LVDT vận dụng nhiều nhất là Ngũ Hành.
Ngũ Hành Sinh Khắc
Ngũ Hành: nôm na là 5 hành, 5 khái niệm chỉ 5 thuộc tính vật chất trong vũ trụ. Tương tác của Ngũ hành là Sinh - Khắc - Thừa - Vũ.
Tương Sinh:
Mộc -> Hỏa -> Thổ -> Kim -> Thủy
Tương Khắc
Thổ <- Mộc <- Kim <- Hỏa <- Thủy
Tương Thừa:
là dạng thái quá của tương sinh. Vd: Mộc quá nhiều thì không sinh được hỏa. Ăn no bội thực.
Tương Vũ:
là phản của tương khắc. Kim quá ít, hay yếu thì không khắc được mộc. Vd; dùng lưỡi lam (dao lam) thì không thể chặt được cây lớn (cây to).
Ngũ Hành Trong Can Chi
Can:
Giáp Ất thuộc Mộc
Bính Đinh thuộc Hỏa
Mậu Kỷ thuộc Thổ
Canh Tân thuộc Kim
Nhâm Quý thuộc Thủy
Chi
Dần, Mão mùa xuân thuộc Mộc
Tị, Ngọ mùa Hạ thuộc Hỏa
Thân, Dậu mùa Thu thuộc Kim
Hợi, Tý mùa Đông thuộc Thủy
Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là dư khí của bốn mùa và thuộc Thổ
Ngũ Hành Vượng - Tướng - Hưu - Tù
Xuân mộc vượng, hỏa tướng, thổ tử, kim tù, thủy hưu.
Hạ hỏa vượng, Thổ tướng, Kim tử, thủy tù, mộc hưu.
Thu kim vượng, thủy tướng, mộc tử, hỏa tù thổ hưu.
Đông thủy vượng, mộc tướng, hỏa tử, thổ tù, kim hưu.
nôm na:
Mùa xuân thì Mộc nắm lệnh mà làm Chúa của mùa, do đó họ hàng của Chúa là Hỏa được thế, dựa hơi mà đi lên, "tướng" lên. Kẻ thù của chúa thì bị tiêu diệt mà chết (tử), chống đống với chúa thì bị bỏ...tù và người trợ lực cho chúa, do hết sức mà...về hưu, nghỉ khỏe
___________________________________
Ngũ Hành Sinh - Vượng - Mộ
Một năm có 4 mùa. Một mùa có 3 tháng.
Tháng đầu tiên của mùa sinh khí mới phát khởi dần dần tăng trưởng tăng tiến nên gọi là Sinh, gọi cách khác là Mạnh.
Tháng giữa của mùa sinh khí trưởng thành, khởi phát cùng cực và bắt đầu xu hướng suy tàn nên gọi là Vượng, gọi cách khác là Trọng.
Tháng cuối của mùa sinh khí yếu kém, đang đi vào suy tàn tuyệt diệt, chỉ còn dư khí, gọi là Mộ, nghĩa là cho vào mộ, lưu kho. gọi cách khác là Quý.
Bốn tháng đầu của 4 mùa là Dần , Thân, Tị, Hợi gọi là Tứ Sinh hay Tứ Mạnh.
Bốn tháng giữa của mùa là Tý, Ngọ, Mão, Dậu gọi là Tứ Vượng hay Tứ Chính, Tứ Trọng.
Bốn tháng cuối của mùa là Thìn, Tuất, Sử, Mùi gọi là Tứ Mộ hay Tứ Quý.
Do vậy ta có:
Thủy trường sinh ở Thân, đế vượng ở Tý, mộ ở Thìn.
Mộc trường sinh ở Hợi, đế vượng ở Mão, mộ ở Mùi.
Hỏa trường sinh ở dần, đế vượng ở Ngọ, mộ ở Tuất.
Kim trường sinh ở Tị, đế vượng ở Dậu, mộ ở Sữu.
Ví dụ:
Bói quẻ Đỗ Tốc Hỷ (Hỏa-Hỏa) vào tháng Dần (Mộc). Vậy quẻ này là lâm trường sinh (gặp trường sinh) mà có sức.
Ngũ Hành Tuần Không
Ngũ hành tuần trung không vong, gọi tắt là Ngũ hành tuần không.
thập Thiên Can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
thập Địa Chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Khi phối với nhau thành một cặp Can Chi, vd Giáp Tý, Ất Sửu..., hết một chu kỳ để vòng trở lại khởi đầu là Giáp Tý thì phái mất 60 lượt. Ấy là Hoa Giáp.
Ấy vậy ta chỉ xét trên đoạn ngắn là 10 Thiên Can. Nếu phối Can Chi, vd: Giáp tý, Ất Sửu..., hết một lượt, từ Giáp đến Quý,để trở lại Can Giáp đầu thì chỉ mất 10 lượt. Và khi đó Địa Chi nào không lọt vào vòng Thiên Can trước đó thì gọi là Không Vong.
Vd:
1.Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần, Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, Canh ngọ, Tân Mùi, Nhâm thân, Quý Dậu, Giáp Tuất, Ất Hợi
==> Tuất Hợi không thuộc tuần trước nó nên gọi là Tuất Hợi lâm Tuần Không hay Không Vong.
2.Giáp Tuất, Ất Hợi, Bính tý, Đinh Sửu, Mậu Dần, Kỷ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ, Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu.
==> Thân Dậu lâm Không Vong.
______________________________________
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro