lamtienpr.tk/truyen_dai.1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

               Áo Vàng Qua Ngõ

Chương 1 :

Trúc thức dậy lúc 5 giờ sáng, chị Huyền hãy còn ngủ say sưa bên cạnh. Người chị trùm trong tấm mền dày chỉ chừa có gương mặt. Trong giấc ngủ gương mặt chị Huyền bình thản làm sao. Tự nhiên rồi Trúc bỗng chú ý tới gương mặt chị Huyền trong giấc ngủ mới kỳ lạ..... gương mặt chị trắng hồng, tuy rằng Trúc biết chẳng bao giờ chị thoa kem hoặc làm mặt nạ dưỡng da như hầu hết những cô gái khác vào lứa tuổi chị

Trúc rất ghét những cô gái làm điệu cả trong giấc ngủ, mặc dù Trúc cũng là người cùng phái. Chị Huyền ngủ không mím môi, mà cái môi he hé, cánh mũi thanh tú của chị hình như phập phồng theo nhịp thở, đôi mắt nhmắ với hai hàng lông mi cong như bup bê, cặp chân mày tỉa rất khéo, vầng trán thẳng, thông minh. Những sợi tóc rối vướng một bên gò má, nửa mái tóc kia phủ trên mặt gối. Phải nói chị Huyền đẹp dịu hiền như một thiếu nữ được vẽ trên lụa bởi bàn tay của một hoạ sĩ tài hoa và thông minh

Trúc lặng lẽ vuốt những sợi tóc mai loà xoà bên má chị Huyền, cô mỉm cười rồi lén xuống khỏi giường. Hãy cứ để yên cho chị ngủ, trời còn sớm, phải đến 6 giờ mới sửa soạn để đi Vũng Tàu. Trúc tranh thủ vào phòng tắm rửa mặt,đánh răng,chải sơ mái tóc rồi lên sân thượng tập thể dục theo như chương trình mỗi ngày mà dù bận rộn đến đâu Trúc cũng phải tuân theo.

Tiếng chuông của ngôi nhà thờ trong thành phố đã đổ gọi con chiên ngoan đạo vào buổi lễ sáng. Ðứng ở trên sân thượng. Trúc nghe tiếng chuông như bay qua ngang đầu,ngân lên trong vầng sương sớm rồi tan loãng ra trên các vòm cây đã thay lá non từ đầu mùa mưa. Sau kỳ thi vất vả,sức khỏe của Trúc giảm sút đáng lo ngại,cô mất đến 4 ký lô và thường chóng mặt. Do đó,Trúc nghe theo lời khuyên của bác sĩ nghỉ ngơi hoàn toàn trong ba tháng hè,ăn uống theo một chế độ quy định,tăng phần bồi dưỡng và tập thể dục trước khi trời sáng khoảng chừng 20 phút. Trúc tập thể dục nhịp điệu,dù rằng không có sẵn cái máy phát băng như nhỏ Kim Hài. Tuy vậy Trúc cũng tập say sưa và cảm thấy sức khoẻ của mình đỡ hơn.Thoạt đầu Trúc rất ngượng nghịu với những động tác, cô chỉ dám tập một mình,nhưng rồi có nhừng hôm chú em út của cô thức dậy dớm lên sân thượng xem Trúc tập tha hồ cho nó chế nhạo,thế mà cô đã quen dần rồi chẳng còn mắc cỡ nữa.

- Chị Trúc thức dậy sớm dữ ta

Chỉ thiếu chút nữa là Trúc té ngửa vì hoảng sợ. Ngồi lù lù một đống ở góc sân là nhỏ Phục,đứa em út của cô,nó thấy Trúc sợ xanh mặt càng có vẻ khoái chí nhe răng cượi

- Quỷ ơi,làm người ta đứng tim. Phục thức dậy làm gì sớm thế ?

-Em cũng tập thể dục nhịp điệu.

-Trời ơi! - Trúc kêu lên

- Bộ thể dục nhịp điệu chỉ dành riêng cho con gái các bà thôi sao Con trai cũng đưọc quyền tập vậy chứ - Phúc cãi cọ

- Ðược thôi chú em ạ , có ai cấm cản đâu, nhưng lần sau

đừng có làm cho người ta đứng tim nữa.

- Chị Huyền thức dậy chưa  ?

- Còn ngủ.

- Trời ,giờ này mà còn ngủ,sưóng chưa

- Mới có 5 giờ thôi em ạ , 6 giờ mới sửa soạn,ăn sáng xong 7 giờ đị chương trình đàng hoàng

-Nhưng phải thức dậy sớm để chuẩn bị chứ. Ðể em xuống kêu "bà" Huyền vậy

-Chị Huyền đang ngủ mê,đừng kêu.

-Em thọc cù léc là bả dậy liền.

-Ðả bảo đừng có phá,hãy để chị Huyền ngủ thêm một chút nữa. Còn sớm lắm ông tướng nhà trời ơi.

Phục tới gần Trúc,nó ngần ngừ một lúc rồi hỏi:

-Tại sao chú Hiển không đem xe vô rước mình ra Vũng Tàu,đi xe đò em ớn lắm.

-Chú Hiển đâu có biết mình ra ?

-Sao chị Huyền bảo đánh điện tín cho chú Hiển rồi ?

-Lạ không,đánh điện tín thông báo mình ra Vũng Tàu chứ đâu có nhờ chú Hiển vô rước.

-Ờ há Nhưng mà nói chung đi xe đò em không thích.

-Nói chung nói riêng gì cùng phải chịu thôi. Ðừng có công tử quá vậy nhỏ.Ðược đi chơi là thích rồi.

-Ra ngoài đó em sẽ tắm cả ngày dưới biến cho đã,ở đây tắm hồ tắm vừa chán,vừa chật chội,vừa dơ.

-Tắm cả ngày cho em thành muối luôn.

-Ăn nhằm gì,thành muối ,rồi muối lại tan trong lòng biển.

-Thôi đừng có lý sự.

-Chị tập thể dục đị.

-Ðứng trơ mắt ếch ra nhìn người ta,ai mà tập cho được.

-Xời,tập thể dục mà còn mắc cỡ

-Không mắc cỡ,nhưng Phục lịch sự một chút,đàn ông con trai phải biết lịch sự trước phụ nữ.

-Người ta còn "nhí" lắm,chưa phải là thanh niên đâu.

-Còn"nhí " thì càng phải lịch sự ngoan ngoãn hơn nữa em ơi.

-Thôi,trả tự do cho chị, em đi đánh răng rửa măt đây. Gớm,ở trên này lạnh như băng.

Nói xong Phục rùng mình,chạy vội xuống cầu thang,Trúc nhìn những chòm sao trên bầu trời,có một ngôi sao rực lên và người ta gọi đó là sao mai.Trúc không gọi thế,cô gọi là chiếc đèn lồng của nhà nôngbáo hiệu trời sắp sáng.Còn chị Hyền mơ mộng hơn, bảo đó là ngôi sao mai,ngôi sao này có nhiệm vụ đi tìm "đối tượng" để làm mai mối cho chàng trai cô gái nào đó gặp nhau kết thành tình yêu. Ngôi sao ông mai rất tận tuỵ và đúng giờ làm nhiệm vụ của mình, nhờ ngôi sao ông mai này mà suốt đòi có những đám cưới dưới trần gian. Trúc nghe chỉ cười tủm tỉm,và thầm phục cho trí tưởng tượng của chị Huyền,bà này ảnh hưởng Dodet hạng nặng,nhìn ngôi sao trên bầu trời hình dung ra những ông mai bà mối ,tưởng tượng ra những cái đám cưới.Cũng trúng thôi vì chị Huyền đã có người yêu rồi kia mà và nghe đâu sau khi ra trường anh chị sẽ tổ chức đám cưới.Những người đang yêu thì chúa hay mơ mộng ,thôi cũng thông cám chị ấy.

Tập thể dục xong,Trúc xuống phòng kêu chị Huyền nhưng chị đã dậy từ bao giờ và đang hát vang trong phòng tắm.Bà này có tật hát,buồn vui gì không biết cũng cứ hát cái đã.

Trúc hói lớn :

- Chị tắm xong chưa để em còn vào tắm nữa, ở đó mà ca hát làm người ta mất thì giờ. Rồi còn chuẩn bị để đi nừa chứ.

-Xong ngay, chị ra đây nhỏ ơi ,đừng có kêu la ầm ĩ như vậy.

-Có chị hát ầm ĩ thì có.

Chị Huyền đẩy cửa nhà tắm bước ra,gương mặt chị tái xanh vì nước buổi sáng khá lạnh.

- Vào đi nhỏ, tập thể dục xong rồi hả ?

- Xong rồi.

- Bữa nay lên được mấy ký ?

- Ðồ quỷ.

Trúc đóng sập cửa nhà tắm lại. Chị Huyền vẫn thường trêu Trúc như vậy đấy ,cứ mỗi sáng thấy Trúc tập thể dục xong là chị trêu "bữa nay lên mấy ký". Mà lạ thật, hai chị em cùng một cha một mẹ sinh ra,sao chị Huyền lại mập mạp đầy đặn,còn Trúc thì gầy,chưa bao giờ Trúc lên được 45 ký. Ở trong lớp bạn bè thường gọi Trúc là "nàng thơ". Tên gọi này vừa mang ý nghiã Trúc xinh đẹp, vừa có ý trêu Trúc là một người......ốm nhách.

Vặn cái vòi bông sen cho nước phun ra như pháo hoa,Trúc chui vào đứng dưới vùng nước bao phủ khắp người,nước buổi sáng mát lạnh. Trúc vừa tắm vừa nghe chị Huyền hát bên ngoài,hình như bà đang ủi đồ. Phòng tắm của Trúc có cánh cửa sổ nhỏ,ngó xuống hông nhà,dưới đó là những bóng cây im sững trong buổi sáng mờ sương. Cây dạ lý hương nở những chùm bông trắng muốt,những cánh hoa nhỏ xíu ấy có một mùi thơm kỳ lạ,ma quái,Trúc nghemùi thơm của cây dạ lý hương đưa tới tận trên này. Bất ngờ Trúc cũng buột miệng hát nho nhỏ mấy câu hát mà cô thuộc lòng. Buổi sáng như vậy là có nhiều điềm lành.vui vẻ.

-Nhỏ ủi đổ của nhỏ chưa ?

Thấy Trúc đi ra,chị Huyền hỏi. Trúc lắc đầu:

-Chưa.

-Chị xong rồi nè,ủi đi.

-Sao không ủi dùm em luôn thể - Trúc nheo mắt.

-Xời,chị còn phải xuống phụ với mẹ lo bữa ăn sáng cho cả nhà nữa chứ bộ.

-Thôi,chị để bàn ủi đó cho em.

Bữa ăn sáng hôm nay Trúc ngồi cạnh ba.Trong nhà,nói chuyện với ba là thoải mái nhất,ông không cố chấp,lúc nào cũng gần gũi nhất và dù biết đựơc ba cưng,chìu ,Trúc cũng thấy sợ. Nhưng sáng hôm nay ba có vẻ vui,cởi mở. Trong lúc uống cà phê, Trúc hỏi:

-Sao ba không đi Vũng Tàu chơi với tụi con một chuyến ?

-Ba thì đi thế nào được,bận bịu luôn.

-Không có ba mất vui.

-Thôi đừng có "nịnh" cô nương-bà Phán lên tiếng.

Con nói thật mà mẹ.Ba cho em thì buồn chết được. Nhất là nhỏ Phục chúa hay cãi nhau.

-Em cãi chị hồi nào,có chị ăn hiếp em thì có Phục cãi.

-Thôi hai chị em đi chơi cho vui vẻ.Ngoài đó đã có chú Hiển,anh Trường.Ba hứa khi nào nghỉphép sẽ đi với mấy đưa một chuyến.

-Lúc đó đã hết hè rồi ba- Chị Huyền cười.

-Thì hè sang năm vay..

Xời,ba cứ hẹn hoài.Hè sang năm khôn được thì hè sang năm tới nữa. Ba là vua hẹn "lèo".

Ông bà Phán cười xoà. Phục đế thêm :

-Ba là....con ma nhà họ Hứa.

-Hứa hoài hứa hủy thành ra hứa leo Trúc cười.

-Thôi,tố ba vừa vừa cứ mấy cô mấy cậu.

-Hai cô và một cậu thôi mẹ ơi.Phục háy mắt.

Ông phán là một bác sĩ tập kết về miền Nam sau ngay giải phóng,hiện nay ông là giám đốc của một bệnh viện lớn của thành phố.Ở lứa tuổi năm mươi,nhiều người già khọm,tóc bạc trắng và co thể sinh ra lẩm cẩm.Nếu không lảm cẩm thia bẳn tính,cáu gắt,khó gần gũi với con cháu.Ông Phán ngược lại khó ai đoán được tuổi thật của ông,phần nhiều đều nói ông trẻ hơn vì mái tóc vẫn còn đen mươt,không có một sợi muối tiêu.Với vóc người to khỏe,mập mạp,nước da trắng,sống chừng mực ít ra ông cũng còn trẻ trước tuổi vài năm nữa. Ông Phán co thói quen hút pipe và hút liên tục. Mỗi lần ông bập bập tẩu thuốc sửa soạn nhả những cụm khói khét lẹt là Trúc nhăn mũi,nhưng phải thú thật,cái dáng ông Phán hút hipe rất đẹp,giống như một nghệ sĩ tạo hình đang suy tư trước bức vẽ của mình.Gương mặt ông Phán phúc hậu nhưng cũng mang nét khắc khổ của những năm tháng chiến tranh ,một vết sẹo nhỏ chừng ba phân nằm vắt qua thái dương là kỷ niệm của chiến trường.Trúc có đôi mắt và sóng mũi giống ba,cái miệng và vầng trán thông giống mẹ. Bà Phán cũng là một cán bộ tập kết,nhưng khác với chồng,bà công tác ở nghành giáo dục và là một giáo viên đại học có uy tín.Tuy nhiên do nhữnng năm chiến tranh,dạy học trong điều kiện khắc nghiệt ở vùng núi sơ tán nên sưc khỏe bà sút giảm,suy sụp.Sau ngày giai phóng bà Phán về miền Nam dạy học được một thời gian rồi xin nghí hưu vì mất sức.Bà Phán là một người miền Nam đúng nghĩa,chìu chồng,thương con,đảm đang việc gia đình.So với ông Phán bà già hơn rất nhiều,mặc dù bà nhỏ hơn ông hai tuổi.

Nhưng hai tuổi với một người đàn ông thì chẳng ảnh hưởng gì, chứ với người đàn bà có khi lại không phải hai năm,mà là hai thế kỷ.Chị Huyền có nét giống mẹ nhiều hơn,gương mặt và đôi mắt,nhưng vầng trán và cái miệng lai giống ba.Còn nhóc Phục thì rõ ràng là cái khuôn đúc từ ba rồi,chú nhóc có vẻ khoái chí vì chuyện giống ba lắm.Mỗi lần cãi cọ,nhóc Phục lý luận theo kiểu "luận cổ suy kim" Con gái giống cha giàu ba họ ,con trai giống mẹ khó ba đời.Nghĩa là làm sao ?Chú giảng giải luôn-Nghìa là chú chàng không giống mẹ tí nào,cho nên........nhưng rất tiếc,chú chàng ít khi được nói hết câu đã bị mẹ nạt :

-Thôi đi cậu,đừng có khéo nịnh.

Thế là Phục cụt hứng ngồi im re.Sáng nay chú nhóc có vẻ ngồi trầm tư bên ly sữa,khiến ba phải động viên chú:

-Phục ,sao ngồi im lặng vậy con ?

-Nhà lý luận đang suy tư đó ba-Trúc đáp.

-Ðàn ông con trai không láu táu cái miện như đàn bà.Người ta nói cái gì là phải chính xác.Không chính xác không nói.

Ông Phán cười khoái trá trước câu nói đầy vẻ lý luận và rất "người lớn" của cậu con trai út.Ông rít một hơi thuốc dài nhả khói,nheo nheo mắt nhìn vợ vẻ hài lòng.Nhưng bà Phán không tán đồng cái ý ngầm của chồng,bà chỉ lên tiếng căn dăn cậu con:

-Ra ngoài đó nếu có đi tắm biển thì tắm gần bãi cát đó nghen,đừng bơi xa nguy hiểm lắm.Ở nhà chú Hiển cũng đừng nghịch phá ,đi chơi rong.Nói chung là con phải ngoan ngoãn đừng để mang tiếng.

-Con bơi có phao mà mẹ ?

-Có phao cũng vậy thôi,sóng lớn cuốn một cái mười cái phao cũng đi tuốt.

Phục năm nay mười ba tuổi,nó học lớp 8,ớ lớp Phục cũng thuộc loại hoc sinh giỏi nhưng không toàn diện,có một hai môn nó còn kém,nhất là môn Văn phải nói là chú nhóc rất khố sớ. Nhiều lần chú nhóc nhờ Trúc "gà" cho bị Trúc "móc lò" :

-Sao Phục không giỏi đem tài "lý sự" truyền hống của mình ma tô điểm cho những âu văn hay ho để lấy điểm mà lại phải nhờ người ta ?

-Em có nhờ ai đâu,em nhờ chị chớ bộ

-Chị không có...hưỡn

-Thôi em năn nỉ mà.

-Năn nỉ cũng vậy thôi.

Nhớ lại những lần như vậy,Trúc hình dung ra gương mặt đau khổ,nhăn nhó của chú nhoccộ đâm ra tức cười.Thấy Trúc tự nhiên cuời.Phục kê liền:

-Ðược đi chơi chị Trúc thích mê lên cứ nhăn răng cười hoài.

-Ði chơi phải vui vẻ,chứ có phải đi...làm luận văn đâu mà khổ sở.

Bị "gõ" đúng chỗ nghiệt,Phục ngồi im re,ông Phán rít hơi thuốc cuối cùng trong tẩu thuốc rồi gõ cái tẩu lộp cộp trên cạnh bàn hỏi :

-Các con chuẩn bị xong chưa,mang đò đạc ra xe đi,ba chở ra bến xe.

Chị Huyền đáp :

-Xong cả rồi ba.

-Con còn phải thay đồ nữa chứ -Trúc luýnh quýnh nói.

-Vậy thì mau lên,bà này chậm như rùa.

Phục lợi dụng cơ hội nạt Trúc.Cô rời bàn ăn dư dứ nắm đấm vào mặt cậu em.

Phải mặc bộ đồ nào đây ?Trúc tần ngần trước tủ đựng quần áo cho chiếc gương to soi rõ cả người cô và tự hỏi như vậy.Ở tuổi của Trúc,các cô gái đã bắt đầu biết làm dáng,sửa soạn và chạy đua theo thời trang.Trúc cũng không thoát khỏi qui luật đó và may mắn cho cộđược sống trong một gia đình tương đối khá, ông bà Phán lại thương con không muốn cho con cái bị thiệt thòi nên cũng dễ dãi trong việc mua sắm quần áo cho cả ba chị em cúa Trúc. Do đó,Trúc có một tủ quần áo đầy,chật ních,may nhiều kiểu khác nhau.Nhưng hầu như Trúc chỉ thích một màu vàng,vì vậy trong tủ quần áo của Trúc người khác dễ nhận ra điều này.Trúc có tới ba chiếc áo dài màu vàng,từ vàng nắng,vàng hoa cúc cho tới vàng chanh.Áo sơ mi,áo pull cũng thế,nhiều màu vàng hơn các màu khác.Tại sao nhỏ thích màu vàng thế ? Nhiều đứa bạn đã thắc mắc và hỏi Trúc như vậy,cô chỉ mỉm cười chứ không trả lời.Làm sao Trúc trả lời cho được khi chính cô cũng không hiểu tại sao,chỉ thấy rằng cô rất thân thiết ,với màu vàng,say đắm với nó,và không thể thiếu màu vàng trong đời sống của mình.Mỗi lần đi qua một con đường,một công viên,một sân nhà ai,nếu thấy ở đó có những loại cây trổ hoa vàng là y như rằng Trúc bị cái màu sắc óng ánh ấy níu chân lại ,phải ngắm cho thoả thích mới bước đi được.

Cuối cùng,Trúc chọn chiếc quần tây mới may màu kem,ống túm để mặc với chiếc áo pull vàng hoa cúc.Trúc đứng ngắm mình trong gương,xoay người nhiều vòng và thầm đắc ý với bộ quần ác hợp thời trang và hợp với vóc người của cô.Trúc nheo nheo mắt với mình trong gương,không khỏi tự hào trước nhan sắc của mình.Một nhan sắc đang độ nở rộ như một bông hoa đầu mùa tươi thắm.Trúc cài chiếc ru băng màu vàng giữa mái tóc dài cho khỏi bung vì gió,đề phòng lúc ngồi trên xe chạy ra đường trường.Chiếc ru băng càng tăng thêm phần rực rỡ cho cô gái mười bảy tuổi,đang yêu đời và chưa chút vương bận nỗi lo âu nào trong cuộc sống.Trúc đứng ngắm mình một lần nữa,tuy sức khoẻ cô có giảm sút sau kỳ thi,nhưng Trúc vẫn giữ được một thân thể nở nang,thu hút bất cứ cái nhìn nào của người khác phái.

-Sắm tuồng lâu quá trời,ba kêu chị kìa.

Phục ló mặt vào cửa phòng la to.Trúc xoay người một vòng cuối cùng trước gương rồi nói với cậu em:

-Phục xách giùm chị cái túi quần áo xuống xe đi cưng.

-Sao nhờ người ta "bà" ngọt ngào nhu thế.Khi người ta nhờ "bà" lại khó khăn ?

Trúc lườm Phục bằng ánh mắt sắc lẹm :

-Ðàn ông con trai phải biết lịch sự với phụ nữ chứ "ông" ?

-Người ta chưa phải là "ông".

-Tóm lại là Phục phải xách giùm túi đồ cho chị,vậy thôi,đừng có lý sự nữa,nếu không muốn ở lại -Trúc nói như ra lệnh.

Và chỉ có như vậy mới bắt Phục làm theo.Chú nhóc xịu mặt,đôi mắt nó mở lớn ở thế tấn công bà chị,chẳng ngờ chỉ một câu nói đánh trúng chỗ hiểm,Phục ta tiu nghỉu,cụp mặt xuống,te te xách túi quần áo Trúc xuống lầu.

-Gớm,sửa soạn cái gì ma lâu thế ?- Chị Huyền la lên.

-Hát dở mà sắm tuồng lâu,xưa nay sự đời vốn như vậy đấy.

Phục ngồi bên cạnh Trúc,cũng cố vớt vát thể diện một câu.Trúc véo vào bắp vế Phục một cái và nguýt dài.Bà Phán nãy giờ đứng bên cạnh xe chờ Trúc xuống.Thấy ba đứa con đã ngồi trên xe,bà can dặn :

-Ra đó tắm biển vừa thôi,hãy dành thời gian đọc sách để tăng thêm kiến thức.Ðừng ham chơi qua nghe cô cậu ? Huyền nhớ coi chừng cái cậu Phục cho kỹ.

-Mẹ làm như con còn bé tí không bằng.

-Chứ chú nhóc tí thế mà đòi lớn với ai-Trúc cười.

-Thôi,lên đường được chưa ?-Ông Phán nói to.

-Ðược rồi ba ơi.Ðúng bảy giờ không sai một phút.

Mùa này,bảy giờ sáng mà trời thì lờ mờ,thành phố như một lớp sương mỏng che phủ,thấp thoáng qua các mái nhà và những bóng cây.Chiếc TOYOTA màu trắng sữa nối vào dòng xe cộ hãy còn thưa thớt trên đường phố hướng về bến xe Vũng Tàu.

-Nhồi tẩu thuốc cho ba cái Huyền -Ông Phán quay qua chị Huyền nói.

-Ðể Trúc nó làm cho ba,con dở lắm,không khéo tay bằng -Huyền cười.

-Ừ,thôi Trúc giúp ba một chút.Thèm thuốc quá.

Trúc nhoài người lên băng trước lấy cái tẩu thuốc bằng sừng đã lên nước bóng dơn của ba rồi nhón một nhụm thuốc trong giấy bạc nhồi vào tẩu.Ở nhà,nhiều lần ba đã nhờ Trúc làmcồng việc này lên cô khá rành.Trúc nhồi thuốc rất khéo tay,không chặt,cũng không bời rời,chỉ vừa đủ cho thuốc ngấm lửa.Có điều đã quen vói gout hút thuốc bằng pipe của ba,nhưng Trúc cũng không chịu nổi mùi khói thuốc khét lẹt,mặc dù khi thuốc còn trong bao giấy bạc bay mùi rất thơm, giống như người ta có ướp hương chocolat.

-Ðốt thuóc giùm ba luôn chứ,con gái.

Trúc đưa tấu thuốc cho Phục,nói :

-Bập mạnh vào vài hơi cho chị đốt,nhóc.

-Em sặc làm sao ?

-Ho vài tiếng làm duyên,sợ gì ?

-Thôi,em sặc chết.

Tuy nói thế nhưng Phục cũng ngấm tẩu thuốc bập bập cho Trúc đốt. Phục ta bập máy hơi không ăn thua,gương măt nhăn nhó như khỉ ăn ớt. Nó giẫy nẩy lên :

-Khét quá chịu không nổi.

-Thuốc này thơm chứ -Trúc cười.

-Thơm sao chị không "bập" thử mà bắt người ta ?

Trúc cười,đưa tẩu thuốc cho chị Huyền :

-Chị đốt giùm ba đi

Chị Huyền đưa tẩu thuốc vào miệng ba,ông Phán ngậm lệch một bên khoé miệng ,cười :

- Rồi,đốt đi chứ cô.

Một que diêm bật lên thành mồi lửa,chị Huyền nhanh nhẹn mồi vào tẩu thuốc,ông Phán bập nhẹ vài cái,thở ra mấy hơi khói.

-Hôi quá,nữa con lấy chồng,dứt khoát không chịu để ông chồng hút loại thuốc năng này -Huyền nói.

-Coi chừng ghét của nào trời trao của đó đấy cô ơi.

Chiếc Toyota chạy vòng qua công viên khu vực nhà thờ Ðức Bà.Trúc ngạc nhiên trước nhiều tiếng chim líu ríu như gọi nhau trong bầu trời.Cô ngó ra cửa xe,gần như cả một rừng chim én thi nhau bay lượn,chúng lượn rất nhanh,tạo thành những vệt sẫm xẹt ngang khoảng trời và vút qua các tán cây cao.Những người dự lễ nối dài từ trong ra ngoài hành lang nhà thờ ,họ đứng yên lặng ,giữa một không gian đầy tiếng chim

-Ðẹp quá - Trúc buột miệng nói.

-Cái gì đẹp ?-Chị Huyền ngạc nhiên hoi.

-Những con chim én ,chúng bay lượn ngang bầu trời.

-Mơ mộng.

Trúc cười.Ừ nhỉ, tai sao trong lúc moi ng ko ai để ý tới những con chim én và tiếng kêu êm đềm hạnh phúc của chúng mà chỉ co Trúc quan tâm tới ?

-Em rất ghét loài chim này,vừa xấu,vừa ko biết hót.

-Thế Phục ko nghe chúng đang hót là gì ?

-Ðó là chúng kêu chú ko hót.

-Kêu hay hót gì cũng vậy thôi ,miễn nghe hay là được.

-Ðâu phải kêu khác ,còn hót khc .Vậy là chị chẳng hiểu tí gì về loài chim cả.

Dĩ nhiên cãi cọ vói nhóc Phục chuyện chim chóc,chuyện dế mèn,chuyện cà lai thia là Trúc thua thôi. Cho nên cô chỉ cười ngồi im.Nhớ những hôm Phục lén lây khẩu súng Tiệp Khắc của ba đi ra ngoài phố bắn chim sẻ,ko biết nó tập bắn bao giờ mà bắn giỏi ghê ,đi một buổi mang về một xâu chim,lớp bị gãy cánh,lớp bị bể đầu,lớp bị gãy chân máu me tùm lum trong phát khiếp.Ấy vậy mà Phục ta nhe răng cười ,giơ xâu chim lên khoe với Trúc :

-Coi thành tích của nhà thien xạ nè.Bắn như vậy mới gọi là bắn.Chiều nay em sẽ vặt lông làm cho ba một bữa chim sẻ rô ti ba lai rai.

-Xin mời nhà thiện xạ đi chỗ khác chơi ,kẻ gian ác -Trúc thét lên.

Phục ngạc nhiên :

-Em làm gi mà gian ác ?

-Bắn chim ,Trúc hét , bắn chim ngoài phố là chuyên gây mất an ninh trậ tự ,bắn loài chim sẻ hiền lành dễ thương ,là mang tội với trời đất ,là một kẻ sát....nhơn,gian ác chứ còn gi nữa.

Phục xách xâu chim đi ra ,nhún nhún vai kiểu cách rồi lý sư. :

-Mấy con chim vô danh tiểu tốt này mà "bà" làm như trời sập tới nơi.

Bây giờ nói chuyện mấy con chim én ,Trúc ko khỏi cười khi nhớ lại gương mặt tiu nghỉu của Phục khi bị Trúc hét inh ỏi và mắng như té nuoc" vào mặt.Tuy nhiên nếu nói chuyện chim "hót" hay "hét" thì Trúc đành chịu thua nhóc Phục

-Mùa này ra Vũng Tàu nghỉ mát mà thì ko còn gi hơn. Ba như nhìn thấy màu xanh nước biếc của VT.

Ông Phán vừa lái xe vừa nói.Trúc cười :

-Nhưng ba đời nào đi chơi được.Ba gắn bóng mình với cái bệnh viện mùi Ê te ,đầy tiếng rên rỉ đó rồi.

-Chứ ba phải làm sao bây giờ,ai cũng phải làm việc.Ba lại là một bác sĩ....

-Lớn lên con cũng sẽ làm một bác sĩ_Phục la lên.

-Bác sĩ cái cù loi- Trúc đưa cùi chòi thúc vào hông Phục -Láu táu như nhóc nữa chỉ có đi hát xiệc thôi.

-Hát xiếc cũng có lắm ng mê vậy chứ bộ.

Ông Phán cười khà khà khi có cô con gái và cậu con trai cãi nhau một cách tức cười.Ðúng là trẻ con.Ông Phán đạp "ga" cho chiếc xe chồm tới.Buổi sáng vừa hé ngắng qua các vòm cây

-Phải nhanh một tí ,ba còn phải quay về bệnh viện nữa...

o0o

Bãi biển nằm xoài dưới chân Trúc.Từ trên bờ đá cao Trúc nhún mình nhảy xuống cát.Thật là tuyệt ,những hạt cát mịn ồ tới ,như ôm lấy hai cổ chân xinh tròn,tráng muốt của Trúc.Không còn gì dễ chịu hơn khi ngâm mình trong cát ướt.Hình như chị huyền đã nói như vậy, và bây giờ Trúc mới thực sự cong nhận lời chị Huyền nói bủa nọ là đúng.

Nhưng rồi ko lẽ cứ đứng mãi ở đây,ngâm hai bàn chân mình trong cái ướt hoài như mấy con dã tràng ko muốn rời cái hang nhỏ xíu,xinh xắn của nó trong lòng cát ẩm ?Trúc cười khẽ,rút hai bàn chân thon nhỏ của mình bước đi một cách chậm chạp giống như con meo tam thể ở nhà trong những hôm trời nắng đẹp,muốn tới một góc sân nằm sưởi nắng.Sáng nay cũng là 1 buỏi sáng đẹp của biển ,gió ko gian dữ mà hiền từ lướt qua trên đầu những ngọn sóng bạc,như để xua những ngon song ấy vào bãi cát,và những đợt sóng như co một sức co giãn mãnh liệt ,ngấm ngầm. Cứ 1 đợt chạy vào mí cát thì lập tức ngay sau đó rút vội trở ra,hoà nhập vào cái màu xanh muôn thuở của biển mà có lần ba bảo là ba rất thích.Mấy hôm nhóc tì Phục đã cãi tay đôi voi Trúc về chuyện những con sóng ,nó bảo là những con song choi trò keo co.Trúc cãi với nó là những con song theo luật tự nhiên,cãi cả buối,Trúc mệt wá nên chịu thua Phục cho xọng Ừ nhỉ,nhớ lại từ ngày ra Vũng Tàu đến giờ sao Trúc hay chịu thua Phục wá nhỉ ,mà dường như ra ngoài này nhóc tì Phục cũng làm tàng.cãi co với Trúc luôn.

Trúc rất thích ngắm cảnh biển buối sáng ,do đó suốt 1 tuần lễ qua ,kể từ ngày ra đây ,sáng nào Trúc cũng dậy thật sớm ,ko phải đi tắm biển mà tranh thủ để đi ngắm biển trước thiên hạ.Trúc thích khi mình ra tới biển mà không co ai,như vặy mới thú vị,khi ấy cô có cảm tưởng biển hoàn toàn thuộc về mình ,Trúc "độc chiếm" biển ,tha hồ ngắm ,tha hồ tướng tượng và tha hồ đầy trí tưởng tượng của mình ra khơi ,theo những cơn sóng.

Sáng nay cũng vậy ,Trúc thức dậy thật sớm ,lúc nhóc Phục và chị Huyền ngủ say như chết và cô đả lẻn đi ra biển 1 mình. Nhà của chú Hiển ở gần biển,chỉ cánh khoang nửa giờ đi bộ nên rất thuận tiện. Có lẽ Trúc là ng dạo biển sớm nhất th. phố VT này và nêu" như có ai bất ngờ trông thấy cái bóng Trúc đổ dài trên baĩ cát chắc ng ta sẽ tưởng lầm Trúc là 1 con nhỏ điên.Nhưng Trúc yên tâm vì tròi chỉ mói vùa hé nắng ,làm sao co chuyen cai bóng cô đổ dài trên bãi cát ,ngoài mấy con sóng lớn sùi bọt trắng bò vào mí cát và những con dã tràng chạy lăn tăn vè hang khi thay Trúc từ xa đi tới.

Trúc cũng rất thú vị với trò chơi đuổi bắt những con dã tràng.Những con vật nhỏ bé này chạy rất nhanh ,vừa thoạt trông thấy chúng như 1 cái chấm màu nâu trên bãi cát ,lập tức chúng phóng vút đi như những mũi tên ,như nhừng hòn đạn,chỉ kịp thấy 1 cái bóng xẹt ngang bãi cát rồi mất hút ở 1 cái hang nào đấy.Dã tràng chạy bằng những cái chân nhỏ xíu,mỏng manh,thế mà cả nhóc tì Phục và Trúc rượt theo ko kip.

"Da tràng xe cát Bien Dong

Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì...."

ko biết Phục nghe ai bày, cứ mỗi lần tới cái hang dã tràng, nó vô bàn tay úp xuống miệng hang và đọc nên 2 câu đó như là thầy pháp đọc "thần chú ".Ðến nỗi Trúc phải trêu cậu em bằng vài câu ví :

"thôi về nằm ngủ cho xong

Rình hoài mà chẳng nên cong cán gì "

Sáng nay ro ràng Trúc là ng nổi bật trên bãi biển.Ngó suốt chiều ngang,chiều dọc ,bãi biển hầu như ko có bóng ng đi dạo chơi.đi tắm biến,chỉ ở phía sau kia ,chỗ bên thuyền chài mới có ng ,dĩ nhiên họ là những ng đánh cá vừa theo ghe vè sau mọt chuyen ra khơi. Những ngư dân này đang xả lưới và lựa cá.Từ chỗ này ,Trúc co thé nghe đuọc mùi cá tanh lồng tróng gió đưa tới.Trúc cũng đã cảm thấy quen thuộc vơí mùi khó chịu này mà những ngày đầu tiên ra biến TRúc cảm thấy chóng mặt,buồn nôn. Sáng nay Trúc mặc 1 chiéc quàn tây màu xanh sẫm,gần trùng lấp với màu nước biển áo pull màu vang chạnh , khoác hờ chiếc ao len màu trang sữa va cổ quấn chiéc phu la màu reu non,chan mang đôi dép Lào màu xanh da trời.17 tuổi ,tóc Trúc thả dài chấm lưng tự nhiên.Bây giờ mái tóc đen óng mượt ấy được dịp bay tung trong gió ,còn gương mặt Trúc bị khuất sau mái tóc.khong thể phu nhạn điều này :Trúc là 1 cô gái đẹp ,nổi bật lên trên bãi biển VT những hôm đông ng, dù ràng vào nhung ngay cuối tuần,ngày lễ,ở đây tập trung rất nhiều những cô gái đẹp tù thanh phố khác tới. Trúc ko khỏi tự hào về điều này ,và dù sáng nay trên bãi biển vắng ng,nhưng Trúc thấy "kiêu kiêu " làm sao. Ðó là tâm lý chung của con gái,nhất là Trúc lại đang ở tuổi mới lớn.

Trúc chậm rãi bước về phía 1 chiếc thuyền đánh cá vừa chạy trở lên bãi cát.Ðặc biệt chiếc thuyền đánh cá này có cái mũi ghếch cao lên,như muốn vươn thẳng cái sức mạnh tiềm nang của nó đã từng chiến thắng những đợt sóng từ ngoài khơi.

Ngày dưới mũi thuyền,trên bãi cát có một người đàn bà và 1 đứa con trai chừng 11 hoặc 12 tuối đang hý hoáy ngồi lựa cá.Mùi cá biển phả vào ko khí ,nhưng TRúc lại thích ngắm những con cá biển tươi roi rọi Chúng có những cặp mắt tròn xoe,có con mắt màu hổ phách,óng anh như 2 hạt cườm.

Thấy Trúc tần ngần trước mũi thuyền và ngắm những con cá biển.Ng đàn bà mặc bộ quần áo bà ba màu đen,đầu quấn chiếc khăn rằn đã cũ che gió cho tóc khỏi bung,ngước đôi mắt sâu,mệt mỏi nhìn Trúc va hỏi:

-Cô muốn mua cá nục tươi phải ko ?

-Dạ ko,cháu chỉ muốn ngắm những con cá thôi.

-Cá biển tanh lắm,cô phải đứng phía trên gió mới được.

Cậu con trai nãy giờ ngôì im ngó Trúc,bây giờ chợt cười lớn ,giọng nói liếng thoắng :

-A,con biết chị này rồi.Sáng nào chị cũng ra ngắm biển phải ko?

Ng mẹ rầy con :

-Thôi đừng nói xạo Ngoan,biết cái gì mà tía lia cái miệng ?

-Biết chứ mẹ,con biet nhiều chuyện lắm đấy.Ở trên bãi biển có cái gi mà qua mắt được con đâu-Chú bé tên Ngoan cãi lại.

-Xì,có gỏi tài ba xao thì có. Ng mẹ cười.

Chú bé có cái tên rất la- Ngoan-nhưng là 1 cái tên rất mộc mạc ,dễ thương.Sáng sớm mới từ biển theo ghe về nên ng chú bé ướt như chuột lột.Tóc cậu bé dài phủ ót ,đầu đội chiếc nón thủng lõ chõ những dấu tròn hình viên bi.

--chị ở trong SG ra nghỉ mát phải hông ?

Trúc gật đầu cười. Cậu bé vênh mặt nói với me:

_Thấy chưa mẹ,đã bảo chuyện gi con cũng biẽt hết mà.

-Lại xạo nữa rồi.Thôi lo lựa cá cho mau để còn mang ra chợ bán.Trễ buổi chợ ,ông già mày cạo mày bằng búa đó

-Ông hăm vậy chứ đời nào ông đánh con,đừng nói gì tới cạo đầu.

Ngoan khoái chí ngồi cười,hàm răng chú trắng bóng ,đôi mắt to đen,hàng lông mi dài và cong như lông mi con gái.

-Nè ,em đang điều tra "theo dõi" chị đấy.Có 1 anh đã giao nhiệm vụ quan trong nầy cho em ,nhưng em phai đảm bảo bí mật tuyệt đối

-Lại xạo nữa,bí mật gì mà nói rùm beng- Ng mẹ trợn mắt nạt con

-Con chỉ nói cho mẹ nghe chứ bộ

-Còn chị thì sao -Trúc cười hỏi

-Chị là đối tượng đang bị "theo dói". nhưng mà nói cho chị nghe cũng ko ăn nhằm gì.

Trúc cười :

-Ai giao cho em nhiem vụ quan trọng,theo dõi ,điều tra chị vậy ?

Trúc cố ý nhấn mạnh mấy chữ mà chú bé Ngoan vừa nói với vẻ quan trong thật là buồn cười.

-Ai thì rồi chi sẽ biết,em ko nói đâu.Nhưng ko phải là công an,chị đừng sợ quá mà phát sốt phát rét lên rồi lâm bệnh.Ng đẹp như chị mà bệnh thì.....buồn lắm đấy.

Trúc lắc đầu :

-Chị chẳng sợ bệnh

-Vạy là chị ngon nhất xứ rồi.Em thì sọ bệnh muốn chết ,vì bệnh sẽ ko theo được ông già đi biển.Mà như vậy thì chết con sướng hơn.

-Mai mốt chị về SG rồi,em có theo dõi điều tra gì thì lam nhanh lên nhé.

-Ủa,sao chị về chi sớm vậy ?

-Hết hè thì về đi học chứ sao.

-Còn lâu mới hết hè.

-Chị về đi học....thể dục nhip điệu

-Cái môn đó là môn gì ma em nghe lạ quá ?-Chú bé tròn mắt vẻ ngac nhiên hỏi

Trúc cười liến thoắng :

-Học môn này vui lắm,vừa tăng cường sức khoẻ ,vừa có thân hình cân đối ,dẹp đẽ,cử chỉ dịu dàng.Ðó là môn thể thao tập theo điệu nhạc

-Lạ wá ta,bây giờ em mới biết đấy. Môn học đó ,con trai như em hoc được ko ?

-Ðược thôi.Bộ ở VT chưa có môn này sao ?

-Em đi biển hoài có ớ nhà thường đâu mà biết. Chú bé nói với vẻ mặt ỉu xìu,buồn bã.

-Này Ngoan,chị cho em cái này.

Trúc móc từ túi quần tây ra mấy viên kẹo chocolat dúi vao tay chú bé.Ngoan cầm lấy,ngắm những viên kẹo màu nâu gói trong làn giấy bóng nhiều màu sặc sỡ rồi cười nói :

-Chị cho em thie em lấy ,nhưng em chảng thich kéo đau vì em đã lớn rồi chứ bộ

-Em bao nhiêu tuổi ?

-12

-Nhỏ hơn em của chị 1 tuổi.Như vậy chưa phải là lớn đâu chú bé -Trúc cười.

-Bao nhiêu tuổi mới gọi là ng lớn ?

-Con gái 17,con trai 18.

-Tại sao co chuyện con gái con trai vào đây. Và tại sao con gái chỉ có 17t thôi ,còn con trai 18 ?

Ng mẹ xen vào câu chuyện :

-Thông thường ,ng ta nói 18 là tuổi thành niên.

-Bộ có tuối đặc biệt dành cho con gái nữa sao me ?

-Mẹ ko biết.Nhưng 17 ,18 cung suýt soát nhau thôi.

-Ngoan biết tại sao con gái 17t đã gọi là ng lớn chưa ?-Trúc cười hỏi.

chưa.

-tại vì có câu : con gái 17 bẻ gãy sừng trâu. con trai 18 chưa chắc bẻ nổi.Do đó con gai 17t là ng lớn rồi.

-Nói vậy ,con gái 17t bẻ gãy sùng trâu phải gọi là....ng khống lồ chứ?

Ngoan cười khúc khắc với vẻ khoái trá.Trúc hơi ngượng vì bị chú bé móc lọ Cô xoay chuyện tìm cách hỏi :

-Ngoan có đi học ko ?

-Ở đời ai mà ko hoc ,chị.

Trúc hơi sùng trong bụng ,câu trả lời của Ngoan có vẻ "lý sự" giống y hệt như PHục Trúc hỏi tiếp :

-Học lớp mấy rồi ?

-Ðố chị đoán ra đó.

-Lớp 7

-ko trúng rồi

- lớp 6.

-cũng ko trúng nữa

-chị chịu thua.

-em hoc lop 6 rưỡi

-lớp gì mà lạ vậy ?

Ngoan cười giòn :

-Em đã học xong lớp 6,năm nay chuẩn bị vào lớp bảy,như vây ko phải là lop 6,5 sao ?

Câu trả lời Ngoan hơi ngang,nhưng quả thật chú bé thông minh ,làm cho Trúc bị bất ngờ.

Ng mẹ lại hối con :

-Lựa cá nhanh lên Ngoan. Nguời mẹ vừa hối con vừa cắm cúi lựa đống cá

-Thôi chào Ngoan nhé.

-Ủa chi....về hả ?

-Trời nắng lên rồi.Biển cũng hết đẹp và có nhiều ng tắm biển nên chị đi về.

-Mai chị có ra đây chơi nữa kô ?

-Chắc lại ra nữa thôi.cho đến khi nào chị về SG.

-Em sẽ để dành những viên kẹo của chị ,khi nào ra khơi ,lênh đênh trên biển em mới ăn.

Trúc chào ng đàn bà va quay lưng đi. Trúc đi nguọc lên bãi ,trên bãi giờ này đã có nhiều người đi tắm sớm.Trúc vượt qua 1 đám đông nam nữ và trẻ con vừa từ trên bãi cát ào xuống. Họ mặc đồ tắm và có lẽ là vừa từ thành phố ra đến. Một vài thanh niên trong bọn ngó Trúc ,cô ngượng nghịu bước nhanh qua những cây dù họ căng ra làm chỗ nghỉ. 1 thanh niên khoẻ manh, mặc đồ tắm nằm trên ghế xích đu chợt ngó sững Trúc rồi bật kêu lên :

-Cô bé,cô bé............

Trúc nghe,nhưng ko dừng lại,anh thanh niên chạy vội theo và bằng một cái nhảy như con sơn dương,anh ta đứng chắn trước mặt Trúc.

-Cô bé không nhận ra ng quen sao ? -Anh thanh niên cười hỏi.

Trúc ngó anh ta. Hình như Trúc đã gặp anh thanh niên này ở đâu rồi.Cái nụ cười ,ánh mắt đó hình nhự.......

-Ðâu cô bé cứ thử nhớ kỹ lại xem chúng ta đã gặp nhau ở đâu ?

Chịu thôi ,bất chợt Trúc ko tài nào nhớ nổi ,nhung chắc chắn 1 điều anh thanh niên này mình đã từng gặp 1 vài lần rồi.

-Cô bé ko nhớ anh ,nhưng anh thì nhớ cô bé. Nhớ cả tên nữa.Trúc ,phải ko,còn nếu gọi cho đầy đủ thì là Thuỷ Trúc.

-Xin lỗi ,anh là................

-Bách ,bạn của Nghiêm ,có lần đã tới nhà chơi với chị Huyền. Nhớ chưa ?

-Bây giờ thì nhớ ra rồi

Trúc ngượng nghịu đáp,Bách tự nhiên hỏi :

-Trúc ra đây hồi nào,sao lại đi co 1 mình ?

-Em ra đây với gia đình....ko phải có 1 mình.

-Ko là 1 mình chứ là cái gì - Bách cười -Ðàn ông đi biển có đôi. đàn bà đi biển mồ côi 1 mình.Trúc đã nghe nói như vậy bao giờ chưa. Ðàn bà mà đi biển mồ côi bao giờ cung thât tội nghiệp

-Anh Bách ra đây chơi với bạn bè à ?

-Ðúng vậy ,ko ai đi biển 1 mình như cô bé đâu.

-Tại em thích vậy

-Ra đây Trúc ở đâu ?

-Dạ ,em ở nhà ông chú.

-Sao ko ở khách sạn ?

-Có nhà ko ở lại ở khách sạn,anh Bách hỏi kỳ ?

-Ko kỳ đâu.Nhưng thôi,địa chỉ nhà ông chú ớ đâu Trúc cho anh biết ,anh sẽ ghé chơi.

Trúc thối thác, tìm cách nói dối.

-Ko nhớ số nhà. Ông chú cũng nhgiêm lắm ,anh Bách tới chới kô được đâu.

-Tới chơi chứ có làm gì đâu mà kô được

-Thôi chào anh Bách nhé.

-Muốn gặp TRúc thì gặp ớ đâu được ?-Bách cố ý đi theo và hỏi.

-Mai mốt em về SG rồi,có gì anh Bách tới nhà.

Và Trúc bỏ đi thẳng.Hình như Bích ngẩn ngơ ngó theo Trúc 1 khoảng xa mới quay lại chỗ bạn be của anh ta.Lên khỏi bãi cát ,Trúc vẫn còn hồi hộp vì cuộc gặp gỡ bất ngờ vừa rồi.Cái anh chàng Bách sao dạn dĩ và bạo phổi wá nhỉ ,mà phải đâu anh ta la bạn của Trúc ? Nhớ có lần Bách theo anh Nghiêm ,bạn của chị Huyền tới nhà chơi ,Trúc làm nhiệm vụ bưng nước ra mời khách ,Bách ngớ sững Trúc rồi yêu cầu chị Huyền cho Trúc ngồi nói chuyện cho vui.Trong ánh mắt của anh ta có 1 cái gì đó làm cho Trúc ngượng nghịu ,hốt hoảng.Ðôi mắt ấy nói lên điều gì và anh ta nghì ngợi ra sao khi nhin mình ? Hồi đó Trúc đã thường hỏi như vậy ,và hôm nay tình cờ gặp lại Bách trên bãi biến anh ta cũng nhìn Trúc như vậy ,vẫn cái nhìn sửng sốt ,ánh mắt như xoáy vào mắt mình ,va anh ta đã nghĩ điều gì ?

Trúc dừng lại ,ngồi xuống nột tảng đá và rút dép ra phủi cát ở 2 bàn chân.Ở đây nhìn biển 1 màu xanh thẳm ,những cơn sóng từ ngoài khơi đố vào ,sủi bọt trắng xoá trên bãi cát.Nhấp nhô tít ngoài khơi 1 vài chánh buồm.Tiếng sóng ầm ào,dội tới ,1 điệp khúc muôn thuở cúa biển cả.Trúc cởi chiếc áo len cầm tay và đi dài theo đường ,qua những quán ăn trên bãi biển để về nhà chú Hiến.

-Cô bé ko chạy trốn được đâu -Từ trong quán giải khát bất ngờ Bách xông ra chắn trước mặt Trúc cười - đóan cô bé đi về hướng này ,quả nhiên đúng.Thôi vào đây uống nước với anh rồi về ,TRúc !

-Anh này làm ng ta hết hồn -Trúc nhăn mặt

-Gì ma hết hồn ? Và đừng có nhăn mặt kiểu đó.

-Em phải về thôi ,kô thể uống nước được đâu.

-Làm gì hấp vậy cô bé.

-Em phải về ,kô thôi chị Huyền đợi ở nhà.

-10 phút thôi ,có gì ma cuống lên vây.?

Biết từ chối cung ko được ,cuối cùng Trúc miễn cưỡng theo Bách vào quán giải khát. Bách chọn chiếc bàn trong góc tách biệt hẳn với đám đông ồn ào ,nhưng có thể nhìn thẳng ra biển.Bách hút thuốc và hỏi :

-Trúc uống cái gì đây ?

-Anh gọi cho em dừa.

-Anh uống bia nhé ? -Bách lịch sự và kiểu cách hỏi.

-tuỳ anh.

Ng phục vụ mang ra chia bia và ly nước dừa.Bách lịch sự cầm chiếc muỗng cà phê quậy đường cho tan đều trong ly nước dừa của Trúc.

-Ðuợc rồi đó,Trúc uống thử xẹm.

Trúc uống 1 ngụm nước dừa.BÁch cười ,rồi bưng ly bia lên uống 1 hợi

-Bộ sợ anh bỏ thuốc mê vào ly nước dừa sao mà dè dặt thế ?

-Ðâu có

-Chừng nào Trúc về SG ?

-Sắp về ,nhưng chưa rõ ngày nào.

-Sao vậy ?

-Vì còn tuỳ thuộc vào chị Huyền -Trúc cười.

-Bà Huyền với ông Nghiêm dạo này ra sao ?

-Anh Nghiêm vẫn tới chơi luôn.Họ vẫn bình thường vậy thôi.

-Sắp làm đám cưới phải ko ?

-Hình như vậy ,em đã nghe ba mẹ bàn tính rồi

-Còn Trúc ,bao giờ ?- Bách nheo mắt hỏi.

-Trời ơi ,em còn nhỏ xíu ,còn đi học mà anh..

-Con gái lớn mau lắm.vÀ chuyện đi học với chuyện lấy chồng đâu có liên quan gì với nhau.Nhiều cô còn đi học vẫn lấy chồng như thường. Hoặc lấy chồng rồi nghỉ học ở nhà làm mẹ.

-Em khác ,em phải học xong đại học đã.

-Coi chừng...lực bất tòng tâm đấy

-Anh nói như vậy nghĩa là gì ?

-Trúc tìm hiểu lấy chứ ai đi giải thích -Bách cười giòn và ngửa cổ uống 1 hơi bia.

-Bao giờ anh Bách về ?

-Chiều nay

-Bạn gái của anh đâu rồi ?

Bách hơi sượng khi Trúc hỏi như vậy ,nhưng anh ta làm tính rít 1 hơi thuốc đáp :

-Ðang tắm biến

-Anh rủ em uống nước ,ngồi cung bàn như vầy,không sợ chị ấy..... ghen sao ?

-mắc mớ gì ma ghen.

-Thôi,em ko dám đâu,phụ nữ là chúa ghen ẩu.Mà anh Bách cũng ẩu nữa ,em sợ bị tát acid oan lắm.

-Làm gì có chuyện đó

-Nói đùa thế thôi ,nhưng anh Bách phải lưu ý.Phụ nữ có những điều bất ngờ lắm.Em có 1 bà chị bà còn suýt bị tạt acid vì bị hiểu lầm.

-Thôi ko nói chuyện này nưã~.Nghe ghê quá.

-Sao độ này ít thấy anh đi với anh Nghiêm tới nhà chơi ?

-Ng ta sắp cưới vợ rồi ,còn mình thì lang thang ,đi chơi thêm tủi thân

-Xì, anh Bách mà lang thang ,lần nào gặp anh em cũng thấy anh đi với 1 cô xinh xắn ,vậy mà than hoài.

-Ngó vậy chứ kô phải vậy

-Anh đính chính với em đế làm gì mà phải cuống lên như vậy ?

Trúc háy mắt trêu Bách làm anh ta hơi ngượng

-Trúc ác lắm - Bách buột miệng nói

-em làm gì mà anh gọi là "ác"

Bách ném mấu thuốc và châm thêm 1 điếu nữa. Cử chỉ của anh ta hơi bối rối khiến Trúc phì cười. 1 thời gian ngắn kô gặp lại Bách, anh ta vẫn đối xử với Trúc thật tự nhiên như giữa Trúc và anh ta đã khá thân thiết.Còn Trúc thoạt đầu kô nhận ra ng bạn trai của chị mình, vả lại Bách cũng chẳng để lại ấn tượng gì trong những lần tới nhà cùng với anh Nghiêm.Giờ đây ngồi trước mặt Bách ,Trúc thấy Bách vẫn ko khác gì mấy ,có chăng dạo này anh chàng ăn mặc có vẻ mô-đen hơn ,quần áo kiểu "Việt kiều hồi hương " ,rộng thùng thình giống như ông già.

-Sao Trúc cứ nhìn anh cười hoài.

-Tại vì thấy anh lạ

-Lạ là sao ?

-Lúc này anh mô- đen qua nghen

-Ng ta sao mình vậy, ko theo mô-đen ng ta cho mình lạc hâu. Nhất là mấy cồ gái trẻ như Trúc chẳng han.

-Bao giờ anh Bách cưới vợ ?

Câu hỏi bất ngờ của Trúc làm Bác lúng túng ,anh ta ngượng ngập trong mấy giây mới trá lời :

-Ðiều này khó nói

-Anh bay bướm quá trời, sợ lấy vợ rồi bị ràng buộc phải kô ?

-Có lẽ vậy

Bách cũng là 1 ky sư xây dựng như anh Nghiêm ,hình như chị Huyền đã có lần nói với Trúc như vậy.Nhưng giờ đây ngồi trước mặt Bách ,cô thấy anh ta chẳng có vẻ gì là 1 kỹ sư cả,Bách như 1 thanh niên con nhà giàu ,sống dư dả, ăn chơi thoải mái kô bận tâm vì sinh kế. Những anh thanh niên như vậy mình phải cảnh giác.Trúc nghĩ thầm và cô lại mỉm cười.

-Thôi xin phép anh Bách nhé ,em phải về vì muộn quá rồi.

-ô kìa ,ngồi chơi 1 chút nữa cô bé

Trúc đứng lên nói :

-Ko được đâu ,em đã có hẹn với chị Huyền là phải về sớm.Anh đừng đưa Trúc mất công.

Không đợi cho Bách kịp phản ứng ,Trúc chào anh ta và đi ra cửa.Cô băng nhanh qua đường và theo ngõ tắt về nhà chú Hiển.

Chương 2 :Vừa len hết con dốc đầy sỏi vụn ,Trúc dừng lại thở và lắng nghe tiếng sóng biển vọng tới.Hình như tiếng sóng ngân vào trong gió ,vang xa, âm thanh rì rào đi suốt 1 khoảng không gian cao rộng.Trúc ngồi trên đầu dốc hất tung mái tóc cho bay theo gió và đưa tay ngắt mây" bông hoa vang nhỏ xíu nằm ẩn trong cỏ.Trúc không biét đây là loại hoa gì ,đưa lên mũi ngửi ko nghe hương thơm ,nhưng quả thật những bông hoa đẹp ,và nhỏ nhắ dễ thương.

-Mệt không "em" chở cho về

Phục đạp chiếc xe nhỏ tới sau lưng Trúc từ lúc nào cô không hay ,chỉ khi nó lên tiếng ,Trúc mới quay lại.

-Chiếc xe nhỏ xíu mà chở gì.

-Chị cứ lên ngồi ,bảo đảm chở thoải mái ,nhẹ nhàng.

-Kỳ

-Còn hơn là đi bộ mỏi chân

-Cũng gần tới nhà nhóc ơi ,đừng co dọa.

-Ai dọa chị làm gì.Thôi "good bye" nhé ,chịu khó về sau vậy ,hỡi bà chị khó tính.

Phục cười dài rồi đạp xe đi thẳng.Trúc cầm những cánh hoa trong tay đi lững thững theo con dốc đầy hoa dại Nhà của chú Hiển nằm cuối con dốc ,trong 1 vườn cây ăn trái ,phần lớn trồng toàn nhãn ,thanh long,sa bô chê. Ngôi nhà khá rộng , chia làm nhiều phòng và phải nói là nhà của chú Hiển tuy ớ xa thanh phố nhưng lại là 1 ngôi nhà đẹp ,lý tưởng. Ðây là 1 ngôi biệt thự kiến trúc theo lôi" Mỹ ,đầy đủ tiện nghi ,nó nằm trên khoảng đồi mà có lẽ trước là rừng nguyên sinh bị tàn phá ,chỉ còn sót lại vài mươi cây cổ thụ,còn lại là những loài cây mới trồng ,trong đó có hàng thuỳ dương ,suốt ngày ngân nga trong gió biển thổi tới.Ngôi biệt thự màu trắng ,nổi bật lên trên nền trời ,suốt ngày vắng vẻ vì ngoài ba chị em Trúc ra ,chỉ còn vợ chồng chú Hiển và Trường ,đứa con trai duy nhất của vợ chồng chú Hiển.Trúc và Huyền ở 1 phòng ,Phục riêng 1 phòng tầng trệt.Vợ chồng chú Hiển 1 phòng tầng trên ,phòng của Trường ở phía sau phòng chú Hiển có 1 lối đi riêng từ bên hông nhà.Chú Hiển thường ở cơ quan có khi ở cả ngày ,buổi tối nhiều khi tiệc tùng đến khuya mới về. Thím Loan cũng làm việc cơ quan ,Trường đi vắng suốt ngày cho nên ngôi nhà gần như chỉ có ba chị em Trúc.Tối hôm qua hình như Trường về nhà rất khuya có lẽ cậu ta say khướt như mọi đem cho nên sáng ngủ dậy muộn

Khi Trúc về tới ,thấy Trường đang tập thế duc trong sân ,còn chị Huyền và Phục đang đánh vũ cầu ,Trúc tới ngồi trên bậc thềm.Trường ngừng tập hỏi :

-Chị Trúc mới đi biển về à ?

Trúc gật đầu ,ngó Trường :

-Ðêm qua Trường say phải ko ?

-Ðụng 1 trận lớn chị a ,mình em cả 10 chai.Mấy thằng bạn ngã liệt địa

-Sao Trường cứ say hoài vậy ?

-Chứ chị nghĩ làm cái gì bây giờ ,ở nhà học không vô ,ra đường gặp bạn bè.Mình ko xỉn nó cho mình là nhát gan ,con nhà goàu mà không dám chịu chơi.

Tuy Trúc nhỏ tuổi hơn Trường,nhưng vai lớn nên Trường phải kêu bằng chị.Nhiều lúc Trúc cũng ngượng ,nên thỉng thoảng Trúc nói trống không :

-Bạn bè gi ,ông nào ông nấy thấy rầu. Còn thanh niên mà bày đặt để râu như tướng cướp.

-Bộ chị không nghe nguòi ta nói sao ?

-Nói gì ?

Trường cười giòn :

-Ðể râu không phải mình già...

Chị Huyền đang đánh vũ cầu ,nghe chưa hết đã hét lên :

-Thôi tốp cái miệng lại ngay,đồ quỷ ,đừng có bà láp.

-Người ta nói thiệt chứ đâu có nói bà láp

Trúc ko hiểu tại sao chị Huyền lại ngắt ngang ,không cho Trường nói tiếp Nhưng thấy thái độ của Trường ,Trúc biết đó là 1 câu nói không đứng đắn.Trúc nhăn mặt :

-Ðã nhậu nhẹt say sưa, còn bày đặt nói ba láp nưã.Trường thấy mà ghê.

-Chỉ có chị là chê em thôi chứ nhiều cô khen em lắm đấy.Cho bà chị hay ,ở cái xứ VT này em là 1 "ngôi sao" đấy nhé.

-Ngôi sao xẹt thì có.

-Hôm nào em mời chị Trúc nhậnp băng với em, bảo đảm vui chơi thoả thích.

-Thôi cảm ơn,chắc chắn là chị không dám ở trong băng "tướng cướp " của Trường đâu. Bộ Trường bớt đi chơi 1 chút không được sao ?

-Con người ta sinh ra là để vui chơi, em thực hiện đúng điều cầu nguyện của mẹ em chớ bộ.Mẹ em đã chẳng cầu nguyện :"Mong cho con trai tôi ham ăn ,chóng lớn ,vui chơi " đó sao?

-Thôi cậu ấm ơi đừng có nguỵ biện.Cứ cái đà rong chơi kiểu này Trường sẽ chẳng học hành gì được đâu.

-Học sơ sơ được rồi ,em ghét con mọt sách lắm. Người thông minh không nên học nhiều.

-Nói chuyện với Trường thiệt là chán.

-Hôm nay mình đi Thich ca Phật đài chơi ,bảo đảm chị sẽ không chán.

Chị Huyền nghe thế thôi đánh vũ cầu ,tới ngồi xuống bạc thềm hỏi Trường :

-Ði với ai ?

-Mấy chị em mình đi thôi ,em lái xe đưa đi thích kô ?

-Dĩ nhiên là thích ,từ hôm ra đây tới nay chị chưa hề tới đó -Chị Huyền cười -nhưng em học lái xe bao giờ mà dám lái ,đừng ẩu nghe ông tướng ?

-Chị khỏi lo.Không học lái ,mà biết lái mới là ngon chứ.Em lấy xe ông già lái đi chơi hoài ,ra đường trường em "vẽ" cũng đẹp mắt lắm đấy.

Bao giờ đi ?- Nhóc Phục cũng ném vợt xăn xái hỏi.

-Phục ớ nhà -Trúc đáp

-Vô duyên ,2 bà đi chơi bắt người ta ở nhà ,ngu sao chịu ?

-Ðây là lệnh - Trúc cười

-Không nghe.

-Phục đi theo ,nhưng ko được giở trò "lý sự " chị mới cho đi.

-Em chỉ lý sự khi nào cần lý sự thôi -Phục chống chế.

-Khổ nôĩ ,lúc nào Phục cũng "lý sự" được hết ,thế mới phiền.

-Thôi,nói vậy chứ cho P đi luôn.Bao giờ đi Trường ?-Chị Huyền hỏi.

-Tuỳ.

-Ði sớm thích hơn ,hay là mình chuẩn bị đi ngay nhé.

-Ðã bảo tuỳ 2 bà chị thôi,Trường này bao giờ cũng chấp hành ý kiến.

-Xạo.....

-Chưa chi đã gán người ta tiếng xạo.Rồi chị sẽ thấy ,có được 1 thằng em như Trường này kô phải dễ đâu - Trường cười khúc khắc ,vẻ đắc ý.

Khoảng 20 phút sau ,Trúc ngồi bên cạnh Trường ở băng trước ,chị Huyền va Phục ngồi băng sau.Chiếc TOYOTA gắn máy lạnh màu rêu non nhẹ nhang lướt trên con đường đồi xuống phố biển.Trường vừa lái xe ,vừa háy mắt Trúc :

-Lái xe như vậy được chứ ,bà chị thân yêu

-Ðược ,nhưng phải cẩn thận -Trúc đáp.

-Một câu dặn dò hơi thừa

-Không thừa đâu ông tướng ơi -Chị Huyền đập vào vai Trường nói -Cậu nên nhớ là đang chở trên xe 2 người đang rất yêu đời.

-Bộ em lọt sổ sao ? -Phục thắc mắc.

-Em tuy là người thứ 3 ,nhưng còn nhỏ ,không tính

-Sao lại không tính ?

-Còn nhỏ ,chưa xứng đáng được tính chứ sao -Trúc cười.

-Ở đời ,không nên phân biệt như vậy ,còn nhỏ ,nhưng em cũng là một con người ,một nhân vật chứ bộ.

-Rồi ,bắt đầu lý sự nưã - Chị Huyền háy mắt cười giòn.

-Không lý sự để chị Trúc bắt nạt hoài sao.

-Bây giờ đi đâu trước tiên đây - Trường lớn tiếng hỏi.

-Ra chợ ăn sáng -Chị Huyền nói

-Nghe thiệt là.....Khoẻ cái bụng -Phục cười lỏn lẻn, khoái chí.

-Sáng nào cũng ăn ,lau lâu nhịn một bưã đi -Trúc nói.

-Thôi chắc là phải ăn sáng ,hồi hôm xỉn quá về em ngủ luôn có ăn uống gì đâu.Bây giờ đói bụng ,nhất là sau khi tập thể thao.

-Hoan hô "ông " Trường.

Phục nhỏ tuổi hơn Trường ,nhưng vai lớn ,kêu Trường bằng anh thì ngượng ,nhưng ko lẽ lại kêu tên trống không ,hoặc lên mặt gọi "em" xưng "anh" thì khó quá ,cuối cùng Phục bèn gọi Trường bằng " ông" ai muốn hiểu thế nào cũng được. "Ông" vừa em út ,vừa bạn bè ,vừa người lớn hơn mình.Trúc cũng thấy vai trò của Phục thật khó xử ,nên gật gù ra vẻ tán đồng ý kiến của Phục.

-Nhưng phải chọn quán nào đừng có ồn ào quá ,O8/ ngoài này hình ' như người ta thiên sự ồn ào.

-Thành phố biển mà chị. Biển vốn đã ồn ào rồi.Trường đáp.

-Biến là sự trầm lặng chứ -Trúc cãi - Thành phố biển lẽ ra phải êm đềm.

Nói xong Trường nhấn ga cho chiếc xe chồm lên và lướt như bay trên đường hướng về trung tâm thành phố.Trúc hét lên khi Trường vừa quẹo cua :

-Từ từ thôi ,đừng chạy ẩu quá.

-Chị cứ yên tâm ,em lái xe an toàn trên xa lộ

-An toàn cái con khỉ ,làm người ta đứng tim từng phút từng giây. -Chị Huyền vừa thở gấp vừa nói.

-Không bằng lái mà còn chạy ẩu ,chậm lại đi ông tướng ơi.

-Lên xe mà chạy chậm là dở -Trường cười.

-Chị bị đau tim mà...

Trúc nói gần như năn nỉ.Trường cười cười :

-Thà chị nói như vậy còn có lý.

Chiếc TOYOTA màu rêu non từ từ chạy chậm lại với tốc độ bình thường.Trúc cũng lấy lại được bình tĩnh ,cô nhìn Trường và ngạc nhiên thấy cậu ta vẫnn tỉnh bơ như không có việc gì xảy ra.Phải công nhận Trường lái xe rất tự tin ,và có lẽ Trường ko nói dối ,cậu ta lái xa nhiều lần và chắc chắn ko phải ở tốc độ như thế này.

-Trường lấy xe lái đi chơi ko sợ chú Hiển la sao  -Chị Huyền hỏi.

-Không bao giờ.

-Sao thế ?

-Vì em lớn rồi.

-Nhưng xe của chú ấy chứ bộ.

-Xe này ổng ít đi lắm ,để ớ nhà thường xuyên và gần như là cho bà già muốn đi đâu thì đi.Có em lấy xe chở mấy thằng bạn đi Long Hải chơi mấy ngày liền ,có sao đâu. Còn hôm này dĩ nhiên là chẳng có vấn đề gì khiến chị lo, trước khi đi làm ba em đã dặn kỹ phải đưa 2 bà chị đi chơi.

-Lỡ gặp cảnh sát giao thông phạt thì sao ?

Trường cười giòn ,nói lớn :

-Em quen hết trơn ,chị đừng lo.

-Quỷ thật

Xe đã vào thành phố ,Trúc ngồi nhìn ra 2 bên đường và chợt nhận ra khung cảnh khác biệt. với SàiGòn.Ở đây thành phố không có nhiều cây ,hầu hết những dãy nhà hai bên đường đều có lối kiến trúc theo kiểu Mỹ ,phố sá sầm uất ,những con đường rộng thêng thang ,gió biển thối vào cuốn những cái lá chết bay trong nắng. Hiếm hoi ở một góc đường ,Trúc bàng hoàng nhận ra cái màu đỏ của tàn phượng già như xoè lửa trong khoảng trời xanh.Chỉ khi ấy Trúc mới thực sự nhớ mùa hè ,còn không khí ở trong thành phố thì thuộc vào 1 thời tiết khác ,bãng lãng như chớm vào đầu thu.

-Ðẹp quá -Chị Huyền nói

-Cái gì đẹp ? -Trường quay lại hỏi

-Phố xá đẹp ,khung cảnh đep.

-Cây phượng ớ góc đường vừa rồi đẹp hơn hết - Trúc cười.

Trường cho xe tắp vào lề ,đậu trước cửa quán ăn. Ðó là 1 quán bán cơm tấmm đặc biệt cúa VT. Giờ này quán đông khách nhưng không ồn ào.Phục khịt khịt mũi trước mùi thịt nướng bay ra thơm phức. Nó cười hỏi Trường :

-Ông Trường ơi ,ở đây người ta nướng thịt làm sao thơm ác ôn thiên địa vậy ?

-Làm sao mà biết được.

-Thế mà ông cũng khoe là "thố địa " xứ VT. Không biêt" mình phải tìm hiểu chứ ?

-Ðược rồi "ông" vào trong đó ăn đi và tìm hiểu

-Ông mà vào Sài.Gòn ,tôi sẽ dẫn  ông đi ăn cơm " Bà cả đọi ". Ngon, rẻ ,bổ....

Trúc thấy cần thiết phái tốp bớt miệng nhóc Phục lại kẻo nó ba hoa trước đám đông đến phát ngượng mất. Do đó ,Trúc thụi nhẹ vào lưng Phục một cái gầm gừ :

-Tốp bớt lại ông tướng.

Trường đưa ba chị em Trúc vào tìm bàn ngồi.Ðặc biệt quán ăn này kê toàn những cái bàn thấp , bàn kê cá ngoài sân nhà dưới góc nhãn.Chủ quán là một người đàn bà phục phịch ,nhưng mấy cô con gái thon thả ,xinh đẹp. có lẽ Trường rất thân với gia đình chủ quán ,nên khi vừa ngồi xuống ,một cô gái tiến lại cười với Trường và liếng thoắng hỏi :

-Lâu quá ko thấy anh Trường ghé đây chơi.

-Ghé đây ăn chớ có gì đâu mà chơi.

-Bộ phải ăn uống mới ghé sao ,mà em nhắc anh hoài.

-Thôi ,cho cái gì ăn đi bé -Trường ngước mắt nhìn cô gái và nói :

-Anh và các chị ăn gì ?

-Bốn dĩa sườn hai miếng thịt - Trường nói.

-Thôi ,chị Trúc không ăn thịt đâu.Bì được rồi.

-Ăn thịt sợ mập hay so mà cữ dữ vậy chị Trúc / -Trường cười -Chị phải ăn cho mập thêm vài ký lô nưã đế mấy anh con trai VT nhảy xuống biển? tự tử hết chơi.

-Sai lại tự tử ? -Trúc hỏi

-Họ thất tình thì tự tử chứ sao.

-Trường thật vô duyên.

Cô gái mang bốn diã cơm theo yêu cầu cúa từng người.Trường có vẻ đói nên ăn 1 lúc 2 diã cơm đầy. Phải công nhận là chủ quán này nấu cơm tấm ngon tuyệt ,bình thường Trúc ít khi ăn cơm tấm và hình như cái món cô ngán nhất là ăn cơm tấm buổi sáng. Lúc nãy Trúc định đòi T dẫn đi ăn phở nhưng nghĩ sao Trúc lại thôi.

-Cơm tấm ớ đây quả là ngon Trúc thấy sao ? Chị Huyền ngậm cây tăm trong miệng hỏi Trúc.

Trúc gật đầu.Trường được có dịp tán dương thêm :

-Ăn cơm tấm đây rồi sẽ không thích ăn cơm tấm ớ đâu nữa hết.Nhưng đó không phải là chuyện đặc biệt ,điều đáng nói là ba chị em con gái bà chủ quán.

-Cả ba cô đều xinh xắn hết chứ gì ? -Chị Huyền háy mắt trêu Trường.

-Xinh xắn là chuyện tức nhiên.Cả ba cô đều học giỏi và nhất là nhảy đẹp hết cỡ. Ở VT ,Ba chị em con bà chủ quán nổi tiếng lắm đấy.

-Có trong " băng" của Trường không?

-Không

-Sao lạ vậy ? -Trúc ngạc nhiên hỏi ?.

-Vì Trường không thích họ vào "băng".

-Thôi ông tướng ơi ,không thích hay là "không dám".Vì "băng" của Trường không vừa gì ,gồm toàn những tay "tướng cướp " dữ tợn lắm ,phải không ?

Bị Chị Huyền nói đúng "tấy". Trường đỏ mặt và khúc khắc cười.

-Tôi không tin điều "ông" Trường vừa nói đâu -Phục bất ngờ lên tiếng.

-Sao lại không tin ? -Trúc hỏi

-Vì người học giỏi không bao giờ phung phí thì giờ vào nhừng chuyện tầm phào.Ba cô gái nếu nhảy giỏi thì dứt khoát không bao giờ học giỏi.

Trường cười phá lên :

-Ông anh... nhỏ bé của tôi ơi ,ông lý sự nghe không ổn chút nào.Người ta học giỏi là một chuyện, còn đi chơi, du hí là một chuyện khác.

-Trong lớp tôi đứa nào ham chơi là học dở. Vậy thôi.

Trúc thấy nên chấm dứt màn "lý" sự " ko nhằm chỗ của Phục nên lườm cậu em nói :

- Thôi ,tốp Phục lại ,đừng có "lý sự " nữa.

-Nhưng em tức quá ,phải cãi chứ.

Tội nghiệp cho cậu em của Trúc ,vẻ mặt sừng sộ của cậu không được ai tán đồng nên cũng xịu xuống.Phục nói gì đó lùng bùng trong miệng nhưng cũng đứng lên theo mọi người ra xe khi Trường đã thanh toán tiền bữa ăn sáng.

-Cậu Trường lúc này làm mặt lạ với mẹ con tôi rồi nghen -Bà chủ quán nói theo khi Trường đã ngồi vào tay lái.

-Mai mốt sẽ ghé lại mời chị đi chơi.

Trường giơ tay lên chào và nói lớn. Ba chị em con bà chủ quán đứng sau lưng mẹ ngó theo cười lúc Trường phóng xe chồm tới.-Bây giờ đi tìm quán uống cà phê nhé -Trường nói.

-Sao lúc nãy không uống ở quán đó luôn ?-chị Huyền hỏi.

-Chị Huyền đúng là không có kinh nghiệm.Trường cười tiếp -thường quán bán thức ăn không bao giờ có cà phê ngon.

-Trường nhậu chứ có uống cafe đâu mà ngon hay không ngon - Trúc nói.

-Trường sẽ đứa chị tới một quán café "hết sẩy con cào cào " ,chừng đó chị sẽ rút lại câu nói vừa rồi.

-Thử xem.

Trường lái xe đi một vòng phố ,chay ngang qua chợ VT sực nhớ tới mấy đứa bạn dặn phải có quà xứ biển ,Trúc kêu Trường dừng xe lại Trường hỏi :

-Làm gì mà dừng xe chỗ này ?

-Vào chợ một chút.

-Chi ?

-Chị mua quà tặng mấy nhỏ bạn cùng lớp.Về mà không có quà VT tụi nó chửi chị chết.

-Thôi bữa khác đi bà chị thân mến. Chút nữa ra Thích CA Phật đài ,chị muốn mua bao nhiêu quà không có.Còn nếu muốn mua mắm ruốc bà giáo Thảo hôm nào em sẽ đưa tận đến nhà, bảo đảm mua một gói tặng một gói kỷ niệm.

Trường không chịu dừng xe cho Trúc vào mà lái đi thẳng.Chiếc TOYOTA màu rêu non nổi bật giưã dòng xe cộ ngược xuôi trên đường phố.Thỉnh thoảng Trường đưa tay lên vẫy chào một người bạn lái xe Honda chạy ngang qua.Trúc để ý thấy mấy người bạn của Trường dán mắt nhìn vào xe ,có cảm tưởng là bị người khác chú ý đến mình ,Trúc đỏ mặt nhìn sang chỗ khác.Chị Huyền không hiếu nghĩ gì ,chỉ thấy im lặng nhìn thẳng ra phía trước ,gương mặt chị vô tư lự quá. Vô tự lự đến ngạc nhiên.

-Tối nay có "tiết mục mới " rồi -Trường nói

-Sao Trường biết ?

-Mấy đứa bạn mới thông báo bằng..mật hiệu.

-Vẽ chuyện -Trúc lườm.

-Chị không hiếu nối đâu.Tụi này gặp nhau ngoài phố có những dấu hiệu thông tin đặc biệt mà người ngoài ko hiếu nối. Tụi nó khen hai bà chị "gồ ghề " đấy -Trường cười.

-gồ ghề là gì ? -chị Huyền hỏi.

-Ðẹp ác ôn thiên địa.

-Ðừng có ba xạo.

-Có hai bà chị xinh đẹp ngồi trên xe dạo phố ,cũng làm cho mình hãnh diện với bạn bè.

Chị Huyền phát lên vai Trường 1 cái mạnh.Phục thấy nãy giờ chẳng ai nói gì với mình ,bây giờ lên tiếng :

-Còn em bộ không "gồ ghề " sao !

-Nhỏ mà cũng đòi "gồ ghề ".

Trúc vừa nói vừa cốc lên đầu cậu em một cái khiến nó rụt cổ lại cười khúc khích.

-Mai mốt ko được nói xen vào chuyện người lớn.Nếu còn sẽ bị cốc đủ 100 cái -Trúc hăm dọa.

-Chị cốc chả đau tí nào ,có cốc 100 cái em cũng không ngán.

Quán café mà Trường đưa chị em Trúc tới tưởng đâu trong thành phố ,nào ngờ nó ớ tưốt dưới chân Thích ca Phật đài.Ngôi quán tạm bợ dành cho du khách đi qua ghé lại trong phút giây rồi quên.

Trường chống chế :

-Vào đây uống nước lấy sức đế leo núi.

-Vậy mà Trường ba xạo ,bảo là quán café "hết xấy con cào cào " -Trúc lườm.

-Ông tướng này nói phải trừ hao tới 80% -Chị Huyền cười.

Tuy nhiên không khí trong quán thật, vui vẻ. Mấy chị em không ai uống café mà gọi toàn nước ngọt.Xung quannh bàn của Trúc đám đông ồn ào như một cái chợ ,phần lớn là những cặp vợ chồng dắt díu theo con cái đi tham quan thắng cánh VT và không đoàn nào bỏ qua khu Thích CA Phật đài.Trúc ngồi ngậm cái ống hút ,hút từng ngụm nước mát lạnh và nhìn lên bức tượng to lớn màu trắng nối bật lên trên nền trời.Gương mặt Đức" Phật hiền từ ,2 mắt nhắm lại trong giờ phút tham thiền.

Chị Huyền bõng nói :

-Trường có mang theo máy ánh không , phải chụp vài "pô" kỷ niệm chứ.

-Chị khỏi lo ,máy ảnh để trong xe.Một cuộn phim màu 36 tấm ,tha hồ cho chị chụp.

-Nhưng từ dưới này ngó lên trên đó thấy xa quá ,đi chắc ngất ngư.

Phục nhăn muĩ nói :

-Em có 1 bí quyết leo núi không mệt

-Bí quyết gì ,nói nghe xem.

-Chị đừng than mệt ,mà vừa đi vừa nói lầm thầm trong miệng "ba tiếng khoẻ,khoẻ,khoẻ " là y như rằng chị leo tới trời cũng chẳng ăn thua gì.

-Cấu thần chú của Phục là câu thần chú dỏm -Trúc cười.

-Không tin chị làm thử xem ,chưa chi đã chê người ta.

-Chị khỏi cần đọc thần chú cũng leo được như thường.

-Nào quí vị sẵn sàng chưa ,ta đi thôi.

Trường đứng lên giục ba chị em Trúc cũng đứng lên theo. Lúc đi ngang qua xe. Trường mớ cửa lấy chiếc máy ảnh để sẳn trong cốp quàng lên cố.

Trúc đùa :

-Mày có phim không đó ,hay cứ bấm lia lịa mà chắng được tấm ánh nào thì quê lắm.

-Yên chí ,nguyên một cuộn phim ,chưa chụp.

Và để chứng tỏ cho lời nói của mình.Trường yêu cầu ba chị em Trúc đứng lại trước một quầy bán quà lưu niệm đế chụp một tấm.

Chị Huyền giẩy nấy :

-Không có chụp ba ngươòi ,xui lắm.

-vậy nhóc Phục xê ra -Trúc nói.

-Em cũng phải được chụp với chứ.

-Nhóc chụp một mình đi ,để chị và chị Huyền chụp chung một tấm trước.

Trúc và chị Huyền đứng sát vào nhau theo sự đạo diển của Trường ,cậu ta cầm máy ảnh ngắm nghía theo mọi góc độ và khi đã ứng ý liền nói :

-Chuẩn bị chup nghen, chú ý ,bà Trúc cười hở 10 cái răng cho vui vẻ đi chứ.Chụp hình mà đôi mắt buồn rười rượi vậy ?

-Vô duyên ,chụp lẹ đi đừng có vẻ chuyện -Trúc ngượng ngùng nói.

-Từ từ chụp ,ảnh mới đẹp.

Cuối cùng thì cũng được một tấm ảnh.Trúc phân vân không biết trong ảnh mình như thế nào ,khi Truoờng chụp vẻ mặt cô có tươi vui không, hay đôi mắt "buồn rười rượi " như Trường nói. Nhóc Phục đòi Trường chụp cho nó ba bốn tấm.Phục có vẻ khoái chụp ảnh nên cứ nhảy choi choi qua những bậc thang để lên dốc và chọn cảnh đẹp để chụp hình.Trúc đi phía sau chị Huyền, đường càng lên cao càng thấm mệt.Ở đây Trúc có thế nhìn thấy cả một khoảng không gian rộng trải ra trên màu cây và dưới đó là màu nước biến xanh rờn.Tiếng sóng biển xanh rì rào vọng tới thoạt đầu nghe như gió.Trúc ngạc nhiên vì ở đây có rất nhiều chim ,chúng nhảy chuyền trong các cành lá rậm rì và cất tiếng hót ríu ran như gọi nhau.Không khí trên cao mát lạnh ,trong lành và như có trộn lẫn hương hoa.Trúc hít dài 1 hơi ,thở ra nhẹ nhàng và có cảm tưởng như người mình nhẹ đi, sắp bay được như mộ cánh chim.

-Mệt quá ,ngồi đây nghỉ một chút.

Chị Huyền vừa thở ra vừa ngồi xuống 1 tảng đá lớn ,nhẵn bóng.Trúc ngồi xuống cạnh chị và nheo mắt nhìn lên một tán cây ,cô bắt gặp những cái hoa vàng phơi phới như vừa nở tung trong nắng.

-Ðọc thần chú đi rồi sẽ thấy hết mệt.

Phục đứng ở trên cao gọi xuống ,nhưng Trúc và chị Huyền làm lơ, coi như không nghe thấy gì hết.Trong khi đó Trường cầm máy ảnh ngắm nghía ,cậu ta đang trọn vị trí thích hợp đế chụp cho chị Huyển và Trúc một tấm ảnh nưã.

-Tấm này thì không chê vào đâu được -Trường tự khen mình với vẻ hãnh diện.

-Thôi không chụp nữa đâu.

Chị Huyền đứng lên ,tiếp tục leo lên những bậc thang đá xanh để đi dần lên đỉnh núi.Trúc nheo mắt nhìn ánh nắng xuyên qua kẽ lá rọi xuống thành những quầng sánh đẹp mắt.Nếu mình có được ngồi nhà trên núi này nhỉ ? Trúc mỉm cười cho ý nghĩ của riêng mình.

-Lên trên này đẹp lắm Trúc ơi....

Chị Huyền đứng trên cao gọi vọng xuống ,bàn tay chị đưa lên vâỹ Trúc ,tiếng nói chị như vọng vang trong đá.Trúc mỉm cười ,lắc đầu :

- Không lên cao nữa đâu ,mệt rồi -Trúc đáp lớn.

-Cái gì ? -Chị Huyền hói lớn.

-Chị không nghe gì hết sao ? -Trúc hỏi lại

-Cái gì ?

Lần này thì Trúc cười lớn ,đúng là cuộc đối thoại giưã hai người lãng tai ,không ai hiểu ai muốn nói gì.Trúc đành phải rời chỗ ngồi mà nếu chỉ ngã lưng nằm xuống chút xíu thôi. Trúc sẽ không cưỡng lại được giấc ngủ kéo tới.Cô sẽ ngủ trong tiếng gió ru rì rào và tiếng sóng biển êm ái bay trong không gian.Một giấc ngủ như vậy thì hạnh phúc biết bao ?

-Ði nối không ,Trường dìu chị đi - Trường cười đưa tay nắm Trúc.

-Í ,đừng có nắm tay người ta -Trúc kêu lên.

-Chị đi không nổi mà.

-Nổi

-Thì đi xem ?

Trúc đưa tay lên vén mái tóc qua một bên , mới bước lên những bậc đá xanh ,mồ hôi Trúc rịn ra trán ,nhưng cô cố gắng bước lên.Phục đứng đâu đấy trong bóng cây ném ra những lời trêu chọc cho Trúc phải phát cười ,nhưng Trúc im lặng ,tập trung cho những bước chân của mình.Khoảng cách giưã chị Huyền và Trường ngắn dần.Cuối cùng thì Trúc cũng tới được chỗ chị H ngồi.Cô thở ra một hơi dài ,mệt ngất.

-Chỗ này mà Trúc mang được giá vẽ lên đế vẽ nhi ?

-Ồ.....

-Ðẹp ko cô hoạ sĩ -Chị Huyền hói Trúc.

-Ðẹp quá.

-Ớ đây như vẽ được khoảng không gian và những gợn mây -Chị Huyền cười.

-Nhưng làm sao em mang được giá vẽ lên trên này ,đi không còn muốn sum.

-Ở đây mình "tu" cũng được đấy -Chị Huyền cười.

-Ai cho chị "tu" ? Ông Nghiêm sẽ kéo chân chị.....xuống núi cho mà coi.

Chị Huyền đó mặt ,giọng cười của chị vỡ ra ,trong vắt và nghe thật hạnh phúc.

-lâu quá ko thấy anh Nghiêm ghé lại chơi ,bộ "ông bà " giận nhau hả ? -Trúc hỏi.

-Làm gì có chuyện ấy.Tại vì anh Nghiêm bận đi công tác.

-Tại sao "ông bà " ko giận nhau ?

-Ơ hay , không giận thì ko giận chứ biết sao mà trả lời ?

-Tình yêu mà ko có giận hờn chẳng khác nào ăn bún bò Huế mà ko có ớt bột.

-Trúc biết cái gì mà nói.Ðừng có làm thầy đời.

Trúc cười khúc khích ,giấu mặt trong mái tóc khiến chị Huyền không thấy được vẻ ngượng ngùng trên gương mặt ửng hồng của cô em gái."Con bé thật vô tư ". -chị Huyền nghĩ về Trúc như vậy ,trong khi đó Trúc tự nhủ "chị Huyền thật hạnh phúc ,tình yêu đối với chị sao thật đơn giản và con đường đi phẳng lặng như mặt nước hồ.

-Cười lên đi hai bà ơi...

Trường lại vừa chụp chị Huyền và Trúc thêm một tấm ảnh nữa.Nhưng nào Trúcf có kịp cười đâu, cô còn giấu gương mặt của mình trong mái tóc rối bời vì gió.

-Trường kỳ quá ,cứ chụp lén ảnh của người ta hoài ,làm không kịp cười.

-Thôi ,tự nhiên thế cho đẹp.

-Xấu òm ,giống như bà điên đi núi -Trúc cười.

-Còn đường nào lên cao nừa không Trường ? -Chị Huyền hỏi lớn.

-Hết rồi.Tới đây là tận cùng bằng số.Chúng ta đã lên tới....thiên thai rồi.Nhưng mong hai bà chớ có quên đường trở về.

Trúc cười cười ,cô ngã đầu gối lên một táng đá.Một hồi chuông chùa lại ngân nga ,tiếng chuông như bay trong không gian xanh thẳm ,bao la.Trúc lim dim mắt ,bỗng nhiên cô thèm thèm giấc ngủ trên cao ,Trúc sẽ thấy mình bay theo những vầng mây trắn nõn qua phía bên kia bờ biển? khơi. Ừ nhỉ ,có bao giờ mình sống trong một giấc mơ như vậy không ?

o0o

Hình như Trúc đã ngủ hết một giấc dài ,hết buối trưa.Khi cô thức dậy không thấy chị Huyền và nhóc Phục đâu. Căn phòng thật vắng lặng ,và hình như ngôi nhà cùng hoàn toàn vắng lặng.Trúc nằm nghe tiếng sóng biển vọng về ,đoán là thuỷ triều đang lên ,giờ này chắc nước tràn hết cả baĩ cát.Có lẽ chị Huyền và nhóc Phục đi tắm biển rồi.Trúc cảm thấy mình lười biếng như con mèo ngủ ngày sau buổi đi chơi.Tiếng gió rít qua hàng thuỳ dương mới nghe như tiếng ai trò chuyện thầm thì. Bên ngoài cứa phòng có voan che ,ánh nắg yếu ớt như một mảng màu trong bức tranh vẽ dở.Trúc biết rằng buối chiều đang xuống ,và buổi chiều ở biển xuống rất nhanh.

Trúc rửa mặt ,chải lại mái tóc rồi đi xuống dưới nhà. Chú Hiến đã về từ bao giờ và đang uống trà với thiếm Loan ngoài thềm.Hình như hai người đang chơi cờ tướng.

-Trúc đó phải không, lại đây ngồi uống trà với chú thiếm -Chú Hiển lên tiếng gọi.

-Trúc không đi tắm biến à ? -Thiếm Loan hỏi.

-Dạ không.

-Ừ ,buổi chiều vào giờ này biến động ,sóng lớn lắm ,đừng nên tắm.

-Vậy mà chị Huyền và Phục đang tắm ,gan thiệt.

-Chắc họ có phao và chỉ bơi trong cạn -Thím Loan cười.

-Tắm biển mà không bơi ra xa chán chết , Trúc có biết bơi không ? -Chú Hiền hỏi.

-Cháu bơi cũng khá.

-Trong hồ tắm ấy à.?

-Dạ ,chứ ớ thành phố thì biết bơi ở đâu nưã -Trúc cười khúc khích.

-Ối dào ,bơi trong hồ tắm thì sao gọi là bơi được.Phải bơi ngoài biến mới gọi là biết bơi.

-Thôi đi ông ơi, nói nghe ngon ,chứ sáng nào đi tắm tôi cũng thấy ông nằm ình trên chiếc phao.Bơi như vậy mà cũng gọi là bơi.

-Tôi ăn con xe của bà đây -Chú Hiền bỗng nói lớn rồi đánh con cờ đen " cốp " 1 cái.

-Ăn gian.

-Tôi ăn đàng hoàng ,ngựa tôi bắt xe bà nãy giờ chớ bộ.

-Nhưng rình người ta lúc nói chuyện ,ăn như vậy không ngon.

Chú Hiền uống một ngụm trà ,cười dòn.Chú quay qua hỏi Trúc :

-Cháu có biết chơi cờ tướng không ?

-Dạ ,cháu chơi cũng tàm tạm

-Tàm tạm là sao ?

-Ớ nhà cháu cũng thường chơi cờ tướng với ba. Cứ ba bàn là Trúc thắng....hai. Ít khi thua.

-Như vậy là cao thủ chứ sao nói là tàm tam. ?

-Cháu đâu có biết....

-Thôi ,cháu gỡ dùm nước bí cho thiếm đi.

Trúc cười ,nhìn vào bàn cờ.Thím Loan đi bên quuân xanh ,đang bị chú Hiền gài để chiếu bí ,và chỉ liếc sơ qua ,Trúc biết chỉ cần hai nước nưã là thím Loan bị chú Hiển chiếu bí.Trúc nói với thím L oan:

-Thím dời con pháo ra cản đầu ngựa chú.

-Phải ăn lại con xe của chú thíêm mới hả dạ

-Không cần ,đánh cờ mình ăn nước chứ không cần ăn con.Cho chú ăn líp.

-Ngon ,chấp luôn 2 người. Tôi gài sĩ đây.

Chú Hiền kéo xuống gài sĩ bên trái.Và chỉ cẫn một nước pháo ,Trúc buộc chú Hiền kéo xe về ,và chỉ chờ có vậy , Trúc kéo xe còn lại vào sát mặt tướng ,phá được thế chiếu bí của chú Hiền ,lật ngược được thế cờ khiến chú Hiền phải quay về phòng thủ.

-Hay ,con nhỏ này cờ cao -Chú Hiền khen.

Thôi, hai chú cháu đấu với nhau,tôi vào lo cơm chiều.Trúc thừa sức là đối thủ của chú rồi đấy.

Nhưng khi thiếm Loan đã vào trong ,Trúc buông những con cờ trả lại cho chú Hiền và cười nói :

-Thôi ,cháu không đánh với chú nữa đâu.

-Tai sao vậy nhỏ ? -Chú Hiền ngó Trúc ngạc nhiên.

-Vì chú không phải là đối thủ của cháu.Ðánh như vậy không ngon.

-Thì cháu cứ đánh tiếp đi.

-Chỉ còn 2 nước nữa là chú bí -Trúc cười.

-Ðánh tiếp mới biết ai thắng ai bại chứ. -Chú Hiển cũng bật cười.

-Người cao cờ nên biết lúc nào mình thua.

-À ,con nhỏ này kiêu ngạo quá sức ,nào đánh tiếp....

Nhưng khi chú Hiền vừa đặt xong con cờ của mình xuống ,nhìn lại "thế trận " của Trúc đã gài sẵn ,chú Hiền lắc đầu tiu nghiũ nói :

-Ðúng rồi ,chú thua.Nhỏ đánh hay quá ,chú thua hẳn cháu.... một cái đầu.

Và chú Hiển buông quân cờ 1 cách tất vọng ,chú ngã người ra sau thành ghế mỉm cười :

-Ai dạy cháu đánh cờ vậy ?

-Ba

-Học trò hơn thầy à ?

-Cháu cũng ko biết nữa.Tự nhiên rồi cháu đánh hay như vậy đấy. Bây giờ cháu phải chấp ba một con xe đấy.

-Cháu thông minh lắm đấy.

Chú Hiển khoái trá rít thuốc ,chú nhả những ngụm khói giống như chiếc tàu lửa khi chạy qua nhà.Giưã ba va chú Hiển có một nét giống nhau ,không phải trên gương mặt ,mà là cách nhăn mặt khi hút pipe.

-Trúc học toán chắc giỏi lắm nhỉ ?

-Trái lại ,cháu học toán rất dở. chỉ có Văn và Sinh Ngữ cháu khá thôi

-Lạ nhỉ ,chú nghĩ những ng thông minh học toán phải giỏi.

-Học toán khác ,đánh cờ tướng khác chưứ chú ?

-Cháu sẽ phải ở đây luyện cờ với chú ,khi nào chú "ngang cơ" vơi" Ðế Thích rồi cháu mới được về.

-Thôi ,cháu phải về ,vì mùa hè sắp hết rồi.

-Ủa mau vậy sao ?

-CHú Hiển có còn đi học nưã đâu mà biết -Trúc cười.

-Ừ nhỉ ,bây giờ chú chỉ biêt có kinh doanh.Lo kinh doanh riết rồi mình rôí óc.

Trúc uống ngụm nước trà.Chú Hiến bỗng xoay chuyện :

-Cháu thông minh ,cháu nghĩ giùm chú cách đưa thằng Trường vào nề nếp xem.Trúc thấy đó ,nhà chỉ có môĩ mình nó ,hoc hành thì cũng được ,nhưng ăn chơi không ai bì.Nó làm chú thiếm điên đầu nhưng có ai dạy dỗ gì được đâu.Chú bận bù đầu ,ít có thời giờ rảnh ,còn thiếm thì gần như bất lực trước thằng Trường.Chú lo lắm.

-Cháu cũng đã nói chuyện với Trường nhiều.

-Thấy có "ăn thua" gì ko ?

-Hiện thời thì không.

-Ðó.Bây giờ lại lái xe đi đâu nưã rồi.Ðêm nào cũng khuya mới về ,và về lần nào cũng say.

-Tại chú thím nuông chiều Trường quá chăng ?

-Có lẽ tại thiếm.Chú thì không nuông chiều đâu.

-Chú nói mà Trường không nghe ả ?

-Nó nghe chứ ,nhưng nghe lỗ tai bên này ,chui qua lỗ tai kia và....bay luôn.

-Cháu hy vọng từ từ nói chuyện với Trường chắc "nó" sẽ nghe ra.

-Nhưng Trúc sắp sửa về trong Sài Gòn rồi ?

-Cháu sẽ biên thư "nói chuyện " với Trường.

-Còn chú có lẽ phải nói chuyện với nó bằng....roi quá. Khổ là môĩ lần đánh Trường ,thiếm Loan đều khóc.Thế đấy ,làm sao mà nó không hư cho được

Chú Hiền lại thở dài ,chú nhồi một tẩu thuốc nưã và trầm ngâm nhả khói.Trúc lại uống trà và lắng nghe tiếng sóng biến. Buối chiều nhạt nắng dần và không khí trở nên gây gây lạnh vì gió biển thối mạnh lên đồi.Một lúc sau Trúc thấy từ dưới chân dốc ,chị Huyền mặc áo tắm đi lên ,theo sau là nhóc Phục ,nó mặc chiếc quần short xanh. Chị Huyền chiều nay mặc áo tắm rất đẹp ,màu sắc rực rỡ nổi bật lên trong màu trắng ,tóc chị ướt nên không bay trong gió ,trên vai chị vắt chiếc khăn lông lớn màu rêu non.Từ xa đi tới ,chị Huyền đúng là một thiếu nữ hấp dẫn khiến cho mọi người phải nhìn ngắm.

-Lạnh quá 

Chị Huyền sà xuống chiếc ghế bên cạnh Trúc và kêu lên.Trúc rót cho chị một tách trà nóng và nói :

-Uống ngụm trà cho đỡ lạnh.

-Ðúng là biển động thấy ghê.

-Nhưng lúc nãy bà Huyền chẳng dám bơi đua với em đấy chị Trúc.

-Ấy ,đừng có thách bơi kiểu đó có ngày phiền mấy ông gác biển phải bơi ra cứu lắm.

Chú Hiến nhăn mặt ,Huyền ngơ ngác hỏi :

-Có phải mấy ông trên cái chòi cao trên baĩ cát đó không chú ?

- Ðúng rồi.

-Vậy mà cháu tưởng mấy ông đó thích....nhìn trời hiu quạnh chứ ,

Nhóc Phục ghếch một chân lên bậc thềm cười cười :

-Gì chứ được mấy "chàng" đó vớt chăc" chị Huyền khoái chết được.

-Ðùng có ba xạo "lão ơi ".

Chị Huyền đứng lên bỏ vào trong nhà ,chị không quên cốc lên đầu Phục một cái khiên" nó rụt cố.

-Có ba chị em cháu ra đây không khí ngôi nhà vui hẳn lên.Mai mốt ba chị em về ngồi nhà lại trở nên lặng lẽ như mọi ngày. Chú lại ít về nhà..

Chú Hiền nói như than thở.Trúc cười :

-Chú mà không về nhà thường ,Trường nó lại càng tung hoành hơn cho mà coi.

-Chú biết làm thế nào bây giờ ,chú không thể bỏ công việc hằng ngày được

Trúc thấy tội nghiệp cho chú Hiền ,trong tiếng thở dài nhẹ nhàng của chú ,Trúc thấy như có một gánh nặng ngàn cân mà chú đang đeo.Trúc cụng ko biết nói sao để an ủi chú Hiền ,cô im lặng nhúng ngón tay trỏ vào tách nước trà rồi vẽ loằng ngoằng những vòng tròn vô nghiã trên mặt kiếng bàn.Trúc thường có thói quen như vậy ,ở nhà trường hay trong tiệm nước ,hoặc lúc ở nhà Trúc vẫn giữ thói quen " vẽ ngón táy " Trênn bàn học của Trúc nếu tính lại sẽ ko biết tính được bao nhiều những vòng tròn vô nghiã ,vô hình tan biến trong không gian ,thời gian khi Trúc có điều gì suy tư.Ðây là một thói quen tốt hay xấu ? Trúc cũng chưa xác định được ,nhưng chắc chắn Trúc khó mà bỏ được trò chơi "vẽ vòng " này rồi.

_Từ hôm qua ra đây tới giờ ,Trúc thấy sức khoẻ mình thế nào ? -Chú hiến bổng hỏi

-Cháu thích hợp với không khí ở đây.Cháu là con người của biển

-Nếu vậy tại sao cháu không ra hẳn ớ ngoài này cho vui ?

-Cháu phải đi học nưã chứ bộ.

-Nếu cháu thích nghỉ học đi làm ,chú sẽ giới thiệu cho.

-Thôi cháu thích đi học ,chưa thích đi làm đâu.

-Biển chiều này hò hét ghê quá.

-Trời ,biển hát chứ sao lại hò hét.Chú nói kỳ.

Chú Hiền cười phá lên :

-Chú lại thấy biển hò hét như mụ đàn bà nối cơn tam bành chứ không thơ mộng như cháu tưởng tượng đâu.

-Cháu mà tưởng tượng ư ? Không, cháu không tưởng tượng đâu,mà chíng biển nói như vậy.Chú hãy im lặng và lắng nghe mà xem.

-Chú nghe đến đầy 2 lỗ tai rồi ,bây giờ nghe tiếng sóng là chú phát sợ.Tối nay Trúc làm gì ?

-Đọc sách

- Thôi, tối nay chú thím đưa ba chị em đi chơi.

-Ðịnh đi đâu vậy chú ?

-Khiêu vũ ,Trúc biết khiêu vũ ko ?

-Cháu biết sơ sơ. Chị huyền nhảy giỏi lắm đó chú.

-Ở Vũng Tàu này chú thím là một cặp nhảy đôi đẹp có tiếng đấy.

-Ðế tối nay cháu xem chú và thím biểu diễn.

-Nhưng cháu phải hoc nhảy cho giỏi vào.Bây giờ ở tuổi cháu ,cô nào cũng nhảy giỏi và nhảy đẹp.

-Bà cháu rầy hoài ,cháu cũng ngượng nên học hoài mà chân cẳng cứ cứng đơ như gà vừa mở dây trói.

Chú Hiền cười :

-Ba cháu cấm cháu nhảy đầm ?

-Không hẳn là cấm ,nhưng ông ngại cháu mê khiêu vũ thì sẽ bỏ học

-Cháu học gỏi chứ ?

-Dạ ,không đến nôĩ tệ -Trúc cười

-Như vậy thì được rồi.Ba cháu là bác sĩ ,đã từng đi du hoc nuước ngoài ,lẽ ra ống cũng phải "đổi mới " chứ.

-Ba cháu cũng mới " lắm chứ.

-Nhưng chắc là không "mới " bằng chú ,phải không ? -Chú Hiền vừa cười vừa hỏi.

-Dĩ nhiên.Chú công tác o8? Một ngành mà nếu không "mới " cũng không được.

-Bởi thế thím Loan ghen. Chú rầu quá đi.

Trúc cười khúc khích :

-Thế mà thím nói chú ghen với thím đấy.

-Cái bà này.....

Thật ra nếu so sánh giữa chú Hiền và thím Loan khó mà đoán được ai sẽ ghen ,vì người nào cũng còn trẻ , đẹp dư sức thu hút người khác phái. Nhưng phụ nữ thường có vẻ "già " trước đàn ông. Ðó là một thiệt thòi ,thím Loan đã từng tậm sự với Trúc như vậy Vả lại ,trong cuộc sống.đôi khi người ta làm "màu mè " vậy thôi ,để cuộc đời có thêm ý nghiã chứ chú Hiền và thím Loan sống rất hạnh phúc.

-Thím Loan đã nói với Trúc thế à ?...Chú Hiển ngần ngừ một lúc rồi hỏi Trúc.

-Chú không biết đâu ,thím Loan và Trúc là 2 người bạn đấy. thím Loan thường tâm sự với cháu.Như vậy là chú phải coi chừng.....cháu không là đồng minh của chú đâu đó.

o0o

-Chị vừa nhận được thư cúa anh Nghiêm.

Chị Huyền rút tờ giấy pelure gấp đôi từ trong bì thư màu xanh đưa cho Trúc.

-Có gì bí mật không mà đưa cho người thứ 3 xem vậy ? Trúc cười hỏi.

-Chuyện bình thường ,chẳng có gì đặc biệt phái giấu.

-Sao anh Nghiêm biết chị ở ngoài này mà biên thư ?

-Chị có biên thư báo chớ bộ

-À,tuy xa nhau nhưng ông bà vẫn gắn bó với nhau như hình với bóng.

-Khi có người yêu rồi Trúc sẽ hiểu.

-Thôi ,sống một mình thoải mái hơn ,có người yêu mệt lắm.

-Ðọc thư đi ,đừng có làm bộ ,cô nương.

Trúc cười ,mớ thư ra đọc.Phải nói ông Nghiêm này có một nét chữ đọc đến là khó chịu. Ông ấy viết thư cho người yêu mà không ngay hàng thẳng lối ,chữ viết to ,lên dốc xuồng đèo ,lại xấu nưã mới chết.

Trúc chê ngay :

-Viết thư cho nguời yêu mà ông Nghiêm ẩu quá trời.

-Coi vậy chứ ông ấy tốt bụng Chữ viết thì xấu nhưng lòng thì đep.

-Rồi lại quảng cáo nưã rồi.

Chi Huyền đỏ mặt ,mím cười với vẻ ngượng nghịu dễ thương của người đang nắm trong tay hạnh phúc.

Ðọc xong bức thư ngắn ,Trúc cũng chẳng hiểu ông Nghiêm muốn nói gì. Trúc cười ,trả chị Huyền bức thư.

-Sao.?

-Sao là sao ?

-Viết thư thế nào ,cho chị ý kiến đi -Chị Huyền cười nhìn Trúc với vẻ ái ngại

-Lời thật thường mất lòng.

-Cứ nói đi ,chị chẳng...sợ đâu.

-Ông này chắc là ông "Hai ẩu ".Em chỉ chấm ở mức trung bình thôi.

Lãng xẹt ,ai bảo chấm điểm với chả chấm. Chị muốn biết ý kiến Trúc thế nào về câu chuyện trong thư.

-Em chả hiểu ông ấy muốn nói gì.

-Ối trời....

- Có lẽ tại, em chưa yêu ai nên khó thông cảm với bức thư tình đầy tính......tượng trứng đó.

Chị Huyền có vẻ thất vọng vì nhận xét của Trúc.

Chị cất bức thư vào giấu trang sách rồi để xuống đầu nằm.Phải nói chị Huyền nằm trong ghế xích đu rất đẹp ,cái dáng của chị giống như một người con gái vẽ trong bức tranh lụa.Chị Huyền để cho tóc xoã một bên mặt ,chi im lặng và như chìm đắm trong tiếng gió vi vu trên hàng thuỳ dương.

Ttối nay chị đi chơi không ?

-Không

-Sao thế ?

-Chị thích ở nhà 1 mình.

-Bộ chị giận em hả ? -Trúc hỏi.

-Kkông,chị thích đọc sách hơn đi khiêu vũ.

-Thôi em biết rồi.Tại vì nguời ta muốn chung thuỷ với người yêu.

Chị Huyền cười nhỏ nhẹ ,nhưng không xác nhận hay phản đối điều Trúc vưà nói.Chi Huyền nằm nghiêng ,những ngón tay lướt nhẹ qua hàng song bao lơn.

-Tối nay bỗng nhiên chị thấy buồn.Vậy thôi  

Chương 3 :Trúc mở mắt và lắng nghe tiếng chim vọng qua cửa sổ vào phòng.Tiếng chim líu lo gọi nhau êm ái ,vui đùa ,có lẽ vẫn là tiếng gọi nhau quen thuộc của đôi vợ chồng chim khuyên bên tàn nhãn bên nhà.Trúc biết mình ko lầm vì hôm qua nhóc Phúc báo cho Trúc biết vợ chồng chim khuyên đã xây đựợc một cái tổ rất xinh xắn trên cành nhãn.cùng với tiếng chim líu lo gọi nhau, nắng buổi sáng cũng lùa vào phòng ,lọc bới tấm màn voan mỏng thành một màu rất đẹp mắt ,óng ả như tơ vàng.Và rồi tiếng sóng như từ hàng Thùy Dương vọng tới ,vẫn âm thanh rì rào thôi thúc kỷ niệm ,khắc khoải như những điều bí ẩn còn giấu kín trong cái bao la và màu xanh muôn trùng của nó.

Ðêm qua đi chơi về khuya ,Trúc dậy muộn.Cuộc khiêu vũ thật vui ,nhưng không đế lại ấn tượng gì sâu đậm trong lòng Trúc.Cô thấy dửng dưng và sẵn sàng quên đi như những cuộc vui khác.Ngoại trừ một bài hát nói về sự chia biệt của đôi thanh niên nam nữ trong cuộc chiến tranh ,buổi chiều ngoại ô để họ chia tay nhau ,người lính ra mặt trận và không trở về. Ðiệu Boston êm ái ,nhẹ nhàng ,chú Hiền dìu thiếm Loan đi những bước rất đẹp trên sàn nhảy bóng lộn.Trúc biết còn lâu lắm cô mới nhảy đẹp được như thiếm Loan ,nhưng bài hát thì Trúc thuộc lòng đã từ lâu.

Nhà vắng ,chú Hiền và thiếm Loan chắc tới cơ quan ,chị Huyền và Phục có lẽ ra biển. Trường tối qua cũng về khuya ,say khướt ,chắc giờ này cũng chưa dậy nối. Trúc nằm nán lại một chút trên giường rồi đi vào phòng rửa mặt ,lúc nhìn vào gương ,Trúc giật mình nhận ra đôi mắt của mình có vẻ như u ẩn hơn ,nét tươi vui thường ngày biến mất.Trúc biết cô đã mất ngủ đêm qua ,chỉ chợp mắt được khi gần sáng.

Trời lạnh.Trúc khoác áo len xuống nhà rồi đi ra sân. Khu vườn nhỏ trên đồi tràn ngập trong ánh nắng và gió ào ạt thối lộng qua những tàn cây thùy dương. Trúc nghe tiếng gió lướt di trong không gian và tan loãng đâu đó trên mặt biển xanh. Khi Trúc đi lại gần bậc thềm ,cô bỗng ngạc nhiên khi thấy ai đó đã để 1 con cá biển thật to ,loại cá thu cờ da óng ánh bạc nằm trên bậc thềm. Con cá thu hãy còn tươi ,có lẽ mới từ biến vớt lên ,đôi mắt nó tròn xoe , miệng ngâm sợi dây câu hay người ta buộc miệng nó để xách.

Và và mảnh giấy lớn đập vào mắt Trúc khiến cô ngạc nhiên.

Trúc lấy hòn đá ra ,cầm tờ giấy lên xem. Những dòng chữ viết vội ,bằng bút bi to kềnh lướt qua mặt Trúc

"Chị mặc áo vàng thân mến ,

Ngoan vừa từ biển trở về ,lật đật tới nhà chị ngay ,nhưng chị hãy còn ngủ. Ngoan gởi chị con cá thu tươi rói gọi là quà của biển cả và cũng để trá lễ cho những viên kẹo ngọt ngon của chị tặng Ngoan hôm nào. những viên kẹo của chị áo vàng đã làm những ngụm nước biển xanh bớt mặn.

Ngoan mong rằng dù con cá thu ,quà tặng của người đi biển được "nấu nướng " dưới bất cứ hình thức nào ,chiên,xào,nướng ,kho hay nấu canh....đều luôn nhắc chị nhớ tới người khó nhọc bắt đuọc nó từ biến và mang tới tặng chị.

Của ít lòng nhiều ,chị ăn cá mà nhớ tới Ngoan.

Rất mong được đón tiếp chị tại nhà. Ðó là lời mời thành thật. Ngoan thay lời má mời chị đấy.Ngoan sẽ không vẽ địa chỉ vào đây cho chị biết đâu ,chỉ vẽ một mũi tên theo hướng con chim Hải âu bay.Người nào thông minh sẽ tìm ra ,Ngoan biết chị áo vàng là người rất thông minh.

Ngoan đợi chị sáng sáng ,chiều chiều....bây giờ thì Ngoan phải về gấp vì đói bụng quá rồi.Ngoan cũng phải ngủ một giấc để bù lại những đêm đi biển thiếu ngủ.

Tạm biệt.

Ngoan"

Trúc cầm bức thư mỉm cuời ,cô ngồi trên bậc thềm nhìn con cá thu như hãy còn thoi thóp thở và hình dung ra gương mặt sạm nắng của Ngoan.Chú bé thật dễ thương và hiền lành ,đãviết những lời chân thật và xúc động.

Buổi chiềuTtrúc lấy chiếc xe đạp mini của thiếm Loan tìm đường đến nhà Ngoan. Trúc không rành đường , do đó phải hỏi thăm khá lâu ,cuối cùng người ta chỉ cho Trúc vào một con đường nhỏ lởm chởm đá sỏi và cát. Hai bên rợp bóng thuỳ dương. con đường đẹp như trong tranh vẽ và bất ngờ làm sao Trúc như bắt gặp ước mơ của mình ,Nhưng rất tiếc Trúc không mang theo giá vẽ và bút chì ,nếu không ,chắc chắn Trúc sẽ có dừng lại đâu đó bên đường và sẽ có một bức phác thảo tuyệt vời về cái xóm thuyền chài này rồi.Trúc vừa đạp xe vừa tiếc thầm và tự nhủ thế nào ngày mai Trúc cũng sẽ tới đây với đầy đủ "đồ nghề " và với tư cách là một...cô hoạ sĩ.

Từ bãi cát trống nhiều cỏ xanh bên đường ,bất ngờ có mấy con bò chạy túa ra làm Trúc hết hồn ,chiếc xe đạp lạng quạng lách tránh mấy con bò nên chạy vào một bụi cây đầy gai nhọn ,may mà Trúc không té vào bụi cây đầy gai đó ,chứ nếu không..eo oi.Trúc không dám nghĩ tới nữa. Cô thấy tức mấy con bò quá đi ,vừa đứng nhìn theo chúng vừa thở liên hồi kỳ trận ,trán Trúc vả mồ hôi.Thật hú hồn ,quỷ tha ma bắt mầy con bò ác độc ấy đi cho rồi.

-Chị sợ lắm hả

Tiếng hỏi bất ngờ làm Trúc giật mình quay lại. Từ bao giờ ma Trúc chắng hề hay biết một cậu bé chăn bò ,tay cầm cây roi ,đầu đội nón lính thuỷ thật buồn cười đứng nhìn Trúc cười.

-Bò của em đó phải không ?-Trúc nhăn mặt hỏi.

-Không của em chứ của ai.

-Sao không bắt bò nó đi từ từ mà rượt nó chạy như....bò vậy ?-Trúc lườm cậu bé.

-Bò thì phải chạy như bò chứ sao ,chị này nói kỳ cục.

-Suýt nữa gây án mạng rồi ,em sẽ phải chịu trách nhiệm.

-Em còn vị thành niên ,chưa phải chịu trách nhiệm hình sự

Cậu bé này "lý sự " giống y như nhóc Phục ở nhà.Trúc bực quá la lên :

-Nhưng mà em không thể chăn bò kiểu ấy được ,nếu không phải là chị thì sao ?

-Bởi vì là chị nên mới chạy xe vào bụi cây đầy gai như vậy chứ người khác không chạy vào đây.-Cậu bé cười.

-Dễ ghét ,chứ phải chạy vào đâu ?

-Không chạy vào đâu hết mà đứng lại.Bò em hiền lắm nó tự động tránh chị thôi.

-Lấy gì làm bằng chứng là bò em hiền ,không húc người ?

- Bằng chứng là thấy chị lạng quạng ,nó cũng lạng quạng chạy mất rồi.Bây giờ em phải mất công tìm bò về , mệt chưa ?

-Lần sau em phải rút kinh nghiệm đấy.

-Chị ở thành phố khác tới phải không -Cậu bé hỏi.

-Ðúng rồi sao ?

-Chẳng sao cả. Em thấy người là biết ngay.

-Em đi kiếm bò ,tránh đường cho chị đưa xe ra.

-ÐỂ em giúp cho.

Cậu bé chăn bò nhanh nhẩu giành lấy chiếc xe đạp từ tay Trúc và thật nhẹ nhàng ,nó nâng bổng chiếp xe đạp mini lên đem ra khỏi bụi cây đầy gai. Nó dựng xe và cười nói.

-Coi như em đã xin lôĩ chị rồi nhé. Mà không ,tạ tội mới phải chứ .Chị đi dạo chơi hay tìm nhà ai vậy ?

-Chị tìm nhà người quen.

-Ðã quen sao lại phải tìm ?

-Mới quen.

-Vậy nhà ai thế ,nói em biết đi ,trong vùng này nhà ai em cũng biết ,em sẽ vui lòng hướng dẫn cho-Cậu bé chăn bò quơ quơ cây roi trong không khí cười nói.

-Chị tìm nhà một cậu bé trạc tuổi em vậy.

-Ở xóm thuyền chài này có tới......một tỷ đứa bé trạc tuổi em.

-Thôi đừng xạo ,dân số cả nước chưa tới trăm triệu nữa là cái xóm thuyền chài heo hút này mà dám nói một tỷ chú nhóc ?

-Em quen..........xài tỷ rồi.

Cậu bé trả lời thật thông minh và dễ thương khiến Trúc phải phì cười. Cô hỏi :

-Em có biết nhà chú bé Ngoan ở đâu không ?

-Xì ,nhà nó ai mà chẳng biết.

-Vậy em chỉ cho chị tìm nhà Ngoan đi.

-Nhưng giờ này làm gì có nó ớ nhà ,Ngoan theo ba má đi đánh cá ngoài biển rồi.

-Ngoan hẹn với chị sáng nay mà ,Chắc chắn là Ngoan ở nhà.

-Nó xạo đấy.

-Chưa gì em đã kết tội người khác ,như vậy là không tốt đâu.Nhưng cứ cho là Ngoan không có nhà ,nhưng em cứ chỉ nhà giùm ,được không ?

-Được quá đi chớ.Chị đi theo hướng này..

Theo cây roi cậu bé chăn bò đưa ra ,Trúc nhận thấy một con đường đất nhỏ ,dẫn từ bãi cỏ xuống một khoảng cây thưa thoải dốc

-Chị thấy nhung lùm nhãn kia chưa ?

-Thấy rồi.

-Nhà Ngoan nằm trong vườn nhãn đó.Chị phải xuống một con dốc xa ,khó đi ,coi chừng bị té.

-Cám ơn em.

-Khỏi cám ơn ,chị chỉ nhắn giùm Ngoan rằng ,nó còn nợ em một trăm vỏ ốc đấy. Thôi,chào chị nhé ,em phải chạy kiêm mâý con bò của em cho nó uống nước ngọt đây.

-Kìa,cậu bé...

Trúc chưa kịp hỏi tên ,cậu bé đã vung roi và chạy như một kỳ mã vào giờ xung trận.Trúc lắc đầu cười rồi đạp xe theo con đường đất nhỏ do cậu bé chăn bò chỉ. Nhà Ngoan hiện ra dưới con dốc nằm trong vườn nhãn đúng theo lời chỉ dẫn của cậu bé chăn bò.Khi Trúc đạp xe thẳng vào sân ,một con chó mực đen ngòm từ trong nhà phóng ra sủa inh ỏi.Trúc cũng vừa nhận ra chú bé Ngoan ngồi vá lưới với 1 thanh niên trong bóng cây.Và bàng hoàng làm sao Trúc nhận ra chung quanh đây là không gian sực nức mùi thơm của nhãn đầu mùa.

-Mực ,mưc...mày có đứng có xạo nghen ,người quen của tao đấy.

Ngoan la con chó mấy tiếng làm nó cụp đuôi hết sủa ,và bây giờ con chó mực quay qua vẫy đuôi mừng rỡ đón Trúc ,đúng là con chó ba xạo.

-Thấy chưa ,em biết thế nào chi cũng tới mà.Chị áo vàng tìm nhà hay quá.

-Nhà Ngoan ở xa quá ,lại khó tìm ,Ngoan lại không chịu ghi địa chỉ làm chị phải hỏi thăm tùm lum.

-Ðường đi ở trong miệng mình ,vậy nên em không để lại địa chỉ là đúng.

-Mời chị vào trong này...uống nước.

Anh thanh niên nãy giờ đứng nhìn Trúc ,bây giờ lên tiếng mời. Giọng nói của anh thanh niên mang một âm sắc lạ. Cái giọng trầm hơi nặng làm cho người ta dễ dàng nhận ra dân vùng biển.Trúc đoán anh này có lẽ là anh trai của Ngoan ,nét mặt họ giống nhau. Ðặc biệt anh thanh niên có đôi mắt đen sâu thẳm và hàng lông mi cong như lông mi con gái. Nhưng Ngoan nói :

-Thôi ở ngoài này nói chuyện cho vui ,vào nhà làm gì. Giới thiệu với chị áo vàng , đây là anh Thường ,anh trai của Ngoan.

-Vô duyên ,chẳng lẽ là anh gái sao mà chú giới thiệu chi li thế -Thường nạt em.

-Mình phải là người lịch sự ,giới thiệu đâu đó đàng hoàng.

Trúc cười :

-Hai anh em giống nhau ,thoạt nhìn biết ngay.

-Chú Ngoan thích làm anh Hai lắm chị áo vàng ạ.

-Sao lại gọi tui là áo vàng ? -Trúc chớp mắt cười.

-Ủa ,chứ chị không phải tên áo vàng sao ?

-Ðó là cái tên chú Ngoan bịa ra.Tên tui khác cơ. Ai mà tên Áo vàng kỳ vậy.

Ngoan giẫy nẩy :

-Em biết tên thật của chị rồi ,nhưng em không thích gọi tên ấy ,em đặt cho chị cái tên Áo Vàng và chỉ thích gọi bằng cái tên dễ thương ấy thơi.

-Tên gì cũng được ,khách tới nhà mà không mời người ta uống nước , chú thiệt là kỳ .Thôi,chú chịu khó leo bẻ dừa xuống mời khách đi -Thường nói.

-Anh quên hợp đồng ký rồi sao ?

-Hợp đồng gì ở đây chú ?-Trúc cười.

-Khi chị Áo vàng tới ,chính anh chứ không ai khác sẽ là người leo bẻ dừa.Bây giờ khách tới anh lại từ chối nhiệm vụ vinh quang ấy rồi.

-Cái hợp đồng mới toanh này cũng là do chú bịa ra chứ anh không biết gì hết.Nhưng thôi được,vào nhà lấy chiếc băng dài ra mời chị áo vàng ngồi chơi ,anh ra sau nhà hái dừa theo lệnh của chú.

-Như vậy mới đúng điệu...làm anh chứ.

-Chị uống nước từ nhà rồi ,không khát nữa đâu Ngoan.

-Cứ để cho ông anh của Ngoan làm nhiệm vụ vinh quang mà.

-Ngoan kỳ thiệt đó.

-Rồi chị sẽ biết mọi chuyện.

Nói xong Ngoan vào nhà mang chiếc ghế dài ra đặt dưới bóng cây và mời Trúc ngồi.Ngoan ngồi ở đầu băng và nói :

-Chị biết em và anh Thường ngoéo tay ký hợp đồng như thế nào không ?

-Chị không biết -Trúc cười nói.

-Dễ thôi ,lúc sáng em mang cá tới nhà chị trớ về hai anh em mới cá nhau xem ai thắng .Em nói thế nào chị cũng tới ,anh Thường bảo không.Em bảo nếu chị tới thì anh Thường phải là người thực hiện cho em 3 điều.Ði hái dừa chỉ mới là điều thứ nhất.Rồi chị sẽ thấy 2 điều kia còn ác ôn hơn.

-nếu chị không tới được thì sao ?

-Dễ thôi ,em sẽ thua cuộc và sẽ phải thực hiện ba điều kiện của anh Trúc.

-Ðó là 3 điều gỉ

-Uống 1 ly nước biển ,bắt 1 trăm con dã trangvà bị búng lỗ mũi 50 chục cái.

-Thế còn 2 điều còn lại mà anh Trúc phải thực hiện là gì ?

-Lột dừa bằng 2 hàm răng và....trồng cây chuối đi mười vòng sân.

-Sao ác thế ?

-Ăn nhằm gì ,rồi chị sẽ biết.

-Con cá Ngoan cho rất tươi.Và lần đầu tiên trong đời chị ăn một món cá tuyêt. vời như vậy.

-Tuyệt vời là gì há chị ?

tuyệt vời là ngon lắm ,ngon số một ,ngon hết ý.

-Vậy là tuyệt cú mèo chứ.Lẽ ra chị phải nói là tuyệt cú mèo mới đúng ,

-Tuyệt cú mèo là gì ?

-Là....tuyệt cú mèo.

-Lần đầu tiên chị mới nghe tiếng này -Trúc cười.

-Dễ thôi ,rôi 1 chị sẽ biết tất cả nếu chị ở đây lâu.Nhưng mà chị sắp về SàiGòn rồi phải không ?

Trúc gật đầu.Ngoan chép miệng tiếc rẻ :

-Rất tiếc ,thật là rất tiếc.

-Sao thế ?

-Vì chị ra ngoài này, đi tới đi lui ,đi tắm biển.đi dạo chơi đây đó ,nhưng nếu chưa được đi theo ghe đánh cá với em là coi như chưa biết gì về biển cả.Ðúng không ?

-Rất đúng -Trúc cười

-Nhưng chị biết thế nào được,ai cũng phải đi học. Chị phải về thôi.

-Em cũng đi học ,anh Thường cũng đi học vậy. Làm như chỉ có chị là đi học thôi sao ?

-Ủa ,Trúc cũng đi học nữa à ?

-Anh ấy học giỏi nưã là khác.Cho chị hay mai mốt anh Thường cũng vào trong SàiGòn để học đại học đó.

-Chị tưởng....

Ngoan có một lối nói chuyện rất đặc biệt ,cứ thỉng thoảng lại thêm vào 1 điệp khúc "rồi chị sẽ biết " rất dễ thương.Mỗi lần như vậy làm như Ngoan sắp kế ra một điều bí mật mới lạ nào đó ,nhưng thật ra đó chỉ là thói quen của Ngoan mà thôi,chẳng có điều mới lạ nào cả.Biết vậy nên Trúc cứ mắc cười hoài.

Thường mang vào 1 trái dừa xanh ,loại dừa xiêm chỉ to bằng trái bưởi Biên Hoà nhưng nước rất ngọt.Ngoan cười nói với Trúc :

-Bây giờ chị sẽ thấy anh Thường trổ tài lột dừa bằng...răng.

-Chết ,không được đâu ,gãy hết răng rồi lấy gì ăn cơm.

-Chị cứ yên chí ,chẳng nhằm nhò gì đâu.Anh Thường đã từng biếu diễn tài..cạp dừa nhiều lần ,và lần nào cũng thắng.hôm nay ảnh phải thực hiện 3 điều hứa chứ.

Thường đỏ mặt ,Trúc thấy Thường bối rối ,tần ngần cầm trái dừa trong tay chưa có quyết định dứt khaót.Ngoan giục :

-Mau lên anh Thường ,chị áo vàng khát nước lắm rồi.anh phải thực hiện điều thứ nhất đi chứ.Nên nhớ còn 2 điều nữa đấy nhé.

-Cho chị...xin được không ?

-Không được,dứt khoát là không được đâu.Chị cứ ngồi yên ,rồi chị sẽ biết.

Thường bắt đầu màn cạp dừa ,anh dùng 2 hàm răng cắn từng miếng vỏ xanh ,rứt ra ,chỉ nhìn thôi Trúc cũng cảm thấy sợ hãi ,có cảm tướng 2 hàm rang9 mình sắp rụng đến nơi.Nhưng ngó bộ anh chàng T tỉnh rụi ,T sử dụng 2 hàm răng như 1 gọng kềm ,chắng bao lâu trái đừa đã dc cạp hết lớp vỏ ngoài ,tới lần vỏ mềm bên trong T cũng cạp trong nháy mắt.Trái dừa xiêm đã lột hết lớp vỏ ,tròn trĩnh 1 cách đáng yêu đã nằm gọn trong lòng bàn tay to bì ,mạnh khoé của T.

-Xong rồi nhé -Thường giơ trái dừa lên cao cười nói.

-Anh nạo dừa vào ly mời chị Áo vàng đi chứ

-Phải dùng dao mới được...Trúc chen vào.

Ngoan khoát tay cười :

-Chị cứ ngồi yên ,chẳng cần dùng tới dao đâu.Rồi chị sẽ biết.

Thường dùng cán muỗng cà phê soi trên đầu trái dừa nạo 1 lỗ tròn ,trút nước dừa vào cái ly đã đế sẵn 1 tí muối trắng.Xong T dùng sóng bàn tay chặt mạnh trái dừa đế trên đầu gối.Trúc nhắm mắt lại ,bàn tay chận trước ngực như sợ trái tim mình vỡ ra.

-Xong rồi

Trúc mở mắt theo lời nói cúa N và nhìn thấy trái dừa đã bế làm đôi.T dùng chiếc muỗng cà phê nạo cơm dừa bỏ vào ly.Nạo hết 2 nủa trái dừa ,Thường cười mang ly dừa đến mời Trúc.

-Mời chị Áo vàng

-Tôi tên Trúc.

-Gọi Áo vàng cũng đâu có sao -Thường cười.

-Anh làm Trúc sợ muốn đứng tim.Cứ lo hai hàm răng cúa anh gãy hết sau khi cạp xong trái dừa.

-Chẳng sao.Trái lại hàm răng tôi như cứng hơn.

-Mai mốt đừng biểu diễn màn cạp dừa kinh khủng như vậy nưã.Một lúc nào đó anh sẽ chẳng còn cái răng ăn cháo đấy.

-Ăn cháo mà cần gì răng ?-Ngoan cười.

-Ngoan cũng đừng đùa quái ác như vậy nữa.Trúc nói.

-Thôi,chị uống nuước dừa đi ,rồi sẽ biết.

-Chỉ có một mình chị uống sao ?

-Chỉ mình chị thôi.Hôm nay chị là người khách đặc biệt mà.

Trúc ngượng ngùng uống nước dừa và ăn những miếng cơm dừa ngon ngọt như chưa từng ăn lần nào. Quái lạ ,ở đây là vủng biến ,nước mặn ,thế mà bao nhiêu chất mặn của nước biển đã được cây dừa hút lấy để chắt lọc thành những ngụm dừa mát tê đầu lưỡi và ngọt lịm.

-Anh Thường đi hái nhãn mời chị Áo vàng thưởng thức chứ.

-Xong ngay.

-Ðã có nhãn chín rôi à ? -Trúc hỏi.

-Rồi chị sẽ biết -Ngoan cười đáp.

-Trúc đi hái nhãn với tôi không ?

-Thường mời.

-Còn gì bằng.

Trúc vui vẻ theo Thường ra vườn nhãn bên hong nhà. Nhãn đầu mùa ở nhà Thường đã chín đều ,cây nào cũng có những chụp tre hay bao nylon dùng để bao nhũng

chùm nhãn lại cho dơi khỏi ăn được.Nhãn nhà Thường chín sớm ,và trái thật to ,bước vào vườn nhãn Trúc lịm đi trước bầu không gian như được ướp trong hương thơm của nhãn chín.

-Ở nhà Trúc có trồng nhãn không ?-Thường hỏi.

-Nhà nào a ?

-Nhà trong SàGòn ấy.

-Không. Chỉ có khế và mận thôi.

-Còn nhà của chú Hiển ngoài này ?

-Có ,nhưng chỉ có vài cây ,chắc chú trồng cho vui vậy thôi.Bởi thế nên chỉ có bông chứ chưa có trái.

Thường bẻ những chùm nhãn còn trong bao chuyền cho Trúc để bỏ vào chiếc giỏ đệm.Chẳng bao lâu chiếc giỏ đệm đã căng phồng.

-Thôi đi Thường,nhiều rồi.

-Hái thêm một chùm nhãn đặc biệt cho Trúc mang về,tối ăn.

Trúc theo Thường đi về phía cuối vườn ,ở đây có một cây nhãn đặc biệt ,chỉ cao ngang đầu Trúc thôi nhưng trái triũ cành,Thường giải thích :

-Ðây là cây nhãn do tôi trồng ,loại nhãn này khó kiếm ,trái to ,vỏ mỏng ,cơm dày ,hột nhỏ xíu và ngọt khỏi chê.

-Chưa ăn mà nghe Thường quảng cáo đã biết ngon rồi.

-Bởi thế nên mới gọi là nhãn đặc biệt. Và chỉ có khách quí mới được thưởng thức.

Trúc đỏ mặt.Nhung Thường thì tỉnh bơ. Anh không hái chỉ một chùm mà hái tới ba chùm nhãn lớn.Hoá ra Thường cũng điều tra kỹ về Trúc ,biết cô bé có ba chị em nên mới hái ba chùm nhãn ,điều này thì chắc chắn do Ngoan "báo cáo " lại thôi.

Hai người đi loanh quanh trong vườn nhãn ,Trúc thấy có những chú chim vào vườn từ bao giờ chắc để ăn nhãn chín ,thấy bóng người vụt đập cánh bay lên. Trong khu vườn cũng vang lên một âm thanh quen thuộc ,đó là tiếng ong bay.Trúc thích thú cứ muốn ở mãi trong vườn này.Bởi vì cả người Trúc sẽ được ướp trong hương nhãn chín ,tóc tai mặt muĩ ,ở đâu cũng là hương nhãn.

-Nghe nói Thường sắp vào SàiGòn học đại học à ?

-Ai nói ?

-Ngoan.

-Chưa chi đã xạo.Ba má tôi bắt phải vào trong đó ,nhưng tôi thì không thích.

-Sao lại không thích.

-Tôi thích nghề đánh cá.Ðúng hơn là tôi rất yêu biển.Trúc chưa đi biển lần nào thì kô thế biết vẻ đẹp của biến đâu.

-Chủ nhật Thường cũng được về đi đánh cá kia mà ?

-Nói thế chứ đã học rồi thì có trăm mối lo khác ,đi đánh cá chỉ là tài tử. Tôi ghét cái gì có vẻ tài tử lắm.Phải làm hết mình ,yêu mến lấy việc mình làm mới được.

-Thường học giỏi lắm phải ko.

-Trái lại là khác.Trúc đùng nghe Ngoan ba xạo mà tin.Trúc tin nó là bán lúa giống mà ăn đấy. Ngoan xạo không ai bằng.

-không.Ngoan rất dễ thương.

-Thôi ta ra ngoài ấy đi.

Hai người ra khỏi vườn nhãn.N thấy Trúc xách cái giỏ đệm căng phồng ,cậu bé cười lớn :

-Bộ chị hái hết vườn nhãn của em rồi sao ?

-Vườn nhãn của Ngoan có hái hết đời cũng còn.Chị thích quá đi.

-Vậy thì ngày mai mời chị lại tới.Lúc nào vườn cũng mở rộng cửa.

Thường mang ra một cái rổ nhựa ,trút hết nhãn trong giỏ đệm vào ,chỉ trừ ba chùm nhãn đặc biệt dành cho Trúc mang về nhà thôi.

-Mời Trúc thướng thức nhãn đầu mùa

Thường mời Trúc.Cô giẫy nấy :

-Ba người cùng ăn chứ ,mình Trúc ăn sao hết.

-Hôm nay chị là khách đặc biệt.Phải ăn hết rổ nhãnđó mới về được -Ngoan cười.

-Lớp ăn ,lớp mang về.Như vậy mai mốt chị sẽ tới hoài.

Ba người ngồi quanh rổ nhãn.Nhưng Thường và Ngoan chỉ ăn cho vui ,phần lớn để mời Trúc "thưởng thức " nhãn đầu mùa.Và quả nhiên ,loại nhãn ở vườn nhà Thường rất thơm ngon ,không giống như loại nhãn Trúc thường mua ở các chợ Sài Gòn.

-Trong lúc chị áo vàng ăn nhãn ,anh hãy thực hiện điều thứ 3 đi -Ngoan nhìn Thường nói

-Ðiều thứ 3 là điều gi ?

-Thôi đừng có làm bộ ông ơi.

Trúc đã biết điều thứ 3 ấy là điều gì rồi nên cô hết hồn ,vừa phun cái hột nhãn xuống đất ,Trúc vừa kêu lên :

-Thôi ,đừng có đùa như vậy nữa.

-Không đùa đâu ,đây là chuyện nghiêm túc.

Trúc nhìn vẻ mặt của Ngoan ,cậu bé không cười ,khiến Trúc ái ngại ,và cô không hiểu nổi tại sao hai anh em nhà này có những trò chơi quái ác như vậy.

Thường đỏ mặt nói :

-Bưã khác không được sao ?

-Không được,đừng ăn gian con nít.

-Ðể khách về rồi làm.

-Cũng không được,phải thực hiện điều hứa cuối cùng ngay bây giờ.

Thường chép miệng ,thở ra :

-Thôi đành vậy -Thường ngó Trúc đỏ mặt tiếp -xin lỗi Trúc nhé ,đây là trường hợp bắt đắc dĩ

Trúc phì cười.Thường bước lùi ra ba bước và nhanh như chớp Trúc thấy Thường nhào lộn đầu trở xuống ,hai tay chống dưới đất thay cho hai chân ,đồng thời hai chân quay ngược lên đầu và bước đi,đủ số vòng qui định ,Thường lộn người đứng lên.Gương mặt Thường đỏ bừng ,anh cốc lên đầu em ranh mãnh một cái mạnh nói :

-Xong rồi đấy nhé ,đừng có yêu cầu gì thêm.

-Chị Áo vàng thấy em có một ông anh tài ba chưa ?- Ngoan cười hỏi.

-Tài thật ,nhưng có ngày té lộn cổ chết tươi.

-Nhằm nhò gì ,anh Thường có nhiều tài lắm.Rồi chị sẽ biết.

-Môĩ lần nhìn ai lộn đầu trồng cây chuối như vậy chị đứng tim.

-Chị dở quá.Ðúng là con gái.

Trúc nhìn Thường đang đứng thở ra những hơi dài ,có lẽ vì quá tập trung sức vào việc "trồng cây chuối " nên Thường mệt nhọc ,mặt mũi anh đỏ bừng giống như những đường gân máu trên mặt Thường đều căng ra.

-Thật là không hiểu nổi ,vậy mà Thường cũng chấp nhận trò chơi quái ác này -Trúc trách.

-Không sao đâu ,mọi chuyện sẽ đâu vào đấy.

Thường nhìn Trúc vẻ xúc động vì sự quan tâm của cô.Ngoan cười ,nói :

-Nếu chị thấy anh Thường lặn xuống biển nữa chắc chị xỉu luôn.Anh ấy có thể lặn cả giờ ,dạo chơi dưới đáy biển như người ta đi trên đất liền.Anh Thường đã từng gặp ngườ cá nữa đấy.

Thường cười nói với Trúc :

-Ðừng có nghe những lời ba hoa của Ngoan.Tôi đâu có phải là thợ lặn.

-Nhưng anh có lặn xuống biển rồi chứ ?

Trúc hỏi và chờ đợi câu trả lời.Thường cười :

-Có một vài lần cần thiết phải gỡ dây câu vướng vào đá ngầm ,nhưng chưa lần nào tôi lặn quá 10 phút.Và trước khi lặn đều phải uống một ít nước mắm.

-Tại sao lại phải uống nước mắm ?-Trúc ngạc nhiên.

-Ở dưới biển lạnh kinh khiếp lắm ,nếu không uống nước mắm sẽ bị lạnh cóng ,khi đó sẽ bị vọp bẻ rất nguy hiểm.

-Nước mắm....có mặn lắm không ?

-Dĩ nhiên là mặn rồi.Thường cười.

-Sao Thường lại dám uống ?

-Vì cần thiết nên phải uống ,mới đầu rất khó uống nhưng sau đó thì quen đi.Bây giờ tôi có thể uống một chén nước mắm mà không sao cả.

Trúc thích thú nghe Thường kể chuyện ,dĩ nhiên anh em chú bé Ngoan chắc sẽ còn nhiều chuyện thú vị nữa mà Trúc chưa được biết hết.Những chuyện về biển quả kỳ lạ nó luôn luôn thu hút sự tò mò của Trúc ,giống như những con sóng biển sủi bọt trắng xoá bò trên bãi cát.Trong lòng những con sóng ấy có biết bao nhiêu là bí ấn.

-Trúc ăn nhãn đi.

-Nãy giờ Trúc ăn nhiều rồi.

-Ở trong đó Trúc đi học chắc vui lắm nhỉ ?

-Dĩ nhiên học trò con gái tụi này có biết bao nhiêu chuyện vui.

-Chuyện buồn có kô ?-Ngoan vụt hỏi.

-Chuyện buồn ,chuyên thương ,chuyện ghét ,chuyện hờn đũ thứ chuyện trên trời dưới đất đều có cả.

-Năm nay tôi sẽ vào trong đó học ,chắc là sẽ gặp Trúc và nhờ Trúc nhiều chuyện lắm đấy.

-Thường có nhà trong Sài Gòn không ?

-Không ,tôi vào đó ở trọ nhà một người bà con.

-Ở trọ thích nhỉ ?

-Ở trọ mà thích nỗi gì ?_Thường cười.

Nụ cười của Thường sao mà đôn hậu đến thế.Trúc ngạc nhiên trước nụ cười của Thường.Cô vẫn nghĩ là thanh niên khoẻ mạnh ,da sạm nắng ,chân tay gan guốc thế kia chắc nụ cười phải...dư dữ một chút ,ai ngờ nụ cười của Thường hoàn toàn khác hẳn.Khi cười ,Thường lại có vẻ rụt rè , ngượng ngùng.Trúc không hiểu tại sao Thường lại dám lăn.xuống biển và không sợ sóng gióTtrúc tưởng tượng ra một đêm trăng rót anh vàng trên mặt biển đen thẳm ,sóng biển rì rào ,bình yên vỗ nhẹ vào mạn thuyền Thường và Ngoan rảnh ran ngằm nhìn trăng và anh em họ ca hát nghêu ngao những bài hát về biển.Họ đếm sao trên trời và đi chu du với những vì sao lấp lánh ấy không ?

-Chị Trúc chắc có nhiều bạn lắm nhỉ -Ngoan hỏi.

-Chị có mấy người bạn thân thôi.

-Mấy chị ấy có...hiền như chị không ?

-Có người hiền ,người dữ.Nhưng Ngoan hỏi làm gì kỹ thế ?

-Ngoan chỉ thích những người hiền.con gái mà dữ như bà chằn sẽ khó...lấy chồng.

-Sao Ngoan biết ?

-Nghe người ta nói.Ở xóm thuyền chài này trước đây cũng có một cô gái xinh đẹp nhưng vì chị ấy dữ quá nên không ai dám lấy ,cuối cùng phải ở giá.không hiểu sao một hôm người ta thấy chị ấy hoá điên ,ngồi nói lảm nhảm dưới gốc dừa và ngó ra biển cười khóc ,than thở ,nguyền rủa ai đó.Những đêm trăng người ta thấy chị ấy đi lang thang trên biển...chính em đã bắt gặp chị ấy vài lần. Cho nên con gái phải hiền ,dữ quá sẽ biến thành người điên.

Trúc cười trước câu kết luận đơn giản của Ngoan. Tuy nhiên Trúc đoán chuyện có

này chắc Ngoan không bịa được, mà là câu chuyện có thật, nhưng có điều chuyện độ đến đâu Trúc chưa biến rõ được, có điều một người con gái hoá điên như vậy quả thật đáng tội nghiệp.

- Chị ấy hiện giờ vẫn còn đẹp- Ngoan nói và nhìn Trúc mỉm cười.

- Ngoan có chọc phá chị ấy không ?

- Không. Mỗi lần gặp chị ấy em chạy trốn.

- Sao lại trốn ?

- Vi... thấy ghê lắm.

-Sao Ngoan bảo chị ấy đep.?

- Người đẹp mà không mặc quăn áo thì đẹp ở chỗ nào ?

Ðến đây thì Trúc chịu ,cô không dám hỏi nưã mà ngồi yên ,gương mặt đỏ bừng vi ngượng.

-Chú kể chuyện tào lao quá-Thường nhìn em nói.

-Em kế chuyện thật 100% chứ bộ.

-Thật cũng không được kể? như vậy.Chị ấy đáng thương ,con người ta không ai muốn như vậy cả.Chẳng qua người ta lâm vào một hoàn cảnh nào đấy thôi.

-Thì em có nói gì đâu.......

Buổi chiều đã buông xuống từ bao giờ với màu nắng nhạt thếch trải dài theo con dốc đầy đá sỏi.Không gian ướp trong hương thơm của mùi nhãn chín được gió biển chuyền đi xa hơn ,dường như theo cả những cánh chim bay qua vườn về tới những mái nhà xa trong thành phố mờ đục Gió biển bây giờ mang theo hơi lạnh ,và tiếng sóng vỗ ầm ào chứng tỏ thuỷ triều đang tràn bãi cát phía sau nhà Thường.

-Thôi,chị phải về đây thôi Ngoan.ạ.

Trúc đứng lên và coi như đó là một lời từ giã luôn Thường vì Trúc ngại ,không biết nói với Thường như thế nào.

-Chưa ăn hết nhãn mà về ?-Ngoan nói.

-Chị phải về nấu cơm chiều cho nhỏ em ăn ,không thôi nó chạy tìm khắp nơi.

-Trúc mang tất cả nhãn về.Ở đây có tục lệ đãi khác như vậy. Nếu khách không ăn hết phải mang về nhà.Vậy thôi.

-Cái này là Thường bịa ra hay sao đấy ?

-Không ,hoàn toàn không bịa.Có ba má Thường ở nhà ông bà cũng bắt buộc thế thôi.Vì ăn không hết là khách chê nhãn vườn nhà này không ngon.năm sau sẽ không được mùa trái.

-Chà..chà...Trúc lúng túng trước mộ giỏ xách đầy nhãn mà Thường dúi vào tay bắt cô phải xách.

Thường lịch sự dắt chiếc xe đạp mini giùm Trúc và đẩy lên con dốc ,Ngoan đi phía sau.Hai anh em có ý muốn tiễn Trúc một khoảng đường dài

Trúc nói :

-Thôi được rồi ,phải ra đường lớn.Con dốc này ngó vậy mà xa lắm......

Trúc chớp mắt trước câu nói không hiểu vô tình hay cố ý cúa Thường. tuy nhiên Trúc thật cảm động ,cô bối rối như dưới chân mình có những sợi cỏ gai làm vướng ống quần tây ,Thường dắt chiếc xe đạp gọn gàng leo lên dốc ,Trúc thấy Thường cao lớn và khoẻ mạnh như một cái cây hứng chịu gió bão trên bãi biển.trong lúc đó Ngoan đi sau ,chú bé dùng một cái nhánh cây vừa bỏ đâu đó cạ vào căm xe đạp làm nó phát ra những tiếng kêu thật vui tai.

Ðã đi khá xa khu vườn nhà Thường ,nhưng Trúc vẫn nghe mùi thơm nhãn chín đuổi theo ,hình như hương thơm cũng bám trên mái tóc cô.Trúc mỉm cười một mình với nỗi vui thầm kín vừa len nhẹ vào tâm hồn mình.

-Thôi ,tới đây Trúc về được rồi.

Thường dừng lại ,trao xe cho Trúc. Ngoan cầm nhánh cây đập nhẹ lên yên xe đạp cười :

-Thôi tạm biệt chị áo vàng.

Trái thường lệ ,hôm nay Trúc đi tắm biển vào buổi chiều ,lại tắm một mình.Trúc không dám bơi ra xa vì biển động ,người ta đang căng cờ báo hiệu vùng nguy hiếm cho những người đi tắm biển đề phòng.Trúc tắm ở gần mí cát ,cô nhảy đùa trên những con sóng bạc đầu liên tiếp nhau bò vào bãi cát và khi rút đi ,để lại trên bải cát vô số những chiếc vỏ ốc đủ màu ,có những chiếc vỏ ốc óng ánh ,thật đẹp mắt ,Trúc đã gom những chiếc vỏ ốc xinh đẹp lại một chỗ ,định mang về Sài Gòn làm quà tặng mấy nhỏ bạn

Bãi biển làn lượt vắng người ,Trúc đã có thể thoải mái nằm phơi mình trên cát với trò chơi bốc cát cất thành ngôi nhà lầu hoặc những " kỳ quan của thế giới ".Trúc say mê với trò chơi trẻ con của mình ,những ngôi nhà trên cát này bị sóng biển tràn vào cuốn đi. Những ngôi nhà nào sụp đố ,Trúc sẵn sàng xây thêm những ngôi nhà mới.Chinnh1 trò chơi này nhóc Phục đã bày cho Trúc ,nhưng cô xây nhà chưa khéo bằng Phục

Trong bộ bikini màu xanh da trời có những hoa trắng lớn may rất khéo ,Trúc nổi bật trên bãi biển và tự hiểu mình có một nhan sắc trời cho.Trúc đang ở độ tuổi phát triển nên cơ thể nấy nở lý tưởng.Sau những ngày nghỉ hè ở đây ,da Trúc đã bắt nắng ,càng làm cho cô gái SàiGòn có 1 nước da tươi dòn khiến ai cũng phải ngắm nghía.Nhưng bây giờ thì Trúc nằm một mình trên bãi cát,xung quanh chỉ có những con dã tràng thấy bãi cát vắng người bò lên du ngoạn và làm công việc ngàn đời không mang lại hiệu quả nào,đó là "xe cát biển đông "

-"Dã tràng xe cát biển đông ,nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì "

-Trúc nghĩ tới câu hát mà cười thầm trong bụng.

Chán trò chơi xây nhà trên cát ,Trúc bèn đuổi theo những con dã tràng chạy nhanh như gió.Trúc rượt đuối hết con này đến con khác và không lần nào Trúc tóm được chú dã tràng xem sao.Dã tràng bao giờ cũng chạy nhanh hơn Trúc và chúng có 1 cái nhà an toàn ,bất khả xâm phạm.Đó là cái hang hình tròn ,nhỏ xíu nằm sâu thăm thẳm trong cát ,khi con dã tràng chui vào hang là coi như Trúc chỉ còn nước khum người mà ngó ,nhưng hễ khi Trúc vừa bỏ đi ,con dã tràng lại từ dưới hang chui lên ,tiếp tục se những viên cát nhỏ tròn xíu chờ sóng biển tràn vào cuốn đi.

Nắng chiều đã tắt ,màu trời mờ nhạt dần và gió cũng lạnh hơn.Trúc cũng chán trò chơi đuổi bắt dã tràng ,cô tới chỗ để quần áo lấy chiếc khăn tắm lớn khoác lên người và cầm chiếc túi vỏ ốc đi ngược lên bãi cát để về nhà chú Hiển.Khi Trúc lên vừa hết con dốc quen thuộc bỗng cô giật mình vì thấy Thường đứng chờ trong một bóng cây ,chiếc xe đạp dựng bên cạnh.

Thấy Trúc đã nhận ra mình ,Thường cười ,bối rối nói :

-Vừa tới nhà hỏi thăm Trúc ,cậu em gì đó của Trúc bảo Trúc hãy còn dưới biển chưa về.Tôi quay ra vừa gặp Trúc từ dưới dốc đi lên nên đứng chờ.

Trúc ngượng ngùng không biết làm thế nào để tránh đôi mắt của Thường,tuy anh cũng tế nhị ít khi nhìn thẳng người Trúc.Nhưng chẳng thà mặc bikini nằm trên bãi biển ,giữa chỗ đông người ,ai cũng giống mình ,Trúc đỡ ngượng hơn là đứng một mình trước người khác phái ,nhất là người đó lại là Thường.

-Thường quay chỗ khác ,khi nói được không ?

-Ðược thôi.

-Vậy quay vào gốc cây đi.

Thường cười ,quay mặt vào gốc cây.Trúc ấp úng nói :

-Thường tìm có việc gì không ?

-Ngoan nhờ tôi mang tói tặng Trúc mấy con khô mực laọi đặc biệt để tối nướng ăn cho đỡ buồn.

-Chỉ có vậy thôi sao ?

-Hỏi Trúc bao giờ về SàiGòn ?

-Ngày mốt.

-Buổi sáng hay buổi chiều ?

-Ai hỏi ?

-Ngoan.

-Ðể làm gì ?

-Ngoan đi tiễn.

-Thôi ,khỏi cần ,chú Hiển sẽ đưa ra bến xe.

-Tôi quay mặt ra được chưa ?

-Xí ,chưa được đâu.Bộ Thường gấp về lắm hả ?

-không,tôi định mời Trúc đi uống cà phê ở quán Thuỷ Vân.Quán này rất đẹp ,có ghế bố nằm nghỉ thoải mái.

Trúc cười khúc khích.

-Thôi ,đừng có quảng cáo ,Trúc biết quán đó rồi. Buổi tối ở đó muỗi dữ lắm ,nếu có đi Thường phải mang theo cây quạt để đuối muỗi.

-Tối nay gió nhiều, không có muỗi đâu.

-Sao lại mời Trúc đi uống café ?

-Vì mình sắp...chia tay.

-Bộ sắp chia tay là phải đi uống cafe hả ?

-Nếu Trúc không thích thì thôi vậy.

-Sao biết người ta không thích ? Nhưng ngay bây giờ không được dâu.Trúc còn phải về nhà tắm nước ngọt ,thay quần áo ,ăn cơm tối.Sau đó mới đi được.

-Vậy tôi chờ ở đây.

-Thôi ,không được đâu.Thường cũng phải về ăn cơm rồi mới đi được chứ ?

-Nhưng...

-Thường đừng nên ở đây.Thường đi đâu đó rồi tới quán café ngồi chờ. Hẹn 7 giờ.được không?

-Ðược ,nhưng Trúc đi bằng gì tới đó ?

-Ðừng lo ,Trúc sẽ đi bộ.

-Tôi quay mặt lại được rồi chứ ?

-Cũng chưa được ,chờ cho Trúc đi thật xa rồi Thường hãy quay mặt lại và đi về nhà.Nếu không thực hiện đúng lời hứa thì Trúc không thèm đi uống café đâu.

-Ðồng ý.

Trúc lật đật đi thật nhanh xuống con dốc ,cô không dám quay lại nhìn lên cũng ko biết Thường có thực hiện đúng như lời đã hứa không.Về tới nhà ,vào trong phòng tắm đóng kín cửa rồi mà Trúc vẫn còn ngượng cứng người vì cứ hình dung ra đôi mắt của Thường nhìn mình.Ôi ,đôi mắt của anh sao mà hiền đến thế ,nhưng cũng làm Trúc bối rối đến thế.

Khi Trúc tới quán Thùy Vân thì Thường đã ngồi đợi ở đấy từ bao giờ.Trúc đi thẳng tới chỗ Thường và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh.

-Ðang sống trong hồi hộp ,tưởng Trúc không tới.

-Sao lại không tới ?

Thường cười :

-Con gái ít khi nói thật lắm.Lần đầu tiên bao giờ họ cũng tìm cách nói dối một điều gì đó ,đôi khi không chủ tâm ,nhưng tâm lý chung khiến họ phải nói dối.

-Trúc không nằm trong cái số "con gái " như Thường nói đâu.

-Trúc đi bộ tới à ?

-Anh thấy rồi.Không lẽ Trúc đi phi cơ trực thăng tới đây.

-Trúc uống gì ?

-Nước dừa.

-Ở đây không có nước dừa.Tại sao Trúc thích uống nước dừa đến thế ?

-Uống nước dừa mà không cho ng ta chặt bằng dao cơ.

Thường đỏ mặt nói :

-Ở đây không có thứ nước dừa ấy đâu.Ðó là nước dừa đặc biệt.

-Sao Thường và Ngoan có những trò chơi kỳ quái đến thế.Có ngày gãy hết 2 hàm răng ,hoặc té gãy cổ cho mà xem.

-Còn nhiều trò chơi kỳ quặc hơn nữa mà Trúc chưa biết đâu.

Trúc cười.bắt chước cách nói của Ngoan :

-Rồi sẽ biết.

-Y như giọng nói của chú nhóc Ngoan .Trúc uống gì ?

-Ở đây có những gì ,Thường cứ kêu

-Uống một lúc từng ấy thứ à ?

-Uống cho bằng Thường chứ.

Trúc cười ,nhìn mấy cái ly không còn để trước mặt Thường.Ðó là ba cái ly café đen mà Thường đã uống trong lúc ngồi chờ Trúc.

-Như vậy là Trúc uống café đen ?

-Thuòng cứ gọi cái gì mà Thường thích.Trúc sẽ uống bất cứ cái gì mà Thường gọi.

-Thường gọi bia lon thì sao ?

-Trúc cũng uống như thường.

-Rồi sẽ biết.

Khi cô gái phục vụ đi tới ,Thường ghé vào tai cô gái nói nhỏ ,không cho Trúc nghe

Một lúc sau cô gái phục vụ mang một ly cam tươi.Nhìn ly cam đặt trước mặt ,Trúc ngạc nhiên :

-Sao anh gọi thứ này ?

-Không nỡ để Trúc uống café đen.

-Nhiều khi Trúc thích uống café đen thì sao ?

-Thì sẽ gọi tiếp.Nhưng trước hết Trúc hãy uống ly cam tươi này đi đã.

Trong lúc uống từng ngụm nước cam ngọt lịm ,Thường châm một điếu thuốc.

-Thường có ghiền thuốc lá ko ?

-Không

-Không sao lại hút thuốc làm gì ?

-Cho đỡ hồi hộp.

Trúc đỏ mặt vì cô đã hiểu tại sao Thường nói như vậy.Trúc nhìn Thường ,gương mặt anh mang một vẻ đẹp nào đó trong bóng tối mà Trúc ít khi thấy ở người con trai khác.

-Thường dập tắt điếu thuốc ấy đi.

-Làm gì.Trúc không thích người khcác hút thuốc khi ngồi trước mặt mình à ?

-Không phải như thế đâu ,Thường cứ làm theo lời Trúc đi mà.

Thường dập tắt điếu thuốc bằng cách dụi nó vào cạnh bàn.Trong lúc Thường định ném điếu thuốc xuống đất thì Trúc kêu lên :

-Ðể yên đấy.Trúc mồi cho.

Trúc bật quẹt gaz ,mồi thuốc cho Thường.Vì quá bất ngờ chút xíu nữa hai hàng chân mày của Thường bị lén lửa.Và hơi thuốc đầu tiên đã làm Thường sặc sụa ,ho mấy tiếng.Thường ngồi im lặng một hồi lâu ,anh như chìm trong sự xúc động ngẫu nhiên.

Trúc dùng muỗng café vớt từng cục đá nhỏ trong ly nước bỏ ra bàn nói :

-Người ta bỏ đá nhiều quá.

-Trúc không thích nước đá à ?

-Trúc chỉ thích nước đường.

Thường cười.Dĩ nhiên nước đường ai mà ko thích.Thường đã hiểu câu nói mang hai nghĩa của cô gái ngồi trước mặt mình.Và bất chợt Thường nghe tiếng sóng biến thật gần.nó như vỗ mạnh vào lòng anh ,làm Thường lao đao.Quán Thuỳ Vân nằm bên này con đường chạy dọc theo bờ biển ,người ta kê những cái bàn và những chiếc ghế ngồi dưới bóng thuỳ dương.ghế ngồi là loại ghế bố xếp ,đèn trong quán mờ ảo không đủ sáng nên trong quán tràn ngập bóng tối ,khiến 2 người ngồi bên cạnh nhau cũng không trông rõ mặt của nhau. Chiếc máy hát đang phát ra một bản tình ca nói về bíển.

-Trúc thích bài hát này không ? _Thường bỗng hỏi.

-Nghe cũng dễ thương.

-Nói chung ,nếu người nào yêu biển đều thích những bài hát về biển.

-Với điều kiện phải hay mới được.

Thường rít một hơi thuốc ,đốm lửa ở đầu điếu thuốc loé sáng kỳ lạ

-Người mặc Áo vàng sao lại khó tính đến thế.

Trúc đỏ mặt và nhận ra tối nay vô tình cô cũng mặc chiếc áo vàng giống như hôm gặp Ngoan trên bãi biển.Màu áo vàng bì chìm khuất trong bóng tối nhưng lại trở thành biệt danh của Trúc.

-Thường có thích màu vàng không?

-Cũng còn tuỳ người nào mặc áo vàng nữa chứ.

-Sao Ngoan lại gọi Trúc là "chị Áo vàng " ?

-Không phải Ngoan gọi mà tôi gọi.

-Hoá ra là thế

Trúc cúi mặt đế giấu nụ cười

-Trúc cười gì thế ?

-Làm sao mà giải thích cho Thường hiểu nụ cười của Trúc được.

-Tôi biết rồi ,nụ cười của các cô gái thật khó hiểu.

-Bao giờ Thường lại theo ghe đánh cá đi biến ?

-Ngày kia

-Lúc ấy Trúc đã về thành phố rồi.

-Bao giờ Trúc lại trở lại ngoài này ?

-Chắc là mùa hè năm sau.

-Lâu quá vậy ?

Câu hỏi của Thường biếu lộ sự hốt hoảng làm Trúc mắc cười nhưng cô cố giấu nụ cười của mình.Ðúng là mùa hè năm sau thì lâu thiệt ,và thời gian muôn trùng đâu có ai đoán chắc đc điều gì đâu Trúc nhìn vào đốm lửa của điếu thuốc đang rực cháy trên môi Thường và nói :

-Nhưng Thường cũng sẽ vào SàiGòn học kia mà. Lúc đó sợ Thường chẳng còn muốn trở về vùng biển này nữa.

-Không bao giờ Thường quên được vùng biển này đâu.Ở đây là quê hương của tôi ,đâu có ai quên quê hương mình cho đành.

Trúc tin là Thường đã nói thật vì giọng Thường trầm xuống ,ngùi ngùi xúc động.Gió từ phía biển thổi lên thật lạnh ,Trúc rùng mình khoanh hai tay trước ngực và nằm lọt thởm vào lòng chiếc ghế.

-Trúc lạnh à ?

-Lạnh.

-Biết làm sao bây giờ ,Ờ đây không có củi khô để đốt lò sưởi.Ngoài bãi biến sẽ dễ dàng có một đống lửa hơn.

-Thường thường ra bãi biến lắm à ?

-Thỉnh thoảng buồn buồn tôi rủ chú Ngoan đi dạo chơi.Nhất là những đêm trăng ,và cũng chính những đêm trăng chúng tôi hay gặp cô gái điên như Ngoan đã nói với Trúc.

-Người điên chắc...khổ lắm nhỉ ?

-Chưa chắc đâu.Nhiều khi người điên lại sung sướng hơn người tỉnh.Rất tiếc tôi chưa điên bao giờ nên không trả lời chính xác câu hỏi của Trúc được.

Bất ngờ Trúc thấy cổ chân cô nhói lên ,Trúc đưa tay đập mạnh ,nhưng con muỗi đã bay mất.Thường cười :

-Bị muỗi cắn phải không ?

-Trúc quên mang theo cái quạt.Thật là đãng trí.

-Có cái quạt " thiên nhiên " này rồi ,Trúc yên chí đi (hì )

Vừa nói Thường vừa dùng bàn tay to khoẻ của anh quạt dưới chân Trúc để đuổi muỗi.Trúc ngượng quá rụt chân về ,mặt đỏ bừng lắc đầu quầy quậy :

-Thường đừng làm thế.....mỏi tay chết.

Hai người đột nhiên im lặng ,cả hai rơi vào một tâm trạng bối rối khó giải thích.Trúc múc một cục đá nhỏ đưa lên miệng ngậm và nghe cục đá tan dần trên đầu lưỡi ,hơi lanh chạy dài xuống cổ họng cho Trúc cái cảm giác thích thú như ăn một que kem.Trong quán đã có khá đông khách ,những cái bàn và những hàng ghế đã chật ních người ngồi.Từ chỗ ngồi trũng thấp như dưới thung lũng này nhìn lên ,Trúc thấy con đường chạy ngang tầm mắt mình ,ánh đèn lao chao đổ bóng xuống với những bóng người qua lại thấp thoáng ,mơ hồ.

-Ðêm ,Thường có thức khuya học bài không ?

-Cũng tuỳ ,nếu không đi đánh cá tôi cũng thức khuya học bài ,còn lênh đênh trên biển thì chịu.Lúc đó không tài nào học được ,nhưng nằm đếm sao trời thì rất thích.

Trúc cười khúc khích :

-Có bao nhiêu sao trời mà Thường đã đếm được ?

-Làm sao mà đếm được sao trời ,Trúc hỏi kỳ.

-Mình đếm bằng tưởng tượng.Thường có đọc Dodet không ?

-Tôi rất mê Dodet.

-Mà mê nhất là truyện nói về đám cưới của các ngôi sao ?

Thường cười.Nụ cười của anh thật hiền lành ,dễ thương và không hiểu sao Trúc liên tưởng tới nụ cười của một đứa bé khi nhìn thấy sao bay trong bầu trời ,những vì sao thật ngộ nghĩnh.

-Chúng ta đi dạo mát một lát đi Thường -Trúc nói.

-Ði ra bãi biển nhé ?

-Tuyệt quá.

Thường gọi tính tiền và cùng đứng lên với Trúc.Hai người đi ngược con dốc cát để lên bờ đường.Gió bỗng thổi ào ạt làm mái tóc của Trúc bay tung ,dạt về phía Thường ,hình như gương mặt anh bị mái tóc Trúc che lấp.Thường bỗng cầm bàn tay Trúc kéo chạy qua đường để xuống bãi cát.Quá bất ngờ ,Trúc ko kịp phản ứng gì nên đành chạy theo Thường 1 cách thu động.

-Sóng nhiều quá ,chúng đang bò lên trên bãi cát kìa.

Nhưng Trúc có nhìn thấy gì đâu ,cô đứng thở dốc và mắt chưa quen với bóng tối.Trong lúc đó mắt Thường ngời sáng nhìn thẳng ra biển.Trúc nhìn thấy mắt anh như hai vì sao. Và hai vì sao đó đang bay trong bầu trời thăm thẳm.

Áo Vàng Qua Ngõ - Chương 4 :

NGÀY ÐẦU TIÊN VÀO LỚP HỌC TRÚC MANG tâm trạng rụt rè như một học sinh mới theo chân mẹ lần đầu tiên bước tới cổng trường.Trúc đã đứng trước tấm gương tủ rất lâu ,ngắm nghía lại mình.Sau những ngày nghỉ hè ở biển ,Trúc thật lạ lùng trong gương ,nước da đen dòn ,rám nắng,khoẻ mạnh.Hôm qua đi phố Trúc đã nhắm mắt leo lên bàn cân của một người cân sức khoẻ bên lề đường và thấy mình tăng được 2 ký lô là mập rồi đấy.Sáng nay thấy chiếc áo hơi chật ,tự nhiên Trúc có cảm giác gương mặt mình đầy đặn hơn ,tròn trịa hơn thường ngày.Quả thật ,sau kỳ nghỉ hè ở biến ,Trúc có những đối thay mà khi nhìn vào gương Trúc mới nhận ra với một chút hoáng hốt.

Và tụi bạn Trúc cũng chỉ chờ có thế.Khi thấy Trúc đẩy chiếc Babetta vào cổng trường ,cả ba nhỏ trong nhóm đã ào ra reo lên.Nhỏ Minh Ánh reo to nhất :

-Eo ơi ,nhỏ Thuỷ Trúc đây sao ,tưởng công chúa con vua Thuỷ Tề lên măt. đất chứ.

Trúc gởi xe xong ra đứng chung với nhóm ,cô chớp đôi mắt có đuôi dài hỏi Minh Ánh :

-Tại sao lại gọi là công chúa con vua Thủy Tề ?

-Vì nước da nhỏ đã rám hồng nắng biến như đã sinh ra từ biến chứ còn sao với trăng gì nữa ?

Bích Hồng nắn bờ vai mềm mại cúa Trúc nheo mắt cười :

-Tăng mấy ký lô mà mập thế ?

-2 ký.

-Ăn trúng cái gì mà mập dữ vậy nhỏ ?-Khánh Huệ chen vào.

-Ăn trúng cái bánh tráng ướp nước cốt dừa chứ sao -Trúc cười đáp.

-Sao đi lặng lẽ mà về cũng lặng lẽ thế ,quà xứ biển đâu ?

-Ai biểu quí vị không tới ngay ,bây giờ thì còn gì nữa đâu mà hỏi.

-Như vậy nhỏ còn nợ bạn bè nhiều lắm đấy.

-Giờ ra chơi trả nợ được ko?

-Ðược.Con người lịch sự phải vậy ,không nên mắc nợ khó coi -Khánh Huệ cười.

Bích Hồng kéo Thuỷ Trúc về một góc sân nói :

-Bàn của mình có thêm một nhỏ nữa ,cũng tên Ánh nhưng lót chữ Hồng.

-Hồng Ánh à ?

-Ðúng vậy ,con nhỏ ngó cũng kiêu kỳ lắm.

-Tên cũng được đấy nhưng mặt mũi sao ?

-Xinh lắm.

-Còn chuyện gì mới nữa không ?

-Ngoài ra thầy dạy môn Văn năm nay của mình là một người có cái lỗ mũi đỏ tự nhiên.

-Lỗ mũi đỏ ?

-Ðúng thế ,giống như trái cà chua chín tới.Chẳng hiếu sao kỳ vậy ?

-Ông ấy dạy ra sao ?

-Có học giờ nào đâu mà biết......Lúc nãy cả nhóm đi "thám thính " dưới văn phòng ,thây ống ấy cũng được ,chỉ có điều đặc biệt ấy là đáng nói thôi.

-Suốt mùa hè Bích Hồng không đi chơi đâu à ?

-Có rãnh rang gì đâu mà đi chơi.Bích Hồng phải ở nhà lo phụ giúp gia đình.mùa hè đối với Bích hồng thật là...thê thảm.

Trong nhóm bán 4 đứa.Bích.Hồng thân nhất với Trúc và có hoàn cảnh tương đối phức tạp.Tuy con nhỏ rất kín miệng ,nhưng hình như ba mẹ Bích Hồng không được hạnh phúc ,gia đình lục đục thường xuyên.Và mỗi lần như vậy Trúc nhận ra đôi mắt đỏ hoe của bạn mình khi vào lớp.Thường ngày Bích Hồng dành thời gian rỗi để ra chợ phụ bán hàng với mẹ ,viêc. học đối với Bích Hồng là cả một sự cố gắng ghê gớm.Bích Hồng học mà cứ như một người leo dốc ,ì ạch qua mỗi kỳ thi. Nhiều lúc con nhỏ định bỏ ngang "để lấy chồng cho xong ".Trúc rất thương Bích Hồng và thường an ủi bạn ,phải nói Trúc giúp đỡ Bích Hồng rất nhiều trong việc học cũng như trong việc động viên tinh thần.

-Rồi Trúc sẽ phải kể chuyện về những ngày ở biến nhé ,không giấu Bích Hồng được đâu.

-Có gì mà phải giấu kia chứ ?

-Không giấu nhưng chưa chắc đã chịu nói -Bích Hồng cười ,háy mắt.

-Chẳng có chuyện gì đâu nhỏ ơi.Suốt ngày ta đi lang thang ngoài bãi biến ,nhặt vỏ ốc ,đuổi mây" con dã tràng chạy có cờ và xây nhà trên cát.Vậy thôi.

-Chỉ có vậy thôi sao ?

-Ừa vậy thôi -Trúc mỉm cười.

-Không phải đâu.Còn nhiều thứ lắm.Trúc không thế giấu được.

-Sao lúc này nhỏ hay nghi ngờ bạn bè thế ?

-Không phải Bích Hồng nghi ngờ mà chính Trúc đã "tự nói " đấy thôi.

-Sao ?

-Sao với trăng gì ,cứ nhìn trong đôi mắt của Trúc là biết ngay thôi.Ðúng không bồ ?

Bích Hồng thân mật ôm lấy đôi vai của Trúc.Nó kéo Trúc đi vào hành lang và cười khúc khích ,tiếng cười con nhỏ dội vào những sợi tóc dài của Trúc ,nóng buốt như luồng điện 200 volt rồi chuyền vào lỗ tai Trúc đến là thảng thốt. Câu nói Bích Hồng thật là lạnh lùng.

Trúc gỡ bàn tay bích hồng hỏi :

-Sao đôi mắt Trúc có gì ,bụi à ,muối biển còn vương lại à ?

-Không phải bụi ,muối biến ,mà là sương khói.

-Trời ,sương khói ở đâu thế ,Vũng Tàu chứ đâu phải Ðà Lạt. Nhỏ ngủ mê chăng ?

-Ðời nào.

-Vậy thì nhỏ lầm to rồi. Ðôi mắt của ta vẫn bình thường hai con ngươi ,thức thì mở,ngủ thì nhắm lại

-Vậy mà khác lạ hồi Trúc chưa ra xứ biển Vũng Tàu.

-Khác ớ chỗ nào nói đi ?

-Nói rồi.Có khói. Nhìn vào mắt Trúc ,Bích Hồng thấy sợi khói bay lên.

-Ðiệu này chắc Trúc phải đi khám mắt quá.Mắt mà có khói ba lên là nguy rồi.

-Ừa ,Trúc phái đi khám mắt gấp.Nếu không có thuốc nào nhỏ vào để tan sợi khói ấy thì có ngày Trúc sẽ phải khóc vì sương mù giăng kín đôi mắ trong sáng ,long lanh như hai hạt nhãn của mình cho mà xem.

-Bích Hồng nói gì thấy ghê.

Lễ khai giảng năm học mới diễn ra theo thủ tục thường lệ.Trúc ngồi giẵu" đám bạn chỉ nghe loáng thoáng bài diễn văn của thầy hiệu Trưởng ,câu được câu mất. Bài diễn văn thi muôn thuở vẫn là bài diễnvăn ,nội dung na ná như nhau. Có điều năm nay vì là "học trò người lớn " nên Trúc thấy có những nét mới trong tâm trạng hồi hộp của mình.Giữa tràng pháo tay có lẽ cũng theo thủ tục thường lệ ,Trúc bất ngờ nghe có tiếng ve ngân nga đâu đấy trên hàng phượng phía sau lưng trường ,chỗ bức tường cao lởm chởm mảnh chai nhọn chắn ngang.Tiếng ve không còn rộn rã nữa ,nó mang âm thanh trầm lắng ,như chìm vào màu đỏ của những chùm phượng hiếm hoi trên cành cây đã đơm đầy lá non.Trúc thở dài một tiếng như cơn gió mùa thu lướt qua.

-Sao lại thớ dài vậy nhỏ ? -Khánh Huệ thúc vào hông Trúc hỏi.

-Mới đó đã hết một mùa hè , nhanh quá.

-Ừa ,nhanh vô cùng.

-Bồ có nghe tiếng ve kêu trên hàng phượng sau lưng trường ko ?

-Tiếng ve nào ?- Khánh Huệ ngạc nhiên.

-Tiếng ve cuối hè chứ tiếng ve nào.Hỏi vô duyên chưa ?

-Có nghe cái giọng rè rè của ông hiệu trưởng đọc diễn văn thi có.

-Lỗ tai nhỏ chẳng "nhạy bén " gì hết.

-Ta đâu có được cái đầu óc mơ mộng như nhỏ.

-Ðâu phải có đầu óc mơ mộng mới nghe được tiếng ve ?

-Thôi ,im đi ,không cãi nhau nữa.

Minh Ánh thúc vào hông môĩ đứa một cái để giảng hoà.Bích Hồng cười nói :

-Tiếng ve chỉ để một mình Trúc nghe thôi các bồ ạ

-Ði biển về sao nhỏ Thuỷ Trúc mơ mộng thế không biết.

Câu nói của nhỏ Minh Ánh làm Trúc giật mình. Bài diễn văn của ông hiệu trưởng chấm dứt hồi nào không hay ,chỉ khi tiếng vỗ tay rào rào nối lên Trúc mới hay biết.

-Về lớp nhanh lên ta giới thiệu Trúc với Hồng Ánh.

Bích Hồng nắm tay Trúc lôi nhanh đi ,Minh Ánh kéo tay Trúc lôi lại hoá thành một cuộc giằng co.Khánh Huệ đưng giữa làm trọng tài,Khánh Huệ chu miệng đếm "một ,hai,ba " giữa tiếng" cười ròn tan của nhóm bạn.Cuối cùng Khánh Huệ tuyên bố :

-Thuỷ Trúc không đi dâu cả ,theo ta.

Llàm gi ?

-Ra quán chè

-Vậy cả nhóm cùng đi.Còn chuyện gì hôi sau sẽ phân giải.

Bích Hồng tán thành ,và thay vì lôi Trúc về phòng học ,con nhỏ lại lôi Trúc theo Khánh Huệ ra quán chè phía bên kia đường.

-Cho con nhỏ có dịp trả nợ bạn bè ,vậy thôi.

Khánh Huệ vừa đi vừa an ủi Trúc.Mình Ánh cũngđế vô :

-Hôm nay trả một ,hôm khác trả mười.

Tội nghiệp Thuỷ Trúc mấy bà ơi.

-À ,Bích Hồng bênh vực "người yêu " hả ? -Khánh Huệ trừng mắTrúc đe doa.

-Ta công bằng ,không đứng về phe nào.

-Nhỏ định làm Bao Công xử án sao ta ?

-Nhớ Sài Gòn mưa rồi chợt nắng ,nhớ phố thân quen ,nhớ ly chè thơm.Em Thuỷ Trúc ơi.Em còn nhớ hay em đã quên...

Minh Ánh nháy theo mấy câu hát dễ thương của Trịnh Công Sơn.Và cả nhóm bạn bước vào quán chè của dì Tư mang theo tiếng cười ròn tan như chưa muốn dứt.

Vừa kéo ghế ngồi ,Khánh Huệ vừa háy mắt nhìn Trúc :

-Cho tự do kêu há khố chủ ?

-Ừa ,muốn kêu gì cứ kêu.Ăn xong phần ai nấy trả.

-Khôn vừa thôi nhỏ ơi.

-Nói chứ các bán thích ăn chè gì cứ kêu chè đó ,tiêu chuẩn mỗi người một ly.

-không được ,tiêu chuẩn ta phải gấp đôi ,vì ta có sáng kiến...lôi nhỏ Trúc ra quán chè.

-Tiêu chuấn ta ăn theo ,cũng được hai ly -Minh Ánh nói.

-Ta chung thủy với "người yêu " thôi ,ta một ly cho trọn tình vẹn nghĩa.

Bích Hồng cười ,đá vào chân Trúc dưới gầm bàn như chứng tỏ một sự cảm thông ghê gớm lắm.

-Thôi được -Trúc cười quay vào gọi lớn -cho sáu ly chè thập cẩm đi dì Tư ơi.

Quán chè của dì Tư ,trước khi bọn Trúc tới học chắc cũng đã có rồi.Và phải nói rằng chè của dì Tư ngon nổi tiếng ,cũng chừng ấy thứ hầm bà lằn ,đậu đỏ 1 tí ,đậu xanh 1 tí ,đậu trắng 1 ti ,bánh lọt 1 ti ,nước cốt dừa vài muỗng ,thế mà chè của dì Tư đã làm bọn con gái mê tít.Có lẽ đặc biệt ở chỗ dì Tư biết pha chế nước cốt dừa ,ngậm muỗng chè béo ngậy trong miệng ,bọn con gái biết rằng sẽ không bao giờ ăn chè ở đâu ngon hơn chè của dì Tu(trùi ,tả đã thấy ngon,thèm muốn chết ).Do đó môĩ ngày dì Tư cứ tà tà hốt bạc ,và bọn Trúc ngày ngày chắc sẽ phải móc túi dúi tiền cho dì Tư một cách tự nguyện.

Khánh Huệ vừa ngậm muỗng chè ,vừa nói :

-Ngôi trường này nhờ có quán chè dì Tư nên làm tăng thêm vẻ đẹp của nó.(tâm hồn ăn uống có khác )

-Nhận xét của nhỏ làm ông hiệu trưởng buồn thúi ruột.

-Ông buồn kệ ổng.

-Ủa ,sao không vào lớp mà kéo ra hết ngoài quán chè vậy ta ?-Trúc hốt hoảng kêu lên.

-Hôm nay làm lễ khai giảng ,nhận lớp rồi về.Có vậy mà cũng hỏi.

-Trúc vẫn chưa biết lớp ở đâu.

-Mấy bưã nay ta đã tới đây và đã dành bàn rồi. Ðợi nhỏ chắc phải ngồi cuối lớp.

-Nhỏ mê xứ biển nên quên cả ngày nhận lớp ,chút xíu là quên cả ngày khai giảng -Minh Ánh phê bình.

-Mỗi đứa có một ly chè rồi rên rỉ hoài - Bích Hồng cười nhăn nhăn cái mũi.

-Một ly nữa mới hết rên -Khánh Huệ nói tỉnh queo.

-Từ từ người ta mang ra ,ai thiếu nợ Khánh Huệ sao mà giụ quá trời vậy.?

Ăn chè xong cả lớp kéo về lớp học.Cũng chẳng còn ai trong lớp ngoại trừ một gương mặt lạ hoắc đập vào mắt Trúc. Nhỏ này đang ngồi nhìn ra khung cửa sổ có một tàn phượng còn vương một chùm hoa đỏ ối.

-Nhỏ Hồng Ánh mà ta nói với Trúc đấy.Làm quen đi.

-Ai làm quen ai trước ?

Bích Hồng nhăn mũi :

-Thôi.để ta làm trung gian giới thiệu cho hai người làm quen với nhau.

Bằng một thái độ lịch sự hết sức bất ngờ ,Bích Hồng giới thiệu Thủy Trúc là người bạn mới quen nhau.Nhỏ Bích Hồng kiểu cách nói :

-Từ ngày hôm nay ,bổ sung vào nhón thêm một cô...tiểu thư. Mong rằng chúng ta thương nhau lắm ,cắn nhau đau chứ đừng thèm cãi nhau làm chi cho mệt.

Trước vẻ nhiệt tình của Bích Hồng ,Thuỷ Trúc cùng với nhỏ Hồng Ánh...đá lông nheo và cười rúc rích.Thế là hai đứa quen nhau một cách đơn giản nhưng cũng thực sự cởi mở. Phải công nhận nhỏ Hồng Ánh có nước da trắng giống in như trứng gà bóc ,nước da như có thoa một chất kem đặc biệt. Tâm lý con gái buồn cười ,quen nhau trước tiên phải chú ý tới nhan săc và điều dễ nhận thấy là nước da ,gương mặt ,đôi mắt ,mái tóc...Thuỷ Trúc còn nhận thấy nhỏ bạn mới của mình hơi cao so với tầm thước của một cô gái VN chính cống.Hồng Ánh có cặp giò dài -nếu nói như câu hát mà đám trẻ trong xóm Trúc nhại theo một bài hát nào đó thi là -cái chân em dài do người yêu em kéo đó -Hồng Ánh chắc phải cao tới một mét sáu lăm ,nghĩa là cao hơn Thuỷ Trúc một cái đầu và một đôi guốc cao gót 3 phân rưỡi.

-Bồ nhìn gì dữ vậy ? -Hồng Ánh hỏi.

-Chiêm ngưỡng dung nhan mùa hạ cúa Hồng Ánh chứ làm gì.

-Tui xấu òm.

Con gái biết nói câu đó không phải là con gái xấu.Và chắc Hồng Ánh cũng biết rằng mình đẹp.Dĩ nhiên được vào nhóm "năm mái nhà ngói " không phải dễ đâu ,mà một trong những điều kiến được công nhận là tiêu chuẩn nhan sắc ,nghĩa là phải xinh đẹp còn chuyện học hành đương nhiên phải cố gắng thôi.

-Nhỏ quê quán ở đâu ?

-Ở Miền Nam mưa nắng hai mùa này chứ đâu.

-Nhưng ý Thuỷ Trúc muốn hỏi là nhỏ sinh và lớn lên ở đâu -Bích Hồng nhắc nhở

-Hà Nội

-Ba má nhỏ tập kết ra Bắc ha ?

-Không ,chỉ mình ba thôi ,ba ra Bắc gặp má ngoài đó và sinh Hồng Ánh.

-Chắc nhỏ cũng phải chạy bom Mỹ ,học sơ tán như ai?

-Như Thuỷ Trúc thì nói đại đi ,làm bộ "ai " với "tớ "-Bích Hồng cười.

-Ủa ,Bộ Thủy.Trúc cũng dân Hà Nội à ?

-Không ,tui tập kết theo ba má lúc còn trong bụng ,sinh ra và lớn lên trong rừng ,về Sài Gòn sau ngày giải phóng.

-Ở trong rừng....chắc thơ mộng lắm nhi ?

-Chạy bom Mỹ gần chết ,thơ mộng ở đâu ?

-Ở Hà Nội tui cũng chạy bom Mỹ vậy ,nhưng cuộc đời vẫn đẹp sao ,thơ mộng hay không là do mình thôi.

-Nói chuyện như hai bồ chán phèo ,ra ngoài quán chè dì Tư nói chuyện hay hơn -Bích Hồng cười gợi ý.

-Có lý.

-Quán chè dì Tư ở đâu ? -Hồng Ánh ngạc nhiên hỏi.

-Ở ngay trước cửa trường mình nè ,đúng là "con ma mới " ,ngơ ngác chẳng biết gì cả.

-Nó là con nai vàng trong lớp ta đó.-Bích Hồng phát lên vai Hồng Ánh nói.

-Con nai vàng có sừng rôi nghen.

Ba người cười rúc rích kéo nhau sang quán chè của dì Tư.Như vậy là coi như Hồng Ánh chính thức gia nhập nhóm "5 mái nhà ngói " kể từ hôm đó với chầu chầu chè thập cẩm bánh lọt nước cốt dừa béo ngậy

Trên đường về nhà ,Thuỷ Trúc hỏi Bích Hồng :

-Nhỏ Hồng Ánh dễ thương phải không ?

-Ừa ,dễ thương

-Xứng đáng vào nhóm mình chứ ?

-Ồ ,còn phải hỏi.Nhỏ xinh đẹp chẳng kém ai trong nhóm đâu.

-Nhưng mà hơi...xí xọn.

-Tụi mình đứa nào mà chẳng xí xọn.Không xí xọn không phải là con gái ,lại càng không phải "nhóm năm mái ngói "

-Ðúng quá trời -Thuỷ Trúc tán đồng bằng một nụ cười rúc rích.

-Nhỏ ghé nhà mình chơi đi ,có nhiều chuyện hay ghê lắm.Nhất là món...mắm ruốc dầm ơt" thật cay ,mua 1 chục cóc về nhâm nhi thì ngon tuyệt trần gian.

-Vậy ghé liền.

Nhà Thuỷ Trúc đi vắng cả ,chỉ còn có mình nhóc Phục đang nằm đọc sách trong ghế xích đu dưới gốc cây khế có nhiều bông và mùi thơm của bông khế dậy lên thơm ngát.

-Phục siêng học quá ta -Bích Hồng xởi lởi.

-Em đang tự học võ bằng sách đấy.

-Võ gì ?

-không thủ đạo

-Võ gì mà nghe... rợn vậy.?

-Ừa ,ghê lắm ,võ này mà em học thành công em sẽ bay lên tới ngọn khế lận.

-Ðể lý sự với mấy chú chim sâu trên đó hay làm gì hở nhà võ sư...."Khao thủ đông" !-Thuỷ Trúc móc lò.

-Người ta học hành nghiêm túc ,học sách vở bài bản đàng hoàng ,chị đừng có nhạo báng -Phục nhăn mặt nói.

-Chị có nhạo báng ai đâu ?

-Nhưng mà Phục học....Không thủ đạo để làm gi ,chẳng lẽ để uýnh lộn với chị Trúc hả ? -Bích Hồng cười hỏi.

-Ðể nếu mà làm biếng quá ,bị mẹ phết chổi lông gà vào mông thì...bay cho lẹ.Có thế mà nhỏ cũng hỏi.

Bị Trúc kê một câu đau điếng ,nhóc Phục đỏ mặt định gân cổ cãi ,Bích Hồng móc ví lấy tiền dúi vào tay Phục cười :

-Trước mắt ,võ sư "Khao thủ động " cảm phiền bay giùm ra chợ mua cho chị một chục trái cóc đi.

-Làm gì mà tới một chục trái lận ?

-Rồi sẽ biết.

-A ,em biết rồi ,để hai bà ăn với mắm ruốc bà giáo Thảo mà chị Trúc đã mua hôm ở Vũng Tàu về chứ gì.Người ta nói con gái ăn chua làm biếng lắm ,quả thật không sai.

Trúc hét :

-Thôi đừng có lý sự nữa ? Nhà võ sư bay giùm lẹ, lên.

-Mai mốt đọc hết cuốn sách ,em trở thành...cao thủ chị sẽ biết tay em.

-Cám ơn ,Chừng đó hẳn hay ,bây giờ đi mua trái cóc lẹ lên.

Phục nhăn mặt cười :

-Mua hai chục nghen , một mình em đã xơi hết một chục rồi.

-Mua một thúng đi ,xí xọn ,con trai mà ăn chua.

Phục vào nhà lấy xe đạp phóng đi.Thuỷ Trúc và Bích Hồng vào nhà rửa mặt.Trong lúc vốc nước rửa mặt ,Thủy Trúc sững người nhận ra gương mặt mình hiện ra lờ mờ trong đáy thau tráng men xanh ,gương mặt chao đảo theo lớp nước sóng sánh.

-Nhớ biển ghê ơi nhỏ ơi -Thuỷ Trúc kêu lên.

-Nhớ biển hay nhớ người "xứ " biển.

Bích Hồng vùi mặt trong chiếc khăn lau rúc rích cười.Thủy Trúc bỗng giật mình trước câu hỏi vô tình của Bích Hồng.Ðúng rồi ,Trúc chợt nhớ tới Thường.Gương mặThường quen thuộc của Thường như cũng hiện ra trong đáy nước.Trúc lật đật nghiêng chiếc thau nhỏ.đổ nước ra và giật chiếc khăn từ tay Bích Hồng lau những giọt nước mát lạnh đang bám trên gương mặt chợt ửng đỏ vì ngượng.

-Thuỷ Trúc ơi ,giấu ai thì được chứ giấu ta không được đâu.Thú thiệt tất cả đi em ơi.

-Cái gì mà thú thiệt ?

-Cái gì đang làm trí óc nhỏ rối rắm như tóc buổi sáng khi thức dậy chưa chải ấy.

-Trí óc ta vẫn mình mẫn sáng suốt như thường.

-Chưa chắc.

-Chắc 100 %

-Ðừng có xạo , ta đem nhỏ vào Chợ Rẫy rọi kiếng bây giờ.

-Cho rọi tới tết -Trúc cười.

-Không rọi ta cũng biết nhỏ đang nhớ tới ai rồi.

-Nhớ ai ?

-Cái người hiện ra trong vùng mắt tối của nhỏ chứ ai.

-Mắt ta sáng long lanh ,khỏi cần thắp đèn cũng sáng.

-Ðèn ớ mắt nhỏ bị người ta gỡ bóng mất tiêu rồi.Nhưng thôi ,rồi sẽ biết ,bây giờ nhỏ có trách nhiệm pha chế mắm ruốc làm sao cho thật hấp dẫn để nhóc Phục mang cóc về mình sẽ ra ngoài gốc khế "nói chuyện ".bảo đảm chuyện sẽ dòn tan như cóc chấm mắm ruốc bà giáo Thảo vậy.

-Nhỏ lúc nào cũng nghĩ tơi chuyện ăn.

-Ăn uống là chuyện bình thường. -Bây giờ ta mới hiểu tại sao nhỏ có biệt danh là "Hồng bình thường "

-Cũnglà chuyện...binh' thường thôi.

Lúc sau Bích.Hồng và Thủy Trúc đã ngồi trên chiếc võng nylon mắc giữa hai người ,trên chiếc ghế con là một chén mắm ruốc dằm ớt cay xè ,đỏ au.Trúc nghiêng đầu lắng nghe tiếng chim sâu gọi nhau trên tàn khế. Trúc cười cười ,ngâm khẽ mấy câu thơ nhại theo bài thơ "Núi đôi " của Vũ Cao :

"Mắt ta chớp khẽ khi nhìn khế

Ðôi ngọn nên mình gọi khế đôi

khế chua tê buốt hàm răng trắng

Kiến...cắn thành ra rúc rích cười...."

Bích Hồng đấm vai Thuỷ Trúc hét :

-Trời ơi ,thơ của người ta mà nhỏ nhái ẩu như vậy hả ?

-Có chi mà ẩu ? -Trúc vẫn chưa nín được cười.

-Thơ gì mà có kiến cắn ,ẩu ghê

-Ngồi dưới gốc khế thì phải có kiến cắn chứ sao.

Và ngay lúc đó Thuỷ Trúc đã phải kêu "úi da " mấy tiếng vì bị một chú kiến vàng to tướng từ trên cây khế cán vào bắp vế một cái đau điếng.

- Trời hại kẻ gian -Bích hồng cười.

- Rồi sẽ biết.

Lập tức Bích Hồng lại hét lên vì một chú kiến vàng đã chui vào áo và cắn vào bờ vai mềm mại của cô một cái đau thắt ruột gan.Tới phiên Trúc cười ,mai mỉa lại :

-Trời hại kẻ tàn bạo.

Bích Hồng giận quá thò tay bắt con kiến vàng bướng bỉnh và bóp chết nó ngay tức khắc. Loại kiến này trông dễ sợ ,to kềnh như chiếc xe tăng ,lại dữ không ai bằng ,hễ thấy động là từ trong tổ chui ra ,kéo cả đàn ,và cứ xông vào người mà cắn cho đến khi bị bóp chết mới thôi.

Bích Hồng ném chú kiến xấu số rồi nói :

-Sao Trúc không rắc tro bếp dưới gốc khế cho kiến bỏ tố mà đi.

-Tội lắm ,kiến có tổ như mình có nhà ,bị đuổi biết đi đâu.Ta sợ rắc tro dưới gốc khế ,lũ kiến sẽ kéo đi...bụi đời.Tội nghiệp lắm.

-Nói chuyện với Trúc đúng là huề vốn.Chán phèo.

Nhóc Phục đã nói là làm ,nó mua về hai chục cóc.trái nào trái nấy to bằng cổ tay ,da vàng lườm trông rất ngon mắt. Phục bày nhũng trái cóc ra mặt bàn ,cười :

-Bà bán cóc ở chợ hỏi mua cóc làm gì mà nhiều thế ,biết em trả lời sao không ?

-"Chú " trả lời như thế nào ?-Bích Hồng hỏi.

-Nói mua về ngâm cam thảo bán.

-Bày đặt ,ăn thì bảo ăn ,sợ gì ?

-Nhóc ẩu quá ,phải mang rửa trước khi ăn chứ. Bài học vệ sinh sơ đẳng mà cũng quên.

-Thôi ,gọt đi rồi rửa cũng được.

-Khỏi gọt.Ai vệ sinh thì chịu khó đi rửa.

Nói rồi Phục nhón mấy trái cóc còn nguyên vỏ ,chấm mắm ruốc nhai tỉnh bơ.

-Ăn ẩu thế ,không sợ vi trùng sao ?- Bích Hồng hét lên.

-Vi trùng nó cũng kêu em bằng...sư phụ.

-Vô duyên.

Kèm theo câu nói là một cú cốc đầu cúa Bích.Hồng ,làm Phục rụt cổ bỏ chạy ,nhưng trước khi chạy nó không quên nhón thệm một trái cóc nữa.

-Bây giờ mình " oánh tù tì " xem ai thua thi phải đi rửa cóc ,chớ ăn kiểu nhóc Phục ớn quá.

-Rồi -Bích Hồng gật đầu tán thành lời đề nghị cúa Trúc.

-Hổng được ăn gian à nghen.

-Ðứa nào ăn gian kiến vàng cắn ráng chịu.

Kết quá Bích HồnG ra cái bao ,Thuỷ Trúc ra cái kéo.Do đó cái bao bị cái kéo cắt ,nên Bích Hồng phải mang cóc đi rửa.

-Nhanh lên nhỏ ơi ,món mắm ruốc dầm ớt hấp dẫn quá ta hết chờ đợi nối rồi.

-Vậy thì ăn đỡ....miếng ớt cho đỡ them đi.

Bích Hồng đấm Trúc rồi đi vào nhà.Tiếng cười của Bích Hồng còn ném lại ,trong suốt như pha lê.

Chương 5 :-Trúc thức dậy trong cơn mưa lất phất của buồi chiều ,cô nằm trên giường lắng nghe tiếng chim hót ngoài cây khế.Ðấy là những chú chim sâu ,mắt có khoen tròn rất dễ thương mà Trúc đã cấm nhóc Phục ko đc động tới vì nhóc Phục có một cái ná thun ,nó gọi là cây súng cao su ,bắn bá phát bá trúng ,và đã tùng doạ bắn những chú chim sâu trên cây khế. Nhờ T cương quyết cấm ,nên đến hôm nay những chú chim sâu vẫn còn bình yên nhảy chuyền trong cành cây và hót líu lo. Tuy vậy Trúc vẫn còn hồi hộp ,nên định hôm nào cùng vơi chị Huyền tịch thu cây súng cao su của nhóc Phục nữa mới chắc chắn ăn.

-Chị Trúc ơi ,có khách tìm chị dưới nhà.

Nhóc Phục đứng dưới cầu thang gọi vói lên.Trúc giật mình nhảy khỏi giường ra đứng ngoài cửa phòng hỏi lớn :

-Ai vậy ?

-Một người khách phương xa.

Trúc hét :

-Thôi đừng có "điệu " ,ai thì nói nhanh lên ,phương xa với phương gần cái gì.

-Khách từ phương xa đến thiệt mà ,tay anh chàng xách lỉnh khỉnh quà cáp ,không tin chị xuống mà coi.

-Nghĩa là khách lạ phải không ?

-Lạ với em nhưng chắc quen với chị

-Tên gì ?

-Chẳng chịu nói tên ,chỉ đứng cười hoài.

-Rồi có mở cổng cho người ta vào chưa ?

-Biết chị có tiếp hay không mà mở.Em đã rút kinh nghiệm xương máu nhiều lần rồi.Bây giờ không dại nữa đâu.

-Ừa ,biết được như thế là tốt.

-Chị xuống mở cổng cho "anh ấy " đi.

-Chứ Phục làm gì ?

-Em sửa soạn đi bơi ?

Trúc vội vàng rửa mặt ,chải lại mái tóc rối và không quên ngắm mình trong gương. Từ dạo ở Vũng Tàu về Trúc mập ra ,có da thịt và đc mấy nhỏ bạn khen xinh đẹp ra phết. Trúc không tự tin lắm ,nhưng sáng nay nhìn vào trong gương ngắm lại mình ,Trúc sung sướng mỉm cười.

-Eo ơi ,anh Thường.

Trúc reo lên khi nhận ra người khách lạ đứng chờ ngoài cổng.Cô lúng túng ,cuống quýt ,đến nỗi cánh cổng sắt thường ngày mở rất dễ ,bây giờ phải mấy phút Trúc mới mở được.

Thường mỉm cười.

-Tưởng Trúc không có nhà chứ.

-Trúc vừa thức dậy.Nghe thằng em báo có khách ,không ngờ lại là anh Thường.

-Ngạc nhiên không ?

-Dĩ nhiên là rất ngạc nhiên.Thường vào trong này bao giờ vây.

- Một tuần lễ nay rồi.

-Vậy mà bây giờ mới tới ?

-Phải lo sắp xếp chỗ ở ,nhập học và....chuấn bị tới thăm Trúc.

-Tới thăm mà cũng phải chuẩn bị nưã sao ?

-Tức nhiên rồi ,vì còn phải đi tìm nhà.Trúc biết không ,tôi đã đạp xe qua nhà Trúc nhiều lần rồi ,bữa nay mới dám ghé.

Thường theo Trúc vào nhà ,anh đặt một túi ghẹ đã luộc chín ,Một giỏ xách nhãn và mấy chiếc vỏ ốc to tướng lên bàn và cười nói :

-Có ít quà vùng biển tặng Trúc.Ghẹ của lão Ngoan gới cho Trúc đấy ,nó vừa gởi vào sáng nay, tôi luộc chín luôn rồi mang tới.Thứ này ăn với muối tiêu chanh thì ngọt tuyệt trần đời.

-Thường cho nhiều quá vậy ?

-Cây nhà lá vườn ,có gì mà nhhiều _Thường ngượng ngùng cười.

Trúc cầm những chiếc vỏ ốc lên ngắm nghía ,không hiểu Thường nhặt những thứ này ở đâu mà đẹp thế ,những chiếc vỏ ốc óng ánh ngũ sắc lần đầu tiên trong đời Trúc nhìn thấy được.

Trúc khen nức nở :

-Những chiếc vỏ ốc đẹp quá ,nó đủ màu sắc và lấp lánh như tia nắg mặt trời.

-Nếu Trúc thích thì Thường sẽ mang vào hàng khối ,thứ này lang thang trên bãi biển là nhặt được thiếu gì.

-Nhưng không phải ai lang thang trên biến cũng đều bắt gặp được ,Trúc đã lang thang trên biển biết bao lần mà có thấy đâu ?

-Tại vì những chiếc vỏ ốc này chỉ tắp vào bờ biến theo từng con nước.Chỉ có nước khuya mới có ,ai thức qua đêm thì nhặt được.

-Chắc Thường đã thức nhiều đêm lắm nhỉ ?

-Dân vùng biển thường thức khuya.

-Thường ngồi chơi nhé.Trúc sẽ pha nước chanh mời Thường.Ở đây không có dừa đãi khác như ở Vũng Tàu.

Trúc cười và chạy ra nhà sau như một chú chim. Ðúng ,có lẽ chiều nay Trúc hoá thành một chú chim hạnh phúc nhảy chuyền trên cành cao và cất giọng hót vang với

niềm vui bất ngờ của mình.

Trúc mang lên 2 ly đá chanh và 1 cái đĩa to để đựng ghẹ ,không quên một chút muối tiêu chanh.Hai Người vừa ăn những con ghẹ đầy thịt ,thơm ngon với muối tiêu chanh vừa nói chuyên.

-Sài Gòn có những cơn mưa nhỏ rất đẹp ,như cơn mưa chiều nay chẳng hạn

-Thường thích mưa ko ?-Trúc mỉm cười hỏi.

-Thích chứ.

-Rồi sẽ có những cơn mưa sẽ làm cho Thường buồn thúi ruột héo gan.

-Sao thế ?

-Rồi Thường sẽ biết thôi, bây giờ không thể nói trước được đâu.

-Tôi đã từng chứng kiến những cơn mưa rào trên biến ,cũng buồn lắm.

-Ðố Thường mưa lạnh hay mưa ấm ?

Thường cười :

-Mưa dĩ nhiên là lạnh rồi ,làm sao ấm được ?

-Thế mà cũng có những cơn mưa ấm đấy.Như cơn mưa chiều nay chẳng hạn.Thường thấy đúng không?

Dĩ nhiên có - Thường mới lắc đầu.

Thường tình nguyện cắn những càng ghẹ đầy gai nhọn và trao cho Trúc.Cô cười :

-Eo ơi ,ghẹ thì ăn ngon thiệt ,nhưng càng ghẹ ghê quá ,cứ tưởng nó đâm vào lươĩ mình.....

-Trúc ăn những cái càng ghẹ của Thường bảo đảm sẽ không sợ điều đó đâu.

-Thảo nào Thường dám cạp bừa bằng răng....

Trúc cười khúc khích ,tự nhiên hai người cùng quay về với những kỷ niệm còn mới tinh khôi của mình trong mùa hè vừa qua.Nghe Trúc nhắc tới chuyện cạp dừa bằng hàng răng cứng như sắt nguội của mình ,Thường ngượng quá ,mặt đỏ lên.Trúc cũng vừa uống một ngụm nước chanh vỡ ra trong miệng.Trúc nhăn mặt ,chịu đựng cái đắng tê dại ở đầu lưỡi.

-Gì thế Trúc ?-Thương ngạc nhiên hỏi.

-Cái hột chanh.

-Sao ?

-Trúc vừa cắn nhằm.

-Vậy mà tôi hết hồn ,tưởng cái càng ghẹ đâm vào lưỡi của Trúc.

Thường thể hiện sự lo lắng rất dễ thương.Trúc cười ,trong một cơn xúc động ,cô nhìn Thường nói :

-Thường uống nước chanh xem ngon bằng...nước dừa không ,nhưng nhớ đứng cắn cái hột chanh nhé ,đắng lắm đấy.

-Nước chanh cũng có khi ngon hơn nước dừa vậy -Thường cười.

-Cám ơn anh.

Trúc nói khẽ ,nhưng hinh như Thường đã nghe thấy ,anh bối rối cầm lấy một chùm nhãn trao cho Trúc ,nói :

-Cây nhãn mà Trúc thích đấy.

Trúc cắn trái nhãn ngọt lịm giữa hai hàm răng trắng đều như hạt bắp.

-Thường học có vui không?

-Chưa biết ,vì mới quen trường ,quen lớp.Còn bạn bè thì chưa quen bao nhiêu.

-Thường ở đâu ?

-Ở trọ nhà của ông chú.

Trúc cười :

-Biết rồi ,nhưng mà nhà của ông chú ở đâu ?

-À ,ở Phú Nhuận ,trong con con hẻm mà mùa mưa buồn hiu hắt ,mùa nắng thì nóng như ran.

-Trúc cũng đã đi học rồi ,vui lắm.Bởi vì hầu như đều gặp lại ban bè cũ.Tụi nó cũng theo một "nghề " với Trúc. Hôm nào có dịp Trúc sẽ kể cho Thường nghe mấy nhỏ bạn thân.Chuyện của con gái thì luôn sôi động.bây giờ kể chuyện Thường đi.

-Có gì đâu mà kể ?

-Thường ở trọ ,rồi ăn cơm ở đâu ?

-Ở nhà của ông chú chứ ở đâu nữa.

-Tưởng Thường ăn cơm tháng ngoài chứ.Nếu vậy Trúc và mấy nhỏ bạn hùn nhau lại ,tinh nguyện nấu cơm tháng cho thường ăn.Bảo đảm cơm ngon ,giá rẻ....

-Rẻ cũng ko có tiền trả.

-Thì cho thiếu nợ.

Nhóc Phục nãy giờ không biết ở đâu ,tự nhiên nhảy ra cất giọng lịch sự :

-Chị Trúc ơi ,em xin phép đi bơi nhé.

-Phục học cách ăn nói lịch sự bao giờ thế ?

-Người ta lịch sự từ lâu rồi chớ bô.

-Cho Phục một chùm nhãn Vũng Tàu.

Trúc dúi vào tay Phục một chùm nhãn.Phục cười tít mắt ,nói khẽ :

-Như vậy là em biết người khách phương xa này ở đâu rồi.gớm ,hoá ra hai "ông bà " quen nhau từ dạo mùa hè năm ấy ha ?

Phục lãnh nguyên một cái cốc đau điếng ,nó rụt cổ cầm chùm nhãn phóng lên xe đạp vọt ra cửa.

-Chị yên chí đi ,chiều tối em mới về.

Giọng Phục để lại cùng với tiếng cười ròntan.Trúc quay lại nói với Thường :

- Nó bằng tuổi "chú" Ngoan đấy. Cũng lý sự một cây, không thua gì Ngoan đâu.

- Lúc nãy "chú ấy" bỏ tôi đứng ngoài cổng, nhất định không mở khi chưa có lệnh của bà chị. Trúc tiếp khách cũng phải xem mặt hả?

Trúc cười, thấy không cần phải giải thích với Thường nữa.

- Vào trong này học, Thường có thấy nhớ Vũng Tàu không?

- Ai mà không nhớ quê hương của mình.

- Sài Gòn Vũng Tàu gần xịt mà nhớ nỗi gì?

- Thế mà vẫn nhớ đấy. Hôm mới vào đây, buồn muốn khóc.

Trúc cười:

- Vậy mà Trúc ra Vũng Tàu thì rất vui.

- Cuối tuần này Thường lại về ngoài đó. Nếu gặp ngày đi biển, Thường sẽ theo ghe ra khơi.

- Ước gì một dịp nào Trúc sẽ có điều kiện theo Thường ra biển xem người ta đánh cá nhỉ?

- Nếu Trúc muốn đi thì chẳng khó gì, chỉ sợ Trúc say sóng thì mệt lả người, có hại cho sức khỏe thôi.

- Thế nào rồi Trúc cũng đi một chuyến. Nghe Thường nói về những đêm trăng trên biển, Trúc thấy giống như trong truyện cổ tích ngày xưa.

- Biển cũng là cổ tích chứ bộ.

- Có lẽ như vậy thật đấy.

Thường ra về trong cơn mưa hãy còn rắc nhẹ trên cây lá. Buổi chiều xám lại với một nền trời ngã thấp, nặng nề. Trúc vào phòng mở nhạc và ngồi ngả đầu lên ghế sa lông nghe Cẩm Vân hát bài "Thành phố tình yêu và nỗi nhớ". Cơn mưa làm cho giọng hát Cẩm Vân trở nên ngọt ngào hơn, nó cũng làm cho Trúc chơi vơi trong một tâm trạng khó tả, chỉ thấy chiều này có một niềm vui bất ngờ, tạo thành một nỗi nhớ nhẹ nhàng trải ra trong bóng mưa mờ nhạt qua khung cửa sổ.

Một lát sau có tiếng chuông gọi cổng, Trúc chạy vội ra. Chị Huyền đi chơi về và che cây dù rất đẹp. Hai chị em che dù đi vào nhà, trên mái tóc Trúc có những giọt nước mưa như bụi bám. Trúc vuốt tóc, bẹo má chị Huyền trêu:

- Ði chơi đâu, khai ngay, không em mách mẹ đấy.

- Vô duyên, khi không đi khai với nhỏ.

Chị Huyền xếp dù lại, dựng vào góc tường. Hai chị em ngồi trong ghế nghe nhạc và nói chuyện.

- Ði chơi vui không? - Trúc chớp mắt hỏi.

- Vui

- Anh Nghiêm đâu rồi?

- Ðưa chị về tới cổng, anh ấy phải đi có công việc.

- Xem phim?

- Điều tra hả, nhỏ? - Chị Huyền cười.

- Ừa, điều tra.

- Chị và anh Nghiêm đi xem phim, một cuốn phim thật tuyệt vời.

- Tình yêu?

- Dĩ nhiên. Không lẽ lại đưa nhau đi xem phim trinh thám. Nhỏ hỏi.. mích lòng quá.

- Sau đó thì đi đâu nữa?

- Tới Givral ăn kem dừa.

- Rồi gì nữa?

- Nhìn mưa bay qua cửa kiếng.

- Sau đó thì đi đâu?

- Về nhà.

- Sao chương trình ngắn ngủn vậy, tửơng hạnh phúc phải tràn trề kéo dài chứ?

- Thôi, tới đó chương trình tạm ngưng được rồi, tối nay còn hẹn nhau đi khiêu vũ nữa chứ bộ.

- Ngon quá ta. - Trúc kêu lên.

- Sao không ngon? - Chị Huyền cười - ông Nghiêm gởi lời thăm Trúc đấy, vội quá nên không có quà.

- Cám ơn. Những người sống trong hạnh phúc thường rất vội vã. Chị ăn nhãn Vũng Tàu đi, ngon tuyệt trần đời.

Trúc đẩy những chùm nhãn no tròn về phía chị Huyền. Cô cũng cắn một trái, cái lưỡi đỏ chót lẫn lớp cùi trắng nõn, ngọt ngào, rồi chu miệng lừa cái hột nhãn đen tuyền phun xuống đất.

- Nhãn dầy cơm quá, ngon tuyệt, nhưng mà ai cho đấy?

- Quà xứ biển của một người quen.

- Nhưng mà ai mới được chứ?

- Bí mật.

- Á, à...

Chị Huyền ăn lia lịa, phun những cái hột nhãn đen tuyền cũng lia lịa. Một lúc chị ngạc nhiên hỏi:

- Ủa, nhóc Phục đâu rồi?

- Ði bơi và dọa là sẽ đi xem phim luôn, tối mới về.

- Trúc ở nhà một mình à?

- Không một mình chứ với ai, chị này hỏi nghe lạ chưa.

Chị Huyền cười khúc khích:

- Một mình trong căn nhà vắng, chiều lại mưa. Buồn.

- Buồn cũng ráng chịu vì em đâu có quen với ai để đi chơi, đi xem phim và đi ăn kem dừa.

- Mấy hôm nay Trúc học ra sao rồi?

- Bình thường. Một ngôi nhà đẹp đẽ, bạn bè cũ lại gặp nhau gần hết, chỉ trừ mấy đứa bỏ học ngang xương đi.. lấy chồng, còn thì tiếp tục trên ghế nhà trường. Nói chung rất vui nhộn.

- Em nên tập trung lo học ngay từ đầu năm, đừng để cuối năm phải chạy nước rút. Kinh nghiệm của chị hồi bước vào đại học là như thế.

- Em học có kế hoạch chứ bộ.

- Kế hoạch gì cũng có thời gian tà tà, con gái ít giữ vững lập trường. Kế hoạch đề ra ngó bộ tỉ mỉ nhưng áp dụng lại trật đường rầy. Chưa kể trong cuộc sống có nhiều đột biến. Nhiều lúc buồn thấy ghê, học không vô nhỏ ơi.

- Cám ơn chị đã truyền cho cái "kinh nghiệm" chẳng lấy gì là hay ho đó.

- Kinh nghiệm nào cũng đều quý giá. Không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc, em đừng có mai mỉa.

Trúc cười. Chị Huyền ăn nhãn chán chê, chị vỗ vào cái túi xách vẫn còn căng phồng những chùm nhãn nói:

- Bộ anh chàng nào hái hết vườn nhãn đem cho em sao mà nhiều thế, ăn đến phát ngán cũng còn đầy một túi xách.

- Chứ ai như ông Nghiêm của chị, có que kem mà cũng quên bẵng đến em út.

- Thôi, sẽ bắt ông ấy bắt đền gấp đôi.

- Cám ơn, chờ đợi cái ngày ấy chắc em mỏi mòn, héo hon thân xác quá.

- Thôi em ơi, xin đừng trách nữa làm gì - Chị Huyền hát và cười dòn - Thôi, chị đi nấu cơm chiều đây, không thì ba má về sẽ "quở" tắt bếp luôn.

Buổi tối hai chị em nằm trên hai chiếc ghế xích đu ngoài ban công. Cơn mưa buổi chiều để lại không khí mát lạnh và cây lá như có thêm nhựa sống. Trúc nằm lắng nghe tiếng gió rì rào thổi qua các tàn cây, mùi hương hoa đâu đấy tỏa ra thơm dịu. Con đường chạy ngang qua trước cổng nhà đã trở nên vắng lặng khiến một người nào đi bách bộ trên vỉa hè cũng có thể nghe rõ tiếng giầy hoặc tiếng guốc khua, xoa động cả những chiếc lá chết nằm im dưới cơn mưa buổi chiều.

Chị Huyền thuật lại buổi khiêu vũ với anh Nghiêm ở một khách sạn trung tâm thành phố. Cuối cùng chị khoe:

- Anh Nghiêm đã đặt vấn đề với chị rồi đấy.

- Vấn đề gì? - Trúc giả vờ hỏi.

- Ðám cưới.

- Cưới?

- Chớ sao - Chị Huyền nói với vẻ tự hào.

- Nhưng bao giờ?

- Vài tháng nữa thôi, khi anh ấy chuẩn bị xong mọi thứ cần thiết.

- Chị trả lời sao?

- Dĩ nhiên là bằng lòng, nhưng anh ấy phải đưa ba mẹ tới nhà nói chuyện với ba mẹ của mình.

- Chuyện ấy là lẽ đương nhiên. Nhưng điều mà em muốn hỏi là chị đã quyết định lấy chồng à?

- Không lẽ ở vậy hoài, để rồi làm một cô gái già - Chị Huyền cười.

- Có sớm quá không?

- Tuổi của chị như thế là vừa.

- Anh Nghiêm đặt vấn đề đó trong lúc tỉnh táo chứ?

- Hoàn toàn tỉnh táo. Anh Nghiêm không uống đựơc rượu và khi nói chuyện đó anh rất nghiêm túc.

- Chị suy nghĩ kỹ chưa?

- Rất kỹ. Không phải đợi tới khi anh Nghiêm đặt vấn đề ấy ra đâu mà chị đã suy nghĩ trước đó rất lâu.

- Chị có một cuộc đời thật êm ả.

- Em nói gì? - Chị Huyền ngạc nhiên hỏi.

Nhưng Trúc không lập lại câu nói của mình thêm một lần thứ hai, cô nằm nhắm mắt, giấu mái tóc mình trong mái tóc và ngửi mùi thơm của những sợi tóc ướt. Tự nhiên Trúc thấy thương mình quá đỗi.

- Em còn nhớ anh Bách không?

- Bách nào? - Trúc mở mắt ra.

- Bách bạn của anh Nghiêm chứ Bách nào nữa.

- Không.

Trúc lắc đầu, cô muốn xua đuổi ấn tượng về một người đàn ông hôm nào nhìn cô trên bãi biển. Bách đó sao, cái anh chàng có đôi mắt "dễ sợ", nhìn ai như nuốt chững người đó, lại là bạn của anh Nghiêm. Nhưng tại sao chị Huyền lại hỏi Trúc có nhớ anh ta không?

- Có lẽ tại Trúc chóng quên đấy thôi, anh Bách trước đây có đi cùng anh Nghiêm tới chơi nhà mình vài lần. Anh ấy cũng là một kỹ sư, người trắng trẻo, mập mạp...

- Nhưng tại sao chị lại hỏi em có nhớ anh Bách không là thế nào? - Trúc hỏi.

- Vì mới đây chị có gặp anh Bách, anh ấy gởi lời thăm em. Hình như anh ấy có gặp em ngoài Vũng Tàu.

Bây giờ thì Trúc không thể giấu được chị Huyền nữa rồi, cho nên cô gật đầu:

- Anh ta nhớ, còn em thì đã quên.

- Thế mà chị tưởng anh Bách nói đùa chứ.

- Ðúng, em có gặp anh ta trên bãi biển, rất tình cờ.

- Có nói chuyện gì nhiều không?

- Chỉ nói vài câu. Rồi đường ai nấy đi, anh ta có hỏi xin địa chỉ nhà chú Hiển, nhưng em không cho. Phải nói là em không có thiện cảm với anh chàng đó.

Chị Huyền cười:

- Tại sao thế?

- Ðơn giản là.. em không thích, thế thôi.

- Coi chừng ghét của nào, trời trao của ấy đó nhỏ ạ.

- Của đó em chẳng ham đâu.

Tuy trả lời với chị Huyền như vậy, nhưng câu nói của chị Huyền không khỏi làm Trúc giật mình. Có lẽ nào như vậy được chăng?

- Tại sao chị lại nhắc nhiều về anh Bách như vậy?

- Có gì đâu, chị thấy anh ấy cũng dễ thương, bạn thân của anh Nghiêm và đã có lời hỏi thăm em một cách chân thành.

- Em thì lại nghĩ k hác, anh ta chẳng chân thành tí nào. Ðôi mắt ấy có một cái gì không trung thực. Con người thường biểu lộ tư cách của mình qua đôi mắt. Bởi vậy người ta đã nói "đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn", có lẽ đúng như thế thật.

- Hôm nào anh Bách tới nhà chơi đấy.

- Ði với anh Nghiêm à?

- Có thể cùng đi với anh Nghiêm, nhưng cũng có thể đi một mình. Nhưng tại sao em lại hỏi như vậy?

- Em thấy nếu đi cùng với anh Nghiêm thì tịên hơn, còn đi một mình thì... chị tiếp chứ em không tiếp đâu.

- Ừa, thì chị tiếp, nhưng làm sao mà em có vẻ sợ anh Bách đến thế, hả?

- Em chẳng sợ ai hết, nhưng em không thích, vậy thôi.

- Anh Bách đã làm gì khiến em khó chịu như vậy?

Trúc lắc đầu:

- Có làm gì đâu, hôm gặp ở Vũng Tàu cũng chỉ nói chuyện bình thường. Anh Bách đi với mấy người bạn gái.

- Ừa, ông Bách có quan hệ rộng rãi đấy.

- Thôi, không nói chuyện ông Bách nữa. Em buồn ngủ quá rồi. Em vào phòng ngủ đây.

Trúc bỏ vào phòng, nhưng rồi cô cũng không thể nào ngủ được. Bao nhiêu hình ảnh cứ quay cuồng trong đầu Trúc khiến cô bối rối, hồi hộp. Trúc vặn nhạc, mong rằng những bản nhạc nghe giữa đêm khuya sẽ làm cho đầu óc cô bớt căng thẳng, bớt nghĩ ngợi, nhưng chẳng ăn thua gì. Trúc nằm nhắm mắt, ôm chiếc gối ôm dài nghe tiếng gió lao xao ngoài tàn cây rũ xuống trước khung cửa sổ. Tiếng một con chim nào đó vừa đập cánh bay đi có vẻ hoảng hốt. Con chim chắc cũng giống tâm trạng của Trúc hiện giờ.

Chị Huyền gõ cửa hỏi lớn:

- Trúc ơi, ngủ chưa?

- Chưa.

- Biết ngay mà. Thôi chị đi ngủ đây, ở đó mà mơ mộng thao thức suốt đêm đi.

Tiếng chân chị Huyền khuất dần qua dãy hành lang. Trúc mở mắt nhìn lên đỉnh màn, Trúc thèm được sự vô tư của chị Huyền, cuộc sống của chị ấy phẳng lặng quá, như một giòng suối ngọt lành chảy giữa hai bờ đá, không một khúc quanh, không một nhánh rẽ. Một thời gian ngắn nữa chị sẽ làm đám cưới với anh Nghiêm, kết thúc một cuộc tình cũng tươi đẹp chẳng khác chi cuộc sống phẳng lặng của hai người.

Nằm một lúc lâu cũng không ngủ được. Trúc trở dậy bật đèn và tìm một cuốn tiểu thuyết. Cô ngồi dưới ánh đèn ngả đầu lên thành ghế. Trúc đọc lướt qua trang sách mà chẳng hiểu tác giả viết gì, cuối cùng Trúc gấp quyển sách lại, để hờ hững trong lòng và chìm sâu với những hồi tưởng vụn vặt. Gương mặt của Thường dần hiện ra, vườn nhãn ở Vũng Tàu, ngôi nhà trên bãi biển dưới bóng những cây dừa. Nụ cười của Thường thật hiền hòa, ánh mắt của anh nhìn Trúc thân ái. Và khoảng cách không gian, thời gian ấy được thu dần lại vào một buổi chiều cơn mưa bay bay Thường hiện ra trước cổng nhà với những túi quà. Gương mặt sạm nắng ấy như được tô đậm thêm, nụ cười, ánh mắt sâu nặng thêm. Trúc giật mình nhận ra cô đã nghĩ quá nhiều về Thường, một chuyện không bình thường?

- Chị Trúc ơi, ngủ chưa?

Tiếng của nhóc Phục vang lên ngoài cửa phòng. Trúc ra mở cửa. Nó nhăn răng cười:

- em vào nói chuyện với chị mười lăm phút thôi, được chứ?

Trúc cười:

- Chị đang cần người để nói chuyện đây, tối nay sao khó ngủ quá.

- Em thì buồn ngủ muốn híp cả mắt.

- Thế lên đây làm gì?

- Em cám ơn chị về những chùm nhãn. Chưa bao giờ em được ăn những trái nhãn ngọt thơm mê hồn như vậy. Ðúng là nhãn Vũng Tàu. Và anh ấy cũng ở Vũng Tàu phải không chị?

Phục vừa hỏi vừa ngồi xuống ghế. Trúc nói:

- Ăn nhãn, biết đựơc nhãn ngon được rồi, hỏi chi mà lắm thế?

- Ăn trái phải nhớ kẻ trồng cây, uống nước phải nhớ người đào giếng...

- Thôi, mệt quá, đừng có dạy đời "lão" ơi.

- Em biết tại sao tối nay chị khó ngủ rồi.

- Tại sao?

- Tại người khách phương xa bất ngờ ghé thăm. Ðúng không?

- Ơ hay, người ta tới thăm mắc mớ gì chị ngủ không được?

- Ðó mới là vấn đề chứ.

Trúc thấy nhột nhạt quá chừng, nhóc Phục lại cứ nhìn chằm chằm vào mặt Trúc mà cười. Trúc đập lên vai Phục, xua tay nói:

- Thôi, khuya rồi về phòng ngủ đi "lão" ơi, đừng ngồi đó mà nói chuyện trên trời dưới đất.

Phục đứng lên, nó đi ra cửa mà còn quay lại vớt một câu:

- Chuyện trên trời mà hóa ra đúng cho người dưới đất đấy. Rồi sẽ biết.

Trúc đóng sập cửa lại, nhưng tiếng cười của chú em như vẫn vang lại khắp phòng làm Trúc nóng bừng mặt, Trúc tắt đèn lên giường ôm chiếc gối dài, cố dỗ giấc ngủ với đôi mắt.. chẳng muốn nhắm lại tí nao.

Chương 6 :Gởi xe xong, Thường và Trúc đi dài theo con đường phố đã bắt đầu tấp nập xe cộ và những dòng người xuôi ngược. Lần đầu tiên biết hẹn hò và đi chơi với một thanh niên, Trúc ngượng ngùng chỉ sợ bạn bè bắt gặp. Eo ơi, mấy nhỏ bạn của Trúc mà bắt gặp trúc đi phố với Thường chắc chúng nó sẽ đồn rầm lên, Trúc có nước độn thổ.

- Ði đâu vậy Thường?

- Tới đằng kia uống nước.

- Tự nhiên đi uống nước?

Thường cười:

- Khát nước thì đi uống nước chứ sao?

- Người ta không khát.

- Nhưng chẳng lẽ đi long rong hoài ngoài phố. Trúc không sợ mỏi chân à?

- Không.

- Nhưng cũng nên vào quán ngồi nghỉ chân rồi đi tiếp. Không khát nước thì ăn kem. Tôi biết ở quán đó có món kem ngon lắm.

- Biết từ bao giờ?

- Mới biết hôm qua. Phải đi ăn trước mới dám mời Trúc chứ. Nếu lỡ kem không ngon thì quê chết.

Câu trả lời dễ thương của Thường khiến Trúc phì cười. Sao lại thành thật và ngây ngô đến thế.

- Ðồng ý không? - Thường nhìn Trúc hỏi.

- Không đồng ý cũng không được.

Hai người băng qua đường và bất chợt Thường nắm bàn tay của Trúc. Cô giật mình nhưng không rút lại được vì Thường đã lôi cô đi giữa dòng xe cộ để qua phía bên kia đường.

Buông tay Trúc ra, Thường lúng túng giải thích:

- Vì sợ bị tai nạn nên tôi buộc lòng phải dẫn Trúc qua đường.

- Xí.

Trúc lườm Thường, và cảm thấy bàn tay mình còn nóng hổi, mấy ngón tay tê dại như có một luồng địên chạy qua.

- Gớm, ở thành phố buổi chiều xe cộ đông quá. Trúc có chóng mặt không?

- Làm gì phải chóng mặt lận? - Trúc cười.

- Hồi nhỏ tôi bị yếu tim.

- Còn bây giờ?

- Trái tim yếu hơn.

- Thường học sách nói xạo hồi nào vậy?

Nhưng anh đã tảng lờ, làm như không nghe thấy câu hỏi của Trúc. Hai người lại băng qua đường, lần này Thường không nắm tay Trúc nữa, nhưng anh đã đứng chắn phía trước dòng xe, cố ý để Trúc đi qua.

- Tại sao anh không nắm tay người ta?

- Bây giờ xe cộ ít hơn lúc nãy.

- Xí.

Thường cười nhỏ và đẩy cửa kiếng bước vào quán, Trúc theo sau. Hai người chọn chiếc bàn trống trong góc quán. Ở ngoài đường thì đông người, nhưng trong quán giờ này lại vắng. Thường ngồi đối diện với Trúc, anh xoay cái bình cắm hoa nhỏ trong tay và hỏi:

- Trúc uống nước hay ăn kem.

- Ăn món kem gì mà anh quảng cáo là ngon tuyệt đấy.

- Kem dừa.

Trúc gật đầu. Thường quay qua người phục vụ đứng chờ, nói:

- Hai cái kem dừa, nguyên trái.

- Nhưng không phải cạp bằng răng chứ? - Trúc trêu Thường.

- Hôm nay thì không phải sử dụng đến hàm răng đâu.

- Thường ăn kem dừa ở đây bao nhiêu lần rồi?

- Lần đầu tiên. Hôm nay.

- Sao biết kem dừa ngon tuyệt?

- Dễ thôi, hôm qua tôi vào đây và gọi nước chanh. Người phục vụ mang ly nước chanh ra tôi hỏi ngoài nước chanh có món gì ngon nhất, dĩ nhiên không phải bia, ông ta bảo có kem dừa ngon nhất.

Trúc cười. Vừa lúc người phục vụ mang ra hai trái dừa đặt trong hai cái đĩa to. Người ta đã bỏ đầy kem trong mỗi trái dừa và Trúc ước chừng nếu ăn hết phần kem trong trái dừa, cô sẽ bỏ luôn cả cơm tối.

- Ăn thử xem - Thường mời.

- Không ăn cũng biết ra sao rồi, vì Trúc đã từng ăn kem dừa ở quán này.

Thường xịu mặt. Muỗng kem như nằm bất động trong miệng anh. Trúc nhìn thoáng thấy Thường buồn. Cô cười:

- Nhưng kem thì khác mọi lần. Ðừng tưởng kem dừa luôn luôn giống nhau.

Trúc ngậm một muỗng kem như để nó tan dần trong đầu lưỡi. Trúc khen:

- Kem ngon quá.

- Ðừng khen lấy lòng nghen cô bé.

- Khen thật.

- Ráng ăn hết nhé, để chứng minh cho lời khen của mình.

Dĩ nhiên rồi cuối cùng Trúc cũng ráng ăn hết trái dừa đầy kem. Thường nhìn cô với vẻ hài lòng, ánh mắt của Thường rất trẻ con làm Trúc tức cười:

- Tuần rồi Thường có về Vũng Tàu không? - Trúc hỏi.

- Có.

- Vui chứ?

- Thường theo ghe đi biển. Lúc nằm đếm sao trên trời mới biết mình nhớ đất liền đến như thế nào. "Lão Ngoan" lại gởi lời thăm chị Áo Vàng, nó dọa hôm nào sẽ vào Sài Gòn và tới thăm Trúc đấy. Nó để dành rất nhiều vỏ ốc.

- Ngoan đi biển hay ở nhà?

- Lúc này Ngoan thường đi biển để phụ giúp với ba má tôi.

- Chắc là Ngoan có nhiều chuyện để kể lắm nhỉ. Tại sao Thường không bảo Ngoan viết thư cho Trúc?

- Nó lười viết thư lắm.

Trúc hình dung ra chú bé Ngoan với chiếc áo nhà binh cũ, rách vai, đầu đội chiếc nón nỉ có nhiều lỗ thủng một sáng nào trên bãi cát. Trúc tự nhủ, cô sẽ biên thư cho chú bé nếu có dịp.

- Hình như trời chuyển mưa phải không Thường?

Trúc nhìn ra cửa kiếng và hỏi Thường khi thấy một khoảng trời xám lai, ánh nắng vàng tươi không còn thấy nữa qua các mái nhà mà bầu trời như lẫn với màu lá cây xám xịt.

Thường gật đầu:

- Chắc là sắp mưa to.

- Chết rồi, làm sao về kịp.

- Sao lại về? - Thường ngạc nhiên.

- Trúc bỏ quên mấy bộ quần áo trên sào, khi đi quên mang vào, trời mưa ướt hết.

- Tưởng gì ghê gớm, áo ướt thì phơi lại cho khô, đâu có gì khó khăn.

- Nói như Thường thì hết chuyện.

Khi Thường gọi người phục vụ tính tiền, Trúc nhận thấy trong tay anh có hai chiếc vé xem phim, chẳng hiểu Thường mua từ lúc nào. Khi đi ra đường, Thường nói khẽ:

- Minh đi xem phim nhé?

- Trời mưa không thấy sao?

- Trời mưa thì có dính dáng gì tới chuyện xem phim - Thường cười.

- Nhưng Trúc muốn về nhà ngay.

- Dù Trúc có về cũng không kịp lấy mấy bộ quần áo đâu. Ướt rồi cho ướt luôn.

- Công trình người ta giặt, rồi phơi cả buổi. Tại Thường hết đấy.

Thường gãi đầu, cười trừ:

- Dĩ nhiên là tại Thường, ai có phủ nhận bao giờ mà Trúc nói.

- Rạp nào?

- Phía bên kia đường.

- Phim gì?

- Không biết.

- Xời, ai đời rủ người ta đi xem phim mà không biết phim gì.

- Tại vội quá nên chỉ mua kịp hai vé chứ không xem đựơc tựa phim. Tại Trúc hết đó, cứ sợ trễ hẹn, nhưng người tới muộn lại là Trúc.

- Lần sau sẽ bù lại. Bây giờ nắm tay đưa người ta qua đường đi.

Lần này thì danh chính ngôn thuận, Thường nắm tay Trúc qua đường với niềm vui choáng ngập hồn anh. Bàn tay của Trúc nhỏ bé quá, mềm mại quá, nó như run rẩy trong bàn tay to bè của Thường.

- Buông tay người ta ra, nắm hoài kỳ chết.

Trúc rụt tay về và kêu lên khi hai người đã qua tới bên kia đường. Thường cười, mặt anh đỏ lên. Hai người lẳng lặng đi vào công viên. Bây giờ bầu trời đã tối sẫm lại với những đám mây đen kéo qua các ngọn cây, gió lạnh nổi lên xao xác cuốn những chiếc lá khô dạt về một góc phố. Mưa bắt đầu rắc hột.

- Nhanh lên cô bé. Mưa lớn lắm.

Vừa gọi, Thường vừa chạy về phía rạp chiếu bóng cách đấy không xa. Trúc chạy theo. Bây giờ cô vừa giận Thường, vừa buồn cho chính mình. Tại sao không để Thường nắm tay, bây giờ thành ra một người chạy trước, một người chạy sau. Trúc vừa chạy vừa thở. Khi cả hai đã đứng dưới mái hiên của rạp chiếu bóng thì mưa đổ ào xuống.

- May quá. - Thường nói.

- Sao lại may?

- Nếu chạy không kịp bây giờ cả hai ướt như chuột lột rồi.

- Tại sao anh bỏ chạy một mình? - Trúc giận dỗi hỏi.

- Vì sợ Trúc... cự nự.

- Em lạnh quá.

Trúc bỗng rùng mình và nép sát vào người Thường tránh mưa. Thường nắm tay Trúc bước lên những bậc thềm cao để vào rạp chiếu bóng.

Phim vừa mới chiếu, đèn tắt hết nên trong rạp tối đen. Thường nắm tay Trúc dò dẵm từng bước để tìm ghế ngồi. Phải có hơn mười phút mắt anh mớí quen dần với bóng tối và nhận ra hai chiếc ghế trống ngay phía trước mặt mình. Thường kéo Trúc ngồi xuống.

- Tối quá sao anh thấy hay vậy?

- Mắt Thường đếm sao trời hoài nên sáng như sao.

- Xạo quá trời.

Ngó lên màn ảnh một lúc Trúc mới biết đó là một phim tình báo và hình như Trúc đã xem rồi một lần, cho nên cô không mấy thích thú.

Bàn tay Thường bỗng lần tìm bàn tay Trúc, anh bóp nhè nhẹ mấy ngón tay mềm mại của cô và hỏi:

- Trúc có thường đi xem phim không?

- Thường.

- Ði với ai.

- Ði một mình.

- Không thể tin được, không có ai đi xem phim một mình bao giờ.

- Ðùa thôi, Trúc hay đi xem phim với mấy nhỏ bạn, hoặc với chị Huyền, hoặc với nhóc Phục.

- Còn đi với một người khác phái?

- Chưa.

- Trời lạnh quá.

- Không phải đâu, rạp này có máy lạnh đấy.

Giọng Thường thì thầm:

- Trúc lạnh à?

- Không.

- Sao mấy ngón tay Trúc run rẩy thế?

- Tại vì hồi hộp.

Thường cười nhỏ:

- Yếu tim mà bày đặt đi xem phim tình báo, toàn những pha gây cấn.

- Biết đâu. Tại Thường dẫn người ta đi xem chứ bộ.

- Sao một lúc thì "Thường" một lúc thì "Anh", phải có lập trường vững vàng chứ cô bé.

Trúc ngượng ngùng dấu mặt sau vai THường và giận quá, cố ngắt vào bả vai Thường một cái làm Thường nẩy người lên. Sau đó thì cả hai đều ngượng ngùng, bối rối ngồi im lặng đuổi theo những hình ảnh thoáng quá trên màn ảnh mà không ai hiểu được diễn biến của đoạn phim mãi cho tới khi đèn bật sáng.

Lúc cả hai ra khỏi rạp thì cơn mưa cũng đã tạnh, nhưng để lại một bầu không khí ẩm ướt, cơn gió thổi qua trước cửa rạp chiếu bóng như còn sũng nước và trên các tàn cây cao không ngớt để rơi những hạt bụi nước xuống hè đường. Thường phủi một vài hạt bụi nước óng ánh bám trên tóc Trúc và nắm tay cô băng qua đường. Ánh đèn cao áp tỏa xuống làm cho bãi cỏ công viên như xanh hơn và thoáng nghe thứ hương cỏ nồng nàn từ đất ẩm bốc lên. Tiếng một loại côn trùng nào đó rên rỉ trong bãi cỏ khi Thường và Trúc đi ngang qua.

- Mấy giờ rồi "anh"?

Tiếng "anh" đầy ngượng ngùng phát ra làm chính Trúc cũng thấy bối rối. Thường cười:

- Mong sẽ không có sự thay đổi nữa nhé? Hơn bẩy giờ thôi. - Thường nói.

- Mình đi lấy xe rồi về.

- Em phải về nhà ngay bây giờ à?

- Vâng, em không thể đi chơi khuya hơn được đâu. Tối nay em còn phải thức học bài

o0o

Như thường lệ, mỗi khi tới nhà Bích Hồng, Trúc đều nhấn kèn xe Honda một tràng dài. Và đó cũng gần như là một "mật hiệu" để Bích Hồng nhận ra khách lạ, quen, thân hay không thân. Nhưng nay người ra mở cổng cho Trúc lại là nhỏ...Hồng Ánh.

Trúc dắt xe vào sân, ngạc nhiên hỏi:

- Bích Hồng đâu?

- Nhỏ bận làm yaourt ở sau bếp.

- Xời, hôm nay lại trổ nghề mới nữa rồi. Hồng Ánh tới lâu chưa?

- Cả buổi rồi.

Hồng Ánh vừa đi ra đóng cửa lại, vừa hét vang:

- Bích Hồng ơi, có "người yêu" tới nè.

- Ai thế? - Tiếng Bích Hồng hỏi vọng ra.

- Bộ nhỏ có nhiều "người yêu" lắm sao mà không nhớ ai với ai hết trơn vậy?

Hồng Ánh tuy mới gia nhập nhóm "năm mái nhà ngói" nhưng đã trở nên thân thiết với Bích Hồng, điều này làm nhỏ Minh Ánh và Khánh Huệ hơi khó chịu. Tâm lý con gái vốn phức tạp, nhưng rồi đâu cũng vào đó, cuối cùng Hồng Ánh đã trở thành một thành viên của gia đình gồm năm đứa con gái tuổi suýt soát nhau, xinh đẹp như nhau và có lẽ... nhiều chuyện cũng như nhau.

- Xời ơi, nhỏ Thủy Trúc mà làm tưởng đâu ai, khiến người ta luýnh quýnh làm đổ hết mấy hũ yaourt rồi. Bắt đền đi.

Bích Hồng vừa lau tay trong chiếc khăn lông nhỏ vừa nhìn Trúc, nói:

- Bộ ta không xứng đáng là khách quý sao? - Trúc cười.

- Không.

- A, có "người yêu mới" nên phụ bạc "người yêu cũ" rồi phải không?

Bích Hồng nhăn mũi:

- Ai biểu Thủy trúc tới trễ làm chi. Ngày xưa Thủy Tinh tới trễ cho nên mất vợ đấy.

- Ta tới trễ có năm phút thôi.

- Thủy Tinh tới trễ có ba mươi giây mà ôm hận ngàn đời. Thủy Trúc may hơn Thủy Tinh vì ta không phải là người phản bội.

- Nói nghe mủi lòng quá thể.

- Coi chừng Thủy Trúc khóc rơi nước mắt cá sấu bây giờ. Bích Hồng đền cho Thủy Trúc hũ yaourt đi.

- Yaourt ăn chưa đựơc đâu.

- Sao vậy?

- Ta lỡ tay làm cho nó lỏng bỏng như nước phải để vô tủ lạnh, mở hết tốc độ may ra nó mới đặc lại.

- Thế bao giờ mới được ăn yaourt do Bích Hồng làm?

- Chắc phải tới chiều.

- Xời, vậy mà cũng làm. Sao không nhờ ta chỉ cho. - Trúc cười nói.

- Thất bại làm lại mấy hồi, như thế lại càng có thêm kinh nghiệm quý báu.

Buổi học nhóm đầu tiên của bộ ba Bích Hồng, Thủy Trúc, Hồng Ánh mở màng bằng cách trao đổi kinh nghiệm làm yaourt và ăn hết bốn dĩa bò bía ngoài đầu ngõ và mỗi người làm thêm một ly chè, trong tủ lạnh nhà Bích Hồng.

Hồng Ánh cười:

- Học nhóm kiểu này chắc nhỏ nào cũng mau.. lên cân.

- thôi, ta sợ mập lắm.

- Nhỏ phải lên ba ký nữa mới vừa Trúc ơi, đừng sợ mập.

- Ba ký nữa ta giống như cái hột mít lăn trên đường nhựa bóng loáng chứ hết còn nhỏ Thủy Trúc "nàng thơ" nữa rồi.

- Bộ nhỏ sợ không còn là "đối tượng" để mấy ông thi sĩ đứng đợi trước cổng trường làm thơ... con cóc nữa sao?

Bích Hồng lên giọng hóm hỉnh:

- Thủy Trúc mà còn sợ chi, Hoàng hoa thôn đã có chủ rồi mà.

- Nhỏ tuyên truyền gì bậy bạ thế? - Trúc lườm.

- Nói có sách mách có chứng đàng hoàng.

- Nhỏ nên nhớ tội vu khống có ghi trong bộ luật hình sự đó nha.

- Cách đây ba bữa, ai đi với ai ăn kem ở Grival, khai đi nhỏ ơi?

Thủy Trúc chột dạ:

- Ai chứ không phải ta.

- Xời, phải chi ta có cái máy chụp hình, chụp đủ ba mười sáu tấm cho nhhỏ hết chối.

- Nhỏ có nhìn lầm ai không?

- Yên chí, ta chưa có cận thị nên nhìn rất rõ. Nếu cần ta sẽ kể chi tiết cho nghe.

Hồng Ánh cười tít mắt, giục:

- Kể đi Bích Hồng, chuyện này hay quá, đáng phải thu băng cassette đấy, bán chạy như tôm tươi.

- Anh chị vào Grival lúc hơn bốn giờ chiều, lúc đó trời đang chuyển mưa. Anh chị đang ngồi ở chiếc bàn trong góc quán phía tay phải ngó ra đường. Trên bàn có một lọ hoa nhỏ, cắm ba nhánh cẩm chướng màu hồng phấn. Anh chị ăn kem dừa, ngồi đối diện nhau rất tình tứ. Ðúng không Thủy Trúc?

Trúc đỏ mặt, hỏi:

- Nếu đúng, sao Bích Hồng không vào quán...nhận diện cho chắc ăn?

- Nên nhớ ta là con người lịch sự, không muốn bị nguyền rủa vì phá đám. Nhưng lúc đó ta đứng phía bên kia đường, dưới một gốc cây to, ta "quay phim" từ đầu tới cuối.

- Bích Hồng đi đâu thế?

- Ði phố mua ít đồ chứ đi đâu?

Trúc cười:

- Xạo. Ta không tin đâu.

- Tin hay không thì tùy, và ta cũng không phải đi có một mình, có người làm chứng thứ hai hẳn hoi.

- Ai?

- Anh Tùng chứ ai.

- A, như vậy giấu đầu lòi đuôi đấy nhé, tự nhiên Bích Hồng khai chứ chả ai tra khảo gì đâu. Cho hết chối.

Bích Hồng biết mình lỡ lời, nhưng không biết làm sao lấy lai được. Cô cũng đỏ mặt rồi lãng chuyện:

- Hôm đó ta mắc một trận mưa quá trời quá đất, về cảm luôn.

- Vô duyên, đang nói chuyện nọ xọ sang chuyện kia. - Hồng Ánh phê bình.

- Ðúng đấy, cái gì phải ra cái đó, ta không phủ nhận việc đi ăn kem với một người bạn trai, nhưng Bích Hồng cũng đừng chối quanh việc mình có "bồ".

- Tội lỗi hai người ngang nhau. - Hồng Ánh cười tủm tỉm.

- thôi mà nhỏ, bỏ qua chuyện ấy đi, hồi sau phân giải. Bây giờ học đi, muộn rồi. Trưa nay ta phải về sớm để nấu cơm.

thế là ba người ngồi ba góc để bắt đầu học bài. Nhưng Trúc không tài nào nuốt trôi những dòng chữ kéo qua mắt khi tâm trạng của cô đang rối bời trước sự phát hiện bất ngờ của Bích Hồng. Nếu không chận trước, ngày mai chắc cả lớp đều biết tin sốt dẻo này qua cái "loa" khuếch đại âm thanh của nó. Eo ơi, nhỏ Bích Hồng mà thêm mắm dặm muối cho câu chuyện thêm ly kỳ, hấp dẫn nữa thì có nước Trúc độn thổ, bỏ trường mà đi luôn. Khi về, thế nào cũng phải "nói nhỏ" với Bích Hồng và ký hiệp ước hòa bình thôi.

Hồng Ánh bỗng nhướng cặp mắt bồ câu to đen, chớp chớp hỏi Bích Hồng:

- Bộ hàng xóm Bích Hồng hôm nay có đám giỗ hả?

- Nhỏ hỏi gì mà lạ vậy, ngồi ở đây làm sao mà biết chuyện bên hàng xóm đựơc?

- Tại ta nghe có mùi xào nấu bốc lên thơm phức.

Trúc cười:

- Nhỏ nhạy bén với thức ăn quá.

- Ðúng là có đám giỗ rồi, chà, ngồi học bài trong mùi thơm của thức ăn như vầy chịu sao thấu. Ðóng cửa sổ lại Bích Hồng ơi.

- Ðóng cửa sổ lại nóng chết, với lại đâu thể nào ngăn đựơc mùi thơm bay sang?

- Vậy làm sao bây giờ, bao tử ta đang bị kiến bò.

- Ăn mấy dĩa bò bía rồi còn gì?

- Bị mùi thơm kích thích nên bao tử nó kêu gào. Ta vốn xấu tính đói.

- Ăn đại mấy hũ yaourt của Bích Hồng đi.

- Trời...

Trúc cười thầm, cô đi lại chiếc ghế bố Liên xô xếp để góc nhà bật ra nằm. Trúc lăn qua lăn lại cho mấy cái lò xo kêu rít lên như tiếng chuột rút, rồi nói.

- Buồn quá học không vô.

- Con người hạnh phúc nhất trần gian mà than buồn? - Hồng Ánh nháy mắt nói.

- Trong nỗi vui có lẫn nỗi buồn, trong hạnh phúc có xen niềm cay đắng.

- Học nhóm kiểu này chắc tiêu quá - Bích Hồng cũng bỏ sách, đứng lên tới bên cửa sổ nhìn qua một mái nhà khác. Ở dó đang có mấy chú chim bồ câu bay lượn. Chúng giang cánh, đánh thành nhiều vòng cung trong một khoảng trời lấp lánh nắng buổi sáng.

Trúc vươn vai, nói như hát:

- "Hôm nay trời nhẹ lên cao, ta buồn không hiểu vì sao ta buồn".

- Ngưng học, để xả hơi mười phút.

Hồng Ánh cũng buông sách nói và tới đứng sau lưng Bích Hồng, cô ôm vai bạn, và cùng nhìn hướng mấy chú bồ câu bay.

Một lúc Hồng Ánh cười hỏi:

- Ðố nhỏ những con chim bồ câu bay đi đâu?

- Bay về chuồng chứ đi đâu.

- Trật lất.

- Chứ nhỏ nói bay về đâu? - Bích Hồng ngạc nhiên.

- Bay về mấy cái quán... nhậu chứ đâu.

- Xời, đầu óc nhỏ u tối quá, chỉ nghĩ toàn món ăn, món nhậu.

Trúc bỗng ngồi dậy, nói:

- Thôi hôm nay không học nổi đâu, và để cho đầu óc bớt căng thẳng ta đề nghị tuần sau đi Lái Thiêu chơi.

Hồng Ánh tán thành ngay:

- Ý kiến tuyệt quá nhỏ ơi. Phải mau mau đi thăm vườn trái cây Lái Thiêu không thôi sẽ hết mùa trái cây đó.

- Nhưng đi cách sao? - Bích Hồng hỏi.

- Ai có "người yêu" thì đèo nhau, còn ai cu ky một mình thì phải đi một mình, có thế mà cũng hỏi.

- Trúc đi với ai?

Trúc cười không đáp, Hồng Ánh nói:

- Phải rủ nhỏ Khánh Huệ và nhỏ Minh Ánh nữa chứ.

- Tức nhiên, không rủ hai nhỏ ấy chửi tắt bếp sao.

- Nên rủ người khác phái cùng đi, để có chuyện gì mình còn nhờ vả được, hoặc có người "bảo vệ", chứ toàn một đám con gái vô tích sự thì chán thấy mồ.

- Cũng có lý.

- Nhưng ta không có anh trai, không có em trai, cũng không có bạn trai thì làm sao? - Hồng Ánh hỏi.

- Rủ ông hàng xóm.

Hồng Ánh nhảy tới đấm thùm thụp vào vai Thủy Trúc. Hai đứa rượt nhau chạy quanh phòng và cười ngặt nghẽo. Trúc chạy tới chỗ Bích Hồng, ôm vai bạn và ghé vào tai Bích hồng nói khẽ:

- Rủ Tùng đi cho vui, còn Trúc sẽ rủ người mà Bích Hồng gặp ở Grival. Ðồng ý không?

Bích Hồng nhướng mắt:

- Ðể làm gì, cho tụi nó cười chui xuống đất trốn luôn hả?

- Nhỏ quên mình đi thăm vườn trái cây là cần phải có người trèo cây sao? Không có đàn ông con trai chỉ đứng dưới đất mà nhìn thôi.

- Ờ há.

- Vậy ngoéo tay.

Sáng chủ nhật, Thừơng và Trúc ngồi ở quán cà phê ven đường Nguyễn Du chờ mọi người tới. Thường hút thuốc, anh rít khói thở ra thành những vòng tròn và cười:

- Sao đi chơi xa mà không báo sớm, làm suýt nữa anh đã về Vũng Tàu rồi.

- Bất ngờ mới vui, chuẩn bị trước có khi lại không vui chút nào.

- sao giờ này chẳng thấy ai tới hết, em có hẹn đúng giờ không?

- Yên tâm đi, em bảo đảm mà.

- Anh rất ghét những người nào trễ hẹn.

- Vậy mà hẹn với em anh cứ tới trễ hoài. - Trúc nhăn mặt.

- À, đó là những lần bất khả kháng. Em uống cà phê đi, dù sao cũng phải chờ các bạn của em thôi.

Thường đá vào chân Trúc hỏi:

- Nghĩ gì mà thừ người ra thế?

- Anh biết làm nước mắm không? - Trúc cười hỏi.

- Anh chỉ uống đựơc nước mắm chứ không làm đựơc nước mắm.

- Nước mắm tỏi ớt anh uống đựơc không?

Thừơng cười:

- Cay điếc con ráy ai mà uống cho được. Vả lại lặn xuống biển chỉ cần uống nước mắm trong, uống nước mắm tỏi ớt có khi bị chìm luôn.

- Em có chú em làm nước mắm tỏi ớt ngon nhất thế giới. Em đang nghĩ về nó đấy.

- Sao hôm nay em nói toàn chuyện ăn uống với nước chấm không vậy?

- anh không biết đâu, ở nhà em mỗi người chuyên phụ trách một món. Chẳng hạn như em chuyên môn pha cà phê, chị Huyền làm trứng ốp la, mẹ làm bún bò, nhóc Phục làm nước mắm.. kia, Bích Hồng tới rồi.

Bích Hồng ngồi phía sau chiếc xe cúp 50 cho Tùng chở. Tùng tắt xe vào lề và hơi bối rối khi bắt tay Thường. Bích Hồng nhanh nhẩu nói:

- Hai ông làm quen với nhau đi, khỏi giới thiệu chi cho mất công. Mai mốt biết liền.

Trúc kéo ghế cho Bích Hồng, Thường kéo ghế cho Tùng. Trúc nhìn Bích Hồng trách:

- Tới trễ quá vậy?

- Mới có hai mươi phút mà trễ gì? - bích Hồng cười - Tại xe bị xẹp bánh.

- Hồng Ánh và Minh Ánh đâu?

- Ai biết.

- Hẹn hò kiểu này đi chơi mất vui. Chờ mười phút nữa không thấy hai nhỏ đó mình đi nghen.

- Ừa, ta cũng ghét kiểu chờ đợi mỏi mòn và giờ giấc dây thun quá.

Tùng gọi cà phê đá và Bích Hồng gọi cà phê sữa. Nhìn tách cà phê, Bích hồng cười:

- Ta với nhỏ "chung tình".

- Xời, từ bây giờ trở đi cho nhỏ "sang ngang" đó.

Thường mời Tùng hút thuốc. Trúc thoáng nhìn hai người bạn trai và thầm nhận xét. Tùng cao hơn Thường một cái đầu, nước da trắng như con gái, nhưng ở Thường toát ra nét cương nghị cần thiết của một người đàn ông. Thường khỏe mạnh hơn, vô tư, hiền lành, trong khi Tùng có vẻ là một thanh niên sành sỏi. Trúc đá nhẹ vào chân Bích Hồng.

- Nhỏ giấu bạn bè lâu quá rồi nhé, chỉ mới hôm nay mới cho "đối tượng" xuất hiện.

- Phải chờ có "đồng minh" đã chứ. Hôm nay thì ta với nhỏ là đồng minh rồi, không còn sợ gì nữa.

- Ðồ quỷ.

- Chứ không phải sao?

- Tùng học trường nào thế nhỏ? - Trúc hỏi.

- Y dựơc. Còn "chàng" kia của Trúc?

- Bách khoa.

- Dân ở đâu vậy?

- Xứ biển.

- Ngó biết liền, nhưng tại sao lại... trôi dạt vào tới trong này lận?

- Vì bị sóng biển đánh.

- Ðồ quỷ.

Cuối cùng rồi Hồng Ánh cũng đèo được Minh Ánh tới trên một chiếc Honda. Hai nhỏ bữa nay diện mô đen... Việt kiều, quần có tới mấy chiếc túi luộm thuộm. Hồng Ánh có chiếc áo đẹp, màu vàng giống y như áo của Trúc. Nhỏ này cũng gout "nhà chùa" giống như mình đây. Chờ cho hai nhỏ bạn xuống xe, kéo ghế ngồi xong Trúc nguýt một cái dài:

- Gớm, hai nhỏ mà cũng bày đặt tới trễ, làm như người quan trọng.

- Mà quan trọng thiệt đó. - Hồng Ánh cười - không có hai đứa ta cuộc đi chơi xa này sẽ mất nhiều ý nghĩa quan trọng lắm chứ.

Bích Hồng cong môi:

- Xời, làm như không có hai nhỏ thế giới này sẽ không có hòa bình vậy.

- Dám lắm chứ, bởi vì lỡ anh chị gây gỗ nhau thì ai là người hòa giải, đúng không? - Minh Ánh cũng để vô.

- Quá đúng. - Hồng Ánh cười xác nhận.

Và thế là Bích Hồng phải kêu thêm hai ly cà phê sữa. Hôm nay Khánh Huệ bận đi chùa với mẹ nên không có mặt. Như vậy về nguyên tắc coi như nhóm "năm mái nhà ngói" mất một nhân vật.

Hồng Ánh ngậm chiếc muống cà phê trong miệng, giống như con thỏ ngậm nhánh cải. Hồng Ánh nheo mắt nói:

- Khánh Huệ dặn tới dặn lui là phải mang quà về, tuy rằng nhỏ không có mặt.

- Mang về cho nhỏ hai trái sầu riêng, ăn xong bắt nhỏ quỳ lên đó mà chịu tội. - Bích Hồng nói.

- Tội gì?

- Tội bỏ bạn bè theo mẹ đi chùa. Chà, bộ nhỏ ấy tính làm cô tiểu thư đi lễ chùa giống như cái cô bé đi chùa Hương thơ của Nguyễn Nhược Pháp điệu đến phát ghét.

- Người ta dễ thương vậy mà chê là "điệu". - Hồng Ánh cười.

- Có bao nhiêu "điệu" trên cõi đời này, cô tiểu thư ấy địêu hết trơn rồi, cho nên bây giờ con gái chúng mình phải sống thật giản dị, chân thành. Hẹn hò với bạn bè là phải giữ lời.

- Thôi thế cũng được, có Khánh Huệ đi ai chở. - Minh Ánh hỏi.

Trúc cười dòn:

- Cho nhỏ chạy bộ từ đây lên Lái Thiêu.

- Thôi, uống cà phê nhanh lên rồi lên đường quý vị ơi, nắng lên cao rồi kìa. - Thường nhìn đồng hồ và nói lớn.

Hồng Ánh giả vờ hỏi:

- Ông nào vậy ta?

- "Chàng" của Trúc đấy. Còn người bên cạnh là "chàng" của ta. Ðược chưa nhỏ?

- Ít ra cũng phải có "vài lời phi lộ" như vậy mới đựơc chứ, không thôi ra đường lỡ đụng xe gây lộn thì phiền.

- Cái miệng của nhỏ Hồng Ánh này dẻo như cao su Ðồng Nai. Biết vậy hồi đó ta không cho vào gia đình "năm mái nhà ngói" đâu. - Bích Hồng nói.

- Bởi vậy nên trời phạt nhỏ vẫn còn cu ky một mình.

- Tại ta không ưa con trai, thấy đứa nào giở giọng tán tỉnh ta mắc gây lộn hơn là có cảm tình.

- Trời ạ, nhỏ ăn nói như vậy ai mà chịu cho thấu? - Trúc đá mạnh chân Hồng Ánh nói.

Thường và Tùng rít thuốc, cười cười. Nhỏ Hồng Ánh vẫn tỉnh bơ uống từng muỗng cà phê xem như không có chuyện gì.

Minh Ánh ghé vào tai Hồng Ánh nói nhỏ:

- Nhỏ ăn nói dữ quá vậy?

- Vậy mà nhằm nhò gì, cho bọn con trai nó sợ.

- Xí xọn vừa thôi.

- Hiền sẽ bị ăn hiếp. Rồi nhỏ coi, tương lai Trúc và Bích Hồng sẽ bị hai anh chàng bá vơ ở đâu hiện ra ăn hiếp cho coi.

-Tình yêu muôn đời vẫn vậy, con gái phải phục tùng con trai. Ðó là bí quyết để giữ vững tình yêu. - Minh Ánh triết lý.

- Bộ nhỏ thích.. phục tùng con trai lắm hả?

- Xời, ta chưa hề có người yêu bao giờ, đứng nói ẩu.

- Vậy ta với nhỏ ngoéo tay, thề không bao giờ có người yêu. Chịu không?

- Thôi đi nhỏ ơi, đừng có khùng. Tình yêu nó đến lúc nào ai mà biết được, ai mà chống đỡ nổi. Nhỏ nói cứng vậy chứ khi tình yêu tới nhỏ cũng ngã cái rầm.

- Có ngã ta cũng ngồi dậy. Tỉnh bơ.

- Chờ xem, thức khuya mới biết đêm dài, đứng nói vội.

Ðến lượt Tùng sốt ruột hỏi:

- Xong chưa quý vị, mình khởi hành đi, đường còn xa.

- Những người nào cu ky mới thấy đường xa chứ.

Hồng Ánh nheo mắt nói. Trúc đấm vào vai Hồng Ánh:

- Nhỏ cũng có "người yêu" Minh Ánh đó, ra xa lộ tha hồ cho hai người du dương.

Khoảng 9 giờ hơn họ tới Lái Thiêu và kéo vào vườn của một người bà con với Minh Ánh. Ðó là một người đàn bà góa bụa, hiền hậu, có chồng hy sinh trong kháng chiến và một đứa con trai vừưa hoàn thành quân sự trở về. Minh Ánh gọi người đàn bà là Dì Năm.

Dì Năm hoàn toàn bất ngờ với cuộc viếng thăm này, nhưng dì thật là vui vẻ đón tiếp mấy người bạn của cháu mình. Minh Ánh ôm vai Dì Năm hỏi:

- Dì Năm ở nhà có một mình sao?

- Anh Sỹ mày đi làm ngoài thị trấn chiều mới về, không ở nhà một mình chứ với ai?

- Dì Năm muốn có dâu không, con giới thiệu cho nhỏ bạn nó đứng kia kìa.

Minh Ánh đưa tay chỉ Hồng Ánh đang mân mê những trái chôm chôm vừa đổi màu trên cành nặng trĩu. Dì Năm cũng hiểu đó là lời nói đùa của cô cháu lém lỉnh, nhưng dì cũng ngước mắt nhìn cô gái lạ. Hồng Ánh biết Minh Ánh trêu mình vội chạy tới đấm thùm thụp vào vai Minh Ánh:

- Nhỏ giới thiệu ẩu quá, rủi ta.. bằng lòng thì sao?

- Thì coi như bọn mình là chủ của khu vườn trái cây này chứ có sao đâu.

Dì Năm kéo chéo khăn lau mồ hôi trán và tươi cười mời:

- Mấy cháu đi đường xa chắc mệt lắm, vào nhà nghỉ, uống nước rồi hãy thăm vườn.

- Tụi cháu khỏe lắm Dì Năm, chẳng mệt nhọc gì đâu. Mùa này vườn nhà trái cây nhiều không dì Năm?

- Cũng khá. Hôm nay chỉ còn sầu riêng và chôm chôm thôi, măng cụt hết rồi.

Hồng Ánh reo lên:

- Thích quá, mình đi hái sầu riêng đi Minh Ánh.

- Sầu riêng không hái trên cây được đâu - dì Năm cười giải thích - sầu riêng chỉ đợi trời tối nó rụng xuống, mình ra lượm mang vào nhà thôi. Những trái rụng là những trái đã chín cây.

Minh Ánh ôm vai dì Năm.. nhỏng nhẽo:

- Tụi con ở chơi tới chiều lận, chút nữa sẽ vào nhà uống nước. Bây giờ dì Năm cho tụi con ra thăm vườn nghen.

- Ờ, cứ đi thẳng, bờ nào có trái chín cứ việc quẹo vào và ăn bao nhiêu thì ăn.

Và thế là cả bọn ào ra vườn. Hai ông con trai được đẩy đi trước để... dẹp đường, vẹt những cành cây thấp. Bốn cô gái theo sau. Trong vừơn thật mát, những cây sầu riêng cổ thụ cao ngất ngưỡng và sai trái. Những cây chôm chôm thấp hơn, cành nhánh lòa xòa, trái cũng chi chít trên cành, những chùm chôm chôm chín đỏ trông thật ngon mắt. Thường và Tùng vói tay hái chôm chôm và phân cho bốn cô gái, họ vừa ăn vừa cười khúc khích. Minh Ánh vừa đi vừa kể chuyện gia đình dì Năm, giống như một cô thuyết minh chuyện truyền thống. Khu vườn sầu riêng có một quá khứ đầy lịch sử, ở đây trong hai cuộc kháng chiến đều có hầm bí mật của cán bộ cách mạng, dì Năm có chồng đi kháng chiến, vừa là một cơ sở nuôi giấu cán bộ hoạt động bí mật. Dì có một người con trai lớn và một cô con gái kế hy sinh trong chiến tranh trước ngày giải phóng. Hiện nay anh con trai tên Sỹ là con út, người con duy nhất còn lại của gia đình. Khu vườn rộng mênh mông, trước đây nó đã từng bị chất độc hóa học của Mỹ rải, chỉ sau ngày giải phóng mới phục hồi lại. Trong vườn có những cây sầu riêng đã chết và vài khoảng vườn bị tàn phá, tuy cây cỏ lên xanh nhưng dấu tích cũ hãy còn.

Thường và Trúc vô tình rẽ sang một bờ vườn khác, và khi nhận ra thì các bạn đã khuất đâu xa. Thường mạnh dạn nắm tay Trúc, hai người sung sướng nhìn nhau cười trong bóng râm của cây chôm chôm trĩu nặng trái chín. Thường ngắt vội những trái chôm chôm dúi vào tay Trúc, hai người ngồi xuống đám cỏ mịnh, nồng nàn hương đất và hương lá mục, vừa ăn chôm chôm vừa lắng nghe tiếng ve kêu ran ran trên cành cao.

Trúc ngả đầu lên vai Thường nói:

- Ở đây bình yên quá phải không?

- Nó khác với Vũng Tàu đầy sóng biển và gió.

- Không ngờ hai đứa ở xa cách một góc trời một góc biển vậy mà quen nhau, rồi trở thành thân thiết. Cũng lạ.

- Chỉ thân thiết thôi ư?

Trúc mắc cỡ, dụi đầu vào cổ Thường và che mắt cô trong mái tóc rũ xuống. Trúc lắng nghe tiếng trái tim cô đập vang trong lồng ngực và cảm thấy một khoảng không gian đang dừng lại trên đầu, ở đó tiếng ve của mùa hạ đang trôi, tan loãng vào những đám mây.

Chương 7 :Cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa Thường và gia đình đã mang tới nhiều bất lợi. Tuy Thường đã tới chơi nhiều lần nhưng chỉ gặp chị Huyền, nhóc Phục. Nhưng đây là lần đầu tiên Thường chạm mặt với mẹ Trúc. Bà Phán tuy không phải là khắc nghiệt nhưng bà quá lo xa. Trúc đã nhận ra sự lo ngại trong từng ánh mắt của mẹ cô và nó đã hình thành một nỗi lo lắng mãi cho tới khi đưa Thường ra về.

Vừa trở vào, bà Phán đã gọi Trúc lại gần, bảo ngồi xuống ghế sa lông và hỏi:

- Cậu Thường đó người ở đâu thế?

- Dạ quê anh ấy ở Vũng Tàu.

- Sao lại vào trong này học?

- Ở ngoài đó không có trường.

- Gia đình cậu ấy làm nghề gì?

- Dạ nghề đi biển, gia đình có nghề chài lưới truyền thống.

- Mới vào đại học phải không?

- Dạ.

- Mẹ không cấm con quan hệ với bạn trai nhưng không nên đi quá xa trong tình cảm khi còn phải vượt qua việc học của mình. Lúc này mẹ thấy con đi chơi nhiều.

Trúc lúng túng nói:

- Anh ấy, là một người đàng hoàng, gia đình lao động, tuy nghèo nhưng rất có tư cách.

- Mẹ không nói tới chuyện đó. Tóm lại là mẹ không muốn cho con đi quá xa trong tình cảm khi tuổi hãy còn nhỏ. Vấn đề không đơn giản như con tưởng đâu.

Trúc thấy là không nên giải thích gì thêm, cô buồn bã đi về phòng mình và nằm vật ra giường ôm chiếc gối dài ngó lên trần nhà bằng cặp mắt vô hồn. Vậy là nỗi lo sợ của Trúc đã thành sự thật, mẹ đã kkhông chấp nhận cho Trúc quan hệ với Thường tuy bà nói rất khéo, nhẹ nhàng, nhưng Trúc hiểu rằng mọi chuyện đã trở thành phức tạp và cô rất buồn, rất ngạc nhiên trước thái độ của mẹ.

Trúc bỏ cơm chiều và nằm vùi trong phòng, trời lại mưa lất phất. Những giọt mưa bay qua cửa sổ như những chiếc roi quất vào lòng Trúc, cảm giác một cái đau âm thầm, mềm mại nhưng sâu lắng, khiến người cô vật vờ. Trúc vặn nhạc nhưng không nghe hết bản, tìm một cuốn sách để đọc nhưng không thể xem hết một trang. Cuối cùng Trúc nằm yên lắng nghe tiếng mưa nhẹ ném trên mái nhà và rơi trên những cành cây ngoài vườn. Lúc này những cuộc đi chơi với Thường bắt đầu quay lại trong tâm trí Trúc như một cuộn phim với những hình ảnh sáng bừng lên, rồi mờ dần, nhạt nhòa. Hình ảnh của Thường trong vườn sầu riêng mới đây, tiếng ve ran trong một bầu không gian êm ả, nhữngn chùm chôm chôm đỏ hồng. Ánh mắt của Thường tươi cười trong bóng râm của cây lá...

- Trúc ơi.

Trúc uể oải ngồi dậy ra mở cửa cho chị Huyền. Hai chị em thoáng nhìn nhau. Chị Huyền ngồi xuống mép giường hỏi:

- Sao buồn thế?

- Chị đã biết rồi mà.

- Chuyện mẹ la ấy à?

- Hình như mẹ không thích Thường, mới hồi chiều Thường đến chơi, mẹ tỏ thái độ ra mặt. Tại sao vậy nhỉ?

Chị Huyền nói:

- Ðơn giản là mấy bà già có con gái lớn, lo xa, vậy thôi.

- Không đơn giản như chị nói đâu. Tuy mẹ không nói thẳng ra, nhưng em hiểu đó là sự ngăn cấm. Em buồn quá.

- Không lẽ buồn rồi bỏ ăn cơm.

- Em không đói.

- Nếu như em trước đây chị đã tuyệt thực luôn rồi.

Trúc nói như than:

- Chị bây giờ thật hạnh phúc, em mong có đựơc cuộc sống bình lặng như chị.

- Muốn vậy em phải đợi khi học xong đại học, nghĩa là lớn thêm vài tuổi nữa.

Trúc ôm chiếc gối, chớpmắt hỏi:

- Chị thấy Thường thế nào?

- Cũng được.

- "Cũng đựơc" thôi ư?

- Chứ em muốn chị trả lời sao nữa? - Chị Huyền bẹo má Trúc và cười.

- Anh ấy là một người trung thực.

- Yêu rồi à?

- Em cũng chưa biết rõ ra sao. Có đáng gọi là tình yêu không nhỉ?

- Em không hiểu thì chị làm sao hiểu được.

- Hình như là tình yêu thôi, chị ạ.

- Sao lại hình như? - Chị Huyền ngó thẳng Trúc hỏi.

- Vì em cũng chưa rõ đựơc tình cảm của mình. Chỉ thấy Thường hiện dịên rất đúng lúc, đó là một niềm vui Ðôi lúc như một người thân thiết gắn bó với vui buồn của mình.

- Hai chị em nằm bên nhau, ngoài kia trời mưa lớn dần, tiếng mưa nghe nặng hạt. Chị Huyền bỗng ôm choàng lấy Trúc và nói vào tai cô:

- Ðích thực là tình yêu rồi chứ không còn hình như đâu, khi mình thấy người khác trở nên thân thiết với mình, chi phối niềm vui nỗi buồn của mình.

- Lúc chị yêu anh Nghiêm cũng thế à?

- Chị khác chứ. Ðâu có tình yêu nào giống với tình yêu nào.

Trúc thở ra một hơi dài. Chị Huyền vuốt má Trúc, cười khẽ:

- Lại thở dài rồi.

- Chị có nghĩ là mẹ đã khắc nghiệt với Thường không?

- Chưa biết.

- Anh ấy là một người nhiều tự ái, thái độ của mẹ đã hơi quá đáng với Thường lúc chiều. Em khổ tâm quá.

- Phải cố gắng chịu đựng thôi em ơi. Nhưng đừng nên nhịn cơm như vậy.

Chị Huyền đứng lên đi loanh quanh trong phòng. Dạo này chị Huyền đẹp ra, đôi mắt lúc nào cũng long lanh, ngời hạnh phúc. Chị thường hát trong phòng tắm, trong hành lang, trong những lúc rảnh rỗi.

Có tiếng gõ cửa phòng, và rồi giọng Phục nói như hét:

- Chị Trúc ơi ba gọi.

Và tiếng chân Phục chạy xuống cầu thang, mất hút. Trúc vào phòng tắm rửa mặt, chải mái tóc rối và ngó mặt mình rất lâu trong gương. Mặt Trúc hơi tái. Trúc ra hỏi chị Huyền:

- Ba mới về à?

- Lâu rồi, ba hỏi em sao không ăn cơm, biết mẹ trả lời sao không?

- Trả lời sao?

- Chê cơm.

- Ba gọi em làm gì nhỉ?

- Chắc là bắt ăn cơm thôi.

- Lạy trời cho ba đừng bắt em ăn cơm. Giờ này mà ngồi trước mâm cơm, em sẽ chẳng tài nào nuốt nổi đâu.

Hai chị em đi xuống nhà và đựơc gọi ra phòng khách. Ông Phán đang uống trà và trước mặt ông nhóc Phục đang sắp lại bàn cờ tướng.

Thấy Trúc xuống, ông Phán ngước lên nói:

- Tới đây con gái, đánh với ba vài ván cờ. Cho Huyền làm trọng tài.

Trúc thở phào. Nhưng cô làm sao có đủ tỉnh táo để đánh cờ được. Trúc lắc đầu:

- Hôm nay con không đánh cờ đựơc đâu ba.

- Sao thế?

Chị Huyền cười:

- Nó đang... rối loạn bộ nhớ.

Ông Phán vỗ vỗ lên trán và cười. Ông thuyết phục con gái:

- Không sao, đánh một ván cờ tướng là bộ nhớ nó bình thường trở lại. Cờ tướng là một môn thể thao trí tuệ, nó làm cho con người ta có thói quen bình tĩnh trong sự rối loạn. Con ngồi xuống đi, còn nhóc Phục xê ra.

Trúc ngồi xuống chiếc ghế Phục vừa nhường lại. Còn Phục ngồi gần chị Huyền, giữ vai trò... chầu rìa. Trong nhà ai cũng biết chơi cờ tướng, kể cả mẹ, nhưng chỉ có Trúc mới là đối thủ của ba thôi.

- Trời mưa, uống nước trà đặc, đánh vài ván cờ tướng thì cuộc sống sảng khoái lắm rồi.

Trúc nói:

- Ba đi trước đi.

- À, lại còn chấp ông già đi trước nữa chứ. Nhưng mà phải đánh cho thật ác liệt à nghen, đừng vì rối loạn bộ nhớ mà để thua đấy.

- Ðánh ba ván thôi nghen ba, ăn thua gì cũng nghỉ.

- Ðồng ý.

Ông Phán vô pháo đầu, một nước đi quen thuộc của ông từ hồi nào tới giờ, trong lúc đó Trúc lên tượng. Ông Phán định lên xe ở nước thứ nhất nhưng không hiểu sao ông lại thôi mà đi ngựa. Huyền lắc đầu cười:

- Không được, hạ thủ bất huờn. Ba đi lại xe đi.

- Cha, quên có trọng tài ngồi bên cạnh. Rồi, cũng đựơc, đi xe thì đi.

Ông Phán trở lại nước xe, và bưng tách trà lên uống một ngụm. Ông thở ra một hơi dài, đầy sảng khoái. Nhóc Phục nhồi thuốc vào tẩu, nó gõ tẩu thuốc vào cạnh bàn cạch cạch rồi đưa cho ông Phán.

- Giỏi lắm.

Không biết ông vừa khen Phục hay khen một nước cờ của Trúc vừa đi.

Kết quả ba ván cờ là huề. Mỗi người thắng một bàn còn một bàn huề. Chị Huyền và Phục đã đi ngủ, chỉ còn ông Phán và Trúc ngồi trong ghế sa lông. Nhưng thường lệ sau vài ván cờ ông Phán kể cho con gái nghe công việc của ông một ngày ở bệnh viện. Hôm nay là một ngày làm việc bình thường, không có ca nào nặng. ÔNg Phán bảo đó là một ngày yên ổn của người thầy thuốc.

Cuối cùng ông Phán nhìn Trúc, hơi mỉm cười:

- Lúc chiều mẹ rầy phải không?

- Dạ.

- Sao lại rầy thế, con gái nhỏ bé của ba?

Bao giờ ông Phán cũng gọi Trúc như vậy, bằng một sự trìu mến của một ông bố thương con rất mực. Thật ra Trúc đã lớn, nhưng vì là con gái nhỏ nhất nhà nên ông Phán vẫn xem Trúc là một đứa bé không hơn không kém.

Trúc thấy không cần giấu ba, nên nói:

- Mẹ không cho con quan hệ với một người bạn trai.

- Ai vậy?

- Anh Thường.

- À, cái cậu vẫn thường đến chơi nhà mình ấy à. Cái cậu vẫn thường cho nhãn, phải không?

- Dạ.

- THường học ở đâu?

- Dạ, anh ấy học Bách khoa, mới vào năm nay thôi.

- Giữa con và Thường như thế nào?

- Con không thể nói rõ đựơc, mặc dù con không muốn giấu ba điều gì.

- Nếu chỉ là quan hệ bình thường, như một người bạn thì ba thấy không có việc gì phải đặt ra hết. Nhưng mẹ nói lại với ba, giữa con và Thường đã có những biểu hiện tình cảm khá đặc biệt. Ðiều ấy đúng không?

- Dĩ nhiên anh ấy là một người bạn thân của con.

- Hai đứa đã từng tổ chức đi chơi à?

- Dạ, cùng đi với mấy người bạn nữa.

- Ba mẹ dĩ nhiên là không khắt khe với con trong quan hệ bạn bè, nhưng nếu không phòng ngừa thì vấn đề phức tạp có thể xảy ra. Con còn đi học và ba chỉ muốn cho con chú tâm vào việc học mà thôi. hãy còn quá sớm ở tuổi của con nếu đặt ra vấn đề tình cảm. Có thể con chưa hiểu tình yêu là gì đâu. Ðó là một vấn đề hết sức phức tạp.

Trúc bối rối:

- Ba thấy anh Thường như thế nào?

- Ba chưa nói chuyện nhiều với cậu ấy, nhưng khách quan nhận xét, cậu ta có vẻ có tư cách.

- Vậy mà mẹ có thái độ không ưa anh ấy ra mặt ngay chiều này. Con buồn quá.

- Mẹ con nhiều lúc cũng hơi quá đáng. Tuy nhiên cũng có thể giải quyết được, vì mẹ lo cho con.

- Con đã lớn và đã biết suy nghĩ.

- Ba chỉ khuyên con nên cố gắng học, đó là việc quan trọng hàng đầu của con. Chuyện quan hệ bạn bè là thứ yếu. Nếu có dịp ba sẽ nói chuyện với Thường để tìm hiểu thêm về câu ấy. Trước mắt con không nên buồn phiền gì về mẹ. Con nên nhớ là mẹ sinh con ra trong rừng, lúc máy bay Mỹ đang ném bom, con không hiểu hết sự cực khổ của mẹ đâu.

Ông Phán lại nhồi tẩu thuốc khác, lần này ông ngả đầu lên thành ghế rít mấy hơi dài, Trúc cảm thấy mùi khói thuốc làm cô nghẹt thở, Trúc ho mấy tiếng. Ông PHán cười:

- Con không chịu đựơc khói thuốc à. Thôi, đi ngủ đi con gái nhỏ bé của ba.

- Ba không đi ngủ sao?

- Ba còn thức uống trà.

Trúc thấy thương ba quá. Ông Phán đúng là một người đàn ông mẫu mực, thương vợ con, sống tất cả cuộc đời mình cho sự nghiệp và cho gia đình. Cuộc đời của ông đã gắn liền với hai cuộc kháng chiến, đi khắp nơi, tập kết ra Bắc rồi trở về miền Nam trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, có lúc ông bị thương ở chiến trường ác liệt tưởng đã chết. Ba cực khổ biết bao nhiêu nhưng lúc nào cũng sống rất lạc quan, trầm tĩnh. Ngày trở về Sài gòn, Trúc hãy còn là một cô bé lên sáu, lúc ấy tóc ba hãy xanh, bây giờ Trúc đã mười chín, tóc ba đã lốm đốm bạc. Mười ba năm trôi qua thật nhanh chóng như một giấc mơ.

Trúc nhìn ba, ái ngại:

- Thôi con đi ngủ đây, ba cũng đừng nên thức khuya. Sáng mai con sẽ nhổ tóc bạc cho ba nhé.

Ông Phán cười:

- Sáng mai con không đi học à?

- Sáng mai con nghỉ một buổi.

- Ba lại đi làm.

- Thì chiều ba về vậy.

- Lúc này không hiểu sao tóc bạc ra nhanh quá. Chẳng mấy chốc ba sẽ thành ông lão tóc trắng cho mà coi.

Ông Phán vuốt mái tóc mình, cười cười nhìn con gái. Trúc rời khỏi ghế đi về phía cầu thang. Giờ này chắc mẹ đã ngủ. Trúc bước lên những bậc thang mà nghe cả tiếng chân của chính mình. Cơn mưa mỗi lúc như càng lớn hơn. Bây giờ thì tiếng nước đổ ào ạt ngoài vườn cây. Trúc thoáng lạnh, cô rùng mình khi lên hết những bậc thang và về trước cửa phòng mình. Trúc vào phòng không mở đèn, cô trùm mền mở mắt nhìn bóng tối. Lạ làm sao, khóe mắt Trúc ứa ra hai giọt lệ nóng. Trúc khóc một cách bất ngờ hết sức. Nhiều khi cũng chẳng ai hiểu rõ những giọt nước mắt của mình.

Thế là Thường không tới nhà Trúc nữa, từ buổi chiều hôm đó. Anh cũng không ghé trường đón Trúc vào giờ tan học như dạo nào. Trưa nay Trúc cùng về với Bích Hồng, cô bỗng có ý nghĩ rủ bạn cùng đi tới nhà Thường.

Bích Hồng cười:

- Bộ anh chị giận nhau rồi à?

- Không.

- Sao Thường lại không tới đón Trúc?

- Chắc Thường bận việc gì đó.

- Bây giờ tới nhà, chắc Thường có ở nhà không?

- Làm sao biết được. Nhưng cứ tới thử xem.

Bích Hồng cười:

- Ði thì đi.

Trúc chở Bích Hồng chạy giữa dòng xe cô đông nghẹt. Qua những con đường trong phố, thỉnh thoảng Trúc bắt gặp một cây phựơng già cuối mùa hoa đã thay lá non. Tuy thế những chùm hoa hiếm hoi sót lại trên cành cây vẫn rực rỡ trong màu lá xanh.

Bích Hồng đập vai Trúc:

- Chạy tà tà thôi nhỏ ơi, gấp gì mà phóng ào ào thế. Cuộc đời ta còn tươi phơi phới, đừng có gây tai nạn tội nghiệp lắm.

- Bích Hồng sợ chết à?

- Ta không sợ chết mà chỉ sợ gãy giò thôi.

- Gãy giờ ông Tùng cũng thương như thường. Ðừng lo.

Một lúc Bích Hồng hỏi:

- Ta hỏi thật, mà Trúc cũng phải nói thật, đừng có giấu bạn bè.

- Hỏi đi.

- Bộ Thường và Trúc giận nhau hả?

- Ừa.

- Ai giận ai trước.

- Cả hai. Giận cùng một lượt.

- Sao bày đặt giận nhau chi vậy, thiếu gì chuyện vui sao lại giận nhau làm chi cho chóng già?

- Trúc đâu có muốn giận nhau.

- Vậy lỗi tại Thường à?

- Cứ cho là thế đi.

- Vậy thì hãy quay xe lại, đừng thèm tới nhà ông ấy làm gì. Người ta giận, Trúc cũng phải giận lại, nếu cần cứ giận mút chỉ coi ai năn nỉ trước.

Nhưng con hẻm vào nhà Thường đã hiện ra. Con hẻm thật dễ nhớ vì nó có một cây cột điện gãy chân sắp ngã nhào, nếu không có mấy sợi dây điện níu lại.

- Ngõ vào nhà Thường đây hả? - Bích Hồng hỏi.

- Chứ không lẽ ta vào nhà người khác?

- Vô duyên, ta hỏi thế mà nhỏ cũng cự nự. Sao hôm nay nhỏ ham gây lộn thế?

Trúc làm thinh, vì xe vào ngõ hẻm phải chạy thật cẩn thận, trong hẻm đầy trẻ con. Ở một bãi đất trống cặp theo hẻm bọn trẻ con còn chia nhau đá banh, Trúc đã suýt tông phải một đứa trẻ con ở chỗ này nên hôm nay vẫn còn sợ.

- Trúc nhớ nhà không đó, sao con hẻm chạy loằng ngoằng như con rắn thế này?

- Sao lại không nhớ.

- Trí nhớ của nhỏ tốt thiệt, vào loại siêu rồi đấy. Ta có đi vào con hẻm nào bảy lần cũng vẫn quên như thường.

Nhà ông chú của Thường hiện ra bên tay phải gần cuối hẻm. Trúc dừng xe, ngó lên căn gác, cánh cửa sổ quen thuộc hãy còn đóng im ỉm chứng tỏ Thường không có mặt ở nhà. Tuy vậy Trúc vẫn gõ cửa và ngay sau đó có người từ trong nhà đi ra. Ðó là Phượng, đứa em bà con của Thường. Con bé quen với Trúc nên cười nói:

- Anh Thường không có nhà.

- Ði học chưa về à? - Trúc hỏi.

- Em không biết nữa. Lúc này anh ấy đi bất thường lắm, và cũng không nói gì ở nhà cả.

Trúc sực nhớ hôm nay là thứ bảy, cuối tuần. Có thể Thường về Vũng Tàu chăng?

- Anh Thường có báo là đi về Vũng Tàu chăng?

Phượng lắc đầu:

- Không.

- Anh Thường không về ăn cơm sao?

- Cũng chẳng nghe anh ấy nói gì cả. Lúc này cơm nước của ảnh cũng bất thường. Có khi ảnh ăn cơm ở đâu rồi mới về nhà. Có khi đi chơi suốt tới khuya mới về nhà. Chị có biết chuyện gì không?

- Chuyện gì? - Trúc ngạc nhiên hỏi.

- Hình như anh Thường gặp một chuyện gì buồn lắm, ảnh đi chơi hoài và thường say rượu nữa.

Trúc thở ra. Bích Hồng hiểu tiếng thở ra đó của bạn mang ý nghĩa gì. Bích Hồng ái ngại nói:

- Như vậy là bất thường rồi. Trúc phải gặp Thường mới đựơc.

Phựơng hỏi Trúc:

- Hay là chị nhắn gì cho anh Thường, em nói lại cho.

- Không.

Trúc cắn môi quay xe ra con hẻm. Bích Hồng đấm lưng bạn nói:

- Sao không nhắn gì với Thường hết vậy nhỏ?

- Biết nhắn gì bây giờ, để suy nghĩ đã.

- Rõ ràng là giữa anh chị có chuyện gì trục trặc rồi, nói đi, ta tình nguyện làm trung gian hòa giải cho.

- Bích Hồng không hiểu được đâu.

- Trúc không chịu nói thì có trời mới hiểu nổi.

- Ừa, chỉ có trời mới hiểu thôi. Ta khổ lắm nhỏ ơi.

- Lại than thở rồi. Ta ghét cảnh than thở lắm. Chuyện gì cũng giải quyết được hết, đừng có than thở mà nghe não lòng.

- Chắc Thường đã về Vũng Tàu rồi.

- Sao Trúc biết?

- Biết chứ.

- Vậy đi Vũng Tàu tìm Thường không?

- Thôi đừng có khùng.

- Thương nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua mà.

- Ta héo ruột gan mà nhỏ còn trêu được sao?

- Chứ không lẽ khóc à? - bích Hồng cười.

- Ừa, ta cũng muốn khóc lắm đấy.

Ðúng như Trúc đoán, trưa hôm đó Thường đã ra bến xe đò về Vũng Tàu. Anh không thể ở lại thành phố trong một buổi chiều cuối tuần với bao nhiêu kỷ niệm đổ xô về như những con sóng biển có sức mạnh xô ngã mình và dìm anh trong nỗi buồn của tiếng ve cuối mùa hạ vỡ ra. Thường đã tự động không gặp Trúc vì anh không thể nào quên được ánh mắt của mẹ cô. Suốt những ngày trôi qua Thường sống trong mặc cảm và tìm mọi cách lãng quên cô gái đã đến với anh bằng một tình yêu đầu đời.

Chú bé Ngoan thấy Thường đi xuống con dốc đầy sỏi đá vào nhà, Ngoan không ngạc nhiên vì Thường vẫn trở về Vũng Tàu vào buổi chiều thứ bảy hàng tuần. Chỉ hơi nghi ngờ có chuyện bất thường khi chú nhìn vào đôi mắt của Thường, đôi mắt ấy giống đôi mắt con thuyền trên biển, nó mênh mông quá, buồn bã quá.

- Em ở nhà một mình à? - Thường lên tiếng hỏi.

- Một mình. Ba má đi biển mấy ngày nay rồi.

- Sao chú nhìn anh lạ thế?

- Anh sao vậy? - Ngoan dè dặt hỏi.

- Bình thường thôi. Có lẽ đi đường nên mệt.

Ngoan ngơ ngác:

- Anh mà mệt, anh lặn xuống biển cả buổi cũng chả sao, đi xe đò hai tiếng đồng hồ ăn nhằm gì mà kêu mệt. Hình như có chuyện gì đó không vui, đúng không?

Thường đã vào nhà, anh ngồi xuống chiếc băng ghế dài mà hôm nào Trúc đã ngồi. Chiều nay thủy triều lên sớm, tiếng sóng ầm ầm vỗ vào bờ đá, cái âm thanh muôn thuở này sao hôm nay Thường thấy buồn.

Ngoan ngồi xuống cạnh anh, hỏi:

- Anh có gặp chị Trúc thường không?

- Có.

- Chị ấy vui hay buồn?

- Vui.

- Có gởi lời thăm em không?

- Anh đi vội quá nên Trúc không hay.

Thường đi vào vườn nhãn. Mùa này nhãn không còn, những con chim như cũng bay đi nơi khác, không còn nghe chúng đập cánh trong vườn như trước nữa. Cả một khu vườn im vắng lạ lùng.

- Anh ăn cơm chưa? - Ngoan theo Thường ra tận ngoài vườn hỏi.

- Anh không đói.

- Sao lại không đói? Em đã nấu cơm rồi, có mấy con khô nướng...

Thường gắt:

- Ðã bảo anh không đói, chú vào ăn cơm trước đi.

- Tại sao anh buồn thế?

- Chuyện bình thường. Chẳng có gì khiến cho Ngoan phải quan tâm.

Ngoan bỗng cười:

- Thôi, em biết rồi, chắc anh và chị Trúc giận nhau rồi phải không?

- Ðừng có đoán mò.

- Coi chừng đúng đấy ông anh ạ. Nếu như anh chị giận nhau thì đúng là... chuyện bình thường.

- Còn nếu không phải giận nhau?

- Thì em chịu, không hiểu nổi.

- Vậy thì cũng đừng tìm hiểu làm gì. Sáng mai anh sẽ quá giang ghe người quen đi tìm ghe nhà mình.

- Bộ anh.. khùng hả? Biết bao giờ ghe nhà mình về, rồi anh trễ học làm sao?

- Anh chán học rồi.

- Bây giờ đúng là không có chuyện bình thường rồi.

Buổi tối Thường rủ Ngoan ra quán Thùy Vân uống cà phê. Hai anh em ngồi dưới bóng cây thùy dương, khuất trong bóng tối và uống cà phê đen. Nhìn điếu thuốc cháy đỏ trên môi Thường, Ngoan lắc đầu nhè nhẹ và hỏi:

- Hồi chị Trúc còn ở đây, anh thường hẹn chị ấy ra quán này uống cà phê, đúng không?

Thường gật đầu. Ngoan nói:

- thấy chưa, em đoán không sai. Bây giờ không có chị Trúc nên anh rủ em ra đây ngồi để nhớ kỷ niệm, đúng không?

- Ðúng.

- Ðã nói em đoán ít khi sai mà.

- Ðoán hay quá sao Ngoan không đi làm thầy bói?

Ngoan cụt hứng, chú bé uống một ngụm cà phê đen, tay gõ thành nhịp trên cạnh bàn theo một điệu nhạc phát ra từ chiếc máy cassette.

- Ở nhà có gì lạ không?

- Có một tin sốt dẻo là chị điên trong xóm mình nhảy xuống biển tự tử trong một đêm trăng.

- Ủa?

- Tội nghiệp, gặp lúc nước lớn, sóng lại to nên chị điên bị cuốn phăng đi không ai hay.

Thường thở dài, hình dung ra gương mặt cô gái điên đã sống qua những đêm trăng của cuộc đời bất hạnh của mình. Giờ đây trên bãi cát đêm đêm không còn tiếng khóc cừơi của cô gái ấy nữa, tiếng khóc cười đã chìm sâu trong những cơn sóng biển mất rồi.

- Tại sao chị ấy tự tử?

- Ai mà hiểu nổi người điên. Anh hỏi kỳ.

- Chắc là phải có lý do nào đó.

- Có trời mới biết được.

- Vậy mà chị Trúc định có dịp ra Vũng Tàu tìm thăm chị ấy đấy.

- Thế nào em cũng biên thư báo tin cho chị Trúc biết chuyện này.

o0o

Bích Hồng tới nhà Thường vừa lúc cơn mưa đổ ập xuống. Phượng ra mở cửa, cô bé nhận ra ngay người quen.

- Chị là bạn của chị Trúc phải không?

- em nhớ dai ghê, anh Thường có nhà không bé?

- Có, anh ấy đang ở trên gác.

- Em gọi giùm anh Thường, báo là có khách nhé.

- Chị cứ đi thẳng lên gác, chắc anh ấy đang học bài.

Bích Hồng bước lên những bậc thang. Cô dừng lại trước một căn phòng bừa bãi sách vở, sàn gác đầy bụi, chứng tỏ chủ nhân của nó không buồn quét dọn.

- Chào anh Thường, nhận ra người quen chứ? - bích Hồng lên tiếng khi Thường quay ra.

Thường ngạc nhiên đến sững sờ anh lúng túng dọn dẹp vội vã những thứ lỉnh kỉnh chung quanh chỗ ngồi của mình để lấy chiếc ghế trống và nói:

- Làm sao quên đựơc, mời Bích Hồng ngồi xuống đây, đừng chê chỗ ở chật hẹp nhé.

- Không chê sự chật hẹp, nhưng mà chê sự bê bối của chủ nhân.

Thường ngượng ngùng nhìn quanh những đồ vật quen thuộc của mình mà bình thường anh thấy không có gì phải quan tâm. Nhưng khi bị cô gái phê bình Thường mới thấy nó chướng. Thường lúng túng giải thích:

- Biết làm sao đựơc, tôi không có thì giờ.

- Anh mới vừa ở Vũng Tàu trở vào phải không?

Thường gật đầu. Bích Hồng nhìn Thường hỏi:

- Tội của anh lớn lắm đấy nhé, đi mà không báo trước, báo hại tôi và Trúc đi kiếm rồi về không.

- Kiếm làm gì?

- Ngộ chưa, để thăm anh chứ làm gì. Không lẽ anh cũng không muốn Trúc tới thăm sao?

- Chuyện đó Bích Hồng nên hỏi Trúc tiện hơn.

- Thôi, tôi biết hết rồi. Hôm nay tôi có nhiệm vụ mang thư của Trúc tới cho anh đây. chút xíu nữa bị mưa ướt hết rồi.

Bích Hồng trao cho Thường bức thư dầy của Trúc.

- Anh đọc đi, xem Trúc viết gì ở trỏng.

Bích Hồng tế nhị đứng lên tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài mưa cho Thường đựơc tự nhiên đọc thư. Thường ngần ngại một chút rồi xé bức thư trong tâm trạng hoang mang, buồn bã.

"Thường thân mến,

Vì một lý do riêng, em không thể tới thăm anh được, dù trước đó đã mấy lần em tới tìm anh nhưng không gặp. Hôm nay em nhờ Bích Hồng mang thư này tới cho anh đây.

Anh cũng biết rằng em yêu mến anh ra sao, và em cũng buồn bã thế nào khi chiều hôm đó mẹ em có thái độ hơi quá đáng đối với anh. Em biết anh giận, tự ái, và cố tình tránh mặt em. Ðiều ấy cũng đúng thôi, nhưng phải nói là em rất buồn. Trong thời gian qua em học sút đi cũng chính vì buồn nản và sống với nỗi khổ tâm mà không biết giải thích thế nào cho anh hiểu được. Mẹ em thì không khắt khe, nhưng bà lo xa cho mối quan hệ của chúng ta.

Em được biết trong thời gian qua anh cũng buồn chán và thường bỏ đi chơi. Có những hôm đi chơi rất khuya và uống rượu say. Anh đi chơi với bất cứ cô nào cũng đựơc, em chẳng có quyền gì để nói. Nhưng mong rằng anh hãy cố gắng học, ba má anh cực khổ quá nhiều, anh không nên vì một chút tự ái mà làm hư hỏng đời mình, làm buồn khổ hai bác đã hy vọng nơi anh.

Em không biết nói gì hơn, chuyện xảy ra ngoài ý muốn của em, chẳng sung sướng gì khi thấy anh bị dằn vặt, mặc cảm. Mong anh hiểu cho, lúc nào em cũng yêu mến anh.

Chúc anh vui.

Thủy Trúc "

Thường đọc xong bức thư, anh thở ra một hơi dài. Bích Hồng quay lại ghế ngồi, nhìn Thừơng hỏi:

- Sao, thư vui hay thư buồn?

- Không vui cũng không buồn.

- Nhưng nói chung là có "vấn đề" phải không? Thủy Trúc nó khổ tâm lắm đấy, anh không biết được đâu. Nhất là khi trở nên say sưa, quan hệ tùm lum..

Thường đỏ mặt:

- Ai nói?

- Chẳng ai nói hết. Bạn bè nhìn thấy.

- Khi buồn chán, người ta có quyền đi chơi cho đỡ buồn, uống rượu say cho đỡ buồn.

- Xì, anh mà cũng nói cái giọng đó nữa sao. Ðời làm gì mà anh hận?

- bích Hồng chẳng hiểu chuyện gì đâu.

- Nếu không hiểu tôi đã không tới đây gặp anh. Bạn bè mấy đứa chơi thân với nhau còn hơn chị em ruột, cãi nhau chí chóe đấy, nhưng cũng thương nhau vô cùng. Anh mà làm khổ Thủy Trúc là cả nhóm hỏi tội anh ngay.

- Bích Hồng dữ quá.

- Dữ cũng được mà hiền cũng đựơc. Bây giờ anh có nhắn gì Thủy Trúc không, tôi nói lại cho?

- Bây giờ thì chưa.

- mai mốt cũng được, nếu cần thì biên thư, tôi tình nguyện làm người liên lạc không công cho.

- Bích Hồng uống nước nhé?

- Cám ơn, trời lạnh tôi không khát đâu.

- Tôi cũng khổ tâm lắm chứ có sung sướng gì đâu. - Thường than thở.

Bích Hồng cười:

- Gặp Trúc thì nhỏ than khổ, gặp anh thì anh than khổ. Tôi muốn điên cái đầu. Ðến chừng tôi, chẳng biết tôi than với ai đây?

- Tùng và Bích Hồng vui vẻ chứ?

- Vui, nhưng cũng gây lộn hoài. Nhưng anh đừng có đánh trống lảng, chẳng lẽ đọc bức thư Thủy Trúc anh không cảm động chút nào sao?

- Tôi buồn lắm.

- Lại than buồn nữa. Nhưng buồn gì cũng phải nói một tiếng cho Thủy Trúc vui chứ.

- nói cái gì bây giờ?

- Xời ơi, chuyện của anh mà đi hỏi người khác. Làm sao tôi biết đựơc.

- Bích Hồng là người ở ngoài cụôc, sáng suốt hơn tụi này.

- Vậy thì tôi khuyên anh đừng nên uống rượu nữa. Con gái ghét thậm tệ những anh chàng say sưa. Còn chuyện anh đi khiêu vũ với mấy cô bạn gái gì đó, Thủy Trúc nó cũng buồn lắm đấy.

Cơn mưa đã ngớt hột, Bích Hồng từ giã Thường ra về. Thường ngập ngừng định nói với Bích Hồng chuyện gì đó, nhưng không hiểu sao anh im lặng, chỉ buông một tiếng thở dài rồi đưa Bích Hồng xuống thang gác.

- Cám ơn Bích Hồng nhé. - Thường ấp úng.

- Thôi, ơn nghĩa gì, mai mốt có về Vũng Tàu nhớ mang quà xứ biển vào thì đựơc.

- Bích Hồng thích gì?

- Tôi thuộc loại dễ nuôi, cái gì ăn cũng được và cái gì cũng thích cả.

Bích Hồng cười giòn, đạp máy xe và phóng đi trong cơn mưa chỉ còn rắc những hạt nhẹ trên mái tóc. Ðúng là con hẻm vào nhà Thường mùa mưa thì lầy lội, mùa nắng thì bụi mù. Bích Hồng phải phóng xe ào qua những vũng nước đọng. Khi ra khỏi con hẻm sâu Bích Hồng mới mừng thầm và không ngờ trí nhớ của mình cũng thuộc vào loại siêu như Thủy Trúc.

- Sao, có gặp đựơc Thường không? - Thủy Trúc chạy ra đón Bích Hồng từ ngoài cổng và lo lắng hỏi.

- Gặp.

- Thường xem thư rồi nói gì?

- Chẳng chịu nói gì cả. Cừ lầm lầm lì lì, phát ngán.

- Sao lại không nói?

- Ai biết đâu. Không lẽ chàng không nói rồi bắt Bích Hồng phải cạy miệng sao?

- Nhưng nói chung mọi chuyện đều tốt cả chứ?

- Phải thuyết cho ông ấy một hồi, nhưng chả biết có chịu nghe hay không. Coi bộ Thường cũng thuộc vào loại cứng đầu cứng cổ đấy.

Trúc buồn bã nói:

- Thôi vậy đựơc rồi,còn nghe hay không là tùy Thường thôi.

- Nhưng ta tin thế nào ông Thường cũng phải nghe. Nếu không nghe thì cả nhóm đồng lòng tẩy chay ngay.

hai đứa vào nhà. Mấy hôm nay nhà Trúc đang chuẩn bị đám cưới cho chị Huyền. Thấy Bích Hồng tới, chị Huyền mừng rỡ nói:

- Ðang lo thiếu một cô phù dâu đây, Bích Hồng tới thật đúng lúc. Nhận làm phù dâu cho chị nhé?

- Em xấu òm mà làm phù dâu gì? - Bích Hồng cười.

- Thôi đừng có làm bộ nhỏ ơi, Trúc đã nhận lời rồi kìa, đám cưới của chị sẽ có hai cô phù dâu thât xinh đẹp cho nhà trai lác mắt chơi.

- Hồi đó tới giờ em có làm phù dâu bao giờ đâu, lọng ca lọng cọng, người ta cười chết.

-Dễ ợt, chẳng có gì khó đâu, học mười phút là xong.

- Có Thủy Trúc nữa thì em nhận.

- nhất định Thủy Trúc phải là phù dâu cho chị rồi.

Trúc kéo Bích Hồng về phòng mình, hai đứa nằm lăn ra giường cười rúc rích. Bích Hồng nói:

- Bà Huyền sắp sửa lấy chồng ngó xinh ra phết. Bà ấy lấy ai vậy Trúc?

- Ông Nghiêm, kỹ sư xây dựng.

- Chắc là xứng đôi lắm hả?

- Cũng đựơc.

- Sao lại cũng đựơc là thế nào?

Thủy Trúc cười:

- Nghĩa là... cặp ấy cũng được, chớ sao? Nhỏ hỏi kỳ quá, ai còn biết trả lời ra sao nữa.

- Xời ơi, chị Huyền có chồng mà nhỏ làm như người nào khác, không phải ở trong gia đình này vậy.

- Tính ta thế đấy nhỏ ạ.

- Vô tâm.

Thủy Trúc úp mặt xuống gối cười rúc rích, nhưng thật trong lòng cô buồn bã vô hạn. Như vậy là giữa Trúc và Thường dù sao cũng đã có một khoảng cách, một khoảng cách không ai tạo ra và không cần thiết. Tuy nhiên, nó đã hình thành và chi phối hai người. Thường không thể nào hiểu được em đã quay quắt như thế nào trong khoảng thời gian này. Anh bây giờ đang làm gì? Trúc hình dung ra căn gác trọ của Thường ở, căn gác mà một vài lần Trúc đã tới. Ở đó cô đã dần quen với những đồ vật của Thường, những sách vở, cách bài trí, cái bàn, chiếc ghế ngồi lọ hoa ít khi có hoa, cây đàn giá lạnh, và... một lớp bụi mỏng trên sàn gác mà chỉ khi nào Trsuc tới nó mới sạch được. Nhớ một vài lần Trúc chê sự bề bộn của Thường, anh cười con trai độc thân không chú ý tới việc chưng dọn căn phòng mình ở. Chứ anh chú ý tới điều gì? Học và nhớ... cô gái mặc áo vàng. Bây giờ thì khoảng cách giữa Trúc và căn gác trọ ấy đã xa, biết anh có còn nhớ cô gái áo vàng ấy nữa không?

Bích Hồng đập nhẹ lên vai Trúc hỏi:

- Nhỏ đang nghĩ gì thế?

- Nhiều thứ lắm.

- Cụ thể là cái gì?

- Buồn quá nói không nổi.

- Ðể tăng thêm sức mạnh ta mời nhỏ đi ăn kem, được không?

- Cũng chả thích ăn uống gì.

- Nhỏ định tuyệt thực à? - Bích Hồng ghé sát vào tai Trúc hỏi.

- Nếu tuyệt thực được ta cũng sẵn sàng.

- Thường cũng buồn, cũng kêu, cũng than thở. Nhỏ cũng buồn, cũng chán, cũng kêu than. Ta ở giữa biết làm sao đây?

Trúc nằm ngửa, ôm chiếc gối ngang ngực và nhìn vào mắt Bích Hồng hỏi:

- Theo nhỏ, ta phải làm sao bây giờ?

- Tạm thời đừng gặp Thường nữa và hãy cố gắng học đi, mọi việc rồi sẽ trôi qua như mây trên trời vậy.

- nhưng trôi theo hướng nào?

Bích Hồng mím môi có vẻ suy nghĩ. Một lúc Bích Hồng đáp:

- Theo hướng mưa thuận gió hòa.

- Nhỏ làm thầy bói hồi nào vậy?

- Bộ nhỏ không muốn nói chuyện rồi sẽ tốt lành sao?

- Không đơn giản đâu. Ðúng là không đơn giản như hồi đầu Trúc nghĩ.

- Suy cho cùng, chẳng có điều gì đơn giản hết. Hình như sống là một cuộc chống chọi và luôn luôn gặp sự nghiệt ngã.

Trúc bỗng hỏi:

- Tùng "quen" với Bích Hồng có bị rầy rà như Trúc không?

- Giữa Tùng và Bích Hồng đơn giản hơn nhiều. Nói chung thì mọi việc suông sẻ, êm ru.

- Sao mọi người đều suông sẻ, êm ru còn Trúc lại gặp sóng gió hoài.

- Thôi, ráng chịu đựng cho nó xong, đừng than thở hoài nhỏ ơi. Bây giờ ra phố ăn kem đi. Nghe lời ta đi dạo chơi, đi ăn uống thì mọi việc sẽ quên. Nằm nhà nhớ hoài thì sẽ buồn chán lắm. Vậy thôi.

- Ði hết muốn nổi.

- Ðể ta dìu nhỏ đi nhé.

Bích Hồng cười, vòng tay ôm Trúc xốc dậy. Hai đứa ngò nhau phá ra cười và Trúc đi vào phòng tắm rửa mặt, thay quần áo. Một lúc sau, Trúc trở ra.

Bích Hồng kêu lên:

- Lại mặc áo vàng. Ta tưởng màu vàng đối với Trúc từ đây trở thành kỷ niệm rồi chứ.

- trông có tươi thắm không? - Trúc xoay một vòng trước mặt Bích Hồng và hỏi.

- Tươi như nắng ấy.

- Nắng sáng hay nắng chiều?

- Nắng trưa.

- Nắng trưa chói mắt lắm, ta không thích đâu. - Trúc cười.

Một lúc sau Trúc đèo Bích Hồng bằng xe Honda phóng ra khỏi nhà. Không khí mát rượi trên đường sau cơn mưa làm đầu óc Trúc thanh thản hơn.

Chương 8 :

Sau đám cưới, chị Huyền về nhà chồng, căn nhà bình thường vắng vẻ nay lại càng thêm vắng hơn. Chiều nay Trúc ngồi dưới gốc cây khế và lật xem những tấm hình chụp hôm đám cưới mà chị Huyền đã rửa riêng ra một bộ để lại nhà làm kỷ niệm. Tập album dầy cộm, toàn hình màu, gần như chụp lại toàn bộ cảnh đám cướii. Và tấm nào cũng có hai cô phù dâu theo sau. Hôm đó Trúc và Bích Hồng thật xinh xắn bên cạnh cô dâu chú rể. Ðám cưới của chị Huyền tổ chức ở một nhà hàng lớn, sang trọng và không khí thật vui. Hôm nay thì chị Huyền đã sống trong hạnh phúc của chị, cô dâu chú rể đã đi hưởng tuần trăng mật ở Ðà Lạt.

Một gương mặt hiện ra trong vài tấm ảnh làm Trúc giật mình, đó là Bách. Hôm đó Bách lại làm phù rể, cho nên lúc nào cũng gần gũi Trúc và làm anh ta không bỏ lỡ cơ hội để tán tỉnh cô. Mới đầu Trúc bực mình, nhưng về sau cô cũng lờ đi và rồi tự nhiên có một cảm giác dễ chịu xen vào lòng cô khi mọi người chú ý tới Bách. Phải nói anh ta cũng đẹp trai, dáng học thức, ăn mặc đúng thời trang và nịnh đầm thuộc loại điêu luyện. Trong lúc ngà say Bách đã gọi Trúc bằng "em" xưng "anh" ngọt lịm và nhảy vào đứng chung với Trúc lúc chụp hình.

Bích Hồng đã hỏi Trúc:

- Thằng cha phù rể này.. hắc ám quá. Chỗ con gái người ta chụp hình cũng nhảy vô nhăn răng cười. Vô duyên.

Trúc đã trêu bạn:

- Thằng chả muốn đứng gần Bích Hồng đấy.

- Chứ không phải anh ta mết Trúc ra mặt hả?

- Ðâu có.

- Thôi đừng có giả vờ ngây thơ cụ cô nương ơi. Làm sao lấy vải thưa mà che mắt thánh được.

- Vậy mắt thánh của Bích Hồng đã thấy gì?

Bích Hồng cười:

- Thấy anh chàng bị chết đuối trong đôi mắt bồ câu của nhỏ, anh ta đang bơi đang chới với và kêu la cầu cứu. Trúc hãy làm ơn làm phúc cứu hắn đi. Ra tay tế độ mà với hắn lên đi kẻo hắn chết chìm mất.

Trúc cười:

- Ở không đâu mà vớt, cho hắn chết chìm luôn.

Trúc xếp tập album lại, nhưng gương mặt của Bách như vẫn hiện ra. Trúc ngồi thừ người, lòng cô vừa buồn bã, vừa nôn nao với một tâm trạng phức tạp.

Bất ngờ có tiếng chuông ngoài cổng. Nhóc Phục chiều nay lại đi bơi, do đó, Trúc phải đi ra mở cổng. Cô ngạc nhiên đến sững người khi thấy BÁch.

- Sao, ngạc nhiên lắm à, mở cổng cho anh vào coi cô bé?

Trúc nhăn mũi:

- Anh tìm anh Nghiêm hả?

- Trời ơi, hôm này mà tìm anh ấy làm gì. Ông ấy đã bị bà Huyền xỏ mũi dắt đi Ðà Lạt hưởng tuần trăng mật rồi.

- Anh tìm mẹ em hả?

- Không, tìm cô bé.

- Tìm em? - Trúc giả vờ ngạc nhiên.

- Mở cổng đi, đừng bắt khách phải đứng ngoài lâu mà thành con người bất lịch sự.

- Em không ham làm người lịch sự đâu.

- Thôi mà...

Trúc mở cổng, Bách cho xe vào sân. Giọng anh thật tự nhiên khi đi với Trúc về chỗ gốc cây khế:

- Chiều đẹp như thế này mà Trúc không đi đâu sao?

- Bộ anh tưởng em lúc nào cũng rảnh rang để đi chơi như anh vậy sao?

- Em bận học à?

- Học và nấu cơm, coi chừng nhà. Bây giờ chị Huyền ở riêng rồi, em lên chức... quản lý ngôi nhà và cái bếp.

- Như vậy càng vui chứ sao.

- Anh vào nhà chơi - Trúc mời - có mẹ em ở nhà.

- Thôi, ngồi ngoài này nói chuyện cũng được lại mát mẻ.

Trúc bỗng lúng túng, cô không biết làm gì hơn là trao quyển album cho Bách xem để kéo dài thời gian. Bách lật xem qua loa gần như chẳng chú ý gì tới những tấm ảnh đám cưới.

- Chị Huyền có chồng rồi. Trúc còn lại một mình trong căn nhà rộng mà trước đây thường có hai chị em trò chuyện, vui đùa. Bây giờ em có thấy buồn không?

- Dĩ nhiên có buồn một chút xíu.

- Buồn hoặc không sao lại buồn có một chút xíu? - Bách liếc Trúc cười.

- Tính em vẫn vậy, ít rõ ràng một điều gì. Buồn cũng chút xíu, vui cũng chút xíu, giận hờn cũng một chút xíu.

Bách hỏi một cách bất ngờ:

- Tại sao Trúc có vẻ.. ghét anh chút xíu vậy?

- Ghét anh không có chút xíu đâu, ghét rất nhiều - Trúc cười tủm tỉm.

- Ðồng ý, nhưng mà tại sao?

- xXn miễn trả lời.

- Thế mà anh vẫn thắc mắc hoài đấy, kể từ hôm gặp em lang thang ngoài bãi biển Vũng Tàu.

- Em lang thang hồi nào? Ngừơi ta đi dạo trên biển mà anh bảo lang thang, kỳ chưa.

- Ði một mình tức là lang thang. Ðừng có cãi nữa cô bé bướng bỉnh ơi.

Trúc chớp mắt cười khúc khích:

- Bây giờ tới phiên em hỏi, tại sao anh cho rằng em ghét anh?

- Còn tại sao nữa, thực tế đã chứng minh.

- Thực tế nào?

- Tự em hỏi lại mình xem. - Bách nhún vai - Anh đâu phải là trẻ con mà không biết chuyện ấy.

- Rồi sao? - Trúc có vẻ thách thức.

- Chẳng sao cả. Anh cũng chẳng giận gì em. Vì anh xem Trúc là một cô bé, đơn giản vậy thôi.

- Người ta lớn rồi. Năm nay em học lớp mười hai, năm tới sẽ là sinh viên.

Bách cười giòn, anh móc thuốc ra châm lửa hút. Thái độ rất tự tin. Giữa những hơi thuốc, thỉnh thoảng Bách lại liếc nhìn Trúc, anh cười cười:

- Trúc vẫn thường hay ngồi dưới gốc cây khế này lắm à?

- Em là bạn thân của cây khế mà.

- Thích nhỉ, thế có bao giờ em trò chuyện với người bạn thân này không?

- Có chứ.

- Hai người nói gì?

- Nhiều chuyện lắm. Và hoàn toàn những chuỵên bí mật mà không thể tiết lộ cho kẻ thứ ba biết đựơc.

Bách nhìn lên cây khế. Mắt anh mở lớn như để chiêm ngưỡng tàn khế um tùm, cành nhánh chi chít, rậm rì. Mùa này khế có nhiều bông nên quyến rũ mấy chú ong bầu tới tìm mật. Những chú ong bầu kêu u u tạo thành một âm thanh quen thuộc trong khoảng không gian phía trên đầu.

Bà Phán bỗng hiện ra ở thềm nhà, bà thoáng ngạc nhiên khi nhìn thấy Bách. Anh ta vội vàng đứng lên lễ phép chào. Bà Phán hỏi:

- Cậu Bách tới bao giờ thế, sao không vô nhà uống nước?

- Dạ, cháu ngồi ngoài này cũng được ạ.

- Trúc mời anh vào nhà đi chứ?

Trúc đành phải mời Bách và cùng theo anh vào phòng khách. Bà Phán cũng ngồi xuống ghế sa lông và vui vẻ hỏi:

- Hôm nay cậu không đi làm sao?

- Dạ, cháu nghỉ.

- Cậu làm việc mà xem ra rảnh rang quá nhỉ?

- Công việc của cháu có lúc bận bù đầu, có khi lại rất rảnh, coi như người nhàn hạ.

Bà Phán vốn là một giáo viên có tiếng, từ ngày nghỉ hưu vì mất sức bà chỉ loanh quanh trong nhà thỉnh thoảng mới tới thăm những người bạn cũ từ hồi con ở trong rừng. Bà có cuộc sống khép kín và gần như nhìn mọi vấn đề dưới con mắt của một nhà giáo. Bà rất mực yêu chồng, thương con, nhưng so với ông Phán, bà không "đổi mới" cho lắm. Ðiều này cũng dễ hiểu vì ông Phán là một bác sĩ, đã đi nhiều nơi, kể cả nước ngoài, còn bà Phán sống theo khuôn khổ của một gia đình nề nếp. So với chồng, bà Phán như già hơn, mái tóc của bà bạc nhiều và bao năm gian khổ ở chiến trường đã ăn mòn sức khỏe của người phụ nữ vốn không được khỏe mạnh.

- Ngày nghỉ cậu không đi chơi đâu sao?

- Dạ, cháu chỉ loanh quanh trong thành phố. Vả lại muốn đi chơi xa cũng không có bạn. Ði một mình thì buồn chán lắm bác ạ.

Ðây là một câu trả lời không thành thật của Bách. Trúc nhìn anh ta và mỉm cười. Trong khi bà Phán lại có vẻ rất có cảm tình với Bách, không phải lúc sau này, mà từ trước kia, khi anh tới nhà chơi cùng với anh Nghiêm. Ðiều này không khỏi làm cho Trúc nảy ý so sánh, và tự nhiên Trúc cảm thấy buồn phiền trong lòng.

- Hôm nay cậu tới chơi hay có việc gì không?

- Dạ... cháu tới chơi với Trúc.

- Ừ, lúc này Trúc nó cũng ít đi đâu, cứ loanh quanh trong nhà. Nếu cậu tới chơi thì em nó có bạn càng vui. Phải không Trúc?

Câu hỏi bất ngờ của mẹ làm Trúc sững sờ, không biết làm sao khác hơn là gật đầu. Bách có vẻ cao hứng:

- Cháu có thể kèm cho Trúc học thêm nếu Trúc đồng ý và bác cho phép.

- Ðiều này thì tốt quá đi chứ, dạo này Trúc nó học sút và làm bác lo ngại. Năm nay Trúc phải thi tốt nghiệp.

Trúc cắn môi, cô không thể ngờ Bách lại tự tiện đề nghị một việc như vậy, và mẹ cũng thiếu tế nhị khi tỏ ý chấp nhận lời đề nghị của Bách. Dù sao Trúc cũng là một cô gái nhiều tự ái.

- Trúc nghĩ thế nào? - Bách tươi cười hỏi.

- Em thấy là chưa cần thiết ạ. Em còn cố gắng được.

- mẹ thấy việc này rất tốt, có lẽ con nên thu xếp để học thêm. Thôi nhé, hai anh em nói chuyện, mẹ bận tí việc.

Bà Phán cố ý để Bách được tự do nên tế nhị cáo từ. Còn lại hai người trong căn phòng rộng tự nhiên Trúc cảm thấy mất tự chủ trước Bách. Cô phải giả vờ mở nhạc.

- Trúc thích loại nhạc nào? - Bách hỏi.

- Tình cảm.

Bách cười:

- Anh tưởng mấy cô gái trẻ thường thích nhạc giật chứ.

- Cũng tùy.

- Nghe chị Huyền bảo Trúc biết khiêu vũ. Hôm nào anh mời Trúc đi chơi nhé?

- Nếu Trúc rảnh và mẹ cho phép.

- Ồ, anh sẽ trực tiếp xin bác. Chẳng có sao hết.

Trúc tưởng đâu cô từ chối khéo như vậy Bách sẽ hiểu nhưng Bách đã tới nhà vào chiều thứ bẩy và đã xin phép mẹ đưa Trúc đi chơi. Bà Phán đồng ý và có vẻ khích lệ. Cô muốn khóc quá chừng và tự nhiên muốn đập phá cái gì đó cho hả giận. Tuy nhiên cuối cùng rồi cô cũng nhân lời đi chơi với Bách. Có lẽ cô "giận lẫy" mẹ thì đúng hơn.

Lúc đưa Trúc đi lên những bậc thang của khách sạn có mở khiêu vũ, Bách nói giọng tình tứ:

- Ðể tối nay anh xem em nhảy như thế nào.

- Em nhảy dở ẹc.

- Thôi, đừng có xạo cô bé, Huyền đã báo cáo lại với anh hết rồi. Sợ anh "quậy" không lại với em đó thôi.

Buổi tối cuối tuần khiêu vũ trường đông nghẹt. Cũng may Bách tìm được cái bàn trống gần ban công nên không khí tương đối dễ chịu. Trong ánh đèn mờ ảo Trúc nhìn những cặp tình nhân đưa nhau ra sàn nhảy và một bản nhạc tình tứ vang lên. Bách gọi thức uống, một gói thuốc ba số 5.

- Em không uống đựơc bia đâu, anh đổi cho em ly cam tươi tốt hơn.

- Xong ngay.

Bách uống từng ngụm bia, còn Trúc uống từng ngụm nước cam. Trúc thấy đôi mắt Bách sáng lên trong đóm lửa của điếu thuốc cháy. Ðôi mắt đã từng nhìn Trúc trên bãi biển. Trúc rùng mình.

- Tối nay người ta đưa nhau đi nhảy đông quá nhỉ?

Bách nói một cách bâng quơ. Trúc làm thinh ngậm chiếc muỗng nhìn về một góc của sàn nhảy. Trúc thoáng thấy một gương mặt quen thuộc. Và Trúc giật thót mình sững sờ. Có thể như thế được sao? Trong bóng mờ, Trúc nhìn thấy Thường đang nhảy với một cô gái. Thọat đầu Trúc tưởng mình lầm, nhưng khi bản nhạc chấm dứt, Thường đưa cô gái về chỗ ngồi ở chiếc bàn trong góc khiêu vũ trường gần với bàn của Trúc, cô mới biết là mình không lầm. Tự nhiên Trúc run lẩy bẩy như người bị cảm lạnh, mắt cô mờ tối, cảm giác hai giọt nước mắt đang ứa mà không khóc được. Trúc cắn chiếc muỗng. Cắn đến nhói đau hàm răng.

- Anh mời em bản này.

Ðó là một điệu tango tình tứ. Trúc nhả chiếc muỗng ra cho nó rơi vào ly đánh "keng" một tiếng và đứng lên. Bách nắm tay Trúc đưa cô ra sàn nhảy. Bách thì thào:

- Tay em lạnh quá.

- Tự nhiên như vậy đấy.

Thường cũng đưa cô gái ra sàn nhảy. Trong một thoáng sững sờ hai người nhận ra nhau. Mắt Thường tối sầm lại mà mặt anh thì đỏ gay, có lẽ Thường đang say. Còn Trúc bước sai nhịp, dẫm lên Bách và cô gục đầu luôn vào vai Bách. Cô khóc nức nở làm Bách ngạc nhiên. Anh không hiểu sao Trúc lại như thế, và bỏ dở bản nhạc, Bách đưa Trúc về chỗ ngồi.

o0o

Bức địên tín của chú Hiển làm cả nhà hoang mang.

- Anh cho phép Trúc và Phục ra ngay. Trường bị bắt, nhà cần người. Càng sớm càng tốt.

Sau bữa cơm tối ba quyết định cho Trúc và Phục sáng đó đi ngay Vũng Tàu. Bức điện không nói rõ được thực trạng của gia đình chú Hiển, nhưng ba đoán đó là một việc hết sức cần thiết, chú ấy mới đánh điện tín hỏa tốc như thế.

Trúc nói:

- Nhưng con còn đi học, Phục cũng đi học chứ bộ?

- Ba sẽ xin phép cho hai đứa nghỉ một tuần vì việc gia đình. Trúc ra ngoài đó viết thư về cho ba ngay về tình hình của chú Hiển nhé.

Ngồi trên xe đò ra Vũng Tàu, Trúc nhìn ra cảnh vật hai bên đường mà nôn nao với những kỷ niệm của mùa hè đã trôi qua. Lòng Trúc nặng trĩu, vừa hoang mang lo sợ không biết chuyện gì đã xảy đến với Trường, vừa buồn bã khi nhớ tới Thường, có lẽ nào tình cảm ban đầu của hai người chỉ trong một thời gian đã như những vụn cát đã bị sóng cuốn trôi trở lại biển khơi?

- Sao chị có vẻ buồn vậy? - Phục hỏi.

- Lần này đâu phải đi nghỉ hè mà vui? - Trúc đáp.

- "Ông" Trường chắc quậy quá nên bị bắt chứ gì.

- Chị cũng đang lo đây.

- Nhưng chú Hiển và thiếm Loan không lẽ để cho con mình bị bắt sao?

- Thôi, ra ngoài đó sẽ biết. Phục đừng hỏi làm chị rối óc thêm.

Phục cụt hứng, nó làm thinh ngả đầu vào thành ghế nhắm mắt như dỗ giấc ngủ. Bác tài xế mở băng cassette, những bản nhạc Ấn Ðộ thịnh hành vang lên trong xe.

Phục mở choàng mắt và lầu bầu:

- Bác tài mở nhạc ồn ào làm khó ngủ quá.

- Người ta không kêu mà nhỏ kêu. - Trúc nói.

Phục mỉm cười. Và sau đó một lúc hình như Phục chìm vào giấc ngủ, mãi đến khi xe vào tới bến Trúc lay gọi Phục mới tỉnh dậy. Nó dụi mắt và ngơ ngác hỏi:

- Ủa, tới rồi à?

- Tới rồi.

- Mau quá, vậy mà em tưởng còn lâu lắm mới tới.

- Em ngủ say có hay gì đâu.

Hai chị em đón chiếc xe xích lô về nhà chú Hiển. Chỉ có thím Loan ở nhà, thấy Trúc và Phục ra tới, thím Loan mừng rỡ nói:

- May quá, thím định chạy đi công việc đây, nhà đang rối lắm, có Trúc và Phục ra trông nhà giùm mới an tâm được.

- Nhận được điện tín của chú, ba bảo cháu và Phục đi ngay. Cả nhà hoang mang không hiểu chuyện gì mà điện tín thì nói vắn tắt quá.

- Khổ quá đi. Trường nó dính vào một vụ tổ chức vượt biên và đã bị bắt. Chú thím phải chạy lo hết hơi. Nhà lại không có ai.

- Có chuyện đó thật sao thím? - Trúc ngạc nhiên hỏi.

- Thoạt đầu thím cũng không tin, nhưng sự thật lại đúng như vậy mới khổ, con với cái...

- Ðã có hy vọng gì chưa thím?

- Cũng đang lo đây. Khổ nỗi là chú Hiển lại phải vừa đi công tác gấp, mình thím ở nhà mới mệt chứ.

Tối đến thím Loan mới có thì giờ kể lại đầu đuôi câu chuyện về Trường. Thì ra, sau ngày ba chị em Trúc ở Vũng Tàu về lại Sài gòn, chú Hiển và thím Loan bận lo chuyện làm ăn, ít có thì giờ quan tâm tới Trường nên anh ta càng hư đốn, Trường tiếp tục lao vào con đường ăn chơi trác táng với một đám bạn bè xấu, bỏ học và tham gia vào một vụ tổ chức đưa người vượt biên để lấy vàng chia nhau. Một đêm cuối tuần trăng trên bãi biển vắng người, Trường và đồng bọn đã bị dân chài phát hiện việc đưa người vựơt biên nên báo cho công an vây bắt tại trận.

Thím Loan than thở:

- Tại nó là con một nên chú thím nuông chìu thái quá thành ra hư đốn đến thế, thật không còn mặt mũi nào mà nhìn thiên hạ ở xứ Vũng Tàu này nữa.

- Ở trong trại giam, Trường có vẻ hối hận việc mình làm không thím?

- Ai biết nó có hối hận hay không, khi chú thím vào thăm nó vẫn tỉnh khô như không có chuyện gì xảy ra.

Rồi thím Loan lại thở dài. Trúc không ngờ việc của Trường làm lại mang tính chất nghiêm trọng đến thế. Hóa ra lời chị Huyền nói đã trở thành sự thật. Trúc rất tiếc là trong thời gian đó cô không có ở đây, nếu có, chắc chắn Trường sẽ nghe lời khuyên của Trúc mà kịp dừng lại mọi chuyện. Trúc tin là thế, vì thực ra Trường bị ảnh hưởng bởi bạn bè xấu, trong khi đó chú thím lại vắng nhà luôn.. thế mà khi vào dự đám cưới của chị Huyền, Trường vẫn tỉnh bơ, không có biểu hiện gì sa chân vào tội lỗi. Nhìn vẻ mặt khổ sở của thím Loan, Trúc không biết an ủi thím thế nào. Trúc cũng mong cho trời mau sáng để cùng với thím Loan vào thăm Trường ở trại giam. Ðêm đó Trúc phải thức khuya để viết một bức thư dài cho ba kể rõ mọi chuyện. Và báo cho ba biết có thể hai chị em sẽ lưu lại Vũng Tàu coi giùm nhà chú Hiển lâu hơn dự kiến.

Sau khi đi thăm Trường về, thím Loan đi lo ngay công việc. Chỉ còn hai chị em Trúc ở nhà.

- Phục trông nhà, chị đi lại đây một chút nhé? - Trúc cười phát vào vai nhóc Phục nói.

- Ði đâu? A, thôi em biết rồi, chị đi tới nhà anh Thường phải không?

- Ðúng đấy.

- Em sẽ trông nhà với một điều kiện - Phục cười.

- Ðiều kiện gì?

- Chị phải xách về giỏ nhãn.

- Xời, lạc hậu quá Phục ơi, mùa này làm gì có nhãn.

- Ủa, bộ nhãn cũng có mùa nữa sao?

- Nhà "lý sự" thông minh mà chẳng hiểu cái gì cả. - Trúc cười - Nhưng thôi, chị sẽ có quà khách cho Phục, cứ yên chí.

Trúc vào dẫn chiếc xe đạp mini của thím Loan và đạp xe về hướng nhà Thường. Con đường vẫn như xưa, không có gì thay đổi nhưng sao trúc thấy nó lạ lùng như lần đầu tiên cô biết. Có lẽ Thường vẫn còn ở Sài gòn và chắc chắn Thường không ngờ Trúc đang ở đây, sắp sửa tới nhà anh, sắp sửa gặp lại những kỷ niệm còn ngùi ngùi trong thương nhớ.

Chú bé Ngoan đang ngồi vá lưới trong sân, thấy có người vào nhà, Ngoan hất chiếc nón nỉ che tầm mắt để nhìn ra. Ngoan tròn mắt và đứng vụt lên reo to:

- Trời ơi, chị Áo Vàng. Chị ra bao giờ thế?

Trúc dựng xe trong bóng cây và ôm lấy vai Ngoan cười:

- Chị ra hôm qua.

- Vậy mà hôm nay mới tới.

- Chị bận công việc, hôm nay mới rảnh. Ngoan ở nhà một mình à?

- Ba má em đi biển rồi. Anh Thường thì ở trong Sài gòn, em không ở nhà một mình thì ở với ai? - Ngoan cười nói.

- Lâu gặp Ngoan, chú cũng tiếp tục "lý sự" nữa rồi.

- Chị ra ngoài này anh Thường có biết không?

Trúc buồn bã lắc đầu:

- Chị không gặp anh Thường.

- Sao thế? A, em biết rồi, hình như lâu nay chị và anh Thường giận nhau phải không?

- Sao em biết.

- Làm sao mà em không biết. Dễ quá mà. Lần nào về ngoài này thấy anh Thường thở vắn than dài, đi ra vườn nhãn như người mất hồn là em biết ngay thôi.

- Anh Thường có nói gì với em không?

- Không bao giờ, có hỏi anh ấy cũng không nói.

Trúc ngồi xuống chiếc băng ghế dài nhìn quanh ngôi nhà chìm trong bóng nắng. Khu vườn nhãn rì rào gió, mùa nhãn đã hết nên hương thơm cũng tàn lụi trong không gian thinh lặng. Lũ chim bay vào vườn ăn trái chín cũng bay đi... Trúc lặng lẽ thở dài.

- Chị lại thở dài nữa rồi. Sao ai cũng thở dài hết vậy?

- Ngoài này có cái gì vui kể lại chị nghe? - Trúc nói.

- Chẳng có gì vui, xứ biển thì một ngày cũng như mọi ngày. Chuyện chị điên nhảy xuống biển tự tử em đã kể chị nghe hôm trước trong một bức thư rồi.

- Ngoan vẫn đi học chứ?

- Lúc này em học bết lắm chị ơi. Tại anh Thường vào Sài gòn nên ở nhà có một mình em lo, ít có thời gian học bài.

- Chị cũng học hết vô - Trúc cười nói.

- Tại sao thế?

- Buồn.

- Anh Thường về đây cũng kêu buồn. Có hôm về ảnh dẫn em đi uống bia ngoài quán Thùy Vân, cái quán mà chị với anh ấy thường ngồi đó.

- Ngoan mà cũng uống bia à?

- Chứ sao.

Trúc nhại giọng Ngoan làm chú bé phì cười.

- Ngoan tiếp tục công việc đi, chị ra vườn nhãn một chút.

- Mùa này chẳng có gì, buồn tanh.

- Có cây lá chứ sao không? - Trúc cười và đi vào vườn nhãn.

Ngoan không tiếp tục vá lưới, chú bé cũng theo Trúc vào vườn. Vô tình Trúc dừng lại dưới bóng cây nhãn mà ngày nào Thường đã hái những chùm nhãn đầu mùa tặng cô. Tự nhiên Trúc muốn khóc.

- Anh Thường có nói gì về chị không, Ngoan? - Trúc chớp mắt hỏi.

- Anh ấy không nói gì cả, nhưng mà như đã nói thật nhiều.

- Nghĩa là sao?

- Anh ấy cũng ra ngoài vườn nhãn, tới đứng dưới gốc nhãn này, như chị vậy, và thở dài.

- Như thế sao lại nói rất nhiều?

- Vì con người ta khi im lặng là nói rất nhiều.

- Ngoan lại "lý sự" nữa rồi.

- Em hỏi thật, bộ chị và anh Thường giận nhau à?

- Không.

- Như vậy tại sao cả hai lại buồn khủng khiếp vậy?

Trúc ngó Ngoan cười:

- Bộ Ngoan thấy chị buồn "khủng khiếp" lắm sao?

- đúng như vậy đấy.

- Tuần này anh Thường có về nhà không?

- Em cũng không biết nữa, lúc này anh ấy đi về bất thừơng lắm. Giống như "thằng cha" té giếng.

- Sao Ngoan lại nói vậy?

- Chị trúc không biết đâu, trong xóm em có một ông đó hồi nhỏ bị té giếng, được người ta vớt lên kịp, lớn lên ông ta khùng ngơ ngơ ngác ngác như "ông Thừơng" bây giờ vậy.

Trúc cười:

- Ngoan mà nói anh Thường như người bị té giếng thế nào cũng bị anh ấy.. búng lỗ tai đấy.

- Búng lỗ mũi em không sợ, cho anh ấy búng cả ngàn cái cũng không sao.

- Bao giờ mới tới mùa nhãn nữa Ngoan?

- Năm sau.

- Năm sau thì lâu quá nhỉ, biết chị có ra ngoài này nghỉ hè nữa không?

- Sao lại không, trừ khi chị đi lấy chồng. Ừa nhưng mà lấy chồng ngừơi ta lại càng phải đi nghỉ mát, tắm biển hơn. Do đó kết luận rằng, thế nào mùa hè năm sau chị cũng lại ra đây nữa coi.

Trúc mỉm cười trước suy nghĩ ngây ngô của chú bé. Từ chỗ này Trúc cũng có thể nghe được tiếng sóng theo gió vọng tới. Tiếng sóng biển buổi chiều nghe vừa xa xăm vừa gần gũi, giống như một thứ tiếng nói của kỷ niệm nào đó vọng về.

- Mình ra ngoài bãi biển đi

Câu hỏi của chú bé không được trả lời. Bởi lúc đó Trúc đã như người mất hồn, cô nhìn ra mặt biển xanh thẳm, chìm sâu trong sự im lặng và đôi mắt thật buồn

o0o

Trong lúc ngồi uống cà phê sáng. Phục hỏi Trúc :

- Tối qua chị uống bia ở đâu vậy ?

- Sao em biết chị uống bia ? - Trúc cười cười

- Mặt chị đỏ rần. Em vừa mở cổng cho chị vào là biết ngay thôi.

- Thím Loan biết không ?

- Lúc đó thím Loan ngủ mất tiêu rồi.

- Mặt chị đỏ lắm hả ?

- Ðỏ như mặt trời mọc ban đêm.

- Chị uống bia ngoài quán Thuỳ Vân với chú bé Ngoan. Nhưng mà em đừng nói cho ai biết hết nhé ?

- Bộ.. chị... khùng sao, tự nhiên đi uống bia với thằng bé ấy.

- Chị buồn.

- Tại sao chị buồn ?

- Nỗi buồn của người lớn, em còn nhỏ không hiểu được đâu, vì vậy đừng hỏi nữa.

Phục cười, nó "lý sự"?

- Bộ có nỗi buồn người lớn và nỗi buồn tre con nữa sao ?

- Thôi, đừng hỏi chị nữa mà. Thím Loan đi lo công việc rồi phải không ?

- Thím đi từ sáng sớm lận kia. Lúc chị còn ngủ

- Thím có dặn gì chị không ?

- Không, chỉ nói rằng trưa nay thím không về ăn cơm, chị em mình đừng đợi.

Trúc gật đầu, cầm tờ báo đi luôn ra ngoài sân nằm trên ghế xích đu. Vừa lúc đó có tiếng chuông gọi cổng, Trúc nhổm dậy gọi Phục :

- Ra ngoài cổng xem ai đấy PHục ơi.

- Sao chị không mở mà gọi em ? - Phục đi ra ngó Trúc hỏi.

- Thôi mở cổng cho khách đi, đừng có "lý sự " nữa.

Một lúc sau Trúc ngạc nhiên đến tròn mắt khi thấy Phục đi vào với Bách. Trúc không hiểu cô mừng hay lo lắng, ngẩn người giây lâu, Trúc mới hỏi được :

- Ủa, sao anh biết nhà này mà tìm tới ?

- Có gì khó khăn đâu khi người ta đã quyết đi tìm ? - Bách cười nói.

- Nếu anh không biết địa chỉ thì làm sao tìm được ?

- Dĩ nhiên. Trúc biết ai cho địa chỉ không ?

- KHông.

- Mẹ em đấy, hôm qua anh tới chơi nhà, biết được em có việc phải ra Vũng Tàu, anh hỏi bác địa chỉ nhà chú Hiển, bác cho ngay.

- Anh đi chơi à ? - Trúc giả vờ hỏi.

- Di tìm chứ đi chơi nỗi gì. Vũng Tàu có xa lạ gì với anh đâu mà phải bỏ công đi chơi.

- Anh Bách vào nhà uống nước - Trúc mời.

- Em hết trốn anh rồi nhé - Bách vừa theo Trúc vừa cười nói.

- Việc gì mà phải trốn ?

- Lần trước hỏi địa chỉ nhà này em không nói. Hoá ra rồi cũng không giấu được lâu. Bây giờ anh bắt được em ở đây.

- Tuy nhiên anh vẫn là người khách không mời mà tới - Trúc cười.

- Vậy mới ngon.

- Em hỏi thật, anh đi chơi, đi lo việc làm ăn hay có việc gì ?

Bách nhìn thẳng vào mắt Trúc, nói:

- Anh đi tìm em.

- Tìm em ?

- Ðúng như thế.

- Nhưng mà để làm gì ? Em ra ngoài này có công việc nhà chứ không phải rảnh rang đi chơi đâu.

- Anh biết chứ. Và chính vì vậy mà anh ra đây, vì anh nghĩ rằng trong việc này anh có thể giúp em được - Bách cười - Ðúng hơn là có thể giúp gia đình chú Hiển được.

Trúc bối rối hỏi:

- Anh đã biết chuyện gia đình chú Hiển rồi à, ai nói với anh ?

- Mẹ em.

Trúc thầm nhủ "anh ta đã mua chuộc được mẹ mình mất rồi". Và trông Bách, anh ta có vẻ hãnh diện khi nói rằng chính mẹ Trúc đã cho anh ta biết điều đó mà lẽ ra phải giấu. Chứng tỏ anh ta cũng là một người được tin cẩn trong gia đình.

Trúc xẳng giọng :

- Anh giúp bằng cách nào ?

- Anh có quen với một vài nhân vật có quyền lực ở đây, có thể giúp cho Trường ra được.

- Việc đó chú Hiển cũng thừa sức làm, nhưng chú đã không làm.

- Sao chú ấy lại đánh điện tín khẩn cấp vào Sài Gòn và nhờ em ra coi nhà để vợ chồng chú ấy chạy lo ?

- Không phải chú Hiển đánh điện tín đâu, mà là thím Loan mạo danh chú để đánh đấy. Từ khi biết Trường tham gia vào vụ tổ chức vượt biên và bị bắt, chú Hiển giận, bỏ nhà không thèm bước chân về nữa, cũng không thèm chạy lo cho Trường.

Bách cười :

- Như vậy sự giúp đỡ của anh lại càng hữu ích. Có sao đâu ?

Ðúng là không có sao thật, nói một cách nào đó trong trường hợp này sự giúp đỡ của Bách hết sức cần thiết. Mấy ngày đã trôi qua, thím Loan chạy tứ tung nhưng ở đâu cũng hứa nhưng rồi Trường vẫn còn ở trong trại giam. Tội nghiệp thím Loan vì thường con nên không nghe lời chú Hiển, hạnh phúc của thím Loan có thể bị tan vỡ vì chuyện này.

- Ngày mai em đi với anh đưa Trường về. Ðược chứ ?

- Ðể em hỏi lại ý kiến của thím Loan đã.

- Em cứ hỏi. Nhưng anh tin chắc là thím Loan sẽ rất vui vẻ nhận lời.

- Cũng chưa biết.

- Còn tối nay anh mời em đi ăn, ở ngoài này anh biết có một nhà hàng khá lắm.

Trúc phân vân không biết có nên nhận lời mời của Bách không. Ðây không phải là lần đầu tiên. Bách mời Trúc đi ăn, hoặd đi khiêu vũ, nhưng hầu hết những lần Bách mời trước đây đều có vợ chồng chị Huyền, còn hôm nay....

- Em ngại à ? Anh sẽ không để em về khuya đâu, và sẽ đưa em về tận nhà.

Trúc ngẫm nghĩ một lúc rồi nhìn Bách mỉm cười, nói :

- Thôi, em không hứa chắc đâu, tối anh cứ tới nếu không có gì trở ngại thì em nhận lời.

Buổi tối, đúng bảy giờ, Bách tới nhà đón Trúc bằng chiếc Dream 100 bóng lộn. Anh ta rút cho Phục một xấp tiền và cười vỗ vai Phục nói :

- Công "chú" coi nhà. Khi về anh sẽ có quà. Ở nhà một mình có sợ ma không ?

- Chỉ sợ ma sống chứ không sợ ma chết - Phục nói.

- Giỏi

- Nhưng anh cho tiền chi nhiều vậy, định "hối lộ" hả ?

- Ðế Phục mua đồ chơi.

- Xời, làm như tui còn nhỏ tí không bằng. Người ta lớn rồi ông ơi.

- Vậy để rủ bạn đi uống cà phê.

- Nghe còn có lý hơn.

- Thôi, anh và chị Trúc đi nhé.

Bách chở Trúc chạy hết con đường cặp biển rồi quẹo vào một con đường tối om om, vắng tanh. Trúc hỏi :

- Bộ hết đường rồi sao, con đường gì mà tối thấy ghê.

- Ở đây phần lớn đường phố đều tối như vậy cả.

- Chắc anh ra Vũng Tàu thường lắm phải không ?

- Cũng thường, phần lớn là do công tác.

- Chứ không phải đi chơi ?

- Vừa công tác, vừa tranh thủ đi chơi, tội gi em.

- Sao anh không lấy vợ đi anh Bách ? - Trúc cười khúc khích hỏi.

- Cũng sắp lấy rồi.

- Ai thế, nói cho em mừng coi ?

- Bí mật. Nhưng bảo đảm là không xa lạ với em đâu.

- Chà, làm em hồi hộp.

- Khi biết được người đó là ai, em sẽ còn hồi hộp hơn nữa. Không chừng em cũng sẽ đứng tim luôn.

- Coi vậy chứ trái tim em vững vàng lắm, đá ném ào ào cũng không nhằm nhò gì đâu. Anh đừng có lo.

Bách cười, tăng ga cho chiếc xe chạy nhanh hơn. Trúc không quen với lối chạy xe bạt mạng này nên hoảng hồn nói :

- Chạy từ từ thôi anh Bách ơi. Nhanh qúa vậy ?

- Em vịn chặt nghen, coi chừng té đấy.

- Vịn ở đâu bây giờ ?

- Ai biết.

Trúc bấu chặt vào mép yên xe, trong khi Bách vẫn giữa nguyên tốc độ. Con đường có nhiều ổ gà, Bách cũng không tránh, cho nên chiếc xe cứ lao đi, Trúc có cảm tưởng như mình đang ngồi trên những con sóng biển. Trúc mím môi, cố giữ cho khỏi bật lên tiếng kêu hoảng sợ để chứng tỏ cô không sợ, chứ thật ra thì trong bụng run như con thằn lằn bị ngắt đuôi. Hai bên tai Trúc nghe cây lá lào xào, cứ tưởng nếu bị ngã, chắc sẽ khó mà sống được. Mãi đến khi ra một con phố sáng ánh đèn, đường tốt; chiếc xe chạy bình thường. Trúc mới thở phào.

Bách cười :

- Coi Trúc vậy mà cũng gan quá nhỉ ?

- Ðể anh đừng có hù người ta - Trúc giận dỗi nói.

Bách đưa Trúc tới một nhà hàng lớn, có khiêu vũ. Hai người chọn chiếc bàn chỗ khuất, Bách lịch sự kéo ghế mời Trúc ngồi.

- Chúng ta ăn tối nhé ?

- Tuỳ anh.

- Sao lại tuỳ anh ?

- Em sao cũng được, không có ý kiến. Với lại ở đây em không rành. Anh cứ gọi đi. Em thuộc vào loại dễ nuôi, cái gì ăn cũng được hết trừ món lươn.

- Sao thế ?

- Em rất sợ lươn.Hôm nào mà ở nhà mẹ nấu canh chua lươn cho ba ăn là coi như hôm đó em nhịn cơm.

- Rồi em ăn gì ?

- Ăn hủ tiếu

- Trời, nhịn cơm kiểu đó càng ngày càng mập. Người phục vụ tiến lại bàn, Bách trao cho Trúc tấm thực đơn chọn món ăn, nhưng Trúc lắc đầu :

- Ðã bảo tuỳ anh, em nói thật chứ bộ

- Vậy anh gọi cái gì em ăn cái đó nhé.

- Dĩ nhiên là không có cái món mà em ăn không được.

- Yên chí, ở đây không có món lươn đâu.

Bách gọi thức ăn xong quay qua hỏi :

- Uống gì bia nhé. Anh và em uống bia chơi.

- Tuỳ anh.

- Bà Huyền bảo em cũng uống bia cừ lắm.

- Em uống được một lon.

Bách cười, gọi thêm bốn lon bia và trao lại tấm thực đơn cho người phục vụ. Một lúc sau trên bàn đã bày đủ các món ăn Bách gọi. Chủ yếu là cá biển. Cá biển nấu canh chua, cá biển chiên, cá biển kho tộ. Trong lúc BÁch khui bia rót vào ly cho hai người, Trúc cười hỏi:

- Sao anh không gọi cho em món ghẹ luộc

- Cái gì ? - Bách ngạc nhiên trợn mắt.

- Món ghẹ luộc, bộ anh chưa bao giờ ăn món này à ?

- Món ấy ai ăn ở đây.

- Em ăn.

- Nhà hàng chắc không có đâu.

- Sao không, ghệ luộc ăn với muối tiêu chanh. Em vẫn thích ăn món ấy ở nhà.

- À.. anh hiểu rồi.

Dĩ nhiên Bách làm sao hiểu được ý của Trúc. Thật ra Trúc cũng chỉ nảy ra ý ấy khi vào đây thôi, tự nhiên Trúc muốn nhìn mấy con ghẹ để nhớ lại ngày đầu tiên Trường vào Sài Gòn đã mang tới tặng Trúc những con ghẹ đã luộc sẵn.

Bách gọi người phục vụ lại nói yêu cầu của mình. Ông ta lắc đầu cười :

- Ở đây đâu có món ghẹ luộc ?

- Nhưng cô này thích món đó, ông giúp dùm được không ?

- Ðược chứ, mua ngoài chợ thiếu gì ?

- Vậy nhờ ông mua giùm. Một chục ghẹ.

- Ông bà đợi cho hai mươi phúc sẽ có ngay.

Khi người phục vụ quay đi, Bách cười nói :

- Cái nhà hàng này ngạc nhiên vì món ăn đặc biệt của em.

Trúc mỉm cười. Và khi Bách mời cụng ly. Hai người bắt đầu ăn, Bách lịch sự gắp thức ăn bỏ vào chén Trúc và mời Trúc ăn một cách ân cần. Bách luôn miệng nói :

- Ăn đi cô bé ạ

Càng lúc người ta càng kéo nhau ngồi chật những chiếc bàn trống trước giờ chương trình khiêu vũ bắt đầu. KHông khí căn phòng càng trở nên náo nhiệt khi ban nhạc bắt đầu những bản vui nhộn như mời mọi người ra sàn nhảy. Tuy nhiên chỉ có ít cặp hưởng ứng.

- Mời cô bé.

Trúc lại cạng ly với Bách. Cô uống cạn ly bia của mình và cảm thấy gương mặt mình nóng bừng lên, mọi vật xung quanh trở nên bừng sáng, long lanh và như nhảy múa cùng với điệu nhạc. Mới đầu là một tâm trạng buồn bã xâm chiếm Trúc, rồi dần dần tan biến theo từng ly bia. Mới đầu Trúc thấy trong đáy ly gương mặt Thường hiện ra cùng với đôi mắt, nụ cười quen thuộc của anh rồi dần dần gương mặt ấy cũng tan biến, trong ly chỉ còn những viên đá cục trong suốt, sóng sánh với bọt bia trắng, xốp, đầy hấp dẫn. Trúc lại uống, và cảm thấy có một niềm vui, sự hưng phấn đưa cô lên cao dần.

- Mời em bản này.

Ðó là một bản Boston tình tứ mà Bách đã chờ đợi. Anh ta dìu Trúc ra sàn nhảy và nhìn vào đôi mắt long lanh của Trúc, Bách mỉm cười hỏi khẽ :

- Em say à ?

- Không - Trúc lắc đầu.

- Mặt em đỏ, và đẹp lắm.

- Xạo

- Cứ nhìn vào gương xem, hay nhìn vào mắt anh cũng thấy.

Trúc ngượng ngùng đinh giấu mặt mình sau mái tóc, nhưng Bách đã khéo léo hôn phớt qua đôi môi hé mở của Trúc khiến cô giật thót mình. Bách tỉnh bơ dìu Trúc theo điệu nhạc và xiết chặt cô trong vòng tay cứng rắn.

- Em muốn biết người anh sắp cưới là ai không ?

Trúc chớp mắt hỏi :

- Ai thế ?

- Em đấy.

- Là em.

- Sao, ngạc nhiên à, đã bảo khi em nghe anh nói, thế nào em cũng ngạc nhiên mà.

- Ðúng là ngạc nhiên thật. Em còn nhỏ quá, còn đi học

- Năm nay em sẽ thi tốt nghiệp cấp ba, em sẽ vào đại học. Lớn rồi cô bé ơi.

- Em không chịu đâu. Và anh cũng đừng có đùa như thế.

- Anh nói thật, không đùa đâu.

Và Bách cúi xuống mặt Trúc, cô giấu gương mặt của mình sau mái tóc làm Bách cụt hứng.

Trong cơn say lâng lâng, người Trúc như đang đi trên những ngọn sóng biển, cô cảm thấy hơi thở Bách nóng hổi trên mặt mình và hiểu những lời Bách nói không phải là lời đùa cợt. Nhưng Trúc thì sao ? Cô mơ hồ, chơi vơi trong một tâm trạng khó phân biệt. Bản nhạc dứt, Bách dìu Trúc về chỗ ngồi.

Trúc ngã đầu vào thành ghế, mỉm cười :

- Thôi em không uống được nữa đâu.

- Em mệt à ?

- Mệt

- Chương trình khiêu vũ còn kéo dài đến tận khuya.

- Nhưng em không thể đi khuya được. Một chút xúi nữa em phải về, không nên để Phục ở nhà một mình.

- Ðược

Bách uống cạn ly bia của mình, anh khui tiếp một lon bia khác và ngửa cổ uống. Mặt Bách cũng đỏ rần, đôi mắt anh cứ nhìn Trúc một cách lạ lùng

Sau khi nhảy thêm ba bản nhạc nữa Bách mới chịu đưa Trúc về. Ðồng hồ chỉ 10 giờ đêm, Trúc ngồi phía sau xe mà người cứ lâng lâng, mơ màng trong tâm trạng nửa say nửa tỉnh.

- Vịn chặt nhé, không té đấy.

- Ðừng có hù em.

- Nói thật đấy, không tin chút sẽ biết.

Bách tăng tốc độ, Trúc nghe tiếng gió lướt qua tóc mình mát rượi và chiếc xe lao nhanh trên con đường vắng. Mới đầu Trúc vịn vào mép yên xe, nhưng khi chiếc xe trở lại con đường đầy ổ gà lúc nãy Trúc suýt té mấy lần nên bắt buộc phải ôm eo ếch Bách cho khỏi rơi xuống đường.

Phục ra mở cổng, nó ngái ngủ, gương mặt sật sừ. Bách cũng quên mất lời hứa của mình. Anh ta vỗ vai PHục nói :

- Chú vào ngủ đi, để anh đóng cổng cho.

PHục lững thững đi vào nhà. Bách đóng cổng lại và dìu Trúc về phòng. Thím Loan chắc cũng chưa về, nhà vắng tanh. Trúc ngồi ngả đầu vào thành ghế, nói :

- Khuya rồi, anh Bách về đi.

Bách làm thinh, anh ta bật quẹt châm điếu thuốc lá gắn lên môi.

- Trúc mệt lắm à ?

- Không.

Bách rít thuốc, cười :

- Không mệt mà đi không muốn nổi.

- Tại mấy ly bia. Anh ác lắm,bắt em uống bia làm chi ?

- Anh có bắt đâu, chính em uống đấy chứ.

Làm sao mà Trúc nhớ được chính cô tình nguyện uống hay Bách đã nài ép ? Trúc chỉ mơ hồi nhớ lại gương mặt nào đó, gương mặt của Thường, rồi của Bách, cứ lẫn lôn vào nhau như một tấm kiếng có hai mặt xoay hết mặt này tới mặt kia trước mặt mình.

- Anh về đi, khuya rồi, em buồn ngủ qúa.

- Hút hết điếu thuốc anh về.

- Thật nghe, để em đi ngủ.

- Thì em cứ ngủ đi. Anh sẽ ngồi nhìn em ngủ.

- Xí đừng có làm bộ

- Thật mà. Khi nào em ngủ say anh sẽ về.

- Thôi anh về đi, không ở đây được đâu, chút nữa thím Loan sẽ về tới rồi.

Và thay vì Bách về, anh ta bế xốc Trúc lên và mang đặt cô xuống giường.

- Ðừng anh

Trúc đẩy Bách ra khi anh ta cúi xuống mặt cô nhưng hai bàn tay cứng như sắt của Bách đã ghì mặt Trúc thật chặt, không cho Trúc lẫn tránh và đặt lên môi Trúc một chiếc hôn dài bất tận. Trúc giẫy nẫy, cuối cùng thì cô bật khó rấm rức như một đứa trẻ tủi thân. Và Bách không dừng lại, anh ta tham lam, điên cuồng, lợi dụng Trúc đang chơi vơi trong cơn say để chiếm đoạt cô.   Chương kết :Ít có dịp nào mà cả bốn đứa bạn thân đều có mặt đông đủ như vậy. Nhưng chiều nay sự có mặt của bạn bè tại nhà làm cho Trúc khổ tâm vô cùng.

Ðã thế Khánh Huệ lại bô bô cái miệng :

- Tại sao nhỏ lại nghỉ học lâu thế ?

- Mình bận

- Bận gì cũng phải nói cho bạn bè biết chứ. Ðằng này lẳng lặng nghỉ, không nói lời nào. Tưởng đâu nhỏ nghỉ học ở nhà để chuẩn bị lấy chồng rồi.

Hồng Ánh cười :

- Nhỏ lấy chồng thế nào ta cũng phải làm phù dâu. KHông trốn bạn bè được đâu.

- Ta cũng phải có một chân trong đám cưới mới được, cũng không trốn khỏi đâu Thuỷ Trúc ơi.

Trong bốn đứa bạn thân, chỉ có Bích Hồng là thường gặp Thuỷ Trúc hơn cả. Tuy không biết rõ lý do nghỉ học của Trúc, nhưng Bích Hồng đã cảm thấy một việc gì đó đang xảy ra cho bạn. Mấy lần nhờ Bích Hồng xin phép. Trúc đã tạo cho bạn một nỗi nghi ngờ.

Hôm nay Bích Hồng cũng phải nói :

- Không được đâu Trúc ơi, ở trường đã đặt vấn đề rồi đấy. Lần này không ai có thể xin phép cho bạn. Hoặc là Trúc đi học, hoặc là phải có người nhà tới trường. Thế thôi.

- Có lẽ mình đến nước phải nghỉ học luôn thôi.

- Tại sao vậy ? Nhỏ đùa hay nói thật ?- Bích Hồng ngạc nhiên

- Mình buồn lắm

- Buồn đi học cho vui. Ở nhà buồn là đúng rồi - Minh Ánh khuyên

- Lúc này trong lớp nhiều chuyện vui lắm. Thiếu Trúc gia đình "năm mái nhà ngói " mất một cây cột chống đỡ, làm sao mà chống chói với nhóm khác - Khánh Huệ nói

- Quán chè mất một mối quen, dì Tư cũng buồn thúi ruột.

Bích Hồng vuốt tóc Trúc cười :

- Ở nhà tóc dài ra mất tấc rồi, mai đi học cho bọn con trai no ngắm.

- Chút nữa Bích Hồng ở lại với mình nhé - Trúc dặn nhỏ

- Có chuyện gì à ?

- Mình muốn tâm sự với nhỏ. Buồn lắm.

- Ừa, thấy mặt nhỏ ta cũng biết có chuyện gì buồn bã lắm.

Hôm nay có ba mẹ ở nhà nên Trúc rất sợ bị phát hiện ra việc Trúc nghỉ học. Do đó, Trúc mời khéo bốn nhỏ bạn thân ra ngồi dưới gốc cây khế. Vừa ngồi xuống, Khánh Huệ là người đầu tiên nhìn Trúc với ánh mắt ngạc nhiên, rồi hỏi :

- Lúc này Trúc mập ra đấy, và có vẻ gì khác lạ lắm.

Trúc giật thót người. Hồng Ánh ngắm nhìn Trúc một hồi lâu rồi cũng gật gù :

- Ðúng đấy, ta cũng thấy như thế

- Mập thì rõ ràng rồi, nhưng gương mặt lại xanh.

- Tại Trúc ở trong phòng miết, chẳng đi ra ngoài nên da trắng ra đấy.

- Trắng khác, xanh khác nhỏ ơi - Minh Ánh kêu lên. Khánh Huệ bỗng nói :

- Thông báo cho nhỏ một cái tin quan trọng, ngày mai có thể cô giáo chủ nhiệm và bí thư trường sẽ tới nhà gặp ba mẹ Trúc đấy.

- Thật không ?- Trúc hốt hoảng hỏi

- Không lẽ ta đi hù nhỏ à ?

- Chết rồi, làm sao đây ?- Trúc kêu lên hoảng hốt

- Ủa, chứ Trúc nghỉ học ở nhà không biết sao.

- Không.

- Thế thì chết thật. Rồi những ngày nghỉ học Trúc đi đâu ?

- Tới nhà bà chị ở suốt buổi. Ðến giờ thì về.

- Bà chị không nói với ba mẹ Trúc à ?

- Không, vì mình đã dặn rồi.

- Thôi thế thì chết thật đấy - Hồng Ánh lo ngại nói.

- Trúc gan thiệt - Minh Ánh kêu lên

- Ừa, gan quá trời. Ta không dám liều lĩnh thế đâu. Dù gì cũng phải lo ở nhà biết chứ.

Bích Hồng dè dặt bên vực bạn :

- Dĩ nhiên là phải có lý do gì đó Thuỷ Trúc mới giấu gia đình chứ.

- Bây giờ chuyện sắp đổ bể tùm lum làm sao mà giấu được nữa.

- Mấy nhỏ cứ làm rối lên thêm - Bích Hồng trách.

- Chứ còn biết làm sao bây giờ ?

- Từ từ tính

- Nhỏ nói ngon quá ta, ngày mai ở trường tới đây đây mà bảo từ từ tính - Minh Ánh nói.

- Thế thì giúp được gì cho Thuỷ Trúc, Minh Ánh hiến kế đi ? - Bích Hồng nói.

- Ta đâu biết kế gì, nhỏ lãng òm.

- Vậy thì nhỏ im đi, đừng làm Trúc rối lên nữa.

Trúc thầm cám ơn Bích Hồng đã hiểu ý mình. Quả thật từ lúc bốn nhỏ bạn kéo tới nhà. Trúc đã lo lắng bồn chồn không yên. Cô như ngồi trên lửa và không biết phải giải thích làm sao cho bốn nhỏ bạn hiểu được hoàn cảnh của mình. Bây giờ chuyện không khéo sẽ sinh ra cãi nhau.

- Thôi được rồi, tới thăm Trúc cho biết tình hình vậy thôi, tụii này về.

Khánh Huệ ngó Trúc nói. Hồng Ánh và Minh Ánh cũng đứng lên. Ba nhỏ cứ nhìn Trúc chằm chằm, Trúc lãng tránh những đôi mắt như dò xét ấy và tiễn ba nhỏ bạn ra cổng.

- Dù sao Trúc cũng phải tới trường. Ở nhà là nguy hiểm lắm - Hồng Ánh dặn.

- Ðể mình tính.

Trúc buồn bã quay vào buông người xuống chiếc ghế xích đu như một người mất hồn. Bích Hồng cầm bàn tay nhỏ nhắn của Trúc bóp nhẹ và an ủi bạn.

- Có chuyện gì buồn lắm sao mà coi Trúc giống như một kẻ mất trí vậy ?

- Ðúng đấy. Cả tháng qua mình gần như mất trí đau khổ tột cùng mà phải ráng cắn răng chịu đựng.

- Tại sao ?

- Bích Hồng không hiểu nổi đâu.

- Dĩ nhiên nhỏ không nói thì ta làm sao mà biết được.

- Mình cũng không thể nói.

- Sao lại không thể nói, mình là bạn thân, có gì Trúc cứ nói, đừng ngại. Mình không như mấy nhỏ kia cái mồm lanh chanh, tía lia mà chẳng hiểu gì hết đâu.

- Chuyện vô cùng quan trọng mà không làm sao nói được

- Xời, chuyện sập trời cũng phải nói chứ.

Hai giọt nước mắt lăn dài trên gò má Trúc, cô khóc ngon lành và giấu mặt mình sau mái tóc. Bích Hồng hoảng hồn lay bạn :

- Sao Trúc khóc, có gì nói cho mình nghe chứ.

Trúc lắc đầu, Bích Hồng thở ra một hơi dài, nhìn bạn đầy thương cảm.

- Chuyện của Trúc và Thường à ? - Một lúc Bích Hồng hỏi

- Không. Lâu rồi mình không gặp anh ấy.

- Như thế thì có gì phải khóc ?

- Nhỏ đừng hỏi nữa. Bây giờ phải làm sao đây ?

- Làm sao là làm thế nào ? - Bích Hồng bực mình.

- Nếu Bích Hồng cũng giống như mấy nhỏ kia thì hãy về đi, để Trúc yên thân.

Bích Hồng bóp nhẹ bàn tay Trúc cười :

- Chơi với nhau thân thiết như "người yêu" ai bỏ Trúc trong hoàn cảnh này

- Cớ sao Bích Hồng có vẻ bực mình, gắt gỏng ?

- Thôi, không gắt gỏng nữa.

- Vậy thử bảo mình phải làm gì đây ?

- Hay là mình và Trúc tới nhà con nhỏ bí thư Ðoàn và cô chủ nhiệm giải thích ?

- Ðã bảo không thể giải thích được cho bất cứ một người nào khác.

- Vậy thì biết làm sao bây giờ ? - Bích Hồng nhăn mặt nói.

- Chắc mình không sống nổi đâu - Trúc nức nở

- Ðừng có nói tầm bậy.

Trúc bỗng nói :

- Lâu nay Bích Hồng có gặp Thường không ?

- Không

- Chắc là Thường giận mình lắm. Nếu có dịp nào gặp Thường, Bích Hồng nhắn giùm một lời, nói mình xin lỗi anh ấy.

- Nhỏ làm gì mà như trăn trối thế ?

- Bích Hồng không biết được đâu.

- Tức quá, chuyện gì thì cứ nói cho Bích Hồng biết đi chứ, ở đó cứ khóc, cứ than thở mãi vậy ?

- Thôi, Bích Hồng về đi.

Trúc lại úp mặt trong mái tóc khóc vùi. Quả thật Bích Hồng không thể hiểu nổi chuyện gì đã xảy ra với bạn. Cô đứng lên đi vòng quanh trong sân, thử chắp nối lại những suy nghĩ của mình nhưng cuối cùng Bích Hồng cũng chịu thua. Vừa lúc ấy nhóc Phục từ trên lầu ló mặt ra nhăn răng cười với Bích Hồng. Lập tức, Bích Hồng ngoắn nó xuống.

- Ở nhà đang có chuyện gì vậy ? - Bích Hồng kéo Phục về một góc sân hỏi

- Chuyện gì đâu ?

- Chuyện có liên quan tới chị Trúc đấy - Bích Hồng bắt nọn

- Chẳng có chuyện gì hết.

- Cớ sao chị Trúc buồn ?

- Ối, dạo này bà ấy "mát".

- Hỏi chuyện, Phục cũng như không.

- Chứ ai biết chuyện gì đâu mà nói.

- Cách đây hơn tháng, Trúc ra Vũng Tàu giải quyết chuyện gì đấy ?

- Chuyện nhà.

- Chuyện nhà là chuyện gì mới được chứ ?

- Chuyện gia đình chú Hiển ấy mà, chị không cần biết bởi vì nó không có liên quan gì tới chị đâu.

- Vô duyên, chị hỏi là sợ có liên quan gì tới Trúc thôi.

- Nhưng bảo đảm là không có liên quan gì tới chị Trúc đâu. Hồi đó chị Trúc và Phục ra ngoài ấy coi giùm nhà cho chú Hiển, vậy thôi.

- Hồi ấy chị Trúc có gặp lại anh Thường không ?

- Chắc là không

- Phục nhớ kỹ lại nha, trả lời cho chính xác. Chị phải "điều tra" cho ra chuyện quan trọng này. Nhớ kỹ đi chú bé.

Phục nhìn Bích Hồng cười :

- Bộ chị tính tập sự làm... công an sao mà điều tra

- Ừa

- Ối dào, chị mà làm công an tui... cùi liền.

- Thôi, nói đùa chứ PHục nhớ kỹ lại đi. Trong thời gian ở Vũng Tàu có ai tới nhà chú Hiển tìm Trúc không ?

- Có

- Ai vậy ?

- Thằng cha Bách chứ ai ?

- Bách nào ?

- Bách bạn của Nghiêm, chồng chị Huyền, người chụp hình chung với chị trong đám cưới ấy mà.

- Ờ.. ờ... chị nhớ ra thằng cha ấy rồi.

- Hình như ông ấy mết chị lắm đấy.

- Ðồ quỷ

Phục bỏ chạy vào nhà, tiếng cười nó ròn tan như trêu chọc Bích Hồng thêm, Bích Hồng đi về chỗ Trúc nằm, tự nhiên cô cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ cho bạn. Bích Hồng lay mạnh vai Trúc hỏi :

- Nói thật đi, có phải thằng cha Bách đã làm cho Trúc buồn phải không ?

Trúc giật thót người, đôi mắt đỏ heo mở lớn, đầy vẻ hoảng hốt :

- Bách nào ?

- Ðừng có giả vờ nữa cô bé ơi, còn Bách nào nữa cái thằng cha kỹ sư xây dựng gì đấy đã nhào vô chụp chung hình với tụi mình trong đám cưới của bà Huyền ấy. Hồi nhỏ ra Vũng Tàu thằng cha đó đã mò ra tới nơi phải không ?

Trúc ấp úng :

- Nhưng mà...

- Nhưng với không nhị gì, có không thì Trúc cứ bảo chứ đừng giả vờ nữa.

- Ừa.. có.

- Thôi chết rồi - Bích Hồng kêu lên

- Nhưng không phải lỗi ở Trúc đâu, anh ta tự tìm ra nhà chú Hiển chứ Trúc đâu có cho địa chỉ.

- Thế ông Bách đã làm gì khiến Trúc phải khổ sở như vậy ?

Trúc nhìn Bích Hồng, tiếng khóc của cô vỡ ra. Chưa bao giờ Bích Hồng cảm thấy thương bạn đến thế, mỗi tiếng khóc của Trúc như một mũi kim nhọn đâm vào trái tim cô. Bình thường Thủy Trúc là một cô gái cứng rắn, giỏi chịu đựng, nhưng không ngờ hôm nay Thủy Trúc mềm yếu đến thế, như vậy tức là phải có một vận đề nào đó làm cho Thuỷ Trúc đau khổ đến tột cùng mới dẫn Thuỷ Trúc đến tâm trạng như thế này.

Bích Hồng gần như sắp khóc theo bạn, cô nhỏ nhẹ hỏi :

- Có chuyện gì Trúc cứ nói đi. Hãy tin ở Bích Hồng. Không nên dè dặt nữa.

- Mình khổ quá...

- Ðã bảo cứ nói đi, cứ than khổ hoài, làm sao Bích Hồng biết được.

- Tại Bách tất cả. Mình căm thù anh ta cột cùng.

- Nhưng mà có chuyện gì ?

- Mình... mình.. Trúc nghẹn ngào không nói được hết câu.

- Bình tĩnh đi Thủy Trúc , cứ nói, không sao cả...

- Mình...có thai rồi.

Bích Hồng sửng sốt, tưởng đâu mình nghe lầm. Cô ngồi nín lặng một hồi lâu như để kiểm chứng lại lời nói của Trúc. Và cuối cùng, Bích Hồng tin là mình nghe không lầm. Cô chết lặng giữa tiếng khóc của cô bạn gái đáng thương. Sự thật xảy ra như vậy sao ? Bích Hồng nhìn thẳng vào đôi mắt đỏ hoe của Trúc, gương mặt tối sầm lại qua màn nước mắt. Bích Hồng thẩn thờ hỏi :

- Bao giờ ?

- Cả tháng nay rồi. Ðó là lý do mình bỏ học. Mình không thể tới lớp được, mình cũng không muốn sống.

- Chuyện này không thế giấu bác được. Nếu Trúc sợ không dám nói, Bích Hồng sẽ nói hộ cho.

- Không, không được đâu...

- Tại sao lại không được ?

- Mình không muốn ba mẹ mình phải buồn khổ.

- Thà biết trước để tìm cách giải quyết, còn hơn để mọi chuyện qúa muộn. Tại sao Trúc... ngu thế ?

- Trúc sợ lắm.

- Ngốc quá. Trúc ngốc chưa từng thấy. Rồi thằng cha Bách trời đánh đó biết chưa ?

- Chưa

-Lâu nay hắn có tới đây gặp Trúc không

- Có tới vài lần nhưng Trúc lánh mặt. Mình căm thù anh ta thấu xương. - Cả nhóm sẽ tìm gặp anh ta để "hỏi tội". Ðồ khốn nạn

- Không nên đâu... đừng cho anh ta biết.

- Cái gì Trúc cũng sợ hết thì giải quyết được gì. Nín khóc và chờ ở đây.

Bích Hồng đi vào nhà, nhưng vừa tới phòng khách Bích Hồng dừng lại, cô không hiểu khi ba mẹ Trúc biết được việc này thì câu chuyện sẽ diễn biến ra sao. Có nên nói không ?

- Gì thế Bích Hồng ?

Ba mẹ Trúc đang đánh cờ tướng trong phòng khách chợt nhìn thấy Bích Hồng lấp ló ngoài cửa, ông PHán đã lên tiếng hỏi.

- Dạ..

- Thuỷ Trúc đâu rồi ?

- Trúc ở ngoài vườn đó bác.

- Sao cháu không ở ngoài đó chơi với Trúc ?

- Dạ.. Bích Hồng ngập ngừng.

- Vào đây.

Ba Trúc vẫy tay gọi, Bích Hồng không còn cách nào khác phải đi vào. Bích Hồng ngồi xuống chiếc ghế đối diện với ông, ván cờ đang hồi gay cấn. Bích Hồng không giỏi chơi cờ tướng, nhưng cũng biết sơ qua các nước đi. Ông Phán cười :

- Bác của cháu sắp thua rồi. Có cách nào gỡ thế bí giùm bác gái không ?

Bà Phán ngẩng lên, háy mắt :

- Chưa chắc.

Bích Hồng định lui ra, nhưng ông Phán đã giữ tay cô lại ôn tồn hỏi :

- Sao, có cái gì cần nói với bác không, sao lại rụt rè thế cô bé ?

Bích Hồng cắn môi, cô nhìn ba mẹ Thuỷ Trúc bằng cặp mắt dè dặt, rồi cuối cùng cô quyết định nói sự thật.

- Thưa bác, cháu muốn một việc quan trọng có liên quan tới Thuỷ Trúc o0o

Bà Phán sốt ruột nhìn đồng hồ, bà hết ngồi lại đứng, mắt cứ dán chặt vào cánh cửa phòng hồi sức. Trúc được đưa vào đây hơn một tiếng đồng hồ để cấp cứu. Chưa bao giờ bà Phán thấy thời gian trôi quá chậm chạp như lúc này.

Trong khi đó ông Phán ngồi ở một góc hành lang, ông như người mất hồn với nỗi đau đớn không lường trước được. Ông không biết nên giận vợ hay giận mình. Rất tiếc ông không khóc được trong trường hợp này, nếu khóc được, chắc nỗi đau sẽ vơi bớt đi ít nhiều. Khi Phục phát hiện ra việc Trúc tự tử, ông chỉ kịp quyết định chở Trúc tới một bệnh viện khác, chứ không phải là bệnh viện nơi ông đang công tác. Ông vừa xấu hổ vừa bàng hoàng, vừa điên cuồng giận dữ. Khi người bạn của ông, một bác sĩ thân thiết đẩy ông vào phòng riêng, trao cho ông ly nước lọc và ép ông uống bằng hết, và khi ông buông người xuống chiếc ghế rộng của bạn, ông mới tìm lại được sự bình tĩnh cần có. Người bạn bác sĩ ấy đã hiểu nỗi đau của ông, anh không nói một lời nào, chỉ đóng sập cửa phòng lại gấp rút theo cô y tá tới phòng hồi sức để trực tiếp cấp cứu cho con gái của bạn mình. Lẽ ra ông Phán nên nghe lời bạn, ở yên trong phòng, nhưng vì qúa nóng ruột ông ra ngoài hành lang ngồi đợi. Và kể từ lúc bước chân vào bệnh viện ông Phán không nói một lời nào với vợ.

Cánh cửa phòng hồi sức bỗng hé mở, người bạn bác sĩ bước ra. Bà Phán như lao tới bác sĩ với ánh mắt trông chờ.

- Chị yên tâm, cháu đã tỉnh.

- Sao lâu thế anh ? - Bà Phán lo lắng hỏi.

- Chúng tôi rửa ruột cho cháu xong còn phải cấp cứu cháu vì cái thai non ngày bị hư do cháu quá kích động và sức khoẻ suy sụp.

Bà Phán lặng lẽ thở dài. Bà không dám nhìn chồng, chỉ len lén đưa ánh mắt dè dặt về phía ông khi hai người bạn bắt tay nhau với sự cảm thông.

- Cám ơn anh đã tận tình. Tôi thật khổ tâm... Ông Phán lúng túng nói.

- Cháu khoẻ rồi, nhưng có lẽ anh chị đừng nên vào thì hơn. Hãy để vài ngày nữa cho cháu lấy lại quân bình. Ngoài việc suy sụp về sức khoẻ, tinh thần cháu cũng suy sụp nặng sau cú sốc này.

- Tôi nghe anh - Ông Phán buồn bã nói.

- Anh vào phòng tôi uống nước.

- Thôi, có lẽ tôi phải về. Mong anh lưu ý cháu nhiều hơn.

- Vâng, anh cứ yên tâm. Có gì tôi sẽ gọi điện thoại tới bệnh viện báo cho anh biết.

Ông Phán không nhìn vợ, cũng chẳng nói một lời, chỉ lẳng lặng quay đi. Bà Phán biết ông rất giận mình nên cũng không dám nói gì.

- Chúng tôi rất xấu hổ vì chuyện này, chắc anh cũng hiểu chồng tôi giận tôi đến mức nào - Bà Phán lúng túng nói.

- Chị cứ yên tâm, tôi rất hiểu hoàn cảnh của anh chị. Việc anh ấy đưa cháu đến đây là hợp lý, sẽ không ai biết được chuyện không may xảy ra cho gia đình anh chị đâu.

- Tôi biết phải làm sao bây giờ, anh ?

Bà Phán khóc rấm rức.

- Chị cứ về nhà nghĩ, ít hôm nữa hãy vào thăm cháu. Nếu cần thiết, chị có thể nhờ một cô bạn nào đó của cháu tới đây, chứ chị đừng nên gặp cháu vội. Ðây là vấn đề tâm lý...

- Tôi hiểu

Bà Phán đón xích lô ra về. Vừa tới nhà, bà gọi Phục hỏi:

- Con biết nhà chị Bích Hồng không ?

- Biết

- Lấy xe đi mời chị Bích Hồng tới ngay, mẹ có việc nhờ chị ấy

- Chị Trúc ra sao rồi hả mẹ ? - Phục nhìn mẹ với vẻ lo lắng.

- Không sao đâu, chị Trúc đã tỉnh.

- Có nên nói cho chị Bích Hồng biết không ?

- Ðừng có lẻo mép, cứ mời chị Bích Hồng tới và đừng nói lôi thôi vì cả.

Phục đi và về khoảng nửa giờ thì Bích Hồng tới. Bà Phán gọi Bích Hồng vào phòng khách.

- Thưa bác, có chuyện gì thế ạ ? - Bích Hồng dè dặt hỏi :

- Bác thật khổ tâm, Trúc nó tự tử phải đưa vào bệnh viện cấp cứu. May còn kịp, bây giờ đã tỉnh. Chiều nay bác nhờ cháu vào bệnh thăm Trúc. Ðược chứ ?

Sau mấy giây bàng hoàng, Bích Hồng gật đầu nói :

- Vâng, cháu sẵn sàng. Thật cháu không ngờ Trúc lại liều lĩnh như vậy.

- Trúc nó bị hư thai - Bà Phán ấp úng - Thôi như vậy cũng xong.

- Thưa bác, Bách đã biết chuyện này chưa ạ ?

- Chưa và cũng đừng cho hắn biết. Bác thật không ngờ nó tệ như vậy. Rồi bác sẽ gặp nó để nói chuyện. Cũng tại bác cả mà thôi. Bác tin nó là bạn của chồng con Huyền phải là người đứng đắn, ai ngờ...

- Thật là khổ.

- Trúc nó dại quá.

- Bác không nên trách Trúc, nó không ngờ sự thể xảy ra đến như vậy đâu.

- Tai hoạ này làm bác ân hận suốt đời. Mấy ngày nay bác trai không nói với bác nửa lời. Ông ấy ở luông trong bệnh viện không về nhà. Nếu có ông ấy ở nhà, chắc Trúc cũng không đến nỗi tự tử.

- Mọi chuyện rồi cũng qua bác ạ.

- Bác sẽ chuẩn bị những thứ cần dùng cho Trúc, chiều cháu ghé lại đây rồi hãy vào bệnh viện nhé ?

- Vâng.

- À.. lâu này cháu có gặp cậu Thường không ?

Bích Hồng lắc đầu. Bà Phán đăm chiêu nhìn qua cửa sổ rồi thở dài.

Buổi chiều Bích Hồng tới bệnh viện trong cơn mưa nhẹ. Trúc đã được đưa về phòng bệnh nhân và đang thiếp trong giấc ngủ. Nhưng khi Bích Hồng tới bên giường, nghe tiếng động Trúc mở mắt ra nhìn.

- Trúc khỏe chưa - Bích Hồng cầm tay bạn hỏi.

Trúc khẽ gật đầu. Bày mấy thứ đồ dùng ra bàn Bích Hồng bỗng nghe mưa rơi mạnh bên ngoài. Trúc hỏi :

- Mưa à ?

- Lúc nãy Bích Hồng tới trời cũng đã mưa, nhưng không lớn lắm, bây giờ lại là một cơn mưa lớn qúa chừng.

- Bây giờ mà được đi ra ngoài mưa thì thú vị biết bao

- Nhỏ bệnh mà đi đâu được ?

- Tại sao Bích Hồng biết mình nằm ở đây mà vào thăm ?

- PHục tới cho hay.

- Chút xíu nữa thì Bích Hồng không còn thấy mình nữa rồi. Chết lúc này sướng nhỉ ?

- Ðừng có nói nhảm nữa, Trúc uống sữa không mình pha cho.

- Không đói đâu.

Bích Hồng muốn trêu Trúc cho con nhỏ phát cười lên cho không khí căn phòng bớt ảm đạm, nhưng không biết nói gì bây giờ. Bình thường nếu gặp nhau, thế nào cũng phải trêu nhau vài câu. Nhưng trong hoàn cảnh này Bích Hồng thấy ái ngại.

- Không biết bao giờ Trúc được xuất viện nhỉ ?

- Bao giờ bác sĩ cho phép.

- Nằm đây buồn quá. Gặp những cơn mưa như thế này lại càng buồn hơn.

- Vì thế Trúc phải nghĩ đến một chuyện gì đó cho vui vẻ.

- Làm sao mà nghĩ được. Những gì mà Trúc nghĩ tới đều là chuyện buồn.

- Ðể ngày mai Bích Hồng sẽ mang cho Trúc quyển "Những người thích đùa". Bảo đảm đọc xong Trúc sẽ mau lành bệnh cho coi.

- Bây giờ là mấy giờ rồi, nhỏ ?

- Hơn năm giờ.

- Sao trời tối qúa nhỉ ?

- Tại mưa

- Sao người ta chưa bật đèn ?

Bích Hồng nhìn quanh, thấy công tắc ở góc phòng vội tới bật lên. Ngọn đèn tỏa ánh sáng trắng xanh lên gương mặt của Trúc, khiến cô như một người nào khác.

- Mỗi ngày Bích Hồng đều phải tới đây với mình nhé ?

- Dĩ nhiên rồi.

- Và nhớ mang sách vào cho mình đọc. Ðừng quên.

- Quên sao được mà quên.

- Bây giờ ta chỉ còn mỗi mình nhỏ thôi.

Bình thường hai đứa vẫn gọi nhau theo cách đó, nhưng hôm nay nghe Trúc xưng hô như thế Bích Hồng thấy thương bạn vô cùng. Ta và nhỏ, tưởng không còn cách gọi nào chân tình hơn, cảm động hơn.

- Mấy hôm nay nhỏ có gặp Thường không ?

- Không

- Sao Thường biến mất tăm vậy nhỉ ?

- Làm sao mình biết được. Hình như Trúc cũng không còn muốn gặp Thường nữa mà ?

- Trước đây thì như thế đấy, còn bây giờ thì muốn gặp Thường biết bao nhiêu.

- Ðể làm gì ?

- Cũng chẳng biết nữa, nhưng mình cảm thấy cần thiết phải gặp Thường.

Bích Hồng nhìn đôi mắt trũng sâu, mệt mỏi của Trúc như muốn tìm ở đấy một lời giải đáp.

- Bích Hồng nhìn gì thế ? - Trúc hỏi.

- Thật là khó hiểu. Hình như trong tâm hồn Trúc đầy sự mâu thuẫn.

- Bích Hồng tưởng như vậy ư ?

- Chứ còn sao nữa, khi thì lẫn tránh nhau như mèo vờn chuột, khi thì tha thiết muốn gặp. Ai mà biết cho được lòng Trúc nghĩ thế nào.

Trúc nhắm mắt lại, trên đôi môi xanh tái của Trúc hình như khẽ động đậy thành một nụ cười.

o0o

Thường dừng lại trước một quầy bán hoa ở đường Nguyễn Huệ. Bích Hồng ngạc nhiên hỏi :

- Trời đất, dừng lại ở đây làm gì vậy ông ?

- Có chuyện

- Anh quen với cô bán hoa nào ở đây à ?

- Quen

- Vậy thì cứ nói chuyện đã đời đi, tui chờ.

- Không, Bích Hồng cũng phải góp ý chứ. Vì đây là chuyện quan trọng.

- Quan trọng của ông mà tui góp ý làm gì ?

- Quan trọng mới nhờ Bích Hồng chứ, không quan trọng đã chẳng nhờ.

Bích Hồng nhăn mặt

- Gần hết giờ vào bệnh viện rồi ôi ơi, làm gì thì nhanh lên. Hay ông ở đây nói chuyện với người ta, tui vào bệnh viện thăm Trúc một mình.

- Bích Hồng làm khó qúa vậy ? Người ta nhờ góp ý coi mua hoa gì tặng cho Trúc cho có ý nghĩa đấy chứ.

- Lại còn bày đặt - Bích Hồng trề môi.

- Bạn bè không thông cảm còn còn chê bai nhau làm chi ?

Thường ngó Bích Hồng gãi gãi đầu và nhìn vào quầy bán hoa. Mắt anh dừng lại trước một loại hoa nào đó rồi vội lướt nhanh sang một loại hoa khác. Bích Hồng mỉm cười trước vẻ lúng túng của Thường.

Cô bán hoe trêu chọc :

- Anh muốn mua hoa gì mà chọn lựa kỹ thế ?

- Tặng người bệnh thì mua hoa gì, cô ?- Thường lúng túng hỏi

- Hoa vạn thọ

- Sau lại hoa vạn thọ ?

- Ðể chúc cho người bệnh mau khỏi bệnh và sống lâu ngàn năm ngàn tuổi.

- Còn tặng bạn bè ?

- Bạn trai hay bạn gái ?

- Bạn gái.

- Mua bông mười giờ Thái Lan đi, thứ này rẻ, vài trăm bạc có được một chậu đủ thứ hoa vàng, trắng, đỏ, hồng... nói lên tình bạn muôn màu muôn vẻ.

- Bông Cẩm Chướng được không ? Hoa mười giờ xấu lắm.

- Ðược

- Còn tặng người yêu ?

- Cái ông này... lộn xộn.

- Lộn xộn sao được tôi muốn mua một thứ hoa gì mang được tất cả ý nghĩa của người bệnh, tình bạn và tình yêu. Bởi thế tôi mới lựa kỹ.

- Thôi ông mua hoa nylon đi

Cô bán hoa cười khúc khích. Bích Hồng sốt ruột vì sắp hết giờ phải vào bệnh viện, lại giận Thường bày vẻ mà cù lần qúa đổi. Cô gắt lên :

- Mua hoa hồng đi ông Thường ơi.

- Hồng gì, có nhiều thứ hồng qúa.

- Hồng nhung, màu đỏ thẩm. Thôi mua nhanh lên

Thường mỉm cười nói với cô bán hoa :

- Cho một chục bông hồng nhung màu đỏ, gói sao thật đẹp giùm cô ơi. Thường nhận bó hoa từ tay cô bán hoa có nước da trắng như trứng gà bốc và trả tiền. Anh mang hoa tới dúi vào tay Bích Hồng :

- Nhờ Bích Hồng cầm giùm. Hoa đẹp lắm đấy, Trúc vẫn thích hoa hồng. - Biết vậy sao lúc nãy sao không mua ngay mà đợi người ta nhắc tuồng ?

- Tại quýnh qúa nên quên đầu quên đuôi

- Xì

Bị Bích Hồng "xì" cho một tiếng, Thường lúng túng ngượng ngùng lên xe phóng đi như sợ ai nhìn thấy.

- Chạy chậm thôi ông ơi, một người đang nằm nhà thương được rồi, tui không muốn phải đi nuôi một người thứ hai đâu đó.

Nhưng mặc cho Bích Hồng cảnh cáo bằng đủ lời lẻ, Thường vẫn phóng xe như bay giữa đường phố. Kể từ lúc Bích Hồng ghé nhà báo cho biết Trúc đang nằm bệnh viện và kể hết hoàn cảnh của Trúc, Thường cảm thấy như lửa đốt trong lòng. Anh giục Bích Hồng tới ngay bệnh viện sau cơn mưa.

- Trong những ngày vừa qua anh biết đi đâu vậy ?- Bích Hồng hỏi

- Tôi vẫn ở trong thành phố này, rất tiếc tôi không thể hoá ra con ve mùa hẹ chui xuống đất. Và nếu biến được, chắc tôi cũng biến mất tăm hơi rồi.

- Anh biết mặt thằng cha Bách không ?

- Biết chứ

- Trong trường hợp nào vậy ?

- Gặp một vài lần khi Trúc đi chơi với hắn.

- Lúc ấy anh làm gì ?

- Tôi như muốn khùng

- Và rồi anh tìm cách lánh mặt Trúc với một sự căm thù, bất lực à ?

- Căm thù Trúc thì không, còn làm gì trong trường hợp này ư ? Ðúng là tôi chẳng biết làm sao được. Những ngày đó tôi sống quay quắt như một kẻ đau tim nặng, tôi nằm lỳ trên căn gác đầy bụi.

- Ôi dào, thơ mộng qúa trời

- Bích Hồng còn chế nhạo tôi làm gì ?

- Tôi không chế nhạo anh, nhưng quả thật anh đánh trách vô cùng.

- Tôi mà đáng trách ư ?

- Chẳng lẽ anh đáng thương trong chuyện này, dù rằng anh đáng thương. Người tên Thường không đáng thương đâu nhé ? - Bích Hồng thấm ý, cười khúc khích

Thường nổi sùng :

- Tôi không cần ai thương hại cả

- Anh không cần ai thương là đúng rồi, nhưng anh phải thương Trúc. Ðúng không ?

Thường bị Bích Hồng hỏi kiểu đó, anh lúng túng không biết trả lời sao, chẳng lẽ lại nói "không". Thường bực bội cho chính mình, anh thở nặng nhọc như người đang leo dốc.

- Bích Hồng không biết tôi khổ tâm như thế nào đâu. Tôi đã phải sống với những kỹ niệm đau buồn khi phải về Vũng Tàu. Ðâu đâu tôi cũng nhìn thấy màu áo vàng của Trúc. Cho nên nếu về Vũng Tàu là tôi theo ghe đánh cá ngay để khỏi quay quắt với những hình ảnh ấy.

- Ở trên biển, anh có quên được màu áo vàng kkhông ?

- KHông.

- Anh làm gì trong lúc "lang thang" trên biển ấy ?

- Tôi nằm trên sàn ghe đánh cá đếm sao trời.

- Xời, chắc là "có bao nhiêu sao mọc tôi thương nàng bấy nhiêu" à ? Nghe nói mà cảm động chưa

- Trong lúc đó Trúc lại đi chơi với thằng khốn nạn đó. Vậy mà Bích Hồng còn mai mỉa tôi ?

- Anh khờ lắm. Nhưng thôi, gần tới bệnh viện rồi, anh dẹp cái bộ mặt "hận tình" của anh lại đi và đừng có than thở nữa.

Sau khi gởi xe, Thường cầm bó hoa được bao giấy cẩn thận đi theo Bích Hồng vào bệnh viện. Vừa đi Bích Hồng vừa "lên lớp "

- Anh hiểu thế nào là một người tự tử vừa được cứu sống chưa ?

- HiểU

- Trúc lại đang đau tim, cần phải tránh sự kích động, không nên nhắc lại chuyện đau buồn đã qua.

- Tôi biết chứ

- Hãy tìm cách khéo léo để an ủi, động viên Trúc. Coi như anh là người... có lỗi trong chuyện này. Ðược không ?

Thường đỏ mặt hỏi :

- Tại sao tôi là người có lỗi ?

- Nếu như anh không chịu như vậy thì thôi, dừng lại đây tốt hơn

Thường bối rối, nhìn bó hoa cầm trên tay, anh gật đầu.

- Thôi, cũng được đi, cứ cho là như thế.

- Anh miễn cưỡng qúa.

- Tôi.. có lỗi thật

- Bằng sự tự nguyện rất chân thành, chứ không phải bị ép buộc ?

- Ðúng vậy

- Vậy thì được. Phòng của Trúc bên tay trái kìa. Anh vào đi.

Thường bối rối hỏi

- Bích Hồng đi đâu ?

Tôi ở phía sau lưng anh chứ đi đâu ? - Bích Hồng cười khúc khích.

Tới trước cửa phòng. Thường đột nhiên bối rối, anh dừng lại thập thò như một đứa trẻ con. Bích Hồng đẩy vào lưng Thường một cái mạnh.

- Vào đi chứ, giường số năm, bên tay phải

Và thật là một trường hợp đầy xúc động, Thường tới bên giường của Trúc trong khi Trúc nhắm mắt thiếp vào giấc ngủ. Thường lúng túng, gương mặt đau khổ tột cùng, anh ngồi nhẹ xuống mép giường tìm bàn tay của Trúc sau tấm chăn len. Thường nắm bàn tay nhỏ bé, xanh xao của Trúc.

Trong lúc đó trong giấc ngủ mơ hồ, chơi vơi, Trúc cảm thấy có cai nắm lấy bàn tay mình, bàn tay ấy cứng cáp và đầy hơi ấm. Trúc khẽ mở mắt và rồi cô vụt nhắm ngay mắt lại. Trong khoé mắt Trúc long lanh một giọt nước mắt.

Bích Hồng khẽ lay vai bạn nói :

- Mở mắt ra đi Thuỷ Trúc, coi có nhận ra người quen không ?

Cặp mắt đen sâu thẳm ấy lay động, chớp mấy cái rồi từ từ mở ra.

- Ðừng có khóc nữa công chúa ơi - Bích Hồng bẹp má Trúc nói đùa.

- Anh vừa được Bích Hồng báo tin và đến thăm em đây - Thường lúng túng nói và dúi vào bàn tay Trúc bó hoa

- Cái gì thế Thường

- Hoa hồng đấy.

- Ôi...

Trúc kêu lên và đưa bó hoa kề sát mũi mình. Trúc sung sướng hỏi Bích Hồng

- Ngoài trời còn mưa không nhỏ ?

- Tạnh rồi

- Sao trời không mưa nữa nhỉ ?

- Lại đòi mưa. Bộ nhỏ nằm trong này riết rồi ghiền mưa hả ?

Trúc gật đầu, hôn lên những bông hồng đỏ thắm, chơi vơi trong niềm vui. Bích Hồng ngó Thường cười :

- Anh làm mưa... nhân tạo được không ?

- Ðùa.

- Sao lại đùa. Khi người yêu muốn là trời muốn mà. Anh hãy đem một cơn mưa vào phòng Thuỷ Trúc đi.

Thường hiểu ý, anh tới mở tung cách cửa sổ phòng. Bên ngoài buổi chiều đã xám lại với một khoảng trời mờ đục, uớt đẫm nước sau cơn mưa.

Trúc nhìn ra cửa sổ, mỉm cười hỏi :

- Sao người ta không thắp đèn nhỉ ?

- Bây giờ còn là buổi chiều, Trúc quên rồi sao ?

Trúc gật nhẹ đầu. Thường đặt bàn tay nhỏ bé của Trúc vào trong chăn và hỏi :

- Trúc thấy trong người ra sao ?

- Khoẻ nhiều rồi

- Cố gắng vượt qua để mau lành bệnh và trở lại trường

- Bích Hồng đã kể cho Thường nghe hết mọi chuyện chưa ?

- Thường biết cả rồi. Trúc hãy xem đó là một giất mơ. Mọi chuyện rồi sẽ chống quên như cơn mơ trong giấc ngủ mà thôi.

- Thường tưởng như vậy thật ư ?

Bích Hồng đưa mắt ra hiệu cho Thường. Anh hiểu ý nên đổi hướng câu chuyện :

- Chú bé Ngoan có gởi cho Trúc một bức thư dài, lúc đi vội qúa Thường quên mang theo.

- Thường đã đọc thư chú Ngoan chưa ?

- Chưa, bức thư dán kín. Chú ta cẩn thận lắm, nhất định không cho người thứ ba biết mình viết gì trong thư đâu.

- Ngày mai Thường vào nhớ mang theo thư của Ngoan nhé.

- Dĩ nhiên rồi

- Có lẽ sau khi ra viện. Trúc sẽ về Vũng Tàu ở một thời gian.

- Trúc định như thế à ?

- Phải vậy thôi, Trúc sợ thành phố này. Người ta sẽ nhìn mình ra sao ?

Bích Hồng lên tiếng :

- Nhỏ lo làm gì cho mệt. Mọi chuyện sẽ tan như bụi bám trên cây lá sau cơn mưa thôi. Không ai sống mãi với ám ảnh đâu.

Trúc bỗng nắm bàn tay Thường, cô nức nở, giọng cô như vỡ ra trong cơn xúc động :

- Thường căm thù em lắm phải không ?

Thường bóp nhẹ những ngón tay run rẩy của Trúc, nói :

- Sao Trúc lại nói thế ?

- Lúc nhìn ánh mắt của Thường trong vũ trường ngày nào khi mình tình cờ "đụng độ" nhau. Ðôi mắt ấy sao mà dễ sợ qúa. Ðôi mắt ấy như căm thù, cứ đi mãi theo em cho tới bây giờ. Hôm trước ra Vũng Tàu, ngồi với Ngoan trên thuyền nhìn xuống mặt biển buổi chiều em cũng thấy đôi mắt ấy.

Thường cười :

- Tại Trúc tưởng tượng ra đấy thôi.

- Bây giờ Thường ra sao ?

- Vẫn đi học bình thường, vẫn ăn ngủ bình thường.

- Còn giận em nữa không ?

- Không bao giờ

- Ðừng giận em nữa nhé. Em giống như con chim nhỏ bị thương rồi.

Thường cố tránh cho Trúc sự xúc động không cần thiết, nhưng rồi câu chuyện lại diễn biến theo hướng bất ngờ ấy. Anh ra hiệu cho Bích Hồng, rồi nói với Trúc :

- Anh ra ngoài mua gói thuốc lá, em nằm nghỉ nhé.

- Không, anh đừng tìm cách lẫn tránh em một lần nữa - Trúc hốt hoảng nói.

- Anh vào ngay thôi mà....

Thường lật đật buớc nhanh ra khỏi phòng. Anh đi thẳng tới cổng mua một gói thuốc lá, xé bao thuốc ra rút ra mộtt điếu châm lửa hút và rít mấy hơi thuốc như kềm chế sự xúc động của mình. Thường không trở vào ngay mà đi vòng vòng trong khoảng sân rộng của bệnh viện, anh tới ngồi xuống một chiếc ghế đá kê dưới tàn cây. Không khí ẩm ướt như mang theo một chút hương hoa.

Lúc Thường trở vào, Bích Hồng đã dùng một ly trong suốt để cắm những bông hồng đỏ thắm. Căn phòng đã sáng, bình hoa rực rỡ hẳn lên. Trúc cũng đã ngồi dậy, cô dựa vào bức tường và đang ăn những múi cam.

- Hoa hồng của anh đẹp lắm - Bích Hồng khen.

- Nhờ ý kiến của bạn đấy - Thường cười.

- Xời. Tại vì thấy anh tội nghiệp qúa thôi.

Thường đỏ mặt, anh ngồi xuống mep giường. Trúc trao cho Thường múi cam và nói :

- Ăn với em múi cam để mong cho em mau khỏi bệnh.

- Ðồng ý.

Thường ngậm múi cam trong miệng, cảm thấy vị ngọt ngào tan dần trên đầu lưỡi. Anh nhìn vào đôi mắt sâu thẳm của Trúc bồi hồi như khi bắt gặp đôi mắt ấy lần đầu tiên trong vườn nhãn mùa hè ngày nào. Bông Hồng Cho Tình Đầu Chương 1 :

Lớp 12C1 của Đoan nổi tiếng nhất khối và in đậm trong tim thầy cô nhờ tài quậy siêu đẳng của gần bốn mươi mái đầu xanh... rêu. Nhất là vào những buổi sinh hoạt hoặc nghỉ tiết đột xuất. Bởi vậy mà chả trách năm ngoái, lớp Đoan bị đổi cô chủ nhiệm tới hai lần. Cô Trinh dịu dàng, yểu điệu như chiếc lá thu mơ đã "gút bai" lớp Đoan không một tiếng tạ từ. Đến cô Mai, có lẽ nhờ cầm tinh "chúa tể sơn lâm" và có thừa kinh nghiệm "thống trị" nên mới thống lĩnh được bầy "sa tăng" lớp Đoan nửa năm còn lại!...

Nhưng chuyện đó đã xưa lắc tí tè. Vì đó là chuyện của năm ngoái... Còn năm nay? "Que sera sere?" Vì vậy Đoan luôn cầu mong cho bầy yêu tinh của lớp Đoan thấy được giá trị của việc học, hay ít ra cũng "biết điều". Không học thì để cho thiên hạ học! Bởi năm nay là năm cuối cùng được ngồi "vắt chân chữ ngũ" trên ghế nhà trường, còn được làm kẻ đứng thứ ba sau quỷ và ma, và quan trọng nhất là năm nay lớp Đoan sẽ phải vác lều chõng lên đường "lai kinh ứng thí"... đại học.

Điều cầu mong của Đoan thực tế và ngọt ngào như viên kẹo thơm trong miệng và Đoan cũng biết chỉ có thời gian mới trả lời đúng chóc mọi việc, mọi ước mơ của mỗi con người.

Tháng chín, mùa thu, bao cánh bướm trắng thướt tha lại lũ lượt bay về cổng trường vôi cũ. Những cái đầu húi cua kiểu Lam Trường, đầu đinh, đầu "năm năm" của Đan Trường, đầu tém tóc của các đấng "mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao" cũng rục rịch vai ba lô, tai thọc túi quần ì xèo đến lớp.

Đầu năm, chuyện học hành của lớp Đoan yên bình trôi qua từng ngày như những tờ lịch nhẹ nhàng rơi.

Có lẽ dân quậy còn "án binh bất động" hay "tịt ngòi" hết rồi cũng nên!

- Ơn trời! - Lớp trưởng Vân Anh mỉm cười tinh nghịch. - Im ru bà rù! Coi bộ y hệt như "những con chim ẩn mình chờ chết"... Cầu trời cho những con ma quậy bị "liệt mồm", hết "ngứa ngáy tay chân" cho đến ngày tất cả đều ngâm câu "Sĩ tử lên đường vai đeo lọ!..."

Phen này quỷ đã chịu tu. Dân "gạo cội" mừng thầm. Những con sâu không còn làm rầu nồi canh nữa.

Chim chóc ca vang đón chào bình minh tươi sáng của lớp 12C1!

Ban cán sự lớp vui mừng hí hửng trong lòng. Đó là các tay có thành tích học tập cừ khôi, luôn giựt giải quán quân từ trên đếm xuống. Đứng đầu ban chỉ huy lớp là "lớp chằn" Vân Anh. Hai quân sư "quạt máy" của Vân Anh là phó học tập Nguyệt Quê và phó văn thể Hương Trầm. Cả ba đều "mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn... bù".

Mọi người chịu học, ban cán sự lớp khoái tỉ tỉ. Còn Đoan - Đoan cũng mừng hết lớn!

Đoan chỉ là một phần tử nhỏ xíu xíu của lớp, một "phó thường dân Nam Bộ" như bao nhiêu phó thường dân nằm trong hộ khẩu 12C1. Nhưng kể từ ngày cái khiếu viết văn chương thơ phú "trời cho" của Đoan bị thiên hạ phát hiện, Lê Nguyễn Thục Đoan đã bị chúng bạn công kênh lên ghế cán sự văn của lớp. "Ác đạn" thay! Thế là nghiễm nhiên Đoan cũng có chân trong thành phần ban "hương chức hội tề" của lớp.

Khổ thay Đoan lại hiền khô mới chết! Chức vụ đó lâu ngày Đoan đã tự giác quên lãng luôn cho thêm ỘphẻỢ thấm thân. Trong lớp, ai hoạt động gì kệ ai. Đoan chỉ lo học. Đoan ít thích tham gia tranh luận hoặc có ý kiến, ý cò chi hết. Đoan hiền queo, tính tình đơn giản, hay giúp đỡ bạn bè nên người thương Đoan rất nhiều. Còn kẻ ghét Đoan, bảo đảm kiếm đỏ mắt hỏng có một tên!

Niềm vui "thái bình thịnh trị" chưa đậu ở trong tim người bao lâu thì đùng một cái, cô Dung lớp Đoan bỗng được lệnh thuyên chuyển về quê của cô mãi tận Đơn Dương.

Tin cô Dung chuyển về quê bỗng trở thành đề tài "giật gân" của lớp. Những cái mồm nhiều chuyện bắt đầu bép xép và những cánh tay "siêu quậy" cũng được dịp khuấy động không khí yên ổn trong lớp lâu nay. Dân lý sự bắt đầu tán hươu tán vượn. Những bộ trí não chỉ thông minh về những chuyện tầm phào cũng bắt đầu hoạt động. Nhưng rất ít người thắc mắc vì sao cô không chuyển đi từ đầu năm học, ngoại trừ, lớp phó học tập Hương Trầm, con nhỏ "nhang thơm" đã vén mái tóc đen mượt xõa ngang vai của Vân Anh thì thào vào tai người ta câu gì đó.

Vân Anh khẽ nhếch môi cười làm cho một lúm đồng tiền độc nhất trên má trái của nó lõm xuống trông thật dễ ưa.

- Ừ há! Tao cũng nghĩ như mi. Hỏng chừng giấy tờ thuyên chuyển của cô bị trục trặc vì lý do kỹ thuật gì đó... nên bị chậm đó mà!

Ở bàn trên con Nguyệt Quế cũng bị ngứa miệng lây:

- Ê, theo tin của đài khí tượng thủy văn năm nay lũ về sớm. Dám cô sợ lũ "càn" về thành phố Bác nên cô dông về miền cao tránh lũ sớm đó tụi mày!

Vân Anh che miệng cười khúc khích. Hương Trầm liếc xéo Nguyệt Quế:

- Đúng là "sư tỉ" của chú Cuội cung trăng!

Lớp bắt đầu náo nhiệt y như phiên "chợ tình" ở miệt Sapa. Trống đổi giờ đánh thùng thùng có hơn năm phút rồi mà cô Vân dạy Sử cũng chưa thấy vào. Ở dãy bàn thứ tư, tiếng Hạnh "xù" ré lên "mở hàng" cho cuộc bàn luận tào lao.

- Sao bữa nay cô Vân đi trễ quá ta?

- Tao biết "lý vo" cô Vân đi "chễ" dzồi! - Nhỏ Tuyết lùn vo vảnh bằng cái giọng sai chính tả khủng khiếp.

Bên dãy bàn của dân mày râu có giọng nói "trịch thượng" của một cái mồm cất lên:

- Ai biết đâu à? Nói thử nghe chơi!

Tuyết "lùn" đứng nhóng lên. Bởi nó có chiều cao rất khiêm nhưng, ngó về phía dãy bàn phát ra câu nói vừa rồi. Mớ tóc ngắn không ra ngắn, dài không ra dài của model đờ mi được nó buộc túm lại bằng một sợi dây thun trông giống như cái đuôi của mấy chú gà con mới mọc lông đuôi. Khi Tuyết lùn đứng lên phô cái "đuôi gà", một số giọng cười bắt đầu ré lên, trước bé sau to dần rồi lan ra cả lớp. Thì ra không biết tay tổ nữ nhi nào chơi khăm đã gắn vào cái đuôi gà con ấy một mảnh giấy "kiss me, please!" tổ bố.

Tội nghiệp Tuyết "lùn" vẫn vô tư, không hề biết cái mảnh giấy tai quái kia đang "hiện diện" trên mái tóc đuôi gà của mình. Nó lại càng không biết tại sao khi nó nhóng lên tìm cái tên ma đầu nói năng trịch thượng kia thì nó lại bị "pháo kích" bằng mồm dữ vậy?

Phát hiện nguyên nhân của tràng cười là trò chơi độc đáo trên đầu Tuyết, Vân Anh ra hiệu cho Đoan kéo nhỏ Tuyết ngồi xuống rồi nhanh tay rút ngay cái que kem có dán mảnh giấy ghi hàng chữ độc địa trên đầu nó xuống.

Nhờ khéo tay, Đoan rút được cây trâm trên cái đuôi gà xước của nhỏ Tuyết xuống êm ru. Vân Anh chận một tay lên ngực thở phào.

- Hú hồn!

Không khéo sẽ có một màn đại chiến bằng mồm rất kịch liệt, bởi Tuyết "lùn" tuy nhỏ con nhất lớp nhưng nó lại là đứa rộng miệng nhất và ít khi nào nó tha cho bất cứ một tên húi cua hay áo dài nào lỡ đụng nhầm nó. Bởi rứa mấy tay trai tráng trong lớp Đoan mới gán thêm cho Tuyết "lùn" một "hỗn danh" nghe rất ư đã đã là Tuyết "lồi mà lún"!

Hồi mới nghe biệt danh thứ hai của Tuyết, Đoan không hiểu mô tê chi ráo. Đến lúc được con Hương Trầm giải thích tỉ mỉ rằng "lồi mà lún" nói ngược lại có nghĩa là "lùn mà lối". Lúc đó Đoan mới bật ngửa. Mới hay mấy ông sa tăng lớp Đoan "trắng trợn" chưa từng thấy trên đi.

Tuyết "lùn" ngồi xuống ghế. Bụng nó vẫn còn tức ấm ách chuyện không dưng bị làm "bia cười" cho thiên hạ. Rồi tự nhiên con nhỏ Đoan kéo nó xuống. Nó nghĩ hình như có chuyện quanh co gì chi đây mà mọi người cố tình "diếm" nó. Nó cố gắng lắm mới nuốt nổi cục giận to đùng xuống cái dạ dày trống trơn và tự an ủi mình bằng câu "quân tử trả thù mười năm cũng chưa muộn". Nó lầm bầm:

- Được rồi! Hãy đợi tao! Ta không bỏ qua cái sự dzô dziên của chúng bây đâu!

Giải quyết xong cái món Tuyết "lùn", Vân Anh thấy yên bụng một chút. Nhưng tiếng cười vẫn còn hi hi, hích hích ở một vài nơi. Vân Anh bước lên bục ổn định lớp.

- Các bạn ơi, trật tự đi! Tôi xuống văn phòng xong lên liền. Nếu thật sự cô Vân nghỉ thì mình sẽ bàn việc tiễn cô Dung.

- Hoan hô! Chí lý! Chí lý!

- Đi nhanh lên đi! Đi chậm là tụi này quậy à!

Đó là tín hiệu của "chiến tranh bùng nổ". Thằng Tín "điệu" xóm nhà lá cũng là tác giả của câu nói trịch thượng chọc sùng Tuyết "lùn", đã phát quả pháo đầu tiên.

Vân Anh bay xuống văn phòng không tới năm phút đã về tới lớp thở phào hổn hển. Mặt cô xanh lè vì chạy. Vân Anh lau mồ hôi trán bằng chiếc khăn tay trắng bong có thêu hai mẫu tự V.A trên góc khăn. Nó cười thật tươi. Cái lúm đồng tiền một bên má lại lõm xuống xinh đáo để. Vân Anh thông báo:

- Bây giờ chúng ta có thể bàn về việc tiễn cô Dung. Nhưng phải nhớ là cần giữ trật tự nếu không sẽ bị "hốt" hết về văn phòng.

Hạnh "xù" hăng hái đứng lên. Nó được gọi là xù vì mái tóc loăn xoăn bùng ra như một đống bùi nhùi làm cho cái đầu của nó thù lù quá khổ.

- Lớp trưởng ơi, bạn có hỏi văn phòng vì sao cô Dung xin chuyển đi không?

- Dễ ẹt vậy mà cũng hỏi. - Quang "quậy" khề khà.

- Vậy tại sao cô chuyển đi? Bộ cô "ớn" tụi mình rồi hả? - Tiếng Quý "rùa" cất lên.

- Không ớn cũng không chán gì ráo! Đơn giản là cô đi "chống lầy". - Quang "quậy" khoa tay.

Tín "điệu" oang oang:

- Hay quá hé! Bộ mày là "má chồng" cô sao mà biết rành vậy?

Có tiếng cười hí hí bên phía con gái:

- "Ba chồng" chứ sao "má chồng" được! Chắc nó mới bị phẫu thuật thay đổi giới tính rồi quá!

- Một không! - Thằng Phát mập có cái miệng túm rụm, móm xọm, không thấy môi trên, mặt nó trẹt lét như cái mày ốc nên được gán cho cái biệt danh là "ốc mày" vừa giở giọng trọng tài.

Một giọng ca éo éo cất lên cùng với tiếng gõ bàn làm nhịp trống của nhóm Quang "quậy" và Quy "rùa":

- "Em đi lấy chồng, về nơi xứ xa, tí tì ti, tí tì tà..."

Vân Anh vỗ bàn độp độp. Bầy quỷ sứ cũng giả nai, vỗ bàn, đập ghế, la hét ỏm tỏi.

Đoan bịt hai tai lại, chịu hết nổi vì cái âm thanh hỗn tạp như một cái chợ "chồm hổm" ở một khu lao động bởi bọn chúng quá hưng phấn trước tin cô chủ nhiệm chuyển trường.

Dù cô chỉ mới dạy lớp Đoan chưa đầy một tháng nhưng Đoan cũng cảm thấy một niềm luyến tiếc thoáng đậu trong tim.

Cô Dung hiền hậu, giảng bài rất sâu sắc với đôi mắt đen lấp lánh và mái tóc dài đen mượt. Cô đọc thơ rất hay.

Cô đi, Đoan cũng thấy buồn. Tuy nhiên tình thầy trò giữa Đoan và cô chỉ mới nhen nhúm. Nên niềm luyến tiếc về cô với Đoan cũng nhẹ nhàng như những áng mây thu nhè nhẹ trôi qua bầu trời.

Trên kia Vân Anh đang cố ổn định lớp bằng một tiếng gõ chát chúa lên mặt bàn.

- Các bạn im đi chứ! Cứ mỗi người mỗi ồn làm sao bàn được việc chính?

- Thì bạn nói việc chính là việc gì đi chứ! - Tuyết "lùn" nhắc nhở.

- Đúng đó! - Hương Trầm thúc giục. - Vào đề lẹ lên đi để tụi nó đâm bang mãi!

Vân Anh dọa:

- Nếu các bạn còn tiếp tục ồn, tôi đề nghị mời cô giám thị đến ngay.

Nhiều tiếng xì xí nổi lên phản đối "bạo lực". Nhưng đòn "hù nhát" của Vân Anh coi bộ có "mười thần công lực" nên dân "qué" có phần bị tê liệt dây thần kinh chút chút. Chỉ còn nghe vài ba tiếng nhỏ xíu ở cuối lớp.

- "Nhát ma" con người ta hoài.

Biết đã có "ép phê", Vân Anh lật đật "túm" lấy thời cơ:

- Các bạn ơi, dù lớp mình chỉ mới học với cô Dung chưa đầy một tháng, nhưng để bày tỏ tình cảm tri ân của lớp, tôi đề nghị mỗi bạn bỏ ra một ít tiền để làm một bữa tiệc nhỏ và tặng cô một món quà làm kỷ niệm.

- Một ít tiền là "bi nhiêu"?

- Tui đồng ý! Nhưng phải rẻ rẻ à nhe! Tui hết tiền rồi đó! Má tui lúc này... thua số đề hoài nên... hỏng có "tằng" cho tui!

Một số kẻ lại cười rần. Vân Anh nháy Nguyệt Quế và Hương Trầm giữa lớp.

- Đề nghị hai ngàn đi! - Quy "rùa" lộp chộp phá bĩnh.

- Hai ngàn là nhiều đó mày! Một ngàn thôi! Mình làm gì ra tiền? - Tín "điệu" dài mồm nói.

Nguyệt Quế lừ mắt nhìn Tín "điệu". Cái thằng quỷ có mái tóc lúc nào cũng xịt keo bóng mượt và áo quần phẳng phiu không có một nếp nhăn. Nó chính là hiện thân của trường phái "vẹo" của lớp Đoan.

- Chuyện này không phải chuyện đùa đâu! Nếu bạn không có tiền, tôi có thể tặng bạn phần tiền đó. Còn có mặt hay không là tùy ý bạn!

Nhiều tiếng vỗ tay, đập bàn lại vang lên:

- Ô ha! Hoan hô một tâm hồn cao thượng!

- Ui da! "Muối mặn" chưa em?

- Nhào! Chết dịch thằng Tín "điệu"!

- Bị rồi... "điệu" ơi!

Hương Trầm nhanh chóng chế ngự ngay đám ồn:

- Đó là tấm lòng của Nguyệt Quế. Đề nghị chấm dứt chuyện của bạn Tín. Mời Vân Anh bàn tiếp!

Đợi lớp yên, Vân Anh nhướng mày:

- Khi tôi nói, yêu cầu lớp trật tự lắng nghe và trình bày ý kiến nếu có. Đề nghị không bàn chuyện ngoài lề để tránh lãng phí thời gian vô ích. - Đảo mắt quan sát lớp một vòng nhằm dò xét tình hình, Vân Anh tiếp: - Vì cần có một món quà tặng cô nên tôi đề nghị mỗi bạn góp mười ngàn. Ta sẽ tổ chức một buổi tiệc nhỏ tiễn cô. Các bạn đồng ý chứ?

Người này dòm người nọ. Kẻ nọ ngó kẻ kia. Lớp yên lặng chưa từng có. Vân Anh thừa biết đó là chiêu bất đồng ý của tụi nó. Tuy vậy, vốn kiên nhẫn và với kinh nghiệm tích lũy từ bao năm làm "đầu tàu", Vân Anh có một biệt tài "điều khiển từ xa" rất siêu đẳng. Cô nàng dịu dàng lên tiếng:

- Tôi đếm đến ba, cả lớp đưa tay lên nhé.

Và Vân Anh dõng dạc đếm:

- Một... h... a... i!...

Khi cô nàng sửa soạn khép môi buông ra tiếng thứ ba thì một cánh tay thụt thò đưa lên hạ xuống. Một giọng ngập ngừng cất lên:

- Đề nghị chín ngàn đi! Tui bị em tui "thuổng" hết một ngàn xơi "xu xoa" hạt lựu rồi.

Lập tức một tràng cười nổi lên loạn xị. Kẻ hiền nhất như Đoan cũng không thể nào ngậm miệng. Nhỏ Vân Anh, Nguyệt Quế, Hương Trầm cũng tức cười, nhưng sợ bị tụi quỷ làm lừng, cả ba cố gắng nuốt tiếng cười vào bụng bởi tác giả phát ngôn kia chính là Tuấn khờ, chàng khờ chính hiệu "con nai vàng ngơ ngác" của lớp.

Vừa nói xong sự thật "một chăm phần chăm" đã bị cả lớp cười rần rần, Tuấn khờ đỏ mặt tía tai, không biết mình đã làm gì quái gở để bị lớp cười dữ vậy. Tuấn thấy quê hết cỡ! Anh chàng cúi gằm mặt xuống đất ngắm mãi mấy ngón chân vô tội chứ chẳng biết nói gì hơn cho đỡ quê! Phước đức thay, lớp trưởng thấy vậy bèn gỡ quê cho Tuấn khờ:

- Bạn Tuấn có bao nhiêu thì góp bấy nhiêu. Trường hợp này đặc biệt. Còn các bạn đồng ý góp mười ngàn rồi chứ?

Trừ Tín "điệu", nó còn cay cú con nhỏ Nguyệt Quế vụ mặc cả ban nãy nên nó ngồi im một đống, mặt mày chù ụ, không thèm đưa tay. Còn lại cả lớp đều đồng ý.

Vân Anh hỏi nhỏ hai nàng quân sư:

- Ê, còn chuyện ăn uống và quà cáp sẽ họp với ban cán sự lớp sau. Ý tụi mày thế nào?

- Bàn luôn với lớp, khỏi mất công triệu tập buổi họp khác với ban cán sự. - Nguyệt Quế nhăn nhăn.

- Tao thấy mình nên cho lớp bàn tiếp về thức ăn và quà. Nhưng chủ yếu dựa trên ý kiến chủ đạo của bọn mình.

Vân Anh cười toe:

- Mày là chúa tể ăn hàng. Ra thực đơn đi.

Hương Trầm liếm môi:

- Bò tái me và xôi gà. Vừa gọn vừa ngon lại vừa dễ làm. Uống thì chơi nước ngọt, không đủ "tằng" thì dứt đá trà!

Vân Anh phục con nhỏ bạn có tâm hồn ăn uống quá xá cỡ. Nó vớ liền viên phấn ghi cấp tốc lên bảng hai món ăn chủ lực của buổi tiệc rồi thông báo:

- Hai món này gọn nhẹ và ít tốn tiền. Hơn nữa chủ yếu là tinh thần buổi tiệc. Do vậy chúng tôi không thay đổi thực đơn nữa.

Đoan mỉm cười khi bắt gặp ánh mắt Vân Anh nhìn mình. Cô nàng che tập ngang má, thè lưỡi nhìn Vân Anh, "quả là miệng lưỡi lớp trưởng"!

Sau đó Vân Anh chuyển sang đề tài chọn quà tặng cô. Thôi thì mỗi người một ý. Kẻ muốn tặng cô hoa. Người thích tặng quà. Lớp lại nháo nhào về vấn đề hoa và quà.

- Tặng hoa mau tàn, cô dễ cho vào sọt rác và sẽ chóng quên lớp cho coi!

- Đúng đó! Bài dân ca Hái Hoa có câu "Hoa nào héo thì hái bỏ đi".

- Chứ để làm chi ứ ư... hoa tàn - Tuyết "lùn" hát ong óng tỉnh bơ.

- Đúng rồi đó! Đừng tặng hoa cho cô! Hoa tượng trưng cho con gái. Hoa là chúa phản bội nên trời sớm cho hoa tàn! - Phát bô bô cái miệng.

- Hay! Hay! Hoan hô! Vậy thì tặng cô quà!

- Tặng quà gì hay hay đó nghe! Tặng quà dỏm cô cũng hỏng có thèm... dòm đâu!

- Lớp trưỏng ơi, tặng cô một cái kẹp tóc đi! Tui thấy tóc cô dài mà cô... hỏng có kẹp để xài!

- Đừng tặng kẹp! Bèo lắm lớp trưởng! Tặng cô một đôi giày cao gót đi!

- Khùng! Ai biết được chân cô thế nào mà mua giày cho cô mậy!

- Ấy thôi mình mua cho cô cái cặp hộp và quyển sổ có ghi tên từng người của lớp mình đi.

- Chi vậy? Để cô "chửi" hả? Khỏi cần ghi tên mày cô cũng nhớ để "gào" lên rồi!

Vân Anh lại đập bàn chát chát để ổn định lại lớp.

- Làm ơn im lặng giùm! Các bạn cứ cà rỡn không hà. Bây giờ tôi sẽ mời một bạn mà tôi nghĩ là sẽ dư sức "tư duy" cho chúng ta một món quà rất ý nghĩa cho cô. - Vân Anh nhướng mắt về hướng Đoan. - Mời cán sự văn cho ý kiến đi.

Tiếng vỗ tay vang dội.

- Đúng đó! Nói đi cán sự văn! Giấu nghề hoài!

Không thể ngồi ì được nữa. "Nhỏ Vân Anh này lợi hại thật!" Đoan nghĩ thầm và chậm rãi đứng lên.

- Ý kiến của tôi như thế này, các bạn xem có được không nhé!

- "Khanh" cứ nói đi! "Trẫm" rất thích được nghe ý kiến của "khanh"!

Lại một tràng cười rần. Lại đập bàn huýt sáo ỏm tỏi.

Nguyệt Quế chống nạnh:

- Có im nghe người ta nói chưa! Mấy ông mất trật tự quá trời! Nói nhanh đi Đoan!

- Tôi nghĩ mình có thể tặng cô một bộ áo dài bằng gấm màu mỡ gà. Theo tôi, cô rất thích bài thơ "Áo Lụa Hà Đông" của Nguyên Sa mà cô thường đọc cho chúng ta nghe. Qua bài thơ, tôi thấy cô cũng thích áo lụa. Các bạn không thấy cô đi dạy mặc toàn áo lụa sao? Còn màu mỡ gà tức màu kem rất hợp với nước da của cô.

Ngừng lại một giây Đoan tiếp:

- Chúng ta tặng áo dài cho cô là món là vừa tầm tay của chúng ta. Nó vừa đơn giản lại vừa có ý nghĩa. Cô đi dạy sẽ thường sử dụng đến nó và như thế mà cô có thể nhớ đến chúng ta luôn.

- Hay! Công nhận lớp trưởng mình có con mắt nhà nghề dễ sợ khi chọn cán sự văn... ăn nói!

- Hoan hô cán sự văn!

- Cán sự văn thông minh nhất nhi nữ!

- Đề nghị cán sự văn làm "lớp chăng" luôn đi! Còn "lớp chăng" dìa vườn đi! Xuất đi!

Phát "ốc mày" phát biểu xong câu đó xóm nhà lá như bị điện giựt nhảy tửng tửng như khỉ mắc phong. Chúng nó hò reo, ó ré um trời. Đứa thì vò đầu thằng Phát "ốc mày", đứa phấn khích hơn thì ôm hun nó "chóc, chóc", bởi hôm nay nó gan tàn bạo, dám ghẹo nữ hoàng "Elizabert tai to" của bọn nó.

Vân Anh giận run. Nó xách cây thước bảng trên bàn giáo viên quyết làm Tề thiên một trận. Còn Nguyệt Quế và Hương Trầm thì chơi chổi lông gà và chổi tàu cau xung trận. Chiến trường là xóm nhà lá. Bút chì, bút mực, thước kẻ, compa bay tá lả, chéo chéo như đạn pháo.

Cả lớp bắt đầu náo loạn. Bên con gái cũng xông vào yểm trợ cho Hai Bà Trưng xuất chinh đánh đuổi quân Nam Hán một trận tơi bời ống khói!

Bất ngờ thầy Nhi dạy toán nổi tiếng khó như... ông kẹ đùng đùng xuất hiện trước lớp. Thầy Nhi nổ liền một tràng súng liên thanh:

- Hay quá hé! Ở không quánh lộn hả? Già đầu lớn xác rồi mà còn ngu như con nít mới vô lớp sáu. Ai? Ai là kẻ chủ mưu?

Cái trán hói bóng lưỡng của thầy y như đường băng rộng thênh thang vắng lặng của một phi trường lúc máy bay đã "phi" hết. Hai con mắt thồ lộ của thầy mở cực to và đôi chân mày như hai con sâu.

Lúc đó, Vân Anh mới thấy mình bậy quá. Cả bầy con gái vì bênh vực lớp trưởng cũng thành bậy luôn! Đúng là giận quá mất khôn. Vân Anh đau khổ nhìn cây thước bảng trên tay mình và ngắm cây chổi lông gà, "củ" chổi chà trong tay hai "quân sư" mà muốn khóc.

- Lớp trưởng đâu? - Thầy hầm hầm hét tướng.

- ...

Cả lớp im thin thít. Mọi con mắt đổ dồn về phía Vân Anh mà không ai dám hó hé tiếng nào. Bất chợt ở đầu bàn hai, bên cửa sổ, Đoan đứng lên "rốp rẻng":

- Thưa thầy... em là... lớp trưởng.

Ba đứa le lưỡi nhìn nhau lo sợ cho "tín mạng" của Đoan. Bởi nó dám "lấy thân mình lấp lỗ châu mai" cho Vân Anh. Nó dám qua mặt ông thầy "khó hơn ông trời". Bởi lớp Đoan không học toán với thầy Nhi nên Đoan tin chắc dễ gì thầy biết ai là lớp trưởng "thứ thiệt".

- Em là lớp trưởng hả? Em có bị điếc hôn mà để tụi nó làm giặc, em không nghe à?

- Dạ thưa thầy... cho em xin lỗi!

Đã lỡ leo lên lưng cọp Đoan bèn tìm kế đánh lạc hướng thầy Nhi:

- Dạ thưa thầy, không phải lớp em đánh lộn mà vì... chuột trên trần nhà rớt xuống bốn năm con nên mấy bạn xúm nhau đập chết đó thầy.

Có vài tiếng cười hí hí nổi lên. Vân Anh đã tỉnh hồn.

- Dạ đúng rồi đó thầy, tụi em đập chuột.

Ông thầy vẫn nhướng cặp mắt "ốc bươu":

- Đập chuột gì mà người thì thước bảng, kẻ thì chổi lông gà?

Nguyệt Quế xách cây chổi chổi chà đưa lên:

- Dạ có chuột thiệt đó thầy. Nó bò lên chân mấy bạn, mấy bạn la làng, tụi em phải chận tứ phía mới đập chết được bốn con. Em mới quét bỏ vô giỏ rác nè thầy!

Có vài cái đầu cúi xuống cười hích hích.

Hai con sâu rọm trên trán thầy đã giãn ra. Thầy thở cái khì làm cả lớp muốn đứng tim.

- Thôi, tha cho đó! Lần sau mà còn đập chuột ồn ào như vậy nữa tôi sẽ cho các em... ăn hết mấy con chuột đó!

Lúc này cả lớp mới nhao nhao:

- Dạ, cám ơn thầy!

Vài cái cổ thập thò:

- Thầy ác thiệt!

Khi cái "sân phi trường" đã quay về lớp, mấy cái miệng lại chí chóe reo lên:

- Đội ơn "cứu tử" của thầy!

- Hoàng a mã "xức giá" hồi cung.

Bỗng thùng, thùng, thùng! Trống báo giờ giải lao vang lên giải thoát cho bầy khỉ xổng chuồng. Vân Anh thở phào phóng qua chỗ Thục Đoan, cười tươi như nắng sớm:

- Ê, đi uống đá me cho giải cảm! Ông thầy làm tao muốn... bịnh luôn! Hổng nhờ mày chắc tụi tao "lãnh đạn" hết rồi!

Đoan cười nhẹ:

- Tao trổ tài ba xạo mà run gần chết! Thời may ổng không dạy lớp mình nên hổng biết gì ráo.

Hương Trầm cười hích hích:

- Ổng mà phát hiện ra lớp trưởng giả chắc chắn bị giũ sổ cả đám!

Nguyệt Quế cặp cổ Thục Đoan:

- Đi mày! Hôm nay Vân Anh sẽ cảm kích bao mày hai ly đá me, uống đã!

Ba con nhỏ kia cười hì hì:

- Ừ uống đã rồi bị "tào tháo rượt" cũng đã luôn!

Bốn đứa nắm tay nhau đi về phía căn tin, lòng hí hởn vì vừa trải qua một cơn "hồn vía lên mây". Bông Hồng Cho Tình Đầu - Chương 2 :

Buổi tiệc tiễn cô Dung sau nhiều lần bàn cãi, rốt cuộc được tổ chức ở vườn nhà ngoại Đoan, thuộc vùng ngoại ô, cách thành phố không đầy năm cây số.

Không khí nơi đây mát mẻ, thoáng đãng, thích hợp cho một buổi picnic ngoài trời. Nhất là vô cùng tiện lợi cho mấy chục cái mồm thuộc cỡ "ống tà la hiện đại."

Khu vườn rộng mênh mông thiên địa, trồng toàn cây ăn trái tha hồ mà "lũm", mà nhai cho sướng miệng. Trái cây mùa nào thứ nấy. Ghé đây bất ngờ lúc nào cũng có thứ để ăn. Đó là hai món dừa và chuối, thứ trái cây "thâm niên" vườn nào cũng có, bà ngoại trồng để đón khách ghé bất ngờ.

Tiệc tùng mà tổ chức ở đây thì quả là sành điệu hết ý!

Bọn "khỉ mắc phong" lớp Đoan tha hồ mà nhảy nhót, la hét bể làng, quậy... đục nước ao cũng chẳng ai thèm nói! Họa chăng chỉ có lũ bướm ong, chim chóc, cá trong ao, cây trái, hoa cỏ trong vườn hết hồn một bữa mà thôi!

Bà ngoại lại cưng Đoan nhất. Bởi ở cái tuổi đời "thất thập cổ lai hi" bà mới có một đứa cháu ngoại độc nhất. Đoan là cháu ngoại "đít xoang" của bà.

Khi Đoan dắt lũ lâu la gần bốn chục mạng "dìa" vườn, bà ngoại vui mừng lắm. Bởi hàng ngày, kể cả quanh năm suốt tháng bà chỉ thấy có lá và cây. Cậu mợ Đoan cũng bốn ông "tứ quái giao chỉ". Thỉnh thoảng chúng dẫn về rủ nhau đấu vật ngoài vườn làm cây cối sứt cành đổ lá nên bà không khoái chúng!

Hôm nay đứa cháu cưng bất ngờ về thăm bà, dù nó có cả bầy bạn phá hơn "quỷ" bà vẫn quét sạch nhà cửa, vườn tược, cười tươi miệng trầu móm mém, đón cháu thương yêu.

Cô Thùy Dung vừa là "chủ xị" vừa là khách mời vinh dự của buổi tiệc. Vân Anh không mời thêm thầy cô nào khác. Vì như thế mọi tình cảm lớp dành cho cô hôm nay sẽ loãng đi mất.

- Cần phải tạo cho cô cái ấn tượng về buổi tiệc này! - Vân Anh bảo với Đoan như thế.

Buổi tiệc tiễn đưa cô hôm nay sẽ đánh dấu một thứ tình thầy trò còn đậm đặc hơn acid sulfuric nồng nàn như hương hoa dạ lý... Nó sẽ "ngự trị" trong bộ nhớ "siêu bền" của cô bây giờ và mãi mãi.

Phụ trách món ăn thức uống đã có các bàn tay hàng ngày chỉ biết cầm viết, bây giờ lại biết cầm... dao! Bếp trưởng là Nguyệt Quế và Hương Trầm. Một đứa thủ việc nấu. Đứa kia lo việc nếm. Con Hương Trầm phụ trách việc nếm thức ăn cũng phải lắm. Vì nó sành đủ các hương vị đặc trưng của mỗi món ăn. Bởi nó luôn có mặt ở các xe bò bía, gỏi cuốn, khô bò... đủ các thứ trên đời. Nó xứng danh là cháu chắt một trăm đời của ông tổ "nghề ăn" Thạch Lam. Và mỗi lần nó nếm thứ gì, nó chơi đầy một "vá" tú hụ!

Trai tráng hôm nay cũng ngoan hết biết, ông nào ông nấy chặt thùng hết sức bảnh tỏn. Ai nấy có mặt đầy đủ. "Bị ăn mà lị"! Chứ có phải học đâu mà lo!

Quanh đi ngoảnh lại chỉ thiếu Tuấn khờ. Nghe đâu anh chàng "tự ái vặt" bởi cái vụ con nhỏ em ranh ma của Tuấn đã "thuỗn tay trên" của anh trong ống heo hết một ngàn bạc dứt "xu xoa" mà!

Mọi ngày trong lớp giờ này trống còn ì đùng, nhặng xị. Hôm nay thức ăn đầy nhóc, lại có cả người đẹp "tràn trề" tha hồ mà "mọc đuôi tôm".

Phát "ốc mày", Quy "rùa", Tín "điệu", Quang "quậy" tíu ta tíu tít, lăng xăng rộn rịp trải bốn chiếc chiếu ngoài vườn dưới những cây bưởi đu đưa quả sai lúc lỉu. Nhóm khác thì căng bạt, đi đốn dừa nước hoặc hái trái cây làm món "la sét"... đông vui, náo nhiệt cả một góc vườn. Ai "tâm hơ tâm hất" dám tưởng nhà ngoại Đoan hôm nay có đám cưới cũng nên.

Cô Dung thấy trong lòng rộn lên một niềm cảm xúc vô biên. Dù dạy lớp này chưa lâu, nhưng thành tích của chúng cô đã nghe qua rất nhiều. Tuy nhiên, một tháng trôi qua cô chưa có dịp kiểm tra thực tế. Có thể bọn chúng còn "chưa xuất đầu lộ diện". Hay biết đâu chừng chúng nó đã chán cái trò chọc trời khuấy... lớp, vì ngay chóc năm thi?! Dẫu sao thì cũng may vì cô chỉ mới nghe đồn đãi, một đồn mười. Và cô cũng chán cái trò làm "quan tòa" bất đắc dĩ luôn.

Mở màn, lớp trưởng làm một tăng "hoa lá cành" về ý nghĩa buổi tiệc tiễn cô. Cả lớp đùng đùng vẫy tay tán thưởng. Cô Dung ý nhị pha trò:

- Cha! Hôm nay cô đi, các em mừng quá hé?

Tức thì ba mươi chín cái "mỏ" đủ kích cỡ nhao nhao lên:

- Hổng có đâu cô! Cô đi tụi em "buồn thấy bà" hà cô!

- Cô đừng nghĩ oan cho tụi em cô!

- Cô đi, tụi em như... rắn mất đầu vậy cô.

- Em thương ba em nhất, thương cô nhì đó cô.

- Đồ quỷ mày! Đồ dịch! Nói với cô vậy đó hả?

Tiếng cười khúc khích nổi lên tứ phía bởi câu khôi hài của Tín "điệu".

Cô cũng buồn cười không thèm rầy rà cái đứa học trò dốt văn nhất lớp vào cái ngày cần cởi mở tâm tư như thế này. Cô dư sức biết chúng nó xạo, chúng nó mồm mép với cô. Chứ tình cảm, tình kiết gì với mớ thời gian không hơn một tháng?! Hơn nữa, học trò lém lỉnh, ranh ma... tuổi đó cô đã trải qua nên cô Dung đã rành... sáu câu!...

Cô Dung mỉm cười nhìn đám học trò không thân, không ghét của mình, nói chung chung:

- Nếu cô không lầm, trong lớp các em ai cũng có máu... quậy hết phải hôn? Ngoại trừ lớp trưởng!

Thằng Quang khoa tay:

- Hổng có đâu cô. Lớp trưởng cũng... quậy ác lắm cô!

Cô Dung ngó Vân Anh:

- Điều này cô chưa thấy, cô chưa thể tin lời em Quang được!

Bên con gái nhao nhao, Tuyết "lùn" hăng nhất:

- Đúng đó cô! Quang "quậy" vua xạo đó cô!

Thằng Quang ném cho con nhỏ Tuyết "lùn" một cú liếc mắt rất đa tình. Bởi trong tim nó, nó thầm "để ý" con nhỏ này đã lâu mà chưa ai hay biết.

- Cô ơi, làm học trò có quậy mới dzui chứ cô! - Phát "ốc mày" lẻo mép.

- Như cô đi dạy đâu có dzui, tại vì đâu có quậy được. Hì, hì! - Quy "rùa" cũng chen vào.

- Cô ơi cô, thằng Quang "quậy" nó có sáng tác một bài thơ "khoái quậy" hay bá cháy nè cô.

Cô mỉm cười thông cảm:

- Vậy sao? Em Quang cũng biết làm thơ nữa à? Thế thì tốt quá! Đọc lên cho các bạn nghe đi em!

Bị mách lẻo bất ngờ, Quang ta không tìm được cách đối phó bèn gãi gãi đầu đứng dậy:

- Dạ thưa cô, em xin phép đọc bài thơ của em. Cầu mong cho cô và cả lớp đừng cười em viết dở!... - Nó không quên bắn cho thằng Tín "điệu" chết bầm một cú liếc dài... tám thước.

Nó tằng hắng sửa giọng rồi lặng thinh.

- Sao vậy? Đọc đi em! Cô và các bạn không cười bài thơ của em đâu! - Cô Dung dịu dàng nói với nó.

Bình thường nó phá như quỷ. Vậy mà khi chuẩn bị đọc lên cho mọi người nghe cái "sự nghiệp văn thơ đầu tay" của mình, nó nghiêm như là chưa hề biết... quậy.

Và nó bắt đầu đọc:

- Đi học có quậy mới dzui

Làm trò không quậy thì... "cùi" quá tay!

Quậy ba, xơi gậy dài dài

Quậy má, má đạp sẽ bay ra đường

Quậy ông, ông chẳng xót thương

Quậy bà, bà đá, vách tường dính vô

Thôi đành vào lớp quậy cô,

Hôm nào không quậy... ô hô... là buồn!

- Dạ hết rồi ạ.

Bài thơ "Khoái quậy" của thằng Quang vừa tung ra, cả lớp một phen cười ra nước mắt. Con trai, con gái đều bò lăn trên chiếu mà cười. Nước mắt, nước mũi ràn rụa.

- Má ơi... hay thấy trời luôn!

Những lời bình thơ bất đắc dĩ của nhiều cái miệng "sính" thơ cứ tuôn ra theo tiếng cười làm chữ được chữ mất.

- "Bén" còn hơn... Trần Tế Xương.

- Hi, hi! Bài thơ vừa hay vừa xạo!

- Há hà! Ừa, hay là ở cái chỗ "xạo" á!

- Mày cười nó chứ mày có làm được cỡ nó không?

Tín "điệu" phun cái phèo hớp nước ngọt nó vừa chựt nuốt vì buồn cười.

- Tao làm hay hơn nó nhiều mày.

Cô Dung lắc đầu cười bầy học trò quá quắt của cô. Thời may cô xin thuyên chuyển về quê sớm vì lý do gia cảnh. Nếu không, phải có ba đầu, sáu tay mới trị nổi đám học trò "danh bất hư truyền" này.

Cô Dung nhìn hết từng gương mặt, phân loại học trò cấp tốc theo trí nhớ của cô. Cô thấy đến gần hai phần ba lớp thuộc loại khoái đùa. Còn lại là những tay gạo cội thuộc hàng đáng tin cậy. Ban chỉ huy lớp này cũng khá "cứng cựa" và cô cảm thấy yên tâm khi dứt áo khoác ra đi để lại một sự nghiệp nặng nề cho thầy Vĩnh đảm nhận.

- Tốt thôi! Thầy Vĩnh dù gì cũng là đàn ông, dư sức "khớp mỏ" các tướng trời! - Cô Dung nghĩ ngợi.

Bỗng Quy "rùa" nhiều chuyện:

- Cô ơi, cô đi rồi cô có nhớ tụi em không cô?

Cô Dung cười thật dễ thương. Dường như trước mỗi câu nói của cô đều bắt đầu bằng một nụ cười:

- Tất nhiên là cô nhớ các em rồi.

- Nhớ em không cô? - Tín "điệu" cưi rất điệu.

- Nhớ mày làm chi? Mày "ẹo" như con gái thấy mà phát ớn.

- Thôi đi em! Đừng nói bạn như vậy, em không sợ bạn buồn à?!

Một số bạn ngưng đũa lắng nghe câu nói của cô. Lời nói của cô Dung thật hiền từ, như lời mẹ khuyên con. Và đôi mắt của cô thật là ấm áp.

Nhiều đứa chợt ngẩn ngơ luyến tiếc. Từ nay chúng sẽ không còn được nghe giọng nói diệu hiền, ánh mắt nhìn khuyến khích đó nữa. Sao chúng không thấy điều đó sớm hơn một chút nhỉ? Người khác dạy thay cô, biết có thương chúng nó bằng cô không?

Vân Anh âu yếm xớt vào bát cô Dung một ít xôi gà. Nó liến thoắng:

- Cô ăn xôi gà đi cô! Món này bạn Đoan lãnh nhiệm vụ xôi và rán gà, còn bạn Hương Trầm là chuyên viên "đo lường hương vị" thức ăn bằng vị giác đó cô!

Cô Dung cười thú vị, mắt cô mở to đen lay láy nhìn Vân Anh:

- Chuyên viên đo đạc hương vị bằng vị giác đó hả em? Vân Anh có tài dụng chữ ghê nhé! Cô phong cho em là "nàng văn vẻ" đó!

Cả lớp vỗ tay lộp bộp hưởng ứng danh hiệu vinh dự cô tặng cho Vân Anh.

- Hay quá, cô có nhiều chữ quá, cô phong danh hiệu cho em với cô!

Thằng Quang đã hết quê về bài thơ "Khoái quậy" của nó. Bây giờ nó đã lấy lại tinh thần và bắt đầu trở lại tư thế "cà tưng" của mình.

- Em ấy à? - Cô Dung nhướng mắt nhìn nó, một ý nghĩ tinh nghịch chợt lóe lên trong óc cô giáo trẻ. - Cô phong cho em là "Khỉ khọt đại tướng quân"!

Lại một tràn cười thoải mái làm lá cây giật mình xào xạc và chim chóc trong vườn cũng hết hồn bay tuốt lên mây!

Đám con trai nổi hứng xúm lại bê thằng Quang lên cao rồi hè nhau quăng nó xuống ụ rơm gần gốc mít và phá lên cười.

Lại cười, với bọn nhóc học trò, dù ở lớp cuối cấp chúng vẫn nghịch như ranh. Và hôm nay cái ngày quái gì mà bọn chúng đã khiến cho cô Dung nổi tiếng thùy mị, nghiêm trang cũng bị "con ma cười" làm cho muốn vỡ ruột.

Quả vậy, cô Dung đã gập người lại mà cười trước trò tinh nghịch tai quái của bọn học trò.

Bị quăng xuống đống rơm hết hồn, may mà chẳng bị gãy cái sườn nào, thằng Quang lớp ngớp bò dậy phủi mấy cọng rơm vướng vãi trên quần áo và liếc thật nhanh về chỗ bọn con gái đang ngồi xúm xít quanh cô.

- May quá, Tuyết "lùn" không có ở đây. Vậy là nó không hề bị chứng kiến cảnh mình bị "đo đất".

Thằng Quang khoái chí nghĩ thầm rồi chạy tót về chỗ mình ngồi ban nãy. Nó cười toe toét:

- Cô ơi cho hát đi cô.

- Đúng rồi cô! Hát đi cô!

Cô Dung gật đầu, giọng vui tươi:

- Phải đó! Tiễn cô đi, có em nào hát tặng cô không?

Tuyết "lùn" bê ra hai đĩa mít to tướng lột sẵn ra từng múi vàng ươm tươm đầy mật trông thật đã mắt, đặt lên chiếu, xếp cạnh mấy đĩa nhãn "xuồng" gốc Thái Lan to rám nắng. Nó hưởng ứng nhiệt liệt:

- Hoan hô! Cho hát đi cô! Lớp mình nhiều ông hát đã lắm cô!

- Em hát trước cho cô!

- Em đi cô!

- Em, cô!

- Em nè cô!

Cô Dung phất tay, từ tốn:

- Từ từ thôi! Lần lượt rồi em nào cũng được hát hết. Việc này cô giao lại cho phó văn thể nhé!

Hương Trầm đứng dậy:

- Dạ!

Nó nhìn một loạt các "ca sĩ" không chuyên đang hí ha, hí hửng đưa tay lên chờ hát. Chợt ngón tay trỏ dài thòng của nó "xỉ" trúng thằng Tín "điệu" là thằng quái không hề đưa tay.

Thằng Tín bẽn lẽn đứng lên. Gì chứ "món hát" nó ái ngại lắm. Bởi nó có một chất giọng "thiên phú" khi thì eo éo, lúc lại ồ ồ vịt đực. Nên nó chả bao giờ dám trưng bày giọng hát có một không hai này cho ai nghe. Nó âm thầm giấu kín như bưng. Vậy mà bữa nay, bà chị "nhang thơm" nỡ nào hại nó. Nó rủ thầm trong bụng:

- Quỷ vật bà!

Tuy vậy nó cũng cố sửa dáng điệu muôn thuở của nó là "ẻo" một cái và thò một bàn tay lên mái tóc đầy "mút" bóng lưỡng của nó vuốt nhè nhẹ.

- Thưa cô, em xin hát bài "Sớm mai tươi hồng".

- Bài gì mà kỳ vậy?

- Tao chưa bao giờ nghe bài hát có tên kiểu đó!...

Thằng Tín ậm ừ. Đúng ra nó không biết bài nó sắp hát tên gì nữa. Nó chỉ học lỏm bài hát qua giọng ca thằng em quậy của nó.

Có lần nó hỏi thằng em tựa bài hát. Thằng nhóc cười nhe răng sún. Bài "Sunday morning" đó anh hai! Nhưng hồi nãy tụi bạn làm dữ quá, nó quên tuốt tựa bài, đặt đại... tựa mới.

- Thôi được rồi, bài gì cũng được mà. Hát đi em!

Giọng cô Dung nhẹ tênh đầy khuyến khích. Thằng Tín vững lòng, cất giọng vịt xiêm:

- "Sớm mai tươi hồng, mẹ cho năm đồng. Mình giắt vô quần làm rơi mất tiêu. Thôi chết rồi, đành nhịn luôn tới chiều... Má kêu thằng con vô quỳ. Nằm trên ván, má quất cho thằng con tơi bời. Từ đây hết, hết, hết dám cà tưng trên đường. Đau quá trời! Mẹ ơi, con tởn rồi!..."

Thằng Tín vừa dứt tiếng, nó thấy trên chiếu không còn một móng, kẻ bò ra gốc cây, người ngửa cổ xuống bờ ao, kẻ lết ra bờ mía cười như ai móc ruột... Cô Dung đứng bên gốc cam, tay che miệng bằng chiếc khăn mùi soa, mặt cô đỏ ửng, vai cô run run vì những tràn cười không thể kìm nén.

Tất cả đều cười no, cười không nổi. Cười thiếu điều muốn liệt dây thần kinh miệng.

Hương Trầm đã tỉnh cười. Tất cả đều trở lại bên chiếu thức ăn.

Hương Trầm hỏi nhỏ Vân Anh:

- Hát nữa hôn mậy?

Vân Anh mím môi cố dằn một nụ cười sắp bật ra nữa.

- Cười đau bụng muốn chết! Tao sợ tụi nó lại quậy nữa.

- Kệ! Cho quậy tá lả luôn đi! - Nguyệt Quế xúi vô.

Vân Anh quay sang Đoan:

- Mi coi "sẹt via" thêm thức ăn, nước uống cho cô nghe Đoan, để nhỏ Hương Trầm làm việc tiếp.

- Thưa cô, bài hát thứ hai, em mời bạn Hạnh.

Lớp vỗ tay lốp bốp:

- Hoan hô Hạnh "xù"!

Hạnh "xù" nghiêm túc hơn. Nó hát tặng cô bài hát rất có ý nghĩa với cô Dung. Đó là bài hát "Biệt Ly" của Doãn Mẫn.

Nhỏ Hạnh hát rất mùi, rất hay. Nó cất giọng êm ru. Cả lớp nghe say đắm.

- "Biệt ly nhớ nhung từ đây... chiếc lá rơi theo heo may... Người về có hay..."

Đoan "bỏ nhỏ" vào tai Vân Anh:

- Nhỏ Hạnh mượn tựa bài hát để nói lên ý nghĩa của buổi tiệc này!

- Ừa, cũng được ác chớ!

Bài hát thứ ba, nhỏ Tuyết "lùn" phụ trách đó là bài "Trống vắng". Nó nhảy nhót và gào y chang Phương Thanh làm bọn con trai khoái chí quá xá. Phát "ốc mày" chơi hai nắp nồi làm chập chả chiêng. Mấy tướng kia gõ muỗng làm trống. Quang "quậy" say sưa ngắm người đẹp của lòng mình. Ui da! Nó chưa bao giờ thấy ai... hát hay cỡ đó!

Kế tiếp, bạn bè ưu ái chĩa mũi vào Đoan làm Đoan bối rối vô cùng. Tuy vậy Đoan cũng chọn được một bài thơ để tặng cô và cả lớp.

- Thưa cô, em xin mượn lời bài thơ "Bỏ ngôi trường cũ" của Trần Anh Tài để gởi đến cô những tình cảm của học trò lớp mười hai, ngày sắp rời trường xa lớp.

- Tốt quá, đọc đi em!

Đợi tất cả đều im lặng, Đoan chậm rãi đọc từng lời của bài thơ mà Đoan rất thích bằng một giọng sâu lắng đầy xúc cảm:

- "Từ xa bước xuống thềm tam cấp

Là bước chân luôn xuống cuộc đời

Là đã xa rời căn gác chật

Còn gì thương tiếc nữa em ơi!

Dù có thương đi cũng mất rồi

Mấy gian trường cũ phủ tường vôi

Giữ như em giữ nhân tình ấy

Em bỏ ta leo dốc nửa vời

Rồi áo không vương màu phấn bảng

Tai không nghe tiếng đọc bài xưa

Mắt không trốn mắt thầy trong lớp

Để liếc ra sân đón nắng mùa

...

Chân hết đánh chuyền qua phố sáng

Tay không đón bắt nụ hoa đời

Sách vở đi xa vào dĩ vãng

Và bỏ luôn thời thích ô mai

Áo đã không vương màu phấn bảng

Mà in dấu bụi, phấn son hồng

Tay không nghe tiếng thầy xưa giảng

Mà đã nghe đầy tiếng đục trong.

...

Thôi gởi cho em màu phấn trắng

Ô vuông, trang sách tuổi trăng tròn

Ta giữ trong lòng con bướm cũ

Và giữ trong lòng ta tuổi son

Em ạ, mỗi lần nghe nhắc đến

Màu hoa máu rụng mùa đi thi

Là ta nghe chút gì xao xuyến

Như nẻo chim bay khuất lối về..."

Bài thơ với thật nhiều ấn tượng về tuổi học trò năm cuối cấp đã gây cho mỗi người một cảm xúc rưng rưng. Dư âm của nó để lại trong lòng của mỗi học sinh một suy nghĩ. Kể cả những người bấy lâu nay vốn lơ là việc học cũng phải trầm ngâm... về một sự thật hiển nhiên. "Mùa hoa máu rụng, mùa đi thi" và "Cất bước xuống thềm tam cấp, là bước chân luôn xuống cuộc đời"... là sẽ xếp áo thư sinh, giã từ những mộng mơ dễ thương, vô tư nhất của tuổi học trò và kỷ niệm của mười hai năm đèn sách... Không ai còn nhớ đến chuyện vỗ tay sau khi nghe bài thơ "Bỏ ngôi trường cũ" nhỏ Đoan vừa đọc. Mọi người cũng thôi tinh nghịch. Cô Dung nói lời từ biệt với lớp.

Hình như mọi người đã biết buồn trước tình cảm chia tay quyến luyến với cô giáo cũ. Cô Dung tận tình khuyên nhủ lớp cố gắng học để đạt kết quả tốt đẹp ở kỳ thi tốt nghiệp. Cô cũng không quên nhấn mạnh nghĩa vụ học tập của mỗi người. Cô khuyên cả lớp dù học với ai cũng phải cố gắng. Mọi sự thành công đều bắt đầu bằng chính sự lao động cật lực của mình.

Cô cũng ân cần chỉ bảo ban chỉ huy của lớp biết cách khéo léo điều khiển lớp, đánh thức lòng tự giác học tập của mỗi bạn để từng bước đi lên.

Cô dạy Vân Anh phải biết "đắc nhân tâm" tạo tâm lý và tình cảm mến mộ nơi các bạn sẽ dễ dàng hơn trong khâu quản lý lớp.

Bất chợt cô nhìn Đoan, ánh mắt cô thật đằm thắm dịu dàng:

- Thục Đoan, cô thấy em rất có khiếu về môn học của cô. Cô hy vọng em có thể giúp các bạn nào học yếu về môn học này. Và cô cũng nghĩ em sẽ có nhiều tiến bộ rất xa trong tương lai...

Ngập ngừng một chút cô nhìn cả lớp rồi lại nhìn Đoan như muốn nói với riêng Đoan:

- Ở tuổi các em cô biết nhiều em rất có tâm hồn lãng mạn. Với cương vị một người chị, cô thành thật khuyên các em hãy biết đặt tình cảm của mình đúng chỗ, chớ vội yêu đương trong tuổi học trò! Bao giờ các em thật sự trưởng thành, ra đời có công việc làm rồi, lúc ấy các em sẽ chín chắn hơn...

- Cô không nói được nhiều hơn với các em, nhưng lòng cô luôn hướng về các em rất nhiều. Mai đây, thầy Vĩnh sẽ thay cô hướng dẫn các em học tập và công tác chủ nhiệm, cô mong các em sẽ luôn ngoan ngoãn, học tập tốt để đạt thành tích tốt...

Rồi cô nhoẻn miệng cười rất xinh. Cô khẽ đưa một bàn tay lên vẫy. Ánh mắt cô lóng lánh yêu thương.

- Cô sẽ rất vui... khi nghe tin các em vào đại học.

Ngoài vườn, nắng đã dịu dần. Vài cơn gió nhẹ làm lá cây xào xạc như cũng góp lời chia tay cùng cô giáo. Vài tiếng chim ríu rít vô tư trong vòm lá, hương ngọc lan thoáng gần thoáng xa ngan ngát trong khu vườn rộng.

Cô Dung thân ái xiết chặt tay mỗi học trò.

Thầy trò bịn rịn chia tay nhau trong cảnh chiều rơi nhè nhẹ. Chương 3 :

Sáng nay thời khóa biểu có hai tiết đầu là giờ Văn. Đoan lấy tập ra ôn lại bài cũ. Bài học này hồi hôm Đoan đã học kỹ lắm rồi, bây giờ ôn lại tí xíu đã xong.

Bạn bè lục tục kéo vào lớp mỗi lúc càng đông kèm theo âm thanh náo nhiệt của một chợ hàng quà. Tiếng cười nói, trêu ghẹo nhau, tiếng chép chép của mấy cái miệng nhai bánh, tiếng hút nước mía, nước đá trong bịch rột rột trộn lẫn với tiếng kéo bàn ghế, tiếng đập vỡ trên bàn phủi bụi và tiếng ó ré rần rần gọi nhau í ới loạn xị...

Vốn không ưa tiếng động ồn ào, Đoan bỏ ra ngoài hành lang. Nơi đây Đoan có thể yên thân một tí, ngắm cảnh nắng đẹp mà không bị ai quấy rầy. Bởi tầm nhìn từ trong lớp ra ngoài hành lang, nơi gốc cột Đoan đứng đã bị cánh cửa lớp to đùng che khuất, liếc vào trong thấy mọi người vẫn xí xô, xí xào với nhau, chẳng ai thèm đếm xỉa tới mình. Đoan khoái chí mỉm cười.

Thời tiết bây giờ là cuối thu, chuẩn bị bước sang đầu đông. Mùa thu chừng như còn nuối tiếc những ngày cuối mùa quý giá nên phủ lên màu nắng sớm mai một màu vàng trác tuyệt, thứ màu vàng sánh như mật ong, đẹp quý phái như một tà áo lụa. Nắng cuối thu đẹp thế, bầu trời cuối thu càng đáng yêu hơn với màu xanh phơn phớt và màu mây bàng bạc. Gió thu se se mát rượi. Trời thu tạnh ráo và đáng yêu biết mấy. Thảo nào đã có thi sĩ đã tốn biết bao nhiêu là giấy mực để ca ngợi và thổn thức với mùa thu!...

- Ôi, mùa thu dễ thương đến chết người!

Đoan buột miệng reo nho nhỏ và hé một nụ cười nghịch với gió thu.

Bỗng Đoan chợt xìu xuống như một quả bóng xì hơi, hết còn những niềm phấn khích ban đầu. Bởi Đoan vừa khám phá ra rằng mùa thu dễ thương của Đoan rồi cũng sẽ ra đi theo một qui luật muôn đời bất di bất dịch để nhường bước cho một mùa mới, cũng như cô Dung đáng yêu ngần ấy cũng đã đi rồi. Cô đi vào cuối mùa thu để lại trong lòng Đoan một nỗi buồn man mác.

Rồi Đoan lại mỉm cười vu vơ.

- Hôm đó sao mình không hát bài "Buồn tàn thu" để tiễn cô đi?

Đoan chợt nhớ lời cô ngày đầu nhận lớp. Cô chào cả lớp bằng hai câu thơ nói về mùa thu rất tuyệt.

- "Hôm nay có phải là mùa thu?

Mây năm xưa đã phiêu du trở về!..."

Cô đến với các em vào mùa thu và cô hy vọng cô cũng sẽ yêu mến các em như yêu mến mùa thu...

Hôm đó Đoan đã buộc miệng reo lên: "Cô tuyệt quá!"

Có khi nào bởi thế mà cô bảo rằng Đoan lãng mạn chăng?

Những cánh hoa me tây xòe những sợi li ti phơn phớt tím rung rinh trong nắng thu vàng đang nghiêng cánh trêu Đoan lãng mạn. Đoan xòe lòng bàn tay đón lấy bông hoa và thì thầm với nó:

- Mi cũng xinh lắm! Nhưng làm sao bằng được mùa thu ngà ngọc trong ta?

Hai bàn tay bưng má, Đoan vẩn vơ nhìn xuống lòng phố, tìm kiếm bâng quơ. Những lúc mơ mộng thế này, Đoan chẳng bao giờ để tâm chú ý đến chung quanh.

Nắng vẫn rải thảm vàng tươi lên không gian rực rỡ. Gió vẫn đùa với đôi má chớm hồng của Đoan và nghịch cho tóc Đoan bay.

Trong nắng, Đoan thấy có một chú bướm vàng, cánh chấm huyền rực rỡ. Chú bướm ve vãn bên bông hoa me tây, đậu trên bông này một tí, vờ hôn hoa kia một xíu rồi lảng vảng bay đi.

Chú bướm làm Đoan bật cười khi nghĩ đến bước chân lãng tử của tình yêu trong bài thơ "Áo lụa Hà Đông" thật dễ thương mà cô Dung có một lần đã đọc.

"Em chợt đến chợt đi, anh vẫn biết

Trời chợt mưa, chợt nắng chẳng vì đâu...!"

Đoan thích dõi mắt nhìn theo chú bướm. Chú bướm đa tình thoắt đậu thoắt bay như anh chàng hay cô nàng nào đó trong bài thơ tình yêu thật đẹp.

Và cô? Không biết bây giờ cô đang làm gì. Không biết cô có dành một ngăn tim hồng bé nhỏ để "nhốt" bầy học trò tinh nghịch của cô không? Sao cô không ở lại tiếp tục dạy bọn Đoan học hành cho đến nơi đến chốn?

Hay cô là thi sĩ của mùa thu? Bởi chỉ có thi sĩ mới ra đi trong mùa thu để tìm cảm hứng mới!

Chẳng biết trong lòng vui hay buồn, Đoan bật ra tiếng hát khe khẽ:

- "Em ra đi mùa thu, mùa thu không trở lại. Em ra đi mùa thu, sương mờ giăng êm ru..."

Bất chợt Đoan có cảm giác như có ai nhìn mình sau lưng và phát hiện ra không gian chung quanh không còn náo nhiệt nữa. Đoan quay phắt lại và sững người khi thấy một chàng tuổi trẻ đang "khoanh tay rế" nhìn Đoan không biết tự bao giờ và cả lớp đang im ru một cách đáng ngờ hướng tầm nhìn về phía hành lang. Có kẻ lại che tay cười len lén.

Liếc về hướng bàn giáo viên, Đoan hết hồn hết vía khi thấy trên bàn lù lù một chiếc cặp hộp màu đen.

- Thôi chết!

Đoan "tá hỏa tam tinh" khi hiểu ra kẻ bí mật chiêm ngưỡng mình từ sau lưng nãy giờ mà không thèm "đánh thức tầm xuân" là ai rồi!

Với một phản ứng tự nhiên khi có điều lo sợ, Đoan rụt cổ lại rồi le lưỡi một cái, nhìn ông thầy mới trông rất buồn cười rồi cúi đầu xuống nhìn nền gạch hoa di dí mấy ngón chân, yên lặng.

Đoan chẳng dám nhìn ông thầy "mới tinh khôi" nữa dù rất muốn "bói" xem qua vóc dáng bên ngoài, tính tình ông thầy như thế nào. Đó là một thói quen bất hủ của muôn vạn học trò. Thế nhưng, Đoan hoàn toàn không dám ngó lên.

Thầy giáo vén áo nhìn đồng hồ tay rồi mỉm cười hỏi Đoan:

- Mơ mộng thế có vừa chưa nhỉ? Hết mười lăm phút quý báu của tôi rồi đấy!

Cả lớp cười rào lên làm Đoan quê quá cỡ, chỉ muốn đất nứt ra nhanh để Đoan biến ngay xuống đó và giấu biến sự xấu hổ của mình.

Đoan ngượng chín người. Chắc là má Đoan bây giờ đỏ lắm đấy! Bởi Đoan thấy nó cứ nóng ran lên làm Đoan khó chịu vô cùng.

Đoan muốn mọc cánh thành chú bướm vàng khi nãy để bay đi cho khuất mắt ông thầy "tai ác" và lũ bạn độc mồm đang reo hò chế giễu Đoan một cách ồn ào như sóng vỗ.

- Thôi đủ rồi nhé! Để hôm nào hãy mơ mộng tiếp.

Vài tiếng cười hinh hích lại nổi lên. Đoan ngượng nghịu đi nhanh về chỗ ngồi và tự thấy giận tội khinh suất của mình ghê gớm.

Vừa ngồi xuống, nhỏ Hương Trầm đã mở "vô lum":

- Ngó ai ngoài đó mà quên hết chung quanh vậy "chị"?

Đoan thì thào:

- Trống đánh hồi nào, tao có hay đâu!

Nguyệt Quế che miệng cười hi hí:

- Má ơi! Trống đánh muốn vỡ con rái mà nó không hay! Kinh khủng thật!

- Chắc bị anh chàng nào ở dưới ngoắc xuống rồi chứ gì? Mày ngó mặt coi, xanh xao thấy mà thương ác đế!

- Ừa, bởi vậy mới có người thương... Thấy "người ta" đứng cả canh ngoài đó mà đâu dám "dũa"! - Nguyệt Quế nháy nháy với Hương Trầm cười tí toét.

Hương Trầm vờ che tay lên trán ngắm Đoan một phát rồi khen:

- Chao ui, nó xinh quá mày à!

- Mặt thoáng nét xanh xanh

Pha lẫn tí hồng hồng

Chắc là em mắc cỡ?

Cô bé "cắt kè bông"!...

- Hí, hí! "Cắt kè bông" mơ mộng!

Dù hiền như bụt, Đoan cũng muốn đạp cho hai con bạn quá quắt một phát khi nghe chúng nó gục xuống bàn cười lục khục. May sao, Vân Anh đã quay qua hét nhỏ:

- Suỵt!... Suỵt! Im đi! Thầy nhìn kìa!

Đoan len lén nhìn lên. Đúng là ông thầy đang chiếu cố đến dãy bàn của Đoan, dáng rất hào hoa phong "nhỉ". Thầy đĩnh đạc phán cùng cả lớp:

- Hôm nay là tiết dạy đầu tiên của tôi ở trường này. Tôi định để ra một ít thì giờ để chúng ta làm quen với nhau. Nhưng đã mất hết gần nửa tiếng đồng hồ phù du! Như thế xem như chúng ta thông qua phần này. Bây giờ trước khi vào tiết học, tôi muốn có vài ý kiến với các em. Được dịp cả lớp nhao nhao lên. Tính cà khịa muôn thuở của "thứ ba... học trò" bắt đầu.

Một giọng "ông nội" cất lên kèm theo tiếng vỗ tay cái bốp:

- Đúng dzồi! Có gì cứ nói đại đi thầy!

- Thoải mái đi, đừng ngại ngùng gì hết thầy! Cứ coi tụi em như bạn bè, em út của thầy vậy đó mà!

- "Cởi mở" đại đi thầy!

Một cánh tay đưa lên kèm theo tiếng búng tay cái "chóc" và một giọng nói cỡ tay "anh chị bự" cất lên:

- "Tứ hải giai huynh đệ", bốn bể cũng... là nhà mà... hé thầy!

Cả chục cái miệng lắm lời được dịp khua môi múa mép. Thầy giáo rời bục giảng từ từ tiến về dãy bàn đầu của lớp. Tiếng xôn xao có vẻ lặng dần bởi gương mặt đẹp trai của thầy đang có phần giống hệt... Triển Chiêu... đang thi hành lệnh truy nã!

Thầy quét một tia nhìn bao quát lớp tựa như tia sáng của ngọn hải đăng quay một vòng trên mặt biển, khiến cả lớp khép miệng ngay lập tức. Thầy khẽ mỉm cười để không khí bớt căng rồi tự giới thiệu:

- Tôi là Lê Phúc Vĩnh, giáo viên phụ trách môn văn ở trường này...

Lại tiếng xì xào nho nhỏ:

- Chậc! Tên đẹp ác!

- Tên đẹp nhưng mặt có phần hơi "hình sự".

- Cỡ Bao Thanh Thiên trước giờ hô "khai... đao...!" hì hì...

- Ông thầy tên giống vua, có lót chữ "Phúc" chắc là "chít tám đời" của Bảo Đại quá.

- Ê, ổng họ Lê giống con Thục Đoan!

- Chà! Chà! Sự trùng hợp có... định mệnh chăng?

Trên kia thầy tiếp tục nói:

- Kể từ hôm nay, tôi chính thức vừa dạy vừa chủ nhiệm lớp. Các em... mỗi người có một cá tính. Riêng tôi, tôi không thích phải áp chế bất cứ ai bằng bạo lực. Tôi cũng không hề thích "phạt vạ" ai bao giờ. Tuy nhiên tôi cũng sẽ chẳng bỏ quên hay "sót" bất cứ em nào lười biếng, chểnh mảng học tập, hoặc cố tình quậy phá...

- Cha, ghê ác!

- Giống công an quá!

- Hổng dám đâu! Giống ông... tổ trưởng khu dân phố thì có!

- Bộ ông trưởng khu dân phố của mày quậy lắm hả?

- Ê, úp mặt xuống mau! Ổng dòm mày kìa! Híc! Híc!

- ... Tôi tích cực giảng dạy vì các em thì tôi nghĩ các em cũng cần để tâm học tập vì chính các em và vì cả tôi! - Giọng thầy chắc nịch. - Chúng ta làm việc phải có một sự ràng buộc với nhau về trách nhiệm thì mới đạt được kết quả tốt đẹp.

Thầy ngừng lại nhìn cả lớp để kịp thời trấn áp các cái mồm nhiều chuyện và các cặp mắt láo liên rồi tiếp:

- Tôi không nói nhiều bởi tôi nghĩ các em sẽ hiểu nhiều những gì tôi muốn nói, vì các em đã trưởng thành... Lời cuối tôi muốn nói với các em là tôi rất mong các em đạt kết quả hết sức tốt đẹp ở hai kỳ thi lớn.

Thầy trở về bục giảng. Ánh mắt trong sáng thoáng một nét vui tươi và tình cảm.

- Các em đồng ý chứ?!

- Dạ, đồng ý!

- Tốt. Bây giờ chúng ta bắt đầu vào tiết học. Vì đây là tiết dạy đầu tiên của tôi nên tôi không kiểm tra bài học của các em. Tiết học sau, tôi sẽ kiểm tra. À, tôi cũng thích kiểm tra đột xuất lắm nhé!

Thầy Vĩnh khẽ nhếch môi cười nhẹ. Buổi học đầu tiên thầy thấy cần phải "giữ kẽ" một chút với học trò. Bởi chúng nó luôn lợi dụng thời cơ "trèo lên đầu, lên cổ" những người thầy dễ tính, "yếu cơ" với chúng kể từ giờ lên lớp đầu tiên.

Bên tai Đoan, loáng thoáng giọng khao khao của nhỏ Tuyết "lùn":

- Thầy "đẹp chai" hết cang!

Hạnh "xù" góp lời chê nho nhỏ:

- Đẹp "chai" mà căng thấy sợ!

- Ông thầy khó quá chắc chắn sẽ bị "ế" tới già!

- Hí, hí! Ế hả? Đẹp "chai" lại biết "đeo dai" thì đâu có ế?!

- Xạo đi! Đeo ai? Đeo mày à?

- Tao làm gì có "vé"! Con Đoan kìa! Chính nó mới làm cho chàng có những ấn tượng đầu tiên! Hì! Hì!

Đoan quay xuống bàn dưới tìm ra kẻ phát ra câu nói ác miệng kia và phát hiện đó là Tuyết "lùn", Đoan định thò tay cho nó một cái "kí" nhưng vừa mới đưa tay lên thì bị thầy "chiếu tướng".

Thầy Vĩnh tròn mắt ngạc nhiên nhận ra "cô bé mơ mộng" ngoài hành lang. Thầy hỏi:

- Em muốn phát biểu gì cơ?

Đoan quê muốn chết. Giận mình không ngó trước ngó sau nên bị thầy... cho quê một lần nữa. Một phần Đoan lại ức con nhỏ Tuyết "lùn", mắc gì mà nó bảo thầy có "ấn tượng" với mình?

Lúc tức ai, có lẽ mặt Đoan trông giống "khỉ ăn ớt" lắm chăng. Nên Đoan thấy mặt thầy có phần dịu lại. Miệng thầy mủm mỉm:

- Có gì cần nói không em?

- Dạ thưa thầy, không! - Đoan ấp úng.

- Thế mà tôi lại thấy em đưa tay lên rõ ràng đấy chứ! - Lần đầu tiên giọng thầy Vĩnh pha chút dí dỏm.

- Thôi được rồi! Nếu không có gì, em cứ ngồi xuống. Lần sau đừng nghịch nữa đấy nhé! Bây giờ ta vào bài mới!

Thầy Vĩnh đến bên bàn lấy phấn. Thầy viết lên bảng tựa bài: "Văn học Việt Nam từ cách mạng tháng 8 - 1945 đến 1975". Nét chữ của thầy dịu dàng như những cánh bướm chao nghiêng.

Đám học trò bên dưới hít hà:

- Thầy viết đẹp kinh khủng!

- Hỏng đẹp thì sao làm thầy được à!

- Có người viết xấu hơn cũng làm thầy được chứ bộ.

- Ai đâu?

- Mày chứ ai? Tao bói rằng mày lớn lên sẽ làm một "cô váo" đấy!

- Tốt! Tao sẽ dạy con mày và cho con mày "xơi" trứng vịt dài dài.

Một cú nhéo bất ngờ vào đùi "bà thầy bói" láo, làm nó ré lên điếc óc:

- Ái ui! Đau!

Biết có sự cố "mở hàng". Thầy Vĩnh ngừng tay phấn ngó về phía có tiếng la:

- Cái gì khiếp vậy các em?

Mọi con mắt ngạc nhiên đổ dồn về phía nhỏ Hương Trầm:

- Lớp phó văn thể "quậy" đó thầy! - Bên con trai tố cáo.

Hương Trầm thiếu điều chết đứng vì cái nhéo đau điếng của con Nguyệt Quế thì ít mà nó "hãi" vì thầy thì nhiều. Nó lính quýnh tính kế lấy "vải thưa che mắt thánh".

- Thưa thầy, em thấy một con chuột bò lên chân em nên em bị... hết hồn!...

Thầy suy nghĩ một chút rồi à lên:

- Lớp các em "ăn hàng" chắc kinh lắm nên có... ổ chuột trong lớp. Lớp phó lao động cần rút kinh nghiệm khâu vệ sinh nhé. Tôi không thích làm bài giảng của tôi bị gián đoạn đâu.

Hương Trầm lí nhí:

- Dạ, em xin lỗi thầy!

Một "ông mãnh" thích chơi ngông, ngứa miệng la lên:

- Thầy có lỗi đâu mà cho em?

Thầy Vĩnh bỏ phấn xuống, khoanh tay nhìn xuống lớp, giọng rắn đanh:

- Các em cố tình không hiểu lời tôi nói với lớp ban nãy. Tôi chỉ tiếc trong suốt hai tiết học, các em chưa học được chữ nào. Bây giờ nếu các em không thích học, các em cứ thoải mái chơi cho hết giờ.

Vân Anh không giấu được bực mình. Nãy giờ nó thấy bạn bè quá lắm! Tưởng sao, con Hương Trầm, Nguyệt Quế cũng "phản phé", hành động "dở hơi" y như mấy thằng cuối lớp. Vân Anh cằn nhằn:

- Lại có chuyện nữa rồi!

Bỗng, tùng, tùng, tùng,... tiếng trống báo hiệu giờ giải lao vang dội. Thầy Vĩnh ôm cặp bước ra, không quên để lại một câu đáng nhớ:

- Tiết học sau của tôi, hy vọng các em biết suy nghĩ hơn.

Thầy đi ra ngẩng cao đầu, mắt nhìn thẳng về phía trước. Nhiều tiếng tặc lưỡi và xuýt xoa nho nhỏ:

- Thầy khó thấy sợ!

- Đẹp trai nhưng không có... ba gai!

Tiết học đầu tiên của thầy giáo chủ nhiệm mới diễn ra như thế! Chương 4 :

ĩnh soạn lại mớ bài kiểm tra tập làm văn một tiết của lớp rồi sắp xếp, phân loại theo thứ tự giỏi, khá, trung bình, và loại bài dưới điểm năm thành từng xấp riêng biệt để tiện việc tổng kết và nêu ưu khuyết điểm cụ thể khi trả bài cho học sinh.

Anh cảm thấy hài lòng một chút khi thấy chỉ có ba bài bị điểm bốn. Đây là kết quả gần một tháng trời rèn luyện như thế, tác phong học tập nghiêm túc cho học sinh bằng nhiệt tình giảng dạy của thầy. Ba học sinh điểm yếu này, Vĩnh không thấy ngại lắm. Anh dư sức nâng số lượng học sinh yếu này lên một bậc. Bởi Vĩnh có một phương cách đặc biệt riêng của mình trong phương pháp đứng lớp. Nhất là ở thể loại phân tích và lý luận văn học.

Nhớ lại những ngày đầu mới nhận lớp, Vĩnh thấy ngao ngán làm sao! Lớp lang gì như một cái chợ. Thành phần nghịch phá gần như đa số. Kể cả nam lẫn nữ. Tuy nhiên chúng chỉ quậy bằng mồm, nghịch trong giờ học bằng cách nói leo, nói tếu. Còn thành phần bất hảo nặng ký hơn như choảng nhau hay lập băng nhóm đánh nhau thì không có.

Trong công tác chủ nhiệm, Vĩnh luôn chịu khó tìm hiểu hoàn cảnh từng đối tượng để kịp thời uốn nắn, sửa chữa từng học sinh, nhất là đối với thành phần cá biệt.

Là loại người năng nổ, xốc vác trong công tác và với bầu nhiệt huyết của tuổi thanh xuân, anh quyết tâm chỉnh đốn nề nếp lớp, tìm hiểu tính cách của mỗi học sinh, sử dụng nguyên tắc vừa nhu vừa cương trong dạy học và trong chủ nhiệm. Dần dần anh đã thu phục nhân tâm... chúng bớt phá, tỏ vẻ thích học, thích nghe anh giảng hơn nên kết quả học tập tương đối khả quan. Bằng chứng là những bài kiểm tra này. Vĩnh thấy vui vui một chút. Anh khẽ nở nụ cười.

Là một giáo viên trẻ, ra trường được bốn năm nay, Vĩnh luôn thích "đi bất cứ nơi đâu đất nước cần". Hơn nữa, với anh, có đi nhiều mới thấy nhiều cảnh đẹp của quê hương, góp phần làm sinh động cho bài giảng và càng phổ vào lòng học sinh tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước và yêu con người tha thiết. Từ đó chúng biết cách sống đẹp, thể hiện qua hành động, biết sống "mình vì mọi người".

Anh xem lại xấp bài. Tình cờ anh cầm lên bài kiểm tra xuất sắc nhất của một em với số điểm "maximum" - điểm chín. Bài kiểm tra này anh không nhớ tên "tác giả". Nhưng anh đã đọc đi đọc lại bao lần rồi mà vẫn thích đọc thêm. Bởi bài làm thật sạch sẽ, nét chữ mềm mại, chân phương, ý tứ súc tích phong phú, lời lẽ khúc chiết, văn phong gọn đẹp với nhiều dẫn chứng xác thực. Chỉ tiếc là cả lớp không có bài thứ hai làm tốt như vậy!

Anh tò mò nhìn lên khung ghi tên của học sinh. Tác giả bài là Lê Nguyễn Thục Đoan. Vĩnh nhìn nét bút màu mực tím lãng mạn trên nền giấy trắng tinh thẳng nếp, phảng phất mùi hương dìu dịu của loại mực có hương thơm rồi bất chợt mỉm cười.

- À! Thì ra bài làm của cô nàng này đấy!

Trong trí Vĩnh những hình ảnh từ một tháng trước, khi anh mới nhận lớp, vội vã trở về. Cái cô bé học trò nho nhỏ khá kỳ lạ, một mình... một thế giới mộng mơ ngoài hành lang đây mà!

- Úi chà! Đã mơ mộng mà còn hát hò nho nhỏ nữa chứ! - Vĩnh cười thú vị.

Vĩnh nhắm mắt lại vẫn thấy nhớ khá đầy đủ ý tứ bài văn.

- Hèn gì, cô nàng là cán sự văn của lớp!

Vĩnh quyết định sau khi phân tích xong ưu khuyết điểm của từng bài, anh sẽ cho học sinh chuyền đọc bài văn của Đoan để các em khác sẽ rút kinh nghiệm cho mình ở bài sau.

Lật tới lật lui tờ giấy kiểm tra mà không hề chủ định, theo một thói quen khi đang suy nghĩ một điều gì, Vĩnh khẽ gật đầu mỉm cười khi nhớ lời một bài thơ khá dễ thương:

"Trang giấy thơm bé giữ giùm thầy nhé

Cất yên lành những lời giảng, dặn dò

Vì hôm nay thầy như cánh bướm mơ

Bay xa mãi đến nơi nào bé biết?..."

Vĩnh bật cười tự nhủ: "Anh chàng thầy giáo nào lãng mạn thế nhỉ?"

Về phương diện tình yêu, Vĩnh quan niệm đó là một tình cảm hết sức tự nhiên, không cần phải vội vàng như nhà thơ Xuân Diệu bảo:

"Mau với chứ, vội vàng lên với chứ!

Em yêu ơi, tình non đã già rồi..."

Bởi anh nghĩ rằng với tình yêu hãy để cho nó đến thật tự nhiên và nếu cần thì để nó tự nhiên khi nó đến.

"Tình yêu đến, tình yêu đi ai biết!

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt..."

Nói về tình yêu mỗi người có một quan niệm riêng và chẳng có giấy bút nào để tả, nói hết về tình yêu của con người.

Về phương diện này, dưới mắt một người dạy văn Vĩnh có thể diễn đạt hoặc giải nghĩa bằng thi ca chứ còn kinh nghiệm bản thân, Vĩnh hãy còn "sót" lắm!

Thuở còn đi học, là học sinh lớp mười hai và thuở là sinh viên Vĩnh cũng đã có lần thấp thoáng "trông vời áo tiểu thơ". Nói là "thấp thoáng" bởi vì anh chỉ mơ màng thấy "tim rung động" chứ chưa hề trải qua một tình yêu thật sự nào cả. Bởi vì anh hơi khó tính và nghiêm trọng chăng?

Loay hoay cất xấp bài vào cặp, Vĩnh khẽ gật gù:

- Anh chàng thầy trong bài thơ trông có vẻ diễm phúc khi trò chuyện với người yêu là cô bé nữ sinh.

Còn Vĩnh thì sao? Có lẽ trái tim anh đã khô, chai mất rồi chăng?! Bởi anh chỉ tìm được xúc cảm chân thật qua bài giảng. Còn nữ sinh lớp mười hai, anh vẫn thấy chúng... bé bỏng làm sao ấy! Dưới mắt anh, chúng mãi mãi là học trò, là các đệ tử của anh thôi!

- Bây giờ mình quan niệm thế, chứ mai sau... ai biết được sự đời?!...

Vĩnh nghĩ ngợi như thế và mỉm cười vu vơ. Anh trở lại bàn viết chuẩn bị sách vở đi dạy.

Trời đã vào đông, gió heo may đem cái lạnh se se thật dễ thương đến với mọi người. Buổi sáng không khí có vẻ trông đáng yêu hơn vì có sương mù bàng bạc bay qua kẽ lá, vòm cây làm cho không gian mờ ảo như có mây mờ giăng kín.

Trời mùa đông có cái xinh đẹp riêng của nó. Tiết trời mùa đông làm Vĩnh cứ liên tưởng đến lời một bài hát nói về một phố núi cao nguyên rất là kỳ ảo...

"Phố núi cao, phố núi đầy sương

Phố xá cây xanh, trời thấp thật buồn

Anh khách lạ, đi lên, đi xuống.

May mà có em, đời còn dễ thương

Em Pleiku, má đỏ môi hồng

Ở đây buổi chiều, quanh năm mùa đông

Nên tóc em ướt và mắt em ướt

Nên em mềm như mây chiều trong..."

Mùa đông, phố núi Pleiku có vẻ đẹp kỳ ảo với phố cây xanh và trời thấp thật u buồn. Càng đẹp hơn nữa khi có các cô em "má đỏ môi hồng" làm cho lòng người ngơ ngẩn như say vì cái lạnh và cái đẹp.

Anh chàng khách lạ nào đó, đến xứ lạnh Pleiku chợt dâng tràn một nỗi buồn xa cách. May mà anh còn có người để cảm thấy "đời còn dễ thương"...

Mùa đông, thành phố nơi Vĩnh đến dạy học cũng khá dễ thương với các sắc áo len tô điểm con phố. Nhưng ở thành phố này, Vĩnh không có ai "má đỏ, môi hồng" để làm anh náo nức mộng mơ. Cho nên đời anh vẫn bình yên như mặt hồ tĩnh lặng. Không có ai làm lòng anh vương vấn. Mùa đông của Vĩnh chỉ đơn giản có những cánh bướm trắng trong sân trường khoác áo len đủ màu đi học, làm vui mắt anh thôi! Vĩnh nhìn lại mình, người phong phanh một chiếc áo sơ mi trắng nếp, lịch sự. Không áo ấm, áo len, nghênh ngang trong lòng phố, tận hưởng hương vị đất trời vẫn thấy mùa đông đẹp ghê nơi... Chương 5 :

- Ê, tụi mày ơi! Lại đây xem tao nhặt được cái này nè!

Tiếng Nguyệt Quế la oai oái khi nó lia chơi trong hộc bàn chỗ của Đoan.

- Gì đó! Gì đó!

- Có "kí rì" quan trọng hôn mà la dữ vậy?

- Nhanh lên đi! Bảo đảm hấp dẫn "bá cháy" luôn.

Lập tức mấy cái chổi bị vứt xuống đất. Ba cái đầu chụm lại trên một tờ giấy tập học trò gấp làm tám.

Nguyệt Quế vừa cười hí hí vừa mở tờ giấy chiến lợi phẩm bày ra trước mặt Vân Anh và Hương Trầm. Nó làm ra vẻ bí mật. Mắt nó láo liên hướng về cửa lớp. Dầu trời còn sớm, nó vẫn lo... bị con mắt của kẻ thứ tư phát hiện. Bởi vì hôm nay tổ trực nhật thứ tư của Nguyệt Quế đã tình cờ khám phá ra một "bức thư tình mùa đông" của một "chàng bí mật" gởi cho nàng Thục Đoan.

Nó liếc về cửa lớp ra lệnh:

- Ê, tới cửa sổ đọc cho sáng. Nhớ coi chừng con nhỏ Đoan tới!

Hương Trầm láu lỉnh:

- Được rồi! Để tao canh me nó cho!

- Có gì đâu! Nó vô thì đọc cho nó nghe luôn! - Vân Anh nhẹ nhàng hơn.

- Đọc lẹ đi để tụi nó vô là "bể"!...

Sáu con mắt lại "thò" vô tờ giấy, chợt Hương Trầm la lớn:

- Ê, thơm quá tụi bây ơi! "Tướng" này chơi ướp nước hoa vào bức thư tình của hắn để "hớp hồn" người đẹp đấy! Khà, khà! - Nó khịt mũi hít hà.

- Thơm thúi gì kệ người ta! Mày sao... "lu sơ bu" quá! - Nguyệt Quế nóng nảy.

Sáu con mắt tò mò lại "chõ" vào tờ giấy, hồi hộp như ăn vụng sợ bị bắt quả tang! Cả ba đều nín thở theo dõi những dòng chữ nắn nót:

"Thục Đoan thân mến,

Phải nói rằng mình rất vui khi viết cho Đoan mấy chữ này. Nó chứng tỏ lòng mến mộ của mình với "chủ nhân" của những bài luận văn "quá đã" mà thầy vẫn thường đọc cho cả lớp nghe...

Mấy năm nay mình thấy mến Đoan chút chút qua tính tình nhu mì và vẻ dịu dàng của bạn. Nhưng mình đành "ngậm tăm" vì quanh bạn có nhiều "nữ vệ sĩ" đắc lực quá nên mớ tình cảm mới nảy sinh đó đành chỉ là... phù vân thôi Đoan ạ!

Bây giờ mình lại viết cho Đoan những dòng này vì mình thấy tình cảm của mình đối với Đoan bấy lâu nay cũng vẫn vậy. Nó không chết đi mà nó vẫn tiềm tàng ngày một... nặng sâu.

Nếu Đoan từ chối, chắc chắn mình sẽ không bao giờ thi nổi. Vì trái tim của mình lúc này nó cũng thường xuyên "bị lên máu" mỗi khi Đoan vô tư, hời hợt với mình...

Mình không xưng tên nhưng hy vọng Đoan biết mình là ai khi đọc kỹ những dòng trên đây. Nếu viết cho mình, Đoan cứ để ngay chóc chỗ Đoan nhận thư này là mình sẽ nhận được.

Thôi mình stop. Nhớ giữ "bí mật quân sự" trước các "nữ vệ sĩ" của Đoan...

Thân ái,

T.Đ."

- Ý cha mẹ ơi! Thuở đời viết thư tỏ tình mà ký tên tắt, ai mà mò ra tên ông tác giả!

- Dễ ẹt! Cứ dò hết mấy tên ông có mẫu tự TĐ là biết chứ gì!

Nguyệt Quế lõ mắt:

- Í, sao lại là "TĐ" hả mày? Rủi "TĐ" là Thục Đoan rồi sao?

- Đồ khùng! Không lẽ nó đi gởi thư tỏ tình cho nó hả?

Nguyệt Quế chớp mắt:

- Ừa hé! Tao quên!

Và nó lại cắn môi:

- Vậy chứ "TĐ" là ai cà?

Hương Trầm xòe tay:

- Lớp mình có ba "ông thần" tên có mẫu tự "TĐ", Thuận Đức nè, Trí Đạo nè, Tuấn Đăng nè! Rồi đó! Đâu tụi mày thử nghĩ xem ai là tác giả bức thư này?

- Bố tao cũng không biết nổi!

- Vậy phải điều tra cấp tốc chứ sao?

- Điều tra bằng cách nào?

- Khó gì! Ăn cắp của mỗi ông một quyển tập để đọ chữ với lá thư chứ sao!

- Hà hà sáng trí! Sáng trí! Đáng thưởng cho một cái "kí"!

- Đừng tào lao nữa! Đứa nào lãnh nhiệm vụ "ăn cắp" tập của ba thằng "TĐ"?

Hương Trầm cười khoe hàm răng trắng nõn:

- "TĐ" hay là "Pê Đê"?

- Bậy bạ! "TĐ" mày! "Pê Đê" ở đâu đây? - Nguyệt Quế trề môi.

Vân Anh nháy mắt:

- Ê, có vài đứa vô lớp rồi đó! Quét lớp lẹ lên! Giờ chơi bàn tiếp!

- Để giờ chơi nó... nguội!

- Đúng đó, giờ chơi mình sẽ "hành động", thử tài làm "thám tử" đa... đa...

Vân Anh lại nhướng mắt thì thào:

- Ê, bớt con khỉ đi! Giờ chơi đứa nào lãnh nhiệm vụ "đạo chích"?

- Mày chứ ai?

- Xạo đi! Tao không được. - Vân Anh giậm chân bịch bịch. - Tao... kém lắm!

- Vậy chứ ai vô đây? Hỏng lẽ tao?

Hương Trầm lý sự.

Vân Anh che một bàn tay lên miệng. Cái lúm đồng tiền vô tư lại lũm sâu vào má khi cô nàng cười nói và con mắt lúng liếng của nó lại hướng về Nguyệt Quế:

- Hỏng phải tao, cũng hỏng phải mày. Vậy thì "chị" Nguyệt Quế chứ ai!

Nguyệt Quế trợn mắt:

- Tụi mày khôn bỏ xừ! Cái gì nặng nề "khó nhai" nhất thì để dành cho tao!

Vân Anh vuốt nó:

- Ậy! Trong ba đứa, mày "khéo tay" nhất lại thông minh linh lợi thần sầu nên tụi tao đề cử mày là phải rồi.

- Tao cóc ngán đứa nào! Nhưng tụi bay phải hỗ trợ tao, canh tụi nó cho kỹ kỹ kẻo mang tiếng tao ăn cắp... tập.

- Ậy! Chuyện đó mày khỏi lo. Cứ yên tâm hành động, có tụi tao yểm trợ phía sau.

Hương Trầm đi dẹp chổi chợt nó quay ngoắt lại chỗ Vân Anh và Nguyệt Quế đang lúi húi trải khăn bàn và dọn bình hoa.

- Quên nữa! Có báo cho con Đoan biết không?

Vân Anh quyết định thật nhanh. Nó nháy mắt cười ruồi:

- Để tao "thủ" chuyện đó cho! Mày cứ lo canh me cho con Nguyệt Quế "làm ăn" ngon lành một chút!

Chợt tùng, tùng, tùng... trống báo mười lăm phút đầu giờ vang dội. Lớp học đã sạch sẽ gọn đẹp. Bàn giáo viên sáng rực với bình hoa cúc Nhật màu vàng nắng thật dễ thương.

Một ngọn gió lạnh từ cửa thổi thốc vào làm Vân Anh rùng mình dù nó mặc chiếc áo len hồng dày cộm. Vân Anh xóa bảng cho thật sạch rồi đứng trên bục nhìn xuống lớp. Bạn bè đã vào đông đủ. Nhỏ Đoan hôm nay mặc áo ấm vàng màu hoa cúc. Phần đông con gái đều mặc áo len đi học mùa đông. Ai cũng co ro trong rét mướt trông thật dễ thương.

Vân Anh nhìn về phía dãy bàn hướng ngoài cửa lớp của các bạn trai. Mấy "ông tướng" không ai mặc áo ấm cả trừ một vài anh chàng họ "điệu" khoác áo gió để làm duyên, làm mất hết cái chí khí nam nhi của các đấng "trượng phu tòng"!

Vân Anh khẽ liếc về hướng Thuận Đức. Anh chàng này học tương đối giỏi đều các môn. Anh ta lại đẹp trai, con nhà giàu. Thuận Đức thường ít nói, ít kết bạn với nhiều người. Anh ta đang hí hoáy ghi ghi chép chép gì trên giấy.

- Không lẽ anh chàng này!

Vân Anh nghĩ ngợi.

Giữa bàn hai, Trí Đạo đang ngồm ngoàm nhai một ổ bánh mì bự tướng. Anh chàng này thì học bình thường thôi, không có gì đáng nói. Cô lớp trưởng thông minh loại bỏ khả năng Trí Đạo là tác giả của bức thư.

Người cuối cùng, tên có mẫu tự "TĐ" là Tuấn Đăng. Ông này có giọng "tê no" ồm ồm như loa bể, dễ làm khiếp vía mấy "nàng" hay mơ mộng. Nhỏ Thục Đoan sợ ông này nhất bởi ông hay bất ngờ hét lên một cái khi ông phát biểu, làm cho nó muốn rụng tim! Ông này giỏi toán, khá văn. Không có lý ông "bái" con Đoan làm "sư mẫu" và đem lòng "yêu thương" cô nàng qua mấy bài văn thầy đọc cho cả lớp nghe?!

Vân Anh cắn môi suy nghĩ, thói quen cố hữu của cô nàng mỗi khi suy nghĩ thật sâu một điều gì. Nhớ tới nội dung bức thư tỏ tình có chỗ lâm ly, ướt át như đường lên "đỉnh phù vân", Vân Anh quên mình đang đứng trước lớp, bật cười khúc khích.

Mấy ông "thiên bồng nguyên soái" bị đọa xuống trần thấy "Tiên Nga" cười đẹp quá, dễ thương quá bèn ngẩn ngơ hết mấy giây. Nếu không bị giọng ồ ồ của Tuấn Đăng "đánh thức" dám bị "liệt dây dòm" hết ráo.

- Lớp trưởng ơi! Sáng lạnh muốn tê người, có gì vui mà cười... xinh thế!

Đám con gái quay ngoắt lại nhìn Tuấn Đăng như nhìn sao chổi "Halley" xuất hiện giữa ban ngày. Đám con trai thì đồng loạt ré lên bày tỏ một sự ngạc nhiên cực độ. Bởi chúng yên trí "ông tên no" đang "thả dê" lớp trưởng của chúng.

- Úy, cha mẹ ơi! "Tê no" hôm nay dám khen lớp trưởng mình "xinh" giữa ban ngày ban mặt nghe! Quý vị thấy sao quý vị?

- Tiến bộ quá chớ sao! Đề nghị hoan hô "trai anh hùng" với "gái thuyền quyên" một phát!

Bên con trai lại rộ lên "hoan hô!". Quang "quậy" và Tín "điệu" phóng lên bàn trên xúm lại vò tóc của Đăng "tê no" làm nó bù xù như cái tổ quạ.

Vân Anh không ngờ mới sáng đã bị sao "xúi quẩy" chiếu mệnh. Đầu tiên mặt cô nàng thoáng ửng hồng như được phết lên một lớp phấn hồng thật đẹp. Nhưng chỉ ít phút sau, Vân Anh đã lấy lại được phong độ cứng cỏi vốn có của một kẻ "bảy đời" làm lớp trưởng.

Đợi cho cả lớp nhất là bên con trai bớt "loạn", Vân Anh thong thả bước lên bục:

- Giải lao như thế đủ chưa các bạn? Gần hết mười lăm phút đầu giờ rồi! Chúng ta nên nhớ rằng ai cũng có quyền được đùa vui. Nhưng đùa như thế nào để người khác không thấy... ngại, và nhất là các bạn đừng nên quên để dành tiếng cười lành mạnh thoải mái của chúng ta lúc nghe tin... chúng ta vào đại học.

Lần này thì con trai quê quá, há hốc miệng ra nhìn cô lớp trưởng duyên dáng thông minh đang "lên lớp" chúng hết sức... ngọt ngào, mà chúng không có một lời nào "đốp" lại.

Con gái thì kín đáo hơn. Chúng ý nhị trao cho nhau những nụ cười khoái chí. Trong bụng các nữ nhi đang khoái tỉ tê vì bọn mày râu đã bị lớp trưởng tuyệt vời của chúng quật cho một cú nốc ao... chí mạng!

Mười lăm phút phù du trôi qua thật nhanh. Thầy Vĩnh ào vào lớp như một cơn gió. Hôm nay thầy sẽ giảng cho lớp nghe bài thơ "Tây Tiến" của nhà thơ Quang Dũng.

Đoan chăm chú lắng nghe. Thầy Vĩnh giảng về thơ rất hay. Đoan thấy không thể so sánh thầy với cô Dung được. Bởi mỗi người có một phong cách thể hiện riêng, cũng như một sức cảm thụ văn học hay một xúc cảm về thi ca rất khác biệt mà Đoan không tài nào sánh được, như so sánh vẻ đẹp của hai bông hoa cùng một lúc.

Trong các môn học, Đoan thích nhất môn văn. Trong khi Đoan biết có nhiều bạn của Đoan rất chán môn học này. Có đứa phát biểu môn Văn thường khiến người ta dễ bị "mộng du", cứ tưởng mình hiu hiu phiêu bồng trên các ngọn cây, môn học lơ tơ mơ, ngái ngủ, chán phèo phèo!

Đoan thì lại khác. Từ khi biết cảm nhận cái đẹp, biết yêu thiên nhiên, biết say đắm với cái đẹp của đất trời, của hoa lá cỏ cây, sự mều dịu của những cánh cò bay lả, trên những cánh đồng ruộng xanh rì thẳng tắp thơm hương cốm, hương chè, của những câu ca dao tuyệt đẹp... văn chương đã ăn sâu vào huyết quản của Đoan, biểu hiện thành một cội nguồn dân tộc sâu xa.

Bây giờ nghe lời thơ lôi cuốn của thầy, Đoan như được bơi lội trong dòng suối thi ca trác tuyệt của buổi bình minh, giữa cảnh rừng hùng tráng có tiếng chim muông làm nhạc đệm.

Tiếng giảng thơ của thầy có sức làm cơn nắng giữa ban trưa dịu lại, khi êm ái như lời bà ru cháu, khi mượt mà như ánh trăng khuya làm lòng Đoan chợt chơi vơi như sóng biển. Tiếng thơ của thầy có sức làm tan hơi lạnh của mùa đông giá rét. Trước mắt Đoan, chân dung của các chiến sĩ Tây Tiến gây ấn tượng sâu đậm qua lời giảng của thầy.

Nhưng hôm nay, Đoan cảm thấy bộ ba Vân Anh, Nguyệt Quế, Hương Trầm có gì làm sao ấy!

Mức độ tập trung của Đoan gần như bị hạn chế bởi Hương Trầm, Nguyệt Quế cứ thỉnh thoảng ngó ngoái qua dãy bàn nam như để tìm ai hoặc dò xét một việc gì mà Đoan không thể nào hiểu nỗi!

Bình thường ba con nhỏ này học rất chăm. Nguyên cớ gì hôm nay chúng bỗng trở chứng ngó ngoáy ngọ ngoạy liên tục? Đoan tức tối nghĩ bụng, giờ chơi sẽ hỏi bọn nó cho ra lẽ!

Bỗng từ bàn trên, Nguyệt Quế "bắn" xuống cho Đoan một tờ giấy nhỏ vo tròn xếp lại như một viên bi. Đoan luống cuống ngó xuống chân. Viên bi lọt tuốt vào trong giày của nhỏ Hạnh "xù". Đoan liếc thầy cẩn thận rồi thò chân "khèo" chiếc giày của Hạnh lại gần rồi bất ngờ thò đầu xuống ngăn bàn móc viên bi thật khéo.

Vẫn liếc chừng thầy Vĩnh, Đoan mở ra viên bi chết tiệt thật nhanh. Thì ra đó là một "tối hậu thư" của nàng Nguyệt Quế.

"Ê Đoan,

Giờ chơi tụi tao sẽ báo cho mày hay một tin "khốc liệt" cỡ cơn bão Lin-Đa số 5 hồi "nẵm", bảo đảm hấp dẫn như chuyện ma cà rồng, mắc tức cười cỡ chuyện vua Khang Hy vi hành, lâm ly mùi mẫn cỡ chuyện tình trên chuyến tàu Titanic...híc...híc...

Bởi vậy khi nghe trống đánh cái "thùng" một tiếng, mày làm ơn phóng theo con Vân Anh xuống gốc cây phượng già dưới sân trường đợi bọn tao ở đó...

Trong khi chờ đợi, con Vân Anh sẽ cho mày biết chuyện gì...

Nhớ mau chân, không được trễ nải! (Thời giờ là vàng 9999 SJC).

Còn bây giờ, tiếp tục bình thản theo chân ông Vĩnh... "Tây Tiến". Đừng có "quánh lô tô" trong bụng, ổng biết được thì bể mánh hết!

NQ".

Thầy Vĩnh vẫn say sưa "quên đi" trong nhịp thơ trầm hùng đặc sắc của Quang Dũng. Nhưng Đoan không còn bình tĩnh để nghe thầy giảng nữa. Bức "tối hậu thư" của Nguyệt Quế đã làm Đoan bị phân tâm.

Loáng thoáng bên tai Đoan lời thầy Vĩnh như hơi gió tiếng mất, tiếng còn...

"Tây tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy"...

Tùng! Tùng! Tùng!... chưa dứt một hồi trống, Vân Anh đã bay lại cặp cổ Đoan phóng tuốt ra gốc cây phượng già. Chương 6 :

Nếu con nhỏ Vân Anh giỏi nghề "lớp trưởng" bao nhiêu thì chuyện "bắt cóc người tống tiền" của nó cũng sành điệu bấy nhiêu!

Đoan chạy theo nó muốn trật quai guốc mới tới gốc cây điểm hẹn. Chưa kịp lấy hơi thở điều hòa, nó đã nắm tay Đoan nhét vào một tờ giấy gấp tám phảng phất hương thơm. Nó bảo:

- Bình tĩnh, "vịn" trái tim của mày lại mà nghe tao nói: đây là một bức thư tình "không chân dung" của một chàng "Từ Hải thời đại" gởi cho mày. Con Quế lượm được ở chỗ hộc bàn của mày. Bởi vì cái chỗ "không chân dung" nên bọn tao mới phải "truy tìm thủ phạm" giúp mày, vì mày còn... khờ khạo quá! - Nó hểnh hểnh mũi nói tiếp. - Hai con Quế, Trầm đang ở trên lớp tìm cách "thuỗn" tập của các chàng trai ra đây, đọ chữ hầu truy tìm "người yêu" cho mày. Sự việc là vậy! Đọc thư đi rồi... học cho thuộc để làm bùa... tránh ma... bắt... quỷ!

Đoan dán mắt vào bức thư, đọc lướt nhanh và chú ý thật kỹ tên người gởi ở cuối thư. "TĐ". Cô nàng ngẫm nghĩ: "Là ai nhỉ?"

Đoan xếp bức thư lại lòng lạnh tanh không chút mảy may xúc động hay có tí rộn rã nào khi được người tán tỉnh.

Vân Anh dò xét từng chuyển biến trên mặt bạn, tủm tỉm cười:

- Sao?

- Sao trăng gì? Có gì đâu mà tụi mày phải rộn ràng cho mệt!

- Tim mày có nhảy "măm bô" chưa?

- "Lam ba đa" tao còn chưa ngán nữa là "măm bô".

- Bây giờ thì chưa... nhảy, nhưng mai mốt tim mày sẽ nhảy!

Đoan phì cười. Đám bạn của Đoan là vậy. Nói chuyện thì "quái quái" vậy đó. Nhưng bọn chúng rất tốt, rất dễ thương.

Đoan nhịp nhịp chân vẫn giữ nụ cười mỉm trên môi.

- Vân Anh xinh tươi như một trái táo mà nói chuyện thì... "xí ngầu" không ai ngờ!

Bỗng từ trên hành lang, Quế, Trầm lao ào xuống chỗ Vân Anh và Đoan đang ngồi. Hai con nhỏ móc trong bụng ra ba quyển tập quẳng cái phạch trên cỏ. Vân Anh gập người lại mà cười, thầm "phục lăn" hai con nhỏ bạn ranh ma "xuất chúng".

Nguyệt Quế láu táu:

- Hai đứa tao phải tốn cỡ hai lít mồ hôi, "mưu trí" lắm mới rinh được chiến lợi phẩm về đây!

- Thế mới biết làm nghề "đạo chích" cũng mệt bỏ bu! - Hương Trầm cười hì hì.

Xen lẫn với tiếng cười hể hả là tiếng lật tập loạt xoạt. Ba tuồng chữ được phơi bày ra dưới ánh mặt trời bên cạnh bức thư. Sau một hồi bỏ mắt quan sát từng chữ, từng dấu, ba con nhỏ hăng hái nhất đã bắt đầu xìu như bóng xì hơi.

Nguyệt Quế rên nghe thật não nuột:

- Công cốc!

Hương Trầm cũng thở dài:

- Ba tuồng chữ khác biệt tuồng chữ ở trong lá thư như ba người khác ba, khác má!

Vân Anh không nói gì. Nó chỉ ngắm trời mây, nhưng thật ra đầu óc thám tử của nó hoạt động dữ dội. Nó lẩm nhẩm, lầm bầm. "Tê Đê... Tê Đê..."

Chợt nó chụp lấy bức thư nhìn thật kỹ tên "tác giả" viết tắt lần nữa rồi "à" lên khoái chí!

- Ha, ha! Tao biết tướng đó là ai rồi!

- Ai?

- Ai? - Hai nhỏ kia chồm lên.

Vân Anh mở to mắt tròn đen như hai hạt nhãn. Miệng cô nàng mở hết ga:

- Quỷ sứ... Tín "điệu" chớ ai vô đây!

- Trời đất! Sao mày biết?

Vân Anh lại vạch bức thư ra:

- Đây nè, mẫu tự "đê" nó đâu có viết hoa đâu?! Vậy thì chỉ có Tín "điệu" chứ không có Tuấn Đăng, Trí Đạo, Thuận Đức... khỉ khô gì cả!

Hương Trầm nhe răng:

- Sao mày không nói sớm cho tụi tao khỏi mất công!

Vân Anh cười rũ rượi:

- Sớm sao được mà sớm! Thì tao chỉ mới phát hiện ra tức thì thôi chứ bộ!

Tẽn tò một giây rồi cả bọn cùng ngã lăn ra trên cỏ mà cười.

Chợt Vân Anh bò dậy:

- Ê, cấp tốc đi trả tập về chỗ cũ cho mau, kẻo chúng chửi hết cả đám à!

Hai "quân sư" của Vân Anh lồm cồm ngồi dậy, nhét vội ba quyển tập vào bụng rồi thăng mất! Chương 7 :

Tưởng chuyện bí mật của Đoan chỉ có Tín "điệu" và ba con bạn thân yêu của Đoan biết mà thôi. Ai dè!...

Không biết từ một lỗ mọt nào mà chuyện đó bị... xì ra... Ban đầu còn xì ra in ít, cho đến một ngày...

Một ngày như mọi ngày, thầy Vĩnh nện gót giày lộp cộp từ hành lang vào lớp. Thầy đứng thật nghiêm trên bục, đảo mắt nhìn khắp "hang cùng, ngõ hẹp" của lớp rồi mới ngồi xuống ghế và giở sổ "sanh, tử" ra dò.

Cây bút trong tay thầy chạy lên, chạy xuống từ đầu đến cuối sổ làm những trái tim bê bối khóc hu hu trong lồng ngực. Chợt thầy ngừng lại ở đầu sổ, dõng dạc:

- Vân Anh! Thái Thụy Vân Anh!

Vân Anh cầm tập lên bàn thầy, rất tự tin ra dáng con nhà "lĩnh đạo".

- Em hãy đọc khổ thơ đầu trong bài thơ "Tây tiến".

- "Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!

     Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Sài Khao, sương lấp đoàn quân mỏi...

...

Mai châu mùa em cơm nếp xôi..."

- Tốt! Bây giờ em cho thầy biết vài nét về nội dung bài thơ?

- Thưa thầy bài thơ nói về chân dung các chiến sĩ Tây tiến và cuộc hành quân của họ!

- Vân Anh rất thuộc bài, thầy ghi điểm chín!

Cây bút trong tay thầy lại tiếp tục hành quân và ngừng lại ở tên Lê Thị Tuyết.

Ở dưới có tiếng reo:

- Tuyết "lùn" dính đạn rồi!

Tuyết "lùn" đủng đỉnh đi lên bàn thầy. Tóc nó hôm nay được tém gọn gẽ hơn, đôi guốc cao bảy phân vẫn không làm cho nó cao thêm mấy tí!

Nhỏ Tuyết cười duyên với thầy Vĩnh một cái lấy hên. Nhưng thầy phớt lờ.

- Em cho tôi biết ý nghĩa của câu thơ "Sông Mã gầm lên khúc độc hành".

Tuyết "lùn" ỏn ẻn một chút rồi xụi lơ. Bởi nó chỉ thuộc lòng bài thơ chứ nó không hề nghe thầy Vĩnh giảng bài tuần trước và nó cũng đã lỡ không coi trọng môn Văn từ lâu.

Thầy giáo nén giận nói:

- Cán sự văn đâu, em giúp bạn "gỡ bí" câu này xem nào?

May phước, Đoan đã soạn bài rất kỹ, dù tuần trước có lỡ "lo ra" chút đỉnh, Đoan vẫn sợ thầy chiếu tướng bất ngờ nên không dám lơ mơ.

- Thưa thầy ý nghĩa của câu thơ "Sông Mã gầm lên khúc độc hành" là ý câu thơ muốn khẳng định tính chất bi hùng trong sự hy sinh của các chiến sĩ Tây tiến.

- Tốt!

Thầy nhắc thêm:

- Cán sự văn nhớ giúp đỡ các bạn nào còn yếu môn văn nhé!

Đoan "dạ" và ngồi xuống. Thầy Vĩnh ghi điểm năm vào tập Tuyết "lùn".

- Lần sau em cố gắng học bài kỹ hơn và chú ý nghe giảng nhé!

Nó "dạ" lấy lệ rồi nguýt ông thầy một cái trước khi về chỗ.

Thầy Vĩnh lại rà cây bút và lôi thêm một tên:

- Mai Trung Tín.

- Thấy bố!

- Tiêu tùng... Tín "điệu" rồi.

Tuyết "lùn" kín đáo ngó Tín "điệu" thật nhanh. Nó thầm "oán" thầy Vĩnh.

Chàng "điệu" nhỏng nhảnh, õng ẹo lên bàn thầy. Một tay mân mê, vuốt vuốt cọng tóc "đuôi rùa" rất quái, được chừa lại khi hớt tóc và ép sát nó và một bên thái dương.

Mọi con mắt đều đổ dồn về Tín "điệu". Nhiều tiếng xầm xì to nhỏ và một vài ánh mắt len lén hướng về phía Đoan làm Đoan không khỏi bực mình.

Thầy Vĩnh hỏi:

- Câu thơ "Tây tiến đoàn quân không mọc tóc" có ý nghĩa như thế nào em?

Tín cười thầm "ồ dễ quá mà!" Tưởng thầy bắt đọc thơ thì nó thua. Bởi tuần trước đầu óc nó bận chuyện "thảo" một bức thư tình cho "người yêu dấu" nên một chữ trong bài thơ của thầy cũng không lọt vào đầu nó được. Còn chuyện giảng thơ... thì nó dư sức đi! "Đoàn quân không mọc tóc là gì cà?...À, à!"

Mọi người thấy nó ngó trên trần nhà tìm... thằn lằn, rồi lại ngó ra cửa sổ tìm chim. Chợt mặt Tín cười hơn hớn:

- Thưa thầy, "Đoàn quân không mọc tóc" là đoàn quân này... không có... tóc... à... à... có nghĩa là... đây là một đoàn quân... xuất chinh từ một ngôi chùa ạ.

Cả lớp cười nghiêng ngửa. Thầy Vĩnh thấy... ngao ngán cho nó quá bèn quyết định cho Bùi Kiệm gỡ huề câu khác gọi là chiếu cố con cháu nhà họ Bùi. Thầy khoác tay:

- Thôi được rồi! Em cho tôi biết tựa đề của bài thơ này đi.

Tín lại đứng đực ra. Nó không dám nhìn Đoan, sợ quê... hai chục cục! Len lén nó khẽ đưa mắt cầu cứu đám bạn chí cốt, chí tình của nó ở xóm nhà tranh.

May thay Tín thấy Phát "ốc mày" đã nhận được "tín hiệu S.O.S". Nó ra dấu chỉ tay về hướng mặt trời lặn và trỏ vào thằng Tiến ngồi bên. Tín mở cờ trong bụng:

- Thưa thầy, bài thơ có tên là "Đông Tiến" ạ!

Phát "ốc mày" giậm chân vì tức.

Cả lớp lại một phen cười nữa. Thầy Vĩnh bắt đầu tỏ vẻ buồn cho "số kiếp" của "Bùi Tín" phản động sẽ phải lãnh một chữ "O" tròn đỏ chét vào tập.

Sau này thấy các thành phần cách biệt có nhiều chuyển biến tốt, thầy Vĩnh ít khi rà soát chúng. Bởi thầy thường nhắc nhở cả lớp học tập tự giác là bổn phận của mỗi học sinh. Bây giờ Vĩnh mong chuyện Tín "điệu" không thuộc bài chỉ là một hiện tượng chứ không phải là một bản chất của nó nữa.

Bỗng trong tiếng ồn ào lộn xộn, thầy Vĩnh nghe một thằng phát biểu:

- Hi hi! Nếu thầy bắt nó đọc bài "Đoan tiến" chắc chắn nó sẽ thuộc làu như cháo chảy. Hì, hì!

- Mày nói đúng đó! "Đoan tiến" chứ Tây tiến, Đông tiến có nghĩa lý gì.

Kín đáo nhìn về cô bé học trò cán sự văn thông minh, học giỏi đang cúi đầu bên trang sách mở một cách chăm chú vô tư, Vĩnh dần dần hiểu chuyện...

Vĩnh không ghi điểm vào tập thằng Tín mà cho nó nợ lại tuần sau.

Ở bàn trên, Nguyệt Quế thủ thỉ vào tai Hương Trầm:

- Chuyện kín như bưng mà sao lọt tới tai tụi nó vậy mày?

- Có chuyện gì khó hiểu đâu! Sao mày không nghĩ rằng chuyện bị "xì" do chính miệng thằng Tín "điệu" tung ra.

 - Ờ há!

- Tội nghiệp con Đoan.

- Sức mấy mà nó thèm.

- Ờ! "Đũa móc mà đòi mâm son"!

 - "Đỉa mà đòi đeo chân hạc" chứ mày!

 - Đúng chóc!

Qua chuyện không thuộc bài thơ "Tây tiến" của thằng Tín, chuyện Tín cua Đoan đã bị bể. Riêng Đoan chỉ nhìn và nghe qua một số câu là Đoan đã nắm bắt được sự việc.

Tuy nhiên Đoan chẳng hề hấn gì đâu. Bởi trái tim của Đoan vững như thành, Đoan chỉ trao nó cho người mà Đoan mến nhất mà thôi!

 Nhưng Vân Anh tinh tường hơn. Cô nàng không những nắm bắt tình hình thật nhanh mà còn đang chăm chú theo dõi thái độ và những diễn biến trên mặt Tuyết "lùn". Trong lớp này ai mà không biết Tuyết "lùn" thích Tín "điệu". Cho nên mặt của Tuyết "lùn" "chù ụ". Khi nghe bọn con trai kháo nhau, Tín chỉ thuộc bài thơ "Đoan tiến". Tuyết "lùn" thấy máu nóng bốc lên mặt. Nó hậm hực nhìn Đoan xem nhỏ có nét gì khả ái mà "cướp" được trái tim Tín "điệu" của nó. Cũng vừa lúc đó Tuyết "lùn" bắt gặp thầy Vĩnh đang chăm chú nhìn Đoan, cũng là lúc Đoan từ từ ngước lên nhìn thầy. Chương 8 :

Chấm bài xong, Vĩnh thường có thói quen thư giãn. Anh đưa tay chọn một đĩa nhạc tiền chiến và bật nút.

Vĩnh ngã người trên chiếc ghế cho dòng suối nhạc dịu êm len lỏi vào từng sợi dây thần kinh não. Vĩnh thấy dễ chịu làm sao.

Vĩnh rất yêu âm nhạc và thi ca. Bởi vậy Vĩnh chọn ngành sư phạm để được truyền đạt cho học sinh của mình những tri thức, những trào lưu văn học để chúng thêm yêu tiếng mẹ đẻ, làm giàu ngôn ngữ sống của một dân tộc và thêm thi vị cho cuộc đời. Bởi vì anh quan niệm âm nhạc làm tươi mát tâm hồn người như cây cối hoa lá được tắm sương mưa. Còn thi ca, thơ phú làm đẹp thêm cuộc sống của con người. Nó chẳng những làm cho con người hiểu thêm về nguồn cội của họ, mà còn làm cho người ta thấy hãnh diện khi được làm người. Vốn là một sinh vật cao cấp nhất trong muôn loài. Từ đó người ta sẽ có ý thức tốt và hành động đúng đắn phù hợp với đạo lý chân, thiện, mỹ vốn là nề nếp đạo đức căn bản của mỗi người dân Việt.

Vĩnh chợt nghĩ đến học sinh của mình. Nhìn chung, Vĩnh thấy chúng khá tốt. Con gái có nề nếp kỷ cương hơn con trai. Nhất là ban chỉ huy lớp. Anh đặc biệt hài lòng về cách làm việc linh hoạt của cô lớp trưởng. Tuy nhiên, về phía con trai, Vĩnh thấy còn một số em chưa có ý thức học tập cao, được dịp là chọc phá bạn, chưa trao dồi đạo đức tốt... Lớp còn hiện tượng "cặp đôi" vô bổ, gây xao nhãng học tập cho mình và người khác. Dù rằng đó là tâm lý tự nhiên của tuổi mới lớn. Nhưng anh sẽ đợi dịp nào đó giúp chúng nó hiểu một tình yêu trong sáng là gì? Ở tuổi nào thì có tình yêu được. Với cương vị một người đi trước hay đúng hơn là một người anh. Nhưng rồi Vĩnh lại ngại, năm thi. Vĩnh sợ anh không có dịp để trò chuyện thân mật với chúng. Bởi thời gian cứ vùn vụt trôi qua và bài vở công việc cứ chất chồng, chợt Vĩnh ngừng suy nghĩ để lắng tai nghe một dòng nhạc êm ru như lời thầm thì tình tự từ mấy dòng thơ Quang Dũng: "Đôi mắt người Sơn Tây - U uẩn chiều tiễn biệt - Hồn viễn xứ khôn khuây..."

Ôi, bài hát! Bài hát mà đã quá lâu vì cơm áo đời thường dồn dập Vĩnh tưởng đã lãng quên. Bài hát có ảnh hưởng sâu sắc với anh. Nó làm anh nhớ khôn nguôi người em gái nhỏ thương yêu nhất của anh đã vĩnh viễn nghìn thu an bình ở một góc đồi thông mơ mộng, nơi thành phố sương mù quê hương yêu dấu của anh, hai năm trước.

 - Lê Phước Vĩnh An.

Vĩnh thầm gọi tên cô em gái nhỏ của mình. Cô bé xinh xắn, dịu dàng và mộc mạc như một bông hoa súng của miệt đồng quê Nam bộ. Cô em gái nhỏ cách Vĩnh đến bảy tuổi mà Vĩnh đã khóc lóc đòi mẹ lấy nguyên tên mình để đặt cho em bé gái.

 Lúc đó, mẹ Vĩnh - một người đàn bà có học thức cũng đã suy ngẫm rất kỹ ý nghĩa của hai chữ "Vĩnh An" và đồng ý đặt tên cho con gái với ước mơ đời nó sẽ mãi mãi được hưởng phước an vui.

 Nhưng ác nghiệt thay, một cơn bạo bệnh bất ngờ đã cướp mất Vĩnh An lúc cô bé đang ở lứa tuổi tròn trăng đầy mơ mộng, để lại một nỗi buồn mênh mông cho hai trái tim một trẻ, một già! Bởi ba của Vĩnh, ông Tuấn - một cán bộ ở viện nghiên cứu cây xanh đã mất vì tai nạn nghề nghiệp cách đó sáu, bảy năm rồi.

 Những chuỗi ngày còn lại từ sau những ngày tháng đau buồn đó Vĩnh quyết đi thật xa để quên bớt nỗi buồn, quên đi đôi mắt người em gái yêu thương mang nhiều dáng dấp của "đôi mắt người Sơn Tây... u uẩn chiều tiễn biệt."

 Nhưng không! Vĩnh sẽ mãi mãi không quên được đôi mắt ấy! Bởi vì Vĩnh đã bắt gặp nó hôm qua, trong lớp của chàng!

 Vĩnh lắc đầu thật mạnh vẫn thấy hình ảnh đôi mắt cô học trò của Vĩnh, một đôi mắt tròn đen lay láy, phảng phất nét buồn mơ đã đôi lần làm tim anh xao xuyến.

 Vĩnh đưa mắt nhìn lên khoảng trời xanh thơ mộng, lòng dâng lên một miền vui nho nhỏ ngọt ngào.

 Thế là từ đây, Vĩnh có thể gặp lại Vĩnh An - cô bé "nu" yêu mến của anh khi anh vào lớp chủ nhiệm của mình. Chương 9 :

Thấm thoát tháng mười một lại đến thật nhanh. Tháng mười một dễ thương theo chu kỳ lại về với các cô cậu học trò lứa tuổi ô mai đầy mơ mộng.

 Tháng mười một luôn đáng yêu, luôn làm cho bao trái tim nhỏ đợi chờ. Chúng chỉ đợi một ngày duy nhất trong tháng. Đó là ngày 20/11 để bày tỏ lòng yêu mến thầy cô giáo bằng những món quà nho nhỏ. Nhưng nó chất chứa cả một tấm lòng nghĩa ân.

 Cả trường cũng rộn ràng không khí đón mừng ngày tết nhà giáo từ những ngày trước. Các lớp tíu tít bận rộn viết viết, vẽ vẽ trang hoàng cho thật đẹp tờ báo tường chủ đề "Nhớ ơn thầy cô". Ai cũng mong tờ báo của mình đoạt giải nhất đem vinh dự về cho lớp.

 Trong việc chọn bài cho báo tường của lớp, Đoan lãnh nhiệm vụ duyệt chọn bài. Hương Trầm và Nguyệt Quế thay phiên nhau viết bài lên báo vì hai nhỏ đó có nét chữ đẹp nhất. Khâu trang trí dành cho Tuấn Đăng và Thuận Đức. Vân Anh thì lo cho mặt tổng quát.

 Trong việc chọn bài, Đoan thẳng thắn chọn các bài viết tốt có nội dung hay và nằm trong chủ đề "Nhớ ơn thầy cô". Vì thế mà cũng có một số bài bị loại.

 Dịp này Tuyết "lùn" cũng góp một bài thơ nói về mối tình "cay ớt" của mình đối với Tín "điệu". Vì vậy mà bài thơ "Tình mùa đông" của nó bị loại một cái rột vì lạc đề. Nó cay cú Đoan dữ dội, chỉ còn đợi dịp để "chù" nhỏ cán sự văn cho bỏ ghét chơi.

Ngày tập trung các tờ báo tường về treo tại phòng giáo viên đợi chấm giải, tờ báo "Về nguồn" của lớp 12C1 được mọi người chú ý nhất bởi vẻ đẹp sắc sảo, bài vở phong phú và trình bày đầy óc sáng tạo, thẩm mỹ. Nhờ thế tờ "Về nguồn" đoạt giải nhất báo tường toàn khối lớp mười hai.

 Cả lớp vui mừng hớn hở. Thầy Vĩnh nở nang từng khúc ruột về thành tích báo chí của lớp. Các thầy cô khác cũng thật sự ngạc nhiên và phấn khởi trước thắng lợi xuất sắc của lớp nổi tiếng quậy nhất khối từ trước đến giờ.

 Tờ báo tường mừng "Tết nhà giáo" được chấm trước ngày lễ chính thức đúng một tuần lễ.

 Niềm vui "ẵm" giải nhất vừa tạm lắng xuống trong lòng các học sinh lớp 12C1 thì ngày 20/11 lại đến. Vân Anh gom góp quỹ lớp mua hơn chục cái hoa hồng nhỏ để cài áo các thầy cô.

 Lễ cài hoa trên áo các thầy cô được tổ chức toàn trường dưới sân cờ. Sau khi về lớp các thầy cô sẽ được học sinh lớp đó cài hoa thêm cho mình một lần nữa.

 Lễ cài hoa dưới sân cờ long trọng bao nhiêu thì ở lớp lại càng cảm động bấy nhiêu.

 Khi tiếng trống chuyển tiết vang lên, giáo viên bước vào nghiêm trang chào cả lớp. Ba bạn đại diện lớp bước lên bàn thầy. Lớp phó văn thể kính cẩn ôm trước ngực một khay đựng những chiếc hoa hồng được làm bằng một loại "vôn" hoặc "ren" màu hồng nhạt hoặc kết bằng nhung đỏ thắm. Mỗi cái hoa này được đính ở cuốn một mảnh keo dính. Khi cài lên áo chỉ cần lột bỏ lớp giấy dán láng mịn bên ngoài, ấn mảnh keo vào ngực áo là xong thao tác cài hoa.

 Lớp phó học tập được vinh dự cài hoa lên áo thầy trong lúc lớp trưởng thay mặt cả lớp chúc thầy cô và bày tỏ lòng biết ơn thầy. Lớp chăm chú lắng nghe và yên lặng để cùng bày tỏ niềm thành kính tri ân của học trò đối với thầy. Sau đó thầy nói lời cảm ơn cả lớp và niềm mong mỏi hy vọng của thầy về sự thành đạt của học trò.

 Tinh thần "tôn sư trọng đạo" của người Việt Nam được thể hiện rõ rệt nhất trong ngày tết Nhà giáo. Mỗi năm dù chỉ có một lần, nhưng nó nói lên cái nề nếp đạo đức tốt đẹp của một dân tộc biết trọng đạo làm thầy và tạo cho học trò một ấn tượng sâu sắc về lòng tri ân của thầy cô. Đó là một nét đẹp truyền thống đầy kiêu hãnh.

 Năm nay, lễ cài hoa lên áo thầy cô của lớp Đoan cũng được tổ chức đầy ấn tượng như thế.

 Hôm đó, lớp cũng có tiết Văn của thầy Vĩnh. Lúc Vân Anh nói lời cảm ơn thầy, lòng Đoan rộn lên một niềm cảm xúc.

 Đó vừa là một tình cảm biết ơn vừa là một niềm yêu kính vô bờ và cả một sự ngưỡng mộ sâu sắc về tài lãnh đạo lớp của thầy nhất là giọng giảng bài đầy lôi cuốn, hấp dẫn người nghe!

 Hôm nay thầy Vĩnh trông thật nhã trong bộ áo sơ mi trắng và quần xám nhẹ, cravate sẫm màu hơn trông thấy thật khả kính. Dù ăn mặc nghiêm chỉnh thế nhưng dáng điệu thầy rất thoải mái. Thầy vui hơn mọi ngày, nhất là từ khi lớp đoạt giải nhất báo tường.

 Trước niềm vui ngày lễ, niềm hân hoan của học sinh, thầy Vĩnh ưu ái dành riêng cho lớp mình chủ nhiệm một đặc biệt: thầy tạm ngừng hai tiết học đó để liên hoan thân mật với lớp. Bởi Vĩnh nghĩ đây là một dịp để anh hiểu thêm về học sinh của mình.

 Sự hưởng ứng nồng nhiệt vang lên. Vĩnh thong thả mở cặp lấy ra bốn bịch kẹo trái cây bảo Vân Anh chia đều cho các tổ.

 Hôm nay cũng có một số bạn lên tặng quà riêng cho thầy.

 Ba đứa bạn của Đoan cũng lôi từ trong cặp ra mỗi đứa một hộp nhỏ gói giấy hoa, thắt nơ thật đẹp.

 Nguyệt Quế láu táu nhất:

- Tao tặng thầy cái cravate sọc xám đỏ để thầy được "ngầu" thêm một tí!

 Hương Trầm thè lưỡi trêu:

- Ui da! Tên này "gân nhé"! Cravate chỉ để làm quà cho những kẻ... yêu nhau mà thôi!

 Vân Anh nháy mắt thầm thì:

 - Bộ trái tim mi... có vấn đề với thầy rồi hỉ? "Tội" chết nghe em! Thầy là cha mẹ. Trò là... đệ tử... của thầy. Không được "iêu" bậy bạ.

 Nguyệt Quế hơi xanh mặt:

- Hổng dám đâu! - Nó nhỏ giọng. - Tao hổng có "iêu" à nghe!

 - Hương Trầm tặng thầy "kí gì" vậy cưng?

 - Một hộp "chó có lát" đậu phọng của dì hai tao mới gởi về!

 Hai ba cái miệng tắc lưỡi, hít hà:

 - Cha! Đã! Chắc là ngon lắm!

- Lớp trưởng, quà của mày là gì? Báo cáo xem.

 - Tao đơn giản lắm! Một "quyển sổ bìa đen" có ghi tên cả lớp và một cặp bút paker thứ... xịn! Hì! Hì!

 Tụi nó tíu tít nối đuôi nhau lên bàn thầy trông vừa nghịch ngợm vô tư vừa liếng thoắng, dễ thương.

Đoan khẽ liếc vào hộc bàn. Đoan cũng có một món quà tặng thầy. Món quà này Đoan đã chăm chút cả tháng nay, ngày ngày tỉa lá, bắt sâu mong cho nó nở đúng ngày, thật to, thật đẹp.

 Nhưng món quà của Đoan chỉ giúp cho thầy vui một chút. Bởi nó sẽ tàn. Nó không mãi hiện hữu như chiếc cravate của Nguyệt Quế, quyển sổ lưu niệm của Vân Anh... Nó chỉ đem đến cho thầy một chút hương thơm tinh khiết, rồi sẽ tàn theo qui luật!

 Vậy là tháng sau, năm sau và mãi mãi về sau thầy sẽ chẳng bao giờ nhớ đến món quà tầm thường của Đoan nữa!

 Món quà mà Đoan yêu nhất, nâng niu nhất sẽ không ở mãi cùng thầy... và thầy sẽ chóng quên Đoan.

 Nghĩ đến đó Đoan nghe mắt nặng nặng, cay cay muốn khóc. Đoan trách mình sao khờ khạo quá! Ai lại đi tặng hoa cho thầy. Dù đó là đóa hoa hồng nhung đỏ thắm tuyệt đẹp đương độ hàm tiếu mà Đoan đã cất công chăm sóc bấy lâu. Đây là ba bông hoa đầu tiên nơi góc vườn nhỏ xíu của Đoan và Đoan "cưng" nó hơn cả con Mimi nũng nịu của Đoan ở nhà.

 Sáng nay trước khi cắt nó, Đoan đã ngắm nó thật lâu và bảo với ba đóa hoa hồng hàm tiếu rằng:

- Chị cưng mi nhất, nhưng ngày mai Tết thầy cô giáo, chị chỉ có cưng là quý nhất để làm quà tặng thầy Vĩnh mà thôi! Hãy tỏa hương thơm khắp phòng thầy Vĩnh nhé!

 Đoan cắt nó rời khỏi chậu và hôn nó thật lâu trước khi bọc nó cẩn thận trong một tờ giấy kính trong suốt tựa pha lê.

 Ba đóa hồng nhung thoang thoảng đưa hương trong không khí rộn ràng náo nhiệt của ngày Tết thầy cô giáo, Đoan chưa dám đem lên liền vì tự thấy nó thấp kém, đơn sơ hơn bất cứ một món quà nào.

 Đoan sợ ba con nhỏ bạn kia sẽ chế giễu vì hoa hồng tầm thường quá! Đoan lại ngại bạn bè chung quanh khám phá ra nó bởi thỉnh thoảng nó lại tỏa hương thơm nhè nhẹ. Sau hết, Đoan sợ thầy Vĩnh chê món quà của mình, nên Đoan ngập ngừng... Rồi, cuối cùng quyết định sẽ bí mật mang nó về nhà!

 Đoan lại len lén nhìn vào hộc bàn lần nữa và khẽ thò tay đẩy nó xích vào trong một tí. Nhưng Đoan vội rụt tay lại vì bị một cái gai nhọn đâm vào tay suýt chảy máu. Đoan nắn ngón tay đau ngẫm nghĩ "Trời sinh hoa hồng đẹp nhưng lại sinh ra những cái gai ấy làm gì?"

 Tặng quà cho thầy Vĩnh xong, Vân Anh, Nguyệt Quế, Hương Trầm tíu tít về chỗ. Lúc này chúng mới nhớ ra đã quên rủ Đoan lên tặng quà một lượt. Tụi nó rà lại bên Đoan:

- Ê! Lên tặng quà cho thầy đi nhỏ!

- Mày tặng ông thầy mình cái gì vậy?

Đoan lắc đầu không nói:

- Con nhỏ này lạ ghê! Hôm nay vui muốn "khùng" mà lại buồn hiu hà!

 Vân Anh "được" nhất. Nó an ủi Đoan:

- Có thiếu gì đứa không tặng quà cho thầy chứ có phải mình mày đâu mà buồn! Thôi, quẳng cái "sầu, úa" của mày đi, cười lên xem nào!

 Nhưng ngón tay vẫn còn đau, lại sợ ba đóa hồng héo rũ, Đoan cười như mếu!

 Ba đứa "bấm" nhau, ra hiệu về chỗ.

 Đoan hơi yên tâm một chút, chắc chắn ba đứa nó không biết Đoan có chuẩn bị quà cho thầy Vĩnh. Nếu chúng biết Đoan tặng hoa cho thầy, chúng sẽ nghĩ sao?

 Bỗng Đoan thấy mình ngốc tợn khi quyết định hái ba đóa hoa hồng đẹp nhất, đáng cưng nhất đem tặng thầy. Bởi vì dù có đẹp đến đâu đi nữa, nó cũng tàn phai...

 Lớp bắt đầu màn phỏng vấn tự do và đòi thầy kể chuyện.

 - Thầy kể chuyện đi thầy!

 - Chuyện vui mà nghe gì! Kể chuyện ma nghe đã hơn thầy!

 - Thế kỷ 21 rồi mà còn ma với quỷ! Kể chuyện... tình yêu đi thầy!

 Vĩnh cười xòa, thả một bước "dọ dẫm":

- Lớp này có em nào biết yêu chưa mà bày đặt hỏi chuyện... lăng nhăng.

 - Em chưa biết yêu thầy!

 - Em mới hơi... biết biết... hà thầy!

 - Lớp này có vài cặp biết yêu rồi đó thầy!

Vĩnh cười hóm hỉnh:

 - "Bật mí" tí xem nào!

Bọn quỷ lắc đầu quầy quậy:

 - Không dám đâu, thầy ơi!

- Thầy né hoài, nói đi thầy!

Vĩnh mắng yêu học sinh:

 - Lớp hôm nay lộn xộn quá! Nhưng thôi, để chìu ý các em một lần, thầy tạm mượn thơ của một số thi sĩ "giảng nghĩa" cho các em biết tình yêu là gì nhé!

 - Xa hô! Hoan hô thầy!

Thầy Vĩnh cười tủm tỉm và đợi lớp lắng dịu một chốc mới thủng thỉnh đọc:

 - "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?

Có nghĩa gì đâu mỗi buổi chiều

 Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu"...

Lớp vỗ tay hoan nghênh đoạn thơ "cắt nghĩa tình yêu" mà Vĩnh vừa đọc dữ dội. Một thằng lên giọng khuyến khích:

- Hay quá! Còn bài nào nữa đọc đi thầy!

Vĩnh tằng hắng chuẩn bị giọng nghiêm trang. Anh nghiêng nghiêng mắt ngó đám học trò.

- "Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều"

- Suỵt! Thầy bảo mình "làm thinh" kìa!

Tuyết "lùn" xí xọn chọc:

- "Làm thinh" chi vậy thầy?

Vĩnh làm ra vẻ bí mật:

- "Để nghe dưới đáy nước hồ reo"...

- Cha... a... a...!

- Im! Để nghe, mày!

- "Để nghe tơ liễu rung trong gió

Và để nghe trời giảng nghĩa yêu!"

Đám con trai hứng chí reo hò vỗ tay tán thưởng muốn bể lớp và không hẹn mà cùng hát:

- Dô! Dô! Dô! Hà lề, hà lế, hà lê! Ghê! Ghê! Ghê! Hà lề, hà lế, ha lê!

Vĩnh cũng vui lây với đám học trò. Thường ngày lên lớp chúng đã quen với phong cách nghiêm trang của thầy. Hôm nay được dịp chúng tha hồ la hét bể trường rồi mai lại tiếp tục "xếp ve". Bởi thế Vĩnh thấy không cần ổn định lớp, thả cho chúng "loạn chiêu" một bữa.

- Thầy ơi, thầy có người yêu chưa thầy? - Có thằng còn cắc cớ hỏi.

- Hồi đó tới giờ... thầy có... yêu ai chưa thầy?

- Còn thầy, thầy quan niệm tình yêu là gì? - Hạnh "xù" đưa tay lên hỏi trắng trợn.

Vĩnh làm bộ nhún vai:

- Tôi ấy à! - Vĩnh làm ra vẻ suy nghĩ. - "Yêu là chết trong lòng một ít. Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu..."

Hương Trầm so vai le lưỡi:

- Sao kỳ vậy thầy!

Vĩnh thấy muốn trêu bọn chúng một phút cho vui bèn giả ngộ:

- Sao hôm nay các em "ác" thế, cứ muốn "bắt nạt" thầy mãi? Nếu thầy chưa hề biết yêu ai thì nói thế nào cho các em hiểu được tình yêu nhỉ!

Vĩnh ngước mắt nhìn xuống bàn Đoan. Cô bé đang say sưa lắng nghe anh nói. Mắt Đoan nhìn anh trông thật ấm áp nồng nàn.

Bắt gặp tia nhìn của thầy, Đoan luống cuống quay đi phía khác, hai má đỏ bừng.

Bất giác, Vĩnh tưởng chừng như nhìn thấy "bé Nu" hiều hậu của anh ngày nào. Chợt một niềm thương nhớ cô em gái lai láng trào dâng...

Vĩnh im lặng nhìn ra cửa sổ. Nơi đó chỉ có nắng gió vô tư và một nhánh phượng gầy nghiêng mình nhìn vào lớp học. Không dưng Vĩnh nghe lòng chợt bâng khuâng và có chút gì xao xuyến.

Đám học trò không khỏi ngạc nhiên khi thấy sự thay đổi đột ngột của thầy. Chẳng ai biết điều gì đã xảy ra trong lòng ông thầy trẻ, khiến thầy từ trạng thái vui như tết bỗng chốc u buồn như vướng vất sầu tư?!

Tuy vậy, Vĩnh vẫn nghe rất rõ lời bọn nhỏ thì thào hỏi nhau:

- Tụi mình làm thầy buồn rồi kìa!

- Chắc... thầy nhớ người... "i...ê...u" quá!

- Tại... tao nghe có lần chị tao nói, đang vui ì xèo mà tự nhiên lặng câm như thóc... thì đích thị "nhơ sắc nhớ" người "yêu quấu" đấy!

Vĩnh chợt tỉnh người. Anh không khỏi buồn cười lũ học trò vô tư của anh. Nếu chúng biết trái tim thầy của chúng hãy còn "trống vắng", chỉ mới vương vương chút xíu tơ trời, liệu chúng có tin chăng?

Vĩnh bật cười thành tiếng rồi âu yếu hỏi học trò:

- Sao, các em còn thắc mắc gì nữa không nào?

Tuyết "lùn" nhõng nhẽo:

- Dạ, thầy chưa nói quan niệm tình yêu của thầy cho chúng em nghe.

Hương Trầm "khều" Vân Anh nói nhỏ:

- Chà! Không biết hỏi kỹ "quan niệm tình yêu" của thầy để làm chi vậy cà?

 Vĩnh nhìn cả thảy học trò lần nữa:

- Thôi được rồi, các em yên lặng đi, thầy sẽ nói cho các em nghe để các em có những suy nghĩ chín chắn hơn trong tình yêu, tránh lối sống buông thả, xốc nổi của lớp thanh niên thời đại mới!

 Nhìn lớp một hồi lâu, Vĩnh tiếp:

- Các em nghe để có chút kinh nghiệm cho bản thân. Nhất là để sống cho đúng đắn, làm cho tình yêu ngày càng đẹp thêm, chứ đừng biến nó thành một niềm hối tiếc, một sự lỡ lầm tai hại!

 Vĩnh đứng tì tay lên bàn giáo viên, nhìn thân ái tất cả học trò. Anh chậm rãi nói:

- Theo thầy nghĩ, tình yêu là một thứ tình cảm trong sạch, tinh khiết xuất phát từ trái tim của hai người khác phái ở mức độ mãnh liệt, chín mùi. Tình yêu có khi rất đẹp, rất thơ, có khi là một thứ trái đắng! Nó được ví như một ngọn sóng trào dâng thành một thứ tình cảm lãng mạn... Bởi thế trong tình yêu thường có sự "mù quáng" vì hai kẻ yêu nhau thường quá say sưa với chất "mật ngọt" nên đôi khi dễ... buông thả. Cũng lắm khi những kẻ yêu nhau thường chỉ thấy những cái đẹp của người mình yêu mà không hề thấy những điểm yếu, điểm xấu... Trên phương diện này, tình yêu cũng mang chất mù quáng, khó ưa... - Vĩnh cười hồn nhiên để giảm bớt tính căng thẳng trong câu nói của anh.

Vĩnh thấy học trò của anh hôm nay ngoan hơn mọi ngày rất nhiều. Chẳng qua hôm nay chúng được "thầy đãi" một đề tài hấp dẫn nên chúng hầu như "bất động" vì quá say sưa.

 Vĩnh nói tiếp:

- Vì vậy người ta cũng quan niệm "yêu nghĩa là cho, là dâng hiến tất cả trái tim, tấm lòng cho người mình yêu..."

 - Nói chung, thầy chỉ diễn giải nó trên một phương diện ngữ nghĩa hạn hẹp ở một chừng mực ngôn ngữ, đủ để các em nắm bắt, tạm có nhận thức ban đầu về ý nghĩa của tình yêu, để các em biết đắn đo suy nghĩ và cân nhắc trong hành động. Không bị "thần tình ái" "dụ khị" dễ dàng. - Vĩnh cười tinh nghịch.

 - Hiện tại, thầy thấy các em cần phải "học, học nữa, học mãi" để tạo cho mình một sự nghiệp, một tương lai vững chắc. Sau đó, các em mới có quyền "được yêu đương thỏa thích"! Từ đó, theo tuổi đời, tình yêu sẽ dẫn đến hôn nhân vững chắc nhất. Bởi vì lúc ấy, các em đã có những suy nghĩ chín chắn, vững vàng.

 Vĩnh ngừng nói, nhìn bao quát lớp. Không khí yên lặng bao trùm. Tất cả đều chăm chú lắng tai nghe. "Bé Nu" của anh chàng chắc cũng đang lắng nghe anh nói bằng tất cả tấm lòng. Vĩnh chỉ nghĩ thế chứ không hề dám nhìn "bé Nu". Bởi anh sợ sẽ gieo vào lòng bất cứ một học sinh nào của anh vượt giới hạn của nghĩa thầy trò.

 Trước mắt anh, học trò của anh hãy còn vô tư lắm. Chúng thảy đều đáng yêu, đáng mến như cô em gái của anh thôi. Vĩnh gấp sổ sách lại cho ngay ngắn rồi nhìn đồng hồ, còn không hơn năm phút nữa là hết tiết. Vĩnh cảm ơn chung cả lớp đã dành cho anh những tình cảm quý báu trong ngày Tết nhà giáo. Và anh mong không riêng gì ngày 20 tháng 11, mà từ đây lớp sẽ chăm học hơn để tất cả đều tốt nghiệp và cùng thi đậu vào đại học.

 Đó là niềm vui to lớn nhất của một người thầy hết mực yêu thương trò. Một tình yêu cao cả của một đời thầy tận tụy, sống và làm việc theo đúng phương châm "Tất cả vì học sinh thân yêu"...

 Trống hết tiết đổ dồn. Vĩnh rời lớp với những bước chân vui và một tâm trạng vô cùng thoải mái.

 Trời xanh cao thật đẹp, và cả nắng nữa Vĩnh thấy cũng thật dễ thương... Chương 10 :

Đoan cắm ba đóa hồng nhung vào chiếc bình pha lê trong vắt để bên thành cửa sổ. Nơi đây nó sẽ hứng sương đêm và nắng gió để làm đẹp thêm cho phòng học của Đoan ít lâu nữa. Khi nó sắp tàn, Đoan sẽ ép khô nó để ghi nhớ một ngày trái tim Đoan có những rung động đầu đời...

Ba bông hoa đã thôi héo rũ, trở lại vẻ e ấp xinh tươi. Ba đóa hàm tiếu còn chúm chím, các cánh mịn màng khẽ chúm lại như đôi môi nho nhỏ tuyệt xinh của những người con gái đẹp.

Đoan ngắm nó say sưa ở các góc độ khác nhau vẫn thấy nó đẹp làm nao lòng. Hương thơm của nó phảng phất nhẹ lan tỏa trong không khí phòng học cho Đoan cảm giác say say như uống phải một tí rượu nhẹ.

Nó quá đẹp khiến người ta phải tỏ lòng mong muốn được áp má lên các cánh mịn êm như một loại gấm nhung tuyệt hảo. Nó khiến người ta phải ngẩn ngơ hồn trước vẻ đẹp kiêu sa lộng lẫy, khiến người ta muốn nâng nó lên môi hôn và tận hưởng hương thơm nồng nàn đến độ ngất ngây.

Nhưng tiếc thay, người ngắm nó, thưởng thức vẻ đẹp của nó lại không phải là người Đoan mơ tưởng.

Lẽ ra giờ này những đóa hồng xinh xắn kia phải ở trên bàn học của thầy Vĩnh, phải tỏa hương cho thầy say đắm, phải phô sắc cho thầy ngẩn ngơ. Nó phải làm cho không gian quanh thầy rực rỡ hơn, phòng làm việc của thầy thơm ngát hơn.

Đoan muốn những hương thơm và sắc đẹp kia thay vì ở bên Đoan, nó phải ở cùng thầy. Người được thưởng thức hương thơm, vẻ đẹp của nó phải là thầy mà thôi!

Nhưng sao nó lại trở về với chủ? Đoan đưa tay bưng cằm rồi xụ mặt. Chưa bao giờ Đoan thấy tự ghét mình như bây giờ. Đoan tự hỏi không biết tính nhút nhát cố hữu bao giờ mới rời khỏi cá tính của Đoan?!

Chợt Đoan quay ra giận... lây thầy. Chỉ cần một câu của thầy hỏi thăm "Đoan có quà gì cho thầy không" là Đoan sẽ chẳng ngại ngùng mang nó lên bàn thầy ngay.

Thầy phải hiểu rằng đó là vật quí nhất của Đoan và chỉ có món quà của Đoan mới xứng đáng nhất, có giá trị tinh thần nhất so với các món quà khác!

Mỗi lần học giờ thầy Vĩnh, thấy thầy, Đoan lại nhớ đến mấy bông hoa. Lời thơ của thầy như gió, như mây, quyện vào những đóa hồng nhung trong trí Đoan. Đoan nhìn thầy cứ tưởng như đang ngắm mấy đóa hoa hồng. Thầy giảng bài Đoan cứ ngỡ thầy đang trò chuyện cùng Đoan.

Đôi lúc Đoan lại bắt gặp thầy nhìn Đoan rất lâu, không biết lúc đó thầy nghĩ gì?

Trong đêm, Đoan độc thoại với những đóa hồng tưởng như được cùng thầy trò chuyện.

Thầy gần Đoan trong giờ học nhưng cũng thật xa vời như cánh bướm nhung huyền bên cửa lớp.

Thầy có mặt lúc Đoan học bài, lúc Đoan thơ thẩn trong sân và cả trong giấc mơ của Đoan.

Đoan vò một ngọn cỏ trong tay tự hỏi:

- "Người đâu gặp gỡ làm chi...?

Trăm năm biết có duyên gì hay không?"

Ai bảo thầy đến dạy lớp Đoan làm gì? Ai xui thầy có giọng thơ quá tuyệt? Giá mà Đoan đừng có quá nhiều cảm xúc để đến nỗi, với Đoan cái gì cũng đẹp, cũng thơ, hồn Đoan dễ rung động bởi một cánh bướm, một hạt mưa, hay cả những câu thơ tuyệt mỹ...

Ai bảo thầy có tiếng thơ mượt mà lưu luyến để cho Đoan cứ trôi nổi bồng bềnh như thuyền trên biển...

"Thương nhớ ơ hờ thương nhớ ai

Sông xa từng lớp, lớp sông dài...

Mắt kia em có sầu cô quạnh

Một chớm thu về, một sớm mai?..."

Thầy trích dẫn thơ tình yêu cho cả lớp nghe hay chỉ giảng cho một mình Đoan nghe? Những lần vui cười, thầy cười với tất cả hay chỉ gởi Đoan nụ cười đó? Đoan đã rất nhiều lần tự hỏi mình như thế rồi trầm ngâm, xao xuyến bâng khuâng... một mình.

Hôm qua Đoan nghe rất rõ Hương Trầm và Nguyệt Quế nói chuyện với nhau dù rất khẽ:

- Nhỏ Đoan lúc này làm sao ấy? Ngẩn ngơ xa vắng như ở trên mây?!

- Tao cũng thấy vậy! Dường như nó ít nói chuyện với bọn mình hơn lúc trước. Dạo này nó học hơi kém hơn hồi đầu năm mày ạ!

Giờ chơi Đoan thường tìm một góc bàn vắng hay một thảm cỏ xanh khuất lối đi, ngồi một mình. Bình thường vốn không thích ồn ào, càng ngày Đoan lại càng trầm tư xa vắng.

Ba đóa hồng đã được ép khô gắn vào một bìa sơ mi trắng cắt tỉa rất đẹp. Một mặt có giấy kính trong suốt có thể nhìn rõ nhánh hoa khô từ phía bên ngoài. Dưới cành hoa là một dòng chữ bay bướm viết rất nhỏ như không muốn cho người khác đọc: "...Về thầy L.P.V 20/11".

Nhánh hoa khô được đặt trong một phong bì luôn theo Đoan vào lớp. Có những giờ chơi ngồi một mình trong lớp, Đoan lại giở nó ra xem.

Bà Mai phê sổ liên lạc cho con gái đã phát hiện trong việc học có phần "tuột dốc" của Đoan. Bà định một ngày rỗi việc sẽ tìm gặp ba đứa bạn thân của con hỏi han chuyện học hành của nó.

Bà làm việc ở một bệnh viện lớn trong thành phố nên thường vắng mặt suốt tám tiếng đồng hồ mỗi ngày. Thỉnh thoảng lại gặp ca đêm nên hai mẹ con ít gặp nhau.

Tuy thế, bà vẫn tin tưởng thành tích học tập của Đoan. Bởi từ nhỏ chị em Đoan đã có một sức tự lực học tập rất tốt.

Tính ra ông Tâm đã bỏ mẹ con bà từ ngày bé Mẫn, em gái Đoan lên ba mà đi theo một tiếng gọi khác của ái tình. Từ đó một mình bà Mai tần tảo nuôi hai con ăn học bằng đồng lương chắt mót của một công nhân viên ngành y. Dù vậy bà Mai cũng thấy an lòng vì Đoan, Mẫn rất ngoan và học tốt.

Năm nay Đoan lại phải thi tốt nghiệp. Bà tự nhủ phải hỏi gấp Vân Anh.

Buổi học sáng nay, Đoan bị một cơn đau bụng muốn rụng rời. Đoan nhớ cơn đau này đã xuất hiện một lần, cách đây không lâu và không "ầm ĩ" nên Đoan không quan tâm. Không ngờ hôm nay nó lại bộc phát dữ dội. Đau đến nỗi đứng không muốn vững và cứ phải cong người lại. Nó xuất phát từ phần bụng bên hông phải, chếch rốn một chút. Nó mãnh liệt như một cơn bão làm Đoan hoa cả mắt, người xuất mồ hôi và bủn rủn chân tay.

Nó đến từng cơn một, nhồi ép cơ bụng Đoan làm thành một cơn đau khủng khiếp hất Đoan gục xuống bàn.

Lớp học náo động, nhốn nháo, xôn xao. Đoan không biết gì nữa, chỉ thấy mắt tối đen, cơ thể đau như bị ai dần vì cơn đau lan tỏa khắp người. Trong cơn hoảng loạn, Đoan mơ hồ ngửi thấy mùi dầu gió nồng cay. Bạn bè xúm lại xoa dầu, giựt gió vẫn không cắt được cơn đau xé ruột.

Cô Vân dạy sử cuống quít gọi Vân Anh và Nguyệt Quế đưa Đoan xuống phòng y tế của trường.

Tại đây cô y tá cho biết Đoan bị viêm ruột thừa cấp tính. Cô tức tốc gọi xe chở Đoan đến bệnh viện.

Qua siêu âm, đúng là Đoan bị viêm ruột thừa. Bác sĩ quyết định mổ ngay hôm đó. Nhà trường đã báo tin cho bà Mai biết. Tiết cuối, Vân Anh lật đật soạn tập vở của Đoan mang về nhà giúp và phân công hai chép bài giúp Đoan.

Trong lúc xốc lại chồng vở bỏ vào cặp, thình lình một phong bì không dán rơi xuống đất. Vân Anh nhặt lên. Một nhánh hoa hồng ép khô rơi ra ngoài. Thì ra đó là một loại "carte postable" tự làm bằng hoa khô. Nguyệt Quế tò mò:

- Ai tặng nó ba đóa hồng khô?

- Không lẽ Tín "điệu".

Ba đứa chụm đầu vào nhau, tròn mắt ngạc nhiên khi thấy dòng chữ của Đoan ghi bên dưới... "...về thầy L.P.V 20/11".

Cả ba nhìn nhau ngỡ ngàng. Dù không ai nói với ai lời nào nhưng trong "hộp nhớ" mỗi đứa đều nhận ra rất rõ cảnh ngày Tết nhà giáo... Đoan ngồi buồn hiu nơi bàn học...

Ba đứa cùng nhìn nhau ngầm hiểu... Chương 11 :

Đoan mở mắt choàng tỉnh, không khỏi ngạc nhiên thấy mình nằm giữa một nơi hoàn toàn xa lạ. Đó là lúc chất thuốc mê đã hết tác dụng.

Cô bé chớp mắt, định thần nhìn kỹ mọi vật chung quanh. Căn phòng rộng lớn mang toàn một màu trắng lạnh buồn. Trong không khí nồng nặc mùi ê te đặc trưng của bệnh viện.

Đoan đang nằm trên một chiếc giường nệm trải grap trắng toát. Trong phòng cũng còn nhiều chiếc giường như thế có người nằm và có chiếc còn trống. Tường và trần đều sơn màu trắng đục. Hàng đèn néon tỏa ánh sáng khắp phòng không có chiếc quạt máy nào ở trên trần. Nhưng không khí bên trong phòng vẫn mát lạnh. Dần dần Đoan nhận biết mình đang nằm trong phòng lạnh của một bệnh viện. Tuy nhiên Đoan vẫn chưa hiểu vì sao mình có mặt ở nơi này. Chất thuốc mê làm đầu óc bệnh nhân "mụ mỵ" đi khi còn chút ảnh hưởng của nó trên cơ thể. Chai dịch truyền treo trên một giá cao đang nhỏ từng giọt chậm đều vào một ống dây nylon trong suốt, thông qua một cái kim to xuyên vào cánh tay cô bé và nơi bụng phải hãy còn đau âm ỉ.

Đoan lờ mờ nhớ lại cơn đau tái người trong giờ học, được đưa cấp tốc vào bệnh viện. Bác sĩ khám bệnh báo Đoan bị viêm ruột thừa phải mổ...

Đoan muốn xoay người một tí cho dễ chịu hơn. Nhưng không dám nhúc nhích cánh tay đang truyền dịch. Đoan lo lắng, không biết ở nhà mẹ và em Mẫn có hay Đoan nằm viện không? Giờ này không thấy ai là người thân có mặt bên mình, Đoan bỗng thấy tủi thân.

Bỗng cửa phòng xịch mở, một cô y tá nhanh nhẹn đến bên giường Đoan khẽ reo lên:

- A, em đã tỉnh rồi! Mẹ em nãy giờ ở đây. Nhưng em chưa tỉnh nên chị ấy về để sắp xếp chuyện nhà. Chai dịch truyền còn tí nữa là hết rồi đó, em có thấy đỡ chưa?

Đoan nói thật nhỏ vì hãy còn yếu lắm.

- Em... khát... nước!

Cô y tá nhanh nhẹn đến bên chiếc tủ cá nhân ở mỗi giưng bệnh, bưng đến cho Đoan một tách sữa nhỏ còn ấm. Cô bảo:

- Em uống sữa nhé! Chị Mai có khuấy sẵn đấy!

Cô y tá đút cho Đoan vài muỗng sữa. Đoan còn mệt nên không uống được nhiều. Trước khi ra khỏi phòng, cô y tá căn dặn.

- Em mới mổ nên còn ở phòng lạnh. Ở phòng lạnh không cho người ngoài vào nuôi nên em không gặp được người nhà đâu. Thỉnh thoảng chị Mai sẽ vào thăm em. Bây giờ, em cứ yên tâm ngủ đi cho khỏe nào!

Cô kéo mền đắp lên ngực Đoan rồi rút chiếc kim truyền dịch ra khỏi cánh tay Đoan.

Đoan nhắm mắt lại cố ngủ thêm tí nữa nhưng Đoan thấy khó ngủ vô cùng.

Tiếng máy lạnh chạy xè xè một âm điệu buồn bã cô đơn. Phòng lạnh thật yên lặng. Vài cô y tá đi lại nhẹ nhàng không hề gây một tiếng động nhỏ.

Đoan nhớ tới mẹ và em Mẫn. Mẹ thì có thể vào thăm Đoan được bất cứ lúc nào vì mẹ là y sĩ ở bệnh viện khoa nhi kế bên. Nhưng còn Mẫn, con bé lớp mười nghịch ngợm, tính khí như con trai, không biết nó có cảm thấy buồn khi Đoan nằm viện hay không?

Nhớ một lần Mẫn bị mẹ đét cho ba roi vào mông vì tội leo nóc nhà hái mận cho Đoan ăn, Đoan thấy thương nó vô cùng, cây mận trắng đặc ruột, cắn vào một miếng nước ngập ngọt tới răng vừa xốp vừa giòn. Mẹ không cho chị em Đoan trèo hái vì nó rất cao. Khi hái phải trèo lên nóc nhà rất nguy hiểm. Vậy mà con nhóc Mẫn đã dám mang vớ vào chân leo lên mái tôn giữa trưa nắng muốn phỏng chân hái xuống một "bụng" mận. Hai chị em "chén" một bữa no nê và con nhóc phải lãnh một trận đòn đáng nhớ...

Hết nghĩ tới em, Đoan lại nhớ đến bạn bè, lớp học. Bỗng Đoan nhớ đến ba đóa hồng khô. Hôm Đoan bệnh bất ngờ không biết nó có bị "bật mí" không. Đoan mong gặp Mẫn để hỏi xem ai đem cặp về cho Đoan và nhất là muốn Mẫn đem cặp đến bệnh viện cho Đoan tức khắc. Vì đối với Đoan đó là một vật "tuyệt mật" chỉ có mình Đoan biết mà thôi!

Đoan thấy lo lắng cho ba đóa hồng khô, muốn về nhà ngay để giữ bí mật tuyệt đối cho món quà không gửi. Một tình yêu đơn phương tuyệt đẹp không muốn "phơi bày ra ánh sáng"...

Nhắc đến ba đóa hồng, Đoan càng nhớ thầy Vĩnh thiết tha.

Chợt cửa phòng lạnh hé mở, bà Mai tất tả đến bên giường bệnh của con.

- Sao, khỏe không con? Con làm mẹ lo quá chừng.

Bà vuốt tóc Đoan rồi lấy khăn ướt lau mặt cho Đoan. Đoan muốn ôm cổ mẹ nũng nịu như mọi ngày. Nhưng mọi cử động, Đoan lại nghe đau nên đành phải nằm yên.

- Con bị viêm ruột thừa cấp tính phải mổ liền. Rất may lúc con lên phòng mổ, mẹ đã gởi con cho bác sĩ Tuấn. Mẹ vừa gặp lại bác ấy, bác bảo ca mổ của con rất tốt. Con cứ yên tâm.

Vẫn nhớ đến ba đóa hồng khô, Đoan liếm đôi môi khô héo, hỏi bà Mai:

- Mẹ à, hôm đó ai đem cặp vở về nhà cho con?

- Vân Anh con à! Ba đứa tụi nó thay phiên nhau chép bài giúp con đó!

Nghe nói Vân Anh, Đoan cảm thấy yên tâm. Tuy nhiên Đoan vẫn mong được gặp bạn bè. Đoan thủ thỉ:

- Chừng nào con mới được ra khỏi phòng lạnh?

- Đúng hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Trưa mai con sẽ được ra phòng ngoài. Nằm lại khoảng một tuần rồi về. Con đừng lo lắng gì cả. Em Mẫn đòi vào thăm con đó.

- Ngày mai, mẹ bảo Mẫn đem cặp vào cho con nhé!

Bà Mai tươi cười vuốt má con gái:

- Cứ yên tâm dưỡng bệnh đi cô! Hết bệnh mới học được chứ!

- Con nhớ lớp lắm! Con cũng sắp thi học kỳ một rồi mẹ ạ!

- Thôi được, mai mẹ sẽ gọi em mang cặp vở vào cho con. Con uống sữa tiếp đi rồi ngủ.

Bà Mai cho Đoan uống hết tách sữa, dặn dò con thêm ít điều. Sau đó bà gởi Đoan cho bác sĩ trực rồi mới trở ra.

Bên ngoài có lẽ là đêm. Đoan nhớ không ít bạn bè, nhớ bọn Vân Anh, nhớ người thân, nhớ cả thầy Vĩnh. Không biết cho đến hôm nay thầy có hay Đoan nằm viện chưa nhỉ? Nếu biết, sao thầy không vào thăm Đoan? Và ba đóa hồng khô cầu mong cho đừng ai khám phá ra nó... Chương 12 :

Thấm thoát Đoan ra phòng lạnh đã được ba ngày. Ngày nào Vân Anh, Nguyệt Quế, Hương Trầm cũng đến thăm Đoan. Chúng kể chuyện lớp, chuyện Quang "quậy" nện Tín "điệu" một cú ra trò bởi vì Tín "điệu" mà Tuyết "lùn" không hề ngó ngàng gì đến nó; chuyện thầy Vĩnh phạt lớp suốt hai tiết không thèm dạy về vụ "tình tay ba" của Quang, Tuyết, Tín đã làm ảnh hưởng đến thi đua của lớp vì Quang "quậy" đã nện Tín "điệu" ở giữa sân trường.

Ngày nào không gặp bọn Vân Anh, Đoan buồn lắm cứ ngóng ra ngoài cửa phòng chờ đợi những tiếng chân quen thuộc của chúng.

Hôm qua, Hương Trầm đưa một số bạn ở lớp vào thăm Đoan. Lần này có cả Tín "điệu", Tuyết "lùn" và mấy "ông thần" xóm nhà lá...

Đoan vui mừng vì Tín đã không còn nhìn Đoan bằng đôi mắt chất chứa nỗi "u tình" nữa. Thái độ của Tín cũng trong sáng hơn, có lẽ nó đã lãng quên chuyện bức thư tỏ tình của nó gởi cho Đoan hôm nào. Hay tiến bộ hơn, Tín đã biết trái tim Đoan không cùng một nhịp điệu với nó rồi chăng?! Tuyết "lùn" có vẻ hợp với nó hơn. Đoan nghĩ thế và mong Tín đừng nghĩ tới Đoan nữa...

Khi bạn bè ra về hết, Đoan lại trở về với trạng thái cô đơn. Người Đoan vẫn hằng mong cũng chưa thấy đến thăm Đoan.

Hôm qua, Vân Anh có nói với Đoan rằng thầy chủ nhiệm có hỏi thăm Đoan và chúc Đoan mau bình phục. Thế rồi thôi, Đoan không nghe Vân Anh nói thêm câu nào nữa về thầy Vĩnh.

Mẫn đã mang cặp đến bệnh viện cho Đoan. Tất nhiên Đoan chỉ cần tìm gặp được điều "bí mật" của mình nằm trong ấy.

Thấy nó vẫn còn nằm im trong ngăn cặp. Đoan thở phào nhẹ nhõm.

Mỗi ngày, Đoan lại mang nó ra ngắm nghía, trò chuyện thầm thì với nó khi mọi người đã ra về cả. Bây giờ nó đang bình yên trên ngực Đoan, trong quyển sách văn học lớp 12 Đoan vẫn dùng làm gối để nằm.

Đoan tin tưởng khi món quà yêu thương nằm dưới gối, Đoan sẽ yên tâm hơn, giấc mơ của Đoan sẽ đẹp hơn và Đoan sẽ luôn gặp người Đoan yêu mến.

Bây giờ Đoan đâm ra thích ngủ. Có khi những giấc ngủ trưa làm cho Đoan bớt đi nỗi cô đơn và đôi khi dắt Đoan đến gần thầy hơn.

Trưa nay, không có tiết dạy, Vĩnh quyết định đến bệnh viện thăm Đoan. Mấy bữa nay, anh đã nghe lớp báo cáo Đoan nghỉ học vì nằm viện mổ ruột thừa. Vĩnh cũng muốn đến thăm Đoan ngay với tư cách là giáo viên chủ nhiệm lớp đến thăm học trò nằm viện. Hơn nữa Vĩnh cũng rất "nóng ruột" khi tưởng tượng "bé Nu" của anh đang bệnh nặng. Nhưng công việc lớp dồn dập, Vĩnh chưa thể đi thăm Đoan được. Mấy bữa nay vào lớp, Vĩnh cũng thấy hơi buồn vì thiếu hẳn đôi mắt to đen của cô em gái. Vĩnh thầm cầu mong cho Đoan chóng bình phục để đi học lại. Bởi vì không bao lâu nữa là đến thi học kỳ một rồi!

Buổi trưa, bệnh viện êm vắng, Vĩnh tìm được phòng của Đoan không mấy khó. Giờ này, trong phòng lặng ngắt. Mọi người đang nghỉ trưa. Giường của Đoan nằm bên cửa sổ trong cùng ở hành lang bên trái. Nơi đây khá mát mẻ vì có một bóng cây trứng cá to che mát cả một góc sân.

Vĩnh tiến lại từng bước thật khẽ đến bên giường Đoan. Giờ này không có ai ở lại chăm sóc cô bé. Đoan đang say ngủ. Vĩnh lặng lẽ nhìn gương mặt trắng xanh trong bình lặng. Mái tóc đen nhánh xõa trên nền gối trắng. Hai tay cô bé đặt lên ngực. Đôi môi hơi kém hồng hào hơn thường ngày hé mở. Anh nhẹ nhàng đặt gói quà lên bàn. Đoan vẫn vô tư suy nghĩ không hề hay có người đang đứng bên cửa sổ chờ Đoan tỉnh dậy.

Vĩnh nhìn nhịp thở phập phồng lên xuống nơi ngực cô bé và cảm thấy yên tâm.

Trong trí Vĩnh cảnh Nu bé nhỏ của anh ngày nào lại vùn vụt trở về. Đôi mắt u buồn nhìn người anh trai yêu quý mà không nói nên lời khi biết mình sẽ bỏ anh để mãi mãi đi xa về cõi vĩnh hằng vì căn bệnh ung thư máu hiểm nghèo.

Vĩnh lắc đầu thật mạnh cố xua đi những hình ảnh đau thương đã đọng lại thành kỷ niệm khó phai mờ về người em gái yêu thương xấu số.

Thấy Đoan vẫn ngủ say, Vĩnh bỏ ra sân một lúc rồi lại quay vào. Thấy Vĩnh chờ lâu cô gái nằm chung phòng định gọi Đoan dậy. Nhưng Vĩnh ngăn lại để Đoan ngủ ngon giấc.

Chợt mắt Vĩnh chạm vào quyển sách Văn học lớp 12 đang nằm ngoan ngoãn bên gối Đoan.

- "Chà, cô bé siêng đáo để, tiết kiệm thời gian quá nhỉ!"

Anh cầm quyển sách lên xem để đốt thì giờ. Tình cờ một vật trong sách rơi ra. Thì ra đó là một cánh thiệp ép hoa khô.

Vĩnh ngắm nghía thật kỹ ba đóa hồng khô, mỉm cười lẩm bẩm "ba đóa hoa hồng biểu tượng của một lời tỏ tình!" Anh nhướng mày thích thú khi tình cờ khám phá một bí mật "A ha, cô bé đã có người yêu!"

Bỗng Vĩnh tò mò nhìn hàng chữ nhỏ xíu ghi bên dưới "Về thầy L.P.V 20/11"... Anh giật mình sửng sốt nhìn ba đóa hồng khô, ngỡ ngàng, trái tim bắt đầu "loạn nhịp". Bên trong cánh thiệp còn nắn nót bốn dòng thơ:

"Em giấu trong sách vở

Một chút gì hắt hiu

Nhiều khi hồn bỡ ngỡ

Hình như là... tình yêu...!"

Vĩnh nghe cơ hồ trời đất chao nghiêng. Anh không tin vào những điều mình thấy. Nhưng sự thật vẫn sờ sờ trước mắt. Anh ngơ ngẩn mấy giây rồi một cảm giác vui sướng vì được yêu dâng lên trong lòng Vĩnh như từng đợt sóng trào...

Vĩnh không biết phải vui hay buồn. Bởi vì lẽ ra, Vĩnh phải để cho trái tim anh xúc cảm tự nhiên ở buổi ban đầu gặp Đoan ngoài cửa lớp. Nhưng anh đã đặt cương vị một người thầy lên trên tất cả. Anh đã tự kìm chế tình cảm tự nhiên chân thật của mình, "lái" nó sang một chiều hướng khác cao thượng hơn, đạo đức hơn, mà không có điều chi bắt anh phải làm như vậy?!

Nếu anh cứ để tình cảm nẩy nở một cách tự nhiên thì giờ đây Vĩnh sẽ vô cùng sung sướng khi biết rõ mối tình của Đoan đối với mình.

Thế mà... ngược ngạo thay!

Vĩnh nhẹ nhàng đặt quyển văn trở lại chỗ cũ rồi lặng lẽ ra về.

Anh rời bệnh viện bằng một trái tim xao động, chơi vơi...

Chương 13 :

Thấm thoát Đoan nghỉ học đã gần một tuần lễ. Vào lớp, vắng Đoan bộ ba Vân Anh, Nguyệt Quế, Hương Trầm cũng thấy buồn.

Hồi nãy trong tiết văn của thầy Vĩnh, Nguyệt Quế quan sát thầy kỹ lắm. Nó trao đổi tin thời sự với Vân Anh và Hương Trầm bằng cách thả thư từ bàn trên xuống bàn dưới rất khéo, rất "sành" mà thầy Vĩnh cũng không tài nào bắt được. Nếu biết được nội dung của những tờ "thư bướm" đó, thầy Vĩnh sẽ "mếu" dài dài là cái chắc!

Hôm nay Nguyệt Quế cũng thả "thư bướm" xuống bàn Vân Anh, nội dung như sau:

- Tụi mày ơi, mấy ngày nay tao để ý thầy mình coi bộ có phần giảng bài "kém hay" bằng những ngày có "em" Đoan trong lớp. Thầy có vẻ buồn buồn như "những lá thu bay". Ổng giảng bài mà coi bộ "hồn lơ đãng mộng ra ngoài cửa lớp" quá chừng!

- Hổng biết thầy có chia động từ "to love" con Đoan hông nữa! Dòm mặt ổng sao tao nghi ngờ quá! Con Đoan "hớp hồn" thầy mình mất rồi! Híc! Híc!

- Ôi! Tội nghiệp thầy mình đã biết yêu rồi! "Yêu là chết trong lòng một ít!" đó thầy ui! Ổng rành thơ Xuân Diệu quá mà sao ổng dám lộn xộn với tình yêu tụi bây hé?!

- Tụi mày thấy tao "siêu âm" tim ông Vĩnh "oách" hôn? Còn "điện tâm đồ" cũng cho biết ổng bị "rối loạn nhịp tim cấp ba" do vi khuẩn "I Love You" tấn công ào ạt. Hì! Hì!

"Tờ bướm" nọ quẳng xuống bàn dưới. Không đầy năm phút sau một "tờ bướm" khác lập tức được thảy lên bàn trên. Con Nguyệt Quế chộp nhanh lúc thầy Vĩnh xoay lưng lên bảng. Tờ bướm của Vân Anh và Hương Trầm "phúc đáp" thế này:

- Hu hu! Bọn tao "zương" ổng thì ít mà thương con Đoan thì nhiều. Bởi nó đã ngu ngơ, dại dột, mới mấy tuổi đầu mà bày đặt chia động từ đó làm chi cho rắc rối cuộc đời.

- Ôi! Nhớ ba đóa hồng không gởi của "ẻm" mà hai tao thấy thương "ẻm". Má ơi! Nếu ông Vĩnh mà biết được ba đóa hồng khô đó là của ổng thì ổng sẽ ra sao?! Ổng sẽ khủng lên vì được yêu hay ổng sẽ cho con Đoan "ốc vịt" điểm hạnh kiểm vì cái tội dám yêu thầy!

- Sao nó "ngu" thế? Nó không biết thầy là cha mẹ, thầy là vua, là Khang Hy đang vi hành... híc! Híc! "Giỡn mặt với Khang Hy thì bị chém". "Giỡn mặt với thầy thì bị xực xirô". Đùa với ái tình thì bị viêm ruột thừa thấy bố! Nó khờ lắm. Tụi tao thương nó lắm nhưng không biết phải "nàm sao" bây giờ?

- Tao với Hương Trầm có làm bài thơ "Bạn nghỉ học" như sau. Mày đọc coi hay hôn? Đem đăng trong Mực Tím được hôn? Hì! Hì!

"Sáng nay bạn không đến lớp

Trời buồn trở gió heo may

Cành cây sà vào lớp học

Xua đi cái rét hao gầy

Chiếc ghế cô đơn lắm lắm!

Hộc bàn vắng những xôn xao

Khi cô đọc bài cho chép

Thiếu một tiếng bút rì rào..."

(Thẩm Hạ)

- Tái bút: Đọc xong "thư bướm", "thủ tiêu" ngay lập tức. Bỏ vô họng nuốt cũng được! Miễn sao ổng đừng bắt được là tốt! A.T.

Nãy giờ Vĩnh đã chú ý bàn của Vân Anh và Nguyệt Quế có những cánh tay thoăn thoắt chuyền lên, thả xuống những tờ giấy nhỏ. Anh dư sức biết "tụi nhóc" nói chuyện bằng giấy. Nhưng Vĩnh chẳng hề bắt bớ hay rầy rà chúng làm gì. Bởi vì ai trong tuổi học trò mà nghiêm túc cả đâu?!

Ngày xưa anh cũng vậy! Còn bây giờ kẻ trên bục giảng, người dưới bàn học anh đã có nhiều cảm thông với lứa tuổi ô mai, nhí nhố đầy thơ mộng này. Cho nên anh không buồn nhìn mấy cái đầu châu lại đôi vai run lên vì những trận cười về nội dung của những tờ giấy chuyền tay. Bởi không còn bao lâu nữa chúng sẽ rời trường xa lớp mãi mãi, tung cánh bay vào đời như anh bây giờ, làm gì tìm lại được những phút vô tư nghịch ngợm của tuổi học trò!

Chỗ ngồi của Đoan vẫn trống. Vắng một người Vĩnh dạy cũng mất "hăng"! Học trò dưới lớp đang chăm chú làm bài tập làm văn. Vĩnh săm soi cây bút trong tay chợt nhớ buổi trưa anh vào thăm Đoan trong bệnh viện. Vĩnh thấy thương cô bé thật nhiều. Trong thâm tâm Vĩnh cố xem Đoan như em gái nhỏ của mình. Đã bao lần anh đã cố dặn lòng phải để cho Đoan học, hãy làm một người thầy tốt. Nhưng anh thấy khó quá! Anh đã phải đấu tranh tư tưởng dữ dội để trái tim anh đừng lạc điệu vu vơ.

Ngày mới về trường nhận lớp, Vĩnh đã có nhiều chú ý về cô bé mơ mộng đến quên giờ học ngoài cửa lớp! Cô bé ấy lại rất dễ thương, nhu mì và học rất giỏi môn anh phụ trách.

Trong những giờ lên lớp, nhìn xuống bàn học, Vĩnh chưa thấy ai say mê, chăm chú nghe thầy giảng bài bằng Đoan nên trong thâm tâm anh thấy cuộc đời dạy học của anh thật có ý nghĩa!

Rồi một ngày Vĩnh chợt khám phá ra ở Đoan có một nét rất quen thuộc. Chính nét quen thuộc ấy đã khiến Vĩnh cố gắng kìm hãm tình yêu trong sáng đã bộc phát hết sức tự nhiên trong lòng mình để xứng đáng là một người thầy đúng nghĩa, đúng chức năng. Đó chính là "đôi mắt"! Đôi mắt của bé Nu.

Trong đời Vĩnh, bé Nu là em gái nhỏ mà Vĩnh yêu thương nhất đã mất. Bây giờ Vĩnh không muốn mất bé Nu thêm một lần nữa! Vĩnh đã tình cờ tìm được bé Nu của anh trong lớp học qua cô học trò dễ thương. Nhưng khổ thay sự thật vẫn là sự thật!

Từ khi con tim có những tình cảm riêng, Vĩnh cố gắng đấu tranh với lý trí. Bởi lý trí của một người thầy không cho phép Vĩnh yêu Đoan nhưng trái tim của Vĩnh cũng có những lý lẽ riêng của nó.

Ba đóa hồng mừng 20/11 chứng minh mối tình của một học trò đối với thầy. Vĩnh nghĩ đó là mối tình đầu của Đoan. Vì chính Vĩnh cũng đã từng mắt thấy tai nghe chuyện Tín "điệu" với bài thơ "Đoan tiến"!

Vĩnh cười buồn và suy nghĩ rất mông lung. Bây giờ Đoan còn nhỏ. Chuyện thi cử tương lai rất là hệ trọng. Mai sau, khi Đoan rời khỏi ghế nhà trường, dù chỉ mới bước chân lên đại học. Nếu trái tim xưa còn cùng nhịp đập với anh, Vĩnh sẽ mở rộng vòng tay chờ đón người anh yêu với tất cả tấm lòng. Chỉ sợ rằng... Vĩnh không dám nghĩ xa hơn nữa...

Còn bây giờ lý trí của người thầy luôn bảo với Vĩnh rằng hãy xem Đoan như em gái. Nhưng trái tim anh, sao nó cứng đầu kinh khủng!

Lý trí và tình cảm cứ dằn co trong lòng Vĩnh gây nên những mâu thuẫn như những đợt sóng ngầm cuốn hút Vĩnh vào trong.

Trên nền trời xanh thẫm, những cuộn mây trắng nhởn nhơ bay. Vĩnh thèm được thảnh thơi như những đám mây rong chơi đó biết chừng nào!

Vân Anh bảo ngày mốt Đoan xuất viện. Vĩnh quyết định sẽ thực hiện mọi việc theo ý nghĩ của mình. Chương 14 :

Nắng chiều nhè nhẹ vương trên những cành lá mận xanh tươi. Đoan vừa trải qua một giấc ngủ dài. Cô bé ẵm con Mi Mi ra trước hiên nhà.

Chiều nay Mẫn vào trường học phụ đạo chưa về. Bà Mai thấy Đoan xuất viện ba ngày đã khỏe nên cũng đã đi làm. Một mình ở nhà ngủ mãi cũng chán, Đoan định chơi với con Mi Mi một lát rồi vào nhà soạn lại sách vở chuẩn bị mai đi học.

Nghỉ học đã lâu, Đoan nhớ lớp vô cùng, Đoan nhớ bạn bè, nhớ lớp học với chỗ ngồi thân yêu, nhớ cây me tây và sân trường đầy bóng mát, nhớ môn văn học đã mười ngày nay không ai giảng cho nghe!

Đoan vuốt ve bộ lông mịn màng của con Mi Mi, nói chuyện với nó cho đỡ buồn:

- Mi Mi ơi! Mấy ngày chị bệnh sao cưng không đến bệnh viện thăm chị?

Chú mèo hểnh hểnh chiếc mũi đỏ hồng, khẽ co bộ lông mềm vào lòng Đoan nũng nịu.

- Ở nhà cưng có nhớ chị không?

Đoan nhìn vào đôi mắt trong veo của nó. Con Mi Mi gừ gừ những tiếng nhỏ xíu trong cổ họng tỏ vẻ thông cảm với cô chủ nhỏ của nó.

Đoan bế nó lên tay thầm thì:

- Nhưng có một người còn tệ hơn cưng nữa! Người đó không hề nhớ tới chị miu à!

- ...

- Miu biết không, có người bảo với chị rằng, một buổi trưa có một anh chàng là lạ vào thăm chị, chị có thấy một gói quà của một người nào đó để lại, nhưng không thấy đề tên.

Con mèo "ngao ngao" trả lời cô chủ tội nghiệp. Bỗng nó nhảy phốc xuống, nhẹ nhàng lao ra cổng. Đoan đi theo bắt nó lại, nhưng nó đã lẻn ra hàng rào mất hút. Đoan mở cổng rào, ló đầu ra ngoài tìm chú mèo "lộn xộn". Đoan cất tiếng:

- Mi Mi! Mi Mi!

- A! Hay quá nếu không nhờ con mèo trắng mới phóng ra chắc thầy không tìm được nhà em rồi!

Đoan hết hồn khi nhận ra thầy Vĩnh. Trống ngực Đoan đập dữ dội. Vừa mới mong gặp thầy, bây giờ thầy hiện diện trước mắt Đoan trong gang tấc làm Đoan vừa bối rối, e thẹn, vừa thấy lòng nao nao. Tất cả làm thành một thứ tình cảm gì Đoan không thể tả được.

Vĩnh vịn một tay lên chiếc xe "cuộc" ngắm cô học trò hãy còn xanh xao. Anh chỉ muốn mình không phải là thầy giáo chủ nhiệm của Đoan để được bày tỏ tình cảm đang dâng trào như sóng. Nhưng không! Vĩnh đã dặn lòng "phải vững", Đoan chỉ là học trò của anh thôi.

- Đoan khỏe chưa? Mẹ em có ở nhà không?

Đoan khẽ lắc đầu, nép vào cổng. Vĩnh dắt chiếc xe cuộc vào trong sân.

Đoan đi rất nhẹ và chậm. Bác sĩ bảo phải cẩn thận khi đi đứng và làm việc nhẹ để vết mổ thật lành lặn.

Vĩnh cũng đi thật chậm để chờ Đoan vào nhà. Anh cố xem Đoan là bé Nu của anh ngày nào để thực hiện được ý định trong sạch của mình, đem lại những điều tốt đẹp cho Đoan.

Vĩnh chủ động mở rộng cửa ra vào và tự động kéo ghế ngồi sau khi đã bật chiếc ghế xích đu ra cho Đoan.

Dù lớn hơn Đoan gần chục tuổi, đã từng giảng bài trước lớp, dù đã từng dặn với lòng nói sao cho khéo. Nhưng Vĩnh vẫn thấy khó vô cùng. Anh tằng hắng mấy lần, rồi đứng lên đi đi lại lại trong phòng vẫn chưa biết phải bắt đầu ra sao.

Còn Đoan cứ đưa mắt nhìn ra sân rồi lại vân vê chiếc kẹp hình bướm trong suốt, thời gian khi thì như dài ra, lúc như lắng đọng lại, vẫn chưa nghe ai cất tiếng. Cuối cùng Vĩnh là người lên tiếng trước.

- Chừng nào em đi học lại?

Đoan trả lời nhẹ như tiếng lá rơi:

- Thưa thầy, có lẽ ngày mai ạ!

Vĩnh nhìn đôi mắt anh yêu nhất:

- Em có thấy thật khỏe chưa?

Đoan khẽ gật đầu. Ở cô bé cái gì cũng thật nhẹ, thật dịu như rất dễ vỡ, dễ rơi bất cứ lúc nào. Vĩnh muốn đặt tay lên mái tóc đen mượt để nghe cái cảm giác mát êm nơi tay anh. Muốn ngắm đôi mắt đen thỏa lòng, muốn hôn đôi môi xinh một chiếc hôn nồng thắm nhất, nhưng anh không dám. Bởi chúng còn trong trắng ngây thơ quá. Anh sẽ làm chúng vẫn đục mất! Anh cố gắng tự nhủ:

- "Ngày mai! Ngày mai! Cũng chẳng còn bao xa, Đoan sẽ vào đại học."

Bao nhiêu lời định nói bỗng theo gió theo mây bay mất. Bỗng chuông đồng hồ thong thả buông bốn tiếng. Không còn bao lâu nữa, mọi người sẽ về, Vĩnh sẽ không còn dịp nào tốt hơn. Nghĩ thế, anh kéo ghế đến ngồi đối diện với Đoan, cố nói bằng giọng bình thản nhất:

- Hôm nay, thầy đến thăm em. Thầy rất mừng khi thấy em khỏe hẳn. Ngày mai em sẽ đi học lại, tiếp tục chặng cuối của đời học sinh thân yêu. Bởi không còn bao lâu nữa, dù muốn dù không em cũng sẽ rời trường. Lúc đó thầy sẽ vui mừng biết bao nếu em đạt kết quả mỹ mãn, chứng tỏ một thành tích học tập xuất sắc, không xao lãng việc học bởi bất cứ một vấn đề gì rất vẩn vơ của tuổi học trò. Thầy không muốn em bị xao động tâm hồn, bởi em rất giống cô em gái của thầy đã mất. Và thầy rất thương cô em gái đó! Tuy nhiên thầy thành thật khuyên em nên bớt lãng mạn! Là học trò, đường tương lai thênh thang rộng mở, thầy nghĩ em sẽ thành công không mấy khó với một điều kiện duy nhất là "Học! Học nữa, học mãi!" đừng để tâm trí đi mênh mông xa vời khi em chưa vào đại học.

Vĩnh ngừng nói, anh thấy nét mặt Đoan thắm tươi hơn. Cô bé có vẻ hiểu những lời thầy nhắn gởi. Vĩnh mừng ghê gớm. Anh nhìn sâu vào mắt Đoan.

- Bây giờ em có hứa với thầy không được xao lãng việc học bất kể vì một vấn đề gì, từ bây giờ cho đến ngày em vào đại học!

Vĩnh thong thả nhấn mạnh:

- Em có hứa với thầy được không?

Anh sung sướng rộn rã trong lòng khi thấy Đoan gật đầu quả quyết, miệng nhoẻn cười thật tươi.

Vĩnh đứng lại mấy giây rồi tiến nhanh ra cổng, xem như anh đã thành công bước quan trọng nhất. Những ngày kế tiếp còn dạy Đoan học, còn gặp nhau mỗi ngày Vĩnh phải làm gương tốt, tạo niềm tin vững chắc cho tất cả học trò của mình và nhất là để chứng minh cho lời nói, việc làm của anh. Điều đó còn khó hơn gấp bội. Nhưng Vĩnh sẽ quyết tâm làm được.

Anh ra về lòng phơi phới theo từng vòng bánh xe reo vui, Vĩnh nghe lòng nhẹ nhõm thênh thang như vừa cất đi gánh nặng sầu tâm tư trong mình suốt mấy ngày qua, từ khi bắt gặp ba đóa hồng trong trang sách của Đoan.

Còn Đoan, cô bé cứ đứng tần ngần ngắm mãi bóng thầy khuất sau cánh cổng rào to lớn. Đoan như bừng tỉnh sau một giấc ngủ mê. Lời thầy Vĩnh quá rõ và Đoan đã hứa với thầy sẽ đậu vào đại học.

Đoan đến bên bàn học soạn tập vở cho vào cặp. Cô bé không quên mang "kỷ vật thân yêu" của mình ra ngắm một lần cuối cùng. Chỉ một lần này nữa thôi, Đoan sẽ cất nó vào dĩ vãng, vào ký ức rất sâu của tâm hồn. Bởi chuyện trước mắt của Đoan là phải đậu vào đại học. Đoan sẽ đóng cửa ngăn tim hồng của mình lại, tưởng tượng ra cổng trường đại học thênh thang sẽ mở rộng cửa đón bước chân Đoan với điều kiện phải quên đi "ba đóa hồng"!

Đoan đặt môi hôn ba đóa hồng khô một lần cuối cùng rồi lẳng lặng bật quẹt, một ánh lửa xanh lóe lên liếm vào hàng chữ "Về thầy L.P.V 20/11" trước khi thiêu rụi ba đóa hồng yêu thương. Đoan nghe buồn ngẩn ngơ dâng tận trong hồn.

Nhưng nỗi buồn đó chỉ ngự trị trong lòng Đoan hôm nay nữa thôi. Bởi Đoan đã xác định với chính mình là phải đậu vào đại học. Còn thầy Vĩnh, thầy chỉ là một áng mây bông noãn làm đẹp tuổi học trò mộng mơ của Đoan trong giây phút. Vì thầy chỉ xem Đoan như một người em gái!

* * *

Nắng sớm bừng lên trên hàng cây trước ngõ. Sau một giấc ngủ dài chưa từng có, Đoan đã tỉnh táo hơn. Mối tình đơn phương với thầy đã trôi theo bóng đêm từ buổi tối hôm qua mất rồi!

Đoan ôm cặp bước ra ngõ. Ánh nắng đào non tươi đang vờn tà áo lụa, vờ hôn lên má, lên tóc cô học trò mười tám tuổi. Đoan cười với nắng mai, chào gió sớm, bước tung tăng đến trường vô tư như chưa bao giờ trải qua một giấc mộng tình yêu.

Đoan náo nức kinh khủng bởi sắp tới cổng trường, sắp thấy cây me tây già nua và khung cửa sổ quen thuộc. Từ đây đến cuối năm chắc chắn cô nàng sẽ không còn giấu trong sách vở một chút gì hắt hiu nữa! Bởi tuổi mười tám có nhiều điều để nhớ và cũng rất dễ quên!

Đoan bước chậm lại để lắng nghe giọng một ca sĩ đang vang lên bài "Khát Vọng" mà Đoan rất thích. Cô bé ngửa mặt nhìn bầu trời xanh trong rất cao rất rộng và lẩm nhẩm hát "và sao không là gió, là mây để thấy trời bao la? Và sao không là phù sa rực rỡ cho màu hoa...? Sao không là đàn chim gọi bình minh thức giấc, sao không là mặt trời gieo hạt nắng vô tư..."

Đoan nhoẻn miệng cười thật tươi và bước nhanh vào cổng trường rộng mở, nơi đó có biết bao bàn tay nồng ấm của bạn bè thương yêu và tri thức vẫy gọi làm cháy bừng trong Đoan bao khát vọng học trò về một tương lai tươi sáng.

Đoan sẽ sống thật có ích cho đời, cho xã hội mai sau.

Cô bé sẽ là phù sa màu mỡ cho hoa thêm hương ngát, là hạt giống xanh tươi trên đất mẹ, là đàn chim gọi ngày mới, là cả ánh mặt trời rất cần thiết cho mọi người, mọi vật.

Phải rồi, Đoan sẽ là ánh mặt trời gieo sắc cho đời những hạt nắng vàng rất đỗi vô tư.

Khánh Như

Không gia đình - Chương 1 : ở làng

Tôi là một đứa trẻ người ta nhặt được.

Nhưng cho tới lúc tám tuổi tôi vẫn tưởng rằng tôi có một người mẹ bởi vì mỗi lúc tôi khóc lại có một người đàn bà nhẹ nhàng ôm siết tôi trong hai cánh tay và ru tôi khiến nước mắt tôi ngừng chảy.

Khi tôi đi ngủ không bao giờ bà không đến ôm hôn tôi và khi gió tháng mười hai làm tuyết dán chặt vào các tấm kính cửa sổ trắng xóa bà nắm lấy hai bàn chân tôi và cứ ngồi sưởi ấm chân tôi trong hai bàn tay bà, vừa hát cho tôi nghe một bài hát mà đến nay tôi còn nhớ lõm bõm vài câu. Khi tôi cãi nhau với một đứa bạn bà lại bảo tôi kể cho bà nghe những nỗi buồn của tôi để tìm lời an ủi hoặc thừa nhận tôi có lý.

Bằng vào những cái đó và nhiều cái khác nữa như cách bà nói với tôi, nhìn tôi, vuốt ve tôi, mắng tôi một cách trìu mến, tôi tin rằng bà là mẹ tôi.

Và đây là vì sao tôi biết bà không phải mẹ tôi.

Làng tôi, nói cho đúng hơn, làng nơi tôi được nuôi dạy, gọi là Chavanon, một trong những làng nghèo nhất ở miền Trung nước Pháp.

Đất rất bạc màu, muốn gặt hái tốt phải bón phân hoặc cho thêm chất cải tạo đất mà ở trong nước không có. Vì thế người ta chỉ gặp (hoặc ít ra là ở thời kỳ tôi nói đến) rất ít cánh đồng cày cấy trong khi trông thấy nhiều vùng mênh mông mọc toàn cỏ thạch thảo và cây đậu kim. Hết vùng đất toàn bụi cây lại đến vùng đất truông.

ở đúng vào một nếp gấp của vùng đất đó, trên bờ một dòng suối là nhà tôi, nơi tôi sống những năm đầu tiên của cuộc đời. Cho đến lúc tám tuổi tôi không bao giờ trông thấy đàn ông ở trong nhà này, tuy thế mẹ tôi không góa chồng, chồng bà là thợ đẽo đá chưa trở lại quê hương lần nào kể từ khi tôi đến tuổi hiểu biết được những gì xảy ra quanh mình. Chỉ thỉnh thoảng ông mới gửi bạn bè về làng vài mẩu tin.

- Má Barberin này, ông nhà bà khỏe, ông ấy nhờ tôi bảo bà là công việc vẫn chạy tốt và chuyển tiền cho bà đây này..Chỉ có thế.

Ông Barberin ở Paris lâu thế ta đừng tưởng vì ông không thân tình với vợ ông mà ông ở Paris do công việc đòi hỏi. Khi nào già ông sẽ về ở với bà vợ già của ông, và với số tiền ky cóp được họ sẽ tránh được nghèo khổ.

Một buổi chiều tháng mười một, một người đàn ông dừng lại trước hàng rào nhà chúng tôi và hỏi tôi có phải đây là nhà má Barberin không.

Tôi mời ông ta vào.

Ông đẩy rào và chậm bước về phía nhà tôi.

Tôi chưa nhìn thấy ai lấm bùn bê bết đến thế. Hàng mảng bùn phủ từ chân lên đến đầu ông khiến người ta hiểu ngay ông đã đi trên những con đường rất xấu trong thời gian khá dài.

Nghe tiếng chúng tôi má Barberin chạy ra.

- Tôi mang tin từ Paris về đây.

- A! Trời ơi! - Má Barberin kêu lên. - Tai vạ đến với Jérôme rồi!

- Phải đấy, sự thực là ông nhà ta bị thương, chắc sẽ què mất thôi. Hiện giờ ông ấy đang nằm bệnh viện. Tôi nằm cạnh giường ông ấy nên khi ra viện ông ấy nhờ tôi qua nhà nhắn giùm. Tôi không ở lại được đâu vì còn ba dặm nữa phải đi.

Má Barberin muốn biết kỹ hơn bèn mời ông ta ở lại ăn tối. Má bảo đường xấu và nghe nói trong rừng có chó sói, sáng mai hãy đi.

Ông ngồi xuống trong góc lò sưởi vừa ăn vừa kể cho chúng tôi nghe tai nạn đã xảy ra thế nào: ông Barberin bị giàn giáo đổ đè bẹp nửa người và vì không chứng minh được tại sao ông cần phải đứng ở nơi xảy ra tai nạn nên nhà thầu không chịu bồi thường một đồng nào.

- Con người tội nghiệp ấy không gặp may rồi, ông ta nói, bọn láu cá thì tìm ngay được cách kiếm lời nhưng ông nhà bà thì không được cái gì hết. Tuy nhiên tôi khuyên ông ấy kiện tay thầu khoán.

Má Barberin định đi Paris.

Sáng hôm sau chúng tôi xuống làng hỏi ý kiến mục sư. ông mục sư viết thư cho cha tuyên úy ở bệnh viện ông Barberin nằm và vài hôm sau nhận được trả lời nói rằng má Barberin không cần lên Paris chỉ cần gửi một món tiền lên cho chồng thôi để ông đi kiện nhà thầu.

Ngày lại ngày, tuần lại tuần cứ thế trôi qua, nhiều thư gửi về, thư nào cũng yêu cầu gửi tiền thêm, lá thư cuối cùng nói rằng nếu không có tiền thì bán con bò Roussette đi..Chỉ những người đã sống ở thôn quê mới hiểu được cảnh khốn quẫn đau thương trong ba chữ "Bán con bò". Thực tế dù nghèo túng đến mấy, gia đình đông đến mấy người nông dân vẫn vững tâm không lo đói nếu nhà có một con bò cái.

Má Barberin và tôi đã nhờ con bò cái của chúng tôi mà sống no đủ, cho tới tận lúc ấy tôi hầu như có bao giờ ăn thịt đâu.

Với lại chúng tôi yêu con bò lắm.

ấy thế mà nay phải xa nó rồi.

Một ông lái đến nhà chúng tôi, sau khi xem đi xem lại Roussette và nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần là con bò này không thích hợp với ông, không bán lại được cho ai, không có sữa, cuối cùng mới nói là bằng lòng mua nhưng chỉ là vì lòng tốt muốn giúp má Barberin mà thôi.

Roussette hình như am hiểu nhất định không chịu ra khỏi chuồng.

- Ra phía sau nó đuổi nó ra. - Người lái nói và đưa tôi cái roi.

- Làm thế không được. - Má Barberin bảo.

Má cầm lấy sợi dây dắt, nhẹ nhàng bảo con bò:

- Ra nào, ra nào, cô gái đẹp.

Và Roussette không chống lại nữa, ra tới đường cái người lái buộc nó đằng sau chiếc xe.

Thế là hết sữa, hết bơ. Buổi sáng một mẩu bánh, buổi chiều khoai tây ăn với muối.

Sau đó không bao lâu đến ngày thứ ba béo; năm ngoái vào ngày này má Barberin đã làm cho tôi một bữa tiệc có bánh xèo, bánh tẩm bột rán, tôi ăn nhiều đến nỗi má rất sung sướng.

Nhưng lúc ấy chúng tôi còn Roussette nên có sữa để tẩm bột và có bơ cho vào chảo.

Tuy nhiên má Barberin đã làm tôi ngạc nhiên; má xin hàng xóm nhà này một chén sữa, nhà kia một miếng bơ, thế là đến trưa về tôi thấy má đang đổ bột vào một chiếc chảo bằng đất.

- ạ này có cả bột cơ ạ. - Tôi vừa nói vừa bước lại gần.

- Đúng đấy bé Rémi của má ạ. Thế người ta làm gì với bột nào? - Má Barberin nhìn tôi hỏi.

- Làm bánh.

- Gì nữa?

- Quấy bột.

- Gì nữa nào?

- ôi trời... con cũng không biết nữa..- Con biết hôm nay là ngày thứ ba béo chứ, ngày của bánh xèo và bánh rán mà...

- ôi, má Barberin!

- Má đã thu xếp sao cho ngày thứ ba béo đối với con không đến nỗi tệ quá. Nhìn vào thùng xem nào?

Tôi hăng hái nhấc nắp thùng lên, thấy ở trong có sữa, bơ và ba quả táo.

- Đưa trứng cho má. - Má nói. - Trong khi má đập trứng con gọt táo nhé.

Khi bột đã nhào xong má Barberin đặt chiếc liễn trên tro nóng, thế là chỉ còn đợi đến chiều nữa thôi vì vào bữa tối chúng tôi mới ăn bánh xèo và bánh rán.

Cuối cùng nến được thắp lên.

- Nhóm lửa đi con. - Má Barberin bảo tôi.

Không cần phải nhắc tôi đến lần thứ hai.

Chẳng mấy chốc ngọn lửa đùng đùng bốc lên ống khói, ánh sáng chập chờn của nó tỏa khắp gian phòng.

Má Barberin nhấc chiếc chảo rán treo trên tường xuống để nó lên trên ngọn lửa.

- Đưa má bơ nào.

Má cắt ít bơ bằng đầu con dao bỏ vào chảo.

ái chà! Thơm thật là thơm!

Tuy nhiên dù tập trung chú ý đến mấy đi nữa tôi vẫn nghe như có bước chân ngoài sân.

Ai có thể đến vào giờ này nhỉ?

- Một chiếc gậy chạm vào ngưỡng cửa, cửa mở tung ra.

Một người đàn ông bước vào, nhờ ánh sáng ngọn lửa tôi thấy ông ta mặc một chiếc áo bờ-lu trắng tay chống một chiếc gậy to.

- ở đây đang làm tiệc đấy à? Cứ yên! - ông ta nói bằng một giọng thô lỗ.

- A! Trời ơi! - Má Barberin kêu lên, đặt mạnh chiếc chảo xuống đất.

Rồi cầm lấy cánh tay tôi bà đẩy tôi về phía người đàn ông đang dừng lại trên ngưỡng cửa:

- Đây là cha con.

Tôi lại gần để hôn ông nhưng ông lấy đầu chiếc gậy ngăn tôi lại.

- Thằng này là thằng nào đây?

Ông bước mấy bước về phía tôi, chiếc gậy vẫn giơ lên làm tôi lùi lại.

- à ra các người làm tiệc ngày thứ ba béo.

- ông ta nói. - Súp gì đấy?.- Chẳng có súp gì cả. Chúng tôi có chờ ông đâu.

Ông ta nhìn quanh:

- Bơ này, hành này. - ông nói. - Bốn năm củ hành với miếng bơ là có món súp ngon rồi còn gì. Ta bóc hành đi.

Má Barberin vội làm theo yêu cầu của chồng trong khi ông ta ngồi vào chiếc ghế dài ở góc lò sưởi.

Tôi không dám rời nơi chiếc gậy đã đưa tôi tới. Dựa vào bàn, tôi nhìn kỹ người khách mới tới này.

Đó là một người đàn ông độ năm mươi tuổi mặt thô nét đanh lại, đầu ngoẹo sang vai phải sau chấn thương vừa rồi.

- Bà định nấu súp cho chúng tôi với mẩu bơ này chứ gì?

Tự mình bưng chiếc đĩa trên có miếng bơ ông ta đổ tọt miếng bơ vào trong chảo.

Hết bơ, còn gì là bánh xèo nữa cơ chứ.

Giá như vào lúc khác hẳn tôi phải xót xa với tai họa này lắm nhưng lúc này ý nghĩ người đàn ông ấy là cha tôi chiếm cứ cả tâm hồn tôi.

Tôi chưa bao giờ tự hỏi mình một cách cụ thể thế nào là một người cha, nhìn con người bỗng nhiên từ trên trời rơi xuống này tôi cảm thấy sợ hãi.

- Mày đừng đứng im thế, ông ta nói, đi mà dọn đĩa lên bàn đi chứ.

Tôi vội vâng lời. Súp đã nấu xong. Má Barberin múc súp ra.

Đến lúc đó ông ta mới ra bàn ngồi và bắt đầu ăn, chỉ thỉnh thoảng mới dừng lại nhìn tôi.

Tôi hoang mang quá ăn không nổi.

- Bình thường nó có ăn ít như thế này không?

- à, vẫn thế đấy.

- Kệ xác nó! Giá như nó không ăn thì càng tốt!

Dĩ nhiên tôi không nói gì, má Barberin cũng vậy, má cứ đi lại quanh bàn chăm chú phục vụ chồng.

- Mày không đói à? - ông ta hỏi tôi.

- Không ạ.

- Thế thì đi ngủ đi, và ngủ ngay đi.

Giống như trong đa số nhà nông dân, căn bếp của chúng tôi cũng đồng thời là phòng ngủ.

Tôi vội vàng thay quần áo đi ngủ. Nhưng ngủ được hay không lại là một chuyện khác. Tôi không buồn ngủ!.Người đàn ông ấy là cha tôi! Thế thì tại sao ông đối với tôi nghiệt ngã như thế?

Dán mũi vào tường tôi cố xua đuổi những ý nghĩ trên mà không được.

Sau một lúc tôi nghe có người đến gần giường tôi.

Nghe tiếng bước chân chậm chạp, kéo lê và nặng nề tôi nhận ra ngay không phải má Barberin.

Một hơi thở nóng hổi lướt trên tóc tôi.

- Mày ngủ chưa? - Một giọng nghèn nghẹn hỏi tôi.

Tôi cẩn thận không trả lời.

- Nó ngủ rồi, má Barberin nói, nó có thói quen nằm xuống là ngủ, ông có thể nói được.

Có lẽ tôi phải nói là tôi chưa ngủ, nhưng tôi không dám.

- Vụ kiện của ông đến đâu rồi? - Má Barberin hỏi.

- Thua rồi! Các quan tòa đều bảo rằng lỗi ở tôi.

Nói đến đây ông đấm một cái xuống bàn.

- Kiện thua, ông nói tiếp, tiền mất, què quặt, đói nghèo. Như thế chưa đủ, về đến đây lại còn thấy một đứa trẻ con nữa. Bà hãy giải thích cho tôi vì sao không làm theo lời tôi bảo?

- Vì tôi không thể làm được. Người ta không thể bỏ một đứa trẻ nuôi bằng chính sữa mình.

- Có phải con bà đâu.

- Cuối cùng tôi cũng muốn làm theo lời ông bảo đấy nhưng đúng lúc ấy thì nó ốm, không phải lúc đem nó đến trại trẻ vô thừa nhận được.

- Thế nó khỏi khi nào?

- Sau trận ốm đó lại đến trận khác, nó ho ghê lắm, thằng bé tội nghiệp, ho đến làm nát lòng người ta ra được. Chẳng phải vì ho mà thằng Nicolas của chúng ta đã chết đấy ư? Tôi tưởng như đem nó lên tỉnh nó cũng sẽ chết như thế.

- Nhưng sau đó?

- Thời gian cứ dần trôi.

- Nó lên mấy rồi?

- Lên tám.

- Thì nó sẽ đến nơi nó phải đến vào lúc lên tám.

- A! Jérôme, ông không định làm điều đó đấy chứ?

- Ai ngăn cản được tôi nào?.Có một lúc im lặng và tôi thở được, xúc động làm tôi nghẹn ngào đến tắc thở.

Chẳng mấy chốc má Barberin nói tiếp:

- Paris đã làm ông thay đổi rồi!

- Có lẽ thế. Nhưng có điều chắc chắn là nó đã làm tôi què. Làm sao kiếm sống bây giờ? Ta đâu còn tiền nữa. Chẳng lẽ trong khi mình không có gì ăn lại còn phải nuôi thêm một đứa trẻ không phải con mình?

- Nó là con tôi.

- Chẳng phải con bà cũng như không phải con tôi vậy. Nó không phải một đứa trẻ con nhà nông. Tôi đã nhìn nó trong bữa tối: nó mong manh lắm.

- Đó là một đứa trẻ trung hậu. Sau này nó sẽ làm việc cho chúng ta.

- Nhưng trong khi chờ đợi ta phải làm việc để nuôi nó.

- Nếu cha mẹ nó đòi thì sao?

- Nếu thế hẳn họ đã đi tìm nó. Có lẽ họ đã chết.

- Nhưng họ còn sống thì sao? Một ngày kia họ đến hỏi ta thì sao?

- Ta đưa họ đến trại trẻ chứ sao? Thôi tôi đến chào Francois đây.

Cửa ra vào mở ra rồi đóng lại. ông ta đi mất.

Thế là tôi nhỏm dậy, gọi má Barberin.

Má chạy đến chân giường tôi.

- Má không để con đi đến trại trẻ vô thừa nhận chứ?

- Không, bé Rémi của má ạ.

Và má ôm hôn tôi, ghì chặt lấy tôi trong hai cánh tay.

Sự âu yếm của má làm tôi can đảm lên.

- Thế ra con đã nghe thấy hết những điều Jérôme nói rồi ư?

- Vâng, má không phải má con, ông ấy không phải cha con.

Tôi không nói hai câu trên bằng cùng một giọng, bởi vì nếu như tôi khổ tâm biết má không phải mẹ tôi, tôi lại mừng vì biết ông ta không phải cha tôi.

- Có lẽ má nên cho con biết sự thật thì hơn.

- Má Barberin nói. Không ai biết mẹ con là ai cả. Bà còn sống hay không cũng không ai biết.

Một buổi sáng ở Paris trên đường đi làm Jérôme.qua đại lộ Breteuil và nghe thấy tiếng trẻ con khóc. Tiếng khóc như vẳng ra từ một khe cửa vườn. Lúc đó vào tháng hai. ông lại gần và thấy một em bé nằm trên ngưỡng cửa. Jérôme rất lúng túng bèn bế bé đến sở cảnh sát. ở sở cảnh sát người ta mở tã lót bé ra trước lửa sưởi. Đó là một em bé khoảng năm sáu tháng, tã lót chứng tỏ em là con nhà giàu có. ông cảnh sát giải thích có lẽ bé bị người ta ăn cắp rồi bỏ đấy. ông cũng nói sẽ gửi bé đến trại trẻ nhặt được nếu không ai nhận trông nom bé. Cha mẹ em bé thế nào cũng đi tìm, có người trông nom bé thì họ sẽ trọng thưởng. Jérôme bèn nói muốn nhận trông nom bé, họ trao bé cho ông. Má cũng có một đứa con trai bằng tuổi ấy. Thế là má trở thành mẹ con. Con má chết, má càng gắn bó với con hơn. Má quên hẳn con không phải con ruột của má. Không may Jérôme không quên. Ba tháng sau thấy cha mẹ con không tìm con, ông đã muốn đem con vào trại trẻ.

- ôi! Đừng vào trại trẻ! - Tôi kêu lên.

- Con sẽ không đi trại trẻ. Jérôme không phải người ác, chỉ tại buồn phiền nghèo khó làm ông ta đâm ra như thế mà thôi. Chúng ta sẽ làm việc, cả con cũng sẽ làm việc.

- Vâng, má muốn gì con làm nấy. Miễn là đừng vào trại trẻ.

Sau khi ôm hôn tôi má quay mặt tôi vào tường. Tôi muốn ngủ nhưng vì quá xao động nên không sao ngủ được.

Tôi không muốn đi trại trẻ... Tôi sợ ông Barberin... Cuối cùng thì tôi cũng ngủ được và ngủ suốt đêm. Sáng hôm sau động tác đầu tiên của tôi là nhìn quanh để biết chắc chắn là họ không đem tôi đi.

Suốt buổi sáng Barberin không nói gì với tôi cả và tôi bắt đầu tin rằng ông ta đã quên kế hoạch của mình.

Đến giữa trưa thì ông ta bảo tôi đội mũ đi theo ông.

Tôi sợ quá đưa mắt về phía má Barberin. Má trộm lấy tay ra hiệu bảo tôi cứ yên tâm.

Thế là tôi lên đường.

Từ nhà tôi đến làng khá xa, đi bộ phải mất hàng tiếng đồng hồ. Suốt trong tiếng đồng hồ đó Barberin không hề nói với tôi một lần nào.

Ông ta đi trước, khập khà khập khiễng, thỉnh thoảng lại quay lại nhìn xem tôi có đi theo không..ạng ta đưa tôi đi đâu? Câu hỏi này làm tôi lo lắng, tôi nghĩ đến bỏ trốn.

Với mục đích đó tôi cố chần chừ lại sau.

Tôi định khi nào ở xa ông ta tôi sẽ nhảy xuống hố, ông ta sẽ chịu không tóm được tôi.

Đầu tiên ông ta bằng lòng bảo tôi đi đằng sau, nhưng chẳng mấy chốc ông đoán ra ý định của tôi nên nắm lấy cổ tay tôi.

Cứ thế chúng tôi đi vào làng.

Khi đi qua quán cà-phê, có người gọi Barberin và mời ông ta vào. Barberin nắm tai tôi, đẩy tôi đi trước, và khi chúng tôi đã vào trong quán, ông đóng cửa lại. Trong khi ông ngồi ở một chiếc bàn với ông chủ quán cà phê, tôi tới ngồi bên lò sưởi.

ở góc đối diện nơi tôi ngồi có một cụ già cao lớn râu bạc trắng, mặc một bộ quần áo rất kỳ quặc. Bên cạnh cụ có ba con chó: một con chó bông trắng, một con chó bác-be đen và một con chó cái con nom vừa ranh ma vừa dịu dàng.

Trong khi tôi ngắm cụ già, Barberin thì thầm chuyện trò với ông chủ quán. ông ta bảo ông chủ quán là chúng tôi từ làng lên tìm ông xã trưởng để nhờ ông này yêu cầu trại trẻ trả cho ông ta tiền trợ cấp nuôi tôi.

Đó là điều má Barberin yêu cầu được ông chồng đây...

Cụ già cũng nghe tuy làm ra vẻ không nghe thấy gì. Bỗng nhiên cụ chỉ tay về phía tôi và hỏi Barberin:

- Thằng bé này làm ông vướng víu ư? Và ông tưởng rằng chính quyền sẽ trả cho ông tiền trợ cấp ư?

- Chứ còn gì nữa! Nó không có cha mẹ, tôi nuôi nó, vậy phải có người chi tiền cho nó chứ?

- Tôi không bảo là không nhưng tôi tin là ông không đạt được điều ông yêu cầu.

- Thế thì nó sẽ vào trại trẻ, chẳng có luật nào bắt nó phải ở trong nhà tôi cả.

- Ngày xưa ông đã bằng lòng nhận nó về, có nghĩa đã cam kết giữ nó.

- Tôi không giữ nó nữa.

- Có lẽ có thể có cách giũ nó ra được, mà biết đâu còn kiếm chác được chút gì nữa đấy ông ạ. - Cụ già nói sau một lát suy nghĩ.

Rời chiếc ghế dựa của mình cụ tới ngồi trước mặt Barberin..- Để tôi nhận nó, cụ nói, tôi thuê nó. Mỗi năm tôi trả ông hai mươi phrăng. Giá cao đấy và tôi trả trước.

- Nếu tôi giữ nó, trại trẻ có thể trả tôi mỗi tháng hơn mười phrăng.

- Thế nếu trại trẻ đáng lẽ để ông giữ lại đem nó cho người khác thì sao, thế là ông chẳng được gì hết, trong khi với tôi ông chỉ việc đưa tay ra.

Cụ già lục túi lấy ra một túi tiền bằng da lấy ra bốn đồng bạc bày lên bàn và làm chúng kêu lanh canh.

- Cụ thử nghĩ xem, Barberin kêu lên, một ngày nào đó đứa bé tất phải có cha mẹ! Lúc đó ai nuôi nó hẳn sẽ có lời. Nếu không tính đến chuyện đó hà tất tôi đã nhận trông nom nó.

Câu nói của Barberin làm tôi ghét ông ta thêm chút nữa.

- Thì chính vì ông không trông mong gì ở cha mẹ nó, cụ già nói, nên ông mới đuổi nó.

Cụ ranh mãnh nhìn Barberin.

- Đứa bé này sẽ đi cùng với tôi, cụ nói, tôi già rồi, sau một ngày mệt nhọc, thời tiết xấu, tôi thường có những ý nghĩ u ám, nó sẽ làm tôi vui lên. Nó sẽ tham gia gánh hát của xi-nho Vitalis.

- Gánh hát của cụ ở đâu?

- Xi-nho Vitalis là tôi, còn gánh hát, đây.

Nói rồi cụ mở áo măng-tô lấy ra một con vật kỳ lạ đang áp người vào ngực cụ.

Tôi không biết gọi con vật kỳ quái này là gì vì đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy nó.

- A! Con khỉ xấu xí! - Barberin kêu.

Tiếng đó làm tôi hết ngạc nhiên bởi vì tuy chưa nhìn thấy con khỉ bao giờ ít nhất tôi cũng đã nghe nói tới.

- Đây là ngài Joli - Coeur. Bạn ơi hãy chào đi nào.

Joli - Coeur đưa bàn tay khép chặt lên môi và gửi chúng tôi một cái hôn.

- Bây giờ, - vừa nói cụ Vitalis vừa đưa tay về phía con chó bông trắng, - ông Capi đây sẽ hân hạnh giới thiệu các bạn ông với cử tọa kính mến.

Nghe lệnh, con chó bông đứng ngay dậy, bằng hai chân sau, khoanh hai chân trước lại trước ngực, cúi chào chủ mình thật thấp. Hai con chó kia, nhìn chăm chăm vào Capi cũng lập tức đứng lên, mỗi con giơ một chân ra trước tựa như đưa tay cho người ta bắt, bước sáu bước ra trước rồi lùi ba bước ra sau, cúi chào.

- Capi, cho ta biết mấy giờ rồi.

Capi không khoanh tay nữa, lại gần chủ vạch áo măng-tô lục trong túi áo gi-lê lôi ra một cái đồng hồ quả quýt, nhìn vào mặt đồng hồ rồi sủa lên hai tiếng to sau đó đến ba tiếng nhỏ hơn.

Quả lúc đó là hai giờ ba khắc.

- Tốt. Bây giờ đề nghị con mời nàng Dolce ra nhảy cho chúng ta xem nào.

Capi lập tức lục túi áo vét của chủ lôi ra một đoạn dây thừng. Nó ra hiệu cho Zerbino, con chó bác-be nhỏ, thế là con này ra đứng ngay trước mặt Capi. Capi bèn ném cho nó một đầu dây và hai con bắt đầu quay dây. Dolce lao vào vòng quay vừa nhảy vừa nhìn chủ.

Rõ ràng là học trò cụ Vitalis thật nực cười và cứ đi chơi suốt như thế hẳn phải thú vị, nhưng nếu đi theo họ tôi phải xa má Barberin.

- Bây giờ, cụ Vitalis nói tiếp, trở lại công việc của chúng ta. Tôi trả ông ba mươi phrăng.

- Bốn mươi.

Bắt đầu bàn bạc. Cụ Vitalis ngắt lời:

- Thằng bé ngồi đây chắc chán lắm, cho nó đi ra ngoài sân chơi đi.

Đồng thời cụ làm hiệu cho Barberin.

- Phải đấy, ông này nói, ra sân chơi đi bao giờ tao gọi hãy vào.

Tôi đi ra sân, ngồi trên một tảng đá suy nghĩ. Số phận tôi đang được quyết định đây.

Lạnh và lo lắng làm tôi run lên cầm cập. Cuộc bàn bạc kéo dài khá lâu. Cuối cùng tôi trông thấy mỗi một mình Barberin. ông ta ra tìm tôi để giao cho cụ Vitalis chắc?

- Nào, đi về nhà nào. - ông ta nói.

Về nhà ư? Không phải xa má Barberin ư?

Tôi muốn hỏi nhưng không dám.

- Mười phút trước khi tới nhà, Barberin dừng lại:

- Mày mà kể lại một lời nào mày nghe thấy, ông ta vừa nói vừa véo mạnh tai tôi, thì mày sẽ phải trả giá đắt đấy. Liệu hồn!.

Không gia đình - Chương 2 : Vĩnh biệt ngôi nhà của má

- Nào! Thế ông xã trưởng bảo thế nào nào?

- Má Barberin hỏi khi chúng tôi về tới nhà.

- Không gặp. Mai chúng tôi quay lại.

Như thế là Barberin đã từ bỏ giao kèo mua bán của lão ta. Suốt dọc đường tôi đã nhiều lần tự hỏi đi về nhà như thế này liệu lão có giở trò mưu mẹo gì không, câu nói vừa rồi của lão phá tan mọi nghi ngờ.

Nhưng sáng hôm sau, khi tỉnh dậy tôi không thấy má Barberin đâu cả.

- Má đâu?

- Má ra làng, chiều mới về.

Sự vắng mặt này làm tôi lo lắng. Barberin nhìn tôi vẻ rất lạ.

Bỗng nhiên tôi thấy cụ Vitalis và mấy con chó đi vào.

à ra thế! Cụ đến đón tôi, Barberin bảo má ra làng để má không bảo vệ được tôi.

- ôi, xin cụ, cụ đừng mang cháu đi!

Và tôi òa lên khóc nức nở.

- Nào nào, cậu con trai của ông, cụ nói với tôi thật dịu dàng, ở với ông cháu không khổ đâu, lại được ở bên mấy đứa học trò rất ngộ của ông, cháu tiếc cái gì cơ chứ?

- Má Barberin!

- Kiểu gì thì mày cũng không ở lại đây, Barberin vặn tai tôi nói, hoặc là cụ đây hoặc là trại trẻ, mày chọn thứ nào thì chọn.

- Không, má Barberin cơ!

- Thằng bé này có tình, là dấu hiệu tốt. Thôi ta vào việc!

Nói rồi cụ bày lên bàn tám đồng năm phrăng, Barberin vơ luôn vào túi lão.

- Đưa gói quần áo của nó cho nó, nào lên đường. Rémi! Đi trước con Capi.

Tôi cảm thấy cụ Vitalis nắm lấy cổ tay tôi.

Barberin đi vào nhà. Thế là hết.

Lên dốc khá dài. Cụ Vitalis không rời tay tôi..- Cụ cho cháu nghỉ một chút có được không ạ? - Tôi hỏi cụ.

- Sẵn sàng.

Lần đầu tiên cụ rời tay tôi. Nhưng đồng thời tôi thấy cái nhìn của cụ hướng về con Capi làm hiệu. Capi lập tức đến đứng đằng sau tôi. Nó là tay cai ngục của tôi: chỉ một cử động bỏ trốn nó sẽ vồ lấy chân tôi ngay.

Tôi đi tới ngồi trên ụ đất, Capi đi theo và với đôi mắt mờ lệ tôi tìm ngôi nhà của má Barberin.

Bỗng nhiên trên con đường dốc lên làng tôi nhìn thấy một chiếc khăn nhỏ màu trắng. Xa quá nên tôi chỉ thấy được màu trắng của chiếc khăn nhưng có những lúc trái tim nhìn tinh hơn đôi mắt: tôi nhận ra má Barberin. Đúng má rồi. Má bước từng bước dài.

Tới rào nhà chúng tôi má đẩy ra, vào sân và đi qua sân khá nhanh.

Tôi lập tức đứng lên trên ụ đất không nghĩ tới con Capi đã chồm đến gần tôi.

Má Barberin không ở trong nhà lâu. Má đi ra ngay và chạy trong sân.

Má tìm tôi.

Tôi cúi xuống phía trước và kêu lên bằng tất cả sức lực của mình:

- Má ơi! Má ơi!

Nhưng giọng tôi chìm nghỉm trong không trung.

- Cháu điên à? - Cụ Vitalis hỏi.

Tôi không trả lời chỉ dán mắt vào má Barberin nhưng má đâu có ngờ tôi ở gần má đến như thế nên không nghĩ đến chuyện ngẩng đầu lên. Má đi qua sân, ra lại ngoài đường, quay nhìn tứ phía.

Tôi càng gào to hơn.

Lúc đó cụ Vitalis đoán ra sự thể bèn cũng leo lên ụ đất. Cụ nhìn thấy cái khăn trắng.

- Tội nghiệp thằng bé! - Cụ thì thầm.

- ôi! Cháu xin cụ, cho cháu về. - Được sự thông cảm của cụ động viên, tôi nói.

Nhưng cụ nắm lấy cổ tay tôi đưa tôi xuống đường.

- Cháu đã nghỉ rồi, thôi lên đường, chàng trai của ông. - Cụ nói.

Tôi muốn gỡ tay cụ ra nhưng cụ nắm chặt lắm.

- Capi, Zerbino! - Cụ gọi.

Hai con chó vây lấy tôi..Đành phải theo cụ Vitalis thôi.

Tôi đã có bằng chứng để hiểu cụ không phải người ác.

Sau khi đi độ mười lăm phút cụ bỏ cánh tay tôi.

- Bây giờ cháu đi cạnh ông, nhưng đừng quên nếu cháu muốn trốn thì Capi và Zerbino sẽ theo kịp cháu ngay.

Tôi buông một tiếng thở dài:

- Cháu buồn, ông hiểu. - Cụ Vitalis tiếp tục nói. - Cháu có thể khóc. Nhưng chỉ cần cháu cố mà cảm thấy được là ông mang cháu đi không phải để làm cháu khổ. Cháu mà không đi thì sao nào? Sẽ vào trại trẻ. Những người nuôi cháu không phải cha mẹ cháu. Má tốt với cháu và cháu yêu má, cháu khổ tâm phải xa má, tất cả những cái đó là tốt thôi, nhưng bà ấy không giữ nổi cháu. Chàng trai của ông ạ, cháu phải hiểu rằng cuộc đời thường là một trận chiến mà trong đó có phải người ta muốn làm gì là làm được đâu.

Những lời của cụ rất khôn ngoan nhưng lúc này một sự thực còn kêu to hơn bất kỳ lời nói nào: đó là sự chia ly.

Từ nay tôi không bao giờ còn nhìn thấy người đã nuôi tôi lớn lên nữa và ý nghĩ này làm tôi nghẹn ngào trong cổ họng.

- Hãy suy nghĩ về những điều ông nói với cháu, thỉnh thoảng cụ Vitalis lại nhắc lại, cháu không phải khổ khi ở với ông đâu.

Cuối cùng thì cụ già cao lớn và đẹp lão này có lẽ không đến nỗi kinh khủng như lúc đầu tôi tưởng.

Đó là lần đầu tiên tôi đi một mạch không nghỉ như vậy. Kéo lê đôi chân, vất vả lắm tôi mới theo được chủ tôi. Tuy nhiên tôi không dám xin cụ dừng chân.

- Đôi guốc của cháu làm cháu mệt đấy. - Cụ bảo tôi. - Đến Ussel ông sẽ mua giày cho cháu.

Câu nói này làm tôi thêm can đảm. Thực tế đôi giày là thứ tôi hằng khát khao mong muốn.

- Ussel còn xa không ạ?

- à ra đó là tiếng nói của lòng cháu, cụ Vitalis vừa nói vừa cười, cháu muốn có giày đi chứ gì?

Được, ông hứa, giày đinh. Một chiếc quần cụt bằng nhung, một áo vét, một chiếc mũ nữa. ông hy vọng chúng làm cháu khô nước mắt và sẽ giúp cho đôi chân cháu đi nốt sáu dặm đường còn lại..Không, ông chủ tôi không phải một con người tàn ác. Một người tàn ác làm sao nhận ra đôi guốc làm tôi mệt được?

Trời đầy mây xám xịt và không bao lâu bắt đầu mưa nhẹ hạt.

Với tấm da cừu cụ Vitalis được bảo vệ khá kín lại còn che chở được Joli - Coeur nữa, anh chàng này ngay từ giọt mưa đầu tiên đã ẩn ngay vào chỗ nấp. Nhưng mấy con chó và tôi chẳng mấy chốc ướt thấm vào da thịt, bọn chó thì thỉnh thoảng còn giũ được lông chứ còn tôi, tôi cứ phải đi dưới một sức nặng làm tôi giá băng lên được.

- Cháu có dễ bị cảm lạnh không? - Chủ tôi hỏi.

- Cháu không biết, cháu nhớ là chưa bao giờ thì phải.

- Tốt. Quả cháu tốt thật đấy. Nhưng ông không muốn phơi cháu ra mưa thế này, chẳng được ích gì, hôm nay chúng ta không đi xa hơn nữa. Có làng đây rồi ta sẽ vào ngủ ở đó thôi.

Trong làng không có cái quán nào và không ai muốn nhận một người ăn mày kéo theo một đứa trẻ và ba con chó tất cả đều vấy bùn be bét làm gì.

Cuối cùng một người nông dân mở cửa cho chúng tôi vào một vựa thóc.

Cụ Vitalis là một người cẩn trọng. Trong cái túi cụ đeo ở vai có một chiếc bánh mì tròn to tướng. Cụ đưa cho tôi một miếng còn cụ thì vừa ăn vừa chia bánh thành những miếng nhỏ phân phát cho lũ học trò phần dành cho chúng.

Mệt đến gẫy người, hai chân bị trầy da vì đôi guốc, tôi run lên vì lạnh trong bộ quần áo sũng nước.

- Răng cháu va lập cập rồi kìa, cụ Vitalis nói, cháu có rét không?

- Hơi rét thôi ạ.

Tôi nghe tiếng cụ mở cái túi:

- Đây là cái áo sơ-mi khô và áo gi-lê, cháu mặc vào đi, sau đó rúc vào cỏ khô cháu sẽ ấm lên nhanh thôi và ngủ được.

Tuy nhiên tôi không ấm lên nhanh như cụ Vitalis nói, rất lâu sau tôi cứ trở mình mãi, lòng quá đau buồn, quá khốn khổ. Lúc nào cũng như thế này sao? Đi bộ không ngừng dưới trời mưa, ngủ trong một vựa thóc, run lên vì lạnh, chỉ có một mẩu bánh mì cho bữa tối, không ai thương xót tôi, không ai yêu tôi. Đang nghĩ ngợi, lòng nặng trĩu và hai mắt đẫm nước mắt, tôi cảm thấy một hơi thở âm ấm phả vào mặt tôi. Đưa tay ra tôi sờ thấy làn lông mượt như len của con Capi. Nó nhẹ nhàng tới bên tôi, nằm xuống chỗ cỏ khô bên cạnh tôi và tế nhị liếm vào bàn tay tôi.

Cảm động quá tôi hơi nhỏm mình dậy hôn vào chiếc mũi lạnh ngắt của nó. Nó kêu lên một tiếng nghẹn ngào, đặt chân nó vào bàn tay tôi rồi nằm im.

Thế là tôi quên mệt, quên buồn, họng tôi nghẹn lại, tôi không còn chỉ có một mình nữa:

tôi đã có một người bạn.

Hôm sau chúng tôi lên đường từ sáng sớm.

Đã tạnh mưa, bầu trời xanh và nhờ làn gió khô thổi suốt đêm, không còn bùn lầy nữa. Lũ chó nhảy nhót quanh chúng tôi. Thỉnh thoảng Capi lại đứng trên hai chân sau hướng về tôi sủa lên một tiếng mà tôi hiểu rất rõ ý nghĩa.

- Can đảm lên! - Nó bảo tôi như vậy.

Đó là một con chó rất thông minh cái gì cũng hiểu và biết cách làm cho người ta hiểu mình. Giữa nó và tôi không cần lời: ngay từ ngày đầu tiên chúng tôi đã hiểu nhau rồi.

Chưa bao giờ ra khỏi làng nên tôi rất sốt ruột muốn trông thấy một thành phố. Nhưng Ussel không làm tôi lóa mắt. Những ngôi nhà cổ có tháp bên trên khiến tôi chỉ thấy lãnh đạm thờ ơ.

Đầu óc tôi chỉ có mỗi một ý nghĩ: hiệu giày.

Đâu là hiệu giày sẽ cung cấp cho tôi đôi giày mà cụ Vitalis đã hứa?

Chẳng mấy chốc tôi có cái hạnh phúc xỏ chân vào đôi giày đinh nặng gấp mười lần đôi guốc của tôi. Lòng hào hiệp của chủ tôi không dừng ở đó; mua giày xong cụ mua cho tôi một áo vét nhung màu xanh da trời, một quần len và một mũ phớt. Tất cả những gì cụ hứa.

Rõ ràng cụ là người tuyệt nhất trần đời rồi!

Nhung đã nhầu, len đã sờn, cái mũ thì không ai đoán được trước đây màu gì nữa, nhưng choáng ngợp vì những huy hoàng đó tôi chẳng cần biết đến những nhược điểm này làm gì.

Tôi chỉ mong chóng được mặc bộ cánh mới, nhưng trước khi đưa cho tôi cụ Vitalis còn làm chúng biến đổi đã.

Về đến quán cụ lấy kéo trong túi ra cắt hai ống quần tôi lên đến tận đầu gối. Khi tôi nhìn cụ với đôi mắt sợ hãi:.- Như vậy để cháu trông không giống ai, cụ nói. Chúng ta đang ở Pháp, ông mặc cho cháu như người ý, nếu ta ở ý ông lại mặc cho cháu như người Pháp. Chúng ta là nghệ sĩ. Bề ngoài của chúng ta đã phải gây tò mò rồi. Cháu thử tưởng tượng xem nếu ngay chiều nay ta ra nơi công cộng mà ăn mặc như những nhà tư sản hay những nông dân làm sao ta buộc mọi người phải nhìn ta và dừng lại quanh ta? Không được. Hãy học lấy rằng ở đời này đôi khi sự xuất hiện thôi cũng đã là một việc tối cần thiết rồi.

ấy là tại sao buổi sáng là người Pháp buổi chiều tôi đã thành người ý. Quần tôi ngắn đến gối, cụ Vitalis lại buộc quanh tất tôi những sợi dây đỏ bắt chéo nhau suốt cẳng chân. Trên chiếc mũ phớt của tôi cụ cũng buộc chéo nhau nhiều dây ruy-băng khác và trang trí thêm một bó hoa bằng len.

Thật thà mà nói tôi thấy mình tuyệt đẹp, chẳng thế mà anh bạn Capi của tôi sau khi ngắm tôi rất lâu phải chìa chân ra cho tôi với vẻ hài lòng.

Trong khi tôi xỏ quần áo mới, Joli - Coeur đứng trước mặt tôi bắt chước điệu bộ tôi lại còn làm quá lên nữa. Tôi thắng xong bộ cánh, ngắm vuốt xong xuôi thì nó đặt hai tay lên háng, ngửa đầu ra sau bắt đầu phá ra cười với những tiếng kêu lí nhí giễu cợt. Đã sống thân tình với Joli -Coeur khá lâu tôi có thể khẳng định nó rất hay cười. Có lẽ cái cười của nó không giống hệt như cái cười của con người. Nhưng cuối cùng, mỗi khi có một tình cảm nào đó làm cho nó vui lên, người ta thấy hai mép nó kéo ra sau, hai mi mắt he hé, hai hàm răng động đậy rất nhanh và đôi mắt đen của nó hầu như bắn ra những tia lửa.

- Bây giờ cháu sửa soạn áo quần đã xong, cụ Vitalis bảo tôi, ta bắt đầu làm việc để đến mai ngày phiên chợ có thể ra mắt một buổi biểu diễn lớn trong đó cháu khởi sự bước vào nghề.

Tôi hỏi cụ thế nào là bước vào nghề, cụ giải thích có nghĩa lần đầu xuất hiện trước công chúng diễn vở hài kịch.

- ông sẽ phải tập cho cháu vai mà ông dành cho cháu.

Đôi mắt ngạc nhiên của tôi nói với cụ là tôi không hiểu.

- ông muốn cháu hiểu vai trò cháu phải làm.

Ông mang cháu theo là để cháu làm việc. Việc của cháu là diễn hài kịch với Joli - Coeur và mấy chú chó của ông..- Nhưng cháu có biết gì đâu! - Tôi sợ hãi kêu lên.

- Chính vì thế ông mới phải dạy cháu. Không phải tự nhiên mà Capi đi đứng duyên dáng như thế trên đôi chân sau cũng không phải Dolce nhảy dây là ý thích của nó. Capi đã phải học đứng và Dolce đã phải học nhảy; chúng thậm chí đã phải làm việc khá lâu mới đạt được những tài đó. Cho nên cháu cũng phải làm việc để học những vai khác nhau mà cháu sẽ diễn với chúng.

Vở kịch, cụ Vitalis nói tiếp, có tên là Người đầy tớ của ngài Joli - Coeur hay Kẻ ngu hơn trong hai người lại là kẻ mà người ta không nghĩ tới.

Đề tài như thế này: Cho tới hôm ấy ngài Joli -Coeur vẫn có một tên đầy tớ mà ngài rất hài lòng, đó là Capi. Nhưng Capi đã về già, ngài Joli - Coeur muốn có một đầy tớ mới. Capi chịu trách nhiệm cung cấp tên đầy tớ mới. Nhưng đó không phải là con chó sẽ nối tiếp sự nghiệp của Capi mà là một chàng trai nông dân tên là Rémi.

- Khỉ làm gì có đầy tớ ạ.

- Trong hài kịch thì có. Cháu đến và ngài Joli - Coeur thấy cháu có vẻ đần độn ngây ngô.

- Thế chẳng hay tí nào.

- Có nghĩa lý gì đâu nếu chỉ để cười? Vả chăng cháu hình dung mình thực sự đến nhà một quý ông để làm đầy tớ và giả dụ họ bảo cháu dọn bàn ăn. Đây chính là cái bàn trong vở trình diễn của chúng ta. Nào cháu bước lên và dọn bàn ra.

Trên cái bàn có các đĩa, một cái cốc, một con dao, một cái dĩa và khăn bàn màu trắng.

Làm sao bày ra bây giờ?

Tôi tự hỏi mình câu hỏi đó, hai tay thõng xuống, cúi người xuống trước, miệng há ra chẳng biết bắt đầu từ chỗ nào; chủ tôi vỗ tay cười phá lên.

- Hoan hô! - Cụ nói. - Tuyệt! Làm ra vẻ mặt như cháu thật xuất sắc. Vẻ ngây thơ của cháu đáng phục đấy.

- Cháu chẳng biết phải làm gì.

- Chính vì thế mà đâm xuất sắc. Vài ngày nữa cháu sẽ biết tường tận cháu phải làm gì. Đến lúc đó cháu lại phải nhớ lại cái lúng túng mà lúc này đây cháu đang cảm thấy và giả vờ những thứ mà cháu không cảm thấy nữa. Nếu cháu tìm lại được cách tạo ra vẻ mặt và thái độ như lúc này thì ông nói trước là cháu sẽ thành công rực rỡ đấy. Nhân vật mà cháu phải thể hiện trong vở.hài kịch là như thế nào? Là một chàng trai nông thôn chưa nhìn thấy gì và không biết gì cả; thậm chí thấy mình vụng về ngu si hơn con khỉ; do đó vở kịch có tên Kẻ ngu hơn trong hai người lại là kẻ mà người ta không nghĩ tới. Ngu hơn Joli - Coeur, đó là vai diễn của cháu.

Vở Người đầy tớ của ngài Joli - Coeur không phải một hài kịch lớn, biểu diễn chưa đầy hai mươi phút. Nhưng chúng tôi tập đến gần ba tiếng đồng hồ, cụ Vitalis bắt chúng tôi làm đi làm lại đến mười lần cùng một thứ, lũ chó cũng như tôi. Dĩ nhiên lũ chó có lúc quên vài phần trong vai của chúng.

Tôi rất ngạc nhiên thấy chủ tôi kiên nhẫn và dịu dàng biết nhường nào. Cụ không hề tức giận một lần nào.

- Nào ta lại bắt đầu lại, mỗi lần yêu cầu của cụ không đạt được cụ lại nói: chưa được, Capi; còn ngài Joli - Coeur, ngài không chú ý gì cả.

Chỉ có thế, nhưng thế cũng là đủ.

- Được rồi, cụ bảo tôi, tập đã xong, cháu có nghĩ rằng mình sẽ quen đóng kịch không?

- Cháu chẳng biết nữa.

- Cháu có chán không?

- Không, cháu thích là khác.

- Thế thì tốt. Cháu thông minh, lại chú ý.

Vừa chú ý vừa vâng lời người ta sẽ đạt tới tất cả mọi thứ. Cháu hãy xem lũ chó và so sánh chúng với Joli - Coeur. Joli - Coeur có lẽ hiếu động hơn, thông minh hơn nhưng không dễ bảo.

Bảo nó cái gì không bao giờ nó vui lòng làm.

Đó là do bản chất nó và chính vì vậy ông không bao giờ giận nó. Khỉ không giống chó, không có ý thức về bổn phận.

Tôi mạnh dạn nói với cụ rằng cái làm tôi ngạc nhiên nhất trong buổi tập vừa qua là cụ tỏ ra vô cùng kiên nhẫn.

Cụ mỉm cười:

- Người ta thấy ngay là, cụ nói, trước nay cháu chỉ sống với những người nông dân tàn nhẫn với súc vật.

- Má Barberin dịu dàng với con bò của chúng cháu lắm. - Tôi nói.

- Bà làm thế là đúng. Bà hiểu rõ điều mà người nông dân thường không biết: dịu dàng thì người ta được nhiều hơn. Chính vì không bao giờ tức giận các con vật của ông mà ông đã đào tạo được chúng như ngày nay. Nếu ông đánh chúng, chúng sẽ sợ, sợ hãi làm tê liệt trí thông.minh. Hơn nữa nếu để mình đi đến giận dữ ông sẽ mất lòng tin ở cháu. Mấy con chó của ông đã dạy cho ông nhiều bài học như những bài học ông dạy chúng. ông đã làm phát triển trí thông minh của chúng còn chúng tạo tính cách cho ông.

Các bạn tôi, lũ chó và con khỉ, có thuận lợi hơn tôi ở chỗ đã quen xuất hiện trước công chúng thành ra ngày hôm sau chúng không hề sợ hãi.

Nhưng tôi không có được cái an tâm bình tĩnh của chúng. Nỗi xúc động của tôi thật mạnh mẽ khi chúng tôi rời quán đi đến nơi biểu diễn.

Cụ Vitalis mở đầu cuộc diễu hành bằng một điệu van-xơ thổi trên sáo. Theo sau là Capi, trên lưng Capi, Joli - Coeur trong bộ quân phục đại tướng Anh ung dung ngồi thoải mái. Rồi cách xa ra một đoạn kha khá là Zerbino và Dolce tiến tới. Cuối cùng tôi kết thúc đoàn diễu hành.

Nhưng cái làm người ta chú ý còn nhiều hơn cả sự hùng tráng của cuộc diễu hành của chúng tôi lại là những tiếng sáo chói tai. Mọi người đổ ra cửa xem chúng tôi diễu qua, tất cả các rèm cửa sổ đều được kéo lên nhanh chóng.

Vài đứa trẻ đi theo chúng tôi, nhiều nông dân sửng sốt nhập bọn với chúng, khi đến nơi biểu diễn chúng tôi đã có cả một đám rước đằng sau mình rồi.

Phần đầu buổi biểu diễn của chúng tôi gồm một số trò do chó thực hiện. Cụ Vitalis bỏ ống sáo, thay vào đó một chiếc vĩ cầm, kéo đệm theo các tiết mục của chó lúc thì điệu van-xơ lúc thì một điệu nhạc buồn réo rắt.

Tiết mục đầu tiên kết thúc, Capi ngậm một cái bát gỗ giữa hai hàm răng, đi trên hai chân sau bắt đầu làm một vòng quanh "cử tọa đáng kính". Khi nào không thấy xu rơi xuống nó lấy hai chân trước đặt lên người vị khán giả chai sạn, sủa hai ba cái rồi đập nhè nhẹ vào cái túi mà nó muốn mở. Thế là trong công chúng xuất hiện những tiếng kêu, những lời bàn tán vui vẻ, những tiếng chế giễu.

- Con chó bông này thông minh thật, nó biết những ai có túi đầy đấy nhé.

Thế là cuối cùng những đồng xu đành được dốc ra.

Đến lượt Joli - Coeur và tôi ra mắt.

- Thưa quý bà quý ông, cụ Vitalis nói, chúng tôi tiếp tục buổi biểu diễn bằng một hài kịch dễ.thương có tên: Người đầy tớ của ngài Joli -Coeur hay Kẻ ngu hơn trong hai người lại là kẻ không ai nghĩ tới. Một người như tôi không hạ mình; để khen vở kịch và diễn viên của chính mình, chỉ xin các vị hãy mở to mắt, hãy dỏng tai và chuẩn bị tay để vỗ.

Tuy nhiên để làm cho diễn xuất của các diễn viên dễ hiểu hơn, cụ Vitalis kèm theo mấy lời bình.

Thế là, với vẻ hiếu chiến ngầm, cụ tuyên bố ông Joli - Coeur, rồi đến Capi, đến tôi, lên sân khấu. Cụ bình luận tóm tắt từng cảnh một. Vở kịch được dựng lên nhằm thể hiện sự ngu si đần độn của tôi trong tất cả mọi mặt: mỗi cảnh tôi phải giở vài hành động ngớ ngẩn trong khi Joli - Coeur ngược lại phải tìm cơ hội trổ hết thông minh và khéo léo. ái chà! Duyên dáng và lịch sự của ngài Joli - Coeur sao mà khiến khán giả mê say đến thế! Còn sự vụng về lúng túng của tôi làm họ cười ơi là cười! Tiếng vỗ tay vang dội tứ phía, buổi biểu diễn kết thúc thắng lợi. Con khỉ mới thông minh làm sao! Tên đầy tớ mới ngu ngốc làm sao!

Cụ Vitalis khen tôi như vậy và tôi tự hào lắm.

Chắc chắn các kịch sĩ trong đoàn ông Vitalis tài cao rồi - tôi muốn nói lũ chó và con khỉ -nhưng tài này cũng chẳng nhiều vẻ lắm. Biểu diễn mấy buổi người ta đã biết hết vở.

Từ đó đi đến kết luận là không ở lâu mãi một thành phố được.

Sau ba ngày đến Ussel lại phải lên đường.

Đi đâu bây giờ nhỉ? Tôi đã khá mạnh dạn với chủ tôi để hỏi cụ câu hỏi này.

- Cháu có biết đất nước này chứ? - Cụ vừa nhìn tôi vừa trả lời.

- Không ạ.

- Thế tại sao cháu lại hỏi ông là ta đi đâu?

Nếu ông bảo cháu là ta đi Aurillac để tiếp tục đi Bordeaux rồi từ Bordeaux đi Pyrénées thì cháu biết được cái gì?

- Nhưng cụ biết xứ sở này chứ ạ?

- ông chưa bao giờ đến đây.

- Thế tại sao cụ lại biết là mình đi đâu?

Cụ nhìn tôi rất lâu.

- Cháu không biết đọc phải không? - Cụ hỏi tôi.

- Không, nhưng cháu đã nhìn thấy người ta đọc. - Tôi tự hào nói..Quả thật người ta có cho tôi đi học nhưng chỉ có một tháng.

- Đọc có khó lắm không ạ? - Tôi hỏi cụ Vitalis sau khi đi khá lâu vừa đi vừa nghĩ ngợi.

- Khó đối với kẻ nào rắn đầu thôi, lại càng khó với những ai không thiện chí. Cháu có rắn đầu không?

- Cháu không biết nhưng có vẻ như nếu cụ dạy cháu đọc thì cháu không ngại khó đâu.

- Được, chúng ta sẽ xem; ta còn thời gian trước mặt mà.

Tôi không biết học đọc khó thế nào nhưng tôi hình dung ngay thấy mình mở một quyển sách và biết được có những gì trong đó.

Hôm sau trong khi đi đường tôi thấy chủ tôi cúi xuống nhặt trên đường cái một mảnh ván phủ bụi đến một nửa.

- Đây là quyển sách, cháu sẽ học đọc trong đó. - Cụ bảo tôi.

Tôi nhìn cụ xem có phải cụ giễu tôi không.

Rồi khi thấy cụ rất nghiêm túc, tôi nhìn kỹ cái vật mà cụ tìm được. Đó là một mảnh ván bằng gỗ sồi, dài bằng cánh tay, rộng bằng hai bàn tay, rất nhẵn, bên trên chẳng có chữ có hình gì cả.

- Cụ giễu cháu đấy ạ?

- Đâu có, con trai ta, cứ chờ tới lúc chúng ta đến bụi cây đằng kia đã, ta nghỉ ở đấy và cháu sẽ thấy ông dạy cháu đọc bằng cái mảnh gỗ này như thế nào.

Cụ Vitalis lấy một con dao trong túi ra, cắt từ mảnh ván một lớp gỗ mỏng gọt nhẵn đi rất kỹ càng. Sau đó cụ cắt nó thành từng miếng nhỏ đều nhau.

- Trên mỗi miếng gỗ này, cụ nói, ông sẽ lấy mũi dao khoét một chữ cái. Qua đó cháu học được hình dáng các chữ và khi đã thuộc cháu ghép chúng lại thành các từ. Khi cháu đã tạo thành các từ mà ông bảo rồi, cháu sẽ đọc được một quyển sách.

Chẳng bao lâu các túi áo tôi đầy những miếng gỗ và tôi mau chóng biết mặt các chữ cái, nhưng để biết đọc lại là một chuyện khác. Sự việc không nhanh được như thế thậm chí có lúc tôi đã hối tiếc muốn học đọc.

Dầu sao phải nói rằng, công bằng mà nói, không phải vì lười mà tôi hối tiếc mà chính là do tự ái.

Trong khi dạy tôi chữ cái cụ Vitalis có ý nghĩ dạy luôn cả con Capi. Chúng tôi cùng học với nhau. Dĩ nhiên Capi không thể đọc lên những.chữ cái mà nó trông thấy vì nó không biết nói, nhưng khi những miếng gỗ được bày trên cỏ nó phải lấy chân tha ra những chữ mà cụ Vitalis đọc lên.

Lúc đầu tiến bộ của tôi nhanh hơn nó nhưng nếu như tôi có trí thông minh nhạy bén hơn thì nó lại có trí nhớ vững vàng hơn. Thế là cứ mỗi lần tôi phạm lỗi chủ tôi lại không quên bảo tôi:

- Capi sẽ biết đọc trước Rémi cho mà xem, thật xấu hổ.

Điều đó kích thích tôi đến mức tôi dốc lòng ra học mà trong khi con chó dừng lại ở chỗ viết được tên nó tôi tiến tới đọc được một quyển sách.

- Bây giờ cháu đã đọc được chữ, cụ Vitalis bảo tôi, cháu có muốn đọc được nhạc không?

- Cháu có hát được như cụ không ạ?

Thỉnh thoảng cụ Vitalis hát và cụ đâu có ngờ nghe cụ hát như một ngày hội đối với tôi.

- Cháu muốn hát ư? Nghe ông hát cháu thấy thích ư?

- Thích nhất đấy ạ. Mỗi khi cụ hát cháu chỉ muốn khóc, khi cụ hát một khúc hát êm đềm hay buồn bã, khúc hát lại đưa cháu về với má Barberin, cháu nghĩ đến má, cháu nhìn thấy má trong nhà. ấy thế mà cháu có hiểu gì về những lời cụ hát đâu vì nó là tiếng ý mà.

Vừa nói vừa nhìn cụ, tôi thấy đôi mắt cụ như đẫm nước mắt, tôi bèn hỏi cụ nói như vậy có làm cụ khổ tâm phiền não gì không.

- Không con ạ, cụ nói với tôi bằng một giọng cảm động, con làm ông nhớ tới tuổi trẻ của ông, thời thanh niên đẹp đẽ của ông. Cứ yên tâm, ông sẽ dạy con hát. Và vì con là người có tấm lòng, cả con nữa, con cũng sẽ làm người ta khóc và vỗ tay.

Thế là ngay hôm sau chủ tôi dạy âm nhạc như đã dạy tôi học. Cụ bắt đầu gọt những miếng gỗ nhỏ rồi lấy dao khắc lên đó. Chuẩn bị xong các bài học, phải thú thật là học nhạc không phải kém nhọc nhằn hơn học đọc. Cụ Vitalis, vốn kiên nhẫn với mấy con vật của cụ là thế mà nhiều lần phải bực với tôi.

Cuối cùng những bước đầu đã vượt qua và tôi hài lòng thấy mình đã có thể xướng âm một điệu nhạc mà cụ Vitalis viết trên một tờ giấy.

Ngày hôm ấy cụ tát nhẹ vào mỗi bên má tôi hai cái tát yêu và tuyên bố rằng nếu cứ tiếp tục như thế tôi sẽ trở thành một ca sĩ lớn..Dĩ nhiên chuyện học hành nói trên không phải chỉ làm trong một ngày, và trong rất nhiều tháng túi quần túi áo tôi nhét đầy các miếng gỗ.

Hơn nữa học không đều bởi vì chỉ những lúc rỗi cụ Vitalis mới dạy tôi học.

Mỗi ngày chúng tôi phải hoàn tất đoạn hành trình, dài ngắn tùy theo xóm làng ở xa nhau hay không; phải biểu diễn ở tất cả những nơi có cơ may kiếm được chút thu nhập ít ỏi; phải tập vai cho mấy con chó và cho Joli - Coeur; chuẩn bị bữa ăn; chỉ sau tất cả những cái đó mới nói đến chuyện học đọc hay học nhạc.

Cuối cùng tôi đã học được một cái gì đó và đồng thời học đi những quãng đường dài. Tôi là một đứa trẻ khá gầy còm ốm yếu khi sống với má Barberin; nay bên cạnh cụ Vitalis, sống giữa khí trời, với gian khổ, đôi chân và hai cánh tay tôi khỏe lên, phổi tôi nở ra, da tôi săn sắn lại, tôi có thể chịu đựng được lạnh cũng như nóng, nắng cũng như mưa, những thiếu thốn những mệt nhọc mà không đau khổ chút nào.

Chúng tôi đã vượt qua một phần của miền Nam nước Pháp. Chúng tôi cứ thẳng tiến, gặp đâu đi đấy và cứ thấy một cái làng nào không đến nỗi nghèo khổ quá chúng tôi lại chuẩn bị tiến vào một cách oai vệ. Tôi trang điểm cho lũ chó, chải lông cho Dolce, mặc quần áo cho Zerbino, dán miếng dán lên một bên mắt con Capi để nó có thể đóng vai một ông già cảu nhảu càu nhàu, tôi buộc Joli - Coeur phải mặc quần áo đại tướng vào.

Cụ Vitalis cho tôi được hoàn toàn tự do phóng túng:

- Không ngờ cháu lại được ông cho đi qua toàn bộ nước Pháp ở cái tuổi mà trẻ con chỉ đi học tiểu học hoặc trung học, cháu hãy nhìn, hãy học đi. Thấy cái gì không hiểu hoặc muốn hỏi điều gì, cứ hỏi ông. Có lẽ không phải lúc nào ông cũng trả lời được bởi vì ông không cho rằng mình hiểu biết tất cả nhưng biết đâu ông có thể thỏa mãn được tò mò của cháu thì sao? Không phải xưa nay ông vẫn làm giám đốc một gánh hát súc vật thông thái, ông cũng đã học được những điều ngoài những cái bổ ích cho ông lúc này để giới thiệu Capi và Joli - Coeur với "cử tọa đáng kính". Nhưng ta sẽ nói với nhau chuyện đó sau. Cháu chỉ cần biết là một người làm trò chó cũng có một vị trí đáng kể trong thiên hạ đấy chứ. Không phải thường đâu..Sau khi rời dãy núi ở Auvergne chúng tôi tới vùng cao nguyên đá vôi ở Quercy.

Giữa bình nguyên này có một làng lớn tên là Labastide - Murat, chúng tôi qua đêm ở đó trong vựa thóc một cái quán.

- Chính ở đây, cụ Vitalis bảo tôi buổi tối trước khi đi ngủ, cũng có thể ngay tại cái quán này, đã sinh ra một con người bắt đầu đời mình làm một thằng bé quét chuồng ngựa. Tên ông ta là Murat. ông đã trở thành một anh hùng và người ta đã lấy tên ông đặt cho làng này. ông biết ông ta và đã từng chuyện trò thường xuyên với ông ta.

- Khi ông ta còn là thằng bé quét chuồng ngựa ấy ạ?

- Không, cụ Vitalis cười nói, khi ông ấy làm vua cơ.

- Cụ đã từng quen một ông vua?

Hẳn giọng tôi thốt lên phải buồn cười lắm bởi vì cái cười của chủ tôi lại cất lên và kéo dài rất lâu.

- ông sẽ kể cháu nghe chuyện ông vua này.

Thế là trong nhiều giờ sau đó chúng tôi ngồi trên chiếc ghế dài, ông thì nói, tôi thì dán mắt vào khuôn mặt ông đang được ánh trăng mờ nhạt chiếu sáng.

Chủ tôi biết thật nhiều điều!.

Không gia đình - Chương 3 : Đi khắp đó đây

Rời vùng đất khô cằn của những cao nguyên đá vôi và vùng đất truông, tôi nhớ lại là chúng tôi tới một thung lũng xanh tươi với một thu nhập kha khá, đất đai giàu có của xứ sở làm người dân sung túc, chúng tôi biểu diễn nhiều buổi, những đồng xu cũng dễ dàng rơi xuống chiếc bát gỗ của Capi.

Một lần, chúng tôi ngủ trong một ngôi làng khá nghèo khổ, trời vừa sáng đã lại ra đi. Chúng tôi đi mãi trên con đường cái bụi mù và bỗng nhiên tầm nhìn của chúng tôi, cho tới lúc đó vẫn bị hạn chế trong một con đường bao quanh những ruộng nho, tự nhiên mở ra một không gian mênh mông.

- Bordeaux đấy. - Cụ Vitalis nói.

Đối với một đứa trẻ như tôi, từ trước đến nay mới chỉ nhìn thấy vài thành phố nhỏ gặp trên đường đi, đây đúng là một quang cảnh thần tiên. Trên sông tàu bè qua lại tấp nập: một số tàu trở về từ những chuyến đi dài ngày trên biển cả, một số khác từ cảng ra đi. Khi tới chiếc cầu nối Bastide với Bordeaux, cụ Vitalis không còn thì giờ để trả lời một phần trăm những câu hỏi mà tôi đặt ra cho cụ nữa!

Từ Bordeaux chúng tôi phải đi qua Pau.

Hành trình khiến chúng tôi phải đi qua bãi sa mạc lớn trải dài tới tận dãy Pyrénées này có tên gọi là miền Lander. Không còn vườn nho, không còn đồng cỏ, không còn vườn cây ăn trái. Hiếm lắm mới trông thấy nhà cửa. Bình nguyên trải dài trước mặt chúng tôi đến vô tận, đất màu xám.

Suốt dọc đường chỉ thấy thạch thảo khô với cây đậu kim cằn cỗi.

- Chúng ta đang ở miền Lander, cụ Vitalis nói, ta còn phải đi từ hai mươi đến hai mươi nhăm dặm nữa giữa sa mạc này. Đôi chân cháu phải can đảm lên.

Nhưng không phải chỉ làm cho đôi chân can đảm lên mà còn phải làm cho cái đầu và trái tim cũng can đảm lên nữa bởi vì bước chân trên con đường tưởng như không bao giờ tận cùng này người ta luôn cảm thấy tràn ngập một nỗi buồn không sao chế ngự nổi..Kể từ hồi ấy tôi đã nhiều lần đi những chuyến đi biển và cứ mỗi lần giữa đại dương không một cánh buồm tôi lại tìm lại được trong tôi cái tình cảm buồn bã không sao định nghĩa nổi mà tôi đã cảm thấy trong cảnh cô đơn ấy.

Pau để lại cho tôi một kỷ niệm thú vị. Chúng tôi ở đó cả mùa đông, ngày nào cũng đi ra phố và những nơi công cộng. Chúng tôi có một công chúng trẻ con không biết chán các tiết mục của chúng tôi.

Một buổi sáng, chúng tôi lên đường. Không biết hàng bao nhiêu tuần chúng tôi cứ thẳng trước mặt mà tiến bước. Rồi một tối kia chúng tôi tới một thành phố lớn. Nhà cửa xây bằng gạch đỏ, phố xá có vỉa hè lát bằng những hòn cuội nhọn. Chúng tôi đã đến Toulouse.

Hôm đó cũng như mọi khi việc đầu tiên chúng tôi lo lắng là tìm nơi thuận tiện để biểu diễn. Chúng tôi tìm được một con đường nhưng một viên cảnh sát bảo chúng tôi đi chỗ khác.

Mặc dù chủ tôi chỉ là một người làm trò thú nghèo và già, nhưng cụ có tự trọng của mình, không chịu đi. Viên cảnh sát quay lưng đi nhưng hôm sau lại tới, bước qua dây thừng quây thành rạp hát của chúng tôi vào đúng giữa lúc biểu diễn. Sự can thiệp này gây ra nhiều tiếng xì xào.

Rõ ràng là người ta ủng hộ cụ Vitalis. Họ chế giễu viên cảnh sát và thích thú với bộ dạng nhăn nhó của Joli - Coeur.

Viên cảnh sát không có vẻ một con người kiên nhẫn, đột ngột quay gót.

- Nếu ngày mai chó của ông không bị buộc mõm, tôi sẽ đưa ra tòa.

Ngày hôm sau tôi tới chỗ mọi khi chăng dây thừng. Chỉ vừa dạo lên vài nhịp đàn hác-pơ mọi người đã đổ xô đến từ tứ phía.

Viên cảnh sát cũng đến ngay sau đó. Joli -Coeur trông thấy trước tiên bèn hai tay chống nạnh, đầu ngửa ra sau, đi đi lại lại quanh tôi người cứng đờ, ngực ưỡn ra với một vẻ oai vệ rất là lố bịch.

Công chúng cười ồ lên và vỗ tay nhiều tràng dài. Viên cảnh sát chưng hửng, ném về phía tôi những cái nhìn giận dữ làm cho công chúng càng la ó thêm.

Bản thân tôi cũng muốn cười nhưng không dám. Viên cảnh sát cứ đi đi lại lại ngoài dây thừng. Tôi gọi Joli - Coeur nhưng nó không chịu vâng lời cứ tiếp tục đi như thế, cứ mỗi khi tôi muốn tóm lấy nó nó lại chạy thoát khỏi tay tôi..Viên cảnh sát cho là tôi kích động con khỉ, phăng phăng bước vào bên trong vòng dây thừng và ngay lập tức giáng cho tôi hai cái tát vẹo người.

Khi tôi đứng vững lại được, cụ Vitalis không hiểu bằng cách nào đã đứng giữa tôi và viên cảnh sát, nắm lấy cổ tay viên cảnh sát.

- Tôi cấm ông không được đánh thằng bé này.

Viên cảnh sát muốn giằng tay ra nhưng cụ Vitalis cứ nắm chặt lấy cổ tay hắn khiến hắn giận điên lên. Chủ tôi trông cao thượng tuyệt vời. Viên cảnh sát túm lấy cổ áo chủ tôi và dữ dằn đẩy cụ ra trước hắn. Cụ Vitalis tức quá đứng thẳng người lên đánh mạnh vào cổ tay viên cảnh sát để gỡ ra.

- ông muốn gì chúng tôi nào? - Cụ Vitalis hỏi.

- Tôi muốn bắt cụ.

- Không cần thiết phải đánh thằng bé.

- Theo tôi!

Cụ Vitalis đã lấy lại được bình tĩnh; cụ không đáp lời hắn, nhưng quay lại tôi:

- Cháu về quán. ở đấy với lũ chó. ông sẽ tin cho cháu sau.

Cụ không nói được gì thêm nữa vì viên cảnh sát đã lôi cụ đi.

Thế là tan cuộc biểu diễn.

Công chúng mau chóng tản đi; chỉ còn vài người ở lại bàn tán về những gì vừa xảy ra.

Tôi về quán rất lo lắng. Trong thời gian này tôi làm gì? Sống thế nào? Sống bằng gì? Chủ tôi có thói quen mang tiền trên người chưa kịp đưa cho tôi đồng nào. Tôi chỉ có vài xu trong túi.

Tôi trôi qua hai ngày như vậy trong lo lắng, không dám ra khỏi sân quán trọ, chỉ trông nom Joli - Coeur và lũ chó.

Cuối cùng đến ngày thứ ba có người mang đến cho tôi một lá thư của cụ Vitalis. Trong thư chủ tôi bảo họ cho cụ vào tù chờ thứ bảy sau đưa ra tòa tiểu hình về tội đã chống lại viên chức chính quyền.

Tôi đi nắm thêm tình hình, người ta nói tòa xử bắt đầu lúc mười giờ. Chín giờ sáng thứ bảy tôi là người đầu tiên vào phòng xử. Dần dần phòng đông lên. Tôi không hiểu gì về tòa án và pháp luật nhưng theo bản năng, tôi hãi hùng kinh khủng. Có vẻ như chúng tôi đang gặp nguy hiểm.

Tôi ngồi thu mình đằng sau chiếc lò sưởi..Chủ tôi không được đem ra xử đầu tiên. Bắt đầu là những người đã ăn cắp, đã đánh nhau, ai cũng nói là mình vô tội nhưng tất thảy đều bị kết án. Cuối cùng cụ Vitalis ra ngồi trên ghế dài mà những người trước cụ đã ngồi, giữa hai tay hiến binh.

Những gì lúc đầu người ta hỏi cụ và cụ trả lời như thế nào tôi không biết gì hết. Tôi quá xúc động để nghe và để hiểu. Hơn nữa tôi không nghĩ đến nghe. Tôi cứ nhìn chủ tôi đứng thẳng, mái tóc dài bạc trắng hất ra sau trong thái độ một con người vừa hổ thẹn vừa đau buồn. Tôi nhìn vị quan tòa thẩm vấn cụ.

- Như vậy là cụ thừa nhận đã đánh nhiều lần viên cảnh sát bắt cụ?

- Không, thưa chánh tòa, chỉ có một lần thôi ạ, tôi gỡ ra khỏi cái siết chặt của ông ta. Khi tới nơi chúng tôi định biểu diễn tôi thấy ông cảnh sát tát thằng bé đi cùng với tôi.

- Thằng bé có phải con cụ không?

- Không, thưa chánh tòa, nhưng tôi yêu nó như con trai tôi. Khi thấy nó bị đánh, tôi đã để mình cả giận mất khôn, nắm chặt lấy bàn tay ông cảnh sát ngăn ông ta tiếp tục đánh nó nữa.

- Chính ông cũng đánh viên cảnh sát chứ gì?

- Khi ông này nắm vào cổ tay tôi tôi quên mất người lao vào tôi là ai và một động tác bản năng, không cố ý đã đưa tôi đi quá xa.

- ở tuổi ông không thể để mình đi quá xa được.

- Không may là không phải người ta lúc nào cũng làm được những việc phải làm.

- Ta sẽ nghe đến ông cảnh sát.

Tay này kể lại những chuyện đã xảy ra, nhấn mạnh vào cách người ta chế giễu con người hắn hơn là cú bị đánh.

Trong khi tay cảnh sát khai với tòa cụ Vitalis đáng lẽ chú ý nghe thì lại nhìn quanh khắp gian phòng. Tôi hiểu cụ tìm tôi. Tôi bèn rời chỗ nấp, len lỏi giữa những người tò mò, lên hàng ghế đầu. Cụ nhìn thấy tôi và gương mặt buồn rầu của cụ sáng hẳn lên, tôi cảm thấy cụ sung sướng khi nhìn thấy tôi, nước mắt tràn mi tôi dù tôi cố kìm lại.

- Cụ chỉ nói có thế để bảo vệ mình thôi ư?

- Cuối cùng chủ tọa phiên tòa hỏi.

- Phần tôi tôi chẳng có gì để nói thêm cả, nhưng vì đứa bé mà tôi thương yêu thắm thiết sắp sửa tứ cố vô thân, vì nó, xin tòa rộng lượng.để chúng tôi chỉ phải xa nhau trong thời gian ngắn nhất.

Tôi cứ tưởng người ta trả lại tự do cho chủ tôi, cụ sẽ không làm sao hết.

Một viên thẩm phán khác phát biểu vài phút, rồi đến chủ tọa phiên tòa, bằng giọng trang trọng, nói rằng người có tên Vitalis đã lăng mạ và có những hành động làm tổn thương đến nhân viên chính quyền, bị kết án hai tháng tù và bồi thường một trăm phrăng.

Qua hàng nước mắt tôi nhìn thấy cánh cửa qua đó cụ Vitalis đi vào nay lại mở ra, đằng sau cụ là một tay hiến binh, sau đó cửa đóng lại.

Hai tháng xa cách! Đi đâu bây giờ ?

Khi về tới quán trọ lòng tôi nặng trĩu, hai mắt hoe đỏ, tôi thấy ông chủ quán đã chờ tôi ở cửa.

- Thế nào, ông ta hỏi, chủ mày thế nào?

- Bị kết án hai tháng tù và bồi thường một trăm phrăng.

- Thế trong hai tháng này mày làm gì?

- Thưa ông, cháu không biết.

- à! Mày không biết? Mày có tiền tự nuôi thân và nuôi lũ vật này không? - Thưa ông không ạ.

- Thế mày trông vào tao để có chỗ ở chắc?

- ồ, không ạ. Cháu có trông vào ai đâu.

Lời tôi nói không gì thực bằng.

- Được đấy con ạ, mày nói đúng, chủ mày đã nợ tao quá nhiều rồi, tao không thể để mày nợ thêm nữa mà rút cục không chắc có được trả hay không. Mày phải đi thôi.

- ông muốn cháu đi đâu ạ?

- Có phải việc của tao đâu, tao chẳng phải bố mày cũng không phải chủ mày, tao giữ mày làm gì? Tất nhiên mày phải để lại đây cái túi của chủ mày. Khi nào chủ mày ra tù sẽ đến đây lấy túi và thanh toán. Còn mày, mày làm gì chẳng tìm được cách kiếm sống. Đi đến những suối nước nóng ấy, kiếm tiền được đấy. Mày chỉ cần trở lại khi nào chủ mày ra.

Tôi cảm thấy có chống lại cũng vô ích. Tôi vào chuồng ngựa, tháo chó và Joli - Coeur, buộc chặt cái túi của mình, đeo dây chiếc đàn hác-pơ lên vai, đi ra khỏi quán.

Chủ quán đứng ở cửa.

- Nếu có thư tao sẽ giữ cho mày. - ông ta kêu to bảo tôi.

Tôi vội vàng đi khỏi thành phố này. Tôi chỉ có mười một xu. Tôi đã trở thành chủ gia đình, tôi, một đứa bé không gia đình, và tôi ý thức được trách nhiệm của mình.

Mười một xu của tôi không thể cho chúng tôi ăn cả bữa sáng lẫn bữa tối, chúng tôi đành dùng một bữa vào giữa trưa. Quán trọ nơi chúng tôi vừa bị đuổi ở ngoại ô Saint Michel trên đường đi Montpellier, lẽ tự nhiên là tôi theo con đường ấy.

Cuối cùng tôi thấy đã đủ xa Toulouse để không còn sợ nữa. Tôi vào hiệu bánh mì đầu tiên yêu cầu bán cho một pao rưỡi và trả họ tám xu. Tôi đi ra cắp chặt bánh mì dưới cánh tay. Tới cái cây đầu tiên gặp trên đường, chúng tôi yên vị, tôi chia đều chiếc bánh mì tròn ra cho năm chúng tôi.

Mặc dù bữa tiệc này không phải là một bữa tiệc sau đó cần một bài diễn văn, tôi vẫn thấy đã đến lúc cần nói với các bạn tôi một vài câu. Có lẽ Capi hiểu ý định của tôi vì nó cứ dán chặt đôi mắt thông minh và âu yếm của nó vào mắt tôi.

- Phải, các bạn ạ, tôi có một tin xấu báo cho các bạn đây. Chủ chúng ta phải xa chúng ta hai tháng. Việc này trước nhất làm cụ rất buồn, sau đến chúng ta cũng vậy. Cụ là người nuôi chúng ta sống, vắng cụ, chúng ta rơi vào tình cảnh kinh khủng. Chúng ta không có tiền.

Nghe thấy chữ tiền mà nó rất hiểu, Capi bèn đứng lên trên hai chân sau đi một vòng như vẫn đi quanh "cử tọa đáng kính" vậy.

- Mày muốn chúng ta biểu diễn chứ gì, tôi nói tiếp, quả đó là một lời khuyên tốt. Nhưng liệu chúng ta có thu được gì không? Tất cả là ở đó. Nếu chúng ta không thành công, tôi xin báo trước với các bạn là cả gia sản chúng ta chỉ có ba xu. Phải thắt lưng buộc bụng. Tình hình là như vậy đấy, tôi mong các bạn hiểu sự nghiêm trọng của nó, đem hết thông minh ra phục vụ xã hội chúng ta. Tôi đòi hỏi các bạn vâng lời và can đảm. Hãy trông cậy vào tôi, cũng như tôi trông cậy ở các bạn.

Nghỉ ngơi một lát tôi ra lệnh lên đường: phải kiếm một chỗ ngủ, kiếm bữa sáng mai, muốn vậy chúng tôi đành ngủ ngoài trời để tiết kiệm.

Sau khoảng một giờ đi bộ chúng tôi tới một ngôi làng xem ra phù hợp với việc thực hiện mục đích của tôi. Tôi trang điểm các kịch sĩ của mình, đi thành hàng ngũ chỉnh tề nhất có thể, tiến vào làng. Không may thiếu ống sáo của cụ Vitalis, thiếu cả cái oai vệ của cụ để làm mọi người phải nhìn. Tôi cũng lại không có dáng cao lớn và cái đầu diễn cảm của cụ, trên mặt tôi thể hiện nỗi lo lắng thì đúng hơn là sự tự tin.

Tới một bãi đất ở giữa có một cái máy nước dưới bóng mấy cây tiêu huyền, tôi lấy đàn hác-pơ ra dạo một khúc van-xơ. Nhạc rất vui, ngón tay tôi nhẹ nhàng nhưng lòng tôi buồn bã, tôi cảm thấy mình gánh trên hai vai một trọng lượng quá nặng.

Tôi bảo Zerbino và Dolce ra nhảy, chúng vâng lời ngay và ra nhảy theo nhạc. Nhưng chẳng ai buồn tới xem chúng tôi cả mặc dầu trên ngưỡng các cửa ra vào tôi nhìn thấy những người phụ nữ ngồi đan lát hoặc chuyện trò với nhau.

Tôi tiếp tục chơi đàn, Zerbino và Dolce tiếp tục nhảy. Hình như có người tiến lại gần chúng tôi, nếu một người đến thì sẽ có hai người, rồi mười, hai mươi người khác nữa.

Nhưng tha hồ tôi chơi, tha hồ Zerbino và Dolce nhảy, mọi người vẫn cứ yên vị trong nhà thậm chí chẳng thèm nhìn về phía chúng tôi nữa.

Thật tuyệt vọng!.Có lẽ những người này không thích nhảy chăng? Tôi bắt đầu hát khúc can-zô. Tôi thấy một người đàn ông mặc áo vét đội mũ phớt tiến đến gần chúng tôi. Tôi hát càng hăng hái.

- Này! - ông ta kêu lên. - Mày làm gì ở đây thế thằng nghịch ngợm này?

- ông thấy đấy, tôi đang hát.

- Mày có giấy phép hát ở xã tao không?

- Không ạ.

- Thế thì cút nếu không tao đưa ra tòa bây giờ, thằng ăn mày xấu xa này. Tao là người gác đồng quê đây!

Người gác đồng quê!

Tôi lại đi trên con đường mà tôi đã đến.

†n mày! Tôi có đi xin ăn đâu: Tôi hát, tôi nhảy, đó là cách làm việc của tôi, tôi có làm gì xấu đâu!

Chỉ năm phút sau tôi đã ra khỏi cái thôn xóm kém hiếu khách này. Lũ chó theo tôi, đầu cúi xuống, hiểu là chúng tôi đã gặp chuyện không may.

Chúng tôi cứ theo con đường trắng trước mặt mà đi. Hết cây số này sang cây số khác, cho đến lúc những ánh hồng cuối cùng của mặt trời đang lặn đã biến mất khỏi bầu trời, chúng tôi vẫn chưa tìm thấy một chỗ nào có thể ngủ được.

Chúng tôi dừng chân bên một cánh rừng, nghỉ ngơi ở đó, Capi canh gác.

Ngày du hành đầu tiên thế này thật là xấu.

Chuyến đi ngày mai sẽ ra sao? Tôi đói và khát, mà chỉ còn có ba xu. Làm sao nuôi cả đoàn, nuôi bản thân tôi, và nếu ngày mai và cả những ngày tiếp theo nữa không tìm được cách biểu diễn? Chết đói cả hay sao?

Vừa lật đi lật lại những câu hỏi này tôi vừa nhìn những vì sao lấp lánh trên đầu trong bầu trời tối thẫm. Chúng tôi bơ vơ quá và bị bỏ rơi!

Tôi cảm thấy mắt mình ngập lệ rồi bỗng nhiên tôi òa khóc. Tôi khóc trong hai bàn tay, khóc không sao ngừng lại được và bỗng tôi cảm thấy một hơi thở âm ấm lướt qua tóc mình: đó là Capi.

Tôi lấy hai cánh tay ôm lấy cổ nó và hôn lên cái mõm ẩm của Capi, nó bèn thốt lên hai ba tiếng rên nghẹn ngào, có lẽ nó cũng khóc với tôi.

Khi tôi tỉnh dậy, trời đã sáng rõ và Capi ngồi trước mặt tôi, đang nhìn tôi, chim hót trên cành lá, mặt trời đã lên cao, chiếu xuống những tia nắng nóng làm ấm cả lòng người..Tôi đã quyết định: tiêu nốt ba xu rồi sau đó liệu sau.

Tới làng, chẳng cần hỏi thăm đâu là hiệu bánh mì, cái mũi chúng tôi đã đưa chúng tôi tới đó. Ba xu bánh mì chỉ đủ cho chúng tôi một bữa sáng còm cõi, nuốt quá nhanh chóng.

Sau đó tôi đi qua ngôi làng tìm xem có chỗ nào thuận tiện cho biểu diễn không.

ý định của tôi là nghiên cứu địa phương trước đã, đến trưa mới quay về thử vận may. Tôi nhằm một nơi để chúng tôi tạm thu mình trong chốc lát ở vùng đồng quê bên cạnh, bên bờ một con sông đào. Chán nản xâm chiếm lòng chúng tôi, nhu cầu ăn trở nên thôi thúc. Phải tạo ra một công việc gì đó cho nó bận bịu.

Tôi nhớ lại cụ Vitalis bảo trong chiến tranh khi một trung đoàn hành quân lâu mệt mỏi, người ta chơi nhạc khiến binh lính quên cả mệt.

Tôi lấy đàn hác-pơ ra dạo một điệu nhảy rồi một khúc van-xơ. Lúc đầu các diễn viên của tôi xem chừng chưa sẵn sàng lắm, rõ ràng một mẩu bánh lúc này mới làm nên chuyện. Nhưng dần dần âm nhạc phát huy hiệu quả: chúng tôi quên mẩu bánh không có và tôi chỉ còn nghĩ đến chơi nhạc, lũ chó chỉ còn nghĩ đến nhảy mà thôi.

Bỗng nhiên tôi nghe thấy giọng trong trẻo của một đứa trẻ reo lên: Hoan hô!

Một chiếc tàu dừng lại trên sông đào, mũi quay về phía bờ tôi đang đứng, hai con ngựa kéo nó dừng lại ở bờ bên kia. Đó là một chiếc tàu đặc biệt, tôi chưa trông thấy cái tàu nào giống thế bao giờ: nó ngắn hơn nhiều so với các xà-lan thường phục vụ việc đi lại trên sông, trên cầu tàu lại được xây một nhà cầu lắp kính. Phía trước nhà cầu là một cái hiên có bóng mát của những cây leo che phủ. Cành lá cây móc vào chỗ này một tí chỗ kia một tí ở các vết cắt trên mái nhà rủ xuống từng chùm dây leo xanh mướt. Dưới cái hiên đó tôi trông thấy hai người: một phu nhân còn trẻ, vẻ quý phái và buồn buồn đang đứng và một cậu bé trạc tuổi tôi hình như đang nằm.

Có lẽ đó là thằng bé đã reo lên: Hoan hô!

Không còn ngạc nhiên nữa tôi nâng mũ cảm ơn cậu bé đã vỗ tay tôi Bà phu nhân hỏi với giọng người nước ngoài:

- Cháu chỉ vì thích mà chơi đàn đấy chứ?

- Dạ để làm cho các kịch sĩ của cháu diễn trò... với lại cũng để cho khuây khỏa.

Cậu bé ra hiệu và bà ta cúi xuống..- Cháu muốn tiếp tục chơi đàn nữa không?

- Bà ta hỏi.

- Xin chơi một điệu nhảy, và nếu cử tọa đáng kính muốn, tôi sẽ giới thiệu nhiều trò khác nữa giống như các tiết mục trong các rạp xiếc ở Paris.

Đó là một câu nói của chủ tôi, tôi cố gắng tuôn ra như cụ một cách cao quý. Tôi cầm lấy chiếc đàn hác-pơ và bắt đầu chơi một điệu van-xơ, lập tức Capi lấy hai tay ôm lấy mình Dolce và chúng bắt đầu nhảy theo nhạc. Sau đó Joli -Coeur nhảy một điệu sô-lô. Cứ thế chúng tôi trình diễn tất cả mọi tiết mục không biết mệt là gì. Các diễn viên hài kịch của tôi đều hiểu rằng người ta sẽ trả công cho nỗi khó nhọc của chúng bằng một bữa cơm, chúng làm việc không tiếc mình, cả tôi cũng vậy. Vừa chơi đàn vừa trông coi các diễn viên, thỉnh thoảng tôi lại nhìn cậu bé, có điều kỳ lạ là tuy có vẻ rất thích những trò biểu diễn của chúng tôi, nó vẫn cứ nằm bất động, chỉ động đậy hai bàn tay để vỗ tay tán thưởng chúng tôi mà thôi. Nó liệt chăng?

Ngọn gió vô tình đã đưa chiếc tàu sát vào bờ nơi tôi đứng, và lúc này tôi nhìn cậu bé rõ như tôi ở ngay trên tàu vậy: tóc nó vàng, mặt nó nhợt nhạt đến nỗi nhìn thấy cả những mạch máu xanh dưới làn da trong suốt.

- Trả tiền các cháu diễn như thế nào nhỉ? -Bà phu nhân hỏi.

- Tuỳ theo khán giả thích nhiều hay ít.

- Mẹ ơi, thế thì trả cho đắt vào mẹ ạ. - Cậu bé nói.

Rồi nó nói thêm mấy lời bằng một thứ tiếng mà tôi không hiểu.

- Arthur muốn nhìn gần các diễn viên xem sao. - Bà ta bảo tôi.

Tôi ra hiệu cho lũ chó, chúng nhảy phóc xuống tàu. Joli - Coeur nhảy thì dễ rồi nhưng tôi không bao giờ tin ở nó: một khi lên tàu nó có thể giở những trò hề biết đâu không hợp với thị hiếu của bà quý phái thì sao?

- Con khỉ có dữ không? - Bà ta hỏi.

- Thưa bà không ạ, nhưng không phải lúc nào nó cũng vâng lời.

- Thế thì cháu hãy xuống tàu cùng với nó.

Nói xong bà ra hiệu cho một người đàn ông đứng ở phía sau gần bánh lái và lập tức người này đi ra phía trước, bắc một tấm ván lên bờ làm thành một cái cầu cho phép tôi lên tàu mà.không phải nhảy liều nguy hiểm. Thế là tôi bước lên tàu một cách trang trọng, chiếc đàn hác-pơ trên vai và Joli - Coeur trong tay.

- Con khỉ! Con khỉ! - Arthur kêu lên.

Tôi đến gần cậu bé và trong khi nó nịnh nọt vuốt ve con khỉ tôi tha hồ ngắm nó.

Thật là lạ! Quả là nó bị buộc vào một tấm ván đúng như lúc đầu tôi đã nghĩ.

- Cháu có cha mẹ hay ít nhất là một ông chủ chứ? - Bà quý phái hỏi.

- Có ạ, nhưng lúc này cháu sống một mình, trong hai tháng.

- ôi, chú bé đáng thương! Làm sao phải sống một mình lâu đến thế, ở tuổi cháu!

- Phải vậy ạ, thưa bà.

- ông chủ có lẽ bắt cháu sau hai tháng phải đem về cho ông ta một món tiền chăng?

- Không ạ, chỉ cốt đủ sống cùng gánh hát thôi ạ.

- Cho tới hôm nay cháu đủ sống chứ?

Tôi do dự trước khi trả lời. Tôi chưa bao giờ gặp một người đàn bà quý phái làm nảy sinh trong tôi một tình cảm tôn trọng như con người đang hỏi tôi đây. Bà hỏi tôi với biết bao lòng tốt, giọng bà sao mà dịu dàng, cái nhìn của bà sao mà nhã nhặn, thế là tôi quyết định nói sự thực.

Tôi kể cho bà nghe vì sao tôi phải xa cụ Vitalis và làm sao mà từ khi dời Toulouse tôi không sao kiếm nổi một xu.

Trong khi tôi nói chuyện Arthur chơi với lũ chó tuy vậy nó vẫn lắng nghe.

- Thế thì bọn anh hẳn đang đói lắm nhỉ. -Nó kêu lên.

Nghe thấy từ đói mà chúng hiểu rất rõ, lũ chó sủa ầm lên còn Joli - Coeur thì lấy tay xoa bụng một cách cuồng nhiệt.

- ôi, mẹ ơi! - Arthur nói.

Bà quý phái hiểu ngay lời gọi đó là nghĩa thế nào, bà nói vài lời bằng tiếng nước ngoài với một người đàn bà vừa thò đầu ra khỏi cánh cửa hé mở và gần như ngay sau đó bà ta bưng ra một cái bàn trên đã dọn sẵn thức ăn.

- Ngồi xuống con. - Bà quý phái nói.

Tôi không để phải van nài lâu hơn, đặt đàn xuống, nhanh nhẹn ngồi ngay vào bàn; lũ chó.ngồi quanh tôi theo thứ tự, Joli - Coeur thì ngồi trên đầu gối tôi.

- Lũ chó của anh có ăn bánh mì không? -Arthur hỏi.

Lại còn có ăn bánh mì hay không? Tôi cho mỗi con chó một mẩu bánh mì, chúng nhai ngấu nghiến.

- Còn con khỉ thì sao? - Arthur lại hỏi.

Nhưng chẳng cần phải hỏi han chăm lo đến nó: trong khi tôi cho lũ chó ăn nó đã chộp ngay một miếng vỏ pa-tê và đang nghẹn ở dưới gầm bàn.

Đến lượt tôi, tôi lấy một lát bánh mì, và nếu như tôi không nghẹn như Joli - Coeur thì tôi cũng ăn lấy ăn để như nó.

- Tội nghiệp chú bé. - Bà quý phái vừa nói vừa rót đầy cốc nước cho tôi.

- Nếu bọn anh không gặp chúng em thì sẽ ăn tối ở đâu? - Arthur hỏi.

- Thì sẽ nhịn ăn tối.

Arthur bèn quay về phía mẹ nó, hai mẹ con nói với nhau bằng tiếng nước ngoài, có vẻ như nó yêu cầu mẹ nó điều gì đó còn mẹ nó đưa ra vài ý kiến phản đối.

Đột nhiên bà bảo tôi:

- Cháu có đồng ý ở lại đây cùng chúng tôi không?

Tôi nhìn bà không trả lời vì câu hỏi này bất chợt quá đối với tôi.

- Trên tàu này ấy ạ?

- Phải. Con trai tôi bị ốm, bác sĩ yêu cầu buộc nó vào một tấm ván như cháu trông thấy đấy. Để nó khỏi buồn chán tôi đưa nó đi chơi trên chiếc tàu này. Cháu ở lại đây với chúng tôi.

Con khỉ và lũ chó của cháu sẽ biểu diễn cho Arthur xem. Còn cháu, nếu muốn, cháu sẽ chơi đàn hác-pơ. Như vậy cháu giúp chúng tôi, về phía chúng tôi, chúng tôi cũng có ích cho bọn cháu. Mỗi ngày cháu đỡ phải lo tìm công chúng, việc này đối với một đứa trẻ ở tuổi cháu không phải dễ dàng gì.

Sẽ được sống trên tàu, trên mặt nước, hạnh phúc nào bằng! Đó là ý nghĩ đầu tiên đập vào đầu óc tôi và làm cho nó sáng lóe lên. Thật là một giấc mơ!

Chỉ cần suy nghĩ vài giây là tôi đủ cảm thấy tất cả những gì khiến tôi sung sướng qua đề xuất này và người đưa ý kiến đó ra rộng lượng biết bao nhiêu!.Tôi cầm lấy bàn tay bà quý phái mà hôn. Bà có vẻ cảm kích về sự thể hiện lòng biết ơn này và vuốt ve trán tôi một cách âu yếm.

Vì người ta yêu cầu tôi chơi đàn hác-pơ, vậy thì làm sao tôi có thể ơ thờ đối với việc làm thỏa lòng mong muốn của họ? Tôi cầm lấy cây đàn, đứng trước mũi tàu và bắt đầu chơi nhạc.

Cùng lúc đó bà quý phái đưa một chiếc còi bằng bạc lên miệng và thổi lên một tiếng chóe tai.

Tôi lập tức ngừng đàn. Arthur đoán ra nỗi lo lắng của tôi.

- Mẹ thổi còi để cho hai con ngựa lại tiếp tục đi đấy.

Quả thật con tàu nay đã xa bờ đang bắt đầu lướt trên làn nước lặng lẽ của con sông đào do ngựa kéo đi. Sóng vỗ vào thân tàu, hai bên đường cây cối chạy ngược lại chúng tôi, mặt trời đang lặn chiếu những tia nắng xiên nghiêng làm chúng sáng lên.

- Anh chơi đàn đi chứ? - Arthur bảo.

Và gật đầu làm hiệu gọi mẹ lại gần, nó nắm lấy tay mẹ và giữ bàn tay mẹ trong tay mình suốt thời gian tôi chơi những bản nhạc mà chủ tôi đã dạy tôi.

Không gia đình - Chương 4 : Người bạn đầu tiên của tôi

Mẹ Arthur là người Anh, tên là bà Milligan.

Bà góa chồng và ngay sau đó tôi được biết bà còn một cậu con trai lớn nữa nhưng đã mất tích trong hoàn cảnh rất bí mật, đúng vào lúc ông Milligan hấp hối, bà thì đang ốm nặng. Khi bà hồi phục thì chồng đã chết, con mất tích. Cuộc tìm kiếm được ông James Milligan, em trai ông Milligan điều hành. Nhưng ông James Milligan lại có quyền lợi ngược với bà chị dâu. Thực vậy, nếu ông Milligan chết không con cái ông ta sẽ trở thành người thừa kế của anh mình.

Tuy nhiên ông James Milligan không thừa kế được, vì bảy tháng sau cái chết của ông Milligan, bà Milligan sinh hạ cậu bé Arthur.

Nhưng các bác sĩ tuyên bố đứa bé ốm yếu này không sống được. Đã hai chục lần tưởng nó chết nhưng rồi hai chục lần nó lại được cứu sống..Thời gian gần đây người ta phát hiện ở nó một bệnh quái ác gọi là lao khớp háng. Để điều trị chứng này bác sĩ ra lệnh chữa bằng nước có lưu huỳnh cho nên bà Milligan mới đến vùng núi Pyrénées. Nhưng sau khi chữa bằng nước lưu huỳnh không ăn thua, người ta thử một cách điều trị khác: bệnh nhân phải nằm không được đứng dậy.

Lúc đó bà Milligan mới đặt đóng một chiếc tàu ở Bordeaux, chiếc tàu mà tôi đã đặt chân lên.

Bà không thể nghĩ tới chuyện để con nằm như thế trong nhà, nó sẽ chết vì buồn chán. Người ta biến con tàu thành một căn nhà nổi, có phòng ngủ, bếp, phòng khách và hiên. Tùy theo thời tiết mà Arthur nằm ở phòng khách hay cái hiên này, có mẹ bên cạnh. Chỉ cần mở mắt ra là nó nhìn thấy cảnh vật diễu qua.

Ngày xuống tàu tôi chỉ biết có mỗi phòng ngủ của tôi trên tàu Thiên Nga này. Mặc dù nó bé xíu, đây là cái ca-bin đẹp nhất mà trí tưởng tượng thơ ngây của tôi có thể ước mơ.

Cửa sổ khoét vào vỏ tàu, có thể đóng lại bằng một cửa kính tròn, vừa chiếu sáng vừa làm thoáng căn phòng. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một căn phòng xinh xẻo sạch sẽ đến thế, tường được lát bằng gỗ lãnh sam đánh véc-ni, trên sàn trải tấm bạt đánh xi kẻ ô đen trắng.

Nhưng không phải chỉ cặp mắt là thích thú.

Khi nằm trên giường tôi có một cảm giác thoải mái hoàn toàn mới lạ, lần đầu tiên những chiếc khăn trải giường xoa dịu da tôi chứ không phải cào vào người tôi.

Tuy ngủ rất ngon trong chiếc giường ấm cúng ấy, ngay từ sáng sớm tôi đã trở dậy vì lo lắng không hiểu các kịch sĩ của tôi qua đêm ra sao.

Tôi thấy tất cả nằm đúng vào vị trí mà đêm qua tôi đặt chúng vào, chúng đang ngủ say sưa như đã từ nhiều tháng nay sống trên con tàu này rồi. Khi tôi lại gần, lũ chó tỉnh dậy, vui vẻ đến bên tôi để được tôi vuốt ve buổi sáng. Joli -Coeur, bằng một động tác kịch câm, giải thích là nó sẵn sàng lên mặt đất.

Ông thủy thủ đường sông hôm qua đứng gần bánh lái cũng đã dậy và lo việc cọ rửa cầu tàu.

Ông bắc tấm ván lên bờ và thế là tôi và cả đoàn kịch nghệ của tôi đi lên bãi cỏ trên mặt đất.

Đùa nghịch với lũ chó và Joli - Coeur, nào chạy, nào trèo cây, thời gian trôi thật nhanh. Khi.chúng tôi trở lại, ngựa đã được móc vào tàu và buộc vào một cây dương trên con đường kéo tàu:

chúng chờ tiếng còi để ra đi.

Tôi xuống tàu, vài phút sau người ta thả dây buộc tàu vào bờ ra, người thủy thủ đứng vào sau tay lái, người kéo tàu cưỡi lên ngựa, chiếc ròng rọc dây kéo luồn qua đó kêu lên kèn kẹt; chúng tôi lên đường.

Sung sướng biết bao được đi chơi trên tàu!

Ngựa phi nước kiệu trên bờ không hề cảm thấy động đậy gì thế mà chúng tôi cứ lướt nhẹ trên mặt nước, hai bên bờ có rừng cây lùi lại sau chúng tôi, chẳng còn nghe thấy gì hết ngoài tiếng nước xoáy vào lòng tàu, tiếng nước vỗ hòa lẫn với tiếng leng keng của chiếc nhạc buộc vào cổ ngựa.

Tôi đang chăm chú chiêm ngưỡng cảnh vật thì có tiếng gọi đằng sau. Đó là Arthur, người ta đã mang nó ra ngoài cùng với tấm ván, mẹ nó ở bên cạnh.

- Anh ngủ có ngon không? - Arthur hỏi tôi.

Tôi đến gần, tìm lời lễ phép nói với bà mẹ và cả cậu bé.

Bà Milligan đặt con vào nơi không có ánh nắng chiếu vào và ngồi xuống cạnh nó.

- Cháu ra chỗ khác nhé, chúng tôi sắp học đây.

Tôi làm theo yêu cầu và đi ra mũi tàu.

Tôi thấy Arthur học thuộc lòng một bài học mà mẹ nó đọc từ trong sách ra. Nằm dài trên ván, không cử động, nó lặp lại hay nói đúng hơn, cố gắng lặp lại, vì nó ngắc ngứ kinh khủng và khó lòng nói trôi chảy được lấy ba từ, thường thường là nhầm. Mẹ nó bắt nó học lại từ đầu, rất dịu dàng nhưng cũng rất cương quyết.

- Con không thuộc bài ngụ ngôn rồi. - Bà nói. - Hôm nay con vấp nhiều lỗi hơn hôm qua.

- Con đã cố học... Con ốm mà...

- Mẹ không bằng lòng con không học hành gì cả, lấy lý do ốm con sẽ lớn lên trong ngu dốt.

Bà Milligan có vẻ rất nghiêm khắc tuy vậy bà nói mà không giận dữ, giọng rất dịu dàng.

- Con không học được mẹ ạ, con đoán chắc như vậy.

Và Arthur bật khóc..Nhưng bà Milligan không bị những giọt nước mắt làm lung lay mặc dầu bà tỏ ra xúc động.

- Con chỉ được chơi sau khi đã học thuộc bài.

Nói xong bà đưa quyển sách cho Arthur rồi đi vào trong tàu. Ngay lập tức Arthur bắt đầu đọc câu chuyện ngụ ngôn, từ chỗ tôi, tôi thấy môi nó động đậy. Rõ ràng là nó đang chuyên tâm vào học. Nhưng sự chuyên tâm này kéo dài chẳng được bao lâu, nó ngước mắt lên khỏi quyển sách, môi chỉ mấp máy chầm chậm. Rồi nó không đọc cũng chẳng nhắc lại nữa. Đôi mắt nó lang thang đây đó, gặp mắt tôi. Tôi ra hiệu bảo nó học đi. Nó cười với tôi, mắt lại nhìn vào quyển sách. Nhưng chẳng mấy chốc mắt nó lại ngước lên nhìn từ bờ nọ sang bờ kia sông.

Tôi lại gần.

- Em không học được, nó nói, mặc dầu em muốn lắm.

- Bài ngụ ngôn này có gì là khó đâu.

- ồ, ngược lại là khác, nó rất khó.

- Anh thấy nó rất dễ chỉ nghe mẹ em đọc anh đã hầu như thuộc rồi.

Nó cười nghi ngờ.

- Để anh đọc cho em xem.

Tôi cầm lấy quyển sách bắt đầu đọc thuộc lòng mà chỉ phải nhìn vào sách ba bốn lần.

- ồ, anh thuộc ư? - Nó kêu lên. - Anh làm thế nào vậy?

- Anh nghe mẹ em đọc nhưng vừa nghe vừa chú ý không nhìn những cái gì diễn ra xung quanh anh.

Nó đỏ mặt quay đi và sau một lát hổ thẹn, nó nói:

- Em hiểu, em cũng đã cố nghe như anh, nhưng làm sao để nhớ lại tất cả mọi từ?

- Truyện ngụ ngôn này nói về cái gì nào?

Tôi nói. - Về một con cừu chứ gì. Anh nghĩ đến những con cừu. Sau đó anh nghĩ đến chúng làm gì. "Những con cừu sống yên ổn trong bãi quây của chúng". Anh nhìn thấy chúng đang nằm và ngủ trong bãi quây và thế là anh không quên nữa.

- Phải đấy, nó nói, em cũng nhìn thấy chúng:

cừu trắng có cừu đen có, cả những con cừu cái, cừu con. Em nhìn thấy cả cái bãi quây nữa, có rào chung quanh.

- Thế thì em không quên nữa chứ?.- ồ! Không.

- Bình thường con gì giữ cừu nào?

- Những con chó.

- Thế khi cừu được an toàn thì chó làm gì nào?

- Chẳng làm gì cả.

- Chúng có thể ngủ. Ta nói "Những con chó ngủ".

- Đúng vậy, dễ thật.

- Phải không nào? Bây giờ ta nghĩ đến chuyện khác. Cùng với lũ chó còn có ai giữ cừu nữa không?

- Người chăn cừu.

- Nếu những con cừu đang an toàn người chăn cừu không có việc gì phải làm thì anh ta dùng thời gian làm gì?

- Thổi sáo - Em có nhìn thấy không?

- Có. Anh ta ngồi dưới bóng mát một cây du non, cùng với những người chăn cừu khác.

- Vậy thì, nếu em trông thấy cừu, thấy bãi quây, những con chó, người chăn cừu rồi, em có thể đọc thuộc lòng bài ngụ ngôn từ đầu mà không lỗi không?

- Có lẽ có thể.

- Thử xem nào.

Sau vài phút lưỡng lự, nó bắt đầu đọc:

- Những con cừu nằm an toàn trong bãi quây, lũ chó ngủ, và người chăn cừu, dưới bóng mát một cây du non, đang thổi sáo với những người chăn cừu láng giềng.

Thế là nó vỗ hai tay vào nhau, kêu lên:

- Tôi thuộc rồi!

- Thế em có muốn học phần cuối của bài ngụ ngôn theo như cách đó không?

- Có. Mẹ em sẽ hài lòng.

Thế là chưa đến mười lăm phút nó đã thuộc lòng bài ngụ ngôn và đang đọc làu làu không hề ngắc ngứ thì vừa lúc mẹ nó chợt tới sau chúng tôi. Lúc đầu mẹ nó tưởng chúng tôi gần nhau để chơi, nhưng Arthur không để cho bà nói đến hai câu.

- Con thuộc bài rồi, nó kêu lên, chính anh ấy dạy con học.

Bà Milligan nhìn tôi rất ngạc nhiên khi Arthur lên tiếng đọc thuộc bài Chó sói và con cừu non.

Nó đọc với một vẻ thắng lợi và vui mừng, không hề ngập ngừng..Tôi nhìn bà Milligan. Khuôn mặt bà rạng rỡ lên với một nụ cười rồi hình như mắt bà ươn ướt nhưng lúc này bà cúi xuống hôn con trai một cách trìu mến.

- Những từ, Arthur nói, chẳng nghĩa lý gì, nhưng người ta nhìn thấy mọi thứ và Rémi đã làm con nhìn thấy người chăn cừu với ống sáo, con nghe thấy cả điệu nhạc mà anh ta thổi sáo nữa.

Bà Milligan khóc, khi bà đứng lên tôi thấy trên má con trai có nước mắt của bà. Bà lại gần tôi, cầm lấy tay tôi và siết tay tôi một cách dịu dàng đến nỗi tôi vô cùng cảm động.

- Cháu là cậu con trai tốt quá đi mất. - Bà nói.

Sở dĩ tôi kể lại sự kiện này là để mọi người hiểu được sự thay đổi của vị trí tôi kể từ ngày hôm đó. Tối hôm qua người ta còn coi tôi là một người làm trò với chó để mua vui cho đứa con đau ốm nhưng bài học vừa rồi đã tách tôi ra khỏi lũ vật và tôi bỗng trở thành một người bạn, gần như một người bạn thân của gia đình.

Lúc này khi tôi nhớ lại những ngày trôi qua bên cạnh bà Milligan và Arthur, tôi thấy đó là những ngày đẹp nhất trong cả thời thơ ấu của tôi.

Arthur kết bạn với tôi vô cùng nhiệt tình, về phía tôi tôi cứ để buông trôi như thế và do ảnh hưởng của thiện cảm tôi coi nó như một đứa em, chúng tôi không bao giờ cãi nhau, nó không bao giờ tỏ ra trịch thượng do vị trí xã hội của mình còn tôi tôi cũng không bao giờ tỏ ra lúng túng dù chỉ là một chút xíu.

Tất cả những điều này là do tuổi tôi và sự ngu dốt của tôi đối với cuộc đời và cũng nhờ sự tế nhị và lòng tốt, bà Milligan thường nói với tôi như với một đứa con.

Cuộc du hành thật tuyệt diệu đối với tôi, không một phút mệt mỏi hay chán nản, suốt từ sáng đến chiều giờ nào cũng có việc.

Nếu quang cảnh hay hay thì cả ngày chúng tôi chỉ đi được vài dặm, nếu quang cảnh đơn điệu chúng tôi đi nhanh hơn.

Vào giờ nhất định cơm được dọn ra ngoài hiên và vừa ăn chúng tôi vừa yên lặng theo dõi cảnh quan di động hai bên bờ.

Khi mặt trời lặn, chúng tôi dừng lại.

Không lúc nào chúng tôi biết đến những giờ ăn không ngồi rồi lúc chiều tối, những giờ mà.người du hành luôn cảm thấy dài dặc và buồn bã. Những giờ này, ngược lại, đối với chúng tôi lại quá ngắn ngủi, giờ đi ngủ đến bất chợt vào đúng lúc chúng tôi chẳng nghĩ đến ngủ chút nào.

Tàu dừng lại mà trời lạnh thì chúng tôi giam mình trong phòng khách, sau khi đốt một ngọn lửa nhỏ cho đỡ ẩm thấp và đỡ sương mù, người ta mang đèn đến, đặt Arthur trước bàn, tôi ngồi bên cạnh nó, bà Milligan cho chúng tôi xem những sách tranh hay những bức ảnh. Bà cũng kể cho chúng tôi nghe các truyện truyền thuyết, các sự kiện lịch sử liên quan đến đất nước mà chúng tôi đang đi qua.

Phần tôi, buổi tối nào đẹp trời, tôi ôm chiếc đàn lên bờ đứng hơi xa xa sau một cái cây, hát tất cả những bài hát mà tôi biết, chơi tất cả những khúc nhạc mà tôi thuộc. Đối với Arthur được nghe nhạc trong đêm khuya tĩnh lặng không nhìn thấy người chơi đàn là một niềm vui lớn.

Thật là một cuộc đời êm dịu và sung sướng đối với một đứa trẻ chỉ vừa dời mái nhà tranh của má Barberin để đi theo những con đường lớn của xi-nho Vitalis.

Đã hai lần tôi tưởng như những sợi dây ràng buộc tôi với những người thân yêu nhất phải tan vỡ, phải kết thúc: lần đầu khi tôi bị rứt ra khỏi má Barberin, lần thứ hai phải xa cách cụ Vitalis, cả hai lần tôi đều thấy mình trơ trọi trên cõi đời này, không nơi nương tựa, không người nâng đỡ chỉ có lũ vật làm bạn.

ấy thế mà trong cảnh cô đơn tuyệt vọng tôi lại tìm thấy một người tỏ ra trìu mến tôi, mà tôi không được phép yêu: một người đàn bà xinh đẹp, dịu dàng, âu yếm; một đứa bé đối xử với tôi như em đối với anh. Thật vui sướng, thật hạnh phúc đối với một trái tim luôn khao khát yêu thương không biết bao nhiêu mà kể như tim tôi.

Tôi phải sung sướng chứ, mà thực tế tôi sung sướng thật. Thời gian trôi đi rất mau, đã tới lúc chủ tôi ra tù. Tôi vừa vui mừng đồng thời vừa bối rối.

Càng xa Toulouse bao nhiêu ý nghĩ này càng giày vò tôi bấy nhiêu. Đi thuyền như thế này thì thích thật nhưng lại phải đi bộ quay về suốt chặng đường đã trôi qua trên mặt nước. Nhất là phải xa bà Milligan và Arthur, từ bỏ lòng thương mến của họ, mất họ nữa. ý nghĩ này là bóng mây duy nhất trong những ngày xán lạn này.

Một hôm tôi quyết định báo cho bà Milligan biết và hỏi bà theo bà thì mất bao nhiêu ngày.để chúng tôi trở về Toulouse vì tôi muốn có mặt ở cổng nhà tù đúng lúc chủ tôi bước ra.

Nghe nói đến ra đi Arthur kêu lớn:

- Tôi không muốn Rémi đi!

Tôi trả lời là tôi không được tự do, tôi thuộc về chủ tôi và tôi phải trở về làm việc với cụ.

- Mẹ ơi, phải giữ Rémi lại. - Arthur nói tiếp.

- Mẹ thì mẹ rất sung sướng được giữ Rémi, bà Milligan nói, con đã kết bạn với anh ấy rồi mà, mẹ cũng rất mến anh ấy, nhưng muốn giữ anh ấy lại cần hai điều kiện: Việc đầu tiên là Rémi phải muốn ở cùng chúng ta đã...

- à! Rémi thì muốn lắm chứ. - Arthur ngắt lời.

- Việc thứ hai, bà Milligan nói tiếp không đợi tôi trả lời, là chủ anh ấy từ bỏ quyền giữ anh ấy.

Dĩ nhiên cụ Vitalis là một người chủ tốt đối với tôi rồi và tôi biết ơn sự săn sóc cũng như những bài học của cụ, nhưng không thể so sánh cuộc đời sống bên cụ với cuộc đời mà bà Milligan đề nghị với tôi.

- Trước khi trả lời, bà Milligan nói tiếp, Rémi phải suy nghĩ đã. Mẹ không đề nghị một cuộc sống chỉ vui, chỉ đi chơi mà là một cuộc sống lao động. Phải học, phải theo Arthur trong học hành, phải cân nhắc lợi hại so với cuộc sống tự do trên những con đường lớn.

- Thưa bà, tôi nói, có gì mà phải cân nhắc, cháu đảm bảo với bà như vậy, cháu thấy ngay giá trị lời đề nghị của bà là thế nào.

- Đấy mẹ xem! - Arthur reo lên. - Rémi muốn mà.

- Bây giờ, bà Milligan nói tiếp, ta cần phải có được sự thỏa thuận của chủ anh ấy, vì vậy mẹ sẽ viết thư cho cụ để cụ gặp chúng ta ở Cette vì chúng ta không thể quay lại Toulouse được. Mẹ sẽ gửi tiền tàu xe và giải thích cho cụ tại sao chúng ta không thể đi tàu hỏa. Mẹ mong cụ sẽ tới theo lời mời của chúng ta. Nếu cụ chấp nhận những đề nghị của mẹ, mẹ vẫn còn phải thỏa thuận với cha mẹ Rémi nữa, họ phải được hỏi ý kiến.

Mấy lời sau cùng này làm tôi cay đắng trở lại thực tế đau buồn từ giấc mơ mà tôi đang bay bổng.

Sự thật thế là bùng nổ. Tôi rụng rời. Bà Milligan nhìn tôi ngạc nhiên muốn tôi nói ra nhưng tôi không dám trả lời những câu hỏi của.bà. Bà lại tưởng tôi lo lắng về việc chủ tôi sắp tới nên không gặng hỏi nữa.

May thay đã sắp đến giờ đi ngủ tôi có thể vào buồng suy nghĩ và sợ hãi. Và sau khi đã nghĩ đi nghĩ lại hàng trăm lần cùng một ý nghĩ, sau khi đã chấp nhận biết bao cách giải quyết mâu thuẫn lẫn nhau, tôi dừng lại ở cách thuận tiện nhất: để mặc nó đến đâu thì đến, cái gì đến với tôi tôi đành chấp nhận.

Ba ngày sau khi gửi thư đi bà Milligan nhận được trả lời. Cụ Vitalis viết vài dòng nói là rất hân hạnh được đến theo lời mời của bà, thứ bảy sau cụ sẽ đến trên chuyến tàu hai giờ chiều.

Tôi xin phép bà Milligan ra ga, đem theo lũ chó và Joli - Coeur. Chúng tôi đợi tàu đến.

Bọn chó đứng ngồi không yên, chúng cảm thấy có cái gì đó, còn tôi, tôi vô cùng xúc động.

Trong tâm hồn dốt nát của tôi bao đấu tranh mâu thuẫn với nhau đang diễn ra.

Chính lũ chó báo cho tôi biết tàu đã đến và đánh hơi thấy chủ tôi. Bỗng nhiên tôi thấy mình bị kéo đi và vì không chuẩn bị, chúng thoát khỏi tay tôi. Chúng chạy và sủa lên mừng rỡ, ngay lập tức tôi thấy chúng nhảy quanh cụ Vitalis vừa xuất hiện trong trang phục mọi khi. Nhanh hơn các bạn, Capi lao vào vòng tay chủ tôi trong khi Zerbino và Dolce bám riết vào chân cụ. Đến lượt tôi tiến tới, cụ Vitalis đặt Capi xuống đất ôm siết lấy tôi trong hai cánh tay và lần đầu tiên vừa ôm hôn tôi vừa nhắc đi nhắc lại:

- Tội nghiệp, con yêu dấu tội nghiệp của ta.

Chủ tôi vốn không phải người khắc nghiệt nhưng cũng không bao giờ thích vuốt ve mơn trớn, tôi không quen với những thể hiện tình cảm yêu thương trìu mến như thế nên cảm động quá, mắt tôi ngập lệ.

Tôi thấy cụ già đi trong nhà tù, lưng còng xuống, mặt xanh xao.

- Con thấy ông thay đổi, đúng không? Nhưng bây giờ thì sẽ khá lên thôi.

Rồi cụ đổi đề tài:

- Bà mà viết thư cho ông đó, con biết bà ta trong hoàn cảnh nào?

Tôi kể lại cụ nghe chuyện gặp gỡ của chúng tôi. Tôi kể thật dài vì sợ đến hồi kết thúc phải đề cập tới vấn đề làm tôi đang hết hồn vì từ lúc này không bao giờ tôi có thể nói với chủ tôi là tôi muốn ở lại với bà Milligan nữa. Nhưng tôi chưa phải thú nhận chuyện này, kể chưa xong thì chúng tôi đã tới khách sạn bà Milligan ở. Hơn nữa cụ Vitalis cũng không nói gì với tôi về bức thư của bà Milligan, cũng không nói tới những lời đề nghị mà bà sẽ phải nói với cụ.

- Cho ông biết số buồng của bà ấy còn con ở lại đây với lũ chó và Joli - Coeur.

Tại sao cụ Vitalis không muốn tôi tham dự cuộc nói chuyện với bà Milligan? Chưa tìm được câu trả lời thì tôi đã thấy cụ quay về.

- Con đến tạm biệt bà đi, cụ bảo tôi, mười phút nữa ta sẽ đi.

Tôi ngần ngừ, mặc dầu cảm giác về quyết định đó làm tôi ngã ngửa.

- Thế ra con chưa hiểu sao? - Cụ nói.

Chưa bao giờ cụ có thói quen nói xẵng với tôi. Tôi đứng dậy.

- Cụ nói là... - tôi hỏi.

- Là con có ích đối với ông, ông cũng có ích với con, và ông không muốn bỏ con.

Vào buồng bà Milligan tôi thấy Arthur đang khóc còn mẹ nó đang cúi xuống an ủi nó.

- Rémi, có phải anh không đi không? - Arthur kêu lên.

Bà Milligan trả lời thay tôi, giải thích là tôi phải vâng lời.

- Chủ cháu thực sự yêu thương cháu Rémi ạ, cháu giúp ích được cho cụ nhiều. Hơn nữa lời cụ nói là lời của một con người lương thiện. Cụ nói như thế này để cắt nghĩa lời từ chối của mình: "Tôi yêu thằng bé này, nó cũng yêu tôi, bài học khắc nghiệt của trường đời học được ở bên tôi đối với nó sẽ có ích hơn tình trạng đầy tớ giả danh mà bà dành cho nó dù bà không muốn. Bà sẽ đem lại cho nó học vấn, giáo dục, tạo nên trí tuệ nó nhưng không tạo được tính cách cho nó. Nó không thể là con trai bà. Nó sẽ là con tôi. Tôi, tôi cũng sẽ dạy dỗ cháu." - Con không muốn Rémi đi! - Arthur kêu lên.

- Nhưng anh ấy phải đi. - Mẹ nó trả lời.

Tôi bèn lại gần Arthur, ôm nó trong tay và hôn nó nhiều lần, đặt trong những cái hôn đó tất cả tình cảm của tôi đối với nó. Rồi, rứt ra khỏi cái siết chặt của nó tôi tới chỗ bà Milligan, cầm lấy bàn tay bà mà hôn..Bà hôn tôi trên trán. Thế là tôi đứng ngay lên và chạy ra cửa:

- Arthur, anh sẽ yêu em mãi mãi! - Tôi vừa nói vừa thổn thức làm giọng tôi bị ngắt quãng.

- Còn bà, thưa bà, cháu sẽ không bao giờ quên bà!

- Rémi! Rémi! - Arthur kêu.

Nhưng tôi không nghe thêm nữa, tôi đã chạy ra ngoài.

Một phút sau tôi ở bên chủ tôi.

- Lên đường! - Chủ tôi nói.

Không gia đình - Chương 5 : Tuyết và chó sói

Lại phải theo gót bước chân chủ tôi đi dọc theo những con đường lớn, dây đàn đeo căng trên chiếc vai đau. Lại phải làm trò ở những nơi công cộng, phải cười phải khóc để mua vui cho "cử tọa đáng kính".

Sự chuyển tiếp này khá ngặt nghèo vì bao giờ người ta cũng thường mau quen với sung túc, với hạnh phúc. Tôi có những chán ngán, buồn nản và mệt nhọc chưa từng cảm thấy trước khi được sống cuộc đời của những người sung sướng trên thế gian này trong hai tháng êm đềm vừa qua.

Trong những chuyến đi bộ dài dằng dặc như vậy, nhiều lần tôi tụt lại sau để mặc sức nghĩ đến Arthur, đến mẹ nó, đến tàu Thiên Nga, cho tâm tưởng trở về sống với quá khứ.

May thay trong nỗi buồn của tôi lại có một niềm an ủi: chủ tôi dịu dàng hơn nhiều, trước.đây chưa từng thấy bao giờ. Về mặt này tính tình cụ có thay đổi lớn, hoặc ít nhất là trong cách đối xử với tôi. Điều này nâng đỡ tôi nhiều, tôi cảm thấy mình không đến nỗi cô đơn trong cuộc đời.

Sau khi từ Cette ra đi, rất nhiều ngày chúng tôi không nói tới bà Milligan và thời kỳ tôi sống trên tàu Thiên Nga; nhưng dần dà đề tài này xuất hiện trong những cuộc chuyện trò giữa chúng tôi, bao giờ chủ tôi cũng là người đầu tiên đề cập tới và chẳng mấy chốc không ngày nào tên bà Milligan không được nhắc tới.

- Con yêu bà ấy lắm hả? - Cụ Vitalis bảo tôi. - ông hiểu điều đó lắm, bà ấy thật tốt với con. Không phải con chỉ nghĩ đến bà ấy vì lòng biết ơn mà thôi đâu.

Rồi cụ thường nói thêm:

- Phải như vậy thôi.

Lúc đầu tôi không hiểu, nhưng dần dần tôi đi đến tự bảo phải như vậy có nghĩa là phải từ chối lời đề nghị của bà Milligan muốn giữ tôi ở lại với bà. Hẳn đó là điều chủ tôi nghĩ khi nói "Phải như vậy thôi" và hình như trong mấy chữ này có chút gì luyến tiếc.

Mỗi lần đến một thành phố nào đó, nơi đầu tiên tôi đi thăm đều là kè sông và cầu, tôi tìm tàu Thiên Nga. Khi nào thấy một con tàu một nửa chìm trong sương mù mờ mịt tôi lại đứng chờ.

Nhưng không phải nó.

Thỉnh thoảng tôi mạnh dạn hỏi thăm các thủy thủ, tôi mô tả con tàu, nhưng họ không nhìn thấy.

Chúng tôi ở Lyon nhiều tuần lễ, khi nào có thời gian cho riêng mình tôi lại ra kè sông Rhône và sông Saône. Nhưng dù cho có tìm hoài tôi cũng chẳng thấy tàu Thiên Nga đâu cả.

Đã đến lúc phải dời Lyon để đi Dijon, tôi bắt đầu cảm thấy không còn hy vọng nào gặp lại bà Milligan và Arthur nữa, vì ở Lyon tôi đã nghiên cứu mọi bản đồ nước Pháp tìm được trên giá các quầy bán sách, tôi biết con sông đào chính mà tàu Thiên Nga đi theo để tới sông Loa tách khỏi sông Saône ở Chalon.

Chúng tôi tới Chalon rồi lại ra đi mà không gặp tàu Thiên Nga, đành từ bỏ ước mơ. Phải làm điều này tôi không khỏi buồn ghê gớm.

Để làm cho nỗi thất vọng của tôi tăng thêm, đúng lúc này thời tiết trở nên rất xấu, mùa đông.đã tới, đi bộ dưới mưa, trong bùn ngày càng khó khăn. Buổi tối khi tới một cái quán tồi tàn hay một vựa thóc, nhoài người ra vì mệt, nước mưa ngấm vào tận áo sơ mi, bùn lấm đến tận chân tơ kẽ tóc, tôi không thể nào đi ngủ với những ý nghĩ tươi vui được.

Khi dời Dijon, chúng tôi đi qua dãy đồi Bờ Vàng thì chợt gặp một trận lạnh ẩm làm chúng tôi rét thấu xương, Joli - Coeur còn buồn bực cáu kỉnh hơn cả tôi nữa.

Mục đích của chủ tôi là đi đến Paris càng nhanh càng tốt bởi vì chỉ có ở đó chúng tôi mới có cơ hội biểu diễn trong mùa đông. Nhưng vì túi tiền có hạn không đi tàu hỏa được chúng tôi đành đi bộ suốt chặng đường.

Cho tới Chation mọi việc vẫn tạm xuôi chiều, nhưng khi dời thành phố này mưa tạnh và gió quay về hướng bắc. Bầu trời kéo đầy mây biểu hiện sắp có tuyết.

Tuy nhiên chúng tôi đã tới được một ngôi làng lớn mà không gặp tuyết, nhưng ý chủ tôi là phải đến Troyes cho thật nhanh bởi vì Troyes là một thành phố lớn có thể biểu diễn vài buổi được nếu như vì trời xấu mà phải trú chân tại đó.

- Con đi ngủ sớm đi, cụ bảo tôi ngay sau khi chúng tôi ổn định chỗ ở trong quán, mai ta lên đường sớm.

Cụ cứ ngồi bên lò sưởi trong bếp để sưởi ấm cho Joli - Coeur suốt ngày đã phải chịu lạnh và không ngừng rên rỉ mặc dù chúng tôi đã cẩn thận bọc nó trong nhiều tấm chăn.

Sáng hôm sau tôi dậy sớm.

- ở địa vị cụ, chủ quán nói với chủ tôi, tôi sẽ không đi, tuyết xuống đến nơi rồi.

- Tôi đang vội, cụ Vitalis đáp, tôi hy vọng đến được Troyes trước khi tuyết rơi.

- Không đi nổi ba mươi cây số trong một giờ đâu.

Tuy vậy chúng tôi vẫn cứ đi. Cụ Vitalis ôm chặt Joli - Coeur dưới áo vét mong truyền cho nó chút hơi ấm của chính mình, lũ chó chạy trước chúng tôi; ở Dijon chủ tôi đã mua một tấm da cừu bên dưới là len, tôi trùm vào người tấm da cừu đó, gió quất vào mặt làm cho tấm da dính chặt vào người tôi.

Mở miệng ra chẳng thú vị gì, chúng tôi cứ nhanh chân lẳng lặng mà đi..Vùng chúng tôi đi qua buồn thảm vô cùng càng làm tăng thêm yên lặng, cố nhìn thật xa trong cái ngày tối trời này người ta cũng chỉ thấy những cánh đồng trơ trụi, những ngọn đồi cằn cỗi và những cánh rừng cháy sém.

Gió vẫn thổi từ phía bắc và hơi có xu hướng thổi về phía tây, phía này bầu trời có những đám mây màu đồng hầu như đè nặng lên các ngọn cây.

Ngay sau đó một vài nụ tuyết to bằng cánh bướm bay qua trước mắt chúng tôi, nó cứ bay lên lại bay xuống, quay cuồng không chạm xuống đất.

Chúng tôi đi chưa được bao xa, tôi cho rằng khó lòng đến được Troyes trước khi tuyết xuống; nhưng tôi chẳng lo lắm, thậm chí còn tự bảo mình tuyết vừa rơi sẽ làm ngừng gió bắc, lạnh sẽ giảm đi.

Nhưng tôi chưa hiểu thế nào là một trận bão tuyết mà tôi sẽ học được ngay sau đây.

Từ phía tây bắc những đám mây bay lại gần và bầu trời phía đó được chiếu sáng trắng lên; mạn sườn chúng đã mở: đó là tuyết.

Một cơn mưa tuyết bao phủ chúng tôi.

- Rõ rành rành là chúng ta không đến được Troyes rồi, cụ Vitalis nói, ta phải trú trong căn lều đầu tiên ta gặp thôi.

Nói thì dễ đấy nhưng tìm đâu ra nhà? Trước lúc tuyết bao phủ chúng tôi, tôi đã xem xét kỹ cả vùng tới tận nơi xa nhất mà mắt tôi nhìn thấu được, tôi chẳng thấy một ngôi nhà hay bất cứ cái gì chứng tỏ có làng mạc đâu đây. Ngược lại chúng tôi sắp vào một khu rừng thì có.

Làm sao trông mong vào một ngôi nhà được?

Nhưng có lẽ sau hết thì tuyết sẽ không tiếp tục rơi nữa chăng?

Tuyết càng rơi nhiều hơn.

Chẳng bao lâu tuyết đã phủ kín những gì cản nó trên mặt đường: những đống đá, đống cỏ bên vệ đường, bụi rậm, bụi cây trong các hố. Dầu vậy chúng tôi vẫn cứ đi, thỉnh thoảng lại quay mặt ra sau để thở.

Lũ chó theo gót chúng tôi, đòi hỏi một chỗ ẩn mà chúng tôi không thể đem lại cho chúng được. Chúng tôi tiến lên rất vất vả, không nhìn thấy gì, người ướt sũng, lạnh buốt, và mặc dầu đã ở giữa rừng nhưng chúng tôi chẳng được che chắn tí gì, con đường vẫn phơi ra trước gió..May mắn thay (có phải là may không đây?), cơn gió đang lồng lộn giảm đi một chút nhưng tuyết càng rơi mạnh, tuyết không còn rơi như bụi nữa mà từng mảng cứng, to.

Chỉ trong vài phút con đường phủ một lớp tuyết dày. Thỉnh thoảng tôi thấy chủ tôi nhìn sang bên trái tựa như tìm tòi cái gì đó; nhưng ở đó chỉ thấy một khu rừng trống khá rộng. Cụ hy vọng tìm thấy gì ở đây?

Bỗng nhiên tôi thấy cụ Vitalis đưa tay về phía trái như để làm tôi chú ý. Tôi hình như nhìn thấy trong khoảng rừng thưa đó một cái lều bằng cành cây phủ đầy tuyết. Phải tìm một con đường đi tới lều. Rất khó.

ở chỗ tận cùng của khu rừng trống đó, nơi tiếp cận khu rừng có cây to, tôi có cảm giác cái hố ở chỗ con đường lớn đã được lấp đầy có lẽ có đường đi vào lều.

Lý luận như vậy là đúng, chúng tôi giẫm vào hố tuyết mà không bị thụt và chẳng bao lâu chúng tôi tới cái lều.

Chỗ trú này đáng giá một ngôi nhà. Lũ chó nhanh chân hơn chúng tôi, hăng hái hơn chúng tôi xông vào đầu tiên, chúng lăn lộn trên mặt đất và sủa lên mừng rỡ. Chúng tôi cũng mãn nguyện không kém chỉ có điều là thể hiện ra khác chúng mà thôi.

- ông đã nghĩ ngay là ở quãng rừng thưa này thế nào cũng có lều của người đi đốn củi.

Giờ thì mặc sức tuyết rơi.

- Vâng, tha hồ cho nó rơi. - Tôi nói với vẻ thách thức.

Tôi ra cửa lều giũ áo vét và mũ.

Đồ đạc trong lều chỉ có một cái ghế dài bằng đất và vài tảng đá dùng làm chỗ ngồi. Nhưng cái mà trong hoàn cảnh hiện tại còn có giá trị hơn nhiều đối với chúng tôi, đó là năm sáu hòn gạch đặt sẵn trong một góc lều làm bếp.

Chúng tôi có thể nhóm lửa. Lửa được nhóm rất nhanh và một ngọn lửa sáng bừng nổ lép bép tươi vui trên cái lò sưởi của chúng tôi.

A! Ngọn lửa tuyệt đẹp! Ngọn lửa quý hóa!

Dĩ nhiên cháy như vậy làm cho khói tỏa đầy lều nhưng quan trọng gì đối với chúng tôi? Chúng tôi chỉ cần ấm.

Trong khi tôi nằm xẹp xuống đất chống hai tay thổi lửa, lũ chó ngồi quanh bếp một cách trang trọng trên hai chân sau, cổ ngỏng lên, phơi chiếc bụng ướt và lạnh ngắt ra trước ngọn lửa..Ngay sau đó Joli - Coeur hé chiếc áo vét của ông chủ ra, thận trọng thò mũi ra ngoài nhìn xem mình đang ở đâu; xem xét chắc chắn rồi nó nhảy phắt xuống đất chiếm chỗ tốt nhất trước ngọn lửa và hơ hai bàn tay run rẩy bé xíu ra trước lửa.

Bây giờ chúng tôi đã yên tâm không chết rét nữa, nhưng chưa giải quyết được vấn đề đói. May thay chủ tôi là người thận trọng và đầy kinh nghiệm, buổi sáng lúc tôi còn chưa dậy cụ đã chuẩn bị thức ăn đi đường: một chiếc bánh mì tròn và một miếng phó mát nhỏ, cho nên trông thấy chiếc bánh tất cả chúng tôi đều tỏ ra rất hài lòng.

Khẩu phần không nhiều, tôi đã hy vọng nhầm: đáng lẽ ăn cả cái bánh, chủ tôi chỉ cho chúng tôi có một nửa.

- ông không thuộc đường, cụ nói để trả lời cho cái nhìn dò hỏi của tôi, ông chưa biết từ đây đến Troyes có cái quán nào không. Hơn nữa ông cũng không biết khu rừng này. ông chỉ biết vùng này rất nhiều rừng. Có lẽ còn xa mới có người ở. Biết đâu ta bị hãm lâu trong cái lều này thì sao. Phải lưu lại thực phẩm.

Tuy nhiên dù cho bữa ăn thật đạm bạc chúng tôi cũng vững dạ lên nhiều, chúng tôi đã có chỗ trú, ngọn lửa ngấm dần vào chúng tôi một niềm ấm áp êm ái. Lũ chó đã ngủ và tôi cũng muốn làm như vậy.

Tôi không biết đã ngủ trong bao lâu, khi tôi tỉnh dậy tuyết đã ngừng rơi. Tôi nhìn ra ngoài:

đống tuyết phủ trước lều đã dày lên nhiều, nếu phải lên đường hẳn tuyết phải ngập đến đầu gối tôi.

Trong khi tôi đang đứng ở cửa lều tôi nghe thấy tiếng chủ tôi gọi:

- Con muốn lại lên đường chăng? - Cụ bảo tôi.

- Cháu không biết, cháu sẽ làm theo lời cụ bảo.

- Thế này nhé, ý ông là hẵng ở lại đây, ít nhất ta còn có chỗ trú ẩn, có lửa sưởi.

Tôi nghĩ chúng tôi ở lại sẽ không có bánh mì, nhưng tôi giữ ý nghĩ ấy trong bụng.

- ông cho là tuyết lại sắp rơi tiếp ngay bây giờ đây, cụ Vitalis nói, ta không thể phơi mình ra trên đường trong khi không biết nhà cửa có gần ta không. Tuyết thế này mà qua đêm dọc đường chắc chẳng êm ả gì, thà ở lại đây còn hơn..Để ăn tối cụ Vitalis chia đều mẩu bánh còn lại làm sáu. Hỡi ôi! Chẳng còn được bao nhiêu, chẳng mấy chốc mà hết nhẵn mặc dầu chúng tôi chia bánh thành từng miếng nhỏ xíu mà ăn để kéo dài bữa cơm!

Tuyết tiếp tục rơi, dai dẳng như lúc trước, giờ này sang giờ khác lớp tuyết phủ trên mặt đất cứ dày lên dần dọc theo các cụm chồi. †n cơm xong thì chúng tôi chỉ còn thấy lờ mờ những gì xảy ra bên ngoài túp lều bởi vì vào cái ngày tối tăm này bóng tối tới rất sớm.

Đêm rồi mà tuyết vẫn không ngừng rơi. Vì phải qua đêm ở đây nên tốt nhất là chúng tôi đi ngủ sớm, tôi cũng làm như lũ chó, sau khi quấn mình trong tấm da cừu mà tôi đã hong khô lúc ban ngày, tôi nằm dài bên ngọn lửa, đầu gối trên một phiến đá nhẵn dùng làm gối.

- Ngủ đi, cụ Vitalis bảo tôi, khi nào muốn ngủ ông sẽ đánh thức cháu dậy, bởi vì một trong hai chúng ta phải thức để duy trì ngọn lửa.

Tôi không để nhắc đến hai lần.

Khi chủ tôi đánh thức tôi dậy, đêm đã khuya.

Tuyết không rơi nữa, lửa vẫn cháy.

- Bây giờ đến phiên cháu, cụ Vitalis bảo tôi, chỉ cần cháu thỉnh thoảng cho thêm củi vào bếp.

Đến lượt cụ nằm dài trước ngọn lửa, sát vào Joli - Coeur quấn trong một cái chăn và chẳng bao lâu cụ thở đều và to, tôi biết cụ đã ngủ.

Thế là tôi đứng dậy, rón rén trên đầu ngón chân đi ra cửa lều để xem bên ngoài thế nào.

Tất cả được chôn vùi trong tuyết, nhìn ra thật xa cũng chỉ thấy như một chiếc khăn trải bàn mấp mô đầy một màu trắng xóa. Bầu trời điểm vài ngôi sao lấp lánh nhưng dù chúng có sáng đến mấy chăng nữa chính tuyết mới tạo nên ánh sáng nhợt nhạt chiếu trên quang cảnh này. Trời lại trở lạnh, ở ngoài kia chắc lạnh buốt vì không khí tràn vào lều rét cóng lên được.

Chúng tôi thật sung sướng gặp được căn lều này. Nếu không sẽ ra sao ở giữa rừng?

Dù đi lại rất khẽ tôi đã làm lũ chó thức giấc, Zerbino theo tôi ra cửa. Nó mau chán, muốn ra ngoài. Tôi lấy tay ra lệnh cho nó vào. Nó vâng lời nhưng cái mũi vẫn hướng ra cửa, tỏ ra là một con chó bướng bỉnh.

Cuối cùng tôi tới gần ngọn lửa. Trong một lúc lâu, tôi nhìn những tia lửa bập bùng làm vui. Dần dần, nỗi mệt mỏi làm tôi đờ đẫn. Tôi lại chìm vào giấc ngủ trong khi vẫn tưởng mình đang thức..Bỗng nhiên tôi choàng tỉnh bởi tiếng chó sủa giận dữ.

- Cái gì vậy? - Cụ Vitalis cũng thức dậy kêu lên. - Có chuyện gì xảy ra thế?

- Cháu không biết.

Capi lao ra cửa.

Đáp lại tiếng sủa của Capi là hai ba tiếng rú thảm thiết trong đó tôi nhận ra tiếng con Dolce.

Những tiếng rú này vang lên từ phía sau lều. Tôi định đi ra, chủ tôi ngăn lại.

- Cho thêm củi vào lửa đã.

Trong khi tôi theo lời cụ thì cụ lấy ra từ trong bếp một que cời lửa và thổi vào đầu toan cho nó rực lên. Cụ giữ que cời đó trong tay.

Đúng lúc chúng tôi định đi ra thì một tiếng tru khủng khiếp vang lên trong yên lặng.

- Chó sói rồi! Zerbino và Dolce đâu?

Tôi không trả lời được. Có lẽ trong lúc tôi ngủ hai con chó đã ra ngoài.

- Cầm lấy một que cời lửa ra cứu chúng đi.

Nhưng khi ra đến quãng rừng thưa, chúng tôi chẳng thấy chó cũng chẳng thấy chó sói, chỉ thấy vết chân những con chó in trên tuyết.

Chúng tôi cứ đi theo vết chân này, những vết chân đi quanh lều; rồi ở một quãng cách lều khá xa trong bóng tối chúng tôi thấy một vùng tuyết bị chà đạp, như thể những con chó đã lăn lộn trong đó.

Cụ Vitalis đã khẳng định nỗi hoảng sợ của tôi.

- Chó sói cắp chúng đi rồi.

Chủ tôi trở về căn lều, tôi theo sau, mỗi bước lại ngoảnh lại sau và dừng lại nghe ngóng, nhưng tôi chỉ nghe thấy tiếng lạo xạo của tuyết.

Trong lều một sự ngạc nhiên đang chờ đợi chúng tôi, những cành cây tôi xếp trên ngọn lửa cháy bùng lên trong khi chúng tôi không có mặt trong lều.

Tôi chẳng nhìn thấy Joli - Coeur đâu cả.

Tôi gọi nó, đến lượt cụ Vitalis gọi nó, nhưng không thấy nó ra. Chúng tôi cầm một nắm cành cây đang cháy, đi ra tìm vết tích nó.

Chúng tôi không tìm thấy dấu vết nào của nó cả.

Chúng tôi lại vào lều, xem nó có thu mình sau bó củi nào không. Chúng tôi tìm rất lâu, tôi.trèo cả lên vai cụ Vitalis thám hiểm những cành cây dựng lều, cũng vô ích.

Tôi hỏi chủ tôi xem cụ có cho là nó cũng bị chó sói tha đi hay không.

- Không, cụ bảo, sói không dám vào lều khi có ánh sáng đâu.

Chúng tôi lại bắt đầu đi tìm nhưng cũng như lần đầu không đem lại kết quả gì.

- Phải đợi ban ngày ban mặt thôi. - Cụ Vitalis nói.

Những ngôi sao tắt đi và trời sáng dần.

Ngay khi ánh sáng lạnh ngắt của ban mai khiến chúng tôi nhìn rõ hình thù các bụi cây và các cây to, chúng tôi đi ra ngoài. Cụ Vitalis vũ trang bằng một cái gậy to, tôi cũng vậy. Trong khi chúng tôi mải tìm dấu vết của Joli - Coeur trên mặt đất, Capi bỗng nhìn lên và sủa vang mừng rỡ, điều đó có nghĩa phải tìm ở trên không chứ không phải ở dưới đất.

Quả nhiên chúng tôi thấy mặt tuyết phủ mái lều đã bị giẫm lên đây đó cho tới một cành cây lớn rủ xuống mái lều. Mắt chúng tôi dõi theo cành cây này, nó là cành của một cây sồi, thì thấy ở tít trên cao chỗ một chạc cây có một cái bóng thẫm màu thu mình ở đó.

Đó là Joli - Coeur và chúng tôi dễ dàng đoán được cái gì đã xảy ra: quá sợ hãi những tiếng rú của chó và chó sói, Joli - Coeur lao lên nóc lều trong khi chúng tôi ra ngoài, rồi từ đó leo tít lên cây sồi cao và cứ ẩn mình trên đó ai gọi cũng không thưa. Con vật bé nhỏ tội nghiệp mong manh ấy hẳn phải lạnh cóng.

Chủ tôi nhẹ nhàng gọi nó. Nó leo thoăn thoắt từ cành nọ sang cành kia rồi nhảy phóc xuống vai cụ Vitalis, chui vào trong áo vét của cụ.

Tìm được Joli - Coeur kể cũng đã là nhiều, nhưng những con chó vẫn mất dạng. Có lẽ chúng đã bị sói ngoạm đứt cổ rồi tha đến một bụi rậm nào đó để ăn thịt thỏa thích.

Tội nghiệp Zerbino, tội nghiệp Dolce.

Chúng đã là bạn chúng tôi, là đồng hành của chúng tôi, vui sướng hoạn nạn có nhau, và đối với tôi, trong những ngày buồn bã cô đơn, chúng là những người bạn thân thiết.

Mặt trời lấp lánh trên bầu trời không gợn mây và những tia nắng lại được tuyết trắng ngần không tì vết phản chiếu lại, khu rừng lúc này thật rực rỡ. Thỉnh thoảng cụ Vitalis lại thò tay.vào trong chăn sờ Joli - Coeur, nhưng nó không ấm lên chút nào.

- Phải tới một làng nào thôi, cụ Vitalis nói, chứ không Joli - Coeur chết mất.

Chăn được hơ nóng lên, Joli - Coeur được quấn vào đó rồi đặt vào trong áo vét sát ngực chủ tôi.

Chúng tôi chuẩn bị đi.

- Đây là một cái quán đã bắt chúng ta trả tiền trọ quá đắt. - Cụ Vitalis nói.

Cụ đi đầu, tôi đi đằng sau. Chúng tôi phải gọi Capi, nó cứ đứng ở ngưỡng cửa căn lều, mũi hướng về nơi các bạn nó gặp nạn. Tới đường cái được mười phút thì chúng tôi gặp một cái xe ba gác, người đánh xe cho biết chỉ độ một giờ nữa chúng tôi sẽ tới một ngôi làng. Chân chúng tôi tăng thêm sức mạnh.

Cuối cùng, dưới chân một sườn đồi xuất hiện những mái nhà trắng của một ngôi làng.

Chúng tôi không hề có thói quen vào những quán hạng nhất, những cái quán mà vẻ sang trọng của chúng hứa hẹn ăn ngon ngủ ngon. Chúng tôi thường dừng lại ở những quán trọ người ta không làm chúng tôi rỗng túi.

Nhưng lần này không phải như vậy: cụ Vitalis cứ đi tới một cái quán có treo tấm biển vàng rực.

Chủ tôi lấy vẻ "ông chủ" vào thẳng bếp đề nghị chủ quán cho một buồng tốt có sưởi.

Lúc đầu chủ quán, một người có bộ dạng chững chạc không thèm nhìn chúng tôi, nhưng dáng dấp oai vệ của chủ tôi đã khiến ông ta phải kính nể, một người hầu gái nhận lệnh dẫn chúng tôi đi.

- Con đi nằm đi. - Cụ Vitalis bảo tôi trong khi cô hầu nhóm lò sưởi.

Tôi ngạc nhiên đứng yên.

- Nhanh lên! - Cụ Vitalis nhắc lại.

Tôi đành vâng lời.

Trong khi tôi nằm dưới chiếc chăn lông cho ấm lên, cụ Vitalis cứ quay đi quay lại chú Joli -Coeur tội nghiệp như muốn làm cho nó nóng lên.

- Cháu nóng chưa? - Sau ít lâu cụ Vitalis hỏi tôi.

- Nóng phát ngốt lên rồi ấy ạ.

Cụ nhanh chóng đi về phía tôi, đặt Joli -Coeur vào giường tôi và dặn tôi ôm ghì nó vào.ngực. Con vật bé bỏng tội nghiệp sẵn sàng làm tất cả mọi thứ. Nó dán chặt mình vào người tôi im thin thít, người nó nóng hừng hực.

Chủ tôi xuống bếp, chẳng mấy chốc cụ bưng lên một bát rượu nóng pha đường. Cụ muốn Joli - Coeur uống vài thìa rượu này nhưng hai hàm răng Joli - Coeur cứ nghiến chặt lại không sao mở ra được.

Nó thò một tay ra khỏi giường về phía chúng tôi.

Trước khi tôi vào gánh hát, Joli - Coeur đã một lần bị sung huyết phổi, người ta đã một lần trích huyết ở cánh tay nó, lúc này cảm thấy mình lại ốm nó bèn giơ cánh tay ra để người ta lại trích huyết và chữa cho nó khỏi như lần trước.

Cụ Vitalis không những xúc động mà còn lo lắng.

- Uống chỗ rượu này đi, cụ Vitalis nói, ông đi tìm thầy thuốc.

Không đợi cụ ra lệnh hai lần, tôi uống bát rượu rồi nằm vào trong chăn, nhờ thêm cái nóng của rượu nữa tôi tưởng mình chết ngạt.

Chủ tôi đi không lâu trở lại ngay đem theo một thầy thuốc.

Cụ Vitalis không nói là để thăm cho bệnh nhân nào, cho nên thấy tôi nằm trong giường mặt đỏ như gấc ông thầy thuốc bèn tiến đến phía tôi:

- Sung huyết rồi. - ông ta nói.

Và ông ta lắc đầu, tỏ ra không có gì là tốt cả.

Đã đến lúc làm ông ta tỉnh ngộ. Tôi bèn kéo chăn lên một chút, chỉ vào Joli - Coeur nói:

- Bệnh nhân đây cơ ạ.

Ông thầy thuốc lùi lại hai bước, quay về phía cụ Vitalis, kêu lên:

- Một con khỉ ư!

Tôi tưởng ông ta sắp tức giận đi ra.

Nhưng chủ tôi là một người khôn khéo.

Vừa lễ phép vừa ra vẻ rất đàng hoàng, chủ tôi ngăn ông thầy thuốc lại, giải thích hoàn cảnh cho ông ta.

Người ý vốn là những người biết lấy lòng người ta một cách khéo léo, ông thầy thuốc lại từ cửa ra vào đi tới gần giường bệnh.

Trong khi chủ tôi giải thích, có lẽ Joli -Coeur đoán được con người đeo kính này là thầy.thuốc, nó giơ cánh tay ra đến mười lần để được trích huyết.

- ông xem con khỉ này thông minh như thế nào, nó biết ông là bác sĩ nên đưa tay ra để ông xem mạch đấy.

Câu nói đó khiến bác sĩ quyết định khám.

- Ca này kể cũng lạ thực đấy. - ông ta nói.

Hỡi ôi! Thật buồn cho chúng tôi. Joli -Coeur bị đe dọa sung huyết phổi.

Joli - Coeur yêu quý sự chăm sóc của tôi lắm, nó ban cho tôi một nụ cười dịu dàng; cái nhìn của nó giống như cái nhìn của một con người vậy. Do chú ý đến tất cả mọi thứ, chẳng lâu la gì nó nhận xét thấy mỗi lần nó ho tôi lại cho nó một viên đường đại mạch.

Một buổi sáng khi đi ăn trưa về, trong khi tôi đang ở bên Joli - Coeur - không bao giờ chúng tôi bỏ nó một mình - tôi biết chủ quán đòi tiền chủ tôi.

Chỉ còn có năm mươi xu. Làm thế nào bây giờ?

Chỉ có mỗi một cách ra khỏi nỗi khốn đốn này: đó là ngay tối hôm đó tổ chức một buổi biểu diễn.

Mà theo tôi chuyện này hầu như không thể làm được. ấy thế nhưng phải bằng bất cứ giá nào chăm sóc Joli - Coeur và cứu sống nó.

Trong khi tôi trông người ốm, cụ Vitalis tìm được một phòng biểu diễn ở chợ. Cụ viết và dán mấy tấm áp-phích, bố trí một sân khấu bằng mấy tấm ván và dũng cảm chi năm mươi xu mua nến.

Tôi lo lắng tự hỏi chương trình biểu diễn của chúng tôi sẽ gồm những gì. Nhưng ngay sau đó tôi khẳng định được ngay: tay đánh trống trong làng đội một cái mũ kê-pi đỏ choáng lộn dừng lại trước quán và sau một hồi trống rộn rã, đọc lên chương trình biểu diễn này.

Không biết mọi người sẽ nghĩ thế nào khi họ biết là cụ Vitalis đã không tiếc những lời hứa hẹn quá đáng về "Capi, con chó thông thái" và "một ca sĩ thần đồng", tức là tôi.

Phần đáng chú ý nhất của lời chiêu hàng là ở chỗ người ta không quy định giá chỗ ngồi, mà tùy thuộc lòng độ lượng của khán giả.

Việc này theo tôi khá táo bạo. Liệu người ta có vỗ tay chúng tôi hay không? Capi thì nổi tiếng là đúng thôi. Nhưng tôi, tôi không tin tôi là một thần đồng..Đã đến giờ ra chợ: tôi nhóm một ngọn lửa to trong lò sưởi bằng những cây củi lớn để cho nó cháy được lâu; tôi ủ kỹ Joli - Coeur trong chăn - Joli - Coeur khóc nức nở vì không được tham gia biểu diễn. Sau đó chúng tôi ra đi.

Chủ tôi giải thích cụ chờ đợi những gì ở tôi.

Vì thiếu ba diễn viên nên tôi và Capi sẽ phải đem hết nhiệt tình và tài năng ra làm việc để làm sao thu được bốn mươi phrăng.

Cụ Vitalis đã chuẩn bị tất cả, chỉ còn việc thắp nến lên; nhưng chúng tôi chỉ cho phép mình có được cái xa xỉ đó khi mà phòng đã gần đông chứ không thì nến sẽ cháy hết trước khi biểu diễn xong.

Trong khi chúng tôi chiếm lĩnh sân khấu, tay đánh trống còn đi một tua cuối cùng quanh làng. Tiếng trống lại gần và ngoài phố có tiếng ồn ào: độ hai chục đứa trẻ đến xem.

Vẫn không ngừng đánh trống, tay đánh trống đứng giữa hai chiếc đèn xếp ở ngay cửa vào sân khấu, công chúng chỉ còn việc vào chỗ chờ xem biểu diễn nữa thôi.

Tôi xuất hiện đầu tiên, hát hai bài hát họa theo đàn hác-pơ. Thật thà mà nói, vỗ tay không được sôi nổi mấy. Xưa nay tôi chẳng bao giờ có cái tự ái của người kịch sĩ, nhưng lần này sự lạnh nhạt của khán giả làm tôi nản lòng. Rõ ràng là nếu tôi không làm vui lòng họ thì đời nào họ mở túi tiền ra.

Đâu có phải vì thanh danh mà tôi hát, tôi hát là vì Joli - Coeur. ối chao! Tôi những muốn làm động lòng công chúng, làm họ phấn khởi lên; nhưng nhìn trong gian phòng đầy những bóng người kỳ lạ này tôi thấy hình như mình chẳng làm họ quan tâm bao nhiêu.

Capi may mắn hơn, được khán giả vỗ tay nhiều tràng.

Cuộc biểu diễn vẫn tiếp tục, nhờ Capi nó kết thúc trong những tiếng vỗ tay rầm rập.

Giờ phút quyết định đã đến. Trong khi tôi nhảy một điệu vũ Tây Ban Nha trên sân khấu có cụ Vitalis họa đàn theo, Capi miệng ngậm chiếc bát gỗ, đi qua tất cả mọi hàng khán giả.

Liệu nó có thu được bốn mươi phrăng hay không?

Tôi mệt đến đứt hơi nhưng vẫn tiếp tục nhảy bởi vì tôi chỉ có thể dừng khi Capi quay về. Nó không hề vội vã, khi người ta không cho tiền thì nó lấy chân vỗ nhẹ vào cái túi tiền không muốn mở ra..Cuối cùng, nó xuất hiện, tôi định ngừng, nhưng cụ Vitalis ra hiệu cho tôi cứ nhảy tiếp.

Tới gần Capi, tôi thấy cái bát gỗ còn vơi, còn phải thêm nhiều.

Lúc này cụ Vitalis cũng đánh giá thu nhập xong bèn đứng dậy:

- Tôi tin là mình có thể nói một cách không tự khen rằng chúng tôi đã biểu diễn xong chương trình; tuy nhiên vì nến vẫn còn cháy, nếu như khán giả muốn nghe, tôi xin hát một vài khúc:

Capi sẽ lại đi thêm vòng nữa, và những ai chưa tìm thấy chỗ mở túi tiền ở đâu trong lần Capi đi qua lúc nãy thì lần này sẽ mở túi tiền khéo léo hơn.

Mặc dù cụ Vitalis là giáo sư dạy tôi, tôi chưa bao giờ thấy cụ hát như đã hát buổi tối hôm đó.

Tôi nhìn thấy một phu nhân trẻ ngồi ở hàng ghế đầu vỗ tay nhiệt liệt đến hết sức mình. Tôi đã để ý nhận xét bà ta vì đó không phải một bà nông dân mà là một phu nhân thực thụ, bên cạnh bà là một đứa bé cũng vỗ tay tán thưởng Capi rất nhiều, có lẽ nó là con trai bà.

Sau khúc rô-man Capi lại đi quyên tiền, tôi ngạc nhiên thấy bà ta không cho gì vào trong bát Capi cả.

Khi chủ tôi hát xong khúc Ri-sa, bà ta ra hiệu cho tôi lại gần.

- Tôi muốn nói chuyện với chủ cháu.

Điều này làm tôi hơi ngạc nhiên. Tuy nhiên tôi cũng truyền đạt ý muốn này tới cụ Vitalis, lúc này Capi đã trở về chỗ chúng tôi. Lần quyên tiền thứ hai này còn được ít hơn lần trước.

- Bà ta muốn gì ông? - Cụ Vitalis hỏi.

- Muốn nói chuyện với cụ ạ.

- ông chẳng có gì nói với bà ta cả.

- Bà ấy không cho gì Capi, có lẽ bây giờ muốn cho nó chăng?

- Thế thì Capi phải đến chỗ bà ấy, không phải ông.

Tuy nhiên cụ quyết định đi nhưng dắt Capi theo. Tôi cũng đi theo họ.

Trong lúc đó một người đầy tớ mang một cái đèn lồng và một cái chăn tới đứng bên cạnh bà phu nhân và đứa bé.

Cụ Vitalis đến gần và chào.

- Xin lỗi đã làm phiền cụ, bà phu nhân nói, nhưng thế nào tôi cũng phải ngợi khen cụ mới xong. Tôi là nhạc sĩ mà, thành thử muốn nói để.cụ hiểu một tài năng lớn như cụ đã làm tôi xúc động đến thế nào.

- Nói đến tài năng làm gì ở một ông già như tôi. - Cụ Vitalis đáp.

- Xin cụ biết cho là không phải tôi bị thúc đẩy bởi tò mò xoi mói. - Bà phu nhân nói.

- Tôi sẵn sàng làm thỏa lòng tò mò của bà thôi, chắc bà ngạc nhiên thấy một người làm trò chó mà lại hát được?

- Phải nói là ngạc nhiên đến thán phục.

- Có gì đâu, tôi thì không phải lúc nào cũng như thế này, ngày xưa, thời tôi còn trẻ, đã lâu lắm rồi, tôi là... đầy tớ cho một ca sĩ lớn và tôi cứ bắt chước hát đi hát lại một vài điệu, chỉ có thế thôi.

Bà phu nhân không trả lời nhưng nhìn cụ Vitalis khá lâu trong khi cụ đứng trước mặt bà ta với một thái độ lúng túng.

- Xin chào cụ. - Bà ta nói.

Rồi cúi xuống Capi, bà ta đặt vào chiếc bát gỗ một đồng vàng.

Tôi cứ tưởng cụ Vitalis sẽ đưa bà ra xe kia đấy, nhưng cụ không làm gì hết. Khi bà ta đã cách xa cụ vài bước, tôi nghe thấy cụ rủa thầm vài lời bằng tiếng ý.

- Nhưng bà ta cho Capi cả một đồng lu-i cơ mà cụ. - Tôi nói.

- Một đồng lu-i! - Cụ nói, như ra khỏi một giấc mơ. - ừ nhỉ! Phải, tội nghiệp Joli - Coeur, ông đã quên mất nó. Ta đi về với nó đi.

Chúng tôi vội vã trở về quán trọ.

Tôi lên cầu thang đầu tiên và chạy vào buồng. Lửa chưa tắt, nhưng không bốc lên được thành ngọn nữa. Tôi mau chóng thắp ngay một ngọn nến và tìm Joli - Coeur vì không thấy tiếng nó đâu.

Nó nằm trên tấm chăn vẻ như đang ngủ. Tôi cúi xuống nhẹ nhàng cầm lấy tay nó để cho nó khỏi thức giấc. Bàn tay nó lạnh ngắt.

Lúc này cụ Vitalis bước vào phòng. Tôi quay mặt về phía cụ. Cụ Vitalis cúi xuống:

- ôi thôi! - Cụ nói. - Nó đã chết. Chuyện này ắt phải xảy ra thôi.

Không gia đình - Chương 6 : Đến Paris

Chúng tôi còn cách xa Paris lắm. Phải lên đường trên những con đường tuyết phủ và đi bộ từ sáng đến chiều ngược với gió bắc quất vào mặt chúng tôi.

Những đoạn đường dài này sao mà buồn thảm! Chúng tôi cứ lầm lì tiến tới chẳng trao đổi với nhau lấy một lời, mặt tái ngắt đi vì gió bấc, chân ướt mà dạ dày thì rỗng.

Yên lặng làm tôi khổ sở không biết thế nào mà kể; tôi cần nói, cần khuây khỏa; nhưng cụ Vitalis chỉ trả lời bằng vài từ ngắn gọn mỗi khi tôi hỏi câu gì.

May thay, Capi được cái dễ thổ lộ tình cảm và thường trong khi đi đường tôi hay cảm thấy một cái lưỡi ẩm và nóng đặt trên bàn tay tôi.

Tôi dịu dàng vuốt ve nó. Nó có vẻ cũng sung sướng vì sự thể hiện lòng thương mến của tôi chẳng khác gì tôi sung sướng trước sự thể hiện lòng thương mến của nó. Trái tim của một con chó cũng chẳng kém nhạy cảm hơn trái tim của một đứa trẻ là bao.

Chúng tôi cứ đi bộ trên đường cái, thẳng trước mặt mà đi trong giá lạnh và tĩnh mịch của mùa đông, chỉ nghỉ ngơi bằng giấc ngủ ban đêm trong một chuồng ngựa hay một chuồng cừu với một lát bánh mỏng làm bữa ăn tối.

Cây số tiếp theo cây số, đoạn đường này tiếp theo đoạn đường kia, chúng tôi dần tới gần Paris, tôi nhận ra điều này không cần đến sự báo trước của những cột mốc cắm bên đường: giao thông ngày càng tấp nập hơn, màu tuyết phủ đường xá bẩn hơn ở vùng đồng bằng Champagne Chúng tôi sẽ làm gì ở Paris, nhất là trong tình cảnh khốn khổ hiện nay? Đó là câu hỏi tôi đặt ra cho mình với nhiều lo lắng và thường chiếm trọn tâm trí tôi trong những buổi đi bộ dài đằng đẵng. Tôi muốn hỏi cụ Vitalis nhưng không dám vì trông cụ rất u ám.

Cuối cùng một hôm, theo cái cách cụ nhìn tôi, tôi cảm thấy sắp được biết cái điều đã bao lâu hằng mong mỏi.

Đó là vào một buổi sáng, tối hôm trước chúng tôi ngủ trong một cái trại, sáng hôm sau lên đường từ tinh mơ, từ trên đỉnh một sườn đồi.chúng tôi đã thấy trước mặt một đám mây bằng hơi nước màu đen bay trên một thành phố khổng lồ mà người ta chỉ phân biệt được mấy tòa nhà cao vút lên. Paris! Paris! Cuối cùng đã là Paris.

Tôi đang cố gắng tự đặt mình vào trong đám lộn xộn nào mái nhà, nào gác chuông, nào tháp đang mất hút sau sương mù và khói thì cụ Vitalis chậm bước lại tới bên cạnh tôi.

- Thế là đời chúng ta thay đổi rồi, cụ nói, chỉ bốn tiếng đồng hồ nữa chúng ta sẽ tới Paris.

Và... ở Paris chúng ta sẽ chia tay nhau.

Tôi đưa mắt nhìn cụ Vitalis. Cụ cũng nhìn tôi, mặt tôi tái đi, môi tôi run lên, thảy đều nói lên cho cụ biết những gì đang diễn ra trong tôi.

- Cháu có vẻ lo lắng phải không? - Cụ nói, cũng khổ não như tôi.

- Chúng ta chia tay nhau! - Cuối cùng tôi nói khi những giây phút ngạc nhiên đầu tiên đã qua đi.

- Thằng bé tội nghiệp!

Câu nói này và nhất là giọng nói lên câu nói đó làm nước mắt tôi trào ra: đã lâu quá rồi tôi mới được nghe một câu nói đầy thiện cảm đến thế!

- ôi! Cụ là con người tốt quá! - Tôi kêu lên.

- Cháu mới là cậu bé tốt, một trái tim tí hon dũng cảm. Cháu thấy đấy, ở đời có những lúc người ta cảm thấy sung sướng khi tìm thấy một người mà ta có thể dựa vào được. ông sung sướng có cháu bên cạnh, thấy cháu nghe ông nói mà mắt nhòa lệ ông nhẹ nhõm hẳn người. Bởi vì ông, chú Rémi bé bỏng của ông ạ, ông cũng rất đau lòng.

Chỉ mãi về sau này, khi mà tôi đã có một người để yêu tôi mới cảm nhận và hiểu thấu tất cả sự đúng đắn của câu nói này.

- Khổ một nỗi là, cụ Vitalis nói tiếp, bao giờ người ta cũng phải chia tay đúng vào lúc cảm thấy ngược lại tức là muốn gần nhau hơn nữa.

- Nhưng, tôi rụt rè nói, chẳng lẽ cụ muốn bỏ cháu ở Paris?

- Tất nhiên là không. Tới cuối mùa đông ông để cháu cho một padrone để hắn đưa cháu vào trong đám trẻ cùng chơi đàn hác-pơ. Riêng ông, ông sẽ dạy đàn hác-pơ và đàn vĩ cầm cho bọn trẻ ý làm việc trên đường phố Paris. ở Paris họ biết ông, ông đã ở đây nhiều lần, từ Paris ông mới đến làng cháu đấy. ông chỉ cần yêu cầu được dạy là người ta cho ông dạy nhiều không làm xuể. Mỗi người chúng ta sẽ sống theo một cách riêng. Rồi đồng thời ông cũng lo dạy hai con chó thay thế cho Zerbino và Dolce. ông sẽ dạy chúng gấp, sao cho sang xuân ta lại có thể lên đường, cháu Rémi bé bỏng ạ, và ta sẽ không rời nhau nữa. Lúc này ông đòi hỏi cháu phải dũng cảm và chịu đựng. Sau này mọi việc sẽ khá hơn. Ta lại trở về cuộc sống tự do. ông sẽ đưa cháu sang Đức, sang Anh. Cháu sẽ lớn lên, trí tuệ mở rộng. ông sẽ dạy cháu nhiều điều để cháu trở thành một con người. ông đã cam kết với bà Milligan và ông sẽ giữ lời. Để thực hiện những chuyến du hành đó ông đã bắt đầu dạy cháu tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng ý rồi đấy, đối với một đứa trẻ ở tuổi cháu đó cũng là một cái gì đáng kể, chưa nói đến việc cháu đã mạnh mẽ rắn rỏi lên nhiều. Cháu xem đấy, Rémi bé bỏng của ông ạ, tất cả không phải là lãng phí.

Thu xếp như thế này có lẽ là thích hợp cho hoàn cảnh hiện tại của chúng tôi hơn cả. Bây giờ đây khi nghĩ lại, tôi thấy chủ tôi đã tìm được cách giải quyết tốt nhất để ra khỏi tình thế thật tai hại của chúng tôi. Nhưng những ý nghĩ khi hồi tưởng không giống như ý nghĩ tôi có thoạt đầu.

Trong các điều cụ nói tôi chỉ nhìn thấy hai thứ: sự chia ly của chúng tôi và tay chủ mà thôi.

Trong những chuyến đi qua các làng mạc và thành phố tôi đã gặp nhiều tay chủ, chúng thuê hoặc kiếm bọn trẻ con từ chỗ này chỗ khác rồi dùng roi vọt mà dẫn bọn trẻ đi. Chúng không giống cụ Vitalis một chút nào ở chỗ đanh ác, bất công, luôn đòi hỏi, say rượu, miệng lúc nào cũng chửi rủa, bàn tay lúc nào cũng giơ cao chực đánh.

Tôi có thể rơi vào tay một thằng chủ như thế lắm. Vả lại, ngay cả may mắn gặp chủ tốt thì cũng lại là một thay đổi.

Tôi muốn trả lời nhiều điều lắm, những câu nói như dồn lên tim tôi và miệng tôi nhưng tôi cố kìm nén lại. Chủ tôi đã đòi hỏi tôi phải can đảm, phải nhẫn nhục, tôi muốn vâng lời cụ làm cụ khỏi đau khổ thêm. Hơn nữa cụ không còn ở bên tôi nữa và tựa như sợ phải nghe câu trả lời của tôi, cụ đã đi lên trước tôi mấy bước như lúc nãy.

Tôi đi theo cụ, không bao lâu chúng tôi tới một con sông, qua một chiếc cầu đầy bùn lầy chưa từng thấy bao giờ; tuyết đen như than giã nhỏ, phủ lên vỉa hè một lớp di động ngập đến mắt cá chân.

Đầu cầu có một ngôi làng với những con phố hẹp, sau đó lại tiếp đến vùng quê nhưng những căn nhà ở đây chen chúc nhau rất thảm hại..Trên đường cái xe cộ đi lại không ngừng.

Tôi lên gần cụ Vitalis và đi bên phải cụ, Capi theo sát gót đằng sau.

Chẳng mấy chốc hết làng quê, chúng tôi đến một phố không nhìn thấy đâu là tận cùng cả, hai bên xa xa là những căn nhà nghèo nàn bẩn thỉu không được đẹp như nhà ở Bordeaux, Toulouse và Lyon.

Tuyết được vun vào từng đống và trên những đống tuyết bẩn cứng này người ta đổ tro, rau cỏ thối rữa, đủ các loại rác rưởi, không khí sặc mùi hôi thối, trẻ con chơi trước cửa nhà đứa nào mặt cũng xanh xao, chốc chốc lại thấy những xe chở rất nặng đi qua, trẻ con tránh rất khéo léo.

- Chúng ta đang ở đâu thế này hả cụ? - Tôi hỏi.

- ở Paris con ạ.

Có thể tưởng tượng được không?

Thực tế thật xấu xa và khốn khổ!

Đây là Paris mà tôi vẫn tha thiết mong được nhìn thấy?

Hỡi ôi! Đúng đấy, đây là nơi tôi sẽ sống qua mùa đông, xa cụ Vitalis... và Capi.

Không gia đình - Chương 7 : Một tay chủ

Tuy tất cả những gì quanh tôi đều làm tôi ghê tởm, tôi vẫn mở to mắt, hầu như quên hoàn cảnh nghiêm trọng của chúng tôi, để nhìn xung quanh. Càng tiến sâu vào Paris tôi càng thấy ít những gì đáp ứng được hy vọng hão huyền của tôi. Rõ ràng là Paris không bằng Bordeaux rồi.

Sau khi đi thật lâu trong một phố lớn, ở đó có những cửa hàng càng to càng đẹp hơn khi chúng tôi tiếp tục đi, cụ Vitalis rẽ sang phải và ngay sau đó chúng tôi tới một khu hoàn toàn nghèo khổ: những ngôi nhà cao và đen hầu như chạm vào nhau ở trên cao, một con suối không đóng băng chảy giữa lòng phố, và chẳng đếm xỉa gì đến làn nước hôi thối cuộn trong đó, một đám người đông nghịt cứ dẫn bộ trên vỉa hè nhầy nhụa. Chưa bao giờ tôi trông thấy những khuôn mặt xanh xao đến như thế, cũng chưa bao giờ tôi trông thấy bọn trẻ con cứ đi qua đi lại giữa.những người bộ hành một cách táo tợn đến như thế. Trong các quán rượu, mà quán rượu thì rất nhiều, có những người đàn ông và đàn bà đứng uống trước những quầy rượu bằng thiếc, vừa uống vừa la lối om xòm.

ở góc một ngôi nhà, tôi đọc thấy tên phố Lourcine. Cụ Vitalis nhẹ nhàng tách những nhóm người làm vướng lối đi của cụ ra và tôi theo sát cụ chỉ sợ lạc mất cụ.

Sau khi qua một cái sân lớn và một lối đi chúng tôi tới một nơi như một loại giếng tối tăm và xanh ngăn ngắt chắc hẳn mặt trời không bao giờ chiếu tới. Nơi này trông còn thậm tệ và đáng sợ hơn tất cả những gì tôi đã trông thấy cho tới lúc ấy.

- Garifoli có nhà không? - Cụ Vitalis hỏi một người đàn ông đang móc những giẻ lau lên tường dưới ánh sáng của một cái đèn.

- Tôi không biết, ông lên mà xem.

- Garifoli là tay chủ mà ông đã nói với cháu đấy. - Cụ bảo tôi. - Hắn ở đây.

Con phố, cái nhà đều không phải là những thứ có khả năng nâng lòng hăng hái của người ta lên. Vậy thì tay chủ như thế nào đây?

Cầu thang lên bốn tầng, tới gần cửa chúng tôi nghe thấy một tiếng vụt gọn, rồi một tiếng nữa, tiếp ngay sau đó là một tiếng kêu đến xé ruột. Một giọng đàn ông, giọng ngọt ngào đầu lưỡi, nói một vài tiếng gì đó. Cụ Vitalis xông vào gian phòng và giật khỏi tay người đàn ông kia, chẳng phải ai khác chính là Garifoli, một cái roi mà tay này đang dùng để đánh một đứa bé cởi trần.

Chúng tôi ở trong một nơi giống như vựa thóc lớn. ở giữa là một khoảng rộng có một lũ trẻ con, chung quanh kê độ mười cái giường.

Tường và trần màu gì không thể định nghĩa nổi.

Trên đường đi vào tôi thấy một đứa bé ngồi trơ trọi trong một góc. Gương mặt nó thể hiện cả nỗi đau đớn và dịu hiền đến sâu sắc. Người ta không thể nào không nhìn nó bởi vì ở nó có một nét quyến rũ toát ra từ đôi mắt đẫm lệ.

Nhưng tôi trở lại chú ý đến chủ tôi.

Cụ khoanh hai tay đứng trước mặt Garifoli.

Tất cả xảy ra quá nhanh khiến Garifoli ngạc nhiên mất một lúc.

- Thật là nhục nhã! - Cụ Vitalis kêu lên. -Đ úng, thật nhục khi hành hạ trẻ con như vậy!

- Việc gì cụ dây vào? - Garifoli nói..- Việc mà liên quan đến cảnh sát ấy.

- Cảnh sát? - Garifoli kêu lên.

- Phải! - Chủ tôi trả lời không để tay chủ kia làm cho e dè sợ sệt.

- Vitalis, nghe này, - Thằng cha đó bình tĩnh lại nói với một giọng chế giễu. - đừng có dọa tôi là sẽ tuôn chuyện ra, bởi vì, về phía tôi, tôi cũng muốn tuôn chuyện ra đây. Nếu như tôi nhắc lại cái điều mà tôi biết, nếu như tôi nói ra chỉ một cái tên thôi thì ai sẽ là người phải lo giấu giếm nỗi nhục nhã của mình nào?

Chủ tôi im không trả lời được.

Nỗi nhục nhã của cụ? Tôi sửng sốt. Tôi chưa kịp hết ngạc nhiên cụ đã nắm tay tôi lôi ra cầu thang.

Cụ Vitalis cứ đi không nói câu gì chừng nào chúng tôi còn ở trong phố đông người nhưng tới một phố nhỏ vắng vẻ, cụ ngồi xuống một cái cột mốc, đưa tay lên trán nhiều lần, ở cụ đó là dấu hiệu của sự lúng túng.

- Nghe theo lòng hào hiệp là tốt, có lẽ thế, cụ nói như nói với chính mình, nhưng vì thế ta ra vỉa hè Paris trong túi không một đồng xu.

Con có đói không?

- Suốt từ lúc cụ cho cháu mẩu bánh mì sáng nay cháu đã ăn gì đâu.

- Thế thì cháu tội nghiệp của ta ơi, tối nay cháu phải nhịn đói mà đi ngủ thôi, nếu như ta biết được ta sẽ ngủ ở đâu!

Lúc này đã về khuya, lạnh càng ngày càng buốt giá, gió bắc thổi về, đêm nay sẽ gay go đây.

Cụ Vitalis run lên. Trời tuy lạnh mà tay cụ nóng bỏng, người cụ co giật từng hồi.

- Cụ ốm rồi! - Tôi nói.

- ông sợ thế thật, đáng lẽ lúc này ông phải có một cái giường ấm, một bữa cơm tối no nê trong một căn buồng có lửa sưởi. Nhưng tất cả những cái đó chỉ là giấc mơ thôi! Giờ ta sẽ làm thế này nhé: Khi nào ta gặp cảnh sát ta sẽ để họ đưa về đồn vậy. ông rất muốn tránh điều đó, nhưng ông không muốn để con chết rét, con ơi, hãy can đảm lên.

Cụ Vitalis đi rất vất vả, thở to và hổn hển như người đang chạy. Tôi hỏi cụ, cụ không trả lời và lấy bàn tay ra hiệu là cụ không nói được.

Chúng tôi cứ đi giữa những bức tường mà trên cao treo lủng lẳng đây đó một ngọn đèn đêm, ngọn đèn đung đưa với tiếng kêu của sắt cũ..Cụ Vitalis dừng lại, hết hơi.

- ông phải nghỉ thôi, không đi được nữa. -Cụ nói.

Một cái cửa ra vào mở vào một hàng giậu và bên trên hàng giậu đó dựng một đống phân chuồng to, gió thổi làm khô lớp rơm phủ trên cùng của đống phân và làm tung khá nhiều rơm rạ trên mặt phố ngay chân đống phân chuồng.

- ông sẽ ngồi đây thôi. - Cụ nói.

Cụ ra hiệu cho tôi thu thập chỗ rơm lại, rồi ngã phịch trên lớp rơm rác ấy đúng hơn là ngồi xuống đó; răng cụ va vào nhau lập cập và cả người cụ run lên.

Khi tôi đã vun vén tất cả chỗ rơm thu thập được, tôi tới ngồi bên cụ Vitalis.

- áp chặt người vào ông, cụ nói, và đặt Capi lên trên mình cháu, nó sẽ truyền cho cháu một chút hơi ấm.

Cụ có vẻ mệt đến rã rời.

Liệu cụ có ý thức được tình trạng của mình không? Điều đó tôi không bao giờ biết. Nhưng lúc tôi thu rơm vào mình và áp sát mình vào thân cụ, tôi cảm thấy cụ cúi xuống mặt tôi và cụ hôn tôi.

Thường khi trời quá lạnh có thể làm người ta tê cóng và sững sờ đến mê đi nếu ở ngoài trời.

Trường hợp của chúng tôi là như vậy.

Vừa thu mình sát vào cụ Vitalis xong thì mắt tôi cứ díp lại. Tôi cố hết sức mở mắt ra nhưng không sao làm nổi, tôi cấu vào cánh tay mình thật mạnh nhưng da tôi không còn cảm giác gì, tôi khó lòng làm mình thấy đau dù chỉ hơi một chút. Tuy nhiên chấn động đó cũng làm tôi còn có được phần nào ý thức. Cụ Vitalis, lưng dựa vào cánh cổng, thở một cách mệt nhọc.

Capi đã ngủ, nằm giữa hai chân tôi, nép mình vào ngực tôi. Trên đầu chúng tôi gió vẫn thổi ào ào. Trong phố không có một ai, ngay bên cạnh chúng tôi, ở xa xa, ở xung quanh chúng tôi, tất cả là một nỗi im lặng chết chóc. Cái im lặng làm tôi hãi hùng. Tôi cảm thấy như mình cũng sắp chết ở đây.

ý nghĩ về cái chết đưa tôi trở về Chavanon.

Tội nghiệp má Barberin! Chết mà không gặp lại má! Rồi tôi nghĩ đến Arthur, đến bà Milligan.

Hai mắt tôi nhắm chặt, tim tôi lạnh cóng, hình như tôi ngất đi.

Tỉnh dậy tôi thấy mình nằm trên một cái giường, phòng tôi nằm có một ngọn lửa to chiếu sáng..Tôi nhìn quanh.

Tôi không hề biết căn phòng này cũng như những khuôn mặt quanh tôi: một người đàn ông mặc áo vét màu xám và đi đôi guốc màu vàng, ba bốn đứa trẻ trong đó có một đứa bé gái trạc năm, sáu tuổi nhìn chòng chọc vào tôi với đôi mắt ngạc nhiên.

Tôi nhỏm dậy. Mọi người vồn vã quanh tôi.

- Cụ Vitalis đâu? - Tôi hỏi.

- Nó hỏi cha nó đấy. - Một thiếu nữ có lẽ là chị cả của bọn trẻ con nói.

- Đó không phải là cha tôi mà là chủ tôi, vậy cụ đâu? Con Capi đâu?

Cụ Vitalis mà là cha tôi có lẽ họ còn lựa lời nói về cụ với tôi nhưng vì cụ chỉ là chủ tôi nên họ xét thấy cứ đơn giản nói sự thật, và sau đây là những điều họ cho tôi biết.

Khe cửa nơi chúng tôi náu mình là nhà một người làm vườn. Khoảng hai giờ sáng ông ta mở cửa đi chợ thấy chúng tôi nằm đó. Người ta gọi chúng tôi dậy để lấy chỗ cho xe đi nhưng vì chẳng ai trong hai chúng tôi động đậy gì cả, chỉ có Capi sủa lên trả lời, họ nắm cánh tay chúng tôi lay dậy. Chúng tôi chẳng cựa quậy thêm chút nào. Thế là họ nghĩ có chuyện quan trọng đây.

Người ta mang đèn tới, kết quả khám nghiệm cho thấy cụ Vitalis đã chết rét còn tôi thì cũng chẳng hơn mấy tí. Tuy nhiên nhờ có Capi nằm trên ngực tôi nên tôi còn giữ được chút hơi ấm và còn thoi thóp thở. Người ta bèn mang tôi vào trong nhà ông làm vườn, đặt vào trong giường của một đứa con vừa bị lôi dậy. Tôi nằm đó sáu tiếng đồng hồ gần như đã chết, nhưng rồi tuần hoàn được thiết lập lại, thở mạnh lên, và tôi vừa mới tỉnh dậy. Lạnh cóng và tê liệt đến như thế cả về thể xác lẫn trí tuệ, thế nhưng tôi vẫn đủ tỉnh táo để hiểu tầm quan trọng của những lời tôi vừa được nghe. Cụ Vitalis đã mất!

Người đàn ông mặc áo vét màu xám, có nghĩa là người làm vườn, đã kể cho tôi nghe câu chuyện này và trong khi ông kể cô bé con có cái nhìn ngỡ ngàng không ngừng đưa mắt nhìn cha. Khi cha cô nói đến chỗ cụ Vitalis chết, cô hiểu tin này là một đòn thế nào đối với tôi, bởi vì cô nhanh chóng dời khỏi góc mình đứng tiến về phía người cha, đặt bàn tay mình lên cánh tay ông còn bàn tay kia chỉ vào tôi đồng thời thốt lên một âm thanh rất lạ không phải tiếng người, nó như một tiếng thở dài êm đềm đầy thương cảm..Lần đầu tiên kể từ khi chia tay với Arthur, tôi cảm thấy một tình cảm tin cậy và âu yếm, chẳng khác gì thời mà má Barberin nhìn tôi trước khi ôm hôn tôi. Cụ Vitalis đã chết, tôi chỉ có một mình thế mà hình như tôi không cô đơn, cứ như thể cụ vẫn còn bên cạnh tôi.

- Phải, con ạ, cô bé Lise của cha. - Người cha cúi xuống cô con gái. - Điều đó làm cho cậu ta khổ thật đấy nhưng đành phải nói sự thật thôi; ta mà không nói cảnh sát cũng sẽ nói.

Và ông tiếp tục kể cho tôi nghe mọi người đã đi báo cảnh sát như thế nào, họ đã mang cụ Vitalis đi ra sao, trong khi tôi được đặt vào giường Alexis, cậu con cả của ông.

- Còn Capi đâu ạ? - Tôi hỏi khi ông ngừng lời.

- Capi?

- Vâng, con chó ấy ạ?

- Nó đi theo cái cáng rồi. - Một trong những đứa trẻ nói. - Nó cứ khe khẽ kêu lên những tiếng kêu thảm thiết.

Tôi quyết định đứng dậy nhưng vừa đứng lên tôi suýt ngã, phải vịn vào một cái ghế dựa.

- Cháu cảm thấy khó chịu ư? - ông làm vườn hỏi tôi giọng thương cảm.

Tôi trả lời quả tôi thấy khó chịu trong người và nếu như mọi người cho phép tôi sẽ ngồi cạnh ngọn lửa một lúc. Nhưng tôi không cần thêm hơi nóng, cái cần là thức ăn kia. Mùi thơm của súp bắp cải bay tới chỗ tôi làm tôi càng yếu lả thêm.

Cô bé con có cái nhìn là lạ mà cha cô gọi là Lise hình như đoán được ý nghĩ của tôi vì đột nhiên cô bỏ đi và ngay sau đó trở lại với một đĩa súp bắp cải. Tôi yếu đến nỗi nói không ra tiếng, tôi lấy tay ra hiệu cảm ơn cô, nhưng ông bố không để tôi còn thì giờ nữa, ông nói:

- Cầm lấy đi, cậu con trai của tôi ạ, Lise cho cậu đúng thứ cần cho đấy và nếu cậu muốn, sau đĩa này sẽ ăn thêm đĩa nữa.

Tôi ngốn hết đĩa súp chỉ trong có vài giây.

Khi tôi đặt chiếc thìa xuống, Lise thốt lên một tiếng kêu hài lòng. Cô cầm lấy chiếc đĩa từ tay tôi đưa cho cha đi lấy thêm rồi cô mang lại cho tôi với một nụ cười.

Cũng như lần đầu, đĩa súp hết chỉ trong một thoáng..- ái chà, cậu bé của tôi, ông làm vườn nói, ăn gọn nhỉ.

Tôi đỏ mặt lên đến tận mang tai nhưng sau một lát, tôi thấy tốt nhất là nên thú thật, tôi bèn trả lời ngày hôm qua tôi không ăn cơm chiều cũng không ăn cơm sáng.

- Còn chủ cháu thì sao?

- Cũng như cháu vậy.

Súp làm tôi khỏe lên, tôi đứng dậy định đi.

- Cháu định đi đâu? - Người cha hỏi.

- Cháu đi tìm cụ Vitalis để nhìn mặt cụ lần cuối.

- Nhưng cháu biết chỗ nào mà tìm? Cháu trọ ở đâu?

- Chúng cháu chưa có chỗ ở vì vừa tới hôm qua.

- Thế cháu làm gì?

- Cháu chơi đàn hác-pơ, hát kiếm sống.

- Tốt nhất cháu nên trở về với cha mẹ.

- Cháu không có cha mẹ.

- Thế thì cũng phải có chú, có dì chứ.

- Không, cháu chẳng có ai cả.

Vừa nói tôi vừa tiến về phía cửa, chiếc đàn hác-pơ đeo trên lưng.

- Cháu không sợ những con đường xa ư?

- Dĩ nhiên cháu thích một cái giường êm, một chốn sưởi ấm.

- Cháu muốn giường êm, sưởi ấm bằng lao động chứ gì? Nếu như cả ngày phải đào đất vất vả cháu có nhận không? Nhưng bảo đảm có bánh mì, tối về có giường ngủ sẵn sàng, cháu ăn đĩa súp mà trong lòng thỏa mãn đã kiếm được nó.

Và cuối cùng, ở đây với chúng tôi cháu sẽ có một gia đình.

Một gia đình!

Tôi sẽ không đơn độc nữa. Mấy cậu con trai kia sẽ là anh em của tôi, cô bé Lise sẽ là em gái tôi.

Trong những giấc mơ trẻ thơ của tôi tôi đã nhiều lần tưởng tượng mình tìm thấy cha và mẹ nhưng chưa bao giờ nghĩ đến mình có anh có chị có em. Thế mà bây giờ tự nhiên người ta mang lại cho tôi.

Tôi vội bỏ dây đeo đàn xuống khỏi vai.

- Thế là trả lời rồi nhé. - Người cha cười một cái cười thực sự thoải mái. - Cậu con trai của tôi hãy treo đàn vào chiếc đinh này, khi nào không muốn ở với chúng tôi nữa cậu lại lấy nó xuống để mà bay đi..- Cháu chỉ đi ra ngoài một lần này thôi, tôi nói với ông, để đi tìm cụ Vitalis.

- Đúng quá rồi. - Con người trung hậu đó nói.

Ngôi nhà mà chúng tôi ngã khụy trước cửa thuộc vùng Glacière, ông làm vườn ở đó tên là Acquin. Lúc tôi được nhận vào nhà này gia đình gồm có năm người: người cha, Pierre; hai con trai Alexis và Benjamin; hai con gái, étiennette -cô lớn và Lise - cô út.

Lise bị câm nhưng không phải là câm bẩm sinh. ở cô chứng câm không phải là do điếc.

Hai năm đầu cô nói được nhưng về sau, lúc gần bốn tuổi tự nhiên không nói được nữa. Tai nạn này xảy ra sau một trận co giật, may mắn không ảnh hưởng đến trí thông minh của cô bé, cái gì cô cũng hiểu, hơn thế nữa cô còn thể hiện được tất cả mọi điều.

Bà Acquin mất sau khi sinh Lise được một năm, kể từ ngày ấy chị étiennette là mẹ của gia đình. Chị ở nhà cơm nước, khâu vá...

Tôi treo cây đàn hác-pơ lên và chuẩn bị kể cho mọi người nghe chúng tôi đã đột ngột bị lạnh, bị kiệt lực ra sao thì có tiếng cào vào cổng vườn và một tiếng sủa rên xiết.

- Capi rồi! - Tôi đứng ngay lên.

Lise mở cửa và Capi nhảy vọt vào lòng tôi, tôi ôm nó trong tay, nó liếm vào mặt tôi và sủa lên những tiếng mừng rỡ.

Tôi nhìn ông Acquin, ông hiểu tôi ngay.

- Capi sẽ ở đây cùng với cháu.

Con chó hình như hiểu, nó nhảy xuống đất, đưa chân phải lên chỗ trái tim, cúi chào. Trẻ con cười thích thú lắm, nhất là Lise, tôi rất muốn Capi biểu diễn một tiết mục cho bọn trẻ con xem nhưng Capi nhảy lên đầu gối tôi, hôn tôi, rồi lại nhảy xuống đất kéo kéo tay áo vét của tôi.

- Nó muốn cháu đi ra ngoài, nó có lý.

- Để đưa cháu đến chỗ chủ cháu đấy.

Những nhân viên cảnh sát đã mang cụ Vitalis đi nói là họ cần thẩm vấn tôi và họ sẽ trở lại trong ngày. Chờ họ lâu quá.

Thấy tôi lo lắng và đoán ra lý do, người cha đưa tôi đến sở cảnh sát, ở đó người ta hỏi tôi hết câu nọ đến câu kia. Những điều tôi biết rất đơn giản tôi cứ việc kể ra.

- Còn bây giờ thế nào? - ông cẩm hỏi.

Đến đây người cha can thiệp vào câu chuyện..- Chúng tôi sẽ trông nom cháu, nếu các vị giao cháu cho tôi.

Giờ thì trả lời đến vấn đề cụ Vitalis, điều này khá khó đối với tôi vì tôi hầu như không biết gì về cụ cả. Tuy nhiên có một điểm bí ẩn mà lẽ ra tôi có thể nói được: đó là chuyện xảy ra trong lần biểu diễn cuối cùng của chúng tôi khi cụ Vitalis hát hay đến nỗi làm một bà phu nhân phải ngạc nhiên và tán thưởng; lại còn những dọa dẫm của Garifoli, tôi cứ tự hỏi không biết có nên giữ im lặng hay không. Điều mà chủ tôi cẩn thận giữ kín đến như thế về cuộc đời mình liệu có thể để lộ ra sau cái chết của cụ không?

Nhưng một đứa trẻ khó mà giấu nổi ông cẩm cảnh sát cái gì. Cảnh sát là những người có cách thẩm vấn làm bạn thua ngay không thoát nổi. Đó là điều đã xảy đến với tôi.

- Chỉ còn cách dẫn nó đến nhà tay Garifoli này. - ông cẩm nói với một nhân viên cảnh sát.

- Anh sẽ hỏi thằng cha đó.

Cả ba chúng tôi cùng đi: nhân viên cảnh sát, người làm vườn và tôi. Tôi dễ dàng nhận ra căn nhà. Thấy cảnh sát đến, lại nhận ra tôi nữa, Garifoli tái mặt. Tuy nhiên hắn trấn tĩnh ngay khi biết vì sao chúng tôi đến.

Hắn kể tóm lược những điều mình biết:

- Đơn giản thôi. Cụ tên là Carlo Balzani.

Cách đây khoảng ba mươi nhăm bốn mươi năm, ở ý, Carlo là ca sĩ nổi tiếng nhất. Nhưng một ngày kia cụ bị mất giọng, lúc đó, không còn là vua của các ca sĩ nữa, cụ không muốn vinh quang của mình bị giảm sút do mất thanh danh ở những nhà hát không xứng đáng với mình. Cụ đổi tên, trở thành Vitalis. Cụ thử làm rất nhiều nghề nhưng không thành công. Cụ trở thành người làm trò chó. Nhưng dù khốn khổ mấy đi nữa trong cụ vẫn còn lòng tự trọng, cụ sẽ chết vì hổ thẹn nếu công chúng biết rằng con người hiển hách Carlo Balzani đã trở nên cụ Vitalis nghèo túng hiện nay.

Đó là lời giải thích điều bí ẩn đã kích thích trí tò mò của tôi không biết đến bao nhiêu!

Cụ Vitalis đáng phục quá! Giá như có người bảo tôi cụ đã từng làm vua chắc tôi cũng chẳng ngạc nhiên.

Hôm sau người ta sẽ an táng chủ tôi và người cha hứa dẫn tôi đến dự lễ an táng..Nhưng hôm sau tôi vô cùng thất vọng vì không sao dậy được, ban đêm tôi lên cơn sốt nặng. Tôi bị sung huyết phổi.

Chính nhờ trận sung huyết phổi đó mà tôi biết được lòng tốt của gia đình Acquin và đức tận tụy của chị étiennette.

Thầy thuốc bảo phải đưa tôi đi nhà thương.

Như vậy đơn giản nhất. Tuy nhiên người cha không theo lời khuyên này.

- Vì cháu rơi vào cửa nhà tôi, chúng tôi phải giữ cháu.

Bệnh tôi kéo dài và đau đớn, bị đi bị lại nhiều lần nhưng chị étiennette vẫn không hề giảm kiên trì và hy sinh. Rất nhiều đêm phải có người canh tôi, Alexis và Benjamin lần lượt thay nhau ngồi bên giường tôi. Cuối cùng thì thời kỳ dưỡng bệnh cũng đến nhưng phải đợi tới mùa xuân mới ra khỏi nhà được.

Đến lúc ấy Lise đưa tôi đi chơi bên bờ sông Bièvre. Giữa trưa khi mặt trời lên cao nhất, chúng tôi ra đi, tay nắm tay chúng tôi cứ đi thong thả, Capi đi đằng sau.

Trong những cuộc đi chơi của chúng tôi dĩ nhiên Lise không nói gì nhưng chúng tôi không cần đến lời nói. Chúng tôi nhìn nhau và hiểu thấu nhau đến nỗi chính tôi cũng chẳng cần nói với em.

Sau rồi thì sức lực tôi lại trở lại và tôi đã có thể làm vườn. Tôi sốt ruột chờ đợi đến lúc này, vì tôi muốn mau mau làm cho mọi người những gì mà mọi người đã làm cho tôi, tôi muốn làm việc cho họ, đền đáp lại bằng sức lực của tôi những gì họ đã cho tôi. Tôi chưa bao giờ lao động chân tay nhưng hình như tôi lao động được, ít nhất là rất can trường, tôi cứ nhìn mọi người chung quanh mà làm theo.

Đó là mùa mà cây quế trúc bắt đầu được đem tới các chợ Paris cho nên cha Acquin lúc này trồng quế trúc, vườn chúng tôi đầy một giống cây này.

Công việc người ta giao cho tôi gồm có buổi sáng khi sương muối đã tan nhấc các tấm che lên và buổi tối trước khi sương muối xuống thì lại đậy chúng trên cây quế trúc. Ban ngày tôi phải lấy một lớp rơm phủ lên để cây khỏi bị nắng. Công việc kéo dài khá lâu vì có hàng mấy trăm tấm che mỗi ngày phải nhấc lên đặt xuống hai lần và phải trông nom cây.

ở làng tôi, tôi đã trông thấy những người nông dân làm việc nhưng tôi chưa bao giờ có.một ý niệm nào về sự chuyên cần, lòng can đảm và cường độ lao động của những người làm vườn ở ngoại ô Paris. Họ dậy sớm hơn mặt trời mọc nhiều, mặt trời lặn rất lâu rồi mới đi ngủ, đem hết sức mình ra lao động suốt ngày dài đằng đẵng. Tôi cũng đã nhìn thấy người ta trồng trọt trên đất, nhưng cũng lại không có ý niệm nào về việc bằng lao động người ta bắt đất phải sản xuất không nghỉ. ở nhà cha Acquin tôi đã có thầy tốt bạn tốt.

Mặc dầu cuộc sống mới làm tôi rất mệt nhọc nhưng, tôi quen với nó khá mau. Đang tự do đi đây đi đó bây giờ phải giam mình giữa bốn bức tường một căn vườn và suốt từ sáng đến tối phải lao động vất vả, nhưng ở đây tôi đã gặp một thứ mà tôi tưởng đã mất đi vĩnh viễn: cuộc sống gia đình. Tôi có cái giường của mình, có chỗ của mình ở bàn ăn nơi đã tập hợp tất cả chúng tôi lại với nhau.

Chúng tôi cũng có những giờ nghỉ ngơi vui chơi. Chiều chủ nhật, tất cả chúng tôi tụ tập dưới một giàn nho xinh xắn sát ngay nếp nhà; tôi lấy đàn hác-pơ treo trên cái đinh xuống và dạo nhạc cho hai anh em và hai chị em nhảy. Khi họ chán nhảy thì họ bảo tôi hát các tiết mục của tôi cho họ nghe, bài hát về thành phố Napolitaine bao giờ cũng gây cho Lise một hiệu quả không sao cưỡng lại được: cứ hát đến đoạn cuối cùng là mắt em đẫm lệ.

Lúc đó để làm em khuây khỏa tôi chơi một điệu nhạc hề cùng với Capi. Đối với Capi chủ nhật cũng là ngày lễ hội: chủ nhật làm nó liên tưởng lại quá khứ.

Những ngày chủ nhật này cũng là những ngày chủ nhật của cụ Vitalis. Tôi chơi đàn hác-pơ và hát như là đang có mặt cụ. Càng lớn lên tôi càng thêm hiểu cụ đối với tôi có ý nghĩa như thế nào.

Hai năm trời trôi qua như vậy, và vì người cha thường đem tôi cùng đi chợ, đi đến kè bán hoa, đến Madeleine, Château d’Eau hoặc các cửa hàng hoa, dần dần tôi biết Paris.

Tôi đã trông thấy các tòa nhà, đã vào một vài tòa nhà đó, tôi đi dạo dọc theo kè sông, trên các đại lộ, trong vườn Luxembourg, điện Tuiler-ies, đường Champ Sélysées.

Cha Acquin cũng có một bộ sưu tập sách về thảo mộc rất phong phú. Mùa đông đầu tiên của tôi trong gia đình thật là dài, công việc làm vườn chậm lại trong nhiều tháng. Lúc đó để buổi tối.có công có việc, sách được phân phát cho chúng tôi đọc.

Alexis và Benjamin không thừa hưởng được của cha thú học hành, thường tối nào cũng vậy, mới xem được ba bốn trang đã ngủ. Riêng tôi, ít ngủ hơn và tò mò hơn, tôi đọc tới tận giờ đi ngủ mới thôi.

Lise không biết đọc, nhưng thấy tôi đắm chìm trong sách em tò mò muốn biết cái gì đã làm tôi ham thích đến như thế. Em muốn tôi đọc cho em nghe, chỉ cho em xem. Đó là mối quan hệ mới giữa chúng tôi. Tôi dạy em vẽ. Dạy lâu và khó nhưng vui biết mấy khi em chỉ vạch vài nét người ta đã hiểu em muốn vẽ gì! Cha Acquin ôm hôn tôi.

- Được đấy, ông cười nói, sau này Lise sẽ trả nợ cháu.

Sau này có nghĩa khi em nói được vì người ta không từ bỏ việc làm em lại biết nói. Chỉ có điều các bác sĩ nói rằng ngay lúc này chưa thể làm gì được, phải chờ một cơn kích động đã.

Được cha Acquin nhận làm con và bọn trẻ đối xử không khác gì anh em ruột, có lẽ tôi sẽ ở nơi lạnh giá này mãi mãi nếu như không có một thảm họa một lần nữa lại xảy ra làm thay đổi đời tôi.

Không gia đình - Chương 8 : Gia đình ly tán

Người cha là một trong những người chọn cây khéo nhất Paris; vì thế đến giai đoạn phải thực hiện thao tác tế nhị là chọn cây, có nghĩa là lựa ra những cây quế trúc nở ra hoa kép, ông bận rộn suốt ngày. Thời kỳ đó đối với chúng tôi, đặc biệt với étiennette, là thời kỳ xấu, vì các đồng nghiệp đến thăm nhau không bao giờ không uống đến một lít, có khi ba lít rượu, mỗi lần ông đi thăm hai hay ba người làm vườn khác ông đều trở về nhà mặt đỏ gay, tay run, nói năng ngọng nghịu.

Không bao giờ étiennette đi ngủ trước khi ông về, muộn mấy thì muộn.

Lúc đó, nếu tôi còn thức, hoặc tiếng ông về làm tôi thức giấc, từ phòng tôi tôi nghe tiếng hai cha con trao đổi với nhau.

- Sao con không đi ngủ đi? - Người cha nói.

- Vì con muốn biết cha có cần gì không? - Thấy cha không về ăn tối Lise có nói gì không?

- Nó cứ nhìn vào chỗ cha mãi.

- Em nó đã ngủ chưa?

- Nó mới đi ngủ độ mười lăm phút thôi, nó cứ muốn chờ cha.

Sau một lát im lặng:

- étiennette này, con là cô con gái ngoan, nghe cha bảo đây, ngày mai, cha đến Louisot, cha thề với con sẽ về ăn tối.

Hứa rồi đâu lại vào đấy, ông vẫn không về sớm hơn chút nào một khi đã nhận một ly rượu.

Nhưng không phải thường thường như vậy.

Hơn nữa thời kỳ chọn cây cũng không lâu lắm, hết thời kỳ đó người cha lại không đi ra ngoài nữa.

Cha Acquin, sau mùa quế trúc, trồng hoa cho những ngày lễ lớn vào tháng bảy nhất là vào tháng tám, tháng có ngày lễ Sainte - Marie và Saint - Louis; để phục vụ những ngày đó chúng tôi chuẩn bị hàng nghìn cây cúc sao Trung Quốc, cây vãn anh, cây trúc đào, tất cả những gì khung vườn và nhà kính của chúng tôi chứa nổi. Phải làm sao cho hoa của chúng nở đúng vào những ngày nói trên. Ai cũng biết điều đó đòi hỏi tài năng, vì ai mà làm chủ được thời tiết, được mặt trời! Cha Acquin còn hơn cả bậc thầy về nghệ thuật này.

Mùa hoa của chúng tôi tiên báo là sẽ tuyệt vời, chúng tôi đã ở vào ngày mồng năm tháng tám và toàn bộ các cây hoa của chúng tôi đã đến độ ra hoa. Chúng tôi đã làm việc vô cùng vất vả, không có lấy một giờ nghỉ ngơi kể cả ngày chủ nhật. Tuy nhiên, vì tất cả đã đâu vào đấy, để thưởng công cho chúng tôi, chủ nhật, ngày mồng năm tháng tám hôm ấy chúng tôi được đi ăn tối ở Arcueil tại nhà một người bạn của người cha, Capi cũng được tham dự. Chúng tôi sẽ làm việc cho tới tận ba, bốn giờ chiều hôm đó rồi mới đi.

Thực hiện đúng như thế, vài phút trước bốn giờ, người cha quay chìa trong ổ khóa cửa lớn.

- Cả nhà lên đường nào! - ông vui vẻ nói.

Chúng tôi thảy đều lộng lẫy trong những bộ quần áo đẹp. Thời gian trôi nhanh đến nỗi tôi không nhận ra nữa, tôi chỉ biết là, vào cuối bữa ăn, một người trong bọn chúng tôi có nhận xét là trời đầy mây đen, và vì bàn ăn được dọn ngoài trời dưới một cây cơm cháy to, chúng tôi dễ dàng thấy ngay sắp có bão..- Các con ơi, phải mau mau về, gió mà nổi lên có thể lật nhào các tấm che. Lên đường thôi!

Chúng tôi đều biết các tấm che lắp kính là cả tài sản của những người làm vườn, gió mà đập vỡ kính thì họ sạt nghiệp.

- Cha đi trước đây, người cha nói, Benjamin và cả Alexis nữa, đi theo cha.

Chị étiennette và tôi dắt tay Lise, em theo kịp chúng tôi rất vất vả làm chúng tôi có muốn đi nhanh cũng không được.

Liệu chúng tôi có đến nhà trước cơn bão được không?

Bỗng nhiên mưa đá bắt đầu rơi xuống, lúc đầu chỉ vài viên, sau tới tấp như một trận đá lở thực sự. Chúng tôi phải lao vào trú dưới một cái cổng.

Và thế là chúng tôi thấy một trận mưa đá khủng khiếp nhất mà người ta có thể tưởng tượng ra được. Chỉ mới một lúc mà mặt phố đã phủ một lớp trắng xóa như giữa mùa đông; những viên đá to bằng trứng chim bồ câu rơi xuống đập ầm ầm vào những nơi mà thỉnh thoảng lại nổ ra tiếng kính vỡ. Tất cả mọi thứ rơi đầy xuống phố, những viên ngói, những mảng lở thạch cao, những viên đá đen nát vụn.

- Trời ôi! Những tấm kính! - Chị étiennette kêu lên.

- Biết đâu cha đến được trước mưa đá thì sao?

- Ngay cả đến được cũng không kịp phủ chiếu rơm lên, thế là toi hết cả rồi. Cha sẽ sạt nghiệp, trời ơi! Cha cần số tiền đó biết bao nhiêu!

Tôi muốn hỏi chị étiennette, nhưng chúng tôi hầu như không nghe thấy tiếng nhau, hơn nữa, chị nhìn mưa đá rơi với bộ mặt sầu não như người nhìn nhà mình bị cháy vậy.

Trận mưa đá khủng khiếp kéo dài độ năm sáu phút rồi đột ngột ngừng lại như lúc nó bắt đầu; mây bay về Paris và chúng tôi có thể đi được. Trong phố các viên đá lăn lông lốc như những viên cuội ở biển, chúng tạo thành một lớp dày đến nỗi ngập mắt cá chân.

Chúng tôi mau chóng về tới nhà: cửa lớn vẫn để ngỏ; chúng tôi vội bước vào vườn.

Quang cảnh mới hãi hùng làm sao! Tất cả đều bị đập vỡ tan tành, căn vườn ban sáng đẹp là thế nay không còn lại một chút gì.

Người cha đâu? Chúng tôi đi tìm ông nhưng không thấy ông đâu, đến nhà kính, nơi mà không một miếng kính nào còn nguyên vẹn, chúng tôi.thấy ông quỵ người trên một chiếc ghế đẩu giữa đống đổ nát đầy mặt đất, Alexis và Benjamin đứng im cạnh ông.

- ôi! Các con yêu quý của cha! - Thấy chúng tôi đến gần, ông ngẩng đầu lên.

Rồi ông ôm Lise trong tay mà khóc.

Ngay sau đó tôi được biết qua chị étiennette và hai cậu con trai vì sao mà người cha thất vọng đến thế. ông mua căn vườn này đã mười năm và tự xây lấy ngôi nhà. Người chủ bán đất cho vay tiền mua các vật dụng cần cho nghề trồng hoa của ông. Toàn bộ tiền sẽ trả trong mười lăm năm, mỗi năm trả một lần. Cho tới giai đoạn đó, người cha đã trả được đều đặn nhờ lao động khó nhọc và chịu thiếu thốn. Các đợt trả tiền càng thiết yếu khi mà chủ nợ chỉ chờ cơ hội, có nghĩa một đợt trả chậm nào đó để lấy lại đất, nhà và mọi vật liệu mà lại vẫn giữ, tất nhiên, số tiền đã thu mười năm trước. Đó là cách lão ta đầu tư, lão hy vọng trong mười lăm năm thế nào chẳng có ngày người cha không trả nổi cho nên lão mới liều đầu tư như thế.

Ngày đó cuối cùng đã đến do mưa đá. Bây giờ sẽ xảy ra chuyện gì đây?

Chúng tôi không phải phân vân lâu, chỉ một ngày sau hạn trả tiền hàng năm mà lẽ ra người cha đã trả bằng tiền bán cây, chúng tôi thấy một ông mặc quần áo đen đi vào nhà đưa cho chúng tôi một tờ giấy có dán tem trên đó viết vài chữ trong một dòng để trống.

Đó là ông mõ tòa.

Và kể từ ngày ấy ông ta cứ đến luôn luôn đến nỗi cuối cùng thuộc tên chúng tôi.

- Chào Rémi, ông ta nói, chào Alexis; cô khỏe chứ cô étiennette?

Và ông ta đưa cho chúng tôi tờ giấy dán tem.

Người cha chạy khắp thành phố. ông đi đâu?

Có lẽ đến tòa án chăng? Chỉ nghĩ đến đó tôi đã cảm thấy sợ hãi. Cụ Vitalis cũng đã phải ra tòa, và kết quả thế nào tôi đã rõ.

Đối với người cha thì kết quả phải chờ lâu hơn. Một phần mùa đông trôi qua như thế. Và dĩ nhiên là chúng tôi không thể sửa chữa nhà kính và lắp kính lại.

Chúng tôi trồng rau và các loại hoa không phải che chắn, tuy không có lời lắm nhưng cũng gọi là có công việc.

Một buổi tối, người cha trở về ủ rũ hơn mọi khi.

- Các con ơi, ông nói, hết rồi..Tôi định ra ngoài, tôi biết ông sắp nói một điều gì quan trọng mà có lẽ tôi không nên nghe.

Nhưng bằng một cử chỉ, ông giữ tôi lại.

- Con chẳng phải người trong gia đình hay sao? Các con ơi, cha sắp từ bỏ các con rồi.

Một tiếng kêu đau đớn thốt lên.

Lise nhảy vào vòng tay ông vừa ôm hôn ông vừa khóc.

- ồ! Chẳng lẽ các con nghĩ cha cố tình bỏ những đứa con ngoan như thế này hay sao?

Nhưng cha bị kết tội không trả nổi tiền, vì cha không có tiền họ sẽ bán tất cả những thứ này đi, nhưng cũng không đủ cho nên người ta bắt cha đi tù năm năm. Trong thời gian ấy các con sẽ ra sao?

Mọi người im lặng.

- Rémi sẽ viết thư cho người em của cha là cô Catherine Suriot ở Dreuzy, giải thích cho cô rõ tình hình và mời cô đến đây; với Catherine, ta sẽ quyết định.

Lần đầu tiên tôi viết một bức thư, thật là một sự bắt đầu ác nghiệt.

Dầu sao, chúng tôi vẫn hy vọng. Cô Catherine sẽ đến, điều đó cũng là đủ đối với những đứa trẻ như chúng tôi.

Tuy nhiên cô đến không nhanh như chúng tôi tưởng, và lính gác bên thương mại, tức là những người đi bắt các con nợ, đến trước cô.

Người cha đang định đi ra ngoài thì chạm trán họ, lúc đó có tôi đi cùng. Chỉ trong một giây họ vây lấy chúng tôi. ông tái xanh đi như bị choáng váng và bằng một giọng yếu ớt xin được ôm hôn các con.

- Đừng có khổ não quá ông bạn dũng cảm ạ, một trong những người lính gác nói, đi tù nợ không đến nỗi kinh khủng lắm đâu.

Tôi đi tìm mấy anh em trai trong vườn.

Khi chúng tôi trở lại, người cha đang bế Lise trong tay, em khóc sướt mướt.

Một trong những người lính gác thì thầm vào tai ông cái gì đó tôi nghe không rõ.

- Phải, người cha nói, ông nói đúng, phải thế thôi.

Rồi đột ngột đứng lên, ông đặt Lise xuống đất, nhưng em cứ bấu chặt lấy ông không rời bàn tay ông ra..ạng ôm hôn étiennette, Alexis và Benjamin.

Tôi đứng trong một góc, mắt mờ đi vì nước mắt.

Ông gọi tôi:

- Còn con, Rémi, con không đến ôm hôn cha ư? Con không phải là con của cha sao?

Chúng tôi cuống cuồng cả lên.

- Các con cứ đứng đấy, người cha nói, cha ra lệnh đấy.

Và ông vội vàng rời bỏ chúng tôi sau khi đặt bàn tay Lise vào tay chị étiennette.

Chúng tôi sững sờ đứng giữa bếp, ai cũng khóc. Chúng tôi vẫn biết thế nào cũng có ngày này, nhưng chúng tôi đều nghĩ cô Catherine lúc đó sẽ có mặt.

Nhưng cô Catherine chưa đến. Cô đến sau khi người cha đi khỏi độ một giờ và thấy tất cả chúng tôi im lặng ở trong bếp không ai nói với ai một lời. Người mà cho đến lúc ấy vẫn nâng đỡ tinh thần chúng tôi đến lượt mình cũng phải quỵ: chị étiennette, xưa nay vốn can đảm là thế, nay cũng yếu đuối như chúng tôi.

Cô Catherine là một người đàn bà cương nghị, đã từng làm vú nuôi ở Paris mười năm, cô hiểu những khó khăn ở đời này. Chúng tôi nhẹ hẳn người khi được nghe cô ra lệnh, được vâng lời cô.

Đối với một người đàn bà nông thôn không của cải gì, phải gánh vác một trách nhiệm như vậy thật là nặng nề.

Cha của một đứa bé cô nuôi trước kia làm công chứng viên, cô đến hỏi ý kiến ông này và theo lời khuyên của ông, số phận chúng tôi được định đoạt. Rồi cô đến nhà tù để nhất trí với người cha, tám ngày sau khi đến Paris, cô cho chúng tôi biết quyết định này như thế nào.

Vì chúng tôi còn nhỏ quá để tự đi làm nên mỗi một người sẽ đến ở với chú hoặc cô sẵn sàng nhận đứa cháu: Lise ở với cô Catherine ở Morvan, Alexis ở nhà một người chú ở Varses, Ben-jamin ở nhà một ông chú khác làm vườn ở Saint - Quentin, chị étiennette ở nhà một người cô ở Esnandes.

Tôi nghe những sự xếp đặt đó, chờ đến lượt mình.

Nhưng vì cô Catherine không nói gì thêm, tôi bèn tiến lên hỏi:

- Còn cháu thì sao ạ?

- Cháu ư? Cháu có phải trong gia đình đâu!.- Cháu làm việc cho gia đình.

- Nhưng cháu không phải người trong gia đình.

- Có chứ, có chứ, anh ấy là người trong gia đình. - Tất cả đều nói.

Lise tiến tới trước mặt người cô, hai tay chắp lại, cử chỉ đó còn nói lên nhiều hơn những lời nói dài dòng.

- Cháu bé nhỏ tội nghiệp ơi, cô Catherine nói, cô hiểu cháu lắm, nhưng ở đời này không phải việc gì người ta muốn đều có thể làm được, chỉ riêng cho gia đình không thôi miếng bánh đã quá nhỏ rồi.

Tôi cảm thấy không làm gì hơn được. Điều cô Catherine nói chỉ quá đúng mà thôi.

Cô Catherine cho chúng tôi biết ngày mai sẽ chia tay rồi cô cho chúng tôi đi ngủ.

Vừa vào đến phòng tất cả mọi người đều vây quanh tôi, Lise sà vào tôi mà khóc. Tôi hiểu rằng tuy ai nấy đều buồn vì phải xa cách nhau họ vẫn nghĩ đến tôi, phàn nàn cho tôi, tôi cảm thấy mình đúng là anh em ruột của họ.

- Các anh chị nghe em nói này, tôi bảo họ, em thấy rõ là các anh chị coi em như người trong gia đình vậy.

- Đúng thế, bao giờ em cũng là em, anh ruột của chúng tôi. - Họ nói.

- Được, thế thì em sẽ tỏ ra cho các anh chị thấy em là em, anh ruột của mọi người. Em sẽ lại lấy tấm da cừu và cây đàn hác-pơ xuống, em sẽ đi từ Saint - Quentin tới Varses, từ Varses tới Esnandes, từ Esnandes đến Dreuzy, em sẽ thăm lần lượt tất cả các anh chị. Em vẫn còn nhớ các bài hát, các điệu nhạc nhảy, em sẽ tự kiếm sống.

Trên nét mặt mọi người thấy rõ sự hài lòng:

tôi biết ý nghĩ của tôi cũng là khát vọng của mỗi người.

Chúng tôi cứ nói về dự định đó mãi. Rồi chị étiennette muốn chúng tôi vào giường, nhưng nào có ai ngủ được đêm hôm ấy.

Ngay từ sáng sớm, Lise đã đưa tôi ra vườn và làm tôi hiểu rằng em muốn tôi tới thăm những người khác trước em để em biết được tin tức của tất cả mọi người.

Họ phải ra đi lúc tám giờ sáng, cô Catherine đã thuê một chiếc xe ngựa để trước tiên đưa mọi người vào nhà tù ôm hôn ông bố sau đó đem theo bọc hành lý của từng người một ra ga..Tới bảy giờ đến lượt chị étiennette đưa tôi ra vườn.

- Chị muốn để lại cho em một kỷ niệm, đó là bộ đồ của người nội trợ; em sẽ thấy kim, chỉ, kéo, những thứ mà em cần đấy.

Trong khi chị étiennette nói chuyện với tôi thì Alexis cứ quẩn quanh ở chỗ chúng tôi. Chị vào nhà xong thì Alexis lại gần tôi.

- Anh có hai đồng một trăm xu, Alexis nói, em nhận một đồng thì anh sẽ rất vui lòng.

Trong năm chúng tôi, Alexis là người duy nhất có ý thức về tiền, chúng tôi vẫn thường chế nhạo thói hà tiện của anh, anh luôn thu thập và vô cùng thích thú các đồng tiền mới. Việc anh cho tôi tiền làm tôi xúc động quá, tôi muốn từ chối nhưng anh cứ ép tôi phải nhận. Qua đó phải thấy là tình cảm của anh đối với tôi thật mạnh mẽ.

Benjamin cũng không quên tôi; anh cho tôi một con dao đổi lấy một xu "bởi vì dao là thứ cắt đứt tình bạn".

Thời gian trôi nhanh quá.

Đến lúc nghe tiếng xe ngựa lại gần, Lise bèn từ phòng cô Catherine bước ra và ra hiệu cho tôi theo em. Trong vườn chúng tôi có một cây hoa hồng Băng-gan ở một góc hẻo lánh. Lise đi về phía cái cây, cắt một cành hồng rồi chia cành hồng đó làm hai nhánh, mỗi bên có một nụ hoa hàm tiếu, đưa cho tôi một nhánh.

A! Tiếng nói của đôi môi thật chẳng nghĩa lý gì so với tiếng nói của đôi mắt! So với cái nhìn thì lời nói thật lạnh nhạt và trống rỗng biết bao!

- Lise! Lise! - Người cô gọi.

Các bọc quần áo đã đem lên xe cả rồi.

Tôi cầm lấy cây đàn, gọi Capi, nó nhảy lên vì mừng rỡ, hiểu rằng chúng tôi lại lên đường.

Giờ phút chia tay đã đến. Cô Catherine rút ngắn giờ phút đó lại.

- ạm hôn cha hộ em với nhé! - Tôi kêu lên...

Một tiếng nức nở làm giọng tôi nghẹn lại.

Xe ngựa đi mất.

Thế là hết.

Một người láng giềng chịu trách nhiệm đóng cửa căn nhà, ông ta làm tôi tỉnh nỗi sững sờ:

- Cháu không ở lại đây ư? - ông ta hỏi.

- Không ạ, cháu đi..- Đi đâu?

- Cháu cứ thẳng trước mặt mà đi thôi.

Có lẽ ông làm một động tác vì tình thương, bởi vì ông chìa tay cho tôi:

- Nếu cháu muốn ở lại đây, ông nói, thì bác sẽ giữ cháu nhưng không có lương.

Tôi cảm ơn ông. ông bỏ đi. Thế là cửa đóng lại.

Tôi đeo dây đàn lên vai.

- Đi nào, Capi!

Capi nhảy lên trước mặt tôi sủa vang.

Mặt trời đã lên cao ở chân trời, trời trong vắt và ấm áp.

Một cuộc đời mới mở ra trước mặt tôi.

Tôi chỉ là một đứa trẻ mà đã là chủ mình!

Hỡi ôi! Hoàn cảnh tôi thật đáng buồn.

Mặc dầu còn nhỏ tôi đã phải chịu nhiều bất hạnh để trở nên thận trọng và khôn ngoan hơn những đứa trẻ bình thường ở tuổi tôi, đó là một lợi thế mà tôi đã phải trả bằng một giá đắt.

Vì vậy, trước khi lao mình vào con đường mở ra trước mặt tôi, tôi muốn đi thăm con người mà trong những năm cuối cùng này đã như một người cha đối với tôi, nếu như cô Catherine không đem tôi theo cùng các con ông để tôi từ biệt ông thì tôi sẽ đi một mình đến ôm hôn ông vậy.

Chưa bao giờ tới nhà tù nợ nhưng thời gian gần đây tôi đã nghe nói đến nó khá nhiều nên chắc chắn là có thể tìm được. Buộc Capi vào một sợi dây thừng, tôi dắt nó đi đến nhà tù Clichy.

Tôi ngừng lại một lúc trước khi dám vào tưởng như mình vào đó sẽ bị bắt giữ. Tôi vẫn hình dung ra khỏi nhà tù rất khó nhưng tôi không biết muốn vào cũng chẳng dễ dàng gì.

Cuối cùng, không chịu để người ta không cho mình vào, đuổi mình về, tôi đã gặp được người tôi muốn gặp.

Người ta đưa tôi vào một hành lang không thanh chắn, không chấn song sắt như tôi đã nghĩ và ngay sau đó người cha đi ra không bị xích xiềng gì cả.

- Cha đang chờ con đây Rémi ạ, ông bảo tôi, cha đã mắng Catherine không đưa con tới.

Trẻ con nói với cha là con trở lại nghề hát. Con đã quên mình suýt chết vì đói và rét ở cửa nhà ta rồi chăng?

Nếu tôi từ bỏ cuộc đời đó thì chỉ còn một cách là ở cố định một chỗ nào. Nhưng làm vậy.sẽ thất hứa với chị étiennette, Alexis, Benjamin và Lise. Thực tế chị étiennette, Alexis và Benjamin chẳng cần nhờ tôi, họ có thể viết thư cho nhau; nhưng Lise, em không biết viết, cô Catherine cũng vậy, nếu tôi bỏ Lise, em sẽ hoàn toàn bị bỏ rơi.

Em sẽ nghĩ về tôi thế nào?

- Thế chẳng lẽ cha không muốn con cho cha biết tin tức của các anh chị em con hay sao? -Tôi nói.

- Chúng có nói với cha về chuyện đó, nhưng không phải chỉ vì nghĩ đến mình mà cha muốn con từ bỏ cuộc đời người hát rong.

- Chính vì vậy đấy cha ạ, nếu con từ bỏ cam kết mà con đã hứa thì điều đó có nghĩa con không nghĩ đến Lise.

Ông nhìn tôi rất lâu rồi đột nhiên nắm lấy hai bàn tay tôi:

- Con trai của cha, cha sẽ ôm hôn con vì lời nói đó; con là một đứa trẻ có tâm.

Chỉ có hai chúng tôi ở trong hành lang, chúng tôi ngồi bên nhau trên một chiếc ghế dài, tôi lao vào tay ông.

- Cha chỉ muốn nói với con một lời này nữa thôi, người cha nói tiếp: - thôi đành nhờ Trời!

Và cả hai chúng tôi ngồi im lặng một lúc, nhưng thời gian đã hết, đã tới lúc chúng tôi phải chia tay.

Bỗng nhiên, ông lục túi áo gi-lê lôi ra một chiếc đồng hồ quả quýt to, có dây da buộc vào khuyết áo.

- Chẳng nhẽ ta chia tay nhau mà con lại không mang theo một kỷ vật nào của cha? Đây là chiếc đồng hồ của cha. Cha cho con. Nó chẳng có giá trị gì lớn lắm, nếu đáng giá, cha đã bán đi rồi. Nó chạy không được tốt, thỉnh thoảng lại phải lấy ngón tay đẩy. Nhưng cuối cùng thì lúc này cha chỉ còn có thế.

Nói xong ông đặt chiếc đồng hồ vào tay tôi, rồi thấy tôi có vẻ muốn từ chối một món quà tặng quý đến thế, ông buồn bã nói thêm:

- ở đây cha không cần xem giờ, thời gian chỉ trôi quá chậm mà thôi. Vĩnh biệt con, Rémi bé nhỏ của cha.

Và ông cầm tay tôi dắt ra cửa. Tôi cảm động khôn xiết.

Tôi đứng trên phố khá lâu, rất lâu là khác, không biết nên đi sang trái hay sang phải và có lẽ tôi còn đứng như thế cho đến đêm nếu như.tay tôi không bất ngờ chạm vào một vật tròn cứng.

Một cách máy móc và cũng không hiểu mình làm gì, tôi sờ vào nó: hóa ra cái đồng hồ của tôi.

Đúng giữa trưa.

Capi kéo ống quần tôi. Nó sủa lên vui mừng.

- Mày muốn gì, Capi?

Nó nhìn tôi, chờ đợi mấy phút, vươn người lên đặt chân vào cái túi có chiếc đồng hồ. Nó muốn xem giờ để nói với "cử tọa đáng kính" như thời làm việc cùng cụ Vitalis.

Tôi cho nó xem; nó nhìn khá lâu như cố nhớ lại, rồi bắt đầu vẫy đuôi, sủa lên mười hai tiếng. Thế là nó vẫn không quên. A! Chúng tôi sẽ kiếm được tiền với cái đồng hồ này đây! Thêm một điều tôi không tính đến.

Vì chuyện này diễn ra giữa phố ngay cửa nhà tù, có nhiều người đứng lại tò mò nhìn chúng tôi. Giá mà dám thì tôi đã chơi ngay một buổi biểu diễn nhưng vì sợ cảnh sát nên tôi thôi.

Nghề của tôi lúc này cần nhất là một cái bản đồ nước Pháp, tôi biết người ta bán nó dưới kè sông, tôi quyết định mua một cái. Tôi đi về phía kè.

Tới nhà thờ Saint - Médard, hình như tôi nhận ra đứa trẻ đang đứng dựa vào tường nhà thờ, đứa trẻ kỳ lạ mà tôi đã nhìn thấy ở nhà Garifoli, vẫn đôi mắt ướt ấy, vẫn vẻ dịu dàng nhẫn nhục ấy.

Tôi lại gần, nó nhận ra tôi.

- Có phải anh, nó nói, đến nhà Garifoli cùng với cụ già râu bạc trước hôm tôi vào bệnh viện không nhỉ?

- Tôi đấy. Garifoli vẫn là chủ anh à?

- Người ta đã bắt hắn rồi vì hắn đánh một đứa trẻ nhiều quá đến nỗi nó chết.

Lần đầu tiên tôi thấy nhà tù có ích.

- Bọn trẻ con thì sao? - Tôi hỏi.

- à! Tôi có biết gì đâu. Tôi vào bệnh viện vì thằng cha Garifoli đối xử với tôi tệ quá đến nỗi tôi ốm. ở bệnh viện ra tôi về lại chỗ Garifoli thì chẳng còn ai, một người hàng xóm kể lại cho tôi nghe những điều tôi vừa nói với anh. Thành ra tôi mới ở đây, không biết đi đâu, không biết làm gì..Tôi không giàu có gì nhưng tôi đủ để làm cho thằng bé này không đến nỗi chết đói. Tôi chạy đến cửa hàng bánh mì rồi quay về đưa nó một cái bánh mì tròn. Nó vồ lấy nhai ngấu nghiến.

- Còn bây giờ anh định làm gì? - Tôi hỏi nó.

- Tôi không biết. Tôi đang định bán cây vĩ cầm đi, lẽ ra tôi đã bán rồi nếu như việc xa nó không làm cho tôi buồn bã quá. Cây vĩ cầm này là niềm vui, niềm an ủi của tôi, những lúc buồn tôi tìm một chỗ có thể đứng một mình được rồi kéo đàn cho bản thân mình, lúc ấy tôi nhìn thấy tất cả những thứ đẹp đẽ ở trên trời, còn đẹp hơn cả trong mơ nữa.

- Thế sao anh không kéo đàn trong phố?

- Tôi đã chơi đàn trong phố rồi đấy chứ, nhưng chẳng ai cho tiền cả. Còn anh thì sao?

Anh làm gì?

Không hiểu tình cảm khoe khoang trẻ thơ nào đã gây cảm hứng cho tôi:

- Tôi là chủ gánh hát. - Tôi nói.

- ồ! Thế anh có cho tôi nhập vào gánh được không? Tên tôi là Mattia. - Thằng bé nói.

- Nhưng cả gánh hát của tôi chỉ có thế này.

- Tôi chỉ vào Capi.

- Cần gì! Ta có hai người. ôi! Xin anh, đừng bỏ rơi tôi, tôi sẽ ra sao? Tôi làm việc được, chơi vĩ cầm được, làm trật khớp được, nhảy dây được, chui qua vòng được, hát được; anh muốn gì tôi làm nấy! Tôi không yêu cầu tiền, chỉ mong có cái ăn. Tôi mà làm tồi anh cứ việc đánh tôi, chỉ xin anh có một điều: đừng đánh tôi vào đầu.

Nghe Mattia tội nghiệp nói vậy tôi muốn khóc.

- Được. - Tôi bảo nó.

Nó lập tức cầm lấy bàn tay tôi hôn lên đó:

nước mắt tôi dâng lên.

- Đi theo tôi, như một người bạn ấy! - Tôi bảo.

Và xóc lại chiếc dây đeo đàn hác-pơ trên vai:

- Tiến lên!

Chỉ một khắc đồng hồ sau chúng tôi ra khỏi Paris.

Gió hanh tháng ba làm đường khô ráo, trên đất cứng đi bộ dễ dàng. Khí trời dịu, mặt trời rực rỡ trên bầu trời không mây..Thật khác biệt biết bao so với cái ngày tuyết rơi mà tôi vào Paris nơi tôi khát khao bao lâu như một vùng đất hứa!

Cuộc du hành của chúng tôi khởi đầu thật đẹp, tôi sải bước trên con đường vang tiếng bước chân với đầy niềm tin. Capi, được tháo dây buộc, chạy quanh chúng tôi, bất cứ cái gì và chẳng làm sao cũng sủa. Có lẽ nó chỉ vì thích mà sủa.

Bên cạnh tôi Mattia đi không nói năng gì, tôi cũng im lặng.

Tôi đã hứa với Lise đi gặp hai anh của em và chị étiennette trước em, nhưng tôi không cam kết sẽ thăm ai đầu tiên: Benjamin, Alexis hay chị étiennette? Tôi đến thăm ai trước tiên sẽ do tôi chọn, nghĩa là tôi có thể đi Cévennes, Charente hoặc Picardie.

Vì tôi ra khỏi Paris về phía nam, tôi chỉ còn chọn hoặc Alexis hoặc chị étiennette.

Một trong những lý do làm tôi muốn đi xuống phía nam trước, đó là vì mong gặp má Barberin.

Nếu như đã từ lâu tôi không nói tới má, không có nghĩa có thể kết luận là tôi đã quên má. Cũng không nên tưởng rằng tôi là kẻ vô ơn đã không viết thư cho má.

Biết bao lần tôi đã định viết cho má để bảo với má như thế này: "Con luôn nghĩ đến má và yêu má với cả tấm lòng con". Nhưng, một phần vì má không biết đọc, phần khác, nỗi sợ lão Bar-berin kìm tay tôi lại. Nếu Barberin nhờ thư tôi mà biết tôi ở đâu, hắn có đòi lại tôi chăng? Rồi lại đem bán tôi đi lần nữa chăng? Có lẽ lão có quyền làm việc đó. Nghĩ đến đó thà tôi bị má Barberin buộc tội là vô ơn còn hơn vô phúc lại rơi vào quyền hành của lão Barberin.

Nhưng bây giờ khi mà tôi muốn đi đâu thì đi, tôi có thể gặp lại má lắm chứ. Hơn nữa, vì đã thu nhận Mattia vào "gánh hát" của tôi, tôi thấy vấn đề này cũng dễ thôi. Tôi có thể cử Mattia vào trước, tôi khôn ngoan lùi lại sau. Nó sẽ lấy cớ gì đó vào nhà má Barberin; nếu má có một mình, nó sẽ kể sự thực cho má nghe rồi ra báo cho tôi biết, tôi sẽ vào căn nhà nơi trôi qua tuổi ấu thơ của tôi để sà vào vòng tay bà vú nuôi, còn nếu như lão Barberin đang ở nhà thì Mattia sẽ đề nghị má Barberin đến một chỗ đã hẹn trước để tôi được ôm hôn má.

Vừa đi tôi vừa xây dựng cả một kế hoạch như vậy. Lúc này chúng tôi đang ở giữa chốn đồng quê chúng tôi có thể nghỉ chân một lúc..Tôi bảo Mattia:

- Nếu anh muốn, chúng ta sẽ nghỉ một chút.

- Vâng nhưng tôi muốn xin anh xưng hô cậu, tớ với tôi.

- Tôi muốn thế lắm.

Thế là nó cười, một cái cười chân thành dịu dàng giơ hết cả răng ra, bộ răng trắng ngà trên khuôn mặt rám nắng.

Tôi lấy bản đồ ra trải trên cỏ. Tôi định hướng khá lâu, cuối cùng vạch ra hành trình của mình như sau: Corbeil, Fontainebleau, Montargis, Gien, Bourges, Saint - Amand, Montlucon. Có thể tới Chavanon được và nếu gặp chút may mắn thì dọc đường chúng tôi sẽ không chết đói.

Trong khi tôi nghiên cứu bản đồ, Mattia quan sát tôi một cách chăm chú.

- Cậu biết đọc ư?

- Có chứ. Thế còn cậu, cậu không biết đọc à?

- Không.

- Thế có muốn học không?

- ồ! Có chứ.

- Được, thế thì tớ sẽ dạy cậu.

Mở cái túi ra tôi bỗng có ý nghĩ xem thử ở trong có những thứ gì. Tôi bèn bày cả ra trên cỏ. Tôi có ba áo sơ mi bằng vải toan, ba đôi tất, năm khăn tay, tất cả đều còn rất mới, và một đôi giày đã bắt đầu cũ.

Mattia lóa mắt.

- Còn cậu, cậu có những gì nào? - Tôi hỏi nó.

- Cây đàn và bộ quần áo mặc trên người.

- Được! - Tôi nói. - Ta sẽ chia ra, vì ta là bạn mà: cậu sẽ có hai áo sơ mi, hai đôi tất, ba khăn tay, có điều là mỗi đứa sẽ đeo cái túi trong một giờ đồng hồ.

Mattia muốn từ chối phần đầu của lời đề nghị, nhưng tôi đã có thói quen chỉ huy, tôi không cho nó cãi lại.

Tôi bày cái túi nội trợ mà chị étiennette cho tôi trên mấy chiếc áo sơ mi, cả cái hộp trong đựng bông hoa hồng của Lise nữa. Mattia muốn mở cái hộp ra nhưng tôi không cho phép, tôi cất cái hộp đó vào túi.

- Nếu cậu muốn làm vui lòng tớ, tôi bảo nó, thì đừng bao giờ mở cái hộp này ra. Đó là một quà tặng.

Từ khi trở lại khoác tấm da cừu và khoác cây đàn hác-pơ, có một điều làm tôi khá lúng túng, đó là chiếc quần của tôi. Nghệ sĩ không.mặc quần dài. Để xuất hiện trước công chúng phải mặc quần cụt, đi tất trên có buộc chéo những sợi ruy-băng.

Tôi bèn mở cái túi nội trợ của chị étiennette ra, cầm lấy cái kéo.

- Trong khi tớ sửa cái quần, tôi bảo Mattia, cậu cho tớ biết tài nghệ chơi vĩ cầm của cậu nào.

Nó cầm lấy đàn và bắt đầu chơi.

Trong thời gian đó tôi dũng cảm đưa mũi kéo vào cắt quần.

Thoạt đầu tôi vừa cắt quần vừa nghe Mattia, sau rồi chẳng mấy chốc tôi dừng hẳn lại dỏng tai lên nghe: Mattia chơi vĩ cầm chẳng kém gì cụ Vitalis.

Tôi vừa vỗ tay vừa hỏi nó:

- Ai dạy cậu đàn thế?

- Mỗi người một tí, chủ yếu tự học trong khi làm việc. Tớ chơi những gì nghe được ở người khác.

Đến lượt tôi, tôi cũng muốn tỏ cho Mattia biết mình cũng là một tay chơi nhạc không tồi:

cầm lấy đàn hác-pơ tôi hát một khúc mà tôi yêu thích.

Thế là, như giữa những nghệ sĩ với nhau, Mattia đáp lại lời ca của tôi bằng những cái vỗ tay.

Nhưng, sau khi chơi nhạc cho vui cũng phải nghĩ đến chơi nhạc để có cơm chiều, có chỗ ngủ nữa chứ. Chúng tôi lại lên đường.

- Cậu dạy tớ bài hát của cậu đi, Mattia nói, ta sẽ cùng hát, tớ nghĩ chẳng bao lâu tớ sẽ đệm vĩ cầm được, như thế rất hay.

Sau Villejuif, chúng tôi đến một ngôi làng nọ. Khi qua cổng một cái trại chúng tôi thấy trong sân đầy người: đang có đám cưới.

Tôi chợt có ý nghĩ họ cần có người chơi đàn để nhảy, thế là tôi bước vào, theo sau là Mattia và Capi. Tay ngả mũ chào thật cung kính, tôi đề nghị với người đầu tiên gặp trên đường vào.

Đó là một chàng thanh niên to lớn có vẻ dễ chịu, tính tình điềm đạm.

- Này, các vị ơi, anh ta gọi, các vị nghĩ sao nếu có chút nhạc? Ta đứng vào nhảy ca-đri nào!

Chỉ vài phút sau ai nấy đứng thành từng nhóm ở giữa sân để nhảy.

- Cậu có chơi được điệu nhảy ca-đri không?

- Tôi hỏi khẽ Mattia vì tôi khá lo lắng.

- Được..Nó kéo thử đàn vĩ cầm cho tôi nghe, may mà tôi cũng biết điệu ấy. Thế là chúng tôi thoát hiểm.

Người ta đem một cái xe bò từ trong nhà để xe ra, cho chúng tôi lên đó. Tuy chưa hòa nhạc với nhau bao giờ nhưng chúng tôi cùng chơi điệu nhảy ca-đri không đến nỗi dở. Cũng may chúng tôi chơi ở đây cho những đôi tai không sành nhạc cũng không khó tính lắm.

- Có cậu nào trong hai cậu biết chơi kèn đẩy coóc-nê không nhỉ? - Anh thanh niên to lớn hỏi chúng tôi.

- Có, có, Mattia trả lời, nhưng tôi không có kèn.

- Để tôi đi kiếm, vĩ cầm thì hay thật đấy nhưng hơi nhạt nhẽo.

- Cậu chơi cả kèn đẩy nữa cơ à? - Tôi hỏi Mattia.

- Cả kèn tơ-rôm-pét có rãnh, cả sáo, tất cả các nhạc cụ.

Quả thằng bé đáng quý thật.

Chẳng mấy chốc kèn coóc-nê được mang đến, chúng tôi lại cùng chơi khúc nhảy ca-đri, pôn-ka, van-xơ... cứ như thế cho đến tối.

Chúng tôi mệt rã rời. Cô dâu xuất hiện.

- Thôi thôi, cô nói, hai đứa trẻ không đàn nổi nữa rồi. Chuẩn bị đặt tay vào túi tiền đi nào.

- Nếu cô cho phép, tôi nói với cô, chúng tôi sẽ cho thủ quỹ của chúng tôi đi thu tiền ạ.

Tôi ném cái mũ của mình cho Capi, nó ngậm vào mõm. Mọi người vỗ tay rầm rập khi thấy nó duyên dáng chào người ta mỗi khi người ta cho tiền, nhưng điều đáng giá hơn đối với chúng tôi là người ta cho nhiều lắm. Tôi theo dõi thấy những đồng bạc trắng xóa rơi xuống mũ, cuối cùng chú rể bỏ vào một đồng năm phrăng.

Chưa phải đã hết. Người ta mời chúng tôi vào bếp ăn cơm và cho chúng tôi ngủ trong vựa thóc. Sáng hôm sau, khi rời căn nhà mến khách đó chúng tôi có vốn liếng là hai mươi tám phrăng. Cả một tài sản!

- Nhờ cậu mà có đấy, Mattia ạ. - Tôi bảo bạn tôi. - Một mình tớ thì làm sao thành ban nhạc được.

Chúng tôi lại lên đường, lòng thênh thang đầy hy vọng. Cuối cùng tương lai mỉm cười với chúng tôi chăng?.

Không gia đình - Chương 9 : Một thành phố đen

Chúng tôi lại lên đường, không đói không mệt với hai mươi tám phrăng trong túi nhờ sự đón tiếp nồng nhiệt mà người ta đã dành cho chúng tôi nhân một đám cưới ở gần Villejuif.

Phải nói rằng chúng tôi đã toàn tâm toàn lực chơi đàn cho cô dâu và các khách mời của cô nhảy.

Với hai mươi tám phrăng trong túi, chúng tôi là hai vị chúa tể, khi tới Corbeil tôi đã có thể mua thoải mái một số thứ không dại dột chút nào: trước hết là một cây kèn đẩy cũ ở một cửa hàng sắt tuy không mới không đẹp nhưng được lau chùi kỹ càng bảo dưỡng cẩn thận, rất được việc cho chúng tôi; rồi những dây ruy-băng đỏ để buộc vào tất, cuối cùng một túi cũ của quân đội cho Mattia. Khi rời Corbeil, sau khi trả hết tiền những thứ đã mua, túi tiền chúng tôi có ba mươi phrăng bởi vì những cuộc biểu diễn ở.đây của chúng tôi thu được khá nhiều. Chúng tôi điều hòa các tiết mục sao cho ở lại nơi này được nhiều ngày. Sau nữa Mattia và tôi rất hợp nhau, đến nỗi coi nhau như hai anh em ruột.

Sau khi rời Corbeil chúng tôi tiến về Mon-targis để tới nhà má Barberin.

Bây giờ tôi đã giàu, tôi phải có quà tặng má chứ.

Chẳng phải tìm tòi gì lâu. Có một thứ sẽ có thể làm má sung sướng hơn tất cả mọi thứ: đó là một con bò cái.

Cái chính lúc này là làm sao biết giá. Lần đầu tiên tôi hỏi một ông lái bò ông này cười vào mũi tôi để trả lời. Nhưng tôi không để người ta làm cho bối rối.

- Phải cho sữa tốt lại không ăn quá nhiều.

Ông ta có một con bò cái đúng theo yêu cầu của tôi, nếu đưa ông năm mươi ê-quy thì con bò sẽ thuộc về tôi.

Còn lâu tôi mới có đủ món tiền lớn đó.

Chẳng lẽ không mua nổi nó sao? Khéo không mua nổi mất. Nhưng nếu vận may vẫn đến với chúng tôi như những ngày đầu tiên thì tôi có thể thu thập từng xu một lắm chứ! Chỉ cần có thời gian thôi.

Lúc đó một ý tưởng mới nảy ra trong óc tôi.

Đáng lẽ đầu tiên đi Chavanon thì hãy đi Varses đã, như vậy chúng tôi sẽ có đủ số thời gian bị thiếu nếu đi thẳng tới Chavanon.

Phải đi Varses trước đã, lúc về mới tới nhà má Barberin.

Buổi sáng tôi thông báo cho Mattia ý tôi, Mattia không phản đối gì cả.

Chúng tôi mất ba tháng mới vượt qua ngần ấy cây số, nhưng tới gần Varses tôi vui mừng đếm tiền thấy mình đã tận dụng tốt thời gian:

chúng tôi có một trăm hai mươi tám phrăng, chỉ thiếu hai mươi hai phrăng là mua được con bò cái.

Từ Varses tới Chavanon chắc chắn chúng tôi sẽ kiếm được khá.

Varses, cách đây một trăm năm, chỉ là một ngôi làng nhỏ hẻo lánh giữa núi non. Thật quả trên mặt đất thật hiu quạnh: chỉ có đá vôi, đất truông, không cây cối ngoài đây đó mấy cây dẻ, cây dâu tằm và vài cây oliviers còm cõi; đất không trồng trọt được, chỗ nào cũng thấy đá xám, đá trắng; chỉ những nơi đất hơi sâu một chút mới.có chút ẩm thấp để một ít thực vật sống được làm nổi bật lên trông rất vui mắt.

Vì nơi đây trơ trụi như thế nên hay xảy ra những trận lụt kinh khủng: mỗi khi trời mưa, nước cứ chảy theo những sườn dốc trụi cây như trên một đường phố lát đá và những con suối xưa nay cạn khô nay chảy ào ào như thác làm cho bỗng chốc bao nhiêu sông trong thung lũng đầy ắp lên rồi tràn ra, chỉ vài phút nước ngập đến năm mét và hơn cả thế nữa.

Khi chúng tôi tới ngoại vi Varses là ba giờ chiều, mặt trời rực rỡ tỏa trên bầu trời trong vắt, nhưng càng tiến tới ngày càng tối đi; giữa bầu trời và mặt đất một đám mây khói dày đặc bốc từ những ống khói nặng nề ra xâu xé lẫn nhau rồi lan dài ngột ngạt. Từ hơn một giờ nay chúng tôi nghe thấy những tiếng vù vù rất mạnh, những tiếng rì rào như tiếng rì rào của biển cùng với những tiếng đập đùng đục. Tiếng vù vù thì là tiếng quạt rồi còn những tiếng đục là tiếng búa và tiếng vồ.

Tôi chỉ biết chú của Alexis là công nhân mỏ làm việc ở mỏ Truyère và chỉ có thế. Chú ở Varses hay ngoại ô Varses?

Vào tới làng tôi hỏi thăm mỏ ở đâu, người ta chỉ cho tôi đến bờ bên trái của con sông Di-vonne.

Người ta cũng cho chúng tôi địa chỉ của chú Gaspard, chú ở cách đấy một quãng ngắn trong một phố quanh co và dốc đứng từ ngọn đồi xuống con sông.

Khi hỏi thăm ông thì một người đàn bà đang nói chuyện với một bà hàng xóm đã trả lời là làm việc xong đến sáu giờ ông mới về.

- Thế cháu hỏi ông ấy có việc gì?

- Cháu muốn gặp Alexis.

Bà bèn nhìn tôi từ đầu đến chân và nhìn Capi.

- Cháu là Rémi phải không? Alexis có nói chuyện với chúng tôi, nó đợi cháu đến đấy. Thế còn cậu này là ai?

- Là bạn cháu ạ.

Đó là bà thím của Alexis. Tôi cứ tưởng bà ta mời chúng tôi vào trong nhà nghỉ ngơi vì đôi chân đầy bụi cũng như khuôn mặt sạm nắng gió của chúng tôi cho biết rõ chúng tôi mệt lắm; thế nhưng bà ta chẳng làm gì cả chỉ nhắc lại là nếu chúng tôi quay lại lúc sáu giờ thì sẽ gặp Alexis.

Cách đón tiếp như vậy làm chúng tôi không muốn quay lại nhà làm gì nữa, chúng tôi đi đến đợi Alexis ở cửa vào mỏ lúc gần sáu giờ..Tôi đứng đó với Mattia và Capi và sau sáu giờ độ vài phút tôi bắt đầu nhìn thấy từ trong đường hầm sâu thẳm và tăm tối những chấm sáng lớn dần. Đó là những người thợ mỏ tay cầm đèn trở lên chốn ban ngày ban mặt.

Họ đi rất chậm, bước đi nặng nề tựa như bị đau đầu gối vậy, điều đó sau này tôi mới biết, khi mà tôi bước xuống những bậc lên xuống của chiếc thang dẫn xuống mức sâu nhất của mỏ; mặt họ đen như mặt những người nạo ống khói, áo quần và mũ họ phủ đầy bụi than cùng những mảng bùn ướt. Qua kho để đèn, từng người đi vào treo đèn lên một cái đinh.

Mặc dù rất chú ý tôi không nhìn thấy Alexis, nếu anh không nhảy lên bá cổ tôi hẳn tôi đã để anh đi qua trước mặt mà không biết: đen từ đầu đến chân như thế bây giờ anh đâu còn giống người anh của tôi vẫn thường chạy trên những lối đi ở vườn xưa kia?

- Đây là Rémi. - Anh vừa nói vừa quay lại phía một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đi bên cạnh.

Tôi biết ngay đấy là chú Gaspard.

- Bọn chú chờ cháu đã lâu. - ông hiền từ nói.

Capi mừng rỡ vì gặp lại Alexis. Trong khi đó tôi giải thích cho chú Gaspard ràng Mattia là một người bạn của tôi, một cậu bé rất khá mà tôi đã quen từ lâu, chơi kèn đẩy không kém gì ai.

- Còn đây là Capi chứ gì, - chú Gaspard nói, - ngày mai là chủ nhật: nghỉ ngơi xong bọn cháu biểu diễn cho chúng tôi xem một buổi nhé. Alexis nói là con chó này thông thái hơn cả một ông giáo hoặc một kịch sĩ đấy.

Tôi lúng túng trước mặt bà thím bao nhiêu thì thoải mái với ông chú bấy nhiêu.

Khi sắp sửa về tới nhà, chú Gaspard lại gần chúng tôi:

- Bọn cháu ăn tối với chúng tôi nhé.

Chưa bao giờ có một lời mời nào làm tôi vui đến thế bởi vì tôi đang tự hỏi liệu đến cửa chúng tôi có phải chia tay nhau hay không, cách đón tiếp của bà thím chẳng làm tôi mảy may hy vọng.

- Đây là Rémi, - ông nói khi bước vào nhà, - và bạn của cháu.

- Tôi đã gặp các cậu ấy rồi.

Được trôi qua buổi tối cùng ông, tôi thật sung sướng, thật tình mà nói tôi cũng sung sướng.được ăn cơm tối nữa. Suốt từ Paris chúng tôi cứ gặp đâu ăn đấy, ít khi được ăn một bữa cơm thực sự. Thực ra với những gì thu được chúng tôi cũng khá giàu, đủ để ăn những bữa cơm sang trọng trong các quán, nhưng còn phải dành tiền tậu bò nữa.

Cơm tối kéo dài không bao lâu.

- Cháu sẽ ngủ với Alexis nhé. - Chú Gaspard bảo tôi. - Còn Mattia, nếu cháu đồng ý ngủ trong lò bánh mì, chú sẽ làm cho cháu một cái giường đệm rơm.

Tối và phần lớn đêm đó tôi và Alexis dùng để bàn chuyện.

Chú Gaspard là thợ cuốc than, nghĩa là ông cuốc than trong mỏ bằng một cái cuốc chim. Alexis là người đẩy goòng, có nghĩa đẩy than trên một toa xe gọi là xe goòng trên đường ray từ nơi than được cuốc ra cho tới một cái giếng. Xe goòng trong có chứa than khi đến giếng được móc vào một dây cáp có máy đưa lên trên mặt đất.

Dù cho mới là thợ mỏ có ít lâu, Alexis đã yêu mỏ, tự hào về mỏ, theo anh đó là cái mỏ đẹp nhất, ly kỳ nhất xứ sở này, anh đặt vào câu chuyện kể của mình tất cả tầm quan trọng của một người khách phương xa đến từ vùng đất lạ tìm được những đôi tai chú ý lắng nghe mình.

Alexis tiếp tục kể về cuộc sống của mỏ, những hiểm nguy của mỏ như vụ nổ ga khủng khiếp tức là nổ khí mỏ vài tuần trước đây làm chết hàng chục công nhân mỏ, tai nạn này gây cho anh một ấn tượng rất mạnh.

Những gì Alexis kể kích thích trí tò mò của tôi đến nỗi tôi muốn xuống mỏ nhưng muốn xuống mỏ phải là thợ mỏ đã.

Tuy nhiên, một sự tình cờ đã khiến tôi cảm nhận được tất cả nỗi hãi hùng đôi khi vẫn đe dọa thợ mỏ.

Tối hôm trước ngày tôi lên đường, Alexis về nhà với một bàn tay bị giập do một tảng than rơi vào. Một ngón tay anh nát ra đến một nửa, cả bàn tay giập tím bầm lại.

Bác sĩ của công ty đến nhà thăm và băng bó cho anh. Vết thương không trầm trọng như Alexis phải nghỉ việc.

Chú Gaspard có tính cách là đời làm sao ông chấp nhận làm vậy, chẳng buồn chẳng giận bao giờ, nhưng có một điều khiến ông mất cả hiền lành: đó là có cái gì cản trở công việc của ông..Khi biết Alexis phải nghỉ làm việc trong nhiều ngày, ông kêu tướng lên. Ai sẽ đẩy xe goòng trong suốt thời gian này? Chẳng có ai thay nó cả, mỏ đang thiếu người nhất là trẻ con.

Ông đi tìm một người đẩy xe goòng nhưng lại về không. ông bắt đầu phàn nàn.

Thấy ông buồn và hiểu vì sao ông buồn, đồng thời cảm thấy có nghĩa vụ trong trường hợp này, mình nên có cách riêng để đền đáp lòng hiếu khách của ông đã dành cho chúng tôi, tôi bèn hỏi ông đẩy goòng có khó lắm không.

- Chỉ việc đẩy nó trên đường ray.

- Xe có nặng không ạ?

- Không đến nỗi nặng lắm.

- Alexis đẩy được thì chắc là cháu cũng đẩy được.

Ông cười ầm lên nhưng sau đó trở lại đứng đắn ngay:

- Cháu là cậu bé tốt quá, đúng thế đấy, ngày mai cháu xuống mỏ với chú. Đúng là cháu giúp chú, nhưng có lẽ cũng có ích cho cháu. Nếu cháu thấy thích công việc này, thì nó còn hơn là cứ lang thang trên đường.

Nhưng nếu như thế thì Mattia sẽ làm gì? Tôi bèn hỏi nó có muốn cùng Capi đi biểu diễn trong vùng lân cận không thì nó đồng ý.

- Tớ sẽ rất hài lòng tự mình kiếm nốt tiền tậu bò. - Nó cười nói.

Qua ba tháng chúng tôi cùng ở với nhau, sống giữa không khí thoáng đãng, Mattia đã khác xa cậu bé ốm yếu mà tôi gặp đang đứng dựa vào nhà thờ Saint - Médard. Mặt trời và cuộc sống ngoài trời đã đem lại sức khỏe cho nó, làm nó vui lên. Suốt hành trình lúc nào nó cũng vui, cũng cười. Nếu không có nó không hiểu tôi sẽ ra sao?

Chúng tôi thỏa thuận với nhau trong thời gian tôi xuống mỏ Mattia sẽ đi biểu diễn để tăng thêm thu nhập.

Sáng hôm sau người ta đưa cho tôi bộ quần áo lao động của Alexis. Tôi đi theo chú Gaspard.

- Chú ý vào nhé, - ông đưa cái đèn cho tôi, - cứ theo chú mà đi.

Chúng tôi đi sâu vào đường hầm, ông đi trước.

- Cháu mà trượt chân ở bậc thang thì bám chặt vào nhé, ở dưới kia sâu lắm và cứng lắm đấy..Không cần phải nghe những lời dặn dò này tôi đã đủ xúc động rồi, bởi vì từ chỗ ánh sáng bước vào trong đêm tối, từ mặt đất bước vào trong lòng đất, ai chẳng thấy xốn xang trong lòng.

Theo bản năng tôi quay lại phía sau: ban ngày chỉ còn là một chấm sáng nhỏ tít tận đầu kia. Tôi theo kịp bước chân chú Gaspard rất nhanh.

- Đến bậc thang rồi đây này. - Chẳng bao lâu ông nói.

Chúng tôi đến trước một cái lỗ đen ngòm và trong cái chiều sâu mà mắt tôi không thể lường nổi tôi thấy những vệt sáng đung đưa, ở đầu vào thì lớn sau cứ nhỏ dần đến độ chỉ còn là những chấm nhỏ khi chúng cứ càng ngày càng xa đi. Đó là đèn của những thợ mỏ đã vào mỏ trước chúng tôi. Tiếng họ nói chuyện nghe như tiếng rì rầm vẳng tới tận tai chúng tôi nhờ một luồng không khí âm ấm thổi vào mặt, luồng không khí có mùi gì đó mà lần đầu tiên tôi ngửi thấy: nó như mùi ê-te lẫn với mùi ét-xăng.

Khi tới nơi làm việc, chú Gaspard chỉ cho tôi phải làm những gì, và khi goòng đầy ắp than, ông cùng đẩy với tôi để dạy tôi cách đẩy goòng tới tận giếng, dạy tôi cách đưa goòng vào những đường tránh khi gặp những người đẩy xe goòng tới từ phía ngược lại.

Kể cũng có lý khi nói rằng nghề này không lấy gì làm khó lắm, sau vài giờ nếu như tôi chưa trở nên thành thạo thì cũng có thể gọi là làm được. Chỉ chưa khéo lắm chưa quen lắm mà thôi, bù vào đó tôi buộc phải mất nhiều sức hơn, kết quả là làm được ít hơn và mệt nhiều hơn.

Cạnh nơi chú Gaspard làm việc, có một người đẩy goòng láng giềng với tôi, lẽ ra là một đứa trẻ như tôi và các bạn tôi, thì lại là một cụ già râu bạc trắng; nói bạc trắng vì vào ngày chủ nhật, ngày ai nấy tắm rửa sạch sẽ, bởi qua cả một tuần lễ, ngày thứ hai râu xám ngày thứ bảy râu đen. Cụ đến ngoài sáu mươi tuổi. Ngày xưa, thời còn trẻ, cụ là thợ gỗ, có nghĩa chịu trách nhiệm bảo trì các cột chống bằng gỗ để chống hầm, nhưng sau một vụ sụt hầm cụ bị nghiền nát ba ngón tay đành phải bỏ nghề. Công ty của cụ có cho cụ một chút tiền trợ cấp vì tai nạn này xảy ra khi cụ cứu ba công nhân bạn. Cụ sống bằng tiền trợ cấp đó được vài năm. Công ty của cụ phá sản, cụ chẳng còn nguồn nào mà sống, chẳng thuộc diện nào, cụ phải vào mỏ.Truyère đẩy goòng. Họ gọi cụ là cụ giáo, bởi vì cụ hiểu biết nhiều điều mà các thợ cuốc, thợ mỏ bậc thầy còn phải chịu, những người này sẵn sàng nói lên như vậy.

Trong giờ ăn cơm chúng tôi làm quen với nhau và cụ thân với tôi rất nhanh. ở trong mỏ thường người ta ít nói vì thế người ta gọi chúng tôi là những người hay chuyện.

Những câu chuyện kể của Alexis không cho tôi biết hết những điều tôi muốn biết, những câu trả lời của chú Gaspard cũng không làm tôi thỏa mãn, bởi vì khi tôi hỏi chú:

- Than đá là gì hả chú?

Thì lúc nào chú cũng chỉ trả lời:

- Là than tìm được ở trong đất.

Nhưng khi tôi hỏi cụ giáo cũng câu hỏi ấy thì cụ lại trả lời khác hẳn:

- Nó không gì khác chỉ là than gỗ mà thôi:

đáng lẽ cho vào lò sưởi những cái cây của thời đại chúng ta, ta lại cho vào đó cây cối mọc trong những khu rừng cổ đại đã biến thành than do sức mạnh của thiên nhiên, do cháy rừng, do núi lửa, do động đất.

Và khi tôi ngạc nhiên nhìn cụ thì cụ nói:

- Hôm nay ta không có thì giờ nói về chuyện đó, nhưng mai là chủ nhật, cháu đến tôi, tôi sẽ giải thích cho cháu.

Ngày hôm sau tôi nói với chú Gaspard là mình đến thăm cụ giáo.

- à, chú cười, thế là cháu đã tìm được người để chuyện trò rồi đấy hả, đi đi, nếu lòng cháu muốn vậy. Chỉ có điều là nếu như cháu học được cái gì ở cụ thì cũng đừng lên mặt ta đây nhé.

Tôi bước vào thì cụ ra đón tôi.

- Tôi đã gọi món biroulade rồi đấy, bởi vì tuổi trẻ có tai có mắt nhưng cũng có cả cổ họng nữa, muốn làm bạn với họ cách tốt nhất là làm thỏa mãn cả yết hầu họ.

Món biroulade là món hạt dê nướng ngâm vào rượu trắng, ở vùng Cévennes này được mời ăn món đó là một vinh dự.

- Sau khi ăn món biroulade, tôi sẽ cho cháu xem bộ sưu tập của tôi.

Bộ sưu tập này vô cùng phong phú, ít nhất là theo đánh giá của tôi, nó chiếm toàn bộ chỗ ở của cụ, trên các bàn và các giá nếu là vật mẫu nhỏ, vật mẫu lớn thì xếp dưới đất.

Đã từ hai mươi năm nay, cụ sưu tầm tất cả những cái gì mà cụ thấy hay hay gặp trong khi làm.việc, và bởi vì khu mỏ ở lưu vực sông Cère và sông Divonne rất nhiều thực vật hóa đá, cụ có những mẫu rất hiếm mà nhà địa chất học và tự nhiên học nào có được hẳn phải vô cùng sung sướng.

Cụ vội nói và tôi cũng chăm chú nghe:

- Bởi vì cháu muốn biết thế nào là than đá, cháu hãy nghe đây: mặt đất nơi chúng ta ở không phải lúc nào cũng như ngày nay. Có những thời kỳ mà nước ta phủ đầy loại cây giờ đây chỉ mọc ở những nước nhiệt đới. Rồi bỗng nhiên có một cuộc cách mạng, toàn bộ lớp thực vật này bị thay thế bằng một lớp thực vật khác hẳn, đến lượt nó lại bị thay thế bởi một lớp khác nữa, cứ như thế trong hàng ngàn, hàng triệu năm. Cây nhỏ cây lớn tích tụ lại, vừa phân hủy vừa chồng lên nhau sinh ra nhiều lớp than đá. Tôi sẽ cho cháu xem những mẫu lấy từ vỉa ta gọi là tường hay là mái còn mang dấu ấn của cây cối, được giữ như là thảo mộc giữa những tờ giấy của tập mẫu thảo mộc.

Cuộc viếng thăm của tôi kéo dài đến đêm vì cụ hiểu biết quá nhiều và những lời giải thích của cụ làm tôi say mê.

Không gia đình - Chương 10 : Ngập lụt

Ngày hôm sau chúng tôi lại xuống mỏ.

Tôi vừa đẩy chiếc xe goòng về phía giếng Sainte - Alphonsine lần thứ ba thì nghe thấy từ phía giếng một tiếng gầm khủng khiếp. Có chỗ nào sạt lở hay toàn bộ hầm bị sụt? Tôi lắng nghe, tiếng huyên náo vẫn tiếp tục và dội đi tứ phía.

Cảm tưởng đầu tiên của tôi là khiếp vía lên được, tôi nghĩ đến việc chạy trốn về phía thang nhưng vì đã nhiều lần bị mọi người chế giễu vì thói nhút nhát nên tôi xấu hổ mà đứng lại.

Bỗng nhiên một lũ chuột luồn qua hai chân tôi mà chạy: rồi hình như tôi nghe thấy một tiếng lạ lùng lướt trên mặt đất và trên thành hầm với tiếng nước vỗ. Nơi tôi đứng vốn hoàn toàn khô cơ mà. Tôi lấy đèn soi rồi cúi xuống nhìn mặt đất.

Đúng là nước, nước từ giếng đến và ngày càng dâng lên trong hầm..Bỏ xe goòng trên đường ray tôi chạy về nơi công trường làm việc.

- Chú Gaspard ơi, trong mỏ có nước!

- Vớ vẩn!

- Chú nghe mà xem.

Giọng tôi xúc động đến nỗi chú Gaspard ngừng cuốc để nghe, vẫn cái tiếng đó ngày càng to hơn, nghe càng thê thảm hơn. Không còn nhầm lẫn gì nữa.

- Chạy nhanh đi thôi. - ông bảo tôi.

Chú cầm lấy đèn, bao giờ đó cũng là động tác đầu tiên của người thợ mỏ, rồi lén ngay vào đường hầm.

Chưa đi được mười bước thì tôi thấy cụ giáo cũng xuống đường hầm.

Mực nước tăng rất nhanh, lúc này đã lên tới đầu gối làm chúng tôi tiến rất chậm. Cả ba chúng tôi lúc đi qua các công trường làm việc đều kêu to:

- Chạy đi, nước vào mỏ rồi!

Mực nước tăng với một tốc độ hoảng loạn, may thay chúng tôi ở ngay gần thang nếu không không thể nào đến đó được. Cụ giáo tới thang trước tiên.

- Anh và cháu lên trước đi. Tôi già rồi, lương tâm yên ổn.

Lúc này chẳng câu nệ lễ phép làm gì nữa, chú Gaspard lên trước, tôi theo sau rồi đến cụ giáo, sau cụ một quãng cách khá xa mới đến vài công nhân theo kịp chúng tôi.

Chưa bao giờ bốn mươi mét ngăn cách mức sâu thứ hai với mức sâu thứ nhất của mỏ được vượt nhanh như thế! Nhưng vừa tới nấc thang trên cùng thì một làn sóng nước ùa xuống đầu chúng tôi làm đèn của chúng tôi tắt ngóm. Thật là một thác nước!

- Giữ cho chặt vào! - Chú Gaspard kêu.

Chú, cụ giáo và tôi, chúng tôi bám thật chặt vào nấc thang để chống cự lại, những người đằng sau chúng tôi bị sóng kéo đi luôn, và chắc chắn là nếu chúng tôi còn phải leo mười nấc thang nữa hẳn chúng tôi cũng như họ đã bị rơi xuống rồi bởi vì chỉ ngay sau đó thác nước trở thành một khối lở ụp xuống.

Lên tới mức trên cùng rồi chúng tôi vẫn chưa thoát, muốn lên khỏi mỏ còn năm mươi mét nữa và ngay cả tầng hầm này cũng có nước, ánh sáng thì không có..- Ta nguy rồi. - Cụ giáo nói với giọng hầu như bình tĩnh. - Rémi cháu cầu kinh đi.

Cùng lúc đó có bảy tám ánh đèn chạy tới chỗ chúng tôi, nước lên tới đầu gối chúng tôi, không cần cúi xuống tay chúng tôi cũng chạm vào nước. Đó không phải là một thứ nước lặng mà là luồng nước cuốn, vừa trôi nó vừa kéo theo những tảng gỗ quay cuồng như những chiếc lông chim.

Những người cầm đèn mà chúng tôi nhìn thấy định theo đường hầm đi tới thang và những bậc thang ở gần đấy, nhưng trước dòng thác như thế này thì việc đó không thể làm nổi bởi vì làm sao mà đẩy ngược được dòng nước cũng như kháng cự lại được sức thúc của nước và những tảng gỗ nó cuốn theo?

Họ cũng thốt ra lời mà cụ giáo thốt ra lúc nãy:

- Chúng ta nguy rồi!

Họ tiến đến chỗ chúng tôi.

- Đi lối này, phải rồi. - Cụ giáo nói, cụ là người duy nhất trong chúng tôi còn giữ được chút bình tĩnh. - Nơi duy nhất ta trú ẩn được là nơi công trường cũ ấy.

Công trường cũ là một phần của mỏ đã bị bỏ đi từ lâu không ai lai vãng trừ cụ giáo, cụ vẫn thường tới thăm khu đó mỗi khi cần tìm hiểu một điều lạ lùng nào đó.

- Các anh quay lại đi, - cụ ra lệnh, - đưa tôi một cái đèn, tôi sẽ dẫn các anh đi.

Bình thường mỗi khi cụ nói người ta hay giễu cụ đôi chút nhưng lúc này tất cả mấy cái đèn đều được đưa ra. Cụ vội vàng cầm lấy một chiếc, tay kia kéo tôi đi, cụ dẫn đầu cả đoàn. Vì chúng tôi đi cùng chiều với dòng nước nên đi khá nhanh.

Sau khi đi dọc theo đường hầm một lát, cụ dừng lại.

- Ta không còn thời gian nữa rồi. Nước lên nhanh quá.

Quả thật nước mau chóng chiếm cứ chúng tôi, từ đầu gối tôi nó lên tới háng, từ háng lên đến ngực.

- Phải trèo vào một dốc ngách hầm thôi. -Cụ giáo nói.

- Sau đó thì sao? Dốc ngách hầm chẳng dẫn đến đâu cả!

Quả thực đó là một cái túi cùng, nhưng chúng tôi không còn thời gian chờ đợi và chọn.lựa, hoặc vào một dốc ngách hầm và có lấy vài phút trước mặt có nghĩa hy vọng sống sót hoặc cứ theo đường hầm mà đi dù biết chắc chắn chỉ vài giây là bị chìm nghỉm.

Cụ giáo dẫn đầu, chúng tôi đi vào trong một dốc ngách hầm. Hai người trong số chúng tôi cứ đi theo đường hầm, chúng tôi không bao giờ trông thấy họ nữa.

Trong mỏ là một sự huyên náo đáng sợ: tiếng đất đá sụt lở, tiếng nước xoáy, tiếng nước đổ xuống, tiếng gãy răng rắc của gỗ chống hầm, tiếng không khí bị nén nổ bùng, tất cả làm chúng tôi sững sờ mê muội.

- Tận thế chứ không còn là cái gì nữa!

- Lạy Trời, hãy thương chúng con!

Suốt từ lúc vào trong dốc ngách hầm, cụ giáo không nói gì nữa, tâm hồn cụ bay bổng cao hơn những lời phàn nàn vô tác dụng.

- Các con ơi, - cụ nói, - không thể để ta mệt thế được, nếu ta cứ dùng tay chân mà bấu vào vách dốc của ngách hầm như thế chẳng mấy chốc ta sẽ rời rã, phải đào lấy những điểm tựa giữa những phiến than đá.

Lời khuyên đó rất đúng nhưng cũng rất khó thực hiện, có ai mang theo cuốc chim đâu, tất cả chúng tôi đều mang đèn nhưng không ai có một dụng cụ nào trong tay.

- Lấy những cái móc ở đèn mà đào. - Cụ giáo nói.

Thế là người nào người ấy bắt đầu đào đất, công việc chẳng dễ dàng gì, vách của ngách hầm vừa dốc vừa trơn. Nhưng ai cũng biết rằng nếu trượt tay trượt chân một cái là chết, vì thế mọi người đều đào khỏe đều khéo tay. Chỉ vài phút chúng tôi đã đào được một cái hốc đặt chân vào được.

Những tiếng động trong mỏ vẫn dữ dội như trước. Chúng tôi sợ hãi nhìn nhau, người nọ tìm trong mắt người kia lời giải thích mà trí óc của bản thân mình không đem lại được.

Cụ giáo, sau một hồi im lặng, nói tiếp:

- Chúng ta đang ở trong không khí của một cái chuông, không khí bị nước dồn ép tụ lại trong hầm này đến bây giờ lại kháng cự lại nước và đẩy lùi nước. Chẳng khác gì người ta vứt một cái cốc úp ngược xuống nước trong một cái xô, nước không bao giờ tràn lên đáy cốc cả. Cái cốc vẫn rỗng nhờ không khí ở trong.

ở đây cũng thế. Nước không thể lên đến chỗ.chúng ta được. Ta không chết đuối nhưng cũng khó mà sống sót. Không khí không thoát đi đâu được vì ngách hầm này đóng kín. Không khí tù hãm thì ta cũng bị tù hãm. Im lặng và sợ hãi bao trùm một lúc.

Cụ giáo lại nói tiếp:

- Theo ý tôi tốt nhất chúng ta nên đào một cái thềm như chiếu nghỉ ở cầu thang ấy, chúng ta có bảy người hai cái thềm là đủ.

Mọi người bắt đầu vào việc, thắp lên bốn cái đèn. Sau ba giờ làm việc không nghỉ, với móc đèn, với dao, chúng tôi đã đào được một cái thềm phẳng có thể ngồi trên đó được.

- Phải tiết kiệm đèn, - cụ giáo nói, - thắp một cái thôi.

Mỏ lúc này im lặng, dưới chân chúng tôi nước đứng yên. Trong mỏ đầy nước, sau khi tràn ngập tất cả mọi đường hầm từ đáy lên tới trần mỏ, nước giam chặt chúng tôi trong dốc ngách hầm này, giam chặt còn hơn trong những bức tường đá. Cái im lặng âm thầm không sao thâm nhập được còn đáng sợ, đáng ngạc nhiên hơn cả cái ồn ào huyên náo lúc nước vỡ ụp vào. Chúng tôi bị chôn sống trong một nấm mộ.

Không khí nặng nề khó thở, chúng tôi ngột ngạt, tai ong ong lên. Không còn ý niệm nào về thời gian. Bây giờ là trưa hay là sáu giờ chiều?

Bỗng nhiên giữa yên lặng có tiếng chú Gaspard cất lên:

- Theo tôi ấy mà, - ông nói, - chưa ai làm gì để cứu chúng ta cả, ta đã nghe thấy gì đâu.

- Phải làm cho họ thấy là ta còn sống, -cụ giáo nói, - hãy đập vào vách hầm thật mạnh vào.

Không phải chờ, một người trong chúng tôi có đôi bốt to bắt đầu đập mạnh vào vách, tiếng động này cũng như ý tưởng gây ra tiếng động đó làm chúng tôi đỡ đờ đẫn. Người ta có nghe thấy tiếng chúng tôi không? Người ta có trả lời chúng tôi không?

Một cuộc tranh luận nổ ra về việc mọi người sẽ dùng cách nào để cứu chúng tôi, kết quả là giả sử có một tập hợp nhân học đến ngoạn mục và trong những điều kiện thật thuận lợi, ít nhất chúng tôi cũng phải ở trong cái ngôi mộ này đến tám ngày. Tám ngày! Khi ý thức được điều này thì chúng tôi không ai bàn luận gì nữa.

- Nghe kìa. - Một người thợ mỏ nói..- Cái gì vậy?

- Có tiếng động trong nước.

- Đó là anh làm rơi một miếng đá đấy.

- Không. Tiếng này đục.

Chúng tôi lắng nghe. Tai tôi vốn rất thính thế mà cũng chẳng nghe thấy gì cả. Những người bạn của tôi, vì đã quen với những tiếng động trong mỏ, phấn khởi hơn tôi.

- Đúng rồi, - cụ giáo nói, - có cái gì đó trong nước thật.

- Tiếng nước chảy xuống thôi.

- Không. Tiếng này không liên tục mà từng hồi đều đặn.

- Từng hồi đều đặn! Ta sống rồi! Các con ơi! Đó là tiếng những chiếc xe ben thả gầu xuống múc nước giếng lên!

- Gầu tát nước!

Thế là cùng một lúc tất cả chúng tôi hòa cùng một giọng lặp lại mấy tiếng này. Và chúng tôi nhỏm người lên.

Không khí không còn ngột ngạt nữa, thành của dốc ngách hầm không còn đè nặng lên chúng tôi nữa, chúng tôi thở dễ dàng hơn, tim chúng tôi đập mạnh trong lồng ngực.

Tuy nhiên, trước khi nhìn thấy ánh mặt trời, nghe tiếng gió thổi trong cành lá, chúng tôi còn phải ở lại đây trong nhiều ngày dài nghiệt ngã và thế là chúng tôi lại lo buồn tuyệt vọng.

Trong lúc này người ta mau chóng tổ chức cứu nạn, các kỹ sư dẫn đầu đoàn thợ mỏ của các mỏ xung quanh chạy tới. Một đám đông, hốt hoảng vì những tiếng nổ tiếng rung cũng đổ tới.

Một trăm hai mươi người gọi tên không thấy.

- Chồng tôi đâu?

- Cha tôi đâu?

- Trả con tôi đây!

Những giọng nói ngắt quãng, những câu hỏi nghẹn ngào vì nức nở. Biết trả lời thế nào?

Và công cuộc cứu nạn bắt đầu. Người ta đào cầu may, nhưng họ cứ đào. Người ta đào vào các đường hầm một cách không mệt mỏi, người ta đặt các xe múc nước. Kỹ sư hy vọng là mọi người ẩn trong khu công trường cũ.

Nếu như thời gian thật là dài đối với những người ở ngoài đang tìm cách giải phóng chúng.tôi, đối với chúng tôi, những tù nhân bất lực, nó còn đằng đẵng hơn nhiều.

Tiếng xe múc nước chẳng làm cho niềm vui bột phát của chúng tôi lúc ban đầu tồn tại được lâu. Người ta cứu chúng tôi, đó là niềm hy vọng, nhưng tát cạn nước liệu có nhanh không? Đó là nỗi lo lắng.

Đau đớn về tinh thần còn kèm thêm đau đớn về vật chất. Tư thế chúng tôi buộc phải cầm cự trên thềm nghỉ thật vô cùng mỏi mệt, không thể làm được cử động nào cho giãn gân cốt và chúng tôi nhức đầu ghê gớm.

- Ta uống được không nhỉ? - Chú Gaspard hỏi.

- Tha hồ, nước thì thiếu gì, - cụ giáo trả lời, - Rémi sẽ xuống lấy nước, nó nhẹ nhất mà.

- Lấy vào đâu?

- Lấy vào ủng của tôi đây này. - Một thợ mỏ tên là Carrory nói.

Người ta đưa tôi chiếc ủng và tôi chuẩn bị xuống múc nước.

- Chờ một chút, - cụ giáo nói, - để tôi đưa tay cho đã.

Đúng lúc cụ cúi xuống, cụ nhào ra trước và không hiểu cụ lỡ đà hay do lâu không cử động người bị cứng, hoặc vỉa than lở ra dưới sức nặng của cụ, cụ trượt luôn xuống, đầu chúc chìm nghỉm trong nước. Chiếc đèn cụ soi cho tôi cũng biến mất. Ngay lập tức chúng tôi ngập trong bóng tối đen ngòm và một tiếng kêu thất thanh cùng lúc thoát ra từ ngực chúng tôi. Tôi đang trong tư thế xuống nước, tôi ngã ngửa người ra và lao xuống nước chỉ sau cụ giáo độ một giây.

Ngay lập tức tôi cảm thấy một bàn tay co quắp bấu vào vai tôi và tôi bị kéo vào trong nước.

Đạp chân một cái tôi ngoi lên: bàn tay vẫn bấu chặt vào tôi.

- Cụ giữ chặt lấy cháu, cụ giáo ạ, cụ được cứu thoát rồi.

Cứu thoát! Cả hai chúng tôi nào có ai được cứu thoát, vì tôi chẳng biết bơi về phía nào.

- Thắp đèn lên. - Tôi nói.

Ngay lập tức ánh đèn xuất hiện, tôi chỉ cần duỗi cánh tay là chạm vào bờ. Chú Gaspard và Carrory đưa tay họ cho chúng tôi, trong khi Pagès, một thợ mỏ khác, soi đèn cho chúng tôi.

Cụ giáo được kéo lên thềm trong khi tôi đẩy cụ từ phía sau. Cụ lên rồi đến lượt tôi lên. - Lại đây cháu, - cụ nói, - để tôi ôm hôn cháu. Cháu đã cứu tôi.

- Thì cụ đã cứu sống tất cả chúng cháu đấy thôi.

- Thế là, - Carrory nói, - anh ta là người không bao giờ bị ảnh hưởng bởi xúc động, tôi mất chiếc bốt à?

- Để cháu đi tìm.

Nhưng mọi người ngăn tôi lại.

- Thôi, mọi người hãy đưa cháu chiếc bốt khác vậy, ít nhất cháu cũng đem được nước về!

Thoát khỏi chết đuối, cụ giáo và tôi bị ướt sũng từ đầu đến chân làm cho chân tay căng rời rã.

Lạnh cóng làm chúng tôi không thể quên được chuyện đó. Mọi người đưa áo vét cho chúng tôi.

Sau sự cố này chúng tôi lại mê muội cả người và nghĩ đến cái chết. Có lẽ ý nghĩ này đè nặng lên các bạn tôi hơn là tôi vì trong khi họ tỉnh thì cuối cùng tôi ngủ thiếp đi. Nhưng chỗ ngồi không thoải mái chút nào có nguy cơ rơi xuống nước. Lúc đó cụ giáo giữ đầu tôi trong cánh tay cụ. Cụ giữ không quá chặt chỉ đủ để tôi đừng rơi xuống nước mà thôi, tôi như một đứa trẻ nằm trên đầu gối mẹ. Cụ không phải chỉ có cái đầu vững vàng mà còn có một trái tim nhân hậu nữa. Khi tôi hơi thức dậy, cụ đổi tay cho đỡ mỏi rồi lại ngồi thật im và bảo tôi:

- Cháu cứ ngủ đi, đừng sợ.

Và tôi lại ngủ tiếp.

Thời gian cứ trôi.

Tư thế của chúng tôi không còn chịu đựng nổi nữa. Liệu đã đến lúc chúng tôi được cứu ra chưa? Chúng tôi nghi ngờ vô cùng.

Tuy nhiên việc tát nước được tiến hành không ngừng dưới sự lãnh đạo của một ông kỹ sư luôn động viên thợ mỏ với một niềm tin, một hy vọng sắt đá.

- Các bạn ơi, còn một ngày nữa, - ông nói với những người thợ mỏ, - tôi đòi hỏi ở các bạn những gì mà những người bạn của các bạn đòi hỏi, các bạn ở địa vị họ mà xem.

Niềm tin khiến ông hăng hái đã truyền sang trái tim những người thợ mỏ. Người ta cứ đào sâu xuống mãi. Đến ngày thứ bảy, trong khi thay đổi vị trí, một người thợ cuốc vào tới vỉa than tưởng như nghe thấy những tiếng đập yếu ớt.

Anh ta dán tai vào lớp than rồi gọi một người.bạn đến cùng nghe với mình. Cả hai im lặng và một lát sau một tiếng yếu ớt đều đặn lặp đi lặp lại vẳng tới tai họ. Đến lượt họ, họ lấy cuốc chim gõ gõ.

Lập tức tin này được truyền đi rất nhanh.

Ông kỹ sư đã đúng! Dưới đó vẫn còn có người sống. Tin tức lan khắp thành phố như một vệt thuốc súng, đám đông chạy tới mỏ Truyère.

Công việc càng khẩn trương hơn, các công ty bạn gửi đến những thợ cuốc tinh nhuệ nhất.

Hy vọng cũng tăng lên khi nước rút dần.

Trong ngách hầm, lúc nghe thấy tiếng gõ trả lời của các bạn, chúng tôi bị tác động chẳng kém gì lúc nghe thấy tiếng xe múc nước thả gàu xuống các giếng.

- Thoát rồi!

Ai nấy thốt ra một tiếng kêu vui mừng. Rồi, cũng giống như sau khi nghe thấy tiếng gầu múc nước, hy vọng lại biến thành tuyệt vọng. Tiếng cuốc chim cho biết những người cứu nạn còn ở xa lắm. Chỉ có cụ giáo là còn nói năng một cách can trường nhưng dần dần sự ủ rũ của chúng tôi cũng lan sang cụ. Nếu như chúng tôi có thể uống thì chúng tôi không thể có cái ăn, cái đói trở nên không còn có thể chịu nổi nữa.

Chúng tôi ngồi im không động đậy, chỉ còn duy trì cuộc sống bằng tiếng cuốc chim và tiếng gàu múc nước. Dần dần những tiếng động này ngày càng to lên, nước rút xuống, người ta đến gần chúng tôi hơn. Nhưng họ có đến kịp không?

Chúng tôi ngày càng yếu lắm rồi.

Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng nói của các bạn tôi, họ nghe thấy tiếng chúng tôi. Rồi chúng tôi nói chuyện được với họ. Họ thốt lên mấy tiếng thống thiết sau đây:

- Các anh có bao nhiêu người?

Chú Gaspard trả lời:

- Sáu!

Im lặng một hồi. Có lẽ ở ngoài hy vọng một con số lớn hơn.

- Mau lên các bạn, - chú Gaspard kêu lên, -chúng tôi kiệt sức rồi.

- Tên các bạn là gì?

- Bergounhoux, Pagès, Carrory, cụ giáo, Rémi, Gaspard.

Đó là lúc điếng người nhất cho những người đứng ngoài. Khi ông kỹ sư tuyên bố chúng tôi chỉ có sáu, mọi người thất vọng đến đau đớn..Hỡi ôi! Trong số một trăm hai mươi người mẹ và người vợ chỉ có bốn người niềm hy vọng trở thành sự thực. Biết bao đau đớn! Biết bao nước mắt!

Về phía chúng tôi, chúng tôi nghĩ đến những người có thể được cứu thoát.

- Có bao nhiêu người được cứu thoát?

Không ai trả lời.

- Chắc họ không nghe tiếng.

- Họ không muốn trả lời thì đúng hơn.

- Hãy hỏi họ xem chúng ta đã ở trong mỏ bao nhiêu lâu?

- Mười bốn ngày. Giờ thì không còn lâu nữa đâu. Các bạn hãy can đảm lên. Chỉ còn vài giờ nữa thôi.

Tôi tưởng như mấy giờ này là những giờ dài nhất trong cảnh tù hãm của chúng tôi, dù thế nào đi nữa cũng là những giờ đau khổ nhất. Mỗi nhát cuốc chúng tôi lại tưởng là nhát cuốc cuối cùng. Nhưng sau nhát đó lại tiếp đến nhát khác, sau nhát khác này lại đến nhát khác nữa.

Các xe múc nước cũng không ngừng hoạt động phút nào, nước cứ từ từ rút xuống.

Có điều lạ là giờ phút giải phóng càng tới gần chúng tôi càng yếu lả đi.

Cuối cùng dốc ngách hầm được mở ra từ phía trên: ánh đèn rọi vào làm chúng tôi lóa mắt.

Nhưng chỉ trong phút chốc chúng tôi lại rơi vào bóng tối đen ngòm: một luồng không khí khủng khiếp làm tắt phụt đèn!

Lại phải chờ thêm!

Cùng một lúc có tiếng động mạnh trong nước ở dưới hầm, và quay lại tôi thấy một ánh sáng chói di động trên nước lõm bõm.

- Can đảm lên! Can đảm lên! - Người ta kêu lên.

Mọi người đồng thời đến cứu chúng tôi từ hai phía. Chưa kịp nói lời nào tôi đã rơi vào tay ông kỹ sư. Vừa vặn tôi ngất đi.

Tôi ý thức được là người ta mang tôi đi, rồi người ta bọc tôi vào trong nhiều tấm chăn. Tôi nhắm mắt lại nhưng ngay sau đó tôi cảm thấy một cái gì chói lọi đến nỗi phải mở mắt ra.

Chúng tôi ra đến giữa trời.

Cùng một lúc một cái bóng trắng nhảy vào tôi: đó là Capi nhảy phắt vào hai tay ông kỹ sư.để liếm vào mặt tôi. Tôi cũng cảm thấy có ai nắm lấy bàn tay phải tôi và hôn tôi. Đó là Mattia.

Tôi nhìn xung quanh: một đám đông vô kể, im lặng và xúc động.

Người ta mang tôi đến tận văn phòng mỏ, ở đó đã có sẵn những cái giường chờ đợi chúng tôi.

Hai ngày sau tôi đi bộ trong phố xá Varses, tất cả mọi người trên đường đều dừng lại nhìn tôi.

Có những người đến bắt tay tôi, nước mắt lưng tròng. Cũng có những người, ngược lại, lại quay đi. Đó là những người đang tang tóc, họ xót xa tự hỏi tại sao thằng bé mồ côi này lại sống sót trong khi người chủ gia đình nọ, cậu con trai kia lại ở lại dưới mỏ, lại là những cái xác khốn khổ bị nước cuốn đi.

Không gia đình - Chương 11 : âm nhạc và con bò cái

Tất cả mọi người đều muốn giữ tôi lại Varses.

- Chú sẽ tìm cho cháu một thợ cuốc, - chú Gaspard nói, - và chúng tôi sẽ không bao giờ xa nhau nữa.

- Nếu cháu muốn làm việc trong văn phòng, - ông kỹ sư bảo tôi, - tôi sẽ dành cho cháu một chỗ.

Chú Gaspard cứ tưởng lẽ tự nhiên là tôi sẽ quay lại mỏ nơi mà bản thân chú sắp trở lại với cái vô tư của những người đã hàng ngày quen thách thức với cái chết. Nhưng tôi đâu có sẵn lòng trở lại nghề đẩy goòng! Biết được thế nào là mỏ tôi rất sung sướng, nhưng tôi không hề cảm thấy một chút thèm muốn nào được xuống lại đó. Chỉ nghĩ đến mỏ tôi đã cảm thấy ngột ngạt, cuộc sống ngoài trời phù hợp với tôi hơn..Tôi giải thích như vậy với tất cả những người đem lại cho tôi việc làm.

- Nếu cháu thích phiêu lưu và tự do, - cụ giáo nói, - cháu cứ việc theo con đường của cháu.

Trong khi mọi người muốn giữ tôi lại Varses, Mattia có vẻ bận tâm lo lắng cái gì đó; tôi hỏi thì lúc nào nó cũng bảo là nó vẫn như mọi khi, chỉ đến lúc tôi bảo là ba ngày nữa lên đường nó mới thú thật với tôi vì sao nó buồn. Nó nhảy lên ôm cổ tôi.

- Thế là cậu không bỏ tớ à? - Nó kêu lên.

Tôi huých cho nó một cái thật đau để dạy nó đừng có nghi ngờ tôi và đồng thời cũng để giấu niềm xúc động trong siết chặt lấy tôi khi nghe tiếng kêu của tình bạn đó. Vì tình bạn mà nó thốt lên tiếng kêu đó chứ không phải vì lợi lộc. Mattia không cần phải nhờ tôi mới kiếm sống được.

Chỉ riêng cái cười mỉm của nó, đôi mắt dịu dàng của nó, vẻ cởi mở của nó đã đủ làm xúc động lòng người ngay cả những người vô cảm với những tình cảm cao thượng nhất. Chính vì vậy mà trong chuyến du hành ngắn ngày với Capi, nó đã kiếm được mười tám phrăng, một món tiền đáng kể.

Một trăm hai mươi tám phrăng trong túi với mười tám phrăng Mattia kiếm được tổng cộng là một trăm bốn mươi sáu phrăng, chỉ cần bốn phrăng nữa là mua được con bò cái.

Mặc dầu không muốn làm việc ở mỏ nhưng rời Varses tôi cũng buồn lắm vì phải xa Alexis, chú Gaspard và cụ giáo, nhưng số phận tôi là phải xa cách những người tôi yêu dấu mà lại!

Cây đàn hác-pơ trên vai, lưng đeo túi, chúng tôi lại đi trên những con đường lớn cùng với Capi đang vui mừng lăn mình trong cát bụi.

Trước khi lên đường, Mattia và tôi đã thỏa thuận rất lâu về hành trình, vì tôi đã dạy nó cách xem bản đồ. Sau khi cân nhắc lợi hại, chúng tôi quyết định lẽ ra đi thẳng tới Ussel rồi từ đó đi Chavanon thì chúng tôi qua Clermont trước đã, không xa hơn bao nhiêu mà lại có lợi vì qua vùng suối nước nóng lúc này đang đông người đến chữa bệnh. Trong thời gian tôi làm việc trong mỏ, Mattia đã gặp một người làm trò gấu đang đi tới những thành phố có suối nước nóng mà theo như ông ta nói có thể kiếm được tiền. Mat-tia muốn kiếm tiền vì cho rằng một trăm năm mươi phrăng không đủ mua một con bò cái. Càng có nhiều tiền càng mua được bò đẹp, má Barberin.càng hài lòng. Vậy là chúng tôi phải đi Clermont đã. Dọc đường từ Paris đến Varses tôi đã bắt đầu dạy Mattia học, dạy nó đọc và cả những yếu lĩnh đầu tiên của âm nhạc nữa; từ Varses đến Clermont tôi lại dạy nó tiếp.

Có thể vì tôi không phải một giáo sư giỏi (có thể lắm) mà cũng có thể vì Mattia không phải học trò giỏi lắm (điều này cũng có khả năng) nên dạy nó đọc rất khó, nó tiến bộ rất chậm. Mattia rất chuyên cần, tha hồ dán mắt vào sách, nó chỉ đọc lên được những điều phóng túng bông lông do trí tưởng tượng đem lại chứ không phải do tự chú tâm mà có.

Những lúc như vậy đôi khi tôi mất bình tĩnh, tôi đập vào quyển sách và giận dữ kêu lên: thằng này cứng đầu quá!

Nó chẳng giận tôi tí nào chỉ nhìn tôi với đôi mắt dịu dàng, cười nói:

- Đúng đấy, đầu tớ chỉ mềm ra khi có ai nện vào nó thôi, thằng cha Garifoli thấy ngay điều đó đấy.

Trả lời như thế thì thử hỏi ai mà giận được?

Tôi cũng cười và chúng tôi lại học tiếp.

Nhưng trong âm nhạc thì không gặp những khó khăn như vậy. Ngay từ đầu Mattia đã tiến bộ rất kỳ lạ và rất đáng chú ý; rất nhanh chóng nó tiến tới chỗ hỏi tôi những câu hỏi làm tôi ngạc nhiên. Từ ngạc nhiên đi đến lúng túng, cuối cùng nhiều lần tôi bối rối tịt ngắc.

Phải thú thật là chuyện này làm tôi phật ý và lấy làm nhục, tôi giữ vai trò một giáo sư nghiêm túc ấy thế mà khi học trò hỏi lại không trả lời được, thế có nhục không cơ chứ?

Mà nó vẫn không tha tôi:

- Tại sao nhịp đầu và nhịp cuối của một bản nhạc lại không phải lúc nào cũng bao gồm số phách đều nhau? Tại sao người ta không viết nhạc với cùng một khóa? Tại sao đối với đàn vĩ cầm người ta chỉ hợp âm một số nốt nhạc này mà không phải những nốt nhạc khác?

Đến câu hỏi cuối cùng này thì tôi trang trọng trả lời là vĩ cầm không phải lĩnh vực của tôi, tôi chưa bao giờ quan tâm đến việc vì sao người ta phải hợp âm hay không hợp âm vĩ cầm và thế là Mattia cũng không đối đáp lại được nữa.

Đối với những câu hỏi khác thì không thể gỡ khó hiểu này được.

Thầy dạy, ông thầy thực thụ mà chúng tôi cần, phải là một nghệ sĩ cơ, một nghệ sĩ lớn thường hay ở những thành phố quan trọng. Bản.đồ cho tôi biết trước khi tới Clermont, thành phố quan trọng nhất chúng tôi gặp trên đường sẽ là Mende.

Cuối cùng chúng tôi tới Mende.

Lúc này trời đã tối từ mấy tiếng đồng hồ trước nên đêm đó không thể đi học nhạc được vả lại chúng tôi đã mệt nhoài cả người.

Tuy nhiên Mattia rất sốt ruột không hiểu ở Mende, thành phố trông chẳng có gì quan trọng như tôi bảo, liệu có được một ông thầy dạy nhạc hay không, thế là vừa ăn súp tôi vừa hỏi bà chủ quán xem trong thành phố có ông thầy dạy nhạc nào không?

Bà trả lời là câu hỏi của chúng tôi làm bà ngạc nhiên: chẳng lẽ chúng tôi không biết ông Espinassous sao?

- Chúng cháu từ xa tới. - Tôi nói.

- Từ xa lắm không?

- Từ bên ý ạ. - Mattia trả lời.

Bà ta không còn ngạc nhiên nữa và thừa nhận từ tận xa như thế tới thì không biết ông Espi-nassous là phải.

- Tớ hy vọng chúng ta rơi vào đúng chỗ rồi.

- Tôi nói với Mattia bằng tiếng ý.

Đôi mắt bạn tôi sáng lên. Chắc chắn ông ta sẽ giải đáp được tất cả những câu hỏi của nó, ông ta không thể lúng túng khi phải giải thích lý do khiến người ta dùng dấu giáng khi xuống thấp và dấu thăng khi lên cao nữa.

Nhưng tôi chợt sợ: một nghệ sĩ nổi tiếng đến thế liệu có lên lớp cho những đứa trẻ khốn khổ như chúng tôi một bài học nhạc được chăng?

- Thưa, ông Espinassous có bận lắm không ạ?

- ồ! Tôi cho là ông ấy bận lắm.

- Bà có cho rằng sáng mai ông ấy tiếp chúng cháu không ạ?

- Hẳn chứ lại, ai ông ấy cũng tiếp miễn là trong túi có tiền.

Nghe thấy như vậy chúng tôi yên tâm hẳn lên, trước khi đi ngủ tuy mệt vẫn còn thảo luận với nhau mãi về những câu hỏi mà chúng tôi sẽ đặt ra cho vị giáo sư lỗi lạc ấy.

Khi tới trước cửa căn nhà vị giáo sư mà người ta chỉ cho chúng tôi, chúng tôi cứ tưởng mình nhầm nhà, bởi vì trước cửa treo lủng lẳng hai cái đĩa cạo râu bằng đồng: nó không thể là biểu hiện của một thầy dạy nhạc được..Đứng mãi nhìn cái mặt hàng có vẻ như một cửa hàng thợ cạo đó thì có một người đi qua, chúng tôi bèn ngăn lại hỏi ông Espinassous ở đâu?

- ở đấy chứ còn ở đâu nữa. - Bà ta chỉ vào cửa hàng thợ cạo đó.

Cuối cùng thì một giáo sư dạy nhạc cũng có thể ở trong nhà một người thợ cắt tóc được chứ sao!

Chúng tôi bước vào. Cửa hàng được ngăn thành hai phần đều nhau: bên phải trên các giá bày nào lược nào bàn chải nào các lọ pom-mat, nào xà phòng; bên trái trên một cái bàn thợ kê sát vào tường có đặt hoặc treo các dụng cụ âm nhạc, đàn vĩ cầm, kèn đẩy coóc-nê, kèn tơ-rông-pét có rãnh.

- Xin hỏi ông Espinassous ạ? - Mattia hỏi.

Một người đàn ông nhỏ bé linh hoạt và năng động như một con chùn đang cạo râu cho một bác nông dân ngồi trên ghế cắt tóc, trả lời:

- Tôi đây.

Tôi đưa mắt nhìn Mattia có ý nói ông thợ cạo - nhạc sĩ này có lẽ không phải người mà chúng tôi cần và hỏi ông này thì bằng ném tiền đi, nhưng Mattia đến ngồi ngay vào một chiếc ghế dựa, nói thoải mái:

- ông cắt tóc cho cháu có được không ạ?

- Được chứ, chàng trai trẻ.

Tôi sửng sốt trước thái độ tự tin của Mattia, nó nhìn trộm tôi một cái.

Chẳng mấy chốc ông Espinassous cạo râu cho khách hàng của mình xong, tay cầm chiếc khăn mặt, bước tới cắt tóc cho bạn tôi.

- Thưa ông, - Mattia nói khi ông này buộc khăn vào cổ nó, - cháu và bạn cháu vừa có một cuộc tranh luận, và biết ông là một nhạc sĩ danh tiếng, chúng cháu nghĩ ông có thể cho chúng cháu một lời khuyên về vấn đề đang làm chúng cháu băn khoăn.

- Các cậu cứ nói thử xem đang bận tâm về cái gì nào.

Tôi hiểu ngay Mattia muốn đi tới đâu: trước hết nó muốn biết ông nhạc sĩ kiêm thợ cắt tóc này có trả lời được những câu hỏi của nó không đã, rồi trong trường hợp những câu trả lời làm nó thỏa mãn thì nó chỉ cần trả tiền bài học âm nhạc bằng giá tiền cắt tóc mà thôi, thằng này láu thật.

Mattia hỏi:.- Tại sao người ta lại chỉ hợp âm đàn vĩ cầm trên một số nốt nhạc này chứ không trên các nốt khác?

Tôi cứ tưởng ông thợ cắt tóc, đúng vào lúc đưa cái lược vào mái tóc dài của Mattia, sắp trả lời bằng một câu đại loại như câu trả lời của tôi, tôi đã cười thầm thì ông ta bắt đầu nói:

- Dây thứ hai bên trái của nhạc cụ phải cho nốt la theo thanh âm mẫu, các dây khác phải hợp âm làm sao cho các nốt mẫu từ quãng năm sang quãng năm, có nghĩa sol ở dây thứ tư; rê, dây thứ ba; la, dây thứ hai; mi, dây thứ nhất còn gọi là dây tiếu.

Hóa ra không phải tôi cười mà Mattia cười, nó cười bộ mặt ngây ra của tôi ư? Hay chỉ đơn giản vui mừng đã biết được điều muốn học? Nó cứ cười to giòn giã. Suốt trong thời gian cắt tóc Mattia không ngừng hỏi hết câu này đến câu khác, và câu hỏi nào ông thợ cắt tóc cũng trả lời một cách dễ dàng và chắc chắn như trả lời về vĩ cầm vậy.

Nhưng sau khi trả lời xong, đến lượt ông ta tự hỏi mình và chẳng mấy chốc hiểu ngay chúng tôi đến ông với ý định gì.

Thế là ông cười phá lên:

- Bọn trẻ ranh này hay thật, - ông nói, - đến là nhộn!

Rồi ông muốn Mattia, người mà rõ ràng nhộn hơn là tôi, chơi cho ông nghe một đoạn nhạc. Mattia dũng cảm cầm lấy cây đàn vĩ cầm, chơi một điệu van-xơ.

- Thế mà mày không hề biết một nốt nhạc nào! - ông thợ cắt tóc vỗ tay kêu lên và xưng hô mày tao với Mattia ngay như thể quen nó từ đã lâu.

Mattia chơi một bài bằng vĩ cầm xong, cầm lấy cây kèn cla-ri-nét treo trên tường.

- Cháu chơi được cả kèn cla-ri-nét và kèn đẩy coóc-nê nữa.

- Vậy mày chơi đi xem. - Espinassous kêu lên.

Và Mattia chơi mỗi nhạc cụ một bài.

- Thằng bé này là thần đồng chứ chẳng chơi!

- Espinassous kêu. - Nếu mày ở lại đây với bác, bác sẽ đào tạo mày thành một nhạc sĩ lớn, nghe chưa cháu! Buổi sáng cháu cắt tóc cạo mặt, còn bao nhiêu thì giờ trong ngày bác sẽ cho cháu học nhạc; đừng tưởng bác là thầy xoàng không dạy nổi cháu vì bác là thợ cắt tóc đâu nhé; người ta phải sống chứ, thế cho nên cạo mặt là việc tốt.

Không phải vì làm nghề cạo mặt mà Jasmin.không là nhà thơ giỏi nhất nước Pháp. Agen có Jasmin, Mende có Espinassous.

Nghe xong bài diễn văn này tôi nhìn Mattia.

Nó sẽ trả lời thế nào đây? Tôi sắp mất bạn tôi, em ruột tôi chăng, cũng như đã liên tục mất tất cả những người tôi yêu quý? Tim tôi thắt lại.

Tuy nhiên tôi không để mình bị chi phối vì tình cảm này.

- Hãy nghĩ đến cậu, Mattia ạ. - Tôi ngậm ngùi bảo.

Nhưng nó nhanh nhẹn đến chỗ tôi, cầm lấy tay tôi:

- Phải rời bỏ bạn cháu ấy à? Cháu không thể. Cháu xin cảm ơn bác, bác ạ.

Espinassous nhấn mạnh rằng sau khi Mattia học xong nhạc lý cơ bản, ông sẽ tìm cách gửi nó đến Toulouse, rồi đến nhạc viện Paris; nhưng Mattia đáp:

- Bỏ Rémi ấy à! Không bao giờ!

- Thôi được, thằng bé này, bác muốn làm một cái gì đó cho mày quá, - Espinassous nói, -thôi để bác cho mày một cuốn sách có thể học trong đó những gì mày không biết.

Và ông bắt đầu lục tìm các ngăn kéo. Sau một lúc khá lâu, ông tìm thấy quyển sách có nhan đề Lý thuyết âm nhạc. Quyển sách đã cũ lắm, nhàu nát cả, nhưng quan trọng gì.

Ông lấy cây bút, viết trên trang đầu như sau:

"Tặng cậu bé mà sau này khi trở thành nghệ sĩ sẽ không quên ông thợ cắt tóc thành Mende".

Khi tới Mende tôi đã yêu Mattia lắm rồi nhưng ra khỏi thành phố Mende tôi càng yêu nó hơn nhiều. Còn gì tốt đẹp hơn, dịu lòng hơn là cảm nhận được một cách chắc chắn tình yêu bởi người mà mình yêu?

Và còn biểu hiện tình yêu thương nào lớn hơn khi mà Mattia từ chối lời đề nghị của Espi-nassous, có nghĩa từ chối sự yên ổn, sự an toàn, cuộc sống thoải mái, hiện tại thì được học hành, tương lai thì được giàu sang, để mà cùng tôi chia sẻ đời phiêu lưu gian khổ không có tương lai thậm chí có lẽ không còn có cả ngày mai nữa.

Trước mặt Espinassous tôi không thể nói được với nó rằng lời nó kêu lên "Bỏ Rémi ấy à!’ đã làm tôi xúc động đến thế nào, nhưng khi ra ngoài rồi, tôi cầm lấy tay nó, siết chặt mà nói:

- Cậu biết đấy, tình bạn giữa chúng ta, trung thành với nhau đến trọn đời đấy nhé!

Nó mỉm cười nhìn tôi với đôi mắt mở to..- Tớ đã biết điều đó từ trước ngày hôm nay rồi.

Mattia xưa nay vốn không say mê đọc sách lắm thế mà nay đọc vô cùng tiến bộ kể từ ngày đọc cuốn Lý thuyết âm nhạc của Kuhn. Không may là tôi không thể để nó đọc bao nhiêu tùy thích theo ý tôi và theo cả ý nó được vì chúng tôi buộc phải đi bộ suốt từ sáng đến chiều, phải đi từng đoạn đường dài sao cho mau chóng qua vùng Lozère và Auvergne này đi, vì nơi đây họ chẳng ưa gì ca sĩ, nhạc sĩ. Trên vùng đất đai khô cằn này người nông dân thu nhập ít, không mấy sẵn sàng sờ tay vào túi tiền, anh muốn chơi nhạc ư? Họ bình thản nghe nhưng sắp đến lúc quyên tiền thì họ lỉnh hoặc đóng cửa lại.

Trong những lối đi dạo chơi ở vùng suối nước nóng có những chỗ người ta gọi là phòng khách, đó là những lùm cây cao mà những người đến chữa bệnh ngồi bên dưới vài tiếng đồng hồ để được ở ngoài trời. Mattia nghiên cứu công chúng ngồi ở những phòng khách này, chúng tôi cứ theo những nhận xét đó mà tổ chức trình diễn.

Nếu thấy một người bệnh buồn rầu ngồi trên một chiếc ghế tựa mặt xanh xao, má trũng xuống, chúng tôi tránh đến ngay trước mặt họ một cách thô bạo mong lôi họ khỏi những ý nghĩ não nuột. Chúng tôi bắt đầu chơi đàn từ xa như thể chơi cho chính mình, tuy thế vẫn có ý thức chú ý xem sao. Chúng tôi liếc mắt quan sát: nếu họ giận dữ nhìn chúng tôi, chúng tôi đi chỗ khác, nếu họ có vẻ thích thú được nghe thì chúng tôi lại gần, Capi có thể mạnh dạn đưa cái bát gỗ ra mà không sợ bị đuổi.

Nhưng chủ yếu là nhờ đám trẻ con mà Mat-tia thu được những kết quả thắng lợi: nhờ cái vĩ kéo đàn mà chúng đâm ra muốn nhảy, chúng đang buồn thì Mattia làm cho chúng cười lên.

Làm sao nó làm được như vậy tôi không biết.

Chỉ biết là như thế: nó làm cho người ta vui, người ta yêu nó.

Kết quả của chiến dịch này thật là tuyệt vời:

chúng tôi thu được sáu mươi tám phrăng. Cộng với một trăm bốn mươi sáu phrăng đã có là hai trăm mười bốn phrăng. Đã đến giờ tiến về Chavanon không chậm trễ, trước đó qua Ussel nơi người ta nói đang có chợ phiên gia súc rất quan trọng.

Chợ phiên, trúng việc của chúng tôi rồi! Cuối cùng chúng tôi có thể mua con bò cái ra bò cái.mà chúng tôi lúc nào cũng nói đến, con bò mà vì nó chúng tôi đã dành dụm rất quyết liệt.

Cửa hàng quần áo cũ trước kia cụ Vitalis đưa tôi đến để sắm cho tôi bộ đồ nghệ sĩ vẫn như cũ khi tôi tìm thấy nó. Ngoài cửa vẫn đung đưa những bộ quần áo có khâu đính các giải trang sức đã khiến tôi khâm phục đến say mê, tôi cũng thấy vẫn những khẩu súng cũ, những cây đèn cũ ấy.

Tôi cũng muốn chỉ cho Mattia thấy cái nơi tôi đã khởi đầu sự nghiệp của mình bằng vai trò người đày tớ của ngài Joli - Coeur, Capi cũng nhận ra chỗ đó.

Sau khi để túi và nhạc cụ ở quán trọ mà trước đây tôi đã ở cùng cụ Vitalis, theo mọi người chỉ dẫn chúng tôi đến tìm ông thú y.

- Chúng cháu muốn mua một con bò cái cho nhiều sữa. Thưa ông thú y, chúng cháu đến nhờ ông giúp, kiến thức khoa học của ông sẽ khiến bọn lái bò không thể ăn cắp của chúng cháu được.

Tôi vừa nói vừa bắt chước điệu bộ quý phái mà cụ Vitalis vẫn dùng khi muốn chinh phục lòng người.

- Các cháu mua bò cái làm gì mới được chứ?

Tôi giải thích ngắn gọn cho ông hiểu ý định của tôi.

- Các cháu là những cậu bé tốt quá, - ông nói, - ngày mai tôi sẽ cùng các cháu ra chợ phiên, hứa với các cháu tôi sẽ chọn cho các cháu một con bò vừa tốt vừa đẹp, nhưng muốn mua được phải có tiền đấy.

Tôi không trả lời, mở chiếc mù-xoa bọc tài sản của chúng tôi ra.

- Thế thì được rồi, bảy giờ sáng mai các cháu đến đây đi với tôi.

- Thưa ông thú y, chúng cháu phải trả ông bao nhiêu tiền ạ?

- Không phải trả gì: đời nào tôi lại lấy tiền của những đứa trẻ ngoan như các cháu!

Tôi không biết làm thế nào để cảm ơn ông, nhưng Mattia có một ý hay.

- Thưa ông, ông có yêu âm nhạc không?

- Rất yêu thích, cháu ạ.

- ông có đi ngủ sớm không ạ?

Hai câu chuyện chẳng ăn khớp gì với nhau, tuy nhiên ông thú y vẫn trả lời:

- Vào lúc chín giờ vừa điểm.

- Cảm ơn ông. Xin hẹn mai gặp ông ạ..Tôi đã hiểu ý Mattia.

- Cậu định biểu diễn hòa nhạc cho ông thú y chứ gì? - Tôi nói.

- Đúng thế đấy: một khúc nhạc chiều vào lúc ông ấy sắp đi ngủ; đó chính là thứ ta làm cho những người mà ta yêu.

- Cậu có ý đó hay thật, thôi ta về quán chuẩn bị những bài nhạc sẽ chơi tối nay.

Chín giờ kém hai, ba phút gì đó chúng tôi đã ở trước nhà ông thú y, Mattia với cây vĩ cầm, tôi với cây đàn hác-pơ. Phố rất tối, vì chín giờ trăng lên nên người ta chẳng cần thắp đèn đường làm gì, các cửa hàng đóng cả, người qua lại thưa thớt.

Tiếng đầu tiên của chín giờ vừa điểm, chúng tôi vào nhịp ngay, và trong con phố hẹp tĩnh lặng này tiếng đàn của chúng tôi cất lên không khác gì trong một phòng hòa nhạc thật vang. Các cửa sổ mở ra, chúng tôi trông thấy những cái đầu đội mũ ngủ, buộc mù-xoa, buộc khăn quàng dài; từ cửa sổ nhà nọ sang nhà kia người ta gọi nhau ngạc nhiên.

Ông bạn thú y của chúng tôi ở một ngôi nhà mà phía góc có một cái tháp con rất duyên dáng, một trong những cửa sổ của cái tháp mở ra, và ông ta cúi xuống để xem ai chơi nhạc như vậy.

Có lẽ ông nhận ra chúng tôi và hiểu ý định của chúng tôi nên ông ta lấy tay ra hiệu bảo chúng tôi im.

- Tôi sẽ mở cửa cho các cháu vào chơi nhạc trong vườn. - ông nói.

Và gần như ngay lập tức cửa ra vào mở ra.

- Các cháu thật tuyệt vời, - ông vừa nói vừa bắt tay mỗi chúng tôi thật chặt, - nhưng làm như vậy là quấy rầy mọi người: chẳng lẽ các cháu không nghĩ rằng cảnh sát có thể bắt các cháu vì tội ban đêm làm ầm trên đường phố công cộng ư?

Buổi hòa nhạc của chúng tôi diễn ra trong vườn, tuy vườn không lớn nhưng xinh xắn có vòm cây leo bao phủ.

Vì ông thú y có vợ và rất nhiều con nên chúng tôi có số khán giả đông đúc vây quanh trong phút chốc; người ta thắp nến dưới giàn dây leo, chúng tôi chơi nhạc cho tới tận quá mười giờ đêm; cứ mỗi lần chơi xong một bài mọi người lại vỗ tay đề nghị chơi tiếp..Nếu ông thú y không đuổi chúng tôi về thì theo yêu cầu của bọn trẻ con hẳn chúng tôi phải chơi cho tới đêm khuya.

- Thôi để các chú bé đi ngủ, - ông nói, -ngà y mai họ phải đến đây từ bảy giờ sáng rồi.

Nhưng ông còn mời chúng tôi một bữa ăn nhẹ trước khi ra về làm chúng tôi rất dễ chịu, lúc đó để cảm ơn, Capi bèn làm vài trò vui nhộn đặc sắc nhất làm trẻ con thú quá. Đến tận gần nửa đêm chúng tôi mới ra về.

Sáng hôm sau, khi chúng tôi xuống sân quán trọ đã thấy đầy xe bò, cái nọ ngoắc vào cái kia, rồi những chiếc xe tới, từ trên xe những bác nông dân mặc quần áo ngày chủ nhật đang lấy hai tay đỡ vợ xuống đất; người nào người ấy rất phấn chấn, phụ nữ thì vuốt lại váy cho phẳng.

Trong phố một làn sóng di động chuyển về nơi chợ phiên; vì lúc ấy mới sáu giờ nên chúng tôi đi xem một lượt những con bò cái đã tới chợ để chọn trước đã.

ái chà! Những con bò cái mới đẹp làm sao!

Đủ màu, đủ cỡ, con thì béo con thì gầy, có những con đứng với bò con, có những con kéo lê dưới đất những cặp vú đầy sữa. Trong chợ phiên có cả ngựa đang hí, những con ngựa cái đang liếm cho ngựa non, những con lợn béo đang rúc vào đất đào lỗ, những con lợn sữa đang rú lên như bị người ta lột sống da chúng, rồi gà mái, rồi ngỗng... Nhưng chúng tôi cần gì! Chúng tôi chỉ để mắt nhìn vào những con bò cái, chúng vừa chịu đựng sự thẩm xét của chúng tôi vừa nhấp nháy mi, hàm hơi động đậy, bình thản nhai lại bữa ăn tối qua, không hề ngờ từ nay sẽ không còn được ăn cỏ trên đồng cỏ nơi chúng đã lớn lên nữa.

Sau nửa giờ đồng hồ đi dạo như thế chúng tôi đã tìm được mười bảy con bò cái hoàn toàn thích hợp với chúng tôi.

Bảy giờ ông thú y đã đợi chúng tôi, chúng tôi cùng ông trở lại chợ phiên, vừa đi chúng tôi vừa giải thích một lần nữa những đức tính đòi hỏi ở con bò muốn mua, tóm tắt trong hai chữ:

ăn ít nhưng cho sữa nhiều.

Mattia trỏ một con bò trắng:

- Con này tốt này.

Tôi trỏ một con bò nâu:

- Theo tôi thì con này khá hơn.

Ông thú y không đồng ý rồi đi tới một con bò thứ ba: một con bò cái nhỏ nhắn bốn chân.mảnh khảnh, lông đỏ, tai và má nâu, đôi mắt viền đen, quanh mõm có một vòng trắng.

- Đây là một con bò vùng Rouergue đúng ý các cháu đây. - ông nói.

Một người nông dân có vẻ gầy còm dắt dây buộc nó, ông thú y hỏi người đó định bán con bò bao nhiêu.

- Ba trăm phrăng.

Con bò cái nhỏ vừa đẹp vừa nhanh nhẹn có vẻ láu lỉnh này đã chinh phục chúng tôi rồi; chúng tôi đành buông hai tay xuống. Tôi làm hiệu cho ông thú y là phải sang con khác thôi, nhưng ông cũng ra dấu lại là hãy kiên trì.

Thế là một cuộc mặc cả diễn ra giữa ông và người nông dân. ông trả một trăm năm mươi phrăng; người nông dân bớt mười phrăng. ông thú y trả lên đến một trăm bảy mươi người nông dân bớt xuống còn hai trăm tám mươi.

Nhưng đến đây thì sự việc không tiếp diễn theo chiều hướng đó nữa. Đáng lẽ cứ trả giá thì ông thú y bắt đầu xem xét chi tiết con bò: chân nó quá yếu, cổ quá ngắn, sừng lại quá dài; phổi hẹp, hình dáng vú nó không đẹp.

Người nông dân trả lời là vì chúng tôi đã hiểu rõ về nó đến thế thì sẽ bớt còn hai trăm năm mươi phrăng để nó được ở trong những bàn tay lọc lõi.

Đến đây chúng tôi đâm sợ, cả hai chúng tôi hình dung đây là một con bò chẳng ra gì.

Tôi nói:

- Thôi ta đi xem con khác.

Thấy nói thế người nông dân làm một động tác cố gắng, bớt thêm mười phrăng nữa.

Và rồi cứ bớt thêm bớt thêm, giá xuống tới hai trăm mười phrăng, và dừng tại đó.

Ông thú y bằng một cú huých tay, ra hiệu để chúng tôi hiểu là ông chê không thật đâu, con bò vẫn là tuyệt hảo; nhưng hai trăm mười phrăng đối với chúng tôi là một món tiền quá lớn.

Tôi quyết định.

- Thì hai trăm mười phrăng, - tôi nói, - tưởng là xong.

Tôi giơ tay ra nắm lấy cái dây buộc bò nhưng người nông dân không chịu đưa.

- Thế còn tiền cặp tóc cho vợ tôi? - ông ta nói.

Lại tranh luận, cuối cùng chúng tôi đồng ý thêm hai mươi xu cho cặp tóc. Chúng tôi còn lại ba phrăng..Tôi lại giơ tay ra: người nông dân nắm lấy và siết chặt tay tôi như một người bạn. Chính vì là bạn nên tôi không quên chút rượu cho con gái ông ta. Rượu cho con gái mất mười xu.

Lần thứ ba, tôi muốn nắm lấy dây buộc bò, nhưng ông bạn nông dân của tôi ngăn tôi lại:

- Thế cậu có mang theo cái vòng cổ bò không đấy? - ông ta nói. - Tôi bán bò chứ có bán cái vòng cổ của nó đâu.

Tuy nhiên vì tôi là bạn, ông ta sẵn sàng nhượng cho tôi cái vòng cổ với ba mươi xu là giá rẻ.

Phải có vòng cổ mới dắt được bò chứ, tôi đành bỏ ba mươi xu, tính ra tôi chỉ còn có hai mươi xu trong người. Tôi đếm hai trăm mười ba phrăng rồi lần thứ tư đưa tay ra.

- Thế dây dắt bò của cậu đâu? - Người nông dân hỏi. - Tôi bán cái vòng cổ chứ có bán cái dây buộc đâu.

Dây buộc làm chúng tôi mất thêm hai mươi xu cuối cùng. Sau khi trả nốt, cuối cùng con bò được giao cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không có lấy một xu để mua thức ăn cho bò và cho cả chúng tôi nữa.

- Ta sẽ làm việc, - Mattia nói, - các quán cà-phê đang đông, ta chia đôi ra, chơi ở tất cả các quán, tối về sẽ thu được khối tiền.

Sau khi đưa con bò vào buộc trong chuồng ngựa của quán trọ, chúng tôi mỗi người đi làm việc ở một phía, tối về tính tiền thu được của Mattia là bốn phrăng năm mươi xăng-tim còn tôi ba phrăng.

Với bảy phrăng năm mươi xăng-tim, chúng tôi lại giàu rồi. Nhưng niềm vui kiếm được món tiền này thật quá nhỏ so với việc tiêu mất hai trăm mười bốn phrăng.

Chúng tôi yêu cầu người tớ gái trong bếp đi vắt sữa con bò để chúng tôi ăn tối bằng sữa của nó: chưa bao giờ chúng tôi được uống sữa ngon như thế. Sáng hôm sau, dậy cùng một lúc với mặt trời mọc chúng tôi lên đường đi Chavanon.

Để cho con bò đỡ mệt và đến Chavanon không muộn quá, ý tôi là ngủ lại trong ngôi làng mà tôi đã qua đêm đầu tiên của đời du hành cùng cụ Vitalis. Sáng hôm sau, từ đó ra đi chúng tôi sẽ đến má Barberin được sớm sủa.

Nhưng số phận, bấy lâu nay vẫn thuận buồm xuôi gió, bỗng trở mặt lại chúng tôi.

Chúng tôi quyết định chia ngày đi đường hôm đó làm hai phần cắt đôi ra bằng bữa trưa, chủ yếu là bữa trưa của con bò cái..Khoảng mười giờ, tìm được một nơi cỏ dày xanh mướt, chúng tôi bèn hạ túi xuống, cho con bò xuống đám cỏ đó mà ăn.

Lúc đầu tôi định cứ nắm lấy dây dắt nhưng nó tỏ ra rất yên lặng chỉ chuyên chú vào ăn, tôi bèn quấn cái dây dắt vào hai sừng nó rồi ngồi bên cạnh nó ăn bánh mì. Dĩ nhiên chúng tôi ăn xong rồi nó vẫn chưa ăn xong.

Trong khi chờ nó chúng tôi mở túi, lấy nhạc cụ.

- Này để tớ chơi cho nó nghe một điệu kèn đẩy nhé. - Mattia nói, thằng bé vốn khó lòng ngồi được yên.

Vừa nghe mấy nốt nhạc đầu tiên, con bò cái của chúng tôi ngẩng đầu lên rồi bỗng nhiên nó phi nước đại chạy mất.

Chúng tôi lập tức đuổi theo gọi nó, tôi gọi cả Capi ngăn nó lại, Capi vội nhảy vào chân nó.

Nhưng tất nhiên là không ngăn nó lại được.

Cách độ hai cây số là một ngôi làng lớn, chúng tôi dừng lại vì con bò của chúng tôi phi vào đó. Nó vào làng trước chúng tôi, do con đường thẳng tắp nên chúng tôi trông thấy được người ta ngăn nó lại và đã tóm lấy nó.

Tôi nghĩ chỉ việc đòi lại con bò, thế nhưng mọi người vây ngay lấy chúng tôi hỏi hết câu này đến câu khác: chúng tôi từ đâu tới? Lấy con bò này ở đâu?

Những câu trả lời của chúng tôi không thuyết phục nổi họ, vài giọng nói cất lên rằng chúng tôi đã ăn cắp con bò và phải cho chúng tôi vào nhà tù.

Nỗi sợ hãi đến kinh hoàng mà chữ nhà tù gây ra làm cho tôi cuống lên và vì thế làm hại tôi: tôi tái mặt, ấp a ấp úng. Vừa chạy xong lại đang thở hổn hển, tôi chịu không sao bảo vệ được mình.

Lúc đó một viên cảnh sát đi tới, mọi người bèn kể tóm tắt chuyện chúng tôi và vì thấy chưa rõ đầu đuôi nên ông ta tuyên bố hãy đưa con bò vào kho giữ đồ của cảnh sát và đưa chúng tôi vào tù đã rồi liệu sau.

Tôi muốn phản kháng, Mattia muốn nói, nhưng viên cảnh sát bắt chúng tôi phải im, nhớ lại cảnh diễn ra giữa cụ Vitalis và viên sen đầm ở Toulouse, tôi bảo Mattia hãy im và đi theo ông ta đã.

Tới nhà tù tôi hy vọng được một chút: người gác nơi làm việc của xã trưởng đồng thời là cai.ngục và là người gác đồng lúc đầu không chịu nhận chúng tôi. Viên cảnh sát ép ông ta phải mở một cánh cửa. Hóa ra lý do ông ta làm khó không muốn nhận chúng tôi là vì ông ta đang dùng nhà tù làm nơi phơi hành, hành giải đầy trên ván sàn. Người ta lục túi chúng tôi, có bao nhiêu tiền thu lấy, lấy cả những con dao, diêm của chúng tôi, trong lúc đó người cai ngục nhanh nhẹn thu gom chỗ hành lại. Sau đó họ bỏ chúng tôi đấy, cửa khóa lại với tiếng sắt thép loảng xoảng thực sự bi thảm.

Thế là chúng tôi vào tù. Trong bao lâu đây?

Cuối cùng cửa mở ra, chúng tôi thấy một ông già tóc bạc đi vào, vẻ mặt cởi mở tốt bụng làm chúng tôi thấy hy vọng ngay.

- Mấy thằng nhãi này, đứng lên chứ! - Cai ngục nói. - Hãy trả lời ngài quan tòa xét xử ngay tại chỗ đi nào.

- Được rồi, được rồi, - vị quan tòa ra hiệu cho cai ngục để ông lại một mình, - để tôi hỏi thằng bé này trước (ông lấy ngón tay chỉ tôi), đem thằng bé kia đi, giữ lấy nó tôi sẽ hỏi sau.

- Người ta buộc tội cháu lấy cắp một con bò cái đúng không? - Vị quan tòa nhìn thẳng vào mắt tôi hỏi.

Tôi trả lời chúng tôi mua con bò ở chợ phiên Ussel, tôi nói tên ông thú y đã giúp chúng tôi mua bò.

- Các cháu mua con bò này làm gì?

- Để đưa nó đến Chavanon cho bà mẹ trước đây là vú nuôi của cháu để tỏ lòng biết ơn bà đã săn sóc cháu, coi đó là một kỷ niệm về tình thương của cháu đối với bà.

- Bà tên là gì?

- Là má Barberin ạ.

- Có phải bà là vợ ông công nhân nề cách đây mấy năm bị què ở Paris không?

- Đúng đấy ạ, thưa ngài quan tòa.

Quan tòa liên tiếp hỏi tôi nhiều câu khác nữa nhưng tôi phải trả lời là nếu ông hỏi má Barberin thì mục đích của chúng tôi thế là hỏng, không còn gây cho má sự ngạc nhiên nào nữa.

Tuy nhiên, có lúng túng thật nhưng tôi lại vô cùng hài lòng: nếu như quan tòa có ý muốn hỏi má Barberin có nghĩa má vẫn còn sống.

Giữa những câu hỏi, quan tòa nói với tôi là gần đây ông Barberin đã trở lại Paris.

Điều này làm tôi vui sướng quá đến nỗi tôi tìm được những câu trả lời đầy sức thuyết phục.để làm quan tòa tin rằng chỉ cần lời khai của ông thú y là đủ.

- Thế các cháu lấy tiền ở đâu mà mua bò?

- Chúng cháu kiếm được.

Tôi giải thích làm sao mà từ Paris đi Varses, rồi từ Varses tới những suối nước nóng, chúng tôi đã dành dụm từng xu một.

- Các cháu làm gì ở Varses?

Câu hỏi này buộc tôi lại phải thuật lại câu chuyện. Khi quan tòa nghe nói tôi đã từng bị chôn vùi trong mỏ Truyère ông bảo tôi ngừng lời, rồi bằng một giọng dịu hẳn gần như bạn bè, ông hỏi tôi:

- Thế ra cháu là Rémi? - ông nhìn tôi với đôi mắt dịu dàng âu yếm.

- Vâng.

Tôi cứ tưởng ông thả chúng tôi ra nhưng ông chẳng làm gì cả, ông để tôi lại một mình, không nói gì hết. Có lẽ ông thẩm vấn sang Mattia để xem lời chúng tôi khai có phù hợp với nhau không?

Tôi cứ ngồi mà suy nghĩ khá lâu, cuối cùng ngài quan tòa trở lại với Mattia.

- Tôi sẽ cho đi hỏi tình hình ở Ussel và nếu ở đó họ khẳng định lời nói của các cháu là thực như tôi hy vọng thì mai các cháu sẽ được thả.

- Còn con bò của chúng cháu thì sao ạ? -Mattia hỏi. - Có ai vắt sữa cho nó không?

- Yên tâm các chú nhóc ạ, người ta sẽ mang cho các cháu một bát sữa to để ăn tối.

Quan tòa vừa đi khỏi, tôi thông báo cho Mattia hai tin tức làm tôi quên cả cảnh tù đày:

má Barberin còn sống còn lão Barberin đang ở Paris.

Mattia nói:

- Con bò sẽ tha hồ mà tiến vào đại thắng.

Và vui quá nó vừa nhảy vừa hát, tôi nắm lấy hai tay nó, bị niềm vui của nó lôi kéo, cả Capi, cho đến lúc đó vẫn ngồi ủ rũ lo âu trong một xó nhà, cũng tới xen vào giữa hai chúng tôi, đứng trên hai chân sau. Thế là chúng tôi cùng nhau nhảy một điệu tuyệt hay làm cho người cai ngục sợ quá, có lẽ sợ cho hành của ông ta thì đúng hơn, phải chạy vào xem có phải chúng tôi nổi loạn hay không? Cai ngục bảo chúng tôi im nhưng không phải bằng giọng thô lỗ như trước, lúc cùng vào với ngài quan tòa..Qua đó chúng tôi thấy tình thế mình không đến nỗi xấu, và chẳng bao lâu sau cai ngục mang vào một liễn sữa (sữa con bò của chúng tôi) nhưng chưa phải đã hết: còn một cái bánh mì to, một miếng thịt bê lạnh mà theo ông ta nói, là của quan tòa gửi cho.

Chưa bao giờ tù nhân lại được đối xử tử tế như thế, vừa ăn thịt bê và vừa uống sữa tôi đã thay đổi những ý nghĩ của mình về nhà tù; rõ ràng là nó khá hơn tôi hình dung nhiều!

Không gia đình - Chương 12 : Má Barberin

Tám giờ sáng cửa mở ra chúng tôi nhìn thấy ngài quan tòa đi vào cùng với ông bạn thú y của chúng tôi muốn đích thân đến giải phóng cho chúng tôi.

Quan tòa bắt tay chúng tôi còn ông thú y ôm hôn chúng tôi.

- Thôi các bạn nhỏ lên đường mạnh giỏi nhé!

Chúng tôi vào làng này thảm hại thế nào thì ra đi oai hùng như thế, đầu ngẩng cao tay dắt bò. Những người nông dân đứng trước cửa nhìn chúng tôi với ánh mắt thân thiện.

Chẳng bao lâu chúng tôi tới ngôi làng mà trước đây tôi đã dừng lại cùng cụ Vitalis vào cái đêm đầu tiên của cuộc sống chung.

Từ đây chỉ còn phải qua một khoảng đất truông nữa thôi là tới cái dốc xuống Chavanon.

Qua con phố chạy qua làng một ý nghĩ bỗng nảy ra làm tôi phải bảo cho Mattia ngay..- Cậu biết đấy tớ đã hứa cho cậu ăn bánh xèo ở nhà má Barberin, nhưng muốn làm bánh xèo phải có bơ, bột và trứng.

- Ngon quá nhỉ.

- Ngon hẳn đi ấy chứ, rồi cậu sẽ thấy; cuộn lại ăn ngập miệng luôn. Nhưng ở nhà má Bar-berin chắc gì đã có bột và bơ vì má không giàu đâu, hay là ta đem tới?

- Phải đấy, ý hay đấy.

Tôi vào cửa hàng thực phẩm khô mua nửa ki-lô bơ, hai ki-lô bột, rồi chúng tôi tiếp tục đi.

Còn mười cây số, rồi còn tám, còn sáu; có điều lạ là càng đến gần má Barberin con đường càng dài ra chứ không như ngày tôi xa má.

Nhưng tôi vô cùng xúc động và bồn chồn, chốc chốc tôi lại xem đồng hồ.

- Nơi này đẹp đấy chứ? - Tôi bảo Mattia.

Chúng tôi đã tới đỉnh đồi nơi bắt đầu con đường dốc với nhiều đoạn chữ chi dẫn xuống Chavanon, con đường đi qua nhà má Barberin.

Chỉ vài bước nữa là chúng tôi tới nơi tôi đã xin phép cụ Vitalis được ngồi lên cái ụ đất nhìn về cái nhà mà tôi tưởng không bao giờ còn trông thấy nữa.

- Cầm dây dắt bò này. - Tôi bảo Mattia.

Tôi nhảy phắt một cái lên ụ đất: chẳng thấy gì thay đổi trong thung lũng của chúng tôi cả.

- Gì thế? - Mattia hỏi.

Nó đến gần tôi.

- Theo tay tớ chỉ này, - tôi bảo nó, - đấy là nhà má đấy.

Đúng lúc này một đám khói màu vàng bốc lên từ ống khói và vì không có gió nó bốc thẳng lên không trung theo dọc sườn đồi.

- Má Barberin thế là có nhà. - Tôi nói.

Một ngọn gió nhẹ thổi qua cây lá làm cột khói vỡ ra tỏa vào mặt chúng tôi: làn khói có mùi lá dẻ.

Bỗng nhiên nước mắt tôi ứa ra.

- Thôi đi xuống mau lên. - Tôi nói.

- Nếu má Barberin ở nhà thì ta làm sao thu xếp để má ngạc nhiên được nhỉ? - Mattia hỏi.

- Cậu sẽ vào trước: cậu nói là ông hoàng gửi tới cho má con bò, khi má hỏi ông hoàng nào, tớ sẽ xuất hiện.

Vừa tới chỗ ngoặt ngay trên căn nhà, chúng tôi nhìn thấy một chiếc khăn quàng trắng hiện.ra trong sân: đó là má Barberin, má mở cửa rào ra rồi đi về phía làng.

Tôi biết theo thói quen của má Barberin cửa chỉ cài then mà thôi, chúng tôi có thể vào trong nhà được; nhưng trước hết phải cho con bò vào chuồng đã. Tôi bèn đi vào chuồng bò xem sự tình ra sao thì thấy chất đầy những bó củi. Tôi gọi Mattia, hai đứa buộc con bò vào trước máng cỏ xong, mau lẹ chất tất cả các bó củi vào một góc, làm việc này cũng nhanh thôi.

- Bây giờ, - tôi bảo Mattia, - chúng ta vào trong nhà; tớ sẽ ngồi bên góc lò sưởi cho má Barberin thấy tớ ở đó. Thanh chắn khi má đẩy bao giờ cũng kêu lên ken két, cậu sẽ kịp trốn vào sau giường cùng với Capi, má chỉ nhìn thấy mình tớ, cậu thử tưởng tượng xem má sẽ ngạc nhiên đến thế nào?

Sự việc xảy ra đúng như thế. Chúng tôi vào nhà, tôi ngồi ở lò sưởi y như ngày xưa tôi vẫn ngồi trong bao buổi tối mùa đông. Tóc tôi dài chưa cắt, tôi giấu chúng vào trong cổ áo vét, tôi thu mình lại thật nhỏ cố giống bé Rémi chừng nào hay chừng ấy.

Yên vị xong tôi nhìn chung quanh. Hình như tôi chỉ mới rời căn nhà này từ tối hôm qua, chẳng có gì thay đổi cả, mọi thứ vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Nếu tôi dám bỏ chỗ ngồi này hẳn tôi đã vui mừng tới nhìn gần từng đồ vật một; nhưng vì má Barberin có thể hiện ra bất kỳ lúc nào cho nên tôi đành ngồi im mà nhìn ngắm vậy thôi.

Bỗng nhiên tôi thấy một chiếc khăn quàng trắng, đồng thời thanh chắn kêu kèn kẹt.

- Trốn nhanh đi Mattia. - Tôi bảo Mattia.

Tôi càng thu mình nhỏ hơn.

Cửa mở ra: từ ngưỡng cửa má Barberin đã nhìn thấy tôi.

- Ai đấy? - Má hỏi.

Tôi chỉ nhìn má không trả lời, còn má, má cũng nhìn tôi.

Bỗng nhiên hai tay má run lên.

- Trời ơi! - Má thì thầm. - Có thể thế được không, Rémi ư con?

Tôi đứng dậy, chạy về phía má, tôi ôm ghì má trong hai cánh tay.

- Má ơi!

- Con trai tôi, đây là con trai tôi!

Nhiều phút sau chúng tôi mới định thần lại được và lau xong nước mắt..- Đúng rồi, - má nói, - giá má không lúc nào cũng nghĩ đến con thì má đã không nhận ra con, con thay đổi nhiều quá, trông khỏe mạnh lên nhiều!

Một tiếng hít hít nghẹn ngào làm tôi nhớ ra Mattia, tôi gọi nó, nó đứng lên.

- Đây là Mattia, em trai con.

- A! Thế ra con tìm được cha mẹ rồi à? -Má Barberin kêu lên.

- Không, con muốn nói đây là bạn con, bạn thân của con, còn đây là Capi, cũng là bạn con, bạn thân của con; chào má của chủ mày đi nào Capi!

Capi đứng thẳng lên trên hai chân sau, một chân trước để lên chỗ trái tim, nó cúi chào rất trân trọng làm cho má Barberin phải phì cười và khô nước mắt.

Mattia ra hiệu cho tôi nhớ lại điều bất ngờ chúng tôi muốn dành cho má.

- Má ơi, - tôi bảo má Barberin, - ta ra sân chơi một chút đi.

- Ta cũng có thể ra xem cái vườn của con nữa, má vẫn giữ y nguyên như con sắp xếp trước kia để khi về nhà con vẫn thấy nó như thế vì má vẫn tin thể nào con cũng trở về.

Đã đến lúc rồi.

- Thế còn chuồng bò, - tôi nói, - nó vẫn không có gì thay đổi từ khi Roussette đi hả má?

- Dĩ nhiên là không rồi, má chất củi vào đó.

Vừa vặn chúng tôi đứng trước chuồng bò, má Barberin đẩy cửa, ngay lúc đó con bò của chúng tôi, đang đói tưởng có người đến cho ăn, bắt đầu rống lên.

- Một con bò cái! - Má Barberin kêu lên.

Lúc đó không còn nhịn được nữa, tôi và Mattia cười phá lên.

Má Barberin ngạc nhiên nhìn chúng tôi.

- Đó là một điều bất ngờ phải không má? -Tôi nói.

- ôi! Con trai yêu quý! - Má Barberin vừa kêu lên vừa ôm hôn tôi.

Rồi chúng tôi đi vào trong chuồng bò để cho má Barberin có thể xem kỹ con bò của mình.

Mỗi một phát hiện lại làm má reo lên:

- Con bò đẹp biết chừng nào!

Bỗng nhiên má dừng lại nhìn tôi:

- ái chà! Thế ra con đã giàu rồi ư?

- Đúng thế đấy má ạ, - Mattia cười nói, -chúng con còn năm mươi tám xu..Má Barberin lại có dịp nhắc lại điệp khúc chỉ có điều hơi khác đi một chút:

- Những đứa con trai ngoan thật là ngoan!

Điều này làm tôi có một niềm vui êm dịu trong lòng: má đã nghĩ đến Mattia và trong tim má, má đã gắn bó chúng tôi lại với nhau.

Trong lúc này con bò tiếp tục rống.

Mattia nói:

- Nó đòi vắt sữa đấy ạ!

Không cần nghe thêm nữa tôi chạy vào lấy cái xô bằng sắt tây đã cọ rửa kỹ.

Má Barberin hài lòng không biết thế nào mà kể khi thấy sữa đầy đến hai phần ba xô.

- Má nghĩ con bò này cho nhiều sữa hơn Roussette. - Má nói.

Sữa vắt xong con bò được thả ra sân ăn cỏ, chúng tôi vào nhà, mang theo xô sữa rồi, tôi đem bơ và bột đặt lên bàn, vào chỗ dễ nhìn thấy nhất.

Thấy thế má Barberin lại reo lên nhưng tôi đành thật thà ngắt lời má:

- Má ơi, - tôi nói, - nỗi bất ngờ này không những dành cho má mà cho cả chúng con, chúng con đói đến chết được và chỉ mong được ăn bánh xèo. Má còn nhớ vào ngày thứ ba béo cuối cùng của má con ta, ta bị ngắt quãng như thế nào không? Và chỗ bơ má đi vay để làm bánh xèo cho con đã bị sài phí phạm như thế nào vào việc nấu với hành trong nồi không? Lần này ta sẽ không bị ai làm phiền nữa.

- Con biết là Barberin đi Paris rồi à?

- Vâng.

- Thế con có biết ông ấy đi Paris làm gì không?

- Không ạ.

- Đi vì việc có lợi cho con đấy.

- Cho con? - Tôi sợ hãi nói.

Nhưng trước khi trả lời má nhìn Mattia như thể không muốn nói trước mặt nó.

- ồ, má cứ nói trước mặt Mattia. - Tôi bảo.

- Nhưng giải thích ra thì dài lắm. - Má nói.

- ông ta liệu có về ngay không?

- ồ! Không đâu. Chắc chắn là khác.

- Thế thì có gì mà vội. Má hãy làm bánh xèo cho chúng con trước đã.

- ở nhà không có gà mái...

- Chúng con không mang trứng sợ vỡ. Má có đi vay được ở đâu đây không?.Má có vẻ lúng túng, tôi hiểu ngay chắc má đã đi vay thường xuyên.

- Thôi để con đi mua thì hơn. Con chạy đi ngay đây. - Tôi nói.

Tôi mua một tá trứng và một miếng mỡ. Khi tôi trở lại chỉ còn việc nhào trứng vào bột.

- ái chà! - Má Barberin vừa đánh trứng thật mạnh vừa hỏi tôi, - tại sao mà bấy lâu nay tôi không cho má biết tin tức gì cả là thế nào?

- Má ơi, con biết má không phải chỉ có một mình, má lại không tự đọc được thư con nữa.

Ông Barberin làm con run lên vì sợ, ông ấy mới là chủ nhà, là người đã bán con cho một nhạc sĩ già lấy bốn mươi phrăng.

- Bé Rémi ơi, con đừng nói đến chuyện ấy nữa.

- Không phải con nói để phàn nàn gì đâu mà để cắt nghĩa cho má nghe vì sao con không dám viết thư.

Vừa nói chuyện má Barberin vừa nhào bột để làm bánh, Mattia lo nhóm lửa, tôi thì xếp đĩa, dĩa và cốc tách lên bàn, tôi đi ra chỗ vòi nước lấy một bình đầy.

Bây giờ một ngọn lửa thật đẹp đã bốc lên dưới ống khói, má Barberin bắc xoong lên. Mùi bánh xèo tỏa khắp gian phòng và chẳng bao lâu chúng tôi đã được cắn ngập răng thứ bánh ngon lành ấy.

- ôi! Bánh mới ngon làm sao! - Mattia còn đầy miệng, nói.

Khi cái liễn đã hết sạch, Mattia, biết má Bar-berin không muốn nói chuyện trước mặt nó, bèn bảo là nó muốn xem con bò ra sao, để hai người chúng tôi lại với nhau.

Nếu tôi có ý đợi đến tận lúc này không phải vì tôi không sốt ruột, chẳng qua chỉ vì tôi tập trung tất cả mọi chú ý vào bánh xèo để quên nỗi bận tâm đó đi mà thôi.

Barberin làm gì ở Paris?

Khi Mattia đã ra ngoài, tôi hỏi má Barberin như vậy.

- Con trai ơi, hình như gia đình con tìm con.

- Má nói.

- Ai tìm cơ ạ? ồ, con xin má, má hãy nói mau đi!

Rồi cảm thấy hình như mình điên, tôi liền kêu lên:.- Chính là Barberin đi tìm con chứ ai, để rồi lại bán con đi một lần nữa; nhưng đừng hòng lấy lại được con!

- Con ơi, chúng ta hãy biết điều, hãy nghe lời má nói đây và đừng có sợ nữa. Đây là những điều tận tai má nghe thấy. Thứ hai tới là đầy một tháng, má đang làm việc trong phòng làm bánh mì bỗng có một ông đi vào nhà, Barberin lúc đó đang ở trong nhà. "Có phải ông là Bar-berin không?" ông ta hỏi. "Vâng", Jérôme đáp.

"Có phải ông là người đã tìm thấy một đứa bé ở Paris chỗ đại lộ Breteuil không, và chịu trách nhiệm trông nom nó không?" "Vâng." "Thế thằng bé đó đâu?" "Bận gì đến ông cơ chứ?" Jérôme trả lời.

Nếu như tôi nghi ngờ sự thành thực của má Barberin thì tôi cũng phải thừa nhận câu trả lời này thật tử tế, câu trả lời mà má đã nghe được cũng như đã thuật lại với tôi.

- Con biết đấy, - má nói, - ở chỗ làm bánh mì nghe rõ lắm, hơn nữa nó lại là việc về con, nên má rất muốn nghe. Để nghe rõ hơn má lại gần, nhưng má lại giẫm vào một cành cây gãy rắc một cái. "Không phải chỉ có mình chúng ta thôi ư? " ông kia hỏi. "Đó là vợ tôi", Jérôme bảo. "ở đây nóng quá ta ra ngoài nói chuyện hơn", ông kia nói. Thế là cả hai đi ra.

Ba bốn giờ sau Jérôme mới trở về một mình.

Con thử tưởng tượng xem má sốt ruột đến thế nào muốn biết Jérôme và ông kia, có thể là cha con, đã nói với nhau những gì, nhưng Jérôme không trả lời tất cả những gì má hỏi. Jérôme chỉ nói là ông ấy không phải cha con nhưng thay mặt gia đình con đi tìm con.

- Thế gia đình con ở đâu hả má? Gia đình đó thế nào? Con có cha, có mẹ chứ?

- ấy má cũng hỏi Jérôme như con ấy, nhưng ông bảo là không biết. Rồi Jérôme bảo là ông đi Paris tìm người nhạc sĩ đã thuê con và đã cho địa chỉ ở phố Lourcine. Từ hôm ấy đến nay má chẳng được tin tức gì của Jérôme cả. ông kia cho Jérôme một trăm phrăng và có lẽ sau đó còn cho tiền tiếp nữa. Cái đó cộng với những tã lót xưa bọc con khi người ta tìm thấy con chứng tỏ cha mẹ con là người giàu có.

Đúng lúc này Mattia đi qua cửa, tôi gọi nó:

- Mattia này, tớ có một gia đình.

Nhưng lạ một cái là nó không chia sẻ niềm vui này cùng tôi..Chúng tôi đi ngủ sớm, Mattia ngủ ngay. Còn tôi không sao ngủ được, hoang mang vì những ý nghĩ tối tăm.

Gia đình tôi tìm tôi, nhưng để tìm được gia đình, tôi phải tìm hỏi lão Barberin. Điều này làm cho niềm vui của tôi tối sầm lại, tôi những muốn lão Barberin đừng xen vào hạnh phúc của tôi làm gì. Tôi không quên những lời lão nói với cụ Vitalis: "Ai nuôi đứa trẻ này sẽ có lợi, nếu không tính thế thì tôi nuôi nó làm gì." Chính vì vậy mà tôi có những tình cảm xấu đối với lão.

ấy thế mà tôi lại phải tìm cho được lão để lão dẫn tôi về gia đình tôi.

Rõ ràng đối với tôi có một gia đình là niềm vui quá lớn không ngờ tới rồi; tuy nhiên niềm vui này đến với tôi trong những điều kiện không khỏi pha lẫn buồn bã. Tôi vẫn hy vọng có thể sống nhiều ngày hạnh phúc bên má Barberin, thế nhưng ngay ngày mai chúng tôi đã lại phải lên đường rồi.

Rời khỏi nhà má Barberin tôi còn phải đi đến bờ biển ở Esnandes để gặp chị étiennette, thăm Benjamin ở Saint-Quentin rồi sau đó còn phải đi Dreuzy ở Nièvre, đem cho em Lise tin tức của anh chị em; thế mà tôi phải từ bỏ các chuyến đi này!

Suốt đêm tôi cứ xoay đi xoay lại cái ý nghĩ này, lúc thì tự bảo không thể bỏ chị étiennette cũng như Lise, lúc thì ngược lại cho rằng phải chạy về Paris càng nhanh càng hay để gặp lại gia đình tôi. Cuối cùng tôi ngủ thiếp đi mà chưa đi đến một kết luận nào.

Buổi sáng khi cả ba chúng tôi đều có mặt đông đủ, cả má Barberin, tôi và Mattia bên lò sưởi nơi sữa con bò của chúng tôi đang được hâm nóng, chúng tôi bàn bạc với nhau để đi đến quyết định.

Thảo luận khá lâu, ai cũng tham gia ý kiến, cuối cùng quyết định là tôi sẽ viết thư cho chị étiennette và cho Benjamin, nhưng chúng tôi sẽ đi thăm Lise vì em không biết đọc nhất là tôi lao vào cuộc hành trình này chính là vì em.

Chúng tôi nhất trí hôm sau sẽ ra đi.

Một lần nữa tôi lại buồn vì chia ly; nhưng ít nhất lần này tôi rời Chavanon không như lúc đi theo cụ Vitalis. Tôi có thể ôm hôn má Barberin và hứa với má sẽ cùng cha mẹ tôi về thăm má..Một lần nữa chúng tôi lại đi trên những con đường lớn, túi trên vai, Capi chạy trước; chúng tôi bước những bước dài. Nếu không buộc phải kiếm cơm hàng ngày có lẽ tôi đã rảo bước thật nhanh, nhưng có Mattia ở bên để đưa tôi trở về với thực tại.

Hơn nữa ngoài miếng bánh mì hàng ngày ra, còn có một lý do nữa buộc chúng tôi phải thu nhập càng nhiều càng tốt. Tôi muốn em Lise của tôi cũng sung sướng như má Barberin: tôi muốn tặng em một món quà. Đó là một con búp bê.

Để tới nhà bà cô của Lise chỉ việc đi theo con sông đào bởi vì chồng cô Catherine làm người coi cống nên gia đình họ ở trong một cái nhà xây ngay bên cạnh cái cống mà ông phải coi.

Chúng tôi nhanh chóng tìm ra cái nhà đó, nó nằm ngay rìa làng, trên một bãi cỏ có trồng nhiều cây to.

Tim tôi đập liên hồi khi tới gần. Ra hiệu cho Mattia, tôi cầm lấy đàn hác-pơ và chơi những nốt nhạc đầu tiên của bài ca Na-pô-li nhưng không hát lên sợ tiếng tôi làm lộ tẩy...

Chỉ một chút xíu sau cửa mở và Lise đã ở trong tay tôi. Mọi người đưa chúng tôi vào nhà, sau khi cô Catherine ôm hôn tôi bà bày ra hai bộ đồ ăn. Nhưng tôi xin bà sửa soạn ba bộ.

- Nếu cô cho phép, - tôi nói, - cháu có một người bạn nhỏ đi cùng.

Và tôi rút con búp bê trong chiếc túi đeo lưng ra, tôi đặt nó ngồi trên chiếc ghế dựa bên cạnh chiếc ghế của Lise.

Cái nhìn của cô bé nhìn tôi, suốt đời tôi không quên.

Tôi mà không vội đi Paris hẳn tôi phải ở lại thật lâu với Lise, chúng tôi có biết bao chuyện để nói mà chỉ có thể nói được quá ít với thứ ngôn ngữ của chúng tôi mà thôi!

Phải từ biệt Lise, quá vội, để lại lên đường.

Hết chặng đường này tới chặng đường khác, cuối cùng trở lại cái trại mà chúng tôi đã tổ chức buổi hòa nhạc đầu tiên cho đám cưới nhảy. Hai vợ chồng mới cưới nhận ra chúng tôi. Người ta cho chúng tôi ăn tối và ngủ nhờ.

Từ đó, sáng hôm sau chúng tôi vào Paris, vừa vặn đúng sáu tháng mười bốn ngày kể từ khi rời Paris.

Mattia và tôi thỏa thuận với nhau để một mình tôi đi tìm Barberin sau đó chúng tôi sẽ gặp nhau trước gian giữa nhà thờ Đức Bà..Tôi đã ghi trên giấy địa chỉ người chủ cho Barberin thuê nhà; nhưng cẩn thận như vậy cũng chẳng cần vì tôi nhớ rõ chẳng khó khăn gì: khách sạn Cantal, ngõ Austerlitz.

Không chậm trễ tôi đến ngay khách sạn Can-tal, một nơi chỉ có cái tên là khách sạn mà thôi, chủ nó là một người đàn bà dở điếc.

- Tôi muốn tìm ông Barberin từ Chavanon, ông ấy trọ ở đây có phải không ạ?

Bà ta không trả lời chỉ giơ hai tay lên trời một cách đột ngột đến nỗi con mèo đang ngồi trong lòng bà hốt hoảng nhảy vọt xuống đất.

- ôi chao! - Bà ta nói.

Rồi nhìn tôi trong khi đầu bà càng rung lên mạnh hơn:

- Cậu là thằng bé ông ấy tìm chứ gì? - Bà ta hỏi.

Tim tôi thắt lại.

- Barberin!

- Chết rồi!

Tôi phải tựa mình vào cây đàn hác-pơ.

- ông ấy chết rồi ư? - Tôi gào to lên để cho người đàn bà nghe thấy nhưng giọng tôi khàn đặc đi vì quá xúc động.

- Chết tám ngày nay ở nhà thương Saint-An-toine rồi.

Tôi sững sờ cả người; Barberin mà chết thì làm sao tìm được gia đình tôi bây giờ?

- Thế ra cậu chính là thằng bé ấy đấy à? -Bà già tiếp tục nói. - Thằng bé mà ông ta đi tìm để trả lại cho gia đình giàu có của nó đấy à?

Tôi lại hy vọng, tôi bấu lấy câu hỏi ấy.

- Bà biết ư?... - Tôi hỏi.

- Không biết gì hơn ngoài những điều tôi vừa nói với cậu, cậu con trai, tôi muốn nói quý ông trẻ trung ạ. Barberin bí mật ghê lắm, chỉ muốn tiền thưởng dành riêng cho mình thôi.

Trời hỡi, Barberin chết mang theo cái bí mật về sự ra đời của tôi rồi.

Hai tay ôm đầu, tôi tìm hết cách cũng không thấy ý tưởng nào cho dù chỉ để hướng dẫn tôi hành động. Hơn nữa tôi quá hoang mang, quá xúc động đến nỗi không thể nào suy nghĩ ra đầu ra đuôi được.

- Có một lần ông ta nhận được một bức thư, một bức thư nặng lắm. - Bà ta nghĩ một lúc lâu rồi nói.

- Thư từ đâu đến ạ?.- Tôi không biết. Người đưa thư đưa cho ông ta, tôi không nhìn con tem.

- Liệu bây giờ còn tìm thấy bức thư đó không?

- Chúng tôi đã lục khắp trong đồ đạc của ông ta, không phải vì tò mò đâu, tất nhiên, mà để báo cho vợ ông ta, nhưng không tìm thấy.

Đồ đạc trong bệnh viện cũng vậy. Nếu ông ta không nói từ Chavanon đến thì cũng chịu không báo được cho vợ ông ta.

Tôi đứng im khá lâu không nói nên lời. Biết hỏi gì nữa bây giờ? Bà ta đã nói ra tất cả những điều mình biết.

Tôi cảm ơn và đi ra cửa.

- Nếu cậu không có chỗ trọ, - bà già bảo tôi, - thì cậu cứ đến đây, không phải nói khoe đâu, ở đây rất tốt, chúng tôi là một nhà lương thiện. Nên nhớ rằng nếu gia đình cậu tìm cậu vì không thấy tin tức gì của Barberin họ phải tìm hỏi ở đây chứ ở đâu, cậu sẽ có sẵn ở đây mà đón họ. Thế có phải lợi không, cậu đi chỗ khác thì ai biết ở đâu mà tìm? Cậu thử nghĩ mà xem, hai thanh niên trẻ tuổi trên hè phố Paris, có thể gặp nhiều chuyện rắc rối lắm chứ! Nhiều khách sạn chẳng ra sao chứ không như ở đây, yên tĩnh lắm, khu này là thế.

Tôi không tin là khu này có lợi thế về mặt yên tĩnh; kiểu gì thì khách sạn Cantal cũng thuộc loại bẩn thỉu khốn khổ nhất chỉ nhìn đã thấy, và trong cuộc đời du mục của tôi, tôi đã trông thấy khối khách sạn khốn khổ như thế này.

Nhưng lời đề nghị của bà chủ cần phải xem xét.

Hơn nữa lúc này không nên tỏ ra khó tính, cần phải tiết kiệm. ái chà! Mattia thật có lý khi nghĩ rằng phải kiếm tiền! Giả sử không có mười bảy phrăng trong túi thì chúng tôi biết làm sao đây?

- Thuê một phòng cho tôi và bạn tôi thì hết bao nhiêu? - Tôi hỏi.

- Một ngày mười xu.

- Được, thế thì tối chúng tôi quay lại.

- Các cậu nên về sớm, ban đêm Paris chẳng hay ho gì đâu.

Tôi chỉ còn việc đến gặp Mattia ở nơi đã hẹn. Hãy còn sớm, tôi ngồi vào một góc đợi nó.

Chẳng bao lâu tôi nghe thấy một tiếng sủa vui mừng, trước khi kịp đứng lên Capi đã lao vào lòng tôi liếm tay tôi. Tôi ôm nó trong tay. Mattia ngay sau đó hiện ra.

- Thế nào? - Từ xa nó đã kêu lên. - Barberin chết mất rồi.

Nó chạy để đến với tôi cho nhanh, tôi vội kể tóm tắt cho nó nghe những gì mình biết. Bằng những lời thật âu yếm nó cố tìm cách thuyết phục tôi đừng tuyệt vọng.

- Nếu cha mẹ cậu đã tìm thấy Barberin nay không nghe tin tức gì của lão nữa hẳn họ phải tìm xem lão ra sao chứ, dĩ nhiên họ sẽ đến khách sạn Cantal. Ta đi đến đấy đi, coi như chỉ chậm có vài ngày thôi, thế thôi.

Nếu như khách sạn Cantal là một căn nhà lương thiện thì nó chẳng đẹp đẽ gì. Chúng tôi ở trong một buồng nhỏ xíu áp mái, đèn thì tỏa khói mù. Buồng chật đến nỗi một trong hai chúng tôi buộc phải ngồi xuống giường khi người kia đứng lên. Cái bánh mì tròn phết đầy phó-mát trong bữa tối của chúng tôi chẳng phải tiệc tùng gì nhưng cuối cùng thì tất cả đều chưa phải đã hết.

Không gia đình - Chương 13 : Tìm kiếm

Tôi bắt đầu ngày hôm sau bằng việc viết thư cho má Barberin kể về những gì mình biết, việc này không phải nhỏ. Chẳng nhẽ khô khan bảo má là chồng má đã chết?

Cuối cùng tốt xấu gì chăng nữa thì tôi cũng viết xong bức thư nhắc đi nhắc lại niềm yêu thương không gì thay đổi của tôi đối với má.

Tôi đề nghị má cho tôi hay nếu như gia đình tôi có viết thư hỏi tin tức ông Barberin, nếu người ta cho địa chỉ thì má chuyển cho tôi.

Bốn ngày sau tôi nhận được thư má Barberin nhờ người viết cho tôi.

Má cho tôi biết má đã được báo trước về cái chết của ông chồng, trước đây ít lâu má có nhận được một bức thư của ông ta. Má nghĩ bức thư này có ích cho tôi nên gửi cho tôi, thư có những chỉ dẫn về gia đình tôi.

- Nhanh lên, Mattia, ta cùng đọc nào..Tay tôi run lên, tim tôi thắt lại khi đọc bức thư đó.

Nhà nó yêu quý của tôi, Tôi đang nằm bệnh viện, ốm lắm khó lòng còn dậy được. Tôi muốn nói rằng nếu như tôi không qua khỏi thì nhà viết cho Hãng Greth và Galley, Quảng trường Green, Lincohn’s lnn, Londres, đó là những người của Hãng Luật có nhiệm vụ đi tìm Rémi. Nhà nó bảo họ là chỉ có nhà mới có thể cho được tin tức đứa bé và cẩn thận bắt họ phải trả tiền vì những tin tức này.

Tiền này phải được dùng để làm nhà nó sung sướng trong tuổi già. Nhà nó sẽ biết Rémi ra sao khi viết thư cho ông Acquin, vốn làm nghề làm vườn nay bị giam trong nhà tù Clichy ở Paris.

Tôi đã gặp ông này. Hãy nhờ ông mục sư viết tất cả mọi thư từ vì trường hợp này không thể tin ai được. Đừng làm gì cả trước khi biết tôi không còn sống nữa. ạm hôn nhà nó lần cuối cùng.

Barberin Tôi chưa kịp đọc đến chữ cuối của bức thư thì Mattia đã nhảy dựng lên:

- Tiến về Londres!

Tôi vẫn đang còn ngạc nhiên vì những gì đã đọc thành ra cứ nhìn Mattia chẳng hiểu gì cả.

- Bởi vì thư của má Barberin bảo là những người hành nghề luật Anh chịu trách nhiệm đi tìm cậu, điều đó có nghĩa cha mẹ cậu là người Anh. Phải đi sang Anh, đó là cách tốt nhất để gần lại cha mẹ cậu. Ta có đủ tiền làm cuộc hành trình. Ta sẽ xuống tàu ở Boulogne, tàu đưa ta tới Londres. Không tốn kém lắm đâu.

- Thế thì ta đi. - Tôi bảo.

Chỉ trong hai phút chúng tôi gài xong túi, xuống nhà chuẩn bị đi. Tôi không muốn đi khỏi Paris mà không thăm cha Acquin và cho ông biết những tin tức trên.

Ông rất mừng biết tôi sắp tìm lại được gia đình.

- Mong sớm gặp lại con, con trai ạ, may mắn nhé! Nhớ viết thư cho cha.

Chúng tôi mất tám ngày để đi từ Paris đến Boulogne vì dọc đường còn dừng lại đôi chút ở những thành phố chính làm vài cuộc biểu diễn.

Tới Boulogne trong túi chúng tôi có hơn ba mươi phrăng, có nghĩa nhiều hơn số tiền cần chi cho đi tàu.

Tàu đi Londres khởi hành bốn giờ sáng hôm sau, ba giờ rưỡi chúng tôi đã lên tàu và cố gắng.ngồi sao cho thật ổn sau một đống thùng che chúng tôi khỏi làn gió bấc lạnh lẽo và ẩm thấp.

Dưới ánh sáng của mấy cái đèn tỏa khói, chúng tôi nhìn thấy người ta chất hàng lên tàu:

ròng rọc nghiến lên ken két, những chiếc thùng thả xuống hầm tàu kêu răng rắc, các thủy thủ thỉnh thoảng lại văng ra mấy tiếng khàn khàn; nhưng bao trùm lên hết thảy mọi ồn ào là tiếng lạo xạo của hơi nước thoát ra từ đầu máy từng đám trắng nho nhỏ một. Một hồi chuông gióng lên từng tiếng một, thừng chão rơi xuống nước, chúng tôi lên đường.

Sau một cuộc hành trình trên biển với sóng cả chưa từng thấy, qua đó Mattia đã hiểu thế nào là say sóng, chúng tôi vào tới những làn nước êm ả của sông Tamise và đến Londres.

Chúng tôi lên khỏi tàu. Thành phố chìm ngập trong một làn sương mù dày đặc, phố xá tối tăm lầy lội đầy những xe cộ. Chúng tôi cứ đi tới, chốc chốc lại hỏi đường những người qua lại mà mình gặp. Chúng tôi lạc vào một đám phố xá chằng chịt toàn những phố nhỏ yên tĩnh.

Trong khi Mattia hỏi đường một cái bóng đi qua thì tôi dừng lại, tôi không thở được nữa và tôi run lên.

Rồi chúng tôi lại tiếp tục đi, cuối cùng dừng lại trước một cái biển đồng trên đó đọc được những chữ sau đây: Greth và Galley.

Mattia tiến lên giật chuông, nhưng tôi ngăn tay nó lại:

- Từ từ đã, để tớ lấy lại can đảm đã.

Một lúc sau, nó giật chuông, chúng tôi bước vào một căn phòng có hai ba người đang ngồi viết dưới ánh sáng của nhiều cây đèn ga.

Mattia ngỏ lời với một trong mấy người này.

Tên Barberin gây được tác dụng nhanh chóng:

người ta đưa chúng tôi vào một gian phòng đầy sách và giấy tờ, có một ông ngồi trước cái bàn giấy, một ông khác mặc áo dài và đeo tóc giả đang nói chuyện với ông ta.

Người đưa chúng tôi vào giải thích vài lời ngắn gọn cho ông ta biết chúng tôi là ai.

- Ai là người trong hai cậu đã được Barberin nuôi? - ông ngồi trước bàn giấy hỏi bằng tiếng Pháp.

Tôi tiến lên một bước:

- Thưa ông, tôi ạ.

- Barberin đâu?

- ông ấy chết rồi ạ..Tôi kể lại tóm tắt vì sao tìm đến các ông đây. Tôi rất sốt ruột đến lượt mình đặt ra các câu hỏi nhất là một câu đang cháy bỏng trên môi tôi, nhưng không sao có thì giờ. Đầu tiên phải kể lại tôi đã được Barberin nuôi như thế nào, bị bán cho cụ Vitalis ra sao, rồi được gia đình Acquin đón nhận ra sao, sau đó lại bị vứt ra đường trôi nổi trong cuộc đời như thế nào.

Ông ta ghi chép lại hết và nhìn tôi với vẻ mặt khiến tôi đâm lúng túng; phải nói khuôn mặt ông ta rắn đanh lại, cái cười nom có cái gì bẩn thỉu bên trong.

- Thưa ông gia đình tôi sống ở Anh ạ?

- Nhất định rồi, ở Anh, ít nhất là trong lúc này. Tôi sẽ cho người dẫn cậu đi.

Ông ta bấm chuông. Cửa mở ra.

- à! Tôi quên, ông kia nói, họ của cậu là Dricsoll, tên họ cha cậu là như thế.

Mặc dầu khuôn mặt ông ta trông rất khó chịu tôi những muốn nhảy lên bá cổ ông ta nếu ông ta để tôi có thì giờ; nhưnh ông ta đã lấy tay chỉ chúng tôi ra cửa.

Người thư ký đưa chúng tôi đến nhà cha mẹ tôi là một gã đàn ông bé nhỏ đã già trông quắt queo, mặt mũi nhăn nheo, mặc bộ quần áo đen đã sờn và lên nước bóng loáng, thắt cà-vạt trắng.

Lão ta nhìn chúng tôi và cứ "sịt, sịt" với chúng tôi như sịt chó vậy, có ý bảo chúng tôi đi theo lão. Không mấy chốc chúng tôi đi sang một phố lớn xe cộ chen chúc nhau, lão dừng một chiếc xe lại và cho chúng tôi lên xe. Lão bắt chuyện với người đánh xe. Rất nhiều lần từ Bethnal Green được nhắc tới, tôi cho rằng đó là tên khu cha mẹ tôi ở. Tôi biết green tiếng Anh có nghĩa là màu xanh lá cây, tôi hình dung khu này hẳn phải trồng nhiều cây to đẹp, tôi thấy dễ chịu quá. Chắc nó không giống những phố xá bẩn thỉu ở Londres mà chúng tôi vừa đi qua để tới nơi này.

Xe lăn bánh khá nhanh trong các phố rộng, sau đó vào các phố hẹp, rồi lại tới các phố rộng, nhưng không trông thấy gì ở chung quanh cả do sương mù bao phủ chúng tôi một màu mờ đục.

Trời bắt đầu lạnh, tuy thế chúng tôi cảm thấy khó thở. Tôi nói chúng tôi có nghĩa Mattia và tôi, vì lão dẫn đường ngược lại tỏ ra rất thoải mái, lão thở mạnh, miệng há ra rồi hít vào thật mạnh, như thể vội vã tích lấy một lượng không khí lớn trong phổi lão..Tuy tôi phát sốt lên vì xúc động khi nghĩ tới chỉ chốc nữa đây sắp được ôm hôn cha mẹ, anh chị tôi, tôi rất muốn trông thấy cái thành phố mình đang đi qua. Chẳng phải nó là thành phố của tôi, tổ quốc của tôi hay sao?

Nhưng cho dù có mở to mắt đến mấy tôi cũng chẳng nhìn thấy gì hoặc hầu như không nhìn thấy gì ngoài làn ánh sáng đỏ cạch của ga cháy trong sương mù như một đám mây khói dày đặc; chỉ mờ mờ thấy được những chiếc đèn của xe ngựa đi ngược lại phía chúng tôi, thỉnh thoảng xe chúng tôi phải đứng sững lại sợ đâm vào người đi đường.

Chúng tôi đi khỏi Greth và Galley đã lâu, điều này khẳng định cha mẹ tôi sống ở miền quê.

Nhưng đáng lẽ đi vào vùng nông thôn thì chúng tôi lại đi vào những con phố càng hẹp hơn, chúng tôi nghe thấy tiếng còi đầu máy xe lửa. Bùn trong phố tràn cả vào trong xe, bắn từng mảng đen lên tận chúng tôi; một mùi nhạt nhạt bao trùm lấy chúng tôi từ đã khá lâu chứng tỏ chúng tôi đang ở trong một khu tồi tàn, có lẽ khu cuối cùng trước khi ra tới đồng cỏ của Bethnal Green. Tôi có cảm giác chúng tôi quay trở lại, thỉnh thoảng người đánh xe lại cho xe đi chậm lại tựa như không rõ mình ở chỗ nào. Bỗng nhiên ông ta dừng xe hẳn lại và lỗ nhìn ra ngoài xe mở ra.

Lúc này chúng tôi tranh luận với nhau. Mat-tia bảo tôi nó hiểu rằng lão dẫn đường không muốn đi xa hơn vào khu trộm cắp này nữa.

Cuối cùng lão thư ký cho tiền người đánh xe, lão xuống xe và một lần nữa lại "sịt, sịt" chúng tôi, rõ ràng là đến lượt chúng tôi cũng phải xuống.

Chúng tôi ở trong một con phố đầy bùn giữa sương mù. Lão dẫn đường gọi một người qua đường lại hỏi: chẳng khó khăn gì chúng tôi hiểu là lão hỏi đường.

Tôi quá bối rối đến nỗi không hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại đứng trong một căn buồng rộng được chiếu sáng bởi một cái đèn và một ngọn lửa bằng than đốt.

Trước ngọn lửa là một ông cụ già ngồi im như một pho tượng, râu bạc trắng, đầu đội một chiếc mũ trùm đầu màu đen. Một người đàn ông và một người đàn bà ngồi đối diện với nhau qua một cái bàn, người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi mặc bộ đồ nhung màu xám mặt mũi thông.minh nhưng đanh lại; người đàn bà kém độ năm sáu tuổi tóc vàng rủ xuống một chiếc khăn san kẻ ô đen trắng buộc chéo trước ngực, mắt không có tí thần nào, khuôn mặt chỉ lộ ra vẻ lãnh đạm và vô cảm. Trong phòng còn có bốn đứa trẻ, hai đứa con trai hai đứa con gái tóc đều vàng như mẹ; đứa lớn nhất khoảng mười một mười hai tuổi; đứa bé nhất chưa đến ba tuổi.

Chỉ một cái liếc mắt tôi nhìn thấy toàn bộ quang cảnh, trong khi lão thư ký già dẫn đường cho chúng tôi lên tiếng nói chuyện.

Mọi con mắt liền đổ dồn về phía Mattia và tôi, kể cả cụ già bất động, riêng đứa con gái bé tí thì chú ý đến Capi.

- Ai trong hai người là Rémi? - Người đàn ông mặc bộ đồ nhung xám hỏi bằng tiếng Pháp.

Tôi tiến lên một bước:

- Tôi ạ.

- Vậy thì ôm hôn cha con đi, con trai của cha.

- Còn bây giờ thì, - ông ta nói, - đây là ông con, mẹ con, các anh các chị em con.

Tôi bước tới chỗ mẹ tôi trước tiên, ôm bà trong hai tay, bà để mặc cho tôi hôn nhưng bà không hề ôm hôn tôi, chỉ nói với tôi vài ba lời mà tôi không hiểu gì cả.

- Đưa tay bắt tay ông đi, nhẹ nhàng thôi, ông bị liệt đấy.

Tôi cũng bắt tay các anh tôi và chị tôi, tôi muốn bế con bé con nhưng nó đẩy tôi ra vì đang bận chơi với con Capi.

Vừa đi từ người nọ sang người kia, tôi vừa tự giận mình. Sao nhỉ? Tôi không cảm thấy vui một chút nào khi cuối cùng được ở trong gia đình mình. Tôi đã chờ đợi giờ phút này với sự nóng lòng đến cháy bỏng thế mà tôi lại lúng túng, lại tò mò nhìn họ và không tìm được lời nào để nói cả.

Nhưng người ta không để tôi có thì giờ miệt mài với những cảm tưởng này lâu hơn.

- Thế còn thằng bé này là ai? - Cha tôi chỉ Mattia.

Tôi giải thích mối dây ràng buộc tôi với Mattia, tôi cố gắng đặt tất cả tình bạn vào trong những lời nói của mình.

- Được, - cha tôi nói. - Thế tại sao Barberin không tới?

- ông ấy chết rồi ạ.

Thế là cha tôi dịch cho mẹ tôi nghe những điều tôi vừa nói, tôi tưởng như mình hiểu được.là bà trả lời thế thì tốt vì bà nhiều lần nhắc đi nhắc lại hai chữ well và good mà tôi biết.

- Con không biết tiếng Anh à? - Cha tôi hỏi.

- Không ạ. Con chỉ biết tiếng Pháp và tiếng ý con học với một ông thầy mà Barberin đã cho ông ta thuê con.

- Vitalis ấy à? Tên ông này Barberin có nói với cha cách đây ít lâu khi cha sang Pháp tìm con. Chắc con lấy làm lạ tại sao suốt mười ba năm cha mẹ không đi tìm con và tại sao đột nhiên cha mẹ lại có ý định tìm Barberin. Con lại đây, gần ngọn lửa này, cha sẽ kể cho con nghe.

Nhưng, khi tôi vừa duỗi đôi chân ẩm ướt vấy bùn trước ngọn lửa thì ông tôi khạc ngay đờm về phía tôi mà chẳng nói gì cả; không cần giải thích tôi cũng hiểu được là tôi đã làm vướng ông, tôi rụt chân lại.

- Đừng để ý làm gì, ông cụ không thích ai ở trước ngọn lửa của ông cụ; nhưng nếu con lạnh con cứ sưởi, không việc gì phải bận tâm vì ông ấy.

Thấy người ta nói về ông cụ như vậy tôi choáng váng cả người.

- Con là con trai cả của cha mẹ, - cha tôi nói với tôi. - Cha mẹ lấy nhau được một năm thì sinh ra con. Khi cha lấy mẹ con, có một cô gái cứ tưởng rằng cha sẽ lấy cô ấy, đám cưới cha mẹ làm cô ta căm ghét người đàn bà mà cô ấy coi là tình địch. Để trả thù, lúc con được sáu tháng, cô ấy ăn cắp con đem sang Pháp, sang Paris bỏ con ở ngoài phố. Cha mẹ đã tìm khắp mọi nơi, nhưng không sang đến Pháp vì không thể ngờ họ đem con đi xa thế. Cha mẹ cứ tưởng con đã chết, nhưng cách đây ba tháng người đàn bà đó chết, khi hấp hối mới lộ bí mật này ra.

Cha đi sang Pháp ngay, cha đến cảnh sát quận nơi con được tìm thấy. Họ cho biết con được một người thợ nề ở Creuse nhận làm con nuôi, lập tức cha đi Chavanon. Barberin cho cha biết tất cả những gì ông ta biết. Cha không ở Pháp lâu để theo tìm cụ Vitalis được nên giao cho Barberin đi tìm giúp, cho ông ta tiền đi Paris.

Cha bảo ông ta thông báo cho những người lo việc này cho cha, tức là các ông ở hãng luật Greth và Galley, nếu như tìm thấy con. Sở dĩ cha không cho địa chỉ cha ở đây là vì cha mẹ chỉ ở Londres vào mùa đông; tới mùa ấm áp đẹp trời, cha mẹ đi khắp Anh và écosse để bán hàng lưu động.

Đó, con trai ạ, đó là tại sao cha mẹ lại tìm được con sau mười ba năm, tại sao con lại trở về được chỗ của mình trong gia đình. Cha hiểu con có.đôi chút hoảng sợ, đó là vì con không biết cha mẹ, không hiểu cha mẹ nói gì nhưng cha hy vọng con sẽ mau chóng quen thôi.

Trong khi tôi lắng nghe câu chuyện kể của cha tôi người ta bày xong bàn ăn.

- Ngồi vào bàn, hai cậu. - Cha tôi bảo.

Trước khi ngồi xuống, ông kéo chiếc ghế bành của ông tôi lại cạnh bàn ăn, rồi bản thân ông ngồi quay lưng lại ngọn lửa, ông bắt đầu cắt một khoanh thịt bò rán và tiếp cho chúng tôi hai lát to kèm theo khoai tay.

Tôi nhận thấy các anh chị tôi toàn thò tay vào ăn mà cha mẹ tôi chẳng tỏ ra bực bội gì cả.

Cơm tối xong, cha tôi nói bận chờ khách rồi ông cầm đèn đưa chúng tôi sang nhà để xe cạnh gian phòng vừa ăn: ở đó có hai cái xe to thường vẫn dùng để đi bán hàng lưu động. ông mở cửa một cái xe, chúng tôi nhìn thấy trong đó có một chiếc giường hai tầng.

- Giường của các con đây, ngủ ngon nhé!

Tôi được đón nhận vào gia đình tôi như vậy đó.

Không gia đình - Chương 14 : Cha và mẹ danh dự

Cha tôi để cây nến lại cho chúng tôi nhưng đóng bên ngoài cửa xe lại. Chúng tôi chỉ còn có việc là đi ngủ không chuyện trò gì cả như thói quen của chúng tôi vào mỗi buổi tối.

Nhưng nến cháy hết rồi mà tôi vẫn không sao ngủ được. Tôi cứ liên tiếp trở mình trong cái giường hẹp. Tôi cũng nghe tiếng Mattia cựa quậy như thế ở trên đầu tôi.

Giấc ngủ không đến. Giờ nọ nối tiếp giờ kia, tôi không biết đêm đã khuya đến đâu nữa. Bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gõ cửa nhà để xe rất mạnh, cửa này mở ra một phố ngang nhỏ, sau nhiều tiếng gõ cách quãng đều đặn, một ánh sáng tiến vào trong nhà để xe. Cha tôi mở cửa rất nhanh không tiếng động và đóng lại cũng như thế sau khi có hai người đàn ông vác những bọc rất nặng đi vào bên trong..Cha tôi để một ngón tay trên môi và dùng tay kia lúc ấy đang cầm một cái đèn chỉ cái xe trong đó chúng tôi đang nằm có ý nói đừng gây tiếng động sợ làm chúng tôi thức giấc.

Sự lưu tâm này làm tôi cảm động lắm.

Cha tôi biến đi đâu một lúc rồi trở lại cùng với mẹ tôi. Trong lúc vắng cha tôi, hai người đàn ông đã mở các bọc ra, bọc thì đầy các xấp vải, bọc thì có nào mũ nào áo dệt kim, quần đùi, tất, găng. Hai người này chắc là hai tay buôn hàng.

Cha tôi nhấc từng món hàng lên soi vào chiếc đèn đang cầm rồi đưa cho mẹ tôi, bà cầm kéo cắt đi những cái nhãn dán trên đó rồi cho các nhãn hàng vào túi áo.

Tôi thấy lạ, ngay cả giờ bán hàng cũng lạ.

Vừa xem vải vóc cha tôi vừa nói gì đó khe khẽ với hai tay kia. Tôi chỉ hiểu được hai từ bob và policemen được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.

Khi hàng hóa trong hai cái bọc đã được chia ra từng loại kỹ càng, hai người đàn ông rút khỏi nhà để xe đi vào trong nhà, chung quanh chúng tôi lại tối mịt mù như cũ.

Tôi cố hết sức tự thuyết phục mình những gì vừa trông thấy là hoàn toàn tự nhiên nhưng không sao làm nổi, những ý nghĩ đầy lo ngại làm tôi không yên, vừa lúc đó ánh đèn lại tràn ngập nhà để xe như lúc nãy.

Lúc này chỉ còn lại cha mẹ tôi. Trong khi mẹ tôi nhanh chóng bọc tất cả những thứ người ta mang đến thành hai gói, cha tôi quét một góc nhà để xe. ông lấy chổi quét rất mạnh lớp cát khô, lộ ra một cánh cửa sập, nhấc cánh cửa đó lên ông đưa hai cái gói xuống đó. Sau đó ông trèo lên, đóng cửa sập lại, lấy chổi phủ cát lên.

Công việc đó làm xong thì không ai có thể nhìn thấy đâu là cửa sập nữa, cả cha lẫn mẹ tôi lấy những mẩu rơm rạ rắc lên trên cát vì toàn bộ nền nhà để xe đều phủ đầy rơm.

Họ đi ra.

Lúc họ nhẹ nhàng khép cánh cửa vào nhà tôi thấy hình như Mattia cựa quậy trong giường tựa như nó lại đặt đầu trên gối. Nó có nhìn thấy những gì vừa diễn ra không? Tôi không dám hỏi.

Tôi sợ. Người tôi ướt đẫm mồ hôi lạnh toát.

Tôi cứ nằm như thế suốt đêm tới gần sáng mới thiếp đi trong một giấc ngủ nặng nề và bồn chồn khắc khoải..Tiếng chốt cửa mở làm tôi thức giấc, cửa xe của chúng tôi mở ra, tưởng đó là cha tôi, tôi nhắm mắt lại để khỏi nhìn thấy ông.

- Em cậu đấy. - Mattia bảo tôi. - Nó đi rồi.

Chúng tôi dậy. Chẳng ai nói với ai lời nào.

Tôi vào bếp nhưng không thấy cha mẹ tôi.

Ông tôi vẫn ngồi trước ngọn lửa trong ghế bành tựa như suốt từ tối qua không hề chuyển dịch, cô em gái lớn của tôi, Annie đang lau bàn trong khi cậu em lớn nhất của tôi, Alan, đang quét dưới đất.

Tôi đi tới gần bắt tay họ nhưng họ vẫn cứ tiếp tục công việc của mình. Tới chỗ ông tôi thì lại bị ông nhổ về phía tôi như tối qua, tôi lập tức thôi ngay.

Chúng tôi quyết định dạo chơi chung quanh một chút. Không dám đi xa lắm sợ lạc, Bethnal Green còn có vẻ ghê tởm hơn cả hôm qua trong đêm tối. Chỗ nào cũng thấy nghèo khổ ngự trị với tất cả những gì là đáng buồn nhất. Chúng tôi trở về. Mẹ tôi ngồi đó, đầu tựa vào bàn.

Tưởng bà ốm tôi chạy lại hôn bà. Bà ngẩng đầu lên, cái đầu đung đưa, rồi bà nhìn tôi nhưng không trông thấy tôi; ngửi thấy mùi rượu bách xù trong hơi thở của bà, tôi lùi lại. Bà lại gục đầu xuống giữa hai cánh tay duỗi dài trên bàn.

- Rượu gin đấy. - ông tôi nói.

Rồi ông nhìn tôi cười khẩy.

Lúc đầu tôi đứng yên; rồi mấy giây sau tôi nhìn Mattia, nó cũng nhìn tôi, nước mắt lưng tròng.

Tôi ra hiệu cho nó và chúng tôi lại đi ra ngoài.

Chúng tôi đi khá lâu, cứ thẳng trước mặt mà đi không biết là đi về đâu.

- Đến chỗ nào để ta có thể nói chuyện một chút đi. - Mattia bảo tôi.

Lúc đó chúng tôi vừa tới một công viên mênh mông có cây có cỏ xanh. Ngồi xuống một cái tôi òa khóc sà vào tay Mattia.

Sau một cơn thổn thức tôi cố hết sức trấn tĩnh lại.

- Mattia, đêm qua cậu có ngủ không? Có trông thấy...

- Trông thấy tất.

- Cậu có hiểu là thế nào không?.- Những tay bán hàng cho cha mẹ cậu không phải bán những hàng hóa mua về đâu. Cha cậu mắng họ sao không gõ cửa vào nhà mà lại gõ cửa nhà để xe, họ bảo là họ bị các bob rình, tức là cảnh sát ấy.

- Mattia, ta phải chia tay nhau thôi.

- Không bao giờ! Ta cùng đi với nhau.

- Không được! Cha mẹ tớ không là cái gì đối với cậu, nhưng đó là cha mẹ của tớ, tớ phải ở lại với họ.

- Cha mẹ gì mà lại thế! Lão già liệt kia là ông cậu ấy ư? Người đàn bà say rượu kia là mẹ cậu ấy ư?

- Mattia, đừng nói thế! Đó là cha mẹ của tớ, tớ phải tôn trọng, phải yêu họ.

- Đúng vậy nhưng nếu như họ là cha mẹ thực của cậu cơ. Nhưng họ có phải cha mẹ thực của cậu không? Cậu không giống cha cũng chẳng giống mẹ, tóc cậu đâu có vàng như tóc các anh chị cậu? Hơn nữa họ đâu có giàu để mà tiêu biết bao nhiêu tiền đi tìm con? Rémi ạ, cậu không phải con nhà Driscoll. Cậu hãy viết thư cho má Barberin hỏi má về quần áo của cậu khi người ta tìm thấy cậu. Có thư má rồi cậu sẽ hỏi cái người mà cậu gọi là cha ấy. Từ đây đến lúc đó, tớ sẽ ở với cậu. Chúng ta cùng làm việc với nhau.

Cha tôi về. ông không nhận xét gì về chuyến đi chơi khá lâu của chúng tôi cả. Mãi tới sau bữa cơm tối ông mới bảo chúng tôi đến trước lò sưởi; việc này làm ông tôi càu nhàu, để có chuyện muốn nói với chúng tôi.

- Cho cha biết các con làm gì để sống ở bên Pháp.

Tôi kể ông nghe tất mọi chuyện.

- Tốt lắm, cho cha xem các cậu có khả năng gì nào.

Tôi cầm lấy cây đàn hác-pơ chơi một điệu nhạc, Mattia cũng làm như vậy với cây vĩ cầm và một trong những chiếc kèn đẩy của mình. Nó làm cho trẻ con vỗ tay ầm lên, bọn chúng tụ tập thành vòng tròn quanh chúng tôi.

- Còn Capi? - Cha tôi hỏi.

Tôi rất tự hào về tài năng của Capi, tôi muốn nó thực hiện mấy trò trong danh mục biểu diễn của nó, thế là nó thu được thắng lợi thường thấy bên bọn trẻ con.

- Con chó này là cả một tài sản chứ chẳng chơi. - Cha tôi bảo..Cha tôi dịch câu này sang tiếng Anh và hình như còn thêm vào đó vài chữ mà tôi chẳng hiểu gì cả nhưng làm cả nhà cười ồ lên.

- Cha đề nghị với các con thế này nhé, - cha tôi tiếp tục nói, - nhưng mà trước hết phải hỏi xem Mattia có bằng lòng ở lại với chúng ta không đã.

- Cháu muốn ở lại với Rémi, nó đi đâu cháu đi đấy. - Mattia trả lời.

Cha tôi không hiểu ý tứ ẩn dưới câu trả lời đó nên hài lòng lắm.

- Tốt quá, - ông nói, - cha trở lại với đề nghị của cha. Chúng ta không giàu, ai cũng phải làm việc để mà sống. Mùa hè cả nhà đi khắp nước Anh, trẻ con phải đem hàng mời những người không muốn tới tận chỗ chúng ta mua.

Nhưng mùa đông chẳng có việc làm gì mấy.

Chừng nào ta còn ở Londres thì Rémi và Mattia có thể chơi nhạc trong các phố, cha tin là chẳng mấy chốc sẽ có nhiều ngày kiếm khá đấy nhất là sắp đến lễ Giáng sinh. Nhưng vì ở đời này không nên để lãng phí một cái gì cả, Capi sẽ đi biểu diễn cùng Alan và Ned.

- Capi chỉ làm việc với con thì mới biểu diễn khá được. - Tôi nói ngay.

- Nó sẽ học làm việc với Alan và Ned. Cha nói điều gì, - Cha tôi nói. - cha muốn người ta thực hiện điều đó. Đó là quy luật của nhà này.

Còn cãi sao được. Buồn thay! Chúng tôi sắp phải xa nhau. Chúng tôi về cái xe của chúng tôi, nhưng tối hôm đó cha tôi không khóa chúng tôi ở trong. Khi tôi đi ngủ, Mattia nói với tôi bằng giọng nghẹn ngào:

- Cậu xem đấy, cái người mà cậu gọi là cha ấy không những cần những đứa trẻ làm việc cho ông ta mà cần cả những con chó nữa; cái đó chẳng làm cho cậu mở mắt ra hay sao? Mai ta sẽ viết thư cho má Barberin.

Ngày hôm sau phải lên lớp cho Capi, giải thích cho nó là nó phải làm việc với các em tôi.

Tôi hôn nó trên mũi và nó đi với Alan và Ned, vẻ buồn rầu nhưng không chống đối.

Còn Mattia và tôi thì cha tôi dẫn sang khu Tây, khu giàu có của Londres, ở đầu kia thành phố.

Chúng tôi về nhà khá muộn vì từ khu Tây về đến Bethnal Green rất xa. Tôi mừng gặp lại Capi, lấm bùn be bét nhưng có vẻ vui lắm. Tôi.lấy rơm khô chải lông cho nó và cho nó ngủ trong giường tôi. Tôi và nó, ai sung sướng hơn?

Khó mà nói được.

Mọi việc cứ tiếp diễn như vậy trong nhiều ngày, một buổi tối cha tôi bảo tôi là hôm sau có thể mang Capi đi theo vì cha tôi cần giữ Alan và Ned ở nhà.

Chúng tôi tới Holborn, một trong những phố buôn bán đông đúc nhất của Londres. Bỗng nhiên tôi thấy Capi không đi theo chúng tôi nữa. Nó ra sao rồi? Tôi dừng lại chờ nó và khe khẽ huýt sáo. Tôi đã bắt đầu thấy lo ngại sợ người ta ăn cắp mất nó chăng thì nó phóng tới miệng ngậm một đôi tất len, đuôi vẫy tít lên. Trông nó đầy tự hào, y như những lúc vừa diễn thành công những trò khó nhất. Tôi ngớ cả người thấy Mattia đột ngột kéo tôi vào một phố nhỏ.

- Đi nhanh lên, - nó bảo, - nhưng đừng có chạy.

Chỉ rất nhiều phút sau nó mới dừng lại và giải thích:

- Tớ nghe thấy một người đàn ông nói: "Kẻ cắp đâu? " Kẻ cắp, chính là Capi đấy. Nếu không có sương mù hẳn chúng ta đã bị tóm rồi.

Tôi sửng sốt. Họ đã biến Capi thành một tên ăn cắp!

- Về nhà đi. - Tôi bảo Mattia.

Mattia không nói gì. Chúng tôi vội vã về nhà. Cả nhà đang ngồi quanh bàn, bận gấp vải. Tôi ném đôi tất lên bàn, Alan và Ned cười to lên.

- Đây là thứ Capi đã ăn cắp được, bởi vì người ta đã biến nó thành một tên ăn cắp. Tôi cho rằng nó chỉ đùa thôi.

Tôi vừa nói vừa run tuy nhiên chưa bao giờ thấy mình kiên quyết đến như thế.

- Thế ngộ nhỡ không phải chuyện đùa thì sao? - Cha tôi hỏi.

- Thì con sẽ buộc một cái dây vào cổ Capi và dù có yêu nó con cũng sẽ dìm nó xuống sông Tamise. Con không muốn Capi trở thành một kẻ cắp cũng như con đây con cũng không muốn trở thành kẻ cắp. Nếu biết rằng rồi đây con cũng phải trở thành kẻ cắp thì con sẽ cùng với nó trẫm mình luôn.

Cha tôi nhìn tôi, làm một cử chỉ giận dữ, đôi mắt nhìn tôi như thiêu như đốt, tuy nhiên tôi không hề cụp mắt xuống, dần dần bộ mặt căng thẳng của ông dịu lại..- Con nói đúng khi nghĩ rằng đó chỉ là trò đùa, - ông nói, - từ nay Capi chỉ đi theo con mà thôi.

Sau chuyện này, quan hệ giữa gia đình tôi và tôi được hình thành rõ rệt như sau: tất cả mọi người đều muốn cà khịa với tôi chẳng úp mở gì, cha tôi chỉ quan tâm đến tôi vào buổi tối để hỏi tiền kiếm được; mẹ tôi thì thường xuyên trong tình trạng lơ mơ như không sống trên đời này.

Nếu tôi quả là người của gia đình này thì tình cảm mọi người đối với tôi phải khác chứ.

Chúng tôi chờ má Barberin trả lời qua hòm thư lưu. Cuối cùng chúng tôi nhận được bức thư trả lời đầy mong đợi.

Chúng tôi đi vào một con hẻm ở phố gần đó để đọc lá thư má Barberin nhờ ông mục sư ở Chavanon viết.

Má Barberin bày tỏ với tôi tình cảm yêu thương, âu yếm, đồng thời cũng tỏ ra ngạc nhiên và thất vọng thấy cha mẹ tôi không phải là người giàu có; cuối cùng má mô tả quần áo tôi mặc trên người khi tới nhà má: một chiếc mũ bằng đăng-ten, một áo cánh bằng vải toan mịn đính đầy đăng-ten, tất dài bằng len trắng, giày trẻ con hàng dệt kim trắng có nơ lụa, một áo dài fla-nen trắng, cuối cùng là một áo khoác mặt trong là lông có mũ bằng ca-sơ-mia trắng lót lụa, trang trí với những hình thêu rất đẹp. Không áo quần nào được đánh dấu cả, nhưng chắc chắn là có dấu vì một số góc đã bị cắt đi chứng tỏ người ta rất cẩn thận làm lạc hướng mọi tìm kiếm.

- Mô tả đầy đủ như thế thì ông Driscoll không thể nào được nhầm lẫn trong việc kể tên những thứ cậu mặc khi người ta ăn cắp cậu.

- ông có thể quên chứ.

- Người ta có thể quên quần áo của đứa con người ta bị mất không? Chính là từ quần áo đó mới tìm lại được nó chứ?

Không dễ dàng gì hỏi cha tôi khi người ta lấy cắp tôi, tôi mặc quần áo như thế nào. Cuối cùng vào một hôm trời mưa giá rét chúng tôi về sớm hơn mọi khi, tôi bèn hỏi ông.

Tôi vừa hé lời hỏi, cha tôi bèn nhìn thẳng vào mặt tôi dò hỏi đôi mắt tôi nhưng tôi chịu đựng cái nhìn đó một cách can trường. Tôi tưởng ông sắp giận dữ, nhưng không. ông mỉm cười, trong cái cười này có cái gì đanh ác.

- Điều tốt nhất đã giúp cha tìm lại được con, - ông nói, - chính là sự mô tả quần áo con mặc lúc con biến mất..Và ông mô tả lại hoàn toàn giống mô tả của má Barberin. ông nói thêm:

- Cha hy vọng nhiều vào hai chữ F.D đánh dấu trên quần áo con, tức là Francis Driscoll, tên thật của con, nhưng dấu này đã bị cô ăn cắp cắt đi mất; cha cũng đã phải đưa ra giấy khai sinh của con mà cha giữ trong tủ này.

Vừa nói thế ông vừa lục tìm trong một cái ngăn kéo với vẻ thích thú khá bất thường ở ông, ngay sau đó ông lấy ra một tờ giấy to đóng rất nhiều dấu, đưa cho tôi.

Tôi cố gắng một lần cuối cùng:

- Nếu cha cho phép con sẽ nhờ Mattia dịch cho con.

Từ lời dịch mà Mattia dịch tàm tạm, tôi được sinh ra vào ngày thứ năm mồng hai tháng tám, là con trai của Patrick Driscoll và Margareth Grange, vợ ông.

Còn đòi hỏi gì hơn nữa?

Tuy nhiên Mattia tỏ ra chưa thỏa mãn, buổi tối khi chúng tôi lui về chiếc xe của mình, nó tâm sự:

- Tất cả những điều đó vẫn chưa giải thích được làm sao mà Patrick Driscoll và Margarreth Grange lại đủ giàu để ăn mặc cho con bộ cánh giàu có đến thế. Bọn bán hàng lưu động làm gì giàu đến như thế được. Tớ thì tớ tin là cậu không phải là con của ông Driscoll mà là đứa trẻ bị ông Driscoll ăn cắp.

- Nếu tớ không phải con ông thì ông tìm tớ làm gì? Việc gì ông phải cho tiền Barberin, cho tiền hãng Greth và Galley? - Tôi đập lại.

Mattia không trả lời được.

Ai dám bảo khi tôi khóc than không có gia đình là rồi đây tôi sẽ khóc vì tuyệt vọng vì có gia đình?

ấy thế mà tôi vẫn cứ phải hát, phải nhảy phải cười phải nhăn nhở, trong khi trái tim tôi buồn bã sâu sắc đến thế. Chủ nhật là những ngày tốt đẹp hơn cho tôi vì ngày hôm ấy không được chơi nhạc trong phố phường Londres, tôi có thể tự do mà buồn khổ trong khi đi dạo chơi cùng Mattia và Capi.

Một ngày chủ nhật khi tôi chuẩn bị đi ra ngoài với Mattia, cha tôi giữ tôi ở lại nhà lấy cớ là cần đến tôi, cho Mattia đi chơi một mình.

Ông tôi hôm ấy không xuống dưới nhà, mẹ tôi cùng các anh chị em tôi đi rong phố. ở nhà chỉ có cha tôi và tôi. Khoảng một tiếng đồng hồ sau thì có người gõ cửa. Cha tôi ra mở cửa và đi vào cùng một người không giống những người bạn ông vẫn thường tiếp tí nào: ông này đúng là một người ở nước Anh gọi là ông quý phái có nghĩa một ngài quý tộc thực sự, ăn mặc sang trọng mặt mũi cao ngạo tuy có vẻ gì mệt mỏi trên nét mặt. ông độ năm mươi tuổi. Cái gây ấn tượng nhất với tôi là cái cười của ông ta, làm lộ ra những chiếc răng trắng và nhọn như răng chó con. Người ta tự hỏi cái cười của ông gây ra cái mím môi hay là ông đang muốn cắn.

Vừa nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh ông vừa chốc chốc lại đưa mắt nhìn về phía tôi, nhưng khi gặp mắt tôi, ông ta thôi không khảo sát tôi nữa.

Sau mấy phút chuyện trò như thế ông bỏ tiếng Anh chuyển sang dùng tiếng Pháp. ông ta nói tiếng Pháp dễ dàng như không gần như không có âm điệu ngoại quốc nào.

- Đây là đứa trẻ mà ông nói chuyện với tôi chứ gì? - ông ta nói với cha tôi, tay chỉ tôi. -Cháu có khỏe mạnh không nhỉ? - ông hỏi tôi.

- Thưa ông có ạ.

- Có bao giờ bị ốm không?

- Cách đây ba năm cháu có bị sưng phổi một lần khi phải nằm trên tuyết vào một ngày lạnh khủng khiếp.

- Từ đó có bị bệnh này lần nào nữa không?

- Không ạ.

- Không bao giờ thấy mệt mỏi uể oải chứ?

- Không bao giờ. Khi nào cháu đi nhiều thì cháu mệt nhưng không vì thế mà ốm ông ta đứng lên đi lại gần tôi, sờ tay tôi, đặt tay lên tim tôi, cuối cùng áp tai vào lưng tôi, vào ngực tôi bảo tôi thở mạnh lên rồi ho lên.

Ông ta tiếp tục nói chuyện với cha tôi bằng tiếng Anh rồi vài phút sau cả hai đi ra nhà để xe.

Chuyện này nghĩa là thế nào nhỉ? ông quý phái này muốn mượn tôi làm cho ông ta ư? Vậy thì tôi phải xa Mattia và Capi ư? Mà tôi thì quyết định không bao giờ làm đày tớ cho ai hết.

Sau một lát cha tôi trở vào, ông không giải thích gì cả chỉ nói là tôi được tự do đi chơi.

Tôi không muốn đi chơi, nhưng ngồi làm gì trong căn nhà này? Trời mưa tôi bèn vào xe lấy tấm da cừu. Tôi giật mình thấy Mattia trong đó!

Tôi định nói với nó thì nó đặt bàn tay lên miệng thì thầm:.- Ra mở cửa nhà để xe đi; tớ sẽ nhẹ nhàng đi treo cậu. Không nên để ai biết tớ đã có mặt trong xe.

Chỉ khi ra tới phố rồi Mattia mới nói:

- Cậu có biết cái ông lúc nãy đứng với cha cậu là ai không? - Nó nói. - ông Miligan đấy, chú của Arthur bạn cậu mà cậu thường nói chuyện với tớ đấy.

Tôi đứng lặng giữa phố, Mattia nắm lấy cánh tay tôi vừa đi vừa nói tiếp:

- Tớ đi một mình trong mấy phố nhỏ chán quá nên về nhà nằm, nhưng không ngủ được. Cha cậu cùng một ông quý phái đi vào nhà để xe.

Tớ nghe họ nói chuyện với nhau như sau: "Vững chãi như một tảng đá, ông quý phái nói, ở địa vị nó thì mười thằng nhóc đã phải chết rồi, thế mà nó thoát, chỉ bị sưng phổi!". Vì không biết có phải nói đến cậu không nên tớ chăm chú nghe.

Lúc này cuộc nói chuyện đổi đề tài. "Thế thằng cháu ông thế nào rồi?" Cha cậu hỏi. "Khá hơn.

Lần này nó lại thoát chết. Trước đây ba tháng thì bác sĩ nào cũng bảo là nó không thể chữa được; mẹ nó lại cứu nó lần nữa. ái chà! Cái bà Milligan này mới là một bà mẹ tốt chứ!" Cậu xem, tớ càng chú ý đến thế nào. "Này thế nếu thằng cháu ông khá lên như thế thì ông lo toan thận trọng như vậy vô ích à?". "Lúc này thì có lẽ thế thật đấy nhưng tôi không muốn chấp nhận Arthur sống được, bởi vì sống được là phải có phép thần mà phép thần ở đời này đâu còn. Ngày mà nó chết tôi phải được bảo đảm không có sự trở về nào cả. Người thừa kế duy nhất chỉ là tôi, James Milligan mà thôi." "ạng cứ yên tâm, cha cậu nói, nếu chỉ cần có thế thì tôi xin bảo đảm chuyện này". "Tôi trông cậy ở ông đấy" nói xong ông quý phái còn nói thêm gì nữa mà tớ không hiểu, tớ dịch sơ sơ như thế này: "Tới lúc ấy ta sẽ xem nên làm gì". Rồi ông ta đi ra.

Arthur còn sống! Sức khỏe nó lại khá lên nữa chứ! Lúc này đây tin vui này đủ làm tôi sung sướng..

Không gia đình - Chương 15 : Những đêm giáng sinh

Chúng tôi chỉ còn nói tới Arthur và bà Mil-ligan.

Họ đang ở đâu? Chúng tôi biết tìm họ ở đâu?

Chuyến viếng thăm của ông James Milligan làm chúng tôi nảy ra một ý nghĩ và đưa ra một kế hoạch mà kết quả xem ra là chắc chắn: vì James Milligan đã đến nhà cha mẹ tôi một lần thế nào ông ta chẳng đến nữa? Chắc ông ta có làm ăn gì đó với cha tôi. Vậy thì khi nào ông ta ra về, Mattia sẽ đi theo; biết chỗ ở của ông ta rồi sẽ lân la hỏi chuyện bọn đầy tớ, từ những tin tức này có thể đến được chỗ Arthur.

Đã đến lúc mà, đáng lẽ phải đi chơi đàn trong các phố vào ban ngày chúng tôi lại đi vào ban đêm bởi vì đúng vào nửa đêm mới là những buổi hòa nhạc Giáng sinh. Như vậy ban ngày ở nhà, một trong hai đứa chúng tôi sẽ canh gác, thế nào chẳng có lúc chộp được ông chú Arthur.

Một hôm trong khi đi dạo phố phường tôi thấy một người giả da đen mặc quần áo lố lăng có đuôi chim làm hiệu cho Mattia; lúc đầu tôi cứ tưởng một trò hề để làm vui công chúng mà chúng tôi là nạn nhân, nhưng thật ngạc nhiên Mattia thân mật đáp lại.

- Cậu quen anh ta à? - Tôi hỏi Mattia.

- Đó là Bob, bạn tớ hồi tớ làm ở rạp xiếc Gassot, chính anh ấy đã dạy tớ tiếng Anh đấy.

Sau khi trình diễn xong Những bản nhạc du dương của người da đen Bob đến chỗ chúng tôi và cứ xem cái cách anh ta lại gần Mattia, tôi hiểu được người bạn đường của tôi đã được mọi người yêu quý như thế nào. Đến một người anh ruột cũng không có được niềm vui trong ánh mắt, trong giọng nói như của anh hề da đen này, người mà "qua cái nghiệt ngã của thời gian buộc phải trở thành ca sĩ hát rong" như anh ta bảo chúng tôi. Nhưng chúng tôi phải mau chóng chia tay để anh ta còn đi theo đoàn, chúng tôi thì về nhà; hai người bạn đành phải để tới chủ nhật sau mới có dịp vui sướng kể nhau nghe đã từng làm gì từ khi xa cách. Có lẽ vì tình bạn với Mattia nên Bob rất muốn tỏ thiện cảm với tôi, thế là chẳng.bao lâu chúng tôi có một người bạn chân tình mà nhờ kinh nghiệm và những lời khuyên của anh, cuộc sống ở Londres đối với chúng tôi dễ chịu hơn suốt từ hồi nào cho tới lúc này.

Cứ như thế chúng tôi đến gần lễ Giáng sinh, lẽ ra ra đi buổi sáng thì chúng tôi lên đường mỗi buổi tối vào lúc tám hoặc chín giờ để tới những khu mà chúng tôi đã chọn sẵn.

Nhưng những ngày lễ Giáng sinh đã qua rồi mà James Milligan vẫn chưa xuất hiện. Sau Giáng sinh lại phải ra đi ban ngày chẳng còn mấy cơ hội trông thấy hắn ta nữa.

Không nói là chúng tôi đang bận tâm vì cái gì, Mattia cởi mở tâm tình với anh bạn Bob của chúng tôi, hỏi anh xem có thể tìm được địa chỉ một bà tên là Milligan hoặc một ông tên là James Milligan không. Nhưng Bob trả lời phải biết địa vị xã hội của họ hoặc nghề nghiệp của họ thì mới được, ở Londres nhất là trong cả nước Anh có biết bao người tên là Milligan.

Chúng tôi không nghĩ tới chuyện này nữa.

Mattia có ý kiến như sau: nó muốn chúng tôi quay về Pháp, nó nói, ở đó chúng tôi có nhiều cơ hội gặp lại Arthur và bà Milligan hơn. Lúc nào nó cũng nói đi nói lại ý nghĩ đó, nhưng tôi muốn trung thực với gia đình tôi nên từ chối không chịu trốn. Mattia khẳng định rằng gặp được bà Milligan tôi sẽ gặp gia đình đích thực của tôi. Nó nói thế với vẻ rất lạ nhưng không nói thêm gì.

Thời gian cứ chậm chạp trôi đi, đã tới lúc gia đình tôi từ bỏ Londres để đi khắp nước Anh.

Hai chiếc xe lưu động đã được sơn lại, chất đầy ắp những hàng hóa mà chúng có thể chứa nổi, hàng hóa thì người ta lôi ra từ hầm bí mật trong nhà xe.

Cuối cùng mọi thứ đã sẵn sàng để ra đi. Tối hôm trước cha tôi đã báo cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi theo họ, nhưng vẫn làm nghề chơi đàn.

Chúng tôi lại đi trên những con đường lớn.

Chúng tôi cứ theo sau hai cái xe, qua vùng đồng quê tươi đẹp thở không khí trong lành. Mỗi khi tới một ngôi làng lớn, họ đưa xe ra một chỗ rộng, hạ một bên thành xe xuống bày hàng ra trước sự tò mò của người mua.

- Hãy xem giá cả này! Xem giá cả này! - Cha tôi la lên. - Không ở đâu rẻ như thế..Tôi nghe thấy tiếng người mua xem hỏi giá rồi bỏ đi:

- Chỉ có là đồ ăn cắp mới rẻ thế.

Giá họ đưa mắt về phía tôi hẳn họ chẳng phải nghi ngờ gì nữa khi thấy mặt tôi đỏ lên.

Nếu như họ không thấy tôi bối rối thì Mattia thấy được điều này, buổi tối nó bảo tôi:

- Việc gì cậu cứ phải chịu đựng mãi nỗi hổ thẹn này nhỉ, Rémi? Chẳng lẽ cậu nghĩ cảnh sát để yên không hỏi xem tại sao ông Driscoll bán hàng với giá rẻ thế? Tất cả chúng ta đều có thể bị bắt... Làm sao chứng minh được là ta không làm gì? Bào chữa cho mình thế nào? ... Ta hãy xem có cơ hội nào là lập tức chuồn ngay, tớ có linh cảm sắp xảy ra tai họa đến nơi. Xin cậu, Rémi, ta hãy quay lại Pháp đi!

- Cho tớ vài ngày nữa, rồi chúng ta sẽ xem.

- Mau mau lên, tớ cảm thấy nguy hiểm chẳng khác gì con yêu tinh ngửi thấy mùi thịt tươi.

Chưa bao giờ những lời nói, lời cầu khẩn của Mattia làm cho tôi bối rối đến như thế, mỗi khi nhớ lại những lời đó tôi lại tự bảo mình là sự do dự khiến tôi trăn trở thật là hèn, tôi phải quyết định một bề thôi.

Hoàn cảnh đã làm những gì mà tôi không dám làm.

Một hôm cha tôi đến đóng đô ở một thành phố, cho rằng ở đó làm ăn được. Tới nơi sớm lại không phải bày hàng nên tôi và Mattia đi xem trường đua ngựa ở cách thành phố khá xa.

Nhiều căn lều được dựng lên, từ xa đã có thể nhìn thấy những cột khói nhỏ đánh dấu giới hạn trường đua. Chẳng mấy chốc chúng tôi đổ ra một con đường trũng xuống nơi đất truông mọi khi cằn cỗi trơ trụi chiều nay đầy lán hàng dựng bằng ván gỗ trong đó có các quán rượu, xe cộ hoặc đơn giản là những trại đóng quân ngoài trời. Qua trước một ngọn lửa, chúng tôi gặp bạn chúng tôi, anh Bob. Thấy chúng tôi anh vui lắm. Anh ở đó cùng các bạn anh để tổ chức biểu diễn sức mạnh và sự khéo léo, nhưng mấy nhạc sĩ họ trông chờ lại lỡ hẹn thành ra ngày mai, lẽ ra rất thành công có chiều hỏng việc. Nếu muốn, chúng tôi có thể giúp họ: thay thế các nhạc sĩ, tiền thu được sẽ chia ra làm năm, lại có cả một phần cho Capi.

Vì chúng tôi tự do muốn làm gì thì làm tùy thích, nên chỉ với điều kiện đem lại thu nhập khá chúng tôi đã nhận lời ngay..Nhưng khi về nhà thông báo cho cha tôi biết việc thu xếp này, bỗng nảy ra một khó khăn.

- Ngày mai cha cần Capi. - ông bảo tôi.

Họ lại cần Capi cho một công việc bẩn thỉu nào chăng? Nhưng cha tôi làm tiêu tan nỗi lo ngại của tôi ngay tức khắc:

- Capi tai thính, cái gì nó cũng nghe thấy, canh gác rất tốt, chúng ta cần nó để giữ xe, đông thế này họ có thể lấy cắp hàng của chúng ta. Hai đứa đi chơi đàn với Bob thôi, nếu công việc kéo dài thâu đêm, mà có thể như vậy lắm, thì các con tìm chúng ta ở quán Cây Sồi Lớn, bọn ta ngủ ở đó.

Sáng hôm sau, sau khi săn sóc Capi cẩn thận không để nó thiếu thốn cái gì, chính tay tôi buộc nó vào trục chiếc xe mà nó có nhiệm vụ canh gác, chúng tôi đi đến trường đua.

Vừa đến nơi chúng tôi bắt đầu chơi đàn ngay, và chơi không nghỉ cho đến tận chiều tối. Các đầu ngón tay tôi đau buốt như bị hàng ngàn cái gai đâm vào, Mattia thổi kèn đẩy đến hụt hơi thở không nổi nữa. Tuy nhiên Bob và các bạn anh vẫn không thôi biểu diễn các tiết mục. Tối đến, tôi tưởng đã đến lúc chúng tôi được nghỉ ngơi, hóa ra lại từ cái lều của chúng tôi chuyển sang một tiệm rượu lớn, rồi các tiết mục nhào lộn và âm nhạc lại tiếp diễn hăng hái hơn bao giờ hết. Cứ như thế cho tới nửa đêm. Tôi không còn biết mình đang chơi bản nhạc gì, Mattia cũng chẳng hơn gì tôi. Các bạn tôi cũng mệt rã rời, làm hỏng một trò diễn. Một lúc nào đó một cái sào lớn phục vụ biểu diễn rơi ngay xuống đúng đầu ngón chân Mattia. Đau đến nỗi nó kêu lên một tiếng, thịt rách ra, tuy xương không bị gãy nhưng Mattia không đi được nữa.

Thế là mọi người quyết định chúng tôi ngủ lại trong xe của Bob, sáng mai mới trở về quán.

Ngủ chỉ được vài tiếng đồng hồ nhưng cũng làm tôi lại sức, sáng hôm sau tôi tỉnh dậy chuẩn bị đi nếu như Mattia, lúc ấy còn đang ngủ, có thể đi theo tôi. Ra khỏi xe tôi đi lại phía Bob đang nhóm lửa. Mải nhìn anh ta đang dùng hết sức lực thổi phù phù dưới cái nồi, tôi hình như nhận ra Capi, đang bị một cảnh sát dẫn đi.

Giật mình tôi đứng lặng người tự hỏi thế nghĩa là thế nào, nhưng Capi, nhận ra tôi, liền giật thật mạnh khỏi dây buộc, thoát khỏi tay.người cảnh sát. Chỉ vài bước nó đã chạy tới chỗ tôi và lao vào vòng tay tôi.

Cảnh sát bước tới:

- Có phải con chó này của anh không? - Anh ta hỏi tôi.

- Vâng.

- Thế thì tôi bắt anh.

Và anh ta nắm lấy cánh tay tôi.

Bob đứng lên:

- Tại sao anh giữ thằng bé này? - Bob hỏi.

- Anh là anh nó à?

- Không, là bạn.

- Đêm qua có một người đàn ông và một thằng bé chui vào nhà thờ Saint-Georges qua một chiếc cửa sổ ở trên cao bằng một cái thang, có cả con chó này đi theo để canh gác nếu có ai làm phiền họ. Đúng là có người đến thật.

Họ nhanh chóng bỏ trốn không kịp mang theo con chó. Nhờ con chó này chắc chắn tôi sẽ tóm được kẻ gian. Thế là tóm được một rồi. Cha anh đâu?

Tôi hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra: không phải người ta hỏi mượn tôi Capi để giữ xe mà để thông báo cho bọn ăn cắp trong nhà thờ biết có người đến! Tôi phải tự mình bào chữa cho mình thôi.

Mattia bị cuộc nói chuyện giữa chúng tôi làm thức giấc, ra khỏi xe.

- Anh hãy giải thích cho họ em làm sao phạm tội được vì suốt đêm em ở đây với các anh cơ mà.

Bob dịch lời tôi nói với viên cảnh sát nhưng viên cảnh sát không tin như là tôi hy vọng.

- Cái gì chứng tỏ điều đó là thực? - Cảnh sát nói.

- Tôi thề như thế chứ còn sao nữa! - Bob kêu lên.

- ồ! Anh ấy à, anh mà làm chứng thì còn phải xem lại đã.

- Này anh đừng có mà lăng nhục tôi. - Bob nói một cách tự trọng. - Tôi là công dân Anh đấy nhé!

- Trong khi chờ đợi, tôi hãy cứ đưa thằng bé này đi đã, nó sẽ giải thích với ông thẩm phán sau. Tôi giữ cả con chó, nó sẽ giúp tôi tìm thấy mấy kẻ kia..Nhà tù mà họ giam tôi không phải để đùa, như cái nhà tù ở trong chất đầy hành như chúng tôi đã thấy; đây là một nhà tù thực sự cửa sổ có chấn song lớn bằng sắt chỉ nhìn thấy đã tiêu tan ngay mọi ý định vượt ngục. Toàn bộ đồ đạc chỉ có một ghế dài và một cái võng.

Tôi ngả người xuống chiếc ghế và suy nghĩ rất lung về hoàn cảnh đáng buồn của mình.

Tối hôm qua mệt như thế nhưng lo lắng quá tôi không sao ngủ được. Tôi cũng không thể động đến thức ăn người ta mang cho tôi.

Ngược lại tôi vồ lấy nước mà uống, tôi khát đến cháy họng.

Tôi muốn chuẩn bị các câu trả lời để cãi cho mình, nhưng tôi hoảng hốt quá. ái chà! Mattia mới có lý làm sao! Lẽ ra tôi phải nghe nó!

Sáng hôm sau một người cai ngục tới dẫn tôi vào phòng lớn của tòa án. Một làn gió nóng thổi vào mặt tôi, tôi nghe thấy tiếng rì rầm khó phân biệt. Liếc mắt một cái tôi thấy ngay toàn cảnh rõ nét đang ở quanh tôi: đó là phòng xử của tòa án, trong phòng đầy những người.

Phòng xử khá rộng, trần cao, cửa sổ lớn, chia ra hai khoảng ngăn cách với nhau, một dành cho tòa, phần kia mở ra công chúng. Trên một cái bục cao có quan tòa ngồi, trước mặt quan tòa ở vị trí thấp hơn là ba vị thẩm phán, còn trước cái đài ngồi của tôi là một nhân vật mặc áo dài đeo tóc giả: luật sư của tôi.

Làm sao mà tôi có được một luật sư nhỉ?

Do Mattia và Bob gửi đến chăng? Những câu hỏi này chưa phải lúc để trả lời. Tôi có một luật sư, thế là đủ.

Trong một cái đài ngồi khác tôi nhìn thấy Bob và hai anh bạn và nhiều người khác nữa mà tôi không quen; còn trong một cái đài ngồi khác nữa là viên cảnh sát cùng một số người. Tôi hiểu đây là chỗ ngồi của những người làm chứng.

Nơi dành cho công chúng ngồi chật ních.

Tôi thấy Mattia, ánh mắt chúng tôi giao nhau, tôi cảm thấy mình can đảm trở lại.

Một trong các thẩm phán lên tiếng, ông giải thích tóm lược tình hình câu chuyện: một vụ ăn cắp xảy ra ở nhà thờ Saint-Georges, kẻ cắp là một người đàn ông và một đứa bé, dùng thang leo vào nhà thờ qua một cửa sổ mà chúng đập vỡ kính ra, chúng mang theo một con chó để canh gác. Một người qua đường về muộn thấy.lạ vì có ánh sáng le lói trong nhà thờ, ông ta lắng nghe thì có tiếng như tiếng vỡ, ngay tức khắc ông đánh thức người coi nhà thờ dậy; người ta đến khá đông nhưng con chó sủa lên thế là trong khi mọi người mở cửa bọn kẻ cắp tẩu thoát qua cửa sổ bỏ lại con chó; con chó này trong khi cảnh sát Jerry dẫn đi đã nhận ra chủ mình chính là thằng bé ngồi trên cái ghế dài kia, còn tên kẻ cắp thứ hai thì đang lần theo dấu vết.

Sau một vài nhận xét chứng tỏ tôi phạm tội, ông thẩm phán ngừng lời, sau đó một giọng the thé cất lên: "Im lặng!" Quan tòa không buồn nhìn về phía tôi mà như tự nói với chính mình, hỏi tôi tên tuổi, nghề nghiệp.

Tôi trả lời những câu hỏi của quan tòa sau đó xin phép được nói bằng tiếng Pháp. Tôi giải thích mình không thể ở nhà thờ vào giờ đó được bởi vì lúc đó tôi ngủ nơi trường đua ngựa cùng với các bạn tôi.

- Vậy anh giải thích thế nào về sự có mặt của con chó của anh trong nhà thờ? - Quan tòa hỏi, tỏ ra kém tin tưởng ở những lời khẳng định của tôi.

- Tôi không giải thích. Con chó không đi cùng với tôi. Buổi sáng tôi buộc nó vào một chiếc xe của chúng tôi.

Tôi không nói gì thêm vì sợ cho người ta những vũ khí chống lại cha tôi.

Người ta gọi một nhân chứng, người này tuyên thệ trên quyển Thánh Kinh là sẽ nói sự thật, không vì ghét hoặc vì yêu. Đó là một con người nhân hậu, thấp lùn, trông cực kỳ oai vệ mặc dầu mặt thì đỏ, mũi thì xanh nhợt: đó là người giữ nhà thờ.

Ông ta bắt đầu kể lể dài dòng, nào là mình đang hoang mang và phẫn nộ như thế nào khi người ta đến đánh thức bảo là có kẻ trộm trong nhà thờ; nào là lúc đầu cứ tưởng mọi người đùa mình, nhưng ai lại đùa với những người có tính cách như ông bao giờ, cho nên ông hiểu là đã xảy ra một chuyện gì nghiêm trọng; ông vội chạy tới, mở cửa nhà thờ ra, và thấy... một con chó ở trong đó.

Tôi không có gì để trả lời cho việc này, nhưng luật sư của tôi suốt từ đầu không nói gì bèn đứng dậy, lắc lắc bộ tóc giả, xốc lại chiếc áo dài trên vai và lên tiếng:.- Tối qua ai đóng cửa nhà thờ? - ông ta hỏi.

- Tôi. - Người gác nhà thờ trả lời.

- ông có chắc không?

- Tôi làm gì là chắc chắn đã làm việc ấy.

- Được; thế ông có chắc chắn đã khóa cả con chó ở trong nhà thờ không?

- Nếu con chó có ở trong nhà thờ thì tại sao tôi không trông thấy nó.

- Mắt ông có tốt không?

- Mắt tôi cũng như mắt mọi người.

- Cách đây sáu tháng, có phải ông đã đâm đầu vào bụng một con bê phơi mình treo ở trước cửa một cửa hàng bán thịt không?

- Tôi không thấy một câu hỏi như vậy có lợi gì khi đưa ra cho một người có tính cách như tôi. - Người giữ nhà thờ kêu lên mặt hóa xanh ra.

- Xin ông hết lòng làm ơn trả lời câu hỏi này.

- Đúng là tôi có va vào một con bê treo một cách vô ý thức trước cửa một hàng thịt.

- ông không trông thấy nó ư?

- Lúc ấy tôi đang bận tâm nghĩ tới chuyện khác.

- Khi ông đóng cửa nhà thờ có phải ông vừa ăn cơm tối xong không?

- Hẳn là thế rồi.

- Thế khi ông đâm đầu vào con bê ông chưa ăn cơm tối chứ?

- Rồi, nhưng...

- Trong khi ăn cơm tối ông uống mấy vại bia?

- Hai.

- Có khi nào uống nhiều hơn không?

- Đôi khi ba.

- Sau bữa cơm có uống một cốc rượu trắng pha chanh với đường nữa chứ?

- Thỉnh thoảng thôi.

- Mấy cốc?

Vì người giữ nhà thờ không trả lời, mặt càng ngày càng xanh, ông luật sư lại ngồi xuống, vừa ngồi vừa nói:

- Cuộc thẩm vấn này đủ tỏ ra rằng có thể con chó đã bị người làm chứng vừa rồi khóa trong nhà thờ từ trước. ông này cứ sau bữa cơm.tối do bận lòng lo lắng cái gì đó nên không nhìn thấy cả những con bê nữa. Đó là tất cả những gì tôi muốn biết.

Giá mà dám, chắc là tôi đã ôm hôn ông luật sư. Tôi thoát rồi!

Sau người giữ nhà thờ, người ta còn nghe nhiều người làm chứng khác, rồi nghe đến các bạn tôi. Cuộc hỏi cung chấm dứt, quan tòa hỏi tôi có muốn nói thêm gì không.

Tôi trả lời là tôi vô tội, tôi xin phó thác mình vào công lý của tòa án.

Lúc đó quan tòa cho đọc biên bản rồi tuyên bố tôi sẽ chuyển sang nhà tù của quận chờ đại bồi thẩm đoàn quyết định xem có bị gọi ra tòa đại hình hay không.

Tôi xỉu đi trên chiếc ghế dài.

Rất lâu sau khi vào lại nhà tù, tôi tìm ra lý do để giải thích cho mình vì sao không được tha:

quan tòa còn đợi bắt được những người vào trong nhà thờ đã, để xem tôi có đồng lõa với họ không.

Ông thẩm phán nói là người ta đang theo hút họ; chẳng bao lâu nữa tôi sẽ phải đau khổ và nhục nhã xuất hiện bên cạnh họ trên ghế của tòa đại hình.

Biết bao câu hỏi trong óc tôi làm cho thời gian trôi nhanh hơn tối qua.

Trước nửa đêm một chút, tôi nghe có tiếng kèn đẩy, tôi nhận ra cách chơi kèn của Mattia.

Tiếng kèn vẳng tới tai tôi qua bức tường trước mặt cái cửa sổ phòng giam tôi. Cùng với tiếng kèn có tiếng bước chân và tiếng rì rầm mơ hồ.

Tôi đến mở cửa sổ ra. Tôi mở vô cùng thận trọng tránh cho nó kêu lên, cuối cùng nhờ hết sức nhẹ nhàng tôi đạt được kết quả. Tôi đứng đó lắng tai nghe ngóng.

Bỗng nhiên có đầu ai thò lên trên bờ tường:

đó là đầu Bob. Anh ta lấy tay ra hiệu cho tôi đứng xa cửa sổ ra. Tôi nghe theo tuy không hiểu gì. Tay kia hình như Bob cầm một ống xì đồng, để lên miệng. Tôi nghe thấy một tiếng thổi đồng thời trông thấy một cục tròn màu trắng bay vào rơi dưới chân tôi. Ngay lập tức đầu Bob biến mất, tiếng kèn đẩy cũng im. Tôi không nghe thấy gì nữa.

Tôi đóng cửa sổ lại, vồ lấy cục giấy mở ra đọc: "Tối mai người ta đưa cậu đến nhà tù quận.

Cậu sẽ đi tàu và ở trong toa tàu cùng với một cảnh sát. Hãy ngồi gần cửa toa chỗ cậu bước lên;.đi được độ bốn mươi nhăm phút (nhớ xem đồng hồ cho kỹ) tàu sẽ đi chậm lại vì có chỗ ngoặt; hãy mở cánh cửa toa tàu ra và dũng cảm lao xuống, khi lao hai tay duỗi ra phía trước sao cho rơi xuống trên hai chân; tới đất một cái leo lên sườn dốc bên trái, bọn tớ sẽ ở đó cùng một cái xe và một con ngựa tốt; đừng sợ gì cả; hai ngày sau ta sẽ về đến Pháp; can đảm lên!" Tôi thế là thoát rồi! Không phải xuất hiện trước tòa đại hình! ôi! Những người bạn tốt!

Tuy nhiên trong niềm vui bồng bột tôi có một ý nghĩ buồn: Còn Capi? Nhưng tôi nhanh chóng gạt bỏ ý nghĩ này. Không đời nào Mattia bỏ Capi. Nếu nó tìm được cách cho tôi vượt ngục nó cũng tìm được cách cho Capi trốn thoát.

Tôi đọc đi đọc lại mẩu giấy hai ba lần nữa rồi nhai nuốt nó đi. Tôi ngủ yên ả.

Thời gian trôi khá nhanh và chiều hôm sau, một viên cảnh sát vào ngục tôi bảo tôi đi theo.

Tôi hài lòng thấy đó là một người khoảng năm mươi tuổi thân hình không có vẻ mềm mại lắm.

Vậy là mọi việc có thể diễn biến theo chỉ dẫn của Mattia, lúc tàu sắp chạy tôi ngồi gần cửa toa tàu, viên cảnh sát ngồi trước mặt tôi, chỉ có hai chúng tôi ở trong toa.

Tôi dựa vào cửa toa tàu mà cửa kính mở ra, tôi xin phép viên cảnh sát được nhìn quang cảnh bên ngoài nơi chúng tôi đi qua, viên cảnh sát đồng ý. ông ta sợ gì cơ chứ? Tàu đang chạy nhanh. Bỗng nhiên không khí lạnh tạt vào mặt ông ta, ông ta đi xa cửa toa tàu vào ngồi ở giữa toa. Tôi chẳng biết lạnh là gì, nhẹ nhàng thò tay trái ra ngoài mở nắm cửa sẵn, tay phải thì giữ lấy cánh cửa.

Sau bốn mươi nhăm phút như Mattia đã dặn, đầu tàu rú còi và chạy chậm lại. Đến lúc rồi. Tôi nhanh nhẹn đẩy cánh cửa tàu và nhảy xuống xa nhất có thể. Tôi rơi xuống một cái hố. Cú sốc mạnh quá làm tôi lăn ra đất, ngất đi.

Khi tỉnh lại tôi cứ tưởng mình vẫn còn ở trong tàu vì thấy mình đang được mang đi theo một vận hành nhanh; tôi nghe thấy tiếng bánh xe lăn; tôi nằm trên một lớp rơm. Má tôi trán tôi có ai vuốt ve, một cái vuốt ve mềm và ấm.

Tôi mở mắt. Một con chó màu vàng nằm trên mình tôi và đang liếm cho tôi. Luồng mắt tôi gặp mắt Mattia đang quỳ bên cạnh tôi..- Cậu thoát rồi. - Nó vừa nói vừa gạt con chó ra, ôm lấy tôi.

- Chúng ta đang ở đâu thế này?

- Trên xe ngựa do Bob chở.

- Em thế nào rồi? - Bob hỏi.

- Em cũng không biết nữa. Có lẽ tốt thôi, hình như thế.

- Cử động tay, cử động chân xem nào. - Bob kêu.

Đang nằm thẳng trên nệm rơm, tôi làm như Bob bảo.

- Tốt rồi, - Mattia nói, - không chỗ nào bị gãy cả.

- Nhưng mọi việc xảy ra thế nào nhỉ?

- Cậu nhảy tàu, chấn động làm cậu choáng váng, cậu rơi vào trong hố, không thấy cậu đâu Bob bèn chạy xuống sườn dốc trong khi tớ giữ cương ngựa, Bob bế cậu lên. Chúng mình tưởng cậu đã chết cơ đấy. Sợ quá!

- Còn viên cảnh sát thì sao?

- Đi theo tàu. Tàu có dừng lại đâu.

Tôi đã biết những điều cơ bản. Tôi nhìn quanh thấy một con chó vàng nhìn tôi âu yếm, đôi mắt dịu dàng.

- Còn Capi? - Tôi hỏi. - Nó đâu?

Mattia chưa kịp trả lời thì con chó vàng nhảy lên người tôi vừa liếm tôi vừa khóc.

- Nó đấy thôi! - Mattia nói. - Bọn tớ nhuộm nó đi.

Tôi vuốt ve lại chú Capi tốt bụng, tôi hôn nó. Bob quay lại phía chúng tôi và bảo Mattia:

- Em cầm cương ngựa một lát, anh phải làm cho không ai nhận ra cái xe khi đến chỗ chắn đường nữa.

Đây là một cái xe phủ vải bạt trên những cái vòng, Bob bèn đặt những cái vòng đó vào trong xe, vải bạt thì gấp làm tư, anh bảo tôi lấy vải bạt phủ lên người và khuyên Mattia cũng ẩn mình dưới tấm vải. Làm như vậy cái xe hoàn toàn thay hình đổi dạng. Nếu người ta đuổi theo chúng tôi, các dấu hiệu mọi người kể lại sẽ làm mọi tìm kiếm bị lạc hướng.

- Ta đi đâu thế này? - Tôi hỏi Mattia khi nó nằm dài bên cạnh tôi.

- Đi Littlehampton, đấy là một hải cảng nhỏ, ở đấy Bob có người anh ruột chỉ huy một cái tàu chuyên đi Pháp mua bơ và trứng ở Norman-die, Isigny. Nếu ta trốn thoát mà chắc chắn là.chúng ta sẽ trốn được - đó là nhờ ở Bob. Bob làm tất cả đấy; chứ còn tớ, thằng bé khốn khổ tội nghiệp, tớ làm gì được cho cậu đâu! Chính Bob nghĩ ra cậu phải nhảy tàu, Bob mượn bạn bè cái xe và con ngựa này, rồi lại kiếm cho ta một cái tàu để mà về Pháp, bởi vì nếu cậu đi tàu chạy bằng hơi nước cậu sẽ bị bắt ngay. Cậu xem đấy, có bạn bè tốt thật là sung sướng.

- Còn Capi, ai có ý định đem nó đi theo?

- Tớ, nhưng Bob là người quyết định nhuộm lông nó thành màu vàng để người ta không nhận ra nó nữa, chúng mình ăn trộm nó từ viên cảnh sát Jerry; đành rằng Capi cũng cảm thấy ở tớ có chuyện gì đó nên để tớ muốn làm gì thì làm; hơn nữa Bob còn biết rõ tất cả mọi thuật của bọn ăn cắp chó.

- Còn chân cậu thế nào?

- Khỏi rồi, hoặc gần như khỏi; tớ chẳng còn thì giờ nghĩ đến nó nữa.

Chúng tôi đi rất nhanh vì ngựa tốt, Bob đánh xe cũng giỏi. Tuy nhiên chúng tôi phải dừng lại cho con ngựa thở một chút và cho nó ăn. Bob dừng lại giữa rừng, tháo ngựa và đeo vào cổ nó một cái túi dết đựng đầy lúa mạch lấy trong xe; đêm tối như bưng, ít có nguy cơ bị bắt lại. Lúc đó tôi liền nói chuyện với Bob, nói vài lời cảm động cảm ơn anh, nhưng anh không cho tôi nói hết những điều tôi cảm thấy.

- Bọn em đã giúp anh, - anh nói và bắt tay tôi, - giờ đến lượt anh: hơn nữa em gần như anh ruột của Mattia rồi còn gì, mà đối với một cậu bé tốt như Mattia thì người ta sẵn sàng làm cho nó mọi việc.

Tôi hỏi anh xem chúng tôi còn xa Little-hampton không; anh trả lời còn phải đi hai giờ nữa và chúng tôi phải gấp lên vì tàu của anh anh cứ đến thứ bảy là đi Isigny, thủy triều lên vào sáng sớm, mà hôm nay đã là thứ sáu rồi. Chúng tôi lại lên nằm trên ổ rơm dưới tấm vải bạt, con ngựa đã được nghỉ ngơi giờ đi rất nhanh.

- Cậu có sợ không? - Mattia hỏi tôi.

- Có và không. Tớ rất sợ bị bắt lại nhưng xem ra người ta không bắt lại tớ được. Chỉ có điều cứ giày vò tớ, đó là đi trốn chẳng khác gì mình có tội. Sẽ bào chữa cho mình thế nào bây giờ?

- Bọn mình cũng đã nghĩ đến điều đó, nhưng Bob tin rằng phải làm tất cả để cậu khỏi phải.xuất hiện trên ghế của tòa đại hình. Phải ngồi đó thì phiền lắm, ngay cả được tha bổng cũng vậy; tớ thì tớ không dám nói gì, bởi vì khẳng định thế nào cũng phải đưa cậu về Pháp, tớ sợ rằng ý định đó có thể khiến tớ khuyên cậu lầm chăng.

- Cậu làm thế là phải, và dù xảy ra cái gì chăng nữa thì tớ cũng chỉ có thể cảm ơn cậu và anh Bob mà thôi.

- Sẽ không xảy ra cái gì đâu, yên tâm đi. Khi tàu hỏa đến ga, viên cảnh sát của cậu sẽ báo cáo chuyện cậu, nhưng trước khi tổ chức xong việc tìm cậu thì đã mất khối thì giờ rồi. Mà ta thì lại phi nước đại. Hơn nữa họ đâu biết ta xuống tàu ở Littlehampton mà theo.

Chắc chắn là, nếu họ không theo hút chúng tôi, chúng tôi sẽ có cơ may xuống tàu không lo gì cả, nhưng tôi không yên tâm bằng Mattia.

Trong khi đó con ngựa của chúng tôi, được Bob điều khiển một cách mạnh mẽ, vẫn tiếp tục chạy trốn rất nhanh trên con đường vắng vẻ. Chỉ thỉnh thoảng chúng tôi mới bắt gặp một vài chiếc xe khác. Những ngôi làng chúng tôi đi qua đều im ắng, thỉnh thoảng lắm mới có một cửa sổ còn sáng đèn muộn; chỉ có vài con chó chú ý đến xe chúng tôi đang chạy nhanh nên sủa theo mà thôi.

Sau khi leo một đoạn đường dốc đứng, Bob dừng ngựa lại cho nó thở, chúng tôi xuống xe, dán tai xuống đất nghe ngóng, nhưng ngay cả Mattia, tai thính hơn chúng tôi, cũng không nghe thấy tiếng động nào khả nghi; chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình trong bóng tối và tĩnh lặng của đêm trường.

Bây giờ không phải chúng tôi nằm dưới tấm vải bạt để trốn nữa mà là để tránh lạnh, một làn gió lạnh thổi đã khá lâu. Khi chúng tôi thè lưỡi liếm môi, chúng tôi thấy vị mặn của muối; đã gần đến biển. Chẳng mấy chốc chúng tôi nhận thấy một luồng ánh sáng cứ từng khoảng cách đều đặn biến đi rồi lại hiện ra rực rỡ: đó là một chiếc đèn pha. Chúng tôi đã đến nơi. Bob dừng ngựa, đưa nó đi thong thả nhẹ nhàng vào một con đường ngang. Rồi anh xuống xe, bảo chúng tôi cứ ở yên đó, giữ lấy ngựa. Anh đi xem anh của mình đã khởi hành chưa và liệu chúng tôi xuống thuyền có nguy hiểm không.

Tôi thú thật là thời gian Bob vắng mặt đối với tôi sao mà lâu quá. Chúng tôi không ai nóigì chỉ nghe sóng biển đập vào bờ cát sỏi ở gần đâu đấy với tiếng động đều đều càng làm tăng nỗi xúc động của chúng tôi. Mattia run bắn lên, tôi cũng vậy.

Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng bước chân ở con đường lúc nãy Bob đi. Chính là Bob trở lại. Anh không đi một mình. Khi anh tới gần, chúng tôi trông thấy một người đi cùng với anh, đó là một người đàn ông mặc chiếc áo va-rơi bằng vải dầu và đội một cái mũ len.

- Đây là anh anh, - Bob nói, - anh ấy sẵn lòng nhận các em lên tàu. Ta chia tay nhau ở đây thôi. Chúng ta sẽ gặp lại nhau trong những hoàn cảnh tốt đẹp hơn, anh hứa với các em như thế.

Anh không nói thêm lời nào nữa và ôm hôn từng đứa chúng tôi, rất xúc động. Họng chúng tôi nghẹn lại không biết nói gì. Bob ra đi không một tiếng động trong đêm tối.

Chúng tôi đi theo anh anh, và chẳng bao lâu đã đi vào những con phố tĩnh mịch của thành phố, rồi sau vài khúc ngoặt ra tới bến cảng, gió biển quất vào mặt chúng tôi. Anh của Bob chỉ con tàu của mình cho chúng tôi, không nói gì.

Vài phút sau chúng tôi xuống tàu, anh đưa chúng tôi vào một ca-bin nhỏ.

- Hai tiếng nữa anh mới khởi hành, - anh nói. - Bọn em đừng gây tiếng động nhé.

Khi anh đã khóa cửa ca-bin Mattia sà vào vòng tay tôi không một tiếng động, ôm hôn tôi.

Nó không run nữa..

Không gia đình - Chương 16 : Tàu Thiên Nga

Anh của Bob đi khỏi, con tàu im ắng một lúc rồi dần dần hoạt động lên. Nhiều tiếng chân vang lên trên cầu tàu, dây chão được thả xuống, ròng rọc nghiến lên kèn kẹt; tiếng dây xích cuộn vào rồi thả ra; người ta quay cái tời đứng; bánh lái rên lên và bỗng nhiên con tàu nghiêng hẳn sang bên trái rồi bắt đầu rập rình. Chúng tôi lên đường.

Lúc đầu con tàu rập rình chậm và nhẹ, chẳng bao lâu chao đảo nhanh và dữ dội; tàu như bị nhấn chìm xuống trước khi chao đảo và hàng tảng sóng biển đột ngột đánh vào sống mũi tàu và mạn phải tàu.

Mattia, giống như lần chúng tôi sang Anh, buồn nôn dữ dội.

Tôi cầm tay nó:

- Tội nghiệp Mattia quá đi mất!

- Không sao. Cậu đã được cứu thoát. - Nó nói. - Không ngờ thoát được như thế này.

Ngay lúc đó cánh cửa ca-bin mở ra:

- Nếu các em muốn lên cầu tàu, - anh của Bob nói, - thì cứ lên không nguy hiểm gì đâu.

- ở đâu đỡ ốm hơn ạ? - Mattia hỏi.

- Nằm yên trên cái ghế nằm đó.

- Cảm ơn anh, thế thì em nằm yên ở đây vậy.

- Thủy thủ sẽ mang cho bọn em chút gì ăn cho ấm bụng. - Thuyền trưởng nói.

Tôi muốn ở lại bên Mattia, nhưng nó đẩy tôi lên cầu tàu, cứ nhắc đi nhắc lại mãi:

- Không sao cả, cậu được cứu thoát rồi, tớ không sao hình dung được tớ lại thích được say sóng như thế này.

- Nếu gió cứ tiếp tục như vậy, - thuyền trưởng bảo tôi, - thì chiều tối nay ta sẽ đến Isigny sớm thôi; chiếc tàu buồm Thiên Thực này chạy thốt lắm.

Cả một ngày trên biển, có thể hơn một ngày nữa là khác!

Tuy nhiên thời gian cứ trôi, tôi lên cầu tàu chơi rồi lại xuống ca-bin, từ ca-bin lại lên cầu.tàu cho hết thì giờ. Vào một lúc nào đó, trong khi tôi nói chuyện với thuyền trưởng, anh đưa tay chỉ về phía đông-nam, tôi nhìn thấy một cái cột cao màu trắng in hình trên nền trời xanh nhạt.

- Barfleur đấy. - Anh bảo tôi.

Tôi lập tức chạy xuống báo tin vui này cho Mattia: thế là chúng tôi đã nhìn thấy nước Pháp; nhưng từ Barfleur đến Isigny còn xa, bởi vì còn phải đi dọc suốt bán đảo Cotentin mới vào tới Vire và Eure. Khi tàu Thiên Thực cặp bến thì đã quá muộn, thuyền trưởng mời chúng tôi ngủ lại trên tàu, sáng hôm sau chúng tôi mới chia tay nhau sau khi đã cảm ơn anh rất phải phép.

- Khi nào các em muốn trở lại Anh, - anh nói và bắt tay chúng tôi thật mạnh, - thì tàu Thiên Thực, thứ ba nào cũng từ đây đi, anh sẵn sàng chở các em.

Lên khỏi tàu buồm, việc đầu tiên chúng tôi bận tâm là đi tìm một túi lính cũ và mua hai áo sơ mi, hai đôi tất dài, một mẩu xà phòng, lược, kim chỉ, khuy áo và cuối cùng là một bản đồ nước Pháp, vì toàn bộ đồ đạc của chúng tôi để lại cả ở nhà Driscoll.

Giờ đây đã sang tới nước Pháp, chúng tôi đi đâu? Theo con đường nào?

Đó là câu hỏi khuấy động chúng tôi khi chúng tôi ra khỏi Isigny theo đường Bayeux.

- Tớ thì sang trái hay sang phải đều được, chẳng bên nào hơn bên nào, - Mattia nói, - tớ chỉ đòi hỏi một điều.

- Điều gì?

- Đi theo một dòng sông lớn hoặc sông nhỏ hoặc sông đào, bởi vì tớ có một ý như thế này.

Tôi bảo Mattia nói cho tôi nghe, nó nói tiếp:

- Hồi Arthur ốm, bà Milligan đưa nó đi chơi trên tàu, cậu gặp Arthur đang đi như thế trên tàu Thiên Nga chứ gì?

- Bây giờ nó không ốm nữa.

- Tức là nó khá hơn thôi; còn trước kia ngược lại, nó rất ốm và chỉ sống được nhờ sự chăm sóc của mẹ nó mà thôi. Cho nên tớ nghĩ là, để cho nó khỏi hẳn, bà Milligan vẫn còn đưa nó đi chơi trên tàu, trên các sông lớn, sông nhỏ, sông đào nào chở được tàu Thiên Nga; cho nên, nếu ta cứ đi theo những dòng sông lớn, những con sông nhỏ thì ta sẽ có cơ may gặp lại được tàu Thiên Nga..- Ai bảo là tàu Thiên Nga ở Pháp?

- Chẳng ai bảo cả. Tuy nhiên, vì tàu này không đi trên biển được, ta phải tin là nó còn ở Pháp. Tớ thì tớ muốn chúng ta gặp lại bà Milligan, ta không được lơ là chuyện đó.

- Nhưng còn Lise, Alexis, Benjamin, chị étiennette!

- Trên đường đi tìm bà Milligan ta sẽ gặp họ: như vậy ta phải làm sao tới được dòng chảy của một con sông hoặc một con sông đào. Ta hãy tìm trên bản đồ xem sông nào gần đây nhất.

Bản đồ được trải ra trên mặt cỏ ở đường đi, chúng tôi tìm con sông gần nhất: đó là sông Seine.

- Ta tới sông Seine. - Mattia nói.

- Sông Seine chảy qua Paris.

- Thì đã làm sao?

- ảnh hưởng lắm chứ; tớ nghe cụ Vitalis nói khi người ta muốn tìm ai, cứ đến Paris mà tìm.

Nếu cảnh sát Anh tìm tớ vì vụ ăn cắp ở nhà thờ Saint-Georges thì sao, tớ không muốn họ tìm thấy tớ vì nếu vậy việc chúng ta đi khỏi Anh chẳng hóa ra vô ích.

- Cảnh sát Anh theo tìm cậu tận bên Pháp?

- Tớ không biết, nhưng nếu thế thật thì ta không nên đi Paris.

- Ta có thể theo sông Seine đến ngoại ô Paris thôi, ta không vào Paris mà đến chỗ xa hơn vả lại cứ đi theo nó là được chứ gì. Tớ, tớ cũng chẳng muốn gặp lại Garifoli.

- Có lẽ.

- Thế thì ta cứ làm như vậy, ta sẽ hỏi thăm các thủy thủ đường sông, những người kéo thuyền, và vì tàu Thiên Nga không giống với những con tàu khác, nếu nó chạy qua sông Seine thì người ta phải nhìn thấy chứ; ta mà không tìm thấy nó ở đó thì lại tìm trên sông Loire, sông Garonne, trên tất cả các con sông của nước Pháp, cuối cùng thế nào cũng tìm thấy.

Tôi không có gì phản đối ý kiến này; thế là chúng tôi quyết định tiếp cận dòng chảy của sông Seine rồi cứ đi dọc theo sông, ngược dòng lên phía thượng nguồn.

Sau khi nghĩ đến bản thân mình, đã đến lúc chúng tôi lo đến Capi, nhuộm vàng như thế nó đâu còn là Capi nữa. Chúng tôi mua xà phòng mềm, tới con sông nhỏ đầu tiên đem nó ra chà xát thật mạnh. Nhưng thuốc nhuộm của Bob thuộc loại hảo hạng, phải tắm rất nhiều lần, chà xà phòng thật kỹ trong nhiều tuần nhiều tháng Capi mới trở lại màu bẩm sinh của nó được..May thay, Normandie là xứ sở của nước cho nên ngày nào chúng tôi cũng có thể tắm cho nó.

Qua Bayeux, Caen, Pont-l’évêque và Pont-Aude-mer, chúng tôi tiếp cận sông Seine ở Bouille.

Khi mà, từ trên những ngọn đồi cao phủ rừng và ở chỗ rẽ của một con đường râm mát, Mattia đột nhiên nhìn thấy sông Seine vạch một đường cong lớn ở giữa nơi chúng tôi đang đứng rồi sau đó thong thả đưa dòng nước êm đềm và mạnh mẽ của mình đi đây đi đó, dòng nước trên phủ đầy tàu buồm trắng và những con tàu chạy bằng hơi nước khói bay lên đến tận chỗ chúng tôi, nó tuyên bố lại có cảm tình với nước trở lại và hiểu được vì sao người ta sung sướng được thả mình theo dòng sông êm đềm này giữa những đồng cỏ tươi xanh, những cánh đồng được trồng trọt màu mỡ và những khu rừng tối thẫm.

- Chắc chắn bà Milligan đưa Arthur đi chơi trên sông Seine rồi. - Mattia bảo tôi.

- Ta sẽ biết ngay thôi khi hỏi chuyện những người trong làng ở dưới kia.

Lúc đó tôi chưa biết hỏi chuyện những người Normandie khó thế nào.

- Các cậu hỏi một con tàu từ Havre hay từ Rouen tới? Nó là tàu hay là thuyền nhỏ? Hay đò con, hay sà lan, hay xuồng?

Khi đã trả lời kỹ tất cả những câu hỏi họ đặt ra cho chúng tôi, chúng tôi mới hơi chắc chắn tàu Thiên Nga chưa bao giờ tới La Bouille hoặc nếu có đi qua, thì là đi qua vào ban đêm nên không ai nhìn thấy.

Từ La Bouille chúng tôi đi Rouen, ở đây sự tìm kiếm của chúng tôi không đem lại kết quả nào khả quan hơn; ở Elbeuf người ta cũng không thể nói gì với chúng tôi về tàu Thiên Nga; đến Poses, nơi có nhiều cống, nhiều tàu bè đi qua, cũng thế.

Nhưng chúng tôi không nản, vẫn tiến tới, liên tục hỏi thăm: chẳng đem lại hy vọng gì lớn lao, bởi vì tàu Thiên Nga không thể bắt đầu khởi hành từ một điểm giữa chừng được. Bà Milligan và Arthur phải lên tàu ở Quillebeuf hoặc Caudebec, thế thì mới có thể hiểu được, hoặc tốt hơn là ở Rouen; nhưng vì không tìm thấy dấu vết cuộc hành trình của họ, chúng tôi đành phải đi Paris, hoặc xa hơn Paris.

Vì chúng tôi không phải chỉ có đi, mà còn phải kiếm sống hàng ngày, nên mất năm tuần chúng tôi mới từ Isigny đến được Charenton.

Đến đây một câu hỏi được đặt ra: chúng tôi cứ đi theo sông Seine, hay đi theo sông Marne?

Tôi luôn tự hỏi khi nghiên cứu bản đồ..May mắn thay đến Charenton chúng tôi không phải ngân ngừ gì nữa vì hỏi một cái người ta trả lời ngay là lần đầu tiên họ nhìn thấy một cái tàu giống tàu Thiên Nga; đó là một cái tàu chỉ để đi du ngoạn có một cái hiên.

Mattia sung sướng quá nhảy một điệu ngay trên kè sông rồi cầm cây vĩ cầm điên cuồng chơi một hành khúc chiến thắng.

Trong lúc đó tôi tiếp tục hỏi một thủy thủ đường sông nhiệt tình trả lời tôi; không còn nghi ngờ gì nữa đúng là tàu Thiên Nga rồi; nó đi qua Charenton cách đây hai tháng ngược dòng sông Seine.

Như vậy nó đi trước chúng tôi quá lâu.

Nhưng cần gì! Cuối cùng theo kịp nó là được.

Thời gian không còn là vấn đề gì nữa; điều chủ yếu, tuyệt vời nhất, kỳ lạ nhất, là tìm thấy tàu Thiên Nga.

- Ai có lý nào? - Mattia kêu lên.

Chúng tôi không cần dừng lại hỏi thăm tin tức nữa, tàu Thiên Nga ở đằng trước chúng tôi; chỉ việc đi theo sông Seine.

Nhưng ở Moret, con sông Loing đổ vào sông Seine thành ra đến đấy lại phải hỏi những câu hỏi của chúng tôi; người ta nói tàu Thiên Nga tiếp tục ngược dòng sông Seine.

Tới Montereau, lại phải hỏi nữa. Lần này tàu Thiên Nga bỏ sông Seine đi vào sông Yonne; tàu rời Montereau đã hai tháng, trên tàu có một bà quý phái trẻ tuổi người Anh và một cậu con trai luôn nằm duỗi thẳng trên giường.

Trong khi đi theo tàu Thiên Nga như vậy chúng tôi tới gần Lise, tim tôi đập mạnh khi tự hỏi trong khi nghiên cứu bản đồ: sau Joigny, bà Milligan chọn sông đào Bourgogne hay sông đào Nivernais?

Chúng tôi tới chỗ hợp lưu của hai con sông Yonne và Armencon; tàu Thiên Nga tiếp tục đi ngược dòng sông Yonne: chúng tôi sẽ đi qua Dreuzy và gặp Lise. Em sẽ nói cho chúng tôi biết về bà Milligan và Arthur.

Suốt từ khi chạy theo tàu Thiên Nga chúng tôi chẳng mất thì giờ mấy cho biểu diễn nữa, Capi không sao hiểu được tại sao chúng tôi lại vội vã như thế.

- Nhanh lên, - Mattia nói, - đuổi cho kịp tàu Thiên Nga.

Đến tối không bao giờ chúng tôi phàn nàn vì mệt mỏi dù đoạn đường đi có xa đến đâu.chăng nữa; ngược lại chúng tôi thỏa thuận mai lại ra đi từ sáng sớm.

- Đánh thức tớ nhé. - Mattia bảo, xưa nay nó vốn thích ngủ. Và mỗi khi tôi đánh thức nó bao giờ nó cũng vùng dậy rất nhanh.

Thỉnh thoảng nó tỏ ra rất tham ăn.

- Tớ chỉ mong bà Milligan vẫn còn cô bếp làm bánh kem mứt rất ngon cho cậu ấy, - nó nói, - chắc là ngon lắm, bánh kem mứt mơ ấy.

- Cậu chưa ăn bao giờ à?

- Tớ đã ăn bánh kẹp mứt táo nhưng chưa ăn bánh kem mứt mơ, mới nhìn thấy thôi. Những thứ nho nhỏ trăng trắng gắn vào mứt là cái gì ấy nhỉ?

- Hạnh nhân đấy.

- ôi!

Và Mattia há miệng như thể đang nuốt cả một cái bánh kem mứt mơ.

Vì sông Yonne có rất nhiều đoạn quanh co giữa Joigny và Auxerre mà chúng tôi thì đi theo đường cái, cho nên chúng tôi được lợi một số thời gian so với tàu Thiên Nga, nhưng từ Auxerre trở đi thì hết khả năng này bởi vì tàu Thiên Nga, theo sông đào Nivernais, chạy rất nhanh trên làn nước yên tĩnh.

Cứ đến mỗi cái cống chúng tôi lại thu nhập thêm tin tức, vì trên sông đào ít tàu bè qua lại ai cũng để ý đến con tàu trông rất ít giống các con tàu khác này.

Không những người ta nói về tàu Thiên Nga với chúng tôi mà con nói tới bà Milligan "một phu nhân người Anh rất tốt" và về Arthur "một cậu bé hầu như lúc nào cũng nằm trên cái giường đặt trên cầu tàu, dưới một cái hiên phủ đầy cây lá và đầy hoa, nhưng thỉnh thoảng cậu ta cũng đứng dậy." Vậy là Arthur có khá hơn.

Chúng tôi tới gần Dreuzy; còn hai ngày, rồi một ngày, rồi vài giờ.

Cuối cùng chúng tôi nhận ra khu rừng mùa thu năm ngoái đã đi chơi với Lise, cả cái cống, cả căn nhà nhỏ của bà Catherine.

Tuy chẳng ai nói với ai câu nào nhưng cả hai chúng tôi, tôi và Mattia cùng đồng lòng rảo bước, chúng tôi không đi nữa mà chạy, Capi chạy lên trước để báo cho Lise là chúng tôi đã đến; em sẽ ra đón chúng tôi.

Tuy nhiên chúng tôi không trông thấy Lise ra khỏi nhà, chính Capi chạy ra như bị người ta đuổi..Theo bản năng cả hai chúng tôi dừng ngay lại và tự hỏi thế là nghĩa thế nào, có chuyện gì đã xảy ra? Sau đó chúng tôi tiếp tục đi không ai thốt lên được lời nào.

Capi trở lại chỗ chúng tôi, tiu nghỉu tiến sau chúng tôi. Một người đàn ông đang vặn cái van ở cửa cống, không phải chú của Lise. Chúng tôi đi tới tận nhà; một người đàn bà mà chúng tôi không quen đang đi đi lại lại trong bếp.

- Thưa, chúng tôi hỏi bà Suriot ạ. - Chúng tôi hỏi bà.

Bà ta nhìn chúng tôi một chặp trước khi trả lời, tựa như chúng tôi đã đưa ra một câu hỏi ngớ ngẩn.

- Bà ấy không ở đây nữa. - Cuối cùng bà ta đáp.

- Thế bà ấy ở đâu ạ?

- ở Ai Cập Tôi và Mattia nhìn nhau, sững sờ. ở Ai Cập.

Thực ra chúng tôi cũng không biết nước này ở chỗ nào nhưng mơ hồ nghĩ rằng nó ở rất xa, bên kia biển cả.

- Bà có biết em Lise không ạ?

- Biết chứ! Nó đi theo tàu một bà người Anh rồi.

Lise trên tàu Thiên Nga! Chúng tôi nằm mơ chăng?

Người đàn bà trả lời chúng tôi là chúng tôi đang ở trong thực tế hiển nhiên.

- Cậu là Rémi chăng? - Bà hỏi tôi.

- Vâng.

- Khi ông Suriot chết đuối... - Bà bảo chúng tôi.

- Chết đuối!

- Chết đuối trong cửa cống ấy! à, các cậu không biết đấy thôi, sinh ư nghệ tử ư nghệ mà!

Lúc ông Suriot chết đuối, Catherine lúng túng lắm. Nhưng biết làm thế nào? Tiền thiếu thì làm sao tạo ra một sớm một chiều được. Một bà trước đây Catherine ở làm vú em, cho Catherine một chỗ dạy các con bà ở Ai Cập. Catherine không biết làm thế nào vì vướng Lise. Thế là một buổi chiều kia có một phu nhân người Anh đưa đứa con trai ốm đi chơi trên thuyền dừng lại nơi cửa cống. Họ nói chuyện với nhau, bà phu nhân đang tìm một đứa trẻ để chơi với con bà, bèn nhận nuôi Lise hứa trông nom em và chữa cho em khỏi bệnh. Bà phu nhân tốt quá.

Catherine đồng ý. Lise lên tàu, Catherine đi Ai Cập. Chồng tôi thay thế ông Suriot. Trước khi.đi, Lise yêu cầu dì mình giải thích cho tôi để tôi nói lại với cậu khi cậu đến thăm nó. Sự tình là như thế.

Tôi ngớ cả người không tìm được lời nào mà nói, nhưng Mattia vẫn tỉnh táo.

- Vậy thế sau đó bà người Anh đi đâu ạ? -Nó hỏi.

- Đi miền Nam nước Pháp hoặc Thụy Sĩ; bà người Anh nói sẽ viết thư, cho tôi địa chỉ nhưng chưa thấy.

Trong khi tôi vẫn còn sững sờ thì Mattia làm một điều mà tôi không nghĩ tới, nó nói ngay:

- Cảm ơn bà.

Chúng tôi lại đi theo tàu Thiên Nga không chậm trễ. Chúng tôi chỉ dừng lại để ngủ và để kiếm vài đồng xu.

Tới Decize, nơi sông đào Nivernai đổ vào sông Loire, chúng tôi hỏi thăm tin tức tàu Thiên Nga thì được biết nó đi theo con sông đào ở bên, chúng tôi cứ theo con sông đào đó đi Digoin, rồi sau đó theo con sông đào ở chính giữa mà tới Chalon.

Bản đồ của tôi chỉ ra rằng, nếu từ Charolles chúng tôi đi thẳng đến Mâcon thì sẽ khỏi phải đi vòng trong nhiều ngày, nhưng quyết định đó quá liều lĩnh cả tôi và Mattia đều không muốn theo, ngộ nhỡ tàu Thiên Nga dừng ở dọc đường thì chúng tôi đâm ra vượt qua nó, rồi lại phải quay trở lại.

Thế là chúng tôi xuống sông Saône từ đoạn Chalon đi Lyon.

Giữa những chiếc tàu qua lại trên sông Rhône và sông Saône, có lẽ tàu Thiên Nga đã đi qua mà không ai thấy. Chúng tôi hỏi các thủy thủ, những người chở thuyền và tất cả những ai sống trên kè sông, cuối cùng chúng tôi tin chắc bà Milligan đã tới Thụy Sĩ, do đó chúng tôi theo sông Rhône mà đi.

Tới Seyssel chúng tôi đi xuống bờ sông; thật ngạc nhiên biết bao khi từ xa tôi đã nhận ra tàu Thiên Nga.

Chúng tôi bắt đầu chạy, đúng tàu Thiên Nga rồi, tuy nhiên trông nó như một chiếc tàu không có người; nó được thả neo một cách chắc chắn đằng sau một cái cừ bảo vệ nó. Trên tàu các cửa đóng kín cả.

Chuyện gì xảy ra vậy? Có gì xảy đến với Arthur không? Với Lise không?.Chúng tôi dừng chân, tim nghẹt lại vì lo lắng.

Có một người đứng gần đó, chúng tôi hỏi ông ta. Đó chính là người trông coi tàu Thiên Nga.

- Bà người Anh ở trên tàu với một cậu con trai ốm và một cô bé câm đang ở Thụy Sĩ. Bà bỏ con tàu lại vì tàu không ngược sông Rhône lên xa hơn được. Bà phu nhân đi xe ngựa với hai đứa trẻ con và một bà giúp việc; các đầy tớ khác đi sau cùng với hành lý; mùa thu bà mới trở lại lấy tàu Thiên Nga, sẽ theo sông Rhône xuống tận dưới biển và qua mùa đông ở miền Nam nước Pháp.

Chúng tôi lại thở được. Tốt đẹp cả thôi.

- Vậy thế bây giờ bà phu nhân ở đâu ạ?

- Bà thuê một ngôi nhà nghỉ bên bờ hồ Genève, mạn Vevey ấy, nhưng tôi không biết rõ ở chỗ nào.

Lên đường đi Vevey ngay!

Bốn ngày sau khi rời Seyssel chúng tôi bắt đầu tìm quanh khu Vevey giữa biết bao biệt thự trải dài duyên dáng suốt từ cái hồ nước xanh trong tới những sườn núi phủ xanh lá cây rừng để xem bà Milligan, Arthur và Lise ở trong cái biệt thự nào. Thế là cuối cùng chúng tôi đã đến nơi, vừa vặn còn có ba xu trong túi và giày đã vẹt hẳn gót.

Tốt nhất là đích thân chúng tôi phải tìm và đi thăm tất cả những ngôi nhà mà người ngoại quốc có thể cư trú; thực tế điều này không lấy gì làm khó, chúng tôi chỉ việc biểu diễn các tiết mục của chúng tôi trong tất cả các phố.

Chỉ một ngày chúng tôi đã đi khắp Vevey và thu được khá nhiều tiền.

Ngày hôm sau chúng tôi tiếp tục tìm kiếm ở vùng ngoại vi Vevey, chúng tôi chơi đàn trước cửa sổ những ngôi nhà mặt ngoài đẹp một chút; nhưng đến tối chúng tôi lại ra về như hôm trước; ấy thế mà chúng tôi đã đi suốt từ hồ lên tận trên núi lại từ trên núi xuống hồ, nhìn quanh nhìn quất, chốc chốc lại hỏi thăm những người mà chúng tôi cho là sẵn sàng nghe và sẵn sàng trả lời.

Ngày hôm đó người ta cho chúng tôi hai tin vui hụt khi trả lời là tuy không biết tên nhưng họ biết rõ bà phu nhân mà chúng tôi nói tới.

Một lần họ chỉ cho chúng tôi tới một nhà nghỉ giữa lưng chừng núi, lần kia họ khẳng định bà ta ở bên bờ hồ. Đúng là hai bà người Anh thật, nhưng không phải bà Milligan..Một buổi chiều, chúng tôi biểu diễn hòa nhạc giữa phố, trước mặt chỉ có một cái cổng sắt mà chúng tôi chủ ý hát vọng vào đó, sau lưng chúng tôi là một bức tường, chúng tôi không quan tâm.

Tôi hát đến đinh tai nhức óc đoạn đầu bài ca của tôi về Na-pô-li và đang chuẩn bị hát tiếp sang đoạn sau thì bỗng nhiên chúng tôi nghe thấy ở đằng sau, bên kia bức tường, một tiếng kêu; rồi có ai đó hát lên đoạn hai của bài hát bằng một giọng yếu ớt và nghe rất lạ tai:

Giọng ai thế nhỉ?

- Arthur chăng? - Mattia hỏi.

Không, không phải Arthur.

Không thể chịu đựng nổi nữa, tôi kêu lên:

- Ai hát đó nhỉ?

Và giọng kia trả lời:

- Rémi!

Tên tôi thay cho câu trả lời! Tôi và Mattia nhìn nhau sững sờ. Chúng tôi cứ đứng ngây ra như vậy trước mặt nhau. Tôi bỗng thấy đằng sau Mattia, ở đầu bức tường, phía trên một hàng giậu thấp có chiếc mùi-xoa trắng vẫy vẫy trong gió; chúng tôi chạy lại phía đó.

Chỉ mãi tới khi chạy tới hàng giậu chúng tôi mới biết cánh tay vẫy cái khăn đó là tay ai:

- Lise!

Cuối cùng, chúng tôi đã tìm thấy em, cùng với em sẽ là bà Milligan và Arthur.

Nhưng ai đã hát mới được chứ? Đó là câu hỏi mà cả hai chúng tôi, Mattia và tôi cùng đồng thời hỏi em, ngay khi chúng tôi đã tìm ra lời để nói.

- Em chứ ai. - Lise nói.

Lise hát! Lise nói!

Đành rằng trước đây đã bao lần tôi nghe nói một ngày kia Lise sẽ trở lại nói được rất có thể là nhờ một xúc động thật mạnh; tôi vẫn không sao tin được điều đó xảy ra.

ấy thế mà điều đó lại thực hiện được đấy; em đã nói được; phép thần đã hoàn thành; và chính là nhờ nghe tôi hát, thấy lại tôi trở về với em trong khi tưởng đã mất tôi vĩnh viễn em đã có cái xúc động thật mạnh đó!

Chỉ với ý nghĩ đó bản thân tôi cũng xúc động dữ dội đến nỗi tôi phải nắm vào một cành cây bên hàng giậu.

Nhưng không thể buông xuôi theo những cảm xúc đó mãi:.- Bà Milligan đâu, - tôi hỏi, - Arthur đâu?

Lise mấp máy môi để nói nhưng chỉ bật ra được những tiếng bập bẹ không đâu vào đâu.

Thế là em lại dùng tay để diễn đạt ý mình cho nhanh.

Mắt tôi theo dõi ngôn ngữ đó của em đồng thời tôi trông thấy ở xa xa tận cuối vườn một người đầy tớ đang đẩy một cái xe dài. Trên xe có Arthur nằm duỗi thẳng, phía sau là mẹ nó và... tôi cúi hẳn người xuống để xem cho rõ... và ông James Milligan; ngay lập tức tôi ngồi sụp xuống sau hàng giậu và vội vàng bảo Mattia cũng làm như thế. Không nghĩ ra James Milligan không biết mặt Mattia.

Giây phút hoảng hốt đã qua, tôi hiểu rằng Lise sẽ sững sờ khi thấy chúng tôi biến mất. Tôi hơi nhỏm người lên một chút khe khẽ bảo em:

- Không thể để James Milligan trông thấy anh được, hắn sẽ làm anh phải trở lại bên Anh mất.

Em giơ hai cánh tay lên sợ hãi.

- Em cứ đứng yên, - tôi tiếp tục nói, - đừng nói gì về bọn anh cả; chín giờ sáng mai, bọn anh sẽ trở lại chỗ này; cố gắng chỉ có một mình thôi nhé, bây giờ em đi đi.

Đồng thời chúng tôi ẩn mình sau bức tường.

- Cậu ạ, - Mattia bảo tôi, - tớ phải đi gặp bà Milligan ngay để nói với bà... tất cả những gì chúng mình biết. James Milligan đã thấy mặt tớ bao giờ đâu, hắn không thể liên hệ tới cậu và gia đình Driscoll được. Bà Milligan sẽ quyết định chúng ta phải làm gì.

Tôi chờ rất lâu mới thấy Mattia trở lại có bà James Milligan đi cùng. Tôi chạy tới, bà đưa tay ra, tôi cầm lấy tay bà mà hôn; nhưng bà ôm lấy tôi, và cúi xuống dịu dàng hôn tôi trên trán.

- Con ạ, - bà nói mắt không rời tôi, - bạn con đưa đến cho ta những tin rất quan trọng; con hãy kể cho ta nghe con tới gia đình Driscoll như thế nào và chuyến tới thăm của James Mil-ligan ra sao.

Tôi thuật lại những điều được hỏi.

- Tất cả những điều này đối với con có ý nghĩa cực kỳ trọng đại. Kể từ ngày hôm nay con và bạn con phải từ bỏ ngay cuộc đời khổ cực này. Trong hai giờ nữa các con hãy đến Territet, khách sạn núi Alpes, ta sẽ gửi người tin cậy đến giữ chỗ trước; chúng ta sẽ gặp nhau ở đó vì ta buộc phải xa các con bây giờ..Bà lại ôm hôn tôi và đưa tay cho Mattia bắt, rồi nhanh chóng rời chân.

Ngày hôm sau bà Milligan tới thăm chúng tôi; đi theo bà là một người thợ may và một bà chuyên trách đồ vải họ đo người chúng tôi để may quần áo, may áo sơ mi.

Suốt bốn ngày liền ngày nào bà cũng đến.

Ngày thứ năm thì bà phục vụ mà tôi đã gặp trên tàu Thiên Nga tới chỗ chúng tôi mà không phải là bà Milligan. Bà phục vụ nói là bà Milligan chờ chúng tôi ở chỗ bà và bà ta đưa chúng tôi đi.

Arthur chìa tay cho tôi; tôi chạy tới chỗ nó, tôi ôm hôn Lise, nhưng bà Milligan ôm hôn tôi.

- Cuối cùng, - bà nói, - đã đến lúc con có thể trở về đúng chỗ của con được rồi.

Tôi trông thấy má Barberin đi vào tay ôm một nắm quần áo trẻ con.

Trong khi tôi ôm hôn má, bà Milligan ra lệnh gì đó cho một người đày tớ, tôi chỉ nghe thấy tên James Milligan, tên này làm mặt tôi xanh đi vì sợ.

- Không việc gì phải sợ cả con ạ. - Bà Mil-ligan dịu dàng bảo tôi. - ngược lại, con lại gần ta đây.

Ngay lúc đó cửa phòng khách mở ra trước mặt James Milligan, hắn nhìn thấy tôi.

Bà Milligan không để hắn có thì giờ nói.

- Tôi mời chú đến để giới thiệu với chú con trai cả của tôi mà tôi hạnh phúc đã tìm thấy cháu, chính chú cũng biết cháu phải không, ở nhà cái tên đã ăn cắp cháu ấy, chú đến để hỏi thăm hắn về tình hình sức khỏe của cháu, có phải không nào?

- Thế nghĩa là thế nào?... - James Milligan nói, mặt biến sắc.

- ... Tên ấy, ngày hôm nay đang ngồi tù về tội ăn cắp trong một nhà thờ, đã thú nhận tất cả..

Không gia đình - Chương 17 : Trong gia đình

Nhiều năm trôi qua.

Giờ đây tôi ở trong lâu đài nhỏ của cha ông tôi ở Công viên Milligan, nước Anh.

Đứa trẻ không gia đình không những có một người mẹ, một người em trai nó yêu và yêu nó, còn có tổ tiên đã để lại cho nó một tên tuổi đáng kính và một gia sản không nhỏ.

Đứa trẻ khốn khổ mà hồi nhỏ đã từng bao đêm ngủ trong vựa thóc, trong chuồng bò hay một góc rừng giữa trời khuya, nay là thừa kế của một tòa lâu đài tráng lệ.

Chúng tôi sắp làm lễ rửa tội cho con trai đầu của chúng tôi, bé Mattia.

Cuộc hội ngộ này tôi tổ chức để làm vợ tôi ngạc nhiên: nàng sắp gặp cha, chị, hai anh và dì nàng. Tất cả sẽ ở dưới mái nhà chúng tôi tối nay.

Nhưng kìa, mẹ tôi đến kìa, tôi trông thấy bà hôm nay không khác gì trông thấy bà lần đầu trên tàu Thiên Nga. Bà dựa vào cánh tay Arthur, nay đã trở thành một thanh niên đẹp đẽ và cường tráng.

Cách sau hai người mấy bước tôi thấy một bà già ăn mặc theo kiểu nông dân Pháp, bế trong tay một đứa bé tí xíu bọc trong một cái áo lông trắng; đó là má Barberin và con trai tôi.

Chú nhỏ nhạc sĩ đường phố, bạn tôi, em ruột tôi, Mattia đã trở nên một nghệ sĩ lớn. Thành công rực rỡ của Mattia cũng là của tôi, chẳng khác gì hạnh phúc của tôi cũng là của nó.

Đúng lúc này có tiếng bánh xe vang đến tận tai chúng tôi, chúng tôi vội chạy ra cửa sổ xem và trông thấy một chiếc xe ngựa lớn bốn bánh, trong đó Lise, vợ tôi, nhận ra cha mình, dì Catherine, chị étiennette, hai anh Alexis và Ben-jamin của mình. Đằng sau chiếc xe này là một chiếc xe độc mã do Bob cầm cương.

Chúng tôi xuống bậc tam cấp đón khách.

Bữa cơm tối đoàn tụ tất cả chúng tôi quanh bàn và dĩ nhiên, chúng tôi nói về quá khứ..Cơm xong, Mattia lại gần tôi, kéo tôi ra khe cửa sổ:

- Tớ có ý này, - nó bảo tôi, - ta cùng chơi bài ca xứ Na-pô-li của cậu đi.

Chúng tôi cầm lấy nhạc cụ. Mọi người vây quanh chúng tôi; lúc này Capi xuất hiện; nó nhận ra cây đàn hác-pơ và khập khiễng đi ra, miệng ngậm cái đĩa tách; nó muốn đi một vòng quanh "cử tọa đáng kính" trên hai chân sau nhưng yếu quá không đứng nổi nữa, nó bèn ngồi xuống và để chào "cử tọa" nó đặt một bàn chân trước lên ngực.

Bài hát được hát xong, Capi cố đứng dậy, thôi thì được sao hay vậy, để đi quyên tiền; người nào cũng cho chút gì vào cái đĩa, Capi mang tiền lại cho tôi. Đó là món tiền lớn nhất tôi chưa thu được bao giờ; toàn là những đồng vàng và những đồng bạc.

Tôi hôn nó trên mũi như trước kia mỗi lần nó an ủi tôi, và kỷ niệm thời thơ ấu này của tôi làm nảy ra một ý nghĩ mà tôi giải thích ngay với mọi người:

- Món tiền này sẽ là món tiền đầu tiên cho vào quỹ xây một cái nhà cho các nhạc sĩ tí hon của đường phố; mẹ tôi và tôi sẽ đóng góp nốt phần còn lại.

- Thưa bà thân mến, - Mattia nói, hôn tay mẹ tôi, - con cũng xin góp một phần nhỏ vào đó; nếu bà cho phép, tiền thu được trong buổi hòa nhạc tới của con ở Londres sẽ thêm vào số tiền thu được của Capi.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro