Ký ức-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Món ngon Sài Gòn

Có nhà văn nào đó cho rằng khi viết về ẩm thực bụng phải đói mới ‘lột tả’ hết cái ngon của món ăn. Tôi rất tâm đắc với ý kiến này.

Hồi còn trong trại cải tạo, cái bụng lép kẹp lúc nào cũng sôi ùng ục, tôi và vài người bạn tù có ‘tâm hồn ăn uống’ vẫn thường kể cho nhau nghe những món khoái khẩu của mình. Ăn ‘hàm thụ’ sao mà ngon thế. Phải nói ngon gấp nghìn lần ăn… thực thụ!

Thời cải tạo qua đi nhưng thời điêu linh lại kéo tới. Vào thời này, cái để ‘đút vào mồm’ chỉ toàn khoai mì ‘chạy chỉ’ với với hột bo bo, còn được mệnh danh là… cao lương. Ngồi nhấm nháp cao lương mà cứ tức anh ách. Ai đó đã khéo chơi chữ mà đặt tên, mỉa mai không khác gì cái món ‘mầm đá’ của ông vua ngày xưa!

Nhưng rồi cũng qua đi cái thời

ăn để mà sống

, người ta bỗng nhớ đến thời…

sống để mà ăn

ở Sài Gòn hoa lệ ngày nào. Con đường ngắn nhất để đến trái tim lại là con đường đi qua… bao tử cho nên mọi hoài niệm về những gì tốt đẹp nhất cứ phải ‘quá giang’ chuyện ăn uống, dù vẫn biết…

miếng ăn là miếng tồi tàn

      

Nhưng thôi, hãy tạm quên chuyện triết lý lòng thòng để nói về món ngon Sài Gòn. Theo tôi, một trong những món ngon đó phải kể đến phở. Mặc dù phở có xuất xứ từ miền Bắc nhưng phở Sài Gòn thường ăn kèm với giá, ngò gai, húng quế vẫn ngon hơn phở Hà Nội thiếu hẳn các loại rau thơm mà lại không có giá. (Xin đừng hiểu lầm, giá đây là mầm đậu xanh chứ không phải là giá trị. Thế mới biết chữ nghĩa tiếng Việt quả là rắc rối!).

Hơn nữa, phở trong Nam, hay còn gọi là ‘phở-Bắc-Kỳ-di-cư’, thường nhỏ sợi, nước dùng phở lại đậm đà, không dậy mùi húng lìu và ‘mì chính’ (bột ngọt) như phở ‘gia truyền’ ngoài Bắc. Thành phần chính của phở là những sợi bánh phở trắng phau. Nước dùng có mùi thơm và vị ngọt của xương ống thịt bò, cùng với hành khô, gừng và thảo quả nướng, được ninh nhừ từ chiều tối hôm trước. Thịt bò được luộc lên, sau đó thái lát mỏng để trang hoàng cho một bát phở truyền thống Việt

Nam.

Thưở xa xưa, ngoài Hà Nội chưa có hiệu phở. Khách ăn phở thường gọi những hàng phở gánh ở đầu phố hoặc đi rong ngoài đường. Một đầu gánh là chiếc chạn con đựng bát đũa, gia vị như tiêu, ớt và nước mắm, lại thêm cái ngăn kéo đựng bánh phở, thịt bò. Đầu ghánh bên kia là bếp lò với nồi nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục được kèm bên trong một nồi nước riêng để trụng bánh phở.

Những người bán phở rong đều là đàn ông, tuyệt không thấy phụ nữ nào. Có lẽ nhờ sức dài vai rộng nên mới chịu được ghánh phở nặng chĩu trên vai. Trên đầu ông hàng phở thường có cái mũ, trông tựa như mũ phớt. Lâu ngày kho từ vựng tiếng Việt được bổ xung từ mới:

mũ phở

!

Hà Nội 36 phố phường

của Thạch Lam khen cái ngon của một hàng phở gánh đỗ cạnh cây hương trong sân nhà thương Phủ Doãn, bát phở có cả mấy giọt… cà cuống. Cả thành phố chỉ có một hàng phở cà cuống ấy. Nguyễn Tuân phê bình: "Cái nước chè tươi nóng bỏng môi, cái bánh đậu xanh ngọt xít cổ, lại đến phở cà cuống, cái sự thích của anh nghiện vừa buông dộc tẩu xuống, kể cũng đáng viết cho ra nhẽ".

Nhà văn lão làng Nguyễn Công Hoan, một trong số những cây đại thụ của làng văn, đã khẳng định khá chính xác cái tuổi 100 của món ăn độc đáo thuộc hàng ‘quốc hồn, quốc túy’ trong nền ẩm thực Việt. Ông viết: “1913... trọ số 8 Hàng Hài... thỉnh thoảng, tôi được ăn phở (hàng phở rong). Mỗi bát 2 xu (có bát 3 xu, 5 xu)”. Mặc nhiên, chính Nguyễn Công Hoan đã là người xác định tuổi cho phở trong cuốn tự chuyện về đời mình:

Nhớ và ghi về Hà Nội

.

Vào đến

Sài Gòn

ngày x

ưa có

con

đường tên Turc

(Thổ Nhĩ Kỳ)

, một đầu là đường Tự Do

(Catinat)

, đầu kia là đường Hai Bà

Trưng (

Paul Blanchy)

. Tiệm Phở Bắc được bán trong khuôn viên nhà thờ Hồi Giáo này, nên có tên là Phở Turc. Cũng cần nói thêm, vào cuối thập niên 50, tắm hơi massage đã du nhập Sài Gòn. Thời ấy, người Pháp gọi loại tắm hơi nước nóng này là Bain Turc, người Sài Gòn gọi theo là Banh Tuyếc.

Sài Gòn 1954, lúc người Bắc mới vào Nam, những tiệm Phở Bắc hãy còn đếm được trên đầu ngón tay. Đó là mấy tiệm Phở Thịnh đường Gia Long, Phở Turc đường Turc, Phở Minh đường Pasteur và Phở 79 ở đường Frère Louis (sau này đổi tên thành đường Võ Tánh và đến 1975 lại đổi thành Nguyễn Trãi

thuộc quận 1

).

Ngay bên hông

rạp

Casino có một hẻm nhỏ, đi vào hẻm đó là một dẫy nhà, đa số là nhà dân Bắc Kỳ di cư sớm, từ những năm 1920. Tiệm Phở Minh nằm ở dẫy nhà đó. Hẻm Casino còn có nhiều món ngon có xuất xứ từ miền Bắc như bún thang, bún chả, bánh cuốn, bánh tôm…

Phở Minh có cả phở bò lẫn phở gà nhưng đặc biệt hơn cả còn có bài thơ do thi sĩ Trần Rắc đề tặng. Bài thơ được cắt chữ, đóng khung kính, treo trên tường. Bài

t

hơ Đường luật

4 câu đầu như sau:

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành,
Trần Minh Phở Bắc đã lừng danh.
Chủ đề: tái, chín, nạm, gầu, sụn,
Gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh.

Thi sĩ Trần Rắc chính là ông chủ tiệm giầy Trần Rắc đường Lê Thánh Tôn, gần Khám Lớn Catinat năm xưa. Tiệm giầy Trần Rắc, và cả mấy tiệm giầy ở đường này, đều có cửa sau đi vào hẻm ‘ẩm thực’ Casino.

Việt Nam ta đúng là…

ra ngõ gặp nhà thơ

, nói theo kiểu văn chương ‘cách mạng’: “Ra ngõ gặp anh hùng”. Đến như ông chủ tiệm giầy cũng có thể làm thơ về phở chứ chưa dám nói đến Tản Đà là người viết nhiều về nghệ thuật ăn uống!

Trên đường Mạc Đĩnh Chi (Massiges), gần bên hông Tòa đại sứ Mỹ, còn có phở Cao Vân, dù tiệm phở này không nằm trên đường Trần Cao Vân (Larclause) cách đó không xa. Theo tôi, phở Cao Vân (25 Mạc Đĩnh Chi) chỉ thuộc loại ‘thường thường bậc trung’ nhưng được nhắc tới cùng với phở Minh vì Cao Vân cũng có một bài thơ ca tụng phở của thi sĩ Tú Mỡ được viết bằng sơn ngay trên tường.

Trong các món ăn Quân Tử Vị

Phở là quà đáng quý trên đời

Chủ của phở Cao Vân ngày nay là một ông cụ Bắc Kỳ hom hem theo năm tháng. Ông không còn đứng ra nấu phở nhưng chiều chiều thường ngồi nhậu lai rai với các ‘chiến hữu’ để hưởng nhàn!

Lại nói thêm về thơ với phở. Xin hãy đọc mấy vần thơ ‘con cóc’ dưới đây:

Sáng chở cơm ăn phở

Trưa chở phở ăn cơm

Hóa ra cơm là vợ mà phở là bồ. 

Nội việc ăn phở điểm tâm với vợ và ăn cơm trưa với người tình cũng đủ khiến khách hào hoa mệt nhoài cái bụng và cái ví. Ấy thế mà có vị lại còn thèm… cháo ăn khuya nữa!

Trên đường Pasteur có Phở Hoà, khá nổi tiếng. Ban đầu, lúc khai trương năm 1960, tiệm phở này mang tên Hoà Lộc. Có lẽ sau này khách ăn cứ gọi tắt là Hòa nên Hòa Lộc biến thành Hòa theo kiểu gọi tên một chữ cho dễ nhớ thường thấy ở các tiệm phở (?).

Phở Hòa (260C Pasteur, quận 3) ngày nay lúc nào cũng nườm nượp khách ra vào. Hòa đã trở thành một ‘thương hiệu’ không những nổi tiếng ở Việt Nam mà nước ngoài như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, và dĩ nhiên là cả Hoa Kỳ

,

đều biết đến. Có điều, Phở Hòa khẳng định, hoàn toàn không thành lập chi nhánh nào tại nước ngoài. Nếu đúng như vậy thì những tiệm mang tên Phở Hòa tại Mỹ, Úc và Pháp đã ‘mạo nhận’ hay đây chỉ là một sự… trùng tên ngoài ý muốn?

Khách ăn Phở Hòa, ngoài người Việt còn có cả người nước ngoài, có lẽ vì vậy mà giá cả cao vút? (khoảng 45.000 một tô so với những nơi khác, bình thường tiệm nào cao lắm cũng chỉ đến 30.000 đồng!). Phở Hòa chỉ chuyên loại phở bò, nếu vào đây mà tìm tô phở gà thì không có. Khách phải chịu khó ra đường Hiền Vương (bây giờ đổi tên là Võ Thị Sáu), đến tiệm Hương Bình, ‘chuyên trị’ phở gà

Nói đến phở Sài Gòn tại khu vực trung tâm, phải nói đến tiệm Phở 79, ngay tại số nhà 79 trên đường Võ Tánh. Khoảng năm 1952, tiệm Phở 79 mở cửa, khi đó nền nhà của tiệm còn thấp hơn mặt đường. Chỉ vài năm sau tiệm phát đạt, chủ nhân mua hai nhà bên cạnh, mở lớn thành tiệm Phở 79 khang trang và có thể nói là một trong những tiệm phở sạch nhất Sài Gòn thời đó.

Trường Sinh ngữ Quân đội có chi nhánh ở đường Nguyễn Văn Tráng rất gần với Phở 79 tại khu vực Ngã sáu Sài Gòn. Gần Phở 79 tôi nhớ còn có nhà mồ của

Á

Thánh Matthew Gẫm. Nơi đây, (tiệm Phở 79 chứ không phải nhà mồ!)

đám giảng viên chúng tôi thường xuyên ăn sáng, ăn trưa và cả ăn tối mỗi khi ‘ứng chiến’ tại trường.

Phở tại đây được đánh giá là… ‘ăn được’. Nếu ai ‘ăn không được’ thì chịu khó đi thêm vài bước ra Ngã Sáu, nơi đây có đủ các món ăn chơi thuộc loại bình dân, từ phở, hủ tiếu cho đến mì và có cả xe… bánh mì mua về trường nằm gậm trong những đêm ứng chiến!

Gần ngã tư Phú Nhuận có phở Quyền trên đường Võ Tánh (thuộc quận Phú Nhuận), cách cổng phụ của Tổng tham mưu chừng 100 mét. Tôi thường ghé ăn nơi đây mỗi khi về trụ sở chính của Trường sinh ngữ trong Tổng tham mưu. Nước phở ở đây rất đậm đà, vị ngọt là của xương ống chứ không phải vì bột ngọt. Phở Quyền còn có cả món ‘tái sách tương gừng’ được xếp vào loại… trứ danh. 

Con cháu của một số gánh phở nổi tiếng Hà Nội đã vào

Nam

lập nghiệp năm 1954, trong cơ hội lịch sử này có phở

Tàu

B

ay. Vốn là quán phở do ông nội mở vào 1950 ở Hà Nội, khi di cư vào

Nam, ông chủ quán được người bạn thân tặng cho chiếc mũ bay. Ông thường xuyên đội nó, khách thấy lạ, gọi ông “Tàu bay” rồi chết tên thành tên quán.

Phở Tàu Bay ở đường Lý Thái Tổ ngày nay vẫn bán và khách quen ngày nào vẫn chịu khó mò đến đây để tìm lại hương vị đặc thù.

Phải nói

Phở

Tàu

Bay

rất… hiếu khách. Gọi thêm nước béo, nhà phở đem ra cả tô chứ không bằng chén nhỏ như những tiệm khác. Tô đặc biệt của Tàu Bay lại là tô ‘Xe Lửa’, bánh và thịt trên mức hậu hĩnh.

Việt

Nam

Phở

Tàu

Bay, có tô Xe lửa thì bên Mỹ có phở… Xe Tăng (Tank Noodle)! Bạn không tin ư? Xin có tấm hình chụp tại

Chicago

làm bằng chứng:

Theo tôi, phở ngon nhờ… nước phở. Tôi có thói quen mỗi khi ăn phở là phải dùng muỗng múc một thìa nước phở, nếm thử xem có hợp với sở thích của mình hay không. Nói không ngoa, với tôi, thìa đầu tiên đánh giá cả một tô phở.

Tái, chín, nạm, gầu, sụn, sách thì tiệm phở nào cũng có nhưng nước phở là bí quyết riêng của mỗi chủ tiệm. Bỏ húng lìu nhiều quá cũng mất ngon vì nếm thử đã thấy vị giống như mùi thuốc bắc. Cho bột ngọt nhiều sẽ át mất vị ngọt tự nhiên của xương bò. Ăn một tô phở có nhiều bột ngọt sẽ khiến người ta phải uống nhiều nước vài giờ sau đó.

Tương đỏ, tương đen chỉ làm bát phở thêm màu sắc chứ không thể làm phở ngon hơn. Ấy là chưa kể những trường hợp tiệm phở dùng loại tương rẻ tiền hoặc tương để lâu ngày có vị chua chua làm hỏng cả tô phở. Tôi thích ăn phở phải cho một chút nước béo mới ngon. Ngày xưa, cholesterol hãy còn là một danh từ xa lạ nên khách cứ thoải mái gọi thêm một chén nước béo vàng ngậy.

Cách ăn phở xem ra cũng cầu kỳ chứ không đơn giản như người ta nghĩ. Các bà, các cô vốn là ‘yểu điệu thục nữ’ nên thường gắp bánh phở lên muỗng, bỏ một miếng thịt và chan thêm tí nước trước khi đưa lên miệng. Ngày nay, kiểu ăn phở này rất hiếm thấy ở phái nữ. Có lẽ nhịp sống ‘hiện đại’ không cho phép người ta ‘câu giờ’, kiểu cách… Nhìn kiểu ăn ‘hùng hục’ ngày nay lại chạnh lòng nhớ tới những tiểu thư ngày nào!

   

Thì ra ăn phở cũng là một nghệ thuật. Ăn thế nào để người đối diện chia sẻ được cái ngon của phở. Riêng tôi, chỉ tiếc một điều là bây giờ đã luống tuổi, răng cỏ lung lay, cái còn cái mất, nên không thể thưởng thức những món ‘tuyệt chiêu’ như sụn, sách (nhất là món tái sách tương gừng) mà chỉ dám nhai trệu trạo tái bằm, thịt chín nhừ. Giờ mới thấy rõ, tuổi già chịu nhiều thua thiệt, mất mát. Khổ một nỗi là những mất mát này dù có tiền, có của, có danh vọng cũng không thể nào bù đắp được.

Tiện đây cũng xin kể lại một chuyện thuộc loại tiếu lâm nhưng lại cười ra nước mắt đối với các đấng trượng phu thuộc lứa tuổi ‘thất thập cổ lai hy’ và khi đó thì… ‘lực bất tòng tâm’. Chuyện cũng đề cập tới ‘hưu non’, một hiện tượng thường thấy trong chế độ xã hội chủ nghĩa khi cán bộ, vì lỡ tham nhũng, nên tìm cách ‘hạ cánh an toàn’.

Truyện xuất phát từ một buổi họp tổng kết sau 70 năm hoạt động của… cơ thể (chứ không phải của… cơ quan). Các bộ phận trong người lần lượt lên phát biểu. Ðầu tiên là ‘đồng chí’ não bộ: "Tôi được sinh ra cùng lúc với con người và đóng một vai trò quan trọng. Tôi là cơ quan điều hành mọi hoạt động của con người và cho đến bây giờ tôi vẫn hoạt động tốt. Tôi xin được tiếp tục phục vụ cách mạng".

Kế đến là ‘đồng chí’ tim: "Tôi cũng được sinh ra cùng lúc với con người, tôi giữ một nhiệm vụ cũng không kém phần quan trọng. Tôi giúp việc tuần hoàn máu để nuôi sống cơ thể và các bộ phận khác. Ðến nay, tôi vẫn hoạt động tốt, tôi xin tiếp tục được cống hiến".

Sau khi các bộ phận khác cũng lần lượt lên phát biểu, hội nghị rơi vào yên lặng. Thế rồi có một giọng nói yếu ớt phát ra từ phía bên dưới: "Xin thưa các đồng chí, tôi cũng được sinh ra cùng với con người nhưng tới năm 20 tuổi tôi mới được làm việc. Công việc của tôi rất là vất vả và nặng nhọc, phải làm việc trong đường hầm tăm tối, ẩm ướt và trơn trợt. Cho nên, bây giờ tôi không còn khả năng để phục vụ nữa, tôi xin… VỀ HƯU!”.

Các bộ phận khác nghe thế vội phản đối, có đồng chí đập bàn nói: "Ai? Có ngon thì ngóc đầu đứng dậy nói ‘nớn’ xem ‘lào’? ‘Nàm’ việc mới có 20 năm mà đã đòi về hưu? Thế ‘nà’ thế ‘lào’?"

Giọng nói yếu ớt ấy lại vang lên: "Xin lỗi các anh, nếu em có thể ngóc lên được thì em xin về hưu để làm gì!"

Bộ phận này ngày nay còn được gọi nôm na là…

trên bảo dưới không nghe

! (Mạn phép trích dẫn lời cựu Thủ tướng Phan Văn Khải khi ông phê bình nhiều địa phương không tuân theo sự chỉ đạo của trung ương). 

***

Xin trở lại chuyện món ngon Sài Gòn xưa. Kể từ khi người Bắc di cư vào Nam, tiệm phở đánh bạt các tiệm hủ tiếu, vốn là món ‘đặc sản’ của miền Nam. Các tiệm hủ tíu nổi tiếng Sài Gòn phải kể đến hủ tíu Thanh Xuân đường Tôn Thất Thiệp (gần chùa Chà Và), hủ tíu Phạm Thị Trước ở đường Lê Lợi (khúc gần Pasteur), hủ tíu Gà Cá ở đường Hàm Nghi gần khu Ngân hàng Quốc gia và hủ tíu Thanh Thế trên đường Nguyễn Trung Trực...

Có người đến hủ tíu Phạm Thị Trước gọi thêm bánh pâté chaud ăn kèm, cũng giống như hủ tíu Gà Cá. Tuy nhiên, mỗi tiệm hủ tíu đều có hương vị riêng khiến một khi khách đã ‘kết’ thì khó đi ăn nơi khác. Hủ tiếu Sài Gòn sáng nào cũng đông người đến thưởng thức, không cần đợi đến những ngày cuối tuần.

Thường thì hủ tíu

bánh mềm, chỉ riêng hủ tíu Thanh Xuân hay Mỹ Tho thì thêm bánh dai, nấu khô hay nước, tùy theo ý thích của khách. Chỉ nhìn dĩa rau dọn lên trước thì cũng thấy bắt mắt: giá, hẹ, rau cần tàu, tần ô và vài cọng sà lách. Thêm vào đó, mùi nước lèo xông lên như đập vào khứu giác thực khách làm cho bụng cứ gào thét như… mèo đêm động đực...

Người bồi bàn bưng mâm ra để tô hủ tíu trên bàn, mùi nước lèo xông lên mũi, nếm thử ‘nghe’ được mùi thơm của nước lèo, thêm chút gia vị vào và cầm đũa ngay. Hủ tíu Thanh Xuân thì phải có rau tần ô, rau cần tàu, giá sống. Hủ tíu Phạm Thị Trước hay Thanh Thế cũng thế, nhưng không có rau tần ô. Riêng hủ tíu Gà Cá thì chỉ có giá sống.

Tuy nhiên, các thứ hủ tíu nếu thiếu vài miếng tóp mỡ và cải bắc thảo thì hình như thiếu mất cái gì đó. Nước lèo vừa ngọt của xương, vứa béo của chất tủy từ ống xương, thoang thoảng chút mùi của con mực, tôm khô, hào khô và củ cải. Những thứ ấy quyện vào nhau thành một thứ nước lèo hấp dẫn của tô hủ tíu.

Hủ tiếu loại ‘bình dân’ thì có những

xe hủ tíu bán dạo. Từ mờ sáng cho đến khi màn đêm buông xuống, nghe tiếng rao... lòng thấy nao nao! Sau 1975, Sài Gòn còn có hủ tiếu ‘gõ’ là những xe hủ tiếu tại các khu lao động. Mỗi xe hủ tiếu có vài cậu bé đi khắp hang cùng ngõ hẻm trên tay cầm cục sắt và gõ những âm thanh không khác gì kiểu ‘xực tắc’ gõ bằng ống tre của Sài Gòn xưa.

Những người bán hủ tiếu ‘gõ’ ngày nay đều là dân nhập cư từ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định. Vào Sài Gòn, họ sống tập trung thành xóm và cứ mỗi buổi chiều, tiếng ‘gõ’ của họ có mặt khắp các ngõ hẻm Sài Gòn. Những đứa trẻ tháp tùng xe hủ tiếu ngày nào cũng phải đi bộ đến hàng chục cây số nếu tính khoảng cách đi ‘gõ’ và đi bưng. Còn đâu thì giờ đến trường như các bạn đồng trang lứa?

Một ngày làm việc của xe hủ tiếu ‘gõ’ chấm dứt vào khoảng 1 giờ sáng. Đẩy xe hủ tiếu về, dọn dẹp, rửa xong hết mọi thứ, 3 giờ sáng mới được ‘ngả lưng’ cho tới 9 hoặc 10 giờ sáng hôm sau, thức dậy chuẩn bị cho cữ trưa đi bán. Rồi lại làm quần quật cho tới 2 giờ sáng hôm sau mới đi ngủ. Ngày nào cũng như ngày nấy, suốt 7 ngày một tuần…

***

Đối với tôi, một món cũng thuộc loại ‘khoái khẩu’ ở Sài Gòn là… bánh mì thịt nguội, trong đó có cả jambon, xúc xích, patê ăn kèm với sốt mayonaise

và đồ chua

! Bánh mì thịt nguội ăn sẽ ngon hơn nếu bạn có thì giờ ngồi nhẩn nha tại tiệm: các loại thịt bầy trên đĩa trắng tinh kèm thêm một cục sốt bên cạnh dao, nĩa sạch bóng. Bẻ một miếng bánh mì còn nóng, trét sốt lên trên rồi một lớp patê, sau đó cắt một miếng jambon… đưa vào miệng. Tuyệt cú mèo!

Một trong những tiệm bán bánh mì thịt nguội có tiếng ở Sài Gòn từ năm 1954 và còn tồn tại đến ngày nay là Hòa Mã. Tiệm Hòa Mã nằm trên đường Cao Thắng, gần khu vực Bàn Cờ, nơi có những địa điểm nổi tiếng như Kỳ Viên Tự, Tam Tông Miếu, Trường Aurore, Cư Xá Đô Thành, Nhà Bảo Sanh Đức Chính, Xe Bánh Mì Tám Lự, Quán Bánh tôm, Miến lươn, Bánh cuốn Cổng xe lửa Phan Đình Phùng (ngày nay là Nguyễn Đình Chiểu).

Ngày nay, Hòa Mã không khác xưa là mấy. Hòa Mã cũ kỹ, bảng hiệu phai màu theo năm tháng vì đã tồn tại hơn 50 năm kể từ ngày mở cửa. Nhiều người nói chủ nhân Hòa Mã là người đầu tiên bán những ổ bánh mì thịt kiểu Sài Gòn. Ngay đến bà Nguyễn Thị Dậu, chủ nhân hiệu bánh mì Như Lan nổi tiếng thời bây giờ, cũng đã từng tâm sự, ngày xưa bà rất mê bánh mì Hoà Mã. Lúc nhỏ, bà Dậu thường đến mua bánh mì Hòa Mã và ước ao ngày nào đó mình cũng có một cửa hàng như tiệm Hòa Mã.

Năm 1954, vợ chồng ông Lê Minh Ngọc và bà Nguyễn Thị Tịnh, di cư vào Nam. Trước đó, bà Tịnh làm ở hãng thịt nguội chuyên cung cấp thực phẩm cho các nhà hàng Pháp ở Hà Nội. Khi vào Sài Gòn, hai ông bà đã có sẵn ý định mở cửa hàng bán bánh mì thịt nguội.

Năm 1958, cửa hàng bánh mì thịt nguội mang tên Hoà Mã (tên một làng ở ngoại ô Hà Nội) tọa lạc tại số 511 Phan Đình Phùng, nay là Nguyễn Đình Chiểu, quận 3. Sau đó hai năm, tiệm dời về số 53 Cao Thắng cho đến nay. Hòa Mã nổi tiếng đến độ tên của quán trở thành tên con hẻm. 

Tiệm Hoà Mã gọi ổ bánh mì thịt của mình là cát-cút, dùng theo tiếng Pháp cassecroute, bữa ăn lót dạ, bữa ăn nhẹ. Những năm 60, giá bán một ổ bánh mì Hòa Mã là 3 đến 5 đồng, ổ lớn có bơ tươi thì 7 đến 10 đồng.

Ngày nay, bác Ngọc đã qua đời, còn bác Tịnh vẫn giữ tiệm Hòa Mã y như cảnh tiệm trước năm 1975, giống y như bác: răng đen, đầu vấn khăn. Bác không muốn sơn phết, sửa sang lại tiệm, dù bác dư sức làm việc đó. Có thể chính vì thế mà những khách quen gắn bó với Hoà Mã hơn bánh mì Hà Nội.

Tiệm bánh mì Hà Nội nằm trên đường Nguyễn Thiện Thuật gần đó. So với Hòa Mã, bánh mì Hà Nội bây giờ hào nhoáng hơn, lớn hơn, nhưng không còn cho khách ngồi ăn tại chỗ, chỉ bán bánh mì mang đi. Hà Nội ngày nay bán nhiều thứ chứ không phải chỉ có bán bánh mì thịt nguội như trước năm 1975. Trong khi đó Hoà Mã bé nhỏ, gọn gàng, khiêm nhượng, phong sương với dấu vết thời gian tiêu điều, già lão vẫn cứ trơ gan cùng nắng bụi Sài Gòn.

Đặc điểm của Hòa Mã là chỗ ngồi chỉ là những cái bàn nhỏ kê dọc theo vách tường ngay trên con hẻm phía bên hông tiệm, chỉ độ 6 hay 7 bàn, còn trong tiệm chỉ khoảng 2 bàn để khách ngồi ăn. Bây giờ thì khách

đến Hòa Mã

chủ yếu là

mua

mang về, chỉ còn lại một số ít khách có thì giờ ngồi nhâm nhi bánh mì thịt nguội kèm ly cà phê sữa nóng, cà phê đá hoặc trà đá. Phần thịt nguội cũng được tăng cường thêm món giò, chả và cả trứng ốp-la.  

X

e bánh mì Tám Lự gần chợ Bàn Cờ chỉ bán từ xẩm tối đến đêm khuya. Một ổ bánh mì Tám Lự dài cỡ 4 tấc, hai gang tay, tối ăn vào no đến sáng. Bánh mì ngon, ngoài pâté chả lụa, pâté foie, bơ Bretel còn thêm dưa leo, ngò, hành lá, nước tương, muối tiêu, ớt xắt. Ngày xưa khách chỉ cần nói: “Cho một

Tàu lặn

hay một

Tiềm thuỷ đĩnh

đi, anh Tám!” là khách sẽ có ngay một ổ bánh mì nóng dòn, thơm phức.

Nếu muốn sang hơn thì lên Bánh mì Paté Tòa đô chính trên đường Nguyễn Huệ hoặc tiệm bánh Hương Lan trên đường Tự Do hay ngồi Thanh Bạch đường Lê Lợi (gần Bệnh viện Sài Gòn). Chỉ cần gọi đĩa bánh mì thịt nguội kèm theo một ly cà phê sữa đá là đủ no cho đến trưa. Thanh Bạch vẫn là nơi lý tưởng để vừa ăn sáng vừa ngắm cảnh người Sài Gòn sửa soạn cho một ngày mới. 

Bánh mì thịt ngày nay đã chạy sang tận Hoa Kỳ, nơi có nhiều người Việt định cư sau năm 1975.

Bánh mì thịt trở thành một trong những món ăn ‘quốc hồn, quốc túy’ của người Việt tại hải ngoại. Người Mỹ gọi đó là Vietnamese Baguette Sandwiches: sự kết hợp của bánh baguette có xuất xứ từ Pháp cộng với các lọai nhân do người Việt sáng tạo.

Ở những nơi có đông người Việt định cư, như tiểu bang California hay Texas, đã thấy xuất hiện những thương hiệu như

Bánh mì Ba Lẹ

,

Bánh mì Sài Gòn

... nhưng nổi tiếng hơn cả là hệ thống các cửa hàng mang tên

Lee’s Sandwiches

do một ông chủ họ Lê, được Mỹ hóa thành Lee, đứng ra kinh doanh.

Bánh mì Như Lan ở Melbourne giá 4 đô Úc một ổ. Quy ra tiền Việt thì quá mắc (khoảng 60.000 đồng) nhưng nếu so với mức lương trung bình của người lao động tại Úc, từ 6 đến 8 đô một giờ, thì cái giá bánh mì 4 đô lại là điều bình thường!

Melbourne

còn có hiệu bánh mì Ba Lẹ, nhưng Như Lan vẫn là hiệu bánh mì số một tại khu Footscray vốn là trung tâm sinh h

oạt

của người Việt tại

Melbourne.

Người Việt tại Úc có nhiều kiểu bánh mì: thịt nguội (mixed ham), nem nướng (BBQ kebab), sườn nướng (BBQ pork), xíu mại (meatballs), gà rôti (chicken + onion), gà nướng (BBQ chicken), bì heo (shredded pork), trứng (scrambled egg)... kèm theo đầy đủ ‘đồ phụ tùng’ như rau xà lách, dưa leo, đồ chua, hành, ngò... Người ăn khỏe có thể chọn bánh mì đặc biệt (special combo) còn người ăn chay thì có bánh mì chay (vegetarian) nhân gồm đậu hũ (tofu) và các lọai rau.

***

Sài Gòn

x

ưa có 2 tiệm Thanh Bạch, một ở đường Lê Lợi, bên rạp xi-nê Vĩnh Lợi

. T

iệm Thanh Bạch thứ hai ở đường Phạm Ngũ Lão, trong dẫy phố trệt dưới tòa soạn

n

hật báo Sàigòn

M

ới năm xưa. Ngoài bánh mì ốp-la, ôm-lết, thịt nguội, Thanh Bạch có bánh mì bò kho, tức ragout, hủ tíu và đặc biệt là món suông. Bún suông dùng xương heo để nấu nước lèo, và đặc biệt ở đây là dùng tôm tươi lột vỏ, bỏ đầu, bằm nhuyễn sau đó vo lại thành sợi dài (như sợi bún). Nước lèo ở đây rất trong, ăn kèm với rau sống...

Nhà hàng Tài

Nam

trên đường Ohier (Tôn Thất Thiệp) nổi tiếng với món đuôn

g

chà là chiên bơ rất ngon nhưng cũng rất mắc tiền.

Theo nhà văn Sơn Nam, vua chúa cũng còn thèm ‘con đuông chà là’, tên chữ là ‘hồ đa tử’. Hồ đa là cây dừa rừng, tức cây chà là hoang thường mọc miền nước mặn Nam bộ, giống như cây cau kiểng. Cây dừa rừng có ‘củ hũ’, tức đọt non, đến mùa sau Tết thường xuất hiện con đuông, giống như con nhộng. Đuông ăn đọt dừa non nên to, mập và thường được bắt trước khi nở thành bướm.

Sơn

Nam

viết: “Đem đuông nướng trên vỉ sắt, cho héo, rồi ăn, chấm với nước mắm nhĩ nguyên chất. Con đuông béo ngậy vì tăng trưởng, ăn ròng củ hũ cây chà là. Nay thấy ở vài quán nhậu bày bán với giá 8.000 đồng/một con!’.

Như vậy, món bún suông ở Thanh Bạch chỉ là món giả đuông làm bằng tôm, tương tự như món ‘giả cầy’ miền Bắc nấu bằng giò heo (?).

Tiệm Tri Kỷ có ‘đặc sản’ là món rắn

như

cháo rắn nấu với đậu xanh

,

lòng rắn xào, thịt rắn xào sả ớt, rắn hầm thuốc Bắc, lẩu rắn… Cho đủ bộ sưu tập rắn phải gọi rượu đế hoặc rượu Tây trộn với máu rắn!

Tại

Tri Kỷ

, chủ quán rất nặng phần trình diễn, gọi đầu bếp đem rắn ra trước bàn tiệc, con rắn hổ dài

gần

2m. Trong khi biểu diễn cho đầu con rắn ngóc tới ngóc lui theo bàn tay điều khiển điêu luyện của người đầu bếp thì... phập một cái, lưỡi dao bén ngọt đã chém phăng cái đuôi con rắn.

Liền

khi

đó,

một

người khác đưa rượu vào ngay để kịp hứng tia máu đầu tiên của con rắn

.

Cứ vậy

,

máu từ đuôi rắn tuôn vô bình rượu nhuộm thành màu đỏ cho tới khi con rắn xuội lơ, máu ch

còn nhỏ giọt. Nghề ‘ăn uống’ thời nay cũng lắm công phu nhưng, thật tình mà nói, cũng quá thô bạo, dã man chẳng kém gì ‘trảm mã trà’ ngày xưa!

Lươn, rùa, ếch, rắn là 4 món hoang dã trong ‘văn hóa ẩm thực’ miền Nam, ngoài ra còn phải kể đến món chuột đồng là món luôn luôn hiện diện trong thực đơn của Tri Kỷ.

Loại chuột này chỉ ăn toàn lúa và cỏ non, nên rất sạch chứ không như chuột thành phố sống chui rúc trong cống rãnh, bạ cái gì cũng ăn, ta gọi là ‘ăn tạp’. Chuột cũng phục vụ nhiều món như nướng rơm, đút lò, xào chua ngọt…

Hồi xưa có tin đồn những xe bò viên dùng toàn thịt chuột, mà lại là chuột cống! Bà con một dạo đã ngoảnh mặt với bò viên khiến các xe bò viên phải chế ra trò ‘đổ xí ngầu ăn bò viên’. Có lẽ đây là tiền thân của phương cách tiếp thị thời nay:

bật nút bia trúng… xe hơi Mercedes

! Xe đâu không thấy chỉ thấy lủng túi bợm nhậu, mà dù có trúng cũng mất hết tình bạn nhậu vì ai là người chính thức đứng tên lãnh xe hơi trong đám đệ tử Lưu Linh? 

Nói đến chuột, tôi nhớ đến thời cải tạo tại Trảng Lớn. Hồi những người cải tạo mới đổ bộ lên căn cứ cũ của Sư đoàn 25 Bộ binh tại Tây Ninh, chuột ở đây vẫn còn nhiều và là nguồn cung cấp thịt ‘miễn phí’ cho đám cải tạo đói ăn! Dĩ nhiên, đây không phải là loại chuột đồng vì chúng sinh trưởng tại phố thị. Thật tình, tôi chưa bao giờ có dịp thưởng thức món chuột Trảng Lớn nhưng theo lời mấy ông bạn tù, ‘thịt chuột ở Trảng Lớn không thua gì món chuột đồng ở Tri Kỷ!’.

Vùng Thanh Đa (Bình Thạnh) nổi tiếng khắp Sài Gòn với món cháo vịt, gỏi vịt. Vào buổi tối người Sài Gòn hay ra bán đảo Thanh Đa trước là để đón những luồng gió mát từ sông Sài Gòn thổi vào và khi về, ghé mấy quán cháo vịt, gọi thêm đĩa gỏi vịt ăn kèm. Nếu là ‘bợm nhậu’ thì gọi thêm chai bia Con cọp BGI để… đưa cay. Nếu ngại ra Thanh Đa thì trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) cũng có khu bán cháo vịt thuộc loại… ‘ăn được’. Thịt vịt tại đây khá mền, nhai kỹ thấy ngọt và đặc biệt không thấy nùi hôi vốn có của thịt vịt. Có thể họ tuyển loại vịt chạy đồng nên không hôi (?).

Đinh Công Tráng là một con đường nhỏ gần nhà thờ Tân Định nhưng cũng đi vào lịch sử ăn uống của Sài Gòn với món bánh xèo. Bí quyết của bánh xèo nằm ở kỹ thuật pha bột, sao cho khi chiên lên, bánh dòn tan khiến người ăn có thể cảm được cái thú nghe miếng bánh đang được nhai dưới hai hàm răng. Lớp bột gạo pha chút nghệ khi đổ vào chảo dầu tạo nên một tiếng ‘xèo’ khiến ta hiểu được tại sao lại gọi là... bánh 

xèo!

Dù trên bàn có đầy đủ muỗng, đũa nhưng để ăn bánh xèo đúng điệu là phải dùng tay. Rau xà lách hoặc cải bẹ xanh thay cho bánh tráng, thêm vài cọng rau thơm, chuối non, khế chua... sau đó ngắt một miếng bánh xèo để cuộn lại thành cuốn.

Trước khi ăn, cuốn được chấm vào chén mắm được pha chế với trái thơm, người không ăn được mắm có thể dùng nước mắm trộn đồ chua. Sau mỗi miếng bánh có thể nhắp thêm một ngụm bia có tác dụng làm tiêu hao lượng dầu mỡ để tiếp tục chiến đấu với miếng kế tiếp. Chừng 3 hay 4 lần gói là thấy cả chiếc bánh xèo vàng ngậy đã biến mất trên đĩa... 

Ngày nay đường Đinh Công Tráng trở thành ‘đường bánh xèo’ nhưng người sành ăn thì chọn quán bên tay trái, nếu đi từ đường Hai Bà Trưng vào. Quán không tên nhưng người ăn vẫn nhớ vì nó đã đi vào ‘bộ nhớ’ của người Sài Gòn từ bao năm nay. Những quán đối diện bên kia đường trông có vẻ lịch sự hơn, sạch sẽ hơn nhưng vẫn chịu cảnh vắng khách vì là kẻ… hậu sinh.

Sài Gòn ngày nay còn có nhiều quán bánh xèo như

Bánh xèo Bà Mười Xiềm

đã từng đem chảo sang tận Mỹ để biểu diễn, hệ thống bánh xèo

Ăn Là Ghiền

với mạng lưới cửa hàng khắp thành phố, bánh xèo A Phủ… nhưng có lẽ không đâu bằng bánh xèo Đinh Công Tráng. 

Khu Dakao có tiệm bánh cuốn Tây Hồ (127 Đinh Tiên Hòang), gần chợ Đa Kao, quận 1, đã nổi tiếng từ trước 1975. Tại đây, mỗi bàn có để sẵn một thẫu nước mắm và một chồng chén nhỏ để khách tùy nghi sử dụng, thêm nhiều hay ít ớt bằm theo sở thích riêng của từng người. Tuy nhiên, có khách lại thích chan luôn nước mắm vào đĩa để bánh cuốn thấm nước mắm, đậm đà hơn.

Chả quế và giò lụa được cắt thành miếng lớn, để riêng trong một đĩa nhỏ. Khách có thể chỉ ăn bánh cuốn nhân thịt mà không đụng tới đĩa giò chả, như vậy người phục vụ nhìn vào đĩa chả còn nguyên mà không tính tiền. Nếu cần, có thể gọi thêm đĩa bánh tôm hoặc 

bánh cuốn không nhân. Đây cũng là một sáng kiến trong việc phục vụ khách hàng.

  

Sài Gòn cũng có bánh cuốn Thanh Trì kiểu Bắc, mỏng như tờ giấy, ăn với ‘ruốc’ (chà bông) và nước mắm phải kèm với vài giọt cà cuống mới là ‘sành điệu’! Còn bánh ướt là kiểu bánh cuốn bình dân ở Sài Gòn, cũng ăn kèm với bánh tôm chiên, giò, chả và rau, giá. Những xe bánh ướt được đẩy đi khắp Sài Gòn, có cả nồi hấp nên lúc nào bánh cũng nóng và người bán bao giờ cũng chan nước mắm vào đĩa thay vì chấm kiểu ‘thanh cảnh’ như bánh cuốn Thanh Trì.

Lại nói thêm, đường Albert (vào thời Đệ nhất Cộng hòa đổi tên thành Đinh Tiên Hoàng) khá dài nên dọc theo con đường này có nhiều địa chỉ ẩm thực nổi tiếng. Tiệm ăn Chez Albert (lấy tên theo con đường), Cà-phê Hân (được nói đến trong

Chương 8: Thời điêu linh

), Mỳ Cây Nhãn (tên đặt theo cây nhãn hồi đó còn trồng trước sân), Thạch chè Hiển Khánh (nơi sưu tầm rất nhiều thơ ca tụng thạch chè)… Tôi chắc chắn còn bỏ quên khá nhiều điểm ăn uống khác nữa trên con đường này.

Ở góc đường Tôn Thất Ðạm và Hàm Nghi ngày nay, trước kia vào thập niên 30 có một quán cháo cá nổi tiếng một thời. Buổi chiều cho đến gần khuya, khách đến ăn rất đông, nhất là gần khuya khi cải lương, hát bội, hát bóng vãn hát. Theo Vương Hồng Sển trong

Sài Gòn Tạp Pín Lù

, quán cháo cá này của người Tàu, gốc Quảng Đông, “cha truyền con nối suốt bốn năm thế hệ, trót trăm năm chớ không phải chơi…”. Cháo tại đây nấu bằng gạo tấm hầm với cá, xương heo và thịt tôm hùm để thành một thứ hồ sền sệt khiến “người đau mới mạnh dùng không sợ trúng thực, người mệt mỏi ăn vào cảm thấy nhẹ bụng, mau tiêu. Tô cháo cá Chợ Cũ quả là một ‘tô thuốc tráng thần’…” 

Cháo cá có thể nấu nhiều cách và tùy theo từng loại cá. Đặc biệt phải có thật nhiều tiêu để đánh tan mùi tanh của cá. Người ta còn gia giảm thêm các loại rau thơm như thìa là nếu nấu theo kiểu Bắc. Đôi khi có nơi còn dùng hành phi ngoài hành lá, ngò và ớt say. Điều quan trọng là cháo cá phải ăn lúc còn đang nóng để giảm đi mùi tanh vốn có.

Cháo nóng hổi bốc hơi nghi nghút. Vừa thổi vừa húp xì xụp mới thấy được cái thú vị của món cháo cá Chợ Cũ. Thịt cá giòn, thơm, lẫn lộn hương vị của hành, tiêu, gừng và có thể ăn với

dầu ch

á

quẩy

. Thú thật, tôi là người thích thịt hơn cá nhưng thỉnh thoảng được thưởng thức món cháo cá vẫn thấy ngon đến toát mồ hôi!

Có một tiệm

c

háo

g

h

eo khá nổi tiếng trong ngõ đường Phan Đình Phùng (ngày nay là Nguyễn Đình Chiểu). Tiệm không có tên, chuyên bán cháo từ 6 giờ tối tới một, hai giờ sáng. Khách của tiệm này đa số là khách chơi đêm, khách đi nhẩy, khuya về đói bụng đến ăn tô cháo nóng. Cháo lòng cũng là món phổ biến trong họ nhà cháo.

Ngôn ngữ Việt

Nam

cũng có thêm thuật ngữ ‘màu cháo lòng’ để chỉ một màu trắng nhợt nhạt, đùng đục, trông hơi bẩn tựa như… màu của tô cháo lòng!

Nói đến lòng heo tôi lại nhớ đến món ‘phá lấu’ ở góc đường Lê Lợi-Pasteur, nơi đây còn có xe bò bía và nước mía Viễn Đông. Bán phá lấu là một chú Tàu và ‘cửa hàng’ của chú chỉ vỏn vẹn một cái khay tròn, trên đó bầy đầy đủ nội tạng heo: lòng, dồi, gan, bao tử, ruột non, ruột già, tim, phèo, phổi… Trông thật hấp dẫn, ngửi thơm phức và ăn vào thì dòn tan. Phá lấu nói chung có vị hơi ngòn ngọt, gan thì bùi bùi, lòng thì hơi dai dai nhưng khi nhai kỹ mới thấy ngon… thấu trời xanh!

Nghệ thuật làm phá lấu chắc chỉ mấy chú ba mới đáng hàng ‘sư phụ’. Phá lấu làm tại nhà cũng ướp húng lìu, ngũ vị hương nhưng không thể nào so sánh với phá lấu góc nước mía Viễn Đông. Từng miếng phá lấu được ghim sẵn bằng que tăm, chấm với tương đỏ trộn tương đen. Khách ăn xong chú Ba chỉ nhìn tăm mà tính tiền nhưng tuyệt không bao giờ sai. Quá bộ vài bước là xe nước mía tươi mát đang chờ… để kết thúc một chuyến ăn hàng bên lề đường.

Nói đến chuyện ăn ở lề đường phải kể đến một món nữa là thịt bò khô hay người Sài Gòn còn gọi là gỏi đu đủ khô bò. Vốn là món khoái khẩu từ thời còn đi học nên thịt bò khô cứ quanh quẩn trong ký ức của tôi với tiếng ‘chách chách’ của tiếng kéo mỗi khi cắt thịt bò khô hay cắt gan cháy.

Gần nước mía Viễn Đông có xe thịt bò khô của ông Năm (theo tên gọi của khách quen) và sau 75 ông dời về đường Tự Đức (nay đã đổi tên là đường Nguyễn Văn Thủ) thuộc khu Dakao.

Một đĩa gỏi khô bò là sự pha trộn màu sắc thật bắt mắt: màu vàng nhạt của những sợi đu đủ bào, màu vàng đậm của những hột đậu phọng, màu xanh của húng quế cắt nhỏ, màu nâu cánh gián của thit bò khô, gan cháy lại còn màu đỏ của tương ớt. Toàn bộ mảng màu đó được pha trộn với một ‘dung dịch’ hấp dẫn gồm dấn ngâm tỏi trắng, nàu đen của nước tương, nước mắm khiến người ăn chỉ mới nhìn thôi mà nước miếng đã tiết ra đầy miệng.

Người ta thường ‘nói khôn ăn cái, dại ăn nước’ nhưng trong việc thưởng thức món thịt bò khô mà không húp hết nước trong đĩa là cả một thiếu sót lớn. Nước trộn gỏi còn trên đĩa là phần kết hợp các vị ngọt của thịt, gan hòa với các loại gia vị và nước chấm khác. Đó mới là phần tinh túy của một đĩa gỏi bò khô.

Dân chơi Sài Gòn thường xếp hạng: “Ăn quận 5, nằm quận 3, xa hoa quận 1”

nên viết về món ngon Sài Gòn mà bỏ qua khu vực Chợ Lớn là cả một thiếu xót lớn. Dọc đường Trần Hưng Đạo nối với đường Marins (Đồng Khánh) thuộc địa phận quận 5 có những nhà hàng, tửu lầu nổi tiếng một thời như Arc-en-Ciel, Đồng Khánh, Á Đông, Bát Đạt.

Nói đến khu này phải nhắc tới casino

Grand Monde

, hay còn gọi là Đại Thế Giới, nơi tập trung ‘tứ đổ tường’, đánh bạc thoải mái từ thời Pháp thuộc. Đại Thế Giới ngày nay biến thành khu văn hóa thiếu nhi quận 5 có cả khu vui chơi dưới nước cũng mang tên Đại Thế Giới.

Sau 1975, hồi gia đình tôi còn ở đường Hàm Tử chỉ cách Đại Thế Giới khoảng vài phút đi bộ

, tôi vẫn thường dẫn cháu ngoại đến đây, không phải để đánh bạc, mà là để mấy đứa nhỏ chơi thú nhún!

   

Theo tôi, Chợ Lớn nổi tiếng hơn cả là đường Lacaze mà người Việt hay gọi trại là La Cai, tức đường Nguyễn Tri Phương sau này. Khu La Cai có mỳ vịt tiềm hầm thuốc bắc, một trong những món ‘tủ’ của người Hoa. Bên cạnh đó còn có những tiệm hủ tiếu mang tên Mỹ Tiên, Cả Cần và tiệm bánh bao Bà Năm Sa Đéc.

Đêm đến có các quán sò huyết dọc theo lề đường. Khách bình dân ngồi ăn nhậu thoải mái giữa dòng xe cộ ồn ào bên ánh đèn nê-ông từ các nhà hàng, vũ trường sang trọng của Chợ Lớn ‘by night’! Phải thành thật nhìn nhận, Chợ Lớn ngày nay hiền hòa hơn xưa về mặt ăn chơi. Có thể vì số người Hoa tại đây đã ít đi sau đợt ‘vượt biên bán chính thức’ cuối thập niên 70. Nhiều ‘xì thẩu’ đã ra đi nên các mục ăn chơi cũng giảm đi rất nhiều.

Thôi thì đời người có lúc hưng lúc thịnh cũng như vận nước có khi thịnh khi suy. Viết lại món ngon Sài Gòn chỉ để thỏa mãn kiểu ‘ăn hàm thụ’ như đã nói ở trên. Giờ có cho ăn ‘thực thụ’ chắc cũng chẳng thấy ngon như thời còn trai trẻ. Tất cả chỉ còn là… hoài niệm!

   

H

i

c v

món ph

đ

c nh

t vô nh

b

ng chu

i

i

·

        

Ở quê nghèo, những món ngon hấp dẫn nhiều khi không hẳn được chế biến bằng những thực phẩm đắt giá. Với sự sáng tạo tuyệt vời của mình, người xưa có thể làm món phở bằng chuối ối. Đó là kí ức tuổi thơ đáng nhớ đượm chất quê mà không phải ai cũng có được.

Khi cái nóng bức bối đầu hè, những đợt gió Lào khô khốc thổi, tiếng chim tu hú và két đa đa cất tiếng gọi bạn tình thì người dân quê tôi cũng bước vào vụ thu hoạch củ chuối ối (tiếng phổ thông gọi là chuối củ hay dong riềng thì phải).

Ngày xưa bà còn sống, bà chọn những củ béo nhất, tròn mẩy cho vào quang để ngày mai chị đi chợ huyện bán lấy tiền đong gạo. Còn lại những củ lác bà rửa thật sạch, mài ra rồi cho vào vải lọc, nước lắng xuống hôm sau lấy bột, cái thứ bột màu nâu nâu ăn mãi ngấy tận cổ, vừa làm vừa bỏm bẻm nhai trầu: “Ra phụ nhặt củ với mẹ bay rồi mai tao làm phở cho mà ăn”.

Bột sau khi được cháo với nước lã sền sệt, deo dẻo như hồ, bà cẩn thận múc từng muôi rót vào tấm vải bịt trên nồi nước sôi sùng sục như người ta làm bánh cuốn sau đó cắt thành sợi đem phơi vài nắng, sợi cong lại như phở khô.

Gọi là phở cho oai chứ thực ra chỉ là cua đồng giã nhuyễn lấy nước, với cái tài nêm nếm của bà nồi nước dùng bốc lên thơm ngào ngạt, gạch cua váng lên óng ánh. Chỉ thế thôi mà cả nhà xì xụp khen ngon, mùi ớt, hạt tiêu xộc vào cay chảy nước mắt nước mũi.

Nhưng ăn mãi cũng nhàm, cái vị cua đồng lúc đầu thấy ngon ngon, ăn riết khai không chịu nổi, hôm nào nhà hết gạo bà thông báo “ăn phở” là cả bọn ngao ngán, có đứa lè lưỡi, ngoẹo đầu không chịu ăn, bà vừa dỗ dành vừa khe khẽ chấm nước mắt.

Hồi ấy gạo còn không đủ ăn nói gì đến hàng quà. Ba có việc lên thị xã mua về cho mấy cái bánh mì kẹp thịt đã mừng rơi nước mắt, bún phở lại càng xa xỉ. Chẳng bù cho ngày nay, cơ man nào là phở, đủ các nhãn hàng bắt mắt, vô tuyến quảng cáo inh ỏi, để thêm phần hấp dẫn người ta còn chua thêm câu “nguyên liệu ngoại nhập” cho ra dáng hội nhập Quốc tế.

Chuối ối không còn nữa, người ta bảo nó vừa hại đất mà hiệu quả kinh tế không cao nên nhổ bỏ lấy đất trồng hồ tiêu, chỉ còn lác đác một vài nơi có lẽ vì chủ nhân hoài cổ hoặc giả vì đất cằn không canh tác được. Cũng thật lạ, không hiểu sao nó lại có sức sống bền bỉ đến lạ: Trong khi cả bờ Nam giới tuyến nhuốm một màu đỏ oạch, cháy sém vì chất độc hóa học thì những lùm chuối ối vẫn xanh um, những bông hoa đỏ thắm như trăm nghìn ngọn nến chĩa thẳng lên bầu trời vừa kiêu hãnh vừa thách thức, nó vừa là thực phẩm vừa là người bạn thân thiết của bộ đội và du kích bám trụ chiến đấu trên tuyến lửa này.

… Cả cuộc đời bà hình như chưa một ngày thư thái. Nghe người ta nói phở thì nói theo chứ bà nào biết bát phở đen trắng là gì. Mười bảy tuổi đã về làm dâu nhà người, tất tưởi lo cái ăn cho cả nhà qua nạn đói đã là giỏi nói gì đến một chút riêng tư dù là thiết yếu nhất. Có cô đói qua lẻn vào cuối góc chợ kéo nón che kín mặt lùa vội bát bánh đúc vậy mà vừa về đến ngõ đã bị mẹ chồng mắng cho té tát, tủi thân chỉ ra bờ ao khóc tấm tức.

Mùa thu hoạch củ chuối ối lại về, dẫu trong tâm tưởng thôi, bỗng thấy nhớ bà vô hạn, nhớ mãi kỷ niệm của ngày xưa, thèm bát phở nấu với gạch cua khai khai, mùi vị của ớt tươi, của tiêu khô cay nồng trong cuống họng.

Cá khô - mặn mòi gió biển ngày thu

Cá khô vốn là món ngon của nhà nghèo, của vùng quê, của những ngày trái gió trở giời lỡ bữa cá tươi,... Giờ hầu hết người ta ấn tượng về nó như là một món nhậu dân dã, một món ăn xưa cũ kỹ quê đặc, thậm chí rùng mình e ngại nó bị tẩm ướp hóa chất độc hại. Có lẽ cá khô quê nhà chỉ còn là một món ngon trong... ký ức!

Nhớ khi xưa, bến thuyền làng chài cứ tới những ngày gió đầu mùa của tiết trời sang thu là lại giăng đầy khô cá. Đi qua hàng cá phơi là sực lên mùi tanh đặc trưng của biển. Ai không quen thì bịt mũi bước qua cho nhanh, ai quen thì cứ thong thả khoan khoái bước đi trong hơi biển tanh nồng và mặn mà. Mùi tanh nồng nàn của cá tươi đang phơi khô không thể là thứ mùi tanh hôi của cá ươn còn cố tình để nguyên bộ lòng ruột đang phân hủy. Nếu bạn gần gụi dân biển, bạn sẽ thấm cảm nhận đó.

Hẳn có nhiều người băn khoăn sao mùa hè nắng lớn lại không phơi cá nhiều bằng mùa thu? Là vì cá phơi ngày thu chủ yếu khô nhờ gió, cá sẽ khô ráo trong từng thớ thịt mà vẫn kịp ủ mùi thơm biển, thịt cá khô dẻo nhưng vẫn tươi chứ không phải khô cứng và chín dở như khi phơi nắng cháy. Vì thế mà các loại máy sấy hiện đại không thể nào thay thế hoàn hảo cho khí thu se lạnh trong từng cơn gió biển tự nhiên được.

Khi sơ chế cá để phơi, đánh hết vẩy, lát đôi cá thành hai nửa mỏng giống nhau bám nhau ở phần sống lưng, bỏ hết mang và ruột cá, rửa thật sạch tiết cá, kể cả những màng đen thường có trong khoang bụng cá cũng lột sạch hoặc đánh rửa sạch, rửa bằng nước biển hay nước muối là tốt nhất .

Tuy vậy vây và đuôi cá không được chặt, người dân chài thường bảo "làm vậy khác gì cá thối" - ý nói là trông con cá như thối hỏng rồi mới mang đi phơi. Sau khi để ráo thì ướp muối, tùy loại cá đậm nhạt thịt khác nhau, thân thịt dày mỏng khác nhau, thớ thịt săn lỏng khác nhau,... mà người ta dùng lượng muối khác nhau và ủ nhanh chậm khác nhau. Thông thường 1kg cá cần gần 1kg muối và ủ trong 3 giờ đồng hồ.

Sau đó cũng tùy vào sự rỉ nước sau ướp muối mà bạn có cần xả muối hay không, nếu cá rỉ ít nước thì chỉ việc đập cho rời hết muối là treo phơi nhưng nếu cá rỉ nhiều nước thì cần phải xối lại nước cho hết nước tanh đó đi rồi ủ nhanh lại bằng chút muối. Nếu không khéo trong ướp muối cá thì hoặc là cá quá mặn mà mất vị ngon ngọt, hoặc là cá nhạt và mủn thịt,... Khâu ướp muối trở nên quan trọng nhất để có được mẻ cá khô ngon là vậy!

Tùy theo cá mà phơi "một nắng", "hai nắng" hay "nhiều nắng" (một ngày, hai ngày hay nhiều ngày). Chẳng hạn cá thu phơi một nắng là vừa nhất, vì phơi kĩ cá sẽ khô bã, nhưng cá phèn mà không phơi nhiều nắng thì không thơm. Phơi xong là treo vào gác bếp hay chỗ râm khô thoáng vài ba ngày mới gói kĩ cất hẳn đi dùng dần. Cá khô có thể dùng quanh năm không sợ hỏng, nhưng thường là người ta dùng để ăn qua hết mùa đông.

Những ngày đông lạnh, mưa phùn gió bấc hay gió vi vút rét căm căm, ngồi co ro bên bếp củi cời lửa tàn nướng cá, chỉ ngửi thấy mùi cháy của vây cá bén đầu tiên đã thèm tứa nước miếng. Ngày nhỏ tôi cứ khăng khăng với suy nghĩ riêng của mình rằng vây cá không chặt để khi nướng nó thơm, giờ vẫn thấy có phần hợp lý! Ở các vùng biển, cá khô nướng ăn với cháo hoa là kiểu ăn thân thuộc tới mức khi xa quê người ta lại nhớ hương vị này đến da diết!

Trước kia cá khô là món quà quê gửi ra thành phố, còn bây giờ nó trở thành hàng hóa rất tiện mua. Thế nhưng vì những cảnh báo về vệ sinh an toàn thực phẩm mà người ta e ngại và dè dặt khi mua nó. Cũng dễ hiểu thôi, mùi cá khô rất bắt ruồi, kiến và nhiều côn trùng khác. Người ta thường phải phun thuốc để xua những con vật này.

Thêm nữa, khi nguyên liệu cá ban đầu không đủ tươi (chủ yếu là cá ươn thối bán ế) thì ủ với phơi cũng không có tác dụng nhiều, người ta sẽ phải tìm cách tẩm ướp nó cho có... hương vị cá khô thật, sẽ phải có cách sấy hay nhúng thuốc thế nào đó cho nó khô ráo như cá khô "xịn". Một lần nữa lại phải nhắc tới cụm từ ngữ quen thuộc: "chúng ta cần là những khách hàng thông thái"! Cá khô cần chọn màu vàng đều tự nhiên, thịt khô dẻo, mắt cá trắng, mùi tanh nhẹ,...

Và có lẽ yên tâm nhất là bạn hãy tự tay làm cá khô cho mình, hãy yên tâm là không cần nắng quá lớn, chỉ cần gió thu bên ban công và chút nắng nhạt hắt vào là bạn có thể phơi được cá khô trong 3 ngày, bạn có thể cần thêm chút sự hỗ chợ của lò sấy ở nhiệt độ thấp trước khi cất cá. Một mẹo nhỏ cho bạn là nên tẩm chút ớt bột vào cá trước khi phơi, như thế ruồi sẽ không bén mảng tới nữa!

Cá khô có thể chế biến được rất nhiều món: xắt nhỏ và hấp cá với gừng, chiên dầu lửa nhỏ, ngào chua ngọt, lát mỏng xào rau (nên xào những rau gia vị như cần, tỏi, ớt, hành tây,...), kho dẻo, nướng,.... Trước khi nấu thành món ngon, bạn nên ngâm cá khô vào nước vo gạo sạch, giấm loãng hoặc bia. Như thế cá sẽ đàn hồi trở lại vị tươi và dễ ngấm gia vị bạn ướp sau đó. Cá khô cần ăn nóng cùng với các món thanh nhạt khác.

Những người huyết áp, tiểu đường, tim mạch,... thì cần hạn chế ăn cá khô vì nó chứa nhiều muối. Sau bữa ăn thường cần thanh miệng bằng nước chè, nếu ăn cá khô biển thì bạn tránh mắc vào sai lầm thường gặp là ăn quả gì đó chua chua cho đỡ tanh miệng. Bởi đồ hải sản nói chung nên tránh dùng với những đồ ăn nhiều vitamin C, hai thứ đó dễ kết hợp thành độc tố trong cơ thể.

Cũng như mắm cá đặc trưng của ẩm thực Việt Nam, cá khô là một món ngon giàu đạm, thân thuộc và đậm đà hương vị quê hương. Thay vì e ngại nó, bạn hãy tự tay làm những con cá khô của riêng mình, bởi vì những con cá khô của ngày hôm nay chẳng bao lâu sẽ trở thành một ký ức đậm vị ngon ngọt và thấm mùi nhớ nhung da diết của những bé con nhà bạn! Hơn bao giờ hết, món ăn ngon nhất vẫn là ngon trong ký ức!


Nếu người dân miền biển có món cá khô là đặc sản thì khi về Hà Nội bạn không thể không thử món bánh cuốn Thanh Trì trứ danh!

Bún đậu mắm tôm - món ngon yêu thích

 Ngày nhỏ, ăn gì tôi cũng thấy thích, thấy ngon, đôi khi chỉ giản dị là món... đậu hủ mắm tôm. Nhớ làm sao miếng đậu hủ mẹ rán vàng ươm, nhớ bát mắm tôm cay nồng đầu lưỡi, nhớ cả liếp rau sau hè với đủ loại từ húng quế, tía tô, kinh giới… mỗi chiều chiều hai mẹ con cùng ra tưới nước.


Nhiều lần tôi tự hỏi, sao cái mùi hăng hắc của mắm tôm, cái vị nhàn nhạt của đậu hủ lại có thể kích thích vị giác người ta đến thế? Chả thế mà cái hương vị dân dã ấy, chỉ sau vài lần theo chân người nhà quê đến chốn thị thành đã chinh phục được người phố thị. Để rồi giờ đây, bún đậu mắm tôm trở thành một món ngon trong nền ẩm thực Việt, và cũng là một trong những món ăn được yêu thích ở Sài Gòn vài năm trở lại đây.

Có lần, vô tình ghé một quán bún đậu mắm tôm, tôi gặp lại chị bạn quen và không ngờ chị chính là chủ của một hệ thống những quán bún đậu mắm tôm danh tiếng ở Sài Gòn. Hỏi, trắng trẻo mỹ miều như chị mà cũng vào bếp chiên đậu hủ, pha chế mắm tôm sao? Chị cười, lý do mở quán ban đầu là để thỏa nỗi nhớ quê của anh xã. Cứ tưởng, mở quán cho anh xã có nơi tụ tập bạn đồng hương, ai dè quán mỗi ngày một đông khách. Vậy là cô thư ký xinh đẹp là chị đã xin nghỉ hẳn ở nhà phụ chồng vào bếp.



Theo kinh nghiệm của chị, muốn có mắm tôm ngon thì phải chọn loại gia truyền ở Nam Định. Mắm có màu hồng nhạt, vị thơm quyến rũ. Mắm múc ra bát, pha thêm một chút rượu nếp cái hoa vàng, một chút đường, rưới thêm lớp mỡ rán đậu. Sau đó vắt chanh hoặc trái tắc vô, đánh cho sủi bọt lên là vừa ngon. Còn đậu hủ, rán vàng tới hay cháy cạnh thì tùy vào sở thích của người ăn. Tuy nhiên, cần phải chọn loại đậu hủ mềm, mịn. Bún nên chọn loại bún sợi nhỏ, dẻo và cắt ra cho vừa một gắp. Nếu không có thời gian la cà quán xá, bạn cũng có thể tự mình chế biến món ăn này tại nhà, bởi món bún đậu mắm tôm không đòi hỏi sự cầu kỳ trong chế biến, cũng bởi bún đậu mắm tôm ăn mùa nào cũng hợp, cũng ngon. Chỉ dăm con bún lá xinh xinh, đĩa đậu hủ chiên vàng, kèm theo bát mắm tôm pha chanh, ớt và một rổ rau thơm là đã có một bữa ăn ngon lành.

Mắm cua đồng Nghệ Tĩnh

Khi những đợt nắng nóng mùa hè đã hạ nhiệt bởi những luồng heo may mang theo hơi sương lành lạnh, ấy là lúc những đàn cua đồng theo nhau bò ra khỏi ổ kiếm mồi ăn và sinh sản.

hính cũng trong thời điểm ấy những con vật ký sinh, trốn nóng trong chiếc mai cứng cáp cũng đã lần lượt rời thân cua ra ngoài sinh sống. Chẳng những thế mà khoảng cữ cuối tháng 9 đầu tháng 10 âm lịch là con nào con ấy béo ngậy, vàng hươm màu gạch. Người nông dân lại được đồng quê đãi ngộ cho một mùa thực phẩm mới...

Từ cua đồng, người ta có thể chế biến được rất nhiều món, món nào cũng rất ngon và đậm đà hương đồng ruộng. Cua đồng rang muối, lẩu cua đồng, canh cua nấu với rau khoai lang, rau cải, măng rừng, bún cua… đều đã làm nên những món ăn mang hương vị riêng biệt đầy hấp dẫn trong ẩm thực Việt Nam. Những món ấy hầu như người dân vùng quê nào cũng biết ăn, biết làm. Riêng có một món mà chỉ một số nơi như Hương Sơn, Đức Thọ, Thạch Hà…đã “sáng chế” và duy trì đến tận bây giờ - mắm cua. Nếu như nhiều loại mắm được làm bán rộng rãi thì mắm cua lại chỉ giới hạn trong từng gia đình. Quê tôi, mỗi mùa cua về là hộ nông dân nào cũng tự đi bắt cua và làm một bình mắm cua để dùng dần trong suốt mùa rét.

Mắm cua được làm chủ yếu từ cua đồng và 1 số phụ gia khác như thính ngô, riềng, hạt tiêu, hành tăm, nghệ và đặc biệt là phải có vỏ quả tắt (một loại quýt rừng có mùi rất thơm). Chẳng biết ai đã nghĩ ra cách cho vỏ tắt vào mắm cua nhưng quả là cách phối hợp rất mang lại hiệu quả rất cao. Và cũng thật kỳ lạ là tắt lại chín đúng vào thời điểm mùa cua béo rộ. Quy trình làm mắm cua cũng lắm công phu. Sau khi rửa sạch cua là công đoạn bóc yếm, bóc mai, lấy gạch cua và giã. Cua phải được giã bằng tay rồi lọc lấy nước mới ngon. Sau khi đã lọc xong thì pha chế với muối trắng, thính ngô đã được rang, giã nhỏ và một ít vỏ tắt, riềng, hành tăm giã nhuyễn. Mắm cua được cho vào hũ sành hoặc bình sứ, đậy kín rồi đặt cạnh bếp củi. Sau khoảng 7 ngày là đã dậy lên đầy đủ hương vị của đồng quê với vị ngọt của thịt cua, vị béo của gạch cua và mùi thơm của các loại phụ gia. Mắm cua có thể dùng nguyên như thế hoặc một số người lại chế biến thêm lần nữa bằng cách chưng lên với tỏi, hành phi mỡ. Bằng cách nào thì mắm cua cũng rất thơm ngon và có thể dùng với cơm nóng và rất nhiều loại rau luộc như: ngọn khoai lang, rau cải, rau mùng tơi...Thế nên, những ai đã thưởng thức, đã trót mê hương vị của loại mắm này thì sẽ nhớ đến tận mùa sau.

Từ hồi thôi làm ruộng, năm nào mẹ tôi cũng mua vài yến cua về làm mắm, một phần để ăn và một phần để biếu anh em, bạn bè. Vì thế nên bếp củi vẫn được mẹ giữ lại. Mắm cua do mẹ tôi làm rất ngon, thịt cua không quá nhiều nên không bị chát, thính mẹ rang đều tay, độ cháy vừa phải nên thơm mà không đắng, muối cũng nêm vừa độ giữ cho mắm không bị chua mà lại không quá mặn… Mắm cua thành phẩm vừa thơm vừa có màu nâu đậm, sánh váng gạch cua…Năm nay, những chiếc hũ sành sứ nhà tôi đã được làm nhiệm vụ quen thuộc của mình, chúng nằm yên bên bếp lửa ấm áp mà như đã chạy khắp đồng quê gom về những mùi thơm đặc trưng. Mỗi lần làm mắm cua mẹ lại nhắc nhớ một thời đói khổ, mùa lạnh đi làm đồng về thèm một bữa cơm Chăm chan mắm cua mà không có nổi bát gạo để nấu toàn phải ăn cơm độn sắn. Còn tôi, cứ mỗi mùa cua đến lại chênh chao nhớ những ngày mùa đông theo bạn bè lội bì bõm qua các bờ đồng, bờ thửa, thò tay vào tận hang để bắt đầy những oi cua đồng mang về cho mẹ.

Tôi cũng đã mang mắm cua biếu nhiều người, có những người ăn chỉ để thưởng thức một loại thực phẩm thơm ngon, có người lại dùng để hoài niệm những tháng ngày xưa cũ, để nhớ mẹ, nhớ cha, nhớ anh em, bạn bè, nhớ chính mình của một thời thiếu thốn… Mắm cua vì thế cũng đã vượt lên trên giá trị đơn thuần của một món ăn.

Bùi bùi khoai xéo xứ Nghệ làng tôi!

Về xứ Nghệ bây giờ tìm được món ăn khoai xéo thật là không phải dễ. Hôm về thăm quê hương tại núi Hồng, Hà Tĩnh, tôi hỏi bà nội tôi – Khoai xéo nay không ai ăn nữa hay sao, mà hỏi ai cũng chả có? Nội tôi cười: Thì mi ra ruộng xem có nhiều khoai lang như trước không? Giờ đã còn ít nhà trồng khoai, thì lấy đâu ra khoai cắt khô, mà làm khoai xéo – Bà nội tôi cười, nói nhỏ nhẹ.

Khoai xéo – một đặc trưng món ăn của người

xứ Nghệ

ở cả 2 tỉnh Nghệ An – Hà Tĩnh, như là món ăn mà bất cứ ai dù ở quê hay xa quê, chớ có thể nào quên. Quê tôi ở Hà Tĩnh, những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ, vào buổi chiều tối, máy bay Mỹ cứ oanh tạc thả bom hàng ngày khi các đoàn xe chở bộ đội, hậu cần cho bộ đội vào Nam. Những năm đó, lúa chưa nhiều, nên bao nhiêu khoai lang, khoai sắn (Nam bộ gọi củ mỳ) để chống đói khi hạt lúa còn chia năm sẽ bảy cho chiến trường. Lúc đó tụi tôi mới 9 – 10 tuổi còn cắp sách, đầu đội mũ rơm chống bom bi, mỗi chiều về, là được nội cho một nắm khoái xéo – Chao ôi, vị ngọt bùi nhấm vào mùi vị ai đã nếm thử, ăn khoai xéo của xứ Nghệ thì biết có bao giờ quên.

Mỗi khi mùa khoai vào tháng giêng hai, bao nhiêu món khoai được mẹ, bà nội tôi làm ra để ăn chống đói. Nào là khoai luộc, khoai lát độn cơm, cháo khoai, chè khoai, bánh tu hú, rồi khoai xéo...ai ăn cũng mà mê, khi mùi vị thấm mùi đất, mùi sương đậm đà của vùng đất đã sinh thành ra ta. Tuy thế, không phải mùa khoai nào cũng trúng vụ cả. Có năm gió rét bấc, mùa khoai tháng giêng hai thua mùa, củ nhỏ thì có cắt phơi khô khoai xéo cũng không thể có vị bùi bùi. Bởi thế từng vụ khoai là công sức của cha mẹ tôi, khi hết mùa cày vụ lúa, là bắt tay vào cày đổ ải, lên liếp cao cho khoai chống ngập, và ươm những nhánh khoai giống để sau 3 tháng thì khoai cho cũ.

Tháng năm, tháng sáu về quê tôi xứ Nghệ - Tĩnh, cứ từ 9  -10 giời sáng là trời nắng như lữa chảo rang. Đêm nào ngó thấy trời trong lại có nhiều sao, mẹ và nội tôi gánh khoai đi rửa rồi cho vào nồi luộc, sau cắt lát thật mỏng. Loại đó ở quê Nghệ - Tĩnh thường gọi khoai veo – tức khoai đã luộc chin, cắt mỏng phơi khô. Còn những mảng khoai để phơi khô khi thu hoạch về rữa sạch sẽ, cắt mỏng ra cho ta những nồi khoai xéo thật khó mà chê vào đâu. Năm nào củ khoa khi xới đất lên, thấy to đầy đã, trời có nhiều nắng thì khoai cắt ra thật trong, đưa lát khoai lên nhìn như ta nhìn thấy được cả những giọt mồ hôi tất bật của mẹ ông, bà; cha mình đã thấm vào đó.

Nấu khoai xéo dễ, nhưng không phải ai cũng biết nấu ngon. Thông thường có vị ngọt của khoai, vì bùi mặn của miền đất cát pha, song nhà ai có dừa, cho vào một ít nước dừa, vài trăm gram hạt lạc (Nam bộ gọi đậu phộng), khi ăn nếu có chấm muối vừng (hạt mè) …thì khỏi phải chê.

Những năm đó, dù mùa nắng hay rét, mỗi khi ra đồng về cha tôi hay nói anh em cùng ăn chén khoai xéo với cha trước lúc ăn cơm. Ôi! cái mùi bùi bùi, ngòn ngọt đó, dẫu giờ có xa cách quê hương ba bốn chục năm rồi song biết có ai mà quên đi được. Anh em làng quê tôi đi xa vẫn nhớ “Bùi bùi khoai xéo làng tôi – Công cha, công mẹ phương trời nào quên”./.                             

Đậm đà mắm ruốc xứ Nghệ

Đầu mùa hạ, những cơn mưa rào bất chợt kéo đến khiến thời tiết lành lạnh cũng là khi mắm ruốc biển được người dân xứ Nghệ yêu thích nhất.


 
Không cứ người dân nơi đây, nếu được nếm thử một miếng mắm ruốc, cảm nhận cái ngọt từ thịt ruốc, cái mặn mòi của biển cùng bát cơm trắng nóng trong những ngày mưa dầm, chắc hẳn du khách dù khó tính trong chuyện ăn uống cũng phải tấm tắc khen ngon.

Gọi là ruốc nhưng mắm ruốc xứ Nghệ không được làm từ thịt lợn như người Bắc vẫn biết. Ruốc ở đây là tên một loài tép biển, thân nhỏ hơn tép đồng. Về vùng biển miền Trung du khách dễ dàng cảm nhận thấy mùi vị của ruốc biển ở khắp nơi. Bởi lẽ hầu hết nhà nào cũng có dự trữ thùng mắm to trong nhà làm thức ăn dự trữ ăn cả năm.

Là món ăn dân dã song làm mắm ruốc cũng đòi hỏi sự cầy kỳ và kỹ lướng không thua kém những món ăn phức tạp khác. Phải chọn con ruốc tươi, tuyệt đối không dùng nước lã để rửa vì ruốc sẽ bị thối rữa. Ruốc sau khi rửa phải được xốc đều trên chảo với muối hạt. Mắm ngon không những phải có mùi thơm nhẹ, vị vừa phải, không quá mặn, mà còn phải có màu đỏ au hấp dẫn.

Làm mắm thì phức tạp nhưng thưởng thức thì lại cực kỳ đơn giản. Mắm ruốc được sử dụng như một gia vị không thể thiếu trong bữa ăn của nhiều gia đình Nghệ An, có thể dùng làm nước chấm, ăn kèm với bún hay chế biến nhiều món ăn khác như: nêm canh, cháo ruốc, mắm ruốc rim hay mắm ruốc kho thịt…

Tuy vậy theo những người dân chính tay làm ra loại “đặc sản” này thì mắm ruốc ngon nhất là dùng ăn thô với khế chua và bún, vừa ngon mà lại thấy hết được mùi vị nguyên sơ của mắm. Thêm lát ớt tươi làm món ăn vừa chua vừa cay đem lại cảm giác rất lạ, kích thích mọi giác quan. 

Mùa con ruốc kéo dài từ tháng giêng đến tháng tư âm lịch hàng năm. Vào mùa ruốc ngư dân nhà nào nhà nấy tấp nập bận rộn huy động từ già trẻ, trai gái đi kéo ruốc. Con ruốc mang về nhặt rửa sạch sẽ đem phơi khô làm mắm hoặc bán cho các nhà máy đóng hộp xuất khẩu. Tuy “rất sẵn”, giá lại rẻ xong mắm ruốc lại là món ăn yêu thích của rất nhiều người. Nếu là người lạ lần đầu tiếp xúc với thứ mắm này chắc hẳn sẽ thấy khó chịu như những ai không ăn được mắm tôm mà phải ngửi mùi thì với những người con vùng biển Nghệ An này thứ mùi đó lại gắn bó, rất đỗi thân thương.

Ngon lắm bà con ạ!


Đừng thấy quê mùa, rẻ tiền mà vội khinh khi. Bà con có đến nhà hàng của người Hàn đi chăng nữa, thì ăn suất cơm giá một trăm hai mươi ngàn đồng, cũng chỉ một chén canh suông, vài lá kim chi và dăm con cá cơm khô chiên dòn mà thôi.

Nếu ai chưa tin là ngon, thì cứ thử làm một lần sẽ biết. Nhất là các bà mẹ muốn trổ tài khéo tay, làm thức ăn an toàn đường dài cho con mình, thì đây là món tuyệt vời để mang theo.

Món hến chưng ruốc bể có thể để ở nhiệt độ bình thường dăm ngày không thiu, còn như mà để vào tủ lạnh thì có thể cất dành được cả tháng.

Rẻ mà ngon. Ở thời buổi phát hiện thực phẩm bẩn đầy rẫy, khiến cho nhân dân lo sợ, thì con hến dưới sông vẫn là loài thức ăn an toàn cho con người. Làm một hũ hến chưng ruốc bể cho sẵn sàng, rồi tiết trời se se lạnh, mà sáng dậy nấu nồi cơm nếp, hay cơm gạo gié hương để ăn cùng với món này thì đúng là “niêu hai đánh tràn” không biết no.

Nhưng mà không làm thì thôi, còn đã làm là bà con nhớ phải theo cho đúng bài bản, gia vị thứ tự trước sau như Phlanhoa hướng dẫn dưới đây, nỏ rồi hư mất mẻ hến lại đổ thừa Phlanhoa nói không rõ ràng.

Tỉ như ai mà muốn xong chuyện cho tất cả gia vị vào cùng một lúc; hay chưng hến chưa vàng mà đã cho mật mía vào đều bị mất ngon….

Ăn Tết Với Mắm Chua Xứ Nghệ

Bữa ăn ngày tết của người Việt không thể thiếu những món ăn truyền thống như bánh chưng, bánh tét, thịt mỡ, dưa hành… Có một món ăn truyền thống tuy chỉ là nước chấm nhưng không kém phần hấp dẫn, làm tăng thêm hương vị bữa ăn, lại rất hợp với những thức ăn nhiều đạm nhiều mỡ, đó là mắm chua.

Từ rất xa xưa, trong nghệ thuật ẩm thực ông cha ta đã khéo kết hợp thịt mỡ với dưa hành, đúc kết thành câu đối mô tả cái tết truyền thống của người Việt: “Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ /Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh". Dưa, hành muối tuy không giàu dinh dưỡng nhưng đã được muối chua (lên men) nên giúp dễ tiêu hoá hơn các thức ăn nhiều đạm và mỡ

Mắm chua (ở xứ Nghệ gọi là ruốc chua) là một loại thực phẩm vừa giàu đạm nhưng lại dễ tiêu hoá. Là một loại nước chấm đã chế biến dùng trong các bữa ăn hàng ngày cũng như trong những ngày tết, mắm chua kích thích tiêu hoá, làm tăng hương vị đậm đà thơm ngon cho những món luộc hay rán.

