Lê Duẩn

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Nhìn lại vai trò của ông Lê Duẩn (kỳ 1)

Lê Duẩn (1907-1986),

Tổng Bí thư Đảng Cộng

sản Việt Nam từ 1960 cho

đến khi qua đời năm

1986, có một ảnh hưởng

chính trị rất lớn tại Bắc

Việt và ở Việt Nam sau

1975, khi hai miền thống

nhất.

Vì nhiều lý do, như nhiều

tài liệu của phía Việt Nam

chưa được giải mật, cho

đến hôm nay giới nghiên

cứu vẫn chưa biết được

hết mức độ ảnh hưởng

của ông Lê Duẩn trong các chính sách của Việt Nam mấy chục năm qua.

Nhưng gần đây nhiều tài liệu, ở cả dạng ấn hành chính thức hoặc chuyền tay, đã cung cấp thêm

thông tin có ích về vai trò và di sản của Lê Duẩn tại Việt Nam.

Theo giáo sư Stein Tonnesson, University of Oslo ("Le Duan and the Break with China", 2001),

Lê Duẩn là một trong những người miền Nam cảm thấy bị lừa vì việc chấp nhận một giải pháp

thỏa hiệp.

Làm cách mạng

Sinh ra ở Quảng Trị, Lê Duẩn tham gia "Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội" năm 1928

và là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930.

Ông Lê Duẩn giữ chức Tổng Bí thư Đảng

Cộng sản Việt Nam gần 30 năm

Trong các lãnh đạo cộng sản, ông Lê Duẩn

được xem là người có kinh nghiệm hoạt động

lâu nhất ở ba miền và ở tù lâu nhất

Năm 1931, ông chính thức bắt đầu sự nghiệp cách mạng khi được bổ nhiệm làm Ủy viên ban

tuyên huấn xứ ủy Bắc Kỳ.

Cuối năm đó, ông bị bắt và bị kết án 20 năm tù, nhưng năm 1936, được trả tự do sau khi phong

trào Mặt trận Bình dân lên nắm quyền ở Pháp và ra ân xá cho tù nhân chính trị tại Đông Dương.

Lê Duẩn bị bắt lần thứ hai năm 1940, kết án 10 năm tù và đày đi Côn Đảo.

Các nhà tù thực dân thập niên 1930-40 đã trở thành các "đại học cách mạng" nơi có việc tuyên

truyền chủ nghĩa Marx - Lenin và tuyển mộ người cho Đảng Cộng sản Đông Dương.

Những năm ngồi tù này đã tác động mạnh đến Lê Duẩn và đưa ông trở thành nhà cách mạng

cứng rắn và không ngại thử thách.

Sau khi ra tù năm 1945, ông trở thành thành viên trong chính phủ lâm thời của Chủ tịch Hồ Chí

Minh.

Khi chiến tranh tái tục tháng 12-1946, Lê Duẩn được cử giữ chức Bí thư Xứ ủy Nam Bộ (sau này

là Trung ương Cục miền Nam) cho đến năm 1954, năm xảy ra các sự kiện Điện Biên Phủ và

Hiệp định Geneva về Việt Nam và Đông Dương được ký kết.

Hòa hay chiến?

Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định vào thời điểm Hiệp định Geneva được ký, nhiều cán bộ

kháng chiến miền Nam đã rất thất vọng.

Sau khi tình thế trở nên rõ ràng là cuộc bầu cử toàn quốc mà

Hiệp định Geneva hứa hẹn sẽ không xảy ra, Lê Duẩn thúc

giục Hà Nội chuyển sang chính sách đấu tranh vũ trang ở

miền Nam.

Nhưng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản (từ 1951 đã đổi tên là

Đảng Lao Động) không muốn thông qua phương án này.

Theo giáo sư Pierre Asselin, của Đại học Chaminade,

Honolulu, người viết một tiểu luận gần đây nói riêng về vai trò

của Lê Duẩn, đã tìm cách giải thích cho sự miễn cưỡng của

ban lãnh đạo Bắc Việt lúc đó.

Thứ nhất, sau hội nghị Geneva và việc chia đôi Việt Nam, Bắc Việt thực hiện chiến dịch cải cách

ruộng đất và tập thể hóa. Nhưng chiến dịch này hóa ra có nhiều vấn đề hơn dự tính. Thứ hai, lực

lượng vũ trang Bắc Việt chưa kịp hồi phục sau tám năm đánh Pháp.

Thứ ba, Hà Nội không muốn khiêu khích sự can thiệp của Mỹ. Vào lúc này, nhiều người trong

Đảng Cộng sản chấp nhận quan điểm của Bắc Kinh và Moscow rằng Mỹ sẽ không can thiệp

quân sự vào miền Nam nếu không bị khiêu khích và sự sống còn của chính phủ Sài Gòn không

bị đe dọa.

Cuối cùng, Đại hội lần thứ 20 của Đảng CS Liên Xô năm 1956 tán thành chính sách "chung sống

hòa bình" của Nikita Khrushchev. Theo chính sách đó, các nước cộng sản không nên tìm kiếm

đối đầu quân sự với phương Tây mà cần theo đuổi cạnh tranh kinh tế với khối tư bản.

Hiệp định Geneva 1954 khiến

nhiều người không hài lòng

Theo giáo sư Pierre Asselin ở Việt Nam, Moscow không chỉ hy vọng Bắc Việt không mở lại giao

tranh, mà - cùng với Bắc Kinh - còn thúc giục Hà Nội mở lại hội nghị Geneva để giải quyết khác

biệt với chính quyền miền Nam và tránh chiến tranh.

Không muốn rạn nứt với các đồng minh bằng việc công khai bác bỏ chiến lược mới của Moscow

và ủng hộ đấu tranh vũ trang. Hà Nội, ít nhất vào lúc này, không chịu thúc đẩy chính sách vũ

trang vượt qua giới tuyến 17.

Sau Phiên họp lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương tháng Tám - Chín 1956, Tổng Bí thư

Trường Chinh bị buộc từ chức sau những sai lầm của chiến dịch cải cách ruộng đất.

Ông Hồ Chí Minh tạm thời giữ chức lãnh đạo đảng, nhưng chỉ cho đến khi tìm ra một ứng viên

thích hợp cho vị trí này.

Cuối năm ấy, vài tuần trước Phiên họp lần 11 của Ban Chấp hành, ông Lê Duẩn gửi ra Hà Nội

Đề cương cách mạng miền Nam, một trong những tài liệu quan trọng nhất của Cách mạng Việt

Nam sau 1954.

Tài liệu này sau đó được trình bày và bổ sung tại một cuộc họp của cán bộ miền Nam ở Phnom

Penh đầu tháng 12-1956, trước khi ông Lê Duẩn chính thức đệ trình cho ban lãnh đạo đảng ở Hà

Nội.

Sau khi thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đồng ý một sự gia tăng hạn chế hoạt động quân

sự ở miền Nam, một quyết định sau đó được Bộ Chính trị thông qua.

Đọc tiếp kỳ Hai: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực

Đọc tiếp kỳ Ba: Cuộc đấu tranh trong nội bộ thập niên 1960

----------------------------------------------------

Speedmancrazy

Lê Duẩn nói gì đi nữa, ông ấy vẫn là một người có tài. Thực tiễn đã chứng minh cho điều đó: nếu

không có tài thì làm sao đi lên chức Tổng Bí Thư được.

Tôi xin nêu 1 suy nghĩ của riêng mình: Lê Duẩn có tài, nhưng chỉ có tài trong một giai đoạn lịch

sử nhất định. Khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi, tính chất của thời đại quốc tế, của dân tộc VN

chuyển sang giai đoạn mới thì vai trò của những lãnh tụ như Lê Duẩn sẽ mất đi.

Ông ấy giỏi về quân sự, chính trị, nhưng không giỏi về kinh tế. Khi nước ta hòa bình, xây dựng

kinh tế trở thành mục tiêu quan trọng hàng đầu, lúc này cái tài đánh giặc của Lê Duẩn đã mất đi

vai trò tiên phong, khiến cho ông ấy mắc những sai lầm tai hại.

Điều này có phải Lê Duẩn đáng trách? Xin thưa rằng trách ông ấy là 1 việc vô ích. Anh hùng tạo

nên thời thế để rồi thời thế mới tạo ra sẽ phủ định người anh hùng. Ước gì những người giỏi về

cách mạng quân sự có thể nhường đường cho những thế hệ giỏi về cách mạng kinh tế. Bởi vì ở

VN, những con người có công giải phóng đất nước đang cố níu kéo thời thế đã qua, làm trì trệ

sự phát triển của VN trong thời đại mới.

Cuối cùng, xin tôn vinh Lê Duẩn là một anh hùng của VN trong thời chiến, và cảm thông với

những thất bại, sự "hết thời" của ông trong thời bình.

Pham, Hà Nội

Lê Duẩn là một con người giỏi về chính trị và quân sự. Điều này không thể phủ nhận, phải nói

rằng ông ta là người quyết định cho việc dành được Nam việt nam. Tuy nhiên giết nhiều người

sẽ là anh hùng, theo tôi Lê Duẩn là một anh hùng. Tuy nhiên nếu chiến tranh kết thúc ông ta từ

bỏ tham vọng thì tuyệt vời. Chính vì ở tù lâu và theo trường phái diều hâu mà Lê Duẩn đẩy việt

Nam lùi 30-40 năm. Ông ta giỏi quân sự - đồng ý, vững vàng về chính trị - ok nhưng chắc chắn

rằng ông ta là kẻ ngu dốt về đường lối kinh tế.

Hậu quả là ông ta để lại cả một hệ thống chính trị ngu dốt cho đến ngày nay. Tôi đố các bạn đến

Viêt nam mà tìm thấy ở một cơ quan từ trung ương đến địa phương nào mà không tham nhũng.

Từ giáo dục y tế... Giáo dục thì đâu có nhiều bằng thật như giả như Việt Nam? Ở đâu có thể mua

điểm đại học cũng như trên đại học và phổ thông dễ dàng như việt nam?? Nhiều vấn đề lắm. Nói

chung muốn thay đổi thì phải làm một cuộc cách mạng thay cả một hệ thống mới thành công.

PMU18 chỉ là con bài chính trị mà thôi? Hỏi rằng tầm cỡ như bộ trưởng tham nhũng thì thủ

tướng trách nhiệm ra sao? Tại sao ông ta nói liên hồi mà ông ta chẳng làm được gì??

Charlie Phan, New York

Nhìn từ góc độ: "Vô-độc-bất- trượng-phu." Dù không hoàn toàn đồng ý với tư duy của người

Cộng Sản. Nhưng từ góc độ nói trên, theo riêng tôi Lê Duẩn, dù tinh cờ hay hữu ý,là một nhân

vật rất quan trọng của lịch sử Việt Nam.

Tạm thời, hãy gác qua vấn đề tương đối của sai và đúng trong lúc này. Chúng ta nên tự hỏi: Ở

đâu mà Việt Nam có đủ tài lực, vật lực và trí tuệ để có thể đào tạo một lực lượng trí thức và

chuyên gia--đích thực--quá lớn như vậy? Ở đâu mà Việt Nam có một số lượng gần 3 triệu người

hiểu biết thế giới bên ngoài để tuyên truyền, giáo dục, phát hình, phát thanh về cho Tổ Quốc

những gía trị trân quí của Tự Do và Dân Chủ. Ở đâu mà Việt Nam có khoảng 4 tỷ USD, của phần

nổi, gởi về cho đất nước hàng năm.

Một phần của những đồng tiền này đã hủ hóa và làm cho nạn tham nhũng lan tràn, gần như hết

cách cứu chữa. Điều này chứng tỏ sự bạc nhược và yếu điểm của đảng Cộng Sản. Trong hay

nào cũng có dở, trong dở nào cũng có hay.

Những bước nhập nhằng và thăng trầm của đất nước trong hiện tại chỉ mang tính chất thời đoạn

và mãn tính. Nhìn về tương lai, chúng ta có thể hình dung được đàn con Việt sẽ hành hương về

đền Hùng hàng năm để chào hồn Việt Nam.

Ẩn danh

Tôi là thế hệ trẻ, được sinh ra khi nước nhà đã thống nhất. Năm tôi ra đời là năm Lê Duẩn mất vì

vậy tôi không chứng kiến trực tiếp mà chỉ nghe ba kể lại và qua tìm hiểu thêm.

Tôi không phủ nhận công lao cách mạng của Lê Duẩn nhưng cạnh đó tôi cũng không hề có cảm

tình với ông ta. Khi ông ta lên nắm quyền tổng bí thư thì đưa ra những chính sách làm dân hết

sức khốn khổ (điều này do ba mẹ và những người lớn tuổi nói lại, còn khốn khổ như thế nào thì

tôi không đủ thời gian để kể ra). Nhưng tóm lại là tôi nghĩ để ông nắm giữ chức tổng bí thư là một

sai lầm của trung ương.

Solitary

Theo tôi, ông Lê Duẩn là một tài năng xuất chúng, một người có công rất lớn trong sự nghiệp

giành độc lập cho Việt Nam. Tuy nhiên, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, ông là

người có tội lớn vì đã chọn con đường sai lầm, đưa đất nước vào khủng hoảng triền miên trong

cả thập niên 1976-1986.

Ông Lê Duẩn mà mất sớm hơn 10 năm thì có lẽ tốt hơn cho cả Việt Nam lẫn cho sự nghiệp

chính trị của ông!

Tasako, VN

Mới đọc có hai bài tôi chưa biết ông Lê Duẩn có công hay tội. Cứ cho là ông có công. Bi kịch của

dân tộc VN là nhiều kẻ tham quyền cố vị. Cứ tưởng tượng một ông già gần 80 tuổi mà lãnh đạo

một dân tộc trong thế giới thay đổi hàng ngày. Quả là lẩm cẩm.

XYZ, Hà Nội

Tôi vừa đọc kỳ Hai của loạt bài này và muốn nói thêm. Nghị quyết 15 vạch đường lối đấu tranh

vũ trang ở miền Nam do đại tướng Võ Nguyên Giáp cùng nhóm khởi thảo tại Đồ Sơn. Đây là cái

mốc chấm dứt đấu tranh chinh trị thống nhất đất nước.

Muốn đấu tranh vũ trang thành công, phải có hậu thuẫn là hai nước Liên Xô và Trung Quốc về cả

3 mặt chính trị, kinh tế và quân sự. Điều này là rất khó khăn vì cả hai nước LX và TQ đều chủ

trương đấu tranh hoà bình, không chủ chiến ở Việt Nam dù là luật 10-59 của chính quyền Sài

Gòn cho phép kéo máy chém đi khắp nơi chém cổ những người kháng chiến cũ.

Không vũ trang chống lại thì cách mạng miền Nam suy sụp. Ông Duẩn ý thức điều này. Nghị

quyết 15 cũng từ đây mà ra.

Ông Lê Duẩn đã rất có công trong việc tranh thủ được sự ủng hộ, viện trợ của hai nước lớn,

nhưng vẫn giữ cho một Việt Nam độc lập về chính trị, không lệ thuộc. Đó thực sự là tài năng của

ông Duẩn và là công lớn của ông.

Sau này Trung Quốc vì không lôi kéo được VN theo mình, đã hậu thuẫn cho Khơ Me đỏ chống

Việt Nam, rồi chính mình gây chiến tranh biên giới với VN. Nhưng Việt Nam vẫn đứng vững.

Công đầu này cũng thuộc về ông Duẩn.

XYZ, Hà Nội

Nói tới Việt Nam, không người yêu nước nào không kính trọng người anh hùng dân tộc Trần

Hưng Đạo và các vị vua yêu nước tài năng, đức độ như vua Trần Nhân Tông. Ngược lại, nếu

triều đình nhà Trần đa số có lập trường như Trần Ích Tắc, đầu hàng giặc Nguyên Mông để cầu

an, thì làm gì có nước Việt Nam ngày nay.

Đối với lịch sử Việt Nam hiện đại thế kỷ 20, ông Lê Duẩn là một người Việt Nam xứng đáng với

truyền thống dân tộc, kiên quyết chống ngoại xâm, kiên quyết giữ vững chủ quyền độc lập dân

tộc, đoàn kết với bạn bè những không a dua, xu nịnh dù đó là Liên Xô (cũ) hay Trung Quốc.

Tuy nhiên công và tội hình như đều có ở những con người vĩ đại. Lịch sử sẽ phán xét, chúng ta

chưa đủ điều kiện để phán xét vì chưa đủ thông tin.

Dac Anh, TP HCM

Trong mắt của bao thế hệ người Việt, chính Lê Duẩn là người có tội với dân tộc Việt Nam, ông ta

là tác giả của bao nhiêu lỗi lầm tai hại, đưa Việt Nam theo đường lối Nga sô nhưng không có sự

chọn lọc cho phù hợp với hoàn cảnh nội tại. Lê duẩn là con người sắt đá, một khuôn mẫu của

Stalin và hiếu chiến.

Chính ông ta đã đẩy Miền Nam vào cảnh khủng hoảng tồi tệ nhất từ sau năm 1975, đưa Việt

Nam sa lầy ở Kampuchia sau khi đánh Khmer Đỏ và hy sinh bao nhân mạng một cách vô ích cho

một quốc gia luôn chống lại Việt Nam. Khi Lê Duẩn mất đi, trong thâm tâm người Việt Nam rất

hoan hỉ như vừa trút bớt một đại nạn cho dân tộc. Công trạng hay tội lỗi của ông sẽ được lịch sử

phán xét, tôi chỉ mạo muội nêu lên quan điểm của riêng mình như một nạn nhân dưới thời cầm

quyền của ông. Cầu mong ông được an nghỉ.

Nguyễn Thanh, Thanh hóa

Lê Duẩn là một tài năng lớn của đất nước. Gần đây, người ta ít nói đến ông. Nhưng lịch sử

"muôn đời duyệt lại", tương lai sẽ đánh gia khách quan hơn, như Đặng Tiểu Bình đã từng đánh

giá công và tội của Mao Trạch Đông. Nhưng tôi tin có lẽ lịch sử Việt Nam đã khác, đất nước sẽ

đỡ lạc hậu hơn bây giờ nếu năm mất của ông không phải là 1986 mà là 1976!

LM, TP HCM

Bài mới được 1 kỳ, chưa thể nói gì nhiều. Lâu nay người ta chỉ trích ông Lê Duẩn nhiều, đặc biệt

là tính cực đoan của ông. Tuy nhiên, theo tôi ông này là nhân vật chống Trung Quốc cứng rắn

nhất và hiệu quả nhất.

Không nêu tên

Anh Ba là bộ óc kiệt xuất nhất của Cách mạng Việt Nam. Nhà lý luận, nhà chính trị, nhà quân sự,

người mác xít lê ninist,người bảo vệ Liên Xô vĩ đại nhất của thế giới hiện đại.

Kỳ 2: Bắt đầu cuộc thâu tóm quyền lực

Tháng 2-1951, diễn ra Đại hội lần thứ Hai của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự kiện này đánh

dấu việc Đảng Cộng sản ra công khai sau khi đã tuyên bố "tự giải tán" vào tháng 11-1945.

Cũng tại Đại hội Hai tổ chức ở Tuyên Quang, Đảng Cộng sản thông qua quyết định đổi tên thành

Đảng Lao Động.

Năm 1957, Đảng Lao động Việt Nam điều ông Lê Duẩn ra Hà Nội và chọn ông làm quyền Tổng

Bí thư và vào Thường vụ Bộ Chính trị.

Quyết định đề bạt khá bất ngờ này phản ánh lo ngại ngày càng gia tăng của Đảng về tình hình ở

miền Nam.

Sau này, viết trong tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (tháng Bảy 1969), nhà cách mạng miền Nam Trần

Văn Giàu xác nhận giai đoạn 1957-59 là "những ngày đen tối nhất" cho phong trào cách mạng ở

miền Nam.

Nghị quyết 15

Tuy vậy, mặc dù cho phép gia tăng vũ lực một cách hạn chế ở miền Nam, chính sách của Đảng

Cộng sản lúc này không xem việc đẩy mạnh bạo lực cách mạng là ưu tiên. Tại phiên họp toàn

thể lần thứ 14 vào tháng 11-1958, Ban Chấp hành TƯ không xem xét tình hình ở miền Nam, mà

đề ra kế hoạch ba năm cho phát triển kinh tế và văn hóa ở miền Bắc. Kế hoạch sau đó được

Quốc hội và Bộ Chính trị thông qua.

Ông Lê Duẩn không tham dự các buổi họp bàn này. Một tháng trước đó, Bộ Chính trị cử ông vào

miền Nam để đánh giá tình hình. Khi quay về Hà Nội tháng Giêng 1959, cùng đi với Lê Duẩn là

nhiều bí thư đảng bộ ở miền Nam, trong đó có Hai Xô, Trần Lương và Võ Chí Công.

Tại phiên họp lần thứ 15 của Ban Chấp hành TƯ, những

người này đã mô tả về "phong trào đấu tranh của đồng bào

miền Nam chống Mỹ - Diệm" và thúc giục Ban Chấp hành TƯ

ủng hộ cuộc đấu tranh vũ trang.

Theo nhận định trong một bài viết gần đây về Lê Duẩn của

giáo sư Pierre Asselin, Đại học Chaminade, Honolulu, báo

cáo của ông Lê Duẩn và các đồng chí miền Nam "nắm bắt

cảm giác thất vọng của những người chiến đấu và ủng hộ

cuộc cách mạng ở miền Nam."

"Họ cũng thể hiện sự gấp rút trong lòng những người kháng

chiến miền Nam muốn có phản ứng trước sự ủng hộ ngày càng tăng của Mỹ dành cho chính

quyền Sài Gòn."

Hội nghị Trung ương lần thứ 15 kết thúc và ra nghị quyết, trong đó một mặt vẫn nhấn mạnh cách

mạng ở miền Nam "có khả năng hoà bình phát triển", nhưng mặt khác, chuẩn bị theo phương

hướng "khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm."

Nghị quyết 15 sau này được xem là nền tảng chỉ đạo cho công cuộc vũ trang ở miền Nam vào

cuối thập kỷ 1950.

Quyết định tái tục đấu tranh vũ trang ở miền Nam được quyết định tại Hội nghị Trung ương 15 tổ

chức tháng Giêng 1959, nhưng chỉ được chính thức công bố một tuần sau việc chính phủ tổng

thống Ngô Đình Diệm ban hành Luật 10/59 vào tháng Năm.

Hà Nội cũng đồng ý chính thức đóng góp cho mặt trận ở miền Nam bằng việc gửi quân và tiếp

viện. Ngày 19-5, đoàn tiếp vận mang bí số 559 được thành lập để "mở đường tiếp vận cho mặt

trận phía nam." Tháng Tám năm ấy, đơn vị quân miền Bắc đầu tiên lên đường vào Nam qua

tuyến vận tải dọc dãy Trường Sơn ('đường mòn Hồ Chí Minh').

Có thể nói nghị quyết 15 là một thắng lợi cho những lãnh đạo cách mạng miền Nam, trong đó có

Lê Duẩn. Khi Bộ Chính trị thông qua nghị quyết này, vẫn còn có nhiều người trong Ban Chấp

hành TƯ phản đối. William Duiker (trong quyển 'Hồ Chí Minh', 2000) nhận xét đa số lãnh đạo

trong Đảng "đồng ý rằng đấu tranh vũ trang có thể là cần thiết nếu mọi lựa chọn khác đã thất

bại." Tuy nhiên, vào lúc thông qua nghị quyết 15, nhiều người ở miền Bắc không tin rằng các "lựa

chọn" khác đã được cân nhắc kỹ, và cảm thấy chưa chín muồi để chuyển sang chính sách đấu

tranh vũ trang.

Pierre Asselin cho rằng "nếu không có sức ép lớn của miền Nam lên ban lãnh đạo miền Bắc, thì

Nghị quyết 15 - quyết định tái bắt đầu chiến sự sau sáu năm gián đoạn - đã không được thông

qua."

Tổng Bí thư chính thức

Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Đại hội lần thứ Ba vào tháng Chín 1960. Nghị quyết đại hội kết

luận cách mạng Việt Nam sẽ đồng thời thực hiện hai mục tiêu: "tiến hành cách mạng xã hội chủ

nghĩa ở miền Bắc" và "giải phóng miền Nam."

Đường mòn Hồ Chí Minh là con đường vận

chuyển vũ khí và người từ Bắc vào Nam

576 đại biểu dự đại hội đã chọn Lê Duẩn làm tổng bí thư và

là người đứng đầu Bộ Chính trị.

Vì sao lại là ông Lê Duẩn, mà không phải đại tướng Võ

Nguyên Giáp, người được quốc tế biết đến nhiều nhất chỉ

sau ông Hồ Chí Minh?

Theo giải thích của ông Bùi Tín trong quyển Hoa xuyên tuyết,

ưu thế của ông Lê Duẩn là vì "một tiêu chuẩn tất nhiên hồi

ấy, ở tù lâu năm, một bằng cấp cần thiết để được giao quyền

cao chức trọng, vì từ đó được coi là được thử thách nhiều

hơn, đáng tin cậy hơn."

Hoàng Tùng, trong bài viết năm 2002 trên Tạp chí Cộng sản, cũng nói Lê Duẩn là người "hoạt

động cách mạng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam lâu dài nhất, thời gian ở tù lâu nhất" và có "quan

hệ rộng với các đồng chí thuộc cả hai thế hệ trong những năm hoạt động bí mật."

Tuy nhiên, "nhược điểm" ở tù ít của ông Giáp không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến việc ông

Duẩn được chọn.

Tính chất của các mục tiêu đề ra ở Đại hội khiến Lê Duẩn trở thành một ứng cử viên thích hợp

hơn. Thứ nhất, niềm tin của ông Lê Duẩn vào phương thức phát triển Sô viết và các nguyên tắc

kiểu Stalin hứa hẹn phù hợp mục tiêu "thực hiện công nghiệp hóa XHCN bằng cách ưu tiên phát

triển công nghiệp nặng" (Nghị quyết Đại hội Ba.) Thứ hai, và quan trọng hơn cả, thời gian hoạt

động của Lê Duẩn ở miền Trung và Nam Việt Nam thể hiện kiến thức và uy tín có thể giúp mục

tiêu "giải phóng miền Nam" và điều hòa sự hợp tác giữa cán bộ hai miền.

Ralph Smith (trong quyển "An International History of the Vietnam War", 1983) cũng ghi nhận

thêm một chi tiết: thành công của ông Lê Duẩn ở Đại hội Ba chỉ là một phần trong sự tái tổ chức

cơ cấu lãnh đạo mà sẽ kéo dài ở Bắc Việt trong cả một thập

niên sau đó.

Ralph Smith chỉ ra rằng các thay đổi trong bộ máy nhà nước

đã được loan báo ngày 15-7-1960 vào cuối phiên họp đầu

tiên của Quốc hội mới bầu ra. Ông Phạm Văn Đồng tiếp tục

là thủ tướng, với năm phó thủ tướng (trong đó có Võ Nguyên

Giáp và Phạm Hùng); nhưng ông Trường Chinh không còn là

phó thủ tướng mà chuyển sang làm chủ tịch Quốc hội.

Những người thân cận của ông cũng bị đưa ra khỏi chính phủ, trong đó Hoàng Quốc Việt và Lê

Văn Lương không còn có mặt trong Bộ Chính trị.

Tại Đại hội Ba, một Bộ Chính trị mới 11 người được hình thành gồm các ông: Hồ Chí Minh, Lê

Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí

Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị và Hoàng Văn Hoan. Trần Quốc Hoàn và Văn Tiến

Dũng được bầu là thành viên dự khuyết.

Pierre Asselin ghi nhận ban đầu sự kiểm soát của ông Lê Duẩn đối với công việc của Đảng Lao

động và chính phủ còn hạn chế.

"Xung quanh ông vẫn là những nhà cách mạng kỳ cựu nhiều ảnh hưởng, phong độ và được

quần chúng yêu mến hơn, như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, những người cổ vũ cho đường

Tại Đại hội Ba năm 1960, ông Lê Duẩn chính

thức được bầu làm Bí thư thứ nhất của Đảng

Cộng sản

[Lúc này] quanh Lê Duẩn vẫn

là những nhà cách mạng kỳ cựu

nhiều ảnh hưởng, những người cổ

vũ cho đường lối thận trọng trong

việc giải quyết vấn đề miền Nam.

Pierre Asselin

lối thận trọng trong việc giải quyết vấn đề miền Nam dẫu rằng Bộ Chính trị đã thông qua Nghị

quyết 15."

Kết quả là khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn thường tự giảm bớt chính kiến của

mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ cựu hơn.

Đây cũng là một trong những lý do giải thích vì sao mặc dù Nghị quyết 15 đã được thông qua từ

năm 1959, nhưng ngay cả sau Đại hội Ba năm 1960, vị tân Tổng Bí thư cũng chần chừ chứ chưa

thúc ép ban lãnh đạo thực hiện ngay nghị quyết này. Ông Hồ Chí Minh và nhiều lãnh đạo khác

cảm thấy còn nhiều vấn đề cản trở việc vạch ra một chiến lược cụ thể, chẳng hạn tác động có

thể có đối với Moscow, Bắc Kinh và Washington.

Tuy nhiên, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao động nhanh chóng thay đổi. Chỉ sau vài năm

kể từ lúc trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn đã xác lập uy quyền tối thượng tại Bắc Việt.

Kỳ 3: Cuộc đấu tranh trong nội bộ

Như phần hai của loạt bài này đã nói, khi mới được bầu làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn

thường tự giảm bớt chính kiến của mình để dàn xếp quan điểm của các lãnh đạo khác kỳ

cựu hơn.

Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng có mức độ của ông Lê Duẩn thời kì đầu được Thượng

tướng Trần Văn Trà kể lại trong quyển Những chặng đường lịch sử của B2 thành đồng (1992).

Một ngày của năm 1959, ông Trần Văn Trà nghe bản tin của BBC về cuộc chạm súng giữa một

trung đội quân Việt Nam Cộng Hòa và nhóm quân của những người kháng chiến ở Đồng Tháp

Mười. Theo bản tin, hai bên rút đi sau hai giờ giao tranh mà không có thương vong. Ông Trà rất

ngạc nhiên và kết luận hoặc bản tin của BBC sai lạc, hoặc khả năng tác chiến của những cán bộ

kháng chiến miền Nam cần được cải thiện.

Ngày hôm sau, đi cùng một người bạn, ông Trà đến gặp ông Lê Duẩn và nói cần đưa cán bộ tập

kết vào Nam để tăng cường đào tạo cho các đồng chí ở đấy. Ông Duẩn được cho xem đề nghị

gửi 100 cán bộ trẻ từ Bắc vào Nam.

Ông Lê Duẩn ngẫm nghĩ rồi nói sẽ khó thực hiện vì Bộ Chính trị chưa quyết. Khi ông Trà nhấn

thêm, ông Duẩn hỏi liệu có giảm số lượng được không.

Con số mới đưa ra là 50. Ông Duẩn lại bảo ông sẽ tự chịu trách nhiệm nếu con số nhỏ hơn nữa.

Cuối cùng, họ đồng ý về con số 25 người.

Tuy vậy, thế cân bằng quyền lực trong Đảng Lao Động Việt Nam sau đó bị phá vỡ.

Chiếm ưu thế

Những nghiên cứu gần đây đã cho biết rõ hơn làm thế nào ông Hồ Chí Minh mất dần ảnh hưởng

trong tiến trình ra quyết định của Đảng Lao Động kể từ đầu thập niên 1960.

Nói như William Duiker, trong cuốn Hồ Chí Minh (2000), vai

trò của ông Hồ ngày càng bị hạn chế ở tư cách "một nhà

ngoại giao kỳ cựu và cố vấn cho chính sách ngoại giao, đồng

thời làm tròn hình ảnh người cha tinh thần của nhân dân và

linh hồn của cuộc cách mạng." Uy tín cùng mối quan hệ rộng

rãi - chẳng hạn, ông Hồ có quan hệ hữu hảo với Mao Trạch

Đông - khiến nhóm lãnh đạo trẻ hơn trong Đảng Lao Động

Việt Nam, dù muốn hay không, cũng không thể loại hẳn ông

ra khỏi tiến trình chính trị và ngoại giao.

Dù vậy, tính đến thời điểm khi Mỹ chính thức đổ quân vào

miền Nam năm 1965, vai trò của ông Hồ Chí Minh ở trong

đảng chủ yếu chỉ còn mang tính lễ nghi.

Một trong những người thân nhất của ông Hồ, ông Võ Nguyên Giáp, cũng bị cô lập sau này. Đối

với dư luận quốc tế đương thời, Võ Nguyên Giáp là người anh hùng thứ hai, chỉ sau ông Hồ Chí

Minh, trong cuộc đấu tranh giành độc lập của Việt Nam. Nhiều người trong và ngoài Việt Nam

thừa nhận ông là kiến trúc sư tạo nên thắng lợi lẫy lừng ở Điện Biên Phủ, và với quân đội miền

Bắc, vị đại tướng có uy tín lớn.

Sau việc ký kết Hiệp định Geneva 1954, Lê Duẩn và nhiều người khác ủng hộ đấu tranh vũ trang

ở miền Nam, trong khi ông Giáp thuộc nhóm chủ trương kiềm chế và thận trọng.

Ông Giáp, giống như ông Hồ, chấp nhận chủ trương "chung sống hòa bình" mà Liên Xô đưa ra

lúc bấy giờ, và đồng thời tin rằng phải xây dựng nền tảng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước khi

nghĩ đến đấu tranh vũ trang ở miền Nam.

Thái độ này của tướng Giáp đặt ra một thách thức lớn cho

ông Lê Duẩn. Nhưng cuối cùng, ông Lê Duẩn đã giảm bớt

được ảnh hưởng của ông Giáp trong bộ máy lãnh đạo của

đảng. Việc cô lập tướng Giáp - cùng nhiều đảng viên cao

cấp khác - đóng vai trò quan trọng cho việc tìm hiểu ông Lê

Duẩn vì nó cho thấy người anh hùng trên chiến trường chưa

hẳn là người chiến thắng trên chính trường.

Trong tiểu luận "Lê Duẩn, the American War, and the Creation of an Independent Vietnamese

State", trình bày lần đầu ở hội nghị quốc tế về Việt Nam học ở Hà Nội năm 1998, Pierre Asselin

nhận xét: "Giống như Mao và Stalin, Lê Duẩn khao khát quyền lực tuyệt đối. Thông qua việc cô

lập ông Hồ, ông Giáp và các đồng minh của họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết lập một bộ máy

lãnh đạo ở Hà Nội không chỉ trung thành mà còn chung quyết tâm hoàn tất các mục tiêu cách

mạng."

"Ký ức về Hiệp định Geneva năm 1954 cũng có thể đã khiến Lê Duẩn tin rằng để cách mạng

thành công, ông phải loại bỏ hết những ai không tin vào chiến thắng bằng mọi giá."

Nhiều chuyên gia cho rằng đây cũng là một phần tiền đề tạo nên cái gọi là "vụ án xét lại - chống

Đảng."

Tranh cãi tư tưởng

Hồi ký "Tử tù tự xử lí" của Trần Thư, người bị dính vào vụ được quen gọi là "vụ án xét lại -

chống Đảng", mô tả không khí lúc bấy giờ là "tâm lý chủ chiến bao trùm xã hội miền Bắc" và "nếu

Ảnh hưởng của ông Hồ Chí Minh trong tiến

trình ra quyết định của đảng thập niên 1960

bị suy giảm

Thông qua việc cô lập ông

Hồ, ông Giáp và các đồng minh của

họ trong đảng, ông Lê Duẩn đã thiết

lập một bộ máy lãnh đạo trung thành.

Pierre Asselin

có ai chủ trương chung sống hòa bình và thi đua hòa bình giữa hai miền thì cũng chẳng dám nói

ra."

Mâu thuẫn giữa nhóm của ông Lê Duẩn và những người chỉ trích đạt đỉnh cao ở Hội nghị TƯ 9

năm 1963 và sau đó, tăng tốc với đợt bắt giữ nhiều người ở

Hà Nội vào năm 1967.

Tháng Giêng 1963, chủ tịch Novotny của Tiệp Khắc thăm Hà

Nội và ra một tuyên bố chung phản ánh quan điểm của Liên

Xô và ca ngợi chung sống hòa bình là "chính sách đúng đắn

nhất."

Nhưng sau khi Novotny về nước, xung đột giữa hai nhóm

tạm gọi là "thân Liên Xô" và "thân Trung Quốc" trong đảng

Lao Động căng thẳng hơn. Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị

quy trách nhiệm cho tuyên bố chung của Novotny và bị thay

bằng ông Xuân Thủy.

Sử dụng tư liệu giải mật của Đông Đức, Martin Grossheim, trong bài nói về "chủ nghĩa xét lại" ở

Bắc Việt, đăng trong tạp chí Journal of Cold War Studies tháng 11-2005, dẫn lời sứ quán Đông

Đức ở Hà Nội năm 1963 nói các vị trí chủ chốt ở Bộ Ngoại giao, Thông tấn xã...đã được giao

cho các cán bộ "theo sát đường lối Trung Quốc."

Đây là các biện pháp chuẩn bị cho chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ, đến Hà

Nội tháng Năm 1963. Chuyến thăm đưa Hà Nội đến gần hơn Trung Quốc, với tuyên bố chung

gọi "chủ nghĩa xét lại" và "cơ hội hữu khuynh" là đe dọa chính cho phong trào cộng sản quốc tế.

Tư liệu giải mật cho biết sứ quán các nước Đông Âu có quan điểm gần Liên Xô như Đông Đức,

Hungary và Tiệp Khắc, trong năm 1963, đã báo cáo rằng báo chí ở miền Bắc ngày càng phản

ánh quan điểm "thân Trung Quốc."

Sứ quán Đông Đức tháng Tám năm ấy kết luận "các nhân tố thân Liên Xô" trong đảng Lao Động

đã bị cô lập một cách có hệ thống.

Đến tháng Chín, một bài báo của ông Lê Đức Thọ, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, được in

trên báo Nhân Dân. Trong đó, tác giả nói một số đảng viên bị ảnh hưởng của "chủ nghĩa xét lại"

và vì thế nghi ngờ chiến lược thống nhất đất nước của đảng.

Phía Đông Đức lúc bấy giờ kết luận bài báo của ông Lê Đức Thọ là "một sự tấn công trực diện

nhắm đến các đồng chí chia sẻ quan điểm thân Liên Xô," và là một bước lớn trong sự chuẩn bị

cho Hội nghị Trung ương lần thứ 9 sắp tiến hành.

Hội nghị Trung ương lần thứ 9 của đảng Lao Động ở Hà Nội diễn ra cuối năm 1963 trong bối

cảnh vừa xảy ra cuộc đảo chính giết chết tổng thống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn, đã tạo nên câu

hỏi có nhân cơ hội này để đẩy mạnh đấu tranh vũ trang ở miền Nam hay không. Đồng thời, cuộc

cãi vã giữa Liên Xô và Trung Quốc trên trường quốc tế ngày càng căng thẳng, đặt Hà Nội trong

tình cảnh khó xử, vì đảng Lao Động hiểu rằng để đạt mục tiêu thống nhất đất nước, họ sẽ phải

dựa vào hai đồng minh này.

Tại Hội nghị TƯ lần thứ 9, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã phê phán chủ

trương chung sống hòa bình và hội nghị kết thúc với nghị quyết đẩy mạnh công cuộc đấu tranh

bằng vũ lực ở miền Nam.

Chuyến thăm Hà Nội của Chủ tịch Trung

Quốc, Lưu Thiếu Kỳ (bên trái), năm 1963

đánh dấu việc hai nước xích lại gần hơn

Sau Hội nghị TƯ 9, nhóm do ông Lê Duẩn đứng đầu tăng cường phê phán "chủ nghĩa xét lại

hiện đại" (ám chỉ chủ trương thi đua hòa bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau, mà

Liên Xô, dưới thời Khrushchev, cổ vũ, nhưng Trung Quốc thì chỉ trích).

Trong loạt bài "Tăng cường mặt trận tư tưởng để củng cố Đảng" của ông Lê Đức Thọ, được

đăng sau Hội nghị TƯ 9, có sự thừa nhận rằng một thiểu số trong đảng không đi theo đường lối

đã ra. Mặc dù bài báo không nêu tên cụ thể, nhưng theo các quan sát viên, sự ám chỉ nhắm đến

những người như Bùi Công Trừng, Dương Bạch Mai, Lê Liêm, Ung Văn Khiêm...những người

đã phát biểu phản đối nhóm của ông Lê Duẩn ở Hội nghị TƯ 9.

Ông Lê Đức Thọ cũng loan báo các đảng viên sẽ phải dự các lớp học tập và chỉnh huấn để thấm

nhuần nghị quyết của Hội nghị TƯ 9.

Sứ quán Đông Đức khi ấy có được trong tay nội dung của các lớp học này, theo đó, các học viên

phải hiểu sâu sắc sự khác biệt giữa "chủ nghĩa Mác - Lê chân chính" và "chủ nghĩa xét lại."

Nhà nghiên cứu Martin Grossheim nhận xét chiến dịch chỉnh huấn này "không chỉ để đối phó các

quan điểm bất đồng trong đảng, mà còn là công cụ tuyên truyền để chuẩn bị cho tinh thần của

người ở miền Bắc trước diễn biến chiến tranh leo thang."

Diễn biến 1967-68

Những tranh cãi trong nội bộ đảng không dừng lại ở năm 1963-64 mà sẽ tiếp tục trong giai đoạn

1967-68.

Ban đầu, vì lo ngại sẽ đánh mất sự hỗ trợ của Liên Xô, nhóm của ông Lê Duẩn thận trọng không

đưa ra các tuyên bố công khai phản ánh thái độ bài Liên Xô và thân Mao. Vì lẽ đó, dự thảo nghị

quyết của Hội nghị TƯ 9 ban đầu đã kèm cả đoạn văn lên án trực tiếp Khrushchev, nhưng do

yêu cầu của Lê Duẩn, đoạn này được bỏ đi.

Tuy nhiên, Khrushchev mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô năm 1964, quân Mỹ đổ bộ

vào miền Nam, và miền Bắc bắt đầu bị đánh bom năm 1965 - những diễn biến này đã đưa Hà

Nội và Moscow gần nhau hơn. Kể từ đó, ông Lê Duẩn và các đồng minh cảm thấy đủ tự tin để

theo đuổi chiến dịch loại bỏ chủ nghĩa xét lại một cách công

khai và gay gắt hơn.

Nghiên cứu gần đây nhất về sự kiện này, được Sophie

Quinn-Judge công bố trên tạp chí Journal of Cold War

Studies tháng 11-2005, ước lượng trong sự biến 1967-68,

khoảng 30 nhân vật cao cấp bị bắt, và có lẽ có tới 300 người

tất thảy, gồm các tướng lĩnh, nhà lí luận, giáo sư, văn nghệ sĩ

và phóng viên truyền hình được đào tạo ở Moscow. Một

trong những người bị bắt đầu tiên là Hoàng Minh Chính, nguyên Viện trưởng Viện Triết học, bị

bắt tháng 7-1967 và bị tống giam.

Cần nói rằng người ta vẫn còn biết rất ít về quá trình ra quyết định của Đảng Cộng sản Việt Nam

mấy chục năm qua.

Riêng trong vụ án xét lại 1967-68, không một ai liên lụy được mang ra xét xử. Cho đến thập niên

1990, một số người còn sống và gia đình người đã khuất vẫn gửi các thư và thỉnh nguyện xin

phục hồi danh dự. Và như Sophie Quinn-Judge nhận định, "cho đến nay, chính quyền Việt Nam

vẫn công bố rất ít các tài liệu về việc ra quyết định ở cấp cao hơn từ thư khố của chính họ."

Nhóm thứ nhất dựa trên quan

điểm rằng trí thức có vai trò quan

trọng trong xã hội cộng sản, trong

khi nhóm kia đặt giá trị cộng sản lên

trên tri thức

Sophie Quinn-Judge

Có nhiều cách diễn giải khác nhau về sự kiện năm 1967-68.

Tài liệu có tiêu đề "Hoạt động của một số thế lực thù địch và chống đối" do Đảng Cộng sản phổ

biến năm 1994, cáo buộc ông Hoàng Minh Chính và nhiều người dính líu vụ án chống Đảng là đã

nắm một biên bản mật về một cuộc hội đàm Việt-Trung và định gửi ra ngoại quốc, đồng thời họ bị

cho là thu thập tài liệu để tiến tới một chương trình hoặc phác thảo đối lập để chống đối Đảng.

Trong khi đó, nhiều người bị tù thời kì ấy cho rằng một nguyên nhân của "vụ án chống Đảng" là

vì ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ muốn dùng "hiểm họa xét lại" để hạ uy tín của ông Võ Nguyên

Giáp. Chia sẻ phân tích này, Judith Stowe, trong bài "Revisionism in Vietnam" (1995) nói ông Võ

Nguyên Giáp "là đối tượng chính của chiến dịch bài trừ khuynh hướng xét lại."

Pierre Asselin, trong bài viết về Lê Duẩn, nói thêm "do quá nguy hiểm nếu công kích cá nhân ông

Giáp, nên ông Lê Duẩn nhắm đến đội ngũ ủng hộ vị tướng, đặc biệt những người thân cận và

trung thành nhất trong hàng ngũ cấp cao của Đảng và chính phủ."

Sophie Quinn-Judge lại cho rằng vụ án chống Đảng 1967-68 thể hiện một cuộc đấu tranh tư

tưởng, chứ không đơn thuần mang tính cá nhân, trong nội bộ đảng.

"Đó là cuộc cạnh tranh giữa [một bên là nguyện vọng] thống nhất dân tộc (trong khuôn khổ liên

minh yêu nước), phát triển khoa học và tiến bộ kĩ thuật với [phía bên kia là] khát vọng cách mạng

của quần chúng và sức mạnh biến đổi của cách mạng bạo lực. Nhóm thứ nhất dựa trên quan

điểm rằng trí thức có vai trò quan trọng trong xã hội cộng sản, trong khi nhóm kia đặt giá trị cộng

sản lên trên tri thức."

Kỳ 4: Một di sản gây tranh cãi

Sau kết quả của điều gọi là "vụ án xét lại - chống Đảng", cán cân quyền lực trong

Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiêng hẳn về phía ông Lê

Duẩn.

Những người ủng hộ quan điểm của ông Lê Duẩn được đề bạt và trở thành một phần

quan trọng trong cơ cấu lãnh đạo.

Các đồng minh

Sự trợ giúp mà ông Lê Duẩn nhận được từ ông Lê Đức Thọ trong suốt tiến trình thâu tóm

quyền lực là vô cùng quan trọng.

Tham gia cách mạng từ những năm 1920, ông Lê Đức Thọ trải qua nhiều năm trong tù.

Khi được thả năm 1945, ông được gửi vào miền Nam và làm phó cho ông Duẩn trong

suốt giai đoạn xung đột giữa Việt Minh và Pháp. Quan hệ giữa hai người này sẽ có một

ảnh hưởng sâu sắc trong đảng. Khi ông Lê Duẩn trở thành Tổng Bí thư, ông Lê Đức Thọ

được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, một vị trí mà theo William Duiker, được

nhanh chóng "biến thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên."

Pierre Asselin nói thêm rằng ông Lê Duẩn "không thể củng cố uy quyền một cách hiệu

quả như đã làm nếu không có sự ủng hộ của ông Lê Đức Thọ; sự trung thành và trợ giúp

của người này tỏ ra cần thiết để thanh lọc ban lãnh đạo ở Hà Nội."

Một người đóng vai trò lớn trong cuộc chiến Việt Nam là đại tướng Nguyễn Chí Thanh.

Cho đến giữa thập niên 1960, miền Bắc chỉ có hai đại tướng bốn sao là ông Võ Nguyên

Giáp (Bộ trưởng quốc phòng kiêm Tổng tư lệnh) và ông Nguyễn Chí Thanh (Chủ nhiệm

Tổng cục Chính trị).

Một số chuyên gia nước ngoài như Douglas Pike đã ghi nhận sự cạnh tranh và khác biệt

trong tư tưởng quân sự giữa hai vị tướng này.

Trong một bài viết năm 1966, tướng Giáp nói cuộc xung đột ở miền Nam là một cuộc

chiến kéo dài và rằng chiến lược quân sự có thể mất nhiều năm để đạt thắng lợi. Ông nói

ông không tin vào "các trận đánh sử dụng đơn vị chính quy lớn vì điều này có lợi cho

chiến lược của kẻ thù."

Tướng Thanh ngay lập tức có phản ứng. Trong bài viết đăng ở tạp chí Học Tập, tướng

Thanh cho rằng chiến lược tấn công ở miền Nam là con đường đúng dẫn đến thắng lợi và

nói thêm rằng lập luận của những người chỉ trích là "không logich."

Một trong những lý do đưa ông Lê Duẩn và ông Nguyễn Chí Thanh trở thành đồng minh

gần gũi là vì ngay từ đầu, hai người cùng quan điểm rằng con đường dẫn đến thắng lợi ở

miền Nam phụ thuộc vào quân sự.

Gần đây hơn, trong bài viết năm 2002 về vai trò của những người gốc miền Nam trong

cuộc chiến mang tựa đề "Why the South Won the American War in Vietnam," Robert

Brigham ghi nhận tướng Giáp "từ lâu đã chỉ trích tư tưởng quân sự của tướng Thanh, và

ông công khai bày tỏ nghi ngờ về hiệu quả của chiến lược tấn công của tướng

Thanh...Ông Võ Nguyên Giáp ngày càng trở nên thận trọng và thực tiễn trong cuộc chiến

chống Mỹ. Một số người nói điều này rốt cuộc khiến ông đánh mất uy quyền chính trị."

Ông Lê Duẩn hiểu rằng việc giảm uy thế của tướng Giáp có thể tạo ra chỉ trích và chống

đối. Vì thế, nói như lời của chuyên gia Pierre Asselin, "bằng cách đề bạt và tạo điều kiện

cho sự nghiệp của tướng Nguyễn Chí Thanh, ông Lê Duẩn thành công trong việc tạo nên

một thần tượng mới trong quân đội."

Mặc dù đại tướng Nguyễn Chí Thanh qua đời đột ngột năm 1967, nhưng quan điểm của

ông, rằng cuộc chiến nhân dân không thể thắng lợi nếu thiếu hỗ trợ của các đơn vị chính

quy lớn, tiếp tục giữ ảnh hưởng ở Hà Nội. Từ cuối 1965 đến khi chiến tranh kết thúc năm

1975, ngày càng nhiều các sư đoàn bộ binh chính quy được đưa từ miền Bắc vào Nam.

Bằng cách giảm ảnh hưởng của những người như ông Hồ Chí Minh và tướng Giáp, và đề

bạt những người trung thành, ông Lê Duẩn đã tạo ra một cơ cấu lãnh đạo mà những niềm

tin và nguyên tắc lãnh đạo của nó để lại ảnh hưởng sâu sắc ở Việt Nam.

Thời hậu chiến

Cuối năm 1976, tại Đại hội Bốn, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản

Việt Nam.

Ông Lê Duẩn tái đắc cử chức Tổng Bí thư . Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức: Lê

Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp,

Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương,

Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công và Chu Huy Mân. Ba ủy viên dự khuyết là Tố Hữu, Võ

Văn Kiệt và Đỗ Mười.

Nói về những người cộng sản giai đoạn hòa bình lập lại, David Elliott, trong quyển sách

được đánh giá cao The Vietnamese War (2003), nhận xét những thành viên cách mạng

còn sống đến phút cuối cuộc chiến "thường là những người cứng rắn, giáo điều và tin

tưởng tuyệt đối vào cách mạng. Nhưng đây không phải lúc nào cũng là những người đủ

khả năng đưa VN đi tiếp trên đường phát triển."

"Họ đã từng thể hiện sự dũng cảm phi thường, thậm chí anh hùng. Nhưng họ cũng đã học

những thói quen để sống còn mà giờ đây kiềm chế sự phát triển của một hệ thống cởi mở

hơn thời hậu chiến...Quan trọng nhất, niềm tin rằng phong trào cách mạng quan trọng hơn

mọi quyền lợi cá nhân đã dẫn tới sự coi thường quyền và lợi ích của nhân dân, và thường

trở thành cớ cho việc lạm dụng quyền lực của những cán bộ, những người coi thường quy

tắc pháp trị tư sản và cho rằng mục tiêu cách mạng có thể biện minh cho phương pháp."

Pierre Asselin, trong tiểu luận về Lê Duẩn, đã nói thay nhiều người khi cho rằng "dưới

thời Lê Duẩn, ít thay đổi tích cực nào xảy ra ở Việt Nam giai đoạn sau khi thống nhất."

Tháng Bảy năm 1986, trước lúc diễn ra Đại hội Đảng lần thứ Sáu, ông Lê Duẩn qua đời.

Sự ra đi này mở cánh cửa cho quan hệ gần hơn với Bắc Kinh - do ông Lê Duẩn sau này

đã trở thành biểu tượng của sự không đồng thuận về nhiều điểm với Trung Quốc - và sau

đó, với các chính phủ Tây phương, trong đó có Mỹ.

Cũng từ 1986, việc đề cử ông Nguyễn Văn Linh lên làm tân Tổng Bí thư, và chính sách

Đổi mới, đã đánh dấu sự chấm dứt của thời kì lãnh đạo đất nước kiểu Stalin ở Việt Nam.

Ở đây, những thay đổi ngay sau năm 1986 ở Việt Nam cũng có thể được xem là tương tự

giai đoạn "tan băng" ở Liên Xô sau khi Stalin qua đời, hơn là giống quá trình perestroika

đang diễn ra khi đó dưới thời Gorbachev.

Một tác giả, Seweryn Bialer, viết về Liên Xô giai đoạn sau khi Stalin qua đời và

Khrushchev lên kế nhiệm: "Đó là giai đoạn xôn xao, có phản ứng sẵn sàng hơn trước các

sức ép cả có thật lẫn được mong chờ, một giai đoạn có tiềm năng cho phép nới rộng sự

tham gia chính trị. Sự kế nhiệm, bên cạnh tầm quan trọng tự nhiên của nó, cũng là chất

xúc tác cho các sức ép và khuynh hướng vốn từ lâu tồn tại bên trong xã hội nhưng đã

không có cơ hội được bày tỏ và nhận diện." Những diễn biến ở Việt Nam sau khi ông Lê

Duẩn qua đời gần với những gì đã xảy ra sau cái chết

của Stalin hơn là thời Gorbachev.

Giai đoạn nắm quyền của ông Nguyễn Văn Linh, giống

như thời Khrushchev, cũng chấm dứt đột ngột để Đảng

có thể bổ nhiệm một lãnh đạo khác ít "cấp tiến" hơn,

thận trọng hơn.

Có thể đánh giá thế nào về cuộc đời và di sản của ông

Lê Duẩn?

Với cương vị Tổng Bí thư, vai trò chính của ông Lê Duẩn cần được thừa nhận trong

những quyết sách của Đảng Cộng sản trong cuộc chiến Việt Nam.

Mặc dù miền Bắc đã nhận nhiều viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, các nghiên cứu

gần đây - như của Ilya Gaiduk, Chen Jian, Mari Olsen - cho thấy Hà Nội duy trì sự tự

chủ trong cách tiến hành chiến tranh chống Mỹ. Tư liệu mới cho thấy trong từng thời kì,

cả Bắc Kinh, Moscow và Hà Nội đều có sự bực bội và nghi ngờ lẫn nhau. Dưới thời ông

Lê Duẩn, Đảng Cộng sản hợp tác với Liên Xô và Trung Quốc để đạt mục tiêu, nhưng

không phải là con rối trong tay hai cường quốc.

Các tài liệu chính thống ở Việt Nam hiện nay đều dành sự ca ngợi vẹn toàn cho ông. Tuy

nhiên, ẩn đằng sau những hàng chữ chính thống ấy còn là những sự tế nhị khác.

Cuối những năm 90, có quyển hồi ký của ông Trần Quỳnh - nguyên thư ký riêng của ông

Lê Duẩn và sau này là Phó Thủ tướng.

Tập sách này không được lưu hành chính thức. Nội dung sách hoàn toàn ca ngợi ông Lê

Duẩn, nhưng có thể cũng chính vì giọng văn quá ca ngợi này, cuốn sách - vô tình hay cố

ý - đã khơi lại những tình cảm u uất trong nhiều người. Đáng lưu ý, tác giả nói một mục

đích khi viết sách là để chống lại hành động "làm lu mờ bôi nhọ hình ảnh của Lê Duẩn."

Nếu quả thật, như ông Trần Quỳnh cáo buộc, rằng "sau khi Lê Duẩn qua đời, những

người lãnh đạo đất nước, những người trước đó đã ca ngợi Lê Duẩn, không dám hé răng

nói một lời xấu về Lê Duẩn, đã cố ý hay vô tình để cho chiến dịch bôi nhọ và phủ định Lê

Duẩn ngày càng qui mô hơn," thì là vì sao?

Trong giai đoạn làm Tổng Bí thư, ông Lê Duẩn có kẻ thù ở hầu khắp mọi nơi. Vì thế, như

chuyên gia Pierre Asselin chỉ ra, sự nghi ngờ của ông Lê Duẩn lớn đến mức ông "dựa vào

chỉ một vài cá nhân trong việc tìm lời khuyên và chuyên môn." Có lẽ không phải ngẫu

nhiên mà từ 1986, công thức cân bằng vùng miền (Bắc - Trung - Nam) đã được dùng khi

xét đến ba vị trí lãnh đạo nhà nước ở Việt Nam. Những bất mãn về sự tập trung quyền lực

trong tay vài người đã là một trong các nguyên nhân dẫn tới việc phân bổ quyền lực rộng

hơn sau 1986.

Niềm tin rằng phong trào

cách mạng quan trọng hơn

quyền lợi cá nhân dẫn tới sự

coi thường quyền và lợi ích của

nhân dân.

David Elliott, trích trong quyển

The Vietnamese War

Stein Tonnesson, trong lời giới thiệu cho tư liệu "Lê Duẩn and the Break with China"

(2001), nhận xét ông Lê Duẩn "là lãnh đạo có quyền lực lớn thứ hai ở Việt Nam trong thế

kỷ 20." Quyền lực ấy đã được sử dụng thế nào có lẽ là câu hỏi lớn mà bất kì nghiên cứu

nào trong tương lai đều sẽ muốn tìm một câu trả lời đầy đủ.

Trò chuyện với con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn

- Cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra khi Lê Kiên Thành vừa đọc lại khoảng 500 ý

kiến phản hồi của độc giả VietNamNet sau bàn tròn trực tuyến Những kỳ vọng về

Đại hội Đảng mà anh là một trong ba khách mời.

Trước đó, anh cũng đã có cuộc trò chuyện trên báo An ninh thế giới về những chặng đường để

anh - con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, người từng nghĩ "mình hoặc là chết, hoặc thành anh

hùng" trở thành một doanh nhân được coi là thành đạt; về những gì "Còn mãi về sau" mà thế hệ

cha mẹ anh đã dày công vun đắp... Ngay chiều hôm đó, lại vừa có một đoàn nhà báo Cuba do

báo Nhân dân giới thiệu đến thăm xưởng sản xuất của công ty và để nghe "ông chủ" Lê Kiên

Thành nói chuyện về Đảng viên làm kinh tế tư nhân. Anh nói: "Một người có xuất thân như tôi trở

thành một doanh nhân đã khiến mọi người chú ý..."

Quý từng đồng lẻ và sẵn sàng bỏ qua hàng núi tiền

Bình thường như bao doanh nhân khác, anh bắt đầu câu chuyện về những gói mì tôm - sản

phẩm chính của công ty Thiên Minh hiện nay, về những gì mà mình đã từng có như Công ty

Công nghệ vật liệu - Thiên Minh ngày nay, TechcomBank, Khách sạn Galaxy, Cát Tiên Sa...

Hiện tại, công việc kinh doanh cụ thể của anh là gì?

- Sản xuất mỳ ăn liền, kinh doanh máy văn phòng, ngoài ra còn có một công ty làm về khách sạn

ở Hà Nội (Galaxy Hotel), một công ty về bất động sản ở TP.HCM. Ở các công ty đó đều có người

điều hành, tôi chỉ là Chủ tịch HĐQT, riêng công ty Thiên Minh là kiêm chức luôn chức giám đốc vì

sự nghiệp kinh doanh của tôi đã đi lên từ đó. Tôi cũng từng là Chủ tịch HĐQT của Techcombank

nhưng đã rút hết cổ phần ra trong năm vừa rồi.

Có người nói, anh dám bỏ Nhà nước ra làm ngoài năm 1990 vì mình là con ông Duẩn?

- Không, vì lúc đó ba tôi không còn nữa. Trong công việc, tôi chưa bao giờ sử dụng một mối

quan hệ nào ngoài nỗ lực của chính mình. Thời điểm đó, tôi thành lập công ty chỉ có mỗi con dấu

thôi, không có gì cả.

Với cương vị là Tổng Bí thư lâu dài như vậy, ba anh hẳn phải để lại nhiều mối quan hệ tình nghĩa

và trong số đó...?

- Và ngược lại nữa chứ!

"Biết nâng niu quý trọng từng

đồng tiền lẻ và sẵn sàng bỏ

qua hàng núi tiền vì những giá

trị cao quý - nghe qua thì có

vẻ mâu thuẫn nhau ghê gớm,

nhưng nếu nó qui tụ lại được ở

một con người thì rất quý".

Và tôi tin rằng, những người giàu nhất VN hiện nay không phải là con cái những ông lớn. Nhiều

người trong số họ thành công hơn chúng tôi không phải do họ thông minh hơn mà là do vận hội,

may mắn nhiều hơn, giống như trúng xổ số vậy. Nhưng đến một lúc nào đó, nếu có sự công

bằng về cơ hội, thì người giàu chắc chắn phải giỏi.

Tất nhiên, nói một cách công bằng hơn, tôi cũng được thừa hưởng ở gia đình những điều mà

người khác không có được, đó là danh tiếng. Khi ba tôi gần mất, ông nói: Khi chết, có lẽ ba

không để được lại một đồng xu nào, có chăng, chỉ là cái tiếng. Bước vào kinh doanh, tôi nghiệm

thấy: sao ông nói chính xác như vậy. Cùng điều kiện "dự thầu" như nhau, với nhiều đối tác nước

ngoài, nếu tình cờ biết xuất thân, họ sẽ chọn tôi.

Nhưng về một mặt nào đó, cũng phải nghĩ rằng, trong kinh doanh - mình chỉ ỷ vào sự thừa kế

danh tiếng là điều không tốt.

Tôi đã từng làm chung quán cà phê với nhạc sĩ Phú Quang. Nhiều người nghĩ khách hàng đến

đây vì danh tiếng của ông Phú Quang, nhưng thực tế rất nhiều người đến đây không vì danh

nghĩa ông Phú Quang. Nếu chúng tôi làm cà phê ngon thì mới thu hút được khách, chứ nếu

chỉ dùng danh tiếng ông Phú Quang để "câu" mọi người đến thì về lâu dài là sai.

Để có được cơ ngơi như bây giờ, anh có... va chạm nhiều tệ nhũng nhiễu không?

- Hồi mới thành lập, công ty của chúng tôi có tên là Công ty Công nghệ vật liệu, nằm trong khuôn

viên của Viện Khoa học Việt Nam nên chẳng liên quan gì đến thuế má. Hồi đó tôi còn chẳng hề

có khái niệm là phải nộp thuế. Rất ấu trĩ.

Va chạm đầu tiên của tôi trong chuyện làm ăn là với báo chí - khoảng năm 1990, lúc đó Liên Xô

chưa sụp đổ. Chúng tôi tiên liệu là sắp tới thì sẽ không có chuyện đi du học theo đường Nhà

nước nữa nên tìm cách móc nối với một số trường ĐH của Nga để "kinh doanh" du học, khoảng

500 đô la/một học sinh. Sau khi quảng cáo được đăng trên báo, đến cơ quan tôi thấy số lượng

người đến tìm hiểu, đăng ký đông như biểu tình. Có lẽ là vì bọn tôi lờ đi chữ "du học Liên xô" đi

mà chỉ ghi là đi "du học nước ngoài" nên người ta kéo đến đông như vậy. Lập tức, một PV đến

hỏi: Các anh có chức năng làm việc này không? (Vì thời điểm đó, ai có chức năng tổ chức du

học chưa được đề cập đến. Bọn tôi chỉ dựa vào một văn bản hướng dẫn của Bộ GD&ĐT ghi điều

kiện của thành phần được đi du học mà không nói rõ những cơ quan nào được tổ chức đưa học

sinh đi). Chúng tôi bị phóng viên đó "xoay" là làm trái chức năng.

Tôi "cãi": "Nếu bây giờ chúng tôi mở một quán phở ngay ngoài đường kia và cán bộ nhân viên đi

bán phở thì chẳng ai hỏi chức năng cả. Chúng tôi làm một việc rất gần với nghề nghiệp của mình

thì tại sao lại phải hỏi "chức năng". Cậu ấy hỏi: Tại sao anh lại tổ chức đi du học tại Liên xô? Tôi

bảo: Bây giờ nếu đi du học tại Singapore, Thái Lan... là bình thường, nhưng hỏi tên của 3 nhà

bác học người Sing thì tôi e là anh không nói được nhưng nếu anh hỏi tôi các nhà bác học Liên

xô thì tôi có thể chỉ cho anh ngay lập tức 100 vị.

Đó gần như là va vấp đầu tiên.

Trong một cuốn sách, Tiến sĩ Đặng Kim Sơn có nói rằng cơ chế của mình đã "đẻ" ra chuyện

phong bì. Khi làm doanh nghiệp, anh có phải "đi đêm", phải dùng phong bì để giải quyết những

mối quan hệ, để khỏa lấp những điều không thuận lợi do cơ chế?

- Bắt buộc phải dùng phong bì thôi. Bạn hỏi vì sao ư? Vì tôi không thể loại mình ra khỏi xã hội

được. Vì cơ chế xã hội mình đang sai, vì bản thân những người nhận phong bì đó không thể

sống bằng lương được. Cho nên, về nguyên lý, hiện nay một số người buộc phải tham nhũng để

tồn tại, để nuôi nổi mình và doanh nghiệp phải coi đó là những chi phí bình thường, chi phí cho

nền tảng xã hội này, khi nền tảng xã hội chưa ở mức bình thường, mà trong đó sự vô lý của

đồng lương là một ví dụ điển hình.

Và bài học anh để lại cho các con mình sau một thời gian kinh doanh?

- Tôi vẫn thường dạy cho các con: Khi nào con thấy quý vô cùng một đồng tiền và đồng thời cảm

nhận được rằng hàng vạn đồng tiền chẳng có ý nghĩa gì, thì lúc đó mới có thể thành công được.

"Có những cái tôi học được rõ nhất

ở cha tôi thì về mặt bản chất nó

không phải là tố chất người kinh

doanh, mà lại dễ tôi dẫn đến thất

bại - đó là lòng thương người".

Có những người khi làm ăn, được một đồng thì nâng niu, quý hóa nhưng khi có một vạn đồng

tiền thì thay đổi, đánh mất bạn bè, anh em và những giá trị khác.

Nhưng có những người thì ngược lại, không biết nâng niu một đồng tiền, không biết tiết kiệm một

đồng tiền vì đồng tiền đó không phải do mồ hôi nước mắt mà có. Người mà có thể đánh bạc

hàng triệu đô thì không thể là người biết nâng niu, quý trọng một đồng tiền.

Biết nâng niu quý trọng từng đồng tiền lẻ và sẵn sàng bỏ qua hàng núi tiền vì những giá trị cao

quý - nghe qua thì có vẻ mâu thuẫn nhau ghê gớm, nhưng nếu nó qui tụ lại được ở một con

người thì rất quý.

Anh từng trải qua cảnh nghèo không?

- Tôi vẫn nhớ hồi ở bộ đội, mỗi lần được phát một bộ đồ mới thì tôi thường ngắm nghía bộ đồ cũ,

đắn đo mãi xem là mình có thể mặc bộ đồ này thêm 1 năm nữa không để bán bộ đồ mới đi gửi

tiền về mua sữa cho con. Hồi đó, vợ chồng tôi vẫn sống chung với với ba mẹ.

Trong những tố chất làm nên một doanh nhân, có điều gì anh học được từ cha mình một cách rõ

rệt?

- Có những cái tôi học được rõ nhất ở cha tôi thì về mặt bản chất nó không phải là tố chất người

kinh doanh, mà lại dễ tôi dẫn đến thất bại - đó là lòng thương người. Có lẽ tôi không thể rất giàu

được cũng vì tố chất đó. Hiện nay, ở Việt Nam, thương trường rất khốc liệt, để có thể thành công

trong kinh doanh, đôi khi phải chấp nhận sự tráo trở. Nếu làm được một điều gì đó mà để người

khác "chết" thì mình không làm được. Như việc đi ra khỏi Techcombank trong thời điểm đang

làm ăn thuận lợi nhất, nhiều người thấy khó hiểu nhưng tôi thanh thản. Cũng có thể, tôi vốn sinh

ra không phải để làm kinh doanh mà là nhờ một sự ngẫu nhiên do xã hội đưa đẩy.

· Lương Bích Ngọc - Nguyễn Thu Thuỷ (thực hiện)

Kỳ 2: Anh có hiểu được cha mình không?

(Đối thoại về vị trí của cố Tổng bí thư Lê Duẩn và sự kiện Mậu Thân năm 1968; về nỗi ám ảnh

cuộc đời ông trong suốt 20 năm, về mối quan hệ giữa ông với các đồng chí lãnh đạo cao cấp

cùng thời)

"Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc một số biên bản cuộc họp Bộ chính trị thời đó có thể công bố

để lịch sử có thể sáng rõ hơn; và con cháu có thể thấu hiểu những điều mà cha ông họ

từng trải qua để có được như bây giờ. Và có thể, đó cũng là bài học cho hậu thế..."

Tiếp tục cuộc trò chuyện với ông Lê Kiên Thành về vị trí của cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong các

sự kiện lịch sử quan trọng như 1968,1975... Vì chưa có dịp kiểm chứng nên tòa soạn và phóng

viên không khẳng định những vấn đề liên quan đến tư liệu lịch sử trong phần trả lời của nhân vật

là quan điểm của mình. Nếu thấy chưa thỏa đáng, độc giả có thể tranh luận lại với nhân vật đối

thoại và chúng tôi sẽ lựa chọn để đăng tải.

Kỳ 1: Trò chuyện với con trai cố Tổng Bí thư Lê Duẩn

- Điều gì ở cha mình khiến ông ngưỡng mộ nhất?

- Đó là phương pháp tư duy, và cách phân tích sự việc. Ông từng nhắc với tôi câu nói của Lênin:

Phân tích sự việc bằng trí óc, nhưng hành động bằng trái tim. Ông cho rằng: Khi trái tim mình

đập đúng, thì mình phải hiểu được nó. Ví dụ, khi yêu đất nước đến vô cùng, đến mức trái tim chỉ

có thể đập vì nó, người ta lại có những quyết định khác thường, những quyết định xuất phát từ

những suy luận khác thường và không theo quy luật bình thường...

Một người bạn Mỹ nói với tôi: trong chiến tranh, suy cho cùng thì vật chất lớn hơn thắng vật

chất nhỏ hơn, không chứa đựng yếu tố tinh thần. Anh ta dẫn lời Napoleon nói: Chúa chỉ đứng

về kẻ mạnh. Tôi nói rằng, cha tôi đã nhìn thấy trong quy luật của sức mạnh đó có những điều

lạ kỳ: Trong chiến tranh có những lúc A lớn hơn B, nhưng 2A lại chỉ bằng 2B và 3A lại nhỏ hơn

3B. Yếu tố tinh thần đã tạo ra một sức mạnh vật chất chống lại quy luật của sức mạnh vật chất

vẫn tồn tại trên thế giới bình thường. Bình thường, sức mạnh tinh thần đó chưa đủ làm nên sức

mạnh vật chất cụ thể, nhưng khi được khơi dậy và tổ chức lại một cách khoa học thì sức mạnh

tinh thần đó có thể biến thành một sức mạnh vật chất phi thường. Vì thế mà duy nhất người Việt

Nam hạ được B52 của Mỹ trong chiến tranh vừa qua.

Khi sang Mỹ, chứng kiến sự hùng mạnh của họ, tôi rất tự hào mình là người Việt Nam; và tôi

hiểu rằng mình phải mạnh như thế nào thì mới thắng được Mỹ.

- ...Và vì những suy luận không theo quy luật bình thường đó mà trong suốt hai mươi năm, cha

ông đã từng có những hành động quyết đoán vì mục đích thống nhất đất nước?

- Sau này, cha tôi có kể lại cho chúng tôi nghe kỷ niệm về một lần ông dám... nói dối TƯ, nhưng

là nói dối vì toàn cục, vì mục đích thống nhất đất nước. Đó là năm 1959, ông sang Trung Quốc

và Liên Xô xin ý kiến về việc đánh Mỹ nhưng bị cản rất dữ dội. Họ có lý của họ vì cho rằng Mỹ rất

mạnh, không chừng nếu đánh thì không những không giải phóng được miền Nam mà còn mất cả

miền Bắc, thậm chí có thể gây ra thế chiến thứ III, còn việc thống nhất đất nước thì cần phải có

thời gian lâu dài hơn nữa.

Thế nhưng, là người nắm vững quy luật của Cách mạng Việt Nam, càng để lâu, máu xương của

đồng bào càng đổ nhiều, ông quyết định thưa với Bác và TƯ: "Các đồng chí ấy ủng hộ..."

Và sau này, việc ông nói trong một cuộc họp: "Chúng ta không được sợ Trung Quốc, Liên Xô,

không sợ Mỹ" cũng đã khiến TƯ lúc đó bị sốc. Trong một cuộc họp khác, ông Hoàng Văn Hoan

đã đứng lên chất vấn: "Thưa Bác tôi muốn anh Ba giải thích lại là tại sao trong cuộc họp trước,

anh Ba lại nói là không được sợ TQ, không được sợ LX - có nghĩa là gì?" Nghe thế, ông Nguyễn

Chí Thanh vụt đứng dậy nói: "Thưa Bác, điều anh Ba nói là rất đúng và cực kỳ cần thiết". Tất cả

mọi người đều vỗ tay.

Khi đã vượt qua sự khó khăn ban đầu bằng tinh thần độc lập tự chủ và thái độ kiên quyết, về

sau, chúng ta đã nhận được sự ủng hộ toàn diện và mạnh mẽ của Liên Xô và Trung Quốc.

Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc một số biên bản cuộc họp Bộ Chính trị thời đó có thể công bố để lịch

sử có thể sáng rõ hơn và con cháu có thể thấu hiểu những điều mà cha ông họ từng trải qua để

có được như bây giờ. Và có thể, đó cũng là bài học cho hậu thế.

Năm 1972, khi Trung Quốc đón Nich-xơn thì Chu Ân Lai sang gặp cha tôi ở Gia Lâm. Ban đầu,

câu chuyện của hai người khá căng thẳng. Chu Ân Lai nói là chúng tôi sẽ "bàn về vấn đề VN với

Ních xơn", cha tôi rất gay gắt, ý là: Mỹ muốn nói về VN thì sang Hà Nội nói chuyện. Người Việt

Nam tự quyết định vận mệnh của mình và không ai có thể làm điều đó thay chúng tôi...

Theo tôi được biết, lúc đó Thủ tướng Chu Ân Lai đã xin lỗi. Sau khi gặp Nich-xơn, thủ tướng Chu

Ân Lai lại sang Việt Nam và thông báo tình hình sẽ thế này, thế kia. Nghe xong, cha tôi nói: "Tôi

chỉ biết trước một điều là sau khi Nich-xơn gặp các đồng chí, Mỹ sẽ đánh chúng tôi gấp 10 lần".

Dự đoán đó đã đúng. Sau đó, Mỹ đã rải bom khắp các thành phố lớn và làng mạc miền Bắc.

Người ta vẫn nói rằng, vì cha tôi mà quan hệ Việt Nam và Trung Quốc xấu đi. Thế nhưng, họ

không biết rằng, năm 1961, tại Đại hội 81 Đảng cộng sản tổ chức tại Mátxcơva, Kholosop đưa ra

những ý kiến trong đó phê bình gay gắt Đảng cộng sản Trung Quốc. Tại cuộc họp đó, duy nhất

Đảng Lao động Việt Nam mà cha tôi là trưởng đoàn, đứng lên phản đối. Sau đó, đại diện Đảng

cộng sản Pháp có đến gặp và nói: "Các đồng chí Việt Nam chỉ biết có quyền lợi dân tộc mà xao

nhãng tinh thần quốc tế vô sản". Cha tôi trả lời: "Tinh thần quốc tế vô sản lớn nhất bây giờ là

chống Mỹ, các đồng chí hãy để chúng tôi làm việc đó".

- Anh đánh giá thế nào về chiến dịch Mậu Thân năm 1968? Sự kiện đó có mang một phần tính

cách của cha anh không?

- Bản chất sự kiện năm1968 tự nó đã nói lên một phần tính cách đó rồi. Cha tôi nói rằng đó là

một quyết định khó khăn nhất nhưng được tính toán kỹ lưỡng và mang tính quyết liệt nhất. Ông

nhận định đó là thời điểm mà nước Mỹ đứng trước 2 sự lựa chọn, một là Oét-mô-len đề nghị

tăng gấp đôi số quân lên, chiến tranh không dừng lại ở miền Nam, mà đánh ra một vài điểm miền

Bắc; thứ 2 là người Mỹ cho rằng không thể thắng được nữa và phải ra đi.

Và chúng ta đã quyết định đánh một trận lớn đến mức mà người Mỹ không thể tưởng tượng

được. Những chiến binh của mặt trận giải phóng đã có mặt tại đại sứ quán Mỹ tại Sài Gòn. Chính

người Mỹ sau này cũng nói rằng đó là trận đánh không phải vào Sài Gòn mà vào tận

Washington. Để làm được điều đó, chúng ta phải chấp nhận những hi sinh, mất mát to lớn.

Sau này ông Trần Bạch Đằng có nhắc lại một câu của cha tôi là: "Đó là một trận đánh làm tung

tóe những yếu tố chính trị mới". Đó là trận đánh mà theo tôi nên đưa vào kinh điển lịch sử nghệ

thuật chiến tranh. Rõ ràng là sau đó dẫn đến việc nước Mỹ đã rút quân. Cha tôi từng nói trong

Thư vào Nam rằng chúng ta không bao giờ thắng được Mỹ ở nấc thang đỉnh cao của chiến

tranh, nghệ thuật của mình là kéo Mỹ xuống thang và thắng ở nấc thang cuối cùng. Không làm

nhục nước Mỹ thì chúng ta mới thắng được và Mỹ mới chấp nhận cái thắng đó. Chiến dịch 1968

là trận đánh kéo Mỹ xuống nấc thang cuối cùng để dẫn tới sự kiện 1975.

- Cha anh có phải là người quyết định đánh vào Buôn Mê Thuột trong chiến dịch 1975?

- Chuyện này bây giờ vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng theo tài liệu của tướng Dũng thì đó là quyết

định của cha tôi. Và ban đầu, khi Đại tướng Văn Tiến Dũng đưa chỉ thị đó vào miền Nam, nhiều

tướng lĩnh ở đó đã phản đối. Họ nói rằng các ông ngoài Bắc không hiểu được hoàn cảnh thực tế

ở trong này, chúng ta từng dùng một sư đoàn chỉ đánh một quả đồi thôi còn không nổi, làm sao

đánh được vào thị xã lớn? Thậm chí có người còn định xin một chiếc trực thăng ra báo cáo TƯ

rằng đây là quyết định sai. Nhưng tướng Dũng bảo: Đây là quyết định của anh Ba và Bộ chính trị,

chúng ta phải làm cho bằng được.

Ông Trần Quỳnh từng nói: Anh Ba là người sáng có thể nói khác, chiều có thể quyết định khác, ý

nói ông rất biện chứng và nắm bắt được thời cuộc. Ông Trần Quỳnh nói: Tôi gần anh Ba tôi biết,

khi ăn cũng nói đến miền Nam, ngủ nghĩ đến miền Nam. Khi con người say mê với chuyện gì, họ

luôn có những ý tưởng hết sức sáng tạo về nó.

- Có thể vì những chuyện như thế mà có lời đồn rằng, cha anh đã từng nắm hết quyền lực trong

Đảng sau năm 1959? Anh có nghe những lời đồn như thế và cha anh khi sinh thời có biết những

lời xì xào như thế không?

- Sau ngày miền Bắc sai lầm trong cải cách ruộng đất, Bác Hồ đã kiên quyết gọi cha tôi ra để

giao trọng trách Tổng Bí thư. Và cha tôi đã từng ngạc nhiên bởi khi đó chỉ có mình ông là ủy viên

TƯ ở miền Nam và không phải là người gần Bác nhiều. Không những thế, Bác còn đề nghị cha

tôi giữ thêm nhiều trọng trách nhưng ông không nhận.

Tôi nghĩ rằng trong cán bộ, Đảng viên chẳng có ai đồn như bạn hỏi.

Nếu có thì sau này, người ta cũng chỉ phân tích lại quá trình để chúng ta bắt đầu cuộc kháng

chiến chống Mỹ mà trong đó ý kiến của cha tôi có sự tác động nhất định đến sự thay đổi cục

diện.

Bây giờ cuộc kháng chiến đã thành công, mọi chuyện có vẻ dễ hiểu. Thế nhưng ở thời điểm bắt

đầu, thì không phải mọi người đều thống nhất với con đường đi đó mặc dầu ai cũng muốn thống

nhất đất nước. Lý do là vì ở thời điểm bắt đầu, Liên Xô và Trung Quốc đã cản rất dữ dội, vì sợ

rằng sức mình không thể làm được điều đó.

Nhưng điều quan trọng là với khả năng của mình, ông đã thuyết phục được và cả quyết đoán

nữa để có kết quả của cuộc kháng chiến như năm 1975. Nếu nói rằng "tiếm quyền" thì hóa ra là

toàn bộ cuộc kháng chiến này do cha tôi lãnh đạo hết à? Như thế thì không phải là phê phán ông

nữa mà là đã đánh giá công lao của cha tôi lớn quá.

Những học giả phương Tây thì đánh giá thời điểm đó, Bộ Chính trị có quan điểm khác với Tổng

bí thư Lê Duẩn và những đường lối quyết định nhất của cuộc chiến là do cha tôi vạch ra.

Còn tôi hiểu rằng cha tôi là người có khả năng thuyết phục số đông.

- Quan hệ của cha anh với Tướng Giáp thế nào?

- Tôi chỉ dẫn một câu mà mà Tướng Giáp hay nói với cha tôi: Đời tôi đi làm cách mạng là nhờ

anh Ba. Cha tôi thì nói lại là: Những gì mà tôi giúp anh là vì tôi nhớ đến người vợ đầu của anh.

Chuyện là thế này, trong lúc cha tôi bị tù, có một người tù khác đã ném cho ông mẩu giấy nói

rằng ở ngoài sắp sửa làm bạo động Nam kỳ; mảnh giấy đó bị rơi ra ngoài và một sĩ quan Pháp

nhặt được. Ông hiểu rằng người Pháp sẽ xử bắn bất kỳ người nào dính đến cuộc khởi nghĩa

Nam kỳ. Lúc đó ông nhờ bà Thái (Nguyễn Thị Quang Thái - người vợ đầu của Đại tướng Võ

Nguyên Giáp - NV) nói chuyện với viên sĩ quan kia để lấy lại mẩu giấy đó. Nhờ sự khéo léo và

vốn tiếng Pháp của mình, bà Thái đã lấy lại được cái thư, tức là đã cứu sống ông.

- Sau khi Bác Hồ mất thì mối quan hệ của cha anh với ông Trường Chinh và ông Phạm Văn

Đồng như thế nào?

- Tuyệt đối tốt.

- Và họ coi ông là lãnh tụ?

- Họ coi cha tôi là một trong những lãnh tụ từ ĐH III, năm 1960.

- Những yếu tố để họ coi ông là lãnh tụ?

- Tôi nghĩ là có nhiều yếu tố lắm, như hồi trong Nam thì người ta gọi ông là "ông 200 ngọn nến"

vì những ý kiến của ông rất sáng láng.

Cha tôi thường nói: Trong quá trình ba làm việc chưa bao giờ ba thấy ai cao hơn ba và chưa bao

giờ ba thấy ai thấp hơn ba. Tôi nghĩ, có lẽ, đó là nguyên nhân khiến ông để lại dấu ấn trong lịch

sử. Kể cả Mao Trạch Đông, Khrushop, những người mà tất cả những người sống thời đó đều

cảm thấy sức nặng của họ. Thế nhưng, khi gặp, cha tôi cảm thấy không hề bị ngợp. Và rồi, khi

nói chuyện với những người như bọn tôi chẳng hạn, chưa bao giờ ông đối xử theo kiểu cha - con

mà theo cách của những người bạn với nhau.

Ông kể, một lần vào một lớp học ở miền Nam sau ngày giải phóng, có một cô bé hỏi ông một vấn

đề gì đó về xã hội, ông lớn tiếng nói lại với cô bé. Cả hiệu trưởng lẫn những người có mặt ở đó

đều sợ run lên, tưởng ông đang nóng giận. Nhưng sau đó, ông nói với cô bé: "Bác nói với cháu

như vậy, là bác coi cháu như đồng chí của bác". Mọi người vỗ tay hết.

Nếu như người khác, sẽ nói: Cháu ngồi xuống đi, chuyện này cháu chưa biết được đâu", thì đó

là mức độ thấp. Nhưng với như cương vị là một Tổng Bí thư mà tranh luận gay gắt với một cô bé

học sinh, thì đó là sự tôn trọng. Qua đó cha tôi muốn nói với các con một điều: Đừng bao giờ

thấy người nào cao hơn mình, nhưng cũng đừng bao giờ thấy ai thấp hơn.

Người ta ghi nhận công lao rất lớn của cha anh trong công cuộc giải phóng miền Nam. Nhưng

cũng có dư luận nói rằng: Những ý tưởng về kinh tế của ông bị ảnh hưởng từ Liên Xô đã biến cả

nước thành một đại công trường, đại nông trường; Chính điều đó làm cho đất nước lẽ ra có thể

phát triển hơn sau 1975. Ý kiến của anh về chuyện này?

(Xem tiếp kỳ sau)

· Lương Bích Ngọc (thực hiện)

Đón đọc kỳ 3: Làm chủ tập thể và "đêm trước đổi mới"?

Ba câu chuyện '"chọn người theo việc" của Hồ Chủ tịch

Ba con người với số phận, vị trí xã hội khác nhau nhưng đều đem đến cho

chúng ta ấn tượng đặc biệt về cách "chọn người theo việc" của Chủ tịch

Hồ Chí Minh. Họ là: ông Nguyễn Hữu Đang - trưởng ban tổ chức Lễ mít tinh

độc lập 2.9.1945; nhà tư sản yêu nước Đỗ Đình Thiện - thư ký của Bác Hồ

trong chuyên đi Pháp năm 1946; người cuối cùng là cố Tổng bí thư Lê

Duẩn.

. "Có khó mới cần đến chú"

Cho đến hơn 50 năm trôi qua, ông Nguyễn Hữu Đang, nguyên Trưởng ban tổ

chức Lễ độc lập năm 1945 vẫn không hết bồi hồi khi nhớ lại cái giây phút nhận

nhiệm vụ từ Bác Hồ...

Cuối tháng 8 năm1945, Thường vụ TƯ họp (lúc đó chưa có Bộ chính trị -

Thường vụ là những người chủ chốt trong Đảng được Bác hồ chỉ định tạm thời

)để bàn một việc cấp thiết là Chính phủ lâm thời phải ra mắt quốc dân. Trong

cuộc họp đó có các vị Lê Đức Thọ, Trần Đăng Ninh, Phạm Văn Đồng, Võ

Nguyên Giáp nhưng lại thiếu ông Trường Chinh vì bận công tác đột xuất.Hai ông

Trần Huy Liệu và Xuân Thuỷ được cử lo tổ chức lễ mít tinh trong ngày ra mắt

Chính phủ lâm thời ngày 2/9/1945. Nhưng sau đó ông Trường Chinh về và đã

không đồng ý đề cử này vì sợ rằng hai ông Xuân Thuỷ và Trần Huy Liệu không

quen biết các giới, các đoàn thể thì công việc khó mà suôn sẻ. Khi có người tiến

cử ông Nguyễn Hữu Đang, là Uỷ viên BCH Hội văn hoá cứu quốc, thành viên

Ban trị sự Hội truyền bá quốc ngữ, lại quen biết nhiều giới và có khả năng tổ

chức lễ lạt, ông Trường Chinh liền đề đạt lên Bác Hồ...

Ông Đang kể lại..

... Lúc đó tôi vừa đi dự Hội nghị ở Tân Trào về. Vừa đến Bắc bộ phủ thì ông

Nguyễn Khang (Nguyên là Bí thư xứ uỷ Bắc Kỳ, Chủ tịch UBND TP.HN) bảo tôi:

" Anh Đang này, anh có chân trong Chính phủ lâm thời mở rộng đấy, dự kiến sẽ

là chỉ định làm thứ trưởng Bộ tuyên truyền...Tối đến họp nhé!"... Tối hôm đó,

khi ông Nguyễn Văn Tố (nguyên Bộ trưởng Bộ cứu tế xã hội lâm thời) là bạn

thân, đồng chí cùng hoạt động lôi xềnh xệch tôi đến trước một cụ già mặc bộ áo

chàm của người dân tộc đang ngồi trên ghế và bảo: 'Thưa Cụ, đây là ông

Nguyễn Hữu Đang..." thì tôi đoán ra ngay ông cụ là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ông cụ hỏi: " Chú là Nguyễn Hữu Đang đấy hả?". Tôi cúi đầu đáp: "Thưa Cụ vì

tôi đến chậm". "Đến chậm vì mải chơi thì có lỗi chứ vì công việc thì không có lỗi".

Thế này, Chính phủ giao chú làm trưởng ban tổ chức buổi lễ mít tinh ra mắt quốc

dân 2/9. Chú chuẩn bị có kịp không?".

Không biết cái thế cần kíp khẩn cấp của ngày tuyên bố Tuyên ngôn độc lập, tôi

chần chừ: "Dạ, thưa Cụ, bây giờ đã là ngày 28. Trong bốn ngày mà lo một việc

lớn như thế không biết có khó khăn gì không...". Ông cụ nghiệm nghị nhìn tôi, cái

nhìn như ngầm quở trách và bảo: "Có khó mới cần đến chú chứ". Nghe câu nói

như Khổng Minh khích tướng ấy, tôi rất làm tự hào về vai trò của mình, tôi đáp

ngay: 'Thưa Cụ, con xin cố gắng".

(Sau này, tôi vẫn nói đùa với bạn bè: "Đó là câu nói quan trọng nhất trong đời tôi.

Là Huân chương Nguyễn Ái Quốc của tôi đấy")

Rồi ông Cụ giục tôi: "Chú Đang về ngay đi, chuẩn bị không thì không kịp". Ra

đến cửa, tôi chợt nghĩ ra, quay lại báo cáo với Bác: "Thưa Cụ, con xin nhận

nhưng Cụ cho con một cái quyền". "Quyền gi?" Chú muốn quyền gì?".."Lúc nào

khó khăn gì, có ai không nhận giúp đỡ, hưởng ứng thì con được nói "đây là lệnh

của Cụ Hồ". Ông cụ đồng ý.

Nhưng thật ra lúc đó tinh thần khởi nghĩa 1945 nô nức lắm. Không một ai từ chối

giúp đỡ. Tôi chưa hề phải sử dụng câu nói "bửu bối" ấy.

Thế là mọi việc diễn ra tốt đẹp trong Ngày độc lập như mọi người đã biết...

"Nếu anh có thể tìm được người tin cậy hơn"

..Gia tộc Đỗ Đình Thiện rất nổi tiếng ở Hà Nội những năm đầu thế kỷ trước. Cụ

ông Đỗ Đình Thiện khi còn đang là sinh viên năm thứ 3 Trường Đại học Canh

nông đã vì tham gia tổ chức cách mạng mà bị trục xuất khỏi nước Pháp; cụ bà

Trịnh Thị Điền là cán bộ hoạt động bí mật từ những năm ba mươi, lại trở thành

nhà đại tư sản những năm 40 (Thế kỷ 20). Căn nhà 54 Hàng Gai của hai cụ

trước đây là nơi đi lại của những lãnh tụ cách mạng như Nguyễn Lương Bằng,

Trường Chinh, Nguyễn Tạo... Sau thời đầu của chính quyền cách mạng, nhiều

lần Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng nơi đây để tiếp khách nước ngoài và những

nhân sĩ trí thức như cụ Huỳnh Thúc Kháng.

Trong Tuần lễ vàng và Quỹ Độc Lập, gia đình này đã đóng góp đến gần chục

kilogram vàng, là người đóng góp gần nửa cổ phần của Việt Nam công thương

Ngân hàng. Đồn điền Chinê (Nông trường Sông Bôi - Hòa Bình bây giờ- TG) của

các cụ mua với giá 2000 lạng vàng thời đó cũng được đặt làm cơ sở in tiền đầu

tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa...

"Cha tôi là người thấp bé nhưng phong cách rất đàng hoàng, lịch lãm. Điều đó có

lẽ không hẳn chỉ vì ông đã từng ở Pháp nhiều năm. Tính ra, thời gian tôi ở châu

Âu - đặc biệt là ở Pháp hơn ông cụ rất nhiều nhưng tôi biết mình thua xa cha

mình về điểm này.

Tôi vẫn nhớ ông cụ dạy con từ những chi tiết nhỏ để mong các con mình trở

thành người lịch lãm: đi vào nhà thì phải bỏ mũ; rằng là khi nói chuyện với ai thì

phải nhìn thẳng vào mắt người ta, không được nhìn xuống hoặc nhìn đi chỗ

khác; vào nhà rồi thì phải bỏ mũ; không thấy ai có cái gì mà mình thích cũng

không được thèm muốn và không được xin. (Nếu ta dạy trẻ con điều này thì chắc

cũng bớt tham nhũng).

Tôi vẫn nhớ, hồi ở chiến khu Việt Bắc, ông là Giám đốc Nhà máy may Trần Hưng

Đạo, có lần có người vào văn phòng vẫn đội mũ, ông cười rất hóm rồi bảo mọi

người xung quanh: "Anh em ơi, ai có mũ thì đội vào". Mọi người nghe thế đều

cười, còn người kia, cũng cười, rồi bỏ mũ ra ngay" - TS Đỗ Long Vân kể về cha

mình.

Đỗ Đình Thiện từng là một trong hai người tháp tùng Bác Hồ trong chuyến ngoại

giao đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở Fontainebleau

(Pháp) từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1946. Là thư ký riêng, ông đã có một cuốn

nhật ký tỉ mỉ về hành trình, làm việc của Bác tại nước Pháp trong chuyến đi đó.

TS Toán học Đỗ Long Vân kể: " Vì sao cha tôi được chọn trong chuyến đi đặc

biệt ấy ư? Cha tôi kể lại rằng, lúc đó ông Nguyễn Lương Bằng đến nói với ông: "

Bác muốn anh tháp tùng Bác đi Pháp?". Cha tôi, vốn là người ngang nghạnh, và

rất e ngại việc tham dự những việc chính trị quan trọng nên hỏi lại: "Tôi có thể

không đi được không?". Ông Bằng nói: "Nếu anh tìm được người thay thế thì anh

có thể ở lại...". Thế là cha tôi trở thành thư ký của Bác Hồ trong chuyến đi đó,

ông Vũ Đình Huỳnh là đại tá cận vệ.

Có thể đặt câu hỏi: Tại sao Bác lại chọn ông Đỗ Đình Thiện chứ không phải là ai

khác làm thư ký cho mình trong chuyến đi quan trọng này sang Pháp?

Ngoài giỏi tiếng Pháp, lịch lãm sang trọng, giàu có đủ lo cho cả chuyến đi, nhà tư

sản Đỗ Đình Thiện lúc đó còn là một người có uy tín với nhiều giới ở Hà Nội, một

người Việt Nam được giới thượng lưu ở Pháp biết đến; và dù là Đảng viên Đảng

cộng sản Pháp nhưng ông lại không phải là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam

(có một số cứ liệu khẳng định,trong thời điểm này, vì muốn kêu gọi được sự ủng

hộ của đông đảo người Pháp, Hồ Chí Minh chưa muốn công khai đường lối

cộng sản của mình)

Chuyến đi đã ghi được dấu ấn tốt đẹp của Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt

Nam mới với người Pháp và Việt Kiều tại Pháp, trong đó không thể không kể

đến công lao của hai người tháp tùng là ông Vũ Đình Huỳnh và Đỗ Đình Thiện.

"Non sông đất nước này biết ơn Người"

...Tháng 5 năm1954. Sau hiệp định Giơ ne vơ. Có những chuyến tàu thủy vào Nam, ra Bắc đem

theo những cuộc chia ly, nhưng trên gương mặt không nhiều lắm nỗi buồn bởi họ tin: Hai năm

chỉ là một cái chớp mắt... Nhưng, ít nhất có một người không nghĩ như vậy, đó là Uỷ viên Bộ

chính trị, Bí thư TƯ Cục miền Nam, Lê Duẩn - người sau này là Tổng bí thư của Đảng cộng sản

Việt Nam. Lúc đó thấy đồng bào giơ hai ngón tay ý nói hai năm gặp lại, như được kể lại, ông

khóc ròng.

Và rồi ông đã để vợ mình ra Bắc cùng đứa con đang nằm trong bụng rồi nói với một người đồng

chí thân thiết: "Anh ra nói với Bác có lẽ 20 năm nữa, tôi mới gặp được Người". Có nghĩa là ông

đã chuẩn bị tất cả mọi tâm thế và ý chí để ở lại chiến đấu lâu dài. Lúc này, ông là người có chức

vụ cao nhất trong Đảng không tập kết, ở lại miền Nam.

Có thể ông không ngờ rằng, ba năm sau, năm 1957, Hồ Chủ tịch đã có một quyết định hết sức

đột ngột là "điều đồng chí Lê Duẩn ra nhận nhiệm vụ quan trọng".

Theo một nguồn tin, sau ngày miền Bắc sai lầm trong cải cách ruộng đất, Bác Hồ

đã kiên quyết gọi ông Lê Duẩn ra để giao trọng trách Tổng Bí thư. Đó là điều

khiến nhiều người và cả người trong cuộc ngạc nhiên bởi khi đó chỉ có mình Lê

Duẩn là ủy viên TƯ ở miền Nam và không phải là người gần Bác nhiều. Ở miền

Bắc lúc đó, ngoài người vừa từ chức sau những sai lầm của cải cách ruộng đất

thì vẫn còn một số người từng gần gũi với Bác nhiều năm...

Anh Lê Kiên Thành, con trai ông Lê Duẩn kể lại: "Cha tôi kể là ông gặp Bác lần

đầu tiên vào năm 1945, khi mới ở tù Côn Đảo về. Lúc đó, ông đã trình bày rất

thẳng thắn quan điểm của mình về Cách mạng dân tộc, dân chủ ở Việt Nam.

Bác tỏ ra rất ấn tượng với sự thẳng thắn của ông. Lần thứ hai, năm 1952 ông nói

chuyện với Bác về cải cách ruộng đất. Ở miền Nam, lúc này đã bắt đầu tiến hành

cải cách ruộng đất tương đối hiệu quả - không giống với cải cách ruộng đất ở

miền Bắc năm 1956. Lúc đó, ông đã nói với Bác: Cải cách ruộng đất là để cho

người nông dân thấy được họ được cái gì khi đi theo cách mạng...

Sau cải cách ruộng đất, khi đang cần một người lãnh đạo kế cận thích hợp với

yêu cầu Cách mạng mới, có những người từng làm việc lâu với cha tôi như ông

Lê Đức Thọ, Phạm Hùng trong thời gian ra Bắc đã nói với Bác: 'Một trong những

người xứng đáng là ông Lê Duẩn"...

Vì những tác động đó mà Người nhìn thấy cha tôi là một con người có khả năng,

đồng thời nhận định rằng việc quan trọng nhất của giai đoạn sắp tới là cách

mạng dân tộc dân chủ ở Miền Nam nên đã đề nghị cha tôi ra để đặt vào vị trí

Tổng bí thư".

Năm 1969, chính Tổng bí thư Lê Duẩn là người thay mặt dân tộc đọc Diễn văn

trước linh cữu Hồ Chủ tịch với những lời thấm tận ruột gan mỗi chúng ta cho tới

hôm nay: " Dân tộc ta, nhân dân ta, nong sông đất nước ta đã sinh ra Người,

Chủ tịch Hồ Chí minh vĩ đại. Và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân

dân ta, non sông đất nước ta...". Và cuối cùng, chính Tổng bí thư Lê Duẩn đã

cùng đồng bào mình thực hiện lời thề thiêng liêng với Bác là thống nhất đất

nước trọn vẹn.

Lịch sử dân tộc không thể phủ nhận vị trí của Tổng bí thư Lê Duẩn trong cuộc

Cách mạng dân tộc dân chủ từ 1957 đến 1975, ông đã thể hiện là một trong

những nhà lãnh đạo xuất sắc trong Cách mạng dân tộc dân chủ. Thế nhưng, Lê

Duẩn sẽ không có được chỗ đứng như thế trong lịch sử nếu không được Hồ

Chủ tịch nhìn đúng để đặt vào vị trí thích hợp. Điều vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí

Minh là đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết khi chọn từng người vào vị trí quan

trọng.

Ba con người với số phận, vị trí xã hội khác nhau nhưng đều đem đến cho

chúng ta ấn tượng đặc biệt về cách "chọn người theo việc" của Chủ tịch Hồ Chí

Minh.

· An Nhi

Cố TBT Lê Duẩn và "Đêm trước đổi mới"

Cuộc trò chuyện giữa nhà báo Lương Thị Bích Ngọc và ông Lê Kiên Thành được tiếp tục,

lần này là về vai trò của cố TBT Lê Duẩn trong thời kỳ trước đổi mới...

Tôi đã chuyển cho anh nhiều mail phản hồi của độc giả sau khi đăng hai kỳ của cuộc trò chuyện

này. Trong đó không ít lời tri âm, và cũng quá nhiều sự thoá mạ. Cảm giác của anh thế nào?

- Điều tôi quan tâm là những điều mình nói có gì sai lệch với sự thật không? Còn những lời thoá

mạ qua mail với những địa chỉ ảo...? Theo tôi, với cách đó, họ không muốn đối thoại một cách

công khai và đàng hoàng.

Mặt khác, cha tôi, người đứng đầu đất nước trong một giai đoạn

dài - và giai đoạn đó nối từ thời chiến đến 10 năm đầu của hậu

chiến, còn kèm theo với quá nhiều biến cố lịch sử - cha tôi lại là

người có cá tính mạnh mẽ, tôi nghĩ rằng ông có người yêu kẻ

ghét cũng là điều bình thường.

Sinh thời, cha anh có biết những lời đàm tiếu về mình không?

Nhất là vào những thời điểm khốn khó của đất nước sau năm

1975?

- Tôi muốn kể cho bạn nghe câu chuyện này: Vào những năm

sau 1975, có lần, một cán bộ cấp cao thân cận đã đột ngột gõ

cửa phòng ông và rồi nói rất lâu về những gì mà bên ngoài

người ta đang phàn nàn. Nói suốt cả buổi chiều, sang cả buổi tối. Còn đọc luôn cả vè. Đến lúc

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn. (Ảnh tư liệu)

nhìn đồng hồ, ông ta hoảng quá, nhưng không ngờ cha tôi bảo: "Về ngủ đi, mai đến nói cho tôi

nghe tiếp nhé!". Ông không bất ngờ về điều gì.

Ngày 30/4/1975, ở giây phút hàng vạn người ngộp thở vì chiến thắng, cha tôi lặng lẽ xin một điếu

thuốc của người bảo vệ, điếu thuốc ông hút lại sau 30 năm. Hơn ai hết, ông không hề bất ngờ vì

chiến thắng này, vì ông luôn tin những gì mà mình đã theo đuổi.

Cũng trong ngày đầu tiên đoàn tụ cùng đồng chí, anh em ở Sài Gòn, ông nói: Đừng vui quá, sắp

tới sẽ vô cùng khó khăn, chúng ta phải tuyên chiến với giặc đói.

"Bố mày có biết chuyện là nhiều người không có gạo ăn không?" - khi tôi nói với ba tôi là bạn tôi

đã nói như vậy, ông rất bình thản: Những khó khăn lớn nhất của dân tộc đã đi qua rồi...

Có người nói cách nhìn của cha tôi là chạy trốn thực tế và lý tưởng hoá cuộc sống.

Còn tôi nghĩ rằng, ông là một người biện chứng.

Một số người từng ghi nhận công lao đặc biệt của cha anh

trong công cuộc thống nhất đất nước thì cũng nói rằng cố tổng

bí thư Lê Duẩn đã không thực tế trong điều hành kinh tế đất

nước sau năm 1975, rằng ông phải chịu trách nhiệm chính về

những khó khăn mà người dân Việt Nam phải trải qua sau

năm 1975?

- Tôi cũng đã nghe nhiều lời bàn tán đại loại như vậy. Nhưng

tôi cũng tin rằng mình rất hiểu cha. Bây giờ, nếu tôi nói khó

khăn sau một cuộc chiến kéo dài 30 năm là điều không thể

tránh khỏi thì cả bạn cũng có thể nói là tôi biện hộ.

Cha tôi giữ trách nhiệm Tổng Bí thư mười năm sau hòa bình. - Giờ đây, khi tôi đã trên 50 tuổi, đã

trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, và trở thành một doanh nhân, tôi càng hiểu rằng - 10

năm là khoảng thời gian quá ít ỏi để một dân tộc bỏ được nhiều thói quen theo quán tính của thời

chiến. Sau này, khi nói về "đêm trước đổi mới", người ta thường coi đó như một đêm tối mà

trong đó những người lãnh đạo thời kỳ đó gần như chỉ là con số không; và câu chuyện "giá -

lương - tiền" như là một nỗi nhục về điều hành kinh tế.

Nhìn lại 30 năm sau cuộc chiến, tôi có thể tự hào rằng mình đã có một người cha có tư duy ở

tầm cỡ như vậy. Đất nước khác, kể cả như Liên Xô chỉ dám ra khỏi bao cấp khi chế độ đó bị sụp

đổ sau hơn 70 năm tồn tại. Việt Nam nghĩ tới chuyện ra khỏi bao cấp chỉ sau khi hết chiến tranh

khoảng 5 năm.

Bây giờ người ta phê phán nhất "Giá - Lương - Tiền, nhưng đó là cú đột phá mãnh liệt vào ý chí

khủng khiếp nhất của toàn Đảng toàn dân lúc đó; bởi thực hiện "Giá - Lương - Tiền" tức là "anh"

phải từ bỏ chế độ bao cấp đã nuôi dưỡng "anh" trong vòng mấy chục năm. Đó là cuộc chuyển

đổi có tính sinh tử với một nền kinh tế. Bạn thử hình dung xem, cả một đám đông bao nhiêu năm

quen với tem phiếu, sổ gạo, họ từng nghĩ rằng lấy cái đó đi của họ là tội ác. Nhiều người trong

bộ phận lãnh đạo cũng nghĩ như vậy...

Nhưng điều mà bây giờ người ta vẫn còn ám ảnh về GIÁ - LƯƠNG - TIỀN là giá bị đẩy lên tới

hàng chục lần sau khi bỏ bao cấp?

Cố TBT Lê Duẩn thăm NM Dệt 8/3,

HN, 7/1971. (Ảnh tư liệu)

- Bạn có hình dung ra Liên xô khi chuyển đổi nó đẩy giá lên tới hàng vạn lần chứ không phải là

chục lần trong khi đó sở vật chất của họ ở tầm cao hơn mình rất nhiều!

Người ta vẫn nói rằng, cha anh đã hoàn toàn đi theo mô hình kinh tế của Liên xô, biến cả đất

nước thành một đại công trường...

- Tôi không cho là như vậy. Tôi vẫn còn nhớ hồi đó, khi sang Liên xô, trong một bữa cơm, một

người trong Bộ Chính trị của ĐCS Liên Xô chất vấn cha tôi rằng: Tại sao các đồng chí lại có thể

cho phép một xí nghiệp tự định giá sản phẩm của mình. Ông ôn tồn giải thích: Các đồng chí

không biết chứ chúng tôi có điều kiện khác các đồng chí nên Nhà nước không thể cung cấp

nguyên vật liệu cho tất cả các nhà máy, xí nghiệp được. Những xí nghiệp mà Nhà nước cung

cấp nguyên vật liệu thì Nhà nước có thể định giá sản phẩm, còn nếu xí nghiệp, nhà máy tự đi

kiếm nguyên vật liệu từ bên ngoài về sản xuất thì họ tự định giá.

NƠI SẢN XUẤT TỰ ĐỊNH GIÁ SẢN PHẨM - một việc bây giờ như quá đơn giản thì hồi đó đã là

vi phạm vào quy tắc của hệ thống. Bây giờ, rất nhiều người không thể hình dung nổi là có

chuyện đó.

Lúc đó, ảnh hưởng của Liên xô đối với mình vẫn rất lớn. Còn vì sao thì những người của thời đó

cũng tự biết; và bây giờ, những người biết phân tích một chút cũng tự hiểu: Cha tôi, một người

từng phát biểu trong một cuộc họp của Bộ Chính trị rằng: "Chúng ta phải đánh Mỹ, không được

sợ Liên Xô, Trung Quốc" lại có thể chủ động nghe theo mô hình kinh tế Liên Xô trong thời bình

sao.

Chúng ta dám nghĩ, chúng ta vươn ra khỏi tầm ảnh hưởng đó để làm GIÁ - LƯƠNG - TIỀN, làm

tiền đề cho đổi mới, trăn trở về khoán 10 cũng từ thời điểm đó mà ra nhưng sau này người ta

không hiểu hoặc không nhắc đến.

Vào thời điểm đó, đại đa số của người Việt Nam, đặc biệt là bộ phận lãnh đạo, họ không quen và

không hình dung nổi về thị trường. Có một lãnh đạo một địa phương lúc đó đã từng "lên bờ

xuống ruộng" chỉ vì những ý tưởng cải cách kinh tế của ông quá táo bạo, tuy rằng được cha tôi

ủng hộ gần như tuyệt đối. Vào thời điểm đó, người đi đầu đổi mới có thể bị hệ thống cho là "trở

cờ...", mà hiển nhiên, cha tôi không thể làm thay đổi ý chí của đa số.

Tôi nghe một số câu chuyện đại loại nói rằng cha anh rất ấu trĩ về tư duy

kinh tế...?

Ông Lê Kiên Thành: "Một

người đàn ông có thể diễn kịch

với cuộc đời nhưng chân dung

họ hiện lên trong mắt con cái

- Ông không phải là người toàn bích nhưng trong thời bình, nhiều người

cấp tiến, những người mà sau này người ta vẫn đánh giá là có tư duy bài bản về kinh tế thị

trường tương đối sớm vẫn gọi những ý tưởng của cha tôi là: "Ý tưởng từ cái đầu 200 ngọn nến".

Còn những lời đồn... Tôi đã đối diện với những lời đồn về cha mình trên dưới 50 năm nay.

Nhưng tôi tự hào về ông vô cùng vì tôi hiểu rằng, một người đàn ông có thể diễn kịch với cuộc

đời nhưng chân dung họ hiện lên trong mắt con cái là chân thực nhất.

Tôi tin rằng những câu chuyện như thế này, bạn chưa nghe, và nhiều người chưa biết nhưng

những người trong cuộc thì họ vẫn còn sống, và và tôi tin là họ thầm nghĩ trong đầu: "Đúng,

những chuyện về anh Ba như vậy là có...". Vâng, tôi chỉ cần như vậy.

... Có lần, cha tôi cử một cán bộ ngoại giao sang Mỹ tìm hiểu để sau đó bàn chuyện bình thường

hóa quan hệ, người đó đi thấy ngợp quá nhưng về lại sợ "anh Ba cho là ăn phải bã tư bản" nên

chỉ toàn kể chuyến xấu. Cha tôi nghe xong, cười bảo: "Mỹ nó xấu thế mình quan hệ làm gì...".

Sau đó, ông ta đành phải nói những gì mắt thấy tai nghe.

Đi thăm một địa phương tương đối là năng động lúc đó, tại HTX chăn nuôi, nhìn thấy hàng chục

người ngồi thái rau nuôi mấy con lợn còi, cha tôi nói với người đứng đầu: "Cậu hiểu thế nào là

làm ăn lớn. Làm ăn lớn là mỗi người nông dân có thể nuôi hàng ngàn con gà, hàng trăm con lợn

chứ không phải tập trung nhiều người lại để làm". "Nhưng TƯ chỉ đạo khác...", ông ta thành thật.

Cha tôi nói: Tỉnh cậu có điều kiện để làm mô hình đổi mới, cậu lại có tư duy kinh tế sáng tạo, sao

cậu cứ chần chừ. Mỗi nơi một đặc thù. Các địa phương phải chủ động rồi báo cáo, đôi khi từ mô

hình này tốt mà làm điểm cho cả nước. TƯ chỉ đạo thay được các địa phương từ chuyện nhỏ

đến chuyện lớn thì cần gì các cậu nữa...".

Một lần, về Hải Phòng, đến thăm một HTX làm hàng xuất khẩu, cha tôi hỏi một cô công nhân:

"Cháu có biết đồng đô la là gì không?". Cô ta lắc đầu. Cha tôi đã nói với Chủ tịch Hải Phòng lúc

đó: "Người làm xuất khẩu mà không biết đồng đô la là gì thì họ sẽ không có động lực...".

Rất nhiều câu chuyện như vậy về cha tôi mà không nhiều người biết. Những người biết, họ từng

biết tính cha tôi, rằng không cần lắm việc người ta phải ghi công trạng của mình hoặc hiểu mình,

miễn rằng chúng tôi - những người con của ông đã tin, yêu, tự hào về ông.

Cố TBT Lê Duẩn trong chuyến thăm NM Thuỷ điện Trị

An năm 1984. (Ảnh tư liệu)

- Thế thì theo anh, trong thời bình, ảnh hưởng của Tổng bí thư Lê Duẩn có còn tuyệt đối nữa

không?

- Cũng như thời bắt đầu của cuộc kháng chiến, trong giai đoạn mới, ông cũng phải chờ đợi

người ta hiểu ý tưởng của mình. Nhưng lúc đó, những người có thể chia sẻ với cha tôi như đại

là chân thực nhất..." Ảnh:LAD

tướng Nguyễn Chí Thanh đã không còn nhiều nữa. Và có thể, lực cản để chúng ta bứt phá lúc

đó nằm ở tiềm thức của đại đa số lãnh đạo, công chức, người dân và có thể ở cả chính ông nữa.

- Có một số người nói rằng, khi về già cha anh rất cô đơn?

- Có thể. Chúng tôi, những người con của ông cũng cảm nhận được sự cô đơn của cha tôi về

cuối đời, khi mà những ý tưởng của ông không còn cơ hội được thực hiện như trong chiến

tranh...

- Anh có nghĩ sự cô đơn đó của cha anh về cuối đời xuất phát từ việc thiếu những người tri âm,

thân cận không...?

- Có những người đã từng chia sẻ với ông những ý tưởng lớn trong suốt hai cuộc kháng chiến

thì lại có những tính toán riêng...

- Anh có thể nói rõ hơn được không?

- Cha tôi đã từng tâm sự với các con: "Cả đời ba vui, cuối đời lại buồn".

Tôi hiểu ông nói cả đời vui là cả những lúc bị tù đày đánh đập tàn khốc nhất. Còn nỗi buồn lại

xuất hiện khi một trong những mong ước của đời ông đã thành hiện thực là giang sơn thu về một

mối...

Nhưng không phải bây giờ và cũng không thể là tôi có thể nói ra điều đó...

Nhân ngày giỗ lần thứ 20 cố Tổng Bí thư Lê Duẩn:

"Lê Duẩn - Một tư duy sáng tạo không ngừng..."

Hôm nay, nhân 20 năm ngày anh từ biệt chúng ta đi về cõi vĩnh hằng, chúng ta nhớ về

anh, một cán bộ lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo không ngừng của cách mạng Việt

Nam, một Người Anh đôn hậu, đáng kính trọng và vô cùng biết ơn! - Bài viết của nguyên

Chủ tịch nước Lê Đức Anh.

"Người đó là Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ..."

Tôi không bao giờ quên cái ngày mà lớp lớp cán bộ miền Nam chúng tôi phải "dứt áo ra đi", lòng

bịn rịn bước xuống tàu thuỷ để tập kết ra Bắc theo Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954. Chia tay người đi

kẻ ở, ai nấy đều thắc thỏm giơ hai ngón tay hẹn nhau rằng hai năm sẽ đoàn tụ khi "Tổng tuyển

cử" được thực hiện như trong văn bản của Hiệp định.

Về sau này tôi được biết, lúc đó có một người đã đề nghị với Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng

cho mình ở lại miền Nam. Và trên chiếc xuồng bí mật quay trở lại Cà Mau, người đó đã khóc,

lòng quặn đau nỗi thương cảm với đồng bào đồng chí, vì người đó đã nhìn thấy trước rằng: Bà

con mình, đồng chí mình giơ hai ngón tay hẹn nhau đầy lạc quan như vậy mà có biết đâu rằng

cũng chỉ hai năm tới đây sẽ bị Mỹ - nguỵ khủng bố dã man. Và sự thật đã diễn ra đúng như tiên

liệu của Anh.

Người đó là Lê Duẩn, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ.

Có thể nói, một trong nhữngnỗi đau lớn nhất của cách mạng Việt Nam là ngay sau Hiệp định

Giơ-ne-vơ 1954, đồng bào miền Nam thì tay không đấu tranh đòi thi hành Hiệp định, còn đế quốc

Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm thì dùng bạo lực thực hiện một đại chiến dịch đàn áp dã man

những người kháng chiến cũ, những người dân muốn "Tổng tuyển cử" thi hành đúng hiệp định,

bản hiệp định mà những nội dung quan trọng nhất đã có sự thoả thuận của các nước lớn. Quần

chúng không còn con đường nào khác hơn là phải vùng lên, sống chết với Mỹ - Diệm. Tình thế

cách mạng cho các cuộc khởi nghĩa từng phần đã chín muồi. (1)

Khí thế sục sôi cách mạng của quần chúng đòi hỏi có ngay một ngọn cờ lãnh đạo của Đảng và

việc anh Ba quyết định ở lại miền Nam đã đáp ứng kịp thời với đòi hỏi đó. Trong bối cảnh đó, Lê

Duẩn đã khẳng định bản chất của Mỹ và chính quyền Sài gòn, anh đã cùng Xứ uỷ Nam Bộ

nhanh chóng nắm bắt tình hình, soạn thảo ra "Đề cương cách mạng miền Nam"(2).

Tiếp đó, tháng 1 năm 1959, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (Khoá II) mà anh là

người được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị giao cho việc chỉ đạo soạn thảo. Bản Nghị

quyết được hình thành trên cơ sở định hướng năm 1954 của Hồ Chủ tịch và của "Đề cương

cách mạng miền Nam".(3)

"Cứ nói hết tình hình miền Nam với Bác".

Mùa hè năm 1957, Hồ Chủ tịch gọi Bí thư Xứ uỷ Nam kỳ Lê Duẩn ra Hà Nội.

Khi được gặp anh Lê Duẩn ở Bộ Quốc phòng, tôi đã sốt ruột hỏi tại sao ta không đẩy nhanh, đẩy

mạnh đấu tranh vũ trang lên. Anh nói rằng: "Ở trỏng, quân Mỹ - nguỵ bắn giết, tàn sát dân mình

quá thể. Sau một vài trận đầu ta đánh thử nghiệm có hiệu quả, chừ khắp miền Nam đang rậm

rịch chuẩn bị và nóng lòng chờ lệnh cho hoạt động vũ trang. Nhưng từ hôm ra miền Bắc tới nay

mới chỉ một vài tháng, mà tôi đã thấy tình hình quốc tế, tình hình trong nước nó phức tạp quá, và

càng thấy rõ một điều rằng, dù mình rất muốn nhưng không thể nôn nóng được. Làm cách mạng

phải biết chờ đợi. Vì đây là việc quá lớn, phải là Bộ Chính trị và Trung ương Đảng quyết định

nhiệm vụ của hai miền, của cả nước, thì mới làm được và làm mới có hiệu quả".

Là người lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ngày đêm

suy nghĩ để vạch ra chủ trương và phương pháp, bước đi cho cách mạng miền Nam sao cho

giành thắng lợi mà ít tổn thất nhất, lại phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Đây là vấn đề

cực kỳ khó khăn và phức tạp. Bởi vì, lúc này đường lối đối ngoại "Cùng tồn tại hoà bình", giữ

cách mạng trong thế thủ đang thắng thế trong phong trào cộng sản quốc tế.

Chính vì trong một bối cảnh như thế nên Hội nghị Trung ương lần thứ 15 phải họp thành hai đợt

trong 7 tháng trời (4), đề án phải sửa chữa, bổ sung, soạn thảo gần 30 lần, chưa kể thời gian

chuẩn bị đề án đã mất 2 năm ở miền Bắc và hơn 3 năm ở miền Nam. Khi văn bản Nghị quyết 15

ra đời, nó là sản phẩm trí tuệ của tập thể Ban Chấp hành Trung ương.

Mùa hè năm ngoái, khi anh Phạm Văn Xô bệnh nặng, tôi tới thăm anh tại Bệnh viện Thống Nhất,

được anh cho biết: Anh và anh Phan Văn Đáng được thay mặt Xứ uỷ Nam Bộ ra dự Hội nghị

Trung ương lần thứ 15 (mở rộng). Tháng 8/1957 hai anh ra tới Hà Nội, chờ đợi hết năm 1958,

đến tháng 1/1959 mới được dự họp "thảo luận ở tổ". Sau hội nghị đợt 1 không thấy kết quả, các

anh thất vọng xin trở về Nam.

Trước khi về, anh Lê Duẩn bố trí cho hai anh lên chào Bác Hồ, anh Duẩn nhủ: "Cứ nói hết tình

hình miền Nam với Bác". Và, Hồ Chủ tịch đã căn dặn các anh: "Miền Nam ở xa, Xứ uỷ Nam Bộ

phải chịu trách nhiệm với Trung ương. Cách mạng phải sáng tạo. Kiên quyết không để cho Mỹ -

Diệm tiêu diệt cách mạng miền Nam!" Các anh đã trao đổi hai ngày với anh Lê Duẩn trước khi về

Nam. Anh Lê Duẩn bảo: "Bác nói thế rồi! Vậy các anh về báo cáo với Xứ uỷ cứ thế mà làm!".

Nghị quyết 15 và "ngọn lửa giữa cánh đồng cỏ khô"

Không khí cách mạng của cả miền Nam lúc đó đang hừng hực như cánh đồng cỏ khô, chỉ chờ

một mồi lửa là bùng cháy...

Nghị quyết 15 của Trung ương ra đời, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội bộ lãnh đạo của

ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và quảng đại quần

chúng nhân dân ở miền Nam. Nghị quyết 15 thật sự là một nghị quyết về "Chuyển chiến lược" -

Từ đấu tranh chính trị đơn thuần chuyển sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang,

dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch, vận dụng và

phát huy phương pháp cách mạng của cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 trong hoàn cảnh

mới; cách mạng miền Nam chuyển từ thế thụ động sang thế chủ động tiến công. Nghị quyết 15

đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực

tế nên đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam.

Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương

Đảng đã rất tinh tường sáng suốt khi giao cho anh trọng trách: Trực tiếp chỉ đạo phong trào cách

mạng miền Nam kháng chiến chống thực dân Pháp sau Cách mạng Tháng 8/1945; Bí thư Thứ

nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và Tổng

Bí thư của Đảng sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bằng tư duy sáng tạo và

phẩm chất lớn lao, anh đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả đó, anh đã thật sự xứng đáng

với sự uỷ thác to lớn đó. Tự giác tôi luyện mình trong cuộc đấu tranh cách mạng vĩ đại của Dân

tộc, đồng chí Lê Duẩn đã trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt Nam.

"Những lời nói nặng hơn hẳn mấy binh đoàn"

Trước kia tôi ở cương vị thấp nên không có điều kiện tiếp xúc nhiều với anh Lê Duẩn. Đến tháng

11 năm 1973, sau khi được cùng anh Võ Văn Kiệt và Khu uỷ Khu 9 lãnh đạo, chỉ huy lực lượng

cách mạng của Quân khu đánh bại kế hoạch "Tràn ngập lãnh thổ" của địch, làm phá sản chiến

lược bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn, tôi được anh Lê Duẩn

gọi ra Bắc báo cáo tình hình chiến trường. Anh nói rằng "Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ để thực

hiện quyết liệt ý đồ "Quốc gia dân tộc"; nhưng bọn ngụy quyền vẫn tham nhũng và mâu thuẫn

nhau nên chưa thực hiện được. Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ- từ quân chủ lực tới quân địa

phương, bảo an dân vệ, đến phòng vệ dân sự... đông, đồ sộ nhưng không mạnh".

Anh nói một cách rành rẽ và kiên quyết: "Quyết không để cho quân ngụy nó lại hồn, không để

cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt. Nếu một khi nó đã hết hoang mang,

ổn định tinh thần rồi thì mình sẽ khó vô cùng. Nếu kế hoạch cơ bản về "Việt Nam hoá" của nó mà

làm được 70% thì ta sẽ khó khăn. Lúc đó nếu còn chiến tranh thì sẽ trở thành "nội chiến"; mà đã

như thế thì nó sẽ diễn ra như thế nào, không ai lường trước được".

Để tâm nghiên cứu tình hình một chút thì thấy rất rõ là từ giữa năm 1973 đến đầu

1974, quân đội Sài gòn đã bắt đầu thí điểm thực hiện kế hoạch ở một số vùng ven đô. Bởi vậy Bí

thư Thứ nhất Lê Duẩn và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng

chưa rút xong và không thể quay lại, ngụy ở lại thì chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta

tổng tiến công và nổi dậy đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan

trọng. Thời cơ là sức mạnh. Đây là một tư duy sắc sảo của anh.

Nói rõ thêm về điểm này, tôi được biết, trong thiên hồi ức của mình, anh Phan Hàm, nguyên Phó

cục trưởng Cục Tác chiến đã ghi lại những ý kiến của cố Tổng bí thư Lê Duẩn ngày 21 và 22

tháng 7 năm 1974 tại Đồ Sơn, khi anh Hàm được cùng với các anh Hoàng Văn Thái, Lê Trọng

Tấn là hai Phó Tổng tham mưu trưởng và anh Võ Quang Hồ, Phó cục trưởng Tác chiến lên báo

cáo tình hình với cố Tổng bí thư Lê Duẩn và nhận chỉ thị chuẩn bị kế hoạch quân sự cho cuộc

Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam. Những lời anh Lê Duẩn nói ngoài văn

bản mà anh Phan Hàm đã ghi lại một cách trung thực vì anh cho rằng "Nó có sức nặng hơn cả

mấy binh đoàn" vì đó là tư duy sáng giá của một bộ óc lỗi lạc tại thời điểm quyết định của cách

mạng.

Sau khi phân tích sâu sắc tình hình mọi mặt: Mỹ, các nước lớn, tình hình ta, chiến trường..., anh

Ba nói: "Hiện nay các nước muốn làm chủ Đông Nam Á chưa ai sẵn sàng cả. Mỹ thì đang rút ra,

chưa phải là lúc vào lại. Cho nên, mặc dù bọn Mỹ ở bên này có kêu gào đến mấy chăng nữa, thì

viện trợ cũng chỉ có chiều hướng giảm, không tăng. Chính quyền Sài gòn thì đang xuống dốc,

còn ta thì đang ở thế thắng và đang tiến lên nhanh. Vì vậy tôi nghĩ rằng, nay thời cơ thuận lợi

nhất để kết thúc cuộc chiến tranh, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Nếu để chậm năm bảy năm nữa, họ mạnh lên thì sẽ phức tạp vô cùng cho ta. Từ tình hình trong

nước và tình hình thế giới mà rút ra kết luận đó. Nhưng còn một vấn đề nữa là thắng như thế nào

cho tốt? Để chậm thì không tốt đã đành; còn làm mà làm không tốt, trầy trật, cũng sẽ thêm phức

tạp. Làm tốt là làm nhẹ nhàng, làm nhanh, làm gọn, làm triệt để, làm trong một vài tháng, thì có

lợi hơn là làm dây dưa, kéo dài ngày. Có như thế mới đạt được bất ngờ để không ai kịp trở tay;

chứ nếu kéo dài ra thì các nước lớn sẽ tìm cách này, cách nọ để tăng thêm lực lượng, tiền của,

để họ đối phó được với ta. Có làm được như thế không? Tôi nghĩ rằng cần thiết và nhất định sẽ

làm được..."

Tôi cho rằng, ở vào thời khắc đó, chỉ có một con người "hơn hẳn người khác một cái đầu" thì

mới có được những tư duy lỗi lạc như vậy!

Những tiên liệu tài tình và mục tiêu đột phá Buôn - mê - thuột

Khi Cục Tác chiến và Bộ tổng Tham mưu dự kiến kế hoạch tiến công giải phóng trong 4 năm, cố

Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói: "Ta quyết tâm trong hai năm 1975-1976, động viên những nỗ lực

lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ở cả hai miền Nam-Bắc, đưa cuộc cách mạng

của ta lên bước phát triển mới, cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa,

tiêu diệt và làm tan rã nguỵ quân, đánh đổ nguỵ quyền các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay

nhân dân...". Thế rồi, đồng chí Bí thư Thứ nhất đã chỉ rõ: "Do tính chất của cuộc chiến tranh, đô

thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ

còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ. Phải chủ

động gây phong trào, chứ không phải ngồi chờ phong trào nổi lên. Khi ta đánh mạnh thì phong

trào đô thị sẽ khác ngay. Phải có người dám làm, vào hẳn trong thành phố. Không xông vào thì

xa rời quần chúng, xa phong trào. Phải xông vào mà nắm lấy chỗ yếu nhất của địch, để kịp thời

và có biện pháp cụ thể lợi dụng, khoét sâu thêm.

Đánh vào Sài Gòn như thế nào? Tất nhiên là phải chuẩn bị cho kỹ về quân sự. Các anh phải làm

cho thật tốt. Tôi chỉ nói đến một khía cạnh thôi. Đây là một thành phố có gần 4 triệu dân, có 10

vạn cảnh sát, ghê gớm lắm. Nhưng không phải chỉ đem lực lượng quân sự giữa hai bên ra mà so

sánh, mà phải thấy lực lượng của quần chúng. Lực lượng này thì tiềm tàng, bây giờ ta phải ra

sức phát triển, nhưng sức mạnh của nó thì không ai có thể lường hết được. Nó còn mạnh gấp

năm gấp mười lần sức mạnh quân sự. Đến một lúc nào đó, tình thế xoay chuyển, thì chỉ trong

một thời gian ngắn, lực lượng này có thể làm tê liệt tất cả: Nhà máy sẽ không còn là pháo đài hay

lô cốt của địch, mà sẽ trở thành những ổ đề kháng, nơi tập trung lực lượng của giai cấp công

nhân; đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch, mà trở thành những chiến luỹ gang

thép, thiên la địa võng của ta để bao vây quân địch, tiêu diệt quân thù. Mà chẳng phải chỉ có Sài

Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ...nơi nào cũng làm được

như thế cả..."

Thế rồi sự thật lịch sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đại thắng mùa Xuân 1975 đã diễn ra

đúng như những ý kiến tiên liệu của anh.

Ngay như việc chọn mục tiêu đột phá mở màn chiến dịch, lúc đầu, sau khi đã phân tích tình hình

mọi mặt, Cục Tác chiến và Bộ tổng Tham mưu đã chọn Đức Lập; cán bộ của Mặt trận Tây

Nguyên cũng nhất trí như vậy vì nó "vừa sức của ta". Nhưng ý tưởng của anh Lê Duẩn là phải

chọn một mục tiêu sao cho khi ta đánh sẽ làm rung chuyển cả chiến trường. Và, anh đã chỉ đạo

đánh Buôn-mê-thuột. Đòn đánh Buôn-mê-thuột đã thôi động vô cùng. Thay vì quân nguỵ thực

hiện lệnh của Nguyễn Văn Thiệu rút bỏ Tây Nguyên về phòng thủ miền duyên hải đã biến thành

một cuộc tháo chạy trong hoảng loạn và vỡ trận. Thời cơ lớn đã thật sự oà đến. Quân và dân ta

trên thế thượng phong, hoàn thành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền

Nam trong 55 ngày, đúng như ý tưởng chỉ đạo của anh và Bộ Chính trị.

Bức điện lịch sử ngày 7/4/1975

Trong bài viết "Kỷ niệm khó quên về anh Ba Duẩn trong cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975"

của anh Lê Hữu Đức, Cục trưởng Cục Tác chiến có cho bạn đọc biết: "...11 giờ đêm (29/4). Anh

Văn (Võ Nguyên Giáp) nhắc tôi đọc bức điện của anh Lê Trọng Tấn cho Anh Ba nghe. Sau khi

Anh Ba nghe xong bức điện, anh Văn nói với Anh Ba: "Theo điện báo cáo của anh Tấn, đề nghị

Anh Ba cho đánh". Anh Ba nói ngay: "Đánh! Đánh! Cứ đánh ngay anh ạ! Bây giờ không chờ nhau

nữa. Lúc này, cánh quân nào thuận lợi thì cứ phát triển, càng thuận lợi cho toàn chiến dịch". Anh

Văn hỏi thêm Anh Ba: "Điện trả lời ký tên anh chứ?". Anh Ba nói: "Không, anh là chỉ huy quân

đội, cứ ký tên anh thôi". Sau một thoáng, Anh Ba nói thêm: "Nếu cần thì để cả tên tôi cũng được,

hoặc nói rõ đã trao đổi với Anh Ba và Anh Ba hoàn toàn nhất trí"...

Và tôi được biết, bức điện ngày 7/4/1975 đã đi vào lịch sử "Thần tốc, thần tốc hơn nữa! táo bạo,

táo bạo hơn nữa!.." cũng ra đời trong một bối cảnh tương tự - Đồng chí Bộ trưởng Quốc phòng

đã thực hiện theo sự chỉ đạo trực tiếp của người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

thể hiện ý chí của Đảng và Nhà nước ta ở thời khắc lịch sử có một không hai đó.

Chúng ta có thể khẳng định: Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, anh Lê Duẩn đã có

công rất lớn. Phẩm chất và di sản của anh để lại, chúng ta còn phải nghiên cứu học hỏi để dần

dần hiểu được hết anh.

"Chân lý là cụ thể..."

Tại đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), trong Báo cáo chính trị do anh trình bày, đã

nghiêm khắc phê bình hai loại nhận thức: Một là, "chủ quan nóng vội", đề ra một số chỉ tiêu quá

lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất,... Đưa quy mô hợp

tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Hai là, "bảo thủ, trì trệ", "duy trì quá lâu cơ

chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ nên đã kìm

hãm sản xuất". Đại hội quyết định "Đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành. Xoá bỏ

cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ...

Vừa nắm vững giá trị xử dụng, vừa rất coi trọng giá trị và quy luật giá trị". Như vậy, ngay từ Đại

hội V, Ban chấp hành Trung ương và Tổng Bí thư Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra mặt tiêu cực

của cơ chế quan liêu bao cấp và quyết định loại bỏ cơ chế này. Hay nói một cách khác là "Tư

duy về đổi mới nền kinh tế, đổi mới đất nước" đã xuất hiện từ trước thềm Đại hội V.

Trao đổi với mọi người, anh Lê Duẩn vẫn thường nói một mệnh đề mà anh hằng tâm đắc: "Chân

lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; nên nhiều khi đường lối cách mạng phải trải qua rất nhiều

thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân lý". Lịch sử về đổi mới nông nghiệp đã minh chứng: Bắt

đầu từ tư duy "Khoán hộ" của anh Kim Ngọc, 15 năm sau thì xuất hiện "Khoán chui", "Khoán

sản" của Hải Phòng đã làm cơ sở cho Chỉ thị 100 của Ban Bí thư tháng 1/1981 và Nghị quyết

"Khoán 10" (tháng 4/1988) của Bộ Chính trị khoá VI. Lúc này, sức sản xuất thực sự được giải

phóng, sản xuất bung ra, lương thực bung ra. Nếu như trước đó, khi anh Lê Duẩn đề ra chỉ tiêu

21 triệu tấn, nhiều người hoài nghi, thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản

về lương thực, đảm bảo an ninh lương thực, mà còn có gạo xuất khẩu - Một sự kiện "như mơ

giữa ban ngày".

Thuỷ điện Hoà Bình và "Dầu khí Việt - Xô" - lịch sử đã chứng minh anh

Ba đúng

Tôi còn nhớ, giai đoạn nhiệm kỳ Đại hội IV và V, khi anh Lê Duẩn và Bộ Chính trị chủ trương tập

trung đầu tư cho một số công trình trọng điểm như: Thuỷ điện Hoà Bình, nhiệt điện Phả Lại, rồi xi

măng Hoàng Thạch, thuỷ lợi vùng đồng bằng sông Cửu Long v.v.. thì có khá nhiều ý kiến chỉ

trích - Đời sống nhân dân đang khó khăn thiếu thốn, hàng tiêu dùng đang khan hiếm nghiêm

trọng, sao không đầu tư làm xà phòng, thuốc đánh răng cho dân dùng, vải cho dân mặc, mà lại

dồn hết tiền của vào điện và xi măng?... Còn về dầu khí - Lúc đó, bị lôi kéo vào chiến dịch cấm

vận, các công ty kinh doanh dầu khí của một số nước đang hợp tác với ta liền chịu bồi thường

để huỷ bỏ hợp đòng và rút lui. Sau khi cân nhắc, cuối cùng Đảng và Nhà nước ta quyết định mời

Liên-xô vào hợp tác liên doanh, mặc dù khả năng và kinh nghiệm thăm dò và khai thác dầu khí

ngoài khơi của Liên-xô không bằng các nước khác.

Để thực hiện việc này, anh Lê Duẩn đã dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ ta thăm chính

thức Liên-xô. Kết quả là tại điện Kremli, dưới sự chứng kiến của hai Tổng Bí thư, Hiệp định về

việc Liên-xô giúp Việt Nam thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa Nam Việt Nam và thành

lập Xí nghiệp Liên doanh Việt-Xô được ký kết. Hai đồng chí Nguyễn Lam và Baibacôp là Chủ

nhiệm Uỷ ban Kế hoạch của hai Chính phủ đã ký hiệp định. Và, Việt-Xô Pêtrô trở thành mốc son

lịch sử ra đời của ngành Dầu khí Việt Nam. Như vậy, sự thật đã trả lời là anh đúng! Công cuộc

Đổi mới đất nước, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hôm nay đã và đang thành công là

nhờ có cơ sở nền tảng của những công trình mà thế hệ lãnh đạo của anh đã lo trước một bước.

Nhớ về anh, một tư duy sáng tạo không ngừng

Bởi vậy, tôi cho rằng, chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc Đổi mới

đất nước. Điều đó đúng. Nhưng không có nghĩa là đến đại hội VI thì mới có Đổi mới, mà ý tưởng

này đã manh nha từ đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần ra, và tới trước thêm đại hội VI thì tình thế,

điều kiện về mọi mặt (nhận thức tư tưởng, kinh tế - xã hội...) đã chín muồi cho việc Đảng và Nhà

nước ta quyết định công bố chủ trương đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.

Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với anh Lê Duẩn là tại Hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ mở rộng đầu năm

1947 ở Đồng Tháp Mười. Anh chủ trì hội nghị, một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những

nó củng cố, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, mà nó còn định hướng cho tổ chức

đảng các cấp trong toàn Xứ uỷ để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp trước tình hình cấp bách

đang diễn ra. Từ hội nghị này, anh em Nam Bộ đặt cho anh cái biệt hiệu là "Ông 200 bougies"- ý

nói tư duy mẫn tuệ sáng như ngọn đèn hai trăm bu-gi. Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi có nhiều

lần từ chiến trường được ra Bắc báo cáo tình hình với anh. Sau giải phóng 1975, tôi có điều kiện

gặp anh nhiều hơn. Không phải ở anh cái gì tôi cũng bằng lòng 100%, nhưng có hai điểm thì tôi

luôn luôn nhất trí:

Một là, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày đêm anh đau đáu suy nghĩ

việc đó. Năm xưa anh hào hứng mang bản "Đề cương cách mạng miền Nam" ra Bắc. Tình hình

nội bộ chưa thuận, anh kiên trì đi vận động từng người. Tình hình quốc tế trắc trở, anh là một

trong những người đi Liên-xô và Trung Quốc nhiều nhất để vận động, thuyết phục; và bằng thực

tế tổ chức đấu tranh cách mạng của đảng và nhân dân ta, hai người bạn lớn từ chỗ không ủng

hộ đã đi tới ủng hộ tích cực và có hiệu quả cuộc kháng chiến của ta.

Năm 1972, tình hình quốc tế lại khó khăn, một lần nữa, anh Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị - Bộ

óc tối cao của cách mạng Việt Nam, tỉnh táo, sáng suốt tìm ra sách lược mới. Trí tuệ Việt Nam

đã vượt lên trên sự tính toán của các nước lớn. Và, quyết định của anh giải phóng nhanh trong

hai năm 1975-1976, tiến tới giải phóng trước tháng 5/1975 khi thời cơ đã tới. Đây là một quyết

định sắc sảo; tôi cho rằng quyết định này có từ trí tuệ chứ không chỉ từ tấm lòng.

Hai là, anh luôn luôn là một con người đôn hậu. Sự đôn hậu không chỉ thể hiện khi anh đưa ra

những chủ trương, chính sách để cải thiện, mang lại cuộc sống cho người dân ngày càng tốt

hơn, không chỉ trong tiếp xúc, ứng xử đối với anh em, đồng chí, với bạn bè quốc tế; mà còn thể

hiện sự đôn hậu với cả những người xử sự với anh không đúng đắn.

Hôm nay, nhân kỷ niệm 20 năm ngày anh từ biệt chúng ta đi về cõi vĩnh hằng, chúng ta nhớ về

anh, một cán bộ lãnh đạo lỗi lạc, một tư duy sáng tạo không ngừng của cách mạng Việt Nam,

một Người Anh đôn hậu, đáng kính trọng và vô cùng biết ơn!

Hà Nội tháng 7/2006

· Lê Đức Anh

( Để tiện cho độc giả theo dõi, toà soạn đã đặt thêm những title nhỏ trong

bài)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro