lanhdao1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI TẬP NHẬN THỨC VỀ CHƯƠNG I

-Sau khi học xong chương 1 bản chất lãnh đạo và được thảo luận trên diễn đàn về những vấn đề này chúng em biết và càng hiểu rõ hơn khái niệm lãnh đạo, bản chất của nó , phân biệt được lãnh đạo và quản trị, người lãnh đạo và người phục tùng... Cụ thể lãnh đạo là một trong những khái niệm quan trọng nhất trong các học thuyết kinh tế về tổ chức-nhân sự.Đó là một quá trình xuyên suốt, có ảnh hưởng rất lớn và mang tính xã hội cao. Trong đó lãnh đạo là sự tìm kiếm sự tham gia tự nguyện của cấp dưới, khơi dậy tiềm lực trong họ, tạo niềm tin và lòng trung thành,…,nhằm đạt được mục tiêu của rổ chức : “Lãnh đạo là khả năng thuyết phục người khác tìm ra các mục tiêu xác định một cách nhiệt tình. Nhân tố con người đã liên kết một nhóm người lại với nhau và kích thích họ vươn tới mục tiêu.” (Trích từ chủ đề “sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản trị” của bạn Nguyễn Thị Hồng Vũ.)

-Điều mà chúng ta cần và mong muốn ở các nhà lãnh đạo là khả năng tự quyết, việc ra quyết định và có các kế hoạch để tiến hành các hành động phù hợp, linh hoạt trong từng mãn, khía cạnh, các lĩnh vực của tổ chức. Đó là nhân tố rất cần cho một người lãnh đạo và không phải bất cứ người nào nào sinh ra là đã có sẵn. Là thứ mà bạn phải bồi dưỡng nhiều, trau dồi kiến thức thường xuyên, học tập và rèn luyện, phát triển các kỹ năng, tham gia các hoạt động xã hội, tiếp cận thực tế và có tính chiến lược…. Các nhân tố đó chính là bản chất của một người lãnh đạo tổ chức. Nó chính là phần còn thiếu trong hiểu biết của chúng ta về việc lãnh đạo tổ chức và nhiều nhà lãnh đạo đang thất bại vì thiếu đi điều đó .

-Để học được điều đó trước hết ta phải biết được bản chất của lãnh đạo là gì và phải hiểu rõ các nội dung như: Lãnh đạo và mối liên hệ ảnh hưởng giữa những người lãnh đạo với những người phục tùng, họ có mong muốn về các thay đổi, khả năng thực hiện và các kết quả thực sự phản ánh mục đích mà họ chia sẽ ? Hiểu rõ nhà lãnh đạo và nhà quản trị khác nhau như thế nào ? phân biệt lãnh đạo và quản trị, các yếu tố để trở thành một người lãnh đạo và nhà lãnh đạo xuất hiện ở đâu, khi nào, cùng với 6 cách tiếp cận cơ bản về lý thuyết lãnh đạo…

-Với xu thế hiện nay, xu thế toàn cầu hóa, sự phát triển và thay đổi nhanh chóng của trình độ khoa học-kỹ thuật, tầm nhìn chiến lược, khả năng tiếp cận mục tiêu ngày càng cao, rộng hơn và đi vào chiều sâu. Môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn và vô cùng phức tạp, rủi ro cao hơn, thách thức nhiều hơn cơ hội…Đứng trước những yêu cầu mới và cấp thiết như vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có người lãnh đạo mới xuất hiện với những đặc điểm ,kỹ năng vượt trội hơn, có cái nhìn mới mẽ và khác biệt về quan niệm, cách tiếp cận, cũng như tính cách, khả năng giải quyết vấn đề, tư duy, nhận thức của họ,…, với những nhà lãnh đạo trước đó như: trao quyền cho nhân cấp dưới, hợp tác và làm việc nhóm, đưa tổ chức tham gia vào hoạt động chuyên môn hóa hay đa dạng hóa, nhà lãnh đạo phải khiêm tốn, hòa đồng, cởi mở, tiên phong đi đầu trong đổi mới, thay đổi phong cách, tác phong-nề nếp làm việc...

-Đọc qua chương này có nhiều khái niệm, thuật ngữ mà em cảm thấy khó hiểu và khó có thể hình dung được như: Lý thuyết hỗn hợp là lý thuyết như thế nào? hiệu ứng đô mi nô… Với môi trường thay đổi không thể dự kiến trước của thế kỷ 21, sự chú ý đã chuyển sang cách thức mà những nhà lãnh đạo tạo ra sự thay đổi trong những người phục tùng và tổ chức để đáp ứng và bắt kịp nhịp thay đổi của môi trường -Sự chú ý ở đây là gì, và thay đổi như thế nào?

-Bên cạnh những vấn đề khó hiểu ,có nhiều đoạn mà em rất tâm đắc như: người lãnh đạo mới thầm lặng tạo dựng một công ty vững mạnh thông qua sự hỗ trợ và phát triển người khác chứ không tán dương khả năng và những thành công của mình, họ được mô tả hầu như vắng bóng cái tôi, lãnh đạo ngày nay là một cá nhân khiêm tốn và người xây dựng tổ chức đầy tham vọng nhà lãnh đạo phải lương thiện và tôn trọng cấp dưới. Người lãnh đạo cần có 6 phẩm chất căn bản sau: chính thực, cống hiến,khoan dung ,khiêm tốn, cởi mở, sáng tạo (theo Warren Bennis ).

Đến thời điểm này mà em còn cảm thấy kiến thức, tầm nhìn và khả năng nhận thức vấn đề của mình còn rất là ít và hạn hẹp. Học năm 3 rồi mà em vẫn chưa biết được ra trường mình sẽ làm gì và làm việc ở đâu? Nhưng sau khi được học và đọc qua chương bản chất lãnh đạo em hiểu ra được nhiều điều, biết được thứ mình cần, những cái mình dư thừa và quan trọng hơn là biết được điểm yếu, điểm mạnh của mình rồi từ đó có kế hoạch học tập, rèn luyện, bồi dưỡng kịp thời và phù hợp.

-Biết được mình là ai và mình tồn tại vì điều gì, những đặc điểm căn bản của nhà lãnh đạo, biết được mối quan hệ giữa người lãnh đạo và người phục tùng, học cách và khơi dậy tiềm năng lãnh đạo trong bản thân mình. Em biết rằng mình không thể hoặc chưa hội tụ đủ những phẩm chất của một nhà lãnh đạo như: lòng nhiệt tình, lòng dũng cảm, không dám mạo hiểm, chấp nhận rủi ro ,thử thách, chưa có những ý tưởng mới mẽ, chưa tạo ra được cách thức mới để giải quyết vấn đề sáng tạo, công việc cụ thể. Bên cạnh những khó khăn đó em còn có những đặc điểm phù hợp với những đặc điểm của nhà lãnh đạo như: là người trung thực, thẳng thắn, cởi mở, chịu sự kiểm soát, áp lực hoàn thành công việc từ người khác, đồng thời biết cách động viên, khơi dậy khả năng tiềm ẩn trong họ, có thể làm cho họ hiểu và tin mình….

Bài nhận thức chương 2

Một số người sinh ra đã có những tố chất, đặc điểm để trở thành một nhà lãnh đạo và phải chăng họ sinh ra là để trở thành nhà lãnh đạo? Theo cách tiếp cận dựa vào đặc điểm hay còn gọi là cách tiếp cận Vĩ Nhân “cho rằng một số người sinh ra vốn đã có sẵn những đặc điểm của nhà lãnh đạo”, lãnh đạo là những người có năng khiếu bẩm sinh, chứ không phải là do rèn luyện mà có! Một số quan điểm khác lại cho rằng lãnh đạo là những kỹ năng được trau dồi, đúc kết kinh nghiệm của cá nhân trong suốt quá trình rèn luyện lâu dài….Những người theo cách tiếp cận dựa vào đặc điểm cố tìm ra những đặc điểm khác biệt giữa nhà lãnh đạo so với những người bình thường. Và thực tế nghiên cứu đã cho thấy có rất nhiều đặc điểm khác nhau để tạo nên một nhà lãnh đạo thành công, người này có những đặc biệt khác hẳn so với người khác, đặc điểm này làm nên sự thành công của nhà lãnh đạo này nhưng lại không có ở nhà lãnh khác và ngược lại…. “Chính sự đa dạng về những đặc điểm của những nhà lãnh đạo thành đạo công đã chỉ ra rằng khả năng lãnh đạo không phải là một cái gì đó thiên phú”. Ngoài ra thuyết đặc điểm còn đưa ra rất nhiều phẩm chất khác nhau của nhà lãnh đạo thành công, tuy nhiên những phẩm chất được nhắc đến nhiều nhất, là phẩm chất không thể thiếu trong mỗi nhà lãnh đạo, có tính chất và vai trò quan trọng để tạo nên sự thành công đó là: tính trung thực, chính trực, lòng lương thiện, nghị lực, sự tự tin…

Cách tiếp cận hành vi cho rằng, bất cứ ai cũng có những hành vi thích hợp để trở thành nhà lãnh đạo tốt, bởi vì các hành vi thì dễ dàng học hỏi hơn là đặc điểm. Cách tiếp cận này đưa ra các phong cách lãnh đạo đối lập nhau, đó là: phong cách lãnh đạo độc đoán và phong cách lãnh đạo dân chủ, quan tâm và cấu trúc, định hướng vào nhân viên và định hướng vào công việc, thuyết lãnh đạo cao-cao, lưới quản trị. Mỗi phong cách lãnh đạo đều có cho nó một ưu nhược điểm riêng. Chẳng hạn như, theo phong cách lãnh đạo độc đoán thì nhà lãnh đạo độc đoán luôn tạo áp lực cho nhân viên của mình, họ thường tập trung quyền hành trong tay, giao những công việc cụ thể và bắt nhân viên phải hoàn thành tốt mục tiêu đã đề ra một cách nhanh chóng. Tuy nhiên nó lại tạo ra sự không hài lòng đối với nhân viên, có thể tạo ra mâu thuẩn. Còn đối với phong cách lãnh đạo dân chủ thì lại khác, nhà lãnh đạo phân quyền cho cấp dưới, đặt niềm tin vào cấp dưới, tạo cho họ ý thức tự giác và tính tự chủ cao đối với công việc, khuyến khích sự tự nguyện tham gia cộng tác của mọi người để tạo ra giá trị chung cho tổ chức. Phong cách lãnh đạo này đem lại sự hài lòng, sự tin tưởng cao của cấp dưới đối với nhà lãnh đạo. Nhưng so với phong cách lãnh đạo độc đoán thì hiệu quả công việc lại không cao. Lãnh đạo là người dẫn dắt tổ chức, là linh hồn của tổ chức. Do đó một người lãnh đạo giỏi phải là người biết kết hợp nhuần nhuyễn, sáng tạo, linh hoạt giữa các phong cách lãnh đạo cho từng tình huống, yêu cầu cụ thể của tính chất công việc… để có thể hướng đến một kết quả tốt, hiệu quả và thuận lợi nhất cho bản thân, cấp dưới, cũng như đạt được mục tiêu của tổ chức.

Người lãnh đạo phải luôn mềm dẻo, nhiệt tình, luôn hòa đồng và làm việc trực tiếp với những người phục tùng. Họ biết cách làm cho người phục tùng tự nguyện thực hiện và hoàn thành công việc được giao với tinh thần và trách nhiệm cao. Nhà lãnh đạo có thể tạo dựng nên sự gắn kết, các mối quan hệ vững chắc trong mỗi nhân viên với nhau và với chính bản thân nhà lãnh đạo, để mọi người cùng nhau đóng góp vào thực hiện công việc chung của tổ chức. Xây dựng mối quan hệ tốt với nhân viên là việc rất cần thiết đối với nhà lãnh đạo và chính mối quan hệ bền vững đó sẽ tạo nên động lực mạnh mẽ, thúc đẩy và góp phần lớn vào sự thành công của tổ chức.

2. Nhận thức và định hướng phát triển cho bản thân:

Sau khi đọc xong chương 2- các đặc điểm hành vi và các mối quan hệ, bản thân tự nhận thấy rằng mình có một số đặc điểm của một nhà lãnh đạo như cách tiếp cận đặc điểm đã đưa ra như: tính trung thực, chính trực, và sự nhiệt tình. Nhưng bên cạnh đó em còn có nhiều đặc điểm thiếu sót để có thể trở thành một nhà lãnh đạo thành công như: thiếu tự tin, nghị lực để vượt qua áp lực của công việc, hoàn cảnh và ngay chính bản thân mình.

Trong quá trình học tập, tiếp xúc và quan hệ với mọi người, ngay cả trong các hoạt động nhóm, em nhận thấy tính cách của em hơi thiên về phong cách lãnh đạo dân chủ hơn, vì không muốn gây ra áp lực, sự căng thẳng cho mình cũng như người khác, luôn muốn mọi người tin tưởng và giúp đỡ mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Là một nhóm trưởng, em luôn có sự kết hợp chặt chẽ giữa hai phong cách lãnh đạo độc đoán và dân chủ để điều hành, hướng dẫn và chỉ đạo nhóm hoạt động. khi không phải là nhóm trưởng mà chỉ là một thành viên của nhóm thì em lại khuyến khích trưởng nhóm nên lãnh đạo độc đoán hơn, tạo áp lực để mọi thành viên phải nỗ lực, cố gắng hoàn thành tốt và nhanh chóng mọi công việc được giao.

Em luôn mong muốn tương lai mình sẽ trở nên thành đạt và có thể trở thành một nhà lãnh đạo giỏi. Để làm được điều đó, trong thời gian tới em phải học tập hơn nữa và rèn luyện thật nhiều các kỹ năng cần có của một nhà lãnh đạo giỏi. Nhất là những đặc điểm cá nhân được nhắc đến nhiều nhất của nhà lãnh đạo thành công, đồng thời phải bổ sung và khắc phục những thiếu xót của bản thân, dũng cảm đương đầu với khó khăn, thử thách, vượt qua chính mình, tự hoàn thiện, luôn luôn tự tin và luôn lạc quan với tương lai.

Bài nhận thức chương 3

Một nhà lãnh đạo giỏi là một người sở hữu cho mình một tầm nhìn xa trông rộng, một tầm nhìn chiến lược, khả năng nhận diện và giải quyết các vấn đề, luôn nhiệt tình và cống hiến hết mình, vận dụng các kỹ năng, kiến thức của mình vào hoạt động của tổ chức nhằm tạo giá trị cho tổ chức. Làm thế nào khám phá và khơi dậy khả năng tiềm ẩn trong mỗi nhân viên (năng lực, tư duy, tính năng động, lòng nhiệt tình …) . Những yếu đó chính là phong cách lãnh đạo hợp lý, nhà lãnh đạo vừa đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của nhân viên, vừa phát huy sức mạnh của các cá nhân và tập thể trong các hoạt động của tổ chức, cũng như các hoạt động khác, đồng thời đảm bảo các yêu cầu về hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Nó đóng vai trò vô cùng quan trọng, là chìa khoá thành công của doanh nghiệp.

Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất này luôn vận động và không bao giờ bất biến cả, nó luôn giao động, thay đổi theo một quy luật nhất định nào đó, các tình huống trong cuộc sống cũng vậy nó không diễn ra theo khuôn mẫu, mỗi tình huống khác nhau sẽ có một cách thức riêng để giải quyết và có thể có nhiều hướng xử lí khác nhau. Cũng như thế, nhân viên cấp dưới mỗi người đều có mỗi tính cách, suy nghĩ, khả năng nhận thức, trình độ, kỹ năng khác nhau, không ai giống ai cả và mỗi người đều có một mức độ sẵn sàng khác nhau…. Chính vì thế mà một nhà lãnh đạo muốn thành công thì phải linh hoạt, sáng tạo trong từng trường hợp, hoàn cảnh cụ thể để có được một phong cách lãnh đạo đúng đắn và phù hợp nhất, không nên giữ mãi cho mình một phong cách lãnh đạo cứng nhắc được.

Trong chương 3-cách tiếp cận ngẫu nhiên về lãnh đạo, tập trung phân tích những biến số tình huống có ảnh hưởng đến kết quả, hình thành và chi phối phong cách lãnh đạo một cách đầy đủ nhất, khám phá mối quan hệ giữa khả năng lãnh đạo hữu hiệu và hoàn cảnh diễn ra các hoạt động, thảo luận về các yếu tố của nhà lãnh đạo, người phục tùng, tình huống, và sự tác động giữa các yếu tố…

Lãnh đạo theo tình huống đã trở thành cách tiếp cận phổ biến trong quản lý con người, nắm vững và vận dụng tốt cách tiếp cận này , thì công việc của nhà lãnh đạo sẽ trở nên dễ dàng và trôi chảy hơn. Các cách tiếp cận ngẫu nhiên được đưa ra và được phát triển là làm sao để các nhà lãnh đạo biết kết hợp giữa các phong cách lãnh đạo với các hành vi, tình huống lãnh đạo cụ thể trong từng điều kiện môi trường để đạt được tính hữu hiệu nhất, “Cách tiếp cận ngẫu nhiên hàm ý rằng hiệu lực của lãnh đạo phụ thuộc vào bối cảnh diễn ra các hành vi lãnh đạo”. Và các mô hình lãnh đạo ngẫu nhiên đã ra đời, đóng góp vào sự thành công to lớn, góp phần giải thích các hạn chế mà cách tiếp cận đặc điểm và hành vi chưa giải quyết được. Tiêu biểu là: mô hình lãnh đạo ngẫu nhiên của Fiedler cho phép các nhà lãnh đạo có thể đoán biết được các tình huống đã và đang xảy ra trong hay ngoài tổ chức từ đó có thể tạo ra sự phù hợp giữa phong cách lãnh đạo với tình huống, để hội tụ đủ những điều kiện tốt nhất cho sự thành công của họ, cũng như tổ chức. Thuyết lãnh đạo tình huống của Hersey & Blanchard tập trung chủ yếu vào những đặc điểm của người phục tùng (những người phục tùng khác nhau ở mức độ sẵng sàn, sự nhiệt tình trong công việc…) và coi đây là thành phần quan trọng quyết định hành vi ảnh hưởng trong các tình huống lãnh đạo của nhà lãnh đạo. Phương pháp Lãnh đạo này cũng chỉ ra rằng người lãnh đạo nên áp dụng các phong cách lãnh đạo một cách“ thiên biến vạn hoá” dựa theo tùy tình huống, cho phép người sử dụng phân tích tình huống nào phù hợp với loại phong cách nhất định, từ đó tự định hình phong cách thích hợp cho mình. Thuyết đường mục tiêu nhận định rằng nhà lãnh đạo phải có trách nhiệm thúc đẩy người phục tùng để đạt được mục tiêu cá nhân và mục tiêu của tổ chức, định hướng và vạch rõ con đường đi để họ đến được những phần thưởng mong muốn một cách thích hợp. Mô hình của Vrom-Jago thì tập trung vào mức độ của lãnh đạo tham gia, mỗi mức độ tham gia ảnh hưởng đến chất lượng và trách nhiệm giải trình của các quyết định như thế nào. Từ đó nhà lãnh đạo có thể điều chỉnh phong cách lãnh đạo của mình, đưa ra được những kết quả tốt nhất, tự mình giải quyết vấn đề hay thông qua sự đóng góp của cấp dưới để có thể đáp ứng được các nguồn lực khan hiếm trong tổ chức.

Qua chương này, em đã phần nào hiểu được tính ngẫu nhiên của lãnh đạo đối với con người và các tình huống, biết được một số ưu -nhược điểm của các mô hình nhưng vẫn chưa thể nào nhận ra được mô hình nào là phù hợp và quan trọng hơn cả. Để có thể hiểu rõ và sâu hơn về cách tiếp cận ngẫu nhiên trong các tình huống lãnh đạo thì em còn phải học tập nhiều, phải giao tiếp nhiều hơn, tạo ra mối quan hệ rộng rãi hơn nữa để có thêm kinh nghiệm sống, các trải nghiệm thực tế cũng như xử lý các tình huống mang tính ngẫu nhiên không có tính quy luật. Muốn sử dụng nhuần nhuyễn các lý thuyết lãnh đạo đó vào thực tiễn cuộc sống, công việc, học tập thì em phải linh hoạt, sáng tạo hơn trong mọi hoàn cảnh, điều chỉnh phong cách sống và làm việc của mình cho phù hợp với sự thay đổi của các nhân tố đến từ môi trường . Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là phải lập một kế hoạch chi tiết, dài hạn và cụ thể cho riêng mình với các mục tiêu xác định để có thể tiếp cận và thực hiện các phong cách lãnh đạo đó một cách tốt nhất.

Bai nhan thuc chuong 4

-Tất cả chúng ta đều biết rằng mỗi người khác nhau về nhiều mặt, mỗi người đều có một tích cách, đặc điểm và cách thể hiện khác nhau… Có một số người rất nhút nhát, rụt rè và ít nói, trong khi đó một số khác lại rất thích giao du, luôn cởi mở, hòa đồng; một số người thì chín chắn và luôn tỏ ra nghiêm túc trong mọi lĩnh vực cuộc sống, trong khi những người khác lại hấp tấp và thích sống thỏa mái. Nhiều người lại thích hướng ngoại hơn là khíp kín mình, bởi vì họ thích có được quyền lực và sự ảnh hưởng, luôn hòa đồng, nhiệt tình, sáng tạo, có ý thức tự giác cao trong công việc và luôn quan tâm đến mọi người xung quanh. Trái lại một số khác không hề để tâm đến việc gây ảnh hưởng đến người khác, mà chỉ thích tập trung vào các sự kiện cụ thể và các chiến lược hơn là chú trọng vào các mối quan hệ, luôn kín đáo và luôn ra quyết định dựa trên quan điểm chủ quan của mình. Rõ ràng rằng , cả sự ham thích địa vị và sự hướng ngoại đều hữu ích đối với một nhà lãnh đạo, đóng vai trò vô cùng quan trọng, có thể giúp nhà lãnh đạo cải thiện việc lãnh đạo của họ trở nên hiệu quả hơn. Tuy nhiên, không phải tất cả các nhà lãnh đạo hiệu quả đều cần phải thích địa vị và hướng ngoại cao. Bên cạnh đó, việc quá ham thích địa vị và hướng ngoại đôi khi còn gây trở ngại đối với việc lãnh đạo hiệu quả nếu nó không phù hợp với những phẩm chất khác, như sự dễ chịu hay tình cảm ổn định.

Chương này nghiên cứu sâu hơn về mặt cá nhân, xem xét những đặc điểm khác biệt có thể đem đến khả năng lãnh đạo thành công và hữu hiệu, giúp chúng ta nhận biết được những tính cách chủ yếu của con người, hiểu được sự tác động của tính cách đến lãnh đạo và mối quan hệ trong tổ chức. Bên cạnh tính cách khác biệt, con người còn khác nhau ở giá trị và quan điểm của họ. những sự khác biệt này tác động đến hành vi của lãnh đạo và người phục tùng. Các giá trị là niềm tin chủ yếu người ta cho là quan trọng và nó ổn định theo thời gian. Các giá trị cũng chỉ ra cách thức một nhà lãnh đạo đạt được và sử dụng quyền lực, cách thức mà họ giải quyết mâu thuẫn, và cách thức họ ra quyết định. Các giá trị giải thích tại sao một người thích làm điều nào đó theo cách này hơn là cách kia. Ngày nay việc lựa chọn và thiết lập những giá trị hợp tác đang trở thành một phần quan trọng trong việc xác lập phương thức hoạt động của tổ chức.

Bên cạnh đó còn đề cập đến hai nhóm giả thuyết về bản chất con người của Douglas McGregor là thuyết X và Y. Theo thuyết X cho rằng bản chất con người là lười biếng, luôn trốn tránh trách nhiệm, do đó người lãnh đạo phải thúc ép quản lí, giám sát và đe dọa để buộc họ phải nổ lực hết mình trong công việc , những nhà lãnh đạo tán thành thuyết này, họ định hướng vào công việc hơn là con người. Ngược lại thuyết Y cho rằng bản chất con người không phải là không thích làm việc và sẽ sẵn sàn cam kết với mình để làm việc. Những nhà lãnh đạo tán thành thuyết Y cho rằng con người không cần phải thúc ép hay quản lí thì mới làm việc hiệu quả, họ định hướng vào con người và quan tâm đến các mối quan hệ.

Ngoài ra một khái niệm thú vị cũng được nhắc đến nhiều trong chương này đó là sự khác biệt giữa lối suy nghĩ của bán cầu não trái và bán cầu não phải. Bán cầu não trái thực hiện lối suy nghĩ logic, phân tích và phương pháp tuyến tính để giải quyết vấn đề, trong khi bán cầu não phải lại hoạt động một cách sáng tạo, khéo léo và quá trình suy nghĩ dựa trên giá trị. Các ý kiến trên được Ned Hermann phát triển thành thuyết toàn não với 4 góc phần tư của não có liên hệ đến sự khác biệt của suy nghĩ. Thuyết toàn não không chỉ quan tâm đến sự khác biệt ưu thế giữa lối suy nghĩ của não trái và não phải, mà còn đưa đến khái niệm về sự khác biệt giữa những suy nghĩ dựa trên quan niệm và kinh nghiệm.

Uy tín là cái mà trong mỗi chúng ta đều hướng đến và muốn có được, nó mang lại cho nhà lãnh đạo cơ sở vững chắc để thuyết phục người khác tin vào khả năng lãnh đạo của mình. Bản thân uy tín chỉ là bước khởi đầu, chứ không phải là kết quả. Lãnh đạo uy tín là nhà lãnh đạo có khả năng truyền cảm hứng và thúc đẩy người khác làm việc nhiều hơn bình thường, dù có khó khăn và đòi hỏi sự hi sinh cá nhân. Uy tín thì có thể xác định và nó được gọi là “ngọn lửa thắp lên năng lực và cam kết của người phục tùng, nó vượt trên kết quả công việc và vượt lên cả cái gọi là bổn phận”. Những nhà lãnh đạo có uy tín tạo ra không khí trao đổi và một viễn cảnh tốt hơn hiện tại. Sự uy tín thường đem lại niềm tin cho mọi người xung quanh, thúc đẩy và mang lại lợi cho xã hội, nhưng cũng có thể trở nên nguy hiểm nếu nó không được dùng đúng mục đích.

Bên cạnh lãnh đạo uy tín thì lãnh đạo chuyển đổi là một kiểu lãnh đạo dựa trên những phẩm chất cá nhân của nhà lãnh đạo. lãnh đạo chuyển đổi có tác động thực sự lên người phục tùng và có khả năng đổi mới toàn bộ tổ chức. Nhà lãnh đạo chuyển đổi có khả năng tạo ra những thay đổi về tầm nhìn, chiến lược và văn hóa trong tổ chức. lãnh đạo chuyển đổi khác với lãnh đạo giao dịch trên 4 phương diện chính: lãnh đạo chuyển đổi phát triển người phục tùng thành người lãnh đạo; lãnh đạo chuyển đổi quan tâm nhiêu hơn từ nhũng nhu cầu sinh học bậc thấp đến những nhu cầu tâm lí bậc cao; lãnh đạo chuyển đổi làm cho người phục tùng gạt bỏ những tư lợi cá nhân vì lợi ích chung của nhóm; lãnh đạo chuyển đổi vẽ lên bức tranh về tình trạng mong đợi ở tương lai và truyền đạt nó như một bức tranh đó đáng để theo đuổi.

Sau khi đọc xong chương này em cảm thấy mình có khá nhiều tính cách khác nhau. Chẳng hạn như lúc vui, lúc buồn, có nhiều lúc thì rất háo hức, luôn năng động, nhiệt tình trong mọi lĩnh vực, cũng như trong công việc, học tập, luôn chủ động giao lưu mở rộng mối quan hệ với tất cả mọi người…. Nhưng nhiều khi lại đóng cửa giam mình trong phòng và chẳng muốn giao tiếp với ai cả, suy nghĩ vẫn vơ để rồi tự tạo áp lực cho mình. Đôi lúc không thể nào tự kiềm chế được cảm xúc, tính nóng nẩy để nó thể hiện ra bên ngoài, mang lại nhiều phiền toái và rắc rối. Đồng thời nhận thấy rằng những phẩm chất, kỹ năng cần thiết, ẩn sâu bên trong đối với một nhà lãnh đạo hữu hiệu còn quá xa vời đối với bản thân mình.

Để trở thành một nhà lãnh đạo hữu hiệu thật quả là không dễ, đó là một quá trình rèn luyện và học tập lâu dài. Vì vậy sau khi tìm thấy được những điểm yếu, những mặt còn hạn chế thì em cần phải nhanh chóng tìm cách khắc phục nó, đồng thời đưa ra cho mình một chương trình rèn luyện thích hợp. Phải tin vào bản thân, luôn động viên và tạo động lực để vươn lên, trong mọi khó khăn, thử thách vẫn luôn nghĩ rằng: “không gì là không thể”, chỉ cần có quyết tâm là sẽ vượt qua tất cả. Tham gia tích cực trong các hoạt động xã hội để có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn, cọ xát nhiều hơn với thực tế. Ngoài ra, cần tham gia các buổi huấn luyện kỹ năng mềm tại trường, các tổ chức xã hội, các cơ quan đoàn thể,..., những nơi có thể giúp em hiểu và phát triển hơn nữa các tố chất, phẩm chất cũng như tính cách để có thể tự hoàn thiện mình hơn.

Bài nhận thức chương 6

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người lãnh đạo phải có đủ 2 thành tố phẩm chất và đạo đức cách mạng. Về phẩm chất, Người nhấn mạnh 4 nội dung Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng. Về đạo đức cách mạng là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Theo Người thì người cán bộ phải có đủ tài, đủ đức. Hội tụ đủ Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Cần, Kiệm, Liêm, Chính là những phẩm chất đạo đức căn bản nhất phải có. Những phẩm chất, đạo đức đó được nhân dân ta, Đảng ta và Hồ Chủ tịch vun đắp lâu đời. Nó phù hợp với yêu cầu xây dựng con người mới XHCN, nền đạo đức mới của dân tộc trong thời đại hiện nay. Đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, không phải vì danh vọng cá nhân mà toàn tâm toàn ý cho lợi ích của dân tộc và của Đảng, của cả loài người. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc truyền thống của cha ông ta bằng chính cuộc sống và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Là một biểu tượng cao đẹp của con người trung thành, hiếu nghĩa, một lòng một dạ vì nước vì dân, là bậc đại nhân, đại nghĩa, đại trí, đại dũng và hết sức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Học tập và làm theo lời dạy và tấm gương đạo đức phẩm chất của nhà cách mạng thiên tài Hồ Chí Minh để xứng đáng là người lãnh đạo và đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Thành công được xây dựng trên các mục tiêu bao gồm các giá trị đạo đức sẽ có ý nghĩa và tồn tại lâu hơn. Đúng vậy những người phục tùng luôn tin tưởng và sát cánh cùng họ, giúp họ gặt hái được nhiều thành công trong công việc, cũng như trong cuộc sống.

Trong kinh doanh, bất cứ một ai đi đến thành công mà không hề niếm trải mùi vị cay đắng của thất bại. Thất bại đó là một chuyện rất bình thường trong kinh doanh, quan hệ xã hội, cũng như trong học tập…, “thất bại là mẹ của thành công, điều quan trọng là ta có tìm ra được nguyên nhân vì sao dẫn đến thất bại để rồi từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm vô cùng quí giá, hoàn thiện và bồi dưỡng hơn mục tiêu, vạch ra con đường để đi đến thành công.

Chương trước chúng ta đã đề cập đến hai khía cạnh tạo nên thành công cho nhà lãnh đạo, đó là trí tuệ và trái tim. Ở chương này chúng ta sẽ đề cập đến nhân tố thứ ba không kém phần quan trọng đó là tinh thần-khả năng nhìn thấu và suy ngẫm về điều kiện sống của con người, khả năng phân định đúng sai và những gì đang thật sự diễn ra trong thế giới của chúng ta, để có được lòng tin trong cuộc đấu tranh cho chân lý và lẽ phải.

Đọc xong chương này em thấy có những nội dung chính như: các nhà lãnh đạo ở các cấp điều phải gánh các trách nhiệm lớn lao về việc hình thành một bầu không khí đạo đức trong tổ chức. Các nhà lãnh đạo cần có đủ sức tập trung bản lĩnh của mình để làm những gì đúng đắn bất kể dưới những sức ép như thế nào. “cuộc đời là sống trên những ngõ dốc để trượt”(Richard Tedlow) “con người phải có một nhân cách để biết được giới hạn mà bản thân không nên vượt qua”. Những nhà lãnh đạo phi đạo đức sẽ không trung trực với nhân viên, với khách hàng, nhà cung cấp và cổ đông của mình. Họ thường đối xử mọi người không công bằng, họ có thể ban đặc quyền đặc lợi cho những ai tâng bốc, họ có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác nếu sai lầm xảy ra. Các nhà lãnh đạo cố gắng giữ lời của mình, dĩ hòa vi quý khi phải chứng kiến một sự bất công bằng.

Kinh doanh nghĩa là mang lại giá trị chứ không chỉ đơn giản là sản sinh lợi nhuận. Mục đích lớn nhất của kinh doanh là mang lại hạnh phúc cho con người. Nhân tố quan trọng duy nhất trong việc quyết định đạo đức của tổ chức chính là việc các nhà quản trị có cam kết với các giá trị đạo đức trong lời nói và đặc biệt là trong hành động của họ. Các nhà lãnh đạo tạo hệ thống tổ chức và các chính sách hỗ trợ cho các hành vi đạo đức. Điều dường như là quan trọng nhất đó là các nhà lãnh đạo nói rõ ràng và duy trì các chuẩn mực đạo đức và làm mọi việc đúng, thậm chí khi không ai nhìn thấy.Những nhà lãnh đạo xây dựng tổ chức với nguyên tắc xử thế bằng cách đề cao tầm quan trọng của việc phục vụ cho người khác và cho xã hội. “điều tốt nhất bạn có thể làm là phục vụ người khác”. Lãnh đạo hợp đạo đức là một quá trình phân biệt giữa cái đúng và cái sai, là việc tìm kiếm sự công bằng, trung trực, những điều tốt đẹp và chuyển chúng thành những hành động cụ thể. Lãnh đạo hợp đạo đức đòi hỏi nhà lãnh đạo nâng cao con người lên, cho phép họ trở nên tốt đẹp hơn. Các nhà lãnh đạo chịu trách nhiệm tạo dựng nền tảng làm tăng cường và phong phú công việc.

Lãnh đạo phục tùng: nhà lãnh đạo hi sinh sở thích của bản thân để phục vụ cho nhu cầu người khác, thúc đẩy và mang đến cho họ cơ hội phát triển.Bốn quy tắc cơ bản trong mô hình lãnh đạo phục vụ của geenleaf: Đặt việc phục vụ người khác lên trên sở thích cá nhân, biết lắng nghe, thể hiện sự tin cậy, bảo vệ người khác khỏi sự tổn thương.

Nhà lãnh đạo phải khám phá bản thân tìm kiếm một nguồn sức mạnh và lòng dũng cảm chống lại những cám dỗ hay đấu tranh cho những giá trị đạo đức. Để có được một cuộc sống thực sự có ý nghĩa chúng ta rất cần đến lòng dũng cảm. Lòng can đảm là khả năng vượt qua nỗi sợ hải để tiến về phía trước, chấp nhận rủi ro tạo nên sự thay đổi , lắng nghe tâm hồn mình và đấu tranh cho niềm tin của bản thân, phải thấu hiểu được điểm mạnh và điểm yếu của bản thân,tự đánh giá mức độ trung thực của bản thân, phải đối diện với những hành vi phi đạo đức, cam kết vào mục tiêu cao cả. Trong tổ chức lòng dũng cảm được xây dựng từ niềm tin vào viễn cảnh, khai thác sức mạnh từ những người xung quanh, sẵn sàng chấp nhận hay đón chào những thất bại ,thất bại có thể đóng vai trò quan trọng trong công việc và cuộc sống của mỗi người.Thành công và thất bại là hai mặt cùng đồng hành, thất bại là mẹ của thành công, khai thác sức mạnh của sự thất vọng và cơn giận dữ một cách phù hợp là động lực giúp bạn thay đổi, có thể dẫn đến thành công. Trong cuộc sốngva công việc cũng như tình yêu, chúng ta có lòng can đảm thì sẽ vượt qua mọi việc “nothing is impossible”.

Học xong chương này em thấy mình cần phải học tập, bồi dưỡng kiến thức nhiều hơn nữa. Đi đôi với tìm tòi học hỏi, trau dồi kiến thức là thực hành thực tế, vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn, để có những trãi nghiệm quí giá và bài học kinh nghiệm cho riêng mình. Tham gia vào các hoạt động xã hội, các buổi ngoại khóa, buổi hội thảo, tọa đàm… để lắng nghe, học hỏi, sẵn sàng chia sẽ, để đem lại kiến thức bổ ích cho bản thân và cho người khác. Chủ động sắp xếp thời gian hợp lí để vừa đảm bảo nhiệm vụ học tập, đồng thời vừa đi làm thêm, cọ xát nhiều, để rút ra kinh nghiệm, phát triển kiến thức chuyên môn, kỹ năng mềm và kỹ năng nghiệp vụ. Sẵn sàng đương đầu với những khó khăn, can đảm, dũng cảm vượt qua mọi thách thức, luôn nhìn về phía trước, không nhìn về quá khứ, đối mặt với thực tại, chấp nhận mọi rủi ro . Đứng lên từ những sai lầm, vấp ngã của bản thân, tiếp tục bước về phía trước, phải khám phá bản thân, sống thật lòng với lòng mình, luôn đề cao giá trị đạo đức bất chấp những cám dỗ, luôn động viên, an ủi và tạo niềm tin cho chính mình.

Bài nhận thức chương 7!

-Trong cuộc sống, trong kinh doanh, cũng như trong các mối quan hệ xã hội. Nhắc đến thành công người ta thường nghĩ tới trước tiên là những nhà quản trị, nhà lãnh đạo giỏi, tài ba… mà vô tình lãng quên đi vai trò, những đóng góp thầm lặng của những người phục tùng. Không có một công việc nào thành công chỉ là nhờ sự nỗ lực của riêng một người mà là sự đoàn kết, nỗ lực của nhiều người, của cả một cộng đồng…Như chúng ta đã biết, người phục tùng đóng vai trò rất quan trọng trong một tổ chức, tổ chức có thành công hay không là nhờ một phần lớn ở người phục tùng.

-Con người đóng vai trò người phục tùng nhiều hơn là lãnh đạo và giữa họ thường có một số đặc điểm chung. Và để trở thành một người phục tùng hữu hiệu thì liệu chúng ta cần những nỗ lực như thế nào để phát triển tiềm năng của mình hiệu quả hơn. Các nguồn lực nào có thể tạo ra động lực thúc đẩy cho người phục tùng phát triển. Các nhà lãnh đạo cần làm gì để tạo ra môi trường phát triển những người phục tùng và bằng cách nào người phục tùng có thể cùng với nhà lãnh đạo xây dựng một cảm giác cộng đồng trong tổ chức của mình.

-Đọc xong chương “ phát triển tiềm năng của người phục tùng” em thấy có những nội dung cần nắm bắt như: thấu hiểu vai trò của nhà lãnh đạo trong việc phát triển sự phục tùng của phục tùng . Ứng dụng các nguyên tắc của người phục tùng hữu hiệu bao gồm: tinh thần ,trách nhiệm, sự phục vụ, khả năng chấp nhận thay đổi và ra đi khi cần thiết. Thực thi các chiến lược để thúc đẩy tinh thần phục tùng tại nhà trường hay nơi làm việc . Hiểu được mong muốn của người phục tùng và đóng góp vào việc xây dựng một cộng đồng hòa hợp giữa những người phục tùng…

-Lãnh đạo là mối quan hệ ảnh hưởng giữa người lãnh đạo và người phục tùng. Sức ảnh hưởng của người phục tùng có thể thúc đẩy hoặc ảnh hưởng rất lớn đến kết quả đầu ra của nhà lãnh đạo. Có thể thấy vai trò của người phục tùng thực ra cũng không có gì khác biệt với nhà lãnh đạo. Cả nhà lãnh đạo và người phục tùng đóng vai trò tiên phong, họ cùng nhau chia sẽ một viễn cảnh. Có năm phong cách của người phục tùng cần nắm như: người phục tùng thờ ơ là mẫu người có tư duy độc lập, sắc sảo nhưng rất chủ động.

-Người phục tùng tuân thủ thường tham gia rất tích cực vào các hoạt động của tổ chức nhưng lại không có những tư duy độc lập cần thiết đối với mọi hành vi của mình. Mục tiêu duy nhất của họ là càng ít mâu thuẩn càng tốt. Người phục tùng thực dụng thường đưa ra những lý do rất hợp lý để hạn chế rủi ro và thu được lợi ích lớn nhất. Người phục tùng bị động vừa không có tư duy độc lập lại vừa không năng động, chỉ thực hiện những nhiệm vụ được giao phó và làm điều này khi có sự giám sát chặt chẽ. Người phục tùng hữu hiệu là mẫu người có tư duy độc lập, sắc sảo và rất năng động trong tổ chức. Để trở thành một người phục tùng hữu hiệu không phải là điều dễ dàng . Cần phải hiểu rằng họ đang đại diện cho điều gì và sẵn sàng bày tỏ những ý tưởng cho nhà lãnh đạo, thậm chí khi điều này có thể gây nguy hiểm cho bản thân, phải tự hạ mình hay cảm thấy bất tài. Họ phải thể hiện sự sẵn sàng chịu trách nhiệm, phục vụ nhu cầu của tổ chức thách thức với quyền lực, tham gia sự thay đổi và sẵn sàng ra đi khi cần thiết, bản thân phải phát triển tiềm năng của mình, hãy là người tiên phong, phải bắt đầu bằng một viễn cảnh, phải hình dung được đích đến của mình, khuyến khích mọi người cố gắng đạt được sự kiểm soát về thời gian và các sự kiện liên quan đến mục tiêu của mình và cách quản lý bản thân. Hơn nữa, họ cần phải biết cách khai thác sức mạnh của bản thân, khẳng định vị trí và năng lực của người phục tùng đối với nhà lãnh đạo. Nỗ lực và tài thuyết trình cũng là một nguồn sức mạnh cá nhân để đóng góp vào các quá trình của tổ chức.

-Hầu hết các mối quan hệ giữa nhà lãnh đạo và người phục tùng được quyết định bởi một số cảm xúc và hành vi dựa trên quyền lực và sự phục tùng. Người phục tùng hữu hiệu bao giờ cũng biết gắn kết bản thân với mục tiêu và viễn cảnh của tổ chức. Họ giúp đỡ nhà lãnh đạo tốt hơn, gây ảnh hưởng tích cực đến nhà lãnh đạo. Xây dựng mối quan hệ dựa trên phát triển niềm tin với nhà lãnh đạo của mình, phải tôn trọng lẫn nhau, phải thể hiện một hình ảnh chân thực nhất về bản thân, không che giấu điểm yếu hay sai lầm, không đỗ lỗi cho cấp trên hay đồng nghiệp. Giấu che khuyết điểm là triệu chứng của những người phục tùng thụ động và nhu nhược. Người phục tùng phải biết nhận trách nhiệm về mình, sẵn sàng đương đầu chấp nhận rủi ro đóng góp ý kiến vào mục tiêu chung của tổ chức.

-Các nhà lãnh đạo lẫn người phục tùng thường gặp nhiều khó khăn trong việc trao đổi thông tin phản hồi. Sự phản hồi xuất hiện khi nhà lãnh đạo sử dụng các kỹ thuật đánh giá và giao tiếp để giúp các cá nhân và tổ chức học hỏi và cải thiện nhiều hơn. Quá trình phản hồi gồm bốn giai đoạn có quan hệ mật thiết với nhau: Quan sát-Đánh giá-Hệ quả-Phát triển. Người lãnh đạo và người phục tùng có thể cùng nhau xây dựng một cộng đồng dựa trên những cảm giác tin cậy, hợp tác và cam kết chia sẽ. Các thành viên cần có sự hòa hợp, chia sẽ một nền văn hóa tích cực, tận tụy, hợp tác, đóng góp cá nhân và có sự tin tưởng và thống nhất trong hành động.

-Để trở thành một nhà lãnh đạo hữu hiệu, trước hết phải là người phục tùng hữu hiệu, sẵn sàng chịu trách nhiệm, luôn tận tâm với công việc của tổ chức, vì lợi ích chung của tổ chức, không vì lợi ích cá nhân mà làm mất uy tín hay gây tổn hại đến tổ chức. Qua chương này em nhận thức được nhiều điều, hiểu biết nhiều hơn về vai trò, trách nhiệm của người phục tùng, các phương pháp xây dựng và phát triển cộng đồng người phục tùng hữu hiệu, cách khai thác nhu cầu và tạo ra động lực thúc đẩy cho người phục tùng phát triển…. Về bản thân em, muốn trở thành một người phục tùng hữu hiệu thì em phải: năng động và sáng tạo hơn, phải nỗ lực hết mình để hoàn thiện bản thân, kiến thức, cũng như kinh nghiệm, kỹ năng sống và làm việc. Sẵn sàng nhận trách nhiệm và cam kết hoàn thành, chủ động kiểm soát thời gian, hòa đồng với mọi người, tham gia tích cực vào các hoạt động đoàn - trường, các hoạt động xã hội…, luôn sống hết mình, có mục tiêu và lí tưởng rõ ràng, với nguyên tắc: “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Nhận thức và hiểu rõ các mục tiêu đặt ra để rồi xây dựng cho riêng mình một chiến lược cụ thể, có tính khả thi và sát thực, một kế hoạch, một chương trình rèn luyện bài bản, để thực tế hóa và đạt được mục tiêu dài hạn.

Bài nhận thức chương 8!

-Trong một tổ chức không phải hầu hết tất cả nhân viên đều làm việc hết năng lực của mình. Có người luôn luôn nhiệt tình, tích cực, làm việc hăng say, cống hiến hết mình cho tổ chức. Bên cạnh đó lại tồn tại nhiều thành phần kém năng động, lười biếng, làm việc một cách thụ động, xem lợi ích cá nhân quan trọng hơn lợi ích của tập thể.... Nhân viên thường sẽ biết cách tự tìm cho mình câu trả lời hay tự đưa ra các giải pháp. Mọi hành động của họ hầu như được thúc đẩy bởi một điều gì đó. Các nhà lãnh đạo cần phải thúc đẩy, động viên nhân viên của mình, đáp ứng những nhu cầu của họ bằng những phần thưởng bên trong và bên ngoài. Khi nhân viên trình bày một vấn đề khó khăn, hãy hỏi họ nên giải quyết vấn đề này như thế nào hoặc có đề xuất gì. Có vậy nhân viên sẽ có cơ hội để thể hiện sự hiểu biết của mình và phát triển bản thân. Để hiểu rõ hơn về cách thức thúc đẩy nhân viên, đọc kỹ chương “động cơ thúc đẩy và trao quyền” sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ ràng và sâu sắc hơn từng khía cạnh, cũng như bản chất của vấn đề và có cái nhìn bao quát hơn về nó. Học xong chương này, chúng ta có thể áp dụng các phần thưởng bên trong và bên ngoài đối với từng nhân viên, có thể động viên người khác bằng việc đáp ứng các nhu cầu ở mức cao hơn, áp dụng được các lý thuyết động viên dựa trên nhu cầu, thực thi các hệ thống thưởng cá nhân, tránh các bất lợi của chính sách “củ cà rốt và cây gậy”, chia sẽ quyền lực cho nhân viên.

-Động cơ thúc đẩy là lực lượng ở bên trong hoặc bên ngoài tới các con người, đánh thức lòng nhiệt tình, tính kiên trì để theo đuổi một chuỗi hành động nào đó. Nó tác động đến năng suất cũng như lợi nhuận của tổ chức. Trong mô hình đơn giản về động cơ của con người, các nhu cầu của người phục tùng như ăn uống, nhận thức và tiền bạc chuyển thành áp lực thúc đẩy các hành vi cụ thể nhờ đó thõa mãn nhu cầu tới các hành vi thực hiện thành công, nhu cầu của họ thõa mãn. Điều quan trọng của việc thúc đẩy là nó có thể hướng dẫn cho những hành vi liên quan đến năng suất trong tổ chức. Những người lãnh đạo có thể sữ dụng lý thuyết động cơ thúc đẩy để giúp thõa mãn nhu cầu của người phục tùng và đồng thời khuyến khích thực hiện công việc với hiệu suất cao hơn.

-Khi những người công nhân không được thúc đẩy để đạt được mục tiêu của tổ chức thì lỗi lầm thuộc về những nhà lãnh đạo. Trong công việc, người phục tùng có thể phải thực hiện các hoạt động mà họ không đặc biệt thích thú, vì vậy điều quan trọng là nhà lãnh đạo phải luôn tìm cách làm phù hợp giữa người phục tùng và công việc nhờ đó những người phục tùng có được phần thưởng cá nhân bên ngoài. Hơn nữa, các nhà lãnh đạo cũng phải cố gắng tạo ra môi trường để con người làm cảm giác có giá trị và cảm giác rằng họ đang đóng góp điều gì có giá trị chung, nhờ đó người phục tùng được hưởng phần thưởng chung bên trong. Cách thức để người lãnh đạo làm thỏa mãn tất cả mọi người bằng phần thưởng bên trong, đó là giao cho họ quyền kiểm soát công việc của mình và quyền lực tác động tới kết quả. Người phục tùng có thể trở nên sáng tạo, đổi mới và phát triển một sự gắn kết mạnh mẽ hơn là mục tiêu. Người lãnh đạo có thể tạo ra tình thế, trong đó tích hợp nhu cầu của con người, đặc biệt là nhu cầu cao với những mục tiêu cơ bản của tổ chức.

-Như chúng ta đã biết, có rất nhiều lý thuyết động viên người phục tùng dựa trên nhu cầu như lý thuyết về hệ thống thứ bậc của nhu cầu: con người luôn muốn được thúc đẩy để phát triển, theo lý thuyết này, Mas Low đã xác định 5 mức độ của nhu cầu thúc đẩy đó là nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu về quan hệ, nhu cầu được kính trọng và nhu cầu khẳng định mình. Các nhu cầu được thỏa mãn theo thứ tự, các nhu cầu ở thứ bậc thấp chiếm ưu thế, chúng phải được thỏa mãn trước các nhu cầu cao hơn. Khi các nhu cầu được thỏa mãn tầm quan trọng của nó giảm xuống và các nhu cầu cao hơn được kích hoạt. Con người với nhu cầu cao về thành tích sẽ có khuynh hướng thích công việc có tính đổi mới và chấp nhận rũi ro. Sau khi tìm hiểu và phân tích rõ nhu cầu của nhân viên người lãnh đạo có thể giúp người phục tùng đáp ứng nhu cầu của mình trong khi đạt được mục tiêu của tổ chức. Làm thỏa mãn, khơi dậy những nhu cầu tiềm ẩn trong nhân viên, làm rõ nhu cầu cá nhân, cung cấp các kết quả mong muốn và đảm bảo rằng các cá nhân có nỗ lực và sự hỗ trợ cần thiết để thực hiện tốt, đạt được kết quả mong muốn. Để rồi từ đó có thể xây dựng một kế hoạch cụ thể, lên chương trình phát triển, thúc đẩy phát triển động cơ của nhân viên một cách hiệu quả và tối ưu nhất.

-Khi bạn biết cách trao quyền cho người khác, thúc đẩy và tạo cảm hứng cho họ, họ sẽ muốn làm việc với bạn để giúp đỡ bạn đạt được những mục tiêu trong công việc của mình. Khả năng thu hút kiến thức, nhiệt huyết và năng lực của họ sẽ tạo sức mạnh cho bạn, làm đòn bẩy cho bạn, nhờ đó bạn hoàn thành được khối lượng công việc lớn hơn và trong thời gian ngắn hơn so với những người khác. Trao quyền nghĩa là “đưa quyền lực vào tay ai đó”, đồng thời có nghĩa là “thu hút sức lực và nhiệt huyết” từ họ. Vì vậy, bước đầu tiên trong việc trao quyền cho người khác là hạn chế làm những việc có thể tước quyền lực hoặc giảm bớt sức lực và nhiệt huyết của người khác đối với những việc họ làm.

-Bất kỳ một nhân viên làm việc trong một tổ chức hay một doanh nghiệp nào thì cũng muốn nắm trong tay một ít quyền lực, họ muốn được lãnh đạo của mình chia sẽ một ít quyền lực, nhà lãnh đạo cần phải trao quyền cho nhân viên, họ có thể dịch chuyển từ chỗ nỗ lực kiểm soát hành vi bằng cách tiếp cận “ củ cà rố và cây gậy” sang cung cấp cho nhân viên quyền lực,thông tin và quyền hành, tạo điều kiện cho phép họ tìm thấy sự thỏa mãn bên trong nhiều hơn đối với công việc của mình, giúp người phục tùng hiểu biết tầm quan trọng của công việc họ làm với sứ mệnh và thành tích của tổ chức, nhờ đó trao cho họ quyền điều khiển trong phạm vi họ được tự do hành động.

-Qua chương này em rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân là không những phải tạo ra động cơ thúc đẩy cho bản thân mình mà còn phải tìm cách giúp đỡ mọi người xung quanh, truyền cảm hứng, tạo động lực thúc đẩy để họ cùng phát triển. Đặt ra mục tiêu và cụ thể hóa nó bằng những kế hoạch, chiến lược thích hợp, chấp nhận mọi thách thức và dũng cảm đương đầu với rủi ro, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, tạo nên mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, hòa đồng với bạn bè thầy cô… Có thái độ ứng xử hợp lí, tế nhị, công bằng với mọi người, không được thiên vị hay cố tình bênh vực, chê bai, trách móc bất kỳ ai. Tham gia tích cực, đóng góp, thúc đẩy công việc của nhóm theo hướng tốt đẹp, tiến bộ hơn, cảm nhận được giá trị phần thưởng của người khác giành cho mình đối với những gì mà mình đã nỗ lực bỏ ra và ngược lại. Khen ngợi, công nhận thành tích của người khác , phản đối và thẳng thắn phê bình, đóng góp ý kiến, quan điểm, có biện pháp xử phạt hiệu quả đối với những người có hành vi không tốt, ảnh hưởng xấu đến lợi ích của tập thể cũng như lợi ích của riêng từng cá nhân…. Có trách nhiệm tự tạo ra cơ hội thăng tiến, cơ hội học tập và thành đạt cho bản thân, phát triển kinh nghiệm cá nhân, xây dựng kỹ năng sống và làm việc hợp lí, hiệu quả, có lối sống lành mạnh. Tăng cường nỗ lực nhằm tránh những hậu quả không mong muốn, chú trọng vào mối quan hệ giữa hành vi và kết quả, hiểu được những giá trị, nhân tố kích thích nhu cầu, tham vọng của con người, đưa ra những phương pháp, cách thức giải quyết, hành vi phù hợp để đạt được thành công hơn mong đợi.

Bài nhận thức chương 5

+Trong cuộc sống chúng ta thường gặp rất nhiều người có thể kiểm soát được suy nghĩ của mình, hiểu rõ bản thân và nắm bắt được cảm xúc của đối phương để có thể đưa ra cách ứng xử hợp lý để điều khiển hành động một cách đúng đắn. Ngược lại nhiều người không thể kiềm chế được bản thân, suy nghĩ nông cạn, bồng bột hành động một cách hấp tấp và lỗ mãn, kết quả là công việc chẳng đâu vào đâu. Những người có năng lực, khả năng tư duy, kiểm soát được suy nghĩ và hành động của mình, ta gọi đó là trí tuệ cảm xúc.

+Trong giao tiếp ứng xử, trí tuệ cảm xúc là một kỹ năng sống còn trong công việc của nhà lãnh đạo, nó trở thành một yếu tố cho sự thành công. Như chúng ta đã biết có những nhà lãnh đạo tài ba, lại vấp ngã những thất bại không phải do năng lực chuyên môn yếu kém mà do họ thất bại trong việc sữ dụng trí tuệ cảm xúc thông qua các mối quan hệ trong công việc đối xử với nhân viên. Chỉ 25% các nhà lãnh đạo thành công có chỉ số IQ cao hơn trung bình. Các công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng chỉ số EQ chính là yếu tố quyết định sự thành công trong mỗi con người. Người lãnh đạo hữu hiệu được xem là có năng lực về một tập hợp các kỹ năng cần thiết, đòi hỏi nhiều kỹ năng thực tiễn cụ thể và kỹ năng nhận thức. Trong môi trường phức tạp, các nhà lãnh đạo cần chỉ ra, định hướng và giúp đỡ cho người phục tùng, nhận thức rõ giá trị bản thân, giá trị tinh thần, khơi dậy năng lực tiềm ẩn trong họ để từ đó tạo ra được động cơ thúc đẩy cao. Khả năng học hỏi và phát triển của một người từ kinh nghiệm cuộc sống là một biểu hiện quan trọng của tiềm năng lãnh đạo.

+Nhận thức là quá trình mà con người dùng để cảm nhận môi trường thông qua việc lựa chọn, tổ chức, và giải thích thông tin từ đó. Nhận thức trở thành một phần của mô hình tinh thần của một người, quyết định cách thức nhà lãnh đạo suy xét con người, các tình huống và các sự kiện. Nắm rõ được các giả định, nhận thức và hiểu được nó ảnh hưởng đến cảm xúc và hành động như thế nào là bước đầu tiên hướng đến việc thay đổi mô hình lãnh đạo tinh thần và nhìn nhận thế giới theo cái nhìn mới.

+Trí tuệ có thể phát triển theo bốn lĩnh vực chính: tư duy độc lập, tư tưởng cởi mở, tư duy hệ thống và ưu thế cá nhân. Bốn lĩnh vực chính này quan hệ mật thiết với nhau định ra cách ứng xử, cung cấp một nền tảng vững chắc giúp cho nhà lãnh đạo có thể kiểm tra các mô hình tinh thần của họ và vượt qua những điểm mù giới hạn tính hiệu quả lãnh đạo và sự thành công của tổ chức. Những người tư duy độc lập sẵn sàng đứng riêng, có ý kiến và nói lên những gì họ nghĩ và quyết định hành động dựa trên những gì mà cá nhân họ tin tưởng hơn là những ý kiến của người khác. Tư duy độc lập là một phần của những gì được gọi là sự lưu tâm của nhà lãnh đạo. Lưu tâm là thường xuyên, liên tục đánh giá lại những cách thực hiện công việc đã học được từ trước trong bối cảnh thông tin luôn tiến triển và tình thế thay đổi không ngừng. Sự lưu tâm bao gồm tư duy độc lập và cả tính ham hiểu biết, ham học hỏi của nhà lãnh đạo.

+Tư duy hệ thống là năng lực để nhận ra sự cộng hưởng của một hệ thống như một khối thống nhất chứ không phải là từng thành phần riêng biệt nhau và để tăng cường hoặc thay đổi toàn bộ khuôn khổ hệ thống. Tư duy hệ thống cho phép nhà lãnh đạo tìm ra những mô thức dịch chuyển theo thời gian và chú ý đến tính nhịp nhàng cao của luồng chu chuyển, phương hướng, hình dạng và mạng lưới các mối quan hệ, điều đó giúp cho toàn bộ hệ thống đạt được hiệu suất cao. Tư duy hệ thống chính là nguyên tắc tư duy và là khuôn khổ để nhận ra các mối quan hệ qua lại với nhau. Một thành phần quan trọng của tư duy hệ thống là nhận thức được sự tuần hoàn của thuyết nhân quả. Peter Senge, tranh luận rằng thực tiễn được tạo bởi các vòng tròn tuần hoàn chứ không phải theo đường thẳng. Do đó, hiểu biết về vòng tuần hoàn của tính nhân quả cho phép các nhà lãnh đạo có thể phân bổ nguồn lực hợp lý để đào tạo và phát triển khả năng lãnh đạo.

+Ưu thế cá nhân là sự phát triển và học tập, sự tinh thông của cá nhân trong cách tạo ra thuận lợi cho khả năng lãnh đạo đạt kết quả mong muốn. Sự tinh thông cá nhân gồm 3 đặc tính: tầm nhìn cá nhân, đối mặt với sự thật và độ căng sự sáng tạo. Chấp nhận và sống chung với sự cách biệt giữa sự thật và tầm nhìn, đối mặt trực diện với nó chính là khởi nguồn của ý chí kiên cường và tinh sáng tạo để tiến lên phía trước, phải có tầm nhìn kéo thực tế đến gần nó, hướng công việc đến tầm nhìn. Các nhà lãnh đạo với ưu thế cá nhân học cách đồng ý đồng thời với cả ước mơ và hiện tại và làm giảm khoảng cách bằng cách dịch chuyển gần đến ước mơ.

+Trí tuệ cảm xúc nghĩa là có khả năng quản trị hiệu quả chính bản thân và các mối quan hệ của con người. Một năng lực quan trọng của nhà lãnh đạo là hiểu được các loại cảm xúc mà con người có và cách các cảm xúc tự thể hiện chính nó. Bốn khía cạnh biểu lộ cảm xúc chung của chúng ta là sự sợ hãi, giận giữ, buồn bã và sự thích thú.

+Khi được kết hợp cùng nhau 4 bộ phận cấu thành: năng lực tự nhận thức, năng lực tự quản,nhận thức xã hội và các mối quan hệ sẽ thiết lập nên những nền móng vững chắc của trí tuệ cảm xúc mà dựa vào đó nhà lãnh đạo có thể dẫn dắt các nhóm và tổ chức hiệu quả hơn.

+Nhiều nhà lãnh đạo đang nhận ra rằng trong một môi trường mà sự quan tâm và tôn trọng con người ngày càng tỏ ra hữu hiệu hơn so với kiểu lãnh đạo khiến nhân viên lúc nào cũng phải nơm nớp sợ hãi. Thể hiện sự tôn trọng và tin cậy không chỉ khiến cho nhân viên làm việc hiệu quả hơn, mà nó còn làm cho nhân viên cảm thấy có sự gắn kết tình cảm với công việc, do đó cuộc sống của họ sẽ sung túc và cân bằng hơn. Tình yêu có thể được xem như là một tác động động cơ thúc đẩy khiến nhân viên cảm thấy họ tồn tại, kết nối với mọi người và tiếp thêm sinh lực cho nhân viên. Các nhân viên hưởng ứng đối với tình yêu bởi vì nó có thể nắm bắt được những những nhu cầu được tôn trọng và công nhận bản thân của nhân viên dù họ không hề nói ra. Tư duy có lý trí là rất quan trọng đối với việc lãnh đạo, nhưng việc lãnh đạo lại dùng tình yêu để xây dựng sự tin cậy, sáng tạo và lòng nhiệt huyết.

+Qua chương này, em thấy mình có những đặc điểm như: rất tâm lí, dễ đồng cảm, luôn hòa đồng với mọi người, luôn nhiệt tình và sẵn sằng giúp đỡ người khác trong khả năng của mình. Mỗi khi giải quyết một vấn đề, một mối quan hệ nào đó em thường bị các yếu tố tình cảm chi phối, cảm xúc đan xen với lý trí, đôi lúc làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn. Nhưng em tin những suy nghĩ và hành động đó là đúng và phù hợp, nó giúp cho em cảm thấy vui hơn, tự tin hơn để học tập và làm viêc tốt hơn nữa.... Tuy học nhiều, biết và nắm vững nhiều kiến thức, có được khả năng suy luận, óc phán đoán… Nhưng vẫn không thể nào có hiệu quả khi áp dụng vào thực tế; tầm nhìn còn hạn hẹp, vẫn chưa có được tầm nhìn xa của một nhà lãnh đạo tương lại, cái gọi là trí tuệ cảm xúc em thấy mình vẫn chưa có đủ. Chính vì thế trong thời gian tới em phải cố gắng nhiều hơn nữa, tự học hỏi qua sách vở, báo chí, kinh nghiệm của những người đi trước, các nhà lãnh đạo thành công… để trau dồi, áp dụng nó vào thực tế hiệu quả hơn, biến nó thành một kỹ năng, một vũ khí mạnh mẽ cho riêng mình.

Bài nhận thức chương 9.

-Truyền thông (communication) là quá trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Trong lãnh đạo và quản lí truyền thông là một kỹ năng cực kì cần thiết đối với bất kì một nhà lãnh đạo thiết thực nào. Lãnh đạo có nghĩa là truyền thông với người khác sao cho có thể gây ảnh hưởng và thúc đẩy họ hành động vì mục tiêu chung trong tương lai và hướng đến những kết quả mong đợi. Truyền thông hữu hiệu sẽ giúp công việc được truyền tải một cách nhanh chóng và dễ dàng, bao gồm việc trình bày chính xác, ít nhiễu, như là một yếu tố quyết định đến sự thành công. Truyền thông còn có thể truyền cảm hứng, tạo động lực cho nhân viên và có khả năng tạo dựng các giá trị và sự tin cậy cho tổ chức. Để có thể phát huy hiệu quả, các kênh truyền thông cần được mở ra và thông suốt trong cả hệ thống.

-Trong chương này, có rất nhiều vấn đề giúp có thể truyền thông một cách hữu hiệu hơn. Chúng ta có thể hiểu được sự khác nhau giữa một nhà truyền thông quản trị và một nhà lãnh đạo truyền thông - Nhà lãnh đạo hành động như một quán quân truyền thông chứ không chỉ như một người xử lý thông tin. Từ đó có cách thức phát triển bản thân cho hợp lý. Truyền thông giỏi thôi chưa đủ, nhà lãnh đạo còn cần phải biết lắng nghe tốt, vì lắng nghe để tiếp nhận các phản hồi trong quá trình truyền thông, giúp các nhà lãnh đạo biết được đối tác có hiểu sai vấn đề hay không. Chúng ta còn có thể biết cách chọn các kênh truyền thông thích hợp cho các thông điệp truyền thông khác nhau. Sử dụng truyền thông để gây ảnh hưởng và thuyết phục người khác. Biết cách để truyền thông hữu hiệu khi có căng thẳng và xung đột.

-Đọc xong chương này, đối với bản thân em nhận thấy rằng khả năng truyền thông của mình là cực kì yếu kém. Vì ngại thuyết trình, rụt rè, nhút nhát trong các buổi thảo luận trên lớp, không dám đặt câu hỏi và trả lời…nên khả năng truyền đạt thông tin, truyền đạt ý tưởng là không thuyết phục, đôi lúc khiến người khác khó hiểu. Mặc dù có những ý tưởng, những đề xuất hay và mới mẽ nhưng vẫn không thể diễn đạt thành lời, cô cạn hết ý để người nghe hiểu và cảm nhận được . Đó là một hạn chế rất lớn của bản thân, tuy đã cố gắn sửa chữa, mạnh dạn phát biểu trong các buổi thuyết trình, viết bài trên các diễn đàn… nhưng vẫn chưa hoàn toàn thay đổi được, khắc phục được. Vì vậy,muốn trở thành một nhà lãnh đạo hữu hiệu trong tương lai thì bản thân cần học tập và rèn luyện nhiều hơn nữa. Học xong chương “truyền thông lãnh đạo” giúp em hiểu và nhận thức rõ nét hơn về truyền thông và cách thức diễn đạt để truyền tải thông tin một cách hữu hiệu nhất. Tự tin để chọn cho mình một phương pháp truyền thông thích hợp, hiệu quả trong từng hoàn cảnh, tình huống cụ thể ... Tích cực tiếp cận các phương thức truyền thông khác nhau, và vượt qua những rào cản về truyền thông bằng lời, tăng cường khả năng thuyết phục người khác bằng cách đưa ra và truyền đi một định hướng cụ thể, thích hợp, và dễ nhớ. Linh hoạt và sáng tạo để truyền tải đi những thông điệp ít gây nhiễu, chính xác và có nội dung thuyết phục nhất.

BÀI NHẬN THỨC CHƯƠNG 10

Mỗi một nhóm đều cần một người lãnh đạo, người lãnh đạo giỏi sẽ giúp nhóm vượt qua rất nhiều khó khăn cũng như hoàn thành tốt các công việc, nhiệm vụ được giao. Liệu bản thân mình đã đủ khả năng để lãnh đạo nhóm chưa? Sau khi nghiên cứu tìm hiểu chương 10 - “Lãnh Đạo Nhóm” em đã hiểu được rất nhiều điều, chẳng hạn như: nhóm được chia làm mấy loại? quá trình phát triển của một nhóm gồm bao nhiêu giai đoạn? Sự khác nhau cơ bản giữa đội và nhóm. Những yếu tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của nhóm. Cách các nhà lãnh đạo quản trị các xung đột phát sinh trong nhóm.

Nhóm là một đơn vị có từ hai người trở lên hành động phối hợp nhằm đạt được mục tiêu chung. Hiện nay, các bộ môn trong các trường Đại học áp dụng phương pháp làm việc nhóm rất nhiều, đặc biệt là các môn chuyên ngành. Việc làm việc nhóm giúp cho các sinh viên có thể giao lưu học hỏi lẫn nhau nhiều hơn, chia sẻ hay luân phiên các vai trò lãnh đạo cho nhau, giúp nhau tự hoàn thiện kỹ năng của bản thân. Mỗi sinh viên trong nhóm đều có trách nhiệm với các công việc được nhóm phân chia, các thành viên trong nhóm thảo luận một cách cởi mở và không bị ràng buộc bởi ranh giới nào cả. Một tác dụng khác rất hữu ích của làm việc nhóm là có thể kết hợp và bổ sung các kỹ năng khác nhau của các thành viên trong cùng một nhóm để làm việc hiệu quả hơn. Một quy mô nhóm tốt chỉ nên có khaongr từ 5-12 người, và lý tưởng nhất là 7 người vì vừa đảm bảo tính đa dạng của nhóm cũng như tính thân mật giữa các thành viên trong nhóm. Một nhóm tốt không có nghĩa nhóm đó bao gồm nhiều thành xuất sắc, mà nhóm tốt là nhóm có các thành viên biết vượt qua cái tôi cá nhân và cùng nhau hướng về lợi ích chung của nhóm. Chỉ khi con người chế ngự được nhu cầu, mong muốn cá nhân của họ và kết hợp kiến thức, kỹ năng, nỗ lực của họ nhằm đạt được mục tiêu chung khiến họ trở thành một nhóm.

Nhóm phát triển qua bốn giai đoạn khác nhau, nhưng tù vào điều kiện hoàn cảnh khác nhau có thể lược bớt vài giai đoạn. Dù là ở giai đoạn nào đi chăng nữa, vai trò của người lãnh đạo luôn quan trọng. Nếu trong giai đoạn thành lập, vai trò của người lãnh đạo là thúc đẩy các giao tiếp, thiết lập các nguyên tắc, cách thức làm việc nhóm thì trong giai đoạn tiếp theo, giai đoạn giông tố, người lãnh đạo cần thể hiện vai trò của mình cao hơn nữa, họ cần giúp các thành viên tìm ra mục tiêu và sứ mệnh chung của nhóm để có thể giải tỏa các mâu thuẫn, tránh các xung đột nội bộ. Giai đoạn bình thường hóa sẽ diễn ra rất nhanh và vai trò của người lãnh đạo là nhấn mạnh sự cởi mở trong nhóm và khuyến khích truyền thông. Khi bước vào giai đoạn vân hành, các nhà lãnh đạo cần khuyến khích các thành viên thực hiện các nhiệm vụ chung và giúp tự quản nhóm.

Qua tìm hiểu em biết thêm được sự khác nhau giữa đội và nhóm. Điểm khác nhau cơ bản của đội với nhóm là MỤC ĐÍCH. Một nhóm có thể không có mục đích, hoặc mục đích chỉ ở mỗi cá nhân. Học nhóm vì tất cả các thành viên trong nhóm đều muốn đạt kết quả cao nhưng chẳng có gì để đánh giá thành tích của nhóm, không ai biết rõ ràng thế nào là thành công, thất bại. Ví dụ nhóm có mục đích "tất cả nhóm đều đỗ Đai học" nhưng khi không đỗ hết thì ai bảo nhóm đã thất bại. Tính kỉ luật trong nhóm cũng không cao, giò giấc không ổn định, không phân chia phòng ban...Một đội thì không thể không có Mục đích và Tầm nhìn. Nếu không có Mục đích thì cả đội sẽ không biết mình đang làm việc để làm gi, và dĩ nhiên việc tan dã là điều không tránh khỏi. Nếu không có Tầm nhìn thì đội của bạn cũng sẽ không biết sẽ đi về đâu, sẽ trở thành cái gì và dĩ nhiên các bạn vẫn làm, vẫn làm mà chẳng biết mình sẽ thành cái gì, các bạn cũng không biết mình phải cố gắng đến đâu để đạt được cái Tầm nhìn đó, làm là làm thôi.Các quy tắc trong 1 đội cũng phải được tuân thủ, phải phân chia nhiệm vụ rõ ràng, giờ giấc cố định.....

Các nhóm thành công bắt đầu với những người lãnh đạo nhóm hữu hiệu và tin cậy. tuy nhiên, việc lãnh đạo nhóm yêu cầu sự thay đổi về tư duy và hành vi của những người lãnh đạo đang làm việc trong các tổ chức truyền thống, nơi mà những người quản trị ra quyết định. Để trở thành người lãnh đạo nhóm hiệu quả, thì phải sắng sàn thay đổi mình, bước ra bên ngoài vùng cố gắng và từ bỏ các giả định đã từng dẫn dắt các hành vi.

Những nhà lãnh đạo nhóm phải phát biểu nột viễn cảnh rõ ràng và thuyết phục, tạo mục tiêu chung cho mọi người, tạo ra một tập thể thống nhất,hòa đồng. phải tự nhận ra những điểm yếu, những sai lầm do mình gây nên, và phải chịu trách nhiệm về những sai lầm đó. Phải quan tâm đến các thành viên nhóm, hỗ trợ họ, tạo cơ hội để họ phát triển bản than mình, khuyến khích để họ nỗ lực, đóng góp hết mình cho nhóm.

Với xu thế toàn cầu hóa lên ngôi, sự cách biệt về mặt địa lý đòi hỏi con người phải sáng tạo ra các phương pháp làm việc mới hiệu quả và phù hợp với tình hình hiện tại. Vì vậy các nhóm toàn cầu và nhóm ảo đang ngày được mở rộng và phát triển, các nhóm ảo có thể là một nhóm xuyên chức năng hoạt động tạm thời, cũng có thể là nhóm dài hạn, tự định hướng. việc sữ dụng nhóm ảo cho phép tổ chức sữ dụng người tốt nhất cho một công việc cụ thể, bất kể họ ở đâu, khi nào. Với sự cách biệt về văn hóa, ngôn ngữ như vậy các nhà lãnh đạo nhóm ảo phải tin tưởng vào các thành viên nhóm, phải từ bỏ hầu hết sự kiểm soát, đồng thời phải khuyến khích, hỗ trợ tạo điều kiện để các thành viên phát triển. ngoài ra để nhóm làm việc với hiệu quả cao, lâu dài các nhà lãnh đạo phải chọn các thành viên nhóm thích hợp, phải có kiến thức công nghệ, có các kỹ năng và các đặc tính để làm việc một cách hữu hiệu, cam kết cùng sẽ chia, gắn bó với nhóm , phải tạo được sự uy tín,tạo dựng các quan hệ cá nhân, giao tiếp tốt và rộng rãi, sữ dụng các phương tiện truyền thông rộng, có thể tương tác trực tiếp với nhân viên của mình.

Các nhà lãnh đạo nhóm toàn cầu cần phải có những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết, phải hiểu biết rộng không những về trình độ tư duy mà còn về nền văn hóa, phong tục tập quán cảu các nước. hiểu biết nhiều ngôn ngữ để vượt qua các ngăn cách văn hóa và ngôn ngữ. để nhóm đi đến thành công, tất cả thành viên nhóm phải đạt đến một sự nhận thức sâu sắc về các giá trị văn hóa và các quan điểm khác biệt với người khác. Các thành viên cũng phải mở rộng tư duy, phát triển văn hóa chung của nhóm toàn cầu, phải sẵn long rời bỏ phần nào các giá trị chuẩn mực của mình và thiết lập các chuẩn mực, quy tắc mới cho nhóm. Hơn nhữa nhà lãnh đạo phải vừa thõa mãn các thành viên, vừa phải hoàn thành nhiệm vụ, phải tạo ra động lực thúc đẩy, khuyến khích các thành viên nhóm.

Tuy nhiên tất cả các nhóm trải qua một số mâu thuẫn vì nguồn lực khan hiếm, truyền thông không hoàn hảo, xung đột mục tiêu,khác biệt về vị thế và quyền lực hay các mâu thuẫn cá nhân. Các nhà lãnh đạo xử lý các xung đột khác nhau. Hơn nữa, họ khai thác các kỹ thuật để giải quyết xung đột như: thống nhất mọi người theo một viễn cảnh được chia sẽ, sử dụng...

Một tổ chức, một nhóm hay một công ty muốn phát triển tốt và làm việc có hiệu quả đều cần có người đứng ra lãnh đạo. người lãnh đạo là người có trách nhiệm làm cho tổ chức cũng như làm cho nhóm phát triển vững mạnh, cân bằng và có đạo đức. là người có khả năng đưa ra những quyết định đúng và những lý lẽ khiến người khác khâm phục và tin tưởng, có khả năng giao tiếp tốt cũng như thuyết phục người khác để cùng theo đuổi mục tiêu chung, định hướng mục tiêu chung.

Bản thân đang là sinh viên ngồi trên ghế nhà trường, đang có cơ hội làm việc nhóm rất nhiều nên em sẽ tích cực tham gia vào các nhóm hoạt động, tự trau dồi và hoàn thiện bản thân từ các thành viên khác trong nhóm. Tích lũy kinh nghiệm làm việc nhóm để sử dụng khi đi làm. Học cách giải quyết các vấn để phát sinh trong nhóm theo cách “vừa lòng nhau”. Trao đổi với các thầy cô đã có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực này. Em hi vọng sau khi ra trường em sẽ có đủ năng lực để lạnh đạo tất cả các nhóm mà em tham gia.

1.Bản chất lãnh đạo

2.Thuyết đặc điểm, hành vi, quan hệ

3.Thuyết lãnh đạo theo tình huống

4.Tính cách lãnh đạo

5.Trí tuệ lãnh đạo

6.Đạo đức lãnh đạo

7.Phát triển người phục tùng

8.Động viên và trao quyền

9.Truyền thông lãnh đạo

10.Lãnh đạo nhóm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro