ky uc-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Mẹ, con, và… bát gà hầm

 Dành tặng Mùa Vu Lan

Mỗi khi tháng 7 về, bất chợt nghe thấy bài hát "Bông hồng cài áo" phát ra từ loa đài, ti vi nhà ai đó tôi lại thấy hạnh phúc vì mình vẫn còn thuộc nhóm người được "cài hoa hồng" trên áo.

Tôi 26 tuổi, độc thân, xa nhà. Hôm nay là chủ nhật. Tôi một mình nằm dài trên chiếc giường nhỏ trong ký túc công ty, nhìn những tia nắng sớm xuyên qua tán sấu xanh non bên khung cửa sổ, những hạt bụi óng ánh vàng bay thành một luồng sáng khi nắng hắt vào phòng. Lòng chợt thấy trống trải quá. Bỗng thấy nhớ mẹ.

háng trước về nhà, mẹ làm món gà hầm mà tôi yêu thích. Mẹ xót tôi gầy quá, cứ ép ăn thêm. Rồi mẹ lại kể chuyện "ngày xửa ngày xưa" mẹ chăm tôi như thế nào. Chuyện "ngày xưa" tương tự thế này tôi đã được nghe nhiều lần lắm, nhưng chuyện về con gà hầm thì lần đầu tiên tôi được nghe. Mẹ kể rằng lúc tôi lên hai thì mẹ sinh em trai tôi, nhà ông bà nội rất nghèo, chẳng có gì mà tẩm bổ, thèm thịt gà mà lâu rất lâu mới có ăn. Có hôm bà nội mua được con gà ri bảo mẹ hầm mà ăn, bà còn dặn đi dặn lại "Phải ăn cho có sức, không phải cho trẻ con ăn, nó ăn cái khác được rồi". Con gà ri bé xíu chỉ đút vừa vặn cái cặp lồng con con, bỏ chút lá ngải, mắm muối vào rồi bỏ vào một cái nồi to, cho lên bếp luộc cách thủy. Gà chín, mẹ giấu bà gỡ cho tôi ăn, mẹ bảo "thấy con thèm khát mẹ nào nỡ ăn một mình". Bao nhiêu miếng thịt mẹ gỡ hết đút cho tôi, còn tôi lóc chóc há chiếc mỏ như mỏ chim ăn hết miếng này đến miếng khác. Đến khi hết thịt rồi chỉ còn lại cổ cánh với hai cái chân, tôi vẫn thèm thuồng. Mẹ bảo :

- Hết thịt rồi, chỉ còn toàn xương thôi con ạ!

- Xương con cũng ăn! - Tôi bé dại nào có biết gì, mẹ lại thương rớt nước mắt.

Trẻ con ngày xưa đứa nào cũng thèm miếng ăn, đâu có như trẻ bây giờ điều kiện đầy đủ, ép ăn còn chẳng được. Lúc tôi lên bốn, thằng em lên hai, mẹ bị ốm. Bà nội hầm gà cho mẹ ăn. Gà chín, mẹ gọi hai đứa:

- Ăn gà hầm nào các con ơi!

Thế là hai đứa chúng tôi háo hức mỗi đứa xách một cái ghế gỗ con con đến sắp hàng ngồi đó. Mẹ lại gỡ thịt cho hai đứa ăn. Như mọi lần, phần của mẹ chỉ còn lại chút nước và cổ cánh, xương xẩu.

Tôi cứ nghĩ miên man mãi về câu chuyện "ngày xửa ngày xưa" ấy, rồi tưởng tượng ra trong đầu cảnh hai đứa trẻ chiêm chiếp như chim non đòi ăn, còn mẹ thì đang mớm mồi, che chở cho chúng tôi. Tôi bất giác nghĩ ra rằng đã một tuần trôi qua, công việc bận rộn cứ cuốn đi, tôi chưa gọi điện cho mẹ lần nào. Tôi quàng tay với chiếc điện thoại và gọi cho mẹ. Tiếng mẹ thân thương từ đầu dây bên kia như những tia nắng làm lòng tôi ấm áp, yên ả.

Ký ức thời tem phiếu. ( kỳ 2: một bữa ăn tươi)

Ngày ấy có lẽ việc thấy mẹ rán mỡ lợn (heo) là điều mình mong mỏi nhất mỗi khi đi học về, cái cảm giác thơm ngậy béo quyện với mùi bếp dầu ngai ngái xộc vào mũi đến giờ vẫn nhớ. Thường thì khi tóp mỡ đã teo lại mẹ sẽ cho phép mình nhón tay bốc trực tiếp từ cái chảo nóng đang sôi xèo xèo kia một miếng bỏ thẳng vào mồm, ôi chao ...nóng phỏng lưỡi nhưng mà sướng râm ran cho đến khi mình ngậm miếng tóp mỡ lạt nhách rồi mới nuốt (đây là tuyệt chiêu nhé bác nào muốn biểu diễn thò tay vào dầu mỡ đang sôi sùng sục thì mình sẽ chỉ cho ). Mỡ rán xong chỉ còn cái tóp (xác) cứng queo mẹ sẽ phi với hành kho, cà chua hoặc rán với trứng một ít ( hồi đó muối rất rẻ nên mẹ thường hào phóng cho quá tay không hề tiếc), số còn lại sẽ lại bỏ chung vào lọ mỡ để ăn dần. Món khoái khẩu của mình là lấy trộm tóp mỡ vùi sâu trong bát cơm nóng rưới thêm tý nước mắm là đủ mồi cho cả bữa mà không cần nhìn đến đĩa rau luộc.

Việc có được miếng thịt nạc (hoặc 3 chỉ/ rọi) là điều xa xỉ nếu không muốn nói là chỉ thấy trong những mâm cỗ ở đám giỗ, đám cưới hoặc ngày Tết. Không phải là mẹ không mua mà đơn giản là phải lọc ra để làm ruốc ( chà bông) cho thằng út, lọ ruốc ấy mình vẫn nhớ nó luôn được cất kỹ trong ngăn trên có khóa của cái chạn bếp. Mẹ quản lý rất chặt nhưng mình luôn lấy trộm bằng cách cậy cái vách phía sau ( hậu) chạn để ăn với cơm nguội mỗi khi đi học về sớm mà nhà chưa có ai về trước.

Vài ba tháng một lần ông bà Ngoại có lên thăm, quả thật ngày ấy là một lễ hội với mình và cả nhà vì mình biết chắc ngoài trái cây vườn ông bà tự trồng thế nào cũng có thêm chục trứng hoặc tuyệt nhất là nghe tiếng kêu quác quác của con gà bị trói chân nằm góc bếp chờ bố mình xuống tay. Ở nhà mình rất có trật tự nề nếp việc này có thể thấy rõ ngay trên việc chia phần trên con gà. Hai cái cẳng là của mình và cu anh, hai cái đùi là của thằng út ( sao mình ghét nó thế), cái đầu là của bố, và mẹ là cặp cánh ( nhưng cuối cùng mẹ cũng lại chia cho 2 AE, riêng có cái phao câu luôn là sự tranh chấp quyết liệt của mình và cu anh ( phần thắng thường nghiêng về mình sau khi có đổi lại 2 hoặc 3 cái ngón chân gà kèm theo mấy sợi gân lòng thòng đã được mút kỹ). Bộ lòng, mề, tiết luôn là đĩa xào mướp hoặc một nồi canh với đủ chủng loại rau hái ở vườn rau tự quản khu tập thể hoặc tiện thì ông bà Ngoại mang lên kèm con gà. Lông gà được mẹ phơi khô gom lại bán cho mấy bà đồng nát ( ve chai) nhưng không được giá bằng lông vịt. Các bác có thể thắc mắc vậy cái thân gà nó ở đâu? Dễ thôi nó vẫn trong nồi nhưng là ướp với riềng, sả, muối, ớt rồi kho thật mặn để ăn dè. Mình thì chả ngại vì luôn biết nó được cất ở đâu và cái chiêu cậy phía sau chạn ăn vụng lại được áp dụng.

Có chuyện này nghĩ lại cũng buồn cười: ở khu tập thể việc nhà nào làm bữa ăn tươi gần như là chuyện để cả ngày xóm sẽ bàn tán xôn xao thế nên hầu như gia đình nào có được bữa cải thiện đều làm khá lén lút, ngay cả khi chặt xương thịt cũng phải nhẹ tay tránh để kinh động nhà hàng xóm. Bố mẹ thường hay mắng mình chuyện có miếng thịt sau khi ăn 2, 3 bát cơm vẫn còn sau đó ngậm trong mồm chạy đi khoe với bọn trẻ vậy là lộ hết. Nhân chuyện này cũng nói để các bác biết việc mải nói khi ngậm thịt mình làm rơi xuống đất hoài nhưng nhặt lên phủi phủi bỏ lại vào mồm là bình thường, chả có gì phải nhăn mặt vào thời ấy cả.

Ngoài mấy đặc sản trên bữa tươi nhà thỉnh thoảng cũng có lòng lợn, thường là có dịp nào đó có khách quý kết hợp với việc cửa hàng bán thịt có lòng ngon ( mẹ quen cô bán thịt - niềm tự hào vênh váo của mình đấy vì sẽ không phải xếp hàng lâu và sẽ được phép chọn miếng thịt theo ý của mẹ). Dồi luôn là món bố làm rất ngon mặc dù mình chẳng thể biết bố độn hầm bà lằng những gì vào bên trong, còn lòng non (phèo chứ không phải dồi trường nhé) luôn là món sở trường của mẹ, bây giờ vẫn vậy mẹ tuốt rất khéo cứ khoảng 5, 7 xăng ti lấy dao chích ra 1 tý khi làm tuốt nhẹ tay, chất bột trắng trong lòng ( thực ra là chất tiền phân) không bị mất, sau khi luộc miếng lòng trắng xanh cắt ra ăn nóng thì ôi thôi rồi.

Bây giờ đã có điều kiện hơn nhưng không hiểu sao kể cả những món của ngon vật lạ cũng chẳng thể làm mình lưu luyến và nhớ lâu bằng những bữa ăn tươi ngày ấy.

p/s: mình viết bài này nhân ngày 8/3 như một món quà tặng mẹ để nhớ về một thời rất khổ nhưng gia đình mình luôn đầy ắp tiếng cười và hạnh phúc. 

Xin lỗi mẹ nếu như đến bây giờ mẹ mới biết lý do tại sao mẹ quản lý rất chặt lọ ruốc và nồi thịt kho mà vẫn bị ngót.

Một bữa em được bọn trẻ trong khu TT cử làm trưởng nhóm mãi lộ đi trấn lột tiền thì gặp 1 chú rất bướng lấy nhiều nhưng đưa tiền ít, chuẩn bị dọa báo bảo vệ thì chú ấy thọc ngay tay vào cái thùng đựng đầy xxx móc lên 1 vốc thanh minh: tụi mày xem hôm nay xxx toàn giấy xi măng với lại loãng quá không đặc và tươi như mấy lần trước mà đòi như thu tiền cũ thì tao còn gì mà ăn. Cha mẹ ơi ngày hôm ấy em khỏi ăn cơm luôn và cũng từ hôm đó em xin ra khỏi cái hội trấn lột tiền của các chú thùng lục.

Chuyện này chỉ có bác nào đã sống qua thời bao cấp trong tập thể CQ nhà nước mới tin được, còn các bác 8x, 9x chắc ...vãi. Em đang tính nhờ Gấu nhà tài trợ ( về thời gian thôi) làm một hồi ký (trên mạng) những ngày tươi đẹp trong quãng năm 80 - 90 thế kỷ trước làm nhiều kỳ post lên ( nhờ bác nào văn hay chữ tốt...như bác Chip  biên tập lại) thỉnh thoảng tám chơi cho bớt đau đầu với Audio, các bác nếu ủng hộ cho em cái biểu quyết nhé. Thanks all!

Nếu có bác nào đã từng có trải nghiệm ( nói vậy cho khỏi quên là mình đang ở HDVN) qua thời kỳ huy hoàng thủa ấy xin kể lại để cùng chia sẻ biết đâu đó ...lại gặp cố nhân. Em quê gốc Thái Bình, ...tay gậy tay bị khắp nơi tung hoành

PATE BÒ NGÀY XƯA

Nhớ hồi năm nẵm năm xưa, tôi ước ao lớn lên có tiền sẽ ăn thỏa thích những món ăn mình lúc nhỏ đã ưa thích. Hồi nhỏ hay ngẫm nghĩ: làm người lớn sao thật là oai, có thể làm bất cứ gì mà mình muốn, muốn đi chơi đâu cũng được, khỏi học bài, khỏi phải ngủ trưa, có tiền muốn ăn gì cũng được!

Hồi đó, Tân Châu có xe bò viên của ông chệt Nám, bò viên nhà ông làm ngon lắm. Chiều tối, được ba mẹ dẫn đến đi ăn bò viên, xong ăn tiếp sâm bổ lượng của ông Ẻo, thật là thích. Nhưng ông chệt Nám còn làm một món rất hấp dẫn, đó là món Pate Bò. (Đúng ra phải gọi chả Bò, nhưng không hiểu sao ở Tân Châu hồi đó hay gọi Pate?! ). Món nầy đúng là tuyệt hảo, nhưng đã trở nên tuyệt tích giang hồ từ lâu. . 

Ngày đó tôi mê món nầy lắm, tụi tôi mỗi khi có tiền ăn hàng liền chạy đến nơi bán mua mua được miếng pate nho nhỏ khoảng hai ngón tay, ghim vào cây tăm vừa đi vừa ăn nhín nhín, thích lắm. Có hôm xui, đang ăn nhin nhín, chỉ dám cắn chút chút vòng quanh miếng pate, đột nhiên lỡ tay làm rớt phần còn lại xuống đất, tiếc ơi là tiếc, chỉ biết chắc lưỡi hít hà! Trong khi tôi thấy cậu tôi thỉnh thoảng mua nguyên “cây” pate bò cầm ăn. Cậu vừa ăn vừa nhịp giò, thỉnh thoảng đút cho chúng tôi mỗi đứa cắn một miếng, thiệt ngon ơi là ngon! Tôi ước ao mai nầy lớn sẽ có tiền mua pate bò ăn thoãi mái giống vậy (!) 

Ký ức về món pate ngày đó còn lưu giữ thật đậm nét : đó là món ăn hao hao giống món chả lụa, nhưng được làm bằng thịt bò, màu không trắng hồng giống màu chả lụa mà hơi nâu hồng và hơi ngã sang màu của bò viên, nhưng ngon hơn chả lụa và ngon hơn bò viên nhiều. Thành phần pate bò bao gồm thịt bò quết mịn, nêm nếm gia vị, để ít hạt tiêu đâm bể và cho mở cắt hạt lựu trộn vào, gói lại rồi đem hấp chín ( (Hic!) Chắc là làm tương tự vậy- cách làm do cảm nhận khi ăn rồi đoán thôi, chứ biểu tôi làm là tôi thua chắc). Cây pate có hình oval: tiết diện khoảng 3cm x 5cm, dài dài khoảng gang rưỡi tay người lớn. Cắn vào một miếng , chao ôi là ngon! Này nhé, miếng pate thơm phức, đậm mùi thịt nhưng không tanh mùi bò, thớ pate dai dai giòn giòn, lực xực, vị thơm ngọt đậm đà làm sao. Những hạt mỡ trắng li ti lẫn trong pate hơi tươm mở mềm làm miếng pate beo béo, dai giòn nhưng không cứng mà mềm mướt. Khi ăn đừng nhai nhanh, phải nhai từ từ, chậm chậm, như nghiền ngẫm, như tận hưởng cái dai giòn của pate đang lực xực trong miệng chuyễn sang mềm mịn nhưng không nát hay bị bã, càng nhai vị của pate càng thấm dần, thấm dần vào vị giác, ngấm vào lưởi, từ từ trôi xuống cổ họng, từng miếng, từng miếng một…thơm, béo, đậm đà. Đã vậy, trong pate có pha lẫn nhiều hạt tiêu, nếu lỡ nhai phải hạt tiêu, nghe “bụp” một cái: một vị thơm nồng tỏa ra, cay nhẹ đầu lưởi, thơm thơm nồng nồng trong miệng kích thích vị giác càng thêm thú vị. 

Ta có thể ăn pate bò này như một loại thịt nguội, dùng để ăn với bánh mì : ổ bánh mì vàng rộm kẹp miếng pate bò thơm béo- vị đậm đà, ngon phải biết! Thật là ăn đứt một số loại thịt nguội tương tự khác

Ngoài ra, nhà tôi còn một cách ăn khác: đó là ăn với cơm nguội. Chuẩn bị: cắt pate ra từng miếng khoảng 2 ngón tay, dưa leo xắt dầy miếng, cắt lấy đầu hành trắng. Khi ăn: lấy miếng pate, cặp dưa leo, đầu hành chấm vào nước mắm ngon đã có dằm trái ớt hiểm, ăn với cơm nguội xem, còn gì bằng! Thường, có những hôm vào trời tối, chợt thấy đói bụng muốn ăn gì đó thêm trước khi đi ngủ, ai đó trong nhà khởi xướng ăn pate bò, thế là chúng tôi đứa xin tiền mẹ chạy mua pate, đứa bê nồi cơm nguội chờ sẵn, đợi đem pate về là a lê hấp nhập cuộc, ngon số-zách luôn, ăn no thở dốc mà vẫn còn thấy thòm thèm.

Tôi nghe ba tôi kể lại, trước ông Nám có ông sáu Địa- nhà ở trong hẽm giữa nhà buôn Phước Hưng và nhà in Nhất Trí- ngày trước- làm món Pate bò ngon tuyệt cú mèo, hơn hẵn pate bò của ông Nám luôn. (hỗng biết các vị cao niên ở Tân Châu có ai còn nhớ không ta?). Theo lời ba tôi, pate của ông sáu Địa làm rất ngon, và cách ăn cũng rất khá đặt biệt, đó là phải ăn kèm với cọng hành- phần đầu trắng và miếng củ cải trắng mới đúng kiểu. Khi ăn, vị hăng nồng của đầu hành và củ cải trắng hòa trộn vào nhau, xông nồng lên mũi cho cảm nhận hương vị pate càng thơm ngọt đậm đà, tăng phần tuyệt hảo (chắc tương tự như lúc ăn wasabi ?).

Không hiểu sao, món pate bò ở Tân Châu dần bị thất truyền. Dạo đó, có một thời gian con ông Nám tiếp nối làm pate để bán ăn kèm bánh mì, nhưng họ chỉ bán được thời gian ngắn rồi ngưng hẵn. Tân Châu bây giờ không có ai làm pate bò như thế nữa. Tôi cứ nhớ mãi hương vị nầy. Cho đến bây giờ, ở đâu tôi thấy có bày bán món chả lụa bò hao hao giống là tôi tấp vào mua ăn thử, nhưng đều bị thất vọng não nề vì không có được cảm nhận của vị pate bò đã ăn ngày xưa: chổ có nêm rau thì là vào theo kiểu chả bò miền Bắc nên mùi vị hăng hăng, nơi thì pha trộn bột nhiều không còn vị ngọt ngào của thịt, chổ làm thớ chả dai cứng không mềm mướt như pate bò ở Tân Châu ngày xưa …v.v.v.

Thật là càng nhắc càng nhớ, càng nhớ càng mắc thèm…! Thôi thì đành ngậm ngùi tiếc nuối một món ăn của quê xưa chỉ còn lưu giữ trong dĩ vãng.

Châu chấu

Phác thảo chân dung đời sống của nền văn minh lúa nước, một nhà thơ Việt Nam, trong tập thơ đoạt giải National Book của Mỹ đã viết: Nghe vọng lại mùa châu chấu đói, xoè cánh bay qua vòm họng người nghèo. Vâng! Đối với người nghèo, nhất là những người nông dân xưa, châu chấu là món ăn cứu đói trong những ngày giáp hạ. Nhưng ngày nay, vẫn là món ăn tưởng chỉ có ở quê nghèo ấy, châu chấu đã lên ngôi đặc sản trong những nhà hàng sang trọng. 

Ở Châu Phi, nhiều người nói rằng, châu chấu rang với các loại lá cây non trong rừng rậm là món ăn ngon trong ngày lễ thánh, nhất là vào ngày rửa tội của một cháu bé trong thôn nào đó vừa chào đời. Với người Lào, Miên…chủ yếu là đồng bào vùng cao thuộc các dân tộc ít người, châu chấu cũng là món ăn được ưa thích. Những con châu chấu, chuột, rắn,nhái…để nguyên cánh, da, lông, không rửa qua nước cho vào ống bương già, rải lên lớp muối dựng ở góp sàn bếp. Món ăn chín nấu trong ống bương bằng vỉ men và sức nóng ấy gọi là mắm châu chấu, chỉ dùng thết đãi khách quý, người thân. Vì vậy, khi nhìn thấy món ăn này, bạn chớ bịt mũi không ngửi nổi… đừng nói là ăn (!)…gia chủ sẽ không bằng lòng đấy! 

Còn ở Việt Nam, như đã nói, châu chấu là món ăn quen thuộc của nhà nghèo. Món châu chấu xuất xứ từ đâu, không ai rõ. Theo giáo sư Từ Chi, nếu ăn rau dại là tập tục của người Mường cổ được người Việt kế thừa thì có lẽ châu chấu, cũng là thành phần trong danh sách thực đơn của người Mường xưa để lại cho ngày nay. Song với tôi, trong bước vượt dài của nền văn minh nhân loại từ ăn sống đến ăn chín, tôi nghĩ rằng bọn trẻ cũng là một trong những tác giả sống động nhất của món ăn thiên nhiên. Dám chắc điều đó, bởi trong ký ức của mình, tôi luôn phảng phất mơ mùi hương đồi cỏ heo may và châu chấu nướng vàng thơm phức. Hồi đó, những con cà cuống còn chưa khan hiếm và lũ châu chấu cũng còn bay ràn rạt trên mặt lúa. Bọn trẻ chúng tôi dọ dẫm bắt từng con một, xiên qua thanh tre cật già, gác lên bếp lửa. Gọi là bếp cho oai, thực ra, chỉ có ba hòn đá kê khuất giữa những lùm cây tránh gió…Và xung quanh là những cặp mắt hau háu nhìn vào thanh tre, chờ cho từng chiếc cánh châu chấu cháy xém, để lộ thân hình lẳn tròn, bóng mượt mỡ màng… 

Nhưng không chỉ có bọn trẻ chúng tôi mới biết mê món ăn châu chấu. Người lớn ở nhà quê cũng rất thích “phá mồi” món châu chấu rang, thêm chút rượu cuốc lủi đã thành hạng sang nhất quốc. Cho đến nay, rang có thể xem là hình thức chế biến món ăn phổ biến nhất. Thường vào những hôm sau cơn mưa, đặc biệt là mùa giông đầu mùa hạ, châu chấu bị ướt mưa, nặng cánh, không bay được, nên rất dễ chụp bắt cho vào giỏ mây đeo bên hông hay vặt cánh, đút vào miệng nhai như trẻ con đi tìm mồi cho chim. Loại châu chấu béo ngậy, bé ruột, thơm ngon, nhiều thịt nhất là châu chấu sim. Toàn thân châu chấu sim màu xanh, lớp cành trong hồng phấn mỹ miều xinh đẹp nhưng đôi bắp càng to bự, món thú vị nhất của dân “nhậu” lại là một vũ khí lợi hại. Chỉ cần bạn sơ ý, sẽ bị ăn một búng chân vào tay còn con mồi của bạn thì bay vù giữa đám cỏ xanh, mất dạng. 

Bây giờ, các kiểu bắt thủ công phần nhiều đã được cải tiến, vì theo kiểu bắt từng con một, nói vui như bọn trẻ con là…chờ đến năm sau mới có đủ một đĩa thức ăn! Bạn chỉ cần một chiếc lưới mỏng tang, bền chắc, mắt lưới đan dày hệt như mớ bòng bong giũ tép, rải lên thảm cỏ. Đêm xuống, châu chấu đáp xuống cỏ tìm giấc ngủ sẽ bị tóm gọn cả đàn. Chỉ cần vặt cánh, kéo ruột, đặc biệt không rửa qua nước vì nước lạnh làm máu châu chấu rất tanh (ở đây, tôi ngờ rằng các nhà hàng chế biến có chất dung dịch rửa sạch con châu chấu như là bí quyết nấu ăn riêng không thể tiết lộ, và chỉ đành giới thiệu theo kinh nghiệm “nhà quê” của bản thân),chờ chảo mỡ nóng già, cho châu chấu vào đảo đều đến lúc chín vàng, bạn đã có món châu chấu rang rồi đấy. Cách chế biến này thật đơn giản, không khác lắm với kiểu rang con nhộng tằm, cũng là một món ăn đặc sản bình dân kỳ thú của miền Bắc. 

Còn có nhiều cách chế biến món ăn châu chấu khác, nghe có vẻ cầu kỳ và “cao cấp” hơn mà tôi đã từng được may mắn thưởng thức qua, là món châu chấu xào sả ớt và lẩu châu chấu. Món ăn châu chấu xào sả ớt, cũng không xa lạ lắm nếu bạn đã từng hít hà vị cay thơm ngọt của những đùi ếch trắng phau được phủ lớp gia vị màu hấp dẫn. Có khác một chút, món ếch xào sả ớt phải đi kèm với bánh mì để…chấm chấm gặm gặm thì châu chấu xào sả ớt không có nước. Theo các chuyên gia đầu bếp, sở dĩ khác nhau như vậy vì xào khô là cách tốt nhất để bảo toàn độ giòn tan béo ngậy rất riêng biệt của con châu chấu. 

Còn món lẩu …thật khó hình dung và nuốt nổi món này nếu bạn chỉ tưởng tượng. Tuy nhiên, đây là món ăn rất đặc biệt, thấm đẫm hương vị đồng quê. Gần với kiểu nấu món lẩu cá lóc đồng, món lẩu châu chấu cũng cần các thứ phụ gia như lá rút, me chua, măng dưa muối chua, tai chua, đậu rồng, rau ngổ…Song nếu như con cá lóc đồng sau khi chế biến làm sạch ướp gia vị được cho ngay từ đầu vào nồi nước dùng để ngọt nước thì món lẩu châu chấu, ngược lại, phải đợi đến khi nồi nước dùng có đủ các thứ phụ gia sôi đều, hớt bọt, cho gia vị vừa ăn, đặc biệt là không thể thiếu vị cay của ớt và gừng, rồi mới trút châu chấu đã rang vàng từ đĩa vào. Con châu chấu vàng rộm ngấm nước chua, đặt trên một bát bún sợi to, ăn kèm với giá đậu, chuối chát cùng với các loại rau thơm khác thật sự là món ăn khoái khẩu. Vấn đề là.., bạn có dám ăn không? 

Nhiều thực khách , nhất là các bạn gái, chỉ nghe đến món châu chấu, nhộng tằm, trứng kiến, thịt chuột…đã xanh mắt lè lưỡi. Nhưng đấy chỉ là số ít thôi. Ở các khu vực chợ Ông Tạ, chợ Phạm Văn Hai, T.P Hồ Chí Minh, nơi tập trung rất đông người miền Bắc vào sinh sống, món ăn châu chấu vời nhiều kiểu chế biến khác nhau vẫn luôn được ưa chuộng. Chắc hẳn, nhiều người cũng muốn tìm đến món ăn này như để tận hưởng chút phong vị dân dã của thiên nhiên hay để hồi nhớ lại những khoảnh khắc ấu thơ, trên triền đê lộng gió, bao nhiêu cặp mắt đã chầu quanh con châu chấu nướng vàng…

Tết, nhớ, nhớ mẹ

Tết là thời gian dừng lại, nghỉ ngơi và nghĩ ngợi. Và nhớ. Ngày xưa, ở Việt Nam, cái gọi là dừng lại có khi kéo dài cả tháng, “tháng giêng là tháng ăn chơi”. Bây giờ, ở Việt Nam, thời gian nghỉ Tết cũng kéo dài khá lâu. Công sở, nếu không đóng cửa sau ba ngày Tết, thì nhân viên cũng ơ hờ không mấy khi tất bật như trước. Còn ở hải ngoại? Năm nay, Tết rơi vào Thứ hai, hầu hết đều vẫn đi làm như bình thường. Tôi cũng đi làm. Thật ra, cũng chẳng có ai bắt buộc. Đi dạy, mùa này, ở Úc, là hè. Sinh viên đang nghỉ. Thầy cô giáo muốn đến trường thì đến. Không thì thôi. Có đến thì cũng vào văn phòng, đóng cửa lại, ngồi với computer và sách vở. Một mình.

