ktctri

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hướng dẫn ôn thi môn kinh tế chính trị

Câu 2. phần tích vai trò của nền sản xuất xã hội và các yêu tố cơ bản của nó?

Câu 3. Tái sản xuất là gì? Phân tích nội dung, hình thức của tái sản xuất xã hội và các phạm trù cơ bản của nó?

Câu 5. Sản xuất hàng hoá là gì? Nó ra đời và phát triển như thế nào? Nó có ưu việt gì so với kinh tế tự nhiên?

Câu 6. Hàng hóa là gì? Phân tích các thuộc tính của hàng hoá và lượng giá trị của hàng hoá?

Câu 7. Tiền tệ xuất hiện như thế nào trong lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá? Bản chất và chức năng của tiền tệ?

Câu 8. Nội dung và tác dụng của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hoá?

Câu 9. Thị trường là gì?Vai trò của nó trong nền sản xuất hàng hoá?Quy luật cung - cầu và tác động của nó trên thị trường như thế nào?

Câu 10. Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản?công thức chung của tư bản và mâu thuẫn của nó? Hàng hoá sức lao động?

Câu 11. Thế nào là tư bản bất biến và tư bản khả biến? việc phân chia như vậy có ý nghĩa gì? Thế nào là tỷ suất giá trị thặng dư?

Câu 12. Thế nào là giá trị thặng dư? Giá tri thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch? Vì sao nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản?

Câu 13. Tích luỹ tư bản là gì? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quy mô tích luỹ tư bản? Thế nào là tích tụ, tập trung và cấu tạo hữu cơ của tư bản?

Câu 14. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản?những nhân tố nào làm tăng tốc độ chu chuyển tư bản? Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này?

Câu 15. Thế nào là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận? Chúng có quan hệ gì với giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư?

Câu 16. Tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay được hình thành như thế nào?Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp và lợi tức là gì?

Câu 17. Các hình thức địa tô chủ yếu và bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu địa tô đối với việc giải quyết các vấn đề ruộng đất?

Câu 18. Thế nào là công ty cổ phần và thị trường chứng khoán? Vai trò của chúng trong nền kinh tế hàng hoá?

Câu 19. Vì sao có sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền?Các hình thức chủ yếu và bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì?

Câu 20. Nguyên nhân của sự chuyển biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Đặc trưng, những hình thức biểu hiện và cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?

Trả lời

Câu 2. Phân tích vai trò của nền sản xuất xã hội và các yếu tố cơ bản của nó:

1. Đời sống xã hội rất phong phú, có nhiều dạng hoạt động khác nhau và có quan hệ với nhau như: sản xuất, chính trị, khoa học,văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, v.v.. Trong các hoạt động đó thì sản xuất ra của cải vật chất là cơ bản nhất, có vai trò quyết định đối với các hoạt động khác.Sản xuất của cải vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, khai thác hoặc cải tiến các dạng vật chất của tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của mình. Nền sản xuất xã hội có vai trò rất quan trọng:

- Là cơ sở của toàn bộ đời sống xã hội, cơ sở tồn tại và phát triển của loài người. Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan của sự tồn tại xã hội. Chân lý giản đơn và vĩnh viễn ấy được C.Mác khái quát rằng: loài người trước hết cần ăn, mặc, ở... rồi sau đó mới hoạt động chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, v.v..Quá trình sản xuất ra cơ sở của đời sống xã hội đồng thời là quá trình phát triển và hoàn thiện bản thân con người. Để sản xuất có kết quả, con người phải không ngừng thâm nhập vào tự nhiên,khám phá, phát hiện các quy luật tự nhiên, đồng thời chế tạo,hoàn thiện các công cụ sản xuất v.v.. Điều đó làm cho con người ngày càng phát triển và hoàn thiện. Lịch sử phát triển của xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại gắn liền và dựa trên sự phát triển và hoàn thiện nền sản xuất xã hội. Sự phát triển và hoàn thiện nền sản xuất xã hội là cơ sở cho sự tiến bộ xã hội, biểu hiện ở nền dân chủ, nhân đạo, công bằng xã hội. Nói chung, tiến bộ xã hội gắn liền với tiến bộ kinh tế và dựa trên cơ sở tiến bộ kinh tế. Tuy nhiên, không phải bao giờ tiến bộ xã hội cũng tùy thuộc trực tiếp vào tiến bộ kinh tế. Kết hợp tiến bộ kinh tế với tiến bộ xã hội là đặc trưng của con đường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

2. Bất kỳ nền sản xuất xã hội nào, kể cả nền sản xuất hiện đại,đều bao gồm ba yếu tố cơ bản là: sức lao động của con người, tư

liệu lao động và đối tượng lao động.

- Sức lao động là tổng hợp thể lực, trí lực của con người, là khả năng lao động của con người, là điều kiện cơ bản của sản xuất ở

bất cứ xã hội nào. Khi sức lao động hoạt động thì trở thành lao động. Lao động là hoạt động riêng của loài người, nó khác về cơ

bản với hoạt động bản năng của động vật...

- Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào nhằm cải biến chúng phù hợp với nhu cầu của mình. Đối

tượng lao động gồm có:

+ Loại có sẵn trong tự nhiên mà lao động của con người chỉ cần tách nó khỏi môi trường tồn tại của nó là có thể sử dụng được, như

gỗ trong rừng nguyên thủy, cá ngoài biển, than đá ở mỏ...

+ Loại đã có sự tác động của lao động gọi là nguyên liệu, như thép thỏi trong nhà máy cơ khí, gỗ ở xưởng mộc v.v..

Với sự phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật, con người ngày càng tạo ra nhiều đối tượng lao động có chất lượng mới.

- Tư liệu lao động là toàn bộ những vật mà con người dùng để tác động vào đối tượng lao động, để truyền dẫn lao động của mình

tới đối tượng lao động làm biến đổi chúng theo yêu cầu của mình.Tư liệu lao động gồm:

+ Công cụ lao động là bộ phận quan trọng nhất của tư liệu lao động, nó tác động trực tiếp vào đối tượng lao động, quyết định trực

tiếp năng suất lao động. Trình độ công cụ lao động là cơ sở để phân biệt sự khác nhau giữa các thời đại kinh tế.

+ Hệ thống các yếu tố vật chất phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất như băng chuyền, ống dẫn cần trục , bể chứa...

+ Những yếu tố vật chất khác không tham gia trực tiếp quá trình sản xuất, nhưng có tác dụng quan trọng đến toàn bộ nền sản

xuất xã hội, như đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông tin liên lạc, v.v. gọi chung là kết cấu hạ tầng của sản xuất

xã hội. Nền sản xuất càng hiện đại, càng đòi hỏi kết cấu hạ tầng sản xuất phát triển và hoàn thiện.

Tư liệu lao động và đối tượng lao động là các yếu tố vật chất của quá trình sản xuất; chúng hợp thành tư liệu sản xuất. Quá trình

lao động là quá trình kết hợp và tác động của các yếu tố sản xuất nói trên, tức của sức lao động và tư liệu sản xuất.

Sự phát triển của nền sản xuất xã hội gắn liền với sự phát triển và hoàn thiện của các yếu tố sản xuất. Quá trình chuyển biến nền

sản xuất nhỏ, lạc hậu sang nền sản xuất lớn, hiện đại đòi hỏi phát triển đồng bộ cả ba yếu tố sản xuất và mục tiêu cuối cùng là trang

bị công nghệ hiện đại, tiên tiến trong các lĩnh vực của nền sản xuất xã hội.

Trong các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, sức lao động luôn luôn là yếu tố cơ bản, có tính chất quyết định. Tuy nhiên, bản

thân sức lao động có sự biến đổi căn bản về chất lượng phù hợp với trình độ của tư liệu sản xuất. Nếu trong nền sản xuất thủ công,

trình độ sức lao động chủ yếu là dựa vào kinh nghiệm và sức cơ bắp thì trong nền sản xuất hiện đại, trình độ sức lao động dựa vào

trí tuệ, tri thức, vào "chất xám" nói chung. Trong nền sản xuất hiện đại, kho tàng trí tuệ trở thành tài nguyên quý giá nhất của

mỗi dân tộc. Do đó, giáo dục và đào tạo được nhiều quốc gia coi là quốc sách; ở nước ta, vấn đề này được đặt thành quốc sách hàng

đầu.

Câu 3. Tái sản xuất là gì? Phân tích nội dung, hình thức của tái sản xuất xã hội và các phạm trù cơ bản của nó.

Sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động cơ bản của loài người.Nó không phải là hoạt động nhất thời, đơn nhất mà thường xuyên,

liên tục, tức là tái sản xuất. Người ta chia tái sản xuất thành tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng.

+ Tái sản xuất giản đơn là quá trình sản xuất được lặp lại với quy mô không thay đổi, các yếu tố của quá trình sản xuất cũng

không thay đổi; chưa có sản phẩm thặng dư hoặc nếu có thì còn nhỏ bé và được tiêu dùng cá nhân hết.

+ Tái sản xuất mở rộng là quá trình sản xuất ở chu kỳ sau có quy mô lớn hơn so với chu kỳ trước. Trong tái sản xuất mở rộng,

các yếu tố của quá trình sản xuất tăng lên về số lượng và chất lượng. Nguồn gốc của tái sản xuất mở rộng là sản phẩm thặng dư.

Tái sản xuất giản đơn là đặc trưng của sản xuất nhỏ, thủ công,còn tái sản xuất mở rộng là đặc trưng của sản xuất lớn, hiện đại.

Ở bất kỳ giai đoạn nào, xã hội nào, tái sản xuất cũng bao gồm nội dung sau:

+ Tái sản xuất sức lao động là nhân tố chủ yếu và đầu tiên. Sức lao động là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và trong quá

trình sản xuất nó bị hao mòn, do đó, phải được tái sản xuất để thực hiện quá trình sản xuất tiếp theo. Tái sản xuất sức lao động

còn bao hàm việc đào tạo, đổi mới thế hệ lao động cũ bằng thế hệ lao động mới có chất lượng cao hơn phù hợp với trình độ mới của tư

liệu sản xuất.

+ Tái sản xuất của cải vật chất (gồm có vật phẩm tiêu dùng và tư liệu sản xuất) cũng là nhân tố khách quan, không thể thiếu của

sản xuất xã hội. Trong quá trình sản xuất, sản phẩm xã hội thường xuyên được tiêu dùng cho cá nhân và cho sản xuất. Vật

phẩm tiêu dùng để tái sản xuất sức lao động, còn tư liệu sản xuất để tiếp tục qua trình sản xuất. Vì vậy, phải thường xuyên tái sản

xuất ra chúng. Hơn nữa, nhu cầu về đời sống và sản xuất thường xuyên tăng lên, do đó của cải vật chất cần được tái sản xuất mở

rộng, làm cho số lượng thường xuyên tăng lên và chất lượng được cải tiến.

Tái sản xuất mở rộng ra của cải vật chất biểu hiện ở mức tăng của tổng sản phẩm xã hội (TSPXH) và thu nhập quốc dân (TNQD).

Tổng sản phẩm xã hội là tổng số sản phẩm hay của cải xã hội được sản xuất ra trong một thời gian nhất định (thường là một năm).

Thu nhập quốc dân là phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi trừ đi toàn bộ những chi phí của lao động vật hóa. Thu

nhập quốc dân là kết quả thực tế của nền sản xuất xã hội, nó quyết định mức độ tiêu dùng và tích lũy của xã hội.

Những biện pháp cơ bản để tái sản xuất mở rộng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân là tăng năng suất lao động xã hội và

tăng số người làm việc trong các ngành sản xuất vật chất.

+ Tái sản xuất quan hệ sản xuất. Tái sản xuất của cải vật chất diễn ra trong những quan hệ sản xuất nhất định. Do đó, quá trình

sản xuất là quá trình phát triển, hoàn thiện quan hệ sản xuất làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ mới của

lực lượng sản xuất.

+ Tái sản xuất ra môi trường (sản xuất và đời sống). Quá trình sản xuất không thể tách rời điều kiện tự nhiên và môi trường sống

của con người. Quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất làm cho các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt dần và ảnh hưởng tới

môi trường sống nói chung. Vì vậy, trong quá trình tái sản xuất phải thường xuyên tái tạo các điều kiện tự nhiên của sản xuất như

khôi phục độ màu mỡ đất đai, trồng rừng và tái tạo các nguồn tài nguyên, v.v..

Câu 5. Sản xuất hàng hóa là gì? Nó ra đời và phát triển như thế nào? Nó có ưu việt gì so với kinh tế tự nhiên?

Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ rệt là: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng

hóa. Sản xuất tự cấp, tự túc là sản xuất sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Còn sản xuất

hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, các quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất biểu hiện qua việc mua bán sản phẩm

của nhau trên thị trường.

Sản xuất hàng hóa đã ra đời trong hai điều kiện lịch sử:

+ Có sự phân công lao động xã hội:

Phân công lao động xã hội là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, biểu hiện ở sự chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công

lao động xã hội, mỗi người hoặc mỗi nhóm người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Mỗi người (hoặc mỗi nhóm

người) đều thừa sản phẩm do mình sản xuất ra nhưng lại thiếu các loại sản phẩm khác. Do đó, việc trao đổi sản phẩm trở thành

tất yếu và có lợi đối với mọi người sản xuất.

+ Có chế độ tư hữu. Điều đó làm cho những người sản xuất độc lập với nhau; họ sản xuất dựa trên cơ sở tư liệu sản xuất của họ và

sản phẩm lao động thuộc quyền chi phối của họ.Chế độ tư hữu làm cho những người sản xuất độc lập với nhau,còn phân công lao động xã hội lại làm cho họ phụ thuộc vào nhau.

Sản xuất hàng hóa ra đời chính là để giải quyết mâu thuẫn này.Những hình thức đầu tiên của sản xuất hàng hóa xuất hiện từ

thời kỳ tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, tồn tại và phát triển ở các phương thức sản xuất tiếp theo. Sản xuất hàng hóa phát triển cao nhất, phổ biến nhất trong chủ nghĩa tư bản và trở thành hình thức sản xuất hàng hóa điển hình,nổi bật trong lịch sử.

Sản xuất hàng hóa tiếp tục tồn tại và phát triển dưới chủ nghĩa xã hội vì dưới chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu

khác nhau và trình độ phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Như vậy, sản xuất hàng hóa xuất hiện rồi tồn tại và phát

triển ở nhiều xã hội, là sản phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Nó có nhiều ưu thế, tiến bộ so với sản xuất tự cấp

tự túc mà cho tới nay chưa có hình thức sản xuất xã hội nào có ưu thế hơn nó. Tuy nhiên, ở các xã hội khác nhau, sản xuất hàng hóa

có vai trò và giới hạn khác nhau. Song, nhìn chung, so với sản xuất tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa có nhiều ưu việt đặc biệt:

- Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm, tăng năng

suất lao động.

- Làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng, sản phẩm thường xuyên được cải tiến chất lượng, hình thức phù hợp với nhu cầu, thị

hiếu người tiêu dùng.

- Thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hóa sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng sự giao lưu thị trường trong nước

và quốc tế.

- Là cơ sở thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, bình đẳng, tiến bộ xã hội, phá vỡ tính bảo thủ, trì trệ, phường hội của kinh tế tự nhiên,

tự cấp tự túc v.v..

Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa có mặt trái của nó như việc làm phân hóa người sản xuất thành giàu nghèo và nhiều hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa lọc... Trong điều kiện của nước ta,một mặt phải đẩy mạnh nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường phù hợp với các quy luật của sản xuất hàng hóa; mặt khác, phải có sự quản lý của Nhà nước để bảo đảm sự định hướng xã hội chủ nghĩa và hạn chế những tiêu cực do cơ chế thị trường sinh ra, thực hiện sự kết hợp hiệu quả kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.

Câu 6. Hàng hóa là gì? Phân tích các thuộc tính của hàng hóa và lượng giá trị của hàng hóa?

1. Hàng hóa là một vật phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi (mua - bán). Vì vậy, không phải bất kỳ vật phẩm nào cũng là hàng hóa. Những vật phẩm đi vào tiêu dùng không thông qua trao đổi (mua - bán) thì không phải là hàng hóa. Chẳng hạn, thóc của người nông dân sản xuất để tiêu dùng cho bản thân họ thì không phải là hàng hóa. Nhưng nếu thóc đó được đem bán thì nó là hàng hóa.

2. Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

a) Giá trị sử dụng:

Giá trị sử dụng của vật phẩm là công dụng của nó, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người như gạo để ăn, vải để may mặc,

nhà để ở...Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định. Xã hội loài người càng phát triển, càng phát hiện ra được nhiều thuộc tính tự nhiên có ích của vật phẩm và lợi dụng những thuộc tính tự nhiên đó để tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Chẳng hạn, than đá từ xa xưa chỉ được dùng làm nhiên liệu (đốt nóng), đến nay còn là nguyên liệu của nhiều sản phẩm với giá trị sử dụng cao. Do đó, giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

b) Giá trị:

Muốn hiểu giá trị của hàng hóa phải nghiên cứu từ giá trị trao đổi của nó.Giá trị trao đổi biểu hiện mối quan hệ trao đổi hàng hóa trên thị trường. Đó là mối quan hệ tỷ lệ về lượng giữa những hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau đem trao đổi với nhau. Thí dụ: 1m vải trao đổi với 5kg thóc. Sở dĩ vải và thóc là hai hàng hóa có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi được với nhau theo một tỷ lệ nhất định, vì vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, có cơ sở chung là sự hao phí lao động của con người. Sự hao phí lao động đó chính là giá trị của hàng hóa.

Vậy, giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó.

Do đó, giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị.Giá trị phản ảnh mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất hàng hóa. Do đó, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong kinh tế hàng hóa.

3. Lượng giá trị của hàng hóa:

Nếu giá trị là lao động xã hội của những người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa thì lượng giá trị chính là lượng lao

động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa. Trong sản xuất hàng hóa, hao phí lao động cá biệt tạo thành giá trị cá biệt của hàng hóa. Trên thị trường, không thể dựa vào giá trị cá biệt để trao đổi mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa.Giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần thiết (tất yếu) để sản xuất một loại hàng hóa nào đó. Đó là thời gian cần thiết để sản xuất hàng hóa trong điều kiện sản xuất trung bình của xã hội với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết của một loại hàng hóa nào đó gần sát với thời gian lao động cá biệt của người sản xuất đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.Giá trị hàng hóa thay đổi phụ thuộc vào năng suất lao động. Năng suất lao động là hiệu suất của lao động được đo bằng số lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian lao động hao phí để tạo ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của người lao động, mức trang bị kỹ thuật của lao động, phương pháp tổ chức, quản lý và các điều kiện tự nhiên. Tăng năng suất lao động thể hiện ở chỗ: hao phí lao động không tăng, nhưng số lượng sản phẩm làm ra trong một đơn vị thời gian tăng lên, do đó giá trị của một dợn vị hàng hóa giảm xuống. Điều đó có nghĩa: giá trị của hàng hóa biến đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Cần phân biệt tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động.

Cường độ lao động là mức độ hao phí lao động trong một đơn vị thời gian. Tăng cường độ lao động sẽ làm tăng thêm mức hao phí lao

động, và do đó, làm tăng số lượng sản phẩm một cách tương ứng, vì vậy giá trị một đơn vị hàng hóa không thay đổi.

Lao động của người sản xuất hàng hóa có trình độ thành thạo khác nhau.

Nó được chia thành hai loại:

lao động giản đơn là lao động không cần rèn luyện, đào tạo và lao động phức tạp phải qua quá trình học tập rèn luyện... Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.

Trong quá trình trao đổi hàng hóa, mọi lao động phức tạp đều được quy thành bội số của lao động giản đơn trung bình một cách

tự phát trên thị trường.

Câu 7. Tiền tệ xuất hiện như thế nào trong lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa? Bản chất và chức năng của tiền tệ?

1. Lịch sử ra đời của tiền tệ và bản chất của nó:

Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, và cũng là kết quả của quá trình phát triển các hình thái giá trị của hàng hóa. Hình thái giá trị đầu tiên là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên. Người sản xuất làm ra sản phẩm dùng không hết (như lúc được mùa chẳng hạn), thừa ngẫu nhiên, đem trao đổi và ngẫu nhiên gặp một loại hàng hóa nào đó; việc trao đổi diễn ra theo một tỷ lệ cũng ngẫu nhiên và giản đơn: hàng đổi lấy hàng.

Thí dụ: aHA = bHB

Ở hình thái này, hàng hóa thứ nhất (aHA) biểu hiện giá trị của nó ở hàng hóa thứ hai (bHB), còn hàng hóa thứ hai đóng vai trò là

vật ngang giá. Khi phân công lao động xã hội phát triển đến mức độ nào đó, chủng loại hàng hóa trao đổi trên thị trường nhiều hơn, thì một hàng hóa có thế gặp và trao đổi với nhiều hàng hóa khác.

Thí dụ: bHB hoặc aHA có thể trao đổi với cHC hoặc dHD

Đó là hình thái giá trị mở rộng. Khi phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, làm cho sảnxuất hàng hóa cũng phát triển, trao đổi hàng hóa trở nên thường xuyên và phổ biến hơn. Để cho sự trao đổi được thuận lợi, người ta chọn một hàng hóa nào đó làm vật ngang giá chung.

Thí dụ: aHA bHB cHC có thể trao đổi qua xHY dHD

Đó là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể trao đổi trực tiếp với một hàng hóa bất kỳ. Nó trở thành môi giới, thành phương tiện để trao đổi. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển hơn, thị trường được mở rộng, người ta chọn bạc và vàng làm vật ngang giá chung là thuận lợi hơn cả. Lúc đó, hình thức tiền của giá trị ra đời.

Khi bạc và vàng cùng được dùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ song kim. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vai

trò tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ bản vị vàng. Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa phân ra hai cực: một phía, là các hàng hóa thông thường; một phía là hàng hóa đóng vai trò tiền tệ.

Như vậy, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, dùng làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, là sự thể hiện chung của giá trị và lao động xã hội, nó biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa do quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa tạo ra. Đó là nguồn gốc và bản chất của tiền tệ.

2. Chức năng của tiền tệ:

Tiền tệ có năm chức năng:

a) Thước đo giá trị

Tiền tệ làm được thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là một hàng hóa, cũng có giá trị như các hàng hóa khác. Để làm được thước đo giá trị, mỗi quốc gia có một đơn vị tiền tệ nhất định. Giá trị của mỗi hàng hóa được biểu hiện bằng một số tiền nhất định, đó là giá cả của hàng hóa.Giá trị là cơ sở của giá cả, nhưng do quan hệ cung cầu, giá cả có thể lên xuống xung quanh giá trị. Tuy vậy, xét trong phạm vi toàn xã hội trong thời gian nhất định thì tổng số giá cả bằng tổng số giá trị của hàng hóa.

b) Phương tiện lưu thông

Làm phương tiện lưu thông, tiền tệ đóng vai trò môi giới, trung gian trong trao đổi hàng hóa và dưới hình thức tiền mặt. Nó vận

động theo công thức H-T-H (H = hàng; T = tiền). Số lượng này đc xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ như sau: Số lượng tiền vàng cần thiết trong lưu thông = (Tổng số giá cả hàng hóa lưu thông - Tổng số giá cả hàng hóa bán chịu + Tổng số giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau + Tổng số giá cả hàng hóa bán chịu đến kỳ thanh toán) / (Số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ)

Số lượng tiền xác định trong công thức này là tiền vàng. Khi phát hành tiền giấy vượt quá mức cần thiết sẽ dẫn đến lạm phát.

c) Phương tiện cất trữ

Khi làm chức năng này, tiền tệ rút khỏi lưu thông và đi vào "kho" cất trữ. Tiền cất trữ phải có đủ giá trị. Người ta thường cất

trữ vàng và bạc.

d) Phương tiện thanh toán

Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó sẽ sinh ra việc mua bán chịu. Khi đó, tiền có chức năng làm phương tiện

thanh toán: trả tiền mua chịu, trả nợ...Chức năng này càng phát triển, càng làm tăng thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa.

e) Tiền tệ thế giới

Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới một quốc gia, quan hệ buôn bán giữa các nước hình thành, thì tiền tệ làm chức năng tiền

tệ thế giới.

- Tiền tệ là sản phẩm khách quan của lịch sử phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nó là loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật

ngang giá chung, làm được nhiều chức năng phục vụ cho sản xuất và trao đổi hàng hóa. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị

thường sử dụng tiền tệ làm công cụ phục vụ cho lợi ích của giai cấp mình.

Câu 8. Cơ sở khách quan và những tác dụng của quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa.

1. Cơ sở khách quan và yêu cầu của quy luật giá trị.

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa. Ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động

một cách khách quan.Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa, phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là:

- Trong sản xuất, nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn, hoặc bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.

- Trong lưu thông, nó đòi hỏi việc trao đổi hàng hóa phải dựa trên nguyên tắc ngang giá.

Quy luật giá trị hoạt động thông qua sự lên xuống của giá cả trên thị trường. Nó có mối quan hệ hữu cơ với quy luật cung - cầu.

Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị. Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị.

2. Tác dụng của quy luật giá trị.

Quy luật giá trị hoạt động ở trong mọi phương thức sản xuất có sản xuất hàng hóa, nhưng đặc điểm hoạt động, vai trò và tác dụng của nó khác nhau, vì nó bị các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất đó chi phối. Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở chế độ tư hữu giữ vai trò thống trị, quy luật giá trị hoạt động một cách tự phát và có bốn tác dụng chủ yếu sau:

- Tự phát điều tiết các yếu tố sản xuất (tư liệu sản xuất và sức lao động) vào các ngành, các khu vực khác nhau của nền sản xuất xã hội, thông qua sự biến động của cung - cầu thể hiện qua giá cả trên thị trường.

- Tự phát điều tiết lưu thông hàng hóa. Thông qua sự biến động (chênh lệch) của giá cả, hàng hóa từ nơi có giá cả thấp sẽ được di chuyển về nơi có giá cả cao.

- Tự phát kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Tự phát làm phân hóa người sản xuất thành giàu và nghèo.

Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nền tảng, còn thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì vai trò của quy luật giá trị về cơ bản không còn như trước. Tuy nhiên nó vẫn thực hiện chức năng điều tiết, kích thích và đào thải vốn có của nó.Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế còn

nhiều thành phần, còn nhiều loại quy luật đặc thù hoạt động đan xen vào nhau, làm cho sự hoạt động của quy luật giá trị vừa có tính tự phát vừa có tính tự giác, tuy vẫn có đầy đủ các tác dụng trên.

Vấn đề quan trọng là phải nhận thức và vận dụng quy luật giá trị bằng các chính sách kinh tế phù hợp trên cơ sở khoa học, nhằm thực hiện có hiệu quả những mục tiêu kinh tế - xã hội.

Câu 9. Thị trường là gì? Vai trò của nó trong nền sản xuất hàng hóa. Quy luật cung - cầu và tác động của nó trên thị trường như thế nào?

1. Thị trường và cơ chế thị trường

a) Thị trường là nơi diễn ra mối quan hệ kinh tế giữa những

người trao đổi hàng hóa theo quy luật của sản xuất và lưu thông hàng hóa; là tổng hợp các mối quan hệ lưu thông hàng hóa và lưu

thông tiền tệ.

Thị trường có vai trò quan trọng:

- Nó phản ánh nhanh nhậy quan hệ cung cầu, là nơi phát tín hiệu thông tin về sự biến động của nền kinh tế, giúp cho việc điều chỉnh sản xuất, hình thành nên những tỷ lệ cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa sản xuất và lưu thông.

- Thị trường là nơi thừa nhận cuối cùng công dụng xã hội đối với sản phẩm và lao động chi phí để sản xuất ra nó. Do đó, nó kích thích những người sản xuất và trao đổi hàng hóa giảm chi phí sản xuất và lưu thông, cải tiến chất lượng, quy cách, mẫu mã, hình thức cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.

b) Cơ chế thị trường là guồng máy hoạt động của hệ thống các thị trường trong nền kinh tế hàng hóa, điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông theo yêu cầu khách quan của các quy luật của thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lưu thông tiền tệ...). Vì vậy, cơ chế thị trường quy định những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải sản xuất theo cơ cấu hợp lý chủng loại hàng hóa, giá cả bao nhiêu, lưu thông hàng hóa như thế nào...

Thị trường và cơ chế thị trường có những khuyết tật nhất định,như:

- Tính tự phát dẫn tới sự hỗn độn trong nền kinh tế.

- Kích thích lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, nhưng lại xem nhẹ lợi ích xã hội, lợi ích toàn thể.

- Chỉ phản ánh nhu cầu trước mắt, không vạch rõ nhu cầu tương lai.

- Những chỉ số kinh tế như giá cả, lợi nhuận,... thường xuyên biến động làm cho người sản xuất và lưu thông hàng hóa khó định hướng, thường bị động đối phó, nhiều lúc gây ra sự lãng phí lao động xã hội.

Nhận thức được những đặc điểm đó, Nhà nước có thể sử dụng lực lượng dự trữ về kinh tế và những chính sách phù hợp như kế hoạch,

thuế, hợp đồng kinh tế để cùng với thị trường điều khiến sự hoạt động của nền kinh tế theo định hướng và mục tiêu đã xác định.

2. Quy luật cung - cầu.

a) Cơ sở khách quan của quy luật cung cầu

Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hóa được sản xuất và được đưa ra thị trường để thực hiện (để bán).

Cung do sản xuất quy định, nhưng không đồng nhất với sản xuất.

Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã hội. Do đó, cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là

nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kỳ theo nguyện vọng tiêu dùng chủ quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán.

Cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác động lẫn nhau trên thị trường; ở đâu có thị trường thì ở đó có quy

luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan.

b) Cung - cầu tác động lẫn nhau

Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hóa. Những hàng hóa nào tiêu thụ được mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa, hình thức, quy cách và giá cả của nó.

Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả.Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ khác nhau.

Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình tái sản xuất xã hội.

Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng, hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... để tác động vào các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - cầu, duy trì những tỷ lệ

cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý.

Câu 10. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản, công thức chung tư bản và mâu thuẫn của nó. Hàng hoá sức lao động

Chủ nghĩa tư bản ra đời khi có hai điều kiện: có một lớp người được tự do về thân thể nhưng lại không có tư liệu sản xuất; và tiền

của phải được tập trung vào tay một số người, với một lượng đủ lớn, để lập các xí nghiệp.

1. Công thức chung của tư bản.

a) So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn với công thức chung của tư bản

Lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức: H-T-H (1). Trong công thức này, tiền tệ không phải là tư bản.

Tiền tệ chỉ trở thành tư bản trong những điều kiện nhất định. Mọi tư bản đều xuất hiện từ một khối lượng tiền nhất định và

vận động theo công thức: T-H-T' (2). Đây là công thức chung của tư bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.

Giữa công thức (1) và công thức (2) có những điểm khác nhau:

- Về điểm xuất phát và kết thúc quá trình vận động trong công thức 1 là H (Hàng); trong công thức 2 là T (Tiền).

- Về trình tự của quá trình vận động: Trong công thức 1 bán trước, mua sau; trong công thức 2 mua trước, bán sau.

- Về mục đích của quá trình vận động: Trong công thức 1 là giá trị sử dụng; trong công thức 2 là giá trị. Ở đây, tiền thu về (T') phải lớn hơn tiền ứng trước (T) một lượng là t. Do đó T' = T + (T'. Số tiền trội lên so với tiền ứng ra ban đầu là giá trị thặng dư, ký hiệu là (m).

Như vậy, số tiền ứng ra ban đầu (T) với mục đích đem lại giá trị thặng dư cho người chủ có tiền được gọi là tư bản. Qua đó, đi đến

kết luận: Tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

b) Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Lý luận giá trị đã chứng minh rằng: Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T' người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận động trong lưu thông.

Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông, cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể sinh ra tiền là điều hiển nhiên.

Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra

giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt

thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là

một số lượng không đổi. Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua lưu thông. Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó là hàng hóa sức lao động.

2. Hàng hóa sức lao động.

Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả năng lao động của con người. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi

quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều kiện:

- Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ sức lao động của mình để có thể đi làm thuê (bán sức lao động).

- Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống, buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức lao động của mình. Sức lao động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa thông thường vừa có đặc điểm riêng.

- Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nhưng việc sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ta và chi phí đào tạo công nhân theo yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.

- Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để thỏa mãn nhu cầu người mua là sử dụng vào quá trình lao động. Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó. Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.

Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản. Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa sức lao động.

Câu 11. Thế nào là tư bản bất biến và tư bản khả biến? Việc phân chia tư bản thành hai bộ phận như vậy có ý nghĩa gì? Thế nào là tỷ suất giá trị thặng dư?

1. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tiền ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là biến tư bản tiền tệ thành

các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư.

- Trong sản xuất, công nhân sử dụng tư liệu sản xuất để chế tạo ra sản phẩm. Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có loại như nhà xưởng, kho tàng, thiết bị, máy móc được sử dụng trong một thời gian dài, hao mòn dần qua nhiều chu kỳ sản xuất, nên giá trị của nó được chuyển từng phần vào sản phẩm. Có loại như nguyên liệu nhiên liệu, vật liệu phụ tiêu hao toàn bộ qua một chu kỳ sản xuất, nên giá trị của nó được chuyển nguyên vẹn ngay vào sản phẩm mới.

Như vậy, dù giá trị tư liệu sản xuất được chuyển dần từng phần hay chuyển nguyên vẹn ngay vào sản phẩm, bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất có đặc điểm chung là giá trị của chúng được bảo tồn không có sự thay đổi về lượng và chuyển vào sản phẩm mới trong quá trình sản xuất.Bộ phận tư bản này gọi là tư bản bất biến (ký hiệu bằng C).

- Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động có tính chất khác với bộ phận tư bản bất biến (C).

Trong quá trình sản xuất, bộ phận tư bản này có sự thay đổi về lượng, tăng lên về số lượng giá trị, vì đặc điểm của giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động là khi được đem tiêu dùng thì nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - gọi là tư bản khả biến (ký hiệu bằng V).

- Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao động làm thuê của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Hiện nay, giai cấp tư sản sử dụng máy móc hiện đại tự động hóa quá trình sản xuất đối với một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất như vậy, tư bản bất biến có vai trò quan trọng quyết định việc tăng năng suất lao động, nhưng cũng không thể coi đó là nguồn gốc của giá trị thặng dư. Suy đến cùng, bộ phận tư bản khả biến tồn tại dưới hình thức sức lao động (chân tay và trí óc) mới là nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.

2. Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Tỷ suất giá trị thặng dư ký hiệu là m' và được

xác định bằng công thức:

m' =(m/v)x100%

Tỷ suất giá trị thặng dư vạch rõ trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động làm thuê, đồng thời nó cũng nói lên ngày lao động

được phân chia thành hai phần - thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư - như thế nào.

12. Thế nào là giá trị thặng dư? Giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch? Vì sao nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản?

1. Giá trị thặng dư, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch.

- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa - quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động

làm thuê.

Để thu được giá trị thặng dư, có hai phương pháp chủ yếu:

phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo dài ngày lao động vượt khỏi giới hạn thời gian lao động cần thiết.

Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi, do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên. Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn ở trình độ thủ công và năng suất lao động còn thấp.

Với lòng tham vô hạn, nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài ngày lao động, nâng cao trình độ bóc lột sức lao động làm thuê. Nhưng một mặt, do giới hạn tự nhiên của sức lực con người; mặt khác, do đấu tranh quyết liệt của công nhân đòi rút ngắn ngày lao động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên, ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian

lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi thời gian lao động cần thiết không thay đổi.

- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng suất lao động

xã hội. Việc tăng năng suất lao động xã hội, trước hết ở các ngành sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho giá trị sức lao động

giảm xuống do đó, làm giảm thời gian lao động cần thiết. Khi độ dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần thiết

giảm sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư - thời gian để sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản.

- Để giành ưu thế trong cạnh tranh, để thu được nhiều giá trị thặng dư, các nhà tư bản đã áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào

sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp quản lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, giá trị cá biệt

của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào thực hiện được điều đó thì khi bán hàng hóa của mình sẽ thu được một số giá

trị thặng dư trội hơn so với các nhà tư bản khác.Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường của xã hội được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời cục bộ. Nhưng xét về toàn bộ xã hội tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.

Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cái khác nhau là ở chỗ giá trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội; còn giá trị thặng dư siêu ngạch thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt.

2. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản.

Quy luật kinh tế cơ bản là quy luật phản ánh bản chất và mục đích của một phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản.Bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất công nhân buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản. Lao động không công của công nhân làm thuê là nguồn gốc của giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì mục đích đó, các nhà tư bản sản xuất bất cứ loại hàng hóa nào, kể cả vũ khí giết người hàng loạt, miễn là thu được nhiều giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt mục đích là tăng cường bóc lột công nhân làm thuê trên cơ sở phát triển kỹ thuật, tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động v.v..

Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ thuật và phân công lao động xã hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất - ngày càng gay gắt.

Câu 13. Tích lũy tư bản là gì? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản? Thế nào là tích tụ, tập trung và cấu tạo hữu cơ của tư bản?

1. Tích lũy tư bản và nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của tích lũy.

- Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc lột.

Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ bản, quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư; thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.

- Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu

nhập (bộ phận giá trị thặng dư nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân).Nếu tỷ lệ phân chia không thay đổi, thì quy mô tích lũy phụ thuộc

vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như:

+ Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động đối với công nhân làm thuê.

+ Tăng năng suất lao động xã hội. Đây là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ và có tác dụng thiết thực đối với tích lũy.

+ Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị máy móc, thiết bị được sử dụng) và tư bản tiêu dùng (tức giá trị tiêu hao của máy móc, thiết bị đó qua mỗi chu kỳ sản xuất).

+ Quy mô tư bản ứng trước. Quy mô tư bản ứng trước càng lớn, càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng nhiều.

2. Tích tụ tư bản.

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách tư bản hóa một phần giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Chẳng hạn, một tư bản 1.000 đôla cộng thêm 100 đôla giá trị thặng dư tư bản hóa thành một tư bản lớn hơn là 1.100 đôla.

Tích tụ tư bản là một tất yếu. Trước hết đó là do yêu cầu của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, của cạnh tranh và của tiến bộ kỹ thuật. Đồng thời trình độ bóc lột và khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được ngày càng tăng trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện vật chất làm cho khả năng tư bản hóa giá trị thặng dư biến thành hiện thực tích tụ tư bản.

3. Tập trung tư bản.

Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản bằng cách kết hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Thí dụ: một tư bản

3.000 đôla hợp lại với một tư bản 2.000 đôla thành một tư bản lớn hơn là 5.000 đôla.

Tập trung tư bản thường diễn ra bằng hai phương pháp. Phương pháp cưỡng bức và phương pháp tự nguyện. Phương pháp cưỡng

bức thể hiện ở chỗ: trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản lớn thôn tính các nhà tư bản nhỏ phá sản. Ở phương pháp tự nguyện

trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản không phân thắng bại, họ liên hiệp lại và tổ chức các công ty cổ phần để tránh khỏi sự phá

sản và có đủ sức mạnh cần thiết cho cạnh tranh trên phạm vi mới.Nếu tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội và phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản thì tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ

phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội; nó phản ánh quan hệ trực tiếp giữa các nhà tư bản. Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động thúc đẩy nhau. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt khiến cho cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến sự tập trung tư bản. Tập trung tư bản tạo ra điều kiện để tăng cường bóc lột giá trì thặng dư và đẩy mạnh tích tụ tư bản.

4. Cấu tạo hữu cơ của tư bản.

- Trong quá trình tích lũy tư bản, cơ cấu tư bản dần dần thay đổi. Các bộ phận của tư bản có sự thay đổi không giống nhau. Cấu tạo của tư bản gồm có hai mặt: mặt vật chất và mặt giá trị.

+ Cấu tạo của tư bản về mặt vật chất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức

lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản.

+ Cấu tạo của tư bản về mặt giá trị gồm có tư bản bất biến và tư bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến gọi là

cấu tạo giá trị của tư bản.

+ Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặt chẽ với nhau. Để chỉ mối quan hệ chặt chẽ đó, C.Mác dùng khái niệm cấu tạo hữu cơ của tư bản. Vậy cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quy định và phản ánh những thay đổi của cấu tạo kỹ thuật. Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi tùy theo mức độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ở giai đoạn công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, phát triển công nghiệp cơ khí, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên rất nhanh. Nhưng hiện nay có nhiều ngành công nghiệp sản xuất ra các máy móc, thiết bị kỹ thuật mới rẻ hơn so với các máy móc, thiết bị kỹ thuật cũ mà chính nó thay thế, hoặc đang phát triển ngành có cấu tạo hữu cơ thấp như lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, hiện nay xu hướng tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản không rõ rệt ở một số ngành. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn.

Câu 14. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Những nhân tố nào làm tăng tốc độ chu chuyển tư bản? Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này?

1. Tuần hoàn của tư bản.

- Mọi tư bản sản xuất trong quá trình vận động đều qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng.

Giai đoạn I, tư bản mang hình thức tiền tệ, thực hiện chức năng mua các yếu tố sản xuất tư liệu sản xuất và sức lao động;

Giai đoạn II, tư bản mang hình thức tư bản sản xuất, thực hiện chức năng sản xuất ra hàng hóa và tạo ra giá trị thặng dư;

Giai đoạn III, tư bản mang hình thức tư bản hàng hóa với chức năng thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.

T-H-> TTSX + SLĐ .....Sx..... H'-T'

Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III

- Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình thức, thực hiện ba chức năng, rồi quay về hình thức xuất phát của

nó, gọi là tuần hoàn của tư bản.

2. Chu chuyển của tư bản.

Nếu được xem xét như là quá trình định kỳ đổi mới diễn ra liên tục, lắp đi lắp lại, thì sự tuần hoàn của tư bản sản xuất được gọi là

chu chuyển của tư bản. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận động của tư bản nhanh hay chậm.

- Nhân tố làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản. Nghiên cứu tốc độ chu chuyển của tư bản, chúng ta cần nghiên cứu thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức nhất định đến khi nó trở về hình thức đó nhưng có thêm giá trị thặng dư. Như vậy, để chu chuyển một vòng, tư bản phải trải qua hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Do đó, muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm bớt thời gian lưu thông và thời gian sản xuất của nó. Muốn giảm bớt thời gian lưu thông, phải có phương tiện giao thông vận tải tốt, đầy đủ và thuận tiện; đồng thời, các sản phẩm sản xuất ra phải có giá trị sử dụng cao, giá thành hạ, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Muốn giảm thời gian sản xuất phải tăng năng suất lao động, giảm thời gian gián đoạn bằng cách ứng dụng khoa học kỹ thuật v.v..

- Nghiên cứu chu chuyển của tư bản, cần hiểu được việc chu chuyển hai bộ phận giá trị của tư bản sản xuất là tư bản cố định và tư bản lưu động.

+ Tư bản cố định là bộ phận của tư bản sản xuất (nhà xưởng, thiết bị, máy móc) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng

giá trị của nó được chuyển dần dần vào sản phẩm. Tư bản cố định sử dụng lâu dài và bị hao mòn dần. Có hai loại hao mòn: hao mòn

hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về giá trị sử dụng, do quá trình sử dụng và do tác động của tự nhiên mà bị hao mòn. Còn hao mòn vô hình là hao mòn về giá trị do quá trình hiện đại hóa của khoa học kỹ thuật, nhiều máy móc mới được sản xuất ra tốt hơn với giá rẻ hơn, làm cho máy móc cũ đang được sử dụng bị giảm giá trị ban đầu.

+ Tư bản lưu động là bộ phận của tư bản sản xuất (nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ...) được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm.

- Nghiên cứu chu chuyển của tư bản là vấn đề có ý nghĩa thực

tiễn trong việc sử dụng tiền vốn trong sản xuất và kinh doanh hợp lý, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Cần tăng tốc độ chu chuyển tư bản cố định, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị. Phải đẩy nhanh tốc độ xây dựng để đưa công trình vào sản xuất càng sớm

càng tốt.

Câu 15. Thế nào là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận? Chúng có quan hệ gì với giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư?

1. Lợi nhuận và quan hệ giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư.

- Lợi nhuận:

Hao phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất hàng hóa là c +v + m. Nếu gọi G là giá trị hàng hóa thì: G = c+v+m.

Chi phí sản xuất tư bân chủ nghĩa là c+v. Nếu ký hiệu chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là K thì:

K = c + v → G = K+ m

Khi c +v chuyển thành K thì số tiền nhà tư bản thu được trội hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Số tiền trội hơn đó

được quan niệm là sự tăng lên của toàn bộ tư bản ứng trước và gọi là lợi nhuận, ký hiệu là P.

Nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì G = K+m sẽ chuyển hóa thành G = K+P. Nhìn bề ngoài, tưởng như với lượng tư bản ứng

trước (c+v), nhà tư bản thu được lợi nhuận, tức lợi nhuận là do toàn bộ tư bản ứng trước tạo ra.

- Mới nhìn thì P=m, có khác nhau thì chỉ là ở chỗ khi nói giá trị thặng dư là hàm ý so sánh với tư bản khả biến (v); còn khi nói lợi

nhuận lại hàm ý so sánh với tư bản ứng trước (c+v).Về thực chất, lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Lợi nhuận che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Nguồn gốc của lợi nhuận chính là giá trị thặng dư do lao động sống của công nhân làm thuê tạo ra; lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư.

Trong thực tế, nhiều trường hợp cụ thể, lợi nhuận và giá trị thặng dư có thể không trùng khớp với nhau. Lợi nhuận có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị thặng dư, do nó phụ thuộc vào giá bán của hàng hoá cao hoặc thấp do quan hệ cung - cầu quy định. Nhưng, xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận bằng tổng số giá trị thặng dư.

2. Tỷ suất lợi nhuận và quan hệ giữa nó với tỷ suất giá trị thặng dư.

- Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, ký hiệu bằng p' được xác định bằng công

thức:p' =m/(c+v)x100%

- Tỷ suất lợi nhuận (p') khác với tỷ suất giá trị thặng dư (m').

+ Nếu xét về lượng, p' luôn luôn nhỏ hơn m'.p'=m/(c+v)x100% còn m' =(m/v)x100%

+ Nếu xét về chất, p' nói lên mức độ doanh lợi của tư bản đầu tư và chỉ ra cho các nhà tư bản thấy đầu tư vào ngành nào có lợi hơn.

Còn m' biểu hiện mức độ bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.

Câu 16. Tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay được hình thành như thế nào? Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp và lợi tức là gì?

- Tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản được tách ra khỏi tư bản công nghiệp, hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa.

Nó là cầu nối liền sản xuất và tiêu dùng, phục vụ cho quá trình thực hiện hàng hóa của tư bản công nghiệp và có vai trò quan trọng trong tái sản xuất tư bản xã hội nói chung và tư bản công nghiệp nói riêng. Tư bản thương nghiệp ứng thêm tư bản giúp nhà tư bản công nghiệp hoạt động trong khâu thực hiện giá trị thặng dư, do đó, tư bản công nghiệp không phải đầu tư bổ sung tư bản,hoặc giảm quy mô sản xuất để hoạt động lưu thông mà có điều kiện tập trung tư bản, chuyên môn hóa, mở rộng sản xuất. Đó là nguyên nhân khiến tư bản công nghiệp phải "nhường" một bộ phận giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp. Tư bản thương nghiệp không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng vẫn thu được giá trị thặng dư dưới hình thức lợi nhuận thương nghiệp.Tư bản công nghiệp "nhường" một phần giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp theo tỷ suất lợi nhuận bình quân (p) và được thực hiện bằng thu chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Vậy bản chất lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư do công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất.

Nhưng hình thức lợi nhuận thương nghiệp làm cho người ta dễ tin tưởng lưu thông sinh ra lợi nhuận và nguồn gốc giá trị thặng

dư càng bị che dấu. Ngoài một phần giá trị thặng dư do nhà tư bản công nghiệp nhường cho, tư bản thương nghiệp còn thu được một

phần thu nhập của người tiêu dùng bằng cách mua rẻ bán đắt và bóc lột lao động thặng dư của nhân viên thương nghiệp.

- Tư bản cho vay là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Sự hình thành tư bản

cho vay là kết quả của sự phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ đạt đến trình độ xuất hiện tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (các loại

quỹ khấu hao, quỹ mua nguyên vật liệu chưa dùng đến, quỹ lương chưa đến kỳ trả, tiết kiệm...) trong khi lại có những người cần tư

bản để mở rộng sản xuất hoặc thiếu tư bản lưu động... Tư bản cho vay thực hiện vai trò môi giới giữa người cho vay và người đi vay,

là nơi tập trung, điều hòa, sử dụng hợp lý, có kết quả các nguồn vốn tiền tệ của xã hội, thúc đẩy quá trình tái sản xuất và quá

trình xã hội hóa.Phải chú ý những đặc điểm đặc biệt của tư bản cho vay: - quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng; người bán không mất quyền sở hữu; giá cả do giá trị sử dụng quyết định; quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa bị che dấu.Nếu không phải đi vay, tư bản công nghiệp độc chiếm giá trị thặng dư; nhưng do vay vốn nên nó phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản cho vay vì đã sử dụng tư bản của họ. Như vậy, hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tư bản cho vay không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó được phân phối giá trị thặng dư dưới hình thức lợi tức cho vay (Z). Vậy lợi tức chính là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nguồn gốc của nó là giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra trong quá trình sản xuất. Thực chất lợi tức cho vay biểu hiện quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa mở rộng ra trong lĩnh vực phân phối. Xét về mặt lượng, lợi tức nói chung phải nhỏ hơn lợi nhuận bình

quân (P) và lớn hơn 0: 0 < Z <P; và phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trong lĩnh vực này ở từng thời kỳ.

Câu 17. Các hình thức địa tô chủ yếu và bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu địa tô đối với việc giải quyết các vấn đề ruộng đất?

Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là chế độ độc quyền ruộng đất. Các yếu tố cần thiết cho sản xuất nông nghiệp tư bản chủ nghĩa thuộc ba chủ sở hữu khác nhau (địa chủ độc quyền ruộng đất, tư bản nông nghiệp sở hữu các tư liệu sản xuất khác, như máy móc..., còn công nhân nông nghiệp sở hữu sức lao động).Quan hệ xã hội đối với ruộng đất cũng bao gồm ba giai cấp đó.

- Tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất; thuê công nhân để sản xuất, do đó, phải trích một phần giá trị thặng dư cho địa chủ dưới dạng địa tô. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa khác với địa tô phong kiến. Địa tô tư bản chủ nghĩa là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ. Do sự tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng ruộng đất, giai cấp địa chủ, với tư cách là người sở hữu, thu địa tô, nhà tư bản là người kinh doanh ruộng đất - người sử dụng đất đai, thu được lợi nhuận.

Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài số lợi nhuận bình quân (P) của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra và nộp cho địa chủ. Có các hình thức địa tô sau:

- Địa tô chênh lệch (Rcl) là phần lợi nhuận phụ thêm, ngoài lợi nhuận bình quân, thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất thuận lợi hơn (về độ màu mỡ và vị trí thuận lợi). Đó chính là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt của nông phẩm trên ruộng đất tốt và trung bình. Địa tô chênh lệch Rcl được chia thành hai loại:

+ Rcl I: là địa tô thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên và vị trí thuận lợi hơn.

+ Rcl II: là địa tô thu được gắn liền với đầu tư thêm tư bản cho việc thâm canh tăng năng suất để thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong

thời gian hợp đồng thuê đất, Rcl II thuộc nhà tư bản.

- Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp Psn = (c+v+m) - (c+v+_)... Địa tô tuyệt đối gắn liền với sở hữu ruộng đất nhất thiết phải nộp cho địa chủ, dù ruộng đất đó thuộc loại xấu nhất.

- Địa tô độc quyền thu được trên những khu đất trồng được các cây quý hiếm, hoặc có vị trí đặc biệt về công nghiệp, thương mại,

dịch vụ.Nghiên cứu địa tô tư bản chủ nghĩa, ngoài mục đích vạch rõ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, chúng ta còn rút ra cơ sở lý luận để đề ra các đường lối, chính sách đối với nông nghiệp nhằm kích thích nông nghiệp phát triển, kết hợp hài hòa các lợi ích trong nông nghiệp cũng như giữa nông nghiệp với các ngành khác.

Thí dụ, xây dựng chính sách thuế nông nghiệp đúng đắn hợp lý nhằm khai thác được mọi tiềm năng ở nông thôn; tránh độc quyền

trong phân phối ruộng đất, tạo điều kiện cho cạnh tranh trong nông nghiệp và giữa nông nghiệp với các ngành sản xuất khác; vận dụng

lý luận về địa tô chênh lệch để khuyến khích mọi ruộng đất được khai thác bảo đảm công bằng xã hội (Rcl I); đề ra chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để khuyến khích người nông dân đầu tư thâm canh, cải tạo đất đai (Rcl II)...

18. Thế nào là công ty cổ phần và thị trường chứng khoán? Vai trò của chúng trong nền kinh tế hàng hóa?

Công ty cổ phần ra đời do lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đó là hình thức tập trung vốn để mở rộng sản xuất, giành lợi

thế trong cạnh tranh.

- Công ty cổ phần là loại xí nghiệp lớn mà tư bản của nó được hình thành từ sự liên kết nhiều tư bản cá biệt và tiết kiệm của các cá nhân bằng việc mua cổ phiếu.

+ Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá ghi nhận quyền sở hữu và quyền hưởng một phần thu nhập của công ty dưới hình thức lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần phụ thuộc mức doanh lợi của công ty cổ phần. Cổ phiếu mất giá trị khi công ty bị phá sản.

+ Cổ đông là những người mua cổ phiếu. Cổ đông được tham gia đại hội cổ đông, bầu cử ban quản trị và thông qua các quyết định

của công ty.

Trong chủ nghĩa tư bản, chỉ cần nắm được một số cổ phiếu đáng kể là đã khống chế, thao túng cả công ty.

+ Trái khoán là hình thức vay tiền do công ty phát hành. Người mua trái khoán hưởng lợi tức cố định và được hoàn trả.

- Thị trường theo nghĩa thông thường là tổng hợp các điều kiện thực hiện hàng hóa; là tổng hợp các mối quan hệ lưu thông hàng

hóa và lưu thông tiền tệ.

Thị trường chứng khoán hình thành trong nền kinh tế thị trường hay trong nền kinh tế hàng hóa đã phát triển cao. Thị trường chứng khoán là nơi giao dịch mua bán các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái khoán, kỳ phiếu, văn tự cầm cố và công trái).

Thị trường chứng khoán nhạy bén nhanh với các biến động trong đời sống, là "phong vũ biểu" của nền kinh tế. Bởi vì, thị giá

cổ phiếu, giá cả các chứng khoán liên quan đến tình hình kinh doanh của các công ty, đến tỷ suất lợi tức ngân hàng mà các chứng

khoán mang lại thu nhập cho người sở hữu nó. Giá cả chứng khoán tăng lên là biểu hiện của nền kinh tế đang phát triển; nếu ngược lại, là biểu hiện sự sa sút hay khủng hoảng của nền kinh tế. Trong chủ nghĩa tư bản, thị trường chứng khoán trở thành lĩnh vực đầu cơ làm giàu của những nhà tư bản lớn.

Đối với nước ta, với chủ trương đẩy mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, việc nghiên cứu và sử dụng công ty cổ phần và

thị trường chứng khoán có vai trò rất quan trọng. Chúng có tác dụng:

- Là đòn bẩy để tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi tầng lớp nhân dân, trong các đơn vị tập thể trong nước cũng như

ngoài nước.

- Kết hợp chặt chẽ các lợi ích kinh tế.

- Gắn vấn đề sở hữu với quyền sử dụng.

- Kết hợp sức mạnh của các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế.

- Tạo các mối liên kết và đa dạng hóa các hình thức kinh tế.

- Huy động vốn đồng thời tăng tốc độ chu chuyển đồng vốn và giảm tiền mặt trong lưu thông.

Câu 19. Vì sao có sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền? Các hình thức chủ yếu và bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì?

Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản. Nó xuất hiện vào cuối thế kỷă XIX đầu thế kỷ XX, là

sự phát triển tất yếu từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Đó là vì:

Một là, với sự phát triển của khoa học tự nhiên, những phát minh kỹ thuật được áp dụng làm cho lực lượng sản xuất cuối thế kỷ XIX có những bước nhảy vọt như phương pháp luyện kim mới,máy cắt gọt kim loại, những động cơ đốt trong và những phương tiện vận tải mới ra đời. Muốn sử dụng những thành tựu nói trên của khoa học - kỹ thuật, cần có nguồn vốn lớn. Điều này đòi hỏi sự tập trung tư bản và tập trung sản xuất.

Hai là, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, tư bản vừa và nhỏ bị phá sản hàng loạt, còn các nhà tư bản lớn thì phát đạt, tư bản được tập trung với quy mô ngày càng lớn.

Ba là, khủng hoảng kinh tế của thế giới tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873, càng đẩy nhanh sự tích tụ, tập trung tư bản và tập trung sản xuất.Sự tập trung sản xuất được thực hiện bằng cách thôn tính lẫn nhau giữa những xí nghiệp lớn và nhỏ và bằng cách tự nguyện thỏa thuận giữa các nhà tư bản.Tích tụ và tập trung sản xuất đến mức độ nào đó tất yếu dẫn đến độc quyền, vì số ít các xí nghiệp lớn dễ thỏa hiệp thống nhất với nhau hơn là nhiều xí nghiệp nhỏ. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp quy mô lớn sẽ gay gắt hơn, đề ra khuynh hướng thỏa hiệp để nắm độc quyền.Mới đầu, các tổ chức độc quyền phát triển trong một số ngành nhất định; sau đó, theo mối liên hệ dây chuyền, nó được mở rộng ra các ngành khác, với các hình thức chủ yếu:

+ Các-ten là loại liên minh độc quyền về giá cả, thị trường; các thành viên trong tổ chức độc quyền này vẫn độc lập cả trong sản

xuất lẫn lưu thông.

+ Xanh-đi-ca là loại tổ chức độc quyền mà các thành viên độc lập

về mặt sản xuất; ban quản trị đảm nhiệm việc lưu thông.

+ Tờ-rớt là tổ chức độc quyền điều hành tập trung. Các hoạt động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đều do một ban quản trị đảm nhiệm. Các nhà tư bản tham gia tờ-rớt mất hết quyền độc lập cả trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

+ Công-xoóc-xi-om là tổ chớp độc quyền cao, hỗn hợp những nhà tư bản lớn, những xanh-đi-ca, tờ-rớt... kể cả những ngành không

liên quan với nhau về kỹ thuật sản xuất. Tổ chức độc quyền này thống nhất về mặt tài chính và phụ thuộc vào một nhóm tư bản kếch xù.

+ Công-gơ-lô-mê-rát là tổ chức lũng đoạn khổng lồ đặt dưới sự kiểm soát về tài chính và quản lý chung của một nhóm tư bản độc

quyền lớn nhất. Quy mô và phạm vi của nó vượt ra cả ngoài biên giới quốc gia.

- Bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền:

Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị của tự do cạnh tranh. Nhưng độc quyền không thủ tiêu được cạnh tranh, mà ngược lại, cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Quan hệ độc quyền giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế với sự độc chiếm các nguồn nguyên liệu, phương tiện vận tải, thị trường vốn, nhân công. Vẫn giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản, song biểu hiện bề ngoài của nó đã chuyển từ quy luật lợi nhuận thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Với sự thống trị của độc quyền, mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản càng thêm sâu sắc.

20. Nguyên nhân của sự chuyển biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Đặc trưng, những hình thức biểu hiện và cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước?

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền với sức mạnh nhà nước thành một cơ chế thống nhất bảo vệ lợi ích của giai cấp tư bản độc quyền, duy trì và củng cố chế độ tư bản chủ nghĩa. Tiền đề khách quan cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời là tích tụ tư bản và tập trung sản xuất trong điều kiện thống trị của các tổ chức độc quyền cùng với những nguyên nhân trực tiếp là hàng loạt mâu thuẫn bên trong và bên ngoài của chủ nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn sâu sắc giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Việc xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất do quá trình tập trung, chuyên môn hóa, tổ hợp liên hợp hóa nền

sản xuất xã hội cùng với những thành tựu mới của tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã tạo nên một cơ cấu kinh tế đồ sộ; nó đòi hỏi có sự điều tiết xã hội đối với quá trình sản xuất.Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đẩy nhanh quá trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, biến đổi cơ cấu sản xuất. Điều đó đòi hỏi lượng tư bản lớn để cải tạo cơ cấu sản xuất, đổi mới tư bản cố định, nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc quyền không tự giải quyết nổi, cần có sự tham gia của nhà nước.

- Sự thu hẹp hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự ra đời của hệ thống đối lập là các nước xã hội chủ nghĩa, buộc bọn tư bản độc quyền phải nắm lấy nhà nước, biến nhà nước thành công cụ bảo vệ, phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Với sự cải biến nào đó về hình thức quan hệ sản xuất, nhưng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn mang những đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; nó chỉ là sự phát triển ở mức độ cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền với những đặc trưng sau:

+ Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô, lãnh đạo đời sống kinh tế từ một trung tâm.

+ Nhà nước phục vụ toàn diện nhu cầu của tư bản độc quyền;

ngược lại, tư bản độc quyền nắm và sử dụng sức mạnh bộ máy nhà nước bằng một hệ thống tác động qua lại phức tạp giữa nhà nước và các tổ chức độc quyền.

+ Nhà nước tham gia có mức độ việc điều tiết, giới hạn sự tự do hoạt động của tư bản, gắng điều hòa mâu thuẫn và hậu quả tiêu cực do thống trị của độc quyền sinh ra.

Những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

+ Nhà nước là chủ kinh doanh, tức là hình thành, phát triển sở hữu nhà nước: sở hữu của độc quyền nhà nước phục vụ lợi ích tư bản độc quyền. Sở hữu nhà nước hình thành bằng cách quốc hữu hóa tư bản chủ nghĩa, đầu tư xây dựng mới, góp cổ phần với tư bản tư nhân... Nhà nước quốc hữu hóa để cứu tư bản tư nhân khỏi phá sản; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ít lợi nhuận, vốn lớn; đầu tư nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật...

+ Nhà nước thực hiện chính sách thu nhập: phân phối lại thu nhập của các xí nghiệp nhà nước có lợi cho tư bản độc quyền. Với

"hệ thống bảo hiểm xã hội" nhà nước điều tiết các quan hệ phân phối, làm lợi cho các tổ chức độc quyền.

+ Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng việc sử dụng các hệ thống tài chính, tín dụng, tạo thị trường, can thiệp vào quan hệ kinh tế

quốc tế.

Với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế điều tiết nền sản xuất xã hội có bước ngoặt lớn. Đó là sự kết hợp hữu cơ giữa sự điều tiết của quan hệ thị trường với sự điều tiết tập trung của nhà nước. Các tổ chức độc quyền điều tiết vi mô bằng các kế hoạch trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường. Nhà nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô bằng việc dự báo, dự đoán và định hướng từng thời kỳ, với các công cụ chương trình hóa kinh tế chính sách cơ cấu và các hệ thống tài chính tín dụng, chính sách đầu tư...

Như vậy, cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước tạo ra sự phối hợp điều tiết hợp lý hơn tính tự phát của cơ chế thị trường trong tự do cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ktctri