi nghe Phật gọi mình là gia chủ, vì ông đã giao phó tục sự cho con cái, sống với tối thiểu đồ ăn mặc. Phật giảng cho ông rõ thế nào là đoạn tận các tục sự trong giới luật bậc thánh, ấy là từ bỏ:

1. sát sinh

2. lấy của không cho,

3. nói dối,

4. hai lưỡi,

5. tham dục,

6. sân hận hủy báng,

7. phẫn não,

8. quá mạn;

Do thấy rõ chúng là kiết sử, là triền cái [1], có thể gây ra những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não; trong khi đối với người đã từ bỏ chúng [2] thì những lậu hoặc, phiền lao nhiệt não không còn.

Phật dạy thêm, tuy vậy đó chưa phải là sự đoạn tận toàn diện các tục sự. Ðoạn trừ toàn diện là thấy rõ dục [3] như khúc xương, như miếng thịt nơi miệng chim kên, như đuốc ngược gió, như hố than bừng, như mộng, như vật mượn, như cây có nhiều quả chín... khổ nhiều não nhiều, nguy hiểm càng nhiều hơn. Do thấy như vậy, mọi chấp thủ tài vật được đoạn tận, vị ấy tu xả [4], chứng ba minh. Potaliya tự nhận còn rất xa với sự đoạn tận ấy, tự nhận lâu nay đã lầm tưởng là thù thắng những gì chưa phải thù thắng. Ông ca tụng Phật đã gợi nơi ông lòng ái kính sa môn, và xin quy y.

III. CHÚ GIẢI

1. Kết sử là trói buộc và sai khiến; triền cái là cột trói và ngăn che. Mặc dù sát sinh không gồm trong 10 kết sử và 5 triền cái, nó được xem là trói buộc vì buộc người ta vào vòng tái sinh, và triền cái vì nó ngăn sự an lạc chân thật.

2. Sát sinh và lấy của không cho phải từ bỏ nhờ thân giới; nói dối và nói lời ác được từ bỏ nhờ ngữ giới; tham sân kiêu mạn, bỏ nhờ ý giới.

3. Những ví dụ về nguy hiểm của dục được nói đến trong kinh 22, mặc dù kinh nầy không khai triển về 3 ví dụ cuối.

4. Theo Luận giải, "xả căn cứ dị biệt" là xả liên hệ đến 5 dục; "xả căn cứ đồng nhất" là xả ở thiền thứ 4.

IV. PHÁP SỐ

V. KỆ TỤNG

Gia chủ Potaliya

Phẫn nộ và bất mãn

Khi nghe Phật gọi mình

Với danh từ gia chủ

Người phó thác tục sự

Cho những con cái ông,

Và sống rất đạm bạc

Với tối thiểu cần dùng.

Phật giảng đoạn tục sự

Trong giới luật bậc thánh

Là từ bỏ tám pháp

Tai hại và trói buộc:

Sát sinh và trộm cắp

Nói dối và đâm thọc

Tham dục và sân báng,

Phẫn nộ và kiêu căng

Muốn tận trừ tục sự

Cần thấy rõ dục lạc

Chỉ như khúc xương khô

Như miếng thịt chim tha

Như đuốc cầm ngược gió

Như hố đỏ than hừng,

Như một giấc chiêm bao

Như vật mượn phải trả

Như cây có nhiều quả...

Cần phải thấy như vậy

Dục khổ nhiều não nhiều,

Nguy hiểm càng nhiều hơn.

Do thấy được như vậy,

Tận trừ mọi chấp thủ

Chứng bốn thiền, ba minh

Ðạt lậu tận, giải thoát.

Gia chủ Potaliya

Tự nhận còn cách xa

Lâu nay tưởng thù thắng

Những pháp chưa thù thắng.

Rồi ông ca tụng Phật

Ðã gợi lên nơi ông

Lòng ái kính sa môn

Và quy y Tam bảo.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 55

Jivaka

I. TOÁT YẾU

Jivaka Sutta - To Jivaka.

The Buddha explains the regulations he has laid down concerning meat-eating and defends his disciples against unjust accusatioins.

Giảng cho Jivaka.

Phật giảng những quy luật Ngài đã chế định về sự ăn thịt và bảo vệ các đệ tử khỏi bị lên án bất công.

II. TÓM TẮT

Jivaka [1] hỏi Phật, ông ta nghe nói Sa môn Gotama biết con thú bị giết để làm thịt cúng dường cho mình mà vẫn dùng, lời nói đó có đúng không hay là xuyên tạc. Phật xác nhận đó là lời xuyên tạc, và dạy có ba trường hợp không được phép dùng thịt, đó là khi có thấy, nghe và nghi con vật ấy đã vì mình mà bị giết [2]. Khi một tỳ kheo sống biến mãn mười phương với bốn phạm trú từ, bi, hỉ, xả, và khi được cư sĩ mời ăn, vị ấy lúc ăn không tham đắm vị ngon, không hi vọng, thấy rõ tai họa của tham dục, ý thức sự xuất ly; lúc ăn không nghĩ đến tự hại, hại người, hại cả hai. Tỳ kheo ăn như vậy không lỗi. Khi ấy Jivaka tán thán Phật an trú tâm từ, nhưng Phật dạy rằng tham sân si đã được Như lai đoạn trừ tận gốc [3].

Ai vì Phật và chúng tăng mà giết hại sinh vật sẽ tạo nhiều phi công đức do năm nguyên nhân:

Thốt lên lời nói hãy dắt con vật này đến.

Con vật khi bị dắt đem giết rất buồn sầu sợ hãi;

Khi người ấy ra lệnh giết;

Con vật cảm thọ khổ ưu lúc bị giết;

Lúc người ấy cúng dường Phật và chúng Tăng một cách phi pháp.

Jivaka ca ngợi Phật và xin Phật nhận ông làm đệ tử [4].

III. CHÚ GIẢI

1. Jivaka là đứa con bị bỏ rơi của một kỹ nữ được vương tử Vô Úy tìm thấy đem về nuôi. Ông học thuốc ở thành Takkasila và về sau được đề cử làm y sĩ chữa bệnh cho Phật. Ông chứng Dự lưu sau khi nghe Phật thuyết pháp.

2. Ðoạn này nói rõ những quy luật về sự ăn thịt mà đức Phật đã đặt ra cho tăng chúng. Người ta sẽ thấy rằng Phật không đòi hỏi các tỳ kheo phải ăn chay, mà cho phép họ ăn thịt khi tin chắc rằng con vật ấy đã không bị giết cốt để cung cấp thịt cho mình. Thịt như vậy gọi là "thanh tịnh ở ba phương diện ", vì nó không được thấy, được nghe, hay được nghi là thịt của 1 con vật bị giết cốt để đãi tỳ kheo. Giới luật của Phật tử tại gia "không được sát sinh "sẽ ngăn cấm vị ấy giết thịt để cúng dường tỳ kheo nhưng không cấm mua thịt những con vật đã chết.

3. Ở đây đức Phật chứng tỏ rằng Ngài an trú tâm từ không chỉ vì đã dập tắt ác ý bằng thiền quán về từ tâm như Phạm thiên, mà Ngài đã tận diệt gốc rễ của sân hận nhờ đã chứng đắc A la hán quả.

4. Thật khó hiểu ở đây là Jivaka xin quy y làm đệ tử tại gia trong khi ông đã chứng quả Dự lưu. Có lẽ công thức này được sử dụng như 1 phương tiện tái xác nhận sự quy y Tam Bảo của một người, chứ không chỉ giới hạn vào sự quy y đầu tiên.

IV. PHÁP SỐ

Ba thứ tịnh nhục, bốn phạm trú.

V. KỆ TỤNG

Jivaka hỏi Phật

Các trường hợp Phật dạy

Về ăn thịt, không ăn

(Tịnh nhục, bất tịnh nhục.)

Bất tịnh là vật sống

Nhìn thấy nó bị giết

Nghe kêu gào thảm thiết

Nghi nó chết vì mình

Ngược lại khi tỳ kheo

Sống biến mãn mười phương

Với từ, bi, hỉ, xả

Ðược mời thọ cúng dường

Khi ăn không tham đắm

Không hi vọng tơ tưởng,

Thấy tai họa tham dục,

Ý thức sự xuất ly;

Không nghĩ đến tự hại,

Không nghĩ đến hại người,

Không nghĩ hại cả hai

Như vậy ăn không lỗi.

Ai vì Phật và tăng

Mà giết hại sinh vật

Sẽ tạo nhiều phi phước

Do năm nguyên nhân này:

Nào khi sai bắt lợn

Nào lúc trói dắt đi

Nào lúc đâm thọc huyết

Nghe tiếng kêu ai bi

Nào lúc nó dãy chết,

Nào lúc đem cúng dường

Cho chúng tăng ăn dùng

Vật cúng dường phi pháp.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 56

Ưu ba ly

I. TOÁT YẾU

The wealthy and influential householder Upàli, a prominent supporter of the Jains, proposes to go to the Buddha and refute his doctrine. Instead, he finds himself converted by the Buddha's "converting magic".

Giảng cho Upàli.

Gia chủ giàu có và nổi tiếng tên Upàli, một thí chủ quan trọng của giáo pháp Ni kiền tử, định đến bài bác chủ trương của Phật. Nhưng ngược lại, ông tự thấy mình bị cảm hóa bởi "pháp thuật cảm hóa" của Phật.

II. TÓM TẮT

Trường khổ hạnh [1] (Dìghatapassi) thuộc pháp Ni kiền tử đến nơi Phật. Phật hỏi Ni kiền tử chủ trương có bao nhiêu pháp làm nên ác nghiệp.

Trường khổ hạnh đáp không chủ trương nghiệp, mà là phạt [2]. Thân phạt, khẩu phạt, ý phạt, ba thứ khác nhau.

Phật hỏi thứ nào quan trọng nhất, ông đáp thân phạt [3] quan trọng nhất. Phật hỏi lại ba lần và ông xác nhận cả ba lần.

Rồi Trường khổ hạnh hỏi lại. Phật nói Ngài không chủ trương phạt mà chủ trương nghiệp, là ba nghiệp thân, khẩu, ý. Ba thứ khác nhau nhưng ý là quan trọng nhất [4].

Trường khổ hạnh cũng hỏi lại ba lần để Phật xác nhận ý nghiệp là quan trọng nhất. Rồi ông cáo từ trở về thuật lại cuộc đàm thoại với Ni kiền tử.

Upàli đại thí chủ của Ni kiền tử được cử đến luận chiến với Phật, nhưng Trường khổ hạnh can ba lần, nói Sa môn Gotama có huyễn thuật lôi cuốn đệ tử ngoại đạo. Ni kiền tử không tin, cứ để Upàli đi. Khi được Phật kể lại cuộc đàm thoại với Trường khổ hạnh, Upàli cũng xác nhận lập trường của Ni kiền tử là ý nghiệp kém xa thân nghiệp.

Phật bảo nếu ông có thể đàm luận trong tinh thần tôn trọng sự thật thì ngài sẽ nói chuyện với ông. Sau khi Upàli chấp nhận điều kiện này, Phật đưa ra bốn ví dụ cho thấy ý là quan trọng.

Ví dụ thứ nhất liên hệ đến giới luật của Ni kiền tử không uống nước lạnh. Phật hỏi nếu một người vì giữ giới này mà phải chết, thì tái sinh ở đâu. Upàli đáp ở cõi trời Ý trước, vì chấp vào ý mà chết [5]. Phật chỉ cho thấy Upàli đã tự mâu thuẫn với lời nói trước. Tuy vậy Upàli vẫn thấy thân nghiệp quan trọng hơn.

Phật lấy ví dụ thứ hai là nếu Ni kiền tử hoàn toàn tự chế không dùng nước lạnh, hoàn toàn chú tâm vào sự chế ngự nước lạnh, hoàn toàn loại trừ nước lạnh, hoàn toàn thấm nhuần giới kiêng nước lạnh [6], nhưng lúc đi qua đi lại lỡ dẫm phải côn trùng, có phạm tội không. Upàli nói không phạm, vì không cố ý [7]. Phật cho thấy ông đã tự mâu thuẫn lần thứ hai.

Ví dụ thứ ba: Một người với đại thần thông lực, với tâm sân hận trong giây lát có thể giết toàn dân thành Nalanda không? Upàli nói một tâm sân hận có thể giết không những một thành mà nhiều thành Nalanda.

Ví dụ thứ tư, Phật hỏi ông có nghe những khu rừng của các vị ẩn sĩ đã trở thành rừng hoang trở lại vì tâm sân hận của các ẩn sĩ ấy không. Upàli xác nhận có nghe, và thưa rằng ông đã phục ngay từ ví dụ đầu tiên, nhưng vì muốn nghe biện tài của Phật về vấn đề này mà ông đóng vai trò chống đối.

Ông ca tụng Phật và xin quy y, nhưng Phật dạy ông rằng người trí cần phải suy nghĩ kỹ trước khi quyết định. Upàli càng thán phục Phật, so với thái độ khoe khoang của các giáo chủ ngoại đạo khi được làm thầy ông.

Upàli lặp lại lời xin quy y, và Phật dạy ông hãy tiếp tục hỗ trợ cho Ni kiền tử như bấy lâu nay ông đã làm. Upàli rất cảm động trước lòng từ bi của Phật, khác với ngoại đạo chỉ muốn độc tôn, và lặp lại lời cầu xin quy y.

Khi ấy Phật giảng cho ông về bố thí, giới, các cõi trời, sự hạ liệt ô nhiễm của dục và lợi ích của xuất ly. Rồi Ngài giảng về Bốn thánh đế. Upàli ngay tại chỗ được mắt pháp [8] ly trần vô cấu, hoài nghi về Pháp [9] được tiêu trừ. Ông cáo từ Phật và về nhà căn dặn gia nhân từ nay khi các nam nữ Nigantha đến, hãy nói họ chờ ở cổng sẽ bố thí đồ ăn, nhưng hãy mời đệ tử Phật vào.

Khi nghe tin ấy, giáo chủ Nigantha đến gặp Upàli, nhưng không được mời ngồi chỗ tôn trọng như thường lệ. Ông chỉ trích Upàli đã điên rồ mắc phải huyễn thuật cảm hóa của Gotama. Upàli nói: "Thật tốt lành thay huyễn thuật cảm hóa ấy [10]. Mong sao tất cả bà con dòng họ, mọi giai cấp, toàn thế giới, kể cả chư thiên nhân loại, đều được huyễn thuật này lôi cuốn."

Rồi Upàli ví dụ con khỉ con, có thể nhuộm được, nhưng không thể đập, ủi, làm thành mềm dịu; cũng vậy là lý thuyết Nigantha ngu si, chỉ ăn nhuộm với kẻ ngu, không với bậc trí. Ngược lại giáo lý Phật như vải mới có thể nhuộm, đập, ủi, làm thành mềm dịu; nghĩa là ăn nhuộm với người trí, không với kẻ ngu.

Khi được hỏi bây giờ Upàli là đệ tử của ai, Upàli đọc lên bài kệ dài ca tụng những đức tính của Phật. Nigantha không chịu nổi, ngay tại chỗ thổ ra huyết nóng [11].

III. CHÚ GIẢI

1. Có nghĩa là khổ hạnh Cao vì ông ta rất cao.

2. Pali Danda là cây roi dùng để trừng phạt và cuối cùng có nghĩa là hình phạt, ngay cả khi không có khí cụ. Ở đây dường như muốn nói Ni kiền tử xem thân hành khẩu hành ý hành là những khí cụ qua đó người ta tự hành hạ bằng cách kéo dài sự trói buộc vào sinh tử và hành hạ kẻ khác bằng cách làm hại họ.

3. Ni kiền tử chủ trương thân, khẩu tạo nghiệp biệt lập với sự can thiệp của ý, cũng như khi gió thổi, những cành lay động và lá xào xạc không cần có tâm đi trước.

4. Có lẽ Phật nói điều này vì trong giáo lý Ngài, thì tâm sở hay ý hành là chất liệu cốt yếu của nghiệp và khi không có ý - nghĩa là trường hợp một thân hành hay ngữ hành không cố ý - thì không tạo nghiệp. Nhưng Luận giải cho rằng khi Phật nói điều này là ám chỉ tà kiến có hậu quả cố định, và dẫn chứng Tăng Chi I như sau: "Này các tỳ kheo, ta không thấy pháp nào đáng quở trách cho bằng tà kiến. Tà kiến là đáng quở trách nhất trong tất cả các pháp." Các loại tà kiến được mô tả trong kinh 60.

5. Ni kiền tử không được dùng nước lạnh vì có chứa sinh vật. Do sự kiêng cử nước lạnh bằng thân và lời, họ giữ cho thân hành và ngữ hành thanh tịnh, nhưng nếu tâm họ khao khát nước lạnh thì ý hành của họ bất định, và như thế họ tái sinh và cõi "những vị trời bị ý trói buộc."

6. Lời này trong kinh Trường Bộ II được gán cho Ni kiền tử xem như lập thuyết của họ. Nanamoli nêu lên trong bản thảo rằng ở đây có lẽ muốn chơi chữ vì Vàri vừa có nghĩa nước vừa có nghĩa là 1 đường cong. Ðại đức Bodhi dịch căn cứ Luận Trường Bộ Kinh như sau: "Một Ni kiền tử chế ngự đối với tất cả loại nước; tránh tất cả ác; thấm nhuần với sự tránh tất cả ác." Mặc dù lời này có ý quan tâm đến sự thanh lọc, nhưng giọng điệu khác hẳn giáo lý Phật.

7. Phật nêu lên một mâu thuẫn trong lập luận của Ni kiền tử là một đằng họ cho "thân phạt" quan trọng nhất, một đằng lại xác quyết sự hiện hữu của ý hoàn toàn thay đổi tính chất đạo đức của 1 hành vi.

8. Pháp nhãn là Dự lưu đạo. Câu "tất cả cái gì phải sinh ra đều phải hoại diệt" chỉ rõ cách thức đạo khởi lên. Ðạo lấy tịch diệt làm đối tượng, nhưng nhiệm vụ của nó là đi sâu vào, thâm nhập tất cả pháp hữu vi, những pháp phải chịu sinh diệt.

9. Pháp được nói ở đây chính là Tứ diệu đế. Sau khi thấy được Tứ diệu đế, vị ấy đã cắt đứt kết sử hoài nghi và bây giờ có được cái thấy cao quý và giải thoát sẽ đưa người thực hành phù hợp với cái thấy ấy đạt đến sự diệt khổ hoàn toàn.

10. Ưu Ba Ly nói điều này để ám chỉ quả Dự Lưu mà trước đây ông đã đắc.

11. Ni kiền tử rất đau khổ vì mất đệ tử ngoại hộ, và sự buồn khổ của ông gây một xáo trộn cơ thể đưa đến kết quả là ông hộc ra máu tươi. Khi đã hộc ra máu tươi thì ít ai có thể sống được. Bởi thế người ta mang ông đến Pàvà trên 1 cái cáng và ở đấy ít lâu sau ông chết.

IV. PHÁP SỐ

Ba nghiệp, bốn sự thật, năm triền cái.

V. KỆ TỤNG

Khổ hạnh Ni kiền tử

Ðến luận đàm với Phật

Về tầm mức quan trọng

Trong quá trình tạo nghiệp

Theo ông là "Thân phạt"

Phật thì dạy "ý nghiệp"

Trường khổ hạnh trở về

Thuật lại cuộc đàm thoại

Giáo chủ Ni kiền tử

Ðề cử Ưu ba ly

Ðại thí chủ của mình

Ðến luận chiến với Phật

Trường khổ hạnh can gián

- Sa môn Gotama

Có huyễn thuật lôi cuốn

Coi chừng sẽ thua to.

Ni kiền tử cả quyết:

- Không thể có chuyện ấy

Ưu ba ly sẽ thắng

Cồ đàm sẽ thua

Khi đến nơi, Phật bảo

"Muốn sáng tỏ vấn đề

Vì tôn trọng sự thật

Thì có thể đàm luận."

Ưu ba ly chấp thuận

Phật hỏi: "Người giữ giới

Do kiêng cữ nước lạnh

Chết tái sinh chỗ nào?"

- Ở cõi trời Ý trước

Do vì chấp vào ý.

Phật bảo Ưu ba ly:

"Ông đã tự mâu thuẫn."

Phật lại hỏi ông ta

"Người kiêng uống nước lạnh

Nhưng dẫm chết côn trùng

Thì có phạm tội không?"

Ưu ba ly: - Không phạm,

Vì không có cố ý.

Phật lại cho ông thấy

Ðã tự phản lại mình.

"Với gươm giáo, một người

Có thể giết nhiều người

Trong giây lát được không?"

- Thưa Cồ đàm, không thể.

"Người có đại thần thông

Trong giây lát nổi giận

Có thể giết bao nhiêu?"

- Giết cả toàn thế giới.

"Tại sao rừng ẩn sĩ

Ðã trở lại rừng hoang?"

Ưu ba ly trả lời

- Do tâm sân ẩn sĩ

Với ví dụ đầu tiên,

Con đã bị luận bại

Muốn nghe Thế tôn dạy

Nên con vờ chưa tin.

Ông xin quy y Phật

Phật dạy ông nghĩ kỹ

Trước khi làm quyết định

Xứng thái độ người trí.

Ưu ba ly bạch Phật:

- Các bậc đạo sư khác

Nếu được con xin theo

Sẽ rêu rao khoác lác

Thế tôn không như vậy

Con xin quy y Phật

Pháp và Tỳ kheo tăng

Xin trọn đời quy ngưỡng.

Phật bảo Ưu ba ly:

"Hãy tiếp tục cúng dường

Cho ai đến xin ông

Như các Ni kiền tử."

- Ôi đức Phật từ bi

Khác xa kẻ độc tôn

Con bội phần hoan hỉ

Xin trọn đời quy y.

Phật giảng về bố thí,

Giới, và các cõi trời,

Sự hạ liệt của dục

Và lợi ích xuất ly.

Khi tâm ông thuần thục

Phật giảng Bốn thánh đế.

Ông đắc ngay Pháp nhãn

Về Pháp hết hoài nghi.

Ông cáo từ đức Phật

Về nhà dặn gia nhân

Mở cửa đón chư tăng

Ðóng cửa Ni kiền tử.

Giáo chủ Ni kiền tử

Ðến gặp Ưu ba ly

Không còn được tôn trọng

Ngồi cao như mọi khi.

Ni kiền tử tức tối

Trách ông thật ngu si

Ðể Cồ đàm dụ dỗ

Với huyễn thuật bùa mê.

- Vi diệu thay huyễn thuật

Ưu ba ly tiếp lời,

- Thật tốt lành, lợi ích

Huyễn thuật cảm hóa này

Mong bà con dòng họ,

Mong cho mọi giai cấp,

Mong cho cả thế gian

Ðược Cồ đàm dụ dỗ

Vì nhân loại chư thiên

Nhờ huyễn thuật cảm hóa

Của Thế tôn Như lai

Sẽ an lạc lâu dài.

Lý thuyết Ni kiền tử

Chỉ thích hợp kẻ ngu.

Nay tôi là đệ tử

Thế tôn Ðiều ngự sư.

Bậc tham ái tận trừ

Bậc trí tuệ tuyệt luân.

Nghe ca tụng Thế tôn

Nigantha thổ huyết.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 57

Hạnh con chó

I. TOÁT YẾU

Kukkuravatika Sutta - The dog-duty Ascetic.

The Buddha meets two ascetics, one who imitates the behaviour of a dog, the other who imitates the behaviour of an ox. He reveals to them, the futility of their practices and gives them a discourse on kamma and its fruit.

Khổ hạnh Chó.

Phật gặp hai nhà khổ hạnh, một người bắt chước lối sống của chó, một người bắt chước lối sống của bò. Ngài cho họ biết sự vô ích của lối tu ấy, và giảng cho họ nghe về nghiệp và quả báo.

II. TÓM TẮT

Khổ hạnh chó và khổ hạnh bò [1] đến gặp Phật, hỏi về chỗ tái sinh tương lai của các hạnh như thế nào. Phật cho biết có hai hậu quả chờ đợi: Một là được sinh và loài chó, bò, nếu bắt chước giống hệt; hai là sinh vào địa ngục [2] nếu bắt chước không giống, mà lại có tà kiến cho rằng làm vậy sẽ được lên trời. Họ xin Phật giảng Pháp để từ bỏ được khổ hạnh sai lạc.

Phật giảng về bốn loại nghiệp và quả báo:

1. Nghiệp đen có quả báo đen, như sau khi làm những thân ngữ ý hành có tổn hại [3], sẽ sinh vào thế giới có tổn hại [4], và do xúc những tổn hại nên cảm thọ khổ.

2. Nghiệp trắng có quả báo trắng, như sau khi làm các thân ngữ ý hành không có tổn hại [5], sẽ sinh vào thế giới không có tổn hại [6] ; do xúc những xúc không tổn hại mà cảm thọ lạc.

3. Nghiệp nửa đen nửa trắng [7], là một phần tốt một phần xấu, sinh vào cõi dữ có lành có, như cõi người. Do vậy Phật dạy, sự sinh ra của một hữu tình tùy thuộc vào chính nó; hữu tình là kẻ thừa tự hạnh nghiệp mình [8].

4. Nghiệp không đen không trắng [9], đưa đến quả báo không đen trắng, tức sự đoạn tận các loại nghiệp, đó là tư tâm sở hay ý chí đoạn tận các loại nghiệp đen, trắng và hỗn hợp đã nói trên.

Hai khổ hạnh nghe xong tán thán Phật, Khổ hạnh Bò xin quy y, khổ hạnh Chó xin xuất gia thọ giới cụ túc. Phật dạy ngoại đạo cần trải qua bốn tháng thử thách trước khi xuất gia, nhưng Ngài biết rõ căn tính các hạng người [10]. Khổ hạnh Chó chấp nhận dù có phải trải qua bốn năm thử thách để được xuất gia. Sau khi thọ giới cụ túc không bao lâu, Khổ hạnh Chó Seniya chứng quả A la hán.

III. CHÚ GIẢI

1. Punna tu hạnh bò bằng cách mang sừng trên đầu, cột đuôi sau lưng và ăn cỏ cùng với những con bò. Seniya thực hành tất cả hạnh của 1 con chó.

2. Sinh địa ngục là do tà kiến cho rằng khổ hạnh ấy sẽ dẫn đến tái sinh cõi trời. Cần chú ý rằng sự tu tập khổ hạnh sai lầm có hậu quả ít nghiêm trọng khi nó được thực hành không kèm theo tà kiến hơn là khi có kèm theo tà kiến. Mặc dù ngày nay ít ai thực hành khổ hạnh chó, bò, song nhiều kiểu sống lạc hướng đã thành phổ biến và lại được biện minh bằng một tà thuyết, do vậy hậu quả của những lối sống này càng tai hại hơn nữa.

3. Thân ngữ (ngữ hành, ý hành ) "có hại" có thể hiểu là 10 bất thiện hành trái với 10 thiện nghiệp đạo: về 3 thân, 4 về ngữ và 3 về ý. Xem kinh số 9.

4. Thế giới có tổn hại là như 1 trong các đọa xứ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

5. Ở đây muốn nói đến các ý hành chịu trách nhiệm về 10 nghiệp thiện và ý hành thuộc các cõi thiền.

6. Vị ấy được tái sinh vào cõi trời.

7. Nói 1 cách chân chính, thì không có ý hành nào có thể đồng thời vừa thiện vừa bất thiện, vì ý hành chịu trách nhiệm về hành vi phải làm thì hoặc thiện, hoặc bất thiện. Ở đây ta nên hiểu hữu tình vướng vào những hành động thiện có ác có, nhưng không 1 hành động nào đặc biệt nổi bật.

8. Hữu tình tái sinh tùy theo nghiệp đã làm và theo những cách phù hợp với những nghiệp ấy. Những ngụ ý của thuyết này được diễn rộng trong kinh 135-136.

9. Chính là ý hành thuộc 4 đạo lộ siêu thế mà tột cùng là A la hán quả. Mặc dù vị a la hán cũng làm các hành vi, nhưng những hành vi của vị ấy không còn tác dụng của nghiệp để phát sinh hiệu hữu mới hoặc để đem lại kết quả ngay trong kiếp này.

10. Phật có thể quyết định: "Người này cần qua thời gian thử thách, người này không cần."

IV. PHÁP SỐ

Ba thọ, bốn loại nghiệp (đen, trắng, vừa đen vừa trắng, không đen không trắng), năm thú ( cõi tái sinh ): trời, người, địa ngục, quỷ, súc.

V. KỆ TỤNG

Punna Khổ hạnh Bò

Seniya khổ hạnh Chó

Cùng đi đến gặp Phật,

Hỏi tái sinh tương lai

"Nếu hành trì viên mãn

Chó, bò là chỗ sinh

Hoặc sinh vào địa ngục

Nếu không làm như in."

Hai khổ hạnh khóc lóc:

Chúng con tu hạnh ấy

Nay xin Phật chỉ đường

Tu hành theo chính đạo.

Phật dạy bốn loại nghiệp:

Nghiệp toàn đen, toàn trắng

Nghiệp nửa đen nửa trắng

Và nghiệp không trắng đen.

Ðen là nghiệp tổn hại

Sinh cõi có tổn hại

Phải cảm thọ khổ đau

Như địa ngục, quỷ, súc.

Vô hại là nghiệp trắng

Sinh cõi không tổn hại

Nên cảm thọ an vui

Như ở trên thiên giới

Nghiệp vừa đen vừa trắng

Sinh cõi có dữ lành

Thọ có vui có khổ

Như trong cõi người ta

Nghiệp không đen không trắng

Không quả báo trắng đen

Là do tư tâm sở

Ý chí đoạn tận nghiệp

Như khi vị la hán

Dù có làm việc lành

Cũng không ham quả báo

Tương lai khỏi thọ sinh.

Do vậy các hữu tình

Sinh ra do chính nó

Thọ vui hay thọ khổ

Thừa tự hạnh nghiệp mình

Hạnh Bò xin quy y

Hạnh Chó xin thọ cụ

Dù phải qua thử thách

Vì ngoại đạo xuất gia

Phật biết rõ căn cơ

Nên độ cho Seniya

Thọ giới không bao lâu

Ông chứng thành La hán.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 58

Vô Úy vương tử

I. TOÁT YẾU

Abhayaràjakumàra Sutta - To Prince Abhaya.

The Jain leader, Nigantha Nàtaputta, teaches Prince Abhaya a "two-horned questions" with which he can refute the Buddha's doctrine. The Buddha escapes the dilemma and explains what kind of speech he would and would not utter.

Nói cho Vô Úy vương tử.

Giáo chủ Ni kiền tử dạy cho Vô Úy vương tử một "câu hỏi hai móc" để có thể bài bác thuyết của Phật. Phật thoát khỏi ngõ bí và giải thích loại lời nào Ngài sẽ nói và loại nào không.

II. TÓM TẮT

Ni kiền tử bày cho vương tử Vô Úy [1] một câu hỏi hai móc [2] để đến chất vấn Phật: "Như lai có bao giờ nói một lời làm kẻ khác buồn không?" Nếu đáp có, thì khác gì phàm phu. Nếu đáp không, thì thành nói dối, vì Phật mới vừa nói Devadatta sẽ rơi vào đọa xứ, khiến cho Ðề bà rất phẫn nộ. Như vậy khi Cồ đàm bị hỏi câu này sẽ như nuốt phải một cái móc sắt, không thể nhả ra cũng không thể nuốt vào.

Vương tử theo lời, thỉnh Phật đến nhà thọ trai xong, hỏi như trên. Nào ngờ Phật hỏi lại ông: "Có phải ngươi chờ đợi Như lai trả lời có hoặc không chăng?"

Vương tử nói: "Bạch Thế tôn, Ni kiền tử đã bị bại ngay hiệp đầu."

Phật gạn hỏi, ông thú nhận Ni kiền tử chờ đợi Phật trả lời có hoặc không để phản bác, không dè gặp trường hợp này. Khi ấy Phật chỉ vào đứa bé trai đang được bế ngồi trên gối vương tử và hỏi ông ta:

"Giả sử người vú em sơ ý để đứa bé nuốt phải một cái móc sắt, ông sẽ làm sao?"

- Bạch Thế tôn, con sẽ lôi cái móc ấy ra, dù có phải làm cho đứa trẻ đau đớn, chảy máu miệng. Vì con rất thương đứa bé.

Khi ấy Phật dạy: "Như lai cũng vậy, vì thương xót hữu tình, Như Lai sẽ biết thời để nói cho chúng lời nói đúng sự thật, tương ứng với mục đích, dù lời ấy có thể làm họ ưa thích hay không." [3]

Khi ấy vương tử bạch Phật, trước khi đến chất vấn Phật, ngoại đạo phải họp nhau cân nhắc đủ thứ mới nghĩ ra được một câu hỏi; phải chăng Ngài cũng suy nghĩ trước và chuẩn bị sẵn những câu trả lời.

Phật hỏi ông: "Ông có rành về xe cộ không?" Vương tử đáp có, vì đó là sở trường của ông ta.

Phật hỏi, "Ông có cần phải suy nghĩ về những bộ phận xe để mỗi khi ai hỏi, có thể trả lời thông suốt?"

Vương tử cười lớn: "Dạ không, con quá rành về xe nên ai hỏi là đáp ngay, khỏi cần chuẩn bị gì ráo."

Phật dạy Như lai cũng vậy, đã liễu tri pháp giới [4] nên không cần phải suy nghĩ rồi mới trả lời.

Vương tử Vô úy ca tụng Phật và xin quy y.

III. CHÚ GIẢI

1. Vô Úy vương tử là con trai vua Bimbisara ( Bình Sa ) xứ Ma Kiệt Ðà, nhưng không phải là người thừa kế ngai vàng.

2. Ni kiền tử bày ra 1 thế lưỡng nan vì dự định Phật sẽ đưa ra câu trả lời một chiều ( có hoặc không ).

Nhưng khi sự trả lời 1 chiều đã bị loại bỏ, ngõ bí đưa ra trở thành vô hiệu.

3. Phật không ngần ngại rầy la quở trách đệ tử khi Ngài thấy cách nói như vậy sẽ đem lại lợi ích cho họ.

4. Theo Luận giải, pháp giới là ám chỉ trí toàn tri của Phật. Ở đây không nên lầm lẫn pháp giới với danh từ pháp giới dùng để chỉ đối tượng của ý trong 18 giới, cũng không có ý nghĩa nguyên lý vũ trụ bao trùm khắp mọi sự trong Phật giáo đại thừa.

IV. PHÁP SỐ

Ba điều kiện Phật nói ra lời gì:

1. đúng sự thật; 2. đúng thời; 3. Tương ứng với mục đích ( nghĩa là, có nhắm đến một mục đích nào đó, ví dụ cảm hóa người nghe ). Người nghe có ưa thích hay không ưa thích, không thành vấn đề.

V. KỆ TỤNG

Vương tử Abhaya (Vô úy)

Ðến thăm Ni kiền tử

Vị này bảo vương tử

Ðến chất vấn Thế tôn

Với câu hỏi hai móc

Trả lời không cũng kẹt

Nói có cũng không xong

Như lưỡi câu móc họng:

Như lai có bao giờ

Nói làm buồn kẻ khác

Nếu có, giống phàm phu

Nếu không, thành nói dối.

Vì chính Ngài vừa nói

Khiến Ðề Bà rất đau

Bị chất vấn như vậy

Như nuốt phải móc câu.

Vương tử theo lời thầy

Thỉnh Phật về thọ trai

Rồi lân la khẽ nói:

- Xin được hỏi Như lai

Như lai có bao giờ

Nói làm buồn kẻ khác?

"Có phải ngươi chờ đợi

Ta nói có hoặc không?"

Vương tử Vô Úy thưa

- Ni kiền tử đã thua.

Khi Phật hỏi lý do

Ông ta bèn thuật lại.

Phật chỉ đứa hài nhi

Ngồi trên vế vương tử

"Ông sẽ phải làm gì

Khi nó nuốt lưỡi câu?"

Con sẽ móc họng nó

Dù phải làm nó đau

Và chảy máu đầy miệng

Vì lòng xót thương sâu.

"Như lai cũng thế ấy,

Vì thương xót người đời

Và gặp lúc đúng thời

Sẽ nói lời chân thật,

Lời tương ứng mục tiêu,

Dù chúng sinh ưa thích

Hoặc chúng không ưa thích

Vì tâm Phật xót thương."

- Bạch Phật, con vẫn thấy

Bà la môn có trí

Thường soạn sẵn câu hỏi

Ðể chất vấn Thế tôn.

Chẳng hay đức Thế tôn

Có thường ngày chuẩn bị

Nghĩ sẵn câu trả lời

Hay đáp ngay tại chỗ?

"Này vương tử, chẳng hay

Ông rành về xe cộ?"

- Quả vậy, bạch Thế tôn

Ðấy sở trường của con.

"Ông có thường suy nghĩ

Về những bộ phận xe

Ðể phòng khi ai hỏi

Sẽ trả lời cho nghe?"

- Dạ thưa không, bạch Phật

Con quá rành về xe

Nên ai hỏi đáp liền

Không cần gì suy nghĩ.

"Cũng thế, với Như lai

Ðã liễu tri pháp giới

Nên không cần nghĩ suy

Ðể trả lời câu hỏi."

- Vi diệu thay, Thế tôn

Như người dụng đứng lên

Những gì bị quăng ngã

Phơi bày cái che khuất,

Chỉ đường kẻ lạc hướng

Ðem đèn vào bóng tối

Cho những người có mắt

Có thể thấy hình sắc.

Cũng vậy, đức Thế tôn

Nay con xin quy y

Từ nay đến mạng chung

Con trọn đời quy ngưỡng.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 59

Nhiều cảm thọ

I. TOÁT YẾU

Bahuvedaniya Sutta - The many kinds of Feeling.

After resolving a disagreement about the classification of feelings, the Buddha enumerates the different kinds of pleasure and joy that beings can experience.

Kinh Nhiều cảm thọ.

Sau khi giải quyết một bất đồng về phân loại các cảm thọ, Phật kể ra các loại lạc và hỉ mà hữu tình có thể cảm thọ.

II. TÓM TẮT

Thợ mộc Pancakanga một cư sĩ, cãi nhau với tỳ kheo Ưu đà di. Thợ mộc bảo chỉ có hai thọ là lạc và khổ. Tỳ kheo bảo có ba thọ là lạc, khổ, và không lạc không khổ. Thợ mộc cãi loại thọ thứ ba ấy cũng thuộc về lạc, như cảm thọ không khổ không lạc ở thiền thứ tư. Hai bên không ai chịu ai. Tôn giả A nan chứng kiến cuộc đàm thoại, về thuật lại với Phật.

Phật dạy, có khi Ngài giảng hai thọ có khi Ngài giảng ba thọ có khi Ngài giảng 5 thọ, 6 thọ, 18 thọ, 36 thọ, 108 thọ, ... tùy từng pháp môn. Người biết vậy sẽ không cãi nhau, mà sống hòa hợp.

Rồi Phật giảng có nhiều cấp bực lạc thọ: Thấp nhất, dục lạc là khoái cảm do năm giác quan đem lại khi tiếp xúc với năm đối tượng vật chất.

Kế đến là hỷ lạc sơ thiền, rồi nhị thiền, tam, tứ thiền, Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ, và cuối cùng Diệt thọ tưởng định. Càng lên cao lạc thọ càng tinh tế; nên Phật không chấp nhận xem một lạc thọ nào trong đó là thù thắng nhất.

III. CHÚ GIẢI

1. Thợ mộc của vua Ba tư nặc xứ Kosala là 1 tín đồ thuần thành của Phật. Ông ta còn xuất hiện trong kinh 178 và 127.

2. Hai thọ là thân thọ và tâm thọ, hoặc 2 loại thọ mà thợ mộc nói gồm khổ thọ và lạc thọ ( bao gồm cả thiền lạc tối thắng ) thì ít phổ thông.

Ba thọ là 3 loại cảm giác được Ưu Ðà Di đề cập: khổ, lạc, và bất khổ bất lạc.

Năm thọ là thân lạc, tâm hỷ, thân khổ, tâm ưu, và xả.

Sáu thọ là những cảm thọ do xúc sinh qua 6 giác quan.

18 thọ là căn trần tiếp xúc sinh ra 6 loại hỷ, 6 loại ưu và 6 loại xả (xem kinh 137).

36 loại thọ là 6 hỷ, 6 ưu, và 6 xả, mỗi loại gồm hai, là hỷ ưu xả thuộc đời sống tại gia hay hỷ ưu xả trong đời sống xuất gia (xem kinh 137).

108 loại thọ là 36 loại thọ đã nói, phối hợp với ba thì quá khứ, hiện tại, và vị lai.

3. Luận giải nêu lên rằng khi nói về cảm thọ không khổ không lạc của tứ thiền là 1 loại lạc thọ, đức Phật đã ngầm chấp nhận quan điểm của thợ mộc đưa ra.

4. Cả hai loại lạc được cảm thấy và không được cảm thấy; loại không được cảm thấy tức là lạc liên hệ đến sự chứng đắc diệt định. Ðức Như Lai mô tả cả 2 là lạc thọ với ý nghĩa chúng không có khổ.

IV. PHÁP SỐ

Hai thọ, ba thọ, năm dục trưởng dưỡng, năm căn, năm trần, sáu thọ, chín định thứ đệ, 18 thọ, 36 thọ, 108 thọ.

V. KỆ TỤNG

Thợ mộc tên Ngũ phần

Ðến nơi Ưu đà di

Tỳ kheo đệ tử Phật

Hỏi có bao nhiêu thọ.

- Thế tôn thuyết ba thọ

Lạc thọ và khổ thọ

Cùng bất khổ bất lạc

Chính tôi đã được nghe.

- Tôn giả Ưu đà di

Thế tôn thuyết hai thọ

Còn bất khổ bất lạc

Là thiền lạc tối cao.

- Thế tôn thuyết ba thọ

Không phải thuyết hai thọ.

Tỳ kheo và thợ mộc

Không ai chịu nghe ai.

Chứng kiến cuộc luận đàm

A nan về bạch Phật

Phật dạy: "Tùy pháp môn

Ta nói hai, ba thọ.

Ta cũng giảng năm thọ

Sáu thọ, mười tám thọ,

Băm sáu, trăm linh tám...

Tùy theo mỗi pháp môn.

Những điều đã trình bày

Ai không khéo lĩnh hội

Tranh chấp sẽ xảy ra

Bằng binh khí miệng lưỡi.

Hỉ lạc do năm dục

Sắc thanh hương vị xúc

Ðược gọi là dục lạc

Chưa phải tối thắng lạc.

Vì còn có hỉ lạc

Do ly dục sinh ra

Do ly bất thiệt pháp

Khi chứng trú sơ thiền

Lạc này hơn dục lạc

Nhưng cũng chưa thù thắng

Bằng hỷ lạc nhị thiền

Ðịnh sanh, không tầm tứ

Tam thiền vi diệu hơn

Với xả niệm lạc trú

Tứ thiền càng vi diệu

Xả niệm thanh tịnh lạc.

Khi vượt qua sắc tưởng

Trừ các chướng ngại tưởng

Chứng Không vô biên xứ

Lạc càng thù thắng hơn.

Lên đến Thức vô biên

Rồi Vô sở hữu xứ

Phi tưởng, phi phi tưởng

Lạc càng thêm tinh vi

Tột cùng, Diệt tận định

Dù không còn lạc thọ

Cũng được gọi là lạc

Với nghĩa không còn khổ

Những ai khéo lĩnh hội

Pháp được giảng nhiều cách

Sẽ lìa được tranh cãi

Sống hòa hợp an vui."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 60

Không gì chuyển hướng

I. TOÁT YẾU

Apannaka Sutta - The Incontrovertible teaching.

The Buddha gives a group of brahmin householders an "incontrovertible teaching" that will help them steer clear of the tangle in contentious views.

Giáo lý không thể tranh cãi.

Phật giảng cho một nhóm gia chủ là bà la môn một giáo lý không ai cãi được, để giúp họ khỏi mắc kẹt vào sự rối ren của các quan điểm tranh chấp.

II. TÓM TẮT

Phật trình bày cho các gia chủ làng Sala [1] một số quan điểm mâu thuẫn nhau của các sa môn bà la môn đương thời, và dạy một pháp môn không thể tranh cãi [2]. Ngài đề cập năm tà thuyết đương thời:

1. Chấp hư vô luận hay duy vật cực đoan

2. Chấp không có đời sau và quả báo;

3. Chấp không có quả báo các nghiệp lành dữ;

4. Thuyết định mệnh, vô nhân; [3]

5. Không các cõi vô sắc;

6. Không có Hữu diệt hay Niết bàn.

Mỗi chủ trương đều có một lập trường ngược lại với nó. Cuối cùng Ngài đề cập bốn hạng người như ở kinh 51: tự hành khổ, hành khổ người, hành khổ cả mình lẫn người, và không hành khổ mình, người.

Người chủ trương 3 thuyết đầu [4], thì có thể từ bỏ ba thiện pháp về thân, ngữ, ý, thực hành ba ác pháp về thân ngữ ý; vì họ không thấy sự nguy hiểm, hạ liệt của bất thiện pháp và lợi ích của thiện pháp [5]. Họ cũng nói trái ngược với thánh giáo, vì các bậc thánh đều biết có đời sau. Vậy là do duyên tà kiến Phi hữu [6], khởi lên các ác pháp: tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, sự đối nghịch với các bậc thánh, sự thuyết phục chống lại diệu pháp, sự khen mình chê người. Những người chủ trương ngược lại thì có chính kiến, và do chính kiến, khởi lên các thiện pháp: chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, không đối nghịch các bậc thánh, thuyết phục thuận với diệu pháp, không khen mình chê người.

Về thuyết đầu "không có đời sau", người có trí sẽ nghĩ rằng: nếu chủ trương ấy là đúng, thì người chủ trương khi mạng chung sẽ cảm thấy an toàn [6], vì không có đời sau [7], nên việc ác họ đã làm không có quả báo; nhưng hiện tại họ vẫn bị người trí quở trách. Còn nếu chủ trương của họ sai, thì họ bị mất mát cả hai phương diện [8], hiện tại bị người trí quở trách, tương lai còn chịu quả báo, sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ngược lại, người chủ trương Hữu kiến [9] và hành xử tùy theo đó, thì được lợi cả hai phương diện: hiện tại được người trí tán thán, và tương lai sinh vào thiện thú, cõi trời [10]. Về thuyết thứ hai "Vô hành" [11] và thứ ba "Vô nhân" [12] hay thuyết định mệnh [13] cũng vậy.

Ðối với lập trường thứ 4 "Không thể có vô sắc toàn diện" [14] người có trí nên suy nghĩ: Người có chủ trương này chỉ khao khát sinh vào cõi chư thiên có sắc [15] do "ý" thành. Còn nếu chủ trương ngược lại, "có thể có một vô sắc toàn diện" thì người này sẽ khao khát sinh vào cõi chư thiên vô sắc do "tưởng" thành [16]. Vị ấy nghĩ, nhân cái gì có sắc đều có đấu tranh, nhưng sẽ không có đấu tranh trong một thế giới hoàn toàn vô sắc. Do nghĩ như vậy, vị ấy thành tựu sự yểm ly, ly tham, diệt tận đối với sắc pháp.

Ðối với lập trường thứ 5, "Không thể có Hữu diệt toàn diện" [17] người có trí suy nghĩ: ai chủ trương như vậy sẽ khao khát tái sinh vào cõi vô sắc do tưởng. Còn nếu chủ trương ngược lại, "Có thể có Hữu diệt toàn diện" thì vị ấy có thể hi vọng nhập niết bàn ngay hiện tại [18]. Quan điểm đầu gần với tham ái, kết sử, chấp thủ, quan điểm sau gần với ly tham, không chấp thủ, gần với ái diệt. Do suy tư như vậy, vị ấy thành tựu yểm ly, ly tham, đoạn diệt đối với các hữu.

Về bốn hạng người, hạng 1 tự hành khổ là hạng tu các khổ hạnh; hạng 2 làm khổ kẻ khác là hạng làm các nghề ác; hạng 3 hành khổ cả hai, là hạng vua chúa gia chủ theo ác giới, dựng tế đàn giết hại sinh vật. Hạng 4 không làm ai khổ là vị a la hán xuất hiện ở đời, từ bỏ 5 triền cái, chứng trú 4 thiền 3 minh, tự thân cảm thấy mát lạnh.

Sau khi nghe pháp các bà la môn ở làng Sala xin quy y Tam bảo.

III. CHÚ GIẢI

1. Làng Sa la nằm ở lối vào rừng, nơi có nhiều sa môn bà la môn thuộc nhiều giáo phái thường nghỉ đêm, trình bày quan điểm của mình và đả kích quan điểm của người khác, điều này làm cho dân làng bối rối không biết tin theo giáo lý nào.

2. Không thể tranh cãi, Apan năm triền cái, năm triền cái, naka, theo Luận giải, là 1 giáo lý không thể nói ngược lại, 1 giáo lý sáng sủa, chắc chắn, dễ chấp nhận, không có ý nghĩa mập mờ. Danh từ này cũng xuất hiện trong kinh Tăng Chi Bộ 3-4.

3. Ba loại kiến ấy gọi là tà kiến có hậu quả xấu nhất định. Người nào tin theo chúng là đóng cửa ngõ tái sinh lên thiên đường, đóng cửa ngõ đưa đến giải thoát.

4-5. Sự khảo sát 3 kiến chấp này diễn tiến theo đường lối sau: Phật nêu lên kiến chấp A và phản đề của nó là B. Xét kiến chấp A trước, trong A.i Ngài chứng minh hậu quả tai hại của kiến chấp này trên ba nghiệp thân, khẩu, ý. Trong A.ii Ngài tiếp tục phê phán rằng kiến chấp ấy thực sự là sai, và nói đến những hậu quả tiêu cực của sự tin theo kiến chấp ấy. Rồi trong A.iii Ngài chứng minh làm thế nào 1 người trí đi đến kết luận rằng dù kiến chấp ấy đúng hay không đúng, tốt hơn hết là nên bác bỏ nó.

6. Kế tiếp lập trường B được xét đến. Trong B.i Phật mô tả ảnh hưởng tốt lành của kiến chấp này trên lối hành xử. Trong B.ii Ngài đưa ra những hậu quả tích cực của sự theo 1 quan điểm như thế. Và trong B.iii Ngài chứng minh làm thế nào 1 người trí đi đến kết luận rằng, bất luận sự thật ra sao, tốt nhất cho vị ấy là nên xem như thể là quan điểm ấy đúng, và hành xử theo đó.

7. Xem chú thích kinh 41 giải thích những cách diễn đạt khác nhau của quan điểm "không có đời sau."

8. Danh từ Pàli là Susilya ( thiện giới ) và Dusilya ( ác giới ). Vì ác giới nghe ra mâu thuẫn, giới có nghĩa là đạo đức, nên ở đây dịch là thiện pháp và bất thiện pháp.

9. Vị ấy đã tự trấn an mình do nghĩ mình sẽ không phải đau khổ trong một đời sau. Tuy nhiên vị ấy vẫn còn chịu những loại khổ phải gặp trong đời này, mà Phật sắp nói đến.

10. Phi hữu luận có nghĩa là chối bỏ hiện hữu một đời sau và quả báo của nghiệp.

11. Vị ấy chỉ theo một chiều của giáo lý không thể tranh cãi, nghĩa là tự cảm thấy an toàn chỉ nhờ giả thuyết không có đời sau, cho nên nếu thật có đời sau thì vị ấy sẽ mất mát cả 2 mặt - hiện tại bị người trí quở trách, tương lai sinh vào cõi dữ.

12. Hữu kiến: là sự xác nhận có đời sau và có quả báo các nghiệp.

13. Cách hiểu của vị này trải ra cả 2 chiều, nên được lợi ích của quan điểm mình - xác nhận có đời sau - dù đời sau có thực hay không.

14. Trong kinh Sa Môn Quả, thuyết "Vô hành" này được gắn cho Phú Lan Na Ca Diếp. Mặc dù mới nghe qua, quan điểm này dường như chủ trương duy vật như quan điểm chấp đoạn trước đấy, nhưng có bằng chứng kinh điển cho thấy Phú Lan Na Ca Diếp theo một lý thuyết nguy hiểm. Lý thuyết đạo đức của ông là, mọi hành vi đã được định trước theo những cách mà ta không thể gán trách nhiệm đạo đức cho người làm.

15. Ðây là thuyết "Vô nhân" mà giáo phái Mạt Già Lê (Makkhali) chủ trương trong kinh Sa Môn Quả, gọi là thuyết Luân hồi tịnh hóa. Thuyết này đã được đề cập trong tác phẩm Lịch Sử và Lý Thuyết của Mạt Già Lê, chương 12-13.

16. Ðịnh mệnh là yếu tố chính giải thích triết học Mạt Già Lê, theo đó những biến cố ngoại giới và cá nhân đều do hoàn cảnh và thiên nhiên điều động: "Cái quay búng sẵn trên trời, Lờ mờ nhân ảnh như người đi đêm." Sáu tầng lớp xã hội tùy theo trình độ tiến hóa tâm linh của họ, tầng cao nhất dành cho 3 luận sư ngoại đạo nói trong kinh Trung bộ 36.

17. Ðây là phủ nhận 4 cõi vô sắc, cảnh giới của 4 thiền chứng vô sắc.

18. Ðây là những vị trời thuộc các cảnh giới tương ứng với 4 thiền sắc giới - những vị trời có thân thể bằng sắc chất vi tế, không như những vị trời thuộc vô sắc giới chỉ có thuần tâm, không lẫn vào sắc.

IV. PHÁP SỐ

Ba minh, bốn hạng người, bốn thiền, năm triền cái, tám thánh đạo, chín định thứ đệ.

V. KỆ TỤNG

Dân chúng làng Sa La

Ðến viếng thăm đức Phật

Khi Ngài đang du hành

Trong xứ Kosala

Phật hỏi các gia chủ

Có vị đạo sư nào

Họ đặt hết niềm tin?

Họ đáp rằng không có.

Phật bèn giảng cho họ

Pháp môn "không chuyển hướng"

Ðối với các quan điểm

Hoàn toàn trái ngược nhau.

Một là hư vô luận

Thuyết duy vật cực đoan

Chấp không có đời sau

Và quả báo thiện ác.

Hai là thuyết Vô hành

Làm các nghiệp dữ lành

Cả hai đều vô hiệu

Không có tội phước gì.

Ba là thuyết Vô nhân

Hay là thuyết định mệnh

Bốn, không có Vô sắc

Năm không có Hữu diệt.

Mỗi chủ trương đều có

Một lập trường ngược lại.

Cuối cùng Ngài đề cập

Lối sống bốn hạng người.

Người theo ba thuyết đầu,

Từ bỏ ba thiện pháp

Về thân, ngữ, và ý,

Thực hành ba ác pháp

Vì không thấy bất thiện

Là hạ liệt, nguy hiểm

Tà kiến Hư vô này,

Khởi thêm sáu ác pháp:

Tà tư duy, tà ngữ,

Tà nghiệp, ngược thánh giáo

Thuyết phục chống diệu pháp,

Và khen mình chê người.

Người chủ trương ngược lại

Có đời sau, quả báo...

Thì có được chính kiến,

Lại thêm các thiện pháp:

Chính tư duy, chính ngữ,

Chính nghiệp, thuận thánh giáo,

Thuyết phục theo diệu pháp,

Không khen mình chê người.

Ai nói "không đời sau",

Người trí nên suy nghĩ:

Nếu kẻ ấy nói đúng

Khi chết được an toàn

Vì việc ác họ làm

Sẽ không có quả báo;

Nhưng ngay trong hiện tại

Bị người trí quở trách.

Nhưng nếu có đời sau

Họ sẽ phải thua đau:

Hiện tại, người trí chê

Tương lai sinh cõi dữ.

Người chấp hành Hữu kiến

Lợi cả hai phương diện:

Hiện tại người trí khen

Tương lai sinh cõi thiện.

Về chủ trương "Vô hành"

Và "Vô nhân" cũng vậy

Hãy suy luận như trên

Ðược sự "không cãi được"

"Không có cõi vô sắc"

Người trí nên suy nghĩ:

Kẻ này sinh sắc giới

Cõi trời do "ý" thành

Ai chủ trương ngược lại

"Có thể có vô sắc"

Người này sinh vô sắc

Cõi do "tưởng" mà thành

Bất cứ gì có sắc

Ðều sinh ra đấu tranh,

Nhưng không có đấu tranh

Trong cõi thuần vô sắc.

Do suy tư như vậy,

Thành tựu hạnh yểm ly,

Ly tham và diệt tận

Ðối tất cả sắc pháp.

"Không Hữu diệt toàn diện"

Ai chủ trương như vậy

Còn khao khát tái sinh

Cõi vô sắc do tưởng.

Ai chủ trương ngược lại,

"Có Hữu diệt toàn diện"

Có thể nhập niết bàn

Hữu diệt ngay hiện tại.

Lại nữa, quan điểm trước

Chấp không có hữu diệt

Thì gần với tham ái

Quan điểm sau ly tham,

Gần vô chấp, ái diệt.

Do suy tư như vậy,

Thành yểm ly, ly tham,

Ðoạn diệt với các hữu.

Trên đời có bốn hạng

Tự hành, hành khổ người

Vừa khổ mình, khổ người

Và không làm ai khổ

Là La hán ly dục,

Chứng bốn thiền ba minh

Thân cảm thấy mát lạnh

Tự ngã trú Phạm thể.

-ooOoo-

Toát yếu Kinh Trung Bộ

Ni sư Thích Nữ Trí Hải tóm tắt & chú giải

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 61

Giáo giới La Hầu La ở rừng Am bà la

I. TOÁT YẾU

Ambalatthikàràhulovàda Sutta - Advice to Ràhula at Ambalatthikà.

The Buddha admonishes his son, the novice Ràhula, on the dangers in lying and stresses the importance of constant reflection on one's motives.

Lời khuyên Ràhula, người ở rừng Ambala

Phật khuyến cáo con trai của Ngài là chú tiểu Ràhula về những nguy hiểm trong sự nói dối, và nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thường xuyên tư duy về những hành động của mình.

II. TÓM TẮT

Phật đến thăm Ràhula [1], và khi tôn giả bưng chậu nước cho Ngài rửa chân, Ngài đã dùng ví dụ chậu nước để giáo giới. Trước hết Ngài chừa lại một ít nước trong chậu, chỉ cho Ràhula và nói: "Sa môn hạnh của kẻ cố ý nói dối cũng ít oi như vậy."

Kế đến Phật đổ hắt chút nước đó và bảo: "Sa môn hạnh của kẻ cố nói dối cũng đáng đổ đi như vậy."

Rồi Ngài lật úp chậu, chỉ cho Ràhula thấy mà bảo: "Sa môn hạnh của kẻ cố ý nói dối cũng bị lật úp như cái chậu này."

Cuối cùng, Ngài lật ngửa cái chậu, chỉ cho Ràhula thấy sự trống rỗng mà bảo: "Cũng trống rỗng như vậy, sa môn hạnh của kẻ cố ý nói dối. Như con voi lâm trận biết bảo vệ cái vòi là biết giữ mạng sống; nếu nó dùng luôn cả cái vòi tức đã thí mạng, không có gì nó không làm. Cũng vậy, kẻ cố ý nói dối thì không còn chừa điều ác nào. Do vậy, cần phải quyết định: Ta sẽ không nói dối, dù nói để đùa chơi."

Phật lại lấy ví dụ, như tấm gương dùng để phản chiếu, người tu hành cũng phải phản tỉnh khi sắp làm, đang làm, hoặc đã làm một thân hành, ngữ hành, ý hành nào, xem nó có đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, biết nó bất thiện, đưa đến đau khổ, thì nhất định không làm, hoặc đình chỉ và phát lộ sám hối để chừa bỏ [2]. Nếu sau khi phản tỉnh, biết thân hành, ngữ hành, ý hành [3] ấy không đưa đến tự hại, hại người, hại cả hai, biết nó là thiện, đưa đến an lạc, thì hãy hoan hỷ tiếp tục. Ðấy là đường lối phản tỉnh của tất cả sa môn bà la môn trong quá khứ, hiện tại và vị lai để tịnh hóa ba nghiệp thân khẩu ý.

III. CHÚ GIẢI

1. La Hầu La là con trai duy nhất của Phật, ra đời khi Ngài rời cung vua đi tìm giác ngộ. Năm 7 tuổi, ông được tôn giả Xá Lợi Phất cho thọ giới làm Sa di nhân Phật về thăm Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên sau khi đạt giác ngộ. Phật tuyên bố La Hầu La là đệ tử bậc nhất về hạnh ham tu. Theo Luận, kinh này được giảng cho La Hầu La lúc 7 tuổi, tức lúc ông vừa thọ giới xuất gia không lâu. Theo kinh 147, Ràhula đắc quả A la Hán sau khi nghe Phật thuyết giảng về cách tu tuệ quán.

2. Có lỗi mà phát lộ, sám hối và phát nguyện chừa bỏ trong tương lai thì sẽ đưa đến sự tăng trưởng trong giới luật của bậc thánh. Xem kinh 65.

3. Tư tưởng hay ý hành bất thiện, mà chưa thực hành, thì chỉ cần từ bỏ, không cần phải phát lộ sám hối như những sự vi phạm về thân và lời.

IV. PHÁP SỐ

Ba nghiệp

V. KỆ TỤNG

Phật thăm Ràhula

Cứ trú trong rừng xoài

Tôn giả đem chậu nước

Cho cha mình rửa chân.

Phật chừa chút ít nước

Chỉ dạy Ràhula:

"Ít thay, Sa môn hạnh

Nơi kẻ cố nói dối."

Ngài đổ nước và bảo:

"Ðáng đổ đi như vậy,

Ấy là hạnh sa môn

Nơi kẻ cố nói dối."

Rồi Ngài lật úp chậu:

"Cũng lật úp như vậy

Ấy là hạnh sa môn

Nơi kẻ cố nói dối."

Lật chậu lên, Phật bảo:

"Cũng trống không như vậy

Ấy là hạnh sa môn

Nơi kẻ cố nói dối

Như con voi lâm trận

Dùng tất cả thân phần

Nhưng bảo vệ cái vòi

Vì biết giữ mạng sống

Nếu dùng luôn cả vòi

Tức nó đem thí mạng

Với con voi như vậy

Không việc gì không làm.

Như con voi liều mạng

Kẻ cố ý nói dối

Thì không điều ác nào

Người ấy không dám làm.

Do vậy, Ràhula

Ngươi cần phải quyết định :

Ta sẽ không nói dối

Dù chỉ để đùa chơi."

Phật lấy dụ tấm gương

Ðể dạy Ràhula :

"Ngươi hãy luôn phản tỉnh

Như người ta soi gương.

Khi sắp làm hay nói

Nếu đưa đến tự hại

Hại người, hại cả hai

Bất thiện, không nên làm.

Việc đang làm, đã làm

Cũng phản tỉnh như vậy

Ðiều ác hãy phát lộ

Ðể chừa bỏ về sau.

Nếu sau khi phản tỉnh,

Một thân ngữ ý hành

Không tự hại, hại người

Hãy hoan hỷ tiến lên.

Ðây đường lối phản tỉnh

Của những bậc tu hành

Trong quá, hiện, vị lai

Ðể tịnh hoá ba nghiệp."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 62

Ðại Kinh Giáo giới La Hầu La

I. TOÁT YẾU

Mahàràhulovàda Sutta - The Greater Discourse of Advice to Ràhula.

The Buddha teaches Ràhula the meditation on the elements, on mindfulness of breathing, and other topics.

Bài giảng dài để khuyên dạy La hầu la

Phật dạy cho La hầu la pháp thiền quán về các đại chủng, về niệm hơi thở, và các đề tài khác.

II. TÓM TẮT

Trong lúc cùng đi khất thực, Phật quay lại bảo tôn giả La hầu la [1] đang đi sau Ngài: "Hãy chân chính quán tất cả sắc pháp không phải của ta, không phải là ta hay tự ngã của ta. Thọ, tưởng, hành, thức cũng quán như vậy [2].

Sau khi nghe lời dạy vắn tắt, tôn giả liền trở lui về ngồi thiền định dưới một gốc cây. Thấy thế, tôn giả Xá lợi Phất khuyên La hầu la hãy niệm hơi thở [3], sẽ được nhiều lợi ích.

Sau khi ra khỏi thiền định, tôn giả La hầu la đến hỏi Phật về pháp môn niệm hơi thở. Trước khi dạy pháp niệm hơi thở, Phật dạy pháp môn quán đại chủng [4] trong thân và ngoài thân; dạy hãy tu tập như đất, nước, lửa, gió và hư không [5], để lạc khổ khởi lên không xâm chiếm tâm và an trú [6]; dạy tu tập tâm Từ để trị sân, tu Bi để trị hại, tu Hỷ để trị bất lạc, tu Xả để trị hận, quán bất tịnh để trị tham ái, quán vô thường để trị kiêu mạn.

Sau hết, Phật dạy pháp niệm hơi thở [7] gồm 4 mục thân, thọ, tâm, pháp, mỗi mục bốn đề tài; và cho biết nếu tu tập niệm hơi thở đến chỗ thuần thục, thì sẽ tỉnh giác khi thở hơi cuối cùng [8]."

III. CHÚ GIẢI

1. Theo Luận, bài kinh này được giảng cho Ràhula khi ông vừa 18 tuổi, cốt để xua tan những dục vọng liên hệ đến đời sống tại gia.

2. Luận: Trong lúc Ràhula đang theo sau Phật, ông để ý và tán thán vẻ tuyệt mỹ của thân hình đức đạo sư, và nhớ lại mình, ông nghĩ:"Ta cũng đẹp trai như đức Thế tôn cha ta. Hình thể của Phật thật đẹp và hình thể của ta cũng thế." Phật đọc được tư tưởng Ràhula nên đã quở trách ông ngay, để những tư tưởng vô lối như vậy khỏi dẫn ông đến rắc rối trầm trọng hơn. Ở đây đức Phật khuyến cáo với lời dạy hãy quán thân thể này không phải là một tự ngã, cũng không phải sở hữu của một tự ngã (không phải là tôi hay của tôi).

3. Tôn giả Xá lợi Phất thầy của Ràhula đã cho Ràhula lời khuyên này vì không biết ông đã được Phật dạy một pháp thiền quán khác. Thấy Ràhula ngồi kiết già, tôn giả tưởng ông đang thực hành niệm hơi thở.

4. Ở đây đức Phật giải thích pháp quán 4 đại thay cho quán hơi thở, để đánh tan sự bám víu của La hầu la vào thân thể, vì sự bám víu này chưa được tẩy trừ với lời giảng vắn tắt trước đấy về tính vô ngã của sắc pháp (tức thân thể).

5. Hư không không phải là 1 đại, nhưng nó được xếp vào loại sở tạo sắc.

6. Ðoạn này được dạy để chỉ rõ tính vô phân biệt của đất, nước, lửa, gió, hư không.

7. Xem giải thích về niệm hơi thở trong kinh 118.

8. Có nghĩa là, vị thiền giả chết một cách an tịnh với chính niệm tỉnh giác.

IV. PHÁP SỐ

Bốn niệm xứ, bốn đại, bốn phạm trú, năm uẩn.

V. KỆ TỤNG

Trên đường đi khất thực

Ngoái nhìn La hầu la

Phật dạy: "Hãy quán sát

Không ta, không của ta

Tất cả các sắc pháp

Dù trong, ngoài, đẹp, xấu

Ðều không phải là ta

Hay tự ngã của ta.

Cũng quán sát như vậy

Về thọ, tưởng, hành, thức."

Nghe lời dạy vắn tắt

Tôn giả về tọa thiền

Bậc thầy Xá lợi phất

Trông thấy ông ngồi thiền

Khuyên hãy niệm hơi thở

Sẽ lợi lạc vô biên.

Bởi thế La hầu La

Khi ra khỏi thiền định,

Lại đi đến hỏi Phật

Về pháp niệm hơi thở.

Phật dạy La hầu La:

"Tóc lông móng răng da

Những vật cứng trong, ngoài

Ðều thuộc về địa giới.

Chất lỏng ở trong thân

Bị chấp, thuộc cá nhân

Cũng như nước bên ngoài

Ðều thuộc về thủy giới.

Cái gì thuộc chất nóng

Làm tiêu hóa, hủy hoại,

Trong thân và ở ngoài

Ðều thuộc về hỏa giới.

Có gì có tính động

Bị chấp thủ trong thân

Cũng như gió bên ngoài

Là thuộc về phong giới.

Những chỗ rỗng trong thân

Như lỗ tai lỗ mũi

Cùng hư không bên ngoài

Ðều thuộc hư không giới.

Như đất nhận uế dơ

Ngươi hãy nên tu tập

Khi xúc lạc bất lạc

Tâm bất động như như

Như nước rửa sạch làu

Mọi vật tịnh bất tịnh

Hãy tu tập như nước

Không giao động, lo sầu.

Như lửa đốt tất cả

Sạch sẽ cùng ô uế

Hãy tu tập như lửa

Bất động, không lo âu.

Hãy tu tập như gió

Cuốn phăng vật sạch dơ

Lạc bất lạc khởi lên

Không chiếm tâm an trú.

Như hư không không giữ

Không trú một nơi nào

Chớ để lạc bất lạc

Xâm chiếm trú tâm ngươi

Hãy tu tập lòng Từ

Sân tâm sẽ diệt trừ

Hãy tu tập tâm Bi

Ðể dứt lòng tác hại.

Hãy tu tập tâm Hỷ

Ðể diệt trừ Bất lạc

Và tu tập tâm Xả

Ðể trừ oán hận tâm.

Tu tập quán Bất tịnh

Ðể trừ tâm tham ái

Tu tập quán vô thường

Trừ ngã mạn, kiêu căng.

Hãy tu niệm Hơi thở

Theo dõi hơi ra, vào,

Cảm giác toàn hơi thở

Dài ngắn đều biết rõ;

Mười sáu đề mục quán

Về thân, thọ, tâm, pháp

Mỗi thứ gồm bốn pháp

Hãy ghi nhớ nằm lòng.

Tu tập niệm hơi thở

Khi đã được viên thành

Sẽ có quả báo lớn:

Chết tỉnh giác, an nhiên."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 63

Tiểu Kinh Malunkya

I. TOÁT YẾU

Cùlamàlunkya Sutta - The Shorter discourse to Màlunkyàputta.

A bhikkhu threatens to leave the Order unless the Buddha answers his metaphysical questions. With the smile of the man struck by a poisoned arrow, the Buddha makes plain exactly what he does and does not teach.

Kinh ngắn giảng cho Malunkyà

Một tỳ kheo dọa sẽ từ bỏ tăng đoàn nếu Phật không trả lời cho ông những câu hỏi về siêu hình. Với ví dụ người bị trúng một mũi tên độc, Phật nêu rõ những gì Ngài có giảng dạy và không giảng dạy.

II. TÓM TẮT

Malunkyàputta (Man đồng tử) định bụng sẽ hoàn tục nếu Phật không giải đáp cho mình bốn vấn đề: thế giới thường hay vô thường (thời gian), hữu biên hay vô biên (không gian); thân và mạng (tự ngã) là một hay khác; Như lai có tồn tại hay không tồn tại sau khi chết (Như lai). Mỗi lập trường đều bao hàm bốn câu: một chính đề, một phản đề, một phối hợp cả hai và một phủ nhận cả hai, thành 16.

Man đồng tử đi đến bạch Phật, Ngài biết thế nào thì hãy trả lời thế ấy, và nếu không biết hãy thẳng thắn đáp là không biết.

Phật hỏi lại, khi ông xuất gia có được Ngài hứa hẹn sẽ giải đáp những điều ấy không. Ông đáp không, Phật dạy do vậy Ngài không có gì ràng buộc. Nếu ai xuất gia để mong Phật giải đáp những vấn đề ấy, thì họ sẽ chết mà vẫn không được thỏa mãn.

Ví như người bị trúng tên độc, không lo rút tên ra mà muốn biết lai lịch người bắn mũi tên, tính chất của dây cung và cái tên đã bắn, thì người ấy sẽ chết trước khi biết được. Vì đời sống phạm hạnh không dính dấp đến các vấn đề siêu hình. Dù cho thế giới này thường hay vô thường, hữu biên hay vô biên... thì vẫn hiện hữu sinh già bịnh chết sầu bi khổ ưu não cần phải đoạn trừ ngay trong hiện tại. Do vậy, những gì Phật không giải đáp, hãy thọ trì là không giải đáp, đó là các câu hỏi thuộc phạm vi siêu hình; vì chúng không liên hệ đến mục đích, không phải căn bản của phạm hạnh, không đưa đến yểm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn.

Những gì Phật có giảng dạy, hãy thọ trì là có giảng dạy, đó là bốn chân lý: Ðây là Khổ, đây là Khổ tập, đây là Khổ diệt, đây là Con đường đưa đến khổ diệt. Vì những điều này có liên hệ đến mục đích, và đưa đến ly tham, giác ngộ, niết bàn. [1]

III. CHÚ GIẢI

1. Những người tự hỏi về số phận của vị tỳ kheo từ giã Phật để thỏa mãn trí tò mò siêu hình, sẽ vui mừng khi biết lúc về già, Man đồng tử sau khi được nghe một bài pháp ngắn Phật giảng về 6 nội xứ, liền đi vào độc cư thiền định và đắc quả A la Hán. Xem Tương Ưng Bộ kinh 35. Trưởng lão kệ 399-404.

IV. PHÁP SỐ

Bốn chân lý.

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Manlunkyà

Ðịnh bụng sẽ hoàn tục

Nếu Phật cứ gạt bỏ

Câu hỏi mình đưa ra :

- Thế giới thường, vô thường?

(Hay vấn đề thời gian)

Hữu biên hay vô biên

(Là vấn đề không gian);

(Ðến vấn đề tự ngã)

Thân, mạng một hay khác

Cuối cùng, về Như lai:

Sau khi chết, còn, mất?

Ngài biết như thế nào

Hãy trả lời thế ấy

Không biết hãy đáp thẳng

Rằng thực ta không biết

Phật bèn hỏi lại ông

"Ta có hứa với ngươi:

Hãy sống đời phạm hạnh

Ta sẽ trả lời ngươi:

Thế giới thường, vô thường

Hữu biên hay vô biên

Thân, mạng một hay khác

Phật chết rồi còn, mất?"

- Thưa không, bạch Thế tôn.

"Này hỡi Malunkyà

Bất cứ ai xuất gia

Mong giải đáp thắc mắc

Nó sẽ chờ đến chết

Cũng không được thỏa mãn.

Như người trúng tên độc

Rút tên là việc gấp

Nếu muốn rành mọi lẽ

Trước khi rút tên ra:

Ai người đã bắn ta?

Họ tên, tướng ra sao

Cung tên bằng thứ gì?

Từ đâu nó bay đến?

Muốn biết cho tường tận

Thì chết mất còn gì.

Này hỡi Malunkyà

Vì đời sống phạm hạnh

Không có quan hệ gì

Các vấn đề như trên

Dù thế giới ra sao

Vẫn hiện hữu khổ đau

Sinh, già, bệnh, chết, sầu

Hiện tại cần trừ khử.

Do vậy, hãy thọ trì

Những gì ta thuyết giảng

Liên hệ đến mục tiêu

Là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo

Ðây căn bản phạm hạnh

Sẽ đưa đến yểm ly,

Ðến ly tham, an tịnh,

Ðến chứng ngộ, niết bàn."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 64

Ðại Kinh Man đồng tử

I. TOÁT YẾU

Màhàmàlunkya Sutta - The Greater Discourse to Màlynkyàputta.

The Buddha teaches the path to the abandoning of the five lower fetters.

Bài kinh dài giảng cho Man đồng tử

Phật giảng dạy con đường từ bỏ năm hạ phần kết sử.

II. TÓM TẮT

Phật hỏi Malunkya hiểu thế nào về năm hạ phần kết sử, khi ông trả lời là thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham và sân [1], Phật lại quở trách ông vì tưởng rằng một đứa trẻ con (hay người lớn, lúc bình thường) là không có năm hạ phần kết [2]. Phật hiển thị cho thấy kỳ thực, tùy miên [3] về thân kiến cũng như khái niệm về các pháp [4] đều đã tiềm ẩn nơi một hài nhi, nên khi lớn lên, có điều kiện là chúng phát triển.

Nơi kẻ vô văn phàm phu, vì không tuệ tri thân kiến và sự xuất ly thân kiến, nên bị thân kiến trói buộc, trở thành một kết sử kiên cố. Với 4 kết sử còn lại cũng vậy. Với vị đa văn đệ tử nhờ thân cận và học tập pháp các bậc thánh, như thật tuệ tri thân kiến và sự xuất ly thân kiến, nên không bị thân kiến chi phối, nhờ vậy thân kiến cùng tùy miên nơi vị ấy được đoạn trừ [5]. Bốn kết sử còn lại cũng thế.

Có một con đường phải theo để đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, như muốn có lõi cây phải đẽo hết các lớp vỏ ngoài vỏ trong vậy. Trước hết là phải có thái độ thích thú lắng nghe giảng pháp liên hệ đoạn trừ kết sử. Con đường ấy là viễn ly các sanh y [6], do đoạn trừ bất thiện pháp, do hoàn toàn an tịnh thân thô ác hành, ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú sơ thiền với hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm, có tứ. Vị ấy quán sắc thọ tưởng hành thức là vô thường, khổ, như bệnh, như cục bướu, như mũi tên, như tai họa, như nỗi đau buồn, như sự xa lạ, phân tán, trống rỗng, vô ngã [7]; và giải thoát tâm khỏi 5 uẩn, tập trung vào Bất tử giới, xem đây là tịch tịnh vi diệu, tức sự tịnh chỉ các hành, xả ly sanh y, ái diệt, niết bàn [8] . Nếu vững trú ở đây, vị ấy đạt đến sự đoạn trừ lậu hoặc. Nếu không, thì do sự tham hỷ pháp [9] , và do đã đoạn năm hạ phần kiết sử, vị ấy sẽ hóa sanh, nhập niết bàn ở đấy không trở lui đời này.

Chứng đến thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu xứ cũng vậy. Nếu ở một trong các giai đoạn này, sau khi chứng đắc, quán mọi sắc, thọ tưởng hành thức [10] là vô thường khổ vô ngã, giải thoát tâm khỏi các pháp ấy, tập trung ấy, tập trung vào Bất tử và đoạn trừ lậu hoặc, thì thành a la hán. Nếu còn lậu hoặc, thích thú trong cảnh giới vừa chứng, thì sẽ hóa sinh vào đấy và nhập niết bàn, khỏi trở lui đời này. Ðấy là lộ trình đưa đến đoạn trừ năm hạ phần kết sử. Nhưng do sai biệt về căn tính [11], có người chứng Tâm giải thoát, người chứng Tuệ giải thoát.

III. CHÚ GIẢI

1. Sở dĩ gọi là 5 hạ phần kết sử, vì chúng đưa đến tái sinh vào các cõi thuộc dục giới. Năm hạ phần kết sử chỉ được đoạn tận khi chứng quả Bất Hoàn.

2. Có thể có câu hỏi:"Ðức Phật đã hỏi về kết sử và vị thượng tọa cũng trả lời về kết sử, thì tại sao Phật quở trách câu trả lời của ông ta?" Lý do là vì Man đồng tử có kiến chấp rằng một người bị trói buộc bởi các ô nhiễm chỉ khi nào chúng tấn công người ấy, trong khi vào những lúc khác người ấy không bị các ô nhiễm ấy trói buộc. Ðức Phật nói để chỉ rõ lỗi lầm trong quan điểm này.

3. Trong các luận giải, các ô nhiễm được phân biệt thành 3 hình thái: anusaya hay tùy miên, khi chúng còn là những khuynh hướng tiềm tàng trong tâm; pariyutthàna hay hiện hành, khi chúng nổi lên ám ảnh và sai sử tâm; và vitikkama, khi chúng điều động cho thân và lời một cách bất thiện. Ðiểm quan trọng trong lời bác bỏ của Phật là, những kiết sử ngay cả khi chúng không hiện hành, vẫn tồn tại ở cấp bực tùy miên khi mà chúng chưa bị tận diệt nhờ tu tập các đạo lộ siêu thế.

4. Pháp này cũng có thể dịch là các sự vật.

5. Kết sử và tùy miên trên nguyên tắc không phải là 2 pháp riêng biệt; đúng hơn cũng một ô nhiễm ấy nhưng khi nó đang trói buộc người ta thì gọi là 1 kết sử, và khi nó không được từ bỏ thì gọi là tùy miên.

6. Upadhiviveka, viễn ly sanh y. Sanh y ở đây có nghĩa là 5 dục. Mặc dù 3 mệnh đề đầu của lời này có vẻ như cùng một ý với 2 mệnh đề tiếp theo, luận chỉ rằng chúng cốt để hiển thị cái phương tiện để trở thành "hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp."

7. Ðoạn này hiển thị sự phát triển tuệ quán trên cơ sở tịnh chỉ, dùng thiền chứng để tu huệ và lấy thiền ấy làm đối tượng cho tuệ quán. Ở đây 2 danh từ "vô thường và phân tán" chỉ rõ đặc tính vô thường; 3 danh từ "xa lạ, trống rỗng, không tự ngã" hiển thị đặc tính vô ngã; 6 danh từ còn lại hiển thị đặc tính khổ.

8. Vị ấy xoay tâm khỏi 5 uẩn bao gồm trong thiền, mà vị ấy đã thấy là mang dấu ấn của 3 đặc tính. Bất tử giới là niết bàn. Trước hết vị ấy hướng tâm về đó với ý thức có trí tuệ, sau khi đã nghe nó được ca tụng là "an ổn và tối thượng." Rồi với đạo lộ siêu thế "vị ấy hướng tâm đến đấy" bằng cách lấy nó làm đối tượng và thâm nhập nó, một cái gì rất an ổn và tối thượng.

9. Xem chú thích số 4, kinh 52, về chữ pháp.

10. Cần ghi nhận rằng khi các thiền chứng vô sắc được dùng làm căn bản cho tuệ quán, thì sắc uẩn không được bao gồm trong các đối tượng của tuệ quán. Bởi thế chỉ có 4 uẩn vô sắc được nói ở đây.

11. Trong số những người tu tịnh chỉ, có tỳ kheo đặt nặng sự nhất tâm thì khi chứng đắc vị ấy được gọi là tâm giải thoát; có vị đặt nặng về trí tuệ thì khi chứng đắc được gọi là tuệ giải thoát. Trong số những người tu tuệ quán, người nào nhấn mạnh trí tuệ thì được gọi là tuệ giải thoát, người nào nhấn mạnh nhất tâm thì gọi là tâm giải thoát. Hai đại đệ tử chính của Phật đắc quả A la Hán nhờ nhấn mạnh vừa tịnh chỉ vừa tuệ quán, nhưng tôn giả Xá lợi Phất trở thành một vị tuệ giải thoát và tôn giả Mục kiền Liên trở thành 1 vị tâm giải thoát. Như vậy lý do tên gọi khác nhau là do khả năng của họ khác nhau, giữa sự ưu thắng của định căn hay của tuệ căn.

IV. PHÁP SỐ

Bốn thiền, bốn không, năm hạ phần kết sử, năm uẩn.

V. KỆ TỤNG

Phật hỏi Malunkya

Về năm hạ kết sử

Thân kiến, nghi, giới thủ,

Tham dục và hận sân.

Malunkya bị quở

Không đáp được chất vấn

Vì tưởng đứa trẻ con

Không có năm thói ấy

Phật hiển thị cho thấy

Nơi đứa trẻ thơ ngây

Vẫn tiềm tàng ô nhiễm

Ðợi thời kỳ triển khai.

Kẻ vô văn phàm phu

Không tuệ tri thân kiến

Và xuất ly khỏi nó

Nên nó thành kiên cố

Nó thành một kết sử

Trói buộc vào hạ giới

Bốn kết sử còn lại

Cũng nên hiểu như đây.

Với đa văn đệ tử

Nhờ học pháp bậc thánh

Thường như thật tuệ tri

Thân kiến và xuất ly.

Không bị nó chi phối

Nên vị ấy không còn

Thân kiến cùng tùy miên

Kết sử khác cũng vậy.

Ðoạn trừ năm hạ kết

Phải theo một con đường

Như muốn có lõi cây

Phải đẽo các lớp vỏ.

Con đường đoạn kết sử

Trước hết trừ bất thiện

Viễn ly các sinh y

Rồi tu tập thiền định

Ly dục bất thiện pháp

Chứng trú thiền thứ nhất

Quán 5 uẩn vô thường

Khổ, không, không thực chất

Quán năm uẩn như bệnh,

Như cục bứu, mũi tên,

Kẻ địch, điều bất hạnh;

Giải thoát khỏi pháp ấy

Tập trung vào Bất tử

Xem thật là vi diệu

Sự tịnh chỉ các hành

Sự ái diệt, ly tham.

Nếu vững trú ở đây

Ðoạn trừ các lậu hoặc

Vị ấy chứng lậu tận

Thành bậc a la hán.

Nếu còn tham hỷ pháp

Vị ấy được hóa sinh

Khỏi trở lui đời này

Do đã đoạn hạ kết.

Nếu diệt tầm và tứ

Tỳ kheo chứng nhị thiền

Cho đến chứng tứ thiền

Và Không vô biên xứ

Rồi Thức vô biên xứ

Ðến Vô sở hữu xứ

Cũng quán sát như trên

Giải thoát khỏi năm uẩn

Thành la hán lậu tận

Còn tham, sẽ hóa sinh

Nhập niết bàn tại đấy

Khỏi trở lui đời này.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 65

Bhaddàli

I. TOÁT YẾU

Bhaddàli Sutta - To Bhaddàli.

The Buddha admonishes a recalcitrant monk and explains the disadvantages of refusing to submit to the training.

Giảng cho Bhaddàli.

Phật quở trách một tỳ kheo ươn ngạnh và giải thích những bất lợi của sự không tuân theo học giới.

II. TÓM TẮT

Phật gọi các tỳ kheo và dạy nên ăn ngày một bữa như Ngài, (ăn chỉ ngồi một lần, nhất tọa thực, đứng lên rồi thì không ăn thêm gì nữa) sẽ có sức, ít bệnh, nhẹ nhàng, an vui [1]. Khi nghe vậy tôn giả Bhaddàli phản đối, bạch Phật ông không thể làm như vậy, vì ông sẽ lo lắng, ân hận [2]. Phật đề nghị nếu thế thì khi khất thực được, ông hãy ăn một phần, dành lại một phần để ăn sau. Bhaddàli cũng không chịu làm cách ấy, bảo rằng làm vậy ông cũng vẫn lo lắng ân hận [3]. Như vậy, khi Phật công bố học giới này [4], tôn giả Bhaddàli cũng công bố giữa chúng tăng rằng ông không thi hành giới ấy. Do cãi Phật nên ông tránh gặp Phật suốt ba tháng mùa mưa.

Khi Phật sắp du hành, các tỳ kheo khuyên ông đi sám hối. Sau khi quở trách, Phật nhận sự sám hối của Bhaddàli và nêu lên cho ông thấy những bất lợi như sau:

1. Tất cả bốn chúng nhóm họp trong ba tháng đều biết thượng tọa Bhaddàli không thực hành trọn vẹn các học giới.

2. Trong khi mọi người đều tuân giữ lời Phật dạy, tỳ kheo Bhaddàli đã tuyên bố sự bất lực của mình.

3. Ngay cả một tỳ kheo đã đắc câu phần giải thoát [5], cũng sẽ vâng lời khi Phật bảo lấy thân mình làm ván cho Ngài bước qua vũng bùn [6], huống nữa tỳ kheo Bhaddàli chưa đạt đến địa vị nào trong bảy vị: tâm giải thoát, tuệ giải thoát, thân chứng, kiến chí, tín thắng giải, tùy pháp hành, tùy tín hành, đã chứng tỏ sự trống rỗng của mình.

Nếu tỳ kheo không thực hành trọn vẹn học giới mà muốn sống độc cư ở trứ xứ hoang vắng để chứng pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc thánh, sẽ không đạt mục đích, vì bị sự quở trách của bậc Ðạo sư, chư thiên, các đồng phạm hạnh có trí, và của tự tâm. Ngược lại nếu tỳ kheo thực hành trọn vẹn học giới, tu tập tại trú xứ hoang vắng thì nếu muốn, có thể chứng bốn thiền ba minh, thành bậc lậu tận la hán vì không bị những sự quở trách như trên.

Bhaddàli hỏi Phật trường hợp nào tỳ kheo được giải tội nhanh chóng, trường hợp nào không được giải tội nhanh chóng. Phật dạy, có tỳ kheo phạm tội, thường xuyên hoặc thỉnh thoảng, nhưng khi bị cử tội thì tránh né vấn đề, ngang ngược chống đối, tỏ sự phẫn nộ bất mãn, không nghĩ tôi phải làm gì cho chúng tăng hoan hỉ, thì chúng tăng không giải tội nhanh chóng. Có tỳ kheo ít khi phạm giới tội, nhưng khi phạm, bị tăng cử tội không có thái độ như trên, lại nghĩ phải làm gì cho tăng hoan hỉ, thì chúng tăng chóng giải tội người này. Lại nữa, khi biết người nào chỉ còn rất ít lòng tin, lòng thương [7] đối với đại chúng, thì vì không muốn cho chút ít lòng tin và lòng thương ấy bị đoạn diệt, chúng tăng cũng không thường xuyên cử tội người ấy. Ví như người ta sẽ cẩn thận giữ gìn một con mắt còn lại.

Bhaddàli hỏi tiếp: Tại sao ngày xưa ít học giới mà nhiều người ngộ nhập chính trí, bây giờ nhiều học giới mà ít người ngộ nhập. Phật dạy những nguyên nhân là:

1. Hữu tình thối thất, diệu pháp sắp diệt;

2. Khi hữu lậu pháp hiện khởi trong tăng chúng, Phật mới chế ra giới luật [8].

3. Sở dĩ hữu lậu pháp sinh là vì tăng đoàn đã lớn mạnh, đạt đến địa vị kỳ cựu, danh dự, đa văn, lợi lộc.

Rồi Phật hỏi Bhaddàli có nhớ ví dụ lương chủng mã mà Ngài đã dạy lúc tăng chúng còn ít người. Bhaddàli thưa không, bởi vì từ lâu đã không thực hành học giới cho trọn vẹn. Phật lại quở trách ông chẳng những vì không giữ giới, mà còn vì không lóng tai nghe pháp.

Và Ngài nhắc lại sự huấn luyện một tỳ kheo trong giáo pháp Ngài: Như con ngựa tốt của vua được luyện qua nhiều giai đoạn, tập quen với yên cương, tập diễn hành đủ kiểu như đi vòng quanh, đi bằng đầu móng chân, phi nước đại... khi đã thuần, lại cho đeo đồ trang sức để trở thành báu vật của vua. Cũng vậy tỳ kheo thành tựu 10 pháp vô học [9] sẽ thành ruộng phước vô thượng ở đời: chính tri kiến... chính trí, chính giải thoát [10].

III. CHÚ GIẢI

1. Ðiều này ám chỉ pháp ăn của Phật chỉ 1 bữa trong ngày trước ngọ. Theo Giới Biệt Giải thoát, tỳ kheo bị cấm ăn từ buổi trưa cho đến bình minh hôm sau. Nhất tọa thực là pháp hành mà Phật khuyên chứ không bắt buộc.

2. Luận nói: Vị ấy lo lắng mình không thể trọn đời sống phạm hạnh.

3. Sự lo lắng của vị ấy vẫn tiếp diễn vì vị ấy còn phải ăn xong những đồ còn thừa trước ngọ.

4. Ðây là học giới cấm ăn ngoài thời gian ấn định.

5. Bảy danh từ dùng trong đoạn này là cách phân chia 7 hạng thánh, được giải thích trong kinh 70.

6. Phật không bao giờ ra lệnh cho đệ tử như vậy, điều này chỉ nói để tỏ rõ hành vi ươn ngạnh của Bhaddàli.

7. Vị ấy tồn tại nhờ có phần nào tin tưởng và yêu mến đối với bậc thầy theo cách thế gian. Vì các tỳ kheo khác giúp đỡ vị ấy nên vị ấy vẫn ở lại trong đời sống xuất gia và có thể cuối cùng trở thành một đại tăng đắc được thắng trí.

8. Ðoạn này ám chỉ một nguyên tắc cố định là, Phật không chế ra giới luật khi chưa có trường hợp vi phạm.

9. Một bậc vô học có nghĩa là A la Hán. 10 yếu tố này là yếu tố làm nên quả vị A la Hán.

10. Chính trí là tri kiến thuộc về quả vị A la Hán, chính giải thoát là sự giải thoát khỏi tất cả ô nhiễm, nơi một vị A la Hán.

IV. PHÁP SỐ

Bảy bậc hiền thánh, mười thánh đạo.

V. KỆ TỤNG

Phật dạy các tỳ kheo

Nên giữ nhất tọa thực

Chỉ ngồi ăn một lần

Sẽ ít bệnh, an vui.

Bhaddàli bạch Phật

- Không thể làm vậy đâu

Nếu chỉ ăn một bận

Con ân hận lo rầu.

Phật lại đưa đề nghị:

"Vậy khi khất thực được

Ngươi nên ăn phân nửa

Chừa phân nửa ăn sau."

- Bạch Phật làm như thế

Con tiếc nuối, lo âu.

Do cãi lời Phật dạy

Nên ông tránh gặp Ngài.

Khi Phật sắp du hành

Tôn giả cầu sám hối

Vì đã không thực hành

Trọn vẹn các học giới.

"Tỳ kheo không giữ giới

Muốn độc cư rừng núi

Mong chứng pháp hơn người

Sẽ không thể chứng được

Không đạt được mục đích

Vì bị sự quở trách

Của Ðạo sư, chư thiên

Tự mình cũng trách mình.

Người giữ giới trọn vẹn

Tu tập nơi hoang vắng

Có thể chứng ba minh,

Thành lậu tận La hán.

Bhaddàli hỏi Phật

- Khi nào thì chúng tăng

Chóng làm pháp giải tội

Khi nào không chóng giải?

"Có tỳ kheo phạm tội,

Thường xuyên hoặc thỉnh thoảng,

Nhưng khi bị cử tội

Lại ngang ngược chống đối,

Và tránh né vấn đề

Tỏ phẫn nộ bất mãn,

Không nghĩ: Phải làm sao

Ðể cho tăng hoan hỉ,

Có kẻ phạm lỗi lầm

Bị chúng tăng cử tội

Không phẫn nộ chống đối

Lại mong tăng hoan hỉ,

Với hạng tỳ kheo trước

Không giải tội nhanh chóng

Với hạng tỳ kheo sau

Tăng giải tội rất nhanh.

Lại có người xuất gia

Nhưng đối với tăng chúng

Chỉ còn lại rất ít

Lòng tin và thương tưởng

Tăng không thường cử tội

Một con người như thế

Vì không muốn đoạn dứt

Chút tin yêu còn lại

Như kẻ bị thui chột

Sẽ cẩn thận giữ gìn

Con mắt còn sót lại

Tăng để yên kẻ này."

Bhaddàli lại hỏi:

- Do nhân gì duyên gì

Xưa học giới rất ít

Mà nhiều người chứng ngộ

Nay quá nhiều học giới

Người ngộ nhập hiếm hoi?

"Vì hữu tình thối thất

Diệu pháp sắp diệt mất;

Vì nhiễm ô sinh khởi

Trong tăng chúng lớn mạnh

Danh dự, lợi lộc nhiều

Ta chế giới điều phục.

Và này Bhaddàli

Khi tăng chúng còn ít

Ta giảng lương chủng mã

Ngươi còn nhớ hay không?"

- Thưa không, bạch Thế tôn

Bởi vì đã từ lâu

Con không hành trọn vẹn

Các học giới Phật chế.

"Chẳng những vì như thế

Mà còn do nghe Pháp

Ngươi đã không lóng tai

Này hỡi Bhaddàli."

- Thưa vâng bạch Thế tôn

Ngài nhắc lại cho con

Phật dạy Bhaddàli

Phép luyện lương chủng mã

Như con ngựa giống tốt

Ðược luyện nhiều giai đoạn

Trước tập quen yên cương

Sau điều chỉnh tốc độ

Tập diễn hành đủ kiểu

Cho đến khi thuần thục,

Lại cho đeo trang sức

Thành báu vật của vua.

Tỳ kheo được huấn luyện

Ly dục ly bất thiện

Chứng và trú sơ thiền

Cho đến chứng tứ thiền

Thành tựu được 10 pháp

Của một bậc vô học

Là lậu tận La hán

Ruộng phước của nhân thiên.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 66

Ví dụ con chim cáy

I. TOÁT YẾU

Latukilopama Sutta - The Simile of the Quail.

The Buddha drives home the importance of abandoning all fetters, no matter how harmless and trifling they may seem.

Ví dụ con chim cáy.

Phật cho thấy sự quan trọng của việc từ bỏ mọi kết sử, dù chúng có thể mang vẻ vô hại, không đáng kể.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Ưu đà di bạch Phật: "Thế tôn đã đoạn trừ nhiều khổ, mang lại nhiều thiện pháp khi chế giới từ bỏ ăn phi thời." Tôn giả đến bạch Phật, lúc mới nghe Phật dạy nên từ bỏ ăn phi thời ban ngày [1] ông rất buồn, khi nghĩ đến chuyện từ nay không được ăn những đồ ngon người ta cúng không đúng giờ ăn. Nhưng vì kính mộ Phật và vì tàm quý, ông đã từ bỏ ăn phi thời ban ngày; chỉ ăn chiều và sáng.

Nhưng khi Phật dạy từ bỏ ăn phi thời ban đêm, lúc đầu tôn giả cũng rất buồn như trên, nhưng vẫn từ bỏ vì ngưỡng mộ Phật và có tàm quý. Nhờ từ bỏ ăn phi thời ban đêm, tỳ kheo tránh được nhiều phiền não của sự khất thực về đêm, như bị té xuống vũng nước bẩn, bị phụ nữ bất chính quyến rủ, và riêng Tôn giả nhớ một lần khất thực ban đêm bị một phụ nữ mắng nhiếc tàn tệ. Bà đột nhiên trông thấy tôn giả xuất hiện trong bóng tối thì hoảng hốt té xỉu vì tưởng là con quỷ. Khi tôn giả nói không phải quỷ, mà tỷ kheo đến khất thực, bà liền mắng: "Vậy thì cha tỳ kheo chết đi, mẹ tỳ kheo chết đi [2]." Quả thực khi chế giới không ăn phi thời, Thế tôn đã đoạn trừ nhiều khổ, mang lại nhiều an vui.

Phật dạy tuy thế, có những người khi nghe Phật chế giới lại phàn nàn: Sa môn này quá đặt nặng sự cấm đoán, đoạn giảm. Sá gì những tiểu tiết nhỏ mọn ấy. Họ không chịu từ bỏ, bất mãn chống lại Phật và những tỳ kheo muốn thực hành học giới. Sự việc ấy trở thành một trói buộc mạnh mẽ vững chắc đối với họ. Ví như một con chim cáy nhỏ có thể chết vì vướng lưới làm bằng dây leo mong manh; không thể nói cái lưới ấy không nguy hiểm. Cũng vậy, khi tỳ kheo chống lại Phật và tăng chúng vì một học giới mà họ cho là nhỏ nhặt, thì việc ấy trở thành trọng đại vì lương tâm họ không an ổn. Ngược lại, người hoan hỉ từ bỏ khi Phật dạy từ bỏ điều gì, thì sống với tâm tư lắng dịu. Như vậy đối với họ, giới ấy không trở thành một trói buộc; ví như con voi lớn dù bị trói bằng dây da, chỉ cần chuyển thân là có thể cắt đứt.

Như có người sống đời khốn cùng với bà vợ xấu xí, ở cái chòi nát, giường nằm sút chân, chum gạo sứt mẻ, thèm muốn sự an lạc của hạnh sa môn, muốn cạo bỏ râu tóc đắp cà sa, từ bỏ gia đình sống không gia đình. Nghĩ vậy nhưng anh ta không thể từ bỏ cái chòi mục nát, cái chum đựng gạo sứt mẻ, cái giường sút chân, và bà vợ lem luốc. Những thứ này trở thành một trói buộc vững chắc đối với anh ta. Như thế là chuyện bé thành to. Ngược lại có người con nhà giàu có, tài sản lớn, nhiều tiền lắm của, kho lẫm tràn trề, ruộng vườn chất đống, thê thiếp chất đống, tôi tớ chất đống. Khi thấy một tỳ kheo ăn xong ngồi thiền, vị ấy nghĩ an lạc thay sa môn hạnh. Ta hãy cạo bỏ râu tóc đắp y cà sa, thoát ly gia đình, sống không gia đình. Vị ấy sau khi xuất gia có thể từ bỏ ruộng vườn cò bay thẳng cánh, vô số vàng bạc, thê thiếp, tôi tớ... Những thứ này đối với vị ấy không thành một trói buộc vững chắc. Như thế là chuyện to thành bé.

Trên đời có bốn hạng [3] người sống hướng đến sự từ bỏ sinh y [4]:

1. Khi những tư duy liên hệ đến sinh y khởi lên, vị ấy không trừ đoạn, mà vẫn chấp nhận chúng. Hạng này còn bị trói buộc.

2. Khi những tư duy liên hệ đến sinh y khởi lên, vị ấy không chấp nhận chúng, mà cố đoạn trừ, chấm dứt. Hạng này vẫn còn bị trói buộc [5].

3. Do thất niệm, thỉnh thoảng tư tưởng liên hệ sinh y khởi lên nhưng liền được trừ khử [6], như hai ba giọt nước nhỏ vào một ấm nước đun sôi cả ngày, giọt nước rơi chậm nhưng bị hòa tan một cách mau chóng. Hạng người này cũng còn bị trói buộc.

4. Nghĩ rằng sinh y là nguồn gốc của đau khổ, nên giải thoát khỏi sanh y. Ðây là người không bị trói buộc [7].

Có năm dục trưởng dưỡng là sắc thanh hương vị xúc dễ chịu, hấp dẫn, do giác quan nhận thức. Bất cứ hỉ lạc nào do năm lạc, lạc ấy đáng sợ hãi, không nên thực hiện, không nên làm cho sung mãn.

Lạc thiền định gọi là yếm ly lạc, tịch tịnh lạc, chánh giác lạc [8] , độc trú lạc, lạc ấy cần phải thực hiện, tu tập, làm cho sung mãn. Lạc ấy không đáng sợ hãi, nhưng cần vượt qua, không nên bám víu. Vị tỳ kheo hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, chứng trú sơ thiền với hỉ lạc do ly dục sinh. Thiền này còn giao động [9] vì tầm tứ, nên phải vượt qua [10] để chứng nhị thiền không tầm tứ. Nhị thiền còn dao động với hỷ lạc. Tam thiền dao động vì xả lạc. Tứ thiền không giao động, nhưng vẫn còn phải vượt qua chướng ngại tưởng, để chứng và vượt qua Không vô biên xứ, cho đến chứng và vượt Phi tưởng phi phi tưởng xứ để đạt Diệt thọ tưởng định [11].

Như vậy, không có sự trói buộc hay bám víu nào, dù rõ rệt như dục lạc hay tinh vi như thiền lạc, mà Phật không dạy cần phải vượt qua, từ bỏ.

III. CHÚ GIẢI

1. Từ đoạn này và đoạn sau, ta thấy Phật hai lần hạn chế giờ ăn của các tỳ kheo: lúc đầu cấm ăn chiều nhưng cho phép ăn tối. Tuy nhiên, duyên khởi của học giới ba dật đề 37 không nói vậy. Ngược lại luật dường như khẳng định chuyện đương nhiên ai cũng biết là quá ngọ tỳ kheo không nên ăn, và Phật chế luật cấm tất cả bữa ăn quá ngọ.

2. Lời này hoàn toàn là ngôn ngữ thông tục. Luận giải thích: Khi cha mẹ người ta còn sống, họ sẽ cho con mình đủ thứ đồ ăn và chỗ ngủ, chứ không để cho y phải đi lang thang tìm đồ ăn vào ban đêm.

3. Phật giảng giáo lý này để phân tích hạng người từ bỏ những gì được dạy phải từ bỏ, thành ra 4 hạng khác nhau.

4. Sinh y, upadhi có 4 loại: Uẩn sinh y khandh'upadhi; phiền não sinh y kiles' upadhi; thắng hành sinh y abhisankhàr'upadhi, và dục tăng trưởng sinh y kàmagun'upadhi.

5. Phàm phu, Dự lưu, Nhất lai, và Bất hoàn, đều có thể bao gồm dưới hạng người thứ nhất. Bậc Bất hoàn vì còn khát ái đối với hữu nên thỉnh thoảng cũng có thể hoan hỷ trong những tư tưởng hưởng lạc. Bốn vị này có thể bao gồm trong hạng thứ hai, phàm phu nhờ đạt đến đạo lộ siêu thế cũng có thể dập tắt những ô nhiễm đã khởi, khơi dậy sự tinh tấn, phát triển tuệ và đoạn trừ phiền não.

6. Hạng này phân biệt với hạng trước chỉ do sự lừ đừ trong việc khơi dậy chính niệm để từ bỏ những ô nhiễm đã sinh khởi.

7. Ðây là bậc A la Hán, người duy nhất đã tận trừ tất cả kiết sử.

8. Lạc, Sukha ở đây có nghĩa hạnh phúc hơn là khoái lạc. Luận giải thiền lạc gọi là ly dục lạc, vì từ bỏ các khoái lạc giác quan; là viễn ly lạc vì đem lại hạnh phúc của đời sống độc cư xa lánh đám đông và xa lìa ô nhiễm; là tịnh chí lạc vì thiền lạc là để tịnh chỉ các ô nhiễm; là tuệ lạc vì nó có mục đích đạt đến chứng ngộ. Vì các thiền chứng dĩ nhiên chưa phải là trạng thái giác ngộ.

9. Tất cả các trạng thái tâm ở dưới thiền thứ 4 đều được xếp vào loại tâm giao động. Trạng thái tâm ở thiền thứ 4 và cao hơn được gọi là bất động.

10. Thật không nên bám víu vào nó với tâm tham ái, và cũng không nên dừng lại ở điểm này.

11. Ðịnh diệt thọ tưởng không chỉ là 1 định chứng cao nhất trên nấc thang giá trị, mà ở đây còn bao hàm sự phát triển hoàn toàn tuệ quán đưa đến tột đỉnh là quả vị A la Hán.

IV. PHÁP SỐ

Bốn thiền, bốn không, bốn hạng người xuất gia hướng đến từ bỏ sanh y.

Năm dục tăng trưởng, năm thiền chi..

V. KỆ TỤNG

Tôn giả Ưu đà di

- Khi độc tọa tư duy

Nghĩ nhờ thâm ân Phật

Thoát khổ não ưu bi.

Nhờ Ngài đã chế giới

Từ bỏ ăn phi thời

Khỏi bao nhiêu phiền não

Nhớ lại vẫn còn đau.

Phật dạy mặc dù vậy

Vẫn có người phàn nàn:

Sá gì việc nhỏ ấy

Thế tôn cũng cấm ngăn.

Họ không chịu nghe theo

Bất mãn chống lại giới

Sự việc ấy trở thành

Một trói buộc lớn lao

Ví như con chim cáy

Khinh thường lưới dây leo

Bị sa lưới mà chết

Dây mảnh không nguy sao?

Khi chống Phật và tăng

Vì một học giới nhỏ

Việc trở thành trọng đại

Vì lương tâm bất an

Nếu hoan hỉ từ bỏ

Ðiều Phật dạy từ bỏ

Thì tâm tư lắng dịu

Không có điều âu lo

Như với con voi lớn

Bị trói bằng dây da

Cũng không thành chướng ngại

Chuyển thân là thoát ra.

Có người sống cùng bần

Với vợ kém dung nhan

Với cái chòi rách nát,

Và giường ghế sút chân,

Với chum gạo sứt mẻ

Thấy sa môn nhàn nhã

Cũng muốn cạo râu tóc

Sống đời sống xuất gia.

Nhưng anh không bỏ được

Cái bà vợ lem luốc

Cái chum gạo sứt mẻ,

Chòi nát, giường sút chân.

Như vậy những thứ này

Thành trói buộc vững chắc

Chuyện bé trở thành to

Với người còn vướng mắc.

Ngược lại cũng có người

Xuất thân nhà giàu có,

Nhiều ruộng vườn của cải

Thê thiếp cùng kẻ hầu

Khi trông thấy tỳ kheo

Ăn xong lại ngồi thiền,

Thèm muốn sa môn hạnh

Cạo bỏ râu tóc liền

Từ bỏ trong phút chốc

Nhà cửa cùng ruộng vườn

Thê thiếp cùng tôi tớ

Không một chút vấn vương

Có đến bốn hạng người

Sống hướng về từ bỏ :

Hạng một còn chấp nhận

Tư duy liên hệ dục;

Hạng hai không chấp nhận

Khi tư tưởng khởi lên

Liên hệ đến thế tục

Liền từ bỏ, chấm dứt

Lại có kẻ thuần thục

Trong việc đoạn tư duy

Nhưng tư duy thế tục

Vẫn thỉnh thoảng khởi lên.

Khởi lên thì chậm chạp

Ðoạn trừ rất mau chóng,

Như hai ba giọt nước

Tan vào ấm nước sôi.

Cả ba hạng vừa rồi

Ðều chưa khỏi trói buộc.

Chỉ có một hạng người

Giải thoát khỏi sinh y

Là kẻ luôn nghĩ rằng

Ðây là nguồn gốc khổ,

Những sinh y trói buộc :

Người này được giải thoát.

Có năm dục trưởng dưỡng

Sắc thanh hương vị xúc

Hấp dẫn các giác quan

Ðược gọi là dục lạc

Lạc này là ô uế

Còn gọi phi thánh lạc

Lạc ấy đáng sợ hãi,

Không nên làm sung mãn.

Lạc ở trong thiền định

Là yếm ly, tịch tịnh,

Chánh giác, độc trú lạc,

Cần thực hiện luôn luôn.

Hỉ lạc ở sơ thiền

Cho đến lạc tam thiền

Ðều còn bị giao động

Cần phải được vượt qua

Hướng về sự tịch tịnh

Vượt qua Phi phi tưởng

Cho đến Diệt tận định

Mới tận diệt sầu ưu.

Vậy này Udayi

Còn có trói buộc gì

Dù lớn lao nhỏ nhặt

Ta chưa bảo bỏ đi?

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 67

Catumà

I. TOÁT YẾU

Càtumà Sutta - At Càtumà.

The Buddha teaches a group of newly ordained monks four dangers to be overcome by those who have gone forth into homelessness.

Ở Catumà.

Phật giảng dạy cho một nhóm tân tỳ kheo về bốn nguy hiểm mà người xuất gia từ bỏ gia đình cần phải vượt qua.

II. TÓM TẮT

Phật ở Catuma trong rừng cây Kha lưu lặc, Xá lợi Phất và Mục kiền Liên dẫn về nhiều tân tỳ kheo. Họ gây nhiều tiếng động khi xếp đặt y bát và chào hỏi nhau. Phật hỏi A Nan: "Cái gì bên ngoài nghe như là hàng cá đang tranh giành với nhau?"[1] Tôn giả A Nan bạch Phật, đấy là năm trăm tân tỳ kheo do Xá lợi Phất và Mục kiền Liên dẫn đầu muốn đến yết kiến Thế tôn. Phật cho gọi họ đến bảo đi chỗ khác, không được ở gần Ngài.

Các tỳ kheo ấy sau khi đảnh lễ Phật, thu xếp y bát ra đi. Các Thích tử trú ở Catuma và Phạm thiên [2] đến xin Phật giúp đỡ chúng tỳ kheo này, vì họ xuất gia chưa lâu, nếu không được yết kiến Thế tôn, chẳng khác nào hạt giống không được tưới nước, nghé con không được gần bò mẹ.

Phật hoan hỉ với ví dụ ấy nên cho gọi các tân tỳ kheo đến dưới sự hướng dẫn của hai tôn giả. Phật hỏi họ nghĩ gì khi chúng tỳ kheo bị đuổi. Tôn giả Xá lợi Phất trả lời: "Bạch Thế tôn, con nghĩ từ nay Thế tôn sẽ ít bận rộn, chúng con cũng ít bận rộn, sẽ được trú trong hiện tại lạc."

Mục kiền Liên nói:"Con nghĩ rằng từ nay Thế tôn sẽ ít bận rộn, sẽ trú trong hiện tại lạc. Nhưng con và tôn giả Sariputta sẽ lãnh đạo chúng tỳ kheo này."

Phật khen Mục kiền Liên [3] và dạy:"Chỉ có Phật và hai tôn giả có thể lãnh đạo chúng tỳ kheo." Rồi Ngài giáo giới các tân tỳ kheo về bốn điều đáng sợ [4] cho những người xuống nước, là sóng, cá sấu, nước xoáy, cá dữ.

Có người do thấy khổ sinh tử, xuất gia từ bỏ gia đình. Khi được dạy về đi đứng nằm ngồi, cách mang y bát, vị ấy nghĩ những người này chỉ thuộc hàng con cháu ta, lại giảng dạy cho ta, và bất mãn hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ về sóng, nghĩa là phẫn não do tự ái.

Về ăn uống, vị ấy được dạy cái này được phép, cái này không được phép, nên ăn đúng thời, không nên ăn phi thời. Vị ấy suy nghĩ: Lúc ở nhà, muốn nhai cái gì ta nhai [5] cái đó, không cần được phép hay không được phép, đúng thời hay không đúng thời [6]. Bây giờ hình như các món ăn ngon đang bị chận đứng trên miệng. Vị ấy bất mãn hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ về cá sấu, nghĩa là tham ăn.

Lúc đi khất thực do không phòng hộ các căn, tỳ kheo trông thấy người đời hưởng thụ năm dục đâm ra tiếc nuối, từ bỏ học giới và hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ hãi về nước xoáy, nghĩa là năm dục.

Khi vào xóm làng trông thấy phụ nữ, do không phòng hộ các căn, không an trú chánh niệm, dục tình khởi lên phá hoại tâm vị ấy. Do bị dục tình phá hoại, vị ấy hoàn tục. Ðây là sự đáng sợ về cá dữ, đồng nghĩa với phụ nữ.

Các tỳ kheo hoan hỉ tín thọ lời Phật dạy.

III. CHÚ GIẢI

1. Luận giải đưa ra 2 giải thích, một giải thích phù hợp với cách dịch này, giải thích kia "người đánh cá bắt được cá."

2. Chính Phạm Thiên đã thỉnh cầu Phật thuyết Pháp cho thế gian khi Ngài mới giác ngộ. Xem kinh 26.

3. Trong trường hợp này, tôn giả Xá lợi Phất có lỗi khi không nhận trách nhiệm vì tăng già là trách nhiệm của 2 vị trưởng lão. Bởi thế Phật quở trách Xá lợi Phất nhưng khen Mục kiền Liên vì có tinh thần trách nhiệm.

4. Phật khởi sự giảng giáo lý này để hiển thị rằng có 4 sự nguy hiểm trong giáo lý Ngài. Những người có thể vượt qua những nguy hiểm này sẽ được an lập trong nền giáo pháp, trong khi những người khác sẽ không được an lập.

5. Pali dùng 2 từ khác nhau để chỉ 2 loại thức ăn, là loại cứng và loại mềm. Loại cứng bao gồm tất cả thứ rau đậu trái, và loại mềm gồm các loại ngũ cốc, thịt cá. Những thức ăn cần thưởng thức bao gồm các thứ nước giải khát.

6. Thời gian thích hợp để ăn là từ sáng đến trưa, ngoài thời gian ấy chỉ được uống nước.

IV. PHÁP SỐ

Bốn điều đáng sợ cho người mới xuất gia. Năm dục tăng trưởng. Sáu căn.

V. KỆ TỤNG

Nhiều vị mới xuất gia

Theo tôn giả Thu tử

Về rừng Ca tu ma

Ðể yết kiến đức Phật

Họ gây nhiều tiếng ồn

Khi xếp đặt y bát

Chào hỏi nhau lớn tiếng

Làm kinh động Thế tôn.

Ngài gọi A Nan hỏi :

"Cái gì ở bên ngoài

Nghe như là hàng cá

Ðang tranh giành nhau cá?"

A Na liền bạch Phật

"Ðấy là tân tỳ kheo

Ðại sư huynh dẫn về

Muốn yết kiến Thế tôn."

Phật cho gọi vào bảo

"Nay ta đuổi các ngươi

Hãy đi, đi chỗ khác

Không được ở gần Ta."

Các tỳ kheo vâng lệnh

Lễ Phật rồi ra đi

Thấy thế các Thích tử

Khuyên nán lại chốc lát.

Phạm thiên và Thích tử

Ðều đến xin Thế tôn

Xót thương chúng tỳ kheo

Như mẹ thương con nhỏ

Tâm họ còn non nớt

Mới xuất gia chưa lâu

Không được gần Thế tôn

Như mầm không tưới nước

Nghé con còn măng sữa

Không được gần bò mẹ.

Nghe lời nói khéo ấy

Phật gọi họ đi vào.

Xá lợi Phất Mục Liên

Dẫn chúng vào yết Phật

Phật hỏi nghĩ thế nào

Khi ta đuổi tỳ kheo

Xá lợi Phất thưa rằng

"Từ nay khỏi rộn ràng

Phật trú hiện tại lạc

Chúng con cũng được an."

Mục kiền Liên bạch Phật

"Thế tôn sẽ được an

Nhưng con phải lo toan

Hướng dẫn đàn hậu học."

Phật khen Mục kiền Liên

Có tinh thần độ chúng

Rồi ban lời giáo huấn

Những người mới xuất gia :

Như người ra sông biển,

Sợ sóng và cá sấu

Nước xoáy cùng cá mập

Xuất gia sợ bốn điều :

Ðược đồng tu dạy bảo

Nghĩ "Bằng con cháu ta

Lại giảng dạy cho ta."

Ðây là sóng phẫn nộ.

Ông nên nhai cái này

Cái này không được nhai

Ăn uống phải đúng thời

Phi thời không được phép.

Khi ta chưa xuất gia

Muốn gì ăn thứ ấy

Cái đúng thời, ta nhai

Phi thời, ta cũng nhai.

Bây giờ thì mất hết

Những món ăn hảo hạng

Do thí chủ cúng dường

Bị chận ngang cổ họng.

Với ý nghĩ như trên

Vị ấy bèn hoàn tục

Ðây mối nguy cá sấu

Ðồng nghĩa với tham ăn.

Không phòng hộ các căn

Khi nghe thanh thấy sắc

Tiếc nuối, mong hoàn tục

Là nước xoáy ngũ dục.

Khi thấy người khác phái

Không giữ gìn chánh niệm

Bị dục tình phá hoại

Là cá mập phụ nữ.

Chúng tỳ kheo tín thọ

Lời Thế tôn giáo huấn

Ðề phòng bốn hiểm nguy

Trong đời tu phạm hạnh.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 68

Nalakapana

I. TOÁT YẾU

Nalakapàna Sutta - At Nalakapàna.

The Buddha explains why, when his disciples die, he declares their level of attainment and plane of rebirth.

Ở Nalakapana.

Phật giải thích tại sao Ngài công bố sự chứng đắc và cõi tái sinh của các đệ tử khi họ chết.

II. TÓM TẮT

Phật ngồi giữa trời với các tôn giả A Na Luật, Nan Ðề, Kim Tỳ La, Ly Bà Ða, A Nan Ðà và một số đông tỳ kheo. Ngài hỏi họ có hoan hỉ trong đời sống phạm hạnh không. Tôn giả A Na Luật đáp chúng con rất hoan hỉ trong đời sống phạm hạnh.

Phật khen họ đang tuổi thanh xuân với tóc đen nhánh, có thể hưởng thụ các dục lạc, lại xuất gia từ bỏ gia đình không vì lệnh của vua, của kẻ trộm cướp, không vì nợ nần, không vì sợ hãi, không vì mất kế sinh kế, mà chỉ vì mong chấm dứt toàn bộ khổ uẩn.

Phật khuyên hãy tu tập thiền định, ly dục, ly bất thiện pháp. Khi đã chứng được hỉ lạc do ly dục sinh [1] hay một trạng thái khác an tịnh hơn [2] , thì các triền cái không còn xâm chiếm tâm và an trú.

Phật hỏi các tôn giả ấy nghĩ về Phật như thế nào. Họ đáp: "Chúng con nghĩ các lậu hoặc đã được Như Lai đoạn trừ, do vậy Như Lai sau khi phân tích thọ dụng một pháp, sau khi phân tích kham nhẫn một pháp, sau khi phân tích đoạn trừ một pháp." Phật xác nhận như vậy.

Khi nói về tái sinh [3] của các tỳ kheo, tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ đã chết, Ngài không vì mục đích lường gạt quần chúng, vị mục đích lợi lộc danh xưng, mà chỉ vì muốn cho người nghe được hạnh phúc an lạc lâu dài.

Khi Thế tôn tuyên bố về một tỳ kheo có giới hạnh như vậy, trí tuệ như vậy đã mệnh chung và đã an trú chánh trí [4], đệ tử nhớ đến những điều ấy bèn chú tâm trên như thật và sống an vui.

III. CHÚ GIẢI

1. "Hỷ lạc do ly dục sanh" có nghĩa là sơ thiền và nhị thiền "an tịnh hơn thế nữa" là những thiền cao hơn và 4 đạo.

2. Xem kinh số 2. Ðây là những cách tu tập của bậc hữu học để đề phòng sự sanh khởi những ô nhiễm tiềm tàng chưa được trừ bỏ.

3. Ðiều này ám chỉ thắng trí của Phật có thể biết cảnh giới tái sinh của các đệ tử.

4. Chánh trí là trí của bậc A La Hán.

IV. PHÁP SỐ

Năm triền cái, 5 hạ kết sử, bảy cách trừ lậu hoặc.

V. KỆ TỤNG

Thế tôn ngồi giữa trời

Cùng chúng đông đệ tử

Các tỳ kheo nổi tiếng

A Na Luật, Nan Ðề...

"Các ngươi an vui chăng

Với đời sống phạm hạnh?"

A Na Luật bạch rằng :

- Chúng con rất hoan hỉ.

"Lành thay, hi hữu thay

Các ngươi còn ít tuổi

Với tóc còn đen nhánh

Mùa xuân của đời người

Có khả năng hưởng thụ

Ðủ mọi thứ dục lạc,

Lại từ bỏ gia đình

Ðể sống đời phạm hạnh

Không vì tuân lệnh vua

Không vì bị nợ nần

Không vì mất sinh kế

Hoặc bị người cưỡng bức

Chỉ vì mong chấm dứt

Toàn bộ khổ uẩn này.

Các ngươi hãy nỗ lực

Tu tập các thiện pháp.

Hãy tu thiền ly dục

Và ly bất thiện pháp

Ðể chứng được hỉ lạc

Do ly dục sanh ra

Khi chứng được sơ thiền

Và các thiền trên nữa

Thì triền cái không còn

Xâm chiếm trú tâm ngươi."

Phật hỏi các tôn giả

Nghĩ thế nào về Phật

- Chúng con nghĩ lậu hoặc

Ðược Như Lai tận trừ

Nên sau khi phân tích

Có pháp Ngài thọ dụng

Có việc Ngài kham nhẫn

Hoặc từ bỏ, đoạn trừ.

Phật dạy: "Chính như vậy."

Và Ngài nói tái sinh

Của một số đệ tử

Sau khi họ từ trần

Không để bịp quần chúng

Vì lợi lộc tiếng tăm

Mà chỉ muốn người nghe

Ðược lợi ích an lạc.

Khi Thế tôn tuyên bố

Người có giới như vậy

Và trí tuệ như vậy

Ðã an trú chánh trí

Ðệ tử nghe lời này

Thấy tu hành hiệu quả

Chú tâm trên như thật

Và sống được an vui.

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 69

Gulissàni

I. TOÁT YẾU

Gulissàni Sutta.

The venerable Sàriputta gives a discourse on the proper training of a forest - dwelling bhikkhu.

Tôn giả Xá lợi Phất giảng về cách tu tập thích hợp cho một tỳ kheo ở rừng.

II. TÓM TẮT

Tỳ kheo ở rừng tên Gulissàni có hành động thô tháo, một hôm đến giữa tăng chúng. Tôn giả Xá Lợi Phất nhân vị này đã dạy chúng tỳ kheo:

1- Một tỳ kheo ở rừng khi nhập chúng phải biết tôn trọng các đồng phạm hạnh.

2- Phải khéo biết chỗ ngồi, không chiếm chỗ của các Thượng tọa hay hạ tọa.

3- Không vào làng quá sớm và trở về ban ngày.

4- Không đi đến các gia đình trước hoặc sau bữa ăn. [1]

5- Không trạo cử giao động.

6- Không nên nhiều lời ba hoa.

7- Phải là người dễ nói, là người bạn tốt.

8- Phải thủ hộ các căn.

9- Phải tiết độ trong sự ăn uống.

10- Phải chú tâm cảnh giác.

11- Phải tinh cần tinh tấn.

12- Phải chính niệm tỉnh giác.

13- Phải có thiền định.

14- Phải có trí tuệ.

15- Phải thực tập thắng pháp thắng luật [2].

16- Phải tu tập các pháp tịch tịnh giải thoát vượt khỏi sắc pháp và vô sắc pháp [3].

17- Phải tu tập các pháp thượng nhân [4].

Nếu tỳ kheo ở rừng không học những điều nói trên, thì sẽ bị chê là người hành động theo sở thích, chứ không biết pháp biết luật.

Tôn giả Mục Kiền Liên hỏi tôn giả Xá Lợi Phất: "Các pháp này có cần được chấp trì bởi tỳ kheo sống gần làng mạc hay không."

Xá Lợi Phất trả lời: "Tỳ kheo sống ở rừng còn phải tu tập như vậy, huống hồ tỳ kheo sống gần làng mạc."

III. CHÚ GIẢI

1. Ðiều này bị cấm bởi học giới Ba dật đề 46. Tỳ kheo có thể đến gia đình vào những lúc ấy chỉ khi đã thông báo cho một tỳ kheo khác ở trong tu viện về ý nghĩ của mình, trừ mùa may y và thí y.

2. Thắng pháp, thắng luật: Theo luật, tỳ kheo cần phải học tập văn bản và luận giải về Tạng Luật và Tạng Luận. Ðiều này rõ ràng không hợp thứ tự thời gian. Về danh từ A Tỳ Ðàm ở trong các kinh, xem chú giải kinh 32. Mặc dù không có một nền văn học tương đương nào được gọi là Thắng luật, có lẽ danh từ này ám chỉ một sự phân tích và nghiên cứu có hệ thống về giới luật, điều này đã có trong Luật tạng.

3. Ðiều này nói đến 8 thiền chứng. Tối thiểu một vị tỳ kheo cũng cần phải thông thạo cho việc chuẩn bị về một mục thiền quán, như là quán biến xứ.

4. Ðiều này ám chỉ đến tất cả các thiền siêu thế. Ít nhất vị ấy cũng phải rành rẽ về một khía cạnh phát triển tuệ quán cho đến A La Hán quả.

IV. PHÁP SỐ

17 pháp cần tu học cho tỳ kheo ở rừng.

V. KỆ TỤNG

Một tỳ kheo ở rừng

Tên Gulissàni

Hành động thiếu uy nghi

Khi đến giữa tăng chúng

Tôn giả Xá Lợi Phất

Do nhân duyên vị này

Ðã dạy chúng tỳ kheo

Hạnh tu ở rừng núi.

Tỳ kheo tu núi rừng

Khi đến giữa chúng tăng

Cần phải biết khiêm cung

Với người đồng phạm hạnh

Khéo biết vị trí mình

Không chiếm chỗ người trên

Không giành chỗ người dưới

Khi ngồi giữa chúng tăng.

Không vào làng quá sớm

Rồi sáng ra trở về

Không đến các gia đình

Trước hoặc sau bữa ăn.

Không trạo cử giao động

Không nhiều lời ba hoa

Hãy là người dễ nói

Và là người bạn tốt.

Phải hộ trì các căn

Ăn uống có chừng mực

Phải chú tâm cảnh giác

Ðề phòng tâm nhiễm ô

Phải tinh cần tinh tấn

Luôn chính niệm tỉnh giác

Lại phải có định tuệ

Học thắng pháp thắng luật

Về các pháp tịch tịnh

Giải thoát sắc, vô sắc

Về các pháp thượng nhân

Tỳ kheo phải am tường.

Nếu sơn tăng không học

Sẽ bị người cười chê

Hành động theo sở thích

Chẳng được tích sự gì.

Mục Kiền Liên hỏi lại :

"Các pháp Ngài vừa dạy

Có cần được chấp trì

Bởi người tu thành thị?"

Xá Lợi Phất trả lời

"Tỳ kheo sống ở rừng

Còn phải tu như vậy

Huống người sống gần làng."

-ooOoo-

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 70

Kitagiri

I. TOÁT YẾU

Kìtàgiri Sutta - At Kìtàgiri.

The Buddha admonishes a group of disobedient monks, in the course of which he presents an important sevenfold classification of noble disciples.

Ở Kìtàgiri.

Phật giáo giới nhóm tỳ kheo bất tuân, và trình bày một phân loại quan trọng về bảy hạng hiền thánh.

II. TÓM TẮT

Kinh này Phật dạy nhân hai tỳ kheo ở Kìtàgiri không chịu giữ giới từ bỏ ăn ban đêm [1] Khi nghe Phật chế giới này, họ bảo: "Nhờ ăn chiều, ăn sáng và ăn phi thời mà chúng tôi cảm thấy có sức, ít bệnh. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại để chạy theo tương lai?"

Phật cho gọi hai tỳ kheo này [2] đến và dạy: "Ðối với một người khi cảm thọ lạc [3] mà các bất thiện pháp đoạn diệt, thiện pháp tăng trưởng thì Phật dạy nên chứng trú lạc thọ ấy. Ngược lại đối với một người, khi cảm thọ lạc, mà các thiện pháp đoạn diệt, bất thiện pháp tăng trưởng thì nên từ bỏ lạc thọ ấy [4] Ðối với khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ cũng vậy. Vì sự việc này Như Lai đã biết, đã chứng, đã liễu giải với trí tuệ, nên Ngài dạy trường hợp nào cần từ bỏ, trường hợp nào cần an trú một cảm thọ lạc, khổ hay bất khổ bất lạc. [5]

Không phải đối với tất cả các tỳ kheo, Phật đều dạy có việc cần phải làm nhờ không phóng dật. Vì đối với các vị đã chứng lậu tận, đã tu hành viên mãn, đã thành đạt lý tưởng thì không có việc gì cần phải làm nhờ không phóng dật. Bởi vì những vị này không thể trở thành phóng dật. Nhưng với các tỳ kheo còn học, tâm chưa thành tựu, thì còn có việc phải làm nhờ không phóng dật.

Có bảy hạng người [6]:

1. Câu phần giải thoát,

2. Tuệ giải thoát,

3. Thân chứng,

4. Kiến đáo,

5. Tín giải thoát,

6. Tùy pháp hành,

7. Tùy tín hành.

Câu phần giải thoát [7] là vị đã đắc các tịch tịnh giải thoát vượt khỏi các sắc và vô sắc pháp, và sau khi thấy với trí tuệ, đã tận trừ tất cả lậu hoặc.

Tuệ giải thoát [8] đã tận trừ lậu hoặc nhưng không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát.

Thân chứng [9] có chứng đắc các tịch tịnh giải thoát nhưng chỉ đoạn trừ một số lậu hoặc.

Kiến đáo [10] không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát, chỉ đoạn trừ một số lậu hoặc.

Tín giải thoát [11] có chứng đắc tịch tịnh, đoạn trừ một số lậu hoặc, lòng tin đối với Như Lai đã được xác định.

Tùy pháp hành [12] có các căn tín, tấn, niệm, định, tuệ nhưng không chứng đắc tịch tịnh giải thoát, lậu hoặc không được đoạn trừ, các pháp do Như Lai tuyên thuyết chỉ được vị nầy chấp nhận một ít.

Tùy tín hành không chứng đắc tịch tịnh giải thoát, lậu hoặc không được đoạn trừ, nhưng có lòng tin và lòng thương Phật. Năm vị sau này còn có việc phải làm nhờ không phóng dật.

Trí tuệ không được hoàn thành tức khắc mà nhờ học từ từ, hành từ từ, tu tập tuần tự. Ấy là các giai đoạn:

- trước hết khởi lòng tin, rồi đến gần, kính lễ;

- lắng tai nghe pháp; thọ trì pháp; suy tư ý nghĩa;

- chấp thuận pháp sau khi suy tư;

- khởi lên ước muốn; nỗ lực; cân nhắc; tinh cần;

- chứng được chân lý tối thượng; thể nhập chân lý với trí tuệ [13].

Nhưng nếu không có lòng tin [14], tất cả những gì sau đó cũng không.

Ðối với đệ tử có lòng tin bậc đạo sư, có bốn tùy pháp [15]:

1. Vị ấy nghĩ, bậc đạo sư là Thế tôn, đệ tử là tôi. Thế tôn biết, tôi không biết.

2. Ðối với vị ấy, giáo pháp hưng thịnh và có nhiều sinh lực.

3. Vị ấy khởi lên ý nghĩ: dù chỉ còn da xương, dù máu thịt khô héo, mong ta sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những gì chưa chứng [16].

4. Vị ấy sẽ chứng được một trong hai quả: chính trí trong hiện tại, và nếu còn dư y, chứng quả Bất hoàn.

III. CHÚ GIẢI

1. Xem chú thích 1, kinh 66. Phù hợp với kinh 66, luận giải thích: Lúc đầu Phật cấm ăn sau ngọ, rồi về sau cấm ăn ban đêm. Ngài làm việc này vì quan tâm đến tỳ kheo yếu đuối trong tăng đoàn, có thể mệt mỏi nhanh chóng nếu đồng thời cấm cả 2 bữa ăn.

2. Trong Luật tạng, 2 tỳ kheo này được mô tả là những vị không có tàm quý, hư hỏng và thường vướng vào đủ loại hành vi quấy đưa đến sự hoen ố tín đồ. Tại Kìtàgiri họ trục xuất, và sự bất tuân của họ đã đưa đến sự chế ra học giới tăng tàn số 13.

3. Lời này được nói cốt ám chỉ đến lạc thú ăn về đêm, một điều không đưa đến thực hành phận sự tỳ kheo.

4. Loại lạc thọ đầu là niềm vui liên hệ đời sống tại gia, loại sau là niềm vui căn cứ trên sự từ bỏ. Tương tự, 2 câu sau nói đến ưu và xả dựa trên đời sống tại gia và dựa trên sự từ bỏ. Xem kinh 137.

5. Ba đoạn này cốt nói lý do vì sao Phật dạy cần phải từ bỏ tất cả cảm thọ liên hệ đến đời sống tại gia và phát triển những cảm thọ liên hệ đến viễn ly.

6. Ở đây sự phân thành 7 hạng hiền thánh không chỉ căn cứ trên sự chứng đạo đắc quả như 4 đôi 8 vị, mà theo sự nổi bật của một trong các căn tín tấn niệm định tuệ.

7. Câu phần giải thoát có nghĩa là vị ấy giải thoát thân vật lý nhờ các thiền chứng vô sắc, và thoát khỏi thân tâm lý nhờ đạo lộ A La Hán. Ðịnh nghĩa:"Vị ấy tiếp xúc với thân thể và trú trong 8 giải thoát, những ô nhiễm của vị ấy được đoạn trừ nhờ thấy với trí tuệ." Kinh sớ nói bậc Câu phần giải thoát bao gồm những người đắc quả A La Hán sau khi xuất một trong 4 định vô sắc, và người đắc quả sau khi xuất diệt tận định.

8. Tuệ giải thoát: vị này bao gồm những người đắc quả A la hán hoặc như một bậc càn tuệ, sukkha - vipassaka, hoặc sau khi xuất một trong 4 thiền.

9. Thân chứng: hạng này bao gồm sáu hạng người - từ người chứng quả Dự Lưu đến A la hán đạo. Người này chứng các thiền vô sắc và sau đó chứng niết bàn. Luận nhấn mạnh rằng một thiền chứng vô sắc kể cả diệt tận định, là cần thiết để gọi là bậc thân chứng. Ðịnh nghĩa pug thay vào tám giải thoát.

10. Kiến đáo: bao gồm 6 người như trên, từ bậc Dự Lưu cho đến A la hán đạo, nhưng không chứng các thiền vô sắc. Pug định nghĩa vị này là người đã hiểu rõ 4 chân lý và đã quán sát với trí tuệ những giáo lý mà đức Như Lai tuyên thuyết.

11. Tín giải thoát: Luận nói hạng này cũng bao gồm 6 người như trên. Pug định nghĩa vị này cũng như bậc kiến đáo, nhưng chưa quán sát giáo lý với trí tuệ như bậc kiến đáo.

12. Luận nói hạng tùy pháp và tùy tín là những người trên đạo lộ Dự Lưu, hạng đầu đặt nặng trí tuệ, hạng sau đặt nặng đức tin.

13. Theo luận, với thân tâm lý vị ấy chứng niết bàn - chân lý tối hậu - và thâm nhập bằng trí tuệ thuộc đạo lộ siêu thế.

14. Nghĩa là những tỳ kheo này chưa có đủ đức tin cần thiết để theo sự tu tập mà Phật đã chế định.

15. Theo luận, 4 tùy pháp là giáo lý Tứ diệu đế. Tuy nhiên ở đây không thấy nói gì đến Tứ diệu đế.

16. Phật cho thấy người đệ tử lý tưởng là người khơi dậy nghị lực và quyết tâm tu tập: "Ta sẽ không đứng dậy khi chưa đắc quả A la hán."

IV. PHÁP SỐ

Ba thọ, bảy hạng người, bốn tùy pháp về Như Lai.

V. KỆ TỤNG

Có hai vị tôn giả

Ở Kìtàgira

Không chấp hành học giới

Từ bỏ ăn ban đêm.

Lại còn nói do đây

Mà có sức, ít bệnh

Sao lại bỏ hiện tại

Ðể chạy theo tương lai?

Phật dạy những vị này :

"Nên chứng trú lạc thọ

Nếu bất thiện đoạn diệt

Và thiện pháp tăng trưởng

Nhưng nếu sự hưởng lạc

Làm thiện pháp đoạn diệt

Bất thiện pháp tăng trưởng

Hãy bỏ lạc thọ ấy.

Ðối với cảm thọ khổ

Và bất khổ bất lạc

Cũng nên hiểu như vậy

Vì Phật đã chứng tri.

Với trí tuệ, Ngài biết

Trường hợp nào nên bỏ

Trường hợp nào nên trú

Một trong ba cảm thọ.

Phật dạy một số người

Tu hành chưa hoàn tất

Còn có việc phải làm

Nhờ hạnh không phóng dật

Bậc la hán lậu tận

Ðã tu hành thành mãn

Không thể thành phóng dật

Thì hết việc cần làm

Tu hành có bảy hạng

Là: Câu phần giải thoát

Tuệ giải thoát, thân chứng

Kiến đáo, tín giải thoát

Tùy pháp, tùy tín pháp

Câu phần đắc tịch tịnh

Siêu quá sắc vô sắc

Và tận trừ lậu hoặc.

Tuệ giải thoát hết mê

Nhưng không chứng tịch tịnh

Thân chứng có tịch tịnh

Nhưng chưa trừ lậu hoặc.

Kiến đáo không chứng đắc

Các tịch tịnh giải thoát

Và cũng chỉ đoạn trừ

Một phần các lậu hoặc

Tín giải thoát có chứng

Các tịch tịnh giải thoát

Ðoạn vài phân lậu hoặc

Lòng tin Phật bền chắc

Tùy pháp hành có căn

Tín, tấn, niệm, định, tuệ

Nhưng không chứng tịch tịnh

Lậu hoặc chưa đoạn trừ

Tùy tín hành không chứng

Các tịch tịnh giải thoát

Lậu hoặc chưa trừ diệt

Nhưng có tin, thương Phật.

Năm vị sau cùng này

Còn có việc phải làm

Nhờ hạnh không phóng dật

Học giáo pháp Như lai.

Trí tuệ được hoàn thành

Nhờ học hành tuần tự

Trước hết khởi lòng tin

Và đến gần bậc trí

Kính lễ, lóng tai nghe

Thọ trì pháp được giảng

Rồi tư duy ý nghĩa

Thấy đúng bèn thuận theo

Khởi ước muốn tu hành

Rồi nỗ lực, cân nhắc

Và tinh tấn hành thiền

Chứng nhập với trí tuệ

Nhưng nếu không đức tin

Khởi đầu của mọi sự

Thì những gì sau đó

Cùng cầm bằng như không.

Ðệ tử có lòng tin

Sẽ có bốn tùy pháp :

Ðạo sư là Thế tôn

Con quay về nương tựa.

Giáo lý Ngài giảng dạy

Là pháp vị cam lồ

Làm dịu cơn nóng bức

Giữa sa mạc tử sinh.

Dù chỉ còn da xương,

Dù máu thịt khô héo

Mong con đủ tinh cần

Chứng những gì chưa chứng.

Một đệ tử như vậy

Hiện tại đắc chính trí

Hoặc nếu còn dư y

Sẽ chứng quả Bất hoàn.

-ooOoo-

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro