lamtung tn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trong một nghiên cứu mới đây về giả thuyết người ngoài hành tinh và các nền văn minh tới từ hành tinh khác, các nhà khoa học kết luận, chỉ có hai khả năng: Hoặc chúng ta cô đơn trong vũ trụ hoặc có người ngoài hành tinh nhưng họ sẽ tìm cách thống trị chúng ta để khai thác tài nguyên.

Người ngoài hành tinh. (Ảnh minh họa).

Theo nghiên cứu của tác giả Simon Conway Morris ở Đại học Cambridge (Anh) và các cộng sự, đăng tải trên tạp chí khoa học Philosophical Transactions of the Royal Society A, hai khả năng trên dường như dễ xảy ra nhất hiện nay. Nguyên nhân do quá trình tiến hóa có thể đoán biết trước và quá trình này sẽ khiến các sinh vật ngoài hành tinh rồi sẽ trở thành những giống loài thông minh như chúng ta, với sức mạnh vượt trội về mặt công nghệ và cơn khát ngày càng tăng về khoáng sản, nguyên liệu.

Những sinh vật đô hộ nhân loại

Morris nói rằng, các sinh vật đã khai thác gần như mọi thứ tài nguyên mà Trái đất có. Cuộc sống trên Trái đất vì thế sẽ tồn tại theo những giới hạn nhất định, giống như mọi sự sống ở khắp nơi trong vũ trụ. Bên cạnh đó, quá trình tiến hóa của các sinh vật diễn ra theo một quy trình có thể đoán trước nên cũng sản sinh ra một kết cục người ta có thể đoán biết được.

Dựa vào đó, Morris tin rằng, sự sống ngoài hành tinh, nếu tồn tại, sẽ giống với sự sống trên trái đất và họ cũng có trí thông minh như chúng ta. Những sinh vật này có thể trông không giống người ngoài Trái đất nhưng mọi sự khác biệt chỉ nằm ở lớp da bên ngoài. Song, Morris nói rằng, con người nên dè chừng các sinh vật ngoài hành tinh bởi họ có thể đang trong cơn khát tài nguyên khoáng sản giống chúng ta và có thể tìm cách xâm chiếm Trái đất.

Đây cũng là quan điểm của một số nhà nghiên cứu khác, nhất là nhà vật lý Stephen Hawking, người đã công khai bày tỏ tin tưởng rằng có sự sống ngoài hành tinh. Hồi tháng tư năm ngoái, ông cảnh báo, người ngoài hành tinh có thể sẽ khai thác Trái đất để tìm các nguyên liệu quan trọng phục vụ họ, thay vì “giao lưu” văn hóa với sự sống trên Trái đất.

Chúng ta phải tự nhìn vào chính mình để thấy cuộc sống thông minh có thể phát triển thành thứ mà chúng ta không mong muốn” - Hawking nói - “Tôi tưởng tượng, họ có thể tồn tại trong những con tàu lớn, đã sử dụng hết các nguồn lực từ hành tinh của mình. Những người ngoài hành tinh tiến bộ như thế có thể trở thành người du mục, tìm cách chinh phục và chiếm làm thuộc địa bất cứ hành tinh nào mà họ tới được”.

>>> Hawking: Con người không nên liên lạc với sinh vật ngoài trái đất

Ông nói rằng, nếu người ngoài hành tinh tới Trái đất, chuyện sẽ giống với Christopher Columbus lần đầu tiên đặt chân lên châu Mỹ mà kết quả sau đó không tốt đẹp cho những thổ dân da đỏ.

Chúng ta hoàn toàn đơn độc?

Viễn cảnh người ngoài hành tinh tham lam, xâm chiếm thuộc địa là rất đáng báo động. Nhưng Conway Morris nghĩ về một kịch bản khác cũng rất đáng buồn và có nhiều khả năng trở thành sự thực. Đó là chúng ta hoàn toàn cô đơn trong vũ trụ này.

Ông nói rằng, vũ trụ rộng lớn tới phi thường và có thể chứa trong nó ít nhất 100 tỷ thiên hà. Thái dương hệ của chúng ta lại khá trẻ so với toàn bộ vũ trụ, khoảng 4,6 tỷ năm tuổi so với 13,7 tỷ năm. Vì thế, đã có rất nhiều thời gian để một nền văn minh ngoài hành tinh xuất hiện và phát triển mạnh hơn nhiều chúng ta. Nhưng thực tế rằng, người ngoài hành tinh chưa liên lạc với chúng ta là dấu hiệu cho thấy ngoài vũ trụ dường như không có sự sống.

Ông cũng đánh giá, khoảng cách quá lớn chia cắt các nền văn minh ngoài hành tinh không phải là trở ngại quá lớn với hoạt động liên lạc. “Ít nhất cho tới thời điểm hiện nay, khoảng cách 100.000 năm ánh sáng không phải là không vượt qua nổi” - ông tuyên bố.

Lẽ dĩ nhiên, không phải ai cũng đồng tình với quan điểm của Morris. Một nghiên cứu khác của nhà khoa học Albert Harrison đăng trên cùng số báo với Morris lại cho rằng, việc phát hiện một cuộc sống ngoài hành tinh có thể đem đến những điều thú vị thay vì nỗi sợ. Đó là vì sự sống ngoài hành tinh có thể còn mang tính sơ khai hoặc gây tò mò cho nhân loại.

Bằng chứng đầu tiên về sự sống ngoài hành tinh có thể là một vi bào đến từ sao Hỏa hoặc các hành tinh khác giống Thái dương hệ của chúng ta. Đó cũng có thể là một tín hiệu điện từ bất ngờ phóng tới trái đất. Dù tình huống nào xảy ra, kịch bản sẽ không hề giống trong phim Đại chiến giữa các thế giới, với cảnh người ngoài hành tinh dùng tàu vũ trụ hiện đại xâm lược chúng ta.

Harrison chỉ ra rằng, dựa vào những gì đã xảy ra trong 50 năm qua như sự phát triển về công nghệ, các chuyến bay vũ trụ, khoa học không gian và sự hiểu biết của nhân loại về vũ trụ đã chuẩn bị cho chúng ta rất tốt trước viễn cảnh gặp gỡ sự sống ngoài hành tinh.

Các thành tựu đó tạo nên cảm giác rằng mọi chuyện đều có thể xảy ra. Tôi tin rằng, sự sống ngoài hành tinh có trong vũ trụ và chúng ta sẽ sáng chế ra những phương tiện công nghệ hiện đại để phát hiện ra các sự sống ấy” - ông tuyên bố.

Thời gian qua, vùng Primorsky thu hút sự chú ý của các nhà UFO học. Ở đây có những hiện tượng lạ mà các nhà nghiên cứu cũng như dân địa phương buộc phải nghĩ đó là các vật thể bay không xác định UFO.

Ảnh mang tính minh họa. (Nguồn internet)

Тrong vòng nửa năm nay, những người đánh cá trên hồ Blagodatnoe (Khu Terneisky, LB Nga) là nhân chứng của những chiếc đĩa màu xám bạc, giống như chiếc mũ nồi, phần chu vi của nó có những đốm sáng, tựa như các đèn chiếu, bay đi bay lại ở độ cao chừng 600 mét, Nó quay liên tục để phát tán đồng dều các tiếng ồn và toả ra những làn khói dày đặc. 

Ngoài ra nó còn rắc những chiếc kim nhỏ bằng kim loại xuống mặt đất. “Chiếc đĩa” rơi xuống biển còn kim thì hôm sau những người đánh cá nhặt về. Các nhà nghiên cứu chưa hề làm gì ở địa điểm này.

Viên thanh tra lâm nghiệp trong vùng khi đi quanh rừng taiga trông thấy một con gấu đứng chồm lên, chờn vờn trên hai chân sau ở giữa vùng đồi cỏ và gầm gừ, hai chân trước với lên chiếc đĩa lớn màu đỏ phía trên đầu nó, cách chừng nửa mét. Một làn hơi từ miệng nó toả ra, dù đó là mùa hè ? Dường như vật thể bay lạ đang dùng lửa để đốt cháy con vật bất hạnh. Người thanh tra vội vàng bỏ chạy vì sợ...

Đó không phải là chuyện lạ duy nhất đối với những con vật. Năm 2009, một người thợ săn tên là Vladimir Tchetchurin từ làng Amgy bị mất con ngựa. Một vài ngày sau tìm thấy con ngựa đực ấy nhưng đã chết. Xương của nó còn nguyên, nhưng tim và phổi thì không còn. Một năm sau, câu chuyện lại lặp lại với con ngựa cái của Tchetchurin. Người thợ săn nhớ lại, một vài ngày trước khi mất ngựa, ông ta thấy vài UFO nhỏ lượn trong vùng.

Hai mươi năm trước tại trên ngọn đồi trọc ở vùng Samor, người ta phát hiện một tấm kim loại nóng chảy. Phân tích hoá học cho thấy nó là một tấm crom tinh khiết. Sau mới biết tấm kim loại này được luyện từ một nhà máy ở Ural.

Ngay sau đó người ta còn tìm thấy những tấm crom ở gần làng Krasnoretchensk (khu Dalnegorski) và tại một khu mỏ ở Nizna Luzka (khu Kavalerovski). Vì sao lại có những tấm crom rơi xuống vùng này vẫn là điều bí ẩn. Liệu có phải từ UFO vứt xuống không?

Tóm lại người ngoài hành tinh không những biết ăn cắp crom từ nhà máy, mà ông Nicolai Golik còn tìm thấy trong ngôi nhà nghỉ cuối tuần của mình ở Arsenieva những cục đất sét bị thiêu kết giống như một loại quặng bí mật nào đó. Ông đem hiện vật này đi phân tích. Thì ra mảnh đất sét chứa một lượng lớn nguyên tố đất hiếm là lantan. Trong quặng người ta còn phát hiện photphit cesi có thể dùng trong các lò chân không.

Một người dân Vladivostok là bà Evdokia Kirillova Kuzmina, sống tại ngôi nhà số 19 phố Hersonsky khẳng định rằng nhiều lần phía trên ngôi nhà của bà có một quả cầu lửa lớn treo lơ lửng, để lại sau nó một đám mây gồm những bụi màu da cam bẩn, lắng đọng trên mái nhà và các đồ vật để ngoài trời. Kể từ lần xuất hiện vật thể UFO đầu tiên đến nay, bà thấy khó chịu trong người và con mèo nhà bà bị ốm vẫn chưa khỏi.

Những mẫu bụi bí hiểm được chuyển đến Phòng thí nghiệm DVO thuộc VHLKH Nga để phân tích. Việc giám định sơ bộ cho thấy chúng có bản chất sinh học. Trong môi trường axit, buị không hoà tan mà trương lên và thay đổi màu, thành màu nhạt hơn. Theo nhận xét của nhà nghiên cứu, lần đầu tiên ông ta gặp những hợp chất sinh học bị oxy hoá. Mẫu bột “từ hành tinh khác” được chuyển cả tới Viện Hoá học các hợp chất sinh hữu cơ Thái Bình Dương để nghiên cứu sâu hơn.

Nhà UFO học ven biển nổi tiếng Valeri Dvuzilnưi trong nhà có một kính viễn vọng tư tạo thường xuyên quan sát và chụp ảnh bầu trời vào ban đêm. Nếu như tin vào những chứng cớ ông thu thập được, thì hằng đêm trên bầu trời Dalnegorski có những quả cầu sáng rực bay lơ lửng. Nhà nghiên cứu cũng bỏ công đi khắp vùng xung quanh, thử xem có lượm được hiện vật bất thường nào không. Ví dụ như một mảnh kim loại phát sáng khi tiếp xúc chẳng hạn. Hoặc một gốc cây bị cháy dở vì một nguyên nhân khó giải thích, nhưng ông vẫn chưa có trong tay bất cứ hiện vật gì.

Trung Quốc điều tra Tam giác quỷ phương Đông

Giới khoa học Trung Quốc sẽ nghiên cứu vùng nước bí hiểm trên hồ nước ngọt lớn nhất đất nước, nơi hàng trăm tàu, thuyền mất tích một cách kỳ lạ trong mấy thập kỷ qua.

>>> Bí ẩn tam giác quỷ Trung Quốc

Chim kiếm ăn trên mặt hồ Phàn Dương. (Ảnh: absolutechinatours.com).

Hơn 200 tàu, thuyền chìm trong một vùng nước bí ẩn thuộc hồ Phàn Dương tại tỉnh Giang Tây, Trung Quốc kể từ thập niên 60. Vùng nước đó gần đền Laoye ở phía bắc hồ và người ta gọi nó là "Tam giác quỷ phương Đông".

Theo báo Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc, các nhà khoa học Trung Quốc sẽ tranh thủ tìm hiểu hồ Phàn Dương trong mùa khô hiện tại, khi diện tích mặt nước của hồ giảm mạnh so với các giai đoạn khác trong năm. Các nhà nghiên cứu sẽ tập trung tìm hiểu vùng nước gần đền Laoye - thuộc huyện Đô Xương - với hy vọng sẽ vén được bức màn bí ẩn xung quanh nó.

Vô số tàu, thuyền đã chìm không rõ nguyên nhân trong vùng nước Đền Laoye trong hàng nghìn năm qua. Thậm chí ngay cả một chiếc tàu có trọng tải tới 2.000 tấn cũng chìm trong "Tam giác quỷ". Các tài liệu lịch sử cho thấy 13 tàu đồng loạt đắm trong vùng nước Đền Laoye vào ngày 3/8/1985 - một sự kiện hiếm thấy trong lịch sử các vụ tai nạn đường thủy. Xác của những chiếc tàu, thuyền xấu số chưa bao giờ được tìm thấy. Người dân địa phương tin rằng một thế lực siêu nhiên nào đó hiện diện trong hồ.

Người ngư dân trong ảnh nói rằng nhiều thế hệ trong gia đình ông kiếm sống trên hồ Phàn Dương. Ông phải chèo thuyền qua "Tam giác quỷ phương Đông" hàng ngày dù rất sợ. (Ảnh: sznews.com).

Một ngư dân địa phương nói nhiều thế hệ trong gia đình ông đã sống dựa vào hồ Phàn Dương. Tuy nhiên, sợ hãi là cảm giác mà ông phải đối diện hàng ngày mỗi khi đánh cá trên hồ. Nước trong hồ Phàn Dương chảy ra sông Dương Tử qua vùng nước Đền Laoye. Vì vậy, dù rất sợ nhưng ông vẫn phải chèo thuyền qua đó. Ông gọi vùng nước Đền Laoye là "hàm răng của tử thần".

Nhiều ngư dân kể rằng bão luôn xuất hiện bất ngờ trong vùng nước Đền Laoye, còn gió luôn thổi theo hai chiều trái ngược nhau khiến họ không thể xác định được hướng gió. Họ kể rằng một đập chắn sóng có độ dài tới 600 m từng chìm xuống đáy hồ mà không gây nên một tiếng động.

Theo một nhà khoa học địa phương, một bức ảnh hồng ngoại cho thấy một bờ cát khổng lồ bên dưới vùng nước Đền Laoye. Nó có chiều dài khoảng 200 m theo hướng đông-tây. Bờ cát chặn dòng chảy và tạo ra một xoáy nước dưới bề mặt hồ. Rất có thể xoáy nước ấy là một trong những nguyên nhân khiến các tàu, thuyền đắm

Bí ẩn tam giác quỷ Trung Quốc

Trong lúc bí mật về khu vực Bermuda được các nhà khoa học cho rằng đã khám phá ra cách đây khoảng 5 năm, một phiên bản rùng rợn không kém tam giác quỷ ở Đại Tây Dương đã xuất hiện tại tỉnh Giang Tây (Trung Quốc) cách đây vài chục năm.

Ảnh minh họa vùng tam giác quỷ ở Trung Quốc. (Nguồn internet)

Những hiện tượng kỳ bí đã liên tục xảy ra tại Bà Dương, hồ nước ngọt lớn nhất quốc gia Đông Á này (ảnh). Tổng cộng đã có hơn 200 con tàu bị chìm một cách bí ẩn trong giai đoạn từ 1960 - 1989 tại vùng phía bắc của hồ, gần ngôi đền tên Laoye, khiến hơn 1.600 người thiệt mạng. 30 người sống sót đều lâm vào tình trạng thần trí điên loạn, theo báo Epoch Times. Đặc biệt chỉ trong một ngày, cụ thể là 3.8.1985, có đến 13 tàu thuyền bị mất tích tại khu vực trên. Điểm chung của những con tàu xấu số là biến mất mà không tìm thấy xác, và kết quả tương tự đối với tàu lớn có trọng tải 2.000 tấn.

Theo lời người dân địa phương, bão tố có thể nổi lên bất kỳ lúc nào trên mặt hồ. Nếu bão nơi khác thường có dấu hiệu báo trước, bão gần đền Laoye xuất hiện chỉ trong chớp mắt và biến mất ngay sau đó. Vào năm 1977, người dân trong khu vực hợp lực xây 3 đập nước, trong đó có một đập lọt vào khu vực tam giác quỷ”. Chỉ qua một đêm, cái đập dài 600m, rộng 50m và cao 5m, đã biến mất một cách lặng lẽ, không gây bất cứ tiếng động nào.

Dù đã cố công nghiên cứu và điều tra thực hư tại khu vực trên, các nhà khoa học Trung Quốc vẫn chưa đưa ra được giả thuyết hoặc nguyên nhân nào gây nên những vụ mất tích bí ẩn của tàu bè.

Bí ẩn cánh đồng “quỷ” ở Trung Quốc

Một khu ruộng bỏ hoang ở tỉnh Quý Châu, Trung Quốc bỗng nhiên tự bốc cháy ở những nơi nước rỉ ra. Người dân thấy các đốm lửa bập bùng cho là ma trơi không dám đến gần.

Những ngọn lửa xanh xuất hiện từ các kẽ nứt có nước rỉ ra.

Tờ Quý Châu đô thị báo, hôm qua, ngày 11/11 cho hay, cánh đồng bỏ hoang nằm ở địa phận huyện Tích Kim, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc đột nhiên xuất hiện những con “ma trơi bí hiểm”. Ở những nơi nước từ dưới lòng đất phun lên khỏi mặt đất lập tức bốc cháy, tạo thành những đốm lửa bập bùng trong gió. Người dân địa phương cho rằng khu ruộng đã “trúng tà”, không dám lại gần.

Theo lời kể của người dân địa phương, cứ đến buổi tối là những ngọn lửa xuất hiện trên khu ruộng lại “anh tối tôi sáng”. Có lúc góc ruộng bên này lửa tắt thì bên kia lửa lại bùng lên dữ dội hơn.

Sau đó, khi người dân các thôn xung quanh kéo đến xem ngày một đông, nhiều người mới lấy được can đảm trở lại. Một số người dân đã tìm cách dùng nước để dập tắt những ngọn lửa. Tuy nhiên, chỉ sau khi bị dập tắt ít phút, ngọn lửa lại bùng lên.

Sau nhiều ngày sợ hãi, người dân đã dùng ngọn lửa xuất hiện trên cánh đầu để sưởi ấm và đun nấu.

Người dân nơi đây cũng cho biết, những con “ma trơi bí hiểm” này đã xuất hiện trên cánh đồng từ 9 tháng nay. Ban đầu người ta không dám lại gần, sau quen dần, nhiều người còn dùng chúng để sưởi ấm, đun nước, nấu cơm,…

Tuy nhiên, cho đến nay, người dân nơi đây vẫn không hiểu vì sao cánh đồng này có thể tự bốc cháy như vậy. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều người dân ở khắp nơi đổ về nơi đây để tận mắt nhìn thấy những “con ma trơi bí hiểm”. Một số người khác lại cho rằng, hiện tượng này sinh ra là do những khí đốt được phun ra từ lòng đất theo các dòng nước.

Hiện tại, các chuyên gia và nhà khoa học vẫn phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân thực sự của cánh đồng ma trơi kỳ lạ này.

Những điều bí ẩn đánh đố loài người

Cho đến nay xung quanh chúng vẫn còn vô số những lời đồn đại mà ngay cả các nhà khoa học cũng đành … bó tay.

1. Đảo Phục sinh

Easter Island/Đảo Phục sinh hay còn được biết đến là Rapa Nui cách Tahiti khoảng 3200km. Những cư dân ban đầu của hòn đảo sống trong khoảng thời gian vào năm 400 đến 600 TCN. Họ xây dựng nhiều các đền thờ và tượng được gọi là Moa. Tất cả đều được làm bằng đá trong đó đáng chú ý chính là những bức tượng bằng đá lớn được đặt dọc theo bờ biển. Các nhà khoa học hiện vẫn đang đi tìm câu trả lời chính xác những hòn đá khổng lồ đã được di chuyển như thế nào.

2. Huyền thoại El Dorado

Huyền thoại El Dorado bắt nguồn từ Muisca. Theo truyền thuyết kể lại, trong một nghi lễ đặc biệt cho nữ thần của họ, tộc trưởng sẽ dát vàng đầy mình và nhảy xuống một hồ nước như là một vật phẩm cúng tế. Điều này đã sinh ra truyền thuyết thành phố vàng mất tích. Đây là căn nguyên khiến nhiều đạo quân xâm lược người Tây Ban Nha cũng như nhiều đạo quân khác đã đi săn tìm suốt một thời gian dài.

3. Vùng tam giác Bermuda

Vùng tam giác Bermuda hay còn gọi là tam giác quỷ nằm ở biển Đại Tây Dương giữa 3 khu vực Bermuda, Florida và Puerto Rico. Đây là nơi mà nhiều tên trộm, những chiếc máy bay hay tàu chiến… đã biến mất mà không để lại bất cứ dấu tích nào. Khu vực này đã được đặt tên sau khi Sgt. Howell Thompson cùng với 27 phi công đã biến mất trong một chuyến bay năm 1945. Từ đó rộ lên những tin đồn cũng như những lời giải thích siêu nhiên. Nhiều người đổ lỗi cho tai nạn đó là do những cơn bão gây nên trong khi một số khác lại cho rằng lỗi thuộc về chính con người.

4. Đế chế của người Inca ở Nam Mỹ

Đế chế này hưng thịnh trong khoảng thời gian từ năm 1200 đến 1535 sau công nguyên. Họ đã phát triển một hệ thống thoát nước, kênh rạch để mở rộng việc trồng trọt của mình. Đồng thời họ cũng xây dựng những thành phố bằng đá trên những đỉnh dốc mà điển hình nhất là thành phố Machu Picchu. Điều ngạc nhiên đó là người ta chưa phát minh ra bánh xe nên việc xây dựng thành phố vẫn còn nhiều bí ẩn. Mặc dù có những thành tựu vô cùng rực rỡ nhưng đế chế Inca chỉ có khoảng 40.000 quân đội và họ đã thất thủ trước 180 lính xâm lược Tây Ban Nha với vũ khí tối tân.

5. Văn minh Maya

Theo lịch của người Maya cổ đại thì dến ngày 20/12/2012 sẽ kết thúc chu trình vòng quay của nhân loại và đó được coi là ngày tận thế của Trái đất. Điều này đã khiến rất nhiều nhà khoa học đã đau đầu đi tìm câu trả lời trên. Một số người tin vào những cảnh báo của người Maya trong khi một số khác nhấn mạnh rằng đó chỉ là những tính toán sai lầm.

6. Sa mạc Nazca

Khu vực này có diện tích hơn 300km2 nằm ở phía Nam Peru. Những hình khắc bí ẩn trên mặt đất được phát hiện chứng minh nó còn có trước cả nền văn minh Inca. Theo dự đoán thì hình Las Manos có niên đại khoảng 2.000 năm tuổi.

7. Những kim tự tháp bí ẩn ở Giza, Ai Cập

Khafre (trái) và Khufu (phải) là 2 trong số 3 kim tự tháp nổi tiếng ở Giza, Ai Cập. Khufu là kim tự tháp lớn nhất được ghép từ khoảng 2 triệu tảng đá với một số tảng có trọng lượng lên đến 9 tấn.

Kim tự tháp được xây dựng như một lăng mộ dành cho các vị vua trong khoảng thời gian năm 2.550 TCN. Những nhà Ai Cập học hiện đại tin rằng việc xây dựng những kim tự tháp được làm từ các loại đá khai thác từ các loại mỏ. Theo lời của các nhà Hy Lạp cổ đại chúng được xây dựng bởi các thợ thủ công lành nghề chứ không phải là lao động nô lệ.

UFO thường xuyên đổ bộ và nổ trên Trái đất

Một số nhà nghiên cứu tin rằng tại những vùng đặc biệt của Trái đất UFO thường xuyên hạ cánh. Thông thường những “sân bay vũ trụ” của người ngoài hành tinh nằm trên đỉnh núi cao hoặc trong lòng núi. Một trong những vị trí bí mật này là ngọn núi El-Taire ở Bolivia.

Tiến sĩ Yuri Suprunenko nói với phóng viên báo Pravda: “Tại những ngọn núi ở Bolivia, giống ở những nước láng giềng, rất giàu những tài nguyên khoáng sản. Thiếc, vonfram. kẽm, chì, antimoan, bạc và những kim loại quý. Đủ thứ!

Đĩa bay tại El-Taire. (Ảnh: Prada.Ru).

Hàng trăm người thợ mỏ đã chứng kiến những kim loại hiếm từ bầu trời rơi xuống. Chẳng những kim loại hiếm mà còn cả các hợp kim phi thường, loài người chưa từng có. Và những loại này không phải là thiên thạch. Các sự kiện này diễn ra tại làng La Mamoru Tarija, gần chân núi El-Taire vào Tháng Năm năm 1978”.

Theo Tiến sĩ Yuri Suprunenko, những người dân địa phương vào năm đó đã nhìn thấy một cảnh tượng bất thường. Một vật thể hình trụ mà mũi là một chóp nhọn hoắt xuất hiện trên bầu trời, dài chừng 6 mét, đường kính chừng 4 mét. Không có cánh.

Phía ngoài hầu như không có gì, chẳng có ô cửa ra vào hay cửa sổ. Đuôi vật thể ấy phụt ra một luồng lửa xanh lè. Khi cách mặt đất chừng 100 mét, nó rít lên và tiếp đất với tốc độ 300-400 km/giờ.

Theo lời những người chứng kiến, một vật thể thứ hai tương tự cũng bay tiếp sau vật thể đầu tiên. Vì không giảm tốc độ, vật thể đầu đâm vào sườn núi El-Taire. Một quầng lửa khổng lồ loé lên, sáng loà cả một vùng rộng lớn với bán kính 150 km và phát ra một tiếng nổ khủng khiếp, gây chấn động cả nước Argentina láng giềng. Một sức ép cực mạnh, làm bật tung cửa sổ của những ngôi nhà trong vòng 70 km. Vụ nổ đã tạo ra một vết nứt khổng lồ, dài 1.500 mét, rộng 500 mét và sâu 400 mét.

Nhà chức trách địa phương không đưa ra một lời giải thích nào mà lại đưa quân đội đến, lập một hàng rào cách ly tại vùng núi El-Taire và tuyên bố đó là vùng cấm. Tuy nhiên, dân chúng, khách du lịch và các nhà nghiên cứu đều cho rằng đó là vụ nổ của UFO.

Những dẫn chứng về UFO cũng từng xảy ra trong khu vực. Ví dụ, tại Braxin, gần Sao Paulo năm 1957, người ta thấy một chiếc đĩa sáng rực bay rất nhanh, bất chợt dừng lại rồi nổ tung, vỡ ra hàng ngàn mảnh nhỏ. Những người dân nhìn thấy một vầng như pháo hoa trên bầu trời.

Một số mảnh vỡ được người dân thu lượm lại. Các vật liệu này nhẹ như tờ giấy, bề mặt xù xì. Các phòng thí nghiệm Braxin đã tiến hành phân tích quang phổ và thấy có magiê dưới dạng những tinh thể mà không thể thu được trong các điều kiện tại Trái đất. Những phân tích kim loại học và vi phân tích đã tiết lộ một hàm lượng nhỏ stronti, một kim loại chẳng bao giờ tồn tại cùng với magie.

TS Yuri Suprunenko cho biết thêm: “Sự kiện Braxin được viết trong Tự điển Bách khoa Encyclopedia Britannica, cuốn tự điển vốn rất thận trọng, không bao giờ nói về các sự kiện chưa được thẩm tra. Sau Thế chiến II người ta ghi nhận hàng chục vụ tương tự tại nhiều vùng trên thế giới. Trên 70,000 bức ảnh chụp UFO đã được chụp và trên 120 đoạn video clip đã được quay”.

Tuy nhiều dẫn chứng đã được đồn đại trong dân chúng nhưng cho tới gần đây những thông tin vẫn được các cơ quan trách nhiệm các nước coi là “Tuyệt mật”, “Tham khảo hạn chế”, “Chỉ được xem”… Lý do chính là họ đều coi đó là các vũ khí của đối phương trong tình hình chiến tranh lạnh.

Vụ nổ lớn tại sườn núi El-Taire cũng nằm trong hồ sơ “tuyệt mật. Sau khi cả vùng núi bị quân đội phong toả, một ủy ban đặc biệt đã được thành lập để cứu xét. Vật thể hình trụ với những thân thể bị biến dạng đã được tìm thấy ở El-Taire, nhưng chưa hề có thông báo về vật thể đã bị nổ cũng như số phận của vật thể bay theo sau nó ra sao mà cho đến nay tất cả đã rơi vào quên lãng.

Dân chúng tại thành phố mỏ tại chân núi El-Taire kể với nhau rằng chiếc vỏ bị bẹp rúm của UFO được máy bay trực thăng chở đến sân bay Bolivia, từ đó được đưa sang Mỹ.

"Có lẽ với thời gian, chúng ta sẽ biết được những điều còn che giấu của vuh El-Taire” – Yuri Suprunenko nói.

inh vật ngoài hành tinh 'đã cố liên lạc với chúng ta'

Hai nhà vật lý Mỹ cho rằng các sinh vật trong vũ trụ có thể đã phát những thông điệp về phía trái đất, nhưng các thiết bị của chúng ta không bắt được tín hiệu.

Hình minh họa sinh vật ngoài trái đất. Ảnh: Telegraph.

Suốt 50 năm qua các nhà khoa học liên tục tìm kiếm những dấu hiệu của các nền văn minh ngoài trái đất. Họ cho rằng nếu một nền văn minh nào đó muốn liên lạc với nền văn minh khác, họ sẽ phát tín hiệu ra mọi hướng. Nhiều người hy vọng một ngày nào đó các máy móc sẽ bắt được âm thanh hoặc thông điệp từ các ngôi sao gần địa cầu. Tuy vậy, tới nay vẫn chưa có ai phát hiện được tín hiệu của sinh vật ngoài vũ trụ.

Trong bài viết trên tạp chí Astrobiology, tiến sĩ vật lý James Benford - chủ tịch tập đoàn Microwave Sciences - phán đoán rằng sinh vật ngoài vũ trụ không phát tín hiệu liên tục theo mọi hướng. Thay vào đó họ chỉ phát xung ngắn theo một hướng nhất định.

"Phát tín hiệu qua khoảng cách tính bằng năm ánh sáng đòi hỏi rất nhiều nguồn lực", Gregory Benford, người em song sinh của Jame Benford, nói. Gregory là nhà vật lý thiên văn của Đại học California Mỹ.

Hai anh em nhà Benford khẳng định rằng, bằng cách phát tín hiệu về một hướng, sinh vật ngoài trái đất sẽ giảm được chi phí và nâng cao mức độ hiệu quả trong công nghệ truyền tin của họ. Theo tính toán của hai nhà khoa học, tín hiệu từ nền văn minh khác nằm trong dải tần từ 1 tới 10 gigahertz. Nhưng các chuyên gia tìm kiếm sinh vật ngoài trái đất lại tìm kiếm những dạng tín hiệu khác.

Một vấn đề nữa là các thiết bị thu tín hiệu trên trái đất đang hướng về phía các ngôi sao ở rìa Ngân hà. Các nhà khoa học cho rằng tín hiệu lạ có thể được phát từ những ngôi sao đó. Tuy nhiên, Greogry nói chúng ta nên tìm kiếm tín hiệu từ những ngôi sao ở trung tâm của dải Ngân hà.

"Những ngôi sao ở giữa dải Ngân hà có tuổi đời lớn hơn mặt trời hàng tỷ năm. Tuổi đời của thiên thể càng lớn thì khả năng tồn tại của nền văn minh tiên tiến ở đó càng cao", Gregory giải thích.

Ngược lại, theo Gregory, những ngôi sao gần trái đất có tuổi đời không lớn nên khả năng tồn tại của sinh vật cao cấp sẽ thấp hơn.

Siêu linh kỳ bí' làm các nhà khoa học bó tay

Cho đến nay, giới khoa học chính thống vẫn hoài nghi tính xác thực của các hiện tượng siêu linh kỳ bí chưa giải thích được. Nhưng dù được tin hay không thì những hiện tượng này đã, đang và sẽ luôn tồn tại.

Những khuôn mặt ở Belmez

Đây được coi là hiện tượng siêu linh kỳ bí nhất trong thế kỷ qua.

Một sự kiện kỳ bí đã tồn tại trong một ngôi nhà bình thường ở Tây Ban Nha trong suốt hơn 30 năm qua, và cho đến nay nó vẫn chưa được giải thích.

Sự việc bắt đầu vào năm 1971, khi Maria Gomez Pereira phát hiện một hình thù kỳ lạ giống khuôn mặt người (hình) trên sàn gạch phía trước lò sưởi. Sau đó, chồng cô đã phá sàn gạch này và lát lại bằng gạch khác, tuy nhiên, 1 tuần sau đó khuôn mặt lại tiếp tục xuất hiện trên nền gạch mới.

Gia đình này đã nhờ đến các chuyên gia để giải thích hiện tượng trên. Sau nhiều tuần đào xới phía dưới nền nhà này, họ đã tìm thấy một cái huyệt chứa nhiều xương người ngay phía dưới sàn lò sưởi. Người ta đã lấp cái huyệt này và lót gạch mới cho nền nhà. Nhưng trong vài tuần sau đó, tình trạng cũ lại tái diễn, và lần này lại xuất hiện thêm những khuôn mặt mới.

Dù gia đình Pereira đã tìm mọi cách để phá hủy chúng, những khuôn mặt vẫn kiên trì quay trở lại. Trong suốt hơn 30 năm sau đó, sàn lò sưởi kỳ lạ của nhà Pereira đã được nhiều nhà khoa học, các nhà nghiên cứu và các phóng viên truyền hình ghé thăm. Nhiều người đã cho rằng khuôn mặt là giả tạo, nó đã được người ta vẽ lên. Tuy nhiên, các cuộc nghiên cứu và kiểm tra đã chứng minh những khuôn mặt nằm chìm bên trong lớp gạch chứ không phải được vẽ trên bề mặt. Và đây đã được coi là hiện tượng siêu linh kỳ bí nhất trong thế kỷ qua.

Chuyến bay 401 

Cơ trưởng quá cố Loft thường xuất hiện trên các chuyến bay.

Một buổi tối tháng 12 năm 1972, chuyến bay 401 chở 101 hành khách và phi hành đoàn đã rơi xuống một đầm lầy ở Miami. Toàn bộ hành khách và phi hành đoàn đã thiệt mạng. Các mảnh vỡ của máy bay và thi thể các nạn nhân vương vãi trên một diện tích rộng gần 1km.

Sau vụ rơi máy bay này, tin đồn về những bóng ma trên những chiếc máy bay khác bắt đầu lan rộng. Các chuyên gia đã vào cuộc để tìm hiểu thực hư những tin đồn này.

Thành viên phi hành đoàn trên các máy bay cho biết rằng, 2 bóng ma thường xuất hiện trên các chuyến bay là cơ trưởng Bob Loft và cơ phó Don Repo của chuyến bay 401. Phó chủ tịch của một hãng hàng không châu Âu cho biết có lần ông đã nói chuyện với một cơ trưởng mà ông nghĩ rằng đang chịu trách nhiệm trên một chuyến bay, tuy nhiên sau đó ông đã nhận ra đây chính là cơ trưởng quá cố Loft.

Nguyên nhân nào khiến cơ trưởng Loft và cơ phó của mình thường ghé thăm các chuyến bay này? Có giả thiết cho rằng, sau khi tìm lại được một vài bộ phận vẫn còn hoạt động của 401, họ đã tận dụng chúng trên các máy bay khác, do đó cơ trưởng và cơ phó đã "lần theo dấu vết” của chúng để lên các máy bay này.

Biệt thự Woodchester

Ngôi biệt thự này bị rất nhiều hồn ma ám.

Woodchester là một biệt thự được xây dựng từ thời Victoria, nhưng nó chưa bao giờ được hoàn tất và không ai dám đến ở đây lâu dài. William Leigh – một hội viên hội Tam điểm – đã cho xây dựng nó, nhưng kể từ khi ông ta chết vào năm 1873, tòa biệt thự đã là tâm điểm chú ý của các cuộc điều tra vì những hiện tượng kỳ dị xảy ra ở đây. Trong vòng 200 năm qua, có đã có vô số người nhìn thấy “họ”.

Năm 1902, một cha sở nhiều lần nhìn thấy một bóng ma ở cổng vào biệt thự, và vài năm sau người ta cũng thấy bóng ma của một kỵ sĩ. Nhưng chính bản thân tòa biệt thự mới là tâm điểm của của sự kỳ bí. Từ người đàn ông ở nhà nguyện đến những cái bóng trong hầm rượu. Tòa biệt thự là một nơi rợn tóc gáy nhất ở Anh.

Rất nhiều du khách đã bị các “thế lực vô hình” tấn công bất ngờ, thậm chí họ còn bị bất tỉnh đột ngột khi tham quan khu biệt thự này. Trong một phòng tắm là bóng ma của một người đàn ông thường hiện hình dưới dạng một cái đầu nổi lềnh bềnh, phòng kế bên là một người phụ nữ già thường tấn công phụ nữ bằng cách chụp lấy tay họ trong bóng tối.

Chưa ai dám chắc tại sao ngôi nhà lại bị nhiều hồn ma ám như vậy, nhưng có 1 giả thiết là nó được xây dựng trên nền móng cũ của 3 tòa nhà, và có lẽ nó bị tất cả các hồn ma của cả 3 tòa nhà đó ám.

Biệt thự Winchester

Khu nhà này cho đến ngày nay vẫn còn là một nơi làm lạnh gáy nhất ở Mỹ.

Sau khi người thừa kế của công ty sản xuất vũ khí William Winchester chết, bà quả phụ Sarah đã dần nhận ra bà đang bị nguyền rủa. Theo bà, những vũ khí do gia đình bà sản xuất đã khiến hàng ngàn sinh mạng phải chết, và họ tìm đến đây để trả thù.

Bà tin rằng cơ hội duy nhất của bà để được tiếp tục sống bình yên là phải xây dựng một ngôi nhà, và không bao giờ hoàn thành nó để những hồn ma không có nơi nương náu. Ngôi nhà có nhiều đặc điểm được thiết kế để bẫy hoặc làm rối trí các hồn ma như những cửa ra vào rất nhỏ, những cái cửa cụt (chẳng dẫn đến đâu hết), các cửa sổ được thiết kế để có thể quan sát được các phần khác của ngôi nhà. Toàn bộ khu nhà có 4 tầng, 467 cái cửa, 47 lò sưởi nhưng chỉ có 2 chiếc gương. Sarah tin rằng các hồn ma rất sợ nhìn vào gương.

Việc xây dựng kéo dài trong suốt 39 năm cho đến lúc Sarah qua đời ở tuổi 83.

Các nhà tâm linh học vẫn thường nghiên cứu khu nhà, và họ cho biết có rất nhiều linh hồn lang thang quanh đây, bao gồm cả linh hồn của Sarah Winchester.

Họ đã được chứng kiến những hiện tượng dị thường như những dấu chân, những tiếng sập cửa, những giọng nói kì lạ…

Khu nhà này đã được công nhận là di tích lịch sử quốc gia, và cho đến ngày nay nó vẫn còn là một nơi làm lạnh gáy nhất ở Mỹ.

Trò đùa dai hay dấu vết người ngoài hành tinh lưu lại?

Crop circle là một thuật ngữ quen thuộc trong những năm gần đây để chỉ những hình vẽ có kích thước lớn được tạo ra bằng cách san phẳng một phần những cánh đồng lúa mì, lúa mạch, hoặc ngô.

Cụm từ này cũng đã được đưa vào từ điển Oxford từ năm 1990 với phần định nghĩa cho rằng có thể đây là những tác phẩm của người ngoài hành tinh. Nhưng Crop circle thật sự được tạo nên như thế nào vẫn còn là một bí ẩn lớn mà cho đến nay vẫn chưa có lời giải thích nào thật sự thỏa đáng.

Crop circle đầu tiên được trình báo

Vào ngày 19/01/1966, crop cirlce đầu tiên được trình báo có tên The Tulley saucer nest được biết xảy ra ở Queensland, Úc. Sự việc xảy ra vào một sáng Chủ nhật, khi nông dân George Pedley đang làm việc trên xe máy kéo trên cánh đồng của ông Albert Pennisi, gần thị trấn Tully. Khoảng 9 giờ sáng, anh ta nghe thấy một âm thanh lớn ở một phá nước gần đó.

Nhìn về phía tiếng động, anh ta trông thấy một vật thể kỳ lạ bất thình lình trồi lên khỏi đầm lầy. Pedley nói vật thể lạ có màu xám, có hình dạng giống một chiếc đĩa rất lớn, lồi lên ở đỉnh và đáy. Lúc anh ta nhìn thấy nó, nó đang xoay tròn rất nhanh. Sau đó “cái đĩa” lặn nông xuống nước rồi đột ngột bay lên với vận tốc khủng khiếp và mất hút chỉ trong vài giây.

Sau khi vật thể lạ biến mất, Pedley cho xe đi về phía mà chiếc đĩa đã đậu. Ở chỗ phá nước xuất hiện rõ mồn một 1 khoảng rộng hình tròn mà ở đó cây cối đã bị đè bẹp. Nước vẫn còn đang xoáy tròn như thể có ai đó vừa khuấy lên. Trước đó 3 giờ đồng hồ khi Pedley đi qua khu vực này thì mọi thứ vẫn còn hoàn toàn bình thường.

Trưa hôm đó, Pedley đi ra phá nước để xem một lần nữa. Khác với lúc sáng, lần này anh ta thấy một đám sậy có đường kính khoảng 9m nổi trên mặt nước, tất cả các cây sậy đều đổ rạp xuống theo chiều kim đồng hồ. Pedley đem điều kỳ lạ kể với Pennisi thì được Pennisi cho biết khoảng 5:30 sáng ngày hôm đó con chó của ông ta cũng có những hành động hết sức kỳ quặc, nó cứ cố tìm cách chạy ra phía phá nước.

Sau đó Pedley và một nông dân khác lội xuống đầm lầy ra phía đám sậy. Họ phát hiện rằng họ có thể bơi ở phía dưới đám sậy, và rằng đáy của phá nước bên dưới đám sậy rất bằng phẳng. Pennisi cũng chụp lại đám sậy hình tròn đó, lúc này đã chuyển từ màu xanh sang nâu.

Chiều tối hôm đó, Pedley trình báo sự việc với Sở Cảnh sát Tully. Sáng hôm sau cảnh sát đến, họ rà soát kiểm tra khu vực phá nước và sau đó xác nhận những điều Pedley trình báo là thật. Vào ngày 20 tháng 1, Sở Cảnh sát Tully trình báo sự việc lên Cơ quan Không lực Hoàng gia Úc (RAAF). Những ngày sau đó, khu vực phá nước chật ních những phóng viên và những nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều giả thiết được đưa ra bên cạnh giả thiết về vật thể bay không xác định (UFO). Một trong những giả thiết được giới truyền thông lúc bấy giờ đưa tin là do máy bay trực thăng, do cá sấu, do gió lốc…

Sau đó người ta đã kiểm tra rà soát khắp nông trại của Pennisi, và thật ngạc nhiên, có tổng cộng thêm 5 cái “tổ” bằng sậy như vậy được tìm thấy, nhưng không có cái nào lớn bằng cái Pedley đã phát hiện trước đó. Ở vài cái “tổ” thì những cây sậy đổ theo chiều kim đồng hồ, ở một số cái khác thì lại theo chiều ngược lại, và ở một vài cái thì ở vùng trung tâm lại bị đốt cháy.

Người ta đã tiến hành phân tích cái “tổ” sậy đầu tiên nhưng không tìm được dấu tích nào của một thế giới khác. Sau nhiều cuộc điều tra, RAAF không đưa ra được câu trả lời rõ ràng về cái gì đã tạo nên những vòng tròn kỳ lạ đó. Tuy nhiên họ có đưa ra một giả thiết. Theo giả thiết của RAAF, hiện tượng này có thể là do các cơn gió xoáy thường xảy ra ở khu vực này. Họ không nhắc gì đến việc Pedley nhìn thấy một vật thể bay kỳ lạ.

Crop circle trong lịch sử

Tuy là crop circle đầu tiên được truyền thông rộng rãi, the Tully saucer nest không phải là crop cirle được tạo ra đầu tiên. Ghi chép xưa nhất về một hình ảnh có nhiều điểm giống như crop circle được miêu tả trên một tờ báo xuất bản ở Anh năm 1678. Bức ảnh có tên “Mowing-devil” (tạm dịch "Quỷ gặt lúa”) vẽ hình một con quỷ đang cầm một lưỡi hái gặt những đường cong hình bầu dục trên một cánh đồng yến mạch.

Bài báo này viết: “Một người nông dân ngã giá với một thợ gặt về việc gặt 3,5 mẫu yến mạch. Vì người thợ gặt đòi giá quá cao nên người nông dân đã nói rằng thà để cho quỷ gặt còn hơn nhờ anh ta. Vào đúng đêm hôm đó, cánh đồng lúa mạch của người nông dân bừng sáng lên giống như là đang cháy, nhưng vào sáng hôm sau người ta lại thấy cánh đồng đã được gặt gọn gàng như là nhờ bàn tay của quỷ hoặc là một thế lực thần bí nào đó; cánh đồng đã được gặt theo cách mà không một con người nào có thể làm được chỉ trong một đêm”.

Hình dạng của crop circle

Những crop circle đầu tiên được phát hiện có hình dạng đơn giản, chúng chỉ là những hình tròn với các kích cỡ khác nhau. Những năm về sau, chúng xuất hiện dưới dạng những hình hình học phức tạp nổi bật hơn. Ngoài những hình có thiết kế dựa theo nhữnng mô hình hình học thiêng liêng (là những hình hình học được sử dụng trong thiết kế của các công trình kiến trúc hoặc nghệ thuật thiêng liêng như nhà thờ…), những hình xuất hiện sau này, đặc biệt là sau năm 2000, được mô phỏng theo những nguyên tắc khác ví dụ như hệ chiết hình. Nhiều crop circle ngày nay có nhiều chi tiết tinh tế và phức tạp, có đối xứng rất đều đặn và được bố cục rất cẩn thận. Nhiều crop circle có vẻ như được lấy cảm hứng từ các loài động vật và các biểu tượng tôn giáo.

Là trò của những người thích đùa hay là dấu hiệu của một nền văn minh ngoài Trái đất?

Doug Bower và Dave Chorley là 2 người thích đùa đầu tiên tự nhận là đã bắt đầu tạo ra những hình vẽ này từ năm 1978. Sau này, công việc của họ được các nhóm khác tiếp tục. Có cả một trang web hướng dẫn cách tạo crop circle.

Một số crop circle có hình dạng đẹp và phức tạp.

Trong khi đó, một số khác khẳng định rằng các bức ảnh chụp những crop circle cho thấy đây không phải là công trình do con người làm. Trong báo cáo về các crop circle của nhà lý sinh W. C. Levengood, ông nói rằng những cây cối bị đổ rạp trong những crop circle không phải do con người làm. Chúng không phải được tạo ra do tác động của việc bẻ gãy hay đè nghiến mà là do tác động của một năng lượng tập trung cao độ như vi sóng hoặc do một cơn lốc xoáy plasma.

Cũng có giả thiết cho rằng đây là tác phẩm của những sức mạnh thiên nhiên như sét hòn hoặc lốc xoáy. Nhưng có một thực tế là sét hòn hoặc lốc xoáy bình thường rất hiếm khi tạo ra những chỗ lõm riêng biệt trên những cánh đồng, huống chi là tạo ra những hình vẽ hết sức phức tạp và tinh tế với kích thước khổng lồ.

Bất chấp mọi giả thiết, crop circle vẫn tiếp tục xuất hiện, với hình dạng càng ngày càng phức tạp hơn. Cho tới nay đã có hàng ngàn trường hợp được tìm thấy. Và có một sự thật là trong hầu hết mọi trường hợp, chúng không được phát hiện là được tạo ra vào ban ngày, chỉ qua một đêm đến sáng hôm sau người ta mới nhìn thấy chúng.

Những giả thuyết mới về sinh vật ngoài trái đất

Trong suốt như thủy tinh, nhỏ xíu như vi khuẩn là những giả thuyết về hình dạng của sinh vật ngoài địa cầu mà giới khoa học đưa ra.

Mỗi khi nghĩ tới sinh vật ngoài địa cầu, trí tưởng tượng của con người sẽ thỏa sức bay bổng. Ảnh: maths.org.

Chủ đề sinh vật ngoài hành tinh vẫn thu hút sự chú ý của giới khoa học trong nhiều năm qua. Trong hai ngày 25 và 26/1, các nhà khoa học từ khắp nơi trên thế giới đã tham dự hội thảo quốc tế về khả năng phát hiện nền văn minh ngoài địa cầu theo lời mời của Hiệp hội Hoàng gia Anh. Chủ đề của hội thảo là "Phát hiện nền văn minh ngoài vũ trụ và những hậu quả của nó đối với xã hội và khoa học".

Mỗi khi đối mặt với câu hỏi “Sinh vật ngoài trái đất có hình dạng thế nào?”, chúng ta sẽ để trí tưởng tượng hoạt động hết công suất. Người nói chúng là những quái vật có xúc tu như bạch tuộc, kẻ bảo chúng có hình dạng giống người nhưng sở hữu nước da xanh xám. Do giới khoa học chưa phát hiện bất kỳ manh mối nào về cấu tạo giải phẫu của sinh vật ngoài hành tinh, chẳng ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đối mặt với chúng.

Theo Newscientist, mặc dù chưa tìm thấy bằng chứng đáng thuyết phục, nhiều nhà thiên văn và sinh học đã đưa ra những giả thuyết về khả năng tồn tại của sinh vật ngoài trái đất. Thậm chí một số nhà khoa học còn dự đoán về hình dáng, tính cách và cấp độ văn minh của chúng.

Giới khoa học đưa ra hai khả năng trong nỗ lực tìm kiếm nền văn minh ngoài trái đất. Thứ nhất, loài người nên thám hiểm tất cả những hành tinh và vệ tinh gần địa cầu mà phi thuyền của chúng ta có thể tới. Thứ hai, chúng ta có thể phát tín hiệu tới những hành tinh xa xôi với hy vọng một nền văn minh nào đó sẽ bắt được và trả lời.

Nếu một nền văn minh nào đó tồn tại ngay trong hệ Mặt Trời thì chúng ta sẽ có một chút thông tin về môi trường sống của chúng. Rất nhiều nơi trong hệ Mặt Trời có thể nuôi dưỡng sinh vật sống nhờ sự hiện diện của hợp chất carbon và nước. Chẳng hạn, những tầng đất sâu trên sao Hỏa có thể đủ ấm để nuôi dưỡng những vi sinh vật giống như vi khuẩn trên trái đất. Cũng rất có thể các sinh vật to lớn đang bơi trong các đại dương đầy nước của một số vệ tinh trong hệ Mặt Trời – như vệ tinh Europa của sao Mộc. Mới đây các nhà khoa học tìm thấy bằng chứng về sự hiện diện của đại dương ngầm chứa nước bên dưới bề mặt băng của vệ tinh Europa. Bên dưới đại dương ngầm này là lõi đá của Europa – nơi các miệng núi lửa phun ra các dòng nước nóng và giàu dưỡng chất.

Nhà sinh học thiên văn Dirk Schulze-Makuch của Đại học Washington, Mỹ cho rằng năng lượng từ những miệng núi lửa có thể nuôi sống hàng nghìn tỷ vi sinh vật. Quần thể vi sinh vật lại là thức ăn của những động vật ăn thịt lớn hơn. Cứ như thế chúng sẽ tạo thành một chuỗi thức ăn. Theo Schulze-Makuch, kẻ săn mồi to lớn nhất trong đại dương ngầm của Europa có thể là sinh vật xấu xí có trọng lượng khoảng 1 g.

“Những động vật săn mồi có kích thước bằng con tôm có thể tồn tại trên Europa. Chúng không thể to hơn vì không đủ mồi”, Schulze-Makuch nhận xét.

Tất nhiên, nói sinh vật trên Europa có kích thước bằng con tôm không có nghĩa là chúng có hình dạng giống tôm. “Chúng ta không thể nói bất kỳ điều gì về hình dạng của chúng”, Schulze-Makuch thừa nhận. Ngay cả nhiều động vật trên trái đất cũng khiến con người bất ngờ bởi những hình dạng kỳ quái của chúng.

“Tôi đoán rằng chúng giống con sâu, bởi sâu là một loại sinh vật cực kỳ thành công trên trái đất”, Schulze-Makuch nói.

Một bộ phận giới sinh học thiên văn lại nghĩ tới sự tồn tại của những sinh vật sống không cần nước. Phần lớn thiên thể trong hệ Mặt Trời quá nóng hoặc quá lạnh để nước có thể tồn tại ở dạng lỏng. Tuy nhiên, nước không phải là chất lỏng duy nhất chứa các chất hóa học. Nhiều dạng chất lỏng khác cũng chứa những thứ ấy. Đó là tuyên bố của Steven Benner, một nhà khoa học thuộc Quỹ tài trợ nghiên cứu tiến hóa phân tử ứng dụng tại Gainesville, bang Florida, Mỹ.

Những đám mây trên sao Kim - hành tinh thứ hai tính từ mặt trời - chứa những giọt axit sulphuric. Vì thế rất có thể những hồ axit từng tồn tại trên bề mặt sao Kim cách đây vài tỷ năm. Mặc dù axit là môi trường hủy diệt, nó vẫn có thể nuôi dưỡng sinh vật sống nếu chứa những hóa chất phù hợp. Những sinh vật có khả năng sống trong môi trường axit phải được tạo nên bởi những chất chống axit.

“Những sinh vật đa bào trên sao Kim có thể sở hữu những mạch máu được tạo nên bởi thủy tinh để chúng có thể sống trong axit”, Benner nói.

Mà cũng rất có thể những sinh vật trên sao Kim có thân hình trong suốt như thủy tinh và di chuyển trên các tảng đá, chứ không bơi trong axit. Ngoài ra thủy tinh cũng không phải là vật liệu duy nhất có khả năng chống chịu axit. Nhiều hợp chất khác cũng có đặc tính tương tự - như Teflon, polyethylene và silicone.

Ở đâu đó trong hệ Mặt Trời, các hồ và biển trên bề mặt thiên thể vẫn tồn tại tới tận ngày nay, dù chúng không chứa nước. Trên vệ tinh Titan của sao Thổ, các hồ được hình thành bởi hỗn hợp etan và metan ở dạng lỏng. Schulze-Makuch cho rằng một số dạng sinh vật có thể sống trong môi trường như thế.

“Nước có sức căng bề mặt lớn, mà sức căng bề mặt càng lớn thì kích thước tế bào càng nhỏ. Điều đó giải thích tại sao vi khuẩn trên trái đất có kích thước cực bé. Ngược lại, sức căng bề mặt của hỗn hợp metan-etan yếu hơn rất nhiều, vì thế các tế bào trong môi trường đó có thể có kích thước cực lớn”, Schulze-Makuch giải thích.

Trong cách nhìn của loài người thì những sinh vật trên vệ tinh Titan tiến hóa tương đối chậm. Biển trên Titan lạnh thấu xương nên các phản ứng hóa học trong đó sẽ diễn ra siêu chậm.

“Rất có thể sinh vật trên Titan di chuyển chậm và cũng lớn chậm. Vòng đời của chúng có thể lên tới 10.000, thậm chí hàng triệu năm”, Schulze-Makuch phát biểu.

Sinh vật ngoài hành tinh cũng giống con người?

Nếu người ngoài hành tinh tồn tại, nhiều khả năng họ có thể trông giống với chúng ta, một nhà khoa học hàng đầu về vũ trụ tin tưởng. Ngoài ra, nhà khoa học này cho rằng người ngoài hành tinh cũng có cách ứng xử và tổ chức xã hội như con người trên Trái đất.

Xã hội của người ngoài hành tinh cũng tương tự như chúng ta? (Ảnh minh họa)

Cuộc hội thảo về người ngoài Trái đất được tổ chức tại Hiệp hội Hoàng gia Anh vào ngày 25-26/1, với sự góp mặt của các đại diện đến từ Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ (NASA), Cơ quan vũ trụ châu Âu và Văn phòng Liên hợp quốc về các vấn đề vũ trụ (UNOOSA). Tại hội nghị này, đã có rất nhiều nhà khoa học đưa ra các tham luận về khả năng tồn tại của người ngoài hành tinh trên Trái đất và "nguy cơ" của với cuộc sống của chúng ta.

Tiến sĩ Simon Conway Morris, thuộc trường đại học Cambridge (Anh) và là đại biểu tham dự hội nghị này cho rằng, những sinh vật ngoài Trái đất - nếu tồn tại, cũng có thể có hình dáng bề ngoài giống với chúng ta. Nhưng có thể họ sẽ thông minh hơn con người trên Trái đất.

Nếu những dự đoán của nhà khoa học người Anh là đúng sự thực, chúng ta có thể phần nào hình dung ra hình dáng của người ngoài hành tinh qua những bộ phim viễn tưởng của Hollywood như Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars) hay Star Trek.

“Sự tiến hóa của các sinh vật ngoài Trái đất có thể thể giống như thuyết tiến hóa của Darwin", Tiến sĩ Morris, nói. “Các khả năng tiến hóa khác là rất khó xẩy ra. Tôi không nghĩ một người ngoài Trái đất lại có thể là một sinh vật giống như giọt nước. Nếu tồn tại, họ cũng giống chúng ta, có mắt, miệng, mũi và đi bằng hai chân”.

Ngoài ra, Tiến sĩ Conway Morris cũng tin rằng những sinh vật ngoài hành tinh cũng có cách giao tiếp, xung đột và có xu hướng khám phá các hành tinh khác như con người trên Trái đất.

Trong trường hợp, những người ngoài hành tinh đến với Trái đất theo cách thân thiện, Tiến sĩ Morris đề nghị chúng ta nên đón chào họ và tìm một nơi thích hợp cho họ sinh sống. Tuy nhiên, ông cũng lo ngại những người hành tinh sẽ không thân thiện như vậy vì họ đến từ những hành tinh nhiều tuổi hơn Trái đất và biết đau lại là một hiểm họa với chúng ta.

Do vậy, Tiến sĩ kêu gọi các nhà khoa học trên thế giới hãy tích cực nghiên cứu nhằm tìm ra những bằng chứng về người ngoài hành tinh tồn tại trên Trái đất, để sớm có kế hoạch đối phó với những vị khách lạ mặt này.

Cùng đồng tình với khả năng tồn tại của người ngoài hành tinh trên Trái đất, Tiến sĩ Paul Davies, một nhà vật lý tại đại học Arizona (Mỹ), tin rằng những sinh vật lạ bí ẩn có thể đang sinh sống tại những vùng có điều kiện khắc nhiệt trên thế giới như các sa mạc, núi lửa, các hồ nước mặn, các thung lũng khô cằn, hay vùng Nam Cực xa xôi.

Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà khoa học tham dự hội nghị 2 ngày tại Hiệp hội Hoàng gia Anh đều đồng tình về khả năng tồn tại người ngoài hành tinh trên Trái đất. Giáo sư Colin Pillinger, người điều hành chuyến bay Beagle 2 lên sao Hỏa nghi ngờ: “Tôi luôn tin vào các bằng chứng khoa học và giả thuyết về khả năng tồn tại của người ngoài hành tinh đưa ra tại hội thảo thật khó tin được”.

huyện kỳ dị: cừu mặt người

Một cừu mẹ đẻ ra cừu con có khuôn mặt người. Cừu con chết ngay khi sinh ra. Chuyện xảy ra tại một làng quê không xa thành phố Izmir, Thổ Nhĩ Kỳ.

Con cừu mặt người

Erhan Elibol, bác sĩ thú y đã thực hiện ca mổ một cừu mẹ để lấy con ra. Con cừu con gây kinh hoàng cho cả làng: nó có chiếc mũi cao, giống người một cách lạ thường.

Ông bác sĩ thú y 29 tuổi kể lại: “Tôi đã từng gặp một số trường hợp gia súc dị dạng. Ví dụ một con bê chỉ có một mắt, một con dê hai đầu. Thế nhưng lần này tôi đã sửng sốt không dám tin vào mắt mình khi trông thấy con cừu con. Mẹ nó không thể tự đẻ được nên tôi đành phải mổ cho nó”.

Đầu con cừu con hoàn toàn giống như đầu người. Mắt, mũi, miệng không khác người chút nào. Chỉ có đôi tai là tai cừu.

Bác sĩ thú y Elibol cho biết: hiện tượng đột biến rất hiếm hoi và thường xảy ra khi chế độ dinh dưỡng không đúng, chẳng hạn thức ăn của cừu mẹ quá giàu vitamin A. Tại Zimbawe, đã có trường hợp một con dê cái đẻ ra con có khuôn mặt giống như người vào tháng 9 năm 2009. Chú dê con đột biến có đầu người này sống được vài giờ cho đến khi dân làng cho rằng ma quỷ hiện hình nên đập chết.

Ông tỉnh trưởng của địa phương có con cừu mặt người cũng phóng xe về xem. Ông quả quyết con cừu con ấy là con của con cừu cái và một gã đàn ông nào đó.

Ông ta khẳng định: “Sự kiện này rất kỳ lạ. Lần đầu tiên tôi thấy một con vật như vậy. Thất khó mà giải thích." Ông đưa ra nhận xét: “Đầu người, thân cừu. Rõ ràng có một người đàn ông là thủ phạm. Bị quỷ xúi giục, gã đàn ông đó không giữ nổi mình. Tôi có lần nghe kể người ngủ với súc vật nhưng lần đầu tiên tôi trông thấy quái thai này”, ông nói thêm.

Con cừu con đột biến không có lông. Những người địa phương kể lại, ngay chó cũng rất sợ hãi con cừu đầu người, không dám lại gần. Dân làng mang con vật dị dạng đã chết đem thiêu dưới giàn lửa nên các nhà sinh học chưa kịp đến để nghiên cứu con vật đột biến có một không hai này.

Hung thủ giấu mặt ở "Tam giác quỷ" Nevada?

Cả thế giới dường như đều biết “Tam giác quỷ Bermuda” ở Đại Tây Dương, nơi vẫn xảy ra hàng nghìn vụ tai nạn máy bay và tàu thủy. Nhưng mọi người ít biết tới “Tam giác Nevada” bí ẩn ở nước Mỹ.

Theo báo chí Mỹ, “Tam giác Nevada” là khu sa mạc hoang vu, có diện tích rộng chừng 25.000 dặm vuông, từ bang Nevada kéo sang một phần bang Arizona và một phần bang California. Nơi đây hầu như không có cư dân mà chỉ có núi cao trập trùng.

Theo số liệu thống kê, trong 60 năm qua có chừng hơn 2.000 máy bay các loại, kể cả máy bay quân sự của Không quân Mỹ như B-24, B-17, P- 38, đã bị rơi và mất tích khi đi qua khu vực này. Sự kiện mới đây nhất là triệu phú, nhà đại thám hiểm người Mỹ James Steve Fossett bị mất tích ngày 3/ 9/2007 khi 63 tuổi.

Từ trước tới nay, dư luận Mỹ đồn đại nhiều về vùng “Tam giác Nevada” bí ẩn làm cho nhiều máy bay bị rơi hoặc mất tích. Một số cho rằng đây là khu quân sự tuyệt mật của quân đội Mỹ với bí danh là “Khu 51”. Đây là căn cứ không quân lớn, là nơi thử nghiệm các loại vũ khí mới, loại máy bay mới cũng như các loại khoa học kỹ thuật quân sự cao. 

Người ngoài hành tinh đã đến Nevada? (Ảnh: TT&VH)

Ngoài ra, dư luận cho rằng tại đây từng xảy ra sự kiện UFO (vật thể bay không xác định) của người ngoài hành tinh bị rơi và Mỹ hiện đang lưu giữ thi thể của họ để nghiên cứu. Vì vậy, mọi người dân và các phương tiện kể cả các máy bay không được phép tới và bay qua khu vực này. Nếu không sẽ bị lực lượng Không quân và Phòng không của Mỹ bắn hạ.

Ngày 3/9/2007, Steve Fossett lái chiếc máy bay cánh quạt cất cánh từ một nông trang ở bang Nevada, khi bay qua khu vực gần căn cứ không quân Mỹ thì bị mất tích. Chính quyền đã lập tức phái các đội tìm kiếm và cứu nạn nhưng không tìm thấy. Có nhiều tin đồn đại xung quanh sự kiện Fossett bị mất tích như ông ta cố ý bay qua “Khu 51” tuyệt mật nên bị không quân Mỹ bắn hạ. Lại có tin cho rằng ông bị người ngoài hành tinh bắt cóc. Những tin đồn đại này khiến nhiều nhà khoa học nước ngoài quan tâm và tìm kiếm câu giải đáp cho bí ẩn này.

Sau một năm, người ta mới phát hiện các mảnh chiếc máy bay của Steve Fossett gặp nạn. Các nhà khoa học đã chắp những mảnh máy bay này lại để tìm hiểu xem vì sao máy bay của ông ta bị rơi. Qua nghiên cứu, các nhà khoa học cho rằng máy bay của Fossett bị rơi không liên quan tới bí mật của “Khu 51”, cũng không phải do người ngoài hành tinh bắt cóc mà có thể do thời tiết khí hậu khắc nghiệt của khu vực này.

Các nhà khoa học cho biết hai nhân tố quan trọng là sự di chuyển với tốc độ cao của luồng không khí từ Thái Bình Dương thổi vào cộng với địa hình vùng núi cao dốc đứng của “Khu tam giác Nevada” đã tạo ra một loại tiểu khí hậu đặc biệt mà các nhà khoa học gọi là “sóng núi”. Loại sóng này xoáy như cơn lốc có sức co giật rất cao, nó có thể đẩy máy bay lên rất cao rồi đột ngột làm máy bay rơi thẳng xuống mặt đất.

Vùng núi Nevada cao trung bình 1.600m, cá biệt có một số đỉnh núi cao hơn 4.000m. Khi máy bay bay trên tầng không khí loãng thì nhiên liệu bị loãng nên động cơ không thể hoạt động bình thường, cộng với thời tiết đặc biệt và tác động của “sóng núi” là thủ phạm gây ra các vụ tai nạn máy bay. Trong ngày Steve Fossett bay qua khu vực này thì không khí di chuyển với vận tốc khoảng 700 km/giờ từ trên cao xuống thấp, trong khi máy bay của Fossett có tốc độ cao nhất là gần 500 km/giờ, nên máy bay đã bị luồng không khí này quật xuống mặt đất - chiếc máy bay của Fossett bị vỡ tan tành và ông tử nạn.

Vừa qua, Đài truyền hình Anh đã phối hợp với các nhà khoa học Mỹ xây dựng bộ phim tư liệu mang tên “Bí ẩn Vùng tam giác Nevada”. Trong đó các nhà khoa học đã thu thập và đưa ra nhiều tư liệu như số lượng máy bay bị rơi trong khu vực trong từng thời gian, những hiện tượng thời tiết khí hậu của khu vực, từ đó vén lên bức màn bí ẩn về nguyên nhân làm máy bay bị rơi. Theo các nhà khoa học, chủ yếu do thời tiết khí hậu khắc nghiệt của vùng núi Nevada gây ra. Bộ phim này sẽ đưa ra nhiều tư liệu về tình hình biến đổi khí hậu của vùng Tam giác Nevada và sẽ được trình chiếu vào năm tới.

Tuy nhiên, những tư liệu này vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục được dư luận Mỹ và nhiều người vẫn cho rằng khí hậu khắc nghiệt chỉ là một phần chứ chưa phải là bí ẩn chủ yếu tại khu vực này. Bởi vì, Nevada là khu quân sự đặc biệt, lực lượng không quân Mỹ có căn cứ khổng lồ tại đây, nên việc nghiên cứu thời tiết khí hậu đã được tiến hành một cách công phu để phục vụ cho hoạt động của không quân và các hoạt động quân sự khác. Vì vậy, máy bay bay qua đây đều biết trước được thời tiết khí hậu ra sao, nhưng dù biết trước để tránh nhưng máy bay vẫn rơi một cách kỳ lạ. Một số cho rằng giống như vùng Tam giác quỷ Bermuda bí ẩn vẫn là bí ẩn./.

gười ngoài hành tinh đang theo dõi chúng ta?

Những người ngoài trái đất đang sống lẫn giữa con người và theo dõi chúng ta, các nhà khoa học Bulgaria tuyên bố.

Ảnh minh họa.

Nhóm các chuyên gia đến từ Viện nghiên cứu vũ trụ của Bulgaria còn cho biết đã liên lạc được với người ngoài hành tinh và đã gửi đi một bộ mã hóa các ký hiệu phức tạp. Họ tuyên bố người ngoài hành tinh đang trả lời bộ 30 câu hỏi đó.

Lachezar Filipov, Phó giám đốc Viện nghiên cứu vũ trụ thuộc Viện khoa học hàn lâm Bulgaria, đã khẳng định công trình này. Ông cho biết các nhà nghiên cứu của trung tâm đã phân tích 150 hình tròn trên các cánh đồng khắp thế giới mà họ tin rằng là câu trả lời cho những câu hỏi được gửi.

"Người ngoài hành tinh đang sống quanh chúng ta, họ liên tục theo dõi chúng ta", Telegraph trích lời Filipov nói. "Họ không hề thù địch mà muốn giúp đỡ con người, nhưng vì chúng ta chưa đủ phát triển để có thể liên lạc trực tiếp với họ".

Filipov cho biết kể cả tòa thánh Vatican cũng đồng ý rằng người ngoài hành tinh tồn tại. Ông nói con người sẽ không thể thiết lập được liên lạc với người ngoài hành tinh qua sóng radio nhưng qua năng lực suy nghĩ.

Việc công bố nghiên cứu của các nhà khoa học Bulgaria xảy ra giữa những tranh cãi về vai trò, tính khả thi và việc cải cách lại Viện khoa học hàn lâm Bulgaria.

Tuần trước, vụ việc đã dẫn tới cuộc tranh cãi gay gắt giữa Bộ trưởng Tài chính Simeon Djankov và Tổng thống Georgi Parvano

Người ngoài hành tinh 'đang sống trên trái đất'

Một diễn đàn về những điều không thể lý giải đang diễn ra tại Vân Nam, Trung Quốc. Xinhua đã trò chuyện với những người tham gia để họ có cơ hội giải thích về niềm tin vào sự tồn tại của người ngoài hành tinh.

Người ngoài hành tinh đang sống tại Vân Nam, Hắc Long Giang và khu tự trị Tân Cương, một giáo vật lý tại Đại học Vân Nam, Trung Quốc, tuyên bố.

"Địa hình phức tạp ở những nơi này tạo điều kiện thích hợp để họ quan sát chúng ta - những cư dân trái đất", Zhang Yifang, Giám đốc Hiệp hội nghiên cứu UFO Côn Minh, khẳng định. 

Những biểu tượng kỳ lạ xuất hiện trên một cánh đồng ở tỉnh Liberec, Czech, hôm 30/6/2008. Ảnh: Xinhua.

Vân Nam là nơi chiếm tỷ lệ 1/10 số trường hợp nhìn thấy vật thể lạ tại khu vực - hơn 400 trường hợp kể từ năm 1972. Rất nhiều người cho biết đã nhìn thấy một vật thể phát sáng có hình cái bát trên bầu trời.

Zhang, 62 tuổi, là một trong hàng trăm người thường xuyên quan sát bầu trời và đã tham dự diễn đàn về những hiện tượng không thể lý giải nổi, diễn ra từ ngày 31/10 đến 16/11 tại Trung Quốc.

Một số người hoài nghi vấn đề này thì cho rằng lý do duy nhất để Vân Nam trở thành nơi có nhiều phát hiện UFO là do ở đây có quá nhiều người hứng thú với các vật thể bay không xác định.

Điều đó hoàn toàn sai lầm, Zhang khẳng định. "Những người ngoài hành tinh đang sống ngay giữa chúng ta. Vân Nam là một nơi kỳ bí, đầy rẫy những điều kỳ quặc. Trí thông minh của người ngoài hành tinh vượt xa chúng ta. Họ chắc chắn phải có một lý do chính đáng để chọn Vân Nam làm nơi định cư".

Tuy nhiên, ông không đưa ra được bằng chứng cụ thể nào về việc người ngoài hành tinh đang ở Vân Nam.

"Nhưng tôi tin rằng họ tử tế và không hề có ý định tấn công chúng ta", Zhang bổ sung. "Có thể họ cải trang giống hệt con người hoặc họ sản xuất các robot giống người để theo dõi chúng ta".

Tuy nhiên, có bao nhiêu người ngoài hành tinh hoặc robot, và họ đến từ khi nào, thì Zhang không trả lời được.

"Rất nhiều người Trung Quốc tin rằng người ngoài hành tinh tồn tại, nhưng chỉ một số ít người đầu tư để nghiên cứu. Những người trẻ tuổi không muốn mất thời gian để nghiên cứu điều mà không biết có tồn tại hay không. Giống như bạn lục tìm trong hư vô. Hơn nữa, nếu họ kể cho bạn bè biết, họ sẽ bị chế giễu hết lời", Zhang bày tỏ. 

Một vật thể lạ được nhìn thấy trên đảo Vancouver Island, British Columbia, Canada ngày 8/10/1981. Ảnh: Xinhua.

Zhang Zhousheng, 52 tuổi, từng là nhà thiên văn học tại Đài quan sát Vân Nam, nổi tiếng với dự đoán vào tháng 6/1981 rằng: "Chúng ta sẽ nhìn thấy một UFO vào cuối tháng 7".

Vào ngày 24/7/1981, hàng triệu người tại tỉnh Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên và Vân Nam đã nhìn thấy một vật thể bay có hình xoắn ốc phát sáng trên bầu trời.

"Với nhiều người, UFO là vật thể bay không xác định", Zhang nói, "nhưng với tôi nó hoàn toàn xác định được bởi tôi có thể tính toán khi nào thì nó tới".

Là một nhà thiên văn học, Zhang thường xuyên quan sát bầu trời vào mỗi tối từ chiếc kính viễn vọng tại nhà mình. Ông quan tâm tới UFO lần đầu tiên vào những năm 1970 khi nhìn thấy một thứ gì đó bay trên bầu trời Tứ Xuyên.

"Tôi vẫn còn nhớ mình đã sốc như thế nào khi nhìn thấy vật thể xoắn ốc di chuyển trên bầu trời trong vòng 5 phút", Zhang kể lại.

Kể từ đó ông ngày càng hứng thú sâu sắc với việc nghiên cứu UFO. Lời tiên đoán của ông được đăng trên hàng chục tờ báo và tạp chí. Sau đó ông còn đăng một bài viết lý giải những giả thuyết của mình. Nhưng giờ đây, Zhang khẳng định đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ông công bố dự đoán của mình bởi mọi người không ngừng tra hỏi ông.

"Việc dự đoán về UFO không giống như mưa sao băng", Zhang nói. "Tôi có thể đoán khi nào thì một UFO tới, nhưng không thể chắc chắn nó có ở đúng vị trí mà chúng ta có thể nhìn thấy không". 

Yang Zheng, 29 tuổi, là một trong những thành viên trẻ tuổi nhất của Hiệp hội nghiên cứu UFO Kunming và cũng là một trong những người thường xuyên nhìn thấy UFO.

"Tổng cộng 6 lần, một lần ở Bắc Kinh và 5 lần ở Vân Nam. Nhưng tôi vẫn không hiểu vì sao mình tiếp tục nhìn thấy UFO". Yang nói.

Lần nhìn thấy vật thể lạ đầu tiên của anh là vào 20 năm trước khi anh nhìn thấy một vật thể mầu đỏ trên bầu trời từ cửa sổ nhà mình. Anh lập tức tra cứu sách vở nhưng không tìm ra câu trả lời. Cha anh bảo đó chỉ là một cái máy bay. Quá thất vọng, anh quyết định tự tìm hiểu và bắt đầu nghiên cứu về UFO.

"Càng nghiên cứu, tôi càng cảm thấy niềm tin của mình đang thay đổi".

Trường hợp ấn tượng nhất mà anh điều tra là vào tháng 11/2006 khi hàng nghìn dân làng ở các khu vực thuộc tỉnh Vân Nam khẳng định đã nhìn thấy 7 vật thể lạ hình bán cầu lấp lánh trên bầu trời trong vòng hai giờ đồng hồ.

Tin tức lan truyền nhanh chóng và ngày càng nhiều người đổ xô tới xem. Họ bám theo vật thể di chuyển liên tục. Rồi đột nhiên, mọi ánh sáng biến mất.

Yang đã phỏng vấn người dân ngay tại chỗ, trò chuyện với các già làng và yêu cầu họ vẽ lại những gì nhìn thấy. "Mặc dù tôi không thể chứng minh nó là thật, nhưng tôi tin rằng họ không hề nói dối. Bởi chỉ có các diễn viên chuyên nghiệp mới bịa đặt tài tình như vậy".

Sau cuộc điều tra đó, anh trở lại Bắc Kinh và một lần nữa một UFO hiện ra trước mắt anh. Khi đó anh đang chơi game tại nhà thì cảm thấy bồn chồn trong người như sắp có chuyện gì xảy ra. Anh tắt máy tính, đi ra ngoài sân và nhìn lên bầu trời. Anh chỉ nhìn thấy một đám mây lớn và không còn gì khác.

"Khi đó tôi hét lên: 'Đừng có chơi trò ú tim với tôi nữa. Hãy ra ngoài đi. Tôi thề rằng sẽ không nói cho một ai khác'. Ngay khi tôi vừa dứt lời, một đốm đỏ tách ra khỏi đám mây. Như thể họ đã nghe thấy tôi nói".

Không chuyên gia nào lý giải được vì sao Yang liên tục nhìn thấy UFO, nhưng anh tin rằng điều đó hẳn có một ý nghĩa nào đó.

"Tất cả những cuộc nghiên cứu và điều tra của tôi không phải để chứng minh sự tồn tại của người ngoài hành tinh, mà hoàn toàn ngược lại. Nó giúp chúng ta hiểu hơn về bản thân và thế giới xung quanh. Tôi nghĩ đó là thông điệp mà họ muốn gửi đến cho tôi".

Cheng Weiguo, 40 tuổi, đến với diễn đàn này với nhiều câu hỏi cùng một nhiệm vụ là bán ý tưởng thiết kế một đĩa bay.

Ông đã giới thiệu về một đĩa bay tiết kiệm năng lượng và chống lại lực hút của trái đất, "một phương tiện di chuyển tương lai của loài người" như ông miêu tả.

"Không giống như máy bay, nó có thể bay theo mọi hướng và dừng lại tại bất cứ đâu. Tôi tin rằng nó sẽ trở thành phương tiện vận chuyển cá nhân thông dụng nhất trong tương lai. Và một chiếc cỡ nhỏ chỉ có giá 20.000 nhân dân tệ", ông tuyên bố.

Cheng cho biết ông đã mất rất nhiều năm để nghiên cứu về đĩa bay và ông sẽ bán sản phẩm của mình với giá hữu nghị.

0 điều bí ẩn về loài người

Các câu hỏi cơ bản về nhân chủng học luôn đặt các nhà khoa học vào những cuộc tranh cãi bất tận, mà ở đó, nhiều giả thuyết được đưa ra còn câu trả lời xác đáng luôn để ngỏ. Dưới đây là 10 câu hỏi lớn của ngành nhân chủng học.

Người hiện đại đến từ đâu?

Câu hỏi từng gây tranh cãi nhiều nhất trong quá trình tiến hóa của con người xung quanh vấn đề: loài người hiện đại đã tiến hóa ở đâu.

Giả thuyết về Châu Phi cho rằng, người hiện đại đã tiến hóa tại đây, rồi sau đó di cư rộng khắp trên thế giới, thay thế quần thể hiện tại của người tối cổ.

Giả thuyết đa vùng miền lại cho rằng, con người hiện đại phát triển trên một khu vực rộng lớn từ người tối cổ, các quần thể này chia sẻ những đặc điểm về gene qua quá trình giao phối giữa các thành viên của các quần thể khác nhau, kết quả cuối cùng là con người hiện đại.

Hiện nay, thuyết về Châu Phi vẫn đứng đầu nhưng thuyết đa vùng miền vẫn chiếm sự tin tưởng của một lượng người đông đảo.

Vượn người bắt đầu xuất hiện từ đâu? 

Các nhà khoa học ngày khám phá nhiều mẫu vật của loại vượn người cổ, tổ tiên trực tiếp của loài người và các giống loài gần với con người hiện đại nhất. Họ cố gắng tìm ra một mẫu cổ nhất, để giúp trả lời câu hỏi cơ bản trong sự tiến hóa của con người, như tiến trình tiến hóa và khoảng thời thời gian.

Người hiện đại từng giao phối với người Neanderthals? 

Người Neanderthal sống ở khắp châu Âu vào khoảng cách đây 300.000 năm. Họ đã cố gắng thích nghi và sống sót được một thời gian sau thời kỳ băng hà trước khi bị tuyệt chủng vào khoảng 30.000 năm trước đây.

Đến nay, ngành nhân chủng học vẫn băn khoăn: Liệu chúng ta có phải con lai giữa người Neanderthals và người hiện đại? Liệu chúng ta còn lại bất kỳ gene nào từ người anh em họ đã tuyệt chủng?

Các nhà khoa học cho rằng, người Neanderthal đã tuyệt chủng, nhưng đó là vì họ đã hòa nhập với người hiện đại. Bên cạnh giả thuyết này, còn có ý kiến cho rằng, chính loài người đã ăn thịt người Neanderthal trong quá trình cạnh tranh sinh tồn thưở hồng hoang.

Tại sao người hiện đại di cư khỏi Châu Phi? 

Khoảng 50.000 năm trước, người hiện đại đã di cư ra khỏi Châu Phi, lan tỏa nhanh chóng trên hầu hết các vùng đất của thế giới, rồi định cư ở tất cả các châu lục, ngay cả những hòn đảo xa xôi nhất Thái Bình Dương, ngoại trừ Nam Cực. Nhưng điều gì đã dẫn dắt họ rời xa cái nôi này?

Một số nhà khoa học lý giải rằng, sự di cư này liên quan tới việc bộ não và cơ thể phát triển, con người đủ sức đề kháng với những biến đổi của khí hậu, tự nhiên... là tiền đề quan trọng giúp chúng ta vươn tới các miền đất xa lạ.

Quan điểm phổ biến hơn lại cho rằng, việc di cư đơn giản là nhân loại đã vượt qua ngưỡng về dân số ở Châu Phi và lý do đơn giản này thúc đẩy sự thay đổi về chỗ ở của con người. Ở một số truyền thuyết cổ xưa lẫn các tác phẩm tôn giáo đều có nhắc tới những giới hạn, gò bó về điều kiện sống và giải pháp của vấn đề này là các thảm họa (đại hồng thủy, chiến tranh), hoặc sự phân ly để giảm sự bùng nổ dân số.

Người Hobbit từng tồn tại? 

Việc tìm thấy bộ xương “Hobbit” có vóc dáng nhỏ bé trên hòn đảo Flores, Indonesia năm 2003, có thể là cơ sở xác định một giống người đã tuyệt chủng, (Homon floresiensis) hay bộ xương này chỉ là ví dụ về biến dạng của loài Homon Sapien?

Đến nay, các nhà khoa học vẫn chưa có câu trả lời chính xác rằng, bộ xương đó là một trong những mắt xích tiến hóa của loài người hay chỉ là hiện tượng biến dạng cá biệt của Homon Sapien. Số lượng mẫu tìm được quá ít để giúp các nhà khoa học khẳng định điều này.

Sự tiến hóa của loài người đang tăng tốc? 

Gần đây, một số nhà khoa học khẳng định nhân loại không những còn tiến hóa, mà sự tiến hóa này đang thực sự tăng tốc lên đến 100 lần mức lịch sử. Tuy nhiên, sự tiến hóa đang diễn ra theo chiều hướng tiêu cực vì con người dựa dẫm quá nhiều vào sự tiện nghi. Nhóm ủng hộ giả thuyết này phác thảo hình ảnh con người trong tương lai: cơ bắp teo lại, đầu to ra.

Tuy nhiên, bên cạnh giả thuyết này là ý kiến cho rằng, con người đã chạm giới hạn tiến hóa. Điều thú vị là những người ủng hộ giả thuyết này đưa ra nguyên nhân sự ngừng tiến hóa của con người giống với nhóm trên, đó là do những tiện nghi bao bọc. Theo họ, thay vì rèn luyện chịu rét tốt hơn con người mặc áo ấm, thay vì luyện tập để lặn sâu thở lâu thì con người đeo bình khí nén... Tất cả sự lười biếng trên làm con người không thay đổi gì.

Tại sao họ hàng gần nhất của chúng ta lại tuyệt chủng? 

Khoảng 24.000 năm trước, loài Homosapiens, không phải là loài linh trưởng thông minh duy nhất trên thế giới, mà còn những người Neanderthal. Người Homon floresiensis từng nêu ở phần trên cũng được đề nghị có vai trò tương tự. Tuy nhiên, tại sao người tinh khôn sống sót cho đến trong khi các giống người trên chỉ đánh dấu sự tồn tại của họ bằng những bộ xương được các nhà khảo cổ tìm thấy.

Đến nay, các nhà khoa học vẫn không ngừng tranh cãi về lý do, gồm: sự nhiễm trùng hay sự thay đổi đột ngột điều kiện sống hoặc cả hai đã làm họ tuyệt chủng?

Điều gì đã xảy ra với lông của chúng ta? 

Con người thật nổi bật khi so sánh với các "anh em" trong họ linh trưởng đầy lông lá. Vậy lông lại biến mất?

Một gợi ý cho rằng, tổ tiên của chúng ta cần lông để giữ mát khi di chuyển trên cỏ savan nóng bỏng của Châu Phi. Ý kiến khác cho rằng, mất lông đã giúp chúng ta tránh khỏi ký sinh trùng và các bệnh có thể lây lan.

Một ý tưởng không chính thống, thậm chí gợi ý con người ít lông phát triển từ tổ tiên của chúng ta trong một thời gian ngắn thích nghi cho một cuộc sống gắn bó nhiều với nước. Tuy nhiên, giả thuyết này bị thực tế phản bác mạnh mẽ. Hầu hết các động vật có vú sống dưới nước thuỷ lại có lông dày đặc.

Tại sao con người đi bộ trên hai chân? 

Tại sao loài người đứng và đi bộ trên hai chân khi người anh em linh trưởng lại đi bộ bằng bốn chân? Các nhà khoa học vẫn chưa có lời lý giải xác đáng. Tuy nhiên, họ đưa ra nhiều lợi ích từ việc đứng thẳng trên hai chân. Đó là: đi bộ thực sự có thể sử dụng năng lượng ít hơn tất cả các hình thức đi bằng bốn chân; đôi bàn tay được nhấc lên khỏi mặt đất giúp kiếm nhiều thức ăn hơn; đứng thẳng còn giúp kiểm soát nhiệt độ vì giảm diện tích da tiếp xúc với ánh mặt trời.

Tại sao chúng ta phát triển não lớn? 

Não chỉ chiếm khoảng 2% khối lượng của cơ thể, nhưng lại tạo ra sự khác biệt tuyệt đối giữa con người với động vật. Điều đáng ngạc nhiên là não chỉ hoạt động với một năng suất rất khiêm tốn. Ngay cả trường hợp "bộ não vĩ đại" của nhà khoa học Albert Einstein, cũng được phát hiện là mới chỉ hoạt động nhiều hơn bình thường vài chục phần trăm, trong khi đó, lại nhẹ và mỏng hơn não người bình thường. Một câu hỏi lớn đặt ra, nếu biết cách đánh thức phần còn lại của bộ não hoạt động, con người có thể tạo ra những thành tựu to lớn nào hơn nữa? Hy vọng này càng được nhen nhóm khi các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu vào những năng lực siêu nhiên xuất hiện ở một số trường hợp cá biệt.

Hải quân Nga tiết lộ gặp đĩa bay

Hải quân Nga vừa công bố tài liệu về những lần tiếp xúc với vật thể bay không xác định (UFO) và cho thấy chúng thích hạ cánh xuống đại dương khi ghé thăm trái đất.

Một cơ quan đặc biệt của hải quân thời Liên Xô đã tập hợp các báo về những biến cố của tàu ngầm và tàu quân sự. Nhóm này do phó chỉ huy hải quân Nikolay Smirnov đứng đầu và tài liệu cho thấy hải quân Nga có thể đã nhiều lần gặp đĩa bay.

Vladimir Azhazha, một cựu quan chức hải quân đồng thời là nhà nghiên cứu về đĩa bay nổi tiếng của Nga, cho rằng tài liệu kể trên rất có giá trị. Ông cho biết một nửa số lần tiếp xúc với đĩa bay là ở trên biển, nửa còn lại là ở các hồ nước. "Chứng tỏ các UFO thích nước", ông nói.

Theo tài liệu trên, một tàu ngầm hạt nhân đang thực hiện nhiệm vụ chiến đấu ở Thái Bình Dương đã phát hiện 6 UFO. Sau khi không bỏ được những vật thể bay này ở lại phía sau, con tàu nổi lên mặt nước và các UFO liền bay đi. 

Một cựu sĩ quan tình báo hải quân là Igor Barklay thì cho biết thêm, các UFO thường xuất hiện ở những nơi tập trung các hạm đội của Liên Xô hoặc NATO như gần Bahamas, Bermudas hoặc Puerto Rico. "Chúng thường bị bắt gặp tại vùng sâu nhất trên Đại Tây Dương, ở phía nam Tam giác Bermuda và trên biển Caribbe", Barklay nói.

Theo Barklay, một nơi nữa các vật thể bay thường xuất hiện là ở hồ Baikal, hồ nước ngọt sâu nhất thế giới. Những người đánh cá thường kể về những quầng sáng mạnh mẽ phát ra từ dưới nước và các vật thể vọt lên từ lòng hồ.

Trong một trường hợp xảy ra năm 1982, một nhóm thợ lặn quân sự đang huấn luyện tại hồ Baikal đã bắt gặp nhóm vật thể có hình dạng như người máy và khoác những bộ quần áo màu bạc. Vụ đối mặt xảy ra ở độ sâu 50 mét và các thợ lặn đã tìm cách bắt những sinh vật lạ kia. Nỗ lực của họ bất thành trong khi 3 trong số 7 binh sĩ thiệt mạng, số còn lại bị thương nặng.

Trong khi đó, một cựu chỉ huy tàu hải quân thời Liên Xô là Yury Beketov cho biết, nhiều vụ việc bí ẩn đã xảy ra tại khu vực Tam giác quỷ Bermuda. Các thiết bị trên tàu bị hỏng mà không có lý do rõ ràng cũng như tác động mạnh nào. Ông cho rằng có thể các UFO đã gây ra tình trạng đó.

"Nhiều trường hợp các thiết bị cho thấy có vật thể bay với tốc độ kinh ngạc, có thể tới 400 km/h. Tốc độ đó ở trong không gian đã là cao nhưng ở dưới nước với lực cản của nước thì đáng kể hơn nhiều. Dường như chúng không chịu ảnh hưởng của các nguyên tắc vật lý. Chỉ có thể giải thích rằng những sinh vật sáng tạo ra chúng vượt xa chúng ta rất nhiều", Beketov nhận định.

Bí ẩn những hộp sọ người kỳ lạ

Bí ẩn tiếp tục bao trùm quanh những hộp sọ người có hình dáng kì lạ mới được tìm thấy tại Serbia. Các nhà khoa học đang đau đầu với câu hỏi chúng được hình thành như thế nào và thuộc về ai? 

Những hộp sọ người mới được các nhà khảo cổ phát hiện trong các nấm mồ tại một khu rừng gần thành phố Omsk, phía tây nam Siberia. Tuy xác định được nguồn gốc của chúng, các học giả thuộc Bảo tàng văn hóa lịch sử Omsk khẳng định chúng ít nhất 1.600 tuổi.

Theo ông Igor Skandakov, giám đốc của Bảo tàng cách lý giải phù hợp nhất là các cộng đồng thời xưa đã cố ý dùng lực để ép dài đầu các thành viên trong bộ tộc mình từ lúc còn nhỏ. Nhưng mụch đích của tập tục này để làm gì thì vẫn còn là một bài toán hóc búa đối với các nhà khoa học.

Từ lâu có nhiều người tin rằng chúng thuộc về những người hành tinh ghé thăm trái đất từ hàng nghìn năm trước và ảnh hưởng lên các nền văn minh cổ. “Có nhiều truyền thuyết kể rằng các vị chúa đã giáng trần, họ có đầu dài và được người dân rất kính trọng”, ông Skandakov nói.

Những chiếc sọ dài tương tự như vậy cũng đã được các nhà khảo cổ tìm thấy trên khắp thế giới, phần lớn là ở Trung và Nam Mỹ, trong các ngôi mộ của các bộ tộc cổ xưa. 

Vào năm 1995, nhà nghiên cứu Robert Connolly đã tình cờ chụp được hình ảnh một chiếc sọ dài trong một chuyến đi thu thập dữ liệu về các nền văn minh cổ. Nó được ước tính 10.000 tuổi. Ngoài hình dáng kỳ lạ, nó mang những đặc điểm của sọ người hiện đại và người nguyên thủy Neanderthal - mà theo các nhà nhân chủng học đây là điều không thể bởi người Neanderthal chưa bao giờ có mặt tại Nam Mỹ. 

Một số người tin rằng những chiếc đầu dài khác thường này có thể là kết quả của tục lệ “bó đầu” của người xưa. Mỗi đứa trẻ sẽ phải bó đầu bằng vải hay dây da từ khi được sinh ra cho đến hết cuộc đời nên đầu sẽ dài ra và phát triển không bình thường.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều bí ẩn xoay quanh những hộp sọ này bởi chúng được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới nhưng lại không có liên hệ gì với nhau. 

Tại Mexico, người Maya có các vị thần rắn đội mũ dài, nhiều màu. Liệu có thể hiểu rằng tầng lớp thượng lưu Maya coi đầu dài là một biểu tượng thời trang? Nhưng tại sao các vị thần lại đội những chiếc mũ khá chau chuốt như vậy phải chăng vì đầu họ cũng dài? Các vị thần Ai Cập cũng đội mũ dài, liệu có mối liên hệ nào ở đây? 

Chúng không chỉ được tìm thấy ở Ai Cập, Mexico mà còn xuất hiện tại Malta, Iraq và Syria. Dường như chúng thuộc về những người có quan hệ mật thiết với vua chúa hay các thầy tế.

Trừ Peru và Mexico, các địa điểm khác có vị trí địa lý gần nhau do đó nhiều khả năng những chiếc sọ này bắt nguồn từ cùng một nơi. Gen của người Mexico và Peru cũng có thể giống nhau vì 2 nước này là nơi khởi nguồn của nền văn minh châu Mỹ.

Bí ẩn những con tàu ma (phần 1)

Hàng thế kỷ nay, sự thật về những con tàu ma vẫn luôn là nỗi ám ảnh của những người đi biển. Số phận và nguyên nhân biến mất đầy bí hiểm của những thủy thủ đoàn như thế nào?... có lẽ vẫn sẽ là một ẩn số không có lời giải.

“Tôi là người duy nhất còn sống sót….”

Vào khoảng những năm 40 của thế kỷ trước, sự biến mất đầy bí hiểm của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu Urang Medana của Hà Lan được cho là một bí ẩn lớn nhất trong lịch sử ngành hàng hải thế giới.

Ở thời điểm đó, một vài trạm rada của Anh đặt tại Singapore và Sumatra (Indonesia) thông báo có nhận được tín hiệu cấp cứu từ tàu Urang Medana của Hà Lan với nội dung: “SOS… SOS tất cả đã chết… tôi là người duy nhất còn sống sót…”, tiếp sau đó là hàng loạt các ký tự lộn xộn và các dấu chấm. Một lát sau tín hiệu được nối lại, nhưng chỉ có một câu duy nhất là “Tôi đang chết dần”, rồi kết thúc bằng một sự im lặng đến ghê rợn. 

Các cuộc tìm kiếm cứu hộ nhanh chóng được thiết lập và đã cho kết quả. Con tàu được tìm thấy tại vịnh Malacca, cách nơi phát tín hiệu trước đó khoảng 80 km. Khi bước chân lên Urang Medana, ngay lập tức các nhân viên cứu hộ phải sởn gai ốc trước cảnh tượng kinh hoàng trước những cái chết một cách bất thường của toàn bộ thủy thủ đoàn.

Vị thuyền trưởng nằm ngay tại tại vị trí điều khiển, còn các sĩ quan và thuỷ thủ thì nằm rải rác khắp nơi trên tàu. Một nhân viên điện đài có lẽ là người đã phát ra tín hiệu cấp cứu, đã chết trong trạng thái làm việc. Ngay đến con chó trên tàu phải nhận một cái chết hết sức bất thường khi mõm của nó vẫn còn đang nhe nanh như đe dọa ai.

Điểm chung duy nhất là trên khuôn mặt của tất cả mọi người đều hiện rõ một nỗi sợ hãi khủng khiếp. Càng kỳ lạ hơn, không hề có bất kỳ một dấu hiệu tổn thương nào trên tất cả các tử thi. Giả thuyết về một vụ tấn công của cướp biển ngay lập tức bị loại bỏ bởi toàn bộ những thứ có giá trị trên tầu đều còn nguyên vẹn. 

Tuy nhiên, trong suốt chiều dài của thế kỷ 20, đây vẫn chưa phải là thảm hoạ duy nhất.

Vào năm 1955, trên biển Thái Bình Dương người ta còn tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Mỹ mang tên MB Elip cũng có những hiện tượng tương tự. Trên tàu, nước ngọt và đồ ăn dự trữ vẫn còn nguyên vẹn, các phương tiện cứu hộ vẫn chưa hề được sử dụng, vậy mà không có lấy một bóng người.

Khoảng 5 năm sau, trên biển Đại Tây Dương cũng xuất hiện hai chiếc thuyền buồm của Anh trôi dạt. Năm 1970, tất cả thuỷ thủ đoàn cùng với con tàu trở hàng của Anh mang tên Minton đột ngột mất tích một cách lạ lùng mà cho đến nay vẫn còn là một ẩn số. Rồi đến năm 1973, một tai nạn đã xảy ra và làm đắm chiếc tàu đánh cá Anna của Na Uy. Những thủy thủ trên những con tàu khác gần đó vô tình chứng kiến vụ tai nạn lấy làm lạ khi sự việc diễn ra, họ không thấy có bất kỳ ai trên boong tàu.

Giọng nói từ biển khơi 

Trong lịch sử ngành hàng hải, sự mất tích kỳ lạ của toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên con tàu nổi tiếng Maria Chelesta luôn được nhắc đến như một bí ẩn vĩ đại nhất của đại dương. Vào tháng 12/1872, thuỷ thủ trên tàu Jea Grasia của Anh bất ngờ gặp một chiếc thuyền buồm di chuyển một cách không bình thường. Đến khi tiến lại gần, họ rất đỗi ngạc nhiên khi trên boong thuyền Chelesta không có bóng dáng của con người mà vô lăng lái lại không được cố định.

Một hoa tiêu và hai thuỷ thủ người Anh quyết định thâm nhập vào con thuyền này để tìm hiểu tình hình. Không hề có bất kỳ dấu hiệu nào của con người. Vật giá trị nhất mà họ tìm được chính là cuốn nhật ký đi biển, trong đó ngày cuối cùng được đặt bút có đề ngày 24/11/1872 (con thuyền được tìm thấy vào ngày 02/12).

Con thuyền này được đưa về eo biển Gibraltar của Anh để các chuyên gia giàu kinh nghiệm điều tra bí ẩn đã xảy ra với nó, tuy nhiên mọi nỗ lực đều trở nên vô vọng.

Năm 1937, nhà vật lý của Liên Xô là Vladimir Suleykin đã đưa ra một giả thuyết được cho là tương đối thuyết phục. Trong một hành trình trên biển Kaspi trên tàu thuỷ văn Taimưr, một nhà khoa học đi cùng Vladimir Suleykin đã thực hiện thí nghiệm với một quả cầu thám không chứa đầy khí hydro: khi quả cầu này được đưa đến gần ai thì người đó bỗng xuất hiện một cảm giác đau buốt trong màng nhĩ, còn khi đưa ra xa cảm giác đau đớn đó dần tan biến.

Vladimir Suleykin liền để ý tới hiện tượng lạ lùng này để rồi không lâu sau đó đưa ra nhận định của mình trên báo chí rằng, gió thổi qua các cơn sóng trong những ngày biển động đã tạo ra trong không khí các dao động sóng hạ âm mà tai con người không nghe thấy. Sóng hạ âm này rất có hại đối với con người. Trong dải tần thấp hơn 15 héc, sóng hạ âm không chỉ gây tổn thương cho màng, mà còn gây rối loạn hệ thần kinh trung ương và ảnh hưởng đến thị giác. Ở dải tần dưới 7 héc, sóng hạ âm đôi khi gây tử vong đối với con người. Như vậy, nơi nào xuất hiện bão thì ở đó xuất hiện sóng hạ âm. Hiệu ứng này được V. Suleikyn gọi là “âm thanh của biển cả”.

Bí ẩn những con tàu ma (phần 2)

Liệu con người đã tìm ra được bí mật của những con tàu ma xấu số? Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến những cái chết vô cùng bí hiểm của các thủy thủ trên tàu?

Sóng âm gây chết người ?

Trong các nghiên cứu về tác động vật lý của sóng hạ âm có cường độ lớn đối với cơ thể sống, người ta đã phát hiện một hiện tượng đáng kinh ngạc.

Thí nghiệm trên các loài động vật cho thấy, chúng đều có một cảm giác lo lắng, sợ hãi không rõ nguyên nhân. Thí nghiệm trên cơ thể một số người tình nguyện cũng cho kết quả tương tự: họ đều cảm thấy đau đầu, lo lắng với một nỗi sợ hãi khủng khiếp không rõ nguyên nhân.

Theo giáo sư Gavro người Pháp, âm thanh ở tần số 7 héc có thể gây tử vong. Trong thời gian xuất hiện bão trên biển, sóng hạ âm dao động từ 15 héc xuống đến gần 6 héc. Như vậy, cường độ dao động càng thấp thì nguy cơ tử vong đối với con người là khó có thể tránh khỏi, khi đó, họ sẽ phải hứng chịu một cái chết với nỗi khiếp sợ và kinh hoàng không rõ nguyên nhân. Hơn nữa, nếu thân và cột buồm của tàu cộng hưởng trở thành nguồn sóng hạ âm thứ sẽ càng tác động mạnh mẽ lên con người, làm họ mất lý trí để rồi nhảy ra khỏi tàu để trốn chạy hoảng loạn. Không phải vô cớ mà trên nhiều chiếc thuyền, những chiếc cột buồm bị gãy và hỏng trong khi thời tiết được dự báo là không có gió to.

Truyền thuyết về tàu ma xuất hiện từ đâu? 

Chúng ta ít nhiều đều đã từng nghe danh một con tàu đã đi vào truyền thuyết với tên gọi “Người Hà Lan bay”. Một con tàu ma không có bóng người. Bất kỳ ai chẳng may gặp nó đều sẽ phải hứng chịu những bất hạnh kinh khủng. 

Theo truyền thuyết, trong một cơn bão lớn, viên thuyền trưởng Van Staaten đã vô cùng khó khăn để điều khiển tàu vòng qua được mũi Hảo Vọng. Trong cơn hỗn loạn, toàn bộ thủy thủ trên tàu đều yêu cầu thuyền trưởng quay trở lại. Không thèm để ý đến đề nghị của đa số mọi người, Van Staaten trong cơn tức giận đã bắt đầu phỉ báng chúa trời và tuyên bố rằng sẽ đổ bộ vào mũi Hảo Vọng, thậm chí có phải bơi cho đến ngày chúa tái lâm. Ngay lập tức, một giọng nói khủng khiếp từ trên trời vang lên để đáp trả lời phỉ báng đó: “Được, vậy thì các người hãy bơi đi”. Kể từ đó, con tàu trở thành điềm gở cho bất kể ai vô tình hay cố ý nhìn thấy nó.

Một biên niên sử buồn…

Sự biến mất bí ẩn của con người và các con tàu vẫn tiếp tục trong thế kỷ 21. Liệu có phải, những trường hợp đó đều có liên quan đến “giọng nói từ biển khơi” hay không may chạm trán với “người Hà Lan bay”? 

Năm 2003, máy bay thuộc Cục bảo vệ bờ biển Autraulia đã tìm thấy một chiếc thuyền buồm của Indonesia gần bờ biển nước này. Tàu vẫn trong tình trạng hoạt động tốt, khoang chứa đầy cá, thế nhưng trên tàu lại không có một bóng người. (trước đó, tàu ra khơi với 14 thuỷ thủ). (Ảnh trên) 

Năm 2006, Cục bảo vệ bờ biển Sardinhia (Italia) nhận thấy một chiếc thuyền buồm hai cột mang tên “Bel Amika” bị trôi dạt tự do mà không có người trên đó. Trên thuyền vẫn còn thức ăn thừa và những tấm bản đồ địa lý của Pháp. Cảnh sát đã nghi ngờ chiếc thuyền đã được những kẻ buôn lậu sử dụng để vận chuyển ma tuý. Tuy nhiên giả thuyết này ngay sau đó bị bác bỏ khi họ sử dụng chó nghiệp vụ để điều tra. Cùng năm đó, cũng cách Australia không xa, người ta lại tìm thấy chiếc tàu chở dầu Yan Seng cũng không có bóng người. (Ảnh trên) 

Năm 2007 một chiếc tàu dài 12 m trống không có tên “Kaz II” được tìm thấy khi đang trôi dạt ở vùng biển Đông Bắc Australia. Điều lạ là động cơ của tàu vẫn đang hoạt động, một máy tính xách tay và hệ thống định vị toàn cầu GPS, một bàn ăn đã dọn sẵn. Tất cả các phương tiện cứu hộ vẫn còn nguyên trên tàu. Cánh buồm vẫn được căng lên nhưng đã bị rách nát. (Ảnh trên) 

Năm 2008, Cục an ninh biển Nhật Bản thông báo phát hiện một chiếc xà lan đang trôi dạt không có tên có số hiệu và người trên boong. (Ảnh trên)

Những tiết lộ “giật mình” về người ngoài hành tinh

Người ngoài hành tinh có thật và đã liên lạc với con người trên trái đất. Đây là khẳng định của ông Edgar Mitchell, cựu phi hành gia hàng đầu của NASA và là người đàn ông thứ 6 đặt chân lên mặt trăng.

Mitchell, 77 tuổi, người đặt chân lên mặt trăng trên con tàu Apollo 14 năm 1971, đã ra đưa ra những khẳng định gây sốc trên trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Kerrang! nổi tiếng tại Anh.

Cũng theo lời Mitchell, người ngoài hành tinh là có thật nhưng đã bị các chính phủ Mỹ che giấu suốt hơn 60 năm qua. Mitchell nói ông đang phơi bày một âm mưu nhằm giữ kín người ngoài hành tinh như một bí mật.

Cựu phi hành gia của NASA cho hay ông đã biết về nhiều chuyến viếng thăm của UFO tới trái đất trong suốt những năm ông làm việc tại NASA nhưng tất cả các vụ việc đều bị che đậy.

Người đàn ông 77 tuổi khẳng định NASA đã liên lạc với những người ngoài hành tinh, miêu tả họ "là những con người bé nhỏ nhìn chúng tôi một cách lạ lẫm".

Theo miêu tả của ông Mitchell, người ngoài hành tinh có dáng người bé nhỏ, mắt và đầu to.

Ông Mitchell nói rằng người ngoài hành tinh có dáng dấp đúng như những gì mà các nhà sản xuất phim tưởng tượng: thân hình bé nhỏ, mắt và đầu to.

“Không có gì nghi ngờ khi nói rằng cuộc sống tồn tại trên khắp vũ trụ. Chúng ta không đơn độc. Tôi có thể khẳng định điều đó”.

“Liệu chúng ta có thể xác định những hành tinh đó ở đâu? Không, tất nhiên là không trong Hệ mặt trời. Nhưng chúng ta có thể xác định một số hành tinh tồn tại sự sống”.

Theo lời Mitchell, công nghệ của con người không tinh vi bằng công nghệ của người ngoài hành tinh, và rằng con người có thể không còn trên trái đất nếu bị người ngoài hành tinh căm ghét. “Họ không có hại và không thù địch với con người”.

Ông Mitchell, cùng với chỉ huy tàu Apollo 14 Alan Shepard, hiện đang giữ kỷ lục cuộc đi bộ dài nhất trên mặt trăng với thời gian 9 giờ, 17 phút vào năm 1971.

Trong cuộc phỏng vấn, ông nói: “Người ngoài hành tinh đã ghé thăm trái đất và hiện tượng UFO là có thật... Chuyện đó đã bị giấu kín bởi tất cả các chính phủ trong 60 năm qua, nhưng dần dần nó đã bị rò rỉ”.

“Tôi nằm trong số các quan chức bình báo và quân đội biết sự thật đằng sau những gì công chúng biết, đó là trái đất đã được ngoài hành tinh ghé thăm. Đọc báo thời gian gần đây, tôi thấy chuyện đó đã xảy ra khá nhiều”.

“Đây mới là sự khởi đầu trong quá trình công khai mọi chuyện. Tôi nghĩ chúng ta đang tiến tới việc mở tấm rèm bí mật và một số tổ chức nghiêm túc đang hướng tới điều này”.

Mitchell có bằng kỹ sư hàng không và là tiến sĩ khoa học về hàng không và du hành vũ trụ. Ông khẳng định đĩa bay Roswell "đổ bộ" trái đất năm 1947 là có thật và những chuyến viếng thăm tương tự của người ngoài hành tinh sẽ tiếp tục được điều tra.

Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ NASA đã ra tuyên bố nói rằng họ không đồng tình với những bình luận của Mitchell.

Các quan chức của NASA cho biết họ không theo dõi các UFO và không liên quan tới việc giấu giếm sự thật. Một phát ngôn viên nói thêm: “Tiến sĩ Mitchell là một người Mỹ vĩ đại, nhưng chúng tôi không có cùng quan điểm với ông về vấn đề này”

Bí ẩn sự kiện Tunguska

Cách đây 100 năm, một vụ nổ khủng khiếp xé toang bầu trời bình minh trên những cánh rừng taiga đầm lầy miền tây Siberia, để lại một câu đố đến ngày nay vẫn còn là bí ẩn.

Một tia sáng chói lòa rạch ngang trời, tiếp theo là sóng chấn động có nguồn năng lượng của một nghìn quả bom nguyên tử đã san phẳng 80 triệu cây cối trong một khu vực rộng hơn 2000km2.

Những người du cư Evenki vẫn kể lại vụ nổ đã hất tung nhà cửa và động vật lên không trung như thế nào. Ở Irkutsk, cách đó 1500 km, các bộ cảm ứng địa tầng ghi lại hiện tượng có vẻ như một trận động đất. Quả cầu lửa lớn đến nỗi một ngày sau, người dân London vẫn có thể đọc báo dưới bầu trời đêm.

Nguyên nhân của sự kiện Tunguska - được đặt tên theo dòng sông Podkamennaya Tunguska gần nơi nó xảy ra - vẫn còn nằm trong ít nhất nửa tá giả thuyết.

Giả thuyết lớn nhất đó là một tảng đá sau khi du hành trong không gian hàng triệu năm đã kết thúc hành trình tại trái đất chính xác vào lúc 7:17 sáng ngày 30 tháng 6 năm 1908.

Ngay cả những người ủng hộ nhiệt thành nhất cho giả thuyết va chạm đột ngột cũng biết vẫn còn nhiều sơ hở. Họ cố gắng tìm kiếm câu trả lời, tin rằng điều này sẽ củng cố việc phòng vệ trước những mối nguy như Tunguska trong tương lai, sự kiện mà theo các chuyên gia xảy ra với tần số trung bình là 1/200 năm cho đến 1/1000 năm.

Theo lời bình của tờ báo khoa học Anh Nature: “Hãy tưởng tượng một thiên thạch bất ngờ lao xuống tàn phá một vùng đất mà không như Tunguska và những vùng hoang vắng ít ỏi khác trên trái đất ngày nay, vùng đất đó lại có người sinh sống.”

Nếu thủ phạm là một tảng đá, những lựa chọn sẽ nằm giữa một thiên thạch - mảnh vỡ bị hất ra khỏi vòng quỹ đạo giữa sao Hỏa và sao Mộc được mặc định lao vào trái đất, và một sao chổi - quả cầu chứa đầy các vật chất nguyên thủy, băng giá lượn lờ quanh Thái dương hệ.

Các sao chổi di chuyển với tốc độ lớn hơn nhiều so với thiên thạch, có nghĩa là chúng giải phóng động năng lớn hơn khi va chạm. Một sao chổi nhỏ sẽ có lực va chạm tương đương một thiên thạch lớn hơn.

Tuy nhiên, sau bao nhiêu nỗ lực tìm kiếm, không có mảnh vỡ nào được tìm thấy trong sự kiện Tunguska.

Theo các nhà nghiên cứu Italia Luca Gasperini, Enrico Bonatti và Giuseppe Longo, tìm ra một mảnh cũng quan trọng vì nó sẽ tăng cường hiểu biết của chúng ta về mức độ hiểm nguy của các vật thể gần trái đất nguy hiểm (Near Earth Objects – NEOs).

Khi một thiên thạch mới được phát hiện, quỹ đạo của nó có thể được dùng để dự đoán va chạm nhiều năm sau trong tương lai. Sao chổi có số lượng ít hơn nhiều so với thiên thạch nhưng lại đáng lo ngại hơn, vì chúng là một thực thể khó dò biết.

Phần lớn sao chổi chưa được phát hiện vì chúng phải mất hàng thập kỷ hoặc thậm chí hàng trăm năm để quay xung quanh mặt trời và vượt qua mặt chúng ta. Kết quả là, bất kỳ sao chổi nào có nguy cơ đâm vào trái đất có thể đột ngột xuất hiện từ trong bóng tối và cho chúng ta rất ít thời gian để kịp phản ứng.

Nhóm nghiên cứu của Gasperini viết trong tờ Scientific American rằng “Nếu sự kiện Tunguska thực sự do một sao chổi gây ra, nó thuộc loại độc nhất vô nhị chứ không chỉ là một trường hợp quan trọng nằm trong những hiện tượng đã được phân loại. Mặt khác, nếu thực sự một thiên thạch phát nổ trên bầu trời Siberi vào sáng tháng 6 đó, tại sao không ai tìm thấy một mảnh vỡ nào?”

Các chuyên gia về NEO cũng không chắc chắn về độ lớn của vật thể.

Theo phán đoán, dựa trên quy mô phá hủy mặt đất, nó có kích cỡ khoảng 3m đến 70m. Tất cả đều đồng ý rằng vật thể, bị nung nóng do sự ma sát với phân tử khí quyển, phát nổ cách xa mặt đất – khoảng từ vài km đến 10km.

Nhưng lại nổ ra tranh cãi dữ dội liệu có bất kỳ mảnh vỡ nào chạm mặt đất hay không?

Điều này vô cùng quan trọng. Nếu sự kiện Tunguska xảy đến lần nữa, những người bảo vệ trái đất phải chọn lựa liệu cố chuyển hướng của nó đi hay cho nó nổ trong không gian, với rủi ro là một vật thể ở kích cỡ nhất định có thể tồn tại sau khi bốc cháy trong bầu khí quyển rồi va chạm với hành tinh của chúng ta.

Bộ ba các nhà khoa học Ý tin rằng câu trả lời nằm trong một cái hồ hình oval, gọi là hồ Cheko, nằm cách vị trí va chạm 10km. Họ dự định quay lại hồ Cheko hy vọng sẽ tìm thấy một vật thể có kích cỡ như trên nằm sâu 10m dưới tầng đáy hình phễu của hồ phản lại sóng siêu âm.

Nhưng điều gì xảy ra nếu lý do không phải là sao chổi cũng không phải thiên thạch? Một giả thuyết mới lại khuấy động trên tờ New Scientist.

Hồ Cheko không có hình tròn thường thấy của một hố va chạm, và không có vật chất ngoài trái đất nào được phát hiện, có nghĩa là “nguyên nhân xuất phát từ chính trái đất”, theo như Wolfgang Kundt - nhà vật lý học tại ĐH Bonn, Đức - phát biểu trên tờ New Scientist.

Ông tin rằng sự kiện Tunguska xảy ra do sự giải phóng 10 triệu tấn khí giàu mê-tan nằm trong lớp vỏ trái đất. Bằng chứng của sự thoát khí hủy diệt tương tự có thể được phát hiện tại Blake Ridge, đáy biển ngoài Na Uy: một “vết rỗ” rộng 700km2.

Người “xanh” ngoài hành tinh và UFO “ghé thăm” Anh?

Theo một tài liệu mới được giải mật, người ngoài hành tinh đã ghé thăm Anh trong suốt nhiều năm và số lần người Anh thấy vật thể bay không xác định (UFO) tăng gấp đôi kể từ khi bộ phim “Close Encounters” (tạm dịch Giáp mặt) được ra mắt vào năm 1977.

Đây là những thông tin nằm trong bản tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Anh, thu thập tất cả những báo cáo của người dân trong nước về những lần nhìn thấy vật thể lạ. Quyết định công bố những tài liệu này của chính phủ Anh nằm trong chương trình giải mật kéo dài 4 năm đối với tất cả những tài liệu liên quan đến UFO kể từ năm 1978 đến nay.

Theo những tài liệu được giải mật, vật thể bay của người ngoài hành tinh ghé thăm Anh có hình thù, kích thước và màu sắc rất đa dạng, nhưng những người trên vật thể thể bay đó đều có màu xanh.

Bộ quốc phòng Anh phủ nhận 90% thông tin trong các tài liệu liên quan đến người ngoài hành tinh trên bởi chúng không xác thực, và để lại 10% thông tin trong nghi vấn. Tuy nhiên, họ khẳng định tất cả đều không gây ra mối nguy hiểm nào đối với an ninh, quốc phòng Anh.

Theo một báo cáo năm 1983, một người đàn ông 78 tuổi đi câu vào giữa đêm cho biết ông ta đã theo chân những người ngoài hành tinh, xanh từ đầu đến chân, tới một phi thuyền. Nhưng sau đó, ông bị những người này đuổi đi bởi ông quá già và yếu cho mục đích của họ.

Hai năm sau, một bức thư đánh máy gửi đến Bộ Quốc phòng cho biết một phi thuyền ngoài hành tinh bị một phi thuyền khác bắn rơi trên sông Mersey, miền bắc Anh. Và người này còn làm bạn với một người ngoài hành tinh tên là Algar.

Khi Algar có ý định tự giao nộp mình cho chính phủ thì bị những người ngoài hành tinh khác giết hại. Tác giả của bức thư còn viết ông vẫn liên lạc bằng ngoại cảm với một người ngoài hành tinh có tên gọi Malcben trên hành tinh Platone trong Dải Ngân hà. Trên đầu bức thư là dòng chữ ngắn gọn: “Không hồi âm”. 

Ngoài ra, các tài liệu của Bộ Quốc phòng Anh còn cho biết kể từ những năm 1950, có 11.000 lần người dân Anh nhìn thấy người ngoài hành tinh. Một vài lần đã được đưa lên báo chí, và tất cả đã được kiểm tra phòng trường hợp chúng là máy bay do thám của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

“Rõ ràng một số báo cáo vẫn không thể giải thích được. Tuy nhiên chúng tôi không tìm thấy bằng chứng nào chứng tỏ những hiện tượng đó gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia, vì vậy Bộ quốc phòng không cần phải điều tra”, một lá thư chính thức viết vào năm 1985 cho biết.

Cụm từ Vật thể bay không xác định (Unidentified Flying Object – UFO) lần đầu tiên xuất hiện trong một báo cáo của Không lực Hoa Kỳ ba năm sau khi có người miêu tả đã nhìn thấy một “đĩa bay” ở Washington vào tháng 6/1947.

Tại Anh, do quá lo lắng đối với những thông báo về “đĩa bay”, một cơ quan nghiên cứu đĩa bay mật (Flying Saucer Working Party) đã được thành lập.

Giống như Không lực Hoa Kỳ, cơ quan của Anh cũng kết luận đĩa bay không tồn tại. Nhưng báo cáo cuối cùng của cơ quan này vào năm 1951 lại vẫn được xếp vào dạng “mật/thận trọng”, và được giải mật hạn chế.

Không phải tất cả những lần nhìn thấy đĩa bay đều có thể dễ dàng phủ nhận hoặc được cho là do trí tượng tượng của con người thêu dệt, hay do tác động của bộ phim Giáp mặt của Steven Spielberg. Nhân viên trong Không lực hoàng gia Anh, phi công lái máy bay dân sự, người điều khiển không lưu, cũng thông báo là đã nhìn thấy người ngoài hành tinh, và radar cũng phát hiện những “dấu vết” không thể giải thích được. Nổi tiếng nhất là hai lần người ta nhìn thấy những chòm ánh sáng sáng rực không giải thích được đáp xuống gần một căn cứ không quân của Mỹ ở rừng Rendlesham ở miền nam nước Anh. Thậm chí, phó chỉ huy trưởng căn cứ đó cũng ký tên mình vào bản báo cáo năm 1980.

hững bí ẩn lớn nhất trong lịch sử

Bản thảo Rongorongo

Được xem là một điều bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh, Rongorongo là tên của bản thảo viết bằng chữ tượng hình do những cư dân đầu tiên của đảo viết ra. Rongorongo xuất hiện một cách đầy bí ẩn vào vào những năm 1700 trong khi cư dân những vùng đảo lân cận còn chưa có chữ viết. Ngôn ngữ này đã biến mất từ lâu khiến cho việc giải mã bản thảo trở nên vô vọng. Thực dân châu Âu cấm đoán ngôn ngữ này vì nguồn gốc ngoại giáo của người dân trên đảo.

Thành phố Helike biến mất như thế nào?

Nhà văn Hy Lạp Pausanias đã miêu tả lại cảnh tượng trận động đất kinh hoàng đã phá hủy thành phố Helike trong một đêm, kéo theo một cơn sóng thần khủng khiếp nhấn chìm tất cả những gì còn sót lại của thủ phủ phồn thịnh một thời.

Thủ đô của các nước liên minh vùng Achaean này là trung tâm thờ phụng thần biển cả Poseidon. Ngoài các văn tự Hy Lạp cổ, không có dấu hiệu gì cho thấy thành phố này đã từng tồn tại cho đến khi một nhà khảo cổ phát hiện đồng tiền Helike có chạm khắc hình đầu thần Poisedon.

Năm 2001, hai nhà khảo cổ đã xác định được vị trí của thành phố Helike bên dưới một lớp bùn và sỏi. Công tác khai quật đang được tiến hành và các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm hiểu được quá trình lớn mạnh và diệt vong của thành phố được một số người xem là thành phố Atlantis trong huyền thoại.

Xác ướp đầm lầy

Cho đến nay đã có hàng trăm xác ướp – chủ yếu từ thời đồ sắt – được phát hiện ở vùng đầm lầy phía bắc châu Âu. Phần nhiều các xác ướp được bảo quản rất tốt có niên đại đến 2000 năm và mang dấu vết của việc bị tra tấn và bạo lực. Những vết tích đáng sợ này khiến các nhà khoa học phải đặt giả thiết rằng họ là nạn nhân của một nghi thức cúng tế của người xưa.

Sự sụp đổ của Đế chế Minoan

Trong khi các sử gia ngày càng khám phá thêm nhiều nguyên nhân khiến Đế chế La Mã sụp đổ thì bí ẩn vẫn bao trùm lên sự biến mất của Đế chế Minoan. Cách đây khoảng 3.500 năm, một trận động đất xảy ra trên đảo Thera đã cuốn đi tất cả sự sống trên đảo Crete, nơi xuất phát câu chuyện về một vị vua và con quái vật đã ăn thịt ông ta. Những tấm bảng đất sét do các nhà khảo cổ phát hiện ra lại cho thấy đế chế này vẫn còn tồn tại sau đó khoảng 50 năm trước khi biến mất hoàn toàn. Các giả thiết về sự sụp đổ bao gồm một lớp tro núi lửa làm mùa màng thất bát hoặc họ đã bị quân Hy Lạp chiếm quyền.

Các cột đá Carnac

Công trình đá Stonehenge ở Anh vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà khoa học nhưng công trình Carnac tại bờ biển Brittany đông bắc Pháp có lẽ còn gây tò mò hơn nữa.

Hơn 3000 cột đá cự thạch được sắp xếp thành một đường hoàn hảo trải dài hơn 12 km. Truyền thuyết địa phương kể rằng những cột đá này là một quân đoàn La Mã bị pháp sư Merlin hóa đá. Một nhà khoa học nghiên cứu công trình hơn 30 năm lại giả thiết rằng những cột đá này là một công cụ dự báo động đất. Nhân dạng của những người thuộc thời kỳ đồ đá mới xây dựng công trình này hiện vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn.

Robin Hood là ai?

Các sử gia vẫn tiếp tục tìm kiếm nhân vật Robin Hood huyền thoại, một hiệp sĩ rừng xanh cướp của người giàu chia cho dân nghèo và danh sách những người tình nghi xuất hiện khá nhiều tên tuổi. Trong số đó bao gồm một người chạy trốn đến Yorkshire tên Robert Hod, Hobbehod và một Robert Hood vùng Wakefield. Việc lọc ra những cái tên trở nên ngày càng phức tạp vì “Robin Hood” mang nghĩa người sống ngoài vòng pháp luật như trong trường hợp của William Le Fevre. Người này sau đó đổi họ thành RobeHod, theo như những ghi chép của tòa án. Cuộc tìm kiếm nhân vật huyền thoại này trở nên khó khăn hơn vì về sau những người kể chuyện lại thêu dệt thêm nhiều nhân vật câu chuyện, ví dụ như Hoàng tử John và Richard Dũng Mãnh.

Sự mất tích của một binh đoàn La Mã

Sau khi một đội quân La Mã kém cỏi của tướng Crassus bị quân Parthians đánh bại, người ta cho rằng một nhóm nhỏ tù binh chiến tranh đã lang thang qua sa mạc và cuối cùng gia nhập vào quân đội của 17 năm sau. Sử gia Ban Gu sống ở Trung Quốc thế kỷ thứ nhất có ghi lại một trận đối đầu với đội quân lạ lùng chiến đấu theo đội hình vảy cá, một nét đăc trưng của quân đội La Mã.

Một sử gia thuộc Đại học Oxford so sánh các tài liệu cổ và cho rằng tàn quân La Mã đã xây dựng một thị trấn nhỏ tên Liqian gần sa mạc Gobi (cách viết của từ “La Mã" theo tiếng Trung). Các nhà khoa học đang tiến hành thử nghiệm DNA đế chứng minh cho giả thiết trên và để giải thích một số đặc điểm của hậu duệ hiện nay: mắt màu lục, tóc vàng và thú vui đấu bò.

Bản thảo Voynich

Bản thảo viết tay Voynich có lẽ là quyển sách khó đọc nhất trên thế giới. Di vật 500 tuổi này được phát hiện vào năm 1912 ở một thư viện ở Rome, bao gồm 240 trang chữ viết và tranh minh họa hoàn toàn xa lạ. Các nhà mật mã đã ra sức giải mã chữ viết lạ lùng này nhưng chưa ai thành công. Thậm chí một số người còn cho đây chỉ là một trò đùa của người xưa. Tuy nhiên, phân tích quyển sách cho thấy bản viết tay này dường như tuân theo các cấu trúc và quy luật của một ngôn ngữ thật sự.

Xác ướp hồ Tarim

Trong một cuộc khai quật bên dưới lưu vực Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hơn 100 xác ướp có tuổi thọ hơn 2000 năm. Victor Mair, một giáo sư đại học đã hết sức ngạc nhiên khi đối mặt với các xác ướp tóc vàng, mũi dài trong một cuộc trưng bày ở viện bảo tàng đến nỗi năm 1993 ông đã quay lại để thu thập các mẫu DNA.

Xét nghiệm DNA đã củng cố giả thiết của ông là các xác ướp này mang bộ gien của người châu Âu. Văn tịch cổ Trung Quốc thuộc thế kỷ thứ I trước Công nguyên có đề cập đến những nhóm người định cư da trắng được gọi là Bai, Yeuzhi và Tocharians. Tuy nhiên, vẫn chưa có lời giải thích nào về nguyên nhân tại sao những người này lại xuất hiện ở đây.

Sự biến mất của nền văn minh Thung lũng Indus

Nền văn minh Thung lũng Indus trải dài từ tây Ấn đến Afghanistan và dân số lên đến 5 triệu người. Đây là nền văn minh lâu đời nhất được biết đến của Ấn Độ. Cho đến tận năm 1922, ông John Marshall khai quật thành phố đã phát hiện ra một nền văn hóa cực kỳ “vệ sinh”. Có hệ thống thoát nước cực kỳ phức tạp và những bồn tằm được thiết kế hoàn hảo. Điều kỳ lạ là không có bằng chứng khảo cổ cho thấy sự tồn tại của quân đội, nhà vua, nô lệ, mâu thuẫn xã hội hoặc các tệ nạn phổ biến thời cổ đại.

Bí ẩn sự biến mất của các nền văn minh cổ đại

Hải Nam (Tổng hợp)

Các nền văn minh cổ đại là nền tảng căn bản của văn minh nhân loại. Lịch sử loài người đã ghi nhận có tới 7 nền văn minh cổ đại như Ai Cập cổ đại, Lưỡng Hà, Maya... Đến nay, không ít trong số đó chỉ còn là những dòng chữ trong sử sách, còn những thành trì, đền đài... đã đột ngột biến mất mà nguyên nhân là câu hỏi chưa có lời giải cuối cùng.

Thành Troy - hư hay thực

Câu chuyện về thành Troy được gắn liền với hai trường thi của Homer: Iliad và Odyssey trong thần thoại Hy Lạp. Trong khi rất nhiều các nền văn minh cổ đại để lại di tích vật chất cho hậu thế thì thành Troy được coi như một câu chuyện trong trí tưởng tượng của người xưa bởi trên trái đất thời hiện đại, người ta không thấy dấu vết của bức thành gắn liền với cuộc chiến tranh bất hủ và con ngựa gỗ huyền thoại.

Thế nhưng theo những nghiên cứu mới đây của các nhà sử học, thành Troy là có thật. Họ khẳng định rằng cách đây hơn 3.000 năm, thành Troy nằm trên một đỉnh đồi, gần bến cảng thông ra biển Aegae (hiện cảng này đã bị cát vùi lấp). Khi những nhà buôn Hy Lạp, Italy, Bồ Đào Nha dong thuyền từ biển Aegae tới Biển Đen, họ đều dừng chân ở Troy để tiếp tế lương thực và giải trí. Những dấu tích khảo cổ học mới được phát hiện như: mảnh thuyền và cọc sắt nằm rải rác dưới những lớp đất cách thành Troy (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) khoảng 4 km là bằng chứng cho thấy chiến thuyền Hy Lạp đã từng đậu ở đây trước khi tấn công vào thành, giống như lời kể của Homer trong anh hùng ca Iliad.

Vì sao thành Troy biến mất? Đó là câu hỏi mà nhiều thế hệ các nhà khoa học mất công đi tìm câu trả lời.

Giáo sư vật lý Amos Nur tại Đại học Stanford, Mỹ cho biết: “Chúng tôi tin rằng các thảm họa tự nhiên, đặc biệt là động đất, đã đóng vai trò quan trọng trong sự mất tích bí ẩn của nhiều nền văn minh”. Các nhà khoa học khác của Hiệp hội Địa vật lý Mỹ lại phát triển một giả thuyết hoàn toàn khác. Khi nghiên cứu vùng phía đông Địa Trung Hải ở cuối thời kỳ đồ đồng, họ cho rằng một trận động đất lớn có thể là thủ phạm chính đằng sau sự biến mất của nhiều thành phố như Troy, Mycenae và Knossos. Các thành phố này đã bị quét khỏi bản đồ thế giới trong khoảng năm 1.225 - 1.175 trước Công nguyên. Và luận điểm này đã được Hiệp hội Địa lý, Vật lý Mỹ ủng hộ.

Văn hóa Harappa - những pháo đài bằng đất sét nung

Một nền văn minh cổ đại nằm trong tổng thể các nền văn minh Sông Ấn là một nền văn minh thời Cổ đại phát triển vào khoảng thời gian từ năm 2.800 đến năm 1.800 trước Công nguyên. Sử sách còn ghi nhận sự phát triển cao của nền văn minh này về sự phát triển kinh tế, thương mại, nông nghiệp, nghệ thuật, chữ viết... Nhưng nền văn hóa này đã biến mất mà nguyên nhân cho đến nay vẫn chưa rõ nhưng hàng loạt đền thờ được phát hiện đã chứng minh cho sự tồn tại.

Giả thuyết phổ biến nhất là do người du mục Arian (tiếng Anh: Aryan) xuất hiện và đánh chiếm. Giả thuyết thứ hai được nhiều người chấp nhận là về những biến đổi khí hậu. Vào khoảng 1.800 năm trước Công nguyên, khí hậu trong lưu vực sông Ấn thay đổi, trở nên lạnh và khô hơn, sông Ghaggra-Hakra trở nên khô cạn làm biến đổi kiến tạo mảng, nguồn nước của hệ thống sông bị chuyển hướng về đồng bằng sông Hằng dẫn đến sự suy tàn của nền văn minh Harappa.

Các thuyết khác cho rằng sự suy tàn của nền văn minh sông Ấn có liên quan đến việc vương quốc người Sumer chấm dứt và các quan hệ buôn bán với vương quốc này đã không còn nữa, hay xung đột quân sự và bệnh tật đã chấm dứt nền văn hóa này. Nguyên nhân quyết định cho sự suy vong vẫn chưa được giải thích rõ ràng. Giáo sư Amos Nur và đồng nghiệp Prasad, khi xem xét lịch sử địa chấn, đã nhận thấy có những trận động đất thảm khốc đổ xuống vùng ven biển gần biên giới giữa Ấn Độ và Pakistan. Theo giả thuyết của họ, một hoặc nhiều chấn động lớn có thể đã làm vỏ trái đất di chuyển, kéo theo việc chặn dòng chảy của một con sông lớn trong vùng. Nền sản xuất nông nghiệp bị phá hủy, các trận lụt nghiêm trọng xảy ra và cuối cùng vùi lấp các thành phố dưới bùn lầy.

Và nền văn minh Maya

Maya là nền văn minh cổ đặc sắc bên cạnh nền văn minh Andes, được xây dựng bởi người Maya, một bộ tộc thổ dân châu Mỹ từ năm 1.000 trước Công nguyên. Nền văn minh Maya đạt một trình độ cao không những về lĩnh vực xây dựng nhà nước mà còn phát triển rực rỡ cả lĩnh vực kiến trúc, toán học, thiên văn học và tính toán thời gian. Những di tích khảo cổ học đã chứng minh người Maya đã phát triển khái niệm “số 0” vào năm 357, sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm, xác định chính xác độ dài của một năm, thời gian trái đất quay hết một vòng quanh mặt trời, chính xác hơn rất nhiều lịch được châu Âu sử dụng vào thời đó. Không những thế, tôn giáo của người Maya cũng rất đặc biệt vì có sự kết hợp giữa lễ nghi với các chu kỳ của vũ trụ.

Cùng chung số phận với thành Troy và văn minh Harappa, hai thành phố Quirigua (Đông Guatemala ngày nay) và Benque Viejo, vốn là trung tâm văn hóa của người Maya trong thời kỳ đỉnh cao, đột ngột biến mất vào cuối thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên. Nhiều nhà sử học trên thế giới cho rằng sự biến mất này là hậu quả của những cuộc chiến liên miên, ban đầu là ngay trong bộ tộc của người Maya nhằm tranh giành quyền lực và sau đó là của người Maya chống lại sự xâm lăng mang tên đế quốc Tây Ban Nha. Nhưng kết quả nghiên cứu của nhà địa - vật lý Robert Kovach lại cho chúng ta một nguyên nhân hủy diệt khác: một trận động đất kinh hoàng.

Những cơn giận dữ của hành tinh vốn là nguyên nhân của đổ nát nhưng đến nay, đây còn được xác định là nguyên nhân dẫn đến sự mất tích bí hiểm của nhiều nền văn minh trong lịch sử loài người.

Bão" châu chấu trong kinh thánh là có thật

Để trừng phạt các Pharaoh vì đã kìm giữ dân Do Thái, Chúa trời gieo xuống Ai Cập 10 tai họa, trong đó có trận dịch châu chấu khủng khiếp. Các nhà khoa học cho rằng câu chuyện này trong Kinh thánh có thể là sự thật.

Theo kinh Cựu ước cách đây hơn 3.000 năm, người Do Thái sau một thời gian phát triển thịnh thượng trên đất Ai Cập đã bị chính quyền nước này bắt làm nô lệ, đời sống khổ cực. Để cứu vớt họ, và cũng để thực hiện lời hứa với tổ tiên họ, Chúa đã sai Moise, một người Do Thái được nuôi trong hoàng cung Ai Cập, đưa dân mình trở về.

Cùng với các sứ giả của dân Do Thái, Moise đã đề nghị pharaoh cho người Do Thái được rời Ai Cập, nhưng nhà vua kiên quyết không chấp nhận. Phải sau khi nhận đủ kinh hoàng từ 10 tai họa mà Chúa giáng xuống, pharaoh mới để họ đi. "Bão" châu chấu là một trong 10 tai họa đó.

Theo kinh thánh, Chúa trời đã cho châu chấu "che kín tất cả diện tích của đất nước". Loài côn trùng phàm ăn này đã chén sạch các nông phẩm và đẩy cư dân rơi vào nạn đói khủng khiếp.

Các nghiên cứu khoa học đã chứng minh, thảm họa châu chấu thời Ai Cập cổ được ghi lại trong kinh thánh là có cơ sở. Họ cho rằng đội quân châu chấu hàng triệu con tấn công Ai Cập gây ra đại họa thời đó có thể do tác động của sự phun trào núi lửa Santonin (cách bờ biển Địa Trung Hải của Ai Cập chừng 70 km).

Vào khoảng năm 1.600 trước Công nguyên, ngọn núi này bùng nổ dữ dội, phun một lượng lớn nham thạch và tro phủ kín một vùng rộng tới 30 km2. Chính những tác động về môi trường này đã làm đàn châu chấu, vốn sinh sống xung quanh Biển Đỏ, đã tập trung về Ai Cập. Chúng di chuyển với tốc độ kinh hoàng vì được sự trợ giúp của gió sa mạc.

Đó là dòng châu chấu râu ngắn (họ Acrididae) có khả năng thay đổi màu sắc và hành vi khi mật độ quần thể lớn. Cùng với tốc độ sinh sản cực nhanh, có nơi hiện diện 200 con trên một mét vuông diện tích đất trồng, mỗi ngày tăng thể trọng lên gấp đôi. Chúng thực sự có thể biến một vương quốc sầm uất thành hoang mạc.

Châu chấu có khả năng kỳ lạ

Người ta không hiểu tại sao loài châu chấu cách đây khoảng 3-5 triệu năm đã từ châu Phi vượt qua Đại Tây Dương và bay đến châu Mỹ; trong khi mỗi con chỉ nặng trung bình 0,2-7 g. Nghĩa là dinh dưỡng dự trữ trên mỗi con châu chấu không đủ giúp chúng thực hiện cuộc hành trình dài đến như vậy.

Những nghiên cứu gần đây cho thấy châu chấu có hệ cơ bắp rất phát triển nên có bước nhảy xa tới gần 1 m. Các đàn châu chấu có khả năng di chuyển từ vài km cho tới trên 100 km mỗi ngày, hay 3.500 km mỗi tháng, tương đương với một cơn bão cấp 12.

Mắt của loài châu chấu cũng rất đặc biệt. Trong một giây, chúng có thể nhìn thấy nhiều hình ảnh hơn con người. Chúng phản ứng cực nhanh với những vật đang chuyển động xung quanh ở cự ly gần và tránh né trước khi va chạm. Điều này giúp loài châu chấu có khả năng di chuyển theo từng đàn dày đặc.

Các đàn châu chấu với mật độ lên tới 80 triệu con/km2 có thể san phẳng bất cứ những gì chúng gặp. Bản năng di chuyển theo đàn của châu chấu có liên quan đến cách đẻ trứng của chúng.

Vào mùa giao phối, châu chấu thường tập trung đẻ trứng hàng loạt trên một phạm vi hẹp và nở đồng loạt. Mỗi ổ trứng chứa tới 120 quả. Chỉ sau nửa tháng, chúng sẽ trưởng thành. Các con non khi ra đời đã có thói quen sống và di chuyển theo bầy đàn. Mặt khác, việc sống bầy đàn sẽ giúp chúng giữ được nhiệt độ cơ thể, một yếu tố sống còn với loài côn trùng.

Cách thức di chuyển của chúng cũng rất kỳ lạ, chỉ cần một con bay lên là cả đàn hàng triệu con sẽ di chuyển, tạo nên một cơn bão châu chấu. Mưa nhiều trong mùa sinh sản cũng là một trong những nguyên nhân làm chúng phát triển nhanh hơn.

Thảm họa đói nghèo

Di chuyển với tốc độ 100 km/ngày, những đàn châu chấu hàng triệu con đã thực sự trở thành "cơn bão" tàn phá tất cả những nơi mà chúng đi qua. Hậu quả mà chúng để lại là đói nghèo, bệnh tật. Hàng nghìn năm qua, những "cơn bão châu chấu" vẫn ám ảnh loài người và vẫn chưa có cách khống chế hữu hiệu.

Thế kỷ 20 có rất nhiều đại dịch châu chấu như các năm 1926-1934, 1940-1948, 1986-1989... Chúng tràn vào một diện tích đất rộng 30 triệu km2 tại khoảng 60 nước (20% diện tích đất trên hành tinh), chén sạch mọi cánh đồng ngô, sắn và các loại cây lương thực khác trong vùng.

Châu chấu tàn phá hơn 6 triệu ha đất canh tác tại tây bắc châu Phi. Người ta ước tính, chỉ vài phút đồng hồ, chúng đã ăn hết lượng lương thực đủ dùng cho hơn 2.000 người trong một ngày. Chúng hiện diện khắp châu Phi và là nguyên nhân chính gây ra nạn đói tại Sudan.

Tại Việt Nam, nhiều tài liệu đã ghi nhận có "bão châu chấu" vào thời vua Tự Đức (1838-1840) làm mùa màng thất bát, nhân dân đói khổ. Châu chấu thường gây đại dịch ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ vào khoảng tháng 6-7 hằng năm. Gần đây nhất, tháng 9/2007, "giặc" châu chấu đã tấn công nhiều khu vực của Nghệ An, gây không ít khó khăn cho nhân dân trong vùng.

Để ngăn chặn thảm họa châu chấu, các nhà khoa học đã tìm đủ mọi cách, như dùng vệ tinh nhân tạo để dự đoán hướng đi của "cơn bão". Tuy nhiên, các dự đoán đôi lúc không chính xác, bởi chúng hay đổi hướng khó lường. Hơn nữa, "cơn bão" này càng đi càng mạnh lên. Tại châu Phi, các loại thiết bị hiện đại nhất đã được huy động để chặn "bão châu chấu", nhưng đều chưa có hiệu quả.

Vào năm 2004, người ta đã sử dụng máy bay để phun hóa chất cho gần 11 triệu ha đất, chỉ để diệt châu chấu. Phương pháp này khá hiệu quả, nhưng chưa phá tan được nạn châu chấu thì đã gây hại cho môi trường.

Gần đây, các nhà khoa học đã thử nghiệm phương pháp sinh học để khống chế "bão châu chấu". Người ta sử dụng một loại nấm có tên là Metarhizium anisopliae. Chúng có thể tiêu diệt châu chấu song lại vô hại với những thực vật và động vật khác. Song tất cả những biện pháp trên vẫn chỉ hạn chế tác hại của "bão châu chấu" chứ chưa hề chấm dứt được chúng.

Bí ẩn về các trận giao chiến trên trời

Một trận tử chiến đã diễn ra gần 400 năm trước tại một điểm gần Ethin (Anh) khiến 5.000 binh lính bỏ mạng. Về sau, thỉnh thoảng dân chúng quanh vùng vẫn thấy hình ảnh hai đạo quân ma đánh nhau trên bầu trời.

Các nhà ngoại cảm dùng thuật ngữ “Honting” để biểu thị mối liên hệ giữa một số ảo ảnh với một điểm địa lý nhất định. Thỉnh thoảng, tại những địa điểm ấy, người ta thấy xuất hiện trên bầu trời hàng trăm ảo ảnh. Điều đáng ngạc nhiên là ở chỗ, “Honting” thường quan sát được ở những nơi mà nhiều năm về trước đã diễn ra những trận ác chiến thực sự.

Một trong những địa điểm như vậy nằm ở nước Anh, gần Ethin, là nơi vào năm 1643 hai đạo quân của hoàng tử Rupectơ và Olive Cromoen đã gặp nhau trong một trận quyết chiến. Hơn 5.000 binh lính đã phơi thây trên bãi chiến trường.

Sau đó một tháng, những người chăn cừu địa phương đã nhìn thấy một hiện tượng kỳ lạ: Hai đạo quân ma đụng độ nhau dữ dội trên bầu trời, lại nghe thấy tiếng súng nổ, tiếng trống trận và tiếng gươm giáo va vào nhau loảng xoảng... Từ đó trở đi, thỉnh thoảng dân chúng các vùng lân cận vẫn tiếp tục nhìn thấy trận đánh ảo ảnh này diễn ra trên bầu trời chiều.

Năm 1785 tại Uiexto ở Xiledi, người ta đã tổ chức lễ mai táng tướng Phon Coden một cách trọng thể. Vào đúng lúc hạ huyệt, trên bầu trời bỗng xuất hiện một đội quân hùng dũng đang rầm rập tiến bước.

Năm 1748, ở Đôphin gần thành Viên, 20 người đã tận mắt nhìn thấy một đạo binh đang đi trên bầu trời.

Năm 1888, trong suốt mấy tiếng đồng hồ, trên bầu trời Varagodin ở Khovati xuất hiện một đoàn kỵ binh do một viên sĩ quan tay cầm gươm sáng loáng dẫn đầu. Những sự kiện lạ lùng ấy đã được miêu tả khá tỉ mỉ trên báo chí thời đó.

Những trường hợp quan sát thấy “các trận giao chiến trên không trung” tại lãnh thổ nước Nga cũng được ghi lại trong sử biên niên cổ đại.

Trong thời gian diễn ra trận giao chiến với đạo quân Thánh giáo dòng tu của Đức trên mặt hồ đóng băng ở Chuxco vào năm 1242, nhiều binh sĩ trong đội quân của quốc vương Alexandre Nhepxki đã nhìn thấy “một binh đoàn của thượng đế” bỗng xuất hiện trên bầu trời để đến chi viện cho quân Nga...

Vào tháng 11/1956, hai người Anh tên là Pete Dinoviep và Patrich Xkipui đã tổ chức một cuộc du ngoạn trên núi Culin. Vào khoảng 3 giờ sáng, họ bỗng nghe thấy tiếng ầm ầm dữ dội, hai người bèn chui ra khỏi lều và nhìn thấy hàng chục xạ thủ Scotland đang bắn vào kẻ thù vô hình. Sáng sớm, những tiếng động trên bầu trời lại đánh thức họ và lần này họ nhìn thấy những người Scotland ấy, nhưng trông rất thiểu não, đang vội vã tháo chạy và vấp vào những tảng đá vô hình.

Sau khi trở về thị trấn Xlaigasane, Pete và Patrich kể lại những điều mắt thấy tai nghe với viên quản lý khách sạn. Ông ta cho biết rằng họ không phải là những người đầu tiên quan sát thấy hiện tượng này và đó là hình ảnh của trận đánh xảy ra vào năm 1745.

Lý giải của khoa học

Tiến sĩ toán lý A.Gurvich đã giải thích những ảo ảnh tương tự bằng hiện tượng quang học phức tạp trong khí quyển, do sự khúc xạ của ánh sáng trong hệ tầng khí quyển.

Hiện tượng này cũng được khảo sát kỹ lưỡng bởi các nhà vật lý Mỹ A. Phrayde và U.Makhơ. Các nhà bác học này cho rằng đặc tính kỳ lạ của “thấu kính khí quyển” là tạo ra những ảo ảnh khác nhau và thay hình đổi dạng các thông tin do ánh sáng chuyển tải theo mức độ truyền lan của nó qua khối không khí.

Ảo ảnh - quả là một cách giải thích thuận tiện. Nhưng vấn đề là ở chỗ một số biểu hiện của hiện tượng này không hoàn toàn nằm gọn trong kiến giải đó. Chẳng hạn dân chúng ở thị trấn Vecve (Bỉ) đã nhìn thấy trận giao chiến này xảy ra sau trận Oateclô đúng một tuần.

Các chuyên viên của Hội nghiên cứu thần giao cách cảm nổi tiếng trên toàn thế giới cho rằng bí mật của những trận đánh trên trời là ở chỗ trong thời gian giao chiến xảy ra, đã có sự phung phí rất lớn nguồn năng lượng sinh lý tinh thần. Sự kết vón của nỗi đau đớn, tâm trạng thất vọng và nỗi lo sợ được in dấu trong không gian rồi sau đó, thậm chí qua nhiều năm tháng, đã khơi gợi những hình ảnh trong đầu óc của những người rất nhạy cảm về mặt tâm lý.

Các nhà nghiên cứu Mỹ Oen và Pret cũng đi đến kết luận tương tự. Hai ông đã phân tích hơn 100 trường hợp “ảo ảnh” và đi đến hết luận rằng phần lớn những người nhìn thấy “trận giao chiến trên trời” vào thời điểm ấy đã ở trong trạng thái bị kích thích cao độ, có lẽ vì thế đã nhìn thấy cái mà người khác không nhìn thấy.

Vậy có đúng là “những trận giao chiến của các bóng ma” không phải xảy ra trong hiện thực mà chỉ diễn ra trong đầu óc con người và gần với những ảo giác hơn là những ảo ảnh và những hiện tượng quang học khác? Xin chớ vội đi đến kết luận.

Điều bí ẩn về “những ảo ảnh lầm lạc trong không gian” có lẽ sẽ được lý giải bởi các chuyên gia thuộc Ủy ban nghiên cứu các hiện tượng dị thường ở Voronegiơ (Nga). Họ đi cùng các cán bộ của xí nghiệp “Địa chất Voronegiơ” mới đây đã tiến hành một cuộc khảo sát trong đới đứt gãy kiến tạo ở Novokhopexcơ. Ở đó họ đã phát hiện và chụp ảnh được “những kênh thoát năng lượng của trái đất”. Trên ảnh thấy rõ những quả cầu và đám mây phát quang ở phía bên trên các khu đất dị thường.

Hơn nữa, theo sự khẳng định của một trong những người chỉ đạo cuộc khảo sát là ông Henrich Xilanop, đoàn đã chụp ảnh được những sự kiện xảy ra tại những địa điểm đó trong quá khứ xa xôi. Trên ảnh chụp được nhờ một thiết bị đặc biệt ở trên bờ sông Hopec, ta nhìn thấy rõ những cái lều, những hình người đội mũ sắt... Trong lúc chụp ảnh, ở đó không hề có những thứ ấy.

Các chuyên gia Voronegiơ về những hiện tượng dị thường đã giải thích như sau: Có thể tấm phim đã ghi lại được một thông tin thị giác về thời xa xưa mà “trường ký ức” năng lượng thoát ra từ đới đứt gãy còn lưu giữ. Sự thể là ở chỗ trong những năm chiến tranh vệ quốc chống phát xít Đức, tuyến phòng thủ đã chạy qua những địa phương ấy. Tham gia tuyến phòng thủ này có một Trung đoàn Tiệp Khắc do L.Xvvoboda chỉ huy. Và những người lính đội mũ sắt hiện hình trên các bức ảnh cũng như trang phục của họ hoàn toàn phù hợp với thời kỳ đó.

Nhưng ngay cả khi nếu giả thuyết trên được xác nhận thì vẫn còn nhiều điều bí ẩn về những “trận giao chiến trên trời”. Chẳng hạn, một số tài liệu đã thông báo về hiện tượng vật chất hóa lạ lùng của những đồ vật trong khi diễn ra những trận đánh trên trời. Ví dụ, năm 1686, tại Anh quốc, người ta quan sát thấy cuộc diễu hành trên trời của các binh lính có vũ trang. Và có rất nhiều khí giới, gươm súng, mũ giáp rơi lả tả xuống mặt đất.

Năm 1800, sau trận giao chiến trên trời ở vùng Kinken, người ta phát hiện thấy trên mặt đất có những cành cây bị gãy và nhiều vết máu trên cỏ.

Lý do khiến các chính phủ giữ bí mật về UFO

Stanton Terry Friedman, nhà nghiên cứu về các vật thể bay không xác định (UFO) người Mỹ mới đây đã tiết lộ 5 lý do hàng đầu buộc chính phủ các nước phải giữ bí mật về UFO.

Không giống như những người tìm đến ông để mong có câu trả lời, Stanton Friedman chưa bao giờ nhìn thấy một UFO nào. Friedman thậm chí còn nói đùa về việc ông chưa từng chạm trán với đĩa bay. "Tôi chưa từng nhìn thấy UFO, ngoại trừ một lần, khi tôi còn làm hầu bàn trong một quán ăn ở Catskills và tôi đánh rơi cả chồng đĩa bẩn. Lúc đó, có đĩa bay".

"Tôi là một nhà vật lý hạt nhân, tôi đã săn đuổi tia neutrons và gamma trong 14 năm qua. Tuy nhiên, tôi chưa từng thấy chúng. Nhưng, chúng có thật. Tôi chưa từng thấy Tokyo nhưng thành phố này có tồn tại. Liệu tôi có phải nhìn thấy thứ gì đó thì mới tin là nó có thật".

Staton Friedman là ai?

Là nhà vật lý từng làm việc cho các công ty khổng lồ như Westinghouse và General Electric, Friedman đã cống hiến gần cả đời cho việc tìm kiếm các manh mối trong những vụ tranh cãi về UFO.

Stanton Terry Friedman sinh ngày 29/7/1934, hiện đang sống tại Fredericton, New Brunswick, Canada. Năm nay, thành phố Fredericton vừa tỏ lòng kính trọng với nhà nghiên cứu UFO này bằng cách đặt ngày tên cho ngày 27/8 là ngày Stanton Friedman.

Friedman đã viết rất nhiều sách về các hiện tượng vật thể bay không xác định. Ông cũng là nhà điều tra thường dân đầu tiên nghiên cứu về vụ UFO Roswell. Từ năm 1967, Friedman đã thuyết giảng về UFO tại hơn 600 trường đại học và cao đẳng và tại hơn 100 nhóm chuyên gia ở Mỹ, Canada và nhiều quốc gia khác.

Friedman tự gọi mình là "nhà vật lý đĩa bay" do ông có bằng về vật lý hạt nhân.

Tháng 9 này, Friedman đã đem một lượng lớn tài liệu quan trọng tới lễ kỷ niệm lần thứ 55 quái vật Flatwoods và Đĩa bay tại nhà hát Capitol, tây Virginia, Mỹ. Trước 600 thính giả, Friedman kết luận rằng máy bay của người ngoài hành tinh đã xuất hiện từ nhiều thập niên và các chính phủ luôn cố gắng che giấu sự thật về việc này.

Nguyên nhân che đậy sự thật

Nhà nghiên cứu về vật thể bay không xác định đã nêu 5 lý do hàng đầu được đưa ra để che đậy cái gọi là "Watergate vũ trụ".

1. Các đặc vụ chính phủ muốn tìm hiểu vật thể bay bị đâm hoạt động như thế nào.

2. Không một ai muốn chính phủ địch thủ biết được họ đã phát hiện ra cái gì.

3. Nếu một số nhân vật có uy tín lớn, như Nữ hoàng Anh hay Giáo hoàng tiết lộ về UFO, xã hội sẽ bị đảo lộn và con người sẽ bắt đầu nghĩ về chính bản thân họ thay vì nghĩ rằng họ là công dân của một nước riêng lẻ nào đó.

4. Theo phán đoán của Friedman, nếu thông tin về UFO được xác nhận những người theo đạo Cơ đốc chính thống cho rằng vật thể ngoài hành tinh là "tác phẩm của Quỷ dữ" trích lời người sáng lập câu lạc bộ 700 Pat Robertson và Rev. Jerry Falwell nói. Hai nhân vật này tuyên bố, trái đất chỉ chứa duy nhất một cuộc sống thông minh ngoài vũ trụ.

5. Việc xác nhận công khai về UFO sẽ dẫn tới hỗn loạn về kinh tế và cuối cùng bí mật là sự sống của chính phủ.

Nhà nghiên cứu UFO nhấn mạnh tới 300.000 trang tài liệu mật hiện vẫn lưu giữ trong thư viện Eisenhower, không đề cập gì tới UFO, và những tài liệu mà chính phủ dùng để nói dối gia đình của các phi công thiệt mạng vì máy bay rơi. Nhiều thập niên sau này chính phủ mới thừa nhận về cái chết của các phi công nhưng bóp méo sự thật vụ việc.

Không nêu lên một câu hỏi nào, ông Friedman nói, hàng nghìn lần UFO bị phát hiện và điều này đã được xác nhận nhưng chính phủ thì giữ bí mật về nó.

UFO là gì?

Theo giải thích khoa học, bất cứ một vật thể nào có thể bay nhưng không xác định được đó là máy bay, trực thăng, khí cầu nhỏ, bóng bay, diều thì đều được quy là UFO (vật thể bay không xác định). UFO đôi khi cũng được gọi là đĩa bay.

Một số người cho rằng UFO là những phi thuyền của người ngoài trái đất mặc dù vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục. UFO có nhiều hình dáng và kích cỡ song thường là hình tròn, hình trụ, hình tam giác.

Trong nhiều thập niên qua, đã có hàng chục nghìn thông báo về UFO trên thế giới song chỉ 1% được chứng minh là... trò lừa bịp.

Khám phá thế giới bùa ngải thời cổ đại

Hoàng Lan (Tổng hợp)

Trong thế giới của những thầy pháp thuật thời cổ đại tồn tại nhiều bí kíp kỳ lạ. Bùa ngải là một trong số đó. Ngày nay khoa học đã cho thấy đó là những điều hoang đường, tuy nhiên những câu chuyện đồn đại xung quanh chúng vẫn là những điều đầy hấp dẫn và nhuốm màu huyền bí.

Thuật luyện những giống thực vật đặc biệt và truyền cho chúng những khả năng siêu nhiên để sai khiến vào thực hiện những nhiệm vụ như đoán biết tương lai, cải tạo số phận, hay chữa trị bệnh nan y... thời xa xưa khá thịnh hành ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ và khu vực Đông Nam Á. Người ta gọi đó là luyện ngải và họ tin rằng ngải giúp con người chế ngự sức mạnh huyền bí.

Những pháp sư cao thủ dành cả cuộc đời mình để luyện "công lực", họ có thể biểu diễn những kỹ năng kinh dị như nhúng tay vào vạc dầu sôi, hay dùng đinh đâm xuyên qua người... Sau khi đã luyện thành cao thủ, họ sẽ tìm và chăm sóc một số loài thực vật mà theo họ có khả năng đặc biệt để truyền các "công lực" sang. Các thầy pháp thuộc diện cao thủ bao giờ cũng là những tay chuyên luyện bùa ngải hay độc trùng. Thông qua việc nuôi ngải, luyện độc trùng, các pháp sư khẳng định quyền năng của họ, qua đó đánh giá tài cao thấp.

Theo những câu chuyện lưu truyền về thế giới bùa ngải, loại ngải quý hiếm nhất phải kể đến là Phù phấn ngải. Đây là một loại thực vật giống với hoa lan đất nhưng có bộ rễ lớn hơn, thường mọc trong rừng thẳm. Loại ngải này có một lớp bột mịn phủ trên lá, nếu ai vô ý đụng phải sẽ thấy ngứa ngáy khó chịu, sau đó toàn thân sưng phù, đau đớn trong khoảng 100 ngày sẽ chết nếu không được các vị cao tăng cứu chữa. Loại ngải này rất hiếm, còn được gọi là "Phù phấn ngải" vì lớp bột rất độc trên lá. Nhưng nếu được tôi luyện đúng cách sẽ trở thành một loại ngải cứu người rất quý.

Những cao tăng muốn tìm được loại ngải này phải vào sâu trong rừng thẳm. Khi tìm được phải loại bỏ lớp phấn độc bên ngoài một cách rất khéo rồi đem trồng vào một chậu đất nung, sau đó cho các chất tượng trưng cho Ngũ hành vào (gồm có đất núi, diêm sinh, sắt, gỗ mục, muối biển). Sau khi nuôi trồng ngải rồi, người ta đặt ngải lên bàn thờ và bắt đầu luyện ngải bằng các quyền phép của bản thân. Khi ngải được luyện xong trong nó sẽ có 2 phần được gọi là thiên năng (năng lực tự nhiên) và linh phù (năng lực của người luyện). Các tay luyện ngải cao cấp còn nuôi ngải bằng trứng gà, hoặc máu gà. Họ cho rằng làm như vậy ngải sẽ mạnh hơn. Nhưng với những người non tay, luyện cách này có thể gây nguy hại cho chính họ. Phù phấn ngải luyện xong dùng để trị bệnh mất trí, hoảng sợ thậm chí có thể tìm được người bị mất tích.

Một loại ngải còn quý hiếm hơn và bị thất truyền hàng trăm năm là Bạch đại ngải. Người ta cho rằng Bạch đại ngải mọc ở đâu thì các loài thú dữ đều hoảng sợ và không dám sinh sống ở quanh đó. Nếu ai đó trồng loại ngải này mà không biết về tu luyện thì sẽ nguy hại cho bản thân. Trước khi nhổ cây phải ngâm một bài bùa chú, đại khái: "Nhiệm màu thay, nhiệm màu thay/Bạch đại ngải, Bạch đại ngải...". Nếu loài ngải này mà được một cao tăng luyện thì sẽ trở thành một loại có thể giúp con người cải tử hoàn sinh.

Những thầy pháp sư thiếu "nhân cách", chạy theo vụ lợi cá nhân hay rình rập để luyện một loại ngải hại người đó là ngải yêu hay bùa mê, thuốc lú. Đó là thứ ngải để "lừa tình". Ai bị trúng ngải đó tâm thần mê man, không biết gì về đạo lý, bỏ nhà cửa chạy theo tiếng gọi của ái tình. Những người bị trúng ngải yêu có dáng điệu luôn suy tư, hờ hững với xung quanh. Loại Mê tâm ngải có tác dụng tương tự. Cây Mê tâm lá màu xanh sẫm to bản hình cái kiếm, hoa màu tím đen có đốm trắng, có mùi hắc rất khó chịu. Người trúng ngải này sẽ mất ăn mất ngủ, tâm thần bất loạn. Những kẻ muốn dùng ngải mê tâm hại người bắt buộc phải biết tên tuổi của nạn nhân thì mới thành công. Những tay nuôi loại ngải này thường bị dân làm ngải coi thường, liệt vào loại mờ ám.

Một loại ngải khác có tên khá kinh dị là Huyết nhân ngải. Loại ngải này mọc trong các khu rừng có thú dữ. Muốn tìm được loại Huyết nhân ngải phải đợi vào đêm, khi ngải ửng lên màu đỏ như máu mới có thể nhìn thấy và nhổ được vì ban ngày lá cây màu xanh như bình thường. Hoa của loài ngải này nhỏ ly ti và có màu đỏ như những giọt máu.

Tương truyền rằng loài hổ báo sau khi ăn thịt những người tuổi Dần sẽ bỏ lại quả tim của nạn nhân, từ quả tim bỏ lại đó sẽ mọc lên loài Huyết nhân ngải. Khi nhổ loài ngải này cũng phải đọc thần chú, luyện để loài Huyết nhân ngải hội đủ khí âm dương phải mất hàng năm trời. Củ của Huyết nhân ngải nếu đem ngậm một lát nhỏ sẽ có đủ sức lực để nhịn đói 1 tuần mà sức lực không suy giảm. Ngải này giúp người dùng có thần giao cách cảm, đoán biết được những sự kiện nghìn trùng xa cách.

Tại Trung Hoa có một loài thực vật rất quý hiếm mọc trong rừng sâu, trên những thân cây gỗ mục. Có những pháp sư cả đời đi tìm không thể thấy, nhưng nếu ai có duyên sẽ gặp được đó là loại Mai hoa xà vương ngải. Theo những tài liệu về bùa ngải thì loài này có thân mềm mại, lá xanh có đốm vàng trông như rồng cuốn. Hoa nở màu sắc vàng, hồng rực rỡ, có mùi hương vô cùng quyến rũ. Xung quanh cây ngải này có nhiều rắn chúa Mai hoa đến ở vì thế nên người ta lấy tên Mai hoa xà vương để đặt cho nó. Loại ngải này nếu luyện được thành công, khi ngậm vào miệng sẽ giúp thân thể cứng rắn như thép, dao chém không đứt. Nếu chẳng may ngải Mai hoa chết, người luyện ngải phải làm lễ ma chay rất trang trọng và đem chôn cây ngải trên vùng núi cao thoáng mát.

Ngày nay, khoa học phát triển không còn đất cho các pháp sư hành nghề luyện ngải nữa. Tuy vậy những câu chuyện đậm màu huyền bí vẫn là đề tài hấp dẫn những người hiếu kỳ trong lúc "trà dư, tửu hậu". Mặt khác, các nhà Đông y học đang tiếp tục nghiên cứu những loài thực vật rất quý hiếm đó nhằm bảo tồn và phát hiện những dược chất giúp ích thực sự cho con ngư

Xá lị - Một bí ẩn chưa được khám phá

Lê Ngọc Anh Thư

Đó là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy. Chúng được tìm thấy trong đống tro tàn sau khi hỏa thiêu hài cốt của một nhà tu hành nào đó. Cho đến nay, khi nền khoa học kỹ thuật của nhân loại đã phát triển ở trình độ cao, chúng vẫn tồn tại như một bí ẩn chưa được khám phá.

Bảo vật của nhà Phật

Xá lị là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn: sarira - nghĩa đen là “những hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã đem xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lị, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo.

Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như:

Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, hạt to cỡ như hạt đỗ tương, hạt nhỏ cỡ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như những hạt kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng, đó chính là thứ gọi là xá lị.

Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn - ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lị, đạt kỷ lục thế giới từ trước đến nay về những trường hợp xá lị được ghi nhận một cách chính thức.

Viên xá lị có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của Pháp sư Khoan Năng, vị chủ trì Tây Sơn Tẩy Thạch Am ở huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch thọ 93 tuổi. Sau khi hỏa thiêu người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lị màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3-4cm, tựa như những viên ngọc lục bảo.

Lại có một số trường hợp, xá lị chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch.

Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lị to nhỏ khác nhau. Có viên thì hình tròn (xá lị tử), có viên lại nở xòe ra như những bông hoa (xá lị hoa). Những bông xá lị hoa trông rất đẹp, lóng lánh như những bông hoa tuyết, chung quanh còn được giát bằng những hạt xá lị nhỏ cỡ hạt gạo, sắc đỏ, vàng, lam, nâu... hết sức kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lị lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó. Theo kể lại, Pháp sư Viên Chiếu là người từ bi, tính tình điềm đạm và ôn hòa, thường ngày bà chỉ ăn rất ít. Chùa Pháp Hoa đã cho người mang những viên xá lị đó đến giao lại cho Hội Phật giáo tỉnh Thiểm Tây.

Khoa học bó tay?

Vài chục năm trở lại đây, giới khoa học bắt đầu tìm cách giải thích những hiện tượng huyền bí được nhà Phật nói đến trong kinh điển như họ đã từng nghiên cứu lý giải các hiện tượng trong thiên nhiên, vũ trụ và con người. Thế nhưng, khi bắt tay vào nghiên cứu hiện tượng xá lị, họ đã gặp phải không ít khó khăn, trở ngại.

Trước đây người ta không tin là có xá lị Phật tổ. Mãi đến năm 1997, ông W.C Peppé, người Pháp, khi tiến hành khảo cổ tại vùng Piprava, phía Nam Népal đã tìm thấy những viên xá lị đựng trong một chiếc hộp bằng đá. Trên hộp có khắc những văn tự Brahmi, và người ta đã đọc được nội dung của nó như sau: “Đây là xá lị của đức Phật. Phần xá lị này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi phụng thờ” (Theo Phật quang từ điển). Sự khám phá này đã chứng minh những gì được ghi lại trong Kinh Trường A Hàm và rải rác ở những sách kinh điển của Phật khác về việc phân chia xá lị đức Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại khi Phật nhập Niết bàn là có thật. Điều kỳ lạ là trải qua hơn 25 thế kỷ, xá lị đức Phật vẫn còn nguyên vẹn, lấp lánh màu sắc.

Về sự hình thành của những viên xá lị, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Các nhà xã hội học cho rằng, do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, trong quá trình tiêu hóa và hấp thụ, rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lị. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ số người ăn chay trên thế giới có tới hàng trăm vạn, nhưng tại sao không phải ai khi bị hỏa táng cũng sinh xá lị. Số người theo đạo Phật cũng nhiều vô kể, thế nhưng tại sao trong cơ thể của những tín đồ bình thường lại không có xá lị?

Các nhà khoa học lại cho rằng, có thể xá lị là một loại hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật... giả thuyết này cũng khó đứng vững. Bởi vì, sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên, không hề phát hiện thấy có xá lị. Mặt khác, những cao tăng có xá lị thường là những người lúc sinh thời thân thể rất khỏe mạnh và tuổi thọ cũng rất cao.

Nhà Phật cũng có những quan điểm riêng về vấn đề xá lị. Quan điểm thứ nhất cho rằng xá lị là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện. Quan điểm thứ hai cho rằng: xá lị là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện thì sau khi viên tịch mới có thể sinh xá lị.

Tuy nhiên, cuối cùng thì xá lị đã được hình thành như thế nào? Thành phần của nó ra sao? Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương, lục bảo, chỉ là tro cốt còn lại của người tu hành sau khi hỏa táng, vậy mà sao đốt nó hoài cũng không cháy, thậm chí vẫn sáng lấp lánh màu sắc, thách thức với thời gian, chẳng mảy may hư hỏng... Hàng loạt câu hỏi như vậy cho đến nay vẫn là những câu đố chưa có lời giải đáp!

Bí ẩn về thế giới phù thủy cổ đại

Người ta cho rằng buổi bình minh của văn minh nhân loại tràn ngập bởi ma thuật của các phù thủy, lễ hiến tế, các nghi thức cầu xin trời đất, ma quỷ. Đó là thời kỳ hoàng kim của các phù thủy.

Quyền năng phù thủy

Các trò pháp thuật phù thủy rất thịnh hành ở các nước châu Á như Ấn Độ, Trung Quốc. Trong một tài liệu cách đây hàng trăm năm của một du khách người A-rập mô tả rất kỹ buổi hành lễ ở Trung Hoa. Trước đám đông người, một phù thủy dùng một quả cầu gỗ có buộc dây thừng và ném nó lên trời. Quả cầu bay cao và biến mất hút, chỉ còn sợi dây treo lơ lửng. Phù thủy sai một cậu bé bám vào sợi dây để leo lên trời. Chỉ ít phút sau cậu bé cũng biến mất. Tộc trưởng suy nghĩ và nói một điều gì đó với phù thủy, lập tức phù thủy dùng dao cắt đứt dây, cắt rời từng phần cơ thể của cậu bé rơi xuống đất. Quang cảnh đẫm máu làm cho những người chứng kiến kinh hãi. Nhưng sau đó tộc trưởng lầm rầm khấn vái một điều gì đó, các bộ phận của cậu bé dính vào nhau và cậu ta sống lại như bình thường. Buổi hành lễ kết thúc trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến.

Kinh mật tông Phật giáo nói đến việc các pháp sư tạo ra những đám đông và làm biến mất họ từ hàng nghìn năm trước. Những người theo môn phái tu luyện này thừa nhận sức mạnh của bùa chú, pháp thuật và cho rằng chúng góp phần tạo nên niềm tin tôn giáo. Những tài liệu hàng nghìn năm ghi nhận vua Pàla (Ấn Độ cổ) "bằng pháp thuật của mình đã tạo ra thuốc trường sinh phân phát cho mọi người để những người già 100 tuổi có thể trẻ lại". Những lễ nghi của dòng mật tông thường được giữ kín nhưng không bao giờ thiếu việc niệm thần chú, biểu diễn màn nhảy múa tôn giáo và thiền định, trong đó các pháp sư (giống với vai trò của các phù thủy) sẽ cầm trịch các buổi hành lễ đó.

Người ta cho rằng, các bài thuốc chỉ có thể mang lại tác dụng khi được các pháp sư đọc thần chú gọi là mantra. Đó là tuyệt kỹ chỉ có các phù thủy mới làm được. Người ta cho rằng, khi nghe các âm thanh mantra sẽ làm ma quỷ sợ hãi, biến đi trong phút chốc và nếu gặp nguy hiểm thì sử dụng các thần chú này.

Màn ảo thuật hấp dẫn

Các buổi hành lễ của phù thủy không thể thiếu được những vũ điệu được gọi là múa phù thủy. Đó là các vũ điệu nhằm kích động thần kinh của những người tham gia. Người ta dùng các động tác tay, chân, lắc lư đầu và các đạo cụ như chuông, bát hương để tạo ảo giác với những người chứng kiến.

Tại Ai Cập cổ đại người ta dùng các pháp thuật để chiếm được niềm tin của công chúng. Một pháp thuật gia nổi tiếng thời đó là westcar Papyrus (1.700 năm trước C.N) đã biểu diễn màn chặt đầu và nối lại nguyên vẹn cho nạn nhân. Những thầy tu cao cấp ở Hy Lạp thời đó trong các buổi hành lễ ở đền thờ thường dùng pháp thuật mở cửa đền và đốt sáng các ngọn đuốc mà không cần đến các công cụ.

Ở châu Phi, phù thủy thường là phụ nữ già xấu xí, sống độc thân. Họ thường hoạt động bí mật vào ban đêm và cũng không ý thức được các hành động của mình. Họ bị coi là một mối đe dọa đối với cộng đồng vì người ta cho rằng các tai họa như ốm đau, đói kém mất mùa, thiên tai là do các phù thủy gây ra theo yêu cầu của kẻ thù. Tại Gana người ta làm một khu làng để giam giữ cách ly những người làm nghề phù thủy nhằm tránh tai họa. Ở Nam Mỹ, các bộ tộc da đỏ thường có các phù thủy để làm phép trị bệnh. Họ tổ chức buổi nhảy múa quanh đống lửa và dùng pháp thuật lấy trong miệng người bệnh ra các bộ phận bị mắc bệnh.

Thời xa xưa, các pháp thuật phù thủy đã xuất hiện tại Việt Nam. Thầy phù thủy có nhiều quyền năng kỳ lạ: có thể gọi âm binh, luyện bùa, ngải để biến người ta thành u mê. Phù thủy có thể sai khiến âm binh đi làm việc đồng áng ban đêm như tát nước, tấn công trả thù người khác. Những thầy phù thủy mỗi khi điều khiển âm binh xong phải có lễ khao quân, nếu không âm binh sẽ phản lại. Chỉ được sai âm binh vào buổi đêm và thu lại trước khi trời sáng nếu không sẽ gặp họa. Nếu làm lộ thiên cơ, âm binh sẽ đánh trả thầy.

Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học, người ta đã lý giải được nhiều pháp thuật của phù thủy chỉ là những màn ảo thuật hoặc cách tạo ra các tác động tâm lý. Nhưng dù sao, phù thủy và các pháp thuật của họ vẫn là một thế giới bí ẩn đầy hấp dẫn. Nó là chất liệu cho rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, mà điển hình nhất là thế giới phù thủy của cậu bé Harry Potter.

Trên thế giới, duy nhất có lễ hội phù thủy được tổ chức vào ngày 1/5 hằng năm tại thành phố Gossnal (Đức). Có hàng trăm phù thủy ở khắp các châu lục về đây trình diễn những màn pháp thuật do họ luyện được. Ở đây có một viện bảo tàng về các dụng cụ của phù thủy qua các thời kỳ. Hà Lan có trường dạy các pháp thuật phù thủy, sau khi tốt nghiệp các phù thủy sẽ được cấp chứng chỉ. Giá của khóa học khá đắt, lên tới hơn 2.000 euro. Một trong những yêu cầu của các phù thủy là không được dùng pháp thuật để hại người và phải tuân thủ theo pháp luật.

Quái vật dưới hồ - nỗi khiếp đảm của dân Ukraine

Đầu dẹt nhẵn thín như mãng xà, thân to lớn và xù xì như cá sấu - con quái vật hồ Somin ở phía tây Ukraine tưởng đã biệt tích mấy chục năm nay đột nhiên xuất hiện trở lại. Lo lắng của dân làng Lukiv càng trở thành khiếp đảm khi không chỉ tấn công gia súc, quái vật dường như còn thèm cả... thịt người.

Chẳng ai bảo ai, già trẻ trai gái trong làng tuyệt nhiên không dám bén mảng gần hồ nước. Các nhà nghiên cứu và chính quyền địa phương hiện vẫn đang thu thập thông tin để làm rõ nội tình sự việc.

Quái thú “trở về” chưa đến một tuần nhưng đã kịp châm ngòi cho nhiều câu chuyện rợn tóc gáy. Ban ngày rình mò tấn công gia cầm gia súc, nghe nói đến đêm, tên tội đồ giấu mặt này còn phát ra những tiếng rên rỉ sầu não và hơi thở khò khè ghê rợn.

Theo lời kể của người già trong làng, 30 năm trước, quái vật đã ít nhất một lần trồi lên khỏi mặt nước Somin và gây tai họa.

“Nạn nhân năm ấy là anh chăn ngựa Stepan. Sau khi uống rượu say, anh nông dân lực lưỡng này nằm lăn quay trên bãi cỏ, đánh một giấc không biết trời đất là gì. Con quái thú với bốn chân ngắn tủn và cái bụng kéo lê trên mặt đất mon men tiến lại gần, rồi chẳng mấy chốc mà nuốt chửng gã nạn nhân xấu số đang say giấc.

Vài người tình cờ đang hái nấm gần đó đã chứng kiến toàn bộ sự việc, họ la hét ầm ĩ mong đuổi con thú đi. Quái vật mở to miệng, bên trong trống hoác không còn lấy một chiếc răng, sau đó nguẩy đuôi trườn xuống nước mất dạng” - cụ ông Ivan Kovalchuk 84 tuổi kể lại, như thể vẫn chưa hết bàng hoàng.

Trong bản báo cáo của ông trưởng thôn Gazeta Poukrainski gửi tới cơ quan điều tra trung ương ở thủ đô Kiev có đoạn viết: lâu nay chính quyền Lukiv chẳng có lấy một đồng thu nhập từ cá mú hồ Somin bởi quái vật đã ăn sạch các loài thủy sinh dưới nước, thậm chí còn tấn công cả gia súc và người dân trên bờ. Dân làng đã có thời lên chiến dịch săn quái thú, nhưng kế hoạch chưa thành thì đã bị chiến tranh thế giới thứ nhất làm cho phá sản.

Thế chiến thứ hai, quân đội Đức quốc xã cũng vài lần cất công “tìm ra cho ra nhẽ”. Họ sử dụng lưới và các thiết bị lặn tối tân để quây kín lòng hồ Somin, nhưng kết quả cuối cùng vẫn chỉ là mây khói. Quái thú biến mất như thể đã bốc hơi.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng, quái thú hồ Somin rất có thể là một con cá da trơn đã thành tinh.

“Cá da trơn có vây rất khỏe, đủ để giúp chúng trườn bò trên mặt đất. Mỗi con có thể nặng tới hàng trăm kg và dài đến vài ba mét. Thực tế cho thấy, sông ngòi quanh vùng đất trũng Polessie này toàn là cá da trơn sinh sống, con nào con nấy đều thuộc hàng khổng lồ” - chuyên viên Valentin Lyupa, người trực tiếp điều hành kế hoạch “Vây bắt quái thú Somin” nói như đinh đóng cột.

Nhiều nhà khoa học khác lại phỏng đoán, quái thú có thể là cá mập nước ngọt thời tiền sử, bằng cách nào đó đã sống sót qua kỷ băng hà cho đến nay.

"Những di chỉ khảo cổ được phát hiện quanh đây có thể chứng thực cho giả thuyết. Không ít lần dân trong vùng đã tìm thấy xương và răng hóa thạch của nhiều loài cá cổ đại ngay trong vườn nhà” - cố vấn Valentin Volonta thuộc Viện khảo cổ, Viện Hàn lâm khoa học Ukraine cho hay.

Hồ Somin nằm trong vùng đất trũng Polessie, vốn được hình thành trên thềm lục địa của một vùng biển nước ngọt từ hàng nghìn năm trước. Rải rác trong vùng có khoảng 300 sông hồ nối kết với nhau thông qua mạng lưới kênh rạch ngầm dưới đáy.

Với độ sâu 56 mét và khá nhiều hang đá vôi dưới đáy, hồ Somin được đánh giá là nơi trú ẩn tuyệt vời của quái thú già cỗi không răng.

Kỳ lạ thuật khinh công

Cho đến nay, khoa học chưa có cách nào giải thích hiện tượng khinh công vì nó đi ngược lại hoàn toàn định luật vạn vật hấp dẫn. Nhiều tài liệu cổ của phương Đông và phương Tây ghi chép khá tỉ mỉ về khả năng con người tự bay lên mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào. Tuyệt kỹ khinh công đó là sự thực hay chỉ là trò ảo thuật?

Khinh công (Levitation) là kỹ thuật tự bay trong không khí mà không cần trợ giúp, trái ngược hoàn toàn với định luật vạn vật hấp dẫn của Newton. Sách tôn giáo ghi nhận 300 vị thánh có thể tự bay lên.

Pha khinh công đầu tiên được ghi lại là do Simon Magus thực hiện vào thế kỷ 1. Ông ta là một giáo sĩ theo dòng dị giáo, tham gia tập luyện nhiều "tà thuật" như phép tàng hình, khinh công. Người thực hiện pha bay lượn trong thời gian lâu nhất là Joseph Cupertino thế kỷ 17. Giáo sĩ đạo Tin Lành này đã lơ lử ng trong không khí khoảng 2 tiếng đồng hồ.

Những đạo giáo khác như Hindu, Bà la môn và Phật giáo cũng ghi nhận nhiều trường hợp khinh công. Trong cuốn sách “Khoa học huyền bí ở Ấn Độ thời cổ đại”, tác giả Louis Jacollios (Pháp) đã ghi lại khá chi tiết các pha khinh công.

Nổi tiếng nhất là tu sĩ Milarepa, một nhà yoga hàng đầu ở Tây Tạng thuộc thế kỷ 19. Ông này được mệnh danh là người nắm giữ nhiều sức mạnh huyền bí đến nỗi có thể đi lại, ăn, ngủ trong khi khinh công lơ lửng giữa không khí. Không chỉ các thày tu khổ hạnh tại Ấn Độ có thể thực hiện tuyệt kỹ này, mà các môn đệ của phái Ninja ở Nhật Bản cũng có khả năng tương tự.

Một kỹ thuật thấp hơn của khinh công là khinh hành (đi bộ cực nhanh), khá phổ biến tại các khu vực có địa hình phức tạp ở Trung Hoa, Nhật Bản. Các môn đồ của khinh hành có thể đi lại rất nhanh và an toàn ở những nơi núi non hiểm trở, bằng kỹ thuật phi thân (nhảy), thần hành (chạy hàng trăm dặm mà chân không chạm đất), bích hổ du tường (thằn lằn leo tường), thủy thượng phiêu (chạy trên nước).

Những tuyệt kỹ khinh công dù thực hiện ở đâu đều có một điểm giống nhau, đó là sử dụng một kỹ thuật nào đó để giảm hoặc mất hẳn tác động của lực hút trọng trường. Nói về điều này, cần nhắc đến một khái niệm vật lý là trọng lượng biểu kiến. Nó đặc trưng cho lực nén của vật lên mặt sàn hoặc sức căng của lò xo thể hiện sức nặng của một vật nào đó. Chính trọng lượng biểu kiến tạo cảm giác về s

ức nặng nhẹ của cơ thể. Khi không có cảm giác về trọng lượng biểu kiến (rơi từ trên cao xuống mà không có sàn đỡ), chúng ta sẽ rơi vào trạng thái không trọng lượng.

Cho đến nay, khoa học chưa có cách nào giải thích hiện tượng khinh công (nếu như nó tồn tại) vì nó đi ngược lại hoàn toàn định luật vạn vật hấp dẫn. Người ta không thể chứng minh, ít nhất là về mặt lý thuyết, làm thế nào mà một người có thể thoát ra khỏi tác động của lực hút của trái đất trong điều kiện thông thường chỉ bằng cách hít thở, thôi miên để huy động năng lượng siêu nhiên. Những người phản bác cho rằng từ xưa đến nay, đó chỉ là trò ảo thuật đánh lừa thị giác của người xem.

Một số thử nghiệm khoa học gần đây cho thấy nhiều chiều hướng tích cực hơn. Ví dụ, các nhà khoa học Nga đã thử nghiệm trong môi trường đặc biệt (âm hơn 160 độ C), một chiếc đĩa khi quay tốc độ cao, khoảng 3.000 vòng/phút trong tác động của một điện trường thì sẽ giảm trọng lượng. Các nhà khoa học Mỹ làm thử nghiệm khác: Khi đặt chất siêu dẫn lơ lửng trong từ trường, họ phát hiện ra nếu đặt một vật thể lên trên bề mặt của chất siêu dẫn, trọng lượng của nó sẽ giảm đi 5%.

Như vậy, vẫn còn hy vọng le lói cho những người muốn tin vào những điều đặc biệt, đồng thời những kẻ lừa bịp vẫn còn đất để dụng võ. Và khinh công là khả năng đặc biệt hay chỉ là một khát vọng ảo ảnh của loài người? Đây vẫn là một bí mật

Rồng biển - huyền thoại và sự thực

Khi bay sát mặt biển Ấn Độ Dương vào một ngày cuối năm 1968, hai phi công Liên Xô nhìn mấy con quái vật khổng lồ hình rắn. Họ không phải là những người duy nhất gặp "rồng biển", một loài vật mà sự tồn tại đã được nghiên cứu từ thế kỷ 13.

Từ xa xưa, rồng biển đã là một đề tài phổ biến trong sinh hoạt tinh thần, văn chương, hội họa, tín ngưỡng... của cư dân miền duyên hải; ngay cả Kinh Thánh cũng nói đến nó. Người Bắc Âu thậm chí còn miêu tả rồng biển có thân hình lượn sóng, dài tới 30 m, đầu giống như đầu ngựa. Tuy nhiên, chỉ mấy thế kỷ gần đây, tính xác thực và hấp dẫn của đề tài này mới trỗi dậy mạnh mẽ do hàng loạt sự kiện về rồng biển được ghi nhận.

Trong chuyến vượt Đại Tây Dương năm 1843, thủy thủ người Tây Ban Nha Roberto Garcia khẳng định thấy một con rồng đen dài chừng 10 m xuất hiện vào một buổi chiều biển động dữ dội. Thủy thủ người Anh Charlie Hoose khi qua Ấn Độ Dương vào một ngày sóng gió năm 1901 cũng thấy một quái vật khổng lồ hình giống rắn. Cả đoàn thủy thủ tàu Paulina thì cam đoan ngày 13/7/1858, họ đã chứng kiến cảnh rồng biển đánh nhau với cá voi!

Ngày 6/8/1848, các thủy thủ chiến hạm Anh Daedalus nhìn thấy ở khoảng giữa mũi Hảo Vọng và đảo Elena một con vật rất lớn hình rắn, bơi lướt trên biển, đầu ngóc hẳn lên mặt nước. 7 năm trước đó, một ngày cuối năm 1841, gần Oporto, nhóm sĩ quan tàu chiến Anh Plumper đã vẽ lại một con vật lạ và khi so sánh các bức vẽ của 2 đoàn thủy thủ, người ta thấy chúng giống nhau. Những bức vẽ sau đó của đoàn thủy thủ tàu Emogen (năm 1856) và tàu Princess (năm 1858) cũng vậy.

Các thủy thủ chiến hạm Anh Daedalus nhìn thấy ở khoảng giữa mũi Hảo Vọng và đảo Elena

một con vật rất lớn hình rắn, bơi lướt trên biển năm 1948 (Ảnh mô phỏng: answers.com)

Cuối cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, một chiến hạm Đức bắn chìm chiếc tàu Anh Iberian ở phía Bắc Đại Tây Dương. Theo lời viên chỉ huy và các thủy thủ Đức, sau khi tàu Anh nổ chìm dưới mặt nước, cùng với mảnh xác tàu nổi lên là một con vật hình rắn rất lớn, nó vùng vẫy mãnh liệt trong khoảng 12-15 giây rồi lặn mất tăm. Năm 1947, chiếc tàu Mỹ Santa Clara cũng gặp quái vật tương tự. Năm 1951, ngư dân vịnh Herios chứng kiến một con vật hình rắn dài hơn 12m, màu xanh xám, lưng có vây nhọn hoắt như vây cá tuyết và bơi rất nhanh.

Tại Ấn Độ Dương ngày 2/12/1968, khi bay ở độ cao 30 m cách mặt biển, hai phi công Liên Xô Ivan Djouss và Fedor Dolienko bỗng thấy một quái vật khổng lồ dài hơn 10 m, đường kính thân gần 1 m đang bơi ngoằn ngoèo. Vài phút sau, họ lại thấy quái vật thứ nhì có hình dáng tương tự.

Vào một buổi sáng đẹp trời tháng 1/1984, anh kỹ sư máy tàu Jim Thomson vừa câu được một con cá ở gần Vancouver (Canada) thì đột nhiên cách tàu anh chừng 60 m nổi lên một con vật hình rắn dài chừng 8 m, mõm đen nhọn, tai to, trên đầu có những chiếc sừng khá đẹp. Con vật nhìn anh giây lát rồi nhào lộn rất nhanh xuống nước.

Các nhà khoa học nói gì?

Từ thế kỷ 13 đã xuất hiện những người chuyên nghiên cứu về “hiện tượng rồng biển” nhưng chỉ từ cuối thế kỷ 19, việc nghiên cứu mới thực sự mang tính hệ thống và khoa học. Đứng đầu lĩnh vực này phải kể đến nhà bác học Jzlo Oudamans - Uỷ viên Hội Động vật học Hà Lan. Với tác phẩm Con rắn biển khổng lồ dày gần 600 trang, xuất bản năm 1892, Oudamans trình bày chi tiết, đầy sức thuyết phục về sự tồn tại của loài rồng biển. Theo ông, tới thời điểm đó, người ta đã ghi nhận được 162 lần xuất hiện của rồng biển và đã công bố 350 bài viết (dạng tường thuật, khảo cứu...) về loài vật này.

Năm 1868, xác một con “rồng biển” bị sóng đánh dạt vào bãi biển Stonsa và được bác sĩ lừng danh Barclay nghiên cứu, xem xét. Ông công bố dữ liệu về nó: Thân dài 16,75 m, đường kính 0,9m, có lông ở cổ, có vây bơi trông như cánh ngỗng trụi. Đáng tiếc là bản báo cáo của ông đã không được giới sinh vật học đương thời chú ý.

Năm 1899, chiếc tàu Anh Emu trên đường tới Sydney (Australia) đã dừng lại đảo Sawa và bắt gặp nơi đây xác một quái vật hình rắn dài 18m, nặng chừng 30 tấn, đầu giống như đầu ngựa, có răng, da đen xám phủ lông rất cứng, đang thối rữa. Hai tờ báo khoa học uy tín thời đó là English Mecanic và Nature đã tường thuật sự kiện này. Tuy nhiên, do cảm giác khó chịu trước đống da thịt phân hủy nên các thủy thủ đã không lấy về bộ phận nào của con vật để làm bằng chứng giúp cho việc nghiên cứu về rồng biển.

Ngày 13/1/1903, Hội Động vật học Pháp họp nghe báo cáo của nhà khoa học Emilio Racovitza (từng tham gia thám hiểm Nam Cực) về sự có thực của rồng biển. Ông bảo vệ thành công quan điểm của mình trước các đồng nghiệp và Hội Động vật học Pháp đã nhất trí đăng công bố bản báo cáo này trên tập san khoa học của Hội.

Cũng tại Pháp, năm 1968, cuốn sách Theo vết thuồng luồng biển của nhà động vật học nổi tiếng Bernard Evenmal - Chủ tịch Hội Nghiên cứu Động vật ẩn quốc tế - được xuất bản và lập tức gây tiếng vang lớn. Trong sách, tác giả đã dẫn ra 500 trường hợp thấy quái vật biển. Ông chia chúng thành 3 nhóm với 9 loại, trong đó một nhóm được coi là rồng biển gồm 4 loại mẫu (loại đầu bờm, loại có vây, loại giống lươn bụng vàng và loại giống thằn lằn nước).

Cùng với những sự kiện và khám phá, số người tin rồng biển có thật không ngừng tăng lên. Theo họ, đại dương mênh mông ẩn chứa nhiều động vật lạ mà giới khoa học chưa biết đến hoặc chưa có điều kiện tiếp cận kỹ càng; rồng biển là một trong số đó. Các nhân chứng đã bắt gặp, tường thuật, vẽ lại rồng biển ở nhiều vùng trên khắp thế giới và sự miêu tả của những nhân chứng khác nhau về rồng biển ở mỗi vùng lại rất giống nhau - đó là bằng cớ đáng tin cậy.

Ngược lại, cũng không ít người coi rồng biển chỉ là con vật huyền thoại. Theo họ, dù đã có nhiều lời kể, hình vẽ về rồng biển nhưng đến nay vẫn chưa ai bắt, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình được nó. Chưa trường hợp nào phát hiện xác rồng biển trôi dạt vào bờ mà được khám nghiệm khoa học trước sự chứng kiến rộng rãi, khách quan của phương tiện thông tin đại chúng. Những cuộc săn lùng quy mô lớn với thiết bị hiện đại yểm trợ tại những vùng nghi có rồng biển cũng đều chưa phát hiện được dấu tích gì về quái vật này. Bởi thế, việc bắt gặp rồng biển hoặc là do bịa đặt, hoặc do ảo giác, hoặc do nhầm lẫn với những động vật biển bình thường (cá mập, cá nhà táng, hải sư, bạch tuộc...) trong điều kiện đặc biệt mà thôi.

Các nhà khoa học và thủy sinh vật nêu quan điểm thận trọng hơn. Họ cho rằng nếu rồng biển tồn tại thực sự thì chúng có lẽ là một trong số những loài vật còn sót lại từ thời tiền sử - chẳng hạn một loài ngư long nào đó, thường sống nơi biển sâu và rất ít khi nổi lên mặt nước. Giả thuyết này dễ được chấp nhận vì trong thực tế còn không ít loài “hóa thạch sống” - như trường hợp con Ceratodus nửa cá nửa thằn lằn vẫn đang sống sót ở Australia sau khi dòng giống chúng đã tuyệt chủng cách đây hàng triệu năm, hay như loài Apterix ở New Zealand được coi là hậu duệ tí hon và biến dạng của con Moa khổng lồ vốn đã bị tuyệt diệt từ lâu.

Một giả thuyết khác lại cho rằng rồng biển có thể chỉ là loài rắn biển cực lớn, vì giới khoa học đã tìm thấy hàng trăm loài rắn sống trong các đại dương thuộc họ Hydrophiidae gồm 2 giống chính Laiticanda và Aepysurus, trong đó có loài lớn và dài tới 8 - 9m.

Như vậy, đến nay vẫn chưa thể khẳng định chính xác rồng biển có thật hay không. Đây cũng là một nguyên nhân làm tăng tính hấp dẫn của đề tài này, khiến ngày càng nhiều người quan tâm, háo hức chờ đón những thông tin mới và kết luận cuối cùng về nó trong tương lai.

Quái vật khổng lồ biển Cát Bà?

Người dân khu vực đảo Cát Bà (Hải Phòng) đang trở nên "nổi tiếng" bởi có một tài liệu (đã công bố) nói rằng vùng biển này có một loài quái vật khổng lồ, trông giống như mãng xà, kích thước như một tàu cỡ lớn, mỗi khi nhô lưng lên không khác gì một hòn đảo chìm...

Rất nhiều thuỷ thủ, nhà buôn, thậm chí những ngư dân chỉ quen “đánh bắt ven bờ” cũng từng tận mắt chứng kiến. Và câu chuyện về loài quái vật khổng lồ, lạ lùng trên đã được những ngư dân ở chính đảo Cát Bà lật lại...

Lần theo manh mối

Đúng như chúng tôi dự đoán, sự lan toả của thông tin về loài quái vật trên đã làm dư luận đảo Cát Bà nóng lên. Trên vụng Tùng Dinh, ngoài bãi biển nơi cả trăm tàu thuyền đang neo đậu, đâu đâu người ta cũng xôn xao bàn tán về loài... quái vật lạ kỳ này.

Và cũng chính bởi những “thông tin không chính thống” ấy, loài quái vật ấy bỗng hoá thành... dữ tợn. Nào là, chỉ một cái quẫy đuôi, quái vật có thể đánh đắm cả một chiếc tàu cỡ lớn. Nào là, mắt chúng to và sáng như đèn pha ô tô, răng to chắc, nhọn hoắt như khủng long bạo chúa... Ai cũng mô tả vô cùng tỉ mỉ, rõ nét, kèm theo vẻ mặt hoang mang, sợ hãi, như thể mới đây thôi, chính họ đã tận thấy loài hải tinh ghê gớm ấy.

Ông Nguyễn Đình Khượng, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện đảo Cát Hải, phụ trách mảng đánh bắt, nuôi trồng thuỷ hải sản của huyện. Ông xuất thân từ một gia đình ngư dân, trưởng thành từ một xã có truyền thống đi biển lâu đời bậc nhất ở đảo.

Theo ông Khượng, ngư trường Cát Bà là nơi tồn tại rất nhiều loài hải sản. Đặc biệt, trong số ấy, có nhiều loài có kích thước ngoài sức tưởng tượng của các ngư dân. Về loài quái vật biển cả khổng lồ trên, ông Khượng chưa có thông tin cụ thể, chính xác, nhưng ở làng chài quê ông, từ trước, đã có rất nhiều ngư dân tận mắt thấy những loài “hải tinh” vóc dáng to lớn, hình thù kỳ lạ. Và, theo như mô tả của họ, con vật khổng lồ ấy có hình dáng giống với loài quái vật mà nhiều người đang xôn xao bàn luận bây giờ.

Ông bảo, những hộ này trước đây là xã viên của hợp tác xã Phù Long, đơn vị đánh bắt cá thiện nghệ nhất của huyện đảo ngày trước. Bởi là thành viên hợp tác xã, nên những ngư dân đó có tàu lớn để vươn ra khơi xa. Trên hành trình đánh bắt xa bờ của mình, họ đã gặp những loài hải sản mà chưa ai được thấy bao giờ.

Khi chia tay, ông Khượng đã dặn rất kỹ càng, nếu muốn tìm hiểu về những nội dung trên, thì nên đến gặp họ ngay, bởi theo như ông được biết, những xã viên của HTX hùng mạnh ngày trước, phần lớn giờ đã không còn. Đồng thời, ông Khượng đã xin lại số điện thoại của PV để hễ có thông tin gì ông sẽ báo ngay cho.

Gặp người đã chạm trán “hải tinh

Xã Phù Long nằm ngay sát bờ biển. Hôm PV đến, dân trong xã đang làm lễ để rước tượng từ Hải Phòng vào. Cờ, phướn lập loè, trống, chiêng rộn rã. Đến nhà lão ngư dân Nguyễn Đình Hùy ở xóm Ngoài, tuy ở tuổi xưa nay hiếm nhưng trông ông Hùy vẫn còn tráng kiện lắm. Ông bảo, cả đời lênh đênh trên biển, sóng gió đại dương đã cho ông sức vóc dẻo dai, tinh thần minh mẫn. Đang chuyện trò sôi nổi, ông Hùy bỗng giật mình, kinh ngạc khi bất ngờ được hỏi về lần chạm trán với con vật khổng lồ giữa đại dương thủa trước. Sau ít phút trấn tĩnh, ông nói giọng nghe như đã lạc đi.

Ông bảo: "Kỷ niệm không thể nào quên ấy giờ ở xã Phù Long, chỉ có ông và bà Nguyễn Thị Thại (cũng ở xóm Ngoài) là còn nắm chắc, bởi những người cùng ra khơi năm đó, và cùng tận mắt thấy con vật kinh hoàng trên đều đã thành người thiên cổ cả rồi".

Năm ấy, ở HTX đánh bắt Phù Long, ông được phân công làm việc ở đội đánh bắt do ông Bùi Đình Bé làm đội trưởng. Đội có 6 người, gồm ông, ông Bé, bà Thại (vợ ông Bé), ông Chứ, ông Đống, ông Hổi. Tất cả đều là những ngư dân cự phách, lớn lên từ sóng gió đại dương. Năm đó, chỉ ít lâu trước khi HTX Phù Long giải thể (HTX giải thể năm 1982), đội của ông được phân công đánh bắt cá nhâm (một loài cá đặc sản của Cát Bà) ở khu biển Rãng Le, gần với đảo núi Đại Thành.

Với đặc tính của cá nhâm, đội phải đi từ đêm để đến khi nước đứng chúng mới nổi lên và từ trên cao, quan sát hướng đi của bầy cá, đội trưởng Bé mới vạch hướng cho các thuyền viên “tác nghiệp”. Hôm ấy, trời cũng bắt đầu chuyển từ xuân sang hạ, như mọi khi, thuyền đánh bắt của ông lại ra khơi.

Mới 9h sáng mà giữa đại dương, mặt trời đã ném những tia nắng bỏng rát. Từ trên cao, nơi ngọn cột buồm, đội trưởng Bé bắt đầu công việc quan sát của mình. Khi thuyền đang chầm chậm lao về phía núi đảo Đại Thành, bất chợt đội trưởng Bé gào anh em cho thuyền chuyển hướng. “Có đảo ngầm! Rẽ ngay sang trái! Rẽ ngay!”. Tiếng hô như lạc giọng của ông Bé khiến anh em đang chuẩn bị đồ nghề đánh bắt ở dưới khoang thuyền hết sức ngạc nhiên.

Cả mấy chục năm lênh đênh ở hải phận này, đến từng con sóng mọi người còn thông thạo huống chi lại không biết sự hiện diện của một đảo ngầm. Thế nhưng, trước sự khẩn khoản của người đội trưởng mẫn cán, mọi người cũng vội dừng tay, ngước mắt theo hướng chỉ của ông Bé. “Đảo ngầm thật!”. Mọi người ồ lên kinh ngạc.

Phía trước, cách thuyền có vài chục mét, giữa sóng biển ộp oặp, một khối đen nổi lên sừng sững. Thấy vật cản, ông Hùy vội vàng chạy vào khoang máy, nói với thợ máy rẽ trái để thuyền vòng qua “chướng ngại vật”. Quay ra, chưa hết ngạc nhiên về sự xuất hiện bất thường của “hòn đảo” trên thì ông đã giật mình bởi từ trên cao, tiếng ông Bé gào lên trong sợ hãi: “Các chú ơi! Con gì ấy! To lắm...!”.

Hòn đảo chìm” di động

Nói chưa dứt câu thì ông Bé đã vội vàng tụt đánh phịch xuống khoang thuyền. Ông ra lệnh cho thợ máy dừng thuyền để tránh gây ra tiếng động. Khi mọi người còn chưa kịp hiểu chuyện gì thì từ phía xa, “hòn đảo ngầm” bỗng chuyển động, cứ từ từ nhằm hướng thuyền lao tới. Trên khoang, mặt ai nấy tái xanh.

Hồi ấy, để đảm bảo an toàn cho mỗi chuyến ra khơi, trên truyền các ông đều mang theo súng. Thế nhưng, trong cơn hoảng loạn đó, chẳng ai còn nhớ đến “món đồ” ấy nữa. Sợ hãi, mắt ai cũng nhắm nghiền đợi chờ giây phút khủng khiếp nhất trong đời ngư phủ của mình. Cứ ngỡ chiếc thuyền sẽ vỡ tan tành, và tất cả thuyền viên sẽ biến thành miếng mồi ngon cho con vật lạ lùng ấy.

Nhưng lạ thay, khi khoảng cách chỉ còn vài mét, chẳng hiểu vì sao bỗng dưng nó dừng lại. Lúc này, lấy hết can đảm ông Hùy và mọi người trên khoang thuyền mới dám mở mắt ra nhìn. Bởi hướng gió, thuyền đã trôi theo hướng song song với con vật. Từ trên khoang, ông Hùy thấy lưng con vật nhô cao lên khỏi mắt nước cỡ gần 1 mét.

Và, theo phỏng đoán của ông, thân con vật ấy rất dài, bởi chỉ riêng phần nhô lên ấy, một khoảng chừng 5 mét khô cong, không mảy may có một vệt nước. Tấm lưng ấy được phủ một lớp vảy dày. Mỗi vảy to như chiếc mâm con, màu vàng nhạt. Nhìn xuyên qua nước biển, ông thấy đầu con vật lạ như đầu cá heo, với đôi mắt to như hai chiếc bát cỡ lớn, sáng rực.

Với bao nhiêu năm đi biển của mình, ông Hùy và tất thảy những người trên thuyền hôm đó đều khẳng định, trong đời, không một ai từng thấy loài vật nào như thế. Bởi không biết vị khách không mời ấy lành, dữ ra sao, không thể ngồi yên chờ chết, nên trong tích tắc, ông quyết định chọn phương án tấn công đối thủ.

Chuyện lạ có thật về đĩa bay

Gần đây, các phi công vũ trụ Nga tiết lộ họ đã từng chứng kiến và tin chắc có đĩa bay của nền văn minh ngoài hành tinh. Nhưng lâu nay họ phải giữ kín chuyện đó.

Tiết lộ của các phi công vũ trụ Nga...

Chỉ có phi công vũ trụ Nga Kovalenok - 2 lần Anh hùng Liên Xô - là người duy nhất cả gan tiết lộ bí mật này. Trong những năm 1977 đến năm 1982, tính tổng cộng, Kovalenok đã có mặt trên Trạm quỹ đạo 216 ngày 9 giờ 9 phút 40 giây sau 3 lần bay lên vũ trụ.

Theo Kovalenok, anh đã từng nhiều lần nhìn thấy đĩa bay lướt qua trước mắt và đã không ít lần phải sửng sốt đến kinh ngạc. Trong chuyến bay thứ ba lên vũ trụ từ ngày 12/3/1981 trên tàu Liên Hợp T-4, Kovalenok nhìn thấy một chiếc đĩa bay bám theo và nổ tung đằng sau con tàu do anh điều khiển.

Kovalenok kể: “Tôi không bao giờ quên trường hợp bất ngờ xuất hiện một vật thể bay kỳ lạ. Hết thảy chúng tôi đang bay trên trạm quỹ đạo lúc đó đều nhìn thấy và chăm chú quan sát. Vật lạ đó có kích thước không lớn lắm.

Tôi là người đầu tiên phát hiện ra đĩa bay và điện báo ngay cho Savinykh - Kỹ sư máy tàu. Savinykh bấm video camera thì vật bay lạ đó nổ tung, chỉ để lại một đám mây gồm hai phần có hình dạng giống như hai nửa quả tạ mà chúng tôi vẫn dùng để tập thể dục cơ bắp vào buổi sáng hàng ngày trên trạm quỹ đạo.

Ngay lúc đó, chúng tôi liên lạc với Trung tâm điều khiển bay trên mặt đất và thông báo về những gì chúng tôi quan sát được. Chúng tôi không biết điều gì đã xảy ra trong ngày hôm đó nhưng có thể khẳng định chắc chắn một điều rằng vật bay lạ đó là có thật.

Chúng tôi không nhận được trả lời từ Trung tâm. Nhưng trong ngày hôm đó, Trung tâm khẳng định đã xảy ra một chuyện rất kỳ lạ: Các chuyên gia điều khiển bay đã ghi nhận được một luồng bức xạ rất mạnh phát ra vào thời điểm trùng với lúc vật bay lạ nổ tung bên cạnh trạm quỹ đạo mà chúng tôi đã chứng kiến”.

Chứng cứ của Trung tâm Vũ trụ quốc gia Anh

Trung tâm Vũ trụ Quốc gia Anh cũng tiết lộ các cứ liệu do camera quan sát Soho (Solar And Heliospheric Observatory) lắp trên tàu quan sát lúc đang bay cách bề mặt Trái đất nhiều triệu kilômét.

Trên các bức ảnh do Soho ghi lại, có thể nhìn thấy rất rõ hình ảnh các vật bay lạ mà các nhà khoa học thiên văn khẳng định rằng đó không phải là ảnh chụp các ngôi sao mà là dấu vết của các đĩa bay.

Michael Muyrrey - Người thành lập nhóm chuyên gia nghiên cứu các vật bay lạ mang tên Euroset - nhận xét, vì các bức ảnh đó chụp trong khoảng không bên ngoài khí quyển Trái đất nên có thể khẳng định có một nền văn minh khác phát triển rất cao tồn tại bên ngoài hành tinh chúng ta.

Căn cứ vào quỹ đạo di chuyển các vật bay đó, có thể thấy chúng được các thực thể có trí tuệ điều khiển. Một doanh nhân người Tây Ban Nha xin được giấu tên đã bí mật kết nối ăngten thu tín hiệu vệ tinh vào hệ thống mạng quan sát vũ trụ Soho và đã thu được các hình ảnh do trạm này chụp được về các vật thể lạ trong vũ trụ. Ông đã giấu kỹ các bức ảnh đó và không công bố.

Báo cáo của Bộ chỉ huy Bắc Mỹ gửi Tổng thống G.Bush

Bộ chỉ huy phòng thủ vũ trụ liên hợp Bắc Mỹ NORAD phát hiện ra những vệt sáng bí ẩn trên bầu trời khi đang khảo sát khí quyển. Những vệt sáng đó xuất hiện trên các đảo Terks và Kaykos thuộc vùng biển Caribe, chuyển động theo hướng Tây - Bắc hướng về phía lãnh thổ Hoa Kỳ.

Ban đầu, các sỹ quan quân đội làm việc trong NORAD cho rằng đó là vết tích của động cơ máy bay phản lực bay qua vùng đó. Nhưng chính các phi công một hãng hàng không dân dụng thông báo họ cũng nhìn thấy dấu vết tương tự trên bầu trời các bang Indian và Florida.

Ngay lập tức, NORAD phát lệnh báo động cho các máy bay chiến đấu cất cánh từ các sân bay quân sự của Mỹ. Thật kỳ lạ, các trạm radar trên máy bay không thể phát hiện được các vật thể đã từng để lại dấu vết bí ẩn trên bầu trời.

Các chuyên gia quân sự Mỹ cũng không thể nào giải thích được vật thể nào đã bay qua bầu trời và để lại dấu ấn bí ẩn đó. NORAD báo cáo sự việc lên cấp chỉ huy cao nhất của Mỹ, kể cả Tổng thống G.Bush.

Tới kết quả khảo sát hiện tượng đĩa bay rơi ở Tugunsk

Gần đây, một nhóm gồm 12 nhà khoa học và các nhà địa chất học Nga đã tiến hành một cuộc thám hiểm khu vực Tugunsk (Nga), nơi cách đây gần 100 năm một thiên thạch đã nổ tung ở làng Vanavara, để lại dấu vết là một khu vực rộng lớn bị tàn phá giống hệt như sau một vụ ném bom nguyên tử công suất siêu mạnh.

Cuộc khảo sát đầu tiên về vụ nổ kỳ lạ này được tiến hành vào năm 1927 và sau đó đã có nhiều cuộc khảo sát khác nhưng từ đó đến nay chưa ai phát hiện ra nhân chứng vật chứng về hiện tượng kỳ bí đó.

Đã có tới 30 giả thuyết khoa học được đưa ra để giải thích “hiện tượng Tugunsk” nhưng chưa một giả thuyết nào đủ sức thuyết phục. Lần này, các nhà khoa học Nga đã tìm thấy một số mảnh vỡ của một con tàu vũ trụ được coi là của nền văn minh ngoài Trái đất va chạm vào thiên thạch và buộc nó nổ tung khi còn cách bề mặt Trái đất hàng chục kilômét.

Theo kết quả phân tích ban đầu, thành phần vật liệu kết cấu của con tàu vũ trụ ngoài hành tinh này là hợp kim gồm silic, sắt và một chất liệu khác mà khoa học chưa từng biết tới dựa vào bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học của Mendeleev.

Các nhà khoa học Nga đang nghiên cứu bí quyết công nghệ gia công loại vật liệu này. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Nga đã được ông Labvin - Chủ tịch Quỹ Xã hội Quốc gia Siberi mang tên “Hiện tượng vũ trụ Tungusk” tiết lộ với giới báo chí.

Điều đáng lưu ý là gần đây các nhà khoa học Nga đã tổng hợp được một loại vật chất hoàn toàn mới, gọi là siêu nguyên tử, cấu tạo từ những nguyên tử có trong bảng tuần hoàn Mendeleev nhưng lại có tính các tính chất vật lý và hoá học rất kỳ lạ, khác hẳn các vật liệu mà loài người được biết đến. Thí dụ, số nguyên tử tạo nên các siêu nguyên tử không phải là ngẫu nhiên mà là các số 8, 20, 40, 58 hoặc 92.

Các nhà khoa học gọi những con số đó là số ma bởi tính chất rất bí ẩn của nó. Có thể dùng siêu nguyên tử để tạo ra những vật liệu hoàn toàn mới và các loại nhiên liệu có hiệu suất sử dụng cao đến mức kỷ lục từ xưa tới nay. Phải chăng, đó là vật liệu đã từng được nền văn minh ngoài Trái đất sử dụng để chế tạo nên đĩa bay?

Những bí ẩn không thể giải thích

Kim Tự tháp đã được xây như thế nào? Vụ người ngoài hành tinh ở Roswell nên được hiểu ra sao? Điều gì xảy ra sau khi chúng ta chết? Đó là những ẩn số mà nhân loại mãi mãi không tìm ra lời giải đáp. Vì sao vậy?

Kim Tự Tháp được xây dựng như thế nào?

Những công trình hùng vĩ ở Giza là biểu tượng bất tử cho tài năng kiến trúc phi thường của người Ai Cập cổ đại. Không ai biết chúng được xây dựng như thế nào, bằng công cụ gì, cũng không thể tìm thấy bất cứ dấu tích nào tiết lộ trong tất thảy những tài liệu, bức hình còn sót lại từ hàng nghìn năm trước.

Màn sương bí ẩn càng thêm đặc quánh bởi hàng trăm truyền thuyết hư thực không rõ đúng sai.

Những người theo suy luận truyền thống cho rằng Kim Tự Tháp là công trình được xây dựng ròng rã qua nhiều thập kỷ, bằng mồ hôi công sức của hàng triệu triệu nô lệ thời cổ đại. Nghe có vẻ thuyết phục, nhưng trên thực tế giả thuyết này không có chứng cứ rõ ràng.

Người phản đối thì bác bỏ: dù có nhiều người đến đâu cũng khó đủ sức nâng được những tảng đá nặng hàng tấn như thế, lên một độ cao như thế vào đặt chúng vào vị trí chính xác và vừa vặn đến tuyệt đối đến thế. Người Ai Cập cổ chắc hẳn phải nắm trong tay một bí mật công nghệ nào đó - mà có lẽ tới nay nó đã thất truyền trong lịch sử. Có thể là một thiết bị “kháng trọng lực” để thôi miên những tảng đá khổng lồ bay lên, cũng có thể họ đã được... người ngoài hành tinh giúp sức.

(Ảnh: visitingegypt)

Một giả thuyết khác mới xuất hiện gần đây cho rằng: những phiến đá vuông vức đến lạ kỳ được trả vào vị trí vừa khít là nhờ sử dụng một công cụ đặc biệt làm bằng bê tông đá vôi.

UFO xuất hiện ở Roswell

Tháng 6/1947, một vật thể lạ rơi chúc đầu xuống trang trại của nông dân William Mac Brazel ở ngoại ô Corona, New Mexico. Chính xác nó là cái gì, cho đến nay người ta vẫn chưa thể khẳng định. Những nhà nghiên cứu UFO thì cho rằng chắc hẳn đó là mảnh vụn rơi ra từ đĩa bay, còn lực lượng quân sự Mỹ thì ra sức đưa ra lời bác bỏ nhằm “hạ nhiệt” cơn sốt UFO của dân tình. Có trời mà biết được vì sao họ làm thế.

Cho đến nay, Roswell vẫn được coi là sự kiện UFO chấn động nhất mọi thời đại. Dù chính quyền Mỹ có cố gắng che đậy đến cỡ nào thì cũng không thể bác bỏ sự thật rằng: chắc chắn đã có 1 vật thể lạ rơi xuống trang trại Mac Brazel mùa hè năm 1847, và rằng quân đội Mỹ, dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Jesse Marcel thuộc Lực lượng Không quân Roswell, chắc chắn đã mò tới đây để xóa sạch dấu vết.

(Ảnh: iwasabducted)

UFO ở Roswell: một sự thật bị che đậy?

Vậy vì cớ gì mà thiên hạ đồn đại nó là UFO? Xin thưa, đó là lời tuyên bố ban đầu của chính quân đội Mỹ. Trong thông cáo báo chí ngày 8/7/1947, Quân đội tuyên bố: “Những nghi hoặc xung quanh sự tồn tại của đĩa bay đã chính thức trở thành sự thật ngày hôm qua, khi Văn phòng tình báo thuộc Căn cứ không quân số 8 ở Roswell thu hồi 1 mảnh vỡ nhờ sự hợp tác đắc lực từ 1 nông dân địa phương và Cảnh sát trưởng Hạt Chaves”.

Tất nhiên ngay sau đó, Quân đội vội vàng “đính chính” lại thông tin sai lệch này, đồng thời quả quyết đó chỉ là một quả khí cầu đo thời tiết không hơn. Sau đó đến giữa những năm 1990, họ lại khẳng định nó là mảnh vỡ từ Project Mogul - 1 thiết bị tuyệt mật nhằm dò tìm các chương trình thử vũ khí hạt nhân của Liên Xô.

Những tuyên bố đó không thuyết phục nổi những nhà nghiên cứu UFO kỳ cựu như Stanton Friedman. Ông và đồng nghiệp đã tiến hành các cuộc thẩm vấn với chủ trang trại Mac Brazel và những người trong gia đình cũng như cư dân quanh vùng ở Roswell, rốt cuộc đi đến kết luận: không chỉ có đĩa bay rơi xuống đây mà cả người ngoài hành tinh cũng xuất hiện - một trong số đó rất có thể vẫn còn sống.

Cuộc thí nghiệm Philadelphia

Thí nghiệm được thực hiện dựa trên Lý thuyết “Vùng hợp nhất” của tiến sĩ Franklin Reno. Hiểu một cách ngắn gọn, lý thuyết bức xạ điện từ và trọng lực nếu được triển khai cùng với một số thiết bị đặc biệt và năng lượng cần thiết có thể bẻ cong ánh sáng xung quanh và làm cho vật thể trở thành “vô hình”. Trong bối cảnh Thế chiến lần II lúc đó, dễ hiểu vì sao Lực lượng Hải quân Mỹ lại tỏ ra ủng hộ nhiệt tình đến vậy. Họ đề nghị cung cấp tàu khu trục USS Eldridge cho cái gọi là “Dự án Cầu vồng”.

Những bước thử nghiệm đầu tiên bắt đầu vào tháng 7/1943 và đạt thành công đáng kể. Nhân chứng nói rằng họ chỉ còn thấy chiến hạm Eldridge như một “chú ếch màu xanh”, tuy nhiên thủy thủ đoàn lại than phiền dữ dội vì cảm giác nôn mửa kinh hoàng chưa từng có, buộc Ban chỉ huy lực lượng Hải quân phải ra lệnh tạm dừng.

Thí nghiệm chính thức được tiến hành vào ngày 28/10 năm đó, trên vùng biển Philadelphia bang Pennsylvania. Lần này, Eldridge không chỉ không vô hình trước mắt nhân chứng mà chỉ còn biến mất không dấu vết trong tầm kiểm soát của sóng radar. Lạ lùng hơn ngay cùng thời điểm đó, Căn cứ Hải quân Mỹ tại Norfolk (bang Virginia) nằm cách xa hơn 600 km báo cáo: đã nhìn thấy Eldridge ngoài khơi đến vài phút, sau đó thì mất tăm - đó cũng là lúc Eldridge tái xuất hiện trên biển Philadelphia.

Tàu khu trục USS Eldridge trên vùng biển Philadelphia. (Ảnh: menphis75)

Chấn động tâm lý để lại cho các thủy thủ trên chiếm hạm Eldridge mới thật nặng nề. Sau thí nghiệm, phần lớn những binh sĩ này ốm thập tử nhất sinh, không ít kẻ rơi vào trạng thái hoang tưởng hoặc tâm thần phân liệt, chưa kể 1 số trường hợp được ghi nhận “mất tích không dấu vết”.

Hoảng hốt, quan chức Hải quân Mỹ ra lệnh ngừng lại thí nghiệm ngay lập tức. Lần lượt sau đó, những thủy thủ còn may mắn sống sót bị đào thải ra khỏi quân đội. Có người nói họ còn bị “tẩy não” để quên đi mọi chi tiết về cuộc thí nghiệm kinh hoàng trên biển Philadelphia.

Thế giới sau cái chết

Liệu có cuộc sống nào khác sau khi chúng ta chết đi không? Linh hồn sẽ trôi dạt về đâu? Có thật sự tồn tại Thiên đàng và Địa ngục? Đó là những ẩn số mãi chưa thể giải đáp kể từ khi con người biết chiêm nghiệm về cái chết.

Cho đến nay chưa có bất kỳ bằng chứng khoa học nào chứng tỏ sự hiện diện của thế giới sau cái chết. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà dấy lên vô số giai thoại về linh hồn bất tử, không kể xiết những câu chuyện ma, trong đó nghe chừng thuyết phục nhất là những buổi gọi hồn - khi người cõi âm trở về trò chuyện với người trần thông qua “trung gian” là ông đồng bà bóng.

Đấy là chưa kể không ít trường hợp “trở về từ cõi chết”, khẳng định rằng họ đã bước 1 chân sang ngưỡng cửa thế giới bên kia, rằng họ đã đi qua một “đường hầm ánh sáng” và gặp gỡ những người thân đã khuất... Có thật chăng họ đã trải nghiệm cuộc sống sau khi chết?

Và những trường hợp đầu thai thi thoảng vẫn rùm beng đâu đó - ngay cả giới khoa học cũng chịu bó tay với những chi tiết trùng lặp lạ kỳ.

UFO ở Roswell: một sự thật bị che đậy?

Mọi chuyện bắt đầu từ buổi sớm ngày 25/6/1947, khi phi công Kenneth Arnold báo cáo về căn cứ trung tâm phát hiện một vật thể lạ trên vùng Mt Rainier, Washington. Kể từ lúc đó, thời đại của UFO chính thức ra đời.

Thông tin rò rỉ qua đường điện tín bị giới báo chí chộp đường, và thế là mùa hè năm đó, không chỉ riêng Roswell mà ngay cả nước Mỹ nóng hừng hực bởi những câu chuyện kể đụng độ đĩa bay. Rùm beng nhất trong số đó là “lần chạm trán” ở trại nuôi gia súc Foster ngoại ô Corona, New Mexico.

Đầu tháng 7/1947, sau khi đọc các bài báo về Arnold, ông chủ trang trại Mac Brazel tức tốc tìm gặp Cảnh sát trưởng Hạt Chaves để “khoe” mảnh kim loại kỳ lạ nhặt được trong khu đất nhà mình - mà theo ông quả quyết chắc chắn là một mẩu lớn văng ra từ “đĩa bay”.

Thông tin này ngay lập tức được cảnh sát trưởng George Wilcox báo cáo lên Lực lượng không quân Roswell (Roswell AAF).

Không chậm trễ, thiếu tá tình báo Jessie Marcel lãnh trách nhiệm điều tra tỉ mỉ nội tình vụ việc. Mảnh vỡ được quân cảnh thu hồi tại nhà Wilcox, đưa về Căn cứ không quân số 8 ở Fort Worth, Texas rồi sau đó “bay” sang Washington D.C.

4 giờ chiều cùng ngày hôm ấy, mùng 7/7/1947, Lydia Sleppy - nhân viên đài phát thanh KSWS của Roswell - dùng máy điện báo truyền tin “đĩa bay rơi ở trang trại Foster” về tổng đài, tuy nhiên đường truyền này vô cớ bị gián đoạn, chắc hẳn có bàn tay can thiệp của FBI.

Sáng ngày 8/7, Đại tá Blanchard của Roswell AAF yêu cầu Trung úy Walter Haut phát đi bản thông cáo báo chí, tuyên bố Quân đội đã bắt được những phần rơi rớt lại của đĩa bay. Liền sau đó, nhất loạt báo chí cả nước lấy lại thông tin này. Dân tình nước Mỹ được phen chấn động với thông tin “từ một nguồn không thể kém tin cậy hơn”.

"Mảnh vỡ" của đĩa bay (Ảnh: magma)

Ngay trong chiều hôm ấy, Tổng Tư lệnh Clemence McMullen ở Washington hội đàm khẩn cấp qua điện thoại với Ngài đại tá Thomas DuBose - chỉ huy Căn cứ Không quân Fort Worth, ra lệnh nhanh chóng dập tắt câu chuyện rùm beng về chiếc đĩa bay và gửi ngay “mảnh vỡ kỳ lạ” về Washington để xác minh sáng tỏ.

Vậy là chiều muộn hôm 8/7/1947, một cuộc họp báo gấp rút diễn ra tại Sở chỉ huy Lực lượng không quân số 8 tại Fort Worth, đích thân tướng Roger Ramey tuyên bố: vụ đĩa bay rơi ở trang trại Foster chỉ là 1 sự nhầm lẫn đáng tiếc; mảnh vỡ đĩa bay chẳng qua chỉ là quả khí cầu đo thời tiết mang radar được làm bằng nhôm và gỗ balsa. Để lời che đậy thêm phần thuyết phục, ông này đã đưa ra một miếng vỡ nát vụn và khẳng định đó là vật thu thập được ở hiện trường.

Thông cáo báo chí của AAF trên tờ Roswell Daily Record ngày 8/7/1947

(Ảnh: rense)

Chicago Daily News, Los Angeles Herald Express, San Francisco ExaminerRoswell Daily Record là những tờ báo lớn duy nhất có cơ hội đăng tải bản thông cáo “sai lệch” kia của AAF vì là báo ra buổi tối. Những báo uy tín khác như New York Times, Washington Post hay Chicago Tribune ra lò sáng sớm hôm sau đành ngậm ngùi đưa lên câu chuyện đã được che đậy kĩ càng.

Một cách khó hiểu, cho đến nay không ai có thể tìm lại bản gốc của bản thông cáo báo chí tai tiếng năm 1947 đó nữa. Cũng may, việc AAF “hiệu đính” nhầm lẫn đã nhanh chóng “hạ sốt” cho dân tình. Đến cuối tuần, tin “đĩa bay Roswell” gần như không còn độc tôn vị trí đầu trang, và cuối năm đó thì sự việc “lặn tăm” như thể chưa bao giờ người ta nhắc đến nó.

Về phần nông dân Mac Brazel, anh này sau đó bị quản thúc trong Căn cứ quân sự suốt 1 tuần, một thời gian sau đó trở về nhà với sự giám sát chặt chẽ của nhân viên an ninh. Cũng từ đó trở đi, Brazel không bao giờ kể về câu chuyện “đĩa bay xuất hiện trong trang trại”, thậm chí còn nói rằng đó là sự nhầm lẫn gây tai tiếng

Sự thật về “Hồ không đáy” ở Serbia

Nhiều thế kỷ nay, hồ Sobolkho ở Siberia đã gắn liền với hàng trăm truyền thuyết bí ẩn và không kể xiết những đồn thổi “tai tiếng”: là thủ phạm của tất cả những vụ mất tích, là nơi tề tựu của hồn ma chết oan... Và đặc biệt, chưa bao giờ người ta đo được đáy hồ.

Dân trong vùng Buryatia, bất kể đàn ông hay đàn bà, người già hay trẻ nhỏ, tuyệt nhiên không ai dám bén mảng quanh khu vực Hồ Sobolkho. Chẳng những người ta e ngại về bí mật “không đáy” mà còn khiếp sợ bởi hàng trăm câu chuyện hư thực được thêu dệt quanh đây.

Nếu chẳng may có 1 vụ mất tích bí ẩn của người hay gia súc thì nhất định, thủ phạm chỉ có thể là Sobolkho - dân làng luôn quả quyết như vậy cho dù chưa bao giờ kéo được xác từ đáy hồ. Rùng rợn hơn, những kẻ xấu số bị hồ nuốt chửng có khi lại nổi xác ở sông ngòi khác tận đâu đâu - một bí ẩn mà mấy trăm năm nay chưa ai có thể giải thích.

Đấy là chưa kể hàng đêm mặt hồ luôn phát ra ánh sáng màu hồng rực rỡ, được khẳng định là hồn ma bóng quế của những kẻ chết đuối đòi giải oan.

Từ thời Trung cổ, Sobolkho đã nổi danh là cái hố tham lam nuốt chửng người. Theo thống kê 10 năm trở lại đây, khoảng 300 con ngựa và 500 con bò đã “chui” xuống lòng hồ. Riêng mùa lũ năm 1999-2000 thì đã có 25 người mất mạng. Mấy năm qua số người chết đuối ở vùng nước này giảm nhiều, phần lớn là do mọi người luôn tránh xa nó như 1 bệnh dịch, và trẻ con thì tuyệt nhiên bị cấm bén mảng tới gần.

Dù vậy, bí ẩn mấy chục đời của Sobolkho chẳng đủ sức làm nản lòng giới khoa học. Theo dự đoán của các nhà nghiên cứu Viện hàn lâm khoa học Nga (RAS), rất có thể Sobolkho là một điển hình của hiện tượng vùng địa lý khai thông tự nhiên, được liên kết với cấu trúc đặc biệt của lớp vỏ Trái đất trên khu vực này.

Bí ẩn “Hồ không đáy” càng thu hút sự tò mò của các nhà khoa học RAS. Vậy là cuối tháng 10/2006, họ quyết định tổ chức chuyến thám hiểm tới Sobolkho để tìm ra độ sâu của lòng hồ.

Nhìn thoáng qua, có thể ước lượng mặt hồ có bán kính rộng chừng 30 mét. Làn nước tối đen, lạnh buốt, và xung quanh gần như không hiện diện sự sống cây cỏ. RAS bắt đầu tiến hành thăm dò 1 vài điểm lân cận mép hồ. Kết quả cho độ sâu lớn nhất là 13 mét - một con số quá ấn tượng so với diện tích mặt nước khiêm tốn như thế này. Tuy nhiên ở một số nơi xa hơn, thiết bị đo không làm sao chạm tới mặt đáy. Chính điều này các nhà nghiên cứu cũng không thể giải thích tại sao.

RAS không phải là những người đầu tiên đòi thử sức với lòng hồ. Năm 1995, cũng đã có một nhóm các thợ lặn nghiệp dư tới đây với hy vọng vén bức màn bí mật. Không đếm được hết con số những lần đo, nhưng cuối cùng mọi nỗ lực đều chìm vào vô vọng.

Thậm chí nhiều tay thợ lặn cừ khôi ngày đó còn bỏ mạng oan. Kỳ lạ nhất phải kể đến cái chết của 1 tay lặn dũng cảm trong đoàn, anh này lặn xuống quá sâu và mắc kẹt trong vùng nước xoáy. Bạn bè tìm mọi cách mà không vớt được xác, mấy ngày sau lại đột nhiên phát hiện nó trôi dạt gần bờ sông Vitim nằm cách hồ Sobolkho vài trăm mét.

Nhưng cũng chính từ đây người ta bắt đầu mường tượng ra sự thật về Sobolkho: nhất định có một con đường giấu mặt dưới nước làm nhiệm vụ kết nối lòng hồ tới sông Vitim.

Đã có người ước chừng độ sâu của hồ vào khoảng 250 mét, hoặc cũng có thể hơn. Nhưng dân vùng Buryatia thì luôn mang trong mình một niềm tin vĩnh cửu: hồ Sobolkho không có đáy.

í mật chưa giải mã của vùng Hồ lớn

Nhân viên rada nhìn thấy trên màn hình dấu của máy bay và dấu của vật thể không xác định từ từ hoà nhập thành một. Hai tháng sau, chiếc máy bay gần như không bị hư hỏng gì đang nằm dưới đáy biển Bắc được phát hiện...

Bí mật chưa giải mã

Mùa thu 2006, Adam Himenes, đại diện của “Great lakes Dive company” (Hãng lặn vùng Hồ lớn) - đang thực hiện thiết kế xây dựng các hồ chứa nước trên biên giới Mỹ và Canada, đã chuyển cho các phóng viên bức ảnh của chiếc máy bay tiêm kích nằm dưới đáy hồ.

Theo lời ông, máy bay đã được phát hiện từ năm 2005 nhưng hãng này chưa đưa ra thông báo vì muốn chắc chắn rằng, đó chính là chiếc tiêm kích F-89C huyền thoại đã biến mất từ nửa thế kỷ trước đây...

... Chiều ngày 23/11/1953, rada của lực lượng phòng không Mỹ đã bắt được mục tiêu lạ đang chuyển động với vận tốc gần 800 km/giờ phía trên hồ Superior - hồ chia cắt Mỹ và Canada.

Chiếc tiêm kích có thể bay trong mọi thời tiết F-89C, do trung úy Felix Moncla điều khiển, đã cất cánh từ căn cứ không quân Kinross ở bang Michigan để chặn bắt mục tiêu này. Ngay lập tức, một số trạm rada mặt đất cùng theo dõi cuộc rượt đuổi trên.

Một trong số nhân viên phục vụ ở trạm rada Batl- Kric, bang Michigan kể lại: Lúc đầu, phi công thông báo không nhìn thấy mục tiêu. Nhưng, trên màn hình rada lại thấy rõ dấu của một vật thể lạ. Khi tiếp cận gần hơn, phi công thông báo: “Đã nhìn thấy mục tiêu, tôi muốn tiếp cận gần hơn”.

Lời nói của phi công này bị tạp âm át đi. Cứ mỗi lúc Moncla định nói gì đó, tiếng của anh lại trở nên líu nhíu, khó nghe hơn. Chỉ khi phi công chuyển lời về mặt đất thì tạp âm mới xuất hiện. Khi dấu máy bay hoà nhập với dấu của vật thể, rồi sau đó trở lại tĩnh lặng. Phải chăng tiếng ồn đó là những lời nói sau cùng của viên phi công?.

Cố xác định xem máy bay tiêm kích có tiếp cận quá gần với mục tiêu đến nỗi dấu vết của chúng hoà nhập thành một hay không, nhân viên rada đã kiểm tra các chỉ số của hệ thống “ta- địch”. Hệ thống trên máy bay của Moncla không phản ứng lại các câu hỏi từ mặt đất. Sau đó, dấu này bay về phía đông - bắc và vượt ra ngoài phạm vi hoạt động của rada. Các trạm rada khác cùng theo dõi cũng cho biết như vậy.

Sau này, các máy bay tiêm kích do Hovard Nordec và Wiliam Mingenbakh lái, đã xuất kích từ căn cứ không quân Kinross để tìm kiếm xác chiếc máy bay này. Sau khi lượn vài vòng trên hồ, họ bay trở về. Đột nhiên Mingenbakh nghe thấy trong tai nghe giọng nói của Felix Moncla!

40 phút sau, khi trên màn hình rada mặt đất chỉ còn lại dấu của vật thể bay không xác định. Dấu về của hai chiếc máy bay có nhiệm vụ đi tìm kiếm cũng biến mất. Khi đó, những tiếng nói tương tự lại tiếp tục vang lên.

Trong báo cáo được giải mật của Mingenbakh có nói nhận ra giọng nói này, nhưng họ chỉ nghe được phần giữa của câu rồi liên lạc bị đứt quãng. Bởi vậy không hiểu được ý nghĩa của thông điệp. Trung uý Mingenbakh rất quen biết với trung uý Felix Moncla nên hoàn toàn có thể tin được báo cáo của anh.

Giới quân sự đã cố che dấu sự thật về vụ việc này. Ngày hôm sau, sĩ quan thông tin thông báo rằng vật thể bay không xác định chính là chiếc máy bay C-47 của không quân Canada, và phi hành đoàn của Moncla, sau khi nhận ra vật thể bay, đã bị tai nạn “bởi những nguyên nhân không rõ ràng” khi bay trở về căn cứ. Nhưng, chính phủ Canada đã khẳng định họ không là nguyên nhân gây ra vụ tai nạn.

Quả thật, lúc đó máy bay C- 47 có bay trên hồ, nhưng phi công của nó không nhìn thấy máy bay của Mỹ dù thời tiết khi đó rất đẹp. Thậm chí anh ta cũng không nghe thấy tiếng nói của Pheliks, người đã hỏi qua radio: Ai đang bay trên không trung? Jerald Phosberg, viên phi công lái chiếc máy bay C- 47, đã xác nhận rằng, nhân viên không lưu có hỏi anh ta nhìn thấy máy bay của Mỹ hay không?

Nhưng, đó là sau khi dấu vết chiếc máy bay tiêm kích đã biến mất khỏi màn hình của anh. Anh ta tin chắc mình không thể bay chệch hướng ra khỏi lãnh thổ Mỹ .

Điều đáng quan tâm rằng, tấm bản đồ vẽ đường bay của những chiếc máy bay đã bị rút ra khỏi hồ sơ của không quân Mỹ. Và cũng không rõ những đường bay này có cắt nhau hay không. Sau khi lực lượng không quân Mỹ và Bộ quốc phòng Canada giải mật hồ sơ vụ này, việc điều tra không tiến triển thêm được một bước nào.

Và thật tình cờ, những chuyên gia của “Hãng lặn vùng hồ lớn” đã phát hiện được "di hài" của chiếc máy bay trong khi tiến hành công việc bình thường ở đáy hồ.

Những bức ảnh nhận được là nhờ bộ định vị bằng sóng âm “Sark-2” mới nhất. Các kỹ sư của hãng đã đưa ra kết luận: máy bay gần như không bị hư hỏng, chỉ có 1 cánh và đuôi máy bay bị gãy. Cho dù khi va chạm trên không hay rơi xuống nước, thường thì các máy bay tiêm kích phản lực bị vỡ tan thành những mảnh vụn. Mọi người đều có cảm giác rằng, chiếc tiêm kích dường như đã được đặt cẩn thận trên mặt nước và bị chìm. Thả que thăm có gắn camera xuống đáy hồ, Adam và các đồng nghiệp có thể đọc được số hiệu trên đuôi chiếc tiêm kích. Đây chính là chiếc máy bay của Felix Moncla.

Himenes kể: “Khi cố tìm chiếc cánh máy bay bị gãy, chúng tôi bắt đầu rà soát vùng đáy gần chỗ máy bay. Cách thân máy bay gần 70 mét chúng tôi thấy có vật thể gì đó hính tròn hay hình bầu dục ăn sâu xuống đáy. Không thể xem xét được cụ thể hơn, một nhân viên sực nhớ rằng F-89C có thể mang tên lửa loại Genie với đầu đạn hạt nhân.

Dù mãi sau này, biến thể của F-89 mới có trang bị hạt nhân, chúng tôi vẫn quyết định kiểm tra giả thuyết này. Nhưng, khi thả ống đếm Geiger xuống đó, chúng tôi không phát hiện được nồng độ phóng xạ”.

Que thăm có gắn camera có thể xem xét được rộng hơn. Xét theo ánh sáng hắt ra thì vật thể này có thể bằng kim loại. Dưới đáy hồ, phía sau nó là một rãnh kéo dài, tựa như vật này đã bị đâm xuống cát với tốc độ lớn.

“Có thể, những gì mà chúng tôi nhìn thấy không lớn hơn đỉnh núi băng trôi, và phần chủ yếu của nó lại bị vùi lấp dưới cát”. Ở một phía của vật có vết khía giống như bị cánh máy bay đập vào.

Có thể vật thể này va chạm với máy bay ở trên không, cắt rời cánh của nó và rơi cách nó không xa hay không? Adam đã bác bỏ giả thuyết này bởi cho rằng, khi va chạm trên không và đập xuống nước máy bay sẽ bị hư hỏng nghiêm trọng. Có lẽ vật thể này chỉ tình cờ nằm ở gần đó ở dưới đáy?

Các nhà nghiên cứu không thể nhìn vào bên trong máy bay và xem có xác chết ở trong đó không, bởi nắp ca bin đã bị đóng. Rà soát 10 dặm vuông xung quanh điểm xảy ra tai nạn và 28 lần qua lại phía trên máy bay, họ đã không thể tìm ra được chiếc cánh đã bị mất và phần đuôi máy bay.

Himenes và các đồng nghiệp của ông chuẩn bị trở lại nơi xảy ra tai nạn cùng các phóng viên và tiếp tục nghiên cứu, nhưng chính phủ Canada đã can thiệp vào công việc của họ.

Phía Canada đòi phải đưa ra toạ độ chính xác của máy bay và các nhà nghiên cứu chỉ được tiến hành dưới sự giám sát của các tàu bảo vệ bờ biển hoặc đại diện chính quyền trên tàu. Chẳng bao lâu sau, “Hãng lặn vùng Hồ lớn” bị tước giấy phép tiến hành các công việc dưới nước.

Trường hợp xảy ra đêm mùng 8/9/1970, khi chiếc máy bay quân sự bị mất tích trên bầu trời nước Anh, có thể sẽ giúp làm sáng tỏ bí mật “cái chết” của chiếc tiêm kích F-89C.

Không lâu trước khi chiếc máy bay quân sự bị mất tích, nhân viên rada ở Stacxon - Wolde đã nhận được thông điệp kỳ lạ của phi công lái chiếc máy bay này- đại uý Sheffner: “Tôi đã nhìn thấy vật thể không xác định nào đó, không rõ đường nét, có màu lam nhạt… Nó sáng rực rỡ… Tôi đang ở gần nó. Có thể nó cách tôi khoảng 600 fut (đơn vị đo chiều dài, 1 fut bằng 30,5 cm).

Nó có hình nón, sáng chói. Có thể loá cả mắt nếu nhìn vào nó chỉ hai giây thôi… Ôi, chờ chút…còn gì đó nữa ở đây? Vật này giống như quả bóng đá lớn được làm bằng thuỷ tinh… Có thể, có mối quan hệ nào đó giữa hình nón với vật này. Ở đó có màn sương màu vàng… Một giây… Nó đổi hướng. Nhằm thẳng vào tôi. Tôi đang tránh…Tôi có thể…”.

Liên lạc bị cắt đứt. Đúng vào tích tắc đó, nhân viên rada nhìn thấy trên màn hình dấu của máy bay và dấu của vật thể không xác định từ từ hoà nhập thành một.

Hai tháng sau, người ta phát hiện chiếc máy bay gần như không bị hư hỏng gì đang nằm dưới đáy biển Bắc. Nắp ca bin vẫn đóng. Dây đai và ghế vẫn còn bên trong máy bay - nhưng không có dấu vết nào của viên phi công.

Điều đó tạo cảm giác rằng anh ta đã biến mất mà không kịp cởi dây đai. Nhưng trong nước biển lạnh, thi thể của phi công không thể tan biến trong thời gian ngắn như thế.

Những sự ra đi bí ẩn

Năm 1955. Máy bay vận tải của không quân Mỹ với 26 hành khách và các thành viên phi hành đoàn bay gần đến bờ biển nước Mỹ. Nhân viên rada trên mặt đất bỗng phát hiện thấy dấu hiệu một vật thể thứ hai trên màn hình. Vật thể bay không xác định bay với tốc độ lớn đã đột ngột lao vào chiếc máy bay. Hai dấu vết hoà thành một với tốc độ khủng khiếp.

Cuộc tìm kiếm trên mặt nước trong khu vực tai nạn đã không phát hiện được một vết dầu nào, chỉ có chiếc cặp của một vị tướng đi trên máy bay nổi lềnh bềnh.

Năm 1959. Chiếc tiêm kích F-106 của lực lượng không quân Mỹ, xuất kích để đánh chặn vật thể bay không xác định cạnh bờ biển nước Nhật, đã bị mất tích.

Phi công đã thông báo về mặt đất rằng anh nhìn thấy vật thể hình tròn bằng kim loại có ca bin ở phía trên. Anh kêu lên rằng anh đã phóng hai quả tên lửa, khi bay đến vật thể đó và chúng đã nổ tung tựa như va vào vật cản vô hình.

Tiếp đó, phi công lại thông báo vật thể này đã phát ra tia nào đó và đuổi theo máy bay của anh. Các nhân viên rada ở các trạm đã nhìn thấy hai dấu hiệu trên màn hình nhập thành một khối như thế nào, rồi tất cả biến mất. Không hề tìm thấy vết dầu hay mảnh vỡ nào.

Năm 1960. Máy bay F-101 bay trở về căn cứ không quân Edvards, bang California, sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đột nhiên, trên màn hình rada xuất hiện dấu hiệu lạ. Nó hoà vào dấu hiệu của máy bay và biến mất. Trường hợp này kết thúc khá may mắn. Ngay ngày hôm sau, dường như chẳng có chuyện gì xảy ra, chiếc máy bay lại hạ cánh xuống căn cứ.

Theo viên thiếu tá điều khiển chiếc máy bay này, chiếc máy bay tiêm kích cùng với ông đã bị đưa lên khoang của vật thể bay khổng lồ, ở đó họ đã trải qua các nghiên cứu khác nhau.

Năm 1972. Ba chiếc máy bay tiêm kích thực hiện chuyến bay ở gần Klovis, bang New Mexico. Các rada mặt đất đã phát hiện được vật thể bay không xác định, còn phi hành đoàn của chiếc máy bay bay gần đó đã nhìn thấy bằng mắt thường.

Các máy bay tiêm kích đuổi theo vật này. Vật thể lạ tăng tốc đột ngột rồi bay vào một đám mây lớn. Các máy bay tiêm kích bám theo cũng bay vào đó và không thấy bay ra ở phía bên kia đám mây.

Nhân viên rada nhìn thấy 4 dấu hiệu hoà thành một khối. Các phi công quan sát cuộc truy đuổi nhận thấy chỉ có vật thể không xác định bay ra từ phía bên kia đám mây và biến mất. Trên mặt đất, không tìm thấy một mảnh vỡ nào.

Năm 1974. Từ căn cứ không quân Kirtland, bang New Mexico, một chiếc máy bay cất cánh để diễn tập ban đêm. Khi nó đã ở trên không trung, trên màn hình rada xuất hiện một vật thể bay với tốc độ 680 km/giờ.

Vật thể này thay đổi hướng, lao thẳng vào máy bay. Dấu hiệu của máy bay và vật thể hoà vào nhau, sau đó dấu hiệu còn lại lảng ra xa với tốc độ lớn. Và người ta cũng không tìm được mảnh vỡ nào trên mặt đất... 

Cuốn sách cổ bí ẩn

Từ đầu thế kỷ XX, những nhà thông thái vẫn chưa "phiên dịch" được bản "Mật mã Voynich" mà họ cho là có từ thời Trung Cổ. Ngay cả các chuyên gia về mật mã cho đến nay cũng bó tay.

Nhìn bên ngoài, quyển sách chẳng có gì đặc biệt. Không có nhan đề và cũng chẳng có tên tác giả, cái bìa không trang trí, héo úa vì thời gian, chỉ được kết lại bằng dây da. Năm 1912, tại thư viện của biệt thự Mondragone, một trường học dòng Jésuite gần Rome, viên quản thư Wilfrid Voynich nhận ra quyển sách giữa chồng bản thảo mà các thầy tu định bán cho ông để có tiền trùng tu lại ngôi trường.

Ngay từ các trang đầu tiên, một thế giới cây cỏ lạ kỳ gợi ông nhớ đến những quyển dược điển cổ nói về các dược tính của thảo mộc. Nhưng khi nhìn kỹ thì ông chẳng nhận ra loại cây nào cả. Những bộ rễ to tướng làm biến dạng cây cối, các vòm lá cuốn vào nhau tựa hồ như một tay làm vườn ranh ma nào đấy đã thử nghiệm ghép cây hay gây đột biến trước thời đại.

Voynich cũng tìm thấy một chương nói về thiên văn - chiêm tinh - vũ trụ học với các vũ trụ tinh tú, mặt trời và mặt trăng, một mặt hoàng đạo khá lạ lùng, những nàng tiên với cái bụng to và gương mặt vô hồn tắm trong các hồ nước xanh được nối với nhau bằng những cái ống tựa như sự sắp xếp bên trong cơ thể một sinh vật...

Bản văn cũng chẳng giúp được gì: nó được viết bằng mực nâu theo một thứ ngôn ngữ lạ. Có vẻ như bản văn được viết từ trái sang phải và từ trên xuống dưới. Có những chữ giống như mẫu tự Latinh, có chữ lại giống chữ số Arập và các ký hiệu lạ. Có những khoảng trống nhưng không hề có dấu ngắt. Wilfrid Voynich tin rằng đấy là một bản mật mã và ông đã mua nó, hy vọng sẽ biến nó thành vàng.

Ông dự tính như thế là dựa vào một lá thư viết bằng tiếng Latinh từ năm 1666 đính kèm theo bản văn. Tác giả là một người tên Johannes Marcus Marci, đã gửi bản văn cho Athanasius Kircher, một thầy tu dòng Tên, người đã từng giải mã các bản văn tượng hình của Ai Cập. Có thể đây là người lý tưởng để “phá vỡ” mật mã sử dụng trong bản văn mà Marci cho là nó thuộc về Hoàng đế Đức Rodolphe II và cũng có thể do Roger Bacon (thầy tu dòng Francisco) thảo ra. Ông này là một trong các nhân vật khoa học tầm cỡ của thời Trung cổ.

Có quá nhiều cái “có thể”, nhưng Voynich không có được tính chặt chẽ của một sử gia. Và dường như ông tin chắc rằng Bacon chính là tác giả của bản văn bởi vì thầy tu người Anh này có đủ lý do và phương tiện để mã hóa. Ông là người ủng hộ phương pháp thực nghiệm khoa học và bài xích chủ nghĩa kinh viện, đã từng bị giam trong 25 năm vì tư tưởng của mình, và Voynich tin rằng Bacon đã sử dụng mật mã cho tác phẩm cuối cùng của mình mà chỉ mình ông hiểu được.

Tuy nhiên, giả thuyết Bacon dù rất hấp dẫn nhưng vẫn chỉ là giả thuyết. Voynich cần phải có một sự xác nhận khách quan. Mà có bằng chứng nào tốt hơn là bản giải mã chứ? Năm 1914, Voynich chuyển sang cư ngụ tại New York và cho photo bản văn cổ đó thành nhiều bản để gửi cho các nhà thông thái. Thật lạ lùng là những cố gắng giải mã tiếp theo đó chỉ càng làm u ám hơn màn bí ẩn bao quanh bản văn cổ.

Năm 1919, đến lượt Giáo sư triết học William Romaine Newbold ở Đại học Pennsylvania nhận được bản copy của 3 trang bản văn. Trang cuối cùng chỉ có 2 dòng rưỡi nhưng lại rất đặc biệt vì một phần được viết theo “mẫu tự Voynich”, một phần giống như mẫu tự Latinh. Vốn chẳng có mấy kinh nghiệm trong việc giải mã nên Newbold ngỡ rằng đã nắm được chìa khóa và lao vào một cuộc phiêu lưu trí tuệ mệt phờ. Vị giáo sư này cũng tin rằng bản văn là của Bacon và thầy tu này đã đưa vào đấy rất nhiều phương pháp mã hóa. Thế là ông soạn ra một hệ thống giải mã cực kỳ phức tạp và sau 1 năm miệt mài, Newbold đã điện thoại cho Voynich để thông báo kết quả: tác giả bản văn đúng là Roger Bacon và bản văn đó đã làm một cuộc cách mạng trong lịch sử khoa học. Theo Newbold, Bacon đã chế ra được chiếc kính viễn vọng đầu tiên - đi trước Galilée và Newton nhiều thế kỷ - và đã quan sát được thiên hà Andromède. Hơn nữa, Bacon cũng đã chế được kính hiển vi.

Bản văn còn cho thấy các nghiên cứu về cơ quan sinh dục, bởi vì nhiều hình minh họa bí ẩn không gì khác hơn là các hình vẽ buồng trứng, tinh trùng và cấu trúc bên trong của tinh hoàn... Phấn khởi vì những kết quả phi thường đó, Voynich ước tính giá trị của bản văn cổ khoảng 160.000USD. Nhưng Newbold qua đời vào năm 1926 và Voynich vào năm 1930, cả hai vẫn còn tin tưởng vào giả thuyết tác giả là Bacon.

Vào năm 1931, Giáo sư John Manly ở Đại học Chicago chứng minh rằng kỹ thuật của Newbold hoàn toàn tùy thuộc vào cách suy diễn chủ quan nên người ta có thể thu được kết quả mà người ta muốn. Nói rõ hơn là Newbold đã đọc được trong bản văn của Voynich những gì mà ông ta mong muốn thấy.

Qua năm tháng, nhiều tay giải mã nghiệp dư khác cũng cố thử vận may. Vào năm 1945, Leonell Strong đưa ra nhận xét rằng tác giả là một người Anh ở thế kỷ XVI, tên là Anthony Ascham, và ông này mô tả một ca sinh nở, đồng thời đưa ra một phương thuốc ngừa thai trích từ cây cỏ. Năm 1978, John Stojko quả quyết rằng bản văn đó là bản sao của nhiều lá thư viết bằng tiếng Ukraina cổ nói về một cuộc nội chiến hay xung đột tại Ukraina. Đến năm 1987, Leo Levitov lại cho rằng bản văn mô tả một nghi lễ của người Cathare.

Từ vài thập niên qua, giả thuyết Bacon đã bị bác bỏ vì tự dạng và cách minh họa cho thấy rằng bản văn đã được viết trong khoảng giữa năm 1450 và 1600, rất lâu sau khi thầy tu người Anh đó qua đời. Thế thì ai là tác giả? Bí ẩn, câu hỏi vẫn chưa có lời đáp.

Sau khi Wilfrid Voynich qua đời, bà vợ Ethel thừa hưởng bản văn cổ nhưng vẫn không bán được theo giá mà chồng bà mong muốn. Trong suốt 30 năm, bản văn đó đã nằm im trong một tủ sắt ngân hàng. Khi Ethel mất năm 1960, cô thư ký của Wilfrid đã bán bản văn đó cho một nhà buôn ở New York là Hans Kraus với giá 24.500USD. Ông này cũng không tìm được người mua nên đến năm 1969 ông đã tặng bản văn cho thư viện của Đại học Yale.

Hiện nay, nó vẫn còn được lưu trữ tại đấy với ký hiệu MS 408, bản thảo Voynich bí ẩn nhất thế giới.

ông tích tổ tiên

Trong khi kỷ nguyên băng hà bao trùm trái đất 30.000 năm trước trong lớp giá băng diệt vong, trong những hang động ở Gibraltar, những người thượng cổ Neanderthal cuối cùng vẫn tìm được nơi ẩn náu để tồn tại thêm 10.000 năm nữa. Những khám phá khảo cổ mới ở châu Âu đã buộc các nhà khoa học phải xem xét lại gốc tích của tổ tiên.

10.000 năm sống sót

Mặc dù đã từng được xem là thuỷ tổ của loài người, giống người Neanderthal sau này được khoa học xem như một ngõ cụt của quá trình tiến hoá, không liên quan gì đến cha ông của chúng ta - giống người thông minh Homo sapiens. Người Neanderthal tồn tại trong những hoá thạch được xác nhận có niên đại chừng 230.000 năm trước, và ở thời phát triển cực thịnh, những thợ săn tiền sử mạnh mẽ, béo lùn này đã đặt dấu chân lang bạt khắp châu Âu ngày nay, sang tận Israel ở phía nam và Uzbekistan ở phía đông.

Còn giống người Homo sapiens tiến hoá từ châu Phi đã tiến vào châu Âu khoảng 40.000 năm trước và dần dần chiếm chỗ của giống người Neanderthal đang trên đà tuyệt diệt.

Nhưng cách đây 2 tháng, các nhà nghiên cứu Anh, Tây Ban Nha và Nhật đã xác định được niên đại của những hòn than từ một bếp lò xưa vùi sâu trong lòng hang động Gorham ở Gibraltar  - một bán đảo ở tây nam châu Âu được Tây Ban Nha nhượng cho Anh từ 1713. Những hòn than tiền sử này nằm chung tầng khai quật mà các nhà khảo cổ trước đó đã đào được nhiều công cụ bằng đá của giống người thượng cổ châu Âu Mousterian vốn là một chi hệ của giống người Neanderthal. Những mẩu than này có niên đại khoảng 24.000 năm trước, trong khi các chứng cớ khoa học trước đó đều kết luận giống người Neanderthal đã tuyệt diệt từ trước đó cả 10.000 năm. Những thế hệ Neanderthal cuối cùng của 10.000 năm ấy đã đi đâu?

Yêu hay là chết!

Những kết quả nghiên cứu mới công bố đầu tháng 11 này từ những hoá thạch tiền sử phát hiện ở Rumani lại tiếp tục hâm nóng cuộc tranh cãi triền miên về cội nguồn nhân loại. Tại sao giống người Neanderthal lực lưỡng lại dễ dàng bị diệt vong như thế? Nhiều nhà khoa học đã bằng lòng với giả thuyết là chính giống người Homo sapiens khi từ châu Phi đặt chân đến châu Âu đã thảm sát giống người Neanderthal để tranh giành những vùng đất săn bắn và hái lượm trong công cuộc sinh tồn. Giống người thông minh nhưng cũng đầy bản năng hiếu chiến đã tàn sát giống người khoẻ mạnh nhưng hiền hoà?

Nhưng những nghiên cứu mới đăng tải trên nội san Proceedings of the National Academy of Sciences (Biên bản Viện Hàn lâm khoa học Mỹ) lại ủng hộ ý tưởng tình cảm hơn cho rằng giống người Neanderthal cuối cùng đã bị sáp nhập với giống người Homo sapiens qua việc lai giống. Các nhà nghiên cứu Rumani và Mỹ đã xác định được những xương cốt hoá thạch tìm thấy ở động Petera Muierii (Rumani) có niên đại khoảng 30.000 năm trước - giai đoạn mà giống người Neanderthal và Homo sapiens còn song song tồn tại. Trong khi phần lớn hình dạng các bộ xương đều giống con người hiện đại, nhiều chi tiết lại mang đặc điểm của giống người Neanderthal - đặc biệt là hình dáng xương hàm dưới và phía sau hộp sọ.

Nhà nhân chủng học Erik Trinkaus của Đại học Washington thuộc nhóm nghiên cứu này cho biết: "Xương hàm của giống người Neanderthal có những đặc tính giải phẫu học riêng biệt, không liên quan đến việc tiến hoá của xương hàm con người hiện đại khi chuyển từ săn thịt sống sang thịt nấu chín". Những khớp xương vai của những bộ xương người tiền sử ở Rumani cũng chưa phát triển hoàn thiện, không thể nào thực hiện những động tác xoay vòng cánh tay để phóng lao, bắn tên hay ném đá. Theo Trinkaus, những đặc điểm này thấy rõ trong những hoá thạch người Neanderthal và những giống người đầu tiên từ cả triệu năm trước.

Người Neanderthal thay vì bị diệt chủng lại giao phối với người Homo sapiens. Để củng cố giả thuyết này, Trinkaus đưa ra nhiều bằng chứng lai giống khác từ các di chỉ khảo cổ ở châu Âu như di chỉ Mladec ở Czech. Kể cả bộ xương 24.500 năm tuổi của một cậu bé tiền sử phát hiện năm 1998 ở hang động Abrigo do Lagar Velho (Bồ Đào Nha) cũng mang những đặc điểm hỗn hợp giữa hai giống người tiền sử. Rõ ràng giống người Neanderthal đã góp phần tô điểm cho dung nhan con người hiện đại.

Hội nhập để sinh tồn

Những phát hiện mới về nguồn gốc con người luôn là một sự kiện khoa học được giới truyền thông chú ý. Giả thuyết về một giống người Homo sapiens "không thượng đẳng" mà đã lai tạp với giống Neanderthal chính là tiền nhân của con người hiện đại đã làm không ít chuyên gia bất mãn.

Bác bỏ giả thuyết của Trinkaus, những nghiên cứu về gen di truyền DNA của người tiền sử lại được trích dẫn. Từ những hoá thạch được biết đã phân tích gen, các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy bộ mã DNA của người Neanderthal không có tác động gì đến con người hiện đại. Những điểm tương đồng giữa giống người Neanderthal và tiền nhân của chúng ta đã kết thúc từ 400.000 năm trước.

Nhưng Fred Spoor, giáo sư môn giải phẫu học tiến hoá của University College London lại cho rằng những kết quả phân tích DNA không chứng minh được việc lai giống giữa hai giống người thượng cổ đã không xảy ra. "Người Neanderthal và người Homo sapiens hoàn toàn có khả năng giao phối lẫn nhau và các thế hệ con cái có thể sống độc lập", Spoor nói. Vấn đề không phải là người Neanderthal đã bị người Homo sapiens tiêu diệt như thế nào mà là người Neanderthal đã "hội nhập" vào thế giới Homo sapiens đến mức nào.

Trần Ngọc Đăng

Lỗ hổng thời gian" và những vụ mất tích bí ẩn

Giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ gần đây xôn xao về một số vụ mất tích - tái hiện một cách thần bí. Nhiều người cho rằng hiện tượng có liên quan đến “lỗ hổng thời gian”.

Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.

Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.

Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm. Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn. Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi.

Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: Chẳng lẽ từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà Kate không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.

Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía Tây Nam cách núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.

Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng chìm xuống biển cùng với con tàu . Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60 tuổi. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.

Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định, người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.

Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào “hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian”.

800 lính Anh mất tích trong mây

Trong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, vào ngày 21/8/1915, hơn 800 lính thuộc Trung đoàn Norfolk 5 của quân đội Anh được lệnh cơ động lên một ngọn núi cao thuộc vùng Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của các nhân chứng, có một đám mây lớn bay sà xuống và bao phủ lên đoàn quân, lúc đó đang tiến vào thung lũng. Đội quân càng lên cao thì càng chìm dần vào trong khối mây mờ.

Khi người cuối cùng khuất hẳn, cả khối mây đã bốc lên cao và biến mất, người ta không thấy bất kỳ người lính nào bước ra khỏi đám mây đã bay đi đó. Từng ngọn cây, bụi rậm trên đỉnh núi đều có thể nhìn rõ, nhưng một đội quân hơn 800 người đã mất tích hoàn toàn. Khi đó, 22 người lính của New Zealand cũng đang tập cùng trận địa với đội quân này, trên một ngọn đồi nhỏ khác cách đó khoảng 600 m. Họ đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng bí hiểm trên.

Có giả thuyết cho rằng toàn bộ đội quân đã bị lực lượng đặc nhiệm của Thổ Nhĩ Kỳ bắt làm tù binh. Tuy nhiên, sau chiến tranh, phía Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết khẳng định rằng họ chưa từng nhìn thấy đội quân này. 800 người lính đã bị mất tích không nằm trong danh sách những lính Anh bị tử trận, đồng thời cũng không có trong danh sách tù binh chiến tranh được Thổ Nhĩ Kỳ trao trả sau khi chiến tranh kết thúc.

Ở Trung Quốc, năm 1945, một đoàn tàu chở hàng trăm khách từ Quảng Đông đi Thượng Hải đã biến mất khỏi hành trình khi gần đến ga cuối, không để lại bất kỳ một dấu tích nhỏ nào.

Quan điểm của các học giả

Một số người cho rằng lỗ hổng thời gian thực chất là thế giới phản vật chất đang tồn tại trong vũ trụ. Họ dựa vào công thức tổng năng lượng vật chất của Einstein, theo đó tổng năng lượng vật chất có hai giá trị là chính và phụ. Vậy khi giá trị phụ xuất hiện, chúng ta cần phải làm thế nào? Nhận thức nó ra sao? Một số học giả liền đưa nó vào mối liên hệ với thế giới phản vật chất. Hiện nay, chúng ta mới hiểu biết chưa đầy một nửa vũ trụ chúng ta đang sống, là phạm vi thế giới vật chất, còn nửa kia là một hệ thống tạo thành từ phản vật chất.

Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng “đổ vỡ” do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng “đổ vỡ” kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra.

Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết “thời gian đứng lại”. Thế giới vật chất sau khi tiến vào lỗ hổng thời gian đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, lỗ hổng thời gian và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong “lỗ hổng” là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 năm hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu.

Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết “thời gian ngược”, cho rằng thời gian trong lỗ hổng thời gian là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí.

Trong thuyết thứ ba “đóng cửa thời gian”, lỗ hổng thời gian là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, sẽ có hiện tượng mất tích; mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện.

Trước mắt, quanh vấn đề “lỗ hổng thời gian” vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Chưa một học thuyết nào đủ sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng “mất tích - tái hiện” vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá...

10 nhân vật ma quái đáng sợ nhất

Chúng lẩn khuất, ám ảnh, làm chúng ta kinh hãi. Nhưng những nhân vật kinh dị nhất dưới đây chắc chắn sẽ không thình lình xuất hiện trước mắt bạn. Chúng đã bị chôn vùi trong những thị trấn thời trung cổ, khi mà các câu chuyện dân gian kỳ bí ngự trị trong đầu mỗi người.

Sau đây là lịch sử và khoa học về những ngôi sao kinh dị của ngày 31/10 - Lễ hội Halloween hằng năm.

1. Yêu tinh

(Ảnh: LiveScience)

Nổi tiếng từ các câu chuyện cổ tích, những con yêu tinh nhỏ choắt đầy lông lá có tính ranh ma nhiều hơn là độc ác. Truyền thuyết kể về những con yêu tinh trốn trong các khu rừng, bày ra các trò chơi khăm và đôi khi tráo đổi em bé mới sinh. Không giống như các sinh vật khác vốn liên quan đến tôn giáo, yêu tinh chưa vượt qua được ngưỡng của sự tưởng tượng để gây nên những cơn hoảng loạn thực sự ở các thị trấn thời trung cổ.

2. Quỷ

(Ảnh: LiveScience)

Quỷ, như người ta vẫn thường gọi "linh hồn của quỷ", có thể đại diện cho bất kỳ thứ nào từ tà ma, đến một thiên thần bị suy đồi tới đệ tử của Satan. Ma quỷ có nguồn gốc từ thời cổ đại và xuất hiện trong các câu chuyện dân gian và văn học trên khắp thế giới.

3. Tượng đầu thú

(Ảnh: LiveScience)

Đó cũng là một trong những điều không thể giải thích được của kiến trúc cổ đại. Nhưng tượng đầu thú, những con quái vật bằng đá nhô ra từ mỏm của các giáo đường lớn, thực ra có chức năng của nó. Chúng được gắn vào các công trình đá gô-tíc vào đầu thế kỷ 13 để dẫn nước mưa chảy từ trên nóc nhà thờ, miệng của chúng như cái máng xả nước. Xét về mặt tâm linh, tượng đầu thú cũng để bảo vệ giáo đoàn trước các thế lực ma quỷ rình rập bên ngoài.

4. Thây ma

(Ảnh: LiveScience)

Là vua của phim kinh dị, thây ma là những con người đã bị tước mất linh hồn hay người chết được sống lại nhờ một phép ma thuật nào đó. Truyền thuyết thây ma bắt nguồn từ tôn giáo ma thuật ở Haiti, nơi mà người ta tin rằng con người cơ thể rơi vào trạng thái hôn mê giống như xác chết di động mà chúng ta thấy trong phim.

5. Ma sói

(Ảnh: LiveScience)

Là những con người bình thường cho đến khi ngày trăng tròn tới, họ bị nguyền rủa biến thành những con sói man rợ - hình tượng xuất hiện trong mọi nền văn hoá bắt nguồn từ thời Hy Lạp cổ đại. Giống như phù thuỷ, họ bị săn đuổi vào thời trung cổ và bị buộc tội trong những vụ giết người không thể giải thích. Những câu chuyện truyền miệng cũng nói đến một chứng rối loạn hoóc môn khiến lông mọc rậm rạp trên cơ thể - được gọi là "căn bệnh người sói".

6. Ma trơi

(Ảnh: LiveScience)

Những quả bí ngô ma quái này có thể là biểu tượng nổi bật nhất của lễ hội Halloween. Tục lệ khắc và thắp đèn trong những quả bí là một phong tục thời Celtic được các cư dân Ireland mang tới Mỹ. Ở Ireland, người ta dùng củ cải thay vì bí ngô. Những khuôn mặt đáng sợ tỏa sáng hiện ra từ những quả bí ngô là để xua đuổi tà ma lang thang trên các con đường vào đêm 31/10 - đêm các thánh.

7. Dơi

(Ảnh: LiveScience)

Chúng mù, treo lơ lửng trong các hang động và tạo nên những cuộc tấn công ồ ạt. Nhưng tại sao dơi lại liên quan tới Halloween? Những con thú có cánh này nên cảm ơn ma cà rồng vì điều đó. Giống như các con quỷ dracula, một bộ phận nhỏ dơi chuyên sống nhờ vào máu động vật - dùng răng sắc nhọn để cắn nạn nhân khi đang ngủ.

8. Phù thuỷ

(Ảnh: LiveScience)

Hãy quên đi những chiếc mũ đen nhọn hoắt hay cái mũi khoằm. Những hình ảnh đó chỉ xuất hiện gần đây so với lịch sử bi thương có từ rất lâu về phù thủy trên khắp hành tinh. Trong quá khứ, phù thuỷ được coi là người sở hữu những phép thuật liên quan tới thế giới tự nhiên. Giống như mọi kẻ ngoại giáo khác, họ bị truy lùng bởi nhà thờ Cơ đốc. Cuộc săn lùng lên tới đỉnh điểm vào thời trung cổ ở châu Âu và thế kỷ 17 ở châu Mỹ.

9. Bóng ma

(Ảnh: LiveScience)

Chọc 2 lỗ thủng từ tấm ga trải giường để nhìn và bạn đã có trang phục đơn giản nhất cho ngày Halloween. Trở thành một con ma thực thụ thì phức tạp hơn. Trước hết bạn phải chết, có thể một cách đau đớn, rồi để cho linh hồn của bạn lang thang khắp trái đất hù doạ người thân và ám ảnh các ngôi nhà. Từ một góc độ khoa học nào đó, các nhà cận tâm lý cho rằng một phần năng lượng của con người không bao giờ bị phá huỷ. Xã hội dường như cũng đồng ý, một cuộc khảo sát cho thấy 50% tin rằng thực sự có ma.

10. Ma cà rồng

(Ảnh: LiveScience)

Họ muốn hút máu bạn. Ma cà rồng xuất hiện trong nền văn hóa dân gian từ hàng nghìn năm trước, còn hình ảnh về những chiếc răng nanh phổ biến từ thế kỷ 18-19 tại Tây Âu. Người ta tin rằng một ai đó khi sinh ra bị dị dạng hoặc chết một cách bất thường thì sau khi chôn sẽ sống dậy để khủng bố người sống. Ma cà rồng được coi là những người chưa chết hẳn và cần phải hút máu người để duy trì sự sống.

» Khám phá » 1001 bí ẩn

 RSS

Người ngoài hành tinh sẽ thăm trái đất

Cập nhật lúc 14h14' ngày 23/10/2006

Bản in

Gửi cho bạn bè

Phản hồi

Xem thêm: nguoi, ngoai, hanh, tinh, se, tham, trai, dat

Theo khẳng định của nhà nghiên cứu các vật thể lạ (UFO) nổi tiếng người Brazil Jan Val Ellam, trong năm 2007, lần đầu tiên nhân loại sẽ chính thức “gặp gỡ” những sinh vật bí hiểm đến từ các dải ngân hà xa xôi.

Jan Val Ellam là tác giả của 15 cuốn sách bán chạy nhất thế giới viết về tâm linh và mối liên hệ của nó với các nền văn minh ngoài trái đất. Ellam quả quyết: Trong suốt 20 năm qua, ông luôn giữ liên lạc với không ít sinh vật ngoài hành tinh và ghi lại chi tiết tất cả những cuộc gặp ấy trong một cuốn sổ đặc biệt.

Cũng chính những nhân vật này đã chuyển tới ông lời cảnh báo: Một số chủng người từ các thiên hà xa xôi sẽ đổ bộ xuống địa cầu trong khoảng 15/11/2006 đến tháng 4/2007.

Theo Ellam, sinh vật ngoài hành tinh có hình dáng rất khác lạ so với người trái đất, tuy vậy luôn tỏ ra thân thiện và hiền lành. Nhà nghiên cứu UFO này cũng lý giải, sở dĩ lâu nay họ chưa dám “đặt quan hệ” với chúng ta là vì khắp thế giới lúc nào cũng thấy xảy ra chiến tranh hoặc bạo loạn.

Trên tạp chí UFO của Brazil, tác giả Jan Val Ellam đã đưa ra mô tả chi tiết về “chuyến viếng thăm hữu nghị” này, kèm theo đó là tuyên bố: “Sau lần gặp gỡ với người ngoài hành tinh sắp tới đây, không ai trên trái đất còn có thể nghi ngờ về sự hiện diện của họ nữa. Tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, các tổ chức quân đội, chính phủ, các lĩnh vực khoa học, tôn giáo, tín ngưỡng - không một lực lượng nào có thể phủ nhận điều này”.

Ellam thừa nhận rằng vào thời điểm này, lời dự báo của ông nghe thật ngây ngô và phi lý, tuy nhiên một lần nữa ông nhấn mạnh rằng mình chỉ đang thực hiện nghĩa vụ làm cầu nối cho các nền văn minh trong vũ trụ mà thôi.

Truyền thuyết về loài "rắn biển khổng lồ"

Tháng 7/1897, tàu chiến Pháp Avalanche đã đụng độ quái vật biển được gọi là "rắn biển khổng lồ" đến 3 lần trong vịnh Along. Đại bác được nã rần nhưng không chạm được nó. Trước Avalanche, những con tàu khác cũng đã gặp "rắn biển khổng lồ". Kể từ đó, "rắn biển" trở thành một trong các bí ẩn lớn nhất của động vật học...

Thực tế và truyền thuyết

Tàu hộ tống Anh Daedalus thực hiện hải trình từ Antilles đến Cap. Ngày 6-8-1848, lúc 16 giờ, trong miền Nam Đại Tây Dương giữa đảo Saint-Hélène và Cap của BonneEspérance (còn gọi là Mũi Giông Tố, nằm ở phía nam châu Phi), dưới làn gió mát tây bắc và bầu trời quang tạnh, viên sĩ quan Sartoris chợt thấy rõ một vật đáng ngờ trong lớp bọt sóng ồ ạt. Sartoris tức thì cảnh báo với chỉ huy M'Quhae trên cầu tàu. Con vật nổi lên mặt biển được nhìn thấy có dáng dấp như rắn biển khổng lồ. Đầu quái vật nhô cao trên mặt nước 2 mét. Một phần thân của nó thấy rõ dài trên 15 mét.

Quái vật bơi dọc theo con tàu, giữ một khoảng cách. Khi thì nó xuất hiện dưới vỏ tàu, lúc bên mạn trái, lúc lại bên mạn phải tàu. Cả thủy thủ đoàn đều chăm chú quan sát hành động của quái vật trong khoảng 20 phút. Có một điều lạ lùng là vào 10 năm sau, cũng tại vị trí này, chỉ huy tàu Carnatic là Shuckling cũng chứng kiến cảnh tượng tương tự. Đầu tiên, ông tin rằng đó là một thanh gỗ dài, phần sót lại của cột buồm. Nhưng liền sau đó ông thấy “cột buồm” này động đậy và rõ ràng là có cái đầu nhô lên. Quái vật có một vài chi tiết dường như giống với quái vật mà tàu Daedalus đã nhìn thấy.

Các báo cáo của hai vị thuyền trưởng này đã khiến cho báo chí Anh thời đó hao tốn biết bao giấy mực. Các bằng chứng này tiếp tục được xác minh bởi các câu chuyện kể định kỳ của các thủy thủ mà trong đó nghiêm chỉnh nhất là câu chuyện của Vịnh Along xảy ra vào ngày 25/2/1904.

Một vệt đen lạ lùng

Hôm đó, pháo hạm La Décidée chuẩn bị tập trận dưới sự chỉ huy của Đại úy hải quân L'Eost. Buổi chiều, L'Eost chú ý đến một vệt đen dài 300 mét xuất hiện bên mạn trái con tàu. Trên bề mặt của nó có phủ lớp tảo dày có vẻ giống như vảy cá. Pháo hạm La Décidée lừ lừ tiến đến gần vệt đen hơn. Một chiếc canô được chuẩn bị thả xuống biển. Mọi người trên tàu im lặng theo dõi.

Bất ngờ “dải đá ngầm” động đậy mạnh tựa như chuyển động của địa chấn. Đó là một giả thuyết có thể chấp nhận. Song điều đáng ngạc nhiên là biển vẫn tĩnh lặng, ngoài cơn xoáy nước nhẹ do các “khối đá” tạo ra. Thêm vài giây trôi qua, L'Eost hạ lệnh tắt hết các động cơ. Bây giờ viên đại úy không còn tin vào chuyển động địa chấn nữa, mà cho đó là một hay nhiều con vật mà không biết được loài gì. L'Eost chưa kịp ra lệnh thả canô xuống biển thì đột nhiên “các khối đá” thay đổi hình dạng.

Trước sự kinh ngạc của mọi người, một vật khổng lồ hiện ra là loài bò sát với lớp da sần sùi, màu nâu. Không trông thấy đầu con vật. Bất ngờ "con rắn" biến mất. Không lâu sau đó con vật biển bí ẩn lại xuất hiện cách tàu 150 mét. Lần này nó tiến lên rất nhanh và mọi người thấy được cái đầu hình tam giác và con mắt xếp nếp của nó. Đường kính đầu rắn khoảng 80cm. Quái vật dường như không thấy chiếc tàu.

Theo truyền thuyết, loài rắn biển này đã gây run sợ cho nhiều thế hệ thủy thủ, nhưng lúc này dường như nó vô hại. Nó bơi đằng sau tàu, nổi lên vài giây bên mạn phải tàu và cuối cùng lặn mất.

Phân tích của ngành động vật học

Điều thấy rõ là sự tồn tại của loài "rắn biển khổng lồ" đã ám ảnh nhiều nhà động vật học và động vật học ẩn. Năm 1893, nhà động vật học Hà Lan Oudemans đã xuất bản cuốn sách về bí ẩn này (“Rắn biển khổng lồ”). Ông kết luận rằng đó là một loài động vật chân vây (pinnipède) có dáng như khủng long cổ dài (plésiosaure) và được ông đặt tên là Megophias megophias. Sự mô tả của Oudemans dựa trên cơ sở tập hợp nhiều động vật.

Năm 1965, Bernard Heuvelmans xuất bản một cuốn sách về vấn đề này. Qua nghiên cứu thống kê hàng trăm bằng chứng, Heuvelmans muốn chứng minh rằng "rắn biển khổng lồ" có nguồn gốc phức tạp:

- Các con vật quan sát thấy, nhưng chưa xác định được vào thời điểm xảy ra sự kiện, và được ghi chép đó là: cá mập voi (cetorhinus maximus), mực thẻ khổng lồ (architeuthis), cá đai (regalecus glane), loài giun vòi to lớn như loài lineus longissimus.

- Những con vật không có quan hệ gần gũi với những con vật có dạng rắn chưa được xác định.

Theo Heuvelmans, chiếc cổ dài hiển nhiên là của loài động vật chân vây, còn 4 loài khác có lẽ thuộc bộ cá voi có cổ nhỏ. Con nhiều bướu chắc chắn có quan hệ gần gũi với loài zeuglodonte.

Các bằng chứng mới nhất về rắn biển

Ngày 30/7/1915, tàu ngầm Đức U-28 đánh đắm chiếc tàu Iberia của Anh và nó bị nổ ở độ sâu từ 100 đến 200 mét. Cùng với các mảnh vỡ con tàu bắn tung lên không, một con cá sấu biển khổng lồ dài 20 mét cũng bị hất tung lên cao và rơi xuống giãy giụa trong nước.

Ngày 30/12/1947, con tàu khách Santa Clara của Mỹ va phải một con vật dạng cá chình dài khoảng 15 mét ở ngoài khơi Bắc Carolina. Con vật sau đó bị thương đến chết và máu chảy loang một vùng nước biển.

Tháng 10/1969, ở độ sâu 270 mét ngoài khơi vùng Bermudes, tàu ngầm Alvin “mặt đối mặt” với một con vật khổng lồ đầu loài bò sát và cổ dài. Nhưng không may là con vật đã lặn mất trước khi nó được quay phim. Vào tháng 4/1977, ngư dân đánh lưới rê người Nhật Bản Zuiyo Maru bắt được một vật khổng lồ dài hơn 10 mét. Các bức ảnh chụp cho thấy một con vật cổ dài, đuôi dài giống như loài khủng long cổ dài. Nhưng cũng lại không may là ngư dân đó đã vứt xác con vật xuống biển vì không chịu nổi mùi hôi thối của nó.

Kết luận

Từ lâu "rắn biển khổng lồ" đã tạo ra sự ám ảnh, nỗi hãi hùng và thậm chí tiếng cười nhạo, nhưng nó luôn được mọi người mô tả khá giống nhau. Thế nên có lẽ nên gọi là “những con rắn của các đại dương” hơn là “rắn biển”. Liệu rằng chúng ta có lý không khi nghĩ rằng những con vật thời tiền sử có thể sống sót đến tận ngày nay?

Các nhà khoa học Nga giải mã thông điệp của người ngoài hành tinh

Theo nhà toán học lỗi lạc Nga, Vladimir Pakhomov, những người ngoài hành tinh đã từng viếng thăm trái đất và để lại hệ thống lịch của họ cùng một thông điệp cho nền văn minh trái đất.

Nhà toán học này nói: "Tôi không thấy thông điệp từ người ngoài hành tinh một cách tình cờ, mà tôi tìm kiếm nó. Với một niềm tin chắc chắn rằng họ đã viếng thăm trái đất chúng ta". Nhiều chuyên gia rất chú ý đến một vài sự trùng hợp ngẫu nhiên mà họ có thể tìm thấy trong các truyền thuyết và chuyện kể về sự viếng thăm trái đất của người ngoài hành tinh thời xa xưa.

Nhà thám hiểm Erich von Daeniken viết rằng, con người rất khó khăn trong việc tìm kiếm các dấu vết của người ngoài hành tinh trên trái đất. Đại dương chiếm 2/3 bề mặt hành tinh, băng tuyết bao phủ 2 cực trái đất, các sa mạc và rừng cây mênh mông chiếm phần đất còn lại của hành tinh.

Daeniken cho rằng người ngoài hành tinh (nếu họ đã từng có mặt trên trái đất) ắt hẳn phải suy nghĩ cách để lại loại hình thông điệp nào của họ trên trái đất để có thể tồn tại qua hàng ngàn thời kỳ.

Nhà khoa học Nga Vladimir Pakhomov tin rằng, người ngoài hành tinh có thể đã để lại hệ thống lịch của họ trên trái đất. Ví dụ như các pharaon Ai Cập cổ đại đã có lời tuyên thệ khá lạ lùng khi lên ngôi hoàng đế: Họ hứa sẽ không thay đổi hệ thống lịch, dù chỉ là sự sửa đổi nhỏ nhất.

Nhiều bản thảo cổ cũng cho biết rằng vị thần thông thái có 2 tên gọi: ThothHermes đã soạn thảo và giữ kín một số “cuốn sách” trước khi ngài quay về trời. Nhà nghiên cứu Graham Hancock viết trong cuốn sách Tấm gương trời, rằng các cuốn sách của vị thần thông thái tồn tại lâu dài và vô hình trong suốt nhiều thế kỷ. Các truyền thuyết cũng kể rằng vị thần linh này không muốn cho con người tìm thấy và đọc được các cuốn sách đó, vì loài người không xứng đáng được hưởng vinh dự đó.

Erich von Daeniken đang tìm kiếm các dấu vết lạ ở Dendera, Egypt

(Ảnh: daniken.com)

Loài người chưa có kiến thức và các công nghệ cần thiết để đọc được hệ thống lịch của người ngoài hành tinh, nhưng dù sao thì loại lịch này cũng đã tồn tại trên trái đất. Nhà khoa học Pakhomov nói: “Tôi rất sốc đối với ma trận của lịch vĩnh cửu, được tìm thấy trên các bức tường Đại giáo đường Sophia ở Kiev, nước Ukraina. Ma trận được làm ra để có thể xác định được cấu trúc lịch của bất cứ năm nào. Ví dụ, bạn có thể dễ dàng tìm được ngày sinh của mình trong 100 năm với sự giúp đỡ của lịch vĩnh cửu”.

Pakhomov đã sử dụng lịch của Đại giáo đường Sophia như là điểm khởi đầu cho công việc giải mã các tài liệu cổ xưa được viết bằng mật mã

Lục địa Atlantis: Huyền thoại hay sự thật?

Hình ảnh lục địa Atlantis, một quốc gia vĩ đại và hùng cường, mà sự thống trị đối với thế giới cổ đại đột ngột chấm dứt chỉ sau một thảm họa, đã kích thích nhiều nhất trí tưởng tượng của nhân loại suốt hơn hai nghìn năm qua. Tất cả bắt đầu từ một huyền thoại về Atlantis.

Mặc dù Atlantis được xem là đạt tới đỉnh cao vinh quang hơn 11 nghìn năm trước, nhưng nó chỉ xuất hiện trong thư tịch khoảng 2.350 năm trước, từ 359 đến 347 năm trước Công nguyên. Cái tên đầy gợi cảm Atlantis xuất hiện trong các cuộc đối thoại của nhà triết học Hy Lạp cổ đại lừng danh Plato, Timaeus và Critias, vốn được đặt theo tên các nhân vật trong hai cuộc trao đổi tưởng tượng giữa Socrates và học trò.

Thành phố Atlantis qua mô tả của Plato (Ảnh: unmuseum.org)

Mở đầu phần đối thoại Timaeus, Socrates nhắc tới cuộc thảo luận hôm trước về một xã hội “hoàn thiện”. Ở đây Plato nhắc tới cuộc đối thoại nổi tiếng nhất của ông, Nền cộng hòa, mà ông đã viết từ nhiều năm trước. Và Plato mượn lời Socrates để kể ra hàng loạt đặc điểm cần có của một chính phủ hoàn hảo mà ông đã mường tượng trong Nền cộng hòa: thợ thủ công và nông dân tách khỏi quân đội; quân nhân kỷ luật cao, được huấn luyện thể lực và âm nhạc, sống cộng đồng và không có tài sản riêng.

Socrates không dừng cuộc tranh luận ở mặt lý thuyết mà yêu cầu học trò đánh giá trên khía cạnh triết học thực hành. Ông cho rằng họ cần xem xét tính hoàn thiện của một xã hội phù hợp với các quan niệm viết trong Nền cộng hòa bằng cách đặt nó đối diện với một cuộc chiến tranh.

Critias kiểm tra đề xuất của người thầy bằng đề nghị: “Xin (thầy Socrates) hãy nghe một câu chuyện tuy lạ nhưng có thật”. Critias nói rằng, ông nội cũng tên là Critias kể cho anh nghe câu chuyện, và ông nội anh thì nghe người cha là Dropides kể lại. Dropides biết chuyện nhờ nhà hiền triết Hy Lạp Solon, còn Solon được các tu sĩ Ai Cập kể cho biết khi ông ở Ai Cập vào khoảng năm 600 trước Công nguyên. Theo những gì Plato viết trong Critias, cái mà chúng ta biết chính là một dị bản của câu chuyện có nguồn gốc từ hơn 200 năm trước đó.

Quốc gia hoàn thiện, đó là Athens chứ không phải Atlantis

Các tu sĩ Ai Cập kể cho Solon nghe câu chuyện về thành phố Athens cổ, “được quản lý tốt nhất trong tất cả các thành phố trên thế giới”. Đó chính là Athens cổ từ 9.300 năm trước thời Plato, được ông dùng làm mô hình của một quốc gia lý tưởng. Các tu sĩ kể với Solon về chiến công anh dũng nhất của người Athens, họ đã đánh bại một thế lực hùng mạnh đang chuẩn bị tiến hành cuộc viễn chinh chống lại cả châu Âu và châu Á. Họ mô tả quốc gia đang bành trướng đó nằm rất xa giữa Đại Tây Dương (Atlantic). Và đó là lý do của cái tên Atlantis.

Người Atlantis đã tràn qua Bắc Phi trên đường tiến về Ai Cập. Nhưng sau thất bại trước Athens, Atlantis bị các vị thần phá hủy hoàn toàn trong những cơn động đất và đại hồng thủy khủng khiếp, đó là theo lời kể của Critias.

Khi thuật lại câu chuyện về Atlantis, Critias thưa với Socrates: “Hôm qua khi thầy kể về một thành phố trong câu chuyện đã ăn sâu trong óc con, con rất ngạc nhiên nhận thấy rằng, không hiểu vì sự tình cờ bí ẩn nào mà chuyện của thầy trùng khớp với lời kể của Solon”. Trên thực tế, mô tả của Critias về xã hội Hy Lạp cổ trùng hợp hoàn hảo – và không hề ngẫu nhiên – với quan niệm nhà nước lý tưởng của Plato trong tác phẩm Nền cộng hòa.

Nguồn gốc lịch sử của Atlantis?

Plato mô tả đảo quốc Atlantis hay Athens cổ đại dựa trên bằng chứng lịch sử hay chỉ dựa vào hư cấu? Trên thực tế có một nền văn minh rực rỡ tại Địa Trung Hải - đảo Crete của người Minoan, thậm chí còn xa xưa hơn xứ Hy Lạp của Plato - và nó cũng bị phá hủy một phần vì thảm họa tự nhiên.

Nhiều học giả hiện đại cho rằng, mặc dù quy mô và vị trí của Atlantis kém chính xác trong Critias (có thể do dịch sai), câu chuyện của Plato dựa trên vụ núi lửa phun khủng khiếp tại Thera, hòn đảo nằm ở phía đông Hy Lạp và phía bắc Crete trong biển Aege. Miệng núi lửa của lần phun nham thạch tại Thera thế kỷ XVII hay XVI trước Công nguyên có kích thước lớn gấp hai lần dấu vết tại Krakatoa, mà lần phun vào năm 1883 thì đã giết chết hàng chục ngàn người. Tai họa tại Thera chắc chắn thảm khốc hơn nhiều, đến mức mà ngay tại Ai Cập, là nơi chỉ phải chịu ảnh hưởng gián tiếp, người ta cũng nhận biết được.

Với một số người, đảo Crete của người Minoan chính là Atlantis và trong Critias, Plato đưa ra một bức tranh có phần không chính xác về sự tàn phá nó như một hệ quả của núi lửa phun tại Thera. Tuy nhiên, để khẳng định điều đó, ta cần bỏ qua những chi tiết thực tế, hay ít nhất cần giải thích tại sao Crete lại được đặt sai vị trí địa lý, sai kích thước, sai tên, chưa bao giờ gây chiến với Athens và không bị phá hủy trong một thảm họa nào. Chứng cứ khảo cổ học cho thấy, mặc dù các cộng đồng người Minoa sống dọc bờ biển bị sóng thần tàn phá nặng nề sau vụ nổ tại Thera, nền văn minh Minoan không chỉ sống sót mà còn phát triển rực rỡ hơn trong khoảng hai trăm năm nữa.

Nhiều tác giả khác cho rằng, chế độ thuộc địa kỳ diệu của người Minoan tại Thera là mô hình của Atlantis. Rõ ràng là sự định cư của người Minoan tại đây đã bị tàn phá vì núi lửa, nhưng cũng hoàn toàn rõ ràng là, Plato không nói về sự suy tàn của một nền văn minh cổ đại. Trong khi đó, Thera cũng là một địa chỉ sai, quy mô và niên đại sai nên không thể là mô hình trực tiếp của Atlantis.

Atlantis như tưởng tượng của thời hiện đại

Không cuộc tranh luận nào về Atlantis được xem là đầy đủ nếu không nhắc tới những tuyên bố mang tính tưởng tượng trong thế kỷ XIX và XX về lục địa đã mất tích. Hơn bất cứ ai, nghị sĩ bang Minnesota Ignatius Donnelly, người đã hai lần thất bại trong cuộc chạy đua vào chức phó tổng thổng Mỹ và là một nhà sử học nghiệp dư, đã làm huyền thoại sống lại bằng cuốn sách Atlantis: một thế giới trước thời hồng thủy vào năm 1881.

Theo Donnelly, Atlantis của Plato là ngọn nguồn của mọi thành tựu văn hóa và mọi nền văn minh tại Ai Cập, Tây Á, Ấn Độ và châu Âu, cũng như Namvà Bắc Mỹ. Lập luận của Donnelly không dựa trên khoa khảo cổ hay địa lý và không hề có bằng chứng nào về nguồn gốc chung của mọi nền văn hóa. Tuy nhiên so với một số nhà tư tưởng cuối thế kỷ XIX khác, Donnelly vẫn là khuôn mẫu của sự tự kiềm chế.

Phong trào Theosophy (thần triết học) của Helena Blavatsky, một phụ nữ gọi hồn “nổi tiếng” nước Mỹ, giả thuyết rằng cư dân Atlantis di chuyển bằng máy bay và trồng trọt hoa lợi thu được từ người ngoài hành tinh. Gần đây hơn, các nhà tâm linh thế kỷ XX tuyên bố tiếp xúc được với các linh hồn từ lục địa đã mất tích và được họ khuyên nhiều điều hay để giải quyết những bế tắc của cuộc sống hiện đại. Tất nhiên không thể có bằng chứng ủng hộ những tuyên bố huyễn hoặc như thế.

Quan điểm của Plato

Không thể nghi ngờ một sự thật là Plato đã dùng kiến thức lịch sử để dựng nên các cuộc đối thoại về lục địa Atlantis của ông. Dường như đã có nhiều câu chuyện về thảm họa tự nhiên tàn phá một quốc gia hùng mạnh hơn 1.000 năm trước thời Plato, và ông đã dùng chúng để chuyển bức thông điệp của mình.

Tuy nhiên, những người ủng hộ việc thảo luận chỉ riêng trên khía cạnh văn học của Critias cũng nhận thấy rằng, Plato không định viết sử, nhưng một số phần trong truyện đã được dùng có chủ ý như những ẩn dụ đạo đức mà ông muốn thảo luận. Chẳng hạn trong cuốn Atlantis bị phá hủy, Rodney Castleden cho rằng, Atlantis của Plato là tổng hợp của đảo quốc Crete và Thera, cũng như cần nhận thấy rằng, một phần câu chuyện dành để kể về lịch sử đương thời của Hy Lạp, gồm cả cuộc chiến tranh giữa Athens và xứ Sparta.

Cuối cùng cần phải thấy rằng, mô tả Atlantis trong Critias tuy rất gần với thực tiễn của các xã hội cổ đại nhưng lại nằm ngoài chủ đích của Plato. Với Plato, Atlantis không phải là một nền văn minh, mà là một phương tiện truyền bá tư tưởng. Những gì ông đặt vào miệng Critias không được sáng tạo như những bằng chứng lịch sử, mà được dùng cho một chức năng quan trọng hơn đối với ông, vốn là triết gia chứ không phải là nhà sử học. Để lập thuyết, Plato cần hư cấu Atlantis như một đối thủ không thể vượt qua. Mô tả chi tiết về Atlantis là cách Plato gây ấn tượng với người đọc về sự giàu có vật chất, sức mạnh công nghệ và lực lượng quân sự.

Vậy câu chuyện về một Athens nhỏ hơn, nghèo nàn hơn, công nghệ lạc hậu và thế lực yếu hơn mà lại chiến thắng cái đảo quốc hùng mạnh ấy đã chuyển đến cho chúng ta bức thông điệp gan ruột của Critias: Cái quyết định lịch sử không phải là của cải hay sức mạnh mà quan trọng hơn là cách thức quản lý xã hội và con người. Đối với Plato, thành tựu trí tuệ của một xã hội có vai trò quan trọng hơn và luôn luôn vượt trên của cải hay sức mạnh vật chất. Đó chính là điều mà Plato muốn nói với chúng ta.

Bí ẩn người ngoài hành tinh trong sử thi Gilgamesh

Vào đầu thế kỷ XX, các nhà khảo cổ đã từng có một phát hiện gây xôn xao ở núi Kujujik, đó là một bộ sử thi anh hùng đầy hấp dẫn. Bộ sử thi này được khắc trên 12 bản bằng đất, nó vốn được bảo quản trong Thư viện Azonibo của Quốc vương Azo, được viết bằng chữ Akko.

Sau này, người ta còn phát hiện ra quyển thứ 2 thuộc về nhà vua Hammourabi (1848-1806 trước Công nguyên) Vương quốc Cubabilon.

Đây là bộ Sử thi Gilgamesh có giá trị lịch sử và văn học rất lớn. Tất cả giới khoa học đều công nhận rằng, Sử thi Gilgamesh nguyên bản của nó xuất phát từ người Sumer. Người Sumer là một dân tộc thiện chiến, cho tới nay chúng ta cũng chưa rõ được nguồn gốc của dân tộc này, chỉ biết rằng họ đã để lại 15 số tự làm con người ngày nay kinh ngạc, những kiến thức về thiên văn toán học vô cùng tiên tiến.

Sử thi Gilgamesh bản bằng đất (Ảnh: malaspina)

Ở bản thứ nhất của Bộ sử thi Gilgamesh miêu tả một con quái vật Anjitu được Nữ thần Aru tạo ra. Toàn thân Anjitu mọc đầy lông dài. Nó ăn cỏ, và uống nước ở chỗ trũng như bò, nó còn thích nô đùa ở chỗ có nước sôi nóng bỏng. Vua của Thành Uruk nghe nói đó là một sinh vật xấu xí, bèn đề

nghị cho nó một người con gái xinh đẹp, làm như vậy để nó có thể rời xa đàn bò. Anjitu bị Vua dùng kế bắt được, và cho cùng sống với người phụ nữ đẹp mê hồn nửa thần nửa người, được 6 ngày 6 đêm.

Trên bản thứ 2 kể rằng, người anh hùng Gilgamesh luôn luôn chiến thắng đã cho sửa chữa lại tường Thành Uruk. Vị thần này sống trong một cung điện rộng lớn, bên trong có cả kho lương thực, trên tường thành đều có vệ sỹ đứng gác, tuần tra canh phòng. Gilgamesh là dòng máu pha trộn giữa người với thần, 1/3 là người còn 2/3 là thần. Tín đồ hành hương đến Thành Uruk đều run rẩy khi ngửa mặt lên nhìn ông ta, bởi vì người ta chưa bao giờ nhìn thấy một người to khỏe và đẹp trai đến như vậy. Tập thơ tự sự này lại một lần nữa đề cập đến vấn đề giao phối giữa người với thần.

Bản kể thứ 3 kể rằng, từ nơi xa một cơn lốc bụi cuốn tới làm kinh thiên động địa, bụi cát mù trời. Thần Mặt trời xuất hiện, ông ta dùng một móng vuốt rất lớn quặp lấy Anjitu. Ở đây mô tả Thần Mặt trời như một mũi khoan nặng nề cắm vào người Anjitu, nặng nề đè lên như một cái thớt cối. Con người ngày nay ngạc nhiên và khó lý giải. Phải chăng, người nguyên thủy đã tự biết rằng, dưới một gia tốc nhất định, cơ thể con người có thể lao mạnh như một mũi khoan? Ngày nay, chúng ta đã biết được gia tốc của lực hấp dẫn, phi công vũ trụ khi cất cánh bị một gia tốc trọng lực ép chặt xuống ghế, điều này đã được tính toán kỹ từ trước. Nhưng người nguyên thủy tại sao lại có thể hiểu được những kiến thức ấy?

Bản thứ 6 kể rằng, Gilgamesh và Anjitu đã cùng nhau đi đến nơi ở của thần. Đứng từ rất xa họ đã nhìn thấy ngọn tháp rực rỡ, vô cùng huy hoàng tráng lệ. Đấy là nơi ở của nữ thần Oninis. Hai hiệp sỹ thận trọng lấy tên và đạn bắn các vệ sỹ, nhưng đều bị bắn trả lại, các vệ sỹ không hề bị xây xước. Hai hiệp sỹ vội vàng áp sát cung điện, lúc đó đột nhiên nghe thấy một tiếng gầm khủng khiếp: "Hãy quay về đi!! Phàm là người nào đã đến núi thánh nơi ở của thần, nếu người nào chỉ cần nhìn thấy mặt thần thì người đó sẽ nhận lấy cái chết". Trong Kinh thánh cũng có đoạn ghi như vậy "Người không thể nhìn được mặt ta, người nhìn mặt ta sẽ không thể sống được".

Bản thứ 7 thuật lại cảnh loài ngoài lần đầu tiên nhìn thấy Trái đất từ Vũ trụ. Anjitu bị móng đồng của con chim ưng lớn quắp lấy bay trong không trung. Trong sách ghi lại như sau:

Ngài nói với ta rằng: "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biến giống cái gì? Mặt đất giống ngọn núi cao, mặt biến giống như một cái hồ. Bay thêm một giờ đồng hồ nữa, lại hỏi ta "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biển giống cái gì?" Mặt đất lúc này giống như một khu vườn, mặt biển giống như một bồn nước trong vườn hoa. Lại bay thêm 4 tiếng nữa hỏi: "Mi hãy nhìn xuống dưới đất mà xem, mặt đất giống cái gì? Mi hãy nhìn lại biển xem biển giống cái gì?" Mặt đất như cháo loãng, mặt biển như chậu nước".

Nhất định phải có một sinh vật nào đó đã nhìn Trái đất từ trên trời cao. Ở bản này còn kể rằng, một cánh cửa đã nói giọng như một con người, điều này khiến người ta nghĩ ngay tới phát thanh.

Đến bản thứ 8, Anjitu đã từng nhìn thấy Trái đất từ trên cao ấy đã bị chết vì một bệnh rất lạ. Gilgamesh hỏi có phải Anjitu đã bị trúng khí độc do một loài dã thú trên trời có thể gây nên một chứng bệnh không thể điều trị liệu được ở người.

Bản thứ 9, kể lại câu chuyện Gilgamesh vô cùng thương tiếc người bạn Anjitu bèn quyết định lặn lội dặm trường đi tìm thần, bởi vì ông ta lúc nào cũng nghĩ rằng sẽ chết bì căn bệnh giống như bệnh của Anjitu. Gilgamesh đi đến chân 2 ngọn núi chống trời, vắt ngang qua 2 ngọn núi là Cổng Mặt trời. Trước Cổng Mặt trời, ông ta đã gặp 2 người khổng lồ. Phải thương lượng cả một ngày, Gilgamesh mới có thể vào được. May mắn vì ông ta 2/3 là thần, nên một lát sau Gilgamesh đã tìm thấy vườn hoa của thần ở bên một bờ biển rộng lớn. Khi Gilgamesh đang trên đường đi, thần đã cảnh cáo ông ta 2 lần: "Hỡi Gilgamesh, mi đi đâu? Mi không tìm được tính mạng mà mi muốn đâu. Khi thần tạo ra người, thì đã xếp đặt trước vận chết rồi, còn tính mạng là do thần tự thân nắm quản". Gilgamesh không nghe khuyến cáo, quyết tâm tiến bước, cho dù có bao nhiêu nguy hiểm, ông ta

nhất định phải đến được nơi ở của Utenapise. Nhưng Utenapise lại ở một bờ biển rất xa xôi, ở đó không có đường đi, ngoài con tàu của Thần Mặt trời ra thì không có một con tàu nào khác có thể bay được qua biển rộng. Gilgamesh đã vượt qua bao nguy hiểm, biết dựa vào trí thông minh của mình để vượt qua biển rộng.

Về sau, bản thứ 10 đã tả lại cảnh ông ta tới gặp Utenapise, cha của loài người có eo lưng không thô hơn eo lưng ông, vai cũng không rộng lớn, mà là người có vóc dáng như ông ta. Utenapise nói rằng, 2 người trông rất giống cha họ. Tiếp đó, Utenapisa kể lại cho Gilgamesh nghe những việc mà Gilgamesh đã trải qua, kỳ lạ là ông ta lại dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất để kể. Thật ngạc nhiên là Utenapise đã miêu tả hết sức tỷ mỷ nạn Hồng Thủy. Ông ta kể rằng, thần đã cảnh cáo ông ta có nạn Đại Hồng Thủy, để ông ta đóng một con thuyền, dùng để cứu trẻ em, phụ nữ, những người thân của ông ta cùng với các nghệ nhân của các ngành nghề. Ông ta đã miêu tả nhiều cảnh phong ba bão táp, nước thủy triều ầm ầm dâng cao màn đêm đen đặc cùng với những con người mà ông ta không thể cứu vớt hết được, cho đến ngày nay cảnh tượng ấy vẫn còn sinh động và có sức cuốn hút kỳ lạ. Câu chuyện này thật giống với câu chuyện của Noê trong Kinh Thánh, chúng ta lại được nghe câu chuyện thả quạ và chim bồ câu, câu chuyện sau khi nước rút thuyền bị mắc cạn trên một ngọn núi.

Căn cứ vào những miêu tả ở trên, chúng ta có thể đặt một giả thiết về lịch sử mơ hồ của loài người như sau: Từ thuở rất xa xưa, có một phi thuyền Vũ trụ không rõ từ đâu phát hiện ra sự tồn tại của hành tinh chúng ta. Họ nhanh chóng hiểu ra rằng, Trái đất có đầy đủ điều kiện thuận lợi cho việc phát triển trí tuệ con người. Đương nhiên thời ấy loài người trên Trái đất không phải là loài người chúng ta bây giờ.

Người ngoài hành tinh đã thụ tinh cho một số phụ nữ ở Trái đất, giống như lời kể trong truyện thần thoại, họ đợi cho những phụ nữ này ngủ say rồi bỏ đi. Mấy nghìn năm sau, những người khác ngoài hành tinh lại tới Trái đất, họ tìm thấy sản phẩm là hậu duệ của họ để lại. Họ lại tiếp tục tiến hành giao phối nhiều lần cho đến khi tạo ra được một loại sinh vật có trí tuệ để họ có thể truyền thụ cho loài sinh vật này kỹ năng sinh tồn và những quy luật sống của xã hội.

Loài người thời đó là loài dã man chưa được khai hóa, họ rất có thể bị thoái hóa nên một lần nữa giao phối với dã thú. Người ngoài hành tinh đã nhìn thấy mối nguy hiểm này, nên đã tiêu diệt cái sản phẩm không thành công của họ, hoặc đem chúng đến một vùng đất khác. Vì vậy, xã hội nguyên thủy, kỹ năng nguyên thủy nhất đã bắt đầu xuất hiện, những  bức tranh vẽ trên vách đá và trong hang động, làm ra đồ gốm, rồi tới những kiến thức ban đầu về việc dựng nhà ở, từng thứ một cứ dần dần xuất hiện. Những người nguyên thủy này vô cùng sùng kính những người khách tới từ trời cao. Bởi vì những vị khách này tới từ một nơi mà loài người không hề biết, hơn nữa sau này họ lại bỏ đi mất.

Trong tâm thức của loài người, họ là thần thánh, họ là Thượng đế.

Bí mật Cửa Mặt trời

Cập nhật lúc 09h20' ngày 25/05/2006

Ở góc Tây Bắc Quảng trường Carachacha trong Thành Tiahuanaco có một bức điêu khắc bằng đá vô cùng lớn và rất nổi tiếng, đó là Cửa Mặt trời - Là một trong những kỳ tích của nền văn minh cổ xưa có tiếng nhất Đại lục Nam Mỹ.

Cửa Mặt trời do một tảng nham thạch cực lớn trên núi tạo thành một cách hoàn chỉnh: cao 3,1m; rộng 3,96m và nặng hơn 10 tấn. Sở dĩ người ta gọi nơi đây là Cửa Mặt trời vì vào ngày 21 tháng 9, tiết Thu phân hàng năm, những tia nắng bình minh đầu tiên luôn chiếu rọi xuống mặt đất ở giữa cửa đá này.

Những người đã nhìn thấy Cửa Mặt trời, không ai là không bị khuất phục trước vẻ đẹp hùng vĩ của nó. Trên Cửa Mặt trời có khắc các hình vẽ rất tinh xảo, trong đó nổi bật nhất là hình vẽ Lịch Mặt trời tô điểm trên mi cửa theo chiều ngang. Chính giữa Cửa Mặt trời khắc tượng Phi thần (Thần biết bay). Theo truyền thuyết, ông chính là thánh nhân đã du nhập các loại hình nghệ thuật và chế độ vào Nam Mỹ. Đầu bức tượng đội vương miện vô cùng uy nghiêm, trong tay cầm gậy tô điểm bởi chim tọa sơn điêu, thần sắc mười phần nghiêm túc, 2 hàng lệ nhỏ xuống từ khóe mắt. Đứng hầu 2 hàng trên dưới Phi thần là các dũng sỹ oai phong. Phần dưới của Lịch Mặt trời khắc một loại đồ hình, chúng được xếp liên tục thành hình Kim Tự Tháp. Ngoài ra, ở đó còn vẽ vô vàn các đồ án và văn tự, cho đến nay vẫn chưa lý giải được hàm nghĩa của nó.

Đứng trước Cửa Mặt trời, người ta luôn đặt câu hỏi: "Cư dân của Thành Tiahuanaco cổ đại tại sao phải kiến tạo cửa đá lớn như vậy?".

Xét từ điểm tia nắng Mặt trời đầu tiên xuyên qua Cửa Mặt trời và

tiết Thu phân thì rõ ràng đây là một kiến trúc có liên quan đến lịch pháp. Rất nhiều học giả cho rằng, hầu hết các hình và ký hiệu được khắc trên Cửa Mặt trời đều có liên quan đến lịch pháp.

Nhưng những ký hiệu này biểu đạt lịch pháp như thế nào? Người Tiahuanaco làm thế nào để tính toán chính xác mối quan hệ giữa các tia nắng Mặt trời vào tiết Thu phân với vị trí của Cửa Mặt trời.

Trong cuốn sách "Hiện tượng ngẫu nhiên của Tiahuanaco", hai nhà khoa học Bellermi và Aluan đã nghiên cứu tỉ mỉ các đồ án và ký hiệu của Cửa Mặt trời. Họ cho rằng, phía trên của Cửa Mặt trời đã ghi lại số lượng lớn kiến thức thiên văn, sớm nhất 2.700 năm về trước, mà những tri thức này được tạo nên trên cơ sở Trái đất là hình tròn. Điều này một lần nữa làm cho mọi người đặt câu hỏi: "Người Tiahuanaco tiền sử lẽ nào lại tồn tại ở một nền văn minh đạt đến trình độ cao như vậy?".

Khi khảo sát Cửa Mặt trời, học giả Hanke người Anh đã phát hiện thấy trên mi Cửa Mặt trời còn khắc những hình động vật thời tiền sử kỳ dị nằm ngoài ý muốn. Loại động vật này có hình thể béo tốt, bốn chân hơi thô, dường như nó là loài tạp giao giữa hà mã và trâu.

Trong giới động vật ngày nay, dường như từ lâu đã không tồn tại loài động vật nào giống như vậy. Nhưng các nhà sinh vật cổ vừa nhìn thấy chúng đã nhậ

Tượng phi thần (Ảnh: dudeman)

n ra ngay loại động vật hình thù chậm chạp trong hình vẽ là thú răng hở - một loài động vật thời tiền sử đã tiệt chủng.

Kết quả nghiên cứu chỉ rõ: Thú răng hở sống từ 1.600.000 đến 12.000 năm trước, có lẽ nó là động vật thuộc loại lưỡng cư, có tập tính sinh hoạt giống hà mã ngày nay. Nó là loài động vật có móng phổ biến nhất ở đại lục châu Mỹ đương thời. Loài động vật này dài khoảng 2,8m; cao 1,4m; có 3 ngón chân giống trâu nhưng lại thấp và không có sừng, giữa răng cửa có kẽ hở lớn, do vậy được gọi là thú răng hở. Nhưng nó sớm bị tuyệt chủng từ 12.000 năm trước. Ngày nay, những hiểu biết của con người có được về loài động vật này là từ các hóa thạch đã được phát hiện.

Vậy, tại sao loài động vật thời tiền sử đã tiệt chủng lại được vẽ trên Cửa Mặt trời? Có hơn 47 chỗ trên mi Cửa Mặt trời đều điêu khắc hình tượng của thú răng hở. Loài động vật xấu xí này không chỉ xuất hiện trên Cửa Mặt trời mà còn thấy chúng vẽ ở bất kỳ nơi nào trên các mảnh gốm vỡ cùng thời đại, trên một vài tác phẩm điêu khắc vẫn còn có hình thể hoàn chỉnh của nó.

Thực ra, các hình vẽ động vật cổ đại trên Cửa Mặt trời và Feijin chỉ có một loài thú răng hở. Trên các hình vẽ ở Cửa Mặt trời còn có một loài động vật mọc ngà và mũi dài như voi. Ngày nay, loài voi lớn ở Nam Mỹ đã bị diệt chủng. Nhưng theo các tài liệu nghiên cứu, ở thời tiền sử, châu Nam Mỹ đã từng tồn tại một loài động vật giống như loài voi có tên khoa học là Juxiak.

Những bức đồ án quây quanh tượng Phi thần

(Ảnh: dudeman)

Chúng thuộc loài động vật mũi dài, sinh sống đông nhất ở khu vực Tiahuanaco, đoạn phía Nam mạch núi Altis. Nhưng loài động vật này cũng sớm bị tiệt chủng từ khoảng 1 vạn năm trước Công nguyên.

Loài động vật đã bị tiệt chủng từ khoảng hơn một vạn năm trước, nhiều lần xuất hiện ở Thành cổ Tiahuanaco thể hiện điều gì? Nó chỉ có thể chứng minh những người đầu tiên xây dựng thành Tiahuanaco thường nhìn thấy loài động vật này, loài voi thực sự chứ không phải căn cứ vào trí tưởng tượng để vẽ nên các hình thú răng hở trên Cửa Mặt trời. Do vậy, chúng ta có thể đưa ra phán đoán, niên đại xây dựng thành Tiahuanaco và Cửa Mặt trời không thể muộn hơn từ cuối thời kỳ canh tân đến trước 1 vạn năm trước Công nguyên.

Nhưng Kim Tự Tháp Ai cập được xây dựng khoảng 2.600 năm trước Công nguyên. Trong khi đó, nền văn minh Sumer sớm được công nhận nhất trên Thế giới cũng chỉ bắt đầu từ 3.300 năm trước Công nguyên. Lịch sử loài người di cư đến châu Mỹ được dự tính khoảng 1 vạn năm trước Công nguyên mà thời gian đến châu Mỹ lại càng muộn hơn. Vậy 12.000 năm trước, ai là người xây dựng nên thành Tiahuanaco hùng vĩ và Cửa Mặt trời vô cùng kỳ diệu đó, trong khi thế giới đương thời vẫn trong cảnh mômg muội tối tăm?

Điều càng làm cho người ta nghi hoặc là Cửa Mặt trời - Một kiệt tác ngày nay không gì có thể sánh kịp lại không được hoàn thành trọn vẹn. Đó là trên mi cửa lộ rõ những hình vẽ còn dang dở. Không lẽ, đột nhiên có một ngày công việc điêu khắc bỗng dừng lại? Vậy nơi đây bổng xảy ra sự việc gì hay đó là một tai nạn bỗng nhiên ập đến?

Cửa Mặt trời (Thái Dương môn) - Cánh cửa thần bí - Cửa của trí tuệ

Hồ thủng ở Kirghizistan

Cập nhật lúc 10h13' ngày 20/05/2006

Kirghizistan, miền trung Á, được nuôi dưỡng bởi các đỉnh núi cao đến 7.000 mét, con sông băng Inylchek chứa đựng một bí ẩn chưa giải thích được từ trăm năm nay, nó là duy nhất trên thế giới mà cứ mỗi mùa hè, hồ Merzbacher ở đó lại cạn khô nước trong 3 ngày. Tại sao?

Các câu hỏi này đặt ra từ đúng một thế kỷ nay, khi nhà địa chất người Đức Gottfried Merzbacher khám phá chiếc hồ năm 1904 (và từ đó nó được mang tên ông). Với mong muốn phá vỡ bí ẩn của hồ Merzbacher, một đoàn thám hiểm quốc tế do GFZ Berlin tiến hành đã lên đường đến chiếc hồ này vào mùa hè năm nay. Lần đầu tiên, các nhà khoa học cố gắng trả lời câu hỏi đó.

Con sông băng khổng lồ Inylchek dài 65 km, với hai nhánh chính hội tụ nhau cách đoạn cuối sông 15 km. Tại chỗ giao nhau của hai nhánh, ở độ cao 3.300 m, đó là hồ Merzbacher, sâu 130 mét, một phần bị bao phủ bởi các núi băng trôi. Mỗi năm, nước hồ rút sạch đi trong 3 ngày, vào khoảng đầu tháng 8.

Điều không thể đã diễn ra. Vào lúc 16h ngày 6/8/2004, hồ Merzbacher bắt đầu tự tháo cạn nước đi! Cứ mỗi năm, hiện tượng lạ lùng trên lại xảy đến vào thời gian này. Với vẻ ngoài bình lặng, lượng nước đông giá của nó dần dần đổ vào đáy sâu của con sông băng Inylchek. Thấp hơn 30 km và sau vài giờ, đến lượt thung lũng bao la bị ngập nước. Từ một con sông khiêm tốn trên núi, Inylchek đã trở thành một đại dương hung dữ, chiếm trọn cả không gian. Trong 3 ngày đêm, chiếc hồ tháo sạch 250 triệu m3 nước của mình, chỉ để lại trong lòng hồ một thảm các khối băng khổng lồ u buồn. Ngày 9/8, hiện tượng nước rút hoàn tất trong thung lũng. Con sông băng chấm dứt sự thay hình đổi dạng của nó. Còn hồ Merzbacher đã trống rỗng. Nhờ điều kỳ diệu nào mà chiếc hồ bắt nguồn từ sông băng này có thể tự tháo nước đi trong vòng 3 ngày? Nước đã chảy đi đâu? Sự tháo sạch nước đã xảy ra như thế nào? Và bằng cách nào hồ lại đầy nước trở lại?

Ngày 19/7/2004. Khi đến Bichkek, thủ đô Kirghizistan, khó khăn đã lộ ra. Serguei Dushavili, một trong những lãnh đạo của đoàn thám hiểm, thông báo: "Có thể chúng ta buộc phải dùng ngựa cho 4 ngày đường, nếu như trực thăng không sử dụng được". Không thể bỏ lại những người Nga, chiếm đại đa số trong đoàn, cho dù ở Kirghizistan chỉ có một chiếc trực thăng duy nhất. Nhưng rồi cuối cùng một chiếc MI-8 khổng lồ cũng xuất hiện đón chúng tôi sau hai ngày đường vất vả trên con đường xấu.

Chúng tôi dựng lên hai trại, cách nhau 20 km: một trại nằm dưới chân con sông băng, nơi mà sông Inylchek bắt nguồn và trại thứ hai nằm ngay trên con sông, đối diện với hồ Merzbacher. Trong liên lạc vô tuyến hằng ngày với nhau, chúng tôi gọi tên hai trại lần lượt là Paliana và Basa. Con sông băng được chia cắt thành nhiều khu vực, từ tây sang đông, và mỗi êkip chịu trách nhiệm nghiên cứu các khu vực gần với trại của mình. Lúc này hồ còn đầy nước, do chúng tôi đã quan sát trước bằng máy bay vào buổi sáng. Thậm chí là rất đầy nước, theo các phi công thường bay tới đây để thả các nhà leo núi xuống chân ngọn núi Khan Tengri cao 7.000 mét. Trong tháng 7, hồ Merzbacher đạt mức lưu lượng nước kỷ lục.

Mỗi người một giả thuyết riêng

Đặc điểm của mỗi cuộc thám hiểm là sự may rủi đè nặng trước các bí ẩn của tự nhiên. Cuộc thám hiểm của chúng tôi cũng không thoát khỏi quy luật đó. Chúng tôi muốn có nhanh những câu trả lời sau khi có mặt tại hiện trường được vài hôm. Tuy nhiên, cuộc thám hiểm được lên chương trình cho 4 năm. Mục tiêu của năm đầu tiên này là thiết lập mạng lưới các điểm GPS, để đo đạc, nhờ vào các vệ tinh định vị mọi sự di chuyển của con sông băng. Tiến sĩ Wasili Michaljow, trưởng đoàn thám hiểm, dự đoán: "Có lẽ chúng ta sẽ có nhiều câu trả lời vào vài tuần nữa. Nhưng hiện thời chúng ta nên giảm thiểu bớt các giả thuyết". Mặc dù vậy, các giả thuyết vẫn kích thích trí tò mò của mọi người. Lúc đó, Serguei Dudashvili đưa ra giả thuyết của mình:

Đã không có bất kỳ một lỗ thủng nào cho phép hồ Merzbacher tháo nước đi, nhưng nhiều miệng lỗ bị tắc nghẽn do các khối băng khổng lồ. Vào mùa đông, các khối băng này vẫn còn áp sát bề mặt đáy nhiều lỗ xốp như là một loại rào cản tự nhiên. Nhờ thế mà chiếc hồ ngập nước, vì các "nắp van" vẫn bị đóng lại do hiệu quả của áp suất và nhiệt độ thấp. Khi mùa hè đến, nước nóng dần lên và các khối băng to bắt đầu tan chảy, cho đến lúc mà - theo Serguei - chúng mất đi sự bám dính, đột ngột trồi lên bề mặt. Hiện tượng này tương ứng với sự mở đột ngột các "nắp van". Một giả thuyết như thế chỉ có thể đứng vững nếu như mực nước hồ dâng lên về phía hạ lưu cũng đột ngột không kém. Do đó chúng ta còn phải chờ đợi để biết sự thật nằm ở đâu.

Ngày 28/7/2004. 6 ngày đã trôi qua kể từ lúc chúng tôi đặt chân đến trại Paliana. Chúng tôi kẻ ô vuông khu vực một vùng khoảng 10 km. Độ cao trung bình 3.000 mét. Vì lý do an toàn, trại của chúng tôi nằm ở phía tây con sông Inylchek, điều đó khiến chúng tôi buộc phải lội nước để đến con sông băng. Nhiệt độ nước là 1 độ C.

Trong khi chúng tôi lắp đặt các cột mốc trên khu vực cuối sông băng, nhà nghiên cứu hang động Wasili Filipienko xác định được hai hang động khổng lồ. Ở cách hồ chưa đầy 2 km, hai hang này có thể nằm trong mạng lưới thủy văn tiêu nước của chúng. Trong thời kỳ "nóng", sự tan chảy và lưu lượng nước đóng băng trong hai hang động trên, không kể đến chiếc hồ đang đe dọa rạn vỡ bất cứ lúc nào, không cho phép các nhà khoa học thăm dò chúng được. Sau hai lần mạo hiểm thâm nhập hang bất thành, chúng tôi đành bỏ cuộc. Công việc nghiên cứu hang động phải rời sang mùa thu.

Ngày 1/8/2004. Như không màng đến sự chờ đợi của đoàn thám hiểm, hồ Merzbacher vẫn cứ đầy nước. Serguei lúc đó đề nghị tiến về hướng nam. Ở đây sông băng rộng hơn, khoảng 4 km và đặc biệt xáo trộn. Từ trại chúng tôi, phải mất 3 giờ đi bộ mới đến được vùng đất bí mật tách nước khỏi hồ, khỏi con sông băng nói riêng. Chúng tôi biết chiếc hồ thủng nằm tại vùng này, nhưng không có ai đến được đó. Điều gì xảy ra trong cái rào chắn tự nhiên này? Sự chuyển tiếp giữa yếu tố nước và băng đã diễn ra như thế nào?

Yếu tố đơn giản, và rất có thể giải thích cho sự tồn tại của chiếc hồ, là sự dâng lên của băng từ nhánh nam của con sông băng tại nơi này. Thay vì tan chảy cùng nhánh bắc trong một chữ Y hoàn hảo, như mọi con sông băng trên thế giới, nhánh này lại dâng lên hình thành một rào cản băng giá khiến nước hồ Merzbacher được giữ lại.

Chúng tôi không bao giờ đến được bờ nam của hồ. Càng đến gần, các núi băng càng to ra, hòa vào nhau và tạo ra nhiều khe nứt. Chúng tôi có một điều chắc chắn: mặt băng dâng lên này của nhánh nam là nguyên nhân của hiện tượng hồ thủng duy nhất trên thế giới. Không có sự bất thường này sẽ chẳng có chiếc hồ. Trong một thế kỷ, hồ Merzbacher dịch chuyển từ 2 đến 3 km đến hạ lưu. Từ nay rào cản băng giá rất gần chỗ giao nhau của hai nhánh sông, và có lẽ hồ sẽ biến mất trong một tương lai khá gần.

Ngày 3/8/2004. Kết thúc cuộc thám hiểm tạm thời. Chiếc hồ vẫn đầy nước. Tôi quyết định ở lại một mình cho đến lúc hồ cạn nước. Không phải tại trại Basa, nơi khó quan sát, mà trong thung lũng, cách 30 km về phía dưới, nơi hiện tượng dâng nước sẽ rất ngoạn mục.

Ngày 5/8/2004. Tatiana chia sẻ với tôi nhiều dấu hiệu cho thấy chiếc hồ bắt đầu rút nước. Những điểm nước mới xuất hiện trong lòng sông. Lưu lượng sông băng Inylchek tăng dần...

Ngày 6/8/2004. Lúc 16 giờ. Lần này con sông đã gấp 3, 4 lần khối lượng. Thung lũng tràn nước. Chắc chắn chiếc hồ đang tan rã. Giả thuyết của Serguei bị loại bỏ. Lưu lượng nước không ngừng tăng lên trong 2 ngày. Rõ ràng là sự khai mở "các nắp van" không diễn ra đột ngột. Chắc chắn là sự tan chảy của các nút băng giải phóng dần dần nước của hồ Merzbacher, chứ không phải sự dâng lên mặt của các nút băng.

Cuối cùng, để giải được bí ẩn hồ thủng Merzbacher, có lẽ chúng ta phải chờ vài năm nữa...

Bí ẩn 'thung lũng chết' ở Siberia

Yakutia (Ảnh: skitalets)

Nằm ở phía Tây Bắc Yakutia - Siberia, gần thượng lưu sông Viliuy có một thung lũng kỳ lạ, nơi dấu vết của nhiều sự biến đổi lớn về địa chất trong lòng đất xảy ra cách đây hàng trăm năm. Ở khu vực này, người ta còn tìm thấy các mảnh kim loại lạ nằm sâu dưới lớp đất, cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể xác định được thành phần hóa học của chúng. Tên gọi theo tiếng địa phương của vùng đất này là Uliuiu Cherkechekh, còn gọi là "thung lũng chết".

Khu vực này trải rộng trên một diện tích hơn 1000 km2, được bao phủ bởi các cánh rừng Taiga rộng lớn với rất nhiều đầm lầy, các miệng núi lửa và là nơi hằn in dấu vết các vụ va chạm thiên thạch với Trái đất.

Xưa kia, vùng đất này là nơi qua lại của những người dân du mục Evenk. Họ đến từ Bodaibo, qua Annybar để ra biển Laptev. Những người du mục kể lại rằng, họ thường thấy những tấm kim loại có màu sắc giống như đồng, nhưng rất cứng và sắc, có thể cắt được kim loại khác một cách dễ dàng. Mỗi tấm có đường kinh từ 6-8m, bao phủ bên ngoài lớp vỏ kim loại là một lớp giống như bột mài. Khi dùng dao để cứa vào nó, người ta không thấy bất kỳ một vệt xước nào để lại trên bề mặt. Qua phân tích, các nhà khoa học nhận thấy những tấm kim loại này là mảnh vỡ của các khối hình tròn lớn chứa đủ nhiều người bên trong.

Mảnh vỡ của các khối hình tròn lớn

(Ảnh: bibliotecapleyades)

Năm 1936, trong lúc thám hiểm "thung lũng chết", một nhà địa chất học người Nga đã phát hiện ra một khối bán cầu bằng kim loại có sắc đỏ, nhô lên từ mặt đất. Khối bán cầu này đủ lớn để chứa 2 người nằm gọn bên trong. Khi đó, nhà địa chất chưa có đủ dụng cụ đo đạc cần thiết cũng như kiến thức để xác định đó là cái gì. Đến năm 1979, một nhóm khảo cổ khác đến nơi này cùng nhà địa chất người Nga trên, thì mặt đất ở đó đã trống trơn.

Những người dân sống ở gần 'thung lũng chết" kể rằng họ tận mắt chứng kiến nhiều hiện tượng lạ xảy a ở khu vực, như các khối cầu khổng lồ bay lên từ lòng đất, phá nổ và bắn ra các mảnh kim loại trên, hiện tượng sét khô, sét hòn và dấu vết để lại của các vụ va chạm thiên thạch đến từ ngoài Trái đất. Nhiều người cho biết họ đã tận mắt chứng kiến các khối cầu lửa hình nấm bốc lên trời như vụ nổ của một quả bom hạt nhân. Đặc biệt, người ta nhận thấy ở đây cây cỏ mọc không giống cây cỏ tự nhiên. Chúng rất xanh tốt, lá rộng hơn bình thường và có rất nhiều nhánh. Cỏ cũng rất lớn và có chiều cao gấp đôi thân người.

Một trong những truyền thuyết kỳ lạ nhất về "thung lũng chết" được những người dân du mục Yakut kể lại rằng: "Vào một ngày nọ, giữa lòng thung lũng đột nhiên bị bao phủ bởi các đám mây mù xám xịt và bị sét đánh dữ dội. Một cơn lốc xoáy khổng lồ bốc lên từ dưới mặt đất, bụi bay mù mịt hàng trăm dặm. Vật thể lạ này có màu

Ánh sáng rực rỡ lan tỏa, sau đó là những tiếng nổ inh tai (Ảnh: nexusmagazine)

đỏ giống màu đồng và phát ra những âm thanh rất chói tai. Ít lâu sau, nó biến mất dưới lòng đất sâu, để lại miệng hố khổng lồ có bán kính rộng đến 20m. Người ta kể lại rằng, bất cứ ai tò mò muốn đến gần miệng hố xem điều gì đã xảy ra đều không bao giờ quay trở lại. Sau đó ở khu vực này xuất hiện các khối cầu lửa khổng lồ vọt lên từ dưới mặt đất. Khi chạm đất, chúng gây ra các tiếng nổ khủng khiếp và tạo ra các hố sâu đến 100m ở khu vực núi bao quanh thung lũng. Sau khi xảy ra các vụ nổ trên, những người dân du mục phải rời bỏ nơi đây để tìm đến các vùng đất an toàn hơn cho cuộc sống của họ".

Theo các nhà khoa học, những vụ nổ kỳ lạ trong truyền thuyết trên rất giống với các vụ nổ hạt nhân ngày nay. Họ cũng phát hiện ra rằng, những tàn tích còn sót lại ở "thung lũng chết" có nhiều điểm gần giống với những bí ẩn của nền văn minh cổ đại Maya thuộc Mexico (đã biến mất từ năm 830 sau ảnh hưởng của một vụ nổ được tạo ra bởi một sức mạnh bí ẩn mà cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân). Đặc biệt, ở "thung lũng chết" vào một số thời điểm nhất định trong ngày, các nhà khoa học đã đo được mức phóng xạ cao hơn bình thường từ dưới lòng đất.

Các nhà khoa học cho rằng, ẩn sâu dưới lớp đất của "thung lũng chết" tồn tại sự hoạt động mạnh của các dòng từ trường. Do trước đây quân đội Liên Xô đã chọn nơi này để thử nghiệm vũ khí hạt nhân nên trữ lượng phóng xạ còn sót lại kết hợp với từ trường trong đất đã khiến cho vùng này bị nhiễm xạ nặng. Mặc dù vậy, người ta vẫn chưa giải thích được nguồn gốc của các tấm kim loại lạ được tìm thấy ở đây và chưa phân tích được thành phần hóa học của nó. Một số người thậm chí cho rằng đây chính là mảnh vỡ của các đĩa bay đến từ ngoài Trái đất, vì nhiều người ở khu vực này đã tận mắt chứng kiến các vật thể lạ phát sáng bay lên từ lòng thung lũng. Cho đến nay, những bí ẩn về vùng đất này vẫn chưa được sáng tỏ.

Quả trứng khổng lồ trong vũ trụ từ đâu mà có?

"Vũ trụ ngày mai", tạp chí khoa học Công hòa liên bang Đức đưa tin, một phi thuyền vũ trụ Liên Xô đi thăm dò hệ Mặt Trời đã gặp một quả trứng khổng lồ màu xanh xám trong Vũ Trụ, lúc đó hai bên chỉ cách nhau mấy dặm Anh.

Smith, nhà thiên văn học Đức đã nói với tạp chí đó: "Tôi là cố vấn phân tích tư liệu Vũ Trụ của Liên Xô, có dịp được trông thấy hàng trăm bức ảnh có độ phân giải cao liên quan đến quả trứng khổng lồ. Nó dài tới 700 dặm Anh, bề mặt nhẵn bóng, hinh quả trám, rất giống một quả trứng chim khổng lồ. Đương nhiên nó có thể là một sao băng hoặc một thứ rác thải vũ trụ, nhưng cũng không loại trừ khả năng nó là vật sống, có sinh mệnh".

Tháng 3 năm sau, một tờ báo Liên Xô cũng đăng tải tin đó, nói rằng đây là lần "tiếp xúc loại thứ ba" trong Vũ Trụ, xảy ra vào cuối năm 1986, nhưng cũng không nói là quả trứng khổng lồ ở vùng nào trong Vũ Trụ.

Pancơkhamốp, nhà khoa học Vũ Trụ Liên Xô nói rằng, đây có thể là lần phát hiện quan trọng nhất kể từ năm 1930 khi phát hiện ra sao Diêm Vương.

Ông nói, nếu như vật thể bí ẩn đó mà là một quả trứng thì chẳng phải có nghĩa là ở ngoài Vũ Trụ cũng có sinh vật sao, mà loài sinh vật đó còn đang sống ở ngoài Vũ Trụ.

Ông nói: "Quả trứng mà to đến như vậy, nếu như nở ra mà trưởng thành lên thì chẳng hóa ra nó phải to bằng Mặt Trăng. Và nếu như như cái sinh vật đó mà đến quấy phá Trái Đất, thì nền văn minh của loài người chắc sẽ bị hủy diệt trong một sớm một chiều, Trái Đất cũng sẽ phải rời quỹ đạo của nó, và đến ngày tận thế".

Ông tỏ ý, Liên Xô sẽ cố gắng phân tích những bức ảnh do phi thuyền vũ trụ gửi về, cho đến bao giờ có thể xác định rõ tính chất của quả trứng khổng lồ đó mới thôi.

Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng

Theo truyền thuyết lịch sử và văn hóa cổ đại, Salomon thường được gọi là một Quốc Vương lý tưởng, một Ông Vua thánh hiền. Thực ra ông ta là một bạo chúa, ông ta đánh thuế nặng nề, thực thi cưỡng bức lao động, bắt thần dân phải xây dựng một cung điện và miếu thần vô cùng tráng lệ trên Núi Jerusalem. Trong Kinh Thánh đã ghi lại chân thực câu chuyện Salomon xây dựng thần Jéhova: "Salomon cho là cần phải xây cho Thần Jéhova một cung điện thờ, cho mình một cung điện. Thế là Salomon cho tuyển 8 vạn phu khuân vác, 8 vạn thợ đục đá và 3600 đốc công đến xây dựng".

Thành Jerusalem

Theo Kinh Thánh viết: Salomon ra lệnh 20 vạn người xây dựng miếu thần đều không phải là người Israel. Ông ta lại chọn trong người Israel được 5 vạn nhân công làm lao dịch. Công trình đó kéo dài đến 7 năm. Điện thần này hướng từ Đông sang Tây dài 250m, rộng hơn 90m được xây dựng cẩn trọng chặt chẽ, nguy nga tráng lệ, phía bên trong trang trí vô cùng hoa mỹ. Thật là một tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Điện thần này đã trở thành trung tâm tôn giáo và hoạt động chính trị của người Do Thái Cổ, đồng thời cũng là biểu tượng của họ. Hàng ngày, các giáo đồ đến đây để bái yết và hiến tế thần linh. Đá Thánh A La được đặt giữa điện thần. Đá Thánh cao 20m rộng 15m, là một tảng đá hoa cương, được dỡ bởi hai trụ đá cẩm thạch tròn. Phía dưới Đá Thánh là Nham Đường cao 35m, bên trong có bàn thờ, trên bàn thờ đặt một hòm thánh có khắc dòng chữ "Maxi Thập giới" còn gọi là "Mười lời răn của Thánh Jéhova", Jéhova là giáo chủ của Đạo Do Thái. Trong hòm thánh, ngoài những điều răn của Thánh còn có Tây Nại pháp điển. Hòm Thánh được làm bằng vàng ròng, gọi la Hòm của Jéhova cũng còn gọi là Hòm ước vàng. Nó được người Do Thái cổ đại coi là Bảo vật giữ nước liên quan đến việc tồn vong hưng thịnh của dân tộc Do Thái. Ở phía dưới Đá Thánh A La, Salomon cho xây một căn hầm và một đường hầm bí mật. Theo truyền thuyết Salomon đã cất giấu ở căn hầm và đường hầm này rất nhiều châu báu và các đồ vật quý giá. Đó chính là Kho báu của Salomon mà cả Thế giới đều đã được nghe nói tới.

Suốt hơn 2000 năm, các hoạt động tìm kiếm Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng chưa bao giờ ngừng. Vào hồi đầu thế kỷ, có một số nhà thám hiểm người Anh đã vào Thành Jerusalem. Đầu tiên, họ dùng tiền vàng hối lộ người gác đêm. Khi đêm đã về khuya, đoàn người lặng lẽ vào điện thần, cậy tấm đá bên cạnh Đá Thánh lên, rồi đào đất xúc đổ ra bên ngoài tường. Khi trời đã sáng, họ lại khuân tấm đá đậy lại như cũ, tuyệt nhiên không để lại dấu vết gì, rồi lặng lẽ rút ra ngoài. Cứ như vậy, họ bí mật đào suốt 7 đêm liền, cái hố ngày một sâu, mà không một ai biết. Đến sáng ngày thứ 8, họ bị một thầy tu Do Thái vô tình phát hiện ra. Các tín đồ gần đấy được thậy tu khua dậy, tay dao tay gậy kéo tới vây bắt. Mấy nhà thám hiểm thấy vậy sợ quá vội vàng chạy mất. Về sau, các tín đồ phát hiện ra là người gác đêm đã bị mấy nhà thám hiểm người Anh mua chuộc, và là họ lấy đá đập chết ông ta. Từ đó, các tín đồ càng tăng cường bảo vệ điện thần về ban đêm hơn nữa.

Cũng có một số người cho rằng Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng có thể có cách đây 2000 năm. Vào năm 586 trước Công Nguyên trước khi quân của Vương quốc Babylon vào Thành Jerusalem kho báu đã được chuyển đến cất giấu ở Đường hầm bí mật Uanbu.

Hầm ngầm Uanbu có một lai lịch rất cổ xưa. Theo truyền thuyết vào hơn 3000 năm trước (khoảng Thế kỷ XI trước Công Nguyên). Jerusalem bị người Ibux xâm lược. Bố của Salomon là David chỉ huy bộ lạc vây đánh người Ibux ở Thành Jerusalem. Do Thành Jerusalem cao hiểm trở, người Ibux lại canh phòng cẩn mật, nên David mãi không hạ được thành. Một đêm, một viên tướng của David tên là Uanbu thấy khát nước quá, ông ta rời doanh trại đi xuống dưới khe suối bên thành, phát hiện ra một cái hang có dòng nước chảy ra, lại nghe thấy trong hang phát ra những tiếng như thể tiếng gầu đang múc nước. Ông ta thấy lạ quá bèn chui vào xem, chỉ thấy một chiếc gầu có sợi dây ngược lên phía trên. Nghĩ một lát ông ta hiểu rằng: Do trong Thành Jerusanlem rất thiếu nước, người Ibux sống ở đấy đã đào một đường hầm dài ra tận khe suối ngoài thành. Hàng đêm, người Ibux thường lấy nước qua đường hầm này. Uanbu lập thức báo cáo với David: Ông ta đã phát hiện ra một đường ngầm để vào thành và sau đó ông ta dẫn một toán quân ra phía hang đó rồi theo đường ngầm vào trong thành mở toang cổng thành đón đại quân của David vào đánh tan người Ibux. David nhanh chóng chiếm được Jérusalem và quyết định lấy đó làm Thủ đô của Isarel - Vương quốc của người Do Thái.

Bởi vì đường ngầm ấy là do Uanbu tìm ra, lập được công lớn nên sau này người ta gọi đó là đường hầm Uanbu. Trong Thánh Kinh cũng có nói tới câu chuyện Uanbu vào thành qua đường ngầm đánh tan người Ibux, nhưng lại không thấy nói rõ đường ngầm ấy nằm ở đâu. Hơn hai nghìn năm, mọi người vẫn ôm mối hoài nghi: Rất có thể Đường hầm Uanbu đang cất giấu Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng. Nhưng đường hầm Uanbu nằm ở đâu cũng không có ai biết.

Đến năm 1868, viên Thượng úy Holan, sỹ quan Anh trong lúc đi vãn cảnh ở ngoại ô Jérusalem đã vô tình phát hiện ra một cái hang sâu khúc khuỷu. Ông ta liền chui vào trong hang, tiến thẳng, leo qua rất nhiều bậc đất do con người đục nên. Khi đến bên một hồ nước, Holan lại nhìn thấy một dòng suối. Ông ta ngẩng đầu lên đột nhiên nhìn thấy trên đỉnh mỏm đá có một cái lỗ tròn, theo đó, ông ta bèn leo lên lỗ hòn đá bằng một sợi dây leo núi, rồi tiếp tục đi theo đường ngầm, lại leo qua một cầu thang nữa. Lên cao khoảng 40m, Holan phát hiện ra một đường ngầm sâu khúc khuỷu dẫn vào động núi tối mò. Đi ra khỏi cái động đó cuối cùng ông ta vào tới thành Jérusalem. Holan tự hào cho rằng Đường hầm Uanbu cổ đại đã được chính ông tìm ra. Nhưng ông ta không hề tìm thấy Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng trong đường hầm mà người xưa đã kể. Vì vậy mà có một số người không đồng ý với phán đoán suy luận của Holan. Họ cho rằng, cái mà viên Thượng úy tìm thấy không phải là Đường hầm Uanbu cổ đại, mà là một đường hầm khác không nổi tiếng chưa được mọi người biết tới mà thôi.

Cũng có một số người tin rằng Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng vẫn ở trong đường hầm bí mật của thành Jérusalem. Vào những năm 30 của thế kỷ XX, hai nhà thám hiểm người Mỹ - Hêlibatti và Matăngxtơ, lặng lẽ chui vào đường hầm mà trong truyền thuyết là do Uanbu tìm ra. hai người với đèn pin, xẻng và một số đồ dùng thiết yếu cùng một nỗi sợ hãi, mò mẫm đi vào đường hầm âm u ma quái. Ở trong đó, họ bắt đầu tìm thấy một nơi có cả đất và những thứ gì đó, họ phát hiện ra có 2 đường hầm khúc khuỷu sâu tối. Hai người đoán: môt đường có thể là đường ngầm cũ của người Ibux cổ ra ngoài thành lấy nước, còn đường kia có lẽ là hầm ngầm bí mật thông với Đá Thánh A La. Và 2 người quyết định đi theo một trong hai con đường đó. Nhưng đi được khoảng 150m thì hết đường ngầm, họ gặp những bậc đá ăn lên trên đều đã bị bùn cát lấp tịt, không thể đi tiếp được nữa. Hai người lấy xẻng ra xúc cát. Cát xúc ra lại đánh đóng vào đường ngầm phía sau và đường ngầm dường như bị bùn cát lấp lại nên cát ở trên bậc đá vẫn cứ chảy xống không ngừng, như thể có ai đó đang cố tình phá hoại, làm cho 2 nhà thám hiểm không thể có cách nào hót sạch chỗ cát cứ chảy ùn ùn trên bậc đá. Hai người cảm thấy, trên bậc đã có một uy lực vô biên, không thể chống lại sức mạnh thần bí đang tác quái, họ càng xúc, cát chảy xuống càng nhiều, nếu dừng thì cát cũng không chảy nữa. Hai người vô cùng sợ hãi, vội vàng theo đường cũ trở ra ngoài. Sau khi ra ngoài họ ra sức tô vẽ, thêm nếm cái nỗi sợ hãi trong đường hầm làm cho người nghe phát sợ, sởn cả tóc gáy. Sau này Hêlibatti đi thuyền buồm vượt Thái Bình Dương, gặp phải cơn bão lớn, thuyền chìm, chôn thân dươi đáy biển. Từ đó về sau, không còn người nào biết về đường ngầm thần bí đó, lại càng không có ai đi tìm nó nữa.

Lại có một số nhà khảo cổ cho rằng, Salomon thường xuyên phái các đoàn thuyền ra khơi xa, mỗi lần quay về thì vàng đều chất đầy khoang. Vì vậy, họ mạnh dạn suy đoán rằng, rất có thể ở ngoài biển xa xôi ấy nhất định phải có một hòn đảo châu báu. Đó là nơi Salomon đã cất giấu kho báu của mình, chỗ vàng kia là từ hòn đảo châu báu đó ùn ùn chuyển về không dứt. Nhưng câu chuyện vẫn là một bí mật cho tới nay chưa ai có thể làm sáng tỏ hơn.

Năm 156 sau Công nguyên, nhà hàng hải Tây Ban Nha dẫn một đoàn thám hiểm đến hòn đảo châu báu nọ thì thấy thổ dân trên đảo đeo các đồ trang sức đều lấp lánh ánh vàng. Họ đã vô cùng kinh ngạc cho rằng đã tìm thấy kho báu của Salomon, nên liền đặt tên cho nơi này là Quần đảo Salomon, đó là nguyên do vì sao hòn đảo này có tệ gọi là Quốc đảo Salomon. Từ đó về sau, người châu Âu cứ kéo nhau đến quần đảo Salomon để tìm "Kho báu của Salomon". Do vị trí của quần đảo Salomon nằm ở phía Tây Nam Thái Bình Dương, bao gồm 6 đảo lớn và gầm 1000 đảo nhỏ nằm rải rác trên diện tích đất biển là 60.000km2, rừng rậm phủ kín 90% diện tích đảo, nên rất khó khăn trong việc tìm kho báu. Mấy trăm năm trở lại đây, hàng ngàn hàng vạn lượt người tìm kho báu đã không tìm kiếm được gì ở quần đảo này. Có người cho rằng, trên quần đảo Salomon làm gì có Kho báu của Salomon, đó chẳng qua chỉ là tin đồn nhảm nhí.

Sự thật về kho báu của Salomon và Hòm ước vàng cho đến tận ngày nay vẫn là một bí ẩn

Bí ẩn về di tích Zimbabwe

Cái tên Zimbabwe gợi cho ta sự liên tưởng không giới hạn. Theo tiếng Tây Ban Nha thì Zimbabwe có nghĩa là "ngôi nhà đá khả kính", "nhà đá". Ngoài ra, có một số người cho rằng, Zimbabwe là từ đồng âm của "mazimbwe", trong tiếng Seichanne ý nghĩa của nó là "nhà ở của tù trưởng". Lại có ý kiến cho rằng, nó là "mỏ giàu có"... Tất cả những gợi mở ấy đã phủ lên Zimbabwe, quốc gia lục địa và những di tích cổ đại nằm trong đó một màu sắc huyền bí.

Vào năm 1868, một đoàn các nhà thám hiểm Châu Âu đi du lịch Châu Phi đuổi theo một con dã thú trong rừng già rậm rạp cách thành Victoria vùng Zimbabwe khoảng 30km, bỗng nhiên họ phát hiện ra một bãi đá hoang tàn rộng mênh mông. Đó chính là "Đại Zimbabwe" nổi tiếng Thế giới sau này.

"Đại Zimbabwe" tuy phần lớn đã bị hư hỏng, nhưng vẫn còn một số đặc điểm thể hiện được vẻ hùng vỹ tráng lệ của một quần thể kiến trúc cổ đại, và được bảo tồn đến ngày nay.

Chủ thể kiến trúc là một khu đất bằng nằm dưới chân núi biểu thị sự huy hoàng nhất của "Đại Zimbabwe". Bức tường vây bên ngoài có hình bầu dục nên gọi là tường vây lớn hình bầu dục. Trên ba mặt tường thành Đông, Tây, Bắc trỏ ba cửa, bên trên mỗi cửa đều xây vòm bằng đá hoa cương lớn. Phía trên của tường vây có đắp các hoa văn cứng nhưng dài và mảnh, có những đầu còn chạm khắc chim đá hình thù lạ lùng. Phía Đông Nam tường vây còn có một tường đá song song với tường vây, khoảng cách giữa chúng độ 1m, cùng với tường vây hình thành một con đường hẹp dài 100m, cuối con đường này là khu vực nửa kín giống như một cái sân. Bên trong tường vây có những tháp đá cao, có hình nón; có những bia đá, hầm ngầm, giếng nước và một số vách đá nham nhở, giống như di tích cung đình cổ. Gần tường vây còn có rất nhiều ngôi nhà nhỏ.

Trong toàn bộ quần thể kiến trúc Đại Zimbabwe, điều thần bí nhất là những tháp đá hình nón bên trong tường vây hình bầu dục. Đây là kiến trúc đá hoa cương đặc ruột, trên nhỏ dưới to, cao khoảng hơn 20m, không hề có một ký tự gì. Nó chủ yếu được tạo bởi những khối đá hoa cương được đục đẽo thành gạch có lỗ mộng, xây theo quy tắc đường nét của một đồ án nhất định. Giữa các viên gạch đá không hề có vết tích đã dùng vôi vữa hoặc chất kết dính nào gắn lại, những chỗ tiếp giáp giữa các viên gạch rât khít nhau, muốn lùa một lưỡi dao mỏng vào cũng khó. Không biết chúng đã trải qua bao nhiêu năm tháng nếm trải, bao nhiêu cuộc bể dâu của thế gian này?

Từ năm 1868 trở lại đây, từng đoàn thám hiểm châu Âu và các nhà khoa học hằng hải đến miền Nam châu Phi tìm tòi mọi dấu tích trên mảnh đất thần kỳ này. Họ đã tiến hành khảo sát nhiều lần, muốn làm rõ sự huyền bí nội tại của Đại Zimbabwe. Tháp hình nón, ở bên trong tường vây của Đại Zimbabwe là vấn đề người ta khảo sát đầu tiên. Nhà khảo cổ học người Anh là Cotlan Bethe đã từng bỏ ra nhiều tiền của, sức lực đào một đường hầm với quy mô lớn xung quanh tháp hình nón và xuyên qua tháp, hòng tìm được lối vào. Ông phát hiện ra các tháp này đặc ruột, cửa vào cho đến nay vẫn chưa tìm thấy, cũng có thể nó vốn không có cửa. Các nhà khảo cổ học không khỏi không thắc mắc tháp khổng lồ chọc trời này có tác dụng gì?

Vấn đề này được bàn thảo với nhiều ý kiến khác nhau. Có người cho rằng: hình dáng bên ngoài của tháp giống kho lương thực lớn. Nhưng toàn bộ tháp là một chỉnh thể đặc ruột thì làm sao có thể cất trữ lương thực? Cũng có người cho rằng, nó là vật tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam, là một linh vật mà nghi thức tôn giáo cổ đại nào đó đã dùng, nó đại diện cho tinh thần bộ lạc mạnh mẽ hoặc quyền lực tối cao của tù trưởng bộ lạc. Nhưng tất cả những ý kiến này đều thiếu chứng cứ thuyết phục, thêm vào đó lại không có sử liệu ghi chép gì.

Đối với người châu Âu, Đại Zimbabwe phải là một quốc gia thời hoàng kim tồn tại trong truyền thuyết. Họ cho rằng, nó rất giống sử sách châu Âu, rất có khả năng đó chính là khu đất có mỏ vàng của Quốc vương Salomon được nhắc tới trong Thánh kinh cựu ước. Tường bảo vệ thành được xây dựng mô phỏng theo kiểu mà Vua Salomon xây dựng cung điện trên núi Molia.

Kiểu suy luận chủ quan này một dạo đã dấy lên cơn sốt tìm vàng của người châu Âu. Không ít người châu Âu sau khi đến thành đá này thuê dân địa phương cùng những phương tiện cơ giới tiên tiến, tiến hành đào bới toàn bộ khu di tích, đào đến độ sâu 3m. Họ lấy đi tất cả các văn vật, trừ đá hoa cương. Tất cả các tài liệu, bao gồm một số tài liệu lịch sử có thể nói rõ sự thật lịch sử cũng bị lấy đi. Do vậy, các nhà khoa học đã không kịp tiến hành nghiên cứu, khai quật khu vực thành đá này.

Trong những năm tháng sau này, người ta tiến hành khai quật xung quanh Zimbabwe đã đào được lượng lớn văn vật, trong đó có vũ khí, công cụ lao động và một ít đồ trang sức được chế tác rất tinh xảo và đẹp. Một số đồ đó được đưa đến từ Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư và cả từ Ấn Độ xa xưa. Từ những văn vật tìm thấy trong lòng đất khu vực này, ít nhất chúng ta cũng có thể nhận thấy, ở nơi thành đá bị tiêu vong này từng có sự trao đổi về văn hóa, mậu dịch từ lâu đời với Trung Quốc và Ả Rập và Ba Tư cổ xưa. Nhưng trong các sách cổ của Trung Quốc, Ả Rập, Ba Tư hiếm thấy những ghi chép về hoạt động buôn bán với Zimbabwe.

Rất có thể những di vật này được nhân vật trung gian nào đó đưa tới buôn bán ở Zimbabwe. Nhân vật trung gian này là ai, chúng ta cũng chưa được biết. Từ những tháp hình nón hùng vĩ, chúng ta còn thấy được kỹ thuật xây dựng thời bấy giờ ở đây đã đạt đến một trình độ rất cao. Nói một cách khác, những người xây dựng tháp hình nón này ngay từ rất sớm đã nắm được tri thức về hình học, kiến trúc học, lực học,...

Tất cả những công trình kiến trúc đá to nhỏ, xa gần này được dùng để làm gì? Có một số người cho rằng, nơi đây có thể là Hoàng thành của một Vương quốc cổ xưa đã bị hủy diệt từ rất sớm; cũng có người cho rằng nó là một tụ điểm tôn giáo lớn. Nhưng tất cả mới  chỉ là những phỏng đoán chủ quan bởi trên thực tế toàn bộ công trình kiến trúc bằng đá này không hề có bất kỳ một văn tự hay đồ án hoặc bích họa nào. Về mặt này nó khác xa với Thành Maya của Châu Mỹ, hoặc Angkor của khu vực Đông Nam Á. Trên Maya và Angkor đều có những bức phù điêu. Hơn nữa, trong nền văn hóa thế giới được lưu truyền lại cũng không có bất kỳ ghi chép gì về Zimbabwe nên chúng ta không biết tìm hiểu nó bằng con đường nào. Vấn đề có liên quan đến điều này chỉ có thể là: người nào? trong thời gian nào? dùng dụng cụ gì? phương pháp nào sáng tạo ra thành đá đẹp lạ thường này? Người kiến tạo ra thành đá có quan hệ gì với người Marshara và người Mataberlai hiện đang sinh sống ở Zimbabwe. Nếu như người xây dựng thành đá từ bên ngoài tới thì tại sao người ta lại đột nhiên trong một ngày nào đó đã từ bỏ nơi này?

Có thể nói, trên Thế giới ngoài Ai Cập ra thì Đại Zimbabwe cũng là tiêu chí của nền văn minh châu Phi. Nhưng thực sự chúng ta đã biết và hiểu về nó được rất ít

Giải quyết 8 bí ẩn lớn nhất của khoa học trong thế kỷ 21

Cuộc sống vốn đầy rẫy những bí ẩn và các nhà khoa học đang cố gắng tìm lời giải đáp cho những bí ẩn Đấy. Bí ẩn về con người là những bí ẩn sâu thẳm nhất mà hiện nay các nhà khoa học cần phải làm rõ trong thế kỷ 21 này.

NGUỒN GỐC TUỔI THANH XUÂN

Cấu trúc phân tử gien P21

Các nhà khoa học tại Viện nghiên cứu Scripps - California (Mỹ) đã khảo sát gien của một số người già ở tuổi 90. Có đến 99% trường hợp, gien vẫn làm việc hoàn hảo khi điều khiển tế bào tạo ra loại protein thích hợp. Các nhà khoa học ở ĐH Illinois, Chicago (Mỹ) cho biết, họ rất có thể đã tìm ra được câu trả lời qua việc nghiên cứu một loại gien gọi là p21. P21 hoạt động như một bộ phận hãm khẩn cấp về mặt di truyền; khi được kích hoạt, nó làm ngừng sự phát triển của các tế bào bị tổn hại do chất độc hay phóng xạ, cho chúng có thời gian phục hồi.

Igor Roninson, giáo sư về di truyền học phân tử, đã kích hoạt được gien p21 trong tế bào người và nghiên cứu cách nó tác động lên các gien khác. Những gien bị tác động này sẽ có dạng hình bột, xẹp xuống và ngừng phát triển - chúng đang già đi. Ông nói: "Việc kích hoạt gien loại này còn dẫn đến sự thay đổi tại một loạt các gien khác đã bị tác động bởi lão hoá hay các bệnh liên quan đến lão hoá".

Ngoài ra p21 còn có tác dụng kiềm chế một cách có chọn lọc hơn 40 gien được biết có liên quan đến việc tái tạo ADN và việc phân chia tế bào, theo đó làm ngừng ngay lập tức sự tăng trưởng của tế bào. Những loại gien được p21 kích thích gồm các loại liên quan đến bệnh Alzheimer, bệnh lão hoá và viêm khớp.

Ung thư vú - nỗi lo kinh hoàng của phụ nữ sẽ được tiêu diệt trong thế kỷ 21.

THANH TOÁN BỆNH UNG THƯ

Bệnh ung thư có đặc tính chung: các tế bào đang khoẻ mạnh bỗng trở nên phát triển bất thường. Các nhà khoa học đã xác định rõ: nguyên nhân không phải ở các gien mà ung thư xuất hiện chủ yếu vì hút thuốc lá, chế độ ăn uống kém khoa học, thiếu rèn luyện thể lực hay bị ảnh hưởng bởi phóng xạ, ô nhiễm cùng các hoá chất gây ung thư khác.

Một nỗ lực kiểm soát bao gồm các quy định hạn chế việc thải chất công nghiệp có thể đẩy bệnh ung thư ra khỏi danh sách những căn bệnh giết người, chuyển nó thành loại bệnh hiếm gặp. Giải pháp chính đã được xác định không phải bằng những viên thuốc, mà tốt hơn cả là những biện pháp phòng ngừa.

TÌM RA THUỐC BẤT TỬ

Những chiếc đồng hồ đếm ngược giúp tìm ra phương thuốc bất tử.

Các tế bào ung thư cùng chia sẻ với nhau một đặc tính, đó là khả năng bất tử. Nếu còn được nuôi dưỡng, chúng sẽ được tiếp tục phân chia. Điều này không xảy ra đối với các tế bào khoẻ mạnh, nơi dường như đã được gắn một chiếc đồng hồ đếm ngược (được gọi là telomere) vào cuối các nhiễm sắc thể để giới hạn số lần tế bào có thể tự tái tạo. Mỗi lần tế bào tự tái tạo, một phần của telomere bị loại bỏ và đến khi nó hết sạch, tế bào sẽ ngừng việc phân chia. Với 46 nhiễm sắc thể, con người có cả thảy 92 chiếc đồng hồ đếm ngược thời gian sống của mình.

Tiến sĩ Jerry Shay tại Đại học Texas cho biết: "Thông thường, các tế bào sẽ ngừng phân chia sau khoảng 70 thế hệ. Còn những tế bào mới (đã có telomerase được kích hoạt) đã tự nhân đôi đến hơn 100 lần, trong khi chưa có dấu hiệu nào cho thấy tốc độ phân chia của chúng đang giảm dần". Mặc dù telomerase đã hoạt động khá lâu trong các tế bào bình thường, đủ thời gian cho các telomere có thể khôi phục được độ dài nguyên gốc của nó, không hề có triệu chứng những tế bào trên phát triển thành loại tế bào ung thư.

CUỘC SỐNG NHÂN TẠO

Công nghệ nano - đỉnh cao của mọi công nghệ trong tương lai

Công nghệ siêu nhỏ (nanotechnology) là một kỹ thuật sản xuất, theo đó các thiết bị nhỏ xíu được sắp xếp theo từng nguyên tử một. Điều duy nhất có thể chế tạo được những thiết bị từ những thành phần nhỏ bé đến như vậy chính là một hiện tượng được gọi là tự sắp xếp (self-assembly). Nếu bạn sắp xếp theo thứ tự chính xác được một cấu trúc cơ bản, bạn có thể "làm phát triển" các ống siêu nhỏ, hình cầu siêu nhỏ và các transistor (bóng bán dẫn) siêu nhỏ cho máy tính.

Tại ĐH Illinois, các nhà nghiên cứu đang sử dụng một loại tiền tố protein thường tìm thấy trong nhiều loại tế bào con người để tạo ra một cấu trúc tự sắp xếp. Chuyên gia Gerard Wong cho biết: "Các nang có màng là chất tiền tố này của chúng tôi luôn trong trạng thái cân bằng và không yêu cầu năng lượng để duy trì sự ổn định". Câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể đạt tới một điểm mà tại đó, các cấu trúc tự sắp xếp theo đúng nghĩa đen có thể tạo ra một cuộc sống của riêng chúng? Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc Viện công nghệ California và Đại học Tổng hợp bang Michigan đã cùng thống nhất khẳng định: câu trả lời là có! Những nhà khoa học này đã tạo ra được "các cơ thể dưới dạng số" trong máy tính. Họ phát hiện ra rằng, những "cá thể điều khiển học" này phản ứng trước những biến đổi theo cách rất giống với những cơ thể thực sự như vi khuẩn, nấm và ruồi giấm.

Chuyên gia Chris Adami tại Viện công nghệ California cho biết: "Rất có thể nghiên cứu những vấn đề cơ bản nhất về cuộc sống từ một cơ thể sống, do cơ thể sống là kết quả phức tạp của một quá trình tiến hoá sau 4 tỉ năm. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu ban đầu sẽ giúp chúng ta hiểu được chút gì đó về cuộc sống".

Bước nghiên cứu đầu tiên của Adami chính là thử nghiệm quá trình tiến hoá dưới dạng sống được xây dựng dựa trên một cơ thể sống, trong trường hợp này là vi khuẩn E. coli. Ông khẳng định: "Tôi nghĩ chúng tôi đã có thể thuyết phục những nhà nghiên cứu sinh vật học rằng cuộc sống nhân tạo không còn là một giấc mơ. Nó còn giúp chúng ta giải đáp một số vấn đề cơ bản về sinh vật học".

KHÁM PHÁ BẢN CHẤT CỦA TÂM HỒN

Các nhà khoa học đang làm việc với mày quét X quang tính toán phát xạ positron đơn ba đầu xoay.

Nhờ công nghệ nano siêu nhỏ, trong tương lai chúng ta có thể tạo ra được bản sao của một con người. Nhưng bản sao đó thực sự có tâm hồn như nguyên mẫu hay không? Một câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ! Đây có thể là bí ẩn mà các nhà khoa học ưu tiên giải quyết trong thế kỷ này. Các chuyên gia thần kinh học và những nhà thần học của toà thánh Vatican đang tranh luận và nghiên cứu về bản chất về mặt vật chất của linh hồn. "Liệu tôn giáo có phụ thuộc vào linh hồn hay không? Khoa học có thể thừa nhận hình thức vật chất của linh hồn không?". Đó là những câu hỏi mà hai bên đặt ra.

Câu hỏi đầu tiên dành cho các nhà thần học. Còn các chuyên gia thần kinh học thì tin rằng, họ đã có một công nghệ để có thể trả lời cho câu hỏi thứ hai. Đó là một thiết bị cực nhạy có tên là máy quét X quang tính toán phát xạ positron đơn ba đầu xoay để nghiên cứu não của những người đang suy nghĩ. Nhà bác học Andrew Newberg cho biết: "Nhiều người rất bối rối trước hiện tượng cảm động nhất vừa trải qua có thể làm giảm những chức năng đặc trưng của bộ não - điều có thể đo được bằng các phương pháp chụp ảnh não tiên tiến".

Đối tượng của các cuộc nghiên cứu này là các thiền sư Tây Tạng và họ đã cho phép gắn các ống vào tĩnh mạch trên tay của họ. Khi các người này đạt đến trạng thái tập trung tư tưởng cao nhất, họ báo cho Newberg để ông truyền một chất đồng vị phóng xạ vào tĩnh mạch của họ. Trong não, những tế bào đã được kích hoạt mạnh hơn trong quá trình suy nghĩ đã tiếp nhận thêm chất đồng vị để phóng xạ mạnh hơn, giúp máy quét có thể dễ dàng ghi nhận. Cuộc nghiên cứu tương tự cũng đang được tiến hành với các nữ tu sĩ dòng thánh Francis và những tín đồ đạo Cơ đốc chính thống.

NHANH HƠN TỐC ĐỘ ÁNH SÁNG

Vượt qua tốc độ ánh sáng là một trong những mơ ước hàng đầu của con người, nhất là khi nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc chinh phục vũ trụ. Nhà bác học Chris Van Den Broeck (Bỉ) đã mô tả về một cuộc đua tốc độ ánh sáng bằng cách dùng một dạng không gian biến dạng đặc biệt, cho phép tạo ra các bong bóng có dung tích trong lớn - trong khi bề mặt bên ngoài cực nhỏ. Broeck đã tính toán khả năng có thể tạo ra được một bong bóng đủ lớn để chứa được một đầu phóng tên lửa vũ trụ chỉ yêu cầu có 1g nguyên liệu.

Hè 2005, tạp chí khoa học Nature cho biết, nhóm nghiên cứu của nhà bác học Lijun Wang, Viện Nghiên cứu NEC, Princeton (Mỹ) đã hướng được một xung ánh sáng đi qua bồn chứa đầy xezi với vận tốc gần 300.000km/giây. Wang khẳng định: "Thí nghiêm cho thấy, quan niệm thông thường cho rằng không có gì có thể di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng là sai lầm". Khả năng gửi tín hiệu với vận tốc nhanh hơn ánh sáng có thể giúp giải quyết hai vấn đề bí ẩn nhất: tiếp xúc với người ngoài trái đất và du hành theo thời gian.

CHÚNG TA LÀ DUY NHẤT?

Hai phát hiện gần đây trong khoảng không vũ trụ đã làm thay đổi đột ngột những quan điểm mâu thuẫn về sự sống trong vũ trụ. Phát hiện đầu liên quan đến một đám mây bí ẩn gần trung tâm ngân hà. Phát hiện thứ hai liên quan đến các bức xạ từ pulsar (ngôi sao không nhìn thấy được bằng mắt thường mà chỉ được phát hiện qua các tín hiệu)

Các nhà thiên văn học đã phát hiện ra dạng hợp chất đường (glycolaldehyde) trong đám mây mà từ đó các ngôi sao mới đang hình thành. Điều này có nghĩa là, khả năng rất lớn cho thấy các chất hoá học tiền thân của sự sống đã được hình thành từ khá lâu trong đám mây như vậy, trước khi các hành tinh phát triển xung quanh các ngôi sao.

Các nhà khoa học mô tả hợp chất đường này là họ hàng về mặt phân tử với loại đường ăn bình thường. Nguyên nhân là do loại nguyên tử gồm 8 nguyên tử của carbon, oxy và hydro này có thể dễ dàng kết hợp với các phân tử khác để tạo thành ribose. Ribose chính là khối cơ sở của axít nucleic (ADN), một phần tử hoá học của mã di truyền tìm thấy trong tất cả cơ thể sống.

Phát hiện thứ hai liên quan tới các pulsar. Mặc dù phần lớn các pulsar đều được coi là một dạng sao neutron, việc tính toán thời gian phát năng lượng của chúng đã khiến cho các nhà vật lý học thiên thể phải ngạc nhiên. Một chuyên gia Mỹ đưa ra bằng chứng cho thấy các pulsar đã được định vị và gửi các tín hiệu theo mẫu giống như dạng một thông điệp có trí tuệ.

Việc tìm ra các phân tử tạo thành cơ sở di truyền cho cuộc sống cùng với các tín hiệu được phát đi khá trật tự đã khẳng định một luận điểm: chúng ta hoàn toàn không cô đơn trong vũ trụ.

NHỮNG CỖ MÁY THỜI GIAN SẼ XUẤT HIỆN?

Albert Einstein từ lâu đã được đánh giá là một thiên tài vượt thời đại và những giả thuyết của ông đang được con người đương đại chứng minh. Một trong số đó có liên quan đến nghịch lý về hai anh em sinh đôi. Einstein đưa ra giả thuyết nhà du hành vũ trụ tham gia một chuyến đi dài với vận tốc gần bằng vận tốc ánh sáng, trong khi người anh em của anh ta lại ở nhà. Khi ông này trở về thì nhìn thấy người anh em của mình đã thành một ông già. Nguyên nhân của sự kiện này, theo như Einstein là do thời gian trên tàu vũ trụ trôi chậm hơn, khiến cho các nhà du hành vẫn còn trẻ.

Trong một thí nghiệm gần đây nhất có sử dụng hai chiếc đồng hồ siêu chính xác, chiếc đồng hồ đặt trên máy bay siêu âm Concorde rõ ràng đã chạy chậm hơn so với chiếc đặt trong phòng thí nghiệm. Điều này cho thấy thời gian hoàn toàn có thể co giãn. Việc nghiên cứu về những bộ máy thời gian trên lý thuyết vẫn được tiến hành với những tiến triển.

Nhà bác học Kip Thorne tại Viện công nghệ California đã đề xuất việc sử dụng các lỗ đen vũ trụ. Theo như Einstein mô tả, những lỗ đen chính là những đường hầm đưa ta vào khoảng không - thời gian. Một lỗ đen nằm giữa hai điểm có thể kết nối giữa ngày hôm nay với ngày hôm qua hay sớm hơn nữa.

Khả năng trên lý thuyết của việc du hành ngược thời gian đã đặt ra một câu hỏi thực tế: vì sao chúng ta không gặp những nhà du hành vũ trụ theo thời gian? Einstein đã giải thích: khi các thuyết tương đối không tuân theo việc du hành ngược lại thời gian, chúng sẽ giới hạn thời gian bạn có thể du hành.

Bí ẩn của những điều vượt qua trí tuệ con người

Cập nhật lúc 00h13' ngày 16/12/2005

Ai đã sáng tạo ra nền văn minh Samuier?

Các nhà lịch sử học cho rằng, cực văn minh Trái Đất, nơi khởi nguồn, có khả năng là khu vực sinh sống của người Samuier. Vì các nền văn minh Maya và Samuier có rất nhiều điểm tương tự, thậm chí giống nhau.

Người Samuier đột nhiên xuất hiện, rồi lại đột nhiên biến mất khỏi vùng hạ du sông Tigre và Sông Euphrate. Vào khi nào, bằng cách nào họ đã học được chữ hình chêm và kỹ thuật kiến trúc bảo tháp cho đến nay vẫn là câu đố lịch sử khó giải, là một sự thách thức đối với các nhà khảo cổ học. Samuier là thành phố có nền văn minh lâu đới nhất trong lịch sử các nền văn minh nhân loại, hình thành khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Nó đột nhiên xuất hiện ở khu vực hạ du hai con Sông Tigre và Euphrate thuộc vùng Trung Đông, tức phía Nam Iraq ngày nay. Các nhà lịch sử chính thống và các nhà khảo cổ học đã có được ý kiến thống nhất khi cho rằng: Thành phố Samuier không chỉ là cội nguồn văn minh phương Đông cổ đại sau này mà còn có thể nói một cách chuẩn xác, nó là cội nguồn của nền văn minh Thế giới hiện đại.

Thành phố Samuier nằm ở khu vực Mesopotamie (Vùng Lưỡng Hà). Khu vực này hàng nghìn năm trở lại đây luôn luôn là khu vực có môi trường tồi tệ, khô hạn, nóng nực, sông ngòi có dòng chảy hung hãn, không thích hợp cho việc sinh sống của con người. Vậy tại sao nền văn minh sớm nhất của con người lại được sản sinh ra từ hoàn cảnh tự nhiên vô cùng khắc nghiệt.

Nói tới nền văn minh Samuier, điều mà người ta nghĩ tới đầu tiên là phát minh văn tự hình chêm (một loại văn tự do người miền Nam Mesopotamie sáng tạo từ 3000 năm trước Công Nguyên, nét chữ giống cái chêm. Người Babylon, Ba Tư... đều đã từng sử dụng loại văn tự này). Người Samuier không chỉ phát minh ra chữ viết mà còn phát minh ra các loại kỹ thuật như: Cày ruộng, xây dựng, tưới tiêu, nhiều nghành  khoa học hình học, pháp luật, thiên văn học, toán học và cả phương pháp quản lý dân chủ của Nhà nước, thành phố... Hơn nữa, đứng từ góc độ thời gian lịch sử mà nói, tất cả những tri thức này của người Samuier đều được sáng tạo một cách đột ngột trong khoảng thời gian cực ngắn. Thực tế này càng khiến các nhà sử học và khảo cổ học không thể hiểu nổi, cũng không thể tranh cãi hay bàn bạc được điều gì. Họ chỉ có thể đặt câu hỏi: Ai là người có bản lĩnh lớn như thế trong khoảnh khắc đã khiến cho người Samuier trở nên thông minh để sáng tạo ra một nền văn minh không thua kém  bất kỳ nền văn minh nào của các quốc gia ở thế kỷ XX.

Tiến sỹ Thaytacasag, nhà Khoa học Vũ trụ Mỹ đã đưa ra cách giải độc đáo: "Văn minh Samuier là dựa vào sự giúp đỡ của sinh vật hệ nhân loại vô cùng hùng mạnh mà được sản sinh ra". Cuối Thế kỷ II trước Công Nguyên Jisirosuansi của Babylon đã vận dụng sách cổ văn thần điện viết cuốn sử Babylon với độ tin cậy rất cao. Sách đã viết: "Khi nhân loại ở vùng Babylon cổ xưa sống cuộc  sống hoang dã giống như loài thú hoang không có trật tự, ở vịnh Ba Tư xuất hiện một loài sinh vật Oyanasi hình thể giống cá, nhưng phía dưới đầu cá lại có một cái đầu khác, có chân tay giông như người, tiếng nói cũng giống người".

Loài sinh vật này, ban ngày xuất hiện ở biển, nói chuyện với con người, dạy con người văn hóa, nghệ thuật, khoa học, pháp luật, kiến trúc, nguyên lý hình học, hái lượm hoa quả, phân biệt thực vật,... nhưng nó không ăn gì mà vẫn tồn tại. Do loài sinh vật này là động vật lưỡng thể, nên khi Mặt trời lặn về phía Tây, nó liền nhảy xuống biển ẩn náu dưới đó, đến sáng lại lập tức xuất hiện". Cách giải lý này, thực sự khiến người ta khó tiếp thu.

Tiến sỹ Calusag suy đoán, khoảng 4000 năm trước Công Nguyên hoặc sớm hơn, nền văn minh ngoài nhân loại đã tiếp xúc với loài người ở bờ biển Vịnh Ba Tư, mà di tích Aliduo cổ nhất của Samuier lại ở chính trên mảnh đất này. Di tích Aliduo hiện đã được các nhà khảo cổ học xác nhận, căn cứ vào kết quả phân tích được ghi lại bằng văn tự chêm rằng "Aliduo trước nạn Đại Hồng Thủy là đô thành sớm nhất của ngũ quyền từ trên trời giáng xuống". Tiến sỹ Calusag còn chỉ rõ: "Nếu như lấy loài sinh vật Oyanasi có thân thể giống như cá coi như là áo Vũ trụ hoặc áo lặn, cái đầu khác dưới cái đầu cá chỉ là cái mặt của mũ Vũ trụ hoặc mũ lặn, thì chúng ta có thể kết luận một cách nhanh chóng, đó chính là sinh vật có tính trí năng hệ phi nhân loại trong đại dương".

Ngoài ra, còn có rất nhiều người thử nghiệm đưa ra kiến giải của mình với chủ trương: tích cực và mạnh dạn giải thích nền văn minh Samuier. Nhà ngôn ngữ học kiêm nhà nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Đông quốc tịch Mỹ nhưng mang trong mình huyết thống Trung Đông tên là Caglia Xijin, nói: "Cội nguồn nền văn hóa Samuier có thể nói là dựa vào sự giúp đỡ của người ngoài hành tinh, cũng có ý kiến cho rằng: Trước nạn "Đại Hồng Thủy", Samuier bị người ngoài hành tinh xâm chiếm, biến thành đất thuộc địa, nền văn minh Samuier chính là di sản văn hóa của họ được giữ lại trên mảnh đất thuộc địa này". Caglia Xijin đã quan xát và nhận thấy, xuyên suốt các nền văn hiến của khu vực Trung Đông Mesopotamie (từ Samuier đến Asayria), Ai Cập, Hilblai đến Thánh Kinh cùng một ngôn ngữ đã từng xuất hiện, đều có một từ đơn "Sai mu", và bất luận là tài liệu gì đều thường xuyên lấy nó dùng trong trường hợp ghi lại những cuộc đi lại của các thiên thần trên trời hoặc của con người lên trời. "Sai mu" trong văn tự hội thoại (hình thái sớm nhất của văn tự chêm) lúc đó có ý nghĩa là lên cao vuông góc - lên thẳng. Từ đó có thể thấy, nó phải là vật thể phi hành như các loại tên lửa, phi thuyền vũ trụ. Trên thực tế, trong bài thơ ca tụng dân lên nữ thần Isidare của Babylon có một câu thơ miều tả rất rõ nó đúng là một vật thể phi hành: "Nữ thần ở trên trời cưỡi "Sai mu" bay xuống Trái đất, nơi loài người sinh sống". Ngoài các điều này ra các tác phẩm hội họa, phù điêu, điêu khắc thời đó cũng đều có vật thể hình dáng giống như tên lửa. Rất có khả năng những tác phẩm đó được làm ra để biểu thị sức mạnh của "Sai mu".

Cội nguồn của nền văn minh Samuier có nhiều cách giải thích nhưng đều rối ren, chưa thống nhất, giống như cách nói "Người nhân thấy thế gọi là nhân, người trí thấy vậy gọi là trí". Dù là cách nói nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn phải chờ các nhà khảo cổ học tiếp tục khảo sát và nghiên cứu.

Bí ẩn của sao bạn Thiên Lang (Sirius) và người Doxiang

Người Doxiang

Nước cộng hòa MaLi nằm ở phía Tây châu Phi. Bên bờ sông Nil của quốc gia này có một dân tộc thổ dân tên là Doxiang sinh sống.

Cuộc sống của họ lấy trồng trọt và du mục làm chính. Đời sống của họ rất khó khăn nghèo khổ, phần lớn dân sống ở nông thôn hoặc trong một số hang động trong rừng núi. Họ không có chữ viết riêng, từ đời này qua đời khác chỉ truyền lại bằng miệng, bện thừng đánh dấu sự việc. Nếu nhìn từ góc độ này thì họ cũng không có gì khác so với các dân tộc da đen Tây Phi khác. Nhưng nghi lễ tôn giáo mà họ cử hành lại đem đến nhiều ngạc nhiên và thu hút sự chú ý của các nhà nhân loại học và thiên văn học trên thế giới.

Cứ mỗi chu kỳ 600 năm, khi Sao Thiên Lang xuất hiện giữa hai đỉnh núi thì người Doxiang lại cử hành nghi lễ tôn giáo Sigui long trọng nhất, lớn nhất trong đời sống tôn giáo của họ.

Những năm 20 của thế kỷ XX, hai nhà nhân loại học người Pháp Gria và Didelun đến Tây Phi cùng ăn cùng ở với người Doxiang 10 năm. Bằng quan hệ qua lại lâu dài, thân thiết họ đã chiếm được sự tin tưởng tín nhiệm và tình cảm của người Doxiang. Từ những thầy cúng cao cấp, họ biết được người Doxiang trong quá trình duy trì tôn giáo tín ngưỡng của mình hàng trăm nghìn năm nay, luôn ẩn giấu tri thức chính xác đặc biệt về một hiện tượng thiên văn. Trong giáo lý tôn giáo thần bí của người Doxiang giữ gìn tư liệu tường tận về một ngôi sao ở rất xa, mà ngôi sao này hàng trăm năm trước đây không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Cho đến ngày nay, nếu không có sự trợ giúp của kính viễn vọng hiện đại nhất thì cũng không thể quan sát, đo đạc được.

Thầy cúng

Ngôi sao  này chính là ngôi sao bạn của Sao Thiên Lang. Người Doxiang gọi là "Pak Tolu", "Pak" cói nghĩa là "nhỏ", "Tolu" có nghĩa là "sao". Họ còn nói đây là "ngôi sao nặng nhất" có màu trắng. Thật kỳ lạ khi người Doxiang đã nói chính xác ba đặc trưng cơ bản của ngôi sao này: Nhỏ, nặng và màu trắng. Trên thực tế, sao bạn Thiên Lang đúng là Ngôi sao trắng lùn.

Gọi là Sao trắng lùn, không phải gọi riêng một ngôi sao nào đó mà là tên gọi chung cho một loại sao có những điểm "trắng""lùn". "Trắng" nói rõ nhiệt độ của nó rất cao, nhiệt độ bên ngoài của sao trắng lùn khoảng 10.000 độ C phát ra ánh áng trắng, "lùn" nói rõ thể tích của nó nhỏ. Các nhà thiên văn học cho biết: Một, hai trăm ngôi sao trắng lùn ghép lại với nhau mới to như Mặt trời, còn một ngôi sao trắng lùn nhỏ nhất chỉ to bằng một phần nghìn vạn Mặt trời.

Trên bầu trời phía Đông Nam và mùa Đông mỗi năm, chúng ta có thể nhìn thấy sao hằng tinh (như sao Chức Nữ, Mặt trời) sáng nhất trên bầu trời, nó chính là sao Thiên Lang. Thể tích của nó lớn gấp hai Mặt trời, nhưng ánh sáng của nó lại gấp 20 lần Mặt trời. 

Ghi thức cúng lễ

Bên cạnh nó còn có một ngôi sao nhỏ không nhìn thấy quay quanh, ngôi sao nhỏ này chính là sao bạn Thiên Lang. Tuy có thân hình bé nhỏ, nhưng thể trọng của nó rất lớn, đúng như người Doxiang đã nói nó là một ngôi sang trắng lùn.

Các nhà thiên văn học phỏng đoán, sao bạn Thiên Lang có vào năm 1844. Họ phán đoán sao bạn Thiên Lang nhất định chịu ảnh hưởng, sức hút của một ngôi sao khác, từ đó dẫn tới sự vận động của nó không có quy tắc. Năm 1930, nhờ có sự trợ giúp của kính viễn vọng với tầm nhìn rất xa và các dụng cụ thiên văn hiện đại, người ta mới nhận biết được nó là một ngôi sao kèm (hộ tinh) có thể tích nhỏ nhưng mật độ lại cực lớn.

Nhưng đối với loài người trên Trái đất, ngôi sao đó ở quá xa và nó quá nhỏ, khiến người ta lại bắt đầu nghi ngờ liệu nó có thể gây ảnh hưởng tới Sao Thiên Lang không?

Quỹ đạo chuyển động  sao kèm Thiên Lang

Chúng ta không thể không đặt câu hỏi, người Doxiang sinh sống trong các hang động ở châu Phi, làm sao lại có thể có những tri thức hiểu biết về ngôi sao này? Phải chăng họ dựa vào linh cảm? Không chỉ có thế, người Doxiang còn vẽ một cách chuẩn xác trên cát quỹ đạo hình bầu dục sao kèm Thiên Lang chuyển động vòng quanh Sao Thiên Lang, so với sự quan trắc của các nhà thiên văn học hầu như không sai chút nào. Người Doxiang nói, chu kỳ quỹ đạo của sao kèm Thiên Lang là 49,5 năm (trên thực tế con số chính xác là 50,04 năm), bản thân nó tự quay quanh trục chuyển động (điều này cũng được các nhà thiên văn học chứng thực). Người Doxiang cho rằng, sao kèm Thiên Lang là ngôi sao được thần thánh tạo ra, là trung tâm của Vũ trụ. Ngoài ra, họ còn biết từ rất sớm các tri thức về thiên văn, về những hành tinh xung quanh Trái đất. Ví dụ như, Sao Mộc có bốn vệ tinh chủ yếu, họ có bốn loại phương pháp làm lịch, tuần tự lấy Mặt trời, Sao Thiên Lang, Mặt trăng và Sao Kim làm căn cứ.

Na Mẫu

Những người làm công việc tế lễ ở địa phương nói, tri thức thiên văn học của họ có được là nhờ sinh vật có trí tuệ của hệ Sao Thiên Lang cứ tới Trái đất truyền cho người Doxiang, họ gọi sinh vật này là Na Mẫu. Trong truyền thuyết người Doxiang, Na Mẫu từ một nơi nào đó ở phương Đông - quê hương người Doxiang hiện nay đến Trái đất. Bề ngoài của Na Mẫu vừa giống cá lại vừa giống người, là một loài sinh vật lưỡng thể sống trong nước.

Trong các bức họa và điệu múa của người Doxiang đều giữ lại truyền thuyết có liên quan đến Na Mẫu. Người Doxiang luôn cho rằng, dân tộc họ vốn không phải là sinh sống trên mảnh đất hiện nay, họ là hậu duệ của người Berber, dân tộc cổ xưa ở Bắc Phi. Người Berber mới đầu sinh sống ở đầu Bắc sa mạc Sahara. Từ thế kỷ I, II sau Công nguyên họ mới bắt đầu di chuyển xuống phía Nam, đến kết hôn với người da đen, nên dần dần họ cũng trở thành tộc người da đen. Mặc dù Đạo Do Thái có ảnh hưởng rất lớn, nhưng họ vẫn giữ tôn giáo của tộc mình.

Những tri thức về Sao Thiên Lang mà người Doxiang lưu truyền qua hàng năm vẫn hoàn toàn trùng hợp với những tri thức về ngôi sao này mà các nhà thiên văn học hiện đại tìm hiểu được. Từ đâu họ có được tri thức thiên văn học thần kỳ ấy? Có thể khẳng định, không có kính viễn vọng thì con người không thể nhìn thấy sao kèm Sao Thiên Lang. Nhưng người Doxiang cổ đại chắc chắn là không có kính viễn vọng. Phải chăng những tri thức mà họ có được đúng là do sinh vật của hệ sao Thiên Lang dạy cho? Nếu như không phải, thì tri thức về Sao bạn Thiên Lang của người Doxiang có được từ đâu?

Tai họa lớn ở Bắc Kinh thời Nhà Minh

Ngày 20 tháng 5 năm 1625 (mùng 6 tháng 5 năm Hy Tông Thiên Khởi thứ 6), tại cố đô Bắc Kinh triều Minh, vương cung xưởng thành Tây Nam (nay là cửa Tuyên Vũ), cả một vùng đã xảy ra tai biến với sự phá hoại nặng nề, đến nay người nghe chuyện còn cảm thấy kinh hãi, và thật khó hiểu.

Buổi sáng hôm ấy, trời đang trong trẻo, bỗng có tiếng vang lên như tiếng thét. Từ hướng Đông Bắc chuyển dần tới phía Tây Nam kinh thành, trời long đất lở, tối đen như mực, muôn nhà đổ sụp. Rối như tơ vò, tựa như ngũ sắc, làn hơi khói tựa hình nấm linh chi bốc tận trời cao, mãi lâu mới tan. Phía Đông đến dãy phố lớn cửa Thuận Thành, phía Bắc đến phố Hình Bộ, dài đến ba bốn dặm, chu vi 13 dặm, hàng vạn nhà cửa, hơn hai vạn người đều biến thành tro bụi, gạch đá, ngói vụn từ trên trời đổ xuống. Những mảnh xác người từ đầu, vai, tai, mũi đến chân tay cũng được ném tới tấp từ trên trời xuống.

Trên phố, các mảnh xác người chồng chất lên nhau, tanh hôi nồng nặc. Người chết thê thảm. Lừa, bò, chó ngựa, lợn gà cũng đều chết sạch. Trong Tử Kim Thành, hơn 2000 thầy thợ đang thi công, từ trên những giàn giáo cao ngất, bị chấn động ngã ào xuống tan xương nát thịt. Cấy cối bị bật lên cả gốc rễ bay tít tận xa. Trên đại lộ Phò Mã, một con sư tử đá nặng tới 2500 kg cũng bị bốc bay ra ngoài cửa Thuận Thành. Chuồng voi của hoàng gia ở phố Tượng Lai sụp đổ hoàn toàn, đàn voi giật mình kinh sợ xông hết ra ngoài chạy tán loạn.

Nhiều nạn nhân chết trong tư thế kỳ quặc, trên phố Thừa Ân Tự, 8 người khênh kiệu chở một cô gái đang đi trên đường thì tai họa ập đến, chiếc kiệu bị đánh vỡ tan nằm giữa đường, cô gái trong kiệu và 8 người khênh kiệu thì biến đâu mất. Tại cổng chợ sau, một vị khách đến từ Thiệu Hưng đang nói chuyện với 6 người, bỗng bay mất đầu, thân thể và chân tay đổ vật ra đất, nhưng 6 người kia thì lại bình an vô sự.

Một điều ai cũng lấy làm quái lạ là người chết, kẻ bị thương hay người bình yên vô sự, thì trong giây phút tai họa ập đến đều bị lột sạch quần áo, mình trần như nhộng. Ở phố Nguyễn Hồng Khuê một chiếc kiệu đang khêng một cô gái đi qua, tai họa ập đến, phần mái nóc kiệu bị phạt bay đi mất, cô gái trong đó bị lột sạch quần áo và mọi đồ trang sức, nhưng người thì hoàn toàn nguyên vẹn. Một người làm thị tòng cho nhà quan nào đó, lúc tai họa ập xuống chỉ thấy loáng một cái, từ quần áo giày mũ cho đến cả bít tất đều bị lột sạch, thật kinh ngạc trước sự kỳ lạ đó. Có một người bị đè gãy đùi, nhìn thấy xung quanh mình, đàn ông đàn bà đều trần như nhộng, không mảnh vải che thân. Có người lấy mảnh ngói che chỗ kín, có người dùng cái bó chân để che đậy, có người vớ được tẩm trải giường, mảnh váy rách để che... Mọi người nhìn nhau dở khóc dở cười, không có cách gì khác. Có một người thiếp yêu của một vị quan nọ bị vùi dưới đống gạch vụn, nghe thấy có người ở phía trên kêu: "Dưới này có ai thì bảo?" bèn kêu lên: "Cứu tôi với". Đến lúc vội vàng bới được cô ta lên, mới biết trên người cô ta không chút vải che thân. Vị văn thư bới cứu cô ta lên vội vàng cởi áo dài bọc kín cô ta lại, rồi để cô ta cưỡi lên con la mã về nhà mẹ.

Quần áo của mọi người bị lột đưa đi đâu vậy? Sau tai họa, có người báo cáo, toàn bộ quần áo đều bay tới Tây Sơn, cách xa mấy chục dặm (1 dặm Trung Quốc ~ 0.5 km - ND), phần lớn đều măc trên ngọn cây. Người phụ trách Bộ Hộ (cơ quan trông coi việc dân chính dưới triều Minh) Trương Phương Khuê cử "Trưởng ban" (tức thi tòng) đến đó kiểm tra, quả nhiên đúng như vậy; tại giáo trường Xương Bình Châu ở Tây Sơn, áo quần chất đống. Đồ trang sức, tiền bạc, bát đĩa... chẳng thiếu thứ gì.

Nhân dịp 360 năm tròn kể từ khi Bắc Kinh bị thảm họa năm 1986, Hội địa chất học Bắc Kinh và hơn 20 tổ chức đoàn thể, tổ chức hội thảo khoa học về nguyên nhân xảy ra tai họa khủng khiếp đó. Các học giả mỗi người một quan điểm không thể thống nhất. Chủ yếu có các quan điểm: Cho rằng do tĩnh điện khí quyển gây nên, hoặc do động đất làm cháy nổ kho thuốc súng gây ra hoặc do tác dụng cưỡng bức nổ của nhiệt hạch Trái đất... Những quan điểm đó cũng mới mẻ và kỳ lạ, nhưng khó mà giải thích được, trong khi tai họa đổ xuống thì nhiệt độ lại thấp và không có lửa. Nhất là hiện tượng lột sạch quần áo rất lạ lùng.

Hoàng đế lúc bấy giờ là Thiên Khởi Chu Do Hiệu cho rằng, tai họa đó là do nguyên nhân ông ta chấp chính không tốt, và hạ "tội kỷ chiếu" để khiển trách bản thân. Nhưng xem xét kỹ lại th Những chiếc máy bay trở về bí ẩn

Từ thời cận đại đến nay, những hình thức biểu hiện chủ yếu của các tai nạn mà loài người phải gánh chịu là việc mất tích của máy bay và tàu thuyền. Những vụ mất tích máy bay và tàu thuyền đã không còn là hiếm, nhưng điều kỳ lạ lại chính là sau khi mất tích một thời gian, chúng lại hiện trở về hoàn toàn nguyên vẹn. Những máy bay và tàu thuyền không còn người lái như là những linh hồn trở về Trái Đất từ một Vũ Trụ khác.

Năm 1985, tại vùng đầm lầy trong khu rừng rậm Niu Ghinê, người ta phát hiện thấy một máy bay chở khách hai động cơ đã mất tích trước đó gần nửa thế kỷ. Điều khiến người ta không hiểu nổi là chiếc máy bay đó trông còn mới y như trước khi bị mất tích, không hề cũ đi hoặc biến dạng. Số hiệu trên máy bay vẫn rõ ràng, dễ đọc. Chiếc máy bay lấp lánh ánh bạc này mất tích trước đó 45 năm trên đường bay từ Manila Philippin đến đảo Mêndanao. Trong khoang máy bay vẫn tìm thấy những tờ báo tuần thứ ba tháng 1 năm 1937, ngày Chủ nhật.

Một nhóm chuyên gia hàng không của quân đội Inđônêxia được cử đến hiện trường. Sau khi xem xét nghiên cứu chiếc máy bay "như còn mới" đó, khi trở ra, ai cũng tái mặt và kinh ngạc. Ngành chủ quản phụ trách nghiên cứu lập tức ra lệnh phong tỏa khu vực mới phát hiện ra chiếc máy bay đó.

Các điều tra viên lúc đầu khi mới trông thấy chiếc máy bay đó, không ai dám tim ở mắt mình nữa. Vỏ ngoài của nó trông vẫn mới, thân máy bay hoàn toàn không có một vết tỳ nào, dưới ánh sáng mặt trời nó sáng lấp lánh như gương. Các nhân viên điều tra tưởng rằng cửa của nó chắc chắn bị gỉ, rất khó mở, nhưng ngược lại, vừa vặn quả đấm là mở được ngay, không hề có tiếng cót két hay răng rắc gì cả, êm ru.

Vào trong khoang máy bay không thấy người nào dù là sống hay chết. Nhưng trong máy bay cốc giấy, mẩu thuốc lá và mấy tờ báo năm 1937 vẫn chưa ngả mầu vàng, dường như mới đó vẫn đang có người ngồi trong máy bay. Trong một chiếc gạt tàn, có để một vỏ bao thuốc lá thơm, loại thuốc lá mác ấy lưu hành vào những năm 1930, nhưng vào thời Chiến tranh thế giới thứ II đã ngừng sản xuất. Còn những trang phục và kiểu đầu tóc trên tờ báo đều thuộc thời kỳ kinh tế khủng hoảng và suy thoái ở Mỹ. Trong phích nóng vẫn còn cafe nóng hổi, và mùi vị của nó vẫn thơm ngon, chưa hề bị biến mất.

Điều khiến cho các nhân viên điều tra ngạc nhiên nhất là tình trạng máy bay. Trong bình ắc quy của máy bay vẫn nạp đầy điện, chỉ vặn công tắc là đèn trong máy bay bật sáng. Thùng chứa nhiên liệu của máy bay hầu như vẫn đầy nguyên. Tất cả những điều đó khiến cho nhân viên điều ra sởn tóc gáy.

Chiếc máy bay đó trông như được hạ cánh khẩn cấp nhờ các bánh xe của nó, vừa may nó đỗ xuống được chỗ đất mềm trong vùng đầm lầy, nên hoàn toàn không bị hư hại gì, vẫn có thể bay trở lại như 50 năm trước đây. Các nhà khoa học vẫn tiếp tục điều tra về bí mật của việc máy bay đã mất tích từ lâu nay bỗng xuất hiện trở lại.

Theo ghi chép, những sự kiện tương tự cũng đã từng xảy ra vào thập niên 60. Một máy bay ném bom của Mỹ ngày 04 tháng 04 năm 1946 không quân Mỹ huy động lực lượng tìm kiếm suốt 500km vùng trời nơi nó mất tích, nhưng không kết quả gì. Bất ngờ, vào năm 1962 chiếc máy bay đó lại xuất hiện tại nơi cách sân bay mấy trăm mét. Thiết bị vô tuyến điện trên máy bay vẫn nguyên vẹn. Căn cứ theo phân tích máy móc thiết bị, dường như nó mới đõ xuống ngay chiều hôm đó, không ai nghĩ chiếc máy bay đã mất tích 17 năm.

Vào một ngày trời quang mây tạnh của năm 1984, tại bãi cát miền Bắc Mexico bỗng xuất hiện 05 máy bay quân sự Mỹ. Thân máy bay vẫn sáng bóng, thùng nhiên liệu vẫn chứa đầy xăng, nhưng trong máy bay thì trống rỗng chẳng có một người. Các chuyên gia Mỹ cho rằng: Cả 05 máy bay đó điều mất tích từ hồi năm 1945 lại vùng biển tam giác Bécmút (gọi là Bécmuđa). Nhưng việc đó vãn đang tranh luận, bởi có người nói rằng, phiên hiệu của máy bay đã mất tích nhiều năm lại xuất hiện trở lại là một sự thực không thể phủ nhận được.

Còn những sự kiện tàu thuyền đã mất tích xuất hiện trở lại thì vụ phát hiện tàu "RaĐahama" của Mỹ tại tọa độ 37 độ 37' độ Vĩ Bắc 51 độ 55' độ Kinh Đông vào tháng 08 năm 1935 là vụ nổi tiếng. Khi tàu buôn "Axơchich" phát hiện ra tài RaĐahama thì trên tàu không có người nào cả. Điều khiến cho thuyền trưởng và các thuyền viên tàu "Axơtich" kinh ngạc là khi họ từ nươca Anh ra đi thì được thuyền trưởng tàu "Raicơxcơ" của Italia cho biết hồi trước tháng 07 họ đã tận mắt trông thấy tàu "RaĐahama" bị đắm ở Đại Tây Dương.

Hơn 100 năm trước đây, ở Đại Tây Dương cũng từng phát hiện được một tàu đã mất tích nhiều năm trước đó. Đó là con tàu Meri Sairaistơ. Khi phát hiện ra nó thì trên tàu không có người, nhưng những đồ quý giá như vàng bạc, kim cương vẫn nguyên vẹn, không hề suy suyển. Xuồng cứu sinh và các đồ vật khác vẫn đầy đủ. Thậm chí trên tàu  vẫn còn để lại những thứ trong bữa ăn đang ăn dở. Không biết người trên tàu đã bỏ đi đâu?

Đầu năm 1990, tàu buồm hai cột "Durixis" mất tích đã 24 năm bỗng nhiên lại xuất hiện, nó đỗ ở một bãi biển vắng vùng ngoại ô thành phố Caracat và Vênêduêla. Ba thủy thủ trên tàu khi được phát hiện ra (năm 1990) đều giật mình ngạc nhiên. Ngày 06 tháng 01 năm 1966 họ từ đảo Aroba ra khơi. Không ngờ khi họ vừa đánh bắt được con cá lớn, nặng tới 110kg thì bão ập tới. Mọi người vội vã đưa nhau đi tránh gió. Nào ngờ cơn hoảng sựo đã kéo dài đến 24 năm. Vụ tàu mất tích xuất hiện trở lại này, tuy trên tàu vẫn có người, không biết các nhà vũ kia, chỉ là những "tà linh hồn" trở lại.

 ì thấy, tai họa khủng khiếp đó chỉ có thể coi là một hiện tượng bí ẩn chưa từng có.

Nhân mã quả thực từng tồn tại?

Các nhà nghiên cứu khẳng định những sinh vật nửa người nửa thú trong thần thoại Hy Lạp thực sự tồn tại. Họ tìm thấy không ít những bức họa trên đá mô tả chúng và tin rằng các họa sĩ cổ đại đã thực hiện tác phẩm của mình từ chất liệu cuộc sống.

Paul Takon từ Bảo tàng Australia ở Sydney và nhà cổ sinh vật học Christopher Chippendale từ Đại học Cambridge cho biết những sinh vật lai kiểu này, trong đó có Nhân mã, có thể đã từng sống song hành cùng cha mẹ nguyên thuỷ của chúng. Ở Australia và Nam Phi, nhóm nghiên cứu phát hiện hàng chục các bức vẽ trên đá mô tả động vật mang đầu người hoặc hình người có đầu động vật, có niên đại hơn 32 nghìn năm.

Lần đầu tiên trong lịch sử, họ đã thực hiện một nghiên cứu chi tiết về những bức vẽ kỳ lạ này, sử dụng khoảng 5.000 bức tranh đá của tổ tiên chúng ta: các nhà khoa học đã hệ thống hoá tần xuất xuất hiện và kiểu người lai được mô tả, cũng như định tuổi của chúng. Sau cùng, nhóm đi đến kết luận rằng người mình thú thực sự tồn tại trong quá khứ xa xưa. Theo các nhà nghiên cứu, người nguyên thuỷ không bao giờ vẽ ra những gì họ không nhìn thấy

Thần thoại La Mã và Hy Lạp cổ đại cũng kể cho chúng ta nghe nhiều về những người có cơ thể động vật, và Nhân mã (centaur) là ví dụ thường gặp nhất. Đó là những sinh vật có thân trên của con người, nhưng với chân của ngựa hoặc các động vật khác, như bò đực, lừa, cừu và thậm chí cả dê. Tên gọi centaur là sự hợp nhất của từ Ken (nghĩa là Tôi giết) và Tauros (nghĩa là bò đực), và nó cũng cho thấy vốn hiểu biết thiên văn của người xưa. Khi chòm sao của cung Nhân mã (với các centaur đang ném một cây giáo) xuất hiện trên bầu trời đêm, chúng ta không thể nhìn thấy Kim ngưu, một trong các biểu tượng của mặt trời.

Chuyên gia về thần thoại học đồng thời là nhà khoa học lịch sử Alexander Guryev cho biết người mình thú là kết quả của hành vi thú dâm - sự giao cấu giữa người và động vật, điều khá phổ biến trong các thời kỳ nguyên thuỷ. Họ cũng lưu ý nhiều tộc người đến tận bây giờ vẫn xem mình là hậu duệ của động vật: Chẳng hạn người Tây Tạng tin chắc họ có nguồn gốc từ khỉ, người Hindu coi ngựa là ông tổ và người Thái xem mình là hậu duệ của chó.

Một thần thoại Hy Lạp kể rằng nhà chinh phục Alexander Đại đế được thụ thai trong lần giao phối giữa một con rắn cỏ, do thần Zeus (vị thần bảo trợ cho tất cả các thần và con người) hoá thân với Olympia, con gái của hoàng đế Macedonia.

Sử sách cũng tiết lộ hành vi thú dâm quả thực rất thường gặp trong thời kỳ Hy Lạp và La Mã cổ đại. Nhà văn châm biếm người La Mã Juvenalis viết rằng "phụ nữ La Mã thường trưng cái mông trần của họ để lôi cuốn lũ cừu vào các cuộc giao hoan". Ở Ai Cập, những cuộc giao cấu này là một phần của nghi thức sùng bái sự sinh nở.

Trong những thời kỳ cổ đại, các chiến binh thường mang theo những đàn cừu hoặc dê trong mọi cuộc chiến, sử dụng vào mục đích giết thịt và chơi trò giao cấu. Có văn bản còn ghi lại rằng những người lính Italy đã đào ngũ trong cuộc bao vây Lyons của những tín đồ công giáo vào năm 1562 vì họ có quá ít cừu để thực hiện sex. Việc cho phép giao cấu giữa những người lính và động được xem là ít xấu xa hơn quan hệ với gái điếm. Các học giả đáng kính - Paracelsus, Cardano và bà đỡ nổi tiếng của thế kỷ 16 Fortunio Liceti cũng đã một vài lần ghi lại sự ra đời của những đứa trẻ lai, động vật do người sinh ra, và người do động vật sinh ra. Ghi chép của họ nói đến ngựa, voi, chó và thậm chí cả sư tử.

Cũng theo Alexander Guryev, nhiều năm trước khoa học chính thống không thừa nhận khả năng lai chéo giữa người và động vật. Nhưng gần đây, những nguồn tin khoa học đáng chú ý đã công bố kết quả thí nghiệm gene, trong đó các nhà nghiên cứu thu được những phôi có một nửa số tế bào người và nửa của động vật. Từ quan điểm khoa học, sự khác biệt giữa người và động vật chỉ là vài phần trăm. Điều đó có nghĩa là không loại trừ khả năng những đột biến tự phát xảy ra trong các tình huống hiếm hoi, và việc lai giống tự nhiên là hoàn toàn có thể trong những trường hợp như vậy.

Nhà giải phẫu học danh tiếng người Đan Mạch Thomas Bartolin viết rằng ông từng nhìn thấy một phụ nữ có đứa con với cái đầu mèo sau khi giao cấu với một con mèo. Sách y học của thế kỷ 19-20 cũng mô tả những trường hợp ra đời các sinh vật người-động vật.

Vào cuối thế kỷ trước, một vài nhà nghiên cứu Anh đã viết về những phụ nữ da đen sống cùng với gorilla. Những đứa trẻ sinh ra từ các cuộc giao cấu này có thể làm được những việc đơn giản ở nhà và thậm chí có thể nói. Không may, các nhà nghiên cứu không có cơ hội nhìn thấy chúng vì các em bé lai cảm thấy bị tổn thương mạnh mẽ và đã trốn vào rừng.

Alexander Guryev còn cho biết tuy các nhà nghiên cứu không có bộ xương mẫu nào của các sinh vật lai, song họ không thiếu những phần trên và dưới của các bộ xương đó.

Ai chế tạo ra đầu người thủy tinh?

Năm 1927, hai cha con nhà khảo cổ học người Anh là Mixin Haiđơ Jidơ và Anna, tại khu phế tích thành cổ Lôba Antômô nơi gần thành phố Hatơri nước Anh đã tiến hành khảo sát và tìm thấy một đầu người thủy tinh nặng khoảng 5kg. Đó là một khố thủy tinh phỏng theo xương đầu người chế tác ra. Xương mũi được lắp ghép bởi ba mành thủy tinh, hố mắt là một viên thủy tinh tròn, răng được gắn ngay ngắn vào xương hàm.

Cuốn sách "Nguy hiểm lắm, con đường của tôi" xuất bản năm 1954 đã nhận định rằng, xương đầu người bằng thủy tinh này do người cổ chế tạo ra cách đây hơn 3.600 năm: Theo giám định của các nhà khảo cổ học, chiếc sọ người thủy tinh này phải tốn thời gian 150 năm mới được chế tác xong. Sau khi đục khắc xong còn được dùng cát để đánh bóng. Trước khi được khai quật, nó đã được chôn dưới đất chí ít cũng đã 3.600 năm.

Một số nhà khảo cổ khác không đồng ý với cách suy luận đó. Họ cho rằng, những người cổ đại sống cách đây 3.600 năm bị hạn chế bởi điều kiện khoa học kỹ thuật lúc bấy giờ ở trình độ rất thấp, không thể chế tạo được sọ người thủy tinh tinh xảo đến thế.

Viện bảo tàng nhân loại học của Pháp cũng lưu giữ một sọ người thủy tinh. Theo khảo chứng của một số nhà khoa học Pháp: Chiếc sọ người thủy tinh đó qua giám định khoa học, được xác định là do người Aztech, tức người Anhđiêng - Mexico chế tạo ra vào thế kỷ 14 hoặc thế kỷ 15. Phân tích từ góc độ lịch sử và tôn giáo, nó có thể là vật trang sức của mục sư Aztech, của người Anhđiêng cúng tế. Gần quanh nơi tìm thấy sọ người thủy tinh, người ta cũng tìm thấy rất nhiều công cụ đồ đồng cỡ nhhỏ nhưng rất tinh xảo. Xem ra, sọ người thủy tinh rất có khả năng do người Aztech dùng công cụ bằng đồng để chế tạo nên.

Một số học giả tán thành quan điểm trên, họ cho rằng thế kỷ 14 và 15, người Aztech đã có trình độ phát triển khá cao, họ đã chế tạo được đồ gốm với đặc trưng màu nâu vân đen, tạo hình mỹ quan, đường vân đa dạng, phức tạp, từ những bản vẽ hình học phát triển tới việc tả thực hoa lá, chim cá, côn trùng, họ còn biết sử dụng đồng thiên nhiên để rèn thành công cụ, dùng lông chim cắm vào để tạo ra vật trang sức. Năm 1978, trong khai quật khảo cổ, Mexico lại phát hiện một tảng đá điêu khắc nặng khoảng 10 tấn, đường kính 11 thước Anh được gọi là "Đá Mặt Trăng". Đó là tảng đá được người Aztech chế tác vào năm 1470. Từ những bằng chứng trên, có thể chứng minh rằng, trình độ khoa học kỹ thuật của người Aztech tinh chắc rằng linh hồn sống mãi, và họ theo tín ngưỡng đa thần (Thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng, Thần Mưa,...). Khi tế thần họ dùng người sống để làm vật hiến tế. Sọ người thủy tinh này có thể là một trong những vật phẩm được họ dùng để tiến hành những hoạt động tế thần.

Nhưng một số học giả tỏ ra hoài nghi, thậm chí phủ định quan điểm trên. Họ cho rằng, vào thế kỷ 14 và 15, công cụ sản xuất và vũ khí của người Aztech thường vẫn là đồ đá và đồ gỗ. Lúc bấy giờ họ đang ở giai đoạn liên minh bộ lạc, đang trong thời kỳ từ xã hội nguyên thủy quá độ tiến lên buổi đầu của chế độ nô lệ, còn thiếu hẳn kỹ nghệ điêu khắc ở trình dộ cao, rất khó có thể chạm khắc được sọ người thủy tinh sinh động như vậy.

Viện bảo tàng Anh quốc cũng lưu giữ một sọ người thủy tinh. Trong đêm tối không có ánh đèn, chiếc sọ vẫn phát ra ánh sáng trắng lóa mắt, hiển hiện một vẻ khủng khiếp giống hình một ác quỷ nhe răng trợn mắt. Chiếc sọ thủy tinh này được mua lại tại hiệu châu báu Tiphanni ở NewYork năm 1898. Theo lời người chủ hiệu thì nó được một người lính bán cho chủ hiệu vào cuối thế kỷ 18. Một số nhà khảo cổ cho rằng, đó là tác phẩm của người Adôđê (châu Mỹ La-tinh), chế tác từ thời thực dân. Nhưng đó cũng chỉ là một giả thuyết, chứ chưa phải là kết luận nhất trí của giới khảo cổ học.

Cho đến nay cả 3 chiếc sọ người thủy tinh trên đều chưa rõ lai lịch, không biết người nào chế tác ra chúng vào thời gian nào, có mục đích và ý nghĩa gì? Đến nay thế giới đang chờ các nhà khảo cổ học nghiên cứu tìm ra câu trả lời thỏa đáng

Thực sự có tồn tại một chiều không gian khác?

Đã từ lâu, các nhà khoa học trên thế giới tin rằng thời gian và địa điểm chúng ta đang sống chỉ là một trong nhiều chiều không gian và thời gian mà chúng ta không nhìn thấy được.

Theo họ, thời gian có thể đếm được, là một dạng vật chất không thể biến mất. Do đó hình hài của chiều thời gian cũng có mặt ở mọi nơi. Khi 2 chiều thời gian trùng nhau thì đó cũng là hiện tượng tự nhiên, giống như lúc mưa rơi, nắng rọi và sấm sét dậy trời. Người ở một chiều thời gian có thể nhìn thấy một chiều thời gian khác, có thể là chiều thời gian tương lai hoặc quá khứ.

"Tam giác quỉ" Bermuda ở Đại Tây Dương được mệnh danh là "tử địa", vì đã có hàng trǎm tàu thuyền và máy bay bị mất tích một cách bí ẩn tại đây trong vòng 100 nǎm qua. Những người đi biển tin rằng giữa Đại Tây Dương có một "rốn biển" với những xoáy nước khổng lồ có đường kính hơn 100 dặm... Và đó có thể là cánh cửa xuyên vào một chiều thời gian khác có tốc độ gấp 2 lần tốc độ ánh sáng. Các nhà khoa học ở một số cơ quan nghiên cứu quốc tế nổi tiếng cho biết, có thể làm cho con người chúng ta xuyên qua một chiều thời gian khác, nhưng đáng tiếc tốc độ của các phương tiện mà con người tạo ra hiện thời mới chỉ đạt chưa đầy 1/3 tốc độ ánh sáng. Vì vậy, những tàu thuyền và máy bay bị mất tích một cách bí ẩn có thể là do bị hút vào một chiều không gian khác.

Cũng tương tự như vậy đối với sự kiện bí ẩn xảy ra trên bầu trời Niu Yoóc (Mỹ) vào cuối nǎm 1999. "Lạy Chúa, chúng tôi đang ở đâu vậy. Làm sao chúng tôi đến được nơi đây? Đây là Hãng hàng không Alp Air, chuyến bay 703. Tất cả đều lạ lùng. Tôi không biết mình ở đâu. Người nào nhận được những lời này xin hãy giúp chúng tôi". Đó là nội dung lời kêu cứu của một viên phi công "ma" truyền qua làn sóng điện với giọng vô cùng sợ hãi. Rồi chiếc máy bay hành khách kiểu cũ ĐC.7 mà hãng Boing chế tạo từ hơn 30 nǎm trước bỗng xuất hiện phía trên đảo Maháttan ở thành phố Niu Yoóc.

Những người chứng kiến hình ảnh của "chiếc máy bay ma" nói trên là viên phi công lái một chiếc máy bay trực thǎng đưa một số du khách bay thưởng ngoạn toàn cảnh thành phố lớn nhất thế giới này. Viên phi công lái máy bay trực thǎng tên là Ben Giắcman đã nhận được lời cấp báo đó một cách rõ ràng. Và 12 khách du lịch trên chiếc máy bay cũng tận mắt nhìn thấy "chiếc máy bay ma" ĐC.7, một số người đã chụp ảnh nó. Ben Giắcman sau đó thuật lại trên truyền hình về sự kiện bí ẩn này: "Khi tôi nhận được lời nói của anh ta, tôi vội bấm nút trả lời ngay, vì nhận thấy giọng nói của anh ta giống người đang bị hoảng loạn. Anh ta cuống lên nói rằng lẽ ra máy bay đã tới dãy núi Alp (ở châu Âu), nhưng sao không nhìn thấy nó và phía dưới cũng không phải Thuỵ Sĩ, vì anh ta biết rõ địa hình. Tôi bèn nói với anh ta rằng anh ta đang ở trên bầu trời nước Mỹ, vì không có lịch trình bay qua đây. Anh ta cất cánh từ sân bay thành phố Vêrôna (Italia) và bay đến thành phố Inxbrúc (áo). Khi đó tôi nghĩ rằng gã phi công này không điên thì cũng say rượu. Nhưng tôi bỗng rợn tóc gáy vì chợt nghĩ ra điều gì đó. Tôi hỏi ngày cất cánh của anh ta là ngày nào. Điều viên phi công trả lời khiến tôi gần như không tin nổi vào tai mình. Anh ta nói rành mạch rằng máy bay cất cánh tại sân bay quốc tế Vêrôna hồi 6h45 ngày 26/11/1972 để bay tới thành phố Inxbrúc, rồi sẽ bay tiếp đến Líchtenxten. Máy bay của anh ta có phi hành đoàn 7 người và 132 hành khách. Tôi sững sờ, không biết nói sao, rồi tôi nghe tiếng viên phi công "ma" đó bắt liên lạc với trạm hoa tiêu bay của thành phố Inxbrúc. Đến đây tôi biết rằng mình đang đối mặt với điều tựa như chuyện truyền kỳ bí ẩn. Tôi đã gặp ma hay linh hồn đang xuyên qua chiều thời gian quá khứ để đến với chiều thời gian hiện tại. Tôi nói với anh ta rằng giờ đây không phải là nǎm 1972 mà là nǎm 1999, nhưng anh ta vẫn khǎng khǎng cãi nǎm nay là nǎm 1972".

Về sau Ben được biết rằng Hãng hàng không Alp Air và chuyến bay 703 là có thật 100%. Nǎm 1972, chuyến bay này đã chở các SV người Pháp và Italia đi dự cuộc thi trượt tuyết mùa đông. Nhưng máy bay đó đã gặp bão tuyết đột ngột và bị rơi sau khi cất cánh được 40 phút. Chuyến bay nói trên được ghi nhận là "mất tích" cùng với thông báo tất cả các hành khách và phi hành đoàn trên máy bay đều chết, vì từ đó đến nay người ta chưa hề tìm ra vết tích của chiếc máy bay này.

Ben cho biết thêm: "Khi đang cố khẳng định đang là nǎm 1999, tôi nghe thấy tiếng nấc và giọng nói như của người hấp hối của "viên phi công ma". Tôi nhìn về phía cửa sổ buồng lái và cửa sổ khoang hành khách của chiếc máy bay đó và thấy rằng hình như bên trong máy bay không phải là người mà chỉ là hình bóng của họ. Tôi tìm cách lái trực thǎng tiến lại gần chiếc máy bay DC.7, nhưng ngay lập tức có một luồng ánh sáng trắng loá lên rồi "chiếc máy bay ma" nọ bỗng nhiên mất hút, cứ như chẳng có gì xảy ra trước đó"...

Bí ẩn về sự hủy duyệt thành cổ Ấn Độ

Các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật từ năm 1922 đã chứng tỏ, trên lưu vực sông Ấn từ 5.000 năm trước, từng có một thành phố đông vui phát đạt bỗng trong một quãng thời gian rất ngắn bị sụp đổ. Di chỉ của nó được gọi là Môhan Jôđarô". theo âm tiếng Ấn Độc có nghĩa là "hang chết chóc". Rất nhiều học giả ngày nay đêu cho rằng, gọi nó là "Gò chết hạt nhân" thì đúng hơn.

Cuộc khai quật kéo dài nhiều năm đã khiến cho phế tích thành cổ của văn minh thời tiền sử bị chôn vùi dưới tầng đất dày nay lại được thấy mặt trời. Tại nơi này các nhà khảo cổ tìm thấy chứng cứ của rất nhiều vụ nổ mạnh. Trung tâm vụ nổ với bán kính 1km, tất cả mọi kiến trúc đều biến thành tro bụi. Xa trung tâm một ít, phát hiện thấy rất nhiều bộ xương người.

Từ những tư thế của các bộ xương, có thể nhận ra tai nạn chết chóc đổ xuống một cách bất ngờ và mau chóng, người ta không hề có cảm giác gì về tai nạn đó. Trong những xương đó, rất kỳ lạ là đều hàm chứa những phóng xạ có thể so với những phóng xạ chứa trong những người tử nạn ở Hirôsima và Nagaxaki bị tập kích bằng vũ khí hạt nhân. Không những thế, các nhà nghiên cứu còn rất nhạc nhiên khi phát hiện những đống đổ nát sau khi thành phố bị thiêu hủy xem ra rất giống quang cảnh thành phố sau vụ nổ nguyên tử ở Hirôsima và Nagasaki. Mặt đất còn giữ lại được dấu vết của sóng bức xạ hạt nhân.

Liên hệ đến sử thi Ấn Độ cổ "Mahabharata" đã miêu tả một cách sống động thực sự thời tiền sử 5.000 năm trước, thì người hậu thế cũng có thể hiểu được phần nào cảnh ngộ của thảm họa "Gò chết hạt nhân":

"Bầu trời vang lên tiếng nổ ầm ầm, tiếp theo là một tia chớp, bầu trời phía Nam cuộn lên một cột lửa bốc lên tận trời cao. Ánh lửa chói hơn cả mặt trời cắt bầu trời làm hai nửa... Nhà cửa, đường phố và tất cả mọi sinh vật đều bị thiêu hủy bởi lửa trời đến đột ngột và nhanh chóng..."

"Ngọn lửa đáng sợ làm cho động vật ngã nhào, nước sông sôi lên, các loài cá đều chết bỏng hàng loạt, người chết đều khô như cành cây, lông tóc và móng chân móng tay rơi rụng ra hết, thực phẩm đều bị nhiễm độc,..."

"Đó là một Trái bom, nhưng một trái bom có uy lực của toàn vũ trụ. Một luồng khó mù đỏ như lưỡi lửa, sáng tựa như hàng ngàn mặt trời, từ từ cuộn lên cao, ánh sáng chói mắt..."

Robert Oppenheimer, ông tổ của bom nguyên tử Mỹ đã nói rằng, theo sự miêu tả của cuốn sử thi cổ Ấn Độ, rõ ràng đó là cảnh tượng loài người tiền sử bị bom nguyên tử tập kích.

Các nhà khảo cổ học cũng đã phát hiện một di chỉ tương tự "Gò chết hạt nhân" của Ấn Độ tại vùng thung lũng sông Ơphrát trong biên giới Irắc vùng Tây Á. Tại khu vực di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã lần lượt khai quật từng lớp đất và phát hiện nền văn minh tiền sử khoảng 8.000 năm trước đây. Tại tầng sâu nhất, họ đã phát hiện những thứ giống như phalê nóng chảy. Lúc đầu các nhà khoa học không biết đó là thứ gì, mãi đến khi thư bom nguyên tử ở bang Nêvađa nước Mỹ, họ thấy những vật còn sót lại giống như phalê nóng chảy, hoàn toàn giống với thứ đào được ở di chỉ thung lũng sống Ơphrat.

Thứ "Phalê nóng chảy hạt nhân" đó còn được tìm thấy ở thượng lưu sông Hằng, ở vùng rừng rậm nguyên thủy Đơlen, ở sa mạc Sahara, sa mạc Gôbi Mông Cổ... khá nhiều. Tại những nơi ấy đều rải rác có những chỗ đất bị cháy, có những chỗ từng tảng đá lớn bị dính liền với nhau, bề mặt lồi lõm gồ ghề, có những chỗ tường thành như bị nóng chảy, nhẵn bóng như phalê. Cả đến đồ dùng trong nhà bằng đá bề mặt cũng bị phalê hóa. Mà muốn làm nóng chảy đá đòi hỏi phải đạt đến khoảng 2.000 độ C. Các núi lửa phun và những đám cháy lớn nhất trong tự nhiên đều không thể đạt đến nhiệt độ đó, chỉ có các vụ nổ nguyên tử mới đạt được nhiệt độ đó.

Phát hiện về "Gò chết hạt nhân" thời tiền sử trên Trái Đất có ý nghĩa gì? cho đến nay các nhà khoa học vẫn còn tranh luận và vẫn còn là bí ẩn đối với loài người.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro