Lạc Nhật - Nha Phiến Đính

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng



Phụ Bản

1. Lạc Nhật – 落日

Lạc – 落: (Động) Rơi xuống.◎Như: vũ lạc 雨落mưa xuống, tuyết lạc雪落tuyết sa.

Nhật – 日: (Danh) Mặt trời, thái dương.◎Như: nhật xuất 日出mặt trời mọc.

(trích Từ Điển Hán Việt Trích Dẫn)

Lạc nhật có nghĩa là mặt trời rơi xuống, mặt trời lặn, tức là khoảnh khắc hoàng hôn của ngày.

Chữ 'Lạc" còn có nghĩa là 'suy đồi, sa sút, bị bỏ lại phía sau, rớt lại, rơi xuống, sa vào'.

2. Tên gọi

Phỉ Phỉ Lỗ -菲菲鲁

Phỉ -菲 (Danh) Rau phỉ, củ cải, dép cỏ; (Phó) Nhỏ mọn, sơ sài; (Tính/ âm 'phi') Tốt, tươi đẹp.

Lỗ -鲁 (Tính) Đần độn, tư chất không được sáng suốt lanh lợi

Đăng Hỏa Lan San - 灯火阑珊

Đăng Hỏa - 灯火: (Danh) Đèn và lửa – Đèn đuốc, ánh đèn, ánh sáng.

Lan San - 阑珊: (Tính) Suy giảm, tiêu trầm, lu mờ, leo lét, tàn, sắp hết, khốn quẫn, khó khăn.

3. Socrates (Σωκράτης)

Socrates (469/470-399 TCN) là một nhà triết gia Hy Lạp cổ đại, ông được mệnh danh là bậc thầy truy vấn. Socrates được coi là nhà hiền triết, một công dân mẫu mực của thành Athena, Hy Lạp cổ.

Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: "Hãy tự biết lấy chính mình", "Tôi chỉ biết mỗi một điều duy nhất là tôi không biết gì cả". Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athena thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc, mặc dù vậy ông vẫn có thể thoát khỏi án tử hình này nếu như ông công nhận những cáo trạng và sai lầm của mình, hoặc là rời bỏ Athena.

Nhưng với quan điểm "Thà rằng chịu lỗi, hơn là lại gây ra tội lỗi.", ông kiên quyết ở lại, đối diện với cái chết một cách hiên ngang. Theo ông sự thật còn quan trọng hơn với cả sự sống.

4. Hoắc Khứ Bệnh – Chiến thắng ở núi Lang Cư Tư

Hoắc Khứ Bệnh ( 140 TCN - 117 TCN), là người huyện Bình Dương, quận Hà Đông, đại tướng chống Hung Nô của nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc

Năm 119 TCN, Hán Vũ Đế cử mười vạn kị binh đánh Hung Nô, giao cho Hoắc Khứ Bệnh và Vệ Thanh mỗi người chỉ huy năm vạn quân chia làm hai ngả đánh sâu vào địa phận Hung Nô. Hoắc Khứ Bệnh tiến quân theo hướng tây, đuổi người Hung Nô tới tận núi Lang Cư Tư (một đỉnh núi ở huyện Ngũ Nguyên, trấn Tuy Viễn), còn Vệ Thanh theo hướng đông đánh vào triều đình Hung Nô. Trong trận chiến này, ông dẫn quân vượt hai nghìn dặm tiến vào Đại quận, đánh bại quân Hung Nô do Tả Hiền Vương chỉ huy, tiêu diệt 70443 tên địch, từ đó Hung Nô chạy xa không dám quay lại, xóa được nạn Hung Nô uy hiếp triều đình.

Trong bài Vĩnh Ngộ Lạc – Tại đình Bắc Cố nhớ chuyện xưa, nhà từ nổi tiếng của Trung Quốc Tân Khí Tật đã từng viết về sự kiện này qua hai câu thơ

"Phong Lang Cư Tư

Doanh đắc thương hoàng Bắc Cố"

Câu trên là sự kiên phong núi tế thần tại Lang Cư Tư mừng chiến thắng, câu dưới chỉ sự hốt hoảng rút lui của quân Hung Nô khỏi bờ cõi Trung Nguyên.

5. Bá Vương Hạng Vũ ôm hận Ô Giang.

Hạng Tịch (232 TCN-202 TCN), tên tự là Vũ, còn gọi là Tây Sở Bá Vương. Ông là một nhà chính trị, một tướng quân nổi tiếng, người có công trong việc lật đổ nhà Tần và tranh chấp thiên hạ với Hán Cao Tổ (Lưu Bang) đầu thời nhà Hán.

Năm 202 TCN, Lưu Bang cùng quân của chư hầu đánh quân Sở thắng Hạng Vũ một trận quyết liệt ở Cai Hạ. Toàn thể quân Hán có đến năm sáu chục vạn. Quân của Hạng Vũ chỉ vào khoảng 10 vạn, lực lượng rất chênh lệch. Tuy nhiên Hàn Tín cầm quân Tề đánh đầu tiên cũng không thắng nổi, phải rút lui. Hàn Tín nhân lúc ấy lại tiến lên đánh quân Sở đại bại ở Cai Hạ phải rút vào thành.

Hạng vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết. Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Hạng Vương biệt cơ, Ngu Cơ tự vẫn. Sau đó Hạng Vương dẫn binh phá vây, đến Đông Thành, bấy giờ chỉ còn 28 kỵ binh. Kỵ binh Hán đuổi theo mấy ngàn. Sau đó ông tiếp tục thống lĩnh hai mươi tám kị binh phá vây, chiến đấu đến cùng.

Đường về duy nhất về Giang Đông phải qua sông Ô Giang, trên sông chỉ có một chiếc thuyền cũng của người đình trưởng Ô Giang cắm thuyền đợi Hạng Vũ, khuyên ông về Giang Đông làm vương, tuy Giang Đông đất nhỏ nhưng cũng là đất hàng ngàn vạn.

Hạng Vương cười nói:

Trời hại ta, ta vượt qua sông làm gì! Vả chăng Tịch này cùng tám ngàn con em Giang Đông vượt Trường Giang đi về hướng tây, nay không còn lấy một người trở về! Dù cho các bậc cha anh ở Giang Đông thương ta, cho ta làm vương, ta cũng còn mặt mũi nào mà thấy họ nữa. Dù họ không nói, Tịch này há chẳng thẹn trong lòng sao?

Nói rồi ông tặng người đình trường ái mã của mình tỏ lòng cảm tạ, cùng số quân lính chiến đấu khi quân Hán đuổi tới. Sau ông rút kiếm tự sát trên chiến trường, tại vị ngôi Tây Sở Bá Vương được năm năm.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro