LHPTK 6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 

CHƯƠNG  VI  CHẾ ĐỘ KINH TẾ,  CHÍNH SÁCH VĂN HÓA – XÃ HỘI, AN NINH VÀ QUỐC PHÒNG -NHỮNG CHẾ ĐỊNH ĐẶC BIỆT QUAN TRỌNG CỦA HIẾN PHÁP VIỆT NAM

 

 

I. CHẾ ĐỘ KINH TẾ

 

1. Khái niệm chế độ kinh tế

 

Một  điểm  rất  khác  của  Hiến  pháp  Việt  Nam  với  của  các  nước  khác  là  có  một  số chương riêng quy định về chế độ kinh tế, văn hóa và xã hội. Chế độ xã hội được hình thành bởi nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Mỗi một lĩnh vực với sự hoạt động của nó

tạo nên một chế độ nhất định. Trong những chế độ quan trọng tạo nên hoạt động của xã

hội chế độ kinh tế chiếm một vị trí quan trọng. Như những phần trên đã phân tích Hiến pháp là bản văn quy định của nhà nước về lĩnh vực hoạt động của nhà nước, lĩnh vực chính trị. Cũng như lĩnh vực khác thuộc thượng tầng kiến trúc, chính trị rất phụ thuộc vào kinh tế - hạ tầng cơ sở. Đó là mối quan hệ biện chứng mà chủ nghĩa Mác đã chỉ ra giữa chính trị và kinh tế. Kinh tế quyết định chính trị, nhưng bản thân chính trị cũng có tác động ngược trở lại đến sự phát triển của kinh tế.  Sở dĩ chế độ kinh tế cũng như các chế

độ văn hóa – xã hội khác phải được quy định trong Hiến pháp, vì xét cho cùng sự phát triển chính trị đều có mục tiêu cho sự phát triển kinh tế xã hội. V.I. Lênin đã cho rằng: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”1. Chính trị do kinh tế quyết định, nhưng đồng thời “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”2    là phương hướng dẫn dắt kinh tế.

 

Như trên đã nêu, một điểm cần phải nhấn mạnh rằng, lĩnh vực kinh tế thường không được quy định trong hiến pháp của các nước phát triển. Lý do của việc hiến pháp không quy định có rất nhiều, nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân căn bản, hiến pháp khi mới ra đời là một trong những thành tố khẳng định sự tự do của con người thoát khỏi sự chuyên chế của nhà nước phong kiến, với chủ nghĩa tư bản tự do: Nhà nước không can thiệp vào kinh tế. Nếu như là có chăng sự quy định của nhà nước vào lĩnh vực kinh tế, thì

chỉ nằm ở chỗ hiến pháp xác định sở hữu là quyền tự nhiên bất khả xâm phạm của lĩnh vực  quyền  con  người.  Mọi  hoạt  động  kinh  tế  do  thị  trường  điều  tiết/bàn  tay  vô  hình. Quyền tư hữu như là một trong những quyền tự nhiên của con người, tạo hóa ban cho con người, nhà theo quy định của Hiến pháp chỉ có trách nhiệm bảo vệ cho những quyền tự nhiên đó không bị vi phạm.

 

Mặc dù trong lĩnh vực kinh tế thị trường vận hành tốt hơn Nhà nước, nhưng cũng có những hoạt động khác  của kinh tế đòi hỏi phải có sự liên quan đến nhà nước. Không có

 

 

1  Xem, V.I. Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ,  Mátcơva 1977, t.42, tr. 349

2  Xem, V.I. Lênin: S. đ. d. tr. 350

 

những  nền  tảng  lý  thuyết  kinh  tế  nào  ủng  hộ  chính  sách  tự  do  kinh  doanh  thuần  túy. Không một nền kinh tế nào hoạt động hiệu quả được nếu như không có nhà nước đóng một vai trò thích hợp và ngay cả trong trường hợp nếu vai trò đó được giới hạn như quan điểm “bàn tay vô hình” của nhà kinh tế cổ điển Adam Smith (1776). Ngay cả Hoa kỳ, nơi

mà chủ nghĩa tự do kinh doanh và tình trạng không tin tưởng vào nhà nước là trọng tâm của việc hình thành ra xã hội, thì các hành động của nhà nước cũng luôn luôn tỏ ra vô cùng quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển của thị trường.

 

Như Morris Abraham, cựu đại sứ tại liên hợp quốc về vấn đề nhân quyền và cựu chủ tịch ủy ban quan sát của LHQ tại Giơ-ne-vơ đã phát biểu:" Chỉ riêng tự do không thể đảm bảo cho thành công về kinh tế, nhưng sự cưỡng ép chắc chắn sẽ mang lại thất bại".

 

Đối với các nhà nước đang phát triển, và kể cả của các nước có nền kinh tế chuyển

đổi, vai trò của nhà nước có ý nghĩa quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển của kinh

tế. Không có một chế độ chính trị/chế độ nhà nước nào lại không có mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế. Càng ở những nước chậm phát triển thì mục tiêu phát triển kinh tế của chế độ chính trị càng phải được đặt ra. Chế độ kinh tế không những chỉ là cơ sở có tính quyết định đến chế độ chính trị, mà đối với nhà nước chậm phát triển còn là mục tiêu phát triển ccần phải đạt được của chế độ chính trị.

 

Vì vậy, với tư cách là đạo luật cơ bản của mỗi quốc gia, hiến pháp ít nhiều phải có quy định về chế độ phát triển kinh tế.

 

Vậy chế độ kinh tế là gì và do những yếu tố nào cấu tạo nên?   Chế độ kinh tế là một bộ phận hợp thành của chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Nó bao gồm một tổng thể các

qui định pháp luật ghi nhận những quan hệ kinh tế phù hợp với bản chất của nhà nước, truyền thống lịch sử và hoàn cảnh lịch sử cụ thể khác. Các quan hệ này vừa là yếu tố quyết định tính chất của nhà nước, vừa là cơ sở pháp lý - kinh tế cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Dưới góc độ đó, chế độ kinh tế là một chế định quan trọng của luật hiến pháp.

 

Từ điển Bách khoa Việt Nam có định nghĩa:

 

“Chế độ kinh tế là tổng thể các thể chế đặc trưng   quy định các điều kiện, các phương thức tổ chức và các chính sách, cơ chế hoạt động của nền kinh tế một nước trong từng thời gian. Có nhiều loại chế độ kinh tế: Chế độ kinh tế tự do, chế độ kinh tế chỉ huy, chế độ kinh tế thị trường, chế độ kinh

tế kế hoạch hóa tập trung, chế độ kinh tế mở, chế độ kinh tế tự cấp tự túc. Người ta thường phân biệt một cách máy móc hai chế độ kinh tế điển hình

là chế độ kinh tế tự do theo cơ chế thị trường và chế độ kinh tế chỉ huy theo

cơ chế tập trung kế hoạch hóa, đặc trưng cho hai hệ thống kinh tế xã hội:

tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa (theo mô hình cũ).”1

 

Chế độ kinh tế bao gồm trước hết là chính sách phát triển nền kinh tế. Chúng định hướng cho sự phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện của đất nước. Quan hệ nền tảng quyết định tính chất của chế độ kinh tế là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Nhà nước phải xác định các loại hình sở hữu thích hợp, qui định chế độ pháp lý đối với từng hình thức sở hữu đó. Chính sách về lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng thể hiện quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất. Chúng cũng là một yếu tố của chế độ kinh tế. Cuối cùng là những quan hệ về quản lý kinh tế. Quan hệ sản xuất là cơ sở của hệ thống quản lý kinh tế. Hệ thống quản lý kinh tế là hình thức cụ thể thể hiện quan hệ sản xuất trên thực tế;

 

 

1  Xem, Từ điển Bách khoa Việt Nam, t. 1, NXB. Trung tâm Biên soạn từ điển Bách khoa Việt nam, Hà Nội 1995

 

Vậy, chế độ kinh tế là một hệ thống các quan hệ kinh tế được pháp luật quy định thể

hiện định hướng phát triển kinh tế, tính chất và hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất,

và tổ chức quản lý nền kinh tế.

 

Chế  độ  kinh  tế  được  hình  thành  bằng:  Chế độ  sở  hữu,  mục  đích, chính  sách  phát triển kinh tế và chế độ quản lý kinh tế.

 

Trong xã hội tư bản, chế độ kinh tế dựa trên chế độ tư hữu những tư liệu sản xuất. Hiến pháp tư bản luôn luôn khẳng định long trọng quyền tư hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Tuy có một số ràng buộc thể hiện vai trò điều tiết của nhà nước như" sở hữu phải phục vụ xã hội" (Hiến pháp Cộng hòa Liên Bang Đức 1949), song chế độ tư hữu là yếu tố quyết định tính chất quan hệ sản xuất các nước tư bản. Do đó chế độ kinh tế của

bất kỳ xã hội tư bản nào đều chứa đựng sự bất bình đẳng xã hội, sự bóc lột và tính cạnh tranh tự phát trong nền kinh tế.

 

Chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản dựa trên chế độ công hữu

về tư liệu sản xuất chủ yếu. Theo quan điểm Mác - Lê nin, đó là điều kiện tiên quyết để xóa bỏ chế độ người bóc lột người; xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên quá trình này phải tiến hành từ từ qua nhiều cấp độ, nhiều hình thức khác nhau, tránh nóng vội, duy ý trí, đốt cháy giai đoạn.

 

Chế độ kinh tế của nước ta được xác định là chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình phát triển, xây dựng và hoàn thiện đã trải qua nhiều giai đoạn với những nét đặc thù:

 

Tại Hiến pháp 1946 (giai đoạn 1945 - 1954) chế độ kinh tế nước ta còn là tự nhiên, tự

do với nền kinh tế nhiều thành phần, đúng với mục tiêu cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới (sau gọi là cách mạng dân chủ nhân dân). Hiến pháp qui định quyền tư hữu tài sản của công dân Việt nam được bảo đảm (Điều 12).

 

Hiến pháp 1959 (giai đoạn 1954 - 1975) đã xác lập một chế độ kinh tế theo chủ nghĩa

xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp hiện đại và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến (Điều 9). Thời kỳ này, Hiến pháp còn thừa nhận tồn tại 4 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất: Sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu của người lao động riêng lẻ và sở hữu của nhà tư sản dân tộc.  Song  nhà  nước  chủ  trương  đẩy  mạnh  công  cuộc  cải  tạo  xã  hội  chủ  nghĩa,  nhanh chóng  xóa  bỏ  các  hình  thức  sở  hữu  phi  xã hội  chủ  nghĩa,  tăng cường  sự  lãnh  đạo  tập trung thống nhất của nhà nước đối với kinh tế. Sở dĩ có hiện tượng này vì Điều 9 của bản Hiến pháp năm 1959 quy định rõ:

“Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế

xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ

thuật tiên tiến.

Mục đích cơ bản của chính sách kinh tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là không ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.”

 

Hiến pháp 1980 (giai đoạn 1975 - 1985) qui định một chế độ kinh tế thuần túy xã hội chủ nghĩa với một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần: Kinh tế quốc doanh và kinh tế

tập thể, với hai hình thức sở hữu tương ứng; sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Thực hiện một  chế  độ  quản  lý  kinh  tế  theo  kế  hoạch  tập  trung  thống  nhất  kết  hợp  quản  lý  theo ngành, theo địa phương và vùng lãnh thổ.

 

Hiến pháp 1992 mở ra một giai đoạn mới- Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Chế độ kinh tế được quy định là kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ  nghĩa. Nhận thức mới này rút ra từ bài học của những sai lầm, nóng vội, duy ý chí trong quá khứ. Hiến pháp đã quy định những nội dung mới về chế độ kinh tế như chính sách kinh

tế, hình thức sở hữu, chế độ lao động sản xuất, phân phối và tiêu dùng và chế độ quản lý kinh tế. Cái quan trọng nhất của chế độ kinh tế là quy định sở hữu tư nhân được tồn tại và được hiến pháp bảo đảm.

 

 

 

 

2. Chính sách kinh tế

 

Chính sách kinh tế là một trong những thành phần quan trọng tạo nên chế độ chính trị

của mỗi quốc gia. Trong cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam có định nghĩa:

 

“Chính sách kinh tế là chính sách và biện pháp kinh tế mà nhà nước áp dụng trong một giai đoạn, hoặc thời kỳ lịch sử nhằm đạt được những mục đích, yêu cầu kinh tế chính trị nhất định. Chính sách có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài, có thể tính chất sách lược ngắn hạn. Chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ sở, những điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và những xu hướng phát triển xã hội”.1

 

Hiến pháp 1992 đã thể chế hoá đường lối xây dựng kinh tế của Đảng, quy định một loạt nội dung chính sách kinh tế mới của Nhà nước.

Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giầu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở giải phóng mọi nguồn lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế.

 

Điều 15 và Điều 16 Hiến pháp quy định rõ mục đích chính sách phát triển kinh tế

của nhà nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như sau:

 

“Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá  đất nước.

 

Nhà  nước  thực  hiện  nhất  quán  chính  sách  phát  triển  nền  kinh  tế  thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. (Điều 15)

 

Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân  trên  cơ  sở  phát  huy  mọi  năng  lực  sản  xuất,  mọi  tiềm  năng  của  các thành phần kinh tế gồm    kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất -

kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị

trường thế giới.

 

Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà

 

 

1  Xem, Từ điển Bách khoa Việt Nam, t. 1 Sđ d, tr.477

 

pháp luật không cấm; cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật.

 

Nhà nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”(Điều 16)

 

Trước đây, trên cơ sở nhận thức giản đơn về chủ nghĩa xã hội và về nền kinh tế xã

hội chủ nghĩa, chúng ta đã đề ra nhiệm vụ trọng tâm của Nhà nước ta trong suốt thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đưa nền kinh

tế nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chúng ta đã thực hiện một cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất nhằm xây dựng một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai hình thức sở hữu: Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trên thực tế nền kinh tế mà chúng ta  xây dựng lên là một nền kinh tế  hiện vật, nền kinh

tế xã hội hóa trực tiếp được đặt dưới sự chỉ huy bởi kế hoạch hóa tập trung cao độ. Cơ

chế quản lý đó đã làm cho các tổ chức kinh tế hoạt động thiếu chủ động, thiếu hiệu quả, trông chờ và ỷ lại vào Nhà nước. Cả một nền kinh tế ở trong tình trạng trì trệ kéo dài mà thực chất là khủng khoảng. Chính sách kinh tế mới thay cho cơ chế kế hoạch hóa cao độ

là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có định hướng

xã hội chủ nghĩa.Đó là một chính sách đang chuyển đổi của một nền kinh tế tập trung sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Chính sách chuyển đổi kinh tế chủ yếu được thực hiện bằng những nội dung sau đây:

 

•           Chuyển đổi từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa   với việc thiết lập các yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường.

 

•           Chuyển từ nền kinh tế chủ yếu do khu vực nhà nước và khu vực hợp tác xã chi phối sang một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó khu vực tư nhân và đầu

tư nước ngoài chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong GDP.

 

•           Chuyển từ tình trạng đất nước bị bao vây, cấm vận và hạn chế ở các thị trường truyền thống ở Liên xô và khối xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước đây sang phát triển hợp tác với hầu hết các nước trên thế giới. Việt Nam đã trở thành thành viên  của  ASEAN  và  APEC,  đàm  phán  một  số  hiệp  định  thương  mại  song phương , mới đây với Hợp chúng Hoa kỳ, và hiện đang đàm phán để trở thành thành viên của WTO.1

 

 

 

Thời kỳ trước đây quan điểm phổ biến của chúng ta là kinh tế thị trường tức là kinh

tế phi xã hội chủ nghĩa, chấp nhận kinh tế thị trường tức là chấp nhận quay trở về chủ nghĩa  tư  bản.  Với  nhận  thức  lại  chủ  nghĩa  xã  hội,  tư  tưởng  mà  Đảng  và  Nhà  nước  ta khẳng định hoàn toàn khác. Kinh tế thị trường là loại hình phát triển kinh tế có nhiều ưu điểm mà các xã hội đều tận dụng nó, trong đó có cả trong nền kinh tế quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.Chúng ta chủ trương sử dụng cơ chế thị trường để tận dụng các mặt tích cực của cơ chế đó (như năng suất lao động, hiệu quả sản xuất) đồng thời phải định hướng nó phục vụ các mục tiêu công bằng ổn định và tiến bộ xã hội, ngăn ngừa những mặt tiêu cực (như nạn thất nghiệp, bóc lột lao động, đầu cơ, phân hóa giầu nghèo...) mà cơ chế này luôn luôn tiềm ẩn, trước định hướng xã hội chủ nghĩa.

 

Để bảo đảm cho mặt thứ nhất, Hiến pháp 1992 đã quy định một loạt nguyên tắc mới như: "Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa

 

 

1  Xem, UNDP và MPI/DSI, Việt Nam hướng tới 2010, t. 1 , NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 2001, tr. 40

 

dạng dựa trên nhiều loại hình sở hữu (Điều 15); phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức (Điều 16). Kinh tế nhà nước được củng cố

và phát triển, nhất là trong các ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.” (Điều

19). Kinh tế tập thể được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi (Điều 20). Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế

về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.

 

Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển (Điều 21); Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước (Điều 22). Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước.” (Điều 25); Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước  không  bị quốc hữu  hóa  (các Điều  23  và  25).  Các  thành  phần  kinh  tế bình đẳng với nhau trước pháp luật, có quyền hợp tác và cạnh tranh với nhau một cách lành mạnh.

 

Để bảo đảm cho mặt thứ hai, Hiến pháp cũng quy định một loạt nguyên tắc tương ứng. Bên cạnh việc phát triển mọi thành phần kinh tế, chúng ta chủ trương sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng (Điều 15), kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân (Điều 19), trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức (Điều 23), Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách (Điều 26), xử lý nghiêm mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh bất hợp pháp, bảo vệ quyền lợi của người sản xuất và người tiêu dùng (Điều

28), sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường (Điều 29).

 

Những quy định trên đây cho thấy tính độc đáo của chính sách phát triển kinh tế thị trường nước ta. Đó là tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. Trong quá trình xây dựng tiếp theo không thể để xẩy ra tình trạng chạy theo lợi nhuận mà buông

lơi các vấn đề công bằng xã hội, xâm hại môi trường. Đó là đặc điểm quan trọng thể hiện tính tiến bộ của nền kinh tế thị trường nước ta, thể hiện sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường nước ta với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.

 

Một điểm quan trọng khác của chính sách kinh tế của nhà nước là vận động toàn dân cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội; quy định và kiểm tra  việc xử dụng đúng hướng lao động, vật tư, tiền vốn. Bên cạnh đó, nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt nam phù hợp với pháp luật Việt nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức cá nhân nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không

bị quốc hữu hóa (Điều 25).

 

Nhà nước thống nhất quản lý và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức hoạt động kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và cùng có lợi, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước (Điều

24).

 

Hiến pháp quy định trách nhiệm của các cơ  quan nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường. Đây là một chính sách kinh tế lớn có ý nghĩa  trước mắt cũng như lâu dài.

 

 

 

 

3. Chế độ sở hữu

 

Cùng với chính sách kinh tế, chế độ sở hữu là yếu tố cơ bản trong chế độ kinh tế. Chính vì vậy mà việc điều chỉnh các quan hệ sở hữu luôn luôn đặt ra đối với Hiến pháp

các nước cũng như Hiến pháp nước ta.

 

Trong thời kỳ cách mạng dân chủ nhân dân, Nhà nước thừa nhận mọi loại hình sở hữu.  Hơn  nữa,  để  động  viên  tất  cả  mọi  tầng  lớp  nhân  dân  tham  gia  kháng  chiến  kiến quốc, Nhà nước tuyên bố bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất. Điều 12 Hiến pháp

1946 quy định "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt nam được bảo đảm".

 

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội tất yếu đặt ra vấn đề xóa bỏ chế độ tư hữu và thay thế vào đó là nền công hữu. Song, quá trình này đã được tiến hành nóng vội. Đã không sử dụng đầy đủ tiềm năng của các loại hình kinh tế được coi là phi xã hội chủ nghĩa mà tiến hành cải tạo chúng một cách gò ép, máy móc. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1980,

ở nước ta từ chỗ còn tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất   kể cả sở hữu tư nhân (Hiến pháp 1946) đến còn 4 loại hình sở hữu chủ yếu và tư liệu sản xuất là sở hữu Nhà nước tức là của toàn dân, sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân

lao động, hình thức của người lao động riêng lẻ và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân

tộc (Hiến pháp 1959) tiến lên thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa và tư

liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh

tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể (Hiến pháp 1980).

 

Hậu quả của quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội và về nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội này đã quá rõ. Thực tế đó buộc Đảng và Nhà nước ta phải nhìn nhận lại những quan niệm giáo điều về xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong sự nghiệp   xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt nam. Chủ trương phát triển một nền kinh  tế  hàng  hóa  nhiều  thành  phần  theo  định  hướng  xã  hội  chủ  nghĩa  được  tiến  hành mạnh mẽ. Hiến pháp 1992 thể chế hóa đường lối này của Đảng. Việc thừa nhận và bảo vệ

sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất bên cạnh các loại hình

sở hữu khác là điểm mấu chốt trong chế độ kinh tế nước ta giai doạn này. Các thành phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh

tế tư bản nhà nước được phát triển, bình đẳng trước pháp luật, tự chủ và liên kết, hợp tác

và cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh.

 

Như vậy trên thực tế đã thừa nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sở hữu phi xã

hội chủ nghĩa. ở đây nhà nước ta chủ trương không phải từ bỏ những nguyên tắc kinh tế

xã hội chủ nghĩa mà là sử dụng và phát huy tác dụng tích cực của các thành phần kinh tế

dó trong đó kinh tế quốc doanh vẫn chiếm địa vị chủ đạo. Việc xử dụng các thành phần kinh tế đó dài hay ngắn phụ thuộc vào tính tích cực của chúng.

 

Hiện nay ở nước ta đang tồn tại những hình thức sở hữu chủ yếu sau:

 

1.   Sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước);

 

2.   Sở hữu tập thể;

 

3.   Sở hữu tư nhân và sở hữu cá nhân;

 

4.   Sở hữu hỗn hợp.

 

Ứng với mỗi một loại hình sở hữu có một thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư nhân, và các thành phần kinh tế hỗn hợp.

 

 

 

1. Sở hữu toàn dân (hay sở hữu nhà nước)

Đây là hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nó bao quát những tư liệu sản xuất chủ chốt quyết định sự phát triển của nền kinh tế.

 

Tài sản thuộc sở hữu toàn dân bao gồm: Đất đai, rừng núi sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài

sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước (Điều 17).

 

Tài sản thuộc sở hữu toàn dân là tài sản chung của toàn xã hội. Chủ thể của sở hữu này là toàn thể nhân dân mà Nhà nước là đại diện. Nhà nước với tính cách là đại diện chủ

sở hữu của toàn dân định đoạt toàn bộ tài sản nhà nước, thực hiện thẩm quyền của nhân dân đối với tài sản đó. Nhà nước là chủ thể  thống nhất và duy nhất đối với tất cả tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Nhà nước giao những tài sản thuộc sở hữu của mình cho các tập thể, cá nhân sử dụng theo quy định của pháp luật.

 

Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, một khi nhà nước sở hữu và kiểm soát doanh nghiệp, thì nhà nước có xu hướng sử dụng quyền sở hữu và kiểm soát đó để phục vụ những lợi ích khác hơn là phục vụ khả năng tạo ra lợi nhuận lâu dài và do đó sở hữu nhà nước thông thường khác với mục tiêu về tính hiệu quả của thị trường.1

 

Hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam là một vấn đề đang được công cuộc cải tổ kinh tế hiện nay rất quan tâm. Vì hiệu quả họat động của chúng ảnh hưởng rất

lớn đến mức thu nhập quốc dân lẫn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cũng như hầu hết các nước khác, các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được gọi là các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đang ở tình trạng kém hiệu quả hoạt động. Đa số các doanh nghiệp này có mức lợi nhuận thấp hoặc thậm chí âm ngay ngay cả trong trường hợp được bảo hộ khỏi sự cạnh tranh quốc tế và trong nước, và được hưởng cả lợi thế độc quyền thị trường trong nước. Sự hoạt động kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam đã đẩy

hệ thống tài chính rơi vào tình trạng nguy ngập, hạn chế sự đầu tư của tư nhân và nước ngoài, và dẫn đến sự làm mất sự ổn định nền kinh tế. Chính vì lẽ đó hiện này nhà nước Việt  Nam  đang  tiến  hành  cải  cách  thành  phần  kinh  tế  này  bằng  nhiều  biện  pháp  khác nhau. Một trong những biện pháp quan trọng là cổ phẩn hóa các doanh nghiệp nhà nước.

 

Điều quan trọng trong công cuọc cải tổ nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam là thúc đẩy nhanh thành phần kinh tế tư nhân, cần có một khu vực kinh tế tư nhân năng động. Nhà nước cần phải loại bỏ mọi rào cản đối với sự phát triển của khu vực này, giải phóng mọi tiềm năng của họ.

 

Đất đai là tài sản đặc biệt thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước thống nhất quản lý toàn

bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.

 

 

1  Xem, UNDP và MPI/DSI, Việt Nam hướng tới 2010, t. 1, NXB.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.114

 

Khác với trước đây, Hiến pháp 1992 quy định:  Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Họ có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được nhà nước giao theo quy định của pháp luật (Điều 18). Đây là cách giải quyết hợp tình hợp lý trong điều kiện hiện nay.

Nó bảo đảm cho Nhà nước vừa là chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai, thống nhất quản lý

đất đai theo quy hoạch và được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đòng thời bảo đảm cho người được giao đất yên tâm sử dụng, đầu tư, khai thác lâu dài. Bản thân sở hữu nhà nước (toàn dân) không phải là không hiệu quả. Tính không hiệu quả này nảy sinh từ những hạn chế về quyền chuyển nhượng, quyền sử dụng, và cầm cố đất đai.

 

Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường càng cần phải củng

cố và tăng cường sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Bởi vì chỉ có phát huy ưu thế của các thành phần kinh tế này thông qua cạnh tranh lành mạnh thì mới chế ngự mặt tiêu cực của

sở hữu tư nhân, lôi cuốn chúng theo định hướng chung đã chọn. Vì thế Hiến pháp quy định "Kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành và lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân" (Điều  19).

 

 

 

2. Sở hữu tập thể

Đây là loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa gần giống với sở hữu toàn dân. Tuy nhiên,

nó  có  những  điểm  khác  so  với  sở  hữu  toàn  dân  về  chủ  thể,  phương  pháp  hình  thành, phạm vi các đối tượng tài sản và trật tự quản lý.

 

Sở hữu tập thể bao gồm sở hữu của các hợp tác xã sản xuất, kinh doanh trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng.

 

Tài sản thuộc sở hữu tập thể là tài sản không nằm trong diện sở hữu tuyệt đối của Nhà nước (kể ở trên) và được sử dụng để tiến hành các hoạt động sản xuất tương ứng hay phục vụ các nhu cầu sản xuất, văn hóa, đời sống của các thành viên của tập thể. "Kinh tế

tập thể do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Nhà nước tạo điều kiện để củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả" (Điều  20).

Một loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa gần giống như sở hữu tập thể là sở hữu của

các tổ chức xã hội. Hình thức sở hữu này đang tồn tại và được sử dụng thực hiện chức năng và phục vụ các nhu cầu đời sống văn hóa - xã hội của các thành viên của tổ chức

(Ví dụ như các nhà nghỉ, cơ sở du lịch của Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam).

 

 

 

3. Sở hữu cá nhân  và sở hữu tư nhân

 

Trong lý thuyết của chủ nghĩa xã hội có sự phân biệt giữa sở hữu tư nhân và sở hữu

cá nhân. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần có sự hoà lẫn các loại hình sở hữu cá nhân với sở hữu  tư nhân. Tuy nhiên, xét về chế độ sở hữu thì vẫn cần phải phân biệt các hình thức sở hữu đó. Nếu như tài sản của sở cá nhân chỉ nhằm mục đích đáp ứng

các sinh hoạt của cá nhân, không đưa vào kinh doanh sản xuất, thì sở hữu tư nhân lại chủ yếu là phần tài sản được đưa vào hoạt động kinh doanh, với mục đích sinh ra lợi nhuận cho cá nhân.

Sở hữu cá nhân và sở hữu tư nhân là một phần quan trọng của quyền con người. Về

cơ bản con người khác với con vật ở chỗ ý thức được quyền tư hữu và tài sản của mình.

Sở hữu tư nhân là sở hữu của lao động cá thể, tư bản tư nhân trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải.

 

Hình thức sở hữu này cũng được xác định là một loại hình sở hữu xã hội chủ nghĩa. Nguồn chủ yếu của sở hữu này là kết quả lao động của cá nhân và phần quỹ tiêu dùng xã

hội mà cá nhân được hưởng. Tài sản thuộc sở hữu cá nhân chủ yếu là những sản phẩm tiêu dùng (không phải là tư liệu sản xuất). Chủ thể của sở hữu cá nhân là các thành viên trong xã hội trực tiếp tham gia lao động sản xuất.

 

Sở hữu cá nhân bắt nguồn từ lao động do có sự tham gia lao động xã hội mà có. Cơ

sở (nguồn) của sở hữu cá nhân là thu nhập do lao động và các nguồn thu nhập chính đáng khác (như thừa kế, cho, tặng), gồm các đồ vật tiêu dùng, tiền tiết kiệm, nhà ở v.v...Theo

các  Hiến  pháp  trước  đây  (1959,  1980)  thì  những  công  cụ  sản  xuất  dùng  trong  những trường hợp được phép lao động riêng lẻ (trong công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) cũng

coi là sở hữu cá nhân (Điều 27, Hiến pháp 1980). Hiến pháp 1992 không đề cập vấn đề

này nữa. Khái niệm công dân cá thể, người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ xuất hiện trong bối cảnh tập thể hóa, hợp tác hóa triệt để, dùng để chỉ người lao động ngoài tập thể. Nhà nước tạm thời vẫn thừa nhận nhưng có xu hướng chuyển nhanh

họ vào con đường làm ăn tập thể. Trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần hiện nay thì hình thức này chuyển đổi  thành kinh tế cá thể thuộc loại hình sở hữu tư nhân. Hiện nay thành phần kinh tế này còn có phạm vi tương đối lớn.

 

Sản phẩm thuộc kinh tế phụ gia đình cũng thuộc vào sở hữu cá nhân. Người làm kinh

tế phụ gia đình là cán bộ, công nhân viên nhà nước, xã viên hợp tác xã tự bỏ sức lao động làm ngoài giờ tạo thêm thu nhập bằng sức lao động của mình không gắn với bóc lột sức

lao động của người khác. "Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển" (Điều  21).

 

 

 

Trước đây Nhà nước chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với loại hình sở hữu này. "Nhà nước tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thành thị và nông thôn bằng những hình thức thích hợp" (Điều 26.Hiến pháp

1980) "Nhà nước khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ nông dân cá thể, người làm nghề

thủ công và những người lao động riêng lẻ khác tiến lên con đường làm ăn tập thể"(Điều

24. Hiến pháp 1980).

Dưới ánh sáng đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra, Nhà nước đã tuyên bố công nhận và bảo hộ sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế này. Chính sách này của Nhà nước ta đối với các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được quy định trong các Nghị định số 27, 28, 29 ngày 9 tháng 3 năm 1988 ban hành Bản quy định về chính sách đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Hiến pháp 1992 đã sửa đổi khẳng định:

 

" Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức

tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp, không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh.

 

Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển.” (Điều  21)

 

Thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại và phát triển của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là một bước phát triển trong chế độ kinh tế nước ta thời kỳ đổi mới nhận thức lại chủ nghĩa xã hội. Khi mà việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất còn là khách quan, phù hợp với trình dộ phát triển của lực lượng sản xuất nước ta trong giai đoạn hiện nay mà đã chủ trương xóa bỏ tư hữu, phát triển sở hữu toàn dân thuần khiết, nhất là các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa này chưa đủ sức giải quyết mọi vấn đề kinh tế - xã hội thì chẳng những kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất mà sở hữu

 

toàn dân cũng bị suy vong vì cung cách quản lý hành chính mệnh lệnh, độc quyền. Thừa nhận và bảo vệ sở hữu tư nhân là nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, hỗ trợ, bổ xung cho kinh tế xã hội chủ nghĩa.

 

Tuy nhiên, phải thấy mặt trái luôn luôn tiềm ẩn của sở hữu tư nhân là sự chiếm hữu

lợi ích kinh tế, chiếm hữu lao động không được trả công của người khác. Để ngăn ngừa tình trạng này cần phải phát huy ưu thế của các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, tăng cường quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường, vừa tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển vừa bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế một cách   nghiêm  ngặt,  xử  lý  nghiêm  mọi  hành  vi  vi  phạm,  bảo  vệ  lợi  ích  của  người  tiêu dùng.

 

Hiện nay trong nền kinh tế của thị trường nhiều người không muốn có sự phân biệt giữa sở hữu tư nhân và cá nhân. Mọi sở hữu cá nhân có đưa vào thị trường để kinh doanh phát triẻn kinh tế.

 

5. Sở hữu hỗn hợp

 

Sở hữu hỗn hợp là loại hình sở hữu phối kết hợp giữa sở hữu tư nhân với các loại hình sở hữu khác, hoặc giữa các loại hình sở hữu khác với nhau trong việc đưa vốn và tài

sản vào tham gia kinh doanh sản xuất.

 

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn

dự kiến phát triển kinh tế tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Điều 16 Hiến pháp 1992

khẳng định phát triển thành phần kinh tế này.

 

 

 

 

4. Chế độ quản lý kinh tế

Quản lý nhà nước về kinh tế trong thời đại ngày nay trở thành một nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển của mọi quốc gia không kể của chế độ chính trị tư bản và của cả chế độ xã hội chủ nghĩa, các nước phát triển hay đang phát triển    Quản lý nền kinh tế là một phần quan trọng trong hoạt động của Nhà nước nói chung và Nhà nước xã hội chủ nghĩa nói riêng. Bất kỳ một nền kinh tế nào đều cần có sự quản lý của Nhà nước. Càng là kinh tế thị trường càng phải tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nền kinh

tế. Ở đây, Nhà nước tác động đến các chủ thể kinh tế với tính cách là chủ thể thực hiện quyền lực công cộng. Nhà nước quản lý toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội.

 

Để tăng cường và phát triển kinh tế, nhà nước và các tổ chức kinh tế đều phải thực hiện  những  chức  năng  kinh  tế  nhất  định.  Những  chức  năng  tuy  có  quan  hệ  với  nhau, nhưng chúng không thể đồng nhất. Mọi nhà nước không phân biệt chế độ chính trị đều phải có sự phân định giữa chức năng kinh tế của nhà nước và chức năng sản xuất - kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế quốc dân.

 

Nhà nước trong một nền kinh tế thị trường là những hoạt động của nhà nước cần phải thực hiện để cùng với thị trường đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

Về nguyên tắc là nhà nước không can thiệp vào những lĩnh vực mà bản thân thị trường hoạt động tốt, chỉ can thiệp vào những nơi mà thị trường hoạt động không tốt. Sự can thiệp không đúng lúc, không đúng chỗ của nhà nước có thể dẫn đấn sự thiệt hại cho nền kinh tế và quyền lợi của người dân. John Keynes trong tác phẩm “Sự kết thúc của nền

kinh tế thị trường tự do” đã cho rằng:

 

“Điều quan trọng đối với nhà nước không phải là làm những việc mà người dân đã làm, làm tốt hơn, hoặc tồi hơn họ một chút, mà là làm những việc hiện nay chưa ai làm.”

 

Việt Nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa trước đây trong nền kinh tế tập trung nhà nước đã làm tất cả không còn chỗ cho thị trường. Nền kinh tế không vì vậy mà tốt hơn, mà thậm chí còn tồi tệ hơn. Nhưng sự can thiệp của nhà nước không phải là không cần thiết, nếu như muốn có một nền kinh tế phát huy được đầy đủ khả năng tiềm tàng của

nó.

 

Những sự can thiệp tất yếu của nhà nước đến sự phát triển kinh tế đã được khẳng

định cả về mặt lý luận và thực tiễn bao gồm:

 

-Nhà nước phải duy trì một hệ thống pháp luật và trật tự cho các hoạt động kinh tế;

 

-Bảo  đảm cơ  sở  hạ  tầng  cho  phát  triển  kinh  tế,  ổn  định  kinh  tế  vĩ  mô  và  ổn  định chính trị;

 

-Bảo vệ môi trường,

 

-Quản lý có hiệu quả khu vực dịch vụ công;

 

-Giải quyết các khiếm khuyết của thị trường như độc quyền, công bằng, cạnh tranh lành mạnh…

 

Trong tất cả những chức năng này phải đảm bảo nguyên tắc nhà nước chỉ trực tiếp tham gia vào hoạt động kinh tế chỉ khi nào thị trường thất bại và, thị trường làm không có hiệu quả bằng nhà nước. Trước hết nhà nước phải xây dựng, hoàn thiện một hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế phù hợp với quy luật phát triển nền kinh tế của quốc gia. Tất cả các nhà nước đều phải cung cấp một loạt các hàng hóa và dịch vụ công cộng, những hàng hóa công đó chỉ có nhà nước mới có quyền cung cấp. Trong những hàng hóa công đó, hệ thống pháp luật chiếm một vị trí quan trọng. Việc xác

lập khuôn khổ pháp luật đúng đắn chi các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường

được xem như là một điều kiện tiên quyết bảo đảm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.

Vì môi trường pháp lý ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định kinh doanh của các chủ thể doanh nghiệp. Vấn đề cơ bản của kinh tế là sở hữu và lợi ích kinh tế. Bởi vậy trung tâm của pháp luật kinh tế là bảo vệ các lợi ích chính đáng của các chủ thể   trên thị trường, không cho phép   xâm phạm một cách tùy tiện quyền sở hữu làm ảnh hưởng đến lợi ích

các các chủ thể hoạt động trên thị trường. Vai trò của pháp luật kinh tế thể hiện ở các mặt sau đây:

 

-           Pháp luật kinh tế xác định địa vị pháp lý các tổ chức và đơn vị kinh tế;

 

-           Bằng pháp luật kinh tế nhà nước điều chỉnh các hành vi kinh doanh xác định các hành vi kinh doanh hợp pháp, kinh doanh phi pháp

 

-           Tạo ra các luật chơi một cách bình đẳng cho các chủ thể kinh doanh, phát huy tính tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.

 

Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế thông qua nhiều hình thức, chức năng tạo lập môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một trong những chức năng quan trọng của nhà nước hiện đại. Môi trường kinh doanh là tổng thể các yếu tố bên

 

ngoài tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các quyết định hoặc hoạt động của các đơn

vị kinh doanh. Nhóm các yếu tố bên ngoài bao gồm: Môi trường văn hóa – xã hội, môi  trường  kinh  tế,  môi  trường  pháp  lý,  môi  trường  vật  chất  và  môi  trường  công nghệ. Nhóm các yếu tố bên ngoài có tác động trực tiếp đến các đơn vị kinh tế là các yếu tố môi trường vi mô gồm có khách hàng, nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh, các nhóm quyền lợi trong doanh nghiệp … Trong số các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các yếu tố thuộc môi trường

vĩ mô. Duy trì ổn định kinh tế vĩ mô là làm giảm những biến động ngắn hạn trong nền kinh tế và khuyến khích bền vững sự tăng trưởng kinh tế lâu dài. Trong việc duy

trì ổn định kinh tế vĩ mô, yếu tố hàn đầu là ổn định tiền tệ mà biểu hiện là ổn định tỷ

giá hối đoái, ổn định giá cả lãi suất, thông qua đó tác động tích cực đến tăng trưởng

và phát triển kinh tế. Ổn định kinh tế vĩ mô là điều kiện tiên quyết cho việc tính toán kinh doanh của của cá chủ thể kinh tế. Giá cả thay đổi thất thường, tỷ giá tăng mạnh hoặc giảm mạnh làm cho các chủ đầu tư không tính toán nổi lỗ, lãi. Ổn định kinh tế

 

vĩ mô tạo ra sự tin tưởng của các chủ thể kinh doanh vào tương lai mà đầu tư vào công việc sản xuất, phát triển kinh tế.

 

Chức năng ổn định chính trị của nhà nước xuất phát từ sự tác động của chính

trị đến kinh tế, tạo thuận lợi đối với các hoạt động kinh doanh. Một nhà nước mạnh, thực thi hữu hiệu các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng được những nhu cầu chính đáng của nhân dân sẽ đem lại lòng tin và sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. trong một nhà nước ổn định chính trị, các nhà kinh doanh được đảm bảo an toàn về đầu tư, quyền sở hữu và các loại tài sản khác. Do đó các nhà kinh doanh sẵn sàng   đầu tư những khoản tiền lớn và các dự án dìa hạn. Sự bất ổn định chế độ chính trị trong nước sẽ gây lên tình trạng khủng hoảng chính phủ, đảo chính

và xung đột vũ trang trong nước. Khi một trong nhữn tình trạng này xẩy ra sẽ làm cho mức độ an toàn về tính  mạng, tài sản và các giao dịch kinh doanh của csc doanh nhân không được đảm bảo thi hành.

 

Xung đột với nước ngoài có thể dẫn đến chiến tranh, hoặc các quốc gia thường áp dụng các chính sách cấm vận, trừng phạt kinh tế, mà các doanh nghiệp luôn luôn là những chủ thể đầu tiên phải gánh chịu. Một nhà nước có thể áp dụng những chính sách quá tả, hoặc quá hữu, hoặc ôn hòa … tất cả dù ít hay nhiều đều ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.  Các chính sách điều hành và kiểm soát nền kinh tế của nhà nước bao gồm chính sách xuất – nhập khẩu, chính sách giá

cả, chính sách về lương bổng mà các doanh nghiệp phải áp dụng. Các chính sách quản lý nền kinh tế gồm chính sách kìm chế lạm phát, mức nợ nước ngoài, tỷ lệ thâm

hụt  ngân  sách  và  các  dịch  vụ  hỗ  trợ  kinh  doanhnhư  phát  triển  giao  thông  vận  tải, thông tin, y tế, dịch vụ ngân hàng, điện, nước v.v. Những chính sách này đều có tác dụng làm cho mức độ rủi ro, tăng hay giảm đến niềm tin của các nhà doanh nghiệp trong việc bỏ vốn và tài sản vào hoạt động kinh doanh của họ. Những chính sách này đèu  được  nhà  nước  thể  ché  hóa  thành  các  đạo  luật  và  chúng  đèu  có  hiệu  lực  ảnh

hướng đến các hoạt động kinh doanh của nền kinh tế.

 

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới ở Việt Nam chúng

ta hiện nay là nhận thức lại vai trò của nhà nước chúng ta trong một nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vị trí đó hoàn toàn khác với của một nền kinh

tế tập trung kế hoạch hóa, mà chúng ta đã từng trải qua.

 

Hãy xem xét những nhận định của UNDP trong dự án phối hợp với Bộ Kế hoạch

và Đầu tư, "Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội  đến năm 2010 ở Việt

Nam" trích trong phần dưới đây:

 

 

 

Vai trò của Nhà nước

 

Những phát hiệu chủ yếu

 

Trong việc xây dựng Chiến lược kinh tế - xã hội cho 10 năm tới, không vấn

đề nào quan trọng hơn là vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế. Trên thực tế, ở

bất kỳ nơi nào trên thế giới, vai trò của nhà nước đang thay đổi và không nơi nào

rõ nét hơn là ở các nền kinh tế chuyển đổi. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Bốn vấn đề lớn chính liên quan đến vai trò mới của Nhà nước ở Việt Nam được bàn đến trong dự án này là:  Sở hữu nhà nước, cung cấp kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường và "vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước".

 

Kinh nghiệm của các nước trên khắp thế giới  cho thấy, khi mà nhà nước sở hữu   hoặc kiểm soát doanh nghiệp thì nhà nước có xu hướng sử dụng quyền sở hữu và kiểm soát của mình để phục vụ những lợi ích khác hơn là khả năng sinh

lợi dài hạn của doanh nghiệp và vì vậy sở hữu nhà nước thường là khác với mục tiêu về tính hiệu quả của thị trường. Vai trò áp đảo của các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong khu vực công nghiệp, là một vấn

đề nghiêm trọng vì hầu hết các doanh nghiệp này được biết rõ là không có hiệu quả. Do các khoản lỗ hoạt động lớn của các doanh nghiệp nhà nước phải được

bù đắp bằng ngân sách hoặc thông qua các khoản vay từ hệ thống ngân hàng, nên vấn đề doanh nghiệp nhà nước đe doạ sự ổn định kinh tế vĩ mô và đẩy những đối tượng đi vay đáng tin cậy hơn ra khỏi thị trường tín dụng. Chính phủ phải có trách nhiệm giải quyết vấn đề này và làm việc đó càng nhanh càng tốt.

 

Nghĩa vụ cơ bản nhất của nhà nước là cung cấp hàng hoá công, chủ yếu là

kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội của nền kinh tế. Việt Nam bị tụt hậu so với mức trung bình của các nước có thu nhập thấp về kết cấu hạ tầng, năng lượng, giao thông vận tải, viễn thông và thông tin. Cần thực hiện những biện pháp chiến lược

để bắt kịp các nước khác, bao gồm đa dạng hoá các nguồn tài chính, nâng cao hiệu quả đầu tư và cải thiện sự tiếp cận với kết cấu hạ tầng ở vùng nông thôn, vùng sâu

và vùng xa.

 

Cung cấp các dịch vụ xã hội là một trách nhiệm tối cao khác của Chính phủ

và cần   tăng chi công cộng cho cả giáo dục, y tế và dịch vụ xã hội và bảo đảm các cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người. Để cấp vốn cho các đầu tư và chi tiêu

 

có liên quan, Việt Nam phải giải phóng tiềm năng của khu vực tư nhân để bổ sung cho khu vực nhà nước trong việc cung cấp các dịch vụ này. Việc này cần được thực hiện bằng cách tham gia trực tiếp và gián tiếp - thông qua nộp thuế. Nếu không có khu vực tư nhân lớn hơn, năng động và có khả năng đóng thuế, thì các  nguồn  thu  của  Chính  phủ  sẽ  không  thể  đáp  ứng  được  nhu  cầu  ngày  càng tăng về các dịch vụ kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội.

 

Một nghĩa vụ cơ bản nữa của Chính phủ là cung cấp khuôn khổ thể chế để điều hành nền kinh tế. Có 4 lĩnh vực đặc biệt quan trọng là: Xác định một nền pháp trị mang tính hỗ trợ đối với các thể chế thị trường và đảm bảo quyền sở hữu;  đảm  bảo  ổn  định  kinh  tế  vĩ  mô  và  ổn  định  tài  chính;  tạo  ra  môi  trường thuận lợi cho kinh doanh và thúc đẩy cạnh tranh để khuyến khích đổi mới và phân

bổ nguồn lực có hiệu quả; và thúc đẩy công nghệ mới.

 

Để đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế hiện đại hơn và theo định hướng thị trường,  phải  tăng  cường  năng  lực  của  Chính  phủ.  Sẽ  cần  một  hệ  thống  hành chính công được tổ chức tốt với đội ngũ cán bộ công nhân viên chức làm việc có hiệu qủa hơn và được trả lương cao hơn. Cũng cần đến tính minh bạch và tính chịu  trách  nhiệm  trong  việc  ra  quyết  định  của  Chính  phủ  và  trong  quản  lý nguồn lực của công cộng. Ngoài ra, cần khuyến khích sự tham gia của người dân, tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật.

 

...vai trò của Chính phủ vẫn thực sự là trọng yếu vì sự thành bại về kinh tế -

xã hội chủ  yếu  quyết  định  bởi phương  sách  mà  Chính  phủ  thực thi vai trò  của mình. Vai trò này giờ đây phải thay đổi từ chỗ tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất sang cung cấp các thể chế, kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội và môi trường kinh doanh mang tính cạnh tranh. Về phương diện này, Nhà nước có thể đóng vai trọng yếu và tích cực như chất xúc tác cho tăng trưởng dài hạn bền vững

và như một đối tác của khu vực tư nhân.1

 

Chính phủ Việt Nam trong một tinh thần mới có quá nhiều việc cần phải làm trong chiến lược phát triển của mình. Báo cáo của Dự án về Chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội 10 năm (2001- 2010) của Chính phủ Việt Nam do UNDP tài trợ  do Viện Chiến lược phát triển thuộc Bộ Kế hoạch  và Đầu tư  có một kết luận rằng:

 

"...Thành công hay thất bại về kinh tế - xã hội chủ yếu được xác định định bởi phương cách mà Chính phủ thực thi vai trò thiết yếu của mình trong nền kinh

tế. Vai trò này giờ đây phải thay đổi. Sức lực của Chính phủ cần được chuyển từ

chỗ tham gia trực tiếp vào các hoạt động sang lĩnh vực dịch vụ công... Việt Nam

 

 

Xem, UNDP and MPI/ DSI : Việt Nam hướng tới 2010 / Tuyển tập các báo cáo phối hợp nghiên cứu chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội  của các chuyên gia quốc tế và Việt Nam. Tập 1. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001,

tr. 111 - 113.

 

có một Chính phủ vừa quá nhiều vừa quá ít - quá nhiều về mặt kiểm soát sản xuất và đầu tư và quá ít về nền pháp quyền   và cung cấp hàng hoá và dịch vụ công. Chiến lược mới cần phải nhấn mạnh sự cần thiết phải chuyển sức lực của Chính phủ từ chỗ tham gia trực tiếp vào các hoạt động sản xuất sang hai lĩnh vực  cụ  thể.  Thứ  nhất  cung  cấp  các  dịch  vụ  giáo  dục,  y  tế,  nghiên  cứu  nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng có chất lượng cao và hỗ trợ những nhóm dễ tổn thương trong xã hội. Thứ hai, cung cấp các thể chế minh bạch và có sự tham gia của cộng đồng có khả năng thúc đẩy nền pháp quyền bảo đảm sự ổn định kinh tế

vĩ mô,  ổn định tài chính và tạo ra môi trường tốt hơn cho doanh nghiệp. Một chương trình nhằm có được một Nhà nước hữu hiệu và hiệu quả hơn cần bao gồm những thành phần trọng yếu sau đây:

 

• Xây dựng  và  thực  hiện   một  cách  cấp  bách   một  chiến  lược  mới  và  các chính sách mới về vai trò của nhà nước trong xã hội và trong nền kinh tế ở thế

kỷ XXI.

 

• Đặt chiến lược trên cơ sở những yêu cầu, ưu tiên và nghĩa vụ mới của nhà nước.

 

• Tăng cường năng lực và khả năng của Chính phủ trong việc đáp ứng nhu cầu của một xã hội hiện đại hơn và một nền kinh tế thị trường. Tổ chức lại bộ máy hành chính công. Trả lương ở mức độ chấp nhận được cho cán bộ công nhân viên chức. Thay đổi việc ra quyết định và việc quản lý nguồn lực công của Chính phủ để nâng cao tính minh bạch, chịu trách nhiệm và khả năng tiên liệu

về mặt pháp lý. Khuyến khích sự tham gia của người dân và cải thiện đối thoại giữa Nhà nước và nhân dân."1

 

•Điều quan trọng ở mọi giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường nhà nước phải quan tâm loại bỏ mọi sự méo mó của thị trường và xây dựng nền tảng

thể chế cho nền kinh tế thị trường hơn là tìm kiếm và điều chỉnh những thất bại

cố hữu của thị trường. Nhà nước trước hết nên tạo cho thị trường cơ hội hoạt

động càng tự do càng tốt.

 

•Nhà nước cần phải rút khỏi một cách dần dần khỏi những sự can thiệp một cách trực tiếp vào thị trường sản phẩm và thị trường tài chính. Tuy nhiên, điều

đó  hoàn  toàn  không  có  nghĩa  là  nhà  nước  rũ  bỏ  mọi  trách  nhiệm  đối  với  thị trường, mà phải có nghĩa vụ cung cấp các khuôn khổ chính sách và thể chế giúp cho thị trường hoạt động. Có 4 lĩnh vực nhà nước cần phải quan tâm là: Thứ nhất, xác lập nền pháp trị mang tính hỗ trợ cho thị trường và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của người dân; Thứ hai,bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tài chính; Thứ ba, thúc đẩy sự cạnh tranh các thị trường sản phẩm nhằm khuyến

khích đổi mới, phân bổ nguồn lực hiệu quả và kỷ luật tài chính; Thứ tư, khuyến

 

 

1  Xem, UNDP and MPI/ DSI : Việt Nam hướng tới 2010 / Tuyển tập các báo cáo phối hợp nghiên cứu chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội  của các chuyên gia quốc tế và Việt Nam. Tập 1. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001,

tr. 133 - 134.

 

khích công nghệ mới theo những phương thức phù hợp với thị trường chứ không

đối nghịch với thị trường.

 

 

 

Một trong những nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Chính phủ Việt Nam là phải tạo ra một môi trường lành mạnh, hấp dẫn cho các nhà đầu tư kinh doanh vào Việt Nam, Báo

cáo trên chỉ rõ:

 

" ... Một môi trường chính trị ổn định và các chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn không phải đã là những điều kiện đủ để bảo đảm cho một nền kinh tế có khả năng cạnh tranh và tăng trưởng. Một yếu tố không kém phần quan trọng  - hoặc thậm chí còn quan trọng hơn là   các chính sách, thể chế và điều kiện cơ sở hạ tầng tạo nên môi trường để các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau. Một vài trong

số những thách thức lớn đối với Việt Nam trong thập kỷ tới sẽ là làm thế nào để tạo ra một môi trường trong đó các nhà đầu tư sẵn sàng chịu rủi ro và tiến hành đầu tư, làm  thế nào để nâng cao tỷ lệ tiết kiệm trong nước và ngoài nước và làm

thế nào để khai thác tri thức và thu nhận công nghệ để nâng cao hiệu quả đầu tư."1

 

Khi Chính phủ ban hành bất cứ một quyết định nào nhằm quy định hoặc can thiệp vào hoạt động của thị trường (cung và cầu) đều phải được cân nhắc cẩn thận giữa cái hại của nó

do các quy định của Chính phủ đưa ra với lợi ích mà các can thiệp đó đem lại.

 

Một trong những cách thức quan trọng mà nhà nước có thể làm cho thị trường vận hành

có hiệu quả là thông qua cung cấp cho thị trường một khung pháp lý vững chắc, không chỉ

một hệ thống pháp luật, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế

thi hành luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm cả các tòa án, các cơ quan cưỡng chế thi hành luật, các cơ quan đăng ký đất đai, tài sản thế chấp và doanh nghiệp. Trong một nền kinh tế thị trường, phần lớn các giao dịch dựa trên các hợp đồng. Một khi các quy định của pháp luật về quyền sở hữu được rõ ràng và cơ chế cưỡng chế vận hành tốt đẹp thì chi phí hoạt động kinh doanh thấp và thị trường sẽ có cơ sở cho sự vận hành có hiệu quả hơn.

 

Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế được đặt dưới sự chỉ

huy bởi kế hoạch hóa tập trong cao độ với những nguyên tắc kế hoạch hóa thống nhất,

tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ... Về cơ bản, đây là những nguyên tắc phù hợp với cơ chế kinh tế thời kỳ trước.

 

Với cơ chế mới, hoạt động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng các quan

hệ kinh tế các chủ thể, lợi ích, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhà nước có nhiệm

vụ bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, phát triển, có tính tổ chức cao và theo định hướng đã chọn. Không thể quản lý theo lối cũ bàng các biện pháp hành chính, mệnh lệnh mà phải

đổi mới cơ chế quản lý. Điều 26 Hiến pháp quy định "Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp quản lý Nhà nước giữa các ngành các cấp".

 

 

 

 

 

1  Xem, UNDP and MPI/ DSI: Việt Nam hướng tới 2010 / Tuyển tập các báo cáo phối hợp nghiên cứu chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội  của các chuyên gia quốc tế và Việt Nam. Tập 1. NXB Chính trị Quốc gia 2001, tr, 53.

 

Quản lý kinh tế bằng pháp luật là nguyên tắc quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế thị trường. Với những thuộc tính vốn có, pháp luật bảo đảm xác lập các mối quan hệ kinh tế phức tạp nẩy sinh trong nền kinh tế thị trường bảo đảm vận hành cơ chế để ngăn chặn và

xử lý những trường hợp vi phạm trong sản xuất kinh doanh.

 

Trước yêu cầu đó, cần hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế nước ta để tạo ra một môi trường pháp lý phù hợp cho sự khẳng định và phát triển nền kinh tế thị trường. Hiến pháp mới ban hành là văn bản cơ bản khẳng định những nguyên tắc nền tảng trên lĩnh vực  kinh  tế.  Nhà  nước  Việt  Nam  nhu  cầu  cần  có  một  khung  pháp  lý  để  thay  thế  cho những chỉ thị hành chính quản lý các giao dịch kinh tế dưới thời cơ chế tập trung bao cấp. Trước mắt phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung và ban hành mới một hệ thống văn bản pháp luật kinh tế phù hợp với yêu cầu mới. Để bảo đảm thực sự sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm lòng tin của các doanh nghiệp trong và ngoài nước đối với pháp luật, cần phải ban có các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

là Quốc hội ban hành.

Phát triển kinh tế có kế hoạch là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần kết hợp kế hoạch với thị trường bảo đảm sự thống nhất của lợi ích kinh tế của toàn dân với lợi ích của các tổ chức sản xuất kinh doanh. Các đơn vị kinh tế các địa phương được quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của mình, bảo đảm hoàn thành các nghĩa vụ đối

với Nhà nước.

 

Để quản lý kinh tế hiệu quả, Nhà nước cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ

thống cơ quan quản lý kinh tế. Những năm gần đây đã tiến hành sắp xếp lại bộ máy quản

lý kinh tế, phân biệt quản lý kinh tế và quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh.

Bộ máy quản lý kinh tế đã chuyển trọng tâm từ quản lý trực tiếp các cơ sở kinh tế sang quản lý hành chính - kinh tế ở tầm vĩ mô với những nội dung mới:

 

-  Định hướng và tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển.

 

-   Xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ để tạo ra sự tự do và bình đẳng trong hoạt động kinh tế của mọi thành phần kinh tế.

 

- Tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế

 

-  Điều  tiết  nền  kinh  tế  thị  trường,  hạn  chế  những  khuyết  tật  của  nền  kinh  tế  thị

trường.

 

-  Chăm lo phúc lợi xã hội cho mọi thành viên của xã hội, chú ý quan tâm đến các đối tượng xã hội.

 

Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đề ra việc: "Tiếp

tục hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế mới, trước hết là trong các lĩnh vực tài chính, ngân hàng nhằm tháo gỡ khó khăn cho các cơ sở sản xuất, tiếp tục kiềm chế lạm phát, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ và tạo điều kiện thuận

lợi cho việc mở rộng hợp tác quốc tế". Văn kiện Đại hội Đảng VIII (6/1996) chỉ rõ:

 

"Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước. Khai thác triệt để vai trò tích cực, đi đôi với khắc phục và ngăn chặn, hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.  Bảo  đảm  sự  bình  đẳng  về  quyền  và  nghĩa  vụ  trước  pháp  luật  của  mọi  doanh nghiệp và cá nhân không phân biệt các thành phần kinh tế".1

 

Những hiện tượng tiêu cực làm ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh bao gồm: Sản xuất hàng gỉa, buôn lậu, trốn thuế và gian lận thương mại, vi phạm quyền sở

 

 

1  Xem, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội , 1996

 

hữu trí tuệ và tham nhũng. Nếu những hiện tượng này không được nhà nước khắc phục không sớm thì muộn sẽ tác động xấu đến tình hình sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh doanh trên thị trường và đến nền kinh tế.

Một trong những yêu cầu của nền kinh tế thị trường đối với nhà nước là phải tạo ra một sân chơi bình bẳng với mọi thành phần kinh tế. Có nhiều nghiên cứu của các nhà quản trị kinh doanh đã dãn chứng cho chúng ta rằng, sân chơi cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chưa thực sự bình đẳng. Nhà nước Việt Nam,  về phần mình đã nhận thức được vấn đề này và đang nỗ lực làm cho pháp luật trở nên đơn giản  và công bằng hơn. Khác với nền kinh tế chỉ huy kế họach hóa, trong một nền kinh tế thị trường, việc kinh doanh thực hiện bởi vô số các cá nhân và doanh nghiệp, vai trò của Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc chơi được tiến hành một cách bình đẳng thông qua một hệ thống pháp luật chặt chẽ do nhà nước ban hành, mà nhà nước không trực tiếp tham gia vào cuộc chơi. Sau khi đã ban hành các hệ thống văn bản pháp luật để duy cuộc chơi nhà nước phải nhảy ra, mà không trực tiếp tham gia cuộc chơi như trước đay của nền kinh tế

chỉ huy kế hoạch. Nhưng cá nhân và doanh nghiệp tự tham gia cuộc chơi, tự mình thắng cuộc và cũng tự mình thua cuộc, mà không nên có một bàn tay nâng dỡ nào từ phái các chủ thể thay mặt nhà nước.

Nền kinh tế dựa trên cơ sở của thị trường tự nó có thể điều tiết, các đơn vị kinh tế

tự  tìm đường đến thành công, bằng sự năng động và nhạy cảm của mình. Chức năng của nhà nước là hướng dẫn các khu vực kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất theo định hướng kinh tế thị trường, kiểm soát và xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật, loại bỏ độc quyền, đảm bảo phát triển hài hòa giữa phát triển xã hội với phát triển kinh tế.

Và  như  vậy,  Nhà  nước  sẽ  là  người  hướng  dẫn,  mà  khôngphải  là  người  thực  hiện  như

trước đây của nền kinh tế chỉ huy kế họach hóa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

gia

 

II.CHÍNH SÁCH VĂN HOÁ - XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

 

1. Chính sách văn hóa và chính sách xã hội trong công cuộc phát triển của quốc

 

 

Như phân trên đã phân tích mọi chế độ nhà nước của dân, do dân và vì dân đều có

 

mục đích làm cho cuộc sống của nhân dân không những phát triển về mọi mặt đời sống

vật chất và tinh thần, còn cả sự ổn định trong phát triển. Phát triển bền vững, an toàn, vươn tới cái đúng, cái đẹp, cái hợp lý luôn luôn là mục tiêu của mọi hệ thống chính trị,

tức là của mọi hệ thống nhà nước. Sự phát triển không chỉ được xem xét dưới góc độ vật chất đơn thuần, mà nó còn cả một đòi hỏi cấu trúc vật chất hợp lý, và cả mặt tinh thần của

xã hội mà con người tạo ra. Muốn phát triển bền vững, các chế độ chính trị, thông qua

các chủ trương, đường lối nhà nước phải tính đến yếu tố giữ gìn bản sắc dân tộc. Tức là phải tính đến vấn đề văn hóa:

 

“Phát triển và văn hóa, văn hóa và phát triển là hai mặt của cùng một mục tiêu tồn

tại và vươn tới của mọi con người, mọi gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia và nhân loại. Chính văn hóa là cái dùng để chế định cho sự phát triển bền vững, an toàn, hướng

tới cái đúng, cái đẹp, cái tốt, cái hợp lý.”1

 

 

 

 

 

1  Xem, Đỗ Hoàng Toàn , Chính sách văn hóa/ Chính sách kinh tế - xã hội, NXB, Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội

2000, tr.439

 

Văn hóa theo cách hiểu thông thường là toàn bộ của cải vật chất và tinh thần do con người tạo ra trong quá trình hoạt động xã hội. Văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất như

các công trình kiến trúc, hệ thống công sở, công viên tượng đài, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, hệ thống kết cấu hạ tầng… và cả văn hóa tinh thần: tư tưởng, đạo đức, lối sống, trí thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật công nghệ.

 

Văn hóa là chất keo giúp cho xã hội được gắn kết trong mỗi một quốc gia, nhờ đó mà quốc gia có khả năng bảo tồn và phát triển trước những thử thách của thời gian. Nhờ có văn hóa mà con người có thể chống trả thắng lợi trước mọi âm mưu xâm lược và nô dịch của ngoại bang, tiếp nhạn và chuyển hóa được văn hóa của các dân tộc khác góp phần phát triển quốc gia của mình.

 

Văn hóa đóng một vai trò vừa là nền tảng, vừa mục tiêu và vừa là động lực điều kiện cho sự phát triển kinh tế - xã hội đối với mỗi quốc gia.

 

“Văn hóa” được UNESCO định nghĩa như sau:

 

“Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần

và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng: Văn hóa đem lại cho con người khả  năng  suy  xét  bản  thân.  Chính  văn  hóa  làm  cho  chúng  ta  trở  thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính , có óc phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét  những  thành  tựu  của  bản  thân,  tìm  tòi  không  biết  mệt  mỏi  những  ý

nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân.”1

 

Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng rất phổ biến trên diễn dàn khoa học và chính

trị thời sự hiện nay. Đó là những phương thức, biện pháp có thể thành những nguyên tắc hành động được các chủ thể đưa ra nhằm giải quyết những vấn đề đang đặt ra trên thực

tế.

 

Hiện  nay,  mọi  nhà  nước  muốn  phát  triển  đều  phải  tuân  thủ  theo  nền  kinh  tế  thị trường. Mặt tích cực của kinh tế thị trường là khuyến khích các năng suất, tính hiệu quả tính cơ động và đa dạng hóa các sản phẩm, phát huy một cách tối đa sự năng động sáng

tạo của các cá nhân, tận dụng nguồn lực đẻ ra sức phát triển kinh tế, tăng năng xuất lao

động. Nhưng mặt trái của thị trường cũng rất là nặng nề, thị trường có xu hướng biến tất

cả mọi thứ thành hàng hóa vì động cơ lợi nhuận.

 

Để khắc phục mặt trái của nền kinh tế thị trường và cũng nhằm mục đích cho sự phát triển một bền vững, các nhà nước của thế giới đương đại thường dùng 2 chính sách cơ bản: Đó là chính sách văn hóa và chính sách xã hội.

 

Đánh giá tầm quan trọng của văn hóa trong sự phát triển của quốc gia, Phan Ngọc là một nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, trong tác phẩm của mình viết:

 

“…muốn phát triển kinh tế ở một nước, thì điều quyết định không phải

là tài nguyên giàu có, địa lý thuận lợi, dân số đông hay ít mà nơi ấy phải có sẵn một gia tài văn hóa tốt đẹp cho phép nhân dân tiếp thu được những thành tựu của văn hóa hậu công nghiệp. Nếu không chỉ là bán tài nguyên

 

 

1  Xem, Tuyên bố về những chính sách văn hóa. Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì  (26- 7 đến 6-8 năm 1982) tại

Mêhi cô.

 

tạo sự chia cắt giữa một thiểu số giàu có và nhân dân nghèo khổ, rồi mua lấy những tệ nạn của nền văn hóa hiện đại: ma túy, mại dâm, siđa, tội ác, nạn chạy theo đồng tiền bán rẻ mọi giá trị của con người. Cho nên không phải  ngẫu  nhiên  mà  những  con  rồng  Châu  Á  như  Nhật  Bản,  Đài  Loan, Singapore,  Hồng  Kông,  Hàn  Quốc  đều  dựa  trên  Nho  giáo.  Sự  phát  triển kinh tế phải xây dựng trên cơ sở văn hóa mới ổn định và vững chắc. ”1

 

Giữa doanh nghiệp   và môi trường có nhưng mối liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại

lẫn nhau. Xã hội cung cấp những nguồn lực mà doanh nghiệp cần, và tiêu thụ những hàng hóa và dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra. Các giá trị chung của xã hội như tập tục truyền thống, lối sống của nhân dân, các hệ tương tưởng tôn giáo và cơ cấu dan số, thu nhập của dân chúng đều có tác động nhiều mặt đến hoạt động kinh doanh. Tạo ra môi trường văn hóa ổn định, thuận lợi cho hoạt động của các chủ thể kinh tế trên thị trường là nhà nước đã thực hiện vai trò kinh tế của mình đối với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.

 

Thực chất của việc tạo ra môi trường văn hóa – xã hội thuận lợi cho hoạt động của

các chủ thể kinh tế là việc nhà nước giải quyết những vấn đề xã hội theo hướng tích cực cho phép các tổ chức kinh doanh hoạt động có hiệu quả hơn. Những vấn đề văn hóa – xã

hội đòi hỏi nhà nước cần phải giải quyết để hỗ trợ cho sự phát triển kinh tế gồm:

 

-           Vấn đề dân số;

 

-           Vấn đề việc làm;

 

-           Vấn đề xóa đói giảm nghèo;

 

-           Vấn đề cân bằng xã hội;

 

-           Vấn đề xóa bỏ những tệ nạn xã hội;

 

-           Vấn đề đạo đức kinh doanh;

 

-           Vấn đề bảo vệ môi trường, y tế và giáo dục.

 

 

 

Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có vai trò quản lý kinh tế của nhà nước và phải phát triển kinh tế kết hợp với gìn giữ văn hóa của dân tộc và phát triển chính sách xã hội.

 

Vai trò của  văn hóa ngày càng được coi trọng bậc nhất đối với sự phát triển kinh tế

xã hội. Phát triển văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Khác với quan niệm trước đây chỉ coi văn hóa là kết quả của kinh tế, không đóng góp trực tiếp vào

sự tăng trưởng kinh tế. Ngày nay sự phát triển không chỉ đơn thuần do các nhân tố kinh tế quyết định, mà còn có nhiều nhân tố phi kinh tế. Bởi vì phát triển là do con người quyết định. Mà đã là con người thì bao giờ cũng gắn với một môi trường văn hóa nhất định.

 

Nguồn gốc của sự phồn vinh và phát triển của mỗi quốc gia là ở trong văn hóa, trong kho tàng trí thức, tâm hồn, đạo đức, lối sống, nguồn sâu xa của sự sáng tạo của cá nhân

và cả cộng đồng.2

 

Nghị quyết của UNESCO về phát triển như sau:

 

 

 

 

1  Xem, Phan Ngọc, Thử xét Văn hóa – Văn học bằng ngôn ngữ học, NXB. Thanh Niên, 2000, tr. 12

2  Xem, Nguyễn Hồng Phong, Một số vấn đề về Hình thái kinh tế - xã hội Văn hóa và phát triển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 200 tr.246 .

 

“Khái  niệm  phát  triển  phải  bao  gồm  các  nhân  tố  kinh  tế  và  xã  hội, cũng như giá trị đạo đức và văn hóa, quy định sự nẩy nở và phẩm giá của con người trong xã hội. Nếu như con người là nguồn lực của sự phát triển, nếu như con người vừa là tác nhân, vừa là người được thụ hưởng, thì con người phải được coi chủ  yếu như là sự biện  minh  và  là  mục tiêu của  sự phát triển.

 

Vì sao cộng đồng quốc tế UNESCO lại đề xướng và khuyến cáo các quốc gia đưa văn hóa vào bên trong sự phát triển. Bởi vì cho đến những 70,

80 (của thế kỷ 20 – NĐD) “ sự phát triển” đã bị đặt thành  vấn đề do hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội, môi trường do nó gây ra”.1

 

Tình hình nêu trên đặt ra cho các nhà nước đương đại phải quản lý sự phát triển đồng thời trên cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa và môi trường. Bởi vì hiện nay động lực của tăng trưởng kinh tế sẽ không chỉ nằm ở vốn, tài nguyên mà chủ yếu nằm ở

trí tuệ, ở cả tiềm năng sáng tạo, tức là nguồn lực con người. Tức là nằm trong văn hóa.

 

Tài nguyên con người của mỗi quốc gia nằm trong bản sắc văn hóa dân tộc. Đánh mất bản sắc văn hóa là đánh mất tiềm năng của nguồn lực con người. Vì lẽ đó việc bảo vệ

và phát huy những giá trị bẳn sắc của nền văn hóa truyền  thống là một những vấn đề

quan trọng của mỗi quốc gia muốn phát triển.

 

 

 

Cũng như những đòi hỏi của sự phát triển bền vũng của nền kinh tế thị trường phải gắn kết phát triển kinh tế với sự gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc, nhà nước bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế phải có những chính sách xã hội.

 

Văn hóa và xã hội gắn bó hữu cơ với nhau như hình với bóng. Có thể nói xã hội là bộ mặt của văn hóa và văn hóa phải thông qua xã hội, làm lên môi trường xã hội, để tác động  vào  các  lĩnh  vực  khác  nhau  trong  cuộc  sống  của  con  người  và  cộng  đồng  con người.2

 

Mọi sự phát triển không gắn với văn hóa đều là sự phát triển què quặt nặng về tính kỹ

thuật và tất yếu dẫn đến tới bất công xã hội, dẫn đến sự hy sinh số đông con người cho số

ít các thế lực cầm quyền xã hội (trực tiếp và gián tiếp – đó là các nhà chính trị, các nhà kinh doanh xấu có trong tay các nhà khoa học và công nghẹ phục vụ).3

 

Trong Từ điển Bách khoa Việt nam, chính sách xã hội được định nghĩa như sau:

 

“Chính sách xã hội một bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính đảng hay một chính quyền nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của đời sống con người, điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ xã hội. Một trong những đặc điểm quan trọng của cơ bản của chính sách xã hội là sự thống nhất biện chứng của nó với chính sách kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện để phát triển chính sách xã hội, và ngược lại, sự hợp lý, sự công bằng và tiến bộ được thực hiện qua chính sách xã hội lại tạo ra những động lực mạnh mẽ  cho sự

 

 

1  Trích và dẫn chiếu  theo Nguyễn Hồng Phong: Một số vấn đề về Hình thái kinh tế - xã hội  văn hóa và phát triển. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 2000,  tr.244

2  Xem, Phạm Văn Đồng, Văn hóa và xã hội/ Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, Chủ biên GS Trần

Quốc Vượng, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1996, tr. 19

Hoặc Xem: Văn hóa và Đổi mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1994

3  Xem, Đỗ Hoàng Toàn , Sđ d, tr. 440

 

thưc  hiện  những  mục  tiêu  kinh  tế,  nhằm  làm  cho  dân  giàu  nước  mạnh. Chính sách xã hội phải đạt được những mục tiêu đem lại đời sống tốt đẹp cho con người, mang lại sự công bằng, dân chủ cho mỗi con người, không theo chủ nghĩa bình quân. Trong những điều kiện của nền kinh tế hàng hóa

có  cơ  cấu  nhiều  thành  phần,  chính  sách  xã  hội  phải  hướng  tới  sự  công bằng xã hội, bảo đảm sự bình đẳng giữa quyền lợi và nghĩa vụ giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật. Chính sách xã hội vừa phải củng cố và phát triển những giai cấp cơ bản như công nhân, nông dân, vừa quan tâm thích đáng đến lợi ích và phát huy tiềm năng của các tầng lớp, các nhóm cư dân khác”.1

 

Vì những lẽ đó, mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người, kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân, phát triển kinh tế được coi là cơ sở, là tiền đề để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực phát triển kinh tế.

 

Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính sách

xã hội tác động trực tiếp đến việc hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó

các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giầu mạnh. Phát triển giai cấp công nhân về

số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

 

Để đạt được mục tiêu nêu trên, nhà nước đã quy định những chính sách cụ thể mà trước hết là những chính sách bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất.  Nhà  nước  chăm  lo  tăng  cường  cơ  sở  vật  chất  kỹ  thuật  và  tạo  điều  kiện  cho  mọi người lao động có việc làm, chăm lo cải thiện điều kiện lao động; Quy định chế độ và thi hành những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân về lao động, văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật, phát huy tính tích cực sáng tạo của nhân dân làm cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, nền văn hoá mới và con người mới thực sự là của toàn dân; Có chính sách làm cho lao động trong các ngành nghề được cơ giới hoá, bảo hiểm và tổ chức lao động khoa học, có chính sách khuyến khích tăng thu nhập giữa các

bộ phận dân cư, các ngành và các vùng, cải thiện điều kiện sống, lao động và học tập, nghỉ ngơi, đi lại vv...

 

Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang có nguy cơ xâm phạm đến thuần phong, mỹ

tục và những chuẩn mực văn hóa và đạo đức của dân tộc. Đó là những tệ nạn xã hội, và tâm lý chạy theo lợi nhuận đang được nhà nước khắc phục giải quyết bằng nhiều biện pháp khác nhau. Những tệ nạ xã hội đó không hiện nguyên hình, mà nó lại được che dấu

và tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, chúng không hoạt đọng một cách công khai,

mà lén lút trá hình tạo nên mối lo không những cho nhà nước, mà còn cả xã hội. Khắc phục những tệ   đang là một chủ trương chính sách về mặt văn hóa và xã hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Việc khác phục những mặt trái trên bình diện xã hội hiện nay là một quá trình lâu dài cần phải được giải quyết từng bước, quan trọng nhất vẫn là tăng cường chức năng xã hội của nhà nước. Nhà nước cần phải biết gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế với những nhiệm

vụ đảm bảo xã hội. Bên cạnh việc giải quyết có hiệu quả các biện pháp phát triển kinh tế,

 

 

1  Xem, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Sđ d, tr.478

 

còn phải chú ý đến hậu quả xã hội của việc phát triển kinh tế. Nhà nước cần phải xây dựng và thực hiện một hệ thống chính sách xã hội sao chó vừa giải quyết được vấn đè công bằng xã hội về lợi ích, vừa lại bảo đảm không làm giảm đi sức sáng tạo của con người.

 

Chính sách xã hội của nhà nước tập trung vào các vấn đề bảo trợ xã hội, phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội, y tế, giáo dục, văn hóa nghệ thuật,  cho phù hợp với trình độ phát triển của kinh tế, phù hợp với điều kiện nhà nước ta, mà không nên chạy theo thị trường bằng cách thả nổi hay thị trường hóa một cách hoàn toàn các lĩnh vực này.

 

Bên cạnh đó nhà nước Việt Nam cũng cần phải xóa bỏ dần   sự bao cấp tập trung trong lĩnh vực hoạt động văn hóa và xã hội do việc thực hiện chế độ bao cấp kế họach hóa tập trung gây ra. Các tổ chức giáo dục, khoa học, kỹ thuật, nghiên cứu khoa học cũng cần dần chuyển sang cơ chế thị trường, cạnh tranh và tư trang trải kinh phí… Song song

với việc tự hoạch toán kinh tế theo cơ chế thị trường nhà nước vẫn có một khoản ngân sách nhất định chi  cho những chính sách tối thiểu của sự phát triển văn hóa xã hội. Như việc xóa đói giảm nghèo, hoặc chính sách xóa mù chữ ở các vùng quê xa xôi hẻo lánh.

 

Công bằng vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Công bằng không thể dựa vào thị trường nên nhà nước cần phải can thiệp để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển. Bảo đảm công bằng xã hội là việc nhà nước can thiệp vào thị trường nhằm mục đích tăng thu nhập của những người nghèo làm cho khoảng cách giữa người nghèo và người giàu không được tăng lên, mà còn cần phải giảm đi, mặt khác làm cho giá cả  phản ánh đúng chi phí của xã hội bỏ ra. Thực chất của vấn đề giải quyết công bằng là phân phối thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các chủ thể kinh tế và xã hội mà người đại diện là nhà nước.

 

Nội dung công bằng xã hội rất rộng lớn. Công bằng xã hội trên lĩnh vực phân phối

giữ một vị trí quan trọng, vì nó là khau cuối cùng của hệ thống quan hệ sản xuất, quy

định trực tiếp tiêu dùng của cá nhân.Công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ không chỉ được thực hiện ở khâu kết quả sản xuất theo nguyên tắc “làm việc ngang nhau thì được hưởng thụ ngang nhau,” mà cả ở  phân phối tư liệu sản xuất, làm cho người lao động gắn

bó chặt chẽ với tư liệu sản xuất. Đó là nhân tố quan trọng để giải phóng lực lượng sản xuất, tiềm năng lao động và các nguồn lực.

 

Thực hiện công bằng xã hội trong phân phối tư liệu sản xuất trực tiếp góp phần thực hiện quyền làm chủ , quyền dân chủ về kinh tế của nhân dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ với nhận thức lại chủ nghĩa xã hội phải thực hiện nhiều hình thức phân phối. Trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, ngoài ra còn phân phối theo vốn, tài sản, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp…nhằm kích thích và phát huy các nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất, tạo việc làm cho người

lao động, làm ra nhiều của cải cho xã hội. Thực hiện công bằng xã hội đòi hỏi những nhà doanh nghiệp phải tuân theo pháp luật, hoàn thành nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, tôn trọng các hợp đồng lao động, thực hiện tốt và nghiêm túc các quy tắc an toàn lao động, bảo vệ môi trường sinh thái.

 

 

 

Chính vì những tầm quan trọng cho sự phát triển bền vững của quốc gia nên chính sách phát triển văn hóa và chính sách của Nhà nước Việt Nam được Hiến pháp hiện hành quy định thành một chương riêng. Chương 4  với tiêu đề là Chính sách Văn hóa – xã hội.

 

3. Chính sách văn hóa

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ chỉ rõ: "Xây dựng nền văn hoá mới tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến bộ".

Trên tinh thần của cương lĩnh trên, Điều 30 của Hiến pháp hiện hành quy định:

 

“Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn  hiến  các  dân  tộc  Việt  Nam,  tư  tưởng,  đạo  đức,  phong  cách  Hồ  Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.

 

Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền

bá tư tưởng và văn hoá phản động, đồi trụy; bài trừ mê tín, hủ tục.”

 

Nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hoá. Nghiêm cấm truyền bá tư tưởng và văn hóa phản động, đồi truỵ, bài trừ mê tín, hủ tục. Khẳng định và biểu dương những giá

trị chân chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những cái lỗi thời.

 

Xây dựng văn hoá gắn liền với việc chăm lo bồi dưỡng hình thành con người mới.

Đó là: con người có ý thức làm chủ, ý thức trách nhiệm công dân; có trí thức, sức khoẻ và

lao động giỏi, sống có văn hoá và tình nghĩa, giầu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế

chân chính.

 

Nhà nước tạo điều kiện để công dân phát triển toàn diện giáo dục ý thức công dân, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng gia đình văn hoá...

 

Nhà nước có biện pháp sử dụng, kết hợp và phát huy vai trò của xã hội, đoàn thể, nhà trường, gia đình, tập thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo và bồi dưỡng hình thành con người mới. Phát huy vai trò văn học, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng nâng cao tâm hồn Việt Nam.

 

 

 

 

4.Chính sách phát triển văn học và nghệ thuật

 

Văn hóa hiểu ở nghĩa hẹp nhất gắn liền với văn học và nghệ thuật.   Văn học nghệ thuật,  có  vai  trò  to  lớn  trong  việc  bồi  dưỡng  nhân  cách  và  tâm  hồn  cao  đẹp  cho  con người, đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của nhân dân.

 

Chính sách của Nhà nước về vấn đề này là: Các hoạt động văn nghệ chuyên nghiệp

và không chuyên nghiệp đều được khuyến khích phát triển, các tài năng văn học nghệ

thuật được chăm sóc.

 

Để đảm bảo cho nhân dân được hưởng đầy đủ quyền nghiên cứu khoa học kỹ thuật sáng tạo văn học, nghệ thuật, Nhà nước đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền báo chí, xuất bản, thư viện, phát thanh, truyền hình, điện ảnh và các phương tiện thông tin đại chúng khác, giữ gìn, tu bổ và bảo vệ các di tích lịch sử văn hoá, các công trình mỹ thuật công cộng, danh lam, thắng cảnh, nghiêm cấm những hoạt động phi văn hoá, thông tin làm tổn hại lợi ích quốc gia, phá hoại nhân cách, đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt nam. Nghiêm cấm các hành động xâm phạm đến các di tích lịch sử, cách mạng, các công trình nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh.

 

5. Chính sách giáo dục

Con người luôn luôn là yếu tố quyết định sự thành công của mọi công cuộc, trong đó

có  cả  công  cuộc  phát  triển  kinh  tế.   Đối  tượng  của  giáo  dục  và  đào  tạo  là  con  người, nguồn nội lực cốt lõi của sự tồn tại và phát triển của mỗi một quốc gia. Vì vậy giáo dục

và đào tạo là mối quan tâm hàng đầu của quốc gia nhằm tạo ra nguồn lực có trí tuệ, có tay nghề thành thạo, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nếu như trước đây sự thiếu vốn sự nghèo nàn về cơ sở vật chất là nguyên nhân chủ yếu làm chậm sự phát triển của quốc gia, thì ngày nay không hoàn toàn như vậy. Vì ngày nay sự phtá triển cảu quốc gia

lại phụ thuộc vào chất lượng của nguồn lực lao động. Kỷ nguyên phát triển mới coi đầu

tư phát triển nguồn lực lao động, và chất lượng lao động  hơn các nguồn đầu tư khác.

Kinh nghiệm của nhiều  nước cho thấy, quốc gia nào không có chính sách đào tạo đúng đắn, đất nước đó sẽ không có nguồn lực lao động có chất lượng, thì đất nước đó không có một sản phẩm nào có thể sánh vai được với các quốc gia khác trên thế giới.

Giáo dục có vị trí vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa bằng cách rèn luyện kỹ năng, cải thiện sức khỏe, nâng cao dân trí và cải thiện các vấn đề

xã hội. Giáo dục là đầu tư về mặt trí thức phải đi song  song với đầu tư về mặt kinh tế.

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo được xác định là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả.  Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển nhằm đào tạo có chất lượng những người lao động mới và bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.

 

Hiến pháp tuyên bố:

“Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu.

 

Nhà nước và xã hội phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

 

Mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân; đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc." (Điều 35).

Điều 36 Hiến pháp quy định tiếp:

 

“Nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và hệ thống văn bằng.

 

Nhà nước phát triển  cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo  dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học; thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác.

 

Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư

 

khác.

 

 

 

Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở

 

miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.

 

Các đoàn thể nhân dân trước hết là Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế, gia đình cùng nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.”

 

 

 

Điều 59:

 

“Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.

 

Bậc tiểu học là bắt buộc, không phải trả học phí.

 

Công dân có quyền học văn hoá và học nghề bằng nhiều hình thức.

 

Học sinh có năng khiếu được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện học tập để phát triển tài năng.

 

Nhà nước có chính sách học phí, học bổng.

 

Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn khác được học văn hoá và học nghề phù hợp.”

 

Nền giáo dục Việt Nam phát triển theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.Sự nghiệp giáo dục do Nhà nước  thống  nhất  quản  lý.  Nhà  nước quản  lý  hệ  thống  giáo  dục quốc  dân  về  mục  tiêu, chương  trình  nội  dung,  kế hoạch  giáo  dục,  tiêu  chuẩn  giáo  viên,  quy  chế  thi cử  và hệ thống văn bằng.

 

Nhà nước chăm lo phát triển cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học, phổ cập giáo dục tiểu học,  xoá  nạn  mù  chữ,  phát  triển  các  hình  thức  trường  quốc  lập,  dân  lập  và  hình  thức trường quốc lập và các hình thức giáo dục khác.

 

Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục. Trong hoàn cảnh còn nhiều khó khăn, việc Quốc hội khoá VIII tại kỳ họp thứ chín   (6/1991) thông qua Luật phổ cập giáo dục tiểu học một lần nữa khẳng định việc thực hiện Chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đã được bắt đầu từ năm 1950 theo quy định của Sắc lệnh số 146-SL ngày 10/8/1946 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà quy định nền giáo dục mới. Đặc biệt là mới đây Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục (1998). Nhà nước khuyến khích vận dụng nhiều loại hình tổ chức giáo dục (quốc lập, dân lập) và nhiều hình thức đào tạo (chính quy, mở rộng, chuyên tu, tại chức). Nhà nước thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.

 

 

 

5. Chính sách khoa học và công nghệ

Đặc điểm quan trọng trong thời đại hiện nay là sự phát triển năng động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Khác với trước đây, khoa học công nghệ đã nhanh chóng ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội con người, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Vai

trò có tính quyết định của khoa học công nghệ đối với công cuộc phát triển quốc gia đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Kinh tế học đã chính thức xem công nghệ như là một trong những nguồn lực cho phát triển kinh tế giống như vốn và nguồn lực lao động, và nguồn vốn..

Đối với Việt Nam, khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Điều 37 của Hiến pháp quy định:

 

“Phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu.

 

Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

 

Nhà nước xây dựng và thực hiện chính sách khoa học,        công  nghệ  quốc  gia;  xây dựng  nền  khoa  học  và  công  nghệ  tiên  tiến;  phát  triển  đồng  bộ  các  ngành  khoa  học, nghiên cứu, tiếp thu các thành tựu khoa học và  công  nghệ  của  thế  giới  nhằm  xây  dựng luận cứ khoa học  cho  việc  định  ra  đường  lối,  chính  sách  và  pháp  luật,  đổi  mới  công nghệ,  phát  triển  lực  lượng  sản  xuất,  nâng  cao  trình  độ  quản  lý,  bảo  đảm  chất  lượng

và tốc độ phát triển của nền kinh tế; góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc

gia.”

 

 

 

Nhà nước tổ chức áp dụng kết quả khoa học vào việc xây dựng dự thảo kế hoạch phát triển nền kinh tế quốc dân, hoạch định chủ trương, chính sách pháp luật. Dần dần chính ách phát triển khoa học công nghệ phải gắn với chính sách phát triển kinh tế, chấm dứt

 

các hiện tượng phân tách giữa cơ sở nghiên cứu khoa học với các cơ sở săn xuất kinh doanh, trao quyền chủ động cho các cơ sở nghiên cứutham gia trực tiếp với cơ sở sản xuất thông qua các hợp đồng ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học. Từ đó các cơ sở nghiên  cứu  khoa  học  có  thể  cung  cấp  các  dịch  vụ  khoa  học  như  tư  vấn,  sản  xuất  thử nghiệm, kể cả sự chuyển giao công nghệ..

 

Nhà  nước  đầu  tư  và  khuyến  khích  tài  trợ  cho  khoa  học  từ  nhiều  nguồn  vốn  khác nhau, ưu tiên cho những hướng khoa học, công nghệ mũi nhọn; chăm lo đào tạo và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ khoa học sáng tạo và cống hiến phát triển nhiều hình thức tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, đào tạo với sản xuất, kinh doanh.

 

Nhà nước khuyến khích các nguồn đầu tư khác ngoài ngân sách nhà nước cho giáo dục, để phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh

tế, gia đình cùng nhà trường vì sự nghiệp giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.

 

 

 

 

7. Chính sách chăm sóc sức khỏe cho nhân dân

 

Muốn cho xã hội phát triển, thì xã hội phải có nguồn lực. Sức khỏe của con người có quan hệ rất lớn đến nguồn nhân lực con người. Vì vậy, Nhà nước chăm lo và thống nhất quản lý sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ của nhân dân, huy động và tổ chức mọi lực lượng xã

hội xây dựng và phát triển hệ thống chăm sóc sức khoẻ theo hướng dự phòng; Phát triển

và kết hợp y dược học dân tộc cổ truyền với y dược học hiện đại, kết hợp phòng bệnh với chữa bệnh tạo điều kiện để mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ một cách thuận lợi

với chất lượng ngày càng cao.

 

Nhà nước và xã hội bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, vận động sinh đẻ

có kế hoạch.

 

Gắn liền với bảo vệ sức khoẻ, nhà nước đẩy mạnh phát triển thể dục, thể thao, du lịch nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, bồi dưỡng thể lực của nhân dân, bồi dưỡng tài năng

thể thao.

 

Kết luận

 

Quy định chế độ kinh tế, các chính sách  văn hóa, xã hội, đối ngoại anh ninh quốc phòng trong hiến pháp là những quy định riêng có của các hiến pháp xã hội chủ nghĩa trong đó có cả của hiến pháp Việt Nam hiện nay. Mọi quy định của Hiến pháp đều có tác dụng làm cho chế độ chính trị phục vụ cho sự phát triển bền vững của xã hội. Muốn phát triển bền vững thì kết hợp phát triển kinh tế xã hội với phát huy bản sắc văn hóa của xã hội, đảm bảo công bằng xã hội.

 

 

 

Câu hỏi ôn tâp

 

1. Phân tích mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế.

 

2. Hãy nêu và phân tích mục tiêu và chính sách phát triển kinh tế theo quy định của Hiến pháp Việt Nam.

 

3. Mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa.

 

4. Chính sách phát triển văn hóa theo quy định của hiến pháp hiện hành.

 

5.  Chính sách xã hội theo quy định của hiến pháp hiện hành.

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro