lamtung bh

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chiều sương

Vào một chiều trung tuần tháng giêng, chàng trai ấy lang thang trong những ngõ hẻm làng. Chàng đi không mục đích, hồn lặng thấm cái êm ả lắng tự vòm trời trắng hơi biêng biếc như giát bạc, cái êm ả của những cuối ngày thôn dã. Chàng đi và nghĩ đến trăm điều vu vơ, những ý nghĩ thoáng qua trong trí rồi vỗ cánh bay đi, như những con bướm đa tình vội hôn đóa hoa này để đến với hoa kia.

Chàng đi lơ đãng, đến nỗi sương tỏa xuống mù trời từ bao giờ mà chàng không biết. Sương bạc đã tỏa rất nhanh, một cách bất ngờ. Thấy ẩm lạnh trên đầu và có hơi nước đọng trên mi, chàng mới ngơ ngác nhìn lên.

Cảnh vật, như dưới một đũa tiên mầu nhiệm, đã tan biến trong giây phút. Chỉ còn trơ lại quanh mình những nét thâm thâm của vài nhánh cây khẳng khiu và những vuông xám mờ của các túp tranh. Những bụi xương rồng và râm bụt chạy hai bên đường đẫm sương, óng ánh, xanh tươi lại. Vài mạng nhện mắc giữa hai cành yếu, trắng toát như dệt bằng những sợi tơ bạc li ti.

Trời không lạnh lắm, nhưng hơi sương ngấm vào mình; chàng trai lẳng lặng trong tâm hồn buồn, cái buồn tê tái và mang mang, cái buồn ôm trùm, như kết bằng những sầu thảm nào mơ hồ và đã xa xôi lắm, tưởng tượng hay là thực, chàng cũng không biết nữa. Hơi ẩm đọng trên mi, chàng tưởng nước mắt rưng rưng.

Chàng đi lang thang, mặc hồn lang thang... Sương bay từng luồng, hạt sương bám khẽ vào da mặt như một làn phấn bụi.

Những tiếng người trao đổi trong sương, như gần như xa, lãng đãng. Ngoài sông mờ, bóng một chiếc thuyền chài sửa soạn ra khơi: sương mù đã tới báo mùa cá thu. Chàng rẽ vào nhà một ông bạn già. Chàng thấy lão đang ngồi xổm đan lưới, hai chân co trước ngực, mình quàng trong một manh chiếu vuông buộc túm một đầu để khoanh lấy cổ, thứ áo tơi và áo rét của dân chài.

Chàng chào, và lão Nhiệm Bình với dáng điệu giản dị của những người chất phác, vỗ vai người bạn nhỏ, bảo ngồi trên phản. Chàng hỏi:

- Cố (1) không đi biển à?

- Không, chú ạ. Già rồi, không năng đi được nữa.

- Cố kể chuyện đi chài nghe đi.

Chàng nói thế bằng cái giọng nũng nịu của đứa cháu vòi bà. Chàng thường đến đánh bạn với lão chài, và ông lão, đối với chàng trai mới lớn, có một tình yêu thương che chở, tốt quá mức đến cưng chiều, như tình yêu thương mà tất cả những người già đùm bọc trẻ con. Lão cười đáp:

- Còn chuyện gì mà kể nữa! Chú nghe hết cả chuyện của tôi rồi.

- Không... Cố phải kể đi... à, cố kể chuyện ma đi. Cố đi chài có bao giờ gặp ma không?

Lão Nhiệm Bình có một nụ cười hồn hậu nhuốm vẻ độ lượng của kẻ không biết từ chối bao giờ.

- Chuyện ma à? Tôi cũng ít khi thấy ma lắm... Có vài lần thuyền neo ngoài khơi, tôi ngồi câu đêm, thấy giằng mạnh ở câu, vội kéo lên. ái chà, sao nặng khiếp. Mà lạ, chỉ thấy nặng thôi, như có tảng đá trì giữ lại, chứ không thấy giật giật vùng vẫy như con cá to. Tôi nghĩ thầm: khéo lại cái nố ta (2) rồi, hắn muốn trêu mình đây... Quả nhiên! Tôi vừa kéo câu lên khỏi mặt nước, thấy hắn xòa một cái, xanh lè cả nước biển, mình hết hồn. Nhìn lưỡi câu, con mực mồi vẫn còn nguyên.

Đó, tôi chỉ gặp vài lần như vậy thôi. Đêm khuya lạnh lẽo, vắng vẻ, chắc cụ buồn tình, bày chuyện phá mình tí cho vui.

Có người họ kể, đêm ở ngoài khơi, trời êm biển lặng, mọi người đang neo ngủ, thấy các chú bơi lù lù rồi trèo lên ngồi dăng dăng hai bên mạn thuyền; họ nói: "Thôi mà, anh em mình cả, trêu nhau làm gì?", thế là cả bọn nhảy sùm xuống, bơi đi.

Mồ ma ông cụ Bình khi xưa, dạn khiếp. Nửa đêm ông ta đi lưới về, qua dưới cây đa trước miếu, một bầy hắn bíu lấy tay. Không thấy người đâu, nhưng nghe tiếng hắn léo nhéo xin cá. Ông ta đáp: "Chà, xin với xỏ, được mấy con cá về cho vợ con đây!". Thấy nhẹ trong rổ, sờ vô thì cá đã biến mất. Ông ta nạt: "Đồ quỷ, cứ nghịch thôi!". Thế là tiếng cười bật lên ríu rít, hồi sau lại thấy nặng rổ.

Lão chài kể như vậy, giọng bình thường như nói chuyện người dương gian (3), tay vẫn thoăn thoắt đưa que đan qua mắt lưới. Chàng trai khẽ rùng mình thích thú. Chàng vốn không tin ma quỷ; chắc chắn đó chỉ là điều huyễn tưởng (4), nảy sinh từ một khung cảnh, một tâm trạng nào đó; nhưng có thể nào không tin ở cái giọng kể từ tốn hiền hòa của ông lão! Trong ý nghĩ lão chài, chàng đoán, âm dương không phân ranh giới rõ ràng, cõi sống và cõi chết nương nhau vấn vít. Mấy chú ma, hồn của những người dân chài đã bỏ mình trong bão tố, trở về ngồi lặng lẽ trên mạn thuyền, chắc hẳn chỉ để tìm lại chút hơi ấm cuộc đời, vì cảm thấy lòng biển quá mênh mông, lạnh lẽo. Và tuy đã tìm thấy cái chết trong tai ương (5), bi thảm và dữ dội, không phải bao giờ hồn họ cũng ngậm giữ oán hờn; họ còn biết nghịch ngợm đùa trêu người sống, và chàng trai tưởng nghe, vẳng từ sương mù dày đặc, tiếng cười giòn ríu rít của những cái bóng vô hình cạnh cây đa già miếu cổ...

- Có bao giờ người ta thấy một cái thuyền ma, hay cả một đoàn thuyền ma không, cố?

Chàng trai lại cất tiếng hỏi.

- Thuyền ma à?... à... có một lần, đã lâu lắm, chính mắt tôi thấy. Hồi ấy tôi còn trẻ lắm, tôi còn đi trai dưới thuyền mồ ma (6) ông Phó Nhụy... ờ cũng trời sương mù mịt như thế này, thuyền thì vừa tháo tố xong, thoát nạn chết này lại đâm liền vô nạn chết khác.

Bữa đó thuyền ra lạch...

*

* *

Sáng hôm ấy, một buổi sáng thanh quang. Bình minh giát ánh vàng trên những dải mây bông thoáng nhẹ. Các bác chài tay đưa chèo theo nhịp đều đặn, ngước nhìn trời, lòng không ý nghĩ, không lo lắng. Nhưng khi thuyền chạy ngang nhà Thương chính, một chiếc xuồng do hai đứa con nít chèo bỗng lướt ngang trước mũi. Mọi người chửi rủa chúng ầm ĩ; dân chài rất kiêng bị "ngáng đường" như thế, và ông lái hơi nhăn trán lại.

Ra khỏi lạch (7), thuyền kéo buồm bắt cơn gió tây nam chạy thẳng ra khơi. Chiếc thuyền, dáng hơi nặng nề, lừ đừ tiến, hai mắt tròn trân trân nhìn về trước. Khi một ngọn sóng kéo đến, nó chồm dậy rồi đâm chúi xuống, làm tung tóe một làn nước bạc xóa. Càng xa bờ, sóng càng bớt mạnh, chỉ còn là những cái lượn, lưng cong và rộng, kéo lừ đừ nhưng hùng cường. Những mảnh nước lớn thốc vào dưới mũi thuyền khiến bọt trắng tóe, rồi tự rẽ đôi chảy róc rách hai bên mạn. Các bác chài đã gác chèo ngồi bện dây neo, quai chèo hay tán chuyện, có vẻ không biết đến sự nhồi lắc của sóng.

Gió lên lồng lộng, thuyền chạy phăng phăng, để lại sau một vạch phẳng lì, vì nước đã bị khối nặng của thuyền dàn ra. Nhưng chẳng bao lâu, những làn sóng lô nhô hai bên mép tiến vào và xóa mất vạch phẳng.

Càng xa bờ, gió càng mạnh, như dậy từ bốn phương của khoảng rộng. Nắng vàng và gay gắt thêm. Khi mặt trời đứng bóng, biển biếc ngả sang mầu lục.

Ông Phó Nhụy, nhà nghề và chạy lái, ra lệnh bỏ neo (8). Đoạn người ta tháo dây neo cho thuyền trôi tới gần chỗ đã thả bóng hôm trước. Bóng là một cái lồng tròn lớn và đan thưa, thả lưng chừng nước, trong có lót lá tre làm chỗ êm mát rủ cá lội vào. Cạnh bóng, người ta cột vài ba cây gầy, một loại tre vầu. Cá tìm thấy ở đó một nơi nghỉ tới nhóng xung quanh, có khi hàng đàn lớn.

Hai bác chài, lặng lẽ và nhanh nhẹn, ngồi đầu mũi thả lưới, trong khi thuyền, dưới mái chèo, nhẹ tiến tới. Sau một lát chờ đợi, thuyền lùi lại và hai bác, có thêm người trợ lực, kéo dần lưới lên. Những con cá mắc đầu vào mắt lưới, giãy đành đạch làm lóe những ánh bạc biêng biếc. Vài con cá nhỏ nhảy lanh tanh trong đám rong rêu lẫn những hạt tròn nhớt và trong, mà người ta gọi là trứng nước. Bình hồi ấy còn là một chú trai quèn, túm từng mảng lưới hất mạnh cho cá bật vào rổ rồi đổ dần cá xuống khoang. Từ khoang bốc lên một mùi tanh mặn và man mác, mùi của biển cả. Những con cá trích, cá đốm, lẫn cá thu, cá hồng, mắt tròn mở trân trân, há miệng méo xệu một cách tuyệt vọng cố hớp không khí, trong tiếng lách tách của vây cứng.

Thuyền nặng dần, đè ép sức lắc nhồi của sóng. Chú Trai đã đi thổi cơm. Xế trưa, thuyền nghỉ để dùng bữa. Trên mâm gỗ, lỏn thỏn hai bát cá đầy và một bát muối; cạnh mâm, một rá cơm và một xanh canh cá. Cơm xới trong bát đầy có ngọn, các bác chài và rất nhanh như chèo đua cho chóng xong bữa. Chợt một bác kêu:

- Nhìn kìa!

Và chỉ ra phía bên trái, chỗ mặt nước lăn tăn báo có đàn cá đi qua. Mọi người vội vàng bỏ đũa, kẻ chạy đến chèo, kẻ chạy đến lưới.

Họ mê mải trong công việc trong khi trời đã ngả về chiều. Mặt trời, lúc còn ba con sào, bỗng khuất sau đám mây. Bác Hoe Trăn nhìn lên và kêu:

- Coi kìa! Trời đổ ráng ngoài.

Mọi người nhìn theo, lo ngại. Ông nhà nghề, hơi rụt đầu trong cổ béo, quay ngó xung quanh, cũng kêu theo:

- Sắp có tố (9) đến nơi!

Họ vừa nhận thấy điềm báo không thể lầm lẫn. Trời đã đột ngột đổ ráng ba phương đỏ rực: ráng ngoài, nơi chân trời, và phía trong bờ, hai ráng Lò (Cửa Lò), ráng Cương (Cương Gián). Mặt các bác chài đỏ cháy lên trong ánh phản chiếu. Ông nhà nghề ra lệnh:

- Kéo lưới lên! Giương buồm!

Chân người chạy trên sạp rầm rập. Các bác chài co chân đu mình trên dây để kéo buồm, miệng "dô hò" lấy nhịp. Một bác hỏi:

- Gió gì?

Người khác đáp:

- Gió trong. Khó tháo kịp.

Gió từ bờ thổi ra, thuyền cố vát (10). Sóng vùng lên, cuốn, réo, đuổi dồn nhau, va vào nhau tóe bọt, ngụp xuống, trồi lên, đã thấy một sức mạnh hỗn độn và bất ngờ trong gió vừa cuồng lộng (11) thổi. Buồm vát không ăn gió, xương buồm đánh cành cạch lên cột, có khi cọ vào gỗ rít ghê tai. Hình như thuyền trôi lùi ra khơi. Nhìn vào bờ để lấy cữ, ông Phó Nhụy kêu:

- Mưa đến rồi!

Phía bờ đã mờ mịt sau màn mưa trắng bệch, mặt sóng trong kia thâm sẫm lại. Mưa tiến ra khơi rất nhanh phát thành tiếng ào ào, một giây sau, các bác chài, ngồi co mình trong tơi chiếu, đã vuốt mặt không kịp.

Một bác bảo:

- Bỏ neo thôi, không lại bạt mãi ra ngoài khơi đông xích đế cho mà coi.

Neo buông xuống nước. Trong khi dây neo tụt xuống vùn vụt, thuyền trôi lùi về sau, đoạn giật nảy mình, chúi hẳn mũi: dây đã tháo hết. Người ta hạ buồm. Nhưng từ đó, thuyền cứ hục hặc với dây neo như một con trâu dữ bị buộc. Sóng đánh té tát, khi mũi thuyền chúi xuống thì vội thừa dịp nhảy chồm, nước tóe trang lang đến tận sau lái. Nhưng rồi chiếc thuyền rấ khỏe, lại hếch cái mũi ướt sướt mướt, chờ mảng nước khác. Ông nhà nghề nhảy tới ngồi phục ở mũi thuyền, tay lăm lăm cầm con dao rựa. Những giọt nước lớn ném vào mặt ông như vốc đá cuội, khiến rát bỏng da.

Một lần, thuyền tì lại nặng quá. Nước thốc từng mảng lớn, thuyền dốc đứng tưởng như cứ thế mà đâm thẳng xuống đáy sâu như một cái dùi. Các bác chài, miệng há ngờm ngợp vì bị nước đánh tối tăm mặt mũi, rời chỗ vịn, lăn trên sạp lông lốc. Ông nhà nghề bị ngụp trong mảng nước. Không trì hoãn được nữa! Một tay bám cọc chèo lấy thế, ông vội giơ cao con dao rựa, phăm phăm bổ xuống. Dây neo đứt phựt. Con thuyền hết ràng buộc quay mình trôi phăng phăng. Các bác chài vội nhảy đến đầu mũi giúp sức ông nhà nghề hất xuống nước cái neo sắt còn lại, mà ông này vừa chặt cánh gỗ đi. Không còn cánh, mỏ neo không cắm, nằm bẹt trượt trên nền đáy biển như một hòn sắt nặng. Như thế, thuyền không bị giằng lại, mà cũng chỉ trôi từ từ, kéo cái neo sắt rê trên đáy cát.

Nhưng gió vun vút lên mãi, mưa bay ngang chích vào mặt dày đặc thêm, sóng giận dữ gầm réo, nổi lên như núi. Mặt người nào người nấy tái mét; tuy có tơi che, quần áo họ ước mềm dính vào da, và vải đã bở sẵn, khi thấm nước rách toạc nhiều chỗ. Chú Trai, lúc nãy bị sóng đánh lăn xuống khoang, ở luôn dưới ấy tát nước, tay lia lịa đưa cái mu sam (12). Hai bác chài tới giúp sức, chuyền cho nhau những thùng nước đầy để trút ra ngoài. Thuyền giằm, ít bị nhồi lắc, nhưng sóng dễ tràn lên; nước trong khoang nhiều đến nỗi cá nổi lềnh bềnh. Theo lệnh ông lái, người ta xúc cá đổ bớt ra ngoài; nhưng sóng biển, trong một hằn thù mai mỉa, đánh vào thuyền, trả lại. Những con cá đập lên áo các bác chài và nằm trắng ràn rạt trên sạp, chờ một ngọn sóng tràn qua liếm đi và thay bằng lớp khác. Thuyền nhẹ bớt, nổi hơn, nhưng vì thế lại làm mồi thêm cho gió, trôi phăng phăng. Người ta bèn xở buồm (13), buộc dây vào bốn góc, rồi thả xuống biển. Gặp nước, buồm mở tung như một chiếc diều mà đầu lèo (14) đã cột vào mũi thuyền. Nước cản tấm buồm rộng căng, làm cho thuyền bớt trôi.

Đoạn, mọi người lại ngồi im lặng, co ro, cho mưa dội, sóng nhồi, gió táp. Màn mưa xám càng lúc càng sẫm thêm, rồi bóng tối ăn loang khắp không gian. Ông nhà nghề bảo:

- Anh em ai có đói, bốc nhúm gạo mà nhai.

Nhưng không ai trả lời. Họ ngồi thu mình, run run trong cái lạnh của nước ngấm vào da thịt.

Chừng quá nửa đêm - họ chỉ đoán vậy, và không còn một ý niệm nào về thời gian - sóng bớt gầm réo và bớt nhồi lắc, gió hạ dần, nhưng mưa vẫn rơi liên miên. Con thuyền mệt nhọc xang đưa (15) lừ đừ. Và khi một ánh trắng xám ló nơi chân trời, thì biển đã lặng hẳn. Các bác chài, tai còn đầy cái huyên náo hồi đêm, nghe trong đó ù ù như điếc. Họ không còn đủ sức để tỏ niềm vui mừng; một cảm giác mỏi mệt và co rút hầu như làm tê liệt các bắp thịt.

Mầu trắng sữa liếm dần bóng tối của vòm trời, và mưa đã ngớt hẳn. Nhưng trên mặt biển, ùn ùn từ đâu đến - dân chài bảo từ Thủy phủ (16) đùn lên - một đám sương mù dày đặc, mang vị mặn và hơi lạnh thấm thía. Người ta kéo cái neo sắt lên, đẽo cánh mới lắp vào, rồi neo thuyền cho đứng yên. Mỗi người góp một câu để đoán vị trí của thuyền. Họ chắc ở ngang Thanh Hóa, vì trong cơn bão, gió chướng (17) thổi từ phía tây nam. Nhưng còn cách bờ bao xa thì không ai đoán được. Một bác chài đo được hơn năm mươi sải nước và họ biết là đã bị giạt ra ngoài khơi xa lắm.

Đột nhiên, không ai bảo ai, tất cả im lặng: họ vừa ngửi thấy một mùi kì dị, một mùi nhạt và ẩm ướt, tanh lợm như mùi rong rêu. Rồi một bóng đen dài hiện trong sương, phía trước mặt. Một người đoán:

- Chết, mình trôi đến cồn đá. Ra nãy giờ neo rê.

Một người khác đáp:

- Neo rê thì biết liền chứ. Đó là cái thuyền, nhìn kỹ mà coi.

Quả nhiên trong sương bóng đen rõ dần thành một chiếc thuyền, trên đó lố nhố những bóng người chèo. Họ chèo lặng lẽ dị thường, tưởng như thuyền lướt trên biển dầu. Một bác chài bắt loa miệng hỏi:

- Ai đó?

Thuyền bên kia có người đáp:

- Thuyền Xin Kính đây. Có phải thuyền ông Phó Nhụy bên ấy không?

Ông Phó Nhụy hỏi bạn chài:

- Tiếng ai nhỉ? Nghe giọng lạ gớm. Mà sao họ biết thuyền mình?

Đoạn cất cao tiếng:

- Tôi Phó Nhụy đây. Thuyền bên ấy cũng vừa tháo tố đó phải không? Có biết đây là đâu không?

Bên kia đáp:

- Ngang Cương Gián. Giờ phải đi xế lên mà vô lạch.

Trên thuyền ông Phó Nhụy, người bàn cãi lao xao. Gió thổi từ phía nam, sao thuyền lại giạt xuống ngang Hà Tĩnh được? Ông Phó Nhụy lại hỏi to:

- Sao mà biết?

Bên kia có một câu trả lời kì quặc và bí mật:

- Sao lại không biết... à kìa, nồm vừa thổi đó, ta bắt ngọn gió này mau mà lên lạch.

Trong nháy mắt, đã thấy thuyền bên kia giương buồm. Chẳng hiểu sao họ làm nhẹn và lặng lẽ được đến thế. Ông Phó Nhụy, tuy bụng phân vân, sai kéo buồm chạy theo. Trong lúc tâm trạng đang bơ vơ và còn in dấu vết sự hãi hùng vừa qua, người ta không muốn rời bỏ bạn đồng hành đã gặp tình cờ.

Gió quá nhẹ, buồm không ăn gió đập phần phật. Sương tạt từng luồng như một cơn mưa trắng. Thuyền đi trước vẫn chỉ nom thấy dáng mờ mờ ảo ảo như trong giấc mơ, với quãng cách không thay đổi.

Chợt chú Trai kêu:

- Có ai như người trôi kìa?

Một bác dùng sào khều cái vật trôi lềnh bềnh đen thui và nói:

- Người thật.

Họ cúi vớt người kia lên. Tay anh ta co quắp còn cắp chặt trong nách một cái chèo ngắn; mặt anh ta tái nhợt, mắt nhắm nghiền, hai hàm răng cắn khít.

Một người bảo:

- Hà hơi, hà hơi đi, hình như còn thở thoi thóp.

Từ bên kia thuyền Xin Kính, tiếng người hỏi:

- Vớt được ai đó?

Mọi người cúi nhìn tận mặt kẻ bị nạn, nhưng không nhận ra ai. Mặt anh ta co rút nhăn nhúm đến nỗi đã méo dệch hẳn đi. Chú Trai góp ý kiến:

- Giống như anh Hoe Chước.

Ông Phó Nhụy nói to sang thuyền kia:

- Hoe Chước!

Nhưng ông lại chợt nhớ ra. Sao thế được nhỉ? Hoe Chước đi bạn (8) trên thuyền ông Xin Kính kia mà? Ông hỏi to:

- Có Hoe Chước bên ấy không?

Thuyền bên kia có một im lặng kì quặc. Chú Trai, thính tai nhất trong đám, nghe như bên kia đang bàn cãi gì láo nháo. Chú bỗng kêu lên:

- Ô kìa, đâu mất rồi?

Thuyền ông Xin Kính vừa biến đi, như vụt chìm xuống đáy biển. Cái bóng cả thuyền lẫn buồm, đen nhờ nhờ, chỉ còn để lại một khoảng trống không trắng toát, khoảng trắng ấy nhòa dần vào màu sương phơn phớt xám. Trên thuyền ông Phó Nhụy, mọi người câm lặng, tim bóp chặt trong một lo âu ghê rợn, mở to mắt nhìn trân trân.

Chú Trai lại kêu:

- Có tiếng gì om om lạ gớm?

Cùng một lúc, tất cả ai nấy đều nhận ra quả có tiếng sóng đánh phòm phọp âm âm như vỗ vào hang hốc. Ngay trước mặt, một khối to đen đồ sộ vụt xuất hiện, chỉ cách thuyền vài chục thước. Tức thời, ông lái nhảy bổ tới, túm lấy lèo, giằng riết. Chiếc thuyền quặt mũi về bên trái, có một phút do dự rồi tiến theo ngả mới. Các bác chài vội chạy đi tra chèo, ráng sức chèo tới. Cái khối đen mờ dần trong sương, rồi biến đi. Ông Phó Nhụy thở phào: thuyền ông vừa suýt đâm phải núi đá.

Khi thuyền ông Phó Nhụy, sau một buổi chạy vờ vật ngoài khơi, lần về tới lạch, thì anh Hoe Chước hơi tỉnh. Anh kể rằng trong cơn bão, thuyền ông Xin Kính bị sóng đánh giạt vào núi đã vỡ tan tành, và có lẽ chỉ mình anh sống sót, vì đã vớ được một cây chèo nhảy trước xuống biển. Những người kia, sau đó, nếu có nhảy khỏi thuyền cũng đã muộn và bị sóng quật vào lèn đá (19) đến rã xương.

Vợ họ nay vẫn sống trong góa bụa - có người đã chết. Và cái hy vọng mong manh một ngày trở về của người thân cũng đã tắt trong họ từ lâu.

Ác Cảm

Bùi Hiển

Một chiếc cầu bắc trên dòng sông hẹp, ngăn thành phố với ngoại ô. Sang khỏi cầu, sự thay đổi đột ngột. Con đường xù xì lên những đá và đất đỏ. Những đứa con nít, phần nhiều có một dải bùa vàng buộc ở cổ áo, giỡn nhau giữa đường, chửi đùa nhau cũng khá thô tục. Một đứa bé tí lem luốc bước trên hai cẳng chân chưa vững và khóc bi bẹ Vài con chó chạy nhong nhong, cúi ngửi bã míạ Từng khoảng một, hai bên mép đường, mấy đứa con gái ngồi bán mía, em nhỏ đặt ngồi cạnh để trông giữ luôn.

Hai dãy nhà lụp xụp nối dài, cửa che bằng phên chống nghiêng nghiêng hoặc bằng mành tre rất to nan. Trên giậu râm bụt, vắt phơi trơ trẽn những quần áo bẩn thỉu, yếm váy vá chằng đụp.

Sông lờ đờ lê dòng hẹp màu vàng đục. Về chiều, nhất là những ngày chủ nhật hay ngày lễ, người trong phố ra ngồi bờ sông câu cá. Có người âu phục, có người ra dáng thợ máy, có mấy cậu học trò, và không biết tại sao, đôi khi lại có cả một bác lính mũ chào màọ Họ ngồi kiên nhẫn dị thường, chặn đầu cần câu dưới một hòn gạch hoặc đá, đoạn lơ đãng ngắm cảnh vật hoặc nhìn lại những người đứng chơi trên cầu nhìn họ.

Mấy người đàn bà lội xuống vo gạo, rửa rau, chè hoặc bèọ Họ cũng có ý đứng xa một tí những người đang giặt yếm váỵ Họ khua tay trên nước mấy cái cho bọt và rác dãn ra theo vòng sóng, đoạn nhúng rổ xuống.

Đằng xa, một người đàn bà rán sức vung quá đầu chiếc chiếu cuộn dẹt rồi đập lên mặt nước rất mạnh, khiến nổ bật những tiếng như tiếng súng.

Giữa cái xã hội ngoại ô ấy, Mân sống đã mấy tháng naỵ Anh dạy học ở một trường tư trong tỉnh, sau những buổi dạy, anh trở về túp tranh dựng ngay cạnh cầu, thuê mười đồng một năm. Anh chưa quen thuộc hẳn với cái xã hội mà anh cho là ô hợp ấỵ Nhất là những lúc nghe hàng xóm chửi bới nhau om sòm, anh không nén được phiền bực.

Túp lều Mân ở tối om om. Mỗi sáng, soạn và chấm bài, anh phải chong ngọn đèn dầu mãi đến bảy giờ. Cái cửa sổ chấn song tre, cạnh đó kê bàn làm việc, nhìn ra con đường nhỏ dẫn xuống bến sông. Người gánh nước qua lại luôn, làm rộn trí anh. Nước đọng vũng, mấy con vịt đến khoắng mỏ lục sục, hơi bùn tanh nhạt, có khi thối hoắc, xông lên nặc mũị

Một sự lầm lỡ đã đầy đọa Mân đến cảnh nàỵ Chắc mấy người hàng xóm của Mân chẳng ai ngờ rằng cái ông giáo quèn vừa về sống cạnh họ và có bộ xơ xác, đã có lần quản trị hàng vạn bạc. Trước, Mân chung mở đồn điền với một người cùng huyện tên Bạc Hóị ồ, đó không phải một tên Tàu, hay Cao Miên. Nhưng lẽ ra - sau này Mân hối hận và nghĩ lại - với một cái tên như vậy, Mân phải đề phòng hơn mới phảị Có những cái tên hình như tiền định. Hắn hói mất nửa đầu, nên có biệt danh ấỵ Tên Bạc cũng chẳng hay ho gì, khi nó dùng để ghép những chữ kép như: bạc ác, bạc bẽo, bội bạc.

Quả nhiên, Bạc Hói lừa Mân. Hắn nắm được một chỗ hở của Mân, đâm đơn kiện và tranh lấy cả đồn điền. Mân thu vét tiền còn lại để theo kiện, nên bây giờ nghèo xơ xác. Mân có của người kinh doanh cái óc bao quát công việc và cái khiếu đón đầu thời cơ. Nhưng anh đã tin người quá. Bao nhiêu những nhà doanh nghiệp đều có quả tim khô khan và khóe mắt nghi kỵ. Họ ngầm giữ miếng với cả những người tâm phúc. Cũng một đôi khi Mân đã ngờ lòng Bạc Hói, nhưng để rồi tự thẹn với mình, tự thẹn vì đã gán cho kẻ khác những tình ý mà hẳn y không có.

Bây giờ Mân sống đoạn tuyệt với mẩu đời vừa quạ Anh nguyền quên hết cả; anh bóp chết trong lòng hình ảnh Bạc Hói cũng như kỷ niệm sâu cay của một cuộc thất bại đau đớn. Nghị lực anh dựng một bức tường cao ngăn hẳn hiện tại với quá khứ. Của thời cũ, nếu Mân còn giữ lại cái gì, thì đó là cái kinh nghiệm về lòng người, càng quý báu vì giá mua càng đắt.

ở được ít lâu nơi ngoại ô, Mân có một bạn láng giềng mớị Một chiều đi dạy về, đang đứng thơ thẩn trước cửa, Mân thấy anh ta chuyển đồ đạc từ xe bò vào túp tranh bên cạnh. Anh không nhìn thẳng vào mắt hắn, nhưng đoán chừng hắn trạc ba bốn mươị Một hồi sau, ăn cơm xong, anh ra vườn thì lại thấy hắn đứng rửa taỵ Hắn quay nhìn sang phía anh, nhưng cúi đầu nên anh không nhận rõ được mặt hắn. Trong bóng hoàng hôn, anh tò mò ngắm hắn lâu lắm. Khuôn mặt hắn tròn tròn, đều đặn, anh chỉ biết có thế. Chợt tiếng reo nổi lên ngoài phía sông: hẳn một con cá vừa mắc câu, giữa sự vui mừng huyên náo và hơi trẻ con của những người xem. Hắn chưa quen tiếng ồn ào ấy, ngước nhìn, và Mân được dịp nhận ra một bộ mặt hiền lành, nhũn nhặn. Nhưng cùng một lúc, Mân đột ngột cảm thấy cái gì như một phiền rầy: có lẽ bởi anh bị bắt chợt đang nhìn trộm hắn. Anh bèn quay vàọ

Vú già nói cho anh biết là hắn sắp mở một quán rượu đón những ông Xã bác Nhiêu lên tỉnh: rằng hắn tên là Tạọ Đàn bà là những cơ quan thông tấn thực nhạỵ

Tin báo của vú già khiến lòng Mân nao lên một niềm gì gần như giận dữ. Hàng xóm của anh chưa đủ ầm ĩ hay sao mà hắn còn lo tụ tập lại những ông Lý toét, những bác Nhiêu, chén rượu thịt chó vào rồi hét oang oang như để cho cả trời nghe!

Chiều hôm sau trong lúc ngồi trông nom học trò làm bài, Mân sực nhớ lại giấc mộng hồi đêm. Có nhiều khi hồi ức giấc mộng đã cũ trở lại trí nhớ một cách đột ngột như thế, trong một hoàn cảnh không liên quan gì với chuyện trong mộng cả. Hình như anh đã thấy trong chiêm bao một cảnh gì náo động lắm, có điểm chút kinh hoàng thì phải, nhưng không nhớ rõ chuyện gì. Mà hình như giữa sự hỗn độn của những hình ảnh, có thoáng qua bóng dáng người láng giềng mới của anh.

Sau buổi dạy, trái với thói thường, Mân đi dạo quanh vùng anh ở. Khi qua trước cửa hàng rượu, anh quay nhìn vào một thoáng maụ Không hiểu tại sao anh cứ phải chú ý đến Tạọ Hắn đang sắp lại mấy phong thuốc lào trên quầy hàng, sực ngửng lên. Hắn đon đả chào:

- Thưa ông giáo đi chơi ... Ông ghé tạm vào chơi xơi nước ạ.

Mân không bằng lòng với mình vì đã để cho hắn bắt chợt luồng mắt mình. Anh trả lời:

- Cám ơn bác. Để hôm saụ

Hắn có dáng nhã thiệp, và một nụ cười nhũn nhặn, dễ thương. Quần áo sạch sẽ, tóc chải gọn. Nhưng những điều ấy, không biết tại sao, chỉ làm Mân ghét thêm hắn. Hình như trong anh có tiếng nhủ thầm: Hãy coi chừng! Hãy coi chừng cái bề ngoài ấy!

Đáp lại lời mời nhã thiệp của hắn, Mân đã lấy một giọng hơi xẵng, hoặc ít ra cũng khô khan. Nhưng mà anh không thấy tự thẹn vì sự thiếu lễ độ kia; trái lại anh có một chút thỏa thuê trong thâm tâm.

Sau đó mấy hôm, vú già lại nói chuyện với Mân về người láng giềng mớị Vú kể rằng lúc sáng, một ông Phó lý ghé vào hàng hắn uống rượu, rồi ra chợ; một lát sau hắn bắt được trên bàn cái túi, mở ra thấy mấy tờ bạc; hắn vội vàng thuê xe ra chợ, rồi chạy sục khắp chợ tìm cho được người khách lơ đễnh kia, giao giả cẩn thận.

Câu chuyện ấy khiến Mân càng ác cảm với hắn thêm. Anh nuôi sâu cái định kiến vô lý rằng hắn chỉ có thể là một đứa gian tham. Chà! Nếu một hôm nào đó, người ta bắt chộp được hắn đang pha nước vào rượu, hẳn Mân sẽ bằng lòng vô cùng. Anh gắt đuổi vú già xuống bếp. Anh cảm thấy hơi lo ngại, lo ngại cho lòng tự ái, như khi nghe ai đưa lý lẽ để đánh đổ một tin tưởng hồn nhiên nhưng sâu sắc của mình.

Sau cùng, Mân nghĩ rạ Chà, đó chỉ là một tấn kịch dàn mặt. Hắn đã bày ra kế ấy để chiêu khách đến cửa hàng mới của hắn. Ông Phó lý nào đó chỉ là người hắn thuê đóng trò. ý nghĩ đó làm cho Mân hả hê.

Một buổi sáng, Mân vừa ra cửa, một toán con nít đùa nhau xô cả vào anh. Sách vở anh cầm trong tay văng ra đường. Chúng vội bỏ chạỵ Vừa lúc ấy, Tạo đi ngang qua, ý chừng lên phố. Hắn kêu lên:

- Ngỗ nghịch thế thì thôi!

Đoạn cúi xuống nhặt hộ một quyển vở. Mân vội tranh nhặt, nhưng không kịp. Hắn phủi bụi cẩn thận, trao trả Mân và nói:

- Con nít mình không biết dạy dỗ, đứa nào cũng hỗn xược.

Hắn kèm lời nói bằng một nụ cười như để cầu xin tha thứ cho bọn trẻ.

Mân nói: "Cám ơn", đoạn gọi xe lên trường. Anh tự nhằn mình vì đã để phải chịu ơn hắn. Hắn càng đáng ghét.

Bài luận lý dạy hôm ấy, về sự công bằng, hiến dịp cho Mân nghĩ về hắn một cách đúng đắn hơn. Người ta ít khi kiểm soát lòng mình, vì lười biếng, và nhất là vì nhát gan; người ta sợ không biện giải được cho những hành động, những tình cảm của mình. Mân nhận thấy mình vô lý. Anh đã bất công với Tạọ Hắn có làm gì anh đâủ Trái lại hắn lịch thiệp và ân cần với anh.

Mân tự hỏi duyên cớ cái ác cảm lạ lùng kiạ Có lẽ bởi Tạo là người chứng kiến một quãng đời suy bại của anh chăng? Nhưng không, ác cảm của anh cũ hơn kia; nó đã dậy lên đột ngột ngay từ cuộc giáp mặt đầu tiên; anh thấy phiền rầy bực bội khi vừa trông thấy hắn. Mấy lâu nay anh vẫn lánh mặt hắn - tuy vẫn chú ý ngầm - để tránh cái phiền bực khó hiểụ Mân nghĩ rằng cái phiền bực ấy thuộc về vợ chồng trước khi lan sang địa hạt tinh thần; chắc hắn có một cái cằm hay một cái mũi không ưa mắt anh.

Từ đó Mân để tâm quan sát hắn. Anh thừa những dịp hiếm hắn đứng ở vườn sau để ghé mắt qua khe vách nhìn trộm rất lâụ Anh không tìm ra sự gì mớị Mặt hắn vẫn có vẻ hồn hậu, trong những nét cân đối, tròn trặn. Sau anh nghĩ ra: lỗi của anh là đã nhìn kỹ quá. Khi mình tò mò ngắm một người thân, bạn mình hay mẹ mình chẳng hạn, khi mình để ý đến từng nét lông mày, từng vành môi, từng nếp mi mắt, thì mình nhận thấy - điều này có vẻ trái ngược nhưng mà quả thực thế - người ấy không giống bạn mình, mẹ mình nữạ

Một hôm vú già báo rằng Tạo đánh tiếng muốn nhờ Mân thảo hộ cái đơn xin mở thêm cái tiểu bài một nhãn rượu khác. Tin ấy khiến Mân vui thích: bây giờ anh nắm được chứng cớ cái làm ơn của hắn sáng hôm nọ chỉ là vị lợị Nhưng anh không quên lợi dụng dịp tốt này để tìm hiểu cái điều làm anh thắc mắc từ mấy hôm. Anh bảo với vú già hẹn hắn đúng tám giờ tối sang nhà anh.

Chiều hôm ấy anh đi mượn một chiếc đèn lớn, đem về treo giữa nhà. Ai hiểu được sự bố trí chu đáo của anh, để đi tới mục đích nhỏ nhặt như thế nào, tất phải buồn cườị

Đèn treo thắp sáng choang. Sau bữa cơm, Mân ngồi làm việc ở bàn, nghĩa là quay lưng ra cửạ Khi Tạo đến, tiếng guốc trên bậc đá sẽ báo trước. Đợi hắn vào quá ngưỡng cửa một chút, anh sẽ vụt quay nhìn rạ Anh không lóa mắt, vì đã quen với ánh sáng cây đèn trên bàn làm việc. Lúc đó, ngọn đèn lớn sẽ chiếu chênh chếch xuống mặt hắn, và làm nổi bật những nét lồi lõm.

Cái việc xảy ra y như Mân đã dự đoán. Gần tám giờ tối, Tạo bước vàọ Mân xô ghế rất mạnh, quay nhìn. Một nỗi sững sờ đột ngột chiếm lấy anh, lẫn với cái cảm giác phiền bực mà anh đã từng biết rõ.

Làm sao lâu nay anh không nhận thấy điều đó? Mặt hắn phảng phất giống mặt Bạc Hóị

Bạc

Bùi Hiển

Trên con đường quan gồ ghề đá trắng, người đi chợ phủ làm từng đám nhộn nhịp. Những bác nhà quê, cổ phanh rám đỏ, bước dài, hơi hất đầu gối. Những người đàn bà gánh hàng chạy chạy từng bước nhỏ, một tay vung vẩy như làm dáng; họ không vội vàng, nhưng sao có vẻ tất tả.

Một cái xe tay lạch cạch vượt lên. Ba bốn người ngồi trên, có người phải vắt bộ giò đen, gầy và gân guốc lên cái chắn bùn. Bác xe cắm cổ kéo: vậy mà còn nghĩ chuyện chơi khoảnh, đợi gần sát một đám người bác bỗng quát lên; mấy chị con gái đang mải chuyện vội nhảy ngang một cái sang lề đường, điệu bộ rất xấu. Qua cơn hốt hoảng, họ tít mắt cười với nhau; vài chị lên tiếng trách mắng, nhưng lại trở lại ngay câu chuyện bỏ dở. Khách xe văng lại sau chuỗi cười ha hả, dài và khoái trá.

Lúc xe tới chỗ ngã ba gần chợ phủ, một người đàn ông trong bọn nhảy xuống. Điểm đủ ô và quạt trong tay rồi, ông ta bước vào hàng quán cạnh đó.

Mụ hàng đon đả:

- Mời ông Phó vô đây. Bữa ni có thịt cầy béo lắm.

Đó là một mụ già, giọng nói vạm vỡ hơi rè. Ông Phó ngồi trên chõng rồi, mụ không đợi bảo, rót đầy một cút rượu trắng, nút sơ bằng nhúm lá chuối khô, đem tới đặt trên bàn, trước mặt người khách hàng quen. Mùi men tỏa thơm trong quán hẹp: mụ hít hít mà nói:

- Tôi có pha thêm "nố ta" vô đó.

"Nố ta" tức là cái khoản rượu lậu.

Mụ lại bưng tới một đĩa thịt cầy, trông đen đen hơi bẩn; mùi riềng the gắt xộc vào mũi. Mụ nói:

- Ông Phó nhắm đi. Con chó béo ngậy, tôi mua chẵn mười quan đó, ông nhắm đi, uống rượu cho tỉnh người rồi mua bán cho tinh. à ông đi chợ làm chi đó?

- Tôi đi tậu con bò mụ nạ.

Mụ già hoạt bát, đưa đẩy câu chuyện. Mụ khen ông Phó giỏi làm ăn, tậu thêm được nhiều ruộng, đến đỗi năm con vừa bò vừa trâu làm không xuể. Vừa nói mụ vừa nhìn ông Phó, dõi theo từng gắp và từng tợp rượu, vẻ như chia sẻ sự ngon lành của khách.

Mặt béo ông Phó đỏ dần, khiến đôi môi càng tái đi. Ông nói:

- ấm bụng lạ. Rượu vô rồi thấy người mình như nở ra, như to thêm. Mụ cho tôi cút nữa.

Chợt ông nhìn ra đường mà kêu:

- Bác Xã! Bác Xã! Vô đây làm vài chén đã.

Người bị gọi như vậy, đang cắm đầu đi vội về phía chợ, đứng giật lại, rồi bước vô quán. Mụ hàng lanh lẹn lấy thêm rượu, đặt thêm một đôi đũa và một cái chén mà mụ đã thò ngón tay ngoáy cho bớt bẩn.

Bác Xã xoa hai tay vào nhau, nhìn chén rượu trắng lờ lờ và đĩa thịt chó, vẻ nắc nỏm. Ông Phó giơ tay:

- Mời bác. Ta!

Chén thù chén tạc, hai người chuyện nở như ngô rang. Họ ngồi trong dáng điệu quen, một chân co lên trên chõng cho đầu gối gần ngang cổ. Họ nhai cách chậm rãi, sau vài ba hớp rượu thì dừng lại, hút điếu thuốc lào hoặc xỉa răng và mút chúp chíp. Bác Xã càng uống càng tái mặt, lại càng điềm đạm hơn, trong khi ông Phó, say mèm, nói bậy bạ huyên thuyên, công kích người này người khác.

Trong não bị kích thích, ông hồi tưởng lại một mối hiềm cũ giữa ông và bác Xã. Câu chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, giữa hai chén rượu, nhân sự cạnh tranh về ngôi thứ sao đó, và mối hiềm đã kết thúc cũng giữa hai chén rượu, thứ nước cay kỳ dị có phép hun nóng những cuộc xung đột mà cũng làm nguôi dịu những sự hằn thù.

Vốn tính xung động, ông Phó thấy cái hồi ức trỗi dậy cách gay gắt; bụng ông cháy bừng, vì rượu, nhưng ông lầm tưởng đó là sự tức giận. Ông nghiền ngẫm lại mối thù hằn, những thiệt hại đã chịu. Ông bắt đầu nói bóng gió đến chuyện cũ.

Bác Xã thấy khó chịu. Bác đáp lại bằng những lời đo đắn, nhưng đích đáng.

Cuộc trao lời gay gắt dần. Ông Phó to tiếng và thô tục hơn, bác Xã cay độc hơn. Ông Phó vừa nói vừa nhổm nhổm như cách muốn xông tới.

Mụ quán bắt đầu lo ngại. Mụ nghĩ: "Rồi ai trả mình tiền rượu đây?". Một thằng bé hàng xóm khoảng năm sáu tuổi nhưng không mặc quần thơ thẩn vào đứng xem, tay chắp sau lưng làm cái bụng thêm ỏng. Vài ba người đi chợ, nghe tiếng cãi cọ, ghé nhìn rồi bỏ đi.

Thốt nhiên ông Phó đứng dậy, nắm cái cút lia mạnh vào mặt kẻ địch. Bác Xã nghiêng mình tránh kịp. Cái cút đập vào cột tre, vỡ toang. Sau tiếng vỡ, tiếp theo một giây im lặng ghê gớm. Mụ quán đứng run, không nói được nên lời. Mụ ấp úng kêu: "Ua trời là trời!".

Bác Xã vụt hất tung cái bàn: ông Phó bị bàn thúc tới ngã ngửa ra, cái chõng theo đà trượt về sau. Ông gượng dậy rất nhanh. Hai người bíu lấy nhau. Bác Xã nắm được cổ ông Phó vít xuống ghì chặt giữa hai bắp đùi, nắm tay lại tha hồ đấm: bác đấm như mưa vào hông, vào bụng, vào chân đối thủ; ông Phó hục hặc đầu rất mạnh cố gỡ.

Chợt từ mình ông Phó một vật văng ra, nẩy trên đất rồi trượt trượt tới nấp dưới chân tủ rượu. Cuộc đấu vẫn mê mải. Bác Xã vẫn thắng thế, giáng nắm tay túi bụi lên mình ông Phó.

Ông này gỡ được đầu ra, vừa định đứng thẳng người dậy, thì lại bị một quả đấm vào hông, chỗ mạng mỡ. Ông "ực" một tiếng, lảo đảo, hơi há miệng. Mắt ông mờ đi, rồi mềm như bún, ông sụp đổ xuống đất, nằm quỵ im lặng.

Bác Xã dừng lại, hai bàn tay còn nắm. Bác đá hất mình ông Phó cho bật ngửa ra, thân hình ông này giật nẩy rồi từ từ đổ xuống. Ông không thở nữa, hai mắt trương trắng dã, mép sùi chút bọt. Thằng bé đứng coi kêu lên: "Chết rồi! Chết rồi!" và chạy đi loan báo tin án mạng.

Tiếng kêu của nó đánh thức sát nhân. Bác Xã nhìn cái xác một lần cuối cùng, nhìn xung quanh một thoáng nhanh rồi như cách không việc gì đã xảy ra, không có vẻ đi trốn chút nào, bác thủng thẳng bước ra, vừa đi vừa nói: "Tôi ra chợ đây, tôi ra chợ". Mụ hàng vội nắm lấy áo bác, kêu ầm: "Không được, không được, ông định đổ vạ cho tôi à?". Bác Xã hất tay mụ, khiến áo bác rách soạc một đường dài; đoạn bác bỏ đi.

Bị hất ngã, mụ quán ngồi bệt luôn trên đất. Mụ nhìn quanh vẻ ngờ ngạc, không biết làm thế nào. Mụ lô la: "Ua làng xóm ơi, đến mà coi, ông Xã đập chết ông Phó rồi!". Rồi mụ nói nhỏ một mình, giọng mệt nhọc vì kinh khủng: "Ua trời ơi là trời! Có ai ngờ ri không!".

Mắt mụ chợt để ý đến vật nằm cạnh chân tủ. Mụ bò lệt sệt trên đất, cầm lấy xem. Đó là một cái ví đã cũ bụng dày cộm. Vì bị đánh văng, ví nằm há miệng để lộ sống lưng của một tệp giấy dày; mụ rút tệp giấy ra xem. Do những hình vẽ màu và mùi thơm đặc biệt, cái mùi thơm "Tây", mụ nhận ra giấy bạc. Trong một cử chỉ gần như vô thức, mụ giắt xấp bạc vào thắt lưng, vứt cái ví vào chỗ cũ.

Người hàng xóm và người đi đường dần dần kéo đến, xúm quanh cái xác. Mụ nói như cần phải tự biện bạch ngay: "Ông Xã Điều đó, bà con ạ, ông Xã Điều đập mà nên nông nỗi rứa đó!".

Nhưng bây giờ, mối lo ngại của mụ không phải là cái xác đang nằm sóng sượt giữa quán mụ nữa. Mụ chỉ nghĩ đến xấp bạc. Vì lật đật, mụ giắt không được kỹ. Mụ ngờ nó còn lòi ra ngoài thắt lưng, nhưng không dám nhìn xuống: mụ bèn giữ ép vạt áo nâu trên bụng.

Người ta đứng nhìn xác chết, tò mò, không ai nghĩ đến chuyện cứu sống hay đi báo quan. Tiếng rầm rì nổi lên: người nào thấy xác rồi thì kêu một tiếng sẽ hoặc chặc lưỡi, bỏ ra ngoài cho người khác len vào. Họ hỏi nhau: "Ai chết đó?".

Vừa lo lắng nghĩ đến tập bạc, mụ hàng vừa nói vẩn vơ: "Rứa đó làng xóm nạ, nông nỗi rứa đó". Bứt rứt, không thể ngồi yên được, mụ đứng dậy đi lại, nhặt những mảnh vỡ, rồi nhân dịp đó đi ra sau. Vứt xong những mảnh vỡ vào đống rác, mụ ghé vào buồng, rút tập giấy bạc để cất vào rương tiền.

Ngoài kia, có tiếng đàn ông nói:

- Phải đi mời quan Phủ chớ, để mãi ri à?

Nghe tiếng "quan", mụ đâm luống cuống, mụ hí hoáy mãi không sao tra chìa khoá vào ổ được. Mụ bứt vứt giấy bạc vào đống quần áo tấp cạnh rương. Nhưng vì tay run quá, mụ vứt trật ra ngoài. Tập bạc đập vào vách, rơi xuống lăn cạnh chân mụ. Mụ toát mồ hôi: tiếng động vừa rồi, mụ nghe vang lên, tưởng chừng ngoài kia họ đều nghe rõ. Mụ đứng tần ngần một giây, rồi như thể chịu phục tùng số mệnh, như biết rằng mình sẽ không nuốt trôi được của gian kia, mụ cúi nhặt bạc, lận lại vào trong mình, đi ra. Mụ đã quyết định: Mụ sẽ trả lại số bạc. Mụ khom khom vờ nhặt những mảnh chai vụn, dạo bàn tay dưới gầm tủ rượu, lấy cái ví giắt nhanh tập bạc vào, rồi giơ ví trước mọi người mà kêu lên: "Nì, của ông Phó văng ra đó, bà con coi ni! Tôi tìm thấy dưới tủ, dưới ni đây!". Cẩn thận, như cách để cho người ta tin hơn, mụ chỉ vào chân tủ rượu.

Đoạn mụ tới đặt cái ví trên bụng xác chết. Có ai nói: "Chắc nhiều bạc trong nớ"; không hiểu tại sao, mụ quán thấy vui sướng nở ruột nở gan, gần như kiêu hãnh. Mụ nhìn mọi người, như muốn nói: "Tôi có biết, rứa mà tôi không lấy".

*

* *

Bây giờ, chuyện đã kết liễu. Mụ quán có bị đòi lên nha hai lần; quan Phủ hỏi mụ cặn kẽ, vặn điều này, bẻ lời kia. Mụ cuống lên, trả lời bậy, rồi lại phản cung. Thầy Đề gắt om. Người ta chép, người ta đọc lại cho mụ nghe biên bản lời khai, người ta bắt mụ điểm chỉ; mụ để mặc cho làm, lòng sợ hãi trước tất cả những nghi thức rắc rối, kỳ cục kia. Và mụ mừng rằng mình đã khôn ngoan trả lại tập bạc. Mụ nghĩ: "May! Thật là trời phật phù hộ, xui mình không cất được tiền vô rương".

án đã xử xong ở tòa sơ cấp. Bác Xã chờ ngày giải tỉnh để người ta thẩm lại án. Mụ quán lại được yên ổn làm ăn như cũ.

Một đôi khi ngồi buồn không có khách hoặc nằm chưa ngủ được, mụ quán nghĩ đến tập giấy bạc. Mụ ước lượng giá trị của nó: "ít ra cũng dăm chục, tập bạc dày lắm; vả ông Phó hôm ấy định đi mua bò".

Năm chục! Cả một gia tài! Mụ tưởng nghe lại mùi giấy bạc thơm thơm. Chao ôi! Đã một lần mụ mang năm chục trong thắt lưng! Vậy mà trời phật không độ, tiền đến với mụ rồi tiền lại đi, giống như chuyện những người kém phúc kia, bắt được thoi vàng thì vàng hóa ngay thành đất. Mụ buồn rầu nhưng đành chịu.

Nhưng mối tiếc tham nung nấu dần lòng mụ. Mụ bắt đầu tự trách mình ngu dại, tiền đến trong tay lại nhè xua ra. Sự lo sợ của mụ thực đã quàng xiên: nào có ai chứng kiến việc mụ lấy bạc? Thằng bé hình như cũng không thấy cái ví văng ra, nếu thấy nó đã mách lại cho người ta nghe rồi. Ai có thể biết được ông Phó mang bạc trong mình? Có bà Phó, nhưng bà có dám đoan chắc rằng bạc mất tại quán rượu không? Mụ cứ việc giấu kỹ tiền, chôn xuống đất nếu cần, rồi ít lâu sau, khi việc đã nguôi, lấy ra mà tiêu phí. Với năm chục, mụ có thể mua một chức Nhiêu cho đứa em trai, mở to thêm quán rượu, và nhất là cất lại mả chồng, điều dự định xưa cũ mà vì đồng tiền eo hẹp mụ chưa thực hiện được.

Mụ nghiền ngẫm ngần ấy ý nghĩ, lâu dần thành một ám ảnh. Mối tiếc của khiến mụ lúc đầu buồn rầu, rồi đau xót, rồi gần như phẫn nộ, như thể mụ đã bị ai làm thiệt hại. Việc buôn bán của mụ kém sút đi.

Sau cùng, không ngăn được nữa, một hôm mụ lên quan! Mụ lên đòi lại số tiền.

Thầy Đề, người kinh đô, thấy mụ bèn hỏi:

- Chi đó nữa, mạ?

Mụ chào lễ phép rồi nói duyên cớ cuộc đi của mình. Các thầy cười ầm cả lên. Thầy Đề vặn:

- Rứa đó là tiền của mạ?

Mụ đáp rất cứng cỏi:

- Tiền của tôi.

- Chứng cớ ở mô?

A, điều đó mụ chưa bao giờ nghĩ đến. Hình như trong bụng, mụ cho, cách rất tự nhiên, rằng không ai chối cãi được quyền sở hữu của mụ trên số bạc mà mụ đã cầm, đã ngửi thấy mùi thơm, đã lận trong thắt lưng, đã định bỏ vào rương, chung lộn với tiền mình. Không phải mụ ngu ngốc, nhưng lòng tham bừng cháy và nỗi tiếc day dứt đã làm loạn trí nghĩ của mụ. Mụ bèn đáp.

- Không, tiền của tôi thật mà.

Người ta đòi cho được chứng cớ: mụ quán, kém lý nhưng cứng cổ, chỉ đáp một mạch, giọng chậm rãi và tin tưởng:

- Tiền của tôi... tiền của tôi...

Thấy cái trò đùa kéo dài, người ta đuổi mụ ra; mụ không chịu. Một bác lính lệ nắm tay mụ kéo, mụ cưỡng lại, ngồi sụp, cho chân trượt sệt sệt trên nền gạch hoa. Lôi đến đầu hè, thấy chung quanh không có ai, bác lệ mới ghé tai nói nhỏ:

- Mụ mần chi rứa cho mất công. Quan với các thầy chia nhau lủm hết từ đời mô rồi.

- Lủm cái chi? - Mụ lơ ngơ hỏi lại.

- Cái khoản tiền mụ đòi đó.

Bác lính cười khề khề, nhe hàng răng vẩu vàng ệch.

Mụ nhìn bác với đôi mắt ngơ ngơ ngác ngác, như không hiểu hoặc không muốn hiểu. Chán quá bác lính bỏ đi.

Tan buổi hầu, mụ mới chịu ra về. Hôm sau mụ lại đến, rồi những hôm sau nữa, đều đặn y như người làm việc bàn giấy. Mụ đem dùng cái khí giới độc nhất của đám dân thôn quê hèn yếu: sự dai dẳng. Mụ ngồi bệt trên nền gạch, đầu nghiêng, một tay tì má, trông như cách lo nghĩ. Thỉnh thoảng, mụ nhắm mạnh mắt, làm cho một tí nước mắt kẻ già tiết ra ở khóe mi màu đo đỏ. Theo tật quen, da gò má bên phải của mụ đôi khi giật giật, khiến những nếp nhăn hình cánh quạt giãn ra, co lại.

Ngồi buồn, mụ chuồi người nhặt một cái kim găm, dùng đầu ngón tay vuốt cho sạch rồi gài lên khăn chít. Hoặc mụ lê tới gần sọt giấy, lấy ra từng mảnh giấy một, căng thẳng ra như cách muốn đọc chữ trong ấy, đoạn lại vứt vào sọt.

Người ta quát mắng, mụ ngồi thu mình lại như để vững thế thủ hơn. Càng bị xua đuổi, mụ càng bám dai, càng tin tưởng rằng mình đã chịu thiệt hại.

Thế rồi quan phủ nổi nóng. Dọa suông không được, ông sai đem giam mụ. Mụ bị giam hai ngày; thằng em lên xin tha cho mụ, phải dùng sức mới đưa được mụ về nhà.

Từ đó, mụ thành buồn bã, câm lặng; tập bạc ám ảnh mụ như một bóng ma. Mụ có thêm một cớ để chua xót vì đời, cái đời độc dữ và cướp bóc.

Cái Dọc Tẩu

Bùi Hiển

Mười một người, trong bữa tiệc góp, đã đánh ngã không kém băm hai chai. Nhưng không ai lấy làm hãnh diện cái tửu lượng của mình, bởi họ chỉ vừa uống thứ bia nhạt nhẽo, làm tê lạnh chân răng và thoảng mùi mật mía - loại bia thế phẩm trong thời buổi houblon không còn nhập được.

ấy vậy mà có hai người đã quá chén. Bình chỉ hùng hổ với hai ba cốc đầu; tiệc mới tới nửa bữa, anh đã tái nghét mặt, chạy ra ngoài hồi lâu, rồi vào ngồi dựa ngửa đầu trên lưng ghế, nhắm mắt. Khải thì trụ lại được cho đến xong bữa, nhưng khi cả bọn bước ra khỏi khách sạn, hơi lạnh đột ngột phả lên mặt mũi, anh liền gập đôi người nôn thốc nôn tháo. Tịch đến đỡ Khải, thấy cả người bạn rung giật từng nhịp mau và dữ dội.

Người ta bèn gọi chiếc xe tay, vực hai người say lên; cả bọn đi hộ tống. Phố tối bưng: dăm bảy đốm đèn xe tay vàng khè lấm tấm dọc hai vệ đường.

Dưới sự hướng dẫn của Quảng Phệ, đoàn người chếnh choáng ngật ngà ngật ngưỡng tiến vào phố X, cái phố nổi tiếng khắp cả thị xã. Trên chiếc xe tay theo sau, hai anh say khướt chụm đầu ôm choàng lấy nhau như hai người bạn thiết; chẳng biết họ còn tỉnh hay đã thiếp đi. Chốc chốc, cả bọn đi qua trước một nhà có ánh đèn len thành vệt dài qua khe cửa: từ trong có tiếng trống chầu lạch tạch đưa ra, lại có tiếng hát eo éo bổng lên một chút rồi chìm đâu mất.

Quảng Phệ nói lên một con số nhà. Có ai hỏi, vẻ thông thạo:

- Loan phải không?

- Loan và Bích. Vào nhé?

Một thằng nhỏ ra mở cửa. Nghe Quảng hỏi, nó khai: "Bẩm, được ba chầu rồi".

Lúc ấy mười hai giờ đêm.

Mình Bích ra đón đám khách mới. Một dáng áo hồng thập thò phía trong, rồi lẩn mất. Nhác nom thấy, Quảng Phệ gọi "Loan, Loan" váng cả lên bằng cái giọng ngầy ngậy mỡ của anh, nhưng vô hiệu. Ba bốn anh trong đám liền xông vào, đổ đi tìm. Tịch cò hương cũng đi theo. Họ leo lên gác, sục vào hai buồng. Buồng nào cũng có một nhóm quan viên đang ngồi hát. Bị khuấy động trong cuộc chơi, những người này quay nhìn bọn phá đám, nhưng không tỏ vẻ trái ý. Chắc hẳn họ đã quen những sự thọc ngang đó, hoặc cũng đã từng thọc ngang vào những cuộc chơi của người khác. Sau cùng, Bích nắm tay kéo được Loan từ một góc nào ra. Nhưng Loan đứng nép vào tường, một tay đưa khăn che miệng. Loan khá xinh, da trắng, má đỏ hồng, chẳng rõ vì cuộc giằng co với Bích hay vì màu áo ánh lên. Hai mắt mở to dưới làn lông mày uốn cong thanh mảnh, nhìn đám người lạ vây quanh với vẻ một con thú bị thợ săn dồn đuổi. Cái dáng béo lùn phục phịch của Quảng vừa xông tới, nàng đã vùng bỏ chạy. Bích vào khuyên dỗ mấy cũng không được. Loan sợ đám đông, tuy theo như nhiều người cho biết, nàng đi hát đã khá lâu năm.

Quảng Phệ mắng Bích khá nặng lời. Bích lặng lẽ nhìn Quảng, lặng lẽ chấp nhận lời mắng mỏ, hai gò má cao gần như lầm lì. Chỉ một thoáng, cái ánh mắt nhẫn nhục phía trên hai gò má cao ấy bỗng dưng xám mờ đi, tựa hồ nàng tủi cái phận mình vô duyên không được khách tìm hỏi săn đón như Loan, hơn là thấy tủi nhục vì bị xỉ vả.

Quảng Phệ lại lôi anh em đi. Bị kích thích vì cuộc thất bại vừa rồi, họ đập cửa kéo vào từng nhà một, dạo nhìn vơ vẩn một lúc, rồi bỏ ra. Nhà nào cũng chỉ đẹp đẽ được cái mặt ngoài, có xa lông, tủ chè bằng gụ. Đi sâu chút nữa, cảnh nghèo nàn phơi bày: chiếc ghế khập khiễng, cánh cửa sổ sún hai ô kính, tấm chăn bông nâu xỉn vứt đống bừa bãi trên giường trải chiếc chiếu sờn rách dệch dẹo. Một anh nào trong bọn tò mò và lỗ mãng, thử rút chiếc ngăn kéo bàn. Tịch cò hương cũng tò mò liếc nhìn, thấy trong đó một nút khuy áo tân thời, một cái tai đàn nguyệt, cuộn giẻ, bó tăm, vài ba mẩu lược gẫy.

Người ta sống chung lộn xen kẽ đến kỳ lạ. Vào một nhà kia, phòng ngoài một đám quan viên đang đùa cợt với mấy cô đào, còn phía buồng trong, thấy cả một gia đình không hiểu sao vẫn đang thức và ngồi lố nhố trong đó: người bố, người mẹ, ba đứa con vừa trai vừa gái cỡ trên dưới mười tuổi. Thấy đám khách lạ sỗ sàng đẩy cửa sục tìm, họ có vẻ trái ý nhưng nhẫn nhục. Trong một cái nôi, Tịch nhìn qua màn thấy một gương mặt thơ bé xinh xắn, môi hồng chúm cong nùng nũng. Tịch nao người nghĩ đến con mình, vội đẩy tất cả bọn quay lui.

Rốt cuộc, họ quyết định cắm tại nhà đào Thúy. Bọn Bình, Khải vẫn chưa hết say; nãy giờ họ vẫn ngồi dựa vào nhau trên xe làm cuộc dạo phố lang thang bất đắc dĩ trong lúc đám bạn sục vào các nhà. Người ta vực họ vào. Cả hai nhướng mắt nhìn quanh một chút nhưng không tỏ vẻ lạ lẫm, rồi lảo đảo dựa vào nhau ngả xuống một cái ghế xích đu, lại ôm nhau ngủ tiếp.

Thúy và hai bạn khác ra đón khách. Thúy người nở nang tròn trặn, khi cười để lộ hàm răng đều, nhưng phải cái mũi to và tẹt. Hai người kia trái hẳn nhau: một gầy, một béo tròn, cô béo trông mặt như một ông tướng, và mang một tên Tây: Madeleine1, cô gầy thấp bé mảnh mai, nhũn nhặn xưng mình tên Mùi.

Sự cợt nhả bắt đầu ngay, do Quảng Phệ dẫn đầu. Quảng là mặt quen thuộc độc nhất trong đám và chắc hẳn sẽ là người chi tiền. Thúy đung đưa mắt liếc tình với Quảng, nhưng chỉ kín đáo thôi để khỏi mếch lòng những người khác, họ có thể là những khách hàng tương lai.

Kỳ, trẻ nhất trong đám quan viên, chưa vợ và khá đẹp trai với mớ tóc bồng, ngoan ngoãn ngồi nhìn cảnh đang diễn trước mắt lạ lẫm của mình, cậu ta không tỏ vẻ buồn chán.

Tịch cò hương thì phì phèo điếu thuốc lá, thọc hai tay túi quần bước đi lò dò quanh quẩn khắp nhà, dáng hệt như con cò thật! Tự dưng hôm nay anh không cảm thấy mình gắn bó với cuộc vui chung. Trong anh đang dấy dần lên một niềm bứt rứt không duyên cớ. Đâu đây thoảng mùi thuốc phiện, cái mùi thơm hắc khiến anh càng thêm bứt rứt khó chịu. Không ngăn được, anh lần tới, sỗ sàng đẩy cánh cửa buồng, và thấy một hình người ngồi cuộn tròn trong chăn, trước một khay đèn á phiện. Chắc hẳn chủ nhà hát. Hắn ta có dáng một bác cai thầu về hưu, với khuôn mặt tóp phía dưới và bộ râu trê. Hắn nhe hàm răng khấp khểnh có hai chỗ bịt vàng ra cười, mời anh vào. Trong câu nói tự dưng chen một vài tiếng Pháp, ý chừng hắn muốn chứng tỏ hắn không phải là kẻ hoàn toàn vô học, chỉ biết thầu nhà cửa và thầu gái mãi dâm. Tịch giập cửa bước trở ra.

Cuộc phá phách đến độ náo nhiệt. Cô béo tròn có tên Tây và bộ mặt to phè với cặp lông mày rậm là trung tâm điểm của cuộc vui. Cả đám nhao nhao xô đẩy nhau vây quanh, cố chiếm lĩnh cô như chiếm lĩnh một thành trì, miệng hò hét: "Medeleine! Medeleine!". Cô vung tay, hất đầu, ẩy vai để chống cuộc vây hãm, hoặc để kích thích thêm cuộc vây hãm. Cô nghĩ ra cách lôi Thúy vào làm đồng minh nhưng Thúy liền bị Quảng Phệ giằng lại ngay. Riêng cô Mùi gầy bé hoàn toàn bị bỏ quên.

Trên ghế xích đu, Bình và Khải bị tiếng ồn đánh thức dậy, mở mắt, lần lượt nghển đầu thờ ơ nhìn cái đám ồn ào láo nháo rồi lại nhắm mắt ngủ tiếp.

Một lát, mệt rồi, Madeleine vung hai tay phá được vòng vây, tuông chạy ra phía sau. Cả bọn cũng thấm mệt, không đuổi theo, ngồi nghỉ chút. Họ lé mắt nhìn sang phía Quảng Phệ và Thuý. Quảng, với vẻ bảnh chọe của kẻ chi tiền, của một ông chủ, ngồi ôm chặt Thúy trong hai cánh tay béo khỏe. Thúy hình như cũng hơi xấu hổ vì cảm thấy nhiều con mắt đang chiếu về phía mình, đưa tay khẽ ẩy cái bụng to bầy nhầy của Quảng ra, tất nhiên là vô hiệu.

Chỉ còn lại có Mùi. Đã xả hơi xong, một vài anh mon men đến gần, tuy chẳng hào hứng lắm, dường như chỉ vì không có việc làm gì khác. Mấy cậu khác cũng bắt chước theo xán lại dần. Lát sau thế là họ túm bu đầy cả chùm xung quanh cô gái gầy bé. Mùi bị vây ép chặt, không cựa quậy nổi, kêu oai oái với giọng nghít thở rồi ôm mặt khóc thút thít.

Từ phía góc, Kỳ đứng bật dậy. Anh chàng còn trẻ măng và ngây thơ (Tịch còn biết là anh ta đang bí mật tập làm thơ và viết văn, anh ta có đưa riêng nhờ Tịch đọc thử, tuy Tịch cho rằng mình cũng chẳng hiểu biết gì mấy về văn chương), anh chàng trẻ không ngăn nổi bất bình. Anh lao tới cố gỡ chùm người ra, miệng hét bằng tiếng Pháp: "Này, tàn nhẫn vừa chứ! Chết cô ta mất!". Mấy người kia cười: "ồ, nước mắt cá sấu! Không đáng nửa xu!". Kỳ ngượng vì cái hào hiệp vô ích và sự bất lực của mình, ngơ ngác một chút rồi rút lui. Quả nhiên có người chòng được Mùi bật cười thành tiếng.

Đốt thuốc và đi quanh chán rồi, Tịch cò hương không biết làm gì nữa. Anh cũng muốn cho đám kia chấm dứt cái trò đùa nghịch nhạt nhẽo gượng gạo của họ đi. Anh bảo với Thúy là anh muốn nghe hát. Thúy được dịp bứt khỏi vòng tay của Quảng đi ra phía sau. Hầu như trong nháy mắt, bác kép, chẳng biết đột nhiên chui từ đâu ra, xách đàn tới ngồi trên phản. Mặt bác cũng tóp phía dưới như bác cai thầu chủ nhà hát, hai quai hàm lại cứ như móp móp thế nào; thêm vào đó là bộ râu xe cuốc. Nét mặt bác nửa muốn mếu nửa muốn cười. Thực ra bác chỉ lãnh đạm: nghề nghiệp đã rèn cho bác cái bộ mặt ấy, rất hợp tình thế. Kể cũng là một nghề khó nhọc, lại bạc bẽo: thức đêm như một kẻ trác táng, và lầm lì làm Bụt trong khi người ta vui đùa và tửu và sắc ngay cạnh mình.

Cô đào hát, cũng chẳng rõ chui từ lỗ nào ra, tới ngồi cạnh bác kép, đó là một cô bé khoảng mười lăm tuổi, nước da bánh mật, không xấu không đẹp. Cô nhịp phách rất giòn, hát giọng lanh lảnh nhưng không được trong. Không biết cô đi hát từ năm lên mấy. Trông còn non choẹt, chưa có vẻ hiểu biết đời; cô không chia sự vui chung, nhưng cũng không ra buồn cảnh ngộ. Chắc hẳn cô đã nhận đi hát như người ta nhận một cuộc đi dạo chơi hay nhận bất cứ một nghề gì kiếm sống.

Tịch tom tom vài tiếng rời rạc, rồi vứt dùi trống cho một anh khác. Anh đứng lên, thọc tay túi quần, lại đi đi lại lại. Một nỗi bực dọc gậm nhấm anh. Men bia chưa hả hết còn làm nóng ruột. Đầu anh nhức nhối, tuy không phải đêm đầu anh đi chơi khuya như vậy. Không khí xóm Bình Khang, tối nay, đè nén anh đến tức tối. Trong anh xáo trộn những hình ảnh cực nhọc: bác kép mặt méo, cô đào tí hon đang ngây thơ hát những câu tình tứ, lão chủ nhà cười nhe hàm răng khấp khểnh, cô đào béo mà cái tên Tây, do các bạn anh thỉnh thoảng gọi to, đâm nhói vào tai; và cuối cùng là chính các bạn anh, thường ngày khá chững chạc lịch sự lúc ngồi bàn giấy hoặc trong giao tiếp, đêm nay tự buông thả, hò hét quậy phá không khác gì một tốp lính tẩy.

Tịch đưa tiền sai đi mua thức ăn nhẹ. Khi dọn bàn, thấy thiếu Quảng. Bấy giờ mọi người mới nhận ra rằng Quảng và Thúy vắng mặt từ đã lâu. Có ai gợi ý ra sau bếp tìm, thì vừa thấy Quảng Phệ đi lên, mắt hấp háy ánh đèn, quần quên chưa gài cúc. Thúy theo sau, đang vuốt lại tà áo dài.

Lại bia nữa. Nhưng không ai uống, lát nữa sẽ dùng súc miệng cũng được. Thúy chao thìa trong liễn cháo, múc cho Quảng một lòng đỏ trứng. Quảng Phệ liếc mắt, mỉm cười: cặp mắt béo ti hí cố làm vẻ tình tứ, nom hài hước. Thúy cũng mỉm cười đáp lại: nụ cười có thể mang nhiều ý nghĩa.

Xong bữa, mọi người ngồi ngần ngừ nhìn nhau một lát. Có ai chậm rãi cất tiếng: "Còn chi buồn hơn một cuộc vui lúc tàn...". Câu nói đã nhàm: nhưng giọng rè rè chán nản của anh ta làm nổi rõ sự thực ấy.

Quảng gọi Thúy vào buồng chi tiền, rồi cả bọn kéo nhau ra đi. Bọn Mùi không tham gia bữa ăn, đã đi nằm được một lát. Tịch thấy Mùi nằm cạnh cô bạn béo có tên Tây trên chiếc phản: mệt quá hay sao, cả hai cũng không buồn kéo chăn đắp; họ có vẻ đã ngủ say. Trên ghế mây dài, có ai nằm trùm kín chăn, dáng vóc nhỏ teo: chắc hẳn cô bé hát lúc nãy.

Người ta đánh thức Bình và Khải dậy, dìu lên xe tay. Anh chàng Kỳ được dịp biểu lộ tình bạn tận tụy của mình: anh vui vẻ nhận trách nhiệm đưa hai người về tận nhà.

Đồng hồ nhà ai điểm ba tiếng. Mọi người chia tay. Mấy anh còn trẻ trong bọn vừa đi vừa bàn nhau cách thác cớ nói dối vợ.

Tịch nghĩ thầm: "Lạ, ra ngoài đường cũng chẳng thấy dễ chịu hơn chút nào". Không khí u trệ, đặc và nóng. Trời mới giữa Giêng, nắng mới chưa hửng mà sao hơi đêm bứt rứt quá chừng. Anh đi rất chậm, thở từng hơi dài, nhưng không bớt mệt. Anh cho rằng sự tức bực đè nén mình từ đầu hôm là do ở thời tiết.

Vợ Tịch ra mở cửa. Xem nét mặt, anh biết Thư chưa ngủ giấc nào. Thư thay áo cất giầy cho chồng, vẻ lặng lẽ hàm một ý trách móc. Tịch vội vàng tắt đèn đi nằm. Anh se sẽ len dưới chăn, sợ kinh động giấc ngủ của con. Không khí trong gian buồng êm mát làm dịu lòng anh. Tịch nghe rõ nỗi bực tức lắng xuống dần dần. Anh vuốt ve làn da mịn của thằng bé, mơn tay dọc cẳng tay cẳng chân no căng bụ nổi ngấn. Giấc ngủ đến khá nhanh chóng.

Nhưng chợp mắt được một lát, chợt nghe tiếng khóc thút thít. Anh nao người nhận ra người đang khóc chính là vợ mình. Anh phân vân định lựa lời khuyên dỗ, nhìn kỹ hóa ra không phải Thư mà là cô đào Mùi gầy gò bé nhỏ. Cô Loan xinh xắn cũng có đó, hai mắt mở to trừng trừng vừa sợ hãi vừa giận dữ, rồi tự dưng cô bật khóc nức nở. Trong lúc đó Mùi lại phá lên cười giật giọng như điên. Khuôn mặt tóp của lão cai thầu nghiện chủ nhà hát hiện ra. Lão nhe răng cười nhăn nhở rồi chìa chiếc dọc tẩu cho anh, vẻ mời mọc. Anh gạt tay lão ra, lão càng xán vào vừa ấn dọc tẩu lên miệng anh vừa nói gì rất to gần như xỉ vả. Hóa ra lão cho anh là người gây ra tất cả mọi nông nỗi này. Tịch uất đến tận cổ, anh run người định xông tới thì vừa tỉnh thức. Trống ngực vẫn còn đập thình thình. Anh len lén nhổm dậy, bước ra khỏi giường. Rồi anh đi rửa mặt, ngồi đốt thuốc lá. Anh đã quyết định thức luôn đến sáng. Thà thức mà suy nghĩ nghiền ngẫm, cho dù là những ý nghĩ day dứt cực nhọc, còn hơn trở lại với những ác mộng.

1943

Chiếc Đồng Hồ

Bùi Hiển

Anh ta là một viên chức họa đồ sở đạc điền. Ngày ngày, cúi đầu trên vuông giấy dày mà một ngọn đèn chiếu sáng từ phía dưới xuyên qua tấm kính, anh dò những nét cong khúc khuỷu, những dải sông xanh, những con đường đỏ và tím, những tràng chữ thập phân địa giới. Anh họa, anh họa, cử động một cách gần như máy móc, im lặng, lưng gù, trí nghĩ vơ vẩn. Cuối tháng lĩnh được đâu vài chục bạc lương, anh bỏ tiền vào một cái phong bì đem về nộp vợ nguyên vẹn. Xong bữa cơm trưa, chị vợ mút mút bút chì loay hoay dự tính trên một trang sổ nhỏ sự chi tiêu trong ba mươi ngày sắp đến. Chị tính cặn kẽ từ tiền gạo củi đến tiền xà phòng, bớt một hào ở khoản này đập vào khoản kia. Rồi chị nói lên, bằng một giọng hơi chớm ý phàn nàn:

- Đấy còn thừa không đầy năm hào tiêu vặt.

Chồng đáp một câu không thay đổi:

- Thì lương mình chỉ có thế.

Nhưng mà một lần, một nhà điền chủ, bạn ông xếp, cần mấy bản họa đồn điền của mình. Anh nhận làm công việc phụ kia, càng cắm cúi hơn trên bàn họa, và được hưởng món tiền thưởng bốn đồng. Trong bữa cơm chiều hôm ấy, cả nhà nhao nhao lên, phân vân về cách dùng số tiền không mong mà có. Chị vợ thèm ước từ lâu một cái áo dài nâu non. Nhưng thực là lạ kỳ: khi không có tiền, chị ao ước cái áo một cách thiết tha; vậy mà nay cái áo đã vừa tầm túi mình, thì cái thiết tha của chị rơi đi, và tất cả lòng chị bối rối, không còn biết mua gì nhỉ? Sắm gì nhỉ? Hai đứa con làm nũng cơm; chúng nghe bàn bạc những mua cùng sắm, thì cũng vòi mua cái ô tô chạy được và con búp bê nó kêu chút chít ấy. Nhưng anh ta đã có ý định sẵn; cuối cùng anh mới nói:

- Để ta sắm cái đồng hồ chơi.

Rồi anh giảng rằng vừa tìm thấy một dịp tốt để mua đồng hồ bằng giá cực rẻ. Hôm họ, ông xếp nhận được một tờ quảng cáo của một hiệu đồng hồ ngoài Hà Nội; hiệu kia, sau mấy lời mào đầu bá cáo rằng muốn bán tống cửa hàng để nghỉ buôn, trình bày tất cả những mẫu đồng hồ còn lại, với một giá "khó tin". Anh ta đọc trộm tờ quảng cáo và để ý nhất đến một chiếc đồng hồ bàn giấy, mặt vuông, xinh nhỏ như một đồ chơi; cạnh hình vẽ, con số dử mồi 3đ, viết bằng chữ lớn thay cho số 6đ phía dưới bị xóa bằng hai nét gạch thập.

Anh đã nhiều lần điêu đứng vì thiếu đồng hồ. Khi phỏng chừng sắp đến giờ làm việc, thì hai vợ chồng đều vểnh tai nghe ngóng cái đồng hồ quả lắc của nhà ông Tham bên cạnh. Nhiều hôm anh đến sở chậm và phải lén leo qua cửa sổ để khỏi bị cự. Thằng con đầu được việc lắm: mỗi khi cha nó lồm cồm dậy sau giấc ngủ quá trưa, thì nó rụt đầu vào cổ, lạch bạch dìu xe đạp cha ra đợi ở cổng: anh ta vội vàng khoác cái áo lương rồi chạy ra nhảy lên chiếc xe tàng mà phóng, mặc cho cốt bánh gỉ rít lên cót két đến ghê tai.

Thế rồi ngay hôm sau, anh gửi thư kèm măng đa ra Hà Nội. Cả nhà sống trong mong đợi bồn chồn, nhắc luôn miệng đến cái đồng hồ. Anh chồng dự định đặt nó trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường, và vợ đã lo trước nhỡ hai thằng con lén nghịch phá hỏng mất thì tiền đâu mà chữa. Hai đứa bé thì luôn mồm hỏi, không biết lần thứ mấy mươi:

- Ba ơi, bao giờ thì đồng hồ về? Hà Nội chắc xa lắm nhỉ?

Một sáng, có người nhà Bưu điện bước vào sở anh, một cái hộp dưới tay, và hỏi:

- Tôi muốn hỏi đây có ai tên là Hoàng Đình Quân?

Anh hồi hộp đáp: "Chính tôi", và ký nhận hàng. Đó là một cái hộp giấy uốn lượn sóng, màu vàng tẻ, tấm nắp to bằng khuôn khổ cuốn vở học trò. Anh vừa cắt dây vừa nghĩ: "Nó gói cẩn thận thực. Cái đồng hồ nhỏ xíu mà chịu phí một cái hộp kếch xù". Bạn đồng nghiệp tới xúm quanh; anh đã khoe từ mấy hôm trước rằng anh sắp nhận được một món quà "đặc biệt Hà Nội". Anh làm chậm rãi, tay run run, cảm thấy một thú kích thích khi cố kéo dài cái phút nóng biết vật mới mua.

Cái nắp bật lên, mỗi người giúp một tay thải lớp rơm phủ. Cái đồng hồ hiện ra và anh ta kêu một tiếng ngạc nhiên: nó chiếm cả bề rộng của hộp, không nhỏ nhắn như anh vẫn tưởng. Một người nâng lên, và thấy theo ra cả một cục đồng tròn xù xì sơn đen móc ở đầu một sợi dây xúc xích đồng nói không hết cái dài! Có mặt các bạn đồng sự, anh ta cố giấu thất vọng. Mọi người ngắm nghía đồng hồ. Cái mặt làm bằng mảnh sắt tây vuông, bốn bề trang trí bằng những ô vuông nhỏ xanh và trắng xen kẽ, các cạnh đều bị giập móp trong cuộc viễn hành vừa rồi. Đằng sau là một cái hộp bằng gỗ, nhưng mà gỗ gì, thứ gỗ mềm ải của những thùng rượu, cạnh xước lơm nhơm. Cái hộp hổng mặt dưới, giấu trong lòng một bộ máy không có gì phiền phức, chỉ gồm ba bốn cái bánh xe răng cưa. Có ai lục lọi trong đống rơm lót đáy hộp và lôi ra một quả lắc suýt bị bỏ quên. Quả lắc là một miếng sắt tròn sơn xanh mỏng mảnh và thô sơ như "nắp phèng" của con nít dùng đánh đáo, vành đục hai lỗ để cho xuyên qua một sợi dây thép thẳng dài chừng một gang.

Viên xếp phòng họa đạc giảng rằng đó là thứ đồng hồ treo nhà bếp. Cả bọn cười nhao, nhắc lại lời khoe món hàng "đặc biệt Hà Nội".

Một người hí hoáy treo chiếc đồng hồ lên tường. Rồi cả bọn xúm xít, người lắp quả lắc, người móc cục đồng vào sợi dây xúc xích. Quả lắc bắt đầu xang, và tiếng tích tắc đều đều vang dội trong tim anh sung sướng. Anh dùng ngón tay đẩy chiếc kim sơn trắng để lấy giờ, và nói:

- Để xem nó chạy có đúng với đồng hồ sở không.

Nhưng chạy được một phút, quả lắc như hết hơi không kêu tích tắc nữa rồi xang nhẹ dần. Một người nói:

- Chỗ này thoáng quá, gió thổi bay quả lắc, đồng hồ chạy không được.

Một người khác pha trò:

- Thôi hãy để cho nó nghỉ vài hôm đã, vừa đi tàu về mệt mà!

Anh ta đã bắt đầu nghi ngờ sự mẫn cán của chiếc đồng hồ có cái dáng khổ khổ lôi thôi lốc thốc. Anh nói: "Ông chủ mà về bây giờ thì chết cả bọn. Thôi!" Đoạn hạ máy xuống, cất lại vào hộp, phủ rơm cẩn thận.

Trưa, lúc về đến nhà, để ngừa trước sự thất vọng của vợ, anh ta vừa đặt hộp xuống bàn vừa khen rối rít:

- Cái đồng hồ về rồi đây, xinh lắm mình ạ. Nó to chứ không phải chỉ bằng nắm tay như mình nghĩ đâu, nhưng người ta bảo đồng hồ càng to chạy càng khỏe. Cũng không phải đồng hồ bàn giấy; đây là thứ đồng hồ có quả nặng, chạy đều hơn đồng hồ lò xo nhiều.

Anh lại bịa:

- Có người bạn trên sở bảo năm ngoái có mua một cái y hệt như thế mà giá những tám đồng.

Chị vợ ngắm nghía cái đồng hồ, xem chừng không được hài lòng, nhưng không nói gì. Hai thằng con nằm trườn trên bàn, đưa đưa ngón tay trên mặt đồng hồ và kêu:

- Nhẵn nhỉ! Mà có nhiều chấm xanh, đẹp quá! Ba treo lên đi.

Cố hoãn cái lúc thử máy đáng lo ngại, anh bảo:

- Thôi ăn cơm đã. Đói bụng rồi.

Xong bữa cơm, anh khép tất cả các cửa để ngăn gió, đoạn đóng đinh vào một góc tường kín gió nhất, anh móc đồng hồ lên xê đi dịch lại mãi cho thực ngay ngắn, đẩy kim lấy theo giờ vừa đánh bên nhà ông Tham; rồi tay run run, anh đưa quả lắc. Cả nhà đứng nghiêm trang thành vòng, nhìn. Mắt chăm chăm theo dõi cái xang đưa uể oải của quả lắc mảnh khảnh, anh lo lắng tự bảo thầm: "Này này... nó sắp đứng... nó sắp đứng...". Nhưng may, lần này cái đồng hồ chịu làm việc hơn. Nửa giờ sau, anh hớn hở xoa tay đi ngủ. Hai thằng con ngước cổ ngắm vật mới; thằng đầu hẹn:

- Hai giờ kém mười, con sẽ đánh thức ba dậy, nhé!

Rồi nó đứng rình giờ.

Chiều hôm ấy thằng bé đón anh ở cửa và báo: "Ba ạ, nó dừng từ lúc bốn rưỡi rồi". Anh lại loay hoay chữa, xê dịch đồng hồ, áp đầu vào tường nheo mắt ngắm lên xem đã thực thẳng quả dọi chưa, tụt mặt quả lắc xuống một chút. Vợ đứng im lặng nhìn; anh nói, như để tự bào chữa:

- Nó cũng như người, cho chạy vài ngày mới quen. Đi tàu bị lắc mạnh, máy móc hẳn cũng có suy suyển.

Chiếc đồng hồ, dường như cảm động vì từng ấy chăm chút của chủ, lại bắt đầu chạy.

Đêm nằm, anh lắng tai nghe. Có lúc hình như cái máy im lặng hẳn. Nhưng cố sức chăm chú, anh lại nghe tiếng tích tắc đều đều. Rồi hễ anh nhãng ý một chút, tiếng máy lại chìm đi. Anh bèn lặng lẽ ngồi dậy, rón rén đi ra. Dưới ánh đèn con anh thấy quả lắc đứng lặng như tờ. Chiếc kim ngắn chỉ một giờ. Đồng hồ ông Tham vừa đánh bốn tiếng; thì ra tiếng tích tắc nãy giờ chỉ là do trí tưởng tượng của anh tạo nên. Anh lại hý hoáy sửa chữa, nâng mặt quả lắc lên, nắm cục đồng sẽ kéo. Rồi anh ngồi phịch xuống ghế, da toát mồ hôi lạnh, tim bóp chặt trong niềm bi thống.

Sáng hôm sau, khi đi làm, anh không quên giắt trong mình một cái lọ con; xin được tí dầu máy anh đem về tra vào những cốt bánh xe, thò giẻ quấn đầu cây tăm lau chùi. Thấy vợ đứng nhìn, anh xấu hổ làm sao ấy và cố tỏ vẻ tin chắc ở kết quả việc mình làm; anh nói:

- Máy cũng như mình; nó cần dầu như mình cần cơm, có thì mới làm việc được.

Quả thực lần này cái đồng hồ chạy thông. Có điều nó chạy hơi chậm, mỗi buổi tụt lại mất năm phút. Anh ngoắc vào cục đồng hồ, cho nặng thêm, một cái đinh ốc chẳng biết nhặt được ở đâu. Máy vẫn chưa chạy đúng, anh lần lượt thử buộc vào dây xúc xích một con dao nhíp, mấy hòn bi rạn; cho đến khi anh thử treo một cục quặng xin của thợ rèn, thì chiếc đồng hồ không chịu nổi, chệch đi và quả lắc đứng dần.

Anh không biết làm thế nào nữa. Chị vợ đã chớm lời trách móc:

- Đã bảo của rẻ là của ôi mà.

Anh đáp:

- Cứ để nó chạy cho quen máy. Để xem vài hôm nữa nó chạy có đúng hơn đồng hồ ga không!

Và từ đó, anh bắt đầu gian lận. Sau giờ bãi trưa anh ở nán lại sở năm phút, rồi thong thả đạp xe về, để kêu lên: "Đấy, tính xem, tôi đi mất mười phút, thế là bây giờ vừa mười hai giờ mười". Rồi trưa đó, thừa lúc không ai để ý, anh đẩy kim tới thêm năm phút. Buổi chiều anh cũng dùng mưu như thế. Anh ta cứ lắp đi lắp lại, bộ hả hê: "Gọi là cứ đúng ngăn ngắt! Đúng ngăn ngắt".

Chị vợ nghi ngờ, hỏi:

- Thế sao vẫn cứ chậm hơn đồng hồ nhà ông Tham?

- Bì sao được! Người ta ông này ông nọ, đến sở chậm nửa giờ cũng chẳng sao, nên cứ mặc đồng hồ chạy phăng tê. Đồng hồ bên ấy chả đúng!

Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, anh lại lén lút đẩy kim tới thêm mươi phút; được trừ hao vậy rồi, giờ sáng mai sẽ đúng.

Lâu dần, anh quen với công việc gian lận ấy, mà anh làm trọn không một lần sao nhãng, như một nghi lễ tôn giáo.

Rồi anh thuộc lầu cả tính nết của cái đồng hồ. Nó có một tật xấu: dễ cảm. Mỗi khi trời muốn trở mưa, hơi ẩm luồn từ mặt dưới tổng hổng của hộp gỗ, làm rít bánh xe, và anh nghĩ: "Hừ hừ, mày lại định làm biếng đây. Thế thì tối nay tao phải vặn thêm đến mười lăm phút". Trái lại khi trời hanh ráo, quả lắc xang đưa lẹ làng, anh biết chỉ cần ăn gian mỗi buổi từ hai đến ba phút là đủ lắm.

Và chiếc đồng hồ sống sung sướng trong gia đình nhỏ ấy, được ông chủ ân cần săn sóc như cha, đúng hơn, như mẹ, như một người mẹ càng thương yêu con vì đã cứu nó qua nhiều bệnh hoạn, đã cướp nó khỏi tay thần chết, đã cho nó sự sống hơn một lần. Cái máy không ngừng chạy nữa, chỉ õng ẹo một đôi khi trở trời, như đứa con cưng mới hơi váng đầu sổ mũi đã làm nũng mẹ.

1941

Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ,

Chuyện ông Ba bị dân chài

Bùi Hiển

Mỗi bận thằng Còi bị đem tắm khóc hét lên, chị Ngò dọa: "Kia kìa, ông Ba Bị cắn chết bây giờ!", tay chỉ sang nhà bên cạnh, cách nhà chị một hàng rào mắt cáo. Và đôi khi, tấm phên nhỏ đột ngột chống lên trên tấm vách nhà nọ, để "ông Ba Bị" hiện ra sau khung cửa vuông, dưới bộ mặt béo đen của một bác dân chài to lớn lạ thường. "Ông Ba Bị" mắm môi trợn mắt quát:

- Có im không? Người ta tắm cho sạch sẽ lại còn!

Thằng bé nín bặt; cơn nức nở bị nén, làm cho bụng giun nó phập phồng rất nhặt. Miệng há, mắt còn mọng những nước, nó lét nhìn "ông Ba Bị" từng thoáng nhanh rồi vội ngoảnh mặt đi.

Tấm phên cửa sập xuống, và thường thường, sau đó một lát, bác chài lần sang. Thằng Còi sợ hãi, bíu lấy cổ áo mẹ. Chị Ngò vừa xức thuốc ghẻ cho con vừa hỏi cho có chuyện:

- Anh Can bữa nay không đi lưới à?

Bác chài, theo thói quen, cúi lưng ghé nhìn ra ngoài cửa, rồi đáp:

- Trời muốn động thế ni, thuyền ai dám ra khơi.

Đoạn bác lại ngồi im lặng trên thành giường, chân thõng, hai bàn tay khoành vào ép dưới đùi béo.

Bác Can đã nhiều tuổi, vậy mà tên vẫn chưa đèo thêm một tiếng Đỏ, hay Cu, hay Hoe gì cho nó vui. Trong khi thằng Đỏ Nam, Nhiêu Đước, mặt còn non choẹt, mỗi Tết hoặc giỗ chạp, đánh cái khăn xếp xoay lỏng lẻo quanh đầu và chiếc áo dài xúng xính đi lễ ông vải bên nhà vợ, thì bác vẫn một mình chiếc bóng buồn thiu. Mà như thế, chỉ vì một bài vè khốc hại. Thằng Bình Xòe trong khi ngồi đan lúp1 đậy thùng nước mắm, đã ứng khẩu một bài vè bắt đầu như thế này:

Làng ta có hai ông khổng lồ,

Anh Can là một, anh Đỏ Bàu là hai.

Hai ông to lớn lạ lùng. Hồi hai anh cùng đi lưới trên thuyền ông Cu ái, người trong làng nhiều dịp pha trò. Họ nói, hễ anh này trèo lên thuyền, thì anh kia vội chạy sang mạn bên kia, kẻo thuyền nghiêng, nước tràn vào, ụp mất. Mỗi lần đong cá bán xong, hai anh nhảy ùm xuống sông tắm, thân mình vùng vẫy hùng cường trong nước như cặp thủy quái.

Anh Đỏ Bàu có vợ rồi, như tên anh đã nói cho ta biết. Anh lấy vợ hồi còn đi trai trên thuyền lưới. Về sau bỗng nhiên phát phì, anh bị vợ kinh hãi và ruồng bỏ. Thường trong đêm, người ta nghe tiếng chị kêu thất thanh: "Uơ làng! Kẻ trộm! Kẻ trộm!". Hàng xóm đổ đến, chị hổn hển: "Hắn chạy mất rồi!". Anh Đỏ thì ngồi sững trên giường, ngơ ngác và ngượng nghịu, đoạn bỏ ra nhà ngoài. Lâu rồi, không ai bị lừa về trò hề ấy nữa. Cái ông hộ pháp ấy không ngờ đã không chống nổi một cơn cảm xoàng. Một lần, khi về lạch, thuyền bị mắc mưa. Mình ngấm nước vì mảnh chiếu buộc làm tơi không đủ che, anh Đỏ phát ốm, nằm liệt giường để không bao giờ dậy nữa.

Anh Can thì to lớn từ hồi con trai. Mụ mẹ, người loắt chắt, như phần đông các bà nhà quê mà sự gánh vác nặng nhọc phải chịu ngay từ hồi tuổi năm, sáu đã ngăn trở đà phát triển bình thường của cơ thể, kêu lên mỗi ngày với một chút kính phục lẫn sợ hãi: "Thằng ni mau to khiếp!". Mụ phải nới quần áo cho con luôn. Tà áo của anh cũng như ống quần, chắp thêm hai ba nếp bằng vải khác màu hoặc khác độ đậm nhạt, trông ngộ nghĩnh. Anh lớn một cái lớn vạm vỡ chắc chắn, chứ không phải béo phì nộn lối trưởng giả. Nhưng mấy o con gái người làng, vẫn ngài ngại anh, kêu lên mỗi khi nói đến anh: "Người đâu mà to như trâu trương, nhìn gớm chết!".

Khi anh mười tám tuổi, mụ mẹ đi dạm con Xin bên hàng xóm cho anh. Con Xin hình dung lại bóng dáng anh dân chài bước lừ lừ trong ngõ hẻm như con voi; khi đi cạnh, nó phải ngước hẳn đầu lên mới nhìn được mặt. Nó nghĩ: lấy anh Can, chị em cười chết; họ cứ kể bài vè lên cũng đủ thẹn chín mặt đi rồi. Nó giãy nảy lên từ chối; mẹ nó không ép, bởi trong thâm tâm, mụ vẫn có chút e ngại thế nào đối với anh Can.

Chuyện dạm hỏi lan truyền, dân làng lại có dịp bịa chuyện thêm để cười. Từ đó bác chài không dám nghĩ đến chuyện cưới xin nữa. Khi đi sớt qua bác trong ngõ hẻm, các o con gái, hai tay chụm trước người giữ lấy vạt áo dài, lưng hơi cúi, rảo bước gần như sợ hãi.

Bác chài, lúc đầu khổ sở, sau biết đành chịu.

*

* *

Chị Ngò xức thuốc cho thằng Còi một cách khó khăn. Thằng bé bị lở lói; những nốt lở mưng mủ làm một vòng vàng vàng, xanh xanh quanh cái vảy tròn nâu thẫm; khi tắm, nốt lở bị cọ loét để lộ những chấm thịt hồng. Chị Ngò mài một viên thuốc màu xám tròn lên trôn bát bôi lên. Thằng bé bị xót, vùng vẫy không chịu.

Chị lại phải dọa:

- Có muốn ông Ba Bị ăn thịt không?

Anh Can quay nhìn, "hèm" một tiếng trong cổ họng. Thằng bé sợ rúm người lại, nét mếu máo đọng cứng trên mặt nó.

Hồi đầu, anh Can hơi mếch lòng khi bị gọi là "Ba Bị". Nhưng vốn hiền lành, anh chỉ lặng yên, lầm lì vẻ mặt, chị Ngò vô tình không nhận thấy. Vả thực ra, không phải chị ta có ý gán cho anh cái tên hiệu ấy. Một lần, để dỗ nín thằng Còi, chị dọa "ông Ba Bị", tay chỉ bâng quơ sang nhà anh Can, không ngờ bác chài ngay lúc ấy lại ló mặt nơi khung cửa vách; chính chị cũng có hoảng hốt một chút về sự hiện hình đột ngột nhưng rất kịp thời ấy. Thằng bé im khóc liền. Về sau, nghe quen đi, anh Can không chướng tai vì tiếng "Ba Bị" nữa. Có khi, muốn làm mặt "Ba Bị" thực, anh lồng ngón tay vào miệng kéo xoạc hai mép ra và trợn tròn hai mắt. Để đền cho thằng bé sau khi xức thuốc, chị Ngò cho nó bú. Anh Can vẫn ngồi im lặng, bàn tay ép dưới đùi béo.

Anh Can bỗng hỏi:

- Hắn mấy tuổi rồi nhỉ?

Chị Ngò đáp:

- Tết ni là ba tuổi. Bố hắn chết đâu được dăm ba tháng thì tôi ở cữ hắn.

Thế là câu chuyện xoay quanh người quá cố. Chị Ngò góa chồng từ hơn hai năm nay. Anh ấy đã bỏ mình trong một cơn bão tố. Chị Ngò nói về chồng, giọng lưu loát, bởi chị nhắc lại những điều đã kể đi kể lại nhiều lần. Chị khen chồng hiền, thương vợ và siêng năng. Anh Can ngồi nghe, hơi khó chịu, không biết tại sao. Mặt anh hơi nhăn lại.

Lát sau anh đứng dậy nói:

- Thôi tôi về, chiều rồi.

Nhưng ra đến cửa, anh đứng lại:

- à, để tôi đan cái lúp cho xong.

Anh ngồi trong sân, mông kề bên một hòn gạch, lúi húi vót tre. Mồ hôi bắt đầu râm rấp, làm ngứa xót; thỉnh thoảng anh khoành tay ra sau, lồng dao trong áo cạo soạc soạc từng lát rộng trên lưng cho đỡ ngứa, rồi bệt chùi mũi dao lên gan bàn chân.

Đan xong xương lúp, anh lợp lá kè lên. Vừa làm, anh vừa hỏi:

- ả làm được nhiều cá không?

Chị Ngò ngồi trong nhà đáp ra:

- Vừa hai lào.

- Thế thì cũng rút được dăm chĩnh nước mắm. Tôi định đến tháng Chạp thì nghỉ lưới, trẩy thuyền ra Hà Nội một chuyến chơi. Tôi cũng có mươi chĩnh nước mắm đem bán. Ta cùng nhau, nhá! Chị cười. Anh Can nhắc lại câu mà anh cho là đầy ý kín đáo:

- Ta chung với nhau, có ưng không?

*

* *

Càng ngày anh Can càng dạn hơn. Một hôm thấy chị Ngò đi đâu vừa về, anh ló mặt nơi cửa vách nói chõ sang:

- Khi nãy có người đến hỏi ả.

Chị Ngò vô tình hỏi lại:

- Người ra sao?

- Người đàn ông, còn trẻ, khỏe.

Chị Ngò ngạc nhiên lắm, băn khoăn nói một mình:

- Ai thế nhỉ?

Chị Ngò hỏi to:

- Thế có dặn chi không?

Anh Can nheo mắt:

- Có. Người ấy nói thế này chớ: "Cớ làm sao ả Ngò cứ ở vậy không chịu lấy chồng?".

Chị Ngò chợt hiểu, mắng:

- Đồ quạ mổ ở đâu! Làm người ta lo gớm đi.

Anh Can phá lên cười ha hả.

Một hôm, trét lại vách nhà chị Ngò xong, anh bảo:

- Tôi về đóng cho xong chiếc thuyền cho thằng Còi.

Buổi chiều, anh mang cái đồ chơi sang; đó là một chiếc thuyền mành kiểu nhỏ, có buồm có lái hẳn hoi. Anh nói:

- Thuyền ni hay lắm. Vát gió ngược, hắn cũng chạy.

Làm bộ khó nhọc, anh kéo cái dây gai chằng cột buồm, miệng kêu: "Dô hè, ta dựng cột lên! Dô hè, ta kéo buồm anh em ơi, dô hè!".

Thằng Còi ngồi trong lòng mẹ, chăm chú nhìn cái đồ chơi một cách thèm thuồng: nó sợ không dám đòi, nhưng một đôi khi nó chợt ngoái cổ ngửng nhìn chị Ngò và kêu bằng một giọng van lơn: "Mẹ! Mẹ!".

Anh Can đẩy chiếc thuyền đến trước mặt nó, nói: "Ni, cho mà chơi". Thằng bé nhìn mẹ, vừa ham muốn, vừa sợ hãi. Bộ nó bị cám dỗ lắm. Anh Can bèn đặt thuyền lên đùi thằng Còi: Nó do dự, nhưng một lát sau, quên hết, nó chơi với đồ chơi một cách vui thích.

Chị Ngò được rảnh tay, đi lấy đồ dùng ra làm vàng thoi. Chị bảo:

- Tôi có mấy cây nứa mới mua về làm vàng, anh chặt ra rồi chẻ nan cho tôi một tí.

- Được, được.

Anh Can đáp vậy rồi đi làm ngay. Chị Ngò, tay thoăn thoắt đan những cái vàng rất vuông vắn, thỉnh thoảng quay nhìn anh Can. Bác chài cắm cúi làm việc; mỗi khi cử động, bắp tay nổi cộn lên những múi tròn. Chị Ngò hơi có chút kiêu hãnh. Con người to lớn ấy tỏ với chị một thái độ phục tùng lạ. Anh ta vâng lời chị, nhất nhất làm theo mỗi việc chị nhờ, cố làm vui lòng và giúp đỡ chị. Chị Ngò thấy một chút ấm áp trong lòng, chị có thể tin ở sự che chở của bác chài khỏe mạnh, trong đời sống bơ vơ nhọc nhằn mà chị đang sống. Chị bắt chợt mình đang mỉm cười với ý nghĩ: ừ, coi thế chứ, anh ta cũng không đáng khiếp sợ như chị vẫn tưởng.

Chỉ một nhoáng, anh Can đã chẻ xong cả mười cây nứa. Anh trở vào ngồi cạnh thằng Còi. Thằng bé chơi mê mải, miệng hé để thè lưỡi. Nó đẩy thuyền tới, miệng ngọng kêu "phạch phạch". Anh Can đẩy thuyền lại cho nó, nhịp sức bằng những tiếng "Dô hè! Dô hè!".

Bỗng thằng Còi ngửng mặt: Bấy giờ mới nhận ra bác chài, nó hơi hốt hoảng và kêu: "Mẹ! Mẹ!".

Anh Can cười một cái cười rộng, dỗ: "Không đâu, chú mi cứ chơi. Ô dô hè! Ta chèo thuyền. Ô dô hè!".

Thằng Còi ham chơi, hết sợ.

Chị Ngò khen:

- Cũng giỏi dỗ con nít đó chớ!

Anh Can cười, vẻ sung sướng. Bộ anh muốn nói câu gì, nhưng lại thôi.

Ngồi rốn thêm một lát, dường như không kiếm ra chuyện gì để nói nữa, anh đứng dậy làm bộ ra về.

Nhưng bỗng nhiên anh có một thái độ kỳ lạ. Anh trở vào ngồi trên giường, bật đứng dậy, bước ra cửa nhìn trời, nói một câu vu vơ: "Trời ni lại muốn động rồi đây", chắp hai bàn tay béo, bẻ ngón răng rắc, rồi quay trở vào đặt cái thân hình đồ sộ trên chiếc giường đã ọp ẹp xiêu vẹo.

Anh nói hơi ấp úng:

- ả Ngò cho tôi hỏi một chuyện.

Chị Ngò dừng tay ngước nhìn. Tự quyết định, anh Can nói rất nhanh:

- Để tôi đóng cho ả cái giường mộc thật to, thật chắc, ả có ưng không?

Chị Ngò ngớ ra một chút, rồi bỗng đỏ mặt. Nhưng qua cơn thẹn và ngạc nhiên ban đầu, chị đáp, với cái vẻ đỏng đảnh của đàn bà:

- Thôi chả, tôi ở vậy nuôi con thôi. ở với anh thì được gì kia chứ?

Anh Can vội vàng nói, bằng một giọng vô cùng tin tưởng:

- Tôi chữa nhà, tôi đan lưới cho, chín! Tôi lại biết dỗ thằng Còi nữa, rồi tôi làm cho hắn nhiều đồ chơi, nhiều nhiều kia!

1941

Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ

Hai anh học trò có vợ

Bùi Hiển

Hai anh cùng trọ một nhà hàng ngoại ô, cùng học năm thứ nhất ban Thành chung trong một trường tư thục. Cuộc bắt bạn thực đã nhanh chóng, ngộ nghĩnh nữa. Cách thế này:

Vịnh vào trường chậm mất một tháng, bởi mắc chăm sóc đứa con lên sởi. Hôm anh xin vào học, thầy giáo đã để ý ngay tới cái dáng lênh khênh và vẻ già dặn tuy hiền lành ngây ngô của anh ta. Thầy hỏi đùa:

- Anh có vợ rồi chứ?

Và Vịnh đã giả lời, giọng hoa mỹ kiểu xưa:

- Bẩm thầy, con yên bề gia thất từ lâu.

Học trò cười ầm lên, khiến Vịnh ngơ ngác. Thầy lại đùa:

- Thế được mấy con rồi?

Mắt anh học trò mới bỗng sáng lên, trong cái kiêu hãnh người cha. Anh ta nói một hơi lưu loát cái câu khoe con mà hẳn anh đã có nhiều dịp nhắc đi nhắc lại:

- Cám ơn thầy, con mới được một cháu. Nó còn bé lắm ạ; đẻ tháng chạp năm ngoái, thế là đi mười tháng, tính đến Tết này là cháu chịu ba tuổi.

Cả lớp lại phá lên cười. Sợ ông hiệu trưởng nghe tiếng ồn thầy giáo bảo:

- Anh lại ngồi cuối lớp kia, cạnh anh Cần.

Thầy dẫn anh ta tới ghế cuối cùng, chỉ có một anh học trò lớn chiếm cứ. Vịnh len vào, ngồi xuống, vòng tay. ý muốn gây trò cười làm cho độc ác, thầy giáo bảo:

- Hai anh đứng lên.

Hai anh cùng đứng dậy, cùng đứng ngất ngưởng. Cần lại còn cao hơn Vịnh nửa cái đầu, nhẹ xang mình bên này bên kia, như để bớt dáng cao. Anh ta cúi mặt mân mê cuộn tờ giấy thấm cho đỡ ngượng, nhưng tai vẫn đỏ lửng lên, vì anh em bạn đều quay lại nhìn mà khúc khích cười, cho đến khi thầy giáo cho hai anh ngồi và lại bắt đầu giảng bài.

Giờ ra chơi, Vịnh đứng thui thủi góc sân, hai tay thủ dưới tà áo. Vài cậu học trò nhỏ đã đột nhiên có một ác cảm mơ hồ với người bạn mới mà chúng biết sẽ không thuộc vào xã hội chơi đùa của mình, liếc nhìn anh từng thoáng mau, luồng mắt lạnh lùng đầy sự tò mò. Một cậu tinh nghịch gọi:

- Ê, papa Cần!1

Cần đang đứng cạnh cây bàng ôn bài, quay lại rồi vội ngoảnh đi khi thấy cậu kia vừa cười cợt nhìn anh vừa trỏ Vịnh. Tiếng cười và vỗ tay ran; và, trong một cơn cục của kẻ hiền lành bị trêu chọc quá độ, nó xui làm những thách đố, Cần, dáng quả quyết, bỗng đi thẳng tới người học trò mới, vỗ vai như một bạn cũ thân thiết, và hỏi:

- Anh trọ ở đâu?

Vịnh lễ phép đáp:

- Thưa anh, hiện giờ tôi vẫn ở tạm một hàng cơm. Tôi chưa kiếm được chỗ trọ.

- Thế anh về trọ cùng tôi cho vui nhé. Tôi ở ngoại ô.

Vịnh cảm động, không biết nói thế nào để cám ơn, nắm mạnh tay bạn, bỏ ra, rồi lại nắm mạnh lần nữa. Cần quay nhìn các bạn học, vẻ đắc thắng và khiêu khích.

Tối hôm ấy, Vịnh xe hòm đến nhà Cần. Cần dắt bạn vào nói qua với bà chủ trọ. Vịnh chắp tay đứng nghe, thỉnh thoảng gật gật đầu. Đoạn hai anh dọn chỗ kê hòm. Nhà tranh thấp quá, Cần trong lúc lúi húi dọn dẹp, húc đầu phải xà tre. Sau đến lượt Vịnh đụng đầu vào khung cửa.

Dọn xong, Vịnh ngồi chép bảng dùng thì giờ. Đọc đến những chữ mới lạ chưa từng thấy: Algèbre, Chimie, Zoologie1, anh thấy lòng sờ sợ, và có ý kính phục tất cả các bạn mới mà anh cho giỏi hơn mình nhiều. Khi ngửng đầu, anh chợt thấy Cần đang ngồi vòng tay chăm chú nhìn mình, miệng hơi mỉm cười. Anh cúi mặt, ngượng nghịu. Nhưng Cần hỏi anh, giọng nhỏ nhẹ, thân mật như trong câu chuyện tâm tình:

- Anh cưới vợ năm nào?

- Thưa anh, tôi cưới vợ ba năm rồi.

- Anh cứ thưa với gửi gì! Chỗ anh em đừng nên khách sáo. Cháu vẫn ngoan chứ?

- Cám ơn anh, nó ngoan đáo để. Nhưng vừa đây nó lên sởi, có hơi nhác chơi.

Rồi trong một bầu thân mật, hai anh kể chuyện mình cho nhau nghe. Đó là chuyện những chàng trai nhà quê, mà sự học đã nhiều lần đứt đi nối lại bởi những cớ giản dị và hết sức bất ngờ: một mùa lúa được hay mất, một đám tang, cuộc hồi hương đột ngột của người anh cả Vịnh vừa làm giàu ở một tỉnh xa miền mỏ, sự cạnh tranh giữa cha Cần và bác hàng xóm hợm hĩnh vì có con "học trường Đíplôm, sắp thi ra tham biện".

Cần tiếp:

- Thầy tôi bảo mãi, lúc đầu tôi nhất quyết không đi. Lớn sù sụ rồi, anh em bạn học họ cười cho. Vả tôi cũng như anh, có vợ rồi đấy.

- Thế à! Thế là phải. Lớn lên phải lo gây dựng gia đình, nối dõi tông đường chứ. ở tỉnh có người già quá mà chưa thành gia thất; độ Tết trước, tôi gặp mấy cô người làng ở tỉnh xa về quê chơi, cô nào cũng cao ngông nghênh thế này mà chưa chồng con gì cả, trông dơ dáng quá.

- ấy, tỉnh thành họ khác thế đấy, hóa nên họ cười mình, cho mình là hủ. Chuyện có vợ, tôi giấu mãi; nhưng sau vì thằng bạn người làng nó nói toang, bọn kia chế tôi ê cả mặt. Lúc sáng, chắc anh không biết chúng cười gì nhỉ: đấy là bởi anh khai có vợ con rồi, chúng cho là sự lạ.

Vịnh chống cằm trên tay, im lặng. Không phải anh thẹn; anh chỉ thấy nao nao khổ sở, bởi cảm tưởng cô đơn thấm thía. Thực các bạn mới đã độc ác quá. Và vô lý nữa: anh cưới vợ và có con sớm, bà con trong làng đều mừng anh có phước.

Cần an ủi:

- Nhưng học trường tư thì phải chịu những lời chế nhạo như thế là thường. Học trò trường tư quỷ sứ lắm, có phải như chúng ta đâu. Độ học trường phủ, trong khi đợi giờ vào, chúng tôi đứng nghiêm trang nói chuyện, lúc thấy quan Đốc tới thì chắp tay cúi đầu chào: "Bẩm quan". Bọn này thì có! Lảng thầy giáo được chừng nào hay chừng ấy... Nhưng thôi, cùng một cảnh, chúng ta thương yêu nhau, đùm bọc lấy nhau là đủ. Cũng bởi thế mà tôi mời anh về trọ cùng tôi.

Hai anh ăn ở với nhau thực là khăng khít, giống như những đôi bạn hiền trong chuyện thời xưa. Càng bị chế nhạo, hai anh càng xích lại gần nhau. Trước những lời độc ác của các bạn, hai anh nắm chặt tay nhau, và tìm thấy trên nụ cười cùng nở trên đôi miệng một niềm an ủi không cùng.

Một hôm, Cần được tin mừng. Một người làng, nhân đi chợ tỉnh, báo cho anh biết rằng vợ anh đã có mang. Anh thầm thì nói chuyện ấy với Vịnh. Vịnh nắm chặt tay bạn; hai anh càng thân nhau hơn bởi cảnh nhà giống nhau hơn. Vịnh già kinh nghiệm, dạy Cần rằng nên bảo "chị ấy" ăn nhiều canh rau sam cho mát thai; nếu được canh rau sam nấu với cá rô càng bổ; rằng thỉnh thoảng "chị ấy" nên xông lá dành hoa, để tránh tật nôn mửa mà đàn bà chửa hay bị.

Nhân một ngày chủ nhật về quê, Vịnh đem lên cho bạn mấy bơ gạo lùa, một thứ gạo riêng vùng anh trồng, đàn bà chửa ăn gọn bụng, anh bảo thế.

- Mẹ thằng Bình cũng nhờ ăn gạo ấy mà đẻ nó ra thực chóng, dễ như trở bàn tay, anh ạ.

Anh nói ba tiếng "mẹ thằng Bình" rất nhanh, một cách ngộ nghĩnh lạ.

Có khi đang học bài, Vịnh nhìn vơ vẩn vào một góc nhà, miệng nhẩm mãi một câu, rồi chợt anh ngừng học hỏi Cần:

- Anh định đặt tên cháu là gì đấy?

Cần cười không đáp, Vịnh tiếp, ra bộ săn sóc tới việc nhà bạn:

- Cứ theo năm đẻ mà đặt tên, anh ạ; như thế tiện, chả quên tuổi được... Có người lấy chữ ngũ phúc mà đặt tên con lần lượt, cũng là ý hay. ở nhà quê cứ quen gọi Cu, Hoe, Lòn, nghe chướng tai quá nhỉ.

Tối hôm hăm bảy Tết, hai anh đang soạn để về quê, Cần thấy vợ bước vào. Cần hỏi, hơi gắt:

- Lên làm gì thế?

Vợ anh bụm môi nhìn loanh quanh, nhổ toẹt được bãi nước trầu vào góc vách rồi mới đáp:

- Thầy bu bảo tôi lên tỉnh sắm ít hàng tết rồi về với nhà luôn thể.

Cần vẫn lúi húi soạn cặp, để mặc vợ đứng trơ, cái mủng sơn cò kè bên hông. Nhưng Vịnh nhã nhặn mời:

- Chị ngồi nghỉ trên ghế. Có bụng mà đi đường xa chắc mệt lắm nhỉ.

Hai anh ăn cơm xong, vợ Cần bảo chồng, giọng nhỏ nhẹ, sợ hãi:

- Nhà đi phố sắm hàng tết với tôi, được không?

Nhưng Cần gắt:

- Ôi giào! Giờ lại muốn cặp tay nhau đi dạo phố như tây với đầm ấy à!

Vịnh thực thà bảo:

- Thời mới, cũng đừng nên nệ cổ quá, anh ạ. Mình đừng suồng sã lắm thì thôi, vợ chồng đi với nhau, nhưng đi xa nhau, cũng chẳng có gì là quá tự do. Vả lại để tôi cùng đi với anh chị.

Khi ba người ra đi, Cần lại gắt lượt nữa, bởi anh thấy vợ mang cò kè cái mủng bên hông. Anh quát:

- Mua có vài xu miến với mộc nhĩ, cũng mủng với mót! Vứt đi!

Vợ vội chạy vào cất mủng. Cần thì thầm với Vịnh:

- Tôi dặn anh điều này: anh em bạn nhỡ gặp mà hỏi, thì anh bảo đó là người làng, chứ đừng nói vợ tôi, nhé.

Vịnh gật đầu, tuy bụng nghĩ: "Làm thế thì còn đâu là tình nghĩa vợ chồng".

Hai anh đi trước, vợ Cần theo sau, hai tay thủ dưới tà áo, bụng đã hơi ưỡn ra đằng trước. Thỉnh thoảng Vịnh phải đứng lại chờ; chị ta toe miệng cười đến híp cả mắt, chạy tới, tay vẫn thủ dưới áo, khiến người ngoắt nguẩy đến hay. Qua trước cửa hàng nào, chị ta cũng trố mắt nhìn, thế là chân lại bước chậm lại. Chị ta hỏi:

- Cái gì xanh xanh hình bồ dục như quả dưa thế nhỉ?

Cần im lặng cúi mặt bước. Nhưng Vịnh, ra cách một bạn chồng nhã nhặn, giảng cho nghe:

- Đấy là quả bóng, để con nít chơi. Nó bằng cao su, thổi thì phồng tướng, tung lên giời nó bay là là, hay lắm... à, chị có thấy thằng người trăng trắng ngồi trong tủ kính đó không? Con búp bê đấy; chị sắm cho cháu chơi; bóp thì kêu chút chít như con chuột nhắt ấy, cũng hay.

Vợ Cần cười, mắt long lanh thèm muốn:

- Để tiền mua miến với khoai hành, không bu tôi chửi chết.

Cần ngửng đầu giục:

- Thì mua đi rồi mà về, còn đợi tất cả phố người ta xem rõ mặt nữa à?

Chợt thấy một người bạn học bên kia đường, anh vờ chúi mũi vào cửa kính một hàng sách.

Sáng hôm sau, khi cùng vợ từ giã Vịnh để lên xe về quê, Cần tặng bạn một bức ảnh. Vịnh vui mừng ngắm nghía. ảnh chụp một cặp tình nhân người Âu ngồi trên một mảnh trăng lưỡi liềm mình in lên nền trời mờ tím nạm sao lấm tấm. Bên dưới là cảnh đồng quê mùa đông thê lương, lốm đốm tuyết. Lật sau ảnh, Vịnh đọc thấy mấy hàng chữ, nét nắn nót:

"Tặng bạn thâm giao Hồ Văn Vịnh,

Nhân dịp năm mới, vợ chồng tôi thành thực chúc anh cùng chị sống trong cảnh hạnh phúc thần tiên như cặp uyên ương trong ảnh".

Vịnh cảm ơn bạn, rồi cất ảnh vào cặp. Là một người chồng tốt, anh định sẽ cho vợ xem ảnh và giảng cho nghe ý nghĩa cảnh vẽ trong đó. Vợ xem rồi, anh sẽ đem cất vào hòm, "chứ không nó làm bem nước trầu vào ảnh mất", anh nghĩ vậy.

Nhân dịp lễ Phục sinh, Vịnh đưa Cần về làng chơi, để bạn biết quê hương mình, một nơi đã có tiếng non sông gấm vóc. Nhưng anh còn có một ý định thầm kín hơn: khoe vợ. Vợ Cần mà anh đã có dịp thấy mặt hôm hăm bảy tết, thực là xấu: má gồ, cổ đen, môi vẩu điểm cho miệng một vẻ chua ngoa. Có lẽ vì thế mà Cần không bằng lòng khi thấy vợ lên tỉnh. Vịnh tự phụ khi so vợ bạn với vợ mình; vợ anh trẻ, đẹp, có đôi mắt đen láy và hàm răng đen nhưng nhức. Anh vâng lời cha mẹ lấy người đó, không đắn đo, không suy nghĩ; nhưng khi cưới về rồi, anh chợt nhận thấy ở vợ một nụ cười có duyên và một luồng mắt dễ thương lạ. Đàn bà răng đen, anh cho thực đẹp, chứ những cô thiếu nữ thành thị, mỗi khi cười để lộ hàm răng "trắng hếu" ra, vô duyên quá. Vợ anh lúm đồng tiền ở một khóe môi, chỉ một khóe thôi, có một vẻ nũng nịu dễ yêu. Anh nhận thấy vậy, nhưng không dám khoe với ai, sợ người ta cười. Vợ anh lại ăn nói nhanh nhẩu, khi có bạn đến chơi, anh nhờ vợ đỡ lời cho nhiều, bởi anh hơi chậm chạp.

Quả vậy, đôi bạn vừa tới cổng. Vịnh chưa kịp lên tiếng mắng con vàng đương sủa ầm ĩ, vợ anh đã chạy ra đuổi chó, đon đả chào chồng và chào khách, đoạn mời:

- Hai anh vào trong nhà.

Chị nói tiếng "anh" một cách trơn tru, dễ nghe quá. Trong những giờ rủ rỉ ban đêm, chị lại còn âu yếm xưng "em" với chồng. Vịnh thì hay ngượng, chưa khi nào nói được một tiếng "em" với vợ.

Bước vào nhà, Cần thấy một người trẻ tuổi ngồi dựa ngửa trên ghế, hai chân chạng, lưng quàng ba đờ xuy tuy trời đã chớm sang hè. Vợ Vịnh giới thiệu:

- Đây là bác cháu... Thưa bác, đây là bạn học thầy cháu trên tỉnh về chơi.

Người đàn ông vẫn ngồi chạng, có cái vẻ bề thế hợm hĩnh của kẻ mới giàu. Ông ta bắt tay Cần, giật mạnh và rất lâu, rồi giơ tay, xòe rộng ngón, mời:

- Ngồi chơi.

Quay lại vợ Vịnh:

- Thím bảo chúng nó pha nước.

Rồi vừa hít từng hơi thuốc lá dài khiến thuốc đỏ lửng cháy vèo vèo, ông ta hỏi, giọng quan trọng của bậc che chở:

- Thế nào, lâu nay chú học ngoài tỉnh ra làm sao?

Vịnh chắp tay trả lời, thưa bẩm rất lễ phép. Ông anh gật gật liên hồi, nói mấy câu khuyên dạy chán ngắt rồi đi ra, sau khi đã xòe bàn tay cho Cần lượt nữa:

- Cậu cứ tự nhiên, nghe không, bạn chú nó, thì cũng như người nhà.

Vịnh để vợ ngồi tiếp bạn, xuống nhà dưới bế con. Đứa bé còn ngủ trong lòng bà nó nhưng anh bế xốc lên cho nó tỉnh dậy, rồi đưa lên nhà. Nó dở giấc, khóc ré lên. Vịnh nói nựng:

- ồ, ồ, tội nghiệp quá, nào thầy bế nào, con tôi nó như con chó ấy.

Anh duỗi tay nâng nó lên cao, đoạn rúc đầu vào bụng nó, tu miệng kêu liên thanh "blu blu". Thấy buồn buồn, hay hay, nó quên khóc, cười sằng sặc, trên mi còn đọng nước mắt. Tuy đùa với con, thỉnh thoảng anh liếc nhìn bên cạnh. Vợ anh tiếp bạn một cách niềm nở, miệng luôn luôn cười cho lúm đồng tiền một khóe môi và lộ hàm răng đen nhưng nhức. Chị rót nước chè tầu, bóc thuốc lá mời. Chị bóc mất cả mặt trên phong thuốc; Vịnh định sẽ dạy cho vợ biết rằng chỉ bóc một góc thôi mới nhã, mới hợp lối tỉnh thành. Ra tỉnh mấy tháng ít ra anh cũng học được một điều khôn chứ! Chị nâng chén nước trong hai tay, mời khách rồi lại mời chồng. Cần khen đứa bé:

- Kháu quá nhỉ!

Chị đáp:

- ấy là một độ vì lên sởi, cháu nhác chơi, chứ trước kia nó hay đáo để. Nó bập bẹ tập nói, ai giật lấy vật gì trong tay, nó đã biết chửi "Cha! Cha!" rồi nó giơ tay nó quào vào mặt người ta.

Vịnh trao đứa bé cho Cần, nói:

- Con để bác bế tý.

Đứa bé xòe những ngón tay bột nặn ẩy mặt Cần ra. Vịnh cười, nói rất to như để cho nó hiểu:

- Bác đấy mà! Bác đấy mà! Bác học trên tỉnh cùng lớp với thầy đấy mà!

Nhưng thằng bé không chịu cho người lạ mặt bế, oặn người giẫy nẩy. Vợ Vịnh vội đỡ lấy con. Chị nói:

- Khi nào nó đến tuổi cắp sách đi học, thì thầy nó và bác đã ra khỏi trường chưa nhỉ?

Vịnh lẩm bẩm tính trên đốt ngón tay, và đáp:

- Nếu nó thông minh sớm thì không khéo cha con cùng học một trường đấy.

Vịnh lại bảo vợ:

- Chúng ta sắp có cháu rồi. Chị Cần có mang đã được ba tháng.

- Thế à? Thế thì vui nhỉ! Phúc đức quá! Nếu chị ấy đẻ con gái, thế nào anh chị cũng phải gả cho thằng Bình chúng tôi nhé.

Ba người cùng cười vui vẻ.

1940

Kẻ hô hoán

Bùi Hiển

Hắn bước chậm rãi trong ngõ hẻm. Mùi nước cống thoang thoảng, đôi lúc dậy một luồng đậm đặc hơn do hơi đêm, khai khai thum thủm, nhưng với lỗ mũi hắn lại là mùi quá quen thuộc gần gũi. Bất đồ chân hắn bị vấp giập ngón cái. Điềm chẳng lành. Hắn liền dừng lại, đứng hồi lâu nghe ngóng. Ghé sát mặt vào cánh cổng hậu một nhà nào đó, hắn nhận ra nét trắng mờ một hình vẽ thằng người thô kệch, đầu tròn lông lốc. Có thêm dòng chữ nguệch ngoạc, cũng bằng phấn, tất nhiên hắn không đọc được, hắn không biết chữ quốc ngữ. Riêng có vài ba chữ Hán nghiêng nghiêng ngả ngả, thì hắn nhận ra, nhất là chữ "đại" vì nó giống hệt dáng thằng người đứng dang hai chân hai tay: chả gì hắn cũng đã từng võ vẽ dăm ba chữ thánh hiền với ông thầy đồ trong làng hồi còn để chỏm chứ chơi à.

"Chả nước"! - hắn tự bảo - Nhà mấy thằng học trò trọ học. Hắn không dám tiến xa hơn nữa trong ngõ hẻm: ngón chân cái vẫn còn đau đau. Hắn quay về thôi? Mới đi đã xúi quẩy. Cuối cùng hắn quyết định: cứ liệu, đến đâu hay đến đó.

Dán bàn tay vào tường nhám, hắn dùng tài nghệ riêng ép chặt đầu gối, trườn lên. Tường cắm mảnh chai, nhưng với hắn, mùi mẽ gì cái lối phòng giữ trẻ con ấy. Chỉ cần ba đầu ngón tay bíu vào đầu tường, hắn rút người lên như con tôm. Sau đó, dính đầu gối vào mặt tường, hắn dạo dạo bàn tay trên lượt mảnh chai: kiếm được chỗ đặt tay rồi, hắn rút người lên nữa, đặt một tay sang mép bên kia, đu mình ngồi chạng trên đỉnh tường nhồm nhỗm, hai cánh tay gân guốc đỡ sức nặng của thân. Đoạn, cũng cẩn trọng như thế, hắn vắt chân kia vào phía trong và đạp vào gờ cửa, nhẹ nhàng tuồi xuống.

Chân chạm đất rồi, công việc thứ nhất của hắn là mở hé cửa chiếc cổng hậu, phòng lúc thoát thân. Nhưng then cửa chặt cứng, cưỡng lại dưới tay hắn. Rờ tay rồi cúi nhìn, hắn kinh ngạc nhận ra cửa không gài. Một ý nghi ngờ thoáng qua. Người ta để hé cửa để đánh bẫy kẻ trộm? Nhưng hắn nhận ngay ức đoán ấy vô lý. "Chà, hắn nghĩ, mấy thằng trẻ nó lơ đễnh". Và hắn đứng thẳng dậy. Có gì rơi lả tả trên bàn chân: lần này thì hắn hoảng lên thật sự: một túi áo đã bị móc thủng, chắc hẳn do mảnh chai cắm tường, gạo trong túi rớt xuống, nhúm gạo mà các chú ăn sương dùng gieo nhẹ vào bóng tối để nghe tiếng gieo mà phát hiện các thứ đồ đạc trong nhà. Lại một điềm không may nữa! Hắn gãi trán râm rấp mồ hôi, nhớ đến đài âm dương hắn xin hồi nãy trước lúc xuất hành. Hai đồng tiền rớt xuống đĩa nẩy câng câng, đoạn nằm phô hai mặt vôi trắng xóa. Hắn xuýt xoa khấn khứa, kèo nài, gieo lần thứ hai, lần thứ ba, lại lần nữa. Chẳng ăn thua. Vẫn lúc thì hai mặt sấp, lúc hai mặt ngửa tênh hênh. Lì lợm, hắn khất xin một quẻ thứ năm, miệng khấn lầm rầm mà trong bụng đã muốn nổi tức, cứ như sắp bật lên tiếng rủa. Rốt cuộc quỷ thần đành miễn cưỡng chiều theo ý hắn.

"Cứ làm tới thì được", hắn tự nhủ để trấn an. Tuy vậy, khi lần vào nhà bếp, hắn bước lò dò, chậm rãi, thận trọng hơn mọi lần. Bếp không có cửa. Nhìn vào, hắn nhận ra mờ mờ một hình người nằm trên chiếc chõng kê phía trong, chắc hẳn thằng đứa ở. Nhưng sao tiếng ngáy nghe mệt nhọc nặng nề. Hắn huơ huơ tay lần vào. Tay hắn vừa vô tình va nhẹ vào một vật gì đó bằng gỗ khiến nó bị xê dịch chút đỉnh, tiếng ngáy liền im bặt, rồi có tiếng nẩy lách tách của nan chõng: thằng ở trở mình. Hắn nghĩ thầm: "Chắc hẳn một lão già; ừ phải, thằng nhỏ thôi ở đã hơn một tháng, nghe nói tụi học trò phải tự thổi cơm lấy". Hắn quen phân biệt hai tiếng ngáy; của người già, lập bập lập bập như xe bình bịch nổ máy, tiếng hơi thở kéo qua đờm chặn cuống mũi, có tí động là im liền; còn của người ít tuổi, kéo dài rờn rờn, say sưa, sấm nổ bên tai cũng kệ.

Hắn áp mình vào tường một lát: không nghe động tĩnh gì nữa, hắn mới thử lần lên nhà trên. May làm sao, cửa thông lên nhà trên mở toang hoác. Trời nóng bức, chắc bọn học trò để mở thế cho đỡ ngột ngạt. Hắn tự tin cứ lừng lững bước qua. Vào được dăm bước, chợt ông già dưới bếp cất tiếng ho khùng khục khùng khục một tràng dài. Vừa quay lại, thằng kẻ trộm bỗng có cảm giác thấy một bóng người chạy vụt vào.

Hắn lạnh cả gáy, mở to mắt cố chọc thủng bóng tối đăm đăm nhìn về phía cánh cửa, chỗ hắn nghi cái bóng vừa vào nấp đằng sau: đoạn nín thở, hắn lao nhanh tới góc tường thủ thế.

Một lát khá lâu, yên tĩnh hoàn toàn. Có chiếc ô tô hàng chạy ngoài đường phố, tiếng máy rầm rầm, không biết tại sao, càng khiến hắn thêm yên lòng. Chắc hẳn hồi nãy hắn hoáng mắt đấy thôi. Thằng kẻ trộm già ngạc nhiên tự hỏi sao hôm nay lại có cái sợ trẻ con, hão huyền của thời tập việc làm vậy. Đã quen nghề, hắn chỉ thường thấy một cảm giác rờn rợn hay hay khi lọt vào nhà lạ, cái cảm giác chỉ kích thích thêm chứ không hề làm tê liệt. Hắn thường khoái chí nhớ lại những cái kỳ tích một đêm kia hắn đứng chạng chân trên một người đàn ông nằm ngủ để với lấy chiếc đồng hồ quýt treo trên tường: hắn đã hành động vô cùng lẹ làng, cái dáng điệu đầy nguy hiểm làm rợn hai bắp chân mà hắn cứ tưởng tượng sắp bị hai bàn tay người ngủ chồm lên ghì chặt lấy, đã đem lại một khí lực không ngờ cho sự can đảm táo tợn của hắn.

Màn im lặng khép lại trên tiếng ô tô xa dần rồi tắt hẳn. Vẫn nép mình trong góc tường, hắn đảo mắt quan sát chung quanh.

Nhà lặng phắc; cạnh hai khung cửa sổ mờ mờ ánh sao, bóng vài ba anh học trò nằm ngủ, chân gác lên chấn song. "Vờ ngủ à?". Hắn tự hỏi, rồi lại tự bực tức với mình tại sao hôm nay lại đâm ra nghi hoặc đến thế. Tuy vậy, vẫn không ngăn được thử đưa luồng mắt về phía cánh cửa thông xuống bếp. Chợt hắn dỏng tai: hắn lại vừa tưởng nghe tiếng động nhẹ phía bên ấy, như có ai trở mình! Rồi cũng từ bên ấy đưa sang một tiếng thở ra, tiếng thở hắt, ngắn mà mạnh, như thốt từ ngực bị đè nén. Lần này thì hắn chỉ còn một ý nghĩ: chạy trốn. Quả là có kẻ đang rình để chộp hắn. Khéo tiếng ho lão già lúc nãy chính là để đánh động. Trống ngực hắn đập thình thịch. Liếm môi khô đét, hắn tìm kế thoát thân. Giờ mà thoát ra cửa, hẳn kẻ kia đón đường kịp hoặc phang vào sau lưng hắn. Phải nghĩ cách đánh lạc hướng đối thủ. Chà, thằng này, cái thằng đang nấp rình này có vẻ cũng gan lì lắm đây. Có thể nó chính là một thằng học trò nữa trong nhà. Thằng nhóc chưa chắc đã khỏe hơn mình, nhưng nó trẻ, nó nhanh, nó lại đang ở thế rình tấn công. Bất đồ lại có tiếng động lộc cộc, vẫn từ phía bên kia sau cánh cửa. Thằng kẻ trộm lạnh toát người. Nhưng hắn còn kịp nghĩ: Có lẽ cái đứa rình cũng sợ, không dám khởi thế tấn công trước, mà khéo thằng ấy cũng đang cứng cả lưỡi, không cất được tiếng tri hô lên. Với một ý nghĩ khiêu khích táo bạo ghê gớm, hắn cố ý cụng đầu đánh cộp vào tường. Tức thì, đằng kia, một tiếng động đáp lại, tiếng quần áo lạt xạt của người đang ngồi bỗng chồm dậy. Nhưng rồi một im lặng kỳ quái lại tiếp liền theo. Khéo cái thằng kia vẫn gan lì chờ để quật thẳng vào mặt mình, hắn đoán. Chần chừ nữa càng nguy! Trật chiếc khăn đen bịt đầu, thằng kẻ trộm nắm lòng thòng, ra sức ném mạnh về phía một ô cửa sổ, đoạn lao mình vút qua khung cửa thông xuống nhà bếp. Nhưng trái với dự đoán của hắn, kẻ kia không bị lừa vì cái hình nhân giả hắn vừa bắn ra, xô cửa chạy theo hắn. Hai cái bóng chạy thình thịch qua gian bếp. Thằng kẻ trộm thấy kẻ đuổi chạy ngang tầm rồi sắp sửa vượt lên. Một cái bóng thấp lùn. Hắn đoán kẻ kia muốn chặn đường. Hắn toan quay tìm ngả khác thoát thân, chợt vấp phải cái gì đó hoặc chỉ do quá đà, ngã dúi xuống. Trong lúc sợ hãi, hắn vẫn giữ tỉnh trí, quờ rộng hai cánh tay. Bóng đuổi va phải khuỷu tay hắn, ngã theo. Mẹo nhỏ ấy khiến hắn lợi thì giờ, thằng kẻ trộm lồm cồm trỗi dậy, vút ra hướng cửa sau. Bóng kia chồm dậy, lại lao theo hắn.

Tiếng ngã ì oạch đánh thức lão đầy tớ già. Trí còn hoang mang, giấc ngủ chưa tỉnh hẳn, lão bước thấp bước cao đuổi theo hai cái bóng, vừa hô bằng một giọng khàn khàn: "Kẻ trộm! Kẻ trộm! Ôi làng nước ôi, kẻ trộm!".

Giật tung cánh cổng hậu, thằng kẻ trộm thoát ra chạy miết dọc ngõ hẻm. Bóng đen thấp vẫn bám sát theo. Tới đầu ngõ hẻm, thằng kẻ trộm không do dự, rẽ ngoặt tay trái. Hắn đã nhiều lần dò xét địa thế: nếu rẽ sang phải, tất ra tới đường cái, có đông người ngủ mát ở vỉa hè, lại sáng ánh điện: còn con đường hắn vừa quăng mình vào, vắng, hẹp và tối, là đường dẫn ra ngoại ô. Nhưng hắn kinh hoàng biết bao, nhác thấy giữa lòng đường trước mắt, chỗ đầu xóm, một đám người túm tụm thành bóng đen lớn lố nha lố nhố như sẵn sàng đón đợi hắn! Hắn cắm đầu đâm nhào tới. Quay lại cũng chết kia mà! Hắn đã bỏ lại lão đầy tớ một quãng khá xa, nhưng tiếng hô hoán của lão còn vẳng tới, khiến đám người kia đâm bổ đuổi theo hắn.

Bây giờ, thằng kẻ trộm đang co cẳng phóng trên đường đá gồ ghề tối om của xóm ngoại ô. Phía sau không xa, là tiếng chân chạy huỳnh huỵch của cả chục người chứ không ít. Hắn chợt nghĩ tới cái mẹo, cũng chỉ mẹo vặt thôi, biết từ thuở vào nghề nhưng chưa bao giờ phải dùng tới. Hắn vừa chạy chậm bước lại, vừa cất tiếng kêu la inh ỏi như bọn đuổi theo: "ối làng nước! Bắt lấy thằng kẻ trộm! Nó chạy đằng kia!".

Xảy ra một sự lạ; vừa cất tiếng la lối, bỗng dưng hắn thấy cả lồng ngực, cả tim phổi hắn như giãn nở ra, bao nhiêu sợ hãi mệt mỏi bay đâu mất! Đầu óc thoáng đãng hẳn. "Kẻ trộm! Bắt thằng kẻ trộm!". Hắn la to hơn nữa, gần như khoái chí. "Bắt lấy thằng kẻ trộm, đằng kia, đằng kia!". Hắn vẫn chạy dẫn đầu, khuơ khuơ tay ra phía trước. Giọng hắn hò hét dường như át trùm lên giọng tất cả đám người. Da mặt hắn phừng phừng, càng cảm rõ cái mát lạnh của hơi đêm lướt nhanh qua trán, má. Thoạt đầu chỉ là một mưu kế để thoát thân, lúc này hắn thấy cái trò ấy hay hay, hắn cứ vừa la vừa chạy, vừa chạy vừa la hăng hái lên thật sự, cứ như thể trong phút chốc, con người hắn, nhân cách hắn đã đột nhiên biến đổi, hắn gia nhập một cách tự nhiên vào cái xã hội những người lương thiện đang xua đuổi lùng bắt một tên gian manh nào, một phần tử xấu xa tội lỗi chẳng hề có liên quan gì với hắn cả.

Nói vậy, chứ hắn cũng đủ tỉnh táo để chấm dứt trò chơi đúng lúc. Mồm vẫn không ngớt la hét hô hoán, hắn dần dà tụt lại sau, kiểu như người thấm mệt vì đã quá hăng, và khi đã cách xa đám đuổi khoảng dăm thước, hắn tạt ngang, nép vào sau bình phong một cái miếu con. Hắn cười một cái cười rộng hoác nhìn theo toán người, một cụm đen lố nha lố nhố, đang hò hét nhau ầm ĩ nên chạy theo hướng nào. Chợt hắn thấy, từ toán người kia, tách tụt lại một hình thù thấp lùn mà hắn đoán ngay là cái bóng vừa quần nhau với hắn trong nhà hồi nãy. Một ý nghĩ lóe trong trí thằng kẻ trộm: đích rồi, hắn vừa chạm trán một thằng đồng bọn trong cái nhà kia. "Mẹ kiếp, thì ra nó cũng tưởng mình rình nó. Hai thằng sợ lẫn nhau! Mà hình như mới rồi nó cũng bắt chước mình hô hoán ầm lên hay sao ấy". Hắn rủa thầm một tiếng thật thô tục cho hả cái giận đã bị một cơn kinh hoàng không đâu và đã hy sinh vô ích một cái khăn bịt đầu, vốn cũng dùng làm túi đựng đồ thó được. Hắn lại cố đoán xem tại sao có toán người đứng đón chặn hắn kia. Chắc rằng cái thằng cha mặt méo chân thọt mà đầu hôm hắn bắt gặp đi mò trong xóm này đã vụng về để "xọp cấu" - tiếng lóng trong nghề có nghĩa: bị người đuổi bắt. Bọn người kia bắt trộm không được, đang túm tụm bàn tán thì được dịp bổ ngay lên đầu hắn. "Mấy cái thằng. Đồ mạt hạng! Đồ ăn hại!". Hắn gộp trong lời rủa đầy khinh miệt cả thằng thọt chân mặt méo lẫn thằng lùn tịt.

Trong lúc đoán già đoán non và nghĩ linh tinh lang tang, thằng kẻ trộm già vẫn không rời mắt theo dõi cái bóng thấp lùn đang nép theo hàng rào cây bên kia đường lần đi. Hắn thử dặng hắng, cái bóng liền lẩn vào một bụi cây bên vỉa hè. Một ý trả thù tinh quái liều lĩnh vụt đến trong óc thằng kẻ trộm già, hắn quơ nhặt một hòn đá, nhảy xổ ra đường quăng tới rất mạnh, miệng hô hoán: "Nó nấp trong bụi này! Bắt! Bắt thằng kẻ trộm!". Tức thì từ bụi cây một bóng đen văng ra, bay nhanh về góc đường và biến mất.

1940

Làm cha

Bùi Hiển

Thường khi, giữa câu chuyện êm đềm, Thu ngừng lại. Nàng gọi sẽ: "Anh!" và nhấc bàn tay chồng đặt lên bụng mình. Thảo hơi nghiêng đầu nghe ngóng. Bàn tay chàng chum chúm để theo đường tròn căng của bụng vợ. Chàng cảm thấy rõ một cục lồi chạy dưới da người đàn bà rồi lặn đi đâu mất. Hai vợ chồng im chuyện, mỉm cười nhìn nhau.

Hồi lâu, Thảo nói: "Thằng cha bạo tợn nhỉ". Chàng hơi có chút kiêu ngạo cảm thấy một mầm mống của mình đang nẩy nở một cách xem chừng tốt tươi mạnh mẽ, trong lòng che chở và êm ái của người vợ yêu. Thu đáp: "Thằng này rồi tha hồ mà nghịch". Những cựa quậy của bào thai làm nàng hơi khó chịu, như thể có cái gì xáo lộn trong ruột gan, có khi làm nàng đau nữa. Nhưng cùng một lúc, một niềm êm dịu ngọt ngào dâng lên trong lòng nàng, theo với cái tình mẹ vừa trỗi dậy lần đầu.

Hai người lại im lặng. Hai tâm hồn rung động trong một ý nghĩ xinh tươi. Đứa con đầu lòng! Đôi vợ chồng son, ái tình còn mới như tờ giấy trắng, còn thơm mùi rượu ngọt và bánh cưới, đang đợi, không bồn chồn, không nóng nảy, một trẻ tí hon có cặp má hồng tươi như lòng vui của họ, và lời bập bẹ sẽ nói cho họ những tình yêu đương.

Đôi khi, Thảo áp tai lên bụng vợ, chàng nghe quả tim đứa bé đập, đập tíu tít như một cái đồng hồ tay. Chàng tưởng tượng ra dáng điệu co quắp của nó trong lòng mẹ. Chàng bắt đầu có cảm tình với cái mẩu người nho nhỏ, gần chàng lắm lắm mà vẫn còn xa chàng bao nhiêu! Làn da căng của bụng người mẹ ngăn hẳn với mảnh hình hài mà chàng nghe được nhịp sống và sờ thấy những cử động.

Thu đi qua thời thai nghén bình thường; nàng năng cử động, biết cưỡng cái uể oải tự nhiên của người đàn bà mang nặng, để chăm sóc việc gia đình.

Một buổi trưa, sau bữa cơm, Thu nói với chồng: "Anh đưa em vào nhà thương. Có lẽ em đã đến kỳ". Hỏi ra, Thảo mới biết Thu bắt đầu chuyển đau từ sáng. Vẻ bình tĩnh của vợ khiến chàng không ngờ tới điều gì.

Đến chiều, Thảo đi làm về ghé vào nhà thương, thấy vợ đứng nắm hai tay vào cọc mùng, tóc rối trước trán, da mặt hơi xanh. Chàng biết nàng đang chịu một nỗi đau mãnh liệt. Vốn can đảm, nàng không kêu khóc, không rên rỉ, nhưng ngón tay nàng bấu chặt cọc sắt, trán nàng toát mồ hôi lấm tấm, và Thảo nghe tiếng thở hổn hển mà nàng cố nén. Vâng lời cô đỡ, Thu không nằm, gượng đi lại để cho sự sinh nở dễ dàng. Chân không, nàng bước vơ vẩn từ góc này sang góc kia, có vẻ ngờ ngạc, gần giống như một kẻ điên. Bỗng nàng gẫy đôi người, vịn lên thành giường. Thảo vội vàng tới đỡ ngang mình vợ, nói những lời khuyến khích: "Em can đảm nhé! Em có muốn làm vui lòng anh không?".

Thu gật đầu và còn cố mỉm một nụ cười để an lòng chồng.

Bà dì Thảo và người chị của Thu túc trực trong phòng. Bà dì có vẻ bình thản. Mụ nhà quê ấy đã dự xem nhiều đám đẻ. Con gái, con dâu, cháu gọi bác, gọi dì, cháu bên nội ngoại, hễ sắp đến kỳ sinh nở lại nghĩ đến bà. Bà ở đợ nơi nhà con cháu, chăm sóc cho đứa bé lọt lòng; khoảng chừng vài mươi hôm một tháng, có người khác mời, bà lại xách nón ra đi, nói: " à, ra cái dân An-nam mình hay đẻ thực!".

Khoảng nửa đêm, Thảo bị đánh thức dậy. Còn lơ mơ chưa tỉnh hẳn, chàng nghe tiếng bà dì nói tự ngoài cửa: "Sinh con trai rồi".

Chàng vội nhảy ra khỏi giường, khoác áo đi vào nhà thương.

Đêm phòng thủ buồn tênh. Phố tối om, điểm từng chặng xa một cái nón ánh sáng úp chụp xuống mặt đường. Khi chàng đi vào trong vòng sáng, đôi vai vàng rực lên và chàng tỉnh hơn một chút. Những bóng trăng trắng nằm dài hai bên lối đi của nhà thương: đó là những người bệnh nhẹ nằm ngoài trời lấy gió. Thảo cố tìm xem trong mình có những cảm giác gì. Nhưng thần trí chàng, bị rứt dậy giữa giấc ngủ êm tĩnh, chưa thật tỉnh táo hẳn, và cảm giác cũng như còn mơ màng chưa dậy lên. Chàng chỉ thấy hơi khó chịu vì bị cái nhức nhối làm nặng đầu, như chàng thường có khi thức khuya.

Ngôi nhà hộ sinh sáng choang đèn; ánh sáng làm cho tỉnh hẳn.

Thảo thấy vợ nằm duỗi thẳng trên giường, vẻ tỉnh táo và khỏe mạnh. Chàng nắm tay Thu; nàng mỉm cười đưa mặt về phía cái nôi. Thảo vạch cánh mùng: giữa những tã và gối trắng tươm, nổi một cái mặt tròn vạnh đỏ hỏn to bằng nắm tay! Thu nói: "Nó sinh lúc hai giờ kém mười lăm. Cân được ba lô sáu".

Một niềm kiêu căng dãn bộ ngực vạm vỡ của chàng. Ba lô sáu, một đứa con so! Thực là một sự thành công tốt đẹp. A, đứa bé đã xứng làm con cha mẹ nó. Thảo thì ham chuộng thể thao, và Thu vốn là con gái đồng quê, hồng hào mạnh mẽ.

Thằng bé nằm im, hai mắt nhắm trông như hai sợi chỉ đen. Tóc thưa, đen, dài và mềm dán trít vào da đầu, ngọn quăn lên. Chàng hỏi:

- Thu có sinh dễ không?

Thu đáp:

- Cũng dễ. Mà tài chịu đau lắm. Cô đỡ khen Thu giỏi, có khi đau quặn mà chỉ một tiếng "chị ơi!".

Bà dì tiếp:

- Có lần nó nắm lấy cọc mùng bảo tôi: "Dì ơi dì, tôi bẻ cái cọc đi đây". ấy thế mà một hồi sau trèo lên giường ngủ quách.

Thu mỉm cười, nhắm mắt làm ngủ.

***

Vừa nghe chuyện, Thảo vừa ngắm đứa trẻ thơ. Chàng hơi ngạc nhiên vì không nhận thấy một cảm tưởng, một rung động gì mới lạ cả. Chàng tự nhủ thầm: "Đứa bé nằm đó là con mình, con Thu, là máu mủ của mình", nhưng vô hiệu. Chàng chỉ cảm thấy trong lòng chàng quằn quại một nỗi băn khoăn mà rồi chàng tìm duyên cớ: không đành lòng vì cái lạnh lùng vô lý của mình, chàng đã cố sức tìm lấy một chút thiện cảm, và sự gắng sức đó chỉ tổ làm cho bực dọc. Phải rồi, chàng chưa cảm thấy, bằng tim, mối liên lạc giữa chàng với thằng bé, cũng nhàm như những đứa sơ sinh khác mà chàng đã có dịp thấy. Nó chưa có một nét gì riêng: cũng bộ má tròn phì phị, đôi mắt sưng húp, làn da đỏ hửng, và cái vẻ mãn nguyện, gần như để ghét, của kẻ no nê.

*

* *

Ngày thứ hai của thằng bé, Thảo vào thăm bỗng ngạc nhiên. Mặt nó đã nhỏ đi. Bà mẹ vợ được tin vừa xuống tỉnh chiều hôm qua, giảng: "Nó bớt ụ sữa, cứ bé dần". Những nét của thằng bé tinh tấn hơn, làn cong vành má dãn ra, mũi nổi rõ, đôi mắt bớt sưng. Mầu da trở sang hồng hồng. Nó bắt đầu dễ trông và dễ thương.

Giữa đồ vải trắng, mặt nó như một đóa hoa lớn. Hơi thở phập phồng rất nhặt nâng mạnh áo hàng Kim cương mịn màng, làm óng ánh những dọc tơ. Thỉnh thoảng nó giật mình rất mạnh, hai tay giơ lên không trong một dáng điệu tuồng ngón xòe rộng. Bà nhạc Thảo lấy chăn dày đắp lên người nó: "ở trong bụng mẹ, nó nắm chặt; bây giờ ra ngoài, cử động trong không khí thung dung chưa quen, nó hay giật thột".

Cô đỡ vừa tắm cho nó hồi nãy, đứng nhìn, nói:

- Con so như thằng này khá, được ba lô rưỡi.

Thảo hỏi:

- Thế mà ai bảo ba lô sáu?

Chàng với lấy tấm fishe treo trên giường, thấy ghi 3kg460. Ra chị Thu nghe lầm. Thế là tự nhiên thằng bé sút mất hơn trăm gam. Chàng nghĩ: "Thôi cứ kể là ba lô rưỡi cho chẵn". Chàng mỉm cười bất chợt thấy sự tính toán con nít của mình để ăn gian cho con.

Cô đỡ nói:

- à, thầy đặt tên cháu chưa? Trên phòng giấy hỏi để làm giấy tư ra tri bộ.

Làm vẻ bối rối, chàng đáp: "Để cho nghĩ đã chứ". Thực ra chàng đã soạn sẵn hai ba cái tên rồi. Hay nhiều tên hơn nữa: chàng có cả một chuỗi tên, mà chàng cho hoặc đẹp và nhã, hoặc hùng, để gọi những nhân vật trong tiểu thuyết chàng định viết. Chàng sẽ mượn ở đó một tên cho thằng bé. Chẳng hạn: Tuấn, Phi, Linh.

Hồi lâu, chàng nói, như cách bàn với cô đỡ:

- Tôi gọi nó là thằng Tuấn đấy?

Chàng quay lại mẹ vợ:

- Mẹ có ưng không?

Bà cụ đáp - vốn là người đàn bà nhà quê khôn ngoan khéo léo, bà quen dè dặt, rào đón:

- Tôi thì thế nào cũng xong. Cốt hai cụ bên nhà ưng thuận là được.

Thảo nói với cô đỡ, để ngừa cuộc bàn cãi chắc hẳn làm phiền rầy:

- Cô cứ khai hộ cho tên là Tuấn, Hoàng - Công - Tuấn.

Thằng bé ngủ rất yên. Nhưng có lúc, nó dệch miệng mở hoác một khoảng trống mầu bầm bầm trong đó lo le cái đầu lưỡi; đồng thời tất cả mặt nó nhăn nhó, thịt đùn quanh hai mắt sưng vồng, đã đỏ tía lên. Người ta tưởng nó sắp bật khóc dữ dội. Nhưng nét mặt thơ tự nhiên lại dãn ra, trở lại bình thường, và nó lại nằm ngủ yên. Mẹ Thu ghé xuống nói nựng:

- ơ hơ! Các bà mụ vừa mắng cho. Xấu!

Bà hỏi Thảo:

- Anh trông xem nó giống ai?

Thu nói:

- Con mắt và cái miệng giống của anh.

Thảo không thấy giống nhưng chàng sẵn lòng không tin ở sự xét đoán của mình, và ưa cho Thu nói đúng. Bởi một ý muốn còn mơ hồ về sự nối dõi, chàng thích tìm thấy lại nơi đứa con hình ảnh của chàng. Tuy vậy, chàng cũng nói:

- Anh không thấy giống.

Thằng bé tỉnh thức, vươn vai cẩn thận tay giơ duỗi có vẻ lắm. Thảo ngây thơ kêu lên một tiếng khen phục. Chàng không ngờ thấy cái cử động người lớn ấy ở một đứa bé mới có hai ngày sống. Chàng nghĩ thầm: "ừ, mà hôm qua nó biết hắt hơi nữa kia đấy!".

Mở mắt ra bị chói thằng bé hấp háy rất buồn cười. Chị Thu bỏ mùng xuống để làm nhẹ bớt ánh sáng. Thảo bèn vén cánh mùng mà nhìn: chàng bắt đầu chú ý đến con. Thằng bé trương mắt lên: nhưng mi còn dày quá, cưỡng lại, nên con mắt chỉ mở được ít và lấy hình tam giác; Thảo liên tưởng đến một người bạn nữ khán hộ mắt một mí, nghĩ thầm: "Như thế thì không được đẹp". Chàng tự hỏi: "Nó có thấy gì không nhỉ?". Chắc cảm giác thằng bé còn khờ dại, mơ hồ, cũng như những cử động nó vẫn non nớt, chỉ phác nửa chừng, cả đến khóc cười, sự biểu diễn cũng chưa được hoàn toàn, nên mới có những cái mếu bị treo lửng.

*

* *

Mẹ Thảo ở ngoài nhà quê, được dây thép báo, vào tỉnh thăm cháu. Thằng bé ở nhà thương được một tuần, bà cho đưa về nhà. Bà bồng thằng bé một cách gượng nhẹ khéo léo, sai mua hoa chuối Thu ăn cho nhiều sữa, cấm nàng nằm nghiêng: "Mới sinh xong, trong người cái gì cũng lỏng lẻo, cử động mạnh hoặc nằm nghiêng có thể làm lệch lạc đi. Hồi chúng tôi ở cữ, cứ phải nằm sấp mà ăn kia đấy".

Mẹ Thu nối lời:

- Bà nói phải. Bây giờ họ bỏ đi nhiều, chúng ta ngày xưa biết kiêng hơn, bà nhỉ.

Bà dì nâng dái thằng bé lên:

- Hai bà xem, con nít thế này thì dễ nuôi: có một vạch dọc nơi dái.

Thảo bật cười. Nhưng chàng thấy lòng yên và vững. Chàng tin ở sự thông hiểu của ba người đàn bà đã có hai mươi năm kinh nghiệm về sự nuôi con.

Một chị bạn nhà quê, nghe tin Thu đẻ, xuống tỉnh hồi sớm. Chị ta tức tốc đi mua vải, về nhà Thu ngồi xổm trên giường, dọn ở mủng ra nào kéo, nào kim chỉ, cắt cắt, may may, trông bộ xăng xái. Đôi khi Thảo liếc nhìn và mỉm cười cảm động nghĩ đến những tình bè bạn đàn bà, xinh nhỏ hay hay, lơi lơi mà bền bỉ, kết bằng những sự biếu xén vặt, những ý ân cần tủn mủn như tính họ.

Thằng bé nhỏ đi trông thấy. Khuôn mặt dài hơn, đường môi vẽ rõ và Thảo bắt đầu nhận thấy miệng nó giống của mình. Hai mắt bớt sưng, to ra, đã có vẻ ngơ ngác của kẻ bỡ ngỡ nhìn đời. Thảo thường bắt chợt mình ngồi ngắm nó rất lâu. Cái con bọ đỏ hồng ngo ngoe ấy thế mà biết gây thiện cảm. Trong lòng chàng nẩy nở một niềm trìu mến còn nhẹ nhàng nhưng rộng rãi. Chàng biết trước sẽ yêu thương nó, bằng một tình riêng biệt. Đó không phải là tình yêu thương như ta thường có với bất cứ trẻ nào bởi chúng xinh xắn dễ thương; chàng nghe rõ lòng cha thức dậy dần dần, đã sẵn sàng nhân từ và che chở. Chàng chưa nghĩ hẳn đến việc nuôi dạy con, rèn cho nó một tính khí và gây cho một nghề nghiệp; nhưng chàng bắt đầu có mối ân cần mơ hồ đến tương lai nó; chàng đã tự hỏi thầm: "Nó sau này rồi ra sao nhỉ?".

Tình cảm đến dần, nó hơi chậm chạp. Nhưng có lẽ nhờ thế mà nó sẽ thêm sâu bền. Thảo biết trước cả một niềm hoan hỉ đang đợi chàng.

Thằng bé vươn vai, giơ lên hai cánh tay tròn bé xíu da rất mịn màng và trắng hồng. Nó nhăn mặt bật khóc, đỏ tía cả mặt lên. Mẹ Thu bảo: "Cho nó bú đi thôi. Đói rồi đấy". Bà nâng cháu, trao nó cho Thu. Thu dịch lui ngồi tựa vào tường, kéo yếm để lộ bầu vú căng có những đường máu xanh và ở giữa, nhô một mụn tròn lớn nâu sẫm. Lần đầu Thảo thấy vợ cho con bú. Nhưng cử chỉ Thu tự nhiên bao nhiêu, khiến chàng không hề thấy lạ mắt. Tưởng như từ khi trời sinh ra mình làm con gái, nàng đã học lấy cái cử chỉ muôn đời của người mẹ ấy rồi.

Thảo xáp lại gần. Thằng bé háu táu mút, làm rõ những tiếng chúp chíp. Miệng nó mở hết sức để trùm được cả núm vú, khiến hếch làn môi hơi thẫm và ướt nhẫy. Thảo ghé hôn lên má nó. Chàng nghe mùi sữa hoi hoi ngòn ngọt xuất tự cái miệng tí hon và tự yếm áo người mẹ.

Ma đậu

Bùi Hiển

Khi chị Đỏ Câu về tới cổng, con vàng nghe tiếng bước, dồ ra sủa. Một lát sau, có tiếng người hỏi từ phía trong:

- Ai đó?

Nhận ra tiếng chồng, chị vờ ho "e hèm", và mắng con chó.

Chồng chị kêu lên: "à, mẹ Đỏ", rồi kéo then mở cổng. Chị cúi mặt phăm phăm đi vào, nhưng dừng ngay lại. Hai cái roi vụt không khí túi bụi chung quanh mình chị, vun vút, khiễn chị ghê lạnh cả người, nhắm mắt co tay lên ngực, đứng lặng.

Một phút sau, tiếng roi im, chị ngửng nhìn. Chồng chị và lão Năm Xười vứt nắm roi dâu, đứng thở hổn hển; sân đất trước nhà, ô kìa! Trắng xóa những hình vẽ bằng vôi: ngổn ngang những cung tên, những thằng quỷ sứ đầu tròn lông lốc, những mặt hổ phù. Chị định đi vào, nhưng anh Đỏ vội kêu:

- Khoan đã, khoan đã!

Trong khi lão Năm Xười gài kỹ lại then cổng, anh Đỏ đẩy vợ đến gần một đống lá khô đang cháy bốc khói ở góc rào và bảo:

- Xông khói lá mỳ ky rồi hẵng vào nhà.

Chị Đỏ bị chồng ẩy lưng, bặm bặm mặt. Tuy vậy chị cũng đến đứng chạng chân bên đống lá. Anh Đỏ lùa đòn gánh xởi những cành lá cho khói có lối bốc lên. Giả cách lỡ tay, anh thúc đòn gánh vào chân vợ và nói vu vơ:

- Chưng trắng ghê!

Chị Đỏ "xì" một tiếng, nguây nguẩy bước vào nhà. Anh Đỏ bá vai lão Năm Xười, đi theo, cười khà khà. Chưa thấy ai cười vô duyên được đến thế. Tiếng cười đã xấu, giọng nói lại khó nghe hơn. Đã hăm mấy tuổi đầu, anh Đỏ nói hãy còn ngọng líu, chân thì nói "chưng". Mặt anh sôn si những mụn, mụn chưa nặn thì đỏ, mụn nặn rồi thì bầm tím. Lông mày sâu róm, rậm và ngắn một cách trơ trẽn; mũi sư tử; răng tróc thuốc nhuộm, vàng luôm luôm: hình thù như thế bảo ai thương được. Cha mẹ chị Đỏ thực đã độc ác. Chị đã nhất quyết không lấy anh Câu; có lần chị vừa thề độc, vừa bẻ rắc chiếc đũa ngay trước mặt cha mẹ, vậy mà bố mẹ ham của, cố dùng uy quyền độc đoán ép uổng chị vào mối tơ duyên chênh lệch ấy.

Chị Đỏ Câu thắp ngọn đèn dầu lạc, treo bên khung cửi rồi bắt đầu dệt cửi. Dừng tay để nối sợi chỉ bị thoi dứt đứt, chị nghe tiếng chân thình thịch, bèn hé cánh cửa sổ cạnh chỗ ngồi, ghé mắt nhìn. Một bác đàn ông vác một chiếc quan tài nhỏ trên vai, chạy nhanh như một bóng ma trong ngõ hẻm đằm bóng tím hoàng hôn ảm đạm. Đằng sau, cách dăm bước, hai người khiêng một cái đòn, dưới treo lủng lẳng một bó chiếu tròn quá ngắn, để lòi hai bàn chân đen sì của xác chết. Họ bước thất thểu, chân nam quàng chân xiêu. Mùi men rượu bay nồng nặc. Độ này, dăm anh trai tráng trong làng sống phong lưu nhờ nghề đi chôn, mỗi đám họ chỉ xin dăm tiền hay một quan, tùy lòng tang chủ, nhưng thế nào cũng phải có một bữa rượu. Uống rượu cho tiêu sợ mà làm việc, họ bảo thế. Đã một lần, một cậu say túy lúy vác xác chết chạy khắp mọi ngõ hẻm, không lần ra được đến ngoài đồng; sáng hôm sau, người ta thấy hắn nằm trên đường, đầu gối lên xác chết.

Chị Đỏ vội khép cửa, chị rùng mình và lờm lợm trong miệng, nhưng không dám nhổ nước bọt: người ta bảo càng nhổ càng lợm. Đưa mắt nhìn quanh, thấy mình trơ trọi trong gian nhà trống trải, chị Đỏ rờn rợn.

Nhưng lắng tai, chị nghe tiếng lão Năm Xười từ nhà trên đưa xuống. Lão nói to lạ thường, giọng ồm ồm, thỉnh thoảng lại cười ha hả rất dài. Tiếng cười nói ấy khiến chị vững dạ. Từ độ bệnh đậu hoành hành trong làng, nhà chồng chị thuê lão ta canh gác ngày đêm ở đây. Và chị Đỏ nhân đó được đôi ba lúc chuyện gẫu trong gia đình nhà chồng mà chị vẫn giữ thói coi như xa lạ.

Chị Đỏ đương đưa thoi, chợt giật mình nghe tiếng kẹt cửa. Hú vía! Chỉ là lão Năm Xười. Gài then cẩn thận rồi, lão tới ngồi ở chõng, cạnh khung cửi. Lão hỏi:

- Khiếp không? Đến bên nhà rồi đó!

Thấy chị Đỏ ngước mắt hỏi, lão tiếp, giọng thì thầm:

- Ma đậu, chứ ai. Thằng Xòe bị rồi; bởi thế nhà ta bữa nay mới phòng giữ cẩn thận thế đó chứ.

- Giữ cũng chẳng khỏi. Số bắt chết là phải chết.

- Cứ nói thế thôi. Có giữ cũng có hơn. Từ rày đi đâu về phải cẩn thận, đóng cửa gài then cho hắn khỏi lọt vào. Ma đậu khôn lắm kia. Có khi hắn chui cả dưới váy đàn bà mà vào nhà kia đấy. Bởi thế phải xông khói lá mỳ ky cho hắn chết ngạt. Hắn sợ khói lá mỳ ky lắm. Khi hắn bám trên áo, trên đầu, phải lấy roi dâu vụt tứ tung cho hắn sợ, hắn chạy. Có nhà dùng mẹo thế này, cũng thông: họ rải nứa khắp sân; hắn có lỏn vào được thì cũng phải bước trên nứa, nứa kêu rạc rạc, thế là người nhà biết, lấy roi ra vụt mãi, cu cậu phải phót qua rào mới thoát thân.

Chị Đỏ đã ngừng hẳn tay dệt, trố mắt nghe. Chị hỏi:

- Thấy được hắn phót ra kia à?

- Thấy sao được ma quỷ, nhưng mà nghe lạc xạc đầu ngọn rào là biết liền. Thấy thì chưa thấy, chứ tôi đã nghe ma đậu nói chuyện rồi đó. Độ ấy tôi nằm nghe rõ ràng hai con ma bàn nhau vào bắt tôi. Tôi cầm roi liền, xoay người như chong chóng vụt tứ tung. Thế mà cũng chẳng thoát, hắn tài lắm. Bữa sau tôi lên đậu, cho nên bây giờ mặt mới có hoa thế này đấy chứ.

Lão cười khà khà, sờ đôi má rỗ chằng chịt.

Chị Đỏ sợ co chân, bảo:

- Cười nho nhỏ ấy.

- Cần gì. Sợ hắn nghe tiếng, hắn vào à? Tôi chẳng cần. Những người lên đậu mà khỏi được, là âm phủ bắt nhầm, những người ấy là không có số chết về bệnh đậu. Nhầm một lần thì thôi, bởi thế có ai lên đậu lần thứ hai đâu.

Chợt có tiếng động ở cửa. Lão Năm Xười đứng vụt dậy, hỏi:

- Ai?

- Tôi.

- à, anh Đỏ, thế mà làm người ta hết hồn.

Lão mở cửa cho anh Đỏ vào. Anh Đỏ tới chống nạnh cạnh vợ, ra ý muốn gợi chuyện. Chị cúi mặt lia lịa đưa thoi. Lão Năm nói:

- Anh Đỏ bữa nay phải coi chừng cẩn thận đó. Tôi phải về qua nhà một tí: con cháu tôi đã ớn sốt. Sáng mai tôi lại đến.

Anh Đỏ tiễn lão ra, gài cổng, rồi trở vào. Biết rằng đứng câm miệng hến bên cạnh vợ càng thêm trơ trẽn, anh bèn đi vào buồng. Chị Đỏ vẫn lia lịa đưa thoi, cũng không thèm nhìn lên. Chợt chị mỉm cười lắng nghe tiếng con gái hát ngoài đường:

Lạnh lùng tối tối nằm không,

Em muốn lấy chồng ớ mụ mối ơi!

Chị biết tiếng hát trong eo éo ấy chỉ là tiếng lão Năm Xười. Lão có tài đổi giọng đặc biệt. Có lần vào nhà chị đã bị một bữa hết hồn khi nghe tiếng chó sủa gâu gâu: chị cuống lên, nhưng không biết con chó ở đâu mà tránh: mãi sau nó mới ló mặt ra một cái mặt người rỗ chằng. Người ta lại kể chuyện rằng một đêm hè, lão tới chơi nhà hàng xóm, tắt đèn nằm vắt chân chữ ngũ trên giường, lấy giọng con gái hát mấy câu đưa tình. Dăm anh trai tráng mắc lừa lần đến, đứng ngoài cổng hát vào. Hai bên ca tụng nhau là nam thanh nữ tú, là mây là rồng, và hỏi nhau sao không cùng kết giải đồng tâm, cho đến khi lão cười phá lên như lệnh vỡ.

Nhưng cái im lặng đột ngột tiếp theo tiếng hát của lão Năm gieo sợ hãi vào hồn chị Đỏ. Hình ảnh ảm đạm những người khiêng xác chạy lặng lẽ lúc ban chiều lại tới ám, và chị lởn vởn nghĩ đến ma đậu. Chị nhớ lại một bức tranh trên chùa, chung quanh đức Phật Bà, loăng quăng những hình thù quái dị, đầu chẻ sừng, người ngợm đỏ lửng hoặc xanh lét, chân tay khẳng khiu tựa vòi mực. Đó là quỷ sứ dưới âm cung, nhưng chị nghĩ hẳn con ma đậu cũng na ná thế.

Chị dệt vải thực khuya. Vì nếu đi ngủ tất phải tắt đèn, ma đậu sẽ nhân bóng tối đến hại chị dễ dàng.

Bởi từ ngày có chồng, chị vẫn nằm một mình trên chõng tre đặt cạnh khung cửi và để mặc anh Đỏ lạnh lẽo phòng không. Có lần nhà chồng cất chõng đi, nhưng chị cứng cổ, trải một chiếc chiếu ra đất mà ngủ. Sau cùng họ lại phải đặt chõng vào chỗ cũ.

Chị sống đã được năm tháng trong cảnh khó tin như thế, vẫn làm đủ bổn phận nàng dâu, nhưng không bao giờ bước chân vào buồng chồng. Chị cho đó là một cách trả thù sự chuyên chế của gia đình: chị là con một; cha mẹ chị nóng lòng mong có cháu bồng bế, dù chỉ là cháu ngoại.

Chị Đỏ Câu dệt mãi đến khuya, mí mắt đã trĩu nặng, thoi rơi luôn xuống đất. Mỗi khi dừng tay để cuộn vải hay chải go, chị nghe tiếng rên rỉ của thằng Xòe văng vẳng. Ma đậu đã đến cạnh nhà; liệu chị có thoát khỏi những bàn tay ghê gớm ấy không?

Nhưng rồi chị mệt mỏi quá, tay không đưa được thoi nữa, đầu gục dần xuống. Chị bèn thổi phụt đèn, trườn ra khỏi khung cửi rồi ngả lưng trên chõng, hy vọng rằng sẽ ngủ thiếp đi ngay. Nhưng vì luống cuống, chị làm cử động ấy mạnh quá, đầu gối chạm ngay phải thành chõng. Cái va đụng đau đớn khiến chị tỉnh hẳn đi.

Đêm đã thực khuya vắng, tiếng rên rỉ đưa rõ mồn một. Chị co dúm lại như con tôm trong nồi kho, người chỉ chiếm một góc nhỏ của chõng. Chị định với lấy cái áo dài vắt trên khung cửi để đắp cho bớt sợ, nhưng không dám giơ tay.

Bỗng chị lạnh toát người, nằm im thin thít tưởng chừng ngột mất hơi. Cạnh tường gần đó, những tiếng bịch bịch vang lên, những tiếng chân giậm đất mạnh mẽ, rồi bịch bịch... bịch bịch, tiếng chân mau và hỗn độn như có dăm người cùng bước.

Chị Đỏ ghì mạnh móng tay vào thành chõng, trống ngực đập vang lên thái dương, chị tưởng đầu mình bật phần phật trên cánh tay co làm gối. Chị định thắp đèn lên cho đỡ sợ. Nhưng trong lúc luống cuống, chị quên là mình nằm đè lên bao diêm cất ở túi tay mặt, lại cứ lúng túng tìm ở túi kia mãi.

Bây giờ tiếng chân im hẳn. Nhưng những tiếng khác nổi lên. Tai lùng bùng, chị mơ hồ nghe thấy tiếng cào tường, như có ai muốn bám trèo vào, rồi tiếp theo là những câu vấn đáp sau đây, nói bằng giọng khìn khịt như thốt từ mũi:

- Nhà ai đây?

- Đỏ Câu.

- Vào không?

- Có, trong giấy Đức Ngài phán bắt con mẹ.

- Thế ta làm liền đi.

Rồi tiếp đến tiếng cười hà hà, rợn một vẻ đắc chí độc dữ.

Rồi im lặng, cái im lặng chứa bao ý nghĩa ghê gớm đè trĩu xuống hồn chị. Chị tưởng như bọn ma đậu đương rón nhẹ bước tìm cách trèo vào nhà. Thế là xong một đời! Diêm vương đã định, ai còn cưỡng được số mệnh. Chị sẽ lên đậu và rồi nhắm mắt, buông tay... Miệng lầm bầm khấn vái Trời Phật che chở, chị đã thấy nguôi nguôi nỗi sợ. Nhưng rồi lòng chị lại rộn lên, cuồng động khi óc gợi lại những khổ hình ghê gớm dưới địa ngục như chị đã thấy trong bức tranh: chỗ này mấy đứa trẻ bị cưa đôi, máu đỏ lênh láng; chỗ kia một mụ đàn bà trần truồng, mặt méo như khỉ, giãy giụa trong vạc dầu sôi.

Chị Đỏ nghĩ đến kêu cứu. Nhưng mở miệng chị mới biết không thể thốt ra tiếng qua cổ họng khô tắc. Vả lại, kêu chưa chắc đã ích gì. Nãy giờ tiếng ma đậu huyên náo thế kia mà có đánh thức ai trong nhà dậy đâu. Cha mẹ và các em chồng ngủ ở nhà trên, không biết đã đành. Nhưng anh Đỏ nằm trong buồng ngay cạnh đó, sao cũng không thấy nhúc nhích?

Thốt nhiên nghĩ đến chồng, chị vùng dậy, chạy lạch bạch vào buồng, đóng cửa đánh rầm, nhẩy xổ tới bên cạnh anh Đỏ. Vì không quen cữ, chị vấp phải thành giường, bổ nhoài. Chị vội trèo lên giường, và khi đầu gối chạm vào bàn chân anh Đỏ, chị bình tĩnh hẳn đi.

- Mẹ Đỏ đó à?

Chị Đỏ giật mình: thì ra anh Đỏ chưa ngủ. Ban đầu chị nghĩ rằng chồng chị đã thức giấc vì tiếng đóng cửa hoặc vì động giường. Nhưng không phải, giọng anh không có vẻ gì là ngái ngủ. Nãy giờ anh vẫn thức ư?

- Mẹ Đỏ đó phải không?

Anh Đỏ lặp lại câu hỏi, và chị nhận thấy trong giọng nói có vẻ mỉa mai chế giễu. Chị nằm im thin thít: chị chợt nhận thấy cử chỉ của mình trơ tráo quá. Khéo mà chồng lại nghĩ nhầm. Nghĩ thế chị đã thấy bừng bực. Nhưng cái sợ át mất tất cả. Chị định bụng đành nằm đấy một lúc, bọn ma đi rồi chị sẽ ra ngay nhà ngoài.

... Nhưng rồi mãi đến sáng bạch chị mới giật mình thức dậy. Chị vừa ngủ một giấc ngắn nhưng rất say.

Và hơn một năm sau người ta thấy chị bồng một đứa bé hồng hào mũm mĩm. Anh chồng đang vót mấy cái ống suốt cho vợ, giơ dao dứ dứ dọa yêu thằng bé, chửi đùa:

- Con mẹ mi!

Lão Năm Xười đi qua trước cổng, thấy cảnh tượng ấy, đứng lại, chốnh nạnh nhìn bằng đôi mắt nheo vui sướng và tự đắc.

Lão nói vào:

- Đó là công tôi đó, nhá!

- Anh Đỏ - à không, bây giờ lên anh Cu rồi - anh Cu ngước mắt trông ra rồi nhìn vợ tủm tỉm cười. Chị Cu đỏ mặt trách:

- Biết rồi! Nhắc mãi!

Lão Năm cười khà khà:

- Phải nhắc để anh Cu thêm tiền thưởng cho tôi chứ. Tôi đóng trò có hệt không?

Đoạn, chạng chân, rụt người xuống, lão vừa giậm bịch bịch vừa bóp mũi nói giọng khìn khịt:

- Nhà ai đây?

Đổi sang giọng mũi khác:

- Đỏ Câu. Ta vào bắt con mẹ.

Rồi kết luận:

- Thế là "con mẹ" chạy vô ôm lấy chồng. Khà khà khà!...

1940

Một trận bão cuối năm

Bùi Hiển

Ngày hai mươi nhăm tháng Chạp một năm đã xa, một trận bão khốc liệt và rất đỗi trái khoáy thất thường tàn phá bờ biển Bắc Trung Kỳ. Mãi tới hăm ba, trời vẫn còn quang đãng. Mùa đông năm ấy dịu ấm, có những ngày nắng hanh vàng rợi. Người ta bảo nhau: mùa sẽ muộn, cái rét muốn dồn sang Giêng hai.

Các ông Táo trở về trên kia chắc bay bằng cánh nhẹ giữa bầu trời xanh lơ như làm bằng khói pháo. Đốt vàng tiễn xong, những bác chài trong làng quẩy rương xuống thuyền đi một chiều lưới tất niên. Vợ họ tươi cười biệt chồng dặn với:

- Nhờ trời đi, mau về cho kịp ăn Tết, chá!

Họ mong sẽ về được rất sớm. Năm ấy được mùa biển, lưới lên căng phình. Sự sống trong làng sung túc hơn, người ta dự định ăn cái Tết kha khá để hưởng một cái vui xưa nay chưa từng được và cũng để tạ ơn Thần Phật tổ tiên đã phù hộ cho.

Nhưng ngay tối hôm ấy, trời đổi tiết. Mây đen lặng lẽ kéo lên rồi vỡ thành trận mưa nhỏ. Đồng thời, gió nổi dậy, như đến từ một nơi nào xa lắm. Nghe tiếng khua động lạo xạo sắc nhọn của những cành lá như làm bằng thép; rồi một cái miệng vĩ đại nào thổi phù từng luồng hơi trong không rất dữ dội. Tiếng mưa râm ran bao la. Những giọt tranh nhỏ xuống vũng nước lủng bủng. Không phải kiểu mưa dầm mùa đông, dai dẳng và lặng lẽ. Đây thực là một trận mưa thu đột ngột, lộng những cơn gió mạnh ray rứt. Bầu trời chứa đựng một nỗi tức giận gì đang muốn nổ bật ra.

Quá nửa đêm, gió càng lên mạnh. Ngoài kia bể réo sôi, sự náo động của những sức mạnh phi thường, buổi diễn trong bóng tối dày, càng rợn một sự dọa nạt ghê sợ. Làng đã tỉnh dậy, bỗng rộn hẳn lên. Tiếng người gọi nhau, gió mưa át mang đi. Ngoài sông, một giọng còn ngái ngủ la hét hốt hoảng: có chiếc thuyền nào đã bứt đứt dây neo, trôi đi theo chiều gió. Người ta hồi hộp chờ đợi một tiếng va đụng rầm rột... Tiếng cất soạn sào chèo lịch kịch. Thỉnh thoảng, "bủm", một cái neo quẳng xuống nước.

Sáng hôm sau trời bệch hẳn mặt ra. Làng xóm bơ phờ, như vì đã phải thức nhiều trong cái đêm náo động.

Qua ngày hăm lăm, khoảng gần sáng, cơn bão tới tột độ mãnh liệt. Gió mạnh, như thu góp tự bao giờ, thổi phù từng trận, bạt ngang trận mưa. Người ta nghe tiếng vặn mình kẽo kẹt của những túp lều không chắc chắn. Bỗng một vật gì đen đen bay sớt tường rồi rơi sà xuống: đó là một miếng tranh bị bóc từ mái nhà bên cạnh. Biển cả càng vang tiếng rầm rộn âm u. Sóng mạnh đánh vào các hốc đá, không khí bị ép nổ đùng đùng như súng.

Dải sóng vàng khè, như thể đất bùn ở dưới lòng sâu đã bị khoắng lên. Cái làng nhỏ đáng thương nằm giạt, sợ hãi, tê cóng dưới mưa lạnh, có vẻ nhẫn nhục. Người ta nghĩ đến những thuyền lưới ngoài khơi. Thuyền nào đã gẫy cột, văng lái, quay nhào theo sóng rồi đổ ụp? Thuyền nào đã rã tan từng mảnh, đánh văng tóe người ra như những giọt nước? Mẹ và vợ dân chài, hai hôm trước còn tươi cười, nay ngồi ép trong một xó lều, nhìn mưa gió qua những chỗ trống dột, và nghiền ngẫm một niềm bi thống mênh mang.

Mãi tới chiều, mưa gió mới ngớt dần, rồi sáng hôm sau, trời bỗng vàng khè như nghệ. Người trong làng kéo nhau ra Mũi Trâu, ngóng thuyền về. Sự chờ đợi trong hai ngày đầu bị thất vọng. Nhưng ngày thứ ba, người ta nhận thấy một chấm đen nhỏ về phía bờ biển làng Ngọc Hải. Những mụ già nhắm mạnh đôi mắt nhoèn ướt rồi trương lên cố nhìn, hỏi: "Mô? Mô?". Khi đã nhận rõ hình chiếc thuyền, ai nấy cố đoán xem thuyền ai. Một người nói đầu, chỉ sợ ức đoán vu vơ: "Giống thuyền nhà ông Long Nghị".

Trong lúc đó chiếc thuyền tiến rất chậm chạp. Nó đi dọc bờ cát, lủi thủi như một con chó vừa bị đánh chạy nép chân tường. Cột buồm gãy, ngắn cụt, giơ vết thương vàng ệch. Buồm và lưới ngổn ngang. Chắc hẳn chèo đã bị gẫy, người trên thuyền phải chống sào.

Mọi người rủ nhau xuống bãi cát. Một bác có bộ ngực tốt hỏi to:

- Thuyền ai đó?

Đằng kia đáp:

- Xin Bỉnh.

Đám người nhốn nháo. Ba bốn mụ òa khóc. Đó là những mụ có người nhà đi cho ông Xin Bỉnh. Những mụ khác khóc theo.

Người ta hỏi:

- Ai nằm đó?

- Cố Năm. Liệt đi rồi.

Người ta bảo nhau: "Chẳng trách! Cố già, chịu mô được cái bão ráp như thế ni".

Khi chiếc thuyền quay mũi vào lạch, cố Năm mới lên tiếng. Cố thở dài sườn sượt, rồi nói bằng giọng khàn: "Thôi, chuyến ni về nhà nằm mà chết cho khỏe. Kiếm được con cá nhọc lắm! Nhọc lắm!" Mấy mụ nhà quê càng rống lên.

Những người vừa về không ai biết tin gì về những thuyền khác. Nhờ thuyền chạy hay, riêng họ đã tháo được xuống Cửa Lò.

Về đến nhà, có người bật khóc như con nít: họ kể lại những nỗi gian nguy đã chịu. Khi nghe nhắc đến những ngọn sóng "cao như rú" đâm bổ xuống làm thuyền văng bật ra xa như một cái nút chai, mấy mụ nhà quê nhắm mắt, rùng mình kêu lên: "Ôi chao ôi! Rõ khiếp khủng!".

Cũng trong ngày ấy và ngày hôm sau, thuyền ông Tý Điển, ông Dần Năm, ông Lý Cự, lần lượt về lạch. Còn tám thuyền nữa không tin tức.

ấy là hôm hăm chín, ngày cuối năm.

Nửa đêm, sau khi nghe trên đền nổ ba chiếc lói sắt báo giờ giao thừa, làng bỗng dậy ran tiếng pháo. Đám nhà giầu, mà trận bão vừa qua không làm thiệt hại, ầm ĩ đón mừng năm mới.

Tiếng huyên náo sục vào những nhà dân chài. Niềm bi thống chợt thức dậy càng bóp lòng những mụ nhà quê. Họ ngờ ngạc lắng nghe tiếng mừng xôn xao của thiên hạ.

Lát sau một đám người tụ họp trước miếu thờ dựng cạnh ngả đường ra cửa lạch. Họ vào miếu sì sụp khấn vái và hy vọng. Nhưng khi trở ra, khi tiếp xúc với bóng đêm lạnh và nghe rõ tiếng bể rền rĩ, ai nấy lại đều tấm tức muốn khóc. Họ đứng tần ngần, không muốn lìa nhau. Mối lo buồn chung đã ràng buộc họ.

Phía trước mặt, cửa lạch in hình tam giác mờ mờ trắng. Sóng bể u trầm nghe tha thiết. Giữa cái huyên náo đặc đen và bao la ngoài kia, chồng con họ hiện ở chỗ nào? Trong tiếng sóng, phải chăng có chen lời than vãn của những kẻ đáng thương chết không mồ mả, thân thể bị nước mặn hung hăng nhồi lắc, ray rứt đến rã rời từng mẩu thịt sũng mềm?

Một mụ nói: "Về ta!". Nhưng không ai nhúc nhích. Khoảng trắng mờ tam giác như thu hết linh hồn mọi người: trí não giãn căng, họ như mong đợi một sự xuất phàm. Và họ đã được chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ.

Có phải mọi người đều hoa mắt, vì đã nhìn lâu trong bóng tối? Sự chấn động gây bởi những ngày đợi chờ vô vọng đã đánh loạn thị giác của họ chăng? Nhưng mãi ngày nay, tuy việc đã lùi xa theo thời gian, những người trong cuộc đều đoán chắc đã thấy rõ ràng và kể lại được tách bạch từng tiểu tiết.

Họ thấy giữa khoảng bể đen mờ mọc lên một điểm ánh sáng xanh, tiếp sau đó mọc thêm hai điểm nữa cũng màu biếc xanh y hệt. Trông giống ba vì sao vừa ngoi ở dưới nước lên, gióng thẳng hàng như buộc lấy nhau bằng một sợi dây. Những điểm ánh sáng ấy bay tới phía cửa lạch, to dần thành những ngọn đèn le lói chiếu mờ mờ ra chung quanh, làm nổi những bóng đen lớn thon dài. Người ta nhận ra được những hình thuyền. Buồm không thấy căng lên: không nghe chèo khuấy nước. Nhưng ba chiếc thuyền tiến vào rất nhanh. Ba ngọn đèn vuông tỏa ánh xanh mờ bí mật, không soi rõ những bóng người lố nhố trên thuyền. Thuyền đi rất êm, như cách lướt trong bóng tối, không chạm mặt nước. Những hình người không động và im lìm. Chợt một bóng người ở thuyền đầu tách ra tiến đến phía mũi và nói bằng một giọng nghe xa xôi: "Được rồi đó. Thôi quay trở lại, anh em!".

Mụ Can Túc tưởng nhận ra tiếng chồng, hồi hộp hỏi ra: "Bố thằng Can đó phải không?". Người kia giơ đèn lên ngang mặt, nhìn vào bờ, hỏi lại: "Tiếng ai như tiếng mẹ thằng Can?".

Nhờ ánh đèn, mọi người đều nhận rõ mặt bác Can Túc. Bác cười lặng lẽ, miệng dệch đến mang tai. Hai mắt lóng lánh một vẻ tinh quái, như giấu một sự bí mật gì.

Bác dệch miệng cười rất lâu, rồi nói lớn: "Anh em gửi lời chào bà con cả. Anh em ở xa ghé về thăm nhà một tí, giờ đi đây". Chưa ai kịp đáp gì, cũng chưa ai kịp hiểu những sự vừa xảy ra, thì ba chiếc thuyền đã đồng thời quay mũi. Người ta tưởng thấy những bóng người cử động như đang chèo, nhưng không hề nghe tiếng nước xao động. Ba chiếc thuyền ma lặng lờ quay ra biển, trở về chốn vô cùng.

Mọi người sững sờ nhìn theo. Đột nhiên ba điểm ánh sáng xanh cùng một lúc vụt chìm xuống đáy biển, như những hy vọng mong manh chẳng còn bao giờ trở lại.

Ngày hôm sau, bốn chiếc thuyền nữa lần về được lạch nhà. Một chiếc thứ năm đã bị giạt xuống ngang cửa Nhật Lệ. Thuyền ụp, nhưng may bạn chài đều sống sót, họ lần lên Đồng Hới, tìm được đến nhà thầy mẹ tôi. Họ xin một bữa rượu, "uống để giải cái rét". Cơm rượu no say, mỗi người được biếu một cái nón, bộ quần áo và một suất tiền xe trở về làng.

Duy ba chiếc thuyền cuối cùng bặt tin tức. Bác Can Túc chỉ còn lưu lại trong ký ức mọi người hình ảnh nét cười lặng lẽ dệch đến tận mang tai, cái cười mang một vẻ vừa bí hiểm vừa tinh nghịch, hầu như vui vẻ nữa, cứ như thể bác đã tìm ra được cái bí quyết vượt qua mọi gian nguy khổ cực trên đời và tới được nơi an ổn vĩnh viễn. Mỗi khi nhắc chuyện bác, người ta nói: "Mồ ma bác Can...".

1942

Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ

Nằm vạ

Bùi Hiển

Chị Đỏ chợt rùng mình nhẹ, vì thấy buồn buồn ở bụng chân. Và, trong cử động nửa ý thức của giấc ngủ bị quấy phá, chị rụt chân lại. Cái buồn buồn chị cảm thấy rõ rệt nó chạy trên ống chân rồi tới gót thì biến đi.

Chị cựa mình. Thân thể đau dần khắp cả. Cùi tay mỏi mệt rơi đánh thịch. Mắt vẫn nhắm, chị cố nghĩ, cố nhớ xem mình đang ở đâu. Và chị chợt hiểu ra là mình vẫn nằm trên nền đất, trong gian buồng hẹp và mùi ẩm mốc tanh nhạt đọng thành lớp đặc xông lên mũi.

Từ ngoài đưa vào, tiếng xôn xao đã hơi rời rạc đượm buồn của làng mạc về chiều. Sự hoạt động của cuộc sống ngoài kia khiến chị tức bực, và chị muốn chửi lên một câu để nguyền rủa bất kỳ ai. Đã hai ngày hai đêm, chị nằm dài trên đất ẩm của căn buồng hẹp tối. Chị đã tự đầy đọa như vậy, vì một câu chuyện không đâu. Sáng hôm kia anh Đỏ mắng chị về tội đi ngủ không đóng cửa chuồng gà. Chị lầm bầm cãi lại:

- Quên một bữa cũng chẳng sao! Chào ôi! Chăm sóc đến gà gớm. Để hắn đẻ trứng nào là nuốt lống đi trứng ấy mà!

Anh Đỏ giận tím mặt dưới lần da đen, lẳng lặng đi ra. Nhưng chị Đỏ, với cái nư dai dẳng của đàn bà, vừa quét sân vừa kiếm câu đâm chọc. Chị bảo con em chồng:

- Xin ơi! Rầy tao giao cho mi việc đóng cửa chuồng gà đó! Được trứng nào thì đem anh mi ăn rồi anh mi cho cái vỏ.

Anh Đỏ chẳng nói chẳng rằng, vứt mảng lưới anh đang vá, xông tới túm lấy vợ trong hai bàn tay sắt, lôi xềnh xệch vào buồng; đoạn anh ném vợ xuống đất, như ném một đống giẻ. Chị Đỏ đổ nhoài ra, nằm thẳng cẳng như người chết rồi. Anh đạp vào mông vợ mấy cái, đoạn bỏ ra.

Con Xin phải nấu cơm sáng thay chị. Dọn mâm rồi, nó vào buồng gọi, nhưng chị Đỏ nằm lỳ. Anh Đỏ vào lôi chị ra, chị bíu chặt lấy chân giường, miệng ngoặp vào chân chồng. Anh đau quá kêu lên: "ái! Đồ chó cắn! Được, đã muốn nằm vạ tao cho nằm".

Bà mẹ chồng đang ở chợ bán mẻ cá mà con trai đánh được hồi đêm, nghe con Xin ra mách, vội chạy về. Với tất cả cái hùng hổ của những mẹ chồng, mụ xăm xăm vào buồng, chống nạnh, bàn tay ngoặt ra sau, và hếch mặt nạt:

- Này con kia, muốn tốt thì ngồi dậy mà lo ăn làm. Chẳng ai hơi đâu nuôi đứa nằm ăn vạ.

Chị Đỏ nằm im. Mụ cúi định lôi dậy, lại bị ngoặp vào tay; mụ vừa chạy ra, vừa kêu như sắp bị chết chém: "Ua làng nước ôi! A làng nước ôi! Hắn cắn đứt tay tôi rồi!".

Thế là câu chuyện thành to và không thể vãn hồi. Chiều đó vài bà con trong họ đến hỏi thăm; có đôi đứa bé tò mò ghé mắt nhìn vào buồng. Anh Đỏ gắt đuổi ra, đem buộc ở cửa một mảng buồm rách làm rèm che.

Trong bóng tối, chị Đỏ thấy dễ chịu hơn, và thầm cám ơn chồng, chị đã có ý muốn thôi nằm vạ.

Nhưng đến đêm, anh Đỏ vào buồng ngủ, anh chỉ nói một câu cụt lủn:

- Muốn tốt muốn lành thì dậy!

Tự mình ngồi dậy thì sượng mặt, chị Đỏ nằm chờ. Nhưng anh gắt:

- Muốn đạp thêm cho ít cái nữa lắm.

Rồi trèo lên giường ngủ. Chị Đỏ nằm một đêm dưới đất lạnh buốt xương không sao nhắm mắt được. Sáng hôm sau, chồng ra rồi, chị lồm cồm tới giường, lấy hai manh chiếu, một rải ra đất, một đắp lên mình, đánh một giấc dài khoan khoái. Đó là lần đầu chị được ngủ ngày một cách say sưa, không bị quấy rối; lần đầu chị nếm cái thú nhàn hạ của các bà tỉnh thành.

Nhưng đến đêm, anh Đỏ tàn nhẫn đẩy chị lăn ra, giật lấy chiếu và chị lại nằm một đêm trên đất cứng lạnh.

*

* *

Tiếng xôn xao ngoài kia nhỏ dần, nhỏ dần... Thực ra, ngày chưa tắt; nhưng thính quan chị đã yếu đi trong sự mệt nhọc toàn thân, một sự mệt nhọc rời rã, khiến cho xương mềm, thịt nhão và ngón tay co quắp, sự mệt nhọc gây bởi cơn đói. Chị nhịn ăn đã hai ngày! Đó không phải cái đói giày vò, quằn quại, náo động của những miệng ăn hùm hổ. Vốn tính ăn ít, làm nhiều, chị chỉ thấy một cái đói nhẫn nại nó thỉnh thoảng cào xót trong dạ dày. Hình như mồ hôi toát trên trán lạnh, nhưng chị không còn đủ sức đưa tay lên sờ. Chị cựa mình quay nghiêng vì nãy giờ nằm ngửa, da bụng căng ép lên dạ dày trống rỗng, như một hòn đá nặng.

Chị nằm co như con chuột chết, bụng thóp lại. Mắt mở trân trân dán vào một vuông sáng mà có lẽ chị cũng không nhận ra là lỗ thông để đùn rác rưởi quét ở buồng ra.

Chợt mảnh buồm che cửa lay động. Chị không nghe động nhưng thấy một vệt ánh sáng lấp loáng và mảnh vải bị nâng để lộ da trời. Rồi một cái đầu ló trong ánh sáng tam giác ấy, cái đầu tóc bơ phờ khăn quấn cẩu thả của mẹ chồng chị. Chị Đỏ liếc nhìn lên, nhưng không thấy rõ mặt mụ, sấp bóng tối. Tuy vậy, chị tưởng tượng mụ ta đương dạo đôi mắt lấc láo lo ngại trong vòm sâu hoắm; và chị nghĩ thầm: "Mình mà chết thì cũng rầy với mình! Quan khám, lệ hạch, rồi họ cũng đến lo mà chết luôn thôi! ừ, mình cứ nằm đây, không vào bồng dậy mà chớ!". Cái đầu biến đi và khung sáng sụp tối.

Cái cảm giác buồn buồn lại tới ám chị, lần này ở đầu ngón chân cái; chị cũng không buồn rụt chân. Nó chạy dần lên, dừng ở mắt cá, tiến tới đầu gối, chui vào một chút xíu dưới váy chị, rồi chạy trở ra. Đến bụng chân, nó biến đi. Bỗng một bóng đen nhỏ vụt qua lỗ hổng; chị nhận ra một con chuột nhắt.

Một lát sau, con chuột lại hiện ra trong khung trắng. Nó quay đầu bên này, bên kia, chạy từng chập ngắn trên chân nhỏ thoăn thoắt, dừng lại, chạy ít bước vội vàng, dừng lượt nữa, rồi chạy trở lại như để dử ai. Nó đứng yên, quay nhìn vào buồng, mắt tròn ngời ánh đỏ hoe như hạt ngọc. Con vật xinh nhỏ có một dáng điệu nửa nghi ngờ, nửa tinh nghịch. Sau cùng, nó chạy vào buồng, xấp tới bàn tay chị Đỏ lê trên đất. Nó vểnh tai nhìn rất lâu những ngón tay rung rung, đoạn khôn ngoan chạy về phía vách, lẩn trong bóng tối.

Tiếng bát đĩa lách cách dưới bếp làm nao lên trong lòng chị một niềm giận dữ. Hừ! Họ vẫn ăn đủ bữa và no bụng. Đã không muốn lo, để rồi chị cho mẻ lo. Khi quan về khám án mạng thì những kẻ kia hãy liệu mà bán thuyền bán lưới đi thôi!

Con chuột nhắt núp trong tối lâu lắm, rồi lại chạy ra. Lòng vẫn sôi tức bực, chị Đỏ choài tay định bắt. Nó kêu lên một tiếng nhọn hoắt, vút ra lỗ sáng rồi thoắt biến, để lại trên đất một vật trắng nhỏ bằng hạt đỗ. Chị Đỏ cầm lấy, nhận ra một mẩu khoai xát khô, bèn bỏ tọt vào miệng. Nước miếng nhoèn nhoẹt đầy trên lưỡi, tẩm vị ngọt của khoai.

Một ý nghĩ lóe ra trong trí yếu chị Đỏ. Thu góp sức tàn, chị lê xoay mình về phía vách, giơ tay quờ trong bóng tối. Một cái chóe1 bị vật ra đất, với một tiếng nặng nề khô khan. Tay chị đưa lần miệng chóe, nắm lấy cái nút lớn làm bằng một nùi rơm bọc lá chuối, cố sức rút. Nút bật tung, và những lát khoai rào rạt tuôn ra trắng đất. Chị Đỏ vội vàng bốc lấy một nắm trong tay run run, vụng về đưa vào miệng. Khoai rơi lả tả xuống. Chị Đỏ nằm ngửa ra, nhai. Chị nhai ngồm ngoàm, hộc tốc, trợn mắt nuốt. Chị cảm thấy rõ sự cọ xát trên da thực quản của những mẩu khoai chưa nghiền kỹ. Khi bụng đã thôi bị sức căng ép, chị quay nằm ngửa, nhai chậm hơn. Mắt nhìn một lỗ hổng trắng trên mái tranh, tay đưa dần từng miếng khoai lên miệng, chị nhai một cách từ tốn quý phái, để nước miếng tiết ra nhiều ngào miếng ăn thành một làn bột mềm, ngọt và thơm mát.

Nhưng một lát sau, một sự khó chịu bỗng chiếm lấy chị. Chị Đỏ thấy tức ách trong bụng quá đầy, tưởng có một hòn đá nặng trong đó, khiến chị không trăn trở mình được. Trên đầu máu tụ, và chị Đỏ nằm thiếp đi trong cơn bội thực, bàn tay mở vẫn đặt trên những lát khoai còn lại ở mặt đất.

*

* *

Chị Đỏ ren rén ngồi dậy, lê đến cạnh vách, ghé mắt vào một lỗ hổng nhỏ nhìn ra sân. Chị thở phào một tiếng. Ông Lý sắp đến thực. Mẹ chồng chị đương têm trầu, anh Đỏ xăng xít nhấc chiếc phản ra sân để "làng" ngồi. Con Xin ngồi xổm trong một góc, lo đánh bộ chén cọc cạch thẹn thùng nằm trên cái đĩa Tàu cổ rất đẹp mà anh Đỏ đã lấy được trên một chiếc tàu ô trôi lênh đênh vô chủ ngoài bể cả sau một trận cuồng phong nào.

Chị trở lại chỗ cũ, nằm duỗi cẳng, khoan khoái đợi. Cái trò đùa thực đã kéo dài quá thể. Chị nằm vạ bảy ngày trời rồi! Hôm nhờ con chuột nhắt, chị khám phá ra cái kho lương thực bất ngờ ấy, ý nghĩ thứ nhất đến với chị là một ý nghĩ phục thù: chị sẽ nằm dài ra đó, ít ra cho đến lúc còn trơ lại cái chóe không. Cho đáng kiếp!

Nhưng chị chẳng phải dùng nhiều bữa khoai sống mới nhận thấy rằng thức ăn kia cào xót ruột và ứ hơi trong bụng đầy trình trịch. Một đôi khi nước ợ lên đến cổ, vị chua gắt, suýt trào ra ngoài miệng lúc chị nằm nghiêng; chị nhắm mắt nuốt đánh ực, và vị chua khiến chị rùng mình.

Cơ sự đã thành nghiêm trọng, chỉ còn chờ "làng" đến mới phân xử được. Mỗi khi thấy cái đầu mẹ chồng ghé mắt nhìn vào, chị thở rốc lên những hồi ghê rợn như người sắp chết, để mụ lo lắng thêm. Vậy mà những ngày dài chờ đợi vẫn trôi đi, ông Lý vẫn biệt tăm dạng. Đã có lúc chị nghĩ: "Hay là họ cứ để mình nằm thế này cho đến chết đói?" Và giận dữ sôi lên trong lòng, chị lại nghĩ đến chuyện cắn lưỡi.

Thực ra, mẹ chồng chị không vô lo như chị tưởng. Trong bốn tối luôn mụ ra chầu chực nhà ông Lý. Nhưng ông Lý và ông Phó mắc việc quan trên phủ. Tối hôm thứ năm, mụ cuống cuồng lên, đến tận bến đò đợi. Mụ vừa chạy theo ông Lý về, vừa kể lể sự tình. Ông Lý hẹn:

- Mai đến.

Mụ mừng cuống, đem đĩa trầu khô vẫn bưng cò kè vào trút lên cơi bà Lý, rồi chạy về báo tin cho con.

*

* *

Ông Lý bước vào, xúng xính trong áo lương rộng và lẹp kẹp đôi giầy da. Khuôn mặt phì nộn tươi nở như một cái hoa, mà nhụy là cái mũi đỏ chóe, to lạ lùng và đâm lỗ chỗ như da trái bưởi.

Ông đặt đít ngồi; theo thói quen, ông đập hai bàn chân vào nhau phủi đất, rồi mới đưa lên xếp bằng trên phản. Đoạn hách dịch gọi:

- Con mẹ Đỏ đâu rồi?

Một người em họ anh Đỏ đã đứng chực sẵn, vào buồng nhắc chị ra; chân chị lê xềnh xệch trên đất. Chị giả cách cố gượng mới ngồi lên được ngưỡng cửa. Tóc chị rối bù, khăn xổ xuống che một mắt; chị đã tự soạn một bộ mặt chết đói bảy ngày.

Hàng xóm đến xem, đứng vây thành vòng bán nguyệt. Những đứa con nít nghiêng đầu hấp háy nhìn bằng đôi mắt nhèm, hai tay chắp lại trên cu tồng ngồng. Vài cô gái kháo nhau:

- ả Đỏ tài nhịn gớm, bay ạ. Bảy tám ngày, mà chẳng gầy đi tí nào.

Chị Đỏ sẽ dệch mép cười lặng lẽ.

Ông Lý nhấp trà rồi cất tiếng:

- Sao đó, đã ưng dậy chưa? Chà, vợ chồng người ta ở với nhau năm năm, mười năm, cãi lộn nhau cho hắn đáng; đằng này, đôi vợ chồng son, anh như mâm ngọc, em còn như đôi đũa vàng, ha ha ha... chưa chi đã giận hờn, rồi lăn ình ra nằm vạ.

Sự khoái hoạt ầm ĩ của ông Lý khiến mọi người cười theo; và, đâm nhờn, một cô gái trong bọn đứng xem liền đùa một câu:

- Ông Lý hát phường giỏi lắm đó.

Ông Lý liếc nhìn cô một thoáng mau, rồi lập nghiêm ông hỏi:

- Sao? Bây giờ muốn hòa thuận với nhau lại không? Hay là muốn ly dị, thì ta cho đồng tiền chiếc đũa mà về cùng bố mẹ?

Mẹ anh Đỏ đứng chắp tay thưa:

- Thưa ông, chứ con ấy tệ lắm. Mắng hắn một tiếng hắn cãi lại hai tiếng, rồi hắn lăng loàn, hắn gieo mình nằm vạ, hắn cắn đứt tay tôi. Xin làng cứ phép xử thì đội ơn lắm.

- Thế mụ muốn hai bên ly dị à?

- Bẩm không! Bẩm không! Là tôi trình để làng biết cho như thế thôi.

Mụ vội nói thế. Mụ dại gì mà cho dâu về, đứa dâu mụ vẫn tự hào mát tay mới chọn được. Chị Đỏ tuy xấu tính thực, nhưng hay làm, đảm đang tất cả việc trong nhà. Vả cưới chị có phải tốn ít đâu; tiền anh Đỏ dành dụm trong hai năm đi chài, từ khi còn là một chú trai nấu cơm xách nước cho đến khi lên anh bạn lành nghề đều dốc vào đó hết.

Ông Lý gắt:

- Muốn đường nào thì nói rõ ra một đường!

Anh Đỏ vẫn đứng chắp tay trong góc nhà, nói ra:

- Thưa ông, ông xử cho tôi phận nào, tôi được nhờ phận nấy.

- Ăn nói hàm hồ thế thì ai biết đường nào mà xử! Mẹ Đỏ! Muốn ở hay muốn về?

- Dạ trăm sự nhờ ông cả, ông cho sao thì được vậy... Trăm sự cũng là nhờ ông.

Chị Đỏ đáp vậy, giọng kéo dài như mỏi mệt. Ông Lý đét vào đùi, bộ thất vọng:

- Thế thì cha ai mà xử được. Anh nói "nhờ ông", ả nói "nhờ ông", sao mà hai anh ả khéo bảo nhau ghê. Đã đồng ý với nhau thế thì, thôi! Cho đoàn tụ!

Mọi người vẫn im lặng. Thấy lời tuyên án không hiệu quả và câu khôi hài kín đáo không ai thưởng thức, ông Lý ngồi lặng thinh uống nước.

Anh Đỏ bước ra rót nước. Bấy giờ chị Đỏ mới chợt nhận thấy chồng mình mặc áo dài. Cái áo lương tưởng như sắp bật tung trên thân hình vạm vỡ của anh dân chài. ống áo chịt vào cổ tay đen, và tà ngắn đập cũn cỡn trên đầu gối. Chị Đỏ vờ cúi mặt, liếc nhìn qua mớ tóc rối trên trán, và mỉm cười ngắm những cử chỉ ngây ngô của chồng. Chị nhớ lại hôm cưới, anh Đỏ ngượng nghịu trong cái áo lương độ ấy còn mới nguyên, và cái quần cứng đét hồ, thì thụp lạy trước bàn thờ. Chị bất giác cười lên tiếng. Anh Đỏ quay nhìn, càng ngượng nghịu thêm, thủ hai bàn tay dưới áo, rồi chắp lại, rồi gãi đầu, rồi mân mê khuy áo. Sau cùng anh mỉm cười cho đỡ thẹn. Ông Lý kêu lên:

- ờ, anh ả cười với nhau rồi đó kìa! Cần gì ai phân xử nữa!

*

* *

Con Hoét mách:

- Mẹ ơi, ả Đỏ vào buồng.

Mụ Bình chạy vào, thấy chị Đỏ đứng chải đầu. Mụ hỏi:

- Mi lấy gì đó?

- Lấy gì đâu?

Khi mụ Bình ra rồi, con Hoét, còn nhỏ mà đã ranh vặt, đứng nhìn. Từ ngày chị nó về nhà chồng, nó vẫn quen coi chị như người xa lạ, theo gương mẹ nó. Con gái là con nhà người... Mỗi khi thấy chị về chơi nhà lấy vật gì, nó kêu lên như bị mất cướp. Chị Đỏ chải đầu xong, thản nhiên đi ra. Con Hoét yên tâm, không ngờ chị nó đã mang một bọc khoai khô trong tà áo nâu dài buộc túm, bọc khoai đã ăn trộm được trong chum mẹ chị.

Về đến nhà chồng, chị len lén nhìn, rồi thẳng tuột vào buồng. Chị mở nút tà áo ra, tuồn khoai vào chóe, vừa vặn đầy như trước. Một hôm trời hửng nắng hanh vàng, mẹ chồng chị đem khoai ra sân phơi. Chị Đỏ ngồi đan lưới trong nhà, hồi hộp nhìn ra. Mụ đưa bàn tay nổi gân rải xòa đống khoai. Chợt mụ lặng yên như đang suy tính gì lung lắm. Mụ cầm một lát khoai, nhìn mãi trong một ngạc nhiên câm lặng. Mụ di di móng dài ngón tay cái lên trên, cố cạo lớp vỏ xám. Sau cùng, mụ ngoảnh vào, nói với con dâu điều phát kiến mới mẻ của mụ:

- Mẹ Đỏ này, cái chóe khoai mình nút không chặt để gió vào, thành thử cả lớp khoai trên hắn xạm đen mặt lại.

1940

Nắng mới

Bùi Hiển

Tặng Hoàng Huệ

I

Sinh mở mắt nhìn trân trân lên mái nhà, chàng vừa ra khỏi giấc ngủ nhọc mệt nặng nề, nó là một cơn tê độn hơn là một sự nghỉ ngơi. Đầu chàng nặng trĩu trên gối, óc đắm trong một trống rỗng tối đen. Chàng có cái ý tưởng kỳ dị rằng nếu gõ lên đó, sẽ bật ra những tiếng rền thảm thê như cõi chết.

Có tiếng chân người bước nhẹ. Sinh vẫn nằm yên trân trân nhìn bóng tối ẩn trong góc mái nhà. Một bóng người se sẽ xáp gần, rồi chàng cảm thấy trên cổ tay sự tiếp xúc dịu dàng và man mát của một bàn tay gầy. Đôi môi chàng mấp máy gọi: "Mẹ!".

Mẹ chàng cúi xuống, và tiếng "Con" đáp lại như vang âm tiếng gọi của chàng. Bà cụ hỏi, giọng ảo não:

- Con thấy đỡ không con? Con mệt mãi, mẹ lo buồn quá. Mẹ đem thuốc cho con uống nhé?

Mùi thuốc đắng phảng phất trở lại làm rợn khứu giác Sinh.

Chàng đáp:

- Không, mẹ ạ, con không uống thuốc nữa đâu.

- Không uống thuốc bao giờ cho khỏi! Con uống một thang nữa thôi, nhé?

Sinh khẽ lắc đầu, nói chậm rãi:

- Thuốc uống vào bụng có ích chi đâu... Con đau ở tim, ở hồn kia, mẹ ạ.

Bà cụ ngồi cầm tay con, không nói gì nữa. Sự lặng lẽ mà bóng mờ của căn phòng tăng niềm u uất đè lên hồn Sinh. Thỉnh thoảng bà cụ đưa vạt áo lên lau mắt, hình như bà khóc thầm, và Sinh thấy nao nao buồn vì đã làm phiền lòng mẹ. Chàng hỏi:

- Mẹ ơi, con nghe ngoài kia hình như có tiếng xôn xao, phải không mẹ?

- Phải đó, con ạ. Hôm nay trời đã hửng nắng.

- Vậy à, mẹ?

Chàng ngoảnh nhìn ra phía cửa sổ, nhưng các cửa đều đóng kín, lại bị riềm dày che ngăn gió. Chợt chàng thấy một giọt nắng tròn trên góc chiếu, một giọt nắng vàng hoe hoe. Chàng định hỏi: "Nắng còn dịu lắm, phải không?", nhưng để ý, chàng thấy giọt nắng sẫm dần, sẫm dần, cho đến khi ánh phản chiếu dọi sáng loa lóa một mảng tường. Chàng duỗi tay hứng nắng vào giữa lòng bàn tay. Giọt nắng lúng liếng duỗi dài, co lại trên bàn tay mà chàng sẽ nghiêng bên này, bên nọ. Chàng nắm tay lại thì ánh vàng dâng tràn, chảy rời rợi trên ngón.

Trong lòng Sinh một niềm vui nhè nhẹ vừa lên, xôn xao theo tiếng đồng hồ vọng từ ngoài kia. Chàng ngồi nhỏm dậy. Mẹ chàng bảo:

- Con nằm xuống kẻo chóng mặt.

- Không mẹ ạ, con đã thấy bớt nhiều. Mẹ để con đi lại trong phòng, nằm lắm chỉ thêm mỏi mệt.

Cơn hoa mắt tan rồi, Sinh đứng dậy. Mẹ chàng nói:

- Mẹ đi nấu cháo con ăn nhé. Rồi chiều hẵng uống thuốc cũng được.

Sinh tới vén riềm mở tung cửa sổ. ánh sáng ùa tràn vào thành luồng lớn, khiến chàng ngợp trong sóng vàng chói lói.

Màu nắng vàng tươi, không nồng lắm và trong như lọc; da trời xanh lơ lơ, thứ màu xanh e lệ của một thời tiết muốn đẹp nhưng còn ngập ngừng. Những mái tranh, những khóm lá cho đến những nếp núi biếc lượn ngoài xa tít, đều hiện ra với những hình sắc rõ rệt. Những thanh âm rộn rã bay lên thinh không, tiếng người nói, tiếng trẻ con nô đùa đâu ở phía chùa làng, Sinh nghe lạ tai. Có tiếng động khô khan của thân cây nào nứt nở, không biết vì căng nhựa xuân hay vì phơi nắng mới. Thỉnh thoảng, tiếng guốc dập lộp cộp, giòn giã trong ngõ hẻm khô ráo hay tiếng răng cào lê trên sân thóc rào rạo.

Sinh hé miệng cười; chàng vừa nghe tiếng chim hót, một tiếng chim quen; cứ mỗi mùa xuân trước, lang thang dưới những lùm cây, chàng thường lắng nghe tiếng ca vui của giống chim gì, giọng trong và nhọn hoắt, điệu kỳ quặc: lúc đầu ba tiếng dài lơi nhịp, rồi bỗng tiếng hót đổ hồi. Chàng chưa bao giờ được thấy hình thể giống chim ấy; hình như chúng chỉ đỗ trên cành rất cao. Cả đến tên giống chim, những người mà chàng hỏi cũng không ai biết. Nhưng chàng yêu chúng lắm, bởi mỗi khi xuân về, chúng lại trở lại ca mừng, để hợp điệu với niềm rộn ràng vui sướng của lòng chàng.

Mẹ chàng bưng cháo vào, thấy cửa sổ mở thì ngạc nhiên quá sức. Bà định tới đóng cửa lại, nhưng Sinh bảo:

- Để mở thế cho con, mẹ ạ. Nắng xuân chữa những hồn buồn mầu nhiệm hơn phương thuốc nào hết.

Bà cụ không hiểu lời con nói; nhưng bà nhận thấy da mặt con có sắc hồng hào trong ánh sáng. Bà không đóng cửa nữa, ngồi lặng nhìn con.

Khác với mọi ngày, Sinh ăn hết bát cháo và ăn một hơi. Mẹ chàng hỏi, mắt long lanh vui sướng:

- Con ăn nữa nhé?

- Thế vừa rồi, thưa mẹ. Sớm mai con sẽ ăn nhiều hơn. Con thấy đã khỏe lắm rồi. Mẹ để con nằm nghỉ. Mẹ đừng đóng cửa nhé, để cho con nghe tiếng con chim đang hót ngoài kia, giọng sao mà dễ yêu lạ.

Bà cụ ra rồi, chàng kéo ghế gần cửa sổ, ngồi duỗi chân tay ra sưởi nắng. Nắng ấm đốt lâm châm trên da chàng. Chàng hốt nắng trong lòng bàn tay và tưởng thấy nắng chảy rời rợi thành dòng vàng xuống đất khi chàng xòe ngón.

Một con chiền chiện bay chéo qua cửa sổ như chiếc mũi tên màu vàng nhạt, hót lên mấy tiếng. Sinh giật mình, tim đập mạnh trong ngạc nhiên sung sướng, chàng ghé ra ngoài khung cửa, cố nhìn theo: con chim xòe cánh bay vụt lên trời, biến vào trong không khí. Mấy tiếng hót như lời kêu gọi khẩn thiết. Lòng Sinh rộn rã khát khao khoảng rộng, sau mấy tháng tù ngục trong buồng kín ủ bóng tối. Vội vàng, vội vàng, chàng vớ lấy mũ đội, mở cửa bước ra.

Vòm trời đã dâng cao, thinh không nhẹ nhõm, không còn sự đè ép của mây xám mùa đông nữa. Ra khỏi cổng, chàng rẽ về tay trái, tiến tới hướng mặt trời. Ngõ hẻm khô ráo rắn chắc dưới chân chàng. Nhưng hai lề chưa khô hẳn, còn lơ thơ những lá thối úa mà mưa gió mùa đông đã hái xuống lát dày các ngõ. Trên các bụi râm bụt và xương rồng vắt phơi những chiếc áo nâu, những manh chiếu cũ, những bao bì mòn xơ đã dùng làm chăn đắp. Các sân nhà lát từng vạt lá đa, bã mía, thứ củi đun của kẻ nghèo. Một vài bà mụ nhà quê ngồi dưới nắng gội đầu, mình trên chỉ mặc chiếc yếm nâu; nước bồ kết chảy roi rói xuống chậu, tiếng reo trong vui. Các phên cửa chống cao, mời ánh sáng tràn vào. Mùi nhàn nhạt ẩm mốc của nền đất bay phảng phất.

Nắng không nồng màu, nhưng oi ả như nắng hè. Sinh đã thấy da mặt ran rát. Cạnh giếng, vài đứa trẻ đứng tắm, tồng ngồng, và má những cô gánh nước đã đỏ hây lên.

Má những cô gánh nước đã đỏ hây lên, mắt thêm màu trong sáng; nhưng chàng bước đi, thái độ đăm chiêu. Chàng trai ấy vốn không phải vô tình, nhưng một cảnh tượng vừa khiến tim chàng thắt lại.

Chàng vừa đi qua cổng hậu dinh cơ của một ông Phủ hưu trí và đã đứng lại chút nhìn vào. Một người đàn ông mặc thứ áo xanh nửa dài nửa cộc của lính lệ, đương vắt phơi trên dây những mền bông áo kép. Cạnh đó một cô gái xở từng quần áo từ trong chiếc hòm lớn, những quần trắng, những áo màu. Nàng ướm một cái áo dài sọc hồng lên ngang vai và nói gì với người đầy tớ, hình như hỏi còn vừa hay không; anh đầy tớ quay nhìn, miệng đáp đầu gật. Nàng mặc chiếc áo vào mình, rồi ngắm nghía, đi đi lại lại môi dường chúm chím.

Rồi Sinh không thấy gì nữa. Hơi nóng đã bốc lên đầu choáng váng, mắt chàng hoa lên, và chàng bỏ đi. Chàng bước đi, dáng lừ khừ, chân thất thểu. Hồn chàng trở lại đen tối, vẩn đục trong sự sôi nổi của những tình cảm nặng nề, những kỷ niệm cay chua. Chàng cắn khít hàm răng, tưởng chừng sợ lòng bi thống quá sẽ bất giác thốt tiếng rên rỉ. Chàng đi thất thểu, chàng đi lang thang như một gã hành khất.

Chợt Sinh giật mình. Ai vừa gọi "Nga ơi!" đâu đây, chàng tưởng nghe một lời khiêu khích. Nhưng không, đó chỉ là tiếng bà Phủ gọi con; cô gái đáp: "Dạ" với giọng kéo dài uốn éo kiểu cách của hạng người đài các. Giọng quen biết và thân yêu ấy dội trong Sinh, tim chàng run rẩy. Hai mẹ con nói gì với nhau, chàng không nghe rõ. Tự dưng hai người cười phá lên, tiếng cười giòn vang trong thinh không pha lê. Chàng tự bảo, tiếng rền của thâm tâm vị kỷ: "Cô ta vẫn vui, vẫn cười, hừ! Trong khi mình đã tan nát cả cõi lòng". Chàng bước nhanh hơn như để trốn chạy, và lẩm bẩm: "Yêu là cho, là mất, yêu là một sự dại khờ".

Lần đầu tiên chàng có giọng điệu như thế về tình ái.

Bởi chàng vốn đa tình. Tim chàng là một ngọn lá non, mà sự mơn trớn của tình cảm nhẹ nhàng nhất cũng làm cho run rẩy. Một hơi gió đầu mùa khiến chàng bâng khuâng, một tia nắng vàng gieo cho chàng niềm vui ấm áp; trước một hoàng hôn tím, chàng xao xuyến đến rưng rưng. Lời chim là tiếng hót của lòng chàng, mây hồng núi biếc và bể cả ngoài kia mà tiếng gọi rì rào mơ hồ ngân tới, là bạn thiết trong những giờ mơ mộng. Những cô gái tóc dài má thắm gặp lúc ban ngày thường trở lại vấn vương giấc mộng của chàng.

Ôi! Những luồng mắt nhung huyền ảo dưới rèm mi cong, những nụ cười hồng chúm chím, những nét mày thanh, những làn tóc buông óng ả, có một sức huyền bí xao động cả lòng chàng! Trái tim trẻ đập trong lồng ngực dường như bao giờ cũng tràn ngập một nguồn yêu thương vừa rộng mở vừa kín đáo, chứa chan chan chứa mà lại tinh khiết e dè. Chàng mang nguyên vẹn trái tim trẻ và nguồn yêu thương tinh khiết ấy về đồng quê, chốn chàng lui về sau mấy năm học tập, chốn của những cô thôn nữ miền duyên hải đẹp một vẻ đẹp rám hồng bền đậm trong sự sống mãnh liệt của gió mặn và sóng lớn. Một buổi sáng đi lang thang trong các ngõ hẻm, Sinh gặp một cô em họ quẩy gánh hàng tạp hóa đi chợ bán. Chàng đứng ngây, quên cả đáp lời chào; má cô gái đượm một màu hồng man mác làm rời rợi cả tâm hồn chàng, do ánh giấy hồng điều phản chiếu lên da mịn. Cô em bây giờ đã lấy chồng, nhưng chàng vẫn quý báu giữ lấy cảm giác rời rợi của đôi má hồng man mác. Một lần ở tỉnh, chàng đi xem một ban kịch danh tiếng. Nhưng chàng không thấy gì trên sân khấu, tất cả chú ý đã bị chiếm giữ bởi mái tóc thề và nét cong thanh tao của đôi vai cô bé ngồi trước mặt chàng. Đôi vai thon thon, nét cong dịu dàng và nhỏ nhắn viền một dọc sáng mờ, mỗi khi cô cười thì có một rung động khẽ. Thỉnh thoảng cô quay đầu, trong một cử động nhẹn, để nói với bà mẹ ngồi cạnh những cảm tưởng của mình; làn tóc buông lơi hắt mạnh, rải lòa xòa trên vai, và Sinh thấy, in trên nền sáng của sân khấu, bóng mờ mặt cô bé nhìn ngang, mũi dọc dừa, cằm hơi nhọn, môi nùng nũng. Lúc trở về nghe bạn hỏi: "Thế nào, ý anh về vở kịch?" Chàng đáp: "Hay, vui lắm, nhiều đoạn buồn cười". Người bạn ngạc nhiên vì lời phê bình giản lược ấy, không biết rằng Sinh chỉ đã lặp lại những lời cô bé chắc hẳn tuổi chỉ mới mười bốn mười lăm nói với mẹ.

Chàng đâm yêu cô bé, tương tư phiền quấy lòng chàng ít lâu rồi phai lạt. Tình chàng vẫn thế, liên miên không dứt, nhưng kết bằng muôn tình nhỏ ngắn bâng quơ. Lòng chàng là con bươm bướm, mỗi sáng chờn vờn một nhị hoa, nhưng không bám hút nhị nào. Chàng chưa hề biết những đam mê sôi nổi, chàng chỉ cảm thấy phớt qua lòng sự xao xuyến dịu dàng, niềm luyến nhớ bâng khuâng. Vả tính chàng bất chuyên nhất và trăng hoa lắm, dù có muốn cũng không yêu riêng được một người, trong khi bao người bao cảnh khác phô vẻ đẹp cùng quyến rũ như nhau trước con mắt chàng thiết tha và ham hố.

II

Sinh tự biết mình thế, vậy mà đã lầm lỗi một lần. Bài học rút từ cuộc thí nghiệm dại dột, chàng đã mua bằng một giá quá đắt. Sinh đã dự xem sự tàn phá của hồn và của cơ thể mình dưới bàn tay của tuyệt vọng. Tim chàng cơ chừng muốn lịm dần đi, nếu nắng mới không tới rọi vừa đúng lúc, đánh đuổi cơn tê độn trong đó chàng đương sa lầy.

Một hôm, vào buổi chớm thu, Sinh lang thang ngoài bãi bể. Trời vẫn đắm trong màu xanh ngọc, sóng hiền vẫn ngân điệu nhạc trầm trầm, và chàng tự chế nhạo mình hay lo hão. Tối hôm trước, một ngọn gió lạc vào phòng lành lạnh, khiến chàng bất giác rùng mình, thế mà lòng Sinh đã xốn xang lên, trong ám ảnh những ngày sẫm buồn và những bão tố mùa thu. Chàng vốn sợ những ngày lạnh mà màu xám lặng câm hàm một ý não nùng thê thiết, tựa một lời nức nở bị nén trong hầu. Lội xuống nước, Sinh thấy rõ bàn chân in trắng muốt trên cát. Chàng đá vung lên, và nước văng tung tóe thành muôn giọt ngọc sáng ngời. Không, ánh hè còn bền bỉ lắm, mây âm u chưa thể đến ám vòm trời và hồn người được; bão mùa thu vẫn chưa góp gió, vợ những bác chài vẫn nói cười vui vẻ, lòng chưa se lại trong niềm thấp thỏm.

Yên lòng trong ý nghĩ ấy, chàng vừa bước dọc rẻo cát vừa hát vu vơ. Dải núi, nãy giờ vẫn chạy men dọc bãi, tới đây bỗng choãi rộng ngâm chân xuống nước; chàng theo một đường mòn bước lên. Một tảng đá chắn lối, lung lay muốn lăn; khối đá nằm chênh vênh bởi nước mưa đã xói đất dưới chân tảng. Chàng cẩn trọng bước. Qua khỏi rồi, chàng men theo một lối đầy sò sảnh len khúc khuỷu giữa những mô đá lô nhô, tiến tới động của chàng. Chốn mà chàng thường gọi "động" cho có vẻ tiên cách ấy là một vòm hang rộng nhưng thấp, ở cửa hang đứng sững những cột đá tựa hồ những vòi voi khổng lồ vươn hút nước mặn. Chàng tìm đến "ngai" của chàng, một phiến đá bằng phẳng, chàng thường ưa nằm trên đó, để lắng nghe, đầu gối trên tay, điệu nhạc sóng rộn rã bên mình, cũng màu xanh biếc như màu nước bể; và có khi, đắm dần vào giấc hôn thuỵ dịu dàng, chàng có cảm giác rõ rệt và phơi phới hồn mình đang chơi vơi trên sóng nhạc, hai cánh run rẩy đập nhanh như cánh con chim đỗ phải cành quá yếu.

Nhưng Sinh kinh ngạc biết bao, khi thấy một bóng người đã ngồi trên "ngai" của chàng. Một giây, Sinh thoáng nghĩ đến những nàng tiên giáng phàm trong truyện cổ. Người ngồi trước mặt chàng là một cô gái áo hồng, tóc buông lơi. Nghe tiếng động, nàng ngoảnh lại. Chàng đứng sững, mê hoặc bởi đôi mắt tròn to đằm bóng mơ huyền ảo đương nhìn chàng như tò mò như trêu chọc. Sinh tưởng nàng sẽ bật lên tiếng hỏi, giọng giận dữ của những nàng tiên khi chợt thấy kẻ phàm tục dám tới xúc phạm sự trinh tĩnh của mình: "Ai cho phép ngươi đến chốn này?". Nhưng không, nàng vẫn im lặng, vẫn lặng im nhìn chàng bằng đôi mắt tinh nghịch. Má nàng nhuốm một màu hồng mà bóng mờ trong hang đượm thêm vẻ nồng ấm khêu gợi; môi son uốn cong đầy vẻ kiêu hãnh cao quý.

Một hồi lâu im lặng; rồi bỗng đôi môi son cất lời:

- Có phải anh là anh Sinh?

- Làm sao tôi lại được hân hạnh...

Cô gái ngắt lời Sinh, khóe miệng nhếch thành một nụ cười lặng lẽ như để chế giễu giọng nói kiểu cách của chàng trai:

- Không có gì lạ. Tôi ở cùng làng, tôi là con quan Phủ Lê.

- Cô Nga! Tôi vẫn nghe nói đến cô luôn, nhưng bây giờ mới được gặp lần đầu.

- Bởi từ hồi còn nhỏ tôi vào học trong Huế.

Thế rồi, với một giọng lưỡi hoạt bát, cô gái đưa đẩy câu chuyện. Và có lúc đang nói, Sinh bỗng ngừng lại, bắt chợt mình đang kể lể tâm tình, như với một người tri kỷ. Sinh cũng không còn nhớ mình đã trò chuyện và kể lể những gì trong buổi gặp gỡ bất ngờ, gần như huyền hoặc ấy. Dường như chàng nói chỉ để nén bớt sự hồi hộp của trái tim. Và để cố gắng chế ngự phần nào ánh mê hoặc của đôi mắt to đang chiếu thẳng vào chàng đăm đăm. Nga nhìn Sinh bằng đôi mắt tò mò, nàng lặng ngắm chàng trai xinh đẹp, da hơi xanh, tóc lồng bồng, mắt mơ màng dưới vừng trán rộng thoáng ý u buồn. Nàng xét đoán người bạn mới: đó là một chàng trai "hơi điên", nàng tự bảo, mà cách xử sự trong tình yêu hẳn có nhiều vẻ ngồ ngộ, khác người. Đôi môi nàng nở một nụ cười lặng lẽ nó sẽ làm Sinh ghê rợn nếu chàng hiểu ý nghĩa: nàng muốn đùa nghịch với ái tình, Sinh sẽ là con mồi đáng thương.

Nga là một cô gái kỳ dị, đầu óc chứa đầy những tư tưởng lãng mạn đến mức ngông cuồng. Nàng muốn sống một cuộc đời phóng túng bừa bộn, tuyệt nhiên không lấy gì làm hệ trọng, cả đến tình yêu. Đó là hiệu quả sự kết bạn với những cô gái "mới", hay dấu hiệu sự di truyền tâm tính tự mẹ nàng, một cô đào ông Phủ đã lấy làm lẽ thứ tư hồi trị nhậm một huyện tỉnh Nam?

Với một khéo léo thông minh, nàng lôi cuốn chàng trai ngây thơ vào lưới tình mà tay nàng giăng mắc; nàng có những điệu bộ mê hoặc, những lời rủ rỉ say sưa. Ngần ấy có lẽ cũng bằng thừa. Bởi chàng trai lao vào cuộc không đắn đo và không mặc cả; chàng không đợi đón chào, không chờ mời mọc, mới dâng hồn cho mộng yêu đương. Nhưng quả có rằng lần này chàng say sưa, chàng sôi nổi, chàng đắm đuối, quả có rằng cô gái đã đem cho chàng những cảm giác đê mê mới lạ. Ôi! Những giây phút thiêng liêng mà chàng ghì thân ngọc trong tay run rẩy, và ghé đầu bên mái tóc dài, lắng nghe hồn nói sang hồn...

Chàng yêu không giữ gìn và không giấu giếm. ái tình không phải điều xấu xa mà người ta làm thầm vụng. Chàng tự nhiên mà yêu, ngang nhiên mà yêu. Nhưng cha mẹ chàng bắt đầu lo ngại, bởi trong làng đã vang tiếng đồn. Một hôm, cha chàng đã nghiêm giọng nói với con. Ông Phủ Lê còn xa mới được là một con người đáng trọng vọng. Vinh hoa phú quý vẫn không che lấp được lai lịch mờ ám và tâm địa ti tiện của ông... Còn Nga? Thôi, nói làm chi đứa con gái đã để cho người ta nghi ngờ đến cả tiết trinh mình.

Sinh cúi đầu lặng nghe lời nghiêm huấn; nhưng trong chàng sôi lên một niềm công phẫn. Nếu người đương nói xấu Nga đó không phải là cha chàng! Thì trời ơi, còn có sự tàn bạo nào mà chàng không dám phạm để bóp chết ngay những lời phũ phàng kia! Tấm lòng yêu thương rộng mở chàng vẫn bao trùm cả nhân loại, lại chỉ thêm dầu vào phẫn nộ của chàng, bởi Sinh cho rằng mình đã bị phản bội một cách hèn mạt. Miệng thế thối tha hơn rãnh cống! Người đời là những tâm địa hiểm độc, lúc nhúc trong bùn tội ác, chỉ tìm kiếm thú thích làm hại nhau. Lời vu cáo thực đã ngây ngô. Làm như ai cũng ngu ngốc lắm mà tin được rằng cô gái kia có thể giấu ý tà dâm dưới vừng trán trong sáng như pha lê, có thể dễ dàng để uế thân trinh bạch khi đôi mắt còn mở to nhìn đời với một tin cậy hồn nhiên. Một tấm thân kiều diễm như Nga của chàng, Cao Xanh há đã tạo nên để chứa một tâm hồn ô trọc?

Sinh không dám cãi cha, nhưng thâm tâm chàng nghĩ vậy. Và ngay chiều ấy, chàng lại lần ra bãi bể, tới chỗ hẹn hò...

Rồi một hôm, tấn bi kịch gia đình bùng nổ. Thấy lời khuyên vô hiệu, cha chàng dùng giọng nghiêm khắc quở mắng, Sinh cúi đầu cắn môi, nhưng khi ông cụ lại nhắc đến những lời đồn không tốt về Nga, thì chàng không còn nén được lòng phẫn uất. Chàng kêu lên:

- Quân khốn nạn cả! Tin chúng là vô ý thức!

Ông cụ ngồi sững sờ. Sinh thì ôm đầu, cũng kinh ngạc về sự láo xược của mình; chàng bỏ chạy như một kẻ gian phi. Chàng đến nhà riêng chị gái đã lấy chồng, gục lên tay chị khóc rấm rứt. Bị rèn đúc trong khuôn nghiêm Nho giáo, chàng thấy tội bất hiếu của mình to lắm, mấy kiếp mà rửa cho sạch. Hối hận day dứt lòng chàng.

Nhưng khi nỗi buồn đau đã dịu theo nước mắt, chàng lại lần ra chỗ hẹn. Chàng chờ, lòng càng nung nấu bởi cơn giông tố vừa qua. ồ, chỉ một ánh mắt, một nụ cười của bạn yêu, là chàng không còn hối hận gì về thái độ đã có trước mặt cha. Chàng sẽ quên hết, tha thứ cho cả miệng đời ô trọc; những lời vu cáo, chàng sá kể gì, khi chàng đã thấy mắt Nga nhìn, đã nghe môi Nga nói.

Nhưng chàng chờ, chàng chờ, bóng tím đã lùa vào hang thấp như một nỗi lo âu, mỗi lúc một đè trĩu thêm tim chàng. Sau cùng khi đêm đã buông màn đen xuống mênh mang của trời nước, chàng đành thất thểu trở về.

Chàng thức suốt đêm hôm đó, viết cho Nga một bức thư dài. Chàng không tiếc lời trách móc, lòng cảm thấy một thú thích kỳ dị, thầm kín khi day dứt bạn yêu, thú thích càng sâu sắc trong ý nghĩ những lời đó sẽ rạch sướt tim nàng, như lúc này mỗi nét bút chàng vạch cũng đang rạch sướt chính tim mình một cách vừa đau đớn vừa êm dịu.

Chàng chờ đợi năm ngày trong thấp thỏm. Sau cùng thư trả lời đến, đánh đòn chí mệnh lên hồn chàng. Cô gái bĩu môi mà đáp rằng, không, những lời trịch thượng của anh chàng kia, một con người tuy có học vấn nhưng vẫn là kẻ quê mùa ngốc nghếch và hợm hĩnh, đã không làm nàng nổi giận đâu, nàng chỉ đã mỉm cười.

Sinh im lặng, tự hãm tình cuồng trong một mối kiêu ngạo nam nhi.

III

Tiếng trẻ nô đùa khiến Sinh tỉnh cơn mơ mộng. Chàng ngơ ngác nhìn; nắng vàng tươi bay phấp phới trong không gian, chảy trên những lá đa, lẩn loáng thoáng giữa những cành lay động, và khi sớt phải làn rêu của mái đền góc cong thì ngưng đọng lại mơ màng. Chàng đã đến cửa đền. Chân chàng bước trên những lát điệp trắng - người ta nói mô đất xây đền vốn là đáy biển dâng vào một thời không xa - và chàng đã nghe tiếng rì rào trầm buồn, như tiếng xay thóc những đêm thôn dã, của sóng biếc. Trong khi hồn lạc nghĩ ngợi vẩn vơ, chàng đã vô tình tiến về phía bãi bể. Vô tình! Một sức huyền bí nào dường như đã đưa dần bước chân; và chàng lan man nghĩ tới Định Mệnh.

Hôm ấy, cầm bức thư độc ác, Sinh, lòng kiêu căng bị tổn thương, đã tự thề không thèm nhớ tiếc người con gái bạc tình và vô tư cách. Nhưng chàng cảm thấy ngay lời thề ngớ ngẩn, bởi ai đâu sai khiến được lòng mình, khi lòng mềm nghiêng ngả theo muôn tình?

Rồi tiếp đến mây thu dồn dập kéo ám trời, mưa rơi nao nao từng cơn, lệ tình não nùng của Ngưu Lang, Chức Nữ. Một chiều kia, lòng cuồng điên thất vọng, chàng đi lang thang hàng giờ trong các ngõ xóm và ngước nhìn bầu trời ảm đạm, mải mê hứng những giọt mưa lạnh rơi trên trán, trên da mặt. Trở về, đầu chàng nóng hầm hập và nửa đêm chàng lên cơn sốt.

Trong phòng bệnh, bóng tối u uất đè mãi lên hồn chàng. Một lần, thừa cơ phòng vắng, chàng lén mở cửa sổ. Một làn ánh sáng chảy vào, thứ ánh sáng xám mùa đông. Tuy vậy chàng chắp hai tay ngước nhìn trời, thầm cảm ơn; và chàng hát mãi câu đầu bài thơ "Cầu nguyện" chàng đã viết cạnh một ngọn đèn hoa kỳ tù mù:

Tôi chờ nắng lên cho lòng hửng sáng...

Hôm nay, dạo bước lang thang, chàng lại bắt chợt mình đang thì thầm câu hát đó. Tôi chờ nắng lên cho lòng hửng sáng... Nắng đã lên rồi, chói lọi! Nhưng lòng chàng chưa hửng sáng, lòng chàng mà những kỷ niệm buồn vừa tới ám, và còn vương vít lưới sầu mùa đông...

Sinh từ bờ đường nhảy xuống, lần theo bãi cát chạy ven con sông nước mặn. Dải sông chợt phình trái bầu, như để ôm trong hai tay mở rộng nước tràn từ bể cả vào. Lần đầu thấy lại khoảng trời nước mênh mang. Sinh tưởng chừng ngột thở. Chàng đứng dừng, ngờm ngợp nhìn thinh không, rồi bỗng dưng như một người điên, chàng vừa chạy vừa múa may vừa hát huyên thiên. Chàng muốn tỏ ra mình cũng là một cái gì đáng kể trong vũ trụ, không phải như trước kia, hồi chàng nằm trong buồng kín, lẫn cùng bóng tối, một hư vô chìm lặng trong hư vô.

Vài bác chài, mình trần trùng trục phô lưng đen loáng ánh mặt trời, chống nạnh yên lặng đứng nhìn theo. Đoạn họ đi xuống nước, rồi nhìn thẳng phía bể bơi ra, bằng lối bơi nhẹ nhàng mà hùng cường của họ, tay uyển chuyển đưa xé nước roàn roạt.

Sinh bắc loa miệng gọi - chàng sung sướng nghe tiếng mình âm vang trong thinh không:

- Các bác đi bắt cá đấy à?

Họ quay đầu, hỉ hai luồng nước từ lỗ mũi, gật đầu. "Bắt cá" nghĩa là đón những thuyền chài các nơi vào bán cá. Sau khi đánh lưới, những thuyền chưa về vội, ghé vào những cửa lạch lân cận bán một phần thu hoạch. Vài bác dân chài trong vùng bơi ra dẫn lối cho thuyền, bởi cửa sông thường bị cát bồi thành bãi ngầm đáng sợ; họ lại giới thiệu khách mua và ăn hoa hồng tính theo giá bán.

Sinh lại hỏi:

- Sao không trèo ra ngoài mỏm đá kia?

Nhưng họ đã ra xa, bơi xế về phía bên kia sông để đón hai chiếc thuyền lưới trên đó đám bạn chài hạ buồm đang hét ầm ĩ như có giặc.

Sinh nghĩ thầm: trèo ra ngoài mỏm đá kia rồi mới xuống nước thì đỡ được một đoạn bơi, nhưng đối với những tay dân chài gân guốc kia thì đoạn đường có nghĩa lý gì.

Một chốc sau, chàng nhận thấy mình lầm. Men theo đường mòn chân núi, chàng vừa bám tay định leo qua tảng đá chắn lối đã vội lùi ngay lại. Roạc! Khối đá lớn sụt nghiêng, bụi trắng rơi lả tả. Sinh cúi nhìn: những trận mưa vừa qua đã xói hẳn đất bên dưới, thành thử tảng đá chỉ bám rễ vào đất bằng một chân nhỏ, còn phía bên kia thì gác chênh vênh lên một tảng đá khác. Sinh đi men thử bám lên tảng này, nhưng chàng lại phải bỏ ngay ý định. Xuyên qua bao thế kỷ, nước bể đã gọt đẽo kỳ khu trên mặt đá những hình nhọn hoắt lởm chởm, giống như những đền chùa tí hon mái cong chồng chất dính trên non bộ. Sinh vừa xoa xuýt tay rớm máu, vừa nhìn địa thế. Phía bên kia là chân núi, ở đó nước bể tuồn vào một cái lạch sâu; chàng bèn quay trở lại, rồi bám trèo dọc sườn núi. Sườn núi hầu như dốc đứng; chân co quắp bấu vào những chỗ xù xì, tay bíu chặt những bụi cỏ nước mặn lá sắc nhọn cứa lên da rớm máu, chàng lần đi. Có lúc, đầu chàng lả ngửa ra sau, trời đất quay cuồng đảo lộn, mũ suýt băng ra. Lạch nước phía dưới kia như sụt xuống, sụt mãi xuống, tưởng chừng sâu thăm thẳm ngợp hồn.

Khi đặt chân tới "động", Sinh gần ngất đi. Chàng ngồi phục xuống, đầu nặng gục lên hòn đá ngai; bệnh trở lại, một cơn sốt dữ dội kéo đến.

Gió lùa trong hang lành lạnh thổi khô dần vạt áo nhễ nhại mồ hôi. Sinh tỉnh dậy; đầu mệt mỏi vẫn gối trên đá, chàng nghe tiếng sóng rì rào. Nhạc bể thân yêu đều đặn ru đưa hồn êm trôi về quá khứ. Những kỷ niệm nằm trong bóng tối thời gian vươn mình rũ cánh bay phất phới trên dòng nước hồn chàng.

Mối tình yêu dang dở và cay đắng, giờ này đây sống lại trong tâm hồn với một vẻ trọn vẹn và tinh khiết hoàn toàn, tựa hồ được lọc qua chiếc lọc của thời gian và của chính lòng chàng đã bình tĩnh trở lại. Không, chàng tự nhủ, yêu không bao giờ là một sự dại khờ, một sự thả buông và mất mát, khi nó là một niềm yêu chân thành tha thiết. Và cho dù nó được đáp ứng lại bằng sự tha thiết chân thành hay bằng điều tráo trở, chẳng ai, chẳng một cái gì, dù là điều tráo trở phũ phàng tàn nhẫn nhất, có thể cướp đi vẻ vẹn toàn trắng trong của nó.

Nhạc bể ru đưa, ru đưa hồn êm trôi, êm trôi về quá khứ. Sinh đứng dậy nhìn quanh, tưởng nghe tiếng xào xạc của đàn chim kỷ niệm rời tổ hồn chàng. Chàng đứng tựa vào một cột đá. Ngoài kia bể réo, từng ngọn sóng ào ào kéo vào, nhưng khi tới chân chàng, chỉ còn là một cái lưỡi nước rộng thè liếm cát. Sinh lần bước đi ngược vào hang. Chợt chàng đứng lặng, tưởng chừng ngột thở trong ngạc nhiên vui sướng: tại đáy hang, làn cát xổi lên, còn giữ nguyên vẹn những nét chữ mà chàng đã vạch bằng đá nhọn, cách đây bốn tháng. Những chữ S và N nằm quấn quýt, đủ các lối kết hợp. Đây là chữ S mà bàn tay nhỏ của Nga đã vạch, đây chữ N rắn rỏi nét sâu, ôm trùm cả chữ kia, của chính tay chàng. Đây là một câu yêu đương Nga đã viết, tay trong tay Sinh, câu viết chưa xong bởi một cái hôn ngắt quãng. Những hình ảnh diễn lại qua trí nhớ một cách rõ rệt kỳ dị, trong từng tiểu tiết. Chàng tưởng thấy bàn tay trắng muốt, tròn tròn như mọng lên, dạo trên cát ẩm những ngón thon móng đỏ thắm. Chàng kêu nho nhỏ: "Trời ơi!", lòng gần như chua xót trong một niềm vui sướng sắc nhọn.

Cái công trình kỷ niệm của tình yêu vạch trên cát, mà chàng tưởng mong manh, bởi chắc sẽ bị chân người xóa bỏ một ngày gần, không ngờ đã lâu bền ngoài lòng mong ước. Chàng lặng nhìn, trí nhớ gợi một chàng trai của thuở xưa dưới một trời xa. Chàng Olympio nọ, một lần, cũng về thăm chốn cũ như Sinh, chốn chàng đã để cho "tim thoát vỡ qua nhiều vết thương"1. Nhưng chàng thi sĩ đáng thương ấy đã thấy cảnh vật đổi dời. Nay lát gạch, con đường cát mà chân nàng hằng in gót xinh; những khóm hồng đã bị trẻ con phá hủy; chim ca hót, cánh đồng nhuốm xanh, trời chói nắng, quang đãng và lạnh lùng trước đau khổ của chàng trai.

Sinh gợi lại hình ảnh chàng thi sĩ trẻ thất vọng đi lang thang, cố tìm lại mà không bao giờ thấy một dấu vết của ân ái cũ. Và Sinh, đứa con cưng kia đã quỳ xuống trong dáng điệu cầu nguyện, để dâng lên đức Thượng Đế nhân từ tất cả lòng biết ơn thành kính. Chàng, chàng không sợ ai phá hủy được những chữ mong manh trên cát. Không một bàn chân nào, ngoài chân chàng, sẽ tới được đây. Và tình chàng sẽ sống chốn này mãi mãi, trong lời ru mênh mang của sóng nước.

Khi Sinh trở về, nắng chiều đã tắt. Lạnh đã trở lại, len trong hơi sương rất nhẹ. Nhưng một làn nắng mới vừa hửng lên, trong lòng chàng ấm áp...

Người chồng

Bùi Hiển

Buồng sở lục lộ, mọi người đang làm việc. Vài ba người vừa đo, vẽ, vạch trên giấy đồ bản trải rộng gần kín cả mặt bàn vừa trò chuyện râm ran. Từ buồng bên cạnh, thông Cần chạy sang góp chuyện. Chưa vào tới nơi Cần đã tách mép ra cười: anh ta nhăn nhở nhe những cái răng dài vàng ệch, môi trên mỏng thín vén cao để lộ lợi tím bầm. Cần là một miệng lưỡi giễu cợt, mà tất cả những lời nói đều trổ sang một giọng đanh độc. Anh ta quen châm biếm tất cả, làm cho tất cả trở nên lố bịch, gán một biệt hiệu cho mỗi người, và kiếm ra dịp công kích cả những hành vi nhỏ nhặt nhất của kẻ khác.

Anh vớ ống điếu cày, tới ngồi vắt vẻo trên một cái bàn, đập đập miệng điếu cho nẩy bật cái mồi thuốc đã lụi. Anh tra mồi thuốc mới, đoạn tụt xuống cúi cúi nhìn quanh làm vẻ tìm tòi. Một người mỉm cười hỏi:

- Tìm gì đấy?

Và Cần đáp:

- Quái! Không có lấy một cái đóm!

Câu đùa đã nhàm chỉ khiến các thầy Thông hơi nhếch mép. Ai cũng biết anh ta muốn giễu thông Bân, người gầy nhom đến mức khô đét, "có thể dùng làm cây đóm châm thuốc được".

Bân gầy ốm thực, gầy như người ta không thể nào gầy hơn, gầy đến nỗi xưa nay thợ nào may áo cho anh cũng đều may quá rộng. Mặt anh gồ ghề những xương, hai con ngươi lồi nổi hòn đảo trong vòm mắt trũng, nhìn lơ láo dễ sợ.

Bân bị giễu, mặt đỏ bừng, rồi tái đi, đôi môi bầm rung lập bập. Anh ta cắm đầu, giả cách làm việc. Vốn tính xung động, lòng Bân nóng sôi liền. Nhưng lại vì nhát, cũng như những lần trước, anh ta nín lặng, chịu nhịn. Đã bao lần như thế, dần dà nỗi tức giận chuyển thành một niềm nhẫn nhục chua xót và đè nén.

Hút xong điếu thuốc, Cần ngửa mặt, phun mạnh khói thành một luồng rất thẳng lên phía trần nhà, hai mắt lim dim. Người ta biết những khi ấy anh ta đang soạn bắn một mũi tên hài hước hoặc trêu chọc một nạn nhân nào đó đã chọn. Quả nhiên anh hất hàm hỏi thông Chu:

- Thế nào anh Chu, phu nhân đi nghỉ mát Sầm Sơn đã về chưa hở?

Chu cười lớn và đầu tiên: đó là cách khôn khéo nhất để nghênh tiếp một lời chế giễu. Mọi người cùng cười theo, vui vẻ. Thông Bân ngước nhìn Chu, cũng cười. Miệng anh há ra trong một cái cười lặng lẽ phô hàm răng thô. Anh nhìn người vừa bị giễu, lòng hơi vui thích. Cái nhục vừa chịu, anh thấy vơi nhẹ hẳn đi trong lòng hay tự ái vặt của anh. Gần như anh đã tha thứ cho Cần bởi hắn đã cho anh một dịp cười lại người khác như người ta đã cười anh. Bân không hiền lành; trái lại nữa. Nhưng anh nhát, và sẵn sàng về hùa bên mạnh thế để hy sinh nạn nhân.

Chu vui vẻ nói:

- Nhà tôi còn đợi hết mùa nực đã.

Vì lương ít ỏi, Chu không lập nổi gia đình; anh đã phải cho người vợ mới cưới về ở lại nhà cha mẹ ngoài nhà quê làng chài. Cần gọi đùa là "cho đi nghỉ mát Sầm Sơn".

Bỗng người tùy phái bước vào nói với thông Bân:

- Bẩm thầy cụ gọi.

Bân hơi luống cuống. Việc ông Chánh gọi anh là một việc hãn hữu. Anh là một kẻ giúp việc tối tăm, không có gì trội để làm cho chủ để ý. Anh vốn tính lừng khừng, thiên về sự lười biếng; nếu anh có làm hết bổn phận, là bởi sợ những trừng phạt. Tâm trạng anh luôn luôn bị một nỗi lo lắng mơ hồ kích thích.

Anh hỏi lại người tùy phái:

- Cụ gọi tôi thực à?

Anh xóc lại cổ áo, vuốt hai ống tay cho bớt nhăn dùng ngón tay chải qua tóc, rồi tất tưởi bước, lòng phân vân cố đoán có việc gì.

Tới trước cửa buồng ông Chánh, anh ngừng lại một giây, đoạn gõ ba tiếng se sẽ. Tiếng ở trong ném ra, hơi quạu: "Cứ vào!".

Anh bước vào, sẽ sàng đóng cửa lại, cúi chào rất thấp trong một cử động nhanh nhẹn, rồi rón rén bước tới. Ông Chánh vẫn ngồi viết. Không khí trong phòng mát quá, gây cảm giác lạnh rợn trên da mặt. Bàn ghế trơn tru sạch sẽ, choáng lộn dưới màu véc ni sẫm, không biết tại sao, làm tăng trong anh niềm lo lắng. Anh khẽ ho một tiếng, tay chắp trước mình đứng đợi.

Ông Chánh vẫn cúi mặt; anh chỉ thấy hai làn lông mày rậm của ông. Anh tưởng tượng ra hai bụi lông mày rậm ấy là hai con mắt nghiêm khắc.

Tiếng quạt kéo đập gió đều đều đánh nhịp cho cái im lặng của gian phòng. Góc đằng kia, thằng bé ngồi kéo quạt, vẻ bình thản. ý chừng mỏi tay, nó ngoắc vòng dây vào ngón chân cái mà kéo, người hơi ngửa ra sau để ngầm vươn vai. Bỗng dưng Bân đâm thèm thuồng địa vị của nó.

Ông Chánh ngửng đầu, "a" một tiếng sẽ. Ông với tay lấy tập hồ sơ nơi góc bàn, trao cho anh một tờ giấy, hỏi:

- Thế này là nghĩa làm sao?

Anh đọc qua tờ công văn ngắn, và toát mồ hôi trán. Một cái sơ suất của anh đã bị tòa Công chính Huế vạch ra, người ta đòi cắt nghĩa.

Anh liền lấy bộ mặt thiểu não để gợi lòng thương. Anh nói ấp úng:

- Vâng vâng... thưa ông... tôi quên.

Anh tríu lên không giảng giải được. Thấy anh lúng túng giữa những tiếng nhát gừng, ông Chánh, ý chừng đang lúc vui nên muốn tỏ ra rộng lượng, bèn bảo:

- Thôi, để đó tôi liệu. Anh đánh máy lại cho tôi cái bản dự tính giá làm, mà lần này nhớ đánh cho đúng, nghe chưa?

Anh đáp hai lần:

- ủy xừ, ủy xừ1.

Anh cúi chào rồi lật đật bước ra, vô cùng cảm kích vì thái độ khoan dung của ông chủ vốn nghiêm.

Tim anh đập mạnh, lúc nãy vì sợ, bây giờ vì mừng. Anh muốn kể cho anh em đồng sự nghe câu chuyện vừa rồi, hơi kiêu hãnh vì lòng tốt của ông Chánh đối với mình. Anh khơi mào để gợi chú ý của anh em:

- Hú vía! Mình phạm cái lỗi to quá mà may cụ không nói gì...

*

* *

Khi giờ tan buổi sắp đánh, các thầy Thông đã sẵn sàng cả để về. Họ đặt giấy tờ sổ sách lại ngay ngắn, cất dao, bút vào ngăn kéo, đoạn ngồi gõ nhịp, hoặc nói chuyện với nhau rầm rì.

Bân trở về nhà trên chiếc xe đạp khổ. Hễ anh đạp một vòng, nó lại nhọn giọng kêu "kít".

Vợ anh ra mở cửa, hơi ngạc nhiên hỏi:

- Về sớm thế à?

- Sớm gì! Vẫn như mọi hôm.

Vì nhà không có đồng hồ, thường chị vợ phải lắng tai nghe chuông đồng hồ nhà thờ để biết giờ mà làm công việc. Bân thêm:

- Cơm chưa thổi hẳn?

- Tôi vừa bắc nồi bây giờ. Gió to quá, nghe chuông nhà thờ tiếng được tiếng mất, chẳng biết trưa hay chiều nữa.

Bân không bằng lòng. Như khi khác, anh đã cằn nhằn vợ, theo thói quen. Nhưng hôm nay anh còn xúc động vì sự tha thứ của ông chủ. Anh bèn lẳng lặng đi cất xe, cởi áo. Đoạn tự để lăn ình trên giường như cách đã đói đến mệt lả, anh giục:

- Thôi, đi soạn cơm, mau!

Nằm một lát, cơn xúc động đã qua đi, anh lại nhớ tới bộ răng dài vàng ệch dưới lần lợi tím cùng với câu nói châm chọc chế giễu của thông Cần. Bụng anh quặn lên chẳng rõ vì tức hay vì đói. Mối xung động thói thường lại làm đầu anh nóng ran. Tiếng bát đĩa lách cách dội vào chỉ khiến anh thêm tức bực. Bỗng nhiên anh trỗi dậy, đi đi lại lại.

Anh tới hút một điếu thuốc lào. Thấy hơi đắng nơi đầu lưỡi, anh vứt mạnh xe điếu, gọi vợ lên hỏi:

- Đứa nào trét cái gì ở đầu xe thế này? Mà trông cái bát điếu cái sạch chưa!

Vợ đáp.

- Sáng nay con ở nó mắc đi giặt chiếu. Để chiều rồi tôi bảo nó lau.

Người vợ đã quen với tính hạch sách của chồng. Vốn nhỏ nhen, Bân có thói hay kiếm chuyện ở những cớ cỏn con như vậy. Đôi giầy chưa lau, cái mạng nhện nơi góc tường, một gói thuốc lào anh dặn mà vợ quên mua, đĩa món ăn không làm anh vừa ý, đều là những dịp cho anh nổi nóng.

Nghe vợ đáp, Bân quát:

- Thế mình ở nhà làm gì?

Anh nhổ nước bọt luôn hai lần, cốt để biểu lộ cái khó chịu mình vừa bị ở vị giác.

Chị vợ đáp chậm rãi:

- Tôi đi chợ.

- Đi chợ cả buổi sáng! Cái thứ đàn bà chúng bay, đi đâu cũng la cà!

Dáng điệu Bân trở nên hùng hổ. Một chút nước bọt sùi ra, vương ở khóe miệng. Mắt anh trợn lên, trắng dã. Người ta không nhận lại được cái anh thư ký khọm rọm hồi sáng nữa.

Sự thay đổi nơi chốn đã gây nên sự thay đổi tính tình. Trên sở Bân nhân nhượng và nhút nhát bao nhiêu, thì ở nhà anh hung hăng, hà hiếp từng ấy. Cuộc biến chuyển trong tâm lý rất bất ngờ, rất đột ngột. Giữa những bức tường bàn giấy quét màu vàng sáng, anh thở một không khí lạ lẫm; nền gạch hoa trơn bóng quá ư sạch sẽ, mùi giấy thơm và mực nhạt, sự gần gũi một vài đồng nghiệp có tính châm biếm, nhất là lão thông Cần lợi tím và răng dài vàng ệch, nét mặt nghiêm khắc của ông chủ với đôi lông mày rậm rì, tiếng giày chủ thỉnh thoảng nện cộp cộp, tất cả từng ấy thứ góp nhau lại để gây trong anh một nỗi khó chịu, tuy mơ hồ nhưng liên miên, làm cho tất cả con người anh mềm nhũn, nhút nhát, sợ sệt, lo lắng. Nhưng khi bước chân về nhà, khi ngửi thấy mùi quen thuộc của những bức tường loang lổ hăng vôi và của nền đất ẩm, khi nhìn lại những đồ đạc tầm thường, dệch dẹo trong phòng, vật sở hữu của anh, được sắp đặt trong cái trật tự do ý anh định, thì con người anh bỗng nở bùng; hơi thở nhẹ nhõm hẳn đi; anh thấy rằng mình là chủ, anh biết mình có thể làm tất cả mọi thứ, nói bất cứ gì, và có thể mở toang cửa cho những cơn tức giận, càng dữ dội bởi đã bị đè nén.

Vợ anh là một chị nhà quê hiền lành. Bỗng nhiên được nâng lên địa vị một cô Thông, chị có kiêu hãnh và lo giữ được xứng cái chức phận mới. Vốn hồn hậu, chị giữ rất bình tĩnh trước sự thịnh nộ của chồng, đến nỗi đôi khi Bân tưởng vợ lạnh lùng.

Người đàn ông gầy khọm kia, bị ức hiếp ở sở, ưa ức hiếp lại vợ mình. Anh rất biết như vậy là hèn hạ, nhưng không ngăn được cơn xung động. Anh có một tính tình chuyên chế, và tìm thấy vui thích trong sự hành hạ vợ. Thái độ thụ động của vợ chỉ làm tăng cơn hung hăng của Bân; chị ta càng im lặng, anh ta càng làm dữ, bởi biết chắc sẽ không bị trả miếng.

Con ở bưng cơm lên. Bân kéo rất mạnh ghế - anh thường có những cử động phường tuồng như vậy cốt để biểu thị sự tức giận của mình - đoạn ngồi vào bàn ăn. Liếc qua trong mâm, anh hỏi:

- Sao lại chỉ có một bát với một đôi đũa?

Con ở đáp:

- Bẩm cậu, mợ nói mệt không muốn ăn.

Bân đột nhiên lo lắng. Anh nói:

- Vừa mới đứng sù sụ ra đấy mà mệt gì! Mợ đâu?

- Bẩm, mợ nằm trong buồng.

Anh gọi to:

- Mình ra ăn cơm ngay! Để người ta còn nghỉ trưa nữa chứ!

Trong buồng im lặng.

Bân bèn kéo ghế thật mạnh cho cào sệt trên đất, xăm xăm đi vào. Người vợ nằm co, tay gối đầu, mặt quay vào tường. Anh đứng chống nạnh, bảo:

- Có ra ăn mau không? Mệt làm sao?

Vợ đáp, giọng ngắn ngủi của kẻ dỗi:

- Tôi hơi nhức đầu. Mình ăn đi.

Chồng đứng phân vân. Nộ khí đã tan đi đâu mất. Thái độ của người vợ vốn hồn hậu thật bất ngờ, làm cho anh bối rối.

Anh định bỏ ra ăn cơm. Nhưng cho như thế là chịu thua, anh bèn nói lớn:

- Ngồi dậy ngay! Ông đánh cho cái tát bây giờ.

Người vợ bỗng trỗi dậy. Vừa sửa lại khăn, chị vừa thở hồng hộc như cách vừa làm việc gì mệt nhọc. Rồi bỗng chị nổ bật:

- Mình hà hiếp tôi vừa vừa chứ. Tôi mệt tôi nằm việc gì mình dọa tát tôi? Tôi có phải con mèo con chó đâu mà mình muốn làm gì thì làm? Tôi chịu khổ đã hai năm trời rồi, tôi không thể chịu được nữa. Mình không ưng ở với tôi nữa, thì cho giấy tờ để tôi về với bố mẹ tôi. Chứ cứ nay mắng, mai chửi, ăn không ngon thì vứt bát vứt đũa, ngủ không được thì quát tháo rầm nhà để cho người khác cũng không thể nhắm mắt, mình làm tình làm tội tôi quá một con ở! Khốn nạn thân tôi không trời ơi là trời!

Chị nói một thôi, làm Bân sững sờ. Đang chống nạnh, anh buông thõng tay, anh chỉ còn là một cái bong bóng xì hơi.

Chị Bân khuơ chân lấy guốc, đến ngồi trên một cái ghế nơi góc buồng, vớ quạt phất mạnh phành phạch; đoạn chị ngừng tay ngồi thở, thỉnh thoảng "khịt khịt" từ lỗ mũi, tỏ vẻ tức giận đến cực điểm. Chị bặm chặt môi, mắt nhìn trân trân dưới đất. Có lẽ chính chị cũng hơi ngạc nhiên về sự bùng nổ vừa rồi.

Chị có hơi nhức đầu thật, nhưng đó là một cớ nhỏ. Người đàn bà có những trái chứng thật bất ngờ. Vốn tính thâm trầm, họ chịu nhận tất cả những hiếp đáp, những khổ nhục; nhưng bỗng một hôm, vào lúc không ngờ nhất, cũng không cần một hoàn cảnh đặc biệt nào kích thích, họ trả miếng lại cách dữ dội, tưởng như xưa nay họ vẫn hằng để tâm thu góp những oán hờn để chờ ngày khích phát.

Bân đứng đờ nhìn vợ. Mặt chị Bân đỏ hồng, ngực béo thở phập phồng. Người đàn ông thấy một cái gì mới thoáng qua tâm can.

Chị Bân vốn béo tốt; má chị phúng phính, cánh tay tròn lẳn, ngực và hông nở nang. Sức khỏe hồng hào của chị gây một mối ghen tị trong người chồng ốm yếu. Bân thường ho sù sụ, thỉnh thoảng bị một cơn ốm vật xuống nằm liệt giường, thân thể gầy guộc đến nỗi cử động rời rạc như thể xương không ăn khớp với nhau nữa; anh vẫn tự thấy mình hèn kém đối với vợ; điều đó làm anh gần như tức bực và có khi anh mong vợ ốm yếu như mình. Anh thường ưa rủa cái béo tốt của vợ. Khi chị ta không làm nhanh như ý anh muốn, Bân mắng: "Sù sụ một cục chả được cái tích sự gì!"; anh quen gọi chị là "con lợn sề" và quen nói cằn nhằn: "Béo cho lắm mà ăn hại cơm, mà cười híp mắt, mà đỏng đảnh, mà đi theo trai!".

Nhưng hôm nay, người đàn bà bỗng có một diện mạo mới, chưa từng thấy. Sự giận dữ truyền cho chị Bân một vẻ uy nghi, dũng cảm. Mắt chị mở to, má còn hồng trong hơi nóng của nộ khí, môi dày và đỏ hơi bìu bĩu, có vẻ vừa khinh bỉ, vừa khiêu khích. Người chồng thấy nẩy nở trong lòng một tình cảm mới gần như sự kính nể. Anh ta cảm thấy trước mình sẽ chịu phục tòng vợ, như bao lâu nay anh đã cam chịu phục tòng ông Chánh và bọn đồng nghiệp trên sở làm

Nhà xác

Bùi Hiển

Cuối khu nhà thương tỉnh ở góc rào phía tây có một ngôi nhà nhỏ. Cổng để mở ngày đêm, cửa há hoác cho nhìn thẳng vào trong. Trong nhà trơn trụi, không có gì, trừ một cái bệ hình chữ nhật nằm dọc chính giữa nền. Tường quét vôi vàng, ban đêm ánh đèn điện gây nên một bầu không khí hồng dịu như trong một tổ yêu đương của cặp vợ chồng mới.

Nhưng màu hồng dịu ấm cúng đó chỉ là một lời rủa độc, bởi giữa những bức tường, chất chứa một niềm lạnh lẽo bi ai, và lẩn quất hơi âm rùng rợn. Bởi nhà đó là nhà xác. Đó là nơi quàn của bao nhiêu thi thể tàn tật, đã bị bệnh não cấu xé, ray rứt từng miếng thịt hay cào đục cả bộ phổi lá gan, trạm nghỉ của những linh hồn vừa được giải thoát sau một cuộc dằn vặt đau đớn và nhiều khi dây dưa.

Xa trong kia là nhà điều trị bệnh hoa liễu. Nhà xác chiếm một góc biệt lập, nhưng cứ chiều chiều, bọn gái đĩ đang chữa bệnh lần ra đứng ngó nơi cổng hậu ngay cạnh đấy. áo cộc tay để lộ da thịt béo tròn, môi dày vẫn tô đỏ chót, họ đùa chọc khách qua đường và mua những thứ quà rẻ, khoai chuối, chè xanh. Người ta kể rằng đêm đêm họ thường trèo tường lẻn ra, bán dâm cho một số đàn ông nhiều thèm muốn hơn là nhiều xu.

Năm 193… lòng mang nhiều tuyệt vọng cay đắng, tôi thường lảng vảng chốn này. Bởi một hấp lực ma quái âm u, tôi ưa lui tới nhà xác, để được đắm trong không khí thân thuộc của sự chết, và nghe phảng phất hơi lạnh rợn tia từ những thân thể cóng đờ.

Xác chết phần nhiều vô thừa nhận. Tụ hội nơi đây, một lần cuối, những kẻ ăn mày ghẻ lở, mụ già lang thang cảnh sát bắt được nằm co quắp dưới sương khuya, đứa du đãng nhẩy tầu trốn vé bị đập đầu vỡ óc, thằng bé con chết đuối vớt ngoài sông đào đục ngầu chảy ven tỉnh. Cái chết với họ đã là một sự giải thoát. Trên mặt hom hem, nét mếu của đau đớn còn ghi lại. Đôi người giữ trên môi một cái cười gằn dữ tợn. Có kẻ trưng một bộ mặt dọa dẫm, miệng nhô cách khiêu khích. Phần nhiều trông thiểu não, với những chân tay que củi, những manh quần áo rách tươm để lộ ngực toàn những xương sườn.

Đôi khi, sau một chuyến tầu tới, người ta khiêng vào một kẻ bị nạn, chân bị nghiền nát bét chỉ còn là một cục nhầy nhụa đỏ và trắng, sọ vỡ để thoát chất óc lèo nhèo.

Duy có một lần, tôi trông thấy trên bệ một khuôn mặt trẻ con bình tĩnh. Thằng bé nằm như ngủ, da mặt trắng trẻo, thon và khôi ngô. Nó mặc một cái áo dài đen, một cái quần khá trắng. Lông mi rất dài và rất đen tỏa bóng xuống mắt. Tôi lấy làm lạ vì không có kẻ thân nào túc trực cạnh nó. Cạnh bệ, thấy còn để một cái mũ, và một tay nải nhỏ màu nâu, đợi giờ thiêu hủy. Thằng bé là con nhà ai, và vì cơ sự nào đã rơi rụng chốn này? Mang tay nải lang thang, có phải nó đi tìm mẹ? Hay vì nó ở với một ông chú khắc nghiệt, nó đã bỏ ra đi?

Tôi đến gần, và bỗng giật mình. Một mắt của nó, mắt bên trái, hé mở lờ đờ nhìn tôi. Lúc nãy, vì đứng xa và ngang tầm đầu thằng bé, tôi không nhận thấy điều đó. Đột nhiên nhìn thấy con mắt mở, tôi tưởng như, cảm biết tôi đến gần, nó đã giương một con mắt chết để nhìn tôi. Con mắt nhìn tôi lặng lẽ, rất buồn rầu bởi bóng hàng mi dài và rậm. Người ta chỉ thấy một lát mỏng của con ngươi đen. Thằng bé nhìn tôi, môi cong ngây thơ hơi bìu bĩu. Trong chốc lát, tôi tưởng nó sẽ mở miệng nói với tôi những lời chắc hẳn buồn vô hạn. Con mắt độc nhất lờ đờ nhìn tôi.

Tôi xáp gần hơn nữa, nhẹ đưa tay vuốt làn mi thằng bé. Con mắt như ưng thuận, nhắm lại, nhưng rồi chỉ vài ba giây sau, hàng mi lại nhướng dần, nhướng dần rất nhẹ, và con mắt lại lờ đờ nhìn tôi, rất buồn rầu...

Thường mỗi sáng, nhận giấy báo, một người lính đem hai người phạm dẫn một cái xe bò vào cổng nhà xác. Họ lấy đi quan tài do nhà thương phát, bỏ cái xác vô thừa nhận vào, rồi chở trên xe cải tiến về phía nghĩa địa Tập phúc. Họ làm công việc ấy cách vô tình nên tàn nhẫn. Người chết bị xang đưa nhồi lắc, chắc hẳn có khi qụy gối hay cụp đầu mà tụt hẳn về một phía bởi quan tài nghiêng dữ quá: rồi tiếp tới cuộc hình phạt dài khi cái xe bánh gỗ vừa lăn vừa nhảy lộc cộc trên con đường đá gồ ghề...

Ngày đầu, người lính ngạc nhiên nhìn tôi. Rồi chúng tôi bắt quen nhau, như hai người khách bắt quen vì năng gặp nhau cùng trong một tửu điếm. Và một hôm, trong khi trông coi phạm làm việc, tay cầm chiếc roi nhỏ, bác kể cho tôi một chuyện ghê gớm, mà tôi thuật lại dưới đây.

*

* *

"Bữa ấy, tôi nhận phần việc đi chôn một mụ ăn mày, chết hồi đêm tại nhà thương. Theo thói thường, tôi đứng xa xa, để mặc cho hai tên phạm đi lấy xác nhập quan. Mới khoảng chín giờ sáng mà trời bức tối lạ. Mây kéo đen một góc trời. Tôi biết trước cơn giông sắp tới.

Tôi bèn giục hai tên phạm đẩy xe chạy: tôi rảo bước theo sau. Đi chưa được nửa đường, mưa đổ xuống; một trận mưa rất dữ dội, chỉ một lát sau, con đường đã thành dòng suối đỏ ngầu. Chúng tôi vẫn cố chạy: nhưng sau, mưa to quá vuốt mặt không kịp, tôi bảo dừng lại trú cạnh một cây bàng lớn. Tuy bị nước rỏ từ cành lá xuống nón xuống vai lộp bộp, chúng tôi cho còn dễ chịu hơn là tắm mưa ngoài kia. Nhưng mụ chủ cái quán dựng sau cây bàng đã đứng chõ mồm hét mà đuổi chúng tôi quầy quậy. Tôi không chịu đi. Mụ không biết làm sao, bèn chắp hai tay vái lia lịa, xin chúng tôi đi đi cho, đừng để xác chết ám trước cửa hàng mụ. Nghĩ thương tình, tôi lại bảo hai tên phạm đẩy xe chạy một mạch cho đến nhà hội Tập phúc, rồi chúng tôi trú dưới mái hiên. Quan tài làm bằng gỗ xấu lại đóng cẩu thả: gặp nước mưa, ván cong lên, khe hở hoác ra. Nước chảy từ ván ròng ròng, một thứ nước vàng đục. Trong hai tên phạm có một đứa trông thật dữ tợn, chúng tôi quen gọi là thằng Hùm, hoặc Hùm Xám. Hắn nói đùa:

- Coi, mỡ con mẹ chảy ra đó. Hứng lấy thắp đèn được.

Mưa ngớt dần. Tên phạm thứ hai bỗng nói:

- Có ai rên ở đâu đây.

Thằng Hùm bô bô:

- Con mẹ chứ ai nữa!

Hắn nói chơi để dọa, không ngờ lại là chuyện thực. Chúng tôi nhận qua tiếng rên rỉ đưa từ trong áo quan ra, yếu ớt và đứt đoạn. Chắc hẳn người chết gặp nước lạnh giội đã sống lại. Tôi còn chưa biết làm thế nào thì thằng Hùm nói oang oang:

- Bắt chúng ông xe trở lại nhà thương thì chúng ông chả chơi!

Suy nghĩ một chốc, tôi cũng cho không nên chở mụ ăn mày trở về: mụ sống lại cũng chỉ được vài giờ là cùng. Nhưng tiếng rên rỉ cũng làm rối óc tôi.

Tiếng rên đứt. Tôi thầm mong trong bụng: "Lạy trời nó chết!". Nhưng chỉ một giây sau, lại nghe tiếng mụ cào ván.

Thằng Hùm nhặt một cái cọc tre, dùng hàm răng sắt của hắn tước cho hơi nhọn một đầu rồi lèn đoạn nhọn cố thọc vào một khe hở của quan tài. Đoạn hắn đè ngang cái cọc nậy tấm ván lên. Hắn mở thành một khe hở khá rộng, ghé mắt nhìn. Bỗng hắn hất ngửa đầu ra sau. Chúng tôi kinh ngạc thấy ba đầu ngón tay nhăn nheo run run rờ rẫm chuồi ra ngoài quan tài. Thằng Hùm vội rút cái cọc. Khe hở khép lại, mép gỗ cắn lấy ngón tay người nằm trong. Ba ngón tay run rẩy rất khẽ, rồi dần dần đổ xuống yên lặng trong khi tiếng rên rỉ lại nổi lên.

Tôi không giữ được bình tĩnh nữa. Tôi vội hét thằng Hùm:

- Dun tay người ta xuống!

Hắn cầm cái cọc tre thọc thọc vào ba ngón tay.

Tôi lại hét, gần như hoảng hốt:

- Thôi, đem chôn! Đem chôn ngay!

Hai tên phạm khiêng quan tài ra nghĩa địa, tuy trời vẫn còn mưa. Chúng chạy nhanh, nhồi lắc chiếc áo quan rất dữ, làm cho nước lọc bọc trong ấy.

Chúng đào hố rất khổ công. Xẻng vừa xúc được một cục đất thì nước lại tràn ngay vào chỗ trũng mới. Đào xong, chỉ thấy trước mặt một vũng nước vàng đục lợn cợn váng. Hai tên phạm vứt bừa quan tài xuống đó, đoạn cúi xuống cố sức dìm. Nước tuôn vào trong quan tài do những kẽ hở, kêu lóc bóc lóc bóc. Khi nước vào đã nhiều, quan tài chìm xuống, những bọng không khí trào lên vỡ bùng bùng. Tôi giúp hai tên phạm đổ đất lên trên.

Khi về, thằng Hùm nói:

- Lắng tai mà nghe khi ta dìm áo quan; có tiếng con mẹ uống nước ừng ực.

Cõ lẽ hắn nói thật; nhưng tôi cố không tin, bởi điều đó ghê rợn quá!

1942

Những nỗi lòng

Bùi Hiển

Chúng tôi ba đứa, cùng theo học năm thứ ba Thành chung trong tỉnh. Hai năm sống giữa thành thị đã nhanh chóng gột bỏ của chúng tôi, sản xuất bởi những trường phủ huyện, cái dáng nhà quê ngơ ngác. Ba cái đầu húi móng lừa, lấm tấm điểm sẹo tròn bây giờ đã chải rẻ tinh tươm và xức dầu thơm rẻ tiền. Thứ quần ống cao và hẹp bằng vải thô của chị hoặc mẹ dệt cặm cụi thâu đêm trong khung cửi sơ sài cũng đã qua thời; nó để lòi cẳng chân khẳng khiu không lịch sự; với lại khi ngồi, ống quần chật bị đầu gối ấn mạnh u lên một cục khó coi. Bây giờ chúng tôi diện quần chúc bâu trắng buông dài tận gót, thỉnh thoảng đưa thợ giặt là hẳn hoi. Có anh ghi chép của Lamartine, Musset (1) từng đoạn văn dài của sổ tay, lại còn thử dịch để mài giũa ngòi bút chuẩn bị viết thư tình. Có anh trau dồi khoa châm biếm trào lộng bằng cách đem tất cả mọi thứ, mọi người ra làm đầu đề giễu cợt. Những tiếng lóng bắt đầu nhập tịch ngôn ngữ của chúng tôi. Mỗi chiều thứ bảy, ba đứa dắt nhau dạo nghênh ngang ngoài phố. Các nữ sinh trong tỉnh đều được thuộc mặt, thuộc tên, thuộc đến cả số nhà.

-------------------------------------------------

1. Những nhà thơ cổ điển lãng mạn Pháp.

-------------------------------------------------

"Nhị Kiều" ở cạnh nhà chúng tôi trọ; đó là hai chị em. Cô chị, có lẽ đến ba mươi, răng đen, má gầy, quần áo mầu thâm ảm đạm; cô em chừng mười sáu, mười bảy, lẳn béo nhưng da xanh, đôi môi dày bờn bợt, ăn mặc cũng toàn đen. Mặt hai người cùng ủ ê một nỗi buồn, không phải thứ buồn mơ mộng và kiểu cách của những cô gái làm dáng, mà thứ buồn xìu xịu, lặng câm, cách biệt, dễ gây ác cảm và làm cho già xấu. Miệng họ mím bụm bụm như sắp mếu, mắt nhìn xuống đất. Họ sống trong bóng mờ của căn nhà thấp bé và ẩm ướt, nom xanh xao ẻo lả như những cây mềm thiếu ánh sáng, thiếu khí trời. Họ ít ra ngoài; việc chợ búa do một vú già trông nom. Cô chị hay đứng tựa cửa chỉ để mở he hé. Cô em có thói quen quấn hai bàn tay trong hai mép tà áo dài, như sợ lạnh; có lẽ đó chỉ là cử chỉ của một kẻ e dè.

Từ trên gác trọ, cái gác khổ mà mái thấp tè hành hạ đầu người ở, chúng tôi thường trông thấy hai chị em, khi họ làm việc ở sân sau. Chắc hẳn vì trong nhà tối quá, họ dọn xa quay ra sân sau. Họ chuyên nghề đánh suốt đánh ống, và hình như chỉ sống bằng nghề đó. Tiếng rè rè của chiếc xa quay thô sơ tưởng như tiếng rền dài của niềm u uất ủ trong bóng mờ ẩm căn nhà. Khi chiếc ống đã đầy, họ ngừng tay, xoắn múi chỉ, đoạn hơi nghiêng mình, họ với tay ném ống vào hộp sắt tây lớn. Nếu ném trật ra ngoài, họ tuyệt nhiên không tỏ một tí vẻ gì bực bội, cũng không có một cử chỉ nhỏ nóng nảy; họ chỉ uể oải đứng lên, vuốt phía sau cái quần vải hoặc lụa thâm theo thói quen, đi nhặt ống bỏ vào hộp, đoạn trở lại ngồi, và tiếng rè rè lại tiếp tục.

Vừa dọn tới trọ ít hôm, chúng tôi đã có ác cảm với hai người con gái láng giềng câm lặng ấy. Một mối ác cảm đột nhiên, vô lý đến bất công, nhưng một ác cảm thực có và sâu xa. Tuổi mười bảy chúng tôi, tràn trề nhựa sống, không thể chịu đựng được vẻ buồn bã gần như lì lợm của hai người con gái già trước tuổi ấy. Suy cho cùng, biết đâu nguyên nhân thầm kín nhất chẳng là vì chúng tôi bị chạm tự ái; họ hầu như không hề biết, không hề đếm xỉa đến sự có mặt trên đời của ba anh chàng trai trẻ chúng tôi, xế ngay trên đầu họ. Từ lúc nào không biết và cũng chẳng cần ai bảo ai, ba chúng tôi đâm ghét họ, gần như nổi giận với họ.

Nhập trường được chừng nửa tháng, một anh học trò tới trọ chung với chúng tôi. Đó là cháu họ xa gọi bà chủ trọ bằng thím; y vừa bắt đầu năm thứ hai, trước y theo học ở một tỉnh xa.

Chúng tôi nhìn y dọn đến, vẻ hơi lạnh lùng, nhưng thực ra tò mò. Y còn nhà quê quá; áo lương ngắn cũn cỡn, ống hẹp chịt lấy cổ tay để lòi gần nửa gang ống áo cánh. Dọn xong y cứ ngồi chồm hỗm, tẩn mẩn soạn thứ tự lại trong chiếc rương con sơn đỏ, đặt ngay ngắn cái thước cạnh cái bút chì, dẹp lọ dầu Nhị Thiên Đường vào góc ngăn, lấy móng tay cào cào vết hoen trên chiếc ảnh "bà đầm" dán giữa mặt trong nắp rương.

Cậu Nguyện lên giọng đàn anh hỏi:

- Này, tên gì đấy?

Y nhỏ nhẻ đáp:

- Thưa anh, em tên là Nguyễn Văn Bồng.

Nguyện giở ngay lối đùa nghịch:

- A, bông, bông (1), Nguyễn Văn Bồng. Tang bồng phỉ chí. Nghe đây, toa (2) mới đến ở, chắc chưa hiểu luật lệ ở đây. Tụi moa (3) hạn cho một tháng, toa phải làm quen và chinh phục cho được "nhị Kiều".

--------------------------------------------------

1. Tốt, tốt (tiếng Pháp).

2. Cậu.

3. Tớ.

--------------------------------------------------

Ba chúng tôi cười ầm. Tôi nói:

- Một cũng đủ, hai có lẽ hơi nhiều. Đằng nhỏ ấy thôi.

Thực tiếp vào:

- Đúng thế, chứ đằng lớn có thể làm chị cả chúng mình được, nước non gì nữa.

Bồng giương mắt nhìn chúng tôi, ngơ ngác.

Nguyện bảo:

- Toa không hiểu? Bọn mình không phải điên đâu, lạy Phật. Không hiểu thì moa giảng cho nghe.

Anh nắm cánh tay Bồng dắt đến cạnh cửa sổ, chỉ xuống sân sau nhà "nhị Kiều", bảo:

- Nhìn.

Bồng cúi nhìn, vẫn chưa có vẻ hiểu ra. Anh ta quay về phía Nguyện mà cười một cách ngờ nghệch. Khi đứng thẳng dậy, thế nào lại húc đầu ngay vào xà nhà. Anh ta bèn đến ngồi trên rương, quay mặt vào phía tường, đưa ống tay áo lên quệt ngang mắt.

Nhưng rồi chúng tôi để anh ta yên. Bồng sống riêng biệt, học lẩm nhẩm, ăn nhỏ nhẻ và ít, cử động sẽ sàng như sợ chạm phải đồ vật, lặng lẽ nhìn chúng tôi đùa nghịch bằng con mắt gần như kính phục. Anh ta tự thu nhỏ mình, ở bàn ăn dậy lúc nào không ai biết, lên giường ngủ lúc nào không ai hay. Thế rồi chúng tôi không để ý đến anh ta nữa, coi như không có hoặc chỉ như cái bóng chập chờn.

Chỉ có một hôm, khá lâu sau, Nguyện sực nhớ lại chuyện đùa nghịch cũ:

- Thế nào, Nguyễn Văn Bồng? Cái hạn hết đã lâu rồi.

Bồng nhìn Nguyện với vẻ ngơ ngác. Nguyện tiếp:

- Đám "nhị Kiều" ấy. Cuộc chinh phục tiến hành đến đâu rồi?

Chúng tôi thấy Bồng hơi tái mặt; mi mắt anh đập mau. Bồng nói giọng nhát gừng:

- Các anh... cứ chế... Em chẳng biết.

Rồi cậu ta khoanh một cánh tay trên bàn, gục giấu mặt trong đó. Nhưng biết rằng dù rúc mặt như vậy cũng chẳng né tránh được sự trêu chọc của ba chúng tôi, anh ta vùng bỏ chạy xuống gác.

Chiều hôm ấy, khi đi đến trường chúng tôi bàn tán về cái thái độ lạ lùng của anh ta.

Nguyện nói:

- Rõ ràng thái độ một anh si tình.

Thực muốn tỏ giỏi khoa tâm lý vì vừa đọc một vài cuốn tiểu thuyết Tây gì đó, chêm vào:

- Một anh amoureux transi (1).

Tôi cũng phải nói câu gì để tỏ không thua kém Thực về mặt hiểu biết lòng người:

- Ai dám chắc mối tình, nếu có thực, đã không hề được đáp ứng? Các cậu có chú ý thấy dạo này cô "Kiều" em thỉnh thoảng đã biết ngước mắt nhìn trộm lên phía cửa sổ chúng mình không?

Nguyện chợt nghĩ ra:

- ừ nhỉ. Mình thì cũng đã bắt gặp vài lần thằng cha Bồng ngồi trên này vẩn vơ nhìn xuống, mắt đúng là có vẻ mơ màng. Khéo anh chị đã có tình ý với nhau rồi mà chúng mình không biết. Gớm thật!

Thực đặt bài toán:

- Giả thiết một mối tình transi (2) cộng mối một tình transi cuối cùng nó égal (3) cái gì hả các cậu?

--------------------------------------------------

1. Anh si tình "tê cóng" (e dè, câm lặng) (tiếng Pháp).

2. Tê cóng (tiếng Pháp).

3. Bằng (tiếng Pháp).

--------------------------------------------------

Nguyện liền tuyên bố, giọng không để cho ai cãi lại:

- Egal một tấn hài kịch! Chúng mình sẽ được dịp cười. Thử thí nghiệm xem sao nhé.

Và ba chúng tôi chụm đầu vào nhau bàn kế.

Ngay xẩm tối hôm ấy, chúng tôi gõ cửa nhà "nhị Kiều". Cô chị ra mở, thấy chúng tôi thì vừa ngơ ngác vừa luống cuống đến sững sờ. Thực nói:

- Xin chào chị. Chúng tôi có việc muốn gặp cô em.

Cô chị liền rảo bước vào phía nhà trong, lần đầu tiên chúng tôi thấy chị bước nhanh đến thế, như trốn chạy. Tiếng chị từ phía đó vọng ra:

- Năm ơi! Năm! Có người hỏi.

Lần đầu tiên chúng tôi biết tên cô em, cái tên nhũn nhặn và buồn xịu như người.

Năm bước ra. Nhác thấy ba đứa chúng tôi, cô đứng sững, tựa hồ có một sức mạnh vô hình nào đã chặn ngang ngực cô giữ lại. Hai bàn tay cô quấn chặt vào hai mép tà áo dài thâm. Chúng tôi phải tiến gần thêm nữa. Nguyện lên tiếng:

- Thưa cô, chúng tôi sang đây để làm một nhiệm vụ mà một người bạn đã ủy thác cho. Một người bạn thân: anh Bồng, cô biết đấy, người cùng trọ với chúng tôi.

Năm không đáp gì, đôi mắt to trố nhìn, nom như hơi lồi.

Thực tiếp vào, nói bằng giọng chậm rãi những lời hoa mỹ anh đã soạn sẵn:

- Bạn chúng tôi đã sống những ngày sầu thảm, quằn quại trong một cái bệnh vừa êm dịu vừa ác hại: cái bệnh tương tư! (Chúng tôi cố nhịn cười). Không cần phải nói, cô cũng đã đoán biết bạn đau khổ vì ai... Sau cùng không nén được nỗi lòng, anh bạn nhờ chúng tôi trao cho cô bức thư này.

Thực rút từ túi áo một chiếc phong bì xinh xắn trên có mấy chữ: "Gửi em yêu".

Vẫn cuộn chặt hai bàn tay trong tà áo, cô gái trố mắt nhìn lần lượt vào mặt chúng tôi như dò hỏi. Chắc hẳn cô đoán đây chỉ là một trò đùa, bởi tấn kịch chúng tôi đóng rõ ràng là có phần thô vụng. Ai lại đột ngột kéo đi cả ba thằng như vậy nhằm chuyển một bức thư thổ lộ mối tình yêu kín đáo! Cô nhìn vào bức thư Thực vẫn chìa trước mặt cô trong một cử chỉ rất sân khấu, và cô ấp úng:

- Không... Không phải của tôi đâu...

Nguyện liền tấn công thêm:

- Cô nỡ hắt hủi một tấm lòng thành thực như của anh bạn chúng tôi sao?... Cô không nhận, có nghĩa là cô đang tâm giết chết một con người!

Vế thứ hai của câu nói, Thực cố lấy một giọng trầm trầm run run, vừa nghiêm nghị vừa trang trọng.

Không ngờ câu nói văn vẻ kiểu cách lại gây hiệu lực đến thế. Chúng tôi thấy nét mặt cô gái lúc này như giãn căng, mắt càng mở to chứa đầy phân vân lo lắng đến gần như sợ hãi, ngực thở phập phồng. Cô rút một tay ra khỏi tà áo, đột ngột giật lấy bức thư rồi nhìn lướt cả ba gương mặt chúng tôi một lần nữa, cô bụm môi như muốn khóc, cầm bức thư bỏ chạy vào phía nhà trong.

Chúng tôi nhảy ba bước ra đường để phá lên cười đến vỡ phố.

*

* *

Mãi lâu sau, khi tôi đã rời ghế nhà trường và bước vào đời, mới đến trong tôi niềm hối hận day dứt. Nhưng từ đó, tôi nghĩ đến câu chuyện rất nhiều.

Tôi thường tự hỏi sự đau đớn và xấu hổ của người con gái khốn khổ đã lên tới mực nào khi mở thư đọc, cô chỉ vẻn vẹn thấy ba chữ: "Không thương được!" to tướng - ba chữ viết bằng ba nét bút khác nhau, bởi ba chúng tôi đứa nào cũng muốn dự phần vào cuộc đùa nghịch, coi như một trò chơi sáng tạo.

Bấy giờ, tôi lấy cuộc đùa nghịch ấy làm thường, làm tự nhiên, hợp lẽ nữa. Hình như tôi tự xây cho mình cái lý luận rằng Bồng và Năm xứng đáng sự giễu cợt, người này bởi không đẹp và vô duyên, người kia bởi ngớ ngẩn, quê mùa, và cả hai bởi họ quá hiền lành, bởi họ yếu hèn, bởi họ vô nghĩa lý.

Chúng tôi đã giày xéo lòng họ bao nhiêu! Biết đâu chúng tôi đã không bóp chết một mối tình duyên chớm nụ, càng thanh cao đẹp đẽ bởi càng câm lặng? Họ đã trao cho nhau chưa những luồng mắt thú nhận? Những tình cảm nào đã nở hoa trong lòng họ, chắc hẳn chất chứa yêu thương? Bởi, giờ đây tôi mới biết những kẻ yếu ớt, e lệ, sống lặng im, nhỏ nhẹ, lại thường là những kẻ sống bên trong cái đời sống tâm linh phong phú và tinh tế nhất.

Từng ấy câu hỏi, hồi bấy giờ không hề đến với óc tôi. ồ, giá mà lúc ấy tôi có chứng cớ rõ rệt hơn về tình ý của họ, chắc hẳn tôi sẽ gán thêm cho họ một tiếng "lố bịch" mà thôi. Sống ngay cạnh họ, tôi đã u mê, vì đã lãnh đạm, vì đã khinh thị.

Và lan man, tôi nghĩ đến sự vị kỷ của lòng người.

Người ta sống co quắp, cuộn tròn mình như một chiếc lá khô. Mỗi người đều tưởng mình là một vũ trụ, là tất cả vũ trụ. Ta tưởng nỗi đau khổ hiện đang giày vò ta là nỗi đau khổ to lớn nhất trần gian; khi lòng rạng niềm vui sướng, ta tin rằng nhân loại cùng rung với ta một cung điệu, ai nấy đều vui sướng chan hòa. Cái trạng thái tâm lý thứ hai này không hề là một nét vị tha như ta có thể lầm tưởng, mà nó vốn bắt nguồn từ một thứ tự kỷ trung tâm không hơn không kém.

Ta sống mù quáng, vây bọc bởi những bí mật. Người thiếu nữ cúi mặt lầm lũi đi ngoài phố kia đang nuôi một tâm sự đau đớn nào? Ông già còng tôi thường thấy lần bước nặng nhọc ngang cửa, người hầu như gập làm đôi, hai tay chắp trên lưng, mồm nhai móm mém, lão nghiền ngẫm điều chi về cảnh ngộ của lão? Anh viên chức đạc điền trước nhà, bác thợ may hàng xóm, chị bán cháo bánh canh thường ngày cung cấp cho tôi món quà sáng thơm ngon ngầy ngậy, họ sống ra sao, lo nghĩ những gì, họ yêu ai và ghét những ai? Tại sao cô em gái tôi thương yêu nhất đời lặng lẽ khóc hai lần giữa ngày mồng một Tết? Tôi không hề biết, không hề biết!

Tâm hồn tôi trở nên lo lắng. Tôi sống chăm chú, vểnh tai và giương mắt như con nai rừng rậm, tôi muốn cho linh giác thẳng căng, để mà thấu cảm, một cách lẹ làng tế nhị, sự thầm kín ủ trong những nỗi lòng.

1941

Rút từ tập truyện ngắn Nằm vạ

Nỗi oan của bác đồ gàn

Bùi Hiển

Một tình cờ đã tụ hội họ lại trong gian phòng. Tuy ở những đẳng cấp khác nhau, họ họp thành một xã hội nhỏ ô hợp và nhiều màu vẻ. Phần nhiều đều là những nhân vật danh tiếng, đặc trưng bởi một thói tật bất hủ hay một hình thù khác thường.

Gian phòng hơi nhỏ hẹp, dồn họ lại gần nhau. Thật là một xã hội đại đồng, nơi đó thằng cu Nhè dám tới gần ông trưởng giả béo mắt híp, và cô tiểu thư đài các không hề tỏ vẻ khó chịu vì sự kề cạnh một bác Nhiêu Rượu phả hơi men xa mười thước.

Họ cùng chung một ông cha, anh chàng họa sĩ gầy nhom đeo kính cận ấy mà. Chuyên vẽ tranh vui cho một tuần báo hí hước, chàng đã tự tạo đoàn đào kép nọ, mà chàng bắt múa hay hát hỏng theo ý riêng mình, để gây vui mỗi tuần cho công chúng. Công cuộc hoài thai thường mệt nhọc, ủ ấp trong một cuộc nghiền ngẫm lâu dài xoi mói đến từng tiểu tiết: cái mũi phải ra sao, con mắt phải thế nào. Nhưng cũng có khi, thằng người hay thằng ngợm vụt hiện một cách đột nhiên dưới ngọn bút ngông phiếm của nhà họa sĩ, làm cho chính chàng ngạc nhiên trước nhất và kêu lên: "Ô kìa! Mình vừa đẻ thêm một đứa!". Rồi chàng vội khai sinh cho nó, nghĩa là tự chuốc một cốc rượu ăn mừng để ngay tức thì đem đứa sơ sinh nhập ban tuồng mà chàng quản đốc.

Tên hề mới, bị vứt vào giữa cuộc nhân sinh lộn xộn và ô hợp, không tỏ vẻ gì ngơ ngác hay khó chịu. Rất ngoan ngoãn, nó uốn mình theo ý muốn của chủ, ra đóng trò ngay mà rất tự nhiên!

Ngoan ngoãn, đó là cái Luật Lớn mà cũng là cái luật duy nhất của ban tuồng kỳ dị này. Không bao giờ cưỡng lời chủ, nhắc ngay cái chân mà ông ta muốn giơ, nói lời nói ông ta đã nhắc, dù biết rằng mình sẽ lố bịch, sẽ làm trò cười cho công chúng - thứ công chúng tàn tệ lấy chế nhạo làm thú vui - cứ như thế, đoàn đào kép sống yên ổn, trong trìu mến của nhà họa sĩ mà sự giám sát buông lỏng dịu một tình cha nhân từ.

Vả lại, để bù công, họ được hưởng một tự do hoàn toàn trong lúc chủ vắng nhà. Khi anh gà sống đặt trên lò sưởi, rắn rỏi trong chất cẩm thạch màu xám, vươn cao cổ cất tiếng gáy báo hiệu, những nhân vật kỳ quái của gian phòng, biết rằng chủ nhân đã đi ra, liền tự cho phép xê dịch và cất tiếng. Bắt đầu họ duỗi chân tay, vươn vai, uốn éo, đánh đuổi cơn tê cóng gây bởi một cuộc bất động quá kéo dài. Rồi sự nhốn nháo nổi dần, họp bởi muôn tiếng lí nhí của bọn người tí hon ấy.

Thằng cha đồ tể rủa: "Mẹ đếch! Làm ông mỏi rũ cả tay". Hắn vung tay vứt mạnh con dao bầu ra xa, đoạn ngồi xổm xuống đất, nghĩa là xuống nền trắng vuông giấy, tự cho phép nghỉ, vòng tay khoành ôm hai đầu gối gập. Thỉnh thoảng hắn ưỡn ngửa người co tay ngang vai rồi duỗi thẳng đánh rắc cho giãn gân cốt. Nhà họa sĩ bỏ lỡ dở bức tranh, đầy đọa hắn đứng cả một ngày tròn, lưng cúi, cầm lăm lăm con dao một cách vô duyên bởi dưới dao không có gì cả, dù là một cái thớt. Hắn đã gò người đứng mãi trong dáng điệu bất tiện ấy, lo lắng tự hỏi không biết người ta sẽ bắt mình múa hát gì đây. ừ, dù hắn có phải làm một cử động buồn cười, nói một câu ngớ ngẩn, thì cũng cho hắn nói, hắn làm đi, chứ lại nỡ giam cầm hắn mãi trong một sự thấp thỏm sao mà quái ác!

Nhà họa sĩ có cái tật lông bông tai hại ấy: không bao giờ vẽ luôn nét bút một bức tranh, dù là một bức hí họa nhỏ đơn sơ. Chàng nhảy từ bức này sang bức khác, quệt lên đây một nếp nhăn áo, điểm vào kia bộ râu trê. Chàng đùa với việc làm.

Lão hàng thịt không phải là nạn nhân duy nhất chịu sự hành hạ của cái thói xấu ấy. Từ khi chàng cầm bút, đã biết bao nhiêu người cụt tay, mất mũi, chột mắt. Một bác thợ nề đã co chân thước thợ tựa ông tướng tuồng, vẫn không tìm thấy cái bực thang dựa bước; ông trọc phú kia đang ngồi hàng hai ngày trên chiếc ghế tưởng tượng, người gập, chân co như sắp nhảy, băn khoăn tự hỏi vì một phép ma quái nào mình chưa ngã bổ chửng phơi cái bụng béo bầy nhầy.

Trong một góc, thằng cu Nhè đứng sụt sà sụt sịt. Hai dòng nước mũi dài quá cằm cứ giãn dài ra mãi gần tới rốn. Nó vội nhắm mắt hít mạnh; hai dòng mũi từ từ rút lên để lại thòng dần xuống. Bà chủ hiệu cao lâu bên cạnh lấy làm khó chịu gắt:

- Thì mày vắt quách ra đất kia!

Nhưng nó không chịu. Nhà họa sĩ sẽ nói thế nào nếu hai dòng mũi cừ khôi - bảo bối của nó mà công chúng đã quen thấy như quen thấy hai tai trên mặt người - vụt biến mất?

Gian phòng mỗi lúc thêm nhốn nháo. Một cuộc săn đuổi bắt đầu, giữa một tốp công tử bột và hai cô tiểu thư thướt tha ưỡn ẹo. Rửng mỡ, chú Chệt béo phị trong bức tranh bên cạnh cũng lạch bạch chạy theo bọn thợ săn. Bị khung bức tranh giữ lại - bởi mỗi nhân vật chỉ có quyền hoạt động trong phạm vi vuông giấy của mình - chú tức tối húc bụng vào thành giấy, đôi mắt tuyệt vọng dõi theo hai cô gái ngon lành.

Nhiêu Rượu, mũi cà chua đỏ hỏn, tỏ vẻ lãnh đạm hoàn toàn, với tất cả sự nhốn nháo quanh mình. Hắn ngồi từ bi tự tại đếm những chai rượu trên quầy hàng, lẩm bẩm: "à, cái gì cũng có đôi cả, cả đến con mực nướng trên đĩa, ừ, mà cả cái đĩa nữa". Đoạn kiên nhẫn, hắn bắt đầu đếm lại, không biết lần thứ mấy mươi.

Xa xa, một ông già ho sù sụ, nhìn loanh quanh mãi không dám nhổ đờm trên nền giấy trắng tinh. Một con cá ngắc ngoải giãy đành đạch; nhà họa sĩ vẫn chưa chịu sinh phúc quệt lên bức tranh vài nét dập dờn tạo cái làn nước cần thiết cho sự sống của nó.

Gian phòng bỗng im bặt. Ai vừa cất tiếng hát ồm ồm. A, thằng Ngợm. Hắn bị tất cả phòng ghét bỏ. Hắn cũng không xứng cái tên ngợm nữa. Chàng họa sĩ trong một cơn say hoặc nghịch ngộ, đã theo vết những nhà cubisles1 tạo ra hắn bằng hai cái đĩa, ba ống sữa bò, ít bóng đèn điện. Từng ấy thứ, kèm vài vật dụng linh tinh nữa, vẽ chồng chất lên nhau trong một sự hỗn độn không thể tả, làm thành một hình kỳ quái, mà chàng họa sĩ tìm mãi ý nghĩa. Chàng lên kính, ghé mũi nhìn, rồi sau cùng kêu lên: "Thằng người! ừ, mà thằng người hẳn đi chứ!". Bỗng nhiên được liệt vào hàng nhân loại, hắn lên mặt ra phết, không hề tự biết mình. Khi họa sĩ vắng nhà, hắn khuỳnh hai cánh tay lắc lê và đanh vít chống nạnh đỏng đà đỏng đảnh đi đi lại lại như con đĩ, cái miệng làm bằng ống sữa bò cất tiếng hát ông ổng không thương được.

Mọi người bịt tai, bĩu mồm khinh bỉ.

Duy bác Lý nhà ta không để ý đến hắn. Bác còn bị một con ruồi ám ảnh. Chàng họa sĩ thực là độc địa, không bao giờ quên điểm cho bác hai cục dử to tướng phía trên chiếc mũi sư tử. Thế là đàn ruồi hăm hở bay đến bậu, ray rứt mãi, cho đến khi cục dử khô mới bỏ đi.

Bác Lý cố xua con ruồi quái ác. Nó bay lên, vu vu vẽ vòng trèn trên hai mắt hấp háy của bác như để trêu chọc. Bác tức mình giơ tay phất ngang một cái thực mạnh. Con vật bay vụt đi; cái mũi sư tử của bác, mà chàng họa sĩ chỉ đính lỏng lẻo, bật văng rơi lông lốc trên giấy. Bác Lý hoảng hốt chạy tìm quanh mãi. Tội nghiệp, đôi mắt kèm nhèm có thấy gì nữa đâu.

Mọi người xung quanh cười ầm.

Giữa sự vui vẻ chung, nổi lên một tiếng nhỏ thanh thanh dịu dàng:

- ồ, ta không nên độc ác như thế. Bác Lý đáng thương hơn là đáng cười vậy.

Mọi người quay nhìn kẻ vừa nói. Hàn Bụng giễu y:

- Bác Đồ của tôi ơi! Vẫn chưa hết cái thói gàn ư?

Bác Đồ Gàn giữ một im lặng khinh bỉ và kiêu hãnh. Bác tĩnh tọa trên phản mộc, hai tay thủ dưới áo. Y phục tề chỉnh, dáng điệu nghiêm trang. Lạc loài giữa cái xã hội nhố nhăng, bác đã bị tặng nhiều danh hiệu kỳ quặc. Bắt đầu người ta gọi "Bác Đồ", rồi "Đồ Cổ", "Đồ Gàn", "Đồ Bát sách" dẫn trạnh sang "Đồ Bát quái". Tất cả những chế giễu ấy để bác lạnh lùng. Thâm cảm đạo Thánh hiền, bác giữ lòng trầm tĩnh, đi đường ngay, nói lời thẳng, lo tới sự tề chỉnh trong dáng điệu ngang với sự trong sạch của tâm hồn.

Thấy bác Lý vẫn loay hoay tìm mũi, bác mách:

- Nó ở đằng kia, nơi góc phía trái bác ấy.

Con ruồi sau một lát bay vòng vèo trong không khí, đến đỗ ngay trên đầu gối bác Đồ Gàn. Bác mắng:

- Xa ta ngay, hỡi con vật dơ bẩn!

Nó bò dần lên nách bác, rúc đầu hút vào chỗ nét áo dăn dúm làm nhòe một đám mực chưa khô hẳn. Bác Đồ bèn than rằng:

- Ta để cho con vật hạ tiện bò trên mình, sao chẳng khỏi lây nhơ nhớp vậy ôi!

Bác đưa năm ngón tay móng dài phe phẩy nhè nhẹ trước ngực. Con ruồi bay lên, rồi lại đỗ ngay xuống, nó vẽ những đường ngoằn ngoèo bằng vòi và chân ướt trên tà áo trắng tinh.

Bác Đồ Gàn không ngăn được một tiếng kêu ngạc nhiên đau đớn. Hàn Bụng ngả người trên ghế mà cười; hắn cười rúc một tràng dài những tiếng nhỏ trong họng, làm rung rung cái bụng phệ và cả vuông giấy.

Bác Đồ sẽ nói thế nào đây khi chàng họa sĩ về? Than ôi, sự trong trắng, mối kiêu hãnh cuối cùng của bác giữa cái đời ô trọc này, đã bị một vết hoen ố. Bác tưởng như hồn bác cũng bị vấy bẩn. Lòng người hàn sĩ sao mà buồn, mà buồn rười rượi.

Nhưng mà không, bác không thể để ai chê trách được mình. Người ta đã giễu cợt bác nhiều; bác không hề đếm xỉa. Đời đã thế, âu đành "độc thiện kỳ thân", ai thế nào mặc họ, ta hãy tự lo lấy mình, nhắm mắt bưng tai thu tròn mình lại, cầu cái tốt cái hay cho riêng mình là đủ. Nhưng bác không thể nào chịu để người ta nghi ngờ sự thanh khiết của mình. Bác sẽ vi phạm cái Luật Lớn của ban tuồng. Bác sẽ nói. Bác sẽ kể căn do những vết hoen trên áo mình. Rồi sau đó, chàng họa sĩ muốn làm gì thì làm; lòng trút được điều thắc mắc, bác sẽ vui lòng cam chịu hình phạt tuy không xứng đáng.

Con ruồi lại rúc nách bên kia. Bác Đồ Gàn lại đưa tay phẩy phẩy. Nó tức mình bay lên đậu ngay vào miệng bác. Bác Đồ kinh hoảng nghe lạnh trên môi. Đồng thời mùi mực nhàn nhạt xông lên mũi. Bác định quát đuổi con vật dơ bẩn, nhưng hai hàm bỗng cứng như bị cùm. Than ôi, cái miệng đã bị mực gắn chặt, hãm bác trong một câm lặng nghìn đời. Một nỗi thất vọng mênh mang xâm chiếm lòng bác.

Có tiếng răng rắc của quả đấm xoay trong cửa. Chàng họa sĩ bước vào. Bọn người tí hon cuống quýt trở lại chỗ, bỗng nhiên cóng đờ. Đám công tử cố nén thở tuy mệt đến đứt hơi. Chú Chệt lạch bạch trở về sau quầy hàng, ngồi vắt chân chữ ngũ hút điếu ống vẻ tự mãn. Thằng cu Nhè hít một lần cuối cho hai dòng nước mũi dài vừa ngang cằm. Hàn Bụng xốc lại bụng bầy nhầy để ngồi gọn trên ghế xích đu. Tên đồ tể chạy đi nhặt dao rồi trở về đứng gò lưng như thằng chịu tội. Bác Lý sờ mũi một lần cuối để chắc rằng nó đã dính chặt vào mặt.

Duy bác Đồ Gàn vẫn ngồi im lặng. Trông bác thực đáng thương: miệng nhòe nhòe mực, áo vẽ rằn ri. Chàng họa sĩ sẽ nói sao đây? Có lẽ chàng sẽ nổi giận, sẽ chọc thủng bức tranh, sẽ cấu xé, vò nát, vứt vào sọt bẩn. Ôi, bác Đồ Gàn sẵn sàng đành chịu tất cả sấm sét của chủ nhân. Bác ngồi im lặng, cố lấy vẻ trầm tĩnh, cố làm ra can đảm. Nhưng trong khi ấy thì lòng bác nổi cơn giông tố, gây bởi sự công phẫn của nỗi oan tầy đình và câm lặng, nghìn đời cũng không còn mong giãi tỏ.

1941

Ốm

Bùi Hiển

Thức dậy từ nửa giờ, Bình vẫn nằm thẳng trên giường, hai tay vòng trên ngực, mắt lặng lẽ dán lên trần. Tiếng xao xác của ngoại ô dậy sớm, len qua khe vách buồng, chỉ còn là một tiếng rên rời rạc. Đầu trống rỗng ý nghĩ, Bình đằm trong một lười biếng uể oải.

Tấm vách cạnh giường từ màu xám ngả sang màu trắng, rồi một vệt nắng dài vàng nhạt in dọc trên đó. Anh ngồi dậy, gượng nhẹ để khỏi kinh động giấc ngủ của vợ nằm cạnh. Khi mắt nhìn xuống chỗ tấm chăn mỏng nhô tròn trên bụng vợ mang thai, anh có một nụ cười bằng lòng lặng lẽ.

Bình xuống giường, vặn mình bên này, bên kia, ngúc ngắc cổ, đoạn bước ra. Bà mẹ anh đang khom mình quét nhà sền sệt. Thằng Nuôi, em nuôi Bình, cũng vừa dậy đi xuống bếp, mắt hấp háy. Anh bảo câu thường lệ:

- Xuống nhóm lửa thổi cơm; nhớ ghé siêu nước cạnh bếp pha chè mẹ uống.

Bình ra mở cửa, rồi nhấc từng tấm cửa tới dựng cạnh tường. Đoạn anh dọn hàng. Anh lần lượt bày trên tấm phản mỏng đã mọt các ô tạp hóa. Ô gương lược, để phía trái; ô kim chỉ và sáp bôi nẻ, để bên cạnh; ô khuy áo chỗ này; ô bút chì, bút mực, chỗ kia. Cạch... cạch... cạch... cạch... những ô hàng đặt xuống cạnh nhau trong một thứ tự quen thuộc đến chán nản, khẽ kêu lên những tiếng khô khan và đều đặn.

Bà cụ ghếch chổi, ngồi xuống ghế và bảo:

- Độ này đã chớm rét rồi nhỉ.

Bình vừa mắc mấy chiếc áo trẻ con lên dây thép, vừa đáp:

- Vâng trời sắp sang rét.

Anh chợt có cảm tưởng đã nói câu ấy một lần rồi. Hôm qua hay là hôm kia, hay đã lâu rồi? Dĩ vãng trôi đi, theo dòng lặng lẽ, và những ngày qua gần đây nhất cũng đã lỉm chìm trong dòng thời gian ấy. Bình thấy lòng vẩn lên một nỗi buồn nao nao không rõ rệt, trong khi tay chậm chạp mắc trên dây những chùm khăn mặt xanh đỏ, những áo vệ sinh đã bợt màu sau những năm trường âm ỉ trong cái ẩm thấp của căn nhà hẹp bé mà tường lúc nào cũng như toát mồ hôi dưới làn rêu xám.

Thằng nuôi bưng nước lên pha chè. Bà cụ hỏi:

- Chị mày đâu, chưa dậy à? Độ này đổ đốn ra thế!

Bình sợ mẹ giận vợ rồi mắng lây sang cả mình như đã thường xảy, vội nói:

- Thưa mẹ, hồi đêm nó kêu chóng mặt, mãi khuya mới ngủ được. Để con vào đánh thức.

Anh vào buồng se sẽ gọi:

- Mợ! Mợ! Dậy không mẹ chửi chết.

Hường vươn vai ngồi dậy, mặt ngái ngủ phị ra.

Bình lấy Hường là do ý mẹ. Độ còn học năm thứ hai ban Thành chung, để đi theo phong trào, Bình có một tình yêu. Anh bắt tình một cách nhanh chóng với một cô khâu đầm hơn tuổi ở cùng phố mà anh lầm tưởng ngây thơ như mình. Anh mãn nguyện trong mối tình dễ dãi ấy, cũng có những buổi gặp gỡ trong đêm, những buổi trốn nhà đi chơi núi, tay cầm tay. Tiếng đồn đến tai bà mẹ, bà vội buộc anh vào cuộc hôn nhân mà bà dự định từ lâu. Bà ép anh lấy Hường, con một bà khách hàng quen. Bình cũng có những cơn thất vọng, những buổi nhịn cơm, cũng khóc lóc, cũng dọa tự tử nếu không lấy được người yêu. Nhưng rồi anh cũng cưới Hường, và, chung đụng gây dần niềm thân ái, anh quên rất mau người tình cũ. Bấy giờ anh mới nhận thấy trước đây mình chỉ giả dối với mình, đã thêu dệt vào nỗi đau đớn của mình để bắt chước những mối tình lãng mạn trong tiểu thuyết.

Sau cuộc hôn nhân, Bình thôi học. Anh không quyến luyến nhà trường mà anh không giữ một kỷ niệm gì dù tốt đẹp hay chua xót. Anh không có bạn học thân, không có thầy quý mến. Bài học nào anh cũng khá thuộc, bài làm đầy đủ nhưng tầm thường. Một vài ông giáo không nhớ tên Bình, chỉ tay và gọi: "Ê, trò kia, ở bàn cuối!".

... Hường đưa tay quào gỡ mái tóc rối búi thành cục lớn lỏng lẻo sau đầu. Nàng không còn cái vẻ diêm dúa của thời mới cưới nữa. Nàng tưởng sự thân thuộc cho phép chểnh mảng, nhất là khi ông chồng cũng đã nhiễm thói để tóc rối bù và thôi đánh răng.

Nàng bước xuống giường, quần áo xô lệch, dăn dúm. Bình sửa lại gối. Hường xếp chăn. Liếc nhìn bụng vợ, Bình bỗng có một cử chỉ âu yếm; anh xáp đến sau lưng Hường, nắm lấy hai cánh tay vợ và định ghé hôn má nàng. Nhưng Hường hất tay chồng và hơi gắt: "Làm trò gì thế? Yên xem nào!".

Bình ngượng bỏ ra, vơ vẩn huýt sáo. Trong đời sống nhỏ nhoi rời rạc, những tình cảm cũng lỏng lẻo đi.

Một hồi sau, cơm dọn lên. Vẫn những món ăn hàng ngày: dưa chua, cà, một đĩa trứng muối, một bát canh cá. Mọi người ngồi vào mâm. Một đứa bé tới trước hàng:

- Bán cho tôi ba xu miến.

Bình hơi mê tín cảu rảu:

- Sáng ngày bán mở hàng đã may mắn chưa!

Anh đứng dậy gói miến cho đứa bé. Nó kêu:

- Sao ít thế này?

Anh thêm vào hai cây miến ngắn và mỉa mai:

- Được rồi đấy. Có ba xu miến lại muốn làm đủ mâm cỗ kia à?

Giữa bữa ăn, bỗng bà cụ bảo:

- à, hôm qua bà Hàn Thái có nói chuyện, trên phủ Bái cần một ông giáo dậy trường tổng.

Bình ngừng nhai, ngước nhìn lo ngại.

- Bà ấy bảo anh có thuận dạy, thì bà ấy nói hộ với quan Phủ.

Bình cười "hì" một tiếng nhỏ trong họng, óc chưa có một ý định gì rõ rệt. Anh hỏi một câu vô ích:

- Dạy trường tổng à?

- Trường tổng Quan Hóa, cũng gần, chủ nhật có thể về chơi nhà. Bà Hàn bảo người ta chỉ cần Rime thôi; nhưng mình đã học tới đệ nhị niên, hẳn người ta phải giả thêm lương.

Lòng Bình bỗng xốn xang lên, như khi phải tìm một quyết định quan hệ. Anh đưa mắt sang vợ, hỏi ý kiến. Hường, ý muốn gây đời sống độc lập - bởi không nàng dâu nào ưa sống cạnh mẹ chồng - bàn:

- Cậu cứ dạy một chuyến thử xem.

Bình vẫn hy vọng vợ giữ mình lại, hơi nổi gắt:

- Dạy gì lại có dạy thử! Dạy là dạy, không là không.

Bà cụ hỏi:

- Hàng nhà mình ngày càng ế; mấy hiệu tạp hóa mới mở họ cướp hết khách. Trước thì cơm cháo thế nào xong thôi; nhưng mợ Cả sắp ở cữ, anh nên đi làm kiếm ít đồng, phòng khi vợ con đau yếu.

Bình vội vin lấy cớ mà lời mẹ đã gợi cho anh:

- Nhà con ở cữ con so, mà người không được khỏe sẵn, sợ có điều khó khăn chăng. Đi xa con thực không đành.

- Việc gì đã có tôi. Anh ở nhà thì cũng chẳng lợi gì. Đàn ông chỉ thêm vướng chân.

Bình im lặng. Anh ăn không thấy ngon nữa, cố gắng nhai miếng cơm nhạt nhẽo.

*

* *

Chiều hôm đó, bà cụ lại nhắc đến chuyện:

- Anh nghĩ thế nào? Người ta chỉ chờ người thay để mời thầy cũ đi. Mình chậm chân thì hỏng.

- Con phân vân lắm. Vẫn biết là một dịp tốt kiếm ăn, nhưng mẹ đã già yếu, thằng Nuôi thì chả biết gì, nhà con lại sắp ở cữ, con đi xa, ai chăm sóc mẹ.

Đó là cái lý anh đã nghĩ được từ sau bữa cơm sáng. Bà cụ đáp:

- Tôi vẫn còn mạnh. Anh không phải bận bịu về điều ấy. Vả tôi đã bảo tổng Quan Hóa cũng gần, anh có thể về thăm nhà luôn luôn, một ngày nghỉ là đủ đi về.

Lý bị đổ, Bình lặng im; một hồi sau, làm kế hoãn binh, anh chậm rãi nói:

- Vâng, mẹ để con nghĩ.

- Anh còn nghĩ gì nữa. Đã sắp có con có cái, anh phải lo lấy một đường sinh sống chứ. Chẳng lẽ bắt tôi nuôi mãi vợ chồng anh, lại cả con anh.

Điều đó không phải Bình chưa nghĩ đến. Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua, bởi hay sợ nghĩ ngợi, anh chỉ tự bảo: "Chậc! Đến đâu hay đó". Vốn mang một tính vô tư lự gần như ngu dại, Bình không dám nhìn thẳng sự khó khăn, ngơ mặt đi với cái hy vọng sự khó khăn sẽ mất, nhờ một cớ này hay cớ khác, hão huyền hay thần bí. Nghe mẹ nói, anh nghĩ thầm: "Không lẽ thêm một đứa con nít thì cả nhà chết đói à?".

Bà cụ lại tiếp:

- Anh xem bây giờ trong nhà túng bấn thế này. Đầy tớ không đủ tiền nuôi. Tôi không thể nào đương nổi nữa; chả lẽ bắt tôi cứ khó nhọc mãi.

Lời nói dai dẳng khiến Bình khó chịu. Tuy không dám nói ra, trong thâm tâm, anh cho mẹ mình ích kỷ. Những lời trách móc ép buộc khiến anh có cảm tưởng bị hiếp đáp; anh gần như tủi thân và thấy nước mắt rưng rưng. Anh nghĩ dỗi: "Thế ra xưa nay mình vẫn ăn không ngồi rồi đấy! Không có mình thì lấy ai giúp đỡ việc nhà, việc buôn bán?".

Tối hôm ấy, Bình không sao ngủ được. Lời bàn của mẹ, ngay từ đầu anh đã có ác cảm, bởi anh biết sẽ bị làm phiền rầy. Nhưng xem chừng khó kiếm cớ ở lại nhà, anh thử làm quen với ý nghĩ sống xa gia đình. Nhưng nỗi sợ xa lạ, sợ bất ngờ, trước chỉ mơ hồ, bây giờ có thêm rõ rệt trong ý nghĩ. Anh tưởng tượng một sáng kia, anh xách va li tới một chốn đồng ruộng chưa hề đặt chân, bỡ ngỡ hỏi thăm nhà; rồi anh sẽ chung đụng với một ông Lý Toét hay vén quần gãi sồn sột, nốc rượu với thịt chó, và cười nói oang oang đến làm cho khiếp đảm; rồi ngày ngày anh tới lớp để cho bọn học trò mũi thò lò sụt sịt, quần áo bẩn thỉu ăn hiếp, làm ầm ĩ át cả tiếng nhỏ bé của anh. Tất cả lòng hiếu tĩnh của Bình náo động lên, trong niềm lo âu, công phẫn.

Bình nằm nghiêng, má áp trên vai nóng hổi của vợ, và cảm giác êm ả ấy càng làm tăng nỗi rợn sợ cảnh cô độc mà anh có lẽ sắp phải sống. Anh chợt ghì tay vợ, như để cầu cứu, và khẽ kêu lên: "Không, làm sao mà đi cho được!".

Hường thức giấc mơ màng hỏi:

- Gì vậy, cậu?

Bình im lặng, nhưng Hường tiếp:

- Cậu chưa ngủ à? Này cậu ạ, sao tôi cứ quặn đau trong bụng.

Bình chồm hẳn dậy, nhìn vợ:

- Thế à mình? Nó đạp đấy.

Ngay sớm hôm sau, Bình báo điều ấy với mẹ. Cố lấy vẻ quan trọng và lo ngại, anh tiếp:

- Con chắc chỉ vài hôm nữa nó sinh.

Bà cụ quấn quýt về ý nghĩ đứa cháu sắp lọt lòng bận sắm tã, sắm áo, không nhắc đến chuyện dạy học nữa.

Mười hôm sau, Hường đẻ. Bình chạy lăng xăng lái xái, tuy chẳng được việc gì, lòng hơi sợ hãi trước cái bí mật của sinh nở. Bà Hàn Thái tới thăm, và nhân dịp nhắc:

- Thế nào, cậu Cả có đi không? Trên ấy người ta nhắn cần thầy gấp, chả lẽ để người ta chờ mãi.

Bình nhăn mặt; có ý phân trần với mẹ luôn, anh giả làm vẻ lo phiền đáp:

- Thưa bà, như lúc này bà bảo cháu làm sao yên lòng mà đi được. Con bé yếu lắm, bà đỡ bảo nó không đủ cân; mà từ khi sinh đến giờ chưa tiểu tiện lần nào.

Mấy hôm sau, mẹ Bình lại nhắc:

- Bà Hàn bảo nếu hết tháng này mà không lên, thì trên tổng họ mời thầy khác. Người ta có lòng tốt kiếm việc cho, mình lại cứ trì hoãn mãi. Con bé để tôi trông nom là đủ, anh cứ yên lòng mà đi.

Bình không biết kiếm cớ gì để trì hoãn nữa, "vâng" một tiếng buồn thiu. Anh qua một đêm lo lắng không ngủ được, anh tưởng mình lên cơn, và nhờ thế, nghĩ ngay ra kế thác bệnh. Hôm sau, trời đã sáng bạch, anh vẫn nằm đắp chăn tùm hụp trên giường. Thằng Nuôi vào gọi, anh lấy giọng rời rạc đáp:

- Tao mệt, đầu nó đau váng lên.

Thế rồi anh nằm liệt giường từ đó, không ăn cơm được, mỗi bữa cố gắng lắm mới ăn hết ba bát cháo hoa. Anh khoan khoái nằm duỗi thẳng, chăn đắp lút đầu, trí não lười biếng quẫy trong những ý nghĩ bâng quơ. Bà cụ vào thăm, len tay dưới chăn sờ trán con, thấy nóng hừng thực. Bà bảo để cắt thuốc, nhưng Bình vội kêu: "Con chả uống đâu, mệt xoàng thôi, xoa dầu sẽ khỏi".

Thỉnh thoảng, nằm buồn, Bình gọi, giọng yếu ớt:

- Mẹ ơi, bế con vào đây chơi một lúc.

Hoặc anh tẩn mẩn tính xem mấy hôm nữa thì hết tháng.

Một hôm bà mẹ vào buồng báo sau một tiếng thở dài nhẫn nhục:

- Thế là hết: họ chờ mình mãi không được, đã mời một ông giáo khác rồi.

Bình ngồi nhổm dậy:

- Thực à, mẹ?

Nhưng sực nhớ, anh vội để ngã vật mình xuống giường, than thở:

- Hễ cố ngồi dậy là đầu nó cứ choáng váng quay cuồng lên. Thân ốm là cái thân tội!

Thằng xin

Bùi Hiển

Bác chài, đứng chạng trên sạp thuyền, mình hơi lùn, ngực căng vồng rám đỏ, gác thúng cá lên một đầu gối rồi trút cá xuống chiếc lào (1). Chủ thuyền, ông nhà nghề, gọi người mua cá:

- Mụ Phiên đâu rồi, đến nhận thẻ, cà (2).

Những con cá trích, vẩy bạc loang loáng biếc, trượt từ thúng xuống lào lạch đạch. Tay bác chài giật giật nhanh và rất nhẹ, cá lướt từ từ không ép chặt lên nhau trong lào, khiến lợi người bán. Một bác khác quỳ trên sạp, hai tay nổi gân đè xuống cạp lào. Mụ Phiên kêu:

- Đừng đè, đừng đè, bẹp lào của tôi mất. Làm thế thì đong một lào thật ra chỉ được một nửa.

Ông nhà nghề, vốn người làng bên, đáp bằng giọng oang oang của những bộ ngực nở đã quen hò hét giữa sóng gió:

--------------------------------------------------------

1. Thúng đong cá.

2. Kìa.

--------------------------------------------------------

- Nói vậy! Thế thì kẻ đi chài chẳng mấy lúc mà giàu to, ru!

Bác đong cá vứt thúng, đưa tay khỏa cá trong lào cho bằng mặt, đoạn hô, giọng kéo dài:

- Thẻ... e... e... e...

Ông nhà nghề rút trong bó đũa, nắm ở tay một chiếc, giơ cho người mua. Nhưng mụ Phiên kêu giãy nảy:

- Không, không nhận, đong hao thế không được.

Bác chài quỳ rạp mình thò tay bốc dưới khoang ba bốn con cá bỏ vào lào rồi vừa xoa bàn tay trên mặt lào cá vừa nói:

- Đong ngang cạp lào rồi, còn muốn đầy có ngọn nữa cà ru?

Mụ Phiên vẫn hét, mồm quết trầu há đỏ lòm:

- Không cà ru cà rót gì hết, bỏ vô vài mươi con nữa, không thì tôi không lấy.

Mụ bỗng quay lại đét vào lưng một thằng mình trần đến thắt lưng ngồi chồm hổm như con chó tiền rưỡi phía sau mụ:

- Xin, bỏ ra không chết!

Thằng Xin vứt nhanh vào lòng mấy con cá hắn vừa thò tay lấy cắp, đoạn giơ bàn tay còn nhầy nhụa vảy cá, gắt lớn để chối:

- Ai lấy gì đâu?

Ông nhà nghề nói:

- Chào, cái quân hôi cá! Ăn cắp như nhẹm!

Đoạn thừa cơ mụ Phiên đang bận trí về mấy con cá bị hôi, ông gí chiếc đũa vào tay mụ, miệng bảo:

- Trút cá đi.

Bác chài nhanh nhẹn nhấc lào cá trút xuống chiếc xuồng của người mua ghé cạnh thuyền lưới. Mụ Phiên vô tình nắm lấy thẻ, khi sực nhớ, quay lại kêu ầm:

- Lào sau, phải đong cho dôi để bù vô.

Hai bác chài đứng trong khoang thuyền, dùng cào xúc cá vào rổ, chuyển dần lên; chân họ dính những vảy đến tận đầu gối. Nước cá bắn lên má, họ nghiêng đầu giơ cánh tay xát bả vai vào má cho đỡ ngứa xót.

Thằng Xin vẫn ngồi rình, lại thò tay bốc một nắm cá trong rổ. Ông nhà nghề trông thấy, tóm cổ hắn, khiến hắn rụt đầu lại. Ông ta dìu hắn tới mạn thuyền, hắn cưỡng lại rất hăng. Ông bèn ẩy mạnh, hắn lăn tòm xuống sông. Một giây sau, hắn nhô đầu lên, hỉ từ mũi ra hai luồng nước bạc súa, giơ tay bíu lấy tai thuyền. Ông nhà nghề rút một cái cọc chèo, dọt lên tay hắn. Hắn chửi một tiếng thô tục, vung tay vứt mấy con cá đã hôi được vào mặt ông ta, rồi vội hụp xuống lặn một hơi vào bờ.

Về đến nhà, thằng Xin cứ để nguyên quần áo ướt mèm, ngồi cúi đầu chống tay. Mẹ hắn, mụ Xin, đang ngồi làm vàng mã, liếc nhìn nhưng không dám hỏi. Chợt thằng Xin kêu:

- Mẹ!

Mụ hỏi:

- Gì thế?

- Mẹ kiếm trầu cau sang nói với ông Thiệu cho tôi một chân trai dưới thuyền lưới. Rầy tôi không đi hôi cá nữa.

Mụ Xin nhìn con, lo ngại. Thằng Xin ngồi thần lần luồng mắt đen tối dán xuống đất. Hắn gợi lại trong trí mụ hình ảnh cha hắn. Cũng đôi mắt lằm lằm đỏ ngàu, cũng vẻ mặt cảu rảu, cũng đôi môi dày hằn học mím chặt của người chồng xưa, một người đàn ông quá khổ cực vì làm ăn vất vả và đông con, đã quay lại làm khổ mụ suốt hai mươi năm trường. Mụ Xin đã sống nhẫn nhục trong sự hành hạ của chồng cho đến một hôm, một bạn chài tới báo bác Xin đã bị cá mập nuốt. Tấn thảm kịch thực giản dị và ghê gớm: bác Xin lặn xuống gỡ lưới, hồi lâu, bỗng một bong bóng rất lớn nổi lên vỡ bùng trên mặt nước: thế rồi hết. Mụ khóc lóc thảm thiết, và trong lòng thương nhớ vẫn giữ kỷ niệm bi đát của người quá cố, một kẻ tàn nhẫn phũ phàng, nhưng cũng là nơi nương tựa của mụ. Thằng Xin nhắc:

- Mẹ nhá!

Từ mấy hôm nay, thằng Xin nảy ý định đi chài. Mẹ hắn, từ sau cái chết thê thảm của chồng, giữ trong lòng nỗi khủng khiếp huyền bí về biển cả, vẫn khuyên dỗ để giữ đứa con trai một lại. Mụ nói:

- Thôi đừng đi lưới. Cứ ở nhà cũng chán vạn nghề, vác muối thuê...

- ở nhà mà chết đói à? Mẹ bố hắn đếch!

Thằng Xin gắt lên rồi nhìn mẹ bằng luồng mắt lằm lằm. Hắn vẫn không bao giờ tha thứ cho mụ cái tội nghèo. Mỗi khi ăn không đủ no, hắn đá phắt niêu cơm rỗng, vừa chửi đổng vừa nhìn mẹ hắn và mấy đứa em gái đông lít nhít bằng cái nhìn thấm thía. Mùa đông, những đêm quá rét, không ngủ được, hắn xé toạc cả những chăn bì vứt tung tóe, lấy chổi hoặc giật tranh mái nhà đốt ngồi sưởi.

Mùa rét sắp đến, những thằng Đĩ Côn, Năm Xòe, đồng tuổi thằng Xin, hoặc kém hơn - trong làng có tục tảo hôn - lần lượt lấy vợ. Lòng thằng Xin càng nung nấu trong sôi nổi giày vò của khí huyết.

*

* *

Thằng Xin nuôi tha thiết cái ý định góp nhóp để làm giàu. Có tiền thì không ai ức hiếp được mình. Có tiền lại cưới được vợ. Bỏ nghề hôi cá khốn nạn, hắn đi trai dưới thuyền lưới ông Thiệu. Hắn vui lòng hầu hạ bạn chài, thổi cơm, tát nước, đêm khuya lò dò trong xóm ran tiếng chó để gọi người đi biển. Hắn cũng sắm, như những bạn chài khác, một cái hòm mộc vuông để mang theo vật dụng và lương thực khi ra khơi; hắn góp nhóp tiền phần của mỗi chiều lưới - phần trai ít ỏi lắm, chỉ bằng nửa phần tiền bạn thôi - thêm vào đó khoản bán mực hay cá hắn đã câu được. Mỗi lần về nhà hắn lại mở hòm ra đếm tiền, tỉ mỉ xâu thành từng chuỗi, dưới mắt ham muốn nhưng nhẫn nhục của mẹ hắn. Hắn tính chỉ trong dăm tháng, hắn có thể có tới vài chục quan tiền, đủ cưới vợ, và hắn rủa lên một tiếng bằng lòng. Hắn định sẽ bàn với mẹ để đi dạm con Chắt bên xóm Đoài, mà hắn đã để ý đến đôi má béo hồng...

Một hôm, thằng Xin trích ra một số tiền nhỏ đi chợ huyện. Đã biết làm đỏm, hắn sắm một cái gương nhỏ hình bồ dục, một cái lược sừng tiền rưỡi để khỏi phải dùng thứ lược cài bằng dây thép. Hắn lại liều mua thêm cái khăn mặt đỏ để cột lên đầu, giữ tóc. Như thế chắc hắn sẽ có vẻ bảnh trai lắm. Chiều, thằng Xin trở về. Khi muốn cất những vật mới mua vào hòm, hắn bỗng giật thót: chìa khóa không có trong túi nữa. Hắn gọi thất thanh:

- Mẹ ơi! Mẹ!

Mụ Xin đang nấu cơm dưới bếp, chạy lên. Hắn nói không ra hơi:

- Mất mất rồi, mẹ ạ... Mất rồi!

- Mất gì kia chứ?

- Cái chìa khóa.

Mụ Xin sợ con nổi cơn điên, xăng xái tìm, nói luôn miệng:

- Tìm lại trong túi coi. Hay là hắn rơi xuống đất? Không chừng để quên trong áo mi thay khi ra đi.

Thằng Xin nhảy xổ đến thọc tay vào túi chiếc áo còn giắt trên vách. Mắt hắn lộ vẻ thất vọng. Mụ Xin cúi nhìn khắp trên nền đất, luôn miệng nhắc:

- Cứ tìm, thế nào cũng thấy. Không mất đi đâu được. Cứ tìm cho khắp.

Bụng thoáng một ý lo sợ, thằng Xin chạy tới nhắc hòm lên. Hắn thấy nhẹ hơn mọi hôm, bèn lắc hòm rất mạnh và rất lâu rồi kêu lên, giọng tuyệt vọng:

- Chết rồi, ai ăn cắp hết tiền của tôi rồi.

Mụ Xin cũng tới nhắc hòm xem nặng nhẹ. Giữa lúc đó, thằng Xin đã chạy đi lấy con dao rựa lên, xô mẹ ra tàn nhẫn, đoạn phăm phăm cạy nắp hòm. Mảnh gỗ bật tung, mở hoác. Nhìn vào góc hòm trống rỗng, thằng Xin có một giây im lặng ngơ ngác, rồi bỗng cơn điên của hắn nổ bùng. Sau một tiếng nguyền rủa độc địa, hắn hét lên, lưỡi líu lại:

- Đứa nào ăn cắp tiền đây, bỏ ra không thì bố hắn cũng chết! Mẹ hắn cũng chết! Tao giết chết cả nhà!

Bất thần, luồng mắt đỏ ngàu của hắn chụp lấy mụ mẹ. Mụ rúm người lại, mặt tái mét. Mụ biết hắn có ý nghi cho mình. Mụ bỗng nhớ ra:

- à, khi nãy có thằng Năm vô đây.

Thằng Xin vẫn nhìn mụ lăm lăm.

- Ai, thằng Năm Chột à?

- Hắn đó. Lúc ấy tao ở dưới bếp đi lên thì thấy hắn đi ra cổng. Hắn vô lúc nào tao không biết.

Một tia chớp lóe trong trí thằng Xin. Hắn nhớ khi đi ngang cổng nhà thằng Năm, hồi sáng, có nghe một tiếng "keng" của vật gì rơi. Hắn vừa nhìn xuống đất, vừa soát túi, thấy chuỗi tiền vẫn y nguyên, hắn yên lòng bỏ đi, không nghĩ đến chìa khóa. Khi ngẩng đầu hắn thấy thằng Năm đứng tựa cổng, chăm chú nhìn chỗ hắn vừa dừng lại bằng con mắt chột. Thằng Năm gặp luồng mắt hắn thì vội quay mặt đi, giả tảng đùa với con chó mực.

Thằng Xin đứng lặng suy nghĩ, ngực thở từng hơi mạnh. Chợt hắn phăm phăm đi ra. Mụ Xin vội nhẩy tới nắm lấy tay cầm dao của hắn. Hắn đạp mụ ngã lăn. Không ngoái lại, hắn vác dao lao ra cổng, rẽ quặt về phía nhà thằng Năm Chột. Mụ Xin đau quá nằm bất động trên đất. Gần như ngờ ngạc đi, mụ vẫn cố dõi theo bước chân thằng con chạy thình thịch.

Có tiếng cổng nứa bị đẩy cào đất lạc rạc, tiếng con chó Mực sủa, tiếp theo liền tiếng rít đau đớn ghê tai của nó. Rồi một cuộc trao lời huyên náo, thằng Xin hét, chửi, dọa, thằng Năm, hét, chối, chửi lại. Bỗng một tiếng kêu: "Ua chao ôi!" của thằng Năm rít lên. Rồi im lặng.

Mụ Xin nhắm mắt, tưởng ngất đi. Khi mở mắt, mụ thấy thằng Xin chạy về, ôm trên bụng những chuỗi tiền đồng. Tay kia vẫn cầm con dao rựa; con dao loang máu đỏ thắm. Hắn nói lẩm bẩm: "Cho chừa cái thói ăn cắp."

- Mi... Mi...

Mụ Xin run lên lập cập, không nói được nên lời. Thằng Xin vứt dao xuống nền nhà, máu văng ra, điểm mấy giọt tròn đỏ thẫm trên đất. Hắn bỏ những chuỗi tiền qua khe hở của hòm, vừa bỏ vừa đếm. Đoạn hắn ngồi trên mặt hòm, tay chống đầu gối, yên lặng nhìn con dao. Mụ Xin vẫn ngồi quỵ, vẻ mặt ngu độn.

Bên hàng xóm, tiếng xôn xao nổi lên, theo tiếng lô la của mụ Lập, mẹ thằng Năm. Hồi sau, một toán người rùng rùng chạy tới, đi trước hết là mụ Lập, miệng vừa khóc vừa thét: "Hắn giết con tôi, ua làng nước ôi!", hai tay đỡ ngang mình thằng Năm mê man, mắt nhắm, tay phải buông thõng, bàn tay cụt hẳn! Máu phun ra như vòi từ cổ tay, nhưng mụ Lập, theo thói nhà quê hay "phân bua" cứ đứng trước mặt mụ Xin kể lể:

- Hàng xóm coi đây này, thằng Xin hắn giết chết con tôi rồi! Hắn giết chết con tôi rồi! Ua Xin ôi là Xin ôi! Ai lặt hộ con dao cho một tí để tôi trình làng.

Các bác đàn ông hét nhau mời ông Lý và kiếm giẻ, kiếm thuốc lào để cầm máu. Căn nhà nhỏ huyên náo lên.

Duy thằng Xin vẫn ngồi lặng yên. Hắn ngồi đè lên hòm tiền như sợ bị mất cắp lượt nữa.

1940

Về làng

Bùi Hiển

Cách rất thái bình, ba người đàn bà ngồi thành hàng dọc bắt chấy cho nhau. Con Thơi ngồi bên ngạch cửa, bằng những cử động nhỏ và lẹ của ngón tay, vạch mái tóc ả Đỏ, chị dâu nó. Người chị dâu, ngồi chồm hỗm trên một cái ghế đòn, đến lượt mình quào quào trên đầu mẹ chồng. Mụ Chuồng ngồi bệt trên đất, hai chân duỗi bắt chéo, hơi dựa ngửa để vịn cùi tay lên đùi con dâu. Mắt lim dim, mụ mím miệng cắn cắn một cái gì, làm cho thịt má phía trên quai hàm nổi lên.

Mỗi khi ai bắt được con chấy, người ấy bèn cặp nó giữa hai đầu ngón tay, vuốt dọc sợi tóc, rồi đặt lên bàn tay người bấy lâu đã cho nó ở cư. Người này nhìn một chút xem con bọ có béo không, trước khi đập bàn tay lên miệng cho nó bật lên lưỡi. Lưỡi lo le vài cái để đặt đúng con chấy giữa hai hàm răng, rồi người ta nghe một tiếng "cốp" nhỏ.

Chợt có tiếng ai nói ngoài cổng: "Đây rồi".

Mụ Chuồng đứng thẳng dậy nói:

- Ai như nhà Đỏ Chuồng ấy.

Một người đàn ông trẻ mặc sơ mi và quần Âu đi vào, dắt tay một cô gái áo hồng dài lê thê, quần nhiễu trắng, dép cao gót. Mấy đứa trẻ chạy theo, kháo nhau: "Bà đầm à, bay?".

Ba người đàn bà đứng sững mà nhìn.

Mụ Chuồng đã nhận ra con trai của mình, nhưng thấy con đi với người lạ ăn mặc sang trọng thì chưa dám nhận. Mụ hỏi:

- Nhà Chuồng đó phải không?

Người con trai cau mày, đáp:

- Chả tôi thì còn ai!

Đoạn anh quay lại cô gái tân thời:

- Vào đây em, Tuyết, cứ đòi về quê mãi, đã thấy quê chưa?

Tuyết sẽ gật đầu chào mụ Chuồng, rồi vừa đi vào vừa hỏi nhỏ:

- Bà via đấy phải không? Hai người kia là ai? Em Chương đấy hả?

Mụ Chuồng và hai con vẫn đứng nhìn, cách khiếm nhã. Chương bèn bảo:

- Thơi, xuống bắc siêu nước, mau. Rồi múc một thau nước lên đây.

Quay lại, anh trừng mắt nhìn vợ, ả Đỏ bỏ xuống bếp. Mụ Chuồng không biết làm gì, đuổi mấy đứa con nít ra, đóng cổng rồi cũng đi theo ả.

Chương đưa Tuyết vào nhà. Lo lắng dò sự phản ứng của nhân tình, anh hỏi:

- Thế nào, có khó chịu lắm không?

Tuyết ngửng nhìn quanh:

- Dễ coi đấy chứ. Cũng sạch sẽ, ngăn nắp.

Chương tỏ vẻ vui sướng. Anh nói:

- Thế nhưng không ở được lâu đâu. Tự giam mãi, đây chết buồn mất.

Tuyết đi rửa tay.

Mụ Chuồng ló mặt sau tấm vải nâu che cửa buồng gọi:

- Nhà Chuồng! Vô hỏi.

Chương đi vào, đưa mẹ xuống bếp để nhân tình khỏi nghe câu chuyện mình sắp nói. Anh gắt mẹ:

- Cái mồm thì cứ bô bô. Chuồng! Chuồng! Là cái quái gì? Cái tên mẹ đặt cho tôi hay ho quý báu lắm đấy mà mẹ tưởng tôi giữ mãi làm của hương hỏa?

Mụ Chuồng đáp chậm và dài giọng:

- Thì ai có biết!

Người con trai gắt nữa:

- Không biết thì câm đi. Từ giờ tôi tên là Chương, ai quên tôi cắt miệng.

Chương là một đứa đẻ rơi. Mụ mẹ đang cho lợn ăn bỗng thấy quặn đau, ngồi quỵ cạnh chuồng. Thằng bé lọt lòng giữa mùi phân và những tiếng ủn ỉn, người ta đặt ngay cho nó, cách thực là giản dị, cái tên thằng Chuồng. Vả như thế, càng dễ tránh sự dòm ngó không hay của ma quỷ. Mụ mẹ đã đẻ bốn lần không nuôi được, lần này phải đặt cho nó một tên thực xấu, đến ma quỷ cũng lảng xa.

Cha Chương làm nghề đánh cá, vừa đủ cung cấp cho sự sống của gia đình nếu mùa lưới được. Lên sáu, Chương phải đi "hôi", nghĩa là khi có thuyền vào bán cá thì bơi ra bám lên ngồi thu lu một xó, rồi trong lúc không ai ngờ, thò tay đánh cắp vài con. Người ta bắt được, xô cho lăn tòm xuống sông: nó lại lóp ngóp bơi vào bám lấy thuyền. Khi cha bị cảm chết, Chương vừa mười tám tuổi và đã cưới vợ được ba năm. Anh bỏ ra Mông Dương làm mỏ. Vừa gặp thời vận, lại khôn ngoan, lanh lợi, anh dấy nghiệp rất mau, từ phu lên cai, rồi nhẩy ra làm thầu khoán, gây được số vốn vài vạn. Tên Chuồng xấu xí không còn ăn nhịp với cái xã hội giàu sang anh vừa bước chân vào. Khéo léo anh đổi sang tên Chương.

- Tôi cắt miệng. Chứ đừng có tưởng! - Chương nhắc lại.

Mụ mẹ bị cự ngồi yên, miệng bìu bĩu, Chương hơi hối, bắt sang chuyện khác. Anh rút từ túi quần ra một tệp giấy bạc:

- Này mẹ cầm lấy đây mươi đồng, bảo con Thơi chạy ra chợ mua cái gì về thổi cơm ăn. Bảo nó nấu cho sạch sẽ ngon lành một chút.

Mụ Chuồng nhận tiền, đổi sang vẻ mặt hí hửng. Mụ nhớ lại ý định của mụ khi gọi con vào buồng, ý định mà nãy giờ, bị cự, mụ đã quên đi. Mụ chỉ tay về phía nhà trên, hỏi khẽ:

- Chớ ai ngoài ấy?

Chương im lặng một giây. Rồi như để đánh tan sự do dự, anh nói bật ra, giọng to gần như khiêu khích:

- Vợ tôi đó, chứ ai nữa!

Mụ Chuồng hơi sa sầm mặt, tuy đã ngờ tới điều đó ngay từ khi hai người vừa bước chân vào nhà. Chương vội tiếp, dùng kế kim tiền ngừa sự trái ý của mẹ:

- Thôi mẹ đi mau lên, đói bụng rồi. Để hôm nào tôi cho mẹ dăm chục.

Đoạn anh đi lên nhà trên.

Thấy con dâu và con gái ngồi ngoài chỗ vại nước rửa, mụ Chuồng đi ra. Mụ nói:

- Thật rồi, bay nạ, hắn lấy vợ đằng ngoài. Cái con ấy là vợ hắn đó.

Con Thơi ngửng nhìn chưa tỏ vẻ gì. ả Đỏ thì cúi mặt, lẩn mẩn dùng ngón chân cái bẩy đất lên. ả im lặng, không khóc, mắt chỉ hơi buồn chút thôi. Chồng ả bỏ đi làm ăn biệt tăm thế là đã bảy tám năm: ả vẫn ở vậy, làm đủ bổn phận người con dâu trong gia đình và cam chịu cảnh cô đơn, lâu ngày thành thói quen nhẫn nhục.

Mụ Chuồng giao tiền cho con Thơi đi chợ. Mụ dặn mua lòng lợn, miến, cua, những thức ăn sang đối với nhà mụ. Con Thơi đi rồi, mụ hỏi ả Đỏ:

- Giừ làm cách nào nạ?

Hồi lâu, ả Đỏ mới đáp, giọng hơi chua chát:

- Làm cách nào? Anh ấy đi làm có tiền, thì anh ấy lấy vợ đẹp, vợ sang. Tôi thì đáng cái chân xách dép cho người ta thôi.

Chợt trên nhà có tiếng Chương gọi:

- Thơi ơi! Thơi!

Mụ Chuồng gọi vọng lên:

- Con Thơi đi chợ rồi.

Mụ bảo con dâu:

- Nhà mi lên một tí, coi hắn nhủ chi.

ả Đỏ đáp xẵng:

- Tôi chả.

ý chừng sợ bật khóc, ả bỏ vào bếp. Mụ Chuồng đành lên vậy. Mụ hỏi Chương:

- Nhủ chi đó?

- à, tưởng con Thơi còn ở nhà thì mượn thay cho thau nước.

Mụ Chuồng đi thay nước, bưng lên, đoạn đến ngồi bệt trên ngạch cửa cách tự nhiên.

Trong khi Chương rửa mặt, Tuyết mở ví ra soi gương điểm trang lại. Mụ Chuồng chăm chăm nhìn cô ta một cách tò mò mê mải. Mụ thấy cô ta tấp tấp nhẹ cái nhúm bông lên mặt, phiết lên đó những vạt phấn trắng. Rồi cô ta thoa đều, nghiêng mặt bên này, bên kia, ngước ngắm thoa cổ, săn sóc đến cả vành tai. Đoạn cô ta làm má hồng, kẻ lông mày, dệch miệng ra mà tô môi son. Mụ nhìn những trò kỳ dị ấy, lòng gần như rợn sợ. Cái người lịch sự, răng trắng nhởn, quần áo xanh đỏ kia muốn xen vào gia đình của mụ? Mụ có hắn làm con dâu? Làng nước sẽ cười mụ thối đầu! "Con dâu như thế để hầu hắn à? Liệu có gánh nước được không? Nấu nồi cơm chưa chắc đã chín!" Mụ nghĩ thầm.

Chương thay quần tây đẹp vào, tới gần nhân tình âu yếm hỏi: "Xong chưa?". Tuyết gật. Hai người sửa soạn ra đi.

Mụ Chuồng hỏi trống không:

- Định đi mô giừ đó?

Chương đáp:

- Dạo xem làng một chút. Ghé ra chợ, lên chùa rồi về ngay. Mẹ bảo con Thơi làm cơm nhanh nhanh.

Mụ Chuồng nghĩ: "Dắt hắn đi nhong nhong giữa làng để bêu xấu tao à?" Bìu bĩu môi mụ nói:

- Thôi, đi về mệt, nằm nghỉ một tí rồi mà ăn cơm.

Chương nhất quyết ra đi:

- Chúng tôi về ngay mà.

Chương đem vợ mới về làng do một ý hợm: cho thiên hạ biết cái thằng Chuồng mắt toét đi hôi cá thủa xưa bây giờ giầu sang hơn cả mấy ông trọc phú trong làng đến bực nào. Một ý hợm có chen láo xược: anh kể như không có vợ ở nhà, người vợ quê mùa xấu xí bố mẹ đã cưới cho và đã sống cạnh anh ba năm.

Chương và Tuyết đi rồi, mụ Chuồng vẫn ngồi nói một mình:

- Chẳng biết hắn cho ăn phải bùa phải bả chi mà đeo đẳng lấy hắn.

Vốn nòi nhà quê cần cù, mụ thù ghét bọn tỉnh thành đài các nhởn nhơ. Việc con mụ về làng cặp theo một cô tân thời làm mụ hổ thẹn: hàng xóm sẽ nghĩ như mụ rằng đó chỉ là một con đĩ rông dài, sống để phung phí ăn chơi và để được hầu hạ.

ả Đỏ đang cho lợn ăn; ả ngoáy mạnh bàn tay trong chậu, trộn đều cám và bèo, dáng nhanh nhẹn, tháo vát. ả vẫn làm đủ công việc , vẫn chăm chỉ, tuy vẻ buồn có thoáng ở hai môi mím và mí mắt trập.

Mụ Chuồng cũng chẳng hề có ý tưởng so sánh ả Đỏ với Tuyết nữa; ả Đỏ trội hẳn lên. Mụ đi ra, đứng cạnh con dâu, tay chống cột chuồng. Mụ càng thương mến ả Đỏ hơn bởi hai người cùng chịu một nỗi đau buồn. Mụ nói vẩn vơ để dắt tới chuyện Chương và Tuyết:

- Hai đứa đi ra chợ rồi.

Người con dâu không đáp, vẫn cúi nhìn đàn lợn ăn hộc tốc, nhui mõm trong chậu. Mụ tiếp, lời hơi hoa hòe nữa:

- Thứ đàn bà ấy thì tốt đẹp chi. Hắn như con bướm liệng vành, chán rồi là bỏ.

Giọng mụ đổi sang quả quyết:

- Hắn đã bỏ bùa thì ta giã bùa. Thẹn với làng nước lắm. Mi cứ nín lặng, rồi lấy cái yếm vừa mới thay ra ấy...

ả Đỏ ngắt lời:

-Tôi chả!

Mụ Chuồng hơi gắt:

- Con ni dở hơi lắm. Thế cứ chịu để hắn cướp mất chồng à? Để tao nhủ con Thơi đi bứt ít lá mùng tơi về hấp cơm rồi đùm trong cái yếm của mi, rồi nấu canh cho nhà Chuồng hắn ăn, là tỉnh mê liền.

ả Đỏ coi ý ưng thuận. Nhưng ả vẫn nói nho nhỏ trong miệng "Tôi chả..." như thể ả nghĩ như thế là hạ mình.

Vừa lúc Chương và Tuyết về. Chương hỏi:

- Sắp có cơm chưa?

Mụ Chuồng đáp:

-Đang nấu. Em hắn cũng vừa về.

- Bảo nó nhanh lên chứ.

Mụ Chuồng và ả Đỏ bỏ xuống bếp làm cơm.

Chương nói với Tuyết:

- à, sáng nay xuống tàu mà quên hỏi nhà ga xem đúng mấy giờ thì tầu tốc hành ra Bắc ngang qua đây.

Mụ Chuồng dừng lại hỏi:

- Sao? Lại ra liền à?

- Sáng mai chúng tôi đi sớm.

- ở lại chơi ít ngày đã. Chả mấy khi về.

- Ngoài ấy đang bao nhiêu công việc bề bộn, phải ra.

Mụ Chuồng không nài thêm. Mụ tất tả chạy xuống bếp báo với con dâu:

- Mai hắn ra Bắc rồi. Mau, mau, đi kiếm ít lá mồng tơi về tau làm cho.

ả Đỏ nhờ Thơi đi bứt lá. Mụ Chuồng nói:

- Hắn đi lật đật quá, thì không kịp coi thuốc đã hiệu nghiệm ra sao. Nhưng hiệu nghiệm thì ra ngoài ấy hắn sẽ bỏ con ni ra. Mi đi thay yếm đi. Nhớ đừng cho ai biết.

ả Đỏ vội vàng vào buồng cởi ở mình ra cái yếm bẩn sắp dùng để ấp hơi mồ hôi của ả vào nhúm mồng tơi dành cho chồng ăn giải bùa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lamtung