Chỉ vài lạng thịt lợn ba chỉ luộc, dăm bìa đậu phụ rán cộng thêm ít rau mùi, rau quế, tỏi lá và một chén mắm chua là đã có được một bữa ăn tươm tất, giàu dinh dưỡng, thanh đạm và thật sự an toàn

Đặc biệt là bún ăn với mắm chua. Một tô bún, ít thịt ba chỉ luộc thái mỏng, vài miếng đậu phụ rán, một nhúm giá, rau sống, rau thơm và chén mắm chua đã thành bữa tiệc rồi. Nếu thay thịt ba chỉ bằng cá thu nướng thì càng đậm đà hương vị ẩm thực Nghệ. Ăn bún khô kiểu này phải dùng tay, nhón một lát ba chỉ (hoặc đậu phụ rán) kẹp ít giá sống và rau thơm, dùng xà lách gói gọn lại chấm vào mắm chua rồi đưa vào miệng, nhón tiếp một ít bún nữa thì… khỏi chê. Tô này lại muốn tô nữa !

Một kiểu ăn khác đơn giản hơn và cũng rất rẻ: chục miếng bánh đúc chấm mắm chua là bữa sáng hả hê rồi… Dưa muối, hành muối, dưa chuột chấm mắm chua ăn cũng rất ngon, lại còn dã rượu nữa! 

Ở chợ Quán Bàu (TP.Vinh), cả người đi chợ và người bán trong chợ đều ưa thích “mắm chua bà Điểm” và “mắm chua bà Sinh”. Sản phẩm của hai “thương hiệu” này tuy có khác nhau về hương vị nhưng đều là đặc sản của những thực khách thích ăn dân dã và truyền thống.

Người Nghệ thích thơm và đậm thì dùng hàng bà Điểm, người Bắc thích thơm nhưng thanh thì dùng hàng bà Sinh. Con cháu trong Nghệ khi mua làm quà đưa ra Bắc sẽ tuỳ đối tượng để biếu là người Nghệ hay người xứ Bắc mà chọn cho phù hợp. 

Bà Nguyễn Thị Điểm kể: Vốn quê xã Đức Hồng, huyện Đức Thọ (nay là phường Trung Lương, TX.Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh) bà được các cụ truyền cho nghề làm mắm cáy, mắm rươi, khi theo con cháu ra sống ở Vinh (nhà 230, đường Hà Huy Tập) do không có nguồn cáy - rươi nữa bà chuyển sang làm mắm tép (ruốc tép) và mắm chua (ruốc chua).

Tép biển tươi (con ruốc, có nơi goị là con khuyết) bà đặt mua của ngư dân Nghi Thuỷ, Nghi Hải (TX Cửa Lò) được thu từ trên lưới và làm sạch bằng nước biển ngay trên thuyền, khi mua về cho vào vại muối, tuyệt đối không rửa lại bằng nước ngọt. 

Bà dùng các loại gia vị như củ riềng tươi, cơm khô rang làm thính, ớt tươi luộc, tất cả phải làm thật sạch bằng nước sôi để nguội rồi cho vào máy xay nhỏ, lọc bã, trộn đều vào tép, bịt chặt miệng vại bằng vải màn sạch.

Ngày đem phơi nắng, tối đậy kín, nếu để nước mưa vào là hỏng ngay. Khoảng một tháng là ruốc chín. Mùa lạnh thì lâu hơn. Tuỳ khẩu vị của khách mà có thể thêm đường kính trắng hoặc dấm thanh, mà phải là dấm bà tự nuôi, không dùng dấm trên siêu thị.

Khi ruốc đã chín bà chuyển đóng vào những can nhựa 20 lít để lấy vại làm mẻ khác. Từ can bà đóng vào các chai nhựa nhỏ, loại từ 200ml – 250ml cho tiện khách đóng gói mang đi xa. 

Hàng ngày bà vẫn đem ra chợ bán, nhưng là để chào hàng với khách mới, còn khách quen thì điện thoại đặt hàng hay đến nhà lấy. Khách quen mua dùng ở nhà và để làm quà đưa ra Hà Nội và các tỉnh trong Nam ngoài Bắc.

Một số người nhập mắm của bà đưa lên bán ở các huyện miền trên như Nghĩa Đàn, Đô Lương, Thanh Chương. “Mắm bà Điểm” còn theo chân con cháu Nghệ làm quà sang cả Đức, Nga, Úc,…

Khi tôi hỏi về mức thu nhập, bà cười: Làm để giữ nghề thôi, đủ để tự nuôi mình, con cháu lớp trẻ ngày nay không tỷ mẩn, chịu khó như mình nên không thích làm, không biết tui còn giữ nghề được bao lâu nữa. 

Cũng như bà Điểm, bà Nguyễn Thị Sinh ở xóm 17, xã Nghi Phú, TP. Vinh cũng làm mắm chua. Gia vị có khác mắm bà Điểm ở chỗ có thêm củ sả và cơm nếp, cả hai cũng được xay nhỏ, lọc và trộn vào mắm. Bởi vậy, vị mắm bà Sinh ngọt thanh (nghiêng về vị chua), hợp với khẩu vị người Bắc, còn mắm bà Điểm ngọt đậm hợp với người Nghệ. 

Cả hai cơ sở đều làm tại gia đình, mô hình nhỏ, đều làm thủ công, tuân thủ quy trình  và kinh nghiệm của người xưa truyền lại, chắc chắn là một món ăn sạch, an toàn vì không sử dụng chất bảo quản hay bất kỳ một loại hoá chất nào. Sản phẩm của hai cơ sở cũng đều không có dán nhãn hiệu, nhưng thương hiệu “mắm bà Điểm”, “mắm bà Sinh” lại được lưu truyền trong người tiêu dùng.

 Trong mâm cỗ ngày Tết, sự góp mặt của mắm chua sẽ làm cho bữa ăn thêm hương vị đặc trưng của ẩm thực Xứ Nghệ.

Cùng về Yên Thành Nghệ An để thưởng thức món thịt chuột có một không hai

 Đi dọc theo những con đường làng của 1 vùng quê được xem là vựa lúa của tỉnh Nghệ An_huyện Yên Thành, thỉnh thoảng người  ta sẽ thấy một số nhóm bọn trẻ con đang hì hục đào xới trên những bờ ruộng xanh mơn mởn.Quả thật vị khách nào mới ghé thăm vùng quê này lần đầu thì chắc phải tò mò lắm nhỉ, nhưng với người dân nơi đây thì không còn lạ lẫm gì nữa. Bọn trẻ đang đào tìm chuột đồng đấy. Vâng, món thịt chuột được xem là đặc sản của quê lúa Yên Thành chúng tôi mà.

Các bạn ạ, thịt chuột được xem là món ăn dân giã, đầy hấp dẫn, được xếp vào đặc sản thịt miệt đồng. Hằng năm, từ tháng 10 đến lúc tháng 3 âm lịch sang năm là mùa chuột đồng kiếm ăn nên con nào cũng múp míp, tròn trĩnh. Đây chính là lúc người dân cùng nhau đi săn chuôt đồng đấy.Chạng vạng tối cũng là thời điểm mọi người chuẩn bị đi “săn”. Thường thì họ dắt theo một con chó to cùng cơ man nào là: cuốc, xẻng,gậy,..  “Đi săn chuột là phải đi chân đất. Cái giống chuột này nó tinh lắm. Tiếng dép loẹt quẹt là nó chạy ngay”.Câu nói đó là kinh nghiệm của một trong những chuyên gia đi “săn” chuột làng tôi đó.

Người ta bảo có 36 món thịt chuột hấp dẫ cơ, nhưng với vùng quê Yên Thành chúng tôi thì món chuột nướng là phổ biến và thơm ngon nhất.Sau khi làm sạch chuột, người ta phủ rơm lên, cời than và cắt đầu, lột da, bóc bỏ bộ lòng (chỉ chừa gan). Móc bỏ bộ phận bài tiết và hạch ở bẹn của hai đùi sau và rửa sạch (phải làm thật kỹ, nếu không thịt sẽ khai và hôi mùi chuột). Dùng tre hoặc trúc chẻ thành que làm gắp nướng. Dưới sức nóng của than củi, thớ thịt chuột sẽ tươm mỡ, cháy xèo xèo. Tiếp đó mang băm nhuyễn xoài xanh trộn với nước mắm nhĩ loại ngon, thêm một chút ớt đỏ thật cay để làm nước chấm.

Nhớ con cá đối

Thứ Năm, 04/10/2012 21:27

Không “nhớ” sao được khi con cá đối đã trở thành món ăn, lại là món ăn ngon.

Xưa kia, quê tôi nằm sâu trong đất liền, lại là một vùng đất nghèo nàn, đường sá đi lại rất khó khăn. Nơi này muốn có con cá đồng đã khó, huống gì có được con cá biển của một vùng “khơi xa”. Cho nên, khi có dịp “tiếp cận” với con cá đối lần đầu tiên trong đời, tôi đã “bàng hoàng” bụng dạ.

Lần đó, tôi đến nhà người bạn ở một miền duyên hải Trà Vinh và được chị ấy đãi một món ngon nhớ đời từ con cá đối. Tôi đến thăm chị bất ngờ, lại nhằm lúc gia đình chị sắp dùng bữa. Gia đình chị mời ăn, là người Nam bộ, tôi không chối từ một cách khách sáo. Là bữa cơm gia đình nên chỉ có vài món thông thường, nhưng tôi đặc biệt chú ý đến một tô cá ở một góc bàn, lúc nào cũng tỏa một mùi vị là lạ.

Gắp một đũa, cho vào miệng, chưa kịp nhai, tôi đã “nghe” món ăn hình như chạy tuột xuống tận dạ dày với mùi thơm, vị cay, vị mặn của tiêu hành tỏi ớt, đặc biệt là vị ngọt của thịt cá. Thịt cá bở mà không mềm, mềm mà không nát, cứ như miếng thịt cá mòi “tan rã” trên đầu lưỡi tôi. “Lợi dụng” là chỗ hết sức quen thân, nên tôi không cần giữ gìn ý tứ gì cả, cứ việc gắp món ngon.

Khi đã thỏa mãn cái dạ dày rồi tôi mới hỏi chị bạn đó là món chi. Chị ấy thản nhiên cho biết đó là món cá đối hấp. Theo chỉ dẫn của chị, để có món cá đối hấp, cần có những con cá thật tươi. Cá làm sạch, cho vào tô, ướp tiêu, tỏi, hành tím bằm, đường, nước mắm, bột ngọt… rồi cho vào nồi. Hấp cách thủy trên ngọn lửa riu riu chừng vài tiếng đồng hồ là đã có món ăn.


Lần thứ nhì, vào dịp cận Tết Nguyên đán, tôi đi Gành Hào (Bạc Liêu) thăm người bà con. Trong bữa cơm bình thường của gia đình chị, tôi chú ý nhất đến tô canh cá đối hầm dưa cải. Dưa cải ở đây được muối tại nhà nên có vị chua và giòn mà dưa cải ngoài chợ không thể sánh bằng. Vị chua của dưa cải hòa cùng vị ngọt của những con cá đối bự cỡ cườm tay vừa mới bắt lên từ biển sao mà ngon ngọt quá chừng.

Thịt cá nhừ mà không nát. Dưa cải mềm mà không nhũn. Lại còn cái mùi hành lá thoang thoảng thơm nữa chớ. Húp một muỗng canh khoái bao nhiêu thì chan nước canh vào cơm, lùa miếng nào nuốt gọn miếng nấy mới đã đời!

Lần thứ ba là lần ra miền biển trong khá nhiều lần trong đời của tôi. Đó là chuyến đi thăm Mũi Cà Mau - một mũi đất thiêng liêng rất nổi tiếng của nước ta. Đến Cà Mau nhiều lần, được thưởng thức không ít những hàu, vọp, cá chốt, cá nâu, cá khoai, cá dứa… chế biến thành nhiều món, món nào cũng để lại dư vị hoài cảm trong tôi. Lần này, vào buổi trưa, lại nhằm lúc nhà hàng thủy tạ nơi Mũi Cà Mau quá đông khách, kêu món đặc sản nào cũng được trả lời gọn lỏn: “Thưa, hết”. Hỏi gằn thì còn mấy con ghẹ đỏ và khoảng chục con cá đối để chiên xù.

Ờ, thì ghẹ luộc và cá đối chiên xù vậy. Dĩa ghẹ đỏ luộc dọn ra. Ghẹ đỏ tuy không ngon bằng ghẹ xanh, nhưng vì đói bụng nên cũng ngon. Nhưng ngon quá xá lại là món cá đối chiên xù. Món này làm dễ. Mấy con cá đối làm sạch ruột, rửa sạch, để ráo rồi thả vô chảo dầu đầy. Trong chốc lát thân cá trở màu vàng với những chiếc vẩy cá “xù” lên. Chỉ có vậy mà khi dẽ thịt cá chấm nước mắm nhĩ giằm trái ớt hiểm cho vô miệng, nhai, ngon ơi là ngon. Thịt cá ngọt lừ, còn xương và vẩy cá thì giòn tanh tách như nhảy múa trong răng. Càng ngon hơn khi ăn với cơm nóng còn tỏa hơi nghi ngút.

Chỉ với ba món thôi, cá đối đã nằm sâu trong ký ức ẩm thực của tôi, không thể phai mờ. Những buổi chiều mưa lất phất, trời đất lành lạnh, là lúc tôi nhớ tới những con cá đối. Trời đất như vầy, nếu được ăn cơm với một trong ba món vừa kể, có thể nói không hạnh phúc nào sánh bằng.


Bài, ảnh: 

Quê chồng

Tôi không bao giờ quên dáng mẹ chồng gầy guộc, đứng đón vợ chồng tôi cùng các cháu từ ngoài ngõ.

Tôi, con gái thành phố, từ nhỏ đến lớn ra vô trong một ngôi nhà, trước đụng đường phố, sau đụng tường, nên lần đầu tiên tôi về thăm quê chồng thấy cái gì cũng lạ, cũng hay!

Quê chồng tôi là một làng nhỏ thuộc một tỉnh ven biển miền Trung đầy gió Lào và nắng. Thức ăn quanh năm chỉ có cá và mắm (tự muối). Ở vùng đất chỉ toàn cát và cát này, đặc biệt chỉ có khoai mì là được trồng nhiều và phát triển tốt. Khoai mì quê chồng tôi củ nào củ nấy to và rất ngon. Quê nghèo, nhà cũng không khá giả, mẹ chồng tôi tận dụng, canh tác trồng đủ thứ rau trong vườn để giảm thiểu số tiền phải đi chợ hàng ngày.

Hôm đó chúng tôi về muộn, nhà không có thức ăn gì. Để nấu một nồi canh, mẹ chồng tôi ra vườn quơ một nhoáng đủ thứ loại rau canh, tôi thấy bà múc một muổng mắm cái (mắm nêm) bỏ vào nồi và nấu với rau. Hồi đó, tôi không ăn được món canh này, nhưng cả gia đình chồng ai nấy đều khen ngon, nhất là chồng tôi, anh luôn miệng kêu: “Đã thèm quá!”. Sau này, đi nhiều nơi, tôi thấy món lẩu mắm ở trong các nhà hàng bây giờ dường như là “khúc biến tướng” của món canh rau với mắm cái của mẹ chồng tôi. Khi được bày biện trên bàn, với các thứ thịt, cá và những dĩa rau mùng tơi, rau cải ngộn lên, món lẩu mắm trông nó sang hơn món ăn quê mùa mà thôi!

Buổi chiều ở quê chồng tôi người ta thường ra ngồi trước nhà hóng mát, chuyện trò với nhau. Tôi nhớ cũng lần đầu tiên ấy, có một gánh hàng rong đi qua và và dừng lại trước ngõ. Có mấy cô gái xúm đến, chuyện trò rôm rả, ăn quà. Tò mò tôi hỏi cô em chồng người ta bán món gì? Cô em chồng kéo tôi ra, giới thiệu món “đặc sản” chỉ có ở đây mới có: bột lọc. Mà đúng là đặc sản thật, lần đầu tiên tôi thấy một món bột lọc độc đáo như vậy. Bột mì tinh được làm từ khoai mì “đặc sản”, khuấy lên, trắng trong, múc ra thành từng chén bằng cỡ chén cơm được sắp sẵn trên sàng. Chị bán hàng lấy từng chén, chan mắm nêm vào rồi đưa cho khách. Thú thật hồi ấy, tôi không tài nào ăn được, nhưng nhìn quanh thấy ai cũng xắn từng miếng ăn ngon lành.

Sau này quen dần, tôi đi đi, về về thăm quê chồng mỗi năm vào dịp tết hay hè. Gần hai mươi năm là con dâu quê nghèo miền Trung nắng gió, mỗi lần về, tôi lại thèm ăn món bột lọc chan mắm nêm đặc sản, hay món canh rau nấu với mắm cái của mẹ chồng tôi. Mắm nêm bà tự tay muối, con nào con nấy chín đỏ au mà không hề bỏ chút màu nào, mắm còn nguyên con cá làm cho nồi canh rất ngọt nước. Mắm nêm ăn với bột lọc thì pha chế công phu lắm, tỏi, ớt giã nhuyễn, đường, chanh pha vào nước mắm nêm nguyên chất, chắt lấy từ trong vại sành rất sạch sẽ, không sợ đau bụng.

Cha mẹ chồng tôi giờ đã khuất núi, các em chồng tôi lần lượt bỏ quê về phố, ngôi nhà nhỏ ngày ấy đã sang tay người chủ khác, tôi chẳng còn nơi để về mỗi dịp tết hay hè nữa. Và tôi cũng chẳng tài nào có thể tự tay mình muối được một hủ mắm nêm như mẹ chồng tôi ngày xưa. Mỗi lần nhớ đến mẹ, chồng tôi lại thèm món ăn nhà nghèo hồi đó: canh rau nấu với mắm cái.

Đối với riêng tôi, trong ký ức không bao giờ quên dáng mẹ chồng gầy guộc, đứng đón vợ chồng tôi cùng các cháu từ ngoài ngõ, rồi thoắt cái thấy bà trên nhà, liền đó thấy bà xuống bếp, bước nhanh ra vườn, tay quơ vội một rổ rau canh, lúi húi trong gian bếp nhỏ múc một thìa mắm cái bỏ vào nồi canh. Khói bếp buổi chiều bay lên quyện trong gió phảng phất một mùi nồng nồng, cay cay!

Bữa cơm đầu năm mới

Hồi còn bé, mỗi lần Tết đến, mẹ tôi lại bảo: “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”. Những năm nửa thế kỷ trước, nước ta còn rất nghèo, dân ta còn rất khổ. Cơm không đủ ăn, ngày thường chẳng bao giờ được no. Những ngày giỗ chạp, trong đó có ngày giỗ cha cũng chỉ kiếm được bát cơm quả trứng cúng. Rồi mỗi người trong nhà nhường nhịn nhau, ai cũng bảo no mà bụng thực còn ngót. Vậy mà cứ đến Tết, dù nghèo khó phải đi vay chỗ này, mượn nhà kia, vẫn cố có đủ gạo nấu để mọi người được bữa no, ít nhất thì cũng từ bữa cơm chiều ba mươi đến sáng mồng một. Nồi cơm nấu đầy hơn để dư sang sáng mồng một, kẻo bị “dông” và cũng là mong ước năm mới được no đủ hơn…


Cứ vậy, qua nhiều Tết, anh chị em tôi khôn lớn, còn mẹ tôi thì mỗi năm một già, lưng còng hơn. Và sau mỗi Tết, như những con chim đủ lông đủ cánh, con cháu mẹ lại bay đi nhiều nẻo đường đất nước. Nhưng dù chúng tôi có làm ăn ở đâu, kẻ ở Sông Đà, người tận Đồng Nai, đều mong có ngày đoàn tụ với mẹ. Ngày đó chỉ có thể là dịp Tết. Sau những ngày bận tíu tít cuối năm là đến mồng ba mồng bốn Tết, thư thả hóa vàng. Dù còn vướng bận gì thì chúng tôi cũng phải về ăn cơm với mẹ trước lúc đi xa. Gần đến ngày ấy, mẹ ra ngóng vào đợi. Mẹ tự làm những món ăn mà chúng tôi thích, vì từ thời còn trẻ, mẹ đã được làng xóm khen về tài nấu ăn. Ai đã từng một lần ăn cỗ ở nhà tôi, đều nhớ mãi bát canh miến mẹ nấu vừa giòn, vừa ngọt, miếng thịt mẹ quay vừa vàng, vừa thơm…


Chiều mồng ba Tết. Kẻ trước người sau, con cháu tụ tập về nhà mẹ. Dù bận, mẹ vẫn không quên hỏi han từng đứa một. bao giờ đi, đi bằng gì, ngày nào lại đi làm… Mẹ vui, nhìn như trẻ ra so với những ngày thường. Sau khi sắp mâm cỗ cúng vái tổ tiên, hoá vàng, mẹ cho phép chúng tôi ngồi vào chiếu ăn. Cứ hai ba bố mẹ lại kèm bốn, năm đứa trẻ con. Mẹ tôi đứng lên ngồi xuống, nhìn xem con cháu đã đủ chưa, cỗ còn thiếu món gì, bát đũa, muôi, thìa chưa đủ thì sắp thêm…Mẹ nhìn con cháu ăn rào rào như tằm ăn rỗi mà trên khuôn mặt nhăn nheo nở nụ cười mãn nguyện…


Ngày nay, trước biến động của nền kinh tế - xã hội, truyền thống ăn chung cả nhà ở một số thành phần, tầng lớp đã mai một đi. Ở nông thôn, cảnh về già, ông một xoong, bà một bếp không hiếm. Còn ở đô thị, nhiều nhà đã tắt bếp cả ngày hoặc một bữa trưa. Nhịp sống công nghiệp, làm ăn mưu sinh cuốn hút phần lớn thời gian của người ta ở ngoài ngôi nhà của mình, trong khi các dịch vụ, nhà hàng ăn uống, cơm hộp… mở ra khắp nơi. Cả đến bữa tối kết thúc một ngày làm việc, mâm cơm vẫn còn vắng mặt người trong nhà.


Nhưng thật là thiêng liêng, chỉ có ngày Tết, thì dù đi đâu, ở đâu, ai cũng mong được về sum họp với gia đình ăn Tết. Và bữa cơm vào dịp đầu năm mới như mẹ tôi vẫn nấu,

háng giêng đi hái lộc rừng

Sau Tết Nguyên đán, sau những ngày hòa điệu tâm hồn vào những lễ hội truyền thống, tiết trời ấm áp hơn, mưa xuân lất phất khiến cho người ta nghĩ đến thú đi hái lộc rừng. Lộc non, lộc biếc đầu xuân mang đến cho tâm hồn mỗi người sự thảnh thơi và êm dịu…


Khi cánh én đi trú đông về chao lượn trên bầu trời là mùa xuân đã về, tiết trời ấm áp, từng làn mưa xuân lất phất tưới vào những thân cành khẳng khiu làm cho chúng choàng tỉnh để đón xuân. Từ đầu các thân cành, lộc biếc bắt đầu nhu nhú cựa mình nảy mầm. Khắp núi rừng ca vang bài ca sinh tồn của giống loài cỏ cây. 


Tháng giêng về, có người thích lên núi hái lộc, mầm lộc của đầu năm, của núi rừng ban tặng. Không mang giá trị vật chất, lên rừng hái lộc là một cái thú để làm cho tâm thế con người thêm khỏe khoắn và được thả hồn mình với núi rừng. Sau Tết Nguyên đán với bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành và những đồ ăn giàu chất đạm, người ta muốn lên núi kiếm chút dư vị của rừng để lấy lại vị giác.


Mùa này, người ta hay đi hái rau đắng cải, một loại rau dại hay mọc ven rừng, ven suối và cả trên núi cao. Gọi là đắng cải vì loại rau này có vị đắng ngắt, khi tiết trời có sấm nó lại càng đắng hơn. Nhưng sau Tết vài ngày, đắng cải mới nhu nhú lộc chi chít thân cành với đôi ba lá non mấn nên vị của nó chưa đắng lắm mà chỉ bùi bùi ngăm ngăm. Đắng cải sau Tết vừa non vừa mềm nên khi hái lộc, phải nhẹ tay tách mầm lá, không để cho cành gẫy. Hái được hai ba nắm chặt tay đắng cải, cho vào túi mang xuống núi để thưởng thức. Đắng cải chao qua chảo mỡ nóng đôi ba phút tái đi là dùng được.

Có lẽ cả năm, người ta mới được thưởng thức một lần vị ngon của đắng cải. Lá rau lộc non xanh ngắt, mỡ lợn bóng loáng chao lên lá rau làm tăng thêm độ hấp dẫn của lộc rừng. Chỉ cần ăn miếng đầu tiên, người ta như lùa cả tinh túy của núi rừng vào hồn mình. Vị đắng nơi đầu lưỡi như xua tan đi mệt nhọc và lấy lại chút dư vị của rừng. Đắng cải vừa là rau rừng, vừa là một vị thuốc nam rất bổ dưỡng cho máu và xương. Do vậy, từ lâu lắm rồi, người ta vẫn không quên hái vị đắng ngon này vào độ tháng giêng.


Tháng giêng về, trên những nương đốt của người dân chuẩn bị trồng cây, từ đất pha tro gặp làn mưa xuân, nhú lên muôn cây cỏ. Dưới sát đất, rau má, cứ thế mà mâm mấm mọc lên. Rau má là thuốc quý và là món rau ngon sạch của rừng. Rau má mọc sát đất, mọc thành từng cụm nhỏ nên phải dùng dao nhỏ để xén cả rễ. Lá rau non mướt, cọng trắng ngần, mọng nước. Đấy là lúc rau ngọt và mềm nhất. Rau má phải đào cả rễ, ăn cả rễ mới bổ, mới ngọt. Nhổ được lộc rau má rồi, xuống núi, người ta không quên bắt vài con cá suối đuôi hồng nhỏ để làm món chấm rau. Vị ngon ngọt, ngăm đắng và thơm của rau má có lẽ phù hợp nhất với món mẻ chưng cá suối đuôi hồng. Mâm cơm tháng giêng vì thế có thêm vị ngon giòn của rừng. Rau má non ăn sống vừa giòn vừa mát, cái vị mát thanh làm thấu đến tận tâm hồn người thưởng thức.


Thú nhất trong tháng giêng vẫn là thú rủ nhau đi đào măng rừng. Trong Tết mưa nhiều, đất núi mềm và ẩm nên cây vầu cựa mình mọc măng non. Từ trong lòng đất sâu, măng uống ngụm mưa xuân đội đất mà lên. Sau Tết, những chú măng non nhu nhú dưới mặt đất. Người ta cầm thuổng nhỏ đi tìm chỗ đất nứt để đào măng. Phải là măng đào từ khi còn dưới đất mới ngọt, mới mềm chứ nếu để măng mọc trồi lên khỏi mặt đất, gặp sấm là đắng ngắt. Những ngọn măng mình vàng đất, nhỏ hơn cổ tay một chút, lõi trắng ngần. Người ta bóc lộc măng rừng bỏ vào nồi luộc rồi chấm với mẻ chưng hay muối giềng, lộc măng nướng trên bếp than hồng cũng khá cầu kỳ và thơm ngon.


Trên núi cao, người dân sau tháng giêng thường đi hái chít. Mùa này, chít mọc tua tủa nơi ven rừng, cả ven đường đi. Trước Tết, chít trổ bông mới nhu nhú, qua Tết, gặp mưa xuân, chít trổ bông hết mình. Từng sợi chít lấn phấn xanh ngắt cong vút bên vệ rừng. Người vùng cao dùng móc dài ngoắc lấy từng bông chít đang độ bánh tẻ. Người ta chỉ lấy chít trong tháng giêng vì nếu để quá chít sẽ bị già, khi khô sẽ giòn và dễ gãy. Chít tháng giêng vừa mềm, vừa dai và bền nên lộc chít dùng để bện chổi dùng cho cả năm. Chiều tháng giêng, trong làn mưa xuân còn đọng trên cành lá, những cô sơn nữ Tày, Mông gùi trên lưng những bó chít còn tươi nguyên như gùi lộc rừng về bản.


Tháng giêng, tháng đầu tiên của năm mới, mùa cây lá và vạn vật sinh sôi nảy nở, người ta như muốn mang chút sắc tươi non của rừng của núi về nhà. Mùa này, trong những món ẩm thực quen thuộc lại có thêm chút dư vị của lộc rừng mà người ta lặn lội lên núi hái về. Hái lộc rừng tháng giêng mong được hòa mình cùng thiên nhiên đất trời để lắng nghe vạn vật đang cựa mình trỗi dậy cùng mùa xuân!

Mùa đông và nỗi nhớ ngoại

Cứ mỗi lần trời bắt đầu se lạnh, báo hiệu mùa đông về, tôi lại nhớ ngoại. Nhớ nhất những lúc đi học gặp mưa dông, mải chơi cùng bạn trong cơn mưa, về nhà cả người mệt ê ẩm, thế nào ngoại cũng nấu món canh lá lốt để giải cảm. Chỉ cần vài con tôm bắt được ngoài đồng, ngoại bước vội ra vườn hái nhúm lá lốt là đã có bát canh cho cả nhà.


Bà thường chọn những con tôm còn sống, làm sạch vỏ, giã nhỏ ướp gia vị. Lá lốt sau khi rửa sạch, để ráo, cắt nhỏ. Đặt nồi lên bếp, phi thơm tỏi với dầu ăn, cho tôm vào xào chín, đổ nước chờ sôi rồi cho lá lốt vào. Ngoại không quên cho thêm ít gừng tươi giã dập, ít lá rau quế hoặc lá ngải cứu xắt nhỏ để tạo mùi thơm.

Như phép diệu màu, mỗi khi tôi bị cảm hàn chỉ cần ăn chén cơm với tô canh lá lốt nóng hổi ngoại nấu thì dường như cái cảm giác nặng nề, mệt mỏi trong cơ thể chợt tan biến đi.

Nhìn tôi hì hà, hì hụp húp, bà tôi giảng giải: "Thứ cây lá lốt này dễ sống, mọc tự nhiên, không cần sự chăm tỉa nhiều của con người ấy vậy mà cả rễ, thân, lá... đều là vị thuốc quý của người dân quê, dùng nấu lấy nước uống chữa đau xương, thấp khớp, đổ mồ hôi tay, chân, chữa cảm hàn... lại còn có thể chế biến được nhiều món ăn ngon".


Mà cũng thật lạ, món canh ngoại nấu mới thưởng thức lần đầu thấy hơi đăng đắng, quen rồi dăm ba bữa không ăn lại thấy thèm cái hương vị đặc biệt ấy. Vì tôi thích món canh lá lốt, nên ngoại luôn chừa một góc vườn nhỏ để trồng. Mỗi lần nhìn dáng ngoại hối hả ra góc vườn hái lá lốt là thêm một lần tôi thương ngoại vô cùng. Cả cuộc đời ngoại hy sinh vì chồng con.

Ông tôi ra đi khi ngoại 36 tuổi để lại bà một mình chèo chống nuôi bốn người con trưởng thành, dựng vợ gả chồng, khi dì út tôi lập gia đình thì chỉ còn lại một mình bà trong căn nhà đầy hiu quạnh. Năm tôi mười tuổi, sau một lần làm ăn thất bại, gia đình tôi gặp nhiều khó khăn, cả nhà phải dắt díu về sống cùng ngoại. Tuổi thơ tôi sống trong sự chỉ bảo dịu dàng mà nghiêm khắc của ngoại. Mùa hè nắng ấm qua đi, rồi cũng đến lúc trời lập đông.

Nhà nghèo không đủ áo ấm, những đêm đông lạnh, ba mẹ đi làm nơi xa, chỉ có mấy bà cháu. Ngoại lom khom đi lấy củi nhóm bếp - những cành củi ngoại tranh thủ lượm lặt lúc rảnh rỗi. Bên bếp lửa đỏ hồng, ngoại bắt mấy chị em tôi ngồi quanh. Ngoại hơ tay, hơ ngực và cả đầu cho từng đứa, vậy mà cũng thật ấm áp qua hết mùa đông.


Thấm thoát mà đã mấy năm kể từ ngày ngoại mất. Dẫu biết rằng tôi đã xa ngoại mãi mãi, nhưng thời gian và khoảng cách vẫn không xóa nhòa được những kỷ niệm ngọt ngào. Chiều nay trong cái lạnh tê tái của gió mùa đông bắc, ước gì lại được nhìn thấy bóng ngoại lụi cụi ngồi lặt từng chiếc lá lốt, ước gì lại được thưởng thức món canh ấm lòng được chế biến từ bàn tay ngoại.

Mùa cá đồng

·

        

Ngõ thu quê

·

        

Mùa cốm

·

        

Mùa sim

Những đợt mưa rào trở về sau mùa thu trôi nhanh, trời đã kéo mây từng cụm khi tối khi sáng bởi nắng mặt trời lấp ló chuẩn bị vào mùa mưa. Mưa đầu mùa thường đồng nghĩa với mùa cá đồng. Cá trốn hạn nằm sâu trong các hang hốc, trong các lạch cạn um tùm cỏ dại, trong rãnh khô của ruộng lúa để khi mưa về sẽ ngoi lên với nước đang dần ngập. Mùa cá đồng cũng theo cùng mùa lũ với nước sông tràn vào ruộng lúa, mương ao, ngòi lạch mà tung tăng thỏa thích vui đùa. Lúc này người dân chuẩn bị vào một vụ cá đồng.


Người ta dùng nhiều loại ngư cụ để bắt cá, nước tràn về nhiều sẽ dùng nhá, nước rọc dùng nơm, câu thả, câu cắm, đặt đó, đặt lờ… Mùa này, trên các quãng đồng, dọc mương, triền sông, bờ ao sẽ có rất nhiều người tìm cá đồng. Ở chợ, không phải như cá biển, phải đợi đến gần trưa, mới có cá vào. Còn cá đồng, vào chợ sớm đã thấy (không phải cá nuôi) mà cá thu được từ những ngư cụ giản đơn dọc theo bờ bãi ao hồ đem đến. Đủ loại cá từ cá lóc, cá rô, cá trê,cá diếc đến sóc lác, nhét, lươn… đựng trong thau, chậu còn tươi nguyên quẫy cựa. Mùa cá đồng, nguyên liệu nấu cá đồng cũng phong phú không kém; các loại rau tươi mởn, chuối xanh, bông giề, đọt măng, khoai, sắn nước, tha hồ chọn lựa và phù hợp kiểu nấu cá đồng.


Nhà tôi khi ở quê, mỗi đận vào mùa cá đồng, quả là đáng nhớ. Khi chiều sương phủ, cha sang đồng xa, tay cầm bó cần câu, vai mang ống trúm. Mờ sáng tinh sương, lại quảy quả sang đó mang về đủ loại cá đồng tươi rói. Má thả cá vào lu, thạp để ăn dần. Còn cha đi nhá lúc chen trưa theo con nước xuống, thì nhiều cá phải đựng trong thùng, má tong tả quang gánh sang chợ. Ấn tượng tuổi thơ trong tôi mỗi mùa cá đồng là, theo bạn đi câu bên đầm súng. Một lon trùn pha cám rang, cần câu trúc dẻo căng, chiếc gàu thiếc đựng cá, mỗi đứa chọn một góc buông cần trong không gian khoáng đạt. Cá về nhiều, sóc lác giật căng cần sáng lấp lóa; cá rô nhởn nhơ ăn mồi trên cao; cá trê ăn mồi bên dưới phải điều chỉnh phao câu cùng miếng chì. Tôi thấy, hiện nay các loại ngư cụ đều thay đổi. Nhưng chiếc cần câu cá đồng, có từ bao đời đến nay vẫn còn phù hợp. Và mỗi mùa cá đồng, nó lại xuất hiện, phô phang khắp chốn thôn quê.


Hình ảnh dân dã nhất về quà biếu trong mùa cá đồng đến nay vẫn còn, đó là lúc trước má bảo mang cá cho dì. Tôi xách xâu cá móc bằng cuống rạ, tay còn lại là chiếc hộp bằng bẹ chuối gập, cột dây rơm có sẵn bên hông nhà để đựng lươn đi dọc theo mương nước sang nhà dì. Và bây giờ, mùa cá đồng vẫn thấy cảnh ấy. Thứ nữa, là món nấu. Cá rô nướng lửa than, dầm mắm ớt tỏi. Cá trê nướng dầm mắm ớt tỏi giã lá ngò. Cá tràu um bắp chuối, cá nhét nấu lá gừng, cá diếc rau răm, sóc lác canh chua thả nhánh bông giề… nhiều lắm, cũng nhiều cách chế biến khác nhưng truyền thống ẩm thực khi trước vẫn hay hơn, ngọt ngào hơn vào mỗi mùa cá đồng.


Bây giờ, đang có những cơn mưa chao nghiêng trở về trên cánh đồng làng qua ao hồ, dòng sông, mặt đầm, bờ mương… cũng dần báo hiệu một mùa cá đồng trên đất này.

Mùa nước nổi nhớ món ăn quê

Xa quê đã gần 20 năm nên mỗi khi nhắc đến chữ “quê” thì những kỷ niệm thời thơ ấu trong tôi lại ùa về như cơn gió mát lành.

Tôi nhớ tháng 10, khi cánh đồng được điểm tô bởi màu đỏ phù sa cũng là lúc những cành hoa điên điển vàng nở khắp đồng. Những chiếc thuyền nhỏ lại lướt trên con nước thả lưới để khi về chiến lợi phẩm đã sẵn sàng cho bữa cơm ngon với món cá rô đồng kho mặn, lẩu chua cá linh bông điên điển, có khi là món chuột đồng tẩm nướng thơm lừng.

Vào thời điểm này, quê tôi nước tràn đồng. Đây cũng là lúc cá từ thượng nguồn đổ về. Người dân vùng đồng bằng sông Cửu Long đã quen “sống chung với lũ”. Trước mùa lũ, ai cũng chuẩn bị chiếc thuyền nhỏ và hàng trăm mét lưới cho “mùa thu hoạch” cá rô đồng, cá linh. Mùa này chuột đồng rất nhiều, lúa vào mùa gặt, chuột no say và mập căng tròn.

Chế biến món ăn quê từ chuột đồng thật đơn giản nhưng rất ngon. Có nhiều cách chế biến nhưng ngon nhất vẫn là tẩm ướp chuột với gia vị, sau đó căng ra trên thanh tre rồi nướng bằng lửa than, mùi thơm của gia vị thật đậm đà. Tôi vẫn còn nhớ món canh chua cá linh với bông điên điển của mẹ. Mùa này, chỉ cần ra bờ ruộng hay chống ghe đi một vòng là đã có một rổ bông điên điển vàng ươm. Bông vàng kết thành chùm nhỏ, khi nấu bùi bùi rất ngon, người ta hay chọn cá linh để nấu làm tăng thêm hương vị của nồi canh chua. Vị chua của me, vị ngọt của cá, vị đắng thanh nhẹ và bùi của điên điển làm ai cũng phải “nghiền” ngay từ lần đầu thưởng thức để thêm nhớ.

Về An Giang mùa nước nổi, du khách sẽ có dịp khám phá những “làng bè”, nơi chuyên nuôi cá da trơn nước ngọt. Ở đây, tượng đài cá basa là biểu tượng và niềm tự hào của những người dân trong vùng đã tạo nên một vóc dáng, sự phát triển của một làng nghề vùng sông nước Cửu Long. Để khám phá nét đặc trưng của văn hóa sông nước Nam bộ, du khách hãy đến chợ nổi An Giang hay tham quan làng dệt thổ cẩm của đồng bào Chăm với những sản phẩm “hand made” rất đặc sắc.


Xuôi về vùng Tịnh Biên (An Giang), được trải nghiệm cùng trên chiếc thuyền nhỏ len lỏi giữa những tán rừng tràm che kín bầu trời bạn sẽ cảm nhận được mùi hương tràm nồng nàn, đang khoe những bông hoa trắng đồng nội, bên dưới là màu xanh của những cánh bèo. Chắc hẳn bạn sẽ luyến tiếc nếu không ghi lại những kỷ niệm khó quên này. Được lên tháp canh của Trà Sư, nhìn xa xa là một vùng trời mênh mông của biển nước và những cánh chim tìm về tổ, du khách sẽ nao nao một nỗi nhớ khi xa. Sẽ là trải nghiệm thú vị nhất khi bạn tự nướng cá trong hành trình hai ngày để khám phá mùa nước nổi miền Tây.

Bát canh mùa lũ

Dòng sông Túy Loan hiền hòa quê tôi như dải lụa mềm uốn lượn qua bao cánh đồng lúa, nương dâu, bãi bắp để xuôi về biển cả…Mùa mưa lũ, nước sông dâng cao, mang theo nhiều loại cá ức nước lên ngao du trên những cánh đồng làng.

Người dân quê tôi lúc này dùng lưới, lờ, rớ… để bắt các loại cá như cá diếc, cá rô, cá trê…và nhất là cá tràu (còn có tên là cá lóc, cá chuối, cá hoa, cá sộp) về chế biến các món ăn thơm ngon như kho lá nghệ, chiên, nướng…

Khi mẹ tôi còn sống, mẹ thường nấu món canh cá tràu với rau chua là món ăn dân dã, có hương vị đặc trưng, thơm ngon nhớ đời.


Ngày ấy, tôi theo cậu bắt cá trên cánh đồng làng, trời mưa rả rích, gió lạnh tái da nhưng rất vui khi mang được nhiều cá về nhà.

Mẹ tôi làm sạch cá, nếu con lớn thì thái từng lát, con vừa thì sau khi làm sạch sẽ, dùng dao khứa xéo trên thân rồi đem ướp với hành tím, bột nêm, tiêu, đường để khoảng 10 phút cho thịt cá thấm đều. Trong khi chờ đợi, cậu tôi ra bờ rào hái ngọn non, lá non rau chua và rửa sạch, chuẩn bị cho mẹ nấu canh chua với cá.

Cậu tôi bảo, rau chua là loại cây rau có dây bò trườn, lá màu xanh đậm hoặc đỏ tía, xẻ thùy sâu với 3-5 thùy thon nhọn, hoa có cánh mỏng màu vàng. Theo đông y, rau chua có nhiều công dụng khác nhau: Hoa làm dược liệu chữa nhiều bệnh như cao huyết áp, tiểu đường, suy thận, suy tim, hạn chế cholesterol trong máu; Lá, chồi non và đài hoa tươi dùng làm rau xanh nấu canh chua, là gia vị, ăn sống, xào nấu rất ngon, hoa có thể sản xuất thành nước giải khát giải nhiệt, chế rượu vang…


Trong gian bếp tranh rạ tỏa khói lam chiều, mẹ phi nhành tím với dầu ăn cho thơm, sau đó đổ cá đã ướp vào xào sơ 5 phút và cho thêm nước lạnh vừa đủ vào nấu cho đến khi sôi khoảng 5 phút thì cho rau chua vào. Khi nước trong nồi sôi lại thì nêm nếm và nhắc xuống, múc ra bát.


Bát canh chua nóng thơm lừng bốc khói có màu trong với vị chua thanh hòa quyện với vị ngọt, béo của cá tràu mùa lũ. Khi ăn với cơm nóng, kèm theo rau sống mùa mưa như cải cây con, búp chuối, khế, rau thơm, chấm nước mắm Nam Ô thì quá tuyệt vời cho một món ăn dân dã trong mùa mưa lũ và có lợi cho sức khỏe.


Ngày nay, cứ mỗi lần tiết trời mưa lụt, nước lũ từ thượng nguồn đổ về trắng loang loáng cánh đồng làng, nhìn những người dân quê mang tơi đội nón, lội nước đánh bắt cá trên đồng, tôi lại nhớ về mẹ, nhớ bát canh chua dân dã mẹ tôi nấu ngày ấy sao mà thơm ngon đến tận hôm nay.

Ngày xưa, lại ngày xưa, biết làm thế nào được khi tôi thường nặng lòng với hoài niệm, sống với quá khứ, khi mà cuộc sống ngày đó còn biết bao thiếu thốn, khó khăn thì "cơm trắng cá kho" không chỉ là mơ ước của riêng tôi mà còn là của bao người. Thế nên, trong bữa ăn thường ngày của mọi gia đình, nhất là trong những ngày hè nắng oi thì bát canh rau muống, miếng cà dầm tương là không thể thiếu được.


Rau muống dễ trồng, ăn rất lành, lại khá nhiều chất bổ, ăn mãi mà không chán. Rau muống có nhiều loại nhưng người ta thường chỉ chia ra hai loại là rau muống cạn và rau muống nước. Rau muống luộc lên, chấm với tương Bần hoặc nước mắm cáy, nước mắm cà cuống thì ăn quên no. Người ta còn chẻ nhỏ ngọn rau muống, ngâm vào chậu nước sạch để chúng xoăn tít lại với nhau rồi trộn với các loại rau sống khác, hoặc bi chuối, hoặc thân cây chuối tây non thái nhỏ thành món rau sống tổng hợp ăn cùng đậu phụ, thịt lợn luộc thì tuyệt vời.


Ngoài món luộc, món sống ra, rau muống còn có món xào, món canh nấu. Rau muống xào tỏi, xào thịt trâu, ngọn thấm mỡ ăn thật khoái. Canh nấu rau muống cho thêm tí gừng làm gia vị vừa thơm vừa cay ăn cũng tuyệt. Rau muống không chỉ là rau của nhà nghèo mà còn là món "lạ" của những nhà giàu. Chả thế mà những năm mất mùa đói kém, rau muống trở thành thứ cứu đói cho quê tôi. Cứ cắt hết lứa này, rau muống lại mơn mởn non tơ lứa khác. Không phụ người, rau muống phục vụ cho đến lúc tàn rạc thì thôi.


Những tháng hè nắng oi là những tháng ngày của rau muống, cà ghém. "Tháng Giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà" để đến "Tháng ba cày vỡ ruộng ra/ Tháng tư gieo mạ..." chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới. Tháng ngày gieo mạ cày cấy cũng là tháng ngày thu hoạch cà, thu hoạch rau muống. Chúng luôn song hành với nhau từ cuối xuân cho tới tận cuối thu. Thế nên rau muống với cà ghém luôn đi với nhau, làm bạn với nhau phục vụ con người.


Cà có nhiều loại: Cà bát, cà pháo, cà dái dê, cà dưa, cà dừa... Về màu sắc: Có cà trắng, cà xanh, cà tím, cà sọc xanh sọc trắng. Về hình dáng: Có quả tròn, quả dẹt, quả dài như bầu, như bí, quả to như cái bát ăn cơm, quả tròn như viên bi, bánh trôi. Cà được chế biến ra nhiều món. Từ món nộm muối xổi đến món canh xáo cà, từ món cà kho cá đến món cà ghém... Món nào cũng dễ làm, dễ ăn. Trong tất cả các món đó có lẽ phổ thông nhất, dân dã nhất, đơn giản nhất là cà ướp muối, thường gọi là cà ghém. Ai cũng có thể làm được món này. Ai cũng có thể ăn được, thậm chí "nghiện" món này. Chọn những quả cà vừa độ bánh tẻ, không quá già, không quá non, trẩy về, cắt bỏ cuống rồi thái từng miếng nhỏ hoặc khía cạnh để nguyên hình cả quả ngâm trong chậu nước độ tiếng đồng hồ cho ra bớt nhựa, sau đó vớt ra phơi dưới nắng nhẹ để khô rồi cho vào vại ướp muối. Đối với cà pháo thì để nguyên cả quả hoặc cắt làm đôi và cũng làm như trên. Cứ một lượt cà lại rắc một lượt muối. Ít hoặc nhiều muối do khẩu vị mặn nhạt của từng người và ý định để ăn trong dài ngày hay ngắn ngày. Nếu ướp để ăn dài ngày thì tăng lượng muối để giữ cho vại cà lâu bị chua. Cách này các tỉnh miền Trung hay làm. Miếng cà ghém thường mặn, cắn vào bỗng rùng mình, để cả tháng vẫn giòn tan. Ngược lại, nếu ướp để ăn ngay thì hòa muối trong nước ấm rồi đổ vào vại cà. Nhớ là phải dùng một cái vỉ tre để trên cùng rồi lấy vật nặng, thường là hòn đá cuội to nhẵn chèn lên để nén cà cho ngấm muối đều. Có như thế thì sau này miếng cà mới trắng, giòn và thơm. Nên bóc ít tỏi, giã nhỏ cùng với quả ớt thái ra trộn lẫn để thêm vị thơm cay cho cà.


Thời gian này, rau muống đang xanh non mơn mởn dưới ao, ngoài ruộng; cà cũng vừa độ bánh tẻ lấp ló trĩu cành trong vườn, ngoài bãi. Chợ quê đầy rẫy những rau muống và quả cà. Người dân quê tôi sớm sớm lại gánh gánh gồng gồng rau, cà ra chợ. Bán mua chỉ là cái cớ. Gặp gỡ, giao lưu nói cười đủ thứ chuyện quê. Thời buổi thuốc hóa học, tăng trọng, thịt thối, hàng giả nhan nhản thì rau muống và cà ghém thực sự là món ăn lành và ngon. Nhà nào nhà nấy đều có sẵn luống rau muống, vườn cà bát, cà pháo, trong nhà sẵn vại cà, hũ tương thì vệ sinh an toàn thực phẩm nào có lo gì. Giữa đủ đầy mọi thứ thì bát canh rau muống, miếng cà dầm tương vẫn chung thuỷ gắn bó với người dân quê tôi. Thế nên, câu ca dao "Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương..." vẫn cứ thánh thót, ngân nga mãi trong tôi, níu gọi tôi về với gốc đa, bến nước, con đò của làng quê yêu thương của tôi.

Những món ăn nghĩa tình xứ sở

Chúng tôi, những đứa con xa quê Bến Tre hôm nào bây giờ khi gặp nhau dù khó mấy cũng gắng nấu những món ăn quê nhà như để vơi bớt nỗi nhớ cố hương; cũng như để bớt day dứt vì cuộc sống mưu sinh mà ít khi trở về nơi chôn nhau cắt rốn.


Quê tôi xưa có khá nhiều cua đồng, chịu khó lặn lội ra các bờ kênh rạch vài giờ là có thể vác về hàng ký cua đồng đựng trong các thùng thiếc như chơi. Bắt chúng bằng bao tay hay bằng kẹp thì không ổn, vì vậy sau mỗi lần “ ra quân ” là chúng tôi đều bị cua kẹp máu me lem luốc. Vậy mà vui mới lạ.

Có nhiều cách chế biến từ cua, nhưng quê tôi hay chọn làm hai món ăn rất riêng là cháo cua và bún riêu. Còn chúng tôi thì khoái món cua nướng than ăn với muối tiêu chanh hay muốt ớt hiểm.


Nói đến miền Tây nói chung, Bến Tre nói riêng mà không nhắc tới đặc sản ba khía là thiếu sót lớn. Lúc còn thơ ấu, chúng tôi thường kéo nhau ra các bờ sông “cái” vừa hái bần chua để nấu canh, vừa tổ chức đá banh cạnh các rặng bần, mắm, đước, lại vừa bắt ba khía đem về.

Dân quê tôi rất khoái món ba khía trộn chanh, ớt tỏi, đường, rau sống ăn rất ngon; nhất là khi trời mưa, đói bụng ăn với cơm cháy. Người khá giả thì dùng chúng để chế biến các món như: Ba khía rang me, rang mỡ hành, nấu chao… Xấp nhỏ như tôi thì khoái món ba khía ăn với khoai lang, khoai mì luộc… Người sành điệu thì chọn ba khía có gạch son, thân no tròn, càng màu đỏ, có túi trứng để chế biến vì mùi vị rất thơm ngon.

Gần đây trên lĩnh vực âm nhạc xuất hiện một bài hát mang tên “Anh Ba Khía” rất được mọi người yêu thích vì gợi nỗi nhớ quê thấm thía vô cùng.


Đặc sản thứ ba ở quê tôi là mắm còng. Theo người xưa kể lại thịt chúng “chắc” hay “ ốp ” tùy theo “con trăng” (theo lịch âm). Còng có nhiều loại: còng lửa, còng ta, còng voi, còng gió…Ngày xưa chúng tôi bắt còng rất khó khăn vi chúng đánh hơi nhanh và rất tinh khôn. Nghe động là còng chui sâu dưới hang nhanh như chớp.

Hồi nhỏ nội tôi thường chọn những con còng lớn, thịt chắc để làm mắm còng, số còn lại băm nhuyễn cho vịt tàu hay ngỗng ăn. Mắm thường không làm trái mùa vì mùi vị mất ngon, không thơm. Có thể nói mắm còng xã Châu Bình, huyện Giồng Trôm (Bến Tre) là nổi tiếng nhất tỉnh. Hấp dẫn nhất là ăn mắm còng trộn khóm kèm cơm cháy, tép rang dừa và cháo sò.


Quê tôi còn một món ăn dân dã nhưng khá ngon là nghêu hấp gừng. Vì ở ven biển Bến Tre nên xuất hiện khá nhiều ghe cào nghêu. Đơn vị mua bán hồi xưa là lít làm bằng lon thiếc chứ không cân ký như hiện nay. Chúng tôi thường tụ tập ở ven sông chất rơm hay củi mục để nấu nghêu. Khi chín chúng tự hé vỏ tỏa mùi thơm phức.


Xa quê khá lâu, mỗi khi đi qua những con đường, những trung tâm thương mại, những quán ăn, chợt thấy nôn nao nhớ quê nhà khi nhìn thấy những chú cua đồng, ba khía, nghêu được chế biến phục vụ “ thượng đế” khắp nơi. Riêng mắm còng thì hiếm hơn.

Nhưng vừa rồi tôi chợt giật mình khi đọc một dòng tin “… người ta dùng thuốc trừ sâu làm mồi câu ba khía, nhử cua đồng nên bắt chúng nhanh và nhiều, hậu quả thì không ai lường trước được…”; một thông tin khác xót xa không kém “… nghêu tặc( quê tôi) lộng hành miền sông nước, tận diệt những mầm sống mới sinh sôi…”. Những món ăn chúng tôi yêu thích sao bỗng trở nên đắng lòng đến thế này...

Sấu rụng vườn nhà

Một buổi sáng nào đó trên đường tới cơ quan, lúc dừng lại bên ngã tư đèn đỏ, ngẩng mặt lên trời gặp ngay hai hàng sấu sai trĩu quả. Buổi trưa rẽ qua chợ, thấy những mẹt sấu bày bán được các bà, các chị sà vào chọn. Mới chỉ nhìn những quả sấu tròn tròn, đưa lên mũi ngửi mùi thơm từ vỏ đã thấy nước miếng tứa ra. Mới hay mùa sấu đã về…

Ở quê tôi, hầu như nhà nào cũng trồng trong vườn một vài cây sấu. Nhìn chu trình phát triển của cây sấu trong một năm mà đọc mùa, đọc tháng. Tháng ba, khi cây cối đang đâm chồi nảy lộc xanh non thì sấu vào mùa rụng lá. Lớp lớp lá vàng theo từng cơn gió bay khắp vườn nhà, khiến một sáng tỉnh dậy lại ngỡ ngàng tưởng mùa thu đã đến. Ngày nhỏ tôi hay nhặt lá sấu làm tiền mua bán đồ hàng.



Đặt những lá sấu vàng trong lòng bàn tay nhỏ xinh giữa lung linh nắng mới, lại cứ tưởng mình vừa lạc vào thế giới cổ tích trong câu chuyện của bà. Đến tháng tư lá sấu xanh non mơn mởn, láng bóng, áp vào má thấy mát lịm dịu dàng. Chúng tôi thường hái lá sấu non, cuộn tròn, cho một ít muối vào trong rồi bỏ vào mồm nhai ngấu nghiến. Vị rua rúa chua của lá sấu non, cộng với mùi thơm đặc trưng, chút vị mặn mà của muối đủ khiến chúng tôi vô cùng thích thú. Ăn đến khi nào ghê hết hai hàm răng mà vẫn thấy thòm thèm.


Đầu tháng năm hoa sấu bắt đầu nở rộ. Ngửa mặt lên thấy trời mùa hạ cao xanh, thấy hoa sấu trắng li ti rụng đầy vai gầy tóc rối. Những trận gió khiến hoa sấu rụng nhiều, tôi vẫn gọi đó là mưa hoa, ngất ngây trong mùi thơm dìu dịu. Chờ mãi, cuối cùng chùm quả sấu lúc lỉu cũng làm thỏa lòng con trẻ. Cuối tháng sáu sấu đã chua giòn, chỉ chờ bão về để sấu rụng đầy vườn nhặt vào cho mẹ dầm nước mắm hay làm canh chua đều ngon tuyệt.

Mỗi hôm nẹ làm một món, hôm thì nấu canh chua thịt nạc, hôm thì dầm sấu vào nồi nước canh rau muống tạo nên vị chua riêng biệt, đậm, mát và có mùi thơm. Nhưng có lẽ tôi thích nhất vẫn là món sấu ngâm mắm ớt. Nếu làm bằng sấu bao tử, loại còn non, chỉ bé bằng hòn bi ve, hạt vẫn còn mềm thì là ngon nhất.

Nếu không, sấu già rửa sạch, mang ra thái lát rồi ngâm vào bát mắm có lẫn ớt chỉ thiên, có thể để vài ba ngày cũng có thể sau vài tiếng là ăn được. Thứ nước này có thể làm nước chấm rau muống hoặc cho vào nấu canh, còn quả sấu thì ăn với cơm trắng thay cà. Loại sấu ngâm nước mắm vừa có vị chua rua rúa của sấu, vị cay của ớt và chút mặn của nước mắm nguyên chất làm cho bữa cơm gia đình thêm ngon miệng.


Bây giờ cầu kỳ hơn người ta làm món sấu ngâm đường. Đây là loại nước uống mùa hè được nhiều người ưa thích. Mẹ tôi bao giờ cũng làm một hũ sấu ngâm đường thật to để uống quanh năm. Mẹ thường chọn những quả cùi dày và không bị bầm dập. Sau đó lấy dao bổ sâu để tách cùi và hạt rồi đem ngâm với nước vôi trong hoặc nước pha phèn chua. Thời gian ngâm đủ độ sẽ giữ được vị thơm, chua và cùi sấu giòn. Sau khi ngâm, vớt sấu ra rửa sạch lại bằng nước đun sôi để nguội, để quả khô ráo rồi cho vào lọ ngâm với nước đường và gừng đập dập đã đun sôi, để nguội.

Nước sấu uống lạnh có vị chua ngọt thanh mát, thơm mùi sấu quện mùi gừng. Nếu khi ngâm bằng đường hoa mai vàng thì trong nước sấu có màu sắc rất đẹp, nhìn đã thấy ngon miệng. Nhiều nơi còn làm thêm món tương sấu để mùa đông mang kho với cá thì mùi vị khỏi chê.


Đến tháng chín, khi gió heo may về, trên cây sấu còn lại những quả sấu chín vàng luôn làm cho lũ trẻ con chúng tôi thích thú. Khi mùa sấu đã đi qua, người ta có thể tìm mua nào ô mai sấu, nào sấu dầm, sấu xào gừng cay, sấu chua cay… trong các hiệu ô mai. Nhưng tôi thì vẫn nhớ lắm mùi vị quả sấu tươi và những chùm hoa trắng li ti tô điểm cho bầu trời mùa hạ và khu vườn tuổi thơ trong dòng sông kí ức…

Ký ức mùa cấy thuê

Năm nào cũng vậy, khi những đám mạ gieo trước Tết Nguyên đán đã đủ tốt là dân làng tôi lại chuẩn bị bước vào một mùa cấy hái mới. Bình thường, mùa cấy lúa xuân - hè bắt đầu trong tết, nhưng năm nay do cái rét tê tái kéo dài bất thường cả tháng trời đã làm cho hầu hết diện tích mạ gieo bị chết và người nông dân phải gieo lại toàn bộ mạ xuân đợt hai. Chính vì lẽ đó mà mùa cấy năm nay vừa mới bắt đầu cách đây được ít hôm.



Ngày còn nhỏ, hễ bước vào mùa cấy là mẹ con tôi tranh thủ cấy thật nhanh gần 1 mẫu được giao khoán, dành khoảng thời gian còn lại trong mùa đi cấy thuê.. Mỗi mùa cấy mẹ tôi thường nhận cấy khoán cho mấy gia đình quanh xóm. Nhà thì vài sào, nhà khoảng nửa mẫu… Việc định giá cả cấy thuê có thể là cấy công nhật nghĩa là đi cấy cùng chủ, được ăn cơm và cuối buổi chủ trả tiền công theo thỏa thuận. Cũng có thể, chủ khoán theo hình thức tự mình làm xong rồi nhận tiền công.



Tôi còn nhớ ngày học lớp 5, mặc dù nhỏ thó, việc làm chưa thật thạo vậy mà mẹ đã nói tôi ra đồng để cấy cùng. Mẹ tôi hay nhận nhiều ruộng để cấy thuê. Một phần vì bà tham công tiếc việc, phần khác vì mẹ không muốn từ chối sự tin tưởng có ý trợ giúp của xóm giềng. Tôi cấy đám ruộng nào thì khóm lúa ngả nghiêng, nát bươm. Nhưng mẹ vừa cấy vừa dạy tôi từng chút một, nên chỉ sau có mấy hôm tôi đã khá thành thạo, tuy không thể cấy nhanh bằng chị, bằng mẹ tôi nhưng hàng lối cũng đã ngay ngắn.



Vì “đào tạo” được thêm nên có hôm 1 sào ruộng cấy khoán ba mẹ con tôi chỉ cấy loáng trong buổi sáng là xong. Thấy chị em tôi vất vả mẹ thường động viên: “Nhà mình nghèo, vì vậy các con cũng phải cố gắng làm cùng mẹ. Tranh thủ mùa cấy có nhiều việc mẹ mới nhận lời người ta…”. Thực ra, chẳng cần phải đợi mẹ động viên chị em chúng tôi cũng không bao giờ phàn nàn dù cho ngày nào cũng phải cấy lúa từ sáng sớm tới tối mịt mới được trở về nhà.



Thường thường ba mẹ con cấy thông luôn buổi trưa, cha tôi vẫn luôn là người vừa phải đi cày bừa, vừa phải tranh thủ về nấu cơm mang ra đồng cho mẹ con tôi ăn. Trong tâm trí của tôi vẫn còn hình ảnh của ngày xưa ấy, khi mà dưới ánh trăng đêm mẹ con tôi vẫn cặm cụi cấy lúa thuê, cố gắng cấy xong đám ruộng mới nghỉ ngơi, vì ngày mai lại có đám ruộng nhà khác đang chờ thuê cấy.



Mỗi mùa cấy thường kéo dài khoảng hơn chục ngày. Quãng thời gian ấy cả nhà đều rất vất vả, mệt mỏi, nhưng bù lại nhà tôi lại kiếm được mấy trăm ngàn đồng, nếu quy ra thóc cũng có thể mua được vài ba tạ. Khi buổi cấy thuê cuối cùng trong mùa kết thúc, mẹ tôi thường đi chợ mua rất nhiều đồ ăn ngon, nào thịt, nào cá, cả hoa quả để bồi dưỡng cho cả nhà, gọi là buổi tổng kết. Mẹ cũng không quên mua cho các con bộ quần áo mới, gọi là “thưởng công”. Bố tôi cũng có phần, vì mẹ là người rất chu đáo. Thế nhưng, tôi thấy mẹ chẳng mua sắm gì cho mình cả, quanh năm suốt tháng vẫn chỉ vài bộ áo quần sờn nâu, vá víu, bạc màu.



Bao mùa cấy tiếp nối qua đi, thời gian trở lại đây, gia đình tôi đã đủ đầy hơn, mẹ tôi không còn cấy thuê nữa. Chúng tôi cũng đã lớn khôn và dần thoát ly, nhưng thi thoảng tôi vẫn trở về quê vào mùa cấy để được cùng mẹ cấy lúa trên vài vạt ruộng nhà mình còn sót lại sau trào lưu đô thị hóa. Những lúc được lội ruộng như vậy thực sự quý giá và thời khắc của những ký ức tuổi thơ đầy gian khó, vất vả nhưng vô cùng đẹp đẽ lại hiện về như một thước phim quay chậm…

Cuối Chạp Tết xưa

Bắt đầu rục rịch từ 20 tháng chạp, nhưng mãi đến ngày 26, 27 không khí Tết mới thực sự trở nên nao nức ở mỗi gia đình nơi làng xóm thôn quê.

Buổi sáng, mẹ đi chợ từ lúc tinh mơ, nhanh chóng về còn ra đồng cấy lúa. Mẹ mua về măng khô và những bó dong xanh. Măng khô cho vào nồi đổ nước vo gạo ngâm. Mẹ bảo măng khô ngâm nước gạo chóng mềm và ngon. Bố xắn cao tay áo, kéo lên từng gầu nước giếng thơi đổ vào cho đầy, ngập những tập lá dong.

Sáng sớm 29 Tết, hai anh em tôi ngồi lật từng tấm lá dong, dùng khăn lau rửa nhẹ nhàng. Bố bảo lá dong rửa không thật sạch, bánh chưng sẽ chóng thiu. Tiếp theo chúng tôi giúp bố đánh rửa xoong nồi trắng bóng như mới. Vui đấy nhưng mệt ơi là mệt. Những ngón tay ngâm nước nhăn nheo, lạnh đơ.

Năm nào cũng thế, xóm tôi có lệ luộc bánh chưng, vài ba nhà một nồi. Bởi lẽ không phải nhà nào cũng có điều kiện gói nhiều. Vả nữa, cả xóm chỉ có vài cái nồi to. Cái nhất hạng là nồi quân dụng 100 lít của nhà bác Thân, trước làm cấp dưỡng ở nhà máy. Về mất sức, bác được mua chiếc nồi thanh lý, một quai đã gẫy. Nhà tôi luộc bánh chưng chung với nhà chú Hậu và ông Đồng. Bố tôi khéo tay, chẳng cần khuôn mà gói bánh chưng cứ vuông vức, đều chằn chặn. Anh em tôi lại nhanh nhảu để bố sai vặt, nên nhà tôi được tín nhiệm gói luộc nồi bánh chưng cho cả ba nhà, từ A đến Z. Cái nồi nhà ông Đồng ước chừng vừa độ 40 chiếc, nhưng chưa năm nào luộc tới số ấy, vì vợ chồng chú Hậu muộn con nên chỉ góp 5 chiếc. Bánh chưng buộc kỹ, vớt ra nén chặt mới ngon.

Chiều 29 Tết, hai anh em tôi theo bố cuốc bộ đi chợ huyện. Chợ cách nhà dăm cây số nhưng ba bố con đi vèo một cái đã đến nơi. Bởi trong thâm tâm ai cũng náo nức. Dạo ấy tôi chưa hề được nhìn thấy bích đào, nghe đâu ở mãi trên chợ thị xã mới có, mà chỉ gia đình có máu mặt mới mua được. Anh trai tôi thỉnh thoảng viêm họng nên được bố ưng thuận cho mua cây quất, để hết Tết mẹ ngâm quả, chắt nước uống dần. Tôi mê mải bên chậu cúc đại đóa bông to bằng miệng bát ăn cơm, cánh hoa loăn xoăn rực màu vàng của nắng. Bố thì tẩn mẩn trước lều của cụ đồ nho hói trán viết câu đối, xuýt xoa chờ đợi từng nét chữ mực tàu đen nhánh ướt trên trang giấy đỏ thắm.

Ngày 30 Tết bao giờ cũng là ngày bận rộn và vui nhất. Trong nhà, ngoài sân được quét dọn sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế được lau chùi sạch sẽ. Bố trịnh trọng xếp hai chồng bánh chưng thơm hương thoang thoảng. Hai chiếc bánh chưng nho nhỏ xinh xinh được đánh dấu bằng lạt đỏ, mẹ để dành riêng cho anh em tôi, để trong hòm thóc đậy nắp kín trong buồng, đề phòng chuột đục khoét. Góc sân đằng kia, chú Hậu giúp bố nhóm lò, cái lò đất mới đắp hôm trước để đặt nồi nước đun sôi làm lông lợn. Cũng mấy nhà, chung nhau mổ một con lợn to đã được vỗ béo từ mấy tháng trước. Cái quạt điện con cóc cũ kỹ thổi bếp chạy sòng sọc, củi gốc tre khô bén lửa, kêu lách tách. Bác Bốn, bác hàng xóm miệng ăn trầu môi đỏ tươi, sang hỏi mượn mẹ tôi cối chày giã đỗ. Hai bà chụm đầu nói bí quyết nấu chè kho, sao cho ngọt đậm và thơm lâu. Từ ngoài cổng, thím Hậu đi vào, nói: Các bác có biết chiều nay gà xuống giá, có đi mua không kẻo mùng 3 đắt lên, lấy đâu làm lễ hóa vàng? Mẹ và thím Hậu te tẩy đi chợ.

Năm nào cũng thế, trừ vại dưa cà nén từ nửa tháng trước, còn thực phẩm mẹ mua cầm chừng. Ăn Tết còn nghĩ đến ra giêng. Vụ lúa vừa rồi được mùa, xem chừng mẹ xởi lởi hơn mọi năm, nhưng chi tiêu vẫn không vung tay quá trán. Trong nhà, bố đang bày biện bàn thờ. Mâm ngũ quả lấp ló màu xanh của quả chuối, màu vàng của bưởi, quất và đỏ của ớt tươi.

Anh em tôi vừa tắm xong, lần tắm cuối cùng của năm cũ, đầu tóc thơm hương nước lá mùi. Tôi mang quần áo mới ra sân phơi trong gió khô hanh, để sớm mai diện Tết. Bố bảo năm nay không đứa nào được tuổi xông nhà, lúc Giao thừa và sáng sớm mùng 1, chớ sang nhà hàng xóm…

Cây mồi rơm và trò đốt đồng ấu thơ

Ngày còn ấu thơ sống ở làng quê, sau thời gian nửa buổi cắp sách tới trường là bọn nhỏ trong xóm chúng tôi lại làm bạn với những con bò, con trâu ở ngoài đồng, triền đê. Công việc chăn trâu, thả bỏ đã gắn bó với bất cứ đứa trẻ quê nào, bởi nhà ai mà chẳng nuôi trâu, nuôi bò dùng để cày ruộng và kéo xe. Với các mùa khác trong năm thì công việc chăn trâu, thả bò rất nhàm chán, thậm chí còn “ngấy” nữa là đằng khác, nhất là dịp mùa hè mà phải dầm mình ngoài đồng với cái nắng như thiêu như đốt khiến cho đứa nào đứa nấy đều đen nhẻm. Thế nhưng, khi bước vào mùa đông với mưa phùn, gió bấc, rét thấu da thịt thì bọn trẻ chúng tôi lại rất thích thú khi phải ra đồng chăn thả trâu bò. Mặc dù khi đó nhà ai cũng rất nghèo, đứa nào cũng quần áo phong phanh, vậy mà vẫn thích trốn việc nhà để lùa trâu bò ra đồng. Cái thú, niềm vui của những buổi chăn thả trâu bò ở thời khắc mùa đông đó là bọn nhỏ chúng tôi có cây mồi rơm giữ lửa làm bạn. Cây mồi rơm bện lại từ những đọn rơm khô đã giữ lửa để chúng tôi mang theo ra đồng đốt sưởi.



Trước khi lùa trâu bò ra đồng vào buổi chiều là tôi vẫn thường được “phân công” bện một chiếc mồi rơm to bằng bắp chân và dài chừng nửa mét. Các đụn rơm được bện tròn nối tiếp nhau kéo dài, ở ngoài cuộn thêm một lượt rơm ve theo kiểu dây thừng cho cây mồi càng chặt tay bao nhiêu càng tốt. Sở dĩ phải bện thật chặt tay để cho lửa cháy chậm, cây mồi mới lâu hết. Nếu bện chặt, với chiều dài khoảng nửa mét cây mồi có thể giữ lửa trong khoảng 4-5 tiếng đồng hồ. Ngày đó, khi mà diêm và bật lửa gas chưa thật thông dụng như thời nay thì việc giữ lửa mang đi ra đồng chỉ có cách duy nhất là dùng cây mồi rơm.



Khi ra tới đồng, sau khi để cho trâu bò tung tăng gặm cỏ trên các bờ vùng, bờ thửa, bọn chúng tôi thường phân công nhau đi kiếm gốc rạ khô được đập từ các tảng đất cày ải khô xác mang về tập trung một chỗ rồi lấy lửa từ cây mồi rơm để đốt sưởi. Ngoài gốc rạ, cả cỏ khô, thậm chí cả các loại lá khô rụng xuống từ rặng bạch đàn, xà cừ, phi lao cũng luôn được chúng tôi tận dụng để đốt sưởi. Nhiều hôm, muốn đống lửa được cháy lâu hơn, vài đứa cùng hội trẻ chăn trâu còn kiểm củi gỗ, gốc tre ở trong làng mang đi dành đốt kèm.



Điều thú vị của những buổi chăn trâu, bò vào mùa đông không chỉ là được sưởi ấm bằng lửa từ cây mồi rơm, mà trẻ nhỏ chúng tôi còn thường xuyên be bờ, tát vét dưới mương nước để bắt cá, bắt cua để nướng ăn. Sự mộc mạc từ các con cá, con tép, tôm, con cua, và thậm chí cả con ốc vừa được bắt lên từ bùn còn tươi rói ấy và chỉ qua một cách chế biến duy nhất là… nướng cũng đủ hấp dẫn với mùi thơm lừng. Khi thì chúng tôi dùng que xiên cá để nướng, lúc thì lại dùng bùn bao quanh con cá và nướng cho tới khi lớp đất bùn khô cứng, cháy đen thì cũng là lúc cá ở bên trong chín tới. Nướng cá kiểu này ngon tuyệt vì độ ngọt của cá được giữ lại còn như nguyên vẹn. Rồi nữa, có những lúc chúng tôi còn nhặt được trứng vịt đẻ rơi của những người nuôi vịt đẻ chạy đồng. Hôm nào mà “vớ” được mấy quả trứng như thế thì cả hội lại được bữa ngon vì trứng nướng ăn nóng hổi ngon “tuyệt cú mèo”, mà ngày nay người ta coi nó là đặc sản.



Ở quê, khi vào mùa đông, nhất là dịp tháng Chạp áp Tết, khoai lang, khoai tây, ngô còn chưa thu hoạch thì những buổi đi chăn trâu bò ngoài trò nướng cá, tôm, cua… thì các sản vật nhà nông là ngô, khoai ấy cũng luôn khiến chúng tôi ấm lòng. Ngày ấy chuyện trẻ nhỏ ăn trộm bắp ngô, củ khoai như vậy để nướng ngoài đồng cũng là thường tình, nghịch ngợm(?!). Khoai nướng, ngô nướng ăn ngay tức thì sau khi rời đống lửa, ngon và ngọt lắm. Có những hôm mỗi đứa làm vài củ khoai, mấy bắp ngô nướng là no căng bụng và tối về đứa nào cũng “chê” cơm.



… Mới đây, vậy mà đã thấm thoát gần 10 năm có lẻ, tôi xa cánh đồng quê hương, xa cây mồi rơm và trò đốt đồng tuổi thơ với bao trò tiêu khiển vu buồn, khó quên. Tết lại sắp về và lúc này đây, dẫu không còn cái cảm giác ngóng tết thật nhanh để được nghỉ học, được đi chơi, được ăn ngon, mặc đẹp… như thời trẻ con ấy nữa, nhưng thi thoảng trong tôi vẫn mong Tết để được trở về với mẹ, với cánh đồng tuổi thơ đầy ắp kỷ niệm của một thời ấu thơ…

Những ngày tháng Chạp ấu thơ

Trong ký ức tuổi thơ tôi, tháng Chạp là khoảng thời gian cận Tết, mà ở đó là hình ảnh của những ngày nắng nhạt nhòa với từng vạt nắng chiếu rọi khi ẩn lúc hiện cùng với gió mùa đông bắc kèm theo mưa phùn lây rây chợt về mỗi sớm mai, hay những buổi chiều chạng vạng. Cánh đồng làng dịp này là một màu nâu sẫm của đất với những ruộng cày mùa đổ ải. Xa xa tít tận những chân ruộng cao phía con đê là các vạt khoai lang, ngô, đậu đỗ… với một màu xanh thẫm đang bước vào mùa thu hoạch. Một vùng quê yên bình chưa có sự xuất hiện chút bóng dáng của đà đô thị hóa với hình ảnh đặc trưng bình dị với ruộng lúa, bờ khoai cùng lũy tre làng êm ả. Bọn trẻ con chúng tôi thường có những buổi tung tăng cuốc bộ cắp sách tới trường, và một nửa buổi lùa trâu bò ra đồng chăn thả. Ở vào thời khắc tháng Chạp, bố mẹ tôi cũng như bao nhiêu người lớn trong làng thường phải lo toan hối hả với biết bao công việc để chạy đua cùng Tết, như: Thu hoạch ngô khoai, lo gieo mạ, chuẩn bị tát nước, cày bừa… để áp Tết là vào vụ cấy. Một năm thường có những trận thiên tai bất thường khiến cho mùa màng luôn trong tình cảnh thất bát và cảnh túng đói luôn đọng lại ở thời khắc cuối năm, nhất lại là bao khoản chi tiêu bắt buộc cho Tết như càng đè nặng lên đôi vai của người dân lam lũ quê tôi. Chẳng vậy mà tháng Chạp, mẹ vẫn thường cố làm mọi việc của gia đình cho nhanh xong để tranh thủ ít ngày vào thành phố làm thuê lấy tiền mua sắm áo quần cho con và lo Tết cho gia đình. Nhà nào cũng vậy, cũng luôn cắt cử một vài nhân công đi làm thuê để lo Tết như vậy. Người ta bảo: “Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết”, nên nhà ai cũng cố mà lo cho ba ngày Tết được rôm rả, có đủ đầy bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành…

Thường tháng Chạp là mây mù, giá rét, là gió mùa đông bắc, song cũng không phải là không có những thời khắc tháng Chạp trời quang, nắng vàng nhạt màu mật ong, nền trời xanh thẳm, mây trắng lững lờ, chao nghiêng cánh én từng đàn là tín hiệu một mùa xuân đẹp đẽ với bao hi vọng cho một mùa màng tốt tươi đang ở phía trước. Trong nắng sớm, màn sương mỏng chưa kịp tan đọng trên nhánh mạ non lung linh như những hạt ngọc bích. Những đám mạ non, những ruộng lúa vừa cấy bắt đầu vươn mình trong nắng và e ấp những tốt tươi để dân làng no đủ và bất kể một người dân quê nào cũng luôn cầu chúc cho mưa thuận gió hòa để mùa màng như ý và đời sống của mọi người không đói, không khổ…

Tháng Chạp ở quê hầu như nhà nhà, người người cùng rủ nhau chỉnh trang đường làng, ngõ xóm. Cánh đàn ông, trai tráng trong làng đắp bồi, chỉnh sửa chỗ bị nước lụt xói mòn, phá hỏng. Đoạn đường làng sạch đẹp được người qua lại khen là cả sự tự hào của người dân ở đấy. Những bờ rào giậu từng nhà được sửa sang, cắt xén, rào nẹp lại. Lối nhỏ mỗi ngày vẫn thường chui tắt qua hàng xóm bịt kín rồi, ôi ngẩn ngơ lối cũ! Tôi vẫn thường tiếc những ngọn mồng tơi xanh non vừa phất phơ, ngoe nguẩy ấy giờ bị xén bằng “đi vào nền nếp” mất rồi.

Tháng Chạp trẻ con trong làng thường được mẹ dắt đi chợ Tết. Con đường quen thuộc mỗi ngày giờ trở nên xa hơn, kỳ diệu ảo mờ. Hòa trong đoàn người đi chợ, những gương mặt thân quen hay lạ lẫm đều tươi vui, hớn hở (mà trẻ con làm sao biết được nỗi lo toan trong lòng người lớn nhất là lúc năm hết Tết đến!). Chợ Tết đông đến ngợp người và hàng hóa. Người đâu mà lắm, hàng hóa đâu mà nhiều, lời mời mọc, mặc cả như ong vỡ tổ. Trái với tâm trạng đượm chút nghĩ suy trăn trở của người lớn là phải mua gì, bao nhiêu cho đủ…, thì trẻ nhỏ luôn tươi như hoa đào khi được mua cho bộ quần áo, đôi dép mới để diện Tết.

Tháng Chạp, đêm đêm mẹ dõi theo dự báo thời tiết để đoán ngày có nắng để làm mạ, cấy cày, trồng ngô lạc, đậu và gói bánh... Mẹ chuẩn bị gạo nếp, đậu, đường, thịt lợn - nguyên liệu cho món bánh chưng ngày Tết mà háo hức, mà nóng lòng mong ngày chóng trôi qua để đêm cận kề tất niên về được ngồi trông ngồi bánh chưng luộc sôi ùng ục, và được ăn những chiếc bánh chưng nhỏ xíu được vớt ra đầu tiên mà khi gói bánh người lớn thường tận dụng chút gạo, đậu thịt thừa không thể đủ cho chiếc bánh lớn, nên dành gói cho trẻ. Tháng Chạp đồng làng ngàn năm mây trắng, nhìn khói bếp tỏa, nghe tiếng lợn eng éc ngày cuối năm nhiều hay ít cũng đoán được sự no đủ hay thất bát một năm qua. Ôi nhớ vô cùng tháng Chạp ký ức tuổi thơ tôi

Ngon bùi món sung kho mỡ


Thuở ấu thơ, gia đình tôi sống ở một vùng quê nghèo miền Trung du, vì vậy cuộc sống và sinh hoạt của gia đình tôi cũng như đại đa số các gia đình khác đều lắt lay với bữa đói, bữa no. Ngay cả cơm trắng, cũng chỉ vào độ mùa gặt chúng tôi mới được ăn no thỏa thích, còn những tháng ngày khác trong suốt cả năm dài thường là một hạt cơm phải “cõng” thêm vài ba hạt ngô, củ khoai… Vì cơm cũng không đủ no nên thức ăn dùng để ăn kèm thường là chẳng có gì đáng kể. Quanh đi quẩn lại vẫn chỉ rau luộc, rau nấu canh suông, bỏ chút mì chính, muối chứ cũng chẳng mấy khi có mỡ lợn để nấu cùng. Mẹ tôi thường ngả hũ tương, làm vại dưa, vại cà để cả nhà dùng ăn quanh năm. Nếu khi nào cả nhà được ăn thịt thì ngày đó một là ngày giỗ nội, giỗ ngoại hoặc ngày khách khứa đặc biệt nào trong năm là cùng. Các bữa ăn được cải thiện chất đạm là con tôm, con cua, con tép… thì thường là hôm đó mẹ tôi, hay chị tôi tranh thủ buổi trưa ra đồng tát vét, hoặc mò dưới mương mới có.


Đói khổ là vậy, được ăn rất nhiều món ăn rất đỗi bình dị của quê hương nhưng tôi không nhớ hết đặc trưng của từng món, cũng như cách chế biến, mà có một món duy nhất tôi không bao giờ quên, đó là món sung quả đập dập kho với tương cùng mỡ lợn. Nhà có cây sung rất lớn bên bờ ao và quanh năm sai trĩu chịt quả nên món sung kho đã đi suốt những năm tháng tuổi thơ tôi, cũng như cùng gia đình của những giai đoạn khốn khó.



Thường là quả sung xanh, hay sung muối dưa chua người ta có thể kho cá, kho thịt đều ngon, thế nhưng trong lúc đời sống còn muôn vàn thiếu thốn thì để có chút mỡ lợn kho cùng vài bát quả sung xanh đã là quá mĩ mãn rồi. Mỗi tháng, nhà tôi thường làm hơn chục bữa sung kho mỡ. Cứ hôm nào mẹ làm món sung kho là cả nhà lại ăn cơm rất ngon miệng và ai nấy đều ăn no nê hơn. Món sung kho đơn giản về cung cách chế biến nên hầu như ai ai cũng có thể làm được. mẹ tôi là người chế biến món ăn này bao giờ cũng ngon hơn hết thảy mọi người trong gia đình. Nhiều lần mẹ dạy tôi, chỉ bảo tận tình, từng công đoạn một nhưng làm sao mà hôm thì tôi nấu mặn, hôm lại kho nhạt thếch… khiến mẹ vẫn phải thường “chữa cháy” để cả nhà khỏi chê!



Sung hái trên cây xuống rửa sạch để ráo nước rồi mang đập dập trên thớt. Khi đập dùng dao bản rộng đập và chỉ đập cho các quả sung dập tách ra làm ba, bốn phần là đạt. Sung đập xong bỏ vào nồi nêm tương, rắc chút mì chính, rưới vài thìa mỡ lợn, đổ xâm xấp nước rồi bắc lên bếp đun sôi. Khi nồi sung sôi thì cho lửa nhỏ liu riu tới khi nào cạn sền sệt, sung nhừ là được. nếu ai muốn ăn cay có thể cho thêm cả ớt, chút tiêu bột rắc đều vào sẽ cảm thấy món sung thơm ngon hơn.



Đây là món ăn chủ đạo của nhà tôi, và vì nhà có cây sung to nên hàng xóm cũng thi thoảng sang xin về kho ăn. Mấy bận khách ở dưới xuôi lên, mẹ tôi kho đãi khách và mọi người ăn lần đầu cứ tấm tắc khen ngon mãi…



Sung, cà, tương, dưa… cùng biết bao sự vất vả nghèo khó vậy mà anh chị em chúng tôi, cũng như bao thế hệ trẻ của làng cũng lớn khôn lên và học hành tử tế. Ngày nay, khi mà cuộc sống dần một đủ đầy về vật chất thì món sung kho mỡ đã không còn hiện diện thường nhật trong các bữa ăn hàng ngày của gia đình tôi cũng như bao gia đình khác. Thế nhưng những thế hệ lớp người của một thời nghèo khó của ngày hôm qua vẫn hoài niệm, vẫn thi thoảng ôn nghèo kể khổ để lớp người trẻ của ngày hôm nay thấu hiểu phần nào sự vất vả để biết vượt qua mỗi khi gặp gian khó…

Nỗi nhớ khoai lang nướng

Tôi có thói quen đạp xe trên phố, cùng hoàng hôn chạm vào lòng đêm không yên bình của Tam Kỳ. Mấy chiều nay, tôi nhận ra một mùi hương khá quen trong tâm tưởng nhưng lâu rồi chưa nghe lan đều trong lòng thành phố. Tôi cố nghĩ xem đó là mùi gì mà xốn xao đến vậy. Và rồi, cái tôi tìm cũng hiện ra trước mắt, không xa lắm. Một chị bán hàng trên một chiếc xe đẩy, đẩy chiều vào đêm bằng hơi khói bay lên từ nồi khoai đang luộc và đẩy tôi về với một miền thơ đầy bình yên và thiêng liêng bằng mùi thơm của những củ khoai nướng. Nói một cách dễ hiểu hơn, chị đi bán khoai nướng và khoai luộc trên phố từ chiều muộn cho đến tận đêm sâu, khi hàng trên xe đã hết.



Chắc sẽ có nhiều người thắc mắc rằng tại sao mùi khoai nướng lại có một sức hút với tôi đến vậy. Ai không ở quê, không gắn một phần đời của mình với những tháng ngày cơ cực nhưng đầy niềm vui thì chắc sẽ không hiểu hết lòng tôi trỗi dậy điều gì từ cái chiều ngửi thấy mùi khoai nướng trên phố Tam Kỳ. Ngày nhỏ, tuy gia đình khó khăn, thiếu thốn nhưng không đến nỗi ăn khoai thế cơm cả ba bữa chính. Có điều, không hiểu sao, mỗi chiều mẹ nấu cơm xong, tôi lại lén lùi một củ khoai lang vào tro bếp. Và trước khi ăn cơm, thể nào tôi cũng có một món khoai nướng lót dạ trước. Thói quen ấy được duy trì trong suốt tuổi thơ tôi. Dần dần, mẹ cũng hiểu được thói quen đó. Cứ hễ nhà có khoai là sau khi nấu cơm chiều, không đợi tôi nhắc, mẹ cũng lùi vào tro than 1 củ vừa vừa. Đó có lẽ là một trong những niềm hạnh phúc tuy nhỏ nhoi nhưng tôi không thể nào quên được. Tôi vẫn còn nhớ như in cái nóng của củ khoai nướng thấm vào lòng bàn tay, truyền dần vào cơ thể tôi. Và, mùi thơm của khoai lang nướng thật là đặc biệt. Sẽ có nhiều người bảo khoai nướng thì khét chứ thơm gì. Tôi thì vẫn cảm nhận được mùi thơm thật kì diệu toát ra từ bên trong lớp vỏ cháy sém, đen thui. Mùi thơm ấy còn rõ ràng hơn khi bẻ từng miếng khoai nướng cho vào miệng. Lúc ấy, thính giác dần chuyển sang và hòa trong vị giác, mùi thơm ấy hòa nhuyễn trong cái vị ngọt nhẹ và dịu nóng ngay đầu lưỡi.



Tôi lớn lên không biết mình bỏ thói quen ăn khoai nướng tự khi nào, bỏ những buổi chiều tối hồi hộp chờ mẹ nấu cơm xong tự khi nào. Bước vào những tháng ngày mới, tôi dần có những thói quen mới, những công việc mới như bất cứ một ai khác. Và, mùi khoai nướng cũng dần trôi vào tiềm thức. Đôi lúc rãnh rỗi cũng tự mình bỏ một củ khoai vào bếp nướng. Song, cái sự háo hức, cái hương thơm kì diệu của củ khoai nướng dường như không còn nguyên vẹn nữa. Thị thành nhộn nhịp, bạn bè vui chơi và cả… tình yêu cuốn tôi vào những vòng xoáy mãnh liệt, khó lòng dứt ra được. Nhiều lúc cũng muốn tìm về với những ngày ấu thơ đơn giản, với những mong ước, những thú vui bình dị mà không thể được.



Giữa thành phố Tam Kỳ trôi vào đêm bằng mùi bia rượu, tiếng cụng ly bôm bốp, tiếng cười, tiếng cãi nhau loạn xạ, chị bán khoai nướng vẫn từ từ đẩy xe lẫn vào lòng phố. Không một tiếng rao, không một tiếng chào mời, níu gọi nhưng tôi thấy lúc nào quanh xe chị cũng có vài người dừng lại mua. Tôi thấy lòng vui vui dẫu không biết rằng trong số đó có ai mua khoai vì để tìm lại một thời thơ ấu, một thói quen đẹp như tôi không. Trong những tạp âm, những điều mà một phố đêm phải có, xe khoai nướng của chị như một “thanh âm trong trẻo” vút lên. Nó làm cho những ai thật sự có một tấm lòng với những gì thiêng liêng của quê xưa chợt thấy ấm áp đến lạ kỳ.



Những ngày này, đêm phố lạnh và nhè nhẹ mưa bay nhưng tôi vẫn thấy lòng lâng lâng theo mùi hương khoai lang nướng. Cả một ngày vất vả chạy theo những lo toan, những dự định, những công việc mà mình không thể bỏ được giữa chừng. Chỉ có màn đêm lạnh cùng mùi khoai nướng là có thể giúp tôi tìm về với chính mình, với những gì thân thuộc mà thiêng liêng nhất…

Bánh chưng chấm cá kho

X

ắc...xắc...xắc...

Xắc...xắc... xắc...

Về đêm từ trong bụi rậm cứ phát ra tiếng kêu chợt chã ấy làm không gian se hanh đầu đông thêm buồn tẻ.

Bây giờ, hình như tiếng kêu con xắc xắc ở các vùng quê đã cạn kiệt. Phải thôi, cây bụi đã thay thế bằng tường bao bê tông gạch đá cả rồi. Sự đổi thay của nông thôn mới, làm nhiều cái cũ chỉ còn trong ký ức. Cái thời, đi ra mé lũy tre làng là bắt được tôm, được cá. Đói thì hái những nhúm rau má ven đường vệ cỏ, rửa qua nước ao ruộng mà nhai ngấu nghiến, không đau bụng chột dạ gì sất, và chẳng nghe nói độc tố hay ô nhiễm bao giờ.

 Tụi trẻ bây giờ nghe kể, chúng cứ thưỡn mặt ra mà hỏi tôi, con xắc xắc là con gì hở bác. Tôi cũng cố tra tìm để giải thích cho tụi trẻ, nhưng cũng chưa tìm thấy. Thế là, đành giải thích và vẽ mô tả cho chúng vậy.

Tiếng kêu của nó là ba tiếng xắc...xắc...xắc... một nhịp, thường về đêm khi có sương mù, từ trong bụi rậm. Nó mảnh khảnh như mấy khúc ngành tre cỡ chừng cái đũa ghép lại, có ba phần đầu thân và đuôi; chân thì lều khều như những cái tăm tre, cũng có cẳng, đùi và bàn móng. Nó tựa như nhánh cây giao làm cảnh các cháu thường thấy vậy. Màu nó xám đen. Tụi trẻ chăn trâu thuở đó hay bắt nó chơi trò cơm gạo. Ngày ấy nhiều lắm, giờ trở thành của lạ. Ngay đến con trâu con bò, mà trẻ con xứ phố xá còn ngắm như vật thể lạ nữa là.

Bỗng chạnh lòng buồn vì thời ấy đã xa rồi!

Xắc...xắc...xắc...

xắc...xắc...xắc

Tiếng kêu buồn tẻ của con xắc xắc mùa tháng mười âm lịch. Mùa sương mù trà xuống ven làng, ven đồng, báo hiệu bà con ngư dân được mùa cá thu. Cả vùng nông thì đồn kháo rân ran, được mùa cá thu rồi. Họ bàn tính cách nấu, cách bảo quản thế nào cho đến ngày tết. Ngày tết còn những hơn vài tháng nữa. Sự lo lắng sớm cho ngày tết, như là truyền thống vậy. Họ phải bỏ buổi đồng áng để mà đi chợ mua cá. Thời buổi khó khăn, nghèo túng, con người thường tính kế gom góp lo xa.

Chợ Nồi, cái chợ xứ làng Quỳnh, huyện Quỳnh Lưu khá nổi danh. Nơi ấy, cái gì cũng có sẵn. Ngày nào cũng là phiên chợ. Chợ họp từ tầm mặt trời lên non cây sào, cho đến trưa. thế nhưng chiều vẫn có chợ hôm nhóm họp cho bà con trong làng hay khách vãng lai mua bán.

Những gánh cá thu tươi, Những mẹt tre cá thu nướng, những nồi đất nhỏ cá thu kho... nhìn thấy phát thèm. Thèm lắm, đói mà. Đói cả làng, cả vùng, không của riêng ai, trừ mấy nhà cán bộ nhà nước có gạo sổ, có tem , có phiếu còn đỡ.

Tùy túi tiền và công chuyện mà người này mua cả con, người khác mua mấy lát cá thu nướng. Người nghèo hơn thì mua cá thửng (có nơi gọi là cá mối) nướng. Họ đem về kho trong cái nồi trạ bằng đất. Kho với mật mía, ớt chỉ thiên, mấy lát riềng, muối trắng và nước lã. Thời ấy làm chi có cay tiêu, bột ngọt. Kho nhỏ lửa mất đến cả buổi, đến lúc cạn khô là được. Có phải vì công thức dân dã ấy không mà miếng cá nó thơm ngon và dậy mùi đặc trưng riêng của nó. Kho xong, treo cất đậy thật cao, đề phòng mèo ăn vụng và kể cả trộm cắp. Thời ấy từng có vụ án 3 năm tù vì tội ăn cắp nồi cá tết và 2 kg đạm ure. Độ mươi hôm người ta lại cho nước vào, nấu cạn, gọi là hâm. Cứ thế cho đến tết thì miếng cá đã nhừ mục, nhưng hương vị thì thơm đến lạ lùng.

Quãng thời gian ấy, nếu nhà có khách, sẻ "bớt" một miếng cá, tráng mỏng vài quả trứng, ra vườn hái mớ rau là có bữa tiếp chu đáo. Còn thịt thì đừng có mà mơ, một năm vài ba lần, Ủy ban xã mới cho mổ thịt vào ngày tết, ngày lễ, mà mỗi khẩu được mấy lạng thôi. Hồi ấy còn phải cúng giỗ, giỗ cả làng theo kỳ thịt heo mà.

Lại nói tiếp về cá kho. Miếng cá trên mâm được chia đều cho mỗi người để dằm ra chấm bánh chưng. Bánh chưng chấm cá kho kỹ ăn thơm ngon, thấm miệng và không bị ngán. Miếng xương cá lúc này vừa mềm, vừa bùi, chỉ dành cho người nhâm nhi với rượu.

Thời nay, không cần phải cất trữ, nhưng nhớ kho thật kỹ, mà phải kho bằng nồi đất, mật mía mới ngon, rồi cất vào tủ lạnh ăn dần. Bánh chưng thì lúc nào mà chả có trong siêu thị. Mùa nào mà chẳng có cá thu. Ngày nào mà chả ăn như tết. Nhưng nói thật, nấu kiểu gì cũng không ngon bằng kiểu nấu truyền thống.

Cái khó ló cái khôn, một món ăn dân dã của một thời nghèo khó. Thế nhưng, bạn hãy thử làm đi, đảm bảo bạn nghiền ngay! Nó là đặc sản đất Quỳnh Lưu Xứ Nghệ đó.

Châu chấu

Phác thảo chân dung đời sống của nền văn minh lúa nước, một nhà thơ Việt Nam, trong tập thơ đoạt giải National Book của Mỹ đã viết: Nghe vọng lại mùa châu chấu đói, xoè cánh bay qua vòm họng người nghèo. Vâng! Đối với người nghèo, nhất là những người nông dân xưa, châu chấu là món ăn cứu đói trong những ngày giáp hạ. Nhưng ngày nay, vẫn là món ăn tưởng chỉ có ở quê nghèo ấy, châu chấu đã lên ngôi đặc sản trong những nhà hàng sang trọng.



Ở Châu Phi, nhiều người nói rằng, châu chấu rang với các loại lá cây non trong rừng rậm là món ăn ngon trong ngày lễ thánh, nhất là vào ngày rửa tội của một cháu bé trong thôn nào đó vừa chào đời. Với người Lào, Miên…chủ yếu là đồng bào vùng cao thuộc các dân tộc ít người, châu chấu cũng là món ăn được ưa thích. Những con châu chấu, chuột, rắn,nhái…để nguyên cánh, da, lông, không rửa qua nước cho vào ống bương già, rải lên lớp muối dựng ở góp sàn bếp. Món ăn chín nấu trong ống bương bằng vỉ men và sức nóng ấy gọi là mắm châu chấu, chỉ dùng thết đãi khách quý, người thân. Vì vậy, khi nhìn thấy món ăn này, bạn chớ bịt mũi không ngửi nổi… đừng nói là ăn (!)…gia chủ sẽ không bằng lòng đấy!



Còn ở Việt Nam, như đã nói, châu chấu là món ăn quen thuộc của nhà nghèo. Món châu chấu xuất xứ từ đâu, không ai rõ. Theo giáo sư Từ Chi, nếu ăn rau dại là tập tục của người Mường cổ được người Việt kế thừa thì có lẽ châu chấu, cũng là thành phần trong danh sách thực đơn của người Mường xưa để lại cho ngày nay. Song với tôi, trong bước vượt dài của nền văn minh nhân loại từ ăn sống đến ăn chín, tôi nghĩ rằng bọn trẻ cũng là một trong những tác giả sống động nhất của món ăn thiên nhiên. Dám chắc điều đó, bởi trong ký ức của mình, tôi luôn phảng phất mơ mùi hương đồi cỏ heo may và châu chấu nướng vàng thơm phức. Hồi đó, những con cà cuống còn chưa khan hiếm và lũ châu chấu cũng còn bay ràn rạt trên mặt lúa. Bọn trẻ chúng tôi dọ dẫm bắt từng con một, xiên qua thanh tre cật già, gác lên bếp lửa. Gọi là bếp cho oai, thực ra, chỉ có ba hòn đá kê khuất giữa những lùm cây tránh gió…Và xung quanh là những cặp mắt hau háu nhìn vào thanh tre, chờ cho từng chiếc cánh châu chấu cháy xém, để lộ thân hình lẳn tròn, bóng mượt mỡ màng…



Nhưng không chỉ có bọn trẻ chúng tôi mới biết mê món ăn châu chấu. Người lớn ở nhà quê cũng rất thích “phá mồi” món châu chấu rang, thêm chút rượu cuốc lủi đã thành hạng sang nhất quốc. Cho đến nay, rang có thể xem là hình thức chế biến món ăn phổ biến nhất. Thường vào những hôm sau cơn mưa, đặc biệt là mùa giông đầu mùa hạ, châu chấu bị ướt mưa, nặng cánh, không bay được, nên rất dễ chụp bắt cho vào giỏ mây đeo bên hông hay vặt cánh, đút vào miệng nhai như trẻ con đi tìm mồi cho chim. Loại châu chấu béo ngậy, bé ruột, thơm ngon, nhiều thịt nhất là châu chấu sim. Toàn thân châu chấu sim màu xanh, lớp cành trong hồng phấn mỹ miều xinh đẹp nhưng đôi bắp càng to bự, món thú vị nhất của dân “nhậu” lại là một vũ khí lợi hại. Chỉ cần bạn sơ ý, sẽ bị ăn một búng chân vào tay còn con mồi của bạn thì bay vù giữa đám cỏ xanh, mất dạng.



Bây giờ, các kiểu bắt thủ công phần nhiều đã được cải tiến, vì theo kiểu bắt từng con một, nói vui như bọn trẻ con là…chờ đến năm sau mới có đủ một đĩa thức ăn! Bạn chỉ cần một chiếc lưới mỏng tang, bền chắc, mắt lưới đan dày hệt như mớ bòng bong giũ tép, rải lên thảm cỏ. Đêm xuống, châu chấu đáp xuống cỏ tìm giấc ngủ sẽ bị tóm gọn cả đàn. Chỉ cần vặt cánh, kéo ruột, đặc biệt không rửa qua nước vì nước lạnh làm máu châu chấu rất tanh (ở đây, tôi ngờ rằng các nhà hàng chế biến có chất dung dịch rửa sạch con châu chấu như là bí quyết nấu ăn riêng không thể tiết lộ, và chỉ đành giới thiệu theo kinh nghiệm “nhà quê” của bản thân),chờ chảo mỡ nóng già, cho châu chấu vào đảo đều đến lúc chín vàng, bạn đã có món châu chấu rang rồi đấy. Cách chế biến này thật đơn giản, không khác lắm với kiểu rang con nhộng tằm, cũng là một món ăn đặc sản bình dân kỳ thú của miền Bắc.



Còn có nhiều cách chế biến món ăn châu chấu khác, nghe có vẻ cầu kỳ và “cao cấp” hơn mà tôi đã từng được may mắn thưởng thức qua, là món châu chấu xào sả ớt và lẩu châu chấu. Món ăn châu chấu xào sả ớt, cũng không xa lạ lắm nếu bạn đã từng hít hà vị cay thơm ngọt của những đùi ếch trắng phau được phủ lớp gia vị màu hấp dẫn. Có khác một chút, món ếch xào sả ớt phải đi kèm với bánh mì để…chấm chấm gặm gặm thì châu chấu xào sả ớt không có nước. Theo các chuyên gia đầu bếp, sở dĩ khác nhau như vậy vì xào khô là cách tốt nhất để bảo toàn độ giòn tan béo ngậy rất riêng biệt của con châu chấu.



Còn món lẩu …thật khó hình dung và nuốt nổi món này nếu bạn chỉ tưởng tượng. Tuy nhiên, đây là món ăn rất đặc biệt, thấm đẫm hương vị đồng quê. Gần với kiểu nấu món lẩu cá lóc đồng, món lẩu châu chấu cũng cần các thứ phụ gia như lá rút, me chua, măng dưa muối chua, tai chua, đậu rồng, rau ngổ…Song nếu như con cá lóc đồng sau khi chế biến làm sạch ướp gia vị được cho ngay từ đầu vào nồi nước dùng để ngọt nước thì món lẩu châu chấu, ngược lại, phải đợi đến khi nồi nước dùng có đủ các thứ phụ gia sôi đều, hớt bọt, cho gia vị vừa ăn, đặc biệt là không thể thiếu vị cay của ớt và gừng, rồi mới trút châu chấu đã rang vàng từ đĩa vào. Con châu chấu vàng rộm ngấm nước chua, đặt trên một bát bún sợi to, ăn kèm với giá đậu, chuối chát cùng với các loại rau thơm khác thật sự là món ăn khoái khẩu. Vấn đề là.., bạn có dám ăn không?



Nhiều thực khách , nhất là các bạn gái, chỉ nghe đến món châu chấu, nhộng tằm, trứng kiến, thịt chuột…đã xanh mắt lè lưỡi. Nhưng đấy chỉ là số ít thôi. Ở các khu vực chợ Ông Tạ, chợ Phạm Văn Hai, T.P Hồ Chí Minh, nơi tập trung rất đông người miền Bắc vào sinh sống, món ăn châu chấu vời nhiều kiểu chế biến khác nhau vẫn luôn được ưa chuộng. Chắc hẳn, nhiều người cũng muốn tìm đến món ăn này như để tận hưởng chút phong vị dân dã của thiên nhiên hay để hồi nhớ lại những khoảnh khắc ấu thơ, trên triền đê lộng gió, bao nhiêu cặp mắt đã chầu quanh con châu chấu nướng vàng…

Mắm chưng hột vịt

Thời đi học xa nhà, sinh viên chúng tôi thiếu thốn đủ mọi bề. Vì thế, mỗi lần về thăm nhà, má tôi vẫn chuẩn bị vài món đồ ăn cho tôi đem lên thành phố ăn dần.



Tôi còn nhớ mỗi lần ra bến xe đò, tôi thường xách lỉnh kỉnh nào là: một quầy chuối xiêm, một lon “gô” tép bạc rang muối (loại hộp nhôm của hãng sữa Guigoz - Pháp, rất thông dụng thời bấy giờ), vài “gáo”mắm sặt (mắm đựng trong cái gáo dừa đen bóng, chèn kín bằng miếng vỏ tràm phía bên trên), một chục hột vịt… Khi xe lăn bánh, nhìn bọc đồ ăn, có khi tôi không khỏi rơi nước mắt!



Ngày hai buổi, sau khi rời giảng đường, tôi chạy xe tạt qua chợ mua một vài thứ cần thiết cho bữa ăn như: thịt ba rọi, rau thơm, dưa leo, cà chua, chuối chát, chanh, ớt… . Thế là về đến phòng trọ, tôi có thể chế biến được món mà mình ưng ý nhất lúc còn ở nhà: “mắm chưng hột vịt”.



Làm món này làm rất dễ và gọn. Trước hết, cho mắm sặt (khoảng 150 gram) vào nồi với một ít nước ( nhớ ít nước thôi, nếu nước nhiều, mắm sẽ không đặc, mất ngon) nấu sôi cho đến khi thịt mắm rã ra. Dùng vợt lược lấy nước, bỏ xác. Kế đến, thịt ba rọi (200 gram) bằm nhuyễn cho vào rồi nêm nếm gia vị (đường, bột ngọt, hành tím xắt mỏng, tiêu xay, ớt xắt miếng…) cho vừa khẩu vị. Đập 3 hột vịt, đánh cho tan, đổ chung mọi thứ vào tô, đem chưng cách thủy độ khoảng 15 phút, khi nào dùng đũa xom thấy mắm đặc là được.



Dưa leo, cà chua, chuối chát, rau thơm… cho vào dĩa. Mắm chưng chín múc ra tô. Cơm nóng bới ra chén… Gắp một miếng mắm chưng cùng vài cọng rau thơm, miếng chuối chát, cà chua… đưa lên miệng nhai chậm rãi. Mùi thơm của mắm, vị chua, chát, cay nồng của rau hòa lẫn vị béo bùi của hột vịt, tạo nên hương vị đậm đà của một món ăn đặc trưng Nam bộ thời khẩn hoang!...



Giờ đây, mỗi khi vào quán ăn, nghe thoảng mùi mắm chưng, tôi lại nhớ da diết “những gáo mắm sặt” má cho khi lên xe về thành phố!!...

Ốc len miệt vườn

Quê tôi ở xứ dừa, dừa bạt ngàn. Mương, rạch ngang dọc khắp miệt vườn.



Dọc hai bên con rạch, người ta thường trồng dừa nước để chống lở bờ. Dừa nước lớn lên, gốc dừa to đùng, bẹ lá có khi nằm sâu dưới nước. Nước lớn, ốc len theo con nước ăn rong rêu, bùn đất bám quanh gốc dừa rồi leo dần lên bẹ, bò đủng đỉnh. Mùa mưa, trời mát, ốc sinh sản nhiều vô kể.



Khi còn nhỏ, hè nào tôi cũng được ba má cho về quê ngoại nghỉ hè. Người theo chăm sóc tôi suốt thời gian ở quê là dì Sáu. Lúc đó dì chưa có gia đình, nên hai dì cháu rất thân nhau. Biết tôi thích ăn ốc len, dì thường mượn chiếc ghe nhỏ chèo đi bắt ốc. Hai dì cháu luồn lách trong những mương rạch. Trời mưa lâm thâm. Sợ tôi bệnh dì bắt tôi nằm xuống ghe, úp cái mo cau lớn lên người tôi để che mưa, còn dì đội nón lá, chèo xuồng chầm chậm. Không chú ốc len nào trong đám dừa nước thoát được đôi mắt tinh tường của dì.



Muốn ngon, phải ngâm ốc trong nước vo gạo một, hai tiếng đồng hồ cho nhả hết nhớt rồi rửa sạch. Giờ mua ốc ở chợ, người bán có cái kềm bấm hết đuôi mớ ốc cho người mua, nhưng hồi đó, dì tôi phải để ốc lên thớt chặt múm đuôi từng con. Chặt xong, dì rửa sạch để đó, rồi lựa một trái dừa nhỏ mà dày cơm để nạo lấy nước cốt. Phần tôi chạy ra vườn kiếm mớ rau răm với vài trái ớt hiểm. Chuẩn bị đâu đó xong xuôi, dì đổ mớ ốc len vào chảo, đảo đều. Ốc vừa chín, dì chế nước cốt dừa vào, nêm nếm, nước vừa sôi lại là tắt lửa, bỏ rau răm, ớt hiểm vào trộn đều, nhắc xuống liền. Nước cốt dừa lấp xấp trắng mỡ màng, hơi nóng bốc lên mùi thơm rau răm ngào ngạt. Cầm một con ốc len đưa lên miệng hút cái rột, bao nhiêu ngon ngọt, béo ngậy từ thịt ốc chui tọt vào miệng, thật đã!



Vài chục năm đã qua, dì Sáu tôi nay đã xa khuất. Quê tôi cũng không còn nhiều những con ốc len đeo bẹ dừa nước như ngày trước, vì bị tận diệt và mương rạch cứ bị lấp dần. Ngoài chợ, ốc len được bán rất nhiều, nhưng hình như chúng không có được hương vị phù sa, mùi đất, mùi dừa như ốc len quê tôi ngày xưa.

Dế

Món ăn được ông nội tôi chế biến từ dế có mùi là lạ của nước măng chua, ăn vừa giòn, vừa thơm lại béo ngậy của thịt dế, khác hẳn với những món ăn từ cá, thịt vốn quen thuộc hàng ngày nơi thành thị.



Mùa hè, tôi thường được bố mẹ cho về quê nội chơi. Trước là để thăm hỏi ông bà, họ hàng, sau là để tôi biết cảnh thôn quê vất vả, lam lũ "một nắng hai sương" của những người dân nơi đây cũng như ở mọi miền quê khác như thế nào. Tuy rằng chốn này rất yên tĩnh, bình an song đời sống còn lạc hậu, kinh tế chủ yếu dựa vào cây chè, lúa nước, đất rừng tự nhiên.



Làng tôi như một cái lòng chảo được bao quanh bởi đồi chè, những cánh rừng xanh ngát, tô đẹp thêm bởi màu vàng của lúa mùa đang độ chín rộ. Đàn trâu, bò buổi sáng thì phải làm việc cày kéo, còn buổi chiều được chăn thả thảnh thơi, nhởn nhơ ăn cỏ theo những hàng chè trên đồi cùng lũ trẻ con. Chúng tôi khi thì chơi trò đánh trận, lúc lại chơi đồ hàng, lúc thì đùa nghịch trên lưng những con trâu to khỏe nhưng rất hiền. Khi mà tất cả các trò chơi đã chán, chúng tôi thi nhau xem ai bắt được nhiều dế hơn.



Dưới chân đồi có một con suối nhỏ, chúng tôi lấy những cái chai thủy tinh đã đem sẵn từ nhà đi, đi lấy nước suối đổ vào những lỗ dế mới đùn lên. Gặp những lỗ dế nông, hoặc những chú dế sợ nước lập tức chúng bò ra ngay khỏi lỗ. Và như thế chúng sẽ không thể thoát khỏi bàn tay ranh mãnh của những kẻ chuyên đi "săn" dế chuyên nghiệp. Những con dế bắt được tôi bỏ vào ống nứa, lấy lá cuốn nút lại không cho chúng bò ra ngoài. Khi đã bắt được kha khá và đàn trâu bò bụng đã no nê, căng phồng cũng là lúc bóng đã xế chiều. Chúng tôi dong đàn trâu bò về nhà, tay cầm ống nứa đựng những con dế sống vẫn còn đang nhảy tanh tách trong đó với khuôn mặt hớn hở, vui tươi vì chiến lợi phẩm thu được của một ngày lao động đầy hăng say, hứng khởi.



Những con dế sống tự nhiên đó được ông nội tôi chế biến thành một món ăn đặc biệt, ngon lành mà hết sức đơn giản như sau: Ông tôi nhúng dế vào một chậu nước nóng sạch, rồi vớt ra, lấy kéo cắt cánh, bỏ ruột từng con một, sau đó rửa sạch lại bằng nước muối pha loãng. Vớt dế ra để ráo nước, rồi trộn chung với muối, mì chính, hạt tiêu để chừng 10–15 phút cho ngấm gia vị. Cho 2–3 thìa mỡ vào nồi, đun mỡ sôi, nóng già thì cho dế đã ướp gia vị vào đảo đều tay tới khi dế vàng giòn. Tiếp đó cho 2–3 muôi canh nước măng chua vào, lấy đũa đảo đều tay cho tới khi nào ráo nước, dế khô ròn, vàng đều (màu cánh gián) thì bỏ ra cho vào đĩa. Món ăn này được ông nội tôi cùng các cụ già trong làng rất thích, là đồ nhắm rượu cao cấp hiếm có.



Món ăn này được coi là đặc sản, bởi nó có mùi là lạ của nước măng chua, ăn vừa giòn, vừa thơm lại béo ngậy của thịt dế, khác hẳn với những món ăn từ cá, thịt vốn quen thuộc hàng ngày nơi thành thị. Do vậy tôi rất thích ăn và ấn tượng với món ăn đặc biệt này ở quê tôi.

Ve ve món ăn độc đáo

Ve sầu khóc suốt mùa đông, con ve khóc mùa đông thế nào không biết chứ khi tôi còn nhỏ mỗi khi hè đến, mùa mưa bắt đầu lai rai ướt đất, cuối tháng 6 là mấy đứa con nít tụi tôi vui lắm, vui không phải vì được nghỉ hè mà vui vì tới mùa đi soi ve và được ăn ve ve. Có lẽ làng Giồng Ông Tố ở huyện Thủ Đức là nơi duy nhất người ta ăn ve ve, mua bán ve ve.



Con ve ve ở đây là ấu trùng của con ve kim chi chưa lột vỏ vừa mới ở dưới đất chui lên còn lớp vỏ vàng óng, dân làng tôi gọi là con ve ve. Khi mưa thấm đất vừa đủ mềm là mùa ve ve bắt đầu, ban đêm người ta đi dọc theo các ranh tre, các ranh vườn để bắt các con ve ve vừa mới từ dưới đất chui lên, để đến sáng đem ra chợ Giồng bán hàng rổ bự. Ve ve hồi đó được bán theo từng chục con, người mua thường mua mỗi lần là trên một trăm con. Tôi không bao giờ quên sự chịu khó của má tôi và các chị tôi khi mua ve ve về là ngồi tỉ mỉ lặt hết chân từng con ve ve rồi rửa sạch...



Bây giờ nhớ lại mà tôi vẫn còn thấy đói bụng như ngửi thấy mùi của chảo mỡ phi hành tỏi thơm phưng phức rồi đổ ve ve vào xào qua xào lại, nêm nếm, khi chín xúc ra đĩa vàng ươm, cuốn với bánh tráng, dưa chuột, rau sống rồi chấm với nước mắm chanh ớt, vị bùi, béo ăn mãi không chán. Ve ve xào giống như con nhộng tằm xào, có điều con ve ve không hôi như con nhộng tằm, sau khi xào xong là thơm y như đậu phộng rang. Mà đâu chỉ có ve ve xào, còn ve ve lăn bột chiên giòn ăn mãi mà không hết thèm chứ nhiều món như tôm chiên lăn bột ăn chừng vài con đã ngán. Rồi bánh xèo ve ve, ve ve kho mặn ăn ngon hơn cá bống trứng kho tiêu. Có chị quen với gia đình tôi còn sáng chế ra món ve ve giả đậu rang Chà Và.



Trước năm 1975, ai ở Sài Gòn mà hay ăn vặt thế nào cũng biết món đậu rang Chà Và luôn bán kèm với món bánh còng rế chiên giòn rụm mà thơm phức mùi quế, mùi lá cà ry. Ve ve giả đậu rang Chà Và cũng ướp con ve với lá cà ry xong rồi bỏ vào chảo muối ớt lăn qua lăn lại cho tới khi chín, mà ve ve thì rất mau chín, nhón từng con một bỏ vào miệng là giòn tan nếu không nói trước chắc ai cũng tưởng mình đang ăn đậu rang Chà Và thứ thiệt.



Dân chúng ngày càng đông đúc, xã hội phát triển, làng tôi dần mất đi những khu vườn, những ranh tre, đâu đâu cũng là nhà cao tầng, con ve ve biến mất, đã lâu rồi người làng tôi không ai còn nhắc đến con ve ve nữa, mà tụi con nít sau này cũng không hề biết được thú vui ban đêm thắp đèn lon sữa bò đi bắt ve ve về bỏ vào trong mùng để sáng hôm sau thức dậy thấy cái vỏ vàng óng nằm kế bên con ve kim đang hong khô đôi cánh.



Tình cờ xem ti vi rồi đọc báo thấy nạn ve ve phá cà phê tôi nghĩ có lẽ dân các vùng đó chưa bao giờ ăn thử con ve ve - ấu trùng ve kim và cũng không biết mua bán ve ve. Chứ nếu họ biết cách bắt và vận chuyển ve ve xuống làng Giồng Ông Tố của tôi cũng như đem xuống thành phố bán và phổ biến các món ăn ve ve thì biết đâu ông trời đã ban cho dân các vùng đó một món quà rất lớn chứ không phải là tai họa vì nếu ai cũng thích ăn ve ve thì có thể giá một ký ve ve sẽ cao hơn giá một ký cà phê. Cà phê thì nhiều nước có, chứ món ăn ve ve mà được phổ biến thì sẽ là món độc chiêu duy nhất của Việt Nam mà thôi. Tại sao không? Hy vọng tôi sẽ được ăn lại các món ve ve ngon "thần sầu quỷ khóc" khi ve ve được bán trở lại ở thành phố Hồ Chí Minh.

Mỗi một lần Tết về, một lần lòng dạ xốn xang vì thương nhớ năm cũ. Có lẽ, chỉ những ai sinh ra trong một làng quê nghèo, trong một gia đình nghèo đói quanh năm, ký ức những cái Tết nghèo xa xưa mới ám ảnh da diết đến thế.

Quê tôi ven sông Ngàn Mọ. Dân làng quanh năm làm ruộng, câu cá, mò cua bắt ốc để sống. Đầu làng, có một chợ Bến nhỏ, chợ tồn tại khi xưa, lâu lắm rồi, thời phong kiến địa chủ, dân làng họp chợ để có thức ngon vật lạ thì nhà quan tới mua. Nhưng khi tôi lớn lên, chợ Bến không còn, hỏi người làng, mọi người cũng thở dài ngước mắt lắc đầu, chợ Bến đã không tồn tại từ lâu lắm. Chợ Bến bây giờ chỉ còn là một cái bến trống thoai thoải, chiều nào cũng là nơi cả làng đổ ra tắm táp, giặt giũ cho cả người và cả trâu bò, rồi gánh nước về đổ đầy chum đầy lu để sinh hoạt. Cả làng chỉ có một dòng sông để lấy nguồn nước cho tất tật mọi sinh hoạt.

Một năm, may lắm, nhà ai có giỗ, có việc ma chay cưới hỏi, hay là vào ngày Tết thì người làng mới đi 5 - 7 cây số ra chợ huyện, chợ thị xã Hà Tĩnh để sắm một bữa cỗ nghèo. Chỉ thế thôi, một năm, người dân quê tôi xưa ấy chỉ đi chợ có vài lần. Vài lần đám trẻ con trong nhà được ăn thịt mỡ, được ăn bánh chưng, hay xôi nếp đỗ. Còn lại quanh năm chỉ có rau lang làm rau, khoai lang làm cơm, bữa no bữa đói, bắt được con tép con cá thì rang mặn lên ăn mấy bữa. Nền kinh tế tự cung tự cấp, tự túc đã ăn sâu vào mỗi nếp nhà, mỗi gia đình. Gia đình nào cũng có vạt rau muống, có lưới thả cá, có nơm úp cá và rớ để cất tép. Không có một đứa trẻ nào ở quê lên 5 lên 6 mà không biết bám mương, bám hồ để đi cất tép làm thức ăn cho gia đình.

Làng tôi nghèo lắm, cả khi Tết về có gia đình còn không có gì ăn nói gì đến bánh chưng, thịt mỡ. Mùa giêng hai và giáp hạt là những mùa thiếu ăn thiếu đói triền miên ở quê tôi. Cứ đến độ tháng một, chạp, cái đói rà rã cho đến tận giêng hai, đói quay quắt, kiệt quệ từng nếp nhà. Thì cứ vào đận ấy, ruộng lạnh giá đổ nước trong, cá còn không sống nổi nói chi đến lúa. Mùa đông không phải là mùa vụ, từ vụ Hè Thu kéo dài cho đến Đông Xuân phải mất mấy tháng ròng. Vì thế thóc gạo trữ đến mùa giáp hạt là sạch trơn, nhà ai cũng chạy vay ăn từng bữa.

Có gia đình đói quá, đến thóc giống cũng đổ ra mà ăn chạy đói. Đúng vào cái dịp đói nhất trong năm thì lại vào dịp Tết. Tôi nhớ, trong làng có hàng chục hộ gia đình ngày Tết chỉ ăn khoai xéo. Ngày bà nội tôi còn sống, bà hay trữ thóc gạo ngày mùa, đến dịp giáp hạt giêng hai, bà có thóc để bán, hoặc cho vay rồi đến mùa lấy. Bà nội tôi thương người, trong làng, ai đói ăn bà đều cho vài cân gạo dịp Tết. Bà thường kể chuyện bà L ở trong xóm, Tết, cả nhà đắp chiếu nhìn nhau, cúng giao thừa chỉ có khoai khô nấu xéo lên ăn, không còn gì để cúng.

Quê tôi nghèo vậy nhưng tôi nhớ lắm, Tết năm nào, dù nhà ai nghèo đến mấy cũng phải sắm bằng được hai thứ. Một bánh pháo để nổ đêm giao thừa, và một đôi câu đối đỏ để treo lên bàn thờ. Hai thứ đó không thể thiếu trong cái Tết nghèo quê tôi. Nhà ai mà thiếu mất hai thứ đó thì Tết buồn đến phát khóc. Đói ăn đói mặc đến đâu mà giao thừa không nổ pháo đuổi tà mà, mừng xuân mới thì Tết sẽ buồn đến không ngẩng đầu lên với nhà hàng xóm được. Tôi nhớ mãi nhà ông T ở ngay gần nhà bà tôi, giao thừa, nghèo quá không mua nổi bánh pháo. Đúng giao thừa, ông T gọi 3 cậu con trai đang sức vóc, cả 3 cầm cái mẹt to rồi vỗ bồm bộp xuống sân gạch. Ông T thì lấy bẹ chuối to nhất, cứ thế đập bẹp bẹp xuống  cái thúng con hay dùng để đựng lúa gạo phát ra những tiếng nổ y hệt như tiếng pháo địa pháo đùng. Bây giờ cũng vậy, cả bốn cha con ông T vỗ không biết mệt, hàng xóm nhìn sang, lấy làm ghen tị sao mà nhà ông T nghèo thế mà có nhiều tiền để mua nhiều pháo đại thế. Sáng mai, mấy đứa trẻ con, một vài người lớn chạy sang nhà ông T sớm để kiểm tra xem có xác pháo bung ra đầy sân không. Có xác pháo, thì đích thị là pháo thật rồi. Bà T biết thể nào ngày mai cũng có người đến  xem thực hư, tối đó đã lấy giấy báo, giấy bản, hòa mực mồng tơi, hoà nước trần, quết lên giấy rồi xé vụn ra rải đầy một góc sân, xác “pháo” càng dày, càng tốt.

Mồng một Tết, làng tôi có lệ đi chúc Tết sớm để lấy tiền mừng tuổi, và để được mời uống rượu với bánh chưng. Nhà ai cũng nghèo nên mọi thức ăn thức uống người nhà bóp mồm bóp miệng chịu nhịn để mồng một Tết, khách đến nhà còn có thứ để bày ra mâm ra đĩa, đỡ tủi phận. Cả ngày mồng một Tết, không ai quét sân, thậm chí cứ hè nhau xé giấy rác rải lên số ít xác pháo thật sự, để ai đến nhà cũng kêu lên ui chà, nhà ông nhà bà giao thừa nhiều pháo quá, Tết năm nay ăn Tết to quá. Nhiều xác pháo trên sân là niềm kiêu hãnh của mỗi gia đình. Không cần biết có thể trong nồi không có lấy một cân thịt nào, không có chiéc bánh chưng nào nhưng cứ nhìn thấy xác pháo đầy sân là oách, là Tết phong lưu lắm.

Mấy anh chị em tôi cũng từng xé giấy màu thêm để rải lên sân trong phút giao thừa ấy. Không hiểu sao, cứ giao thừa nào, từ khi còn nhỏ, cho đến tận ngày hôm nay, lúc nào tôi cũng thấy nao nao buồn. Có lẽ những hình ảnh của giao thừa trong quá khứ từ ngày tôi còn bé tí đã ám ảnh tôi quá. Nhà tôi mẹ là công nhân, cha là giáo viên cấp 1 ở trường làng đã nghỉ hưu. 5 anh chị em chúng tôi từ nhỏ cho đến lớn không bao giờ được ở cùng cha và mẹ. Trong chiến tranh sơ tán, cha và mẹ đi theo hai  cơ quan khác nhau. Khi về hưu, cũng vì nhọc nhằn với mưu sinh mà cha phải ở quê chăm bà, còn mẹ đeo theo đàn con bám trụ ở Trường Cẩm Bình nơi mẹ làm việc để mở một cái quán nhỏ nuôi 5 anh em đi học.

Từ khi tôi lớn lên cho đến lúc trưởng thành, không có một cái Tết nào gia đình sum họp được. Mẹ phải trực bán quán, mồng một Tết đã có người mua kẹo bánh, rượu chanh đi chúc Tết. Mẹ không bỏ lỡ cơ hội kiếm tiền nuôi chúng tôi. Cứ 27 Tết cho đến 30 Tết, mấy anh chị em tôi thay nhau gánh đồ Tết về nhà. Nào là rau củ để muối dưa, muối hành, rồi chè, rồi nếp, rồi gạo.

Tết, cha tôi là con trưởng, năm nào cũng phải làm ba bữa cỗ cúng, cúng gia tiên trưa 30 Tết, cúng giao thừa, mồâng một Tết và cúng tiễn đưa ông bà ông vải về ăn Tết. Mỗi bữa cỗ ít nhất là phải 3 - 4 mâm mới đủ cho con cháu, các chú... quây quần về cúng ông và chúc Tết bà. Cộng cả gia đình tôi có tới 6 người nhưng Tết nào mẹ cũng chỉ giới hạn trong 3kg thịt lợn. Từng ấy thịt phải chế biến đủ giò, chả, giả cầy, nem v.v. và phải có thịt miếng để cúng trong ba ngày Tết. Mỗi ngày cũng chỉ làm một cân thịt, chế biến đầy đủ các món, thứ hôm sau cúng không một ai được phép đụng vào.

Suốt cả tuổi thơ tôi, nhà chưa bao giờ nấu bánh chưng, không có nhiều nếp, nhiều gạo, nên nhà không khi nào đùm thứ bánh xa xỉ ấy. Mấy chị em tôi luôn sợ Tết, sợ cái cảnh cân đong đo đếm của mẹ cho từng bữa cỗ mà toát cả mồ hôi hột, thấy Tết quá nhọc nhằn. Mẹ dặn đi dặn lại từng món từng thức, chỉ lo các con làm cỗ bị thiếu không đủ món để dọn. Cỗ không bao giờ được nếm trước, cúng phải tội. Các anh chị đã lớn, phải tự lo làm cỗ cúng Tết. Mẹ nấu sẵn một số món mang về cứ thế là chế biến.

Tết của gia đình tôi có thể nói là còn có thịt còn phong lưu nhất làng. Mấy anh em chúng tôi, đã ám ảnh nỗi lo sợ thiếu cỗ của mẹ ăn sâu vào tiềm thức, nên có Tết, dọn cỗ ra, chúng tôi không dám đụng vào giò chả, hay nem, mà chỉ dám ăn rau, ăn dưa, ăn cá, đợi đủ mâm mỗi người một miếng rồi mới dám ăn. Không có một Tết nào mẹ cho hơn 3kg thịt. Suốt cả thời thơ ấu, Tết nào tôi cũng chỉ mong mẹ tăng khẩu phần thịt lên một chút thôi, để mấy anh chị em được ăn một bữa đỡ thèm.

Tết nghèo luôn truy đuổi trong mấy chị em tôi. Nhưng nếu Tết nghèo mà cả nhà sum họp, có mẹ ở bên cạnh, Tết sẽ đỡ chênh vênh biết dường nào. Giao thừa nào cũng chỉ có mấy cha con tha thủi làm cỗ cúng Tết với nhau. Tôi không thể nào quên được cảm giác giao thừa, buồn và chênh vênh kinh khủng. Mấy chị em thức đồ xôi, làm thịt gà và nấu chè. Tôi có nhiệm vụ canh đồng hồ, sao cho đến 12h đêm là cỗ bàn phải xong để cha tôi cúng ở ngoài trời. Khoảnh khắc chênh vênh và buồn lặng nhất là phút giao thừa, cả mấy bàn thờ trong nhà ngoài trời đỏ rực hương, cha một mình khấn vái trong mênh mông trời đất. Khi tôi lớn lên thì các anh đều đã đi bộ đội ở xa, chỉ còn lại 3 chị em, đứng tựa cột nhà nhìn cha cúng và đốt pháo.

Khoảnh khắc ấy, mấy chị em, anh em đều mong có mẹ biết bao nhiêu, dẫu nghèo khó, dẫu đơn sơ nhưng cả nhà đầy đủ thì Tết là những ngày ấm cúng nhất. Xong mồng 2 Tết cúng tiễn đưa ông bà ông vải, mấy chị em lại tất tả xuống quán phụ bán hàng cho mẹ. Lại chuẩn bị đùm đùm gói gói lên đường trở về trường để bước vào năm học. Cuộc mưu sinh nhọc nhằn của mẹ đã hằn vết lên ký ức của chúng tôi, ước mong có mẹ trong 3 ngày Tết đã trở thành nỗi ám ảnh lớn nhất của chúng tôi. Nhưng nếu mẹ, cha và bản thân chúng tôi không hy sinh, chúng tôi làm sao có thể học hành đến nơi đến chốn.

Năm nay, Tết lại sắp sửa về. Tết ở quê nhà bây giờ không ai còn đói ăn thiếu mặc nữa. Không còn phải cắt giấy làm hoa, làm cành đào, hay lấy mẹt vỗ làm tiếng pháo nổ. Ngày ba tháng chạp không còn ai thiếu đói, ngày Tết chủ nhà không phải nhịn thèm để dành thức ăn tiếp khách. Tết năm nào cả mấy gia đình anh chị em tôi cũng quây quần ở quê, bên cha mẹ già ngoài 80 tuổi. Thắp hương cúng tổ tiên, được có cha có mẹ quây quần, lòng vẫn quay quắt nỗi buồn xưa cũ. Vậy là, cứ mỗi lần Tết đến vẫn cứ rưng rưng thương nhớ chuyện xưa

Khi họ rỉ tai nhau những lời độc địa đó, không biết có ai trong số họ nghĩ rằng họ đã đâm vào trái tim non nớt của một đứa bé mười một tuổi là tôi, khoét vào niềm tin của gia đình tôi vết thương âm ỉ chảy máu và khủng khiếp như thế nào? Đó là ám ảnh mãi mãi tôi không thể nào quên: ám ảnh mùa đói những ngày tháng tám…

........................

Mùa đói 1988…

Ngày anh Hai mười một, tôi lên năm, Út tám tháng…

Trời bão. Gió thốc rin rít liên hồi qua gian bếp trống hoác. Mưa lớn, kéo theo lũ đầu nguồn đổ về. Nước tràn vào nhà quá nhanh, anh Hai xoay sở không kịp, vội ẵm Út và bế tôi đứng lên chiếc bàn cũ kỹ. Ba đứa trẻ không khóc, nhưng cứ vừa run vừa tái mét mặt cho đến lúc thấy cái dáng mẹ sấp ngửa chạy về, vội vàng bế các con lên nóc nhà tránh lũ.

Mùa đói 1992…

Cảnh nhà bần hàn, ăn cơm độn ngô từ tháng này sang tháng khác. Mà tôi thì đau ốm liên miên…Để có thức ăn đổi bữa, anh Hai lẽo đẽo mặc áo mưa theo cha dọc bờ ruộng bắt cua đồng về nấu canh húp cho đầy bụng. Cua kẹp rách tay anh, rồi làm mủ sau đó ít ngày. Chẳng ai trong ba chúng tôi hoài nghi chuyện cha không đói, nhất định đòi sẽ ăn tối một mình.

Đêm…tôi nhẹ nhàng ra khỏi giường, khẽ khàng hết mức có thể để Út không thức giấc. Sau cánh cửa loáng thoáng tiếng cha nói với mẹ: “Mai mình và tôi nhịn thêm một bữa nữa để dành them tiền mua thuốc cho thằng Hai, con Ba”. Dường như có ánh lửa sáng nào bập bùng trong giọt nước mắt đang tràn trên mi tôi…và mỗi ngày tôi lại ru em ngủ: “À ơi! Em ngủ cho ngoan! Thương cha, thương mẹ, thương cho bát cơm thơm mùi đất, mùi khói, mùi của yêu thương…”.

Mùa đói 1994…

Cha mẹ đi vắng, anh Hai trọ học về thăm nhà, quà đem cho các em là dăm viên bi xanh đỏ. Hai đứa ríu rít mở ra, cười tíu tít. Trước khi lên trường, anh giúi vào túi quần tôi tờ năm ngàn nhàu nát, dặn mua bánh cho Út ăn. Bánh chưa kịp vào miệng thì đã bị một trận đòn thừa sống thiếu chết của người dưng bởi trả lời không được câu hỏi: tiền đâu tôi ăn bánh khi tôi nghèo đói mà nhà họ lại mất tiền?

Mẹ về, tôi thoát án. Nhưng lần đầu tiên trong đời tôi thấy mẹ khóc, lần đầu tiên tôi hiểu giá trị câu nói “khẩu hại xác phàm, miệng thiên hạ thay đen đổi trắng”. Khi họ rỉ tai nhau những lời độc địa đó, không biết có ai trong số họ nghĩ rằng họ đã đâm vào trái tim non nớt của một đứa bé mười một tuổi là tôi, khoét vào niềm tin của gia đình tôi vết thương âm ỉ chảy máu và khủng khiếp như thế nào? Đó là ám ảnh mãi mãi tôi không thể nào quên: ám ảnh mùa đói những ngày tháng tám…

Mùa đói 1996…

Ngày anh Hai vào đại học, hành trang chuẩn bị đem theo là vài trăm ngàn tiền học phí và mấy bộ quần áo cũ. Mẹ đãi cả nhà bánh xèo, anh khen sang. Út nghịch vết rách vừa mạng lại trên váy, bố cười hấp háy khen mẹ khâu vuông vức giống ti vi. Tôi ngồi xổm, chờ đợi chiếc bánh nóng hổi chín tới.

Ngoài trời đang bão, mưa vẫn lạnh. Gió vẫn đang trở mình ồn ã trên đám cây xiêu vẹo ngoài kia. Từng người nhâm nhi ngon lành những chiếc bánh chỉ bột, có giá, có hành, không tôm, không thịt nhưng đó là thước phim về bữa ăn ấm áp, đủ đầy nhất mà tôi từng đi qua.

Những ngày về sau…

Năm tháng trôi dần, chúng tôi lớn lên…Tôi và Út lần lượt vào đại học, tốt nghiệp đại học, cao học. Gia đình tiễn tôi bước vào đời ngập tràn hi vọng. Ngoài tuổi năm mươi, cha mẹ chưa có lấy một ngày nghỉ ngơi.

Biết bao mùa đói qua đi, đem theo những lỗi lầm, mất mát của tôi hằn nặng lên đôi vai cha mẹ, anh Hai. Khóe mắt mẹ sâu hơn, tóc cha bạc nhiều hơn, anh Hai vất vả hơn trước mỗi khoản nợ của tôi nhưng chưa lúc nào cả nhà hết hi vọng vào đứa con gái kém may mắn. Có lẽ vì vậy nhiều lúc không gượng được nữa, tôi muốn buông xuôi…lại tự dặn mình: “Thôi…”.

Hai mươi bảy tuổi…Ba năm sau biến cố cuộc đời, tôi vượt gần bảy trăm cây số về nhà. Mọi người vẫn ngồi ở đó, nơi bậc thềm nhà chờ tôi. Ánh hoàng hôn hắt nhạt nhòa sau vai áo, tôi chợt òa khóc như một đứa trẻ lúc tìm đến vòng tay mẹ. Mọi nỗi đau từ cuộc hôn nhân đổ vỡ đã khép lại.

Cuộc đời tôi – một phụ nữ ba mươi tuổi, có quá nhiều thứ để kể, đâu thể chỉ vài ba câu chuyện là đủ. Tôi đã quên nhiều chuyện trong gói ký ức về tuổi thơ nghèo khó của mình. Tất cả đói kém, buồn vui, sướng khổ rồi sẽ qua…Dông bão nào cũng ngủ yên khi tôi có gia đình thân yêu bao bọc bên cạnh.

Và tôi biết khi trở về là bình yên

Xóm cũ tôi về

Bút ký

Quá nửa tháng Ba, những đợt mưa dầm ở quê nhà đã tạm lắng. Bây giờ lúa đang thì xanh sắc chờ tiếng sấm tháng ba vỡ ra thì trổ đòng đòng. Tháng Ba thưở xưa “Ngoài đồng vàng mơ trong nhà mờ mắt” như còn nhói trong tôi kỷ niệm mùa giáp hạt, nhưng hôm nay về lại quê đã khác hẳn xưa. Làng không còn hộ đói và đang tiếp tục thoát nghèo.

Ký ức về tháng ba

Tuổi nhỏ ai chẳng thích tháng Ba, riêng tôi và nhiều bè bạn đã sinh trưởng ở xứ sở này lại càng thích. Thích vì vùng quê ngút ngàn cây cối, ngào ngạt hương hoa.. Hoa bưởi trắng nồng nàn đơm đầy vườn, hoa chanh hoa khế đua sắc cùng hoa bưởi.. Không ít những lần tôi leo cao trên những ngọn đồi quê để ngắm nhìn làng tôi tròn như một mâm xôi phủ trắng màu hoa xoan, hoa gôm, hoa dung.. và bao nhiêu hoa của những loài cây khác nữa..

Nhiều hoa dĩ nhiên là lắm chim, suốt đời tôi chẳng thể nào quên được hình ảnh con chim chào mào có đầu lông đen nhú lên ngộ nghĩnh với đôi má đỏ tươi. Thanh bình quá yên tĩnh quá, khi đôi chim chào mào tình tự trong chùm hoa cau trắng nõn nà rồi thả vào không gian lãnh lót những khúc nhạc chim..Bắt chim, đuổi bướm, đuổi chuồn chuồn đã cho tôi một thế giới đầy cổ tích huyền thoại.. Tuổi thơ của chúng tôi cũng hồn nhiên trong bộ quần áo dây đầy mực tím và chân đất, đầu khét nắng và đứa nào cũng thèm ăn trái cây.

Thằng Vực tính tháng, tính ngày cây vải trước cửa nhà ông Phức bao giờ sẽ chín. Thằng Danh thì mách tôi buồng chuối nhà nó mấy quả đã “ đỏ” rồi. Nó đang tính kế tìm liềm cột vào sào nứa để đưa chuối xuống..Tháng ba chúng tôi vẫn khoái nhất là được thưởng thức sắn nướng. Hôm nào tôi được bố giao nhiệm vụ lên chòi cao để trông chim đừng phá lạc là hôm đó thế nào tôi cũng rủ được mấy thằng bạn tới. Đứa đi tìm củi khô, đứa đào lò , đứa nhổ sắn. Vừa canh giữ chim vừa thưởng thức củ sắn chín còn nóng hổi trên tay.. Chao ôi ! đến bây giờ mỗi lần về cố hương gặp lại nhắc những chuyện xưa đứa vào cũng thấy bồi hồi xao xuyến… Đó là những kỷ niệm vui khó phai mờ trong ký ức nhưng tôi cũng khó quên những kỷ niệm buồn của quê một thời với những gương mặt bà con cô bác lam lũ quanh năm. Họ bán mặt cho đất bán lưng cho trời nhưng cứ đến tháng ba là lo chạy ăn đứt bữa..

Tháng Ba dường như những cối xay tre nằm im hơn, không còn cần mẫn xay vù vù, xay thâu đêm suốt sáng sau vụ gặt tháng năm, tháng sáu.. Tháng ba nhiều gia đình buổi tối lên giường nằm sớm hơn vì họ không có tiền để mua đèn dầu hoả. Những lúc như thế con cái họ phải cắp sách sang nhà bạn để học chung đèn. Những lúc ấy tôi thấy mẹ tôi lục tục dậy, dường như mẹ đang nghĩ nhiều đến làng xóm, đến những người đói khổ nhất trong xóm như bà Phù, bà Miên, bà Dụng, bà Chiu.. và đến cả ông Túc bố thằng Dùng người bạn thân nhất của tôi nữa.. Chiều hôm qua tôi vừa về mách mẹ một tin sốt dẻo rằng: Thằng Dùng bị ông Túc đánh vì hắn chỉ hái được mấy ngọn rau lang, làm sao đủ để trộn với bột gạo làm nồi cháo cầm hơi cho cả nhà. Đúng là thằng Dùng bị cha nó đánh oan. Chính tôi lúc đó chăn bò ở Đồng Họ đã chứng kiến cảnh ông bảo vệ hét inh ỏi, rồi cầm gậy tre đuổi mấy đứa nhỏ đi vì chúng đang toả ra khắp đồng khoai hợp tác xã để hái trộm..

Dùng bị cha đánh, nó chỉ biết bưng mặt khóc và tôi nhìn thấy thương nó quá.. Không để đồng khoai hợp tác xã bị vặt trụi lá nên tổ bảo vệ thôn lại tích cực đi thăm đồng kể cả những đêm mưa dầm gió bấc..Thời bấy giờ cứ khoảng gà gáy canh ba xong, làng tôi lại nghe râm ran tiếng người gọi nhau vào rừng để đào củ mài và tìm kiếm rau má. Củ mài và rau má là hai món ăn thần dưỡng nhất giúp người “bần cố” ở Sơn Thuỷ qua cơn hoạn nạn.. Rau má dễ tìm và ai cũng có thể hái được đầy giỏ, còn cũ mài nhiều cây ẩn sâu dưới tầng đất đá rất khó đào. Kiếm được vài cân củ mài có khi mất công cả ngày..Vất vả thế nhưng cái bụng vợ, bụng con và cả bụng mình đang lép kẹp thì vất vả mấy cũng phải tìm..

Cảm cảnh với dân đào rau má mà gia đình tôi cũng dành hẳn nửa số thóc trong nhà để cứu trợ người đói qua cơn hoạn nạn. Gia đình tôi thời ấy thuộc diện khá giả nhất làng: Vào những năm 1964-1965 với diện tích vườn đồi hơn gần 2ha, vườn nhà tôi lúc nào cũng đầy ắp cau, cam, chuối mít, trầu.. Nhà nuôi tới 5 con hươu sao (trong tốp 15 gia đình nuôi hươu đầu tiên huyện Hương Sơn). Mỗi mùa tính cả chăn nuôi hươu và tiền bán 4 chum cau khô thu nhập 6 ngàn đến 7 ngàn đồng.. Tiền thu nhập từ kinh tế vườn gia đình tôi mua thóc dự trữ lúc đói kém. Trên chạn nhà cha tôi dựng hẳn 4 chiếc cót đựng lúa đầy ắp và thường trực “hai vệ sĩ mèo tam thể” canh chừng chuột đến..

Lúa nhiều thế nhưng anh em tôi cứ tới tháng Ba là phải ăn cơm độn sắn, độn khoai khô.. Mẹ bảo “ Lúc ni các con được ăn no là tốt rồi..Thóc gạo lúc này mẹ phải cho người hàng xóm vay đã..”. Lời mẹ nói lúc ấy tôi còn khờ dại làm sao hiểu được tấm lòng bao dung của mẹ tôi.. Mãi tới bây giờ cứ tới tháng ba đến là tôi lại bần thần nhớ mẹ.. Tôi nhớ mẹ tôi lúc ấy cương quyết không quảy gánh thóc ra chợ bán để kiếm đồng tiền chênh lệch giá, dầu bán thóc lúc ấy gia đình tôi sẽ có thêm đồng tiền rủng rỉnh.. Nhưng mẹ tôi lại nghĩ khác tình nghĩa xóm làng thiêng liêng hơn nhiều.. Nên sự vay này không cần ban ơn và vay không cần lấy lãi một hạt thóc nào. Mẹ ơi mẹ để con ăn cơm độn những năm tháng làng quê nghèo đói ấy để suốt đời con làm thơ tôn thờ mẹ. Cái phúc mẹ để cho con cho cháu bắt đầu từ những nghĩa cử tháng ba này..

Tháng Ba niềm vui râm ran ngõ xóm

Lần này tôi trở lại quê gặp bao nhiêu sự biến đổi ngỡ ngàng. Vừa bước chân tới đầu cổng làng đã thấy dưới chân ngọn núi Nầm đất đá ngổn ngang. Những cỗ máy húc máy ủi đang ngoạn vào bờ núi và một con đường đỏ quạch màu đất hiện ra.. Khi tôi xuống dốc Nầm bất chợp gặp cụ Kiều, cụ Kiều nắm lấy tay tôi một hồi lâu và cảm động nói: “Chú đã đi nhiều nơi không biết cuộc sống của họ bây giờ ra răng. Chứ xã Sơn Thuỷ nhà mình đi mô cũng thấy đường bê tông vào, lối nào cũng thấy đường mới mở.. ”.

Cụ Kiều ngày xưa làm Trạm trưởng y tế xã với dáng người khoẻ mạnh vâm vấp, bây giờ trở thành ông lão tóc bạc phơ. Ngoài tuổi tám mươi, cụ vẫn nhớ như in “con đường đau khổ” thưở trước. Hơn hai thập kỷ, khách lạ nghe nhắc tới Sơn Thuỷ là họ vẫn thấy khiếp đảm về đường. Đường từ Tiên Bì vô Am Đông, Am Trảy, đường từ Nhà Rui đến Cơn Lã cứ mỗi trận mưa ập tới thì sáng nào cũng có vài ba trẻ em đi học bị ngã lăn vì bùn lầy, nước đọng. .Đặc biệt khúc cua vòng dưới chân núi Nầm chỗ cụ Kiều ở, phía dưới là khe suối sâu và đá gan gà lởm chởm. Mặt đường hẹp, hai chiếc xe đạp đi ngược chiều nhau đã khó tránh chứ nói gì đến chuyện xe máy, ô tô hay phương tiện cơ giới khác. Vậy mà Dự án phát triển hạ tầng cơ sở nông thôn đã giúp xã Sơn Thuỷ đổi đời. Mỗi km thảm nhựa giá trị hơn 1 tỷ đồng, một con đường vòng từ đầu làng tới cuối làng ngót ngét hơn vài chục tỷ đồng.

Đúng là người dân quê tôi giờ nằm mơ cũng không thấy được.. Khi đường mở các nhà thầu đã có sáng kiến đến từng thôn trưởng rồi gặp gỡ từng gia đình một để “đổi đất lấy nền nhà”. Chả là quê tôi có tới hàng chục gia đình nhà ở chênh vênh sườn đồi. Mỗi khi lên xuống khá mệt nhọc. Giờ san đất, nhà nhà từ cao hạ xuống thấp. Cái ngõ cũng được mở rộng, ai chẳng thích làm. Còn nhà thầu tiết kiệm được khối tiền mua đất. Thằng Nỉ cháu tôi bảo: “Cậu xem đấy, cái Bộng Trụp đường qua nhà cậu ngày xưa toàn đá dựng lởm chởm. Ai qua đây cũng khom lưng bò qua đá. Bây giờ trở thành đường bê tông đẹp nhất xóm ni”.

Từ chuyện cả xã dồn sức làm đường tôi lân la hỏi chuyện làm ăn.. Thằng Nỉ tâm sự: Cậu biết ngày xưa ai đói nhất xóm không? gia đình thằng Cảnh Tùng đấy, ai khổ chăn không có đắp không? gia đình thằng Quang Thế đấy. Vậy mà bây giờ nhiều người khó theo kịp chúng nó”. Nhắc đến ông Tùng tự nhiên tôi lại thấy thương, thương ông lão chăn bò ở trại Cửa Khâu quanh năm mặc quần áo nâu cọc, da đen như cột nhà cháy. Thằng Cảnh con ông Tùng học chưa xong lớp 4 phải bỏ đi chăn bò thuê cùng cha. Vậy mà thời thế thay đổi, gia đình Cảnh cũng như bao gia đình khác làm ăn khấm khá nhờ sau giải thể hợp tác xã nông nghiệp và chuyển sang khoán hộ.. Năm sào ruộng khoán với 5 sào vườn. Cứ trồng lúa nuôi bò, nuôi lợn và dành dụm tiết kiệm nuôi con.

Bây giờ con cái Cảnh đã trưởng thành, vào Sài Gòn lập nghiệp, đã có tiền gửi về cho cha mẹ sửa lại nhà và mua xe máy. Không chỉ Cảnh giỏi làm ăn mà đứa em út Cảnh con ông Tùng bây giờ lại trở thành người thợ mộc giỏi nhất làng..Đóng tủ, đóng bàn đặc biệt là làm trần nhà khó ai theo kịp. Thằng Nỉ đưa tôi đến chơi gia đình Quang Thế. Vừa vào đã trông thấy đôi hươu trong chuồng phô lên cặp nhung hồng đẹp mắt.. Thằng Quang nhắc lại “Ngày trước nhà bác nuôi hươu là thuộc diện người giàu của huyện. Bây giờ xã Sơn Thuỷ mình có tới 600 con hươu”. Quang quay sang phía Nỉ và bảo: “Nhà em nuôi hươu nhưng thu nhập không bằng ông Nỉ nuôi lợn, nuôi gà đâu”.

Tôi nghe Quang dẫn chuyện không ngờ Nỉ lại là kiện tướng nuôi lợn nái nhất xã Sơn Thủy này. Cách nuôi của Nỉ không cầu kỳ lắm: cho ăn ngô, ăn cám và ăn cây chuối vườn. Nhà Nỉ bao giờ cũng dự trữ được vài tấn ngô tấn cám. Một điều cần thiết trong chăn nuôi mà Nỉ làm được là chuồng trại thường xuyên thoáng mát sạch sẽ. Lợn được ăn no và tắm mát nên lớn nhanh. Hơn chục năm Nỉ đã cung cấp hàng trăm con lợn giống cho bà con trong xã để phát triển chăn nuôi.. Tôi hỏi Quang: “Xã mình bây giờ mùa giáp hạt này có ai đói ăn nữa không ?”. Quang nói một cách quả quyết “Người nghèo có thể đang còn nhiều chứ hộ đói thì không có.. Ngày xưa rau má cứu đói, bây giờ ở chợ mua rau má đắt hơn gạo đó anh ạ..”

Tôi ngủ một đêm tại quê nhà để thưởng thức lại những kỷ niệm xưa. Thưởng thức ánh trăng quê dịu dàng tĩnh lặng. Khuya lắm rồi tôi vẫn không sao ngủ được, có gì cứ dâng đầy trong tôi mà tôi không hiểu nổi. Kỷ niệm quá khứ ư hay tương lai thúc dục? Tôi một mình đi ra ngõ ngắm hoài những đàn đom đóm chao lượn giữa đồng xanh, đom đóm đang thắp đèn múa cho lúa đồng thêm tươi. Xa xa trong lùm cây rậm lại nghe tiếng cuốc kêu gọi bạn về...

Những ngày cuối năm, mưa xuân lất phất rơi từng hạt trong veo li ti e thẹn vương khẽ trên mái tóc báo hiệu đất trời đang độ vào xuân.

     Ở quê tôi, từ những ngày cuối tháng 11, khi mưa xuân về thì khắp mọi vườn nhà nào cũng xới đất vãi cải. Cải là loại cây dễ thích ứng với tiết xuân. Hạt cải chỉ cần vãi ra vài hôm, gặp mưa xuân là có thể phát triển nhanh thành cây con, với một màu xanh mướt tươi non thẳng tắp theo lối đường đất như những tấm thảm nơi quê nghèo. Bởi chỉ cần nhìn những vườn cải mượt mà chợt thấy quê mình giàu lắm cái hồn quê chất chứa khôn nguôi. Chính quê hương đã gói gém cẩn thận những kỉ niệm giúp ta lớn miên man theo ngày tháng. Và kỉ niệm ấy cũng bình dị mộc mạc như cái tình quê vậy.

     Theo thông lệ vào mùa này trong làng đi đến nhà nào cũng có một luống cải xanh được vãi được tỉa. Cải là loài cây hợp với đất ẩm. Đất trồng cải được cuốc bệ lên rồi phăm mịn trộn đều với ít phân hữu cơ. Như thế là đã tạo ra được một môi trường phì nhiêu thuận lợi cho cải phát triển và chống chịu với cái nũng nịu của tiết trời cuối năm cứ thay đổi liên tục.

     Vào ngày tết bên những thức ăn ngậy béo thì một rá cây cải non sẽ trở thành món ăn rau sống kẹp, trong bữa ăn của mỗi gia đình.  Rồi từ đó cải trở thành món khoái khẩu đối với mỗi người mỗi nhà.

     Khi tiết trời lập đông cũng như mọi người trong làng, mẹ tôi tỉa những cây cải to cứng cáp trong luống cải được vãi rồi cấy cải ra theo luống. Chỉ khoảng hơn mươi hôm các luống cải đã xum lá to bẹ lắm rồi. Cứ thế trong cái nắng hiếm hoi những ngày cuối năm. Mẹ tôi lại vội vàng nhổ những cây cải to có giòng rửa sạch để ráo, tranh thủ nắng mới phơi cải héo héo. Nấu nước sôi để nguội cho thêm ít muối khuấy đều rồi nén từng lá cải vào trong hủ đất. Sau đó đổ nước muối cho xấp xấp lá cải là được. Rồi đậy kín nắp hủ và cứ để như vậy vài hôm đến lúc mở ra, từ trong hủ cải sẽ bay vởn vào không khí một mùi thơm chua chua nồng nồng lan tỏa của món dưa cải.  Lúc này từng lá cải xanh đã chuyển sang màu vàng ươm trông rất thích mắt. Món dưa cải quê tôi có vị  ngon và khác biệt so với dưa cải bẹ miền Bắc. Cải quê tôi người ta hay gọi là cải cay. Lá không to, cọng nhỏ dài. Rất hợp để dùng làm dưa cải muối. Lúc ăn từng miếng cải giòn rúm, lá dưa cải dai ngọt. Loại dưa cải cay khác biệt là khi để dưa cải lâu trong hủ cải không bị nát, lúc kho cải cũng không bị nhừ. Điểm đặc biệt ở quê tôi quan niệm với những người gọi là có tay làm cải thì dưa cải để càng lâu càng thơm và ngon.

    Nhớ những năm phải sống xa nhà trọ học nơi đất người mới thấy sao nhớ quá hủ dưa cải cay của mẹ. Tôi không thể quên được cũng vào mỗi dịp cuối năm thế này khi lũ sinh viên chúng tôi cứ bận bịu vào kì thi học kì I nên chẳng mấy chú tâm vào việc nấu nướng cứ cơm bụi mỳ tôm triền miên qua ngày. Và thế là mỗi buổi chiều ánh trời vàng đục đổ về trên mái bếp nhà bên, tôi ngồi ôn bài cạnh cửa sổ vu vơ ngước mắt nhìn sang thấy màu khói bếp nhà bên vởn vơ theo tiếng gọi mẹ của đứa trẻ đầu phố không hiểu sao khi ấy lại thấy sống mũi mình cay cay.

     Những lúc ấy thấy thèm biết mấy một dĩa dưa cải vàng thơm của mẹ chấm nước mắm ớt tỏi với bát cơm trắng quê mình quá đỗi.

     Mặc dù cải là loại cây góp vào bữa cơm hàng ngày nhưng ở quê tôi cây cải còn có một sứ mệnh thiêng liêng lắm bởi màu hoa cải đã tạo nên bức tranh quê nghèo ngày tết một nét đẹp riêng khó phai. Màu vàng hoa cải hằn sâu vào ký ức, thường trực trong nỗi nhớ mỗi người vào những khi tết đến xuân về. Cái vàng tươi của hoa cải không hiểu sao cứ thấy vương vấn không muốn xuân qua vì lúc ấy hoa cải cũng theo ngày xuân sang mùa mà tàn rụi héo buồn. Bỗng cảm thấy yêu lắm cái màu vàng mơ màng trên từng bông cải nhỏ nhắn đáng yêu nhưng lại không kém phần tinh tế. Mặc dầu cải không đẹp kiêu sa nhưng cải đẹp trong chính sự bình dị thầm lặng như nét đẹp chân chất của người nông dân quê tôi vậy. 

     Những buổi xế tà theo ráng chiều lất phất màu đỏ nhạt của ánh mặt trời muộn nghiêng xuống trên những bông cải phản chiếu một gam màu rất đẹp và lạ. Hoa cải dập dờn ru theo gió khẽ chao mình e ấp một vẻ đẹp tình tứ đáng yêu. Cải hồn nhiên và rồi nét đẹp duyên quê ấy đã vướng vào tâm hồn kẻ đa cảm từ lúc nào không hay biết sự cho nhớ nhung da diết trước mỗi mùa cải quê hương.

Món áo "kho"

Thứ Hai, 29/10/2012 07:00

Tôi và Kỳ là hai thằng bạn chí cốt từ nhỏ đến bây giờ. Chúng tôi vào lớp một năm 1982 tại Trường Tiểu học số 1 Bình Lâm, Hiệp Đức, Quảng Nam. Thời bao cấp, cả xã hội đều khó khăn. Lúc đó, chúng tôi thường mặc chung quần áo để đi học. Nhờ mặc chung nên đứa nào cũng được ba bộ để thay qua thay lại.

Thực ra, mỗi đứa chỉ có một bộ do mẹ mua thôi. Bộ thứ ba là đồ cũ của bố thằng Kỳ do mẹ tôi thấy còn dùng được nên đem về sửa lại cho chúng tôi mặc. Lúc đó, chúng tôi phải áp dụng sáng kiến kho đồ. Kho đồ tức là khi đồ mới giặt muốn nhanh khô thì bắc cái nồi đất lên bếp rồi bỏ đồ vào, sau đó dùng cây trở qua trở lại chỉ cần khoảng 5 phút là đồ khô ngay.


Một hôm, củi ướt quá nên cháy ít. Phải hì hục thổi thì mới bén lửa lên một tí. Thế là chúng tôi vừa để cái áo kho trên bếp vừa tranh thủ chơi cờ tướng. Cờ tướng của chúng tôi lúc đó là những nhánh cây được chặt ngang rồi viết bằng mực lên đó nào là tướng, xe, pháo… Còn bàn cờ thì được vẽ ngay dưới nền đất bằng que tre chứ không có giấy mực nào hết.

Đang mải mê đánh cờ thì nghe mùi khét.


- Chết. Áo cháy rồi Quang ơi – Kỳ đứng bật dậy chạy đến bếp.


Nhưng không kịp. Cái áo đã bị cháy sém ngay hai cầu vai, khét lẹt. Hai đứa vừa tiếc chiếc áo vừa sợ ăn đòn. Chiều về, tôi bị mẹ mắng cho một trận ra hồn nhưng tối hôm đó mẹ lại chong đèn dầu vá áo đến khuya.


Sáng mai, Kỳ vừa tới nhà, tôi liền khoe:


- Tốt rồi mày ơi. Mẹ tao mắng quá chừng nhưng vá áo lại rồi. Mày xem nè.


Kỳ vui hẳn lên. Cậu cầm chiếc áo nhìn ngắm cẩn thận rồi trầm trồ khen má tôi khéo vá quá.


Chợt Kỳ dừng lại:


- Nhưng… – Kỳ ngập ngừng. Nhưng vậy là mình mặc chung không được rồi. Vì lên lớp thầy cô và mấy bạn biết liền!


Ồ thì ra là vậy vì cái áo đã bị đánh dấu bằng hai miếng vá. Thế là hai đứa cứ nhường nhau không đứa nào chịu nhận áo.


- Hay là mình chơi oanh tù tì. Thằng nào thắng thì lấy mặc luôn.


- Hì hì. Đúng.


Hai đứa tôi oanh tù tì và Kỳ thắng.


- Thôi, tao nói vậy chứ mày lấy mặc đi vì mẹ mày bỏ công vá áo cả đêm mà – Kỳ không chịu nhận áo.


- Không. Đã giao kèo rồi mà. Để tao nói mẹ.


Thế là tối đó tôi về kể lại và xin mẹ.


- Đúng rồi. Con phải đưa áo đó cho Kỳ mặc. Sống là phải quân tử chứ, con trai!


Nghe vậy, tôi mừng rơn dù lúc đó không hiểu ý nghĩa từ quân tử là gì.


Thế là tôi chỉ còn mặc được hai cái áo thôi. Nhưng chúng tôi vẫn rất vui vẻ cùng đi học và tháng nào cũng thay phiên dẫn đầu lớp.


Lên cấp 2, cấp 3, rồi đại học, chúng tôi vẫn đều học chung trường, tuy có lúc khác lớp. Hai đứa vẫn đi chung một chiếc xe đạp hằng ngày.


Bây giờ cả hai đều là kỹ sư, tuy không khá giả hơn ai nhưng đối với chúng tôi đó là một thành quả đáng tự hào. Hai đứa đều thích sống giản dị một phần cũng nhờ xuất phát từ miền quê nghèo khó và câu chuyện món áo kho làm chúng tôi không bao giờ quên được. Đôi khi vui vẻ, anh em kéo vào quán, Kỳ lại tếu táo gọi món áo kho thì chủ quán chỉ biết ngơ ngác nhìn còn chúng tôi được một tràn cười vỡ bụng.

Quê mình nghèo. Cái nghèo là cha của cái đói, và cháu của nó là chứng thèm ăn. Những bữa ăn thiếu chất chỉ có thể cầm cự cho cái bao tử của thằng trai mới lớn chừng được 2-3 giờ, còn sau đó là những cơn… quay quắt một nỗi niềm nào đó, không ngoài chén cơm nguội hoặc một khúc mía, sang hơn là bánh tráng chập hay miếng bánh đúc chấm chén mắm cái dằm ớt trái cay xè. Mình có đọc nhiều tản văn của cụ Vũ Bằng, cụ Nguyễn Tuân, Thạch Lam hay sau này là Băng Sơn, ngẫm nghĩ mãi sao các cụ ngày ấy khảnh thế, ăn uống phải kén chọn cầu kỳ. Mình chỉ cần no…

Không biết có phải do tập trung vào giải quyết khâu no trước hay không, mà phần lớn những thức ăn vặt quê mình, hồi xưa gọi là ăn nửa buổi, thường thô mộc, quê kệch đến rưng rưng. Món mì Quảng khó có thể sánh với phở về độ tinh tế, bánh bèo Quảng cũng khó sánh với bánh bèo Huế về độ thanh tao. Những món ăn chắt mót từ hạt lúa, củ khoai ở một miền cát cháy thuần nông cứ thế đến với người con Xứ Quảng như tấm lòng của người mẹ lam lũ quanh năm, bòn mót cho con những gì ngon ngọt nhất nhưng cũng chỉ có vậy, chỉ dừng lại ở chỗ giải quyết cho con qua cơn đói lòng, chưa tính đến sự tinh tươm, sự sang đẹp.

Món bánh đúc là một trong những biểu hiện rõ nhất. Thứ bánh bột gạo đỏ, ngâm kỹ rồi xay, thêm tí vôi, quấy bột chín, đổ vào một cái thau lót lá chuối, để nguội. Mẹ sẽ sàng cắt ra từng tảng,  giã chén ớt, pha mắm cái, rồi nhìn đàn con xắn từng miếng chấm ăn ngon lành. Miếng bánh đúc có cái hồng hồng của gạo, cái thơm thơm của sự giao hòa giữa bột, vôi và lá chuối, đàn con ăn xuýt xoa, hít hà vì cay ớt cho đến miếng cuối cùng.

Bánh tráng chập lại là một sự sáng tạo mang tính giải quyết tình thế. Có lẽ phân vân giữa việc so sánh xem ăn bánh tráng nướng chấm mắm và bánh ướt (mì lá) chấm mắm thứ nào ngon hơn cái nào, người Quảng bèn chọn giải pháp tổng hợp là chập hai thứ vào nhau, đập dập, bẻ từng miếng mà chấm với … mắm cái ớt,thơm (dứa, khóm) bằm,chút hành phi, gọi là bánh đập, hay bánh chập chập. Bí quyết còn nằm ở chén mắm pha vừa phải, ngọt một tí, mặn … nhiều tí, có chút chua của thơm, để rồi cái dẻo thơm của bánh ướt, quyện với cái giòn thơm của bánh tráng nướng, đánh nhịp với cái xuýt xoa của lưỡi và sự mạnh mẽ của hàm răng mà tạo nên một khúc symphone trữ tình lúc xế chiều hay sáng sớm tinh sương.

Bánh bèo Quảng thường đổ trong chén sành, nông lòng, nhỏ khoảng 2/3 chén ăn cơm. Nhưng từng ấy cũng đủ để nó trở thành anh chàng lực điền vai u thịt bắp bên cạnh o bánh bèo Huế mỏng manh như tà áo dài lụa tím một chiều lãng đãng mấy nhịp Trường Tiền rồi.Thêm một sự khác biệt nữa là bánh bánh bèo Huế được khêu ra, sắp lên đĩa rồi rưới nước mắm, khách ăn dùng nĩa nhỏ xiên lên để ăn, bánh bèo Quảng để nguyên trong chén. Sau khi rắc lên một ít tôm chấy (mình cũng chịu không biết món tôm này chế biến như thế nào), cậu trai Quảng dùng cái xêu ( làm bằng tre, vót dẹt một đầu to, một đầu nhỏ, trông giống như mái chèo), rạch hoa thị lên bánh, rồi xiên từng miếng chấm nước mắm pha hoặc tương ớt. Nếu bánh bèo Huế ăn như chơi, ăn trong sự nghi ngờ của cái dạ dày, thì bánh bèo Quảng có thể ăn no.

Một trong những món thích thú của mình ngày xưa là đậu hủ, ngoài Huế gọi đơn giản là đậu, Hà Nội gọi theo kiểu Tàu là tào phớ. Những năm 79-80, cứ khoảng 1-3 giờ chiều, văng vẳng ngoài đường có tiếng rao: Đậu không? Chà, tiếng rao cũng đắng đót lòng sĩ tử hỏng thi, nhưng làm những thằng nhóc như mình nhảy chân sáo. Mà phải đợi đúng gánh của bà Năm Sang (không biết giờ bà còn đi bán đậu hủ không, hay đã chết mất rồi), bà thường kéo kèn mũi dụ con nít, và khoe “đậu hủ Năm Sang công an cũng thích” vì hồi đó mấy chú công an cũng nghèo nên thích đậu hủ, chứ bây giờ chắc gì… Hạ đòn gánh xuống, một đầu là cái hũ sành tóp miệng, được bao bọc bởi một cái giỏ tre đan, giữa hũ và giỏ tre có lót miếng xốp hay trấu ( để giữ cho đậu luôn nóng), đầu kia là một cái tủ nhỏ, trên úp chén, dưới là nước đường thắng, ống đựng muỗng, dưới cùng là thau nước rửa chén có thả mấy nhánh lá để đỡ tạt nước ra ngoài. Mở nắp hũ, một mùi thơm thoang thoảng của hơi đậu, khiến lỗ mũi của thằng bé hít hít, trong khi cái lưỡi của nó đã chóp chép vị ngọt của muỗng đường thắng pha gừng mà tí nữa nó sẽ dè sẻn từng giọt. Bà Năm Sang khẽ khàng dùng một cái dụng cụ đặt biệt, giống như một cái vá dẹt lét, hớt nhẹ nhàng từng váng đậu trắng ngà cho vào chén, rót một muỗng (thường là một muỗng rưỡi đối với thằng nhỏ khách quen) nước đường thắng sánh quẹo, thứ nước đường làm từ đường đen, pha thêm gừng củ giã dập. Bí quyết nằm ở chỗ nước đường này. Nhiều người thắng không tới, nước đường lỏng le, ăn nhàn nhạt. Lại có nơi bỏ đường cát trắng, thật chẳng ra làm sao. Chén đậu nóng hôi hổi, vừa ăn vừa thổi, vớt nhẹ nhàng từng muỗng, nước đường sẽ ngọt lừ cho đến tận muỗng cuối cùng, đừng có như đứa em thằng bé, cứ dăm dăm nát thành một thứ hồ, ăn nhạt hoét. Bà Năm Sang rong ruổi với gánh đậu hũ hằng ngày đủ để nuôi bầy con nghe nói tới sáu hay bảy đứa.

Những món ăn quê mùa chân chất vẫn đọng mãi trong tâm hồn thằng bé ngày xưa, nay đã vào tuổi trung niên, xa quê có mấy chục năm, đôi khi ngồi buồn nghe một tiếng chim vịt kêu chiều cũng bất chợt rưng rưng cả thời thơ ấu hiện về. Không lẽ hắn khóc

Trong cuộc sống có biết bao điều ta phải nâng niu quý trọng và giữ gìn như là một di sản của cha ông để lại. Đó là những loại lương thực tuy giản dị nhưng đã nuôi lớn ta từ đời này sang đời khác như hạt lúa, củ khoai … Và ngày nay, có đôi khi ta lại bỗng dưng chán cơm thèm….. cái chi chi không cho rẽ rọt, hơi thiếu thiếu, thèm thèm….. nhưng cái đơn giản mà ai cũng có thể  “mơ tới” dù trong túi chỉ còn vài ba đồng cắc,  ấy có phải là củ …khoai mì đang bày bán hay ra sau vườn đào xới đem vô !

Khoai mì là một loại củ có tên gọi khác nhau ở mỗi vùng miền. Chẳng hạn như tính riêng Quảng Nam thôi, phía nam Núi Thành người ta gọi là khoai xiêm, phía bắc Duy Xuyên, Điện Bàn gọi là khoai mì, còn “khúc giữa” Quảng nam gọi là sắn. Và từ nguyên liệu của loại củ này mỗi vùng miền đều chế những món ăn riêng biệt và đặc trưng, như miền Tây đã sáng tạo ra biết bao món ăn dân dã, đậm chất miền Tây nhưng lại không kém phần hấp dẫn.. Miền Trung hay miền Bắc miền nào cũng biết chế biến từ chỉ loại khoai mì nay thành biết bao món mang đậm nét văn hóa như bức tranh nhiều màu, nhiều gam…. Trong khuôn khổ có hạn của bài viết này chỉ đề cập một vài món ăn đặc trưng xứ Quảng.


Từ khoai mì thực phẩm giàu chất xơ, dân mình đã chế biến ra rất nhiều món ăn hấp dẫn đậm chất truyền thống mang dư vị ngọt đặc trưng và trở nên thân quen với mỗi người Việt chúng ta. Có nhiều món khoai mì như : khoai mì luộc lá dừa, khoai mì hấp nước cốt dừa, bánh khoai mì nướng, chè khoai mì… Thật là dân dã nhưng hầu hết tất cả các món chế biến từ khoai mì đều có công thức chế biến khá cầu kỳ. Để có món khoai mì thơm ngon, đầu tiên người ta gọt sạch vỏ và ngâm khoai mì thật lâu cho bớt đi chất “nhẫn” của củ mì. Món đơn giản nhất là phải nói đến món khoai mì luộc. Khi cái bụng như đói đói mà một mẻ khoai mì đổ ra trông thật bụ bẫm xếp chồng lên nhau, thử hỏi ai bỏ qua cho đành. Nếu luộc chín với nước cốt dừa, rắc thêm mè rang ăn sẽ nghe ngan ngát như hương hoa, trong thoáng chốc bỗng ùa về gợi nhớ…. thời xưa khốn khó . Khoai mì hay còn gọi là củ sắn muôn thuở mang hương vị đậm đà quê hương. Là dân nông thôn chính gốc Quảng Nam, thế nên mỗi khi ai nhắc đến khoai mì tôi vẫn còn nguyên cái cảm giác nhớ và thèm từ thuở ấu thơ. Ngày nay tôi có cảm tưởng như món này ít được bày bán ở những thành phố nhỏ, nhưng Sài thành lại có ở mọi con đường góc hẻm, đúng như người ta thường bảo nơi đây có tiền mua được đến tiên. Đừng nghĩ cái hương vị bùi ngùi và hậu vị ngọt thanh của khoai mì là không phù hợp lắm với nhịp sống luôn hối hả của một thành phố lớn…..Tuy nhiên cũng phải nói rằng hương vị trong cách chế biến khoai mì của ngày xưa và nay hơi khác, bởi khoai mì ngày nay đã khoát lên mình phong cách hoàn toàn mới và năng động…..


Nhắc đến khoai mì tôi vẫn còn nhớ ngày xưa thời bao cấp người dân quê tôi đã dùng khoai mì làm thức ăn chính cho mỗi bữa ăn như :” Tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm, trưa chưa chắc ăn ….cơm!”. Nói về chuyện ăn khoai mì ở quê tôi có hàng khối chuyện …cười ra nước mắt. Nhiều khi ngán không muồn ăn nhưng cái bụng đang đói cồn cào là không thể nhịn được. Vậy mà cho đến bây giờ tôi cũng không biết vì lý do gì hồi ấy rất nhiều món từ khoai mì được….”Xuất bản” đến thế và nhưng cũng phải nói rằng món khoai nào cũng dân dã và thật thơm ngon.


Nhớ nhất thời bao cấp vẫn là món bánh trôi nước (bánh chập chập) được làm bằng bột khoai mì khô , trộn với củ nén khử dầu phụng. Thời xưa thiếu lương thực, ăn món này ngon nhiều khi chẳng nghĩ tới cơm. Nhưng không biết sao ngày nay về quê tôi chẳng thấy ai làm (!?). Cách làm ở đây chỉ cần khoai mì khô đem đi giã hoặc xay nhỏ ra thành bột nhuyễn. Xong chỉ cần đem bột ấy cho vào một ít nước cho đủ độ kết dính, rồi dùng tay “chập chập” thành miếng bánh nhỏ chừng như cái bánh bích quy. Bắt một nồi nước đun sôi, thà từng chiếc bánh vào, đợi đến khi bánh nổi lên trên mặt nước là vừa chín. Món này bắt buộc phải chấm với nước mắn cái xứ Quảng mới “phải bài” và sẽ thấy ngon ngon. Mùi dẻo của mì và mùi thơm của mắm dù có ăn xong vẫn sẽ còn phảng phất thật lâu trong vị giác và khứu giác sẽ làm cho ta yêu hơn những ruộng khoai ở nông thôn Việt NamVà với riêng món khoai mì “đập dập” là cần phải “nhẫn nại và kỳ công” , và làm bằng loại khoai mì phải dẻo và thơm như loại “Sắn bún trắng” chẳng hạn. Món này có chút công phu, đó là ra sau vườn nhặt lấy một chiếc mo tre ( Xưa kia người ta thường dùng làm quạt để giải nhiệt trong mùa hè nóng nực). Xin nhớ cho rằng, khi có được những chiếc mo tre, nhớ chà xát bên ngoài mo xuống dưới nền xi măng để cho hết những lông mo, kẻo không dính vào da thịt rất ngứa. Khoai mì đã nấu chín, chỉ đặt vào mo tre cuống tròn lại lấy chày đâm tiêu ớt cứ như thế mà…..đập dập cho nhuyễn nhừ. Khi ăn, chỉ cần mở mo tre ra rắc một ít muối mè hay muối đậu phụng là …hết biết ! Và đến lúc này, khoai mì mới thật sự có giá trị ngay từ khi bóc lớp vỏ mo tre, mùi khoai mì tưởng chừng như vỡ ra thật nhẹ mà sâu. Miếng khoai mì vừa dẻo vừa dai, cộng với mùi thơm của mè, của đậu thật vừa nhân hòa lại vừa dân dã, đặt trưng lắm không lẫn vào đâu được, dễ chi ai thấy mà lại đành…. đi lơ !


Tôi nghĩ tất cả những ai khi xưa sống ở vùng nông thôn, nay làm ăn ở thành thị xa quê, nhưng nếu có một ai đó nhắc đến những món làm từ khoai mì chắc đều còn nguyên cái cảm giác nhớ và thèm cái mùi riêng biệt của “ngô khoai” món ăn quen thuộc một thời để nhớ ….


Tóm lại khoai mì là một món ăn trong văn hóa ẩm thực người ta gọi là món có âm, có dương ( hễ vị mặn thuộc về dương, ngọt bùi thuộc về âm). là một món ăn chúng ta thấy mang một tâm hồn Việt, một tinh hoa trong cây củ của ông bà ta để lại . Ai ơi đừng có nghĩ “Ngô khoai “ là món của người nghèo mà phải tội với Trời…… người đời nhé!

Sẽ đến ngày bữa cơm của mẹ có thịt

(GĐVN)

Từ thuở bé cho đến tận bây giờ, sự nghèo đói cứ đeo bám gia đình tôi một cách dai dẳng. Mẹ thường cười buồn và thủ thỉ vào tai tôi "không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời đâu con". Đời tôi đã là thứ ba, sau bố mẹ và ông bà.

Mẹ sinh tôi vào một ngày mưa gió trong mái nhà tranh xiêu vẹo. Không có xe đạp, bố đi bộ ra gọi ngoại và nội vào đỡ đẻ và cắt rốn cho tôi. Mẹ bảo chính vì không được ủ ấm ngay lúc chào đời nên tôi bị nhiễm lạnh, cổ họng cứ khò khè. Mỗi lần tắm là một lần mẹ lo thắt ruột, vì tôi sẽ ốm.

Năm tôi 2 tuổi, mẹ bệnh nặng ngỡ không sống nổi. Mẹ sợ phải bỏ lại mấy đứa con khi còn quá nhỏ. Tôi bé nhất, chẳng biết gì cả. Chỉ nhớ là trâu bò và đồi rẫy của gia đình tôi không còn nữa. Sau này tôi mới biết là bố bán đưa mẹ đi mổ. Thấy mẹ về tôi mặc quần thủng mông ra mách với mẹ: "Bà nội toàn nấu canh rau lợn cho con ăn". Tôi đâu biết nhà đã hết tiền nên nội phải nấu canh rau khoai cho tôi ăn mát ruột.

Đấy là chuyện của năm 1992. Từ đó cho tới lúc tôi đi học, mọi chuyện trong gia đình tôi đều yên bình, ngoại trừ cái nghèo ngày một tăng. Tôi còn nhớ, tôi đi học và nghịch ngợm nhất lớp, nhưng bao giờ cũng là học sinh đứng đầu lớp.



Tôi không thích học giỏi, vì học giỏi thầy cô bắt tôi ngoan, không cho tôi phá phách. Nhưng vì sao tôi vẫn đứng đầu lớp? Không phải các bạn tôi kém cỏi, mà ngay từ khi tôi còn bé xíu tập viết tập đọc, tôi đã biết phải cố gắng vì mẹ - tình yêu vĩ đại của tôi.
Nhưng có một sự cố thay đổi suy nghĩ trong tôi. Năm ấy tôi hùng dũng bước vào mái trường cấp 2, trong khi lũ bạn rụt rè, e thẹn. Bố tôi gặp tai nạn, nặng lắm. Một lần nữa những thứ có thể bán được trong nhà lại lần lượt ra đi. Chưa bao giờ tôi biết đến chữ nghèo rõ ràng như thế. Và bạn bè của tôi đi đâu hết? Tôi nghe nói bố mẹ chúng bảo không nên chơi với tôi.

Năm 2000, thế giới và đất nước chào thiên niên kỷ mới, còn tôi tiến hành một cuộc cách mạng cho riêng mình. Lần đầu tiên, một con bé 10 tuổi chong đèn thức để suy nghĩ vì sao phải đi học, học để làm gì. Tôi vẫn kịp tìm ra đáp án trước lúc ngủ gục trên bàn. Học để thực hiện một ước mơ duy nhất mà thôi.

Tôi đã lầm lũi học, đến lớp 6 tôi không ghét học giỏi nữa. Tôi quyết tâm phải là người giành vị trí số 1. Có lẽ thế mà những người bạn sau này gọi tôi là đứa con gái tham vọng. Nhưng tham vọng đó không phải là viển vông, nó nằm trong khả năng của tôi.

9 năm liền tôi đi bộ đi học. Ngày trời nắng tôi đầu trần, ngay cả nón mê của mẹ tôi cũng không dám đội. Vì nếu tôi đội, mẹ sẽ đi làm bằng gì? Nắng to quá tôi bẻ cành cây che tạm. Trời đổ mưa con đường trơn tuột, đôi bàn chân bé xíu bấm chặt lòng đường nhưng vẫn không tránh khỏi một vài chú ếch. Tôi thích nắng hơn mưa. Vì mưa tôi không có áo mưa đẹp như bạn bè mà chỉ có tấm nylon bạc phếch mẹ cắt cho.

Nhưng đến năm 2000, tôi không thể đi bộ đi học nữa. Vì trường cách xa nhà hơn 10 km. May mắn là mẹ mượn cho tôi chiếc xe đạp cũ của nhà bác. Tôi đã hồ hởi với con ngựa sắt của riêng mình. Đã có lần tôi bị thầy hiệu trưởng trường cấp 3 đuổi về. Thầy bảo tôi vi phạm quy chế, không đi dép quai hậu!



Phải, chân tôi chỉ đang đi đôi dép nhựa 7.000 đồng mẹ mua cho. Nhưng tôi đã chứng minh được mình ở giữa thị trấn giàu có đó bằng điểm tổng kết cao nhất nhì khối, bằng những chứng nhận học sinh giỏi các cấp. Những người bạn mới vô cùng yêu quý, song vẫn rất dè chừng trước một lớp trưởng vừa nhiệt tình và máu lạnh như tôi.

Bệnh tật của mẹ cứ tỉ lệ thuận dần theo thời gian và những tấm giấy khen tôi và anh chị mang về. Tôi biết tôi đang bòn rút sức lực của mẹ. Ước mơ ngày một nung nấu, tôi chỉ mong mau chóng làm được điều đó.

Mẹ tôi như một tổng kho bệnh tật. Mẹ bị úng thận, bị viêm sa dạ dày, bị suy tim, bị thoái hóa đốt sống, bị mọng mắt… bị ti tỉ thứ mà tôi không thể đếm hêt, và cũng không bao giờ dám đếm hết. Tôi không muốn khóc, tôi sợ rồi một ngày người tôi yêu thương nhất sẽ không còn trên cuộc đời này nữa.

Cũng đến lúc phải xa rời vòng tay mẹ! Ấy là khi tôi bước chân vào giảng đường đại học. Khi nhìn chúng bạn hân hoan có bố mẹ ra thăm, nghe giọng đứa bạn cùng phòng nhõng nhẽo với mẹ qua điện thoại, tôi cảm thấy sống mũi cay cay. Tôi biết mình đang nhớ mẹ, nhớ nhà đến vô cùng.

Nửa đêm mùa hạ, cổ họng nghẹn đắng không thét thành tiếng, người đầm đìa mồ hôi tôi tỉnh giấc. Tôi mơ mẹ mất! Sáng mượn điện thoại gọi về, mẹ bảo thế là điềm lành đấy con ạ, yên tâm mẹ còn sống lâu. Thế mà tôi vẫn bắt xe bằng được về thăm mẹ, giật mình khi tóc mẹ bạc nhiều hơn. Thì ra điềm con mơ có thật, mẹ bị con lợn nái cắn thủng bụng chân mất nhiều máu. Đến ngày đi, cầm tiền của mẹ sao tôi thấy xót xa trong lòng.

Năm nay bão giá kinh hoàng quá. Mâm cơm ở nhà chẳng có gì, thậm chí gạo mẹ cũng hết rồi. Tôi vẫn chỉ là một sinh viên năm thứ ba chưa báo đáp được gì cho mẹ. Kỳ này được học bổng, tôi đã hứa cố sống cố chết thế nào cũng phải mua bằng được thứ quả mẹ thích ăn nhất để gửi về. Nhưng sau khi nhập viện vì sốt xuất huyết, chỉ một cân nho thôi nhưng tôi đã thất hứa.

Một năm nữa tôi ra trường và sẽ cố gắng hết mình để giúp mẹ trả nợ. Sẽ đến lúc tôi thực hiện được ước mơ của mình. Ước mơ ấy nhỏ nhoi lắm, nhưng tôi đã phải cố gắng suốt 22 năm. Ước mơ mẹ được ăn cơm với thịt nạc vì tôi biết mẹ chỉ đồng ý mua thịt nạc ăn khi gia đình hết nợ và chúng tôi thật sự trưởng thành.

Tôi vẫn biết phía trước còn nhiều khó khăn đón đợi. Nhưng tôi tin vào tình yêu tôi dành cho mẹ. Và tôi sẽ làm được "tham vọng" của riêng mình.

ợ ơi anh thèm ăn rau

Các bạn đừng vội cười tôi, hãy ra chợ hỏi thử xem

giá rau

thế nào rồi hãy về bàn luận tiếp nhé…

Nghĩ đến là khổ, ở cái thời đại nào rồi mà đến bữa cơm rau cũng không có mà ăn.

Mỗi lần tôi gọi vợ: “Anh thèm rau vợ ạ” thì ngay lập tức vợ cau có nét mặt, khó chịu và tỏ vẻ không hài lòng, rồi hằn giọng: “Tiền đâu mà mua rau, anh tưởng rau rẻ lắm à”? Thế là tôi lại ngậm miệng vì cái sự ăn uống phụ thuộc hoàn toàn vào vợ rồi, vợ cho ăn gì thì ăn nấy. Thèm có mấy cọng rau mà giống như thèm món sơn hào hải vị. Đúng là bão giá.

Nhớ lại cái hồi còn yêu nhau, vợ thấy mình ăn khỏe, vợ bảo tốn tiền nuôi chồng nếu mà có cưới nhau. Lúc ấy tôi cười sặc sụa nói: “Yên tâm, anh ăn khỏe nhưng toàn ăn rau, không thích ăn thịt thà gì mấy. Có chăng thì tôm cá tí thôi nên em đừng có lo”. Lúc ấy vợ lại cười toét miệng rồi đùa cợt với vẻ mặt yên tâm vì ăn rau thì dễ, nuôi khó gì, sợ thịt thà cá mú nhiều thì mới lo chứ rau thì…

Nhưng giờ nhé, tình thế đã lật ngược. Nghe bà con đồn đại vì đợt này rét kéo dài nên giá cả tăng vù vù. Rau xanh à, đắt gấp chục lần những ngày hồi tháng 10. Súp lơ giờ lên tới 20.000 đồng 1 chiếc, rau cải cúc bó mỏng dính, 1 bó dù luộc hay xào thì quắt queo lại được 2 gắp, thế mà tới 10.000 đồng nhé, đó là chưa kể tới gừng, hành tỏi. Rau sống thì khỏi nói… Thế là một bữa ăn toàn rau mà đã vài chục nghìn. Cả ngày vị chi cũng tới cả trăm. Thế này thì ‘người nông dân’ phải là sao?



àm sao là làm sao bây giờ, chỉ có nước là ăn cơm mắm, vì rau còn đắt thế cơ mà. Mà người giàu có còn xót, nói gì vợ chồng công chức, lương ba cọc ba đồng. Làm cả ngày mới được 100 nghìn, tính theo lương tháng. Thế mà mới ăn rau đã hết cả số tiền ấy, tính làm sao nổi bây giờ? Đấy là còn chưa kể tiền ăn sáng nhé, thi thoảng lại mua quà vặt cho con. Ôi ôi, thế này thì có mà ‘cạp đất’ mà ăn vậy. Năm hết Tết đến nơi rồi, cứ tình trạng này, vợ chồng lấy gì chi tiêu?

Hôm nay, lên mạng thấy chị em bàn tán, than phiền về giá cả thực phẩm tăng, nhất là rau xanh lên vù vù, tôi mới biết chuyện. Thảo nào đợt này cơm canh đạm bạc quá. Vậy mà tôi thật vô tâm, chưa bao giờ đi chợ giúp vợ, cũng không bao giờ hỏi han vợ chuyện gì, lại còn trách cứ vợ không cho mình một bữa ăn tử tế. Kinh tế khó khăn nhiều, lương lậu thì không cao, giá cả lại đắt đỏ, có lẽ thời gian qua vợ đã phải cố gắng để trang trải chi tiêu. Nhưng gã chồng vô tâm như tôi lại không hay biết điều đó, cứ tưởng vợ tiết kiệm, chi ly tính toán từ bữa ăn của

gia đình

.

Đấy, cái thời xa xưa, nhiều

gia đình

ước có bữa thịt mà ăn cho no bụng, ngon cái miệng và ấm cái thân mà không có. Cái đó gọi là thứ thực phẩm xa xỉ. Vậy mà bây giờ, thịt thà tôm cá người ta chẳng muốn ăn vì nó vừa không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm vừa thấy ngán ngẩm. Người ta thèm một bữa rau xanh trên mâm cơm. Nếu ai không biết thì bĩu môi, có người lại bảo dở hơi à mà muốn ăn rau. Cũng dễ hiểu vì họ không biết rau xanh đăng tăng giá, đắt hơn cả thịt cá tôm. Thế nên cái gì đắt thì người ta ít mua, mà ít mua thì lại nhanh thèm. Vì thế, tôi đây mới đòi ăn một bữa rau cho ra trò mà vợ tôi còn khó khăn. Khó khăn bởi giá cả, bởi kinh tế.

Giờ thì tôi hiểu rồi, không trách vợ nữa, đợi vợ cho món gì ăn thì ăn mà thôi, chứ tiền rau hơn cả tiền thịt thì hết cả ngày lương công chức của vợ. Giá mà được trở lại cái thời xưa, cả vợ cả chồng cứ thèm ăn rau rồi chán thịt chán cá thế này thì có phải là giàu to không?



Đọc thêm tại:

http://www.vietgiaitri.com/chuyen-yeu/tam-su/2013/01/vo-oi-anh-them-an-rau/#ixzz2TGSL9IH0

Tôi tự cho mình là người ham ăn, ngày xưa nghèo đói ăn không đủ bữa, bây giờ thấy gì cũng thèm ăn, cơm bún, phở, thịt xôi, … cái gì cũng thích. Nhưng đối với bánh mì, hai chữ ham ăn dường như không đủ diễn tả nỗi món khoái khẩu này!

Xứng danh là món fastfood của việt nam, mọi người có thể ăn bánh mì mọi lúc mọi nơi, ăn trong phòng làm việc, trong quán café, ăn ở vỉa hè, vừa chạy xe vừa gặm cũng ngon chán mà chẳng làm phiền đến ai. Ăn sáng, ăn xế, ăn khuya, ăn một mình, hai mình đều tiện…

Bánh mì giòn, nóng hổi… để nguyên ổ cấm tay thì kẹp với thịt heo xíu, chả lụa, patê, ít hành ngò, dưa leo rồi chan chút nước tương hoặc muối tiêu, thêm ít ớt cay sắc lát… còn ăn bổ sung thì xé miếng chấm với sữa đặt, bơ đường hoặc với cari, trứng gà ốp la…. đơn giản nhất lúc bụng đói meo thì xé ăn không vẫn ngon như thường!

Hồi nhỏ, thèm quá hay nhìn trộm người ta làm bánh mì ở lò Bình Minh đường Tiểu La Tam kỳ, hít đỡ lấy mùi thơm là no rồi. Lúc đấy người ta làm rất cực khổ và công phu, từ nhồi bột bằng tay, nặn bột, vê bột rồi xẻ, nướng bánh trong lò đốt bằng củi từ 1 giờ sáng đến 5 giờ sáng để kịp ra bánh bán cho khách hàng. Giờ đây công nghệ tiên tiến, người làm bánh chỉ cần mặt bằng 40m2 là có thể trang bị hệ thống lò làm bột, nướng bánh bằng điện và máy móc hỗ trợ con gần hết, chỉ còn bày trí, quảng cáo, bán hàng làm sao cho khách hàng thưởng thức nhiều, càng lãi to.

Có một chàng trai Singapore vì mê bánh mì kẹp thịt kiểu Sài Gòn mà mở cửa hiệu bánh mì ngay tại Singapore. Theo Báo Restaurant News hôm 6/10, từ rất lâu trước khi hệ thống hàng ăn nổi tiếng Chipotle mở cửa hồi tháng trước tại thủ đô Washington (Mỹ) với bánh mì kẹp thịt Việt Nam là một món ăn chính, thì chuỗi cửa hàng Lee Sandwiches đã có tới 43 địa điểm với số lượng còn tiếp tục tăng, trước đây bánh mì Việt Nam thường chỉ xuất hiện ở những quán ăn dành cho người Việt hoặc châu Á nhưng nay nó đã có mặt thường xuyên trong thực đơn của nhiều nhà hàng tại New York, bán thực phẩm ở Los Angeles, San Francisco.

Nhắc đến bánh mì sài gòn có đến hàng chục hiệu bánh có tên tuổi từ hàng chục năm như bánh mì Như Lan – Hàm Nghi, Hòa Mã – Cao Thắng, Lan Huệ đường Lê văn sĩ.. nghe đến đã làm chảy nước miếng rồi. Ăn ổ bánh mì thịt có đủ mùi thơm giòn của vỏ bánh, vị ngọt của bột mì, béo của bơ, hương vị thịt, chả, pa-tê như một bản phối tròn trịa sắc màu nhưng không hề ngán bởi có rau dưa tươi mát. Và điều quan trọng của ổ bánh mì thịt là ngon, rẻ, tiện lợi cho tất cả mọi tầng lớp. Bạn có thể thưởng thứ bánh mì tại Hiệu Bánh mì Việt, đường Phan Xích Long, Phú Nhuận với 17 món bánh mì…

Ở Tam kỳ, không ai không biết đến thương hiệu sản xuất bánh mì Bình minh đường Tiểu La, tồn tại cách đây vài chục năm rồi, cơ sở chính hiện chuyển về 414 Phan Chu Trinh Tam kỳ. Bánh mì ở đây nóng hổi, giòn thơm, váng óng, ruột đặc vừa, ăn không cũng ngon. Cô chủ cơ sở này là Ngọc Tân, thành viên trancaovan1986, từng là bí thư đoàn lớp 12/1. Bạn không thể bỏ qua được, bạn sẽ gặp nhiều bất ngờ, thú vị ở địa chỉ này!

Nghe đâu người ta dự tính thành lập tôn giáo mới có tên là Đạo bánh mì, nếu có thì tôi sẽ là tín đồ trung thành của đạo này !

Đến thời "như người thấy mỡ"?

Nhờ "công" lợn siêu nạc, rồi đây, thành ngữ "như mèo thấy mỡ" chắc có lẽ sẽ phải thay chủ đổi ngôi thành "như người thấy mỡ" mất thôi.

Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ

Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh

Thịt mỡ bị các thuật sĩ nuôi heo dùng thuốc kích thích trong giai đoạn tăng trọng cuối kỳ đã bị tiêu hết, trở thành heo siêu nạc...

Dậu không xấu như ất dậu

Hôm thứ sáu 18/1 vừa rồi, nhóm bạn của đồ ông Phạm Hoàng Quân, nhà Tàu học tự tài trợ cho các nghiên cứu của mình, phải cất công xuống tận Mỹ Đức Tây, ghé hàn xá của đồ ông xin chữ để treo dịp tết. Đó là một hình thức mới của câu đối từ mấy năm nay.

Xin chữ ở Sài Gòn, treo thay câu đối đỏ trong ba ngày tết, chẳng khác nào én bắt đầu bay lưa thưa trước ngõ: tết đến rồi. Mốt xin chữ bây giờ chỉ xin một chữ như là ước lấy điềm tốt nào đó cả năm. Một chữ hàm nhiều ý nghĩa.

Trong khi tôi hoàn toàn bi quan, muốn xin chữ "dậu" cho năm mới để nghĩ tưởng về một ất dậu xa xưa, sau khi thủ trưởng công bố: năm nay không có lương tháng 13, không thưởng, thì ông đàn anh già - nhà ngoạn cổ Lý Lược Tam - nói: chữ "dậu" tốt lắm.

Vốn chữ Hán của tôi không rộng, mới đem hỏi ông bạn Lê Vĩnh Trương, thì được trả lời: "dậu" đồng nghĩa với "có". Thế thì bi quan đã trở thành lạc quan. Mừng.

Ba món tết hỏng gần hết

Thôi lan man, xin quay trở về câu chuyện ẩm thực của mình. Điểm lại câu nói về phong vị ngày tết như đã nêu ở đầu bài, ta thấy sáu đặc trưng thì có đến ba là món ăn. Còn ba "món" kia thì cũng đã què quặt.

Một trong ba món ăn ngày tết này đáng buồn nhất là thịt mỡ. Bây giờ thịt mỡ - món ăn đầu bảng của mùa xuân, ngày xuân, không còn giống mỡ của ngày xưa.

Nồi thịt kho tàu của má chắc rồi sẽ giống như chiếc bánh madeleine của Marcel Proust trong Đi tìm thời gian đã mất.

Hồi nhỏ, nghe kho tàu cứ tưởng là kho theo kiểu bên Tàu. Lớn lên mới biết bên Tàu không có kiểu kho lạt này.

Đọc sách đâu đó thì thấy ông Bình Nguyên Lộc kiến giải chữ "tàu" miệt dưới miền tây nghĩa là "lạt", chữ tàu dùng để chỉ chỗ con sông nước chà hai sắp ra cửa biển.

Chắc chắn thành ngữ "ớn như thịt mỡ" phải chuyển thành "ớn như thịt nạc", vì các thuật sĩ nuôi heo Đồng Nai đã đưa heo tiến vào thời kỳ siêu nạc với các loại thức ăn có trộn nhóm chất kích thích β-agonist.

Những chất này làm cho con heo không còn mỡ, khi mà người ta lâu nay vì "ớn như thịt mỡ" nên chọn thịt nạc mua nhiều hơn, nên nạc sinh lợi cho người nuôi hơn.

Đã vậy các tay bán dầu ăn còn thuê các viện sĩ dinh dưỡng PR bằng cách nói xấu mỡ và nói tốt dầu khiến mỡ heo bị lấn lướt về chức năng tạo béo.

Ban đầu các viện sĩ cho rằng ăn nhiều mỡ sẽ mắc bệnh béo phì. Nhưng người Việt trước đây nghèo nên làm gì có thịt ăn để mà béo phì, chỉ mong đến tết, dư dật chút tiền bạc tằn tiện suốt cả năm để sắm nồi thịt heo kho tàu. Lạc thú của những ngày nghỉ ngơi đầu năm mới chỉ đạm bạc vậy thôi.

Vả, con người tiếp nhận mỡ có hạn do dễ ngán nếu ăn nhiều, và thủ phạm "chính chủ" gây ra béo phì là bột đường (hydrocarbon).

Thành ra khi thấy viện sĩ xuất hiện trong các mẫu PR thì chớ nên tin, vì viện sĩ mà nhận tiền để quảng cáo một nửa sự thật về sản phẩm chỉ là bọn ngụy sĩ.

Miếng thịt ba chỉ ở các chợ Sài Gòn đã hỏng. Món thịt luộc mắm nêm cũng hỏng. Lâu lâu, thèm món này phải đi kiếm những hàng quán tuyển thịt luộc từ tận miền Trung như Quảng Ngãi, thì cuốn bánh tráng rau sống chấm mắm nêm, mới còn nguyên thủy cái ngon.

Món bánh xèo miền Trung của tôi chắc chỉ còn chước "xuân này con sẽ về" - cả nhà phải mất không dưới năm triệu tiền xe (đó là thuận theo lời khuyên mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có hai con để nuôi dạy cho tốt) - đặng năn nỉ má mua thịt heo chợ quê đúc cho bữa bánh.

Ăn bánh xèo cũng để nhớ ba mỗi lần trời mưa, ra đồng không được, đều thèm bánh xèo. Đích thân ông đi ngâm gạo, xay bột bằng cái cối đá mà ở quê nhà nào cũng có.

Má lật đật cắp rổ đi chợ mua ít con tôm bạc, miếng thịt, mớ mực. Một bữa bánh mới nhớ đã thèm muốn chết. Là ăn cái nỗi nhớ đó mà.

Thịt mỡ hỏng cũng là hậu quả của một thời gian dài Sài Gòn đua nhau thời thượng bằng cách chạy theo thịt heo rừng. Rồi rừng xanh vắng heo, chỉ còn lại tiếng ta lư(?), lại quay sang heo rừng nuôi. Để bây giờ hoảng loạn với heo siêu nạc.

Các nhà nghiên cứu cũng chưa cho biết ăn thịt heo siêu nạc có bớt suyễn hoặc bớt đau tim vì trong heo có dư lượng salbutamol, clenbutarol, epinephedrin - chuyên trị suyễn, hoặc có dobutamine, isoproterenol, xamoterol - chuyên kích tim...

Rồi đây, thành ngữ "như mèo thấy mỡ", chắc có lẽ sẽ phải thay chủ đổi ngôi - "như người thấy mỡ" - mất thôi.

Chỉ có điều heo siêu nạc chỉ còn là một nửa heo/bán trư - nếu như có qui định bằng pháp lý rằng heo phải bao nhiêu phần trăm mỡ, bao nhiêu phần trăm nạc, bao nhiêu phần trăm xương mới là heo chính danh - phải chịu thiệt so với nguyên heo/nguyên trư.

Thịt mỡ đã hỏng, nồi thịt kho tàu đã hỏng, thì món ăn tương cận, món ăn cân bằng lại là dưa hành còn chơ vơ trơ trọi coi như cũng hỏng theo.

Cái nồi thịt mà miếng nào miếng này đều to bằng cái tách uống trà, được cột lạc bốn phía, kho bằng nước dừa để có thể hâm đi hâm lại không bị rả; ngày ngày cho vào mấy quả trứng gà luộc lột vỏ sẵn, của một thời, thôi rồi!

Người phụ nữ liệu có không còn nỗi lo cải ngồng, dưa héo, chồng chê?

Mỡ hỏng cũng làm cho bánh chưng không ngon. Cái béo của nếp còn trơ trọi khi ăn với nhân xảm thịt nạc, mất đi cái thượng tầng béo của mỡ, duyên bánh ít nhiều mất đi.

Ngẫm lại những thứ trong hai câu nói về phong vị tết ở đầu bài hầu như đã mất mát gần hết. Kinh tế cũng èo uột. Còn nói chi chuyện tết.

Sài Gòn kén ăn

Người ta chỉ kén khi có nhiều lựa chọn. Như kén vợ kén chồng chẳng hạn. Phải có cả một loạt đối tượng mới dám kén. Chuyện này có đủ để kén không thì ai dám chắc, chớ kén ăn thì Sài Gòn bầm giập phải biết!

Tỷ như thèm thịt vịt, tiết canh và xáo măng, nhiều người nghĩ ngay đến Thanh Ða. Ðành rằng thịt vịt là loại thịt trắng, mỡ không có nhiều chất béo bão hoà, ít làm tăng cholesterol trong máu hơn so với thịt đỏ như heo, bò, nhưng nếu chỉ số cơ thể (*) của bạn đang ở mức 23 hoặc hơn, thì xin can. Tới Thanh Ða, bạn chỉ gặp toàn những thứ vịt siêu thịt. Cắn miếng thịt vịt mà mỡ chảy ra hai bên mép không còn là phong cách và thú vị của bây giờ.

Cũng chẳng phải đi xa tới tận Thanh Ða, cũng chẳng phải ăn tiết canh công nghiệp làm số lượng nhiều và giao phó cho ông thần lạnh bảo vệ, ở quán Cây Tràm xê xế đối diện chùa Vĩnh Nghiêm, bạn sẽ bắt 

gặp được hai thứ: tiết canh và xáo măng. Thì Thanh Ða cũng vậy? Nhưng ở đây là vịt cỏ, thứ vịt cả… ba vòng đều khiêm tốn như hoa hậu Ireland vừa đăng quang.

Tiết canh nóng hôi hổi. Nếu thích, bạn được tận mắt xem màn cắt tiết bên bàn. Tiết canh ở đây không bị đóng ngấn trên thành đĩa khi ta múc tiết đi. Tiết canh heo, ngược lại luôn để lại một ngấn tiết mỏng ấy. Khi ăn tiết canh vịt mà gặp hiện tượng này, thì 99% bạn ăn tiết 9 heo trong 1 vịt! Dân quen ăn, sẽ cảm nhận được ngay sự tươi tắn của màu đỏ tiết nóng ở Cây Tràm, đỏ hồng nhuận, tươi.

Một món khác nữa, trứ danh không kém tiết canh: xáo măng. Có một đặc điểm là ở đây lúc nào măng cũng tươi. Chút nước lèo tới độ, miếng thịt mềm, cọng rau muống còn sựt sựt, miếng măng, chút mắm gừng - một hỗn hợp như thế làm cho lưỡi run lên vì phải phân bổ vị trí để bắt tín hiệu của từng vị cho kịp thời.

Hoặc chiều mưa, nhớ tiếng rao phở cao vút có bè trầm sột soạt tiếng áo tơi, bỗng thèm xí quách! Bây giờ vào các quán phở mà kiếm được miếng xí quách thì đúng là đi có coi ngày, hoặc đi nhằm ngày đại cát. Nhất là dở khóc dở cười khi chui vào những quán phở Quan Thánh sau năm 2000. Hỏi: có xí quách không? Ðáp: Có ạ! Tiếng Bắc đáp vừa đanh vừa to. Lát sau trước mặt bạn là bộ xương gà đủ làm bạn dở khóc dở cười. Vả chăng xí quách bây giờ cũng khác với xí quách ngày xưa cách đây mấy chục năm. Xương nào xương nấy được lạn bằng nhẵn - như độ nhẵn bộ râu Mã Giám Sinh chứ chẳng chơi.

Chỉ có một nơi, bạn kén ăn mấy cũng đành chịu: 121 Võ Văn Tần. Ở đây bán xí quách đặc hiệu chuyên cung ứng cho những kẻ nổi cơn ghiền xí quách bất đắc kỳ tử! Mưa Sài Gòn có bữa cũng dai nhách. Tô xí quách bốc khói, có miếng gân mềm, có miếng dai nhách như mưa. Nhai xí quách beo béo với thật nhiều é quế cho át đi cái ngậy béo. Mới biết ra Sài Gòn còn quá nhiều ngóc ngách mà ta chưa khám phá bằng hết.

Hoặc giả thèm một tô canh cá biển nấu ngót? Phải tìm đến chỗ có cá liệt là nhứt. Những thứ cá khác nấu ngót không bắt gặp lại tâm hồn miền Trung nghèo đói trong tô canh chút nào. Cá liệt ngày xưa mẹ vẫn mua mấy trăm đồng cả mớ lớn, loại cá rẻ mạt ở vùng biển. Ðem về rửa sơ, bắc nồi 3 nước (nồi đường kính khoảng 30cm) cho sôi, hái nắm đọt me bên chuồng heo sau hè, vò nát và thả vào nồi. Nước sôi, đổ mớ cá vào. Mấy phút sau nồi cá sôi sủi bọt bắc xuống. Một bữa cá liệt mất nhiều thời gian để vẽ cá. Ngon.

Bây giờ ở Sài Gòn, chỉ còn một chỗ để kiếm cá liệt: Hòn Chồng trên bờ kênh Nhiêu Lộc. Nhưng muốn tìm được bữa canh cá nấu ngót ngon, phải tốn công. Phải hỏi nhỏ mấy cô bán quán xem cá liệt mới về hay mấy bữa rồi? Cá mới về - mới ta cũ người bắt cá - mới nấu được tô canh ngót nước trong veo. Quán có cà chua vỏ mỏng, nhớ dặn cho vào; cà chua trái to bây giờ vỏ dày cui, lại ít chua, ba trái không chua nổi tô nước rau muống.

Những ngày cuối năm âm lịch đang đến, nghĩa là Tết đã đến rất gần. Tôi gọi điện, bố bảo hôm nay là ngày ông Công ông Táo về trời, vậy chỉ còn tuần nữa là đến Tết, nhanh thật.

Tết đối với trẻ con là niềm vui vô bờ bến vì được nghỉ học , được sắm quần áo mới, được tiền mừng tuổi và được ăn nhiều món ngon. Nói ra hơi buồn nhưng trẻ con bây giờ ngày nào chẳng có quần áo đẹp, ngày nào chẳng được ăn ngon, đâu có như ngày xưa, bố mẹ may cho bố quần áo mới phải để dành đúng đến mồng Một Tết mới được mặc. Ngay cả bố mẹ mình cũng nhìn mà chép miệng, chúng mày bây giờ sướng hơn ngày xưa, ngày xưa bố mẹ chỉ có cái quần nâu cộc mà mặc Tết thôi. Bây giờ mình lại lôi cái ngày xưa của mình ra để so với trẻ con ngày nay, ôi, cuộc sống là một vòng tuần hoàn thời gian không bao giờ ngừng nghỉ.

Các cụ ngày xưa hay nói đến Tết thì được ăn ngon, thực ra một món có ngon hay không không chỉ vì nó hiếm hoi hay đắt đỏ mà còn phụ thuộc vào cảm nhận của người ăn. Ngày xưa vua chúa ngày nào cũng được ăn các món sơn hào hải vị nên đâm ngán, đến khi ăn món bình dân thì lại thấy ngon miệng. Với tôi, các bạn ở Việt Nam được ví như vua chúa vậy. Tôi xa nhà đã 5 năm, lúc đầu đói lắm, mọi người ở Việt Nam thấy lạ phải không, nhưng đối với những người xa quê như chúng tôi để thay đổi khẩu vị cũng không phải là việc dễ dàng và nhanh chóng.

Mỗi lần đói là tôi lại nhớ nhà da diết, nhớ đến các món ăn đơn giản hàng ngày, nhớ canh rau đay vào buổi trưa hè, nhớ đậu phụ mắm tôm của mẹ, nhớ món thịt giả cầy của bố, nhớ bún cá, bánh đa cua... nhớ lắm, thèm lắm. Có đi xa mới thấu hiểu được những món ăn ấy mang giá trị thế nào, dù sau này tuy nấu được những món ấy nhưng cảm giác vẫn không ngon.

Món ăn ngày Tết rất nhiều nhưng tôi đặc biệt nhớ một món, đó là nem thính. Món này ngày thường cũng được nhiều người ăn, nói chung nó không thuộc loại sơn hào hải vị gì mà chỉ gợi cho tôi về những cái Tết hồi còn ở nhà với bố mẹ. Hàng ngày mẹ tôi vẫn bán đậu phụ nhưng mỗi khi Tết đến mọi người không ăn đậu nữa mà chuyển sang các món thịt thà khác nên đậu phụ ế chỏng ế chơ. Mẹ bàn với cả nhà làm nem thính bán. Mẹ ngồi cả ngày ngoài chợ, bố phụ giúp mẹ chạy đi chạy lại lấy bún, thế còn ai làm nem ra ngoài hai chị em. Thế là chị em tôi bắt đầu công cuộc làm nem thính, cũng không phức tạp mấy.

Thịt làm nem phải là thịt ba chỉ, có mỡ có nạc khi ăn sẽ không khô, thính gạo rang xay nhỏ mịn rất thơm, bì luộc thái sợi dài. Làm nem khổ nhất là công đoạn thái thịt, thịt phải thái hạt lựu đều tay, không to quá không nhỏ quá vì to quá trông nem rất thô còn nhỏ quá thì nem sẽ vụn ra trông như thính.

Trong khi bạn bè quần là áo lượt đi chơi hai chị em tôi suốt ngày chổng mông lên thái thịt, phát gù lưng dập mai, tay chân quần áo nhầy nhụa toàn mỡ. Mà đã thế hồi ấy còn thớt lõm dao cùn, khi thái cứ phải di con dao xuống khiến ngón tay trỏ hằn lốt lên đỏ ửng. Sau khi thái thịt được ướp với nước mắm, tỏi, đường, mì chính, đặc biệt càng nhiều tỏi càng thơm càng ngon, sau đó trộn thịt với thính cho thính bám vào thịt đều nhau và cuối cùng đến bì.

Nước chấm cũng đóng vai trò quan trọng, vì chúng tôi làm để bán nên phải làm ngon, nếu không ngon thì không ai mua, không ai mua sẽ lỗ vốn, nếu làm cho nhà ăn thì thế nào cũng được. Em trai tôi rất khéo tay, nó tỉa su hào cà rốt thành hình các con vật ngộ nghĩnh hoa lá cành để trộn với nước chấm trông hay hay.

Ấy thế mà món nem thính đắt hàng lắm nhé, mẹ bán không kịp trở tay, thỉnh thoảng bố lại chạy về ới một câu, hai đứa đâu thái thịt mau lên, là chị em tôi lại chổng mông lao đầu vào cặm cụi thái, lắm hôm thịt vừa luộc xong chưa kịp nguội đã phải thái nóng bỏng rát cả mấy đầu ngón tay. Đến bây giờ hỏi em tôi sợ việc gì nhất trên đời thì nó sẽ trả lời ngay lập tức: thái thịt làm nem. Cả Tết chỉ nghỉ mồng Một, mẹ bán hàng đến tận 30 và mồng 2 đã bắt đầu nhưng vì thế mà cũng được lãi khối tiền sau mỗi mùa Tết.

Tết nào cũng như Tết nào, đến hẹn lại lên người ta chờ ăn nem thính của nhà tôi, chờ được xem những hình thù ngộ nghĩnh của em trai tôi làm. Cho đến khi Tết đầu tiên xa nhà tôi cứ ngậm ngùi không biết ai sẽ thái thịt giúp mẹ làm nem?

Sang đây tôi thèm ăn lại món nem thính, thịt thì nhiều nhưng thính với bì thì chẳng biết kiếm đâu ra. Cho đến một ngày tôi nhờ một chị quen biết mua tận trên Berlin mang về, rồi bắt tay vào làm. Nhưng thay vì thái thịt bằng tay thì tôi lại cho vào máy xay, nhanh lắm, chưa đến 2 giây thịt đã tơi tả, khi ăn cũng thấy ngon, nhưng ngon vì mình lâu không ăn thôi, chứ nó không mang một hương vị đặc biệt như ngày nào.

Có lẽ tôi cần một con dao cùn và một cái thớt lõm, có lẽ tôi đang thèm thấy lại những con thú ngộ nghĩnh ngày xưa.

Tôi luôn cố gắng Tết nào cũng làm cơm mời cả gia đình chồng, cũng vì một điều đơn giản tôi muốn hình ảnh gia đình thân thương ở Việt Nam luôn bên tôi mãi mãi.

Những mùa trăng

23/09/2012 4:16


Cứ mỗi lần bất chợt ngắm vầng trăng sáng, lại nghĩ đến những mùa trăng, Tết Trung thu.


Hầu như suốt tuổi thơ, tôi chỉ biết mỗi năm đều có tết Trung thu nhưng không mấy khi được hưởng hương vị ngọt ngào của nó. Cũng dễ hiểu, bởi ở nông thôn, nhà nghèo, bố mẹ làm ruộng, thời thơ ấu lại trúng vào đận nghèo đói, chiến tranh kéo dài, miếng cơm độn khoai chả đủ, nói gì đến bánh trung thu.



Trong ký ức lưu đến giờ, tôi vẫn nhớ Trung thu là tết trông trăng của lũ trẻ. Ngày ấy chỉ trẻ con mới khao khát chờ đón rằm tháng tám, chứ người lớn mải lo làm ăn cày cấy, chả hơi đâu thu với đông. Bánh trung thu, như đã nói, trải bao mùa trăng tháng tám nhưng tôi có biết hình dạng nó thế nào. Mãi sau, đến hơn 10 tuổi, khi nhà đã vào hợp tác xã, tối rằm tháng tám xa xôi năm nào, mới được cùng bọn trẻ con đến sân nhà ông đội trưởng sản xuất lĩnh bánh trung thu. Đó là cái bánh nướng, nhân thịt, bột, mứt bí, lạp xường… hình vuông, màu vàng xém, to cỡ lòng bàn tay. Chỉ cho bọn thiếu nhi thôi. Hương vị của chiếc bánh trung thu ấy cứ theo mãi, chắc cũng chả phải vì nó ngon mà vì lần đầu tiên được biết thế nào là bánh trung thu.


Trung thu nông thôn gắn với trăng. Tháng tám miền Bắc trời hay mưa. Rằm năm nào trăng sáng thì vui, còn tổ chức trống ếch rước đèn chỗ này chỗ khác. Gặp phải rằm mưa hoặc trời nhiều mây, Trung thu buồn thỉu buồn thiu. Đèn trung thu tự làm lấy là chính. Tre pheo sẵn, nhưng giấy bóng kính đỏ hồng xanh vàng phải lên phố huyện mua, mà hiếm lắm. Đứa nào khéo tay thì làm đèn kéo quân, đèn lồng, còn vụng về chỉ ra được hình ngôi sao 5 cánh hoặc con cá cụt vây. Kiếm dây thép cuộn thành lò xo gắn vào giữa để nhét ngọn nến. Nhưng có thứ nến khác không phải bằng sáp ong mà rất tuyệt, đó là nhân hạt bòng hạt bưởi. Ngay từ tháng 7 ta, nếu ăn bòng bưởi phải giữ lại hạt, bóc vỏ ra, xỏ vào que tre thật thẳng, xếp khít nhau, đem phơi nắng thật khô. Đêm rằm, lôi những ngọn đuốc ngọn đèn nhỏ xíu xinh xinh bằng hạt bưởi ra đốt thật thú vị. Hạt khô nhưng có tinh dầu, cháy đượm, sáng, nổ lách tách, tỏa mùi thơm dễ chịu, và đặc biệt ra gió chẳng mấy khi tắt.



Lớn lên, học hành rồi xa quê, những mùa trăng chỉ còn là hình ảnh nhạt nhòa giữa cuộc mưu sinh đầy vất vả. Sau lập gia đình, có con mới lại nghĩ đến tết trông trăng. Tụi trẻ ở thành phố có dạo chỉ quan tâm đến bánh, vì chúng thèm, nhưng khi no đủ rồi chỉ thích đi chơi. Mà cũng chả rước đèn đuốc gì, toàn kéo nhau xem kịch xem phim, hết thì về. Cũng chả trách chúng được bởi ở thành phố thiếu hẳn thứ quan trọng nhất: ông trăng. Trăng thành phố chịu lép dưới ánh điện nên vô vị lắm. Cứ mờ mờ nhàn nhạt, dường có dường không.

Ngày ấy chưa có Hảo Hảo, Đệ Nhất, hay Tiến Vua... Chỉ có 1 loại mì Tân Bình.


Ăn 1 gói Mì ngày ấy là mơ ước của bao đứa trẻ nông thôn như chúng tôi, loại mì mà chỉ ngửi mùi thôi đã có cảm giác "Ngon đến tròn vị"


Giá 1 gói mì là 500VNĐ, Vàng hồi ấy là 250Ngàn/chỉ. Còn ngày công lao động của Bố Mẹ thì tôi chưa tính được là bao nhiêu, nhưng chỉ biết là muốn có 1 bộ quần á

o mới phải chờ đến tết mới có được "1 trong hai" - Tức là phải chia ra, anh năm nay tết thì dc may quần, em thì được may áo, sang năm ngược lại. Ấy vậy mà giữ gìn quần áo mới cho đến ngày nó không thể phục vụ vào mục đích gì, hay nó làm nhiệm vụ phân thân làm nhiều mảnh để bù đắp cho những cái có lỗ thủng.


Nghèo khó, phải dùng từ là rất nghèo, nghèo đến mức ước mơ của chúng tôi là được ăn 1 gói mì tôm, nghèo đến mức mà các trò chơi ngây thơ của trẻ con chúng tôi cũng liên quan đến miếng ăn, chúng tôi thường lấy những lá chuối gói bánh tẻ người ta người ta ăn xong rồi ném ra đường, chúng tôi nhặt lên và gói đất sét vào rồi úm ba la hô biến cho những cái bánh đất sét nhìn như thật rồi bỏ ra giữa đường giống như ai đó đã vô tình làm rơi, để rồi những người đi chợ về như Mẹ tôi giật thót tim khi nhìn thấy món quà mang về cho con… Mỗi người một niềm vui, các Mẹ các Chị thì vui vì có bánh làm quà cho con, còn chúng tôi vui vì đã lừa được những người đáng thương kia mang bánh đất sét về cho con cho cháu.


Hàng ngày đi qua cái quán ở giữa làng nhìn những gói mì tôm treo lơ lửng mà lòng thầm ước ao sau này lớn lên sẽ làm thật nhiều tiền để ăn Mì tôm cho thật thoải mái.


Mơ nhiều ước nhiều cuối cùng vào một ngày đẹp trời tôi cũng được thưởng thức một gói mì tôm trọn vẹn. Đó là ngày tôi đi thi vượt cấp từ lớp 5 lên lớp 6, như thường lệ vẫn là được đánh thức dậy sớm ôn bài và điểm tâm 1 củ khoai, nhưng hôm nay thì khác, thay vì ăn khoai, Bố bảo mặc quần áo vào và đi theo Bố. không hề có câu hỏi và hoài nghi điều gì như thông thường Bố bảo gì đều làm theo như vậy. Con đường quen thuộc, đi ngang cái quán quen thuộc, nhưng lạ thay sao hôm nay Bố không đi thẳng mà rẽ vào quán, tôi đứng ngoài chờ, nhưng Bố gọi – “Vào đây con!” rồi quay sang ông bán quán – “Bác pha cho cháu nó 1 gói mì tôm”. Tai tôi như ù đi, mắt tôi long lanh như người đeo kính áp tròng, lòng tôi miên man hạnh phúc như cô gái nhận được lời cầu hôn. Tôi nhìn Bố rạng ngời và vĩ đại như chưa bao giờ có người nào vĩ đại hơn Bố, tôi thẹn thùng cúi xuống nhìn đôi dép tổ ong mòn đến nửa bàn chân mà vui đến tột cùng.


Rồi hương vị mong đợi thảng thốt bay ngang, trước mắt tôi là tô mì tôm với sợi mì vàng ươm khói bốc nghi ngút như đang mang đi hàng tấn bổ dưỡng bay lên không trung. Tôi suýt … 1 hớp nước trong tô mì, đầu lưỡi như tê dại, cảm giác ngon bùng nổ tràn khắp cơ thể, tôi dại người đi thưởng thức từng sợi mì. Cuộn này, hút này, rồi làm như con gà nhuốt con Giun này, tôi liếc ra đường xem có bạn nào đi ngang để tôi như chú Gà đang tự hào với thành tích của mình. Ngon, ngon quá Bố ạ, tôi chỉ biết nhìn Bố mà nghĩ trong lòng như vậy, mà tôi không nghĩ vì sao Bố lại không ăn mì cùng tôi chắc lúc ấy Bố cũng chưa ăn gì.


Bố chỉ nói là - hôm nay là thi vượt cấp, rất quan trọng con ạ, con cố gắng thi cho tốt sau này tha hồ ăn ngon con nhé!


Tư duy bé nhỏ chỉ biết vui sướng dạ, vâng rội chạỵ đi thi với quyết tâm cao nhất để cho Bố vui, và sau này sẽ được ăn nhiều mì tôm.


Quả thật, mong ước đó sau này đã thành sự thật, không chỉ cho riêng tôi mà cho tất cả các bạn tôi, và cả những người đang đọc bàn viết này. Trên suốt chặng đường đời cuả tôi mì tôm theo bước chân tôi không rời. Thời gian than thiết nhất là thời kỳ tôi là sinh viên, chúng tôi gắn kết thân thiết giống như những sợi mì cuộn tròn xoắn lại với nhau, thậm chí có những người bạn yêu quý mà sáng tác ra giai điệu “tình ca mì tôm” – “sáng mì tôm, trưa mì tôm, tối cũng mì tôm”


Tô là người chung thủy nên khi ra trường, đi làm tôi vẫn giũ mối qua hện bền chặt với mì tôm. Sáng sáng, tối tối chúng tôi vẫn là “đôi bạn thân, rất thân”, có cậu áo xanh, có cậu áo đỏ, có cậu chẳng mặc gì mà vẫn khoe những sợi cơ bắp xoắn chặt lấy nhau dường như khiêu gợi những đôi môi trần, trên cái dạ dày đang sôi sục.


Công việc bây giờ bận rộn, cuộc sống khá giả, ăn uống sung sướng… ấy vậy mà sau những buổi tiếp khách tiệc tùng sang trọng – rượu ngoại, bia đắt tiền, đồ ăn ngon… Tôi vẫn trở về bên cạnh mì tôm.


Ôi mì tôm, có thể tôi không thể tìm lại được cảm giác hương vị của ngày xưa, không có được cảm giác tròn vị như ngày xưa, không có Bố ngồi cạnh khi ăn mì tôm, nhưng mỗi lần cắm nước sôi, lột áo mì tôm ra tôi lại nao nao nhớ về ngày xưa ấy… cái cảm giác như cô gái nhớ về nụ hôn đầu tiên với người yêu đầu tiên ấy mà.


Ai cũng có những kỷ niệm khó quên trong cuộc đời mình, riêng tôi thì có kỷ niệm đơn giản vô cùng nhưng sâu đậm đến vô cùng, giờ đây tôi chỉ ước ao mỗi khi ăn mì tôm, tôi có Bố ngồi bên như ngày nào, có lẽ rằng cuộc sống sẽ nhẹ nhàng và đơn giản biết nhường nào, trong cuộc chạy đua tiền tài danh vọng, cơm áo gạo tiền tôi đều có thể “vượt cấp” đươc.


Bạn cũng vậy nhé, hãy trân trọng những giây phút cạnh Bố Mẹ để sau này khi xa Bố, xa Mẹ như tôi chúng ta có những kỷ niệm đẹp để nhớ về, để sống cống hiến hết mình đúng như sự kỳ vọng của Bố Mẹ.


Ở nhà Bố cũng đang nhớ đến con phải không?

Mùa Thu, mùa đẹp nhất trong năm, dễ khiến lòng người rộng mở, thăng hoa, hình thành những tác phẩm giàu tính nghệ thuật. Nhưng ở Việt Nam, mùa Thu luôn trùng với mùa mưa bão. Chỉ tính riêng năm nay, từ đầu tháng 4 tới tháng 10 Dương Lịch, dân duyên hải miền Bắc miền Trung đã hứng chịu bảy cơn bão cả thảy, trong đó ít nhất bốn cơn đồng nghĩa với đói khổ, mất mát lớn lao. Thành phố Sài Gòn, tuy ở xa tâm bão nhưng “vớt đuôi” kha khá, chưa kể phải chịu cảnh nửa nổi nửa chìm vì nạn nước ngập hàng tháng. Những lúc như vậy, mọi tiện nghi bảo đảm đời sống tối thiểu đều bị chiết giảm tối đa. Ngồi bó gối trên tấm phản kê cao ở phường Hiệp Bình Phước-Thủ Đức hay ở xã Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi thì nạn nhân bão lụt đều một tâm rầu rĩ, một cảnh hoa mầu ngập, gia súc trôi, đồ đạc ướt, bếp núc treo và một bản trường ca mì gói sướt mướt lâm ly.

Quê hương của mì gói là Nhật Bản. Điều đó nhiều người biết nhưng chính xác kẻ “đẻ” ra mì gói là ai, lại chẳng được mấy quan tâm. Xin thưa, đó là ông Momofuku Ando (1910-2006). Sau Đệ Nhị Thế Chiến, nhu cầu về thực phẩm của dân Nhật được đặt ra cấp thiết. Trải qua nhiều thử nghiệm, vào tháng 10 năm 1958, nhà doanh nghiệp gốc Đài Loan 48 tuổi này đã cho ra đời món Chikin Ramen (mì chiên trước, ăn liền, vị gà). Với ưu điểm tiết kiệm thời gian, tiện dụng, thơm ngon, Chikin Ramen rất được người tiêu dùng tán thưởng. Từ đó tới nay, gói mì Nhật Bản không ngừng “bị” quốc tế hóa, trở thành bạn đường của nạn nhân thiên tai, của người lao động bận rộn, không có điều kiện chợ búa, nấu nướng. Nói không quá lời, mì gói Nhật Bản đáng được liệt vào hàng những phát minh lớn. Ở Việt Nam, từ những năm 60 thế kỷ trước, mì gói Nhật Bản đã được biết tới, và ưa thích. Sau 75, nhiều thứ bị ngưng trệ, trong đó có “cái sự mì gói”. Phải đợi đến cuối thập niên 80, mới bắt đầu “phục hồi nhân phẩm” bằng những gói mì quốc doanh, bao giấy “xấu hoắc, đen thui”, in hình hai con tôm co quắp (vì thế mì gói còn gọi là mì tôm). Tình hình chỉ sáng sủa hơn vào năm 1993, khi một hãng mì Nhật Bản liên kết với mì Vifon Việt Nam, hình thành công ty Vina Acecook, chuyên sản xuất các dòng sản phẩm mì ăn liền. Cho tới nay, phạm vi hoạt động của công ty này không ngừng lớn mạnh, được coi là anh cả của làng mì tôm Việt Nam, không chỉ chiếm hơn 60% thị trường mì nội địa mà còn có mặt tại 40 quốc gia Âu, Á, Mỹ, Úc, Phi, Trung Đông với 700 đại lý phân phối các nhãn hiệu mì Hoành Thánh, Số Đỏ, Lẩu Thái, Hảo Hảo, miến Phú Hương, cháo Hương Ngọc, hủ tiếu Đệ Nhất, phở Xưa & Nay…



Ngoài anh cả Vina Acecook, làng mì tôm Việt Nam còn ghi nhận sự xuất hiện của tập đoàn Masan do ông Nguyễn Đăng Quang làm chủ tịch, tuy góp mặt muộn hơn Vina Acecook gần 10 năm nhưng cũng đình đám không kém. Còn nhớ lúc đó là cuối năm 2002, sau khi thắng lớn trong việc mở nhà máy sản xuất mì tôm, công suất 30 triệu gói mì/tháng, cung cấp cho 200,000 lao động người Việt tại Nga, sau khi thành công trong việc “dạy cho người Nga biết ăn mì gói và tương ớt”, ông Tiến sĩ Vật lý kiêm Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh- Nguyễn Đăng Quang- đã “chuyển lửa về quê hương”, chính thức tung vốn liếng, kinh nghiệm làm ăn vào lãnh vực chế biến thực phẩm.



Nhìn bằng mắt thường, nếu lột bao bì, đặt vắt mì hình chữ nhật của các đại gia, tiểu gia bên nhau, sẽ không nhận thấy sự khác biệt nào. Vì tất cả đều ép từ một loại khuôn, một kích thước. Sợi mì thơm ngậy như nhau, có chung độ vàng, độ giòn, độ dai như nhau. Khác chăng, chỉ khác do mùi vị gói phụ liệu đi kèm. Nếu chục năm trước, người Sài Gòn không có nhiều chọn lựa thì bây giờ họ lại chẳng biết đằng nào mà lần giữa một rừng bao bì choáng lộn, in hình đủ loại mì khay, mì ly, mì tô, mì gói bắt mắt, ngon miệng. Ai khảnh ăn chọn loại mì nhỏ, 60g- 65g, khá hơn chọn loại 70g-85g. Mì rẻ nhất (và cũng bán được nhất) trên dưới 3,000 đồng/gói. Đắt nhất cũng chỉ gấp hai, hai rưỡi. Tùy khẩu vị, muốn “hương xưa” thì ăn mì tôm, mì gà; thích chua cay thì mì kim chi, mì lẩu Thái; “có máu phở” thì chén phở bò, mê hải sản thì “làm” bún riêu, cháo cá…



Theo tiết lộ của ông Hào Phát, chủ cơ sở mì tôm quận 6, Sài Gòn, do không kiểm soát hết các công đoạn sản xuất, nên giá xuất xưởng một gói mì gần 2,000 đồng, khá cao. Bỏ mối cho các siêu thị, các đại lý, lời 70 đồng một gói là cao tay, mà cũng phải hai ba tuần sau khi giao hàng mới nhận được tiền. Trong khi cùng thời điểm này hai ba năm trước, một gói mì lời 200 đồng dễ dàng. Đường đi của gói mì khá zích-zắc. Từ nhà máy rót xuống đại lý lớn, tỏa về các điểm bán lẻ, các tỉnh huyện, các vùng cao vùng sâu, giá gói mì dù không muốn, cũng đội lên gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi giá gốc. Và để giữ chân khách hàng, hãng phải liên tục tung ra sản phẩm mới, tổ chức đội bán mì lưu động, tăng chiết khấu cho đại lý, khuyến mãi mua mì trúng nhà, trúng xe… Khó khăn trong kinh doanh như vậy nhưng chẳng “ông mì” nào bỏ cuộc chơi. Lý do, mặt hàng mì tôm chưa bao giờ ế ẩm. Ngược lại, đất nước càng nghèo, dân tình càng điêu linh, thiên tai bão lũ càng kéo dài  “ông mì” càng sống khỏe (!)Bạn đời” của mì tôm rất nhiều, nhưng đầu sổ có lẽ phải kể cánh sinh viên, thợ thuyền, công nhân lao động. Em gái Ngọc Chung, 21 tuổi, học Đại học Nông nghiệp, cho biết để có tiền sắm máy “còm-piu -tơ” cho việc học, em đã “đơn ca” mì gói suốt ba tháng liền. Máy “còm” chưa thấy đâu, người đã “còm” như con mắm. Chị Bích Liên, nuôi mẹ nằm bệnh viện cũng thắt lưng buộc bụng bằng thực đơn sáng mì, trưa mì, chiều mì. Vợ chồng anh Trừng, chị Liễu, công nhân vệ sinh quận Tân Bình thì “mưa gió đêm hôm quét đường về, không có gói mì không ngủ được. Ăn mãi đâm nghiện”. Trong hành lý đoàn lao động đi nước ngoài, nhóm du lịch, hành hương, thường cũng có mặt mì tôm “cho nó chắc cú”. Đám đào vàng, làm đường, cắm chốt, thám hiểm, đi buôn… càng “mì gói nói thay lời”. Cá biệt, trên một trang blog, có chị còn tâm sự “yêu mì gói hơn chồng”, với lý do tô mì đem lại cho chị cảm giác thỏa mãn, no bụng, thích thú, còn chồng, ngoài thái độ gia trưởng, độc đoán, còn luôn bắt chị “nhịn đói” suốt thời kỳ mang thai.



Tất cả họ, những tín đồ mì gói, không ai ngây thơ đến độ tin 100% vào sự bổ dưỡng do gói mì 3,000 đồng mang lại như những lời quảng cáo “có cánh” trên tivi, báo đài các loại. Em sinh viên Chung “còm” thú nhận sau ba tháng li bì mì gói, thường xuyên bị đau đầu, uể oải, chóng mặt. Chị Liên thì than người lúc nào cũng háo nước, tê tay chân, tim đập nhanh. Hỏi bác sĩ ở bệnh viện mẹ chị đang điều trị, “bác” này giải thích mì gói chiên bằng shortening, một loại dầu thực vật được hydro hóa, mất các nối đôi ở vị trí trans, nên chúng trở nên “trơ”, không bị “hôi dầu”, ôi thiu khi tồn trữ lâu ngày (vì lý do này, khoai tây chiên, cracker, đậu phộng da cá, bánh kem hay dùng shortening). Chất béo trans (trans fat) có lợi về mặt kỹ nghệ thực phẩm nhưng có hại cho người tiêu dùng vì khiến tăng cholesterol xấu, gây xơ vữa động mạch, thiếu máu cơ tim, dễ dẫn tới tai biến tim mạch. Về giá trị dinh dưỡng, mì tôm chỉ cung cấp chất bột từ bột mì. Protein động vật, rau tươi, vitamin gần như không có. Trong khi đó, muối, bột ngọt lại rất thừa. Chính các chất phụ gia tổng hợp mùi vị đã đánh lừa vị giác, tạo sự ngon miệng, thèm ăn. Từng có nhiều nghiên cứu về sự độc hại của mì tôm. Tất cả đều đưa ra khuyến cáo mì tôm không nên dùng thường xuyên, nhất là đối với người lớn tuổi, người có tiền sử bệnh tim mạch. Nếu trót “nghiện” - như trường hợp vợ chồng anh Trừng công nhân vệ sinh - thì cũng chỉ ăn hai lần trong một tuần là cùng. Đã vậy, khi ăn mì, phải thông minh, đừng bóc gói mì ra, “úp” ngay mà trước hết, cho mì vào nước sôi khoắng kỹ nhằm xả bớt dầu chiên, xong đổ nước đó đi, chế nước sôi khác vào ngâm lần hai, hẵng ăn. Nếu bổ sung nắm rau tươi, quả trứng, bìa đậu phụ, rong biển, giá đỗ, thịt bò, thịt heo, tôm tép (băm nhỏ, chần kỹ) thì càng tốt…



Những giải thích, cảnh báo, đề nghị trên của người ngành y hoàn toàn đúng, và cần thiết cho khách tiêu dùng bình dân, vốn ít thì giờ, eo hẹp kinh tế và ít để ý chuyện độc hại. Nhưng trong hoàn cảnh đồng tiền mất giá, thất nghiệp “tràn trề” như ở Việt Nam hiện nay, thêm thiên tai, nhân tai dồn dập, người dân tự cứu mình còn khó, tâm trí đâu mà thông minh với “cái sự ăn mì”. Vì vậy, nếu ngồi trước tô mì bốc khói lung linh huyền ảo, thông minh được thì tốt, mà có… thong manh thì cũng chẳng làm sao, vì sống chết tại số, nào phải tại mì. Mà mì đã độc hại bao nhiêu, so với hàng ngàn hàng vạn loại thực phẩm kinh hoàng khác đang từng ngày đưa người Việt Nam từ bàn ăn vào bệnh viện ung bướu ra… nghĩa địa

H

ƯƠ

NG V

X

Ư

A



       Làng chúng tôi định cư có khoảng hơn mươi gia đình người Việt,thì trong đó hơn một nửa là đã có dây mơ rể má từ trước, hoặc móc nối bằng tình sui gia, hay liên hệ bạn bè. Chí lớn chúng tôi gặp nhau ở chỗ “ăn”, do đó hằng tuần chúng tôi thường có buổi họp mặt, trẻ già lớn bé hơn 30 người. Chỗ tụ họp thì luân phiên và tùy mùa, nhà có,park có, nhà thờ cũng có luôn. Thấy vui quá, chúng tôi đặt tên nhóm là “co-opcooking hội”. Thường bữa tiệc nào cũng được “ăn”, được “nói”, lại còn được “gói” mang về.



       Đa số chúng tôi xuất thân từ xứ hoa đào, nơi chúng tôi thường tự hào là xứ Mọi dễ thương, cảnh đã dễ thương mà người thì lại càng dễ thương hơn(!?). Thêm vào đó nhắc tới Đà Lạt thì ai không nhiều thì ít cũng đã đi đến hoặc nghe qua nên dễ bắt chuyện. Các cụthường nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, nhưng sang đây, tôi phải đổi lại là “bữa ăn là mối nhợ của tình thân”.Các món ăn được trình làng lẫn lộn màu sắc của cả ba miền, thuần túy có, lai lai có, thậm chí có cả những món chế kiểu cho thêm phần phong phú và tránh sự nhàm chán. Nơi chúng tôi ở không có hàng quán nhiều nên muốn ăn thì phải tự biên tự diễn thôi, món nào được nấu ra cũng dựa trên quá trình ăn uống lúc xưa, thời gian trôi nhanh trí nhớ phôi pha, nấu giống được chút nào thì hay chút ấy, nấu mại mại thì ai biết đó vào đâu, cứ quả quyết là “authentic” là xong hết.



       Ẩm thực Đà Lạt cũng như người Đà Lạt, từ giọng nói đến món ăn phảng phất màu sắc của cả ba miền, nghĩa làcó một chút “Bắc Kỳ”, có một chút “Huế Kỳ” mà cũng có hơi hám một chút “Nam Kỳ”. Đà Lạt là nơi gặp gỡ của khách thập phương, khách du lịch, trước đây chúng tôi thường phải giới thiệu các quán ăn quen thuộc cho các bạn bè xa gần nên hôm nay tôi mời quý vị đi ngược thời gian để hiểu được tại sao chúng tôi cứ quyến luyến mãi với những món ăn của xứ sương mù này.



        Bây giờ có nhắc lại thì cũng chỉ cho vui, cho thèm mà thôi vì dù có cố nấu cho giống tới đâu thì cũng không thể nào chuyên chở cho hết được những xúc cảm của thực khách lúc bấy giờ.



       Khu hòa Bình, trái tim của Đà-Lạt, vốn xưa kia là Chợ Cũ, các hiệu ăn và phố xá quây quần trên ngọn đồi nhỏ đó. Lò bánh mì Wĩnh Chấn là một trong những mốc chỉ đường cho người mới đến, nhưng cái đặc biệt của tiệm nầy là bánh mì lò than, mở cửa hầu như cả ngày lẫn đêm. Chỉ một ổ bánh mì baguette mới ra lò dòn tan, gầy như cánh tay cô gái Đà Lạt – tôi chỉ nói cánh tay thôi vì chúng tôi rất nổi tiếng về “cặp đùi bắp xú” rồi… Hì! Hì! – Không giấy gói, phải chuyền tay qua lại để đỡ nóng,ngay lúc ấy bẻ ngay khúc đuôi cắn vào một miếng thì mới thấy hương vị tuyệt trần của một ổ bánh mì mới ra lò. Mùi bột nổi lồng vào hương vị chay cháy của vỏ ngoài và chất deo dẻo của ruột bánh làm bạn không thể nào dừng lại ở đó được mà phải ăn cho đến hết. Mẹ tôi dạy, con gái con lứa không được ăn uống ngoài đường ngoài chợ, nhưng khổ nỗi đã thử một một miếng rồi thì làm sao mà đợi cho về đến nhà được! Cho nên chúng tôi thường kéo bè đi ăn dể tha hồ mà xấu hổ chung. Tuy thế cũng sợ “dị”, nên thường chúng tôi mua xong là đi ngay ra con đường nhỏ sau cửa tiệm, dẫn nhau lên nữ đại học xá mà ăn.



       Đà Lạt hay mưa, mưa dầm dề,mưa lai rai, ngồi dưới chái của hàng bánh xèo đường Tăng Bạt Hổ, nghe tiếng mưa rơi trên mái tôn, lưng thấm lạnh vì gió luồn vào tấm bạt ngăn sau lưng và nghe hơi ấm đến từ các bếp lửa phía trước đồng thời ngửi mùi khói thơm lừng từ những chảo bánh tỏa ra thì quả là tuyệt vời bạn ạ. Bánh xèo ra khỏi chảo vàng lượm, cháy xém quanh rìa trông thật hấp dẫn. Tuy tôm thịt thì ít,giá đậu thì nhiều, nhưng chén nước mắm đầy ớt lẫn lộn vài sợi cà rốt đỏ, củ cải trắng, thêm vào tràng rau xà lách ĐàLạt với những cọng ngò xanh lẫn vài cọng tần ô và vài bẹ cải đắng cũng đã đủ làm mồm bạn sũng nước miếng. Cho đến bây giờ vào mùa lạnh, gặp ngày mưa nho nhỏ, tôi vẫn nhớ tới bánh xèo Tăng Bạt Hổ, không biết có giống như ai đó nhớ điếu thuốc lào hay không?



       Đến xứ lạnh Đà Lạt mà chưa ăn Phở thì chưa gọi là biết Đà Lạt. Phở Tùng, phở Bằng, phở Đắc Tín, phở Ga,phở Ngọc Lan... mỗi hiệu có một đặc thù và hương vị riêng. Phở Tùng thịt nhiều và thái hơi dày. Phở Bằng thì không được ưa thích lắm vì nước phở hơi nhiều mùi bò. Phở Đắc Tín tôi thích vì là tiệm nhà của cô bạn tôi nên chúng tôi được chiều và “săn sóc” đặc biệt.Phở Ga hay còn gọi là Phở Quyền thì tuy ngon nhưng ở quá xa mà khi đã “lết” được tới tiệm thì còn hay phải chờ phải đợi, đợi dài cổ nên bớt thích đi nhiều.Phở Ngọc Lan chỗ ngồi hơi bình dân nhưng miếng giò gói tiêu hột thái mỏng thì không nơi nào bằng. Riêng với tôi thì không phở nào bằng “Phở Đen” gánh đi ngang nhà. Chúng tôi gọi là ông phở Đen vì ông hay mặc áo màu đen và đội chiếc mũ đen cũ xì ám khói. Chỉ cần nghe tiếng rao của ông ấy đã làm mình thèm rồi, chỉ một chữ “Phơ…ơ…ở” thôi,nhưng nó kéo dài như tiếng gió qua truông, lại đến vào lúc vừa thức dậy,bụng đói cồn cào thì hỏi sao mà không thấy “đã”. Ngày thường chúng tôi đi học nên chỉ ăn được vào cuối tuần hoặc lúc ốm đau mà thôi. Gánh phở nhỏ thôi,cũng ám khói mầu đen như áo ông Đen,không dình dang như những xe phở ở Saigon nhưng không thiếu một thứ gì,một đầu là nồi nước dùng, nấu bằng củi khói bay nghi ngút, một phần là khói bếp,một phần là hơi phở quyên vào nhau thành một mùi thật đặc biệt của phở gánh. Đầu gánh bên kia thì nào là thịt, nào là bánh phở, rau, tương và chậu nước rửa, tô chén được xếp ngăn nắp trong những ngăn bên dưới, mặt trên cùng là tấm thớt lớn, vài ống lon “ghi-gô” đựng đũa, muỗng. Phẩm chất của bát phở là tùy tiền mua và cũng tăng theo tình cảm và sự quen thuộc của khách hàng. Vì độc quyền trong khu vực nhà tôi nên tuy chiều khách hàng,nhưng ông cũng có những cái độc tài dễ ghét, giả dụ như ông không bao giờ choăn giá, hoặc bát phở phải có hành ngò và một chút tiêu, nếu không ăn được hành thì khỏi ăn phở luôn. Chắc các bạn cũng biết, gánh hàng rong nào mà chẳng dơ nhưng nghĩ cho cùng đôi khi cái dơ ấy làm cho tô phở có cá tính riêng biệt của nó. Em tôi tính sạch sẽ nên hồi nhỏ khi nào muốn ăn lấn sang tô của nó thì tôi chỉ việc bảo là thấy ông hàng phở thiếu nước dùng nên bỏ nước xả khăn lau bát vào thùng phở, thế là nó buông đũa và tôi đành “cà lảm - làm cả”.Tự bản chất, phở Đà Lạt có thể không bằng phở Saigon nhưng cái lạnh của Đà Lạt làm tô phở thêm đậm đà mà nắng Saigon không thể nào làm được.Bánh phở tươi mềm mại, tô nước trong veo được tô điểm bằng những miếng thịt chín nạm viền vàng và vài miếng mỡ gầu, lẫn màu hồng của thịt tái trụng vừa chín tới, màu xanh của hành ngò như thêm nét chấm phá cho bức tranh toàn hảo bên cạnh chén hành trần nước béo thì làm sao mà quên được phải không bạn? Trời thì lạnh, phở thì nóng, ăn vào một muỗng là ăn cả sự ấm áp, cảm khoái tuyệt trần. Sau 75, có phở “toàn quốc” (toàn nước) và phở “không người lái” lại làm tôi càng nhớ bát phở Đà Lạt nhiều hơn nữa.



       Chỉ nhắc tới phở mà bỏ quên không đưa bạn tới thăm quán bún bò “Số Bốn” là cả một sự thiếu sót. Có tên “Số Bốn” vì quán này nằm cách trung tâm thành phố khoảng 4 cây số và cũng là địa danh của vùng đó, tôi không biết xuất xứ của quán nầy, nhưng khi quán nổi tiếng thì trở thành nơi hẹn hò của đám học trò. Quán là phòng khách của chủ, nhỏ nên chỉ đủ chỗ cho bốn,năm bàn con. Khách đến thì thường đứng chờ ngoài vườn dưới bóng rợp của cây mít, ngửi mùi sả ruốc từ trong bếp xông ra là đã thấy “cả một không gian bún bò” rồi. Thường khách đợi ít ai đi một mình, các anh đứng nhìn các cô con cháu chủ nhà, còn chúng

tôi thì … lén nhìn các anh. Đôi khi cũng bắt gặp cái nhìn trả lại, thật là vui! vui hơn nữa là khi có bàn rồi ngồi chen vai nhích cánh tha hồ mà đá lông nheo. Công chờ đợi được đền bù bằng những tô bún thơm phức, màu đỏ của váng ớt óng ả trên miếng giò heo tròn như lát bánh tét cộng thêm vài lát thịt bò làm duyên,trang điểm bằng một dúm răm hành thì làm sao mà không muốn ăn cho được.Đặc biệt của quán nầy là bát bún bò được đi kèm với đĩa rau ghém gồm một chút xà lách quăn Đà Lạt xắt mỏng, vài cộng rau thơm, một chút bắp chuối bào bên cạnh miếng chanh và ít trái ớt, quí vị nào muốn cay hơn thì đã sẵn có hũ hành phi ớt bột. Cái khổ của chúng tôi là không dám ăn tự nhiên vì con gái phải giữ ý tứ trước công chúng, cộng thêm một chút “làm dáng” nữa chứ! Nhưng tiếng húp xùm xụp và xít xoa vì cay của các đấng nam nhi bên cạnh đã làm tăng phần ngon lành của tô bún không chối cãi được. Món bún bò là món ăn tiêu biểu của Huế, người Huế ưa cay, có người chọc ghẹo rằng có lẽ vì xứng hèo, mùa màng thất thoát, thiên tai liên miên nên nấu cay để đỡ tốn và át đi cái dở của thức ăn mà thôi, nhất là tô bún bò mà không nêm ruốc và không có ớt thì không trọn hương vị của một tô bún bò.



       Nhắc đến bún bò “Số Bốn” thì không thể không nhắc tới mì Quảng “Bà Bốn”, mì Quảng vừa rẻ, vừa nhiều, phù hợp với túi tiền của đám học trò và dân lao động nên tự nhiên trở thành món ăn phổ thông của vùng Cao Nguyên. Có nhiều nơi bán mì Quảng lắm, hầu như xóm nào cũng có một gánh mì Quảng,nhưng chỉ có hai nơi ở Đà Lạt nổi tiếng thôi, đó là mì Quảng Ngọc Hiệp ở đường Phan Đình Phùng và mì Quảng Bà Bốn ở Hoàng Diệu. Đường vào quán thì cũng hát cũng được dăm ba lần bản Phố Buồn, ngõ hẹp ngoằn ngoèo lại còn phải băng qua ruộng xà lách mới đến được chỗ ăn. Chúng tôi thường bảo mì Quảng là món nhà nghèo vì là món ăn chơi vào cuối tháng lúc mọi người đợi lương, hơn nữa các vật liệu dùng để nấu món này thì quả thật không có gì đắt giá và hiếm hoi cả. Tuy thế, tô mì Quảng Đà Lạt mang sắc thái riêng của nó. Một điều lạ ở Đà Lạt là phần lớn các chỗ ăn nổi tiếng đều mở tại nhà, phải chăng cái không khí ấm cúng của căn nhà cũng dự phần quan trọng trong sự ngon miệng của khách hàng? Quán Bà Bốn đi từ gánh đến tiệm nên vì thói quen, dù mở trong nhà bà cũng không dứt bỏ được đôi quang gánh. Bà ngồi chẻm chệ trên chiếc đòn nhỏ giữa hai cái thúng lớn, một bên là nồi nước lèo trên mặt, chậu tráng chén ở dưới, một bên là mì ở dưới, gia vị, rau ráng, chén bát lỉnh kỉnh phía trên. Thúng nào cũng được khoét một lỗ lớn để còn lấy các thứ cần dùng. Quán không có người chạy bàn, khách ngồi đợi đến phiên rồi tự bưng lấy, hay chuyền tay nhau, và bàn của khách cũng được xếp đặt quây quần chung quanh gánh mì. Sợi mì Quảng tương tự như bánh phở, nhưng được nhuộm vàng, một chút dầu ăn thoa sương cho khỏi dính, nước lèo nấu hơi đặc vì nhiều nhân nhụy. Cách thức múc mì cũng là một nghệ thuật, giá trụng là lớp thứ nhất, kèm theo một chút bắp cải và bắp chuối xắt mỏng lẫn vài lá rau húng. Kế đến là lớp mì trụng nóng rồi mới chan nước lèo. Nước lèo thì mỗi tô chỉ một vá thôi, không hơn không kém, vì nước dùng không có gì ngoài mấy miếng thịt ba chỉ thái mỏng hầm nhừ và vài ba con tôm khô, thành thử nhân nhụy phần lớn là chất độn như củ đậu hoặc trái su thái hạt lựu. Tô mì nhìn thấy hấp dẫn vì những món phụ tùng trên mặt: một chút đậu phộng rang giã nhỏ, một nhúm hành phở khô chiên dòn hoặc bánh tráng nướng bóp vụn, một chút ớt bằm đỏ và đặc biệt nước lèo có màu cam đậm, ngần ấy thứ tụ lại làm tô mì đẹp hẳn lên.Vị bùi bùi của đậu phộng, dòn dòn của bánh tráng xen lẫn vị béo ngậy của miếng thịt mỡ, và mùi tôm khô ngai ngái đã tạo thành một tổng hợp đặc biệt, bạn đã ăn một lần thì phát ghiền, phải quay trở lại thôi. Sau nầy tôi được một chị bạn nấu mì Quảng chính hiệu con nai ở Quảng Nam cho ăn,ngon thì có ngon thật, nhưng vẫn nhớ mì Quảng Đà Lạt.



       Lên đến khu Hòa Bình mà không ghé quán xôi gà Thủy Tiên thì là cả một sự hối tiếc. Quán nhỏ dựa lung vào phố lầu Wĩnh Chấn, đối diện với khách sạn Thủy Tiên nên tên của quán có lẽ là do thực khách đặt ra. Thực đơn thật là Bắc Kỳ, gồm xôi gà, gỏi gà, miến gà và cháo gà. Gà mái tơ luộc mập mạp, mỡ tuôn vàng óng, chặt miếng vừa phải bằng hai lóng tay đặt lên xĩa xôi nếp hạt dài mềm dẻo trắng phau, trên mặt trải thêm một muổng hành ta phi dòn thơm phưng phức và kế cạnh là chén nước mắm gừng thì quả là tuyệt cú mèo.



       Thường thì đùi gà đã chặt bán với xôi nên ức gà được xé nhỏ để bỏ vào miến hoặc cháo. Cháo Thủy Tiên thật khác lạ, gạo được rang nên lúc nấu thành cháo không đặc quánh mà hột gạo, hột nào hột nấy như được bẻ đôi rồi nở búp búp trông thật đẹp mắt, có lẽ vì thế mà các cụ ta thường thích ăn bát cháo hoa. Đi chơi khuya về, trời lạnh thở ra hơi, ngồi cạnh nồi cháo bốc khói,ăn một bát cháo khuya, có gà, có lòng,thêm vào chùm trứng non phảng phất hương thơm của mùi hành răm tiêu sọ,thử hỏi làm sao mà quên cho đành.Khu Thủy Tiên, ngoài hàng xôi gà, còn có nhiều hàng quán khác như cháo lòng, hủ tiếu mì và một vài hàng sinh tố.



       Gia đình tôi chia làm hai phe, một phe ăn phở và phe kia thi thích mì, nên hai quán mì chú Chanh bên cạnh quán mì chú Ngầu không thể không có trong danh sách được. Mì là món ăn gốc Tàu, xe mì ở Việt Nam chắc được “designed” từ cùng một “Chinesedesigner” nên tương tự nhau, từ cách sắp đặt cũng như cách trang trí đều đặc sắc thái “Chệt”. Xe mì nào cũng có mấy tấm kiếng xanh đỏ vẽ hình những trận đánh trong Tam Quốc Chí. Ấy là tôi chỉ đoán mò mà thôi vì lúc bé, khi đến gần xe mì thì chỉ chăm chú vào tô mì mà không để ý gì đến nghệ thuật cả.Hình ảnh của xe mì và tiếng xực tắc của hai miếng tre thay tiếng rao hàng đối với tôi cũng là một âm vang kỷ niệm. Tô mì chú Chanh ngon nhất là miếng bánh tôm chiên dòn để trên mặt, sợi mì nhà làm nên cũng khác hơn, hoành thánh thì chạy qua hàng thịt thôi, nhưng bát mì được rưới một chút tóp mỡ và dăm ba miếng thịt xá xíu đo đỏ, thái mỏng như tờ giấy viết thư tình thấp thoáng sau đám hẹ cắt nhỏ, khi ăn cho một chút dấm đỏ mà gia đình tôi gọi là “dấm xủ”,kèm theo một tí ớt xắt ngâm dấm chua là trọn vẹn, hết chỗ chê.



       Đà Lạt của chúng tôi hồi đó có nhiều thứ đặc biệt khác như cà ri dê Chi Lăng, cà phê Thủy Tạ, bánh mì chay Viên Quang, Paté Chaud Nhà Đèn, bê thui Nhật Tân, thịt đông dưa chua Bắc Hương, mì Cẩm Đô, thịt thỏ Ba Cao,Quán T2 … và các sạp ăn ngồi chồm hổm ở chợ Đà Lạt mà chỉ có dân Đà Lạt mới biết mà thôi.



       Kể ra, chúng ta cũng đã ghé khá nhiều chỗ rồi đó, nếu đi cho hết thì các bạn sẽ bội thực mất thôi, nên tạm dừng ở đây. Hơn nữa, còn những riêng tư không thể tả ra được mà chỉ những người của xứ Thông Reo mới cảm nhận được mà thôi. Xa Đà Lạt nhưng chẳng bao giờ quên được Đà Lạt, viết lại đây để mà nhớ mà thương chứ chắc chẳng bao giờ tìm lại được những gì yêu dấu ngày xưa đâu nhỉ? Những hình ảnh cũ rồi cũng sẽ nhạt nhòa ….



Nhớ tiếng dế non nằm ca dưới cỏ
Nhớ nhánh thông nhỏ mọc giữa lưng đèo
Nhớ giốc Nhà Chung có bước chân theo
Nhớ tiếng thông reo bên hồ chiều vắng
Cành Mimosa hoa vàng, lá trắng
Nhớ đóa pensée dưới nắng rất mềm ….



       Thôi nhé, chào nhé, hy vọng một ngày nào đó, trên Đặc San BTX & THD sẽ được các anh chị chia sẻ những kỷ niệm cũ của lúc thiếu thời, thời học trò,thời sinh viên hay cả những giai đoạn thăng trầm của cuộc sống thì chắc là quý lắm. Biết đâu chúng ta chẳng có cùng chung vài kỷ niệm?

Nhân hôm nay đọc bài của Mr Dũng về

cái bánh giò

bỗng dưng mình thấy hợp với tâm trạng của mình đến thế. Thôi thì rửa bút nghiên để mài vài con chữ, trải lòng mình ra để đón nhận sẻ chia vậy.


     


      Ngày ấy cách đây cũng ngót nghét hai mươi năm rồi, cái thời mà ăn chưa đủ no, co chẳng đủ ấm nó cứ vồn vã hỏi thăm gia đình mình ấy. Có những kỷ niệm mà đến giờ mình vẫn còn nhớ mãi, nhớ mãi.



Đến giờ tuy ăn cũng đủ no, co cũng đủ ấm rồi mình vẫn nhớ mãi cái kỷ niệm về chiếc bánh mỳ kẹp chả lần đầu tiên được ăn ấy. Sao mà nó ngon đến thế, nó ngầy ngậy bùi bùi tạo cho người ta cảm giác ngon đến khó tả.


    


      Số là nó học cũng không đến nỗi tồi, đến hết cấp I nó được mẹ ưu ái may cho cái áo bằng suất vải mà mẹ nó được nhà trường phân cho cộng với cái cặp da to hơn người của nó nữa chứ. Nó hãnh diện lắm đấy. Nó cố gắng học và phấn đấu để luôn đứng đầu trong lớp để cuối kỳ lại được nhận một cái Giấy khen đỏ chót mang về treo lên bức tường vôi cũ kỹ.


     Thế rồi trời không phụ lòng người, các kỳ thi học sinh giỏi của trường nó đều giành giải cả và được cử vào đội tuyển của trường mang chuông đi đánh xứ người để được vang xa hơn. Thú thực là từ trước đến giờ nó còn chưa hề biết đến con đường cách xa nhà chừng 3km, bởi cứ hết giờ học là nó lại về nhà để làm nghề phụ, cắm cúi suốt buổi chiều luôn chứ nói gì đến chuyện đi xa. Nó chỉ có thể học cày hì hục vào các buổi tối khi ánh đèn dầu leo lét nhập nhòe, nhiều hôm bị đốt cháy cả tóc vì ngủ gật và bị mẹ nhắc là tắt đèn đi ngủ kẻo tốn dầu. Đến ngày đi thi, nó phải dậy sớm, ăn bát cơm nguội rang và đi lên trường để cô giáo đèo nó đến điểm thi.(đi từ sáu giờ gì đấy khi tiết trời còn lạnh ngắt của tiết cuối xuân). Lên đến điểm thi cách nhà nó khoảng chừng 7km gì đó thì cũng đã 7h rồi. Vào phòng thi và bắt đầu hồi hộp chờ đợi một cuộc tỷ thí cam go. Sau khoảng 180 phút làm bài gì đó (giờ chịu không nhớ nổi nữa), đến lúc hết giờ làm bài thì khoảng mười rưỡi gì đó nó thở phào bước ra khỏi phòng thi mà cái bụng thì xốn xang rộn ràng đến thế. Xốn xang vì có lẽ bài thi của nó làm không được tốt lắm, có một câu mà nó chưa được học bao giờ vì chỉ có trong sách nâng cao thôi (sau này thì chính cô giáo nó cũng thừa nhận điều đó), mà sách nâng cao thì nó làm gì có mà đọc chứ. Cái xốn xang thứ hai có lẽ là do hồi sáng nó lo âu nên không ăn được nhiều cơm nguội, vì còn phải mang trọng trách của cả trường trên vai đem chuông đi đánh xứ người mà. Hồi hộp lo âu khi gặp cô giáo nó ngoài hành lang cùng với cậu bạn cùng trường nhưng khác lớp đi thi cùng. Cô giáo hỏi han tình hình làm bài của hai đứa thế nào? Nó chỉ lý nhí và cúi mặt xuống nói rằng bài của em không tốt lắm chắc chỉ được 7, 8 gì đó thôi. Thế đã là thành công rồi đấy em ạ, cô giáo nó trấn an tinh thần.


      Và rồi cô giáo nó mở cặp ra lấy ra hai cái gói bọc trong giấy báo, đưa cho mỗi đứa một cái, bảo là nhà trường mua cho hai em để ăn trưa ( nó đã thấy mùi thơm thoang thoảng đâu đây từ nãy giờ rồi). Nó cầm trên tay và không thể tả được cái mùi của nó thơm và quyến rũ đến thế. Cái mùi mà lần đầu tiên nó ngửi thấy, sao nó dễ làm người ta mềm lòng. Nó nhận cái gói giấy cô giáo nó đưa và nhét vội vào cặp như sợ người khác nhìn thấy thì sẽ lấy mất ấy.


     Sau đó cô giáo nó bận vì phải ở lại tổng kết buổi thi, nó và cậu bạn ra về. Cậu bạn nó thì đã có bố đi xe đạp lên tận cổng đón rồi. Thế là mình nó phải dò dẫm theo đường cũ mà về vậy.


Đường về nhà nó cũng khá xa đấy chứ, lúc đó đã là hơn mười một giờ rồi. Mình nó cứ thế lững thững đeo trên cai cái cặp to hơn người và bước đi chậm dãi. Đi dọc con đường vắng vẻ không có lấy ai đi bộ cả, người người hối hả tan ca đạp xe về nhà nấu cơm ăn. Cái mùi ấy phải rồi cái mùi quyến rũ ấy lại cứ bay ra khỏi hai lần giấy báo, xé toang cả cái cặp da dày cộp mà nó đang đeo trên lưng để chui ra ngoài. Mà quái lạ làm sao, cái mùi ấy lại không bay ra ngoài và vươn lên trời cao mà đón nắng xuân gió thoảng lại cứ loanh quanh luẩn quẩn chui tọt hết cả vào cái mũi đang nhòm mồm của nó chứ lị. Quả thật là nó thèm đến không thể chịu được nữa rồi, thèm đến chết đi được ấy (như cái ngôn ngữ xì tin bây giờ mà ai đó đã nói với nó). Nó hì hụi tháo cặp khỏi vai, đi nép vào lề đường, nhẹ nhàng mở chiếc cặp và lấy ra cái gói giấy mà hồi nãy cô giáo nó đưa cho. Nó rón rén mở một góc gói giấy rất nhẹ nhàng như sợ cái mùi ấy nó bay đi quá nhanh. Chao ôi một cái bánh mỳ kẹp chả, ôi tuyệt vời làm sao.

Nó chỉ dám cắn nhẹ một miếng rồi lại nhai ngấu nghiến vì nó quá ngon nhưng cũng chẳng dám nuốt nhanh vì sợ lại tan mất cái cảm giác thú vị đó. Vừa đi nó vừa nhai miếng bánh dai dai (vì bánh cô giáo nó mua từ sáng mà, ỉu rồi còn đâu), và chỉ dám cắn một tý chả thôi nhé (y như trâu bò nhai lại miếng cỏ thơm ấy). Cứ thế con đường về nhà nó ngày càng một gần hơn. Nó sợ nếu ăn nhanh quá thì sẽ không còn bánh để ăn nữa, sẽ không còn được cái vị thơm tho của bánh nữa. Và nó cứ gặm cứ nhấm cái tự hào rằng vì ta học giỏi nên ta mới được đi thi  và được cô giáo cho cái bánh ngon thế đấy. Nhưng hỡi ôi cái bánh thì chỉ bé bằng bàn tay, mà giờ nó đã ăn hết nửa rồi. Chẳng biết còn hơn một cây số nữa mới về đến nhà thì còn gì để ăn nữa hay không trong khi cái bụng của nó vẫn còn đói meo và cái mũi thì vẫn phập phồng đến lạ. Nhưng khi đó bất chợt trong đầu nó lại lóe lên một tia sáng gọi là sáng kiến ấy chứ. Nó phải để dành nửa cái bánh còn lại để mang về khoe với bố mẹ nó, để cho em nó còn làm một miếng chứ nhỉ. Cái này gọi là có tí khoe đấy nhé. Tự hào thay con đi thi được cô giáo cho cái bánh mỳ. Và chắc cũng làm bố mẹ nó vui lây vì thằng anh đi thi lại biết để dành phần thưởng mang về cho em nó. Thế là nó lại gói gém cẩn thận cái bánh lại và cho vào cặp, khóa khiếc cẩn thận, nhảy chân sáo chạy một mạch về đến nhà.



    Ấy thế mà cái mùi vị của chiếc bánh kẹp chả ấy nó vẫn cứ phảng phất đâu đây khi nó ngồi viết lên những dòng này. Cái mùi vị của lần đầu tiên được cắn, được nhai và được ngửi nó sao mà ngon đến thế.


Đúng là miếng ngon nhớ lâu và nhớ dai thật đấy

Tôi ước có một ổ bánh mì giá hai ngàn đồng

Dantri.com.vn

- 22/04/2013

1894

"Bạn tôi sáng nhịn ăn lên giảng đường, bạn tôi sáng đạp xe 20 cây số, thằng đi dạy thêm, đứa làm tiếp thị, thằng làm quán cơm, tối về một gói mì tôm...". Lời bài hát ngân vang gợi trong tôi bao nỗi nhớ da diết về một thời còn ngồi trên ghế nhà trường.

Thời ấy, trên chiếc xe đạp cũ kỹ, trật sên lên xuống, ba chở tôi cùng với quần áo, sách vở, gạo... đạp mấy chục cây số để ra phố trọ học. Dưới cái nắng gay gắt của thành phố Đà Nẵng, bờ vai gầy gầy của ba ướt đẫm mồ hôi. Khuôn mặt đen với nhiều nếp nhăn rỏ xuống hai bên má ba từng giọt mồ hôi nhễ nhại. Vậy mà, ba lại lo tôi mệt. Ba bảo vào uống nước cho khỏe. Tôi đã không chịu vào. Vì tôi biết rằng ba lo cho tôi chứ ba không chịu uống nước đâu. Ba tiết kiệm lắm. Ba có thể chịu đựng mọi thứ để cho chị em chúng tôi được sung sướng. Thương ba vất vả, tôi tự hứa với lòng phải gắng học để ba vui lòng.



Tìm được phòng trọ, tôi xin ở với hai người chị cùng quê để đỡ tốn tiền. Mỗi tháng, ba chị em phải đóng sáu trăm ngàn tiền trọ và tiền ăn. Vậy là mỗi người sẽ mất hai trăm ngàn. Tôi cũng nhanh bắt nhịp với cuộc sống ở thành phố nên đã qua trung tâm gia sư để đi dạy kèm. Số tiền tôi nhận được mỗi tháng là hai trăm năm mươi ngàn đồng. Tôi hạnh phúc lắm. Tôi gọi khoe với ba ngay: "Ba ơi! Từ nay con có tiền đóng tiền ăn và tiền trọ rồi. Ba mẹ đừng lo vay mượn để gửi cho con nữa nhé!". Ba vui lắm nhưng ba cũng khuyên tôi: "Con lo học cho giỏi vào, đừng đi làm thêm nhiều mà ảnh hưởng đến việc học. Ba mẹ sẽ cố gắng lo cho con". Nghe ba nói tôi rưng rưng nước mắt, nguyện học thật giỏi để không làm ba buồn.



Ngày ấy, ba chị em phòng trọ tôi mỗi buổi sáng ăn một chén cơm lưng chan với nước mắm vậy mà ngon lắm. Năm đầu tiên ra học, tôi tròn như quả mít, ai cũng chọc cả. Tôi ước có một ổ bánh mì giá hai ngàn đồng, ăn vào buổi sáng thì sướng biết bao. Ngồi nghe con bạn phòng bên ăn

bánh mì

chả, giòn rụm, nóng hổi mà thèm. Có khi chúng tôi hết gạo, hết tiền,

buổi sáng

ra hái trứng cá ăn cho đỡ đói.



Mỗi lần đi ngang qua xe bánh mì của cô Xí gần phòng trọ là tôi mơ ước được chạm đến thứ xa xỉ ấy. Thật ra, nếu ăn một lần cũng được nhưng tôi lại là con bé tiết kiệm. Tôi cứ nghĩ mình ăn ngon như thế còn ba má và các em ở nhà ăn cơm với muối tiêu, với mắm... là tôi thắt ruột. Một ổ bánh mì cho buổi sáng là ước mơ cháy bỏng trong tôi, nó thúc giục tôi phải quyết tâm hơn, học giỏi hơn và kiếm thật nhiều tiền. Lúc ấy, tôi sẽ mua về cho ba mẹ và các em tôi ăn một bữa bánh mì vừa giòn, thơm ngon mùi chả thật đã luôn.



Nhưng cái nghèo của thời sinh viên vẫn không là nỗi buồn trong tôi, đổi lại tôi được học biết bao điều hay, được bao bạn bè yêu mến và thầy cô thương yêu.



Nỗi thiếu thốn của tôi không là gì cả so với những thế hệ "ăn lá rừng", "ngủ hang", "ăn cơm vắt" của ông cha ta ngày xưa. Vậy mà họ vẫn từng ngày đến trường, vẫn ước mơ trên từng con chữ. Giờ đây, mỗi lần đọc lại lời Bác dạy: "Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa phay/ Sống ở trên đời ai cũng vậy/ Gian nan rèn luyện mới thành công", tôi như thấm thía và trân trọng hơn những gì ông cha đã để lại cho chúng ta ngày hôm nay. Nó luốn nhắc nhở tôi và thế hệ mai sau phải cố gắng vươn cao hơn để không làm phụ lòng mong mỏi của cha mẹ và những bậc cha ông đi trước.



Ổ bánh mì mơ ước, giờ tôi đã có thể ăn nhiều nhưng sao vẫn thấy không ngon như ngày xưa ấy... ngày của một thời đến trường, thơ ngây, hồn nhiên và tràn đầy nhiệt huyết.

Mỳ tôm và tuổi thơ con

Cập nhật: Thứ năm, 6/12/2012 | 3:00:58 PM

Con nhớ ngày cả nhà mình ngồi xum vầy bên mâm cơm mẹ nấu, con nhớ những ngày chị em con phụng phịu nói cơm khô, khó nuốt, con nhớ, nhớ lắm ...

Trời mưa rả rích từ sáng qua trưa rồi dây dưa từ chiều sang tối. Ngại đi mua cơm mà nhà trọ chẳng còn gì, con uể oải úp mì tôm ăn cho qua bữa, không tương ớt, không xúc xích, chỉ lõng bõng vài sợi mỳ và nước sôi, con chợt nhớ đến ngày xưa ở nhà mỳ tôm là một thứ gì đó rất xa vời mà chị em con hằng ao ước, mẹ bảo mỳ tôm toàn sắn ăn chẳng có chất gì mà lại nóng người nên nhà mình chẳng bao giờ có khái niệm ăn sáng bằng mì tôm.

Mẹ luôn chọn những món chắc dạ mà vậy thì chỉ có cơm mới đảm bảo sức khỏe cho bố đi làm đến quá trưa, mẹ đi dạy, chị em con đi học. Những ngày nào bố mẹ bận mà chị em con được ăn sáng bằng mỳ tôm, ấy là niềm hạnh phúc. Đó cũng là lý do con thường trốn bố mẹ giấu vài gói mỳ vào cặp hoặc gầm giường chỉ đợi khi có “thời cơ” mà mang ra “ngấu nghiến” mỳ tôm trộn súp, chanh cũng là sở thích nhỏ nhoi của mấy đứa trẻ hàng xóm gần nhà mình.

Có lần con ốm mẹ hỏi muốn ăn gì làm mắt con sáng lên hai chữ “mỳ tôm”. Mẹ bao giờ cũng chu đáo trong việc chọn thức ăn cho cả nhà vừa đảm bảo vệ sinh lại đầy đủ chất dinh dưỡng, ngày nào nhà mình cũng đầy đủ 3 bữa cơm. Đã nhiều lần con than phiền với mẹ rằng ăn cơm sáng vừa khô lại khó nuốt, mẹ lại phải dậy sớm. Thật là mệt. Chi bằng mẹ cứ cho cả nhà ăn mỳ tôm vừa dễ ăn lại tiện nữa. Con đã từng hứa mai này đi học xa con sẽ ăn mỳ tôm suốt ngày.

Bây giờ mong ước đó đã thành hiện thực nhưng sao con lại thấy trống rỗng đến vậy. Con nhớ ngày cả nhà mình ngồi xum vầy bên mâm cơm mẹ nấu, con nhớ những ngày chị em con phụng phịu nói cơm khô, khó nuốt, con nhớ, nhớ lắm những lần mẹ mắng vì bỏ cơm mà ăn mỳ qua bữa. Tất cả những thứ đó giờ đã xa thật rồi. Mỳ tôm có phải cơm khô đâu mà sao con thấy khó nuốt quá vậy!

MÌ TÔM


Chẳng nhớ lần đầu tiên được ăn mì tôm là năm nào, nhưng cảm xúc thì vẫn như mới hôm qua và cảm giác thì…nhắc tới là cứ liếm môi liếm mép.


Ngày ấy, chú tôi- giám đốc một nông trường cafe – về thăm nhà. Sau khi chia quà bánh cho các cháu xong, chú mang ra mấy gói gì đó là lạ và với vẻ mặt nghiêm túc:


-Đây là..mì tôm!


Cả nhà, từ già đến trẻ cứ tròn mắt nhìn vào tay chú. Mỗi khi chú đưa lên thì vài chục ánh mắt nhìn lên, chú đặt xuống thì cũng chừng ánh mắt nhìn xuống.


Rồi chú cười và giới thiệu cách dùng.


Xong, chú cho mỗi nhà …một gói.


Ba tôi đọc to hướng dẫn sử dụng trước khi dùng lần nữa. Sau khi nghiên cứu xong xuôi thì mới nấu nước, bỏ mì vào tô và chế nước sôi lên, đậy nặp lại và …cả nhà ngôi canh đúng 3 phút mới mở ra. Giây phút mở nắp ra mới long trọng làm sao, 6 cặp mắt cứ chằm chằm nhìn vào mọi động tác của ba. Và…trời!!! Một tô đầy ắp – vì để lâu quá nên nó nở hết cỡ rồi! Ba lấy đũa gắp chia cho chúng tôi một đứa một ít để cảm nhận thế nào là mì tôm thôi!


Chưa bao giờ tôi ăn mì tôm mà ngon đến như thế!


Ngon đến tận bây giờ!

Nhớ hồi nhỏ tôi có đọc một truyện ngắn có tên “ Những khúc bánh mì của anh Tấu”. Trong đó, tác giả là một cậu học trò rất mê ăn bánh mì của người bán rong trước cửa trường tên là Tấu. Bánh được ủ trong một cái giỏ, luôn nóng, kẹp miếng chả bò rất thơm ngon ở giữa.

Cậu bé ăn bánh mì anh Tấu hoài mà không biết ngán, nhất là khi mùa đông lạnh có trong tay ổ bánh mì nóng. Cho đến khi anh Tấu bị ho lao, vừa bán vừa ho sù sụ trong gió lạnh, học trò trường đó tẩy chay, không ai dám mua bánh mì của anh nữa. Trừ cậu bé trong truyện bất chấp căn bệnh của anh, tiếp tục gặm bánh mì anh Tấu. Tôi còn nhớ câu anh Tấu hỏi cậu bé: “ Bây giờ chắc cậu không dám ăn bánh mì của tôi nữa phải không?”. Cuối cùng anh Tấu cũng nghỉ bán vì bệnh nặng thêm, để lại cậu bé một nỗi tiếc nhớ lớn.



Ai cũng có một người bán hàng lý tưởng của mình trước cổng trường. Tôi cũng có một anh Tấu hồi mới lớn trong những buổi sáng đi học. Con hẻm trên đuờng Hai Bà Trưng gần Khách sạn Quê Hương có hai ông cùng đi bán bánh mì với nhau. Thật ra, chỉ có một ông bán và ông kia làm gì không rõ, lúc nào cũng đứng cạnh bên. Ông bán bánh mì có đặc điểm là hút thuốc bằng lỗ mủi. Lúc nào cũng thấy ông nhét một điếu thuốc là vào lỗ mủi bên phải và ra khói bằng mủi bên trái một cách kỳ cục. Vừa hút, tay ông thoăn thoắt lấy bánh mì trong rổ ra, dùng dao xẻ một rãnh ở giữa, nhét cục chả (giò) lụa vào.

Đặc biệt, bánh mì ông luôn giòn, xốp và thơm, cục chả lụa luôn luôn xắt miếng to. Cả miếng dưa leo cũng to, miếng ớt đi theo cũng to. Chả thơm, dưa tươi, thêm tí muối tiêu nữa nên rất ngon, cắn một cái là ngập răng. Bánh của ông luôn luôn đắt, hết trước chín giờ sáng. Thỉnh thoảng, ông dùng con dao cắt xoẹt một miếng chả, rất trìu mến đưa cho ông phụ bán đứng chầu rìa kia : “Này, ăn đi!”. Ông kia ngay lập tức bỏ vào mồm, nhai ngon lành.

Lần đầu đến mua bánh mì, tôi trố mắt nhìn kiểu hút thuốc kỳ cục và miếng chả “tình thương mến thương” giữa hai ông. Riết rồi cũng quen. Và những người khách khác chẳng thấy ai thắc mắc gì. Đến một lúc sau đó vài năm, hai ông cũng biến mất, không để lại dấu vết. Con hẻm vẫn đông, có thêm mấy cái ghế cóc bán cà hê vỉa hè và khách đành đi ăn sáng ở chỗ khác.

Có một bài viết nói về chuyện người Nhật du lịch Víêt Nam. Tổng kết về sở thích ăn uống của họ ở đây, tác giả cho biết món mà họ mê nhất không phải là phở mà là …bánh mì kẹp thịt. Lý do là nó thơm ngon và có hương vị khác lạ với bất kỳ loại thực phẩm tương tự trên thế giới. Hai nữa là tiện dụng. Và chắc là lý do thứ nhất quan trọng hơn.

Điều này không khiến tôi ngạc nhiên vì có dịp đi đây đó, tôi thấy điều đó là sự thực và không hiều vì sao kiểu bánh mì của mình mấy nước khác không chơi. Bánh mì của họ có thể rất mềm, hoặc rất cứng, đen hoặc trắng, nóng hoặc nguội ngắt nhưng vừa giòn , xốp, có cái cạnh bánh giòn thơm, hơi cháy vàng thì chưa thấy và ai có thấy đuợc xin chỉ giáo. Loại bánh mì giòn ấy, vẫn ngon lành từ những năm bao cấp nghèo khổ, dù ăn không kẹp cái gì ở giữa vẫn ngon vì dù là bánh mì lạt nhưng vẫn hơi ngọt, hơi mặn.

Và trong suốt tuổi thơ của rất nhiều người Sài Gòn, tôi tin nó có vị trí đáng nể. Sáng không có nhiều tiền, mua ổ bánh mì lúc nào cũng rẻ rề. Lấy hộp sữa đặc Ông Thọ chế vào dĩa và bẻ từng miếng bánh để quết đưa vào mồm. Sữa ngọt và béo, bánh mì giòn, còn muốn gì nữa. Hôm nào không tất bật đến lớp, đi làm thì pha một ly sữa nóng, bỏ tí cà phê theo kiểu pha pạc-xỉu. Lại bẻ bánh mì chấm sữa. Món này hương vị khác món trước. Bánh mì chấm sữa nóng hương vị toả ra thơm, hơi chua nhẹ, dễ nuốt hơn và ăn xong cũng no nê.



Bánh mì đi với người nghèo, nhất là con nít nhà nghèo. Hôm nào không kịp ăn ở nhà thì mua bánh mì bì. Chẳng có gì bổ béo ở thứ bánh này nhưng ngon và có hương vị riêng. Bì (da) heo trộn thính thơm phức, ăn dai dai. Nước mắm pha loãng có thêm tỏi ớt chan vào thấm ổ bánh mì. Hôm nào có tiền thì cho phối hợp ba thứ: bánh mì, fromage Đầu bò và chuối già. Ăn kiểu này thì cắn một miếng bánh, đớp một miếng chuối và nhai một miếng phô mát. Ngon lắm và béo ngậy.

Tuy nhiên, bây giờ không thấy ai ăn kiểu này vì dù tôi biết kiểu ăn kết hợp phô mát với bánh mì đã có từ thời Nam Kỳ là thuộc địa Tây. Còn bánh mì bì nghe đâu còn bán mấy cổng trường tiểu học chứ ngoài đường không có mấy. Cách nay một năm, khi vào một xóm làm đồ gốm ở Thủ Dầu Một, Bình Dương, khi lỡ bữa tôi được anh bạn ở đó mua cho một ổ bánh mì. Giá chỉ ba ngàn đồng, ăn sao thấy ngon và nhớ tuổi thơ quá chừng.

Nhưng bánh mì vẫn chơi đuợc với người giàu. Tiệm bánh mì Như Lan ở Hàm Nghi xuất thân từ bán bánh mì, bây giờ rất lừng lẫy với đủ món ăn chơi như đùi gà rán, bánh bao, xôi lá sen, xôi khúc, xúc xích…Nhưng ai cũng gọi cái tiệm to đùng ấy là Bánh mì Như Lan, theo kiểu “ ra Bánh mì Như Lan mua cái bánh bao”.

Và bất cứ tiệm ăn sang trọng nào của Sài Gòn đều có bánh mì, từ Givral có người Anh trầm lặng Graham Green ngồi cho đến Brodard, từ Paris Deli đến CIAO, từ Phượng Các đến Sài Gòn Phố. Bánh mì ăn với trứng ốp la, om lết, bò kho. Cái đĩa sứ Minh Long trắng bong, trứng cũng trắng, lòng đỏ vàng. Ăn xong thấy khô khan cả họng, chiêu vội miếng cà phê đá. Tôi không cảm thấy ngon. Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên ngon khi kẹp bánh mì thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốpla ở giữa vẫn ngon hơn khi ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt.

Và bánh mì kẹp thịt với giá năm, bảy ngàn đồng đó chính là loại bánh mì mà người Nhật ba lô, trong đó có dăm người bạn của tôi, cảm thấy mê mẩn khi ngồi gặm trong một cái qúan bình dân nhưng sạch sẽ ở khu phố Tây Phạm Ngũ Lão, cắm đầu vào những cuốn sách dày cộp hay Lonely Planet.



hỉnh thoảng, bà bán bánh khúc cũng đi qua xóm tôi với tiếng rao ngân dài: “Ai bánh khúc đê... ê... ê...”.


Nhưng thường thì chẳng mấy khi tôi mua, bởi ăn bánh khúc mà ăn vội ăn vàng để kịp đến trường thì chẳng ra làm sao cả; thà mua một ổ bánh mì rồi vừa đi vừa gặm (cốt no cái bụng) còn hơn. Bánh khúc là phải ăn chậm rãi, vừa ăn vừa tận hưởng cái hương vị của nó thì mới ngon...

Có lần tôi được mẹ dẫn đi chợ. Qua hàng bánh khúc, tôi níu áo mẹ đòi ăn. Mẹ cười vui vẻ đồng ý. Chõ bánh khúc vừa mở nắp đậy ra, toả hơi nóng nghi ngút, hương thơm dìu dịu của lúa nếp non điểm thêm những sợi dừa nạo mảnh khảnh tạo thành áo bánh, trông thật bắt mắt. Chị bán hàng đưa đôi bàn tay trắng nõn nà (có lẽ ngày nào đôi tay ấy cũng lùa trong nước vo gạo nấu xôi nếp nên trắng đến vậy chăng?). Chị cầm đôi đũa cả khều nhẹ từng cái bánh khúc ra túi nilon đưa cho tôi. Một mùi hương đậm đà và ấm nóng ở dưới đáy chõ bốc lên, thơm ngào ngạt. Tôi đưa tay đón lấy những cái bánh khúc mà khẽ kêu nhẹ: “-Oái, nóng quá! Mẹ ơi!...”. Nhưng dù nóng vậy nhưng tôi vẫn đưa lên miệng... Bánh khúc là món phải ăn nóng mới ngon. Và ăn bánh khúc thì chớ quên kèm theo muối vừng. Thoạt đầu khi ta cắn nhẹ một miếng, sẽ thưởng thức được lớp xôi trắng được nấu từ loại gạo nếp non, có chút gì đó mằn mặn (có lẽ là do người nấu cho thêm muối để vỏ bánh được đậm đà hơn) và có cả vị ngọt bùi bùi của dừa nạo, tạo ra sự hoà quyện về hương vị thật là tuyệt vời. Mỗi lần ăn bánh khúc, tôi có cảm giác như đang được thưởng thức cả hương đồng cỏ nội phất phơ những bông lúa nếp, có cả mùi của gió, mùi của nắng…

Lớp vỏ từ từ bở ra, hé lộ phần nhân e ấp trông thật ngon lành. Tôi hỏi chị bán hàng, bánh khúc được làm như thế nào mà lại có vị đậm đà, thơm ngon lạ lùng đến vậy? Chị bảo: “Từ khi còn sáng sớm tinh mơ, chị đã đi thu mua rau khúc, sau đó chọn lấy lá rau còn tươi non, rửa cho thật sạch bằng nước muối rồi giã nhuyễn lấy nước hoà vào bột nếp trộn thật đều, thật dẻo... Đó mới là phần áo bánh. Còn nhân bánh thì được làm từ thịt lợn, ướp mắm muối, hạt tiêu... Sau khi đợi cho thịt ngấm đủ gia vị thì phi với hành mỡ, để nguội trộn với đỗ xanh đã ninh chín. Hỗn hợp bột nếp với nước rau khúc giã nhuyễn được chia đều thành nhiều phần và cán dẹt ra, cho một lượng nhân thịt mỡ và đỗ xanh vừa đủ rồi nặn kín, tròn trịa thành bánh. Công đoạn cuối cùng là đặt những chiếc bánh thật cẩn thận lẫn giữa chõ xôi nếp gần chín và điều chỉnh lửa sao cho bánh chín mà không bị nhão, không bị khô...”.

Vừa nhấm nháp từng miếng bánh khúc, tôi vừa tròn mắt, lắng nghe câu chuyện của chị bán hàng. Mới hay làm bánh khúc không hề đơn giản, nó cần sự tỉ mẩn, chịu khó và cả sự tinh tế của đôi bàn tay nữa. Nhưng có lẽ, chính vì thế mà bánh khúc mới có được cái hương vị rất đặc trưng khiến nhiều người “nghiện” chăng? Như tôi chẳng hạn, hình ảnh bánh khúc đã theo tôi suốt cả tuổi thơ mỗi lần vui vẻ nhảy chân sáo đi chợ cùng mẹ để lại được… vào hàng bánh khúc.

Mỗi sáng, nếu không có thời gian để cà kê với bữa điểm tâm, tôi thường chọn món bánh mì ổ cho đơn giản, tiện lợi. Và thế nào cũng bị các đồng nghiệp trêu “ăn chắc mặc bền”, vì bánh mì giờ đã trở thành món bình dân trong các loại món ăn dành cho bữa điểm tâm. Không phải như thời bé thơ của chúng tôi. Cái ngày xa xưa ấy, chao ơi là nhớ!

Thời ấy, dễ gì có tiền mua được ổ bánh mì ăn sáng. Hôm nào má tôi cũng dậy sớm, phi tỏi thơm lựng để chiên cơm nguội cho bữa sáng. Cơm má chiên ngon vô cùng, nhưng nếu tháng ăn vài ba lần thì đúng là ngon. Đằng này ăn trường kỳ vẫn cơm chiên với tỏi phi và muối. Chị em tôi rất thèm có tiền ăn sáng như chúng bạn, nhất là có tiền để được mua ổ bánh mì cầm tay mà ngoạm. Nhưng mấy khi có được cơ hội đó. Họa may ngày ba má lĩnh lương, hoặc sau dịp tết nguyên đán, chúng tôi mới được má cho tiền mua ổ bánh mì giòn rụm, ngon mê ly.

Tiền má cho, đủ vừa y mua một ổ bánh mì, có thêm ít patê gan và những lát thịt nhỏ xíu mỏng tang, cùng với ít nước chan và rau, vậy mà ngon vô cùng tận. Vị ngon đến giờ mỗi khi nghĩ đến, tôi vẫn thường nuốt nước bọt thèm thuồng. Nhưng cũng có khi có tiền mua bánh mì, chị em tôi tiếc rẻ không muốn mua hết tiền, vì mỗi giờ ra chơi bác bán kem trước cổng trường luôn mời gọi chúng tôi rất nhiệt tình. Mà que kem đá lạnh buốt ngày ấy trẻ em nào ngủ cũng đều mơ thấy, đâu riêng gì chị em tôi. Thế là lại năn nỉ cô hàng bán cho ổ bánh mì chỉ bỏ ít rau và chan nước thịt.

Bánh mì nướng trên lửa than, vỏ ngoài nổi lên những chấm phồng nhỏ li ti, giòn tan nên chỉ cần thêm một chút nước thịt đã ngon mê tơi. Đố có bỏ một tí tẹo nào của ổ bánh, thậm chí trước khi ăn, nhiều khi còn tiếc rẻ, trải cuốn vở để hứng vụn bánh mì. Ăn hết ổ, cuộn cuốn vở, ngửa mặt lên trời đổ trọn vẹn vụn bánh vào miệng. Hãnh diện nhất là tụi bạn ngồi xung quanh dòm mình ăn bánh mì với con mắt đầy ngưỡng mộ. Chỉ đứa nào rất thân, thuộc dạng vô cùng chí cốt, mới cho nó cắn một miếng lấy tình. Dĩ nhiên phải để ngón tay làm dấu chứ nó dễ cắn lẹm vô...

Giờ, thỉnh thoảng tôi cũng mua bánh mì, nói cô bán bánh chỉ bỏ rau, ít patê và chan nước thịt, rồi cặm cụi ngồi nướng phồng rộp vỏ bánh, chỉ để tìm lại hương vị ngày xưa.

NGÀY HÈ TUỔI THƠ

07/07/2012 09:43  |  358 lượt xem

Ngày hè thích nhất là ngày của tuổi học trò. Bỏ tập sách vào ngăn tủ và những bài hát yêu trăng, yêu sao được hát rộn vang. Chân sáo chạy khắp khu vườn. Trèo hái trái thích biết bao: trái khế, trái mận, trái xoài…Mặt nhăn với vị chat, vị chua cay cùng muối ớt. Vừa ăn vừa xuýt xoa chua cay như thế mà ngon. Ôi tuổi trẻ con…

Sáng được dậy trễ vì nghỉ hè rồi mà. Nhảy xuống giường con lấy tiền đi mua bánh mì bà Chuối. Chỉ ổ bánh mì dài và chan nước chan với giá hai đồng rưỡi. Nước sốt màu cam chỉ cần thấy là thèm ngay thôi. Mằn mặn beo béo cùng chút đồ chua. Thế là ăn. Ổ bánh mì được cắt ra làm năm. Năm phần bánh mì với tờ giấy quấn gói cùng cộng dây thung quấn ngang. Ôm năm khúc bánh mì chân ống thấp ống cao mang về mà bụng thèm biết bao, miệng nuốt nước miếng mấy lượt…Đến nhà các phần chia nhanh. Ngay lập tức trong năm phút chỉ còn vụn bánh rơi xuống sân và con chim se sẻ đến nhảy tung tăng mổ.

Khi mẹ chợ về mới vui hơn nữa. Mẹ mở giấy báo ra những chiếc cục kẹo bột thơm ơi là thơm. Đứa lém lỉnh ăn cục kẹo thật nhanh như Trư Bát Giới ăn đào tiên nhanh đến nỗi không biết hương vị của đào ra sao. Nói chung chúng tôi chưa như anh chàng họ Trư nhưng ăn nhanh vô cùng. Vị ngọt của rỉ đường, vị cay của gừng làm tôi nhai lộc cộc viên kẹo bột. Chỉ mỗi bé út không có răng vẫn còn nhễu nhảo cục kẹo. Chị nịnh em:

-         Nhả ra cho chị đi. Cay đó.

Em nhả ra và cục kẹo chạy vào miệng chị:

-         Cay quá bé ơi! Cứu chị.

Em lớn méc mẹ. Một cuộc kiện nhức đầu. Mẹ soạn giỏ thúc ăn toàn những ăn cùng cây trái củ qủa. Gói rau tập tàng gói bằng lá chuối thật xanh. Mẹ liền bảo con chị lớn ra lặt rau nấm nấu canh. Nửa trái dừa kho. Mẹ sẽ làm vì vỏ dừa phải đốt cho cùi dừa bong ra rồi mẹ gọt lớp vỏ lụa nâu nâu và sắt mỏng kho với dầu. Món mặn của mẹ là thế. Mấy bìa đậu hũ trắng cũng gói bằng lá chuối. Mẹ sẽ rán ròn chấm nước tương. Rau cá của mẹ chỉ gói bằng lá chuối và giấy báo chứ không có bao nilon như bây giờ. Đơn giản nhưng các con của mẹ vẫn ăn ngon, chân nhổ lên cao khiến mẹ gọi là chân sếu. Đàn con ngơ ngác không biết chân sếu ra sao nên cứ cười. Khi các con lớn vỡ lẽ con sếu mới thấy nhưng đôi chân con không xấu như thế. Nếu như bây giờ con sẽ nói:  “Con đi làm người mẫu”. Vả lại lúc ấy không có người mẫu nên các con cứ cười khi mẹ gọi.

Trong khi mẹ làm cơm các con leo trèo trong vườn nhỏ. Những đứa con gái làm ca sĩ ca hát véo von. Cô bé hát hay đến bây giờ sau ba mươi năm vẫn là hát khi đi họp hội. Cô hát hay nhất bài “mùng tuổi mẹ” khiến các mẹ nghe rồi khóc và khen hay. Hôm sau có hội bên phụ nữ em lại hát và lại khen rồi khóc. Các chị bảo ca sĩ được luyện thanh từ “vườn cây của ba”.

Các em trai làm Tarzan. Tarzan lại bắn súng miệng đùng đùng…. Mẹ thấy vậy bắt xuống. Lén mẹ em lại làm người dơi. Em lấy quần rách của chị cột vào cổ làm khăn của Bat Man. Ôi khăn của Batman rách tơi tả vì bị Tarzan kéo một cái. Rách soạt…Batman vội dấu khăn xuống dưới chiếu. Đến chiều mẹ dọn nhà thấy quần rách tả tơi mẹ chỉ lắc đầu nhìn các con.

Những đứa con trai thì thầm tai nhau: Tìm thấy tổ chim se sẻ. Mẹ nghe thấy : “Các con không được phá tổ chim”. Mẹ bảo không ai phá nhà mình thì mình phải để cho chim sống bình an. Không được bắt ve. Nên vườn của ba đấy chim sẻ, chào mào…và ve. Tất cả bình yên sống và hát cùng với đám trẻ con nghịch ngợm.

Mâm cơm mẹ dọn sao mà thơm mà dẻo. Một loáng “đàn trâu trắng đã vào hang” một cách gọn gàng. Ăn xong mẹ bảo các con đi ngủ. Những đứa lớn tự ngủ cô bé út mẹ ru. Bé hí mắt thấy anh chị chuồn đi chơi ngoài vườn. Bé lay tay mẹ:

-         Mẹ cho con nghỉ ngủ đi mẹ. (Ơ! Ngủ mà cũng xin nghỉ)

Mẹ nhìn ra thấy con cái đang leo cành thấp, cành cao liền bắt vào ngủ. Ngày hôm ấy các anh chị phải ngủ trưa. Trước khi ngủ chị đưa nắm tay về phía em út hay méc lẻo. Nhưng khi thức dây chị lại nịnh em mẹ chia bánh cho các con. Nhanh lắm những chân sếu nhảy lại cạnh mẹ lãnh bánh. Quên cái hăm cô bé út.

Một ngày ba mang về một số hạt giống: mồng tơi, rau cải, bầu bí mướp…. Ba bắt đầu lên luống mẫu các con làm theo. Lát sau vồng rau của các con mang hình con rắn. Ba chặt những cành tre non gác dàn bầu bí mướp, mồng tơi. Ngày nào chúng tôi cũng chăm tưới và dĩ nhiên bớt leo trèo. Chúng tôi còn bươi móc vì sao cây chưa lên khiến ba phài giải thích. Khi hạt nẩy mầm có hai lá đơn chúng tôi nhảy lên reo mừng và chạy khoe khắp mọi người.Chúng tôi đợi từng dây bầu dây mướp leo giàn. Hơn một tháng chúng bắt đầu có trái . Khi trái đủ lớn mẹ hái trái vào nấu canh. Chúng tôi khen canh ngon nhờ trái mướp và ai cũng dành mướp đó của mình. Mẹ phải đứng lên dẹp chiến tranh vì rau xanh. Có khi rộ rau xanh ở nhà ăn không hết phải đem cho hàng xóm. Ai cũng vui cũng khen những cô chú bé con hay học hay làm. Chúng tôi biết trồng cây.

Chỉ là chuyện bán bánh mì để mưu sinh, nếu chịu ngẫm suy thì quả đúng là chúng ta có thể rút ra được nhiều bài học ý nhị cho cuộc sống. Dưới đây là những dòng tản mạn đã theo tôi suốt chiều dài 60km trên một chuyến xe đò khi “gặm nhấm” bài báo nói trên và nhớ về những tháng ngày xa xưa.

1.

Tôi có một ông bạn làm báo đã lâu năm. Phải nói ngay ông ta là người ghiền bánh mì thịt hết sức kỳ lạ. Hầu như sáng nào ông cũng thưởng thức bánh mì thịt bên ly cà phê đen bốc khói. Ông từng nói với tôi: “Bánh mì thịt không nơi nào giống nơi nào. Ăn cho khoái khẩu, ăn không ngán thì chỉ có cách mua ở nhiều nơi khác nhau. Sài Gòn mênh mông, bánh mì thịt bao la, đúng không?”. Theo ông bạn tôi, sáng sớm ăn bánh mì thì người ta mới có thể thoải mái tay gặm tay giở báo, tức là vừa lo được cho bao tử vừa cập nhật được thông tin.

Có dạo tôi sinh sống ở TP.HCM. Chính ông bạn tôi đã mách bánh mì Như Lan ăn “đã” lắm. Tôi vẫn còn nhớ mình mua ổ bánh mì thịt Như Lan 7.000đ (trong ruột dày đặc đủ thứ: bơ, thịt nguội, giăm bông, giò lụa, patê...) vào một buổi sáng năm 2000. Lên tàu cánh ngầm TP.HCM - Vũng Tàu, ăn được nửa ổ là tôi đã cười thầm và tự nhủ “cho mày no tới trưa”. Đến Vũng Tàu vào quán cà phê, tôi vừa gặm nửa ổ còn lại vừa xem truyền hình trực tiếp khánh thành cầu Mỹ Thuận, một sự kiện lớn không chỉ của đồng bằng sông Cửu Long mà của cả nước.

Khi nghe tôi bảo là sao không viết báo hay viết sách về chuyện bánh mì thịt Sài Gòn, ông bạn vỗ vai tôi, cười phá lên và nói nhanh: “Ăn bánh mì mà viết cái gì cha nội?”.

2.

Sinh ra và lớn lên ở Cần Thơ, tôi có những ký ức khó phai mờ về bánh mì thịt của các bác người Hoa.

Đường Võ Thị Sáu, TP Cần Thơ hiện nay có tên là đường Pasteur trước năm 1975. Trên con đường rất ngắn này có một con hẻm nổi tiếng về các lò: lò tương, lò chao, lò bánh. Riêng với tôi, cái nhớ nhất là những ổ bánh mì thịt của đôi vợ chồng người Hoa. Bánh mì thịt nói chung thời đó là trong ruột phải có thịt, nước xốt, dưa chua, ớt, nước tương hay muối tiêu... Riêng bánh mì thịt của hai bác người Hoa này là không xịt nước tương, không rắc muối tiêu mà có “độc chiêu” trét tương lên thịt khìa. Đó là một loại tương có nét giống tương ăn phở bây giờ nhưng có vẻ đen hơn, mùi vị thơm ngon hơn.

Bạn tưởng tượng xem cái mùi vị thơm nồng hơi mặn của tương quyện vào thịt heo khìa mềm dính chút mỡ hơi lạt, dưa chua là củ cải trắng xắt dài vừa phải (chứ không phải là lát dẹp mỏng) giòn giòn chua chua và chút ớt đỏ bằm bên trong ổ bánh mì được nướng sơ qua trên bếp than! Nếu bạn được ăn một miếng từ ổ bánh mì thịt trét tương tôi vừa kể thì chắc chắn bạn sẽ không kìm lòng được. Thuở thiếu thời, tôi và những đứa bạn cùng xóm từng nhai ngấu nghiến những ổ bánh mì thịt trét tương vào những buổi chiều mưa rả rích, dù ăn không biết đã bao lần.

Suýt nữa tôi quên là tất cả từ tương, thịt khìa, dưa chua, ớt bằm đều được vợ chồng bác người Hoa chế biến theo công thức riêng tại gia. Bánh mì thì lấy từ lò Tân Tiến lừng danh một thời ở phố Cần, đó là loại bánh mì trông vàng đều đẹp mắt, giòn và không đặc ruột. Hằng ngày xe bánh mì thịt trét tương bắt đầu bán cho bà con trong xóm từ khoảng 3 giờ chiều, sau đó chừng nửa tiếng đồng hồ vợ chồng bác người Hoa đẩy xe ra chợ Cần Thơ tiếp tục bán bên bến sông Ninh Kiều hữu tình.

Ước gì vợ chồng bác người Hoa ấy còn sống để tôi có thể “tư vấn” xây dựng thương hiệu “Bánh mì tương Cần Thơ”. Nói chơi vậy thôi chứ tôi mà bày đặt “tư vấn” này nọ thì hổng chừng sẽ được nghe: “Bánh mì trét tương mà thương với hiệu gì hả nị?” (nị tiếng Quảng Đông nghĩa là mày, mậy). Có điều tôi thấy tiếc là công thức làm tương trét bánh mì quá đặc biệt đó chắc đã thất truyền!

3.

“Cân thịt bán bánh mì” là câu chuyện kinh doanh khá ấn tượng về một ông lão người Hoa ở TP Cần Thơ. Lâu lắm rồi tôi không gặp lại ông, nhưng vẫn còn nhớ như in động tác cân thịt cẩn thận của ông: Trước tiên, một nhúm thịt được ông để lên chiếc cân nhỏ, kế tiếp là điều chỉnh lượng thêm hay bớt tùy theo giá tiền ổ bánh mì khách mua, sau đó mới gắp thịt đã cân vào trong ruột bánh mì và cuối cùng bổ sung dưa chua, gia vị.

Mua bánh mì của ông lão người Hoa rất nhiều lần, nhưng chưa bao giờ tôi hỏi vì sao ông phải cân tỉ mỉ như thế. Tính cách của ông, phong cách buôn bán của ông đã quá đủ để phát đi thông điệp: Phàm làm việc gì dù lớn hay nhỏ, con người chúng ta cũng phải đảm bảo uy tín, tính chính xác và sự công bằng. Nói đơn giản hơn, ông lão người Hoa đã thu hút nhiều khách hàng, không chỉ từ chất lượng của ổ bánh mì mà còn từ chính cái tâm của ông.

4.

Có lẽ từ trước năm 1975, bánh mì chan nước đã có ở các đô thị miền Nam, chủ yếu bán cho giới học sinh. Hồi học tiểu học vào thập niên 1970 ở TP Cần Thơ, thỉnh thoảng tôi có mua bánh mì chan nước ở khu vực Trường tiểu học Võ Tánh (nay là khu vực đường Trương Định). Với bánh mì chan nước này (giá chẳng hơn bánh mì không là bao), không phải chỉ có con em nhà nghèo mới mua mà con em nhà khá giả cũng khoái ăn.

Đã gọi là bánh mì chan nước thì đúng là chỉ có bánh mì với nước xốt và chút nước tương, nhưng cái hấp dẫn ở đây chính là mùi vị thơm ngọt không chỉ từ nước xốt mà còn từ những miếng hành phi bé xíu. Thời đó, người bán không chế biến hành phi bằng mỡ động vật đã sử dụng nhiều lần, cho nên học sinh chúng tôi chưa từng bị ngộ độc hay bị “Tào Tháo rượt”.

Nói đến bánh mì chan nước, tôi chợt nhớ đến chuyện một ông Tây sang Việt Nam, lấy vợ Việt Nam, sinh con đẻ cái, sinh hoạt, ăn uống như người Việt Nam. Ông sáng chế cho riêng mình một món bánh mì “độc nhất vô nhị”: bánh mì chan nước... ba khía. Có lẽ, ông dùng nước từ món ba khía trộn với tỏi, ớt, đường, bột ngọt và chanh vắt, vốn rất đỗi quen thuộc với người dân miền Tây Nam bộ.

Tôi tự hỏi cơm ăn với ba khía rất “bắt” thì có lý gì mình không thử nước ba khía với bánh mì. Biết đâu chừng mình sẽ phát hiện ra cái “triết lý” ẩm thực gì đó vô cùng hấp dẫn! Còn bạn, bạn có muốn thử không?

5.

Năm 1982, tôi bắt đầu nghề dạy học ở một trường cấp III thuộc huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng hiện nay (lúc đó thuộc tỉnh Hậu Giang). Một buổi sáng tôi ra chợ huyện uống cà phê như thường lệ thì có người mời dùng điểm tâm. Bữa điểm tâm bao gồm tô cháo nóng với mấy lát thịt heo, vài cục huyết nhỏ, giá sống, kèm theo ổ bánh mì chấm... cháo và một ly “xây chừng” (ly cà phê đen nhỏ). Mới sau chiến tranh, kinh tế cực kỳ khó khăn, nên ổ bánh mì nhỏ trước mắt tôi tất nhiên cũng khó khăn lắm mới được “ra đời”. Trông hình dạng nó “suy dinh dưỡng”, méo mó, mềm xèo, chỗ vàng vàng, chỗ trăng trắng!

Lương giáo viên những năm tháng đó đúng là “ba cọc ba đồng”. Được bữa ăn sáng và uống cà phê như thế quá hạnh phúc. Bây giờ đi đâu, làm gì mà hễ thấy bánh mì là tôi lại nhớ cái món bánh mì chấm cháo - một bữa ăn đã từng cho tôi cảm giác no thật quý giá và ý nghĩa cách nay hơn 1/4 thế kỷ.

Biết nói gì nữa đây về “cơm tay cầm”, tên gọi khác nghe rất gần gũi và thân thương của bánh mì? Tôi chỉ còn biết thốt lên rằng bánh mì và đời thường luôn chứa chan bao kỷ niệm khó quên..

Chưa bao giờ tôi được ăn món nào ngon như thế, sợi phở ăn vừa dai, vừa dẻo thơm.

Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh cha tôi cặm cụi với chiếc bánh mỳ và bên cạnh là tôi – con bé nhà quê 12 tuổi – đang xì xụp với bát phở nghi ngút khói…

Chẳng

biết Phở có tự bao giờ,

chỉ

biết rằng nó đã trở thành món ăn quen thuộc và yêu thích đối với người dân Hà Thành và du khách khi đặt chân tới nơi đây. Riêng với tôi, phở không đơn thuần là một món ăn khi đói lòng hay thỏa mãn sở thích, mà phở đã gắn với kỷ niệm tuổi thơ và chắp cánh cho ước mơ tôi…

Vào mùa đông năm ấy, chẳng nhớ tôi bị bệnh gì, chỉ mang máng rằng bác sỹ ở cái bệnh viện tồi tàn nơi quê nghèo khuyên

gia

đình nên đưa tôi ra Hà Nội để khám. Tuy trong người đang mệt mỏi nhưng tôi háo hức được ra Thủ đô lắm! Bởi đó là cả một niềm mơ ước của trẻ con xóm nghèo chúng tôi và vì theo lời kể của Nga (con ông chủ tịch xã học cùng lớp với tôi) thì Hà Nội to, đẹp, có nhiều nhà cao tầng, có lăng Bác Hồ, vườn Bách Thảo, công viên Thủ Lệ, Hồ Gươm…Và đặc biệt nó được ăn cái món người ta gọi là Phở Hà Nội “ngon cực kỳ” mà “cả đời chúng mày sẽ chẳng được ăn”.

Tôi vẫn còn nhớ như in cái cảm giác háo hức chờ đến ngày được đi khám bệnh. Thực chất trong suy nghĩ của một đứa con nít nhà nghèo như tôi chỉ mong ra Thủ đô để được ăn cái món “ngon cực kỳ ” ấy rồi về khoe bạn bè như cái Nga mà thôi. Tôi đâu biết rằng, để chuẩn bị cho chuyến đi ấy, cha mẹ tôi phải chạy vạy, vay mượn và bán cả một sào lúa non.

May mắn thay tôi không phải nằm viện mà chỉ cần mua thuốc về nhà uống. Cha mừng đến nỗi định dẫn tôi ra ngay bến xe cho kịp về trong ngày. Riêng tôi thì buồn lắm vì vẫn chưa được ăn cái món mà trong suốt thời gian qua mơ ước. Ra ngoài cổng viện, mắt tôi chợt sáng ra khi nhìn thấy một cái bảng treo với dòng chữ PHỞ HÀ NỘI. Tôi níu tay cha, mắt dán vào quán phở và miệng nuốt nước bọt ừng ực. Như hiểu được sự thèm thuồng của con, sau một phút chần chừ cha quyết định dẫn tôi vào quán.

Cái quán nhỏ tí tẹo bằng một góc vườn nhà tôi vậy mà cơ man nào là người. Trẻ con, người lớn đều có cả. Có những người ăn mặc rất đẹp và lịch sự, nhưng cũng có những người lấm lem như cha mẹ tôi ở quê. Ai cũng mải mê với cái bát to trước mặt mà chẳng thèm chú ý đến sự xuất hiện của cha con tôi. Sau một hồi chờ đợi, bát phở nóng hổi cũng được đặt trước mặt, tôi ngây thơ hỏi cha sao chỉ có một bát? Cha nói rằng, ông bị dị ứng với phở và lôi chiếc bánh mỳ mua từ sáng chưa kịp ăn vì phải đưa tôi đi khám. Tôi vui vẻ ăn cái niềm mơ ước của mình, còn cha cũng vui vẻ nhai cái bánh mỳ vừa khô vừa cứng.

Thật là chưa bao giờ tôi được ăn cái món nào ngon như thế! Có lẽ cả đời tôi cũng không sao quên được. Cái thứ nước dùng nhìn trong leo lẻo sao húp vào lại ngọt thế! Sợi phở thì trắng như chòm râu của ông ngoại tôi, ăn vào thì vừa dai, vừa dẻo, vừa thơm. Và đó cũng là lần đầu tiên tôi được ăn những miếng thịt mà người ta gọi đó là thịt bò. Màu sắc trong bát phở cũng thật là thích mắt. Màu trắng của sợi phở, màu đỏ của ớt tươi, màu xanh của hành hoa thái nhỏ, màu nâu nâu của những miếng thịt bò..

Cái vị ngon, ngọt của bát phở ngày ấy đến bây giờ tôi cũng chẳng biết phải tả như thế nào nữa. Tôi ăn đến cái bát trống trơn không còn gì mà miệng vẫn thòm thèm. Tôi cảm thấy đắc ý và khoái chí. Bạn bè tôi sẽ thèm nhỏ dãi khi nghe tôi kể về món phở ngon như thế nào. Cái Nga chắc sẽ không còn vênh mặt khi nhắc đến Phở Hà Nội với tôi. Và tôi cũng sẽ nói với nó về cái dự “sau này sẽ ra Hà Nội để được thường xuyên ăn phở”. Khi ấy tôi chỉ tiếc rằng, tại sao cha lại bị dị ứng với cái món ngon tuyệt cú mèo này.

Dư vị của bát Phở ngày nào cứ đeo đuổi và là động lực cho tôi trong sự nghiệp học hành. Tôi cố gắng phấn đấu để thỏa mãn ước muốn trong cái đầu non nớt sau lần đi khám bệnh đó. Lưng của mẹ tôi còng thêm và tóc của cha tôi lại thêm mấy phần bạc khi lo cho tôi ăn học. Tôi biết thế và càng cố gắng hơn…

Năm tháng dần qua, dự định của tuổi thơ tôi cũng đã phần nào thực hiện và đến lúc này tôi cũng mới biết được rằng cha tôi không hề dị ứng với phở… Giờ đây mỗi lần nhớ nhà, nhớ cha giữa Thủ đô rộng lớn tôi lại bước chân vào một quán phở nào đó và mỗi khi bưng bát phở lên tôi lại thấy sống mũi mình cay cay…

Cái món “ngon cực kỳ” ấy bây giờ không chỉ Thủ đô mới có mà ngay cả cái xóm nghèo quê tôi cũng đã mọc lên những quán Phở. Tuy nhiên, để tìm được cái hương vị của bát phở ngày xưa thật không dễ chút nào. Cái bát phở chất chứa cả ước muốn của tuổi thơ và in sâu hình ảnh người cha lam lũ bên chiếc bánh mỳ ngày ấy…

QUÀ MỘT THỜI

Vân Giang

Lời tác giả:

Thân tặng bạn bè tôi, những người dân Sài Gòn đã sống cùng thời với tôi trên mảnh đất thân yêu này, dù còn ở lại hay đã đi xa; Những người bạn mới quen và cả những người chưa từng quen biết. Để nhớ về những món quà tuyệt diệu của tuổi thơ mà bây giờ chỉ còn lưu lại trong chúng ta hương vị ngọt ngào của một thời đã xa mãi mãi.

***


Tôi là một người có "tâm hồn

ăn

uống". Cái thân hình đều đặn ba vòng bằng nhau bây giờ là kết quả (hay hậu quả?!) của mấy chục năm miệt mài thưởng thức một cách hết sức nhiệt tình những món ngon và chưa ngon của hầu hết những quán hàng tiệm ăn to nhỏ lớn bé trong lòng thành phố! Ăn trong nhà hàng máy lạnh có nhạc nhè nhẹ êm dịu mọi người nói năng nhỏ nhẹ lịch sự hay ăn trong một quán nướng ồn ào tiếng cụng ly côm cốp cười nói rân trời của mấy ông bợm nhậu, hay ăn nhỏ nhẻ mát mẻ trong một sân vườn cạnh bờ sông bốn bề gió lộng nước lách tách vỗ sóng bên sàn gỗ dưới chân...


Tôi đã ăn cùng với bạn bè, người thân, người yêu và cả với người ghét (thí dụ như phải đi ăn đám cưới của cảnh sát khu vực chẳng hạn!) những món ăn đã có từ thời xưa hay những món vừa được sáng chế ra lúc mới đây, những món có tên gọi bình dân hay những món nghe nghĩ mãi chẳng biết là món gì bởi cái tên gọi vừa cầu kỳ vừa bí hiểm! Có món tôi thích, có món không. Nhưng chưa bao giờ có một món ăn nào làm cho tôi chợt ngẩn người vì một nỗi nhớ nhung lạ lùng, đến dường như khắc khoải, như trong một lần gần đây khi đi qua một ngôi trường tiểu học nhỏ nằm cạnh một đường ray xe lửa, trong khi đứng chờ bên cạnh thanh chắn ngang đường ray, giữa tiếng bánh sắt nghiến rầm rập, hình ảnh hai em bé học sinh cùng uống chung một chiếc ly nhựa nhỏ nước xi rô bất giác làm tôi nhớ đến món quà của tuổi nhỏ ngày xưa, bây giờ không còn thấy bán nữa:

cục đá nhận!

Và tôi nhớ đến bàng hoàng tha thiết những món quà hồi tôi còn nhỏ, những món quà của một thời!

Ồ, nói ra thì thấy lạ lùng, chứ hồi nhỏ quả không mấy ai là không mê cái vị ngọt lạnh dễ chịu của cục đá nhận mà cách làm vừa đơn giản vừa… mất vệ sinh của xe nước giải khát bán ở cổng trường! Có lẽ khi ấy kem cây chưa có nhiều, lại mắc không phù hợp với túi tiền ít ỏi của

học trò nhỏ chúng tôi, nên cục đá nhận vừa lạnh vừa ngọt, có màu sắc rực rỡ lại rẻ tiền được hoan nghênh số một!


Người bán hàng dùng một cái bàn bào nước đá bằng gỗ bốn chân có một lưỡi dao bào bằng thép trên mặt đặt cục nước đá lên, bào ra những vụn đá tơi xốp trắng toát đầy cái đĩa nhôm nhỏ hứng ở dưới, nhanh nhẹn dùng một cái ly nhựa nhỏ hốt đầy đá bào vào ấn chặt như cách ta làm bánh bằng khuôn, gõ nhẹ cho cục đá bào đã được nén chặt trong ly rớt ra, vớ lấy chai xi rô màu xanh, đỏ hay vàng theo yêu cầu (xanh lá cây là mùi Bạc Hà, vàng là Chanh, đỏ là Cam hay Lựu) trên nắp chai xi rô bằng nhựa đã đục sẵn một lỗ nhỏ, xịt mấy cái trên cục đá nhận cho nước xi rô thấm vào, vừa xịt vừa khéo léo xoay tròn cục đá cho màu loang đều, có khi còn rưới thêm một chút nước chanh muối lên trên nếu được nằn nì xin thêm. Đứa học trò trả tiền chộp ngay lấy cục đá nhận ngửa cổ mút lấy mút để vị ngọt lạnh trong lúc đứa bạn không có tiền kiên nhẫn chờ kế bên đợi khi cục đá nhạt màu vì đã gần hết xi rô thì được mút ké một chút, cứ thế hai đứa nhỏ vừa đi vừa kề đầu chụm vai chia nhau một cục nước đá nhận đã hết cả vị ngọt lẫn mùi thơm, chỉ còn trơ cái lạnh và nhạt trên đầu lưỡi bị nhuộm màu!

Ở cổng trường tiểu học của tôi hồi đó có nhiều hàng quà rong lắm.

Mặc dù đã có lời dạy không nên ăn quà vặt nhưng hầu hết học sinh đều

vi

phạm bởi sức hấp dẫn của những món quà này. Mà ngày xưa thì quà bánh cũng chẳng lấy gì làm phong phú đẹp đẽ như ngày nay, chỉ những món đơn giản rẻ tiền mà sao nhớ nhung đến thế, hay vì trong những món quà thời ấy còn chất chứa cả một thời trẻ dại hồn nhiên chưa biết nghĩ suy gì?! Trẻ con ngày nay đi học hầu hết đều được Cha Mẹ đưa đón bằng xe riêng, ít thấy em nào đi một mình, hàng quà lại bị cấm bày bán trước cổng nên chẳng còn cảnh lê la ăn quà trước khi vào lớp như chúng tôi ngày xưa. Hồi tôi nhỏ, đi học toàn là tự đi bộ một mình, mấy đồng bạc cắc đút túi cứ như muốn nhảy ra khỏi tay trước những mẹt quà bày sát lối vào trường, thôi thì đủ món đủ thức tùy theo mùa theo vụ

:

Những cái bánh bằng bột gạo nướng với đường nhỏ xíu tròn tròn như những cái móc dùng để treo màn cửa màu vàng cam được xâu từng chùm vào một sợi dây lác để đeo vào cổ như một sợi dây chuyền, những xấp me ngào bột màu nâu đỏ nhỏ cỡ đồng xu ăn với muối ớt chua chua ngọt ngọt, những viên cốm nếp ngào đường tròn cỡ nắm tay thơm thơm mùi gừng, những cục kẹo ú đẫm bột hình khối tam giác màu vàng nhạt, những cục kẹo sữa màu trắng đục cắn vào có vị bùi béo của đậu phụng rang giã nhuyễn gói bằng giấy màu trắng có chữ màu xanh, những viên kẹo màu xanh màu vàng màu đỏ bọc giấy bóng kiếng trong thơm mùi trái cây, những bịch mứt dừa nhuộm đủ màu, những bịch bánh tráng tròn nhỏ màu vàng đỏ mặn mà…

Còn ai nhớ vị ngọt chát của những

trái Trâm

  to

bằng đầu ngón tay cái màu tím thẫm ăn vào nhuộm tím cả lưỡi cả miệng? Những trái

Nhãn Lồng

mọc hoang nhỏ cỡ đầu ngón

tay

út vỏ màu trắng ngà với chút xíu cơm mỏng dính ngòn ngọt. Những

trái Sung

chín đỏ nhìn ngon mắt nhưng nhạt phèo và ruột đôi khi có đầy kiến gió. Những trái

Chùm Ruột

chua ghê răng

ăn

với muối ớt. Những trái

Bình Bát

trông giống như trái Mãng Cầu Xiêm nhưng lổn nhổn hạt chua chua…

Loại trái cây mọc hoang dại trong lùm, trong bụi nơi vùng ngoại ô thành phố được bày bán trong những mẹt hàng nho nhỏ bên cổng trường thuở ấy đã gợi thèm thuồng biết bao đứa học trò nhỏ mỗi lúc ghé nhìn.


Buổi sáng đến trường sớm mà chưa ăn sáng ở nhà, đã có

hàng xôi

của bà hàng với hơi nóng nghi ngút bốc lên kèm

theo

mùi thơm hấp dẫn! Bà hàng lấy một miếng lá chuối cỡ hai bàn tay xoè, đặt lên trên đó một miếng bánh tráng phồng cỡ bàn tay, thường có hai loại xôi là xôi đậu xanh và Xôi Nếp than, ai muốn ăn gì thì bà sẽ xới xôi ấy lên trên miếng bánh phồng, trét một lớp nhưn đậu xanh nấu chín tán mịn lên, rưới một muổng mỡ hành có lẫn mấy miếng tóp mỡ béo ngậy, rắc một lớp đường cát trắng và sau cùng là chan lên một muổng nước cốt dừa. Xôi được gói chặt lại sao cho miếng bánh phồng bọc kín hết như một lớp vỏ bánh, cắn vào vừa bùi vừa béo,

thơm

ngon làm sao! Cạnh đó lại có bà cụ người Bắc mặc áo vải trắng đầu vấn khăn nhung bày một thúng bán xôi Lúa hay còn gọi là Xôi bắp, cụ có hàm răng đen nhánh với miệng cười hiền từ, thoăn thoắt xé lá gói những gói Xôi bắp với những hạt Bắp màu trắng đục hầm mềm và những hạt nếp dẻo thơm phức, cũng là đậu xanh nấu chín nhưng đậu của xôi Bắp thì giã tơi thành một lớp bột khô rắc lên trên, chan vào một muổng nhỏ hành tím bào mỏng phi vàng rồi sau cùng là một muổng muối đường

t tiền hơn đã có

hàng khoai luộc.

Cũng tỏa khói nghi ngút nhưng giản dị hơn, chỉ một nồi hay rá nhỏ đặt trên bếp lửa, này là khoai lang Bí vỏ nâu đỏ ruột vàng, khoai lang Dương Ngọc vỏ hồng tím ruột tím nhạt, cả khoai lang trắng ruột trắng như bột, khoai Đà Lạt thì củ nhỏ mà ốm nhưng mật tươm cả ra ngoài vỏ, lâu lâu mới thấy bán. Khoai Mì (Sắn) thì cắt thành từng khúc xếp ngay ngắn bên cạnh những củ khoai Mì Tinh (có người còn gọi là khoai Bình Tinh) và

củ Chuối (

Dong Riềng) và những

củ Từ

vỏ vàng nhạt hay những

củ khoai Môn

tròn trĩnh.

Hồi đó trước cổng trường tôi có một bà già người Tàu mà mọi người thường gọi là Thím Xẩm bán bánh ướt rất ngon.

Bánh ướt

của người Tàu khác bánh ướt của người Việt ở chỗ bánh họ tráng dầy hơn, lại thoa lên trên một lớp mỡ có hành lá xắt nhỏ rồi cuộn lại thành từng cuộn dẹp, ăn với nước mắm pha loãng và giá trụng.

Bà Tàu già ấy quanh năm chỉ thấy mặc một chiếc áo vải màu đen bạc phếch, một chiếc quần ngắn trên mắt cá bó ống và một đôi giày vải đen có thêu đã cũ mèm.

Tóc bà cắt ngắn tới ngang cổ, cài một chiếc lược sừng đã bóng lộn vì thời gian.

Mặc cho lũ chúng tôi tíu tít hối thúc bà già vẫn chậm chạp cắt bánh, lấy rau, rót nước mắm, rửa đĩa, thu tiền, những động tác chậm chạp của tuổi già và đôi mắt một mí hum húp như thuộc về một nơi chốn khác, không phải là cái nơi ồn ào nhộn nhịp của một cổng trường đang giờ sắp mở cửa.

Cái bánh

tôm ăn

chung

với bánh ướt của bà Tàu già cũng ngon lạ lùng. Khá giống với bánh Cóng của Sóc trăng, nhưng không có tôm, cũng không có giá, tuy gọi là bánh tôm nhưng chỉ có đậu xanh hột được hấp chín và bột gạo, chiên vàng thành những cái bánh tròn xốp, ăn không biết chán.

Cùng một thứ

ăn

với nước mắm như bánh ướt là huyết heo hấp. Những miếng huyết heo vuông vức cỡ lòng bàn

tay

màu đỏ nâu được hấp chín rải lên trên từng lớp mỡ hành xếp đầy trong chiếc nồi được ủ nóng bằng mấy lớp bao bố dầy cộm. Người bán dùng dao cắt miếng huyết heo thành từng lát, cho thêm mỡ hành, giá trụng và một nhúm rau

thơm

cắt nhỏ, chan nước mắm lên, thế là xong! Nhưng món quà này ăn mau ngán, nên người bán hàng, một ông già mặc áo quần màu nâu, đầu đội mũ cối nhựa trắng, chở chiếc nồi trên yên sau chiếc xe đạp cọc cạch cũ kỹ, lâu lâu mới ghé qua cổng trường, dựng chiếc xe đạp vào một góc tường quen thuộc, vừa phì phà điếu thuốc vấn vừa chờ đợi đám khách hàng nhỏ tuổi.

Cái đĩa nhôm trầy trụa và trẹt lét của ông hàng gỏi chỉ được tráng qua nước rồi lau vội bằng một cái khăn màu cháo lòng sau khi có khách ăn xong, lại được bốc đầy có ngọn nắm đu đủ bào, vài sợi khô bò nhỏ xíu cỡ đầu que diêm đặt khéo léo lên trên, một chút rau thơm thái sợi và một nhúm đậu phọng rang vàng giã dập, chan đẫm nước giấm và nước tương, thêm chút ớt đỏ cay cay, chúng tôi vừa ăn vừa xuýt xoa xin thêm giấm, thêm nước tương, ăn hết đu đủ húp cạn hết cả nước giấm mà vẫn còn thấy thòm thèm!

Bánh mì tương

cũng là món quà được bọn học trò chúng tôi chiếu cố tận tình vì rẻ mà lại ngon; chỉ có một khúc bánh mì không xẻ ra, rưới một muổng tương đen, một muổng tương đỏ, thứ tương người ta vẫn dùng để ăn phở nhưng có lẽ người bán đã cho thêm ít đường cho dịu bớt, và thêm ít bột cho sánh lại, gắp vào một ít đồ chua làm bằng củ cải trắng và cà rốt cắt sợi ngâm giấm đường là có một món vừa ngon vừa no bụng. Nếu có tiền thì ăn

bánh mì bì

, bì làm bằng da heo cắt sợi nhuyễn, thêm chút thịt đùi heo chiên cắt nhỏ như que tăm, trộn một chút thính gạo rang vàng cho thơm, bánh mì bì ăn với hành lá xắt nhỏ phi chín chung với tóp mỡ, chan nước mắm chua ngọt, ngon hơn bánh mì tương một bậc, và cũng mắc tiền hơn!

..

Bắp

thì có hai thứ, bắp luộc đựng trong thúng ủ tấm bàng tròn, hơi nóng bốc lên cùng với mùi lá dứa thơm phức, những trái bắp vỏ ướt nước nóng hổi cầm bỏng cả tay, xé lớp vỏ như những lần lụa mỏng mềm mại phía trong cùng là lớp hạt vàng rực đều đặn hiện ra trông thật bắt mắt, hạt bắp luộc dẻo và ngọt, nếu ăn bắp non thì cái cùi bắp mềm mà ngọt không thua gì mía hấp. Bắp nướng thì phải ngồi đợi một bên cái bếp than làm như một cái máng chữ nhật nhỏ của bà hàng, chờ lớp vỏ ngoài cháy đen một phần, bà mới bóc hết làn vỏ bắp ra để những hạt bắp được nướng chín trên lửa từ từ trỡ sang màu vàng ruộm, rồi vàng cháy, mùi bắp nướng thơm lừng tỏa ra trong không khí, xé một miếng vỏ bắp bọc lấy cái cuống trái bắp nướng dốc ngược đầu xuống một chén mỡ hành đặt cạnh bếp, dùng một đoạn sống lá chuối chẻ dập đầu thoa đều mỡ hành lên khắp trái bắp, mùi thơm của bắp và mỡ hành làm chúng tôi nuốt nước miếng thèm thuồng, cầm vội vàng trái bắp nóng hôi hổi trên những ngón tay lóng ngóng và gặm hối hả, vị mặn mà của mỡ hành có lẫn vài miếng tóp mỡ dòn dòn, hạt bắp vừa cứng vừa dẻo, nhồm nhoàm một cái đã thấy chỉ còn trơ lại cái cùi khô khốc vô duyên!

Bây giờ ít thấy bán

đậu đỏ bánh lọt

, thứ quà ngon mà mắc tiền hơn đá nhận xi rô, vẫn bán trước cổng trường trên những chiếc

xe

đẩy bằng nhôm sáng loáng thuở nào. Trong những chiếc thẩu tròn xếp thành dãy người ta đựng nào là đậu xanh hấp chín màu vàng đậm đà, nào là đậu đen chín bở, đậu đỏ đều hạt, đậu Mỹ màu trắng hạt to như đầu ngón tay cái,và một cái thẩu đầy những sợi bánh lọt màu trắng trong và dai ngập trong nước đừa đục màu sữa, lại có cả hạt É lấm tấm như những chùm trứng Ếch tí hon có lẫn những tảng nhỏ Lười Ươi nâu như màu mận chín, nước đường thắng kẹo đựng trong hũ thủy tinh trong được múc bằng một cái muổng đặc biệt làm bằng nửa quả Mù U khô cắm trong một cây đũa tre dài.

Đã lâu lắm tôi không còn thấy ai bán

Bông Cỏ với Hột Lựu.

Hình như món

ăn

này, cũng như món mía hấp, mía ghim đã lặng lẽ biến mất tự lúc nào chẳng ai hay biết.

Mía hấp

thì thường là một người đàn ông trung niên đẩy xe ba bánh rao bán trên đường phố vào khoảng tối khuya, tiếng rao "Mía hấp" kéo dài hơi ngân nga và ánh sáng chập chờn của một ngọn đèn dầu nhỏ thắp trong chiếc lồng đèn vuông thường gợi nhớ vào những tối trời tạnh mưa, không khí ẩm và lạnh mà mùi thơm ngọt ngào của những cây mía nóng hổi khi mở nắp chiếc vung to lớn của ông hàng mía lan tỏa trong không gian thật là dễ chịu.

Ông hàng Mía hấp có một cái bào to với một bên thân bào là dao bén ngót.

Những khúc mía màu nâu tím hay vàng mơ được hấp chín trong một loại nước có vị thuốc Bắc xếp đầy trong một cái thùng sắt to đặt trên bếp than cháy âm ỉ để giữ cho nước trong nồi lúc nào cũng nóng già, khi có người mua ông dùng bào róc sạch vỏ rồi nhanh nhẹn trỡ lưỡi dao tiện thành từng khẩu mía ngắn và đều nhưng không tiện đứt hẳn mà vẫn còn dính vào nhau, mía hấp ăn thơm và mềm, người già răng yếu cũng có thể ăn được. Mía ghim thì chỉ là mía thường, róc vỏ, bỏ mắt và tiện ra thành những lóng ngắn nhỏ cỡ một đốt ngón tay, ghim vào trong một đoạn tre ngắn được chẻ ra nhiều thanh nhỏ ở một đầu thành ra một bông hoa ngộ nghĩnh xoè tròn người ta thường bán trước cửa rạp hát hay rạp xi nê hồi đó. Mía bây giờ người ta đựng trong bịch nylon, tuy cũng tiện tròn nhưng nhìn tẻ nhạt chứ không xinh xắn hấp dẫn như mía ghim thuở đó!

Bông Cỏ thì đặc biệt hơn, trông giống như Sương

Sa

nhưng hơi mềm mình, và lại thơm ngon hơn nhiều. Có lẽ tuổi nhỏ với khẩu vị đơn giản và đồng tiền có hạn nên món nào hồi xưa mình ăn đều thấy ngon lạ ngon lùng, hay bởi vì những món ăn thời ấy còn chất chứa cả một khung trời ký ức êm đềm dịu ngọt nữa mà bây giờ cho dẫu có ăn bất cứ món gì mình cũng thấy không thể sánh bằng?

nhưng

món Bông Cỏ thì quả là hơn đứt Sương Sa hay Thạch của người Bắc, Đông Sương của người Trung. Bông Cỏ hình như là xuất xứ từ bên Tàu, cách làm cũng khá lạ, phải ngâm nước một đêm cho nở rồi mới cho vào trong một cái bao vải dày (gọi là bao bồng bột) cùng với một vài (bao nhiêu?) trái chuối Xiêm chín, nhồi lấy nước sền sệt pha chung với nước lã sao cho vừa đủ lượng nước cần dùng, cho vào thau để yên trong mấy giờ sẽ đông lại như Sương Sa nhưng mềm và dẻo hơn, dùng cái muổng như cái vá xới cơm nhưng dẹp và mỏng hơn vát nhẹ thành từng miếng mỏng cho vào ly, ăn với bột mì tinh cắt nhỏ vuông vức pha màu hồng đỏ luộc vừa chín còn cái ngòi bột trăng trắng nhỏ xíu trông giống như những hột Lựu tươi vừa tách ra khỏi trái chín cây (vậy nên mới được gọi tên là Bông Cỏ Hột Lựu), chan nước đường thắng kẹo và nước cốt dừa béo ngậy, thêm vào chút dầu chuối đựng trong cái ve nhỏ xíu mà thơm lừng. Đôi khi người ta còn bán chung với Sương Sáo và Sương Sâm, một thứ màu đen có mùi hôi nhẹ của thuốc Bắc, một thứ màu xanh biếc của lá cây với những đám bọt nhỏ phía trên mặt, ăn cùng với đường cát trắng lạo xạo trong miệng và những vụn đá bào mát lạnh.

Lớn thêm một chút, vào Trung Học, tôi nhớ tới những xe bán

Bò Bía

trước cổng trường, người bán thoăn thoắt gói những cuốn nhỏ bánh tráng có ít củ sắn và cà rốt thái sợi xào chín giữ nóng trong một cái thau nhỏ đặt trên bếp lửa, cho thêm vài lát Lạp Xưởng mỏng tanh, một ít tép ruốc chấy vàng nhuộm đỏ, có khi một ít trứng chiên vàng cắt sợi, một lá Sà lách, vài ngọn rau thơm, ăn với tương ngọt và tương ớt có ít đồ chua, một ít hành phi dòn và một ít đậu phọng rang giã dối. Cuốn Bò Bía ngọt thì chỉ là một cuốn bánh bột mỏng gói cây kẹo dòn và ít dừa nạo sợi, rắc ít mè rang vàng, chỉ tiện ở chỗ có thể cất vào trong cặp dành

ăn

trong giờ ra chơi, còn thì chẳng có gì đặc biệt! Những quả

ổi

luộc ngâm trong nước cam thảo màu vàng luôn là món hấp dẫn tôi hơn cả

Me

Cà Na

ngâm. Xẻ đôi trái Ổi ra, màu ruột vẫn trắng ngà và dòn tan, nhưng lớp vỏ ngoài lại hơi mềm và ngọt mùi cam thảo, trét lên một lớp muối ớt cay cay thì thật là tuyệt! Me thì dòn và đã được lấy sạch hột, Cà Na hơi chát mà chua chua, trời ơi còn Xoài sống thì cắn miếng nào biết miếng đó, Chùm ruột chỉ nhìn thôi đã ứa nước miếng vì thèm, Cóc chín trái vàng lườm và thơm nức mũi. Những món trái cây ngâm ấy được gói trong mấy tấm lá chuối xanh rờn, một góc là nhúm muối ớt đỏ tươi ngon lành, buổi trưa trời nắng đổ lửa hay buổi sáng rét nhẹ chúng tôi đều chiếu cố tận tình như nhau! Vậy mà chẳng thấy đứa nào đau bụng đau bão gì, ấy thế mới lạ!

Còn

hàng Phá Lấu

trên đường Pasteur, nơi có xe

nước mía Viễn Đông

nổi tiếng một thời với những cây tăm tre xiên vào từng xâu nhỏ gan, lưỡi, tim … phá lấu màu nâu đen thơm phức vừa miệng đặt trong mấy cái đĩa nhôm bày trên một mẹt hàng có bốn chân gác chéo, mà tôi đã đi ăn cùng với người bạn trai đầu tiên.

Ly nước mía mát lạnh hơn cả những câu chuyện thủ thỉ không đầu không đuôi tuổi học trò nhớ lại vẫn còn cảm thấy ngọt ngào.

Hẻm Casino SaiGon có hàng

Bún chả và bánh cuốn

Thanh Trì một ngày nào đã dung dăng dung dẻ cùng các bạn vào ăn sau khi mỏi chân mỏi mắt khắp phố phường, trong Crystal Place hay trong P***age Eden. Hiệu

kem Pole Nord nằm bên thương xá Tax

với một dãy ki ốt hoa tươi trên đường Nguyễn Huệ một tối nào tôi nhận từ

tay

người bạn trai sắp theo tàu đi xa một bông hồng màu đỏ thắm với bàn tay ấm áp ân cần. Quán

cơm Bà cả Đọi

nằm trên một căn phòng nhỏ thấp sâu trong hẻm với những món ăn được dọn ra trên chiếc đi văng bóng gỗ bóng màu thời gian, những món ăn quen thuộc như bữa cơm thường ngày gợi nên cảm giác gia đình cùng ăn với bọn bạn là sinh viên miền Trung vào SaiGon trọ học….

Vậy mà thoắt cái đã mấy mươi năm! Những món ăn tôi đã ăn trong cả một thời ấu thơ cùng với bạn bè, những món ăn tôi đã chia sẻ cùng với những người thân thương một thuở, bây giờ có món vẫn còn bày bán đâu đó trong thành phố, có món đã lâu lắm chẳng còn nhìn thấy lại. Nhưng cùng với thời gian trôi qua, và mọi điều đã thay đổi, tôi mãi mãi sẽ chẳng bao giờ còn có thể thêm một lần nữa nếm được cái hương vị ngọt ngào tuyệt diệu của những món quà ấy, cho dù có tha thiết ước ao, hay thèm thuồng mong đợi đến thế nào!


Như có lần tôi đã bày tỏ cùng một người bạn ít tuổi hơn nhiều, và lại không cùng sinh ra, lớn lên trong cùng một hoàn cảnh sống, về những món ăn ở một nơi mà cô đã đến, nghe ca tụng nhưng thất vọng lúc nếm thử, rằng cái hương vị trong ký ức của mỗi một người khi ăn một món ăn nào là hương vị rất đặc biệt chỉ riêng người ấy mới cảm nhận được, gói ghém cả những ngọt ngào của quá khứ và kỷ niệm, mà không phải ai cũng có thể sẻ chia. Nhớ lại những món ăn một ngày nào, là tôi nhớ lại biết bao là êm ái và dịu ngọt, mà những món quà tuy tầm thường bé nhỏ ngày xưa ấy, cho dẫu chỉ là quà của một thời, nhưng lại là một thời của những tháng ngày yên vui mãi mãi trong tâm tưởng, mà những khoảnh khắc quý báu ấy thì mãi mãi tôi chẳng bao giờ có thể nguôi quên.

Thành phố Tam kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam nằm đúng giữa trung tâm của chiều dài đất nước. Trước 1975 được  gọi là thị xã, thuộc tỉnh Quảng Tín. Thị xã hiền lành với con sông Trường Giang chảy dọc và con sông Tam Kỳ chảy xuôi, với giọng Quảng phát âm rất nặng và hệ thống  đường xá bấy giờ chỉ có ngả ba không có được một ngả tư!

Tôi không phải người quê gốc Tam kỳ nhưng thời chống Pháp, Tam kỳ thuộc Việt minh và gọi là vùng giải phóng. Gia đình tôi theo Việt minh nên di cư vào đó. Tôi sinh ra và trôi cả tuổi ấu thơ ở đấy cho đến ngày tốt nghiệp tú tài 1974.

Bây giờ ngồi nhớ lại những ký ức tuổi thơ. Không thể nào quên những món ăn rất bình thường mà rất đặc biệt ở Tam kỳ. Những món ăn, quán ăn đến bây giờ vẫn còn tên tuổi!

Món

cơm gà Tam kỳ

còn đang vang bóng! Sau 1975, những chú bộ đội đi xe lửa dừng ở ga Tamkỳ đã phải thốt lên: Ồ, nơi đây có gà tám ký! (Ga Tam Ky)

Gà Tam Kỳ cũng được luộc như mọi nơi chốn khác mà sao thịt thơm và ngon đến lạ lùng! Các bác lái xe đường dài ngày xưa thế nào cũng chọn cung đường ghé Tam kỳ buổi trưa hay chiều để làm một dĩa cơm gà!

Cơm gà bà Ký, bà Luận bây giờ vẫn còn nổi tiếng, dĩa cơm gà chặt hoặc xé phay cùng với một dĩa lòng xào thơm phức cay lừng, bụng ăn no cứng rồi mà miệng vẫn cứ thèm thêm! Bà Luận bây giờ đã mở thêm nhiều chi nhánh ở SG và cũng rất là đông khách.

Sài gòn có nhiều quán ghi là cơm gà TK nhưng vô ăn một miếng thì biết ngay là Tam kỳ dỏm!

Mỳ Quảng Tamkỳ thì khỏi chê! Ngày xưa có bà Lữ chuyên gánh gánh mỳ Quảng bán buổi chiều. Nhà bà ở gần vườn lài, cứ đến trưa đúng 2 giờ là bà có mặt tại hiên nhà tôi trước bưu điện thị xã cùng với mấy bà bán chè đậu xanh, đậu ván, mấy bà bán bánh ú, bánh đúc….Bưu điện tam kỳ là nơi để các chuyến xe Tam kỳ-Tiên Phước –Trà My đón và trả khách, khách đi chơi thì ít mà giao lưu hàng họ thì nhiều. Họ ghé vào hàng hiên chờ xe, người làm tô mỳ quảng, kẻ ăn chén chè đậu xanh có đá, người cái bánh đúc chắm mắm cái…, tôi thì, chắc cả đời tôi chẳng bao giờ quên những buổi trưa ngủ dậy, bước ra cửa sà xuống gánh bà Lữ là được bà múc cho một tô mỳ. Tôi chỉ ăn rồi mẹ tôi sẽ trả tiền sau!

Mỳ của bà là mỳ nhưn tôm thịt, gánh của bà một đầu là cái nồi đồng đựng nước lèo luôn sôi âm ỉ. Một đầu là mì, bánh tráng và nồi nhưn, rau sống! Rau sống bà sạch mà ngon. Nhưn của bà thì tuyệt cú mèo, cứ như mỳ gốc Phú Chiêm còn phải chào xa!

Bà bỏ rau sống vào bát, lấy mì trụng vào nồi nước lèo, chan nước nhưn, bẻ một trái ớt xanh, một chút đậu phộng, một cái bánh tráng. Cái màu vàng, trắng của mỳ, màu nước nhưn gạch tôm, trứng gà vàng vàng đo đỏ, con tôm luộc màu hồng và mấy lát thịt ba chỉ phơn phớt màu mỡ tươi, điểm xuyết thêm mấy hạt đậu phộng, bên miếng bánh tráng nướng dòn…, chỉ chừng nớ thôi mà cả tuổi thơ tôi gắn chặt, bây giờ kể chuyện vẫn rưng rưng thèm, đi khắp nơi ăn mỳ Quảng, vẫn không đâu bằng mỳ gánh của bà Lữ ngày xưa!

(Ôi bà Lữ, bây giờ bà còn không? Con cháu bà có ai theo nghề mì Quảng của bà? Bà có biết con nhớ bà xiết bao, và cái tô mỳ Quảng mỗi buổi chiều của bà đã giúp cho con sáng chữ mỗi ngày để bây giờ vẫn nhớ và biết ơn bà!)

Còn đi vào phía Nam khoảng 17km, các bạn sẽ gặp một quán mỳ Quảng đã làm nức danh thị xã Tam kỳ, đó là mỳ Cây Trâm. Cái quán ở thôn Cây Trâm, sát bên giòng sông Tràng Giang. Đặc biệt của quán này là những con tôm được vớt lên từ dòng sông Trường Giang bên cạnh, tươi rói, rất ngon và bao giờ cũng có một con cua lột. Trời ơi, con cua lột không biết họ làm ra sao mà cắn vào nghe mằn mặn, ngọt ngọt, thơm thơm, con mỳ thì vương vương mùi dầu phụng. Tô mỳ ở đây đắc gấp đôi tô mỳ bà Lữ nhưng giới lái xe mê lắm. Xe lam chạy Chu Lai, xe đò chạy Quảng Ngãi. Thể nào cũng dừng đây để làm một tô, miếng thịt, sợi mỳ còn trong kẽ răng thơm phức cuộc hành trình!..., mấy anh chị yêu nhau cũng thường đèo nhau vào đây để đãi nhau một tô mỳ thắm thía, lại còn được cuốc chơi xa.

Quán mỳ Cây Trâm và gánh mỳ bà Lữ đã mất hẳn sau 1975. Bây giờ thì khó tìm thấy một quán hay một gánh mỳ Quảng nào bằng! Ở ngoài Kỳ Lý, cách Tam Kỳ khoảng 5 cây số về phía Bắc,  hiện có một quán cũng ngon nhưng hỡi ôi, đâu còn đúng chất vị ngày xưa!

Nói về bún bò thì chắc trên đời này không đâu có bún bò bình dị mà ngon như bún bò Tamkỳ. Bún TK có thể chấp bún Huế bởi cái sự giản dị của nước bún và đặc biệt là của cục giò! Người Huế làm bún cầu kỳ, có một chút câu nệ hình thức, màu mè. Nhìn nồi nước lèo bún Huế thì thấy đẹp mắt, nghe có một chút mùi mắm ruốc. Còn TK thì không. Nồi bún rất đơn sơ nhưng nước chan thì đắm thắm ngọt ngào, ăn xong cái hương còn theo mãi. Còn cục giò thì khỏi nói. Nhỏ và thơm! Tôi đồ rằng người ta chỉ dùng giò của mấy con heo cỏ nho nhỏ mà thôi. Cục giò nơi khác to đùng, dẫu có nhiều nạt cũng thấy ớn, còn ở TK thì mỗi tô 2 cục, lại một cục xương, ăn vẫn thấy còn thiêu thiếu! Ăn tô bún Huế có cảm giác như đọc bài thơ của bà Huyện Thanh Quan, đúng niêm luật và trang trọng, còn ăn tô bún Tam Kỳ ngỡ như đang thưởng thức bài thơ của bà Hồ Xuân Hương, nghe như chơi chơi mà đằm thắm. Càng nhâm nhi càng thấy đã đời! Ăn xong đứng dậy đi mà vẫn còn nhơ nhớ!

Không tin thì hãy ghé TK buổi sáng, đến quán Dạ Hương ngay bên đường quốc lộ. Quán bán đến chừng 8h30 là hết!

Muốn thưởng thức một tô bún bò buổi sáng bình dân hơn mà ngon không kém thì phải chịu khó dậy sớm. Quán bán vỉa hè trên đường qua Kỳ Phú, xuống biển Tam Thanh. 6:00, quán chỉ có bàn ghế, chén đũa, mắm, ớt, chanh…, khách đến tự ngồi vô bàn, lấy chén dằm ớt theo khẩu vị, hòa nước mắm với chanh rồi…chờ! 6:30, bà chủ quán gánh gánh ra và bắt đầu…múc. Bà biết mặt tất cả những người khách đang háo hức chờ bà, ai ăn giò, ai ăn xương, ai ăn nạt…, bà biết hết. Khách lạ qua đường bà mới hỏi. Người trước người sau trật tự…, bà bán chừng đến 7:30 là hết. Dọn bàn dọn gánh đi về!

Còn buổi tối thì xin mời đến quán bà Lan cũng trên đường quốc lộ xéo xéo quán DH buổi sáng. Bà Lan cở khoảng 60 nhhưng khuôn mặt phúc hậu hiền lành nên tô bún của bà cũng phúc hậu ngon lành. Có đi công tác ở đâu về ngang TK buổi tối, còn một tiếng nữa là về đến nhà Đà nẵng, tôi cũng vẫn phải dừng lại làm một tô bún bà Lan, nếu không, về nhà thèm thuồng làm sao ngủ được?!…

Các bạn hãy thử ghé ăn một lần thì mới thấy cái đặc biệt của bún bò giò heo Tamkỳ yêu thương của tôi! 

Tam Kỳ còn món nem nướng bà Ký nữa! Nem nướng thì quí vị biết rồi, thịt heo giã nhuyễn rồi cuốn vào một đầu que tre, rồi nướng lên, rồi quấn với bánh tráng ướt, rau sống, thế thôi! Vậy nhưng khó nơi nào qua được quán bà Ký ở Tam Kỳ! Trước 75, buổi chiều mà đến hơi trễ là phải chờ vì thiếu chỗ. Cánh nhà binh vào đây ăn nhậu ồn ào. Chiêu đãi nhau một bữa ở quán bà Ký là sành điệu, là dân chơi! Quán này cha truyền con nối, bây giờ mấy người con bán vẫn ngon, vẫn đông. Hình như bí quyết nằm ở gia vị cho vào thịt và nước chấm. Đặc biệt là nem nướng TK còn được cuốn thêm với cái ram giòn mà không nơi nào có. Với tôi thì bao giờ nước chấm ở đây cũng được tôi pha thêm một chút nước mắm gin nữa thì mới hợp khẩu vị của mình!

Mấy bà mấy cô thích ăn hàng vặt thì rất khoái món bánh ướt gói ram của Tam Kỳ. Cái món cực kỳ đơn giản và vô cùng rẻ. Thế mà TK chỉ có 2 người bán và muốn ăn thì chỉ phải từ 6:30 đến 7:30 là hết! Cái gánh hàng rong này ở gần chùa Tịnh độ. Bà này còn bán thêm món mít trộn và bánh đúc chấm mắm nêm! Ram của bà làm cực kỳ thanh nhã, mỏng mảnh, giòn tan, được cuốn với lá mỳmềm mại mỏng dánh, rồi chấm với nước chấm đặc biệt của bà, hoặc với mắm nêm có một chút tương ớt cay cay…khỏi phải nói! Ăn no, mồ hôi rịn đầy trên trán, cũng chỉ khoảng 20 ngàn với thời giá bây giờ!

Tam kỳ còn có dãy quán lòng heo và cháo lòng An Thổ mà anh bạn tôi, học giả Huỳnh Ngọc Chiến đã có nhắc tới trong một bài viết đăng trên Kiến Thức Ngày Nay. Vùng này hồi xưa là lò mổ heo, rồi nhân tiện người ta mở luôn mấy quán bán lòng và cháo gần đó, vì vậy lòng ở đây tươi và origine, không chất tẩt rửa, không để ôi thiu. Nồi cháo thì nước xương nước thịt rất ngọt, không phải thêm mì chính (hồi xưa mì chính không phổ biến như sau 75, rất it người ăn). Buổi sáng xuống An Thổ ăn một tô cháo lòng với dĩa lòng nho nhỏ cũng thì tuyệt cú mèo. Mà nếu đừng vì bài học lịch sự, ăn xong, cầm cây tăm xỉa xỉa mấy miếng lòng mắc ở chân răng nghe tách tách thì mới đúng bài! Hồi xưa ăn lòng ào ào mà có thấy ai nói đến cholesterone với gout giếc gì đâu! Sao bây giờ người ta cảnh giác với món lòng heo lắm vậy?! Tôi vốn không thích lòng và cháo nên món này tôi chỉ nhắc cho đủ chứ tôi không có kỷ niệm với món này!

Chợt nhớ có một lần tháp tùng cùng một vị bộ trưởng quê ở Tam Kỳ về quê. Ăn cái gì ông cũng “double” cả. Bún ông ăn hai tô, mì hai tô, gà ông ăn gần một con. Nhìn ông ăn thích lắm. Gương mặt ông háo hức, tươi vui như một đứa trẻ con được mẹ đi chợ về dúi cho cái bánh, cây kẹo ngày xưa. Sếp tôi vối là người ác ý và định kiến. Sau lần đi đó ông nói với tôi. Mày thấy mấy cha bộ trưởng ăn ghê không! Ăn như….,Trời, vậy là sếp không hiểu chi hết rồi. Tôi đã đi với vị bộ trưởng này nhiều nơi, ăn nhiều quán. Ông là một con người bình dị, dễ mến và ăn uống rất chừng mực, kỹ càng. Bao nhiêu thứ cao lương mỹ vị, người ta chiêu đãi ông, có bao giờ ông quá chén. Ông ăn theo phép lịch sự mà thôi. Nhưng sao về quê ông laị ăn nhiều thế. Ăn ngon lành thế? Thưa sếp, đó là ông đang ăn ký ức tuổi thơ ông. Ông đang hoài nhớ về cái thời tuổi nhỏ được mẹ cha cho ăn một miếng gà, một tô bún thì như một đại tiệc, bởi cái tuổi thơ vất vả của xóm nông nghèo cát trắng quê ông. Ông ăn là ông đang nhớ đó, thưa sếp!

Cũng như tôi, vốn chỉ uống là giỏi chứ không ăn được nhiều, mà sao vô TK, đứa bạn nào cũng khen (hay chửi), mẹ, thằng này ăn dữ! Này, tau đang ăn kỷ niệm của tụi mình ngày xa xưa đó. Tau đang ăn buổi sáng thằng Đỉnh, buổi trưa thằng Tuấn, buổi chiều thằng Chiến, buổi tối thằng Quyền… bây cứ đi xa như tau rồi bây mới biết, không đâu đẹp bằng không gian tuổi thơ, không bè bạn nào bằng bè bạn thời thơ ấu, không nơi đâu ngon bằng Tam Kỳ, không gánh mỳ nào bằng gánh mỳ bà Lữ ngày xưa!...

Hương vị phố

Sáng sáng ở khu Phúc Hải của tôi có một ông bán bánh mì dạo với những ổ bánh mì dài sáu, bảy tấc, thân bánh thì nhỏ hơn loại bánh mì ổ bây giờ. Tùy theo tiền khách mua mà ông cắt ổ bánh dài thành nhiều phần bánh nhỏ. Có khách đòi phần bánh của mình là phần ở giữa, nhưng cũng có người lại yêu cầu phải có một đầu ổ bánh gốc, ăn cho dòn! Nhân bánh phổ biến là bì heo thái nhỏ có trộn thính hay thịt heo quay xắt mỏng hoặc xíu mại làm thành từng viên, có thêm một lát gan nhỏ. Lấy con dao bén xẻ đôi phần bánh ở phía trên xong, ông nhồi nhân theo yêu cầu của khách, thêm một gắp “đồ chua”, rồi rưới nước sốt, thêm cọng hành, ngò, vài lát ớt, xịt chút xì dầu. Khách thích ăn bánh mì kẹp giò lụa hay chả lụa thì ông rắc muối tiêu. Kết thúc tất cả bao giờ cũng là một miếng giấy báo được rọc nhỏ bọc quanh ổ bánh, cột bên ngoài là một sợi dây thun. Ông bán bánh mì dạo hành nghề với một chiếc xe đạp khung ngang. Nơi khung ngang là một cái túi vải cũ đựng giấy báo gói bánh, dây thun... đại loại là các thứ "văn phòng phẩm". Lại có cả một cuốn sổ nhỏ mà tôi không dám hỏi xem ông ghi chép những gì, liệu có phải là sổ ghi nợ cho khách quen hay không? Phía sau boọc-ba-ga xe là một cái thùng hình chữ U ngược được đặt đóng bằng nhôm cho nhẹ và khỏi bị han gỉ. Hai bên thành chữ U ngược, ông để được hàng chục ổ bánh mì dài, còn mặt bằng trên cùng thì là các loại nhân, nước sốt, xì dầu...

Ít khi tôi nghe ông bán bánh mì phải rao. Chính như một khách hàng thường xuyên của ông là tôi, cứ khoảng sáu giờ rưỡi sáng, mở cổng nhà nhìn về phía cột điện là đã thấy ông đứng đó đang bán bánh mì cho một hai người khách. Có lẽ ông đã nghĩ ra việc tự chọn những "trạm" bán hàng cho mình để khách quen cứ việc đến đấy mà mua.

Nhưng buổi sáng trên đường nhà tôi cũng có nhiều tiếng rao lanh lảnh, hầu hết là giọng phụ nữ. Bà bán xôi, bà bán bánh khúc, chị bán bún riêu cua... đều phải rao. Có người đội cái mẹt hàng trên đầu, có người cắp ngang eo, người thì gánh gióng nặng nề với nồi nước riêu trên cái bếp than lúc nào cũng hồng nóng. Không tự chọn "trạm" như ông bán bánh mì nhưng cứ khi có người gọi mua, gánh bún hay mẹt xôi đặt xuống lề đường được một chút là khách mua không hiểu ở đâu đã xúm quanh, tự hình thành một cái "trạm" bán hàng!

Khu Phúc Hải nhỏ là thế mà cũng có đến hai tiệm phở. Có lẽ vì đây là khu dân cư miền Bắc nên món phở Bắc được chuộng chăng? Đi ăn phở sáng là một thú sang trọng với những gia đình bình dân. Người ta hay chọn sáng chủ nhật được nghỉ, đưa cả gia đình đi ăn. Cũng có những người là bạn bè rủ nhau đến tiệm phở. Tôi không rõ khi phở Bắc mới xuất hiện ở đây thì thế nào, nhưng vào những năm của thập niên sáu mươi, khi tôi thỉnh thoảng được dẫn đi ăn "phở ông Miễn" hoặc "phở bà Đường", thì trên bàn đã có một đĩa rau nhiều loại như húng quế, ngò gai, sà lách rồi. Tương ớt loại đỏ cay, loại nâu ngọt mặn cũng đã có. Hồi đầu, ngoài bánh phở thì thịt bò chỉ đơn giản là bò tái hay chín, chứ chưa có nạm, gầu, gân... phức tạp như bây giờ. Ngoài phở nước, nhiều người còn gọi món phở xào với thịt bò, bánh phở xào chừng như dai hơn, ngon hơn.

(Người ta không xào phở với lòng gà như bây giờ, cũng không thấy tiệm phở nào bán phở gà

. Ở trung tâm tỉnh lỵ Biên Hòa cũng có một tiệm phở nổi tiếng là phở Tứ Hải trên đường Phan Đình Phùng - trước mặt hai Sở Lao động Thương binh Xã hội và Sở Y Tế ngày nay - mà chủ tiệm lại là người Hoa! Tiệm phở này cho đến nay vẫn bán dù quy mô không còn như trước nữa.

Ngoài món phở Bắc mà dần dần được cải biến cho hợp với khẩu vị người Biên Hòa gốc, thì món hủ tiếu và mì sợi là hai món quen thuộc khác. Hủ tiếu có khi còn được ăn chung với mì thành món hủ tiếu mì. Người ta ăn hủ tiếu khô hoặc ăn nước. Ăn nước là kiểu ăn bình thường: bánh hủ tiếu loại thường hay loại dai, thịt heo, gan, có nơi có cả tôm hay mực ống... được nấu và chan nước lèo đầy tô. Ăn khô thì trong tô chỉ có bánh và thịt..., nước lèo được múc vào một cái chén nhỏ, có thêm một hột gà đập vào hoặc một miếng xương hầm. Có tiệm cầu kỳ còn có thêm một miếng bánh tôm chiên dòn đặt lên trên cùng tô hủ tiếu!

Không hiểu sao ấn tượng nhất với tôi lại là món mì sợi. Đất Biên Hòa là một trong vài địa phương của phương Nam có những đoàn người Hoa di cư đến từ thời vua chúa nhà Nguyễn. Cù lao Phố, tức Nông Nại Đại phố ngày xưa là thương cảng tấp nập với những ông chủ kinh doanh là người Hoa. Nhiều dãy phố dọc theo bờ sông Đồng Nai là nơi cư trú của bà con người Hoa đi theo tướng Trần Thượng Xuyên đến lập nghiệp ở Biên Hòa. Có lẽ món mì sợi đã theo họ đến đất này cùng bí quyết làm mì, nấu nước lèo và cả nghệ thuật kinh doanh. Nhiều người Biên Hòa cũ kể lại rằng chú Mừng là một người Hoa làm mì rất khéo, rất ngon nhưng ông chỉ làm đến khoảng bốn giờ chiều thì nghỉ tay để đi “làm bạn” với... nàng tiên nâu! Mì chú Mừng là một "thương hiệu" nổi tiếng, đảm bảo!

Một tháng đôi lần, tôi và cô em thường được mẹ tôi dẫn đi chợ Biên Hòa vào ngày chủ nhật. Đó là những buổi hạnh phúc nhất của tuổi thơ tôi. Ba mẹ con ra lề đường đón xe

lam

, chọn chiếc nào ít khách để có thể ngồi rộng mới vẫy xe dừng lại. Xe đi qua Vườn Mít, xuống dốc Kỷ Niệm, qua công trường Sông Phố, rẽ phải đến mặt tiền chợ Biên Hòa. Mẹ tôi đi chợ mua vải may quần áo, mua trái cây hay hàng họ gì đó, xong xuôi bao giờ cũng dẫn anh em tôi đến một xe mì trong chợ. Tôi thường ăn đến hai vắt, khi thì mì sợi nhỏ, lúc là mì sợi lớn, hoặc có khi là một vắt mì với hoành thánh. Ngồi bên chiếc xe mì (nếu tôi nhớ không lầm thì có tên là Châu Ký) có gắn những tấm kính vẽ hình Quan Công, Trương Phi, Lưu Bị, Triệu Tử Long trong truyện Tam Quốc Chí bằng sơn màu xanh, đỏ, đen..., nghe tiếng dao xắt hành lá trên thớt, hít hà mùi nước lèo khi ông già người Hoa mở nắp thùng nước lèo... cứ như đang được bay bổng lên mây. Chiếc xe mì cũng có bày một hai cái bàn cạnh đó cho khách ngồi ăn trên ghế xếp chân sắt được thoải mái, nhưng người sành điệu phải chọn ngồi ăn tại "bàn" gắn liền với xe - chỉ là một mảnh gỗ dài theo chiều dài xe mì, bề ngang chừng ba tấc. Ngồi ở đây, chẳng những ăn tô mì của mình mà những lúc ngưng đũa, còn được nhìn thật gần ông già đầu bếp gấp những miếng bột cán mỏng gói một chút thịt bằm bên trong, làm nên những viên hoành thánh hấp dẫn.

Những đêm mẹ con tôi đi xem cải lương ở rạp Biên Hùng, vãn tuồng, mẹ tôi lại cho tôi ghé qua tiệm mì Liên Viên Viên hoặc tiệm mì Trứng cá phía đầu đường. Ngồi ăn mì Trứng cá

(Tên quen gọi tiệm mì này như thế vì ở đây có một cây trứng cá lớn che mát được đến mấy bàn ăn. Tiệm còn bán sau 1975 một vài năm rồi nghỉ)

người ta còn được hưởng cái thú nhìn ra vòng xoay ngã năm Biên Hùng, xe cộ qua lại tấp nập. Sau này khi lên học bậc Trung học đệ nhị cấp, tôi mới được bạn bè rủ đi ăn mì Vĩnh Vĩnh ở đầu xóm Lò Bò hoặc qua bên kia sông ăn mì Xí Mứng, mì Bà Một... Món mì truyền thống ăn với thịt heo xắt mỏng thêm ít thịt heo bằm, có thêm vài lá cải nhỏ, ăn bằng đũa và muỗng sứ. Gia vị có ớt, xì dầu..., chỉ có bột cải nhuyễn màu vàng chanh là khó ăn nhất, ít thấy người đụng đến.

(Ăn mì ở nhiều nơi tôi thấy món ăn này ngày càng được chế biến khác xa với thuở ban đầu của nó. Nhiều nơi bán mì thập cẩm với nhân có thịt heo quay xắt nhỏ, rồi nào cật heo, nào cá, mực, tôm, cua… chẳng khác nhân của món hủ tiếu. Chưa hết, có nơi tô mì còn có thêm cả miếng giò heo như món bún bò, hoặc đập thêm hột gà như món phở! Một lần ra Hà Nội, tôi được giới thiệu đến tiệm mì “Chợ Lớn mì gia” nhưng đến ăn mới biết chủ tiệm là một người Hà Nội và món mì cũng là loại chế biến!) 

Ăn mì cũng có hai cách: ăn mì nước hoặc mì khô. Vắt mì nước thường lớn hơn vắt mì khô. Một người bình thường gọi hai vắt mì nước là ăn no, nhưng phải ba, bốn vắt mì khô ăn mới "đã". Những tiệm mì người Hoa nổi tiếng không bao giờ mua mì ở những lò làm sẵn mà họ tự chế biến ra loại mì riêng của tiệm mình. Tôi nghe nói mì của những tiệm này không những được chọn bột rất kỹ mà quá trình chế biến còn thêm cả lòng đỏ trứng gà và một món gia truyền nào nữa! Chẳng thế mà sợi mì của họ vừa dai, vừa bùi.

Có điều ở Biên Hòa cả ngày xưa và bây giờ, tôi chưa gặp tiệm mì nào mà đầu bếp kèm thêm phần biểu diễn như tiệm "mì thảy" ở đường Ba Cu, thành phố Vũng Tàu: sau khi nhúng vắt mì vào thùng nước lèo cho chín, người đầu bếp thảy vắt mì lên cao rồi hứng lại bằng cái vợt để làm cho vắt mì tơi ra, trông cứ như một diễn viên xiếc đang biểu diễn! Có lẽ người Hoa ở Biên Hòa cũng trầm lắng, hiền hòa như người Biên Hòa, không thích phô trương như người sống ở thành phố du lịch biển kia chăng?

Nhà văn Lý Văn Sâm thuở sinh tiền, mỗi khi về hội họp tại Hội Văn Nghệ Đồng Nai mà ông là Chủ tịch, biết tôi thích ăn mì nên thường rủ tôi đi ăn ở một tiệm mì trên đường khu Cây Chàm, nền thấp hơn mặt đường, đối diện nhà ông Lương Văn Lựu

(tác giả bộ Biên Hòa sử lược)

mà nhà văn kể là nơi ông vẫn thường tới ăn sáng hồi viết báo, làm cách mạng thập niên bốn mươi, năm mươi ở Biên Hòa, trước khi bị bắt nhốt vào Trung tâm cải huấn Tân Hiệp. Ông cũng thích ăn mì khô hơn mì nước và uống cà phê một hơi, quá lắm là hai hơi đã cạn. Ông giải thích: "Hồi xưa ra lề đường uống cà phê vợt, khách đông nên mình phải tranh thủ uống cho mau để còn nhường cái ghế cóc mình đang ngồi cho người khác. Cà phê đem ra còn nóng, phải đổ ra cái dĩa để lấy mặt thoáng rộng hơn, phùng má thổi mấy hơi cho mau nguội rồi húp

cái một

tới hết. Uống kiểu đó riết thành quen".

***

Món ăn nổi tiếng ở Biên Hòa xưa còn có bánh canh đầu cá hay cháo cá bên Chợ Đồn, bánh canh Huỳnh Của ở gần đầu dốc Kỷ Niệm, cà ri dê Tư Dữ ở Vườn Mít...

Ngày ấy ông Tư Dữ là mối hàng mua bia, nước ngọt, nước đá của cha tôi. Ông có nuôi một bầy dê vừa để chúng sinh sản vừa để làm thịt dần. Dáng người ông thấp đậm, còn in rõ trong tâm trí tôi hình ảnh ông cầm cây roi lùa bầy dê ăn cỏ phía bên kia đường - khu vực nhà bảo tàng tỉnh bây giờ. Bà Tư Dữ, tôi cũng còn nhớ gương mặt rặt Nam bộ, hơi khắc khổ một chút. Tên Dữ nhưng tôi thấy cả hai ông bà đều hiền lành, nhất là... những lúc tôi đạp xe lên mua cà ri dê về cho gia đình. Thường thì sau khi ông Tư múc vào ga-men xong - với một sự ưu tiên - thì trước khi trao cho tôi, bà Tư lại lén chồng múc thêm một hai miếng thịt nữa. Cà ri dê phải nấu bằng ca ri

nị

chính gốc Ấn Độ mới vừa cay, vừa thơm. Ăn thịt dê phải chấm muối ớt vắt chanh, phải kèm một miếng cà tím, và một mẩu bánh mì chấm vào nước cà ri nữa. Sau 1975, cà ri dê Tư Dữ còn hoạt động tiếp một thời gian ở nhiều địa điểm khác nhau trong thành phố Biên Hòa, do mấy người con của ông bà Tư làm chủ, nay hầu như đã nghỉ cả. Những quán thịt dê bây giờ ở Biên Hòa được mở ra khá nhiều, nhưng thường làm món lẩu, món nướng chứ ít chỗ có món cà ri. Thịt dê cũng có người bỏ mối, chưa thấy quán nào tự nuôi dê giết thịt như gia đình ông Tư Dữ.

Món vịt quay ở Biên Hòa thì cứ phải là vịt quay ở mé hông nhà hàng Hạnh Phước trước đây. Tiệm tên là Bôi Ký, nhưng mọi người quen gọi là “Vịt quay Hạnh Phước” nên tên sau này đã trở thành cái tên được vẽ trên biển hiệu của tiệm lớn hơn tên chính. Tiệm vịt quay này có từ lâu rồi, nay vẫn giữ được bí quyết chọn vịt, quay vịt, làm nước sốt theo phong cách người Hoa mà giá cả lại bình dân. Món lưỡi vịt mà nhậu rượu đế thì thật thú vị nhưng chỉ mua buổi sáng mới hy vọng có vì mỗi con vịt có hai chân, hai cánh nhưng chỉ có... một cái lưỡi! Người Biên Hòa cũ hay mới, đến nay vẫn có thói quen đi mua vịt quay Hạnh Phước, chặt nguyên con hay nửa con vịt, lấy đủ rau, dưa leo, nhất là nước chấm được pha chế đặc biệt... bỏ vào bọc ni lông; mua thêm một hai ổ bánh mì đem về nhà ăn hay tiếp khách lai rai.

Những buổi chiều, trên đường phố có nhiều người phụ nữ gánh các gánh bún riêu, bánh canh, tàu hũ... đi rao bán. Lại có một hai chiếc xe mì gõ "xực tắc" đẩy bán rong. Một cậu bé, thường là thế, đi trước xe mì một đoạn đường, tay cầm hai khúc tre gõ vào nhau theo nhịp thay cho lời rao. Khách gọi, người đẩy xe kiêm đầu bếp làm mì vào tô rồi cậu bé kia bưng đến tận cửa nhà cho khách. Có khi trên đường về, họ mới ghé lấy lại chén đũa. Có điều, mì gõ “xực tắc” chỉ ăn cho vui miệng hay ăn “cứu đói”, chứ chẳng thể so với mì ở các tiệm mì người Hoa chính hiệu về mọi mặt! Mùa mưa, coi như những gánh hàng rong, xe mì "xực tắc" gặp nạn! An ủi là khi một chị gánh bún, gánh bánh canh tạt vào một hiên nhà nào đấy trú mưa, chủ nhà động lòng - theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng - thì thế nào cũng bán được mấy tô! Thực ra, ăn món nóng như bún, bánh canh vào lúc trời mưa thì quả là ngon miệng. Gia đình tôi có bốn người, thêm một chị bếp, hai người giúp việc chạy xe ba gác bỏ mối bia, nước ngọt, vị chi là bảy người, gánh hàng rong nào ghé vào coi như “trúng số”!

Từ những khu có người miền Bắc sinh sống, một vài món ăn Bắc khác cũng được tỏa đi khắp thành phố Biên Hòa. Có thể kể đến món bánh gai hiệu Ninh Cường ở khu xóm đạo Tân Mai vừa bày bán ở cửa hàng, vừa làm theo yêu cầu của người đặt để biếu Tết, biếu đám cưới... Một dạo, có một ông trung niên đạp xe đạp rao bán bánh gai trên đường phố Biên Hòa bằng một câu “chơi chữ”:

“Bánh gai – Bánh góc!”,

giọng thản nhiên pha chút chán chường

.

(Kiểu chơi chữ như của một ông “các chú” ở Vũng Tàu rao bán bánh tét: “Ai có tiền có quyền bóc lột!”, nhưng nhẹ nhàng hơn).

Bánh gai gói bằng lá chuối, được làm bằng bột nếp, lớp ngoài có màu đen của cây “tầm gai” khác hẳn với các loại bánh quen thuộc của người Nam bộ. Ngoài ra còn có món bánh giò bằng bột gạo, nhân là thịt bằm có trộn mộc nhĩ; hoặc bánh dày gồm hai miếng hình tròn, kẹp chả ở giữa cũng rất "Bắc" như món bánh chưng ngày Tết vậy.

Đặc biệt là sự "phát triển" của món... thịt chó!

Vùng Hố Nai thì khỏi phải nói, khu Tân Mai, Tam Hiệp cũng vậy, những quán thịt chó mà chủ nhân là người có đạo Thiên chúa, mở ra bán phục vụ khách hàng chủ yếu là người đồng hương, đồng đạo. Cả đến khu Phúc Hải của tôi cũng có mấy quán, trong đó có chủ quán là người đạo Phật, cứ đến mười tư, rằm, ba mươi, mồng một là đóng cửa “không sát sinh”. Cha tôi rất thích ăn thịt chó nhưng ông lại cũng là người mộ đạo Phật. Một mình ông cùng hai người khác sáng lập ra đền thờ Đức Thánh Trần như tôi đã kể, ông còn góp tay trùng tu chùa Đức Quang, chủ trương vận động xây dựng chùa Phúc Lâm bên quốc lộ 15. Ông cũng vận động lập được hai cái nghĩa trang, một cho bà con Phật giáo Phúc Hải (nay đã giải tỏa) và một cho Phật tử chùa Phúc Lâm. Nhưng... ông vẫn ăn thịt chó. Có điều, ở nhà tôi có bàn thờ Phật nên khi muốn ăn, ông đi ra quán. Sau này khi tôi vào Trung học, ông bắt đầu "rủ" tôi cùng đi ăn cho vui. Có điều ông thì vừa ăn thịt chó vừa nhâm nhi một hai ly rượu, còn tôi thì chỉ được phép ăn! Ông "lý sự" với tôi: "Phật tại tâm. Mình làm việc thiện, mình kính trọng Phật là tốt rồi. Ngày rằm, mồng một không ăn là phải thôi. Có kiêng có lành. Nhưng dù sao cũng phải công bằng, khách quan mà nói là ăn thịt chó chỉ có... bổ!". Xem ra tôi cũng khá thông cái "lý sự" ấy.

Đến quán ăn thịt chó, người ta gọi mấy món "cơ bản" như luộc, lòng, dồi, nhựa mận, sáo măng. "Sống ở đời ăn miếng dồi chó". Chẳng biết ai đã đặt ra câu ấy nhưng món dồi đã là một món đánh giá chất lượng của mỗi quán. Món nhựa mận (còn gọi là rựa mận) cũng là một món "chuẩn" để đánh giá quán thịt chó ngon hay không. Nước chấm là mắm tôm cũng thế, phải là mắm tôm đen vừa mặn, không sạn, có nơi dọn ra với chanh, ớt, đường... để khách tự pha chế gia giảm, có nơi làm sẵn với bí quyết riêng. Một số người không ăn được mắm tôm thì chấm nước mắm hoặc muối vắt chanh, nhưng như thế quả chưa thể bảo là dân sành điệu món thịt chó! Dần dần về sau, người ta chế ra nhiều món khác như nướng, chả chìa, lá lốt... mà thành phần thịt không chắc chắn chỉ là thịt chó! Ngoài các thứ rau mà trong đó lá mơ và củ riềng xắt lát không thể thiếu, người ta ăn thịt chó với bánh đa vừng hoặc bún, tùy theo món. Nhiều tiệm chọn bánh đa ngon mới mua về bán cho khách nhưng đúng ra, bánh đa phải là loại khách gọi mới nướng, đem ra còn nóng hổi, tiếng bẻ bánh ròn tan. Bún cũng thế, phải là bún mới làm xong, không bị chua. Thức uống thì chỉ có rượu đế, rượu gạo mới phù hợp. Người ăn thịt chó ngồi quanh cái bàn thấp, gắp miếng thịt đặt vào giữa một cái lá mơ, thêm lá rau húng nếu thích rồi cuộn lại, cầm nơi tay phải. Tay trái nâng ly rượu chạm với bạn bè rồi uống cạn, chấm miếng thịt gói trong lá mơ vào chén mắm tôm, bỏ vào miệng nhai nhẩn nha mà thưởng thức! Có người cầm lóng sả non tấc hoặc miếng riềng xắt mỏng cắn thêm một miếng, vừa cay vừa ấm miệng, lại “sát trùng”.

Các quán thịt chó không bao giờ được thiết kế sang trọng. Đã là quán loại "Đúng rồi", "Hạ cờ tây", "Nai đồng quê"... thì phải bình dân, tốt nhất là bàn thấp, ghế cóc, tường cũ, nền cũ, phía trước có một tủ kính treo cái đùi chó, cỗ dồi..., còn không khí trong quán phải có mùi "chó đặc trưng". Những quán đông khách đến mấy, người ta cũng không biến nó thành... nhà hàng!

(Ngày nay ở vùng Nhật Tân, Hà Nội, nơi có rất nhiều quán thịt chó kiểu liên hoàn, công nghiệp cũng vẫn bày biện bình dân, dù người ở đây tự hào vùng đất của họ có cả "rừng riềng, biển rượu, nông trường chó, cánh đồng rau thơm").

Dạo Liên quân Mỹ và một số nước chư hầu qua tham chiến tại miền Nam Việt Nam, lính Đại Hàn rất thích ăn thịt chó nên các quán thịt chó mọc ra khá nhiều để phục vụ họ, chủ yếu gần khu vực lính Đại Hàn đóng quân.

Người Nam bộ ở Biên Hòa trước đây không ăn thịt chó. Nhiều người nói rằng chó là loài vật trung thành với người, ăn thịt nó rất tội nghiệp. Lại có người bảo mình thờ Ông

(tức Quan Công)

nên nếu ăn thịt chó sẽ bị thánh vật. Có người thì từ chối vì một lẽ rất đơn giản: thịt chó có món lá mơ khó ăn, thêm nữa, người Nam bộ gọi lá mơ bằng cái tên rất gợi về mùi vị chẳng thơm tho gì! Thế nhưng theo thời gian, nhiều người đã "thử" và đến nay thì không ít người Nam bộ Biên Hòa tỏ ra khoái cái món "cờ tây" này; nhiều người khác đã trở thành chủ quán thịt chó đông khách!

Thịt chó ngày nay đã được chế biến, sáng tạo cho hợp khẩu vị nhiều hạng khách khác nhau. Nhưng dù thế nào đi nữa thì đĩa thịt luộc mà từng miếng thịt được bàn tay thiện nghệ của ông chủ xắt từng lát mỏng vừa miệng, hay miếng dồi thơm ngậy, dĩa nhựa mận vừa mềm vừa quánh, bát sáo măng váng mỡ... vẫn cứ là “cơ bản” và không thể thiếu. Khu vực trung tâm mở rộng của Biên Hòa ngày nay, nói đến thịt chó, người ta dễ nhớ đến những cái tên quen thuộc. Trước kia thì có thịt chó chợ Tân Mai, thịt cầy Hai Thông trên đường Đồng Khởi. Sau này là Ba Miền, Cây Rơm cũng ở khu vực ấy, rồi Năm Mạnh ở trong chợ Phúc Hải…  Những buổi chiều, mỗi quán với thực khách quen thuộc, hợp “gu” của mình ngồi kín những dãy bàn… Ai bảo ăn thịt chó không phải là một cái thú?

Bánh mì bì

Thứ Năm, 13/10/2011 16:01

Ngày tôi 5, 7 tuổi, nhà tôi nghèo lắm. Mỗi ngày má hay mua tép, những con tép nhỏ thôi, má lựa một mớ để nấu canh, một mớ đem kho mặn với cà chua hoặc khóm để làm “bổi” ăn cho đỡ hao.

Một lần nọ, tôi thấy thằng bé hàng xóm trạc tuổi tôi, cầm chén cơm trên tay, trong chén cơm có miếng thịt kho thật lớn. Thấy tôi đứng nhìn, nó cầm cái muỗng xắn miếng thịt ra làm đôi rồi đưa vào miệng tôi.


 

Nó cố ý nhường phần mỡ và da heo cho tôi vì nó chỉ thích ăn thịt nạc thôi. Nhưng nó không ngờ rằng tôi thì ngược lại, tôi thích ăn da với mỡ. Ăn được miếng ngon, tôi chạy về khoe với ba:
- Ba ơi! Thằng Sơn cho con ăn thịt heo ngon quá! Mai mốt ba làm ông bán thịt heo đi ba. Ba mà bán thịt, nhà mình có thịt ăn khỏi tốn tiền mua. Con ăn thịt “đã” luôn! 
 

Ba vuốt đầu tôi và nói:
- Đừng đi ăn “chực” như vậy xấu lắm con gái!

Hồi tôi mới học lớp 5 (bây giờ là lớp 1) trường làng, ba má tôi nghèo lắm. Tôi là con gái mà cứ phải mặc quần xà lỏn đi học, không có được cái quần dài như bao bạn bè khác. Quần của tôi mặc được má cắt ra từ hai ống quần  đen cũ của má.


Mỗi sáng, má tôi phát cho mấy chị em tôi mỗi đứa một chén cháo trắng ăn với nước mắm rồi đến trường học. Tan trường, chị em tôi chạy về nhà ăn cơm chứ má không phát tiền ăn quà như các bạn.


Mỗi lần đến giờ chơi, các bạn chạy ào ra góc sân, nơi xe bán bánh mì. Bạn bè tôi tranh giành, chen lấn vào để mua bánh. Cậu Tám bán bánh mì cầm ổ bánh vừa ốm vừa dài, cắt từng lát mỏng xéo nên nhìn miếng bánh tưởng nhiều lắm mà thật ra rất ít bánh.


Cậu để vào miếng bánh một lát dưa leo nhỏ, trét lên một chút nước xốt cá mòi, rắc ít muối tiêu, rồi gói bánh trong miếng giấy báo nhỏ trao cho bạn tôi. Tôi đứng nhìn bạn ăn, ngửi mùi thơm của bánh, thấy thèm lắm, thèm đến chảy nước miếng nhưng tôi không có tiền mua. Tôi muốn xin tiền má nhưng tôi hiểu là má không có tiền.


Ngày nào cũng như ngày nấy, đến giờ chơi là tôi cứ ra đứng dựa gốc bàng để nhìn vào xe bánh mì. Nhìn những lát thịt thật mỏng có màu đo đỏ, hộp cá mòi có nước xốt đặc sánh, tô bì với những cọng da heo thật mịn, chén mỡ hành, hũ nước mắm pha tỏi ớt thơm lừng.


Mỗi lần cậu Tám dùng cái muỗng giống như cái gáo làm bằng trái mù u nhỏ xíu để chan nước mắm vào bánh mì, tôi ước ao mãi, giá như… Giá như tôi được một miếng bánh mì bì chan với nước mắm pha tỏi ớt thì thích lắm.


Tôi ao ước sau này lớn lên, đi làm có tiền, tôi sẽ mua thật nhiều bánh mì bì chan nước mắm pha tỏi ớt. Tôi sẽ ăn bánh mì bì thay cơm, ăn cho bõ những ngày thèm khát thiếu ăn.


Ngày nào đến giờ ra chơi, tôi cũng đứng nhìn xe bánh mì. Tình cờ một hôm, ba tôi có việc đi ngang trường trong giờ ra chơi. Đang đứng dưới gốc cây bàng nhìn xe bánh mì vừa thấy ba, tôi mừng rỡ gọi to: "Ba ơi!"


Ba tôi ghé vào và hôm ấy, tôi được ba mua cho một miếng bánh mì thật to, thật ngon. Bánh mì có dưa leo, có bì, có mỡ hành, có nước mắm. Tôi ăn một bữa bánh mì ngon lành.


Buổi trưa,  tôi đi học về, đang ngồi dệt vải, ba tôi gọi vào và dặn:


- Từ nay, đến giờ chơi, con đừng đứng nhìn người ta ăn như thế, xấu lắm nha con gái!


Mấy năm sau, ra tỉnh học, tôi đi học xa nhà mang theo nhiều nỗi nhớ, nhớ ba má, anh chị em, nhớ bạn bè và nhớ cả hương vị bánh mì bì.


Ở thành phố, người ta bán nhiều loại bánh mì cao cấp hơn, sang trọng hơn như bánh mì chả lụa, jambon, thịt nguội, xúc xích... cũng thơm ngon lắm nhưng tôi vẫn thích ăn bánh mì bì chan nước mắm hơn. Mỗi lần ăn bánh mì bì, tôi lại nhớ ba, nhớ cảnh thiếu thốn ở quê nghèo.


Hai năm nay, từ ngày có dịch heo tai xanh, người ta hạn chế không làm bì nữa. Hôm 25 tháng chạp, nhân ngày cúng mãn tang ba tôi, em gái tôi làm món bì bún để cúng ba.


Mùi thơm của bì, của nước mắm pha tỏi ớt làm tôi nhớ ba quá. Tôi nhớ cái mơ ước sẽ ăn bánh mì bì trừ cơm. Tôi nhớ ba tôi, nhớ những kỷ niệm một thời thơ ấu gian nan, nghèo khó nhưng vẫn còn đầy đủ ba má...

Lâu lắm rồi,vị hấp dẫn của món bánh mì bì trước cổng trường thời trung học cứ mãi vấn vương như cổ tích, mà kể ra đám học trò chúng tôi ngày nào ai cũng không quên bởi hương vị ấy đã in đậm vào trí nhớ vị bì heo trộn thính thơm lừng,quyện với mùi nước mắm ớt pha mặn vừa,chua ngọt khỏi chê hợp khẩu vị cực kỳ hấp dẫn.Trời ơi, cứ nghĩ đến là cảm giác nôn nao thèm thuồng vẫn nguyên vẹn ùa về trong tôi mới chết!!!Hờ hờ, bạn có nhớ xe bánh mì bì trước cổng trường ngày xưa hay không?Cách nay hơn bốn mươi năm còn gi???.Nếu so với xe bánh mì của Cô Hường ( Kim Hoa) bạn của chúng ta bây giờ thì không phong phú bằng, xe chỉ bán duy nhất món bánh mì bì,không có món nào khác,cũng một thau bì ngất ngưởng thơm phức, một hũ nước mắm pha  màu ớt đỏ au  chỉ nhìn thôi đã bắt thèm và một thúng bánh mì sẵn sàng phục vụ đám học trò chen nhau mua vào mỗi buổi sáng.

Người bán (Dì Ba) lúc nào cũng vui vẻ,nhiệt tình chiều các “ Thượng đế” đang chí chóe,ồn ào đợi đến lượt,thật trật tự…đứa thì mua một ổ,nửa ổ hoặc hơn cũng đều được chiều tất tật,thoải mái tin tưởng mà thưởng thức món ngon hợp túi tiền,giải quyết cơn đói buổi sáng,chắc bụng cho mấy tiếng trong lớp học mới là chuyện đáng bàn! E hèm, tôi theo thói quen nên luôn quan sát dì Ba  tay cầm ổ bánh mì nóng dòn rụm, nhanh chóng dùng con dao bén ngót rạch ngang thân ổ,tiếp đó là nhét vào thật đều một gắp  bì heo,bỏ thêm dưa chua làm bằng củ cải,cà rốt hoặc đu đủ,chan một muỗng nước mắm…rồi gói lại đưa cho khách,đơn giản như thế nhưng là cả một nghệ thuật khi có hôm rảnh rỗi,tôi lân la giúp dì Ba xẻ bánh mì chuẩn bị trước cho kịp,tôi được dì Ba tâm sự bí quyết làm bì heo,ngày đó đã có bì khô,dì mua về rửa sạch,ngâm muối có chút phèn cho trắng để khử bớt mùi,hấp chín! Tuy nhiên công đoạn làm thịt heo ba rọi trộn vào cũng công phu không kém,thịt phải tươi,thơm ngon…luộc kỹ cắt sợi bằng nửa đầu đũa,dài 2cm-3cm,thính làm từ loại gạo ngon rang đủ độ vàng để dậy mùi khi xay mịn,tất cả trộn đều,nêm nếm vừa ăn là xong.

Diễn tả thì ngắn gọn là thế nhưng theo tôi lúc ấy thật phức tạp,khó quá chừng.Rồi phải làm dưa chua có độ vừa vừa mặn mặn,chua chua,bào đu đủ, xắt chỉ củ cải,cà rốt đều tăm tắp,cứ nhìn đã đủ quyến rũ.Ác liệt nhất là món nước mắm,tuyệt tác ẩm thực nhớ mãi không quên vị thơm lừng này hòa quyện với vị cay của ớt,màu ớt đỏ với màu vàng nâu của nước mắm khó quên day dứt trong tôi mãi đến bây giờ.Bí quyết này là tài hoa của Dì Ba,bao nhiêu đứa học trò chúng tôi ngày ấy chắc chắn đều có thưởng thức một lần, thậm chí nhiều lần món bánh mì bì nhớ mãi không quên, hay chỉ bởi do tôi luôn vọng tưởng, lúc nào cũng cường điệu hóa lên so với thực tế bạn nhỉ?À,à,dứt khoát với tôi là thực tế, không quá lên chút nào đâu! Sau bao nhiêu năm, món bánh mì bì dường như lạc lõng so với các loại bánh mì khác rồi mất hút,có lần tôi cũng cố dành thời gian làm món bì hệt những điều Dì Ba hướng dẫn,mua bánh mì về và nhét vào đó thật nhiều bì,hờ hờ ăn cũng ngon nhưng sao cứ rưng rưng nỗi nhớ một thời đi học đã qua, nhớ bạn bè mà thương lắm ngày xưa một thời để nhớ!

Nghĩ đến đây,tôi lại thấy cay cay mi mắt,mới đó mà sao nhanh như gió thoảng,quá hơn nửa đời người chạm ngưỡng hoàng hôn,bạn bè gặp lại,vẫn trẻ như thủa nào,bao ước mơ đã dừng chưa? một kiếp đời lận đận lo toan hay thênh thang rồi cũng đến thế này,nhớ và nhớ mênh mang như chùm hoa phượng vỹ mùa hè nào cũng đỏ rực để tiếng ve gọi hè thêm rộn rã.Món bánh mì bì cứ làm tôi nhớ hoài,có lúc khó khăn trong đời,tôi suýt muốn chọn làm nghề này kiếm sống dù so với Dì Ba, khả năng chế biến của tôi thua xa,bán chắc chắn sẽ ế phải mang về ăn “khùng” luôn,Hi hi, đùa cho vui,chứ tôi không có duyên bán bánh mì bì làm thành thương hiệu cỡ Dì Ba cho tôi nhớ hoài, hay được như Bánh mì Cô Hường hiện nay bạn ạ.Ngày xưa đi học của chúng ta đã thành một thời để nhớ xa lắc nhưng nỗi nhớ về các món ăn nơi cổng trường cứ làm lòng tôi chùng xuống,Thời của ước mơ nào cũng đẹp và vị hấp dẫn của bánh mì bì chưa bao giờ tôi quên đã có lúc tìm  trong giấc mộng quay về thời áo trắng thiên đường mà tôi luôn nhớ mãi,nhớ hoài!

Bánh mì – món ăn của người nhàn tản không phân biệt giàu - nghèo

Hẳn rất nhiều người Việt Nam ở hải ngoại đều ít nhiều gắn bó với… ổ bánh mì. Có người tâm sự, vẫn không làm sao quên được cái thuở học trò buổi trưa trời mưa trốn học, hoặc được về sớm liền chạy bay vào rạp hát với ổ bánh mì thịt trong giỏ. Vừa ăn bánh mì, vừa xem phim, một “thú” vui không gì sánh được. Ăn hết ổ bánh mì rồi mà trong lưỡi vẫn còn cái vị mằn mặn của nước tương cùng với hương thơm của miếng chả, của miếng bánh mì…

Thời đó, giới học sinh rất thích bánh mì Ba Lẹ ở đường Nguyễn Thiện Thuật, quận Ba; sang hơn thì dùng bánh mì Hương Lan sang trọng trước Bưu Điện Sài Gòn. Bánh mì với nhân chả xắt cọng nhỏ, xịt một tí nước tương và muối tiêu của người Hoa bán tại đường Nguyễn Trãi, Chợ Lớn cũng ngon không kém.

Sau này có lần về thăm nhà, chúng tôi đứng tần ngần thật lâu để nhìn dòng người cỡi xe gắn máy đậu sát lề đường Công Lý cũ, gần góc đường Phan Đình Phùng, quận Ba, nối đuôi nhau chờ mua một ổ bánh mì cá mòi hoặc bánh mì bì chỉ có mấy ngàn đồng bạc Việt Nam (khoảng 20 xu).

Với giới lao động nghèo, người đạp xích lô, lái xe gắn máy ôm, bánh mì thịt là món ăn chính của họ. Bất kể sáng sớm, hay trưa, hoặc chiều ngồi đợi khách, họ mua một ổ bánh mì kẹp thịt ngồi trên lề đường nhơi nhơi để nghe vị ngọt của ổ bánh mì, “đã” cái cồn cào của bao tử.

Những người bạn khác của tôi thường tâm sự về nỗi nhớ ổ bánh mì nóng dòn trét bơ Pháp rồi rắc một chút đường cát, cho vào miệng nhai ngấu nghiến mới ngon làm sao. Nhưng đó là thời son trẻ, còn bây giờ tuổi lớn, không được ăn đường lại cữ cả bơ nên cái thú đó đã nằm im từ khá lâu rồi. Cũng có người vào mùa lạnh da diết thèm ăn bánh mì nóng dòn chấm nước tương có mấy khoanh ớt cay cay.

Dân Việt ở Nam California chuộng loại bánh mì nào?

Thử làm một cuộc thăm dò tại vùng Nam California có đông người Việt, chúng tôi nhận được ý kiến của một số đọc giả nhận định về bánh mì – món ăn quen thuộc của mình ở “mọi lúc, mọi nơi”. Theo dược sĩ Mai T. Nguyễn, ngụ ở thành phố Westminster, Nam California, Top Baguette là hiệu bánh “khoái khẩu” của cô vì “bánh dòn, ăn rất ngon”.

Trong khi đó, theo bà Đặng Thị Cần, ở thành phố La Mirada, Nam California, bánh mì Cali ngon nhất mà lại rẻ đối với bà. Một bạn đọc đồng điệu của bà Đặng Thị Cần là bà Huỳnh Thị Ngọc, ở thành phố Westminster, Nam California cũng cho rằng bánh mì thịt Cali là “số một” nhờ xốt mayonnaise ngon và thơm.

Bà Ngọc nói: “Chỉ cần một ổ bánh mì không với lọ xốt mayonnaise là đủ… phê rồi”. Tuy nhiên, bà cũng thích cả bánh mì baguette Saigon vì để qua đêm vẫn ngon như mới ra lò, trong khi một vài loại bánh mì khác thì “biến chất”: cứng như đá, chọi lỗ đầu như chơi.

Nhớ vị bánh canh bột gạo quê nhà

Bao nhiêu mùa đông xa nhà, được thưởng thức nhiều

món ăn chơi

ngày lạnh nhưng tôi vẫn nhớ đến cháy lòng những tô

bánh canh b

t g

o

nóng hổi, thơm ngon của mẹ nơi quê nhà.

Bánh canh bột gạo là món ăn dân dã của người dân miền Trung. Món ăn với sợi bánh mềm, dễ tiêu hóa, có thể ăn nhiều mà không sợ bị đầy bụng, những ngày trời lạnh lại rất ấm bụng và ngon miệng nên được nhiều người ưa thích.



Mẹ tôi bảo muốn làm

bánh canh bột gạo

ngon thì khâu chọn gạo rất quan trọng. Phải chọn loại gạo ngon từ vụ mùa trước để khi chế biến, sợi bánh canh sẽ không bị gãy nát và bở. Gạo phải vo với nước lã nhiều lần cho đến khi nước vo gạo trong vắt, đem gạo đi xay thành bột mịn. Bí quyết này giúp sợi bánh canh không bị đục màu, có thể để lâu mà không bị thiu. Cho bột vào túi vải, treo lên cho chảy hết nước rồi nhồi cho đến khi bột dẻo, kết thành một khối thống nhất. Dàn bột thành những miếng thật mỏng rồi xắt thành từng sợi dài, mảnh vừa ăn. Luộc chín bột, vớt ra cho vào thau nước sôi để nguội cho sợi bánh canh không bị dính vào nhau, sau đó vớt ra rổ để ráo nước.

Người dân miền Trung quê tôi thường nấu bánh canh bột gạo với

tôm đất

, ghẹ hoặc

cua biển

nhưng ngon và ngọt nước nhất là khi nấu với

cá tràu

(cá lóc) đồng. Vào mùa mưa,

cá tràu

đồng rất nhiều, thịt chắc, thơm ngon. Có thể dùng lờ để bắt một cách dễ dàng. Cá làm sạch, luộc chín, gỡ lấy phần thịt, ướp các loại gia vị muối, nước mắm, đường, hành, tiêu, nghệ… cho thấm rồi om với dầu phụng, thêm ít khóm, cà chua xắt lát. Xương cá giã nhỏ, lọc lấy nước nấu làm nước dùng. Cách nấu tuy đơn giản vậy nhưng mẹ bảo phải thật khéo léo và tinh tế thì món ăn mới thơm ngon, đậm đà và không còn mùi tanh của cá.



Nhớ hồi nhỏ tôi có đọc một truyện ngắn có tên “ Những khúc bánh mì của anh Tấu”. Trong đó, tác giả là một cậu học trò rất mê ăn bánh mì của người bán rong trước cửa trường tên là Tấu.
Bánh được ủ trong một cái giỏ, luôn nóng, kẹp miếng chả bò rất thơm ngon ở giữa.
Cậu bé ăn bánh mìanh Tấu hoài mà không biết ngán, nhất là khi mùa đông lạnh có trong tayổ bánh mì nóng. Cho đến khi anh Tấu bị ho lao, vừa bán vừa ho sù sụ trong gió lạnh, học trò trường đó tẩy chay, không ai dám mua bánh mì của anh nữa. Trừ cậu bé trong truyện bất chấp căn bệnh của anh, tiếp tụcgặm bánh mì anh Tấu.
Tôi còn nhớ câu anh Tấu hỏi cậu bé: “ Bây giờ chắccậu không dám ăn bánh mì của tôi nữa phải không?”.
Cuối cùng anh Tấu cũng nghỉ bán vì bệnh nặng thêm, để lại cậu bé một nỗi tiếc nhớ lớn.
Ai cũng có một người bán hàng lý tưởng của mình trước cổng trường. Tôi cũng có một anh Tấu hồi mới lớn trong những buổi sáng đi học.
Con hẻm trên đuờng Hai Bà Trưng gần Khách sạn Quê Hương có hai ông cùng đi bán bánh mì với nhau.
Thật ra, chỉ có một ông bán và ông kia làm gì không rõ, lúc nào cũng đứng cạnh bên. Ông bán bánh mì có đặc điểm là hút thuốc bằng lỗ mủi. Lúc nào cũng thấy ông nhét một điếu thuốc là vào lỗ mủi bên phải và ra khói bằng mủi bên trái một cách kỳ cục.
Vừa hút, tay ông thoăn thoắt lấy bánh mì trong rổ ra, dùng dao xẻ một rãnh ở giữa, nhét cục chả (giò) lụa vào. Đặc biệt, bánh mì ông luôn giòn, xốp và thơm, cục chả lụa luôn luôn xắt miếng to.
Cả miếng dưa leo cũng to, miếng ớt đi theo cũng to. Chả thơm, dưa tươi, thêm tí muối tiêu nữa nên rất ngon, cắn một cái là ngập răng. Bánh của ông luôn luôn đắt, hết trước chín giờ sáng.
Thỉnh thoảng, ông dùng con dao cắt xoẹt một miếng chả, rất trìu mến đưa cho ông phụ bán đứng chầu rìa kia :
“Này, ăn đi!”.Ông kia ngay lập tức bỏ vào mồm, nhai ngon lành.
Lần đầu đến mua bánh mì, tôi trố mắt nhìn kiểu hút thuốc kỳ cục và miếng chả “tình thương mếnthương” giữa hai ông. Riết rồi cũng quen. Và những người khách khác chẳng thấy ai thắc mắc gì.
Đến một lúc sau đó vài năm, hai ông cũng biếnmất, không để lại dấu vết. Con hẻm vẫn đông, có thêm mấy cái ghế cóc bán cà hê vỉa hè và khách đành đi ăn sáng ở chỗ khác.
Có một bài viết nói về chuyện người Nhật dulịch Víêt Nam. Tổng kết về sở thích ăn uống của họ ở đây, tác giả cho biết món mà họ mê nhất không phải là phở mà là …bánh mì kẹp thịt.
Lý do là nó thơm ngon và có hương vị khác lạ với bất kỳ loại thực phẩm tương tự trên thế giới. Hai nữa là tiện dụng. Và chắc là lý do thứ nhất quan trọng hơn.
Điều này không khiến tôi ngạc nhiên vì có dịp đi đây đó, tôi thấy điều đó là sự thực và không hiều vì sao kiểu bánh mì của mình mấy nước khác không chơi. Bánh mì của họ có thể rất mềm, hoặc rất cứng, đen hoặc trắng, nóng hoặc nguội ngắt nhưng vừa giòn , xốp, có cái cạnh bánh giòn thơm, hơi cháy vàng thì chưa thấy và ai có thấy đuợc xin chỉ giáo.
Loại bánh mì giòn ấy, vẫn ngon lành từ những năm bao cấp nghèo khổ, dù ăn không kẹp cái gì ở giữa vẫn ngon vì dù là bánh mì lạt nhưng vẫn hơi ngọt, hơi mặn. Và trong suốt tuổi thơ của rất nhiều người Sài Gòn, tôi tin nó có vị trí đáng nể.
Sáng không có nhiều tiền, mua ổ bánh mì lúc nào cũng rẻ rề. Lấy hộp sữa đặc Ông Thọ chế vào dĩa và bẻ tứng miếng bánh để quết đưa vào mồm. Sữa ngọt và béo, bánh mì giòn, còn muốn gì nữa. Hôm nào không tất bật đến lớp, đi làm thì pha một ly sữa nóng, bỏ tí cà phê theo kiểu pha pạc-xỉu. Lại bẻ bánh mì chấm sữa.

Món này hương vị khác món trước. Bánh mì chấm sữa nóng hương vị toả ra thơm, hơi chuanhẹ, dễ nuốt hơn và ăn xong cũng no nê.
Bánh mì đi với người nghèo, nhất là con nítnhà nghèo. Hôm nào không kịp ăn ở nhà thì mua bánh mì bì.
Chẳng có gì bổ béo ở thứ bánh này nhưng ngon và có hương vị riêng. Bì (da) heo trộn thính thơm phức, ăn dai dai.
Nước mắm pha loãng có thêm tỏi ớt chan vào thấm ổ bánh mì. Hôm nào có tiền thì cho phối hợp ba thứ: bánh mì, fromage Đầu bò và chuối già.
Ăn kiểu này thì cắn một miếng bánh, đớp mộtmiếng chuối và nhai một miếng fromage. Ngon lắm và béo ngậy.


Tuy nhiên,bây giờ không thấy ai ăn kiểu này vì dù tôi biết kiểu ăn kết hợp fromage với bánh mì đã có từ thời Nam kỳ là thuộc địa Tây.
Còn bánh mì bì nghe đâu còn bán mấy cổng trường tiểu học chứ ngoài đuờng không có mấy. Cách nay một năm, khi vào một xóm làm đồ gốm ở Thủ Dầu Một, Bình Dương, khi lỡ bữa tôi được anh bạn ở đó muacho một ổ bánh mì. Giá chỉ ba ngàn đồng, ăn sao thấy ngon và nhớ tuổi thơ quá chừng.
Nhưng bánh mì vẫn chơi đuợc với người giàu.

Tiệm bánh mì Như Lan ở Hàm Nghi xuất thân từ bán bánh mì, bây giờ rất lừng lẫy với đủ món ăn chơi như đùi gà rán, bánh bao, xôi lá sen, xôi khúc, xúc xích…Nhưng ai cũng gọi cái tiệm to đùng ấy là Bánh mì Như Lan, theo kiểu “ ra Bánh mì Như Lan mua cái bánh bao”.
Và bất cứ tiệm ăn sang trọng nào của Sài Gòn đều có bánh mì, từ Givral có người Anh trầm lặng Graham Green ngồi cho đến Brodard, từ Paris Deli đến CIAO, từ Phượng Các đến Sài Gòn Phố. Bánhmì ăn với trứng ốp la, om lết, bò kho. Cái đĩa sứ Minh Long trắng bong,trứng cũng trắng, lòng đỏ vàng. Ăn xong thấy khô khan cả họng, chiêu vội miếng cà phê đá.
Tôi không cảm thấy ngon. Bánh mì với đặc tính xốp, thẩm thấu nước nên ngon khi kẹp bánh mì thịt, pa tê hay thậm chí kẹp miếng ốpla ở giữa vẫn ngon hơn khi ăn kiểu Tây, bánh ra bánh và thịt ra thịt.

Và bánh mì kẹp thịt với giá năm, bảy ngàn đồng đó chính là loại bánh mì mà người Nhật ba lô, trong đó có dăm người bạn của tôi, cảm thấymê mẩn khi ngồi gặm trong một cái qúan bình dân nhưng sạch sẽ ở khu phốTây Phạm Ngũ Lão, cắm đầu vào những cuốn sách dày cộp hay Lonely Planet
Và hotdog, hamburger ơi, người đến làm chi để rồi quay lui khi đất nước này đã có một người khổng lồ chễm chệ, từ hang cùng ngõ hẻm cho đếnquán hàng sang trọng, có khả năng đáp ứng khẩu vị bao người với lắm thứnhân bên trong như vậy.
Ổ bánh mì thân thương vàng ruộm và thơm phức, dù có đôi khi phải ngoảnh mặt làm ngơ khi nhìn bàn tay người bán hàng vừa nhét thịt vào ổ bánh vừa cầm tiền thối cho mình, nhưng vẫn dễ chịu làm sao khi đến lớp hay cơ quan, mở cặp ra đã thấy bát ngát vùng khứu giác.
Và lúc đó, miếng ớt cũng thơm khi đi cùng patê hay thịt quay, thịtxá xíu và vài cọng ngò. Đến lúc này, vị giác đã bị bánh mì kẹp thịt đánh gục để bắt đầu một ngày làm việc hăng say cùng với ly cà phê đá toả hương.

Gã vốn dân bách khoa - cơ khí nhưng nghề kiếm ăn lại liên quan đến những thứ gạch đá cát vôi. Từ thầu khoán lặt vặt, gã cũng dựng được cái công ty. Công nghiệp rạng danh một cõi. Ấy thế đéo nào búp phát gã thành nhà thơ. Hehe đcm...



Nhà thơ là cái thói thường để gọi những người làm thơ. Tôi thích gọi họ là thi sĩ hơn. Nhưng thời nay, chả mấy thơ hay nên lâu lắm tôi không gọi ai là thi sĩ mà gọi chung họ là...thợ thơ. Chứ nếu cứ gọi như thói thường là nhà thơ thì tôi cũng không thích. Tôi thích họ to hơn, vĩ đại hơn, bề thế hơn. Tôi sẽ gọi họ là biệt thự thơ, trang trại thơ, rì - sọt thơ. Còn nếu họ lìu tìu quá, thì tôi gọi họ là lều thơ, chòi thơ hay ban-công thơ chả hạn.



Gã vào làng thơ cũng buồn cười. Đang yên đang lành mần ăn thì bọp phát ông Pa già ở quê gửi cho cái thư, bên trong nhõn mẩu giấy cắt ra từ báo, rao vặt một cuộc thi thơ. Ông Pa gã dứt khoát, anh mần gì thì mần nhưng phải mần cho tôi mở mặt. Cha của một thằng lắm chữ bao giờ cũng thích hơn bố của thằng lắm tiền nhưng suốt ngày lấm lem vôi vữa.



Chiều ông Pa già, gã gửi đi dăm bài, ai ngờ thắng giải. Mà là giải to, to lắm. To đến độ ở quê ông Pa gã mổ lợn đãi đằng cả tuần giời. Còn ở phố, gã say sưa mất nguyên cả tháng.



Sau giải đó công nghiệp đi tong một cơ số nhưng bù lại gã được người ta để ý hơn. Tất nhiên là trong giới văn nô với nhau, thêm một ít bạn bè, mần ăn, cánh hẩu. Chứ độc giả, biết gã là đếch ai.



Một hôm đang tần ngần đứng bên đống xi măng toán tính khối lượng xem có ăn ra chút tiền bù cho vụ khao giải thì gã nhận được tin động giời, của một ông giời chủ tịch cái hội văn nô An-nam đề nghị cho gã vào hội, đặc cách mà không cần xét. Chả hiểu tâm trạng gã khi đó thế nào, nhưng theo nhời vợ gã thuật lại thì đũng quần gã ướt đầm, không hiểu vì sung sướng hay là kinh hãi.



Gã hoang mang lắm. Và như thấu hiểu được nội tình, ông chủ tịch ướm luôn cho một cái chức trưởng đại diện cho hội nơi mà gã đang mần ăn kiếm cắn. Gã bấm tay rồi lại bấm máy tính. Rồi gật đầu. Một tay cầm bút, một tay cầm bay múa tít mù, ra ối thơ ấy chứ. Thôi thì danh lợi đủ đàng.



Thế đéo nào đời không như phép toán. Từ khi dính vào cái nghiệp văn nghệ gã quên tiệt cái nghiệp dựng xây. Nói chính xác hơn là gã chả màng đến mần ăn cắn bú mà tối ngày thơ. Rồi diệu. Rồi dập dìu. Tuyền tài tử văn nhân khắp mọi nơi xó xỉnh. Vợ gã, người đàn bà mang vóc dáng con cá rô đực bất lực rủa đêm rủa ngày cái tay chủ tịch bố láo thì thào cái đéo gì mà để chồng thị nên cơn nông nỗi. Thì rõ, từ một doanh nhân mần thầu khoán kiếm tiền mau lẹ, giờ cứ vật vờ như bóng ma, mồm lảm nhảm, tay thì như bắt quyết.



Gã dẹp công ty, quyết kiếm ăn bằng chữ nghĩa. / anh chạy tí việc đã đcm.../



Rồi đòm phát, gã giã từ phương nam nắng ấm ra với thủ đô với mớ ấn triện lủng lẳng treo trên cổ cho chức danh mới, giám cái đéo gì đốc trung tâm văn hóa hội văn nô tít mạn Tây Hồ. Đây là một hội sở bề thế, gần với chỗ ông Phùng Quán câu cá trộm mần thơ chui thủa xưa. Tay chủ tịch bố trí cho gã một xe công vụ, biển xanh lè, không lái. Từ ngày đi con xe đó, gã từ thi sĩ biến mẹ thành... thợ cơ khí hố hố.



Tôi hay mò lên đó diệu đêm cùng gã. Ngắm cái cơ ngơi bề thế mà tiếc rẻ. Bởi nó chỉ loanh quanh mỗi cái việc lo ăn ngủ cho lũ văn nô mỗi khi có dịp tụ bạ hay họp hành, còn thì để không, từ hội trường, nhà ăn cho đến phòng nghỉ. Có đận diệu say quá, gã cho tôi một phòng nghỉ tạm, tỉnh diệu thì về. Tôi say là thế mà vào đó thì tỉnh hẳn bởi nhìn vách thấy gián, nhìn màn thấy muỗi, nhìn trần thấy thạch sùng. Gần sáng thì mới thiếp đi được một tý nhưng đôi móng chân cái của tôi thì cụt ngủn và tất thì thủng hai lỗ to. Hoảng hồn tôi thuật lại với gã. Gã khành khạch ' con chuột nó ngứa răng chứ có cái đéo gì mà chú phải hoắng'. Thật tôi cũng đến vái ba dái cho cái chốn này.



Lâu tôi không hay mò lên, đận trước tết ghé đá nốt chai Mao Trạch Đông biếu Hồ Chí Minh còn sót lại, để nói lời chào năm cũ. Tôi thấy mọi thứ tinh tươm, người ra ra vào vào lắt nhắt cả ngày, có ăn uống mới lại hát karaoke. Gã bảo, tao liên doanh liên kết tăng nguồn thu và chống kiến gián chuột cho hội sở. Đối tác là một em xinh tươi, yêu thơ nhưng lại mần cái nghề không mấy nhã là...bán thịt chó. Tôi bảo có sao đéo đâu, miễn ăn nên làm ra, hợp tác thành công là được rồi. Tôi chỉ liu ý gã là lịch sử xứ sở này có một ông nhà thơ mần kinh tế khiến quốc dân đổ đốn. Chả may nó có vận vào gã thì đừng bảo lịch sử sao lại...lặp lại.



Ấy thế đcm mồm mẹ mẻ nói không sứt. Cô nàng bán thịt chó yêu thơ kia sau 5 tháng kết hợp với gã mần kinh tài thì nợ đầm nợ đìa. Chả hiểu gã thỏa thuận gì với cô nàng hay cô nàng nghĩ mở hàng phục vụ văn nhân thì hốt bạc mà quán xá bỗng chốc biến thành chùa Bà Đanh. Trước khi bỏ của chạy lấy người cũng kịp thời quẳng lại cho gã 5 tháng tiền thuê mặt bằng cùng một mớ hóa đơn điện nước. Gay go cho gã là cô nàng tuy đã chạy lấy người nhưng của nả vẫn để nguyên xi tại chỗ. Báo hại gã phải ra thông báo thu hồi nợ lẫn dồn kho bàn ghế nồi niêu niêm phong để đảm bảo cho cái mặt bằng kia văn nhân tao nhã mà vẫn bặt bóng chim tăm cá. Đau đầu hơn cả là thi thoảng gã phải tiếp những vị khách lạ hoắc lạ hơ đến chỉ trỏ đòi lấy lại cơ ngơi, mà theo họ nói là cô nàng kia rao bán. Gã phải làm cái việc trình bày rồi lạy bố người ta thì đám kia mới hiểu ra là họ tí nữa cũng dính quả lừa nặng ký.



Những tưởng mọi nhẽ cứ thế trôi. Thì một ngày cô nàng kia dẫn một lũ đầu trâu dái ngựa đến đòi của nả. Gã khiếp đen lúng búng mà rằng thanh toán hết công nợ rồi thì biến đâu thì biến. Hố hố, cô nàng giở hợp đồng, luật lá với gã rồi phán ' cháo húp quanh năm, công nợ trả dần'. Việc ấy diễn tiến theo thời gian, đều như gái tơ đến tháng.



Gã gọi tôi, mày giúp anh. Tôi xem mớ khế ước lẫn văn tự mà phải cố nhịn cười kẻo phụt mẹ ra hết rắm. Tôi hỏi gã, thịt chóa chén thường xuyên không. Gã không hiểu ý tôi, bảo thi thoảng. Tôi phải trắng phớ ra rằng, đã ấm chén bét nhè chè thiu chưa. Gã vẫn không hiểu. Mãi đến khi đéo chịu được cái ngu  hay giả vờ ngu của gã, tôi xổ toẹt, đã đớp thịt người chưa. Gã rú lên, có thằng nào chén xong thịt chóa mà không lấp ló nghĩ đến trôn. Huống hồ tao là thi sĩ. Ôi tôi cũng đến lạy hồn. Qủa là;



Mần thi sĩ nghĩa là giăng với gió


Mơ theo mây và tiu nghỉu...vì lồn.

Nếu Phùng Quán có “Tuổi thơ dữ dội”, Maxim Gorki có “thời thơ ấu” là quyển tiểu thuyết dài, đọc hấp dẫn thì Phương Nga chỉ với 1.200 chữ tả tuổi thơ của mình cũng dữ dội không kém các tác phẩm trên. Còn như tính tỷ lệ số chữ của truyện ngắn này với các tác phẩm lớn kia thì cái dữ dội hơn gấp nhiều lần. Ấy vậy mà tác giả khiêm tốn nói “hơi dữ dội” thôi (SOS)

Tôi không phải sinh đẻ ở Vĩnh Long, mà là dân tứ xứ (không phải tứ chiếng!), do ba tôi khi làm việc, thuyên chuyển gần như khắp miền Nam.  Chào đời ở Mỹ Tho, ăn thôi nôi ở Châu Đốc, tốt nghiệp mẫu giáo ở Gò Vấp,  học dở dang lớp nhì ở Cần Thơ, rồi dọn sang Vĩnh Long, nơi tôi nhận  là quê hương yêu dấu của mình tới ngày sang Mỹ.
      Ôi quá khứ như mới ngày nào.  Nhớ lúc tôi tập nói tiếng Đan Mạch, xém “đớp” miếng thịt cầy lúc ở Gò Vấp ( bài viết trên trang 71, không hiểu có bị virút “trù ếm” đục mất không?).  Nay xin phép tiếp nối dòng tâm sự lê thê của mình về thời gian sống ở Cần Thơ.  Xin chia sẻ hai chuyện “rùng rợn” mà tôi nhớ mãi đến giờ.  Đọc xong, xí xoá cho tôi, lối tả chân, hiện thực phủ phàng nầy nhé.
Bây giờ xin vào đề.  Từ Gò Vấp, chúng tôi dọn về Cần Thơ.  Thời chiến tranh, kiếm một căn nhà để mướn rất khó khăn.  Lúc đầu, chúng tôi ở Đàng Tiên khá xa phố chợ.  Nhà mướn rộng thênh thang, lại thêm căn gác lửng, mà anh em chúng tôi cho vàng, cũng không dám leo lên,  dù là ban ngày.  Nhà kế bên con sông cái- không còn nhớ tên- khi hết thức ăn, má tôi phái anh em tôi ra chờ  có ghe rao hàng chèo qua để mua.  Không hiểu bây giờ còn lối mua bán như xưa?  Anh em chúng tôi lúc đó rất thèm thịt vì ghe bán đa phần là cá (lòng tong, chốt, linh…), hoặc giả tép mòng, đôi khi bán  vài ba nải chuối.  Dễ đoán ra, anh em tôi hàng ngày càu nhàu với cá kho khô, tép mòng cháy mặn, canh là nước cơm chắt.  Bữa nào được má  ”chiêu đãi” một nồi chuối xiêm chưng với bột bán nước cốt dừa, rắc lên ít đậu phọng đâm nhuyễn, anh em tôi ngoan ngoãn hẳn, tạm  gác lại mấy lời than thân trách phận về nỗi “cá tép” triền miên.
     Lúc đầu cũng tạm ổn.  Anh em tôi chưa đến tuổi đi học.  Nhà chỉ có độc một chiếc xe đạp, ba tôi dùng để đi làm.  Năm sau là một vấn nạn.  Anh cả tôi vào lớp một, còn tôi, mẫu giáo.  Tính tới tính lui, gia đình phải dọn vô một cái chái dựng cạnh villa của thầy Ba Điệp.  Chỉ nhớ villa nầy xéo xéo với mặt sau của rạp xinê Huỳnh Lạc.  Thầy Ba Điệp có vẻ hiền lành, nhưng rất ít khi ở nhà, nghe nói thầy là thầu khoán ở Sài Gòn.  Trong khi đó, vợ của thầy là người tính toán khắc nghiệt.  Thời cuộc đẩy đưa, có villa tọa lạc trên mảnh đất ngót nghét cả mẩu tây, lại gần chợ, đúng  là gà đẻ trứng vàng,  bà cho cất thêm chái dọc chái ngang để cho mướn, hét giá tới trời xanh.  Than phiền thì bà thản nhiên trả lời, “Không chịu thì thôi, tui cho lính Mỹ mướn, lấy đô la xanh.”  Thế là  xong!
Phải công nhận, nhờ tận dụng “tấc đất, tấc vàng”, vô hình trung bà tạo một “xã hội” nho nhỏ chung quanh villa của mình.  Mặt tiền bên trái bà cho chú Tám mướn làm tiệm hớt tóc, bên phải là tiệm sửa xe đạp của gia đình bác Ba.  Sau tiệm hớt tóc, là cái nhà hộp quẹt của gia đình tôi.  Rồi đến cái nhà kho bà cũng không từ.  Vài tháng sau khi chúng tôi dọn tới, bà chỉnh đốn lại, nhà kho phút chốc thành trường tư thục dạy từ mẫu giáo tới lớp năm!  Từ dạo đó, bà bắt mọi người phải gọi bà là “Bà Hiệu Trưởng Điệp”!
     Năm đó tôi khoảng 5 tuổi, chưa phải đến trường.  Thời khoá biểu của tôi rất giản dị.  Sáng ngủ dậy, đánh răng rửa mặt, ăn điểm tâm xong là tôi dọt lẹ qua hàng xóm.  Trước nhất,  qua “trường”, ngồi chồm hổm ở ngạch cửa coi bà Hiệu Trưởng dạy hát để thị uy.  Kế, rủ đám nhóc con của Bác Ba sửa xe đạp qua tiệm hớt tóc, năn nỉ chú Tám ca vọng cổ.  Chú ấy có giọng hát”mùi” lắm!  Chú nói mình gốc Ấn, vậy mà chú ca “Tình Anh Bán Chiếu” “xem xem” với danh ca Út Trà Ôn. Khi vắng khách, chú vừa ca vừa liếc cây dao cạo trên sợi dây da bò treo trên vách.  Liếc vài cái, chú lại vuốt cây dao lên tay thử. Tụi tui phục sát đất vì thấy cây dao có vẻ bén ngót làm sao!  Thì thầm với nhau, “Chắc chú Tám có võ!” Duy chỉ có thằng Hai, đứa lớn nhứt trong đám, lúc nào cũng ra vẻ “song chì”, không phục.  Nó vênh mặt, ” Liếc dao thôi, khó khiết gì mà tụi bây rùm quá. Đúng là nhát hít.  Ổng chỉ vuốt nhẹ lên tay thôi. Tao cho tụi bây coi kiểu của tao.  Ngon hơn nhiều.”  Rình cho chú Tám đi nhà vệ sinh, nó chụp cây dao cạo của chú.  Liếc lia liếc lịa trên miếng dây da, xong nó vênh mặt lên, ” Coi tao biểu diễn nè.”  Nó kẹp cây dao giữa hai ngón tay rồi vuốt thật mạnh.  Phần hạ màn, xin mọi người suy diễn nhé.

     Có một hôm nhà Bác Ba sửa xe đạp luộc bắp ở giữa sân.  Chao ôi, mùa bắp thơm phức làm tôi thèm chảy nước miếng.  Cứ cà rà kế bên nồi bắp dù cho má tôi hét bắt về nhà, sợ tôi bị phỏng. Bác gái cười, nói cho tôi an tâm, “Về đi, chừng bắp chín, bác hú cho mầy qua ăn.”  Y lời, bác phát cho tôi một trái bắp cùng với đám con. Tụi tôi ngồi bẹp dưới đất cạp lia cạp lia.  Ôi sao trái bắp mau hết quá, tụi tôi còn nhai tuốt luôn cái cùi để hút hết chất ngọt lịm của trái bắp.  Hôm sau, con Út, khoảng ba tuổi, ngồi “ị” trên miếng giấy lót sẳn ngoài sân.  Tôi lúc đó đang ngồi coi Bà Hiệu Trưởng dạy tập thể dục.  Thấy nó “ị” ra vài hột bắp.  Trong lúc ngồi chờ người lớn “thanh toán” dùm cái “đếch”, nó bóc mấy hột bắp nầy bỏ vào miệng.  Cũng xin mọi người tự cho kết luận nhé

    Chúng tôi sống ở Cần Thơ tới năm 1968 mới dọn về Vĩnh Long.  Ngoài những kỷ niệm của một thời thơ ấu, vất vả, nghèo túng, tôi hầu như quên hết tên đường, phố, xã, ấp…Hôm nọ, đọc phản hồi của một người là sinh viên của đại học Cần Thơ cùng khoá với chị Phi Rom.  Trong đó có nói về ngôi chùa Khmer, không nhớ tên, nếu không lầm chùa nằm đối diện với trường nữ tiểu học?  Còn Đàng Tiên và con sông chảy ngang? Bây giờ có trở lại Cần Thơ, chắc tôi không còn nhận ra lối xưa chốn cũ, nơi mình đã từng có nhiều hồi ức vẫn còn tươi nét trong tôi.

Má từ quê nhà lên thăm con cháu mang theo món quà đặc biệt: nồi cá đồng kho.

Má từ quê nhà Quảng Ngãi vào Sài Gòn thăm con cháu, lần nào cũng khệ nệ nào là bánh tráng, dầu phộng, nước nắm, tỏi, ruốc… Nhưng lần này, ngoài những món kia, má còn mang theo một món quà bất ngờ đặc biệt, đó là nồi cá đồng kho.

Nồi cá đồng kho của má



"Cá trong ruộng nhà mình đó" - má nói, kèm nụ cười như tở mở, tự hào. Ðã nhiều năm nay, cá đồng gần như cạn kiệt nhưng hai năm nay, nhờ việc cấm chích điện được áp dụng triệt để nên cá đồng tái sinh. Nông dân đi thăm đồng đã thấy cá bơi dưới mương, cá quẫy trong ruộng. Những ai từng sống ở nhà quê đều biết cá đồng ngon nhất là vào mùa lúa chín, bởi khi lúa trổ bông, ngậm đòng, phấn lúa rơi xuống ruộng làm mồi cho cá. Ðây cũng là lúc người ta tháo nước khỏi ruộng để cho chân cây lúa chắc thẳng trên mặt ruộng khô. Nếu trong ruộng có cá thì khi tháo nước, người ta đặt một cái đơm. Thế là bao nhiêu cá ùa vào đó.

Có rất nhiều loại cá, nào rô, sặc, lia thia, tràu cửng…; cùng tôm tép, cua, ốc... Cho nên, một nồi cá đồng kho là một "hợp chủng cá", hay là tổng hợp tất cả các hương vị của mùa lúa chín. Từ thuở nhỏ, tôi đã mê món cá đồng kho. Ướp cá đồng bằng nước mắm, dầu phộng, tiêu, ớt…, nếu có một nồi đất cá thì càng hay. Bỏ cá vào nồi đất, chụm củi lửa liu riu, nhớ đừng dùng đũa khuấy đảo để cá không bị nát. Cứ lửa liu riu như vậy cho cá thấm tháp vị mặn, béo, cay, nồng… Cá đồng kho mùa lúa chín mà ăn với cơm gạo mới thì không còn gì ngon bằng!

Món cá đồng kho tưởng chỉ còn trong ký ức. Thế mà, một hôm, giữa Sài Gòn, tôi lại được ăn. Vì đã di chuyển gần cả ngàn cây số với một ngày rưỡi đi đường nên khi ăn phải bắc lên bếp hâm lại. Nồi cá kho không còn ngon như được thưởng thức ngay tại quê nhà nhưng tôi vẫn thấy ngon lắm và cảm động bởi má đã nghĩ đến những đứa con xa quê vì mưu sinh, trong lòng lúc nào cũng nhớ về quê nhà. Món quà quê má mang từ Quảng Ngãi vào là bao gồm tất cả những hương vị của ruộng đồng. Và, thêm nữa, là công dang nắng dang nôi của ba tôi. Tôi mường tượng cảnh ông nheo mắt cười vui khi nhìn dòng cá chui vào đơm, mường tượng cảnh má tôi lau dòng mồ hôi mà mỉm cười lúc ngồi canh nồi cá tỏa mùi thơm trên bếp.



Quà quê. Nồi cá đồng chẳng phải là món quà quê đậm đà hay sao! Tôi mang nồi cá ấy "chia sẻ" với vài người thân quen mà cứ đinh ninh rằng cá đồng kho quê tôi là ngon số một, trong khi quên hỏi rằng: "Có ăn được cá đồng hay không?". Thế là sau khi mang biếu vài người, tôi thấy ngài ngại. Cũng may là đa số đều khen ngon hoặc lịch sự bảo: "Của cho không bằng công cho". Riêng GS Huỳnh Như Phương sau này gặp nhau mới nói: "Món cá đồng mà T. cho, mình để dành ăn cả tháng mới hết"!



Những bụi bờ thơ dại



Lâu lắm rồi tôi mới có dịp gặp lại mẹ của một người em từng ở chung nhà trọ với tôi thuở hàn vi. Ngày đó, để nuôi con học đại học ngành kiến trúc, người mẹ này phải từ bỏ quê nhà Bình Ðịnh vào Sài Gòn. Ở chung với con nhưng cứ cách bữa bà lại đón xe đò lên La Ngà - Ðịnh Quán (Ðồng Nai) mua trái cây về hẻm chợ Long Vân Tự (đường Bùi Ðình Túy, quận Bình Thạnh) ngồi bán. Sau khi tốt nghiệp, người con làm ăn phát đạt, giờ thì đã nhà lầu, xe hơi. Bà vẫn ở với con mà lòng thì cứ mong ngóng về quê.



Vào những dịp giỗ chạp, người con lái ô tô đưa bà về ngoải. Bà nói giờ già rồi, không còn ham của ngon vật lạ, chỉ thích được về quê và ra ngồi ở chỗ… mấy cái bụi.



"Tao thèm ngồi ngoài mấy cái bụi lắm" - bà nói với tôi mà mắt đỏ hoe. Còn tôi thì giật mình với nỗi thèm nhớ ấy. Tôi xa quê đã hơn 20 năm, luôn nhớ quê, luôn thèm nhớ những món ăn nhà quê. Nhưng bà thì không thèm nhớ món ăn, chỉ nhớ những cái lùm cây, bụi cỏ trên đường, ngoài đồng. Nếu có dịp về quê, bà lại tha thẩn đi và ngồi xuống nơi những cái bụi cái bờ như thế. Một đời người, rốt cuộc là chỉ muốn ngồi chỗ mấy bụi cây, lặng mình trong bóng mát. Ðiều ấy nghe thật đơn sơ, giản dị. Mà ở Sài Gòn này, đâu dễ gì tìm thấy những bụi bờ như thế.



Và tôi lại nhớ những bụi duối thấp thoáng trên cánh đồng quê. Ngày xưa duối mọc trên những bờ mương, bờ vùng, bờ thửa. Vào buổi trưa, lũ chúng tôi thường ra ngồi bụi duối thả cần câu. Bây giờ thì không tìm thấy một bụi duối nào nữa. Còn chăng là những hình ảnh trong thơ: Bụi duối, bờ tre nhạt nắng hè/ Lúa rơm từng đống xếp vàng hoe/ Dưa hồng, bí đỏ, khoai lang tím/ Tấp nập đường thôn, xe nối xe (Ðược mùa, thơ Ðoàn Văn Cừ).



Tôi ngồi viết những dòng này trong một quán cà phê ồn ã giữa Sài Gòn. Ðây là những ngày không có nồi cá kho của má, không có bánh tráng nướng bẻ giòn… Chỉ có một nỗi nhớ giăng đầy. Trong nỗi nhớ, không hiểu sao lại thấp thoáng những bụi bờ thơ dại, rưng rưng..

Người miền Tây Nam bộ có câu hát vui rằng: “Chèo ghe bán cá lòng tong, mũi chảy lòng thòng chẳng có ai mua”. Ghe là một loại xuồng lớn, thân rộng và bầu, mũi thấp, thường dùng để vận tải lúa gạo, củi trên sông. Còn cá lòng tong thì lại nhỏ xíu bằng đầu đũa, chẳng ai lấy ghe mà chở cá lòng tong bao giờ, làm gì có nhiều cá lòng tong đến mức phải chở bằng ghe. Mũi chảy lòng thòng thì đích thị là mấy đứa con nít “thò lò mũi xanh” làm chuyện “ruồi bu kiến đậu”, hổng ai mua là đúng rồi.

Hồi nhỏ, tôi hay nghe bà ngoại nói:

 “Hồi trẻ tao mê coi hát, hổng có tiền mua vé ngồi ở trên, mua được vé ngồi ghế hạng cá kèo là mừng húm”. Hạng ghế cá kèo là hạng bét nhứt, thấp nhứt, ngồi ở tầng hai mà còn xa biệt dục, nhìn lên sân khấu thấy nghệ sĩ đi tới đi lui nhỏ xíu như con búp bê, người xem không thể nhìn rõ mặt. Cá kèo đã bị coi là nhỏ rồi, nhưng con cá kèo còn bự hơn con cá lòng tong gấp mấy lần nữa. Con cá lòng tong nhỏ bé như thế, nên mới có câu ca: “Thiếp như con cá lòng tong/ Đói đem kho quẹt đỡ lòng trống không”.

Cư dân mạng còn lưu truyền câu chuyện khôi hài về cái sự “nhỏ” của cá lòng tong như sau:

“Ông Tý (mới đi bộ đội về) gắp một mớ cá lòng tong kho tiêu vào chén. Ông hỏi:”Cá nầy là cá gì mà ngon quá. Kho tiêu cay, ăn thấm miệng”. Bà chị dâu ông cười và trả lời:  “Đây là cá lòng tong”. – “Cá lòng tong là cá gì?”. – “Là một loại cá voi, đã được sống trong xã hội chủ nghĩa lâu năm”.”.

Nghe nói ở miệt sông Tiền, sông Hậu nước ngọt, khi mùa nước nổi bắt đầu dâng ở đầu nguồn ngập các bờ bãi ven sông là thời điểm bắt đầu của mùa cá lòng tong. Mùa này kéo dài cho đến cuối năm âm lịch. Để bắt cá lòng tong, người ta đào một cái ao rộng khoảng mười mét vuông, mở một cửa có rãnh nhỏ, ngắn dẫn ra sông (hoặc kênh, rạch). Nơi rãnh tiếp giáp kinh, rạch được chặn lại bằng một tấm lưới cứng mắt dày hoặc tấm phên tre. Khi nước lớn, người ta rút tấm lưới (phên tre) lên, nước vào đầy ao thì hạ tấm lưới (phên tre) xuống. Khi nước ròng rút ra ngoài thì cá bị giữ lại trong ao, chỉ việc dùng vợt lớn để xúc hay dùng tấm vải mùng lớn, hai người cầm hai bên lội dưới ao kéo qua một cái là cá dính vào đầy tấm vải.

Hoặc người ta dùng mồi và cần câu để câu cá lòng tong. Chiếc cần câu trúc nhỏ uốn cong vòng, đầu cần câu buộc sợi cước ni lông trắng mỏng dính lấp lánh trong ánh nắng có cột cái lưỡi câu nhỏ xíu. Mồi câu là cơm nguội hoặc trùn cắt khoanh nhỏ nhỏ trộn với cám rang thơm phức. Người ta câu cá lòng tong ở bờ sông.

Quê tôi vốn sát bờ biển, các con sông, kênh đều có hai mùa nước lợ và nước mặn. Nước sông chỉ ngọt khi đầu mùa nước nổi, mưa thật lớn, nước tràn trề từ sông Tiền sông Hậu đổ về thì nước mới ngọt được vài ngày. Đây cũng là lúc các loại cá đồng, trong đó có cá lòng tong từ thượng nguồn trôi xuống tấp vô các ao hồ, đồng ruộng rồi sống luôn ở đó, chớ trôi ra sông gặp nước mặn từ cửa biển ập vào là lòng tong sống hổng nổi. Vì vậy mà cách bắt cá lòng tong quê tôi cũng khác hơn thiên hạ.

Thường thì người dân quê tôi không câu cá lòng tong trong ruộng lúa, mất thời gian nhiều mà thu hoạch ít, họ chú tâm giăng lưới, đặt nò, nơm những loại cá lớn hơn. Muốn bắt cá lòng tong, người ta dùng lưới mềm mắt nhỏ hoặc vải mùng, cột vào một thanh tre, hai người cầm hai bên kéo lội qua ao một cái leo lên là trong lưới đầy cá lòng tong trắng xanh lấp lánh, nhảy xoi xói, nhìn thấy phát ham. Hoặc vào mùa nắng, nhân dịp tát đìa, người ta mới “thu gom” lòng tong luôn một thể. Nhà nào có ao, gặp lúc khan hiếm thức ăn hay muốn để dành cá lớn bán, chủ nhà mới xách cần câu ra câu chừng một rổ nho nhỏ lòng tong đủ để làm một mẻ kho khô trong nồi đất là xong.

Nhà tôi không có ao, cũng không có ruộng. Lạng quạng ra ao người ta xúc cá chúng rượt chạy hổng kịp. Vào những năm 80, mỗi lần mưa lớn, nước từ các ao lớn tràn ra ngập sân những ngôi nhà cổ đọng thành vũng rất lớn, cá lòng tong, cá bẩy trầu lội đàn đàn trong vũng nước. Mảnh sân sau biệt thự ông Hội đồng Trạch là một nơi vớt cá lý tưởng. Lúc này, nhà ông Hội bị tịch thu làm Viện Bảo tàng, cửa đóng then cài, sân sau vắng ngắt, cỏ mọc chen lẫn với rong rêu. Nhà tôi lúc đó ở gần biệt thự ông Hội. Mỗi lần mưa lớn, tôi xắn quần, xách rổ đến sân sau biệt thự, lội xuống rượt vớt cả lòng tong lẫn cá bẩy trầu đem về kho quẹt.

Cá lòng tong, cá bẩy trầu rất mềm, thịt ngọt, vảy nhỏ và mỏng mịn như đầu tăm. Làm cá rất dễ, chỉ cần lấy tay bấm chỗ yết hầu cá ngắt ngược lên là lôi nguyên bộ ruột và đầu cá bỏ ra ngoài. Xong bỏ cá vào rổ tre, để vào thau nước muối pha loãng mà chà cá chạy lòng vòng trong rổ, đến khi nào thấy cá đã tróc hết vảy thì thôi, thay nước khác rửa sạch bụng cá, để ráo là có thể đem nhúng bột chiên giòn hoặc kho tiêu. Nhúng bột chiên để ăn chơi, là một món xa xỉ. Thời bấy giờ, mỗi gia đình hàng tháng chỉ được mua nửa ký mỡ phân phối của hợp tác xã, làm gì có đủ mỡ mà chiên giòn cá. Cho nên, hễ cứ bắt được lòng tong là kho tiêu tới tới.

Cá làm sạch để ráo nước cho vào nồi đất, đổ nước mắm ngon vào xăm xắp, cho thêm một ít bột ngọt, một chút đường (tuỳ khẩu vị) rồi bắc nồi lên bếp kho lửa riu riu cho đến khi cá và nước mắm còn sền sệt, thêm vào ít tóp mỡ hoặc dầu ăn và nhắc xuống. Rắc lên mặt một ít tiêu xay và hành lá xắt nhỏ. Người nào ăn cay nhiều có thể bằm thêm chút ớt rải lên mặt nồi cá, khi ăn thì gắp ớt ăn thêm. Ngoại tôi kho cá lòng tong, sau khi đã rút hết nước mắm vào cá, lúc nào ngoại cũng thêm vào nồi cá chừng nửa chén nước cơm mới chắt ra từ nồi cơm trên bếp, rồi tiếp tục kho lửa riu riu. Nước cơm thấm vào cá, cá thấm vào nước cơm, làm cho nước cơm đổi màu nâu vàng như màu cá, cá mặn nhưng nước cơm chỉ hơi mặn thôi, nó làm cho nồi cá thêm sền sệt, thơm ngon, ăn rất vừa miệng.

“Cơm chiều kho cá lòng tong/ Chấm đọt nhãn lồng bổ óc bổ gan”.

Hôm nào nhà bếp có món cá lòng tong thì phải nấu hơi nhiều cơm hơn ngày thường một chút. Người ta còn ăn cá lòng tong kho tiêu với cháo trắng nấu nhừ hay cháo đậu đỏ.

Thông thường, cá lòng tong kho tiêu được ăn với canh chua bắp chuối nấu cơm mẻ. Rau muống, rau lang, đọt bầu, đọt bí, đọt nhãn lồng, rau trai luộc hay chuối chát, khế, khóm, bạc hà xắt mỏng. Nhãn lồng là một loại dây leo, còn có tên gọi khác là cây lạc tiên, Đông y dùng làm thuốc trị ho và an thần, chớ hổng phải cây nhãn lồng để dành cho con chim khuyên ăn trái.

Sở dĩ tôi biết rõ rau nhãn lồng này là vì sau ngày 30/4/1975, ai bị bệnh gì vô Bệnh viện Bạc Liêu cũng đều được Bác sĩ kê toa hai thứ thuốc không bao giờ thay đổi là Xuyên Tâm Liên (viên nén) và chai si-rô Lạc Tiên, đem về uống đến phù cả mặt mũi mà vẫn không hết ho. Có thời gian, người ta lợi dụng đặc điểm an thần và ngọt như chè của si-rô Lạc Tiên, bèn vô Bệnh viện khai ho để được mua si-rô Lạc Tiên đem về pha với nước đá uống chơi như một loại “nước giải khát hảo hạng”.

Xứ Bạc Liêu vốn nổi tiếng nhiều tôm cá,

“Theo anh về xứ Bạc Liêu/ Ăn cá thay bánh, bàu nghêu thay quà”,

vậy mà chẳng mấy khi nhà tôi được ăn con cá lớn. Nông dân nuôi được cá, bắt được cá ngon nhưng không bao giờ dám ăn mà thường đem ra chợ bán để lấy ít tiền mua nước mắm, nước tương, dầu lửa, bột ngọt… và họ chỉ dám ăn những con cá vụn vặt mà người ta thường gọi là cá hủn hỉn, tức là cá nhỏ xíu, cá tạp nhiều loại dạt ra không bán được ở chợ như: lòng tong, lòng ròng, bảy trầu, lia thia, cá sặt con, cá rô con…

Mỗi khi mùa mưa đến, nghe tiếng sấm ì ùng dội lại từ đâu đó rất xa, nhìn phía chân trời thấy mây đen cuồn cuộn, vài tia chớp sáng lòe, gió thổi ào ào cuốn theo cát bụi, lá cây đập lên mái nhà ầm ầm, không khí hơi lành lạnh rồi từng giọt từng giọt mưa to ném xuống đến rát da, tôi lại nhớ về thời thơ ấu của mình với những con cá lòng tong.

Má chồng tôi và nồi cá linh kho lạt…

Thứ Bảy, 08/09/2012 10:43

Trưa hôm qua, thằng Út gọi điện cho tôi: “Má mới sai em ra xe gởi cá linh cho chị. Chiều nay chị khỏi làm đồ ăn nghen”.

Chỉ có vậy mà tôi nôn nao suốt cả buổi chiều. Một phần vì nghĩ tới món các linh non (mà ở An Giang quê tôi, bà con gọi là cá lạc mạ) kho lạt dầm me chấm rau sống mà chỉ mới nghĩ tới đã thấy ruột gan cồn cào vì thèm; phần còn lại là vì tôi nhớ Má. Lần trước gọi điện thoại về nhà, nghe Má nói nước bắt đầu lên, tôi buộc miệng: “Vậy là sắp có cá linh ăn rồi, con thèm quá”. Nghe vậy, Má bảo qua rằm tháng Bảy, Má sẽ gởi lên cho.

Má là Má chồng tôi. Và cái món “cá linh kho lạt dầm me” cũng là Má dạy tôi ăn, má dạy tôi cách làm. Gần 20 năm trước, tôi, đứa con gái ở thị xã về làm dâu nhà Má vào cuối mùa hè. Ở huyện đầu nguồn An Phú, mùa nước nổi từ sáng đến tối đứng trong nhà nhìn ra một màn nước mênh mông; hôm nào trời mưa thì lại càng ảm đạm. Cái cảm giác bị bó chân, bó tay khiến tôi bần thần, không vui. Cũng may là có mấy cô em chồng hết làm bánh, nấu chè lại đổ bánh xèo… khiến tôi phần nào vơi đi nỗi nhớ nhà. Cho đến một hôm, Má đi chợ mua về mấy ký cá linh. Má cười bảo tôi: “Bữa nay con trổ tài làm cơm đãi cả nhà nghen”.

Rủi cho tôi, hôm đó mấy đứa em chồng đi vắng, chỉ có mình tôi và ông xã ở nhà. Dường như anh cũng cố tình để tôi “thử sức” nên bảo: “Cái món cá linh này phải có bông điên điển mới ngon. Để anh đi hái điên điển, em cứ từ từ làm…”. Nói vậy rồi anh chống xuồng đi tuốt…

Tôi nhìn đám cá linh trong mấy cái bọc ni-lông mà hoang mang. Hồi nào tới giờ ở với mẹ, tôi chỉ có… ăn thôi chớ có bao giờ mó tay vào bếp núc đâu mà biết phải làm sao? Nhưng tôi nhớ, lúc ở với mẹ, vì cha tôi thích ăn cá linh kho tiêu nên mẹ hay làm. Những con cá linh mẹ kho đến khô cong, rắc tiêu thơm phức nhưng khi ăn cha lại thích chấm thêm muối tiêu. Đó là món muối tiêu thơm lừng mẹ làm với thật nhiều tiêu và ít muối. Mẹ rang cả hai thứ rồi mới giã cho hạt tiêu bể làm ba, làm tư…

Nhớ tới đó, tôi quyết định trổ tài làm món cá linh kho tiêu và nấu canh chua. Những con cá linh chỉ lớn hơn đầu đũa một chút được tôi cho vô rổ tre, bỏ muối vào chà cật lực cho sạch vảy. Xong đâu đó, tôi kho một nửa, một nửa nấu canh chua me.

Hì hục hết buổi sáng, tôi cũng xong được bữa cơm “ra mắt” nhà chồng. Thế nhưng, có một sự cố “nho nhỏ” xảy ra mà tôi đã phát hiện từ lúc nêm nếm nhưng không dám thố lộ. Đó là cả món cá kho và món canh chua của tôi đều có vị… đắng. Cô em chồng ngồi vào mâm, vừa húp một muỗng canh mắt đã trợn ngược và la lên: “Á… đắng quá…”. Tôi giật thót cả người, trong khi Ba chồng tôi vẫn điềm nhiên: “Đắng đâu mà đắng? Chỉ hơi nhẫn nhẫn thôi. Đứa nào ăn không được thì ăn cái thôi, đừng chan nước. Ăn đi, mật cá linh non ăn nên thuốc

Tuy Ba chồng tôi nói vậy nhưng mấy đứa em vẫn ăn không nổi, Má tôi phải chiên trứng cho tụi nó. Còn tôi, suốt bữa ăn, cứ lấm lét nhìn mọi người. Tuy vậy, tôi rất biết ơn Ba Má chồng tôi đã hết sức thông cảm, không hề la mắng tôi một lời…

Chờ ăn uống, dọn dẹp xong xuôi, Má tôi mới gọi tôi ra trước hiên nhà. Má nhẹ nhàng nói: “Má biết trước nay anh chị sui chỉ lo cho con ăn học, với lại nhà bên đó cũng ít người nên chị sui giành làm hết công chuyện trong nhà. Giờ con về đây rồi thì con là con của Má. Làm cô giáo không chỉ biết chữ nhiều mà còn phải biết cơm nước cho chồng con. Từ từ rồi học…”. Tôi thấy mắt mình cay cay. Đúng là ở với mẹ, tôi rất sướng, chẳng phải làm gì. Nhưng đến giờ thì cái sướng ấy đã làm hại tôi…

Từ hôm đó, Má dạy tôi từng chút một, từ việc đi chợ mua cá, chọn rau, nêm nếm khi nấu ăn… Nhưng tôi nhớ nhất là món cá linh kho mẵn của Má. Thoạt đầu, thấy Má làm món này, tôi không dám ăn vì nghĩ là… rất tanh. Nhìn tô cá linh kho lĩnh lãng nước như nấu canh, tôi nghĩ “nhà này ăn kỳ quá”. Thế nhưng khi đã ăn miếng đầu tiên thì lại muốn ăn thêm miếng nữa, miếng nữa…

Cá linh non mua về, Má tôi không cắt đuôi, cắt vây, chà vảy mà chỉ móc hầu lấy mật rồi rửa sạch. Nước dừa bắc lên bếp cho sôi, nêm nước mắm, bột ngọt, cho chút nước màu và mấy trái me non (mùa nào không có me non thì xài me chín hoặc khi ăn thì vắt chanh) nêm nếm vừa ăn rồi thì thả cá vào. Nước sôi lại chừng vài phút thì nhắc xuống, cho hành ngò rồi múc ra tô, dầm thêm trái ớt hiểm… Món rau ăn kèm với cá linh kho lạt ngon nhất là bông điên điển, bông súng, kèo nèo, đậu rồng, lá sen- những sản vật đi cùng mùa nước nổi…

Ở với Má được 3 năm thì chúng tôi chuyển về thị xã; sau đó theo bạn bè lên Sài Gòn lập nghiệp. Ngày chúng tôi về xin phép Ba Má để đi, Má nắm chặt tay tôi: “Lên trển vợ chồng ráng ăn ở cho hòa thuận, phải dạy dỗ con cái đàng hoàng, đừng để sau này tụi nó mất gốc…”.  Để chúng tôi đi, tôi biết trong lòng Má rất nhiều nỗi lo nên đã bảo ban nhau cố gắng sống thật tốt để Má yên lòng. Và dường như sợ mấy đứa cháu “mất gốc” nên tháng nào Má cũng gởi quà quê lên cho. Mùa nào thức ấy. Bây giờ xe cộ thuận tiện rồi, chỉ mấy tiếng đồng hồ là tôi có thể có được những món ăn ngon lành và thấm đẫm tình yêu thương của Má chồng tôi.

Riêng chồng tôi thì ngày nào nhận được quà của Má với anh cũng đều là ngày hội. Anh lăng xăng vô bếp phụ vợ con bày biện, chế biến; bạn bè có độ nhậu, rủ cách mấy anh cũng chối từ… Lên bàn ăn, mẹ con tôi chỉ cần nhìn anh ăn cũng thấy vui. Anh nhai nhồm nhoàm, húp xoàn xoạt chứ không từ tốn như thường ngày…
 
Tuy vậy, cũng có những lúc đang ăn, ông xã tôi bỗng ngừng đũa thẫn thờ rồi giả vờ đi lấy thêm trái ớt, nắm rau. Sống với nhau nhiều năm, tôi biết khi ấy anh đang nghĩ về chiếc lưng còng và đôi mắt đã mờ của Má...

Hôm nay ra chợ thấy tảng mỡ thăn dính chút thịt nạc thật ngon, cái thời buổi nuôi lợn siêu nạc lợn tăng trọng này tìm được miếng mỡ lợn dầy và ngon thật hiếm, mình đem về rán lên lấy mỡ nước cho ít muối hạt vào rán chung cho đỡ bắn, gần bắc ra cho thêm vài tép tỏi cho thơm, lúc vớt tóp mỡ ra đĩa, loay hoay ko biết để làm gì, tự dưng nhớ về cái thời xa lắc xa lư mà thèm!

Bỗng dật mình vậy mà mình đã 24 rồi nhỉ, nhanh quá còn đâu cái hồi buộc tóc 2 bên đi chân đất chạy rong khắp xóm bẻ măng, chơi bi với thằng bạn nhà bên. hồi đấy nhà mình và hàng xóm đều không dùng dầu ăn, mẹ thường mua những tảng mỡ rất to về thái nhỏ rán lên ròn rụm, mình thèm cái cảm giác ngồi bên bếp lửa cạnh mẹ, thỉnh thoảng giật mình hốt hoảng khi mỡ bắt tung ra cả bếp.

chị mình cũng vậy, hai chị em cứ ríu rít cạnh mẹ dành nhau đặt cọc những miếng mỡ có dính tí thịt nạc đang xèo xèo trong chảo, vừa chanh nhau vừa tị nạnh, và mẹ lại ngồi phân xử cả buổi. Ôi cái kỷ niệm nhỏ bé mà vui biết bao , mình bỗng thòm thèm thời gian quay chở lại để mình lại ngồi bên mẹ, lại ríu rít cãi cọ với chị gái, lại thổi phù phù ăn miếng tóp mỡ nóng hổi thơm lừng béo béo ròn tan trong miệng. Sáng giậy mẹ gọi thật sớm, đánh răng rửa mặt song là đĩa cơm rang mắm vàng ươm điểm những cái tóp mỡ ròn rụm đã sẵn sàng đợi chờ, đánh một lèo hết veo cả đĩa mà vẫn thấy dư vị thòm thèm, mặc quần áo chạy ù đi học chả uống nước lau mồm, lên tới trường bị lũ bạn chọc quê hạt cơm dính mép mà cười ha hả, ấy thế mà không phải mình mình đâu, mỗi sáng cũng vài tên chung số phận. Những trưa mùa hè nóng bức cả nhà quây quần bên cái quạt liên sô cánh sắt kêu dè dè, mẹ bưng nồi canh chua nóng hổi với niêu cơm bốc khói ngút nhà, chỉ có vậy, nồi canh có dưa, cà chua, vài con cá lòng tong và tóp mỡ, 1 rổ rau sống xanh ngắt toàn rau vườn nhà, nào rau diếp, rau húng rau ngổ.... ấy thế mà ai cũng ăn thật ngon, mình và chị gái lại xí nhau ăn cháy cơm, chấm vào bát canh chua béo ngậy, vớt miếng tóp mỡ deo dẻo bùi bùi kẹp với cháy, cái cảm giác lúc ấy mà bây giờ dù có ăn cao lương mĩ vị cũng không cảm thấy được nữa, bố ngồi khoanh chân giữa nhà sau khi chén một chặp 5 bát cơm bố cười lấy 2 cái đũa chùi 2 bên mép đúng kiểu người quê, hả hê vì bữa cơm thật đã đời. mẹ cũng tủm tỉm vì được chồng con khen tấm tắc tài nấu ăn, hai má đỏ hây hây bên nồi cơm nóng, cái mùa hè tự nhiên mát lịm ngọt ngào làm sao, bây giờ bên bữa cơm toàn thịt cá ê hề, ai cũng ăn lấy lệ cho xong, cái mồm cứ nhạt tếch chẳng thấy vị ngon, ngồi nhìn đĩa tóp mỡ vừa vớt ra, chợt nhớ quê da diết...

Khi những cơn mưa cuối mùa dần kết thúc, nước sông Hậu bớt đỏ màu phù sa là lúc dòng kinh, con rạch nơi đây trở thành nơi quần sinh của những bầy lòng tong.

Mặt nước cứ xao động vì cá lên ăn móng. Bọn trẻ chặt tre làm cần câu, vùi mình vào thú vui thôn dã. Thẩy lưỡi câu vừa chạm mặt nước, giật lên con cá cỡ ngón tay út , thuôn dẹp, vảy bạc lấp lánh giãy giụa trong nắng trời. Thẩy câu, giật câu, bắt cá lia lịa.

Để có những con lòng tong kho cứng mình, má làm sạch cá, ướp thật nhiều đường. Bắc ơ cá lên bếp lửa, cho nước mắm ngon vào. Khi nước mắm sôi cạn thì chan một muỗng mỡ hoặc dầu ăn vào, nhắc xuống, rắc tiêu bột đều trên mặt. Chỉ ngửi mùi cá kho tỏa ra từ bếp bụng dạ đã réo sôi ục ục.

Cũng như nhiều người dân sông Hậu, má tôi rất ưa món cá lòng tong chiên tươi hoặc chiên bột. Má ướp nước mắm ngon rồi thả cá vào chảo dầu đang sôi. Lòng tong chiên tươi đã ngon, chiên bột còn điệu đà hơn nếu được gói với bún cùng rau sống, dưa leo chấm nước mắm giấm tỏi ớt. Món ngon nhớ đời vì thịt cá lòng tong dai ngọt hòa cùng hương vị các loại rau trái vườn nhà.

 Tôi không sao quên được những ngày tháng 10 âm lịch ở Phong Điền (Cần Thơ). Người dân nơi đây dùng mấy cái hom như hom bắt chim hoặc dùng lưới mắt nhỏ chặn một đầu kinh. Sau đó liệng từng bụm đất sình xuống, mặt nước xao động, lũ lòng tong hoảng hốt chun ào ào vô “rọ”. Không phải một nhà mà cả xóm xúm nhau đánh bắt cá lòng tong vui như ngày hội. Mỗi nhà thu hoạch chừng chục kg cá lòng tong. Cá đem về nhà, cắt bỏ đầu, làm ruột, chà vảy rồi ướp mắm muối, gia vị vừa ăn trước khi trải trên những cái nia đem phơi. Một nắng tốt là những chú cá lòng tong ăn no gia vị quắt lại thành những con khô độc đáo.

 Ăn rập với khô cá lòng tong là dưa nén. Để làm dưa nén, người Phong Điền rửa sạch cải làm dưa, phơi ba nắng, rửa sạch lần nữa trước khi ướp muối đường. Sau khi nhận cải sơ chế vô hũ da lươn, người ta đổ nước muối cùng đường thắng nấu với nước sông (phải là nước sông Phong Điền), khi sôi để nguội đổ vào hũ. Không phải 3 ngày như nhiều nơi khác, muốn ăn ngon dưa cải Phong Điền phải “chầu chực” tới 6 – 7 bữa sau. Đó là lúc dưa cải “chín” màu vàng nghệ rất đẹp mắt cho vị chua dịu, giòn tanh tách như nhảy trong răng. Thưởng thức khô cá lòng tong chiên với dưa cải, uống ly rượu đế chánh gốc Phong Điền – thứ rượu uống tới đâu biết tới đó, hương vị sông nước miền Tây sao đậm đà, contend đắm vậy! 

Cái nồi đất

Bữa ăn đã xong, tôi thu dọn chồng chén đĩa bưng xuống bếp để rửa. Trên nhà, các ông đang bàn tán chuyện Mỹ đánh Irac, còn các bà thì hăng say thảo luận về cách thức ăn kiêng để vẫn còn thon thả khi tuổi đã ngoài bốn mươi. Cô em chồng tôi là chủ nhà đang lo o bế dàn karaoke, hứa hẹn một buổi tối náo nhiệt. Má chồng tôi như lệ thường của các bà mẹ Việt Nam ở vào lứa tuổi của bà có rất nhiều con, đâu tới bảy, tám người. Tới nay, tổng cộng vừa dâu rể, cháu nội cháu ngoại đã hơn hai chục. Bà ở với cô em thứ bảy, nhà cô rộng rãi đủ chứa từng ấy người nên thỉnh thoảng con cháu tụ về nấu một vài món ăn để có được không khí sum họp của gia đình. Tôi tuy là con dâu lớn nhưng giỏi ăn hơn giỏi nấu nên tôi thường lãnh trách nhiệm dọn dẹp. Đang loay hoay thì má chồng tôi bước vào, bà đưa cho tôi một bao nylon rồi thì thầm:
- Bà Tư ở Việt Nam mới qua có cho tao mấy cái nồi đất, mầy lấy một cái đem về kho cá, ngon không thua gì cá kho tộ ngoài tiệm đâu.
Má chồng tôi người miền nam, tánh tình chơn chất, nói năng giản dị, bà rất thương con cháu nhưng chưa bao giờ bà kêu tôi bằng con, hay gọi tôi bằng chị như các bà bạn của bà. Tôi cầm lấy rồi nói đùa:
Ủa, nồi không chớ không có cá sao má?
Má chồng tôi la lên:
- Của một đồng công một nén của người ta cho mầy, mầy còn đòi cá nữa.
Bà bước ra không quên nói vói lại:
- Bữa nào chở tao ra Cabramatta rồi tao chỉ cá cho mà mua.
Má chồng tôi là vậy đó, biết ông xã tôi mạnh ăn, biết con tôi đang sức lớn, biết tôi không thuộc diện "Công, Dung, Ngôn, Hạnh" bà tận tình chỉ vẽ cho tôi, hy vọng rằng con tôi bớt là thực khách của tiệm Macdonald.
Cái nồi đất tưởng đã bị bỏ quên khi tôi dẹp nó vào cái góc tận cùng của tủ chén. Nhưng hôm nay tôi bị bịnh, phải ở nhà, con lại đi học hết, ông xã thì đi làm, ngồi buồn tôi làm siêng dọn lại cái tủ chén và tôi tìm được cái nồi đất. Rảnh rang nên tôi ngồi ngắm kỹ cái nồi đất hơn. Bằng đất nung và được tráng bên ngoài cũng như bên trong một lớp men đen bóng, cái nồi trông cũng đẹp đẽ lắm với hai cái quai nho nhỏ ở hai bên và một cái nắp đậy rất vừa vặn. Mân mê cái nồi trong tay tôi chợt thấy một tình cảm lạ lùng dậy lên trong lòng. Cái nồi đã gợi lại trong tôi cả một thời gian thơ ấu được sống trong cảnh êm ấm của gia đình với ba má, anh em nơi miền quê đất Việt.
Hồi đó nhà tôi nghèo, anh em đông nên bữa cơm nào của gia đình cũng không thiếu món cá kho. Ai đã từng sống ở miền tây trù phú của đồng bằng sông cửu vào thời đó cũng đều biết rằng cá tép ở đây dễ kiếm như rau cỏ ngoài vườn vậy. Sông rạch chằng chịch nên chỉ cần một mảnh lưới nho nhỏ hay một cái đăng chắn ngang dòng nước chảy của con rạch vào buổi chiều hôm trước thì sáng hôm sau cả nhà cũng có được nồi cá kho với đủ thứ cá lòng tong, rô, sặc, trê...Có khi còn có cả mấy con lòng ròng (cá lóc con) đi ăn xa mắc lưới. Ngoài cách làm giản dị trên, dân quê vùng tôi còn bắt cá bằng cách câu cắm. Mươi cái cần câu được móc sẵn mồi cắm dọc theo bờ rạch vào lúc trời sụp tối, lúc cá bắt đầu ra ăn đêm. Người đặt thường phải đi " thăm cần", tức là đi rút mấy cái cần câu của mình lên vào lúc trời gần sáng. Bằng cách nầy trong chục cần thể nào cũng có vài ba cần có cá. Theo tôi, má tôi là một đầu bếp tài giỏi nhất, bà có thể chế biến để nấu đủ cho cả nhà ăn mà không cần biết là em tôi bắt được cá nhiều hay ít.
Về mặt nầy chắc có lẽ mấy ông đầu bếp tây phương phải lột cái nón cao nghệu của mấy ổng để chào thua má tôi. Hôm nào em tôi bắt được mấy con lòng ròng đâu cỡ cườm tay nó thì má tôi nấu canh chua khóm, coi như nhà tôi có một bữa ăn sang. Hôm nào xui xẻo hơn chỉ được mớ cá con đủ thứ thì má tôi kho khô hết. Sau khi làm sạch cá được ướp trong cái nồi đất, cái nồi nầy lúc mới mua về có màu đỏ ngói, nhưng sau nhiều năm đặt trên cái cà ràng (một loại lò cũng bằng đất) nhà tôi và sau nhiều lần thấm đủ thứ gia vị như nước màu dừa, nước mắm, mỡ, bột ngọt, tiêu, ớt...Đã ngã sang màu đen, bên trong nồi bóng lên trông như được tráng men vậy. Không biết có phải nhờ tài nêm nếm của má tôi hay nhờ được kho trong cái nồi đất mà cá lúc nào cũng thấm, cũng ngon, nên dù đồ ăn có ít ỏi chị em tôi vẫn ăn sạch nồi cơm.
Cái nồi đất đã gắn liền với đời sống dân quê miền nam như vậy đó. Riêng tôi, tôi còn có một kỷ niệm nữa liên quan tới cái nồi đất… Lúc đó tôi đâu chừng sáu bảy tuổi, quê tôi ở Bến Tre, hồi đó gọi là Kiến Hòa. Xóm nhà tôi ở cách lộ cái không xa lắm, ngay đầu xóm là một cái đình thờ Thổ Công Thổ Địa và nhiều vị nữa mà tôi không biết hết. Đình không có cây đa như trong các bài hát về quê hương mà chỉ có một hàng tre Mạnh Tông được trồng để làm hàng rào ngăn giữa đình và ngôi nhà ở kế cận. Hai bên hong đình để trống vì giáp với ruộng lúa, riêng mặt tiền của đình thì có một sân xi-măng rộng cỡ bằng một đám ruộng lớn. Đây là nơi hàng năm dân trong xóm rước một gánh hát quê về hát để cúng Thần. Còn hàng ngày thì sân xi-măng nầy được dân trong xóm sử dụng để phơi lúa vào ban ngày và làm đủ thứ việc đồng áng linh tinh vào ban đêm.
Vào những đem trăng sáng, sân đình rộn rịp hẳn lên, ít lắm cũng có chừng vài nhà trong xóm mang lúa ra để làm. Đàn bà thì mang lúa đã phơi khô ra vê, tức là tách những hạt lúa lép ra khỏi lúa chắc trước khi đem xay thành gạo. Để làm được việc đó cần phải có hai người, một người kẹp chiếc chiếu vào hai chân, dùng tay giữ hai mép chiếu và đập mạnh vào nhau để tạo ra gió, người còn lại xúc đầy một thúng giạ lúa, giơ cao khỏi đầu và đổ xuống từ từ. Sức gió từ chiếc chiếu sẽ đẩy những hạt lúa lép bay xa trong khi lúa chắc vì nặng hơn nên chỉ rớt xuống ngay nơi được đổ ra. Đàn ông thì mang một cái bồ ra và ráng đập cho hết số lúa mà những tay thợ gặt lành nghề đã cắt bỏ thành đống ở dưới ruộng. Đám trẻ con chúng tôi thì tụ hợp để chơi đùa gần đó. Được nửa buổi làm thì mọi người đều nghỉ tay, đồ ăn, nước uống được mang ra để tiếp sức cho các ông thợ, bà thợ. Con nít tuy không làm gì nhưng cũng được chia phần, khi thì củ khoai nóng, nắm xôi dẽo hay chén cháo đậu dậy mùi thơm lá dứa. Những lúc như vậy tôi thường ngồi kế bên ba tôi, chờ má tôi mang đồ ăn tới vừa lắng nghe những câu chuyện của ba tôi và các ông bạn. Họ thường kể chuyện tếu lâm rồi xúm nhau cười ha hả. Con nít chúng tôi mặc dù không hiểu nhưng cũng thích nghe, rồi bắt chước người lớn nhăn răng ra cười. Hôm nào được sự góp chuyện của hai vị khách không thuộc lớp nông dân là ông từ giữ đình và chú Tư Tộ thì câu chuyện càng đậm đà.

Quê tôi ở Bạc Liêu, xứ sở mà mỗi khi nhắc đến tên là nhớ ngay tới Công tử Bạc Liêu - người được tiếng ăn chơi nhất nhì xứ Nam kỳ lục tỉnh một thời, nơi được cho là rừng vàng biển bạc, ruộng đồng cò bay thẳng cánh, vùng đất trù phú nằm cận kề cuối Mũi Cà Mau - nơi tận cùng của đất nước.

 Tôi sinh ra và lớn lên ở nơi ấy, nhưng tuổi thơ của tôi lại gắn liền với quê Nội, nơi ruộng đồng hẻo lánh, bốn bề sông nước mà chỉ cần đi thêm chút thôi là đã ra đến cửa biển - nó thuộc huyện Năm Căn, Tỉnh Cà Mau bây giờ.

 Ngày tôi còn nhỏ, cứ mỗi mùa hè là chị em tôi được Ba Mẹ cho về thăm Nội. Ôi thôi, không gì khoái bằng khi được chơi thoả thích mà không bị la rầy, kèm cặp... Gia đình bên Nội tôi toàn cháu trai, chỉ mỗi Ba tôi là có tới bốn nàng công chúa nên tha hồ được cưng chìu.

 Gần đến nhà Nội, từ trên tàu nhìn lên bờ, tôi đã thấy cả một phái đoàn ra đón, đủ mặt tất cả. Chị em tôi vừa đặt chân vào nhà đã thấy có một ca nước dừa, Nội nói: "Tụi con ra sau rửa mặt rồi vô uống nước dừa Chú Bảy mới chặt cho mát." Thì ra, chú Bảy tôi, chưa thấy mặt cháu đã chạy ra sau vườn trèo cây hái dừa để sẵn.

Và những ngày hè êm ả của tôi bắt đầu! Tôi được ăn những món ăn đồng quê, được chơi những trò chơi mà tụi con nít ở nơi thành thị không hề được... thưởng thức. Nội và mấy thím cho chị em tôi ăn không biết bao nhiêu là món. Nào là bánh xèo, không giống bánh xèo ở chợ đâu nghen, ở quê Nội tôi nhân bánh được làm bằng cổ hũ dừa hoặc cổ hũ chà là, ăn rất ngọt, muốn có món bánh này thì phải... hy sinh cả cây dừa luôn đó! Rồi thì bánh canh được làm từ gạo Nội ngâm và xay ra, bỏ vào cái bồng lấy cối xay đè lên cho ráo nước rồi cắt thành bột, nồi bánh có nước sền sệt, đặc đặc, béo ngậy và thơm phức mùi nước cốt dừa, không giống bánh canh mà Mẹ vẫn thường làm cho tôi ăn. Chú tôi đi bắt cò và lấy luôn cả trứng của nó, như vậy là tôi được ăn hai món, Thím thì làm cò rôti, Nội nấu cho tôi một nồi chè... trứng cò, ăn mà thích không biết làm sao nói luôn! Mà quên, tôi ăn được thêm món trứng cò luộc nữa chứ! Rồi còn có chuột đồng rôti, con đuông dừa lăn bột và chiên, và cả... cháo rắn và rắn hấp lá nhàu nữa đó! Tôi thích ăn nếp, nên Nội nấu xôi lá cẩm, xôi gấc cho tôi ăn. Nhiều, nhiều lắm bao nhiêu là món mà tôi được thưởng thức.

Và giờ tôi kể những thứ do tôi... làm nè! Tôi với mấy thằng em họ kéo nhau đi hái bình bát về dầm đường, chỉ vậy thôi vì ở quê không có điện lấy đâu ra nước đá, xứ sở gần đồng xa chợ mà! Rồi lội bộ xa thiệt xa lên tuốt trên hậu, phía cuối đất của Nội, chỉ để hái trái cà na về chấm muối hột ăn. Trưa nắng chang chang, tôi rủ mấy thằng con trai đi ra mé sông lấy cây thụt còng, nó giống con cua nhưng chỉ bé tí xíu xiu thôi. Có khi bị nó kẹp đau, tôi mếu máo khóc! Ăn trộm tép của Nội, tụi tôi làm mồi ra mé sông ngồi câu cá. Không biết tại cá nhiều hay tại tôi yếu bóng vía mà cá cắn câu nhiều lắm, đủ thứ cá mà nhiều nhất là cá rô phi, cá chốt với cá bống cát... Chú đi giăng lưới tôi cũng đòi đi theo, chỉ đứng trên bờ mà thò lõ con mắt nhìn chứ có lội được xuống nước đâu vì tôi không biết... lội! Đi chày lưới tôi cũng lót tót xách cái xô đi theo. Nội đi ra đìa câu cá tôi cũng đi. Thích nhất là chống xuồng lên ruộng giăng lưới với mấy thằng em họ, tụi nó vừa bước chân xuống xuồng là tôi đã có mặt và phóng xuống theo. Có khi đang ngồi trên xuồng, nhìn lên cây thấy tổ chim sáo, tôi kêu mấy thằng em bắt chim con cho tôi, về nhà tôi bắt cào cào, châu chấu cho ăn, mấy con chim dạn lắm, thấy tay tôi là thi nhau há mỏ chờ được ăn, nhìn dễ thương hết biết! Ông Nội đi chặt tre làm ống chum bắt lịch tôi cũng theo, nhưng thiệt tình là tôi... sợ mấy con lịch lắm, đi theo chỉ vì muốn đòi Nội lấy tre nhỏ để tôi kêu mấy thằng em làm ống thụt cho tôi, mà tụi nó chưa cần tôi nhờ vả gì đã hăng hái đi hái trái mây sẵn sàng cho tôi rồi. Nội đi đám giỗ nhà hàng xóm, xa hay gần gì cũng đều có mặt... tôi. Nói chung là ai đi đâu tôi cũng lò mò đòi theo hết! Có những ngày trời mưa, đường đồng đất sình trơn trượt, tôi sợ dơ chân nên không đi chân đất mà mang dép, thế là bao nhiêu phen bị... chụp ếch, mình mẩy sình đen thui, cả nhà được phen cười ra nước mắt!

 Có nhiều buổi trưa, mấy thằng con trai không biết đi đâu hết trơn, chị và em tôi thì chơi chán nên ai cũng ngủ trưa. (Chẳng biết sao hồi nhỏ tôi không bao giờ ngủ trưa nghen, Ba Mẹ mà bắt ngủ là cả một cực hình đối với tôi!) Còn một mình ên, buồn quá, tôi lang thang đi kiếm chuyện chơi một mình. Ra sau vườn, tôi trèo hết cây này tới cây khác. Cây nào có trái là có mặt tôi. Mà tôi khoái nhất là cây chùm ruột vì hái dễ mà được nhiều! Trèo chán, tôi quay vô nhà lấy rổ ra đìa ngồi canh vớt cá lòng tong. Mà mấy con cá nó khôn và nhanh ghê lắm, tôi chỉ mới vừa đưa cái rổ lên là cả bầy cá nó rủ nhau bấm nút... biến rồi, không tài nào tôi tóm được! Tức quá, tôi kiếm cây và ngồi chờ cho cá tụ bầy lại, tôi đập nước lia lịa và có khi cũng có một con hy sinh vì trò chơi quái ác của tôi. Chán mấy con cá, tôi quay qua phá... bầy vịt! Tôi cầm cây rượt mấy con vịt chạy tứ tán hết, đuổi nó từ ao này qua ao kia, tôi chạy qua đuổi tiếp. Không những trên bờ, tôi còn... bò cầu khỉ để qua ao đuổi vịt nữa đó! Tội nghiệp mấy con vịt chạy có cờ vì tôi. Mà không hiểu sao hồi nhỏ tôi khoẻ ghê, không biết mệt là gì hết và sao mà tôi phá ghê luôn?! Nhiều, nhiều lắm những trò chơi mà tôi đã được chơi, không làm sao tôi kể ra đây hết được...

 Không biết mọi người có biết không, còn tôi đến khi lớn lên tí xíu tôi mới biết vì nghe Nội kể lại là những khi tôi lang thang một mình như vậy, lúc nào cũng có một đôi mắt dõi theo tôi, đó là đôi mắt của Nội! Nội sợ cháu trèo cây, đi cầu khỉ, bắt cá, đuổi vịt,... không may té xuống đìa không ai hay vì Nội biết cháu bà không biết lội! Nhưng không nỡ la vì tội nghiệp cháu, sợ cháu buồn vì không được chơi. Ôi thương Nội vô cùng!...

 Ký ức tuổi thơ của tôi là như vậy đó! Nó gắn liền với từng góc vườn nhà Nội, với bờ ao, chiếc xuồng, với cây cầu khỉ,... với những bữa cơm đạm bạc, những món ăn dân dã, đơn sơ nhưng chứa đựng tất cả tấm lòng của những người thân yêu của tôi!

Ai cũng có tuổi thơ, nhưng mỗi người có mỗi ký ức khác nhau, không ai giống ai cũng như:

"Quê hương mỗi người chỉ một, như là chỉ một mẹ thôi..."


Dẫu có lớn khôn, dẫu có bôn ba nơi xứ người, ai cũng mong muốn được quay về nơi chôn nhau cắt rốn. Nơi đó có gia đình, có người thân và có cả kỉ niệm tuổi thơ, cái nôi đã ru ta khôn lớn như bây giờ.

 Quê hương! Hai tiếng thân thương theo chúng ta trọn cả đời người!...

1. 

Vâng, cứ đến tiết se lạnh này là bọn trẻ ít ra khỏi nhà. Nhưng là trẻ con, không thể không chơi. Chơi là công việc của trẻ con. Cấm chúng chơi là cấm chúng làm việc.

Chúng chơi ở đâu? Chơi ở sân nhà.

2.

 Sân đất nện, sáng nào cũng phải quét, cho dù chiều hôm trước đã quét tinh tươm.

Mặt sân sớm hôm sau đã đầy mùn như rắc cát. Kẻ bôi bẩn đó chính là một loài sâu đất, có tên là cồng cộng. Có nơi gọi là con cồng cồng thì cũng thế. Sau khi là nhẵn bằng những nhát chổi xuể thì thấy mặt sân rất nhiều lỗ nhỏ. Bọn trẻ con chúng tôi tinh mắt lắm.  Đó là những hang cồng cộng.

Cho đến giờ tôi vẫn không hiểu sao trời  lại sinh ra cái giống sâu bọ lạ kì như thế. Nó có mấy thứ khiêm tốn mà người đời không ai theo nổi, đó là có cái hang chật nhất, vừa gói gọn thân nó. Ăn ít nhất, di chuyển xa nhất cũng chỉ là nhảy lên đớp những con bọ mạt bé tí hin ngơ ngáo lượn qua trước mặt nó mà không nhao ra khỏi hang gây tắc nghẽn.

Suốt đời cồng cộng chỉ nằm một chỗ, đầu ngọ nguậy quan sát con mồi, lo ăn đến bạc mái đầu. Bầy đàn nó cày rỗ mặt sân mà không ai biết chúng giao tình lúc nào, sinh nở lúc nào.

Trông thế giới của chúng thì thấy như hàng trăm căn hộ tập thể không theo hàng lối. Cửa hang nhỏ như đầu cuốn chiếu. Cuộc sống chúng thật bình yên, không tiếng động, không giàu nghèo, không tranh chấp và cũng chẳng ai bao cấp.

 Vì thế khi ví bọn tham nhũng giống như sâu bọ bẩn thỉu thì vô tình đã xúc phạm loài cồng cộng này! Theo tôi biết, đó là loài sâu hiền lành nhất kỉ cương nhất trong các loài sâu. Sâu đất!

3.

 Trong cái se lạnh hanh hao của ngày Đông, bọn trẻ chơi trò câu cạn. Chúng ra bụi tre rút lấy cái búp măng rồi cong người bò nhoài trên mặt sân đất, căng mắt tìm lỗ sâu.

Sâu đất im re trong hang, ngửa mặt lên trời bỗng nhiên thấy có cái gì xoe xoe trên đầu, giáp mặt chúng…Thế là nó lấy đà co người như lò xo phóng lên đớp. Chỉ đợi có thế, đứa trẻ giật phắt, chú sâu bị lôi tuột khỏi hang. Nó vội nhả nhanh cái tưởng là miếng ăn vừa đớp được thì đã nằm tênh hênh trên mặt sân giãy giụa bất lực.

Khi đó đám trẻ lại dò tìm lỗ khác, miệng lại lẩm bẩm câu lừa phỉnh: “Cồng cộng lên ăn mạ, không quạ ăn hết” và lôi tiếp con sâu dại khờ khác khỏi hang .

4.

 Tôi là một trong những đứa trẻ đó. Nghịch ngợm vô lối mà không hề thấy mình đã xử quá  ác với loài sâu hiền lành này.

Nhưng từ ngày người ta đầm sân bằng vữa bata (vôi cát) rồi tiến tới sân lát gạch và cả sân xi măng thì cồng cộng biến hẳn như có phép thần.

Không còn mặt đất ẩm làm hang thì cồng cộng còn biết sống ở đâu?

Bị đoạt mất môi trường sống thì con gì cũng chết, kể cả con người chứ đâu riêng chỉ loài sâu đất?

Giờ thì trẻ con chẳng thể biết trên đời có con cồng cộng.

Chỉ khi hanh heo se se rét tôi lại nhớ mảnh sân đất sét thuở nhỏ với trò chơi câu cồng cộng. Mảnh sân tuổi thơ ấy trên quê giờ cũng không còn nữa!

Con người đi lên với nhiều cái hay, nhưng cũng bỏ phí mất bao điều tốt đẹp. Đó là môi trường, phần chính của cuộc sống.

Sáng tinh mơ, hít một hơi dài... Ôi! Mùi thơm bông gáo tràn căng lồng ngực…

 Biết rằng mùa nước đang về!

Thuở bé, mùa nước mới chớm, đám con nít trong xóm hễ thấy bông gáo nở là đòi ba chặt đọt trúc rồi vót mắt làm cần câu cá.

Nước lên, mỗi đứa một cần, í ới gọi nhau đi câu. Hồi đó, tôi khoái câu cá lòng tong bay nhất. Chỉ cần rải một nắm cám to xuống làm mồi nhử là chúng nó bu lại ăn, tha hồ mà “giật” cần tới tấp. Trời mưa ăn cá lòng tong kho quẹo quẹo với nước cơm là “bá cháy”!

Nhớ lại mấy chuyện hồi nhỏ, thấy mình cũng quậy quá xá. Lâu lâu lại rủ mấy đứa em chống xuồng ra ruộng hái bông súng, bông điên điển, rồi giở trộm lợp, kéo lưới của người ta, lượm cả hột vịt. Xách xô đem về, mẹ nhìn vô là biết ngay đồ “ăn trộm”. Bởi mấy con cá sặc, dòng nhà nó đời nào cắn câu, mấy con khác “rấy da róc vảy” do mắc lưới. Lúc bị phát hiện cả đám nhe răng ra cười hề hề rồi mạnh đứa nào nấy chạy, không thì bị đánh tét đít.

Mùa nước vui ơi là vui! Tắm sông. Vớt cà na. Chìm xuồng. Mỗi thứ một miền ký ức, một miền nỗi nhớ!

Độ này, tự dưng, nước sông đổi dòng, cá ít hơn hẳn, đi câu hì hục mới dính con cá lòng tong bay. Ngoài đồng, bông súng cũng thưa dần; cái thời ngồi ở đầu mũi xuồng nhìn xuống thấy cả rong, rêu tận đáy cũng không còn. Thèm cà na không còn trèo hái hay vớt dưới sông… đi chợ mua… mà vị thành khác!

 Độ này, về quê, tự dưng, không còn ngửi thấy mùi bông gáo…

Tự dưng thèm mùa nước hồi xưa!

Ở miền Tây, mỗi lần tới đám giỗ, con cháu khắp nơi đều ráng về nhà trước ngày giỗ vài ba hôm để cùng quây quần chuẩn bị. Nếu bạn đã từng dự đám giỗ ở miền Tây, cái mà bạn sẽ cảm nhận được rõ ràng nhất ấy là thứ tình cảm gia đình, tình bà con chòm xóm và thứ văn hóa hào sảng, phóng khoáng của người miền Tây. Thế mà, đôi khi lại bị nói là phung phí, là bày vẽ mới ngộ chứ. Có không héng? Ai mà biết! Với tôi, đám giỗ ở miền Tây là văn hóa, một văn hóa đẹp.

Đám giỗ, trước đó cả tháng, ngoại tôi dặn mấy dì để dành gà, vịt, heo. Ngoại đi chợ kiếm đúng loại bột Sa Đéc mua về để sẵn. Trước một ngày, ngoại kêu đi cắt lá chuối, phơi nắng cho lá dẻo, để gói bánh ít. Hồi đó, chưa có loại đậu xanh cà vỏ sẵn, nên phải ngâm đậu, đãi vỏ, hấp chín, tán nhuyễn, rồi mới xào làm nhân bánh ít. Nhân dừa phải dùng dừa rám, nạo bằng cái bàn nạo bằng sắt. Bạn có biết cái bàn nạo này không heng? Trái dừa chặt làm đôi, lấy nước để riêng, cái bàn nạo để trên ván hay ghế đẩu cho de cái đầu nạo ra ngoài, dùng chân đạp lên cái thanh sắt, hứng cái thau ở dưới, rồi cầm từng nửa trái dừa dùng tay mà nạo. Dừa nạo xong được sên với đường và đậu phộng rang đâm nhỏ. Buổi tối trước ngày đám giỗ là lúc gói bánh ít. Nhà ngoại tôi mỗi lần làm đám giỗ là làm tới năm, sáu mâm, mà chỉ có bà con trong nhà và hàng xóm gần nhà thôi đấy. Ngoại nói, mỗi nhà phải làm chừng chục cái bánh ít, để cầm về làm quà cho con nít ở nhà. Bởi vậy, phụ nữ trong nhà ngồi gói bánh ít từ chiều tới tối. Bánh chín, xếp hết ra sàng là nghe gà gáy đợt đầu. 

 Bộ ván (hay bộ ngựa) là thứ hầu như gia đình miền Tây nào cũng có, người ta ăn cơm trên đó, nằm ngủ trên đó, “quánh” bài từ sắc trên đó, mấy ông sương sương vài xị cũng trên đó, con nít quậy phá bị bắt nằm cúi chờ đánh đòn cũng trên đó. Đồ múc ra tô dĩa, chuẩn bị dọn lên cúng cũng được để lên ván, ngoại coi coi đủ món hay chưa rồi mới bưng lên bàn thờ, đốt nhang mời ông bà về ăn. Tô, dĩa, chén sau một thời gian dài nằm trong tủ, được đem ra rửa sạch và cũng được “diễu binh” trên ván trước khi “xuất trận” trong ngày đám giỗ. Dĩ nhiên, gói bánh ít cũng ở trên bộ ván đó luôn. Thau bột được để chính giữa, kế bên là một mâm đựng nhân đậu và nhân dừa đã vo viên tròn, vài chén dầu để cầm bột không dính, mấy xấp lá chuối đã phơi, được xé làm hai cỡ, cỡ lớn để gói, cỡ nhỏ để lót. Gói bánh ít tưởng khó, chớ cũng không khó lắm. Trước tiên là ngắt một cục bột, vê tròn rồi đánh mỏng ra, lấy một viên nhân bỏ vô giữa, lại vê tròn giống như làm chè trôi nước. Thấm một chút dầu vô tay, xoay cái bánh ít trong tay vài vòng cho thấm dầu, lấy một cái lá chuối, xoắn hình cái quặng (phễu), bỏ cái bánh vô trong bẻ gập hai mép lá và gói lại. Nếu là bánh đậu thì xé đuôi lá một cái để làm dấu. Bánh gói xong xuôi được xếp vô xửng và đem hấp. Bánh dừa khi chín thường có màu xanh trong của lá, bánh đậu có màu hơi ngả vàng như màu trà.

 Ngoài món bánh ít là món phải có của đám giỗ miền Tây, những món còn lại thay đổi theo từng nơi. Nhà ngoại tôi thì phải có món bì cuốn, thứ bì cuốn bằng bánh tráng bự như cái mâm, mười cuốn như vậy được cuốn chung lại với nhau, sau đó thì cắt khúc vừa ăn, dọn lên dĩa thật là đẹp. Nhà ngoại cũng hay làm heo quay ăn với banh bao nhỏ chiên, bánh hỏi hoặc xôi. Gà thì thường được nấu cà ri và nấu cháo. Vịt thì đem nướng hay nấu chao. Còn có các món chè nữa, ngoại tôi hay nấu chè đậu trắng. Món ăn đám giỗ thường là những món ngày thường ít nấu, chứ không hẳn là món thiệt là đặc sắc của miền Tây. Cái chính là dịp bà con hàng xóm gặp nhau, ngồi lại dùng chung bữa cơm và hàn huyên đủ chuyện xưa nay. Mấy bà thì vừa gói bánh ít, cuốn bì cuốn vừa nói chuyện giá cả, chuyện con cái, chuyện đi coi mắt con dâu, bàn xem nên ưng đám nào. Mấy ông thì ngồi rề rà rượu đế, nhắc cái thời trai trẻ hồi xưa, bàn chuyện thời sự hôm nay, hỏi han nhau chuyện làm ăn, dự định sắp tới. Đám giỗ còn là dịp bà con trong họ dẫn con dâu con rể, đứa con, đứa cháu mới đi xa về (hoặc chuẩn bị đi xa) đi chào mấy cô mấy bác. Hay chỉ là cái cớ để mấy người xa quê về nhà ở lại nhà tổ lâu lâu một chút, gặp được nhiều người lâu rồi hông gặp, nhắc lại “tuổi thơ ban đầu” với đám bạn già hồi nhỏ.

 Rất lâu rồi, tôi không có dịp dự đám giỗ miền Tây, để trải nghiệm lại cái tất bật khi chuẩn bị, khi mệt lả người chạy ra chạy vô dọn mâm rửa chén vì bà con tới ăn giỗ từ sáng tới chiều tối, nhiều khi qua tới ngày hôm sau. Đám giỗ miền Tây là vậy, kéo dài mấy hôm liền từ khi chuẩn bị tới ngày cúng chính rồi kéo dài sang vài ba ngày sau là chuyện thường. Nhớ cái náo nhiệt của những ngày đầu, hay cái giòn giã, sáng khoái của tiếng cười nói lúc nhập tiệc. Nhớ cả sự bịn rịn khi chủ nhà trao cho khách bịch bánh ít làm quà cho đám nhỏ ở nhà, và dặn dò “Năm sau là phải có mặt nữa đó nghen chú Ba, nhớ dẫn theo thằng Tèo, con Tí nữa nha.”

 Đám giỗ bây giờ chắc không được như xưa, nhưng nếu có người miền Tây nào rủ bạn về quê ăn đám giỗ, nhớ đừng từ chối nghen hông! Đi đi, biết đâu bạn sẽ thấy, sẽ nghe tự nhiên trong xóm có tiếng vọng ra hỏi một anh ôm con heo con đi ngang “Bây đem heo đi đâu đó”. Rồi anh kia sẽ đáp lại là “Đem ra chợ nhờ họ quay, mai nhà còn đám giỗ, thím ghé chơi”. (Chớ hông phải giọng Trung Dân nói “dao thớt để ngoài này nè má ơi” đâu à nghen). 

hời thơ ấu của tôi

Đăng lúc: Thứ sáu - 16/11/2012 20:41

Tôi sinh ra và lớn lên ở nơi cách nơi sinh của nhà văn Sơn Nam không xa lắm, cùng trong một huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang, chính vì thế mà khi đi học tôi có rất nhiều ấn tượng với những tác phẩm truyện ngắn viết về miền tây của ông.

Từ lúc tôi chập chững tập những bước chân đầu tiên cho đến trước khi vào lớp 1, tôi được ba mẹ gửi sống cùng với ông bà ngoại. Những gì còn đọng lại trong ký ức quãng thời gian đó khó mà đọng lại được trong tâm trí của một đứa trẻ lên 5 lên 6. Nhưng đâu đó, đôi khi nó vẫn ùa về khi bắt gặp một hình ảnh gợi nhớ những kỷ niệm ngày xưa, đó là những món ăn, những trò chơi quen thuộc đã theo tôi suốt thời thơ ấu mà đã 10 năm nay tôi ít khi nào được nhìn thấy nữa.

Ngoại tôi, gần như mỗi ngày, đều gói bánh lá dừa để bán dạo khắp xóm, có hôm thì ngoại lại đổi món sang bánh ú lá tre. Hai món này có thể nói là “ám ảnh” tôi vì hồi đó ngày nào, tôi cũng được ăn thay cho một buổi cơm trong ngày. Thời ấy, hầu hết những đứa trẻ trong xóm, đứa nào cũng thích thú khi được ba mẹ mua bánh cho ăn. Vùng nông thôn, xa chợ, xa đường giao thông nên những chiếc bánh đơn giản ấy là những món quà vặt vô cùng hấp dẫn đối với bọn trẻ.

Rồi đến ngày tôi vào lớp 1, trở về sống cùng với ba mẹ, tôi có chút ngỡ ngàng trong ngày đầu tiên đến trường, nhưng rồi tôi cũng quen nhanh lắm. Nhà tôi ở cách nhà ngoại khoảng 15km, nằm bên kia bờ con sông Cái Lớn hiền hòa đầy ắp tôm cá, gần một cái chợ nhỏ và một ngôi trường với ba phòng học bằng cây lá - ngôi trường đã gắn bó với tôi suốt những năm tôi học cấp 1.

Cái chợ nhỏ là thế mà sáng sáng, các gánh hàng bày ra biết bao nhiêu là món: nào là bánh tằm, bánh bò, bánh chuối, nào là bánh ống, bánh mỳ, xôi ngọt,… rồi còn có bún, cháo, hủ tiếu,… được bán trong các cửa tiệm không thể không kể tới. Mỗi ngày một món, thay phiên nhau nên chẳng bao giờ thấy ngán, hay cũng là vì các hương vị bánh miền tây mình ngon quá chăng?

Bữa sáng trước khi đi học của tôi ngon lành như vậy đấy. Trưa về, ăn cơm nhà với những món dân dã, đơn giản nhưng hương vị thì không thể nào quên được. Cái xứ được mệnh danh là chim trời cá nước thì trong bữa ăn chính của gia đình không bao giờ có thể thiếu những món ấy cho được.

Ở Sài Gòn nói thế chứ, trừ gà vịt thuộc họ chim ra thì họa may chỉ thấy được con chim cút chiên bơ, hương vị nó thực sự quá tầm thường nếu so với thịt của những loài cúm núm, ốc cao, chằng nghịch, mỏ nhác, cò, diệc,… có thể rô ti, khìa, hay nướng, hoặc xào hành,…

Còn cá ư? Biết kể như thế nào cho hết? Phổ biến nhất vẫn là con cá chốt. (Có một điều tôi xin khẳng định: ở miền tây bạn không thể nào làm giảm lượng cá chốt đi được.) Cá chốt, nhất là trứng của nó, kho tiêu hoặc kho sả ớt đều ngon. Những loài cá khác, số lượng cũng không ít như: sặc bướm, rô đồng, trê vàng, lóc,,… cũng có thể làm ra những món vô cùng hấp dẫn. Cá sặc bướm con nhỏ hơn cá sặc rằn, chủ yếu dùng làm mắm. Cá rô đồng, cá lóc thì hấp, kho tộ, nấu canh chua,… Cá trê vàng thì chiên tươi hay nướng xiên và những loại khác thì còn nhiều cách chế biến ngon lành đáng xếp vào hàng đặc sản hết cả.

Có một món đặc sản mà hẳn ai cũng biết, đó là chuột đồng. Ở quê tôi, chuột đồng hay chuột dừa đều có đủ và con nào cũng cho món ngon. Thịt chuột thì làm món gì cũng đều hấp dẫn cả, từ món nướng, chiên, kho với củ hành tím, cho đến nấu canh chua bằng cơm mẻ.

Ăn no xong thì chơi, con nít nó như vậy mà. Những trò chơi của lũ trẻ như tôi ngày ấy đơn giản lắm và luôn tận dụng các thứ có sẵn. Chong chóng làm bằng lá dừa, cắm vào ống sậy mà vẫn quay đều, trái banh thắt bằng lá dừa cũng được đá và ném vào khung thành. Rồi những trò đuổi bắt nhau trên bờ hay dưới nước, nhào lộn khi tắm sông, tôi nhớ, nhớ lắm, không thể nào phai nhòa trong ký ức.

Còn nhiều kỷ niệm khác nữa mà nếu tôi kể ra chắc chắc các bạn phải đọc đến mai. Đó là những mùa lúa trĩu vàng trên cánh đồng; những lần tát ao bắt cá cuối mùa khô; những trò chơi còn nhiều lắm nhưng chưa kể; những câu hò, điệu lý, những khúc dân ca mà giai điệu của chúng vẫn mãi là một phần trong ký ức của tôi.

Những món ăn, những trò chơi cứ thế theo tôi lớn lên từng ngày. Từ lúc nhỏ theo ba ra đồng mót tìm củ năng đem về hấp đến khi lớn hơn, cầm nom cầm giỏ đi một buổi là có thể bắt vài ký cá đủ loại, đánh bẫy chừng dăm ba con cò, càng ngày những kỷ niệm càng gắn bó thì càng gần đến ngày tôi phải đi học xa nhà. Ban đầu là học cấp 3 ở thị xã, rồi lên TPHCM học đại học, tìm kiếm con đường thành công cho mình.

Mang theo bên mình những kỷ niệm thời thơ ấu, có dịp về thăm quê, tôi vẫn thường mời bạn bè phương xa về cùng, giới thiệu những món ăn dân dã nhưng với tôi là cả một niềm tự hào,- những món ăn miền tây chẳng nơi nào sánh được.

Một lần nào đó, mời bạn hãy đến thăm miền tây quê tôi để thấy tình người chan hòa hiếu khách và thưởng thức những món đặc sản miền tây.

ôi ghé Cao Lãnh vào một chiều tháng tám mưa ngâu rả rích.

Theo anh bạn lênh đênh trên chiếc xuồng nhỏ, ngắm cảnh trời chiều. Cái thói thơ thẩn đầy thú vị. Một bức tranh hoàng hôn trơ trọi, chìm buồn man mác. Cây trọi lá. Đậu trên đó là con chim trọi đầu (chim gì không biết tên), ở phía dưới là một lũ ếch nhái cũng trọi đầu luôn. Gảy bài "Ếch đờn vọng cổ" mà buồn thỉu buồn thiu.

Nghề Ăn Mùa Nước Nổi.

Nghe đâu mùa này cá linh về đẻ nhiều lắm, có cả cá lóc, rô đủ loại. Nghe vậy chứ từ đâu nó về, làm sao mà nhiều vậy... thì tôi cũng không đặng biết! Mùa này ớn nhất là rắn! Chiều ra ngõ là nghe ngay tiếng có nhái kêu rít rít, lắng tai mon men lại gần, thì ối trời đất ơi - một con rắn đang siết con ếch bự! Hoảng quá không dám đi ra ngoài nữa.Trên ruộng nước thì rắn càng nhiều hơn! Lặn lên ngụp xuống, nhiều khi đi qua, nó ngóc đầu thè lưỡi cứ tưởng nó chào mình.

Đợt rày, thấy nhiều nhà làm trúm lươn. Hỏi ra mới biết mùa nước nổi là mùa kiếm bộn.

Tối đến được theo đứa bạn đi câu ếch. Câu ếch cũng giống như câu cá: móc mồi, thả câu, chỉ khác là chuẩn bị cần ngắn và mồi câu là cá, ốc bằm...Vậy là xong! Cần càng nhiều thì thu càng nhiều. Không thích câu thì đi bắt vậy! Tìm chỗ nào ếch kêu nhiều, lần đến và chụp?!

Bữa nọ, chèo xuồng hái bông điên điển về nấu canh chua - trên ruộng nước mênh mang - thì gặp ngay một em gái miền tây chèo xuồng hướng ngược. Mà nói nhỏ bà con nghe chứ con gái miền tây không được xinh lắm. Tôi nghe thằng bạn kể rằng con gái miền tây mộc mạc, chân quê. Không môi son, má phấn quần áo điệu đà đâu! Cũng chẳng có õng ẹo hay man lơn như mấy cô trên thành thị, vậy nên có bạn nào lỡ đem cái tiêu chuẩn người đẹp ấy để so sánh với con gái miền tây thì bạn sẽ hụt hẫng!

Tôi chào em. Đôi mắt hiền của em nở một nụ cười ngượng, khuôn mặt lấm tấm bùn và mồ hôi. Mà em í khó lắm đấy! Hỏi tên không nói, hỏi nhà cũng chỉ cười mà nào tôi có chút đùa chi đâu?!

Tôi hích anh bạn chèo xuồng lại gần - lúc đó cũng không biết làm chi nữa - chỉ muốn được làm quen, được nghe giọng nói, được trò chuyện một chút thôi. Em cười. Trò chuyện một hồi mới biết em đi đặt nơm về, cái chiều nước nổi coi bộ em thích thú lắm. Sẵn hỏi, có câu được cá không em? Mỉm cười, lấy ngay từ giỏ ra một con rắn vàng khè khoe "chiến lợi phẩm"!!!!

Mà nghe con gái xứ này không biết sợ rắn là gì, rắn nước, rắn bông súng ngoài đồng không kể, đến cả rắn lục đuôi xanh đuôi đỏ - nghe em kể - xem ra cũng bình thường: “nó sinh sôi nảy nở nhiều, lắm khi những mái nhà tranh sột soạt tiếng rắn kêu, bò, trườn hay khè lưỡi mà dân miền tây chỉ xem đó như chuyện đùa.”

Thấy tôi mặt mày xanh lét, em còn "dã man" hơn:

- Sở trường của em là đi câu rắn (mãi sau này tôi mới biết câu rắn ra sao).

Nghe em nói nhiều, kể nhiều điều về cánh đồng này, dòng sông, mái nhà tranh nếp lá mà thấy thương em quá!

Lát sau, tôi cũng biết được tên em,và bất ngờ hơn được em mời đến nhà chơi - nghe em bảo “phải đi qua mấy cây cầu tre, cầu khỉ khó lắm”, nhưng tôi đáp rằng “anh không ngại!!!”

Thế rồi... thế rồi sau đó, thôi không kể nữa, chắc mọi người cũng đã hiểu!

Phong vị Tết đến từ mùng 1 tháng chạp. Khi má bưng đĩa trái cây lên bàn thờ thắp nhang đầu tháng, thuận tay xé tờ lịch ngày 30 âm tháng 11,
má bảo:
-  Còn 1 tháng nữa là Tết, chuẩn bị dần đi là vừa.

-  Còn những 29 ngày nữa mới tới Tết cơ mà, tôi lẩm bẩm.
Mọi chuyện vẫn như ngày thường; ba vẫn đi tới ủy ban, chị Hai tới bệnh viện, tôi tới công ty, thằng Út đến trường, má vẫn nấu những món ăn ngày thường. Tóm lại chẳng có gì thay đổi, trừ việc một tuần sau chị Hai mang về nhà tặng má một bộ đồ bằng lụa tơ tằm có thêu bông rất đẹp. Nghe đâu chị đã gửi mua ở tận ngoài Hà Nội. Chất vải mềm, mát rượi cả tay khiến má rưng rưng cảm động. Tôi bấm chị Hai: Chắc má nhớ quê. Cái làng nhỏ nơi quê Hà Đông nổi tiếng về  lụa hàng và con gái đảm đang.
 Ba là dân trong này, theo ông bà nội tôi ra Bắc tập kết từ nhỏ, lớn lên ngay tại đất lụa, yêu và cưới cô bạn học cùng trường được hơn nửa năm thì đi B. Tới năm 72, bà nội tôi mất trong trận bom thời kỳ Mỹ leo thang  bắn phá miền Bắc. Má tôi vò võ  nuôi cô em chồng còn nhỏ dại lại bị điếc vì tiếng bom, và chờ đợi chồng, dù không có tin tức gì của ba tôi cả. Tới năm 75, giải phóng cũng không thấy ba về. Ông nội và  họ hàng bên  ngoại đều khuyên má lấy chồng nhưng má nhất quyết vào trong này tìm ba, khi đó đang nằm trong Quân y viện với 4 vết đạn còn lại trên người. Khi ba khỏe, ba má quyết định chuyển hết gia đình vào trong này sinh sống. Khi đó cái đặc khu Vũng Tàu này còn là một vùng quê nhỏ bé và hoang vắng, chỉ dùng để nghỉ mát.. Rồi 3 chị em tôi lần lượt ra đời, cách nhau có năm một. Cái thứ lụa quê hương chắc gợi cho má nhiều kỷ niệm. Chị Hai thiệt là tâm lý hết biết!

Ngày 23 tháng chạp


Không khí đã ra vẻ Tết  lắm. Những quầy bánh mứt, bia rượu, quần áo may sẵn được bày bán khắp nơi. Rải rác hai bên đường đã vàng tươi những hàng hoa Tết. Mai đang chúm chím những nụ hoa nở sớm. Cúc vàng rực rỡ khoe màu cùng hồng, thược dược tươi thắm được đưa từ Đà Lạt, Long Thành, Bà Rịa về. Những chậu bonsai  lớn nhỏ đủ hình đủ kiểu được đặt thành hàng dãy bên cạnh. Ở nhà, ba cũng đã mua thêm hai chậu cây nguyệt quế được uốn cắt thành hình hai con hươu rất xinh. Trưa 23. Má, chị Hai và mấy người bà con trong họ đi tảo mộ, cúng mời ông bà về ăn Tết không quên mang theo cặp cá chép cúng ông Táo lúc sáng. Má cũng kêu tôi đi cùng nhưng nghĩ tới việc cuốc cỏ, nhổ cây,  lau chùi bia mộ rồi còn bày biện ăn uống xôi gà tại chỗ mất cả buổi, tôi  lấy cớ cuối năm công ty nhiều việc, không xin về sớm được lỉnh luôn. Tệ!


Ngày 25


Ở công ty, công việc tổng kết cuối năm đã hoàn tất. Mọi người đều thở phào. Các phòng ban xôm tụ bàn chuyện Tết. Mấy chị trong phòng quây quần nghe chị Nguyệt bày cách làm dưa giá sao cho giòn. Cho gì vào để củ kiệu được trắng, cả cách chọn dưa bằng cuống sao cho đỏ  nữa. Ở nhà má và chị Hai cũng loay hoay làm mứt Tết. Mứt sơ ri đỏ tươi. Mứt dừa trắng tinh. Mứt rau câu trong suốt. Mứt khoai vàng ươm. Các thứ lá giong, lá chuối, gạo nếp, đậu xanh, thịt mỡ, dừa bào, hành tiêu để gói các loại bánh chưng, bánh tét cũng đã được chuẩn bị chu tất. Gói bánh sớm để gửi biếu bà con trong họ, họ ngoại một cặp bánh chưng vuông, họ nội một đòn bánh tét dài. Má cũng không quên gửi mấy anh chị cùng làng về ăn Tết vài chữ kèm phong bao ra Bắc cho các bác tôi mua bánh trái, hương hoa về cúng ông bà cụ kỵ ngoài đó. Nghĩ đến cái không khí ẩm ướt mưa phùn, ho sù sụ trong chiếc áo bông, những ngón tay đỏ bầm vì lạnh hồi về thăm quê vào mùa đông mấy năm trước, răng tôi đánh vào nhau lập cập.


Ngày 29


Công ty đã nghỉ Tết. Không còn lý do để lẩn việc nhà  nữa lại thêm muốn ra vẻ năm nay mình cũng đã lớn bộn, chứ không còn nhỏ nhít gì nữa, tôi xem đi xem lại những thứ trong bếp, trong tủ lạnh, rồi phóng xe đi chợ  sắm Tết. Đã ghi nhớ mọi việc trong đầu suốt đoạn đường, vậy mà vào chợ thấy bề bộn hàng hóa, rau quả, thực phẩm tôi chẳng biết nên mua những thứ gì trước, thứ gì sau. Cuối cùng vẫn là thấy thứ gì cần mua thứ ấy. Chọn mua 3 ký thịt heo ngon và hai chục hội vịt mới để làm món thịt kho tàu. Mua mướp đắng, nạc dăm để nấu khổ qua. Một vài thứ rau củ để được lâu và vài thứ bánh tráng, măng, miến, nấm mèo. Tai heo ngâm giấm, dưa giá, kim chi, củ kiệu thì hai thành viên đảm đang trong nhà là má và chị Hai đã chu toàn rồi, mua thêm mà dư là bỏ uổng. Còn gì nữa nhỉ? À, mâm ngũ quả (những thứ này còn đến phần tôi là vì má và chị Hai sợ mua sớm,  mâm ngũ quả chả thể thọ nổi tới khi dập chân nhang). Tôi mua dừa, xoài, mãng cầu, đu đủ theo đúng câu khấn: “Cầu vừa đủ xài”. Bụng thầm cười: sao không cầu cho dư  mà chỉ đủ xài nhỉ?


Sáng 30


 Nhà cửa trang hoàng bày biện xong xuôi cả. Hai quả dưa hấu nặng cả chục ký,  bày hai bên bàn thờ, trên mỗi quả dưa đều có dán chữ phước bằng giấy hồng điều. Giữa bàn thờ là mâm ngũ quả  với đầy đủ mọi loại trái cây bưởi, mận, vú sữa, táo, quýt, sapoche…, lại còn có cả một chùm sung để cầu cho một năm sung túc đủ đầy nữa.  Một cây mai chúm chím nụ với vài cái bông nở hết đã làm vàng rực góc căn phòng khách. Một cành đào hồng hồng hơi có vẻ nhợt nhạt yếu ớt bên cây tắc sum sê những trái vàng tươi. Thằng Út thương cành đào nhiều nụ ít bông, khơ khẳng nên lấy giấy hồng điều cắt làm hoa giả dán lên. Nó cắt rất khéo, cành đào rực rỡ y chang hoa thiệt  nhưng đồ giả thì có đẹp đến mấy, cũng vẫn là đồ giả thôi.


Cả nhà xúm vào lo cơm cúng tất niên, có gà, có gỏi, có chân giò hầm thuốc bắc, có thịt nguội bát bửu, thịt kho tàu, có canh măng hầm cũng có cả canh khổ qua. Trong gia đình tôi, các món ăn bao giờ cũng được nấu theo hai kiểu bắc, nam. Chỉ có điều, ba thì thích giả cầy, giò thủ má lại hay ăn các món dưa giá, gỏi chua. Ba chị em tôi thì món gì cũng làm láng. Má bảo: Tụi này ăn tạp như cá măng. Tôi kêu: Câu này má học của con đó nghen!


Đêm 30


Cái câu tối thui như đêm 30 không đúng với Tết ở tỉnh thành, chí ít cũng không đúng với Tết ở khu phố này. 11 giờ khuya mà thấy đường đi lối lại vẫn sáng trưng. Nhà nào cũng đèn điện, nhang nến làm gì mà chẳng sáng. Mùi nhang đèn, mùi hương hoa bánh trái hắt cả ra đường, tạo nên hương vị của ngày Tết thật đậm nét. Ở nhà, má cũng làm xong cỗ cúng giao thừa. Một con gà trống luộc, mỏ có ngậm hoa hồng. Bánh chưng bánh  tét xắt miếng. Dĩ nhiên có thêm cả món thịt kho hột vịt của tôi nữa.


Tiếng trống giao thừa vừa cất lên. Ba tôi trong bộ veston trịnh trọng bước vô chúc Tết cả nhà. Ba chúc cả nhà làm ăn phát tài, hên nhiều, rủi ít. Ba cũng lì xì  cho cả chị Hai, tôi và thằng Út. Chúc chị Hai tôi sớm có bồ, chúc tôi “người lớn" hơn một chút, chúc cậu Út ngoan, học giỏi. Chị Hai cũng đại diện cả 3 chị em chúc ba má mạnh khỏe, làm ăn phát tài, luôn hạnh phúc. Lời chúc trịnh trọng nghiêm túc của chị khiến tôi  suýt phì cười. Sau giao thừa, ba má ở nhà  chờ các anh chị bên  bác Hai sang chúc Tết. Tôi theo tụi bạn cùng phố đi hái lộc. Dạo hết các chùa thấy còn sớm, người đi đường vẫn đông, cả bọn lại kéo nhau lên Thích ca Phật đài. Leo lên chỗ tượng phật nằm  ngào ngạt nhang khói, con Hà bấu tay tôi:


- Từ nãy giờ thắp nhang hoài mà không thấy cầu?


- Cầu gì giờ?


- Thì cầu cho chóng có bồ; mà bồ phải đẹp trai, ga lăng để giao thừa sang năm hai đứa còn dắt tay nhau lên đây cúng: “nam mô di bố phụ hữu duyên mà thiên lý ngộ, ngộ kỳ thời, con sáo nó sang sông, ra giêng anh cưới em” í mà.


Tôi không cười, thấy bồn chồn nóng ruột. Không biết bây giờ người ta đang làm gì? Giá chi lời ước của nhỏ Hà thành sự thực. Tôi đã 23 tuổi rồi còn gì.


Ngày mùng một


Có lẽ chẳng có ngày nào mà mệt mỏi và đáng ngán đối với tôi như ngày mùng 1. Buổi sáng làm nhiệm vụ của chủ nhà  lì xì cho mấy đứa nhóc, nhận lì xì từ mấy người lớn (khoản này hiếm hoi lắm nha, vì tôi đã đi làm nên hết tuổi nhận lì xì rồi). Thỉnh thoảng tôi lại phải chạy ra chạy vô mang đồ ăn lấy đồ uống theo lệnh của ba và chị, nếm một chút mứt tết cùng khách, nghe chúc tụng những câu giống nhau như đúc ra từ một khuôn.


Không tâm sự tình cảnh, nỗi niềm, không nói chuyện buồn chán, nên khách hầu hết  chỉ ăn uống, ngó nghiêng, khen những lời khen giống nhau  như: Cây mai đẹp quá, hoa Tết cháu nó cắm đẹp thật, mấy cháu lớn quá, ngoan quá, mứt chị làm khéo thế... Buổi chiều,  tôi lại phải làm cái nhiệm vụ của các vị khách, nghĩa là cùng ba, má đi chúc Tết; lại chúc, lại ăn mứt, lại cắn hạt dưa, lại nói y chang những câu, mọi người đã nói lúc sáng. Rồng rắn hết nhà bà con, hàng xóm cũng tới tối mới về tới nhà.


Sáng mùng hai 


Nếu ngày mùng một người ta chỉ đi chúc Tết quanh quẩn thì mùng hai mọi người, nhất là lớp nam thanh nữ tú tụi tôi, như bị dồn cả ra đường. Người nào cũng bận đồ thật đẹp; váy, áo dài thướt tha, lướt qua lướt lại. Một số tiệm ăn, giải khát, rau quả, tạp hóa đã khai trương. Hàng hóa tuy lèo tèo nhưng cũng có khá nhiều người mua. Trừ những quán cà phê mà tụi tui thường ghé vào kêu ly chanh đá uống đỡ khát, còn lại tôi chẳng bao giờ mua bất cứ cái gì vào ngày mùng hai, mùng ba vì mọi thứ đều mắc và rất có thể lại là đồ second hand nữa. Trên mấy đường hẻm có mấy ông trung niên và một đám trẻ con tụ tập xem đá gà. Cái thú chơi này xem ra không còn thịnh hành bằng những bàn bida ở ngay cạnh đấy nữa. Nhưng có lẽ đàn bà và lũ nhóc tập trung đông nhất trên mấy đường lớn để xem múa lân. Cái đầu lân với những sợi râu bạc lắc qua lắc lại không thu hút người xem bằng ông địa tròn trĩnh với cái mồm toe toét và cái bụng chang bang. Thỉnh thoảng ông địa lại cầm cái quạt, sấn tới, quạt thốc vào mấy đứa táo tợn cứ bám sát để lật bụng hay mặt nạ của ông. Hồi năm cấp II, tôi cũng hay tham gia phong trào múa lân lấy tiền thưởng gây quỹ lớp hoặc quỹ từ thiện. Bây giờ nhìn những võ sĩ trang bị đại đao, mã tấu, trống kèn rộn rã sau lân bỗng thấy nôn nao, náo nức…


Tối mùng hai, mấy đứa lại kéo nhau đi hội chợ xuân với rất nhiều trò chơi vui; ném vòng, bắn súng, quay số... Toàn những trò cũ xì nhưng tôi vẫn chẳng bao giờ được gì. Tụi con Hà, thằng Toàn chơi trò quay tiền lẻ rất hên được một mớ mì gói, bánh quy, nước ngọt nên ham lắm, có bao nhiêu tiền lì xì dốc ra chơi hết. Nhìn cái bịch nặng những chiến lợi phẩm bất đắc dĩ trên tay nhỏ Uyên mới thấy buồn cười: Nếu tổng số tiền mua vé được dùng để mua những thứ đồ đó thì số quà phải được gấp đôi, mà lại đỡ công mong ngóng lo lắng. Thế mà những trò chơi thực ra là một kiểu bán hàng khôn khéo đó vẫn thu hút được bao nhiêu người. Tức cười thật.


Sáng mùng ba


Vậy là hết Tết. Ngày mai đi làm rồi. Sao một tuần nghỉ Tết trôi qua nhanh thế ? Nghĩ tới chuyện 6giờ sáng mai phải bò dậy mà ớn. Tính nướng thêm một chút nữa nhưng tiếng ba má bàn tính chuyện gì đó, cả tiếng nhạc thằng Út mở to tướng khiến tôi phải bật dậy. Má dặn bữa nay phải làm cơm cúng ông bà, có mời chú, bác và mấy người bạn của bố tới nên hai đứa bây ráng làm cẩn thận. Má và chị Hai làm món chả giò. Tôi loay hoay với món cuốn tôm cổ truyền của gia đình. Món này ăn ngon, cuốn cũng nhanh, nhưng chuẩn bị thì lâu lắc. Mất gần một giờ sau, những chiếc cuốn tôm cuộn hành nhúng, rau thơm, bắp cải, tôm, thịt mới được xếp vòng tròn trên ba chiếc đĩa sứ Trung Quốc trắng tinh. Khi những chiếc chả giò nhỏ nhắn, xinh xẻo đang vàng dần trong chảo, thì mùi thơm của nồi cháo cá lóc cũng ngào ngạt bốc lên. Má nhắc chị Hai trông chừng vớt gà để còn cho măng vào. Thêm một tiếng nữa thì những món ăn do mấy má con đạo diễn hoàn thiện. Hơi mắc cỡ là cái món tôi đạo diễn thì lại dở nhất vì những chiếc gỏi cuốn bị chê là to quá.


Tối mùng ba


Thế là hết Tết thật rồi. Tôi uể oải nhai miếng bánh tét, dúm lấy một dúm hạt dưa leo lên phòng mình. Làm gì bây giờ, người tôi mong đã không tới, đúng như dự đoán. Mà người ấy tới làm sao được? Bây giờ đang là thế kỷ hai mươi mốt rồi lấy đâu ra chàng hoàng tử cưỡi con ngựa bạch nữa chứ? Và con tàu với những cánh buồm đỏ thắm cũng chỉ xuất hiện trong những tiểu thuyết diễm tình mà thôi. Ước mơ sẽ mãi  chỉ là ước mơ. Thế mà ngốc nghếch sao, tôi cứ chờ, cứ đợi. Thật là trẻ con quá! Nghe nhạc vậy. Bài “Happy new year” quen thuộc  của băng ABBA với giọng nữ cao của  Agnetha Fältskog vút lên "No more champagne and the fireworks are through, here we are me and you, felling lost and felling blue... May we all have our hopes, our wills to try if we don’t we might as well lay down and die you and I

- Rượu sampanh đã cạn rồi và pháo hoa cũng đã tàn. Tất cả chúng ta ngồi đây đều bỗng cảm thấy mất mát và cảm thấy buồn... Chúng ta tất cả đều mang trong mình những dự định những ước mơ nếu không chúng ta có khác chi người đã chết”.

Bài chúc mừng năm mới sao mà buồn. Thay băng khác vậy. Hừm..  “Top of the world” xem nào. “ I’m on the top of the world, looking down on creation and the only  explanation I can find is the love that I ve found ever since  you’ve been around. Your love's put me at the top of the world... (

Em đang ở trên đỉnh thế gian nhìn xuống nhân loại. Và lời giải thích duy nhất em có thể tìm thấy  cho niềm hạnh phúc này đó chính là tình yêu em có  từ lúc anh đến bên em. Tình yêu của anh đã khiến em thành người hạnh phúc nhất  thế gian

). Quá chuẩn. Mong rằng thời gian còn lại sẽ là những ngày “ tột cùng hạnh phúc”.


Sáng mùng bốn


 Đang mơ màng theo thói quen nằm nướng, có từ cả tuần nay, thì tiếng má từ dưới vọng lên: Con Liên, thằng Út có dậy đi làm, đi học không? 6 giờ sáng rồi. Bộ tụi bây tưởng hôm nay vẫn còn Tết chắc?

Hồi 15 tuổi, khi chuẩn bị qua Đức với dì để tiếp tục học, cô Dung hàng xóm hỏi tôi: 'Thế cháu không nhớ nhà à?'. Tôi lắc đầu.

Không biết có phải vì hồi đó tôi quá nhỏ để hiểu nhớ nhà là thế nào hay là vì từ khi cai sữa mẹ, tôi đã về ở với bà ngoại suốt những năm tháng ấu thơ, nên đã quen với cuộc sống "xa nhà". Chẳng phải vì thế nên những người bạn của tôi ở Mỹ, Pháp, Hà Lan và Đức thường bảo: "Con bé này gan lì thật, đi một mạch mấy năm với về thăm quê được một lần".

Tôi ít khi nhớ nhà trong những chuyến đi, nhưng gần đây không hiểu vì sao có một cái gì đó cứ tràn về choán đầy kí ức. Hôm qua cậu em trai nhắn tin sang bảo: "Mẹ gọi điện cho em bảo nhắn tin sang cho chị, dạo này mẹ cứ có linh cảm điều gì không tốt cho hai chị em mình". Tôi nhấc máy và gọi điện về cho mẹ, để mẹ biết rằng tôi vẫn bình yên và vẫn nhớ mẹ nhiều. Tôi bảo mẹ: "Dạo này bên con mưa dai dẳng, chẳng khác gì mưa phùn ở mùa xuân quê mình mẹ ạ. Hôm nào được nghỉ làm, nhiều khi con chẳng muốn làm gì, chỉ thích chui vào chăn đọc một cuốn sách rồi ngủ cho hết ngày thôi..."

Sáng nay ngủ dậy, chui ra khỏi chăn, 5h sáng ở Đức trời tối đen như mực, nhìn ra cửa sổ chỉ thấy những ánh đèn điện nhấp nháy bên khung cửa của những căn nhà đối diện, tôi chợt nhớ về giấc mơ đêm qua. Tôi đã mơ về một miền quê cũ của tuổi thơ với những con đường đất đỏ ở xã Hợp Thành và những đứa bạn hàng xóm sát nách bên nhau: cùng đi tắm sông, cùng chơi bắn bi, cùng đi bắt đom đóm. Nhưng trong giấc mơ của tôi hình như mang một mùi gì đó mà tôi không định hình nổi, nên cho đến giờ tôi vẫn gọi nó là mùi quê hương với một bữa ăn đạm bạc, có mấy lọn cá kho, một ít muối vừng và lạc rang nước mắm. Những khoảnh khắc ấy hiếm khi trở lại trong kí ức tôi sau này, nhưng ngay lúc này đây, chưa bao giờ tôi lại thấy mình nhớ rõ đến như thế. Và tôi biết, lũ bạn cùng đi tắm sông, đi bắt đom đóm với tôi ngày ấy, tất cả đều đã lập gia đình và an phận, chỉ còn tôi như cánh chim trời vô định...

Hôm vừa rồi bà mẹ nuôi người Đức dẫn tôi và mấy đứa em đi ăn ở một nhà hàng châu Á, tôi bảo đùa với chị chủ quán: "Lâu lắm rồi em mới được ăn gạo Việt Nam đó!", chị bảo nếu thích thì chị đưa cho một ít gạo về nấu nhưng tôi cười và khua tay: "Em ăn đồ Tây quen rồi, 8 năm nay đâu có nấu cơm nữa đâu, giờ mà nấu cơm nếu không thành cháo thì cũng khô không khốc". Tôi nấu đồ Tây và nhai mì Italy quen rồi nên đôi lúc tôi hay nói đùa với mẹ ở Việt Nam rằng: "Con sợ lấy chồng Việt Nam quá mẹ ạ, vì con không biết nấu ăn", mẹ bảo: "Cứ về đi rồi mẹ dạy lại cho từ đầu". Tôi bỗng thấy nhớ những món ăn và những bữa cơm giản dị quê nhà đến vô cùng.

ôi thích ăn rau nên ngày xưa mẹ bảo nuôi tôi rất nhàn vì tôi chẳng đòi hỏi gì cả. Sau bữa cơm có thể thừa cá, thừa thịt chứ chẳng bao giờ thừa rau. Rau gì tôi cũng ăn nhưng thích nhất vẫn là rau muống và rau cần, chỉ có điều rau ở châu Âu đắt quá nên chỉ khi nào về thăm dì tôi mới được đãi món "sơn hào hải vị" này. Nhiều khi thèm rau quá mà không có rau ăn, tôi bảo dì muối dưa và muối cà, tôi thích ăn cà nữa, nhưng cà phải muối thật chua lên rồi sau đó kho mặn với cá. Tôi thích cả món đậu phụ sốt cà chua kèm hành lá, cả món dưa muối thật chua rồi nấu thành canh... nhiều người bảo tôi có cái kiểu ăn kì quặc thế nên... chậm lớn là phải.

Năm ngoái về Việt Nam, tôi được bạn bè dẫn đi ăn nhiều, toàn những món ăn lạ và tôi chưa được đụng đũa tới bao giờ. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn thèm những món ăn xưa cũ đậm chất quê nhà. Bây giờ khi đang ngồi viết những dòng chữ này, tôi đang tưởng tượng ra khuôn mặt của chính tôi khi đang hít thở mùi cá kho với cà, mùi đậu phụ sốt cà chua, mùi canh dưa bên bếp và chỉ cần khép khẽ bờ mi lại thôi là tôi lại như được thấy mình được trở về với ngày xưa.

Tôi xuống nhà chuẩn bị bữa sáng, uống một cốc cacao và làm hai cái sandwich để mang tới trường như một thói quen lâu năm sống ở phương Tây. Nhìn ra ngoài mưa vẫn rớt những giọt nhẹ nhàng, trời thì vẫn chẳng sáng thêm được chút nào. Trên radio, giọng cô phát thanh viên thông báo cuối tuần này trời sẽ ngớt mưa và khả năng tuyết rơi là 60%. Tôi thừ người ra: "Giá mà có bát canh chua nóng hổi lúc này", bỗng dưng tôi chợt nhớ mùa đông quê hương . Ở nhà làm gì có tuyết đâu, sao tôi vẫn thấy nao lòng?

Căn chung cư năm tầng được xây từ những năm sáu mươi giờ đã xuống cấp nhiều. Mấy ván rêu chiếm gần hết bức tường phía ngoài. Tường đổ một màu đen, xám, xanh, quện lại thành một hỗn hợp xưa cũ. Ở chung cư này có duy nhất một cái cầu thang đi lên xuống.

Lối đi giữa các căn hộ tối om được thắp sáng bằng thứ đèn tròn nặng điện. Ánh sáng cứ mờ mờ. Những căn hộ được xây đối diện với nhau. Đây là nơi chung sống của nhiều gia đình công nhân viên chức, làm thuê, tạp dịch, ...và rất nhiều nghề khác nữa. Họ đi làm từ sáng đến tối mịt mới về. Họ quần quật với con cái, cơm nước. 

Chung cư này nhìn kĩ giống như một cái hộp lớn, trong cái hộp lớn là những cái hộp con. Trong những cái hộp con lại là những thế giới, những ốc đảo bị vây bọc. Vậy nên nhà ai cũng im ỉm khóa. Mở cửa mà đụng mặt, họ sẽ cười cười rồi quay thật nhanh vào đóng cửa lại. Hôm trước, cô Giang nhà số 419 gặp bà Tư nhà 420 bên cầu thang: Bác bệnh sao con thấy bác nước da không được mạnh? Ừ tôi nằm viện hai tháng nay rồi, mới xuất viện ba tuần trước.

Hôm qua anh Hải gặp bé Bông, anh hỏi: Em đi kiếm ai? - Nhà con ở số 434 cách hai căn với nhà chú mà! Con mới đi học về! - Ờ ờ... con mau lớn quá!... Ngày hôm kia, anh Xuân gặp bà Hồng… Ngày hôm kìa chị Loan gặp chị Thảo… Khu chung cư này hay có những câu hỏi và những câu trả lời ngồ ngộ như vậy. Hình như rất lâu rồi những con người ở đây đã xem nhu cầu “hỏi thăm” chỉ như là một thứ thủ tục để khỏi sượng sùng khi phải cùng đi với nhau trên cái cầu thang chung.  

Nhà cô Đan Tâm nằm ở số 451, chồng chết sau cuộc vật lộn mỏi mòn với căn bệnh ung thư nan y. Cô về sống lại căn hộ cũ cùng với đứa con 10 tuổi. Rồi cánh cửa nhà cô cũng im ỉm đóng. Cô chọn cho mình một tuyến thời gian riêng, một mảng không gian riêng. Và tất nhiên chúng sẽ tạo cho cô một thế giới riêng tách bạch khỏi những cái nhìn. Lâu dần, mẹ con chị Đan Tâm rơi tõm xuống miền Quên. Nhưng rồi có một lần người ta vớt chị lên và đặt chị vào vị trí trung tâm của miền Nhớ.

Người đầu tiên dang tay vớt chị lên là bà Béo, một người đàn bà luống tuổi, mặt nần nẫn, môi thật đỏ nhưng không mọng vì đã qua nhiều lần biến cải quy luật của tạo hóa bằng kĩ thuật laze. Khi đi hai tay bà đánh xa mỗi bên hơn nửa mét. Vạch cho bà Béo một đường thẳng, bà không mảy may đi chệch bao giờ. Tuy tốn khá nhiều tiền cho các thẩm mĩ  viện có tiếng nhưng khi nhìn bà, người ta vẫn rất dễ nhận ra những nét xộc xệch thiếu tự nhiên. Mấy hôm nay bà Béo làm được một công việc vĩ đại. Bà bắt đầu nối kết tình làng nghĩa xóm ở khu chung cư này bằng một câu chuyện được tô vẽ công phu càng về sau càng đặc sắc.

Xung quanh câu chuyện ấy luôn được đơm thêm những cái nhếch môi khe khẽ, và cả những tiếng thì thầm trên cái cầu thang chung. Chị Đan Tâm vẫn quen với việc mình đang ở miền Quên đột nhiên người ta lại lôi chị về miền Nhớ nên chị thấy ngộp như con cá nước ngọt bị quẳng xuống nước mặn. Bao bọc chị lúc này là những ánh nhìn. Cái nhìn của con người nhiều khi tàn nhẫn đến lạ lùng, tàn nhẫn hơn cả những lời đau. Chị không hiểu, chị cảm thấy chới với. Hãy để tôi yên! Chị muốn vùng vẫy thoát khỏi những ánh nhìn đang vây bủa nhưng vô vọng. Những cái nhìn cứ ám chị. Những tiếng rì rầm khi lên cầu thang cứ văng vẳng bên tay chị. Nhưng họ đồn cái gì chứ, họ rì rầm cái gì chứ?

Chị đã sống như một cái bóng mờ trong ngần ấy năm kể từ khi chồng chị mất. Cái bóng ấy chưa từng một lần sóng bước cùng bất cứ một cái bóng nào ở khu chung cư này. Vậy họ đồn đại cái gì? Cuối cùng rồi thì chị cũng hiểu. Họ nói chị hồi xuân. Bà Béo đã nói như đinh đóng cột: Bà thấy một đôi dép đàn ông to bành bành đặt ngay trước cửa căn hộ của chị không chỉ một lần mà là rất nhiều lần. Và mọi người bắt đầu để ý thì: Ờ hình như tôi cũng thấy vậy. Khốn nạn cho thân chị. Chị uất nghẹn lời. 

Tháng mười trời mưa, mưa tầm tã. Một tiếng kêu thất thanh vọng lại từ căn hộ 451. Mọi người đổ xô về hướng căn hộ của chị Đan Tâm. Sau bao nhiêu năm mọi người mới lại được vào cái khoảng không gian riêng của chị. Trước cánh cửa căn hộ mọi người cũng lại thấy một đôi dép to bành bành. Cửa mở toang, mọi người bước vội vào. Vẫn những thứ đồ đạc của ngày xưa cũ như ngày chồng chị còn sống, giản dị, thanh nhã. Mỗi món đồ trong căn hộ nhỏ này đều lẩn khuất những nét thâm u trầm mặc như chính cuộc đời của chủ nhân nó. Chị nằm đó, sõng sượt trên chiếc giường cũ. Tóc tai rũ rượi, chị xanh như tàu chuối. Hai mày vẫn nhíu lại như những bận bịu trần gian vẫn còn chưa tiêu tan trong lòng ngay cả khi chị sắp làm một chuyến đi xa. Bên cạnh chị là một dáng vóc đàn ông cao lớn có đôi bàn chân to.

Thằng Đức Phương, con trai duy nhất của chị. Trong căn phòng này, mọi người không thấy ai khác ngoài nó và mẹ nó đang rũ rượi nằm kia. Nó lớn nhanh quá. Ai cũng nhìn nó như nhìn một sinh thể lạ. Vậy mà sinh thể lạ ấy đã và đang tồn tại bên cạnh họ trong từng bấy nhiêu năm. Thằng Đức Phương thảng thốt gục vào ngực của mẹ khi những nhịp thở cuối cùng hổn hển, nhè nhẹ, rồi lịm tắt. Thằng Phương ôm mẹ nó vào lòng. Bờ vai chị đầm đìa ướt. Bà Béo là người đầu tiên khóc. Giọt nước mắt rỉ ra làm cho khuôn mặt và bờ môi cắt sửa của bà trở nên tự nhiên hơn bao giờ hết.

Những căn hộ trong khu chung cư lúc này, giữa các lối đi ánh sáng của cái đèn nặng điện vàng vàng vẫn tỏa sáng, bóng sáng mờ mờ, các cánh cửa mang số 412, 413.... vẫn đóng im ỉm 

ôi vẫn còn nhớ một buổi sáng ở quê, khi bà bán xôi đẩy chiếc xe đạp lạch cạch đi qua cửa nhà, vài đứa trẻ con xôn xao xin tiền mẹ, chạy theo bà, mua gói xôi giá vài ngàn đồng.

Những khoảng trời chợ quê hẳn đã đi qua đôi mắt của mọi người cũng vậy. Tất tần tật những người nhập cư đi vào thành phố này đều mang theo trong tim một khoảnh gia sản quê mùa và giữ nó ở trong tim. Ở đó, đám trẻ con bu lấy một gánh bánh canh, húp tô nước ngọt lịm mùi thơm của cá, hoặc ngây ngây vì mùi gạo thơm phức từ thúng xôi nghi ngút khói.

Niềm hạnh phúc và ngọt ngào ấy đọng trong tim mỗi người giống như một cái phím trên cây đàn, chỉ cần nhấn vào đó, âm hưởng và mùi vị của trái tim lại rung lên đúng y như cao độ, trường độ như vậy.

ũng giống như một chiều nọ, chị bạn tôi cầm cây đũa tre, thò vào cái đĩa bánh bột lọc được làm trong một nhà hàng cỡ bự ở Sài Gòn, cứ háo hức tưởng nhớ đến “độ rung kỉ niệm” của đĩa bánh bột lọc được làm ở vùng quê xa tít mù nhà chị. Khi chị cắn vào con tôm, giống như một tay nhạc công rởm đời lạc nhịp, con tôm không tươi và cũng chẳng tròn căng, thơm phức như trong cái gánh bánh của bà già nghèo khổ trong chợ quê ngày nào.

Lạc nhịp.

Thật là khổ sở.

Tôi mơ hồ nghĩ chẳng cứ gì chị mà bất cứ ai trong cái thành phố to khổng lồ này đều đang đeo những bẽ bàng nho nhỏ ấy kín đáo trong tim mình. Không ai kịp nói ra.

Tôi ăn một tô bánh canh trong quán xá bự, với những muỗng nước lèo nhạt thếch, sặc lên mùi knorr uân uẩn đầy cổ họng.

Tôi giở gói lá một chiếc bánh chưng, miệng cười méo xệch khi nhìn những chiếc lá bên trong cũ dần và đầy cái mùi khó chịu của thứ đồ ăn đã gói vài ba ngày trước vẫn được đem lên mâm bày.

Tôi mở gói xôi ra và nhìn thấy những hạt gạo ỉu xìu dựa dẫm vào nhau trong một làn khói yếu ớt kiểu “nhân tạo” vì đã để xôi cả ngày chứ không phải bà hàng nấu nồi xôi tươi rói hăng hái đem ra chợ trong buổi sáng quê mùa hôm nào.

 Buồn cười đến tội nghiệp những thằng tôi, đã lớn lên và mê mẩn bao nhiêu thứ quà ăn đầy miệng ở quê nhà khắp chốn đi qua. Tôi thèm cháo trắng với tôm kho ở Hà Tiên. Tôi mê mẩn bánh canh Phan Rang. Tôi bị khuất phục bởi mấy cái bánh bò dừa của bà bán hàng trong cái chợ ngoài cù lao. Tôi cũng hớn hớn hở hở ôm luôn tô mì quảng to tướng và tô cơm hến vào lòng mà ăn lấy ăn để khi ngồi ở Huế và Hội An. Bao nhiêu niềm vui ấy, chỉ là một niềm tội nghiệp, trong bàn tay thô lậu và bẽ bàng của những hàng quán phố thị này.

Ở bánh canh Hoàng Ty, người ta bưng lên cho bạn một tô bánh canh to như tô cám (cho lợn) với những mảng nước lèo nhạt thếch đầy bột ngọt. Người ta lười nhác pha một loại mắm chỉ có mắm và nước cho cả chục món quà quê trong một cái nhà hàng rõ to. Người ta nấu một nồi xôi bán 24 giờ và cứ thế đổ lên, đổ lên cho đầy những lứa xôi mới, gạo cũ, lẫn lộn vào nhau. Người ta vứt vào nồi lẩu những con nghêu chết, bầy ốc bươu đã hôi rình hay con cá đã quẳng trong tủ lạnh cả tuần lễ.  Người ta bắc lên bếp nướng đám chân gà đã mềm rục rặc vì để quá lâu quá cũ.

Người ta chưng biển: Bánh xèo quê, bánh khọt quê,  mì quảng quê, xôi quê, bún đậu quê….

Ở trong ánh đèn nhà hàng mắc tiền – nơi 6 cái bánh bèo giá 50 nghìn – tôi tưởng tượng ra gương mặt vô hồn của những bà đầu bếp nhà hàng phía sau. Chắc là họ không có ánh mắt lấp lánh giống bà bán xôi ở miền Tây. Họ không biết chút ngọt ngào nào như cô bán bánh canh thêm chút cá dầm cho đám trẻ ngồi xu bu quanh gánh ăn quà sáng. Họ thậm chí còn rất ngu dốt và vô trách nhiệm, chẳng thèm nhìn vào cái cái lũ tôm ươn thui ươn thủi nằm ệch ra và được dán vào cái bánh bột lọc ngu ngốc – tính 40 nghìn/dĩa.

Các bà đầu bếp ấy và các ông chủ nhà hàng ấy đã buôn bán và giàu có xiết bao dựa trên những kí ức ngọt ngào của hàng triệu con người xa xôi quê nhà tìm về phố kiếm ăn và cực khổ. Nhưng chắc là bao năm qua, họ vẫn chưa bao giờ thèm học cho được chút tử tế của những người bán quà quê già nua, vốn chẳng giỏi giang buôn bán gì và rất khờ khạo khi phục vụ đám khách trẻ con nhà quê nữa.

Họ không biết làm những cái bánh bột lọc trong suốt có con tôm tươi rói, không biết nấu một nồi phở, bún, bánh canh có nước dùng ngọt ngào thật sự. Họ cũng không biết giã mớ đậu phộng mới rang với đường sao cho thơm phức để rắc lên món xôi nóng hổi.

Tử tế – thì chỉ bán xôi trong chợ đồng và kiếm 3000đ/gói.

Ở nhà hàng – nhà hàng quê – không nên buôn bán sự tử tế và ngọt ngào làm gì.

Bá nhơn bá bụng bá bao tử. Cứ như câu này thì trong thiên hạ mỗi người một ý thích riêng, khen ngon và chê dở, không ai giống ai cả.

Ông Tản Đà viết: “…Cơm dưa muối khó khăn mới có. Của không ngon nhà khó cũng ngon…”. Đây là do hoàn cảnh, cái ngon được nhận ra từ cái không ngon.

Vẫn những con người ấy, nếu trong hoàn cảnh giàu sang họ sẽ không thấy bữa cơm dưa muối là ngon. Thế nhưng không phải cao lương mỹ vị lúc nào cũng ngon, ăn mãi thành nhàm chán, phải trở bữa, phải đổi món, và có khi do phải chờ món “mầm đá hầm nhừ” mới biết gạo đồng rau mắm là ngon.

Bàn về chuyện Ăn và Yêu, ông Võ Phiến viết trong tạp chí Tân Văn (Sài Gòn – 1968): “…Miếng ăn có thể thèm vì đói khát, chứ không phải vì ngon. Cái ăn, khi được nói đến, là để nhấn mạnh hoặc vào cảnh khốn cùng hoặc vào cảnh thừa mứa, tức là vì một vấn đề xã hội, chứ không phải vì chính nó. Cho nên ăn cái gì, ăn cách nào, không quan trọng, có những bàn tiệc linh đình mà không có món để ăn, hoặc không thấy cách ăn, cái thú ăn… Đớp ào ào không phải là ăn… Chắt chiu từng ngọn rau, trái ớt, nghĩ ngợi trù tính từ giọt cà cuống trở đi cho được bữa ăn ngon, con người như thế dù chẳng lạc quan ham sống, ít ra cũng bình thản trong tâm hồn, cũng hòa thuận với cuộc sống, dàn hòa với nó để nghĩ cách thưởng thức nó tối đa”.

Một tác giả sinh trưởng ở miền Bắc – ông Vũ Bằng nói về Món lạ miền Nam (Nhà xuất bản Văn Học – 1994): “Mãi đến gần đây, tôi mới nhận ra rằng hương vị của những miếng ngon không hoàn toàn do nơi khẩu cái. Tự nhiên, không vì lý do gì hết, vào một buổi chiều xuống mầu kia, mình thấy miếng thịt gà đậm đà hơn, trái su su thoang thoáng ngọt và con cá chìa vôi ăn béo mà thơm… Ồ, tại sao lại thế? Thì ra ngon hay không là ở tự lòng mình. Chưa chắc món ngon miền Nam bây giờ khác trước, có lẽ vì bây giờ mình nhận thức được lòng thương yêu của những người ở chung quanh rõ rệt, đậm đà hơn trước”.

Ông Tản Đà nói thẳng. Lời lẽ của hai vị kia, có vẻ như dẫn chúng ta vào chỗ có phần mông lung, nhưng thực tình đi đến gần gũi với nhau. Cái ngon của món ăn, bữa ăn phụ thuộc vào cảnh và cảnh ấy tác động trực tiếp vào lòng người.

Trong chuyện ăn, rất nhiều người nói đến khẩu vị. Tức là hương vị mặn, lạt, béo, cay… phải vừa miệng, đúng với sở thích của ta. Cũng món ấy, người này thích thú khen ngợi, người kia chê bai, bảo nuốt không vô.

Khẩu vị của mỗi người là thói quen tập thành từ nhỏ, trong gia đình với cách nấu nướng, trong một vùng miền, với những món thường sẵn nuôi trồng tại địa phương để chế biến thành thức ăn. Lớn lên có người thay đổi, nhưng phần đông vẫn giữ y nếp cũ. Vậy giữa món ăn và con người cũng có tình tri kỷ, có nghĩa thủy chung.

Ông Võ Phiến cho rằng: “Mỗi món ăn chỉ có một số người thực sự hiểu nó, số người ấy là của một địa phương. Vậy món ăn có liên hệ đến khí hậu địa phương chăng? Ở xứ lạnh dễ thấy cái ngon trong chất mỡ béo, ở xứ nóng dễ rành về các thứ rau, canh.

Người Huế ăn cay, một phần hình như cũng vì khí trời ẩm ướt của mưa dai dẳng. Người miền Nam thích giá sống vì nó giải nhiệt”. (Tạp chí Tân Văn).

Đất nước ta trải dài, con đường Nam tiến mở ra từ các thế hệ ông cha đến nay. Người dân Bắc Hà vào Ô Lý, rồi Thanh Nghệ, Thuận Quảng vào Bình Phú, Khánh Thuận, Đồng Nai, Bến Nghé… mang theo tập quán lâu đời, mỹ tục và hủ tục, câu hò điệu hát, chuyện xưa tích cũ, mang theo thần thánh để thờ phụng và mang theo các cách chế biến món ăn.

Tất cả tùy theo địa cuộc, thiên nhiên, sản vật, hoàn cảnh nơi định trú mới, mỗi ngày có thay đổi, bớt đi phần này, thêm vào phần kia, hết lớp người này đến lớp người khác góp phần sửa đổi, cho mỗi ngày một thích hợp hơn. Do đó, các món ăn trên bước đường luân lưu không còn nguyên dạng, cùng mang một tên, nhưng chế biến tại Bắc, Trung, Nam có khác nhau, như là anh em, là bà con họ hàng mà thôi.

Lại mượn lời ông Võ Phiến: “Phở là món ăn phổ biến hết sức rộng rãi từ Bắc chí Nam…(nhưng)… không phải ai cũng bưng tô phở mà ăn như nhau với những cảm tưởng giống nhau. Một nông dân ở thôn ấp nào đó ngoài Phú Yên, Quảng Ngãi… ăn phở Bắc cũng như ăn hủ tiếu Mỹ Tho, ăn mì Tàu, nghĩa là hững hờ. Còn người nông dân ở Cà Mau, Rạch Giá… chẳng hạn có thể có sự thiên vị bất lợi cho phở. Người Việt miền Nam chỉ hoan hỉ chấp nhận món phở sau một vài canh cải, tức sau khi đã trút vào tô phở được non nửa dĩa giá sống”.

Từ sau tháng 4/1975 đến nay, đất nước thống nhất, Nam Bắc sumho75p một nhà, các món ăn đất Bắc càng được các nhà hàng chế biến. Nhiều thành phố, thị xã miền Trung có quán phở mang tên “Phở Hà Nội”, “Phở Bắc”, ngụ ý rằng nơi đây vẫn giữ nguyên truyền thống chính gốc của phở, đáp ứng đúng khẩu vị của thực khách. Khẩu vị là một thứ rất ư vô hình, nhưng ăn sâu, bám rễ vào lòng người, cũng như tình yêu vậy.

Bữa ăn còn cần một không khí. Cái không khí ấy một phần do những người cùng ăn tạo ra. Có cùng chung khẩu vị để bàn luận về ngon dở dễ dàng thuận ý. Có cùng chung tâm sự để mượn cơ hội trang trải.

Đó là phần chủ quan. Phần khách quan ta vẫn gọi là ngoại cảnh, với phạm vi tổng thể, nó tổng hợp nhiều yếu tố, từ thức ăn đến nơi dọn bữa… vân vân…

Một phần không kém quan trọng là cái “không khí” theo nghĩa gần nhất, cái không khí thực sự bao trùm chung quanh các người ăn. Nó phải làm vừa lòng tất cả, không ai cảm thấy bực bội, khó chịu vì một lẽ nào đó, năm giác quan đều có cảm tưởng rằng những gì đang nhận biết, đang thụ hưởng một cách tự ý hay bắt buộc đều tốt cả.

Như thế bữa ăn cần gồm đủ thiên thời, địa lợi và nhân hòa.

Sinh ra và lớn lên tại một tỉnh được mệnh danh là vựa lúa lớn nhất ĐBSC, ở một huyện đầu nguồn sông Tiền, nên những ký ức về tuổi thơ tui gắn liền với cánh đồng và con sông.

 Nhà nghèo đến cục đất chọi chim còn không có nên ba mẹ tui phải làm thuê kiếm sống qua ngày. Cuộc sống gia đình tui tuy thiếu thốn nhưng rất êm đềm hạnh phúc. Ngày còn bé, tui hay cùng với mấy đứa bạn trong xóm đi đồng bắt cua, bắt ốc, mót lúa, lượm trứng vịt… Bọn tui cũng hay đi ăn trộm, xoài, mận… nên được người lớn ưu ái gọi là lũ “phá làng phá xóm”, kể hoài cũng không hết những phi vụ của mấy đứa con nít “xóm chùa”.

Mùa nước nổi, người lớn thì không có việc gì làm, chỉ đi giăng câu, thả lưới nên đời sống rất khó khăn. Còn bọn con nít thì vô tư vui mừng vì được tắm đồng (tắm sông hoài chán), câu cá, bơi xuồng hái bông điên điển, và đặc biệt là đi cầu khỉ, cây cầu được bắc lấy lối ra đường bởi nhà ai cũng bị nước ngập hết cả. Hồi xưa đâu có tiền mà mua cần câu, mỗi đứa phải đi xin lưỡi câu, dây gân, chặt cây tre làm cần, rồi tui hy sinh cắt chiếc dép lào làm phao cho cả lũ nên bị mẹ chửi quá trời. Ngày nào cũng đi câu cá mà không thấy chán, cá câu được thì buổi tối xúm lại kho quẹt, nấu cháo trắng ăn đơn giản vậy mà thấy rất ngon. 

Thích nhất là đóng bè chuối đi tắm đồng. Một cái bè phải cần khoảng 5-6 cây chuối, mà tụi tui toàn đi chặt trộm chuối nhà người ta vì có nhà đứa nào trồng chuối đâu, hoàn thành chiếc bè cũng bị chửi te tua, nhưng cảm giác ngồi trên bè trôi lờ lững giữa cánh đồng thì vui hết biết. Mùa nước nổi rồi cũng qua và bà con lại chuẩn bị xuống giống xạ lúa, lại có dịp để đi tát đìa bắt cá. Cả đám rủ nhau kéo xuống đìa bắt hôi nào là cá rô, cá lóc, cá trê, cá chốt… và chia nhau chiến lợi phẩm đem về nhà, ăn không hết thì mần khô để dành.

Tới lúc cắt lúa thì đi dí cù bắt chuột, chèn ơi ngon nhất là món chuột muối sả rồi nướng mùi thơm của nó rất hấp dẫn. Lúa được cắt xong, người ta sẽ đốt gốc rạ, thế là có một cái sân rộng lớn để tụi tui chơi đá bóng. Buổi chiều nào, cả bọn rủ nhau ra đồng chơi đá bóng, gặp trời mưa xuống thì quần áo đứa nào cũng đen thui vì tro của gốc rạ gặp nước. Cũng vì trò đá bóng này mà có lần tui bị ăn đòn vì… tui là con gái. Mẹ tui suốt ngày nói “con gái con lứa gì mà tối ngày đi đồng riết đen như ‘miên’, mày đáng lẽ con trai mới đúng.” Tui chỉ biết cười trừ.

 Có rất nhiều kỷ niệm thời thơ ấu mà tui không kể hết được. Bây giờ chúng chỉ còn là ký ức mà không bao giờ tui có thể quên. Một miền quê yên bình với hai mùa mưa nắng, một cánh đồng rộng lớn, một con sông chở nặng phù sa và một đám bạn hồn nhiên, vô tư lự.

Tết một lần, cùng hai lần đám giỗ, cậu lại ra nhà người anh cùng cha khác mẹ với mình. Lành như củ khoai, lành như đất, lành như một người kém trí, như cái tên Út Khờ.

Đi lần nào cũng quên vài thứ, không quên mang dép thì cũng quên đội nón, nhưng có thứ cậu không bao giờ quên mang tới nhà anh chị cậu, là bánh. Giỗ này cậu đem bánh bột đậu, giỗ sau cậu góp cốm ngào đường, tết thường có bánh kẹp cuốn, bánh bông lan, bột đậu. Những thứ bánh trái quê mùa, nằm vơ vất trên bàn thờ, giữa những món đồ cúng đẹp đẽ khác. Vơ vất như thân phận của cậu: con riêng của ông nội với người đàn bà khác.

Anh chị và đám cháu không mê bánh nhà quê đó. Chỉ con nhỏ giúp việc nhà anh cậu là đón mừng nhiệt tình. Ăn một cái bánh nghe ngon nhức cả ký ức. Bánh của cậu gợi nhớ má nó đang nằm ho ở cái quê mị cà tha nào đó. Nó biết để có mớ bánh này, mợ (cũng hiền hậu thiệt thà y như cậu) đã phải nhồi bột đánh trứng từ hôm qua. Bột trứng dẻo nhẹo, cầm bàn chụp đánh mỏi nhừ tay, thì bột mới dậy, nở bung trong diệm, rồi được đem đi nướng. Than rực dưới đáy khuôn bánh, rải ủ đều trên cái nắp bằng gang nữa, cho hai mặt bánh vàng đều. Những mẻ bánh đầu hoặc khét quá hoặc chưa được vàng ươm như ý, mợ để lại nhà. Mớ bánh cậu mang đi phải là mớ bánh đẹp nhất, nuột nhất sau khi mợ trăn trở lửa trên lửa dưới. Mợ còn cắt giấy màu thành những sợi mảnh, rải vào keo bánh vừa để hút ẩm vừa trang trí cho đẹp.



Cậu mợ không biết rằng ra khỏi xóm làng rồi, vẻ đẹp ấy trở nên lạc lõng, bơ vơ. Chị dâu cậu thường càm ràm, đã nói đem bánh trái ra chi mắc công, có ai ăn đâu… Cậu hiền lắm, nói mười hiểu hai, cười cười, cúng ba má mà đi tay không, coi sao được chị.



Má con nhỏ giúp việc cũng thường nói vậy, khi lụi hụi chuẩn bị bột, nhân, lá để làm bánh này nọ đi cúng quảy ở nhà họ hàng. Cái hồi người ta chưa bán bột làm sẵn, má nó còn phải ngâm gạo nếp qua đêm, có khi ngâm với khóm cho gạo mau mềm, để xây làm bột. Làm bánh, nói gọn lỏn vậy mà có bao nhiêu chuyện lắt nhắt phải lo, đến nỗi tàu lá đem ra phơi nắng cho vừa héo để gói bánh, trẻ con cũng không phụ được, vì không biết cỡ nào mới vừa. Má nó lo toan hết. Chị em nó mười, mười hai tuổi đã được má dạy làm bánh, thành con gái rồi má nó vẫn lo “mấy đứa làm chưa khéo…”. Chị nó lấy chồng năm rồi, chuẩn bị cho đám gả, má nướng bánh bột đậu, bánh kẹp từ năm ngày trước.



Một cái đám ở quê thường được nhắc nhớ bởi những món ăn ngon. Bây giờ người ta vẫn nhắc món bánh bò bông má nó làm hôm gả chị. Mịn và xốp, và những múi bánh như cánh hoa nở đều đặn, tươi tắn. Làm ra một món ăn ngon, hay một cái bánh ngon, thì đến lửa nhỏ lửa lớn mình cũng phải chăm chút nữa. Má con nhỏ giúp việc không nói vậy, nhưng nó tự học từ cái cách bà nắn nót rút bớt cây củi ra khỏi bếp, hoặc thêm vào mấy cục than.



Hồi đó, mỗi lần má con nhỏ làm bánh là cả một cuộc hội hè. Ngoài những thứ bánh được gọi là sang chỉ có ở những giỗ, chạp, hay dịp tảo mộ, còn có những tiệc tùng đơn sơ hơn, ít tốn kém hơn, mà vẫn thấm đẫm hương vị. Xay lá mơ tam thể với bột, đắp vào lá mít hấp lên chan nước cốt dừa, vậy là con nhỏ được ăn bánh rau mơ. Bột trắng cán bằng chai, xong xắt sợi thả vào xoong nước đường, bột chín nổi lên mặt nước vậy là thành bánh canh ngọt cho đám nhỏ sì sụp. Hôm nào có cá lóc thì má nó nấu bánh canh mặn. Rồi thì bánh chuối hấp, chuối chiên, bánh cam nhân đậu… Bột bánh ít thừa ra từ lần làm bánh trước, má nó đem treo giàn bếp, hôm nào mưa dầm bà đem chiên lên, chị em nó lại được gặm món bánh tổ nóng hổi.



Con nhỏ giúp việc, lần đầu tới nhà chủ, nó khoe nó biết làm nhiều loại bánh, kể cả mấy loại bánh ngon hết xảy như kẹp cuốn, tai yến, tàng ong… tất nhiên là không ngon bằng má nó làm. Nhưng bà chủ phủi đi, nhà bà không làm bánh bao giờ, muốn thì bước ra cửa, thiếu cha gì món ngon, ì ạch làm gì cực thân. Bà cũng từng nói với thằng em chồng khờ khạo của mình câu đó.



Và cậu Út hiền lắm, nói mười hiểu ba, lại nhoẻn cười bảo, nhưng vui lắm, chị.



Con nhỏ giúp việc cũng từng nghe câu nói đó từ người mẹ của mình. Cực mà vui. Chỉ là không biết giải thích làm sao với người khác niềm vui sướng khi lấy từ khuôn gang nóng rực ra những cái bánh thơm lừng, ngui ngút khói. Mẻ bánh đầu đời đó, con nhỏ vẫn còn nhớ, những hạt đậu phộng rang nó ấn vào giữa cái bánh như một nhụy hoa, nhưng bánh nướng xong thì đậu rơi mất, bánh bột đậu trở thành bánh bột. Má nó nói phải học từ chuyện nhỏ xíu vậy, mới làm được cái bánh vừa đẹp vừa ngon.



Ta chỉ cần ví cảm giác đó với cảm giác cô nghệ sỹ múa ba lê vừa hoàn thành một cú xoay khó. Kinh điển, với chỉ chừng ấy động tác, nhưng từ đời này sang đời khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, người nghệ sỹ vẫn đổ mồ hôi để cố hoàn thiện nó. Nhưng cậu hiền đến ngớ ngẩn, nên chỉ có thể nói cực mà vui, để nhận được từ con nhỏ giúp việc một cái gật đầu đồng tình, đúng đó, vui. Người chị thì nhăn mặt ngán ngẩm, nói gần nói xa mà không dẹp được vụ bánh trái quê mùa này.



Cũng phải, dẹp cả một nền văn hóa thảo thơm đồng bãi, đâu có dễ…

Ấu, loài cây thuỷ sinh thường sống ở những nơi ngập nước và có thể sống được quanh năm, nhưng sinh trưởng tốt và cho năng suất cao vào mùa mưa. Cứ đến mùa nước nổi trong lòng người con xa xứ lại nhớ về mùa ấu quê nhà.

Hàng năm, cứ đến mùa nước nổi khoảng tháng 6 – 11 âm lịch, đồng ruộng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long lại ngập tràn ấu. Ấu là một trong những cây mà nhiều người dân chọn trồng nhằm tăng thu nhập trong mùa lũ.

ừ lâu loại cây thuỷ sinh này đã gắn bó với quê tôi – một vùng đất trũng hay bị ngập nước khi có lũ về. Không biết ai là người đầu tiên tìm được loại cây trồng thích hợp như ấu trong mùa nước nổi, ai là người đầu tiên đã nhìn thấy những trắng trong tinh khiết trong mỗi trái ấu xù xì nép mình khiêm tốn dưới những lớp lá non. Ca dao có câu: “Thân em như củ ấu gai/Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen/Ai ơi nếm thử mà xem/Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi”. Đó chính là đặc điểm của trái ấu. Có rất nhiều loại ấu: ấu Đài Loan, ấu gai… thế nhưng quê tôi loại ấu được trồng phổ biến nhất là ấu sừng trâu, vì dễ trồng lại cho nhiều củ. Đến mùa, lá ấu như hàng ngàn bàn tay bé xíu xanh mướt xoè ra đón ánh mặt trời, những chiếc lá ấu tươi tốt sẽ báo hiệu một mùa ấu bội thu.

Và cứ mùa giữa năm âm lịch, quê tôi lại rộn ràng một mùa ấu mới. Với trẻ con thì hào hứng rủ nhau ra ruộng ấu hái những trái non. Đứa trên bờ nhặt ấu, đứa xuống ruộng hái; vỏ ấu non mềm dễ tách, không cứng như ấu già. Tuổi thơ chúng tôi đã đi qua ngọt bùi của bao mùa ấu thân thương. Cứ vậy, những ruộng ấu tốt tươi đã cùng với bao người dân quê tôi vượt qua bao khó khăn vất vả mùa lũ.

Cứ nhà này thu hoạch thì nhà kia đến giúp không phải trả tiền thuê mướn. Nói vậy, chứ hái ấu vất vả lắm, phải lội trong nước cả ngày; đôi khi còn bị gai ấu đâm tứa máu. Bà con ở quê vẫn hay đùa: “Hái ấu riết rồi mặt cũng đen như ấu”, vậy mà không ai bỏ nghề trồng này, không phải tốn nhiều công chăm sóc mà nguồn lợi thu về cũng không nhỏ.

Ấu già ăn bùi, ấu non ăn ngọt. Cứ đến mùa nhà tôi lại có nhiều món chế biến từ loại củ đặc biệt này: ấu luộc, nấu chè, ấu non ăn sống… nhưng thích nhất là canh trái ấu. Bữa cơm gia đình đầm ấm thoang thoảng mùi hương ấu đầu mùa mãi là ký ức đẹp trong tuổi thơ tôi. Cái âm thanh lốp cốp của những trái ấu già va vào thành nồi nghe thật quen thuộc.

Ấu luộc trong khoảng 30 phút là chín, lúc đó vỏ ấu chuyển sang màu đen như cái sừng trâu. Với trẻ con vùng đất ấu như chúng tôi thì mùa này ngày nào cũng được ăn, ăn mãi đâm ghiền, có khi chúng tôi lấy cọng dừa xâu ấu lại thành chùm đem đọ xem đứa nào kết được dài hơn! Ăn ấu phải nhai kỹ, chậm rãi mới cảm nhận hết cái vị ngọt bùi của ấu.

Và rồi, chúng tôi lớn lên từ những trái ấu trên đồng quê. Món quà dân dã mộc mạc đó được nhiều người ưa chuộng nên ngày càng có nhiều thương lái đến tận quê thu mua mang bán khắp nơi. Với tôi củ ấu bao giờ cũng ngọt bùi, thanh khiết như bao kỷ niệm trong ký ức.

Tháng 3, gió như một đứa trẻ mới tập đi bị nhốt vào chiếc cũi tre không đủ sức cứ quanh quẩn một vùng. Nắng điên người như muốn thiêu rụi tất cả sự sống. Nắng làm mấy chậu xương rồng trước nhà khô quắt, màu xanh biến mất, thay vào toàn gai đâm ra tua tủa trong như con sâu đo. Mới gần 7 giờ sáng, nắng đã đủ sức làm cho con người chảy mồ hôi ròng ròng. Nắng theo dấu chân người, bám chặt vào những con bò gầy rộc xương đang nhởn nhơ gặm những gốc rạ mòn lẹt giữa đồng

...

Đầu tháng 3, mùa chùm ruột bắt đầu. Từ những cành cây chùm ruột mảnh khảnh nhú lên những lá non bé tẹo xanh ngắt. Chúng lớn nhanh theo từng ngày nắng xanh ngọt lịm. Chẳng mấy chốc, trên những cành cây xuất hiện chùm trái non nhỏ tẹo xanh lơ chát ngắt, cựa mình theo ngày nắng. Những chùm chùm ruột không sợ nắng. Trái lại, chúng ưa nắng, nắng nhiều sẽ giúp chúng cho trái nhiều hơn. Cây chùm ruột nặng oằn trái. Chúng lớn nhanh chóng mặt. Từ màu xanh, theo ngày nắng chúng chuyển sang màu vàng nhạt rồi lớn dần to bằng viên bi và ngả màu vàng ươm ngon mắt. Khi ấy chúng đã chín, chúng bắt đầu lìa cành rụng xuống đất...

Tháng 3, hàng chùm ruột sau nhà trĩu cành. Nhứt lại hái chùm ruột làm mứt mang ra chợ bán. Mứt chùm ruột Nhứt làm ngon tuyệt! Nhứt cũng hay làm món chùm ruột đâm nhuyễn cùng một trái ớt hiểm, nêm thêm muối, bột ngọt. Món này mà đưa một thìa vào miệng, ngay lập tức muốn ăn thìa thứ hai...

Tháng 3 nắng hạn, đồng ruộng nứt nẻ. Những con mương dẫn nước vào ruộng cạn khô, chỉ còn trơ lại vài vũng nước trũng. Những con cá bé thoi thóp thở, ưỡn bụng chờ chết vì thời tiết quá nóng bức, chỉ những con lớn hơn mới đủ sức chui sâu xuống bùn duy trì sự sống, khao khát chờ cơn mưa đầu mùa. Nhứt xắn tay áo và ống quần, cầm cái xô nhỏ men theo bờ ruộng, thọc tay xuống trũng nước. Những con cá trồi đầu lên bắn bùn tung tóe. Chẳng mấy chốc chúng nằm gọn lỏn trong cái xô, nào là cá sặc, cá rô, thậm chí là một cặp cá lóc... Nhứt lại men theo bờ ruộng hái từng cọng rau đắng đồng non xanh mơn mởn, bẻ cái bắp chuối hột, vài cọng ngò gai, vài trái ớt hiểm chín mọng, cuối cùng là một chùm chùm ruột to nhất. Nồi canh chua chùm ruột bốc khói thơm phức cả gian nhà. Canh chua chùm ruột ngon đáo để. Thịt cá ngọt, vị chua của chùm ruột, chan chát của bắp chuối, đắng của rau đắng đồng... cứ tê tê ở đầu lưỡi, len đến tận kẽ răng. Nhứt cười múc cho tôi chén thứ hai canh chua chùm ruột. Nhứt bảo: “Canh chua chùm ruột món ăn dân dã, hiếm người biết nấu”. Tôi hồ hởi đón lấy chén canh: “Mai Nhứt nấu canh chua chùm ruột nữa nghen!”. Nhứt cười giòn: “Nhứt sẽ đãi canh chua chùm ruột cho tới mùa mưa xuống, chùm ruột rụng hết thì thôi...”. Bữa cơm quê ấm áp còn vang mãi nụ cười...

Tháng 3, mùa chùm ruột lại bắt đầu. Nhứt đã về với đất vì căn bệnh ung thư quái ác không chừa một ai. Ông ngoại của Nhứt già không đủ sức mang ghế đẩu với tay hái chùm chùm ruột chín vàng ươm. Ngoại chỉ đủ sức nhặt những trái rụng thả xuống ao cá. Ngoại nhớ Nhứt, len lén quẹt dòng nước mắt... Tháng 3, tôi đi giữa phố, đầy vơi nỗi nhớ: Nắng tháng ba - Mùa chùm ruột - Con cá đồng mắc cạn - Nồi canh chua chùm ruột - Nhứt của tôi - Quê nhà. Tôi bật khóc...

Những cơn mưa cuối mùa vụt đến rồi vụt đi. Cái nắng gay gay chiếu xuống cánh đồng đang mùa lúa chín. Đám thợ gặt thỉnh thoảng lại la lên: Ôi con cua! Con cua biển kìa tụi bây ơi! Tôi đang phụ hứng lúa vào bao ở máy suốt, vội chạy đến xem. Một con cua biển thật to màu xanh xám giương hai cái càng lên vừa bò ngang vừa chống trả lại thằng Tý đang cố lấy bắt nó. “Chiều nay mình có cháo bồi ăn rồi anh Hai ơi!”. Má tôi đang gặt lúa ngẩng lên mắng yêu: “Cha mày, tối ngày cứ đòi ăn cháo bồi!”. Nói vậy chớ cả nhà tôi đều thích ăn cháo bồi, nhất là do chính bàn tay má tôi nấu.

Cháo bồi có nhiều cách nấu, nhưng nấu như má tôi thì tôi thấy ngon và nhanh lắm. Nguyên liệu gồm: Gạo, cua biển, dầu ăn, tỏi, nước cốt dừa. Đầu tiên, trong lúc anh em tôi tắm giặt thì má tôi bắt ngay nồi cháo lên khi về tới nhà, rồi bà thoăn thoắt chẻ cua ra từng miếng nhỏ, lấy gạch son ra khỏi mai cua, tất cả cho vào chảo, thêm một muỗng dầu ăn, ít tỏi rồi xào cho thịt cua xăn chín lại. Đối với cặp càng cua có thể luộc trước, rồi đập vỡ ra, xé thịt thành thớ nhỏ, để cho vào nồi sau. Không nên luột cả con cua, chỉ cặp càng thôi, vì khi luộc chất ngọt sẽ ra hết, làm cháo mất ngon. Trong lúc má tôi lo nấu nướng, ba tôi bẻ trái dừa khô, rồi nạo lấy cơm dừa, vắt nước cốt để sẵn trong tô. Khi cháo nhừ, thịt cua và nước cốt dừa được cho vào nồi cháo, nước sôi trở lại là nhắc xuống ngay. Không nên nấu sôi quá lâu nước cốt dừa sẽ bồng con, vón cục cháo sẽ không béo.



Thay đồ tươm tất, chúng tôi ngồi lên bộ ván, quây quần quanh mâm cơm, mỗi người một chén cháo, lấy muỗng và …húp! Mùi thơm của gạo trắng, kết hợp với vị ngọt của thịt cua, vị bùi bùi của gạch son, béo béo của nước cốt dừa, giòn giòn của thân cua, và cả tấm lòng yêu thương của ba má tôi đã làm cho cả nhà tôi ngây ngất, ăn no cành hông rồi cái miệng vẫn còn thèm.



Chiều nay, người nhà ở quê lên, xách theo một túi cua biển làm quà. Bà xã tôi nói: “Hôm nay nấu cháo bồi ăn một bữa nha anh!”. Chẳng biết từ lúc nào khi về làm dâu nhà tôi, vợ tôi cũng đâm ra thích món cháo bồi ngày xưa. Cứ mỗi lần có cua biển là bả dành ra một con nấu cháo bồi. Thưởng thức món cháo bồi của vợ tôi nấu, tôi lại nhớ cái thời thơ ấu ở quê, sống trong vòng tay của ba má, nhớ câu nói vui của ba: “Cháo bồi là bồi bổ cho sức khỏe, mà còn bồi tình bồi nghĩa nữa, phải không má sắp nhỏ!?”. Má tôi cười bỏm bẻm: “Ăn đi, cứ nói cà rỡn hoài”. Ăn cháo bồi, tôi yêu quí cái tổ ấm của mình biết bao.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro