LHPTK 8

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG VIII

CHẾ ĐỘ BẦU CỬ

I. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ BẦU CỬ

Bầu cử là một định chế trọng tâm của các chính phủ dân chủ kiểu đại diện. Vì

trong một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của người dân (người bị quản lý). Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực nhà nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.

Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề cơ bản nhất của Hiến pháp. Quyền lực đó phải có các hình thức và biện pháp thực hiện nhất định. Cho đến có hai hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình: Dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp tức là nhân trực tiếp thực   thi bằng cách bỏ phiếu phúc quyết. Đây là cách thức chưa phổ biến hiện nay. Thứ hai, dân chủ gián tiếp,

tức là nhân dân bỏ phiếu bầu ra những người đại diện, những người đại diện này thay mặt cho nhân dân, được nhân dân ủy nhiệm giải quyết các công việc của nhà nước. Hình thức dân chủ gián tiếp này còn đươc gọi là hình thức dân chủ đại diện. Đó là một trong những hình  thức  thực  hiện  quyền  lực  nhà  nước  thuộc  về  nhân  dân.  Phương  pháp  bầu  cử  trở thành một trong những hình thức thực hiện quyền tự do dân chủ, một trong những biểu hiện quyền con người trong lĩnh vực chính trị - quyền tự do dân chủ.  Cho đến hiện nay ở

các nước dân chủ tư sản cũng như ở các nước dân chủ xã hội chủ nghĩa bầu cử được sử

dụng một cách rộng rãi  như là một biện pháp nhân dân trao quyền lực nhà nước cho các

cơ quan nhà nước. Bầu cử trở thành một chế độ bầu cử một hình thức hoạt động quan trọng của xã hội dân chủ, một phương pháp phổ biến nhất hiện nay để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Chế  độ  bầu  cử  được  xác  định  bởi  tổng  thể  các  mối  quan  hệ  xã  hội  được  hình thành trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến khi

kết thúc việc xác định được danh sách những người trúng cử. Qua những mối quan hệ xã

hội đó cho phép khái quát được chế độ bầu cử được hình thành qua các cuộc bầu cử của một đất nước là chế độ bầu cử dân chủ không áp đặt, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình tìm ra được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý và điều hành đất nước.

Thực ra nguyên tắc bầu cử đã xuất hiện từ rất lâu, ngay từ thời chiếm hữu nô lệ. Ngoài chính thể quân chủ là phổ biến, ngay từ thời kỳ này đã tồn tại chính thể cộng hoà,

với  Viện  Nguyên  lão  bao  gồm đại  diện  của  những  chủ  nô  quý  tộc,  đại  diện  nhân  dân

(Commita centuria), và bao gồm cả đại diện của những người cầm vũ khí.(1)  Nhưng mãi cho đến hiện nay kể từ cách mạng tư sản mới trở một trong những biện pháp quan trọng

để nhân dân có thể thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình.

(1)  Xem Nguyễn Gia Phu. Lịch sử  Hy lạp và Rôma cổ đại. tr., 19, H.,1991

Mục tiêu của cách mạng tư sản là phế bỏ chế độ truyên ngôi, thế tập, khẳng định quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Những người cầm quyền nhà nước thực sự

chỉ  có thể có được quyền lực nhà nước từ nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng cách bầu ra những người đại diện thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.

Một trong những   quyết định quan trọng nhất của một chế độ dân chủ là phương pháp bầu cử ra các nhà lãnh đạo và các dân biểu. Nói chung có hai cách lựa chọn cơ bản. Trong chế độ đại nghị, nhân dân trực tiếp bầu ra hạ nghị viện, đảng đa số tại Hạ nghị viện (Dân biểu viện) hay liên minh các đảng cầm quyền thành lập ra một chính phủ do một Thủ tướng đứng đầu. Do vậy chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện (Dân biểu viện). Chế độ đại nghị trước tiên xuất hiện ở nước Anh, ngày nay được áp dụng ở nhiều nước khác cả ở Châu Âu cho đến nhiều nước ở vùng biển Caribê, ở Canada và Ấn độ. Các chính phủ đại nghị đều tự hào rằng với chế độ đa đảng, ngay cả những đảng rất nhỏ

bé cũng có đại diện trong viện lập pháp. Kết quả là những thiểu số cũng có thể tham gia vào tiến trình chính trị ở cấp cao nhất trong chính phủ. Tính đa dạng này khuyến khích việc đối thoại và dung hoà quyền lợi khi các đảng phái chính trị cố gắng thành lập ra một liên minh để tổ chức ra chính quyền. Nếu như liên minh này tan vỡ, hay là đảng bị mất

tín nhiệm, thủ tướng sẽ từ chức, một chính phủ mới sẽ được thành lập hay là một cuộc tổng tuyển cử mới được tiến hành. Tất cả những sự việc này sẩy ra mà không gây nên một khủng hoảng chính trị đe doạ đến tận gốc chế độ dân chủ.

Khuyết điểm chính của chế độ đại nghị là mặt trái của tính mềm dẻo và chia xẻ

quyền hành pháp. Đó là sự bất ổn cố của chế độ chính trị. Liên minh đa đảng dễ bị tan vỡ

và sụp đổ ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên của khủng hoảng chế độ chính trị, làm cho nhiều đảng phái chỉ lên nắm chính quyền trong một thời gian ngắn. Chính phủ có thể bị

các đảng phái nhỏ bé hành hạ, bằng cách đe doạ rút ra khỏi chính phủ liên hiệp. Họ có thể

đòi  hỏi  phải  có  nhượng  bộ  một  số  yêu  sách  đặc  biệt  trong  chính  sách  của  chính  phủ. Ngược lại, trong chế độ này với một đa số tuyệt đối nắm nghị viện, Thủ tướng và đảng cầm quyền có thể đem thi hành một chính sách quá xa vời, ngay cả ở mức có thể phản dân chủ, mà không có một cơ chế hữu hiệu nào có thể ngăn cản được, đưa tới một chế độ chuyến chế của đa số. Với cách thức tổ chức này, nhân dân gián tiếp bầu ra chính phủ, trung tâm của quyền lực nhà nước.

Phương pháp thứ hai, nhân dân bằng một cách trực tiếp hoặc có thể gián tiếp bầu

ra  một  vị  Nguyên  thủ  quốc  gia,  không  những  là  nguyên  thủ  quốc  gia  -  đứng  đầu  nhà nước, mà còn là người   trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Nếu như ở chế độ đại nghị, chính phủ và người đứng đầu chính phủ do lập pháp thành lập và phải chịu trách nhiệm trước

lập pháp, thì ở mô hình chính thể tổng thống cộng hoà, chính phủ và người đứng đầu chính phủ không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp, mà phải chịu trách nhiệm trước nhân dân. Với phương pháp bầu này, tổng thống trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhân

dân. Nhân dân trực tiếp hạn chế quyền lực của Tổng thống qua các cuộc đầu phiếu phổ

thông.

Tổng thống do nhân dân bầu lên trong một nhiệm kỳ nhất định có uy quyền trực tiếp từ dân, có thể không cần đến thế đứng của đảng mình trong Quốc hội.  Nếu đa số của Quốc hội cùng đảng với Tổng thống, thì đó là một sự thuận lợi. Ngược lại không cùng đảng với đa số của Quốc hội, tổng thống sẽ có thể trở nên khó khăn hơn trong việc điều hành của mình. Bằng cách phân quyền cứng rắn, Quốc hội cũng do dân bầu, Tổng thống - người đứng đầu hành pháp cũng do dân bầu, cùng chịu trách nhiệm trước nhân dân, mỗi ngành đều có thể thể nại ra rằng cùng có được sự uỷ thác quyền lực từ cử tri, và mỗi

ngành đều có quyền kiểm soát và cân bằng quyền lực đối với cành kia. Những ai sợ rằng hành pháp có tiềm năng trở nên chuyên chế sẽ có khuynh  hướng nhấn mạnh vai trò của Quốc hội, và ngược lại những người lo ngại sự lạm dụng quyền của đa số lập pháp, thì sẽ luôn luôn khẳng định uy quyền của Tổng thống. Chế độ tự nhiên có sự cân bằng nhất định các cành quyền lực của nhà nước.

Yếu điểm của chế độ tổng thống là chỗ rất dễ rơi vào tiềm năng của một chính quyền bế tắc. Tổng thống có thể không hội đủ số phiếu để đem thi hành những chính sách cứng rắn của mình, nhưng bằng cách phủ quyết (veto) có thể ngăn cản không cho Quốc

hội thế chính sách của mình bằng các chương trình hành động do Quốc hội đề xuất. Tổng thống mặc dù do dân bầu ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng có thể không có quyền lực bằng thủ tướng trong chế độ đại nghị. Tổng thống luôn luôn phải đấu tranh với quốc hội – lập pháp, vì  hai cuộc bầu cử tổng thống  và quốc hội là riêng rẽ ; và nhất là ở Mỹ quốc sinh hoạt đảng lại lỏng lẻo không chặt chẽ như ở Anh, Tổng thống Mỹ không

thể giải nhiệm hoặc áp dụng biện pháp kỷ luật đối với đảng viên thuộc đảng của mình, một khi họ không bỏ phiếu cho chính sách của mình. Nếu trong khi một vị thủ tướng của chế độ đại nghị với đa số của nghị viện thuộc đảng của mình là đảm bảo chắc chắn cho chương trình lập pháp mà ông ta đề xuất sẽ được Quốc hội thông qua, thì một vị tổng thống trong chế độ tổng thống cộng hoà, khi giao thiệp với một quốc hội có đa số không cùng đảng, mà lại cũng có những đặc quyền như mình, thường phải dùng đến phương pháp thương nghị trường kỳ, mới có thể đảm bảo dự luật do mình đưa ra được thông qua

tại Quốc hội.

Ở Mỹ, cũng như ở bất cứ nền dân chủ nào khác, sự đảm bảo quan trọng nhất về trách nhiệm của chính quyền là sự kiểm soát chính quyền thông qua các cuộc bầu cử.. Mỗi một cuộc bầu cử như là một cuộc sát hạch chính quyền lớn. Nếu như nhân dân vẫn

tin tưởng, thì chính quyền cũ vẫn còn tại vị. Ngược lại thì phải ra đi nhường lại chính quyền cho một lực lượng khác.

Khác với chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước tư sản được tổ chức và thành lập theo nguyên tắc phân chia quyền lực. Vì vậy, đối tượng bầu cử trong nhà nước tư sản được áp dụng rộng rãi hơn. Không những chỉ trực tiếp bầu ra các nghị sĩ như trong nhà nước xã

hội chủ nghĩa, cử tri của nhà nước tư bản còn bầu ra các quan chức cao cấp khác như tổng thống, các thị trưởng. Như vậy có thể suy ra rằng, số lần bầu cử được tỷ lệ thuận với mức độ phân quyền của mỗi quốc gia. Càng phân quyền  bao nhiêu, càng có bầu cử nhiều bấy nhiêu và sự hạn chế quyền lực nhà nước càng được gia tăng bấy nhiêu.

Ở một số nước, mà Nghị viện có cơ cấu hai viện, thường Hạ viện là viện do nhân dân trực tiếp bầu ra. Thượng viện được thành lập bằng bầu cử gián tiếp hoặc do chỉ định,

do truyền ngôi thế tập. Bên cạnh những nước có quy định như trên, cũng có những nước

có thượng viện và hạ viện đều do nhân dân trực tiếp bầu ra. Bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp là cơ sở xác định thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Về nguyên tắc, cơ quan nhà nước được nhân dân trực tiếp bầu ra bao giờ cũng có nhiều quyền hơn cơ quan được hình thành bằng phương pháp bầu cử gián tiếp. Hạ nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra theo quy định của nhiều nước bao giờ cũng có nhiều quyền hơn thượng viện.

Tổng thống Mĩ do cử tri gián tiếp, nhưng đích thực là trực tiếp bầu ra, có nhiều quyền lực thực tế hơn tổng thống của Cộng hoà liên bang Đức được bầu ra dựa trên cơ sở của nghị viện (không do dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra) . Sự tấn phong của nhân dân

Mĩ đã làm cho tổng thống có quyền lực ngang hàng với Nghị viện Mĩ. Thủ tướng Anh do

Nữ hoàng bổ nhiệm. Nhưng Nữ hoàng không thể bổ nhiệm người nào đó khác hơn là người thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện. Như vậy, qua cuộc bầu cử trực tiếp nghị sĩ vào Hạ nghị viện, nhân dân nước Anh đã tự lựa chọn cho mình một vị

thủ tướng. Chính đây là điểm lý giải thích tại sao Thủ tướng Anh quốc có quyền năng hơn các cơ quan khác của nhà nước Anh so với chế độ phong kiến và chế độ chiếm hữu

nô lệ trước đây, việc áp dụng phương pháp bầu cử để thành lập ra các cơ quan nhà nước của chế độ tư sản là một phương pháp dân chủ. Nó đã giúp cho nhân loại loại trừ khỏi quan niệm đã ngự trị từ xa xưa: Quyền lực nhà nước xuất phát từ cõi "hư vô" do thiên

đình định đoạt ai, dòng họ nào vốn dĩ sinh ra là được quyền thống trị người khác. Nhưng

có được như ngày nay nhân loại phải trải qua cuộc đấu tranh hết sức bi tráng hy sinh nhiều xương máu, hết đời này qua đời khác.

Giai cấp thống trị tư sản cùng với giai cấp phong kiến tìm hết thủ đoạn này, sang

thủ đoạn khác để nhằm mục đích hạn chế sự tham gia của nhân dân lao động vào các cuộc bầu cử. Lúc ban đầu bầu cử chỉ là công việc của những người thuộc tầng lớp thượng

lưu của giai cấp thống trị, sau đấy là của những người có của, những người đàn ông, của những người có quốc tịch nguyên thuỷ, ... Mãi sau này, năm 1972, vào những năm cuối

thể kỷ XX , phụ nữ Thuỵ Sĩ mới được quyền đi bầu cử như nam giới. Đó là quyền bầu

cử, tức là quyền đi bỏ phiếu. Cử tri là những người có quyền đi bỏ phiếu, về nguyên tắc phải là rộng khắp để đủ bao gồm phần lớn số công dân trưởng thành của quốc gia. Chính quyền  do  một  nhóm  nhỏ  bầu  lên  không  phải  là  một  chính  quyền  dân  chủ.  Một  chính quyền bao gồm những người đại diệndo nhân dân thực hiện quyền thuộc về mình bầu

ra không thực sự nắm quyền lực nhà nước, thì đấy chưa phải là một chế độ dân chủ.

Một trong những bi kịch lớn của các chế độ dân chủ trong suốt lịch sử nhân loại là công cuộc đấu tranh của các nhóm bị bỏ ra ngoài lề của cuộc sống cộng đồng theo các màu sắc tôn giáo, sắc tộc, phụ nữ.. không được hưởng quyền bầu cử và có thể được bầu

giữ các chức vụ công cử.  Ở  Hoa kỳ chẳng hạn, khi Hiến pháp năm 1787 được thông qua

chỉ có nam công dân da trắng có tài sản mới được hưởng quyền bỏ phiếu và được bầu.

Điều kiện tài sản đã bị biến mất vào đầu thế kỷ 19 và mãi vào năm 1920 thì bằng tu chính

án thứ 19, phụ nữ mới có quyền đi bỏ phiếu. Mặc dù vào năm 1863 Tổng thống Lincoln

đã tuyên bố giải phóng nô lệ cho người da đen, nhưng mãi cho đến 3 thế kỷ sau đó, năm

1960 những người da đen mới được hưởng trọn quyền đi bầu cử ở miền Nam Hoa kỳ. Và năm 1971 bằng tu chính án thứ 26 mới đây quyền bầu cử mới cho những công dân mới được hạ từ 21 xuống  18 tuổi.

Còn quyền được bầu, quyền bầu cử thụ động, tức là quyền được người khác bầu vào các cơ quan nhà nước tư sản, thì điều kiện đòi hỏi lại càng khó khăn hơn. Tuổi có thể được  bầu  vào  cơ  quan  nhà  nước  bao  giờ  cũng  phải   cao  hơn  quyền  được  đi  bỏ  phiếu (quyền bầu cử) phải có thời gian cư trú nhiều hơn, phải ứng trước một khoản tiền cược trước.

Che đậy bản chất, hay là một sự ngụy biện cho hiện tượng hạn chế quyền bỏ phiếu của mọi người dân của những hạn chế nêu trên, nhiều học giả tư sản đã từng giải thích: Công việc bầu cử là công việc phức tạp chỉ có những người có một trình độ hiểu biết và kinh nghiệm cuộc sống nhất định mới đảm đương được. Lý giải việc bầu cử gián tiếp Tổng thống Mĩ, các nhà lập hiến Hiến pháp Mỹ năm 1787 luận rằng, những   người dân bình thường không đủ khả năng nhận biết được cần phải bỏ phiếu cho ai và cho ứng củ viên của đảng nào. Đây cũng là một lý do cơ bản dẫn đến các nhà lập hiến. Mĩ quy định việc bầu cử tổng thống phải bằng một tuyển cử đoàn.

Ở chế độ nhà nước Việt Nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Cũng như những hiện tượng khác, quyền lực xã hội thuộc về nhân dân phải có hình thức thực hiện. Có hai hình thức mà nhân dân dùng để thực hiện quyền lực Nhà nước của mình: trực tiếp và gián tiếp, tạo nên hai hình thức dân chủ cơ bản của xã hội đương đại: Dân chủ trực tiếp và dân chủ  đại  diện.  Nhân  dân  trực  tiếp  bỏ  phiếu  quyết  định  những  vấn  đề  thuộc  chức  năng, nhiệm vụ của Nhà nước là hình thức dân chủ trực tiếp. Hình thức thứ hai được thể hiện bằng việc nhân dân bỏ phiếu bầu ra những người đại diện, thay mặt nhân dân giải quyết

các công việc của Nhà nước, được gọi là dân chủ đại diện.

Cả hai hình thức nêu trên đều dùng biện pháp bỏ phiếu để thực hiện quyền lực Nhà nước. Đồng thời với ý nghĩa nêu trên, bầu cử còn là phương pháp thành lập nên các cơ cấu của bộ máy Nhà nước. Đây là phương pháp dân chủ thể hiện quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, khác biệt hoàn toàn với biện pháp truyền ngôi, thế tập với quyền lực thần bí do nhà trời định đoạt, tạo thành hình thức chính thể quân chủ. Với bầu cử cho phép chúng ta xác định chính thể dân chủ cộng hoà. Với tầm quan trọng như vậy, bầu cử

trở thành một yếu tố không thể thiếu được trong chế độ xã hội dân chủ đương đại, góp phần không nhỏ cho việc xây dựng chế độ xã hội tiên tiến, trong đó lẽ đương nhiên có cả chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Với phương pháp này chính quyền được tổ chức ra là một chính quyền hợp pháp. Và chính các hoạt động bầu cử được hình thành dần dần thành một chế độ bầu cử, một phần của chế độ xã hội. Qua những cuộc bầu cử diễn ra ở mỗi quốc gia cho phép chúng ta xác định chế độ bầu cử.

Hình thức dân chủ trực tiếp, nhân dân trực tiếp giải quyết các công việc của nhà nước, hiện nay áp dụng rất còn hạn chế. Hình thức dân chủ gián tiếp mà loại hình biểu hiện của nó là dân chủ đại diện, hiện nay được áp dụng hết sức rộng rãi. Bầu cử chỉ định

ra những người lãnh đạo quốc gia. Theo Hiến pháp và luật lệ của các nhà nước dân chủ,

các đại diện do nhân dân bầu ra phải có trách nhiệm chèo lái con thuyền quốc gia. Các nhân vật này không phải là những bù nhìn hay là các nhà lãnh đạo tượng trưng.

Dân chủ đại diện là một thể thức dân chủ, trong đó nhân dân thực hiện chủ quyền của mình  qua  khâu  trung  gian  của  những  đại  diện  được  chọn  bằng  phương  pháp       bầu  cử. Phương pháp này được áp dụng rất rộng rãi trong chế độ tư bản và trong chủ nghĩa xã hội. Vì thế cho nên, các nhà nước tư bản hoặc xã hội chủ nghĩa phần lớn chỉ được tổ chức theo chính thể cộng hoà, mà không được tổ chức theo một loại hình chính thể nào khác.

Về tầm quan trọng của bầu cử Hồ Chủ Tịch nói:

“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài,

có đức, để gánh vác công việc nước nhà.Trong cuộc tuyển cử, hễ là người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân đều có quyền đi bầu cử. Không phân

chia gái trai, giầu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt

Nam đều có hai quyền đó.”1

Chế độ bầu cử là chế độ của sự hình thành bằng tổng thể các mối quan hệ xã hội xảy

ra qua các cuộc bầu cử từ lúc lập danh sách cử tri, xác định những người được quyền đi

bỏ phiếu, giới thiệu ứng cử viên, xác định những người có thể được bầu làm đại diện trong các cơ quan Nhà nước cho đến giai đoạn cuối cùng là xác định, tuyên bố kết quả của các ứng cử viên. Qua những cuộc bầu cử cho phép chúng ta thấy được các cuộc bầu

cử được diễn ra một cách dân chủ, không áp đặt, không giả dối, một phương thức dân chủ thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình bỏ phiếu tìm ra được những người có uy tín, xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay nhân dân quản lý và điều hành đất nước.

Với tư cách là một biện pháp dân chủ thành lập ra bộ máy Nhà nước, cho nên các cơ quan Nhà nước của Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều trực tiếp, hoặc gián tiếp do nhân dân bầu ra. Là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc trực tiếp bầu ra, cho nên Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao. Quốc hội thay mặt nhân dân, giải quyết

các công việc quan trọng nhất của đất nước, từ việc đặt ra Hiến pháp và pháp luật cho đến việc thành lập ra các cơ quan Nhà nước khác. Hiến pháp năm 1992 cũng như của các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước đây đều xác định rõ chỉ có các cơ quan Nhà nước do nhân dân trực tiếp bầu ra mới được xác định là cơ quan quyền lực Nhà nước.

Với tầm quan trọng như vậy, cho nên ngay từ khi mới thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh tiến hành các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

Ngay từ phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ lâm thời ngày 3 tháng 9 năm

1945, Hồ chủ tịch đã đề nghị Chính phủ sớm tổ chức cuộc Tuyển cử và xây dựng Hiến pháp. Người nói:

“Truớc ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ phải tổ chức càng sớm càng hay cuộc tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân, trai, gái, từ 18 tuổi đều có quyền bầu cử, ứng củ, không phân biệt giàu nghèo, dòng giống”.(1)

Về phương diện pháp luật, thì chế độ bầu cử còn được hiểu là một chế định quan trọng nằm trong hệ thống ngành luật Hiến pháp, bao gồm các quy định của pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến bầu cử, quyền ứng cử và các quy trình để tiến hành bầu cử từ lúc lập danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả bầu cử, quá trình bầu

cử còn được gọi là pháp luật tố tụng bầu cử (Trình tự bầu cử).

Dù chính phủ có thể cơ cấu tổ chức chặt chẽ đến đâu, hoạt động có hiệu quả đến đâu

đi chăng nữa, mà các quan chức – những người đảm trách các chức năng quan trọng của nhà nước không do bầu cử mà ra, cũng là một chế độ phi dân chủ. Chế độ đó chỉ là dân chủ khi các quan chức lãnh đạo chính phủ được bầu ra một cách tự do dân chủ  bởi các công dân công khai và công bằng. Cơ chế bầu cử các chế độ chính trị có thể là khác nhau,

1   -Hồ Chí  Minh, Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, 1995, t. 4, tr. 133

(1)  Xem, Hồ Chí Minh; Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội 1995, t. 4, tr 8

nhưng những yếu tố cơ bản của chúng là giống nhau đối với tất cả các xã hội dân chủ, kể

các dân chủ tư sản lẫn dân chủ xã hội chủ nghĩa: Tất cả các công dân đến tuổi trưởng thành đều có quyền bầu cử, các cá nhân được bảo vệ không bị tác động tiêu cực trong khi

bỏ phiếu, kiểm phiếu công khai và trung thực...

II. CÁC NGUYÊN TẮC BẦU CỬ

Với tính chất quan trọng của bầu cử như vậy, pháp luật bầu cử của chúng ta được xây dựng trên một số nguyên tắc nhất định. Việc bầu cử đại biểu ở nước ta được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Các nguyên tắc đó thống  nhất  với  nhau,  đảm  bảo  cho  cuộc  bầu  cử  khách  quan,  dân  chủ,  thể  hiện  đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn. Các nguyên tắc bầu cử còn quy định quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm những quy định

về bầu cử. Các nguyên tắc này có thể được pháp luật quy định bằng một quy phạm nhất

định, hoặc bằng nhiều quy phạm trong các văn bản pháp luật bầu cử.

a. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu

Nhà nước ta là Nhà nước của dân, người dân làm chủ trong việc bầu ra những người

đại diện cho mình. Vì vậy Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người dân đều

có thể tham gia bầu cử. Đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong chế độ bầu cử của mỗi Nhà nước nói chung, trong đó có Việt Nam chúng ta. Mức độ dân chủ của xã hội thể hiện chủ yếu hay về cơ bản thông qua nguyên tắc này. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu trong bầu cử của nhà nước ta hòan toàn đối nghịch với nguyên tắc hạn chế quyền bầu cử

và ứng cử của các nhà nước phản dân chủ trước đây của nhiều nhà nước tư sản phát triển.

Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu thể hiện tính công khai, dân chủ rộng rãi, đòi hỏi sự

bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử của mình.

Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu được thể hiện ở tính toàn dân và toàn diện của bầu

cử. Bầu cử là công việc của mọi người, là sự kiện chính trị của xã hội, cuộc bầu cử được tiến hành đều khắp trong cả nước nếu đó là bầu cử Quốc hội, trong cả địa phương nếu đó

là bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

Nguyên tắc bầu cử phổ thông đầu phiếu là một nguyên tắc hiến định được điều 54

Hiến pháp ghi nhận và cụ thể hoá tại Điều 2 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu

Hội đồng nhân dân:

“Công dân, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu

cử và từ đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo

qui định của pháp luật, trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc toà án nhân dân tước các quyền đó".

Khác với các nhà nước tư bản, ở Nhà nước ta quân nhân trong quân đội vẫn có quyền bầu cử và ứng cử. Họ quan niệm rằng quân đội không được tham gia chính trị.

Những người có quyền bầu cử được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn lập danh sách  cử  tri.  Việc  lập  danh  sách  cử  tri  có  ý  nghĩa  quan  trọng  xác  nhận  về mặt  pháp  lý quyền bầu cử của công dân. Về nguyên tắc chỉ những người có quyền bỏ phiếu thì mới có

thể là ứng cử viên đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Danh sách cử tri phải được niêm yết ở nơi ở, nơi công tác để các cử tri kiểm tra xem

xét quyền bầu cử của mình. Trong trường hợp không có tên, hoặc sai tên sai họ... cử tri

có quyền khiếu nại lên chính cơ quan lập danh sách cử tri. Khi nhận được khiếu nại của

cử tri, Uỷ ban nhân dân, hoặc chỉ huy đơn vị quân đội nơi lập danh sách cử tri phải giải

quyết. Nếu cử tri không nhất trí với cách giải quyết của các cơ quan nêu trên, có quyền khiếu nại lên Toà án nhân dân huyện. Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại Toà án phải giải quyết. Quyết định của Toà án là quyết định cuối cùng.

Về tầm quan trọng của cuộc bỏ phiếu, Hồ Chí Minh nói:

“Lá phiếu của người cử tri tuy khuôn khổ nó bé nhỏ, nhưng giá trị của nó vô cùng lớn. Nhân dân ta đã trải qua biết bao gian khổ, hy sinh biết bao xương máu trong cuộc cách mạng đánh đổ thực dân và phong kiến mới giành được nó. Nó chứng tỏ chế độ dân chủ và tự do của Nhà nước ta và quyền làm chủ thực sự của mỗi công dân ta. Vì vậy đi

bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển  cử vừa là quyền lợi quý báu, vừa là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi cử tri”.1

b. Nguyên tắc bình đẳng

Nguyên tắc bình đẳng là một nguyên tắc rất quan trọng trong suốt quá trình bầu cử,

từ khi lập danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả bầu cử. Hình thức biểu hiện của nguyên tắc rất đa dạng. Nhưng trước hết ở chỗ mỗi một cử tri đều có số lần bỏ phiếu như nhau. Trong một cuộc bầu cử, mỗi một cử tri chỉ có một lá phiếu. Đủ tiêu chuẩn theo quy định của luật bầu cử thì được lập danh sách cử tri. Muốn cho cử tri chỉ có một lá phiếu trong một cuộc bầu cử thì mỗi một cử tri chỉ được ghi tên trong một danh sách của một cuộc bầu cử.

Nguyên tắc bình đẳng bảo đảm để mọi công dân có khả năng như nhau trong việc tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc bình đẳng nhằm đảm bảo sự khách quan trong bầu cử, không thiên vị.

Nguyên tắc này thể hiện trong quy định của pháp luật về quyền bầu cử và ứng cử của công dân; quy định số lượng dân như nhau thì được bầu số đại biểu bằng nhau; mỗi cử tri được ghi tên vào danh sách ở một nơi cư trú, mỗi người chỉ được ghi tên ứng cử ở một đơn vị bầu cử, mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu.

Để đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, Nhà nước có các biện pháp bảo đảm để đồng bào dân tộc cũng như phụ nữ có số đại biểu thích đáng trong Quốc hội và thích đáng trong Hội đồng nhân dân các cấp.

c. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp

Nguyên tắc này đảm bảo để cử tri trực tiếp lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực Nhà nước bằng lá phiếu của mình không qua khâu trung gian. Cùng với các nguyên tắc khác, nguyên tắc này là điều kiện cần thiết đảm bảo tính khách quan của bầu

cử.

Không phải nước nào trên thế giới cũng bầu cử theo nguyên tắc trực tiếp. Ở nhiều nước bầu cử được tiến hành gián tiếp qua nhiều cấp. Thường ở các nước này cử tri bầu ra

đại cử tri, đại cử tri bầu ra người đại diện. Những cuộc bầu cử này được gọi là những cuộc bầu cử gián tiếp.

Trên cơ sở nguyên tắc bầu cử trực tiếp, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu

cử Hội đồng nhân dân ở nước ta có một loạt quy định nhằm đảm bảo để cử tri trực tiếp

thể hiện nguyện vọng của mình từ khâu đề cử, ứng cử đến khâu bỏ phiếu; Cử tri tự mình

đi  bầu,  tự  tay  mình  bỏ  phiếu  vào  thùng  phiếu;  không  được  nhờ  người  khác  bầu  thay, không được bầu bằng cách gửi thư.

1  Xem, Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđ d, t. 11, tr. 247

d. Nguyên tắc bỏ phiếu kín

Nguyên tắc này bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn, để sự lựa chọn đó không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Pháp luật quy định rõ việc bố trí nơi viết phiếu phải kín, không có ai được đến xem lúc cử tri viết phiếu bầu.

Bầu  cử  là  hoạt  động  có  tính  chất  dân  chủ.  Hoạt  động  này  luôn  luôn  gắn  liền  với nguyên tắc công khai. Tất cả mọi công đoạn của bầu cử phải diễn ra công khai, nhưng chỉ riêng công đoạn bỏ phiếu phải diễn ra trong phòng kín, không có sự tham gia của bất cứ nhân vật nào, kể cả nhân viên phụ trách công việc bầu cử tại phòng bỏ phiếu.

III. QUYỀN BẦU CỬ VÀ ỨNG CỬ

Chế độ bầu cử với tư cách là một chế định quan trọng của ngành luật hiến pháp được chia 2 chế định nhỏ là quyền bàu cử và quyền ứng cử. Quyền bầu cử và ứng cử là quyền chính trị quan trọng bảo đảm cho công dân có thể tham gia vào việc thành lập ra những

cơ quan quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Theo quy định của Hiến pháp Việt Nam công dân Việt Nam có quyền bầu cử và ứng cử vào hai cơ quan đại diện quyền lực nhà nước

của nhà nước Cộng hòa xã hội chủnghĩa Việt Nam. Đó là  Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

a. Quyền bầu cử

Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình vào cơ quan quyền lực Nhà nước

“Quyền bầu cử” không những chỉ là quyền bỏ phiếu mà còn bao gồm quyền đề cử

tức là khả năng chủ động trong lựa chọn những người có khả năng thay mặt mình trong

cơ quan đại diện. Cũng có khi “quyền bầu cử” được dùng với nghĩa bầu cử nói chung bao gồm cả quyền đề cử, bỏ phiếu và quyền được bầu vào cơ quan đại diện. Nếu dùng khái niệm này thì phải phân biệt quyền bầu cử chủ động (quyền đề cử bỏ phiếu) và quyền bầu

cử  thụ  động  (quyền  có  thể  được bầu).  Về  nguyên  tắc  chỉ  có  quyền  bầu  cử  thì  mới  có quyền được bầu, không có điều ngược lại. Hay nói một cách khác quyền bầu cử chủ động

là tiên quyết của quyền được bầu tức là bầu cử thụ động.

Vì tính chất quan trọng của quyền bầu cử nên quyền bầu cử chỉ được quy định cho những người phát triển bình thường về mặt thần kinh, đạt đến độ chín chắn của sự phát triển tâm, sinh lý nhằm bảo đảm cho họ có sự lựa chọn chính xác và độc lập.

Điều 54 của Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng  cử  vào  Quốc hội và Hội đồng  nhân  dân  các  cấp  theo  quy  định  của  pháp  luật,  trừ những người mất trí và những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước các quyền đó”.

Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định độ tuổi của công dân để có quyền bầu cử

là  mười  tám.  Cũng  có  nước chỉ quy định  chung:  Tất cả  các  công  dân  đến  tuổi  trưởng thành đều có quyền tham gia bầu cử (Hung ga ri). Cũng có nước quy định công dân đủ 16 tuổi là có quyền bầu cử (Cu Ba)

Pháp luật của một số nước khác thường có những quy định về tài sản, thời hạn định

cư, trình độ văn hoá để hạn chế quyền bầu cử của cử tri. Chúng ta không quy định những

điều kiện như vậy. Ngoài các quy định về độ tuổi là quy định cần thiết bảo đảm sự lựa chọn của cử tri, pháp luật ta không quy định điều kiện nào khác.

Để tránh tuỳ tiện trong việc hạn chế quyền bầu cử của công dân trường hợp những người mất trí, những người bị pháp luật hoặc Toà án nhân dân tước quyền bầu cử được quy định trong các văn bản pháp luật. Những trường hợp công dân không được bầu cử là:

1 - Những người bị tước quyền bầu cử, bao gồm: a/ Người đang trong thời kỳ bị tước quyền bầu cử theo bản án đã có hiệu lực của toà án. b/ Người đang bị quản chế theo bản

án đã có hiệu lực của toà án.

2 - Những người không được sử dụng quyền bầu cử, bao gồm:

a/ Người đang chấp hành hình phạt tù; b/ Người đang bị bắt, đang bị tạm giữ, đang bị tạm giam theo quy định của pháp luật. c/ Người đang trong thời gian bị tập trung giáo dục, cải tạo theo quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương được Chính phủ phê duyệt

Để xác định những người thuộc diện mất trí không được tham gia bầu cử, Bộ Y tế đã

ra hướng dẫn cụ thể vấn đề này. Những người mất trí là những người bị bệnh tâm thần, không  tự  chủ  về  suy  nghĩ,  hành  động,  không  phân  biệt  được  đúng,  sai,  phải,  trái,  có những  rối loạn về nhận thức tư  duy, tình cảm và hành vi. Những bệnh nhân tâm thần phân liệt và động kinh đang chữa ngoại trú, nhưng được chuyên khoa tâm thần xác định

là đã ổn định, sinh hoạt và làm việc bình thường, hoạt động tư duy, tình cảm và hành vi

đúng đắn, vẫn được quyền bầu cử.

Ở nước ta, quyền bầu cử được coi là quyền chính trị quan trọng, là vinh dự của công dân. Công dân thực hiện quyền đó tự nguyện. Vì vậy mà các cuộc bầu cử có số cử tri tham gia rất đông (thường là khoảng trên 80%). Ở một số nước, bỏ phiếu không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của công dân (Mehico); bầu cử là nghĩa vụ của mỗi người, trốn tránh là vi phạm nghĩa vụ trước Tổ quốc (Italia).

Hình  thức  ghi  nhận  quyền  bầu  cử  của  công  dân  là  danh  sách  cử  tri.  Công  dân  có quyền bầu cử cư trú thường xuyên hay tạm thời ở đâu đều được ghi tên vào danh sách cử

tri ở nơi đó. Để bảo đảm quyền bầu cử của công dân, pháp luật đã quy định cụ thể việc

lập niêm yết và thông báo rộng rãi danh sách cử tri. Pháp luật còn quy định thủ tục khiếu nại và xem xét, giải quyết khiếu nại về vấn đề này.

b - Quyền ứng cử

Quyền ứng cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thể hiện nguyện vọng của mình được bầu làm đại biểu. Về nguyên tắc so với quyền bầu cử, quyền ứng cử được pháp luật đòi hỏi cao hơn về chất. Mọi công dân Việt Nam có quyền bầu cử (nói ở phần trên) đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền ứng cử.

Quyền ứng cử của công dân thể hiện ở sự chấp thuận việc người khác đề cử mình hoặc việc công dân tự ra ứng cử.

Ngay từ khi nhà nước ta ra đời đến nay, pháp luật đã có những quy định về quyền

ứng cử của công dân. Điều 12 của Sắc lệnh số 51 ghi rõ “Người ứng cử được tự do ứng

cử nơi mình chọn lấy nhưng chỉ một nơi ấy thôi”. Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959

đều quy định quyền ứng cử công dân. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1959 còn quy định

“cá nhân có quyền tự ra ứng cử” (Điều 24).

Cùng với việc xây dựng quyền làm chủ tập thể, Hiến pháp 1980 đã coi quyền ứng cử

như một quyền thụ động và chỉ là khả năng “có thể được bầu” của công dân. Thực hiện

chủ trương tích cực hoá vai trò của công dân tham gia vào bầu cử, Hiến pháp 1992 và

Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994 đã quy định quyền bầu cử và quyền

tự ứng cử của công dân.

So với quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân có những yêu cầu cao hơn. Trước hết, là độ tuổi. Công dân từ mười tám tuổi trở lên thì có quyền bầu cử, nhưng phải đủ hai mươi  mốt  tuổi  trở  lên  mới  có  quyền  ứng  cử.  Ngay  từ  Hiến  pháp  1946  đã  quy  định: “Người ứng cử là người có quyền bầu cử, phải ít ra là hai mươi mốt tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” ( Điều 18).

Ngoài quy định về tuổi, Hiến pháp và các luật bầu cử hiện hành không quy định điều kiện nào khác đối với quyền ứng cử của công dân. Nhưng để thực hiện quyền ứng cử của công dân phải đạt được một số tiêu chuẩn nhất định. Trước đây, Luật bầu cử không quy định tiêu chuẩn. Nhưng, thực tế cuộc sống yêu cầu có những tiêu chuẩn để cử tri theo đó

mà lựa chọn.

Điều 3 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân đều quy

định: “Đại biểu phải là người trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, có hiểu biết

về quản lý Nhà nước, kinh tế, xã hội, hiểu biết và gương mẫu chấp hành pháp luật, có năng lực thực hiện nhiệm vụ người đại biểu, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”.

Dựa vào tiêu chuẩn này, các công dân tự ứng cử và các tổ chức xã hội thuộc Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, đề cử ứng cử viên.

Trong việc thực hiện quyền ứng cử của công dân, pháp luật hiện hành quy định công dân có quyền bầu cử, ứng cử. Nhưng để được ghi tên vào danh sách ứng cử   công dân Việt Nam phải được Mặt trận Tổ quốc Việt nam hiệp thương giới thiệu.

Pháp luật nhiều nước trên thế giới có các quy định về điều kiện ứng cử. Các điều kiện đó tập trung chủ yếu vào quy định không được kiêm nhiệm một số chức vụ Nhà nước nhất định (bất khả kiêm nhiệm), quy định thời hạn cư trú, quy định về giá trị tài sản

và việc đặt cọc tiền. Để thực hiện quyền ứng cử, công dân các nước đó phải được một

đảng giới thiệu hoặc thu nhập một số luợng chữ ký những người ủng hộ mình. Luật bầu

cử của Hung ga ri quy định phải thu nhập được 750 chữ ký. Một số nuớc khác thì quy định phải nộp tiền cọc vào nhà băng. Số tiền này ở Pháp quy định là 1000 frăng, đối với ứng cử vào ghế nghị sĩ Quốc hội.

IV. SỐ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

Để Quốc hội làm tròn chức năng của mình, Quốc hội cần có một số lượng đại biểu thích hợp.

Tổng số đại biểu Quốc hội được quy định dựa trên cơ sở:

1. Yêu cầu nhiệm vụ vủa Quốc hội

2.Tỷ lệ dân mà đại biểu đại diện.

3. Khả năng tài chính mà Nhà nước có thể bảo đảm để đại biểu hoạt động. ở nước ta, tổng số đại biểu Quốc hội cần được quy định đủ đảm bảo cơ cấu, thành phần của Quốc

hội phản ánh khối đại đoàn kết dân tộc, bảo đảm hiệu lực của Quốc hội.

Có hai cách ấn định tổng số đại biểu Quốc hội: ấn định số theo tỷ lệ dân hoặc ấn định con số cụ thể trong luật bầu cử. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1992 đã quy định: “Tổng

số đại biểu nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam không quá năm trăm người” (Điều

7).

Trong tổng số đại biểu Quốc hội, các dân tộc thiểu số được giành một tỷ lệ đại biểu thích đáng. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số thường chiếm trên 14%. Thủ

đô Hà Nội cũng được dành số đại biểu đủ đại diện cho các tầng lớp nhân dân Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước.

Hội đồng nhân dân xã, phường thị trấn được bầu tối đa là 35, tối thiểu là 25 đại biểu. Hội đồng nhân dân huyện và tương đương được bầu tối đa là 40 tối thiểu là 30 đại

biểu.

Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được bầu tối đa 95, tối thiểu 50 đại biểu.

So với những quy định của pháp luật trước đây thì tổng số đại biểu Quốc hội cũng như tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp giảm từ   1/4 đến 1/3 . Việc giảm số lượng để nhằm mục đích tăng chất lượng. Tổng số đại biểu Quốc hội khoá IX (1992 -

1997) là 396 đại biểu. Tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp khoá 1994 - 1995 là

233.332 đại biểu. Trong đó cấp tỉnh 3.109; cấp huyện 14.523; cấp xã 213.700.

V. CÁC TỔ CHỨC PHỤ TRÁCH BẦU CỬ

Để phụ trách tổ chức việc bầu cử, trong mỗi cuộc bầu cử thành lập Hội đồng bầu cử, Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và tổ bầu cử.

a. Hội đồng bầu cử

Để  phụ  trách  bầu  cử  đại  biểu  Quốc hội  trong  phạm  vi  cả  nước chậm nhất  là  chín mươi ngày trước ngày bầu cử Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập Hội đồng bầu cử từ mười lăm đến hai mốt người gồm đại diện Mặt trận tổ quốc Việt Nam, đại diện Uỷ ban thường vụ Quốc hội và đại diện chính phủ.

Hội đồng bầu cử có những nhiệm vụ và quyền hạn:

• Lãnh đạo việc tổ chức bầu cử trong cả nước, kiểm tra đôn đốc việc thi hành các quy

định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội.

•  Công  bố  danh  sách  những  người  ứng  cử  đại  biểu  Quốc  hội  theo  trình  tự  bầu  cử

trong cả nước.

• Xét và giải quyết khiếu nại về công tác của các Uỷ ban bầu cử, Ban bầu cử và Tổ bầu cử; xem xét và giải quyết khiếu nại về công tác bầu cử do Uỷ ban bầu cử hoặc Ban bầu cử chuyển đến.

• Tiếp nhận và kiểm tra biên bản bầu cử do Uỷ ban bầu cử hoặc ban bầu cử gửi đến, làm biên bản tổng kết cuộc bầu cử trong cả nước;

• Xét và quyết định việc bầu lại, bầu thêm hoặc huỷ bỏ kết quả ở các đơn vị bầu cử;

• Tuyên bố kết quả bầu cử trong cả nước;

• Cấp giấy chứng nhận cho đại biểu trúng cử;

• Trình Quốc hội biên bản tổng kết bầu cử và những hồ sơ tài liệu về bầu cử.

Hội đồng bầu cử của các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc địa phương, quận, huyện, xã và thị trấn cũng có những nhiệm vụ, quyền hạn tương tự.

b. Uỷ ban bầu cử

Để phụ trách bầu cử đại biểu Quốc hội, trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương thành lập Uỷ ban bầu cử. Uỷ ban bầu cử có từ bảy đến chín người, trong đó có đại

diện Mặt trận Tổ quốc và đại diện chính quyền cùng cấp. Uỷ ban bầu cử có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

• Chỉ đạo việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử ở đơn vị bầu cử; in thẻ cử tri và phiếu bầu theo mẫu của Hội đồng bầu cử;

• Kiểm tra đôn đốc việc chấp hành những quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu

Quốc hội của các Ban bầu cử, Tổ bầu cử;

• Nhận đơn và hồ sơ của những người ứng cử;

• Lập danh sách những người ứng cử theo đơn vị bầu cử và báo cáo Hội đồng bầu cử

quyết định;

• Xét và giải quyết khiếu nại về bầu cử, về hoạt động của Ban bầu cử hoặc do Ban bầu cử gửi đến;

• Nhận và kiểm tra biên bản bầu cử;

• Thông báo kết quả bầu cử chung ở địa phương;

• Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của Hội đồng bầu cử;

• Chuyển hồ sơ biên bản bầu cử lên Hội đồng bầu cử;

• Tổ chức việc bầu lại, bầu thêm theo quyết định của Hội đồng bầu cử.

Uỷ ban bầu cử là tổ chức bầu cử đặc thù của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, không

được tổ chức ở các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các địa phương.

c. Ban bầu cử

Chậm nhất là sáu mươi ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương phối hợp với thường trực Hội đồng nhân dân cùng cấp thành lập ở mỗi đơn vị bầu cử một Ban bầu cử từ chín đến mười lăm người. Trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện chính quyền địa phương.

Ban bầu cử có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

• Kiểm tra, đôn đốc việc thi hành các quyết định của pháp luật về bầu cử đại biểu

Quốc hội của các Tổ bầu cử;

• Kiểm tra, đôn đốc việc bố trí các bàn phiếu;

• Xét và giải quyết khiếu nại về công tác của các Tổ bầu cử;

• Phân phối phiếu bầu cho các tổ bầu cử chậm nhất là năm ngày trước ngày bầu cử;

• Kiểm tra việc lập và niêm yết danh sách cử tri;

• Niêm yết danh sách người ứng cử trong đơn vị bầu cử;

• Xét và giải quyết khiếu nại về người ứng cử;

• Kiểm tra trong việc bầu cử tại các phòng bỏ phiếu;

• Tiếp nhận, kiểm tra biên bản kiểm phiếu do các tổ bầu cử gửi đến; làm biên bản xác định kết quả bầu cử trong đơn vị để gửi lên Hội đồng bầu cử và tuyên bố kết quả

đó;

• Báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của Hội đồng bầu cử;

•  Giao  hồ  sơ,  tài  liệu  về  bầu  cử  cho  Uỷ  ban  nhân  dân  tỉnh,  thành  phố  trực  thuộc

Trung ương;

• Tổ chức việc bầu lại, bầu thêm theo quy định của luật bầu cử đại biểu Quốc hội.

•  Ban  bầu  cử  đại  biểu  Hội  đồng  nhân  dân  cũng  được  tổ  chức  với  thành  phần  và nhiệm vụ tương tự ở các đơn vị bầu cử.

d. Tổ bầu cử

Chậm nhất là hai mươi ngày trước ngày bầu cử, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử gồm từ năm đến mười một người trong đó có đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đại diện chính quyền địa phương. Các đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu của mình một

Tổ bầu cử từ năm đến chín người đại diện đơn vị. Tổ bầu cử bầu ra một Tổ trưởng, một

Phó tổ trưởng thư ký và các thành viên.

Tổ bầu cử có nhiệm vụ: Tổ chức cuộc bỏ phiếu trong khu vực bỏ phiếu, bố trí phòng

bỏ phiếu, chuẩn bị hòm phiếu, phát phiếu có đóng dấu của của Tổ bầu cử cho các cử tri, bảo đảm trật tự trong phòng bỏ phiếu, kiểm phiếu, giao biên bản kiểm phiếu và tất cả những phiếu bầu cho Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn báo cáo tình hình tổ chức và tiến hành bầu cử theo quy định của cấp trên.

Nhiệm vụ, thành phần Tổ bầu cử của các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân

địa phương cũng tương tự.

Khi tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội trùng với các  cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tức là cùng tổ chức một ngày, nên  đơn vị bầu cử đại biểu Quốc hội là lãnh thổ tỉnh, thì thường Hội đồng bầu cử tỉnh kiêm luôn nhiệm vụ Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội tỉnh, nếu đơn vị bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh là huyện, thì Hội đồng bầu

cử Hội đồng nhân dân tỉnh kiêm luôn cả nhiệm vụ Ban bầu cử Hội đồng nhân dân tỉnh. Nếu đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện là xã thì Hội đồng bầu cử xã kiêm luôn nhiệm vụ Ban bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân huyện.

Các tổ chức phụ trách bầu cử làm việc theo chế độ tập thể. Các cuộc họp được tiến hành khi có 2/3 tổng số thành viên tham dự. Các quyết định được thông qua khi có đa số thành viên biểu quyết tán thành.

VI. TRÌNH TỰ BẦU CỬ

Trình tự cuộc bầu cử được bắt đầu bằng việc ấn định ngày tiến hành bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội, hoặc đại biểu Hội đồng nhân dân. Ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất là

90 ngày trước ngày bầu cử. Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, và nhiệm kỳ Quốc hội, nhiệm kỳ hội đồng nhân dân đã kết thúc. Trong trường hợp đặc biệt không thể tiến hành bầu cử theo đúng nhiệm kỳ thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét và quy định.

Căn cứ vào ngày bỏ phiếu (ngày bầu cử) đã được ấn định, các công việc tiến hành bầu cử được phân định thành các công đoạn theo các điểm mốc thời gian, để đảm bảo tiến độ của công việc bầu cử.

Sau công việc ấn định ngày bỏ phiếu là công việc thành lập các Hội đồng bầu cử và

ấn định đơn vị bầu cử, số lượng các đại biểu cần phải bầu cho mỗi đơn vị.

Đơn vị bầu cử là một đơn vị địa dư có số dân cư nhất định, được bầu một số lượng

đại biểu nhất định.

Đối với bất cứ một nước nào, việc chia đơn vị bầu cử và quy định mỗi đơn vị bầu cử được bầu mấy đại biểu là vấn đề có tính chiến lược. Phổ biến trên thế giới hiện nay là quy định mỗi đơn vị bầu cử bầu một đại biểu. Cách bầu này có ưu điểm làm cho cử tri dễ tìm hiểu, lựa chọn bầu đại biểu, dễ giám sát đại biểu, tạo điều kiện tranh cử giữa các ứng cử

viên. Nhưng có yếu điểm lãnh thổ bị quá chia cắt, chia không đều rất dễ cho việc vi phạm nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử.

Quy định truyền thống ở nước ta là   mỗi đơn vị bầu nhiều đại biểu. Sắc lệnh số 51 quy định: “đơn vị tuyển cử là tỉnh, số đại biểu của mỗi tỉnh thì căn cứ vào số dân mà ấn định”. Theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1959 thì số đại biểu định cho mỗi đơn vị là căn cứ vào số dân của đơn vị đó: Cứ hai vạn dân được cử một đại biểu; cho phép mỗi đơn vị bầu cử bầu mười đại biểu trở xuống; những tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương số đại biểu có từ mười người trở lên thì có thể chia thành nhiều đơn vị bầu

cử (Điều 13 ).

Trong những lần bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các khoá gần đây, càng ngày số đại biểu được bầu ở mỗi đơn vị bầu cử càng được giảm bớt, nhằm mục đích tăng cường sự hiểu biết của cử tri đối với đại biểu. Mỗi đơn vị được bầu không quá ba đại biểu.

Việc chia đơn vị bầu cử và xác định số lượng các đại biểu cần phải bầu của mỗi đơn

vị đối với đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Số đơn vị bầu cử, danh sách các đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị được bầu tính căn cứ theo số dân được công bố chậm nhất là 70 ngày trước ngày bầu cử.

Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương danh sách các đơn vị, và số đại biểu của mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương ấn định và phải được Chính phủ phê chuẩn.

Số đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân ở các đơn vị hành chính khác,danh sách các đơn vị và số đại biểu của mỗi đơn vị do Uỷ ban nhân dân cùng cấp ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn.

Danh sách các đơn vị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp nào do Uỷ ban nhân dân cấp ấy gửi đến Hội đồng bầu cử cùng cấp.

Chậm nhất là năm mươi ngày trước ngày bầu cử, Hội đồng bầu cử phải công bố danh sách đơn vị bầu cử, cũng với số lượng đại biểu được bầu.

Căn cứ vào lãnh thổ các đơn vị bầu cử được hình thành, các hoạt động khác có liên quan đến bầu cử tiến hành càng sớm càng tốt. Trước hết là việc thành lập các   Ban bầu

cử, thành phần và nhiệm vụ như phần trên đã nêu. Sau đó là việc thành lập các khu vực

bỏ phiếu, và các tổ chức phụ trách khu vực bỏ phiếu là Tổ bầu cử.

Khu vực bỏ phiếu là phạm vi địa dư có số dân nhất định, nơi trực tiếp tiến hành việc

bỏ phiếu bầu đại biểu. Mỗi đơn vị bầu cử được chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu; Mỗi khu vực bỏ phiếu gồm từ năm trăm đến bốn nghìn người. Mỗi đơn vị bầu cư có thể chia thành  các  khu  vực  khác  nhau,  tuỳ  theo  sự  thuận  tiện  của  việc  đi  bỏ  phiếu  của  cử  tri. Nhưng chí ít mỗi đơn vị bầu cử phải có một khu vực bỏ phiếu.

Đối  với  những  xã  và  thị  trấn  miền  xuôi  có  dưới  bốn  nghìn  người,  cũng  như  với những bản, buôn, thôn xóm cách nhau quá xa ở miền núi, hải đảo thì dù chưa tới năm trăm người cũng có thể thành lập một khu vực bỏ phiếu. Các bệnh viện, nhà an dưỡng, nhà nuôi người tàn tật, nhà hộ sinh có từ năm mươi cử tri trở lên có thể tổ chức khu vực

bỏ phiếu riêng.

Việc chia khu vực bỏ phiếu do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ấn định và phải được Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Các đơn vị quân đội nhân dân tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng.

Công đoạn quan trọng thứ hai sau các công cuộc trên là việc giới thiệu ứng cử viên.

Tất cả các công việc của công đoạn này được Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Luật bầu

cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định thành một chương.

Chương V ứng cử, đề cử và hiệp thương giới thiệu ứng cử viên đại biểu. Các công việc này về nguyên tắc sẽ được tiến hành ngay sau khi đã ấn định đơn vị bầu cử và số lượng đại biểu được bầu tại mỗi đơn vị.

Pháp luật bầu cử đại biểu Quốc hội, và đại biểu Hội đồng nhân dân quy định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp với cấp đơn vị bầu cử và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp trên cấp đơn vị bầu cử được quyền giới thiệu ứng cử viên. Sở dĩ pháp luật giao nhiệm

vụ quan trọng này cho Mặt trận Tổ quốc, vì Mặt trận Tổ quốc là cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh vấn đề trên, để thể hiện đúng quyền công dân (quyền con người) trong lĩnh vực chính trị, Hiến pháp và luật bầu cử còn quy định công dân có đầy đủ tiêu chuẩn đại biểu có thể ứng cử.

Công dân muốn ứng cử đại biểu Quốc hội, thì chậm nhất 60 ngày trước ngày bầu cử phải nộp tại Uỷ ban bầu cử nơi mình ra ứng cử đơn xin ứng cử, kèm theo lý lịch và giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn, nơi cư trú về quyền ứng cử của mình (chứng nhận không thuộc diện không có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên).

Công dân tự ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân thì chậm nhất 45 ngày trước ngày bầu cử phải nộp hồ sơ tại Hội đồng bầu cử nơi mình ứng cử.

Uỷ ban bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân có trách nhiệm chuyển hồ sơ của các công dân tự ứng cử về Uỷ ban Mặt trận tổ quốc cùng cấp, để Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc tổ chức hiệp thương sơ bộ danh sách ứng cử viên.

Điều 28 Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân quy định:

“Chậm  nhất  là  70  ngày  trước  ngày  bầu  cử,  Ban  thường  trực  Uỷ  ban  Mặt  trận  Tổ

Quốc Việt Nam cấp bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tổ chức Hội nghị gồm đại diện các

tổ chức thành viên để hiệp thương thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người

được đề cử của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, và đơn vị vũ trang nhân dân đóng

tại địa phương”.

Theo cơ cấu, thành phần và số lượng ngườiđược đề cử đã thoả thuận, trên cơ số tiêu chuẩn đại biểu, Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt nam, các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân đề cử đại biểu của mình ra ứng cử.

Hội nghị thứ hai là Hội nghị hiệp thương sơ bộ. Trên cơ sở tiêu chuẩn, cơ cấu, thành phấn và số lượng đã thoả thuận, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc Việt nam, và

đại diện các tổ chức thành viên của Mặt trận tập hợp danh sách sơ bộ những người tự ứng cử, và những người được đề cử, giữ lấy ý kiến cử tri.

Hội nghị cử  tri lấy ý kiến đóng góp cho ứng  cử  viên kể cả người được đề cử  lẫn người  ứng cử,  được  tổ  chức  theo  đơn  vị  buôn,  bản,  thôn,  xóm  ấp,  tổ  dân  phố  do  Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp với chính quyền cùng cấp triệu

tập và chủ trì.

Hội nghị cử tri ở cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế do thủ trưởng cơ

quan hoặc người đứng đầu của tổ chức phối hợp với Công đoàn cùng cấp triệu tập và chủ

trì. Hội nghị cử tri ở đơn vị vũ trang nhân dân do thủ trưởng đơn vị triệu tập và chủ trì.

Tại các hội nghị này, cử tri đối chiếu tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội (hoặc đại biểu Hội

đồng nhân dân) để nhận xét, bày tỏ sự tín nhiệm đối với người tự ứng cử, người được đề

cử bằng cách giơ tay hoặc bỏ phiếu kín theo quyết định của hội nghị.

Người tự ứng cử, người đề cử hoặc đại diện tổ chức, cơ quan, đơn vị có người được

đề cử được mời dự hội nghị này.

Hội nghị hiệp thương thứ ba là hội nghị hiệp thương chính thức. Căn cứ vào danh sách người tự ứng cử, người được đề cử và kết quả của hội nghị cử tri, Ban thường trực đoàn chủ tịch ở Trung ương, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức hội nghị hiệp

thương thoả thuận với đại diện của các tổ chức xã hội thành viên, để lập danh sách chính thức những người ứng cử đại biểu Quốc hội (đại biểu Hội đồng nhân dân).

Chậm nhất là 30 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, 40 ngày trước ngày bầu cử đại biểu Quốc hội, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối

với cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân; Đoàn chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam và Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, phải gửi biên bản hội nghị hiệp thương và danh sách người ứng cử đến Hội đồng bầu cử và Ban bầu cử. Đối với việc bầu

cử đại biểu Quốc hội, gửi về Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Hội đồng bầu cử nhận danh sách ứng cử viên, đồng thời phân bổ ứng cử viên cho các

đơn vị (hạt) bầu cử theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, theo nguyên tắc

“số người ứng cử đại biểu phải nhiều hơn số đại biểu phải bầu”.

Kể từ ngày công bố danh sách người ứng cử, công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với Ban bầu cử hoặc Uỷ ban bầu cử những sai lầm, thiếu sót trong danh sách người ứng cử. Ban bầu cử (hoặc Uỷ ban bầu cử) phải ghi vào sổ và giải quyết khiếu nại, tố cáo đó. Nếu người khiếu nại hoặc tố cáo không đồng ý với kết quả giải quyết của Ban bầu cử (hoặc

Uỷ ban bầu cử) thì có quyền khiếu nại, tố cáo với Hội đồng bầu cử. Quyết định của Hội

đồng bầu cử là quyết định cuối cùng.

Người ứng cử không được tham gia Ban bầu cử hoặc Tổ bầu cử thuộc đơn vị mình ra

ứng cử. Nếu là thành viên của các tổ chức phụ trách bầu cử thuộc đơn vị mình ra ứng cử,

thì người ứng cử phải rút khỏi danh sách thành viên của tổ chức phụ trách bầu cử kể từ

ngày ghi tên vào danh sách ứng cử viên.

Công đoạn tiếp theo là việc tổ chức bỏ phiếu. Việc bầu cử được tiến hành thống nhất một ngày trong phạm vi lãnh thổ. Ngày đó là ngày chủ nhật. Cuộc bỏ phiếu bắt đầu từ 7

giờ sáng đến 7 giờ tối và phải được tiến hành liên tục. Nếu có trường hợp bất ngờ làm

gián đoạn việc bỏ phiếu thì tổ bầu cử phải niêm phong giấy tờ và bàn phiếu lại và có biện pháp cần thiết để cuộc bỏ phiếu được tiếp tục.

Cử  tri  phải  tự  mình  đi  bầu,  phải  tuân  theo  nội  quy  phòng  bỏ  phiếu  và  phải  tự  bỏ

phiếu vào thùng phiếu.

Sau khi cuộc bầu cử kết thúc, phải tiến hành kiểm phiếu ngay tại phòng bỏ phiếu. Việc kiểm phiếu phải có sự chứng kiến của hai cử tri. Người ứng cử, các phóng viên báo chí, điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền hình, phát thanh được chứng kiến việc kiểm phiếu. Số phiếu bầu phải được kiểm thành 3 loại:

Số phiếu hợp lệ là phiếu có dấu tổ bầu cử phát ra, và số lượng ứng cử viên còn lại không gạch bằng hoặc ít hơn số đại biểu được ấn định. (Nói cách khác là những phiếu cho phép nhân viên Tổ bầu cử xác định rõ ý chí của cử tri muốn bầu cử cho ai).

Số phiếu không hợp lệ gồm những lá phiếu không do Tổ bầu cử phát ra, số lượng

ứng cử viên còn để lại nhiều hơn số đại biểu được ấn định cho đơn vị bầu cử.

Số phiếu trắng là số phiếu gạch hết. Số phiếu trắng trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân theo quy định của Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hiện hành là phiếu không hợp lệ.

Theo số đại biểu mà đơn vị bầu cử được bầu, những người ứng cử được quá nửa số

phiếu hợp lệ và được nhiều phiếu hơn cả là trúng cử.

Hiện nay đang tồn tại hai cách giải quyết đối với trường hợp được nhiều người được

số phiếu bằng nhau.

Theo quy định tại Điều 52 của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội “Trong trường hợp nhiều người được số phiếu bằng nhau thì dựa vào thứ tự tuổi mà sắp xếp, người nhiều tuổi hơn được trúng cử” Đây là cách giải quyết theo quan niệm truyền thống của nhiều Nhà nước, nghị sĩ là phải nhiều tuổi. Có nhiều ý kiến không nhất trí với cách giải quyết này. Vì vậy Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã quy định vấn đề theo cách khác: “Nếu có nhiều người được số phiếu bầu ngang nhau thì Hội đồng bầu cử xét, quyết định người trúng cử theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và của Ban bầu cử ở đơn vị bầu cử ấy” (Điều 52).

Nếu trong cuộc bầu cử đầu tiên, số người trúng cử chưa đủ số đại biểu quy định cho đơn vị bầu cử thì phải tổ chức bầu thêm số đại biểu còn thiếu. Việc bầu thêm đại biểu do Hội đồng bầu cử quyết định. Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân chỉ cho phép tiến hành bầu thêm khi số lượng đại biểu lần đầu không đủ hai phần ba số đại biểu được ấn định cho đơn vị bầu cử.

Trong cuộc bầu thêm, cử tri chọn bầu trong danh sách những người ứng cử nhưng không trúng cử kỳ đầu.

Về việc bầu lại, luật quy định có hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, ở đơn vị bầu

cử nào, nếu số cử tri đi bầu chưa được quá nửa số cử tri ghi trong danh sách, thì Ban bầu

cử ghi rõ điểm đó vào biên bản và báo cáo ngay cho Hội đồng bầu cử. Hội đồng bầu cử

phải quyết định ngày bầu  lại chậm nhất là mười lăm ngày sau ngày bầu cử đầu tiên - Trường hợp thứ hai là trường hợp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng làm sai lệch kết quả bầu cử thì phải huỷ bỏ kết quả bầu cử và tổ chức bầu lại.

Việc bầu thêm hoặc bầu lại vẫn theo danh sách cử tri đã lập trong cuộc bầu cử đầu tiên và phải được tiến hành theo những quy định của Luật bầu cử. Kết quả bầu lại, bầu thêm của cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân được xác định như cuộc bầu cử lần đầu. Nếu không thành công thì cuộc bầu cử coi như kết thúc.

VII. VIỆC BÃI NHIỆM ĐẠI BIỂU

Bãi nhiệm là khái niệm pháp lý mang nét đặc trưng dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bãi nhiệm thể hiện tính ưu việt của xã hội ta khi đại biểu được nhân dân bầu ra luôn chịu sự giám sát của nhân dân, bị nhân dân bãi miễn nếu không được nhân dân tín nhiệm. Khái niệm bãi nhiệm thể hiện bản chất của Nhà nước ta. Nhà nước, trong đó “các cơ quan dân

cử có thể được coi là thực sự dân chủ, thực sự đại diện cho ý chí của cử tri khi nó công nhận và thực hiện quyền bãi nhiệm của cử tri đối với đại biểu của mình”.

Trong báo cáo của nguyên Tổng bí thư trong hội nghị BCH TW 8 khoá VII ngày 25

tháng 1 năm 1995 nói:

“Dân làm chủ đất nước vừa trực tiếp vừa gián tiếp, thông qua những người đại diện cho mình bầu ra. Người đại diện phải luôn luôn phấn đấu xứng đáng với lòng tin và sự tín nhiệm của nhân dân. Phải nghiên cứu xác định cơ chế rõ ràng và tổ chức để dân chủ thực hiện đầy đủ quyền hạn của mình. Dân có quyền bầu, thì cũng có quyền bãi miễn những người phụ lòng tin của mình”.

Quyền bãi nhiệm đại biểu được ghi nhận ngay từ Hiến pháp 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. “Công dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra” (Điều 20). Hiến pháp 1959 cũng khẳng định điều đó. Theo quy định tại Điều 7 của Hiến pháp 1980 và của Hiến pháp 1992 thì “Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”.

Hiến pháp chỉ nêu một căn cứ duy nhất, để cử tri bãi nhiệm đại biểu. Căn cứ đó là sự

mất tín nhiệm. Đối với đại biểu không có hình thức kỷ luật nào cao hơn là bị bãi miễn.

Theo quy định của pháp luật hiện hành có hai hình thức bãi nhiệm đại biểu. Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Đại biểu Hội đồng nhân dân có thể bị Hội đồng nhân dân bãi miễn hoặc đưa ra để cử

tri ở đơn vị bầu ra đại biểu ấy bãi miễn theo đề nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.

Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tuỳ theo mức độ sai phạm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri

bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,  Mặt trận Tổ quốc tỉnh hoặc của cử tri. Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm phải được hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo thể thức do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.

Khác với luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, và Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân trước đây, Luật bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân Luật bầu cử đại biểu hiện nay không quy định quy trình bãi nhiễm đại biểu, mà nhường lại cho một văn bản khác, có thể là pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

VIII. Bầu cử trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền

Như những điều đã được phân tích ở phần trên bầu cử như là một trong những phương pháp để thành lập ra các cơ quan nhà nước của một chế độ dân chủ. Về nguyên

tắc nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước dân chủ. Nhà nước pháp quyền là nhà nước hợp pháp. Nhà nước dân chủ cũng phải là một nhà nước hợp pháp. Bầu cử như là một trong những biện pháp tạo nên sự hợp pháp của chính quyền nhà nước. Với bầu cử quyền lực của các cơ quan được hình do sự ủy quyền của nhân dân. Trong một nhà nước pháp quyền về nguyên tắc các cuộc bầu cử càng được tổ chức rộng rãi, càng nhiều bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu, và nhà nước càng thể hiện sự dân chủ bấy nhiêu. Bầu cử là hình thức mà nhân dân thực hiện sự trao quyền lực nhà nước thuộc về mình cho những người đại diện cho nhân dân. Khi hết một nhiệm kỳ nhất định, nhân dân lại thực hiện quyền bầu cử của mình trao quyền lực cho những người khác được nhân dân tín nhiệm.

Như vậy, bầu cử như là một biện pháp nhằm kiểm tra, giám sát chính quyền, và giải quyết một cách hòa bình những xung đột giữa các cành quyền lực,   làm cho quyền

lực nhà nước luôn luôn ở trạng thái hợp pháp của nó. Với nhiệm kỳ nhất định của những người đại diện được nhân dân trao quyền lực, làm cho quyền lực nhà nước luôn luôn có

xu hướng quay trở lại phía nhân dân.

Nhưng bầu cử  trong nhà nước pháp quyền phải khác với bầu  cử  trong một nhà nước không pháp quyền ở chỗ bầu cử không thể là hình thức để hợp thức hóa một cơ cấu chính quyền với các thành phần đã được định sẵn của một thế lực chính trị nào đó, mà bầu cử phải là công khai, minh bạch, và có khả năng giúp nhân dân thiết lập được chính quyền với cơ cấu, thành phần đúng theo nguyện vọng của họ.

Trong điều kiện của nhà nước pháp quyền có thể định nghĩa bầu cử là biện pháp

có khả năng giúp cho  nhân dân có thể thay đổi cơ cấu, thành phần các cơ quan nhà nước

không thể hiện được ý chí của đa số nhân dân, không cải thiện được điều kiện sống của

họ. Ngoài ra bầu cử còn là một biện pháp được sử dụng để giải quyết những mâu thuẫn không thể giải quyết được giữa các cấp chính quyền và giữa các cơ quan nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền các cuộc bầu cử phải diễn ra một cách thực sự tự nhiên, tránh mọi

sự áp đặt, đảm bảo quyền tự do chính trị của công dân.  Với điều kiện này chúng ta dần dần phải tiến tới chỗ giảm bớt và xóa bỏ hoàn toàn các hiệp thương giới thiệu ứng cử viên, nhất là hiệp thương cơ cấu.

Kết luận

Bầu cử là một trong những chế định quan trọng của  ngành luật Hiến pháp. Bầu cử

trở thành một trong những biện pháp nhân dân sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình. Ngoài việc bỏ phiếu bầu ra   những người   đại diện thay mặt mình trong

các cơ quan quyền lực nhà nước, bầu cử còn là một trong những biện pháp kiểm tra, giám

sát nhà nước, và làm cho quyền lực luôn luôn có xu hướng thuộc về nhân dân. Một chế

độ dân chủ chỉ có thể có được khi và chỉ khi có được các cuộc bầu cử   phổ thông, bình

đẳng, tìm ra được những người thực sự tài năng thay mặt cho nhân dân nắm giữ quyền lực nhà nước.

Câu hỏi ôn tập  .

1. Vị trí và vai trò của bầu cử trong đời sống chính trị của Việt Nam hiện nay.

2. Câc nguyên tắc của một cuộc bầu cử.

3. Quyền bầu cử  và các thức thực hiện

4. Quyền ứng cử và cách thức thực hiện.

5. Các tổ chức phụ trách bầu cử.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro