lamtienpr.tk/kinh_di.1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

                                                                       1029857 

   ----------------- Hồn Ma Giữa Đêm Khuya---------------

Thelma Eliza sống với bà ngoại ở một khu ngoại ô Brussels thuộc nước Bỉ. Ở đó có nhiều tầng lớp dân cư, từ gia đình kỹ sư, bác sĩ đến những người dân nghèo sống tạm bợ quanh các gầm cầu thang... Hàng ngày, họ toả đi quanh thủ đô để kiếm sống, tối đến lại quay về nơi cư ngụ quen thuộc của mình. Eliza sống trong "cộng đồng Harlem" ấy từ ngày còn bé (Harlem là khu cư trú tồi tàn dành cho người da màu nghèo khó ở Mỹ). Mãi đến năm 10 tuổi, cô bé mới lờ mờ nhận ra rằng mình không có cha mẹ. Những lần Eliza gặng hỏi, bà ngoại chỉ ậm ừ cho qua chuyện, điều đó càng làm cô tò mò hơn. Mười năm sau, trong một dịp tình cờ, Eliza mới phát hiện ra quyển nhật ký của mẹ, đó là một điều bí mật làm cô đau đớn và căm giận.

"... Brussels, ngày... tháng... năm...

Không hiểu sao ông ấy nhìn mình bằng ánh mắt rất lạ. Nhất là lúc khám bệnh, không hiểu sao ông ta cứ một mực đòi phải "khám bệnh lý toàn thân" của mình... Mình vẫn biết rằng đến bác sĩ khám bệnh là phải như thế. Nhưng... dẫu sao mình vẫn ngại. Mình còn con gái mà. Rồi ông ta lại không muốn lấy tiền nữa chứ, nhưng bốn mươi franc Bỉ chớ có ít đâu. Đã vậy, ông ta còn hẹn lần sau tới khám sẽ tính tiền luôn một thể..."

15 ngày sau, cô gái trong quyển nhật ký đã trở thành tình nhân của ông bác sĩ. Họ chênh lệch tuổi khá cao: 25. Không phải vì tình mà cô gái buộc phải sống với người đàn ông hơn cô khá nhiều tuổi.

"... Brussels, ngày... tháng... năm...

... Hôm nay là ngày buồn nhất trong đời mình. Làm sao mình biết được thuốc đó là thuốc mê. Vả lại, thái độ của ông ta cũng không có gì làm mình phả nghi ngờ. Ông ta nói: "Loại thuốc này cô phải uống ngay sau khi khám mới có hiệu quả..." và mình tưởng thật để rồi tỉnh dậy trong vòng tay ông ta, không một mảnh vải che thân. Chuyện đã lỡ rồi...

Nhưng đó vẫn chưa phải là ngày đau đớn nhất trong đời cô gái trẻ ấy. Eliza đọc suốt gần 70 trang nhật ký còn lại, quả là những tháng ngày mật ngọt tình yêu mà mẹ cô dâng hiến cho một người thuộc tầng lớp "trên". Cái chuyện "không chồng mà có con" ấy chẳng có gì quan trọng, thậm chí là bình thường trong con mắt của cư dân nghèo khó ở Brussels. Có điều mối tình đó không kéo dài được lâu.

"... Brussels, ngày... tháng... năm...

... Thật là đáng tội cho mình. Tại sao mình không kiên quyết dứt khoát ngay từ đầu, nên chuyện xảy ra mà mình thật cũng không ngờ nổi, ông ấy lại tệ đến thế. Chiều nau khi đẩy mình vào giường của gã đàn ông có râu quai nón, ông ta thản nhiên đến độ không ngờ được. Mình chẳng còn thiết sống nữa, nhưng phải trả thù. Ông ta là bác sĩ, liệu mình trả thù bằng cách nào đây? Mình phải..."

Eliza không đọc được nữa, vì quyển nhật ký viết tới đó đã bị cắt ngang, nhoè nhoẹt nước mắt. Số phận của mẹ cô bi thảm đến vậy sao? Đến lúc Eliza cầm trên tay quyển nhật ký ấy, ngoại cô mới chịu nói ra sự thật:

Lúc cháu được 4 tuổi, đêm nọ, mẹ cháu đãbỏ đi đâu mất. Nhiều năm trôi qua, không có tin tức gì về mẹ cháu cả. Bà có đến tìm người bác sĩ là cha cháu để hỏi, nhưng ông ta bảo rằng không biết và phủ nhận toàn bộ mối quan hệ với mẹ cháu.

Nhà ông ta ở đâu hả ngoại?

Gã có một phòng khám ở đường số 4, ngay khu trung tâm thủ đô, căn nhà rộng lắm.

Ông ta cỡ chừng bao nhiêu tuổi hở ngoại?

Gã chỉ kém ngoại hai tuổi. Nhưng con hỏi để làm gì?

Con chỉ có một ước muốn duy nhất: tìm ra sự thật và đem lại công lý cho mẹ con.

Cô gái tìm đến một ngôi nhà lớn nằm khuất dưới tàn cây râm mát. Khi Eliza tới, cô bắt gặp ngay trước vướn hoa cạnh cổng một người đàn ông - hay nói đúng hơn là một ông lão gần 70 tuổi, dáng người to cao, bệ vệ, đang bước tới lui, chắc là để tắm nắng. Nếu đúng như mô tả của bà ngoại thì đây chính là ông ta, bác sĩ Johnny Troix Mackensew, người có thể là cha của cô.

Cháu tìm ai?

Dạ... cháu tới... khám bệnh.

Tiền sảnh là một căn phòng rộng đầy ánh sáng do có nhiều cửa sổ mở toang. Johnny Troix ngả lưng xuống chiếc ghế dựa, vừa đặt ống nghe xuống bàn, gọi với ra sau nhà.

Kip, lấy dùm anh ống đo nhiệt độ.

Một phụ nữ khá đẹp, trẻ hơn một nửa tuổi của Johnny Troix nhanh nhẹn đi lên.

Vợ ông?

Đúng đó cháu. À mà này, hình như bác thấy mặt cháu quen lắm, gương mặt của một người mà bác từng gặp qua.

Thưa... chắc là bác nhầm.

"Ông ta bây giờ sống ung dung, an nhàn bên một người đàn bà khác, còn mẹ mình thì không biết đã đi đâu, hay là đã chết mất xác ở nơi nào rồi..."

Eliza nghiến răng căm giận người đàn ông bội bạc. Bất kể ông ta có là cha ruột hay không, cô quyết phải đòi lại công bằng cho mẹ.

Suốt ngày hôm đó Johnny Troix đâm ra bần thần. Một hình bóng oan khiên lẩn khuất trong ông nhiều năm nay đột ngột trở về khiến ông bị dằn vặt. Mãi đến nửa đêm ông vẫn chưa ngủ được. Từ phía nhà ngoài bỗng vang lên những tiếng động lạ lùng, có lúc nghe như tiếng chân người kéo lê dây xích sắt loảng xoảng đi qua đi lại, rồi có tiếng khóc nho nhỏ nghe như tiếng rên rỉ ai oán, Johnny Troix ngạc nhiên: "Sao lạ vậy. Mình mơ ngủ chăng...". Ông tự véo vào người để kịp nhận ra rằng mình đang thức giấc. Ông định đánh thức người vợ trẻ để cùng đi với mình ra nhà ngoài, nhưng thấy cô ta ngủ say quá nên ông ngồi dậy, một mình bước chầm chậm ra khỏi phòng. Johnny vừa ra được tới cửa phòng thì đột nhiên toàn bộ đèn trong nhà vụt tắt. Bóng tối bao trùm, Johnny còn đang phân vân không biết có nên đi tiếp hay không thì ngay khung cửa sổ xuất hiện một bóng đen. Và cùng lúc ấy, chiếc bàn bên ngoài được một bàn tay vô hình nào đó thắp lên một ngọn nến. Ánh sáng duy nhất ấy tuy không đủ cho cả gian phòng nhưng nó vừa kịp cho Johnny Troix nhìn thấy gương mặt xa xa là người tình năm xưa. Cũng mái tóc ấy, đôi mắt ấy, chiếc mũi thon nhỏ từng làm ông một thời mê đắm, nhưng hiện giờ trên khóe mép lại hiện ra... một dòng máu tươi. Đôi mắt nhìn ông đăm đăm, buồn rầu. Johnny Troix run bắn người lên, lắp bắp:

Tôi... có lỗi với em. Hãy tha thứ cho tôi. Nhiều năm qua tôi đã ăn năn lắm rồi...

Gương mặt sương khói kia chầm chầm lắc đầu. Điều làm cho Johnny Troix càng kinh sợ hơn là đôi môi của người đàn bà không hề mấp máy, nhưng từ đâu đó - như dưới âm ty - vọng lại tiếng nói yếu ớt:

Ông hối hận thực sao...? Nếu thế tại sao ông không đi tìm con xem nó là trai hay gái... sống chết ra sao... rồi ông còn lấy vợ khác nữa... Ha! Ha! Ông đáng tội lắm...

Johnny hét lên kinh hoàng khi thấy những móng tay nhọn hoắt giơ lên cao, từ từ tiến về phía mình. Ông bỏ chạy về phòng, lay vợ dậy:

Quỷ, bà ơi... có quỷ...

Không biết do ai mà đèn trong toàn bộ gian nhà lại bật sáng, lúc ấy người vợ choàng tỉnh và hết sức ngạc nhiên.

Chuyện gì thế anh?

... Quỷ... nó ở ngoài kia...

Kip càu nhàu:

Quỷ? Anh làm sao thế? Đèn sáng thế này thì quỷ ở đâu ra?

Lạ thật. Lúc nãy đèn trong phòng đã tắt kia mà...

Anh mơ ngủ thôi. Nằm xuống ngủ tiếp đi anh.

Rồi Kip thiếp ngủ, Johnny Troix đành chịu: "sức đàn bà trẻ mà...". Nhưng ông thì chẳng tài nào chợp mắt được. Nửa giờ sau, lúc ông cảm thấy hết sức mỏi mệt thì ở nhà ngoài đột nhiên lại vang lên tiếng rên rỉ.

Johnny Troix bật dậy lay Kip.

Bà ơi... dậy đi... có quỷ.

Gì vậy anh?

Này... Bà... lắng nghe đi Kip. Không còn nghi ngờ gì nữa...

Kip lắng nghe và quả thật, bên ngoài có tiếng rên rỉ thậm chí lại gào lên thật đáng sợ.

Nhưng Kip không tin.

Nếu có quỷ thì ít nhất em và anh cũng ohải xem chuyện gì xảy ra chứ? Đi, mình ra ngoài xem sao.

Nhưng khi hai người đi tới phòng ngoài thì ra tiếng gào thét kia hình như là của... một bộ phim đang chiếu trên ti-vi. Kip bật cười ngặt nghẽo:

Ôi! Hoá ra đây là quỷ của anh chớ gì? Ông ơi, ông quên tắt ti-vi rồi lại sợ hoảng lên khi ti-vi chiếu phim kinh dị. Em đi ngủ đây và anh nhớ, đừng gọi em nữa, em không thức dậy đâu. Chúc ngủ ngon, anh yêu...

Johnny Troix bán tín bán nghi. "Mình đâu có ngủ mê, không hiểu sao lạ lùng thế..."

Giữa đêm, Johnny Troix thức giấc lần nữa, ông quờ tay sang bên, không thấy Kip đâu. Đèn trong phòng tắt tự lúc nào, và ông hết sức lo lắng khi nhận ra chỗ nằm lạ hơn bình thường: ghế sa-lon ngoài phòng khách chứ không phải giường ngủ. Johnny Troix vừa quơ tay lên phía trên đầu thì chạm phải một bàn tay giá lạnh mà ông đoan chắc là của người chết. Ông bật ra khỏi ghế khi nhìn kỹ đó là một người đàn bà - người tình cũ - và cũng là bóng ma đã hành hạ ông gần như suốt đêm.

Chúa ơi! Tha cho tôi...

Tha? Ông... không nhớ là ông đã... giết tôi ra sao hả?

Tôi... tôi chỉ lỡ tay... tại em ép tôi quá. Em dồn tôi vào chân tường khi bảo rằng sẽ tố cáo tôi với cảnh sát... Tôi... không ngờ cớ sự xảy ra như thế!...

Đột ngột, đèn trong phòng lại tắt. Rồi đèn lại tự nhiên sáng lên, Johnny Troix không còn thấy trong phòng có ai cả. Tất cả rơi vào khoảng không tĩnh lặng đến ghê rợn. Hết chịu nổi nữa, Johnny Troix nhấc điện thoại gọi cảnh sát.

Cũng giống như đối với Kip, cảnh sát vẫn chẳng tìm thấy gì. Họ hỏi Kip:

Thưa bà, bà có thấy gì không?

Kip thực thà đáp:

Tôi chẳng nghe thấy gì hết. Chắc là ông nhà tôi ngủ mê đấy.

Viên cảnh sát vừa đi ra vừa lẩm bẩm, giọng không giấu được vẻ giễu cợt:

Thấy chưa. "Đó là hậu quả của việc già mà còn ham vợ trẻ". Chả trách...

Đêm sau, rồi đêm sau nữa, tình trạng cứ lặp lại như cũ. Buổi tối Johnny Troix cảm thấy kinh sợ bao nhiêu thì ban ngày lại cáu gắt bấy nhiêu.

=============================

----------------------------Âm Giới (chuyện huyền bí có thật)------------------

(Phần 1) [/align]

Tôi là đàn bà thật, nhưng không phải là người có tính dễ tin vào những chuyện hoang đường không tưởng, lại càng không tin rằng đời sống của một con người còn có thể được tiếp tục sau khi người đó đã chết, đã tắt thở qua đời, thêm nữa, lại còn có thể quay về, quay trở lại dương trần dưới trạng thái một linh hồn, hay dù chỉ bằng cái thể vía để trú nhập vào xác của người sống mà đòi lại những thiệt thòi oan khuất khi xưa. Lẽ dĩ nhiên, tôi cũng mong đó là những điều có thật. Nhưng tôi thật tình không thể tin một sự kiện phản khoa học đến không thể nào giải thích một cách tường tận như vậy.

Tôi rất thường xao lãng hoặc cùng lắm thì cũng chỉ mỉm cười cho qua chuyện mỗi khi có dịp tình cờ nghe những người chung quanh kể lại hoặc bàn tán về những hiện tượng vô hình giống như là điều chỉ có thể xảy ra do các bộ óc nhiều tưởng tượng của những người mê tín có thói quen "ăn cơm dương gian bàn chuyện âm phủ". Tuy tôi không có ý phản bác lại bằng lời nói nhưng lúc nào, tự trong tâm tôi cũng chỉ cho đó là những câu chuyện trong các cuộc trà dư tửu hậu, những câu chuyện huyển hoặc nhảm nhí.

Nhưng sự thật, vẫn là sự thật. Và, sự thật đó lại đã xảy đến cho chính tôi mới là điều thật lạ...

Vào thời gian vợ chồng chúng tôi sắp sửa cử hành hôn lễ cách đây bảy, tám năm, và tôi đã phải đối diện với một vấn đề hơi nan giải với một cô gái sấp sỉ tuổi tác với tôi, bởi vì cô ta có liên hệ quan trọng đến quyết định thành hôn của hai đứa chúng tôi. Trước khi chúng tôi gặp nhau rồi quyết định lấy nhau, tôi và anh Bích, người chồng tương lai của tôi đã có thời kỳ quen biết và giao du thân mật với Duyên - tên của cô gái này. Ðiều này thì tôi đã từng được anh Bích kể cho tôi biết một cách tường tận. Bích nói với tôi:

- Duyên với anh quen biết nhau trong một buổi sinh nhật tại nhà của một người bạn học. Sau lần đó, chỉ là những liên lạc nằm trong tình bạn bình thường. Một đôi lần anh với Duyên cũng có gặp lại nhau trong một vài buổi họp mặt thân hữu khác rồi đến ngày sinh nhật của cô ấy, theo phép xã giao, anh cũng nhận lời mời của cô ấy đến nhà cô ta tham dự sinh nhật với một món quà mang theo cho đúng lệ xã giao. Mối quan hệ chỉ có vậy thôi. Nhưng anh không dè, đến khi Duyên biết tin chúng mình sắp sửa thành hôn, thì cô ta lại làm dữ, cãi cọ cắng đắng rất lôi thôi. Anh cũng chẳng biết phải làm sao hơn là tìm gặp cô ta xác định lại vấn đề để cho cô ta hiểu rõ ràng rằng, giữa anh và cô ta chỉ là hai người bạn thuần túy.

Qua mối giao hảo giữa những bạn hữu của cả tôi lẫn anh Bích, tôi biết rằng những lời anh nói đều là sự thật và tôi rất cảm thông với anh. Chính vì vậy mà có lần tôi đã thẳng thắn đề nghị với Bích:

- Hay là anh để cho em gặp cô ta một lần. Em sẽ trình bày cùng cô ta rõ mọi việc, chắc cô ấy sẽ hiểu được lý lẽ thôi.

Bích sẵn sàng gật đầu:

- Ừ! Em nghĩ vậy cũng phải. Nhưng có cần sự hiện diện của anh trong lần gặp gỡ này không?

Tôi nhìn Bích từ chối:

- Chắc không cần đâu anh ạ! Con gái chúng em gặp nhau chắc chắn là dễ dàng chuyện vãn hơn là có một người khác phái xen vào, cho dù người đó là anh đi nữa, nhiều khi chỉ làm cho cô ta và em thêm bối rối...

Bích vui vẻ gật đầu.

Và tôi đã tìm gặp mặt Duyên đúng như tôi đã dự định. Câu chuyện giữa chúng tôi cũng chẳng có điều gì gọi là gay cấn, sau khi Duyên nghe tôi nói với nàng rằng, quan hệ tình cảm giữa tôi với anh Bích, rất thật dạ thương nhau và hai chúng tôi đã có chung một quyết định đi đến hôn nhân, nếu có bất cứ sự việc uẩn khúc nào đó xảy ra giữa anh Bích với Duyên mà tôi chưa được hay biết thì tôi mong cô ta cứ thổ lộ cho tôi biết, tôi sẵn sàng đón nhận. Nhưng cô ta chỉ nhìn tôi bằng đôi mắt rất buồn, chậm rãi nói:

- Không có gì đâu chị Phượng ạ! Giữa tôi và anh Bích thật ra, chỉ là một tình yêu đơn phương. Trong lòng tôi đã thầm yêu anh ấy nhưng tôi lại chưa bao giờ dám tỏ tình cùng anh ấy và ngược lại, anh Bích đối lại với tôi cũng rất mực thước đàng hoàng. Tôi cảm thấy có điều mất mát và buồn phiền khi nghe tin anh ấy sẽ lập gia đình cùng cô nên tôi có đôi lần chuyện trò than vãn tâm sự của mình với một vài người bạn thân thiết mà thôi! Cô đừng giận tôi làm gì. Thật ra, lỗi lầm này là do tôi tự tạo ra để rồi tự mình buồn khổ. Cô với anh Bích chẳng có lỗi gì đâu. Nhưng, tôi phải thú nhận với cô một điều là, có lẽ suốt cuộc đời, tôi không thể nào quên được hình ảnh anh Bích. Nhưng tôi hứa với cô sẽ hết sức tự chế và không để điều gì phiền toái cho hai người đâu.

Tôi chào tạm biệt Duyên trong niềm cảm xúc và thân tình. Tôi không quên nói với Duyên:

- Chị cũng thừa biết, duyên tình vốn là số mệnh. Ðừng muộn phiền và nhớ đến góp vui với vợ chồng chúng tôi trong ngày cưới.

Duyên cúi xuống nhè nhẹ gật đầu. Dường như nàng cố tình không để cho tôi nhìn thấy hai dòng lệ nóng vừa từ từ lăn trên đôi má, mắt đượm buồn da diết.

Ðám cưới của chúng tôi được diễn ra náo nhiệt và bình thường như trăm ngàn cuộc hôn lễ khác. Trong ngày cưới, cả tôi và anh Bích chồng tôi đều để tâm tìm kiếm sự hiện diện của Duyên trong đám đông bạn bè thân thuộc. Nhưng tuyệt nhiên, không một ai trông thấy bóng dáng của nàng. Vậy là Duyên đã không đến góp vui với chúng tôi.

Cưới nhau xong, vợ chồng chúng tôi dẫn nhau lên nhà dì Oanh ở thành phố Ðà Lạt để hưởng tuần trăng mật như đã định trước.

Một buổi chiều, sau một ngày tôi với Bích đưa nhau đi ngoạn cảnh núi đồi hùng vĩ khắp chốn khắp nơi, lên chơi cả trò rượt bắt trên đồi Cù rồi trở về nhà dì Oanh đúng vào giờ cơm tối. Tự nhiên, tôi cảm thấy trong lòng như có điều gì đó bất an nên không tham dự với cả nhà trong bữa ăn tối, nên xin phép lên lầu nằm nghỉ sớm. Một lát sau thì chồng của tôi cũng lững thững lên theo. Chúng tôi cùng nằm ngay ngắn đắp tấm chăn mỏng trong căn phòng vắng lặng nhìn ngó bâng quơ khung cảnh mờ sương ẩn hiện qua khung cửa sổ bên ngoài, thì bỗng nhiên, cả hai chúng tôi đều nghe như có một luồng gió lạnh thổi vào căn phòng. Sợ tôi cả trọn một ngày đã thấm mệt có thể bị nhiễm cảm nên chồng tôi vội đứng dậy kiểm soát lại cánh cửa sổ. Cửa vẫn đóng kín và cái màn treo không hề động đậy. Chàng trở lại giường nằm, ôm chặt lấy tôi như muốn biểu lộ tình thương yêu che chở và chúng tôi nằm đó chưa lâu, chưa có thể nói là cả hai đang chìm dần vào trạng thái mơ màng. Bỗng nhiên, cả hai chúng tôi cùng sửng sốt, cùng chỉ cho nhau thấy trên vách tường gạch sơn màu hồng lợt hiện ra một khung hình có lồng chân dung của một thiếu nữ.

Không đầy một phút đồng hồ sau, hình ảnh người thiếu nữ trong khung hình từ từ sắc nét lại giống như khi chúng ta bắt đầu mở màn ảnh TV lên, hình ảnh hiện lên từ mờ nhạt cho đến khi sắc nét lại để cho cả hai chúng tôi cùng nhận biết một cách rõ ràng đó là khuôn mặt của Duyên với làn tóc đen huyền phủ dài trên làn vải áo lụa trắng của đôi bờ vai tròn lẳn.

Ðiều đáng nhấn mạnh đây là một khung hình có màu sắc rực rỡ và còn có làn ánh sáng mát dịu từ đó tỏa ra y như màn ảnh của một chiếc máy TV đang hoạt động, chỉ khác là phần màu sắc rất là sống động và đậm nét. Cả tôi lẫn Bích đều nhận thức được rõ ràng là chúng tôi không thể nằm mơ. Chúng tôi đều nhớ rất rõ ràng tại chỗ đó trên vách tường đã không có treo bất cứ vật gì cả một tuần lễ nay và ngay cả trước ngày chúng tôi xin phép dì Oanh để lên đây tá túc trong tuần trăng mật. Sự kiện bất thường này khiến cho hai vợ chồng chúng tôi kinh ngạc tột độ, riêng tôi cảm thấy khiếp sợ vô cùng. Ngay khi nhìn thấy hình ảnh của Duyên, tôi vừa bàng hoàng tưởng như mình đang lạc vào giấc chiêm bao, vừa bối rối khiếp sợ. Tôi choàng tay ôm cứng lấy người chồng mà mắt không rời khung hình vẫn còn hiện hữu. Khuôn mặt của Duyên trong khung hình rất hiền lành và không biểu lộ ý gì như muốn làm hại chúng tôi. Cho dù là vậy, tôi vẫn cảm thấy sợ hãi đến nỗi không thể dằn được kêu lên. Tôi hét to lên để dì tôi có thể nghe thấy. Nhưng tuyệt nhiên, trong nhà từ trên lầu xuống dưới vẫn hoàn toàn im vắng. Từ dưới lầu không có ai chạy lên chỗ phòng của chúng tôi. Bích thấy tôi sợ hãi quá, chàng quơ tay kéo kín mép chăn phủ kín qua đầu cho tôi, đồng thời chàng ôm chặt lấy tôi cho tôi bớt sợ hãi.

Khung hình của Duyên bỗng đột nhiên mờ nhạt dần, giống như khi nó đã hiện ra, tất cả chìm biến đi đâu mất và không khí trong căn phòng ngủ cũng trở lại ấm cúng như lúc thường. Chúng tôi nằm đó một hồi lâu mà chẳng ai thốt với ai nửa lời cho đến khi chúng tôi thiếp vào trong giấc ngủ đầy mộng mị. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mơ của giấc ngủ kéo đến nhanh chóng bất ngờ, tôi lại thấy, tôi không còn ở trong căn phòng của nhà dì Oanh với chồng tôi nữa, mà tôi đang nằm ở một chốn nào đó mà tôi không cảm thấy gì là lạ lẫm, nhưng nhìn kỹ chung quanh, tôi cũng chẳng nhận ra được sự vật gì quen thuộc, nhưng chắc chắn không phải tôi đang nằm bên cạnh chồng trong căn phòng ngủ của nhà dì Oanh ở Ðà Lạt.

Tôi nhìn thấy tỏ tường hình ảnh của Duyên như trước đây tôi đã chạm mặt. Bất chợt, Duyên thản nhiên bước qua người tôi. Nàng cầm một vật gì đó ở trên tay giống như một cái bì thư và tiến ra phía bên ngoài cửa ra vào như cố ý bỏ lá thư ở ngoài đó để đợi người lấy thư đến lấy đi. Tôi nghe thấy tiếng nói của Duyên văng vẳng thoảng trong không khí:

- Không khéo anh ấy lại trách cứ là mình không chịu báo hung tin...

Tôi chẳng hiểu Duyên đang nói điều đó với ai, trong khi tôi ú ớ muốn bắt chuyện với nàng để bày tỏ tình thân thiện hay ít ra cũng cố hỏi Duyên xem tôi đang ở nơi nào hoặc có vài lời thăm hỏi. Nhưng tôi không thể nào nói lên được thành lời. Chắc hẳn, sự kiện này chỉ là một giấc mộng mà thôi.

Nhưng đến sáng hôm sau, hai vợ chồng chúng tôi tỉnh giấc thật sớm, vào lúc trời ngoài kia còn dầy đặc sương mù. Tôi cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh và tỉnh táo lạ thường bên tách cà phê đậm đà do chính dì Oanh đã pha sẵn còn đang nghi ngút khói. Bích, chồng của tôi với khuôn mặt rạng rỡ vui tươi đang hân hoan thả những hơi thuốc lá của buổi đầu ngày.

Ðến xế trưa, thừa lúc cả nhà đi vắng, kể cả anh Bích, chồng của tôi, cũng có chút việc phải đi ra ngoài thị xã mua sắm ít đồ dùng, tôi đem chuyện thấy khung hình hiện ra đêm qua ra kể với dì Oanh. Nghe chuyện xong, dì như có điều gì khác lạ, dì bảo tôi đợi một chút, rồi quày quả đi vào phòng riêng, dì trở ra với một tấm ảnh nhỏ trên tay. Tấm hình đó đúng là tấm ảnh của Duyên, đúng là khuôn mặt buồn vời vợi mà Duyên đã hiện ra trên tường nhìn hai vợ chồng tôi bằng tia mắt hiền lành với nụ cười buồn da diết. Dì Oanh nói nhỏ vào tai tôi:

- Con bé này tên Duyên. Nó cũng là cháu họ của dì, còn Bích, chồng của cháu bây giờ vốn là cháu trai của chú Phúc, tên người chồng của dì đã khuất núi. Ngày trước, cách đây ít lâu, Bích cũng lên đây thăm dì và tình cờ gặp Duyên trong một buổi tiệc tất niên. Hai người họ có quen biết nhau, nhưng Bích không có chút tình ý gì với Duyên cả. Trái lại, dì nhận thấy Duyên đã có cảm tình sâu đậm với Bích. Dì biết Bích ra vẻ dửng dưng...

Nói chuyện đến đây, đúng vào lúc đó có người đưa thư ngừng xe lại trước sân nhà. Ông ta trao cho dì Oanh một xấp thư mới gởi tới. Dì Oanh đứng dậy đón lấy mớ thư. Dì vừa đi vừa lật lật từng lá thư xem của những ai đã gởi. Bỗng dì bặm lấy môi, nhìn tôi trợn tròn đôi mắt:

- Duyên nó đã qua đời thật rồi Phượng ạ! Ðây là điện tín từ Sài Gòn vừa mới gởi lên. Cháu xem này.

Tôi đưa tay đỡ lấy điện tín từ bàn tay run rẩy của dì Oanh. Cái chết đột ngột của Duyên đã khiến dì Oanh thật sự xúc động bàng hoàng. Chồng tôi, ngay phút đó cũng đã về tới, chàng thong thả bước vào nhà, và tỏ ra hơi ngạc nhiên khi nhìn thấy thần sắc của dì Oanh có hơi khác lạ, trong khi trên tay của tôi còn đang cầm tờ điện tín. Tôi trao ngay tờ giấy điện tín cho Bích. Chàng đọc xong, bất giác buông tiếng thở dài:

- Cô ta chết rồi Phượng ạ! Nhưng chết trong hoàn cảnh nào thì tờ điện tín này không thấy nói.

Chúng tôi hốt hoảng cùng nhớ lại hình ảnh của Duyên chiều tối hôm qua trong căn phòng ngủ ở trên lầu. Không hiểu Duyên bị chết bởi nguyên do nào, vào lúc nào mà vong linh của nàng hiển linh như vậy. Duyên còn cẩn thận hiện về báo riêng cho tôi biết trong giấc ngủ chập chờn, sẽ có người gởi bức điện tín lên thông báo cho cả hai vợ chồng chúng tôi được biết để mà đón nhận.

Tôi với chồng tôi quyết định chấm dứt tuần trăng mật sớm hơn dự định. Chúng tôi vội vàng từ giã dì Oanh với ý định trở về Sài Gòn cho kịp ngày chôn táng của Duyên. Nhưng khi về đến nơi thì mọi chuyện chôn cất ma chay cho Duyên cũng đã xong xuôi cả rồi. Vợ chồng chúng tôi chỉ còn có thể đưa nhau tới nấm mộ còn xanh cỏ của Duyên để thắp cho nàng một nén hương tưởng niệm rồi sau đó, chúng tôi lại bị cuốn hút vào những công việc bận rộn hằng ngày...

Một thời gian sau đó, thỉnh thoảng vợ chồng tôi vẫn giữ mối dây liên lạc với gia đình của Duyên bằng cách lâu lâu hai chúng tôi cùng đưa nhau đến thăm viếng bà mẹ già của Duyên nơi căn nhà cũ tọa lạc ở khu ngoại ô Gò Vấp, gần tổng y viện Cộng Hòa. Căn nhà giờ đây nhuốm vẻ tiêu điều hơn cả lúc Duyên còn sống. Cảnh nhà đơn chiếc với thân mẫu và cậu em trai khoảng mười mấy tuổi của nàng. Ðời sống thường nhật của bà cụ vốn đã thu gọn lại, khép kín từ lúc chồng bà qua đời, giờ đây lại càng khép kín hơn nữa. Nhìn bà cụ với cảnh nhà đơn chiếc, lòng tôi càng thêm thấy áy náy và chợt nảy ra ý định mời bà cụ đến nhà của tôi để cho hai bà cụ gì có cơ hội thay đổi không khí sinh hoạt, gặp nhau chuyện vãn cho vui. Tôi đem chuyện này ra nói với Bích, anh tán đồng ngay. Anh Bích nói:

- Chúng mình chở bà mẹ của Duyên đến nhà mẹ em là được rồi, phải không?

Nghĩ xong là làm, chúng tôi đến thăm mẹ Duyên, nói với cụ rằng chính thân mẫu của tôi, cũng cần có người bầu bạn chuyện vãn cho vui nhà. Nhưng bà mẹ của Duyên đã mấy lần từ chối, viện cớ cụ đã già và sức khỏe không cho phép bà di chuyển đó đây nhiều. Sau cùng vì tôi năn nỉ mãi, bà cụ nhận lời để cho chúng tôi gọi một chiếc xe taxi chở cụ xuống nhà để chuyện vãn với mẹ tôi.

Có một điều khác lạ là nhà tôi có nuôi một con chó mực vạm vỡ nhưng nó lại rất hiền lành dễ thương. Không hiểu vì sao vừa thấy chiếc taxi chở mẹ của Duyên ngừng lại trước cửa nhà, con mực đã cụp đuôi lủi mất cho đến xế chiều, khi bà mẹ của Duyên đã ra về, con mực mới xuất hiện trở lại, nó rên lên ư ử và cứ chúi mũi mò mẫm đánh hơi khắp nhà.

Ít lâu sau, như để trả lễ, bà mẹ của Duyên ngỏ ý cũng muốn mời mẹ của tôi đến nhà chơi. Mẹ tôi có tâm tính vốn rất tươi vui và dễ tính, cụ nhận lời ngay:

- Phải đó con! Chúng ta cũng nên thỉnh thoảng ghé đến thăm để bà cụ được vui. Ðời sống của bà cụ xem ra, kể từ ngày đột nhiên mất đi đứa con gái yêu quý vì cô ta tự vận bởi thất tình, bà cụ trở nên trầm mặc, cảnh nhà tẻ lạnh quá...

Tôi ở nán lại với mẹ tôi trò chuyện với bà cụ mẹ của người đã khuất trong căn nhà giờ đây rất hoang tàn lạnh lẽo. Chúng tôi cảm thấy rờn rợn ngay giữa ban ngày, nhưng không biết đích xác là tại sao cả hai mẹ con lại cùng mang chung một cảm giác. Chúng tôi muốn sặc lên khi tấm thảm lau chân đã củ kỹ để trước ngưỡng cửa ra vào bỗng nhiên tung lên y như có một bàn tay nào đó tự cầm lên giũ giũ thật mạnh khiến bụi đất bám đầy ở đó tung bay lên khắp cả nhà, bụi bậm bay ngang cả nơi chúng tôi đang ngồi. Bà cụ thì dường như đã quá quen thuộc với những hiện tượng lạ lùng như thế này. Bà bình tĩnh nói:

- Không có gì đâu. Lại là con Duyên đó mà.

Nghe bà nói vậy, tôi bỗng nhiên cảm thấy rất ghê sợ. Chẳng lẽ, những chuyện phản khoa học như chuyện này lại có thể xảy ra giữa ban ngày và còn được mặc nhiên thừa nhận. Bà cụ thân mẫu của Duyên lẩm bẩm như phân trần:

- Không phải lúc nào hồn ma của con Duyên cũng hiện về làm dấy động như vậy đâu. Chắc nó có điều gì còn oan khuất chưa giải tỏa được đó mà!

Tôi liên tưởng ngay tức thời ra nỗi niềm oan uất của Duyên vì mối tình đơn phương của nàng đã dành cho chồng của tôi - anh Bích - đã không được toại nguyện cho nàng khiến nàng trở nên thất vọng rồi tự đi tìm cái chết.

Hai mẹ con tôi thật tình không còn muốn nán lại trong căn nhà lạnh lẽo này nên vội vã cáo biệt bà cụ để ra về. Vài ngày sau lần viếng thăm bà mẹ của Duyên, dường như chính linh hồn của duyên đã đi theo mẹ con chúng tôi về nhà bởi vì, sau này, không cần phải có sự hiện diện của bà mẹ Duyên thì con chó mực trong nhà chúng tôi vẫn thỉnh thoảng rú lên từng hồi, nó còn rên rỉ y như nó có điều chi đang hậm hực. Rồi những hiện tượng vô hình bắt đầu nổi lên rõ rệt hơn từ ngày đó. Trong căn nhà bếp của chúng tôi, chén đĩa tự nhiên bay khỏi kệ và rớt bể lung tung. Bàn ghế thì cứ di động quanh phòng luôn luôn như có bàn tay người xô đẩy. Những bức hình treo trên tường từ bao lâu nay, tự nhiên bị tháo gỡ rơi xuống sàn gạch.

Tôi bắt đầu nghĩ ngợi nhiều hơn đến những vấn đề huyền bí và những quan niệm đánh thép của tôi xưa nay đối với những chuyện hoang đường đang bị giao động ghê gớm. Tôi cảm thấy sợ sệt vô cùng vì chợt nhận ra cảm giác như lúc nào cũng có tia nhìn của một người nào đó đang bám sát vào từng hành động đi đứng của tôi. Ðôi mắt đó cứ nhìn tôi chằm chặp chẳng rời, nó theo dõi tôi sát nút cả ngày cũng như đêm.

Phần 2) [/align]

[/align]Một hôm, ngay giữa ban ngày lúc tôi đang đứng lom khom, trên tay có cầm một cây kéo nhỏ để cắt tỉa một vài nhánh cây bonsai mọc ra dư thừa, thình lình tai tôi nghe một luồng gió khá lạnh thổi tạt qua sau gáy. Tôi chưa kịp định thần, đã nghe một tiếng đổ vỡ từ trong phòng khách vọng tới. Theo phản ứng tự nhiên tôi quay đầu nhìn vào thì rõ ràng, tấm màn ren đang treo trên khung cửa sổ đã bị tháo bung ra và rơi ngay xuống đất cùng một lúc với cái độc bình sành đặt trên kệ sách cũng bị rơi và bị vỡ toang trên nền gạch bông. Mẹ tôi lúc đó lại không có mặt ở nhà, càng khiến cho nỗi sợ hãi của tôi dâng lên cao độ.

Tôi hoảng hốt sập mạnh cánh cửa nhà lại rồi kêu một chiếc xe xích lô hối người đánh xe đạp thật nhanh đến sở làm của chồng để báo tin cho anh ấy. Nghe tôi hớt hải kể ra tự sự, Bích không nói không rằng, bảo tôi chờ anh ở đó để anh vội vàng xuống chỗ đậu xe, lái đưa tôi về nhà. Lúc vợ chồng tôi về đến nhà, các hiện tượng lạ lùng đã ngưng, nhưng những dấu tích rơi vãi, đổ vỡ thì vẫn còn sờ sờ. Có lẽ, lúc đầu khi nghe tôi nói, chồng tôi chỉ cho rằng tôi bị ám ảnh hoặc nói vậy để đùa nghịch, nhưng khi chính mắt anh chứng kiến những cảnh tượng như căn phòng đã bị phá thì Bích không còn có gì để nghĩ rằng tôi nghịch ngợm một cách kỳ quái như vậy nữa. Bích có vẻ mất bình tĩnh và chàng đổ lỗi ngay cho bà mẹ Duyên. Bích nói bằng giọng hằn học:

- Ðích thị những hiện tượng này khởi sự từ lúc mẹ của Duyên đã đến thăm viếng vào lần trước. Chẳng lẽ bà ta là ma.

Nhưng chồng tôi vội chặc lưỡi, chàng nói như phân trần:

- Không phải vậy đâu! Chính bà cụ cũng từng chịu đựng cảnh phá phách này y như chúng ta kia mà. Vong hồn của Duyên có thể chưa được siêu thoát và có điều chi oan khuất chưa được giải tỏa cho nên nàng đã trở về, đã cố tình nhắc nhở chúng ta rằng quanh đây, có sự hiện diện của cô ta.

Những hiện tượng tương tự còn được tiếp diễn cả tuần lễ sau đó. Không những đồ vật tự chuyển động, mà tất cả những người trong gia đình của chúng tôi đều nghe thấy có tiếng thú vật gầm rú ngầm ngừ phát ra từ dưới gầm giường hay dưới gầm bàn, ban đêm còn thấy có những con mắt đỏ rực lửa nhìn dán vào trong nhà từ bên ngoài cửa sổ, cùng với tiếng đập cửa vang lên cả ngày lẫn đêm, như tuyệt nhiên, không có ai bên ngoài cả.

Ðối với riêng bản thân tôi, sự cứng cỏi và quan niệm không mấy tin vào những hiện tượng huyền bí phản khoa học đang bắt đầu bị lung lay. Dù không thể nào chấp nhận, nhưng tôi vẫn phải chính mắt cùng với những người trong gia đình chứng kiến liên tiếp những hiện tượng kỳ bí và không thể nào giải thích này. Có những lần, sự việc diễn ra ngay cả ban ngày khiến cho tôi nghe rùng rợn đến nổi cả da gà.

Có nhiều hôm, chịu đựng một mình không thấu tôi quyết định lấy chiếc xe gắn máy của riêng tôi để chạy trốn khỏi căn nhà mà từ bao năm nay tôi đã được sống qua những năm tháng thật êm đềm hạnh phúc. Tôi leo lên, định đạp cho xe nổ máy, bỗng dưng tôi cảm nhận được cái lực từ trường ngay trên chiếc xe bé nhỏ của tôi. Dù tôi đã tận sức cũng không thể nào đạp cho cái pê-đan xe quay được lấy nửa vòng, do vậy chiếc xe không thể nào nổ máy được. Tôi cố gắng thêm nhiều lần, nhưng chỉ vô ích mà thôi. Tôi vừa nơm nớp lo sợ vừa cảm thấy rời rã cả hai chân, đành bỏ chiếc xe lại đó, tìm đến một chỗ có nhiều ánh nắng chiếu xuống sáng trưng và ấm áp, bó gối ngồi đó kiên nhẫn chờ đợi cho đến giờ chồng tôi hết giờ làm việc từ sở quay về nhà.

Sự việc như vậy cứ thế mà tiếp diễn đến nỗi về sau, cả nhà chúng tôi, ai nấy đã gần như quen thuộc lắm với những hiện tượng vô hình hiện lên phá phách một cách vô tích sự này, cho đến gần ngày tôi tôi sanh nở đứa con đầu lòng, khi tôi bắt đầu đau đớn chuyển bụng đến ngất đi tự lúc nào tôi cũng không hề hay biết. Chỉ có về sau này, sau khi qua hết mọi chuyện, tôi được mẹ tôi và chồng tôi kể lại cho tôi nghe đầu đuôi diễn tiến mọi sự việc.

Cái thai trong bụng của tôi thì quá lớn, trong khi tôi lại là một sản phụ mới sanh con so lần đầu. Sau hơn mười mấy tiếng đồng hồ đau đớn, tôi bị ngất đi và đã được chuyển ngay vào phòng giải phẩu sau cái quặn đau cuối cùng đến độ tôi phải tắt thở để rồi tim tôi ngừng đập. Tất cả mọi người đã tận lực áp dụng hầu hết các phương pháp khoa học hiện đại để hồi sinh cho tôi, nhưng thần thức của tôi vẫn không chịu trở lại. Vào lúc các vị bác sĩ sản khoa muốn buông suôi bỏ cuộc...

Từ lúc bấy giờ, tôi thấy tôi bị bao trùm bởi một loại ánh sáng vàng xanh lẫn lộn, di chuyển quanh tôi theo nhịp độ vòng tròn, đem lại cho tôi một cảm giác hết sức bình an và vô cùng thoải mái. Tôi cố định thần mà tai cũng không nghe thấy một tiếng động khá lạ nào và mắt cũng không nhìn thấy gì khác, ngoài hai luồng ánh sáng lạ lùng đó. Tôi cảm nhận rõ ràng và chính xác rằng, tôi vẫn còn ở bên trong thân xác, nhưng đang bước vào một thế giới khác lạ của tương lai, một giai đoạn hoàn toàn mới mẻ. Tôi lại còn nhận ra thêm rằng cái trí thức, thần thức của tôi đang mãnh liệt dồn lên trên phía đỉnh đầu và yên trí rằng nó sẽ thoát ra từ đó khi tôi đã tắt thở.

Nhưng thần thức của tôi dù chuyện động có mãnh liệt, ước muốn của tôi dù có cấp thiết đến mấy đi nữa cũng không thể nào thoát ra được bằng cái cửa ngõ ấy. Và bỗng nhiên tôi thấy có sự hiện diện của một người đàn ông to lớn dềnh dàng đang uy nghiêm đứng trước mặt và dường như ông ta đang trực tiếp tham dự và cản trở và diễn tiến thoát xác của tôi, và cái chết đang diễn ra thật từ từ. Tôi cố gắng để nhìn cho rõ khuôn mặt của ông ta, nhưng tôi đã chẳng trông thấy được vì dường như có một làn mây nhẹ bao phủ chung quanh tầm nhìn của tôi. Qua làn mây đó, tôi nhìn thấy một cánh đồng thênh thang xanh mát những cây và cỏ.

Tôi cảm thấy yêu mến ngay cảnh giới thanh thoát nhẹ nhàng này rồi tôi tự nhủ lòng sẽ cố đi đến đó và ở đó luôn không muốn đi bất cứ nơi đâu nữa. Nhưng người đàn ông to lớn đó lại nhất định ngăn cản, không để cho tôi qua. Tôi với ông ta không cần trao đổi với nhau lời nào mà lại cảm thông được nhau tất cả mọi ý tưởng cả hai đang muốn biểu lộ:

- Tại sao tôi chết? Và nếu tôi đã chết, tôi đã rất yêu mến cảnh giới này, tại sao không cho tôi đến và ở lại đây?

- Chưa được đâu! Bà đến đây là do một sự tình cờ bất đắc dĩ, không nên đỗ lỗi cho ai...

Tôi thẳng thắn bày tỏ ý định cùng sự thèm thuồng được lưu ngụ nơi đây và yêu cầu ông ta giúp tôi thực hiện ước muốn đó. Ông ta mặc khải tư tưởng ngay lập tức để cho tôi có thể hiểu được rằng:

- Chưa phải lúc bà được đến nơi đây. Bà còn cả một đời sống thật dài ở phía trước. Tôi có cho bà ở lại không những tôi hủy hoại kiếp sống của bà mà còn gây ra sự liên can đến rất nhiều người khác. Bà không nhớ bà đang có thai hay sao? Ðịnh mệnh của thai nhi này cần được thực nghiệm ở thế gian. Tôi không phải là người có uy quyền để cho đứa bé mất đi cơ hội chào đời của nó, lại càng không thể giúp bà chấm dứt mọi nghiệp nợ với thế gian, với chồng con cùng với những người thân yêu của bà. Bà hiểu chứ?

Nghe ông ta giải thích hợp tình hợp lẽ, tôi đã thấy xiêu lòng. Tôi với chồng tôi đã chẳng từng mong ước có một đứa con cho mình và cho mẹ tôi bồng ẵm là gì. Tôi bỗng nhớ đến những hiển hiện vô hình đã xảy ra liên tục ở thời gian gần đây làm cho chúng tôi rất đỗi bực mình và sợ hãi. Tôi liên tưởng đến vong linh của người con gái tên Duyên. Tôi muốn được nhân cơ hội chạm mặt với người đàn ông to lớn mà tôi cho rằng ông ta có thể hiểu biết thấu đáo mọi điều huyền nhiệm này xin cho ông ta ban cho tôi một cơ hội để tìm hiểu rõ ràng mọi nguồn cơn đưa đến những hiện tượng đó.

Thoáng chốc, người đàn ông hiểu ngay tôi đang muốn gì. Ông ta mỉm cười vẫy nhẹ tay áo, Duyên đã đứng trước mặt của tôi từ lúc nào. Khuôn mặt của Duyên vẫn không có gì thay đổi. Duy chỉ có đôi mắt của nàng là mang mang một nỗi buồn xa vắng. Duyên đứng đó bình lặng nhìn tôi, tôi nói với nàng:

- Tại sao chị lại chọn lấy cái chết đột ngột và thê thảm như vậy?

Duyên nhanh chóng trả lời:

- Cho đến bây giờ, tôi mới biết rằng hành động như vậy là một quyết định hết sức sai lầm. Tôi đã tự ý chấm dứt cuộc đời của mình mà chưa có lệnh của bề trên cho phép. Vì vậy, tôi còn đang bị câu lưu để được xét sử trong nay mai. Nhưng chắc chắn tôi không thể được cho đi đầu thai giống như cái chết của mọi người vì qui luật âm giới đã ấn định rõ ràng chỉ đến khi ngày tận số trên dương gian, mọi người mới được "gọi về" dưới hình thức lìa trần bằng một chung cuộc hợp lý tùy theo nghiệp lực thiện ác riêng tư để rồi họ sẽ được tái sinh theo vòng chuyển hóa luân hồi.

Bản thân của tôi thì lại khác. Tôi đã tự ý đình chỉ vận số của mình nên bây giờ, theo nghiệp lực đó, tôi bị cầm giữ ở một nơi chốn riêng biệt, đợi cho đến đúng ngày tháng như đã định trước thuộc về số mệnh của tôi ở dương trần, lúc bấy giờ tôi mới được đem ra tái xét để cho đi đầu thai vào cảnh giới nào thì thật tình tôi cũng không thể biết trước được.

Tôi chuyển ý lực như muốn gạn hỏi cô ta về những hiện tượng vô hình xảy ra trong sinh hoạt gia đình của chúng tôi. Cô ta giải thích như sau:

- Ðó cũng là những việc do chính tôi tạo ra, mục đích chỉ để lưu ý mọi người đừng sớm quên lãng tôi đi mà thôi. Tôi vẫn còn thương yêu anh Bích - chồng của chị - rất nhiều. Khi tôi còn sống, tôi cứ tưởng điều gì mình muốn là phải thực hiện cho bằng được. Tôi không hiểu chút gì về định luật nhân duyên. Cho đến hôm nay thì chị cũng đã biết được điều đó rồi. Tôi với anh Bích quen nhau trước khi anh ấy gặp và quen chị. Tôi thì yêu thương anh ấy vô cùng. Nhưng nhân duyên của chúng tôi không hề sắp đặt để cho tôi với anh ấy nên bề gia thất, thành vợ thành chồng. Cho nên, cho dù lòng tôi có tha thiết ước ao như vậy, có tìm đủ mọi cách để thực hiện ước muốn của mình thì vì không có với nhau duyên nợ xe kết từ bao nhiêu tiền kiếp nợ nần, tất cả những mưu định của tôi đều chỉ dẫn đến con số không, đều chỉ có một mình tôi cảm động và yêu thương anh ấy. Ðối lại tình cảm của tôi, anh ấy vẫn vô tình, vẫn không chút động tâm nào để nghĩ rằng anh ấy có thể đáp lại tình tôi. Cho đến khi tôi tự ý kết liễu đời mình, trở về với cõi âm sâu lắng, tôi mới hiểu ra thì mọi sự đã rồi. Và mọi sự đã rồi, đã được an bài và diễn ra đúng như những quy định của căn phần duyên số chị phải là vợ của anh ấy và anh ấy phải là chồng của chị, rồi đến đứa con trong bụng mà chị sắp sửa sanh ra cũng bị chi phối chung trong một định luật. Số phần của cháu bé phải có mẹ có cha, chị còn phải trở về để thi hành cho xong vai trò nhiệm vụ của một người vợ, một người mẹ nuôi nấng dạy dỗ cho con.

Từ đây, tôi đã hiểu ra tất cả mọi điều rồi. Tôi hỏi Duyên vì sao cô ta cứ hiện về để cho chúng tôi phải bao phen khiếp sợ? Cô ta cho biết như sau:

- Những lúc tôi không kềm hãm được bản ngã của mình rồi hiện về bày tỏ lòng giận hờn ghen tức, tôi không có làm cho ai khiếp sợ. Sự khiếp sợ là của người chứng kiến. Tôi làm ra sự khiếp sợ đó để làm gì trong khi tôi vẫn còn yêu thương anh Bích và chỉ muốn anh ấy nghĩ đến tôi.

Tôi yêu cầu Duyên cũng như tôi, từ nay đã hiểu rõ tường tận được định luật nhân duyên, mỗi người có muốn hay không cũng điều phải chấp hành căn mệnh thì đừng có hiện về quấy phá nữa để cho tôi được yên lòng lo lắng cho đứa bé sắp sửa chào đời. Duyên gật đầu, vẻ cam tâm chịu đựng. Tôi thật lòng cảm động trước thái độ nhẫn nhịn của cô ta, tôi nói bằng tất cả sự chân thành:

- Mọi việc đã xảy ra rồi, tôi không biết chúng ta bây giờ là hai miền âm dương cách biệt, tôi có thể làm được điều gì tốt đẹp cho chị thì xin chị cứ nói đi, tôi xin hứa sẽ làm với tất cả sức mình. Duyên nhìn tôi ra chiều cảm kích:

- Cám ơn chị đã nghĩ đến những điều tốt đẹp cho tôi. Thật ra vong linh tôi cũng chẳng cần thiết bất cứ điều gì ngoài sự cầu nguyện cùng những lời kinh sớm đem lại việc hóa giải tình oan nghiệp chướng. Chị và những người còn nghĩ đến tôi hãy cho tôi những lời cầu nguyện là đủ rồi. Từ nay, tôi sẽ tự hãm mình, sẽ không hiện về để cho chị phải sợ sệt nữa.

Nói rồi, hồn phách của Duyên từ từ tan biến mất. Tôi không thể nào quên được ánh mắt u buồn vời vợi thật đáng tội nghiệp của cô ta.

Người đàn ông to lớn dềng dàng lại hiện ra trước mặt tôi từ lúc nào tôi cũng không biết. Ông ta bảo tôi:

- Tôi chỉ ban cho bà một ân huệ sau cùng để cho bà có thể nhìn thấy những gì sẽ xảy ra sau này và rồi bà sẽ tự hiểu được tại sao bà chưa được ra đi như bà đòi hỏi.

Tức thì, cuốn phim của tương lai bắt đầu được hiện ra để cho tôi thấy được rằng tôi và con gái của tôi đã cùng nhau đi vào tuổi trưởng thành. Con gái của tôi lúc này thật rất xinh đẹp và dễ thương. Từ giai đoạn này, khúc phim tương lai được diễn tiến chậm chạp hơn cho đến lúc tôi chứng kiến rõ ràng một bà lão trông rất từng trải đang nằm trên giường và chắc chắn là bà ta đang sắp sửa đón nhận cái chết đã cận kề. Có một người thiếu phụ khác tuổi trạc ngoài 40 đứng ở bên cạnh giường bà lão mà tôi không thể biết người thiếu phụ này là ai. Bà ta đứng đó với rất đông con nít trông rất thân tình như trong một gia tộc mà tôi cũng không hề biết được chúng là ai.

Tôi hỏi người đàn ông to lớn:

- Bà lão đó là ai? Sao có vẻ giống tôi quá vậy?

- Chính là bà đó! Người thiếu phụ lạ mặt kia là cháu ngoại của bà và đám con nít nhỏ chúng chính là cháu chắt của bà đó!

Tôi hỏi lại:

- Vậy chồng và con gái của tôi đâu sao không thấy đứng đó?

- Tới thời gian đó họ đã đến đây với tôi trước bà rồi. Bà sẽ gặp lại họ ở chốn này. Tôi hứa chắc chắn như vậy.

Ðến khúc phim này, đột nhiên tất cả hình ảnh của tương lai đều biến mất. Người đàn ông to lớn bảo tôi:

- Bây giờ thì bà đã hiểu, tại sao bà phải ở lại trên trần thế chứ gì? Tất cả những người hiện diện trong khúc phim mà bà vừa nhìn thấy sẽ học hỏi với những kinh nghiệm trần gian của chính bà và chỉ có bà mới có thể ảnh hưởng họ được. Bà sắp sửa phải trở lại đời sống bên kia để tiếp tục cho xong những bổn phận riêng tư mà bà chưa thi hành xong.

Nhớ tới sự đau đớn cùng cực vào lúc lâm bồn, những lo âu khổ sở tràn ngập mỗi ngày trong đời sống trước kia, tôi lắc đầu phản đối mãnh liệt:

- Không tôi không kham nổi sự đau đớn thể xác này vào lúc tôi phải sinh con. Tôi không muốn chịu đựng thêm sức nặng nề như đã trì kéo thân xác của tôi trong mấy chục năm đã qua. Tôi thực tâm muốn thoát khỏi mọi ưu tư phiền bận nặng nề và tôi muốn được ở lại nơi chốn bình an thanh nhẹ viên mãn này...

- Không còn cách nào khác nữa. Người ta sẽ có cách giải phẫu để đem được đứa bé bình yên ra chào đời. Bà sẽ không hay biết gì về điều đó đâu và cũng không hề đau đớn giống như bà vẫn thường sợ sệt lo âu. Bà sẽ ngủ một giấc thật say mê cho đến khi tỉnh dậy thì đứa con gái sơ sinh đã được chào đời, các bác sĩ sản khoa đã dùng một loại y dược giống như thuốc mê (local anesthetic) để tránh sự đau đớn cho bà...

Ông ta nói xong thì tự nhiên biến mất trong khi bên tai tôi văng vẳng có những tiếng gọi tên tôi cấp bách và ồn ào trộn lẫn với những tiếng gió rít mạnh bên tai như thể tôi đang một mình bay vùn vụt trong không gian.

Thoạt nhiên, tôi cảm nhận một cảm giác trì kép nặng nề trong khi tôi mở bừng mắt ra trông thấy tất cả mọi người đang đứng vây chung quanh chỗ tôi đang nằm. Chồng tôi cũng đang hiện diện, chàng còn đang đeo một cái mask của nhà thương để ngăn cản sự nhiễm trùng. Gương mặt chàng đổ mồ hôi mồ kê vã ra từng giọt có lẽ vì phải trải qua những giây phút cực kỳ lo âu trong lúc tim tôi ngừng đập.

Một bà bác sĩ vốn là chỗ bạn bè thân quen còn đứng ở đó ra hiệu cho cô y tá bồng đứa con gái mới được giải phẫu để lấy ra một cách an toàn:

- Vậy là chị Phượng có thể an tâm rồi nhé! Bà quay lại nhìn về phía chồng tôi:

- Mừng anh chị đã có con gái đầu lòng. Cháu khỏe mạnh và thật xinh đẹp như chị đây này.

Bà kéo nhẹ cánh tay tôi ra tạo một chỗ trống bên cạnh rồi nhẹ nhàng đặt đứa con gái khuôn mặt còn đỏ hỏn được cuốn gọn gàng trong một tấm khăn trinh trắng, bà ta nói bằng một giọng nói thật thân thương:

- Nào! Mẹ cho bé nằm cạnh với nào. Bé đang cần hơi mẹ đó...

Nói xong bà mỉm cười nhân hậu, chúc tôi vài câu khỏe mạnh rồi bà ta bước ra khỏi phòng sanh để trở lại với các sản phụ khác đang chờ.

Vợ chồng chúng tôi nhìn nhau trong tia mắt tràn trề an lạc, chàng nói:

- Em làm cho anh và các bác sĩ ở đây hết cả hồn vía. Tim em đã ngưng đập khá lâu, tưởng anh đã thật sự mất em rồi.

Tôi nheo mắt nhìn chồng đầy thương yêu trong khi thân thể còn mệt mỏi đến rã rời, tôi nói:

- Em vừa trải qua một giấc mơ đẹp lắm, mai mốt trở về nhà của chúng mình, em sẽ nói cho anh nghe về giấc mơ bên âm giới dịu dàng mà em mới vừa trải qua. Kể từ nay, chúng ta không có điều gì phải lo sợ nữa. Em rất tin vào những hiện tượng huyền bí mà khoa học chưa có thể chứng minh.

Chồng tôi đưa cả hai bàn tay âu yếm nắm lấy tay tôi với nụ cười rạng rỡ trên môi trong khi ngoài kia sau khung cửa sổ, màu nắng vẫn rực rỡ, chói chang...

==================

------------------ Án mạng đêm cuối năm---------------------

Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị buộc tội giết người có dự mưu.

- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh được.

- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.

- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.

- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không thể thoát ra được.

- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp nào?

- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về, bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình với chị người làm và tám con mèo.

- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ đến thăm vì xã giao...

Mặt Voler tái đi:

- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.

- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.

- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa. Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi thực sự cảm mến bà như một người mẹ.

- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?

- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.

- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.

- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.

Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:

- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại, anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.

- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy. Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại cho tôi thôi.

Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:

- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?

Voler nhỏm dậy như bị điện giật"

- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.

Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:

- Anh không biết việc này thật à?

- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.

- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với cô ta về chuyện này.

- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.

- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói chuyện giữa bà chủ và một người đàn ông từ phòng khách.

Voler đứng phắt dậy:

- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.

Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:

- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?

- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của cô ta đối với tôi...

- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?

- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.

- Bà Fren biết anh có vợ không?

- Dĩ nhiên là có.

- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.

- Vô lý, bà ta quá già.

- Chuyện đó không thành vấn đề.

Voler đỏ mặt:

- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.

Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng một lát, Romen cất giọng đanh thép:

- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì. Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây, tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.

- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.

- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn. Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.

- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.

Romen bĩu môi:

- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!

Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc: "Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".

Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh cửa:

- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.

Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:

- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.

- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.

Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:

- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.

- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.

- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất haỵ Anh có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.

- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.

- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.

Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:

- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.

Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau... ".

Mụ già nói thêm:

- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi. Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.

Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót, vào lúc 10 giờ 20.

Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.

Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.

Voler được trắng án.

Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ la... hình như ông đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!

Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?

Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:

- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận theo chiều hướng tốt đẹp.

- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?

- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có, đó chỉ là một cái tên ma.

Luật sư Mayher hậm hực:

- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler bằng một cách hợp pháp hơn.

Romen nhếch mép:

- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?

- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.

- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.

============================

-------------------------------Ba Chàng Sinh Viên Trong Căn Nhà Ma------------------------

Thưa các bạn vụ án ma quái: "TÔI BỊ TAI HỌẠ.." coi như đã kết thúc.

Vì anh Minh Nguyễn ra đi qúa đột ngột, chúng tôi đã không làm gì kịp để cứu ảnh. Thành thật chi a buồn (Nếu các bạn có lời an ủi thì xin gởi về cho cô Mỵ Lan)

Nhưng không vì vậy mà chúng tôi nản chí. chúng tôi vẫn tiếp tục điều tra thêm những vụ án khác.

Diều-tra-viên "000000" tui vừa mới điều tra xong một vụ án ma quái nữạ Vụ án này có tên là " BA CHÀNG SINH VIÊN TRONG NGÔI NHÀ MA".

Hiện giờ tôi đang chuẩn bị bản tường trình cho vụ án mới nàỵ Các bạn có yêu cầu một "format" đặc biệt nào cho bản tường trình này thi xin đề nghị Tôi phải trình bày bảng tường trình như thế nàọ Hình ảnh, tang chứng... chúng ta có nên đưa ra cho bạn đọc cùng xem hay là không? v.v

Mong các bạn góp ý

Ghost story 1

Truyện này viết theo lời kể của một vị sỹ quan thuộc sư đoàn 21 BB, Quân Lực VNCH. Sự việc này xảy ra tại xã Phú Hữu, quận Phong Thuận , tỉnh Cần Thơ vào một đêm cuối mùa Thu năm 1974.

Tôi xin ghi chú một vài danh từ được dùng trong bài viết, vì có thể một số bạn không hiểu nghĩa của các từ này.

_ Ông thày: lính và hạ sỹ quan dùng danh từ này để gọi cấp chỉ huy của họ (thường là hàng Sỹ Quan).

_ Ngọn: nơi phát xuất con sông.

_ Vàm: nơi con sông đổ vào con sông khác lớn hơn, hay chổ con sông đổ ra biển.

_ Lều poncho: lều căng bằng áo mưa của lính (gọi theo tiếng Mỹ)

_Ta lọt: người lính được cắt đặt để lo việc cơm nước và chổ ngủ cho cấp chỉ huy của anh ta.

_ Quán cóc: Quán nhỏ bên đường hay cạnh các bờ sông , thường bán cà fê hay đồ nhậu.

_Cát Tê: là một loại bài mà con lớn hơn thì thắng con nhỏ hơn nếu trong cùng một nước bài ( thí dụ con già Bích thì ăn con bồi Bích ).

_ Đi tiền đồn: đi kích ở một vị trí trong vùng địch , thường là do một tiểu đội hay một trung đội đảm trách. Thường được coi là nhiệm vụ nguy hiểm.

Lúc đó tôi là một sỹ quan trẻ, giữ chức vụ đại đội phó cho một đại đội tác chiến của sư đoàn 21 bộ binh! Vào một ngày cuối mùa Thu năm 1974, tiểu đoàn tôi được lệnh tấn công vào một vị trí cố thủ của một tiểu đoàn địch trong "ngọn" Rạch Muỗi ! Sau một ngày ác chiến kịch liệt, chúng tôi vẫn chưa chiếm được mục tiêu! Đơn vị chúng tôi được lệnh rút ra ngoài "vàm" để nghỉ qua đêm, đồng thời tảI thương và đợi nhận thêm tiếp tế để sửa soạn cho cuộc tấn côngmới vào ngày hôm sau.

Trực thăng xuống tải thương nhưng không còn chổ nên xác của một binh sỹ tử trận đành phải bỏ lại để chờ được di chuyển bằng tàu tiếp tế vào ngày mai! Thế là ngoài việc canh gác bên ngoài, chúng tôi phải cắt thêm người trông chừng cái xác chết được đặt trên bộ ván ngựa trong căn nhà lá bỏ hoang gần đó!

Dưới ngọn đèn dầu mù mờ trên chiếc bàn vuông giữa nhà, bốn chúng tôi ngồi đánh bài Cát Tê để giết thì giờ! Tôi ngồi quay lưng lại bộ ván ngựa còn ba người kia ở vị thế có thể nhìn thấy cái tử thi !

Đến quá nửa đêm, người ngồi đối diện tôi bổng đứng dậy nói buồn đi cầu rồi bước ra không thấy trở lại. Chừng mười lăm phút sau, người bên trái tôi cũng đứng lên nói là đi tiểu rồi mất tăm luôn

! Năm phút sau, người bên phải tôi cũng rời bàn nói là ra ngoài hit' thở chút không khí trong mát ngoài trời và cũng chẳng thấy tăm hơi đâu !

Tôi ngồi chờ bọn họ trở lại, nhưng mắt tôi díu lại vì buồn ngủ ! Tôi đứng dậy mở cửa bước ra ngoài, rồi tiện tay kéo đóng cánh cửa lại.

Ngay lúc đó tôi nghe một tiếng "BỊCH" phía trong nhà ! Hơi ngạc nhiên vì tôi là người cuối cùng ra khỏi nhà , nhưng tôi nghĩ có lẽ chiếc ba lô treo trên vách rớt xuống đất nên cứ một mạch đến cái "lều poncho" mà người "tà lọt" đã căng sẵn cho tôi. Quá buồn ngủ tôi làm một giấc tới sáng, tôi chỉ tỉnh dậy khi tiếng ồn ào của các người lính khiêng đồ tiếp tế lên từ tàu.

Tôi đợi khi tất cả đồ tiếp liệu được khuân lên hết rồi mới gọi mấy anh lính theo tôi lên chiếc nhà lá để khiêng cái xác xuống tàu. Tôi đẩy cửa vào nhưng có vật gì cản phía trong ! Một anh lính phụ tôi đẩy mạnh cánh cửa. Tôi nhảy bật ra ngoài vì cái vật cản cái cánh cửa lại chính là cái xác chết mà chúng tôi đã đặt trên bộ ván !! Lấy lại bình tỉnh tôi la lớn:

_ (DM) Thằng nào chơi trò này ! Tao mà biết tao đá cho lọi giò luôn ! (DM) tới người chết mà tụi mày chẳng tha nữa hả !!!

Không một ai lên tiếng! Cuoíi cùng rồi thì cái xác cũng được mang xuống tàu chở về bệnh viện tỉnh Cần Thơ để chờ thân nhân đến lãnh về mai táng !!

Suốt mấy tháng trời tôi vẫn để tâm theo dõi xem tên nào chơi trò nghịch ngợm đó, nhưng không sao tìm ra manh mối ! Cho đến một ngày kia, tình cờ tôi và ba người canh xác bữa đó ngồi nhậu cùng nhau trong một "quán cóc" bên đường. Sau vài xị tôi mới nhắc lại sự việc xảy ra đêm hôm đó. Lúc này người bỏ đi đầu tiên mới rụt rè lên tiếng:

_ Tui nói thiệt với "ông thày" chứ bữa đó tui sợ muốn té đái ra quần luôn vậy đó !!

_ Sao vậy?! Tôi hỏi với giọng nhạc nhiên!

_ Không biết bữa đó tui có bị hoa mắt hông! Chứ thiệt tình thì tui thấy cái xác chết dơ tay lên để tay xuống mấy lần ở trên bộ ngựa! Tui sợ quá phải nói dóc là đi cầu để trốn ra ngoài! Tui sợ bị cười là nhát nên không dám nói cho ai biết về chuyện này hết !!

Đến đây người bỏ ra thứ nhì đằng hắng rồi lên tiếng:

_ Tui cũng thấy y chang như vậy đó ! Lúc đầu tui nghĩ là do buồn ngủ quá nên mờ mắt. Tui thấy nó dơ tay lên bỏ tay xuống tới mấy lần lận ! Trong bụng tui niệm Phật liên hồi ! Nhưng vẫn còn run , tui phải viện cớ để chuồn ra ngoài rồi không dám trở vô nữa ! Thiệt ra tui đâu có dám ngủ đâu! Chỉ sợ nó bò ra chổ tui thì chắc chết luôn quá !

Lúc này người thứ ba cũng phụ họa:

_ Tui thề với Trời Phật là bữa đó tui cũng thấy rỏ ràng là nó ngồi lên rồi nằm xuống hai lần ! Tui sợ muốn đứng tim luôn! Nhưng mang tiếng là lính mà chạy ra kêu là bị ma nhát thì thiên hạ cười chết! Tui đành lủi lẹ ra ngoài luôn! Sở dĩ tui không nói cho "ông thày" biết là vì tui nghĩ ông có đạo (Thiên Chúa) nên nó không nhát ông. Nó chỉ nhát tụi tui thôi! Lúc đó tui nghĩ là nó chỉ nhát một mình tui thôi, ai dè nó nhát luôn cả hai người này nữa !! Bây giờ nghĩ lại tui vẫn thấy nổi da gà !!

Tởn tới già luôn! Tui không bao giờ dám lãnh cái việc coi xác chết nữa đâu! Lần sau ông có đày tui đi "tiền đồn" một tháng thì cũng đành chịu thôi ! Xin "ông thày" tha cho cái việc đó đi !

Qua lời họ tôi suy ra cái tiếng động mà tôi nghe đêm hôm đó không phải là do cái ba lô rớt xuống mà là do cái xác chết ngã xuống (khi đuổi theo tôi) vì va vào cái cánh cửa do tôi vô tình kéo đóng lại khi bước ra ! Tôi cũng rởn tóc gáy khi nghĩ việc gì đã xảy ra nếu như tôi không đóng cái cửa lại!! Có lẽ cái tử thi đó đã chụp được tôi từ phía sau lưng rồi !! Thật là hú hồn !!!

(Chuyện này của Tam Tang. Tui lấy cho các bạn đọc dỡ buồn. Nếu được xin các bạn phân tích hoặc giải thích hiện tượng này)

Hello,

Phần cuối cùng làm tui hơi rợn tóc gáy một chút. Theo tui nghĩ thì có lẽ mấy người thức đêm canh buồn ngủ bị hoa mắt, hoặc họ ở trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, họ nghĩ là tử thi cử động cho nên nó... cử động thiệt.

Còn phần tử thi tại sao lại đi theo người cuối cùng thì tui nghĩ chắc lúc đó có con mèo nhảy qua xác chết truyền điện vào xác chết làm xác chết đứng dậỵ Tình cờ lúc đó người cuối cùng đứng dậy đi ra ngoài, xác chết bị hút theo cử động của người nàỵ Cũng may người này tiện tay kéo cửa lại, không sẽ bị xác chết đi theo cho tới khi nó hết điện trong ngườị

Có người đã bị chết vì người chết đứng dậy đi nàỵ Mèo nhảy qua, người chết bật đứng dậy, người canh xác chết sợ quá bỏ chạỵ Điện trong người sống hút theo người chết làm người chết... rượt theọ Chạy một hồi người sống vấp té, người chết chạy tới vướng vào rồi té đè lên ngườị Người sống kinh khủng quá, đứng tim... thành người chết luôn.

Nhân đọc chuyện ma quái, tui xin góp ý một chuyện... có thiệt qua lời kể lại của người anh:

Bạn của anh tui đi buôn lậu bằng xe lửa từ Sàigòn ra miền Trung, tạm gọi anh T.. Xe lửa ở VN chật chội, rất hầm, cho nên có một số người leo lên mui nằm dài ra ngủ.

Lúc đang ngủ anh T. tự nhiên nghe tiếng gọi í ới "Tới rồi, tới rồi!". Ảnh bật ngồi dậy và va vào vách đá của đường hầm - xe lửa sửa soạn đi vào đường hầm. Bị va vào đầu, anh T. văng té xuống đất ngất xỉụ

Người gác nơi cổng xe lửa đi kiểm tra nghe được tiếng rên rỉ của anh T.. Ông ta tới chỗ anh T. nằm, anh kể lại sự kiện và hỏi xin miếng nước. Người gác đi về nhà lấy nước uống, khi trở lại chỗ anh T. thì anh đã chết rồi!

Người ta báo tin về gia đình. Khi anh của anh T. lên nhận xác để đem chôn, người gác cổng xe lửa kể lại rằng khúc này rất nhiều người bị chết vì... nghe tiếng gọi tới rồi đúng ngay lúc xe lửa bắt đầu đi vào đường hầm.

Các bạn có nghĩ rằng người đã chết rồi muốn đi đầu thai, nên đánh thức người sống đang ngủ dậy để chết thế mạng không? Hm, số anh T. đáng lẽ chưa chết nếu VN kỹ thuật tân tiến chẳng hạn như có điện thoại gọi xe cấp cứu như 911 bên Mỹ vậỵ Nếu vậy thì... chẳng có chuyện kể hôm nay, phải không?

==============================

------------------ Bóng Ma Trên Cầu Suối------------------------

Kính thưa bạn đọc,

Trên đời có hằng trăm hằng ngàn chuyện ma! mà chúng ta kể cho nhau nghe, chưa chắc đã có một cốt chuyện thật; điểm lớn là do cảm giắc sợ hãi mà khiếm mình tưởng rằng mình đã gặp ma. Những người thường dễ gặp ma là những người có giắc quan thứ sáu! trong kinh nghiệm của tôi với 2 căn nhà đều có ma quỷ, tôi xin nhắc nhở những người nào mà mua nhà mới hoặc cũ thì mình hãy cúng đất đai cho căn nhà đó trước; như cốt câu truyện có thật của nhà sáng tác Nguyễn Anh khoa nói về cuộc đời của anh với 3 lần gặp ma trong đời. trong 3 lần đó thì đã có hai lần là anh bị ma nhập vào thân xác và khiến anh làm trò ác ôn! ngay sau lúc anh đã được giải phép bở linh mục Nguyễn Văn Phong và linh lục John, anh đã trực tiếp viết lên 2 câu truyện của anh trong việtfun này.

Theo với đạo công giáo và đạo phật! những người trong đạo này không nên tin tưởng là có ma quỷ trong đời này, ma ra sao mình có thấy chúng hay mình chỉ có cảm giắc rằng chúng ngự xung quanh mình thôi; câu hỏi đó trước khi tôi có kinh nghiệm về ma quái. Sau khi nghe xong câu chuyện của đời sống do tác giả Nguyễn Anh Khoa nói lên về đời sống của anh! cho đến hôm nay tôi vẫn còn cảm giắc sợ hãi và lo lắng cho sức khoẻ của anh mai này sẽ bị ám ảnh suốt đời, tôi thầm mong ước cho anh được binh an trong mọi sự nghiệp và sẽ bình phúc trong những ám ảnh từ mấy năm qua; tôi rất thương tiếc khi anh ra đi vì những cái tốt cho riêng mình. Nhưng anh đi là điều đáng đúng cho các vị thành niên trong trang web này.

Trước khi viết lên câu truyện này! tôi xin các bạn cho tôi một chút thì giờ để kể về cốt truyện của tôi, cốt truyện là về một bà lão già tuổi khoảng giữa 70-80, hôm ấy bà dắt theo một con cháu gái đi trên con cầu suối mà hai bà cháu thường xuyên đi bộ hằng đêm để nhìn xuống con suối; một buổi tối không may mắn là lúc không ai chạy xe trên chiếc cầu đó. Bỗng từ đằng sau 2 bà cháu thì có một gã thanh niêm bắn 2 viên đạn vào đầu hai bà cháu! gã thanh niêm ấy vội vã vất hai bà cháu xuống sông để trôi lềnh bềnh trên nước, từ ngày hôm đó bắt đầu mọi dân tộc nghe tin đồn rằng trên cầu suối đó có 2 hồn ma; giờ đây tôi xin viết lên câu truyện này và đặt tên là "Bóng Ma Trên Cầu Suối" xin mời bạn đọc cùng chúng tôi đón coi.

Hôm ấy là vào trời buổi tối vắng vẻ trên chiếc cầu suối của San Fransisco thuộc về tiểu bang California! một hôm khi trời vắng tênh vào khoảng 11:00 khuya có 1 bà lão già với tuổi trên dưới 75-80 dắt theo cháu gái; cứ mỗi ngày nào mà hai bà cháu cảm thấy không ngủ được thì thường xuyên đi dạo phố hoặc đi trên con cầu suối đó. Buổi tối hôm đó khi đường phố vắng thênh thang! trong lúc 2 bà cháu trên đường đi bộ về tới nhà, có một gã thanh niêm trẻ tuổi đi đằng sau và cầm một cây súng đen và bắn hai viên đạn vào đâu; hai bà cháu chết tại chỗ. Bắn xong gã thanh niên ấy vội vã khiêng xác 2 bà cháu và quăng xuống sông! để trôi lềnh bềnh để mọi người tưởng rằng hai bà cháu nhảy xuống sông tự tử.

Hai xác chết của bà cháu trôi vào dưới hầm cầu và trên thành đá dưới hầm cầu! Một buổi chiều vào khoảng lúc 7:30, có một cặp tình nhân người việt nam mang tên Thái, và Lan đi trên bộ trên con cầu vắng tênh ấy; trong lúc nhìn xuống con sông thì Lan bỗng cảm thấy như có một ai đó đi bộ đằng sau lưng mình. Lan quay mặt lại và nhìn thì không thấy ai đi bộ đằng sau mình! Lan tiếp tục quay mặt đi và nhìn về con suối và thưởng thức gió mát bên chàng bạn trai của mình, một lát sau từ đằng xa Lan và Thái thấy một bà lão già tuổi trên dưới 75-80 đi bộ dắt theo một đứa cháu gái; càng lúc 2 bà cháu bước tiến gần tới anh và Lan. Càng lúc 2 bà cháu càng đi gần về hướng của Lan và Thái

Một lát sau thì Thái giật mình vì hai bà cháu người mỹ ấy đi xuyên qua người anh và Lan! cùng lúc Thái và Lan quay mặt và đăm đăm nhìn về phía hai bà cháu thì Lan, và Thái không còn thấy hai bà cháu đó đâu; Lan sợ quá và nắm chặt bàn tay Thái và bỏ chạy về tới nhà. Vài tháng sau Lan trở lại bình thường và không còn nhớ về cảnh sợ hãi ấy nữa! cho đến một vài năm sau khi Thái và Lan làm đám cưới với nhau, hôm đó Lan và Thái thấy một căn nhà cắm bảng "for sale" do những người công ty bán nhà; Lan thấy nhà cao cửa rộng và đất đai đẹp thênh thang. Bìa ngoài căn nhà có một cây cherry có trái! xung quanh cây ấy là một vài cây bông màu tím nhạt đẹp tươi.

Buổi chiều khi Thái và Lan về nhà và bàn về căn nhà ấy! trong lúc bàn tính thì Lan cảm thấy thích thú căn nhà đó và ước vọng trong tương lai sẽ là của mình, cuối cùng Thái và Lan cùng nhau thích thú căn nhà cao cửa rộng đó và gọi đến những người bán nhà và lấy hẹn vào coi; tới nhà coi hôm ấy vào lúc buổi chiều ngày thứ 7. Trong lúc mọi người vào trong nhà thì bỗng Lan đứng khựng lại ngay cửa ra vào! Lan cảm tưởng như có một ba lão dắt đứa cháu hôm bữa đi ngang qua đằng sau lưng mình rồi lại biến mất, ông bán nhà quay qua hỏi thăm thì lúc đó Lan bắt đầu vào và đi xung quanh căn nhà; cuối cùng Lan và Thái chịu căn nhà ấy với trị giá 200,000 đôla về đó nhà hôm ấy thì Lan bảo rằng.

Lan: Anh ơi! em thấy thích căn nhà của mình lắm, nhưng em thấy sợ sợ sao đó à.

Thái: Em ơi đừng lo ngại gì nữa! nhà đó là của mình rồi thì có gì đâu phải sợ.

Lan: Nhưng hinh như em thấy 2 bà cháu hôm bữa đó về với em đó anh! nhưng em không biết có phải 2 bà cháu đó không, cho nên em cảm thấy sợ hãi trong lòng quá.

Thái: Chắc em mệt quá nên thấy vậy thôi! còn anh đâu có cảm thấy gì lạ lùng đâu em.

Lan: Em cũng thích căn nhà đó nữa! thôi thì mình đi làm giấy tờ đi anh.

Thái: Ừ để đếm thứ 2 này anh ra làm giấy tờ với ông bán nhà cho mình! sau đó rồi mình có thể dọn vào nhà đó ở tự do hơn.

Nói xâu Lan ôm lấy Thái vào lòng và tỏ ra những giòng lệ yêu thương! ngày cuối tuần đã qua và thứ 2 đầu tuần lại đến, Thái ra ngoài và gặp ông bán nhà và ký giấy tờ và trả tiền cho ông ta một nửa số giá tiền; 1 tháng sau Thái và Lan dọn vào căn nhà yêu quý của mình. Vài tháng đầu tiên thì không có chuyện lạ xảy ra! một buổi tối vào khoảng 10 giờ khuya khi Thái đi làm về và dùng bữa cơm tối với vợ mình ở dưới nhà bếp, ăn xong Thái bước lên ghác và tắm rửa cho sạch sẽ và sửa xoạn đi ngủ! trước khi tắm anh cở sợi dây truyền trong cổ mình ra và đặt lên bồn đánh răng, đang tắm nửa chừng chiếc màn gió lại bỗng bịt sát vào mặt anh và khiến anh nghẹt thở; Thái cố gắng để la lên cho vợ nghe nhưng anh không la nổi.

Thái lanh trí và với sợi dây truyền có bức tượng thánh giá! trong lúc đang nắm sợi dây truyền trong tay, bỗng cái màn gió không còn bịt mặt anh lại nữa và đã khiến anh khó thở; riêng Lan đang rửa chén bát dưới phòng ăn. Trong lúc đang rửa chén thì Lan bỗng nghe được điệu nhạc của đàn piano! Lan bước theo điệu nhạc của tiếng đờn ra tới phòng khách, khi Lan ra tưới phòng khách thì không còn nghe tiếng đàn ấy nữa; Lan trở về nhà bếp và đình tiếp tục rửa chén bát thì thấy chén bát của mình như có một ai đó rửa giùm. Một lát sau khi Thái buốc xuống lầu nhưng tim anh vẫn còn đập thình thịch! Thái kể đầu đuôi câu chuyện đã xảy đến với anh trong lúc đang tắm, riêng Lan cũng kể về.

Trong lúc hai vợ chồng đang nói chuyện với nhau! bỗng Thái giật mình vì nhìn về phía bàn thờ thì thấy một cây nến trắng phóng từ trên bàn về phía mình, người Thái run rãi lật bật và cho đến cuối cùng anh đã rút ra sợ dây truyền có bức tượng thánh giá đeo trên cổ và dơ lên rồi ấm ớ đọc kinh; 2 tiếng sau lúc đó vào khoảng 12:00 khuya thăm thẳm của nưa đêm về sáng. Trong lúc hai vợ chồng đang ngủ giấc say! liền lúc hai vợ chồng để cảm thấy như có một người nào đó kéo tấm chăn của mình xuống dưới, Thái giật mình và mở mắt thì thấy 1 nửa khúc người của linh hồn hai bà cháu mà hôm đó mình thấy ở ngoài câu suối; người Thái lạnh quá và thở ra hơi khói rồi nhẹ vỗ vai vợ và nói.

Thái: E e e e e em, e e e e e em, dậy đi anh nói cho em cái này nè.

Lan: Cái gì vậy anh! em đang ngủ mà, đợi cho đến sáng mai rồi mình nói chuyện cũng đâu muộn gì đâu; mà có gì quan trọng mà anh đánh thức em giữa khuya thế này.

Thái: Anh thấy, anh thấy bà lão hôm bữa mình gặp trên cầu suối hiện về với anh.

Lan: Hả anh nói cái gì! hồi nãy bà ta có về thiệt hay sao vậy anh, mà trời giữa nửa khuya vầy mà hai bà cháu nó vẫn còn về được hả.

Thái: Anh mới thấy hai bà cháu nó tức thì đây nè! cho nên anh mới đánh thức em để kể lại cho em đó chứ, nếu không anh đánh thức em làm gì; anh biết giờ em đang ngủ nhưng anh sợ quá thì cũng phải gọi em dậy thôi.

Lan: Thôi thì em đi nấu nước cho anh uống nhé! anh ở đây chờ em một tí thôi nha, đừng có đi đâu hết là được rồi.

Thái: Ừ em đi đi nhá! em đi cho lẹ giùm anh đi nhé, anh sợ lắm rồi em à chắc anh phải thức cho đến sáng luôn quá.

Lan vừa đi xuống nhà bếp vừa hồi hộp vì sợ rằng ba ma ấy sẽ hiện ra! trong lúc đi đến nửa câu thang, Lan thấy một đứa bé gái ngồi ngay cầu thang và khóc; người Lan run lật bật và định soi mở chiếc đèn pin và rọi vào người nó. Không may mắn con bé đã ngước mặt lên nhìn Lan rồi biến mất! Lan giật mình và giựa lưng vào sát vách tường và đặt bàn tay lên tim và thở thình thịch, một lát khi lấy lại bình tính thì Lan mới tiếp tục bước xuống bậc thang; Khi Lan vào trong nhà bếp để lấy tách nước cho chồng mình. Trong lúc Lan đang lấy nước! bỗng Lan đăm đăm nhìn về chốt cánh cửa ra vào ở cửa chính tự động vặn tới văn lui, ngay sau đó canh cửa bât toang hoang ra nhưng không có ai ở ngoài đó; Lan ra ngoài đóng cửa lại và trở về nhà bếp thì các cánh cửa tủ như có một ai đó đã mở toang hoang nó ra.

Trong khi Lan nhẹ tay đóng những cánh cửa tủ lại! từ đăng sau bà lão già người mỹ có lại hiện về và phá rầy Lan, Lan quay lại nhìn đằng sau lưng mình và la lớn lên (ahhhhhhhh) rồi bỗng bà ta biến mình thành một cục lửa khá lớn và đẩy Lan; ngay sau đó Lan lại bỗng cảm thấy như có bàn tay lành lạnh đè chặt ngay cổ của và khiến mình khó thở. Ngay sau đó Lan từ từ ngồi xuống rồi co chân sát vào mình rồi khóc nức nở! Thái nôn nao sốt ruột vì cứ phải chờ đợi Lan để có một tách nước để uống cho giải nhiệt, Thái liều mạng và đình bước ra khỏi chiếc giường ngủ thì bỗng anh cảm thấy như có một bàn tay đấm mạnh từ dưới giường; Thái vội vàng với sợi dây truyền và đep vào cổ và lúc ấy chiếc giường trở lại bình thường. Thái bước xuống bậc thang và vào nhà bếp và nói.

Thái: Em ơi! em có sao không vậy em, anh đợi trên phòng mà nóng lòng quá nè; nên anh mới xuống tìm em đó.

Lan: Anh ơi anh ơi! em không có muốn ở nhà này một ngày nào nữa đâu.

Thái: Anh biết là như vậy! nhưng mình chưa có đủ tiền để mua nhà mới để ở nữa.

Lan: Chúng mình phải làm sao bây giờ! càng ngày em càng sợ đi thôi à

Thái: Hay ngày mai khi anh đi làm! em ở nhà và dọn một mớ quần áo và dọn về ở chung với mẹ cho một vài bữa đi xem như thế nào, sau đó anh sẽ tính chuyện này cho xong rồi anh mới yên.

Lan: Anh cố gắng làm việc này cho xong đi nha anh! chứ em sợ quá thì mai mốt hoá điên dại bây giờ đó

Sau khi Thái ôm chặt vợ mình sát vào lòng để lấy lại bình tĩnh cho Lan! lúc ấy tất cả điều sợ hãi trở lại bình phục trong đêm hôm đó, Lan còn vẫn sợ sệt và với tay mở công tắc cho đèn sáng hết cả nhà và hai vợ chồng tiếp tục ôm lấy nhau, ngày hôm sau khi Thái đi làm; riêng Lan không nghĩ đến nấu nướng và tiếp tay dọn quần áo vào trong túi va li rồi chờ chồng về để đi ở tạm tại nhà mẹ của Lan. Buổi trưa đến nhanh và buổi chiều buông dần! Lan thấy chồng mình chạy xe vào nhà, Lan trong cửa bước ra để Thái chở về tới nhà mẹ vợ của mình để ở cho vài ngày đến khi căn nhà ma của mình yên tĩnh rồi mới trở về; Lan về đến nhà mẹ mình thì thấy mẹ rất vui lòng vì có thể gặp lại con gái đã cách xa bao nhiêu ngày tháng.

Về đến nhà bà Cảnh (mẹ của Lan) dang rộng bàn tay ra rồi mỉm cười và ôm ấp con mình vào lòng! riêng Lan sách gói va li và đi tiến gần đến mẹ và ôm mẹ và khóc nức nở, ngay sau đó bà Cảnh phụ con sách va li vào trong nhà và nhìn lại mặt con mình cho kỹ; lúc này bà thấy nặt lan xanh như tàu lá chuối như có một ai đó nhát ma nó không chừng. Bà Cảnh tội nghiệp cho con mình nhưng không biết rằng có phải Thái là người nhát con bà không! bà Cảnh nhất định để Lan tron một vài tiếng để lấy lại bình tĩnh, bà thấy con mình mệt mỏi nên bà khẽ bảo con mình đi nghỉ; Lan nhất định kiếm cách để từ chối mẹ vì nguyên một đêm bị ám ảnh bởi linh hồn của hai bà cháu người mỹ đang ngự trong nhà mình. Bà Cảnh đưa tách nước lạnh cho con mình rồi kéo ghế và nhẹ nhàng ngồi xuống hỏi.

Bà Cảnh: Sao hôm nay mẹ thấy mặt con xanh sao thế này đây! có phải là thằng Thái chồng con hay không vậy, con nói lại cho mẹ biết đi con để mẹ dạy nó lại chư.

Lan: Không phải vậy đâu mẹ! anh không làm cái gì hại đến thân con đâu, nhưng con đang sợ sệt đây mẹ ơi; mẹ cứu con đi mẹ.

Bà Cảnh: Có cái gì đâu mà mày phải sợ sệt vậy con! có mẹ đây mà thân người cú run lật bật lên vậy là sao, nói cho mẹ biết coi; tại sao con ra nông nỗi như vầy làm mẹ lo quá à.

Lan: Mẹ à! năm xưa mẹ có bao giờ thấy ma chưa mẹ?

Bà Cảnh: Con nói sao mà kỳ vậy nè! trên đời này có bao giờ mẹ biết ma cỏ gì đâu mà con hỏi vậy.

Lan: Hôm nay con về nhà và định hỏi mẹ cho con ở một vài bữa cho đến 1-2 tuần để anh Thái có thể gọi cha về nhà làm phép thánh cho nhà con.

Bà Cảnh: Ý của con nói đây là.........lậy chúa tôi, xin trời nhìn xuống dưới đây và giúp con tôi đi; nhà nó không may mắn gặp được hồn ma đã hại thân nó tả tơi như thế này đây.

Nói xong bỗng chiếc bàn ăn trong nhà bếp của bà Cảnh năng lên như có một ai đó nhấc nguyên tấm bàn lên rồi đập mạnh xuông! bà Cảnh thấy rõ trước mắt và ôm lấy con mình và sợ sệt rồi không dám nói thêm lời nào, trong lúc 2 mẹ con đang ông nhau thì cánh cửa tủ đựng những ly sành tự động mở ra và có tách ly nhỏ văng từ chiếc tủ vào mặt bà; bà cảnh đau quá và ôm mặt khóc nức nở và sợ hãi vì trong đời bà chưa từng thấy cảnh này xaỷ ra bao giờ. Ngay sau đó Lan hoá ra điên dại và đổi giọng với mẹ mình! bà Cảnh vội vàng chạy tới chiếc rổ đừng những củ hành ở nhà bếp bà và lấy vài tép tỏi và đút vào trong miệng Lan, sau đó Lan la lớn lên (ahhhhhhhhh) rồi ôm cổ và nôn áo nôn mửa ra màu xanh.

Lan vưa nôn mửa xong thì những điều sợ hãi trở lại bình phuc! vài tiếng sau khi hai mẹ con lấy lại bình tĩnh, bà Cảnh và con lấy gói rau câu ra và làm để ăn vì mừng ngày con gái trở về thăm mẹ; nấu xong được vài tiếng thì bà Cảnh bỏ vào trong tủ lạnh và để đến cuối tuần đưa ra cho khách ăn cho vui. Ngày hôm sau khi bà Cảnh mở tủ lành ra và đăm đăm nhìn vào trong đía rau câu! bà mỉm cười và lấy chiếc đĩa ra thì thấy một vũng máu chảy từ trong đĩa ra ngoài, bà ngạc nhiên nhưng chỉ tưởng rằng cái nước đó là do bà làm hôm qua với con gái mình; bà nhấc tấm rau câu ra khỏi đĩa và dốc nước cho sạch rồi bỏ bánh lên đĩa trở lại. Sau khi dốc nước cho và lau cho sạch đĩa! bà Cảnh dốc ngược chiếc bánh rau câu và tiếp tục thấm cho khố miếng rau câu, bà Cảnh la lên (ahhhhhhh) vì thấy có một bàn tay nho nhỏ trắng tinh như của con nít người mỹ; Lan nghe tiếng la của mẹ và vội vàng chạy xuống và hỏi.

Lan: Mẹ, mẹ à có gì đó mẹ! có gì mà mẹ la lớn lên thế mẹ

Bà Cảnh: Lan ơi mẹ thấy một bàn tay nho nhỏ trong cái bánh rau câu của mình kia.

Lan: Có thiệt là vậy không mẹ! mẹ làm cho con hồi hộp quá đi thôi, hôm qua con đã ngủ không yên giấc rồi.

Bà Cảnh: Con không tin mẹ thì con cứ coi đi! nó ở trong này thiệt sự mà, mẹ không nói láo gì mày đâu.

Lan lật ngược tấm bánh đằng sau và nhìn

Lan: Ahhhhhhhhhhhhhhhh sao vầy nè mẹ! tại sao lại có cái bàn tay này trong đây, trời ơi con sợ quá mẹ ơi bây giỡ phải làm sao đây

Bà Cảnh: Mày hỏi mẹ! thì bây giờ mẹ hỏi ai đây hả con

Lan: Con sông như vầy chắc con chết quá mẹ ơi! bà ma đó cứ ám ảnh con với anh Thái hoài thôi, bây giỡ con biết phải làm sao đây chứ.

Bà Cảnh: Hay hôm nay mẹ con mình đi kiếm một ông thày đi nha! để ông có thể về nhà con xong rồi coi tình hình như thế nào, sau đó rồi ổng quay về nhà mẹ để coi như thế nào.

Buổi trưa hôm ấy bà Cảnh và con gái nhất định đi ra chợ chơi! may mắn bà đã đi ngang qua và thấy một tấm giấy quảng cáo trên tấm bảng nói rằng, "Thày Tư coi bói, giệt ma quỷ, cho phép bùa vào nhà; đuổi ma quỷ và không cho nó nhập vào nhà nữa; xin quý vị hãy liên lạc thày tư" bà vội vàng xé một miếng giấy có số điện thoại của ông thày Tư. Buổi chiều buông xuống vào khoảng lúc 3:00 chiều khi hai mẹ con bà Cảnh và Lan đi chợ về tới nhà! Lan dùng điện thoại nhà và bắt lên rồi gọi đến nhà thày tư, không may mắn hôm ấy ông ta đi làm cả ngày và không bắt điện thoại lên được; cuối cùng Lan nhắn một vài lời trong máy message của ông để gặp ông càng sớm càng tốt.

Buổi chiều lại qua và tối lại đến! cứ mỗi lần ban tối xuống thì Lan hay thường xuyên lo lắng là sẽ gặp bà ma hôm bữa hiện về làm phiền, may mắn cho Lan rằng ông thày Tư gọi điện thoại tới nhà bà Cảnh và gặp Lan; gặp thày Tư Lan kể đầu đuôi câu chuyện cho ông và hẹn vài ngày sau sẽ đến nhà của Lan. Giữa tuần hôm đó ông thày Tư đã được ngày nghỉ trong sở làm vì không có việc! ông vừa đến cánh cửa của nhà riêng của lan và bước vào trong nhà, khi bước vào nhà ông bỗng cảm thấy hơi khí lành lạnh nặng nề mà chưa ai từng cảm thấy như ông; thày Tư vừa nhắm mắt lại thì thấy một bà lão già mặc quần jean áo đỏ, thân người bà giữa tuổi 75-80 với một vài nốt nhăn trên trán; bà có dắt theo một cháu gái với tuổi là 7-8. Bà lão ấy nhìn bực mình! ông thày Tư mở mắt ra và nói

Thày Tư: Này hôm bưa cô cũng có đi bộ trên cầu suối phải không cô

Lan: Vâng đúng rồi đó thày Tư! con đi với chồng con ra ngoài đó ngắm suốn

Thày Tư: Cô có thấy bà này đi ngang qua người cô hay không

Lan: Dạ có thày à! con thấy bà ta đi xuyên qua người con rồi biến mất đi

Thày Tư: Nè nhá tôi xin nói cho cô một điều này! bà ta đang tức tối vì cô đã dọn vào nhà của bà và ở, trong khi bà không muốn ai ở trong nhà bà bao giờ cả; chỉ có khách quen mới được ngủ lại trong nhà bà khi bà có mặt

Lan: Nghĩa là sao vậy thày! bà ta muốn con dọn ra khỏi nhà của bà ta hay sao

Thày Tư: Không những bà muốn cô ra khỏi nhà! nhưng bà muốn cô cũng phải tìm xác chết của hai bà cháu nữa kìa

Lan: Oh vậy con cám ơn thày đã giúp cho con một việc

Thày Tư: Tôi khuyên cô nếu không muốn gặp 2 bà cháu nữa thì hãy xin lễ cầu xiêu bà bà ta đi! còn nếu cô làm công giáo thì hãy gọi cha sở về nhà và ban phép lành

Lan: Vâng con cám ơn thày! con sẽ làm theo lời của thày.

Lan tiễn thày tư ra về và quay trở lại nhà mẹ của Lan! về đến nhà thì vừa đến lúc Thái đậu xe vô nhà của mẹ vợ, lúc ấy ông thày bước xuống và bắt tay Thái rồi hỏi thăm; trong lúc hỏi thăm thì bỗng chiếc xe của thày Tư nổ máy và chạy đâm thẳng vào trong phòng khách của bà Cảnh. Ông ngạc nhiên và đau buồn vì chiếc xe của mình đã bị bà ma đâm vào trong phòng khách của bà Cảnh! trong lúc ấy Thái kể lại từ đầu đến cuối cho Thày Tư biết về hoàn cảnh bắt đầu từ đâu, trong lúc đang làm đồ ăn ở dưới nhà bếp; Lan và mẹ bỗng nghe tiếng nổ đùng vang lên. Lan và mẹ chạy ra thì thấy rằng chiếc xe của ông thày đang nằm ở trong phòng khách của bà Cảnh.

Một lát khi cảnh sát tới làm viếc tại nhà của bà Cảnh! 1 ông cảnh sát tiến tới chiếc xe và bỗng thấy cây cần số tự động gạt lên gạt xuống, ông cảnh sát liền hỏi ai là người chủ của chiếc xe; lúc ấy ông thày xìu xìu mặt xuống và buồn tênh nhận xét rằng xe ấy chính là của mình. Sau đó ông tiếp tục giải thích cho ông cảnh sát rằng đó chính là ma sử dụng cần gạt số của ông! và đâm thẳng vào phòng khách nhà bà Cành, cảnh nhất định không tin và đòi cho ông coi chiếc chìa khoá; ngày sau đó ông mọi người đều chứng kiến trước mặt rằng chiếc xe tự động lái không người. Ngay lúc đó ông cảnh sát xét nghiêm chiếc xe từ đâu đã bị một ai đó mạnh tay đẩy và dí mặt ông vào sát chiếc xe! một ông cảnh sát nữa hỏi ông rằng.

Cảnh Sát: John are you ok! answer me now are you ok

John: Call and back up the ambulance for me

Cảnh Sát: I will call and back up them right now! you stay put buddy they're on their way heere

Lan: Sir can you handle it! just wait for another couple minute they will be here

John: I will be fine and don't worry about me right now, just go ahead back to your regular basis

Lan: Ok I will! keep it up ok you're doing fine officer

Lan chở mẹ đi đến nhà thờ và gặp choa Vũ Quang Hải và mời về nhà bà Cảnh làm phép lạ! cha Hải vừa đến nhà bà Cảnh thì ông liền tay và ban phép lành cho ông cảnh sát và đi xung quanh nhà bà Cảnh để làm, tôi đêm hôm đó bắt đầu ông quay trở lại nhà cũa của Lan và làm phép lạ; không may khi ông bước vào nhà thì liền lúc hai linh hồn của bà cháu nó nhập vào người Lan. Nhưng rồi cũng may mắn vì lúc đó có ông thày Tư, Thái, và bà Cảnh giữ chặt Lan lại và trói Lan lên ghế gõ trong nhà bếp; lúc đó cha Hải đi xung quanh nhà và làm phép lạ và cuối cùng ông trở về và ban phép cho Lan. Trong lúc ông quàng chiếc vải qua vai để chuẩn bị làm phép lạ! không may Lan tức lên và mạnh tay giựt đứt một sợi dây trói và vào cho ông một phát vào mặt.

Ông chia khuyên cách người xung quanh đều cùng nhau nắm tay và đứng sát hợp lại với nhau! lúc ông ban phép lành cho Lan thì bỗng con mắt Lan trở thành màu đỏ ma quái và đổi giọng, lúc đó Lan đã bị ngất xỉu cho khoảng 10 phút sau; trong 10 phút ấy ong cha tiếp tục ban làm dấu thánh giá lên trán của lan. Sau 10 phút Lan tỉnh dậy và nhìn ông với con mắt đỏ chói ma qủy! lần này Thái và bà cảnh phải trói thêm một vài lớ dây xung quanh bàn tay của Lan, Lan không nói nữa nhưng chiếc ghế tự động nâng lên không trung; cuối cùng ông và các người xung quanh đều nắm tay nhau và đọc một kinh lạy cha. Một kinh cầu hồn và một kinh sáng danh! sau đó ông đổ nước thánh vào miệng cho Lan uống cho sạch ly nước.

Lan đau ngực quá và la lên! (ahhhhhhhhhhh) và ngã ra xỉu thêm một lần nữa, 10 phút sau khi Lan tỉnh dậy thì tất cả điều sợ hãi đã trở về bình phục; không biết có phải ngày lễ phép thánh hôm bữa đó không. Nhưng quả nhiên từ đó Lan không còn bao lâu ám ảnh bởi linh hồn của hai bà cháu người mỹ đó nữa! vài ngày sau Lan, và Thái hẹn một ông cảnh sát ra cầu suối đó và lần này phải đi dưới gầm cầu, lần này ông cảnh sát lấy lên được hai bộ xương người dưới hầm cầu ấy và đưa về nhà khí nghiệm; khí nghiệm xong ông cho Lan kết quả rằng bà ta ở trong căn nhà mà Lan mới cắm bảng bán. Tên bà là là Susan James và đứa cháu mang tên Melissa James! kể từ hôm đó Lan đã trở lại bình phục, 5 năm sau Lan bắt đầu quên hết mọi việc về hai linh hồn ma đó.

==========================

-------------------------Ăn kiêng và chết---------------------

Kính gởi Giáo sư khoa Thẩm mỹ Trường Đại học X... , Thưa ông, tôi là một tên sát nhân. Nhưng tôi không bao giờ thú tội trước cảnh sát vì bọn họ chỉ là những cục đất ngờ nghệch, không thể nào hiểu được sự nhạy cảm cũng như động cơ thúc đẩy tôi lần lượt giết chết hai người vợ yêu quý mà không một giây phút ăn năn. Tôi giết vợ không vì phản bội, vì chán ghét nàng, vì muốn chiếm đoạt tiền bạc hoặc vì những lý do thông thường khác - Tôi giết vợ để bảo vệ tính sáng tạo, óc thẩm mỹ và làm đẹp thêm đời sống mà thôi. (Tôi tin rằng, chỉ có những người trông xa hiểu rộng như ông mới thông cảm được tôi).

Trước khi nói đến cái chết của Yvette, người vợ đầu tiên của tôi, tôi xin kể sơ qua về mình. Tôi sinh trưởng trong một gia đình quý tộc. Bố tôi suốt đời bận bịu công việc kinh doanh. Mẹ tôi là một nghệ sỹ, lúc nào cũng muốn thấm nhuần trong lòng tôi tình yêu thơ ca và âm nhạc của bà. Dường như hầu hết quãng đời niên thiếu của tôi trôi qua trong các viện bảo tàng nghệ thuật, những cuộc họp mặt các văn nghệ sỹ. Mẹ tôi đi du lịch khắp nơi và thường dẫn tôi theo.

Tôi được học về ngôn ngữ, nghệ thuật và âm nhạc. Song tôi cảm thấy, mình sành về nghệ thuật thưởng thức hơn là nghệ thuật sáng tạo. Tôi vào được đại học nhưng vì điều kiện tổ chức ở đây quá tồi tệ, nhất là những bữa ăn nhạt nhẽo, cách pha chế gia vị vụng về đến nỗi tôi không chịu được, phải bỏ trường vào năm thứ hai.

Mẹ tôi và tôi lại tiếp tục những chuyến du lịch. Tôi thất bại về mặt học tập nhưng lại thành công trên lãnh vực khác. Tôi đã trở thành chuyên gia về ăn uống, ý kiến về nghệ thuật nấu ăn của tôi không chê vào đâu được. Bất cứ nơi nào chúng tôi đến, Paris, Rome hay Vienne, tôi đều có thể khám phá ra những nhà hàng nhỏ nằm khuất trong hẻm, ở đó có những món ăn thật độc đáo, tuyệt vời. Mẹ tôi và bạn bè của bà rất hài lòng về tôi.

Bố tôi mất. Sau đó mẹ tôi cũng qua đời để lại cho tôi một khoảng trống cô đơn và một gia sản hầu như đã cạn. Qua một loạt tình huống phức tạp khó thể kể ra, tôi kinh hoàng nhận thấy mình lạc lõng giữa New York bởi công việc đè nặng trên vai với đồng lương rẻ mạt. Quả thành phố náo nhiệt này không dành cho một người đa cảm như tôi!

Tôi hoàn toàn cô đơn. Đêm đêm, tôi lang thang qua những con đường nhỏ tìm kiếm những nơi phục vụ những món ăn đúng nghĩa. Nhưng vô ích. Tôi luôn luôn tức giận trước những món ăn dở dang, vô vị: nước xốt mặn chát, rau đậu nát nhừ, bánh ngọt trương phình, còn bánh mì thì cứng như da giày... Cuộc sống thật tệ hại. Tôi cảm thấy không thể chịu đựng được cho đến một hôm, tôi bắt gặp một quán ăn nhỏ tối tăm ảm đạm mang tên Chez Yvette trong một con hẻm ngoằn ngoèo. Tò mò, tôi bước vào quán và gọi một món ăn đơn giản: Cá bơn xốt cà. Khi cô hầu bàn mang đến khay thức ăn, nắp vịn mở ra, tôi nghe trong lòng mình dâng đầy hưng phấn. Tôi đã thấy được những gì mà bấy lâu nay tôi cố công sục tìm. Đó là một đầu bếp am hiểu hoàn toàn nghệ thuật nấu ăn. Không có món cá bơn nào ngon hơn được nữa với nước xốt tuyệt vời, gia vị thấm thía.

Sau khi nhấp cạn ly rượu nho, tôi đề nghị được gặp người đầu bếp để tỏ lòng ngưỡng mộ. Yvette hiện ra trước mắt tôi với dáng dấp to lớn, thô kệch trong chiếc áo đầm xám bạc thếch, gương mặt ngăm đen lấm tấm mồ hôi bên bếp lò đỏ rực. Dù trông nàng già hơn tôi nhiều, tôi vẫn thấy nàng thật đẹp và dè dặt đặt lên má nàng những nụ hôn cảm kích. Yvette rất vui mừng khi gặp được một khách hàng tri kỷ. Chúng tôi cùng hàn huyên đàm luận, cùng ngây ngất khám phá những điều kỳ diệu của nhau. Từ đó, tôi trở thành khách hàng thường xuyên của quán Chez Yvettẹ Nàng đã chăm chút cho tôi từng miếng ăn tuyệt hảo, bánh mì ngọt, tôm hùm, giò gà trống thiến... Nàng luôn ở bên tôi, và sau bữa ăn thường uống cùng tôi một cốc rượu hoặc một tách cà phê kèm với món bánh ngọt ngon nhất.

Yvette là một kho báu, đời tôi không thể thiếu nàng. Nhưng biết làm sao hơn khi món tiền dự trữ của tôi cạn dần, tôi không đủ tiền trả cho những món ăn ngon miệng ấy nữa. Có lẽ Yvette đã cảm nhận được sự bối rối của tôi, nên một hôm, nàng đề nghị tôi ở lại qua đêm. Sự tỏ tình của Yvette thẳng thắn và quả quyết, so với các cô gái mình hạc xương mai thì nàng sâu sắc hơn nhiều. Một tuần sau, chúng tôi cưới nhau. Thoạt đầu, cuộc hôn nhân rất hạnh phúc. Chúng tôi mở rộng quán thành nhà hàng và làm ăn càng lúc càng phát đạt nhờ những món ăn độc đáo do sự sáng tạo của hai vợ chồng chung sức chung lòng. Sự phồn thịnh của nhà hàng đã đưa tôi lên vị trí tầm vóc của một người đàn ông. Tôi yêu nhà hàng và tôi yêu nàng, bởi nàng là một phần đem lại sự hoàn hảo cho nhà hàng. Hạnh phúc biết bao!

Rồi thảm kịch bắt đầu. Một hôm Yvette ngất xỉu trong nhà bếp. Bác sĩ cho biết, trọng lượng quá tải của nàng dẫn đến tình trạng nghẽn mạch, kèm theo bệnh tiểu đường mới phát làm cho bệnh nàng càng phức tạp thêm. Yvette đã phản đối trước một thực đơn ăn kiêng rất khắc nghiệt. Nhưng vị bác sĩ lạnh lùng phán:

- Bà không còn cách lựa chọn nào khác. Hoặc là ăn kiêng, hoặc là chết.

Yvette đã tuân thủ lời bác sĩ một cách tuyệt đối. Nàng sụt ký rất nhanh. Trong vòng vài tháng, nàng không còn là bà vợ mập mạp vui vẻ của tôi nữa, mà trở nên thon thả, ưa nhìn. Vì bị tước mất niềm đam mê ăn uống, Yvette trở nên say sưa chăm chút vẻ bề ngoài của mình (điều mà trước đây nàng không màng đến), do đó tính tình của nàng cũng thay đổi theo. Từ hào phóng, nàng trở nên keo bẩn. Nàng hà tiện mua những vật liệu rẻ tiền để chế biến món ăn, đồng thời bán cho khách những khẩu phần ít hơn thường lệ, dần dần nàng từ chối phục vụ những món ăn cầu kỳ tinh tế khiến cho nhà hàng càng ngày càng vắng khách. Mặc cho khách hàng riêng của chúng tôi ra đi, Yvette chẳng hề bận tâm. Nàng đã có những vị khách đặc biệt cho riêng mình. Đó là những con người tầm thường, thực đơn lúc nào cũng chỉ bánh xăng uýt và rau xanh. Thêm vào đó, chế độ ăn kiêng đã làm cho Yvette mau mệt mỏi nên không đáp ứng được những sinh hoạt vợ chồng, quan hệ giữa chúng tôi tuột dốc nhanh chóng. Từ yêu thương, tôi trở nên căm ghét nàng, nhất là việc nàng không còn khả năng sửa soạn một bữa ăn hợp khẩu vị trong gia đình. Không đếm xỉa đến sự bực dọc của tôi, Yvette còn lên án tôi quá coi trọng miếng ăn và có những nhận xét xúc phạm về vòng eo càng ngày càng phình ra của tôi.

Để giải khuây, tôi thường rời nhà đi lang thang. Một hôm, tôi khám phá ra quán Golden Cock trong một tầng hầm tối có món xúp tôm cà chua tuyệt hảo nhất thành phố. Chủ quán là Germainẹ Nàng già và đẫy đà hơn cả Yvette trước kia, gương mặt khá đẹp, má mịn hồng, ánh mắt xanh xám, mái tóc mềm mại. Chúng tôi bị thu hút lẫn nhau bởi một sở thích chung trong nghệ thuật nấu ăn. Chúng tôi góp ý cách làm một món ăn, bổ sung hoàn chỉnh cho nhau. Một lần nữa, hạnh phúc đã đến với tôi.

Tuy nhiên, tôi là người đã có vợ. Yvette không bằng lòng việc tôi ăn tối ở ngoài. Nàng kiểm soát tiền bạc của tôi rất chặt chẽ. Những món ăn vô vị của nhà hàng Chez Yvette càng làm tôi chán vợ thêm. Tôi không thể ly dị được vì Yvette là tín đồ Thiên chúa giáo, nên đành chờ cơ hội thuận tiện để đến với Germaine mà thôi. Về sau, Yvette đã phá đám chúng tôi, nàng cạn tàu ráo máng với tôi bằng cách biến tôi thành một tên kiết xác, không đồng xu dính túi, buộc lòng tôi phải trở thành người làm công cho nàng, hằng ngày phải ăn những món cà bầm dập, thịt đông hôi mỡ, bánh mì hạ cấp... mà khi nuốt vào chỉ muốn ói ra.

Nàng đã đẩy tôi đến bước đường cùng nên buộc lòng tôi phải nghĩ đến cách loại trừ nàng. Ông nghĩ xem, có gì là quá đáng đâu. Ông thấy đó, tôi không phải là loại người thích bạo lực. Tôi rất sợ dùng súng, dao hay bất cứ hung khí nào. Thuốc độc là phương cách duy nhất tôi nghĩ đến để giải thoát tôi ra khỏi vòng vây kìm kẹp của Yvettẹ Tôi cân nhắc các khả năng của Asen (thạch tín), Cyanur... hai chất này cực độc nhưng rất dễ nhận biết. Vả lại, làm thế nào để bảo đảm hành động của mình không để lại dấu vết hoặc không gây nghi ngờ cho cảnh sát cơ chứ. Suốt một tháng trời, tôi nghiền ngẫm vấn đề đến gầy rạc người đi.

Trong phòng ngủ của chúng tôi, trên bàn trang điểm của Yvette chất đầy những lọ thuốc viên và thuốc con nhộng trợ giúp thêm vào thực đơn ăn kiêng và giảm cân của nàng. Một buổi sáng, có người bạn đi du lịch phía nam về, tặng Yvette một lọ thuốc viên nhãn hiệu Yarubex. Đây là loại thuốc giảm cân rất công hiệu được sản xuất ở Mexico, rất khó tìm ở Mỹ. Yvette rất mừng. Nhưng cùng ngày hôm đó, tờ thời báo New York in đậm bản tin của Bộ Y tế Hoa Kỳ: "Không nên dùng thuốc Yarubex. Những viên thuốc nhỏ đó có thể gây chết người khi uống với liều lượng cao. Đặc biệt gây nguy hiểm cho những người bị bệnh tiểu đường. Đã có 20 trường hợp tử vong vì loại thuốc giảm cân này." Yvette hoảng hồn quăng lọ thuốc vào thùng rác và tôi đã lén nhặt lên. Tôi quan sát rất kỹ. Những viên Yarubex nhỏ, có màu trắng giống hệt những viên Saccharine đựng trong hộp thuốc khảm vàng của Yvette để nơi bàn trang điểm. Không suy nghĩ, tôi trộn những viên Yarubex lẫn vào những viên Saccharine và chờ đợi, lòng không chút hy vọng cũng như mặc cảm tội lỗi nào.

Tôi không thể tin là mình đã thành công dễ dàng như vậy. Vài ngày sau, Yvette chết. Tôi về nhà vào buổi chiều và thấy nàng nằm sóng soãi trên giường ngủ, người còn nguyên quần áo. Sau khi kiểm tra, biết chắc tim nàng đã ngừng đập, tôi lục ví nàng tìm hộp thuốc khảm vàng, trút tất cả xuống cống và thay vào những viên Saccharinẹ Xong, tôi lấy lọ Yarubex để cạnh nàng, rồi gọi cảnh sát.

Tên trung úy cảnh sát Stevens phụ trách cuộc điều tra là một người cục mịch, thô lỗ, cứ nhìn chầm chập vào tôi, mắt thoáng vẻ nghi ngờ. Tuy nhiên, vì không tìm ra dấu vết cũng như bằng chứng, việc điều tra được xếp lại. Tên Yvette được liệt kê vào danh sách nạn nhân của những kẻ vô lương tâm trong ngành kinh doanh dược phẩm.

Tôi bán nhà hàng Chez Yvette và đến với Germainẹ Quán Golden Cock của nàng càng ngày càng nổi tiếng bởi các món ăn ngon đặc biệt, hợp khẩu vị với những người sành ăn. Sau một thời gian vừa đủ, chúng tôi cưới nhau. Tôi trở thành người tự mãn vì hạnh phúc quá tràn đầy. Tôi không hề nghĩ rằng, một cuộc sống quá êm đềm không thể lâu bền được. Cho nên, vào một ngày đẹp trời, Germaine đã sụt sùi bảo tôi:

- Anh yêu, bác sĩ bảo em phải ăn kiêng thôi!

Thưa ông, ông là người giàu trí tưởng tượng. Tôi không muốn làm ông nhàm chán bằng cách nhắc lại những chuyện đã kể. Điều này giống như một cuốn phim hay vở kịch truyền hình phát lại lần thứ hai, chán ngắt. Chỉ nói rằng, phản ứng của Yvette và Germaine rất giống nhau. Và dĩ nhiên sau đó, tôi gặp Suzane.

Khi sa vào bẫy của tên trung úy chết tiệt Stevens, tôi mới nhận ra mình ngu ngốc lạ lùng khi dùng lại phương cách cũ - những viên thuốc Yarubex - để giải thoát cho mình. Tại sao tôi không nghĩ ra cách khác chứ. Vả lại, làm sao tôi tiên đoán được rằng, Stevens lại chuyển công tác về chỗ tôi đang sống?

Tuy nhiên, tôi vẫn tự hào về hành động của mình. Trên đời này, biết bao nhiêu kẻ sát nhân chỉ vì vài trăm đô la hoặc vì một mối hiềm khích vớ vẫn. Còn tôi, tôi chịu sự trừng phạt chỉ vì muốn bảo đảm những món ăn được nấu đúng nghệ thuật để phục vụ cho quý thực khách thân yêu. Người bị kết án có đặc quyền chọn thực đơn cho bữa ăn cuối cùng. Tôi nghĩ đến món sườn thỏ rừng sốt cam, bồ câu nhồi yến kiểu Trung Quốc, hay là gà hấp rượu anh đào. Nhưng thôi, những món này rất khó làm, phải tự tay tôi pha gia vị thì sự thơm ngon mới đạt tới đỉnh cao. Hẳn ông đồng ý với tôi? Xin chào ông - vĩnh biệt.

==========================

    -----------------Truyện: Nhà đòn---------------

Sau khi tốt nghiệp tại trường võ bị Thủ Đức, tôi được thuyên chuyển về một đơn vị tác chiến thuộc Sư Đoàn 21 BB. Thấm thoát thế mà cũng đã gần được một năm rồi! Đời lính chiến rày đây mai đó, không dừng chân ở một nơi nào quá hai tuần lễ ! Nhiều hôm nằm trong lều Poncho nghe tiếng mưa rơi rả rích mà nhớ lại thời còn là học sinh trung học! Những kỷ niệm êm đềm như vẫn như còn hiển hiện trước mắt tôi! Những buổi trốn học giờ Việt văn đi đánh bi da, những lúc rút người lại nấp sau lưng người ngồi trước vì sợ thày gọi lên bảng làm bài tập! Những hôm nghịch ngợm lấy quả mắt mèo thoa trên mặt ghế của các cô bé trong lớp rồi cùng nhau ôm bụng cười khi thấy các nàng đỏ mặt che dấu sự ngứa ngáy tàn bạo kia! Những mối tình một chiều vụng dại, thic'h đấy mà chẳng dám thổ lộ cùng ai! Còn nhiều lắm những kỷ niệm của thời yêu dấu đó ! Nay đã là lính chiến, cuộc sống thật bấp bênh . Sống hôm nay đó biết đâu ngày mai xác mình đã được gói trọn trong chiếc poncho rồi!  Tiểu đoàn tôi được lệnh tái chiếm một xã thuộc quận Vĩnh Châu tỉnh Bạc Liêu . Xã này bị VC chiếm tuần qua! Khi chúng tôi đến gần địa điểm trời đã về chiều. Tiểu đoàn trưởng ra lệnh đóng quân qua đêm . Đại đội của tôi nhận nhiệm vụ trấn giữ bờ bên phải của con kinh chạy dẫn đến xã! Trung đội tôi được lệnh đi nằm tiền đồn cách

đó chừng 500 mét tại một nghĩa địa nằm cạnh ngã ba của con kinh va ' một cái rạch nhỏ ! Đây làmột nghĩa trang khá lớn, là nơi chôn cất dân trong xã ! Khi tôi dẫn trung đội tới vị trí thì trời đã nhá nhem tối và cơn mưa dầm nhỏ hột bắt đầu rơi . Thời điểm này rất thuận tiện cho việc di chuyển quân hay tìm chổ đóng quân vì địch khó phát giác ra vị trí của ta !

Nghĩa trang này rộng cở một mẫu tây, chung quanh không có hàng rào, nhưng có bốn cái cọc to, cao cở tầm người được cắm ở bốn góc làm ranh giới ! Bên trong có chừng năm sáu chục cái mộ mằm rải rác không theo hàng lối nào cả ! Đa số là mộ đất với các tấm bia cắm ở cuối chân! Cũng có chừng năm sáu mộ được xây bằng xi măng với màu trắng nhờ nhờ của vôi! Chắc đó là mộ của các kẻ khá giả trong xã này ! Sừng sửng giữa cái nghĩa trang là một cái "nhà đòn" mái lợp ngói. Ba vách được xây bằng gạch đỏ nhưng không tô . Phía trước mặt tiền được để trống với một hàng hiên nhỏ phía trước . Nền nhà bằng xi măng nên trông sạch sẽ so với môi trường chung quanh!

Tôi chỉ định vị trí đóng quân cho các tiểu đội, chỉ chổ cho họ gài "trái sáng" và mìn "Claymore" ! Trong lúc các người lính hì hục đào hố cá nhân và giăng lều, người trung đội phó của tôi rủ rê :

_ Mình về nhà đòn ngủ đi ông thày !

Nhìn cảnh sình lầy ướt át chung quanh, tôi nghe cũng bùi tai ! Tôi cùng ban chỉ huy trung đội rút về cái nhà đòn ngủ qua đêm ! Một cái bàn thờ nhỏ với một lư hương to cở cái nón sắt được dựng sát vách sau . Trên sàn nhà có hai bộ đòn dùng để khiêng quan tài người chết ! Một cái chỉ có hai đòn dài và hai thanh ngắn đóng giữ ở gần hai đầu. Bộ còn lại trông đẹp đẽ hơn, được sơn màu đen trắng đỏ, giữ bởi hai thanh ngang và có lọng vuông với vải đen thêu hình phía trên trông như một cái kiệu ! Cái này có lẽ để cho các nhà giàu mướn thôi! Ngoài trời vẫn mưa rả rích, chỉ nghe tiếng côn trùng kêu e e nghe buồn đến thối ruột! Chúng tôi cả thảy là 5 đứa: Tôi, người trung sỹ nhất trung đội phó, anh lính truyền tin và hai người "tà lọt" . Tôi nói người tà lọt của tôi giăng mùng cho tôi ngoài hành lang ngay trước mặt tiền . Làm xong việc cho tôi, anh ta cùng mấy người khác giăng mùng của họ ngay trong nhà đòn . Vì trong nhà chật , họ phải giăng mùng ngay trên hai bộ đòn để ngủ ! Lính mà! Ma sợ lính chứ lính sợ gì ma! Chúng tôi thường bảo nhau như vậy ! Tuy nhiều lần ngủ ở các gò mả ngoài ruộng trong các cuộc hành quân rồi, nhưng đây là lần đầu tiên tôi ngủ trong một nhà đòn !

Mọi người chun vào mùng để tránh bọn muỗi đói đang bay vo ve như sáo thổi chung quanh ! Tôi có thói quen là khi vào mùng phải làm dấu đọc vài kinh trước khi ngủ. Tôi chưa hề gặp ma, nhưng tin có thế giới bên kia ! Vì là lần đầu ngủ trong nhà đòn nên tôi cũng hơi hơi rợn một tí ! Trước khi nhắm mắt tôi lầm bầm như để tự trấn an mình: "Tôi không phá phách gì ai ! Chỉ xin ngủ nhờ một đêm thôi!" Sau đó tôi thiếp đi trong giấc ngủ. Tiếng kêu của con cú ngay trên nóc nhà làm tôi giật mình tỉnh giấc! Chung quanh nhà vẫn tối đen như mực, tôi coi đồng hồ tay thì mới có ba giờ sáng thôi! Tiếng con cú đập cánh bay đi làm tôi giật nẩy mình! Tôi tự cười mình sao mà nhát gan đến thế ! Tôi chun ra khỏi mùng ra phía sau nhà để đi tiểu. Tiểu xong tôi quay lưng để trở về thì giật nẩy cả người lên! Trong bóng đêm tôi thấy bốn cái bóng đen ngồi tựa lưng vào vách ở phía sau cái nhà đòn . Tôi nhẩy bắn ra thủ thế và lần tay tìm khẩu colt45 vì tưởng là bọn đặc công VC đột nhập vào! Lúc này mắt tôi đã quen với bóng tối nên nhận ra đó là mấy tên bộ ha.

của mình đang ngồi tựa lưng vào vách ngủ say như chết ! Tôi lay họ dậy và hỏi sao lại bò ra đây mà ngủ vậy ! Cả bốn dụi mắt kinh hoảng lắm:

_ Tụi tui ngủ trong nhà mà !! Sao ai khiêng tui. tui ra đây cà !

Không ai nói với ai một lời nhưng trong thâm tâm chúng tôi đều nghĩ đến một điều _ "Còn ai vô đây nữa!" Mùng của tôi giang chấn ngang mặt tiền của nhà đòn. Ai bước ra ngoài cũng phải bước qua mùng, hay chun qua các giây căng! Trời tối đen như mực, tất nhiên họ phải đụng vào mùng tôi hoặc gây ra tiếng động và tôi phải biết vì tôi rất tỉnh ngủ (một thói quen có từ nghiệp lính !)

Không ai dám ngủ lại cả ! Bọn chúng tôi chun vào ngồi túm tụm trong mùng của tôi trước hiên nhà, thì thào nói chuyện chờ sáng! Từ đó về sau người trung đội phó của tôi không bao giờ mở miệng rủ tụi tôi ghé vào ngủ trong các nhà đòn nữa!

Note: Ở nước Mỹ này chúng ta thấy có nhiều Funeral homes trong thành phố, nếu bạn nào muốn thử sự gan dạ của mình, hãy trốn vào ngủ trong đó một đêm xem sao ! Hãy tắt hết đèn rồi leo lên bàn để quan tài nằm trên đó một đêm để lấy kinh nghiệm đi!

Còn bạn nào gan hơn nữa thì hãy chun vào các nghĩa địa, trốn vào nhà đòn, lên bàn để áo quan ở đó mà ngủ qua đêm, hay chun vào lò thiêu nằm thưởng thức cảnh lửa khè chung quanh và mùi thịt cháy bốc lên mũi của mình !

Chúc bạn may mắn trở về toàn vẹn !

===============================

--------------------Thử yêu lần nữa-------------

Xét về tình cảm, họ yêu nhau. Nhưng về lý trí, rõ ràng, Tony không phải mẫu hình lý tưởng của cô. Joshy hiểu rõ hai người là hai thế giới. Tony cũng chưa muốn có bạn gái để dồn sức cho sự nghiệp. Ngoài mặt, cậu dửng dưng nhưng lại luôn có một sự quan tâm đặc biệt không lời. Vì tất nhiên, dửng dưng chưa bao giờ có nghĩa là không thích. Và họ đã có với nhau một tháng với những gì đẹp đẽ nhất. Mọi việc đi nhanh hơn cả tên lửa NASA, đâu có ai biết cách làm cho tên lửa chậm lại khi nó đã được phóng. Cả Joshy và Tony đều cảm thấy những vấn đề không bình thường giữa hai người nhưng họ luôn né tránh. Một sai lầm kinh điển của những đôi yêu nhau. Không lâu sau đó, Tony đề nghị chia tay. Cậu đã phải chịu nhiều áp lực trong việc cố gắng trở thành một người bạn trai. Việc có bạn gái đã ngốn mất nhiều thời gian mà đáng lẽ ra cậu phải dành cho sự nghiệp của mình.

Những ngày sau đó là những ngày u ám & nặng nề. Tony vẫn làm việc đều đều dù cậu không thể phủ nhận rằng cậu thấy rất trống vắng. Khi đã bình tĩnh hơn và thôi khóc, Joshy nhận thấy việc chia tay của hai người là việc vô lý nhất cô từng biết. ''Có lẽ mình phải làm một cái gì đó!''.

Hai tuần sau, Joshy hẹn Tony đến quán nước quen thuộc. Cô nhìn thẳng vào mắt Tony và hỏi: ''Mình chia tay đã nửa tháng, anh đã cảm thấy thoải mái và dễ chịu hơn chưa?''. Chắc chẳng ai trên đời này cho rằng trống vắng là một cảm giác thoải mái dễ chịu nhưng Tony vẫn im lặng. ''Em đã có rất nhiều điều không hiểu'' - Joshy nói - ''Nhưng ngày hôm đó, cả hai chúng ta đều khong đủ bình tĩnh để nói chuyện với nhau. Em thật sự muốn biết anh đã chịu áp lực như thế nào''.

Không dễ để Tony nói ra những gì cậu nghĩ nhưng Joshy đã khéo léo thuyết phục bằng tất cả những dịu dàng và cảm thông nhất mà cô có thể. Sau cùng, cô nói: ''Em thật sự không thể chịu đựng được khi mình mất nhau như vậy. Nếu anh vẫn còn một chút tình cảm với em, chỉ cần một chút thôi nhưng là tình cảm thật sự chứ không phải lòng thương hại và anh cũng không muốn kết thúc như thế, chúng ta hãy cùng nhau bắt đầu lại thật chậm. Em tin mình có cơ hội để làm mọi việc tốt đẹp hơn''.

Tony im lặng rất lâu. ''Mình sẽ bắt đầu thật chậm như thế nào?'' - Cậu hỏi. ''Nếu anh thật sự muốn biết và muốn thử, hãy gật đầu cho em xem nào!'' - Joshy trả lời. TOny bật cười và gật đầu. Joshy vẫn luôn lém lỉnh như thế.

Joshy chậm rãi. ''Sẽ có một vài quy định bắt buộc, tất nhiên! Nhưng hãy thoải mái anh nhé! Em chỉ muốn cùng anh chơi một trò chơi thôi! Và đây là quy định của cô: Mỗi tuần họ sẽ gặp nhau ít nhất một lần và nhiều nhất ba lần. Mỗi người được quyền chủ động những cuộc hẹn và cả việc sẽ đi đâu trong một tuần. Tuần sau đến lượt người kia. Người bị động có quyền từ chối nếu không thoải mái nhưng một tuần bắt buộc phải có một lần đi cùng nhau. Đến khi một người muốn có cuộc hẹn thứ tư trong một tuần và người kia đồng ý thì đã đến lúc mọi việc trở lại bình thường như nó vốn như thế.

''Để bắt đầu, chúng ta sẽ bốc thăm'' - Joshy lấy từ trong xắc tay hai lá thăm be bé - ''Người nào bốc được lá thăm ghi chữ THE FIRST sẽ là người chủ động hẹn đầu tiên. Và tuần kế tiếp sẽ là quyền chủ động của người kia. Cứ như thế! Anh đã luôn nhường em nên lần này em nhường anh trước đấy!''

Tony bốc trúng lá thăm ghi chữ THE FIRST. Một tuần sau đó, cậu hẹn Joshy và trò chơi bắt đầu. Không dễ để hàn lại những thứ đã vỡ. Rất nhiều lúc Tony cảm thấy chán nản. Ý nghĩ về việc không hợp nhau làm cậu cứ muốn bỏ cuộc giữa chừng. Nhưng tình yêu cậu dành cho Joshy là một tình yêu thật sự. Joshy đã nói với cậu trước khi ra về ngày hôm đó: ''Em chỉ cần anh can đảm và kiên nhẫn chút thôi để cùng em vượt qua giai đoạn khó khăn này''. Cậu luôn nhắc nhở mình câu nói ấy để kìm bớt tính nóng vội và mau nản. Joshy cũng không dễ chịu gì hơn. Cô phải đánh đón tính tự ái của mình rất nhiều roi để nó yên thân mà nằm xẹp xuống. Cô tập yêu luôn cả những điều khiếm khuyết ở người con trai minh chọn. Cô lặp lại liên tục trong đầu hai từ ''kiên nhẫn''. Đã có nhiều điều buồn cười xảy ra trong suốt những ngày đó. Vì Joshy không hề quy định sẽ làm gì trong những lần gặp nhau nên họ nghĩ ra đủ trò. Joshy bắt Tony phải đến tiệm uốn tóc tán gẫu với cô trong khi các cô thợ rị mọ với cả đống ống cuốn trên đầu. Tony cũng khiến Joshy dở khóc dở cười khi ngồi chờ cậu trên thành hồ bơi nam. Họ đã cùng nhau chạy đua một chặng đường rất dài để tìm lại nhau.

Dần dần, họ thấy thích thú được quyền ''hành hạ'' người kia mỗi tuần và cả cái cách hỏi nhau khi bắt đầu một cuộc hẹn: ''Chiều thứ sáu này em rảnh không?''. Thêm một thời gian nữa, họ bắt đầu thấy nhớ nhau và cần nhau nhiều hơn là ba cuộc hẹn mỗi tuần. Tony đã thích nghi được với việc san sẻ thời gian và áp lực cho một người luôn sẵn sàng lắng nghe cậu. Và cậu nhận thấy việc có cả bạn gái lẫn sự nghiệp không phải là điều quá khó. Vào tuần cuối cùng của tháng tư, Tony hẹn Joshy lần thứ tư trong một tuần. Hôm đó là một ngày tuyệt vời không kém ngày đẹp trời lúc họ quen nhau. Nhưng Joshy vẫn giữ nguyên quy tắc ''mỗi người một tuần'' của mình, cô chỉ điều chỉnh nó thành thỏa thuận. ''Và tất nhiên người ta có thể vi phạm thỏa thuận trong những trường hợp có thể thương lượng được'' - Joshy nháy mắt tinh nghịch khi cả hai đứng mút kem.

Ngày 14 tháng 6, Joshy đem đến cho Tony một hũ thủy tinh đựng đầy socôla với dòng chữ: ''Be my valentine!''. Joshy cười một nụ cười của nắng: ''Những chuyện không vui đã khiên chúng ta xa nhau vào đúng ngày lễ Tình yêu. Em không muốn đợi đến năm sau mới đưa anh món quà này! Em yêu anh!'' - Cô hôn Tony.

''Có một điều anh đã thắc mắc rất lâu!'' - Tony nói sau khi qua phút ngất ngây - ''Nếu ngày hôm đó em bốc phải lá thăm THE FIRST thì khi nào em sẽ hẹn anh?'' Một nụ cười bí ẩn nở trên môi Joshy: ''Thì đã bao giờ em không bốc phải là thăm THE FIRST đâu! Cả hai lá thăm đều là THE FIRST, em chỉ không cho anh nhìn thấy lá thăm của em thôi! Em muốn anh bắt đầu khi anh thật sự sẵn sàng. Còn em thì đã luôn sẵn sàng để chờ đợi anh!''. Tony hỏi tiếp, cố giấu vẻ xúc động: ''Nếu như anh không chơi trò đó với em, hoặc nếu như anh không hẹn lần thứ tư... nếu...''. Nhưng hai ngón tay xinh xinh của Joshy đã đặt lên môi Tony để ngăn cậu nói tiếp. Cô nhẹ nhàng: ''Đó là một bí mật! Khi đó, em sẽ tính cách khác nhưng em sẽ không nói anh nghe đâu!'' Tony vòng tay ôm lấy cô. Cậu cũng không cần biết đến điều bí mật đó. Và sẽ chẳng bao giờ biết rằng Joshy chẳng có một dự tính nào cho những tình huống đó. Bởi cô tin là cả hai sẽ làm cho mọi việc tốt đẹp hơn.

============================

--------------------------Bí ẩn căn biệt thự----------------------

Hắn có biệt danh là Lâm "ngầu",bề ngoài khá phong độ,chững chạc,với 1 nụ cười của kẻ kiêu ngạo.Hắn là 1 lãng tử hay dân anh chị có tiếng,sinh ra trong 1 gia đình giàu có.Bề ngoại chạc 20 tuổi,nhưng thực ra hắn chỉ ở độ cái tuổi 17,tuổi học sinh.

Tuần này,mẹ hắn vừa dành cho hắn 1 bất ngờ,khi sắm cho hắn 1 căn biệt thự rộng lớn ở quận bình tân.Tòa nhà rộng lớn nhưng có vẻ âm u.Đêm khuya,người dân quanh đây khi đi ngang qua biệt thự thường nghe những tiếng động kỳ lạ,mới đầu thong thả như tiếng võng đưa kèo kẹt,sau nhanh dần như tiếng chó sủa ồ ồ trong đêm tối trời,có lúc tiếng động ấy dồn dập như tiếng vó ngựa gõ trên mặt đường,có lúc lại lắng nghe tiếng lộp bộp lê dép của chừng 5,6 người đi qua lại,rồi như cọ xát của những thanh tre già khi có cơn gió mạnh.Nhiều lúc tiếng động như chạy ra từ khắp tường bên trong biệt thự,rồi tiếng hò hát của ai đó.Từng ấy tiếng động,tạo nên 1 âm thanh hỗn tạp chừng như địa ngục trần gian.

Nhưng ba,mẹ hắn chừng như không biết những chuyện đó,vì tòa biệt thự lúc nào cũng có 1 người quản gia thân cận quản lí,người quản gia đó già,là người làm lâu năm của ba mẹ hắn,được trách nhiệm trông coi tòa biệt thự cho đến khi giao lại chi em của hắn.

Lúc này,sau gần 1 tháng du lịch bên Úc về,Hắn và bà chị tên Kim về lại gia đình để thăm hỏi và họp gia đình sau 1 thời gian dài xa cách.Vừa về nghe tin,hắn sắp có 1 tòa biệt thự riêng thì hắn mừng rỡ lắm,hok vui sao đc vì khi ở 1 mình hắn sẽ đc tự do,được tổ chức tiệc đình đám thâu đêm suốt sáng cùng lũ bè bạn của hắn.Sau khi trò chuyện cùng gia đình,hắn vội vàng vào phòng sắp xếp hành lý để chuẩn bị dọn vào nhà mới của hắn.Chị hắn thì không như vậy,chị hắn hôm nay đặc biệt muốn ở lại 1 đêm cùng ba mẹ để tận hưởng những giây phút tình mẫu tử ruột rà vì sau 1 thời gian dài xa cách gia đình do đi du lịch sang Úc cùng với hắn.Hôm nay,hắn cũng biết đc 1 tin khi ông quản gia săn sóc tòa biệt thự hôm nay bị bệnh và nghỉ ở nhà 1 bữa.Vậy là may cho hắn,có thể cả đêm nay sẽ rất đặc biệt cho hắn,để tận hưởng cảm giác ở 1 mình trong tòa biệt thự rộng lớn mà không sợ làm phiền hà ai.

Sau khi chào ba mẹ,hắn đón 1 chiếc taxi xuống bình tân cùng với 1 đống hành lý mà trong đó toàn những món đồ sang trọng và cao cấp.Vừa đặt chân xuống tòa biệt thự,hắn vội vả xếp hành lý vào căn phòng riêng của hắn trong tòa biệt thự,căn phòng rộng lớn,đầy đủ tiện nghi cho hắn.Sau khi xếp gọn gàng những thứ vật dụng cần dùng theo ý của hắn,thì hắn bắt đầu mệt mỏi.Và hắn thỏa sức tung cả thân người nặng gần 60kg xuống cái giường nệm lò xo,và chìm vào giấc ngủ.

-------------------------------------

Reeng,tiếng chuông đồng hồ báo thức,vậy là đã 6h tối,hắn xuống tolet rửa mặt,và điện thoại cho tiệm cơm gần đó đến giao đồ ăn tối cho hắn.7h tối,sau khi xong hết mọi việc,hắn bắt đầu lôi cơm hộp ra và ăn ngấu nghiến.Cho đến khi,hắn nghe những tiếng dép lê lết của ai trên cầu thang."Thật kỳ lạ" -Hắn ngẫm nghĩ,nhà đâu còn ai sau có tiếng động.Kệ,hắn tiếp tục ăn,nhưng chợt mặt hắn tái mét khi nhìn thấy 1 ngón tay đầy máu không biết của ai trong hợp côm.Quá sợ hãi,hắng hất tung cả hộp cơm,nhưng khi rơi xuống đất,lúc này hắn bắt đầu định thần và nhìn kỹ lại thì thì ra đó chỉ là 1 cái cổ gà mà thôi.

Thôi,hắn không nghĩ ngợi gì tiếp nữa,chắc chỉ là hoa mắt.Vẫn bình thường,hắn mở tivi và bắt đầu xem phim,những cuốn phim tình cảm cấp cao mà hắn vừa mua được khi đang du lịch ở Úc.Chừng độ 9h,thì hắn sực nhớ ra,hắn lập tức chạy xuống phòng khách,nhấc máy và gọi cho thằng bạn thân của hắn:

-Ê Vũ,tao Lâm nè tối nay mày rảnh hok,qua căn nhà mới tao làm 1 đêm ăn nhậu thâu đêm luôn?

Bên kia đầu dây vang lên 1 giọng nói ồn ồn,nghe có vẻ mệt mỏi,cũng là dân anh chị như hắn

-Thôi,xí cho tao hôm nay 1 đêm di,hẹn mai nhé.Mới đi chơi với con vợ và bạn bè nó ở Mũi Né về,cạn sức rồi....

Hơi bực dọc,vì chẳng nhẽ hôm nay chỉ có mình hắn với căn biệt thư sao.

- Vậy mai,thôi tao cúp máy nha.

Sau khi xong cuộc điện thoại với thằng bạn hắn,hắn lên lầu,bước vào phòng và lên mạng để chat với con bạn của hắn vừa quen được khi đi du lịch ở Sin.Mở màn hình lên,hắn vào yahoo và chat,vừa chat hắn vừa ngắm nhìn Webcam của cô nàng bạn hắn,xinh lắm.Hắn cười mừng rỡ vì số hắn may mắn vì quen được cô bé.Dăm ba câu chào hỏi,là sau đó hắn bắt đầu tình tứ cùng cô bạn.

Không khí ngoài đường im lặng đáng sợ,vang lên 1 vài tiếng sủa của lũ chó hoang.Trong phòng của hắn,thì im phăng phắc,chỉ có những tiếng gõ cạch cạch của hắn khi đang chat,văng vẳng những tiếng tik tak đồng hồ lạnh lẽo của chiếc đồng hồ treo.Tấm màn gió ngoài cửa sổ đột nhiên lại rung chuyển rồi 1 bóng người hiện ra sau tấm màn.Lúc nãy,hắn chỉ lo chat với cô bạn mà dường như hok để ý những gì xung quanh hắn.Những cơn gió,ào ạt đập mạnh vào những bức tường,cửa sổ,những tán lá,cành cây đánh khẽ vào nhau,rồi sau đó mạnh dần,tao thạnh những tiếng ghê rợn,kinh hoàng.Bất ngờ,hình dạng cô bạn trên Webcam của hắn bỗng nhiên thay đổi,một gương mặt kì lạ hiện ra,khó có thể tưởng tượng nó như thế nào.Bộ mặt ấy là tổng hợp của tất cả những biểu lộ tình cảm của con người,nó như cười,khóc,đau đớn,thích thú,như buồn,như giận dỗi,như muốn ăn tươi nuốt sống ai đó.Màu sắc của nó là tổng hợp tất cả màu sắc mà mắt thường có thể nhìn thấy đc,nó vừa xanh,vừa đỏ,vừa tím lại,vừa vàng pha lẫn màu đen.Trên đầu,hình như bộ não như muốn lòi ra,các dây thần kinh ùa ặt chay chằn chéo lẫn nhau,màu đỏ của máu rơi như suối tuôn,1 gương mặt không nguyên vẹn,thịt lủng từng miếng như thịt bằm.Tóc dài,choàng lấy gần nửa khuôn mặt,tròng trắng của mắt lòi ra,đi kèm với bộ răng nanh sắc bèn,cái lưỡi dài như muốn liếm lấy cả 1 màn hình vi tính.Đi kèm với đó là những dòng chữ xanh lá,hiện lên chạy dọc,chay ngang như điệu nhảy của những loài quỷ:

-"Lâm,Em chết thảm lắm"

-"Lâm,cứu em.."

-"Lâm,đừng bỏ em..."

Dòng chữ chạy ào ào,hok dứt.Lúc nãy,hắn quá khiếp sợ,đóng ập liền cái laptop của hắn mà quên tắt cả màn hình.Chồm người,phóng nhanh vào tolet,đầu óc hoảng loạn.Lúc này,hắn chỉ muốn mình mất trí nhớ để quên đi những cảnh kinh dị mà hắn vừa chứng kiến."Ai vậy,không phải là cô ấy chứ,Ma,hình như Ma"-Hắn liên tục nghĩ,tự hỏi và hình như hắn cũng chẳng biết cái gì vừa xảy ra với hắn.....

=========================

------------------------Cái đầu búp bê---------------------

Chuyện đã xảy ra từ lâu lắm rồi nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Những sự kiện lạ lùng như những tiếng động, những bước chân đi, những bóng đen ẩn hiện và đồ đạc trong nhà tự động dời chỗ v.v..., đã quá quen thuộc trong căn nhà tôi đã lớn lên. Căn nhà này, được xây vào năm 1937 trong một vùng cổ xưa của Louisville thuộc tiểu bang Kentucky gần con sông bùn lầy lớn tên là Ohio River, có hai tầng được xây bằng gạch đỏ với những chuyện huyền thoại ma quái mà tôi đã chứng kiến từ thời thơ ấụ Lúc đó tôi chỉ mới 8 tuổi...

Mùi lá thông thơm phức bay trong không khí tỏa ra từ cây Giáng Sinh má tôi vừa mới mua về để trong góc phòng khách. Ngày lễ đã gần kề má tôi lính quính trang hoàng nhà cửa và gói những món quà để tặng cho những người thân. Công việc quá bận rộn nên má tôi đã kêu người bạn học cùng lớp của tôi ở cạnh nhà qua giúp. Khi thiếu giấy gói quà má tôi mới nhờ tôi và người bạn của tôi lên trên gác tìm kiếm xem có còn cuộn giấy gói quà nào không. Tôi không dám đi một mình lên gác một mình vì có lần lên gác tôi thấy ở trên đó tối thui, âm u, và đầy màng nhện, khi thấy là sợ liền, nên tôi nói với má tôi rằng:

- Chắc không tìm được cuộn nào ở trên đó đâu má à! N.h.ư.n.g... c.ọn... k.h.ô.n.g... d.á.m... l.ê.n... đ.ó... m.ộ.t... m.ì.n.h.... Nghe tôi nói như vậy bạn tôi Christina mới cười và nói:

- Ồ! Cara có gì đâu phải sợ. Ðể Christina đi trước rồi Cara theo sau, tôi sẽ chỉ cho, không có gì trên đó bắt bạn đâụ (Christina là bạn học của tôi từ lớp mẫu giáọ Bạn là một người rất gan lì giống như con trai vậy không sợ chuyện gì cả!) Khi vừa nói xong thì bạn tôi bước lên cầu thang dẫn lên gác, còn tôi từ từ nối gót theo saụ

Trên gác ở phía ngoài có một cánh cửa bằng gỗ nhỏ nằm ngay trên một hàng lang toàn bụi bậm nhìn như là một căn phòng bị bỏ hoang. Bạn tôi với tay mở cánh cửa ra, chúng tôi bò vào trong như là bò vào một cái hầm tối lục lọi từng thùng xem có cuộn giấy nào không. Vừa lục trong thùng này xong tôi bò sang thùng khác thì tôi chợt thấy một con búp bê cổ xưa có những loạn tóc quăn dài màu vàng mặc áo đầm màu đỏ sậm với những riền ren màu trắng đang nằm trên sàn. Tôi vừa cúi xuống nhặt nó lên nhưng phải khựng lại ngay vì tôi thấy đôi mắt của nó từ từ mở ra, tay trái của nó bắt đầu cử động đưa lên đưa xuống và đôi mắt màu xanh nhạt của nó thì cứ chớp lia lịạ Christina và tôi đều thấy nên hai đứa cùng la lên:

- AAAAAAAA! Và ba chân bốn cẳng chạy ra khỏi căn gác.

Xuống đến nhà dưới, chúng tôi kể lại những gì đã thấy cho má tôi nghe nhưng má tôi không tin. Má tôi nói chúng tôi tưởng tượng quá nhiều, làm gì mà có chuyện kỳ lạ như vậy; rồi bắt chúng tôi dẫn bà ta lên gác để xem sự thật có phải vậy không. Khi chúng tôi trở lên gác cùng với má tôi thì không thấy con búp bê nằm ở đó nữạ Lúc đó má tôi nhìn tôi với cặp mắt ngờ vực, tôi vội nói:

- Má à! Con và Christina thấy con búp bê nằm trên sàn ở đây nè! Nó còn biết chớp mắt và cử động nữạ Lúc này Christina xen vô:

- Dạ. Con cũng thấy nữa cho nên sợ quá chừng.

Cả ba chúng tôi lục soát khắp nơi trên căn gác nhưng không tìm thấy con búp bê nào cả. Tôi không biết má tôi có thật sự tin tôi không nhưng đối với tôi nó đã ám ảnh tôi suốt cuộc đờị

Từ đó tôi không bao giờ đụng đến bất cứ một con búp bê nàọ Cho đến bây giờ tôi cũng không dám bước lên trên gác.

Ðầu Búp Bê

Câu chuyện này có liên quan đến búp bê cho nên Tuyết Trinh xin được đăng cùng một trang.

Sau năm 1975, nhà tôi rất nghèo hễ thấy đồ chơi ai bỏ là chúng tôi đem về nhà. Một hôm tôi thấy một cái đầu búp bê lớn hơn cái đầu của em bé mới sanh một chút, nó biết nhắm mắt khi để nằm xuống, mở mắt ra khi để đứng lên. Tìm được cái đầu búp bê tuy đã cũ và hơi dơ bẩn một chút nhưng vì nó biết mở mắt và nhắm mắt nên tôi rất vui mừng. Mặc dù không biết ai đã đem về nhà, nhưng có đồ chơi là vui lắm rồị

Mỗi ngày tôi đều chơi với cái đầu búp bê nàỵ Một hôm tôi cầm nó lên và đưa vào mũi hưởi thì thấy cái mùi nhựa và cái mùi gì đó làm tôi thấy khó chịu và chóng mặt. Từ đó tôi liệng nó vào trong góc không thèm để ý đến nữa, nhưng cứ mỗi lần tôi đang ngồi chơi hay là đang nằm chuẩn bị ngủ chẳng hạn thì tôi có cảm giác như có ai đó đang nhìn, khi tôi nhìn theo hướng cảm giác của mình thì lúc nào tôi cũng bắt gặp cái đầu búp bê đang hướng về mình, cặp mắt thì chầm chầm nhìn thẳng vào tôi mặc dù nó đang nằm.

Lúc đầu thì tôi không sợ còn lấy cái đầu búp bê lắt qua lắt lại để khi để nằm xuống thì nó nhắm mắt lại rồi đem vào phòng liệng dưới giường của má tôị Tại vì trong phòng của má tôi không có đứa nào được vào đó chơi hết, cho nên tôi mới liệng vào đó để không phải thấy nó nữạ Qua ngày hôm sau tôi đang ngồi cắt giấy làm thủ công, và cái cảm giác có ai đang chăm chú nhìn mình chợt đến, tôi quay lại thì không thấy ai hết nhưng mắt tôi chợt thấy cái gì đang nằm ở dưới ghế nệm cũ, khi nhìn kỹ lại thì tôi thấy cái đầu búp bê cũng đang quay mặt về hướng mình với cặp mắt xanh mở to như là trách móc: "Sao không chơi với tôi nữa!"

Lúc đó tôi bắt đầu thấy sợ rồi nghĩ: "Mình đã liệng nó xuống dưới giường của má rồi sao hôm nay nó lại nằm ở dưới chiếc ghế này và còn mở to đôi mắt nhìn mình nữạ Quái lạ!" Sau đó tôi gắng bình tĩnh làm lơ đi chứ không dám đụng đến cái đầu búp bê nữạ Ðến ngày hôm sau, đang ngồi trên giường học bài, tôi cũng có cảm giác rờn rợn và ý nghĩ về cái đầu búp bê lại chợt đến. Tôi biết chắc chắn rằng cái đầu búp bê đang nằm ở dưới gầm giường của mình vì linh tính của tôi cho biết như vậy; nhưng tôi cứ do dự nửa muốn nhìn nửa lại không muốn. Cuối cùng tôi nhìn đại thì đúng như linh tính của tôi cho biết cái đầu búp bê đã nằm dưới giường của tôi tự lúc nàọ Khi thấy nó tôi sợ xanh cả mặt nhảy đùng xuống giường rồi chạy ra ngoài sân với mấy đứa em chứ không dám ở trong nhà học bài một mình nữạ

Từ đó tôi không dám nhìn xuống bất cứ cái bàn cái ghế hay giường tủ nữa và tôi cũng không dám ở trong nhà một mình dù là ban ngàỵ Rồi thời gian qua mau tôi quên mất cái đầu búp bê này, khi tìm lại thì không thấy nó đâu hết...

===========================

------------------------Bãi đất hoang sau nhà------------------------

Lần đầu tiên Vân tận mắt chứng kiến một người chết cách đây hơn một năm lúc còn ở Việt Nam. Chứng kiến một người chết, có nghĩa là nhìn người ấy đang từ cõi sống đột ngột bước sang thế giới bên kia. Đó là ông Thọ ở cách nhà Vân ba căn trên cùng con hẻm nhỏ thuộc phường 10 quận Tân Bình.

Chẳng phải vì là hàng xóm mà Vân quen ông , láng giềng thật xa mỗi người có một cuộc sống nên cũng ít khi gặp nhau huống chi ông lại hơn Vân quá nhiều tuổi. Nếu xưng hô cho đúng thì Vân phải gọi ông bằng chú. Nhưng sỡ dĩ Vân thân với ông chỉ vì ông là tài xế xe bus trên lộ trình từ nhà Vân đến sở làm. Dù muốn dù không , ngày nào Vân cũng phải gặp ít nhất một lần vào buổi sáng.

Có một dạo xe bus là phương tiện chuyên chở công cộng rất đắt khách , chuyến nào cũng chật ních. Nhưng khi VN chuyển sang kinh tế thị trường thì dân Sài Gòn nườm nượp mua xe gắn máy. Lại thêm xe ôm phát triển , xe bus dần dà trở nên ế ẩm vì đi lại chậm chạp trên đường phố đông đúc mà ít ai tôn trọng luật lưu thông.

Chỉ có những hành khách không có phương tiện khác như Vân mới bất đắc dĩ phải bám với xe bus mà thôi. Xe vắng khách , nên mỗi khi thấy Vân bước lên , ông Thọ thường vui vẻ hỏi chuyện vu vơ mặc dù trên nguyên tắc , ông không được nói chuyện khi lái xe. Vân cũng hân hoan đáp lại , chọn cái ghế trống gần ông để đàm đạo cho quên đoạn đường tới sở. Đại khái thì toàn những câu xã giao thủ tục thôi , lâu lâu nếu trong con hẻm nhà Vân có chuyện gì bất thường xảy ra thì hai người mới có đề tài mới để bình luận.

ông Thọ không có vợ con , sống nhờ nhà người anh ruột , nhập chung hộ khẩu và coi gia đình người anh như gia đình mình. ở tuổi bốn mươi lăm, mặt ông khắc khổ ưu tư , nước da đen sạm và mái tóc phía trước hơi dài lúc nào cũng rũ xuống trán làm Vân thấy rất ngứa mắt .

ông ít cười , dù nụ cười rất tươi. Hàm răng đều như hạt bắp , phải cái tội là lúc nào cũng úa vàng vì khói thuốc. ông ghiền thuốc lá nặng ,trong túi lúc nào cũng có gói Mai , loại thuốc đen nội hóa ít người hút. Mỗi khi đường kẹt xe, ông thường chạy xuống rít một điếu hoặc có khi chỉ vài hơi rồi lại leo lên lái tiếp. Dân Sài Gòn hút thuốc nhiều , nên chẳng ai thấy ngứa mắt và cũng không thấy khó chịu vì khói thuốc.

Một buổi sáng trên đường đi làm như thường lệ , Vân ngồi ngay chiếc ghế sau lưng ông , đang kể câu chuyện bắt ghen trong xóm, và xe đang chạy ngon trớn, thì Vân bổng giật mình thấy xe bus tự dưng rẻ nghiêng sang bên phải, rồi leo hẳn lên lề , húc mạnh vào một gốc cây rồi dừng lại . Xe vẩn nổ máy, nhưng ông Thọ gục xuống trên tay lái làm còi xe cứ inh ỏi réo liên tục. Cũng may , gặp khúc lề đường rộng lại có cây lớn chặn lối nên xe không cán phải người bộ hành hoặc đâm vào nhà người ta.

Hành khách nhốn nháo đứng ngồi cả lên , Vân lay vai ông Thọ và hốt hoảng hỏi :

− Ý thôi chết , lạc tay lái hả ông Thọ ? Tỉnh dậy ông Thọ !

Nhưng lay mãi mà ông không trả lời , hành khách xôn xao đưa mắt nhìn nhau rồi bỏ xuống tìm phương tiện chuyên chở khác vì sợ trể giờ làm việc . Vài người hiếu kỳ phần lớn là khách quen ngày ngày vẩn đi cùng chuyến này xúm lại cùng với Vân lôi đầu ông Thọ ngồi thẳng lên , lập tức tiếng còi xe ngưng bặt. ông Thọ ngẻo đầu sang một bên , mặt xám ngắt , miệng hơi há ra và đôi mắt lạc thần vẫn mở trừng trừng nhưng rõ ràng là mất hết sinh khí .

ông đứng tim chết mà người ta xét theo lối dân gian là ông bị trúng gió , và không ai tin là ông đã chết thật bởi nó xảy ra quá đột ngột. Vân lo lắng nhìn quanh và hỏi :

− Ơ...Có ai có dầu nhị thiên đường không ?...Dầu gì cũng được...Cho tôi mượn.

Đám đông xung quanh mỗi người một câu :

− Trời...trời , ông bà nào chịu khó chạy lên ngả tư thấy ông công an, kêu dùm một cái

Người khác bảo :

− Kêu xe cứu thương chứ chờ công an đến kiếp nào...

Người ta giật tóc mai, lắc mạnh hai vai ông , hoặc ấn mạnh vào ngực ông , hy vọng có thể giúp ông hồi tỉnh trong lúc chờ vào nhà thương. Nhưng tất cả đều vô ích , có người thất vọng than :

− Thôi ! Chắc chết rồi , chết thiệt rồi . Trăm phần trăm là trúng gió rồi. Trời đất ơi ! Lúc này gió nó độc lắm nghen.

Cùng với nhận xét ấy , người ta tản mác xuống xe , lảng ra xa , tránh những phiền toái lát nữa khi nhân viên công lực đến thẩm vấn. Nhưng Vân không bỏ đi được , không nở bỏ ông hàng xóm , bởi nàng vẫn bám víu ý nghĩ là ông chưa chết hẳn, chỉ bất tỉnh nhân sự mà thôi.

Nàng xuống xe, mặt nhợt nhạt ngó quanh , rồi vẫy chiếc xích lô máy rồi nhờ người tài xế lên đỡ ông Thọ xuống và chở vào bịnh viện. Nàng bảo :

− Nhanh nhanh thì may ra cứu kịp nhé ! Chắc ông ấy chỉ bị nghẹt thở thôi , chưa có chết hẳn đâu.

Rồi nàng móc bóp lấy tiền trả ông xích lô , nhưng ông xích lô ngơ ngác nhìn Vân và hỏi :

− Bộ cô không đi với ông ấy sao ? Đâu có được , cô không có đi chung thì tôi không có chở ông ấy đâu ! Giỡn hoài , bộ tôi ngu sao ?

Vân khẩn khoản :

− Ông ơi , tội nghiệp người ta bị ngất xỉu ,ông làm ơn đưa vào nhà thương dùm. Tại tôi....tôi còn phải đi làm.

ông xích lô trợn mắt đáp :

− Ngất xỉu đâu mà ngất xỉu ? Chết ngắt rồi , tôi đưa vào bệnh viện , người ta hỏi lôi thôi lắm cô ơi. Phải có người nhà mới biết đường mà trả lời chứ !

Vân nhìn ông Thọ một lần nữa , quả thật ông chết rồi. cái xác không hồn , nằm rũ trên xích lô , đầu nghiêng sang một bên. Mắt vẫn trợn trừng , và mồm vẫn há ra. Nàng bảo ông xích lô :

− Nhưng mà tôi cũng đâu phải là người nhà !

ông xích lô vừa kinh ngạc , vừa bực bội , giậm chân lắc đầu lia lịa , ông toan chửi thề , nhưng nhớ rằng trước mặt phụ nữ , nên gắt lên :

− Cô không phải là người nhà của ông ấy thì mắc mớ gì cô đòi đưa ông ấy vào nhà thương ? Con người sao khờ quá ! Rồi công an hỏi cung về cái chết của ông ấy , rồi cô trả lời làm sao ?

Vân cũng vừa chợt nhận ra mình tự mang cái ách giữa đàng vào cổ , nhưng một phần vì là người quen , một phần thì bây giờ cũng đã lỡ rồi làm sao rút lui được ? Nàng cứ tưởng ông chỉ ngất xỉu nên mới động lòng tìm cách cứu chữa gọi xích lô đưa vào bịnh viện. Không ngờ ông đã về bên kia thế giới.

Từ lúc nghe ông xích lô xác quyết là ông Thọ đã chết, tự dưng chính Vân cũng thấy rờn rợn và không dám nhìn mặt ông nữa. Nhưng bây giờ biết làm sao , khách bộ hành đi ngang hiếu kỳ bu lại mỗi lúc một đông hơn vì ông xích lô khua chân, múa tay nói quá lớn , ông chán nản bảo Vân :

− Cà chớn ! mới sáng sớm đã gặp xui. Bây giờ cô phụ tôi khiêng ổng lên , bỏ lại trên xe bus đi rồi ai muốn làm gì thì làm. Tôi không có dính vào vụ này.

Dứt lời , ông xách nách xác chết và bảo Vân đỡ hai chân ông Thọ. Vân ngần ngại đứng yên , ông xích lô phải nạt lớn nàng mới chịu bắt tay vào khệ nệ khiêng cái xác không hồn lên xe bus, đặt vào sau tay lái. Rồi ông xích lô lao phắt xuống đường lên xe phóng vội đi miệng còn lào nhào chửi Vân là đồ ngu.

Vân xuống xe đứng phân vân bên lề đường không biết nên bỏ đi hay chờ cảnh sát tới để tường trình. Đám đông bu quanh mỗi người hỏi một câu , Vân lơ đãng trả lời rồi quyết định đón honda ôm về báo tin cho gia đình ông Thọ biết và vào nhà thương làm thủ tục nhận xác của ông chôn.

Định mệnh xắp đặt khiến ông chết đột ngột và tình cờ Vân lại là người đầu tiên chứng kiến cái chết bất ngờ của ông giữa lúc ông đang nói chuyện với nàng. Cách đây hơn một tháng Vân có khoe với ông là nàng đang chờ sang Canada định cư do người anh bảo lảnh. ông Thọ chớp mắt bảo :

− Mừng cho cô

Nhưng rõ ràng , giọng ông có một chút buồn tủi cho thân phận mình , ước mơ xuất ngoại mà không có con đường nào. ông bảo Vân:

− Tôi cũng có nghe nói cô sắp ra nước ngoài , người ta bảo vì vậy cô nhất định chưa chịu lấy chồng.

Vân cười rồi nói lại :

− Trước khi tôi đi thì thế nào gia đình tôi cũng làm tiệc giã từ bà con lối xóm mà. Mời ông sang cho vui với gia đình tôi nhé !

− Vâng, quý hóa quá ! Cô nghĩ đến tôi là tôi mừng rồi. Tôi thì phải qua tiễn chân cô chứ !

Câu chuyện tưởng như mới hôm qua , Vân chưa lên đường , chưa kịp làm tiệc mời ông Thọ thì ông đã về bên kia thế giới, Vân chạy về nhà báo tin, rồi cùng người anh ông Thọ lãnh ông từ nhà xác về , mua đất chôn ở nghĩa trang Tân Việt, gần Bà Quẹo.

Vân có mặt từ đầu đến cuối , từ lúc tẩm liệm cho tới khi hạ huyệt. Đám tang ông Thọ thưa thớt lại gặp ngày mưa to gió lớn , nghĩa trang ở vào khu đất trũng , nước ngập mênh mông. Quan tài thả xuống huyệt cứ nổi lềnh bềnh khiến người ta phải dùng gậy dí hai đầu xuống để lấp đất. Mà lấp bao nhiêu đất ,đất biến ngay thành bùn theo nước trôi đi, người nhà vất vả lắm , ông Thọ mới chịu an lòng.

******

Gần một năm sau, Vân lên đường sang Canada , tạm thời ở chung với gia đình người anh đã bảo lảnh , tên là Hiếu , có vợ ba con tại Toronto. Hiếu mới mua nhà trước khi Vân qua , căn nhà mới , ở vùng ngoại ô phía bắc toronto , nằm trong khu vực vừa khai phá , giá tương đối rẻ và đất xung quanh còn rất khoảng cách. Phía sau nhà Hiếu cách một bải trống mọc đầy cỏ hoang rồi mới tới bìa rừng. Bải đất trống ấy cũng nằm trong kế hoạch xây cất tư gia hoặc chung cư , nhưng vì tạm thời kinh tế xuống , ngành địa ốc suy thoái nên người ta khựng lại bỏ không.

Gia đình Hiếu có năm người , nhưng hai đứa con đầu vừa lên đại học và đi ở xa , ở nội trú luôn trong trường. nên nhà chỉ còn hai vợ chồng với cô con gái út mười bốn tuổi. Vợ chồng Hiếu chiếm ngụ cái phòng ngủ chính trên lầu , đứa con gái cũng có buồng ngủ riêng bên cạnh. Dưới nhà bên cạnh buồng tắm , có một phòng nhỏ dành cho Vân, sát bức tường phía sau , có cửa sổ trông ra bải đất trống quạnh hiu.

Ngày ngày nhìn cảnh tượng hoang vu vắng lặng sau nhà , Vân còn đang nhớ Sài Gòn da diết thì bà chị dâu đã xa gần giục chồng kiếm việc cho Vân. Thật ra thì chẳng cẩn phải chị phải giục , chính Hiếu cũng đang để ý tìm việc cho Vân để nàng có thêm tiền chi dụng , và nhất là để vợ Hiếu khỏi cằn nhằn. Hai vợ chồng Hiếu cùng đi làm cả, cho nên vợ Hiếu rất ngứa mắt khi thấy Vân qua đây mà cứ ngồi im trong nhà.

Ba tháng sau thì Hiếu tìm được việc cho em gái ở một tiệm cà phê Dolnad mở 24 tiếng một ngày , tiệm nằm ở khu vực downtown , nghĩa là trung tâm của thành phố Toronto. Họ cho Vân làm ca đêm , bắt đầu từ 11 giờ đến 7 giờ sáng. Hiếu an ủi em :

− Thôi ! Cứ chịu khó làm tạm đi, rồi một thời gian sau sẽ đổi sang ca ban ngày. Họ có hứa với tao như vậy. Ca đêm thì buồn ngủ, nhưng mà bù lại thì ít khách hơn ban ngày.

Vân vui vẻ đáp :

− Em có ngại gì đâu , ngồi nhà chán chết.

Hiếu tỉ mỉ dặn dò Vân những kinh nghiệm làm việc nơi xứ lạ để em khỏi bở ngở , rồi Hiếu chỉ dẩn cho Vân cách đón xe đi làm.

Vì là khu tân lập ngoại ô nên trước cửa nhà Hiếu tuy đường xá mới mẻ nhưng chưa có xe bus , Vân sẽ phải đi bộ một khoảng khá xa để ra con lộ chính lấy xe bus đưa nàng tới trạm Metro. Rồi khi từ trạm Metro trồi lên, nàng sẽ lại phải đón thêm một chuyến bus nữa mới đến downtown, chỗ nàng làm việc. Hiếu dự trù vài tháng nữa, sẽ bắt Vân đi học lái xe , sắm chiếc xe hơi cũ, cho em gái đỡ vất vả.

Hiếu lấy thêm chìa khóa nhà trao cho em rồi cẩn thận bắt em ghi số phone nhà, số phone tiệm Dolnad và số phone chỗ Hiếu làm việc , cất kỹ vào bóp để lúc cần thì liên lạc, nhất là lúc chẳng may Vân bị lạc đường. Hiếu bảo :

− Mày đi làm ca đêm cũng khoẻ , sáng khỏi phải dậy sớm , ban ngày tha hồ mà ngủ. Đường sá không kẹt xe, bus rộng rãi, khỏi phải đứng mỏi chân.

Vân biết ông anh vì tội nghiệp mình nên cứ phải tìm cách an ủi , nàng che dấu nét xúc động và bảo :

− Anh khỏi phải lo, việc lgì em làm cũng được mà , ở Vn em quen vất vả. Với lại đi làm học tiếng anh còn nhanh hơn học trong sách nữa.

Sáng hôm sau, Vân dậy sớm hơn thường lệ dù mãi đến tối mới phải đi làm. Ngày đầu nhận việc, nàng hồi hộp không ngủ yên giấc , nàng lục đục một lúc rồi vợ chồng Hiếu mới từ trên lầu bước xuống. Bà chị dâu hôm nay nhìn Vân âu yếm hơn vì nàng đã có việc, không ngồi chơi, ăn bám như ba tháng vừa qua. Việc của Vân tuy lương chẳng có bao nhiêu, nhưng chính Vân cũng mừng thầm trong bụng bởi từ nay khỏi phải nhìn nét mặt hầm hầm đi ra đi vào lườm nguýt của chị dâu.

Hai vợ chồng Hiếu chuẩn bị đi làm sớm, đứa con gái đáng lẽ chưa cần đi gấp, nhưng tiện xe của bố mẹ , nên cũng ké luôn tới trường , khỏi phải cuốc bộ . Nhà chỉ còn mình Vân ngồi ăn sáng, nàng dự định sẽ ngủ thêm một giấc nữa rồi dậy nấu cơm cho cả nhà ăn chiều. Riêng Hiếu thì cứ nằng nặc bảo Vân phải ngủ một giấc dài , phải đến gần giờ đi làm hẳng thức.Vân gật đầu đồng ý, nhưng lúc cả nhà đi rồi , nàng chỉ ngồi coi tivi hoặc thơ thẩn ra trước nhà rồi lại vô làm bếp , muốn ngủ, cũng không ngủ được.

Buổi tối hôm ấy cơm nước xong, cả nhà ngồi coi tivi một lúc, rồi Vân chuẩn bị đi làm. Muốn chắc ăn , nàng ra khỏi nhà lúc 9 giờ rưỡi mới không sợ trễ giờ. Trời cuối tháng 11 bắt đầu se lạnh và mau tối. Mới khoảng 5 giờ chiều là đã thấy âm u xám ngắt , có năm Toronto giờ này tuyết đã trắng xóa. Năm nay trời khô, nhưng gió buốt , nhất là quanh nhà Hiếu còn quá nhiều bải đất trống.

Vân mặc quần jean, hai ba lớp áo trong áo ngoài, cổ quấn khăn , chân đi giày bata, tay cầm cái túi đựng thức ăn và dăm ba đồ lặt vặt. Nàng lầm lũi lội bộ qua mấy khúc đường vắng tanh tăm tối rồi mới đến con lộ chính. Đúng như Hiếu nói , giờ này người và xe đã vơi hẳn nên ở trạm bus chỉ có một hành khách đang đợi, đó là một bà người Canada, ngồi trên ghế băng trong nhà lồng kiếng, sốt ruột nhìn về hướng xe bus tới.

Vân cũng bước hẳn vào trong nhà kiếng để tránh gió , nàng gật đầu chào bà cụ, rồi ngồi xuống bên cạnh và cùng quay mặt về hướng xe sẽ đến. Khoảng hơn 5 phút thì nàng vui mừng thấy xe bus hiện ra xa xa mờ mờ với ánh đèn đường. Nàng vội đứng dậy, bước hẳn ra ngoài, bà cụ cũng bước theo Vân, co ro đứng sát lề. Vân ngước nhìn con số khá lớn ghi trên đầu xe và hài lòng gật đầu vì đúng số xe mà Hiếu đã dặn. Mới đi xe bus lần đầu, nàng rất sợ lầm lộ trình rồi không biết cách nào mà quay về. Chiếc xe bus nặng nề lăn bánh tới và tách vào lề, Vân đứng trước , một tay xách túi đồ ăn, một tay cầm sẳn hai đồng bạc cắt. Bà cụ đứng sau lẩm bẩm nói một mình thứ tiếng Anh pha giọng ý rất khó nghe. Xe bus vừa mở cửa , Vân hăm hở bước lên bổng nàng giật mình sửng sốt kêu lên , đứng khựng lại và run rẩy muốn té quỵ xuống đất bởi vì người tài xế xe bus chính là....ông Thọ ngay trước mặt nàng. Giờ này ông lại ngồi sau tay lái bên Canada , quay đầu nhìn Vân cười rạng rỡ. Cái khác duy nhất giữa ông Thọ lúc trước và ông Thọ lúc này chỉ là da mặt ông không đen xạm như xưa mà trắng bệch có pha chút xanh xao, y như bôi một lớp sáp trên mặt , hàm răng ông cũng không còn vàng ám khói như nghệ mà trái lại trắng nhợt như nước sơn khiến nụ cười trông thật ma quái.

Nhất định là ông Thọ , không thể lầm được. Vân tái mặt đánh rớt cái túi thức ăn xuống đất , lạng quạng bước lùi lại mấy bước rồi kinh hồn quay đầu chạy , bà cụ người Canada đứng sau Vân đưa hai tay đỡ lấy vai Vân và hỏi bằng tiếng Anh :

− Cái gì thế , cô làm sao vậy ?

Vân không hiểu gì, run rẩy chỉ ông tài xế và ấp úng mãi mới nói đại được một câu nữa tiếng Anh, nữa tiếng Việt :

− Ông ấy...ông ấy...chết..rồi...he died...ông tài xế là người chết lâu rồi..

Rồi nàng quay lưng cắm cổ chạy, bà cụ vừa leo lên, vừa ngạc nhiên nhìn theo Vân lẩm bẩm vài tiếng không ai nghe rõ.

Chạy được một khoảng khá xa, vào hẳng trước dãy phố , Vân mới dừng lại thở , nàng quay đầu nhìn lại trạm xe, thì chiếc bus đã mất hút không thấy dấu vết gì nữa. Chỉ còn trơ lại cái nhà kiếng với ngọn đèn đường vàng úa. Dãy phố chỗ Vân đứng , nhiều cửa tiệm đã đóng im lìm ngoại trừ những quán cà phê, nhà hàng ăn, và tiệm tập hóa. Vân mệt quá ngồi đại xuống bậc thềm bên cạnh tiệm bánh ngọt đang chuẩn bị đóng cửa. Hơi thở nàng vẫn còn dồn dập , nàng nhớ lại nguyên vẹn khuôn mặt trắng xanh và hàm răng trắng ngời của ông Thọ lúc thấy nàng vừa bước lên xe , làm toàn thân nàng lạnh buốt như cơn bảo bất ngờ thổi buốt thấu xương.

Nàng không thể lầm được, ông Thọ đã chết , chính nàng đã đi đám tang và chôn ông ở nghĩa trang Tân Việt, Bà Quẹo. Sao giờ này lại lái xe bus bên Canada ? Vân phân vân suy nghĩ, đầu óc hoang mang, khuôn mặt đờ đẫn , quên cả cảnh vật xung quanh, đến nổi chủ tiệm bánh ngọt bên cạnh phải giục nàng đứng dậy để họ đổ rác vì nàng đang ngồi ngay bên cạnh thùng rác.

==========================

--------------------MA KHÔNG ĐẦU ----------------------

Tôi dụi mắt ngắm kỹ một lần chót nữa. Quả nhiên, cũng như cảnh tượng vừa hiện ra lúc tôi mới đến, tất cả sự vật chung quanh mình tôi cứ tựa hồ như chứa đầy một vẻ bí mật thiêng liêng rùng rợn, một vẻ bí mật mà hình như rõ rệt tôi đợc mục kích càng làm cho dữ dội nặng nề.

Hiện trạng đương phô bày trên mái đồi kia, trớc mắt tôi không xa mấy, dưới ánh nắng vàng đỏ của buổi chiều tà, hiện trạng đó có quả thực là một hiện trạng hay không, hay chỉ là một hình ảnh mơ hồ mà đôi mắt quáng của tôi lầm tưởng là một bức tranh kỳ quặc tôi phân vân không biết tự đáp thế nào. Ngắm đi ngắm lại, rồi lại dụi mắt, dụi mắt xong lại nhìn, tôi hết sức nghiền ngẫm cho chắc chắn, cho kỳ mối ngờ vực của tôi thành hẳn ra ngờ vực, hoặc biến thành một tín ngưỡng sâu xa. Nhưng... có lẽ nó hóa ra tín ngưỡng mất.

Vì, chỉ cách tôi bảy tám cột đèn, nghĩa là non hai trăm thước, giữa ban ngày, sự lạ lùng hiện ra cho tôi trông thấy vẫn không hề biến đi, mà cũng không thay đổi. Sự ấy thực là một kỳ quan độc nhất vô nhị, một sự tối vô lý mà mình phải tin là thật, nhưng cũng có khi ngờ là giả dối, mơ hồ. Cứ lấy con mắt hết sức chú ý nhìn, thì sự đó vẫn không trốn tránh tính tò mò hiếu sự của ta; song, hễ khi nào ta dùng đến một vật gì để đi gần lại trường hoạt động của nó, thì nó biến vụt ngay nh làn khói bị gió lùa. Hoặc ta tìm cách đi lại gần chân đồi, còn độ hai ba cột đèn sẽ tới nơi, trông lên không thấy gì nữa cả; hoặc ta đem lên mắt một cặp ống nhòm để phóng đại trưởng quan sát, phong cảnh càng to ra bao nhiêu thì hình như ta muốn thấy mờ đi bấy nhiêu, có khi hóa thành trong vắt như kính, nghĩa là không có hình sắc nữa.

Bằng cứ chịu khó đứng xa mà ngắm nhìn thì dẫu ngắm chán mắt, sự kỳ quặc kia cũng vẫn hiện ra cho mình trông thấy, hiện ra một cách nửa rõ rệt, nửa mơ hồ lạ lùng khó tả quá! Nhưng không phải ngày nào, giờ nào, bất cứ lúc nào, ta cũng có hạnh phúc được nhìn nó. Nó chỉ thoát khỏi cõi âm trở về cõi dương một năm có vài kỳ, mỗi lần sự biến thiên của khí hậu gợi cho nó nỗi nhớ tiếc một thời oanh liệt thủa xưa.

Sự biến thiên đó họa hoằn mới xảy ra; ấy là một điều tối không may cho những khách tò mò hiếu sự. Như tôi chả hạn. tôi đã phải dằn lòng gắng sức đợi đến ngót tháng trời mới đợc trông thấy hình bóng tôi muốn thấy; nào phải đâu là sự dễ dàng.

Cảnh tượng dị kỳ tôi đã được mục kích, nó là hai con ma, hai cái oan hồn uất ức của hai kẻ chịu tử hình, lâu ngày không tiêu đi được tụ lại thành bóng, hấp thụ mãi khí thiêng liêng của trời đất, nên mỗi khi bị hoàn cảnh xúc động đến là hiện được lên ngay, hiện lên để diễn lại một tấn trò mà xưa kia, hai oan hồn đó thường diễn những giờ cao hứng.

Phàm giả người ta, trong buổi sinh thời, có một thú gì mình yêu nhất, mê nhất, một thú gì làm then chốt cho tất cả bao nhiêu tính hình dục vọng của mình, một thú gì mình đã biết hưởng và đã đặt trên tất cả những khoái lạc của cuộc đời , thì nhiều lúc, sau khi đã lìa bỏ cõi tục rồi, vẫn còn nhớ tiếc đến thú ấy luôn luôn chỉ ngong ngóng chờ có dịp hưởng lại là chộp lấy ngay, không bỏ sót.

Cũng bởi cớ đó nên một khi thi nhân đã chết, hồn thi nhân còn muốn ngâm thơ, một khi nhạc công đã chết, hồn nhạc công còn muốn gảy đàn. Câu thơ của Đường Vương Bột văng vẳng trên dòng sông Lạc, liệu đàn cua Sư Quyên véo von trên mặt sông Bộc chẳng phải là những chứng cớ rõ ràng cho thuyết ấy hay sao?

Mà nhất là khi kẻ bị thác lại là người mệnh bạc, vì nghiệp chướng mà chết oan, chết yểu, bất đắc kỳ tử hay bị nhục hình, thì một điểm linh hồn bay phiêu diêu trong gầm non nước không tài nào siêu linh tịnh độ được, cứ mập mò khi tan khi tụ, bơ vơ trôi dạt, không đâu là bến là bờ. Điểm linh hồn đó vẫn còn nhớ rõ rệt cuộc sinh hoạt mình vừa trải, vẫn còn đầy dục vọng và tình cảm, nhưng chỉ vì không có xác vật chất nên khó lòng diễn được dục vọng và tình cảm đó mà thôi. Nhiều linh hồn còn muốn sống thêm nữa trên cõi thế, bởi chưa dứt hẳn trần duyên, còn muốn vẫy vùng nữa, ganh đua nữa cùng người đời cùng tranh đấu cho tới cùng. Có linh hồn thì một khi thác đã tỉnh ngộ ra, bay lên một gầm thiêng liêng cao sạch để ngao du, tịnh dưỡng. Những linh hồn đó không mấy khi trở lại nữa, một đi, đi chẳng trở về. Còn như các linh hồn bi nghiệt duyên dục vọng buộc chặt với cuộc sinh hoạt của loài người. thì chúng thường thường bay vẩn vơ quanh quẩn bên mình ta, trông ta một cách ham muốn thèm thuồng, chỉ đợi có dịp tốt là trở về sống chung lại với ta, dẫu rằng trong một phút.

Mỗi khi có đàn tràng cúng tế, là chúng lần mò cùng đến, để rồi chóp lộc cúng cơm, mỗi khi có kẻ ngồi đồng, hay có kẻ thần hồn bị suy nhược là chúng ám vào người để được cử động quay cuồng cho đắc ý. Lại những lúc có cuộc thi hội, thi hương, thì chúng tụ họp cả ở cửa trường, để đợi gọi đến thì ùa vào mà báo ân báo oán.

Nói ra không hết được; ta chỉ biết bởi cớ có nhiều âm hồn còn muốn sống nữa, nên có khi xảy ra những chuyện kỳ dị mà, nếu mắt ta không đợc quan sát thì ta vội cho là hoang đường. Song le , nêu ta chịu khó bỏ hết cả các thành kiến, nếu ta chịu lưu tâm suy xét đôi chút đến nhẽ huyền vi của máy âm dương, ta sẽ nhận thấy rõ là không có sự gì hoang đường cả. Trên đời chỉ hoàn toàn có sự thực mà thôi, cái gì có thể xảy ra được đều là thực cả.

Chỉ có một điều, là không phải ma nào, oan hồn nào cũng hiện lên được cả. Ma muốn hiện hình tất phi đủ tư cách, phải ở trong những trường hợp không bị ngăn trở mới biến hóa được. Tỷ như vàng muốn biến hóa ra nước tất phi nấu lên ngoài ngàn độ, sự biến từ thể nọ sang thể kia có phải bất cứ trường hợp nào cũng xảy ra đâu?

Cho nên, ma có thể hiện hình được, trước hết cốt phi thiêng, mà muốn thiêng, thì theo như sự chúng ta cùng biết, phải có một vài điều kiện. Một là chết đúng giờ. Hai là chết trẻ, mà chết một cách thê tham dữ dội. Ba là chết oan. Bốn là được chôn ở chỗ đất có mạch. Năm là phải hấp thu được khí thiêng của trời đất.

Phi mấy điều kiện ấy, thì chỉ là một mảnh hồn yếu ớt, phất phưởng, khi tán khi tụ, bay là là vô định trong gầm vô định mà thôi. Mà có được cả mấy điều kiện vừa kể, cũng phải tùy từng buổi, từng chỗ, từng thời, mới hiện lên được. Ngày xưa, lúc văn minh Âu Mỹ chưa tràn sang bên cõi Á Đông, lúc máy móc chưa rầm rộ chạy dưới gầm trời Trung Hoa và Nam Việt, thì các chốn thị thành không đông đúc lắm, các đường sá không mở mang nhiều, những chốn hoang vu lạnh lẽo nhiều hơn những chốn phồn thịnh, mà sự tối tăm cũng lâu hơn sự sáng sủa vì đêm không có đèn điện rọi đường; bới thế nên trong một hoàn cảnh lặng lẽ đìu hiu khí âm tràn ngập cả non sông mà phủ trên cuộc sinh hoạt của loài ngời, khiến dương khí không có thể hưng thịnh lên được.

Nhưng, sau một cuộc suy vong, khí dương lại dần dần hăng hái, nó từ cõi Âu Tây tràn sang Đông Á, khiến cho các sự vật thay đổi cả. Máy móc ngày nào cũng rầm rộ, xe pháo ngày nào cũng xôn xao, đêm thì đèn sáng như ban ngày, ngày thì ầm ầm như chợ, lúc nào cũng có kèn có trống, có âm nhạc hùng hồn; mà người thì, bị hoàn cảnh run rủi, cũng ưa múa may quay cuồng hoạt động cạnh tranh, hơn là nhàn cư mà tĩnh dưỡng.

Cuộc sống ồn ào đã đánh tan âm khí, ma thiêng phi bạt đi xa. Những linh hồn, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng khó lòng hiện lên được vì khí dương mạnh quá. Có lẽ các ma thiêng đều chạy cả về những chốn đồng rừng xa vắng, ở lẩn lút trên đồi, trên ải, không còn hy vọng gì phảng phất ở những đô thành.

Chả bù với thời thái bình êm ái thủa xưa: đâu đâu âm khí cũng đều vượng cả, muốn rong chơi chỗ nào cũng được, không bị một mãnh lực gì ngăn cản, đánh tan đi. Thủa đó, người âm phủ với người dương gian nào có xa nhau mấy: ông Bồ đã vì sự người với ma hay chung chạ mà viết nên pho truyện Liêu Trai. Đến thời này, Liêu Trai đã hóa ra một cuốn truyện hoang đường vô lý! Cho hay ma cũng có thời!

Tôi có lẽ còn được nhiều hạnh phúc hơn Bồ tiên sinh là tôi đã được thấy ma hiện hình giữa ban ngày, trong thời đại bây giờ, lại ở một nơi không cách xa đô thành phồn nhiệt mấy. Đó thực là một sự lạ; và, cũng vì sự lạ đó, tôi mới chép nên câu chuyện này, khiến các bạn cùng được như tôi, thưởng thức một chuyện thần linh, gọi là những lúc thanh nhàn, quên được cuộc vật lộn quay cuồng mà ngày ngày ta phải dấn thân vào để kiếm cách mưu y mưu thực.

Thì đây, câu chuyện thần linh.

Hôm đó, cách đây chừng khoảng hai năm, tôi về vùng Nam Định xuống ga Gôi, vào thăm một ngời bạn cũ. Lâu ngày mới gặp được nhau, bạn tôi mừng lắm, vội vàng sai vợ con đi giết gà mổ vịt, lại cho người vợ ra chợ đón mua những món quà ngon. tôi được thấy bạn cũng mừng, hai anh em ngồi uống trà đàm đạo mãi cho tói chiều, không biết mệt.

Lúc ấy, vào khoảng bốn giờ. Trời tháng qui hạ, nồng nực lắm, tuy sắp sang thu mà cũng vẫn còn oi. Tôi đến lúc một giờ chiều, ngồi hàn huyên với bạn đã ba giờ có lẻ. Lúc tôi đến, trời nắng chang chang như lửa đốt, nhưng khi vào nhà bạn được hơn một tiếng đồng hồ thì trời bỗng đâu sa sầm mặt lại; mây đen bốn bề rầm rộ kéo đến, rồi sấm chớp nối tiếp nhau xé toạc quãng không gian bằng những tiếng nổ ầm ầm và những luồng quang tuyến sáng xanh chói lọi. Sau cuộc thị uy thị hùng ấy, mưa ở lưng chừng tới xuống trần ai như thác chảy, nhưng chỉ trong quãng nửa giờ lại tạnh ráo ngay. Mây đen, tụ lại ít lâu, cũng theo chiều gió tan đi hết cả. Trời lúc nãy bi vẩn ám , bây giờ quang đãng như không; vài tiếng sấm cuối mùa thỉnh thoảng nổi dậy, nhưng chậm rãi uể oi, không có vẻ hùng tráng như khi mưa chưa rỏ giọt.

Mặt trời , khỏi bị che kín sau bức màn mây tối, lai vui vẻ tia ra những luồng ánh sánh đỏ rực và gay gắt; hình như sau mỗi trận mưa rào, thì ánh nắng càng nồng càng đượm; để cỏ cây mau chóng được khô ráo nhẹ nhàng. Mưa xuống nắng lên là một sự rất thường trong thời tiết. nhưng sự đó không xảy ra trong các mùa êm dịu như xuân thu, và trong vụ mấy tháng mùa đông rét mướt. Nó chỉ thường xảy ra giữa mùa hạ, là một mùa hay có giông tố thất thường.

Mỗi một lần mưa xuống nắng lên, thì khí đất lại ngùn ngụt bốc cao khỏi đầu ngọn cỏ, hơi thở của Tạo vật lại nặng nề bực bội, mà khí hậu thì lại hóa ra độc địa vô cùng.

Những buổi trái trời trái đất ấy, ngoài sự làm cho khí hậu hóa nên ám chướng, có lẽ còn có một mãnh lực gì u ẩn, huyền bí, xúc động cả các âm hồn. Người ta phòng nghiệm ra rằng, sau một cơn bão, khí trời ở chỗ thôn quê có mùi khen khét, khiến nhiều kẻ tưởng lầm là sét đốt cháy một vùng nào. Sự thật chỉ là, dưới sức mạnh âm ỉ của các luồng điện nhấp nhoáng trong không gian, dưỡng khí tụ đặc lại mà gây nên mùi khét. Sự tụ đặc ấy vô hình, ta chỉ nhận thấy như hưởng của nó mà thôi ; nếu không có nhà bác học thí nghiệm xét ra, có lẽ ta cũng cho là hoang đường.

Hoang đường là tất cả mọi sự mà loài người chưa tìm ra cội rễ căn nguyên vậy.

Sự tôi sắp nói ra đây, vì chưa dò xét được nguyên cớ, nên cũng phải tạm liệt vào loại hoang đường. Ấy là sự thay đổi trong cõi huyền bí do sức của luồng điện trong không khí tạo nên. Âm hồn làm bằng chất gì, ta không được rõ; ta chỉ biết nó vô hình ảnh, nó nhẹ nhàng phảng phất, đằm như hơi sương, thoảng như làn gió, nó tan đi hay tụ lại theo những luật riêng óc mình không xét đoán được Nó cũng ví như những khói, những luồng điện trong vũ trụ vậy

Những nhà phù thủy cao tay, những kẻ thôi miên thiện nghệ phần nhiều đều luyện được một thứ mãnh lực tiềm tàng có thể sai khiến âm hồn tan tụ, tỷ nhà nhà kỹ sư biết cách phát điện đi hay gom điện lại. Nếu ta cho âm khí là một thứ điện, thì ta sẽ nhận rằng mỗi khi mưa dầm gió bấc, mỗi khi trời đất nặng nề, mỗi khi có mưa xuống nắng lên, thứ điện đó thường hay tụ lại thành khối. Nó tựa như chịu ảnh hưởng mật thiết của các luồng điện trong không khí, mỗi khi có sấm sét thì bị rung chuyển, xúc động; rồi, khi sấm sét đã nguôi nó cũng đông lại, cũng đặc lại như dưỡng khí, để hiện ra thành bóng.

Vì tình cờ run rủi, tôi đã được mục kích sự âm hồn hiển hiện, sau một trận mưa sau một ngày gay gắt nắng. Hôm đó, ngồi đàm luận cùng bạn, tôi đương vui vẻ, kể lể mọi nỗi hàn huyên tâm sự, thì bỗng thấy bạn tôi như chợt nghĩ đến sự gì, vùng đứng dậy, vừa kéo tay tôi, vừa nói:

-Bác hây theo tôi, sẽ cho bác xem một sự lạ lắm!

Tôi ngạc nhiên, hỏi bạn:

Trời đang mưa xuống nắng lên thế này, khí đất bốc lên ngùn ngụt như kia, bác muốn chúng ta đi đâu?

- Bác cứ theo tôi, rồi tự khắc rõ! Bác sẽ không phải hối hận xông pha mưa nắng đâu. Mau lên, kẻo bỏ mất dịp này thì uổng quá!

Nói đoạn, bạn kéo tay tôi rõ mạnh. tôi không cưỡng cũng không dùng dằng, vội đứng dậy cùng đì. Hai chúng tôi ra khỏi nhà, lần theo bờ ruộng đi một quãng khá xa, gần tới một cái đồi. Đến một nơi cổ am, có bóng cây cao rườm rà phủ kín một vùng đất rộng, bạn tôi ra hiệu bảo tôi ngừng bước. Tôi theo đúng lời bạn, đứng tựa lưng vào gốc cây, nhưng chưa hiểu bạn tôi định tâm cho xem một cảnh vật thế nào.

Anh ta đứng trước mặt tôi độ vài bước, ngoảnh đầu nhìn bốn phía, rồi ngước mắt trông ra phía chân đồi như tìm kiếm sự gì. Một chốc, hình như anh ta đã thấy sự muốn cho tôi được mục kích, anh lùi lại, bá vai tôi, một tay trỏ ra phía sườn đồi xanh biếc:

- Này, anh cứ thẳng tầm mắt trông theo ngón tay tôi chỉ, có phải ở ven đồi , chỗ có nương khoai mà ta nhìn xa chỉ thấy màu đất vàng đỏ hiện rõ giữa một màu xanh thẫm, chính chỗ ấy, có hai người đang diễu võ dương oai, vật nhau chán thì cùng múa một bài quyền...

Trong lúc bạn nói, tôi chăm chú thu hết nhỡn lực cố phóng luồng nhỡn tuyến ra mé đồi để ghi lấy cảnh vật mà anh đương tả một cách hùng dũng. Nhưng khốn nạn cho tôi? Hai mắt đã hết sức nhận xét cho rõ rệt, mà vẫn chưa thấy tí gi! Ngàn trùng mây lam lợt lợt, ruộng lúa xanh rờn, đồi cây thẫm biếc; chả có một dấu hiệu gì tỏ cho tôi là có người đương nhảy múa cả. Bạn tôi thì cứ níu chặt lấy vai tôi, bắt đầu tôi phải gần sát đầu anh, hình như muốn truyền sang cho tôi nhỡn lực của anh vậy.

- Chết nỗi? Anh chưa thấy gì ư? Kia kìa, anh cứ chú ý nhìn vào nương khoai đo đỏ kia, chúng nó đương vờn nhau hay lắm. Anh đã thấy chưa?

Bấy giờ hình như mắt tôi mới đỡ quáng đỡ mờ, tôi thình lình thấy một vệt trắng xám, hung hung ở sườn đồi, mé dới nghiêng về bên tả. Liền lúc ấy, tôi cũng hình như trông thấy hai cái bóng sẫm, tựa hồ hình dáng người nhưng rất lạ. Buột mồm, tôi kêu lên rông:

-Quái! Làm sao nó không đầu!

Tôi vừa dứt tiếng, một đống cát bụi, ở đâu cạnh chỗ chúng tôi đứng, bỗng vụt bốc lên. Tôi nhắm mắt lại. Bụi cát và lá khô phả vào mặt tôi rõ mạnh, tôi cảm thấy một luồng gió dữ dội đương quấn lấy thân tôi, hút tôi, làm cho tôi nghẹn ngào khó thở. Mũ tôi tự nhiên bi cuốn lôi lên. tôi níu chặt lấy bạn.

Một khắc như thế, không thấy bụi phả vào mặt nữa, tôi mở mắt ra, thì bị một cảnh tượng làm cho giật mình kinh sợ. Một luồng gió lốc, nhanh như chớp, cuốn chiếc mũ trắng của tôi lôi đi rõ xa, ở lưng chừng trời. Cơn gió lốc ấy như tiến lại mé chân đồi vùn vụt Khi đến chỗ nương khoai, chiếc mũ tôi - lúc đó trông chỉ là một điểm trắng cỏn con, bỗng rơi xuống đất tỏ rằng cn gió đã tan rồi.

Cố nhìn, thì chẳng thấy bóng dáng của hai anh chàng múa võ nữa. tôi lấy làm lạ, chưa kịp hỏi bạn, anh đã cười bảo tôi:

-Thực là anh làm uổng mất một tấn tuồng đặc biệt! Vì anh mà cuộc phô diễn này bị bỏ dở; nếu không ta đã được một phen khoái trá vô cùng!

- Cớ sao anh lại bảo vì tôi...

- Anh mới đến nên không biết. Sự mà tôi muốn anh được mục kích là một sự lạ lắm: ma diễn võ giữa ban ngày. Ở chân đồi kia, có hai oan hồn của hai nhà thiện xạ, vì phạm phép nước nên bị chém đầu. Hễ cứ có mưa xuống nắng lên, thì hai oan hồn đó lại hiện về, cùng nhau thí võ. Muốn xem họ nhảy múa, phải đứng rõ xa mới thấy, lại gần quan sát thì biến mất. Mà lại phải kiêng, không nên nói đến sự mất đầu. Nếu lở mồm, ắt xảy ra cái cảnh tượng như hai anh em mình vừa thấy đó. Thôi, bây giờ ta hãy đi lại nương khoai nhặt lấy mũ về, rồi đợi đến dịp khác sẽ thưởng ngoạn cuộc múa võ kia, tưởng không lấy gì làm muộn...

Bạn tôi dìu tôi cùng đi lại mé chân đồi. Nhưng can đảm của tôi ít ỏi quá, tôi đành mất mũ, không dám đi xa nữa chỉ cầu xin bạn dẫn về nhà mà thôi. Bạn cười tôi là hèn nhát, song cũng chiều lòng; anh đem tôi về nhà và sai một tên gia đinh ra chân đồi lượm mũ về cho tôi.

Tôi ở nhà bạn non bể, ba tuần nóng ruột muốn thỏa chí tò mò hiếu sự của mình ngay, nưhng ngặt nỗi không gặp ngày nào có mưa xuống nắng lên cả. Tôi đã xếp sẵn những khí cụ để sự quan sát được dễ dàng; lại luôn luôn mình tự dặn mình đừng bao giờ nói đến hai tiếng "không đầu" khiến cho hỏng việc một lần nữa.

Thấm thoát vài hôm sau, tính đốt tay thì ra tôi quấy quả bạn tôi đã trọn hai mươi hai ngày. Hôm đó, may quá, vào khoảng chín mười giờ sáng trời đương nắng chang chang bỗng có cơn mưa. Tôi mừng quá. Mưa vừa ngớt hột, tôi thủ ngay cái máy ảnh và ống dòm, rủ bạn đi lại chỗ có cái miễu thần và cây cổ thụ mà chúng tôi đã đến một lần hôm trước.

Tới nơi không cần bạn phải chỉ bảo, tôi tự đứng lên mé trên nhìn phương hướng, rồi quay trông đầu về vệt hung đỏ ở sườn đồi. Quả nhiên bạn tôi nói có ngoa đâu, Tôi nhận thấy hai cái bóng đương vờn nhau nhảy nhót.

Mới đầu tiên, trông không được rõ lắm; nhưng dần dần mắt tôi trông càng quen càng sáng suốt ra. Cảnh vật tôi được mục kích thật là kỳ dị , từ bé đến giờ tôi mới thấy một sự thú vị như thế này.

Đó chỉ là hai cái bóng, nhưng quái dị làm sao! Hai cái bóng giống hệt như hai người, có tay chân, biết cử động, song chỉ không có đầu! Hai cái bóng ma cụt trốc! Đứng mé xa trông lại, tuy hình ảnh mình được thấy không lấy gì làm đích xác nhưng cũng rõ rệt vô cùng. Mới trông thì chỉ thấy lờ mờ hai vệt xám, hiện rõ trên màu hung đỏ của nương khoai; để ý nhìn lâu tý nữa, thì rỏ ràng là hai thân thể đàn ông, đương đấm đá nhau hùng dũng lắm.

Hai cái bóng ấy màu xám thẫm, xanh biếc, như màu khói đặc tụ lại. Không thấy rõ quần áo mặc ra làm sao, chỉ hình như cùng mặc áo chẽn mà quần thì xắn đến tận đùi. Đó là một thứ y phục tôi tưởng tượng ra, vì tôi trông na ná như thế: sự thực thì chỉ có hai cái bóng chập chờn như hai hình ảnh nhấp nháy trên màn chớp bóng. Ngắm kỹ quái trạng hiện ra đó, ta có thể vừa trông vừa đoán, nhận ra rằng hai bóng ma kia là hai thân thể vạm vỡ cờng tráng mà cũng lanh lẹn phi thường. Chúng nó tuy không đầu, song đánh nhau chả kém gì người có mắt, lại có phần giỏi giang, sắc sảo hơn những người có mắt nhiều.

Chúng diễn những đường võ cực kỳ bí hiểm, trông ngoạn mục và lý thú vô cùng. Cũng đấm, cũng đá, cũng né, cũng xông, cũng quay đi lộn lại, cũng cúi xuống ngửng lên, thực chẳng khác gì hai võ sĩ còn sống cùng nhau thi quyền trong một kỳ đả lôi đài hay cử võ vậy. Võ vẽ đôi ba miếng côn quyền học lỏm, tôi nhận rằng bản lĩnh của hai oan hồn kia siêu quần, xuất chúng, ít người thời này sánh kíp. Có lẽ hai con ma đó thuộc về thế hệ trước, một thế hệ còn trọng những môn đao kiếm, một thế hệ chỉ suy tài nghệ trong các đường quyền hiểm hóc, chớ không ỷ vào súng đạn để thủ thân. Thế hệ ấy ngày nay đã mất, đã biến trong cuộc di vãng xa lắc xa lơ; vết tích của nó, có chăng còn là hai bóng ma này, lạc loài vào một thời đại mới, mà vẫn còn mê muội trong cái chí hướng ngang tàng của thủa bình sinh?

Hai bóng ma kia cứ rạp rờn quay lợn mãi. Chúng nó xử nhau những miếng võ tuyệt kỹ th các miếng Song long quá hải, Mãnh hổ tầm sào, Thái Sơn áp đính, Hạng Võ phi truy v.v... nhưng tựa hồ chúng không có ý làm hại nhau, chỉ thi nhau trổ hết tài nghệ cho thỏa thích, cho bõ nhớ nhung cái thời oanh liệt chúng đã từng sống, mà không được sống tới cùng.

Đứng ngắm nhìn sự phô diễn tự nhiên kia, cũng thực là một khoái lạc ý vi. Trong buổi văn minh ngày nay, dễ đâu đã có dịp xem hai ngời sử võ?

Giả dĩ có xem xiếc hay xem tuồng Tàu, thì chi toàn một màu là múa may cho qua loa câu chuyện, mấy khi đã gặp hai tay thiện nghệ hết sức trổ tài quyền cước cho mà coi? Bời thế khi gặp trường hợp mà tình cờ tôi được trải qua, tôi ngắm nhìn mãi không hề mỏi mắt.

Ngắm chán. tôi lại giơ ống dòm lên quan sát cho rõ rệt: nhưng, thực là kỳ quặc mỗi khi tôi để mắt vào ống nhòm, thì chỉ còn được thấy nương khoai hiện ra, tuyệt nhiên không nhận được bóng dáng của hai nhà vo sĩ "cụt đầu" nữa! tôi thí nghiệm đến mười mấy lượt; lượt nào cũng vậy; cứ bỏ ống kính ra thì tha hồ mà trông mà ngắm, hể đem ống kính lên mắt, hình ảnh kia lại biến lúc nào rồi...

Kế ấy không xong tôi dùng kế khác. Tôi trao ống nhòm cho bạn, chỉ đeo có một chiếc máy ảnh, một mình đi sát lại chân đồi. Cách xa độ bốn cột đèn tôi còn trông rõ bóng hai con ma đương đấm đá. Đi thêm lên độ chục bước nữa hai bóng ma ấy cứ mờ dần đi rồi, sau cùng, khi tôi chỉ còn cách đồi độ chừng mươi bước, trông lên chỉ thấy không khí một màu trong vắt, ruộng khoai một màu vàng đỏ, hình như không hề xảy ra sự gì cả.

Cho rằng mắt tôi bị các âm hồn làm cho mờ quáng đi, tôi đem máy ảnh ra cứ chụp lấy năm sáu bức, mong rằng may ra con mắt kính sẽ hơn tôi, ghi dợc cảnh thần bí mà mắt người không ghi nổi. Về nhà, rửa ảnh, tôi vẫn bị thất vọng như thường; trên kính không có dấu vết gì của hai người võ sĩ cả!

Sự bí mật thực là hoàn toàn bí mật. Tôi vừa ngạc nhiên kinh dị, vừa tức tối khó chịu. Khó chịu cũng đành vậy, chớ biết làm thế nào! Mình còn ở cõi dương gian, lại muốn vén tấm màn huyền vi của Tạo hóa để nhìn rõ sang cõi âm, thì làm sao cho được. Hai oan hồn kia chỉ có thể hiện lên cho loài người thấy chúng một cách lờ mờ mà thôi; muốn thấy rõ nữa, thì ít ra cũng phải là con ma phù thủy đặc biệt thế nào mới được chứ!

Tôi có hỏi bạn về sự tích hai nhà võ sĩ bạc mệnh chịu bất đắc kỳ tử; bạn tôi chỉ biết lờ mờ rằng hai người đó đã chết năm chục năm nay, lúc anh chưa đẻ, mà, theo như lời các cụ già kể lại, là hai tên cướp bị sa vào lưới pháp luật và bị hành hình ngay ở chỗ chân đồi. Bạn tôi biết có thế thôi, câu chuyện của anh càng làm tăng tính tò mò hiếu sự của tôi, càng gợi lòng tôi muốn đi sâu vào bí mật của Thời Gian để giải cho ra vấn đề tôi suy nghĩ. Tôi muốn biết thủa bình sinh, hai vong hồn kia làm gì, mà tại sao cùng chịu chết thảm thương uất ức. Uất ức, bởi lẽ họ hiện lên múa võ như thế; chớ nếu họ làm nên tội rồi bị giết, thì còn oan khổ nỗi gì mà đến nỗi, ngoài năm mươi năm, khối hận vẫn chưa tiêu? Thực là một sự lạ.

Tôi nhất định phải dò xét sự lạ ấy cho tới gốc ngọn, dù phi tốn công khó nhọc cũng cam lòng! Trong lúc hăng hái, tôi tự nhận lấy một nhiệm vụ bí hiểm như thế; nhưng rồi dần dần, tôi phải tin rằng tôi, một kẻ cuồng ngông, chỉ nói khoác hão huyền và ước muốn những điều vô lý. Làm gì có đủ vật liệu mà đi ngược Thời Gian để đem ra ánh sáng một câu chuyện trong hàng nghìn chuyện có lẽ còn ly kỳ hơn, đã xảy ra hồi nước Đại Pháp vừa dựng cờ bảo hộ trên đất Việt Nam này?

Tuy nghĩ thế thì nghĩ, nhưng lòng tôi cũng muốn biết vì sao lại có hai oan hồn cụt đầu, cứ mưa xuống nắng lên, là hiện lên diễn võ. Trước còn là một ý muốn, rồi sau dần thành một dục vọng, sau nữa thành hẳn một định ý cứ bám chặt lấy hồn tôi. Tôi như kẻ đứng trong cảnh ngộ một nhà toán học chưa tìm ra kết quả một bài tính khó nhưng thú vị. Cả ngày, cả đêm, tôi chỉ mải mê về chuyện ma không đầu của tôi; rồi tôi lục các sách trong nhà Bác Cổ để họa may có tìm đợc một vết tích gì về hai nhà võ sĩ bạc mệnh kia không. Trong sách tôi thấy nói rất nhiều chuyện về hồi ấu trĩ của cuộc bảo hộ, xong chả có pho nào đả động đến hai nhà thiện xạ chịu tử hình ở mạn núi Gôi...

Sau khi tôi ở nhà bạn ra về, cách đến hai năm, tôi vẫn còn nhớ cảnh vật tôi trông thấy tựa như nó mới vừa xảy ra ngày hôm qua vậy. Tôi rất bực mình vì đã cố tận tâm gắng sức, mà không tài nào biết thêm tí gì về quái trạng ấy cả. Những chuyện mà các người ở quanh vùng Gôi kể cho tôi nghe đều là những vật liệu lờ mờ, không chuyện nào giống chuyện nào, vì mỗi người lại thêm bớt mỗi vẻ theo ý riêng mình.

Sau cùng, biết rằng tôi vô lực, tôi đành gắng quên dục vọng của tôi đi. Quên! Quên làm sao được? Càng ở những chỗ phồn hoa đô thị, lòng tôi lại càng như quằn quại khó chịu; tôi càng tự trách mình sao không cố gắng thêm chút nữa, dò xét thêm chút nữa; biết đâu trong một pho sách ở viện bảo tàng, hoặc trong ký ức của một ông già đã sống thời loạn lạc, lại không có một vết tích, một dấu hiệu, chỉ cho tôi biết đường lần mò để đi sâu vào câu chuyện huyền bí của hai nhà võ sĩ không đầu, hiện lên mỗi lần mưa tạnh nắng lên?

Ấy, cũng bởi tin rằng có người biết được sự tôi cần biết, nên tôi bỏ hẳn nhà một dạo, đi ngao du khắp đây đó, mong rằng sự tình cờ sẽ cho tôi được thỏa lòng. Không ngờ khi đến Đồng Giao, tôi đã không biết được tí gì về câu chuyện của tôi, lại nghe thêm được một câu chuyện ly kỳ hơn, khiến cho tính tò mò của tôi càng sôi nổi thêm lên nữa.

---------------------Bãi Đất Hoang Sau Nhà--------------------

Lần đầu tiên Vân tận mắt chứng kiến một người chết cách đây hơn một năm lúc còn ở Việt Nam. Chứng kiến một người chết, có nghĩa là nhìn người ấy đang từ cõi sống đột ngột bước sang thế giới bên kia. Đó là ông Thọ ở cách nhà Vân ba căn trên cùng con hẻm nhỏ thuộc phường 10 quận Tân Bình.

Chẳng phải vì là hàng xóm mà Vân quen ông , láng giềng thật xa mỗi người có một cuộc sống nên cũng ít khi gặp nhau huống chi ông lại hơn Vân quá nhiều tuổi. Nếu xưng hô cho đúng thì Vân phải gọi ông bằng chú. Nhưng sỡ dĩ Vân thân với ông chỉ vì ông là tài xế xe bus trên lộ trình từ nhà Vân đến sở làm. Dù muốn dù không , ngày nào Vân cũng phải gặp ít nhất một lần vào buổi sáng.

Có một dạo xe bus là phương tiện chuyên chở công cộng rất đắt khách , chuyến nào cũng chật ních. Nhưng khi VN chuyển sang kinh tế thị trường thì dân Sài Gòn nườm nượp mua xe gắn máy. Lại thêm xe ôm phát triển , xe bus dần dà trở nên ế ẩm vì đi lại chậm chạp trên đường phố đông đúc mà ít ai tôn trọng luật lưu thông.

Chỉ có những hành khách không có phương tiện khác như Vân mới bất đắc dĩ phải bám với xe bus mà thôi. Xe vắng khách , nên mỗi khi thấy Vân bước lên , ông Thọ thường vui vẻ hỏi chuyện vu vơ mặc dù trên nguyên tắc , ông không được nói chuyện khi lái xe. Vân cũng hân hoan đáp lại , chọn cái ghế trống gần ông để đàm đạo cho quên đoạn đường tới sở. Đại khái thì toàn những câu xã giao thủ tục thôi , lâu lâu nếu trong con hẻm nhà Vân có chuyện gì bất thường xảy ra thì hai người mới có đề tài mới để bình luận.

ông Thọ không có vợ con , sống nhờ nhà người anh ruột , nhập chung hộ khẩu và coi gia đình người anh như gia đình mình. ở tuổi bốn mươi lăm, mặt ông khắc khổ ưu tư , nước da đen sạm và mái tóc phía trước hơi dài lúc nào cũng rũ xuống trán làm Vân thấy rất ngứa mắt .

ông ít cười , dù nụ cười rất tươi. Hàm răng đều như hạt bắp , phải cái tội là lúc nào cũng úa vàng vì khói thuốc. ông ghiền thuốc lá nặng ,trong túi lúc nào cũng có gói Mai , loại thuốc đen nội hóa ít người hút. Mỗi khi đường kẹt xe, ông thường chạy xuống rít một điếu hoặc có khi chỉ vài hơi rồi lại leo lên lái tiếp. Dân Sài Gòn hút thuốc nhiều , nên chẳng ai thấy ngứa mắt và cũng không thấy khó chịu vì khói thuốc.

Một buổi sáng trên đường đi làm như thường lệ , Vân ngồi ngay chiếc ghế sau lưng ông , đang kể câu chuyện bắt ghen trong xóm, và xe đang chạy ngon trớn, thì Vân bổng giật mình thấy xe bus tự dưng rẻ nghiêng sang bên phải, rồi leo hẳn lên lề , húc mạnh vào một gốc cây rồi dừng lại . Xe vẩn nổ máy, nhưng ông Thọ gục xuống trên tay lái làm còi xe cứ inh ỏi réo liên tục. Cũng may , gặp khúc lề đường rộng lại có cây lớn chặn lối nên xe không cán phải người bộ hành hoặc đâm vào nhà người ta.

Hành khách nhốn nháo đứng ngồi cả lên , Vân lay vai ông Thọ và hốt hoảng hỏi :

− Ý thôi chết , lạc tay lái hả ông Thọ ? Tỉnh dậy ông Thọ !

Nhưng lay mãi mà ông không trả lời , hành khách xôn xao đưa mắt nhìn nhau rồi bỏ xuống tìm phương tiện chuyên chở khác vì sợ trể giờ làm việc . Vài người hiếu kỳ phần lớn là khách quen ngày ngày vẩn đi cùng chuyến này xúm lại cùng với Vân lôi đầu ông Thọ ngồi thẳng lên , lập tức tiếng còi xe ngưng bặt. ông Thọ ngẻo đầu sang một bên , mặt xám ngắt , miệng hơi há ra và đôi mắt lạc thần vẫn mở trừng trừng nhưng rõ ràng là mất hết sinh khí .

ông đứng tim chết mà người ta xét theo lối dân gian là ông bị trúng gió , và không ai tin là ông đã chết thật bởi nó xảy ra quá đột ngột. Vân lo lắng nhìn quanh và hỏi :

− Ơ...Có ai có dầu nhị thiên đường không ?...Dầu gì cũng được...Cho tôi mượn.

Đám đông xung quanh mỗi người một câu :

− Trời...trời , ông bà nào chịu khó chạy lên ngả tư thấy ông công an, kêu dùm một cái Người khác bảo :

− Kêu xe cứu thương chứ chờ công an đến kiếp nào...

Người ta giật tóc mai, lắc mạnh hai vai ông , hoặc ấn mạnh vào ngực ông , hy vọng có thể giúp ông hồi tỉnh trong lúc chờ vào nhà thương. Nhưng tất cả đều vô ích , có người thất vọng than :

− Thôi ! Chắc chết rồi , chết thiệt rồi . Trăm phần trăm là trúng gió rồi. Trời đất ơi ! Lúc này gió nó độc lắm nghen.

Cùng với nhận xét ấy , người ta tản mác xuống xe , lảng ra xa , tránh những phiền toái lát nữa khi nhân viên công lực đến thẩm vấn. Nhưng Vân không bỏ đi được , không nở bỏ ông hàng xóm , bởi nàng vẫn bám víu ý nghĩ là ông chưa chết hẳn, chỉ bất tỉnh nhân sự mà thôi.

Nàng xuống xe, mặt nhợt nhạt ngó quanh , rồi vẫy chiếc xích lô máy rồi nhờ người tài xế lên đỡ ông Thọ xuống và chở vào bịnh viện. Nàng bảo :

− Nhanh nhanh thì may ra cứu kịp nhé ! Chắc ông ấy chỉ bị nghẹt thở thôi , chưa có chết hẳn đâu.

Rồi nàng móc bóp lấy tiền trả ông xích lô , nhưng ông xích lô ngơ ngác nhìn Vân và hỏi :

− Bộ cô không đi với ông ấy sao ? Đâu có được , cô không có đi chung thì tôi không có chở ông ấy đâu ! Giỡn hoài , bộ tôi ngu sao ?

Vân khẩn khoản :

− Ông ơi , tội nghiệp người ta bị ngất xỉu ,ông làm ơn đưa vào nhà thương dùm. Tại tôi....tôi còn phải đi làm.

ông xích lô trợn mắt đáp :

− Ngất xỉu đâu mà ngất xỉu ? Chết ngắt rồi , tôi đưa vào bệnh viện , người ta hỏi lôi thôi lắm cô ơi. Phải có người nhà mới biết đường mà trả lời chứ !

Vân nhìn ông Thọ một lần nữa , quả thật ông chết rồi. cái xác không hồn , nằm rũ trên xích lô , đầu nghiêng sang một bên. Mắt vẫn trợn trừng , và mồm vẫn há ra. Nàng bảo ông xích lô :

− Nhưng mà tôi cũng đâu phải là người nhà !

ông xích lô vừa kinh ngạc , vừa bực bội , giậm chân lắc đầu lia lịa , ông toan chửi thề , nhưng nhớ rằng trước mặt phụ nữ , nên gắt lên :

− Cô không phải là người nhà của ông ấy thì mắc mớ gì cô đòi đưa ông ấy vào nhà thương ? Con người sao khờ quá ! Rồi công an hỏi cung về cái chết của ông ấy , rồi cô trả lời làm sao ?

Vân cũng vừa chợt nhận ra mình tự mang cái ách giữa đàng vào cổ , nhưng một phần vì là người quen , một phần thì bây giờ cũng đã lỡ rồi làm sao rút lui được ? Nàng cứ tưởng ông chỉ ngất xỉu nên mới động lòng tìm cách cứu chữa gọi xích lô đưa vào bịnh viện. Không ngờ ông đã về bên kia thế giới.

Từ lúc nghe ông xích lô xác quyết là ông Thọ đã chết, tự dưng chính Vân cũng thấy rờn rợn và không dám nhìn mặt ông nữa. Nhưng bây giờ biết làm sao , khách bộ hành đi ngang hiếu kỳ bu lại mỗi lúc một đông hơn vì ông xích lô khua chân, múa tay nói quá lớn , ông chán nản bảo Vân :

− Cà chớn ! mới sáng sớm đã gặp xui. Bây giờ cô phụ tôi khiêng ổng lên , bỏ lại trên xe bus đi rồi ai muốn làm gì thì làm. Tôi không có dính vào vụ này.

Dứt lời , ông xách nách xác chết và bảo Vân đỡ hai chân ông Thọ. Vân ngần ngại đứng yên , ông xích lô phải nạt lớn nàng mới chịu bắt tay vào khệ nệ khiêng cái xác không hồn lên xe bus, đặt vào sau tay lái. Rồi ông xích lô lao phắt xuống đường lên xe phóng vội đi miệng còn lào nhào chửi Vân là đồ ngu.

Vân xuống xe đứng phân vân bên lề đường không biết nên bỏ đi hay chờ cảnh sát tới để tường trình. Đám đông bu quanh mỗi người hỏi một câu , Vân lơ đãng trả lời rồi quyết định đón honda ôm về báo tin cho gia đình ông Thọ biết và vào nhà thương làm thủ tục nhận xác của ông chôn.

Định mệnh xắp đặt khiến ông chết đột ngột và tình cờ Vân lại là người đầu tiên chứng kiến cái chết bất ngờ của ông giữa lúc ông đang nói chuyện với nàng. Cách đây hơn một tháng Vân có khoe với ông là nàng đang chờ sang Canada định cư do người anh bảo lảnh. ông Thọ chớp mắt bảo :

− Mừng cho cô Nhưng rõ ràng , giọng ông có một chút buồn tủi cho thân phận mình , ước mơ xuất ngoại mà không có con đường nào. ông bảo Vân:

− Tôi cũng có nghe nói cô sắp ra nước ngoài , người ta bảo vì vậy cô nhất định chưa chịu lấy chồng.

Vân cười rồi nói lại :

− Trước khi tôi đi thì thế nào gia đình tôi cũng làm tiệc giã từ bà con lối xóm mà. Mời ông sang cho vui với gia đình tôi nhé !

− Vâng, quý hóa quá ! Cô nghĩ đến tôi là tôi mừng rồi. Tôi thì phải qua tiễn chân cô chứ !

Câu chuyện tưởng như mới hôm qua , Vân chưa lên đường , chưa kịp làm tiệc mời ông Thọ thì ông đã về bên kia thế giới, Vân chạy về nhà báo tin, rồi cùng người anh ông Thọ lãnh ông từ nhà xác về , mua đất chôn ở nghĩa trang Tân Việt, gần Bà Quẹo.

Vân có mặt từ đầu đến cuối , từ lúc tẩm liệm cho tới khi hạ huyệt. Đám tang ông Thọ thưa thớt lại gặp ngày mưa to gió lớn , nghĩa trang ở vào khu đất trũng , nước ngập mênh mông. Quan tài thả xuống huyệt cứ nổi lềnh bềnh khiến người ta phải dùng gậy dí hai đầu xuống để lấp đất. Mà lấp bao nhiêu đất ,đất biến ngay thành bùn theo nước trôi đi, người nhà vất vả lắm , ông Thọ mới chịu an lòng.

****** Gần một năm sau, Vân lên đường sang Canada , tạm thời ở chung với gia đình người anh đã bảo lảnh , tên là Hiếu , có vợ ba con tại Toronto. Hiếu mới mua nhà trước khi Vân qua , căn nhà mới , ở vùng ngoại ô phía bắc toronto , nằm trong khu vực vừa khai phá , giá tương đối rẻ và đất xung quanh còn rất khoảng cách. Phía sau nhà Hiếu cách một bải trống mọc đầy cỏ hoang rồi mới tới bìa rừng. Bải đất trống ấy cũng nằm trong kế hoạch xây cất tư gia hoặc chung cư , nhưng vì tạm thời kinh tế xuống , ngành địa ốc suy thoái nên người ta khựng lại bỏ không.

Gia đình Hiếu có năm người , nhưng hai đứa con đầu vừa lên đại học và đi ở xa , ở nội trú luôn trong trường. nên nhà chỉ còn hai vợ chồng với cô con gái út mười bốn tuổi. Vợ chồng Hiếu chiếm ngụ cái phòng ngủ chính trên lầu , đứa con gái cũng có buồng ngủ riêng bên cạnh. Dưới nhà bên cạnh buồng tắm , có một phòng nhỏ dành cho Vân, sát bức tường phía sau , có cửa sổ trông ra bải đất trống quạnh hiu.

Ngày ngày nhìn cảnh tượng hoang vu vắng lặng sau nhà , Vân còn đang nhớ Sài Gòn da diết thì bà chị dâu đã xa gần giục chồng kiếm việc cho Vân. Thật ra thì chẳng cẩn phải chị phải giục , chính Hiếu cũng đang để ý tìm việc cho Vân để nàng có thêm tiền chi dụng , và nhất là để vợ Hiếu khỏi cằn nhằn. Hai vợ chồng Hiếu cùng đi làm cả, cho nên vợ Hiếu rất ngứa mắt khi thấy Vân qua đây mà cứ ngồi im trong nhà.

Ba tháng sau thì Hiếu tìm được việc cho em gái ở một tiệm cà phê Dolnad mở 24 tiếng một ngày , tiệm nằm ở khu vực downtown , nghĩa là trung tâm của thành phố Toronto. Họ cho Vân làm ca đêm , bắt đầu từ 11 giờ đến 7 giờ sáng. Hiếu an ủi em :

− Thôi ! Cứ chịu khó làm tạm đi, rồi một thời gian sau sẽ đổi sang ca ban ngày. Họ có hứa với tao như vậy. Ca đêm thì buồn ngủ, nhưng mà bù lại thì ít khách hơn ban ngày.

Vân vui vẻ đáp :

− Em có ngại gì đâu , ngồi nhà chán chết.

Hiếu tỉ mỉ dặn dò Vân những kinh nghiệm làm việc nơi xứ lạ để em khỏi bở ngở , rồi Hiếu chỉ dẩn cho Vân cách đón xe đi làm.

Vì là khu tân lập ngoại ô nên trước cửa nhà Hiếu tuy đường xá mới mẻ nhưng chưa có xe bus , Vân sẽ phải đi bộ một khoảng khá xa để ra con lộ chính lấy xe bus đưa nàng tới trạm Metro. Rồi khi từ trạm Metro trồi lên, nàng sẽ lại phải đón thêm một chuyến bus nữa mới đến downtown, chỗ nàng làm việc. Hiếu dự trù vài tháng nữa, sẽ bắt Vân đi học lái xe , sắm chiếc xe hơi cũ, cho em gái đỡ vất vả.

Hiếu lấy thêm chìa khóa nhà trao cho em rồi cẩn thận bắt em ghi số phone nhà, số phone tiệm Dolnad và số phone chỗ Hiếu làm việc , cất kỹ vào bóp để lúc cần thì liên lạc, nhất là lúc chẳng may Vân bị lạc đường. Hiếu bảo :

− Mày đi làm ca đêm cũng khoẻ , sáng khỏi phải dậy sớm , ban ngày tha hồ mà ngủ. Đường sá không kẹt xe, bus rộng rãi, khỏi phải đứng mỏi chân.

Vân biết ông anh vì tội nghiệp mình nên cứ phải tìm cách an ủi , nàng che dấu nét xúc động và bảo :

− Anh khỏi phải lo, việc lgì em làm cũng được mà , ở Vn em quen vất vả. Với lại đi làm học tiếng anh còn nhanh hơn học trong sách nữa.

Sáng hôm sau, Vân dậy sớm hơn thường lệ dù mãi đến tối mới phải đi làm. Ngày đầu nhận việc, nàng hồi hộp không ngủ yên giấc , nàng lục đục một lúc rồi vợ chồng Hiếu mới từ trên lầu bước xuống. Bà chị dâu hôm nay nhìn Vân âu yếm hơn vì nàng đã có việc, không ngồi chơi, ăn bám như ba tháng vừa qua. Việc của Vân tuy lương chẳng có bao nhiêu, nhưng chính Vân cũng mừng thầm trong bụng bởi từ nay khỏi phải nhìn nét mặt hầm hầm đi ra đi vào lườm nguýt của chị dâu.

Hai vợ chồng Hiếu chuẩn bị đi làm sớm, đứa con gái đáng lẽ chưa cần đi gấp, nhưng tiện xe của bố mẹ , nên cũng ké luôn tới trường , khỏi phải cuốc bộ . Nhà chỉ còn mình Vân ngồi ăn sáng, nàng dự định sẽ ngủ thêm một giấc nữa rồi dậy nấu cơm cho cả nhà ăn chiều. Riêng Hiếu thì cứ nằng nặc bảo Vân phải ngủ một giấc dài , phải đến gần giờ đi làm hẳng thức.Vân gật đầu đồng ý, nhưng lúc cả nhà đi rồi , nàng chỉ ngồi coi tivi hoặc thơ thẩn ra trước nhà rồi lại vô làm bếp , muốn ngủ, cũng không ngủ được.

Buổi tối hôm ấy cơm nước xong, cả nhà ngồi coi tivi một lúc, rồi Vân chuẩn bị đi làm. Muốn chắc ăn , nàng ra khỏi nhà lúc 9 giờ rưỡi mới không sợ trễ giờ. Trời cuối tháng 11 bắt đầu se lạnh và mau tối. Mới khoảng 5 giờ chiều là đã thấy âm u xám ngắt , có năm Toronto giờ này tuyết đã trắng xóa. Năm nay trời khô, nhưng gió buốt , nhất là quanh nhà Hiếu còn quá nhiều bải đất trống.

Vân mặc quần jean, hai ba lớp áo trong áo ngoài, cổ quấn khăn , chân đi giày bata, tay cầm cái túi đựng thức ăn và dăm ba đồ lặt vặt. Nàng lầm lũi lội bộ qua mấy khúc đường vắng tanh tăm tối rồi mới đến con lộ chính. Đúng như Hiếu nói , giờ này người và xe đã vơi hẳn nên ở trạm bus chỉ có một hành khách đang đợi, đó là một bà người Canada, ngồi trên ghế băng trong nhà lồng kiếng, sốt ruột nhìn về hướng xe bus tới.

Vân cũng bước hẳn vào trong nhà kiếng để tránh gió , nàng gật đầu chào bà cụ, rồi ngồi xuống bên cạnh và cùng quay mặt về hướng xe sẽ đến. Khoảng hơn 5 phút thì nàng vui mừng thấy xe bus hiện ra xa xa mờ mờ với ánh đèn đường. Nàng vội đứng dậy, bước hẳn ra ngoài, bà cụ cũng bước theo Vân, co ro đứng sát lề. Vân ngước nhìn con số khá lớn ghi trên đầu xe và hài lòng gật đầu vì đúng số xe mà Hiếu đã dặn. Mới đi xe bus lần đầu, nàng rất sợ lầm lộ trình rồi không biết cách nào mà quay về. Chiếc xe bus nặng nề lăn bánh tới và tách vào lề, Vân đứng trước , một tay xách túi đồ ăn, một tay cầm sẳn hai đồng bạc cắt. Bà cụ đứng sau lẩm bẩm nói một mình thứ tiếng Anh pha giọng ý rất khó nghe. Xe bus vừa mở cửa , Vân hăm hở bước lên bổng nàng giật mình sửng sốt kêu lên , đứng khựng lại và run rẩy muốn té quỵ xuống đất bởi vì người tài xế xe bus chính là....ông Thọ ngay trước mặt nàng. Giờ này ông lại ngồi sau tay lái bên Canada , quay đầu nhìn Vân cười rạng rỡ. Cái khác duy nhất giữa ông Thọ lúc trước và ông Thọ lúc này chỉ là da mặt ông không đen xạm như xưa mà trắng bệch có pha chút xanh xao, y như bôi một lớp sáp trên mặt , hàm răng ông cũng không còn vàng ám khói như nghệ mà trái lại trắng nhợt như nước sơn khiến nụ cười trông thật ma quái.

Nhất định là ông Thọ , không thể lầm được. Vân tái mặt đánh rớt cái túi thức ăn xuống đất , lạng quạng bước lùi lại mấy bước rồi kinh hồn quay đầu chạy , bà cụ người Canada đứng sau Vân đưa hai tay đỡ lấy vai Vân và hỏi bằng tiếng Anh :

− Cái gì thế , cô làm sao vậy ?

Vân không hiểu gì, run rẩy chỉ ông tài xế và ấp úng mãi mới nói đại được một câu nữa tiếng Anh, nữa tiếng Việt :

− Ông ấy...ông ấy...chết..rồi...he died...ông tài xế là người chết lâu rồi..

Rồi nàng quay lưng cắm cổ chạy, bà cụ vừa leo lên, vừa ngạc nhiên nhìn theo Vân lẩm bẩm vài tiếng không ai nghe rõ.

Chạy được một khoảng khá xa, vào hẳng trước dãy phố , Vân mới dừng lại thở , nàng quay đầu nhìn lại trạm xe, thì chiếc bus đã mất hút không thấy dấu vết gì nữa. Chỉ còn trơ lại cái nhà kiếng với ngọn đèn đường vàng úa. Dãy phố chỗ Vân đứng , nhiều cửa tiệm đã đóng im lìm ngoại trừ những quán cà phê, nhà hàng ăn, và tiệm tập hóa. Vân mệt quá ngồi đại xuống bậc thềm bên cạnh tiệm bánh ngọt đang chuẩn bị đóng cửa. Hơi thở nàng vẫn còn dồn dập , nàng nhớ lại nguyên vẹn khuôn mặt trắng xanh và hàm răng trắng ngời của ông Thọ lúc thấy nàng vừa bước lên xe , làm toàn thân nàng lạnh buốt như cơn bảo bất ngờ thổi buốt thấu xương.

Nàng không thể lầm được, ông Thọ đã chết , chính nàng đã đi đám tang và chôn ông ở nghĩa trang Tân Việt, Bà Quẹo. Sao giờ này lại lái xe bus bên Canada ? Vân phân vân suy nghĩ, đầu óc hoang mang, khuôn mặt đờ đẫn , quên cả cảnh vật xung quanh, đến nổi chủ tiệm bánh ngọt bên cạnh phải giục nàng đứng dậy để họ đổ rác vì nàng đang ngồi ngay bên cạnh thùng rác.

Vân đứng mép vào ngưỡng cửa nhìn ra đường , nàng nhớ tới lời Hiếu dặn là buổi tối lcứ khoảng 20 phút có một chuyến xe bus. Giờ đi làm và tan sở thì nhịp độ mau hơn. Vân uể oải bước đi, trở lại trạm cũ đứng chờ chuyến xe kế tiếp. Buổi đầu mà đến trễ, thế nào cũng bị mắng , có khi mất việc cũng chưa biết chừng. Vân chớp mắt thở dài, sực nhớ ra túi thức ăn lúc nãy đánh rớt. Vân cúi xuống nhìn lòng đường nhưng cái túi đã bị xe cán nát bấy chẳng còn hình dạng gì nữa.

Vân lại thở dài, gió khuya thổi vù vù từng cơn lạnh buốt. Nàng đứng hẳng vào trong nhà lồng kiếng , trạm xe vắng ngắt, không có ai ngoài nàng. Một lúc sau, từ khá xa xa , Vân thấy chiếc bus khác lờ mờ xuất hiện mỗi lúc một rõ ràng, nàng vén tay áo nhìn đồng hồ và hy vọng đón chuyến này vẫn còn kịp giờ đến tiệm cà phê Dolnad.

Nhưng bỗng nàng sực nghĩ ra một điều làm nàng rùng mình lạnh toát vì biết đâu trên chiếc xe bus kia , người tài xế cũng vẩn chính là ông Thọ , rõ ràng là hồn ông đã theo nàng từ Vn qua đây. Nàng mở to mắt nhìn chiếc xe đang lù lù tiến đến , rồi khi xe chỉ còn cách khoảng chưa đầy 100 thước, thì do một động lực mạnh mẽ thôi thúc trong lòng. Vân bổng hốt hoảng bỏ chạy , nàng chạy ra chỗ cũ, dãy phố chỉ còn vài căn tiệm mở cửa. Nàng đứng sát vách tường và đăm đăm nhìn ra. Khoảng cách xa quá mà trời lại tối , nàng không thấy được mặt người tài xế trên xe bus, nên không biết được người tài xế đó có phải là ông Thọ hay không ? Chỉ biết chiếc xe đó hầu như trống rỗng không có hành khách.

Chiếc xe đi rồi, nàng đứng thở bần thần vì không biết tính sao ? Đón xe bus thì nàng sợ gặp hồn ma ông Thọ , mà gọi taxi, thì Vân không biết có đủ tiền không? Vì nàng chưa biết từ đây ra trung tâm thành phố sẽ tốn bao nhiêu? Nhất là dù muốn kêu taxi, Vân cũng không biết kêu ở đâu số điện thoại nhà ?

Cuối cùng nàng đành đi bộ về nhà , và dự định sẽ báo cho Hiếu biết hôm nay nàng không đi làm để nhờ Hiếu phone cho tiệm Dolnad. Biết Hiếu sẽ trách, nhất là bà vợ, nhưng Vân không còn cách nào khác. Trừ trường hợp Hiếu lái xe đích thân chở nàng đi làm.

Vân lầm lũi bước đi trên con đường chưa kịp tráng nhựa chạy ngoằn ngèo giữa bải đất trống cỏ mọc bừa bãi bắt đầu chết úa vì thời tiết. Nàng sang đây vào cuối tháng 8 , trời Toronto còn nắng ấm chan hoà , mới gần ba tháng trôi qua , cái lạnh heo mây đã đến thật nhanh, càng gợi nổi nhớ Sài Gòn. Nhưng nhớ ai thì nhớ chứ chưa bao giờ nàng mảy may nhớ đến ông Thọ , dù chỉ thoáng trong giây phút. Mãi đến lúc nãy sau khi hồn ông hiện về nàng mới nhớ láng máng hình như trong xấp hình nàng mang theo có bức ảnh chụp đám tang ông , trong đó nàng đứng bên cạnh thân nhân của ông dưới làn mưa nhỏ sau khi hạ huyệt , nghĩa là ông Thọ đã chết thật , đã nằm sâu trong lòng đất, chính nàng đưa ra nghĩa địa, tại sao giờ này lại sang đây ?

Trong thế gian, người có giống người , nhưng không thể giống như vậy được , huống chi người Việt, đâu có ai chen vào được ngành lái xe bus công cộng ? Vân cắm đầu bước đi giữa tiếng gió vi vút lâu lâu rít lên từng cơn quanh khu đất trống tối tăm , dãy nhà Tân lập hiện ra mờ mờ, thấp thoáng ánh đèn , trong đó có nhà Hiếu.

Bổng Vân nhận ra mình không phải là kẻ độc hành trên con đường lởm chởm đá vụn này , sau lưng nàng rõ ràng có tiếng bước chân người đi nhanh, mỗi lúc một gần nàng hơn ,tiếng giày đàn ông mạnh bạo trên lớp đá vụn nghe xào xạc. Nàng đi chậm lại, tránh sang một bên để nhường bước cho người phía sau tiến lên. Nhưng tiếng giày cứ ở sau lưng Vân không vượt lên phía trước. Tò mò nàng quay lại thì không thấy ai cả , hoàn toàn trên quảng đường vắng quanh nàng không có một bóng người. Nàng giật thót người, và rảo bước nhanh hơn. Thì tiếng bước chân vô hình lại cũng tiến mau hơn theo sát sau lưng nàng. Nàng lấy hết can đảm , quay phắt lại, thì vẩn không thấy ai , tứ phía xung quanh không có người , chỉ có gió thổi vù vù.

Vân kinh hãi bỏ chạy, nhưng đôi chân dường như ghì lại , níu lấy không cho nàng bỏ trốn. Vân vùng vẫy lao tới, vấp chân té sấp xuống đường , nàng luống cuống đứng dậy, vừa thở vừa chạy ngay tới trước cửa. Vân hoàn hồn ngước lên nhìn ba bậc cầu thang , tay cầm chià khóa . Khu nhà tiền chế mới cất nằm san sát bên nhau, nhà này cách nhà kia chỉ hơn một thước. Nhưng con đường trước mặt thì rộng thênh thang và thường xuyên vắng lặng. Đang tra chià khóa vào cửa bổng nhiên giật thót người , vì nhìn qua màn cửa sổ nhà bếp thấy thấp thoáng bóng người đàn ông mờ mờ đi lại trong nhà làm nàng liên tưởng ngay đến bóng ma ông Thọ, nhưng thật ra đó chỉ là Hiếu đang lấy nước trong tủ lạnh bưng lên lầu . Nghe tiếng chià khóa lách cách ở ổ , Hiếu giật mình, đứng khựng lại ở chân thang và hỏi bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh :

− Ai đó ? Ai mở cửa đó ?

Rồi anh từ từ tiến ra vừa lúc cánh cửa mở và Vân xuất hiện , Hiếu ngơ ngác hỏi :

− Sao lại về ? Quên cái gì hả ?

Vân vừa thở hổn hển, vừa đáp vắng tắt :

− Tai... tại em..gặp ma Trên nhà vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh nghe tiếng nói ồn ào cũng bước ra và đi xuống. Hiếu biết em gái mình không phải hạng người lười biếng, trốn việc huống chi anh cũng vừa nhận ra sắc mặt tái mét của Vân , nhưng cái lý do Vân đưa ra là một điều không chấp nhận được vì ngoài sự tưởng tượng của anh. Anh nhăn mặt hỏi lại :

− Mày nói cái gì ? Mày gặp ma à ? Gặp ở đâu ? Sao lại có chuyện lạ đời như vậy , Canada này làm gì có ma ?

Vừa nói, Hiếu vừa tiến lại đặt cóc nước lạnh xuống bàn , Vân bưng ngay ly nước của anh uống cạn vì cổ họng đang khát khô, nàng cởi áo khoác, máng lên thành ghế rồi kéo ghế ngồi , Hiếu cũng ngồi đối diện em, trố mắt nhìn ngờ vực , mặc dầu anh thấy rõ đôi mắt Vân chưa tan nỗi kinh hoàng. Vợ Hiếu và con gái kéo tới, tất cả đều ngồi ở bàn ăn , thấy vợ bên cạnh, Hiếu nhắc lại câu hỏi :

− Tại sao đang đi làm lại bỏ về là thế nào ?

Vân đặt cái ly xuống bàn và nói :

− Em đã nói với anh rồi , nhưng mà em hỏi anh là anh có nhớ cái ông Thọ ở gần nhà mình không ? Cùng con hẻm nhà mình đó , cách nhà mình ba căn đó , anh có nhớ không đã ?

Cái ông Thọ ngày xưa ổng đi lính cái lúc mà em còn bé xíu à !

Hiếu ngắt lời :

− Tao đi lâu quá rồi đâu có nhớ ! Nhưng mà mày làm sao ? Mày nhắc đến ông ấy để làm gì mới được chứ ?

Vân khổ sở kể tiếp :

− Trời ơi ông ấy chết rồi , lúc sau này ông ấy lái xe bus.....rồi chết luôn trên xe bus , cái lúc mà ông chết thì...thì... em có mặt trên chuyến xe bus đó , rồi chính em đưa ông ấy ra nghĩa địa...

Hiếu càng sốt ruột ngắt ngang :

− ..Nhưng mà rồi sao ? ông ấy chết thì có dính dáng gì đến mày ?

Vân mở to mắt nhìn anh nhấn mạnh :

− ..Thì...ông chết cả năm nay rồi...bổng dưng lúc nãy..ơ..ơ..lúc em lên xe bus thì chính ổng ngồi lái...

Hiếu nhìn em toan phì cười , vợ Hiếu mỉa mai chen vào :

− Cô mới qua Canada mà coi tivi nhiều quá...Nói chuyện như thế mà cũng mở mồm ra mà nói , không muốn đi làm thì ở nhà , bịa đặt chuyện ma làm cái gì không biết.

Vân bực bội đứng dậy đi lại phía tủ lạnh lấy thêm ly nước và gắt nhẹ :

− Em nói thật chứ bịa đặt cái gì , em thấy chính ông Thọ ngồi lái xe , vừa thấy em..ổng nhe răng ra cười rồi gật đầu chào em. Trời , em sợ quá, em bỏ chạy về liền.

Cả nhà cùng im lặng, nhưng rõ ràng không ai tin lời Vân. Một lúc sau con bé Mỹ Linh lên tiếng :

− Chắc cô phải đi bác sĩ tâm thần quá à !

Vân thở dài thường thượt rồi bực bội bảo Hiếu :

− Tức quá...Em không mang tấm hình nào của ông ấy..Anh nhìn mặt là anh nhớ ra ngay. Anh không tin thì...tối mai anh ra trạm xe bus với em.

Hiếu trầm ngâm nói :

− Tao phải đi ngủ sớm, đâu có thức được mà đưa mày đi làm , mà đi taxi thì lương mày không có đủ trả.

Rồi Hiếu quay sang đột ngột hỏi vợ :

− Em có nhớ ông Thọ không ?

Vợ Hiếu gật đầu :

− Nhớ ! Nhưng mà không có rõ lắm , hồi em mới lấy anh thỉnh thoảng gặp ông ấy đi ngang nhà mình ấy. Nghe nói chết bất đắc kỳ tử mà, hình như là đứt mạch máu . Nhưng mà...Giá như ông ấy làm ma hiện về thì hiện bên Vn chứ ma nào mà du lịch tận sang đây ?

Nói câu ấy, vợ Hiếu mỉm cười như chế giễu Vân. Hiếu vội lên tiếng bảo Vân :

− Tao có cách này , tối mai mày đừng có đón chuyến xe 9 giờ rưỡi như tối nay nữa , mày chịu khó đi sớm hơn nữa giờ, đón chuyến trước khoảng 9 giờ. Như vậy mày sẽ khỏi phải gặp ông tài xế bửa nay. Trong thiên hạ thì thiếu gì người giống nhau , nhưng mà muốn chắc ăn thì đi chuyến khác , khỏi gặp ông tài xế bửa nay mà mày bảo là ma !

Vân hài lòng đáp :

− Vâng , em cũng định như vậy , đi sớm nữa giờ cũng được chứ ngồi nhà làm gì , đến tiệm trước thì càng vui.

Vợ Hiếu chỉ muốn em chồng đi làm nên đề nghị thêm :

− Còn muốn chắc ăn nữa thì chịu khó cuốc bộ thêm lót đường nữa , thay vì đón xe đường số 4 thì qua hẳn đường số 5 đó , hai đường song song với nhau mà , xe nào cũng dẫn đến metro. Rồi đằng nào cũng đổi xe bus mới ra được downtown.

Vân gật gù đồng ý :

− Vâng, vâng..có lẽ như thế thì chắc ăn hơn.

Hiếu biết em không muốn ở nhà , nên gật gù nhắc lại :

− Ờ , cứ như vậy đi, chịu khó đi sớm một tí Ngừng một chút , anh hỏi thêm :

− Thế còn tối nay thì sao ? Bây giờ thì sao ? Mày có đi làm hay không ?

Vân im lặng không đáp , hình ảnh ông Thọ vẫn còn làm nàng kinh khiếp. Hiếu đứng dậy lại góc nhà nhấc phone gọi cho tiệm Dolnad mà chủ nhân là một người Hoa hồi trước làm chung sở với Hiếu , nói chuyện vài câu rồi anh gác máy rồi trở lại bảo Vân :

− Tối nay nghỉ cũng được người ta chưa cần mày lắm , thật ra thì họ muốn mày đến trước một hôm để học việc nhưng mà thôi đằng nào cũng trể rồi , tối mai bắt đầu làm. Thôi , ta đi ngủ thôi. Nhớ khóa cửa lại.

Vợ chồng Hiếu đứng dậy lên lầu, con bé Mỹ Linh cũng theo lên. Bình thường nó nhốt mình trong phòng riêng học bài hoặc nghe nhạc ít khi xuống nhà dưới. Mẹ nó có ác cảm sẳn với Vân , nhưng nó thì lại dửng dưng , không thành kiến. Thỉnh thoảng lúc rảnh rổi nó còn tận tình dạy Vân học tiếng Anh.

Mọi người lên lầu rồi, Vân cũng uể oải vào buồng ngủ lấy quần áo đi tắm. Nàng cảm thấy khó chịu vì không có cách nào chứng minh cho cả nhà biết là nàng đã gặp ma thật. Toan bước ra, bổng Vân nghe tiếng con chó nhà hàng xóm gầm gừ ngay sau sân nhà mình, sát cửa sổ buồng của Vân.

Tay ôm bộ quần áo , Vân nhíu mày lắng nghe rồi thì một phút sau hình như nó chồm và những móng sắt của chân trước gào liên tục vào tường nhà Vân làm nàng càng thêm khó chịu. Gần ba tháng nay, chưa bao giờ Vân thấy nó sang sân nhà mình , dù là sân sau. Nó hiền như cục đất , suốt ngày nằm lừ đừ ngoài hiên nhà bên cạnh bên tay trái nhà Hiếu, bổng dưng tối nay con chó giỡ chứng , Vân đập bàn tay vào tường mấy cái để xua đuổi nó đi chỗ khác. Nhưng chẳng được chỉ trong khoảnh khắc , con chó bắt đầu tru lên trong đêm vắng lặng trong khu dân cư thưa thớt , nghe ai oán đến rợn người. Vì tiếng cào vào vách , tiếng tru thảm thiết cứ đều luôn luôn, rồi chuyển sang tiếng sủa vang , đôi khi như tắt nghẹn. Vân bực bội lắm , nếu nó cứ sủa như thế này thì làm sao cả nhà ngủ được. Nàng định chạy lên nói Hiếu gọi điện thoại sang ông hàng xóm bảo họ nhốt chó lại. Cái ông hàng xóm này kỳ cục quá , tại sao không để chó trong nhà mà lại thả rong ngoài vườn khi đã bước vào muà lạnh.

tay ôm bộ quần áo ngủ, Vân tò mò vén bức màn cửa sổ trông ra sân sau xem tại sao chó sủa , tức thì nàng kinh hải thét lên , buông rơi bộ đồ xuống đất và chạy lao ra ngoài bởi vì khi tấm màn vừa kéo ra thì nàng thấy ông Thọ đã đứng sẳn bên ngoài sát cánh cửa sổ , nhe hàm răng trắng bệch cười với nàng.

Trong lúc Vân bước tới , chỉ có ánh sáng từ trong buồng hắt ra, nàng vẫn thấy rõ khuông mặt xanh xao, cái mặt của ông cười rạng rỡ. Con chó nhà hàng xóm thì cứ lao tới phía ông mà sủa rồi lại lùi xa xa gầm gừ rồi lại chồm tới ynhư xua đuổi tên trộm.

Hiếu từ trên lầu chạy xuống gắt lên :

− Cái gì thế ? cái gì ma la ầm lên thế ?

Vân cũng vừa chạy ra, định lao luôn lên lầu , gặp Hiếu, nàng hổn hển thở và bảo :

− Em...em vừa thấy ông Thọ đứng ở cửa sổ..buồng em. Hèn gì con chó nhà hàng xóm sủa mãi từ nãy đến giờ !

Vợ Hiếu cũng vừa chạy ra xem , uất ức bảo Vân :

− Chó nào sủa ? Từ nãy đến giờ có nghe tiếng chó nào sủa đâu ? Cô này hay nhỉ , lắm chuyện quá. Không để yên cho người ta ngủ , ngày mai cũng phải đi làm nữa chứ !

Hiếu tin rằng em gái mình đang gặp khủng hoảng tinh thần vì một chuyện gì ghê gớm lắm đã xảy ra trong quá khứ ở quê nhà , nên anh dịu dàng nói :

− Anh có nghe tiếng chó sủa đâu ! Con Mỹ Linh nó nói đúng đó , chắc là cô bị tâm thần thiệt rồi. Hay là ngày mai em lấy hẹn đi gặp bác sĩ xem sao.

Vừa nói, Hiếu vừa xâm xâm đi lại bước vào phòng của Vân , Vân lửng tửng đi theo nhưng đứng ở cửa , không dám vào. Hiếu bước vô, vén bức màn cửa sổ trông ra rất lâu, và yên chí là chẳng có gì trước mặt vì trời bên ngoài tối như bưng. Anh bảo Vân tắt hết đèn trong buồng ngủ đi để nhìn ra cho rõ. Anh thấy chẳng có gì ngoài bải đất trống chạy dài tới ven rừng. Trên bải đất trống ấy chỉ có một cái cây khá cao , đứng chơ vơ cách nhà Hiếu khoảng 50 thước. Nay mai công ty xây cất cũng sẽ đốn luôn để cất nhà bán. Hiếu xoè hai bàn tay , và nhún vai bảo Vân :

− Có gì đâu , mày nhìn lại đi. Nhìn lại lần nữa đi , có cái gì đâu !

Vân từ nãy đến giờ vẫn đứng thập thò ngoài cửa , nghe Hiếu gọi , tức quá Vân tiến lại sau lưng anh, trố mắt nhìn ra rồi nhăn mặt phân trần :

− Rõ ràng là ông ấy vừa đứng đó mà , đứng sát cái cửa sổ này này. Em không thể lầm được...Mà..mà...bộ anh không nghe thấy tiếng chó sủa hay sao ? Lạ nhỉ ?

Hiếu bước ra và nhăn mặt bảo :

− Chắc mày nằm mơ chứ gì ?

Vân gắt lên :

− Em đã ngủ đâu mà mơ ? Vừa mới vào phòng , chưa kịp tắm kia mà !

hiếu kết luận :

− Thôi ngủ đi, mai tao với chị mày còn phải đi làm.

Rồi Hiếu lặng lẽ bước lên lầu. Hiếu ra rồi , Vân đứng lặng lẽ nhìn tấm màn cửa sổ , nàng tưởng tượng bất chợt trong đêm ông Thọ sẽ xuất hiện trở lại sau lớp kính và bức màn màu trắng đục.

Khá lâu, Vân mới lấy hết can đảm cuối xuống lượm bộ đồ rớt ở dưới đất sát tường ngay phía dưới cửa sổ, và chạy nhanh qua phòng tắm. Nàng bật hết các ngọn đèn cho căn phòng rực sáng , rồi nhìn ở trong gương, thấy rõ nét lo âu và nhợt nhạt còn đọng lại.

Nữa tiếng sau, Vân trở lại phòng đứng im nghe ngóng , nàng không dám khép cửa , không dám tắt đèn. Thậm chí bật luôn đèn ở trong nhà bếp rồi mới lên giường nằm nghiêng đưa lưng về phía cửa sổ , và trùm mền kín từ đầu đến chân. Vợ Hiếu từ nhà trên càu nhàu đi xuống và tắt hết đèn bếp cho đỡ tốn điện. Vân biết, nhưng đành nằm im. Cũng may , từ đó mọi chuyện đều bình lặng , không có gì xảy ra , con chó không gào , không sủa nữa. Tuy vậy Vân vẫn không ngủ được , Vân có cảm tưởng bên ngoài cửa sổ, hồn ma của ma vẫn lãng vảng với khuôn mặt bóng loáng vẫn đang tựa cửa đợi mình.

Khi nhắm mắt lại, khuôn mặt xanh xao của ông với hàm răng trắng nhợt lại hiện ra rõ mồn một như đang đứng ngay trước mặt Vân. Hồi nhỏ nàng nghe người lớn bảo, những người chết vào giờ linh , hồn không siêu thoát , cứ theo đuổi mãi một người nào đó trên trần gian , hay là...ông Thọ ở vào trường hợp đó ? Nếu thế , thì xui cho Vân quá !

Cả tiếng đồng hồ sau, chắc là đã quá nữa đêm, Vân mới rón rén ngồi dậy đi tiểu, rồi lại trở về nằm trăn trở rất lâu. Có lẽ căn phòng sáng quá khiến nàng ngủ không được , nghĩ thế Vân vói tay tắt cả hai ngọn đèn trần , cũng như đèn ngủ ở đầu giường rồi chun vào, cuộn mình trong chăn. Nhưng đèn vừa tắt, thì từ sân sau con chó nhà hàng xóm lại bắt đầu gầm gừ nho nhỏ , rồi hai chân trước lại cào vào bờ tường liên tục nghe rin rít , làm Vân thấy rùn mình ê răng và ghê cả người. Không biết tại sao , Vân đưa hai tay bịt tai lại, nhưng con chó lại tru lên, mỗi lúc một ghê rợn hơn , lát sau lại sủa từng hồi liên tục , và luôn luôn móng sắt lại tiếp tục cào vào bờ tường. Vân lại thót người , run lên bần bật vì biết chắc rằng hồn ông Thọ vừa hiện ra trở lại đằng sau nhà. Tiếng chó sủa lớn quá trong đêm khuya , tại sao cả nhà nàng không ai nghe thấy? Vân chờ đợi mãi mà chẳng thấy Hiếu lên tiếng , chứng tỏ chỉ có mình nàng nghe được , nàng nằm co quắp, ôm cái gối vào lòng, mắt nhắm nghiền lại . Một lúc sau , tiếng chó bổng im lặng, tiếng móng chân cào vào bờ tường cũng im hẳn , Vân nhè nhẹ kéo mép chăn xuống khỏi mặt để thở , nhưng tiếng chó vừa im được một lúc, thì phía sau nhà vang lên tiếng ầm ầm cổ máy xe hơi. Đúng là tiếng xe bus chạy từ từ , đơn độc , cứ lớn dần, lớn dần cho tới khi lướt ngang ngay sang cửa sổ nhà nàng. Nhà nàng ở giữa đồng trống , không thể có con đường có bất cứ xe nào chạy ngang phía sân sau ; Nàng lại run lên bần bật và kéo mền phủ lên mặt , nhắm mắt lại, nàng hình dung thật rõ chiếc xe bus cứ từ từ tiến tới gần nhà mình , chạy lướt qua, rồi lại quay đầu trở lại. Và ông Thọ ngồi lạnh lùng sau bánh lái , nàng cố trấn tỉnh choàng dậy với tay bật đèn, và ôm cái mền chạy lao ra nhà bếp , rón rén lên lầu. Nàng muốn chui vào ngủ chung với đứa cháu cho đỡ sợ , nhưng giờ này đã quá khuya , không dám đánh thức nó. Dần dà một chút , Vân nằm dài ra sàn nhà, ngay chiếc cửa sổ phòng con Mỹ linh, tung chăn phủ kín lên người.

Sáng hôm sau chuông đồng hồ đánh thức Hiếu dậy lúc 7 giờ như thường lệ , hầu như sáng nào, anh cũng dậy trước vợ , xuống nhà đọc báo , uống cà phê cho tỉnh táo. Anh đẩy cửa bước ra , ngơ ngác thấy Vân nằm co quắp ngay lối đi , anh đứng nhìn một chút, rồi thoáng hiểu ngay là em gái đêm qua không dám ngủ một mình ở dưới nhà. Anh tội nghiệp bước đi nhè nhẹ xuống nhà để khỏi đánh thức Vân , nhưng Vân choàng dậy , ngồi tựa lưng vào vách , tóc xỏa mệt mỏi, và đôi mắt đỏ ngầu , hai mắt nhìn ra cửa sổ.

Trời hãy vẩn còn tối , 7 giờ sáng muà hè, thì nắng đã lên. Nhưng muà đông thì chưa trông rõ cảnh vật. Dưới nhà , Hiếu bật đèn sáng choang , Vân uể oải đứng dậy cầm cái mền bước xuống. Hiếu đã vào buồng tắm khép cửa lại , trên lầu cũng có buồng tắm nhưng gần như Hiếu để dành riêng cho vợ và con gái vì mỗi buổi sáng cả hai đều lục đục trong đó rất lâu.

Vân tiến lại trước cửa phòng mình , đứng tần ngần một chút rồi mới dám bước vô, quăng cái chăn lên giường , nàng nhìn tấm màn cửa sổ , định bụng chờ trời sáng rõ rồi chút nữa mới kéo ra , nàng ra nhà bếp pha cà phê chờ Hiếu. Một lúc sau thì Hiếu từ trong buồng tắm bước ra , tiến lại và hỏi Vân một câu thừa thãi :

− Tối hôm qua mày không dám ngủ một mình dưới nhà phải không ?

Vân mệt mỏi nói :

− Anh Hiếu à , anh có cách nào tối nay đi với em được không ?...Anh không cần phải đến tiệm cà phê làm gì đâu. Anh chỉ đứng chờ xe bus với em thôi , để em xem ông ấy có hiện về lái xe nữa hay không ! Nếu có thì anh cũng lên xe với em chứ một mình em...em không có dám đâu.

Hiếu biết tinh thần em mình đang hỗn loạn , nhưng ngàn lần anh không thể tin được là hồn ma từ Vn sang tận đây để theo đuổi Vân , anh gắt nhẹ :

− Xe bus đâu có chỉ chờ có mình mày , mỗi chuyến cả mấy chục người , không lẽ cái xác chết lại lái được xe đưa cả mấy chục người đi làm ? Mày nói làm sao chứ ?

Vân ngắt lời nhấn mạnh :

− Nhưng mà tối nay anh đi với em ra bến xe được không ?

Hiếu rất muốn chìu em, đồng thời cũng muốn giải quyết một lần cho xong , nhưng anh sợ vợ anh không bằng lòng nên anh chẳng biết trả lời ra sao. Vân đặt tách cà phê , nhìn ra cửa sổ và nói :

− Trời sáng rồi , anh..anh đi với em ra đây , ra đằng sau nhà với em.

Hiếu ngần ngại không muốn ra ngoài, nhưng vì tội nghiệp Vân cả đêm mất ngủ, nên đành đứng dậy nhưng cằn nhằn bảo :

− Đứng trong buồng của mày nhìn ra sân sau cũng được , cần gì phải ra bên ngoài cho lạnh.

Vân giật mạnh tay anh quả quyết :

− Không , anh cứ đi với em , em nói thì anh không có tin đêm hôm qua ông Thọ hiện về ngay sau cửa sồ buồng em nè , con chó nhà bên nó cứ sủa ầm cả lên , rồi nó cào mãi vào trong tường. Đi ! Anh đi với em đi mà.

Vừa nói , Vân vừa lôi anh lại cửa sau , nàng đẩy cánh cửa sổ bước ra, quên cả cái rét buổi sáng. Hiếu theo sau, rùn mình vì lạnh. Trời chưa sáng hẳn , nhưng nhờ khoảng trống mênh mông phía sau , nên cảnh vật bắt đầu trong rõ. Hiếu bật thêm ngọn đèn máng trước máng hiên sân sau để quan sát cho rõ. Hiếu đứng trên mãnh sân sau, chưa có làm hàng rào , chưa tráng xi măng mà lớp cỏ thì đã chết úa vì lạnh. Bỗng Hiếu trố mắt giựt mình há mồm nhìn trên bức tường nhà mình , ngay cửa sổ phòng Vân quả thật chằng chịt bao nhiêu vết cào như có ai cầm cây đinh cố ý vạch vạch. Nhà mới xây, tường còn nguyên , nên dấu cào càng rõ. Vân lay vai Hiếu và kinh hãi nói :

− Anh...anh thấy chưa ? Em bảo anh mà , con chó nó cào cả tiếng đồng hồ ấy.

Rồi nàng hốt hoảng chỉ tay và nói lớn hơn :

− Đây..đây này..Anh coi này...dấu chân người đứng ngay sau cửa sổ nhìn vào buồng ngủ của em , rõ ràng là dấu giày còn in lại vì chỗ đất mềm. Sân này từ trước tới giờ đâu có ai lai vãng tới. Tối hôm qua mà anh..anh ở dưới phòng em thì anh mới thấy sợ , em phải chạy lên lầu là vì thế ấy.

Hiếu cũng vừa nhận ra dấu giày đàn ông quay mũi vào hướng buồng Vân, làm anh bắt đầu đổi thái độ. Một cảm rờn rợn bất chợt lan vào toàn cơ thể anh , anh im lặng quay đầu nhìn sang nhà hàng xóm có con chó quanh năm hiền lành , rồi anh kéo tay Vân ra hiệu bảo vào nhà khép cửa lại.

Anh đi ra sân trước dáo dác nhìn , con chó hàng xóm đã nằm lặng yên trước hiên không có một dấu hiệu nào chứng tỏ đêm qua nó đã gặp ma. Anh bảo Vân :

− hay là kẻ trộm nó rình nhà mình ?

Vân lắc đầu :

− Đằng sau nhà mình là bải đất trống , trộm nào dám đứng khơi khơi giữa bãi đất trống mà rình ?

Hiếu cũng đã nghĩ đến điều ấy , nhưng anh vẫn cố nêu ra một giả thiết để tự an ủi mà thôi. Vào nhà , anh ngồi ở bàn ăn , hai mắt đăm chiêu suy nghĩ. Vân rót cà phê cho anh, rồi bưng lại đặt trước mặt , Hiếu hỏi :

− Cái ông Thọ mà mày bảo là hiện hồn về đó , lúc còn sống ông ấy có..ông ấy có..có dính dáng gì đến mày không ? Tại sao lại hiện về để chọc ghẹo mày?

Vân kéo ghế ngồi và lại tỉ mỉ kể hết diễn tiến mọi chi tiết cho Hiếu nghe, chỉ khác một điều là lần này nàng kể phấn khởi hơn bởi vì Hiếu đã chăm chú lắng nghe không xem thường câu chuyện của nàng như tối hôm qua. Nàng kết luận :

− Tối nay anh chịu khó ra đón xe bus với em được không anh?

Hiếu gật đầu đáp :

− Ừ , để tối nay tao đi với mày , nhưng tao dặn mày để xíu nữa chị mày dậy , đừng có nói gì cả. Bả nhát lắm , biết là có ma thật , chị mày có thể đứng tim chết đó.

Vân gật đầu mặc dầu trong lòng rất ấm ức , vì rõ ràng bà chị dâu cho là Vân bịa đặt , chị cứ yên chí cho là Vân lấy cớ để nghỉ ở nhà để khỏi phải đi làm. trong lúc tức tối , Vân chỉ mong cho hồn ma hiện về cho bà chị dâu gặp một lần để bả tởn. vân đứng dậy và nói :

− Thôi , anh chuẩn bị đi làm đi , em phải đi ngủ một giấc đây , mất ngủ một đêm mệt quá. Định vào ngủ chung với cháu Mỹ Linh nhưng mà lại sợ làm mất giấc ngủ của nó , em đành phải nằm ở ngoài hành lang ấy.

Hiếu trầm ngâm không nói gì nữa , Vân nhìn anh tha thiết hỏi :

− Ừm..em..em gọi phone về VN được không anh ?

Hiếu bưng tách cà phê chưa kịp uống ngạc nhiên đáp :

− Được chứ , nhưng mà mày gọi cho ai ?

− Gọi cho gia đình ông Thọ ấy mà , ông ấy ở với một ông anh ruột , em bảo là người ta làm lễ cầu siêu , tại vì ông Thọ không vợ , không con cho nên không có ai cúng kiến cả.

Hiếu uống một ngụm cà phê rồi gật đầu bảo :

− Ừ tùy mày vậy , lát nữa tao đi làm thì mày gọi.

Vân hài lòng đứng dậy , anh em thương nhau nhưng vớ phải bà chị dâu khó chịu , thành ra bất cứ việc gì muốn làm , Vân vẫn cứ phải đắn đo. Nàng bước vào phòng tắm , bao nhiêu nỗi kinh sợ đêm qua , giờ này khi trời sáng đã giảm hẳn. nàng đánh răng rửa mặt, rồi cởi quần áo vào bồn tắm xối nước nóng cho đỡ mệt mõi , rồi nàng vào buồng khép cửa lại lên giường ngủ. Ngoài nhà vợ chồng Hiếu và con gái lục đục một lúc rồi khóa cửa đi ra trả lại sự vắng lặng một mình cho Vân ở nhà. Nàng cần phải ngủ một giấc dài, đêm nay mới có thể thức trắng làm việc ở tiệm cà phê.

Vân ngủ được mấy tiếng đồng hồ thì choàng tỉnh dậy giữa căn nhà vắng vẻ , ngẩm nghỉ mấy giây mới nhớ lại trọn vẹn câu chuyện đêm qua vào lúc thấy ông Thọ mặt sáp ngồi trên xe bus cho đến những âm thanh hổn độn ở sau nhà : tiếng chó sủa , tiếng cào vào tường , tiếng xe bus chạy. Tất cả uà trở về rất nhanh trong trí nhớ của nàng. Tuy nhiên , nhìn qua màn cửa sổ , nàng thấy trời đã rực nắng nên cái cảm giác run sợ không còn đè nặng như đêm qua , nhìn đồng hồ trên bàn thấy cũng quá trưa , Vân choàng dậy, định ra rửa mặt rồi nấu cơm , chui ra khỏi tấm chăn dày, Vân thấy rùn mình vì lạnh , nàng mặc vội cái áo khoác rồi lại kéo rộng tấm màn cửa sổ cho căn phòng thêm ánh sáng.

Màn vừa kéo ra, nàng hãi hùng kêu lên , và bước lùi lại mấy bước. Trên bãi đất mênh mông trước mặt , cách nhà nàng khoảng 50 thước , trơ trọi một cây thông khá cao giờ này lá đã rụng gần hết. Một người đàn ông đứng dựa gốc cây miệng ngậm điếu thuốc khói bay nhè nhẹ, đăm đăm nhìn vào cửa sổ buồng ngủ của Vân. Mặc dù khoảng cách khá xa, Vân cũng vẫn nhận ra ngay đó là ông Thọ với cái dáng quen thuộc không thể lầm lẫn được . Vừa thấy Vân , nghĩa là khi Vân vừa kéo màn cửa , ông liền quay lừng lửng bỏ đi về phía bià rừng và mất hút trong đó .

Vân để bàn tay lên ngực để trấn tỉnh , nàng không dám kéo màn lại nữa. Nàng chạy ra nhà ngoài kiểm soát lại xem cửa chính đã đóng kín và gài then trong chưa , đồng thời nhà có bao nhiêu cửa sổ ,Vân kéo màn mở tung ra hết , nàng nghĩ hồn ma luôn luôn sợ ánh sáng , cho nên chiều nay khi Hiếu đi làm về, nàng sẽ đòi Hiếu thay cái bóng đèn thật sáng phía sân sau ngay trên cửa sổ của nàng , rồi từ đây khi ngủ , nàng sẽ không kéo màn lại nữa. Nàng đứng ở bàn ăn đờ đẩn suy nghĩ , tim vẩn còn đập thình thịch , căn nhà vắng lặng lạ thường , không một tiếng động nhỏ làm nàng cảm thấy rờn rợn như sống một mình giữa lâu đài hoang.

Nàng vào phòng khách, bật ti vi lên cho đỡ trống trãi rồi qua phòng tắm rửa mặt. Nhìn đồng hồ thấy mới khoảng 1 giờ trưa nàng lưỡng lự toan gọi điện thoại về Vn, nhưng lại đổi ý hoãn đến chiều , chờ Hiếu về để Hiếu cùng nghe rõ câu chuyện. Một mặt Vân sẽ bảo người nhà cầu siêu cho ông Thọ, một mặt nàng sẽ yêu cầu bảo họ gởi qua cho nàng một bức hình của ông để mang lên chùa. Phải chấm dứt tình trạng này, chứ nếu kéo dài , thì nàng không thể làm ăn gì được . Đôi mắt vẫn còn cay, Vân đứng trước bồn rửa mặt , cuối xuống vặn nước nàng nhắm mắt lại vộc thật nhiều nước đắp lên mặt cho tỉnh. Đang lau mặt thì nàng ngạc nhiên khựng lại vì chợt ngửi thấy mùi thuốc lá thoang thoảng trong phòng , nàng nhíu mày đứng yên , hít hít mấy cái và càng thấy rõ mùi thuốc lá bao phủ nặng nề hơn. Hiếu đi làm mới về bất ngờ chăng ? Chắc là không ! Bởi dù Hiếu có về thì Hiếu cũng đâu có hút thuốc , anh bỏ thuốc đã lâu. Mấy cái gạt tàn chỉ còn giữ lại trong tủ làm kỷ niệm. Nhà này không có ai hút thuốc , sao lại có mùi khói bay trong nhà ? Vân máng cái khăn lên và cất tiếng hỏi lớn :

− Anh về đấy hả anh Hiếu ?

Cùng với câu hỏi ấy , Vân bước sang phòng khách , nàng kinh hãi đến rợn người vì ở bàn salon , trên chiếc gạt tàn bằng thủy tinh , có điếu thuốc đang cháy giở , khói bốc thành sợi bay lên cao. Vân đứng chết cứng tại chỗ , trố mắt nhìn , bên cạnh cái gạt tàn còn có gói thuốc Mai mà đã hơn một năm nay Vân mới nhìn lại. Tim đập thình thịch , Vân đưa mắt nhìn quanh , ngó xuống bếp và ngước lên lầu , nàng biết hồn ma ông Thọ đang có mặt trong căn nhà với một điếu thuốc nội hóa mà xưa kia ông vẫn hút khi lái xe bus .

Dường như có tiếng bước chân trên lầu , nàng im lặng láng nghe thì không thấy gì nữa. Căn nhà chìm trong im lặng mênh mông , không một tiếng động nào. Đứng một lúc , lấy lại phần nào bình tĩnh , Vân tiến lại góc nhà , chỗ máng điện thoại để gọi vào sở báo tin cho Hiếu biết. Nàng dự định điện thoại cho Hiếu xong thì nàng sẽ ra phố đông người hoặc vào một shopping center nào đó đi thơ thẩn ,chứ không dám ở nhà một mình , 5 giờ chiều cả nhà về thì Vân mới về.

Vân đứng bên cạnh cái phone màu đen máng trên vách mở cuốn sổ tìm số của Hiếu , nhưng còn đang lật từng trang thì điện thoại bổng reo vang làm nàng giật nẩy người , đánh rơi cuốn sổ điện thoại xuống chân. Nàng trấn tỉnh ngay, đặt bàn tay lên ngực và thở phào vì đoán là Hiếu gọi về. Ban ngày cả nhà đi làm hết, đâu có ai gọi vào giờ này ? Chắc chắn chỉ có Hiếu hoặc con bé Mỹ Linh mà thôi. Nàng nhấc ống nghe , áp vào tay vừa nói " Hello " thì từ phía đầu giây bên kia vang lên một giọng nói rất mơ hồ lẫn trong tiếng gió thổi như vọng từ cõi xa xăm nào về....

− Chào cô Vân , tôi là Thọ đây , Thọ xe bus đây !

Vân thét lên, buông rơi chiếc điện thoại xuống bàn và bỏ chạy ra sân nhà , nàng xuống hẳn lề đường , mặt tái mét , đưa mắt nhìn ra trước sân và hai bên nhà hàng xóm. Con chó nhà bên cạnh vẫn nằm lừ đừ trước cửa dưới ánh nắng khô lạnh. Sực nhớ ra mình đang mặc đồ ngủ , hơi giá thấm nhanh qua lớp vải nội hóa. Vân lại trở vào, rón rén mở cửa , mắt mở trừng trừng , nhìn tứ phía căn nhà nàng cư ngụ đã 3 tháng hôm nay biến thành một cõi âm hồn lạnh lẽo mà nàng cảm nhận được trong không gian. Nàng muốn gọi phone cho Hiếu , nhưng cứ đứng nhìn cái điện thoại mà kinh hãi , chỉ sợ đến gần thì hồn ma ông Thọ lại từ thế giới bên kia kêu về.

Nàng mon men đi vào phòng , dáo giác ngó quanh , rồi thay bộ quần jean áo thun, rồi nàng qua buồn tắm lấy cái Jacket dày vẫn máng trong đó. Nhưng lạ quá , cái áo khoác ấy chỉ máng lên một cái đinh nhỏ sau cánh cửa mà nàng giật mãi không ra , như có bàn tay ai giữ lại. Vân dùng hết sức , kéo thật mạnh cái đinh sút luôn , làm nàng ngã té. Vân lồm cồm đứng dậy cầm cái jacket chạy luôn ra sân.

Buổi chiều vợ chồng Hiếu về tới nhà đã thấy Vân đứng chờ ngoài sân. Trời muà đông âm u gần như đã 7 - 8 giờ tối. Nhìn nét mặt xanh xám và cặp mắt lạc thần của em , Hiếu ưu tư hỏi :

− Sao giờ này không ngủ , ra đứng đây làm gì cho lạnh ?

Chờ vợ Hiếu vào nhà trước , Vân mới níu cánh tay anh và vắn tắt kể :

− Anh Hiếu ơi , hồn ma ông Thọ đan gở trong nhà mình từ sáng tới giờ đó. Em đang ở trong buồng tắm thì ngửi thấy mùi thuốc lá. Em chạy ra không thây ai mà lại thấy điếu thuốc cháy dỡ trên tàn , bên cạnh điếu thuốc Mai. Ghê nhất là lúc em tính gọi phone vào sở cho anh thì em nghe tiếng ở trong phone , nhất ra thì chính là tiếng của ông ấy. Giọng ông ấy nghe...nghe ghê lắm , nghe kỳ lắm..em sợ quá..em sợ lắm anh ơi..em..em ở nhà một mình chắc em chết mất...

Giọng Vân cực kỳ thảm nảo khiến Hiếu đứng yên tại chỗ , đăm đăm nhìn xuống chân ngẫm nghĩ không biết giải quyết bằng cách nào để giúp em. Những điều Vân vừa kể như ông Thọ hiện về hút thuốc , và nhất là điện thoại cho Vân thì Hiếu chưa tin hẳn. Tin làm sao được ? Y như trong phim ảnh , hay là em gái mình bị loạn trí thật rồi ? Cũng không phải , dấu chân người và những dấu vết cào trên vách tường sau nhà Hiếu rõ ràng là điều có thật mà sáng nay chính anh đã tận mắt chứng kiến.

Muốn kiểm lại cho chắc , Hiếu không vào nhà vội , anh kéo Vân vòng ra hông nhà và ra phía sau . Dấu chân người đứng sát cửa sổ và những vết cào chằng chịt trên tường vẫn còn nguyên vẹn. Vân bảo :

− Anh..anh thay cho em cái đèn thật sáng ngoài này được không ? Ma bao giờ cũng sợ sáng cả.

Hiếu vừa bước vòng về phía trước vừa nói :

− Tạm thời mày sợ thì nằm chung với con Mỹ Linh. Nhưng mà mày có ngủ ở nhà đâu mà mày sợ ? Mày làm ban đêm mà ! Lát nữa tao đi với mày ra đón xe bus.

Giờ này thì Vân không phải chỉ sợ ông Thọ ngồi trên xe bus , mà chỗ nào hình như cũng có ông theo bước chân nàng. Hai người vừa tới cửa trước thì vợ Hiếu cũng vừa từ phía trong nhà bước ra , mặt hầm hầm nhìn Vân mắng lớn :

− Cô ở nhà làm gì mà phòng tắm bừa bãi như thế này ? Thủy tinh vỡ đầy trong ấy mà không quét dọn gì cả , rủi ai đạp vào thì sao ? Rồi bao nhiêu chai lọ lăn lông lốc ở trong buồng tắm ấy , cô để yên được à ? Muốn vào đây thì phải gọn ghẽ chứ.

Vân cuối đầu nén tiếng thở dài , Hiếu không biết giải thích thế nào với vợ để bênh em gái , bèn dịu dàng bảo Vân :

− Vào quét đi, quét rồi lấy máy hút bụi hút lại cho thật kỹ đi. Vân vô buồng tắm rồi , vợ Hiếu đứng ở bếp chống nạnh nhìn quanh rồi chán nản nói :

− Um...ở nhà cả ngày mà bếp núc lạnh tanh như thế này. Không nấu được hộ nồi cơm. Chán thật !

Hiếu nghe vợ cằn nhằn em gái một cách oan ức , nhưng anh không biết nói sao , anh không muốn vợ biết rằng chính anh cũng đã bắt đầu tin những điều Vân kể , anh tò mò đứng ở trước cửa buồng tắm nhìn vào , Vân đang khom người quét những mãnh thủy tinh , vội đứng dậy và thì thầm kể :

− Em thấy tình hình ghê rợn lắm rồi , em..em chịu không nổi , anh phải làm cách nào giúp em. Trưa nay , em ngủ có khoảng ba tiếng đồng hồ. ban ngày nên em cũng đỡ sợ , ngủ dậy em vén màn cửa sổ thì không ngờ em lại thấy ông ấy. Đêm qua thì ông ấy đứng sát cửa sổ , trưa nay thì ông ấy đứng xa xa dưới gốc cây, chỗ cái bãi đất trống kia kià..Anh có biết cây đó là..là cái cây gì không ? Đó đó cái cây đó đó , anh qua buồng em mà coi.

Rồi thấy em, ông ấy bỏ vào rừng. trời đất ơi , em mệt quá vì thiếu ngủ, mới vào buồng tắm vộc nước đắp vào mặt, ai ngờ mở mắt ra thì ngửi thấy mùi thuốc lá , chạy ra phòng khách thì thấy điếu thuốc đang cháy dỡ. Em chưa đứng tim mà chết là may đấy. Vào phòng tắm để lấy cái áo jacket thì có người giữ lại không cho em lấy. lôi mãi thì cái đinh nó tuột ra làm em ngã lăn vào buồng tắm suýt gãy xương sống.

..mà..mà lạ quá..cái ly thủy tinh này múc nước xúc miệng thường ngày nó nằm cạnh cái bàn rửa mặt, sao hôm nay nó nằm cạnh cái bồn tắm ? rớt xuống vỡ tung ra , em..em chả hiểu ra làm sao hết.

Rùng rợn nhất là lúc em nghe tiếng ông ấy trong điện thoại. Từ nay....từ nay chắc em không dám nhấc điện thoại nữa đâu.

Hiếu chỉ nghe em kể cũng thấy rùn mình , lạnh buốt xương sống , mặc dù toàn những chuyện lạ lùng đầy tính hoang đường , anh bảo Vân quét dọn. Một mình vào buồng ngủ của Vân, đứng nhìn qua cửa sổ. trời đã tối xẩm , ngoài khu đất hoang, cảnh tượng thê lương như bải tha ma không một bóng người , không một chút ánh sáng vì nhà Hiếu ở dãy cuối cùng. Hiếu kéo màn cửa sổ lại , rồi trở qua buồng tắm và hỏi Vân :

− Ông Thọ lúc còn sống theo đạo gì ?

Vân vừa quét vừa đáp :

− Dạ..hình như đạo Phật hiếu bảo :

− ở Toronto có nhiều chuà VN lắm , hay là mày nhờ chuà làm lễ cầu siêu cho ông ấy.

Vân hăm hở đồng ý ngay :

− Vâng , em cũng định như vậy. Thứ bảy này nhờ anh đưa em đến chuà , chuà nào cũng được. Nhưng mà trước mắt phải giải quyết ngay chứ..để thế này đâu có được. Từ đây đến thứ bảy còn lâu quá .

Hiếu nhìn em gái tội nghiệp nói :

− Giải quyết cách nào bây giờ ? Chính tao cũng không biết. À , mà mày gọi điện thoại về Vn chưa ? Bảo người nhà ông ấy gửi gấp gấp hình ông ấy sang đây để mày mang lên chuà.

Vân mệt mỏi đáp :

− Trời ơi, em chưa gọi , bao nhiêu chuyện dồn dập xảy ra , em chẳng còn tâm trí nào để nhớ là điện thoại về Vn , thôi hay là để sáng mai vậy.

Vân vừa dứt lời thì con bé Mỹ Linh cũng vừa về tới đẩy cửa bước vào , cất tiếng chào bố mẹ rồi đi thẳng lên lầu vào buồng riêng. Nó thay quần áo xong , xuống nhà chuẩn bị ăn cơm, thấy mẹ đứng nấu bếp , nó vô tình hỏi :

− Ủa , cô Vân ở nhà không nấu hay sao mẹ ?

Vợ Hiếu được dịp than :

− Chả biết làm gì cả ngày ở nhà mà bừa bải như bải rác , không dọn dẹp , cũng chả nấu nướng.

Những câu nhiếc móc ấy Vân đều nghe rõ cả vì vợ Hiếu cố ý nói lớn , nhưng nàng lờ đi vì đã có lời dặn của Hiếu , nàng dọn xong buồng tắm , treo tấm màn nylon lên thì nghe tiếng Hiếu gọi ra ăn cơm. Ít có gia đình nào chị dâu em chồng hoà thuận với nhau , nhất là trong hoàn cảnh của vợ Hiếu và Vân hôm nay. Hai chị em ngồi đối diện nhau không ai nói lời nào. Con bé Mỹ Linh vốn tính hồn nhiên , tươi cười hỏi Vân :

− Tối nay cô có đi làm không ? Coi chừng cô lại gặp ma trên xe bus đó nha !

Vân chưa kịp đáp thì Hiếu lên tiếng :

− Ừm...lát nữa ba sẽ đi với cô Vân ra trạm xe , chờ cô lên xe xong thì ba mới về.

Lập tức vợ Hiếu đặt bát và gắt lên :

− Ơ hay ! Tại sao phải như thế ? Không lẽ đêm nào cũng đưa từ nhà ra bến xe à ? Thế thì ở nhà cho rồi , đi làm làm cái gì ? Đi làm mà phiền người khác thì nghĩ phức cho rồi .

Hiếu gắng nhẫn nhục phân trần :

− Anh đi với cô ấy tối nay thôi, để xem ông lái xe bus là ai mà con Vân nó sợ ?

Mỹ Linh chen vào :

− Ba cho con đi theo luôn đi , để xem ông ấy có phải là ma không nhá ?

Vợ Hiếu quát lên :

− Thôi thôi , vẽ chuyện , không có đi dâu hết á , ăn xong lên phòng học bài đi.

Hiếu bực mình chịu không nổi , lạnh lùng bảo vợ :

− Em cũng nên đi với anh , và con nữa. Đi ra xem ông tài xế xe bus là ai ? Người hay là ma ?

Vợ Hiếu quẳng đôi đũa xuống bàn mà gắt :

− Cái gì ? Hóa ra là anh cũng tin là ông Thọ chết ở Vn , rồi bây giờ sang đây lái xe bus à ? Đúng là mê ngủ ! Ma nào mà đi xa vậy ? Anh em giống hệt nhau, tin vớ tin vẩn chuyện dị đoan.

Hiếu cải :

− Không gặp thì làm sao mà biết được ? Lát nữa anh ra xem sao ?

Con bé Mỹ Linh nhìn bố dè dặt nhắc lại :

− Um...con đi được không ba ?

Hiếu gật đầu :

− Ừ , con đi với ba xem cô Vân nói thật hay là chỉ tưởng tượng ?

Vợ Hiếu bực mình bỏ dỡ bửa cơm , đứng dậy bước vào buồng tắm , rồi lên lầu. Con bé Mỹ Linh đưa mắt nhìn theo mẹ một lúc rồi quay lại Hiếu , nó tò mò hỏi :

− À.... Bộ ma cũng lái được xe hả ba ?

Hiếu gật đầu giải thích :

− Ma là hồn người chết con ạ. Tuy xác chết , nhưng hồn không chết. Có nhiều điều người sống làm không được , nhưng hồn ma nó làm được. Huống chi là lái xe thì quá dễ.

Cơm nước xong, hai cô cháu xuống dọn dẹp để Vân chuẩn bị đi làm. Nàng hồi hộp lắm. Nhưng có hai cha con Hiếu đi theo , nàng cũng đỡ sợ. Nàng tự đặt ra trong đầu hai trường hợp sẽ xảy ra : Nếu lát nữa ông Thọ lái xe thật thì nàng có leo lên xe hay không ? Mà nếu tài xế không phải là ông Thọ , hai cha con trở về không , thì cả nhà sẽ khổ với sự đay nghiến của vợ Hiếu. Lúc đó nàng sẽ ăn nói làm sao với bà chị dâu khó tính ?

Trong lúc Vân rửa chén , thì Hiếu lên lầu nói chuyện với vợ , vợ Hiếu bây giờ đâm ra bực chồng hơn cả bực Vân , bởi lẽ Hiếu tỏ ra tin chuyện ma vô lý của em gái , Hiếu biết thế , nên phải tìm cách vuốt , anh giả vờ nói theo ý của vợ :

− Em à , anh thấy là cả em cũng nên đi với anh ra trạm xe bus , biết đâu con Vân nó lấy cớ là sợ ma , nó ở nhà không chịu đi làm đúng như em nói ? Mình ra tận nơi chứng kiến , nó sẽ hết đường chối cãi em thấy không ? Chính vì vậy anh mới quyết định ra trạm xe với nó chỉ một lần thôi , từ mai nó không bịa đặt chuyện được nữa. Em đi với anh đi, em đi với anh để xem nó ăn nói ra làm sao ?

Vợ Hiếu thấy chồng có lý , chị ngẫm nghĩ một chút rồi nói :

− Đi thì đi , thời buổi này mà nói chuyện gặp ma , nghe chán thật.

Hiếu vuốt theo :

− Chả hiểu con bé nó bị khủng hoảng cái gì mà sinh ra lẩn thẩn như vậy ?

Anh quay bước xuống nhà , mà lòng nặng trĩu. Nổi lo âu dùm cho em gái , anh mong mỏi là mọi chuyện êm xui. Vân từ nay đi làm đều đặn để vợ anh cảm thấy thoải mái hơn.

Đúng 8 giờ rưỡi , bốn người nai nịch quần áo muà đông , bước ra khỏi nhà để lên đường đi gặp...ma. Vợ Hiếu mặc jacket dày lặng lẽ theo chồng , không nói lời nào. Vợ Hiếu khóa cửa , rồi cả nhà cắm đầu cùng rảo bước. Hiếu định lái xe, nhưng vợ Hiếu và con bé Mỹ Linh đều đòi đi bộ vì quảng đường không xa lắm. Vợ Hiếu lúc này hơi lên cân , nên thấy có dịp đi bộ để tập thể dục , đòi đi ngay. Trời rét căm căm , mà gióo lại rít từng cơn qua cánh đồng trống , như hắt hơi lạnh vào bốn người. Hiếu và vợ đi trước rầm rì nói chuyện. Hai cô cháu lặng lẽ đi sau.

Vân kiểm điểm lại bao nhiêu nổi kinh sợ xảy đến dồn dập trong ngày hôm nay. Nàng thầm nguyện trong đầu :

− Ông Thọ ơi , lúc sống ông là người thân của tôi , ông sống khôn thác thiên , xin đừng hiện về làm tôi sợ. Tôi hứa sẽ đặt bài vị ông trong chuà mà.

15 phút sau thì ra tới con lộ chính , trạm xe không có ai. Cả bốn người đứng khuất hẳn vào trong nhà lồng kiếng chờ đợi . Vân hồi hộp lắm , để đỡ sốt ruột , nàng hỏi Hiếu :

− Bộ..bộ anh không nhớ mặt ông Thọ hay sao ?

Hiếu lắc đầu nói :

− Không ! Cứ như mày kể thì hồi trước muốn đi lính ít khi về nhà. Sau 75 thì ông ấy về nhà , tao vượt biên rồi còn đâu. Gặp thì chắc là cũng nhớ , nhưng bây giờ thì tao không có hình dung được mặt mũi ổng ra làm sao.

Vợ Hiếu ngồi trên ghế băng , không nói gì , mặc dù chị vẩn nhớ mặt ông Thọ. Hiếu chưa nói xong dứt câu, thì Mỹ Linh đứng bên cạnh lên tiếng :

− Ơ...Xe tới kià ba !

Cả Hiếu và Vân cùng hồi hộp quay về hướng xe bus đang từ từ chạy đến. Vợ Hiếu còn hồi hộp hơn bởi chị mong cái giây phút này để cười vào mặt cô em chồng. Bốn người đứng thành một hàng, không ai nói một lời nào. Dưới ánh đèn đường chiếu qua làn hơi sương ảo ảo. Chiếc xe màu xám hiện ra như bóng dáng một con quái vật khổng lồ đang ám ảnh tâm trí của Vân. Nàng nín thở đăm đăm nhìn và thầm nhắc lại câu nói lúc nãy :

− Ông Thọ ơi ! ông sống khôn thác thiên , xin đừng hiện về làm tôi sợ.

Hình như xe trống , không có khách. Tới gần trạm , xe giảm tốc độ, và tấp vô lề và dừng hẳn lại. Vợ chồng Hiếu , Vân và Mỹ Linh , cả bốn người cùng căng thẳng , trố mắt chờ đợi. Rồi cánh cửa xe bus mở toang , người tài xế quay đầu nhìn ra bằng ánh mắt dửng dưng. Vân cứ đứng yên như pho tượng tại chỗ , khiến Hiếu phải đẩy lưng nàng, giục nàng bước lên. ông tài xế chỉ là một người đàn ông Canada bình thường , mặc đồng phục , tay cầm sẳn tờ giấy jo- en -phơ để trao cho khách theo thói quen. Hiếu mừng lắm , anh thở phào như trút được gánh nặng ngàn cân , nhưng phải làm bộ mắng Vân để làm vợ vui lòng :

− Mày thấy chưa , chỉ trông gà hóa cuốc . Thôi , đi làm đi ! Sáng mai về gặp lại .

Con bé Mỹ Linh hỏi nhỏ Hiếu :

− Ông này đó hả ba ? Cô Vân nói ông này là ma đó hả ba ?

Vợ Hiếu cười khẩy bảo con :

− Hứ , ông này mà cô mày bảo ma, thì mỗi ngày tao gặp đến cả trăm con ma , ma đầy đường.

Hiếu nhún vai , bảo vợ :

− Nhưng mà mình có ra tận nơi thì con Vân nhà mình nó mới hết đường chối cãi. Thôi , thế là yên chí , đi về ngủ.

Vân bước lên, tìm chỗ ngồi tuốt phía sau , nàng vừa vui mừng , vừa hồi hộp. Mắt cứ dán chặt vào lưng ông tài xế , nàng tin vào lời thầm khẩn của nàng với hồn ma ông Thọ đã khuất. ông không hiện về làm nàng kinh sợ nữa. Hy vọng từ nay , Vân thoát nạn. Dầu sao , nàng cũng sẽ làm lễ cầu siêu cho ông và đặt hình ôn gtrên chùa thường xuyên. Hành khách trên xe thưa thớt chưa tới 10 người , Vân quan sát từng khuôn mặt đàn ông , nàng an tâm thở phào nhẹ nhõm.

Dưới lề đường , chờ cho xe đóng cửa và lăn bánh , vợ chồng Hiếu mới an tâm trở về , vợ Hiếu bắt đầu lên mặt trách chồng :

− Đã nói là nó làm bộ mà anh đâu có tin , anh bây giờ chỉ tin em gái anh thôi , còn em nói cái gì anh chả tin .

Hiếu biết là Vân không tưởng tượng bởi bao nhiêu việc đã xảy ra trong nhà anh từ tối hôm qua đến giờ , nhưng anh không muốn vợ biết , nên đành phải xuống nước :

− Anh đã nói rồi , mình ra đây là để nhìn tận mắt cho nó hết cãi.

Vợ Hiếu vẫn chưa buông tha :

− Em có tiếc cái công ra đây đâu. Nhưng tức là nó nói cái gì anh cũng nghe , chuyện vô lý đến thế , anh không mắng vào mặt nó , mà lại có vẻ siêu lòng nghe theo nó.

Hiếu không nói nữa , lặng lẽ đi bên vợ con , vì anh biết có phân trần thì vợ anh cũng không tin , bởi vốn đã có thành kiến với Vân . Con bé Mỹ Linh góp ý :

− Um... Con chắc là cô Vân bị ám ảnh vì ở nhà coi tivi nhiều quá !

Vợ Hiếu bắt ngay nhận xét ấy để nhắc lại :

− Chứ còn gì nữa ! Tao đã nói rồi mà. Chỉ có mình ba mày tin là có ma chứ chuyện vô lý như thế , đứa con nít nó cũng chả nghe nữa.

Về đến nhà vợ Hiếu bước lên mở cửa , mặt vẫn còn hầm hầm. Hiếu và con gái đứng dưới sân. Con bé nó đòi Hiếu thứ bảy này chở ra Toronto dự tiệc sinh nhật con bạn.

Hiếu gật đầu bảo :

− Ừ cũng được , đằng nào ba cũng đưa cô Vân lên chùa.

Vợ Hiếu đẩy rộng cánh cửa bước vào , thò tay bật đèn, và treo xâu chìa khóa lên cái móc trên vách. Bỗng chị nhíu mày bực bội vì nghe trong phòng tắm có tiếng nước chảy , và đèn còn để sáng. Phòng tắm dưới nhà thì chỉ có mình Vân xài , như vậy trước khi đi , Vân đã quên tắt đèn và tắt nước. Chị uất ức đi nhanh vào và nghiến răng nghĩ đến sự bất cẩn của Vân để tốn tiền điện , tiền nước một cách phí phạm , nhiều lần chị đã nhắc mà bửa nay Vân vẫn quên.

Đứng trước cửa buồng tắm , chị lại càng bực hơn vì Vân chỉ quên tắt vòi nước nóng ở bồn rửa mặt , nước đã xả ra cả nữa tiếng đồng hồ nên hơi nước bốc lên mờ mịt che kín khắp phòng , chị vói tay lấy cái khăn tắm khua đi khua lại trước mắt mới thấy đường mà bước vào. Chị mò mẩm vặn chặt vòi nước nóng , rồi đưa khăn lau sạch lớp hơi nước phủ dày đặc tấm gương soi trước mặt. Chị thở phào , và ngẩng lên nhìn trong gương. Bổng chị thét lớn , buông cái khăn và ngã bật ngữa ra phía sau , té lăn vào buồng tắm là bởi vì khi nhìn vào trong gương , chị không thấy mặt mình mà chỉ thấy khuôn mặt sáp bóng loáng trắng bệch của ông Thọ

=============================

------------------------------HẠT ĐỒNG GIAO-----------------

Khi chuyến tàu Hà Nội - Vinh ghé một phút tại ga Đồng Giao để trút xuống mỗi một người hành khách và một kiện hàng, thì kim đồng hồ nhà ga chỉ đúng 7 giờ 55 phút. Trời hôm ấy là một vòm trời đen tối; mưa phùn rả rích phủ kín không gian bằng một tấm màn ảm đạm; khí hậu nặng nề ẩm thấp; quang cảnh bốn bề lạnh lùng bí mật, chung quanh nhà ga đều là đồi núi từng cây, khiến càng tăng thêm vẻ hoang vu rùng rợn.

Chỗ đó, xưa kia là một khu rừng sâu thẳm, ở vào một nơi đồi núi hiểm hóc, chỉ có thể làm sào huyệt cho lũ giặc cỏ ẩn nấp, hoặc làm trường mai phục cho hai đạo quân Chúa Nguyên và Chúa Trịnh khi Bắc Nam xung đột binh đao. Chỗ đó ở chính giữa khoảng giáp giớn hai xứ Bắc và Trung kỳ, nó chia rẽ bờ cõi hai kỳ bằng ba từng núi liền nhau, vì cớ ấy tục thường gọi là đèo Tam Điệp.

Ai đã từng đi xe lửa từ Thanh Hóa ra Ninh Bình, chắc cũng đã để ý đến một quãng đường sắt gập ghềnh, hiểm trở, có lắm đoạn khúc khuỷu, mỗi lợt xe đi qua lại ngửa nghiêng lúc lắc phải ghìm bớt đà lại, làm cho hành khách khó chịu mỗi khi nghe tiếng nghiến kèn kẹt của bánh xe ép chặt trong máy hãm , giữa khi thân thể thì bị rung chuyển vì con tàu quằn quại, lợn ngùng ngoằn như con rắn uốn éo trên một con đường hẹp hòi, đục ở giũa núi. Ló đầu ra ngoài cửa sổ để nhìn phong cảnh, ta chỉ thấy mặt đá trơ trơ, dựng cao như bức tường, và toàn thị là một thứ sậy khẳng khiu, mọc ở ven sườn đá. Một khi tàu chui qua khỏi núi ra tới nơi đất phẳng thì lại chỉ là một khoảng đất mênh mông bát ngát lởm chởm những đá, trên mọc xanh um kín mít những thứ cây nhỏ không tên tuổi, lan rộng khắp vùng; trông bụi không ra bụi, đồng không ra đồng, chỉ thuần một màu xanh thẫm, không thấy mặt đất đâu nữa. Thứ cây đó chả hiểu là những loại gì, nó thấp lè tè, quá mặt đất độ hơn nửa thước, mọc chen lẫn với lau và sậy, với cỏ, với rêu, biến quãng bình địa ra một khu hoang vu xanh thẫm, rừng cây không ra rừng cây, nội cỏ chẳng ra nội cỏ. Trong muôn vàn thứ cây đó, thứ mọc nhiều nhất là cây săng, cây sim ; có thứ lại có hoa trắng và hoa tím, điểm một nét diễm lệ trên vẻ trơ tẻ cằn cỗi của ngàn lau.

Từ mấy năm nay, có một ông hào phú được nhà nước cho phép khai khẩn chốn hoang vu đó để làm đồn điền. Nhưng dáng chừng sự khai hoang khó khăn quá, nên nhà hào phú kia đành bó tay chịu thua Tạo hóa, chỉ để lại trên đường sắt một tấm biển báo hiệu cho công chúng biết đất Đồng Giao là nơi sắp thành ấp nay mai. Ai đi qua Đồng Giao mà chẳng thấy tấm biển gỗ to, đứng sừng sững trên ngàn cỏ xanh đã mấy năm nay, trên có một hàng chữ đập mạnh vào đồng tử người quá khách: "Concession Nguyễn Văn X... "

Sự mở mang khu đất rộng giáp với đường sắt ở vùng Đồng Giao hẳn phải là một công trình vĩ đại, mà trong một thời gian ngắn ngủi, sức người khó nỗi làm xong. Muốn cho bãi đất hoang thành khoảng đồng phì nhiêu phong phú, tất phải bỏ ra mặt số tiền ức vạn, một là để phạt hết cây hoang cỏ xấu, hai là để san bằng mặt đất, vạt cho hết lượt sỏi đá gồ ghề. Công trình ấy cũng đủ nuốt hết một gia sản khổng lồ, huống lại còn phải xây nhà cửa, nuôi súc vật và trồng trọt! Có lẽ cũng vì thế nên nhà hào phú kia đành nhẩn nha làm việc, không thể tiến hành công cuộc khai khẩn một cách mau chóng hơn nữa.

Ấy là chưa nói về khí hậu xứ Đồng Giao, ai đã ở vùng ấy độ dăm bảy tháng ắt phải rùng mình ghê sợ, mỗi khi nói về thủy thổ miền giáp giới Bắc Trung kỳ. Đó là tổ sốt rét rừng, dẫu uống ký-ninh đến điếc tai cũng khó lòng tránh khỏi. Khí hậu thực là kỳ quặc: tuy ở vào miền gần bể, mà Đồng Giao về phương diện thời tiết cũng chả khác gì những chỗ ở mạn thượng du, và có lẽ còn độc hơn các tỉnh ly vùng thượng du nữa. Đêm thì lạnh buốt phải đắp chăn tới sáng, ngày lại nóng bức như giữa mùa hè. Sống trong bầu hàn thử tương xung đó, phải có xương đồng da sắt mới tránh khỏi sự Ốm đau quặt quẹo. Buổi sáng, tám giờ, sương trắng như sữa, đặc như khói, còn phủ kín non sông cây cỏ; mãi đến khi mặt trời lên cao lắm mới tan dần. Chiều tới, vào khoảng bốn năm giờ, sương đã bắt đầu rỏ xuống rồi tụ lại, chỉ chốc lát là phong cảnh bị chìm đắm trong một bức màn trắng đục, ẩm thấp, khiến người đi trong năm bước khó lòng trông thấy mặt nhau. Trong vụ quí xuân, mỗi khi có mưa râm rả rích, sự nặng nề ướt át càng tăng gấp bội, trời thu một màu tiêu điều xám đục, đất thì vắng lạnh đìu hiu, phong cảnh thực là thê lương ảm đạm. Có lẽ vì vùng Đồng Giao ở cao hơn mặt bể, lại có các rừng núi bao bọc, nên tuy không xa đồng bằng mấy, mà khí hậu thời tiết khác hẳn các miền ở đồng bằng. Quanh năm không khí bao giờ cũng đầy hơi nước; sự ẩm thấp không làm sao tả xiết; cỏ hoang rêu lạ tha hồ được tươi tốt những áo quần đồ đạc thì luôn luôn phải hơ, phải sấy, nếu không ắt bị mốc bị mục một cách mau chóng lạ thường.

Đem so sánh các tỉnh rải rác trên quãng đường thiên lý chạy từ Hà Nội đến Huế, thì có lẽ hạt Đồng Giao là chỗ độc địa hơn cả. Sở dĩ nước độc, tại vì bốn chung quanh hạt toàn là rừng rú, ngàn nội, truông sậy bãi lau; nhưng lá cây mục nát từ thủa xưa còn chồng chất cả trên mặt đất, trong lòng suối, khiến nước xanh lè như màu rêu, hoặc đục váng lên như nước ao tù.

Những cây cỏ thường hay giữ lấy hơi nước, không cho tan đi, lại nhuốm các khí độc ở đất bốc lên, thu tất cả bao nhiêu những nguồn ám chướng vào lòng rừng rú. Gia dĩ trong rừng, bóng mặt trời không lọt vào được, lá cây cổ thụ rờm rà che lấp hẳn ánh nắng, hóa nên sự ám chướng thiêng niên vạn đại cũng cha tiêu. Lá cây, khi rụng xuống, xếp lên thành khối, lâu ngày mục dần, biến ra một tảng đất đen hôi thối, có khi rơi vào nước, hoặc ngấm vào mạch nước, đầu độc cả các suối, các ngòi. Dân cư bởi thế, không tài nào tránh khỏi bệnh tật, vì ai ai cũng đều phải lấy nước làm một sự cần thiết cho cuộc sinh hoạt thường ngày.

Đấy, chỉ xem qua như thế ta cũng đủ thấy đất Đồng Giao là một vùng ám chướng; mà không những hạt ấy chỉ độc địa ở khí hậu, chỉ buồn tẻ cằn cỏi ở phong cảnh, nó lại còn dữ dội tàn ác ờ chỗ rùng núi bụi bờ chứa đầy các loài mãnh thú sinh hoạt một cách hùng cường phồn thịnh trong vẻ phồn thịnh cua cỏ cây.

Bởi địa thế hiểm hóc, Đồng Giao đã làm trường thí nghiệm cho muôn ngàn tấn bi kịch khủmg khiếp. Nào là cướp bóc, chém giết, nào là hãm hiếp, giam kìm vân vân... Những trò thương tâm ấy đều là của loài người tranh cạnh với loài người, mà diễn ra, nó không có tính cách lạ lùng cho lắm. Thê thảm bi đát hơn ấy là sự mãnh thú, vì đói ăn bắt loài người cấu xé ra từng mảnh, xác thì dùng để lót dạ, mà hồn thì đày đọa vào kiếp nô lệ ma trành. Một câu chuyện trong muôn ngàn chuyện hổ hại người, tình cờ khi đặt chân lần đầu trên đất hạt Đồng Giao này tôi đã được nghe thuật lai.

Bạn hãy theo tôi xuống tàu vào ga một chút, rồi chúng ta sẽ cùng đi tới đầu đề. Hôm đó, trời mưa rả rích, lại tối đen như mực, dẫu vừa mới tám giờ đêm. Quang cảnh nhà ga trông quạnh hiu hoang vắng, sự buồn sự lạnh thấu trời rơi vào tận đáy tâm hồn. Tàu huýt còi rồi nặng nề lăn bánh trên con đường sắt, chui vào bóng tối chập chùng. Tôi ngẩng trông trời, mưa phăn tạt vào mặt tỉnh táo ra đôi chút. Một mình thui thủi, tôi xách va ly thất thểu trên vỉa đường ẩm thấp, đi vào cửa ga.

Cửa ga hé mở có một cánh. Một người thư ký, gầy gò trong chiếc áo the lụng thụng, giơ tay đón lấy cái vé tôi trao. Tôi cũng chả buồn nhìn xem ông ta già hay trẻ và mặt mui thế nào. Vả lại tối lắm.

Bước vào mé trong ga. tôi thấy ấm áp dễ chịu. Anh sáng các ngọn đèn dầu tây tỏa ra một cách dịu dàng trong gian phòng hẹp vắng bẩn thỉu, trên tường có tranh ảnh của sở hỏa xa xuất bản, ở một góc lại có một cái cân to.

Tôi còn đương bàng hoàng ngần ngại , ở bóng tối bỗng đâu nhô ra một người vạm vỡ, mũ dạ đội sụp lấy trán, áo tơi mưa bọc kín cả người. Chàng lực sĩ ấy ra nắm lấy tôi, rồi nhe ngay bộ răng trắng nhỡn.

- Tôi đợi anh đã lâu. Sao tàu chậm thế?

Tôi mới nhận ra đó là Trần Văn Thủy, bạn tôi, một nhà thầu khoán to hiện đương dở công việc xây đắp nhà cửa và đường sá ở mạn Đồng Giao. Anh Thủy thấy tôi mừng quýnh như kẻ được vàng, vội kéo tói xềnh xệch ra khỏi ga, đẩy tôi lên xe ô tô, mở máy chạy vèo vèo trên con đường đá vụn. Tôi ngồi trên xe, chỉ nhìn thấy một vùng vô định, lờ mờ u ám, không còn nhận rõ sự gì. Duy chốc chốc lại nghe tiếng sỏi bắn vào thành xe, kêu rắc rắc, và luôn luôn bên tai tiếng động cơ xoay chuyển đều đều. Một nửa giờ như thế, xe ngừng lai. Bạn tôi bấm đèn "pile" rọi sáng, đưa tôi vào một tòa nhà.

Trời tối lắm, tôi cũng chả biết nhà ấy lợp bằng ngói hay bằng gồi, tiến vào thì thấy nền nhà cao ráo, phòng ốc rộng rãi, tườg tuy bằng rơm và phên trát vữa, nhưng có cửa kính cứa chớp chắc chắn, mé trên thì cũng có trần như các nhà tây. Trong nhà có ghế xa lông rơm và dăm bộ phản, cùng một bộ bàn ăn. Bài biện rất sơ sài, song thực là ngăn nắp và sạch sẽ, thoạt mới vào ai cũng phải vò đoán chủ nhân là một kẻ làm ăn cẩn thận, ưa sự thực tế mà ghét thú xa hoa. Trên tường, quét vôi trắng toát, chả có tranh ảnh gì cả. Gian giu?a, thì thấy treo một khẩu súng trường hai nòng và ba thứ khi giới ta; một thanh mã tấu, hai thanh quất và một cái nỏ. Thế là hết. Các đồ trang hoàng chỉ có thế, còn thì trơ trụi mạt tường không.

Nhưng ta cũng chớ nên vì thấy vẻ sơ sài đó mà vội liệt chủ nhân vào hạng người chỉ có óc buôn bán, không có óc mỹ thuật. Thực ra, Thủy là một thiếu niên rất chuộng văn chương, âm nhạc; sở dĩ chàng chịu sống trong cảnh trơ tẻ như thế chì bời chàng muốn theo đúng chí hướng của cha, muốn tự buộc mình luôn luôn phải nghĩ đến sự làm ăn để làm thí dụ cho đứa con thơ và cho vợ. Cái nhà ở Đồng Giao này, chả qua chỉ là chỗ sống tạm bợ mà thôi, hà tất phải vẽ vời trang hoàng, bày biện mỹ lệ làm gì cho tốn. Có quen Thủy lâu ngày, có đi sâu vào tâm lý chàng, mới có thể hiểu chàng là một nhân vật dễ xúc cảm, dễ mơ mộng, dẫu bề ngoài chàng cố hết sức nén đè các tính tình nhu nhược của mình đi.

Tlhoạt vừa tới nơi, tôi đã thấy trên bàn bày sẵn bát đũa và các món ăn nghi ngút. Có một sự làm tôi chú ý nhất, ngạc nhiên nhất, nhưng cũng vui thú nhất: ấy là một bộ khay đèn sáng loáng, rất tươm tất bày trên một cái sạp gụ Ở góc phòng.

Trước khi xuống chi với Thủy, tôi đã sắp sẵn trong va-li đủ các khí cụ cho sự nghiện hút của tôi rồi. Tôi vẫn biết bạn không ưa thuốc phiện mà chỉ trọng thể thao săn bắn nên chắc rằng anh chả để ý gì đến sự tìm kiếm khay đèn cho tôi. Ngờ đâu anh chu đáo quá! làm cho tôi vừa cảm kích vừa hổ thẹn nghĩ đến tình bạn đối với mình lại quí mến bạn biết bao!

Ăn cơm có Lệ Thi, vợ Thủy, cháu Thu Nhi, con gái Thủy, bạn tôi và tôi chuyện trò vui vẻ, ăn ngon quá, đồ ăn hết nhẵn, vì Thủy ăn khỏe như hùm. Giữa chốn đồng rừng u tịch này, vợ và con gái Thủy tựa như lai đóa hoa thành thị, lạc loài vào bãi tho mộc xanh um của đồi núi, ngõ hầu đem đến cho kẻ bị đày vào nơi hoang vắng một chút hương thơm của chốn náo nhiệt phồn hoa. Vợ con Thủy tức là cái mục gia của chàng, cái mục gia mà mỗi lần quá mệt nhọc ưu tư, chàng quay về ngắm nghía thì kluây hẳn nỗi lo sầu lao khổ. Có ở một chỗ xa xôi lạ người lạ đất, ở một chỗ mà "lau già trút vỏ nẩy mầm quanh hiên", thì mới biết bàn tay mềm mại của người đàn bà và tiếng nói líu lo của đứa trẻ con, thực quả rất cần thiết cho sự sinh hoạt thường ngày. Mất hai thứ quí báu ấy cuộc đời dễ tẻ dễ chán lắm, và, mỗi lần phải xông pha những cuộc khó khăn để đạt tới công danh hay phú quí, thì không làm gì có sự khuyến khích thiết tha tâm trí để bền lòng gắng sức tiến lên.

Trong đời kẻ anh hùng, đem toàn thân thờ một quan niệm siêu quần, có lẽ vợ con là một điều trở ngại cho chí khí. Nhưng trong đời một kẻ sống một cách tầm thường bình dị thì sự thiếu vợ con quả là một nỗi buồn rầu, một động lực làm trở ngại sự tấn tới trên đường sinh hoạt.

Bới thế, đối với Thủy, tôi thấy ngay rằng anh đem vợ con cùng ra ở Đồng Giao là một điều chí lý, dẫu rằng khí hậu thủy thổ ở đất này không được lành như ở đồng bằng. Song le, vì anh khéo giữ gìn, ăn ở đúng phép vệ sinh, nên cả nhà anh ít bị Ốm đau quặt quẹo; vợ con anh trông đều khỏe mạnh cả, không đến nỗi mặt bủng da chì như phần nhiều dân ở nước độc rừng thiêng.

Cơm nước xong, cả hai vợ chồng bạn và đứa con thơ theo gót tôi cùng lại sập gụ Ở góc phòng, bốn chúng tôi quây quần chung quanh bàn đèn, nói chuyện với nhau như họp chợ. Lệ Thi tự tay rót nước lọc ra ấm, đặt lên đèn cồn, đun một ấm nước sôi. Rồi lại tự tay nàng lấy cốc lấy đường, pha cho hai anh em tôi mỗi người một cốc cà phê rõ đặc.

- Hút thuốc phiện có hãm cà phê đắng mới thú vị, em nghe cậu em ngày trước vẫn nói như vậy. Ở đây tuy có cà phê nhưng tự rang lấy không được ngon lắm, bởi thế thứ cà phê này, em phải gửi mua từ Hà Nội xuống đây. Nhà em uống quen rồi, cứ gần hết em lại vội nhắn mua cho kỳ được, nếu không cn nghiện ông ấy lên, ông ấy ray rứt cho đến khổ! Ấyy nghiện cà phê còn như thế, nghiện thuốc thì đến thế nào?... Nhưng mà... anh thử uống xem có phải đúng Moka hảo hạng đó không?

Hôm đó thực là ngày hội. Nào là Lệ Thi, nào cháu Thu Nhi, nào Thủy, nào tôi, cứ cướp lời nhau mà nói, nói đến chỗ vui quá lại cười ầm lên. Tôi hút bữa thuốc phiện đêm ấy sao mà không thấy đủ, dẫu rằng thứ tôi hút là một thứ "thuốc Mẹo" cũ kỹ đã có váng mốc, mà bạn tôi đem tự Lào về rồi giấu đi để dành cho tôi đã hơn một năm nay. Thì ra vừa hút vừa nói, thuốc phiện đi đâu mất hết. Tôi cứ nằm dài hút mãi, tiêm xong lại hút, hút lại tiêm, không có ai là bạn "đối hấp" cả.

Lệ Thi nói chuyện chán quay vào quấy nhiễu bàn đèn, đòi tiêm cho tôi hút. Thủy vội vàng gạt đi, nhưng tôi lại chiều ý, đến nỗi thuốc phiện rơi vãi ra khay tứ tung nhoe nhoét, dính hàng tảng vào nhĩ tẩu, và rỏ xuống tắt cả đèn. Có đến thế nàng mới chiu thôi, dắc con đi ngủ. Chỉ còn hai anh em chúng tôi nằm đối diện nhau cạnh bàn thờ Phù dung nữ chúa mà thói. Thủy đứng dậy bỏ màn xuống cho đỡ muỗi.

Đêm lúc ấy đã khuya. Chim rừng queng quéc báo hiệu đầu giờ Tý. Bạn và tôi buổi này không đàm đạo nữa, cùng nằm yên hưởng thú tinh mịch của canh trường. Chúng tôi hiểu rằng nói chuyện với nhau vô ích; đã là đôi bạn tri giao thân thiết, thì nhiều khi kề bên nhau cũng đủ rồi. Chúng tôi được gần kề nhau được thấy mặt nhau, còn gì sung sướng khoan khoái hơn nữa? Tội gì đem lời nói phá tan sự khoan khoái ấy đi. Trong cái êm đềm quạnh quẽ, tình thân yêu qui mến còn nồng nàn hơn lúc nói cười. Có biết nằm yên để lẳng lặng nhìn nhau, đó mới thực là tương ái đến tột điểm. Mà có khi lại không cần nhìn nhau nữa; mỗi người nhắm mắt mơ màng một lối , miễn là đều có tín ngưỡng rằng cả hai cùng được gần nhau. Thế là đủ, trong tất cả cuộc đời thân thiện của Thủy và tôi, chúng tôi tương tri nhau ở chỗ ấy hơn cả.

Tôi bấy giờ mới thấy thuốc Mẹo thấm vào gân cốt, trong người nhẹ nhàng êm ái, say sa một cách rất dịu dàng, chỉ muốn lơ mơ nằm điềm tĩnh bên khay đèn mãi mãi, đừng bao giờ phải dậy nữa.

Thực là một thú vị ngây ngất, êm đềm và huyền ảo , không tài nào tả rõ được. Trong lúc bàng hoàng, yên chí rằng có bạn ở bên cạnh, và cũng đương trầm ngâm mơ mộng như mình, tôi cứ yên lặng nghĩ quanh nghĩ quẩn hết xa đến gần, thức cũng không phải thức, mà ngủ thì không ngủ được, linh hồn nửa tỉnh nửa mê, phiêu diêu phảng phất, đi sâu vào cỏi Yên Hà. Bất giác tôi nghĩ đến đôi câu đối khắc trên yên dọc tẩu của tôi, tôi bèn ngâm váng lên một cách rất tự nhiên, nhưng thực quả là vô lý.

Cao ngọa gia san, hô hấp vân yên hàm bán tháp;

Ấn cư cầu chí, trù mâu phong vũ đối cô đăng...

Bạn tôi có lẽ đương lim dim ngủ, giật mình tỉnh dậy. Nhìn đồng hồ, bấy giờ vào khoảng hơn một giờ đêm, đầu giờ sửu. Thủy với tay lấy cốc cà phê, ghé lên mồm uống một hớp nhỏ. Tiếng cùi dĩa sắt đụng vào thành cốc leng keng.

Liền lúc ấy, xa lắm, xa lắm, tôi thoáng nghe tiếng đờn ca não nuột. Tôi lắng tai chú ý. Im lặng. Chỉ có tiếng mưa tuôn rả rích, tiếng gió phả vì vèo, tiếng trùng than dế khóc, và chốc chốc, tiếng một con chim rừng kêu quạc quạc trên ngàn. Tôi lại ngả đầu xuống gối.

Bỗng đâu, một nhịp đàn hát lại văng vẳng lọt vào tai tôi, nhỏ lắm, xa lắm, tưởng chừng ở cõi vô hình đưa lại. Dưới mãnh lực của Phù dung, xúc động hết giác quan của tôi khi say khói, tai tôi nghe thính một cách lạ thường. Tôi áp tai xuống phản.

Thì này, không còn sai nữa, rõ ràng có tiếng hát ở đâu đây? Tôi hết sức lắng nghe. Từng quãng một, như xa như gần, như khoan như nhặt, âm thanh kia réo rắt từng hồi. Càng ngày nghe càng quen, càng rõ. Một chốc, tiếng đờn ca ngừng bặt, rồi lại tỏa ra; nhưng ước chừng gợn dư âm kia ở mãi ngọn đồi, chân ải, ở một vùng xa nhà bạn tôi đến dăm bảy trăm thước, không biết xuất phát từ hướng nào. Cũng có lúc, nhờ sức gió bạt sang, nghe rõ nửa câu, vài điệu; lại có khi gió quay đi chiều khác, chỉ nghe lờ mờ văng vẳng mà thôi.

Tôi chú ý đến nửa giờ, mới đoán được giọng hát kia là giọng cô đào hát nói. Bởi lẫn trong đàn hát, một đôi khi nghe thoáng có nhịp phách chấm câu. Thôi, đích thị rồi! Có lẽ quanh vùng đây, có nhà hào mục, tổng lý nào được sắc ăn khao, vui mừng nên đặt ra trò tiêu khiển thanh cao nhã đạm ấy. Nếu không phải thế thì trong hạt này làm gì có cái của hiếm, giống những nơi xa hoa phồn thịnh, tức là cái thú cô đầu?

Nghĩ thế, tôi ngồi nhỏm lên, với tay gọi bạn:

- Này Thủy, ở đây có nhà nào đặt tiệc ăn mừng không? Bạn tôi mắt nhắm mắt mở, choàng thức dậy, với lấy cốc cà phê hớp nốt mấy ngụm cặn cuối cùng. Xong ml hỏi tôi:

- Cái gì thế? Anh không hút nữa à!

- Tôi thôi hút đã lâu; tôi muốn hỏi ở đây có nhà tổng lý nào được sắc ăn khao mà hát xướng om sòm lên thế?

- Làm gì có ăn khao, làm gì có hát xướng! Chả qua vì say thuốc phiện anh ù tai đấy mà thôi.

- Nói lạ! Rõ ràng, tôi lắng đến nửa giờ, có tiếng hát đào văng vẳng, nên mới tư ởng rằng quanh vùng này có tiệc ăn khao...

- Anh nghe thấy tiếng hát ư? Thế thì anh có phúc thật! Tôi ở đây đã mười mấy tháng trời , mà cả hai vợ chồng, chả đứa nào nghe thấy gì cả!

- Anh nói cái gì tôi không hiểu? Nghe cái gì?

- Nghe hát.

- Hát gì? Hát cô đào...

- Cô đào ở đâu?

- Ở trong rừng?

- Sao lại ở trong rừng?

- Ở trong rừng nghĩa là ở trong rừng, chứ sao!

- Thằng cha này nói vô lý! Cô đào nào lại có thứ cô đào ở trong rừng?

- Thế mà ở trong rừng mới lạ chớ!

- Thôi, hẳn có sự bí hiểm gì ở chỗ này rồi, chớ không sai! Anh Thủy ôi! Anh làm ơn kể cho đệ nghe với nào!

- Dễ chửa, anh có gì biếu, tôi mới kể cho mà biết; chứ dễ thường mỗi lần anh muốn thỏa chí tò mò hiếu sự, thì anh cứ việc đang đêm hôm dựng cổ tôi dậy, là tôi phải kể hầu anh nghe đấy ư?

- Tôi lạy anh. Hễ anh kể tôi nghe, mà tôi viết được thành sách, thì quyển sách ấy sẽ riêng tặng anh, Lệ Thi và cháu Thu Nhi! Thế là món quà quí nhất của tôi đó!

- Ừ , thì được, nhng mà hãy thong thả một chút. Để tôi đánh thức Lệ Thi dậy, bảo đun nước pha một cốc cà phê đặc uống cho tỉnh táo đã, nhiên hậu mới kể được cặn kẽ cho anh nghe.

- Thôi để tôi pha hầu, hà tất phải làm tội Lệ Thi như thế.

- Không được! Chỉ có vợ tôi pha tôi uống mới ngon thôi, vì nó biết tính tôi rồi. Bao nhiêu nước, bao nhiêu đường, lại chỉ được lọc nửa cốc thôi, còn thì pha thêm nước sôi, nếu không, uống sẽ đắng mà không thơm. Lệ Thi! Còn thức đấy không? Dậy anh mượn tí!

Lệ Thi trong màn bước ra, vừa đi vừa vấn tóc. Dưới ánh đèn lờ mờ, trông nàng ban đêm đẹp quá. Nàng lịch kịch đun nước, pha hai cốc cà phê. Và nàng lại rót mía đường chèo chất đầy một dĩa cho chồng hãm giọng và bạn hãm thuốc.

Đương khi chờ đợi, Thủy uống hớp cà phê đầu thì cho lòng hiếu kỳ của tôi được mãn nguyện, và muốn cho câu chuyện đợm thêm vẻ nỗng nàn đằm thắm, tôi lại khêu to đèn tiêm thuốc hút nữa, khiến cho thời gian chung quanh mình cũng bớt phần ảm đạm, nặng nề.

Tiếng nước réo mãi không sôi làm tôi sốt ruột. Lệ Thi quay vào buồng đắp kín chăn cho con bé cháu, xong quay ra giắt màn cho chúng tôi cẩn thận rồi yểu điệu ngoan ngoãn ngồi thu hình sau lưng chồng, góp thêm trong quãng u tịch của đêm trường một cái bóng dịu dàng bên hai chiếc bóng cứng cỏi của tôi và Thủy.

Ngoài thềm, tiếng trùng than dế khóc ầm ĩ tỉ tê như một khúc nhạc rầu rĩ êm đềm. Vài chiếc lá khô, thỉnh thoảng bị gió bạt lìa khỏi cành, xào xạc rơi xuống mặt sân gạch. Gió từng luồng nhẹ, chốc chốc rúc vào khe cửa, rên lên một tiếng não nùng như tiếng thở dài. Mưa, nghe chừng đã tạnh, nên không có tiếng tí tách rả rích trên vỉa hè nữa. Vạc, hàng dãy, xé không trung bằng những tiếng ri rắc, ngắn ngủi không hề có gợn dư âm.

Lệ Thi vươn tay qua mình chồng, lấy cái lọc cà phê bỏ ra ngoài. Thủy hớp được vài hớp nước nóng, bấy giờ mới đằng hắng vài cái bắt đầu nói chuyện.

Bóng Lệ Thi vẽ lên màn một cái hình thiếu phụ mơ màng.

==============================

--------------------------NGÀN KHUYA VẮNG TIẾNG--------------------

ai vợ chồng tôi ở đây đã quá một năm mà thực quả chưa bao giờ được cái hân hạnh như anh cả.

Từ khi chúng tôi vừa mới đến, đã nghe các ông cai và các bác phu già nói dông dài về nhiều chuyện đường rừng: nào dã sử của mấy mươi loài chim lạ, như con "cô ơi", con "trà toản", con "tử qui", con "da da" vân vân, nào sự tích của bao nhiêu loài dị thú, như con "thủ thỉ", con "rắn lục", con "sài cứu", con "vọng nguyệt", nói thế nào cho hết được; tóm lại phần nhiều những chuyện đó, tuy lý thú, ý vị cả, song không lấy gì làm kỳ dị hãi hùng.

Bản tính tôi chỉ thích nghe những chuyện hãi hùng mà thôi, hóa nên tôi chả để ý đến lời họ nói. Mãi sau này, có một ông cai già mà anh em áo cộc thường gọi "Lão Cai Móm", vì răng ông ta rụng gần hết - Ông ấy thuật tôi nghe một câu chuyện rất kỳ quặc, khủng khiếp. Đầu tiên tôi không tin, cho là ông ta cố tình bịa đặt, một là để vừa lòng tôi, hai là để dọa vợ tôi cho thú vị. Nhưng, được ít lâu trong một trường hợp cực kỳ quái gở, tôi suýt nữa bị tán đởm vì sợ hãi rồi từ đó tôi phải tin lời ông cai già là đúng.

Từ độ ấy, hễ cứ đêm nào mưa dầm gió bấc, như đêm nay chả hạn, là tôi cố thức và chú ý lắng tai nghe.

Tôi thức mãi, lắng mãi, mà chả bao giờ thấy gì cả. Cái lần mà đáng lẽ được nghe thấy, thì tôi lại sợ quá, chết ngất đi thiếu chút nữa mất mạng. Còn về sau này, thì cả vợ chồng, đêm đêm thường cùng nhau ngồi lắng tai gần suốt sáng, thế mà cũng chả thấy gì. Chán nản, chúng tôi đành bỏ, không thám thính nữa. Ai ngờ lần đầu tiên anh đến, anh đã nhận được ngay sự bí hiểm mà tổn hao tâm trí tôi vẫn chưa nhận được; tái anh thực là tai thánh, linh ứng bằng tai Hổ thần!

Quả như lời anh nói, sự bỉ hiềm kia là một điệu hát cô đầu. Trong rừng có ả đầu, đó mới là một sự đáng cho là bí hiểm! Nhất là ở mạn rừng này. Bới lẽ Đồng Giao là một hạt hẻo lánh, dân tha nước độc, cô đầu đến làm gì? Trong mấy chục năm nay, có lẽ từ thượng cổ đến giờ, chưa khi nào có một chị quẩng mỡ hoặc điên rồ đến đây mở một ngôi hàng Hồng lâu cả. Thế thì tại sao chỗ này lại được nghe hát đào?

Cứ về đêm, quá giờ Tý, thì mới văng vẳng có tiếng đàn ca réo rắt. Đàn ca ấy lại xuất phát tử mé giữa rừng. Hai tháng đầu khi tôi mới đến cũng lắm người nói với tôi như thế tôi đều cho là bịa đặt. Về sau, nghe thấy ai cũng cam đoan là sự thật, tôi mới đâm nghi ngờ, muốn biết rõ duyên cớ vì đâu có sự dị kỳ như vậy. Nhưng hỏi ai, họ cũng đều bảo là trong rừng đêm đêm có tiếng hát, không biết tại sao mà có. Người đoán đó là ma, kẻ bảo là yêu tinh, có một ông cụ lại quyết rằng đó là một thứ hồ ly lạc mãi từ bên Tàu, đi lần đường núi thẳm qua Vân Nam sang tới xứ Lào, rỗi lần mò tới Đồng Giao thì không đi nữa, vì tìm được địa thế hợp với nó. Sau, lại có một bà già nói là mắt bà thấy con quái vật ấy ở trong hang đá nứt mà chui ra, trước thì là con vợn trắng, rùng mình một cái biến ngay ra con gái rõ đẹp; vô phúc ai gặp phải thì nó quyến rũ đưa vào hang, đàn bà nó không thèm bắt, nhưng đàn ông thì túm ngay lấy làm chồng. Kẻ nào đi lại cùng nó, nó rút hết xương tủy, trong ba ngày phải chết.

Ông ký ga bảo là không phải thế, theo như ông biết, thì đó là một nàng tiên rất mỹ miều diễm lệ. không làm hại ai cả. Nàng ấy ngụ Ở thân một cây quế lớn, đi tạt qua cũng ngửi thấy mùi hương xông lên, nhưng cố tìm tòi hàng tháng cũng không ra, bời lẽ nàng tiên đã biến cây quế thành một cây gỗ khác rồi. Cứ những ngày tôi tăm trời đất, hoặc những ngày sáng sủa có trăng sao, nàng lại hiên ra. Trời đất buồn thì nàng buồn, trời đất vui thì nàng vui; hoặc vui, hoặc buồn, nàng đều lấy điệu hát câu ca véo von làm thú tiêu khiển. Truyền rằng có khi nàng thổi sáo, nghe như tiếng sáo diều, bay xa ngàn dặm. Nhưng ít khi nàng dùng thứ âm nhạc ấy; thường thường nàng tự mồm ca tay đờn, ca be bé cho một mình nàng nghe thôi, bởii thế ta có thính tai lắm mới thoáng nhận được vài điệu bổng trầm.

Đến lợt ông cụ Bát ở gần chợ thì không phải tiên mà là rắn, một thứ bạch xà to lớn hơn con trăn gió, biến hóa vô chừng. Nó lúc hóa đàn ông, lúc hóa đàn bà, lúc hóa trẻ con, không biết thế nào mà lường, vì nó đủ lục tri thần thông. Sở dĩ nó ca hát, là để mê hoặc lòng người, để cho những kẻ hiếu sự tò mò tìm đến xem nó tận đáy rừng, lúc đó nó sẽ há rộng miệng rồi chỉ việc hít một cái nhẹ nhẹ là tự khắc mình bay tọt vào họng nó, cho nó nuốt.

Khi hỏi đến bà Chánh Ba, là người từng đi lại hạt Đồng Giao buôn bán, thì bà nghiêm nghị hạ thấp giọng xuống và nói se sẽ, một cách rát kính cẩn rằng nàng tiên đó là một vị công chúa trong 12 Chầu Cô hẩu Đức Bà Thượng Ngàn. Ấy là "cô nường" Quỳnh Hoa đó. Vì cô nường lỡ tay làm rơi chiếc chén cẩm ngọc khi róc rượu mời Đức Bà Liễu Hạnh ở Sòng Sơn, nên bị đày ra rừng Đồng Giao. Bới thế, những đêm u tịch tẻ buồn, hay những đêm thanh vắng sáng sủa, nàng Quỳnh Hoa lại nhớ đến Chầu Bà Thượng Ngàn và mười một chị em, trong lòng buồn rầu tràn ngập, phải hiện lên đi du ngoạn cho tiêu sầu. Và giữa lúc ấy, đối cảnh sinh tình, cô nường bùi ngùi hoài vọng, hát lên một khúc ngõ hầu vợi bớt nỗi lòng.

Nghe thuyết của bà Chánh Ba, các bọn phụ nữ đều tỏ vẻ sợ hãi, sùng kính; ai cũng cho thuyết ấy là đúng. Nghĩ cho kỹ thì câu chuyện bà Chánh nói còn có ý vị, nó không hoang đường mấy và còn hợp lẽ hn các chuyện khác nhiều.

Nhưng nó không được ly kỳ rùng rợn băng câu chuyện của ông Phó Cựu. Ông Phó Cựu cả quyết nói lớn rằng ông biết đích tông tích của con quái vật hiện ra trong rừng; nó chính là một con Sài Kíu. Cái giống Sài Kíu này na ná như loài chó sói, song dữ tợn hơn nhiều. Đầu nó cứng rắn như sắt; có kẻ bẫy được nó, lấy búa bổ mãi vào sọ dừa mà cũng không vỡ. Nó thường hay cúi gằm mặt xuống mà đi, trông tựa như một con chó dại lớn lờ đờ buồn bã. Thế mà hễ gặp người thì nó nhảy xồ lại mé sau lưng, bá chặt lấy vai, móc mắt, và khi mình ngã xuống rồi, nó cắn vào cổ cho chết; xong đâu đấy nó tha xác vào một hang hốc giấu đi. Nó đợi cho lúc xương thịt rã rời , có mùi hôi thối xông lên, có ruồi bọ bám đầy, lúc bấy giờ nó mới đến ăn. Cái giống sài ấy chỉ ham có thịt thiu thịt rữa mà thôi, nó không thẽm ăn thịt tươi như các mãnh thú khác. Ở phía tây nớc Tàu, trong các tỉnh lắm rừng rú hiểm trở như Tứ Xuyên, Quí Châu và Vân Nam, Cam Túc v.v... có rất nhiều Sài Kíu. Người Tàu thường dùng hai chữ sài lang; lang là để chỉ loài chó sói, còn sài thì chỉ giống Sài Kíu đó. Giống đó đi lùng khắp chốn, đánh hơi ngửi mùi xác chết; phàm giả chỗ nào có mả mới là nó sục đến, lấy đầu húc vào đất cho bật tung quan tài lên, rồi xé xác ra mà ăn. Bởi thế nên trong mấy tỉnh trên đây, ở các miền gần rừng rậm, dân cư không dám chôn người chết nữa, họ phải dùng lối táng treo, nghĩa là đem quan tài vào trong rừng rồi buộc lủng lẳng trên cành cây cao. Giống Sài Kíu không leo trèo được, đành chịu thua, hết kế vọc xác người chết. Nhưng chúng nó cứ đợi cho trong quan tài có nước rỏ xuống cỏ lại liếm thứ nước "béo bổ" ấy.

Ăn thi thể mục nát mãi, lâu ngày có con thành tinh; con nào ăn được hơn trăm tử thi thì cũng linh thính và có phép biến hóa như hổ bắt được đủ trăm người. Con yêu ở Đồng Giao này chính là một con Sài Kíu cái đã có hạnh phúc "xơi" được hơn trăm thây người chết, nên thành ra đủ phép thần thông đó! Nỏ cứ hiện lên hát véo von để bẫy người ta vào xem. Gần đến sào huyệt của nó, nó sẽ run rủi cho mình đi vào tử địa, khiến mình bị bỏ xác ở những chỗ hang sâu vực thẳm, rồi, đợi khi nào trên tử thi mình đầy các thứ giòi bọ hôi tanh, lúc bấy giờ nó mới đến xé thịt mình ra đánh chén.

Cứ nghe thiên hạ xôn xao bàn tán, thì mỗi người nói một cách, mỗi người có một chuyện riêng, mà không chuyện nào giống chuyện nào như thế, còn xét làm sao cho rõ biết căn nguyên của sự mình muốn biết nữa? Thực là khó. Bởi thế tôi cứ phân vân, bán tín bán nghi, nghe bà con kể lại thì biết vậy, song không dám tin lời ai cả.

Cho đến lúc tôi được nghe chuyện ông Cai Móm. Ông Cai Móm là người làm công cho tôi từ lúc tôi vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Giao lần đầu. Ông là một cụ già quắc thước, đứng đắn và nghiêm nghị, tôi tin cẩn lắm. Ông lại ít nói, không bờm xơn bợm bãi bao giờ. Các bạn đồng nghiệp và các phu phen sợ hãi và kính nể ông lắm lắm.

Ông chỉ giao thiệp với tôi trong những giờ có việc còn ngoài ra, ít khi ông vào nhà tôi chơi độ vài tiếng đồng hồ. Tuy già mà ông chăm chỉ làm lụng cặm cụi cả ngày hóa nên chả mấy lúc rảnh. Cũng do một sự tình cờ tôi mới được nói chuyện với ông trong một đêm, rồi được rõ sự tích khúc hát trong rừng nó ly kỳ rùng rợn như thế nào.

Hôm đó khoảng tám giờ tối, có một kiện hàng rất quan trọng từ Hà Nội gần về. Lẽ ra thì sáng hôm sau ra ga lấy cũng được, nhưng năm giờ phải có đủ vật liệu để khởi công thành thử ông Cai Móm phải đi lãnh ngay hàng về cho tôi. Đường tối lại vận tải bằng xe bò, thành hì hục mãi gần chín giờ đêm ông Cai Móm mới về đến trại. Ông vừa tới nơi, vừa kịp xếp hàng vào kho thì gió đâu bỗng nổi lên đùng đùng, ròi mưa trút xuống như thác chảy, lại có cả sấm sét nứa. Một cơn bão lớn. Thực là gió núi mưa ngàn.

Ông Cai không về được, phải xuống bếp ngồi nghỉ cùng tụi cu ly đẩy xe và khuân hàng. Tôi nhân có việc dặn ông gọi ông lên nhà trên uống nớc. Ông Cai Móm từ chối hai ba lợt nhất định không ngồi xuống ghế xa-lông; mãi sau tôi cố sức mời, ông nể lắm mới ghé lưng ngồi một cách kính cẩn lên chiếc ghế ở góc bàn ăn. Tôi vốn biết ông là người ít nói, cử chỉ rất thận trọng, nên cũng biệt đãi ông. Nhân có một chai rượu nếp cẩm, ngọt lật như đường và rất mạnh, của một người bạn thân vừa biếu tôi được vài ngày, tôi bèn mở ra, rót mời ông Cai Móm.

Ông đứng dậy tạ từ hai ba lần, không uống, tôi ép mãi, ông mới chịu đặt môi vào chiếc cốc con, dốc một hơi cạn hết. Ông là người thích rượu, rượu của tôi lại quá ngon, hóa nên khi mời đến cốc thứ hai, rồi thứ ba, ông không từ chối nữa, chỉ cám ơn thôi. Cốc nào ông cũng hớp một hơi là sạch ráo, tôi thấy tửu lực hùng tráng của ông mà vui lòng. Tôi cứ rót, ông cứ uống. Chả bao lâu, chai rượu vơi hẳn, gần hết, tôi đoán chừng ông đã hơi say. Quả nhiên ông lấy tay ngăn không cho tôi rót tiếp nữa, ông tươi cười đắc ý, vái tôi, nói khà khà:

- Đa tạ thầy đã yêu mà cho con uống quá nhiều, say rồi thầy ạ! Biết lấy gì mà đáp ơn thầy?

- Cái đó có hề chi! Lúc vui ta cùng uống chơi, có gì mà ơn với huệ. À này, nhân tiện ông ở đây, tôi muốn hỏi ông về câu chuyện lạ của đất Đồng Giao này. Chả hay cái điệu hát cô đầu văng vẳng trong rừng đưa ra nguồn gốc nó ở đâu? Thiên hạ mỗi người nói một lối, ông đã già, vả lại ở đây đã lâu, chắc hẳn biết rõ hơn mọi người, ông thử kể lại cho tôi nghe?

- Thầy đã dạy con đâu dám trái lời, nhưng để khuya khuya chút nữa khi nào tinh mịch hẳn, con thuật lại thầy nghe mới thú, bây giờ còn ồn ào lắm, vả con đương còn say, nói chả được rành mạch.

- Chốc nữa ông sẽ say quá rồi ngủ mất tôi biết làm thế nào?

- Thầy đừng ngại. Con có uống đến gấp bốn năm lần như ngày hôm nay cũng chả say nữa là! Thầy hãy chịu nán một chút nữa, con xuống bếp hút điếu thuốc lào rồi xin lên ngay...

Khi ông Cai Móm trở lên phòng khách của tôi, nửa giờ sau, thì đồng hồ chuông trong phòng reo vào không gian mười một tiếng. Con Thu Nhi đi ngủ từ sớm, còn Lệ Thi thì vẫn ngong ngóng chờ đợi chí kỳ được nghe chuyện mưới thôi. Vợ tôi bắc ghế ngồi bên cạnh tôi tỏ ý sốt ruột. Lúc thấy mặt ông Cai Móm, nàng mừng rỡ như trẻ con được kẹo, vội vàng đứng dậy đón, dắt lại chỗ ngồi cẩn thận, xong rót đa ông một cốc rượu lớn.

- Nào bây giờ thì cụ kể đi cho chúng tôi nghe! Tôi xin biếu cụ cốc rượu ngon này. Cụ uống hết bao nhiêu, cứ việc tự tiện, chúng tôi xin chu tất đủ hết. Cụ bắt đầu đi!

Dưới ánh đèn măng-sông sáng lóe, lúc ấy tôi mới ngắm kỹ dung mạo ông Cai Móm. Một cái trán cao vọi, vồ hẳn ra, làm cho ta phải để ý đến đầu tiên. Cái trán ấy lan rộng đến tận gần đỉnh đầu hói bóng; một làn tóc ngắn tha và trắng xóa, lơ thơ bao vành hai bên và phía sau chiếc sọ dừa gần nhẵn thín. Một đôi mắt to, mà rượu đã làm mờ đi bởi những tia máu nổi lên làm đỏ ngầu; một cái mũi hùng vĩ như mũi sư tử ở giữa đôi lỡng quyền cao vòi vọi; một cái mồm rất tươi, nhưng có hai hàm răng trụi cả, khiến cho hai hàng môi mỏng co rúm lại, vập vào mé trong, làm khuôn mặt ngắn hẳn lại; đó là vài nét đặc biệt vẽ thành diện mạo ông Cai Móm. Ông tuy già, mà da dẻ còn hồng hào tươi tốt, chỉ sạm đi như màu đồng đen, và răn rúm như vỏ trái xoài chín nẫu. Dưới bộ quần áo vi tây vàng, ta có thể đoán thân thể ông Cai còn khỏe mạnh, nhanh nhẹn lắm, dẫu nó không đủ khí lực cường tráng như thủa xuân xanh nữa.

Lúc ở nhà dưới trở lên, ông không quên mang theo cái điếu cầy, một vật liệu tối cần cho sự kể chuyện cổ tích giữa đêm khuya. Ông đặt điếu xuống gầm bàn, rồi ngồi nghiêm trang trên ghế. Lệ Thi đưa biếu ông cốc rượu, ông giơ hai tay đỡ lấy, uống một hơi dài gần hết nửa cổc, không mời chào từ tốn như khi trước.

Uống xong, ông thở khà một tiếng, liếm môi rồi cất tiếng nói vang vang hùng dũng lắm.

- Nào ! Mời thầy cô ngồi gần sát lại đây, và xin thầy cô đừng sợ nhé! Câu chuyện này nó không phải chuyện bịa đặt, vì nó hoàn toàn đúng sự thực, mà cũng không phải chuyện cổ tích, vì nó mới xảy ra được độ dăm chục năm nay. Chỗ xảy ra chuyện con sắp kể đây ấy chính là hạt Đồng Giao ta đó!

Tôi xin mạn phép anh hãy xen vào chỗ này một lời, trước khi thuật lại anh nghe sự tích ông Cai Móm đã kể cho vợ chồng tôi nghe đêm hôm ấy. Đã lâu lắm rồi, tôi không nhớ rõ cách dàn xếp của ông Cai và nguyên văn của ông ta làm sao. Tôi chỉ biết cả Lệ Thi, cả tôi, nghe ông nói lấy làm thú lắm. Cảm giác của chúng tôi lúc đó thực là đặc biệt, nói cho đúng, ông Cai quả có tài trứ thuật vô cùng. Ngày nay, tôi mạc lại câu chuyện, có lẽ không hay được như ông đã kể, song tôi tin rằng văn tôi sẽ rờm rà mà lẳng lơ bay bướm hơn nguyên văn. Tôi sẽ xếp đặt theo cách của tôi, tôi sẽ thêm bớt thêu thùa theo ý riêng tôi, anh lượng trước cho tôi chỗ đó! Rồi anh đừng bắt bẻ tôi sao ông Cai già mà lại có lời lẽ văn hoa tao nhã như lời tôi sẽ nói; sau đây sẽ là câu chuyện của ông Cai mượn miệng lưỡi và tinh thần tôi mà lọt vào tai anh đó thôi. Anh nên hiểu như thế cho tôi thì mới được!

===========================

-----------------------------------OANH CƠ--------------------

Ngày xưa khi nước Đại Pháp vừa mới dựng nền bảo hộ, thì dân ta sống theo các tục lệ cổ hủ; đường sá thành thị thủa ấy chưa được mở mang rộng rãi; trong nước còn đang thời loạn lạc, cướp bóc tứ tung, các tay anh hùng lục lâm hoành hành khắp chốn mà nền trị an thì chưa lấy gi được vững vàng.

Ở các chốn đô thành, dân cư có lẽ được yên ổn đôi chút. Các quan trị một mặt thì hết lòng truy nã những đảng phản kháng, một mặt thì ra công mở mang khai khẩn các miền bình địa, đặt ra luật lệ mới và xây đắp các trường học để đưa dần trí thức con em trong nước đến với nền văn minh Âu Tây. Lúc ấy mới là cuộc sơ khai , làm gì có đường sá quang đãng, làm gì có hỏa xa và đèn điện? ông bà chúng ta vẫn sống bần tiện trong những căn nhà tranh hoặc ngói lụp sụp, tối tăm ẩm thấp, sự sinh hoạt cua các cụ mãi về sau này mới được tăng bề sạch sẽ và sung sướng chút ít. Nói ra dài dòng lắm, tôi chỉ kể qua thầy cô được rõ rằng cách ăn ở lúc ấy rất lùi xùi khấn cực, về phương diện vật chất. Còn như về phương diện văn học và luân lý, thì lại là một câu chuyện khác.

Bởi chưa có nhiều đường sá, sự đi lại và sự vận tải là một điều khó khăn hiểm trở vô cùng. Ngoài Bắc kỳ, đi đứng còn được dễ chịu đôi chút, bởi lẽ, từ trấn nọ qua trấn kia, - trừ các châu ở vùng Thượng du - không có núi rừng ngăn cản. Vả chăng đồng bằng rộng rãi, phẳng phiu, các gian phi trộm cướp hết nghề tìm sào huyệt làm nơi căn cứ để trú ẩn lâu bền. Còn như ở đất Trung kỳ, Thanh Nghề này, ôi thôi! Trộm cướp không biết bao nhiêu mà kể? Vì rằng xứ Trung kỳ eo hẹp , mé Đông tuy giáp bể song mé Tây lại tiếp ngay với núi rừng, hóa nên quân gian tìm ra nhiều chỗ đất có thể làm tổ qui? lắm. Đường sá lại gập ghềnh, nguy hiểm, khi lên thác khi xuống đèo, khi qua rừng, khi ven núi, thực là khi khu, khó nhọc. Từ Thanh Hóa, theo đường thiên lý ra xứ Bắc, tất phải trèo đèo Tam Điệp, mà đèo Tam Điệp nó có phải đất xa lạ gì, chính là về hạt Đồng Giao ta đó! Thủa trước chỗ này rừng núi rậm rạp gấp mười ngày nay, chỉ dùng để làm trường hỗn chiến cho mấy toán quân mai phục bắn nhau, giết nhau để chiếm quyền lợi hoặc cho Chúa Nguyễn trong Nam, hoặc cho Chúa Trịnh ngoài Bắc. Chỗ này còn là nơi thăng địa cho các loài mãnh thú, cho các khách lục lâm; hổ cứ ở đó hàng đàn, kẻ cướp nấp ở đó hàng toán; thực là một chốn nguy hiểm đến tột bực, đi qua đấy không chết vì đạo quân đạo tặc, thì lại bỏ xác dưới các móng vuốt hùm thiêng.

Thế mà ngày nay vẫn thường có những kẻ can tràng len lỏi đi qua, đánh bạo với sự chết, không hề sợ hãi. Chả lẽ vì đường sá đầy tai nạn mà đành bó tay ngồi ở xó nhà, không dám vượt rừng núi từ Nam ra Bắc, để cho con đèo Tam Điệp, lâu dần, phải hóa một nơi hoang vắng, không hề có lốt chân người? Khó nhọc đến đâu thì khó nhọc, nguy hiểm đến đâu thì nguy hiểm, lúc có việc quan trọng cần kíp, lúc phải quay cuồng xoay sở để mưu y mưu thực, nào ai còn suy nghĩ nữa, còn dùng dằng lo sợ nữa, còn ngại mình chẳng dám văng mình xông pha cửa ải ngọn đèo? Nhưng lúc cần sống, cần hăng hái để sống, một người con gái cũng còn đủ can đảm vượt ghềnh xuống thác, huống hồ là lũ nam nhi!

Mà cũng bởi có hai kẻ “liễu yếu đào tơ” dám len lỏi vào chốn ma thiêng nước độc, hổ dữ dội, cướp hung tàn này, nên mới có câu chuyện ngày hôm nay, một chuyện rùng rợn ghê người, nghe phải lạnh mình sởn gáy.

Số là một buổi về mùa xuân, cách đây chừng sáu mươi năm về trước, quan nguyên tri phủ Nho Quan, sau khi làm Sơn Hưng Tuyên tổng đốc được ba năm thì cáo bệnh về dưỡng lão ở hạt đó, nhân được chiếu chỉ nhà vua phong cho làm Đông Các đại học sĩ, lại vừa đẻ được một công tử đầu lòng, thiết một lễ ăn mừng rất long trọng trong năm ngày, có tiệc, có đàn, có cô hầu mời rượu, bắt bài bông, nhảy múa và ca hát, lại có cả phường tuồng và phường chèo thiện nghệ lần lượt diễn các tích hay nhất ròng rã suốt năm đêm ngày. Bởi thế, các giáo phường ở mọi vùng lân cận phủ Nho, đều rủ nhau tới phủ đường xin hát.

Tiếng đồn dinh quan Thượng Nho Quan (đó là tên mà dân gian đặt ra để gọi cụ Đông Các) có đại tiệc chạy mãi vào Thanh Hóa; các thiếp mời gửi từ hai ba tháng trước, tất cả các quan xứ Bắc và các quan phủ huyện ở lân cận tỉnh Ninh Bình mỗi người đều nhận được một tờ hoa tiên màu hồng chói lọi, trên có mấy hàng chữ Lan Đình đen láy, rất mỹ lệ sắc sảo viết bằng một thứ mực hảo hạng, thơm ngát, hình như có lẫn mùi xạ, mùi trầm. Thiếp đó gửi cho quan phủ Quảng Hóa, Hà Trung, Thọ Xuân, Hoằng Hóa, và cho các quan huyện Tống Sơn, Nga Sơn, Mỹ Hóa, Quảng Tế, Thụy Nguyên, Lôi Dương, Yên Định v.v...

Quan Thượng Nho Quan là một tay cự phách trong làng nghiên bút, bốn đời ông cha ngài đều được phong tước, đến đời ngài thì đỗ Cử nhân đệ tam danh trường Nam Định, rồi đỗ Tiến sĩ đệ bát danh. Trong hoạn trường, ngài quen thuộc rất nhiều, đối đãi với ai cũng thuần hậu, có tình, nên các bạn đồng liêu đều một lòng kính nể quí mến ngài, coi ngài vào hàng thầy chớ không phải vào hàng bạn. Như thế cũng không lấy gì làm quá đáng: trong đám quan lại thời ấy, một phần đông đã thụ giáo của ngài.

Cũng bới vậy nên khi được tin báo ngài ngoại ngũ tuần mới sinh công tử đầu lòng, lại được thăng hàm Đông Các, các thượng quan và các quan phủ huyện khắp xứ Bắc cùng trong hai trấn Thanh - Nghệ gửi đưa đồ lễ tế đến mừng nhan nhản: từng lớp lính cơ nón sơn, áo nâu nẹp đỏ, khố lục, xà cạp điều, khiêng lễ mễ những cái níp nặng trĩu trên có phủ nhiễu hồng; lại có đứa đội trên đầu những cái hòm bọc da đen niêm phong cẩn thận; trông chả khác gì một gia đình nhà trai đem các đồ nạp thái đến nhà gái. Họ đi từng cánh một, đông lắm, cùng chỉ hướng Bắc tiến hành cứ theo đọc con đường thiên lý mà ra khỏi cương giới xứ Trung kỳ, rồi còn đi đi nữa.

Nhập với bọn họ, có một ích lợi rất lớn, là đi đường xa khỏi bị những tai nạn cướp bóc - vì họ là lính quan - lại tránh cả được sự bị hổ ăn thịt - vì đông người thì hổ không dám hành hung. Hỏi ra mới rõ bọn họ cùng ra cả Nho Quan, dâng lễ mừng quan Đông Các. Một người đồn mười, mười người đồn trăm, trăm người lại đồn nghìn; bởi thế mà xa gần khắp xứ Bắc và phía Bắc xứ Trung kỳ, chẳng ai không biết nhà quan Thượng Nho Quan có đại tiệc ăn khao mời khắp mặt quan viên hàng xứ.

Các giáo phường nghe đồn đại đều rủ nhau đi Nho Quan một chuyến, may ra kiếm được ít nhiều, càng hát hay càng hậu thưởng, gặp dịp sẽ có cơ phát tài to, đủ sống trong nửa năm không phải vất vả. Các phường đều hội nhau lại, đi nhập bọn với tốp lính quan khiêng lễ vật đông như người trẩy hội lễ đền.

Trong hạt Bàn Thạch phủ Thọ Xuân tức là nguyên quán của giáo phường, thủa ấy có hai cô đào chính tông hát hay có tiếng, đã được giải đình đám đến mười lần. Hai chị em nhà đó sản nghiệp chả có gì, lại bồ côi cha mẹ từ thủa còn ấu trĩ, phải sống nương nhờ vào người anh cả, mà người anh lại góa vợ, cũng nghèo. Anh thì làm kép, gẩy đờn khuôn cho các em theo nhịp, gõ phách, gõ sênh họa theo mà hát, kiếm ăn kể cũng không lấy gì làm sung túc, nếu hai đứa em không có chút nhan sắc hơn người.

Cha mẹ ba anh em nhà ấy thủa xưa đều là tay lỗi lạc; mẹ là một nàng danh kỹ, một đời nổi danh tài tử, cha xuất thân là công tử con nhà thế phiệt, thi ba khoa đều nhượng bảng Tôn Sơn, nên ngán nỗi khoa trường lận đận, bực mình bỏ nhà đi ngao du sơn thủy mà hát hay đến quên cả giai cấp, lấy ca nhi làm vợ, rồi đổi nghề nghiên bút ra nghề đàn địch, tự làm một tên kép cho vợ hát, sống một cuộc đời túng quẫn nhưng thanh nhàn...

Cuộc sinh hoạt lãng mạn của người cha đã để di tích trên thế gian trong ba đứa con thơ cùng lãng mạn, tài hoa truyền thống. Người anh cả, Văn Quản, từ thủa còn nhỏ lắm, đã thích thổi ống tiêu ống địch, khi lớn lên thì chiếm giải quán quân trong nghệ thuật bốn cung đàn đáy, cả vùng chẳng có ai đàn lịch sự và thánh thót não nuột hơn chàng. Quản lấy một người vợ ả đào gần nhà, nhưng người vợ ấy, sau ba năm chăn gối, bỗng thụ bệnh mà thác, không để lại đứa con nào. Quản đành ôm hận sống cô độc giữa hai người em gái; đời tuy có bạn mà cũng vẫn quạnh hiu tẻ lạnh, khiến điệu đàn, những đêm mưa tuôn gió phả, càng bổng trầm chua xót thế nào!...

Hai người em gái, trái lại, tính khí bao giờ cũng thản nhiên vui vẻ bởi họ chưa từng bị nỗi thất tình thấm thía như ông anh. Nàng thứ nhất Huyền Cơ, thanh rất trong, âm rất tinh nhưng hơi kém bề diễm lệ; nàng cũng đẹp, song chỉ đẹp một cách dễ coi xinh xắn, - người nhỏ nhắn mà da ngăm ngăm - không lấy gì làm khuynh quốc khuynh thành.

Nàng thứ hai, Oanh Cơ thì là công trình tuyệt mỹ tuyệt xảo của Hóa Công, gồm cả thanh âm lẫn nhan sắc. Đó là một người đàn bà độc nhất vô nhị trong một thời, mà cứ trong khoảng năm sáu trăm năm, mới được gặp một lần trên cõi trần phàm tục. Con người ấy chả kém gì Tây Thi, Muội Hỉ, Đắc Kỷ, Quí Phi, nàng đẹp, một vẻ đẹp oái oăm, huyền bí, oanh liệt, lại dịu dàng, tựa hồ đấng thiêng liêng đem hết tất cả bao nhiêu tinh túy của non sông cây cỏ mà chung đúc vào nhan sắc ấy. Tóc nàng là một đám mây thu chan chứa những vẻ êm đềm thơ mộng; mỗi lần làn tóc ấy xõa tung chấm gót, thì rõ ràng một dải hắc tuyền cuồn cuộn, óng ả, nhẹ nhàng; nét bút họa công khi vẽ đến phải cả quyết, lại ngập ngừng, làm thế nào cho suối tóc nõn nà đen mượt kia cũng phảng phất giống một đám lục vân nặng trĩu những niềm u ẩn, mà phủ lên một hình hài tiên nữ, muôn phần yểu điệu, thanh kỳ...

Nói đến khổ người của mỹ nhân, tả làm sao cho hết mọi vẻ siêu phàm, xuất chúng? Nội trong các bậc giai nhân trong lịch sử, mỗi người đẹp một vẻ riêng, như Thúy Kiều khác Thúy Vân, Tây Thi khác Trịnh Đản, dẫu cùng "mười phân vẹn mười" cả. So sánh nàng Oanh Cơ với các giai nhân đó, cũng chưa biết nàng kém xa họ, hay họ phải lu mờ trước vẻ mỹ lệ của nàng. Chỉ biết nàng không béo mập tựa Dương Quí Phi, cũng không ẻo lả, mai cốt cách, liễu dung hình như mấy ả tiểu thư bị nhốt trong cung cấm. Oanh Cơ là một người tầm thước, hơi mảnh khảnh dong dỏng cao, lưng ong, ngực nở, thực là "trúc mọc sân đình". Ông Tạo Hóa đã muốn cho ai đẹp, thì cái đẹp đó gồm đủ muôn vẻ mỹ miều, từ tiếng nói nụ cười cho đến nét đi điệu đứng, không cái gì là không ngộ không tươi. Oanh Cơ là một thiếu nữ đã có hạnh phúc được Hóa công ban cho muôn vẻ mỹ miều ấy đó. Thoạt đến tuổi 15, 16, ai trông thấy nàng cũng phải tấm tắc khen ngợi, giá có nhà thi sĩ Đỗ Mục, thì ông lập tức kéo lôi đi, lựa phải hẹn sau mười năm mới trở lại!

Con gái thời cổ nhất bà con gái thôn quê, yếm sẻ, váy hàm ếch, dây lưng sồi, áo vá vai, khăn mó quạ, - thì mấy chị trông "sạch nước cản"; mà, dù có sạch nước cản, thì nào đâu đã có các màu mè bề ngoài để làm tăng nhan sắc của mình? Phàm đã mặc váy, mặc yếm, quần áo lòa xòa, khăn khố sùm sụp; thì bao nhiêu nét yếu điệu bao nhiêu đường óng ả mà trời đã phó cho để gợi tình cảm của bọn đàn ông, chúng nó đều bị giấu kín cả đi, đè nén không cho lộ ra được thế thì lấy gì mà tô điểm trau chuốt cho nhan sắc, một mai, khuynh quốc với khuynh thành? Theo cổ tục, con gái không được để đôi vú phồng lên mà mang tiếng, phải buộc giải yếm cho chặt. mặc yếm cho sát, làm thế nào cho ngực bằng phẳng, lép kẹp đi thì thôi. Bị tục lệ hủ lậu ấy bó buộc, có được phô trương vẻ lộng lẫy thiên nhiên của tấm ngực mình đâu mà chăm chút cho nó đẹp? Gia dĩ lại thêm cái váy và dây lưng sồi quấn đến ba vòng quanh hông để lòa xòa rủ xuống; mấy thứ xiêm giải ấy, nào nó có được như y phục Tàu bằng lượt là gấm vóc để tăng vẻ dịu dàng tha thướt cho hình dáng, nó chỉ tổ làm cho nửa người phía trước bị chìm lấp chôn vùi sau một bức màn đen kịt lại lùng phùng, như tấm vải sẫm bao vành và phủ kín cái lồng chim vậy.

Nàng Oanh Cơ là một thiếu nữ đã chịu ẩn mình sau thứ quần áo thô lỗ ấy, vậy cho nên nhan sắc nàng mới gìn giữ được lâu bền. Nếu không. ắt hẳn từ đã lâu kia, nàng không còn tuyết trong giá sạch nữa! Nàng còn khó lòng giữ gìn trinh bạch, vì nàng là một cô đầu! Cái bộ y phục cổ hủ của nước Nam ta thuở xưa, tuy có nhiều điều bất tiện và thiếu mỹ thuật, song nó cũng có chỗ ích lợi. Nhất là Oanh Cơ!

Vẻ đẹp tuyệt diệu của nàng, mãi sau này mới có người nhận biết; còn khi nàng chưa xuất giá, chỉ một mình chị nàng, Huyền Cơ, được rõ mà thôi! Huyền đã say mê sắc đẹp của Oanh, tự ví mình như một nô tỳ mà coi em như một nữ chúa đáng thừ đáng kính. Như thế thực không quá đáng; một khi đã bỏ hết những mảnh quần áo lòa xòa che lấp vẻ đẹp thiên nhiên của Trời tạo cho, Oanh Cơ hiện ra dưới tầm mắt cảm phục của Huyền Cơ như một pho tượng ngọc ngà vô giá, tóc đen, đen nháy dài chấm gót, da trắng, trắng hồng mịn như lụa, ngực nở đít cong, lưng thon vai nhỏ, càng trông càng đắm càng ngắm càng duyên; đến chị em gái cũng còn phải mê nhau, huống hồ một khách si tình nam tử!

Không tài nào tạc đúng pho tượng tuyệt mỹ của nàng Oanh Cơ được, ta chỉ nên dùng tưởng tượng vẽ trong không gian và thời gian một thân hình Vệ Nữ Á Đông, một thứ Vệ Nữ nhỏ nhắn, xinh xinh, mềm mại dịu dàng, mà cũng nghiêm trang, oanh liệt...

Nhỏ nhắn, mềm mại, đó là mấy đức tính của khổ ngưòì, dáng điệu Oanh Cơ; còn như vẻ lẫm liệt oai nghiêm, có chỉ riêng ở nét mặt giai nhân, nhất là trong đôi mắt. Đôi mắt ấy trong veo như nước hồ thu những hôm trời quang mây đãng; đôi đồng tử đen như mảnh huyền không vết, lại sáng ngời như chứa điện ở trong. Con mắt lá răm dài dài như mắt bồ câu; có lúc là đà như mắt chim thư gọi chim hùng, có lúc đăm đăm thơ mộng như hướng về một cõi xa xăm, lại có lúc trông sâu sắc bí mật như đượm vẻ lạnh lùng dữ dội. Cũng thì đôi mắt giai nhân, mà nó hiện ra muôn vẻ diễm lệ dịu dàng hay oai phong tàn ác; nó tựa như con dao găm có hai lưỡi sắc. một lưỡi gọt móng tay và một lưỡi giết người.

Tất cả tinh thần và nguyện vọng u ẩn của một người đàn bà, chúng nó như nấp ở cả sau con mắt, có lắm khi hiện ra rõ rệt, trông mắt là đoán được người. Dù đẹp tinh thần hay đẹp vật chất, cái đẹp ấy cũng chỉ ở trong đôi mắt, sở dĩ so sánh các giai nhân, cũng toàn là cân nhắc giá trị của đôi mắt đó mà thôi!

Giá trị đôi mắt của Oanh Cơ ngàn vàng cũng không mua được, tuy nàng chỉ là người con gái nghèo nàn. Đôi ngọc quí ấy đẹp làm sao! Mỗi khi định tả nó vẽ nó ra lời nói làm sai lạc hẳn bản tính của nó cũng như nét bút ghi sai mất đặc điểm của nó. Cái có thể ghi được, ấy là phần thể chất; hoặc như cố ý tạc cho đúng, tổn công tổn lực để cướp lại ít nhiều vẻ đẹp của thiên nhiên, thì chỉ là một nét tinh thần, biểu hiện của một dáng điệu mà thôi. Bắt một cái hồng nhan phải sống lại trên trang giấy, có chăng chỉ là một ảo vọng của một ngòi bút ngông cuồng? Khi người đã không còn, tình túy cũng không còn; cái hình ảnh mình giữ lại của người đó chỉ là một vẻ, một đằng, trong một phút mà thôi, ngoài ra, còn bao nhiêu điệu bao nhiêu nét thời gian đã đem theo vào dĩ vãng mất rồi!

Cho nên muốn vẽ lại đôi mắt của Oanh Cơ phí băng hồn vào cõi u minh, thì không tài gì đạt được mục đích. Ta chỉ tạm phác qua một vài nét thô lỗ để hình dung mang máng lấy một phần diễm sắc của nàng. Đôi mắt sắc sảo tuyệt mỹ của Oanh Cơ, đẹp đẽ đã lắm lắm rồi, lại còn được cái miệng tươi đỏ của nàng phụ thêm vào để tăng dung nhan nàng lên mãi mãi. Cái miệng đó có đôi môi son thắm hơi cong lên như một vành cung. Bao giờ nó cũng tươi, cũng đẹp, cũng như đóa hoa hồng hàm tiếu nõn nà. Hai hàm răng đen bóng như hạt na càng làm bật màu tươi của làn môi đều đặn. Giá Oanh Cơ sống vào thời vật chất này, thì chỉ riêng cái miệng nàng cũng đủ làm chết mê chết mệt hết lũ con trai vô bản lãnh, lọ là cần đến tất cả nhan sắc của nàng!

Cứ tỉ mỉ tả mãi vẻ đẹp của giai nhân, biết mấy pho sách mới chép xong câu chuyện? Thôi, ta chỉ biết Oanh Cơ dung mạo tuyệt trần, thân hình kiều diễm thế là đủ.

Oanh Cơ không nhưng chỉ có sắc đẹp, nàng lại có thanh nữa. Nàng hát rất hay, giọng trong trẻo, đầm ấm, khi não nuột lúc lâm ly, nhịp khoan nhịp nhặt, điệu bổng điệu trầm, thánh thót véo von; giọng nàng thực là một cây đàn muôn điệu mà nàng tựa hồ như là bá chủ tất cả các âm thanh, muốn sai khiến chúng thế nào cũng được.

Những hôm ngoài trời mưa phùn rả rích, gió bấc vi vu, những hôm mà lòng người tự nhiên cũng thấy bị đè nén nặng nề bực bội, những hôm đó mà được ngồi trong căn nhà cỏ, trước ngọn đèn dầu, cầm chiếc dùi nguyệt quế để gõ vào tiểu cổ, thưởng thức vài khổ hát của nàng Oanh, thì các thú tao nhã đậm đà của sự thẩm âm rũ sạch lòng mình hết những nỗi ưu phiền ô trọc, đưa tâm hồn mình lâng lâng lên cõi thơm tho xán lạn, tưởng có phải chết sau phút thanh kỳ đó, thực không ân hận tý gì!

Nói thế cũng không phải là quá đáng. Thực vậy, ai đã được hạnh phúc nghe Oanh Cơ và Huyền Cơ hát, nhất là nghe Oanh Cơ thì không bao giờ có thể quên được giọng thanh tao thánh thót ấy. Cái giọng lúc nỉ non âm ỉ, lúc chan chứa tình cảm, lúc man mác cảm hoài, nó véo von trầm bổng, não nuột lâm ly, đến lúc thảm như nức nở sau bức màn lệ, đến khi vui như nhẹ nhàng chen lẫn chuỗi cười; cái giọng ấy trong hơn tiếng trúc, đầm hơn tiếng tơ; tinh hơn tiếng sắt, không tài nào tả rõ được. Oanh Cơ là một con chim tuyệt quý mà tiếng hót vô song đã làm rực rỡ cả một thời dĩ vãng không tên; nàng là một ca nhi sống trong bóng tối, nhưng tài sắc nàng đã trùm đời, đã khiến đấng Hóa Công tạo ra nàng lại phải ghen với nàng, mà gây ra nỗi thảm họa sau này, tấn bi kịch xảy ra giữa chốn rừng thẳm núi thiêng, giữa hạt Đồng Giao độc địa, mà hiện chúng ta đương ở.

Oanh Cơ là kẻ sống sót sau tấn bi kịch ấy. Nàng là cái mồi ngon quý mà loài mãnh thú rất thèm thuồng ham muốn, chỉ lăm le rình để bắt tha đi. Người đáng quan tâm chú ý nhất trong chuyện này, chính là nàng vậy.

==========================

---------------------------TAI NẠN VÀ GẶP GỠ------------------

Ông Cai Móm kể tới đây thì ngừng lại.

Chuyện mà ngày nay tôi thuật anh nghe một cách rành rọt văn hoa như thế, ông Cai đã kể cho vợ chồng tôi thưởng thức bằng một giọng oang oang cộc lốc, ông chỉ tả qua loa sắc đẹp của hai chị em nàng Oanh và lồi đi hát ngày xưa thế nào.

Nay nhân đêm khuya cao hứng, tôi đem hết cả nhưng sự từng kinh nghiệm nghe biết , thêm vào cho câu chuyện cho ý vị hoa hòe , anh cũng nên lượng cho tôi nhé!

Ông Cai Móm sở dĩ im bặt đi không nói nữa, vì xa xa, ông thoáng nghe có tiếng hổ gầm. Ông trầm ngâm lặng lẽ hồi lâu, chú ý lắng tai trong đêm vắng. Một lát, ông cúi sát lại gần tai tôi, nôi nhỏ:

- Thầy cô thử lắng nghe xem, có phải có tiếng hổ gầm chăng? Hổ gầm xong lại vẳng nghe có tiếng đàn ca đút quãng. Thầy cô cứ chú ý một lúc, sẽ nhận rõ ngay.

Tôi và Lệ Thi hết sức chăm chú. Quả như lời ông Cai nói, chúng tôi nghe có tiếng “ââ... Ôôuôômm" vang động xa lắm ở trong rừng. Nhưng nghe chỉ có thế thôi, ngoài ra không còn tiếng gì nữa cả. Lắng tai mãi cũng thế, ngoài tiếng dế than trùng khóc, tiếng gió rít lá rơi, chẳng có tiếng hát xướng đàn ca gì cả.

Chán nản, tôi bảo ông Cai:

- Chúng tôi nghe chả thấy gì, chỉ có tiếng hổ gầm ở tận đâu đâu…

- Lắng mãi chán tai vô ích. Thôi ông kể nốt câu chuyện Oanh Cơ đi nghe đang thú vị...

Lệ Thi cũng nói leo:

Rồi sao thế nào nữa, ông Cai? ông vừa nói có tấn bì kịch; bi kịch ấy làm sao, ông tiếp đi!

Ông Cai cầm cốc rượu nếp cẩm , uống nốt chỗ còn sót lại. Ông vừa để cốc xuống, Lệ Thi vội vàng róc bồi thêm rượu rõ đầy. Ông Cai quen thói, khà một cái rất đắc ý; xong, liếm môi, ông nói tiếp:

- Hai nàng Huyền Cơ và Oanh Cơ có tiếng hát hay nhất xứ. Trong mấy cuộc hát đình, hát đám, nàng Huyền đã chiếm giải đến chín mười lần, vì có sức, hát tốt giọng. Nàng Oanh hát hay hơn chị, song không sung sức, chỉ ca trong nhà được mà thôi, ra đình giọng bé quá, bị tiếng ồn ào át đi, không trổ tài được.

Dù thế mặc dầu, các quan khác đã từng được nghe Oanh, thì không muốn nghe Huyền nữa. Như thế là một sự nhục nhã cho Huyền, thế mà nàng vẫn không ghen ty với em, chỉ quí hóa kính phục em thêm mà thôi. Lúc nào có các thượng quan công tử đến vời hát mừng, chị lại nhường cho em, mặc sức em trổ tài cùng quí khách. Nhưng hễ gặp quan viên tầm thường, không phải là người trí thức, thế nào Huyền cũng tranh lấy hát, cho em được nghỉ ngơi dưỡng sức dưỡng thần. Oanh rõ biết lòng chị như vậy, yêu chị như yêu mẹ, yêu anh như yêu cha, ở với chị một niềm kính nhường hiếu thảo.

Tất cả hàng tỉnh, chẳng ai không nức nở khen tài khen đức của nàng Oanh. Phàm các tay thích từ phú thi văn, tất thế nào cũng mời cho được anh em Văn Quản về tận nhà để hát. Hoặc, nếu xa xôi quá khó vời về được, thì lại lần mò lên tận Bàn Thạch để nghe một lần cho biết giọng hát của Oanh Cơ. Không được thế, không cam lòng; cho nên Oanh nổi danh khắp cả một vùng Thanh Nghệ, tiếng tăm đồn đại đi có nhẽ tới cả vùng Nam Định, Ninh Bình...

Trong buổi sinh bình, cha mẹ nàng Huyền và Oanh đã được hân hạnh thừa tiếp Nho Quan tri phủ. Quan phủ xưa kia có nghe thân mẫu hai nàng hát và thân phụ hai nàng đàn. Sau một cuộc thẩm âm, quan phủ nhận biết ông kép già, đương kính cẩn nắn nót cung cầm để vừa lòng ngài, cũng là một nhà nho có tài thi phú, chỉ vì lỗi thời nên phiêu đạt nổi nênh... Sự tri ngộ ấy xui quan viên cùng kép hát dừng cuộc xướng ca để ngâm vịnh với nhau suốt sáng; trống dùi xếp xó nhường chỗ cho bút nghiên, rồi hai tay thâm nho cùng đọ sức với nhau trong ruột trường bút chiến thanh tao nhã đạm. Rốt cuộc, quan phủ rất cảm phục tính tình cao siêu và văn tài lỗi lạc của ông kép; ông kép cũng rất kính nể quan phủ vì chỗ có thanh nhãn biết xem người; hai bên ý hợp tâm đầu, vong niên vong giai cấp mà kết tình bằng hữu.

Đêm sáng, quan phủ ra đi, có đem tặng cha nàng Oanh một hòm trân châu để làm kỷ vật. Ông kép già tặng lại bạn bằng một cây sáo ngọc của tổ tiên lưu lại đã ba đời. Từ thủa chia phôi, trong hoạn trường, ông Phủ lưu lạc mãi đâu đâu; ông kép già thì vẫn bo bo an cư tại Bàn Thạch. Hai bên không từng gặp nhau nữa.

Ông Phủ một ngày một thăng quan tiến chức, dần dần ra Tổng đốc Hưng Tuyên, rồi cáo lão về Nho Quan. Về phần ông kép, thấm thoát một tuổi một già, sống cơ hàn rồi chết cũng cơ hàn, chung qui chẳng được biết thế nào là phú quí. Tự cổ chí kim , phàm giả đã ôm nghề tài tử, chả có ai được hưởng giàu sang. Ông kép già tránh sao khỏi luật thiên nhiên ấy? Nhà tranh vách nứa, ông chỉ có một thửa vườn nho nhỏ cùng một mái nhà gồi; thác đi thì lưu lại cho con, thế là hết. Sản nghiệp chỉ có bấy, các con và vợ góa phải lần hồi bán giọng để sinh nhai.

Bà mẹ già chỉ mấy buổi cũng theo chồng, sau khi lấy vợ cho Văn Quản. Vợ Văn Quản lại chết nốt, chả còn ai để tảo tần xoay sở, giúp cho nghiệp nhà hai chị em Huyền và Oanh có thế để hưng thịnh dần lên. Trơ lại còn một người anh góa vợ và hai đứa em còn trẻ dại; cả ba cùng có hồn tài tử trong huyết mạch, nên chả biết một tý gì về cách trù tính đảm đang để làm giàu, hay nòi cho đúng hơn, để đủ miếng cơm ăn.

Tuy hai nàng Huyền và Oanh có tiếng hát lay, song hàng tháng mới có lần được gọi hoặc có người đến hát. Hát hàng tuần suốt ngày hay thâu đêm tới sáng khi tan cuộc chỉ được độ ba quan tiền kẽm không đủ cung khách và chi tiêu. Thiên hạ có phải luôn luôn lúc nào cũng có cuộc vui mừng sung sướng để mượn dịp mà ca hát cả năm đâu!

Bời thế, cuộc sinh hoạt của ba anh em nàng Oanh không lấy gì làm sung túc. Đã nhiều lần Văn Quản nghe nói ông bạn xưa của cha mình hiện là quan thượng thư trí sĩ ở Nho Quan, cũng đã dự định trẩy thăm quan Đông Các một lần, một là để nối lại mối dây liên lạc bấy nay đứt quãng, hai là để mong có dịp để ngài nghĩ tình đề bạt hoặc cứu giúp cho ít nhiều. Nhưng ngày giờ thấm thoát. đường sá xa xôi, Quản chưa lúc nào rảnh việc nhà mà đi được. Muốn đi, ít ra cung phải có tiền lộ phí, và có vốn để lại cho hai em sinh hoạt trong dăm tháng nửa năm. Bới lẽ, anh ra đi, không lấy ai đàn cho hai em hát nữa, mà mượn một người kép lạ thì bất tiện biết chừng nào! Cũng vì thế nên Văn Quản đành nấn ná chưa đi, vì chưa nghĩ được kế gì hoàn hảo cả.

Đến nay nghe nhà quan Đông Các có đại tiệc. Quản nhất định thu xếp, bán đồ đạc quí giá trong nhà còn lại, và nếu thiếu, thì vay mượn bà con ít nhiều. Đi kỳ này, tiện thể có mọi cuộc ca vũ, cho cả Huyền cơ và Oanh Cơ cùng đi, khiến hai nàng có dịp trổ tài ngõ hầu chiếm giải quán quân trong khi thi hát. Quản một mực trù tính như vậy, chỉ đợi xếp xong mọi việc là đi. Trong giáo phường, đã có nhiều bạn đồng nghiệp rủ nhau thành một đoàn đông lắm, cùng trổ hướng Nho Quan thẳng tiến, đi chen vào với lũ binh sĩ đem lễ vật của quan phủ Thọ Xuân.

Quản rất muốn theo bọn ấy cùng trẩy có bạn cho vui và cho đỡ lo tai nạn. Khốn nỗi khi họ khởi hành, anh ta chưa gom góp được đủ số tiền lộ phí; trong giáo phường ca nhi đi quá nửa, ai cũng bo bo giữ lấy vốn riêng để chi dụng ở dọc đường. Hóa nên Quản phải dằn lòng chờ đợi.

Đợi đến bốn năm ngày mới bán các đồ bảo vật của cha để lại, và thu thập được dăm bảy quan tiền, có thể túc dụng cho ba anh em trong cuộc Bắc trình được. Nhân có tốp lính cơ ở Quảng Hóa cũng đem đồ mừng ra Ninh Bình, nếu kịp tới Đò Lèn thì gặp họ; Quản bèn sắm sửa hành lý cẩn thận định ngày đưa hai em gái lẽn đường. Gần đến kỳ xuất hành, không may, Huyền Cơ lâm bệnh, nằm liệt tám chín hôm mới dậy được, chạy thầy thuốc hụt đi mất một quan tiền.

Khi Huyền khỏe mạnh, có thể xông pha mưa gió được thì tính ra đã chậm mất ngót nửa tháng trời, có đi nhanh lắm may ra mới khỏi lỡ ngày đại hội ở dinh quan Đông Các. Ba anh em tức tốc đeo nải quảy gánh, vội vã lên đường, dẫu Huyền Cơ chưa lấy gì làm cứng cát lắm. Đi suốt ngày, mỗi đêm chỉ nghỉ có vài giờ, cứ đầu trống canh tư là đã trở dậy đi rồi , thế mà cũng mất ba hôm mới đến Đò Lèn, bời lẽ hai chị em Huyền và Oanh không quen đi bộ xa nên đi chậm quá. Thoạt mới ra khỏi nhà phải thuê thuyền qua sông; sang qua sông lại phải đi đường tắt qua Yên Lang, rẽ về mé Quảng Hóa nhiên hậu mới đến Đò Lèn được. Tới Đò Lèn, ba anh em vào quán nghỉ chân, đợi xem có đoàn lính tráng nào ra Bắc thì xin nhập bọn cho chắc chắn.

Nhưng đợi đến hai ngày, chả thấy đoàn nào cả. Thì ra họ đã ra Nho Quan từ trước cả rồi. Hiện nay, chỉ còn độ ba hôm là tới ngày đại tiệc không còn phường hát nào hay đội lính nào chưa khởi hành nữa, còn đợi cũng vô ích mà thôi. Lác đác trên đường, chỉ có những tốp dăm ba người đi ra phía Bắc; hỏi ai họ cũng nói rằng đi quanh quẩn trong vùng không ra khỏi ngoài biên giới. Mãi sau cùng mới bắt gặp một lớp bảy người cho biết họ buôn gạo tải ra Bỉm Sơn, rồi mua chè ở Bỉm Sơn tải về bán ở các vùng gần tỉnh lỵ. Anh em văn Quản buộc lòng phải theo bọn ấy; ra đến Bỉm Sơn họ đều rẽ về lối Phố Cát, lạch Thành, để mặc ba anh em trơ trọi lần mò đi về phía đèo Tam Điệp.

Từ đây mới bắt đầu cuộc hành trình nguy nan và khó nhọc. Ba anh em sợ hãi không dám đi bạo, cứ phải chờ có ai ra đường ấy mới lủi thủi theo đi. May sao gặp được vài ba người thợ mộc, song họ chỉ đi đến đền Sòng mà thôi. Khỏi đền Sòng, lúc ấy mới thưa người, không còn ai đi nữa.

Vô kế khả thi, ba anh em nàng Oanh không biết làm sao cho tiện. Đành lần mò vào tận trong đền xin ngủ tạm một đêm, rồi nhất định mai sáng vượt qua đèo Tam Điệp. Đi suốt ngày, ra công cố sức bước nhanh, thế nào cũng sẽ qua khỏi chỗ nguy hiểm ấy. Kẻ cướp thì không sợ mấy, vì anh em nghèo chả có gì, có lẽ họ chả thêm đếm xỉa đến; sự đáng sợ nhất, ấy chỉ là ông Cọp, cái ông Ba Mươi vô tình mà dữ dội, hễ không may gặp phải, thì hết đường chạy trốn kêu van!

Ba anh em cùng thành kính lên cửa đền, quỳ xuống lễ hết cả mọi linh vị thờ Thánh Mẫu và các thần bộ hạ cùng các ông Hoàng bà Chúa. Khi đến trước thần tượng đức Bạch Hổ giữ đền, cả ba cùng khấn khứa rất lâu, cầu đức Bạch Hổ phù trì cho giữa buổi xông pha rừng núi, đừng xui xảy ra tai nạn hiểm nghèo nào.

Cái đêm hôm ngủ trọ Ở đền Sòng, ba anh em nhắm mắt làm sao cho nổi! Đền làm ở giữa một noi rừng sâu núi thẳm, chung quanh toàn là cảnh rùng rợn hoang vu, hễ cứ khuất bóng mặt trời là nghe muôn vàn tiếng kêu, tiếng hú, sợ đến sởn tóc gáy. Những ngày không có hội, thiếu gì loài mãnh thú ác điểu qua lại mé ngoài đền; thôi thì hùm, beo, sói, gấu, bó tót, lợn lòi, chả còn thiếu giống gì đến quấy nhiễu dân gian, bắt gà, bắt chó, giẫm nát cả ruộng lúa nương khoai, đến sáng ra, vết chân in trên đường trên cỏ thấy rõ mồn một. Bước ra khỏi đền buổi tối giời, tức là tính mệnh khó toàn vẹn lắm; có đi một lũ đông khi sáng sủa; họa chăng mới có thể tránh khỏi hàm hổ vuốt beo.

Cả đêm chỉ nghe tiếng vượn hú, cú kêu, hòa với muôn ngàn thứ tiếng khác rết lạ; và, xé vừng không khí, trội hơn tất cả các thứ tiếng, một tiếng "à uộm" rung động cả rừng, vang trong đêm tối dội vào da thịt và xương ống mình một luồng khí lạnh, lạnh hơn hơi lạnh mùa đông...

Đương lúc băn khoăn lo ngại, trời sáng lúc nào không rõ. Ba anh em Văn Quản thấy có ánh bình minh mà vẫn chưa dám ra đi. Đợi khi mặt trời đỏ chói cả vừng Đông, bấy giờ mới quẩy gánh xách nải, từ giã ông từ bà đồng, lo lắng ngần ngại đi lên, trông mé đèo Tam Điệp thẳng tiến. Từ Sòng Sơn tới Tam Điệp đi còn xa lắm, vả lại ngòng ngoèo khuất khúc chả biết theo hướng nào cho khỏi lạc.Chơ vơ một người anh và hai đứa em gái ngơ ngác trên quãng đường rừng hoang vắng, không đánh bạo cố mà đi đến, cũng chả còn kế hoạch gì! Vả chung quanh mình, chẳng có ai để hỏi dò cho biết lối, thôi cứ đành nhắm mắt đưa chân, cúi đầu thành kính trước thần linh, rồi phó mặc tấm thân cho số mệnh, muốn đến đâu thì đến.

Ba anh em đi mãi, hết sức bước nhanh gấp bội, mong sao lên đến ba đèo. Đường hai bên toàn cây cối và lau sậy. Quản dắt tay Oanh, Oanh dắt tay Huyền im lặng theo gót nhau mà tiến. Đi mãi, đi mãi, hình như đã quá trưa rồi. Nhưng ô hay! Sao chưa thấy ải đèo gì cả? Chỉ toàn một màu rừng xanh thăm thẳm đường đá quanh co, chả thấy chỗ nào lên núi xuống núi cả, chỉ thấy ven núi mà thôi. Chết mất! Hay là đã lạc đường rồi!

Văn Quản định thần suy nghĩ. Thôi, phải rồi! Có lẽ lúc ở đền Sòng ra độ chừng mươi dặm, có một chỗ rẽ, một bên về phía đông, một bên về phía tây. Anh em đinh ninh rằng đi ra Nho Quan phải đi chếch theo hướng tây, thành ra bây giờ mới tới chỗ này, tiến mãi mà vẫn chả rõ đâu là đèo Tam Điệp!

Nhầm thật. Nhưng may còn sớm có thể bước đi lộn lại được, chiều sẽ về tới đền, sáng mai lại ra đi sớm. Cố đi ba ngày, may ra sẽ đến Nho Quan, cũng còn kịp. Vả chăng từ sáng đến giờ, không gặp sự gì rủi ro cả, cướp cũng không mà ác thú cũng không, có lẽ đức Thánh Mẫu đã thương hại phù trì cho đó! Bao giờ xong việc trở về thế nào cũng sẽ vào đền lễ tạ Mẫu, không dám quên ơn ngài đã mở lòng từ bi mà săn sóc đến cho!

Nghĩ vậy, Quản nhủ hai em quay gót lại, đi lộn trở ra. Đi mãi, đến tận chiều, chân Huyền Cơ và Oanh Cơ sây sứt rớm máu cả. Ngoảnh nhìn tứ phía, nào thấy bóng dáng đền Sòng ở đâu, chỉ có ngàn nội xanh um, cây cỏ cao ngất, đường đi thì chỉ là một vệt lờ mờ giữa một bụi rậm rạp, hoang vu. Ba anh em lúc ấy lo ngại đến cực điểm cùng vừa đi vừa niệm Phật, mong sao ra khỏi bãi lau sậy để được thấy bóng đền Sòng.

Đi giờ lâu nữa, thì ra khỏi bụi lau, đến một khu đất rộng, cỏ không cao lắm, cây mọc cũng thưa, nhưng toàn là cổ thụ rườm rà xanh thẳm, to đến vài ôm cả. Chung quanh khu bình địa ấy, bốn bề là sườn đồi thoai thoải, rừng rú um tùm, ngàn lau trắng xóa. Ngoảnh đầu tìm đường cũ vừa đi buổi sáng, chả biết nó ở tận đâu đâu, kiếm bóng một ngôi đền hay một tòa nhà để nghỉ chân, tìm đến mỏi mắt thì thôi, chớ chẳng có ngôi nào! Thực là rừng hoang cảnh vắng, chơ vơ ba kẻ nhỡ đường; không còn biết nương tựa vào đâu nữa!

Giữa đám bông lau gió rung phơi phới, một đàn cò trắng từ đâu vỗ cánh bay về. Tùng lớp một, chúng nó bay đến đấy hàng ngàn hàng muôn, lượn vòng trên không kêu quang quác, lượn mãi rồi mới bay xuống. Xem có vẻ tối, cũng đủ biết lúc đó đã chiều rồi. Quả vậy, chỉ loáng một chốc, màu trời thấy sẩm lại, chả bao lâu nữa tối bây giờ!

Trong chốn thung lũng hẻm này, chung quanh đều là ngàn sâu, nội thẳm, ba anh em biết chạy đàng nào? Biết lấy chỗ nào nương thân cho khỏi sợ vuốt hùm móng báo? Một màu cỏ cao, cây rậm, thực là hết kế thoát thân. Oanh Cơ biết rằng khó lòng sống hết đêm nay, nghĩ thương anh chị và thương thân, òa lên khóc. Huyền Cơ mủi lòng cũng khóc; Văn Quản không can đảm được nữa, ứa hai hàng nước mắt; song cố trấn tĩnh để lo tìm một kế trong trường hợp tối nguy này.

Đương khi than thở, cả ba anh em bỗng đâu nghe tiếng gọi, làm cho Oanh kinh sợ thất đảm, mặt tái mét đi, ngừng không khóc nữa, chỉ rú lên ôm lấy chị. Huyền cũng sợ hãi như Oanh, cả hai ôm chặt lấy nhau, tưởng đâu ma qui? trong rừng thiêng hiện lên dọa nạt. Duy Văn Quản, tuy thấy rợn gáy rùng mình, mà vẫn cố giữ lấy vẻ táo bạo, gọi to lên rằng:

- Ai đó, xin làm phúc cứu anh em tôi với!

Quản vừa dứt lời, thì thấy ngay trên cây cổ thụ mọc giữa chỗ ba anh em ngồi nghỉ, một người tráng sĩ vạm vỡ nhảy xuồng hỏi chào. Tráng sĩ nói:

- Các ngài cao danh quí tính là gì? Đi đâu mà sa lạc vào đây?

Văn Quản vội vàng đem họ tên và câu chuyện định trẩy ra Nho Quan thế nào nói một lượt cho tráng sĩ rõ. Tráng sĩ nghe xong lắc đầu:

Chết nỗi! Đường đi Nho Quan phải theo hướng đông đi ra chợ Ghềnh, sao ông lại không biết ! Ở đây là hạt Đồng Giao, nhưng ở phía tây, cách đền Sòng còn xa, phải theo lối khác mới tới được. Đường này là đường xuyên sơn đi lên Mường lên Mán, kia mà! Thôi, ông trót nhỡ đường rỗi, thì phải ngụ tạm ở chốn này một đêm, mai tôi sẽ đưa giúp ông qua đèo Tam Điệp. Tôi quê ở vùng Nam Định, tên là Lê Trọng Việt, bình sinh chi thích nghề săn bắn mà thôi. Tôi vào đây săn báo và săn hươu, nên có làm một cái nhà sàn trên cây này, định đêm nay nằm rình các ác thú đến thung lũng này uống nước thì sửa một mẻ. Vả nay gần ngày vọng, có trăng sáng, bắn sẽ thú lắm.

Tráng sĩ nói đến đây ngừng lại ngoảnh đầu nhìn lên ngọn cây. Bỗng chàng hít hơi rõ mạnh, rồi nhăn trán lại có vẻ lo nghĩ. Chàng vội vã bảo Văn Quản:

- Bây giờ tôi leo lên trước, thả dây xuống. Ông buộc chặt chẽ vào nách một cô em, tôi kéo lên xong lại dòng dây xuống cho cô khác lên. Sau cùng đến lượt ông. Nếu ông leo được thì, khi tôi đem hai cô lên cả trên cây rồi, ông nên trèo lên ngay đừng chậm trễ nhé! Mà khi thả dây xuống, ông cố làm cho lẹ tay một chút, xin ông nhớ kỹ đấy!

Đoạn tráng sĩ nhảy lên cây thoăn thoắt; chỉ một chốc đầu dây đã xuống đến gốc cây rời. Quản và Huyền cùng đồng lòng để Oanh lên trước, bèn túm nhau lại buộc dây vào nách Oanh. Xong dặn Oanh nắm chặt lấy dây, không được thả. Vừa buộc cho Oanh xong bỗng thấy một mùi hôi thối ở đâu xông lên sặc sụa, rồi tiếng một đàn chim khướu ríu rít kêu, bay đậu cả vào cây cổ thụ. Tráng sĩ đứng trên cây, ra sức kéo Oanh Cơ lên tận nhà sàn dựng ở gần ngọn. Oanh vừa sắp tới nơi, một quang cảnh bi đát, khủng khiếp và thê thảm bỗng hiện ra trước mắt nàng và tráng sĩ.

Một con hổ vàng to, từ đâu không rõ, hình như ở rừng sậy, nhảy xổ lại phía gốc cây, giữa lúc xuất kỳ bất ý. Văn Quản và Huyền Cơ vừa buộc dây xong, đương ngước mắt nhìn theo Oanh Cơ không biết rằng có tai nạn ở ngay cạnh mình. Hổ xông lại chỉ trong nháy mắt, đã thấy dưới gốc cổ thụ có hai xác người đương giãy giụa máu me đầm đìa.

Oanh vừa leo được lên sàn, thấy anh chị bị hại thảm thiết đau đớn quá, lòng như bị xé tan, bào rách; nàng kêu lên một tiếng rồi ngã gục, suýt nữa rơi từ trên cao xuống tận mặt đất. Tráng sĩ lúc bấy giờ tay chân luống cuống vì Oanh, không có thì giờ lấy đao lấy nỏ. May sao dây buộc Oanh còn vướng ở người nàng nên nàng không bị rớt, tráng sĩ vội vực nàng vào sàn nứa, rồi mới đem ra ba ngọn phi tiêu, đứng trên cây ném xuống. Hổ đang ngoạm đùi Văn Quản, bị một mũi phi tiêu ném trúng cổ, một mũi nữa trúng sườn, đau quá, vùng gầm lên một tiếng, bỏ mồi chạy mất. Tráng sĩ phóng theo một mũi tên cắm vào đít hổ, hổ nhảy cao, biến vào bụi cây…

========================

-------------------MA RỪNG---------------

Ông Cai Móm lại ngừng lần thứ ba, lấy cốc rượu uống một hơi rồi kéo một mồi thuốc lào. Lệ Thi nóng ruột muốn nghe, giục ông Cai kể nốt, nhưng ông vẫn điềm tĩnh thong thả uống rượi hút thuốc khề khà, làm cho vợ tôi càng thúc giục thêm nữa. Thi muốn nghe, mà hễ nghe đến chỗ nào rùng rợn, thì lại bám riết lấy tôi, thu mình cuốn vó lại , trông buồn cời lắm. Phải thế chăng mình?

Một hồi lâu ông Cai đủ nghiện, mới oang oang nói tiếp:

- Bấy giờ Oanh Cơ ngồi gục mặt vào vai tráng sĩ. Tráng sĩ muốn cho nàng đỡ sợ, phải tìm kế nói chuyện để bắt nàng phải chú ý vào một sự khác, ngõ hầu quên nỗi đau xót và quên cảnh vật ghê sợ của rừng khuya. Câu chuyện tráng sĩ nói, sau này lại chính mồm Oanh Cơ kể lại cho cậu ruột tôi nghe, vì thế nên tôi mới biết rõ. Tráng sĩ sợ nàng cứ nghĩ ngợi mãi về cái chết thê thảm của anh chị nàng, và cứ bồn chồn lo ngại luôn luôn, thì không khéo chết ngất đi lần nữa, chàng phi nói luôn mồm cho nàng thấy bao giờ cũng có người ngồi bên cạnh và che chở cho mình. Tráng sĩ bảo Oanh Cơ:

- Cô đừng nên sợ hãi kinh ngạc, cô ạ! Có tôi ở đây, không khi nào tôi để thú dữ ma thiêng phạm đèn cô được. Tôi có khi nằm trên chòi này hàng nửa tháng, đêm đêm trơ trọi một mình, tôi chả e ngại gì hết. Gặp ác điểu, mãnh thú thì tôi bắn, tôi đánh, tôi cầm Imã tấu hoặc đoản côn thử chơi với chúng nó vài keo, đi cho chúng nó xem vài đường võ, bao giờ chúng cũng thua nhạy, hoặc bỏ xác lại cho tôi khiêng về. Chúng nó có làm gì được tôi? To lớn, khỏe mạnh và nhanh nhẹn như con hổ, tôi chỉ coi như loài chó dữ mà thôi.

Cái đáng sợ nhất, ấy là ma rừng. Giống ấy thiêng lắm, và lợi hại lắm. Nhưng tôi có làm gì phạm đến chúng đâu, mà chủng nỡ xử tàn tẽ với tôi? Chả qua chúng chỉ muốn đùa giỡn quấy quả tôi cho vui chớ chưa làm tôi phải ốm đau và chịu thiệt bao giờ. Hay là chúng có ý nể tôi thì chả rõ. Một vài lần đầu tiên, có vài con đầu đàn chúa tể ở vùng này, hiện lên dọa nạt tôi. Tôi đang nằm trên sàn thì nó làm sàn quay tít như chong chóng, định thân ngồi một lúc thì lại chả thấy gì. Cỏ khi nó ném tôi đến bịch một cái xuống tận gốc cây, tôi nhìn lại thì vẫn còn ở trên sàn. Lại có lần buổi chiều, mới trèo lên cây đã thấy ngay lủng lẳng treo trên cành chỗ thì một cánh tay, chỗ thì một cẳng chân, chỗ khác lại cái đầu lâu máu ở cổ chảy xuống ròng ròng, chỗ khác nữa thì cái thây người. Một chốc, tất cả mấy thứ ấy bay vùng lên sàn, liền nhau lại thành một người đen thui thủi, đầu tóc dựng ngược, mắt mở rõ to, há mồm cười nhe răng trắng nhơn nhởn. Tôi cứ ngồi yên nhìn con ma ấy không nói; nó thè lỡi đỏ như lửa dí tận sát mặt tôi, khí lạnh của nó thấu vào khắp người tôi, tôi rợn lắm lắm, song vẫn cố trấn tĩnh. Nó dọa chán thì biến mất.

Lần khác nó hiện lên đến sáu bảy con, nhớn có, bé có, trẻ có, đứa nào cũng quần áo rách rưới hoặc trần như nhộng, trông người gầy gò đem thủI, xấu xí lắm. Chúng đi lơ lửng như không bước, là là tiến trên mặt cỏ, lại chỗ tôi đứng dưới gốc cây, dang tay bao vành lấy tôi rồi nhảy múa làm tôi hoa cả mắt. Tôi bị chúng trêu nhiều lần lắm, lần này tôi mới chắp tay vào tước ngực, nhắm mắt niệm Phật Quan âm, rồi đọc câu thần chú trừ tà: "Tả Thanh long, hữu Bạch hổ, tiền Chu tước, hậu Huyền vũ'. Mở mắt ra chúng đều biến cả. Tôi lên được trên sàn, ngồi khấn rằng:

Tôi tên là Lê Trọng Việt, là một kẻ đi săn các ác điểu, mãnh thú, không xâm phạm gì đến vong hồn các anh em cả. Anh em nếu có linh thiêng, xin phù hộ cho tôi, săn được nhiều, tôi sẽ chia cho một phần và xin cúng tế anh em tử tế, mỗi khi tôi tới đây. Từ trước tới nay, anh em trêu ghẹo tôi, tôi đã chịu nhẫn nại, không khi gì cả, không làm gì cả. Tôi không dám chửi rủa các vong hồn, cũng không dám láo xược với các vong hồn, xin các người từ đây đừng dọa nạt đùa bỡn tôi nữa! Nếu tôi khấn khứa tử tế thế này mà không tha, thì sau sẽ có cách tôi đối phó lại, bấy giờ đừng trách móc tôi đó! Đây, gọi là thành tâm lễ bạc, tôi có chút quà này xin biếu anh em!

Khấn xong, tôi dở tay nải đem ra bày ở sàn một ít bánh đúc để trên vài tàu lá, và một ít hoa quả tôi đã cố tình mang đi từ chiều. Rồi tôi đốt hương, đốt nến, vái bốn vái. Xong lại đem đốt mấy chục lá vàng hồ. Công việc ấy ổn thỏa, tôi nằm chèo queo đánh một giấc đã, chờ đến canh hai thì dậy. Đêm hôm đó, quả nhiên, tôi săn được nhiều lắm, song toàn là các thứ nhỏ. Và tôi cũng không bị trêu ghẹo nữa. Bắn được cáo, được cầy, tôi đợi rạng sáng là đem thui ngay vài con dưới gốc cây, cúng tế xong rồi mới về. Những đêm sau đều săn được kha khá. Tôi vẫn giữ lời hứa chia phần cho ma, nhưng ma ăn quen rồi lại rửng mỡ, đến đêm lại tìm cách làm cho trong nhà sàn của tôi các đồ đạc lung tung lên cả. Có một lũ chuột, mỗi con bằng con mèo to đến hì hục tìm mồi, ăn bánh đúc cơm nắm của tôi gặm nát cả chuối tôi trữ sẵn để tráng miệng, cắn rách áo tôi và nhá chân tôi đau lắm. Chúng nó tha nỏ của tôi quăng xuống đất tha mã tấu của tôi cắm vào một cành cây, vác tay nải của tôi treo lủng lẳng ở mái sàn. Lũ ranh ấy lục lọi đủ thứ chọc tôi đến cực điểm. Đêm tôi ngủ dậy, sờ nải ch thấy đâu, biết có chuyện. Tôi bèn ngồi một lúc định thần cho mắt sáng ra, có thể trông rõ trong đêm tối được; tôi nhờ ánh mờ mờ của các ngôi sao le lói tìm được đẫy nải và mã tấu vì lưỡi đao lấp lánh dễ thấy lắm.

Tôi mở nải lấy sẵn bùi nhùi, đá lửa, và hai ống địa lôi to. Rồi tôi ngồi đợi xem cái giống quái kia có đến quấy nhiễu tôi nữa chăng. Quả nhiên, chúng trở lại để xem tôi bị tức giận đến thế nào. Lần này, chúng biến ra một lũ cú mèo và mèo rừng đến vỗ cánh ầm ầm và kêu nheo nhéo rầm rĩ cả chung quanh mình tôi, bâu lấy tôi đen nghịt. Tôi đã biết ý, thủ sẵn một sợi dây ngũ sắc dài, một bông phẩm đỏ ướt; tôi cứ ngồi điềm nhiên niệm Phật và đọc thần chú. Chúng quây quần lấy người tôi nhưng không phạm đến tôi được. Tôi đánh đá tóe lửa, đốt bùi nhùi; bùi nhùi cháy, tôi dí ngay vào ngòi hai cái pháo khổng lồ treo ở mé sàn; xong tôi vội vàng đứng dậy, quờ tay túm được một anh mèo, rồi nhảy vọt ra ngoài chuyền cành nọ sang cành kia, ra ngồi một chẻ cây gần gốc. Tôi vừa leo cây vừa kéo dây ngũ sắc ờ cổ buộc vào mình con mèo, nó cắn tôi , cào tôi, giãy giụa và đập đuôi chan chát, tôi cũng mặc kệ. Buộc dây xong, tôi lại sờ vào túi lấy bông phẩm đỏ, bôi nhoe nhoét vào mặt nó, xong đâu đấy , tôi thả nó rơi đánh bịch xuống đất.

Tôi làm những việc trên đây nhanh như chớp, bởi đã định trước cả rồi; chỉ loáng một tí là đốt xong ngòi pháo , bắt một con mèo và nhảy chuyền xuống gốc cây ngồi ở một chỗ, tươm tất lắm.

Tôi vừa an vị, hai tiếng nổ kinh thiên động địa nối tiếp nhau xé tan vừng lặng lẽ của rừng khuya; bốn bên toàn là sườn núi cả nên tiếng pháo địa lôi càng dữ dội lắm lắm. Đàn mèo tranh nhau mà chạy, đàn cú tranh nhau mà bay, chúng chen nhau, húc nhau ùa cả ra khỏi sàn. Phần nhiều đều rơi xuống đất huỳnh huỵch, có con chạy không kịp, phải biến ra khói, tan đi. Pháo vừa dứt nổ, định thần mà nhìn, chả thấy một con nào nữa cả, thì ra rơi vừa đến đất, hay chưa đến mặt cỏ, là chúng đã biến cả rồi? Vô phúc có một anh cú bay tạt qua mặt tôi, tôi túm nhay lấy, luồn ngay dây ngũ sắc buộc lấy hai cánh, rồi cũng đem phẩm bôi vào mặt. Lại vứt con quái vật ấy xuống đất theo với con mèo; hai con đó giãy giụa, vật mình đùng đùng vào gốc cây nghe rõ mồn một. Y chừng chúng nó muốn tháo dây thì phảI, nhưng tôi buộc theo phép phù thủy, có mà tháo đường trời!

Tôi lên ngồi chễm chệ trên sàn nứa. Lúc này tôi đốt bùi nhùi, thắp một ngọn bạch lạp, đi tìm các thứ binh khí, thu thập xem có thiếu gì không. Xét ra chỉ mất cái "nỏ thần" của tôi mà chúng ném xuống gốc cây cổ thụ, còn đồ thì đủ cả. Tôi ngồi im đợi xem động tĩnh thế nào. Lúc đó rõ ràng tôi tỉnh táo, bao nhiêu tinh thần tâm trí đều sáng suốt cũng như ngọn bạch lạp rạng to thế mà không hiểu vì đâu tôi như mơ màng, tai nghe văng vẳng có tiếng nói rất sẽ mà rất rõ, một thứ tiếng không phải là tiếng, chỉ như một dư âm xa lơ xa lắc, một tiếng gọi bị đập vào đá rồi oang oang đưa lại từ chỗ nào, một cái "bóng của lời nói" thì đúng hơn. Cái tiếng gọi đó gần sát tai tôi, nhưng quái, cũng như ở một nơi xa lắm, chỉ nhận biết nó rành rọt, nghe tờng tận vô cùng. Nó nh thế này:

-Ông Trọng Việt ơi! Ông ác làm chi, ông tắt đèn đi! Chúng tôi biết lỗi rồi, chịu phục ông rồi! Ông cứu cho lần này, lần sau không bao giờ dám phá ông nữa! Riêng hai đứa tôi, chúng tôi sẽ đội ơn ông và phù hộ cho ông. Ông hãy tắt đèn đi...

Tôi đoán ngay là lời kêu van của hai con ma bị bùa ngũ sắc buộc, không biến được. Chúng nó đã hối quá, tôi cũng chả nên táng tận lương tâm. Chả qua tại chúng xử tệ với tôi hết sức, nên tôi mới phải báo thù, nếu không tôi cũng chẳng hơi đâu nghịch ngợm với chúng nó để mất một đêm săn bắn. Cái đêm ấy, thế là vô ích: tôi bị mất nỏ, lại lục đục mất thì giờ, lại đốt địa lôi và châm đèn thì còn con thú nào dám đến gần cho mà bắn nữa, mà dù có đến thì biết tìm nỏ ở đâu? Xuống gốc cây ư? Chả dại. Nhỡ ra có làm sao trong đêm tối, giữa rừng vắng, thi hết kế thoát thân. Thôi, chúng nó đã xin tắt đèn thì tôi tắt để xem chúng giở trò trống gì nào! Tôi dụi cây nến, ngồi đợi. Trời vừa tối bỗng nghe bịch bịch hai tiếng, sờ thì ra có con mèo và con cú ở ngay bên cạnh chân. Văng vẳng bên tai lại có tiếng:

- Ông làm phúc tháo dây cho chúng tôi, và gột vết phẩm cho chúng tôi. Ông tha cho, sẽ đội ơn ông mãi mãi.

Tôi nói:

- Lấy nước đâu mà gột? Tôi chả có gì đựng nước cả, chỉ có một cái vỏ dừa ở góc sàn, nhưng lại không có một giọt nớc nào. Thì làm sao mà gột cho hai người được?

Tôi vừa dứt lời thì, quái lạ! Thấy ngay một vật ươn ướt đụng chân, sờ xem thì là một gáo nước đầy, cái gáo sứt không có cán của tôi! Tôi hơi ngạc nhiên một tí, song nghĩ ra ngay. Có gì lạ đâu? Một lũ ma nữa, vô hình, đương bao bọc lấy tôi để xin tôi gỡ cho hai đứa bạn của chúng và để xem tôi xử sự ra thế nào. Tôi lên mặt đạo mạo, phán rằng:

Chỉ tại các ngươi chọc ta, chớ ta có làm hại các ngươi đâu! Ta cúng các ngươi, cho các ngươi nào thịt, nào bánh, nào hoa quả, nào vàng lá, thế mà các ngươi chả biết ơn phù hộ ta lại còn quấy quả ta, thì trời đất nào chứng cho các ngươi? Ta đây biết phù thủy, (chỗ này, tôi nói khoác mà để dọa chúng mà thôi, chớ thật tình tôi chả có phép quái gì!) Chúng bây làm gì nổi ta? Các ngươi nạt ta thế, chứ nạt nữa ta cũng chả sợ! Ta đã có cách đối phó lại, còn nhiều cách lắm, đây này, các ngi hãy xem?

Nói đến đó, tôi sờ tay vào nải, lấy ra một củ tỏi, bóp nát rồi dí vào mũi con mèo và mũi con cú. Quả nhiên chúng nó giãy lên đành đạch. Tai tôi lại nghe văng vẳng:

- Chúng con lạy ông! Chúng con biết tội rồi, ông sinh phúc cho! Ông vứt tỏi đi, rửa tay đi!

Tôi quẳng củ tỏi xuống đất, dội nước ở gáo rửa tay, dốc hết cả gáo. Tôi lấy vạt áo lau tay, vừa lau vừa nói tiếp:

- Ta còn nhiều thứ phép khác, lợi lại lắm lắm. Hễ các ngươi xử ác với ta, ta sẽ xử càng tàn tệ hơn, cho bỏ ghét? Lần này là lần đầu, ta tha cho hai ngươi; phải biết ơn và cố tu tỉnh lại, ta bắt được một lần nữa thì chớ trách ta đó! Nhưng mà gáo nước hết rồi, lấy gì gột rửa cho các ngươi đây?

Tôi nói dứt lời, sờ xuống chân thì gáo nớc đã lại đầy rồi. Tôi bèn móc trong đẫy ra một cái giẻ lau, đẫm nước đi, rồi lau mặt mũi cho con mèo và con cú. Chúng nó để tôi làm phận sự một cách ngoan ngoãn lắm, không dám cựa quậy, giãy giụa một tý gì. Tôi lau một lúc rõ lâu, áng chừng đã sạch lắm rồi , bấy giờ mới thò tháo nút dây ngũ sắc ra. Vụt một cái, vừa cởi được dây, thì đã không thấy cú và mèo đâu nữa. Chỉ có phảng phất trớc mặt tôi, lờ mờ như sương đọng lại, như khỏi tụ thành hình, hai cái bóng dịu dàng trắng toát, thực là "sương in mặt, tuyết pha thân". Hai thiếu nữ yểu điệu thanh tân, tuy trong bóng tối mà cũng đoán được đó là hai giai nhân tuyệt sắc. Cả hai tựa hồ mặc áo bằng mây trắng, mập mờ ẩn hiện, trông đẹp vô cùng. Một làn tóc đen cuồn cuộn xõa xuống ngang lưng, một thân hình thớt tha mềm mại, tứ chi nhỏ nhắn tròn trĩnh, đó là cốt cách của hai nàng. Trông cả hai đều giống nhau, tựa như chị em ruột khó lòng phân biệt được, nếu một nàng không có làn tóc dài chấm gót, khác với nàng kia tóc chỉ xế quá lưng thôi.

Tôi thấy hai bóng ma con gái ấy, trong lòng cũng hơi bồn chồn, cứ đờ mắt ngơ ngác ngắm họ. Cả hai nàng cùng quỳ xuống sàn nứa, trước mặt tôi, trong khi tôi vẳng nghe một điệu đàn ân ái vô cùng:

- Hai em cám ơn cái thầy tha cho. Đội ơn cái thầy nhiều nhiều. Sau này xin giúp cái thầy...

Điệu đàn chỉ ngắn có thế. Điệu ấy tức là giọng của hai nàng thánh thót hòa nên. Tôi lấy làm lạ rằng sao cái giọng này nó êm ái du dương, nó thỏ thẻ, trong trẻo khác hẳn với tiếng nói phào phào lúc nãy.

Tôi nghĩ một lúc, mới hiểu rằng khi hai nàng này chưa biến được thì cũng chưa nói được, đó chỉ là bạn bè thay lời hai nàng mà cầu khẩn tôi đó thôi. Tôi bảo là hai nàng ấy nói, đó là lầm, vì thực ra không có thanh âm vang ra ngoài. Tôi chỉ thấy môi hai thiếu nụ đó lắp bắp, rồi tự nhiên tôi hiểu, tựa hồ trong tai tôi có tiếng nói dội vào óc tôi. Có lẽ khi đó tôi nghe hồn của tiếng người, cũng như tôi thấy bóng của hồn người vậy.

Hai ả lạy tôi sì sà, sì sụp, đoạn đứng dậy bớc ra. Tôi vừa ngước mắt, chửa kịp trông theo thì đã không thấy bóng dáng của hai nàng đâu nữa...

Từ đấy, tôi đỡ bị nạn yêu ma quấy nhiễu làm rối loạn đồ đạc và ngăn trở sự săn bắn của tôi. Nhưng tôi lại bi một cái nạn mới lạ lùng nguy hiểm hơn: là hai con ma thiếu nữ Mường nó hình như mê tôi, đêm nào cũng lên ngồi cạnh tôi nói chuyện tỉ tê, như quấn quít lấy tôi không dứt. Tôi nhắm mắt ngủ, thì thấy như mình dắt tay chúng đi chơi trong rừng, bừng mắt dậy, lại thấy hai bóng trắng ngồi kề bên mình, trong óc, trong tai lại có tiếng dội văng vẳng nói chuyện với mình thân thiết lắm. Tôi là con trai chưa vợ, thấy thế sợ lắm, chỉ ngại giọng yêu tinh ấy nó thu mất nguyên dương thì sẽ chết mất. Tôi lo quá, bỏ rừng về nhà. Đêm nằm ngủ lại thấy chúng nó đến trách móc sao không đến Đồng Giao săn bắn như mọi ngày cho chúng được gặp gỡ trò chuyện. Sáng dậy, tôi đem sự đó thuật cho anh tôi nghe. Anh tôi là người giỏi võ hơn tôi mà lại can đảm lắm. Anh tôi quyết cùng đi vào rừng với tôi một phen: Quả nhiên, anh tôi được thấy hai thiếu nữ Mường của tôi và làm quen với chúng. Một đứa bám riết lấy anh tôi, còn một đứa thì vẫn cố mê hoặc tôi đến kỳ cùng. Hai anh em tôi hễ nằm trên sàn thiu thiu ngủ là tự khắc thấy mỗi đứa ôm ấp một con ma đi dạo quanh khắp đồng nội, bắt ong, đuổi bướm, bứt quả hái hoa, tình tự vui vẻ lắm. Tỉnh dậy, vừa bừng mắt đã thấy có hai ngồi dới chân, con tóc ngắn kề anh tôi, con tóc dài kề tôi.

Thực là nguy ngập quá? Tôi hối hận vô cùng, hối hận vì đã đưa anh tôi vào cõi chết. Một mình tôi có thác cũng không oán gì số phận, song làm cho anh tôi vì muốn cứu tôi mà cũng thác nốt thì thực tôi có lỗi vô ngần! Can tràng như tôi, mà tôi phải ứa lệ khóc. Nhưng không dám khóc trớc mặt lũ quái đó, tôi đợi rạng ngày, dắt anh tôi ra khỏi núi, đi về quán trọ lúc bấy giờ mới ôm lay anh mà khóc và xin lỗi. Anh tôi mủi lòng cũng khóc và khuyên giải tôi:

- Em đừng ngại! Anh xem hai con yêu này nó khôg phải là đồ dâm tinh, chả qua chỉ là oan hồn hai con bé chết lúc còn con gái, nên si tình đó mà thôi. Từ lúc mình quen chúng nó, mòi cùng nhau đi chi trong ngàn trong nội, nào chúng đã dắt mình đến cuộc mây mưa dâu bộc gì đâu! Thế thì cha lo! Để thong thả anh nghĩ một kế làm cho chúng nó phi bạt đi mới được?

Anh tôi nói vậy thì tôi biết vậy, chớ tôi vẫn khóc lóc như thường. May sao, vì sự khóc thảm thiết đó, có một cụ già để ý đến tôi ông hỏi tôi, tôi nhất nhất Kể sự tình cho ông rõ.

Ông già ngắm mặt mũi hai anh em tôi một lúc, rồi ông đòi xem bàn tay. Xem xong, ông đưa chúng tôi vào một căn buồng hẹp trong nhà trọ, ông đứng ngoài bắt bốn cái quyết, lầm rầm đọc chú hồi lâu mới bước vào. Ông không đắn đo gì cả nói ngay:

- "Tôi xem khí sắc hai thầy, chưa đến nỗi suy. Âm khí cũng chưa phạm được lấy, vì hai thầy có can đảm nhiều, hóa nên tôi mới cứu được. Giá phải người yếu linh hồn, ắt bị hại đã lâu rỗi. Cái giống ma này nó khôn lắm, nó muốn báo thù thầy đấy, nhưng nó cứ làm dần dần, mỗi đêm đi sâu vào một chút thôi, độ nửa năm thì không chữa được nữa! Tôi cho hai thầy hai đạo bùa này, hai thầy phi giấu kỹ trong búi tóc, nó sẽ không biết: nếu để chỗ khác, nó trông thấy tất cướp mất. Ta lại tương kế tựu kế, nhân chúng nó đương rủ hai thầy đi vào đường tình ái, hai thầy sẽ làm như âu yếm nó lắm lắm, chớ đừng lộ ra vẻ lãnh đạm như xưa. Làm ra như mình thầy chúng yêu mình một lòng chân thật nên cũng hồi tâm mà sủng ái chúng. Rồi một thầy sẽ, trong khi tự tình, hỏi nó xem mả hay nhà mồ của chúng nó ở đâu. Nói rằng hễ khi nào anh thác đi, sẽ lại nằm chung với em. Khi nó chỉ mả rồi, thì thử ba lần xem có đúng một chỗ không, mỗi lần nhận địa thế và đánh dấu kỹ càng. Lúc nào biết đích mả chúng nó rồi thì các thầy nên làm thế này, thế này.. ." đến đây ông cụ nói thầm rất khẽ "chúng nó sẽ phi kiêng hai thầy, không dám đến gần nữa. Hai thầy sẽ thoát nạn. Song cốt nhất hai thầy phải điềm đạm, cẩn thận, suy xét cho tỉ mỉ, chớ có mừng rỡ lộ ra nét mặt mà khó lòng giấu được chúng. Hai thầy nên nhớ kỹ. Thôi hai thầy đi ra, thế là xong rồi!"

Chúng tôi xin tạ Ơn ông cụ, cụ nhất định từ chối. Túng thế, giữa lúc cụ vô tình, cả hai anh em tôi sụp xuống lạy cụ hai lạy, cụ phải buộc lòng nhận vậy, nhưng thế nào cũng không nhận tiền.

Đêm hôm ấy, anh em tôi lại vào rừng rồi làm đúng theo chương trình ông cụ già đã chỉ bảo. Muốn cho cẩn thận anh em tôi hỏi dò mả của hai con ma đến năm sáu lần, và chúng tôi nhận kỹ địa thế và đánh dấu chỗ ở của chúng rất minh bạch, chí kỹ không lầm lẫn được nữa. Một hôm trời có nắng, chúng tôi đợi đến đúng ngọ, vác xẻng vác cuốc vào rừng, đến chỗ hai cái mả mà chúng tôi đã đánh dấu, khai quật quan tài lên, mở nắp vứt lá bùa vào rõ nhanh rồi đậy nắp lại, xong lật sấp áo quan cho xuống hố lấp đất lên cẩn thận.

Tối hôm đó, quả nhiên không thấy hai cái bóng trắng ngồi dới chân nữa. Nhưng hai anh em tôi lúc chợp ngủ đi cùng thấy hai giấc chiêm bao giống nhau. Trong mộng, cô ả nhân tình ma của đứa nào hiện lên bảo đứa ấy rằng:

- Thôi được! Anh đã đối đãi tệ bạc và tàn nhẫn với em, rồi anh sẽ biết em báo cừu thế nào! Em truyền hồn cho anh! Em sẽ làm cho anh chết đầu lìa khỏi xác, giữa lúc còn niên thiếu như em, em mới nghe! Sống anh không muốn làm chồng em, chết rồi anh sẽ phải làm chồng em, anh nghe chưa?

Chẳng qua đấy là lời hăm dọa vu vơ, chớ nó chết rồi, còn làm quái gì được ai? Sống chết đã có mệnh, dễ đâu con ma kia có thể sát hại được cả hai anh em tôi? Chỉ biết từ khi triệt được nó, tôi được bình an vô sự. Lũ ma hình như sợ tôi rồi, không con nào dám lại trêu tôi nữa. Đêm đêm tôi được ngủ ngon lành hết sức, tôi ở nhà sàn quá như ở nhà tôi, chả còn e ngại nỗi gì. Trước kia tôi săn mãi không bao giờ được hổ, báo và hươu nai; nay tôi bắn được rất nhiều hươu, săn được hàng mười mấy con, gạc chất đầy nhà, bán được nhiều tiền lắm. Tôi lại vớ được đủ thứ; ngày thì có sơn dương, có cầy hương, có các thứ chim quí, đêm thì có hoẵng, nai, lợn, báo và chồn. Có một lần tôi ném phi tiêu giết chết được một hổ mẹ và hai hổ con, vừa đây tôi hụt một con beo xám to tiếc quá! Từ lúc lũ mẹ ranh thôi không ám tôi nữa, tôi làm ăn khá lắm, chả ân hận nỗi gì! Anh cả tôi, anh Mạnh Khôi, thì lại thích về mé Chợ Ghềnh, anh tôi săn ở phía đó không vào đây mấy.

Nhưng kìa! Cô xem có phải sắp sáng rồi đó không? Chúng ta mải miết nói chuyện mà ai ngờ sắp bạch nhật rồi!

=============================

------------------------VÉN MÀN BÍ MẬT------------------

Tôi ở Đồng Giao về, trong lòng lại canh cánh đeo thêm một 1 nguyện vọng thiết tha, trong ký ức lại tăng thêm một đoạn ký sử mớI; nhưng bị trôi nổi trong cuộc mưu y, mưu thực thường ngày, tôi dần dà cũng chả có thì giờ đâu nghĩ đến hai câu chuyện ở núi Gội và Đồng Giao nữa. Mãi cho đến ngày tình cờ khiến tôi gặp gỡ ông Trần Công Chất, trong một trường hợp ngẫu nhiên khi tôi đem vợ con lên nghỉ mát tại Chapa.

Riêng tôi, tôi chả muốn đi xa diệu vợi làm gì, nhưng vợ tôi, Tuyết Tiên, cứ nằng nặc đòi lên Chapa một lần cho khỏi thẹn với chị em. Không thể từ chối được, tôi đành theo ý vợ tôi.

Thế là, dắt díu bồng bế ôquan san ngàn dặm, thê nhi một đoànô tôi đi nghỉ mát Chapạ Cái cảnh đi nghỉ mát mà phải đeo đàng sau một bà vợ dềnh dàng cùng một lũ con nheo nhóc, thì còn gì là thú nữa? Còn gì thú nữa nếu tôi không gặp ông cụ Chất ngay trong mấy hôm đầu?

Cái cảnh rừng núi Chapa, không có gì là rừng sâu núi thẳm cả. Chapa là một hòn ngọc là một vườn hoa cao hơn mặt đất, là một nơi khí hậu đầm ấm, thảo mộc tốt tươi, non nước hữu tình. Những đường lốI, những bãi có, nhưng rừng cây ở đó sạch như ly như lau, có thể nằm trên mà ngủ không sợ bệnh tật gì cả. Không một con ruồi không một con muỗi, loài vắt thì thật là không có hẳn. Chapa không phải chỉ đẹp ở những rừng đào, thác bạc, đẹp ở những căn nhà xinh xắn dựng chênh chếch trên sườn đồi, Chapa còn đẹp ở chỗ khách đến đây cư ngụ toàn là tay chơi hào hoa lịch sự, con gái mơn mởn như trái đào vừa chín, con trai khỏe mạnh như các hiệp sĩ đời Chiến Quốc, thỉnh thoảng đánh con ngựa thồ lên dốc núi, dừng cương đứng lẫm liệt giữa vừng thảo mộc xanh tươi, gợi cho kẻ bàng quan một bức ảnh thanh kỳ, tưởng chừng có thể làm sống lại một thời oanh liệt của lịch sử...

Trước khi mắt được ngắm phong cảnh Chapa, ta hãy vượt hết một con đường xoắn ốc chừng ba mươi nhăm cây số, ngùng ngoàn lượn quanh sườn đá theo hình chữ chi, khúc khuỷu, cong queo, có từng đoạn chênh vênh hết sức. Trong cái thú đi chơi Chapa, có lẽ khoái lạc là con đường ấy cũng dự một phần. Một bên là sườn núi cheo leo hiểm hóc, một bên là hang sâu vực thẳm cây cối um tùm, mọc chi chít hai bên bờ một dải suối khổng lồ nước cuồn cuộn chảy nhanh như xuống thác, đương chảy thỉnh thoảng lại vấp phải một thân cây đổ bắc ngang qua khe, hoặc một tảng đá nhẵn lì nằm ngay giữa long, khiến vì thế lại bồng bột nhảy chồm lên, bọt bắn tung tóe trắng phau như muôn ngàn tia bạc... Trong khi đi đường xe ô tô không chỗ nào mở được máy ba cả, phải cứ mở máy hai, sè sè cắn lấy đường thong thả lên dần. Đi chừng ba mươi ba, ba mươi bốn cây, khí hậu vẫn còn như thường, trong người vẫn còn thấy nực như khi chưa lên núi; thế mà gần đến địa hạt Chapa, thì tựa hồ như có phép tiên biến hóa, khí hậu thấy dịu đi ngay, mình bỗng cảm thấy hơi lành lạnh. Một khi tới hẳn nơi rồi, sự mát mẻ khoan khoái không tả xiết được. Chỉ từ sáng đến chiều, xem trong người cũng đã thấy khác ngay; nào là nhức đầu, khó ở, sổ mũi, hắt hơi, những bệnh vặt đó biến hẳn đi như bị thánh dược xua đuổi; đi chơi chỉ một chốc về nhà ăn cơm đã khỏe bằng hai ngày thường, mà sự tiêu hóa cũng rất lưu thông, không bị bí, bị trệ như ở chốn thị thành dưới chợ.

Nghỉ dưỡng sức mà lên Chapa, chả mấy chốc lành mạnh không cần uống thuốc, tinh thần mình cũng nhờ khí hậu mà sáng suốt tỉnh táo thêm. Tôi chỉ được lên Chapa có một thời hạn mười lăm ngày, khi về lấy làm quyến luyến, tiếc rẻ, không muốn về nữa. Nếu không có vợ tôi, Tuyết Tiên, nhất định bắt tôi phải trở xuống Hà Thành, thì có lẽ tôi cứ ở lì tại Chapa, dẫu phải sống nghèo nàn kham khổ cũng cam lòng - chúng tôi đi chơi là do sự tình cờ, ai ngờ sự tình cờ ấy rất hữu ích cho tôi, giúp tôi được đủ vật liệu viết xong quyển tiểu thuyết này. Tôi đương bị tâm trí bứt rức vì chưa tìm được ra bí thuật để giải quyết một vấn đề mà óc tôi đang suy tính: vấn đề tìm ra nguyên ủy của câu chuyện tráng sĩ không đầu ở núi Gội. May thay đặt chân lên đất Chapa tính tò mò hiếu sự của tôi được thỏa mãn đến cực điểm; không những tôi gây dựng lại được một đoạn bí sử ngày nay đã bị vùi lấp hẳn trong gầm dĩ vãng xa xăm u ám, không những tôi đem được hẳn bí sử ấy ra ánh sáng, tôi còn được hạnh phúc biết rõ sự tích của hai bóng oan hồn ở núi Gội, và dây liên lạc của sự tích đó với câu chuyện rùng rợn tôi đã nghe ở Đồng Giao trong cái đêm mưa gió được nằm êm ấm bên cạnh Lệ Thi và Thủy.

Người đàn ông giúp tôi đi ngược dòng thời gian để làm sống lại cuộc đời Oanh Cơ và hai tráng sĩ bị tử hình, người đó là ông cụ Trần Công Chất, một cụ già thâm nho thuộc về thế hệ trước, sống lạc loài ngơ ngác trong xã hội mới này, nhưng vẫn thành kính nhẫn nại thờ quan niệm cổ hủ của ông cha, không bị ánh sáng lộng lẫy rực rỡ của kim tiền làm lu mờ mất tính tình, nhân cách. Tôi ngẫu nhĩ được gặp cụ Chất trên chuyến xe lửa Hà Nội - Lào Kay, giữa lúc đang bồn chồn thấp thỏm không biết vợ chồng chúng tôi sẽ trú ngụ Ở đâu một đêm trước khi đáp ô tô lên Chapa nghĩ mát. Tuyết Tiên và tôi bàn tán cùng nhau vê cách xử sự thế nào trên đất lạ, hai chúng tôi đều tỏ vẻ lo ngại, rì rầm suy đi tính lại mãi không thôi, nhất là khi tàu sắp tới ga Phố Mới, sau một ngày lúc lắc trên một con đường gay go khúc khuỷu vô cùng.

Thấy dáng bộ lúng túng của Tuyết Tiên xoăn xoe chung quanh mấy đứa con thơ và mấy va li đồ đạc, hết dặn bảo các con lại điểm sửa soạn hành lý, một ông cụ già ngồi ngay cạnh chúng tôi từ ga Hà Nội, bỗng tự nhiên quay lại phía tôi:

- Tôi xem chừng hai thầy cô đi nghỉ mát Chapa thì phả i!

- Thưa cụ vâng! Thưa cụ cũng đi Lào Kay?

- Không, tôi về Chapa chớ? Tôi có nhà ờ đó! Tôi di cư lên Chapa đã mười mấy năm nay rồi, từ lúc nhà nước mới bắt đầu khai khẩn hạt ấy.

- Vậy ạ? Tha cụ chúng cháu hỏi khí không phải: chúng cháu lên nghỉ mát lần đầu, chả có ai quen thuộc cả, muốn xin cụ cho chúng cháu ở đậu ít ngày, chẳng hay như thế có phiền chăng? Cụ có thể vui lòng dung nạp chúng cháu chăng?

Ông cụ cười khà khà ra vẻ nhân từ hiền hậu lắm:

- Nếu thế thì quí hóa quá! Thầy cô có lòng yêu hạ cố đến tệ xá thì còn gì bằng! Tôi tuy già rồi, nhưng nhà vắng lắm, chỉ có một đứa con gái đã lớn và một thằng con nhỏ mà thôi. Thầy cô ở chơi làm bạn với tôi, tôi rất vui lòng. Tôi xin làm hướng đạo cho thầy cô!

Tuyết Tiên hết sức mừng rỡ, vội vàng cho hai con lại lạy chào ông cụ, cụ vuốt ve hai cháu một cách rất âu yếm tưởng chừng như cháu ruột cụ vậy. Tàu đến ga Lào Kay cụ săn sóc cho cả bầu đoàn chúng tôi, dắt chúng tôi về ở Thiên Nhiên khách sạn. Chúng tôi thuê hai phòng, một phòng cho vợ con tôi, một phòng cho tôi và ông cụ cơm nước xuềnh xoàng cho qua bữa, rồi tôi xin phép ông bạn già mở va li thiết một bàn thờ Phù dung dới sàn gạch.

Tôi lấy làm sung sướng đến tột bực khi nghe ông cụ tỏ ra cho tôi rõ ngài cũng là một tín đồ của Nương tử; cho hay những kẻ cùng chung quan niệm thường hay được hội nhau trong những dịp tình cờ! Nếu thế, hà tất tôi phải nằm đất để nhường giường cho ông cụ; chúng tôi khiêng bàn tĩnh lên chiếc phản độc nhất của gian phòng, để cùng nhau được hưởng khoái lạc lim dim “đi gió về mây” sau một cuộc hành trình khó nhọc.

Thực không bao giờ tôi ngờ được rằng tôi có thể, vì hai bửa nha phiến, mà ngẫu nhĩ viết lên một pho tiểu thuyết; giá cứ mỗi lần cùng chị Phù dung tình tự, tôi cũng được diễm phúc như thế, thì dù phải hết sức khổ sở điêu linh vì thuốc phiện, tôi cũng không hối hận than thở nỗi gì! Tối hôm đó, câu chuyện của cụ Chất và tôi chỉ loanh quanh ở những vấn đề làm ăn, ở lai lịch tôi và thân thế cụ Tôi được biết qua loa, cụ là nòi Thổ, mẹ nưgời bản xứ mà cha người Kinh; thủa bé có xuống Hà Thành học tập rồi được bổ đi phán sự Ở các miền Cao Bằng, Hà Giang, Lào Kay và Phong Thổ. Sau khi làm việc được hơn hai mươi năm, cụ xin về hưu, lên an cư tại Chapa, chỗ mà cụ cho là kỳ quan đệ nhất. Tôi cũng kể cho cụ nghe tông tích và chí hướng tôi, sự tích nhân duyên của Tuyết Tiên, con một nhà đại phú hào chốn kinh đô với tôi, là một nhà văn sĩ nghèo nàn nghiện ngập.

Nghe tôi nói, cụ chỉ gật gù điểm một lời rất ôn tồn, song chứa đầy triết lý:

- Chả qua chỉ là duyên nghiệp cả! Ai mà tránh khỏi nghiệp duyên tự mình, mình đã gây nên?

Điếu chú, điếu anh thì giờ êm ả bằn bặt trôi, không biết đã lướt qua bao nhiêu độ. Tuyết Tiên và con tôi ngủ im thin thít trong phòng bên cạnh, chỉ còn tôi và cụ Chất nằm lim dim, nửa mê nửa tỉnh, giữa một vùng lặng lẽ âm ụ Bỗng đâu tôi mơ màng thấy bên cạnh có bóng dáng một thiếu phụ áo quần trắng toát, tóc lòa xòa phủ kín ngang vai, giữa ngực một dòng máu tươi phọt ra đỏ sẫm. Tôi giật mình thức dậy, bồ hôi đẫm ướt cả sơ mị Ngọn đèn dầu lạc lụn bấc tỏa ra một thứ ánh sáng lờ mờ, gian phòng tối vắng đìu hiu nhuộm một vẻ thê lương ảm đạm..

Không dám chợp ngủ nửa, tôi khêu to ngọn bấc, tiêm thuốc hút để xua đuổi những tư tưởng rùng rợn đến ám ảnh tôi. Khói thuốc xanh cuồn cuộn tỏa khắp phòng, tựa hồ có mãnh lực thiêng liêng gạn lọc sạch trong không gian những bóng hình ma quỉ. Tiếng kêu vo vo của điếu thuốc thu dần vào nhĩ tẩu chẳng khác gì một điệu kèn làm huyên náo quãng u tịch thê thảm của canh trường. Tiếng vo vo ấy kinh động giấc ngủ thiu thiu của cụ bạn già ngài mở choàng mắt dậy.

- Thưa cụ xơi với con vài điếu nữa cho vui, con sợ quá, không dám ngủ.

- Làm sao mà thầy sợ?

- Con vừa chợp mắt đi, thấy ngay một bóng ma đàn bà trắng lốp, giữa ngực có một vết thương máu tuôn đỏ chóe, đến sờ tay lạnh buốt vào tay con, con giật mình tỉnh dậy bồ hôi ướt đẫm khắp mình...

- Thôi, đích thị rồi! Ấy là con gái ông Hường Quyền, bị người nhân tình ghen đâm chết trong phòng này đó! Chị ả chết đến năm nay đã mười mấy năm rồi. Ra cái thứ ma chết oan lại bất đắc kỳ tử này nó sống dai dẳng thật, có khi đến mấy chục năm mà vong hồn vẫn chưa siêu linh!

- Bẩm cụ cũng tin là có ma?

- Thầy hỏi lạ chửa! Có chứ sao không? Ma là giống ở cỏi âm cũng như mình là loài ở cỏi dương, có gì là lạ! Ai ở địa hạt người ấy, miễn đừng xâm phạm đến nhau, đừng làm hại đến nhau thì thôi!

- Thưa cụ, mình có làm gì họ mà họ hại mình?

- Có chớ! Nó không thể xâm phạm đến mình được, nhưng nó chòng ghẹo mình thử chơi. Cũng tựa hồ như mình nói đùa con cái vậy. Một đôi khi, có lợi cho nó, thì nó tìm kế tàn sát mình nữa, tỷ như lũ ma trành chả hạn...

- Bẩm cụ, con nghe nói trên các miền thượng du này có rất nhiều chuyện ma kỳ quặc chẳng hay có đúng hay chăng? Con tuy chưa bao giờ ở lâu tại đồng rừng, nhưng cứ như mắt con đã thấy ở núi Gội và tai con đã nghe ở Đồng Giao, thì con phải tin rằng, trong cõi âm u lạnh lẽo của linh hồn, có nhiều sự kỳ dị hết sức. Con xin kể cụ nghe hai chuyện này, may ra cụ có thể chỉ giáo cho con được chút nào bổ ích chăng, vì sống trước con bốn năm chục năm, có lẽ cụ đã từng nghe nói về hai sự tích đó?

- Vừa tiêm thuốc mời ông cụ Chất, tôi vừa dần dà kể hầu cụ hai huyền bí hiểm lạ lùng mà tôi đã tường thuật trên đây. Cụ như chăm chú nghe tôi lắm, thỉnh thoảng lại cười mỉm và gật gù thưởng thức lời tôi. Khi thuật xong, cụ không đợi tôi phải hỏi, nói ngay rằng:

- Thầy với tôi hẳn phải có tiền duyên, nên mới gặp nhau tình cờ như hôm nay đó! Đã là bạn có duyên với nhau tôi nhẽ nào chẳng bổ chính thêm vào câu chuyện của thầy cho có ngành có ngọn, khiến thấy có thể, một ngày kia, đem hiến cho người đời. Quả như thầy đã tưởng, tôi có thể giúp thầy gây dựng lại sự tích nàng Oanh Cơ được. Hai câu chuyện thầy vừa kể, mặt ngoài tuy không có liên lạc gì mật thiết với nhau, song, bề trong chính là do một gốc mà ra cả.

Ai ngờ một chuyện bị chìm vào dĩ vãng ngoài năm chục năm rồi, bây giờ lại còn có người moi móc lên được? Giá thầy không gặp tôi, chuyện đó sẽ không có cỏ gì lý thú đáng ghi chép cả, nó chỉ là hai đoạn dã sử rời rạc mà thôi. Đã gặp tôi, tôi đem hai đoạn ấy chắp liền làm một, biến chúng thành một thiên bi sử ly kỳ. Ngoài tôi ra, hiện thời này, thực không còn ai có thể giúp thầy làm nên việc ấy! Tôi nói ngoài tôi, bởi tôi là người độc nhất vô nhị giấu trong ký ức thiên bi sử ly kỳ đó. Thầy đã có duyên với tôi, thì tôi xin kể thầy nghe!

Ông cụ nói đến đây, ngừng lại một chút. Tôi càng nghe ông. càng như nở từng khúc ruột, tai tôi nuốt lời ông một cách thèm nhạt, ngon lành. Tôi thấy mở đầu đã khá dài, cũng hơi nóng ruột muốn đi vào đầu đề tức khắc. May sao, ông cụ Chất không để tôi mất công chờ đợi.

Đêm hôm ấy, lại bên cạnh chiếc khay đèn nha phiến, cũng trong một gian phòng lặng lẽ âm u, tôi được hớt trên môi ông bạn già lai lịch của hai võ sĩ ở núi Gội, cũng như tôi đã trên môi anh Thủy, làm quen được với một đóa hoa vô cùng mỹ lệ và biết một phần sự tích của nàng Oanh Cơ!

Trong hoàn cảnh đêm đó, chỉ kém có một cái bóng yêu kiều: Lê Thị Một cái bóng khác, may sao, tự nhiên đền bù vào chỗ thiếu; Tuyết Tiên không hiểu vì đâu không nhắm mắt được, có lẽ cũng như tôi sợ con ma đàn bà bị đâm chết, nên mở cửa phòng sang nghe chõ chuyện dưới chân chồng, vẽ lên nền vàng xám của bức tường khách sạn một hình ảnh mảnh khảnh, dịu dàng, tha thướt như thông lay, buồn rầu như liễu rủ...

========================

------------------------ĐẸP DUYÊN CẦM SẮC------------------

Hồi ấy, nghĩa là cách đây đúng 56 năm, mùa xuân năm Giáp 1,Thân (1884), ngày 16 tháng 2, thành Bắc Ninh thất thủ về tay Pháp. Hai đạo binh dưới quyền của hai thiếu tướng De Négrier và Brière de l'Isle, một mặt qua sông Hồng Hà, theo dọc sông Đuống, một mặt ở Hải Dương, đi tàu tới Phả Lại rồi đổ bộ, cùng men bờ sông Nguyệt Cầu tiến đánh Bắc Ninh.

Trận ấy, quân Pháp chỉ mất độ tám tên binh và độ vài chục khẩu súng. Quân Tàu Cỏ Đen, núng thế, rút cả về Yên Thế, còn trơ quân An Nam thế cô, phải cổi giáp lai hàng. Một vị quan binh đứng đầu cai quản đội binh ta hồi ấy trong thành Bắc Ninh là lãnh binh Lê Vũ Khúc. Ông là dòng dõi cựu thần nhà Lê, tuy không phải tôn thất, song tổ tiên ông đã làm quan tới chức Công Khanh, ba bốn đời nối tiếp nhau trong hàng tứ trụ. Sau bốn năm thế hệ văn quan, trong họ bỗng đổi nghề nghiên bút sang nghề cung kiếm, tổ phụ Lê lãnh binh xuất thân cử võ, làm tới Ngũ quân Đô thống, thân sinh ông làm Sơn Nam Đề Đốc, đến đời ông khí nhuệ nhụt đi chút ít, ông chỉ làm tới Chánh lãnh binh thôi.

Khi thành Bắc Ninh có cuộc xung đột binh đao, Lê công đứng trên mặt thành đốc thúc quân sỉ, hợp với quân Cờ Đen kháng chiến cùng binh Pháp.

Phải một tốp lính phía dưới thành bắn lên, ông bị một phát trúng dưới xương vai, một phát trúng tay phải, rơi mất ba ngón taỵ Biết mình khó lòng chống cự được nữa, Lê công bèn nhảy vào trong thành, theo đường hầm chạy khỏi chiến trường, rồi lên ngựa phóng thẳng một mạch về chỗ đất phong ấp của ông, ở cách thành Bắc Ninh hơn một dặm. Gia đình ông ở cả trong ấp đó. Ông vừa phi ngựa tới cửa chưa kịp vào đến sân thì ngã gục xuống, lịm đi. Vực vào nhà ông cứ thế thiếp dần, máu chảy ra lênh láng, không trối trăng câu nào cả.

Lê phu nhân hồi đó mới non bốn mươi tuổi, bà sống với hai người con trai đã khôn lớn, một người mười bốn, một người mười hai. Cậu cả tên Lê Mạnh Khôi, cậu em là Lê Trọng Việt. Hai anh em được mục kích cái chết thảm thương của thân phụ lấy làm đau đớn lắm; tuy còn thơ ấu nhưng cũng đã cảm thấy sự tử biệt sinh ly là một nỗi thường tâm thống thiết nhất trên đời. Hai anh em giúp mẹ tắm rửa cho cha, khâm liệm tử tế và an táng cho người bị chết nạn chiến tranh vì tận tâm báo quốc.

Thành Bắc Ninh bị hạ rồi, khi loạn lạc đã yên yên, ba mẹ con thu thập đồ đạc, bỏ đất phong ấp ở Bắc Ninh rút về an cư lạc nghiệp ở núi Gội, là quê quán tổ tiên hai anh em Khôi và Việt.

Về đến tổ hương, mẹ dệt cửi vá may để nuôi cho hai con ăn học, theo các trẻ con trong làng, sang đình thụ giáo một ông đồ. Hai anh em họ Lê rất nhác, chẳng bao giờ thuộc bài vở sử kinh, chỉ toàn trốn thầy đi với lũ trẻ con du thủ du thực, tìm đến chân đồi chơi đánh trận giả và tập dượt quyền cước. Thầy đồ nhiều phen căng nọc đánh cho rất đau mà hai anh em vẫn không chừa, cứ ham mê nghề võ hơn nghề văn. Bà từ mẫu ngày ngày hết sức khuyên răn, Khôi và Việt thờ mẹ rất hiếu thảo nên lại quỳ xuống xin lỗi mẹ và hẹn sẽ ra công chăm chỉ học, nhưng đến hôm sau, vắng mặt mẫu thân thì vẫn chứng nào tật ấy như thường.

Dần dần, bà mẹ biết rằng máu truyền thống chạy trong huyết mạch hai đứa con mình còn sôi nổi hăng hái lắm, nên cũng chỉ bảo ban lấy lệ mà thôi, còn mặc cho hai anh em Khôi, Việt được tự do luyện tập gân cốt, không ngăn cản nữa. Thành thử đến năm sáu năm sau, cả hai cùng to lớn khỏe mạnh; rõ ràng một đôi lực sĩ hùng dũng, oai phong. Từ khi góa chồng, Lê mẫu làm lụng chăm chỉ, để dành để dụm, thu xếp tảo tần, khi bỏ ấp ở Bắc ra đi, có bao nhiêu của cải thu vén đem cả về Nam Định; nhờ thế cũng có ít nhiều ruộng nương phong phú, đủ túc dụng một đời. Hai anh em Khôi, Việt, kịp đến tuổi trưởng thành, bà chưa có thì giờ lo bề gia thất cho hai con thì tự nhiên lâm bệnh, rồi lúc khỏi, liệt mất cả hai chân, không làm ăn gì được nữa. Hai anh em phải ở nhà lo liệu công việc giúp đỡ mẹ già. Tuy nói là giúp đỡ, nhưng kỳ thực hai cậu ấm chả được việc gì có lợi cả, bà mẹ ngồi một chỗ mà vẫn phải để tâm coi sóc đến công chuyện hàng ngày. Ruộng nương thì bà cho cấy rẽ, cứ đến vụ là có gia đinh đi thu thóc lúa về, hai cậu ấm chỉ phải trông lũ người nhà, đừng để chúng ăn bớt ăn xới, thế là đủ. Lúc bán lúa cho hàng xáo, thì cũng đã có các vú bõ đếm tiền đong thóc, chả bận gì đến cậu ấm cả và cậu ấm hai.

Những buổi không phải coi sóc người nhà, ngoài vụ mùa màng và vụ bán chác, hai anh em lại chia nhau, anh ở nhà với mẹ già ba tháng, em di ngao du săn bắn nơi xa; rồi em lại trở về nhà ở ba tháng trong khi anh được tự do đi chơi đây đó. Cậu hai Việt hay vào mạn Đồng Giao săn bắn, mỗi khi cậu đi vắng, thì cậu cả có thèm thuồng lắm cũng không dám rời mẹ đi chơi nốt, chỉ quanh quẩn vào chợ Ghềnh lùng hưu nai hay chồn cáo một hai ngày mà thôi. Nhưng hễ cậu hai quay gót trở về, lại tha hồ cho cậu ấm Khôi muốn vượt bể băng ngàn tới đâu mặc sức.

Một buổi sớm, cậu Việt về nhà bỗng thấy vẻ vui mừng tươi tỉnh, song chỉ vui mừng tươi tỉnh được ít hôm đầu. Vui tươi xong, cậu bỗng đâm ra thẫn thờ, vớ vẩn, tựa hồ thần hồn thần trí bị một cái gì ám ảnh; có ngày cậu buồn thỉu buồn thiu chả nói một câu nào, bà mẹ có hỏi thì cậu gượng cười chốc lát, nhưng phút sau, lại trầm ngâm mơ tưởng nhớ nhung ai. Thấy anh cả đi vắng lâu, cậu lộ ra vẻ sốt tuột lăm chỉ ngong ngóng ra đứng cửa chầu chực, đợi cậu Khôi về suốt ngày.

Mong ròng ra ba tháng, cũng chả thấy, mãi gần sáu tháng mới gặp cậu ấm anh trở lại, tải về một xe gạc hưu nai và hai tấm da báo, một tấm da cọp và một bộ hổ cốt. Anh em chả kịp hàn huyên nữa; cậu hai thấy có anh về thì mừng quýnh vội vàng thu xếp hành lý ra đi ngaỵ Lần này cậu đi chơi có non nửa tháng đã về, đem theo một người con gái mặc tang phục, và một đứa trẻ độ 14, 15 tuổi.

Từ trước tới nay, có nhiều nhà phú hộ và danh giá trong vùng Gội, thấy hai anh em họ Lê con nhà võ tướng, và rất khôi ngô tuấn tú, có ý muốn gả con chọ Mối lái có đến nhà ngỏ lời cho Lê mẫu biết, bà cụ hỏi ý kiến hai con, song cả hai cậu, chẳng cậu nào bằng lòng lập gia đình cả.

- Lạy mẹ, anh em chúng con còn ít tuổi, có đi đâu mà vội! Mẹ còn trường thọ nữa, vì lão niên đới tật là một số rất tốt. Nếu mẹ cho phép chúng con, thì chúng con sẽ tự chọn lựa lấy người bạn trăm năm chăn gối, như thế sau này chúng con chẳng còn oán thán nỗi gì! Duyên số là một sự tình cờ mà thành, chớ biết thế nào mà chọn lựa?

Lê mẫu nghe hai con trình bày như vậy, cũng vui lòng chiều ý không ép uổng nữa. Hai anh em vì trọng võ thuật, cũng chả nghĩ đến sự lấy vợ. Tới khi Việt thình lình đem một người con gái ở đâu về cả nhà đều lạ lùng kinh ngạc hết sức. Cậu hai đem nàng ấy vào lạy mẹ và lạy anh, rồi đầu đuôi sự thể thế nào, thú thật cả một lượt cho mẹ và anh rõ. Lê mẫu mới hay thiếu nữ đó là nàng Oanh Cơ quê ở làng Bàn Thạch tỉnh Thanh Hóa, bồ côi cha mẹ và hiện không còn ai thân thích họ hàng. Bà và cậu ấm cả thấy Oanh Cơ thùy mị dịu dàng lại thướt tha kiều diễm, nên rất vui lòng đẹp ý, nghĩ ngay đến sự cho phép nàng và cậu hai Việt sánh đôi. Cậu hai cũng chỉ mong ước có thế, thôi lúc nghe mẹ và anh nói trúng tâm can mình, cậu bất giác đỏ một tía tai, phần vì thẹn, phần vì mừng, phần vì thương anh thương mẹ đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm của mình, không hề cản trở ý định của mình một chút cỏn con nào cả.

Cậu Việt vội bẩm mẹ là nàng Oanh còn có trở anh chị nàng bị chết trong khi vào rừng gặp cọp, phải đợi nàng trừ phục đã mới sẽ bàn đến chuyện thành thân. Từ đó, hai cô cháu Oanh Cơ ở hầu hạ Lê mẫu như hầu hạ mẹ già, không có lòng muốn đi đâu nữa. Mà cậu ấm hai cũng nhường anh đi xa săn bắn; về phần cậu, cậu chỉ muốn ờ nhà thần hôn định tỉnh bên gối huyên đường mà thôi.

Hơn một năm sau, nàng Oanh Cơ mặc áo quần hồng, quấn khăn vành dây, che quạt lượt đỏ, lạy Lê mẫu hai lạy để trở nên mợ hai Việt. Lứa uyên ương mới cả ngày chỉ quấn quít lấy nhau, yêu mến nhau cực điểm, khiến mẹ già trông thấy cũng vui lòng. Trong gia đình họ Lê từ đó, càng ngày càng thêm vui, thêm thịnh; Oanh Cơ đã từ đâu đem về cho Lê mẫu sự an nhàn thư thái, đem về cho cậu Hai sự hạnh phúc êm đềm. Từ ngày có nàng, Lê mẫu không phải nai lưng cáng đáng công chuyện trong nhà nữa. Bao nhiêu việc tần tảo thu vén gặt lúa, bán thóc, một tay nàng coi sóc được hoàn hảo, vẹn toàn.

Nàng là người không những chỉ có thanh có sắc, nàng còn khéo léo đủ đường, tề gia nội trợ đảm đang khôn xiết. Nhà họ Lê có nàng thì phòng ốc cửa ngõ ngăn nắp đâu vào đấy; thềm gạch, sân hầu bao giờ cũng sạch sẽ tươm tất. đồ đạc giường chiếu bao giờ cũng ngay ngắn chỉnh tề; cơm bao giò cung ngon, canh bao giờ cũng ngọt; trong gia đình bao giờ cũng êm thắm yên vui. Lê mẫu nhiều phen ngồi bên ngọn đèn dầu đọc sách xem con dâu dệt cửI, thinh thoảng gấp sách ngừng đọc, trông Oanh Cơ một cách yêu đương âu yếm, bảo nàng rằng:

- Này nhà hai! Mày về làm dâu mẹ, mẹ chả còn có điều gì trách móc được. Mẹ bình sinh không có con gái, nay được con mẹ quí mến biết bao! Nhất là tất cả mọi việc trong nhà, con một tay thu xếp gọn gàng yên ổn cả, khiến mẹ được ăn không dưỡng lão, mẹ còn gì mà chả vui lòng? Sau này mẹ nếu thác đi, buổi lâm chung thực mẹ không ấn hận oán than gì nữa! Duy chỉ có một điều là anh con chưa có vợ, vợ chồng con thì chưa có con, nếu hai sự ấy nhất đán nhờ Trời Phật, đều được như lòng mẹ ước, thì mẹ dù nhắm mắt cũng sẽ mãn nguyện đủ trăm bề.

Bà cụ mong như vậy, ai ngờ ước mong của bà nó linh hiệu làm sao! Chẳng bao lâu, nàng Oanh thụ thai, khiến bà thiếu chút nữa mừng quá mà chết. Mãn nguyệt khai hoa, Oanh cho ra đời một đưa con gái nhỏ giống mẹ như tạc, lại được có vẻ khẳng khái lẫm liệt của chạ Trong gia đình nhờ có đứa trẻ càng tăng hạnh phúc êm vui; cậu Việt, từ buổi có con, chỉ quấn quít chung quanh mình vợ, hầu hạ con như một ông bố trung thành tận tụy.

Riêng chỉ có Khôi thì vẫn không quên nghề nguy hiểm, ở nhà lâu không săn bắn tập luyện là thấy chồn chân khó chịu vô cùng. Chàng thường đi đây đó suốt năm, ở nhà nhiều nhất chỉ được độ vài ba tháng. Mỗi kỳ ở nhà, Khôi lại bắt Việt theo mình ra chân đồi múa võ, sợ em lâu ngày không rèn tập thì gân cốt yếu hèn đi. Bởi thế, cứ độ nào có Khối, thì Việt phải tạm xa vợ xa con một ngày hai buổi, cùng anh ra dượt võ ở ngoài đồng. Lâu dần thành một thói quen hễ cứ anh đi vắng thì thôi, lúc nào anh có nhà, Việt lại cùng anh đối thủ. Hai anh em tựa hồ rất có tin ngưỡng trong nghề quyền cước; họ thi nhau trổ tài không phải để cố ý ganh nhau, cũng không phải để khoe khoang tài nghệ mình trước mặt công chúng. Công chúng đây là vài ba người nhà quê hiền hậu, chất phác chả hiểu cung kiếm là gì. Lắm khi hai anh em họ Lê rượt nhau chạy bên mình họ, họ cũng vẫn thản nhiên điềm tỉnh cày bừa, không buồn để ý đến. Tuy họ không chú ý ngắm nhìn hai cậu ấm luyện võ, mà trong làng, từ trên chí dưới chẳng ai là người không rõ hai anh em họ Lê là một đôi tráng sĩ hùng dũng, săn bắn rất giỏi có sức đích nổi muôn người. Tiếng đó đồn đãi rất xa; quanh một vùng từ Bình Lục đến chợ Ghềnh, Đồng Giao, rất nhiều tay hào kiệt, rất nhiều đảng lục lâm, đều mộ tiếng cả hai chàng Khôi, Việt.

Hai chàng giỏi võ nghệ gần đến nơi tuyệt đích thế mà không bao giờ dùng sức mạnh của mình để làm một sự gì phạm pháp hoặc mưu công danh tài lợi trong đời. Hai anh em chỉ an cư ở thôn quên sinh hoạt bằng mươi mẫu ruộng và bằng nghề săn hưu, nai, beo, cọp; họ thờ mẹ chí hiếu, đối với anh em vợ con, thân bàng cố hửu chí tình, tịnh không có một dục vọng cao kỳ nào cả.

Ai ngờ đâu xử thế đến như vậy mà cả hai đều không tránh khỏi dây oan nghiệt đến chằng vào cổ; một ngày kia Khôi Việt cùng bị tình nghi phải bắt giải lên Tỉnh ly, rồi chẳng bao lâu bị khép vào án tử hình. Thực là vạ gió tai bay, chả ai hiểu vì đâu nên nỗi. Có kẻ hiếu sự len lỏi vào gia đình hai cậu ấm bàn tán rằng chả qua chỉ vì Oanh Cơ mà cửa nhà phút chốc tan tành. Họ nói:

- Phàm giả những đóa hồng nhan rực rỡ và hoàn hảo quá chỉ toàn là những binh khí giết người. Muội Hỉ làm chết vua Kiệt, Đắc Kỷ làm chết vua Trụ, Tây Thi xui Phù Sai vong quốc diệt thân mà Bao Tự khiến U Vương táng mệnh, còn Qúi Phi thì làm Minh Hòang sống cũng như thác; thực quả đàn bà đẹp là cái mầm tai họa đến cho đời! Đến vương bá bị những vưu vật đó còn thiệt thân mất nước, nữa là người thường tránh sao khỏi nạn tan cửa nát nhà!

Câu nói ấy, tuy quá độc địa, song cũng có một phần sự thực. Sắc đẹp nàng Oanh Cơ quả là một duyên cớ trọng yếu khiến chồng và anh chồng nàng bị cái nạn đoạn đầu. Hai anh em họ Lê bình sinh hay đem nhau ra thí võ ở chân đồi làng Gội, đều bị đao phủ hành hình tại chỗ đó.

Oan hồn, sau khi lìa khỏi xác trong một trường hợp cực kỳ thảm thiết, vì uất ức nên không tài nào tiêu tán đợc, nhất là vì hai tráng sĩ chết rồi, lại không được họ hàng lập đàn cầu nguyện cho tinh thần chóng đợc siêu thăng. Hấp thụ mãi khí thiêng liêng của non sông cây cỏ, hai vong hồn đó lâu dần hóa ra một thứ ma có đủ tư cách hiện hình về được, hiện về chẳng để dọa nạt hay làm hại ai cả, nhưng chỉ để diễn lại một bài quyền xưa kia họ ngày ngày hằng tập luyện ngõ hầu khi trong cái thế hệ mới mẻ này vết tích một nỗi thương tâm uất ức của một thời dĩ vãng một nỗi đau thương do "oan nghiệt" dệt thành...

=============================

--------------------------ĐẸP DUYÊN CẦM SẮC--------------------

Hồi ấy, nghĩa là cách đây đúng 56 năm, mùa xuân năm Giáp 1,Thân (1884), ngày 16 tháng 2, thành Bắc Ninh thất thủ về tay Pháp. Hai đạo binh dưới quyền của hai thiếu tướng De Négrier và Brière de l'Isle, một mặt qua sông Hồng Hà, theo dọc sông Đuống, một mặt ở Hải Dương, đi tàu tới Phả Lại rồi đổ bộ, cùng men bờ sông Nguyệt Cầu tiến đánh Bắc Ninh.

Trận ấy, quân Pháp chỉ mất độ tám tên binh và độ vài chục khẩu súng. Quân Tàu Cỏ Đen, núng thế, rút cả về Yên Thế, còn trơ quân An Nam thế cô, phải cổi giáp lai hàng. Một vị quan binh đứng đầu cai quản đội binh ta hồi ấy trong thành Bắc Ninh là lãnh binh Lê Vũ Khúc. Ông là dòng dõi cựu thần nhà Lê, tuy không phải tôn thất, song tổ tiên ông đã làm quan tới chức Công Khanh, ba bốn đời nối tiếp nhau trong hàng tứ trụ. Sau bốn năm thế hệ văn quan, trong họ bỗng đổi nghề nghiên bút sang nghề cung kiếm, tổ phụ Lê lãnh binh xuất thân cử võ, làm tới Ngũ quân Đô thống, thân sinh ông làm Sơn Nam Đề Đốc, đến đời ông khí nhuệ nhụt đi chút ít, ông chỉ làm tới Chánh lãnh binh thôi.

Khi thành Bắc Ninh có cuộc xung đột binh đao, Lê công đứng trên mặt thành đốc thúc quân sỉ, hợp với quân Cờ Đen kháng chiến cùng binh Pháp.

Phải một tốp lính phía dưới thành bắn lên, ông bị một phát trúng dưới xương vai, một phát trúng tay phải, rơi mất ba ngón taỵ Biết mình khó lòng chống cự được nữa, Lê công bèn nhảy vào trong thành, theo đường hầm chạy khỏi chiến trường, rồi lên ngựa phóng thẳng một mạch về chỗ đất phong ấp của ông, ở cách thành Bắc Ninh hơn một dặm. Gia đình ông ở cả trong ấp đó. Ông vừa phi ngựa tới cửa chưa kịp vào đến sân thì ngã gục xuống, lịm đi. Vực vào nhà ông cứ thế thiếp dần, máu chảy ra lênh láng, không trối trăng câu nào cả.

Lê phu nhân hồi đó mới non bốn mươi tuổi, bà sống với hai người con trai đã khôn lớn, một người mười bốn, một người mười hai. Cậu cả tên Lê Mạnh Khôi, cậu em là Lê Trọng Việt. Hai anh em được mục kích cái chết thảm thương của thân phụ lấy làm đau đớn lắm; tuy còn thơ ấu nhưng cũng đã cảm thấy sự tử biệt sinh ly là một nỗi thường tâm thống thiết nhất trên đời. Hai anh em giúp mẹ tắm rửa cho cha, khâm liệm tử tế và an táng cho người bị chết nạn chiến tranh vì tận tâm báo quốc.

Thành Bắc Ninh bị hạ rồi, khi loạn lạc đã yên yên, ba mẹ con thu thập đồ đạc, bỏ đất phong ấp ở Bắc Ninh rút về an cư lạc nghiệp ở núi Gội, là quê quán tổ tiên hai anh em Khôi và Việt.

Về đến tổ hương, mẹ dệt cửi vá may để nuôi cho hai con ăn học, theo các trẻ con trong làng, sang đình thụ giáo một ông đồ. Hai anh em họ Lê rất nhác, chẳng bao giờ thuộc bài vở sử kinh, chỉ toàn trốn thầy đi với lũ trẻ con du thủ du thực, tìm đến chân đồi chơi đánh trận giả và tập dượt quyền cước. Thầy đồ nhiều phen căng nọc đánh cho rất đau mà hai anh em vẫn không chừa, cứ ham mê nghề võ hơn nghề văn. Bà từ mẫu ngày ngày hết sức khuyên răn, Khôi và Việt thờ mẹ rất hiếu thảo nên lại quỳ xuống xin lỗi mẹ và hẹn sẽ ra công chăm chỉ học, nhưng đến hôm sau, vắng mặt mẫu thân thì vẫn chứng nào tật ấy như thường.

Dần dần, bà mẹ biết rằng máu truyền thống chạy trong huyết mạch hai đứa con mình còn sôi nổi hăng hái lắm, nên cũng chỉ bảo ban lấy lệ mà thôi, còn mặc cho hai anh em Khôi, Việt được tự do luyện tập gân cốt, không ngăn cản nữa. Thành thử đến năm sáu năm sau, cả hai cùng to lớn khỏe mạnh; rõ ràng một đôi lực sĩ hùng dũng, oai phong. Từ khi góa chồng, Lê mẫu làm lụng chăm chỉ, để dành để dụm, thu xếp tảo tần, khi bỏ ấp ở Bắc ra đi, có bao nhiêu của cải thu vén đem cả về Nam Định; nhờ thế cũng có ít nhiều ruộng nương phong phú, đủ túc dụng một đời. Hai anh em Khôi, Việt, kịp đến tuổi trưởng thành, bà chưa có thì giờ lo bề gia thất cho hai con thì tự nhiên lâm bệnh, rồi lúc khỏi, liệt mất cả hai chân, không làm ăn gì được nữa. Hai anh em phải ở nhà lo liệu công việc giúp đỡ mẹ già. Tuy nói là giúp đỡ, nhưng kỳ thực hai cậu ấm chả được việc gì có lợi cả, bà mẹ ngồi một chỗ mà vẫn phải để tâm coi sóc đến công chuyện hàng ngày. Ruộng nương thì bà cho cấy rẽ, cứ đến vụ là có gia đinh đi thu thóc lúa về, hai cậu ấm chỉ phải trông lũ người nhà, đừng để chúng ăn bớt ăn xới, thế là đủ. Lúc bán lúa cho hàng xáo, thì cũng đã có các vú bõ đếm tiền đong thóc, chả bận gì đến cậu ấm cả và cậu ấm hai.

Những buổi không phải coi sóc người nhà, ngoài vụ mùa màng và vụ bán chác, hai anh em lại chia nhau, anh ở nhà với mẹ già ba tháng, em di ngao du săn bắn nơi xa; rồi em lại trở về nhà ở ba tháng trong khi anh được tự do đi chơi đây đó. Cậu hai Việt hay vào mạn Đồng Giao săn bắn, mỗi khi cậu đi vắng, thì cậu cả có thèm thuồng lắm cũng không dám rời mẹ đi chơi nốt, chỉ quanh quẩn vào chợ Ghềnh lùng hưu nai hay chồn cáo một hai ngày mà thôi. Nhưng hễ cậu hai quay gót trở về, lại tha hồ cho cậu ấm Khôi muốn vượt bể băng ngàn tới đâu mặc sức.

Một buổi sớm, cậu Việt về nhà bỗng thấy vẻ vui mừng tươi tỉnh, song chỉ vui mừng tươi tỉnh được ít hôm đầu. Vui tươi xong, cậu bỗng đâm ra thẫn thờ, vớ vẩn, tựa hồ thần hồn thần trí bị một cái gì ám ảnh; có ngày cậu buồn thỉu buồn thiu chả nói một câu nào, bà mẹ có hỏi thì cậu gượng cười chốc lát, nhưng phút sau, lại trầm ngâm mơ tưởng nhớ nhung ai. Thấy anh cả đi vắng lâu, cậu lộ ra vẻ sốt tuột lăm chỉ ngong ngóng ra đứng cửa chầu chực, đợi cậu Khôi về suốt ngày.

Mong ròng ra ba tháng, cũng chả thấy, mãi gần sáu tháng mới gặp cậu ấm anh trở lại, tải về một xe gạc hưu nai và hai tấm da báo, một tấm da cọp và một bộ hổ cốt. Anh em chả kịp hàn huyên nữa; cậu hai thấy có anh về thì mừng quýnh vội vàng thu xếp hành lý ra đi ngaỵ Lần này cậu đi chơi có non nửa tháng đã về, đem theo một người con gái mặc tang phục, và một đứa trẻ độ 14, 15 tuổi.

Từ trước tới nay, có nhiều nhà phú hộ và danh giá trong vùng Gội, thấy hai anh em họ Lê con nhà võ tướng, và rất khôi ngô tuấn tú, có ý muốn gả con chọ Mối lái có đến nhà ngỏ lời cho Lê mẫu biết, bà cụ hỏi ý kiến hai con, song cả hai cậu, chẳng cậu nào bằng lòng lập gia đình cả.

- Lạy mẹ, anh em chúng con còn ít tuổi, có đi đâu mà vội! Mẹ còn trường thọ nữa, vì lão niên đới tật là một số rất tốt. Nếu mẹ cho phép chúng con, thì chúng con sẽ tự chọn lựa lấy người bạn trăm năm chăn gối, như thế sau này chúng con chẳng còn oán thán nỗi gì! Duyên số là một sự tình cờ mà thành, chớ biết thế nào mà chọn lựa?

Lê mẫu nghe hai con trình bày như vậy, cũng vui lòng chiều ý không ép uổng nữa. Hai anh em vì trọng võ thuật, cũng chả nghĩ đến sự lấy vợ. Tới khi Việt thình lình đem một người con gái ở đâu về cả nhà đều lạ lùng kinh ngạc hết sức. Cậu hai đem nàng ấy vào lạy mẹ và lạy anh, rồi đầu đuôi sự thể thế nào, thú thật cả một lượt cho mẹ và anh rõ. Lê mẫu mới hay thiếu nữ đó là nàng Oanh Cơ quê ở làng Bàn Thạch tỉnh Thanh Hóa, bồ côi cha mẹ và hiện không còn ai thân thích họ hàng. Bà và cậu ấm cả thấy Oanh Cơ thùy mị dịu dàng lại thướt tha kiều diễm, nên rất vui lòng đẹp ý, nghĩ ngay đến sự cho phép nàng và cậu hai Việt sánh đôi. Cậu hai cũng chỉ mong ước có thế, thôi lúc nghe mẹ và anh nói trúng tâm can mình, cậu bất giác đỏ một tía tai, phần vì thẹn, phần vì mừng, phần vì thương anh thương mẹ đã nghĩ đến hạnh phúc trăm năm của mình, không hề cản trở ý định của mình một chút cỏn con nào cả.

Cậu Việt vội bẩm mẹ là nàng Oanh còn có trở anh chị nàng bị chết trong khi vào rừng gặp cọp, phải đợi nàng trừ phục đã mới sẽ bàn đến chuyện thành thân. Từ đó, hai cô cháu Oanh Cơ ở hầu hạ Lê mẫu như hầu hạ mẹ già, không có lòng muốn đi đâu nữa. Mà cậu ấm hai cũng nhường anh đi xa săn bắn; về phần cậu, cậu chỉ muốn ờ nhà thần hôn định tỉnh bên gối huyên đường mà thôi.

Hơn một năm sau, nàng Oanh Cơ mặc áo quần hồng, quấn khăn vành dây, che quạt lượt đỏ, lạy Lê mẫu hai lạy để trở nên mợ hai Việt. Lứa uyên ương mới cả ngày chỉ quấn quít lấy nhau, yêu mến nhau cực điểm, khiến mẹ già trông thấy cũng vui lòng. Trong gia đình họ Lê từ đó, càng ngày càng thêm vui, thêm thịnh; Oanh Cơ đã từ đâu đem về cho Lê mẫu sự an nhàn thư thái, đem về cho cậu Hai sự hạnh phúc êm đềm. Từ ngày có nàng, Lê mẫu không phải nai lưng cáng đáng công chuyện trong nhà nữa. Bao nhiêu việc tần tảo thu vén gặt lúa, bán thóc, một tay nàng coi sóc được hoàn hảo, vẹn toàn.

Nàng là người không những chỉ có thanh có sắc, nàng còn khéo léo đủ đường, tề gia nội trợ đảm đang khôn xiết. Nhà họ Lê có nàng thì phòng ốc cửa ngõ ngăn nắp đâu vào đấy; thềm gạch, sân hầu bao giờ cũng sạch sẽ tươm tất. đồ đạc giường chiếu bao giờ cũng ngay ngắn chỉnh tề; cơm bao giò cung ngon, canh bao giờ cũng ngọt; trong gia đình bao giờ cũng êm thắm yên vui. Lê mẫu nhiều phen ngồi bên ngọn đèn dầu đọc sách xem con dâu dệt cửI, thinh thoảng gấp sách ngừng đọc, trông Oanh Cơ một cách yêu đương âu yếm, bảo nàng rằng:

- Này nhà hai! Mày về làm dâu mẹ, mẹ chả còn có điều gì trách móc được. Mẹ bình sinh không có con gái, nay được con mẹ quí mến biết bao! Nhất là tất cả mọi việc trong nhà, con một tay thu xếp gọn gàng yên ổn cả, khiến mẹ được ăn không dưỡng lão, mẹ còn gì mà chả vui lòng? Sau này mẹ nếu thác đi, buổi lâm chung thực mẹ không ấn hận oán than gì nữa! Duy chỉ có một điều là anh con chưa có vợ, vợ chồng con thì chưa có con, nếu hai sự ấy nhất đán nhờ Trời Phật, đều được như lòng mẹ ước, thì mẹ dù nhắm mắt cũng sẽ mãn nguyện đủ trăm bề.

Bà cụ mong như vậy, ai ngờ ước mong của bà nó linh hiệu làm sao! Chẳng bao lâu, nàng Oanh thụ thai, khiến bà thiếu chút nữa mừng quá mà chết. Mãn nguyệt khai hoa, Oanh cho ra đời một đưa con gái nhỏ giống mẹ như tạc, lại được có vẻ khẳng khái lẫm liệt của chạ Trong gia đình nhờ có đứa trẻ càng tăng hạnh phúc êm vui; cậu Việt, từ buổi có con, chỉ quấn quít chung quanh mình vợ, hầu hạ con như một ông bố trung thành tận tụy.

Riêng chỉ có Khôi thì vẫn không quên nghề nguy hiểm, ở nhà lâu không săn bắn tập luyện là thấy chồn chân khó chịu vô cùng. Chàng thường đi đây đó suốt năm, ở nhà nhiều nhất chỉ được độ vài ba tháng. Mỗi kỳ ở nhà, Khôi lại bắt Việt theo mình ra chân đồi múa võ, sợ em lâu ngày không rèn tập thì gân cốt yếu hèn đi. Bởi thế, cứ độ nào có Khối, thì Việt phải tạm xa vợ xa con một ngày hai buổi, cùng anh ra dượt võ ở ngoài đồng. Lâu dần thành một thói quen hễ cứ anh đi vắng thì thôi, lúc nào anh có nhà, Việt lại cùng anh đối thủ. Hai anh em tựa hồ rất có tin ngưỡng trong nghề quyền cước; họ thi nhau trổ tài không phải để cố ý ganh nhau, cũng không phải để khoe khoang tài nghệ mình trước mặt công chúng. Công chúng đây là vài ba người nhà quê hiền hậu, chất phác chả hiểu cung kiếm là gì. Lắm khi hai anh em họ Lê rượt nhau chạy bên mình họ, họ cũng vẫn thản nhiên điềm tỉnh cày bừa, không buồn để ý đến. Tuy họ không chú ý ngắm nhìn hai cậu ấm luyện võ, mà trong làng, từ trên chí dưới chẳng ai là người không rõ hai anh em họ Lê là một đôi tráng sĩ hùng dũng, săn bắn rất giỏi có sức đích nổi muôn người. Tiếng đó đồn đãi rất xa; quanh một vùng từ Bình Lục đến chợ Ghềnh, Đồng Giao, rất nhiều tay hào kiệt, rất nhiều đảng lục lâm, đều mộ tiếng cả hai chàng Khôi, Việt.

Hai chàng giỏi võ nghệ gần đến nơi tuyệt đích thế mà không bao giờ dùng sức mạnh của mình để làm một sự gì phạm pháp hoặc mưu công danh tài lợi trong đời. Hai anh em chỉ an cư ở thôn quên sinh hoạt bằng mươi mẫu ruộng và bằng nghề săn hưu, nai, beo, cọp; họ thờ mẹ chí hiếu, đối với anh em vợ con, thân bàng cố hửu chí tình, tịnh không có một dục vọng cao kỳ nào cả.

Ai ngờ đâu xử thế đến như vậy mà cả hai đều không tránh khỏi dây oan nghiệt đến chằng vào cổ; một ngày kia Khôi Việt cùng bị tình nghi phải bắt giải lên Tỉnh ly, rồi chẳng bao lâu bị khép vào án tử hình. Thực là vạ gió tai bay, chả ai hiểu vì đâu nên nỗi. Có kẻ hiếu sự len lỏi vào gia đình hai cậu ấm bàn tán rằng chả qua chỉ vì Oanh Cơ mà cửa nhà phút chốc tan tành. Họ nói:

- Phàm giả những đóa hồng nhan rực rỡ và hoàn hảo quá chỉ toàn là những binh khí giết người. Muội Hỉ làm chết vua Kiệt, Đắc Kỷ làm chết vua Trụ, Tây Thi xui Phù Sai vong quốc diệt thân mà Bao Tự khiến U Vương táng mệnh, còn Qúi Phi thì làm Minh Hòang sống cũng như thác; thực quả đàn bà đẹp là cái mầm tai họa đến cho đời! Đến vương bá bị những vưu vật đó còn thiệt thân mất nước, nữa là người thường tránh sao khỏi nạn tan cửa nát nhà!

Câu nói ấy, tuy quá độc địa, song cũng có một phần sự thực. Sắc đẹp nàng Oanh Cơ quả là một duyên cớ trọng yếu khiến chồng và anh chồng nàng bị cái nạn đoạn đầu. Hai anh em họ Lê bình sinh hay đem nhau ra thí võ ở chân đồi làng Gội, đều bị đao phủ hành hình tại chỗ đó.

Oan hồn, sau khi lìa khỏi xác trong một trường hợp cực kỳ thảm thiết, vì uất ức nên không tài nào tiêu tán đợc, nhất là vì hai tráng sĩ chết rồi, lại không được họ hàng lập đàn cầu nguyện cho tinh thần chóng đợc siêu thăng. Hấp thụ mãi khí thiêng liêng của non sông cây cỏ, hai vong hồn đó lâu dần hóa ra một thứ ma có đủ tư cách hiện hình về được, hiện về chẳng để dọa nạt hay làm hại ai cả, nhưng chỉ để diễn lại một bài quyền xưa kia họ ngày ngày hằng tập luyện ngõ hầu khi trong cái thế hệ mới mẻ này vết tích một nỗi thương tâm uất ức của một thời dĩ vãng một nỗi đau thương do "oan nghiệt" dệt thành...

=======================

-----------------------ĐÈO Ô QUÍ HỒ---------------

Trên con đường từ Chapa qua Phong Thổ, một đoàn khách dừng chân nghỉ giữa con đèo Ô Qúi Hồ. Đoàn hành khách có mười hai người: một người đàn bà và một người con gái bé ngồi ghế đăng sơn một người con trai cưỡi ngựa, còn bao nhiêu là phu khiêng ghế và tải đồ đạc cả.

Hỏi ra mới biết người đàn bà đó là bà Tri Châu Phong Thổ, chồng vừa ra đất ấy phóng nhậm được ít lâu naỵ Đứa con gái bé là con bà, người con trai là cháu bà. Đoàn phu để chiếc ghế đăng sơn ở chỗ có bóng mát, rồi họ tản mác ngồi mỗi người ở một gốc cây để nghỉ chân dưỡng sức. Bà Tri Châu lúc ấy giở tráp trầu ra ăn một miếng, trông bà có vẻ buồn rầu lo lắng, nhưng vẻ lo buồn không làm thế nào át được sắc đẹp dịu dàng sắc so của bà. Bà ăn mặc cực kỳ diễm dắn, nền nếp, không đeo lắm vàng ngọc, không đánh phấn thoa son; song càng ngắm bà càng thấy có duyên, càng bị say đắm vì đôi con mắt mơ mộng của bà, đôi mắt đăm đăm nhìn vào khoảng chân trời xa thẳm.

Lúc ấy khoảng ba giờ chiều. Bóng nắng xê xế, trên đường rừng mát mẻ dễ chịu lắm. Người thiếu niên đi ngựa buộc con vật đỡ chân của chàng vào một gốc cây rồi đi dạo quanh quẩn ngắm nhìn vẻ đẹp lộng lẫy tươi thắm của ngàn nội. Tụi phu có vẻ mệt nhọc, vì họ đã tất tưởi cả ngày rồi, ai ai cũng nhân dịp lúc dừng chân mà quạt mồ hôi, và nghỉ ngơi cho lại sức. Họ để các rương hòm rải rác dọc đường, núi, rồi ngồi phanh ngực ra mà quạt, có người thì dựa vào gốc cây, vách đá mà lim dim ngủ, chả ai để ý đến chiếc đăng sơn để ngay sát rìa núi trước mặt bãi sậy rườm rà.

Bỗng đâu, một tiếng la to làm cho mọi người hoảng hốt đứng cả dậy, rồi đến tiếng khóc, rỗi đến một lời kêu the thé vang lùng trong rừng sậy đưa ra:

- Cháu Tiêu ơi! Cháu nhớ lấy lời cô đó!

Xong, im bặt. Cả đoàn ùa lại mé đăng sơn. Cô bé con nằm chết ngất, ngoẹo đầu dựa vào thành ghế, còn bà Tri Châu đã biến tự lúc nào rồi. Dưới đất, ngay chỗ đăng sơn, có vết bốn cái vuốt in sâu xuống cát. Đoàn phu nhận ra đó là dấu chân hổ. Thì ra bà Tri Châu đã bị hổ cắp tha đi!

Bà Tri Châu đó là Oanh Cợ Ngày nay, theo đúng nghiệp số của nàng, nàng phải theo hai anh chị chết dưới vuốt thiêng loài mãnh thú. Con hổ này rình nàng từ lâu lắm, nó định bắt nàng đi đã mấy năm nay rồi! Bới chưa có dịp nào, nó đành phải đợi sau khi bắt hụt nàng một phen ở Đồng Giao. Tra khảo anh chị nàng, nó biết nàng tất phải qua đèo Ô Qúi Hồ vì theo chồng ra Phong Thổ. Nó phục trong bụi lau đợi nàng ở đó. Ngày giờ nàng đã đến, số kiếp nàng đã tận, nàng bị nó nhảy xô ra ngắm chặt lấy lôi đi, giữa khi cháu nàng và các phu phen đều vô ý mỗi người chăm chú vào việc riêng của mình.

Đời Oanh Cơ thế là đoạn tuyệt; nàng vừa ra khỏi kịch trường mà nàng đã đóng một vai đào thương hết sức bi ai. Nhưng kỷ niệm của nàng mãi mãi vẫn không bị ám mờ trong lớp bể dâu; hình bóng nàng còn sống trong tâm hồn con nàng và cháu nàng, trước khi nhắm mắt lìa đời, nàng đã tìm ra được một bí mật: là chồng cũ nàng, Lê Trọng Việt không phải bị các quan tòa lầm lẫn bắt buộc vào tội chết, mà chính là kẻ thù đã thêu dệt đã bịa đặt ra nhiều chuyện để xui giục quan tòa hạ bút phê án tử hình! Kẻ thù ấy, độc địa thay! Lại là thầy Thông, người đã cùng nàng gá nghĩa sau này! Cậu ấm Lê Trọng Việt chết được 3 năm, nàng nghe lời đường mật của thầy cùng thầy đánh bạn. Nàng về nhà thầy được 3 năm thì thầy bổ đi Bắc Cạn, rồi được 2 năm nữa, thầy thăng Tri Châu, lên phó nhậm ở Phong Thổ. Trong khi chung chạ, nàng nhận ra thầy Thông là người gian trá xảo quyệt, chỉ có vẻ ngoài niềm nở lịch sự, mà thực tình trong lòng chứa đầy các kế độc, mưu sâu, nàng nhận được rằng thầy là kẻ tham lam bôn tẩu, tìm hết cách hại nhân thắng kỷ, một là để ăn tiền cho giàu có, hai là để chóng cao thăng. Thầy đã làm cho bao nhiêu gia đình tan nát, bao nhiêu nhân vật điêu linh, thế mà không tỏ vẻ gì hối hận cả, lại còn đắc ý là đàng khác. Những giờ chăn gối, nàng có ý gợi câu chuyện chồng cũ, than vãn sao kẻ kia vô tội mà đến nỗi bị quan trên khép vào án tử hình. Nghe nàng căn vặn thầy Thông cứ ầm ừ không trả lời sao cả; mãi lâu lắm, lâu lắm, một đêm mà trời đất lạnh lùng buồn tẻ, một đêm mà hoàn cảnh như gợi lòng người phải mở phanh cho tâm sự lọt ra, thầy Thông mới khe khẽ rỉ tai nàng, bằng một giọng trầm trầm, ngần ngại:

- Sở dĩ tôi yêu mợ quá, nên buộc lòng phải làm như thế! Đáng lý ra, anh em họ Lê không đến nỗi chết, chỉ phải tù tội mà thôi; tôi có nói thêm vào nên họ mới bị xử trảm. Song ngẫm ra đến ái tình là hết, tôi có quý thương mợ, nên mới gây ra tội ác ấy; không thì sao có ngày nay?

Từ khi nghe lời thú nhận của thầy Thông, Oanh Cơ coi thầy như con vật dữ, ngoài mặt nàng không lộ ra vẻ gì giận dỗi căm tức cả, nhưng trong lòng nàng chứa chất một khối oán hận tầy đình. Nàng oán thầy khẩu Phật tâm xà, làm hại người ngay thẳng để quyến rũ vợ người ta mà vẫn nhơn nhơn vui vẻ, hình như không coi việc ác của mình là một sự xấu xạ Nàng trót đã lấy thầy, không nhẽ giết thầy để rửa hận cho người đã thác; vả có giết thầy chăng nữa, cũng không đủ trả thù rửa oán; tội thầy đáng phải hình phạt một cách tàn nhẫn, độc địa sâu cay hơn, hình phạt thế nào cho thầy sống cũng như chết, ăn mất ngon, ngủ mất yên, đêm ngày tâm trí lo sợ, hối hận, hai mắt dù mở dù nhắm, cũng thấy những cảnh mất đầu đổ máu tự tay thầy đã gây nên. Như thế, may ra mới xứng đáng! Nàng muốn tìm một kế báo thù như thế, nhưng thời gian thấm thoắt, nàng chưa tìm được kế gì. Có lắm lúc mối oán hận trong lòng như sóng nước chơi vơi, tràn lên tới cổ, nàng muốn chém thầy ngay, đầu độc thầy ngay, song chợt nghĩ đến đứa con thơ, nàng lại nén dằn khối lòng, hết sức trấn tĩnh, lộ ra vẻ điềm đạm như thường, khiến thầy khỏi nghi ngờ.

Muốn biết rõ ngày xưa thầy hành động thế nào, Oanh Cơ lần về Nam Định, đến tòa sứ, hỏi những người bạn của thầy Thông, nhờ họ cho xem tập hồ sơ của cái án cũ Lê Trọng Việt. Xem tập án ấy, nàng mới hay lá đơn khiếu nại thầy đã làm hộ cho mẹ con nàng đại ý như sau này:

"Chúng tôi là Bùi Thị Lan, vợ góa của quan nguyên Lãnh binh Lê Văn Khúc và Nguyễn Oanh Cơ, nàng dâu thứ hai của vị cựu quan ấy, cúi đầu thành kính xin các quan Tòa đèn trời soi xét trông lại cho chúng con nhờ.

Nguyên hai tên Lê Mạnh Khôi và Lê Trọng Việt tức là con, anh chồng và chồng chúng con, gần đây lại can phạm vào vụ cướp ở làng Ngọc Chính Hạ. Tên đầu đang bọn cướp đó là Nguyễn Quán. có rủ rê người nhà chúng con làm việc phạm pháp, người nhà chúng con trót dại giúp đỡ quân phản nghịch, nhưng cúi xin các quan thương cho mà đừng bắt tội, bởi lẽ, nếu hai anh em Khôi và Việt bị tội, thì họ Lê chúng con sẽ tuyệt tự. Khôi và Việt còn mẹ già năm nay đã ngoài 50 lại có vợ dại con thơ không biết nàng tựa vào đâu, tình cảnh thực là bi thiết. Cúi xin các quan mở lượng hải hà, hết sức che chở bao dung cho, chúng con sẽ ngậm vành kết có, đội ơi các quan lớn vạn bội."

Một lá đơn như thế có bao giờ hai mẹ con nàng Oanh chịu ký tên ở dưới, nếu thầy Thông không đọc trại đi một cách khác, bảo rằng hai cậu ấm Lê không từng vào phe với đảng cướp bao giờ. Cứ theo lá đơn này, thì rõ ràng là, nàng Oanh và mẹ chồng nàng đã nhận rằng hai cậu ấm có đi ăn cướp thật, và kêu xin quan tòa ra tay tế độ, mở đường hiếu sinh chọ Nàng Oanh xem đến đấy, khí giận bốc lên ngùn ngụt nàng phải rút khăn lau mồ hôi trán đến bốn năm lần. Nàng lại giở xem nữa. Đến đoạn lấy khẩu cung, nàng thấy chép bằng tiếng Pháp, mới mượn người dịch lại cho nghe. Khẩu cung của anh em Khôi, Việt mà chính thầy Thông hồi ấy đã dịch cho các quan tòa nghe, như sau này:

"Chúng tôi vì có điều tức giận nên đi theo đảng cướp. Nay đã làm nên tộI, chúng tôi không hối hận gì cả!"

Trời ôi! Có lẽ nào anh chồng và chồng nàng lại điên cuồng ngộ dại mà khai như vậy? Thực tình họ có đi theo đảng cướp bao giờ. Con ngời độc địa sâu cay làm sao. Thế mà ngoài mặt vẫn đạo mao nghiêm trang, nào ai dám bảo là một kẻ giết người không đao kiếm?

Sau khi ở Nam Định về Oanh Cơ viện hết lẽ này đến lẽ khác. không hề chung chạ gối chăn với thầy Thông nữa. Cho mãi tới ngày thầy được giấy quan trên cho thăng chức Tri Châu, và bổ đi Phong Thổ. Thầy đi trước, chỉ đem một ít hành lý, dặn nàng ở lại Bắc Kạn, rồi đem người nhà và đồ đạc theo sau. Trước khi lên đường, không hiểu tại sao, nàng cảm thấy một sự gì buồn buồn khó tả, tựa hồ báo trớc cho nàng biết, nàng sắp gặp những tai nạn bất ngờ. Rửa mặt, nàng ngửi nước thấy mùi tanh; ra cửa nàng bị vấp suýt ngã, rồi lại có con chó vàng đến kéo áo như muốn lôi nàng trở lại. Nàng ngồi ở đâu thì chỗ ấy có nhện đen sạ Thực là những điềm quái dị vô cùng. Nàng bèn thảo một phong thư di chúc trao cho cháu là Nguyễn Đức Tiêu; đoạn, nàng tỏ bày nỗi oán hận cho cháu rõ và bảo chàng rằng:

- Cháu chịu khó giữ lấy thư này cho kín đáo cẩn thận lắm mới được! Khi nào em Quyên (con gái nàng) đúng 18 tuổi, bây giờ cháu sẽ kể sự tích cha nó thế nào cho nó nghe. Và cháu sẽ bảo nó nên theo đúng lời cô mà báo thù. Báo thế nào cho kẻ kia phải điêu linh, khổ sở, còn cũng như mất chứ đừng giết hại nó làm gì! Bởi giết nó, tức là gia ân cho nó đấy! Đi chuyến này, cô cảm thấy mệnh số cô hình như sắp hết; cô cháu ta sẽ cùng nhau vĩnh quyết nay mai! Trên đời này, cô không còn ai họ hàng thân thích cả, chỉ có cháu và em Quyên. Cô thường vẫn thương cháu như con, vậy một mai cô có mệnh hệ nào, cháu sẽ nghĩ tình, tận lực giúp em cho nó trả được thù, ấy là cháu đáp nghĩa cho cô đấy!

Nỗi lo ngại của nàng Oanh quả nhiên thành sự thực. Nàng đã bỏ con thơ cháu bé ở lại với cuộc đời tàn ác, để một mình lánh sang cõi thế bên kia. Câu chuyện sự tích nàng Oanh đến đây là dứt. Từ ngày nàng bị hổ tha vào bụi, thì cứ những đêm ma dầm gió bấc, những đêm u ám không trăng, trên quãng đèo Ô Qúi Hồ lại văng vẳng có tiếng đàn ca não nuột, ai bạo gan xông xáo trong đêm khuya rừng vắng, thì thấy ba cái bóng ma ngồi đàn hát cho một con cọp lớn ngồi nghe. Quái trạng đó hiện chán ở đèo Ô Qúi Hồ, thì lại quay về hiện ở Đồng Giao tức chỗ ngày trước nó thường dùng làm nơi cơ sở. Ở đây, cũng như ở kia, chỉ là do một gốc tích mà xảy ra tình hình ghê rợn ấy. Nàng Oanh thác rồi, 15 năm sau, con gái nàng mới thay nàng báo thù cho cha là Lê Trọng Việt. Câu chuyện báo thù ấy, lại là một vấn đề khác, nó dài dòng lắm, và nó ly kỳ rùng rợn chẳng kém gì câu chuyện của Oanh Cợ Con người độc nhất vô nhị được rõ nguồn gốc và kết quả sự báo phục ấy là tôi, bởi lẽ tình cờ và duyên số đã khiến tôi đóng một vai, một vai thụ động trong tấn kịch thương tâm chua xót ấy. Mà cũng vì có chân trong kịch, tâm tôi bị đeo một vết đau đớn thấm thía đến nay đã bốn mươi năm rồi, cũng vẫn chưa nguôi... Nhưng mà?... Bây giờ đêm sắp hết rồi, tôi không thể kể tiếp cho ông nghe được nữa! Mai khi chúng ta lên tới Chapa, trong những giờ rỗi rãi nhàn cả, tôi sẽ dần dần thuật một lượt để ông thởng thức!

Kìa! ông hút nữa đi chứ! Hút đi và tiêm cho tôi một điếu xem nào!

Cụ Trần Công Chất nói tới đây, ngừng lại, tôi nhìn cửa sổ trong phòng thấy ánh sáng nhờ nhờ đương xuyên qua luỗng

==============================

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lamtienpr