Tôi đến trường, một mình ngồi trong văn phòng. Ngồi thừ người ra nhớ. Nhớ những cái Tết hồi nhỏ. Dạo ấy, chiến tranh và nghèo khó, chỉ có dịp Tết mới thực sự có quần áo mới và mới thực sự ăn những loại bánh thèm thuồng cả năm. Ở miền Trung, không có bánh chưng. Mẹ tôi chỉ nấu bánh tét, bánh tổ, bánh ít, làm bánh in, trưởi (giống tré ở Huế và nem ở miền Bắc nhưng làm bằng thịt heo – chủ yếu là thịt phần đầu – luộc chín) cũng như các loại mứt, nhiều nhất là mứt gừng. Không hiểu sao, hồi nhỏ tôi lại thích bánh tổ nhất. Thường, đó là loại bánh ăn sau cùng, khi Tết đã qua hẳn. Bao giờ người ta cũng ăn các loại bánh khác trước. Có lẽ lý do chính là vì bánh tổ, vốn không có nhân, chỉ toàn bột và đường, để lâu được chăng? Để lâu đến độ có khi nổi mốc, mặt bánh lốm đốm xanh. Không sao cả. Chỉ cần lấy dao gọt lớp mốc xanh ấy, rồi cắt bánh ra từng lát, bỏ lên chảo chiên, cả nhà xúm vào ăn ngon lành. Chao ôi, nó dẻo, thơm và ngọt làm sao. Ăn xong cứ hít hà mong đến Tết lại để lại được ăn bánh tổ. Sau này, khi đã sống ở hải ngoại, nhiều năm liền, đến Tết, tôi vẫn bồi hồi nhớ đến hương vị của bánh tổ. Chỉ cách đây năm bảy năm gì đó, trong một dịp tình cờ, tôi lại được ăn bánh tổ. Trước khi ăn, nhìn ổ bánh, thấy nôn nao một cảm giác kỳ lạ. Bao nhiêu hồi ức từ tuổi thơ ùa về. Thấy mình là một thằng bé quần áo nhem nhuốc ngồi chờ mẹ chiên bánh. Nước miếng tôi ứa ra khi nhìn người bạn đưa dao cắt bánh ra từng lát, từng lát. Khi bánh được cho vào dĩa, để trước mặt tôi, tôi nhìn trân trối. Tôi xắn một miếng nhỏ, đưa vào miệng một cách trân trọng. Và nhai từ từ. Lạ lùng, không thấy ngon chút xíu nào cả. Nếu không muốn nói là dở. Dở ẹt.

Mà cũng phải. Nghĩ xem, làm sao ngon được khi nó chỉ có nếp và đường? Không có vị gì khác. Nếu có, may ra, chỉ có mùi lá. Mà lá thì, để lâu, đến héo queo, còn gì là mùi vị nữa chứ?

Biết vậy, nhưng tôi vẫn cứ ngạc nhiên không hiểu sao hồi nhỏ mình lại thấy ngon đến như vậy. Tại thiếu thốn quá ư? Một phần. Nhưng có lẽ chỉ là một phần nhỏ. Gia đình tôi dạo ấy không phải quá nghèo để đến nỗi thiếu ăn. Hơn nữa, các loại bánh khác cũng có. Nhiều nữa là khác. Bánh tét bao giờ mẹ tôi cũng nấu cả một nồi lớn, như ở miền Bắc người ta nấu bánh chưng. Ngoài ra, còn có bánh ít, một món tôi cũng rất mê. Vậy mà tôi vẫn cứ thích và nhớ bánh tổ. Hình như có một cái khác ở bánh tổ khiến tôi bị quyến rũ đến như vậy. Cái gì là cái gì? Tôi nghĩ mãi vẫn không tìm được câu trả lời.

Có điều, tôi biết, thức ăn không phải chỉ là chuyện thức ăn. Cái lưỡi nào cũng nặng trĩu ký ức. Người ta ăn là ăn với cả kỷ niệm. Món ăn ngon chỉ ngon một phần vì bản thân nó; còn lại, là vì những thứ không dính dáng gì đến gạo, bột, thịt hay cá. Tôi có ông anh ruột, lúc nào cũng nhắc đến những món ăn mẹ chúng tôi nấu hồi nhỏ. Anh vừa nhắc vừa chép miệng, thèm thuồng. Với anh, dường như không có món ăn nào trên đời ngon hơn những món ấy cả. Rồi anh loay hoay tìm cách nấu thử. Ăn xong, chê: Không ngon bằng mẹ nấu! Rồi lại thử món khác. Rồi lại tự chê: Vẫn không ngon bằng mẹ nấu!

Có lẽ cả đời, anh cũng sẽ không tìm ra được món ăn nào ngon hơn món mẹ nấu hồi nhỏ.

Bản thân tôi hay đi đây đó. Ăn uống ở các tiệm Tây hay Tàu, ngon, sang và đắt tiền đến mấy, vẫn có cảm giác thiếu thiếu một cái gì. Một người bạn tôi cũng có kinh nghiệm y như vậy. Trong một bữa ăn ở Canberra mới đây, bạn tôi nói: “Ăn thức ăn không phải của Việt Nam, thấy ngon, nhưng không thấy… đã!”

Phải, cái cảm giác thiếu thiếu ấy chính là cảm giác… đã.

Chỉ có thức ăn Việt Nam, đặc biệt những món chúng ta ăn từ nhỏ, do mẹ nấu, mới làm chúng ta thấy “đã”.

À, mà bạn có thấy chữ “đã” trong tiếng Việt hay không nhỉ? Bỏ qua cái nghĩa diễn tả thời gian (đã/đang/sẽ), chữ “đã” được dùng để diễn tả cảm giác thỏa mãn một nhu cầu sinh lý hay tâm lý nào đó. Nhiều nhất là nhu cầu sinh lý: gãi đã ngứa, ngủ đã mắt, nghe đã tai, uống đã khát, ăn đã miệng… Trong tất cả những cách diễn tả này, dùng chữ “thỏa mãn” có lẽ chưa hẳn chính xác. Trong chữ “đã”, còn có cái gì như sung sướng, hả hê. Hãy tưởng tượng một người đang “đã”: mặt hắn hẳn phải nghệch ra, đờ đẫn hẳn đi. Phải không?

Làm người, chúng ta mang trong mình, và nhất là trên lưỡi, những nỗi thèm hầu như bất tận. Nỗi thèm ấy gắn liền với ký ức. Mà ký ức không bao giờ chỉ là ký ức. Ký ức nào cũng được bồi đắp bằng tưởng tượng. Để càng ngày càng lớn, càng lấp lánh và càng đẹp hơn. Thỏa mãn những cơn thèm gắn liền với ký ức, do đó, hầu như là một điều bất khả.

Ồ, mà cái lưỡi đâu phải chỉ biết nhớ hay thèm một món ăn. Còn bao nhiêu hương vị nữa chứ. Những hương vị, thiếu chúng, người ta không bao giờ thấy “đã” được.

Mà thôi. Tết, lại ngồi nhớ linh tinh.

Chẳng có nỗi nhớ nào liên quan đến “thế sự” cả.

Nguyễn Hưng Quốc - Thức ăn ở Trung Quốc

Nguyễn Hưng Quốc - 

Trong 9 ngày du lịch ở Trung Quốc, một trong những điều tôi không thích nhất là thức ăn.

Xin nói ngay, tôi không có ý chê thức ăn Tàu dở. Không. Thứ nhất, tôi biết văn hóa ẩm thực Trung Quốc từ lâu vốn nổi tiếng là một trong những nền văn hóa ẩm thực lâu đời, phong phú và tinh tế nhất thế giới. Về độ lâu đời, nó hơn hẳn các nền ẩm thực khác được nhiều người biết hiện nay. Về độ phong phú, nó thường được so sánh với nền ẩm thực của Nga, cũng vô cùng giàu có về loại hình đồ ăn và thức uống. Và về độ tinh tế, nó cũng được đánh giá rất cao, tuy không cao bằng thức ăn Nhật và Pháp, nhưng hiển nhiên là cao hơn hẳn vô số quốc gia khác, có lẽ kể cả Việt Nam, ít nhất là dưới mắt phần lớn giới phê bình ẩm thực Tây phương. Thứ hai, tôi cũng biết, giống như Việt Nam, thức ăn của Trung Quốc có tính địa phương  rất rõ rệt: Thức ăn ở miền Bắc (tiêu biểu nhất là ở Bắc Kinh) khác thức ăn ở miền Đông (tâm điểm là Thượng Hải), và đặc biệt khác thức ăn ở miền Nam (tiêu biểu nhất là Quảng Đông). Ở mỗi miền, thức ăn cũng biến hóa theo từng địa phương nhỏ. Do đó, căn cứ vào kinh nghiệm ăn uống vài ngày ở Bắc kinh, Nam Kinh, Vô Tích, Tô Châu, Hàng Châu và Thượng Hải để đánh giá thức ăn Trung Quốc nói chung là điều không nên làm. Thứ ba, tôi cũng biết, thức ăn gắn liền với khẩu vị, mà khẩu vị lại gắn liền với ký ức và kinh nghiệm cá nhân, do đó, rất chủ quan: Lớn tiếng khen hay chê thức ăn của một nước rất dễ rơi vào lố bịch. Ở đây, thái độ hợp lý nhất là chúng ta nên kiên nhẫn thử thức ăn của mỗi nước như một cách phiêu lưu vào những cái khác. Sự thích thú không nằm ở thức ăn mà chủ yếu nằm ở cảm giác thử nghiệm. Giống như kinh nghiệm của một số người Tây phương ăn thịt chó ở Việt Nam, Hàn Quốc hay Trung Quốc: Họ không thấy thịt chó ngon, nhưng họ thấy thú vị khi thử một món ăn lạ. Ở một đất nước xa lạ. Vậy thôi.

Tuy nhiên, tôi không thể tự dối mình để không nói ra sự thật này: Tôi hoàn toàn không thích thức ăn Tàu, ít nhất thức ăn Tàu ở Trung Quốc. Tôi đã cố gắng để thử. Nhưng vẫn không thích. Có lẽ lý do chính là vì cái gu ăn uống của tôi: Trong các chất, chất tôi không thích nhất là chất béo; trong các vị, vị tôi không thích nhất là vị ngọt. Mà thức ăn Tàu thì hình như ở đâu cũng có đường và mỡ. Bày trên bàn, món nào cũng lênh láng mỡ. Thịt kho đầy mỡ, đã đành. Ngay cả rau xào và đậu hủ chiên cũng ngập ngụa dầu mỡ. Và ngọt.

Nếu không ngọt lịm thì cũng lờ lợ. Đây là điều tôi không hiểu được. Đọc sách vở, thấy người Trung Quốc, từ xưa đến nay, thường xem thức ăn như y dược, gắn liền việc ăn uống với việc phòng và trị bệnh, quan niệm, trong các món ăn, thậm chí, trong từng món ăn, cần có sự hòa hợp giữa âm và dương, giữa hàn và nhiệt, để giữ “khí” và tạo sự quân bình trong cơ thể. Nhưng cứ nhìn số lượng dầu mỡ trên đĩa thức ăn và nhấm cái vị ngọt trong từng món ăn, thực sự, tôi hết sức hoang mang.

Tôi biết tôi không cô đơn trong việc không thích thức ăn Tàu. Tôi đã nghe nhiều bạn bè chia sẻ điều ấy.

Đọc trên internet, tôi cũng thấy khá nhiều người Việt Nam đi du lịch Trung Quốc về, viết bài chê thức ăn Tàu thậm tệ.

Như đã trình bày ở trên, tôi không muốn đi từ việc không thích đến việc phủ nhận giá trị thức ăn của Trung Quốc. Tôi chỉ cho đó là chuyện khẩu vị. Nhưng ở đây, có hai điều khiến tôi băn khoăn và nghĩ ngợi.

Thứ nhất, nếu chuyện thức ăn chỉ là chuyện khẩu vị thì việc thay đổi khẩu vị của người Việt xảy ra từ lúc nào? Nhớ, chỉ cách đây mới hơn nửa thế kỷ, ở Việt Nam vẫn còn truyền tụng câu nói đã thành tục ngữ, tóm tắt ước mơ của nhiều người đàn ông: “ở nhà Tây, ăn cơm Tàu, lấy vợ Nhật”. Giấc mơ thứ ba, tôi xin phép khỏi bàn. Giấc mơ thứ nhất có lẽ sụp đổ từ sau năm 1975, lúc nhiều người Việt Nam ra sống ở hải ngoại, từ đó, người ta phát hiện nhà “Tây” – hiểu là nhà Pháp – đẹp thì có đẹp, nhưng chắc chắn không phải là lý tưởng: Chúng không thể so sánh được với nhà ở nhiều quốc gia khác, như Úc hoặc Mỹ, nhất là Mỹ: vừa rộng rãi vừa sang trọng; trong nhà có đầy đủ tiện nghi; ngoài nhà, có cả vườn trước lẫn vườn sau, đầy cây, hoa và cỏ. Còn giấc mơ thứ hai, về thức ăn Tàu? Người Việt Nam thất vọng về nó từ bao giờ? Và tại sao thất vọng? Tại sao, trước, họ thích; sau, họ không thích nữa? Tại sao, trước, là ước mơ; sau, chỉ còn là một lựa chọn cuối cùng: khi không còn chọn lựa nào khác nữa thì mới ăn thức ăn của Tàu?

Thứ hai, sống ở Úc cũng như khi đi du lịch một số nơi khác, thỉnh thoảng tôi cũng vào nhà hàng Tàu, nhưng tôi lại không có cảm giác ngán ngẩm như lúc ở Trung Quốc. Sực nhớ, năm ngoái, ở Hàn Quốc, tôi cũng có cảm giác tương tự. Vào các tiệm ăn Hàn Quốc ở Melbourne, Sydney hay California: tôi rất thích. Nhưng đến Seoul, đi từ tiệm ăn này sang tiệm ăn khác, từ bình dân đến cao cấp, tôi lại không còn thấy thích thú như vậy nữa. Có cảm giác khác. Cũng là thức ăn Hàn Quốc, rất truyền thống Hàn Quốc, nhưng ở ngoại quốc khác, ngay trong nước, lại khác. Nghĩ lại, dường như thức ăn Việt Nam cũng vậy, chứ gì? Cuối năm 1985, từ Indonesia sang Paris, ghé vào một tiệm phở nổi tiếng ở quận 13, tôi phát hiện nó chả giống chút gì với các tô phở mình thường ăn ở Sài Gòn. Sáu năm sau, sang Úc, ăn tô phở đầu tiên ở Melbourne, tôi cũng thấy nó khác các tô phở ở Paris hay Nice. Rồi năm 1996, lần đầu tiên về nước, ghé Hà Nội, mấy người bạn dẫn đi ăn phở Hà Nội, tôi chưng hửng: vừa thấy khác vừa không thích.

Lâu nay, chúng ta hay nghe nói đến xu hướng toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa diễn ra hầu như ở khắp nơi, tận trong hang cùng ngõ hẻm ở những nơi ngỡ như lạc hậu và bần cùng nhất. Một trong những kết/hậu quả của toàn cầu hóa là xu hướng lai ghép (hybridity): Lai ghép về chính trị, xã hội, kinh tế và văn hóa; trong văn hóa, tính chất lai ghép được tìm thấy trong tư tưởng, trong niềm tin, trong văn học nghệ thuật và cả trong cách sống cũng như cách ăn uống.

Không ở đâu tính chất lai ghép ấy lại đậm đặc và rõ ràng như ở các cộng đồng lưu vong, những người không những xa quê hương sống trên đất khách, mà, như nhiều nhà xã hội học và văn hoá học chứng minh, còn sống trên các biên giới (in-between), giữa các quốc gia (transnational) và xuyên qua các nền văn hóa (cross-cultural), giữa quá khứ và hiện tại, giữa ký ức và ước mơ; những người, như một số phận, bị buộc chặt vào sự lai ghép, sống như một tiến trình lai ghép không ngừng.

Với đặc điểm ấy, không có gì lạ khi thức ăn mà họ mang đi từ quê hương cứ càng ngày càng thay đổi, càng ngày càng lai ghép hóa. Ở các món ăn Á Đông, cụ thể nhất là thức ăn Tàu, Việt và Hàn, có lẽ đó là quá trình giảm chất béo và vị ngọt. Lúc sống ở Pháp, chung quanh có nhiều người thân và bạn bè sống bằng nghề mở tiệm ăn, tôi nhận thấy có một xu hướng phổ biến trong các tiệm ăn Tàu là giả Việt. Họ là người Hoa, hoàn toàn là người Hoa, nhưng mở nhà hàng, họ lại ghi là nhà hàng Tàu-Việt, thay vì nhà hàng Tàu. Để chứng minh cho tính chất Tàu-Việt ấy, họ phải giảm dầu mỡ và đường. Sau này, ở Úc, cũng như ở nhiều nước khác, vào tiệm ăn Việt cũng như Tàu, tôi hay thấy người ta ghi chữ lớn là nhà hàng không sử dụng bột ngọt.

Bởi vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi chúng ta có thể thích thức ăn Tàu ở Việt Nam hay ở ngoại quốc nhưng lại không thích thức ăn Tàu ở ngay trên đất Tàu.

Bột bình tinh

Ẩm thực

0 Comments

Một cô bạn sinh sống ở nước ngoài, từ xa xôi nhắn về hỏi bột bình tinh là gì, nghe nói bột này ăn mát nên cô ấy muốn kiếm một ít cho mấy đứa bé trong nhà ăn dặm. Không dưng chuyện criminal cái nhà bạn vô tình nhắc tôi nhớ lại một món ngon thời thơ ấu.

Tìm bột bình tinh để gửi sang cho bạn cũng là quá trình tìm lại cho mình một mảng tuổi thơ đã trôi xa đâu mất. Cái thời, ăn sao cũng được, món nào cũng thấy ngon; mới ăn đó, uống đó mà bụng đã đói, phải kèo nhèo tìm cho được món gì “ăn dặm”. Không phải bây giờ, không phải bột sữa đắt tiền và so đo chỉ số cao lớn khiến các ông bố bà mẹ nhức đầu chóng mặt. Những đứa trẻ nghèo thời đó như chúng tôi thường xuyên dùng bữa sáng và xoa dịu những cơn đói bất chợt bằng bột bình tinh.

Cứ ngỡ lâu quá rồi, chúng tôi không còn ăn, cũng không thấy ai ăn nữa, thì tìm thứ bột này sẽ khó. Thật mừng khi gọi điện hỏi dưới quê, ba mẹ cười xòa, nhà cô mày có thiếu gì. Mẹ cho grain cô làm tại nhà không sợ pha chất độc hại, lại dặn hỏi người bạn cần mấy kg thì gửi sang cho. Ba tôi đi lấy bột về kể, nhà cô tôi còn ít nhất năm trăm kg củ bình tinh chưa kịp nhổ để mài làm bột. Sẵn tay ba đã ra sau vườn nhổ một bụi bình tinh cả nhánh lẫn củ về cho tôi coi chơi. Nhìn thấy củ bình tinh chợt ngẩn ngơ, với tay chạm vào nó nhưng biết không thể nào chạm được vào tuổi thơ trong trẻo của mình.

Mẹ tôi khuấy bột bình tinh cũng dễ dàng như làm bất cứ món ăn nào khác trong bữa cơm hằng ngày giản dị. Cho hai muỗng canh bột vào cái nồi nhỏ, cho ít nước lạnh vào tán đều bột, tránh vón cục. Chuẩn bị sẵn một muỗng đường cát và khoảng 50 ml nước. Bắc nồi lên bếp khuấy sơ, cho đường cát và lượng nước đã chuẩn bị sẵn vào, liên tục khuấy đều tay chờ bột từ màu trắng đục chuyển sang trong là chín. Bột quết sánh như hồ, nếm thử xem nếu còn lạt thì cho thêm ít đường, ăn càng nóng càng ngon.

Tôi đã nhớ rất rõ cảnh mấy anh em ngồi chồm hổm, háo hức chờ mẹ đút những muỗng bột bình tinh nóng hổi. Vì nóng nên chưa nuốt vội, “ngậm nghe” một hồi. Vị ngọt thanh của muỗng bột đặc quánh, khi nuốt vào vừa ngon vừa thú vị. Ăn quá nhiều trong một lần có thể ngán, nhưng chỉ cần mỗi lần khuấy vừa đủ cho mỗi người một chén nhỏ, thì ăn hoài được hoài, chỉ cho vào miệng và nuốt nên thích hợp với trẻ lười nhai và cả người già yếu răng.

Nếu không mài làm bột, củ bình tinh dùng để luộc ăn cũng rất ngon, mát; cùng với khoai lang, khoai mì, khoai từ… đem luộc, thời bé là những món ăn đáng nhớ. Trẻ em nghèo không có tiền mua những thứ quà vặt xanh đỏ, vì không ăn nên hình như cũng chẳng bao giờ thèm, chỉ ăn khoai củ luôn có sẵn trong vườn nhà. Những ký ức đó đã trở về đầy đủ trong buổi chiều nay, khi tôi cầm trong tay bụi bình tinh và há tròn miệng ngồi xổm chờ mẹ đút cho một muỗng bột nóng hổi vừa chín tới…

Ký ức mùa cấy thuê

ăm nào cũng vậy, khi những đám mạ gieo trước Tết Nguyên đán đã đủ tốt là dân làng tôi lại chuẩn bị bước vào mùa cấy mới. Ngày còn nhỏ, hễ bước vào mùa cấy là mẹ con tôi lại tranh thủ cấy nhanh ruộng nhà để dành khoảng thời gian còn lại trong mùa đi cấy thuê cho hàng xóm, cho những gia đình neo đơn thiếu lao động.

Cuộc sống vất vả nên gia đình tôi ai cũng tất bật lao động mới mong đủ cái ăn cái mặc. Cha tôi thường đi cày bừa thuê, nên suốt ngày quần quật ngoài đồng, chỉ khi nào đồng áng phủ xanh lúa cấy ông mới được ngơi nghỉ. Mẹ và anh chị em chúng tôi cũng vậy, cấy ruộng của nhà, cấy thuê suốt mùa, khiến cho ai đó đều đen nhẻm vì cháy nắng, nhất là dịp cấy lúa hè - thu, trời nắng chang chang.

Việc định giá cả cấy thuê có thể là cấy công nhật theo chủ nhà, nghĩa là đi cấy cùng chủ, được ăn cơm và cuối buổi chủ trả tiền công theo thoả thuận. Cũng có thể, chủ khoán theo hình thức làm xong rồi nhận tiền công

Tôi còn nhớ kỷ niệm ngày lớp 5, mặc dù nhỏ thó, việc làm chưa thật thạo vậy mà mẹ đã nói tôi ra đồng để cấy cùng. Tôi cấy đám ruộng nào thì đám đó lúa ngả nghiêng, nát bươm. Nhưng mẹ vừa cấy vừa dạy bảo tôi từng chút một nên chỉ sau mấy hôm tôi đã khá thành thạo, tuy không thể cấy nhanh bằng chị, bằng mẹ nhưng hàng lối cũng ngay ngắn, thẳng tăm tắp.

Vì “đào tạo” được thêm tôi cấy thạo, nên có hôm một sào ruộng cấy khoán thuê, mẹ, chị và tôi chỉ cấy loáng trong buổi sáng là xong. Nhiều hôm, gặp phải chân ruộng đất sục bùn, dễ cấy, cả nhà tôi cấy xong mấy sào liền. Thấy chị em tôi vất vả mẹ thường động viên an ủi: “Nhà mình nghèo, vì vậy các con cũng phải cố gắng làm cùng mẹ. Tranh thủ mùa cấy có nhiều việc mẹ mới nhận lời người ta để cấy thuê…”.

Thường thường ba mẹ con cấy thông trưa và cha tôi vừa lo việc đồng áng, vừa tranh thủ về nấu cơm mang ra đồng cho mẹ con tôi ăn. Trong tâm trí của tôi vẫn còn hình ảnh của ngày xưa ấy, những trưa hè ăn cơm trên đồng, những đêm cùng mẹ, cùng chị cấy lúa thuê dưới ánh trăng quê.

Mỗi mùa cấy thường kéo dài khoảng hơn chục hôm, đó là quãng thời gian vất vả, mệt mỏi, nhưng bù lại nhà tôi cũng kiếm được tiền, quy ra thóc cũng có thể mua được vài ba tạ.

Khi buổi cấy thuê cuối cùng trong mùa kết thúc, mẹ tôi thường đi chợ mua đồ ăn ngon về bồi bổ cho cả nhà, gọi là buổi tổng kết. Bao giờ cũng vậy, mẹ tôi không quên mua bộ quần áo mới, gọi là “thưởng công” cho chúng tôi. Bố tôi cũng là người có phần, vì mẹ là người chu đáo, tâm lý. Thế nhưng, tôi thấy chỉ mình mẹ là chẳng có gì, quanh năm suốt tháng vẫn chỉ vài bộ áo quần sờn nâu, vá víu bạc màu thời gian.

Bao mùa cấy thuê tiếp nối qua đi và trong một khoảng thời gian dài trở lại đây, gia đình tôi đã đủ đầy hơn. Cha mẹ tôi đã già nua hơn, chúng tôi đã lớn khôn và dần thoát li ra ngoài xã hội nhưng thi thoảng tôi vẫn trở về quê vào mùa cấy để được cùng mẹ cấy lúa trên vài vạt ruộng nhà còn sót lại sau trào lưu đô thị hóa. Những lúc được dầm bùn lội ruộng như vậy, ký ức tuổi thơ đầy gian khó, vất vả nhưng vô cùng đẹp đẽ lại hiện về như một thước phim quay chầm chậm trong tôi – ký ức mùa cấy thuê…

Ký ức ấu thơ: Cô nông dân trên cánh đồng quê nhà! (24/05/2011 06:28 PM)

Bản để in

Bình chọn: | Xem: 218 |

Tác giả: Như_VCĐ CLUB | Điểm cống hiến: 94

Cứ thế, tôi lớn lên. Rồi tôi thi trượt Đại học. Mẹ không la mắng tôi nhưng tôi đọc được trong mắt mẹ nỗi thất vọng. Mẹ hy vọng tôi đỗ dù việc một tháng phải lo cho tôi 500.000 để học là việc chẳng dễ dàng gì với mẹ tôi với một mẫu ruộng, 2 đứa con thơ, và một người chồng khó tính

Làm nông dân. Đúng. Làm nông dân. Tôi đã từng làm một “cô” nông dân khi còn rất bé bởi tôi sinh ra và lớn lên cùng những khóm lúa, luống khoai, bông cà của mẹ.

Trên lớp, trong hàng thể dục, tôi đứng cuối hàng. Về nhà tôi là đứa con lớn trong nhà. Nếu tôi không làm mẹ tôi sẽ phải mọc thêm tay.

Khi 10 tuổi tôi đã biết dắt bò ra đồng chăn và chăm chỉ tìm những nơi có thật nhiều cỏ. Vì thế, con bò nhà tôi khi nào cũng no căng những cỏ, chẳng bao giờ thấy nó có một cái hõm trên lưng như những con bò của đám bạn vì mải chơi nên cột bò lại.

Lớn hơn chút nữa, buổi sáng tôi dắt bò ra đồng, tranh thủ những khoảng đất rộng không có lúa, tôi để bò đó, tìm những bờ ruộng mà con bò yêu quý của tôi không thể vào. Với một cái bao, một cái liềm tôi cắt khoảng một tiếng là cái bao của tôi đầy ắp cỏ để chiều về tôi đi học, con bò của tôi vẫn có cỏ ăn. Vì thế, những ngòn tay của tôi toàn sẹo ngang, sẹo dọc thôi.

12 tuổi tôi trốn mẹ xách cái dậm to hơn người tôi, một cái bàn ục, một cái giỏ cột ngang hông đi bắt cá về làm thức ăn cho bữa ăn nghèo nhà tôi. Những con có rô thỉnh thoảng tôi gặp được nong nước cạn, tôi tát hết nước, bắt chúng bỏ vào giỏ. Những con cá như thế thường rất béo, da vàng ươm.

12 tuổi tôi dậy từ 4 giờ sáng để đi câu nghoé cho đàn vịt nhà tôi. Nhờ có chúng mà em gái tôi vào học lớp một có bộ sách mới , không giống tôi toàn là mượn lại sách cũ của mấy ông anh họ thôi.

12 tuổi tôi theo chân mấy ông anh họ đi bắt chuột, bị chúng cắn tay hoài à. Thịt chuột đồng thơm lắm. Nhưng tôi thà ăn cơm với mắm chứ không ăn chúng đâu.

12 tuổi, tôi bắt đầu tập “dúi” những cây mạ non thành lúa, khoản này là khoản khó nhất. Khỏi phải nói, thời điểm ấy ruồng nhiều đỉa thế nào. Nhưng tôi chẳng sợ chúng vì tôi thường gỡ chúng ra khỏi chân con bò yêu quý của tôi. Yêu cầu đầu tiên của mẹ làm giăng dây từ đầu ruộng này qua đầu ruộng kia. Tôi luống cuống vì chưa làm bao giờ. Do tôi cắm không chắc nên sau kia sang đầu ruộng bên kia tôi kéo để cắm cọc, cọc bên kia tuột ,mất đà, tôi ngã ngữa giữa ruông. Sau 3 mùa tập “dúi” ấy, cây lúa tôi gọn gàng hơn, đẹp hơn, thẳng hàng hơn. Rồi mẹ cũng chứng nhận cho tôi “tốt nghiệp lớp “dúi” thành lớp cấy. Tôi cấy cũng đẹp, cũng thẳng hàng, cũng nhanh chẳng kém gì mẹ đâu nhé!

12 tuổi, tôi hoà cùng bố mẹ thu hoạch thành quả sau những tháng ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” của bố mẹ tôi. Tôi từng cầm liềm cắt cỏ, nhưng chưa từng cắt lúa. Tuy nhiên, nhanh chóng tôi cũng làm được. Bàn tay nhỏ xíu của tôi không vì nhỏ mà cầm ít gốc hơn bố mẹ tôi đâu nhé! Thích nhất là lũ cào cào, châu chấu, muỗm, chuột cứ gọi là chạy rào rào sau những cái “xẹt” của gia đình tôi. Chúng là những con vật phá hoại mùa màng ghê gớm lắm. Đôi khi tôi gặp cả rắn,. Nhưng tôi chẳng sợ đâu. Thỉnh thoảng đi câu nghoé, hay đánh dậm tôi cũng gặp chúng rồi. Đôi khi tôi còn “ câu” được cả những con rắn hám mồi nữa. Đa số chúng đều là rắn bùn không độc, đàn vịt nhà tôi thêm được con mồi béo bở nữa kìa.

13 tuổi, nhà có thêm  thằng Út. Em gái tôi còn nhỏ chẳng thể trông nó. Tôi vừa chăm em, vừa trở rơm cho mau khô, chũi thóc cho nhanh săn. Những chiều trời trở mưa, tôi “kệ” thằng Út khóc trong nhà hộc tốc gom rơm, gom thóc lại đậy, nếu để thóc ướt nó sẽ mọc mộng thì chẳng khác gì mất mùa mà bỏ đi bao mồ hôi của gia đình.

Những mùa làm cỏ, chẳng thiếu bóng tôi nếu tôi không có tiết học, những cái bờ ruộng thẳng tắp cũng in hình bóng tôi cùng mẹ.

Những đoạn mương khi nước rút, hai mẹ con đem gầu đi tát bắt những con cá thơm ngậy về làm thức ăn.

Những tối mùa hè tôi tranh thủ một tiếng đồng hồ ra bờ đê soi cáy về nấu những nồi canh cáy thơm ơi là thơm.

Mùa đông, khi những đám lục bình trong ao cháy rụi vì khô, tôi xách bao đi thật xa tìm thức ăn cho heo.

Ngã rẽ cuộc đời

Cứ thế, tôi lớn lên. Rồi tôi thi trượt Đại học. Mẹ không la mắng tôi nhưng tôi đọc được trong mắt mẹ nỗi thất vọng. Mẹ hy vọng tôi đỗ dù việc một tháng phải lo cho tôi 500.000 để học là việc chẳng dễ dàng gì với mẹ tôi với một mẫu ruộng, 2 đứa con thơ, và một người chồng khó tính.

Tôi quyết định rời bàn tay mẹ, chia tay hai đứa em nhỏ đi theo đường vòng, vừa học vừa làm. Tôi lao vào làm việc và học tập. Từ tiếp thi, trông cửa hàng, phát tờ rơi, rửa chén đến làm “osin”, trông trẻ, phơi gốm và đan hàng mây tre lá. Tôi chẳng tha việc gì.

Tôi cũng tham gia một số hoạt động của Đoàn, không hoành tráng nhưng cũng rất ý nghĩa. Với tất cả sự cố gắng, tôi được nhà trường cho học lớp cảm tình Đảng.

Tôi ra trường, nhưng vì mải mê lo học thêm nên tôi không còn tham gia Đoàn như trước. Vì thế cái giấy chứng nhận lớp cảm tình Đảng cứ để dưới đáy hòm sách tôi thôi.

Bây giờ, công việc tôi tạm ổn, gia đình tôi cũng khá hơn, em gái tôi còn một năm nữa sẽ trở thành cô giáo, thằng Út đang gắng lấy học bổng của trường. Tôi sẽ dành một chút thời gian nhỏ bé của mình để xông pha một cái gì đấy, vừa làm niềm vui cho mình, vừa có ích cho xã hội. Tôi đã gặp VCD club.

Dẫu biết rằng còn nhiều chông gai và thử thách, nhưng nhất định con tàu của CLUB mình sẽ đặt chân được đến những vùng đất còn khó khăn, gặp gỡ những mảnh đời nhiều bất hạnh làm từ những việc nhỏ nhất để cuộc sống tốt đẹp hơn, xã hội vẹn toàn hơn.

HỮNG MÙA CẤY ĐÃ XA

+ Nhà văn Phan Trung Nghĩa (Báo Bạc Liêu).  Tôi có một gã bạn cũ là nhà văn Võ Đắc Danh. Gã sinh ra và lớn lên ở một cánh đồng xa xôi heo hút của tỉnh Bạc Liêu. Mười mấy tuổi gã đã thọc chân xuống sông quê rửa phèn rồi đi mải miết và bây giờ thì định cư tại Sài Gòn để làm báo, viết văn. Giờ đây văn chương của gã đã lừng danh trong thiên hạ, tiền bạc rủng rỉnh trong túi và tóc gã bạc thật nhiều.

Và khi tóc bạc thì cái tình quê hương, cái tình tấm mẳn bỗng bùng lên mãnh liệt trong gã. Gã nghĩ về nó bằng niềm ray rứt khôn nguôi. Thế là từ Sài Gòn gã chạy về nhà tôi, nhờ ông anh ruột tôi đi săn lùng mua những nông cụ và các vật dụng gia đình của nông dân “thời trâu cày”, cái thời mà gã còn để chỏm dưới quê để gã làm một gian trưng bày nho nhỏ. Cái gian trưng bày ấy không phải để phục vụ công chúng mà là để phục vụ cho chính gã, để răn đe gã.

          Một bữa về Bạc Liêu, gã nôn nóng hối tôi dẫn gã đến nơi tập kết những thứ gã nhờ ông anh tôi mua dùm. Đó là một mớ “hỗ lốn” : cày, bừa, vòng gặt, nọc cấy, cối giã gạo... Gã đứng thần người ra rồi ứa nước mắt. Con gái tôi 18 tuổi, đang học đại học nó nhìn gã và nhìn đống đồ vật kia bằng ánh mắt ngơ ngác, vô hồn. Nó hỏi: “Mua thứ này về làm gì hở cha ?”. Tôi lặng lẽ xoay mặt đi chỗ khác, lòng dậy lên một nỗi buồn xa xăm, rồi nhủ thầm: Con ơi, không biết những thứ ấy là không tỏ tường cội rễ, không hiểu được công đức của ông bà cha mẹ và làng nước mình !

          Võ Đắc Danh về rồi, cứ 2 – 3 ngày tôi chạy ra điểm tập kết  hàng của nó. Tôi run rẩy sờ lên cái gọng bừa cũ kỹ, cái nọc cấy còn nạm phèn vàng quánh... Đó là những vật vô tri mà biết nói. Nó nói với tôi rằng có một ngày mùa với âm thanh rộn ràng của tiếng “ví”, “thá” của thợ cày và một điệu hò vạn cấy hòa với tiếng gà gáy buổi rạng đông: “Trên đồng cạn dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Thế là tôi ngồi thừ ra mà ứa nước mắt như Võ Đắc Danh, rồi nhớ đến quắt lòng quắt da, nhớ căn nhà lá nhỏ nằm ven cánh đồng, tại một làng quê nghèo lưa thưa mái lá, vào cái thời tôi còn thơ trẻ. Ở đó có đời mẹ cha tôi nghèo, anh em tôi hiu hút cơm vắt mắm đồng. Ở đó từ cửa nhà sau nhìn ra là một vạt đồng xa tới viền chân trời. Khi chiều tàn ai nấu cơm trong chái bếp, ai đốt rơm rạ ngoài đồng mà sương khói mơ hồ làm ảo ảnh cả làng tôi. Nhìn lâu cứ thấy xốn xang rồi một nỗi buồn vô cớ chợt đến. Mùa mưa thì vạt đồng lễnh lãng nước, tiếng con nhái bầu nức nở trong mưa chiều. Mùa hạn thì đồng khô cỏ cháy và khi chiều xuống mây tím đùn lên ở cuối chân trời, rồi sấm chớp nhì nhằng, trời gầm gừ, báo hiệu một mùa mưa nữa sắp về.

          Thế là nông dân bước vào mùa vụ. Ở làng tôi nhà nào cũng có vài chục công đất, đó là một loại đất nhiễm phèn mặn lâu đời. Mùa mưa cỏ mọc lên  xanh cả cánh đồng. Hồi năm 1969 trở về trước dân làng tôi không làm đất mà có tập quán phát cỏ cấy lúa, con gái tôi nào biết được rằng cây phảng mỏng dính kia, cây cù nèo làm từ trảng ba cây méc  nọ của bác Danh nó vừa nhờ mua về chính là công cụ chủ yếu để phát cỏ cấy lúa thay cho cày bừa. Hồi đó 4 giờ sáng đã nghe tiếng xoong chảo khua rồi lửa bập bùng trong chái bếp nhà quê. Sau đó thì mùi mắm chưng lan ra trong gió, ấy là nhà nông nấu cơm ăn. Đây là một công việc vô cùng nặng nhọc, một thanh niên lực lưỡng chỉ có thể phát một ngày một công đất cho nên phải ăn cơm trước mới phát nổi. Năm giờ sáng đã nghe tiếng phản đập xuống nước phành phạch dậy lên ngoài đồng xen lẫn với vài câu vọng cổ khàn đặc thuốc gò của ai đó. Phát cỏ rồi nửa tháng sau mới cào cỏ thành bờ giồng mà dùng nọc cấy lúa.

Đến năm 1969 trở về sau thì đất của làng tôi được giữ ngọt thành đất thuộc nên không còn phát cỏ mà chuyển sang dùng trâu để cày bừa, cấy lúa. Những nhà khá giả thì sắm trâu còn nhà nghèo thì phải đi ở đợ giữ trâu mướn. Hồi đó mấy anh em tôi lãnh ba con trâu của cô tôi về giữ. Tôi có trách nhiệm dẫn trâu ăn cỏ, còn hai ông anh ruột tôi thì dẫn trâu đi cày, bừa thuê. Tội nghiệp anh Ba tôi, 4 giờ sáng anh đã ra tắm trâu và dẫn trâu đi cày trong những đêm mưa mùa hạ lạnh như cắt và đầy muỗi mòng. Mười chín tuổi anh gởi lại sợi dây vàm buộc mũi trâu cho các em rồi đi kháng chiến đến năm 21 tuổi thì anh hy sinh, chưa biết mùi da thịt con gái.

          Trong cái đống “hổ lốn” của Võ Đắc Danh có chiếc yếm trâu, nó được bện bằng dây choại của đất rừng U Minh và đã lên nước đen bóng. Tôi đưa nó lên mũi và bắt gặp cái mùi mồ hôi trâu khai nồng gợi cảm lạ thường. Đây là cái mùi đặc trưng của dân chăn trâu. Ai đã từng giữ trâu hẳn không bao giờ quên nó. Những năm tháng dài giữ trâu cởi trần, mồ hôi người và trâu lẫn mồ hôi trâu quện chặt vào da thịt tạo ra một thứ mùi đeo bám theo ta rất lâu. Nhắc mới nhớ chị Nhồng con bác Chín Son ở làng tôi, chị giữ trâu hồi còn để chỏm, đến năm mười tám tuổi chị đi lấy chồng, bác Chín gái phải tắm gội cho chị cả ngày trời vẫn không hềt mùi mồ hôi trâu, để rồi chị Nhồng sang sông mang theo một nỗi mặc cảm. Giờ đây bắt gặp mùi mồ hôi trâu tôi chợt nhớ đến cái đời chăn trâu cực nhọc của mình. Đó là những năm tháng dài đội mưa dầm nắng, trải cả tuổi thơ trên cánh đồng làng. Niềm vui là những trò chơi truyền thống của cánh mục đồng, cứ tẻ nhạt dần theo ngày tháng và nó làm héo hon cả một tâm hồn.

          Còn chiếc nọc cấy kia gợi cho tôi nhớ đến mùa cấy. Các nhà thơ dân gian lẫn những nhà thơ chuyên nghiệp đều cố tình thi vị hóa mùa cấy. Họ ví von rằng đó là ngày hội,  là vang rộn tiếng hò trên đồng quê, vui đến nao lòng. Thực tế thì không phải thế, người ta hò để quên đời cực khổ đó thôi. Ngày xưa mùa cấy bắt đầu rất muộn, khoảng đến tháng 8 âm lịch. Đó là lúc mưa dầm nước lụt, nước ngập đến lưng quần, nông dân phải cấy các loại giống lúa mùa có thân cao như: Nàng Thơm, Nàng Tét, Trắng Lùn... Hồi đầu thì cấy nọc, sau đất thuộc dùng trâu cày thì cấy tay. Má và chị Hai tôi xưa vốn là thợ cấy. Họ cấy vạn dần đổi công với láng giềng. Nếu ruộng mình đã xong thì họ đi cấy mướn. Đúng 5 giờ thì “bắt công” xong và đứng trên đầu công cấy. Họ cấy thoăn thoắt, cái âm thanh tay người rút khỏi mặt nước chong chóc vang đều. Họ như trầm mình dưới nước lụt mặc cho muỗi mòng đỉa vắt, mặc cho những cơn mưa thu giăng mờ mịt trên đồng. Cánh đàn ông thì “mông mạ” bằng trâu rồi gánh mạ vào cho họ cấy. Thỉnh thoảng cũng hình thành hai phường hò đối đáp với nhau. Thường thì chị Hai và má tôi cấy mỗi người hai công đến tối mịt mới xong. Trên lưng họ là tấm lá chằm và chiếc nón lá tơi che mưa, nắng. Bữa cơm của thợ cấy ăn trên bờ giồng gồm một chén mắm chưng và một tô bí rợ hầm dừa. Chị Hai tôi lúc đó 17 tuổi, gót đỏ như son, da trắng hồng vậy mà đến cuối mùa cấy da chị sạm đen, bàn tay, bàn chân lở lói, rơm sẩy nổi khắp người, có buổi chị Hai đi cấy không nổi nằm ở nhà nóng sốt, phải lấy mấy thứ lá cây đắp lên cho đỡ.

          Hồi đó làm ruộng cực khổ như thế mà năng suất thấp, mười giạ một công đã là trúng. Có năm gió bấc về sớm làm cho lúa “chín háp”  (hạt lúa không kết gạo đuợc). Đứng nhìn thấy như một cánh đồng lau sậy đang dựng cờ tang. Tết nhất gần kề, gió xuân về hây hẩy, dăm con én chao liệng dệt nên một mùa xuân tẻ nhạt trên quê nghèo. Nhớ tới mâm cơm cúng ba ngày Tết, cặp dưa hấu chưng bàn thờ, quần áo Tết sắp nhỏ... má tôi thở dài thườn thượt rồi cắp thúng ra đồng, hướng đôi mắt đỏ hoe mà tìm trong đám cỏ năn những bông lúa còn sót lại. Những hạt lúa ấy cho vào cối giã ra một thứ gạo sứt đầu mẻ trán và ốm o, đem đi nấu cơm ăn ta cảm được ở đầu lưỡi có vị mặn của mồ hôi và nước mắt. Vậy mà kỳ diệu thay đó chính là hạt ngọc của quê nghèo nuôi tất thảy những đứa con quê.

          Ba tôi thì nhìn cánh đồng rồi uất ức, ông quảy nóp, xách vòng gặt đi qua xóm Ông Tấn gặt lúa mướn. Hết mùa gặt ông lại về xóm Thào Lạng đập lúa thuê suốt đêm, bởi vì gia cảnh đang thúc bách ông rất dữ. Tết đó ba tôi về, nhà có nồi thịt kho và tôi được một bộ đồ vải sọc mặc Tết. Giờ đây ba, má tôi qua đời, cái nọc cấy, cây cặp đập lúa, cái ghế đập lúa, chiếc vòng gặt... của gia đình cũng mất đi từ lâu lắm, để bây giờ con tôi đứng nhìn những thứ ấy mà hỏi dùng để làm gì? Con ơi, đó là những thứ góp phần làm nên xương thịt hình hài của cha đó.

          Con gái tôi lại tròn xoe đôi mắt mà nhìn cái cối xay bột. Trong mắt nó, đó là những vật vô tri, nhưng đối với tôi nó đánh thức những ký ức sâu thẳm. Đời má tôi nghèo tả tơi manh áo, bà không dành được cho con vàng bạc như người ta, chỉ có tình thương thì bà dành đủ. Hồi đó anh em tôi kẻ đi cày, giữ trâu xa, người đi gặt mướn... rất ít có dịp ăn cơm chung. Bữa nào rảnh rỗi, tề tựu là má tôi dùng chiếc cối xay bột để xay gạo mà làm bánh lá. Đó là một thứ bánh được nắn bột mỏng dính trên lá dừa nước rồi đem hấp chín, sau đó cắt ra dĩa, cho gỏi dưa leo, nước mắm chua và nước cốt dừa vào. Chỉ đơn giản như vậy thôi mà anh em tôi ngồi ăn vả mồ hôi hột, cảm giác như mình ăn “nem công chả phụng”. Má tôi ngồi nhìn, mắt bà đỏ hoe, bà khóc vì đã thật lâu mới thấy các con bà sum họp và được ăn ngon một bữa. Giờ đây mỗi dịp được ngồi trên những bàn tiệc đầy cao lương mỹ vị là tôi cứ ngậm ngùi xốn xang thương cái bữa ăn ngày cũ, của một gia đình nông dân cũ, đã tan đàn rẽ nghé từ lâu lắm.

          Hơn 30 năm tôi đi xa, mỗi lần về lại thấy quê mình đổi khác. Kẻ còn người mất, đồng ruộng thì ngổn ngang những bờ vuông nuôi tôm. Tôi cứ lần dò trong ký ức mà tìm thăm cánh đồng ngày bé. Đâu rồi những bầy trâu, những mùa hạn đồng khô cỏ cháy và khi chiều tàn ai đốt rơm rạ để sương khói mơ hồ làm ảo ảnh cả làng tôi. Đâu rồi người mẹ một đời áo vải ? Rồi ba tôi, rồi chị Hai, anh Ba tôi... tất cả họ đều bay qua sông mà hóa thành cánh cò cánh vạc, để giờ đây tôi muốn ăn một dĩa bánh lá cũng không làm sao có được. Chỉ còn lại đây một quê hương máu thịt, một quê hương với biết bao ký ức gợi thương gợi nhớ.

          Quê hương nào thì cũng có sứ mệnh cưu mang nuôi nấng những đứa con quê, nhưng mỗi đất nước, mỗi thời đại quê hương có cách nuôi nấng khác nhau. Có một bài toán của cuộc đời đơn giản như cộng, trừ, nhân, chia. Một đất nước nghèo, một làng quê nghèo, một bà mẹ nghèo làm ra hạt lúa để nuôi ta lớn khôn hẳn phải tốn nhiều mồ hôi, nước mắt hơn những đất nước, những người mẹ khá giả. Các nhà đạo đức gọi đó giá trị công đức. Còn tôi xin được gọi giản dị là một phép tính. Ai không làm được phép tính ấy thì thiếu đi cái nhân cách con người.

CA DAO VÀ TÔM CUA CÁ

Nhà văn Trầm Hương (TP Hồ Chí Minh).  Vào đầu thế kỷ 21, thức ăn hải sản, đặc biệt là tôm, cua, ghẹ mắc như vàng. Xuân thu nhị kỳ, bọn nhóc mới vài lần được nếm món “cơm tôm”, ghẹ luộc, cua rang muối. Con gái tôi học lớp một, đọc vanh vách: “Bến Tre biển rộng sông dài Ao trong nuôi cá, bãi ngoài thả nghêu Tôm càng xanh nước quơ râu Rừng vàng biển bạc còn đâu phải tìm” “Bến Tre giàu mía Mỏ Cày Giàu nghêu Thạnh Phú, giàu xoài Cái Mơn Bình Đại biển cá sông tôm Ba Tri ruộng muối, Giồng Trôm lúa vàng” “Bến Tre nước ngọt lắm dừa Ruộng thừa màu mỡ, biển thừa cá tôm…” Thằng em bốn tuổi reo lên:

“A, Bình Đại, Bến Tre, quê ngoại. Mẹ ơi, về ngoại, tha hồ ăn tôm cá!”

Nhìn nét ngây thơ, rạng rỡ trong mắt con trẻ, tôi không nỡ dập tắt niềm hy vọng của nó. Tôi không nỡ để nói với nó rằng, đó là chuyện ngày xưa, chớ cá tôm quê ngoại bây giờ ít lắm. Nói “ngày xưa” nghe xa xôi quá, kỳ thật chưa đầy ba thập kỷ. Dạo ấy tôi là đứa trẻ mới 9, 10 tuổi, chưa từng biết đến hương vị gạo cao sản cứng còng, lạt nhách. Đồng lúa quê tôi canh tác mỗi năm một vụ, bởi chế độ thủy văn vùng ngập mặn ven biển: 6 tháng ngọt, 6 tháng mặn. Gạo Thanh Trà thơm phức, dẻo, thơm, ngọt ngào. Dứt sữa, mẹ nuôi tôi bằng thứ nước cơm quánh đặc, giàu có vi-ta-min B. Nước cơm còn là món canh thường trực. Đi học về, đói bụng, sẵn cơm nguội, tô nước cơm, dĩa tép đất rang mặn, cô học trò nhỏ lùa một lúc hai, ba chén như chơi. Giờ đây, những giống lúa mùa ngon nức nở nhưng năng suất thấp ấy gần như tiệt chủng, thay vào đó là các giống lúa cao sản ngắn ngày. Tôm cá cũng ra đi cùng với Thanh Trà, Bảy Đảnh,  Nàng Tiêu… Chúng ta phải chấp nhận “mất” để được. Những giống lúa cao sản đã giúp cho Việt Nam trở thành một trong các cường quốc xuất khẩu gạo. Nhưng nhiều thứ cũng mất đi. Giống lúa cao sản ngắn ngày không cần đến quang cảm vẫn trổ bông. Còn giống lúa mùa, “thì con gái”  phải đợi đến gió chướng về, ngày ngắn đi  mới bừng lên sức sống. Chỉ riêng chuyện đợi gió, đợi nắng của đồng lúa cũng là một bài thơ tuyệt vời của thiên thiên trao tặng tâm hồn con người. Thuở ấy, tôi chỉ là  một cô bé con, chưa hiểu biết sự đời, vậy mà mỗi khi làn gió chướng thổi về, lúa bắt đầu trổ bông, là  có gì đó làm lòng tôi thật xao xuyến. Có gì đó thật vô hình, thật huyền diệu thổi vào tâm hồn tôi, chợt nghe lòng buồn mênh mông, sâu thẳm vì câu hát:

Tôi lớn lên theo những mùa gió chướng, theo những chén cơm gạo lúa mùa, theo mùa sinh sản tôm cá đồng đất quê nhà, theo những câu ca… Tôi đâu ngờ nỗi đa cảm từ những mùa gió chướng trở thành gia tài của tôi, đã mở cánh cửa cho tôi đi vào con đường văn học…

 Mới chỉ ba thập kỷ thôi, tôm cá bây giờ  đâu còn “xanh nước quơ râu” như ngày trước. Người đông lại khôn ngoan hơn, tham lam hơn, dùng đủ phương tiện đánh bắt, thuốc trừ sâu, phân hóa học, tôm cá không còn đường sống. Ngày xưa, tôm khô bốc ăn chơi từng nắm, cua luộc đỏ au từng nồi, cá kèo, cá chốt... là món ăn thường trực. Tôi nhớ đến “con nước” rong,  nửa đêm thức dậy theo cha đi đổ nò thật vui. Theo một đường nước từ ruộng nhà đổ ra kinh, cha giở cái nò lên, rồi úp ngược xuống miệng cái thúng giạ, nghe rồ một tiếng thật vui tai. Khi ông đặt cái nò lại chỗ cũ, đã có gần đầy thúng tép đất tươi chong. Tép ấy luộc lên, bỏ chút muối, làm tôm khô thì không có gì ngon bằng. Mấy anh chị tôi đi trọ học trên tỉnh, tháng nào mẹ cũng tiếp tế hàng ký tôm khô. Còn cá kèo, mùa gió chướng đóng đáy trên sông mỗi đêm hàng trăm ký. Cha tôi dùng một chiếc xuồng rộng cá, để sẵn ngoài mé sông, ai cần mua thì vớt lên bán. Con nào sắp chết, mẹ tôi vớt lên, để trên tấm liếp tre phơi, làm “khô cá kèo”. (Khô cá kèo nướng hoặc chiên, ăn với nước mắm me, bây giờ là một món “đế vương” thật không dễ kiếm). Có lẽ nhờ ăn nhiều tôm cá tươi, hít thở khí trời trong sáng, ăn rau quả tươi mà tôi khỏe mạnh, cùi cụi lớn lên. Thuốc Tây là một từ xa lạ trong đời sống của quê tôi ngày ấy. “Đói ăn rau, đau uống thuốc”. Đó là cách chữa bệnh của bà con. Nói đến rau càng phát thèm. Đợi đến gió chướng về, ôi, sao tôi yêu mùa gió chướng đến vậy. Mùa gió chướng, lúa trổ bông, trên giồng cát nở rực vàng hoa bí, xen lẫn với từng vạt bắp trổ cờ, từng vạt dưa hấu xanh rờn… Ngọn bí non, bông luộc chấm cá kèo kho củ cải thơm lừng,  ngọt lịm. Bắp non luộc ăn tinh khiết, ngọt ngào. Tôm nướng, kho tàu dành cho những nhà giàu bây giờ, người nghèo quê tôi ngày xưa từng nếm. Rồi cá chốt nấu canh chua lá me, lịch nướng lá nghệ, lịch xào lăn, lịch nấu canh chua… Giờ đây, những món ăn ấy quá tầm tay với đồng lương khiêm nhường của tôi, nên mỗi lần nghe con trẻ xướng lên; “Mẹ ơi, con thèm ăn cua”, “Mẹ ơi, con thèm ăn tôm” là tôi lạnh xương sống. Chuyện ăn đồ thủy hải sản tươi sống bây giờ thật nan giải, đâu dễ ợt như thời mẹ hát ru tôi:

“Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng

Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa”

“Nàng về kết bạn cùng ta

Ăn cá thay bánh, uống nước trà thay cơm”

“Mắm, bần ven đất phù sa

Bà Hiền, Tân Thủy hằng hà cá tôm”

Quê tôi là vùng ngập mặn ven biển, quả là có một thời cá tôm hằng hà trên sông rạch, ao đìa, đồng ruộng. Nhưng giờ đây, người quê mấy ai dám ăn con tôm, con cua. Mẹ tôi nói hôm nào đặt nò được mớ tép, con cua là mừng lắm. Một nắm tép là một nắm tiền, có sẵn mối ở  chợ thu gom đồ thủy hải sản đem về thành phố. Tôm, cua ấy sẽ được bày ra trong những nhà hàng, khách sạn sang trọng. Còn mẹ tôi mua thịt heo ăn. Bây giờ mọi việc đã đổi thay, “giàu ăn rau, nghèo ăn thịt”. Tôi dỗ con ăn cơm với thịt.  Con tôi vừa ăn vừa ao ước:

“Mẹ à, hôm nào về nhà ngoại ăn tôm, cua!”.

Tôi nói với con: “Tôm cá bây giờ không có sẵn nữa. Phần lớn tôm, cua, cá lóc, cả những con cá kèo chở lên thành phố bán đều được nuôi. Chi phí cho việc nuôi âm binh tướng cá này không rẻ, nào đào ao, khử trùng, tôm, cá giống, thức ăn… nên một ký tôm hơn một trăm ngàn, mắc lắm, mẹ không có tiền mua”. Thằng nhỏ vẫn bướng bỉnh: “Thì mẹ làm việc đi, làm việc để có tiền”. Cái thằng nhỏ này, bực hết biết nói. Trời ạ, đâu phải cứ nai lưng ra làm việc là có được tiền. Nếu làm việc mà có tiền theo ý nghĩ ngây thơ, non nớt của bé, thì tôi sẽ miệt mài, đêm quên ngủ, ngày quên ăn, làm việc và làm việc… để có tiền. Tôi muốn phát vô đít nó một cái nhưng  dằn lại, bởi “vũ lực” chẳng quyết được gì. Tôi bèn chuyển sang kế dụ trẻ bằng bài vè con cá:

Thằng nhỏ vốn rất mê cá, mắt mở to, miệng há hốc như nuốt lấy từng lời bài vè con cá ngộ nghĩnh. Nó quên nhanh chuyện đòi ăn cua, tôm; chạy đi lấy bút màu và giấy, vẽ ngay tức thì bức tranh con cá. Trong trí tưởng tượng của bé, binh tôm tướng cá đặc lềnh hiện ra, nào cua lớn, cua nhỏ, tôm càng, tôm trứng, cá chép, cá mập, cá kèo, cá heo… Thằng nhỏ hớn hở khoe: “Mẹ, con vẽ đẹp hôn mẹ? Con đặt tên cho bức tranh là “Vũ hội cá tôm” mẹ há!”. Tôi khuyến khích: “Vẽ đẹp lắm, nhưng phải tô màu, bức tranh mới hoàn chỉnh”. Thằng nhỏ hơi khựng lại, vì mẹ đánh vào yếu điểm lười tô màu của nó. Con chị láu lỉnh: “Con sẽ giúp em tô màu. Hai chị em con cùng vẽ bức tranh đẹp nức nở cho mẹ xem”. Trước khi bắt đầu, thằng nhỏ ra điều kiện: “Con với chị My tô đẹp, mẹ mua cua cho tụi con ăn nghen mẹ, con thèm cua!”. “Ờ”. Hứa với bọn trẻ xong, tôi mới biết mình hố. Thằng nhỏ đưa mẹ “vào tròng” ngọt xớt bằng sự dễ thương của nó.

Lãnh lương xong, nhớ tới lời hứa, tôi ghé vào chỗ bán cua trên vỉa hè đường Võ Thị Sáu. “Tám mươi ngàn một ký, cua ruộng đó chị, chắc, ngon lắm”. Nghe hét giá, tôi chóng mặt, càng chóng mặt hơn khi nhìn thấy sợi dây lạt trói cua to tổ bố, lại còn ướt đẫm nước. Trời ạ, con cua một ký thì sợi dây cũng gần nửa ký, tính ra, giá một ký cua gần 150.000 đồng. Nhưng bức tranh “Vũ hội cá tôm” của tụi nhỏ dễ thương quá, chúng đã tô màu bằng tất cả tâm hồn để có được một bữa cua. Làm ra vẻ sành điệu, tôi cũng trả giá, hỏi cua có chắc hôn, làm bộ chê ỏng chê eo, bấm trên bấm dưới, để cuối cùng bấm bụng mua một ký. Lũ trẻ được ăn cua mặt mày sáng rỡ. Nhìn con vui, lòng người mẹ cũng nao nao vui sướng. Quả là tình mẫu tử có tính di truyền vô vàn mãnh liệt. Nó thật giản dị và hiển nhiên:

 “Không gì bằng cơm với cá,

   Không gì bằng má với con”.

Gỡ cua cho con, tôi mới phát hiện mình mua nhằm cua ốp sọp, thật mất hứng. Tội nghiệp cho lũ nhỏ, những cái miệng xinh xinh của chúng như chim non há ra chờ được mẹ mớm mồi. Đối với chúng, chắc với lép chẳng có ý nghĩ gì, miễn là được ăn cua.

Mưa rước cá

- Cát Hoàng (Bến Tre). Đã chớm gió chướng non thổi rong con nước lớn. Đồng ruộng bạt ngàn lúa mùa no đòng lác đác trổ bông bung xuống mặt nước quanh gốc lúa loang loáng cánh sữa lúa – là món đặc sản của họ hàng nhà cá. Khi ngọn chướng mạnh dần đi cùng với những đợt mưa cuối mùa, kích thích bao hàng so đũa trổ bông từng chùm trắng muốt hình trăng khuyết, chính là lúc các lang quân (đang tự do tìm chả); mệnh phụ (đang hoài thai tượng trứng); công tử; tiểu thư (đang thăm dò tìm hiểu tiến tới hôn nhân) rô – trê – lóc giung giăng giung giẻ say mồi, tích trữ năng lượng chuẩn bị cho mùa động tình - cưới - sinh mới.

Bỗng nhiên một ngày Bà Tạo giật mình đoái thương họ hàng nhà cá. Bà khiến sấm chớp vang rền kín đất kèm một trận mưa đêm thiệt là bự mà bà con nông dân mình quen gọi là mưa rước cá.

Gọi là mưa rước cá có lẽ do sau trận mưa nầy là “tổng kết một mùa mưa bão”; hoạ hoằn lắm mới có vài cơn mưa nhỏ lẻ tẻ vì ảnh hưởng khí áp. Và phải chăng sấm chớp động rền nhằm thức tỉnh bản năng sống của loài cá? (Muốn sống phải chuồn nhanh, chậm đuôi là cầm chắc hổng bị xẻ khô cũng kho dừa sả).

Trời muốn cứu bấy nhiêu thì ngược lại là chừng ấy người muốn diệt. Họ chọn hướng đào thoát của cá để đào hầm ngăn bắt. Những cái hầm loại nầy thường rất sâu cá lọt vào là vô phương, chỉ còn nước bó đuôi chịu trận. Lòng hầm được người ta nhận khạp tương, mái đầm bên dưới. Miệng hầm được đắp đất chà láng (mấy cha có kinh nghiệm còn rà nhớt cá cho cá lầm tưởng con đường quen, an toàn đã lắm cá qua) và nguỵ trang cây cỏ bên trên dẫn dụ cá tự chui vào.

Những con cá sẩy được, tìm đường ra sông rạch tự tìm kiếm hang ổ ẩn cư chờ mùa mưa tới để quay lại đồng ruộng làm mới cuộc sống bằng mùa cưới - sinh mới.

Những thập kỷ 50, 60 thế kỷ 20, quê tôi chiến tranh ác liệt, đạn pháo đau thương mất mát, nhưng thú vui săn cá vẫn đủ sức cuốn hút nhiều người dự phần. Vui hơn nữa là thích dự phần của nhau – anh lén bắt cá hầm tôi, tôi lén bắt cá hầm người khác, người khác lại lén bắt cá hầm của anh. Lòng vòng lẩn quẩn khích bác thế, song không ai giận nhau lâu. Cùng thua quạo lắm thì trật quần ị xuống một bãi, lỡ tay xuống bốc nhầm thúi rình chỉ dám chửi thầm trong bụng (Chứ hổng lẽ chửi lớn tụi nó biết cười cho thúi mũi).

Nay, nhớ lại nghĩ thiệt tiếc thiệt uổng, vì đồng ruộng bây giờ… may mắn lắm mới còn. Đồng ruộng còn đã nhiễm tràn ứ thuốc trừ sâu cá nào ở nổi. Nhảy vô vuông tôm bị dây thuốc cá; nhảy vô hồ nuôi bị thằng câu vịt; thà nhảy đại vô trại giống… chết còn sướng hơn.

Bà nội thương đứa cháu đích tôn lặn lội khắp chợ quê mua được con lóc cửng đuôi dài (nghe đồn cá đuôi dài là cá đồng, tin đại hổng biết đúng không?) mừng muốn nhảy cửng. Bà ngoại chăm chỉ rỉa từng chút từng chút thịt cá chắt mót mớm cho trẻ mà vui… lệ rơm rớm.

Người viết một hôm về Cần Thơ được bạn chiêu đãi cá trê trắng nấu chua cơm mẻ bắp chuối, cũng mừng muốn tửng, khi về Bến Tre khoe kể hết mửng.

Mấy đêm nằm chờ mưa rước cá chợt nẩy tứ thơ:

        Đêm vật vã mưa rước cá

        Ai rước ta qua vũng đời?

Nhớ ruộng đồng quá, ăn tạm cá nuôi thịt bở nhạt nhẽo mà nghĩ còn may mắn, biết đâu sẽ đến một ngày chẳng còn cá đồng nuôi ăn cho đỡ nhớ ruộng đồng, nhớ mưa rước cá!

GIĂNG CÂU

Quê tôi không phải ở vào rốn lũ của đồng bằng sông Cửu Long, nhưng tháng Bảy âm lịch nước vẫn “nhảy khỏi bờ”, đặc biệt là con nước lớn vào ban đêm mà người vùng quê vẫn thích gọi ngắn gọn là “con nước đêm”. Đây là con nước xoay theo chu kỳ ban ngày trở sang ban đêm và “đỉnh” là vào các đêm trước và sau ngày 15 hay còn gọi là “nước rằm”.

Quê tôi không phải ở vào rốn lũ của đồng bằng sông Cửu Long, nhưng tháng Bảy âm lịch nước vẫn “nhảy khỏi bờ”, đặc biệt là con nước lớn vào ban đêm mà người vùng quê vẫn thích gọi ngắn gọn là “con nước đêm”. Đây là con nước xoay theo chu kỳ ban ngày trở sang ban đêm và “đỉnh” là vào các đêm trước và sau ngày 15 hay còn gọi là “nước rằm”. Lúc này nước từ sông đổ vào kênh rồi từ kênh ào ạt đổ vào khắp các cánh đồng quê tôi, khi ấy lúa đã nở bụi và xanh ngọn lặt lìa gọi một cách lãng mạn là “lúa đang thì con gái” để chuẩn bị trổ đòng đòng “ngậm sữa”. Và đây cũng là mùa cá về, với ba loại cá đặc trưng của mùa “nước nhảy” ở quê tôi là cá lóc, cá trê, cá rô mề…, con nào con nấy to, béo núc ních vì ăn mồi no đủ như tép rong, tép đất, nhái, mà đặc biệt là những nhánh lúa non mới “ngậm sữa” vừa béo ngậy chất sữa, ngọt, thơm ngon cực kỳ.

Trước đó, người quê tôi, thanh niên nam nữ nhất là trẻ con lứa tuổi từ 10 đến 15 đều chuẩn bị cho một mùa giăng câu ban đêm rất hào hứng, thú vị, vừa là một thú vui sôi nổi, vừa kiếm thức ăn cho gia đình, nếu gặp đêm giăng câu trúng thì đem ra chợ bán cũng tăng thêm thu nhập. Bộ đồ nghề để giăng câu là chiếc xuồng ba lá, một, hai cái rộng cá làm bằng tre đan, hình bầu dục, hai đầu bịt kín bằng hai miếng gáo dừa lên nước đen kịn, ở giữa là miệng rộng có hom gài để bỏ cá vào mà không thể thoát ra được, cây đèn soi tù mù đốt bằng dầu lửa hay sang hơn là đèn khí đá. Quan trọng là vài trăm “tay câu” với loại dây nhợ to cột sẵn những chiếc phao bằng nhựa, cứ khoảng hai mét tóm một lưỡi câu thả, độ sâu xuống khỏi mặt nước chừng năm tấc, mồi câu giăng là tép đất sống móc ngang lưng, nhưng chủ yếu là mồi trùn quắn (giun đất).

Giăng câu ít nhất là hai người đi một xuồng. Một người chèo, một người vừa thả câu vừa móc mồi. Xuống vài trăm tay câu cũng mất khoảng nửa tiếng đồng hồ, sau đó thì chống xuồng vào bờ hoặc neo xuồng lơ lửng giữa cánh đồng ngập trắng nước cao hơn ngọn lúa, xúm nhau chè cháo, hát hò “vui văn  nghệ”. Rồi thì cứ khoảng một tiếng đồng hồ, tách ra, mổi xuồng mỗi hướng đi thăm câu, bắt cá, thay mồi… cho đến khi nước bắt đầu rút xuống kênh thì xuồng ai nấy lo cuốn câu trở về nhà. Câu giăng ban đêm tất nhiên phải lệ thuộc vào con nước xoay, có khi mới vừa sụp tối đã phải chống xuồng ra đồng thả câu, nhưng cũng có khi nửa đêm nghe tiếng nước đổ ào ạt sau chòi sực tỉnh giấc, mắt nhắm, mắt mở đẩy xuồng ra cho kịp con nước. Thời gian vô chừng nhưng ít ai có đồng hồ báo thức, thế nhưng người thôn quê như có giác quan thứ sáu, cứ sực tỉnh khi con nước lên, ít khi nào ngủ quên.

Dạo đó tôi chỉ là đứa trẻ con lên 14, 15 tuổi, khi ngủ thì ngủ mê mệt, lại thích đi giăng câu nên chiều tối, ngoài nhiệm vụ đào bắt ít nhất 500 con trùn đất, bỏ vào cái thùng nhựa ém đầy đất cho trùn không chết, lên chòi vịt của đứa bạn học cùng lớp trên kênh Nhỏ để đi giăng câu với nó, không quên đem theo mấy cuốn tập để học bài. Trong lúc chờ nước lớn, tôi với nó tranh thủ học bài dưới ngọn đèn dầu tù mù, mắt đã mỏi vì thiếu ánh sáng và buồn ngủ, còn bị cay sè vì khói đốt con cúi un muỗi. Chòi vịt của đứa bạn thấp lè tè, chật hẹp, đã nhiều muỗi, tay phải đập lia lịa để xua bầy muỗi đói lại còn tiếng vịt đẻ kêu inh tai nên học câu được, câu mất. Nhưng được cái, đứa em gái của nó thường nấu chè hột vịt cho ăn nên dù bài học bữa đực, bữa cái nhưng tôi vẫn thích. Chè hột vịt nhỏ em gái đứa bạn nấu vô cùng đơn giản, chỉ là đường thốt nốt bỏ vào nước mưa nấu sôi lên, đập chừng năm, sáu trứng hột vịt, vài lát gừng thơm thơm, cay cay thế mà thành món chè hột vịt ngon tuyệt cú mèo, tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ món chè dân dã này.

Một đêm như thường lệ, ăn chè xong, nghe nước đổ ào ào sau chòi, bầy vịt đẻ lại kêu vang theo quán tính, tôi và thằng bạn đứa xách cây đèn soi, đứa xách thùng trùn nhảy xuống xuồng. Bỗng nhỏ em gái của nó chạy theo đòi cùng đi giăng câu, tình huống bất ngờ này làm tôi bối rối lẫn khó chịu, vì trên xuồng có thêm một đứa con gái sẽ làm không khí mất tự nhiên, bởi lẽ tôi có thói quen sau khi móc mồi, thả câu xong thường nằm vắt chân, đầu gối lên mũi xuồng ngắm sao trời, ngắm trăng hát nghêu ngao mặc cho đứa bạn muốn chống chèo thế nào tuỳ thích. Nếu có thêm em gái nó chắc chắn tôi sẽ mất tự nhiên. Thấy tôi có vẻ không bằng lòng, đứa bạn lại cười khì bảo có thêm em gái nó có khi lại được việc vì nhỏ em nó chèo xuồng rất giỏi, biết cách móc mồi rất “nhạy”, con cá nào ăn cũng dính. Anh nó nói thế thì tôi đành chịu.

Quả đúng như thế, sau khi lên xuồng, đứa bạn trao mái dầm cho nhỏ em. Giữa lúc tôi tưởng “con bé” sẽ loay hoay chèo chống thì chỉ vài cái động tác quậy nước, chiếc xuồng băng băng lướt trên cánh đồng rộng. Nhờ có nhỏ em chèo xuồng, tôi và thằng bạn đứa móc mồi đứa thả câu rất nhanh. Đêm đó tôi mất tự nhiên và… mất hứng, không nằm vắt chân, tựa đầu lên mũi xuồng hát nghêu ngao nữa, nhưng bù lại được một đêm gỡ cá mệt xỉu vì được nhỏ em đưa bạn “dạy” cho kinh nghiệm móc mồi trùn dụ cá mà lâu nay tôi không biết. Mồi trùn phải móc nguyên con và không bao giờ để cho bị đứt, cũng như lúc nào cũng phải chừa khúc đuôi con trùn ở đầu lưỡi câu cho nó “loe ngoe” thì cá mới thấy. Thật đơn giản, nhưng không phải ai cũng biết cách móc mồi trùn sao cho con cá nó “thấy”, vì thường tôi móc hết con trùn, móc luôn khúc đuôi của nó vào mũi lưỡi câu để giấu. Như thế là mồi “tĩnh” chứ không phải mồi “động” theo cách nói của nhỏ em thằng bạn. Một bài học của… giăng câu.

Bao nhiêu năm rồi, quê tôi mỗi năm vẫn một mùa nước nổi vào tháng Bảy âm lịch theo như câu nói dân gian: “Tháng Bảy nước nhảy khỏi bờ”. Nhưng cánh đồng mùa nước nổi ngày xưa có còn nhiều người giăng câu như chúng tôi thủa đó? Riêng tôi vẫn nhớ những đêm giăng câu ngủ trong căn chòi chật hẹp, cheo leo trên bờ kênh Nhỏ của đứa bạn học cùng lớp ngày xưa. Nhớ như in lúc tranh thủ học bài, tay đập muỗi, mắt cay sè vì khói con cúi, tai nghe tiếng bầy vịt đẻ kêu ồn ào báo con nước lớn và món chè hột vịt nấu đường thốt nốt thơm vị gừng cay của “cô bé” đã dạy tôi bài học móc mồi trùn câu giăng ngày nào.

MÙA CHIM DÒNG DỌC LÀM TỔ

Phía trước nhà tôi là một giồng cát, chu vi bằng một công đất, cứ theo hai mùa mưa nắng mà mẹ tôi trồng hoa màu. Mùa nắng thì trồng dưa, mùa mưa thì trồng bí, xen kẽ vào mỗi thời vụ trồng thêm cà, đậu xanh, đậu phộng, bắp… nên giồng cát quanh năm phủ một màu xanh ngăn ngắt dưới nền trời cũng xanh thăm thẳm những đám mây màu trứng sáo xa ngút mắt.

Phía trước nhà tôi là một giồng cát, chu vi bằng một công đất, cứ theo hai mùa mưa nắng mà mẹ tôi trồng hoa màu. Mùa nắng thì trồng dưa, mùa mưa thì trồng bí, xen kẽ vào mỗi thời vụ trồng thêm cà, đậu xanh, đậu phộng, bắp… nên giồng cát quanh năm phủ một màu xanh ngăn ngắt dưới nền trời cũng xanh thăm thẳm những đám mây màu trứng sáo xa ngút mắt. Bao quanh giồng cát ở ba mặt là ba hàng keo gai ken dày, cây keo gai lá nhỏ, xanh mướt chỉ có hai loài thích ăn, dưới đất là bầy dê luôn háu đói ăn tạp, trên không là bầy quýt tàu, một loại bọ cánh cứng to cỡ bọ rầy màu xanh rất đẹp đẻ trứng nhỏ xíu như trứng thằn lằn, nhiều màu mà trẻ con thích mê thường bắt về nuôi trong hộp thuốc Tàu để… ngắm chơi. Những con quýt tàu thường đậu trên những tán keo gai ngủ ngày, lừ đừ, lười biếng cứ gặm lá keo gai non chứ không muốn bay nên lấy cây thọc là rơi xuống đất vẫn chưa tỉnh ngủ.

        Trong ký ức của tôi, mùa keo gái chín cũng là mùa chim dòng dọc làm tổ. Những trái keo gai khi còn non thì màu xanh, đặc biệt khi chín thì… màu trắng sữa, vỏ nứt ra có thể nhìn thấy những “mắt” trái keo gai màu tím trắng ngon mắt bên trong không chỉ có loài chim cưỡng bông thích ăn mà trẻ con cũng rất thích vì nó có mùi vị rất lạ, một loại trái cây hoang dại, rất đồng quê và ghi đậm vào hoài niệm một thời thơ ấu của bất kỳ ai luôn thổn thức với nỗi nhớ quê nhà. Thủa ấy, tôi không nhớ chính xác bằng ngày tháng, chỉ khi một sáng thức đậy thấy giồng bắp của mẹ tôi  trái no tròn, ngậm những tua râu hung hung đỏ nhưng chưa tới lúc hạt dày, đang đợi ngày hái trái và thảm lúa trên cánh đồng trước mặt đang trĩu bông, ngã màu vàng ươm như nắng mai thì cũng là lúc trên hàng keo gai trĩu trái chín chi chít lũ chim dòng dọc đang về xây tổ, đẻ trứng.

Không hiểu sao tôi rất thích nhìn những đôi vợ chồng chim dòng dọc tha “nguyên vật liệu” xây dựng từ trong thiên nhiên về chăm chỉ xây tổ hình chiếc vớ to trên những nhánh cây keo gai. Có lẽ trong họ hàng nhà chim không loài nào siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ và kỳ công xây chiếc tổ đẹp lạ lùng như chim dòng dọc. Và cũng không loài chim nào như dòng dọc chọn lựa loại “nguyên vật liệu” xây dựng tổ “cực kỳ” như dòng dọc. Mỗi ngày từ sáng sớm đôi vợ chồng dòng dọc  khoác bộ cánh nâu, sọc đen trống mái phân biệt rất rõ bởi chim trống có cái đầu màu vàng nghệ (nên còn gọi là dòng dọc nghệ) bay đi bay về, miệng ngậm một sợi chỉ rất mảnh, đó là chỉ mà đôi vợ chồng chim dùng chiếc mỏ nhỏ xíu tướt trên những cọng lá tranh, lá sả, yếm bọc buồng dừa để về đan tổ. Bởi thế nên tổ chim dòng dọc ngoài sự kỳ công còn có mùi thơm đặc trưng của mùi lá sả, lá tranh mãi đến khi chúng ấp trứng nở con.

        Chiếc tổ hình chiếc vớ miệng tròn chúc xuống đất nhỏ xíu đường kín chỉ cỡ cổ tay trẻ con nối với phần thân tổ phình ra giống cái bao tử (dạ dày) là nơi dùng ấp trứng lại nối với đoạn cuối của chiếc tổ tóp lại. Toàn bộ độ dài của tổ dòng dọc khoảng 3-4 tấc được treo lơ lửng trên chót nhánh cây keo gai mang đặc tính vừa cảnh giác, vừa phòng hộ đến độ gần như tuyệt đối an toàn để không có một “ địch thủ” nào vào được  bên trong chiếc tổ kiến tạo đơn giản mà rất hiểm hóc này để ăn trứng hay ăn chim con. Tôi cho rằng chiếc tổ chim dòng dọc là một công trình kiến trúc độc đáo, vừa công phu, mà lại vừa… đơn giản khiến cho bàn tay con người, hoặc tay nghệ nhân tuyệt kỹ cũng khó mà bắt chước được. Thế mà trong thời gian ngắn những đôi chim dòng dọc chăm chỉ ấy đã hoàn thành những chiếc tổ màu xanh lá cỏ hình chiếc vớ dành cho chim mái ấy và treo lủng lẳng khắp hàng keo gai bên cạnh những chiếc tổ dành cho chim trống đứng bảo vệ thời kỳ chim mái ấp trứng được đan kết đơn giản hơn giống như nửa quả bóng cao su của trẻ con chơi úp lại có một sợi dây kéo ngang cho chim trống ngủ. Và rồi cũng trong chớp mắt khi lúa chín vàng đồng cũng là lúc tôi nghe thấy tiếng chim non kêu lít nhít đòi chim bố mẹ mớm mồi trên những chiếc tổ đã ngã màu vàng rơm thôi thúc tôi kiếm cách trèo lên khám phá thế giới không gian đầy tiếng chim ấy.

         Nhưng để thò tay vào được những tổ chim dòng dọc mát mịn da tay, thơm mùi hương ngai ngái của cỏ tranh hoang dại để khám phá  xem tổ chim có mấy trứng hoặc nở được bao nhiêu chim non, đã “ra ràng” tập bay chưa để bắt xuống nuôi thật không phải dễ dàng. Cây keo gai tất nhiên cành nhánh đầy gai nhọn không leo lên được, nếu leo lên cũng không thể bám cành đu ra tận tổ chim treo lắt lẻo giữa không gian. Lũ trẻ con chúng tôi rất sáng tạo, bắt hai cây thang tre chéo nhau, một đứa dứng vịn bên này tạo thế vững chắc, đứa bên kia leo từng bậc thang tre lên tới tổ chim dòng dọc. Thường một tổ chim dòng dọc nở 3-4 con chim non, chim tập bay là bắt xuống nuôi được bằng cách nhai gạo sống mớm cho chim cho đến khi chúng mổ được gạo, thóc thì… thả ra cho chúng trở về với thiên nhiên cao rộng chứ chim dòng dọc chỉ biết kêu ríu rít tồi ngày mà không hót được. Người chỉ nuôi chim sáo, chim cưỡng, chim nhồng để chúng nói, hoặc chích chòe, chào mào… để chúng hót chứ không ai tốn công sức để nuôi chim dòng dọc.

Và cũng kỳ lạ thay, hết mùa chim non này tới mùa chim non khác, những bầy chim dòng dọc đông đảo dần cho đến một hôm cánh đồng quê làng xong vụ gặt thì chúng đã rời tổ bay khỏi những hàng keo gai để lại những chiếc tổ hình “dạ dày”, hình “vớ” lắt lẻo, đong đưa, hoàn toàn trống vắng, lặng im trên những nhành keo gai trong gió lộng thổi suốt qua giồng bắp nhà tôi. Không ai biết bầy chim dòng dọc bay về phương nào cho tới mùa lúa xây bông vàng rực năm sau chúng lại rủ nhau về tíu tít, bận rộn đan những chiếc tổ mới bên cạnh những chiếc tổ cũ cái còn, cái mất vì bọn trẻ con chúng tôi thường thọc những tổ chim dòng dọc xuống, nhét một trái bưởi non vào, cuộn tròn lại thành một quả banh rơm để chơi đá banh. Loài chim dòng dọc không bao giờ sống trong tổ cũ mà phải xây chiếc tổ mới và cũng chỉ trong chớp mắt trên những hàng keo gai lại lủng lẳng những tổ chim hình chiếc vớ và lại ríu rít tiếng chim non.

 Nhà thơ TỪ KẾ TƯỜNG

Một thời giáo sinh…

Nhà báo Phan Lữ Hoàng Hà.  Khi gặp lại, có những giọng không nên lời…Lời chào hỏi đó có thể vì quá xúc động và cũng có thể là vì sức khỏe của các thầy cô nay không còn trẻ trung như xưa.  Chờ cho những ngày xuân nô nức vừa lắng đọng, các thầy cô giáo là giáo sinh lớp sư phạm dài hạn đầu tiên của tỉnh Bến Tre mới họp mặt tại nhà cô Hồ Thị Hồng Nhung, nguyên Ủy viên thường trực Ủy ban các vấn đề xã hội Quốc hội khóa 11, ở khu phố 2, thị trấn Châu Thành (Bến Tre). Hôm nay, trời nắng trong xanh, gió ngoài vườn nhà cô Hồng Nhung mát rượi đang đón chân hơn 20 giáo sinh cũ cùng tề tựu về đây mà trong số đó tuổi đời hầu hết đã ngoài 60

Các thầy như Đỗ Hồng Sơn (Đỗ Thành Thưởng), Ngô Hải Phong, nguyên chủ nhiệm lớp sư phạm này dù nay tuổi ngoài 70 nhưng các thầy vẫn đến đây rất sớm. Thầy Lê Nam Hùng, lớp trưởng, nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện Mỏ Cày, nhớ lại: “Đó là năm học 1965-1966. Lớp có tất cả 41 giáo sinh, khai giảng tại ấp An Trạch Tây, xã Thành Thới B, huyện Mỏ Cày…”. Cô Nguyễn Thị Huỳnh Anh, 65 tuổi, nguyên Trưởng phòng Giáo dục huyện Châu Thành, bồi hồi: “Lớp học trong chiến tranh, địch đánh phá liên miên nên phải dời đi liên tục. Nay ở xã Thành Thới thì mai đến một điểm thuộc địa bàn An Thới, rồi qua Lương Phú, xuống Phước Long…Mỗi nơi đến, các thầy chủ nhiệm và các giáo sinh chung tay dựng lên lớp học bằng tre, lá hoặc ở trong nhà dân. Tỉnh Bến Tre từ năm 1965 đến 1970, vùng nông thôn giải phóng rất rộng lớn, khí thế cách mạng hừng hực nên sự nghiệp giáo dục trong vùng giải phóng lúc này được các cấp và nhân dân rất quan tâm. Lớp sư phạm này dù trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt nhưng các giáo sinh vẫn thực hiện nghiêm túc và đầy đủ các môn: Tự nhiên và xã hội, tâm lý học, phương pháp giáo dục, thực tập sư phạm, thi tốt nghiệp”.

            Ra trường vào cuối năm 1966, các giáo sinh lớp sư phạm này được phân bổ dạy học tại các trường cấp I và đầu cấp II thuộc các huyện trong tỉnh. Vượt qua nhiều khó khăn, chông gai, các thầy cô tích cực gầy dựng phong trào giáo dục tại vùng nông thôn giải phóng Bến Tre, phong trào được trung ương đánh giá cao. Đến năm 1969, nhiều thầy cô chuyển sang phục vụ ở các ngành như tuyên huấn, công an, công tác nội thành…Sau năm 1975, nhiều thầy cô công tác tại các ngành trong và ngoài tỉnh, trung ương như cô Hồ Thị Hồng Nhung là đại biểu Quốc hội khóa 7, khóa 8 và khóa 11. Cô Hồng Nhung xúc động: “Đến nay điểm lại, lớp chúng tôi đã có 12 người hy sinh, từ trần. Cuộc đời trôi qua nhanh quá!”. Cô Hồng Nhung còn nhớ như in đó là trường hợp hy sinh của thầy Nguyễn Văn Tròn (Sơn) vào năm 1969 tại xã An Qui, huyện Thạnh Phú. Thầy Tròn đang dạy, máy bay địch bỏ bom ngay lớp học, thầy và nhiều học sinh chết tại chỗ. Thầy Lê Văn Cơ (Sĩ Hùng), phòng giáo dục huyện Mỏ Cày hy sinh tại Mỏ Cày năm 1973. Thầy Thanh Hùng hy sinh tại xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành năm 1968…

            Có mặt  bên cạnh cô Hồng Nhung hôm nay là cô Vũ Thị Hồng Thu, 64 tuổi, nguyên Hiệu trưởng Trường Tiểu học phường 6, thành phố Bến Tre. Cô Hồng Thu nay bệnh nhiều, sức khỏe kém nhưng nơi đôi mắt cô vẫn ánh lên niềm vui:“ Những bạn trong lớp học chúng tôi đều thành đạt và giờ đã nghỉ hưu. Tôi bị bệnh nhưng không bi quan. Ở tuổi ngoài 60 mà nay còn dịp gặp lại để chia sẻ niềm vui, san sẻ nỗi buồn là quí lắm…”.

            Ngoài vườn, nắng đã lên nhiều, các giáo sinh ngày cũ xúm xít bên nhau, háo hức bước vào cuộc thi…nướng bánh phồng. Bên bếp lửa mo nang, vỏ dừa vừa nhóm lên, tôi thấy mọi thao tác của các giáo sinh thật tất bật dù nay những mái tóc kia đã bạc, dáng đi không còn nhanh nhẹn như xưa. Có tiếng nói to: “Chúng ta bắt đầu bằng thi nướng bánh phồng chùi (nổi). Hai, ba…”.

            Thật ra, nhiều người đã ăn qua chiếc bánh phồng chùi nhưng kỹ thuật làm ra và cách nướng bánh phồng chùi để nở to thì ít ai biết. Có người muốn làm nhanh, để cái bánh phồng chùi hơ hơ trên ánh lửa mà không xé ra thành bốn cạnh, càng nướng cái bánh càng cong queo. Có tiếng cười ồ… Bên ánh lửa ấm áp tình quê, tôi thấy làn khói kia như đang làm cay cay nơi khóe mắt của nhiều người.

Ký ức tháng Chạp

Cập nhật lúc08:13, Thứ Năm, 05/01/2012 (GMT+7)

Tháng Chạp gắn liền với những kỷ niệm của tuổi thơ tôi nơi quê nghèo lam lũ. Trời lạnh căm căm, lũ trẻ chúng tôi lăng xăng theo bà theo mẹ ra đồng xếp ải. Đồng ruộng nứt nẻ chân chim. Gió thổi hun hút. Nhưng bọn trẻ như chẳng hề biết lạnh. Đứa thì mót khoai lang ở ruộng khoai vừa dỡ, đứa thì gom rơm rạ rơi vãi thành một đống. Xong xuôi, chúng tôi quây quần bên nhau, nhóm lửa bằng chiếc bùi nhùi rơm mang theo từ nhà. Chẳng mấy chốc, mùi khoai lang nướng đã tỏa hương thơm sực nức. Chúng tôi chia nhau những củ khoai lang nóng hổi, bở tung, vừa ăn vừa xuýt xoa vì nóng. Mặt mũi đứa nào đứa ấy dính than tro đen nhẻm. Cả bọn nhìn nhau, cười vang cả cánh đồng. Mẹ tôi cần mẫn cuốc những tảng đất to để bà nội xếp thành dãy chạy dài trên mặt ruộng. Làm như vậy, đất sẽ được cái gió hanh hao của tháng chạp hong khô, để đến khi đưa nước vào ruộng, đất trở nên bở và tơi xốp hơn. Chúng tôi cũng hăng hái giúp bà, giúp mẹ bê những tảng đất nhỏ xếp lên thành ải. Chỉ một lúc là cả bọn lại chán, rủ nhau đi tìm cỏ gà để chơi. Tháng Chạp còn gợi nhớ về những món ăn dân dã của một thời nghèo khó. Thời điểm ấy, vạt cải vườn nhà bắt đầu trổ hoa vàng rực rỡ. Mẹ tôi lựa những cây cải bánh tẻ, rửa sạch, phơi chỗ thoáng gió cho héo. Mía vườn nhà đượm ngọt sau những ngày tháng hanh hao được chặt về. Mẹ tôi xếp lần lượt một lớp mía chẻ mỏng, một lớp cải để cả tàu lá, một lớp muối cho đến khi đầy vại thì gài vỉ tre, xếp đá tảng lên để nén. Mẹ cất vại dưa vào góc nhà, phòng lúc giao mùa, khi mưa gió hoặc lúc giáp hạt tháng ba ngày tám mẹ lại lấy vại dưa muối ra. Những tàu lá cải vàng rộm, giòn dai, chua dôn dốt được mang ra, cắt nhỏ, kho với cá khô, tép khô. Bữa cơm chiều hôm ấy bỗng trở nên "thịnh soạn" ấm cúng lạ thường. Tháng Chạp cũng là lúc những cây sắn gạc nai rụng lá, trơ ra những thân cành khẳng khiu như gạc của những con hươu. Mẹ tôi dỡ sắn, chọn những củ "nạc", bóc lớp vỏ ngoài lấm lem đất cát đi, cắt thành khúc, ngâm vào chậu nước để khi ăn không bị say. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác được thưởng thức nắm xôi sắn bùi ngậy, miếng sắn trắng nõn, vài hạt xôi bám dính bên ngoài nhưng béo mọng, lấp lánh như những hạt ngọc. Ngồi khoanh tròn chân trong ổ rơm, thưởng thức món xôi sắn trong những ngày tháng Chạp lạnh giá, tưởng như không còn hạnh phúc nào bằng! Tháng chạp còn gắn với một ngày thật đặc biệt: ngày 23 - Tháng Chạp ông Táo lên trời. Dù bận việc gì, bố tôi cũng dành cả buổi sáng lau dọn bàn thờ, chỉ để lại mỗi bát hương ba chân nhang, gọi là làm lễ "mộc dục". Mẹ tôi thì đi chợ từ sớm, mua cá chép về cúng ông Táo. Vốn tính lo xa, mẹ tranh thủ mua gạo nếp, đỗ xanh, hành, muối, ống giang về chẻ lạt gói bánh chưng. Cả năm thiếu thốn, đến tết phải cố gắng đủ đầy để năm mới làm ăn may mắn. Thấy người lớn bận rộn lo toan, bọn trẻ chúng tôi cũng thấy háo hức, phấn chấn hẳn lên. Trong giấc mơ, chúng tôi đã thấy tết đến thật gần với sắc đỏ rực của câu đối, với âm thanh sột soạt của bộ quần áo mới còn thơm mùi hồ. Và đến tận bây giờ, những hình ảnh, âm thanh ấy vẫn chưa nguôi ngoai trong nỗi nhớ tháng Chạp./.

Tô cháo đậu đỏ nước cốt dừa

Trời tháng 11 đã bắt đầu lạnh. Cái lạnh của những buổi sớm khi mặt trời còn chưa kịp lên, và công viên vẫn ẩn mờ trong lớp sương mù dày đặc, dễ khiến người ta chùng chình những nỗi nhớ. Xa xăm, vời vợi.

Co ro cút rút trong chiếc áo ấm, rảo chân đi bộ, mà nghe hơi lạnh tràn qua mặt, chui vào mũi. Tái tê.

Trong cái lạnh chưa đến nỗi cóng tay, cóng chân, tự dưng bỗng thèm tô cháo đậu. Cháo đậu đỏ nước cốt dừa. Quái lạ, dưng mà thèm chi cái món nghèo hèn vậy trời!

Không biết. Trong một miền ký ức nào đó, cái gánh cháo đậu đỏ của bà già nơi đầu xóm ngày xưa cứ rục rịch kéo về.

Bà bán cháo đậu. Ðám con nít ngày xưa cứ kêu bà như vậy, không có bà hai, bà ba, bà chín gì hết. Chỉ là bà bán cháo đậu. Bà già bao nhiêu tuổi, không biết, chỉ biết là cho đến tận bây giờ, tôi vẫn chưa nhìn thấy có người nào da nhăn nheo như bà. Nhăn nheo, đen đúa, còng quắt queo dưới chiếc đòn gánh, là hình ảnh của bà bán cháo đậu mà tôi còn nhớ.

Cháo đậu đỏ của bà luôn đặc sánh, đỏ màu đỏ của nhưn chuối trong cái bánh tét. Và lúc nào cũng bốc khói. Chưa bao giờ tôi ăn cháo đậu đỏ của bà mà không phải phù phù chu mỏ thổi, rồi cứ lấy muỗng hớt hớt từ lớp trên mặt mà ăn dần xuống.

Gánh cháo của bà chỉ có nồi cháo bằng đất (chắc giữ nóng được lâu), một tô nước dừa, một hũ muối đậu, và một tô dưa mắm.

Những đứa con nít nghèo xóm tôi khi đó, sáng cầm tiền quà sáng ra, hoặc chỉ biết sà vào gánh cháo của bà, hoặc gánh bánh canh không thịt, còn không thì gánh xôi ngọt, hoặc gánh bánh bột. Hầu như chỉ có vậy, là sung sướng lắm, cho những ngày được ăn quà sáng bên ngoài, chứ không phải là chén cơm nguội chiên lên cùng ít mỡ heo và nước mắm.

Hơn 30 năm rồi, tôi không còn nhớ tô cháo đậu giá bao nhiêu. Chỉ biết cứ khi đã ngồi chồm hổm trước gánh cháo, chìa tiền ra, là bà lấy cái tô đá, cái tô như cái quặng, tức miệng thì to mà đít thì bé, cũ kỹ, mòn mẻ, hất vào một vá cháo, là đã đầy lưng chừng miệng.

“Nước dừa không?” - Gật đầu. “Muối đậu không?” - Gật đầu. “Dưa mắm không?” - Lắc đầu.

Rồi với hai tay bưng lấy tô cháo, đã được cho vào cái muỗng nhôm trẹt lét, từ từ chu mỏ thổi, hớt hớt mà ăn, mà hít hà, nóng quá, béo quá. Ăn xong tô cháo, cũng đủ đưa tay quẹt vài giọt mồ hôi. Ðứng lên dậm dậm cái chân chút cho đỡ tê. Hai tay kéo kéo, giũ giũ chiếc quần bị dính vào chân do ngồi lâu. Rồi thủng thẳng đưa tay chùi miệng, tung tăng đi về. Tưởng như cuộc đời ngon nhất chỉ có cháo đậu đỏ nước dừa.

Hơi ấm nóng của tô cháo đậu, mùi béo ngậy của nước dừa, vị mằn mặn của muối đậu từ 30 năm trước cứ xông xốc xộc vào lỗ mũi trong cái buổi sáng sương mù dầy đặc trong công viên Mile Square Park. Ði cho nhanh, lấy xe tạt ngang ngôi chợ Việt Nam mở cửa sớm, mua gói đậu đỏ, mua lon nước dừa. Chạy về nhà, bắc nồi cháo đậu.

Không trọn vẹn màu cháo đỏ như màu đỏ nhưn chuối của cái bánh tét.

Không ngầy ngậy vị béo của miếng nước cốt dừa tươi, tự bào tự vắt.

Không đủ vị mặn cần có của tô muối đậu (muối nhiều hơn đậu) ngày xưa.

Nhưng bưng tô cháo. Phù phù chu mỏ thổi, từ từ hớt hớt lớp trên ăn dần xuống.

Mà ra hình ảnh của đứa nhóc - tôi - ngày xưa, xưa lắm, ăn được tô cháo, cứ ngỡ, trên đời này, không gì là ngon hơn vậy...

Tản mạn về cái phận nghèo

Từ ngàn xưa, ông cha ta thường nói không nên vạch áo cho người xem lưng, mà chuyện nghèo có hay ho gì đâu mà nói cho thiên hạ biết. Phân vân mãi rồi tôi cũng muốn chia sẻ, giãi bày về cuộc mưu sinh khá là vất vả, cơ cực của 30 năm sau khi lập gia đình từ năm 27 tuổi. Nếu tính thời gian của cuộc đời này là 60 năm như lời một bài hát thì tôi chỉ còn 3 năm nữa mà thôi. Nhiều lúc tôi tự hỏi, tại sao tôi lại chịu đựng được cái nghèo cứ đeo bám tôi dai dẳng như vậy?Từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành, ba dạy tôi rất nhiều điều về cách ứng xử trong cuộc sống, nhưng điều tôi tâm đắc nhất vẫn là câu tục ngữ: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Ông giải thích ngắn gọn và dễ hiểu, tôi trân trọng mang nó vào đời. Cuộc sống viên chức của gần 30 năm về trước với đồng lương khiêm tốn làm cho gia đình tôi lâm vào cảnh thiếu thốn triền miên.Những bộ sách hay của văn học Việt Nam và những tác phẩm của các tác giả đạt giải Nôben được tôi cất giữ cẩn thận, rồi cũng đều bị tôi xé từng tờ đưa vào lò lửa khi nồi cơm, nồi canh đang lỡ dở mà hết củi chụm. Vợ tôi ngồi khóc khi thằng con trai 6 tuổi bị sốt do viêm họng mà không có tiền để đi mua thuốc hoặc đi bệnh viện. Tôi phải lục trong ký ức, chạy ngược chạy xuôi cho đến khuya mới tìm ra một thằng bạn học có vợ làm y tá trong bệnh viện huyện xin mấy viên thuốc kháng sinh và paracetamol.

Thằng bạn từ Quy Nhơn lên chơi, nhà hết gạo, chẳng còn tiền, lương thì chưa nhận, vợ tôi phải sang nhà hàng xóm mượn một ký gạo đem ra chợ bán nửa ký mua đồ ăn, làm cơm tiếp bạn. Nhưng tôi nhớ nhất là năm 1992, cái năm ở nhờ trong vườn trồng tiêu, cà phê của ông chú vợ ở Gia Lai, và chịu trách nhiệm coi ngó cái xưởng gỗ của ông. Số tiền mang theo ít ỏi dùng để mua gạo ngày càng cạn dần.

Một bữa trưa vì đói nên tôi ra vườn moi các luống rau lang tìm củ, nhưng tìm mãi mà không có một củ nào, tôi đành phải nói với vợ lấy cái lon bắp giống rang cho tôi ăn đỡ đói. Cái nghèo đói của tôi không chỉ là những dòng nêu trên, bởi đến 30 năm kia mà. Nhưng chỉ mới viết lại đơn giản chừng ấy thôi, tôi rùng mình phát hoảng và thương hại cho cuộc đời mình, nghèo đói đến thế là cùng.

Khi mới lập gia đình, má tôi bảo rằng con cố gắng làm để khỏi phải nghèo, mà nghèo thì khổ đủ điều. Lúc ấy tôi chỉ cười và nói, con chỉ sợ giàu, phải lo xây nhà kiên cố, tường rào cổng ngõ phải bài bản, phải có chó dữ, ra đường phải nhìn trước ngó sau đề phòng trộm cướp, đi đâu cũng kẻ đón người chào mất tự nhiên. Nghe tôi nói vậy, má tôi không nói gì, chỉ cười buồn.Không hiểu sao cái nghèo đói luôn bám riết lấy tôi, mà tôi thì không rượu chè, không cờ bạc, cũng chịu làm để góp phần lo cuộc sống gia đình và nuôi con ăn học. Nghèo thì nghèo vậy, nhưng tôi luôn lấy làm hãnh diện, thấy mình nhẹ nhàng, thanh thản vì không làm điều gì trái với lương tâm, như lời ba tôi đã dạy, đã giải nghĩa câu tục ngữ: “Nghèo cho sạch, rách cho thơm”. Cho đến bây giờ tôi vẫn nghĩ, tiền bạc của cải như bọt biển, chữ tình mới là sâu nặng bền lâu.Cách đây 20 năm, tôi đọc một bài viết trên tờ Văn nghệ trẻ mà tôi không nhớ tựa đề, nhưng có một câu gồm ba chữ “nghèo là nhục”. Phải nói là lúc ấy tôi thực sự nổi giận, và tìm người bạn rất thân chia sẻ những suy nghĩ của mình. Anh bạn của tôi thì cho rằng, lúc này là lúc nào rồi mà tôi còn ôm cái triết lý cũ mèm của ngày xửa ngày xưa ấy. Nghèo là nhục, chính xác tuyệt đối!

Anh bạn còn nói bởi vì tôi chưa nghèo đói đến mức thấy hết sự đối xử của người đời dành cho mình. Ví dụ không có nhà, người ta đuổi ra đường; không có tiền, người ta không cho mượn mà còn miệt thị chửi mắng. Chỉ chừng ấy thôi, không lẽ không nhục sao? Hơn nữa cái hãnh diện của người có tiền, của người giàu khác hẳn với cái hãnh diện gần như là một cái thú đau thương của người nghèo.

Riêng tôi thì cho rằng, nghèo nhưng có lòng tự trọng, không đánh mất nhân cách, có thể chết vì đói, lang thang nay đây mai đó vì không nhà cửa, nhưng không thể là nhục được. Tôi và người bạn tranh luận với nhau rất gay gắt, không có hồi kết. Và cuộc tranh luận ấy ít nhiều đã làm tôi phải suy nghĩ thêm về những điều mà cái nghèo phải gánh chịu trong cuộc sống những năm sau này, nhất là lời căn dặn của má tôi: nghèo sẽ khổ đủ điều.

Thời gian trôi qua như là một thước đo kiểm nghiệm giá trị của cuộc sống. Ba má tôi ngày càng già yếu, các em tôi lớn lên rồi lập gia đình, có đứa giàu đứa nghèo, lâu lâu mới gặp nhau. Tình cảm cũng không còn như ngày nào sống chung dưới một mái nhà. Tôi là con trai trưởng nhưng tiếng nói không còn trọng lượng, bởi quá nghèo. Ba má tôi không bao giờ chê tôi nghèo mà ngược lại còn rất thương tôi, nhưng không thể nghe tôi vì mọi việc trong gia đình đều do những đứa em có tiền của tôi quyết định.

Đến sổ đỏ nhà cha mẹ, tụi nó cũng lấy để vay vốn ngân hàng làm ăn, tôi cần làm gì thì đi vay nóng. Tụi nó cho nhau mượn hàng chục triệu, nhưng tôi chỉ cần ba triệu để nộp học phí cho hai đứa con thì phải mượn hàng xóm. Mà tôi có đến tám đứa em, một thằng đã là tỷ phú, có nhà hàng, có xe bảy chỗ. Có người sẽ nói rằng, có lẽ tôi ăn ở chẳng ra sao nên không có đứa em nào giúp đỡ cả. Đơn giản thôi, khả năng trả nợ của tôi rất thấp, bởi tôi nghèo quá, đang phải tha hương cầu thực, và thế là tôi đã bắt đầu cảm nhận nỗi khổ của kẻ nghèo trong một gia đình.

Nói đúng hơn, với tôi đó là nỗi bất hạnh, là sự tổn thương quá sức chịu đựng. Và tôi đã mường tượng nhận ra người bạn của tôi cũng có phần đúng khi nói nghèo là nhục. Trớ trêu thay khi tôi mường tượng ra điều ấy thì tuổi đã gần 60, cái tuổi không thể dùng cơ bắp nhiều để mưu sinh, nhưng cũng không thể làm khác được. Tuy nhiên vì đã quen với cảnh nghèo nhiều năm nên tôi tiếp tục bước vào cuộc chiến cơm áo gạo tiền cũng hết sức bình tĩnh, cũng ủi đồ, cũng bỏ áo trong quần như ai khi đi ra đường.

Đôi lúc tôi thản nhiên với số phận, bởi cho rằng mình không thể thoát ra khỏi cái cảnh nghèo như câu ca dao: Cây khô xuống nước cũng khô/Phận nghèo đi tới nơi mô cũng nghèo.

Không phải ngẫu nhiên mà tôi nghĩ như vậy. Ở quê, tôi không nhà cửa, tôi xin ở nhờ nhà của bà con họ hàng, nhà của nhà nước, và cái trại bán đồ sành sứ của thằng em trai. Vào Sài Gòn, lúc thì thuê nhà ở Gò Vấp, Bình Thạnh, khi thì Thủ Đức, quận 8, và năm năm rồi trụ được tại quận 9 với cái nồi bún riêu học lỏm. Đời tôi lênh đênh ba chìm bảy nổi như thế thì làm sao dám nghĩ đến chuyện an cư lạc nghiệp, làm sao dám mơ tưởng đến việc thoát được cảnh nghèo.

Về chuyện nghèo là nhục, cũng xin nói thêm rằng, qua hơn 5 năm ở Sài Gòn, tôi thấy người ở thành phố này rất tôn trọng những người chịu thương chịu khó, chịu lao động, mặc dù những người đó rất nghèo. Cái nhìn của người Sài Gòn mang nét hào hoa tài tử của người Nam bộ trọng nghĩa khinh tài. Họ không trọng vì giàu, không khinh vì nghèo. Đã có không ít người của bao thế hệ miền Trung, miền Bắc được người Sài Gòn yêu thương gả con gái tạo điều kiện gây dựng cơ nghiệp vững chắc từ một anh sinh viên nghèo, hay từ một anh công nhân bình thường.

Nghĩ đến những điều ấy, tôi thấy lòng mình như ấm lại. Nghèo không ai khinh, cũng không gọi là nhục được, nhưng như má tôi nói, nghèo sẽ khổ đủ điều, đó là điều chắc chắn. Thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu đủ thứ, không nhà cửa, không lễ tết, không giỗ chạp. Tuy nhiên, điều đáng lo nhất là chuyện đau ốm bệnh tật, nhẹ thì được chứ nặng thì chỉ có chết vì không có tiền nằm viện, không có tiền mua thuốc.

Tôi nói với hai đứa con, bây giờ tôi sợ nghèo còn hơn ma quỷ, sợ đến khủng khiếp, sợ đến phát điên, phát cuồng. Nếu có ai hỏi trên thế gian này tôi sợ nhất điều gì thì tôi sẽ trả lời ngay: Nghèo.

Tản mạn gói mì ăn liền

Chúng ta đã ăn phở tái, bún giò, miến ngan… từ xa xưa (từ thuở Hà Nội – băm sáu phố phường, Huế – thần kinh) nhưng ăn mì ăn liền thì mới chừng mấy chục năm nay.

Mì ăn liền là một thực phẩm khô, chiên trước với dầu cọ, vô gói (từ 60 -  80g), ăn liền sau 3 -  5 phút dội nước sôi lên. Mì ăn liền ra đời muộn mà có sức lan tỏa, “chiếm lĩnh thị trường” mạnh, nhanh, đến sớm rộng khắp. Có thể nói, ngày nay gói mì ăn liền đã đến với từng nhà, kết bạn với từng người. Có thế, nước ta mới mỗi năm sản xuất tới 6 tỉ gói mì với đủ các thương hiệu (Hảo Hảo, Miliket, 3 Miền, Tiến Vua, Bò Rau Thơm, Gấu Đỏ… Mì lâu đời nhất là mì Colusa gói giấy vẫn còn được ưa chuộng). Có những con số của năm 2005, tôi đọc được trên báo: Trung Quốc, ăn nhiều mì tôm nhất thế giới với 44, 3 tỉ gói / năm 2005, Indonesia thứ hai với 12, 4 tỉ gói / năm 2005, Nhật thứ ba – 5, 4 tỉ gói / năm 2005. Tiêu thụ mì ăn liền nhiều nhất, tính theo đầu người: Hàn Quốc 69 gói / người / năm,  Indonesia 55 gói / người / năm, Nhật 42 gói / người /  năm.

Nó nhờ vào đâu vậy?

- Chắc trước hết, nó nhờ vào cái giá rẻ: Trừ gói mì 5000đ – 6000đ dành cho người chuộng món ngon, gói mì phổ thông ba bốn ngàn đồng / gói, rẻ hơn cả đĩa bánh xèo rải rau giá búp, chén bánh bèo rắc tôm bột của mấy bà bán dạo xóm cho người nhàn rỗi vừa ngủ giấc trưa dậy. Đó là nói thời giá bữa nay, chứ hồi cách đây vài năm, mì ăn liền chỉ 500đ / gói thôi. Ít thấy có món vừa rẻ vừa ngon, theo nghĩa “tiền nào của nấy”, như gói mì. Ăn phở bò, bún giò thì “dội” lắm, lâu lâu mới dám cải thiện một bữa. Ăn bún cá, bún riêu cua giá cũng gấp rưỡi, gấp đôi gói mì tôm, mì thịt bằm ăn liền. Ăn bánh xèo, bánh bèo, ổ bánh mì cặp thịt “bình dân” đấy, nhưng bị thiếu nước, khô khan, khó nuốt, nhất là đối với người già ăn ít, có tật ăn hay mắc nghẹn. Sau cùng, nhiều người đã chọn “giải pháp” ăn gói mì, vừa rẻ vừa có cả cái lẫn nước, dễ nuốt trôi. Ăn xong tô mì tôm (cách gọi chung cho các loại mì), anh công nhân, chị cán bộ, bác nông dân yên tâm rằng mình đã nạp đủ “năng lượng” cho một buổi mai làm việc, từ sáng tới trưa. Nói, nhờ giá rẻ mà mì ăn liền tiêu thụ mạnh, “chiếm lĩnh thị trường” nhanh, chưa chắc trúng! Vì có những nước giàu vẫn ăn nhiều mì tôm kia mà.

- Ưu điểm thứ hai của gói mì tôm dễ thấy, là tiện lợi. Trước hết, tiện cho việc để dành, để trên bàn ăn, đậy rổ lại, hoặc cất trong chạn là tốt, miễn sao đừng để chú chuột đục khoét. Vì chuột mà đục khoét gói mì, chẳng khác gì ông Tám Khừng quê tôi, gặp cỗ giỗ được cho ngồi vào mâm. Mà cũng tiện cho việc chế biến, người bận rộn công việc, với gói mì tôm và chút nước sôi trong phích là có ngay bữa ăn, ăn lẹ. Bởi khỏi phải chế biến lâu lắc, ăn lẹ để còn công việc, gói mì tôm mới được đặt tên là “mì ăn liền” (nhưng cái tên này  người ta ít gọi hơn cái tên mì tôm đã quen miệng, quen miệng đến mức gói mì chay cũng bị gọi là mì tôm chay).

Trong đời, tôi đã gặp nhiều cảnh ăn mì ăn liền cảm động lắm. Cái hôm máy bay trực thăng sà xuống tới đọt tre, thả hàng cứu trợ xuống “ốc đảo” quê tôi (vùng đang bị thiên tai lũ lụt bao vây), tức thì từ trong các nhà ngập lũ sâu, bà con đã ào ra, bơi theo dòng nước cuộn chảy, vớt những thùng mì tôm bọc trong giấy nhựa. Và từ bữa đó, bà con làng tôi đã ăn mì tôm cầm hơi, suốt những ngày bão lũ gian nan, cơ cực. Khối cô cậu sinh viên, học sinh nghèo trọ học xa gia đình, vừa mua sách học vừa “kế hoạch” túi tiền, mua chục gói mì tôm để dành “ăn dặm”, vì nhiều bữa phải mì tôm thay canh, mì tôm bữa sáng đến trường, bữa tối thức khuya học bài. Khối anh chị công nhân nhà máy, ông bà cán bộ hưu trí (từng làm nhân viên cho lãnh đạo), đến kỳ lĩnh lương, liền ưu tiên dắt nhau ra siêu thị, mua một thùng mì tôm ôm về, bảo đã làm xong “kế hoạch tiền lương”. Một bà chủ quán trong khu dân cư nghèo đã có lần kể cho tôi nghe, những ngày giáp Tết, quán bà bán mì tôm chạy lắm, nhà nào cũng mua mì tôm ăn Tết, có nhà mua tới mấy thùng. Hình như đoán trước được, tôi sẽ có câu hỏi, tại sao, bà giải thích luôn: “Bởi tại cái gu của dân vùng này và cũng vì, bà con sợ ngày Tết quán xá nghỉ, mà lo trước còn hơn”.

Không ít người phong lưu, thích ăn ngon, phải bữa mì tôm, người ta đã “gia công” cho gói mì: cho thêm thịt ướp, chả giò, nhánh rau thơm, tiêu bột, củ hành ngâm chua, dội nước lèo nấu xương heo, sụn bò… Thế là thực khách có được một tô mì tôm hảo hảo, khác xa cái hương vị ban đầu của nó. Hương vị thuở ban đầu của tô mì ăn liền, nếu là mì tôm thì có chút hương vị tôm, mì thịt bằm chút hương vị thịt, mì bò bip – tết tí xíu hương vị thịt bò. Ngoài cái hương vị thịt hay tôm, theo tên gọi của gói mì, còn có cái hương vị rau thơm, cà rốt (hoặc khoai tây, đậu Hà Lan), muối, bột ngọt có trong bì gia vị của mỗi gói mì… Mì chay có hương vị nhiều loại rau: ngò thơm, cà rốt, khoai tây… và mùi thơm nấm (thay cho hương vị thịt, tôm, cua).

Đem mì tôm so sánh với bánh bèo, bánh xèo mới thấy cái “bất công” trong sự “đối đãi” của con người. Gói mì tôm (ba, bốn ngàn đồng) lại được sản xuất trong nhà máy công nghệ với dây chuyền sản xuất tiên tiến, có thương hiệu mĩ miều, bao bì láng bóng rực rỡ, được đóng thùng lịch sự, sang trọng; trong khi đó cái bánh chưn, chồng bánh xèo, đĩa bánh bèo…(cùng giá) lại chế biến trên lò than, bếp củi lọ lem, tới khi có cái bánh rồi, cũng chẳng gì hơn, vì bị thảy ra mâm, ra mẹt. May mà gặp người ăn tinh đời, có bụng tốt còn biết, đây là: “Món ăn dân dã”… để mà thương nhau.

Mì ăn liền chắc không bị cuộc cạnh tranh ráo riết, mặc dù ngày nay có xuất hiện gói phở ăn liền, miến ăn liền, cháo ăn liền… Tôi nghĩ, những gói sau này chỉ làm đa dạng, phong phú thêm cho gói mì ăn liền đang phục vụ cuộc sống hối hả thời nay.

Thử hỏi, ở trong nước mình, món ăn nào có tính phổ cập, “phủ sóng” toàn miền, toàn cõi, toàn quốc? Phở chăng? -Nhiều thị trấn không có quán phở tái, nạm. Bún bò giò heo chăng? –Cũng không. Cháo lòng, bánh hỏi thuộc “gu” của dân Bình Định, nhưng nơi khác thì cũng chẳng có “biệt nhãn”gì. Cao lầu vẫn “cố thủ” ở thành phố Hội An – Quảng Nam, Don “an phận thủ thường” ở thành phố Quảng Ngãi… Thưa, chỉ có gói mì ăn liền.

Tết của người nghèo

Thứ hai, 30/1/2012, 15:59 GMT+7

v:shapes="_x0000_i1029">

Ngày tết mà mẹ toàn ngồi kể chuyện ngày xưa, những câu chuyện tôi đã thuộc nằm lòng như một bài tập đọc về nhà thời cấp I, hay như những đoạn văn yêu thích trong “Chiếc lá cuối cùng” của O. Henry, “Cố hương” của Lỗ Tấn.

Nhưng đêm giao thừa tôi vẫn nằm im nghe mẹ kể, dẫu cái điện thoại thi thoảng lại rung lên bần bật, lũ bạn lại nheo nhéo rủ ra đền hái lộc hay đi xem bắn pháo hoa. Chúng nó trêu:

- Không hiểu sao mày lại có thể ở nhà để nghe kể đi kể lại mãi mấy chuyện ấy được.

Tôi chỉ cười, tôi bảo vì tôi đi xa cả năm, chẳng mấy khi có thời gian ở gần người thân nên trong những giây phút thiêng liêng nhất của năm tôi muốn chiều lòng mẹ. Nhưng một phần cũng vì những câu chuyện mà mẹ kể có bóng dáng tuổi thơ tôi vẫn nằm ngủ vừa êm đềm vừa nhức nhối trong vùng kí ức.

Mẹ kể về tết của những người nghèo khi bố bắt đầu dọn mâm cỗ cũng giao thừa có xôi, có gà và bánh chưng xanh. Hương trên ban thờ toả ra mùi thơm dìu dịu, tôi nhìn chiếc đồng hồ điện tử trên tường đếm lùi từng giây cuối cùng của năm cho đến khi tiếng chúc mừng năm mới ở khắp xóm đã vang lên tôi vẫn thấy ngỡ ngàng vì năm mới đã về. Năm nào cũng là cái cảm giác hồi hộp, thiêng liêng ấy. Mấy anh em cùng chúc tết bố mẹ, mẹ rưng rưng nhìn chúng tôi như thể không hiểu sao gia đình chúng tôi lại vượt qua được biết bao nhiêu khó khăn để có được ngày hôm nay no ấm, đủ đầy. Bản nhạc “Happy new year” đã vang lên nhưng trong sâu thẳm đôi mắt mẹ là tết của vùng kí ức lại ùa về…

* * *

Mùa Xuân đến rồi mà trời vẫn lạnh căm căm, nhân lúc được nghỉ học đón tết mẹ bảo mấy anh em bỏ hết quần áo ra rồi ngồi trong bếp sưởi ấm để mẹ mang đi giặt còn kịp khâu vá lại mới có cái mặc đi thăm ông bà, họ hàng vào ngày tết. Không bao giờ chúng tôi nghĩ đến việc đòi mua quần áo mới vào ngày tết, dẫu sao thì ba anh em tôi cũng thấy mình còn may mắn hơn mấy đứa em nhà dì Hạnh. Dường như mấy tết rồi vẫn bộ quần áo cũ, nhựa nhem nhuốc, chỗ rách từ năm trước đến năm sau lại càng rách to hơn như không ai khâu vá. Năm nào cứ đến 27 tết là dì lại dắt các em về nhà tôi đón tết. Nhiều lúc tôi hỏi mẹ:

- Sao dì không ở nhà mà ăn tết lại cứ phải về nhà mình hả mẹ?

Mẹ ra hiệu cho tôi im lặng, mẹ bảo vì dì muốn về đây ăn tết có anh có em cho vui, chứ ở bên sông có một mình buồn lắm.

Mấy đứa em nhà dì lầm lì, ít nói. Trong bữa ăn mỗi lúc mẹ tôi gắp thức ăn cho chúng là chúng lại lấm lét nhìn mấy anh em tôi. Mẹ lúc nào cũng dặn:

- Các con phải yêu thương mấy đứa em nhà dì vì chúng không có bố.

Tôi biết thế nhưng nhiều lúc thấy mẹ chăm sóc chu đáo cho chúng quá cũng đâm ra ghen ghét. Có lúc đi qua đi lại rình lúc người lớn không ai để ý tôi lại véo thằng Hà một cái, bấu con Hân một cái thật đau vào đúng cái chỗ áo rách nhưng chúng chẳng bao giờ dám khóc. Vậy mà không hiểu sao mẹ biết, có lần mẹ gọi tôi lại bảo: “Là anh em các con phải thương yêu nhau chứ”, tôi thấy buồn nhưng ngày bé chẳng bao giờ buồn lâu được.

Ngày 27 tết năm nào bố cũng ra nghĩa trang liệt sĩ tảo mộ cho ông. Anh tôi thường lóc cóc ngồi sau xe đạp xách hoa và hương cho bố. Thằng em trai thì theo mấy chú đi mổ lợn chung trong xóm. Thi thoảng nó lại chạy về nhà dúi cho tôi lúc thì miếng lòng dồi, lúc thì miếng gan luộc vẫn còn nóng hôi hổi. Đấy là chiến lợi phẩm của nó sau cuộc tranh giành với lũ trẻ con trong xóm. Thằng bé hợp với tôi nên có cái gì cũng chia đều cho cô chị hết. Tôi thì là con gái nên dĩ nhiên là ở nhà cọ lá dong hay ì ạch bê củi vào sân sau để chuẩn bị nấu bánh chưng. Mấy đứa em nhà dì thường ngồi thu lu trong đống rơm ở hiên nhìn mọi người làm việc. Môi chúng tái vì áo không đủ ấm. Đôi lúc nhìn mấy đứa ngồi tụm lại ủ ấm cho nhau tôi chợt thấy thương thương. Đợi mẹ nhóm xong nồi bánh chưng tôi kéo chúng xuống ngồi vây quanh bếp sưởi ấm. Một lúc sau tiếng cười rinh rích đã vang lên ở sân sau, đôi lúc con Hân ngồi bắt chấy trên đầu thằng Hà, bé út Hương thì dựa vào lưng anh trai thiu thiu ngủ.

Những ngày tết dì Hạnh là người ủ rũ nhất. Dì chỉ quanh quẩn trong nhà ngoài vườn, làm lụng đủ thứ việc mà không đi đâu cả. Kể cả ngày mồng một, mồng hai tết. Những lúc chẳng có việc gì để làm dì ôm ba đứa con trong lòng, xoa đầu chúng, hát cho chúng nghe những bài buồn buồn. Rồi lấy kim chỉ khâu vết rách trên áo cho lũ con nhưng dường như vải đã mủn quá rồi lên càng khâu lại càng dễ rách to. Thi thoảng đi chơi chán khắp mọi nơi về, tôi lại lén nhìn mấy mẹ con dì như thế.

Mẹ tôi cũng dường như tất bật hơn, lo lắng hơn khi năm hết tết đến. Có lần tha thẩn chơi ngoài sân tôi nhìn vào trong thấy mẹ đang ngồi đếm từng đồng tiền lẻ cất kĩ trong cái hòm đạn. Mẹ ngẩn người ra một lúc rồi nói với bố:

- Mình ơi, có khi năm nay lại phải sang bà Khanh vay nặng lãi lấy ít tiền thôi. Rồi ra giêng bán đàn lợn đi sẽ trả. Chứ chỉ có bây nhiêu thì làm sao lo đủ cái tết, cả năm nhà dì mới sang ở vài ngày tết chẳng nhẽ lại ăn cơm rau muối, cũng phải mua ít thịt mà ướp muối ăn dần chứ.

Tôi thấy bố thở dài, chỉ ngồi hút thuốc lào rồi nhìn mênh mông ra khoảng nắng trước nhà. Mãi một lúc sau bố mới lên tiếng, giọng bố trầm trầm:

- Phải vay thì cứ đi vay chứ biết làm sao được. Bao giờ nhà mình mới thoát khỏi cái cảnh này không biết nữa. Nhà mình cứ ốm đau quanh quẩn nên mới đến nông nỗi này, chứ làm vất vả cả năm trời… Đúng là không ốm không đau làm giàu mấy chốc. Thôi mẹ nó cũng đừng suy nghĩ nhiều, cứ đi vay về lo cho các con, các cháu có một cái tết đầy đủ không lũ trẻ là nó dễ tủi thân lắm.

Rồi bố lại vác cuốc lên rừng, mẹ vẫn ngồi tần ngần bên xấp tiền lẻ cóp nhặt cả năm. Khi đó tôi đã mười ba tuổi.

* * *

Tết năm tôi mười bốn tuổi, đến chiều 30 tết vẫn không thấy mấy mẹ con dì đi đò sang. Cả nhà tôi ai cũng thấy bồn chồn, đứng ngồi không yên, riêng tôi ngồi đun nồi bánh chưng mà nước cạn lúc nào cũng không biết nữa. Bố gói cho mẹ ít đồ đạc bảo sang sông xem thế nào, mẹ tôi đi từ mờ sáng thì trưa đã thấy về. Mẹ về một mình, đầu tóc rũ rượi, vừa đi đến đầu hiên thì mẹ ngã xuống bám vào bố khóc vật vã. Tôi linh tính có điều gì không hay đã xảy đến với gia đình dì nên nước mắt đã lăn dài trên má.

Chiều đó cả nhà tôi đóng cửa sang sông. Mấy anh em tôi vừa đi vừa i ỉ khóc, thi thoảng lại nhìn nhau rồi khóc nấc lên không thành tiếng, thấy quãng đường sang nhà dì sao ngăn sông cách trở, đi mãi vẫn không thấy đến. Con sông qua trận mưa bão lớn vẫn còn đầy nước, cây cối, nhà cửa hai bên sông đổ ngổn ngang. Người lái đò vừa chở khách vừa hát câu gì nghe buồn lắm, buồn như những lần tôi lén nghe dì hát những ngày đầu năm mới. Có nhiều người sang sông mặt cũng buồn rười rượi, thi thoảng lại lấy vạt áo lau nước mắt, mẹ tôi dường như đã đuội sức quá rồi nên gục mặt xuống hai đầu gối, thi thoảng người lại run lên bần bật. Nhìn dải cát ven sông trải dài, heo hút gió lòng tôi chợt thấy ân hận vô cùng khi ngày xưa từng bắt nạt mấy đứa em, véo nó tím tái cả thịt da đúng cái chỗ áo rách không che nổi. Cảm giác tội lỗi ấy càng làm cho quãng đường xa hơn, nỗi buồn mất mát trong tôi lớn hơn nhiều.

Em Hân mất, cái đứa em vẫn thường vạch đầu bắt chấy cho anh nó những khi ngồi canh nồi bánh chưng ngày 27 tết, và dang tay ủ ấm cho đứa em út trong đống rơm trước hiên nhà tôi. Giờ nó nằm đấy, mặt tím tái, người trương phềnh lên, tôi hầu như không còn nhận ra nét gì trên khuôn mặt nó ngoài cái áo bông cũ kĩ lại bị rách chỗ dì Hạnh đã khâu năm ngoái, cái chỗ tôi mấy lần véo nó đau tím tái. Dì tôi ngồi đó không khóc nhưng đôi mắt đã dại đi, tôi thấy dì vừa cứng cỏi vừa tội nghiệp. Tôi khóc gọi “dì ơi”, dì ôm tôi bảo:

- Con gọi em nó đi, gọi nó một lần cuối cùng đi con.

Rồi dì gục lên vai tôi nức nở. Mãi mãi sau này tôi không làm sao quên đi cái hình ảnh đau buồn ấy, nó cắn vào tim tôi nhói buốt về sự buồn đau, ảm đạm của những tháng năm nghèo khó.

Em tôi mất vì theo lũ bạn ra sông vớt củi sau trận lụt, thấy gần giữa sông có cái áo bông trôi nên bảo đứa em út đứng trên bờ rồi mang cây gậy ra vớt áo. Nhưng không ngờ dòng nước xoáy đã cuốn em tôi, khi mấy đứa trẻ con cất tiếng kêu cứu cũng là lúc người ta không còn nhìn thấy em trên dòng nước. Năm ấy không có tết, dì Hạnh ngồi trong ngôi nhà lá trống huếch, trống hoác của mình cứ nhìn lên ban thờ khóc: “Giá mẹ không bảo các con cố ở lại vớt thêm ít củi ra giêng đun thì đâu đến nỗi. Giá mà sang sông sớm thì cũng đâu đến nỗi con mẹ không được ăn tết thế này…”. Tôi ngồi nghe dì khóc, hướng cái nhìn ra phía sông, gió thổi buồn hun hút…

Mồng một tết mà không thấy trẻ con mặc áo mới ra đường, không thấy bóng cành đào nào, dù chỉ là loài đào vườn còi cọc. Thi thoảng thấy dăm ba cụ già cúi mặt đi, anh tôi bảo họ đi ra đền hái lộc cầu năm mới no ấm, tôi chẳng buồn tin điều gì nữa. Tất cả mấy anh em chúng tôi quây vào ủ ấm cho nhau, thi thoảng thằng Hà lại khóc nấc lên ừng ực, nó dụi vào lưng tôi, nước mũi chảy đầy ra áo. Nhưng lần đầu tiên tôi không mắng nó. Con bé Hương chỉ nằm im nhắm mắt nhưng nước mắt thì cứ chảy tràn, suốt hai ngày trời nó không nói không rằng, mẹ tôi bắt ăn nó cũng vừa ăn vừa khóc. Tôi vuốt mái tóc bết đầy đất cát của nó mà thương, dì tôi vẫn ngồi trông lên ban thờ nghi ngút khói.

Nhớ vị sườn muối…. Tết nhà nghèo

Cập nhật lúc 17/02/2011 11:11:01

KhonggianTre.com – Tết xong thấy nhiều gia đình đem cả vài khoanh giò lụa, giò bò đem ra hố rác để làm tôi cứ thấy chạnh lòng. Bất giác tôi thấy nhớ đến mình những ngày thơ bé với những ký ức tựa hồ như mới ngày hôm qua.

uê tôi miền trung, cái mảnh đất đã đi vào thơ ca “sáng chắn bão going chiều ngăn nắng lửa” từ bao đời. Gia đình tôi đông an hem, bố mẹ lo cho 5 anh em không bị đói vào cuối những năm 80, đầu năm 90 đã là một điều đáng kiêng nể. Ấy thế mà tất thảy chúng tôi không đứa nào bị thất học.

Tôi là con thứ 4 trong gia đình, sau tôi còn một đứa em út. Tôi còn nhớ, cứ đến mỗi bữa cơm là gia đình lại nhường nhau gắp thức ăn. Đôi khi chỉ có một lạng thịt mà vẫn còn để lại hết buổi chiều. 3 anh chị lớn trong nhà vẫn cho thức ăn vào bát của tôi và em út, nhưng chỉ có em út tôi chưa biết gì thì còn ăn ngon lành, còn tôi vẫn lưỡng lự khi thấy những miếng thịt trong bát của mình.

Tôi bây giờ đã hơn 20 tuổi. cuộc sống của tôi có nhiều thay đổi, gia đình tôi cũng không còn khó khăn như ngày trước nữa. Khi bước chân xa gia đình, được ăn nhiều món ăn ở mọi miền, ngay cả trong những nhà hàng sang trọng, vẫn nhớ da diết những món qua ngày đoạn tháng thuở nào.

Đó chính là món sườn heo muối vào dịt Tết do bố làm. Tôi không thể quên vì đó là một trong những món ăn ngon nhất trong kỉ niệm tuổi thơ anh em tôi. Nói là muối, nhưng không phải muối như kiểu muối dưa, cà. Khi thấy bố xách mấy rẽ sườn về, tôi biết rằng bữa cơm hôm nay sẽ rất đậm đà, tôi sẽ ăn thật no.

Sườn rửa sạch, bố băm thật nhỏ, băm tới mức mịn, nhuyễn thành một khối màu đỏ thẫm thì sẽ chuyển sang phần việc của mẹ. Mẹ sẽ cho lên chảo, chưng với nước nắm, muối, mì chính và một ít hành tỏi đã phi thơm. Cho đến bây giờ tôi vẫn hình dung ra vị ngọt đậm của tủy xương quyện trong gia vị rất đặc trưng. Dù sườn muối chỉ ăn với cơm gạo kho của hợp tác xã, nhưng với những đứa trẻ như chúng tôi thật là tuyệt vời, sánh ngang với cao lương mĩ vị.

Không hiểu có phải do sức khỏe bố yếu dần đi, không thể băm nhuyễn xương sườn ra làm muối cho anh em tôi ăn như thuở nào, hay đời sống không còn khó khăn như trước kia nữa mà bố rất hiếm khi làm món sườn muối cho tôi ăn.

Quãng đời thơ ấu đượm màu mưa nắng, gian khó ấy đã nuôi chúng tôi trưởng thành. Nhiều khi bước chân giữa phố phường đô hội, vẫn nhớ đến xé lòng bữa cơm nghèo trong quá khứ xa xôi vọng về.

Vách Thưa 

Gia đình tôi đi kinh tế mới khi tôi lên sáu tuổi. Nghèo túng là điều ít ai thoát được trong những ngày đầu đến đây. Ba tôi dựng tạm ngôi nhà vách bằng tre đan. Tây nguyên mưa lạnh, ba thường nằm phía gió lùa để che cho tôi. Tiếng mưa gõ đều lên mái vách đọng hoài trong ký ức tôi.

Ba còn là người chế biến nhiều món ăn từ khoai sắn cho đàn con đỡ chán miệng. Ba dùng cái bào tự chế bào củ sắn thành những sợi nhỏ như sợi bún rồi luộc ăn với nước mắm. Bây giờ nhớ lại, giữa bộn bề hàng quán vẫn thấy món bình dị ấy thơm ngon hơn nhiều. Có lẽ vì nó được làm ra từ tình thương của ba tôi.

Năm 1983 ba bệnh, nằm liệt giường suốt sáu tháng rồi mất. Gia đình càng khánh kiệt. Vách nhà loang lổ, rách nát vì thiếu bàn tay chăm sóc. Những đêm đầu tiên ngủ thiếu sự che chắn của ba tôi lạnh lắm, lạnh đến không ngủ được. Cũng từ đó, cái dáng nằm cong người co ro chịu lạnh của ba sưởi ấm cho tôi trở thành hình ảnh đẹp nhất trong tâm hồn tôi.

Anh trai biết tôi lạnh đã nằm vào vị trí của ba để che chở cho tôi. Một lần nữa chỗ thủng, chỗ thưa của vách nhà được che lại bằng một tấm lưng yêu thương. Tôi lại được ngủ trong hơi ấm của tình cảm gia đình. Hôm nay nghe mưa, cơn gió lạnh thoáng qua bất chợt tôi rùng mình. Chợt nhớ anh ngày xưa, đôi lúc run lên vì lạnh để đổi lấy giấc ngủ ấm áp cho tôi.

Rồi năm tháng đi qua, anh lập gia đình. Tôi cũng dần trưởng thành. Nhớ những đêm lạnh không ngủ được, ba thường kể chuyện cho tôi nghe. Câu chuyện của ba bao giờ cũng kết thúc bằng câu: “Có học dù sao vẫn hơn con thấy không?”. Ba không kể chuyện thời xưa mà kể chuyện thời nay. Tôi đạp xe hằng ngày ra huyện học phổ thông cũng nhờ những câu chuyện bên mái vách thưa đó.

Gia đình không đủ sức cho tôi thi đại học hay học một nghề nào đó. Tôi trở lại với ruộng vườn, trong lòng vẫn canh cánh ước mơ đèn sách. Mái vách xưa đã thay bằng ván nhưng nhiều đêm tôi thấy rất lạnh. Nhất là khi tôi nhớ những đêm mưa của tuổi thơ. Quờ tay tìm khô

thấy ba hoặc anh lại càng lạnh hơn.

Làm nông được bảy năm, tôi thi đậu đại học. Cái nghèo vẫn chưa buông tha nên tôi phải thuê nhà trọ rẻ nhất. Những đêm mưa, gió lùa mang theo kỷ niệm về ba, về anh, về tấm lưng thương yêu che chắn cho tuổi thơ tôi.

Ngày giỗ, ba anh em sum họp, ai cũng nhớ cái vách nhà xưa không che nổi gió lùa. Bây giờ sống trong căn nhà tường xây kín đáo, đôi khi tôi chợt thèm một cơn gió lùa mang theo kỷ niệm ngọt ngào về ba và anh. Và trong nỗi nhớ đó, hiện lên dáng ba cong người che chở cho tôi phía mái vách thưa.

ý ức phở

Ngày cập nhật: 10/10/2010 05:43 AM

(TTH) -  Nhớ về Hà Nội, cái đầu tiên tôi nhớ là phở. Phở Hà Nội bây giờ ở khắp bắc, trung, nam đâu đâu cũng có, nhưng chỉ có về Thủ đô mới được thưởng thức “phở thứ thiệt”, phở Hà Nội rin”. Ở hải ngoại, các nhà văn gọi phở là danh thiếp của người Hà Nội, danh thiếp của người Việt Nam . Nghĩa là, nói đến phở là người ta nghĩ ngay đến Việt Nam.

Từ 35 năm qua, cái thương hiệu phở đó đã thành sứ giả Việt Nam đến với người dân bốn biển năm châu việc quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới ghi công đầu cho phở. Ít mặt hàng Việt chiếm được thị phần rộng lớn như thế. Chả thế mà mấy năm trước ở Hà Nội người ra đã xuất bản một cuốn sách dày về phở : Vietnam's Heritage (phở, một di sản Việt Nam). Vâng, phở là di sản, cũng giống như di sản Hoàng thành Thăng Long, quần thể Di tích Cố đô Huế, phố cổ Hội An, như Di sản âm nhạc cung đình, ca trù, quan họ. Phở sang trọng, nổi tiếng thế, nhưng phở lại là một món ăn bình dân, phở là món ăn điểm tâm của tất cả các tầng lớp người Việt. Và, ai cũng có những ký ức riêng về phở.

Tôi có bốn năm là sinh viên Hà Nội và 15 năm làm phóng viên Báo Thương mại (Hà Nội), cứ vài ba tháng lại ra cơ quan một lần, đâm ra ghiền phở. Thời sinh viên, chúng tôi thường ăn “phở không người lái” ba hào một bát, giống như phở múc cho trẻ em một hai tuổi bây giờ (mà trong bút ký Phở nổi tiếng, cụ Nguyễn Tuân gọi là “phở nhi đồng”). Bát phở không có thịt bò, thịt gà gì cả, chỉ có bánh phở chan ít nước dùng, mà phải xếp hàng, thò tay vào cái ô cửa nhỏ xíu chờ hàng giờ cho đến khi bàn tay búp măng của cô mậu dịch viên lạnh lùng đưa bát phở ra, không thấy mặt mũi cô xinh xẻo ra sao, cũng đã thấy hởi lòng, hởi dạ. Trường đại học Thương mại của tôi ở Từ Liêm, mỗi lần đạp xe đi ngang cửa hàng ăn uống quốc doanh ở Cầu Giấy, nghe “mùi phở” bay ra, lại quán tính thò tay vào túi xem có còn đồng nào không. Không có tiền thì đứng tần ngần nuốt nước miếng một lúc, rồi đạp xe thật nhanh như chạy trốn cái sự quyến rũ…

Sau này làm cán bộ, có lương, cứ ra Hà Nội là tôi ăn phở cả tuần. Sáng phở, trưa, chiều cũng phở, nhưng cộng thêm vài cặp quẩy cho ấm bụng. Tôi thường ăn phở ở ba quán nổi tiếng. Ở đầu phố Lò Đúc, gần cơ quan tôi có quán phở Thìn rất tiếng tăm. Chỗ đặt bàn chế biến phở ngay ở cửa ra vào, nên mùi phở thơm ngào ngạt phố. Phía trong là hai dãy bàn gỗ màu đen, như bàn học trò. Khách đứng ở cửa chờ múc phở, trả tiền rồi bưng vào phía trong ngồi bàn ăn rất đàng hoàng. Phở Thìn là phở bò, không bỏ bột ngọt mà nước dùng ngọt lịm. Ở Hà Nội, phở Thìn đã sinh sôi ra nhiều quán ở nhiều nơi, nhưng hương vị phở vẫn giống nhau. Phở Thìn cũng như phở Bát Đàn (ở phố Bát Đàn) không không có rau sống kèm theo như ở Sài Gòn. Tất cả, người ta múc sẵn trong tô phở nóng hổi, điểm xuyết vài cọng hành hoa lên trên rất mát mắt. Còn ở trên bàn có lọ tương ớt, nước mắm để quý khách dùng theo khẩu vị. Người ăn phở Bát Đàn mấy chục năm nay vẫn phải xếp hàng như xếp hàng mua thực phẩm thời bao cấp. Có buổi sáng, tôi thấy người xếp hàng cả trăm mét phố. Đến khi bưng được bát phở trên tay thì nhìn quanh chỗ ngồi đã hết. Vì thế, đi ăn phở Bát Đàn phải rủ nhau hai ba người. Người giữ chỗ, người xếp hàng lấy phở. Có lần nhà thơ Trần Quang Đạo rủ tôi và nhà thơ Hoàng Cát đi ăn phở Bát Đàn. Anh Hoàng Cát phải xếp hàng dài tới ba chục mét. Còn tôi và Trần Quang Đạo thì đứng chờ người ta ăn xong để chiếm ghế. Vất vả, mồ hôi mồ kê, nhưng ai cũng xuýt xoa thoả lòng vì được thưởng thức món phở đầu bảng Hà Nội.

Ở Huế, mỗi lần nhớ phở Hà Nội, tôi lại đọc sách Món ngon Hà Nội của Vũ Bằng. Nhà văn quan sát từ xa quán phở bò Hà Nội , đọc mà xốn xang bụng dạ : “Ngay từ đằng xa, mùi phở cũng đã có một sức huyền bí, quyến rũ ta như mây khói chùa Hương, đẩy bước chân ta, thúc bách ta... Qua làn cửa kính đã thấy gì ? Một bó hành hoa xanh, như lá mạ, dăm quả ớt đỏ buộc vào một cái dây, vài miếng thịt bò tươi và mềm: chín có, tái có, sụn có, mỡ gàu có, vè cũng có... Người bán hàng thỉnh thoảng lại mở nắp cái thùng sắt ra để lấy nước dùng chan vào bát. Một làn khói tỏa ra khắp gian hàng, bao phủ những người ngồi ăn ở chung quanh trong một làn sương mỏng, mơ hồ như một bức tranh tàu vẽ những ông tiên ngồi đánh cờ trong rừng mùa thu... Trông mà thèm quá !”.

Ở phố Mai Hắc Đế, Hà Nội có một quán phở rất chật chội, không cắm bảng hiệu, nhưng người ăn đông nghẹt. Ở đây rất ít ghế, nên nhiều người phải bưng bát phở đứng ăn. Thế mà hôm sau họ lại đến. Bán phở là một bà già nhanh nhẹn. Bà vừa múc phở vừa luôn mồm hỏi “Béo hay gầy, béo hay gầy”. Tức là, hỏi người ăn thích thứ phở có thêm mỡ gầu hay chỉ thịt thôi. Khách hàng trả lời “béo”, bà thái thêm cho một một lát mỡ gàu bò. Nguyễn Tuân viết: “Tôi còn được nghe một ông phở khác nói đến mỡ gầu, cái tảng thịt dắt mỡ quí giá nó không béo quá, mà lại quánh như sáp, ròn và mềm ấy mà gọi là một cánh gầu; và lúc cầm vào cân thịt tái, thịt tươi còn nhảy lên dưới làn dao, mà gọi là một quả thăn”. Ăn miếng mỡ gầu nghe béo giòn đầu chân răng.

Nói về phở Hà Nội là nói tới cái “mùi phở”, mà không có nó thì không thành phở được. Bữa nay, nhiều quán trưng biển “phở Hà Nội” nhưng bưng bát phở lên không có cái “mùi phở” đặc trưng ấy, người ta gọi là “phở nước mì chính”. Người ta còn mua những gói gia vị “phở” từ Trung Quốc về để bỏ vào nồi nước dùng, nhưng cũng không phải mùi phở Hà Nội gốc. Cái mùi phở ấy do nồi nước dùng được chế biến công phu mà có. Tôi nhớ thời bao cấp, có lần Công ty Ăn uống Quốc doanh Bình Trị Thiên (cũ) mời nghệ nhân phở Đinh Bá Châu từ Bộ Nội thương về Huế dạy chế biến phở ở Cửa hàng ăn uống Nam Sông Hương trước mặt Bưu điện trung tâm Huế bây giờ. Bác Châu là người chế biến phở Hà Nội số 1 Việt Nam bây giờ. Bác Châu hướng dẫn cách hầm xương bò lửa phải liu riu, cách vớt bọt để nước trong. Hầm suốt đêm, 12 tiếng đồng hồ tất cả các chất tuỷ trong xương đều tan vào nước, nước mới ngọt và có mùi thơm đặc trưng. Người đầu bếp phải thức suốt đêm mới có nồi nước dùng ưng ý.

Bởi thế, dạo đó người đến Cửa hàng Nam Sông Hương ăn phở sáng đông nghẹt. Có lần sáng đi làm, tôi ghế chỗ nhà thơ Lê Thị Mây ở Liễu Quán để gửi chùm thơ cho Tạp chí của Hội Văn nghệ tỉnh. Khi mở cửa, không biết gió máy thế nào, bỗng nhiên nhà thơ mặt tái nhợt, ngất xỉu. Tôi chạy đến nhà bác sĩ Thuỷ ở đường Ngô Quyền nhờ cấp cứu. Bác sĩ Thuỷ khám, cho uống thuốc rồi bảo tôi: “Anh đi mua cho chị Mây tô phở nóng, ăn là tỉnh lại liền!”. Tôi đãng trí, mang cặp-lồng đi mua phở mà không mang cái quai xách, chỉ cầm cái tô nhôm đạp xe ra cửa hàng Nam Sông Hương. Một tay bưng tô phở Hà Nội nóng thơm bốc khói , một tay đạp xe về chỗ Lê Thị Mây, thì mấy ngón tay trái của tôi bị bỏng dộp. Nhưng nhìn bạn thơ ăn tô phở Hà Nội, toát mồ hôi, tỉnh lại, tôi rất mừng.

Nghĩ về phở Hà Nội lại nhớ cách ăn phở của Phùng Quán. Sinh thời, mỗi khi tôi ra Hà Nội, dù cơ quan có phòng khách, tôi cũng về “Chòi ngắm sóng” của Phúng Quán bên Hồ Tây trú ngụ ở đó. Anh Quán rất giỏi ẩm thực, sành làm bếp, nhưng anh nghèo nên anh có cách chế biến, cách ăn của anh : Rẻ mà sang! Anh bảo: “Món gì Hà Nội anh cũng nấu nướng được, trừ phở”. Vì thời gian của anh là để uống rượu với bạn bè và để viết. Anh không có thời gian để chăm lo cho nước dùng suốt đêm được. Mà cái thơm ngon đặc trưng của phở, bao nhiêu bổ béo của phở là ở trong cái nồi nước dùng ấy. Thấy tôi thích phở, sáng nào anh cũng đèo xe đạp chở tôi đi ra chợ Châu Long, có khi ra phố Bát Đàn ăn phở. Anh bảo mình chỉ cần mua một bát phở nhỏ , bưng ra húp hết nước, rồi bưng bát đến cô hàng “cho anh xin ít nước nữa !”. Bao giờ người bán phở cũng sẵn lòng. Ăn như thế “lời gấp đôi”. Nói rồi anh vuốt râu cười…

Ôi, những ký ức phở Hà Nội cũng dậy mùi thơm đến nao lòng…

Nghêu xào cà ri

04-04-2008

Hồi nhỏ, tôi rất thích ăn hải sản, quê tôi ở vùng biển nhưng nhà nghèo, bữa nào ba tôi đi cào về, những món đặc sản như tôm, cua, ghẹ… đều phải để dành bán cho thương lái.

Dù thương tôi lắm, má tôi cũng chỉ dám để lại ít nghêu để làm món này món khác cho tôi ăn. Ngoài các món luộc, hấp, làm gỏi… má tôi còn một “tuyệt chiêu” chế biến món nghêu mà bà chỉ làm khi bà có được món tiền kha khá từ việc bán tôm cua, đó là món nghêu xào cà ri.

Để làm món nghêu xào cà ri, má tôi chọn loại nghêu to, chắc mình, ngâm qua mấy nước, trong khoảng hai tiếng cho nghêu nhả bớt cát. Sau đó bà rửa sạch nghêu, tách lấy thịt, để ráo. Vỏ nghêu không bỏ đi mà chọn những vỏ đẹp, trụng nước sôi, đặt úp xuống cho ráo nước.

Ngoài những gia vị thông thường như sả, tỏi, ớt, bột cà ri, nước mắm, muối đường má tôi còn chuẩn bị thêm khoảng 100ml sữa tươi mới bắt tay vào chế biến.

Khi đă tách nghêu xong, cho dầu vào chảo, đun nóng, sau đó lần lượt cho tỏi, sả, ớt, gừng xào thơm. Cho bột cà ri vào đảo đều, nêm nước mắm, muối đường, cho sữa tươi vào đun sôi.

Bắc lửa lớn, cho nghêu vào xào để nghêu thấm gia vị và khi hỗn hợp trong chảo hơi sánh lại, má tôi nhanh tay nhắc xuống. Sau đó bà gắp từng miếng thịt nghêu khéo léo đặt trở lại vào vỏ nghêu và sắp đều đặn từng con trên dĩa xà lách hoặc rau càng cua đă được lót sẵn.

Khi đó, về hình thức, màu vàng của cà ri, màu xanh của rau, màu ớt đỏ thắm và mùi thơm ngạt ngào của món ăn khiến chúng tôi đói cồn cào gan ruột. Chất lượng món nghêu xào chỉ được cho là đạt yêu cầu khi nghêu ngấm hương vị đặc trưng của cà ri nhưng vẫn c̣n giữ được vị ngọt của thứ hải sản dân dă này. Bí quyết thành công của món nghêu xào cà ri là người nấu phải biết thời điểm nào là tắt lửa thích hợp để nghêu thấm gia vị mà không bị teo thịt kẻo món ăn vừa không bắt mắt vừa kém ngon miệng. Món ăn sẽ ngon hơn khi được dùng nóng.

Lớn lên, tôi đi làm xa, được thưởng thức nhiều món đặc sản lạ nhưng món nghêu xào cà ri vẫn là món ănngon nhất trong ký ức tôi, bởi trong những món ăn má tôi làm, bao giờ cũng có hương vị của tình thương.

Ký ức về bà tôi

Bà tôi đã về theo tổ tiên đến nay tròn 24 năm. Bà tôi mất năm 1987, năm tôi đang dạy ở một trường làng quê ở Miền Nam. Bố tôi báo tin bà mất vào một buổi chiều, khi bà vừa đổ xoong cám cho lợn ăn. Bà mất quá đột ngột.

Lúc bố, mẹ và em tôi còn đang mải làm đồng. Nghe tin bà mất, lòng tôi đau đớn, khóc thương bà mất mà không về để được nhìn bà lần cuối. Tôi ân hận lúc bà còn sống mà tôi không chụp cho bà tôi tấm ảnh nào. Ký ức về bà theo suốt cuộc đời tôi. Bà tôi dáng gầy, lưng hơi còng, gương mặt khắc khổ, đôi mắt sáng cương nghị. Tôi không biết bắt đầu như thế nào để nói hết về bà tôi.

Mỗi khi nghe bà kể lại quãng đời của bà, trong tôi lại trỗi dạy lòng kính trọng về sự chịu đựng, hy sinh, tần tảo cùng bản lĩnh mà cả làng Hạ ở xã Thái giang của tôi đều biết. ( Quê tôi ở thôn hạ liệt, xã thái Giang, huyện thái Thụy, tỉnh thái Bình). Bà tôi góa chồng từ năm 30 tuổi. Ông tôi mất bỏ lại cho bà 2 người con. Bố tôi và em bố tôi. Nhưng trước cách mạng tháng Tám, người dân Việt Nam chịu “một cổ hai tròng” do Thực dân Pháp và Phát xít Nhật gây ra khiến hơn hai triệu người chết đói.

Người Thái Bình chết đói quá nhiều. Gia đình bà tôi trong cảnh chung đó. Vì đói quá, ông tôi mất, rồi em bố tôi mất. Bà tôi đi ở cho Địa chủ Thỏa để nuôi bố tôi. Bố tôi sống theo bà đi ở đợ, ngày ngày cắt cỏ chăn trâu. Rồi bà tôi cũng giành dụm được ít tiền mua được một khoảnh đất nhỏ sau đình làng Hạ làm chòi cho hai mẹ con sống. Bà tôi ở vậy nuôi bố tôi nên người. Cách mạng tháng Tám năm 1945 do Đảng và Bác Hồ đem lại tự do, hạnh phúc cho đất nước, cho nhân dân. Bà dựng vợ cho bố tôi. Gia đình tôi vào hợp tác xã.

Từ đó gia đình phát triển. Bà tôi bảo lúc đó vui lắm. bà bảo “Cuộc sống còn nghèo nhưng hạnh phúc. Nước mắt bà chảy ra vì sung sướng, vui nhất là từ ngày sinh ra cháu đấy.” Năm tôi lên 6 tuổi, em gái tôi 2 tuổi, bố tôi xung phong đi bộ đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Suốt những năm tháng bố tôi đi xa, bà là người chăm sóc tôi từng miếng ăn, giấc ngủ. Vì lúc đó, mẹ tôi là lao động chính. Mẹ tôi chủ yếu làm việc ở ngoài đồng. Ngoài ra, mẹ tôi còn tham gia đội nữ dân quân.

Bởi lúc đó Đế qốc Mỹ đánh bom ác liệt ở miền Bắc. Với tôi, bà là người đã dẫn dắt tuổi thơ tôi, nuôi tôi khôn lớn thành người. Bà thường mặc chiếc áo nâu, cả đời bà tôi đi chân đất. Nhà tôi nghèo. Nhưng bà vẫn lo ăn mặc và chuyện học hành cho 2 anh em tôi chu đáo. Những buổi tối hay những mùa trăng, bà thường mang chiếc ra sân, chúng tôi ngồi quanh bà nghe kể chuyện dân gian. Bà không biết chữ nhưng bà kể nhiều chuyện bây giờ tôi còn nhớ mãi. Truyện Tấm Cám, Thạch sanh. Bà thuộc cả truyện Trạng Quỳnh. Và Đặc biệt bà tôi thuộc rất nhiều thơ trong Truyện Kiều. bà bảo nhớ nhất cái đoạn “ Gia đình Thúy Kiều mắc oan”.

Chính những câu thơ bà đọc đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi từ đó. Tuổi thơ tôi đã làm cho bà tôi và mẹ tôi phải gian nan cực khổ. Tôi mắc nhiều bệnh, èo ọt, gầy yếu. Một tuần có đến hai ba ngày bà và mẹ thay nhau ở nhà chăm sóc tôi. Có hôm giữa đêm khuya, bà tôi cõng tôi lên trạm xá, gõ cửa y bác sĩ. Vì phải nghỉ học chữa bệnh luôn nên sức học tôi bị sút kém. Thấy tôi không khỏi bệnh, bà tôi tìm thầy lang, bất cứ nghe có thầy lang giỏi là bà tìm đến. Bao nhiêu tiền bà cũng lo chạy. Nhưng bệnh tình tôi không khỏi mà như lại thêm ra. Bà tôi , mẹ tôi buồn khóc đêm đêm. Khóc thương tôi bệnh và thương bố tôi ở chiến trường xa, chẳng biết bao giờ về. Tôi cũng khóc, em tôi cũng khóc. Cả nhà khóc. Có đêm, suốt năm canh, bà không ngủ. Bà ru tôi trên võng.

Tiếng ru hời cứ khắc khoải trong tôi cho đến tận bây giờ. Bà tôi tin đến thầy lang nói . Nghe thầy lang nói kiêng ăn món này, bà tìm lo cho tôi ăn món khác. Tôi được bà chăm sóc đặc biệt. Bà lo ăn, lo mặc, lo thuốc thang, rồi bà tắm rửa cho tôi. Bà bảo “ Cháu phải khỏi bệnh, bố cháu không thể chết ở chiến trường thì bà mới sống được”. Bà tôi đi chùa lễ vào các ngày mùng một và ngày rằm. Bà nói “ đi chùa, bà khấn lạy rồi con cháu khỏe mạnh, sum họp”. Bà đi chùa, tôi cũng đi theo bà.

Có hôm, tôi cầm cái đèn, quả cau, khay trầu, có hôm tôi xách mâm nhôm giúp bà. Chẳng biết vì thuốc thang hay vì sự chăm sóc bằng bàn tay và tình thương vô bờ bến cả bà mà tôi cũng hết bệnh, tôi khỏe, lớn dần lên. Bà tôi vui lắm.Mỗi buổi đi chợ về thể nào tôi cũng có quà của bà mua cho. Hôm thì ít ngô rang, hay miếng sắn, có hôm gói xôi nếp nóng hoặc miếng bánh đa vừng… Bà còn mua cho tôi cả cây sáo trúc đẹp. Nhà nghèo nhưng bà biết sắp đặt đâu vào đó. Bà là trụ cột của gia đình. Từ chuyện mua bán, trồng trọt, chăn nuôi, làm vườn, một mình bà quán xuyến. Mẹ tôi chỉ biết làm đồng. còn chuyện trong nhà, bà tôi lo chu toàn. Hai vườn chè nhà tôi được bà chăm sóc xanh tốt nhất nhì trong làng .

Những lúc đói ăn, mất mùa nhưng nhà tôi lúc nào cũng có gạo ăn, có khoai ngô, sắn. Ấy là vì sự khéo léo của bà. Bà tôi sống rộng rãi với mọi người. Từ chú bác họ hàng đến người xa lạ, thấy đói, bà cho ăn, thấy khát bà cho uống. Bà sống chan hòa với lối xóm. Bà làm mai làm mối cho ai thì ai cũng đều hạnh phúc. Chẳng thế mà bác Thúy, quê ở mãi Thanh Hóa ra Thái Bình lập nghiệp những năm 60, bà tôi giúp dựng vợ gả chồng. gia đình bác Thúy nhớ mãi, tết vẫn thăm bà tôi. Những năm tháng bộ đội đóng quân ở quê tôi, từ củ khoai, bát nước chè xanh, bà tôi cũng giành cho các chú bộ đội. Bởi vậy, có chú trước khi đi từ biệt bà tôi nước mắt nghẹn ngào… Bà tôi nấu món ăn thì thật ngon. Từ con cá mè, cá trôi, cá trắm đến cá rô, bà tôi kho vừa ngậy vừa ngon. Bà bảo “Kho cá trước khi kho phải ướp đủ gia vị, phải kho kỹ, húi cá khi nào cháy hết trấu mới được ” ( tức là vùi nồi cá xuống bếp tro có than đỏ, đổ trấu trùm lên mặt vung, đốt khi hết trấu mới bắc nồi cá ra).

Ngày tết đến, mặc dù bố ở chiến trường xa, bà ẫn lo tươm tất. Bà gói bánh chưng, bà đi chung thịt lợn cho 4 khẩu ăn. Sáng 27, phiên chợ Thượng , bà cho tôi đi theo. Bà không quên mua cho tôi vài cái pháo rạ đốt xông nhà lúc giao thừa. Sáng mùng một, bà rửa mặt cho tôi bằng nước ấm có lá mùi....Bà làm mâm cúng, thắp hương . Bà bảo tôi ngồi bên bà, bà lầm rầm khấn bái hồi lâu. Bà tôi nghiêm nghị lắm.

Tôi sợ bà tôi. Vì bà tôi giáo dục tôi không chỉ bằng lời mà cả bằng roi mây. Bà tôi có sợi mây ở trước hiên. Nếu hôm nào trốn học, đi chơi thì thể nào cũng bị trận đòn. Buổi tôi trốn bà đi chơi đến khi về, bà đã cầm roi đứng đợi ở trước nhà. Bà bắt tôi nằm úp xuống. Mông tôi oằn lên vì trận roi. Chẳng biết bà cất roi ở đâu. Nhưng mỗi khi có trận đòn roi, tôi như hiểu vì sao bà đánh. Tôi đã làm bà buồn vì quá nghịch ngợm, thường gây cho người khác buồn. Ví như thả diều, diều bay vào vườn ổi vườn cam, trèo lên làm gẫy cành. Rồi tắm sông có ngày suýt chết đuối phải cấp cứu.. Giờ tôi còn đâu những cái roi của bà. Bà chăm lo sự học hành cho tôi chu đáo.

Sau giải phóng Miền Nam, bố tôi phục viên, sức khỏe yếu, lại một tay bà cáng đáng. Bà chăm sóc bố tôi như từng chăm sóc tôi. Những cơn sốt rét, bố tôi kêu bà tôi lại thuốc thang, rồi những bữa ăn… Bố tôi cũng khỏe lại, da hồng lại. Bà sung sướng bảo “Ông trời thương bà đấy”. Sự học của tôi được bà thường xuyên quan tâm. Bà dạy bảo nghiêm túc .Bà lên nhà trường hỏi thầy cô giáo sức học của tôi. Đêm, khi tôi chuẩn bị đi ngủ, bà gọi tôi, bà giảng giải “ Đời bà không biết chữ. Đời bố mày chỉ học lớp bốn. Chúng mày cũng muốn thất học sao? Xã hội tiến tới không học thì không có nghề nghiệp chỉ có đói khổ cháu ạ!”. Cứ những câu ấy, bà thuộc lòng mỗi khi dạy bảo tôi. Rồi tôi cũng học được hết ấp 3, vào đại học. Tôi đã làm được điều bà dạy bảo. Tôi lấy vợ, đưa vợ về thăm bà. Lúc đó, Bà mừng. Bà thấy cháu dâu của bà ngoan, đức hạnh, bà cầm tiền cho 2 cháu. Bà dặn “ khi nào về cho bà cái áo đỏ cháu nhé!”. Cháu “ Thưa vâng”. Cháu không ngờ đó là lần cuối cùng gặp bà. Bà ơi!... Cháu chưa mua cho bà chiếc áo đỏ thì bà đã ra đi.

Ngày xây mộ bà, tôi cũng biệt tăm, bởi xa quê những hơn 2000 cây số, vì công việc và vì cái nghèo nhà giáo dạy văn mà cháu không về bên mộ bà. Lại sắp đến giỗ của bà. Bà ơi! Cháu có lỗi với bà. Bóng bà đã khuất từ lâu. Nhưng hình bóng bà, tình thương của bà, cháu giữ mãi suốt cuộc đời.

Mùa xuân 2011

KÝ ỨC TUỔI THƠ

Bữa cơm tối ngon hơn nhờ món cà mình muối được gần tuần nay. Cà tươi bà Thanh mang từ Nam Định lên. Gặp tay muối cà chưa bao giờ nhạt, bỗng giòn hơn, ngon hơn, đỡ mặn hơn tí.

Nhưng... Mải ăn, mình cắn phải một góc cà ủng. Hậu quả có thể là do cắt cuống cà sâu quá chăng? Nhưng tóm lại là cà bị ủng. Song thật kỳ lạ, mình gặp lại một mùi quen thuộc của tuổi thơ khiến không thể... nhè món cà ủng ra, mà thản nhiên... nuốt tiếp!!!

Cà muối ủng là món ăn triền miên của tuổi thơ mình. Không phải mẹ mình không có tay muối cà, mà hồi đó, đến cà muối cũng phải xếp hàng để mua.

Mình còn nhớ có cửa hàng thực phẩm cũ kĩ, mình phải đặt viên gạch để xí phần chỗ đứng, chờ mua chỗ cà vừa đen, vừa thối, vừa ít đó. Hí hửng xách về để mẹ xào “chạy qua” hàng mỡ, rồi cả nhà xì xụp ăn với cơm.

Bữa cơm luôn đầy ắp tiếng cười, như thể mâm cơm toàn món ngon, chứ không phải chỉ có đĩa cà ủng xào. Mùi nó đặc trưng ghê. Mặn mòi, và cũng chả còn giòn nữa. Vậy mà vẫn phải ăn, ăn nhiều thành quen, ăn nhiều thành nhớ. Ăn nhiều thành ghi dấu ấn trong trí não của mình.

Và hôm nay gặp lại. Tự dưng thấy bữa ăn ngon hơn. Dường như không phải ăn cà ủng nữa, mà thưởng thức cả ký ức tuổi thơ nghèo nhưng êm ấm.

Cá Linh kho tộ.

Sáng nay, sau khi đi tập thể dục xong, hai cô cháu LT lại tiếp tục hành  trình cho  những bữa cơm gia đình.

Chỉ cần một vòng là thức ăn đã mua đủ.

Vậy mà khi đi ngang một hàng cá, thấy có cá linh sống nhảy tưng tưng, làm LT cũng muốn nhảy tưng tưng lên theo

Đã từ rất lâu....rất lâu, đâu hơn 30 năm có lẽ mới thấy lại những con cá linh tươi nguyên đúng nghĩa......như thấy tuổi thơ của mình trở về với ngôi nhà nhỏ cùng nội và cô Mười

Bèn bắt cô Mười mua cá linh cho bằng được

Cô bảo:

- Nhiều thức ăn rồi mua 3 lạng thôi há

- Cô mua 4 lạng đi, con muốn ăn nhiều chút, trời ơi, sao con muốn ăn cơm trưa liền bây giờ quá!

Sau khi có bịch cá linh nhảy soi sói trên tay, LT đi như vận động viên bay bay về nhà, cô Mười đi theo muốn đuối luôn. Kekekeeeee

Về nhà, là lo ngâm cá vào nước muối, rồi rửa lại sạch sẽ, để ráo và nhanh chóng giả hành ớt để ướp

Tranh thủ lên phòng ăn sáng chút, rồi chạy xuống nấu cơm trưa liền, đặc biệt lo bắt cái tô cá linh lên kho trước. Mà có biết kho đâu, bắt lên đó cho cô Mười ngồi đồng canh lửa. vì kho tộ nếu không khéo là khét lẹt ngay.

Mới 10h rưởi đã ôm tô xuống đặng ăn cơm

Cá vẫn kho chưa xong nên lãnh phần đem cơm cho nhỏ Trang ở phòng máy cho đở sốt ruột.

Lúc về, tô cá kho đã hoàn thành.

Cá linh kho, vị nhẫn, nếu ai không quen ăn sẽ thấy không ngon, nhưng ăn được rồi là ghiền không thể tả.

Lẹ làng, làm một tô cơm với cá kho

Về phòng ăn một cách sung sướng

Nhắm mắt nhớ về ngày xưa.....

Ngày xưa ấy thật nghèo nàn với món cá linh kho rất rẻ

Vậy mà hạnh phúc biết mấy!

Có những thứ ta sẽ nhớ mãi suốt đời.....

Dù là một tô cá linh kho giản dị cùng mấy miếng bầu luộc chấm nước mắn kho quẹt đơn sơ....

Thương lắm những ngày xưa và bây giờ....

bởi ta vẫn còn được sống với những người ta yêu thương và yêu thương ta hết lòng...... Chị em con nhà nghèo

15/09/2011

Học giỏi

TTO - 162 tân sinh viên 5 tỉnh Tây nguyên nhận học bổng Tiếp sức đến trường của báo Tuổi Trẻ lần này là những số phận khác nhau nhưng họ có chung sự nỗ lực, thoát khỏi bóng đen nghèo khổ và thất học đã bám lấy gia đình từ nhiều thế hệ.

Chị em con nhà nghèo

Điểm tựa để những học sinh đủ vững chãi chạm vào cổng trường đại học có hình ảnh của những người thân, có thể là cha mẹ hay anh chị đội nắng đội mưa chắt mót từng đồng.

5 chị em và những bữa cơm chan nước muối

Việc đầu tiên sau khi đến TP.HCM nhập học của tân sinh viên Trường cao đẳng Kinh tế đối ngoại TP.HCM Nguyễn Thị Mến (Chư Sê, Gia Lai) là đi tìm chỗ dạy kèm kiếm tiền trang trải cuộc sống.

Cô gái có dáng hình nhỏ, da ngăm đen do nhuộm nắng gió vừa tan buổi dạy kèm đã vội chạy đến trường. Nụ cười vẫn trên môi khi mồ hôi chưa khô trên khuôn mặt: “Ở quê lên rẫy mới cực chứ nhiêu đây thì nhằm nhò gì”.

Năm lên 3 tuổi, Mến mất mẹ. Hai năm sau, bố Mến mất vì xơ gan. Trong ký ức của một cô bé 5 tuổi thì đó là những ngày tháng kinh hoàng. Sau buổi đưa tang bố, năm chị em ôm lấy nhau mà khóc trong căn nhà vách đất xiêu vẹo. Năm đó, khi hai chị đầu (Loan và Thủy) vừa xong lớp 9 thì nghỉ học để đi làm lo cho các em mình tiếp tục đến trường.

Mến kể: “Mỗi mùa mưa là cả nhà lại lo cái ăn, một tuần hết ba bữa các chị em chia nhau phần cơm chan nước muối. Tiền trong nhà không đủ mua thức ăn, chỉ vừa đủ đong gạo qua bữa”.

Cứ 4 giờ sáng, khi các chị loay hoay nấu cơm chuẩn bị đi làm rẫy thì Mến cũng thức dậy, mở sách bên bếp lửa học bài cùng các chị của mình. Sự hi sinh của hai người chị, ánh lửa bập bùng mỗi sáng khi ngoài trời còn mờ sương đã nâng bước Mến và hai chị kế đến giảng đường. Mến cho biết có một chị đã đi dạy ở Trung tâm Giáo dục thường xuyên quận Tân Phú, TP.HCM và một chị khác đang học Đại học Sư phạm TP.HCM.

Mến nói: “Con đường của năm chị em nhà mình giờ đã đỡ hơn rồi, cũng nhờ hai chị lớn cắn răng nghỉ học để lo cho các em đến trường”.

Học để không phụ lòng 

Tân sinh viên Đặng Thị Hoa, khoa Ngữ văn Trung Quốc Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, lại là một hoàn cảnh khác. Đến giờ cô vẫn chưa hết ngỡ ngàng rằng mình đã chính thức trở thành sinh viên mặc dù cô đã rời vùng đất Mang Yang, Gia Lai để nhập trường và học những buổi đầu tiên.

Năm Hoa học lớp 8, cha Hoa, lao động chính trong nhà, bị tai biến, mẹ Hoa bị suy tim không thể làm việc nặng. Ngay lúc đó, chị cả quyết định nghỉ học để nhẹ gánh cho các em được đến trường.  Tưởng đâu chuyện học của Hoa và em trai đã ổn, ngờ đâu người anh bị tai nạn và mang di chứng chấn thương sọ não và trở thành gánh nặng của gia đình vào năm Hoa học lớp 11.

Đứa em trai nói với Hoa: “Chị học giỏi, tiếp tục đến trường đi rồi sau này lo cho mẹ, giờ mọi chuyện em gánh cho”.

Cha mẹ tân sinh viên Nguyễn Thị Thanh Thúy, Đại học Y dược TP.HCM, đi tìm cơ hội làm giàu và đã đến Dak Doa, Gia Lai. Ở đây, chưa kịp giàu thì người cha đổ bệnh và qua đời, người mẹ không chịu nổi buồn đau cũng đổ bệnh.

Thấy mẹ không nuôi nổi cô em gái chăm học và học rất giỏi nên chị ruột Thúy đã đón cô về nuôi và tạo điều kiện để em toàn tâm toàn sức đến trường. Thúy nhớ như in câu nói của chị ngày đón cô về ở: “Cha mẹ tha hương rồi gặp nạn thì coi như một đời đã trắng tay, em liệu mà cố học”.

Suốt 12 năm học, cuộc sống khó khăn có lúc đã quật ngã những

bạn trẻ nhưng rồi họ hiểu ra chính cái cảnh quá nghèo khó mới cần phải vươn lên để học và họ đã đi được đến giảng đường.

162 gương mặt nhận học bổng Tiếp sức đến trường sáng 13-9 chỉ là số ít trong số hàng trăm hàng nghìn những bạn trẻ biết vươn lên. Họ vươn lên để khẳng định mình và không phụ những tấm lòng đã hi sinh để họ yên lòng đến trường.

aguette, Baguette!!!

 Trần Viết Minh-Thanh

Thứ sáu, ngày "có quyền" đi ăn trưa lâu hơn mọi ngày một chút! Thế mà, khi cảm được bụng rền rĩ, đòi thức ăn, thì hỡi ôi, nhìn lại chung quanh mình chẳng còn ai để rủ đi cùng, chắc có lẽ mãi nói chuyện điện thoại, nên bị bỏ rơi. Đang phân vân, không biết kiếm chi bỏ vào bụng, thì mẫu quảng cáo nghe được buổi sáng bỗng vụt trở lại trong đầu

Mẫu quảng cáo bắt đầu bằng hai chữ: "Bánh mì baguette, bánh mì baguette" . Phải mở ngoặc nơi đây để có lời khen quảng cáo Việt Nam. Không biết từ lúc nào mục quảng cáo VN đã theo sát quảng cáo của xứ Cờ Huê, nghĩa là đầy sáng tạo, đôi lúc rất dí xỏm, tếu, là đàng khác. Nhiều mẫu, thoạt nghe lần đầu, cứ ngỡ mình đang nghe một bản tin tức, hay mục văn hoá gì đó. Thí dụ mẫu quảng cáo về loại bánh mì Tây Việt Nam ta rất thích, tiếng Pháp gọi là baguette . Quảng cáo bắt đầu bằng lời dẫn giảng về xuất xứ chữ baguette. “Baguette là loại bánh mì dài, ốm như cây đũa, và tiếng Tây, đũa là baguette”. À thì ra thế!!! Hồi giờ ăn bánh mì hoài, mà nào có biết đâu. Tiếp theo, quảng cáo lại liệt kê bao nhiêu loại bánh mì nghe thật hấp dẫn. Chẳng bù lời rao nằm trong ký ức người nghe, đợi khi bụng đói, lại trở về như khiêu khích, mời mọc. 

“Bánh mì nóng, dòn”, một món ăn được người Pháp đem qua, sau biến thành một thức ăn quen thuộc với người Việt Nam ta, không kể giàu nghèo. Cá nhân người viết bài này không sao quên cái hương vị bánh mì Pháp, nóng được ăn hồi còn bé. Thuở rất xa xưa đó, tại thành phố miền biển NhaTrang, từ nhà cô bé học trò tiểu học, tới đầu đường là đụng ngay con đường bắt đầu phố chính, tức đường Phan Bội Châu. Ngay đầu đường, có lò bánh mì Tây, tên là Hòa Bình. Hầu hết mọi buổi sáng, bữa ăn đầu ngày là một khúc bánh mì nóng, phết bơ, rắc đường lên, cộng thêm ly sữa ngọt, rất đúng ý bố mẹ, về vấn đề bổ béo, dinh dưỡng. Thú thật, hồi bé ... ớn muốn chết, chỉ mong thứ bảy, chủ nhật được đi ăn phở, mì, hủ tiếu, hay bún bò, bánh bèo. Không ngờ, khi lớn lên, hết bị bắt buộc phải ăn bánh mì bơ, hay bánh mì chấm sữa đặc, hiệu ông Thọ nữa, thì lại nhớ thời ... bị ăn bánh mì buổi sáng. (Tại sao ông Thọ có nhiều sữa thì xin miễn bàn đến). Thích nhất là những hôm được sai đi mua bánh mì. Đó là dịp được ngắm anh đầu bếp rút bánh mì từ lò ra nóng hổi, trời lành lạnh, ôm ổ bánh vào lòng, thật không có gì thú bằng! Tại Sài Gòn, có rất nhiều nới bán bánh mì nổi tiếng, với đủ thứ nhồi nhét trong đó, trông rất hấp dẫn, bánh mì xíu mại, bánh mì gà, bánh mì chả, bánh mì gan vân vân và vân vân, bán trong các xe ở nhiều góc đường, hay trong tiệm bánh sang trọng, nhưng trong đầu của tôi, không bao giờ quên lò bánh mì cũ kỹ nằm đầu đường Phan Bội Châu, và khúc bánh mì dòn phết bơ đường.

Những năm đầu sống tại Mỹ, khúc bánh mì được thay thế bằng những lát bánh mì mềm, ăn mà ... buồn. Bánh mì gì mà không dòn, không nóng, cũng như ăn cá mà không thấy đầu, không thấy xương đâu hết. Cắn vô một miếng, ngẫm nghĩ vài giây, phân vân chẳng biết có nên nuốt không. “Nhập gia tuỳ tục”, riết rồi cũng quen. Dần dần biết ăn bánh mì wheat, tức là bánh mì lúa, ăn vô ngọt ngọt, bổ hơn là ăn bánh mì trắng, tức bánh mì làm hoàn toàn bằng bột mì trắng. Mỹ còn có bánh mì nhân nho, nhân hạt dẻ, hạt thóc, phải công bằng mà nói, bánh mì mềm có nhiều loại rất ngon, lại dễ đem theo đi ăn trưa, nhưng con người bao giờ cũng nhung nhớ thuở ban đầu, tức ổ bánh mì dòn ngày xửa, ngày xưa.

Thế rồi theo tiếng gọi đồng hương, gia đình tôi dọn về Cali nắng ấm, nơi có bánh mì Pháp, kiểu Việt Nam. Vâng, kiểu Việt Nam, vì quý vị có qua Pháp rồi, thì không thể cho bánh mì này là chính cống Pháp được. Ở Paris, mỗi góc đường đều có tiệm bánh (patisserie) hoặc tiệm bán bánh mì, tức boulangerie, có bán bánh đủ loại và không thể thiếu cái loại "pain", tức bánh mì. Theo lời ông Đỗ Kh. thì bánh mì nào ở Paris cũng giống nhau hết, và giá cả đều như nhau, vì nhà nước đặc tiêu chuẩn rồi. Mua cái gì khác giá tiền, chứ mua bánh mì, pain, thì phải theo luật định, vì bánh mì là cơm Tây, chiều chiều trước khi về nhà, dân Tây ghé tiệm boulangerie vác ổ bánh mì về, để ăn cùng thức ăn chiều, soupe, hoặc ragout các loại. Nếu nghèo thì xẻ ổ bánh mì ra mà ngậm với chocolat. Ấy người viết bài này nhớ mại mại có coi phim tả Tây nghèo ăn bánh mì như vậy đó, không biết có đúng không. Theo ông Nguyễn Thụy Long thì người nghèo xứ mình, xẻ ổ bánh mì ra rắc xì dầu, tiêu vào, ăn xong uống thêm ly nước phông tên, cho nó nở ra nữa là cầm cự được tới ngày mai, lại tiếp tục cày, để có địa mà ăn phở.

Vài năm trước tôi có dịp qua Pháp chơi và phải công nhận bánh mì bên Pháp ngon thiệt. Người Pháp có nhiều loại bánh mì lắm, bẻ cong, bẻ quẹo, bánh mì hình dáng mập mập brioche, hình bông lúa gọi là epis, mảnh mai như sợi chỉ gọi là fiscelles, nhưng thông dụng nhất vẫn là baguette. Baguette theo đúng nghĩa là cây đũa, hình dáng thon, dài. Baguette bên Tây ăn ngon tuyệt, không cần nóng vẫn ngon, chẳng thế mà baguette nổi tiếng khắp năm châu! Ghé tiệm bán thịt nguội, mua vài lát jambon thái mỏng, trét chút bơ, rồi nhét vô bánh mì, tuyệt cú mèo! Những tiệm bán bánh mì thịt của Tây có khắp nẻo đường, giống như các xe bánh mì thịt tại Việt Nam, hay fast food của Mỹ. Họ cũng có đủ loại bánh mì, và thường nhét cà chua chín cây, dưa chuột ngâm dấm vào, giống như mình nhét đồ chua vào. Ngon hết chỗ chê!

Trở lại cái quảng cáo buổi sáng đã thực sự về với hiện tại và tương lai. Ôi, viễn tưởng ổ bánh mì thịt thơm ngon, dòn làm tôi chồn rồn trong dạ không ít. Chắc cũng cả tháng nay bụng mình không có một miếng bánh mì dòn nào cho ấm dạ dày. Cali có quá nhiều món ăn ngon, ổ bánh mì thịt là một món rất thường, chỉ ăn khi nào vội quá, thí dụ như lên đường đi Las Vegas, tạt qua mua vài ổ đem lên xe, để khỏi phải nhai hamburgers giữa đường. (Hì hì hạnh phúc được ở gần khu Tiểu Sài Gòn!). Mục tiêu của quảng cáo là để giới thiệu tiệm bánh mì lâu năm ở San José, miền Bắc California, giờ mới mở thêm chi nhánh ở miền Nam Cali. Thật sự, tôi không mấy quan tâm ở điểm này, vì lâu đời chưa chắc gì đã ngon. Ở quận Cam này có tiệm bánh mì lâu năm, mua hai tặng một, vào những dịp lễ lạc, khách phải xếp hàng đứng đợi lượt mình, có khi phải ghi tên đợi xuất bánh mì tới . Nói cho ngay, bánh mì tiệm này khi mới ra lò phồng lên, lại thơm mùi bơ, trông hấp dẫn lắm, nhưng xin lỗi Tây ăn chắc khóc thét lên được . Bánh mì này là bánh mì Pháp, nhào nấu theo kiểu Mít, không thể gọi là bánh mì Tây, cũng giống như câu quảng cáo: “Ba Tê làm theo kiểu Pháp", thật ra Ba Tê kiểu Pháp này sặc mùi tiêu và tỏi, người ăn phải hiểu đây “Ba Tê” thật đúng với tên gọi “Ba Tê”, chứ không phải paté, và nấu theo kiểu một trăm phần trăm Việt Nam. Cũng có vài tiệm, bánh mì không đến nỗi nhiều bột, làm phồng lên (nhưng vị thì không chắc đúng), có lẽ tiệm lấy bánh từ lò bánh Long Beach, nghe đâu đầu bếp từ Tây qua làm. Tôi không dám chê và so sánh với bánh mì Pháp chánh hiệu, vì ngay cả bánh mì từ tiệm Pháp chính cống ở Santa Monica, không hiểu sao, vẫn thua bên Pháp, tuy là bánh ga-tô của họ rất ngon, rất chánh hiệu Tây. Theo lời bà chị, một chuyên viên dinh dưỡng, thì chắc có lẽ kỹ thuật nhào bột, nấu bánh khác, chứ về phẩm chất thì bột bên Mỹ vẫn được tiếng là hảo hạn trong kỹ nghệ/ngành nấu ăn trên thế giới. Lại mở ngoặc: Có ai thắc mắc bánh ga-tô là bánh gì không? Bánh ga-tô còn được gọi là bánh bông lan, và thường thường được trang hoàng bằng bông hồng, thế có chết người không chứ! 

Thế quý vị cũng đoán là tôi đã quyết định theo tiếng gọi quảng cáo, bỏ chuyện dạo phố phường, và chịu khó leo lên xế, lái vù vù vô khu tiểu Sài Gòn. Ui chao tiệm bánh mì to thật, họ đã ước trước số lượng người sẽ viếng tiệm vào ngày nghỉ. Một phần tư tiệm có đặt bàn ghế, để sáng thứ Bảy, chủ Nhật bà con cô bác có thể ngồi nhâm nhi cà phê ngắm nhau. Tiệm trưng bày ngăn nắp, có quày order nước uống và bánh mì làm sẳn, (cho những ai vội, phải đi ngay), và quày cho những ai thong thả, bánh mì làm theo ý muốn (thêm ớt, bỏ hành ...). Sau khi thanh toán tiền bạc sòng phẳng, quý vị được cấp một con số, đợi đến lượt được điểm danh, ý quên kêu số thì ra nhận hàng, tức bánh mì . Phải công nhận sau mấy năm trời kinh doanh tại Mỹ, các chủ tiệm có nghiên cứu và làm ăn theo tiêu chuẩn nhanh, ngăn nắp và có công bằng, để khách ăn đỡ thắc mắc. Có nhiều tiệm khi bước chân vào, nhất là những lúc đông khách, ta không biết phải xếp hàng nơi nào, và tới đâu để lãnh thức ăn.. 

Nhận bánh mì xong thấy cũng hơi hãi, cả một ổ baguette dài, họ cắt ra làm đôi, đó là phần của quý vị.Trông ổ bánh mì có vẽ dài gấp đôi ổ bánh mì thịt hay ăn trước đây. Thịt gà, hành chua, ớt xắc mỏng, ba cái thứ lộn xộn gì trong đó không biết, mà cắn dzô nó ngon chi lạ! Thật, không bỏ công xuống khu Tiểu Sài Gòn ngày thứ sáu. Nhìn tiệm tôi biết cuối tuần đông hơn chợ Tết. Như tất cả các dân lô cồ khác, ngày cuối tuần chúng tôi biết điều, đi ngõ tắt, hay đi vào những giờ trước hay sau giờ du khách đến bát phố Bolsa, hầu nhường chỗ đậu xe cho quý vị phương xa đến đi chợ, ăn phở và cắt tóc (các bà các cô thì thêm vụ làm nail nữa). Dân miên Nam California chúng tôi “du khách thân thiện” lắm lắm!

Ổ bánh mì dài tôi vừa mới mua cố nhiên không đúng là bánh mì baguette Tây, nhưng như dzậy mới đúng là Tiểu Sài Gòn chứ, bánh mì Tây làm theo kiểu Việt Nam, hương vị quê nhà đầy ấp, còn đòi gì nữa? Cứ ngỡ mình thanh cảnh cỡ ông Du Tử Lê, (ông tự quảng cáo ông ăn như mèo, vì là thi sĩ), ăn chắc được nửa ổ là hết xí quách, ai ngờ cắn tới cắn lui làm sao mà hết luôn cả ổ hồi nào không hãy!Tới chiều cũng còn no ứ, tuy là chỉ có nhâm nhi ly cà phê sữa đá (pha sẳn), chứ nếu làm ly sinh tố thì đã bể bụng rồi! Thế là xong một bữa ăn trưa xứng đáng, (và quá rẻ), ôi hạnh phúc được ở gần khu Tiểu Sài Gòn! Làm sao có khi mình khùng khùng tính dọn đi tiểu bang khác nhỉ ???

Má Tôi Và Xôi Chiên Phồng

 Ngọc Tâm - Nguyễn Phước Huyền Tôn Nữ Thị Sâm

Tôi về làm dâu gia đình chồng ở xứ Bưởi Biên Hoà thắm thoát nay đã được 35 năm. Trước năm 1970, tôi làm việc cho một dược phòng của Pháp tại Sàigòn. Khi nào xong cuộc họp hàng tháng, được dịp thì bạn bè rũ cùng nhau đi ăn uống. Có một người bạn đề nghị đi Biên Hoà thăm một người thân và hứa là sẽ dẫn chúng tôi đi thưởng thức một món ăn rất đặc biệt. Thế là chúng tôi cùng nhau đi Biên Hoà, một thành phố mà tôi chưa bao giờ đặt chân đến. Chúng tôi đến một nhà hàng nằm sát bờ sông Đồng Nai rất thơ mộng. Nhìn dòng nước sông êm đềm chảy nhẹ, tôi cảm thấy như được thư thả và hưởng nhận một sự yên tỉnh nhẹ nhàng. Bên kia bờ, những mái nhà đỏ nằm xen lẩn trong hàng cây xanh rì với những ngọn dừa cao lêu khêu; và cuối tầm mắt, một cây cầu sắt bốn nhịp vắt ngang sông, cây cầu Gành thuở nào đã đón chào chúng tôi khi vào thành phố Biên Hoà. Hình ảnh nầy tạo ra một khung cảnh rất nên thơ và hữu tình.

Người bạn tôi kêu gọi món ăn và khi được mang ra, thì tất cả chúng tôi đều trố mắt nhìn. Một quả gì giống như trái banh, tròn trịa, vàng lượm, còn đang bốc khói nằm trên một cái dĩa trông thật lạ lùng. Sau đó mới được giải thích, đó là món “Xôi Chiên Phồng”[/b], rất hấp dẫn ăn chung với gà đút lò hoặc gà hấp rau râm và cũng là món ăn đặc biệt của nhà hàng Tuyết Hồng[/b] nầy. Được chỉ cách ăn, chúng tôi dùng đủa xâm vào “quả xôi” đó và mới biết là bên ngoài lớp nếp giòn tan nhưng bên trong ruột trống rổng. Gắp miếng xôi ngon ngọt đó chấm vào nước sauce của gà đút lò kèm thêm miếng thịt gà thơm tho, thì quả thật ngon tuyệt. Đủ các khẩu vị trong món ăn đó: vừa giòn nhưng không cứng, vừa ngọt, vừa mặn, vừa chua …., đó là lần đầu tiên tôi đuợc ăn món xôi chiên phồng tại Biên Hoà. Lúc ra về, tôi gắng nhớ địa chỉ của nơi nầy, khi nào có dịp, tôi sẽ trở lại nhà hàng Tuyết Hồng để thưởng thức một món đặc sản của Biên Hoà. Nhưng vì công việc, tôi đi hướng về các thành phố miền Trung nhiều hơn. Mổi tháng về họp tại Sàigòn, dư vị món xôi phồng còn vương vấn, bao lần tôi định về Biên Hoà để thưởng thức món xôi chiên phồng nhưng không thực hiện dược .

            Bẳng đi thời gian 2 năm sau, do định mệnh hay duyên kiếp, tôi lại lập gia đình với nhà tôi, nguyên là người con trai thứ ba của Ba Má tôi, là chủ nhân của nhà hàng Tuyết Hồng mà trước đây tôi đã được thưởng thức món ăn đặc biệt đó. Khi tôi đi lấy chồng xa, Ba tôi không vui lắm, vì tôi là con gái út trong nhà, mẹ mất sớm, đuợc gởi đi học trường đạo với các soeur, nên rất được cưng chiểu. Mọi việc trong nhà, Ba tôi đều lo cho tôi, thậm chí cho đến việc nấu nồi cơm thì tôi củng không rành, nói chi đến việc nấu ăn. Nên khi nghe tôi đi lấy chồng xa, Ba tôi lo lắm. Bên chồng thì làm nhà hàng, nấu ăn giỏi, chị em bên chồng thì đông, tôi thì việc bếp núc thì không biết gì hết. Ông lo thì củng đúng lắm. Tôi nói với Ba tôi là đừng lo nghĩ gì nhiều, con chấp nhận tất cả. 

Về làm dâu bên chồng, thì tôi được biết là Má chồng tôi thật hiền đức và phúc hậu. Má tôi lo cho gia đình rất chu đáo, hết lòng hết dạ. Trong đời tôi, tôi chưa hề gặp được một người đàn bà nào đãm đang, lo lắng cho chồng cho con như Bà vậy. Ba chồng tôi là một nhà thầu xây cất tiềng tăm đời Pháp (50-55); đã xây cái đập nước trong Dưỡng Trí Viện Biên Hoà và các cơ sở lớn khác như trường Thiếu Sinh Quân Vủng Tàu, Trường Truyền Tin … Đời người như dòng thuỷ triều, lên rồi lại xuống, nên Ba tôi đã làm tiêu tan sự nghiệp, trắng tay. Má tôi phải tảo tần, khổ nhọc gầy dựng trở lại, tạo dược một cái quán nhỏ trên miếng đất của căn nhà đang ở, sát bờ sông Đồng Nai, để nuôi gia đình. Với sự chịu đựng cực khổ, khó khăn và sự tìm tòi học hỏi, Bà đã gầy dựng lại cơ nghiệp, biến một cái quán nhỏ thành một nhà hàng nổi tiếng, lo cho con cái đi du học, mong sau nầy, con cái sẽ không bị khổ cực như Bà. Tôi phải nói rằng, ít có người phụ nữ nào như Bà. Được sanh ra trong một gia đình gia giáo, (con Thầy giáo Giỏi, Bà tên Huỳnh Thị Thạnh, dân cố cựu Biên Hoà thường gọi Cô Tư Thạnh, chị của cựu Đại tá Không Quân Huỳnh Công Chức), được gởi đi học ở trường Áo Tím (Gia Long). Khi gia đình sa sút, Bà đã không ngần ngại hy sinh lăn xả, khổ cực cố tạo dựng lại, để mà từ đó đưa ra được một món ăn lạ, một đặc sản làm rạng danh Xứ Bưởi và  được lưu truyền: “Xôi Chiên Phồng”[/b]. 

Tôi nghe Má tôi kể lại rằng có một bà ở Bình Dương nấu xôi ăn. Còn dư lại, bà tiếc không bỏ nên hôm sau bà trộn ít đường vô, chiên ăn thấy ngon ngon, nên truyền miệng cho nhau. Ban đầu Má tôi củng làm như vậy chiên xôi 2 mặt cho vàng, để dùng chung với gà. Vô tình, một bữa nọ, chị bếp cũng chiên như vậy nhưng thấy sao hơi phình phình lên như cái gối. Và từ đó, với thời gian và kinh nghiệm, món xôi chiên phồng được ra đời. Má tôi mở nhà hàng trên 20 năm, nhà bếp có khoảng 10 người giúp việc, đa số là bà con xa gần ở Tân Uyên, Thạnh Hội.

Má tôi đào tạo rất nhiều đệ tử, nhưng chỉ có vài người chiên được xôi chiên phồng được như ý. Trong số đó có Chị Ngọc, năm 1978, chiếm được Giải Huy Chương Vàng toàn quốc với món xôi chiên phồng. Hiện nay ngoài chị Ngọc, có chị Sáu Đắt mở môt quán ăn ở Bình Dương đặc biệt có món xôi phồng nầy. Và có luôn cô Nguyệt hiện đang làm việc với cô em gái thứ bảy của gia đình, mở tiệm hủ tiếu nam vang tại địa điểm cũ của nhà hàng Tuyết Hồng, vẫn nhận lãnh xôi chiên phồng cho những tiệc cưới, lễ lớn, nhưng phải đặt trước cả tháng mới có. Món Xôi Chiên Phồng nầy đã lan tràn nhiều nơi, nhưng có ngon hay không là tùy ở người làm. Xôi phải vàng óng, phải tròn, không được dẹp đầu và xôi phải giòn mềm, không được cứng, đủ độ ngọt thì mới đúng “Xôi Chiên Phồng của nhà hàng Tuyết Hồng khi xưa”[/b].

Vật liệu để làm xôi chiên phồng thì rất giản dị: nếp nấu thành xôi trắng + đường + dầu. Không dùng bột nổi, hay mùi vị gì khác. Xôi được thành hay không là do sự khéo léo lúc chiên nào là ém xôi, xoay xôi, lật ngược xôi. Do đó có thêm danh từ ngộ nghỉnh nữa là “vuốt đít xôi”. Giống như lính, khi ra trận thì có thể bị mang thương tích, khi chiên xôi, muốn có cái xôi tròn, đẹp và ngon, thì cũng phải bị phỏng một ít.

Phần tôi, từ một nàng dâu không biết nấu nồi cơm, tôi đả được Má tôi chỉ dạy rất nhiều, luôn cả món ăn thuần tuý chỉ có ở Biên Hoà mới có: đó là món Dưa Mắm Nêm[/b]. Món nầy ăn với món cá hấp kiểu Biên Hoà thì tuyệt. Nói như vậy không có nghĩa là tôi nấu ăn ngon. Vì đôi khi tôi nấu ăn cho người khác thưởng thức, tôi không biết tôi nấu có đúng khẩu vị với cái món Má tôi làm không? Khi tôi về thăm Chị ruột tôi, tôi đề nghị để tôi trổ tài nấu cho mấy cháu tôi ăn, Chị bảo tôi:  “Thôi thôi, Dì để[/i] đó cho Chị làm, Dì mà nấu ăn cái chi, hỉ?. [/i]Gặp lại các bạn trường Dòng cũ, tôi cũng đề nghị để tôi nấu phụ bếp, các bạn tôi cười khì, nói: “Thôi đừng xạo xự, mi mà biết nấu cái chi[/i]”.

Nhà tôi và tôi, đôi khi muốn tiếp nối lại việc làm của Má tôi để cho món Xôi Chiên Phồng[/b], Gà Hấp Rau Râm[/b] được biết đến nơi xứ người, nhưng sức khoẻ thì chỉ đủ dùng, nhân lực thì không có nên đành bỏ ý nghĩ nầy.

Nay viết vài dòng để hoài niệm về “Má Tôi Và Xôi Chiên Phồng”. Nghĩ đến Má rất nhiều.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro