la bat vi

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hàn Diệu Kỳ

Phần thứ hai Quyền mưu

Chương 10 Thành công trong việc lập Thái tử

Từ khi trở thành tỳ thiếp của Lã Bất Vi, Triệu Cơ đã cảm thấy Lã Bất Vi là một mảnh trời của mình, hàng ngày cô cùng sống ăn ở với các môn khách, nha dịch của phủ Lã dưới mảnh trời này. Bây giờ Lã Bất Vi đi Hoặc Dương mãi vẫn không về, cô cảm thấy thế giới như muốn sụp đổ. Hàng ngày cô vẫn đưa cơm, cung cấp thuốc men bông băng cho tên thích khách ở trong kho lương, phục hồi lại sức khỏe và khí sắc cho hắn, hắn vẫn dùng bộ mặt trầm mặc khó hiểu để báo đáp lại sự chăm sóc của Triệu Cơ đối với hắn. Hàng ngày Tư Không Mã đến đó vài lần với dáng vẻ hấp tấp vội vàng. Ông ta chỉ để ý tới sợi dây trói tên thích khách. Sau khi đến, ông ta vòng ngay ra phía sau lưng tên thích khách để quan sát. Nói chung, ông ta không nói chuyện với Triệu Cơ, mà chỉ chào cô bằng ánh mắt. Triệu Cơ thấy khó xử, khi chỉ có cô và Tư Không Mã mỗi lần từ trong kho lương đi ra.

Triệu Cơ vẫn mong ngóng Lã Bất Vi trở về.

Hoàng Phủ Kiều lại càng nóng lòng chờ đợi Lã Bất Vi. Khi Lã Bất Vi không có nhà, cô ta đã trở thành một phần của Lã phủ. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều do cô giải quyết. Từ chuyện ăn ở đi lại của hàng trăm con người đến việc buôn bán lời lỗ của cửa hàng Chu Bảo, tất cả đếu dồn lên đôi vai cô. Cô càng không thể coi nhẹ số lần Triệu Cơ đến kho lương. Cô biết rất rõ Triệu Cơ thường đi trước lúc hoàng hôn, và ở lại đó khoảng một canh giờ. Hoàng Phủ Kiều nghĩ, trừ thời gian nới rộng đai ở chiếc áo rộng ra, hai người chỉ có thể giao hoan với nhau trong thời gian ngắn. Cô thường đến bên ngoài cổng phủ, mon men phía đắng xa để theo dõi. Cô hận là không thể bay tới Hoặc Dương để đón Lã Bất Vi trở về, để ông tận mắt nhìn thấy ái thiếp của ông đang cùng một kẻ dâm đãng biểu diễn một màn kịch xấu xa trong kho lương. Cô lo lắng, người đàn ông dâm đãng kia sẽ có ngày không cánh mà bay và màn kịch xấu xa sẽ khép lại. Như vậy, cô sẽ rất tiếc để mất đi một cơ hội hiếm có xử lý Triệu Cơ.

Trong phòng khách của Dị Nhân, ván cờ hóc búa vẫn đang bày ra trên bàn. Nhưng Dị Nhân, Tư Không Mã và Chu Kiểm không còn tâm trí đâu mà đi bày binh bố trận ở phía sau màn trướng, cái mà đã từng đem lại niềm vui khôn nguôi cho họ. Họ vẫn ngồi đấu cờ, nhưng thậm chí lại lơ đãng, thay phiên nhau đi sai nước cờ, làm lỡ nhiều cơ hội chiến thắng. Đôi lúc, ngay cả người sáng suốt trong việc bày binh bố trận như Công Tôn Càn cũng phải thò cái mặt trắng bệch ra mà hỏi: "Ấy, sao quân cờ này lại bày ở chỗ như vậy?"

Họ đâu còn tâm trí nào mà chơi cờ nữa. Chuyến đi Hoặc Dương của Lã Bất Vi có can hệ tới sự hưng suy họa phúc của họ và ngay cả tính mệnh người thân của họ nữa. Bây giờ tin tức từ nơi xa xôi, ai mà đoán biết được. Gã thích khách thần bí kia vẫn bị nhốt ở kho lương phủ họ Lã, ngộ nhỡ hắn chạy thoát thì chẳng phải là họa từ trong nhà mà ra sao? Bọn họ đều nằm dưới con mắt của Triệu Hiếu Thành vương. Vị Quân vương này có đại quyền sinh sát, chẳng biết có ngày trở chứng thì sẽ chẳng đặt họ vào chỗ chết có khác gì dẫm chết một con kiến đâu!

Khi Công Tôn Càn không có ở bên cạnh, ba người bọn họ lại đoán già đoán non kết quả có thể chuyến đi Hàm Dương của Lã Bất Vi.

Tư Không Mã dường như chỉ hỏi đi hỏi lại câu: "Điện hạ, nói xem Lã đại nhân có thể gặp được phụ vương An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân của ngài không?"

Dị Nhân lại cứ vừa đi vừa lẩm bẩm: "Quan trọng là xem Hoa Dương phu nhân nói thế nào với phụ vương của tôi?"

Điều mà Chu Kiểm quan tâm nhất là khi nào Lã Bất Vi trở về Hàm Đan. Gặp được Lã Bất Vi thì tất cả đều sẽ sáng tỏ. Càng nói càng bế tắc, lời càng bế tắc thì trong lòng càng rối rắm giống như ngọn lửa bùng cháy trong cái oi bức nóng nực. Lúc này, mọi chuyện trên trời dưới biển đều được mang ra nói, nói rồi chẳng hiểu sao lại quay trở lại vấn đề đi Hoặc Dương của Lã Bất Vi.

Dị Nhân và Tư Không Mã cùng đồng thanh nói: "Vẫn là Chu Kiểm nói đúng, đợi Lã Bất Vi trở về, chân tướng mọi việc sẽ sáng như ban ngày".

Khi trời vừa tối Lã Bất Vi về tới thành Hàm Đan. Chiều tà, những tia sáng cuối cùng đang bao phủ lên cái không gian trầm mặc quạnh quẽ, ánh sáng yếu ớt giống như đang quét lên nóc nhà Tòng Đài nổi trội. Nước sông Phủ Dương sau một hồi quanh co uốn lượn vòng vèo qua cung vua Triệu mới chảy ra ngoài. Khi trời sáng, những làn sóng xanh biếc phản chiếu trên khu lầu các trên mặt nước của cung vua; lúc này giống như một mạch nước óng ánh chảy trên những cánh hoa đào vậy.

Việc lớn của Lã Bất Vi đã hoàn thành. Tuy có đôi chút vất vả nhưng trong lòng ông cảm thấy thoải mái và không có chút mệt mỏi nào. Ông phấn chấn đánh chiếc xe phủ đầy bụi đất chạy băng băng trên đường phố Hàm Đan. Ông nghĩ, sau khi về phủ nghỉ ngơi, ông sẽ lập tức tới chỗ ở của Dị Nhân và đem đến cho họ những tin tức tốt đẹp này, rồi cùng họ vạch kế hoạch tấu trình. Con đường từ Hoặc Dương tới Hàm Đan vắng vẻ cô quạnh càng khiến cho ông có cơ hội để suy nghĩ sâu xa hơn và chuyên tâm hơn rằng: "Làm sao có thể mua chuộc tên gác cổng thành, làm sao có thể mang tiền ra khỏi quán Chu Bảo của ông để vận chuyển về Hoặc Dương một cách bình an vô sự...". Những chuyện này làm ông suy nghĩ rất nhiều, có những cái nằm trong tầm tay của ông, nhưng có những cái ông nghĩ mãi mà không có cách nào giải quyết. Dù có nói thế nào đi chăng nữa thì việc bắt buộc phải thành công, đầu tiên là làm cho Dị Nhân được lập thành Thế tử.

Người đầu tiên nhìn thấy Lã Bất Vi trở về là Hoàng Phủ Kiều. Ngày nào Hoàng Phủ Kiều cũng đều ra ngoài để xem xét vài lần. Hoàng hôn của ngày hôm nay, trong ánh sáng yếu ớt cô nhìn thấy một cỗ xe đang lúc lắc chạy lại, cô đoán chắc đây là Lã lão gia của nhà cô đã trở về. Khi chiếc xe tới gần, lời suy đoán của cô quả không sai.

Hoàng Phủ Kiều vui vẻ đón Lã Bất Vi vào phủ, mọi người cùng các nha dịch cùng vây quanh ông để hỏi han. Ông nói với mọi người rất mệt và cần được nghỉ ngơi, ngày mai sẽ kể lại tỉ mỉ. Mọi người nghe thấy Lã Bất Vi hạ lệnh liền dần dần rút ra. Kỳ thực Lã Bất Vi muốn có thời gian trau chuốt lại câu chuyện rồi sẽ đi đến chỗ Dị Nhân ở. Hoàng Phủ Kiều thấy lúc này đúng là thời gian Triệu Cơ tới kho lương. Cần phải bắt được đôi gian dâm này. Để kiểm chứng xem Triệu Cơ có đến đó hay không, Hoàng Phủ Kiều nói với một nữ tỳ: "Mau đến chỗ Triệu Cơ, bảo cô ta tới đây". Hoàng Phủ Kiều thấy Lã Bất Vi được các nữ tỳ nâng đỡ, cô mau chóng rửa mặt, súc miệng, thay áo.

Một lát sau, vị nữ tỳ quay lại báo với Hoàng Phủ Kiều: "Triệu Cơ không có nhà, dường như vừa mới đi, tôi nói với nữ tỳ của cô ấy là lão gia đã về rồi".

Thấy Lã Bất Vi đã thu xếp ổn thỏa, Hoàng Phủ Kiều dặn dò nha dịch và nữ tỳ: "Các ngươi hãy lui trước đi". Thấy Lã Bất Vi muốn đi, Hoàng Phủ Kiều ty biết nhưng vẫn cố hỏi: "Lão gia, vừa mới về sao không nghỉ ngơi cho khỏe đã". Lã Bất Vi nói: "Bây giờ ta cần phải tới chỗ Dị Nhân". Hoàng Phủ Kiều nói: "Xảy ra chuyện rồi, bây giờ xin ông đừng đi".

Lã Bất Vi cho rằng đã xảy ra chuyện với Dị Nhân, liền hỏi: "Dị Nhân làm sao?". Hoàng Phủ Kiều cười nhạt và nói: "Dị Nhân chẳng làm sao cả". Sự lo lắng của Lã Bất Vi đã vơi đi phân nửa, ông bình tĩnh hỏi: "Thế ai bị làm sao?". Hoàng Phủ Kiều kín đáo liếc nhìn sang Lã Bất Vi, đằng hắng giọng và nói: "Xảy ra chuyện với ai ư? Chính là với lão gia ấy!"

Lã Bất Vi cho rằng Hoàng Phủ Kiều đùa mình, nhẹ nhàng hỏi: "Tay chân ta đều lành lặn, có chuyện gì đâu?". Hoàng Phủ Kiều nghiêm trọng: "Đi, thiếp dẫn lão gia đi xem xem có chuyện gì xảy ra!". Lã Bất Vi có việc nóng lòng muốn đi, ông chau mày khó chịu với cách nói lấp lửng của Hoàng Phủ Kiều, ông trách mắng nói: "Đừng nói lấp lửng nữa, có chuyện gì thì mau nói ra đi!"

Hoàng Phủ Kiều thấy Lã Bất Vi bắt đầu nổi cáu, liền nói: "Thời gian vừa rồi ông tới Hoặc Dương, Triệu Cơ đang chăm sóc cho một gã đàn ông!". Lã Bất Vi vừa nghe xong đã cảm thấy mừng, chính điều này lại làm cho Hoàng Phủ Kiều lo lắng. Lã Bất Vi nói: "Trước khi đi ta đã dặn nàng cần sống tốt và hòa thuận với mọi người. Vì sao khi ta mới về, nàng đã đổ tiếng xấu cho người ta vậy?" Hoàng Phủ Kiều nói: "Thiếp đổ tiếng xấu cho cô ta? Trăm nghe không bằng một thấy, lão gia hãy đi cùng thiếp tới đó xem là rõ liền".

Nhìn thấy vẻ mặt giống như thật của Hoàng Phủ Kiều, Lã Bất Vi như chăm chú hẳn lên. Ông giống như chiếc đuôi bám theo sau Hoàng Phủ Kiều, chần chừ đi về phía kho lương. Tới trước kho, Hoàng Phủ Kiều ranh mãnh bò lên trên cửa sổ nhìn quanh một lượt, cô nhìn thấy Triệu Cơ đang cho gã đàn ông ấy ăn, cô nghĩ: "Con tiểu yêu tinh và gã đàn ông khốn khiếp này! Đúng là của báu trời cho, ngay cả ăn cơm gã ta cũng không cần phải động tay!". Hoàng Phủ Kiều đẩy cửa bước vào, Lã Bất Vi cũng bước vào theo. Triệu Cơ nhìn thấy họ, cô sợ hãi đứng bật dậy.

Trong kho tối lờ mờ, phải một lát sau Lã Bất Vi và Hoàng Phủ Kiều mới nhìn rõ được đôi mắt của tên thích khách. Trong chớp mắt Lã Bất Vi kinh ngạc nói: "Ngươi không phải là Hoàng Phủ Nghĩa cùng ta đi tới đất Hồ buôn ngựa sao?"

Hoàng Phủ Kiều đúng là không tin được vào mắt mình nữa, cô chạy ào tới và gọi to: "Anh!". Sau đó nước mắt cô rơi lã chã.

Lã Bất Vi và Hoàng Phủ Kiều cúi xuống đỡ Hoàng Phủ Nghĩa đang ngồi bệt ở dưới đất đứng dậy.

Lã Bất Vi nhìn thấy Hoàng Phủ Nghĩa bị trói chặt tay ra đằng sau; vết thương rất nhiều, liền hỏi vì sao lại có chuyện này. Hoàng Phủ Nghĩa liền nói ra Tần công tử Tử Hề xúi giục anh ta tới giết Dị Nhân như thế nào và bị Tư Không Mã cùng Chu Kiểm chém và trói anh ta ra sao.

Lã Bất Vi cởi trói cho Hoàng Phủ Nghĩa. Hoàng Phủ Nghĩa hỏi Lã Bất Vi vì sao lại gặp được em gái anh ta. Lã Bất Vi cười khà khà rồi nói: "Khi dòng nước lớn dồn tới miếu Long vương, chẳng ai còn nhà cửa người thân gì cả. Em gái của cậu và người nuôi cậu ăn là Triệu Cơ, một người là vợ còn một người là thiếp của ta". Hoàng Phủ Nghĩa nói trong nước mắt: "May mà được một người tốt bụng như Triệu Cơ chăm sóc thuốc men, nếu không tôi đã chết vì đói rét rồi". Lã Bất Vi liếc nhìn Hoàng Phủ Kiều, ý của ông là muốn trách móc cô sao vẫn dè chừng với Triệu Cơ, Triệu Cơ đã cứu anh trai của cô mà cô vẫn chưa biết sao. Hoàng Phủ Kiều cũng cảm thấy xấu hổ và có lỗi với Triệu Cơ, hai chị em sẽ kề vai sát cánh phục vụ Lã Bất Vi. Lã Bất Vi nói với Hoàng Phủ Nghĩa: "Hoàng Phủ đại ca, oan cho anh quá, Dị Nhân điện hạ là Tần vương tôn mà ta dốc lòng giúp đỡ, Tư Không Mã là môn khách của ta, Chu Kiểm là nha dịch của Dị Nhân. Anh hãy xem tất cả đều là thân thiết đấy chứ".

Hoàng Phủ Nghĩa được dìu về phòng khách của Lã phủ, Lã Bất Vi nói với anh ta: "Huynh hãy ở đây nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, ta đến chỗ Dị Nhân rồi sẽ quay lại".

Lã Bất Vi tới chỗ của Dị Nhân, Công Tôn Càn cũng không ngăn cản ông mà chỉ hỏi: "Lã tiên sinh, muộn như thế này rồi, ngài còn đến chỗ điện hạ làm gì?"

Lã Bất Vi nói: "Buổi tối ta muốn đánh vài ván cờ với họ cho vui".

Công Tôn Càn nói: "Ông vào đi, họ đang ở trong đó cả đấy".

Nhìn Lã Bất Vi vui vẻ bước vào, Dị Nhân, Tư Không Mã, Chu Kiểm liền đoán ngay ra chuyến đi Hoặc Dương của Lã Bất Vi đã được đền đáp. Quả nhiên là như vậy, ba người vui mừng nhảy cẫng lên. Lã Bất Vi liền xua xua tay nói: "Mọi người không nên vui mừng mà tiết lộ ra, chúng ta phải chuẩn bị cho tốt để sớm tẩu rời Triệu. Nhưng Dị Nhân điện hạ là con tin, hai nước Tần Triệu sau chiến tranh, mối thù không đội trời chung. Quần thần nước Triệu sẽ rất chú trọng đối với điện hạ, và sẽ không dễ dàng bỏ qua chuyện này đâu. Huống hồ Dị Nhân điện hạ lại muốn dứt bỏ danh con tin để về nước! Từ nay về sau, mọi người ắt phải đề cao cảnh giác, tìm mọi phương cách, hễ có điều kiện thuận lợi là phải lập tức rời khỏi Hàm Đan".

Tư Không Mã nói: "Lã Bất Vi nói rất đúng, chúng ta đang ở trong hoàn cảnh nguy nan, chỉ cần sơ xuất là khó tránh khỏi cái chết. Mấy hôm trước có tên thích khách tới, nhưng chẳng rõ là ai xúi giục hắn?". Tiếp đó họ nói với Lã Bất Vi, vào một buổi tối mấy hôm trước, họ bắt được một tên thích khách rắn muốn tới hành thích Dị Nhân điện hạ, bây giờ đang nhốt hắn ở trong kho lương. Lã Bất Vi đem những gì mình vừa chứng kiến nói cho mọi người nghe, nghe xong tất cả đều kinh sợ trước sự hiểm ác này.

Dị Nhân căm phẫn nói: "Tên Tử Hề oắt con, đúng là lòng dạ lang sói, muốn giết cả anh em ruột thịt của mình, chẳng phải là quá thâm độc sao?"

Lã Bất Vi nói: "Vì thế, Thái tử điện hạ cần phải thận trọng trong mọi hoàn cảnh, phòng họa khi chưa xảy ra, bất luận là ở Hàm Đan hay ở Hoặc Dương, Thái tử điện hạ đều sẽ không được thuận buồm xuôi gió đâu!"

Tư Không Mã cảm khái nói: "Dị Nhân điện hạ có thể nói là như đang ở trong bụi cây có gai, hiểm họa như được sinh ra ở bên trong vậy!"

Lã Bất Vi nói: "Chỉ cần chúng ta dốc lòng phò giúp là có thể đưa Dị Nhân tới ngai vàng của Tần vương!"

Lã Bất Vi trở về phủ, trời đã khuya, anh em Hoàng Phủ vẫn ngồi ôn nghèo kể khổ, không ngừng than ngắn thở dài. Lã Bất Vi sau khi chào họ, liền đi về phòng Triệu Cơ.

Sự cô đơn quạnh quẽ của Triệu Cơ trong sự chờ đợi kéo dài: cô đang mơ màng, sau khi trăng lên Lã Bất Vi chưa về, nhưng hôm nay sớm muộn gì ông ấy cũng sẽ đến chỗ cô. Trong giấc mơ, cô cảm thấy như có một luồng khí nóng đang chảy dài trên thân thể cô và chảy vào nơi chăn đơn gối chiếc của cô, không đợi cô kịp tỉnh trở lại, từng động tác thành thục của Lã Bất Vi đã đâu vào đấy cả rồi. Trong cơn khoái lạc, cô sung sướng nói: "Ai dà, giống như mãnh hổ dưới chân núi vậy!". Lã Bất Vi hiểu rằng, vì việc lập Dị Nhân làm Thái tử mà ông phải vất vả bôn ba, làm ảnh hưởng đến truyền thống nối dõi tông đường, ông không muốn mất đi thời cơ liền đến bên Triệu Cơ để hoàn thành sứ mệnh này và cũng là để tạo niềm vui cho mình.

Qua vài ngày sống trong hoan lạc để thực hiện sứ mệnh nối dõi tông đường, Lã Bất Vi sờ lên bụng của Triệu Cơ hỏi: "Tạo hóa đã bao nhiêu lần ban phát rất đầy đủ, chẳng lẽ ngõ vắng lại không có người sao?"

Triệu Cơ ôm chặt Lã Bất Vi nói: "Mấy hôm nay thiếp cảm thấy khó ở, thích ăn đồ chua, sợ rằng là có rồi!"

Lã Bất Vi vui mừng hỏi: "Thật không?"

Triệu Cơ nói: "Thiếp chưa từng trải qua việc sinh nở, nếu muốn biết, hãy đi hỏi một người từng trải, cô ta nói đúng, thì chắc chắn sẽ đúng!"

Lã Bất Vi nói: "Một chữ hỉ đến, thì Lã Bất Vi ta coi như là có tam hỉ lâm môn rồi".

Triệu Cơ không hiểu bèn hỏi: "Tam hỉ nào cơ?"

Lã Bất Vi hỏi: "Chuyến đi Hoặc Dương đã giúp Dị Nhân được lập thế tử có phải là một việc vui không?"

"Là một việc vui".

Lã Bất Vi lại hỏi: "Gặp được Hoàng Phủ Nghĩa cùng em gái lâu ngày không gặp trùng phùng có phải là một việc vui không?"

"Là một việc vui".

"Thêm vào đó ái thiếp lại có tin vui, vậy là mấy tin vui rồi?"

"Là ba việc. Nhưng Lã đại nhân còn quên một chuyện vui". Lã Bất Vi kinh ngạc hỏi: "Còn việc gì vui nữa?"

Triệu Cơ nói: "Thiếp và chị Hoàng Phủ bỏ hiềm khích trước đây, hòa thuận trở lại, thê thiếp hòa hợp, không phải là một việc vui sao?"

Lã Bất Vi tán thành: "Là một việc vui, là một việc vui!"

Triệu Cơ nói: "Vây là tứ hỉ lâm môn!"

Lã Bất Vi khen: "Ái thiếp còn nhiều trò hơn ta!"

* * * * *

Khi Đỗ Thương triệu kiến Triệu Hiếu Thành vương với thái độ cung kính bất đắc dĩ, Triệu Hiếu Thành vương nhận thấy năm tháng đã để lại những vết tích tàn khốc trên thân thể của Tướng quốc nhà Tần, một anh vũ phi phàm đương thời. Đỗ Thương ngồi rất gần Ngự tọa nên Triệu Hiếu Thành vương có thể nhìn thấy rất rõ những nếp nhăn chằng chịt trên khuôn mặt ông và bộ râu lơ thơ ở dưới cằm, bộ lễ đường sặc sỡ khoác lên tấm thân gầy gò, giống như cặp vú lép kẹp của bà lão. Triệu Hiếu Thành vương còn nhớ, có một năm Đỗ Thương làm Tướng quốc đi sứ nước Triệu, lúc đó rất khôi ngô, cao lớn. Khi đó Triệu Hiếu Thành vương còn là Thái tử, thi nhấc nồi với ông ta, một cái nồi nặng 180 kg, Đỗ Thương nắm chặt lấy nồi, nhẹ nhàng nhấc bổng qua đầu. Bây giờ, chiếc nồi đó, chỉ cần xoay nó thôi, e rằng lực bất tòng tâm rồi.

Nghĩ đến chuyện bốn mươi vạn quân sĩ đầu hàng bị chôn sống tại Trường Bình, Triệu Hiếu Thành vương căm giận quần thần nước Tần như kẻ địch. Mặc dù biết rằng Đỗ Thương không còn ở chức Tướng quốc, rút khỏi triều đường từ lâu nhưng Triệu Hiếu Thành vương vẫn nói móc: "Ông bạn già, nước Tần đánh thắng trận, Chiêu Tương vương chắc thưởng cho ông không ít?"

Đỗ Thương khiêm tốn nói: "Tiểu nhân không còn ở đương vị, không can dự vào việc triều chính, chiến trận vô công, Chiêu Tương vương làm sao lại thưởng cho tiểu nhân được! Ở Hoặc Dương, thần không còn duyên phận với bổng lộc nữa rồi, chỉ còn cách đến Hàm Đan xin Đại vương cho quà bố thí!"

Triệu Hiếu Thành vương thở hắt một cái nói: "Quả nhân dựa vào cái gì để ban thưởng cho nhà ngươi?"

Đỗ Thương nói: "Tiểu nhân đem việc quân cơ của nước Tần báo cáo với Đại vương, Đại vương lẽ nào lại không ban thưởng cho tiểu nhân?"

Vừa nghe thấy Đỗ Thương có việc quân cơ định báo cáo, Triệu Hiếu Thành vương cho cung nữ và triều thần thường lui ra, chỉ để lại mấy trọng thần ruột như Bình Dương Triệu Bảo, Bình Nguyên Triệu Thắng và Thượng khanh Lạn Tương Như.

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Đỗ Thương, giờ ngươi có thể yên tâm mạnh dạn bẩm báo với quả nhân".

Đỗ Thương hỏi: "Gần đây, An Quốc quân lập Thái tử, các vị có biết không?"

Triệu Hiếu Thành vương và mấy vị đại thần đều lắc đầu, hỏi: "Có phải là con trưởng của ông ta, Tử Hề không?"

Đỗ Thương nói: "Nếu là lập Tử Hề thì còn tốt cho nước Triệu. Tôi làm Thái bác, tôi biết Tử Hề là con người rộng lượng, nhân hậu, nghiêng về nước Triệu. Ông ta đã mấy lần kiến nghị với Chiêu Tương vương - An Quốc quân, cùng nước Triệu biến gươm đao thành ngọc thạch, bắt tay liên minh, thôn tính các chư hầu, cùng hưởng thiên hạ. Theo chủ trương của ông ấy thì bốn mươi vạn quân đầu hàng ở Trường Bình không giết một ai cả, trả tất lại cho nước Triệu. Nhưng lời nói của ông ta như gió thổi qua tai, có ai nghe đâu!"

Triệu Hiếu Thành vương hỏi: "Theo tổ chế của các nước chư hầu thì phải lập con trưởng. Không lập Tử Hề thì lập ai bây giờ?"

Đỗ Thương nói: "Lập một kẻ dưới mi mắt của Đại vương - Dị Nhân!"

"Vậy sao?". Triệu Hiếu Thành vương và mấy vị đại thần đều cảm thấy có chút hổ thẹn về tầm nhìn nông cạn của mình.

Đỗ Thương nói: "Dị Nhân ở Triệu quốc bị ngược đãi, lạnh nhạt, có sự thù hận sâu đậm với quần thần nước Triệu, thề rằng một khi ông ta trở về nước Tần kế vị thì sẽ lập tức tấn công Hàm Đan, báo thù rửa hận". Tiếp đó, Đỗ Thương thêm mắm, thêm muối kể về quá trình Lã Bất Vi chạy về Hoặc Dương thực hiện kế hoạch như thế nào.

Triệu Hiếu Thành vương và mấy vị đại thần cảm thấy vô cùng bất ngờ trước những hành vi của Lã Bất Vi.

Triệu Hiếu Thành vương như tỉnh mộng: "Những điều lão Tướng quốc vừa nói có phải là đều tận mắt thấy tai nghe không?"

Đỗ Thương nói: "Đương nhiên là tiểu nhân mắt thấy tai nghe, không sai một ly. Hoa Dương còn khắc Ngọc Phù cho An Quốc quân, lan truyền khắp thành Hoặc Dương, ầm ĩ khắp nơi, ai mà chẳng biết! Chư vị vẫn còn bị nút lỗ tai rồi?"

Triệu Hiếu Thành vương nói không vui: "Không ngờ Lã Bất Vi là kẻ ăn cây này rào cây nọ, nối giáo cho giặc!"

Đỗ Thương nói: "Có lẽ họ đang kế hoạch trốn chạy về Tần, xin Đại vương đừng để sơ sẩy. Theo tiểu nhân, đại nhân phải mạnh tay trước, giết Dị Nhân, Lã Bất Vi để diệt hậu hoạ, tránh nuôi hổ để họa về sau, hối cũng đã muộn!"

Triệu Hiếu Thành vương rất cảm kích Đỗ Thương từ xa ngàn dặm tới, lại đem việc quan trọng báo cho nước Triệu nên ban thưởng hậu hĩnh cho Đỗ Thương.

Sau khi Đỗ Thương đi, Triệu Hiếu Thành vương và các đại thần bàn bạc cách đối phó với việc Lã Bất Vi giúp Dị Nhân trở thành vương hầu. Người thì nói, lời của Đỗ Thương thật hư thế nào khó biết được, cũng có thể là kế của nước Tần; người thì nói giờ bắt luôn Dị Nhân và Lã Bất Vi, giam cầm cẩn mật, dùng đòn tra khảo, khơi rõ ngọn nguồn, rồi dùng thiên đao vạn quạ mổ thịt róc xương; kẻ thì cho rằng hiện giờ không nên manh động, nên làm thế nào thì phải đợi đến khi mọi việc sáng tỏ. Có người nói, trước tiên phải giam cầm cẩn mật Dị Nhân, găm hàng đợi giá, ép Tần vương. Người thế này, người thế nọ, mỗi người một ý, không đi đến nhất trí.

Từ khi Triệu Hiếu Thành vương không nghe lời can gián của quần thần, độc đoán truyền lệnh cửa Triệu Quát làm Đại tướng quân, việc này làm quân Triệu thất bại thảm hại, tự thấy hối hận cũng đã muộn. Từ đó về sau, làm việc gì đều lắng nghe ý kiến của quần thần, không tự ý ban chiếu thư quyết đoán. Quần thần mỗi người một ý, có lúc, hai ý kiến đối lập nhau không ai chịu ai. Có đại thần, sau khi thao thao bất tuyệt, thêm một câu: "Xin Đại vương quyết đoán".

Triệu Hiếu Thành vương thấy như có ngàn vạn con ruồi đang bay vo ve trong đầu, các quần thần tranh cãi đỏ mặt tía tai, đều biến thành hài, nhảy nhót trước mắt ông. Triệu Hiếu Thành vương xua xua tay: "Được rồi, các khanh người nào nói cũng có lý, để trẫm suy nghĩ kỹ rồi quyết định!"

Triệu Hiếu Thành vương nhìn thấy có một số đại thần vẻ mặt dường như lộ vẻ tức giận, vừa đi vừa thì thầm bàn tán gì đó.

Dưới ánh trăng nhợt nhạt, Lạn Tương Như thấy bóng mình càng trở nên mỏng manh, từ Đại điện bước ra, ông thấy mình như một miếng lụa lướt trên chiếc xe người kéo. Sau cuộc chiến Trường Bình, tinh thần, sức lực giảm sút, làm việc gì cũng thấy rõ là lực bất tòng tâm. Đêm thường trằn trọc khó ngủ, nhớ đến đại tướng quân Liêm Pha từng cúi đầu nhận tội trước ông. Từ đó về sau, họ - một văn một võ, cùng kính cùng nhường. Triều đình trên dưới, vạn người đều một lòng cùng phụ tá Triệu Huệ Văn vương. Nước Tần nhìn mà sợ, mười năm liền không dám động đến một cái lông của nước Triệu. Bây giờ ư? Sau trận chiến Trường Bình, Triệu quốc như nước sông chảy xuôi, ngày càng sa sút, như núi tuyết tan ra dưới gió xuân. Đại vương cũng không giống như tiên vương Triệu Huệ Văn vương, có con mắt dùng người, hiểu rõ đến chân tơ kẽ tóc, mà lúc thì một mình một ý đoán, không nghe lời can gián của các quần thần bên dưới, lúc thì hòa tâm mà không thành rộng lượng mà quả đoán...

Lạn Tương Như về đến phủ, cảm thấy ngàn ngẩm trăm chiều, bất giác buông tiếng thở dài. Gia tướng Lạn Bửu thấy rất kỳ lạ, Thượng khanh đại nhân từ triều đường trở về, sao lại ủ rũ như vậy, bèn hỏi: "Thượng khanh đại nhân, sao vậy?"

Lạn Tương Như đành nói: "Cái tên thương nhân Lã Bất Vi người nước Vệ, đến Hoặc Dương hoạt động, An Quốc quân đã lập Dị Nhân làm vương hầu. Họ rất có thể muốn chạy trốn về nước Tần, đại thần thì mồm năm miệng mười, tranh luận cả buổi chiều, Đại vương cũng chưa quyết định nên dùng cách gì để đối phó với Dị Nhân và Lã Bất Vi".

Lạn Bửu làm ra vẻ không quan tâm đến lời Lạn Tương Như nói, không hỏi thêm gì nữa, mà cẩn trọng bưng trà lên cho Lạn Tương Như. Bận rộn một hồi, Lạn Bửu tìm cơ hội, chạy một mạch đến phủ đệ của Lã Bất Vi.

Lã Bất Vi đang nói khô cả họng để khuyên nhủ Hoàng Phủ Nghĩa lưu lại, cùng họ hiệp lực phò giúp Dị Nhân, sôi nổi mưu đồ một nghiệp lớn. Hoàng Phủ Nghĩa cương quyết nói: Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy. Tôi đã đồng ý hứa với Tử Hề, bây giờ không có cách gì làm được, cũng lại không có mặt mũi nào mà gặp ông ta. Ông và Thái tử điện hạ Dị Nhân sắp quay về Hoặc Dương, tôi làm sao dám sáng Tần chiều Sở, chân đứng hai thuyền? Một bầy tôi không phục vụ hai chủ, các ông làm việc của các ông, Tử Hề làm việc của Tử Hề, cứ để tôi phiêu bạt giang hồ, cầm kiếm viễn du. Một khi Dị Nhân được làm vua Tần, đánh dẹp Vệ nguyên quân, giải oan báo thù cho gia tộc Hoàng Phủ chúng tôi. Bất luận Lã Bất Vi dùng lời lẽ gì để can ngăn, Hoàng Phủ Kiều vẫn khóc lóc thảm thiết không muốn chia tay với anh trai, còn Hoàng Phủ Nghĩa vẫn quyết tâm ra đi.

Lần ly biệt này có thể trở thành vĩnh viễn, Lã Bất Vi cho Hoàng Phủ Nghĩa rất nhiều tiền bạc; Hoàng Phủ Kiều lưu luyến không rời, tiễn anh trai ra khỏi thành Hàm Đan.

Lã Bất Vi thấy Lạn Bửu dáng vẻ vội vàng, biết là tất có việc cần thông báo, nhưng không vội hỏi, mà đưa hai đồ bằng ngọc thượng hảo cho Lạn Bửu: "Tôi đi một chuyến đến Hoặc Dương cũng chưa gặp được đồ cổ nào quý hiếm, chỉ có hai đồ bằng ngọc này còn có chút khác thường, liền mua về dâng cho gia tướng, xin nhận cho". Kỳ thực, hai vật bằng ngọc đó là của nhà Lã Bất Vi, vì muốn lấy lòng Lạn Bửu, Lã Bất Vi bèn bịa ra câu chuyện đó.

Lạn Bửu thấy Lã Bất Vi đi Hoặc Dương mà còn nhớ đến mình, cảm kích vô cùng, nhận lấy hai vật bằng ngọc rồi vội kể lại một lượt những lời của Lạn Tương Như. Lã Bất Vi vừa nghe xong, vừa kinh ngạc, vừa sợ hãi nhưng cố gắng trấn tĩnh ngay làm như không có việc gì, nói với Lạn Bửu: "Đại vương sao lại nghe gió là mưa? Dị Nhân đang định an cư lập nghiệp ở nước Triệu, sao lại có thể bỏ trốn về Hoặc Dương được?". Lạn Bửu đi rồi, Lã Bất Vi nghĩ mãi, không biết Triệu Hiếu Thành vương lấy tin ở đâu, nhưng nghĩ mãi cũng không giải thích nổi việc ấy. Triệu Hiếu Thành vương biết được ý định trốn về Tần, giam chặt họ lại thì công toi hết. Giờ phải tạo một hiện tượng giả để bịt mắt Triệu Hiếu Thành vương. Nghĩ đi nghĩ lại, Lã Bất Vi thấy nên xây ngay một quán trọ sang ở chỗ Dị Nhân để mọi người thấy rằng Dị Nhân định an cư lập nghiệp lâu dài ở Hàm Đan. Ngoài ra còn bảo Dị Nhân đi kỹ viện vui chơi, để tạo hình ảnh một con người vô tài chí, một hỗn thế ma vương tiêu tiền như rác, để Triệu Hiếu Thành vương cảm thấy Dị Nhân không chỉ không có tương lai làm vua nước Tần, cũng không thể tạo nên nguy hiểm gì cho nước Triệu. Nghĩ như vậy, Lã Bất Vi đến ngay chỗ Dị Nhân ở, nhưng lại thấy không được, giờ Triệu Hiếu Thành vương đã chú ý đến họ, nếu ra vào quán trọ nơi Dị Nhân ở thì nhất định sẽ làm mọi người càng nghi ngờ họ lòng dạ khó lường. Lã Bất Vi bèn gọi Dương Tử mới từ Hoặc Dương trở về, đến quán trọ của Dị Nhân, nhân lúc Công Tôn Càn không chú ý, đem ý của ông nói với Dị Nhân, bảo Dị Nhân ngày mai khua chiêng gõ trống đến kỹ viện.

Trong dòng người qua lại nhộn nhịp, Chu Kiểm và Tư Không Mã gào thét dọn đường cho Dị Nhân: "Xin bà con nhường đường một chút, cháu Tần vương - Dị Nhân muốn đi qua. Mọi người xin nhường một chút!". Dị Nhân quần áo chỉnh tề lắc la lắc lư hướng chỗ ít người bước tới. Ông ta không còn lo sợ bị bao vây và làm nhục trên phô như trước đây. Chu Kiểm mạo danh làm kẻ bố thí, tạo ra ảnh hưởng rộng lớn. Hầu như ai cũng biết có một người cháu Tần vương - Dị Nhân lạc thiện hảo thí, cùng chung vui buồn với người Hàm Đan. Sự thù hận của họ đối với Dị Nhân dần tan biến hết. Hơn nữa, theo thời gian, hồi ức u ám về cuộc binh chiến ở Trường Bình cũng càng ngày càng mờ nhạt dần trong lòng người dân thành Hàm Đan.

Dị Nhân tinh thần vui vẻ thảnh thơi, Lã Bất Vi nghĩ ra cách làm tê liệt Triệu Hiếu Thành vương, đối với ông ta mà nói thì đúng là "khi rét cho than". Nghĩ đến nơi sắp đến trước mắt, vật dưới đũng quần ông ta bất ngờ cứng lên, ông ta vui vẻ nghĩ: "Nơi làm xẹp nó tốt nhất là kỹ viện đây".

Kiến trúc của kỹ viện đầy hương khí son phấn, nằm cao chót vót ở một góc phố náo nhiệt. Cửa sổ, cửa chính đều sơn màu xanh đỏ lòe loẹt không giống mọi người, những trận cười hả hê chốc chốc lại vọng ra từ trong các lầu. Trên dây phơi ở mái hiên lầu hai, quần áo lót màu sặc sỡ đang tung bay theo gió, làm mê hoặc các khách đi đường.

Đến trước kỹ viện, Dị Nhân không bước vào ngay, chần chừ một hồi. Ông ta nhìn thấy hai chữ "Kỹ lư" được viết rất rõ, liền nghĩ đến Tề Cảnh công. Khi ông ta còn rất nhỏ, đã nghe ông nội Chiêu Tương vương và cha An Quốc quân có lúc đàm luận, nói rằng vị quốc quân đầu óc nhanh nhạy này của nước Tề biết dùng da thịt của nữ nhân để vơ vét của cải, làm giàu.

Một đám kỹ nữ mặt này tươi cười, cười cười nói nói bâu lấy Dị Nhân, Dị Nhân ngẩng đầu lên nhìn thì thấy ở hành lang gác hai có một cô gái xinh xắn đang chớp chớp mắt đưa tình với mình. Ánh mắt lâu ngày không được gặp đó làm Dị Nhân rạo rực, vật dưới đũng quần một lần nữa lại động đậy. Ông ta quay lại rút ra mấy lạng bạc lẻ, đưa cho Chu Kiểm và Tư Không Mã: "Các ngươi ra phố chơi hoặc tìm một kỹ nữ vui chơi cũng được".

Chu Kiểm không có hứng thú với việc dùng tiền chơi ngọc nên đi ra phố. Tư Không Mã nhìn thấy vẻ thẹn thùng của các kỹ nữ cũng thấy rạo rực, bèn cùng Dị Nhân bước vào kỹ lư. Bước vào hàng lang rộng lớn, Tư Không Mã lớn tiếng gọi: "Tổng quản kỹ lư đâu rồi?"

Lạc Dương Cốc nghe thấy vội chạy đến nói anh ta là tổng quản kỹ lư, hỏi hai vị đại nhân có gì dặn dò?

Tư Không Mã tự cho mình là hơn người nói: "Ngươi có biết ông ấy là ai không?"

Lạc Dương Cốc lắc đầu.

"Nói ra ngươi sẽ đứng không vững cho mà coi! Nói cho ngươi biết, vị này là Dị Nhân, cháu của Tần vương! Mau tìm cho ông ấy một cô trông khá khẩm vào, đừng có đưa mấy cô sứt môi lồi rốn để bịp bọn ta đấy!". Tư Không Mã vênh mặt, hất hàm nói.

Lạc Dương Cốc chỉ nghe nói Dị Nhân con tin nước Tần sống ở thành Hàm Đan, nhưng từ trước đến giờ chưa từng gặp mặt. Vừa thấy cái người mặt mũi quái dị trước mặt là Dị Nhân, liền cúi người hành lễ nói: "Lạc Dương có mắt không nhận ra Kim Ngọc tướng, xin Dị Nhân điện hạ trị tội! Tiểu nhân xin đảm bảo tìm cho hai vị hai nàng đẹp như hoa, như ngọc để Dị Nhân điện hạ và vị đại nhân này vui chơi tràn trề!"

Dị Nhân được đưa đến một gian phòng xa hoa tràn đầy tiêu hương phấn khí, một mỹ nữ lướt đến trước mặt ông ta. Dị Nhân như người khát được nước, hấp tấp xé y phục của người kỹ nữ, vồ vập như mãnh hổ trên cơ thể nhẵn mịn như cá...

Mấy lần đầu, Dị Nhân cảm thấy phấn chấn tươi mới, mấy ngày sau lại thấy rằng mỹ sắc trong kỹ viện chẳng qua cũng chỉ như vậy thôi. Ông ta muốn thay đổi khẩu vị, tìm một kỹ nữ biết hát múa Ba Thục Tần Phong. Lạc Dương Cốc nói, hiện giờ chưa có một kỹ nữ nào biết hát múa những bài hát của Tần, nhưng sau hai ngày, đảm bảo sẽ tìm được một mỹ nữ giỏi ca vũ nước Tần, nhất định sẽ làm Dị Nhân điện hạ vừa ý.

Hai ngày sau, khi Dị Nhân đến, Lạc Dương Cốc nói với Dị Nhân là theo yêu cầu của điện hạ, cuối cùng đã thỏa nguyện tìm được một mỹ nữ đẹp như tiên. Dị Nhân được đưa đến một căn phòng, có tên gọi: "Duyệt Linh các". Đẩy cửa vào, đã thấy một cô gái diễm lệ tuổi cập kê kính cẩn chờ đợi ở đó. Thấy Dị Nhân bước vào, khởi thân thi lễ, sau đó đi nhẹ như lướt đến đóng chặt cửa lại. Dị Nhân thấy nhất cử nhất động của cô đều nhẹ nhàng, uyển chuyển, không giống người thường.

Cô gái nhoẻn miệng cười, lộ ra hai hàm răng trắng như thạch nói: "Tiện dân tên gọi Di Hồng, xin hầu hạ công tử điện hạ. Nghe Lạc Dương Cốc nói, công tử điện hạ có tâm hướng về ca vũ nước Tần. Di Hồng xin ngâm một khúc: "Tần Phong Kiêm Hà" để mua vui cho điện hạ". Di Hồng nói xong, cất giọng ngọt ngào lưu loát:

Lau sậy xanh xanh

Giọt sương long lanh

Ôi người con gái

Giữa dòng mong manh.

Ngược theo dòng nước

Con đường trắc trở

Ngược theo dòng nước

Giữa dòng bơ vơ.

Lau sậy thê thê

Khí thu sắc ghê

Ôi người con gái

Ven dòng sông quê.

Ngược theo dòng nước

Con đường lên cao

Ngược theo dòng nước

Đá ngầm nhô cao.

Giọng nói quê hương trầm bổng réo rắt, ca từ tình chân ý thật, Dị Nhân như được trở về bên bờ sông Vị cách đã lâu, Chương đài nội cung. Tiếng đọc rung động đến tận tâm can, những tôi tớ cười tươi như được mùa, khuôn mặt hiền hậu thân thương của mẹ - Hạ Cơ, những thức ăn đủ các phong vị, những bạn bè quyền quý tẩu khuyển đấu kê... những kỷ niệm, mộng tưởng về quê hương tràn trề trong đầu Dị Nhân, bất giác Dị Nhân buột tiếng than: "Có nhà khó về, có mộng khó vẹn..."

Nghe thấy Dị Nhân nói như vậy, tiếng hát Di Hồng bỗng im bặt: "Tiện dân ca bài "Tần Phong - Kiêm Hà" đã khơi dậy nỗi buồn nhớ quê hương của điện hạ, thất lễ, thất lễ!"

Cử chỉ của Di Hồng thanh thoát, uyển chuyển, nho nhã, xuất thân không phải là người hầu hạ nơi tướng phủ, thì cũng là gia đình nho sĩ.

Khi chú gà trống cất tiếng gáy báo hiệu bình minh, Dị Nhân mới rời kỹ lư.

Ông ta cảm thấy lời ca của Di Hồng như còn văng vẳng bên tai... Những ái ân nồng thắm trên chiếc giường êm ái đó còn như hiện ra mồn một trước mắt. Sau này được làm Tần vương, tìm được một kỹ cơ như vậy cũng coi là mãn nguyện lắm rồi. Tiếc là lần đầu gặp mặt, chỉ chú ý đến việc chăn gối trên giường mà không kịp thổ lộ tâm tình...

Bến đò Chương Yên thông qua dòng sông Phủ Dương, đem rất nhiều hàng hóa và truyền thuyết đến thành Hàm Đan cách xa hai trăm dặm. Bến đò bị che khuất sau đám cây sum suê um tùm, tiếng chim sẻ hót líu lo trong đám lá xanh biếc, dưới bóng cây um tùm, dòng nước róc rách trôi. Bến đò rộng hơn mười trượng, cũng được coi là một bến cảng lớn. Ven bờ được đắp bởi những phiến đá sần sùi một màu, những đám rêu xanh đã kết gắn các phiến đá với nhau một cách tự nhiên. Dọc theo bến cảng là các nhà trọ, quán rượu. Đây là một thị trấn nhỏ phồn hoa và lâu đời.

Dương Tử vuốt mồ hôi lấm tấm trên trán, chỉ huy một số phu dịch dỡ những tấm gỗ dựng nhà từ xe kéo vào bến cảng. Những vật liệu này là mua để dựng nhà trọ cho Dị Nhân, lát nữa sẽ được chuyển đến Hàm Đan.

Dương Tử thấy những tấm gỗ nằm lung tung khắp bến cảng, xa xa có tàu sắp cập bến và những vật đó có thể ảnh hưởng đến đường đi lại của người xe.

Lúc đó, Lạc Dương Cốc hô hào sai khiến mười mấy người phu khuân vác đang hướng về phía bến cảng. Mỗi người phu khuân vác đều vác một hòm gai lớn nặng chình chịch, bên trong là những hoa tiêu thượng hảo, tường vách ở các phòng trong kỹ lư đều được trát bằng bùn tiêu, như vậy trong phòng luôn tràn ngập mùi hương quyến rũ. Để loại hương thơm này luôn đậm đà, tươi mới, bùn tiêu trát tường mỗi năm được thay một lần. Thấy những tấm gỗ chắn đường đi, Lạc Dương Cốc cất tiếng chửi: "Thằng nào có mắt không tròng, vứt gỗ lung tung ra thế này?"

Trước khi đi, Lã Bất Vi đã dặn Dương Tử, trên đường phải tạo dư luận làm mọi người đều biết rằng Dị Nhân đang dựng một nhà nghỉ thượng hạng chính thức làm ăn, định cư ở Hàm Đan. Do vậy, nhìn thấy có người, Dương Tử bèn hòa nhã bẩm thưa: "Xin lỗi đại ca, những vật này là để vận chuyển về Hàm Đan xây nhà trọ cho vương tôn nhà Tần - Dị Nhân điện hạ".

Lạc Dương Cốc khinh khỉnh nói: "Đừng có lấy vương tôn Tần vương ra dọa người nhé! Người xây nhà cho Dị Nhân, còn những hoa tiêu này của bọn ta cũng là dùng để trát tường phòng cho Dị Nhân ở kỹ lư đấy!"

Dương Tử biết mấy ngày nay Dị Nhân thường chỉ biết đến kỹ lư, trong bụng nghĩ: "Chắc người này là hầu hạ Dị Nhân ở đó". Nghĩ như vậy, ông liền hỏi Lạc Dương Cốc: "Đại ca đã gặp Dị Nhân chưa?"

Lạc Dương Cốc nói: "Hà, gặp rồi, đến mỹ nhân được ông ta yêu mến - Di Hồng lai lịch thế nào ta còn biết nữa là".

Dương Tử vui vẻ hỏi: "Lai lịch như thế nào?"

Lạc Dương Cốc nói: "Thiên cơ không thể tiết lộ được".

Dương Tử thấy lời Lạc Dương Cốc có gì ẩn chứa, muốn hỏi rõ ngọn nguồn, liền cúi đầu khom lưng nói với Lạc Dương Cốc: "Đại ca, chúng ta đều là phục vụ cho Dị Nhân điện hạ, cùng là người một nhà. Xem ra, còn phải đợi thuyền một lúc, xin mời đại ca một chầu rượu".

Lạc Dương Cốc thấy Dương Tử khom lưng uốn gối, trong lòng hả hê, sung sướng, dặn dò mấy người phu đợi ở bến cảng xong liền theo Dương Tử bước vào một tửu lầu cách đó không xa. Dương Tử gọi rất nhiều thức nhắm, và một bình rượu quế, cung cung kính kính rót rượu cho Lạc Dương Cốc: "Đại ca thật là thần thông quảng đại, đến lai lịch kỹ nữ hầu hạ Tần Dị Nhân cũng biết! Vừa rồi đại ca rủa tôi rất đúng, coi như tôi có mắt không tròng!"

Sau một tuần rượu, thấy Lạc Dương Cốc có vẻ ngà ngà say, Dương Tử liền hỏi: "Đại ca, kỹ nữ hầu hạ Dị Nhân mà đại ca vừa nói tên là gì?"

"Di Hồng", Lạc Dương Cốc đáp.

Dương Tử lại hỏi: "Lai lịch của cô ta như thế nào?"

Lạc Dương Cốc định nói rồi lại thôi.

Dương Tử lại truy hỏi: "Đại ca, anh biết thật hay không biết? Không biết thì thôi! Đừng có gạt tiểu đệ!"

Lạc Dương Cốc nói không vui: "Tiểu đệ, em nói gì vậy? Nói cho em biết, cô Di Hồng đó là một mỹ nữ được Triệu vương sủng ái đấy!"

Dương Tử vừa nghe xong, tim thắt lại, cảm thấy sự việc này rất kỳ lạ, không thể như vậy được, là quân vương một nước, Triệu Hiếu Thành vương làm sao lại có thể đưa ái thê của mình đến kỹ lư bán thân được!

Lạc Dương Cốc lắp bắp nói không nên lời.

Dương Tử nói: "Lời nói của đại ca thật là kỳ lạ".

Lạc Dương Cốc nhìn quanh bốn phía, hạ thấp giọng nói: "Đại ca sẽ nói thật với tiểu đệ, nhưng tiểu đệ phải thề với trời đất rằng sẽ không tiết lộ việc này với bất cứ ai!"

Dương Tử nói: "Tiểu đệ cũng là một quân tử không biết nuốt lời; dám xin đảm bảo bằng mạng sống của mình nếu tiết lộ với kẻ khác thì sẽ bị sét đánh giữa trời quang, lửa thiêu nơi đất rộng, người không tha, vật cũng không tha..."

Lạc Dương Cốc nói: "Được rồi! Được rồi! Nói cho tiểu đệ biết, cái cô Di Hồng đó là Triệu vương cử đến giám sát Dị Nhân đấy!"

Dương Tử sợ giật cả mình, bát rượu trên tay suýt nữa rơi xuống đất, vội hỏi: "Đại ca, sao đại ca biết?"

Lạc Dương Cốc nói: "Ta đường đường là tổng quản kỹ lư, nắm rõ mọi việc ở đó như lòng bàn tay!"

Dương Tử nghe thấy Lạc Dương Cốc là tổng quản kỹ lư thì biết lời ông ta nói quyết không thể là nói khoác được.

Về đến Hàm Đan, Dương Tử để người khác trông nom đống vật liệu đó chuyển về chỗ Dị Nhân, mình ông ta quay về Lã phủ, báo cáo tin nghe được từ chỗ Lạc Dương Cốc cho Lã Bất Vi. Lã Bất Vi cũng hơi thất kinh, sợ rằng Dị Nhân đã tiết lộ kế hoạch của họ cho Di Hồng. Như vậy, Triệu Hiếu Thành vương mà biết thì mọi việc coi như xong. Ông ta vội vàng sai người dắt ngựa đóng xe, cùng Dương Tử lập tức đến ngay quán trọ nơi Dị Nhân ở. Vào tệ quán, Lã Bất Vi nói một câu với Công Tôn Càn đang ngồi ung dung sưởi nắng ở trên thềm: "Bàn chuyện xây tệ quán với Dị Nhân", rồi chạy thẳng tới chỗ ở của Dị Nhân.

Vừa may, lúc đó Dị Nhân có nhà. Lã Bất Vi nói cho Dị Nhân tin tức mà Dương Tử nghe được, Dị Nhân sợ hãi. Lã Bất Vi hỏi: "Điện hạ nói gì với cô ta rồi?"

Dị Nhân dương dương tự đắc nói: "Cô nàng Dị Nhân đúng là xinh đẹp tới mức hoa nhường nguyệt thẹn, chim sa cá lặn, làm người ta hồn bay phách lạc. Nhưng khi cô ta hỏi tôi Triệu vương có tốt không, lúc nào trở về Tần, Lã Bất Vi có phải đang mưu đồ đưa ngài về nước làm Thái tử... Tôi liền cảnh giác, kế hoạch của chúng ta làm sao có thể đem tiết lộ với một nữ nhi hồng trần được. Nhưng tôi không nghĩ rằng, cô ta là thiếp của Triệu vương!"

Nghe Dị Nhân nói như vậy, Lã Bất Vi mới chuyển lo thành mừng, như trút được một tảng đá khỏi tim vậy, nói: "Điện hạ đúng là thực hư khó lường".

Dị Nhân nói: "May mà Dương Tử đem một tin quan trọng như vậy về báo cho chúng ta, từ nay về sau tôi sẽ tránh xa ả Di Hồng đó!"

Lã Bất Vi nói: "Không! Nếu điện hạ làm như vậy sẽ càng dễ làm người khác cảnh giác và nghi ngờ. Chi bằng tương kế tựu kế, làm Di Hồng tin rằng điện hạ một lòng hướng về nước Triệu, yêu quý Hàm Đan, để che mắt Triệu Hiếu Thành vương".

Dị Nhân nói: "Vậy thì cứ làm theo kế hoạch của Thái bá vậy!"

Lã Bất Vi thấy tệ quán của Dị Nhân đổ nát, gạch ngói xếp đống. Thợ thuê đến thi nhau bỏ về, anh chửi tôi cãi, hiện ra một cảnh tượng hỗn loạn. Lã Bất Vi nghĩ: "Hay là đưa Dị Nhân về phủ đệ của mình ở, ở đó đầy đủ, thoải mái, nhưng việc này phải được Triệu Hiếu Thành vương phê chuẩn". Nghĩ đến đây, Lã Bất Vi lắc lắc đầu, bỏ đi dự định này.

Lã Bất Vi về đến phủ, Triệu Cơ bảo ông ta rằng vừa rồi có hai quan sai của Tòng Đài tới, Triệu Hiếu Thành vương cho triệu Lã Bất Vi lên điện, kiến giá.

Lã Bất Vi vội hỏi: "Hai quan sai đó nói chuyện gì?"

Triệu Cơ lắc lắc đầu, Lã Bất Vi lẩm bẩm: "Là việc gì nhỉ?"

Triệu Cơ lo lắng hỏi: "Hay là Triệu vương đã có bằng chứng gì, muốn hỏi tội đại nhân?"

"Ai mà biết được? Dân gian có nói, là phúc thì không phải là hoạ, là họa thì tránh cũng không được. Bất luận là họa thiên tửu địa, hay là biển lửa, ta cũng phải đi. Nếu thấy một hồi lâu ta không quay lại thì nàng hãy bảo Dị Nhân là ta bị Triệu Hiếu Thành vương triệu vào điện".

Chiếc xe chạy qua các ngõ phố, Lã Bất Vi ngồi trên xe suy nghĩ trả lời các loại chất vấn của Triệu Hiếu Thành vương như thế nào. Ông ta đoán tám, chín phần là về việc ông ta giúp Dị Nhân lập Thế tử.

Chiếc xe dừng trước cửa Tòng Đài, Lã Bất Vi vừa xuống xe nhìn thì đã thấy kinh ngạc, hai lần trước đến, một bên cửa có một quân sĩ khoác đao, hôm nay lại bốn người, đều cầm khiên đao. Bước vào, Lã Bất Vi thấy phía trước điện ngày thường có người qua lại, hôm nay lại vắng lặng không người. Các cửa cũng có binh sĩ đứng, đây là điều chưa từng có. Lã Bất Vi thấy không khí trong cung thiếu vẻ thâm nghiêm thì tim đập chân run: Hay là Triệu Hiếu Thành vương thật là muốn hỏi tội mình sao?

Lã Bất Vi bước vào, thấy quang cảnh càng khác thường. Triệu Hiếu Thành vương ngồi trên đường, sau lưng không phải là các cung nữ cầm quạt mà là những lực sĩ cầm đao. Lã Bất Vi run lẩy bẩy quỳ lạy Triệu Hiếu Thành vương.

Triệu Hiếu Thành vương kéo vạt áo ngồi thẳng lên, nhìn Lã Bất Vi hồi lâu không lên tiếng. Ông đặc biệt bày bố một quang cảnh sát khí để đe dọa tên thương nhân này, kỳ thực Triệu Hiếu Thành vương như đứng trong màn sương năm dặm nhìn không rõ diện mạo thật của Lã Bất Vi. Di Hồng về báo cáo nói rằng cô ta không hề phát hiện ra Dị Nhân có lòng thù ghét Triệu vương và mưu đồ chạy trốn về Tần; Lã Bất Vi lại mua gỗ về xây quán tệ cho Dị Nhân, đây là một hành động định để Dị Nhân cư trú lâu dài ở Hàm Đan; Công Tôn Càn cũng nói rằng Lã Bất Vi không hay thường đến gặp Dị Nhân, dù đến thì cũng là để chơi cờ chứ không có việc gì khác...

Lần này Triệu Hiếu Thành vương quyết định "lễ trước binh sau" phải truy hỏi la ra ngọn nguồn.

Hồi lâu sau, Triệu Hiếu Thành vương cất tiếng hỏi: "Quý thương dạo này bận lắm phải không?"

"Dạ, bận lắm ạ".

Triệu Hiếu Thành vương vẫn giữ giọng dửng dưng: "Bận gì vậy? Có thể cho quả nhân biết một chút không?"

Lã Bất Vi liếc mắt nhìn trộm, rồi nói: "Dạ, cách đây không lâu, đi Hoặc Dương một chuyến, chạy đông chạy tây về việc vương tôn Dị Nhân có thể trở thành vương hầu".

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Quý thương không an phận thủ thường làm ăn mà lo chuyện thiên hạ, tham dự vào việc triều chính nước Tần làm gì?"

Lã Bất Vi đáp: "Đại vương chỉ biết một ma không biết hai. Tiểu nhân đến Hoặc Dương vì Dị Nhân cũng là để làm ăn. Người ta thường nói, thêm một người bạn thêm một đường đi, thêm một kẻ thù thêm một bức tường. Sau này một khi ông ta làm Tần vương, một quân vương mà phải sống cuộc sống cơ hàn, đói rét thì cũng đáng thương. Thần nghĩ anh ta không ở Hàm Đan một năm, hai năm nên sửa lại nơi ở cho anh ta".

"Nói như vậy thương nhân còn có một tấm lòng phổ độ thiên hạ, thương kẻ nghèo khó, cô độc!"

Lã Bất Vi nói: "Tiểu nhân giúp Dị Nhân làm thế tử, đối với Đại vương cũng có điểm tốt!"

Triệu Hiếu Thành vương châm biếm: "Thương nhân các người đều biết vương bà bán dưa, tự bán tự khoa! Dị Nhân mà làm vương hầu thì có lợi gì cho quả nhân?"

Lã Bất Vi nói: "Đại vương thử nghĩ xem, Dị Nhân là một ma vương hỗn thế, ham chơi, một khi làm quân vương, không giống như Chiêu Tương vương văn võ song toàn, hừng hực hùng tâm, chiêu binh mãi võ, không ngừng tấn công vào thành quách nước Triệu, thôn tính đất đai của nước Triệu; còn nữa, ông ta làm con tin ở nước Triệu, sẽ nhớ đến ân tình sâu nặng của Đại vương đối với ông ta, cũng có thể gần gũi với nước Triệu, mong cùng Đại vương kết minh để cùng đối phó với chư hầu thiên hạ".

Triệu Hiếu Thành vương cảm thấy Lã Bất Vi nói rất có lý, liên tưởng đến tình hình Di Hồng và Công Tôn Càn báo cáo với mình, thấy rằng lời Đỗ Thương chỉ là khuếch đại sự việc, mê hoặc tâm thần. Dị Nhân có về Tần làm vương hầu, thì cũng làm gì có việc căm hận nước Triệu, mưu đồ bỏ trốn về Tần, chắc gì ở chỗ Chiêu Tương vương lại không chịu cảnh chim lồng cá chậu, đến đây để khiêu chiến! Nghĩ đến đây, ông mới thay đổi thái độ, thân thiện hỏi Lã Bất Vi: "Việc xây dựng quán xá mới tiến hành tới đâu rồi?"

Lã Bất Vi nhân cơ hội này trả lời: "Bẩm Đại vương, đang tiến hành xây dựng ngày đêm không nghỉ. Có một việc nhỏ tiểu nhân muốn thỉnh cầu cho Dị Nhân, mong Đại vương ân chuẩn".

"Chuyện gì?"

"Hiện tại chỗ ở của Dị Nhân không ngừng bị xuống cấp, anh ta muốn đến ở trong phủ của tiểu nhân vài ngày, đợi tới khi quán xá mới được sửa xong thì lại chuyển về".

Triệu Hiếu Thành vương nghĩ: "Tuy rằng Dị Nhân không có ý định trốn chạy về nước Tần, nhưng cũng không thể sơ suất được. Phải quản nghiêm như quản phạm nhân, không thể để điều gì sai sót xảy ra".

Lã Bất Vi nói: "Vì việc này Dị Nhân có cần phải đích thân tới tiếp kiến Đại vương không?"

Triệu Hiếu Thành vương nói: "Vậy thế này nhá, Dị Nhân tạm thời tới ở chỗ quý thương cũng được. Nhưng thứ nhất là phải có Công Tôn Càn đi cùng; thứ hai là khi quán xá mới xây dựng xong, Dị Nhân lập tức phải chuyển về ngay".

Lã Bất Vi cảm tạ ân đức của Triệu Hiếu Thành vương nói: "Tiểu nhân thay mặt Dị Nhân cảm ơn Đại vương!"

Xem tiếp Chương 11 Sự ra đời của Tần Thủy Hoàng

Hàn Diệu Kỳ

Chương 11 Sự ra đời của Tần Thủy Hoàng

Vài năm sau, Lã Bất Vi hồi tưởng lại những ký ức xưa về tấn bi kịch đau thương giữa ông và Triệu Cơ. Cuối cùng, ông đã phát hiện ra khi ông để cho Dị Nhân chuyển đến ở tại phủ đệ của ông, thì đó cũng là lúc mầm họa của tấn bi kịch được sinh ra.

Cái ngày mà Lã Bất Vi từ đại điện của Triệu Hiếu Thành vương đi ra. Ông thở phào như trút đi được một gánh nặng. Xem ra, Triệu Hiếu Thành vương vẫn chưa bắt ông và Dị Nhân dù có bằng chứng chính xác việc bỏ trốn về nước Tần mà chỉ hoài nghi chất vất vài câu rồi thôi. Lã Bất Vi ngầm vui vẻ tán thưởng cho sự thành công của những mưu kế nàœ Ông cần nhân cơ hội này để mượn gió bẻ măng. Thừa lúc Triệu Hiếu Thành vương sơ suất không để ý, thì phải hành động ngay. Ông cần phải mang châu ngọc và tài sản của mình vận chuyển một cách bí mật về Hàm Dương. Để ai đi làm chuyện này đây? Ông đem Dương Tử và Tư Không Mã ra so sánh, Tư Không Mã thì cương trực thẳng thắn, không ham sống sợ chết nhưng thiếu sự sắc sảo; Dương Tử thì lanh lợi sắc sảo, có thể xoay sở tùy cơ ứng biến. Ông để cho Dương Tử mang đến cho Hoa Dương quân bức thư mà ông viết. Lấy danh nghĩa là đi buôn chuyến để bắt đầu công việc vận chuyển tài sản về Hàm Dương. Ông còn sai nha dịch thu gom vàng cám, để đem tặng cho Lạn Bửu, để báo đáp cho những tin tức mà anh ta mang lại, đợi tới khi trốn khỏi Hàm Đan, có lẽ vẫn có thể dùng được anh ta. Lúc cần phải đi, làm sao có thể cắt bỏ cái đuôi bám Công Tôn Càn đây...

Những vấn đề rối như tơ vò này, nhiều lúc cứ như cuốn lấy ông làm ông như quên đi tất cả. Quả thực ông không thể nhớ lại được, lúc đó khi ông đem gia quyến của mình, giới thiệu với Dị Nhân, Triệu Cơ đứng ở vị trí nào. Nhưng Lã Bất Vi có thể khẳng định rằng Dị Nhân có cái nhìn đầu tiên rất đặc biệt với Triệu Cơ.

Lã Bất Vi đoán không sai.

Đó là một buổi trưa tràn đầy ánh nắng, khi Lã Bất Vi đang trình tự trước sau giới thiệu người nhà của ông tới bái kiến Thái tử điện hạ ở trong phòng khách. Kể từ sau khi Dị Nhân ở lần lộn với những bọn gái điếm, anh ta đã có sự nhạy cảm đặc biệt đối với phụ nữ. Khi Lã Bất Vi giới thiệu tới những thê thiếp của ông thì ánh mắt của Dị Nhân đã kịp quét qua những khuôn mặt và bộ ngực của họ. Triệu Cơ đã lọt vào ánh mắt thèm khát của anh ta; ánh mắt đó dừng lại trên khuôn mặt của Triệu Cơ. Mỹ nhân! Mỹ nhân! Anh ta cảm thấy dường như từ trước tới giờ anh ta chưa từng gặp một người phụ nữ có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành như thế. Nhìn cái dáng vẻ đó, giống như có người đã từng nói thêm một chút thì béo quá mà giảm một chút thì lại gầy quá; trên khuôn mặt nàng mắt mũi như nhật nguyệt tinh tú, được bố trí rất hoàn hảo. Đôi mắt có hồn đó giống như bầu trời trong lúc trời quang mây tạnh, giống như dòng suối đang nhả ngọc phun châu, như nụ hoa đang chúm chím... Dị Nhân cảm thấy ý nghĩ của mình quá bất lực, không sánh được trước ánh thu ba mê hồn, quyến rũ của Triệu Cơ.

Khi Lã Bất Vi giới thiệu xong về mọi người trong nhà, liền để cho thê thiếp, môn khách đi cùng Dị Nhân tới vườn uyển "Hài Thú viên" để du ngoạn. Rất nhanh, Dị Nhân nhìn chằm chằm không chớp mắt vào từng bước chân nhẹ như gió thoảng của Triệu Cơ. Triệu Cơ chạy nhảy tung tăng. Dị Nhân như nhìn thấy hương hoa mây nước được phủ đắp trên người nàng. Bộ quần áo hồng như đào xanh như liễu của nàng tung bay phấn phới về phía sau; bộ ngực của nàng gợn nhô lên cao. Triệu Cơ tựa hồ như không chú ý đến những ánh mắt đang theo bám bên cô, cô cứ mải đuổi bướm hái hoa, thỉnh thoảng lại cất tiếng cười khanh khách như tiếng chuông ngân.

Lưu luyến dạo chơi trong khu vườn quên cả giờ về. Dị Nhân nghĩ tới ma lực của vàng bạc. Có chúng Lã Bất Vi sẽ có thể hô mưa gọi gió, tung hoành ngang dọc... Vừa nghĩ tới đây, Dị Nhân cảm thấy rầu rĩ biết chừng nào. Lã Bất Vi, một gã buôn tầm thường lại có thể vùng vẫy, yên tâm rong ruổi bồng bềnh cùng mây gió với những thê thiếp của ông ấy ở trên giường. Còn ta đường hoàng là Tần vương tôn, là Thái tử của An Quốc quân độc nhất vô nhị lại phải ăn ở cùng bọn gái điếm. Vừa nghĩ tới Di Hồng Cảnh là gian tế của Triệu Hiếu Thành vương phái đến, anh ta lại như cây cỏ héo trải qua sương gió của mùa thu. Anh ta không thể không đi kỹ viện, anh ta phải che giấu bưng bít Triệu Hiếu Thành vương. Sau khi đi đến đó trở về, anh tay thấy cô độc vô cùng, anh ta oán hận cha mình là Chiêu Tương vương, và căm hận Triệu Hiếu Thành vương. Nếu như không có các cuộc binh đao hoành hành tách nhập của họ thì đâu có việc phái anh ta đi làm con tin! Nếu sống bình an vô sự ở Hàm Dương thì anh ta sớm động phòng hoa trúc, hưởng thú hoan lạc rồi. Anh ta cũng trách Lã Bất Vi, no say không nghĩ đến kẻ bần hàn đói rét. Người năm thê bảy thiếp, ta vò võ một mình, chăn đơn gối lạnh! Người không phải luôn mồm nói vì điện hạ xả thân quên mình sao? Ta bây giờ không cần ngươi sả thân quên mình mà ngươi hãy cho ta thấy tinh thần sả thê vọng thiếp của ngươi đi! Đem Triệu Cơ dâng cho ta!

Lã Bất Vi phát hiện Dị Nhân ở trong phủ đệ của ông ta chỉ du hạc hí kịch, mấy ngày liền không hề đến kỹ viện, liền thúc gục. Dị Nhân nói: "Đi mãi chốn đó, có gì hay đâu!" Lã Bất Vi cho rằng Dị Nhân lại giở tính trẻ con, nên lời nói có chút chỉ trách: "Thái tử điện hạ sao lại có thể nói như vậy?" Dị Nhân nói pha chút chua xót: "Không nói vậy thì nói thế nào. Đúng như vậy, đi kỷ viện mãi, thì có gì hay đâu! Ta hơn hai mươi tuổi đầu, huyết khí hừng hực, cơ thể cường tráng, lại không thê không thiếp; trong khi thái bá năm thê bảy thiếp, quá thừa phong lưu, mà cũng không dâng cho ta một người!"

Lã Bất Vi thấy lời nói của Dị Nhân tuy buồn cười nhưng cũng không phải không có lý. Thân làm thái bá của anh ta mà lại không hề nghĩ đến điểm này? Cá quẫy đuôi, mèo gọi xuân, chó khởi thân, huống hồ là Vương tôn Tần hào hoa phong nhã.

Lã Bất Vi đùa: "Thái tử điện hạ nói rất có lý. Ngài xem trong đám thê thiếp của hạ thần có ai tâm đầu ý hợp thì đại thần xin dâng ạ!"

Dị Nhân hỏi: "Lời thái bá có thật không?"

Lã Bất Vi trả lời rất tự nhiên: "Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy!" Ông ta tuyệt đối không hề ngờ rằng Dị Nhân thực tâm thành ý muốn lấy một thê thiếp của ông ta. Lã Bất Vi hiểu rõ, trong các nước chư hầu đều có một cổ ngữ truyền từ đời này sang đời khác: "Thà mặc áo bạn chứ quyết không chiếm vợ bạn" Huống hồ lại là vợ Thái bá. Hơn nữa, Dị Nhân mới vào phủ, đã biết mặt mũi, hình dáng, tính cách các thê thiếp của ông như thế nào!

Khi nghe Dị Nhân nói: "Xin Thái bá dâng Triệu Cơ" thì Lã Bất Vu tưởng mình nghe nhầm, hỏi lại: "Thái tử điện hạ nói gì?"

Dị Nhân nhắc lại từng chữ: "Xin Thái bá hãy hiến cho tôi Triệu Cơ".

Lã Bất Vi cảm thấy đất như sụt dưới chân mình, hai mắt hoa lên, ông định trách mắng Dị Nhân một trận ra trò nhưng lại nghĩ là không nên. Vừa rồi ông chẳng đã nói: ngài xem trong số thê thiếp của hạ thần có ai vừa măt, hạ thần sẽ vui lòng dâng hiến. Nếu Dị Nhân là Tần vương, ông cũng chỉ là nói đùa cho vui.

Lã Bất Vi biết rằng, vì việc lập Thái tử và quay trở về Tần của Dị Nhân, ông đã phải chịu khuynh gia bại sản, cũng là tiêu tốn nghìn vàng, vậy mà đi tiếc một mỹ nhân hay sao. Nói một cách khác, vì một mình Triệu Cơ mà phải đắc tội với Dị Nhân thì chẳng phải đã vứt bỏ hết mọi công lao đã có hay sao? Một ngày nào đó Dị Nhân sẽ quay trở về Tần làm Quốc vương, Lã Bất Vi ta sẽ là Tướng quốc chỉ dưới một người và trên cả vạn người, bao nhiêu vinh hoa phú quý tha hồ mà hưởng thụ, lúc đó còn lo là không tìm thấy một người đẹp giống như Triệu Cơ hay sao?

Nghĩ đến đây, yết hầu của Lã Bất Vi động đậy, ông nuốt mạnh cục đắng trong lòng, cố gắng để cho khuôn mặt mình mang một vẻ can tâm tình nguyện, ông nói: "Thái tử điện hạ hẳn là có con mắt tinh đời, trong số những thê thiếp của hạ thần, Triệu Cơ là xuất chúng nhất đấy. Nàng không chỉ đẹp mà còn thông minh lanh lợi, am hiểu âm luật, có tài múa hát. Thái tử điện hạ thu nạp Triệu Cơ thì có gọi là quần anh tụ hội rồi. Xin điện hạ định một ngày lành, thần sẽ mang Triệu Cơ đến bên điện hạ".

Dị Nhân mừng như mở cờ trong bụng, nước mắt vòng quanh: "Thái phó tiên sinh, nhẫn chịu nỗi đau khổ tình yêu chia lìa, quả thực là cha mẹ tái sinh của ta! Ta sẽ nghe theo Thái phó tất cả".

Lã Bất Vi quyết lòng, nghiến răng nói: "Vậy thì rõ rồi".

Sau khi tạm biệt Dị Nhân ra về, Lã Bất Vi cảm thấy mọi cái như đang sụp đổ dưới chân mình, đất trời tối sầm trước mắt. Dường như ông cảm thấy mệt mỏi không thể chịu đựng được khi phải cố gắng kinh doanh cho xong mẻ buôn lớn này. Ông tựa người vào một thân cây để cho bóng cây che lấp bớt đi vẻ mặt đau khổ của mình. Ông nhận thấy, các món khách và phục dịch của ông đã lũ lượt bỏ đi giống như thời gian trôi, và đôi hài lụa thêu hoa của Triệu Cơ cũng giống như một bông hoa sen đẹp phiêu liêu trong thế gian này.

Triệu Cơ sẽ như thế nào nếu biết chuyện phải lấy Dị Nhân đây? Dù nàng có nước mắt lã chã, đau khổ không thiết sống hay là mừng vui khôn xiết, vứt bỏ ông mà đi thì theo ông điều đấy chẳng còn có ý nghĩa gì nữa. Nàng giống như cặp sừng tê ngưu, châu ngọc, chu sa đỏ, đồ gốm quý giá ấy, hoặc còn có thể mua được những sừng tê ngưu, châu ngọc, chu sa đó, đồ gốm còn quý giá hơn nữa.

Hoàng hôn và một con chim khách đơn độc rơi xuống sân phủ Lã Bất Vi. Con chim khách đó lích chích nhảy nhót. Lã Bất Vi vẫn đứng cô độc tựa lưng vào thân cây nhìn lối đi lát gạch loang lổ mờ mờ chạy dài về phía bóng tối, phía cuối con đường là hai cái cửa nhỏ màu đỏ đi vào phòng ngủ Triệu Cơ đang mở rộng, phía bên trong lộn xộn mông lung giống như một giấc mơ về tương lai.

Lã Bất Vi hiểu rằng, đêm nay ông khôn thể để mất đi cơ hội đi vào cõi mộng mông lung đó. Khi Lã Bất Vi nằm cùng Triệu Cơ trong chiếc chăn gấm, lúc này ông mới ý thức được rằng, từ ngày mai làn da thịt mượt mà thơm tho này sẽ thuộc về người khác. Ông ngây người nhìn vẻ yêu kiều mà nàng đang thể hiện với ông và cũng ngây người khi nói cho nàng biết chuyện nàng sẽ phải lấy Dị Nhân.

Ban đầu, Triệu Cơ lắc đầu như không hiểu, sau đó nàng òa khóc. Nàng biết Dị Nhân là vương tôn nước Tần, nàng cũng biết Lã Bất Vi sai khi giúp Dị Nhân giành được danh Thái tử sẽ phải giúp anh ta trở thành vua nước Tần. Dị Nhân đã ăn ở trong phủ Lã đã mấy ngày nay, nhưng anh ta chẳng để lại ấn tượng gì đối với nàng. Hơn nữa, giờ đây nàng đang mang trong bụng dòng máu của Lã Bất Vi, nàng làm sao có thể lấy anh ta được!

Triệu Cơ vừa khóc vừa nói: "Thiếp làm sao có thể xa chàng được!"

Bằng một lời lẽ chân thành, Lã Bất Vi lại nói lại một lượt cho cô nghe cái lý do khiến nàng phải lấy Dị Nhân, Triệu Cơ cũng cảm thấy Lã Bất Vi không còn cách nào khác, nhưng nghĩ đến cái giọt máu đang dần lớn lên trong bụng, cô lại nói với Lã Bất Vi: "Thế còn cái thai trong bụng thiếp, như thế chẳng phải là đã may sẵn áo cưới cho người khác hay sao? Đợi thiếp sinh cho Lã đại nhân đứa con này rồi đi phục vụ Dị Nhân cũng được".

Lã Bất Vi nói: "Mang thai mười tháng, rồi lại sinh nở, e là Thái tử không đợi lâu như thế được đâu. Ta đã nói rồi, ngày mai nàng sẽ lấy Thái tử. Chuyện mang thai phải giữ kín như bưng, về sau hãy nói với anh ta, anh ta sẽ cho là thai trong bụng nàng là cốt nhục của mình. Anh ta sẽ ngạc nhiên mừng rỡ và sẽ càng ân sủng nàng hơn, địa vị của nàng sẽ thêm tôn quý và chắc chắn... nếu sinh con trai, thì đó sẽ là chi trưởng và sẽ được lập thành hoàng thượng. Nàng sẽ là Vương phi, là Thái hậu. Một khi đứa trẻ đó làm vua, vậy thì thiên hạ nước Tần chẳng phải là của ta và nàng sao? Nếu sinh con gái thì đó cũng sẽ là con của Thiên kim hoàng thượng cành vàng lá ngọc".

Triệu Cơ nói: "Mọi người đều nói, một ngày chồng vợ nên nghĩa trăm năm; bỗng nhiên lại phải rời xa đại nhân thì thiếp sẽ ngày đêm mộng tưởng. Nếu là xa cách nghìn trùng, thì trong lòng vẫn có thể chịu đựng được. Bây giờ cùng ở trong thành Hàm Đan, chàng là Thái phó của anh ta, thường xuyên phải đến chỗ anh ta. Mỗi lần chúng ta gặp mặt, thì chỉ có thể nhìn mà không thể gặp được, thiếp sợ rằng sẽ không thể chịu đựng nổi!"

Lã Bất Vi nói: "Thường xuyên gặp mặt thì có gì là không tốt?" Điều này có thể khiến cho chúng ta được ôn lại chuyện cũ và lại được lần nữa ân ái, chỉ cần chúng ta cẩn thận, thận trọng, đợi tới khi có điều kiện thuận lợi có thể. Hơn nữa, sau này anh ta trở thành vua nước Tần, chắc chắn cũng không tránh khỏi việc chiêu cơ nạp thiếp, người đẹp chẳng thiếu gì, lúc đó chắc sẽ không còn yêu nàng sâu nặng như bây giờ đâu!"

Mặc dù Lã Bất Vi và Triệu Cơ lại được một lần nữa đùa nứoc như đôi uyên ương, họ ôm rất nhiều hy vọng là được chung chăn gối với nhau, nhưng rốt cục đều chỉ là sự ảo ảnh mịt mù mà thôi. Vì thế, họ luyến tiếc trước lúc phải chia tay, đây là một đêm đẹp tuyệt vời của họ. Hai người họ dựa vào nhau mà thì thầm chuyện yêu đương. Lã Bất Vi lúc trước còn trầm tĩnh ít nói, nay đã họat bát hẳn lên, họ quấn quýt nói chuyện với nhau dường như không có sự câu nệ nào...

Buổi trưa ngày mai, những người hầu và quan khách của Lã phủ đều nhìn thấy Triệu Cơ ăn mặc hóa trang màu sắc rất rực rỡ, và được Lã Bất Vi dẫn tới phòng của Dị Nhân. Phía sau có vài nữ tỳ, họ vẫn nặng nề bưng những tráp son. Có một cái tráp vẫn chưa đóng chặt làm bay ra những dải phấn thơm lừng. Điều này gây một ấn tượng rất sâu sắc với mọi người. Họ không thể đoán được Triệu Cơ muốn làm điều gì. Họ vẫn cứ đoán già đoán non. Nhưng Lã Bất Vi đã nhanh chóng đem những tin tức về việc gả chồng cho Triệu Cơ công bố với mọi người. Vào ngày này, mọi người trong phủ họ Lã đều đưa ánh mắt tò mò để dõi theo tình chí của Lã Bất Vi. Nhưng, trên mặt của Lã Bất Vi chẳng có chút gì là đau khổ hay mừng vui gì cả giống như tiết trời của mùa đông, nó băng bạc mà ảm đạm.

Triệu Cơ bị cơn cuồng dục của Dị Nhân làm cho cô phải kinh sợ. Trong sự tưởng tượng của cô, hậu duệ của quân vương, là con rồng cháu rồng tất nhiên cốt cách phải tài giỏi phi phàm. Nhưng vị vương tôn này không chỉ có hình dáng phàm phu tục tử mà còn có đôi mày lệch nhau, hai mắt lồi ra. Cô cảm thấy dáng vẻ Dị Nhân rất đáng buồn cười. Nghĩ vậy cô bật cười thành tiếng. Dị Nhân không kìm được áp cái má thô ráp của mình lại, hôn cô tới tấp. Lát sau, phấn hồng mà cô thoa đã để lại vết trên môi và mặt Dị Nhân. Triệu Cơ bảo anh ta mau đi rửa đi, để một lúc nữa người ta trông thấy rất xấu hổ. Trời đã bắt đầu tối, đêm đã bắt đầu buông xuống. Dị Nhân ôm cô lên giường, chân tay quờ quạng lột hết quần áo của cô. Cô nghĩ về mặt này có thể anh ta không sành như Lã Bất Vi. Khi cô đã chìm ngập vào cơn mê tình ái, cô mới thấy anh ta không kém Lã Bất Vi chút nào. Cô chỉ lo cái thai trong bụng bị động mạnh chuyển hướng...

Sau khi xây thêm một nhà mới trong Mão Hạng, Dị Nhân và Triệu Cơ liền chuyển tới đó. Căn nhà mới khang trang đẹp đẽ, chạm trổ tinh vi. Ngoài sân là hồ nước, cây cối sum suê. Ở một nơi đường hoàng như thế, lại có Triệu Cơ ngày đêm làm bạn, Dị Nhân thậm chí hoang đường nghĩ: "Trong thành Hàm Dương, cuộc sống của các vương tôn cũng không hơn gì đây".

Vào một ngày đầu xuân năm 259 trước công nguyên, vị Hoàng đế số một trong lịch sử Tần Thủy Hoàng chào đời trong nơi ở của Dị Nhân ở Hàm Đan.

Trước khi Thủy Hoàng sinh ra, trời đất mù mịt, tuyết phủ dày đặc, gió ào ào, hoa tuyết bay mù mịt. Mọi người trong phòng đứng ngồi không yên. Dị Nhân ở bên ngoài đi đi lại lại. Trong tiếng rên lúc rời rạc lúc kéo dài của Triệu Cơ, bà đỡ nhìn đăm đăm vào dưới bụng cô. Thầy bói đã xem được một quẻ tốt, ông ta nói những lời chúc mà người bên cạnh nghe cũng khó mà hiểu được.

Rất nhanh, theo sự tụt xuống của bụng Triệu Cơ là tiếng khóc oa oa vang lên choe choé của một bé trai, một sinh linh tràn đầy sức sống đã chào đời. Tướng mạo phi phàm nhưng không hề giống những gì sách vở miêu tả, cằm vuông mắt dài, tóc trái đào ngay ngắn, miệng nhiều răng, lưng có vân rồng, chân có chín nốt ruồi, chân tay to cứng, giọng to vang.

Nghe tin Triệu Cơ có sinh được quý tử, Dị Nhân mừng như phát điên lao vào trong phòng, nhìn ngắm đứa trẻ ngọ nguậy trong tả giống như một con cá nhỏ, anh ta mừng rơi nước mắt, không biết nói gì. Lã Bất Vi nghe tin Triệu Cơ sinh con trai, mừng thầm trong bụng, mang theo một lễ vật lớn đến chúc mừng. Ông ngắm nhìn đứa trẻ bụ bẫm, càng ngắm càng thấy trên khuôn mặt nó có những nét của ông.

Lã Bất Vi rất mực cảm khái nói: "Đứa trẻ khá lắm!"

Triệu Cơ nói nhỏ giọng đầy ẩn ý: "Thái bá, giờ thì mãn nguyện rồi nhé!"

Dị Nhân đương nhiên không nghe ra ẩn ý trong câu nói của Triệu Cơ, mặt nàng rạng rỡ nói với Lã Bất Vi: "Thái bá, nhanh đặt cho quý tử của ta một cái tên đi!"

Lã Bất Vi trầm tư suy nghĩ một lúc lâu rồi nói: "Gọi là Chính đi, sinh vào chính nguyệt (tháng giêng), chữ chính, văn thao võ lược; khi lớn lên sẽ nắm vững triều chính, tề quốc trị gia bình thiên hạ".

Dị Nhân tán thưởng nói: "Hay! vậy thì gọi là Doanh Chính".

Triệu Cơ nói: "Cũng có thể gọi là Triệu Chính".

Mọi người đều tán thành vì Triệu và Tần cùng một tổ tiên. Sách sử ký đã viết tổ tiên của Tần là cháu gái của Chuyên Húc Đế tên là Nữ Tu. Nữ Tu trong lúc dệt vải đã nuốt nhầm phải trứng con chim đen, sinh ra cậu con trai tên là Đại Nghiệp. Đại Nghiệp cưới con gái của Thiếu Điển tên là Nữ Hoa. Nữ Hoa sinh ra Đại Phi; Đại Phi cùng Đại Vũ binh trị thủy thổ. Sau khi trị thủy thành công, vua Thuấn ban thưởng cho Đại Vũ một cái Ngọc Khuê màu đen (ngọc khuê: dụng cụ bằng ngọc dùng trong nghi lễ của vua chúa thời xưa), Đại Vũ tiếp nhận Ngọc Khuê và nói: "Việc này không hoàn thành một mình, Đại Phi cũng có công lao trong đó". Vua Thuấn nói: "Đại Phi, ngươi giúp Vũ hoàn thành công việc này, ta thưởng cho ngươi một cái Lưu màu đen" (Lưu: chuỗi ngọc trang sức trên mũ miện của các đế vương thời xưa). Thuấn gả cho Đại Vũ một cô con gái xinh đẹp. Đại Phi đón nhận rất cung kính. Đại Phi lại phò tá Thuấn trị huấn muôn loài chim thú. Chim thú đa phần đều bị khuất phục. Ông là Bá Ế. Thuấn đã từng có hộ Doanh. Hậu duệ nhiều đời là Bá Ế có một người tên là Phi Liên, ông có tài đi bộ như thần. Ông có hai người con trai, một người là Ô Lai, sức khỏe hơn người, người còn lại tên là Lý Thắng. Phi Liên và Ô Lai đã phò tá Ân Trụ vương bằng cả tài năng phi thường của mình, về sau bị Chu Vũ vương giết chết, còn lại Lý Thắng. Con trai của Lý Thắng là Mạnh Tăng được Chu Thành vương sủng ái. Cháu trai của Mạnh Tăng là Tạo Phụ vì có tài điều khiển xe ngựa nên được Chu vương sủng ái. Ông thay Chu vương điều khiển bốn chú ngựa nổi tiếng là Đức Xí, Ôn Lý, Hoa Lưu và Lục Nhì đi tuần thú nơi miền tây mãi vui mà quên về. Khi Từ Yển làm loạn, Tạo Phụ điều khiển xe chạy một ngày nghìn dặm về nước dẹp loạn cho Chu Mục vương. Để thưởng cho công trạng dẹp loạn của Tạo Phụ, Chu Mục vương cắt cho ông thành Triệu. Thời cổ đại tục lấy tên đất làm tên họ nên tộc người sống trên thành Triệu đều có họ Triệu thị.

Lã Bất Vi đã để ý thấy mỗi lần ông đến nơi ở của Dị Nhân, Triệu Cơ lại giơ Tiểu Doanh Chính đang nằm trong lòng nàng hướng về phía ông, ông biết cử chỉ này của nàng là ngầm thể hiện tấm lòng trung chinh không đổi của nàng đối với ông. Thế là, trong mùi hơi sữa nồng lên khắp gian phòng, Lã Bất Vi nhìn rõ thấy chiếc bụng dưới trắng ngần của Triệu Cơ lộ ra do y phục bị kéo lên khi nhấc đứa bé lên, vết sữa thấm loang trên áo ướt đẫm. Hôn nhân như là một thứ thuốc gạt bỏ hết tất cả của người phụ nữ, cướp đi sự thuần phác ngây thơ của thời thiếu nữ. Mỗi ánh mắt Triệu Cơ nhìn Lã Bất Vi đều chan chứa tình yêu xen lẫn nhục dục. Trước sự mê hoặc chết người đó, Lã Bất Vi không khỏi nghĩ về những đêm cùng Triệu Cơ hoan lạc. Nhưng giờ đây, Lã Bất Vi không còn tâm tư nào để tìm cơ hội có được những khoái lạc của những đêm ấy nữa. Ông đã mưu họach xong việc quay trở về nước Tần của Dị Nhân, mấy ngày nay ông đang tìm cơ hội để thực hiện. Dù ông đã có vô vàn những kinh nghiệm cuộc sống đầy sóng gió trên con đường chiến thắng nhân sinh nhưng ông cũng không khỏi thấp thỏm lo sợ trước việc quy Tần của Dị Nhân, mặc dù ông đã có sự bố trí sắp xếp chu đáo tỉ mỉ.

Dị Nhân mê đắm trong niềm vui to lớn của việc lấy vợ sinh con. Đêm đến, anh ta ở bên cạnh Triệu Cơ để thưởng thức dư vị mê hồn mà nàng đem lại cho anh ta, cứ như vậy đêm này qua đêm khác mà không biết mệt mỏi. Ban ngày, Dị Nhân lại vui đùa cùng đứa con trai kháu khỉnh. Anh ta rất muốn tìm thấy hình bóng mình trên gương mặt của tiểu Doanh Chính, nhưng anh ta không tìm ra đặc điểm gì trên gương mặt thằng bé. Bởi vì nó quá nhỏ mà trăm đứa trẻ đều có vẻ mặt non tơ giống nhau. Dị Nhân đã lạnh lùng như băng trước việc đến Xương Lư và những cuộc hẹn hò với Di Hồng. Anh ta không phải loại người trung tình coi việc có quan hệ với những cô gái khác ngoài vợ mình là một việc làm mạo hiểm. Mỗi nụ cười, mỗi cử chỉ của Di Hồng luôn khiến anh ta cảm thấy tiềm ẩn trong đó âm mưu sát khí. Nhưng trước sự thúc gục của Lã Bất Vi và sự nghiệp lớn quay trở về nước Tần của mình, anh ta cần phải đến Xương Lư để ứng phó. Lần nào cũng vậy, Di Hồng đều rất quyến luyến với Dị Nhân, ả đã hai lần đến tìm Dị Nhân ở nơi anh ta ở. Anh coi sự chủ động của mình là một sự giả nhân giả nghĩa, một sự xoa dịu trước những nguy hiểm sắp đến. Những việc làm hồn xiêu phách lạc sắp sửa bắt đầu. Lã Bất Vi đang trong trạnh thái tinh thần căng thẳng đều cảm thấy một nỗi sợ hãi không tên trước từng động tĩnh xung quanh mình.

Buổi sáng hôm nay lại khiến ông lo sợ một trận, một người hầu gõ cửa ầm ầm. Người hầu vào báo cho ông biết gia tướng của Lạn Tương Như xin gặp. Lã Bất Vi biết là Lạn Bửu đã đến liền cho Lạn Bửu vào. Lạn Bửu nói với Lã Bất Vi là Lạn Tương Như đang ốm nặng, toàn thân run rẩy, e là không sống được bao lâu nữa và hỏi Lã Bất Vi có đi thăm không.

Lã Bất Vi suy nghĩ một hồi rồi đồng ý đi thăm. Lạn Bửu bảo muốn đi thì phải nhanh lên không là không kịp nhìn thấy Lạn Tương Như thở nữa. Lã Bất Vi hỏi Lạn Bửu rằng anh ta có thể giúp ông một việc được không, nếu hoàn thành thì sẽ có trọng thưởng. Lạn Bửu nói, ngoài việc lấy mẫu thân của anh ta là không thể được ra, Lã Bất Vi muốn gì cũng được. Lã Bất Vi nói rằng thế thì tốt lắm, rồi kề sát vào tai Lạn Bửu thì thầm một hồi lâu với giọng nói mà dường như không nghe thấy thanh âm gì. Lạn Bửu gật đầu lia lịa trước hai môi đóng mở liên tục của Lã Bất Vi.

Trước khi đi Lạn Bửu còn thề non hẹn biển với Lã Bất Vi "Vi đại nhân, chuyện này tôi sẽ lo hết", rồi nhìn Lã Bất Vi với ánh mắt tham lam. Lã Bất Vi hiểu, ánh mắt của Lạn Bửu là có ý vòi tiền ông. Vì thế Lã Bất Vi sai người bê đến một khay bạc vụn rồi nói với Lạn Bửu: "Chút tiền này Lạn Bửu tiên sinh dùng tạm trước, sau khi xong việc thì..."

Lạn Bửu nói: "Vi đại nhân không cần nói nữa, tiểu nhân hiểu rồi". Nói xong, Lạn Bửu nhanh như gió cuốn trút số bạc vào trong túi. Lạn Tương Như bệnh nặng hết phương cứu chữa đang nằm ở trên giường, gương mặt ông xám lại như người đã chết, dường như ông cũng biết rằng mình sắp sửa nhắm mắt xuôi tay, ông đưa đôi mắt đục đầy ngấn nước nhìn những quân thần như Triệu Hiếu Thành vương, Triệu Thắng, Triệu Bảo đang đứng vây quanh trước mắt ông.

Lạn Tương Như ú ớ trong mồm như có lời muốn nói nhưng những cơ quan trong thân thể yếu ớt của ông không thể phối hợp thành hành động tốt được để ông có thể phát ra thành lời. Ông gắng sức đỡ người lên nhưng nỗ lực đó của ông dường như vô ích.

Triệu Hiếu Thành vương nhìn người đại thần trung thành liêm khiết, túc trí đa mưu đang hấp hối mà lòng cảm thấy chua xót. Ông nghĩ về những năm tháng mà người này cùng với Liêm Pha, một quan văn, một quan võ như hai bánh xe của một cỗ xe đưa nước Triệu tiến lên, uy danh chấn động các chư hầu. Đặc biệt là tinh thần khảng khái cương trực, giọng nói oai nghiêm của ông khi gặp mặt với Chiêu Tương vương nước Tần ở Mãnh Trì đã trở thành một giai thoại thiên cổ. Ban đầu, khi nhận được thư mời của Chiêu Tương vương, Triệu Huệ vương có chút e sợ định chối từ không đi. Nhưng Lạn Tương Như và Liêm Pha cho rằng, nếu không đi họ sẽ cho là gan của nước Triệu nhỏ như gan chuột, cần phải hiên ngang mà đi, Triệu Huệ vương tiếp thu ý kiến này liền cùng Lạn Tương Như đi Mãnh Trì giương cờ nỗi trống rầm rầm rộ rộ. Chiêu Tương vương mượn cớ say rượu đòi Triệu Huệ vương gẩy đàn cho ông ta nghe với vẻ rất khinh miệt. Triệu Huệ vương đành phải nhẫn nhục gảy đàn. Quan sử của nước Tần ngay lập tức đã ghi lại cảnh đó như sau: "Ngày... tháng... năm..., Tần vương họp mặt với Triệu vương đã lệnh cho Triệu vương gảy đàn". Lạn Tương Như thấy vậy cho là đó chẳng phải là nỗi nhục lớn của nước Triệu hay sao. Ông cảm thấy giận dữ bất bình tột độ liền bước lên trước nói với Tần vương.

"Đại vương chúng tôi cũng nghe nói Tần vương kinh thông âm luật, đặc biệt là những bài hát của nước Tần, giờ hạ thần bẻ nồi sành cho Tần vương, xin Tần vương biểu diễn cho chúng tôi nghe một đoạn để cùng được vui vẻ với nhau". Chiêu Tương vương rất giận dữ không chịu biểu diễn. Vì thế Lạn Tương Như lại bước lên trước vài bước, bê nồi sảnh kề gần Chiêu Tương vương quỳ gối mời, Chiêu Tương vương vẫn không chịu gõ, Lạn Tương Như nói: "Chỗ tôi đứng cách Đại vương không đến 5 bước, máu ở cổ tôi có thể tưới ướt người Đại vương đấy!" Quân lính hai bên của Chiêu Tương vương muốn chật đầu Lạn Tương Như, Lạn Tương Như liền giương mắt quát lại, quân lính hai bên đều khiếp vía. Vì thế, Chiêu Tương vương đành phải gõ một đoạn nhạc. Lạn Tương Như quay đầu lại nói với quan sử nước nước Triệu: "Viết là ngày... tháng... năm..., Tần vương gõ nồi cho Triệu vương nghe". Cho đến khi buổi tiệc kết thúc, Chiêu Tương vương cũng không thể chiếm ưu thế được. Hơn nữa, quân lính của nước Triệu đứng cảnh giới nghiêm ngặt, nước Tần cũng không dám có những hành động sơ suất gì.

Lúc đó, Triệu Hiếu Thành vương còn là Thái tử, được nghe sứ thần tử Mãnh Trì về thuật lại chuyện một cách sống động. Triệu Huệ Văn vương nói với ông, giang sơn của nước Triệu được bình yên là có công lao của Lạn thượng khanh... Trong chốc lát, vị trọng thần có chiến công hiển hách với dòng họ Triệu này lại phải cưỡi hạc đi xa rồi. Mạch suy nghĩ của Triệu Hiếu Thành vương bị cắt đứt bởi cơn co giật của Lạn Tương Như. Ông thấy Lạn Tương Như đã nhắm nghiền mắt lại, đầu đã lệch sang một bên. Tiếp đó rộ lên tiếng khóc của gia đình con cái Lạn Tương Như. Gia tướng Lạn Bửu cùng mấy người vội vàng mặc áo tang cho ông. Khi khiêng thi thể của Lạn Tương Như lên, người ta tìm thấy trên gối của ông có ống tre ghi di chúc.

Lạn Bửu không dám chậm trễ, vội vàng đưa cho Triệu Hiếu Thành vương. Triệu Hiếu Thành vương nhìn thấy trên tấm di chúc có khắc 4 chữ: "Phóng Quy Dị Nhân". Thực ra tấm chi chúc này là do Lã Bất Vi đã bố trí cho Lạn Bửu giả làm. Lã Bất Vi biết rằng Lạn Tương Như là trọng thần có công lao hiển hách của nước Triệu, những lời ông muốn nói trước lúc lâm chung có trọng lượng đáng kể với Triệu Hiếu Thành vương. Nếu Triệu Hiếu Thành vương có thể nghe theo thì Dị Nhân và ông có thể trở về Hàm Dương thuận buồm xuôi gió mà không phải chịu đựng sự nguy hiểm không phải trốn tránh nữa. Triệu Hiếu Thành vương trở về Tòng Đài mang theo thẻ trúc có viết di chúc của Lạn Tương Như và cùng các quần thần bàn bạc về việc để Dị Nhân trở về Tần. Triệu Hiếu Thành vương cảm thấy ông không thể phục lại tâm nguyện cuối cùng trước lúc lâm chung của Lạn Tương Như, đó là tình nghĩa quân thần với nhau.

Hơn nữa, qua những lời thăm dò và quan sát của ông và lẩn chất vấn Lã Bất Vi, ông không phát hiện thấy biểu hiện thù ghét phản trắc nào của Dị Nhân đối với nước Triệu. Rất nhiều đại thần trong đso có cả Bình Dương quân Triệu Bảo và Bình Nguyên quân Triệu Thắng đều phản đối việc Dị Nhân trở về nước Tần. Bình Nguyên quân Triệu Thắng vừa là chú của Triệu Hiếu Thành vương vừa là Tướng quốc, Triệu Hiếu Thành vương không thể không để ý đến lời của ông.

Bình Nguyên quân Triệu Thắng cho rằng, giờ đây An Quốc quân Doanh Trụ đã lập Dị Nhân làm Thái tử, như vậy Triệu đã nắm được đằng chuôi, có thế kẹp giữ được nước Tần, xảy ra chuyện gì có thể đưa Dị Nhân ra để mặc cả.

Triệu Hiếu Thành vương do dự hồi lâu, cảm thấy việc thả Dị Nhân là việc nên làm. Bình Nguyên quân Triệu Thắng nói, việc đó chỉ bằng việc biến Dị Nhân làm con dao hai lưỡi, như thế có thể trả được mối thù Trường Bình. Triệu Hiếu Thành vương mặt mày biến sắc nói, nhất nhất không thể vội vàng được, nếu làm như vậy vừa phụ lòng Lạn Tương Như lại vừa gây ra chuyện không hay, tạo cho nước Tần cái cớ để gây sự. Sự việc được đẽo gọt rất lâu.

Triệu Hiếu Thành vương và Bình Nguyên quân Triệu Thắng đã đưa ra hết thảy mọi phương cách và lý lẽ nhưng vẫn chưa quyết định được phương cách nào, quân thần đành phải giải tán trong tâm trạng không vui.

Sau khi trở về phủ, Bình Nguyên quân Triệu Thắng và Bình Dương quân Triệu Bảo cùng nhau bàn bạc, và quyết định sai người đi bắt Dị Nhân về, nếu không cái họa thả hổ về rừng có hối hận cũng muộn. Bình Dương quân đồng ý nói: "Nên ra tay trước nếu không về sau sẽ gặp phải rắc rối. Đem Dị Nân đi giấu kín, nếu Đại vương có hỏi ta cứ bảo là không biết, Đại nhân cũng không biết làm thế nào". Bình Nguyên quân Triệu Thắng nói: "Vậy thì chúng ta tìm vài người đáng tin cậy, tối nay sẽ ra tay".

Lã Bất Vi đang bận rộn chuẩn bị, ông cảm thấy việc trở về Tần một cách quang minh chính đại có một tia hy vọng khi biết tin Triệu Hiếu Thành vương đã mang tấm di chúc của Lạn Tương Như đi. Hơn nữa, ông đã quan sát kỹ cửa thành các phía đông, tây, nam, bắc của thành Hàm Đan và đã biết được tên họ của người cầm đầu các lính canh ở đây. Vừa rồi, khi Lạn Bửu đến báo tin Triệu Hiếu Thành vương đã cầm di chúc của Lạn Tương Như đi, Lã Bất Vi đã thưởng cho anh ta rất hậu hỉnh, ông nói ra tên của người cầm đầu lính canh, hỏi anh ta có quen biết không. Lạn Bửu nói, anh ta có chút quen biết với cửa thành phía bắc. Lã Bất Vi nghĩ, nếu không có cách nào tốt hơn thì sẽ ăn mặc cải trang rồi bảo Lạn Bửu đưa họ trốn qua thành phía bắc.

Lã Bất Vi lại gọi cả Tư Không Mã vào trong phủ, bảo họ phải đặc biệt lưu tâm trong mấy ngày này, ông còn dặn dò Tư Không Mã là không nên trở về, cứ ở lại cùng với Chu Kiệm luân phiên canh gác bảo vệ Dị Nhân cả ngày lẫn đêm.

Ngày nào cũng vậy, trước khi trời tối, Tư Không Mã cũng đeo gươm đi tuần một vòng từ trước đình sau vườn đến các ngóc ngánh khác, sau đó anh ta mới đóng chặt cửa. Công Tôn Càn kiên nhẫn canh gác ở Vu điện sân trước không biết mỏi mệt là gì, trời có sập thì cậu ta cũng không để ý, chỉ cần mở to mắt trông giữ Dị Nhân là được.

Đêm nay, vào lúc nửa đêm, Tư Không Mã ra ngoài đi giải, anh ta nhìn thấy một bóng đen giống như một cái túi rơi từ trên bờ tường rào vào. Tiếng "bịch" làm anh ta giật mình. Sau đó, liên tiếp là mấy tiếng "bịch", "bịch" nữa.

Tư Không Mã không thể đi giải tiếp được nữa, vội vàng chạy vào gọi Chu Kiệm, hai người cầm kiếm xông ra. Cái bóng đen đó chạy vụt về phía phòng ngủ của Dị Nhân.

Tư Không Mã hét lớn: "Ai? Đứng lại!"

Một vài bóng đen liền quay người trở lại, vây lấy Tư Không Mã và Chu Kiệm. Tư Không Mã bảo Chu Kiệm nhanh đi bảo vệ điện hạ Dị Nhân còn anh ta sẽ đối phó với mấy tên này. Chu Kiệm vội vàng chạy thẳng đến phòng ngủ của Dị Nhân.

Tư Không Mã vừa định rút gươm sống mái với bọn này thì nghe thấy một người trong những cái bóng đen vây quanh hỏi: "Mày là Tư Không Mã phải không?"

Tư Không Mã hỏi: "Mày là ai?"

Có người trả lời: "Triệu Hoảng".

Tư Không Mã lại hỏi: "Đêm hôm khuya khoắt, các ngươi xông vào phủ của Dị Nhân làm gì?"

Triệu Hoảng trả lời: "Bắt Dị Nhân!"

"Ai sai các ngươi làm vậy?"

"Điều này ngươi không phải hỏi".

"Sứ mệnh của Tư Không Mã ta là bảo vệ điện hạ Dị Nhân, đâu có dễ để bọn ngươi lợi dụng lúc hỗn loạn mà bắt đi".

"Ngươi khiến ta thật không thể hiểu nổi. Chẳng phải là ngươi đã cùng Triệu Hoảng này tòng quân cho tướng quân Triệu Quát sao? Súyt nữa bị quân Tần giết chết ở Trường Bình, may mà thoát chết trở về Hàm Đan, tại sao bây giờ lại quay ra bảo vệ vương tôn nhà Tần thế?"

"Lúc đó khác bây giờ khác, năm câu ba điều không thể nói rõ được. Triệu Hoảng, ta khuyên các ngươi hãy nhanh ra khỏi đây đi!"

"Tư Không Mã, chúng ta cũng coi như bạn bè sinh tử hoạn nạn có nhau. Đây không thể hiểu nổi vì cớ gì mà cậu lại đi nối giáo cho giặc, khăng khăng một lòng bảo vệ vương tôn nước Tần cơ chứ?"

"Mỗi người đều có chí nguyện và cuộc sống riêng, Triệu Hoảng, các cậu hãy nhanh đi đi!"

"Đã như vậy thì Triệu Hoảng này sẽ không còn nể tình xưa nghĩa cũ xưa! Xông lên!"

Tiếp theo tiếng lệnh của Triệu Hoảng, những bóng người đó tụ lại cùng xông vào đánh chém Tư Không Mã. Tư Không Mã lấy hết sức ra đòn, đánh được vài chục hiệp, Tư Không Mã do một mình không địch nổi với số đông nên đã bị bọn chúng chém bị thương ngã xuống đất. Một tên đang giơ gươm lên chuẩn bị đâm thẳng vào Tư Không Mã, nghe thấy lệnh của Triệu Hoảng: "Dừng tay!" Tên này thu gươm lại, mấy tên khác vội vàng xông lên giống như hổ sói vồ mồi cùng nhau ấn chặt Tư Không Mã xuống đất. Triệu Hoảng kề rất gần Tư Không Mã nói: "Ngươi đã cứu sống ta một lần, ta cũng tha cho ngươi lần này. Món nợ ân nghĩa của chúng ta đã trả xong. Nói rồi, đem dây thừng trói chặt Tư Không Mã lại. Sau đó bọn chúng chạy rầm rầm về phía phòng ngủ của Dị Nhân. Chu Kiệm đang ở đó cũng gặp phải vận hạn như Tư Không Mã, bị trói vào đòn gánh sau khi bị thương. Triệu Hoảng lệnh cho tùy tùng kèm hai bên ba người bị bắt đi ra từ cửa phía sân sau.

Mặt trăng lúc ẩn hiện sau những đám mây, con đường vắng vẻ không một bóng người nằm yên lành dưới ánh trăng. Triệu Hoảng vừa thúc Dị Nhân ngoặt qua một góc phố, vừa quay nhìn đằng trước co một nhóm người đang chặn ở đường.

Thì ra Triệu Hiếu Thành vương lo rằng Bình Nguyên quân Triệu Thắng sẽ tự động ra tay với Dị Nhân, sẽ có những hành động vừa phụ lại tâm nguyện của Lạn Tương Như, vừa chọc tức Tần vương liền phái quân đến đứng bảo vệ gần nơi ở Dị Nhân.

Triệu Hoảng, người phụng lệnh Bình Nguyên quân Triệu Thắng đi bắt Dị Nhân, vừa thấy rằng Triệu Hiếu Thành vương phái người đứng chắn ở đó cũng không dám có phản kháng gì, đành vứt lại Dị Nhân rồi hậm hực bỏ đi. Tốp lính do Triệu Hiếu Thành vương phái đến đưa Dị Nhân trở lại nơi ở của ông ta, lại còn cởi trói cho Tư Không Mã và Chu Kiệm. Dị Nhân, Tư Không Mã và Chu Kiệm không thể hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra, màn kịch bắt rồi lại thả khiến họ ngạc nhiên trợn tròn hai mắt, họ nhìn tốp lính mặc quân phục của nước Triệu mà không khỏi nghi ngờ. Nhóm lính này lo sợ có chuyện gì không hay lại xảy ra liền ở lại trong phủ của Dị Nhân.

Ngày hôm sau, Lã Bất Vi nghe được tin vội vàng đến, trong sự quan sát của lính nước Triệu, Lã Bất Vi dùng ánh mắt dò hỏi Dị Nhân, Tư Không Mã tất cả những gì đã xảy ra đêm qua. Trong lúc ông đang không hiểu nổi nhóm lính mà Triệu Hiếu Thành vương phái đến này là bảo vệ Dị Nhân hay giám sát Dị Nhân thì đúng lúc đó có hai hoạn quan từ cung Tùng Đài đến, ban chiếu mệnh của Triệu Hiếu Thành vương cho Dị Nhân: Dị Nhân có thể trở về Hàm Dương. Trong thời gian chưa đầy một ngày một đêm, mấy lần trải qua sự biến đổi vận mệnh lớn đã khiến mấy người Lã Bất Vi, Dị Nhân và Tư Không Mã dường như phải chết đi sống lại, lúc thì đao thương gươm kích, nguy hiểm cùng kéo đến, lúc thì trời quang mưa tạnh, sóng gió bình lặng.

Tin vui do hai vị hoạn quan này mang đến đã khiến cho Lã Bất Vi và Dị Nhân vui sướng, năm năm làm con tin đã kết thúc, những ngày tháng phải sống trong cảnh sợ hãi, chịu sự lăng nhục của người khác đã một đi không trở lại nữa.

Anh ta lấy việc trở thành Thái tử của An Quốc quân mà nghênh ngang kiêu ngạo tự mãn xuất hiện trong thành Hàm Dương, từ cung Chương Đài cho đến các thôn xóm, ai ai cũng phải lau mắt mà nhìn cái vinh quanh, cái rực rỡ mà vị vương tử này đã có được sau bao nguy hiểm. Đối với Lã Bất Vi, tâm huyết và sự đầu tư của ông cùng với cái thành công to lớn này bắt đầu được đền đắp. Ông có thể hiên ngang bước đến Vương cung Tướng phủ để mọi người nhìn ngắm giọng nói và tướng mạo tươi cười của ông khi làm Thái Truyền. Cái tướng vị khiến mọi người thèm nhỏ dãi ấy đang chờ ông ngồi vào.

Người giàu có mà thiên hạ phải kể đến đầu tiên không ai khác chính là Lã Bất Vi đây. Không chỉ tiền vàng quấn quanh bụng, ông còn có cả một nửa nước Tần như lời Dị Nhân đã hứa ban thưởng cho ông.

Hai viên hoạn quan và quân lính nước Triệu đã đi khỏi rất lâu rồi nhưng vẻ vui mừng vẫn hiện lên trên khuôn mặt của Lã Bất Vi và Dị Nhân. Nụ cười của họ như hoa nở mùa xuân cứ rực rõ mãi không thôi.

Lã Bất Vi về đến phủ, sai người mua rất nhiều gỗ và mời đến rất nhiều thợ mộc đóng cho ông mười ba cỗ xe cao rộng chắc chắn theo yêu cầu của ông.

Có chiếu mệnh của Triệu Hiếu Thành vương họ có thể đường đường chính chính mang đi đồ tế nhuyễn bằng vàng bạc, đồ đựng đẹp đẽ quý giá.

Trong tiếng chặt phá mang nhịp điệu của rìu búa, Lã Bất Vi dùng năm ngón tay mập béo của mình nhẩm đếm thời gian...

Thời gian rộng rãi cho phép Lã Bất Vi tạo ra mười ba cỗ xe, đồng thời thời gian cũng đã tạo ra một sự kiện lịch sử trọng đại ảnh hưởng đến việc quy Tần của Lã Bất Vi và Dị Nhân, làm cho nó được phủ lên một màu sắc của gươm dao khốc liệt, bi hoan ly lợp.

Sự kiện lịch sử trọng đại này là "Cướp Phù cứu Triệu".

Tháng 9 năm 259 trươc CN, khi Lã Bất Vi cùng Dị Nhân đang chuẩn bị đến từ biệt Triệu Hiếu Thành vương, Chiêu Tương vương nước Tần đã phái đại tướng Vương Linh đem quân đi bao vây Hàm Đan, không ngừng tiến công vào thành không kể ngày đêm. Thành Hàm Đan trong cảnh nguy cấp, thái độ của Triệu Hiếu Thành vương đối với Dị Nhân cũng có một sự thay đổi một trăm tám mươi độ, không cho phép anh ta từ nước Triệu trở về Tần nữa. Vận mệnh của Lã Bất Vi và Dị Nhân lại từ trên đỉnh núi vinh quang rơi xuống vực sâu nguy hiểm.

Dị Nhân bị quân Triệu thận trọng đưa lên đỉnh thành, quân úy ra sức hét lớn: "Quân Tần hãy ngừng tiến công, nếu không chúng tôi sẽ giết chết Thái tử Dị Nhân của các ngươi!" Dưới thành, ngựa kêu người hét ầm ĩ, tiếng hô của Dị Nhân giống như một bông tuyết bị rơi vào một cái nồi nước nóng bị tan ra mà không có âm thanh gì. Chiến trận của quân Tần bụi khói mù mịt khắp trời, chẳng ai trong số họ nhìn rõ trên đỉnh thành gương mặt tái mét vì sợ của Dị Nhân.

Dị Nhân từ trên đỉnh thành đi xuống, cả mặt phủ một lớp bụi khói. Trên đường trở về nơi ở, anh ta nhìn thấy quân và dân trong thành Hàm Đan đang vận chuyển đầu mũi tên, súc gỗ để lao từ trên cao xuống đánh địch và lương thực với khí thế căm thù giặc sôi sục. Họ lo sợ sẽ lại gặp phải vận mệnh bi thảm như ở Trưởng Bình thuở nào, nên đã tiến hành sự phản kháng rất anh dũng và hiệu quả đối với sự tấn công của quân Tần. Đội quân tinh nhuệ của Bình Nguyên quân Triệu Thắng và Bình Dương quân Triệu Bảo đã chọn đúng thời cơ tiến ra ngoài thành tấn công quân Tần. Quân Tần không những không đánh phá được Hàm Đan àm còn bị thiệt hại nặng nề.

Lúc này, trong triều đình của nước Tần đang nổ ra cuộc tranh luận. Chiêu Tương vương chủ trương tiếp tục tấn công mạnh Hàm Đan, phái Vũ An quân Bạch Khởi vừa mới khỏi bện đi thay Vương Linh làm tướng quân. Bạch Khởi dâng lời can gián: "Hàm Đan phòng thủ rất kiên cố, không dễ gì công phá. Hàm Đan lại gần các chư hầu khác, Triệu quốc muốn đi cứu viện thì cứu binh chỉ cần đi một ngày là tới. Những nước chư hầu đó từ xưa đến nay đều có lòng oán hận nước Tần chúng ta. Ở trận Trường Bình, nước Triệu dù có bị thương vong bốn trăm nghìn người và ngựa nhưng quân Tần chúng ta cũng tử vong hơn một nửa, trong nước binh lực suy yếu. Chúng ta phải trèo đèo lội suối lao quân viễn trinh, hơn nữa điều kiện thủy thổ không thuận lợi. Một khi nước Triệu và viện binh của các nước chư hầu kia mà trong ứng ngoài hợp, khi quân Tần của chúng ta mệt mỏi không chịu nổi nữa, hơn nữa trước mặt sau lưng đều có địch, thì lúc đó tất sẽ thất bại không còn nghi ngờ gì nữa".

Phạm Tuy ghen tức với chiến công của Bạch Khởi, hơn nữa trong chuyện nối ngôi, Bạch Khởi lại phản đối việc Tự Hề làm Thái tử, mối hiềm khích giữa ông ta và Bạch Khởi rất sâu. Ông ra phản bác lại chủ trương của Bạch Khởi: "Nước Triệu từ sau trận đánh Trường Bình đến giờ, gục ngã không dậy được, có gì ta phải nản lòng nhụt khí như thế, chúng ta nên đánh một hồi chuông lấy lại dũng khí, thừa thắng xông lên tiêu diệt nước Triệu, cơ hội không thể để mất, mất rồi không thể lấy lại được, lẽ nào Vũ An quân muốn nước Triệu khởi tử hồi sinh, không thể để nước Triệu liên minh với chư hầu vững chắc rồi mới tiến công Hàm Đan".

Chiêu Tương vương cho là Phạm Tuy nói có lý liền lệnh Bạch Khởi đi thay thế Vương Linh. Bạch Khởi lấy cớ sức khỏe ốm yếu bệnh tật không thể chỉ huy quân lính chiến đấu được. Chiêu Tương vương rất không vừa lòng với Bạch Khởi cũng không có cách nào đành phải cử Bang An Bình làm đại tướng quân, tăng thêm quân chi viện tiếp tục đi bao vây Hàm Đan.

Trong tình cảnh bị quân Tần tiến công ngày càng mạnh mẽ hơn, tình thế của Hàm Đan vô cùng nguy kịch. Triệu Hiếu Thành vương hổ thẹn quá hóa giận, cho gọi Bình Nguyên quân Triệu Thắng và Bình Dương quân Triệu Bảo nói: "Chiêu Tương vương không giữ lời, nhiều lần tấn công nước Triệu chúng ta, lần này lại đánh đến thành Hàm Đan, ta thấy có khi giết quách Dị Nhân đi, cho bọn chúng chút màu sắc xem sao!"

Bình Nguyên quân Triệu Thắng nói: "Bây giờ giết hay không giết Dị Nhân cũng chẳng có nghĩa gì nữa, dù có giết hắn ta cũng không thể ngăn được quân Tần tiến công Hàm Đan. Việc cần kíp nhất bây giờ là xin viện binh ở nước Ngụy và nước Sở gần chúng ta như vậy mới có thể giữ được Hàm Đan".

Triệu Hiếu Thành vương thu nhận ý kiến của Bình Nguyên quân Triệu Thắng, cử người đến nước Ngụy và nước Sở cầu cứu.

Quốc Quân An Ly vương của nước Ngụy và Triệu Hiếu Thành vương có tình hữu hảo đã lâu, đồng thời cũng rất sợ sự trỗi dậy của nước Tần. Vì thế ông ta đã cử Phổ Bỉ làm Đại tướng quân dẫn chỉ huy một trăm nghìn đại quân xuất phát từ Đại Lương thẳng tiến đến Hàm Đan.

Quân hầu nước Tần thăm dò tình hình báo đã nắm được phương hướng của quân Ngụy liền báo cáo lên Chiêu Tương vương. Chiêu Tương vương lập tức phái sứ thần đến Sinh Đô cảnh cáo An Ly vương nước Nguy: "Nếu kẻ nào dám xuất binh cứu Triệu, đợi sau khi đại quân của nước Tần ta đánh gục Hàm Đan sẽ quay trở lại tiêu diệt kẻ đó".

An Ly vương vô cùng sợ hãi, đành phải lệnh cho Phổ Bí dừng tiến công, đóng đô quân đội tại biên giới nước Triệu và nước Nguy, án binh bất động chờ xem biến hóa của chiến cục hai nước.

Triệu Hiếu Thành vương chờ mòn con mắt viện quân của nước Nguy, chờ mãi mà không thấy, ruột nóng như lửa đốt. Bình Nguyên quân Triệu Thắng phái người đến Đại Lương tìm tin lính quân Ngụy Vô Kỵ đi thúc bách. Ngụy Vô Kỵ là anh rể của Bình Nguyên quân Triệu Thắng, đồng thời là em trai của An Ly vương. Ngụy Vô Kỵ lúc đó làm Tướng quốc của nước Nguy, nắm trong tay quyền lực lớn, ông hiểu rõ rằng, sau khi nước Tần tiêu diệt nước Ngụy thì mục tiêu thôn tính tiếp theo sẽ là nước Ngụy. Nếu nước Triệu bị diệt vong thì nước Ngụy cũng khó giữ được. Cách bờ mà đứng nhìn đám cháy chỉ bằng liên minh với nước Triệu chống lại nước Tần. Ngụy Vô Kỵ đã đến khẩn cầu An Ly vương rất nhiều lần rằng hãy để đại quân của Phổ Bi nhanh chóng giải cứu Hàm Đan. An Ly vương e sợ cửa thành sẽ bị cháy, tai ương sẽ ập đến, binh phong của nước Tần sẽ ập đến, vì vậy nhất mực không đồng ý. Ngụy Vô Kỵ đành phải tập hợp một trăm cỗ xe chiến, dẫn đầu một nghìn môn khách của mình đến thành Hàm Đan sống chết với quân Tần. Ngụy Vô Kỵ dẫn đầu bộ hạ của mình anh dũng tiến về cửa thành phía đông của Đại Lương, chuẩn bị ra khỏi thành từ phía đó. Viên quan canh cửa phía đông là Hậu Doanh, đã hơn bảy mươi tuổi, dáng vẻ lụ khụ, ông thường uống rượu suông không có thức nhắm vì nhà nghèo. Ngụy Vô Kỵ nghe nói ông rất có tài năng nên đã từng đích thân đến thăm, đồng thời đã đón ông ta về nhà mình chiêu đãi như một thượng khách. Hậu Doanh có một người bạn, tên là Chu Hợi, cũng đã từng nhiều lần đến thăm ông.

Đội quân của Ngụy Vô Kỵ xuyên qua các phố các chợ, đến cửa thành phía đông rất nhanh, ông từ biệt Hậu Doanh. Hậu Doanh không lạnh lùng cũng không vồn vã đáp lời: "Công tử điện hạ hết sức cố gắng nhé, già này chân tay mềm yếu không thể đi cùng điện hạ được". Nói rồi ông lại lạnh lùng đi ra chỗ khác lo việc thành môn của ông.

Sau khi ra khỏi thành, Ngụy Vô Kỵ vừa đi vừa nghĩ, thường ngày bản thân ông vẫn thường cúi mình trước kẻ sĩ, tiếp đãi ông ta như khách quý, chăm sóc rất chu đáo. Nhưng giờ là thời khắc sinh tử ly biệt, là bạn bè của nhau mà tại sao ông ta lại không động lòng gì chứ? Hay là bản thân có điều gì đắc tội với ông? Ngụy Vô Kỵ càng nghĩ càng không vui, quyết định quay lại hỏi Hậu Doanh cho ra nhẽ.

Vừa nhìn thấy Ngụy Vô Kỵ quay lại, Hậu Doanh cười nói: "Tôi đã đoán điện hạ nhất định sẽ quay trở lại tìm tôi".

"Tại sao tiên sinh lại đoán được tôi sẽ trở lại?"

Hậu Doanh hỏi: "Điện hạ cảm thấy con người tôi phụ tình bạc nghĩa lắm phải không?"

"Đúng thế".

"Điện hạ đã trách nhầm tôi! Từ khi nghe tin điện hạ mạo hiểm dẫn quân đến Hàm Đan, tôi đã mất ngủ cả đêm để nghĩ thay điện hạ việc này. Điện hạ thường coi trọng nhân tài, đa tình trọng nghĩa kết giao được rất nhiều bạn bè có tài năng, chân thật, trong những lúc cấp bách nguy hiểm, ông nên thỉnh cầu ý kiến của họ. Nhưng ông lại quên mất họ, làm xằng uổng công quyết chiến với quân Tần, điều đó giống việc bỏ miếng thịt vào miệng hổ, chỉ có thể chết một cách vô ích mà thôi".

Ngụy Vô Kỵ cảm thấy lời nói của Hậu Doanh có lý và thuyết phục, ông liền thỉnh cầu kế sách của Hậu Doanh.

Hậu Doanh liền kéo Ngụy Vô Kỵ ra một chỗ tránh ánh mắt của người khác, rồi nói: "Tôi nghe nói binh phù điều khiển quân đội của Phổ Bỉ đặt trong phòng ngủ của Đại vương, Phi Tử được Đại vương sủng ái nhất là Như Cơ có thể tự do ra vào phòng ngủ của Đại vương, việc trộm lấy binh phù dễ như trở bàn tay. Tôi còn nghe nói bố của Như Cơ bị người ta sát hại, cô ta rất muốn trả mối hận này, ước muốn dồn nét trong lòng đã ba năm mà vẫn chưa được thực hiện. Có lần, cô ta đã khóc và kể lại chuyện này với điện hạ. Điện hạ rất đồng cảm với cô ta, lập tức sai người chém đầu kẻ thù của Như Cơ rồi tặng cho cô ấy. Cô ta mang ơn điện hạ, vì vậy có phải hy sinh tính mạng vì điện hạ cô ấy cũng không từ chối chỉ cần điện hạ mở mồm nhờ cô ta giúp mình lấy trộm binh phù của Đại vương, cô ấy nhất định sẽ làm được, lúc đó có tay tay binh phù, là điện hạ đã dành được quyền điều binh khiển tướng của Phổ Bỉ, thống soái đại quân, cứu được nước Triệu phía bắc, đánh hù được quân Tần phía tây. Đó là chiến công quá phi thường còn gì!"

Ngụy Vô Kỵ y kế mà làm, lại mang môn khách và chiến xe của ông trở lại Đại Lương. Ông tìm được Như Cơ và cô ta đã đáp ứng lời thỉnh cầu của ông. Một đêm, An Ly vương uống rượu đến say, về đến phòng ngủ là rơi vào giấc mộng không còn biết gì nữa. Như Cơ nhân cơ hội lấy nửa biếc hổ phù. Quân vương thời cổ đại dựa vào binh phù để điều động quân binh. Một bức binh phù chia làm hai, tướng quân chỉ huy quân đội giữ một nửa, quân vương giữ một nửa. Người truyền đạt mệnh lệnh của quân vương cần phải cầm nửa bức binh phù này đến ghép với nửa còn lại, hai nửa này khớp nhau thì tướng quân mới tin đây là mệnh lệnh của vua.

Như Cơ đem bức hổ binh trộm được đưa cho Ngụy Vô Kỵ. Ngụy Vô Kỵ lập tức đem theo một vài xe nhỏ, nửa đêm xuất phát. Hậu Doanh đứng ở cửa phía đông tạm biệt ông và nói: "Tướng ở bên ngoài lệnh vua cũng có lúc có thể không theo. Bây giờ điện hạ cầm nửa bức hổ phù này đi khớp với bức kia, dù có không sai nhưng Tấn Bỉ cũng chưa chắc đã giao binh quyền cho ông. Nếu ông ta mà thỉnh thị Đại vương thì nguy to. Người bạn Chu Hợi của tôi là một đại lực sĩ, điện hạ có thể mang theo ông ta. Nếu như Tấn Bỉ giao binh quyền thì tốt, còn nếu không thì giết quách ông ta đi!"

Ngụy Vô Kỵ trả lời: "Tấn Bỉ là lão đại tướng quân đức cao vọng trọng, có công với nước, mưu lược hơn người, tôi có mang theo binh phù anh ta cũng chưa chăc đã giao binh quyền, rốt cục là không thể không chết được, tôi phải giết một vị lão đại tướng quân như thế không khỏi không đau lòng mà rơi nước mắt".

Hậu Doanh nói: "Điện hạ thử nghĩ xem, tính mệnh của Tấn Bỉ so với giang sơn xã tắc của hai nước Triệu, Ngụy bên nào quan trọng hơn".

Vì vậy, Ngụy Vô Kỵ cùng với Chu Hợi nhanh chóng đến Thang Âm, gỉa truyền mệnh lệnh của An Ly vương đòi Tấn Bỉ phải trao binh quyền. Tấn Bỉ đem tấm hổ phù ghép lại, quả thực không sai. Nhưng, ông ta cảm thấy chút ghi hoặc trong lòng, quan sát kỹ Ngụy Vô Kỵ hồi lâu rồi nói: "Tôi cầm đầu bốn trăm nghìn đại quân đóng đô tại biên giới hai nước Nguy, Triệu, đây là trọng trách mà Đại vương giao phó cho tôi. Giờ đây, Đại vương sao lại cử điện hạ đến thay thế tôi khi mà chẳng có biến cố gì cả? Tôi cần phải nhìn thấy Đại vương mới có thể tuân lệnh được".

Tấn Bỉ chưa nói hết câu, Chu Hợi đang đứng một bên liền vượt lên trước một bước, rút từ trong ống tay áo một cái rìu bằng sắt và bổ một cái thật mạnh vào đâu của Tấn Bỉ, Tấn Bỉ chết ngay.

Ngụy Vô Kỵ tiếp quân đội của Tấn Bỉ, tay cầm hổ phù và phát lệnh: "Tất cả trường hợp hai bố con cùng trong quân đội, bố ra về; anh và em cùng trong quân đội, anh ra về; con một đi lính thì về nhà phụng dưỡng cha mẹ!"

Toàn bộ khẩu lệnh này không chỉ lấy được lòng quân binh, tăng sĩ khí của binh sĩ mà còn khiến cho quân đội tăng thêm sức chiến đấu. Ngụy Vô Kỵ cầm đầu tám vạn tinh binh, tiến về Hàm Đan trong đêm.

Triệu Hiếu Thành vương mong mãi mà không thấy viện quân của quân Ngụy đến, liền phái Bình Nguyên quân Triệu Thắng đến Sở xin viện binh. Triệu Thắng hiểu rằng, Quốc Quân Hiếu Liệt vương của nước Sở cũng rất sợ nước Tần, không thể biết được rằng liệu ông ta có thể phái quân đến tương trợ hay không. Nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng ông quyết định dùng trí tuệ và vũ lực ép nước Sở nhận lời. Như vậy, cần phải chọn ra hai mươi môn khách trí dũng song toàn trong số ba nghìn môn khách rồi cùng ông đến Trần thành của nước Sở.

Trong số các môn khách, Triệu Thắng tuyển chọn mãi mà chỉ chọn được mười chín người, còn thiếu một người chọn mãi không được. Lúc này, có một môn khách tên là Mạo Toại đi đến trước mặt Bình Nguyên quân Triệu Thắng và tự đề cử: "Tôi nghe nói Đại vương cần đem hai mươi khách đến nước Sở để ký kết hiệp ước liên minh chống Tần, giờ còn thiếu một môn khách, xin đại nhân để tôi lấp đi quân số!" Triệu Thắng cảm thấy như đã từng gặp Mạo Toại nhưng không quen anh ta. Ông nghĩ, người này là một thực khách không nhiều bản lĩnh để xin ăn, liền hỏi: "Ngươi làm môn khách của ta mấy năm rồi?"

Mạo Toại trả lời: "Ba năm".

Triệu Thắng nói móc ruột: "Ta thấy một người có tài năng sống ở trên đời cũng giống như một chiếc dùi ở trong túi, mũi của nó sẽ lập tức bị lộ ra ngoài. Giờ ngươi đã ở trong nhà của ta ba năm rồi, ta chẳng nghe thấy ai từng khen ngợi ngươi, thậm chí đến tên của ngươi ta cũng không biết. Có thể thấy ngươi cũng chẳng có gì xuất chúng cả, thôi cứ ở nhà đi!"

Mạo Toại lễ phép phản bác lại: "Đại nhân, tôi không thể thể hiện được mình là bởi vì đại nhân không đặt tôi ở trong túi. Nếu ngài đặt tôi trong túi từ sớm thì e là cả cái dùi cũng đã lộ ra từ lâu rồi, huống hồ là chỉ lộ một chút đầu mũi!"

Trước lời lẽ của Mạo Toại, Triệu Thắng không biết nói gì hơn và cảm thấy rất phục tài ăn nói, sự cả gan của anh ta, ông liền để anh ta đi theo đoàn đến Trần thành nước Sở. Trên đường đi, Mạo Toại cùng với mười chín môn khách rôm rả bàn luận chuyện thiên hạ đại thế, anh ta thể hiện ra là người có trí tưởng lớn, lời lẽ rất có đạo lý. Triệu Thắng và mọi người mới biết tài năng của Mạo Toại rất xuất chúng, trong lòng cảm thấy hối hận là đã không chú ý đến anh ta từ trước.

Triệu Thắng và môn khách của mình đi đến thành Trần, quốc đô nước Sở, Hiếu Liệt vương tiếp đón họ rất long trọng ở Chương Hoa Đài. Triệu Thắng và Hiếu Liệt vương bàn bạc thành lập hiệp ước liên minh kháng Tần. Triệu Thắng đã thuyết phục vị vua nước Sở này từ sáng đến tối đến mức miệng khô lưỡi rát bằng cách lập đi lập lại những lợi ích của việc liên minh kháng Tần, nhưng Hiếu Liệt vương vì sợ Tần nên cả buổi do dự không quyết.

Những môn khách đến cùng Triệu Thắng vô cùng sốt ruột, tất cả đều đồng thanh giục Mạo Toại: "Cậu lên trước nói vài câu xem sao".

Vì thế, Mạo Toại một tay giơ gươm, một tay nắm chặt cán gươm, vội vàng bước lên trước nói với Triệu Thắng: "Đại vương, vấn đề lợi hại của việc Triệu - Sở liên minh, dăm câu ba điều có thể quyết định được, nhưng tại sao từ sáng đến giờ mà vẫn chưa giải quyết được?"

Hiếu Liệt vương kinh ngạc hỏi Triệu Thắng: "Tên tiểu tử to gan kia là ai?"

Triệu Thắng có chút run sợ nói: "Đại vương thứ lỗi, đó là môn khách của tôi".

Hiếu Liệt vương khí nộ bốc lên ngùn ngụt, quát mắng Mạo Toại: "Còn không nhanh xéo đi, ta và chủ nhân của ngươi đang bàn chuyện quốc gia đại sự, trên lễ đường này đâu có chỗ cho bọn môn khách các nguơi!"

Mạo Toại chẳng có vẻ sợ hãi, ấn kiếm đi đến trước mặt của Hiếu Liệt vương, đàng hoàng nói: "Đại vương mắng nhiếc Mạo Toại tôi là cậy uy thế hùng mạnh của nước mình. Giờ đây, tôi và Đại vương cách nhau không đến mười thước, tính mạng của Đại vương nằm trong tay tôi. Dù nước Sở có nhiều quân binh hơn nữa thì giờ đây cũng không thể giúp gì được cho Đại vương. Chủ nhân của tôi vẫn còn ở đây, Đại vương không nên quát mắng tôi vô lễ như thế".

Hiếu Liệt vương thấy Mạo Toại hiên ngang, đằng đằng sát khí, sợ đến mức không nói lên lời. Thị vệ đứng hai bên ông ta đã tuốt hết gươm nhưng cũng không dám xông lên.

Mạo Toại nói tiếp: "Tôi nghe nói trước đây Thương Thang dù chỉ có bảy mươi dặm đất đai nhưng về sau cũng làm vua thống trị thiên hạ; Chu Văn vương cũng chỉ có vài trăm dặm đất đai biên cương nhưng lại có thể hiệu lệnh được chư hầu. Lẽ nào là do họ cậy binh sĩ nhiều, quân đội lớn mạnh? Không phải, đó chỉ là họ có thể nắm được tình thế có lợi, làm phấn chấn uy vũ của họ mà thôi. Bây giờ, đất đai nước Sở là năm nghìn dặm, cộng thêm cả trăm vạn dũng sĩ, đó là điều kiện để xưng vương xưng bá trong thiên hạ. Nước Sở dựa vào uy lực lớn mạnh này thì có nước chư hầu nào trong thiên hạ có thể địch nổi. Hơn nữa, xin hãy nhìn xem nước Tần vô danh tiểu tốt chỉ mang có mấy vạn binh mã đi tấn công nước Sở, trận đầu là có thể đánh chiếm được thành Yên và thành Sinh quốt đô của nước Sở, trận tiếp theo sẽ đánh chiếm Di Lăng, đem số phận các phần mộ của tổ tiên nước Sở giao phó cho một bó đuốc, trận thứ ba đốt trụi các tông miếu của nước Sở. Nước Sở phải chịu nỗi nhục như thế này thì thật là một mối hận thù mà cả trăm đời sau cũng không thể giải nổi, ngay cả nước Triệu chúng tôi cũng cảm thấy hộ thẹn thay cho nước Sở, huống hồ Đại vương lại là vua nối dõi của nước Sở mà lại không thấy muốn báo thù để rửa nhục thì thật là không phải! Hai nước Triệu - Sở liên minh kháng Tần cũng là vì nước Sở chứ cũng không vì mình nước Triệu chúng tôi!"

Từng lời nói vang trời này của Mạo Toại đều đánh trúng yếu điểm của Hiếu Liệt vương, khiến ông ta đột nhiên tỉnh ngộ, ông liền thừa nhận: "Đúng thế, đúng thế, lời nói của tiên sinh đã động tới tâm can của ta. Quả nhân nguyện lấy cả nước Sở ra để liên minh với nước Triệu chống lại quân Tần!"

"Chuyện liên minh kháng Tần, Đại vương đã quyết?"

Hiếu Liệt vương trả lời: "Quả nhân quyết rồi!"

Mạo Toại nói với những người xung quanh Hiếu Liệt vương: "Nhanh mang máu của gà chó ngựa đến, chúng ta cùng Đại vương hút máu ăn thề".

Hiếu Liệt vương nói: "Đúng thế, hút máu ăn thề!"

Rất nhanh sau đó, bình đồng đựng máu đỏ được người của Hiếu Liệt vương dâng lên. Mạo Toại đón lấy rồi quý gối dâng lên Hiếu Liệt vương. Hiếu Liệt vương lấy máu bôi vào miệng, tiếp sau đó là Triệu Thắng, Mạo Toại và các môn khách của nước Triệu đang đứng ở lễ đường.

Triệu Liệt vương của nước Sở và nước Triệu đã ký kết hiệp ước liên minh chống Tần như vậy. Xuân Giáp quân Hoàng Yết, Tướng quốc của nước Sở đã dẫn đầu mười vạn tinh binh ngày đêm tiến về Hàm Đan với tốc độ nhanh.

Bây giờ, Lã Bất Vi cảm thấy thời gian trôi đi rất chậm. Ngày nào ông cũng nhìn thấy bóng của đầu nhọn gác lầu in rõ trên sân. Ban đầu, cái bóng đó dài và hẹp, về sau, dần dần ngắn lại. Đến giữa buổi, cái bóng biến mất. Một lúc sau cái bóng lại xuất hiện, theo án chiều tà nó lại kéo dài ra. Ông ta cảm thấy mình không thể khống chế được thời gian bởi vì trong lúc này đây đã xảy ra những chuyện mà ông không thể ngồi đó.

Lã Bất Vi tưởng rằng quân Tần sẽ đánh thẳng đến Hàm Đan, lúc đấy ông và Dị Nhân có thể đường hoàng trở về Hàm Dương. Vậy mà, tin tức chiến sự truyền đến lại làm Lã Bất Vi đau lòng. Mười vạn tân binh do Xuân Giáp quân chỉ huy đến kết hợp với viện binh của nước Ngụy cho nước Triệu do Tin Lăng quân chỉ huy cùng mở một cuộc tấn công dữ dội đánh vào quân Tần. Lúc này, Bình Nguyên quân Triệu Thắng cũng đích thân chỉ huy ba nghìn cảm tử quân của nước Triệu vượt thành ra ngoài. Tình thế rất nguy hiểm, dòng người và ngựa đang đi cuốn trận địa của quân Tần. Do phải chinh chiến nơi xa, chiến đấu đã lâu nên quân Tần đã mỏi mệt, lần này lại gặp phải sự kìm kẹp tấn công từ bên trong lẫn bên ngoài của binh mã ba nước, quân Tần làm sao có thể đứng vững được. Tướng Tần vương Hột đã dẫn binh tàn tướng bại thoát về thành Phần, hai vạn quân Tần không kịp rút đã bị liên quân Ngụy - Sở bao vây cuối cùng phải đầu hàng.

Lã Bất Vi hiểu rõ rằng, kết cục trận chiến này tiềm ẩn một vận mệnh xấu cho ông và Dị Nhân. Ông sẽ buông tay ngồi chờ nó đến, ông đang tranh thủ từng giờ từng phút tìm cơ hội thoát cùng với Dị Nhân và trong cảnh binh ngựa hổn loạn, Lã Bất Vi vẫn lợi dụng lúc đêm tối và lúc sương dầy, kề sát chân tường lần mò đến nơi ở của Dị Nhân giống như một cái bóng, Dị Nhân cũng đến tìm ông.

Công Tôn Càn dường như lờ đi tất cả những việc làm của họ. Khi mới bắt đầu, Lã Bất Vi và Dị Nhân có chút nghi không hiểu. Vì sao con người nước Triệu có sứ mệnh do thám này lại rộng lượng như vậy với ông và Dị Nhân? Thậm chí ông còn nghi ngờ tên Công Tôn Càn béo phục phịch này đang dệt tấm lưới âm mưu gì đây, đang diễn trò muốn bắt nhưng cố ý thả để tìm ra những sơ suất và bằng chứng tội lỗi nào đó của ông và Dị Nhân để về sau dễ bề luận tội. Ông đã nhanh chóng phát sinh ra kế sách vạn năng của Công Tôn Càn. Công Tôn Càn đã theo dõi sát sau Triệu Cơ và Doanh Chính. Người phi này và con của cô ta đã trở thành con tin của con tin.

Mỗi khi Lã Bất Vi đến hoặc Dị Nhân đi, Công Tôn Càn đều không nhúc nhích giống như một phong tượng Phật - Anh ta mãi mê theo dõi hành tung của hai mẹ con. Mỗi khi Triệu Cơ đưa Doanh Chính đi ra khỏi phủ, anh ta lại theo đuôi như một con mèo đánh hơi thấy mùi tanh. Công Tôn Càn cũng là con người xảo trá, mỗi khi thấy Triệu Cơ và tiểu Doanh Chính ở lâu trong phòng không ra ngoài, anh ta liền đứng bên ngoài gọi với giọng rất thân mật: "Chính nhi! Chính nhi!"

Tiểu Doanh Chính lảnh lót đáp lại rồi tíu tít chạy ra.

Trong lòng Công Tôn Càn đã cảm thấy đạt được mục đích.

Tiểu Doanh Chính ở nhà thì Triệu Cơ cũng ở nhà, Triệu Cơ ở nhà thì Dị Nhân cũng đang ở nhà. Anh ta bế tiểu Doanh Chính lên, cọ nhẹ bộ râu của mình lên cặp má non tơ của tiểu Doanh Chính. Tiểu Doanh Chính buồn bật cười khanh khách. Sau đó, Công Tôn Càn lại lấy từ trong tay áo ra chút bánh trái gì đó rồi đút đầy mồm tiểu Doanh Chính. Dị Nhân, Lã Bất Vi, Tư Không Mã, Chu Kiệm, Triệu Cơ khi đối mặt với Công Tôn Càn cũng chỉ chào hỏi một vài từ câu nệ hoặc lạnh lùng chào nhau, chỉ có tiểu Doanh Chính là người duy nhất có thể cùng anh ta nô đùa thân mật.

Lã Bất Vi đã sớm hiểu động cơ của Công Tôn Càn đang tiềm ẩn trong mối quan hệ này và ông thường cảnh cáo Triệu Cơ: "Đừng để cho tiểu Doanh Chính chơi với cái gã béo Công Tôn nguy hiểm đó". Triệu Cơ cũng thường quát mắng và dọa tiểu Doanh Chính: "Ông béo Công Tôn đó trên người cứt đãi đấy, ở gần ông ta con sẽ bị thối đấy! Còn chơi với ông ta mẹ sẽ đánh gãy chân con".

Mỗi khi ở gần Công Tôn Càn, tiểu Doanh Chính lại dí sát mũi vào áo của Công Tôn Càn ngửi lấy ngửi để. Công Tôn Càn hỏi: "Chính nhi, cháu ngửi cái gì đấy?"

"Chú Công Tôn, người chú không thối à?" Tiểu Doanh Chính ngộ nghĩnh hỏi.

Công Tôn Càn hỏi lại: "Chú không tắm gội trong chuồng xí, làm sao mà người lại thối được".

Tiểu Doanh Chính nói: "Mẹ cháu đã nói dối, người chú Công Tôn không thối, người chú Công Tôn không thối!"

Khi Bình Nguyên quân, Xuân Giáp quân và Tin Lăng quân dẫn đại quân ba nước trở về, toàn thành Hàm Đan trở nên sôi sục. Từ vài năm nay, đây là thắng lợi nước Tần đầu tiên mà ba nước chư hầu đạt được, mười mấy vạn quân dân trong thành tụ tập nhảy múa đón mừng.

Triệu Hiếu Thành vương đáng lẽ đã tiếp đón trả ơn Xuân Giáp quân và Tin Lăng quân rất tốt, thế nhưng trong lúc chiến tranh, vị vua dạn dày sương gió này đã phải thấp thỏm đêm ngày, lo lắng sợ hãi. Khi tiếng trống thắng lợi quân Tần nổi lên một cách vang dội thì bỗng chốc có thể ông đổ sụp xuống. Sau khi ông run rẩy ngồi trong ngự xe đi đón Xuân Giáp quân và Tin Lăng quân, ông ốm không dậy được nữa. Trong triều Bình Nguyên quân Triệu Thắng vẫn luôn nhớ tới một việc, đó là giết Dị Nhân và Lã Bất Vi.

Trong những lúc thâu đêm suốt sáng chuẩn bị cho buổi lễ mừng thắng lợi, Bình Nguyên quân Triệu Thắng cũng vẫn thường bàn bạc với Xuân Giáp quân và Tin Lăng quân chuyện này. Tin Lăng quân Ngụy Vô Kỵ rất tán thành chủ trương của Bình Nguyên quân Triệu Thắng, ông nói: "Đúng, giết cái tên vương tôn này đi! con tin cái gì? Chằng có ích lợi gì cả. Dị Nhân bị cầm cố ở Hàm Đan mà Tần Chiêu vương coi như không có chuyện này, đã mấy lần tấn công nước Triệu mà chẳng hề lo lắng gì. Nếu không dám làm gì Dị Nhân thì rõ ràng nước Triệu yếu kém có thể bắt nạt được".

Xuân Giáp quân Hoàng Yết là một quân tử nhân hậu, ông phải đối việc giết hại Lã Bất Vi và Dị Nhân: "Hai nước đánh nhau cũng không được giết sứ thần huống chi lại là Tần vương tôn làm con tin? Theo tôi được biết, cái vị Dị Nhân này ở trong Hàm Đan cũng chưa có gây rối nào, vô cớ giết anh ta thì chẳng phải quá tàn nhẫn hay sao?"

Bình Nguyên quân Triệu Thắng để ý gì đến tấm lòng nhân ái này của Xuân Giáp quân, nói: "Xuân Giáp quân lòng tốt thương người của ông sớm muộn gì cũng làm hỏng chuyện".

Bình Nguyên quân Triệu Thắng nói đúng. Quả nhân tính cách nhân ái rộng lượng này của Xuân Giáp quân Hoàng Yết đã gây ra họa sát thân, trong cuốn sử ký Xuân Giáp Quân Liệt Truyện, Tư Mã Thiên đã ghi lại kết cục bi kịch của vị quân tử này.

Sở Hiếu Liệt vương không có con trai, Xuân Giáp quân đã trăn trở suy nghĩ về chuyện này rất nhiều, thế là ông quyết định tìm những người vợ dễ sinh nở hiến cho Sở vương. Dù đã tiến cống rất nhiều nhưng vẫn không sinh hạ được con trai. Lúc này, Lý Viên người nước Triệu mang em gái của anh ta đến định hiến cho Sở vương, nhưng anh ta nghe nói Sở vương không có khả năng sinh con, e là về sau em mình sẽ đến ở không được sủng ái nữa. Vì thế Lý Viên bỏ ý định này và đến xin hầu hạ Xuân Giáp quân. Không lâu sau, anh ta xin phép về quê và đã cố tình kéo dài thời gian nghỉ phép. Sau khi trở lại, vào gặp Xuân Giáp, Xuân Giáp hỏi anh ta vì sao lại về muộn, Lý Viên trả lời: "Tề vương phái sứ thần đến hỏi em tôi về làm vợ, vì phải ngồi uống rượu với vị sứ thần đó nên đã làm muộn thời gian". Xuân Giáp hỏi: "Có lễ vật ăn hỏi không?" Lý Viên trả lời: "Không có". Xuân Giáp lại hỏi: "Ta có thể gặp mặt cô ấy không?" Lý Viên trả lời: "Vâng". Thế là Lý Viên đem em gái của mình hiến cho Xuân Giáp và đã nhận được sủng ái của Xuân Giáp quân. Về sau, khi biết cô ta đã có mang, Lý Viên cùng cô ta bàn bạc một mưu kế.

Em của Lý Viên nhân cơ hội để khuyên Xuân Giáp quân: "Sở vương rất tôn trọng tín nhiệm chàng, tình huynh đệ cũng không bì kịp, hơn nữa, giờ đây chàng đã làm Tể tướng nước Sở hơn hai mươi năm rồi, nhưng Sở vương lại không có con trai, giả sử trăm năm sau Sở vương sẽ lập anh em của ông ta làm vua. Sau khi nước Sở lập vua mới cũng tức là những người thân cận của tân vương trước kia được hiển quí. Lúc đó ngài làm sao còn có thể được trọng dụng lâu ngày nữa đây? Sự việc không chỉ dừng lại giản đơn như những lời tôi nói, bởi ông nắm quyền trước Sở vương đã quá lâu, sự thất lễ với anh em Sở vương nhất định không ít, anh em Sở vương quả được lập làm vua Sở. Tai họa sẽ giáng xuống đầu ông, lúc đó làm sao giữ được ấn tướng và vùng đất phong ở Giang Nam đây. Giờ đây tiện thiếp đã biết mình mang thai, nhưng người khác thì chưa biết chuyện này. Tiện thiếp được ngài sủng ái lâu ngày không nhạt phai, lấy sự trọng vọng của ngài đem đưa tiện thiếp tiến cho Sở vương. Sở vương nhất định sủng ái tiện thiếp, nếu tiện thiếp có phúc phận sinh được con trai, vậy thì chính đứa con của ngài đã được lập làm Sở vương. Khi đó ông ở trên muôn người dưới một người. Ai còn có thể trách tội ông được?" Xuân Giáp quân đinh ninh như vậy, vì thế đưa em gái của Lý Viên vào ở trong nhà khách, đồng thời canh giữ nghiêm ngặt. Sau đó bẩm báo Sở vương. Sở vương triệu em gái Lý Viên vào trong cung. Vô cùng sủng ái nàng, chẳng bao lâu nàng sinh con trai, lập làm Thái tử. Bởi em gái Lý Viên là Vương hậu, nên nước Sở trọng dụng Lý Viên, Lý Viên nắm chính sự trong triều.

Lý Viên đã đưa em của mình vào cung, đứa con của nàng sinh ra đã được lập làm Thái tử. Lý Viên sợ Xuân Giáp quân tiết lộ bí mật, lại thêm kiêu ngạo, vì vậy mà nuôi bọn tội đồ để giết hại Xuân Giáp quân diệt khẩu. Khi đó người nước Sở hầu như đều biết nội tình.

Khi Xuân Thân vương đảm nhận Sở Tương hơn hai mươi năm, Sở Hiếu Liệt vương bị bệnh. Chu Anh nói với Xuân Giáp quân: "Việc đời có những cái phúc lớn không cầu mà chợt đến, cũng có những cái họa lớn không mong mà đến, nay ông đang ở một nước biến động vô thường, hầu cận vị vua vui giận bất định, tại sao không có ai giúp ông tránh hung tìm cát?" Chu Anh noi: "Ông làm Tướng quốc nước Sở đã hơn hai mươi năm, tuy danh phận ở vào ngôi Tướng, nhưng trên thực tế ông chính là Sở vương! Giờ Sở vương bệnh trạng, sớm muộn sẽ mất đi, một mai Sở vương mất đi, mà ông chính là người phò tá Thiếu chủ. Đợi Tân vương trưởng thành lại đem chính quyền trả lại ông ta, nếu không ông quay mặt về phương nam xưng vương mà hùng cứ một phương. Đây chính là phúc lớn không cầu mà tới mà tôi nói!" Xuân Thân vương lại hỏi: "Cái gì là họa không mong mà tới?" Chu Anh trả lời: "Lý Viên không được trọng dụng mà oán hận ông như kẻ thù, tuy ông ta không thống lĩnh quân đội, nhưng từ lâu ông ta đã nuôi dưỡng bọn tội đồ. Đợi một khi Sở vương mất đi, Lý Viên sẽ vào cung nắm chính quyền và giết ông để diệt khẩu. Đây chính là cái họa không cầu mà đến mà tôi nói!"

Xuân Giáp quân nói: "Thế nào gọi là người biết tránh hung tìm cát?" Chu Anh nói: "Trước hết xin ông hãy đưa tôi vào chức Lang Trung hầu cận Sở vương. Sau khi Sở vương mất, Lý Viên nhất định sẽ vào cung trước, lúc đó tôi sẽ thay ông giết quách hắn đi. Đây chính là cái tránh họa tâm phúc mà tôi nói". Xuân Giáp quân nói: "Nên bỏ cái cách làm này đi, Lý Viên là con người yếu đuối, tôi xưa nay lại đối với ông ấy rất tốt, ông ta dù thế nào cũng không làm những việc như thế đâu". Chu Anh biết những lời can gián của mình không được thu nhận, sợ rằng tai họa sẽ ập tới, vì vậy lặng lẽ bỏ đi.

Sau chuyện này mười bảy hôm, Sở Hiếu Liệt vương mất. Lý Viên quả nhiên nhập cung, ông ta bố trí bọn tội đồ mai phục trong Tật Môn. Xuân Giáp quân vừa vào tới Tật Môn, bọn tội đồ này từ hai bên xông ra đâm chết ông ta, còn cắt đầu ông ta vứt ra con sông gần đó, tiếp đó sai quân sĩ đem người nhà Xuân Giáp quân giết sạch. Em gái Lý Viên đầu tiên được Xuân Giáp quân sủng ái có thai mà được sung vào vương cung sinh con trai được lập làm Sở vương, đó chính là Sở U vương.

Xuân Giáp quân đang khuyên Bình Nguyên quân Triệu Thắng không nên giết Dị Nhân, số phận tàn khốc này vẫn đợi anh ta ở nơi xa xôi. Bình Nguyên quân Triệu Thắng cảm thấy lòng nhân hậu của Xuân Giáp quân là lòng nhân hậu đàn bà. Không phải lòng nhân kẻ trí, bèn giấu ông ta mời Tin Lăng quân Ngụy Vô Kỵ vào trong mật thất bàn bạc mưu kế. Hai người thương định, cho mai phục rất nhiều võ sĩ ở hai bên chính điện Tùng Đài sẽ giết Dị Nhân và Lã Bất Vi trên bàn tiệc, để tế linh hồn tướng sĩ ba nước tử trận. Bình Nguyên quân Triệu Thắng sai người viết thư mời. Sai người mang sang mời Dị Nhân và Lã Bất Vi.

Triệu Cơ bê thiếp mời được làm bằng thẻ tre, vui mừng nói: "Buổi lễ lớn như thế này, nhất định có ca múa rực rỡ, có thể tiện thiếp đi cho mở mang tầm mắt không?"

Dị Nhân liếc xéo Triệu Cơ một cái, bụng nghĩ: "Liên quân ba nước Triệu, Nguy, Sở vừa đánh cho nước Tần chúng ta đại bại, cô lại còn có lòng mà vui chơi nữa sao". Dị Nhân không để ý gì đến Triệu Cơ, suy đi nghĩ lại, đến Tùng Đài dự tiệc nhất định sẽ bị nhục, tự mình xử trí thế nào.

Lã Bất Vi bê thẻ tre, mắt đăm đăm nhìn về phía trước. Ông biết bữa tiệc này không chỉ đưa ông và Dị Nhân vào tình thế khó xử mà nó còn ẩn dấu đầy sát khí. Mấy hôm nay ông cảm thấy bồn chồn không yên, tinh thần bất định. Ông tìm thầy bói xem cho một quẻ, thầy bói nói ông có tai họa sát thân, cần phải chú ý đề phòng, ngay khi đi trên đường, một chiếc lá rơi phía sau, cũng phải nghe động tĩnh.

Lã Bất Vi xem rõ ngày giờ ghi trên thiếp mời, tức ngay ngày hôm sau. Nó có nghĩa là ông và Dị Nhân chỉ còn hơn một ngày để bàn bạc đưa ra đối sách.

Lã Bất Vi sai người chuẩn bị xe, đang chuẩn bị đến chỗ ở của Dị Nhân, thì thấy Lạn Bửu thần sắc hốt hoảng, sầm sập lao vào. Lã Bất Vi vội mời ông ta vào phòng khách, còn chưa đợi gọi trà, Lạn Bửu đã hổn hển nói: "Lã đại nhân, ngài hãy mau trốn đi!"

"Tại sao thế?" Lã Bất Vi hỏi.

"Lã đại nhân có phải ngài nhận được thiếp mời của Bình Nguyên quân đến dự tiệc không?"

"Vâng".

"Họ muốn giết đại nhân và Dị Nhân tại bàn tiệc!"

"Làm sao ông biết?"

"Lã đại nhân, ông vẫn còn nghi ngờ hay sao? Tuy Lạn Tương Như đại nhân nhà tôi không có ở nhà, nhưng tôi cũng là người giao du rộng rãi, lắm bạn bè. Đừng nói là tai mắt khắp nơi, mà mọi việc đều thông suốt, nắm bắt được mọi biến động. Đây chính là "nho sĩ không ra khỏi cửa nhưng biết được mọi việc trong thiên hạ"."

"Tôi có một người bạn làm quân quí trong phủ Bình Nguyên quân. Hôm qua chúng tôi uống rượu với nhau, ông ấy nói ông ấy có nhiều bạn bè, tôi cũng nói tôi nhiều bạn. Tôi nói, ông chẳng phải quen biết một số giới võ phu thành thạo binh khí hay sao? Ông xem mấy anh em ta nho, sĩ, thương, nông chỗ nào cũng có, mọi nơi đều là anh em cả, ông ta bảo tôi nói khóac, tôi kể ra, nho tôi quen biết ai, sĩ tôi quen biết ai, thương tôi nói là tôi quen Lã Bất Vi hào phú. Có lẽ là rượu nhiều quá, ông ta cười khẩy, nói cái vị Lã Bất Vi của ông sắp xuống hoàng tuyền rồi, các ông sẽ gặp nhau ở kiếp sau nhé! Tôi liền hỏi vị quân úy này là có chuyện gì, ông ta nói rằng Bình Nguyên quân và Tin Lăng quân đang mưu tính chuyện này..."

Lã Bất Vi nghe Lạn Bửu nói một tràng, tin tưởng đó toàn là sự thật. Ông thỉnh cầu Lạn Bửu cho ra một lời khuyên, tìm cách để ông ta và Dị Nhân trốn đi.

Lạn Bửu cười nói: "Trong lòng tôi cũng đang rất lo, tính mạng của Lã đại nhân đâu giống như phường áo cải chúng tôi, nhẹ như lông hồng". Lã Bất Vi hiểu ý Lạn Bửu, vội tiếp lời nói: "Người không phân biệt cao thấp giàu nghèo, tính mệnh đều quí trọng như nhau. Lạn tiên sinh cứu tính mạng tôi và Dị Nhân lần này, tôi nguyện suốt đời không quên ơn".

Lạn Bửu vội xua tay, nói: "Lã đại nhân quá lời rồi, Lã đại nhân quá lời rồi!"

Lã Bất Vi vội gọi gia tướng lấy một trăm lượng vàng tặng Lạn Bửu. Lạn Bửu mặt mày rạng rỡ đến kinh ngạc, nói: "Đa tạ ân điển của Lã đại nhân! cứu người như cứu hỏa, tôi sẽ về phủ thu xếp, bảo đảm là đại nhân và Dị Nhân bình an vô sự rởi khỏi Hàm Đan. Mong ngài yên tâm!"

Dị Nhân không ngớt nhìn ra cổng phủ với vẻ mặt mơ hồ, cả chiều nay anh ta chờ đợi bóng dáng hồn hậu của Lã Bất Vi, Dị Nhân đoán, Lã Bất Vi nhất định cũng nhận được thiếp mời của Bình Nguyên quân. Vị Thái phó đa mưu túc trí này nhất định sẽ nghĩ ra được biện pháp hữu hiệu để ứng phó.

Cảnh hoàng hôn càng hiện rõ, mọi vật trong sân như thoát ẩn thoắt hiện. Bây giờ Lã Bất Vi vẫn chưa đến, Dị Nhân đứng ngồi không yên, muốn để Chu Kiệm đi tìm Lã Bất Vi về.

Lúc này từ bên ngoài vọng vào tiếng lộc cộc của bánh xe ngựa, Dị Nhân mừng ra mặt, bèn nói với Chu Kiệm: "Mau ra mở cửa đi, Lã thái phó đến rồi đấy!"

Mở cánh cổng phủ, Chu Liễn bước qua ngưỡng cổng, để cho chiếc xe ngựa chạy vào. Xe ngựa đã đứng hẳn, chiếc dèm được kéo ra để lộ khuôn mặt hào phòng của Lã Bất Vi.

Dị Nhân thấy Lã Bất Vi chậm chậm bước vào, khuôn mặt bình thản trong lòng có chút nghi hoặc: "Thái phó vẫn chưa nhận được thiệp mời của Bình Nguyên quân sao? Hay là nhận được mà không thèm quan tâm đến?"

Vốn thường khi nhìn thấy Dị Nhân, Lã Bất Vi không bao giờ tỏ ra thiếu lịch sự, ông nói rất rành mạch: "Dị Nhân điện hạ, bữa yến tiệc mừng công tối nay của Bình Nguyên quân đã sắp tới, xin ngài hãy chuẩn bị kỹ càng đến dự tiệc. Để tránh sự ác cảm của Bình Nguyên quân là chúng ta đến muộn, tôi đã chuẩn bị một món lễ vật chất hậu hĩnh, bây giờ để Chu Kiệm và Tư Không Mã đưa tới Tùng Đài, và khởi bẩm với Bình Nguyên quân rằng Dị Nhân điện hạ sẽ tới ngay".

Dị Nhân nói với Chu Kiệm hãy mau mang lễ vật đến, và nói một cách tán thưởng: "Thái phó đại nhân nghĩ rất chu toàn!"

Triệu Cơ ôm gọn đứa bé Doanh Chính đi tới, ngập ngừng hỏi: "Lã thái phó, thiếp muốn bế Doanh Chính ra ngoài chơi, có được không ạ?"

Lã Bất Vi nói: "Bình Nguyên quân tổ chức quốc yến lần này rất linh đình, lễ nghi nghiêm trang. Thái tử phi bế đứa trẻ nhỏ đến đó sợ sẽ làm mất đi sự uy nghiêm. Ngộ nhỡ đứa trẻ tiểu Doanh Chính lám náo loạn thì rất khó kiểm soát nổi, như vậy thì sẽ làm cho quân thần của Tần quốc và các nước chư hầu chê cười".

Dị Nhân lạnh lùng nói: "Phận con gái, không nên đặt chân vào đại đường!"

Triệu Cơ nói như oán trách: "Cơ hội ngàn năm khó gặp này chắc không có chỗ cho những người mẹ như thiếp!"

Dị Nhân sau khi ăn mặc chỉnh tề, liền thúc giục Lã Bất Vi lên xe khởi hành. Lã Bất Vi quay lại ôm đứa trẻ Doanh Chính một cách thân mật, và dùng ánh mắt buồn rầu vô hạn nhìn Triệu Cơ, đôi môi hơi mấy máy như có điều muốn nói nhưng rồi lại thôi.

Dị Nhân không kiên nhẫn được anh ta nghĩ: "Lã thái bá thường ngày tính cách mạnh mẽ quyết đoán, sao hôm nay lại mềm yếu như phụ nữa vậy? chẳng phải là để Thái tử phi và tiểu công tử đến Tùng Đài dự tiệc sao, hà dĩ phải khó xử như thế?"

Lã Bất Vi nói với Triệu Cơ: "Yến tiệc ở Tùng Đài sẽ tổ chức thâu đêm, ta và Thái tử điện hạ cũng chẳng biết bao giờ sẽ trở về, Thái tử phi và Doanh Chính nên đi nghỉ sớm, giữ gìn sức khỏe!"

Dị Nhân lại thúc giục một lần nữa: "Thái phó, mau lên đường thôi, chúng ta đến muộn sẽ làm mất lễ tiết đấy!"

Dị Nhân đã lên xe được một lúc, Lã Bất Vi mới vén rèm bước lên. Trong xe bóng tối tràn ngập, Dị Nhân không thể nhìn rõ được khuôn mặt buồn đau của Lã Bất Vi.

Bốn con tuấn mã kéo chiếc xe ngựa lúc lắc chạy vượt qua những con phố, trong xe, Dị Nhân nhắm nghiền mắt lại, thỉnh thoảng lại nghe thấy tiếng quát của người đánh xe Tư Không Mã. Dị Nhân cảm thấy kỳ lạ, sao hôm nay con đường lại xa và xe lại chạy chậm đến như vậy, anh ta ngồi lắc lư theo nhịp xe chạy, giữa đường, bỗng nhiên chiếc rèm xe bị hắc lên, có một chút ánh sáng quét qua mặt Dị Nhân, khi anh ta vừa mở mắt ra, thì tấm rèm đã kịp hạ xuống, trong xe vẫn tối như mực.

Dị Nhân tự nhủ với mình: "Trời tối quá".

Cùng với tiếng hô vừa đủ nghe của Tư Không Mã "đến rồi", chiếc xe cũng dừng lại.

Lã Bất Vi nói: "Dị Nhân điện hạ, mau xuống xe thôi!"

Dị Nhân nhảy xuống khỏi xe, định thần nhìn xung quanh, những chiếc nến ở đây sáng như ban ngày. Tùng Đài chiêng trống vang trời, bốn bề gió thổi xào xạc, trông thật là hoang vắng. Ông mơ hồ hỏi: "Đây là việc gì vậy?"

Lã Bất Vi nói: "Bình Nguyên quân muốn trong bữa yến tiệc tối nay sẽ giết chết điện hạ, chúng ta không mau rút chạy e rằng sẽ chẳng còn mạng đâu!"

Lúc này Dị Nhân mới cảm thấy hoang mang sợ hãi, và hiểu rằng vì sao Lã Bất Vi đã lưu luyến chia tay lần cuối với Thái tử phi và tiểu công tử. Dị Nhân thầm mừng cho chủ tớ của họ đã tránh khỏi nanh hùm, hóa hiểm thành an, nhưng lại oán trách Lã Bất Vi không nên bỏ rơi Thái tử phi và Tiểu công tử.

Lã Bất Vi liền nói: "Kẻ tiểu nhân xin điện hạ tha tội! Chúng ta mau chạy theo con đường nhỏ bí mật, ngộ nhỡ quân của Triệu Quốc đuổi theo thì dù có cánh chúng ta cũng khó lòng chạy thoát! Đợi sau khi thoát khỏi hiểm nguy, tiểu nhân sẽ thuật lại với điện hạ vì sao lại phải bỏ lại Thái tử phi và Tiểu công tử để bỏ chạy".

Dị Nhân chỉ biết có vậy, đành bỏ lại ngựa xe, rê xuống con đường nhỏ chạy thục mạng. Trong bóng đêm mù mịt, ba người bọn họ đạp trên những đống đất sỏi mấp mô mà chạy, bước cao bước thấp, những bụi cây đã làm rách hết quần áo và giầy của họ. Chạy được khá xa, nhìn lại phía sau không có người đuổi theo, ba người họ mới đứng lại, vừa đi vừa thở hổn hển. Dị Nhân đau lòng nói: "Thái tử phi và Doanh Chính của ta sẽ gặp phải tai ương mất!"

Lã Bất Vi nghe và hiểu rằng, tuy Dị Nhân không nhắc tới đích danh tên họ của ông, nhưng cũng có ý trách móc ông.

Lã Bất Vi an ủi đáp: "Điện hạ, không nên quá bi quan và đau lòng như vậy, việc không đưa Thái tử phi và Doanh Chính đi cùng cũng chỉ là việc bất đắc dĩ mà thôi. Lạn Bửu và tên quan giữ thành nói, Lã Bất Vi mang theo gia quyến đến đền thờ ở ngoại thành để xem bói. Lúc vừa rồi anh không nhìn thấy ra khỏi thành, viên qua úy còn vén rèm lên để xem xét. Nếu như mang theo Thái tử phi và Doanh Chính thì sẽ lộ hết chân tướng. Hơn nữa, khi nhìn thấy Thái tử phi và Doanh Chính cũng lên xe, thì chắc Công Tôn Càn cũng sẽ không để yên đâu. Ngộ nhỡ hắn bẩm tấu với Bình Nguyên quân, chẳng phải là vẽ hổ không thành lại vẽ thành chó sao!"

Tuy Dị Nhân cảm thấy mừng lời Lã Bất Vi nói có lý, nhưng trong thâm tâm ông vẫn cảm thấy khó chấp nhận được, ông nói: "Chỉ sợ rằng ta và Thái tử phi của ta, ta và Doanh Chính của ta sẽ gặp nhau ở thế giới bên kia thôi!"

Lã Bất Vi nói: "Điện hạ giữ được tính mệnh về đến Hàm Dương trở thành vua của một nước, thì chỉ ngày một ngày hai những mỹ nữ hầu hạ điện hạ chả như mây ấy chứ. Như vậy, điện hạ chả có vô số Thái tử phi, vô số Doanh Chính hay sao! Nếu như điện hạ không thể quyết đoán kịp thời, một mực ở lại trong phủ đệ làm phiền mẹ con Thái tử phi, như vậy chẳng phải điện hạ sẽ trở thành thịt cá nằm sẵn trên thớt của Bình Nguyên quân và làm ma của thành Hàm Đan sao! Điện hạ ngay cả thân mình còn chẳng giữ nỗi, nói chi đến việc xum họp với Thái tử phi với Doanh Chính đây!"

Tư Không Mã đứng ở bên cánh cũng nói phụ họa vào: "Điện hạ, lời nói của Thái phó rất có lý!" Dị Nhân không kháng lại được lời nào nữa.

Ba người đều ngồi dưới đất, tất cả đều im lặng, khi Lã Bất Vi ngồi xuống, ông cảm thấy như có vật gì đè chặt lại ở trong ngực. À, ta nhớ ra rồi, là một mảnh trúc cầm cố được giấu ở trong bụng, bên trên có ghi lời di chúc của Triệu Khôi Tử: "Cơ nhi gán cho Lã Bất Vi". Trước khi trốn khỏi Hàm Đan, có hai vật ông cần mang đi. Thứ nhất là bộ Kinh Thương yếu điểm "Kế Nhiên" do Hoàng Phủ Nghĩa tặng ông, ông đã đọc rất kỹ bộ này, cũng có thể nói, từng nét chữ trong quyển sách cũng đủ làm cho ông kiếm được rất nhiều tiền. Tuy đống thẻ trúc ấy quá nặng, nhưng khi bí mật trốn đi ông cũng phải mang theo bằng được. Còn một thứ nữa là trúc gán nợ này. Bên trên có ghi ông và người con gái mà ông yêu thương, tấm trúc gán nợ này được mài dũa sáng trơn như ngọc, nó giống như tấm thân đẹp mê lòng người của Triệu Cơ.

Trước đêm dời khỏi Hàm Đan, Lã Bất Vi đã vắt óc suy nghĩ về chuyện có nên mang Triệu Cơ và Doanh Chính đi theo hay không. Một là người ái thiếp đã từng cùng ông chung chăn gối, một là sản phẩm mà ông dùng tinh huyết để tạo thành. Hai mẹ con và Lã Bất Vi giống như khí và huyết vậy, tình nghĩa sâu nặng. Vừa rồi, khi Lã Bất Vi khuyên nhủ Dị Nhân cũng chỉ là những lời qua loa đại khái, nhưng có ai thể hiểu được rằng trong lòng ông như đang có sóng dậy gió cuộn, một nỗi đau âm thầm...

Xem tiếp Chương 12 Giáo đâm thẳng - Tên bắn lén

Hàn Diệu Kỳ

Chương 12 Giáo đâm thẳng - Tên bắn lén

Dị Nhân - Lã Bất Vi - Tư Mã Không, ba người tờ mờ sáng thì đến Hàm Dương.

Ăn sương nằm đất, giãi gió dầm mưa mấy ngày nay đã kiệt hết sức lực của họ. Ba con người, anh nhìn tôi - tôi nhìn anh, đều như nhau cả, đầu óc rối bù, quần áo nhem nhuốc. Tư Không Mã tự giễu cười nói: "Bộ dạng của chúng ta thế này đến cung Chương Đài vẫn chưa đủ để làm cho Hoàng Thượng Chiêu Tương vương của chúng ta khiếp đến nỗi hồn bay phách lạc!"

Lúc này Lã Bất Vi cũng hứng khởi nói: "Vậy ta phải khấu đầu tạ tội, ông Thái phụ vô dụng này cũng chẳng tiếp đón điện hạ Dị Nhân tử tế đâu".

Dị Nhân cười lớn rồi nói: "Ngài hơi quá lời rồi!"

Ba người cười nói một hồi rồi sửa sang mủ áo đi về phía cổng thành. Cổng thành vừa mở chưa lâu, phía trong cổng thành vẫn chưa thấy xe ngựa qua lại - tên lính canh không để cho ba người tả tơi rũ rượi bọn họ vào thành.

Vừa thấy bị chặn lại, Dị Nhân tức tối. Trong lòng nghĩ, mấy tên tiểu tốt tép riu các người có mắt cũng như mù, chả lẽ còn nghi ngờ điện hạ Dị Nhân ta hay sao?

Nghĩ đến đó, Dị Nhân giận dữ nói: "Muốn giấy phong truyền gì? các người biết ta là ai không?"

Lã Bất Vi vội đẩy Dị Nhân về phía sau, rút giấy phong truyền của mình ra, cúi đầu khúm núm nói: "Chúng tôi là thương nhân nước Triêu, đến Hàm Dương để làm ăn một chuyến, xin đại ca trấn giữ cổng thành rộng lòng cho chúng tôi qua".

Lã Bất Vi sợ rằng Dị Nhân nói ra: "Ta là Tần vương Tôn Dị Nhân". Tin tức này sẽ được truyền đi nhanh chóng, khắp thành Hàm Dương sẽ biết Dị Nhân trở về. Họ mới đến lần đầu, vẫn còn chưa biết trong Vương cung có động tĩnh gì không, đừng nói là nảy sinh nhiều chuyện bất ngờ, gây nhiều phiền phức.

Tên lính trấn giữ cổng thành lật đi lật lại giấy phong truyền nhầu nát của Lã Bất Vi. Lã Bất Vi vội vàng nháy mắt Tư Không Mã một cái, Tư Không Mã hiểu ý, lấy ra một nén bạc từ trong ngực đưa cho tên lính trấn giữ cổng thành.

Tên lính nhận bạc, trả lại cho Lã Bất Vi giấy phong truyền, hất hàm để cho ba người lật đật đi vào trong cổng thành.

Mặc dù phố xá trong thành Hàm Dương vẫn còn che phủ trong sương sớm mong manh, mặc dù Dị Nhân đã xa nó bảy mùa xuân, nhưng anh vẫn còn nhớ được phố này là phố gì, ngôi lầu kia là lầu nào, anh hào hứng sôi nổi kể với Lã Bất Vi và Tư Không Mã khi anh đến đây cảnh tượng như thế nào.

Ngắm nghía một lượt cảnh phố lờ mờ, bỗng nhiên Dị Nhân hỏi Lã Bất Vi: "Thái phụ, ngài nói xem ta đi bái kiến ông nội Chiêu Tương vương trước hay là đi gặp mẫu thân Hạ Phi trước?"

Lã Bất Vi nói như đã có dự tính sẵn: "Điện hạ, theo ý của tiểu nhân, người mà ta phải bái kiến trước tiên là Hoa Dương phu nhân".

Dị Nhân nghi ngờ hỏi: "Trên có Gia gia Chiêu Tiên vương. Quân vương của một nước, sau có mẫu thân Hạ Phi sinh ra ta. Sao phải đi bái kiến Hoa Dương phu nhân!"

Lã Bất Vi nói: "Điện hạ, tôi là một thương nhân, xin cho tôi phép so sánh trong kinh doanh. Ở đây có ba mối làm ăn, một mối có thể thu về ngàn lạng bạc, một mối có thể thu về trăm lạng bạc, còn một mối chẳng có lợi gì. Vậy Điện hạ sẽ làm ăn mối nào trước?"

Dị Nhân nói: "Chẳng cần so sánh cũng biết, đương nhiên phải buôn bán mối thu về ngàn lạng trước, mới tiếp đến là thu về trăm lạng, còn vất bỏ cái mối chẳng có lợi lộc gì".

Lã Bất Vi nói tiếp: "Nghe thế có lý. Hoa Dương phu nhân nói một lời là định đặt trời đất, lập Điện hạ lên làm vua. Từ nay về sau Điện hạ có thể thuận lợi trở thành quốc quân hay không! Hoa Dương phu nhân là người có quyến thế. Đó chính là mối làm ăn kiếm được ngàn lạng vàng đấy!"

Dị Nhân nói: "Được sự chỉ bảo của Thái phụ, làm cho ta tỉnh ngộ ra, thật sự cần phải đi bái kiến Hoa Dương phu nhân trước. Vậy thì chúng ta hãy đến ngay cấm cung Loan Phượng các của Hoa Dương phu nhân thôi!"

Lã Bất Vi ngăn lại nói: "Đến trước không có nghĩa là lúc này".

Dị Nhân: "Vậy..."

Lã Bất Vi nói: "Bây giờ chúng ta cần phải đến Phủ đệ của Hoa Dương quân thăm dò. Điện hạ là nghĩa tử và là Hạ thần của Hoa Dương phu nhân, cần phải ăn mặc cho đẹp, mang theo lễ gặp mặt mới không mang tiếng về lễ nghĩa mẫu tử và quân thần, đồng thời đến chỗ Hoa Dương quân nắm bắt được đầu mối rõ ràng, tình hình chính trị, để Điện hạ từ nay về sau hành sự tránh được sự lỗ mãng hoang đường".

Dị Nhân gật đầu cho thế là phải.

Về việc Dị Nhân và Lã Bất Vi trải qua gian khổ tìm đến Hoa Dương quân vui ra mặt, vội vàng chuẩn bị rượu làm lễ tẩy trần cho Thái tử và Thái phụ.

Trong bữa tiệc, Lã Bất Vi nói ra ý muốn đến Phủ Đệ của Hoa Dương phu nhân trước, Hoa Dương quân không ngớt lời thán phục mưu tinh sâu xa của Lã Bất Vi, liền hỏi: "Thái tử và Thái phụ từ Hàm Đan trở về trong công việc làm ăn không biết có đầy đủ hay không, cần bao nhiêu lạng bạc để chi trả mặc dù không dám nói ra".

Lã Bất Vi cười nói: "Cám ơn tấm lòng nghĩa của Hoa Dương quân. Việc này có lẽ không cần làm phiền đến Hoa Dương quân, tôi đã chuyển mấy cửa hiệu ở Hàm Đan đến Hàm Dương rồi, không dám nói là buôn bán thịnh vượng, của cải dư thừa nhưng cũng có thể thu lợi, có một số vốn nhỏ. Phụng hiếu cho sự chi trả của Hoa Dương phu nhân cũng không đến nỗi nào".

Hoa Dương phu nhân ngạc nhiên hỏi: "Sao cơ, Thái phụ đã chuyển cửa hiệu về trước rồi phải không?"

Lã Bất Vi trả lời: "Đúng vậy".

Hoa Dương quân nói: "Là những cửa hiệu gì?"

Lã Bất Vi nói: "Lời cửa miệng, vẫn là buôn bán châu báu. Ngay đến tên cửa hiệu, muốn cần đến chút tiếng tăm của Hoa Dương quân, giả dụ như "Long Xương Quảng" chẳng hạn".

Hoa Dương quân nói: "Lấy tên Long Xương Quảng, nhưng trong thành Hàm Dương tiếng tăm đã lâu, bản nhân còn mấy lần gặp mặt Dương Tử chủ cửa hiệu".

Lã Bất Vi nói: "Dương Tử là một người thông minh năng nổ trong những môn khách của tôi".

Hoa Dương quân: "Trời đất! sao Thái phụ không sớm nói ra? Mau mời Dương Tử đến, chủ tớ các ngài cũng lâu ngày chưa được gặp lại".

Một lát sau Dương Tử đến, thăm hỏi cặn kẽ đối với Dị Nhân và Lã Bất Vi.

Sau khi cơm no rượu say, Hoa Dương quân từ sớm đã chuẩn bị xong nước tắm hương thơm, mời Dị Nhân - Lã Bất Vi - Tư Không Mã tắm rửa.

Trong phòng tắm hơi nước bốc ngùn ngụt, ba người bọ họn tuy rằng không một mảnh vải che thân, nhưng đều được khí hơi nước che lấp, hai bên cũng chẳng nhìn rõ nhau. Hơi nước mờ mịt không chỉ làm da thịt của Lã Bất Vi dễ chịu mà còn làm cho tư duy của ông thỏai mái. Tuy ông cùng Dị Nhân trở về nước Tần, nhưng chưa hẳn đã phải là sự thành công, mục tiêu Dị Nhân làm vua Tần, ông trở thành Tướng quốc vẫn còn cách xa vời vợi. Mỗi bước đi sau này cần phải hết sức thận trọng, không thể có một chút sơ suất nào, nếu không công lao đổ hết xuống sông xuống biển. Trước mắt thật khéo léo đi bái kiến An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân để cho họ càng thêm vui mừng, để củng cố và tăng thêm ấn tượng sâu sắc tốt đẹp đối với Dị Nhân và mình. Do đó Lã Bất Vi nghĩ đến việc Dị Nhân ăn mặc trang phục nào đi vào hầu An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân, việc đó thể hiện được Lã Bất Vi là một điều tinh tế của một thương nhân. Ông nghĩ, ăn mặc mũ áo cũ kỹ thậm chí rách nát của nước Triệu đó, dễ làm cho người ta nghĩ tới nỗi khổ sở phải chịu đựng khi tha hương nước khác, có thể gợi lên sự thông cảm và thương xót của An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân, ăn mặc mũ áo của nước Tần, khiến người ta cho rằng chủ tớ họ nhớ nhung quê hương đất nước, một bầu máu nóng của đứa trẻ sơ sinh, sẽ làm cho An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân cảm thấy lòng tận trung hổ thẹn của họ đối với nước Tần... Đúng lúc Lã Bất Vi không biết lựa chọn cách nào giữa hai cách, đột nhiên ông nghĩ đến Hoa Dương phu nhân là người nước Sở, bà hết sức yêu thích trang phục, vật phẩm, bài hát của nước Sở. Phải phải rồi! Để cho Dị Nhân cùng mình ăn mặc trang phục của nước Sở để vào hầu An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân thôi!

Lã Bất Vi vui mừng trước chủ ý tuyệt diệu của mình, như con giao long lộn mình trong bồn tắm phát ra tiếng nước kêu róc rách.

Dị Nhân, Lã Bất Vi, Tư Không Mã sau khi tắm rửa xong, tất cả vẻ mặt đều rạng rỡ, tinh thần đều sảng khoái. Họ sai người ra chợ mua về ba bộ quần áo thêu con phượng của nước Sở, ăn mặc chỉnh tề rồi vào hầu An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân, tuyệt chiêu này của Lã Bất Vi quả nhiên rất hiệu nghiệm, làm cho Hoa Dương phu nhân hết đỗi vui mừng, có những sử sách đã ghi chép tỉ mỉ tình tiết này.

Trước khi vào cung gặp Hoa Dương phu nhân ngày hôm đó, Lã Bất Vi đã sắp đặt kỹ lưỡng cho Dị Nhân, ngoài những cách thức dạy cho anh ta làm thế nào kể cho Hoa Dương mến mộ, còn có đặc ý để cho Dị Nhân mặc trang phục đang lưu hành trên đất Sở. Phục trang đất Sở thời kỳ chiến quốc có một nét đặc sắc riêng, bởi đất Sở thích hợp trồng cây đay, có lịch sử thêu dệt lâu đời, cho nên sản phẩm dệt của đất Sở tương đối đẹp, sự tinh tế của trang phục thủ công vượt trội các nơi khác. Áo đai, áo dài trở thành kiểu dáng rộng rãi nhưng thỏai mái, con gái thường kéo áo dài và con trai thường dệt áo đai rộng, đều là kiểu dáng trang phục lưu hành của nước Sở, người nước Sở phong Chúc Cách là tổ tiên, Chúc Cách là Hỏa Thần, người nước Sở xưa phần lớn đều thích màu đỏ, vua nước Sở thường mặc là "áo thêu". Người nước Sở lại tôn kính chim phượng hoàng, các đường nét được thêu trên chất liệu quần áo phần lớn là phượng hoàng, thêm lên ít hoa văn phức tạp, thành những mẫu hoa văn hình dạng quái đản. Trang phục nước Sở màu sắc đẹp vô cung thích mắt. Cách ăn mặc cả bộ của Dị Nhân có thể gợi lên tình cảm thân thiết cho Hoa Dương phu nhân và những hồi ức tốt đẹp của bà. Quả nhiên, sự bố trí kỹ càng đó đã giành được kết quả không thể ngờ tới.

Dị Nhân và Lã Bất Vi mặc trang phục đẹp của nước Sở vừa định cất bước, Hoa Dương quân liền sai người đến Loan Phượng Các báo trước. An Quốc quân cùng Hoa Dương phu nhân không ngớt vui mừng. Vội ngồi ngay ngắn trên công đường đón chờ. Tiếp đến là một tiếng kêu lớn: "Tần vương Tôn Dị Nhân và Thái phụ Lã Bất Vi tới!". An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân nhìn thấy hai người đàn ông mũ áo chỉnh tề, sắc mặt trang nghiêm, toàn thân đều ăn mặc trang phục nước Sở, theo đuôi nhau đi tới. Hoa Dương phu nhân chợt thấy trang phục của nước Sở, thêm phần thân thiết. Nhất thời cảm động, cũng chẳng cần để ý đến lễ nghĩa phép tắc giữa quân thần mẫu tử, bước vội xuống công đường ôm chặt lấy Dị Nhân đang lao tới, khóc không thành tiếng: "Con của ta, làm mẫu thân nhớ con đến chết!"

Dị Nhân nước mắt lưng chòng nói: "Nhi thần ở Hàm Đan cũng muôn nhớ mong da diết Phụ quân và Mẫu hậu".

Lã Bất Vi thấy thế, bà Hoa Dương phu nhân vẫn như trước đây dung nhan xinh đẹp, mà An Quốc quân thì nay đã khác xưa, nếp nhăn già nua đầy khuôn mặt.

Nửa buổi, Dị Nhân mới rời ra khỏi lòng Hoa Dương phu nhân, làm lễ khấu kiến với An Quốc quân. An Quốc quân vẻ mặt phấn khởi nói: "Con của ta lớn lên thành một người tài giỏi tư thế hiên ngang, vả lại trên đường đi thuận lợi, không có gì khó khăn hiểm trở, thật là điều đáng mừng".

Dị Nhân nói: "Nhi thần có được ngày hôm nay, đều trông cậy vào sự tính toán, và bảo vệ của Thái phụ Lã Bất Vi".

An Quốc quân nói: "Thái phụ Lã Bất Vi, ngươi có công lớn vất vả, ta nhất định sẽ trọng thưởng cho ngươi".

Lã Bất Vi cúi người đáp: "Tạ ơn An Quốc quân".

Hoa Dương phu nhân ngắm nhìn một lượt trang phục của Dị Nhân rồi lại ngắm nhìn trang phục của Lã Bất Vi, nhìn mãi mà không thấy chán.

An Quốc quân bông đùa nói: "Ái phi của ta, hãy cẩn thận kẻo cứ nhìn vào đó rồi không thu lại ánh mắt về được đâu!"

Hoa Dương phu nhân nói: "Con trai ta, con và Thái phụ ở Hàm Đan đã bao năm nay, vì sao toàn mặc trang phục của nước Sở?"

Dị Nhân nhìn Lã Bất Vi một lượt rồi trả lời: "Dị Nhân bất hiếu không thể ở lại Loan Minh Các hầu hạ Phụ Quân và Mẫu Hậu, trong lòng cảm thấy áy náy, bèn mua về hai bộ trang phục nước Sở để ở trong cấm cung, mỗi lần nhìn thấy, cảm thấy như được ở bên cạnh Phụ quân và Mẫu hậu rồi!"

Lã Bất Vi cũng đứng ở một bên liền nói: "Mỗi khi đến ngày sinh nhật của Phụ quân và Mẫu hậu, Dị Nhân đều mặc lên bộ trang phục của nước Sở, thiết đàn chúc thọ cho hai người ở trong Phủ Đệ, chúc phúc cho hai người ở tứ đường phía ngoài thành".

Nghe Dị Nhân và Lã Bất Vi nói như vậy, Hoa Dương phu nhân cảm động lệ chảy ướt đẫm gò má, nghẹn ngào khen ngợi: "Dị Nhân, tấm lòng hiếu nghĩa của con cơn hơn nhiều lần con đẻ. An Quốc quân, tiện thiếp nhận con kế nghiệp, đó là sự nhìn xa trông rộng!"

An Quốc quân gật đầu cho là phải.

Lã Bất Vi nhân cơ hội cúi đầu làm lễ Hoa Dương phu nhân nói: "Khởi bẩm An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân, tiểu nhân và Thái tử điện hạ đều có một suy nghĩ, không biết có nên nói ra hay không? Xin được tha tội".

Hoa Dương phu nhân nói: "Thái phụ, sau này chúng ta đều là người nhà cả, việc gì phải khách khí, cứ nói đi!"

Lã Bất Vi nói: "Điện hạ Dị Nhân muốn đổi tên thành Tứ Sở, là con của nước Sở, thứ nhất là thể hiện chữ hiếu của Thái tử, thứ hai là để kỷ niệm ngày cha mẹ con cái đoàn tụ".

Một câu nói làm cho An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân lòng vui như mở cờ, nói: "Ý hay, ý rất hay!"

An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân nói cười vui vẻ, quyết định để Dị Nhân và Lã Bất Vi tạm thời ở trong phủ trại của An Quốc quân, đợi sau khi bẩm tấu Triệu Tương vương sẽ xây dựng cung điện Thái tử và Phủ viện Thái phụ. Không biết ai khởi xướng lên việc Dị Nhân lấy vợ sinh con, chuyện An Quốc quân và Hoa Dương phu nhân tìm kiếm Triệu Cơ và tiểu Doanh Chính, Dị Nhân không khỏi nghẹn ngào, lòng dạ trăm sầu.

An Quốc quân an ủi nói: "Con trai ta không phải buồn rầu nữa, bởi cha muốn tìm cách làm cho mẹ con bình an đoàn tụ. Nếu như việc không thành, con gái trong thành Hàm Dương đều đẹp như hoa như ngọc, chọn trong số họ làm thê thiếp, làm trò tiêu khiển cho con trai ta!"

Hoa Dương phu nhân nói: "Thời gian không còn sớm nữa, Dị Nhân mau đi khấu kiến Hạ Phi, mẹ đã sinh ra con".

Buổi chiều một ngày mùa thu, mặt trời yếu ớt, tia nắng mệt mỏi từng lúc từng lúc chiếu trên những hoa tàn tạ, cánh hoa rơi khắp mặt đất, giống như cõi mộng tan vỡ mà khiếp sợ.

Mờ sáng hôm nay, Triệu Cơ uể ỏai nằm trên chiếc chõng, nhìn chiếc chăn bên cạnh bà trống trải còn ở đó, biết rằng Dị Nhân đêm qua chưa trở về. Lòng bà vừa oán trách vừa lo lắng: "Tiệc tùng gì lung tung ở đâu rồi".

Sau khi dậy, cũng như mỗi sáng theo trình tự bà đang trang điểm, chải chuốt khuôn mặt của mình, Lạn Bửu bí mật chạy vào ghé sát tai bà nói: "Lã Bất Vi bảo tôi đến báo với Thái tử phi, ông cùng Điện hạ Dị Nhân đêm qua đã trốn khỏi Hàm Đan trở về nước Tần rồi. Bảo bà trốn đi, bảo trọng lấy mình, có cơ hội họ sẽ cứu mẹ con bà!"

Lạn Bửu sau khi nói xong, nhìn rõ trên khuôn mặt của Triệu Cơ hiện ra sắc mặt nhợt nhạt, sau đó lẩm bẩm: "Các ngươi.." tiếp theo là "bọn đàn ông lòng lang dạ sói này.." Chưa dứt lời, Lạn Bửu vội vàng bịt miệng bà nói: "Hiện giờ quân thần của nước Triệu vẫn chưa biết điện hạ Dị Nhân và Lã Bất Vi bỏ trốn, Công Tôn Càn mất cảnh giác, bà cùng với Chu Kiệm nhân cơ hội này mà trốn đi. Nếu như bà to tiếng như vậy việc sẽ bại lộ, lập tức Bình Nguyên Mã sẽ bắt mẹ con bà và Chu Kiệm, trở thành con tin của những con tin, đến lúc đó dù có cánh mọi người cũng khó lòng thoát được".

Triệu phi thấy lời nói của Lạn Bửu có lý, bèn vuốt nước mắt. Sau khi Lạn Bửu đi rồi, bà vội tìm đến Chu Kiệm bàn bạc tìm cách. Chu Kiệm nói với Triệu phi: "Đợi lát nữa tôi và Công Tôn Càn chơi cờ, bà nhân cơ hội đó mà dẫn tiểu Doanh Chính trốn chạy, thay họ dấu tên trú ngụ ở nhà dân thường, sau đó tìm cơ hội trốn khỏi Hàm Đan".

Triệu phi nói: "Tôi thay quần áo, đeo một chiếc đai".

Chu Kiệm nói: "Không được, làm như vậy Công Tôn Càn nhìn thấy sẽ nghi ngờ. Bà và tiểu Doanh Chính cứ ăn mặc thế này, đợi tôi và Công Tôn Càn đặt bàn cờ ở trên bàn, hai người sẽ lập tức đi ngay".

Triệu Phi hỏi: "Vậy còn ngươi thì thế nào..."

Chu Kiệm trả lời: "Nói đi là đi, còn gì nói sau".

Triệu Phi nói: "Vậy thì..."

Chu Kiệm nói: "Bà làm Thái tử phi, tiểu Doanh Chính là Công tử, tính mệnh hai người ngàn vàng, tiền đồ còn sáng lạng, bất kể thế nào cũng phải trốn về Hàm Dương".

Triệu phi nhận thấy trong mấy tiếng gọi đầu tiên của Chu Kiệm, Công Tôn Càn tỏ ra phớt lờ, chẳng chút mảy may. Triệu phi phán đoán mấy tiếng gọi đó đủ để thấy được cự ly giữa Chu Kiệm và Công Tôn Càn rồi. Phải chăng Công Tôn Càn đã phát giác ra điều gì.

Tiếp đó một tiếng gọi nữa của Chu Kiệm: "Đại ca Công Tôn Càn lại đây chơi cờ với tôi nào!" Công Tôn Càn mới chậm chạp nhúc nhích tấm thân béo tròn đi về phía đó.

Triệu phi nhìn đích xác Công Tôn Càn đã ngồi ngay trước bàn cờ, mới ôm tiểu Doanh Chính vụt chạy qua như lá rơi trong gió giật.

Đi trên ngõ phố người ngựa qua lại nhộn nhịp, Triệu phi không ngớt tự khuyên mình "không nên sợ hãi luống cống, không nên sợ hãi luống cuống!" Cho dù như thế, nhưng bà vẫn cảm thấy tâm can hồi hộp, có lúc như con chim bị dính tên, cuống cuồng lật đật chạy về phía trước.

Công Tôn Càn luôn đi nhầm nước cờ, đem lại cho lòng mình một cảm giác như đãng trí.

Quả thực Công Tôn Càn đãng trí, ông đã có cảm nhận phải cảnh giác về việc đêm qua Dị Nhân đi dự tiệc ở Tùng Đài. Một là vì sao tiệc lại tổ chức trước một ngày, hai là tiệc sẽ thâu đêm suốt sáng, bây giờ đã là buổi chiều ngày thứ hai rồi, tiệc cũng phải tan. Đến giờ này Dị Nhân vẫn chưa về, không biết đã xảy ra chuyện gì đây?

Nghĩ tới đó, Công Tôn Càn thu cờ vào nói: "Để hôm khác sẽ quyết một trận sống còn nhé!"

Công Tôn Càn từ trong phòng của Chu Kiệm đi ra, bỗng nghe thấy tiếng trống kèn kinh thiên động địa từ phía Tùng Đài, người đi trong ngõ phố đều đứng lại nghe ngóng gần xa rồi cụm đầu nhỏ to bàn luận điều gì đó.

Công Tôn Càn cũng chạy ra phố đứng trong một đám người nhìn về phía Tùng Đài. Nghe đám luận giữa những người qua lại, mới biết rằng tiệc mừng ngày lập nước của Bình Nguyên quân chính thức bắt đầu. Giật mình, ông mới nghĩ tới, tại sao Dị Nhân nói tối qua nó đi dự tiệc nhỉ? Ông quay người trở về trong cung, nhìn ngó khắp nơi cũng chẳng thấy bóng dáng mẹ con Triệu phi, xét đoán là có điều gì không hay xảy ra.

Công Tôn Càn hỏi Chu Kiệm: "Thái tử phi và tiểu Doanh Chính đâu?"

Chu Kiệm cố ý tỏ ra vẻ không biết nói: "Thế à? Tôi cũng đang tìm họ, vừa nãy Thái tử phi và tiểu Doanh Chính còn ở đây, nháy mắt một cái đã không thấy đâu rồi!"

Công Tôn Càn đợi người quản gia về, dặn anh theo dõi Chu Kiệm còn mình thì bước vội đến Tùng Đài, tìm tới một tên quan gác cổng quen biết, hỏi thăm xem bên trong có Tần vương Tôn Dị Nhân và Lã Bất Vi không? Tên quan gác cổng nói, ông ta không thấy Tần vương Tôn Dị Nhân và Lã Bất Vi nào cả! Công Tôn Càn nhờ tên quan gác cổng vào trong phòng tiệc thăm dò tìm giúp. Tên quan gác cổng quay người đi vào, quá nửa buổi mới chạy ra nói với Công Tôn Càn bên trong cũng chẳng thấy Tần vương Tôn Dị Nhân và Lã Bất Vi.

Lúc này Công Tôn Càn mới bắt đầu hoảng hốt và sợ hãi. Ông đoán chắc đến tám - chín phần là Dị Nhân và Lã Bất Vi bỏ trốn. Khi Công Tôn Càn nghĩ như vậy, ông cảm thấy mồ hôi đang chảy lã chã sau lưng, giống như chó mất đuôi. Ông lại chạy đến phủ đệ của Lã Bất Vi, hỏi han bọn người hầu và các môn khách, thì họ đều nói lão gia nhà họ đêm qua đi dự tiệc ở Tùng Đài.

Công Tôn Càn không dám chần chừ. Lại quay người tìm đến Tùng Đài, bẩm báo với Bình Nguyên quân sự thể tìm mọi nơi mà chẳng thấy Dị Nhân và Lã Bất Vi đâu. Bình Nguyên quân đang dương dương tự đắc trong ánh đèn tiệc rượu, sau khi nghe xong thất kinh trách mắng Công Tôn Càn rằng: "Còn tìm gì nữa, e rằng họ đã trốn khỏi thành Hàm Đan này rồi!"

Tin Dị Nhân và Lã Bất Vi bỏ trốn, từ bữa tiệc mừng ngày lập nước mà nói, quả là như một cơn gió độc. Bình Nguyên quân tức giận đùng đùng, lòng dạ rối bời đạp đổ bàn tiệc. Ngày hôm đó, sau khi gửi thiếp mời đến Dị Nhân và Lã Bất Vi, ông đã cẩn thận đưa ra kế sách làm sao trong bữa tiệc làm cho Tần vương tôn và Thái phụ của hắn trói tay chịu bị bắt, sau đó đưa ra một tội danh để giết họ. Tối hôm qua thấy Chu Kiệm phụng mệnh Dị Nhân và Lã Bất Vi đem lễ mừng đến Bình Nguyên quân vui mừng hể hả. Một là họ không có cảnh giác khi bị giết hại, hai là nước láng giềng của Triệu vương nhiếp chính vẫn tỏ ra ngưỡng mộ kính phục mình. Hôm nay tiệc mừng bắt đầu, không nhìn thấy bóng dáng Dị Nhân và Lã Bất Vi đâu cả, Bình Nguyên quân võ đoán, hai kẻ chủ tớ này vì sự lúng túng mà tránh dự tiệc. Ông nhếch mép cười nhạt rồi nói: "Trốn tránh lần đầu chứ không thể trốn tránh được mãi, đợi đến sau bữa tiệc rồi sẽ bắt các ngươi!"

Bình Nguyên quân không thể ngờ rằng Dị Nhân và Lã Bất Vi sớm chuồn mất, ông giận sai người bỏ tù tất cả gia quyến, môn khách của Lã Bất Vi và Dị Nhân, nói: "Không được để cho những người này trốn thoát!"

Công Tôn Càn sợ Chu Kiệm lại có một sai lầm nữa, tội càng thêm nặng, vội trở lại phủ đệ của Dị Nhân, vừa nhìn thấy Chu Kiệm đang đứng bần thần ở đó, như trút được gánh nặng ông thở dài một tiếng.

Được bài học Triệu phi và tiểu Doan Chính chạy trốn, thần kinh của Công Tôn Càn và tên quản gia kia hết sức căng thẳng. Mặc dù Bình Nguyên quân cắt cử rất nhiều lính canh ở đó, chỉ bỏ tù Chu Kiệm, nhưng Công Tôn Càn không dám có một sơ suất nhỏ ngay cả khi ngủ cũng phải mở một mắt.

Hôm đó, Công Tôn Càn đang trừng mắt nhìn Chu Kiệm đi lại dưới hành lang như không có chuyện gì xảy ra, bỗng nghe có một tiếng trẻ chưa vỡ giọng đang gọi ông: "Công Tôn thúc thúc ơi! Công Tôn thúc thúc!"

Công Tôn Càn nhìn theo hướng tiếng gọi, cho đó là giấc mơ, đứa bé trai thông minh sáng dạ, nhanh nhẹn họat bát đang đứng trước mặt ông không phải là công tử tiểu Doanh Chính của Dị Nhân sao? nó vẫn ở trong thành Hàm Đan, nói rõ rằng bố mẹ nó cũng chưa trốn khỏi. Lần theo dấu vết thì có thể truy nã được hai tên tội phạm của Bình Nguyên quân, bắt về sẽ được một khoản tiền thưởng lớn.

Chu Kiệm vừa nhìn thấy tiểu Doanh Chính, sợ hãi mặt không còn giọt máu, thất thanh kêu lên: "Tiểu công tử, sao lại chạy về đây?"

Tiểu Doanh Chính hào hứng nói: "Mẫu thân nhốt ta ở trong nhà một bà lão, ngột ngạt đến chết đi được!"

Sắc mặt Chu Kiệm thần hồn nát thần tinh nói: "Tiểu công tử, mau chạy đi, Công Tôn Càn là người xấu, muốn bắt mọi người hãm hại đấy!"

Tiểu Doanh Chính cãi lại nói: "Ngươi lừa ta, Công Tôn thúc thúc là bạn tốt của ta".

Thì ra, Triệu phi dẫn tiểu Doanh Chính trốn đến ngoài thành ẩn náu, tìm đến một nhà bà lão hiền lành tốt bụng, nói là từ Biên Ấp đến thành Hàm Đan tìm người thân bị lạc đường. Bà lão rất cảm thông bèn để cho mẹ con Triệu phi ăn nghỉ ở đó. Triệu phi sợ để lộ tin tức, bèn nhốt tiểu Doanh Chính trong phòng như chim trong lồng cá trong chậu, khó chịu sự vắng vẻ và tĩnh mịch trong căn phòng tăm tối, phải đi ra ngoài chơi cho thích mới được. Triệu phi một chút sơ xuất, cậu liền chạy ra ngoài.

Công Tôn Càn ôm tiểu Doanh Chính vào lòng, như bắt được vàng dụ dỗ nói: "Nào, Công Tôn thúc thúc dẫn cháu đi mua quà nhé!"

Công Tôn Càn tìm đến một cửa hàng thực phẩm gần đấy, mua cho tiểu Doanh Chính bao nhiêu là những thứ ngon, rồi hỏi: "Tiểu công tử, bố mẹ cháu đang ở đâu?"

Tiểu Doanh Chính trả lời: "Mẹ cháu đang ở nhà của một bà lão, còn bố cháu không biết ở đâu cả".

Công Tôn Càn lại hỏi: "Cháu có thể tìm đến nhà bà lão ấy được không?"

Tiểu Doanh Chính nói: "Được, cháu nhớ đường mà!"

Công Tôn Càn bế tiểu Doanh Chính chạy thẳng về phía Tùng Đài đặt tiểu Doanh Chính nô đùa bên ngoài cung điện, còn mình thì vào bẩm báo với Bình Nguyên quân: "Công tử tiểu Doanh Chính của Dị Nhân đã rơi vào tay tôi, xin điều quân đi theo nó để bắt Dị Nhân và Triệu Cơ".

Bình Nguyên quân nói: "Tiểu Doanh Chính đang ở đâu?"

"Đang ở ngoài điện ạ".

Bình Nguyên quân từ trong cung điện bước ra, nhìn thấy một đứa bé trai đang vui đùa như một chú khỉ dưới ánh nắng rực rỡ.

Công Tôn Càn tay dắt tiểu Doanh Chính đi về phía trước như không có chuyện gì xảy ra, một tốp lính theo sau từ phía xa. Tiểu Doanh Chính vừa đi vừa hỏi Công Tôn thúc thúc những chuyện ngây thơ nực cười, hoàn toàn không biết được những âm mưu đằng sau.

Vòng vèo đi qua những ngõ phố nối tiếp nhau, Công Tôn Càn nhìn thấy Triệu phi đang ngẩng đầu đứng đợi trước một gian nhà tranh. Khi Công Tôn Càn dắt tiểu Doanh Chính đi vào, bà biết rõ chuyện gì sắp xảy ra, sắc mặt bà trắng bệch như chưa từng thấy, giống như một chiếc lá run rẩy trong cơn gió.

Công Tôn Càn đẩy ngã tiểu Doanh Chính, chỉ Triệu phi nói với quân lính phía sau: "Đây chính là phi tử của Tần vương Tôn Dị Nhân!"

Ánh nắng tắt đen trong cái lấp lánh của những mũi đao kiếm và giọt nước mắt của Triệu phi. Lúc đầu, tiểu Doanh Chính còn đủ sức để gào thét. Không lâu sau, cổ họng nó khản đặc lại, chẳng còn nghe thấy gì nữa. Triệu phi đưa vạt áo dài lau nước mắt, cất lên tiếng khóc thổn thức.

Quân lính tinh thần lên cao, áp giải Thái tử phi đẹp như hoa đi về Tùng Đài.

Triệu phi và tiểu Doanh Chính đứng trước cung điện Tùng Đài mong manh như ngọn cỏ xuân yếu ớt. Bà nghe thấy giọng nói trống rỗng hỏi bà về nơi ở của Dị Nhân và Lã Bất Vi.

Triệu phi nói với ông rằng, có thể họ đã trở về Hàm Dương rồi. Bình Nguyên quân không hài lòng nói, tại sao lại có thể? Thái tử phi đang giấu giếm ta điều gì?

Triệu phi nói, khi đi Dị Nhân và Lã Bất Vi giấu ta, ta chẳng có điều gì giấu diếm ông cả.

Câu nói vòng vo làm cho Bình Nguyên quân thấy vui, Bình Nguyên quân nhìn ngắm, sau khi cười thì Triệu phi cũng nở nụ cười gượng. Bà cảm thấy câu trả lời của mình làm cho mọi người buồn cười.

Bình Nguyên quân phát hiện thấy nụ cười của Triệu phi có một nét đẹp mê hồn. Làn môi mỏng như một thứ rượu ngon say lòng người, hàm răng trắng như ngọc dày và đều đặn, xếp vào hàng vợ thứ trong hậu cung của ông.

Khi nụ cười của Triệu phi thâu tóm toàn bộ sự chú ý của Bình Nguyên quân, một tên quan gác ngoài chạy vào điện bẩm báo Bình Nguyên quân, Xuân Thân quân đến bái kiến ông, đang đợi hầu ngoài cung điện. Bình Nguyên quân đành phải cho người đem Triệu phi đi, coi giữ cẩn mật.

Bình Nguyên quân cho Xuân Thân quân vào trong điện, Xuân Thân quân đến báo cáo tình hình với Bình Nguyên quân.

Xuân Thân quân mồm năm miệng mười nói: "Quân Tần đã bị đánh bại, Hàm Đan được bảo về, tôi ở quý quốc đã nhiều ngày rồi. Ngày mai chuẩn bị về Trần Thành, Chương Hoa Đài vãn còn hàng đống việc cần tới giúp Hiếu Liệt vương giải quyết".

Thấy Xuân Thân quân phải trở về nước Sở, trong lòng Bình Nguyên quân ngoài sự lưu luyến và bâng khuâng ra, phần lớn là sự lo lắng. Lần này Triệu - Ngụy - Sở hợp sức chống lại Tần, đánh cho mười mấy vạn quân Tần tan tác giành được thắng lợi lơn, làm cho nước Triệu từ nguy thành an, cũng là để cho Bình Nguyên quân nhìn thấy sự đồng tâm hiệp lực, cùng nhau chèo chống của ba nước Triệu - Ngụy - Sở thì chẳng có sức mạnh nào chống đỡ nổi. Bây giờ Xuân Thân quân phải về nước Sở, không lâu nữa Tin Lăng quân cũng sẽ trở về nước Nguy, liên minh ba nước cũng sẽ tuyên bố giải tán.

Vua của các nước chư hầu và các tướng của họ thường là Triều Tần Mạc Sở, mâu thuẫn với nhau để cướp lấy thành ấp và của cải nhiều hơn. Có cách nào có thể làm cho hai nước Sở - Ngụy cùng nhau lâu dài chống lại Tần đây?

Những ngày nay, Bình Nguyên quân lo lắng mà buồn phiền về việc này. Bây giờ thấy Xuân Thân quân sắp rời Hàm Đan rồi, cảm giã ấy bỗng như sôi sục, ông thành khẩn nói: "Lần này phá vỡ Tần, bảo về Hàm Đan, toàn bộ nhờ vào Xuân Thân quân và Tin Lăng quân. Ta xem ra hai vị anh tài đại lược, tấm lòng nghĩa hiệp, cùng ta sớm tối có nhau nay phải cách xa, một phút không nhìn thấy mà như chia ly ba mùa thu rồi, ta vẫn đợi có nhiều thời gian để mà tâm linh trò chuyện, uống rượu vui đùa, làm sao có thể nói đi là đi được".

Xuân Thân quân cũng buồn rầu nói: "Trong thiên hạ có bữa tiệc nào là không tàn đâu".

Bởi Xuân Thân quân hơn Bình Nguyên quân mấy tuổi, Bình Nguyên quân trêu đùa nói: "Trưởng huynh nhớ nhung bà chị dâu hay là nhớ nhung mấy vị thiếp xinh đẹp đấy?"

Xuân Thân quân bĩu môi giễu đùa lại: "Tôi đây bóng hoàng hôn che lấp trước hoàng kim rồi, mấy a tiện thiếp ấy so với các mỹ nữ bên cạnh Bình Nguyên quân, đâu có dám?"

Bình Nguyên quân tim đập thình thịnh với kiểu đùa của mình diều đó làm cho ông chợt nghĩ đến một chút ý tuyệt vời. Đúng đúng rồi, phải làm như thế, tiện bề đợi đôi ba việc. Ông muốn dâng tặng Triệu phi cho Xuân Thân quân làm thiếp. Như vậy, mối thù không đợi trời chung giữa nước Tần và nước Sở, giữa nước Sở và nước Tần cũng không còn một chút thỏa hiệp: "Hiếu Liệt vương sợ thân cô thế cô, không chịu được sự báo thù của nước Tần, cũng sẽ không thay lòng đổi dạ dựa vào nước Triêu". Bình Nguyên quân nghĩ đến đây, cười nhăn nhở nói: "Mũi tên ngọn kiếm giao chiến với nước Tần đã làm ta đầu óc quay cuồng, làm việc không còn được chu tất nữa, cuối cùng lại không nghĩ đến cách dâng tặng mỹ nữ để phục dịch bên cạnh. Vừa lúc hiện có một giai nhân tuyệt sắc, tối nay sẽ tiến dâng với công quan của Trương huynh để làm trò vui thú!"

Xuân Thân quân cảm tạ từ chối nói: "Tôi làm sao có được diễm phúc ấy, hay là hiền đệ giữ lấy mà dùng!"

Bình Nguyên quân nghĩ đó chính là sự khách sáo của Xuân Thân quân với ông, liền chuyển sang chuyện khác nói: "Trưởng huynh nhất định phải ở lại Hàm Đan mấy hôm, ngọc thể của Đại vương chúng tôi bất an, việc ngoại giao nội chính của triều đình làm tôi hết sức lúng túng, xin trưởng huynh giúp đỡ tôi mưu tính kế lược trị quốc".

Xuân Thân quân nói: "Đâu dám, đâu dám! Hiền đệ là một trong những người quyết định sách lược, tránh được mọi sự thất bại, chư hầu trong thiên hạ ai chẳng biết tài cán của hiền đệ, phò trợ nước Triệu làm cho nước Triệu cường thịnh, giàu có một phương. Tôi ở đây bàn gì việc kế lược trị quốc, đó không phải là múa rìu qua mắt thợ hay sao?"

Bình Nguyên quân thái độ và lời nói cầu khẩn: "Trưởng huynh dẫn quân viễn chinh, chỉ cần ở Hàm Đan vui nghỉ mấy ngày, ta mới an tâm được!"

Thấy Bình Nguyên quân bày tỏ tình cảm sâu nặng như vậy, Xuân Thân quân đành nói: "Tôn kính không bằng nghe lệnh".

Bình Nguyên quân tiễn Xuân Thân quân đến ngoài điện, sau khi đợi Xuân Thân quân lên xe đi, ông lập tức sai người áp giải Triệu phi trở lại. Bình Nguyên quân bịa ra một lọat lời nói dối để đánh lừa Triệu phi, nói rằng Dị Nhân trên đường chạy trốn đã bị quân Triệu chặn giết, Triệu phi trở về nước Tần cũng chỉ là cô nhi quả mẫu, Triệu Thắng ta luôn là người quân tử thương xót những kẻ cô quả, có đặc ý tìm nơi sinh sống yên ổn cho hai mẹ con. Triệu phi đau khổ, vội hỏi Thái phụ Lã Bất Vi kia đâu. Bình Nguyên quân giả nhân giả nghĩa nói: "Cũng đã đến ngày tận số rồi!" Triệu phi tê tái cõi lòng, khóc lóc thảm thiết. Bình Nguyên quân nói, người chết không thể sống lại được, đã giao ngươi cho Tướng quốc nước Sở làm thiếp của Xuân Thân quân. Xuân Thân quân là người có quyền có thế, là một phú hào tiếng tăm. Còn người lại phong lưu tài ba, coi sắc đẹp hơn cả minh châu. Ông hiện đang ở Hàm Đan mấy ngày nữa sẽ quay lại Trần Thành, ngươi đi cùng ông ấy cũng có tiếng thơm lây, vinh hoa phú quý. Đợi lát nữa, ta sẽ dẫn ngươi đến công quán, ngươi phải hầu hạ ông ấy đêm nay ở đấy, ngươi phải niềm nở làm cho ông ấy vui, nếu như cứng đầu cứng cổ, làm phiền Xuân Thân quân, mẹ con nhà ngươi sẽ bị đuổi ra khỏi cổng, lưu lạc đầu đường xó chợ, ăn sương nằm đất, còn nếu không thì cũng bị bán cho nhà chứa, suốt đời ở đó.

Nghe xong một lọat những lời đường mật, đòn cứng đòn mềm dọa dẫm, Triệu phi cảm thấy chỉ có thể chết dần từng khúc ruột mà đi theo con đường ấy. Bình Nguyên quân thấy Triệu phi đã chịu, trong lòng mừng thầm vội sai người giúp mẹ con Triệu phi trang điểm chải chuốt. Triệu phi sau khi được trang điểm như cành liễ trong gió, Bình Nguyên quân cảm thấy có những rung động trong lòng, tâm hồn rạo rực trước một cô gái có khuôn mặt xinh đẹp như thế.

Triệu phi sáng ngời nét đẹp tay dắt tiểu Doanh Chính rãi bước ra, đi theo hướng kiệu hoa lỗng lẫy đã được chuẩn bị từ trước. Bình Nguyên quân đứng ở một bên nhìn bờ vai đang lay động của bà. Trong đầu chợt hiện ra một chú cá tung tăng, một hòn đá sỏi màu trắng và tròn trịa, một quả đồi bị gió thổi xác xơ... Khi Bình Nguyên quân liên tưởng như thế, trên mặt thoáng một nụ cười đê tiện.

Lúc này, trong căn phòng của công quá chỉ còng lại Xuân Thân quân và Triệu Cơ.

Ánh sáng của ngọn đèn dầu rất rõ, chiếu sáng tất cả mọi thứ trong căn phòng, Xuân Thân quân tầm nhìn không rõ hoặc là cố ý tỏ ra lúng túng trước mặt một người con gái, dáng vẻ tỏ ra không cần để ý tới Triệu phi. Sau khi Bình Nguyên quân cáo biệt với các môn khách của ông. Xuân Thân quân bắt đầu nhìn chằm chằm vào phi tử của vị Tần vương tôn.

Xuân Thân quân ở trong phủ đệ của ông hoặc khi ở các nước chư hầu khác nói chuyện về sắc đẹp của phụ nữ, mọi người đều nói đến mảnh đất Ngô Việt sinh ra một mỹ nữ, giống như người đẹp trên đời tên Tây Thi. Xuân Thân quân không chút hoài nghi về điểm này. Nhưng hôm nay nhìn thấy Triệu Cơ, làm cho ông có được ấn tượng của cây cỏ ngát mùi thơm của mỹ nữ Yến Triệu. Ông cảm thấy kỳ lạ, Hàm Đan gần kề Man Hồ lễ bạc lòng thành, hoang thể tản mạn thường thường chùm lên áng mây che lấp mặt trời, dòng sông Hoàng Hà tuôn trào ấy không rõ cọ sát thế nào với khu ấp ấy để mang thai sinh ra Triệu phi yểu điệu thục nữ như thế.

Đối với vị tướng của một nước mưu tính, sâu sa như Xuân Thân quân, cự tuyệt thú vui với một mỹ nữ bên cạnh mình quả là điều khó thấy, thậm chí không thể tìm được. Hiện giờ, Xuân Thân quân đang ở trong cái điều khó thấy ấy, ông không phải là không nghĩ đến Triệu phi, dục vọng dày vò cũng tự nhiên mất.

Sau khi Bình Nguyên quân thở dài một cái, liếc nhìn Tin Lăng quân rồi nói: "Chị gái ta tuổi nay đã cao, làm việc gì cũng lực bất tòng tâm, nghe nói mấy bà vỡ lẽ bên cạnh anh rể cũng đã lơ là cẩu thả, qua loa đại khái, không thể phụng hầu hết lòng được anh rể. Lỡ một khi anh rể có điều gì sai sót không chỉ nước Ngụy nam chinh bắt phạt, mà còn nước Triệu ta cũng sẽ mất đi tấm bình phong ngàn vàng. Tôi suy nghĩ và tìm cho anh rể một nữ tỳ đẹp như hoa như ngọc, biết chăm chút từng ly từng tí, nếu nay ông trời tác thành, cuối cùng thì cũng thỏa mãn tâm nguyện của tôi!"

Những lời nói ngon ngọt của Bình Nguyên quân, giấu kín tâm tư của ông. Triệu phi gả cho Xuân Thân quân không thành, Bình Nguyên quân lại nghĩ đến cho Tin Lăng quân lấy Triệu phi làm thiếp, như vậy Triệu - Ngụy hợp sức sẽ vững chắc như bức tường đồng không thể nào phá nỗi. Tin Lăng quân lại muốn hai chân đạp lên hai chiếc thuyền Tần - Triệu thì còn khó hơn cả việc muốn đi lên trời.

Khi Bình Nguyên quân đương đương tự đắc với cách tính toán, ông nghe thấy Tin Lăng quân cảm kích vạn phần nói: "Thật khó có được tấm lòng nhiệt huyết của em đối với ta!"

Bình Nguyên quân ba hoa khóac lác nói: "Nếu là nữ tứ xuất chúng như vậy, không biết quý danh là ai, nhân sĩ nơi nào?"

Bình Nguyên quân hí hửng nói: "Nhắc tới họ tên của bà càng thấy tiếng tăm, nổi tiếng tới cả các nước chư hầu".

Xuân Thân quân là người phá tan sự tính mệnh bằng cách nói chuyện với Triệu phi. Triệu phi lúc này vui buồn lẫn lộn, nghe Bình Nguyên quân nói đến tin buồn về Dị Nhân và Lã Bất Vi của bà, bà đau buồn khôn tả, nhưng nay lại có thể gửi thân cho Xuân Thân quân, Tướng quốc của một nước vừa giàu có lại nắm giữ quyền lớn, sao không thể vui được? Tuy rằng như vậy, khi trả lời câu hỏi của Xuân Thân quân, bà vẫn buồn rầu xúc động. Trên thế gian này bà chẳng còn ai thân thích để cậy nhờ, phu quân Dị Nhân danh chính ngôn thuận và Lã Bất Vi dẫu bà có ý vương tơ lòng về tình cảm kia, đã chôn vùi xương thịt duới đất. Bà và tiểu Doanh Chính như hai chiếc lá lả tả rơi rụng trong cơn gió mùa thu khi Xuân Thân quân hỏi bà có can tâm tình nguyện theo ông đế đấy không. Bà chẳng chút dấu giếm nói ra hết sự tình.

Xuân Thân quân biết Dị Nhân và Lã Bất Vi đã trở về Hàm Dương, tờ giấy không thể hứng được ngọn lửa, tin tức này rất nhanh được lan truyền đến các nước chư hầu. Giở trò lừa bịp chiếm đọat vợ người khác, từ góc độ khí tiết - đạo đức của Xuân Thân quân mà nói, quả là một nỗi nhục nhã, một khi các nước chư hầu biết được, danh dự của ông gần như mất hết. Việc này đối với ông, đối với cả nước Sở là một hành động tồi bại bị phơi bày, bất kể thế nào cũng không thể tránh khỏi. Bây giờ, giáp mặt với quân tướng Sở - Tần, chẳng còn mặt mũi nào. Xuân Thân quân làm tướng của một nước có thể vì tình nghĩa mà chỉ huy hàng ngàn vạn binh mã xung phong vào chỗ hiểm nguy, nhưng sự gặp lại của Dị Nhân đầy sự cảm thông rồi! Thời ký chiến quốc, rất nhiều Thái tử, công tử của vua các nước đều trở thành con tin, qua ngày đoạn tháng gian nan thậm chí còn rơi vào sự hiểm nguy ở các nước chư hầu khác. Năm ấy Thái tử Hoàn của Thanh Tương vương làm con tin đến nước Tần, chịu khó khăn vất vả, là ông đã dùng kế để Thái tử Hoàn thoát hiểm trở về nước Sở, đối với số phận của những con tin, Xuân Thân quân có một sự cảm thông sâu sắc, với những nguyên nhân đó, Xuân Thân quân không chỉ không dung nạp Triệu phi làm thiếp, mà còn muốn thuyết phục Bình Nguyên quân thả Triệu phi và tiểu Doanh Chính trở về Tần.

Thế rồi Xuân Thân quân nói với Triệu phi: "Mấy ngày nay mẹ con ngươi chạy ngược chạy xuôi, trốn đông tránh tây đủ mệt rồi! Ta đưa ngươi đến công quán ở nơi khác để nghỉ ngơi nhé!"

Nghe Xuân Thân quân nói như vậy, Triệu phi sợ hãi vạn phần, không biết điều đó đã thất lễ với vị Tướng quốc Sở này, vội quỳ xuống xin tha tội.

Xuân Thân quân không biết vì sao, vội nói: "Thái tử phi. Ngươi làm gì thế, mau đứng dậy đi!"

Triệu phi nói: "Chắc hẳn tôi có điều gì đắc tội với Tướng quốc, nên Tướng quốc mới đuổi tôi ra ngoài!"

Xuân Thân quân nói: "Thái tử phi hiểu biết lễ nghĩa, làm sao có thể đắc tội với ta được!"

Triệu phi mở cửa nhìn trời đất nói: "Bình Nguyên quân dặn thân hèn này cùng Tướng quốc qua đêm, nếu thân hèn này không có điều gì thất thế, sao lại không giữ lại".

Xuân Thân quân lúc này mới hiểu rõ, nhưng lại không thể tiết lộ sự thật Dị Nhân chưa chết và cái suy nghĩ của mình với Triệu phi, đành chiếu lệ nói: "Thái tử phi đẹp như chim sa cá lặn, sao ta lại không muốn cùng ngươi động rèm hoa trúc? Mấy ngày nay dẫn quân đi chinh chiến, sức lực mệt mỏi, đành phải chọn khi để vui vẻ vậy".

Nghe Xuân Thân quân nói vậy, Triệu phi cũng vái ba vái cáo từ, nhưng thân bà trong lao tù, không nơi nương náu. Xuân Thân quân muốn tìm cho Triệu phi một công quá khác qua đêm, vừa tiễn bà ra đến ngoài cửa, đã có mười mấy quân lính nước Triệu phụng mệnh canh giữ. Xuân Thân quân đành phải nhờ bọn lính này áp giải đi.

Ngày thứ hai, Xuân Thân quân lại đến bái kiến Bình Nguyên quân. Bình Nguyên quân bực dọc đêm qua Xuân Thân quân cự tuyệt Triệu phi đuổi ra ngoài cửa, bây giờ biết Xuân Thân quân không tiếp nhận Triệu phi, cười thầm trong bụng miệng lẩm bẩm: "Lại vẫn chỉ là sự nhân hậu cổ hủ". Việc này ta đâu có ép, còn những lời khuyên khua môi múa mép của Xuân Thân quân nói thả Triệu phi ra, bề ngoài Bình Nguyên quân tỏ ra chịu nghe lời, nhưng lập tức lại nghĩ ra một quỷ kế.

Sau khi Xuân Thân quân đi khỏi, Bình Nguyên quân lại đến công xá của Tin Lăng quân, đối với cuộc đến thăm bất ngờ của em trai vợ, Tin Lăng quân không chút ngạc nhiên mà còn yên tâm nữa. Một là mình là anh rể của Bình Nguyên quân, hai là ông còn là Tiển Nhi Tử của Ngụy Thiệu vương có thể đích thân dẫn đại quân giải vây Hàm Đan, đối với Bình Nguyên quân thậm chí cả nước Triệu đều là tình sâu nghĩa nặng.

Bình Nguyên quân hàn huyên mấy câu, bèn nói với Tin Lăng quân: "Anh rể! mấy ngày nay có một việc ám ảnh trong lòng ăn không ngon, ngủ không yên nữa".

Câu nói đó của Bình Nguyên quân làm xúc động Tin Lăng quân, ông vội hỏi Bình Nguyên quân chuyện gì đã làm ông áy náy không yên như vậy.

Tin Lăng quân không chờ được nữa, nói: "Em đừng vòng vo với ta nữa, mau nói xem bà là ai?"

"Thái tử phi của nước Tần - Triệu Cơ!"

Vừa nghe đến phi tử Triệu Cơ của Dị Nhân, Tin Lăng quân lập tức có một thái độ do dự, vội vàng xua tay nói: "Ta không thể sử dụng vị Thái tử phi này".

"Đợi một lát, ta sẽ đưa bà ta tới, nhìn thấy anh có cần cũng chẳng được!" Bình Nguyên quân nói dứt khoát.

Tin Lăng quân biết rõ lần này Triệu - Ngụy - Sở hợp thành một khối, giải vây Hàm Đan, sớm rửa hận nước Tần mạnh thế. Bởi vì bản thân mình là anh rể của Bình Nguyên quân không thể cháy nhà hàng xóm bình chân như vại, thấy chết mà không cứu. Nếu như thừa cơ trước sự nguy hiểm của người khác, lấy Thái tử phi làm thiếp, như vậy được đằng chân lẫn đằng đầu, quan hệ giữa nước Ngụy và Tần sẽ sớm cùng thủy tận, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, Trần Thành đứng mũi chịu sào sẽ trở thành mục tiệu đánh phá của nước Tần, oan gia dễ gì gỡ được, không nên cạn tàu ráo máng.

Đã là người bạn thân thiết với Bình Nguyên quân, phải nói thẳng sự lợi hại của việc này một cách trực tiếp cho rõ ràng. Thế là Tin Lăng quân chẳng giấu giếm nói ra cách nghĩ từ đáy lòng mình. Bình Nguyên quân nghe xong, tuy miệng nói: "Có lý!" Nhưng trong bụng lại mắng rằng: "Gan không bằng con chuột, nước Tần lòng lang dạ sói sẽ không tươi cười hớn hở đồi với nước Nguy, không lễ nghĩa đón tiếp bởi Tin Lăng quân nhà ngươi không tiếp nhận Triệu phi đâu. Sẽ có ngày quân lính đến chân thành, phá thành chiếm đất đó!"

Sau khi Tin Lăng quân đi rồi, Bình Nguyên quân suy sụp tinh thần đi đi lại lại trong điện, khuôn mặt ngọc ngà tươi như hoa của Triệu phi bất chợt ẩn hiện trước mặt ông, ông nổi giận đùng đùng nghĩ: "Triệu phi ơi! Triệu phi! Thả một tiểu mỹ nhân như ngươi trở về nước Tần quá dễ dàng, không làm nhục được ngươi cũng phải sai ngươi đi làm một cái gì có ích!"

Trận tuyết đầu tiên của thành Hàm Dương, trắng trong làm mê hồn người như bộ ngực của đứa bé gái, nhưng đối với một cô gái chạy nạn trong gió rét, chẳng có chút yên vui nhàn tản để thưởng thức cảnh tuyết rơi.

Di Hồng vác cái gói, tay ôm hai vai đi trong gió bấc lạnh gía của Hàm Dương, có hai thứ đang được giấu trong bụng cô gái chật chội đến nỗi tưởng như cô không bước đi được, một cái là ngọc tỉ của Triệu vương, sau khi từ nhà chứa trở về cung làm thiếp của Triệu Hiến Thành vương đã trở thành con sen chẳng đáng gì. Do một buổi chiều khi đem áo dài cho Triệu Hiến Thành vương, ăn trộm cái ấn tin thay trời đổi đất - quyền sinh quyền sát kia. Cô muốn đem bảo vật này làm lễ vật ra mắt Dị Nhân. Bây giờ cô nghĩ về sự việc lúc đó, vẫn là nỗi sợ hãi giống như con rắn đang chui luồn trong người cô.

Một thứ nữa mà Di Hồng mang đó là thai nhi trong bụng. Cô có thể tính toán chính xác nó xảy ra khi nào. Sau khi ngủ với Dị Nhân trong nhà chứa, mỗi tháng có như hẹn mà đến. Thai nhi cô mang là cốt nhục của Thái tử nước Tần, đạo lý muôn đời là muốn được ở bên cạnh Dị Nhân. Mặc dù có được làm phi tử chính thức hay không. Có được hưởng thụ vinh hoa phú quý hay khôg, cô cũng chẳng cần coi trọng, cô muốn nắm giữ số phận của mình, cô muốn cáo biệt thân phận thiếp hầu với Triệu Hiến Thành vương, cần thì đến, không cần thì đi. Cô nhìn thấy những cảnh như thế ngay bên cạnh mình. Một số thiếp hầu của quân vương kia, một khi người đàn ông chủ nhân của họ quá bộ ngó tới, không đến Chúc Từ trông coi đèn xanh thì cũng thay thế những hậu phi canh mộ cho người quá cố. Nếu được giữ lại trong cung, cũng phải khổ sở đến nhạt phấn phai hương, sau đó giống như đồ đạt lâu ngày bị vất bỏ ra khỏi cung.

Hỏi thăm nơi ở của Dị Nhân ở Hàm Dương, già trẻ lớn bé đều biết cả. Di Hồng không mấy khó khăn tìm đến Điện Thiện Thanh phủ đệ của Dị Nhân. Khi cô đứng dưới bức hoành phi lớn đưa tay ra mở cổng, bất chợt trăm ngàn cảm xúc xốn xang, bỗn tuôn trào nước mắt.

Tên quan đứng canh cổng nhìn thấy rõ mái tóc bay phất phơ trong gió lạnh đầu mùa đông của một người con gái.

Tên quan gác cổng đi tới hỏi Di Hồng tìm ai. Di Hồng hỏi đây có phải là phủ đệ của điện hạ Dị Nhân không? Tên quan gác cổng nói là đúng rồi. Sau đso hỏi cô là ai, Di Hồng hùng hồn nói, ta là phi thiếp của điện hạ Dị Nhân, đến từ Hàm Đan của nước Triệu.

Tên quan gác cổng vừa nghe thế, không dám chậm trễ, vội mời Di Hồng vào ngôi điện cạnh cổng, sau đó quay người lật đật đặt bước vào phòng của Dị Nhân, bẩm báo nói rằng phi tử ở Hàm Đan của điện hạ Dị Nhân đã trở về.

Dị Nhân nghe thấy thế, nghĩ là Triệu phi và tiểu Doanh Chính trở về, vui mừng khua chân múa tay kêu lớn: "Triệu Cơ phi của ta và Doanh Chính của ta, hai người đã trở về rồi!"

Bởi vì phủ đệ của Lã Bất Vi chưa xong, ông cũng tạm thời ở trong điện Thiện Thanh. Dị Nhân vội bước - tìm đế phòng của Lã Bất Vi, lớn tiếng kêu lên: "Thái phụ ơi! Lã thái phụ! Thái tử phi Triệu Cơ và Doanh Chính nhi trở về rồi".

Đám người hầu nói với Dị Nhân, Thái phụ vừa đi ra ngoài. Dị Nhân lúc này mới quay người tìm tên quan gác cổng, vội vàng hỏi Thái tử phi đang ở đâu. Tên quan gác cổng trả lời nói, đang ở trong ngôi điện bên. Dị Nhân trách mắng nói: "Ngươi không có mắt hay sao? còn không mau mời vào Đại đường chính điện".

Khi tên quan gác cổng đưa Di Hồng vào chính điện. Điều bất ngờ mà ông nhìn thấy không phải là Triệu phi và Doanh Chính như ông nghĩ. Ông trau mày hỏi Di Hồng, ngươi là ai?

Di Hồng khẩn thiết nói: "Thái tử điện hạ, ngài không nhận ra tiện thiếp hay sao? Tiện thiếp là Di Hồng, là Di Hồng cùng chung chăn chung gối với điện hạ ở nhà chứa Hàm Đan!"

Dị Nhân nghĩ ra! Người đàn bà lăng nhăng này quả đúng là Di Hồng. Người con gái thướt tha yểu điệu, phong tinh vạn trạng lúc đầu kia và Di Hồng đang đứng trước mặt thật rất khác nhau, trong lòng dâng lên một sự ghét giận.

Di Hồng rất nhanh thấy cái nhìn của Dị Nhân là thứ tình cảm gì, vội nói: "Trong bụng của tiện thiếp đang mang giọt máu của điện hạ".

Dị Nhân chẳng thèm để ý nói: "Vợ chồng sông nước, vì sao gọi là dòng giống của ta? chẳng qua là ta nhất thời hồ đồ mà thối!" Dị Nhân nói xong, sai người đuổi Di Hồng ra.

Di Hồng khóc lóc kêu trời kêu đất nói: "Tiện thiếp không sợ sống chết, bất chấp hiểm nguy trôi nổi mấy trăm dặm đường tìm đến điện hạ, vì sao điện hạ lại tuyệt tình đoạn nghĩa như vậy".

Dị Nhân lòng gang dạ thép, thẳng tay chỉ mắng nói: "Hãy đuổi bà ta đi cho ta".

Di Hồng kéo lê tấm thân ục ịch, la lối om sòm với bọn a hầu ở dưới môn khách, bước đi trong nước mắt đầm đìa.

Cơn giận của Dị Nhân chưa nguôi, ông lẩm bẩm nói: "Sao có thể như thế được. Ta vui đùa với ngươi, ngươi lại đến tìm ta. Ta bây giờ đường đường là Tần vương tôn, Thái tử của An Quốc quân. Di Hồng kia ta đâu thèm nhắc tới. Chỉ cần ta vung tay một cái, các cô gái như hoa như ngọc muốn có bao nhiêu mà chẳng được".

Giữa buổi, Lã Bất Vi trở về, sau khi xem xet thăm dò. Ông hỏi Dị Nhân: "Thái tử điện hạ nổi giận đùng đùng, phải chăng vừa rồi có người làm phiền tới điện hạ!"

Dị Nhân kể lại một lượt sự việc Di Hồng tìm đến.

Lã Bất Vi âu sầu buồn bã nói: "Thành Hàm Dương gió sương mù mịt này, Di Hồng cô gái tiều tụy, tứ cố vô thân đến bước đường cùng, điện hạ xử lý với cô ta thế nào?"

Dị Nhân sắc mặt không hề thay đổi, nói: "Còn thế nào với Di Hồng nữa? Không có liên quan gì đến ta!"

Lã Bất Vi cho rằng không đúng, bèn nói: "Lời của Thái tử cần xét lại có ba điều mà Di Hồng liên quan đến điện hạ. Một là một ngày nên nghĩa vợ chồng, tình cảm trăm năm tựa sâu như biển sự va chạm da thịt giữa điện hạ và Di Hồng tuy rất ít, nhưng không phải là không có, dù thế nào cũng được coi như một chút duyên phận vợ chồng. Hai là Di Hồng mang dòng máu của điện hạ, điện hạ cũng phải có trách nhiệm của người làm cha. Ba là Di Hồng đương nhiên bỏ Triệu theo Tần, chín phần sống một phần chết, người đàn ông có được thế cũng là khó, huống hồ lại là một người con gái, về tấm lòng nghĩa cử của cô ấy, điện hạ cũng phải lấy tình nghĩa để báo đáp".

Lời nói đanh thép của Lã Bất Vi khiến Dị Nhân băn khoăn áy náy. Ông nói tiếp: "Ăn quen làm biếng, có mới nới cũ... là những hành động xấu xa người chính nhân quân tử không thèm để ý tới, kỳ thực đó là thiên tính của mỗi người. Nếu như một người muốn hèn hạ làm một đồ trang sức, thậm chí can tâm tình nguyện trở thành môi giới làm theo những việc của kẻ tiểu nhân để kiếm lợi, thì cũng không đáng trách lắm. Nhưng người ta muốn trở thành kẻ quân tử đội trời đạp đất đặc biệt là làm vua của một nước, người ta cẩn phải tự kìm chế mình, khiêm tốn, tu thân tích đức mới có thể đạt được mục đích mà mình theo đuổi".

Dị Nhân gật đầu cho là phải.

Lã Bất Vi nói tiếp: "Sau này điện hạ muốn làm Quốc Quân người trong nước có răm rắp nghe theo hay không? Có tấm lòng nhân ái yêu thương Quốc Quân hay không? Có liên quan rất lớn. Có một lần Quốc Quân của nước Tề là Tề Tuyên vương thỉnh giáo Mạnh Kha - Mạnh phu tử đạo lý Tề Hoàn công - Tấn Văn công bá nghiệp. Tề Tuyên vương nói: "Mạnh tiên sinh, vì sao Tế Hoàn công - Tấn Văn công trị quốc được thịnh vượng?" Mạnh Tử trả lời nói: "Môn sinh của Khổng Trọng Ni không nói việc của Tề Hoàn công - Tấn Văn công cho nên chẳng lưu truyền được cho hậu thế. Thần hạ cũng không được nghe nói, quả thật Đại vương muốn bàn việc trị quốc với thần, vậy thì hãy bàn về đạo ý làm vua thiên hạ". Tề Tuyên vương hỏi, "Nhân đức đạt ở mức nào thì có thể làm vua thiên hạ?". Mạnh Tử nói: "Trấn an được dân chúng thì có thể làm vua thống trị thiên hạ", "Như quả nhân đây có thể làm vua thống trị thiên hạ được không?" Mạnh Tử nói: "Được". Tề Tuyên vương lại hỏi: "Dựa vào cái gì mà biết quả nhân có thể làm được?" Mạnh Tử trả lời: "Tôi nghe cận thần Hồ Linh của Đại vương nói: Đại vương ngồi trên công đường, có một người dắt con trâu đi ngang qua công đường, Đại vương nhìn thấy bèn hỏi: dắt trâu đi đâu. Người đó trả lời, đem trâu đi giết để dùng máu của nó quét chuông. Đại vương nói, thả con trâu đó ra đi, quả nhân không dám nhìn dáng vẻ sợ hãi của con trâu trước khi bị giết, giống như người vô tội đi ra pháp trường. Người đó lại hỏi: Vậy thì bỏ nghi thức quét chuông đó được không? Đại vương nói: Làm sao có thể bỏ nghi thức quét chuông ấy được! Lấy dê để đổi trâu là được rồi! Xin hỏi Đại vương chuyện Hồ Linh kể có thật không?" Tề Tuyên vương nói, chuyện ấy có thật. Mạnh Tử nói: "Tấm lòng nhân từ ấy đủ để minh chứng Đại vương có thể làm vua thống trị thiên hạ rồi"."

Lã Bất Vi nói đến đây, ngừng một lát rồi nói tiếp: "Điện hạ vừa về đến Hàm Dương, cần phải dựng lên cho hình tượng nhân từ, tiếng tăm nhân từ mở rộng, giống như câu chuyện của Di Hồng hãy châm lên một ngọn đèn đều không phải dễ, đúng như là mấu chốt đẹp đẽ về chữ đức của điện hạ Thiện Hiếu Quân vương vậy. Vì sao điện hạ lại có thể đuổi Di Hồng ra khỏi cổng vậy?"

Những câu nói đó của Lã Bất Vi làm cho Dị Nhân tâm phục khẩu phục.

Dị Nhân nói: "Thái phụ mưu tính sâu xa, những lời nói hôm nay đều là lời hay lẽ phải, ta nhất định ghi tâm khắc cốt. Chẳng may Di Hồng mất đi tin tức trong phong sương bão tố, thật rất khó tìm được".

Lã Bất Vi bí mật cười, nói: "May mà tôi vừa trở về, gặp gỡ cô ấy ngoài cổng phủ, được tôi mời quay trở lại".

Dị Nhân đích thân đón Di Hồng vào chính điện, sai bọn người hầu, chuẩn bị quần áo để cô tắm rửa, hầu hạ cơm nước. Khi Di Hồng đem ngọc tỉ sáng chói trình lên trước mặt Dị Nhân, Dị Nhân vui mừng ra mặt, không tài nào kể xiết. Đang bàn bạc cùng Lã Bất Vi, sai môn khách đem ấn tín của Triệu vương đến Liễn Thành - Thân Thành ở biên giới của nước Triệu nói dối họ là sứ thần từ Hàm Đan đến, phụng mệnh của Triệu vương cắt hai thành dâng cho nước Tần. Quân canh giữ của hai thành nhìn thấy ấn tín của Triệu vương, tin đó là thật, sẽ ngoan ngoãn giao cho ấn tín và công văn của Quận Trứ. Rồi nhẹ nhõm trở về Hàm Đan để phục mệnh.

Dị Nhân chẳng cần mất tí công sức nào mà được hai thành ấp và muốn coi nó là thành ấp của mình. Lã Bất Vi khuyên giải nói: "Điện hạ, theo như kiến giải của hạ thần, hai thành trì này điện hạ không thể xem nó là của mình, nên dâng cho Đại vương, một là để cho triều đình và dân chúng kính nể một chút, quân lính của Dị Nhân ta không phải chịu đao kiếm mà dễ dàng có được hai thành của nước Triệu, thực sự vẫn có tài năng khuấy trời đạp đất, hai là thể hiện một chút tấm lòng chí công vô tư của điện hạ".

Dị Nhân hành sự theo sự chỉ bảo của Lã Bất Vi, quả nhiên làm cho văn võ bá quan trong triều phục sát đất tài cán của Dị Nhân và tỏ lòng kính phục, hết lời ca tụng. Việc này đã được truyền đi khắp nhân gian, dân trăm họ cũng mến mộ vạn phần, đều nói rằng Dị Nhân làm Tần vương, nước Tần của chúng ta có thể vá trời lấp biển, vô địch thiên hạ.

Thiện Tương vương thấy con trẻ lấy hai thành của nước Triệu, làm lễ tiến, vui mừng tột cùng nói: "Cháu của quả nhân ta, sức mạnh lẫy lừng, văn võ toàn tài. Dị Nhân này thật hơn người?"

Thiện Tương vương vui vẻ một lúc, cuối cùng lại thưởng cho Dị Nhân Liễn Thành - Thân Thành làm phong địa.

Liễn Thành - Thân Thành đã tặng đi rồi lại được trả lại, đổi lấy được thanh danh to lớn, Dị Nhân cảm thấy trở về Hàm Dương vừa phất cờ đã thắng, mở tiệc mừng ở trong phủ. Đèn nến rực rỡ, gái đẹp hầu hạ. Lã Bất Vi uống đến nỗi mặt đỏ phừng phừng, hứng khởi nói: "Lần này thắng ít, chỉ là thử nghiệm bước dầu, những người buôn bán cho chúng ta thường nói bỏ ra ít thu về nhiều, một vốn bốn lời. Muốn đầu tư ít nhất mà được đền đáp lại lớn nhất như việc chính sự triều đình, việc này là xứng đáng!"

Dị Nhân bảo các môn khách rót đầy chén cho Lã Bất Vi vui mừng hỉ hả nói: "Lời của thái phụ đều là vàng ngọc cả, chúng tôi cứ thế tuân theo mà làm!"

Lúc này, có một người nữ hầu vào báo, Di Hồng sinh một đứa bé trai.

Lã Bất Vi phấn khởi vội nói: "Điện hạ Dị Nhân lại có cả quý tử nữa, thật là hết niềm vui này đến niềm vui khác". Theo sau lời nói của Lã Bất Vi, lại vang lên tiếng cốc chén chạm nhau.

Bởi Di Hồng suốt đường đi vất vả nên sinh sớm, đứa bé trai sinh ra không đủ cân, đầu bé tí teo. Nhưng Dị Nhân vẫn rất thương yêu nó, nói: "Đứa bé yếu ớt quá, như một con sâu nhỏ!"

Di Hồng bị đày đọa đến khổ sở, xin Dị Nhân đặt tên cho đứa bé, Dị Nhân không khỏi suy tính nói: "Thì gọi nó là Tiên đi".

Thấy Di Hồng đã sinh cho mình một đứa con trai, Dị Nhân nghĩ rằng cô cũng phải có một danh phận. Bởi trước đó đã có Triệu phi, Di Hồng đương nhiên không thể gọi làm phi được, chỉ có thể gọi là phu nhân, đó là hàng thứ hai trong hàng thê thiếp.

Lại nói đến hai tên quan huyện canh giữ Liễn Thành, Thân Thành của nước Triệu. Sau khi không dừng lại nghỉ ngơi về đến Hàm Đan, tìm tới trước Tùng Đài xin phục chức.

Triệu Hiến Thành vương vẫn luôn ốm đau, triều chính của nước Triệu luôn luôn do Bình Nguyên quân nắm giữ. Sau khi hai tên quan canh giữ huyện thành khấu đầu bái kiến liền nói với Bình Nguyên quân. Sau khi hai thành Liễn, Thân cắt cho nước Tần, chúng tôi vội về ngay.

Lúc đầu Bình Nguyên quân như người trên trời rơi xuống, việc gì thế? Cắt hai thành Liễn, Thân cho nước Tần ư?

Hai tên trấn giữ huyện thành bẩm báo lại sự việc đã qua, Bình Nguyên quân nghe xong thấy rất nghi ngờ. Vội tìm đến chỗ Triệu Hiến Văn vương để hỏi xem, Triệu Hiến Văn vương cũng kinh ngạc vô cùng, hỏi lại: "Chúng ta chẳng có nguyên cớ gì, vì sao lại cắt hai thành Liễn, Thân cho Tần?"

Bình Nguyên quân nói: "Hai vị trấn giữ huyện thành nói là làm theo lệnh truyền của quan giữ ngọc tể của Đại vương".

Triệu Hiến Văn vương lúc này mới nghĩ đến việc kiểm tra ngọc tỉ của mình, vội vàng sai người mở hộp ngọc ở cạnh đầu giường ra xem, nhìn thấy ngọc tỉ đã không cánh mà bay.

Triệu Hiến Văn vương sợ hãi nói: "Kẻ nào ăn trộm ngọc tỉ của quả nhân?" Nói rồi một mồm đầy máu tươi phun ra vạt áo.

Bình Nguyên quân bắt tất cả các cung nữ, hoạn quan trong Tùng Đài có thể đến cấm cung của Triệu Hiến Văn vương, điều tra xét hỏi. Nhưng miệng người nào người ấy đều câm như hến chẳng nói chẳng rằng, tỏ ra việc ấy không phải là mình làm.

Bình Nguyên quân thấy việc truy hỏi không có kết quả thì vắt óc suy tính tìm ra cách khác, muốn tìm ra ngọc tỉ của Triệu Hiến Văn vương đưa về nước Triêu. Cuối cùng ông nghĩ đến Thái tử phi và tiểu Doanh Chính của nước Tần, còn có gia quyến của Lã Bất Vi cũng nằm trong đối tượng được nắm bắt, có thể đổi họ lấy ngọc tỉ của Triệu Hiến Văn vương. Bình Nguyên quân suy đi tính lại, cảm thấy ngoài cách này ra không còn cách nào hơn. Thế là viết quốc thư, sai sứ thần đến Hàm Dương thương lượng với nước Tần, nước Tần đồng ý.

Sau rất nhiều năm, mỗi khi nói về việc này ở trong cung Chương Đài, Di Hồng đương đương tự đắc nói: "Tin Lăng quân hắn có thể ăn trộm thẻ để cứu Triệu, ta sẽ lấy ngọc tỉ hoàn cơ cho ông ta thấy". Công tử Vương tôn tuổi trẻ không hiểu được nhân tình thế thái và những cung nữ sau này muốn tìm hiểu ngọn ngành đầu đuôi "ăn trộm ngọc tỉ hoàn cơ". Thế rồi giai đoạn lịch sử xúc động tâm hồn năm đó làm sống lại số phận bạc bẽo của Di Hồng".

Tướng quốc Phạm Thư nhớ rõ, hoàng hôn ngày hôm đso kéo dài dằng dặc. Một dãi nắng chiều tàn tạ chậm chạp, không mấy hài lòng lặn xuống Sơn Cốc.

Đó là ngày Phạm Thư biết rằng Dị Nhân và Lã Bất Vi đã trở về Hàm Dương. Trong phòng khách của phủ Tướng quốc, Tử Hề và Đỗ Thương sau một thời gian dài oán giận Thiện Tương vương và Du Quốc Quân, lặng nhìn vào khuôn mặt không tỏ rõ buồn vui của Phạm Thư. Chòm râu rậm rạp bao năm cheo kín miệng của Phạm Thư lúc ẩn lúc hiện. Tử Hề rất chut ý chi tiết này. Hy vọng có một âm thanh làm ông hưng phấn cất lên tiếng nói từ đó.

Hồi lâu, cuối cùng Phạm Thư lên tiếng: "Phàm làm việc đều có nhanh, chậm, nặng, nhẹ, như nay Đại vương nhằm đúng vào Vũ An quân Bạch khởi nghĩa rửa sạch hận thù, tuy nhiên làm giảm quân sĩ của ông ấy, nhưng chưa giải hận được trong lòng, không muốn nghỉ ngơi. Tôi muôn nghĩ ra một chủ ý, làm hết tâm nguyện của Đại vương. Đợi việc này giải quyết xong, rồi là ra tay đối phó với Dị Nhân và Lã Bất Vi. May sao quốc quân chưa biết được, dù rằng quốc quân sau khi thiên thu, còn có An Quốc quân được hạ nắm giữ triều đình, Dị Nhân và Lã Bất Vi còn phải nhờ trên chạy dưới, phúc chốc thời gian khó lòng gây lên sóng gió".

Tử Hề và Đỗ Thương thừa biết, Phạm Thư đang bị vướng mắc về việc này không biết xử lý Vũ An quân như thế nào? Thiện Tương vương phái Ngũ Đại Phu Vương dẫn quân đánh Hàm Đan, Vũ An quân đang mắc bệnh. Quân Tần không những tấn công lâu mà không hạ được Hàm Đan, mà còn tiêu binh tổn tướng. Lúc này, bệnh của Vũ An quân thấy đã giảm, Thiện Tương vương muốn ông thay Vương Lăng làm Đại tướng quân, chỉ huy đội quân nước Tần. Vũ An quân sau khi dưỡng bệnh thân thể suy nhược đến điện Kỳ Niên khấu kiến Thiện Tương vương, khuyên rằng: "Đại vương, nô thần dám nói thật, quả thật Hàm Đan không dễ phá vỡ, mà chư hầu muốn cứu viện, một hôm tức thì từ Trường Bình đến Hàm Đan, các chư hầu đó từ lâu đã oán hận nước Tần, mấy năm trước tuy đại phá quân Triệu tại Trường Bình, nhưng nước Tần ta quân chết một nửa, sức lực trong nước yếu thế. Bây giờ chúng ta không những tích trữ lực lượng khôi phục nguyên khí, mà còn trèo đèo lội suối để đánh vào thành đô của người ta, giả sử nước Triệu tiếp ứng từ trong, chư hầu từ ngoài đánh vào, nước Tần chúng ta như rắn mất đầu, xin Đại vương suy xét để hành sự".

Mấy hôm sau, Thiện Tương vương nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy Vũ An quân xứng làm chỉ huy, liền gọi Phạm Thư đêm chiếu lệnh của ông đến phủ của Vũ An quân thúc mời. Phạm Thư nói hết nước hết cái. Vũ An quân không hể mảy may. Phạm Thư trở về cung Chương Đài, sôi nổi kể nào là Vũ An quân thân thể khỏe mạnh, muốn tìm vui thú, nào là nói năng thẳng thắn, trách Thiện Tương vương hạ lệnh muốn đánh Hàm Đan. Sau khi Thiện Vương nghe xong tức giận đùng đùng, bởi vì lúc đso nước Tần đang đánh nhau đẫm máu với liên quân ba nước Triệu - Sở - Ngụy ở ngoài thành Hàm Đan, tình thế hết sức nguy ngập. Thiện Tương vương không sử phạt Vũ An quân. Không lâu sau, quân lính Tần bại trận ngoài thành Hàm Đan. Thiện Tương vương tức tối cách chức của Vũ An quân đẩy xuống làm quân sĩ. Vũ An quân hậm hực nói: "Nếu như Đại vương nghe theo lời khuyên của hạ thần, quân Tần đã không thất bại thảm hại". Câu nói đó đến tai Thiện Tương vương, Thiện Tương vương ra lệnh giam Vũ An quân vào phòng tối. Vũ An quân vừa buồn vừa hận, bệnh tình tái phát. Một số quan trong triệu đã minh can cho Vũ An quân, nói rằng Vũ An quân đã có công lao lớn với nhà Tần, Thiện Tương vương động lòng trắc ẩn lại ra lệnh nói là đợi sau khi bệnh tình của Vũ An quân thuyên giảm sẽ đẩy vào phòng tối sau.

Tận mắt nhìn thấy Vũ An quân sắp rơi vào chỗ chết mà không có đường thoát, Phạm Thư - Tử Hề - Đỗ Thương, bọn họ không ngớt lời than vãn. Không ngờ rằng Thiện Tương vương hạ hàng lọat chiêu lệnh như thế, họ lo lắng một ngày nào đó Vũ An quân trở lại cầm quyền, đặc biệt là Phạm Thư vốn dự tính một khi Vũ An quân lưu đày vào phòng tối ẩm lạnh lẽo, mất đi sự quây quanh giữa môn khách và cựu bộ, tìm mấy vị thích khách du lãng tài nghệ tuyệt vời, cướp đi tính mạng của Vũ An quân. Bây giờ xem ra kế họach này phải từ từ thực hiện.

Tử Hề và Đỗ Thường lo rằng: Dị Nhân và Lã Bất Vi trở về, sẽ chạy vạy cứu vớt Vũ An quân ra. Hai người đưa ra ý kiến như vậy, Phạm Thư như người trong mơ tỉnh dậy nghĩ đến lúc đầu là vì không để cho Dị Nhân đến Hàm Đan làm con tin, Vũ An quân đã không tiếc sức lực cầu cạnh van xin. Bánh ú trao đi, bánh tri trao lại. Lần ngày khẳng định rằng trước mặt Thiện Tương vương và An Quốc quân, Dị Nhân và Lã Bất Vi sẽ ca tụng công đức của Vũ An quân. Lâu dần, nhóm người bọn họ phải tụ tập liên kết, hình thành lên một thế lực mạnh ngang với mình.

Thấy Pham Thư cứ trầm tư chẳng nói, Tử Hề và Đỗ Thường đứng một bên nói như thể lửa đổ thêm dầu: "Tướng quốc! kẻ hèn xin có lời: đã chặt thì chặt cho đứt, tránh để sau này tất loạn. Phải nhân cơ hội khi họ chưa gây lên sóng gió dao sắc chém đay rối, trước tiên diệt Vũ An quân, sau đó đối phó với Dị Nhân và Lã Bất Vi".

Pham Thư dáng vẻ lo lắng xa tính kỹ, nói: "Công tử và lão Tướng quốc nói nghe có lý lắm, chúng ta phải đồng tâm hiệp lực, nắm chắc thời thế, chú ý động tĩnh của Vũ An quân, không khó tìm ra những sai sót, sau đó bẩm tấu với Đại vương, nói ra điều lợi hại, đuổi Vũ An quân ra khỏi Hàm Dương. Đến lúc đó, chúng ta sẽ ra tay đúng như ý muốn".

Tử Hề khẩn thiết nói: "Tướng quốc! chúng ta tim được khuyết tật và tội danh trong con người của Vũ An quân, vậy thì phải đợi đến ngày tháng năm nào? dứt khoát chúng ta phải dựng lên câu chuyện làm cho mọi người kinh sợ, rồi đến cung Chương Đài bẩm tấu Đại vương, để Đại vương tin và cho đó là thật, chẳng chút ngờ vực và cảm thấy Vũ An quân là một phạm nhân tội ác tày trời không thể dung tha".

Đỗ Thương lắc đầu nguây nguẩy nói: "Không được, không thể được, Đại vương của chúng ta rất anh minh, không dam nói là thấy được chân tơ kẽ tóc, nhưng có khả năng nắm bắt được đầu mối của sự việc, khó lòng che đậy được. Nếu như cố tình bịa đặt vô lý, một khi bị Đại vương tìm hiểu xem xét, như vậy khác gì việc lạy ông tôi ở bụi này!"

Pham Thư nói: "Bịa đặt vô lý đương nhiên không thể được, nhưng chúng ta có thể tìm hình bắt bóng. Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Bây giờ không phải là có một số người nối đuôi nhau đi vào phủ đệ của Vũ An quân, giải bày nỗi oan khuất hay sao? chúng ta nói rằng họ xỏ xiên triều đình, phỉ báng Thánh thượng, có ý đồ mưu phản theo địch. Tôi đến chỗ Đại vương bẩm báo, các ngài loan tin trong vương cung và các triều thần. Như vậy sợ gì Đại vương không tin?"

Tử Hề khoát tay tán dương: "Điều này Đại vương tức giận nhất là hạ thần bình luận cái hay cái dở của ông sau lưng".

Đỗ Thương nói: "Dân chúng kích bác triều chính, phỉ báng Thánh thượng, mưu phản theo địch, như vậy là tội đại phản nghịch mắc tội chết chu di chín họ đấy!"

Pham Thư lại cùng Tử Hề - Đỗ Thương mưu tính một hồi lâu sau đó chạy về phí cung Chương Đài kiến diện Thiện Tương vương.

Gia quyến của môn khách trở về Hàm Dương không lâu sau, Lã Bất Vi đã xây dựng xong phủ đệ của mình. Việc nhà trong phủ ông để cho Hoàng Phủ Kiều toàn quyền lo liệu, việc làm ăn ngoài phủ đệ dựa vào Dương Tử và mấy người tâm phúc kinh doanh. Ông dốc hết tâm sức cùng các môn khách thu thập và nghiên cứu sự việc đổi thay của các nứoc chư hầu và trong cung vua Tần, để củng cố địa vị vương hầu của Dị Nhân và để sớm có ngày lên ngôi, ông đã cố gắng hoàn tất việc chuẩn bị.

Việc đầu tiên Lã Bất Vi nhắc Dị Nhân phải làm là vào cửa thăm hỏi hoàng thân quốc thích và các vị lão tướng trong triều. Dị Nhân biết rõ dụng ý của Lã Bất Vi, họ vừa về đến Hàm Dương, thế lực mỏng yếu, vây cánh chẳng có. Việc cần kíp trước mắt là cúi mình trọng dụng người tài, tìm kiếm mọi nơi thu phục nhân tâm, xây dựng lên thế lực của mình. Lã Bất Vi với sự tinh tế của một thương nhân, ông đều suy tính kỹ càng chu đáo đối với việc Dị Nhân tới phủ đệ của ai, đến nơi nào trước nơi nào sau, mang theo lễ vật gì, cầu lễ nghĩa thế nào để đạt được mọi sự tốt đẹp.

Lã Bất Vi nghĩ thấu đáo mọi việc, tìm đến phủ để của Dị Nhân cùng bàn bạc cho tiện. Dị Nhân trở về Hàm Dương mặc dù thời gian không lâu, nhưng nay cũng đã khác xưa. Đường đường là Tần vương tôn, Thái tử của An Quốc quân, nơi ở rèm hoa lộng lẫy, thị vệ nô tì tiền hô hậu ủng, lời lẽ cung kính nịnh hót rót tâu bên tai, bản thân tự cho mình là nhất, vênh vang tự cao tự đại. Do vậy, đối với Thái phụ Lã Bất Vi mặc dù là người tri ân tri kỹ, nghe theo sự tính toán, nhưng chẳng giống khi ở Hàm Đan mọi việc đều phải nghe theo.

Lã Bất Vi sau khi cúi đầu bái kiến, tường tận tỉ mỉ kể lại sự sắp đặt chu tất của ông với Dị Nhân. Đại khái nói để Dị Nhân thấy sự giao thiệp rộng rãi, phú quý quyền lực và thế sự phải làm. Nhưng nghe Lã Bất Vi một thôi một hồi nói đến việc tìm tới phủ đệ của ai, đến đâu trước đến đâu sau, mang theo lễ vật gì, lễ nghi ra sao... cảm thấy rườm rà rách việc, thậm chí hơi chút dạy bảo cặn kẽ như đối với đứa trẻ không biết gì. Dị Nhân mệt mỏi nghe xong Lã Bất Vi kể lể, chẳng mấy vui vẻ nói: "Thái phụ xin hãy yên tâm, ta lại không phải là đứa trẻ lên ba mà không biết đâu là gần gũi thân quen!"

Lời của Dị Nhân nói vừa dứt thì trong ánh mắt phát ra những cái nhìn sắc lạnh như khinh miệt. Lã Bất Vi biết rõ, nếu như ông còn tiếp tục liên thuyên nữa, sẽ chẳng có gì hay ho cả.

Lã Bất Vi về phủ đệ của mình, trong lòng canh cánh nỗi lo âu như vẫn có một điều gì báo trước không tốt lành.

Trong danh sách những người bái yết mà Lã Bất Vi lập lại không có Vũ An quân, ông có đầy đủ lý do để nói với Dị Nhân là vì sai người ông cần tôn kính mà lại không biết. Nhung khi Dị Nhân nghe đến sắc mặt không chút mảy may, khiến Lã Bất Vi không nói ra hết ý.

Dị Nhân lên kiệu xe, bằng lòng đi bái yết người mà ông cho rằng cần phải bái yết. Kiệu xe của Dị Nhân leng keng tiến vào phủ đệ của Vũ An quân.

Dị Nhân vừa nhìn thấy Vũ An quân bàng hoàng một lát.

Một ông già lọm khọm, đầu gối trên thành giường. Trong trí nhớ của anh, một vị tướng tài quát mây thét gió, dũng mãnh hiên ngang biết bao. Anh còn nhớ rõ lắm, cái trâm cài tóc trên cái đầu lốm đốm bạc của Vũ An quân như một ngọn lửa lay động, phát sáng rực rỡ mãi mãi trong con mắt của anh. Không ngờ rằng vị đại tướng quân vô tình trước mắt này, cái trâm cái tóc bao năm quân úy ngưỡng mộ ấy đã sớm bị Thiện Tương vương thu lại mất, búi tóc trắng muốt phủ đầy sương của những tháng năm. Khuôn mặt lâu ngày không nhìn thấy ánh mặt trời kia giống như một cái bánh nướng thiếu lửa - trắng bợt và yếu đuối. Lại còn những nếp nhăn vừa dày vừa sâu, nứt nẻ như một đáy hồ khô cạn.

Dị Nhân nghĩ đến Vũ An quân lập lên chiến công hiển hách cho Đại Tần, nghĩ đến việc chăm lo cẩn thận đối với anh trong vấn đề làm con tin ở Hàm Đan, một nỗi chua xót cuộn lên trong lòng, nước mắt ngậm ngùi gọi không thành tiếng: "Đại tướng quân!"

Vũ An quân được nữ hầu giúp việc tựa vào thành giường sau khi kêu lên một tiếng. "Thái tử điện hạ!" Con mắt ấy ẩn hiện sự đan xen một thứ tình cảm vừa hàm chứa nhưng không biểu lộ rõ, rồi lập tức lớn tiếng quát mắng: "Ngươi - kẻ tiểu nhân vong ơn bội nghĩa, cút ngay đi cho ta nhờ!"

Câu nói của Vũ An quân như một gáo nước lạnh dội vào đầu Dị Nhân làm anh không kịp tránh. Rất lâu sau, Dị Nhân mới như tỉnh lại, trách móc hỏi: "Đại tướng quân, ngươi không thể nhận ra kẻ lại nhân này ư? Ta có ý tốt đến thăm viếng ngươi, sao ngươi lại lăng nhục trách mắng ta?"

"Nay ta và ngươi không thể có cùng mặt trời, cũng chẳng có cùng ngôn ngữ chung. Ngươi mau đi đi?" Vũ An quân với một bộ mặt xa lạ, sau đó gọi bọn người hầu đuổi Dị Nhân ra khỏi cửa.

Dị Nhân từ trong phủ đệ của Vũ An quân bị coi thường mà trở về, bao nhiêu hứng thú thăm viếng người thân bè bạn bỗng nhiên chẳng còn nữa, ngao ngán trở về phủ đệ của mình, anh ngồi bần thần cả buổi, không tài nào lý giải nổi cử chỉ của Vũ An quân, lẩm bẩm một mình nói: "Vũ An quân ngươi chẳng hiểu tình người... đày đi thiên Tỉnh Quan".

Khi Dị Nhân đến phủ đệ của Lã Bất Vi để thông báo cho ông ta biết chiếu lệnh của Chiêu Tương vương, Lã Bất Vi trông thấy Dị Nhân nước mắt giàn dụa, biểu lộ một nỗi xót thương, đồng cảm chân thành.

Dị Nhân bùi ngùi than thở: "Phía bắt Thiên Tỉnh quan giáp với đất của người Hồ, là nơi hoang vu hẻo lánh, cách trở núi non, đường xá xa xôi. Vũ An quân lại bệnh tật triền miên, chưa kịp đến nơi có lẽ đã chết đói chết rét dọc đường rồi, chắc rằng trọn đời cũng chẳng thể trở về được nữa!"

Dị Nhân ủ dột, buồn rầu ngồi lại một lúc, rồi rời khỏi phủ Lã Bất Vi trở về.

Nỗi niềm của Dị Nhân đã cảm động đến Lã Bất Vi. Sau khi Dị Nhân trở về, Lã Bất Vi trơ trụi một mình một bóng, đối diện với ngọn đèn dầu mà lặng lẽ buồn thương. Ông có được nghe một số người nhiều lần nói đến chuyện Vũ An quân đã chăm lo cho những kẻ bị bạc đãi là Hạ Cơ và Dị Nhân với tấm lòng rộng rãi, nghĩa hiệp ra sao; đã cầm gươm mặc giáp, chiến công hiển hách thế nào; đã thương xót những kẻ bần hàn cơ độc, đã tiếp tế cho dân thường áo vải ra sao; và đã công bằng liêm chính, cương trực bất khuất, dám nói thẳng để mạo phạm đến Chiêu Tương vương như thế nào...

Lã Bất Vi nghĩ đến đây, trong lòng bỗng nảy sinh một nỗi thương xót và kính phục lớn lao đối với Vũ An quân. Và ông cũng đã lý giải được phần nhiều nguyên do tại sao Dị Nhân luôn luôn có thâm tình với Vũ An quân như vậy.

Trầm tư khá lâu, rồi Lã Bất Vi cho tìm Tư Không Mã đến phòng ngủ của mình, đóng cửa lại, rồi nói với ông ta, vẻ bí mật vô cùng: "Ngày mai, ngươi hãy thay ta làm một chuyện, mà phải làm sao cho thật kín đáo, trôi chảy, thần không biết, quỷ chẳng hay".

Tư Không Mã với một vẻ sẵn sàng lao vào nước sôi lửa bỏng đáp lời: "Thái phó đại nhân, có chuyện gì tùy đại nhân sai bảo".

"Đại để là người đã được nghe rồi, Vũ An quân vì làm cho Đại vương nổi giận nên bị lưu dầy đến Thiên Tỉnh Quan. Ngươi hãy chờ trên con đường từ Hàm Dương đến Thiên Tỉnh Quan, đợi đúng thời cơ, hãy đem 50 dật vàng này đưa cho Vũ An quân, rồi nói rằng có vị Vương Tôn nước Tần không tiện bày tiệc tiễn đưa, nên đặc mệnh cho ngươi mang tặng ông ta số tiền vàng này. Mong rằng tướng An Quân hãy gắng bảo trọng".

"Tiểu nhân cam đoan sẽ đưa 50 dật vàng đến tận tay Vũ An quân, không sót một ly".

"Khi làm việc này, không thể để cho bất kỳ ai trông thấy".

"Tiểu nhân đã rõ. Nhưng giả sử Vũ An quân có hỏi năm mươi dật vàng này có phải do Dị Nhân điện hạ tặng cho hay không thì tiểu nhân phải trả lời ra sao?"

"Ngươi không phải đáp gì cả, không bảo đúng, cũng chẳng bảo sai. Lập tức đi ngay".

Trên con đường từ Hàm Dương đến Thiên Tỉnh Quan, Tư Không Mã suốt hai ngày đêm gội tuyết dẫm băng, nhịn đói nhịn rét để trốn trong rừng rậm chờ đợi, nhưng cũng chẳng thấy chút tăm hơi nào của Vũ An quân. Tư Không Mã có biết dâu rằng Vũ An quân vừa rời khỏi Hàm Dương được mười dặm, mới đi đến vùng Đỗ Sưu, thì Chiêu Tương vương đã ban cho ông ta một thanh kiếm để tự vẫn rồi.

Lã Bất Vi sững sờ trước cảnh đi săn hoành tráng của Chiêu Tương vương.

Đó là một buổi sáng, tuyết mới ngừng rơi, gió lạnh tê tái. Đỉnh Tần Lĩnh tô điểm, trang sức một màu bạc trắng, tựa như ánh nến đang thỏa sức lung linh, dòng sông Vị tuyết băng phủ kín, tương tự một cô gái an nhàn đang nằm yên lặng giữa bình nguyên um tùm xanh sẫm. Trên con đường từ Hàm Dương đến ung thành, những lá cờ Thúy hoa [1] năm màu sáu sắc đón gió bay phần phật. Đi đầu tiên trong hàng ngũ đi săn là những quân úy, ngồi trên bốn hàng ngựa đang cùng tiên lên. Những gíap trụ họ mặc trên người và ánh phản quang của đống tuyết trắng phản chiếu lẫn nhau. Đi sát phía sau là đội Nghi trượng. Các thị vệ, cung nga giơ cao cờ hiệu, cờ tiết, quạt lông. Gió bấc thổi vào làm phát ra những âm thanh lọat soạt tựa như tiếng xé vải.

Sau đó là chiếc xe của Chiêu Tương vương, do bốn con ngựa ngũ sắc kéo. Bên trái xe là An Quốc quân, bên phải xe làm Phạm Tuy. Tuy rằng đã vào tiết giữa đông gía rét, nhưng trên xe vẫn không che rèm, để tiện lợi cho việc quan sát được xa, khi phát hiện ra con mồi có thể nhanh chóng giương cung bắn tên. Chiêu Tương vương đầu đội mũ miện, mình mặc măng bào bằng lông chồn. Tuy rằng vị quân chủ của một nước này tuổi đã cao, người đã khô gầy, nhưng vẫn bám vào càng xe, hiên ngang trước gió, rất có khí phách của ngựa Ký tại chuồng, chí ngoài nghìn dặm [2]. Điều này đã cổ vũ cho các văn võ bá quan, vương tôn công tử tùy tùng. Phía sau xe của Chiêu Tương vương là các quan lại trạng yếu như Cung giảo sĩ, Thứ trưởng, Tả thứ trưởng, Tưởng sử, Bang tư không, Công thất thừa, Tông chúc, Quốc úy, Thượng tướng quân, Tư ngự, họ dắt theo chó săn. Hai mươi ba người cháu của Chiêu Tương vương cùng với các Thái phó [3] của họ cùng ngồi xe, cầm cung, sung thêm vào đội ngũ xạ thủ đi săn.

Đến Ung Thành, Chiêu Tương vương đích thân bái tế ở bốn khu vực thờ phụng trời và ở Tông miếu, sau đso mới bắt đầu đi săn. Phạm Tuy là tổng tư nghi của đoàn đi săn, sau khi được Chiêu Tương vương truyền ý chỉ, ông ta bèn ra lệnh một tiếng, tức thì các vương hầu, quan tướng vương tôn, công tử liền thúc ngựa giong xe, chạy vào trong bãi hoang hay rừng núi nơi đi săn. Thoáng chốc đã ồn ào tiếng người la ngựa hý, chiêng trống ầm vang. Bụi tuyết bay mù mịt khắp nơi. Đâu đâu cũng huyên náo, tựa như trong một chiếc vạc đang sôi sùng sục, loạn vô cùng, sôi động.

Những hổ, báo, lợn rừng, dê rừng ẩn nấp trong rừng, bãi, khe, hang bị kinh động, bỏ chạy loạn xạ, trở thành những mục tiêu cho người ta truy đuổi, bắn giết.

Dị Nhân vì đã bị giữ làm con tin rất lâu ở Hàm Đan, võ công rất kém cỏi, ở trên xe, tuy rằng thỉnh thoảng cũng bắn ra vài mũi tên, nhưng đều chỉ phí công vô ích. Vài giờ [4] đã trôi qua, mới bắn trúng một con dê rừng non yếu ớt.

Lã Bất Vi buôn bán khắp thiên hạn, có thể cho rằng đã luyện thành cái thuật hút vàng vào tay áo, nhưng về phép giương cung bắn tên lại dốt đặc. Ông ta phóng ngựa truy đuổi, cũng vờ bắt chước động tác giương cung đặt tên, nhưng chẳng hề động chạm đến một con thú hoang nào.

Trông thấy rất nhiều Vương tôn khác của nươc Tần bắn bách phát bách trúng, trên thanh chắn phía sau xe, trên khung xe treo, vắt la liệt những chim rừng, thú hoang máu tươi còn nhỏ ròng ròng, con thì đã chết, con thì còn thoi thóp thở, Lã Bất Vi cảm thấy số thú vật mà Dị Nhân săn được ít ỏi đến đáng thương hại. Nếu so sánh Dị Nhân với đám anh em dũng mãnh tráng kiện kia, thì khác gì đem con dê non nhãi ranh trên xe của Dị Nhân so sánh với cả dây những hổ dữ, sư tử kia. Mặc dù là như vậy, nhưng Lã Bất Vi không hề lo lắng, sốt ruột.

Về việc phải làm sao để cải thiện tình trạng thảm hại của Dị Nhân trong cuộc đi săn này, ông ta đã có sẵn kế sách trong lòng.

Trước khi ra khỏi kinh thành, Lã Bất Vi đã dự liệu trước tình hình. Nếu xảy ra tình trạng như vậy, sẽ làm tổn hại đến hình tượng anh dũng của Dị Nhân điện hạ. Ông ta đã có chuẩn bị từ trước nên không hề lo lắng, móc từ trong túi ra rất nhiều tiền bạc. Trong khi mọi người đang vô cùng hào hứng, mê mải trong cuộc săn, đã sắp sửa đẩy xe trở về, Lã Bất Vi lặng lẽ, kín đáo đi mua lại những thú vật do các quan tướng có tước vị khá thấp kém đã săn được, mặ khác, chỉ mua của mỗi người một con. Ông ta vung tiền rộng rãi, giá cả gấp mấy lần ngoài chợ. Trong nháy mắt, con ngựa của Lã Bất Vi khắp lưng khắp người đã treo đầy chim thú, ông ta mới ruổi ngựa đi theo Dị Nhân. Khi đến bên xe của Dị Nhân, Dị Nhân thấy Lã Bất Vi săn được nhiều như vậy, thì vô cùng kinh ngạc.

Dị Nhân hỏi: "Thật không ngờ rằng Thái phó lại là mũi dùi giấu trong đống thóc, không để lộ mũi nhọn ra ngoài. Tổng cộng được bao nhiêu?"

Lã Bất Vi trả lời: "Ba hổ, ba sói, năm dê rừng, hai nhung [5], hai hoẵng, tổng cộng được mười bốn con".

Dị Nhân vô tình nhìn đến túi đựng tên của Lã Bất Vi, phát hiện ra túi tên của ông ta chẳng hao đi mấy chiếc, bèn vô cùng nghi hợac mà hỏi rằng: "Tên của Thái phó dường như còn nguyên chưa động đến, vậy bắn bằng thứ gì?"

Lã Bất Vi móc từ túi ra một đĩnh bạc, trả lời: "Bắn bằng cái này, kích phát bách trúng, dễ dàng như lấy đồ vật ở trong túi".

"Lã thái phó dùng tiền bạc để mua về ư?"

"Phải!"

"Giá bao nhiêu?"

Lã Bất Vi nói với Dị Nhân số tiền bỏ ra để mua thú về.

Dị Nhân thấy quá đắt đó, bèn nói: "Giá tiền gấp đôi gấp ba so với chợ, thế mà lại bỏ gần theo xa, về kinh đô rồi đi mua có phải hơn không?"

Lã Bất Vi nhìn khắp xung quanh không thấy ai, bèn nhấc một con dê bụng vàng lên ném vào trong xe của Dị Nhân. Dị Nhân kinh ngạc, mừng rỡ chăm chăm nhìn Lã Bất Vi đầy vẻ biết ơn. Lã Bất Vi vừa định giải thích, thì Dị Nhân nói: "Thái phó không cần phải nói, tôi đã hiểu rõ rồi. Hành động này thực chẳng khác nào tặng than cho người đúng khi trời tuyết!" Thực ra, Dị Nhân cũng đang xấu hổ vô cùng vì bản thân mình gần như trở về ttay không. Bây giờ đã được Lã Bất Vi mua cho những chim thú quý hiếm, để bổ sung vào đám chiến lợi phẩm, cứu được ông ta trong lúc nguy cấp.

Lã Bất Vi mang những muông thú mua được theo thứ tự mà treo đầy vào thanh chắn phía sau xe, nói một cách thẳng thắn: "Điện hạ là bậc cao quý, Thái tử của An Quốc quân. Hạ thần trộm nghĩ, không những chỉ cần danh phận, tước vị cao quý vô song, mà về mọi phương diện khác đều phải tỏ ra siêu phàm thoát tục, tinh anh khác thường".

Dị Nhân mặt mày hớn hở, nói: "Ta cũng nghĩ như vậy, thực là suy nghĩ của những anh hùng tương tự như nhau!"

Kết thúc cuộc săn, Chiêu Tương vương sai quan sắc phu phát nỏ đi kiểm tra số lượng mông thú đã bị các Vương tôn nhà Tần bắn được. Sau khi tổng kết, kết quả là Dị Nhân đứng đầu bảng. Chiêu Tương vương biết, vui mừng hiển hiện lên nét mặt, nói với các cận thần tả hữu với giọng tự hào, trước mắt đội ngũ đi săn vừa mới trở về: "Các cháu của quả nhân ai nấy đều giỏi cưỡi ngựa bắn cung. Hàng long phục hổ, rõ ràng không phải Dị Nhân thì còn là ai được nữa. Lo gì họ Doanh nhà ta lại không thể tiêu diệt sáu nước chư hầu, hoàn thành bá nghiệp nhất thống thiên hạ!"

Cả đoàn người bùng lên một đợt tung hô, âm hưởng vang dội khắp núi non hang suối.

Rốt cục là vì tuổi đã quá năm mươi, thể lực không còn kham nổi, nên Chiêu Tương vương khi trở về đế thẩm cung ở Chương Đài, liền cảm thấy đau lưng nhức chân, gan cốt rã rời. Ông ta nằm đài trên giường để hai cung nữ da thịt nõn nà đấm bóp lưng một cách nhịp nhàng.

Một vị hoạn quan tiến vào, quỳ xuống khả bẩm rằng Tướng quốc Phạm Tuy muốn được diện kiến. Trong lúc này, nếu là người khác thì Chiêu Tương vương ắt đã cho người cự tuyệt từ ngoài cửa hợac cho đuổi khỏi cung Chương Đài. Nhưng vừa nghe là Phạm Tuy, lại bất chấpt những mệt nhọc sau cuộc săn bắn mà đến, ắt hẳn là có chuyện quan trọng muốn tâu bày.

Phạm Tuy bước vào, nói: "Đại vương mới trở về, long thể còn mỏi mệt, mà hạ thần lại đến quấy nhiễu, thực là tội đáng muôn chết. Nhưng Đại vương đã lơ là mất một chuyện, hạ thần không thể không đến đề cập với Đại vương".

Chiêu Tương vương nói: "Ồ, Đại tướng quốc của quả nhân, khách sáo cái gì, có điều gì thì mau nói ra đi".

Phạm Tuy nói: "Một việc lớn là cuộc săn bắn rầm rộ, vang dội như hôm nay, thực là lâu lắm rồi không có, Đại vương long nhan sảng khoái, nên ban thưởng thịt tế mới phải".

Chiêu Tương vương nói, rất đồng cảm: "Nên ban thịt tế! nên ban thịt tế! nhà ngươi xem đấy, trí nhớ của ta thật là tệ quá!"

Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, sau khi kết thúc những công việc như đến Ung Thành tế Trời tế Miếu, đi săn bắn, thì bậc quân chủ phải tiến hành ban thưởng cho các hạ thần và thân thuộc. Ban thưởng chia thành các loại thưởng vật, thưởng thành, thưởng mệnh, thưởng thịt. Thưởng vật, tức là ban thưởng bằng vật phẩm. Thưởng thành, tức là ban cho thành cấp làm đất phân phong. Thưởng mệnh, tức là quân vương ban bố mệnh lệnh khen thưởng. Nhưng cao quý nhất, long trọng nhất phải kể đến thưởng thịt tế. Ba loại ban thưởng phía trên, hầu như tất cả mọi quan lại đều có thể được hưởng, nhưng thưởng thịt tế thì chỉ có những kẻ thân thuộc của nhà vua mới có thể được hưởng. "Thịt tế" tức là thịt được sử dụng trong những dịp tế tổ ở tông miếu, sau khi cúng tế xong, chỉ có thể ban cho những người có quan hệ huyết thống với nhà vua.

Chiêu Tương vương gắng gượng cất tấm thân mệt mỏi trở dậy, truyền cho quan Tông chúc chưởng quản việc tế tự đến, hỏi xem những thịt tế để cung phụng trong tông miếu đã được vận chuyển đến chưa. Tông chúc nói rằng đã vận chuyển để nơi nguyên vẹn, không hề hao tổn. Chiêu Tương vương run lật bật ngồi dậy khỏi giường, định chấp chưởng công việc chia thịt. Phạm Tuy nói rằng: "Bóng đêm đã bao trùm, Đại vương lại vô cùng mệt mỏi, xin Đại vương hãy ban một mệnh lệnh cho chia thịt, còn những công việc cụ thể hãy để hạ thần thừa lệnh thi hành cũng được. Chiêu Tương vương suy nghĩ chốc lát, rồi ban một đạo mệnh lệnh, giao cho Phạm Tuy thực thi.

Sau khi Phạm Tuy trở về Tướng phủ, lập tức sai môn khách mời Tử Hề đến. Từ Hề dụi dụi đôi mắt lem nhèm ngái ngủ, lầu bầu nói: "Đại tướng quốc của ta, nửa đêm canh ba mà vẫn còn trăn trở cái gì vậy?"

Phạm Tuy vẻ hưng phấn ngồi nói: "Hôm nay săn bắn, Đại vương rất vui vẻ, nên đã cho chi thịt tế".

Tử Hề lộ rõ vẽ hớn hở nói: "Buổi đi săn hôm nay khiến cho thằng nhóc Dị Nhân hăng máu quá mức, có thưởng thịt tế cho hắn thì ăn cũng chẳng biết ngon".

Phạm Tuy không vừa lòng, nói: "Đại công tử nói như vậy là bất kính đối với Đại vương rồi!"

Rồi ông ta đuổi hết tả hữu, ghé tai thì thào nói với Tử Hề rằng: "Thịt tế này sẽ trị khỏi cho tâm bệnh của đại công tử".

"Trị khỏi được tâm bệnh gì của ta?"

Phạm Tuy nghiến răng nghiến lợi mà nói: "Đại vương giao cho tôi chấp hành việc này, tôi sẽ tẩm độc vào khắp trên dưới miếng thịt tế đượ chia cho Dị Nhân, để cho hắn cùng hai mụ phi tử với lại thằng nhãi ranh kia ăn vào mà lăn đùng ra chết".

Chuyện này quả thực nghiêm trọng, Tử Hề hoảng sợ đến thót tim, tinh thần chấn động. Tử Hề cũng thấy rằng đây là cơ hội ngàn năm một thuở để trừ khử Dị Nhân, nhưng Tử Hề lại lo rằng sau khi Dị Nhân chết đi, không may bị Đại vương tra xét, mà lộ chân tướng, thì quả thật là một đại họa giáng xuống đầu. Phạm Tuy bảo Tử Hề không phải suy nghĩ nhiều quá, trên đường đi Ung Thành, ông ta đã suy tính trước sau rồi, đảm bảo việc này rất kín đáo, không có một chút sơ hở.

Tử Hề đảo đảo đôi mắt sáng, hỏi: "Dựa vào đâu để bảo rằng không có chút sơ hở?"

Phạm Tuy nói chắc như đinh đóng cột: "Đại công tử hãy nghĩ mà xem, nếu Dị Nhân quả thật chết đi, có kẻ nào lại dám nghi ngờ rằng trong miếng thịt Đại vương ban cho lại có độc. Vả lại từ khi giết thú vật, rửa ráy, thui nướng, vận chuyển đi xa, rồi trải qua cúng tế, vận chuyển trở về, cắt xẻ, phân phát, cho đến khi đưa vào phủ đệ của Dị Nhân, miếng thịt tế ấy đã phải qua tay bao nhiêu người theo một lọat những mắt xích như vậy, đến thần tiên cũng không thể biết rõ được ai là kẻ hạ độc thủ. Chắc chắn là Đại vương sẽ không nghi ngờ cho ngài và tôi đâu!"

Nghe Phạm Tuy nói vậy, Tử Hề được tăng thêm lòng dũng cảm, bèn tự mình xuống bếp hành động, đem thuốc độc tẩm vào khắp miếng thịt tế phát cho Dị Nhân, đồng thời lại chừa lại trên thớt một tiếng thịt đem cho mèo đen ăn, con mèo đen ăn xong kêu gào, giãy giụa trên mặt đất một hồi rồi chết.

Khi Phạm Tuy sai người đem miếng thịt tế đến phủ đệ của Dị Nhân, ở đó vẫn đèn đuốc sáng trưng, người rất đông đúc, không có vẻ yên lặng chuẩn bị đi ngủ. Người trên người dưới trong phủ đều biết chuyện Dị Nhân được Chiêu Tương vương khen ngợi, nên một cảnh tượng tưng bừng choán ngợp khắp nơi. Giờ đây, lại được Đại vương ban thịt tế, thực là như gấm thêm hoa.

Dị Nhân lập tức sai người cắt thịt làm món, bày đặc tiệc rượu. Lại sai Triệu Cơ, Di Hồng, Doanh Chính tắm gội, thay quần áo, chuẩn bị một cuộc say sưa hưởng thụ ơn trạch nồng hậu của nhà vua trong yến tiệc ban đêm.

Dị Nhân lại nghĩ đến Lã Bất Vi. Bản thân Dị Nhân có thể chuyển nguy thành an, từ Hàm Đan trở về, được nối dõi, đứng vào hàng tên quý, là đều nhờ vào vị đại thương nhân này. Không những thế, lại còn khảng khái nhường người đẹp cho, mỗi khi nguy cấp gian nan, đều chỉ đường dẫn lối, trù tính sắp đặt. Nghĩ đến đấy, Dị Nhân kiên quyết định sai người đi mời Lã Bất Vi đến, cùng nhau chung hưởng vinh dự muộn màng này.

Khi Lã Bất Vi đến nơi, việc chuẩn bị cho yến tiệc đã ổn định xong xuôi. Mùi thơm của rượu, của thức ăn từ tỏng gian bếp tỏa ra từng đợt liên tục, xua cũng không bay đi. Những chén rượu, tửu lệnh [6] sáng phát quang, phản chiếu lên những cảnh tượng mỹ lệ.

Lã Bất Vi vừa đến, cũng là lúc người đầu bếp bưng thức ăn vào sảnh đường, Lã Bất Vi đưa tay ngăn lại, nói: "Khoan đã, chớ vội động đũa rót rượu!"

Rồi ông ta hỏi kỹ càng về quá trình Chiêu Tương vương ban thưởng thịt tế.

Khi ông ta biết được rằng việc này do Phạm Tuy chủ trì, lại sai người đưa thịt tế đến, thì nhíu lông mày lại, hằn lên những vết nhăn dọc giữa trán, đôi con ngươi đảo qua đảo lại, rồi nói, giọng nhẹ nhàng, rõ rệt: "Trước khi mọi người thưởng thức thịt tế, tôi có một mẩu chuyện có liên quan đến thịt tế, cũng rất lý thú. Bây giờ tôi xin được kể cho Thái tử điện hạ và mọi người cùng nghe, để trợ hứng, tô điểm thêm cho buổi yến tiệc đêm nay".

Nếu một kẻ bình thường nào khác mà rườm rà như vậy để trì hoãn cuộc thưởng thức thịt tế, thì đã bị Dị Nhân chửi mắng, tống cổ ra ngoài lập tức.

Nhưng hôm nay lại là Thái phó Lã Bất Vi, vả lại, Dị Nhân đã từng trải thực tế, biết rằng mỗi khi xảy ra những tình trạng tương tự, Lã Bất Vi thường có những hành động nằm ngoài dự liệu của mọi người, khiến người ta học tập được không phải là ít.

Dị Nhân nói với Lã Bất Vi: "Nghe được một lời của ngươi còn hơn đọc sách mười năm. Chúng tôi xin cung kính lắng nghe câu chuyện của Thái phó".

Thực ra trong lúc ấy, Lã Bất Vi không hề hay biết rằng Tử Hề đã tẩm thuốc độc vào miếng thịt, mà chẳng qua, ông chỉ cảm thấy rằng Phạm Tuy chủ trì công việc này, có lẽ sẽ sử dụng thủ đoạn. Thậm chí, ông còn thấy trỗi dậy một nỗi hoảng sợ kỳ lạ. Việc này khiến cho ông nhớ đến một câu chuyện xảy ra trong cung đình nước Tấn, ông muốn kể ra để cảnh cáo cho Dị Nhân.

Lã Bất Vi bắt đầu kể với một giọng rất hấp dẫn, lọt tai:

"Xưa kia, nước Tấn còn là một quốc gia lớn mạnh, sau đó là nước Nguy, Hàn, Triệu chia xẻ nước Tấn, nước Tấn mới bị diệt vong. Trước kia, Tấn Hiến công nắm giữ chính sự, cưới người con gai nước Tề là Khương Thị làm vợ, sinh được người con trai tên là Thân, lập làm Thái tử. Năm Tấn Hiến công thứ năm, nước Tấn chinh phạt Ly Nhung, bắt được Ly Cơ và em gái. Cả hai đều trở thành những người thiếp được Tấn Hiến công rất sủng ái. Vài năm sau, Ly Cơ sinh được một con trai, đặt tên là Hề Tề. Tấn Hiến công bắt đầu xa lánh ba người con trai đầu, mà rất yêu Hề Tề, muốn lập Hề Tề làm Thái tử, phế bỏ Thân. Ly Cơ là một người tâm địa độc ác, quỷ kế đa đoan, chỉ mong sao con trai mình được lập làm Thái tử. Nhưng mụ còn e sợ Thái tử Thân công cao đức trọng, chư hầu đều hướng theo, sợ rằng bây giờ bỏ trưởng lập thứ, sẽ gây ra loạn lạc, ta họa. Khi Hiến Công nói với Ly Cơ suy nghĩ của mình, mụ ta lại dùng lời lẽ ngon ngọt mà nói rằng: việc lập Thái tử, chư hầu đều đã biết cả rồi. Thái tử lại nhiều lần dẫn quân chinh phạt, công đức ngời ngời, rất có thanh danh trước dân chúng, vậy thì Đại vương làm sao có thể vì thần thiếp mà phế trưởng lập thứ cho được! nếu Đại vương kiên quyết làm như vậy, tiện nữ chỉ còn biết dùng cái chết để can gián mà thôi!

Ngoài mặt, Ly Cơ ca ngợi Thái tử Thân, nhưng trong lòng lại ghét cay ghét đắng, chỉ chăm chăm tìm thời cơ để dịt trừ Thái tử. Mẹ đẻ của Thái tử Thân là Tề Khương mất sớm. Thái tử là người con có hiếu, muôn phần tưởng nhớ mẫu thân. Thái tử Thân thay mặt Hiến công ra phòng thủ Khúc Ốc. Khúc Ốc là vùng đất màu mỡ, nơi đặt Tông miếu của tổ tiên nước Tấn. Một hôm, Ly Cơ nói với Thái tử Thân rằng: Đêm hôm qua Đại vương mơ thấy Tề Khương, nhà ngươi là đứa con có hiếu, hãy mau mau đến tông miếu ở Khúc Ốc tế lễ cho bà ta đi, sau đó mang thịt tế dâng cho Đại vương, để cho Đại vương được hưởng thụ cái phúc ấy.

Thái tử Thân đã đến Khúc Ốc để tế lễ cho mẹ đẻ là Tề Khương, lại đem thịt tế trong Tùng miếu dâng lên cho phụ vương. Ly Cơ đã lén sai người mang thuốc độc bôi lên miếng thịt. Hai ngày sau, Hiến công đi săn trở về, viên quan lo việc nấu nướng đem thịt tế ấy dang lên cho Hiến công, Hiến Công vừa định ăn, thì Ly Cơ đứng bên cạnh ngăn lại, khuyên rằng: Thịt tế này được mang đến từ một nơi rất xa, nên phải thử qua một chút!

Ly Cơ sai người cắt lấy một miếng thịt mang cho chó ăn, chó lập tức lăn ra chết. Lại cho một hoạn quan nhỏ ăn, hoạn quan cũng lập tức chầu trời..."

Nghe đến đây, Dị Nhân như đã tỉnh ra, bèn đứng dậy đi vào gian bếp.

Lã Bất Vi vẫn say sưa kể tiếp: "Khi đó, Ly Cơ khóc lóc nói rằng: Đại vương, Thái tử thật quá tàn nhẫn! đến cha ruột của mình mà còn muốn giết hại, muốn nhân dịp để lên ngôi, huống gì là đối xử với những người khác. Đại vương tuổi tác đã cao, là người trong buổi xế chiều, vậy mà hắn không đợi nổi lại muốn giết đi, thật là độc ác quá lắm! Sở dĩ Thái tử làm như vậy, chẳng qua là vì tiện thiếp và Hề Tề thôi. Tiện thiếp khẩn cầu Đại vương gia ơn, cho phép mẹ cho tiện thiếp được chạy sang nước chư hầu lánh nạn, hoặc là cho phép được tự sát sớm đi, để tránh khỏi thảm cảnh bị rơi vào bàn tay tàn độc của Thái tử.

Hiến công nổi giận đùng đùng, nhưng vì Thái tử Thân đã trở về Khúc Ốc, nên đã mang Thái phó của Thái tử đang sống ở kinh thành là Đỗ Nguyên Khoản ra giết. Có người đem đầu đuôi câu chuyện kể lại với Thái tử Thân, đồng thời khuyên Thái tử hãy đến gặp Hiến Công để biện bạch rõ ràng. Thái tử Thân nói: phụ thân tuổi đã cao rồi, nếu không có Ly Cơ thì ngủ không được yên, ăn không được ngon. Nếu chuyện này được vạch rõ trắng đen, Ly Cơ không bị lưu đày thì cũng bị giết chết, vậy thì phụ vương biết sống ra sao đây?

Có người lại nói với Thái tử Thân rằng: Thái tử điện hạ hãy mau chạy sang nước chư hầu khác đi! Thái tử Thân nói: mang theo tội ác giết cha cướp ngôi nghiêm trọng như vậy, còn vị vua chư hầu nào dám tiếp nhận ta? Ta tự sát là xong chuyện! Như vậy vào ngày mậu thân tháng 12, Thái tử Thân tự sát mà vong mạng ở Khúc Ốc".

Lã Bất Vi vừa kể xong câu chuyện, thì một người hầu bước vào mời Lã Bất Vi xuống bếp, chỉ thấy một con chó nằm chết còng queo trên mặt đất, còn Dị Nhân đứng bên cạnh, sợ đến nổi mặt xám như chàm. Lã Bất Vi đã hiểu ra, câu chuyện ông ta kể đã gợi ý cho Dị Nhân. Thái tử điện hạ đã thông minh ra nhiều.

Dị Nhân hỏi Lã Bất Vi: "Thái phó, làm sao ngài biết được trong thịt tế có độc?"

Thực sự, Lã Bất Vi không hề biết rằng trong miếng thịt có độc, chỉ là nghi ngờ mà thôi. Nghe Dị Nhân hỏi như vậy, để đề cao hình tượng của mình trong mắt Dị Nhân, Lã Bất Vi khéo léo lên giọng tự phụ rằng: "Mánh khóe của lão giào họ Phạm ấy làm sao có thể qua khỏi mắt tôi".

Dù rằng Lã Bất Vi nói rát nhẹ nhàng thỏai mái, nhưng chính mắt trông thấy miếng thịt quả thực là có độc, ông ta cũng sợ đến bủn rủn chân tay. Những chuyện đấu đá, hãm hại lẫn nhau kiểu một mất một còn trong chốn cung đình, trước đây ông ta chỉ biêt đến qua sách vở hoặc nghe người ta đồn đãi, nhưng giờ đây lại là nếm trải của người trong cuộc. Hơn nữa, lại còn liên quan đến cả bản thân mình. Cây muốn lặng mà gió chẳng đứng, từ nay về sau phải luôn luôn dè chừng như bước trên băng mỏng, những mũi tên ngọn giáo trước mặt sau lưng rồi sẽ liên tục đập kích vào bọn họ.

Dị Nhân định bỏ yến tiệc đêm này, đến chỗ Chiêu Tương vương để tố cáo Phạm Tuy.

Lã Bất Vi ngăn Dị Nhân lại, nói: "Thịt tế đã chuyển qua tay rất nhiều người, mà công tử lại không bắt được tận tay Phạm Tuy. Không có bằng cớ xác đáng rõ ràng, mà chỉ là hoài nghi, thì làm sao Đại vương có thể tin cho được. Điện hạ mà làm lớn chuyện, đòi chất vấn trước triều đình, chúng ta và bọn Phạm Tuy, Tử Hề công khai đối địch, vậy thì không còn chỗ nào có thể tiến thoái được nữa. Bọn họ thao túng trong triều đã lâu, người đông thế mạnh, nếu bị dồn đến đường cùng, chó càn dứt giậu, sẽ dũng mãnh vô cùng. Còn điện hạ mới từ Hàm Đan trở về, các văn võ đại thần trong triều đình được mấy người sẵn lòng liều chết để giúp cho điện hạ. Cái đạo văn võ, là phải vừa căng vừa chùng, căng hay chùng thì phải dựa theo thời thế. Điện hạ giờ đây cần phải âm thầm gây dựng, tăng thêm vây cánh, bao giờ thời cơ chín mùi, chỉ một gậy là có thể đập chết được bọn chúng!"

Dị Nhân hỏi: "Vậy còn bữa yến tiệc đêm nay..."

Lã Bất Vi nói: "Vẫn cứ bắt đầu không nên chậm trễ, đừng nên cho người khác biết chuyện này. Thịt khô mùi vị không khác mấy so với thịt tế, cắt ra một mâm bảo là thịt là xong".

Sự hưng phấn vă thắc thỏm, khiến cho Tử Hề trằn trọc không yên, cả đêm không tài nào ngủ được. Tử Hề nghĩ rằng, đến lúc mặt trời lên ba con sào, chắc rằng sẽ có tin dữ từ phủ đệ của Dị Nhân truyền ra. Nhưng suốt một buổi sáng, bên đó vẫn chẳng thấy động tĩnh tăm hơi gì về sau, Tử Hề không cầm lòng nổi, bèn đích thân sang phủ đệ Dị Nhân xem kết cục ra sao.

Khi Dị Nhân trang phục đẹp đẽ, vẻ như chưa từng xảy ra chuyện gì, bước ra đón tiếp Tử Hề, Tử Hề muôn phần kinh sợ. Tử Hề gắng hết sức tự trấn tĩnh, đến phòng khách để hàn huyên với Dị Nhân. Nói chuyện được một lúc, Tử Hề mới gợi đến đề tài phân chia thịt tế tối hôm trước. Dị Nhân điền nhiên nói: "Lâu lắm rồi không được thưởng thức thịt tế mà cha ban thưởng, hương vị của nó thật là nồng hậu khó quên, thấm sâu vào gan ruột. Đến bây giờ vị ngon vẫn còn trong miệng!"

Tử Hề úp úp mở mở, ba hoa một hồi, rồi cáo từ. Về đến phủ đệ của mình, Tử Hề nghi hoặc liệu có phải đã đưa nhầm miếng thịt có độc đi đâu không. Nhưng những vương tôn khác đều đã ăn cả, mà vẫn bình yên vô sự. Tử Hề kinh sợ, hoảng hốt khi nghĩ rằng phải chăng tổ tiên hoặc trời cao đã ngầm bảo hộ cho Dị Nhân. Nghĩ đến đấy, Tử Hề bất giác thấy sống lưng sởn gai ốc.

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Cờ Thúy Hoa: một loại nghi trượng của Hoàng đế, trên cờ có đính lông chim trĩ.

[2] Câu này ý nói bậc anh hùng tuy tuổi cao nhưng chí khí vẫn còn hăng hái. Ngựa Ký là tên một giống ngựa rất tốt.

[3] Thái phó: tên một chức quan, thầy dạy của vương tôn, công tử.

[4] Một giờ ngày xưa bằng 1/12 ngày.

[5] Nhung: giống khỉ, lông dài và mềm, rất quý.

[6] Tửu lệnh: cái thẻ dùng để phát rượu.

Xem tiếp Chương 13 Hậu cung dâm loạn

Hàn Diệu Kỳ

Chương 13 Hậu cung dâm loạn

Sau khi tới Hàm Dương, Dị Nhân đã bắt đầu một cuộc sống xa hoa truy lạc của bậc vương tôn quý tộc. Trong phủ đệ là điện Chiêu Thanh. Dị Nhân giành một khu riêng biệt cho vợ và các tì thiếp sinh họat giống y như hậu cung của vua chúa, người hầu trong đó toàn là cung nữ và hoạn quan; ngoài cửa có quân lính đứng canh giữ nghiêm nghặt. Cảnh tượng này khiến những người đàn ông như Lã Bất Vi ra vào rất bất tiện. Dù ở địa vị Thái phó, nhưng khi vào bên trong vẫn rất dễ bị người ta trông thấy.

Cuộc sống sung túc ở đây khiến cho tinh lực dồi dào và dung nhan kiều diễm của Triệu Cơ hồi phục lại một cách nhanh chóng đến thần kỳ. Thứ ma lực của tình dục ấy như những dòng máu chảy tuần hoàn trong huyết quản của Triệu Cơ từng giờ, từng phút. Mà ngoài vợ là Triệu Cơ ra, Dị Nhân còn có người thiếp tên là Di Hồng, mới đây Dị Nhân còn thu nạp thêm hai người thiếp khác nữa. Thời gian trên giường của Dị Nhân được chia ra cho cả bốn người đàn bà. Giống như ngọn đèn bão, Dị Nhân giao hoan thâu đêm khiến tinh lực, khí huyết hao tổn đến cạn. Cho dù cứ cách năm ba ngày Dị Nhân lại đến "ôn luyện" và "diễn tập" một số "chiêu thức" trên cơ thể của Triệu Cơ, nhưng cái bản sắc "anh hùng" như buổi đầu ở Hàm Đan đã sớm bị mất đi rồi. Đối với Dị Nhân thì tiêu chuẩn tối cao của nữ nhân là mới lạ và xinh đẹp. Triệu Cơ tuy như một tấm gấm thêu rực rỡ nhưng mặc lâu ngày thì cũng không thể nào tươi sáng như lúc đầu. Vì thế, nên khi Dị Nhân và Triệu Cơ ở bên nhau, đã không còn tiếng khanh khanh, ta ta nữa, mọi ý vị đã trở nên chán ngắt. Điều này đối với Triệu Cơ là một sự "trống vắng" lớn. Vì vậy mà có sự xao động mãnh liệt như đào non lấp bể đang xốn xang trong lòng Triệu Cơ. Mỗi lúc như vậy, Triệu Cơ rất khao khát được gặp Lã Bất Vi. Đặc biệt là khi nhớ lại lần đầu tiên chung đụng với Lã Bất Vi, niềm hạnh phúc trong thầm lặng lại bùng lên xen lẫn với cảm giác sợ hãi, và sự khao khát đó càng ngày càng trở nên mãnh liệt hơn. Điều này rất hợp với câu nói: "Nữ nhân tư tiền phu, nam nhân luyến hậu thế". Triệu Cơ muốn lên gặp Lã Bất Vi, nhưng với thân phận là Thái tử phi nhất cử nhất động đều được "tiền hô hậu ủng", mọi việ đều gây ra sự chú ý nên Triệu Cơ không dám khinh suất vọng động.

Mặc dù như vậy, nhưng Triệu Cơ vẫn ôm ấp hy vọng và nghĩ trăm phương nghìn kế để tìm cơ hội. Ông trời quả thương người có lòng. Một hôm Triệu Cơ tới phòng khách thấy Dị Nhân và Lã Bất Vi đang nói chuyện với nhau, vô tình Triệu Cơ nghe thấy Lã Bất Vi vói với Dị Nhân rằng: "Điện hạ, đã lâu rồi thần chưa tới Châu Bảo điếm, mọi việc làm ăn chỉ nghe bẩm báo lại qua lời của môn khách tên là Dương Tử, còn tình hình thực tế như thế nào thì rất mơ hồ. Ngày mai thần xin nghỉ một ngày để tới đó một lần xem sự thể ra sao". Hôm sau, Triệu Cơ liền thay đổi y phục và dẫn theo một thị nữ tới Châu Bảo điếm.

Khi Triệu Cơ tới, đã gần buổi trưa, ngoài quầy hàng khách mua đã đứng chật kín. Ánh mắt chăm chú của Triệu Cơ không màng đến những châu báu ngọc ngà ở trên quầy hàng mà chỉ muốn nhanh chóng tìm ra một khuôn mặt quen thuộc.

Trong quầy là một dãy những kẻ làm thuê chuyên tâm dốc sức vào việc tiếp đãi khách hàng. Lần lượt nhìn qua từng khuôn mặt xa lạ, Triệu Cơ đứng ở bên ngoài với sự thất vọng chán chường. Trong giây phút chần chừ ngần ngại, bỗng nhiên Triệu Cơ trông thấy một người hầu bưng tách trà đi qua căn phòng lớn, mở một cánh cửa nhỏ bên trong rồi bước vào đó. Triệu Cơ nghĩ thầm: "Trong đó vẫn còn một căn phòng, chắc là Lã Bất Vi đang ở đấy!"

Nghĩ tới đây, Triệu Cơ liền nảy ra một kế là gỡ một miếng ngọc bội ở trên người xuống, đưa cho người đứng trước quầy hàng và nói rằng: "Đây là món đồ mà hôm qua tôi mua ở đây, nhưng thấy không vừa ý nên muốn đổi lại". Người đó cầm lấy mảnh ngọc bội xem qua, nhìn mặt Triệu Cơ mấy lần rồi nói: "Mảnh ngọc bội này không phải mua ở đây!" Triệu Cơ nói là phải còn người kia thì bảo rằng không phải. Hai người lời qua tiếng lại, rất ồn ào, và chốc lát đã biến thành một trận cãi vã. Khi Triệu Cơ nói, mắt không lúc nào rời khỏi cánh cửa nhỏ kia.

Quả nhiên, chẳng phải đợi lâu, cánh cửa nhỏ đó mở ra, Lã Bất Vi xuất hiện và quát hỏi rằng: "Người nào ầm ĩ thế?" Lã Bất Vi ngay lập tức đã nhận ra khuôn mặt kiều diễm xinh tươi của Triệu Cơ. Liền vội vàng biết tội nói rằng: "Thái tử phi, đã mạo phạm!" Vừa nghe nói Thái tử phi giá lâm, tất cả khách hàng vội vàng chạy đi hết. Người bán hàng kia quỳ xuống thỉnh tội. Triệu Cơ không thèm để ý tới những chuyện xung quanh và nói với Lã Bất Vi rằng: "Chúng ta hãy vào trong nói chuyện".

Lã Bất Vi hi�0

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#book