LHPTK 9

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

CHƯƠNG IX

QUỐC HỘI

I. Tæng quan vÒ ngμnh lËp ph¸p

Như những điều đã được phân tích ở những phần trên, nhà nước rất cần cho cuộc sống của con người chúng ta. Sự phát triển của nhà nước cùng với những cách thức thực hiện quyền lực của nó tạo nên các thời đại khác nhau. Từ thời đại của một nền chuyên chế độc tài chuyển sang một nền dân chủ như hiện nay. Nhà nước không tổ chức và quản

lý   xã hội theo mệnh lệnh, chỉ thị không được minh định trước, mà phải theo một quy

định rõ ràng được đặt ra từ trước. Những quy định này không những chỉ cần thể hiện ý

chí của giai cấp cầm quyền, mà nhiều khi còn thẻ hiện cả sự đồng thuận của cả nhân dân.

Đó là hoạt động lập pháp của nhà nước. Hoạt động này thuở ban đầu chỉ là của riêng nhà vua trong chế độ chính trị quân chủ chuyên chế, trong chế độ chính trị dân chủ kể cả dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa được giao hẳn cho một cơ quan do nhân dân trực tiếp bầu ra đảm nhiệm. Những cơ quan đó được gọi là nghị viện, hoặc Quốc hội như ngày nay.

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng gần giống như con người vậy. Có

bộ phận suy nghĩ để quyết định,có bộ phận tổ chức thực thi các quyết định đã được nghĩ

ra. Và cũng có bộ phận kiểm tra lại chất lượng các hoạt động thực theo quyết định đã được ban hành. Bộ máy Nhà nước theo lịch sử hình thành thường được cấu thành ba bộ phận: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Lập pháp là bộ phận đảm nhiệm công việc ban hành pháp luật, hành pháp - thực thi pháp luật, và tư pháp là bộ phận đảm nhiệm chức năng xét xử của Nhà nước. Mỗi một bộ phận do một hay nhiều cơ quan đảm nhiệm.

Kể từ khi Vua Anh Edward, một giáo sỹ dòng Xưng tội, vào thế kỷ XI vấn đề trung tâm của thực tiễn và lý thuyết chính trị là mối quan hệ giữa Vua và các thần dân. Trải qua những cuộc đấu tranh lâu dài, một nghị viện mạnh mẽ đã nổi

lên để cạnh tranh và cuối cùng lấn át cả quyền lực của Hoàng gia. Sự phát triển các thiết chế đại nghị trên quy mô quốc gia bắt đầu ở châu Âu thời Trung cổ. Các vị quốc vương cát cứ ở những vùng lãnh thổ rộng lớn, và những vùng lãnh thổ mà người dân sống tại đó phân chia thành các nhóm xã hội   - như giới quý tộc, giới tăng lữ, tầng lớp địa chủ nhỏ và những quan chức thành phố. Các quốc vương nhóm họp các vị lãnh đạo các nhóm này, hay còn gọi các đẳng cấp của vương quốc, không phải để tạo ra một chế độ đại nghị, mà để tạo ra một chính

thể đại nghị, mà để bổ sung thêm vào các kho báu của Hoàng gia. Charles A. Beard và John Lewis đã nhận xét rằng: "Ngay cả vị quốc vương Trung cổ chuyên quyền nhất cũng không thể đánh thuế và bóc lột thần dân của mình một cách vô hạn định; vì lý do thiết thực mà ông ta còn nhắc đến cách thức và phương tiện

khi làm điều này".

Các nhóm này - đã được gọi  là các nghị viện - phát triển qua nhiều thế kỷ

để  trở  thành  các  hội đồng  đại  nghị như  chúng  ta  thấy  ngày  nay.  Đã  xác định

được bốn giai đoạn phát triển rõ rệt. Mới đầu các   nghị viện, đại diện cho các

đẳng cấp khác nhau, đã nhóm họp để biểu quyết thuế khoá nộp cho ngân khố hoàng gia, mà hầu như không có một sự bàn luận nào cả. Tiếp đó những cơ quan biểu quyết thuế khoá tiến thành các cơ quan lập pháp, trình ra nhà Vua những khiếu nại về tình trạng quan liêu, cửa quyền. Thứ ba, trải qua một quá trình tiến hoá  đến  cực  điểm  là  cuộc  cách  mạng  Thế  kỷ  XVII  và  XVIII,  các  nghị  viện  đã giành lấy quyền lập pháp và biểu quyết thuế từ tay nhà Vua, biến bản thân chúng thành các cơ quan có chủ quyền thực sự. Cuối cùng vào Thế kỷ thứ XIX, sự đại diện trong nghị viện đã vượt ra ngoài phạm vi các nhóm đặc lợi lâu đời để bao gồm toàn thể quần chúng nhân dân, hầu như tất cả mọi người, nam cũng như

nữ".1

Trong  lịch  sử  nhà  nước  và  pháp  luật  thế  giới,  nhiều  người  thường  cho  rằng  quê hương của Nghị viện tư sản là nước Anh. Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử hình các chế định  chính  trị  của  nhà  nước  Anh  cũng  giúp  cho  chúng  ta  hiểu  biết  một  cách  sâu  sắc thêm  những  đặc  điểm của  loại  hình  chính  thể  đại  nghị  kể  cả  quân  chủ  lẫn  cộng  hoà. Nhất là những điều kiện hoàn cảnh ra đời của chúng, cũng là nguyên nhân gây ra các đặc điểm của chính thể này.

Vào khoảng thế kỷ thứ 13 - 14, do nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng của ngân sách hoàng gia, nhà vua thường triệu tập những cuộc họp bao gồm đại diện các lãnh địa trực thuộc nhằm mục đích vừa  thăm dò, vừa yêu cầu thực hiện tốt việc thu thuế tăng hơn so với mức bình thường trước. Khoản chi tiêu ngày tăng lên của ngân sách hoàng gia, và các cuộc họp như trên diễn ra nhiều hơn, từ bất thường thành ra thường kỳ, rồi trở thành tục lệ. Bên cạnh việc đồng ý thu tăng thuế cho ngân sách của hoàng gia, đại diện các lãnh địa đã khôn khéo yêu cầu hoàng đế chỉ được cai trị những lãnh địa mà họ là người đại diện theo một quy định nhất định. Chính những cuộc họp đại diện này đã dần dần thành Nghị viện Anh - một điển hình cổ điển của Nghị viện ngày nay. Chính những yêu cầu gia tăng thu thuế trở thành một chức năng tài chính (thông qua ngân sách) của Nghị viện bây giờ và cũng chính những quy định yêu cầu của các đại diện trở thành những văn bản luật như hiện nay.

Nếu đứng dưới giác độ các khoản thu chi ngân sách (thu tăng thuế cho ngân sách của Hoàng gia) cũng là những quy định có tính chất pháp luật, thì việc làm luật đã trở thành một chức năng duy nhất cơ bản của Nghị viện. Và để cho chức năng này được thực hiện tốt trên thực tế, Nghị viện  cần có một chức năng cơ bản tiếp theo nữa là giám sát việc thực hiện các văn bản luật mà Nghị viện đã đặt ra.

Trong thời kỳ cách mạng tư sản và thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản, việc tăng cường quyền hạn của Nghị viện trở thành một đòi hỏi dân chủ của mọi người dân Anh. Những

đòi hỏi tăng cường quyền hạn của Nghị viện đồng thời là những biện pháp (yêu cầu) hạn chế quyền lực phong kiến đã hết thời của Anh. Lúc này câu:"Nghị viện có quyền được làm tất cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà" đã trở thành một câu thành ngữ của

người Anh.

1  Charles A. Beard và John P. Lewis. Chính phủ  đại nghị  đang tiến triển. American Policial

Science Review (Tháng Tư 1932) tr. 223 - 240.

Để  Quốc hội/  Nghị viện  có được như  hiện  nay,  nhân  loại  phải  trải  qua  nhiều  giai đoạn lịch sử. "Thủa mới ra đời người ta không thể quan niệm Quốc hội có thể có biện pháp để kiểm soát sự cai trị của nhà Vua. Tuy nhiên theo từng giai đoạn sự bổ nhiệm các

vị đại diện cho giai cấp phong kiến, được biến thành Quốc hội có trách nhiệm kiểm soát nhà Vua, và sau đó Quốc hội  dần đặt dưới sự kiểm soát của nhân dân. Nhưng phải chờ một thời gian mới có sự cải biến này."1

Sự phát triển quyền hành của Quốc hội hiển nhiên khi Quốc dần dà có quyền tu thảo

các dự án gia tăng hay giảm thiểu các khoản chi tiêu. Hậu quả là sự ủng hộ của Hạ nghị viện là rất cần thiết cho nhà Vua. Cuộc cách mạng đổ máu năm 1688 đã đưa William lên ngôi, và ông đã công nhận địa vị ưu thế của Quốc hội. Những giới hạn của vương quyền chuyên chế của Anh quốc đã biến thành những  giới hạn quyền hành của nhà Vua bởi Quốc hội. Vấn đề trọng yếu là nhà Vua chỉ có thể ban hành đạo luật khi có sự chấp nhận của Quốc hội. Cuộc nội chiến đã xác định rằng nhà Vua phải tôn trọng pháp luật và pháp luật chỉ có thể sửa đổi bởi Quốc hội. Trong giai đoạn này mặc dù có những nhà Vua có

thế lực, nhưng Quốc hội vẫn có quyền kiểm sát và biểu quyết luật. Rút cuộc vì sự tiến triển êm ái của các định chế chính trị Anh quốc, quyền hành của nhà Vua bị giảm sút. Nhiều nhà Vua am hiểu công việc và có tài thuyết phục, có ảnh hưởng trong công việc

cai trị, nhưng chính trị, tức là những vấn đề lớn của đất nước vẫn do Quốc hội nắm giữ.2

Việc Chính phủ - hành pháp phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện- một đặc điểm quan trọng bậc nhất của chính thể đại nghị kể cả quân chủ lẫn cộng hoà, đồng thời cũng

là một trong những biểu hiện quan trọng của sự hạn chế quyền lực nhà nước của loại hình

tổ chức nhà nước này, không phải hình thành ngay từ những ngày đầu của cách mạng tư sản, mà cũng phải dần dần theo trình tự lịch sử của nhà nước Anh. Hạn chế quyền lực nhà nước bằng quy định chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện là một đòi hỏi của tiến trình dân chủ. Thuở ban đầu, chính phủ hoàn toàn của nhà Vua, là cơ quan giúp việc hàng ngày của Nhà Vua, phải chịu trách nhiệm trước Nhà Vua, nhưng dần dần với hình thức hoạt động một cách tượng trưng, nhà Vua bao giờ cũng nghe theo sự cố vấn của Viện Cơ  mật. Cho đến  tận ngày nay chính phủ của Anh quốc vẫn phải chịu trách nhiệm trước nhà Vua, nhưng sự chịu trách nhiệm nay chỉ còn là hình thức.

Theo lịch sử của chế độ tư bản, sự phát triển Nghị viện có thể được phân làm hai giai đoạn ứng với hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản - tư bản tự do cạnh tranh - là thời kỳ hoàng kim của Nghị viện. Nghị viện thực sự có

ưu thế hơn hẳn các cơ quan nhà nước khác. Mặc dù lúc bấy giờ có nhiều nước quyền lực nhà nước phải chia sẻ, nhưng Nghị viện vẫn có một ưu thế nhất định so với các cơ quan nhà nước khác.

Với hoạt động của Nghị viện trong nhà nước tư sản mới đang lên, chế độ xã hội có Nghị viện đã trở thành một chế độ đại nghị. Theo quan điểm của V.I. Lênin: chế độ đại nghị là chế độ  mà ở  đó nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền  lực: quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp và quyền lực tư pháp (xét xử). Trong đó quyền

1  Xem, Alex N. Dragnich. Những đại chính thể ở châu Âu. Trung tâm nghiên cứu Khảo dịch xã, 1964, tr.24.

2  Xem, Alex N. Dragnich. Những đại chính thể ở châu Âu. Trung tâm nghiên cứu Khảo dịch xã, 1964, tr.25.

lực lập pháp của Nghị viện có ưu thế hơn hẳn và những thành viên của Nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra có nhiều đặc quyền đặc lợi, nhưng lại không chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri.1

Trong thời kỳ của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, nhà nước thành chủ nghĩa đế quốc và hiện nay, chế độ đại nghị bị khủng hoảng do sự lấn quyền của bộ máy hành pháp và Nghị viện tư sản đã trở thành cơ quan hình thức, nơi bị bộ máy hành pháp thao túng.

Mặc dù ở chính thể này Quốc hội thường có cơ cấu hai viện, nhưng về cơ bản Hạ

viện có quyền quyết định mọi vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội. Lúc đầu quyền cai

trị đất nước thuộc về nhà Vua thông qua Đại hội đồng Hoàng gia, tiền thân của Thượng viện bây giờ. Nhưng ngày nay hầu hết các thành viên Thượng viện là các công hầu thế

tập truyền ngôi. Với sự phát triển của dân chủ, Thượng viện và nhà Vua, không ai có thể

dám chống lại ý chí của Hạ viện. Thượng viện còn sống được cho đến hiện nay cũng là

do truyền thống của người Anh, bao giờ cũng muốn giữ những định chế cổ truyền, nếu vẫn còn thì có thể được dùng vào một việc gì đó hữu ích sau này. Sự hiện diện của của Thượng viện cổ truyền minh chứng một nét độc đáo vô nhị của nền dân chủ tư sản Anh quốc khác với của các nhà nước phương Tây khác như: Pháp, Đức...   Ngoài chức năng

lập pháp cùng với Hạ viện, Thượng viện Anh quốc còn có chức năng tư pháp, Toà phúc thẩm  tối  cao.  Nhưng  trên  thực  tế,  các  Thượng  nghị  sỹ  thường  không  ngồi  xử  án  nếu không có chuyên môn tư pháp. Thượng nghị sỹ có chuyên môn là 9 vị công hầu và Chủ tịch Thượng viện sẽ đảm đương chức năng xét xử này.

Trước năm 1911, mỗi viện Quốc hội đều có quyền phủ quyết đối với dự luật đã được

Hạ nghị viện thông qua, sự tranh chấp quyền lực giữa hai viện đã xẩy ra, Thượng viện muốn đòi quyền cao hơn Hạ viện. Nhưng cuối cùng bằng Đạo luật về nghị viện được ban hành năm 1911 có hai thay đổi lớn làm cho Thượng viện không còn quyền năng như của

Hạ nghị viện:

- Mọi dự luật về tài chính- ngân sách đã được Hạ Nghị viện thông qua được gửi sang Thượng viện ít nhất 1 tháng trước ngày bế mạc khoá họp đều trở thành luật, bất chấp Thượng viện có thông qua hay không. Vì vậy vấn đề tài chính - ngân sách dần dần thuộc thẩm quyền của Hạ nghị viện;

- Bất cứ một dự luật nào khác, trừ dự luật tư (private bill), nếu được Hạ viện thông qua ở 3 khoá họp liên tiếp và chuyển tới Thượng viện ít nhất 1 tháng trước khi khoá họp

thứ 3 kết thúc, đương nhiên sẽ trở thành luật, cho dù Thượng viện ở khoá họp nào cũng bác bỏ.

Những điều trên có nghĩa là quyền phủ quyết của Thượng viện qua lần cải cách Quốc hội  năm 1911 chỉ còn là quyền trì hoãn.

Có thể sơ đồ hoá sự biến chuyển chức năng của Nghị viện trong lịch sử hình thành

và phát triển của Nghị viện như sau: Từ chức năng biểu quyết thuế để thu tăng cho nhà Vua, đến giám sát nhà Vua, đến ép   nhà Vua bằng cách đồng ý thu tăng thuế cho nhà Vua,  nhưng  nhà  Vua  phải  cai  trị  lãnh  địa  theo  một  quy  định  cho  trước  (luật),  đến  có

1  V.I.Lê Nin: Toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ, M, 1976, trang 57 - 58.

quyền thành lập ra hành pháp bao gồm các quan lại thượng thư chỉ được chọn trong thành phần có uy tín trong nghị viện, đến việc bỏ rơi sáng quyền lập pháp, chỉ thông qua các dự

án do hành pháp chuẩn bị, đến cuối cùng chỉ còn là giám sát hành pháp , biểu quyết luật

và thuế theo sự chuẩn bị của hành pháp (có thể bỏ phiếu bất tín nhiệm chính phủ).

Hãy xem sơ đồ sau:

Biểu quyết

Giám sát nhà

Làm luật

(Sự tiếm đoạt từ Vua)

Giám sát,

hành pháp; biểu quyết thuế và dự thảo luật

Bỏ rơi sáng quyền lập

Thành lập hành

Sau mỗi một cuộc Tuyển cử, tân Quốc hội nhóm họp các chính đảng tổ chức các cơ

cấu của Hạ viện. Nữ Hoàng bổ nhiệm lãnh tụ đảng chiếm đa số làm Thủ tướng Chính phủ, Thủ tướng bắt tay vào việc bổ nhiệm các cộng sự của mình vào các chân trong Chính phủ. Thủ tướng sẽ bổ nhiệm 17 đến 24 bộ trưởng vào một nhóm thân cận, chuyên việc hoạch định ra các chính sách của chính phủ gọi là Nội các. Nội các là chính phủ của nước Anh là trung  tâm của toàn thể nhà nước  Anh,  nên  nhiều  người đã định  danh  nhà  nước  Anh  là "chính thể Nội các." Vì vậy nói Chính phủ chịu trách nhiệm tức là nói đến Nội các phải chịu trách nhiệm.

Trên đây là việc hình thành Nghị viện Anh quốc   một mô hình cổ điển cho nhiều Quốc hội các nước trên thế giới. Từ chức năng giúp việc cho nhà Vua quyết định việc thu tăng thuế, Nghị viện đã nhanh chóng chuyển sang chức năng làm luật, cho đến việc thành

lập ra chính phủ, và cuối cùng giám sát chính phủ như hiện nay. Mọi hoạt động của Nghị

viện đều gắn liền với chức năng lập pháp, vì vậy Nghị viện được gọi là cơ quan lập pháp

– một trong những cành quyền lực quan trọng tạo thành cơ cấu tổ chức của nhà nước dân chủ hiện nay.

2. VÞ trÝ ph¸p lý cña quèc héi ViÖt Nam.

Vị trí pháp lý của Quốc hội được quy định trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt nam, được gọi là vị trí pháp lý của Quốc hội. Vị trí pháp lý là một thuật ngữ chuyên ngành luật học, dùng để khắc hoạ lên một cách khái quát nhất mô hình

cơ quan Nhà nước, và mối quan hệ giữa cơ quan Nhà nước đó với các cơ quan Nhà nước

khác trong toàn bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước, thông qua các quy định của pháp luật. Hay nói một cách nôm na rằng bằng quy định của pháp luật cơ quan Nhà nước được

nói đến là gì, nằm ở đâu, trong hệ thống các cơ quan Nhà nước, là một phương tiện để chỉ mặt gọi tên cơ quan Nhà nước, một thiết chế xã hội, thay vì chúng không là một thể nhân (con người) cụ thể.

Vì vậy, bất kỳ một quy định nào của pháp luật nói về cơ quan Nhà nước dù ít, dù nhiều đều có tác dụng nói lên vị trí pháp lý của chúng. Tất cả các quy phạm pháp luật quy định cách thức thành lập, thẩm quyền, cách thức hoạt động, mối quan hệ với các cơ quan Nhà nước khác, các loại văn bản được phép ban hành... đều góp phần khắc hoạ lên vị trí pháp lý của cơ quan Nhà nước. Trong tất cả các quy phạm nói về các cơ quan Nhà nước Trung ương, cũng như các cơ quan Nhà nước ở địa phương các quy định Hiến pháp nói

về cơ quan Nhà nước là quy định nói rõ nhất vị trí pháp lý của cơ quan Nhà nước. Do đó

theo một logic thông thường mỗi một khi quy định về một cơ quan nào, điều đầu tiên Hiến pháp đều cho ta định nghĩa khái quát nhất về cơ quan Nhà nước đó. Đây chính là điều khoản nói rõ nhất vị trí pháp lý của cơ quan Nhà nước.

Trong bộ máy Nhà nước Việt nam, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Vị trí

đó được xác định trên cơ sở quy định của Hiến pháp. Ở nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt nam, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình bằng hai hình thức cơ bản trực tiếp. Hình thức gián tiếp và trực tiếp tạo nên nền dân chủ

trực tiếp. Hình thức gián tiếp tạo nên nền dân chủ đại diện. Trong điều kiện hiện nay, dân chủ đại diện đóng một vai trò quan trọng. Nhân dân thực hiện nền dân chủ gián tiếp bằng cách thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước, giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Quốc hội, vì vậy thể hiện tính đại diện nhân dân và tính quyền lực Nhà nước cao nhất trong tổ chức và hoạt động của toàn bộ bộ máy Nhà nước.

Về cách thức thành lập, Quốc hội là cơ quan Nhà nước duy nhất do cử tri cả nước bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Bầu cử đại biểu Quốc hội là kết quả lựa chọn thống nhất của nhân dân cả nước.

Về cơ cấu thành phần đại biểu, Quốc hội bao gồm các đại biểu đại diện cho các tầng

lớp nhân dân, cho các vùng lãnh thổ. Quốc hội là sự thể hiện rõ nhất khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta, đại diện cho trí tuệ của đất nước.

Về chức năng, nhiệm vụ, Quốc hội có chức năng và nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và dân tộc, nói lên tiếng nói của nhân dân, thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân cả nước.

Ở Việt Nam, chỉ có Quốc hội mới có đủ thẩm quyền quyết định những vấn đề thuộc chủ quyền quốc gia, các vấn đề trọng đại của đất nước.

Sở dĩ như vậy, vì   nhà nước ta là một nhà nước dân chủ tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Điều đó có nghĩa là người chủ của quyền lực Nhà nước là nhân dân. Muốn sử dụng quyền lực của mình, nhân dân phải được tổ chức lại thành Nhà nước, Quốc hội là

cơ quan Nhà nước cao nhất thực hiện quyền lực của nhân dân. Chỉ có Quốc hội mới có quyền  biến  ý  chí  của  nhân  dân  thành  ý  chí  Nhà  nước,  thành  luật,  thành  các  quy  định chung mang tính bắt buộc, tính cưỡng chế Nhà nước đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.

Với tính chất là cơ quan quyền lực cao nhất trong hệ thống các cơ quan Nhà nước của Nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan được Hiến pháp dành cho vị trí trang trọng nhất, cơ quan đầu tiên trong toàn bộ hệ thống các cơ quan Nhà nước được Hiến pháp quy định: Chương VI và điều đầu tiên của chương này. Điều 83 là điều nói rõ nhất vị trí pháp lý của Quốc hội:

"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm  vụ  kinh  tế  -  xã  hội,  quốc  phòng,  an  ninh  của  đất  nước;  Những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; về quan

hệ xã hội và hoạt động của công dân".

Như vậy, Quốc hội chiếm một vị trí cao nhất trong toàn bộ bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Không một cơ quan Nhà nước nào trong bộ máy các cơ quan Nhà nước của ta có được một vị trí như vậy. Sở dĩ Quốc hội có một địa vị như vậy

vì Quốc hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra một cách trực tiếp. Với cách thức thành lập này cộng với quan điểm "Tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng cơ quan đại diện do nhân dân toàn quốc bầu ra", là cơ sở cho Quốc hội có quyền lực Nhà nước cao nhất ở nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc Hiến pháp quy định như nêu trên cũng là để nhằm mục đích thể hiện rõ bản chất của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đúng theo quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê nin về một nhà nước kiểu mới khác với các Nhà nước trước đây. Và chính đây cũng là đặc điểm nói lên

sự khác nhau giữa mô hình tổ chức Nhà nước ta, Nhà nước xã hội chủ nghĩa với các mô hình tổ chức Nhà nước khác nhau của chế độ tư bản chủ nghĩa.

Cũng nên nói rõ một cách thẳng thắn rằng cơ quan lập pháp trong nhà nước tư sản

với những tên gọi hết sức khác khau, đều do nhân dân trực tiếp, gián tiếp bầu ra và đã từng được pháp luật tư sản tuyên bố là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Lẽ đương nhiên  khái niệm "nhân  dân" ở  đây thuần  khiết chỉ  là  những người có của, không phải "dân đen", những người không có của, không có sở hữu. Nhưng, trải qua thời gian phát triển của chế độ tư bản, Quốc hội đã bị đẩy xuống thứ yếu hơn so với các cơ quan Nhà nước khác. Chế độ đại nghị của chủ nghĩa tư bản đã rơi vào tình trạng khủng hoảng(1).

Chính vì lẽ đó, Lênin trong tác phẩm viết trước Cách mạng tháng Mười, khi chưa có Nhà nước xã hội chủ nghĩa đã khẳng định, trong bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa vẫn phải

có nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra, nhưng ở đó bộ máy Nhà nước không còn phân quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Và ở đó các nghị sĩ không còn những đặc quyền, đặc

lợi nữa và phải chịu trách nhiệm trước cử tri bầu ra mình. Một khi không có tín nhiệm nữa thì bị cử tri bãi miễn, nghị viện vẫn còn nhưng không còn chế độ đại nghị(2)

(Chế độ đại nghị là chế độ mà ở đó, Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực: Quyền lực lập pháp; Quyền lực hành pháp; Quyền lực tư pháp. Trong đó quyền lực lập pháp của Nghị viện có ưu thế hơn hẳn, và những thành viên của nghị viện

(1)  Xem Nguyễn Đăng Dung & Bùi Xuân Đức : Hiến pháp các nước tư bản. Trường Đại học Tổng hợp Hà nội, 1993, 1994, trang

136-166.

(2)  Lênin V.I. Toàn tập, t33 NXB Tiến Bộ, 1976. trg 55-57.

do  nhân  dân  trực  tiếp  bầu  ra  có  nhiều  đặc  quyền  đặc  lợi,  nhưng  lại  không  chịu  trách nhiệm trước cử tri)(3).

Chính vì tầm quan trọng như vậy, cho nên ngay từ những ngày đầu tiên sau Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chủ tịch đã yêu cầu Chính phủ lâm thời phải tiến hành ngay việc bầu đại biểu Quốc hội càng sớm càng tốt (4).

Theo quan điểm cuả chủ nghĩa Mác-Lê nin, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra, bao gồm các đại biểu không ăn lương, không hoạt động chuyên nghiệp, và phải chịu trách nhiệm trước cử tri, có toàn quyền giải quyết mọi vấn đề của Nhà nước.

Trong quá trình tổ chức Nhà nước của chúng ta từ 1946 cho đến hiện nay, vẫn tuân

thủ theo nguyên tắc này. Vì chính nguyên tắc này thể hiện rõ nhất bản chất của Nhà nước

ta, một Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhưng trong điều kiện hiện nay, cơ chế thị trường,

với sự nhận thức lại quy luật khách quan của quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội,   Quốc

hội theo tinh thần mới phải tập trung vào công tác lập pháp. Thông qua chức năng lập pháp mà Quốc hội thực hiện các chức năng, nhiệm vụ khác của mình. Tất cả quyền lực Nhà nước tập trung vào trong tay Quốc hội, nhưng có sự phân công, phân nhiệm rạch ròi giữa các cơ quan: Quốc hội lập pháp; Chính phủ hành pháp và Toà án là cơ quan xét xử.

Thông qua chức năng lập pháp của mình mà Quốc hội đảm đương các nhiệm vụ khác

với tư cách là cơ quan quyền lực tối cao trong hệ thống các cơ quan tạo thành bộ máy Nhà nước. Thông qua việc thực hiện các đạo luật mà Quốc hội quyết định các chủ trương chính sách, những vấn đề mang tính chất quốc kế dân sinh, dưới hình thức luật pháp mà Quốc hội quy định các nguyên tắc và tổ chức hoạt động bộ máy Nhà nước.

3. NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA QUỐC HỘI VIỆT NAM.

Theo điều 84 của Hiến pháp, Quốc hội có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật; quyết

định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh;

2. Thực hiện  quyền giám sát tối  cao  việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao;

3. Quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

4. Quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết

toán ngân sách nhà nước; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế;

5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,  Toà  án  nhân  dân,  Viện  kiểm  sát  nhân  dân  và  chính  quyền  địa phương;

7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ

tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường

vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn đề nghị của Thủ

(3)  Lênin V.I. Sđd - trg 55-56.

(4)

Hồ Chủ Tịch - Sđd – t.  4  t. 6-7

tướng  Chính  phủ  về  việc  bổ  nhiệm,  miễn  nhiệm,  cách  chức  Phó  Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và

an  ninh;  bỏ  phiếu  tín  nhiệm  đối  với  những  người  giữ  các  chức  vụ  do

Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;

8.  Quyết  định  thành  lập,  bãi  bỏ  các  bộ  và  các  cơ  quan  ngang  bộ  của Chính phủ; thành lập mới, nhập, chia, điều chỉnh địa giới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; thành lập hoặc giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt;

9. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội;

10. Quyết định đại xá;

11. Quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại  giao  và  những  hàm,  cấp  nhà  nước  khác;  quy  định  huân  chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;

12. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

13. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước;

14. Quyết định việc trưng cầu ý dân.

Những nhiệm vụ, quyền hạn trên của Quốc hội có thể chia thành các lĩnh vực chủ

yếu sau đây:

1. Lập hiến, lập pháp

Quyền lực đầu tiên xuất phát từ vị trí cơ quan quyền lực cao nhất là quyền lập hiến của Quốc hội. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến. Điều này có nghĩa: Quốc

hội là cơ quan làm hiến pháp.   Cơ sở lý thuyết của quyền lập hiến của Quốc hội là học thuyết tập quyền xã hội chủ nghĩa.

Quyền lập hiến là quyền phân công quyền lực trong quốc gia. Theo học thuyết tam quyền phân lập, nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến và là người phân chia quyền lực. Bằng quyền lập hiến, nhân dân phân chia bình đẳng quyền lực cho các ngành lập pháp, hành pháp, và tư pháp. Ba ngành quyền lực này đều nhận quyền lực từ nhân dân, do nhân dân trao cho bằng quyền lập hiến của nhân dân. Chính vì vậy, ngành lập pháp không có thẩm quyền lập hiến.

Khác với học thuyết phân quyền, theo học thuyết tập quyền xã hội chủ nghĩa, để bảo đảm sự thống nhất của quyền lực nhà nước, nhân dân không phân chia quyền lực đều nhau cho các ngành quyền lực, mà trao chủ quyền cho người đại diện tối cao của mình là Quốc hội. Quốc hội là người nhận quyền lực từ nhân dân, và đến lượt mình, Quốc hội mới là chủ thể tiến hành phân công quyền lực. Quốc hội phân công quyền lực bằng hình thức lập hiến. Như vậy, quyền lập hiến của Quốc hội thể hiện sự thống nhất quyền lực về Quốc hội, và chứng tỏ Quốc hội là chủ thể phân công quyền lực.

Cùng  với quyền  lập  hiến, Quốc hội  cũng  là  cơ  quan  có  quyền  sửa  đổi Hiến  pháp. Quyền sửa đổi hiến pháp cũng xuất phát từ vị trí là cơ quan quyền lực tối cao của Quốc hội. Điều này thể hiện ở chỗ: việc sửa đổi Hiến pháp chỉ có một giới hạn duy nhất thuộc

về bản thân chế độ làm việc của Quốc hội là phải được 2/3 đại biểu Quốc hội biểu quyết thông  qua.  Những  giới  hạn  khác  đối  với  quyền  sửa  đổi  hiến  pháp  không  được  đặt  ra. Chẳng hạn Hiến pháp không quy định bắt buộc phải thành lập ban sửa đổi hiến pháp, hiến pháp sửa đổi phải được đem trưng cầu dân ý, hay những vấn đề không được sửa đổi.

Quyền tiếp theo của Quốc hội là quyền lập pháp. Sau khi Điều 83 ghi nhận Quốc hội

là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp, Điều 84 quy định về thẩm quyền của Quốc hội, trong đó có thẩm quyền là: “ Làm luật và sửa đổi luật”. Như vậy, căn cứ theo Hiến pháp, chúng ta chỉ có thể hiểu quyền lập pháp chính là quyền làm luật và sửa đổi luật.

Quốc hội là cơ quan duy nhất lâp pháp cũng có nghĩa là Quốc hội là cơ quan duy nhất làm luật. Hiến pháp không chỉ rõ làm luật là gì. Nếu hiểu làm luật là tất cả những hoạt động để xây dựng nên một đạo luật thì Quốc hội không phải là cơ quan duy nhất làm luật,

vì ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác, đa số luật do Quốc hội ban hành là do ngành hành pháp đệ trình. Trên thực tiễn, tham gia vào việc làm luật ở nước ta ngoài Quốc hội còn có Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát...

Quyền lập pháp là gì ? Thiết kế mô hình ứng xử cho xã hội không phải là nhiệm vụ

của ngành lập pháp mà là của ngành hành pháp. Ngành hành pháp là ngành quan hệ một cách trực tiếp và thường xuyên nhất với các chủ thể trong xã hội. Ngành hành pháp nằm

ở vị trí tất yếu để xây dựng mô hình ứng xử phổ biến cho xã hội. Phát hiện vấn đề, phân tích vấn đề, đưa ra giải pháp để xử lý vấn đế- tức là tìm một chính sách cho xã hội, xác

lập một mô hình hành xử cho xã hội là chức năng tự nhiên của ngành hành pháp. Chính

đó là lý do tại sao hơn 80% luật trên thế giới đều xuất phát từ ngành hành pháp.

Ngành lập pháp là ngành đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các giải pháp lập pháp do hành pháp đưa ra cần phải được kiểm tra lại bởi ngành lập pháp. Ngành hành pháp không phải là ngành đại diện mà là một ngành điều hành xã hội. Để tiện ích cho việc điều hành, quản lý xã hội, về nguyên tắc chung của đời sống quyền lực, ngành hành pháp dễ có xu hướng thiết kế nên những quy tắc thuận tiện nhất cho việc thực thi quyền lực của mình. Điều này làm cho giải pháp lâp pháp của hành pháp dễ có nguy cơ ảnh  hưởng  đến  lợi  ích  chung  của  dân  chúng.  Hơn  nữa,  các  giải  pháp  lập  pháp  cũng thường xuất phát từ các bộ, các ngành chuyên môn cuả ngành hành pháp nên dễ có tính cục bộ. Chính vì điều này, những giải pháp thuần tuý của ngành hành pháp dễ có khả năng ảnh hưởng đến lợi ích phổ biến của xã hội. Do đó, giải pháp lập pháp do hành pháp xây dựng phải được kiểm tra trong môi trường đại diện cho lợi ích tổng thể của xã hội.

Để tránh nguy cơ giải pháp lập pháp của ngành hành pháp vì những lợi ích cục bộ mà ảnh hưởng đến quyền lợi chung của toàn thể nhân dân nên giải pháp đó phải được thông qua

bởi một mô hình thu nhỏ của nhân dân- Quốc hội.

Hoạt động lập pháp của Quốc hội thực chất là hoạt động kiểm tra, giám sát sự tương hợp giữa các giải pháp lập pháp do Chính phủ thiết kế với lợi ích, và nguyện vọng chung của  xã  hội.  Việc  kiểm  tra  này  sẽ  dẫn  đến  kết  quả  là:  thông  qua  hay  không  thông  qua chính sách của Chính phủ. Như vậy, lập pháp là quyền thông qua luật. Quyền lập pháp là quyền thông qua luật. Quốc hội lập pháp, Quốc hội làm luật không có nghĩa là Quốc hội làm mọi công đoạn của quy trình lập pháp. Quốc hội lập pháp, làm luật được hiểu Quốc

hội là cơ quan thông qua luật. Với cách hiểu như vậy thì quyền lập pháp mới thực sự là quyền duy nhất của Quốc hội vì Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền thông qua hay không thông qua một đạo luật. Chính điều này thể hiện tính quyền lực tối cao của Quốc hội.

Sản phẩm của quyền lập pháp của Quốc hội là một đạo luật. Luật là ý chí chung của

xã hội được nâng lên thành luật. Luật là ý chí của nhân dân. Rousseau viết: " Khi tôi nói luật bao giờ cũng là tổng quát chung cho mọi người, tôi hiểu luật coi tất cả thần dân là một cơ  thể, mà trừu  tượng hoá các hành động, không coi con người như  một cá nhân hoặc như một hành động riêng lẻ."1

Luật điều chỉnh những quan hệ xã hội nào? Phạm vị quyền lập pháp của Quốc hội là

gì ? Hiến pháp hiện hành của nước ta quy định: “ Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế- xã hội của đất nước, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.” ( Điều 83).  Theo Điều 20 của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật quy định  các vấn đề cơ bản đối nội và đối ngoại, nhiệm

vụ kinh tế- xã hội của đất nước, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ

yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, phạm vi quyền lập pháp của Quốc hội là rất rộng, gần như không có giới hạn. Thông thường, trong một chính thể đề cao Quốc hội thì quyền lực của Quốc hội về lâp pháp không có giới hạn. Ví dụ, Anh quốc với chủ thuyết quyền tối cao  của  nghị  viện,  quyền  lâp  pháp  của  nghị  viện  là  không  có  giới  hạn.  Học  giả P.Bromkhet nhận định: “ Hiến pháp không hạn chế bất cứ vấn đề nào thuộc nội dung của văn bản do nghị viện ban hành và không có bất cứ một trở ngại nào đối với việc thông

qua những văn bản đó.”2  Việc mở rộng phạm vi quyền lập pháp ở nước ta có cơ sở từ

nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước. Vì Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, là nơi thống nhất quyền lực nên quyền lập pháp của Quốc hội không bị giới hạn.

2. Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước

Loại thẩm quyền tiếp theo của Quốc hội là quyết định những vấn đề trọng đại của quốc gia. Loại thẩm quyền này xuất phát từ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa.

Nghiên cứu thực tiễn của Công xã Paris, Mác viết: “ Công xã không phải là cơ

quan đại nghị, mà là một cơ quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp...

...Không còn tình hình cứ ba năm hoặc sáu năm một lần phải quyết định cho cá nhân nào trong giai cấp thống trị được đại diện và chà đạp nhân dân tại nghị viện, mà thay vào đó là chế độ đầu phiếu phổ thông phải phục vụ cho nhân dân đã tổ chức thành công xã, để chọn lựa vào xí nghiệp của mình những công nhân, nhân viên đốc công, nhân viên kế toán cũng như những quyền cá nhân lựa chọn phục vụ cho mọi nghiệp chủ cũng

nhằm mục đích ấy.”3

Sau này, bảo vệ quan điểm của Mác, Lênin đã viết trong Nhà nước và cách mạng rằng: “ Công xã thay chế độ bán mình và thối nát ấy của xã hội tư sản bằng những cơ quan, trong đó có quyền tự do ngôn luận và tự do thảo luận không biến thành lừa bịp, và các nghị sĩ phải tự mình công tác, tự kình kiểm tra lấy tác dụng của những luật pháp ấy,

tự mình phải chịu trách nhiệm trực tiếp trước cử tri của mình. Những cơ quan đại diện vẫn còn nhưng chế độ đại nghị, với tính cách là một hệ thống đặc biệt, một sự phân chia

1  Jean - Jacques Rousseau. Bàn về khế ước xã hội. Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm. NXB Lý luận chính trị, H,

2004, tr.96.

2  Dẫn theo: Vũ Hồng Anh. Tổ chức và hoạt động của nghị viện ở một số nước trên thế giới. NXB Chính trị quốc gia,

H, 2001, tr.14.

3  Dẫn theo: Lê-nin. Toàn tập, t. 33. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, tr.55.

giữa những công tác lập pháp và công tác hành pháp, được coi như địa vi đặc quyền cho các nghị sĩ, thì không còn nữa.”1

Như vậy, về nguyên tắc Quốc hội là  “một cơ quan hành động, vừa lập pháp, vừa hành pháp...” Tuy nhiên, thực tiễn lao động quyền lực của bất cứ một chế độ nào cũng vậy, không một cơ quan nào có đủ điều kiện hành xử toàn bộ quyền lực. Phân công, phân nhiệm là một điều tất yếu.

Nhưng,  như  vậy  không  có  nghĩa  là  phân  chia  quyền  lực.  Điểm  khác  biệt  của  tập quyền xã hội chủ nghĩa là tam quyền phân lập chính là ở chỗ: trong chế độ tập quyền xã

hội chủ nghĩa không có sự chia tách độc lập giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Cơ quan đại diện tối cao của nhân dân thành lập nên Chính phủ, phân nhiệm cho Chính phủ quyền hành pháp nhưng không có nghĩa là trao toàn bộ quyền hành pháp cho Chính phủ: phân công, phân nhiệm, chứ không phải phân quyền. Điều đó có nghĩa Quốc hội vẫn còn giữa lại những thẩm quyền mang tính hành pháp. Những thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề hệ trọng của quốc gia, tức không phải trong lĩnh vực lập pháp, có tính chất hành pháp.

Đây có thể coi là nhưng quyền điều hành xã hội của Quốc hội được quy định ở Điều 84 của Hiến pháp hiện hành của nước ta: quyết định kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, đối ngoại, quốc phòng, an ninh. Theo Điều 20 của Luật ban hành văn bản quy phạm luật khi thực hiện những quyền này, Quốc hội sẽ ban hành văn bản dưới dạng Nghị quyết. Quyết định những vấn đề này không có tính chất tổ chức tổng quát xã hội- tức lập pháp, mà có

tính chất điều hành xã hội- tức hành pháp.2

3. Thành lập ra các định chế quyền lực ở trung ương

Với quan điểm tập quyền xã hội chủ nghĩa, Lê-nin đã khẳng định quyền lực nhà nước phải thống nhất vào cơ quan đại diện của nhân dân- các Xô viết. Song sự thống nhất này, trong điều kiện trước mắt không loai trừ sự cần thiết phải có các thiết chế nhà nước

truyền thống như Chính phủ, Toà án để thực hiện phân công, phân nhiệm. Nhưng để bảo đảm thực quyền của các Xô viết ( tức bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân) các thiết chế này phải được tổ chức trên nguyên tắc phái sinh từ cơ quan đại diện quyền lực

nhà nước, chịu sự báo cáo, chịu trách nhiệm trước cơ quan quyền lực nhà nước đó.3  Trên thực tiễn của của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng phải tổ chức ra cơ quan Chính phủ và Toà án.

Để bảo đảm sự thống nhất quyền lực nhà nước, Quốc hội ở Việt Nam là nguồn hợp pháp bầu cử duy nhất ở trung ương và các định chế quyền lực ở trung ương đều được hình thành trên cơ sở của Quốc hội. Nhân dân trao quyền lực cho Quốc hội nhưng Quốc

hội không đảm nhận toàn bộ quyền lực mà thành lập và phân định quyền lực cho các thiết chế khác ở trung ương. Nguyên thủ quốc gia, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, cơ quan công tố và kiểm sát ở trung ương, cơ quan xét xử cao nhất đều là những thiết chế do Quóc hôi thành lập.

1  Lê-nin. Toàn tập, t. 33. NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1976, tr.59.

2  Cũng cần lưu ý rằng ngay cả nghị viện của các nhà nươc ứng dụng nguyên tắc tam quyền phân lập cũng không thuần khiết chỉ thực hiện quyền lập pháp. Nghị viện trong một chế độ phân quyền vấn quyết định những kế hoạch

lớn của đất nước: cấm vận, chiến tranh và hoà bình…Điều này cho thấy sự hạn chế nhất định của học thuyết phân quyền. Trên thực tế, không thể cô lập hoàn toàn các ngành quyền lực. Học thuết phân quyền của Montesquieu khi ra

đời đã vấp phải sự phản đổi của Rousseau: " Những bộ phận quyền hành được chia tách đều phụ thuộc vào quyền

lực tối cao, đều giả định phải có ý chí tối cao, mỗi bộ phận đều chỉ nhằm thực hiện ý chí tối cao đó." ( Khế ước xã hội).

3  Xem: Bùi Xuân Đức. Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay. NXB Tư pháp, 2004, tr.109.

Cụ thể, Hiến pháp quy định Quốc hội có quyền:bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,  Viện  trưởng  Viện  kiểm  sát  nhân  dân  tối  cao;  phê  chuẩn  đề  nghị  của  Thủ  tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ; phê chuẩn đề nghị của Chủ tịch nước về danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh; bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

Bên cạnh viện thành lập ra các thiết chế nói trên, Quốc hội còn là cơ quan quy

định về thể thức tổ chức và hoạt động của chúng. Hiến pháp quy định Quốc hội có quyền

ấn định về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và chính quyền địa phương. Bằng quyền lập hiến, Quốc hội

thực hiện điều này. Quốc hội cũng thực hiện điều này bằng quyền lập pháp. Cụ thể hoá

Hiến pháp do mình ban hành, Quốc hội cũng ban hành các luật về tổ chức nhà nước: Luật

tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức chính phủ, Luật tổ chức Toà án nhân dân, Luật tổ chức

Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân.

4. Giám sát tối cao

Được thiết lập trên cơ sở nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, quyền giám sát của Quốc hội nhằm đảm bảo sự thống nhất của quyền lực nhà nước, và tính tối cao của Quốc hội. Người phân công quyền lực phải có quyền tối cao trong việc giám sát tối cao xem

đối tượng được phân công đã hành xử quyền lực có đúng ý chí của người phân công hay không.  Với tư cách là một cơ quan phân công quyền lực, Quốc hội phải có quyền giám

sát đối cao đối với những chủ thể đã nắm giữa những ngành quyền lực mà mình đã phân công bằng một bản hiến pháp.

Quyền  giám sát  tối  cao  của  Quốc  hội  được  khẳng  định  trong  Hiến  pháp.  Gần  đây

Quốc hội khoá IX, tại kỳ họp thứ 3 đã ban hành Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội

cụ thể hoá quyền giám sát hiến định của Quốc hội.

Chủ thể giám sát

Tập thể các đại biểu Quốc hội tại nghị truờng là chủ thể của quyền giám sát tối cao. Chỉ có tập thể Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao. Còn các cấu trúc của Quốc hội là những chủ thể của quyền giám sát nhưng không phải là quyền giám sát tối cao. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội quy định: “ Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội.” ( Điều 1 ). Như vậy, chỉ riêng Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao, còn các chủ

thể giám sát của Quốc hội chỉ thực hiện hoạt động giám sát nhằm phục vụ cho hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội.

Điều 3 của Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, đối tượng giám sát của Quốc

hội là :   Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Như vậy, đối tượng giám sát của tập thể Quốc hội là quyền lực nhà nước ở Trung

Ương. Hiến pháp không quy định cụ thể điều này, chỉ ấn định: “ Quốc hội có quyền giám

sát tối sao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước’’. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội đã cụ thể hoá theo chiều hướng phân quyền giám sát : Quốc hội với tư cách là một tập thể của các đại biểu của toàn thể nhân dân chỉ giám sát ở cấp chính quyền tối cao.

Sự cụ thể hoá này có những nguyên do nhất định.

Quốc hội với tư cách là một đại công quyền thực thi quyền giám sát tối cao thì chỉ giám sát các định chế thực thi các đại công quyền, tức là chỉ giám sát tâng cao nhất của chính quyền, mà không giám sát chính quyền địa phương.

Việc  Quốc  hội  chỉ  giảm  sát  chính  quyền  trung  ương  là  triển  khai  nguyên  tắc  hiến định : «có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp ». Quốc hội chỉ tập trung giám sát ở tầng cao nhất của chính quyền là xuất phát từ khuynh hướng phân công quyền lực giữa Quốc hội với

các cấu trúc của Quốc hội và những cơ quan nhà nước khác cũng có chức năng giám sát quyền  lực,  chẳng  như  Viện  kiểm  sát,  Toà  án  (trong  hoạt  động  giám  đốc  thẩm  và  tái thẩm).   Sự phân công này đảm bảo sự không trùng lắp chức năng của các cơ quan nhà nước trong việc giám sát. Và từ đó cũng hạn chế sự sự thiếu minh bạch về trách nhiệm của các cơ quan thực hiện hoạt động giát sát quyền lực do tình trạng một công việc phân cho nhiều cơ quan ; hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong bộ máy nhà nước.

Hơn nữa, việc Quốc hội chỉ giám sát quyền lực nhà nước ở Trung ương cũng có cơ

sở thực tiễn của nó. Trong điền kiện của một Quốc hội mà đa số các đại biểu là không chuyên trách, Quốc hội không thể làm được tất cả. Thực tễ là Quốc hội không thể giám

sát được toàn bộ quyền lực nhà nước. Quốc hội cần sự hỗ trợ giám sát của các định chế khác, mà chỉ tập trung giám sát ở trung ương. Điều này làm cho Quốc hội thực hiện tốt hơn quyền giám sát tối cao của mình.

Nói cung việc quy định cho Quốc hội giám sát tối cao ở cấp cao nhất của quyền lực

là hợp lý. Điều này phù hợp với nguyên lý tổ chức chính quyền ở Việt Nam và cũng phù hợp với điều kiện thực tiễn của Quốc hội Việt Nam

Nội dung của hoạt động giám sát

Theo Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội, nội dung hoạt động giám sát của Quốc hội như sau:

Thứ nhất là giám sát văn bản. Giám sát văn bản hoạt động theo dõi, xem xét, đánh

giá tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản của các đối tượng bị giám sát. Văn bản của

các đối tượng bị giám sát là những văn bản lập quy triển khai thực hiện hiến pháp và các đạo  luật,  nghị  quyết,  pháp  lệnh  của  các  chủ  thể  giám  sát.  Nội  dung  giám  sát  văn  bản nhằm đảm bảo  sự  thống nhất cuả hệ thống pháp luật, tính tối cao của Hiến pháp. Nội dung cụ thể của giám sát văn bản như sau:

Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ  tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Uỷ ban phụ trách.

Đoàn đại biểu Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật Hội đồng nhân dân, và

Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đại biểu Quốc hội giám sát văn bản pháp luật ở địa phương

Thứ hai là giám sát hoạt động. Giám sát hoạt động được hiểu là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động thực tiễn của các đối tượng bị giám sát trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường

vụ Quốc hội. Đây thực chất là quá trình các chủ thể giám sát giám sát việc các đối tượng

bị giám sát tổ chức thực hiện các văn bản của các chủ thể giám sát. Nôi dung giám sát này nhằm đảm bảo cho việc tổ chức và thực hiện các hoạt động thực tiễn của các đối tượng giám sát tuân thủ hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của các chủ thể giám sát trong việc giải quyết các công việc cụ thể thuộc thẩm quyền của mình. Cụ thể của nội dung giám sát hoạt động như sau :

Quốc hội giám sát hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ  tướng  Chính  phủ,  Bộ  trưởng và các thành viên khác của  Chính  phủ,  Toà  án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội .

Uỷ ban  thường vụ Quốc hội giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Đoàn đại biểu Quốc hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đại biểu Quốc hội giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cao của công dân.

Các hình thức giám sát

Quyền giám sát tối của Quốc hội được thực thi tại các kỳ họp của Quốc hội bằng những công cụ sau đây:

Xem xét báo cáo hoạt động của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Đây là công cụ giám sát hoạt động của cấu trúc quyền lực trung ương. Quốc hội xem xét, thảo luận báo cáo công tác của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại kỳ họp cuối năm. Tại kỳ họp giữa năm,

các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến các đại biểu Quốc hội, khi cần thiết Quốc hội

có thể xem xét, thảo luận. Việc xem xét, thảo luận các báo cáo hàng năm hoặc sáu tháng

tại các kỳ họp cuối năm hay giữa năm được tiến hành theo một tình tự chặt chẽ do luật

định, trong đó có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận của các cơ quan của Quốc hội

và đại biểu Quốc hội đối với các đối tượng thuộc quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Theo quyết định của Chủ tịch Quốc hội hoặc của người điều khiển phiên họp, báo cáo của các đối tượng giám sát được chuyển cho Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra, nghiên cứu trước. Trên cơ sở ý kiến tham gia, thảo luận báo cáo của các thành viên, Uỷ ban phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình thẩm tra trước Quốc hội.

Việc Quốc hội xem xét, thảo luận các báo cáo được diễn ra theo một trình tự nhất

định: Người đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bầy báo cáo; Chủ tịch Hội đồng dân

tộc hoặc Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bầy báo cáo thẩm tra; Quốc hội thảo luận;

người đứng đầu cơ quan bị giám sát trình bầy báo cáo có thể trình bầy thêm những vấn đề

có liên quan mà đại biểu Quốc hội quan tậm; Quốc hội ra quyết định về công tác của cơ

quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết.

Việc xem xét báo cáo buộc đối tượng giám sát phải báo cáo về công tác của mình. Trên cơ sở đó, Quốc hội có thể kiểm soát được tình hình thực thi hiến pháp và pháp luật trong thực tiễn của đời sống xã hội, tăng cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu Chính phủ và các ngành về công tác của họ trược Quốc hội.

Căn cứ vào kết quả giám sát tối cao đối với hoạt động của các đối tượng giám sát, hậu quả pháp lý của giám sát tối cao, có thể là một Nghị quyết của Quốc hội về việc bổ sung, sửa đổi một hay một số điều luật nhằm khắc phục lỗ hổng về mặt pháp lý để giải quyết những sai sót do hoạt động của nhà nước gây ra; hoặc yêu cầu Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn giải quyết một vụ việc cụ thể nào đó để thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của các đối tượng giám sát: Chủ Tịch nước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Đây là công cụ để Quốc hội giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản pháp luật của các đối tượng giám sát thuộc thẩm quyền giám sát tối cao của Quốc hội. Quốc

hội được coi là cơ quan có thẩm quyền bảo vệ hiến pháp tối cao. Đây là công cụ bảo hiến

ở Việt Nam được hành xử bởi Quốc hội. Phục vu cho việc thực hiện công cụ giám sát này

tại các kỳ họp của Quốc hội, thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, và từng đại biểu Quốc hội giữa hai kỳ họp phải thường xuyên thực hiện quyền giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền để có đề nghị kịp thời tại kỳ họp của Quốc hội.

Các bước để Quốc hội tiến hành xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản của các đối tuợng bị giám sát được quy định như sau: Uỷ ban thuờng vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu bất hợp hiến, bất hợp pháp; Quốc hội thảo luận. Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bầy bổ sung những vấn đề có liên quan. Hậu quả pháp lý của việc Quốc hội giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản của các đối tượng giám sát có thể là một Nghị quyết của Quốc hội bãi bỏ một phần hay toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà

án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái hiến pháp, luật, nghị quyết của

Quốc hội. Đương nhiên, nếu xét thấy không có sự bất hợp hiến, hợp pháp của các văn

bản pháp luật thì Quốc hội ra Nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật luật không trái Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội.

Nghiên cứu so sánh về quyền giám sát của Quốc hội cho thấy đa số Quốc hội ở các nước có chức năng giám sát. Khác với ở nước ta, Quốc hội ở nhiều nước có đối tượng giám sát chủ yếu là hành pháp. Tư duy giám sát thể hiện ở đây là giám sát để bảo đảm cho hành pháp không lạm quyền, bảo vệ các quyền và tự do của người dân. Từ đối tượng

và tư duy như vậy, Quốc hội chủ yếu tập trung giám sát hoạt động của hành pháp. Quyền giám sát của Quốc hội thường mang tính chính trị, tìm ra sự thực thi tốt hay không tốt các chủ trưng chính sách đã được Quốc hộị thông qua. Còn, giám sát văn bản của hành pháp thường được coi là thuộc địa hạt của tư pháp.

Học  lý  về  hiến  pháp  quan  niệm:  Các  toà  án  có  bổn  phận  hiến  định  (mission

constitutionelle) là giải quyết những vụ tranh tụng giữa mọi người, và trong những vụ tranh tụng đó, các toà án phải chỉ định các quy tắc luật nào, hay loại luật nào, hiến luật hay thường luật, được đem áp dụng. Cái sứ mạng dĩ nhiên của thẩm phán là áp dụng cho

hai bên nguyên bị cái quy tắc luật có giá trị và trong trường hợp mâu thuẫn giữa hai quy

tắc luật, là quyết định xem quy tắc nào ở địa vị ưu tiên, được tôn trọng. 1

Đây  cũng  là  nguyên  nhân  của  việc  cần  phải  thành  lập  tòa  án  hiến  pháp  của nhiều nước  trên  thế  giới,  cũng  như  là  việc  trao  quyền  xét  xử  các  văn  bản  luật  phù  hợp  hay không phù hợp với các quy định của hiến pháp cho tòa án tối cao của một số quốc gia hiện nay. Ở Việt Nam hiện nay, ngành Tòa án không có quyền giám sát tính hợp hiến, hợp  pháp  của  các  văn  bản  quy  phạm  pháp  luật.  Đối  với  các  văn  bản  do  các  định  chế quyền  lực  ở  trung  ương  do  Quốc  hội  giám  sát.  Điều  này  xuất  phát  từ  nguyên  tắc  tập quyền xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam.

IV. CƠ CẤU TỔ CHỨC CỦA QUỐC HỘI

Tổ chức của Quốc Hội bao gồm những cơ cấu bên trong được lập ra để giúp Quốc Hội thực hiện chức năng , nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Tổ chức của Quốc Hội do Hiến pháp và luật tổ chức Quốc Hội quy định.

Tổ chức Quốc hội là một trong những yếu tố bảo đảm hiệu quả hoạt động của Quốc Hội. Việc xây dựng tổ chức của Quốc hội theo Hiến pháp 1992 được đặt ra với yêu cầu bảo đảm hoạt động của Quốc Hội, nhưng không làm thay đổi Quốc hội. Theo tinh thần

đó, tổ chức của Quốc Hội  đã được quy định gồm có: Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Hội

đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội.

1. Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội

Trước  đây, trong  tổ  chức  của Quốc Hội  cũng  đã  có  Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc Hội. Nhưng theo quy định của Hiến pháp 1980, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội đã được thay thế bằng Hội đồng Nhà nước. Hội đồng Nhà nước theo quy định của Hiến pháp 1980, là cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của Quốc Hội, đồng thời là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Để phân biệt rõ ràng chức năng Nguyên thủ quốc gia và chức năng thường trực Quốc Hội, Hiến pháp 1992 đã quy định tách Hội đồng Nhà nước thành hai chế định: Chủ tịch nước và Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Chủ tịch nước đảm nhiệm chức năng Nguyên thủ quốc gia. Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc Hội.

1  Lê Đình Chân. Luật hiến pháp và các định chế chính trị. Cuốn I. Sài gòn, 1974, tr. 300-301.

Thành phần của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội gồm có: Chủ tịch Quốc Hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các Uỷ viên. Chủ tịch Quốc Hội làm Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc Hội và các Phó chủ tịch Quốc Hội làm các Phó Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc Hội (Điều 5, Luật tổ chức Quốc Hội).

Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội được quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc Hội.

Những nhiệm vụ, quyền hạn này có thể được phân tích thành 3 lĩnh vực sau đây:

Thứ nhất, những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng thường trực tổ chức cho Quốc hội hoạt động. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội công bố và chủ trì việc bầu Đại biểu Quốc Hội, tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp Quốc Hội, chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc Hội; Hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của Đại biểu Quốc Hội, thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc Hội.

Thứ  hai,  những  nhiệm  vụ,  quyền  hạn  thay  Quốc  Hội  giải  quyết  các  nhiệm  vụ  của

Quốc Hội giữa hai kỳ họp: Quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà

bị xâm lược và báo cáo Quốc Hội xem xét và quyết định   tại kỳ họp gần nhất; Xem xét việc trả lời chất vấn và thực hiện các kiến nghị của Hội đồng, các Uỷ ban, và các đại biểu Quốc Hội.

Thứ ba, những nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội với tư cách là một cơ quan Nhà nước độc lập: Ban hành các văn bản pháp luật về những vấn đề  được Quốc Hội giao (nhưng pháp lệnh phải nằm trong chương trình lập pháp của Quốc Hội); Thực hiện quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc Hội, Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; Hủy bỏ các văn bản của Chính Phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội đồng nhân dân, bãi bỏ các Nghị quyết sai

trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong trường hợp Hội đồng  nhân  dân  làm  thiệt  hại  nghiêm  trọng  đến  lợi  ích  của  nhân  dân;  Quyết  định  tổng động viên hoặc động viên cục bộ; Ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng

địa phương; Tổ chức trưng cầu dân ý theo quyết định của Quốc Hội.

Trong tổ chức thực hiện của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Chủ tịch Quốc Hội giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Là người đứng đầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc Hội phải chủ trì điều hành hoạt động của Uỷ ban thường vụ, lãnh đạo công tác Uỷ ban thường vụ, chỉ đạo việc chuẩn bị, triệu tập, và chủ toạ các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Khác với thiết chế của Uỷ ban thường vụ trước đây của Hiến pháp 1959, người đứng

đầu Uỷ ban thường vụ Quốc Hội còn là Chủ tịch Quốc Hội, nên Chủ tịch Quốc Hội có vị

trí đặc biệt trong tổ chức hoạt động của Quốc Hội. Chủ tịch Quốc Hội chủ toạ các phiên họp của Quốc Hội, đảm bảo thi hành quy chế đại biểu Quốc Hội, nội quy kỳ họp Quốc Hội, ký chứng thực luật, nghị quyết của Quốc Hội.

Chủ tịch Quốc Hội triệu tập và chủ toạ hội nghị liên tịch giữa Chủ tịch Hội đồng dân tộc, các Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc Hội để bàn chương trình hoạt động của Quốc Hội, của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội khi xét thấy cần thiết.

Chủ tịch Quốc Hội giữ mối quan hệ với các đại biểu Quốc hội, theo dõi thực hiện các quy định của pháp luật về việc bảo đảm điều kiện để đại biểu hoạt động, cung cấp thông

tin để đại biểu nắm chương trình hoạt động và tình hình hoạt động của Quốc Hội, theo dõi và đôn đốc các đại biểu báo cáo tình hình hoạt động của mình.

Chủ tịch Quốc Hội chỉ đạo việc thực hiện công tác đối ngoại của Quốc Hội, thay mặt Quốc Hội trong quan hệ đối ngoại, lãnh đạo hoạt động của đoàn Quốc hội Việt nam trong liên minh Quốc Hội của toàn thế giới. Chủ tịch Quốc Hội chỉ đạo và tổ chức thực hiện ngân sách cuả Quốc hội, ngân sách của Quốc Hội là một khoản độc lập trong ngân sách Nhà nước do Quốc Hội thảo luận và quyết định.

Giúp việc cho Chủ tịch Quốc Hội là các Phó chủ tịch Quốc Hội, được phân công đảm nhiệm các phần việc của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội làm việc theo chế độ hội nghị. Mỗi tháng họp ít nhất một lần. Pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội được ban hành hai loại văn bản: Pháp lệnh và Nghị quyết.

Về nguyên tắc, Pháp lệnh là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý sau luật được  Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc  Hội  dùng  để  đặt  ra  các  quy  luật  pháp  luật,  điều  chỉnh những mối quan hệ xã hội quan trọng tương đối ổn định nhưng chưa có luật điều chỉnh, hoặc luật chưa điều chỉnh một cách đầy đủ. Việc ban hành pháp lệnh là một chức năng quan trọng của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, thực chất là thay luật trong khi không có luật, hoặc luật điều chỉnh không đầy đủ. Đây cũng là chức năng của Hội đồng Nhà nước - Hiến pháp 1980. Nhưng pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội hiện nay khác với pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước trước đây ở chỗ: Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội hiện nay chỉ được phép làm pháp lệnh trong phạm vi chương trình cho phép của Quốc Hội; Và

có thể bị Chủ Tịch nước phủ quyết. Chính những đặc điểm này nhằm hạn chế chức năng làm pháp lệnh của uỷ ban thường vụ Quốc Hội, để tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc Hội. Quốc hội không ỷ  thế vào việc ban hành pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội mà không vươn tới đảm đương tốt chức năng của mình.

Thực  chất  pháp  lệnh  của  Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc  Hội  là  một  loại  lập  pháp  ủy quyền(1). Dựa trên thực tế   hoạt động xây dựng pháp luật của nhiều nước, lập pháp ủy quyền thuộc thẩm quyền của hành pháp, có ý kiến cho rằng pháp lệnh là hoạt động xâm phạm đến quyền lập quy của Chính phủ, hành pháp(2).

Một nhiệm vụ rất gắn liền với chức năng lập pháp của Quốc Hội là việc giải thích Hiến pháp và luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, nhưng rất ít được sử dụng. Hình thức văn bản dùng để giải thích không được Hiến pháp quy định. Nhưng, thực tế Uỷ ban thường vụ Quốc Hội thường để giải thích bằng chính việc ban hành Pháp lệnh.

Về công tác ban hành pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, Báo cáo nhiệm kỳ

1992  -  1997,  nhận  định  "Đây  là  một  trong  những  nhiệm  vụ  quan  trọng  của  Uỷ  ban thường vụ Quốc Hội. Trong điều kiện Quốc Hội và đa số đại biểu hoạt động kiêm nhiệm, mỗi năm chỉ họp có hai kỳ thì việc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội tiếp tục ban hành các pháp lệnh để điều chỉnh các vấn đề có tính cấp bách thuộc các lĩnh vực kinh tế xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại được Quốc Hội giao là cần thiết. Trong gần 5 năm qua, Uỷ

(1)  Xem Đoàn Trọng Truyến. Báo cáo tổng kết đề tài KX 05-08, Kỷ yếu Hội thảo: Phương thức tổ chức hoạt động quản lý bộ máy Nhà nước. NXB Khoa học xã hội 1993.

(2)  Xem Đoàn Trọng Tuyến Sđd

ban thường vụ Quốc Hội đã thông qua 43 pháp lệnh và 20 nghị quyết có "nội dung pháp luật".(3)

Loại văn bản thứ hai Uỷ ban thường vụ Quốc hội là Nghị quyết được sử dụng chủ

yếu dưới dạng văn bản áp dụng pháp luật để giải quyết các công việc cụ thể như: Hủy bỏ

các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao; Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, của Hội đồng nhân cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương trái

với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Phê chuẩn đề nghị của Thủ

tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ.

Uỷ ban thường vụ Quốc Hội của Nhà nước Việt Nam là một cơ quan đặc biệt, không

là một loại cơ quan phổ biến ở nhiều nước khác. Việc tồn tại Uỷ ban thường vụ Quốc Hội chẳng qua là do Quốc hội nước ta không hoạt động thường xuyên như nhiều Quốc hội khác, nên buộc phải thành lập ra một cơ quan mang tính chất thường trực cho Quốc Hội,

có quyền giải quyết những nhiệm vụ quyền hạn Quốc Hội, kể cả về pháp lệnh.

Về mặt nguyên tắc khi Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giải quyết những vấn đề này đều phải trực tiếp hoặc gián tiếp có sự phê chuẩn của Quốc Hội. Bên cạnh những nhiệm vụ này, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội có nhiệm vụ riêng liên quan việc bảo đảm các điều kiện hoạt động của Quốc Hội, gắn liền với vai trò Chủ tịch Quốc Hội, và không cần phải có sự phê chuẩn đồng ý của Quốc hội. Ví dụ, như chủ toạ các phiên họp của Quốc Hội, lãnh đạo việc chuẩn bị, và chủ trì các kỳ họp của Quốc Hội, điều hoà phối hợp hoạt động giữa

các ủy ban và Hội đồng của Quốc Hội và giữ mối liên hệ với các Đại biểu Quốc Hội. Một

khi Quốc Hội có đầy đủ điều kiện và khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình, thì vai trò của  Uỷ  ban  thường  vụ  Quốc  Hội  sẽ  teo  đi,  chỉ  còn  lại  một  chức  năng  điều  khiển  các phiên họp của Quốc Hội của Chủ tịch Quốc Hội là đủ.

Nhận xét về Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Giáo sư Đoàn Trọng Tuyến viết:

"Cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao (Quốc Hội) lại ủy cái quyền tối cao ấy cho một cơ quan cho mình bầu ra là Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, trong khi Quốc Hội không họp. Cơ quan này có ba quyền lớn thuộc quyền lực tối cao. Đó là: Quyền lập pháp ra pháp lệnh (vì pháp lệnh thuộc quyền lực tối cao). Quyền nhân sự đối với Chính phủ (Phó Thủ tướng, Bộ trưởng)

và quyền giám sát giống như Quốc Hội. Thực chất Uỷ ban thường vụ Quốc Hội của Hiến pháp 1992 là Hội đồng Nhà nước của Hiến pháp 1980, trừ một số nhiệm vụ giao cho Chủ Tịch nước"(1)

2. Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc Hội

Hoạt động của Quốc Hội, như phần trên đã phân tích, đòi hỏi Quốc Hội phải quyết định nhiều vấn đề trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau. Để quyết định của Quốc Hội có hiệu lực trên thực tế, công việc chuẩn bị, xem xét, nghiên cứu và khởi thảo trước các dự án có ý nghĩa rất quan trọng. Đồng thời có những nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc Hội nếu được giải quyết bằng cách tập trung tất cả những đại biểu Quốc Hội, nhiều

khi không những không có hiệu quả, mà còn tốn kém. Do đó, Quốc Hội thành lập các bộ phận chuyên sâu bao gồm các đại biểu có những chuyên môn nghiệp vụ để nghiên cứu trước các dự án. Đó là các Uỷ ban Thường trực của Quốc Hội.

(3)  Xem Đoàn Trọng Tuyến Sđd Tr 31

(1)  Xem Đoàn Trọng Tuyến. Sđd. tr 31

Điều 95 Hiến pháp 1992 quy định: "Quốc Hội bầu ra các ủy ban của Quốc Hội, các

ủy ban của Quốc Hội nghiên cứu thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác, những báo cáo được Quốc Hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giao, trình Quốc hội,

Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ý kiến về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, thực hiện quyền  giám  sát  trong  phạm  vi  quyền  hạn  do  luật  định,  kiến  nghị  những  vấn  đề  thuộc phạm vi hoạt động của Uỷ ban".

Theo Luật tổ chức Quốc Hội, Quốc Hội được thành lập bảy Uỷ ban thường trực:

- Uỷ ban pháp luật;

- Uỷ ban kinh tế và ngân sách;

- Uỷ ban quốc phòng và an ninh;

- Uỷ ban giáo dục, thanh niên, thiếu niên, và nhi đồng;

- Uỷ ban các vấn đề xã hội;

- Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;

- Và Uỷ ban đối ngoại.

Thành phần của các Uỷ ban gồm có: Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm, và các uỷ viên

do Quốc hội bầu ra tại kỳ họp thứ nhất mỗi khoá Quốc Hội, theo danh sách đề cử chức vụ từng người của Chủ tịch Quốc Hội. Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm hợp thành thường trực Uỷ ban. Để các Uỷ ban có điều kiện hoạt động, Luật tổ chức Quốc Hội cho phép một

số Chủ nhiệm, và Phó Chủ nhiệm và Uỷ viên Uỷ ban hoạt động chuyên trách.

Khi xét thấy cần thiết, Quốc Hội thành lập ra Uỷ ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm

tra một dự án điều tra về một vấn đề nhất định.

- Uỷ ban pháp luật có những nhiệm vụ :

1.Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh về tổ chức bộ máy Nhà nước, về hình sự, dân sự, hành chính, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và các dự án khác do Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc Hội giao; Tham gia thẩm tra các dự án do Hội đồng Dân tộc, hoặc Uỷ ban khác của Quốc Hội yêu cầu thẩm tra, nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

Thẩm tra đề án thành lập, bãi bỏ các bộ và cơ quan ngang bộ, nhập; thành lập mới,

điều chỉnh địa giới Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương.

2.Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội thuộc các lĩnh vực

tổ chức bộ máy Nhà nước về hình sự, dân sự hành chính; Giám sát việc ban hành nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Hướng dẫn việc áp dụng pháp luật trong hoạt động kiểm sát, xét xử; Giám sát hoạt động của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

- Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách có nhiệm vụ:

1.Thẩm tra dự án luật, kiến nghị luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác thuộc các lĩnh vực quản lý kinh tế, hoạt động kinh doanh ngân sách và tài chính tiền tệ; Thẩm tra

dự án, kế hoạch kinh tế văn hóa - xã hội, dự toán ngân sách Nhà nước, phân bố ngân sách

Nhà nước và quyết toán ngân sách Nhà nước, các báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách Nhà nước và quyết toán ngân sách Nhà nước;

2.Giám sát thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quản lý kinh tế hoạt động kinh doanh, ngân sách, tài chính và tiền tệ, giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước và phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước.

- Uỷ ban Quốc phòng và An ninh có nhiệm vụ:

1.Thẩm tra các dự án luật, kiến nghị luật, dự án pháp luật và các dự án khác thuộc lĩnh vực quốc phòng và an ninh;

2. Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban thường

vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực quốc phòng an ninh; Giám sát việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và việc thực hiện ngân sách trong lĩnh vực này.

vụ:

- Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng có những nhiệm

1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, thể

thao và thanh niên, thiếu niên, nhi đồng và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ

Quốc hội giao;

2. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao và thanh niên, thiếu niên, nhi đồng; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong  việc  thực  hiện  chính  sách  về  văn  hóa,  giáo  dục,  thông  tin,  thể  thao  trong  các  kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; giám sát việc thực hiện chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;

3. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền

với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách;

4. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và

các vấn đề về phát triển văn hóa, giáo dục, thông tin, thể thao của đất nước, chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.

- Ủy ban về các vấn đề xã hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:

1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực lao động, y tế, xã hội, tôn giáo

và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao;

2. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực các vấn đề xã hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chính sách về các vấn đề xã hội trong

các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

3. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền

với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách;

4. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và các chính sách, biện pháp để giải quyết các vấn đề xã hội.

- Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường có những nhiệm vụ và quyền hạn:

1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ

môi trường sinh thái và các dự án khác do Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội giao;

2. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chính sách phát triển khoa học, công nghệ và bảo  vệ môi trường sinh thái trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;

3. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền

với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh Ủy ban phụ trách;

4. Kiến nghị các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan và

các vấn đề về chính sách đầu tư phát triển khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường sinh thái.

- Uỷ ban Đối ngoại có nhiệm vụ:

1. Thẩm tra dự án luật, kiến nghị về luật, dự án pháp lệnh và các dự án thuộclĩnh vực hoạt động đối ngoại của Nhà nước, công pháp và tư pháp quốc tế, báo cáo của Chính phủ

về công tác đối ngoại trình Quốc hội;

2. Giám sát việc thực hiện luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc Hội, Uỷ ban thường

vụ Quốc Hội thuộc lĩnh vực đối ngoại; Giám sát hoạt động của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách đối ngoại của các ngành và địa phương.

Thực hiện và giúp Quốc Hội thực hiện quan hệ đối ngoại với Quốc Hội các nước và liên minh Quốc Hội thế giới; Kiến nghị với Quốc Hội những vấn đề thuộc chính sách đối ngoại của Nhà nước, về quan hệ với Quốc Hội các nước, với liên minh Quốc Hội Thế giới và các tổ chức Quốc tế.

Trên lãnh thổ Việt nam từ ngàn xưa đã hình thành một Nhà nước nhiều dân tộc. Một trong những nhiệm vụ to lớn của cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao trong hoạt động của mình phải tính đến quyền lợi của các dân tộc. Để có cơ sở giải quyết vấn đề quan trọng này, ngay từ khi bầu cử, phải có đại diện của các dân tộc, nhất là những dân tộc thiểu số. Chính tính chất đại diện này, như trên đã phân tích là điều kiện nói lên quyền

lực tối cao của Quốc Hội trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Tính đại diện này không

dừng lại ở mức độ thành lập, mà ngay cả trong hoạt động cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất cũng phải tính đến quyền lợi của các dân tộc.

Để giải quyết vấn đề này, theo quy định của Hiến pháp 1980, Quốc hội thành lập Hội

đồng Dân tộc. Qua hơn 10 năm thực hiện Hiến pháp 1980, Hội đồng Dân tộc đã phát huy

vai trò quan trọng của mình là cơ quan của Quốc Hội, nghiên cứu và kiến nghị với  Quốc Hội nhiều vấn đề quan trọng về dân tộc. Hội đồng Dân tộc những năm nói trên đã có sự tham gia đông đảo các đại biểu đại diện cho ý chí và nguyện vọng của đồng bào các dân

tộc trong cả nước.

Kế thừa và tiếp tục khẳng định vị trí quan trọng Hội đồng Dân tộc của Hiến pháp

1980, Hiến pháp 1992 quy định:

Hội đồng dân tộc có những nhiệm vụ và quyền hạn:

1. Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và dự án khác liên quan đến vấn đề dân tộc;

2. Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội thuộc lĩnh vực dân tộc; giám sát hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ trong việc thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội miền núi, vùng có đồng bào dân tộc thiểu số;

3. Tham gia ý kiến về dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có liên quan đến vấn đề dân tộc và giám sát việc thực hiện các văn bản

đó;

4. Kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các vấn đề về chính sách dân

tộc của Nhà nước; các vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan hữu quan;

kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ

và các cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương về những vấn đề có liên quan đến dân tộc thiểu số.

Nói chung, về mặt nguyên tắc nhiệm vụ của Hội đồng cũng tương tự như nhiệm vụ của các Uỷ ban thường trực của Quốc Hội. Xét cho cùng thì Hội đồng Dân tộc cũng là một thứ Uỷ ban của Quốc Hội. Nhưng, lĩnh vực hoạt động ở đây là lĩnh vực các vấn đề

về dân tộc, nên có tầm quan trọng hơn cả. Để thấy rõ tính quan trọng đó, cơ quan nào giúp việc cho Quốc Hội về lĩnh vực này được gọi là Hội đồng chứ không gọi đơn giản là

ủy ban. Việc thành lập, cũng như nhiệm vụ của Hội đồng Dân tộc là vấn đề do Hiến pháp quy định (Hiến định). Trong khi đó việc thành lập Uỷ ban này, hay Uỷ ban khác và cũng như nhiệm vụ của từng Uỷ ban do Luật tổ chức Quốc Hội quy định. Điều này có nghĩa việc thay đổi tên gọi, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng Dân tộc chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở sửa đổi những quy định của Hiến pháp, công việc sửa đổi những quy định

về các Uỷ ban thường trực chỉ cần Quốc Hội thông qua bằng một đạo luật là đủ.

Hiến pháp năm 1992 còn có quy định mới so với Hiến pháp năm 1980 về mối quan

hệ giữa Hội đồng dân tộc với Chính phủ và Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội. Trước khi ban hành các quyết định về chính sách dân tộc, Chính phủ phải tham khảo ý kiến của Hội đồng Dân tộc; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc được tham dự các phiên họp của Chính phủ bàn việc thực hiện các chính sách dân tộc.

Như vậy, Hội đồng Dân tộc không những chỉ hoạt động trong phạm vi thẩm quyền của Quốc hội như các Uỷ ban thường trực của Quốc Hội khác, mà còn được tham gia vào

các hoạt động của Chính phủ, khi Chính phủ quyết định các vấn đề liên quan đến chính sách dân tộc.

Qua hoạt động của các Quốc Hội khoá VII, khoá VIII và khoá IX, chúng ta thấy hoạt động của Quốc Hội bao giờ cũng gắn liền với hoạt động của Hội đồng và các Uỷ ban. Cho nên việc nâng cao vị trí của Quốc Hội cũng đồng thời là việc nâng cao vị trí của Hội đồng và của các Uỷ ban.

3. Đại biểu Quốc Hội

Khác với các Nghị sỹ Quốc Hội các nước tư sản, các Đại biểu Quốc Hội nước ta phải gắn liền với cử tri và đơn vị bầu cử đã bầu ra họ. Để giúp đỡ các đại biểu hoàn thành nhiệm vụ lớn lao của mình, theo quy định của Hiến pháp, trong cơ cấu Quốc Hội còn có

các đoàn đại biểu. Các đại bíểu Quốc Hội được bầu ở các đơn vị bầu cử trong Tỉnh hoặc

Thành phố trực thuộc Trung ương họp thành đoàn đại biểu Quốc Hội.

Đoàn đại biểu Quốc Hội được lập ra để tổ chức hoạt động của đại biểu Quốc Hội,

tạo điều kiện để đại biểu Quốc Hội tiếp dân, tiếp xúc cử tri, báo cáo với cử tri và thu thập

ý kiến nguyện vọng của cử tri.

Đoàn đại biểu Quốc Hội không phải là một cấp quản lý đại biểu hay đơn vị sinh hoạt một cách đầy đủ của đại biểu. Mỗi đại biểu Quốc Hội do cử tri trực tiếp   bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhà nước trước, cử tri đơn vị bầu cử ra mình. Đoàn đại biểu Quốc Hội không hoạt động thay cho đại biểu mà chỉ tạo điều kiện để đại biểu hoạt động.

Trong thực tế hiện nay, khi trình độ đại biểu ở nước ta chưa đồng đều, phương tiện đi

lại khó khăn, khả năng hoạt động của các đại biểu khác nhau thì đoàn đại biểu Quốc Hội còn đóng vai trò nhất định. Vì vậy theo quy định mới mỗi đoàn đại biểu Quốc Hội sẽ bố

trí một hoặc hai đại biểu hoạt động chuyên trách để tổ chức và tạo điều kiện cho các đại biểu hoạt động. Nhưng những quy định cụ thể để đại biểu không dựa hẳn vào đoàn đại biểu. Ngược lại, cũng cần tránh tình trạng để các đoàn đại biểu quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc Hội.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn:

Trong  số  các  đại  biểu  Quốc  hội,  có  những  đại  biểu  hoạt  động  chuyên  trách  và  có những  đại  biểu  hoạt  động  không  chuyên  trách.  Số  lượng  đại  biểu  Quốc  hội  hoạt  động chuyên trách có ít nhất là hai mươi lăm phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội.

- Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm trước cử tri, đồng thời chịu trách nhiệm trước

Quốc hội về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình.

Đại biểu Quốc hội phải gương mẫu trong việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật, có cuộc sống lành mạnh và tôn trọng các quy tắc sinh hoạt công cộng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến pháp luật, động viên nhân dân chấp hành pháp luật và tham gia quản lý nhà nước.

- Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ tham gia các phiên họp toàn thể của Quốc hội, các cuộc họp của Tổ đại biểu Quốc hội, của Đoàn đại biểu Quốc hội; thảo luận và biểu quyết

các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Đại biểu Quốc hội là thành viên của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội có trách nhiệm tham gia các phiên họp, thảo luận, biểu quyết các vấn đề và tham gia các hoạt động khác thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội mà mình là thành viên.

Đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách được dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc để thực hiện nhiệm vụ đại biểu. Cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi đại biểu làm việc có trách nhiệm tạo điều kiện để đại biểu thực hiện nhiệm vụ.

- Đại biểu Quốc hội có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trước Quốc hội, dự

án pháp lệnh ra trước Ủy ban thường vụ Quốc hội theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy

định.

- Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng

Chính phủ và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện

trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời về những vấn đề mà đại biểu Quốc hội chất vấn.

Trong thời gian Quốc hội họp, đại biểu Quốc hội gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Người bị chất vấn có trách nhiệm trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp đó. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định cho trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.

Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, chất vấn được gửi đến Ủy ban thường vụ Quốc hội để chuyển đến cơ quan hoặc người bị chất vấn và quyết định thời hạn trả lời chất vấn.

Nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Chủ tịch

Quốc hội đưa ra thảo luận trước Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Khi cần thiết, Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn.

- Đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

- Đại biểu Quốc hội phải liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri, thường xuyên tiếp xúc với cử tri, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, kiến nghị của cử tri với Quốc hội và cơ quan nhà nước hữu quan.

Mỗi năm ít nhất một lần đại biểu Quốc hội phải báo cáo trước cử tri về việc thực hiện nhiệm vụ đại biểu của mình. Cử tri có thể trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc yêu

cầu đại biểu báo cáo công tác và có thể nhận xét đối với việc thực hiện nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội.

- Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp công dân. Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại,

tố cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu, kịp thời chuyển đến người có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người kiến nghị, khiếu nại, tố cáo biết; đôn đốc và theo dõi việc giải quyết. Người có thẩm quyền giải quyết phải thông báo cho

đại biểu Quốc hội về kết quả giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đó trong thời hạn theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Trong  trường  hợp  xét  thấy  việc  giải  quyết  kiến  nghị,  khiếu  nại,  tố  cáo  không  thỏa

đáng, đại biểu Quốc hội có quyền gặp người đứng đầu cơ quan hữu quan để tìm hiểu, yêu

cầu xem xét lại. Khi cần thiết, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu người đứng đầu cơ

quan hữu quan cấp trên của cơ quan đó giải quyết.

- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của công dân, đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi trái pháp luật

đó. Trong thời hạn  ba  mươi  ngày,  kể  từ ngày  nhận  được  yêu  cầu,  cá  nhân,  cơ  quan,  tổ

chức, đơn vị phải thông báo cho đại biểu Quốc hội biết việc giải quyết. Quá thời hạn nói trên mà cá nhân, cơ quan, tổ chức, đơn vị không trả lời thì đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với người đứng đầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên, đồng thời báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

- Khi thực hiện nhiệm vụ đại biểu, đại biểu Quốc hội có quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. Người đứng đầu cơ

quan, tổ chức, đơn vị đó trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có trách nhiệm tiếp

và đáp ứng những yêu cầu của đại biểu Quốc hội.

- Đại biểu Quốc hội có quyền tham dự kỳ họp Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình

được bầu, có quyền phát biểu ý kiến nhưng không biểu quyết.

Chủ tịch Hội đồng nhân dân các cấp thông báo cho đại biểu Quốc hội biết ngày họp

Hội đồng nhân dân cấp mình, mời đại biểu tới dự và cung cấp tài liệu cần thiết.

- Đại biểu Quốc hội không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy mức

độ phạm sai lầm mà bị Quốc hội hoặc cử tri bãi nhiệm.

Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định việc đưa ra Quốc hội bãi nhiệm hoặc cử tri nơi bầu ra đại biểu bãi nhiệm đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Ủy ban trung ương Mặt trận

Tổ quốc Việt Nam, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc của cử tri nơi bầu ra đại biểu Quốc hội đó.

Trong trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm phải được

ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.

Trong trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội thì việc bãi nhiệm được tiến hành theo thể thức do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

- Đại biểu Quốc hội có thể xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu vì lý do sức khỏe hoặc vì lý

do khác. Việc chấp nhận đại biểu Quốc hội xin thôi làm nhiệm vụ do Quốc hội quyết định; trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội thì do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

- Trong thời gian làm nhiệm vụ đại biểu được hưởng quyền miễn trừ1:

Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội

và không được khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội. Việc đề nghị bắt giam, truy tố, khám xét nơi ở và nơi làm việc của đại biểu Quốc hội thuộc thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải

lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định.

Trong  trường  hợp  đại  biểu  Quốc  hội  bị  truy  cứu  trách  nhiệm  hình  sự  thì  Ủy  ban thường vụ Quốc hội quyết định tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội đó.

Đại biểu Quốc hội bị Tòa án kết án thì đương nhiên mất quyền đại biểu Quốc hội, kể

từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

Đại biểu Quốc hội không thể bị cơ quan, đơn vị nơi đại biểu làm việc cách chức, buộc thôi việc, nếu không được Ủy ban thường vụ Quốc hội đồng ý.

- Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được bố trí nơi làm việc và các điều kiện cần thiết khác cho hoạt động đại biểu của mình.

Khi đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách thôi làm nhiệm vụ đại biểu thì cơ quan,

tổ chức có thẩm quyền có trách nhiệm bố trí công tác cho đại biểu Quốc hội.

1  Quyền miễn trừ của đại biểu Quốc hội được hình thành từ quyền miễm trừ của nghị sỹ tư sản. Nhưng ngày này

quyền này cũng không còn ý nghĩa nữa. Thành viên Quốc hội, cũng như bất kỳ ai khác có thể bị bắt giữ khi vi phạm pháp luật. Xem Abuot America  The Constitution of

Thời gian đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách được tính vào thời gian công tác liên tục.

Lương, các chế độ khác của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và các khoản phụ

cấp của đại biểu Quốc hội do Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.

V. KỲ HỌP QUỐC HỘI

Địa vị pháp lý của Quốc Hội không những chỉ được nói lên từ cách thức thành lập, từ thẩm quyền, từ cơ cấu, mà còn được khắc hoạ lên từ những hoạt động. Xuất phát từ đặc điểm các đại biểu Quốc Hội, những thành viên Quốc Hội được bầu từ các đơn vị (hạt) bầu cử có địa vị pháp lý như nhau, cho nên các đại biểu Quốc Hội có nhiệm vụ, quyền hạn như nhau.

Vì vậy, những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc Hội phải có các đại biểu tham gia quyết định, phải bàn bạc, và quyết định theo đa số. Vì lẽ đó nhiều người còn gọi Quốc

hội là cơ quan "nghị họp".

Kỳ họp Quốc Hội là hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc Hội, nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực Nhà nước của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, trí

tuệ của tập thể đại biểu Quốc Hội và quyền giám sát của Quốc Hội đối với hoạt động của các cơ quan Nhà nước.

Quốc Hội họp thường lệ mỗi năm hai kỳ, một kỳ vào giữa năm và một kỳ vào cuối năm. Ngoài các kỳ họp thường lệ, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, có thể triệu tập Quốc Hội họp bất thường theo quyết định của mình, theo yêu cầu của Chính phủ hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc Hội.

So với hình thức tổ chức hoạt động khác của Quốc Hội thì kỳ họp là hình thức hoạt động có ưu thế hơn cả. Chỉ có kỳ họp, Quốc Hội mới thông qua được những quyết định chính thức của mình - Các văn bản pháp luật, kể cả Hiến pháp đến các nghị quyết khác. Nhiều mâu thuẫn phát sinh giữa các cơ quan Nhà nước, về mặt Nhà nước theo tinh thần của Hiến pháp không thể giải quyết được một cách chính thức ở đâu ngoài kỳ họp của Quốc Hội. Các hình thức hoạt động khác như hoạt động của Hội đồng, của các Uỷ ban -

chỉ là hình thức trợ giúp, để trên kì họp Quốc Hội thực hiện một cách chính xác nhiệm vụ quyền hạn của Quốc Hội. Dưới góc độ tính toàn quyền, tập trung quyền lực vào trong tay Quốc Hội, thì nhiệm vụ quyền hạn của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội thì cũng mang tính giúp việc cho Quốc Hôi.

Chính trên kỳ họp, quyền lực của Quốc Hội được thể hiện một cách đầy đủ nhất, mọi vấn  đề  quan  trọng  nhất  của  đất nước  thuộc nhiệm  vụ, quyền  hạn  của  Quốc Hội  được Hiến pháp quy định tại điều 84, chỉ được Quốc Hội thảo luận và chính thức quyết định

tại kỳ họp của Quốc Hội.

Để bảo đảm cho kỳ họp có hiệu quả thực sự, mọi kỳ họp phải tiến hành theo một trình tự bắt buộc. Trình tự tiến hành các kỳ họp của Quốc Hội được quy định một số điểm chính các điều khoản của Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc Hội. Những quy định này được

chi  tiết hoá trong Nội quy kỳ họp Quốc Hội. Tiến trình kỳ họp thường được chia làm ba giai đoạn: Chuẩn bị kỳ họp, thảo luận, và thông qua các dự án. Ngoài trình tự trên, Nội quy kỳ họp có quy định cách thức tiến hành kỳ họp thứ nhất, trình tự tiến hành chất vấn,

trả lời chất vấn và trình tự lập pháp.

1. Việc chuẩn bị và triệu tập kỳ họp

Để đảm bảo chất lượng kỳ họp, việc chuẩn bị đóng vai trò rất to lớn. Việc chuẩn bị

kỳ họp bao gồm nhiều hoạt động khác nhau, do nhiều cơ quan đảm nhiệm như xây dựng

các dự án trình Quốc Hội, điều tra, nghiên cứu, thu thập tình hình thực tế và ý kiến của nhân dân về các vấn đề liên quan đến kỳ họp. Việc chuẩn bị kỳ họp thu hút sự tham gia của đông đảo các cơ quan Nhà nước, của Hội đồng và các ủy ban của Quốc Hội, của bản thân mỗi đại biểu Quốc Hội.

Trước khi triệu tập kỳ họp, Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội dự kiến chương trình làm việc của kỳ họp; xem xét việc chuẩn bị các dự án và rà soát lại các khâu chuẩn bị.

Dự kiến chương trình kỳ họp phải được gửi đến các đại biểu chậm nhất là một tháng trước khi Quốc Hội họp để các đại biểu nghiên cứu và góp ý kiến.

Việc triệu tập kỳ họp thường lệ của Quốc Hội phải được quyết định và thông báo chậm nhất là hai mươi ngày (đối với các kỳ họp bất thường là năm ngày) trước khi Quốc Hội họp. Chậm nhất là mười lăm ngày trước khi Quốc Hội họp, dự kiến chương trình kỳ họp thường lệ được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Chương trình làm việc của Quốc Hội do Quốc hội quyết định.

2. Trình tự xem xét và thông qua dự án

Tại kỳ họp Quốc hội thông qua các dự án kế hoạch Nhà nước, các báo cáo, dự án luật

và dự án khác. Các dự án thường được xem xét theo trình tự sau:

a- Trình bày dự án trước Quốc Hội

Để Quốc hội xem xét và quyết định cơ quan hoặc người trình dự án phải trình bày trước Quốc Hội. Khi trình bày cần làm rõ yêu cầu xây dựng dự án, nội dung cơ bản của

dự án, các bước chuẩn bị đã tiến hành, tài liệu tham khảo, việc chỉnh lý dự thảo và toàn văn dự thảo. Đối với dự án luật thì do cơ quan hoặc người trình dự án quy định tại Điều

87 của Hiến pháp trình bày. Đối với dự án kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước thì thường là do Chính phủ trình bày.

b- Thuyết trình việc thẩm tra dự án

Sau khi nghe cơ quan hoặc người trình dự án trình bày, Quốc Hội nghe thuyết trình viên của Hội đồng hoặc ủy ban của Quốc Hội được giao thẩm tra dự án, báo cáo ý kiến của Hội đồng hoặc ủy ban về dự án đó. Nếu là kỳ họp thứ nhất của Quốc Hội khoá mới

thì thuyết trình viên do Chủ tịch Quốc Hội khoá trước chỉ định.

Thuyết trình viên phải nêu lên những mặt được và những tồn tại của dự án,   đồng thời phát biểu ý kiến về việc có thể chấp nhận dự án được hay không. Nếu cần khắc phục

thì khắc phục những điều nào trong dự án.

c. Thảo luận dự án

Các dự án được Quốc hội xem xét và thảo luận ở tổ hoặc tập trung tại hội trường. Càng ngày, hình thức thảo luận tập trung tại hội trường càng được sử dụng, thảo luận hội trường trở thành sinh hoạt sôi nổi và tập trung của Quốc Hội. Đây là nơi va chạm của các quan điểm giữa quyền lợi cục bộ và toàn cục. Kết quả cuối cùng phương án được lựa chọn là phương án tối ưu hợp với đa số. Thảo luận ở tổ hay ở hội trường được quyết định phụ thuộc vào mức độ phức tạp của vấn đề. Điều quan trọng nhất là phải làm sao tạo điều kiện để các đại biểu phát biểu hết và thể hiện đúng ý kiến của mình, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân mà đại biểu là người đại diện.

d. Biểu quyết thông qua dự án

Biểu quyết là hình thức thể hiện quan điểm của đại biểu Quốc Hội về một vấn đề, một dự án. Biểu quyết cũng là cách thức thấm dứt việc thảo luận.

Các dự án có thể được Quốc Hội thông qua bằng cách biểu quyết từng vấn đề; Biểu quyết những vấn đề được đưa ra thảo luận , sau đó biểu quyết toàn bộ hoặc biểu quyết toàn bộ một lần. Vấn đề cần biểu quyết do Quốc hội quy định.

Các kỳ  họp  Quốc Hội kết thúc bằng việc Quốc Hội thông qua các quyết định  của mình dưới dạng luật và nghị quyết.

Luật, nghị quyết của Quốc Hội phải được quá nửa tổng số đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành, trừ các trường hợp Quốc hội bãi nhiệm đại biểu Quốc Hội, việc rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ Quốc Hội thì phải được ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc Hội biểu quyết tán thành. Luật và nghị quyết của Quốc Hội phải có chữ ký của Chủ tịch Quốc Hội,

và phải  được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày được thông qua.

Luật là một loại văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao ban hành, có hiệu lực pháp lý sau Hiến pháp, nhằm mục đích cụ thể hoá Hiến pháp, dựa trên cơ sở của Hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất ổn định liên quan đến quyền lợi của mọi công dân, đến cộng đồng quốc gia, đến nhiều tầng lớp dân cư, trong nhiều lĩnh vực của đời sống Nhà nước và xã hội.

Nghị quyết là văn bản được Quốc Hội ban hành có hiệu lực pháp lý dưới luật và Hiến pháp nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng thuộc chính sách quốc gia và những vấn đề thường mang tính nhất thời, áp dụng cho trường hợp cụ thể không mang tính quy phạm.

Ví dụ, các nghị quyết chia tỉnh, thành lập bộ...

Các kỳ họp của Quốc hội thường có ý nghĩa rất quan trọng đối với đời sống xã hội của quốc gia. Các kỳ họp Quốc hội xem xét và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau. Trong

đó kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc Hội có ý nghĩa quan trọng gọi là kỳ họp đặc biệt, bắt đầu cho một khoá họp của Quốc hội.

Bắt đầu từ kỳ họp này các cơ cấu tổ chức và người đứng đầu các cơ quan Nhà nước

Trung ương được cơ cấu lại. Người ta thường gọi kỳ họp này là kỳ họp tổ chức. Kỳ họp

thứ nhất của mỗi khóa Quốc Hội do Chủ tịch Uỷ ban thường vụ Quốc Hội khoá trước khai mạc và chủ toạ cho đến khi Quốc hội bầu ra Chủ tịch Quốc hội khoá mới.

Trong phiên họp đầu tiên của mỗi khoá Quốc hội, Quốc Hội bầu ra Uỷ ban thẩm tra

tư cách đại biểu để tiến hành thẩm tra tư cách của các đại biểu Quốc hội .

Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội, Quốc Hội tiến hành bầu cử các chức danh lãnh đạo cao cấp của Nhà nước. Bằng cách bỏ phiếu kín, Quôc Hội bầu Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc Hội, các phó Chủ tịch Quốc hội, các Uỷ viên

Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội, Thủ tướng Chính phủ; Phê chuẩn việc bổ nhiệm các Phó Thủ tướng và các thành viên của Chính phủ, Chủ tịch, các Phó chủ tịch, Thư ký Hội đồng Dân tộc; Chủ nhiệm các Uỷ ban Thường trực Quốc Hội, các uỷ viên Hội đồng Dân tộc,

các thành viên khác của các uỷ ban của Quốc hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao; Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

3. Chất vấn và trả lời chất vấn

Chất vấn là biện pháp thực hiện hữu hiệu quyền giám sát của Quốc Hội. Chất vấn thực sự phát huy tác dụng tại các kỳ họp Quốc Hội. Chất vấn bao giờ cũng là một nội dung chương trình của các kỳ họp Quốc Hội. Trong chương trình kỳ họp Quốc Hội dành một thời gian thích đáng cho chất vấn và trả lời chất vấn. Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc Hội, của Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội đòi hỏi một cơ quan, một nhà chức

trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về vấn

đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn.

Chất  vấn  cũng  là  một  dạng  câu  hỏi  nhưng  chất  vấn  hoàn  toàn  khác  câu  hỏi  bình thường. Nếu câu hỏi thường đặt ra chỉ nhằm mục đích để thu thập thông tin thì chất vấn được đặt ra nhằm để quy kết trách nhiệm. Khi chất vấn, vấn đề nêu lên đã được đại biểu điều tra, nghiên cứu  kỹ và đã có chủ định về trách nhiệm của cơ quan hoặc người bị chất vấn. Khi chất vấn đã nêu lên, buộc cơ quan hoặc người bị chất vấn dẫn đến kết luận áp dụng hay không áp dụng các biện pháp trách nhiệm, kỷ luật nhà nước đối với cơ quan hoặc người bị chất vấn.

Thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được quy định rõ trong Hiến pháp, luật và các văn bản khác.

Đại biểu Quốc Hội, Hội đồng và các Uỷ ban của Quốc Hội có quyền chất vấn Chính phủ và các thành viên của Chính phủ. Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Khi Quốc Hội họp, đại biểu Quốc hội gửi những chất vấn đến Chủ tịch Quốc Hội để

Chủ tịch Quốc hội chuyển cho các cơ quan hoặc người bị chất vấn. Cơ quan hoặc người

bị chất vấn phải trả lời trước Quốc Hội tại kỳ họp đó của Quốc Hội. Trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội quyết định thời gian trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc Hội hoặc tại kỳ họp sau của Quốc Hội. Quốc Hội có thể bố trí thời gian để các đại biểu phát biểu ý kiến về việc trả lời chất vấn. Khi cần thiết, Quốc Hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ra nghị quyết về việc trả lời và trách nhiệm của những cơ quan hoặc người bị chất vấn.

4. Trình tự lập pháp của Quốc Hội

Như các phần trên đã nêu, lập pháp là một chức năng cơ bản của Quốc Hội. Không một cơ quan Nhà nước nào trong bộ máy Nhà nước ngoài Quốc Hội có quyền ban hành

các quy phạm luật có hiệu lực pháp lý tối cao, buộc mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức

xã hội và mọi công dân sống trên lãnh thổ nước ta đều phải thi hành.

Để các văn bản luật thực sự thể hiện ý chí của Quốc hội, của nhân dân thông qua các

đại biểu được nhân dân bầu ra, hoạt động lập pháp phải tuân theo những quy định nhất định.  Những  quy  định  này  được  gọi  là  trình  tự  lập  pháp.  Trình  tự  này  được  quy  định trong Hiến pháp, trong Luật tổ chức Quốc Hội và trong Nội quy kỳ họp Quốc Hội.

Quy trình này được bắt đầu bằng sáng kiến pháp luật. Điều 87 Hiến pháp quy định: Chủ Tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật ra trước Quốc Hội.

Đại biểu Quốc Hội có quyền trình kiến nghị về luật và dự án luật ra trước Quốc Hội. Quyền trình dự án luật được thực hiện dưới dạng trình dự án luật mới, dự án luật sửa

đổi luật hiện hành.

Quy định trên khác với Hiến pháp 1980, đại biểu Quốc Hội không chỉ có quyền trình

dự án luật mà còn có quyền trình những kiến nghị luật.

Thực tế cho thấy hơn 90% tổng số các dự án luật đều do Hội đồng Bộ trưởng trước đây và Chính phủ theo hiến pháp hiện hành trình. Tỷ lệ này cũng tương đương với Nghị viện của nhiều nước tư bản. Trong số 25 luật được Quốc Hội khoá VIII thông qua có tới

24 luật do Hội đồng Bộ trưởng trình dự án(1). Để nâng cao chất lượng các văn bản luật và tăng cường tính chủ động trong công tác chuẩn bị các dự án luật của các cơ quan, các tổ chức xã hội và của các đại biểu Quốc Hội, Hiến pháp quy định Quốc Hội phải xây dựng chương trình lập pháp của mình và cho cả Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Để tạo cơ sở cho hoạt động lập pháp của Quốc Hội đi vào nền nếp, có kế hoạch, Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Quốc Hội quy định nhiệm vụ của Quốc Hội là quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh cho cả khoá Quốc Hội và chương trình hàng năm theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội.

Việc thông qua chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn quan  trọng  vì  nó  giúp  cho  Quốc  Hội  chủ  động  xem  xét,  ban  hành  văn  bản  luật  theo chương trình đã được quyết định, làm cho hoạt động lập pháp của Quốc hội thống nhất

với chương trình lập pháp của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội cùng chương trình lập quy

của Chính phủ.

Luật tổ chức Quốc Hội không quy định cụ thể nội dung của chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Nhưng thực tế chuẩn bị và thực hiện các kế hoạch xây dựng luật, pháp lệnh trong thời gian qua, chương trình lập pháp thường nêu rõ:

Danh mục các văn bản luật, pháp lệnh ban hành mới hoặc sửa đổi; Cơ quan, cá nhân,

tổ chức trách nhiệm soạn thảo và trình Quốc hội; Hội đồng Dân tộc và Uỷ ban của Quốc Hội chịu trách nhiệm thẩm tra, làm báo cáo trình Quốc Hội, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Thời điểm ban hành văn bản...

Dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chuẩn bị phải được sự tham gia đóng góp ý kiến của các ngành liên quan. Uỷ ban thường vụ Quốc Hội với tư cách là cơ quan trình Quốc Hội quyết định chương trình xây dựng luật, đánh giá tính khả thi và sự cần thiết ban hành các văn bản, đồng thời có kế hoạch ưu tiên điều kiện vật chất và tập trung

trí tuệ cho việc soạn thảo những văn bản pháp luật, pháp lệnh có tính cấp bách đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội.

Sau khi xây dựng xong dự án luật, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội phải chuyển dự án về Uỷ ban pháp luật và các Uỷ ban khác có liên quan xem xét, thẩm tra trước. Trên cơ  sở  thảo luận dự án Uỷ ban pháp luật và các Uỷ ban khác có liên quan chuẩn bị báo cáo thẩm tra dự án bằng tờ trình trước Quốc Hội.

Các kiến nghị về luật của đại biểu Quốc Hội phải được chuyển về Uỷ ban pháp luật hoặc các Uỷ ban khác có liên quan để các Uỷ ban này nghiên cứu trước.

Chức năng chủ yếu của Quốc Hội là làm luật, do vậy các dự án luật không phải chỉ

do Uỷ ban pháp luật chịu trách nhiệm thẩm tra, mà các Uỷ ban khác và Hội đồng dân tộc trong phạm vi, lĩnh vực được phân công cũng có trách nhiệm thẩm tra, đóng góp ý kiến.

Lẽ đương nhiên, với tư cách là cơ quan chuyên giúp Quốc Hội về lĩnh vực lập pháp, các

Uỷ ban khác phải chịu trách nhiệm thẩm tra về mặt nội dung, còn kỹ thuật lập pháp do

Uỷ ban pháp luật đảm nhiệm

Sau khi xem xét, thảo luận dự án, Uỷ ban pháp luật, các Uỷ ban khác có liên quan làm báo cáo thẩm tra trình Quốc hội. Báo cáo này còn gọi là "Báo cáo thuyết trình" hay còn gọi là Báo cáo thẩm tra dự án. Nội dung phải nêu rõ quan điểm của mình về sự cần

(1)  Báo cáo kiểm điểm hoạt động của Hội đồng bộ trưởng, nhiệm kỳ Quốc hội khoá VIII.

thiết của dự án, những vấn đề, những điều khoản cần phải có sự thảo luận kỹ của Quốc hội, và ý kiến của Uỷ ban (Hội đồng) về những vấn đề đó.

Giai đoạn trình dự án luật được kết thúc bằng việc các chủ thể sáng kiến pháp luật

đọc "tờ trình" dự án trước Quốc hội. Nội dung của "tờ trình" phải nêu rõ sự cần thiết của

dự án luật, tổng quan những quy phạm pháp luật đã có từ trước đến nay  về lĩnh vực mà

dự án luật yêu cầu điều chỉnh. Những nội dung tư tưởng chính của dự án và quá trình chuẩn bị dự án.

Sau khi nghe báo cáo của cơ quan sáng quyền lập pháp, Quốc Hội nghe "Báo cáo thẩm tra" của Uỷ ban pháp luật và của các Uỷ ban thường trực Quốc Hội có liên quan.

Cách thức thảo luận có thể được Quốc Hội quyết định cho từng dự án. Quốc Hội có

thể thảo luận từng chương từng điều của dự án hoặc có thể thảo luận từng vấn đề có mâu thuẫn.

Luật cũng như các nghị quyết khác của Quốc Hội phải được quá nửa tổng số đại biểu

Quốc Hội biểu quyết tán thành, trừ trường hợp thông qua hoặc sửa đổi  Hiến pháp.

Với tính chất quan trọng của dự án luật, một khi đã được thông qua, có tác dụng ảnh hưởng đến nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều ban ngành trong bộ máy Nhà nước, nên việc thông qua phải thận trọng. Chính vì vậy, nhiều dự án được Quốc Hội xem xét trong nhiều

kỳ họp khác nhau. Thậm chí còn đưa ra cho nhân dân đóng góp ý kiến. Dựa trên sự tham

gia đóng góp của nhân dân và các ý kiến thảo luận của Quốc Hội tại các kỳ họp trước, dự

án được chuẩn bị lại, sau đó Quốc Hội tiến hành thảo luận lại và thông qua dự án luật.

Với tầm quan trọng của kỳ họp là một hình hoạt động chủ nhất thể hiện quyền lực của mình, Quốc Hội mỗi đã nhiệm kỳ hoạt động đều thông qua quy chế điều chỉnh hoạt động của Quốc Hội diễn ra trong một kỳ họp gọi là Nội quy kỳ họp. Một trong những vấn

đề trọng tâm của Nội quy nay là việc quy định cách thức thảo luận và thông qua một dự

án luật. Thông thường mỗi một dự án luật được thảo luận và thông qua hai lần ở hai kỳ họp khác nhau. Kỳ họp trước Quốc Hội thảo luận và thông qua những nguyên tắc chủ đạo cho dự thảo. Các cơ quan dự thảo căn cứ vào ý kiến của Quốc Hội tại kỳ họp trước

mà chuẩn bị kỹ hơn dự thảo. Dự thảo được chuẩn bị lại sẽ được Quốc Hội thảo luận chi tiết và thông qua tại kỳ họp sau.

Xem  Hộp dưới đây

Bàn về Triết lý của lập pháp

TS. Nguyễn Sĩ Dũng

Làm thế nào để các văn bản luật pháp của chúng ta thật sự cũng là những sản phẩm có chất lượng cao? Câu hỏi này là hết sức hệ trọng. Tuy nhiên, chúng ta khó

có thể tìm được những câu trả lời theo kiểu “một cộng một bằng hai” ở đây. Để trả

lời câu hỏi này, các vấn đề về nhận thức, khái niệm và công nghệ đều có ý nghĩa quan trọng như nhau. Dưới đây là đôi điều về những vấn đề này.

Trước hết, về vấn đề nhận thức. Toàn bộ vấn đề nhận thức nằm ở khả năng xác định vị trí của pháp luật trong đời sống xã hội. Xin được phân tích điều này trên cơ sở một ví dụ hết sức thú vị về cuộc đời của Rôbinxơn Kruxô trên hoang đảo (Chúng ta chắc ai cũng biết câu chuyện này của nhà văn Anh Daniel Diphô). Trên hoang đảo, tự do ngự trị trong đời sống của Rôbinxơn: tự do hoàn toàn và

tự do tuyệt đối. Pháp luật không hề tồn tại trên hòn đảo đó. Tuy nhiên, khi anh chàng Thứ Sáu xuất hiện, mọi chuyện bắt đầu thay đổi. Một loạt những chuẩn mực  được  hình  thành  để  điều  chỉnh  quan  hệ  giữa  Rôbinxơn  và  Thứ  Sáu.  Các chuẩn mực này có thể được tuân thủ một cách tự nguyện vì lợi ích chung của hai người và vì những thôi thúc của đạo đức. Và hai người có thể sống với nhau như

thế suốt đời, nếu không xẩy ra chuyện vào một ngày đẹp trời Thứ Sáu đã không tuân thủ một chuẩn mực nào đó và Rôbinxơn bắt buộc phải áp dụng hình phạt. Vào ngày hôm đó pháp luật đã ra đời. Ví dụ giản dị này cho thấy mấy điều sau đây:

1. Tự do có trước pháp luật;

2. Quyền tự do của con người là một quyền tự nhiên;

3. Quan hệ giữa con người với con người được điều chỉnh bởi lợi ích, đạo

đức v.v. và pháp luật;

4. Pháp luật là cách điều chỉnh phức tạp và nhạy cảm hơn;

5.  Các  chuẩn  mực  mang  tính  quy  phạm  pháp  luật  chỉ  có  nghĩa  khi  “Thứ

Sáu” tuân thủ được và “Rôbinxơn” có khả năng áp đặt việc tuân thủ;

6. Bao giờ cũng tồn tại vấn đề nan giải về tính hợp pháp của chủ thể có quyền xác lập quy phạm và áp dụng chế tài (Tại sao Rôbinxơn lại có quyền đề ra chuẩn mực và áp đặt chế tài, chứ không phải là ngược lại?).

Ngoài ra, việc khẳng định Rôbinxơn có tự do hoàn toàn và tự do tuyệt đối nói ở phần trên chỉ có nghĩa là tự do về mặt xã hội. Rôbinxơn không thể tự do đối với pháp luật của tự nhiên (Ví dụ, đói thì phải ăn; khát thì phải uống v.v.).

Như vậy, chúng ta lại có thể thấy tiếp như sau:

Một là, tự do là một giá trị tự thân và là một giá trị tuyệt đối. Ngược lại, pháp luật là một sự cần thiết, một giá trị có điều kiện. Tự do và pháp luật tồn tại trong mối tương quan tỷ lệ nghịch với nhau. Xác định vị trí của pháp luật nghĩa

là xác định việc hạn chế quyền tự do có phải là hoàn toàn cần thiết hay không? Nếu câu trả lời là có, xã hội sẽ có thêm sự ràng buộc của pháp luật. Nếu câu trả

lời là không, những lĩnh vực của đời sống xã hội chưa bị pháp luật điều chỉnh vẫn là thiên đường của tự do.

Hai là, mối quan hệ giữa con người với con người được điều chỉnh bởi lợi

ích  và  nhiều  loại  quy  phạm  khác  nhau.  Nếu  lợi  ích  và  các  các  loại  quy  phạm khác vẫn còn có thể phát huy tác dụng, thì không nên lạm dụng pháp luật. Đây là cách điều chỉnh tốn kém hơn và ảnh hưởng đến quyền tự do của con người.

Ba là, các quy phạm pháp luật do con người đặt ra phải tránh sự  xung đột với các quy phạm của pháp luật tự nhiên. Trong mọi cuộc xung đột, cuối cùng bao giờ pháp luật tự nhiên cũng sẽ chiến thắng.

Và trên đây, xin được coi là những điều cơ bản nhất liên quan đến vấn đề

nhận thức về pháp luật.

Hai là, về vấn đề khái niệm. Xét về mặt khái niệm, sự tương tác (Có học giả gọi là sự tranh chấp. Tác giả bài viết này xin tránh cách gọi như vậy) giữa Hành pháp và Lập pháp là động lực của hoạt động sáng tạo pháp luật. Điều này được

lý giải như sau: để cai quản đất nước, pháp luật là công cụ quan trọng và mạnh

mẽ nhất của Hành pháp. Với công cụ này, các cơ quan hành pháp có thể áp đặt việc tuân thủ và đè bẹp sự chống đối. Trong khi, công cụ pháp luật là một sự cần thiết và trong nhiều trường hợp là không thể thiếu, các đạo luật mới luôn luôn gắn với việc trao thêm quyền cho các cơ quan hành pháp và hạn chế quyền tự do của người dân. Lập pháp, với tư cách là cơ quan đại diện cho dân, sẽ phản biện

lại các chính sách pháp luật mà Hành pháp đã đề ra. Đây là lúc Lập pháp thực hiện chức năng làm luật trong mối tương quan chặt chẽ với chức năng đại diện

và chức năng giám sát. Một đạo luật sẽ được Lập pháp thông qua, nếu lợi ích của đất nước và nhu cầu của sự phát triển biện hộ được cho việc điều chỉnh hành

vi của người dân.

Thiếu sự tương tác này giữa Lập pháp và Hành pháp, thì cho dù quy trình lập pháp có được thiết kế tinh vi đến đâu chăng nữa, nó cũng chỉ là một quy trình nhân tạo. Sản phẩm tất yếu của một quy trình nhân tạo là các đạo luật nhân tạo. Các  đạo  luật  nhân  tạo  không  cần  cho  cuộc  sống.  Nhà  nước  vẫn  có  thể  áp  đặt chúng cho xã hội. Tuy nhiên, những cố gắng như vậy không sớm thì muộn sẽ làm cho các cơ quan của Nhà nước hụt hơi. Cuộc sống, như ao bèo, sẽ phẳng lặng trở

lại sau một hồi xao động.

Ba là, về vấn đề công nghệ làm luật. Công nghệ hiện đại thì sản phẩm có chất lượng cao; công nghệ lạc hậu thì sản phẩm kém chất lượng. Điều này đúng cho mọi sản phẩm, trong đó có cả các sản phẩm của hoạt động lập pháp.

Nhân nói về công nghệ, những chiếc kẹo Hải Hà mà chúng ta được thưởng thức hôm nay đã ngon hơn rất nhiều lần so với trước. Tuy nhiên, có vẻ như mọi thứ chẳng có gì thay đổi: đường thì vẫn là   đường ấy; sữa- vẫn là sữa ấy; bột- vẫn là bột ấy; thậm chí công nhân- vẫn là những công nhân ấy. Cái duy nhất đã thay đổi là công nghệ: Chúng ta đã nhập khẩu và áp dụng công nghệ làm kẹo hiện đại của Nhật Bản. Những gì chúng ta làm được với chiếc kẹo, thì cũng có

thể làm được với nhiều thứ khác, trong đó có pháp luật. Tại Kỳ họp thứ 3 lần này của Quốc hội, công nghệ làm luật của nước ta sẽ được đổi mới một bước. Quốc hội bắt đầu thông qua các dự luật qua hai giai đoạn: tại Kỳ họp trước Quốc hội

sẽ  thảo  luận  và  cho  ý  kiến  về  những  vấn  đề  lớn-  Ban  soạn  thảo  có  thời  gian nghiên cứu tiếp thu – tại Kỳ họp tiếp theo, Quốc hội thảo luận và biểu quyết về những vấn đề còn có ý kiến khác nhau và thông qua toàn văn dự luật. Cho dù, chúng ta chưa thể   nói gì nhiều về chuyện nâng cao chất lượng, cách làm này chắc chắn sẽ hiệu quả hơn. Ít nhất thì nó cũng sẽ góp phần khắc phục hiện tượng “làm văn tập thể”. “Văn mình, vợ người”, đã tranh luận về chuyện văn chương

và câu chữ, thì biết đến bao giờ mới dứt!Mà thời gian là tiền bạc (Để so sánh, thời gian trung bình để thông qua một đạo luật ở Nghị viện của Australia là 2,8

giờ). Chưa nói đến việc lãng phí thần kinh thì cũng là một sự lãng phí .

Những cố gắng trong việc đổi mới quy trình lập pháp ở Quốc hội là rất quan trọng. Tuy nhiên, đây chỉ là công đoạn sau của quy trình làm ra luật. Một công trình đã mắc lỗi

ở khâu thiết kế, thì những cố gắng ở khâu thi công không phải bao giờ cũng có ích. Công đoạn  Chính  phủ  của  quy  trình  lập  pháp  chính  là  khâu  thiết  kế  của  “công  trình  pháp luật”. (Một số văn bản pháp luật có thể do các chủ thể khác soạn thảo, nhưng số lượng của các văn bản này là không đáng kể). Nếu vấn đề phát sinh trong cuộc sống không được nhận thức rõ ràng, và chính sách đề ra để xử lý vấn đề đó cũng không rõ nốt, chúng

ta sẽ có những dự thảo văn bản pháp luật nói tới tất cả mọi chuyện trên đời. Tất cả đều đúng,  tất  cả  đều  cần  thiết,  thế  nhưng  triển  khai  những  văn  bản  đó  vào  cuộc  sống  thì không  thể  làm  được.  Soạn  thảo  văn  bản  pháp  luật  trước  khi  nghiên  cứu  và  phân  tích chính sách, cũng giống như việc kê đơn mà bỏ qua công đoạn khám bệnh vậy. Rủi ro của việc làm cho con bệnh trầm trọng thêm là rất lớn. (tôi nhấn mạnh -NĐD

Tóm lại, lập pháp là một thiết chế  với những triết lý sâu xa. Tuy nhiên, cho dù sâu xa đến mấy, thì “châu Mỹ” cũng đã  được khám phá từ lâu. Vấn đề là chúng ta nên tận dụng những thành tựu đã được khám phá, hay nhất quyết đi tìm “châu Mỹ” của mình?"

Tia sáng số  7 năm   2003

VI. ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI

Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho nhân dân, do nhân dân bầu ra, thay mặt nhân dân trong cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.

Đại biểu Quốc Hội có địa vị pháp lý rất đặc biệt. Đó là người đại diện của nhân dân

đồng thời là đại biểu cấu thành cơ quan quyền lực Nhà nước. Đại biểu Quốc Hội là cầu

nối quan trọng giữa chính quyền Nhà nước với nhân dân. Đại biểu Quốc Hội, vừa chịu trách  nhiệm  trước  cử  tri  vừa  chịu  trách  nhiệm  trước  cơ  quan  quyền  lực  nhà  nước  cao nhất. Trong khi làm nhiệm vụ, đại biểu Quốc Hội phải xuất phát từ lợi ích chung của cả nước, đồng thời quan tâm chính đáng đến lợi ích của địa phương đã bầu ra mình, phải căn

cứ vào pháp luật nhà nước và những quy định của chính quyền Nhà nước ở địa phương.

Địa vị pháp lý của đại biểu (bao gồm: nhiệm vụ, quyền hạn) được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc Hội, quy chế đại biểu Quốc Hội. Nhiệm kỳ của đại biểu mỗi khoá Quốc Hội bắt đầu từ kỳ họp thứ nhất của khoá Quốc Hội đó đến kỳ họp thứ nhất của khoá Quốc Hội sau.

Đại biểu Quốc Hội có những nhiệm vụ cơ bản sau đây:

- Thu thập và phản ảnh ý chí nguyện vọng của nhân dân;

- Biến ý chí, nguyện vọng của nhân dân thành ý chí Nhà nước, thành các quy định của pháp luật.

- Đưa các quy định của pháp luật vào thực tế cuộc sống.

Nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc Hội tập trung chủ yếu ở kỳ họp Quốc Hội. Đại biểu Quốc Hội có nhiệm vụ tham gia các kỳ họp Quốc hội, tích cực góp phần làm cho các kỳ họp Quốc Hội đạt kết quả tốt. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất của đại biểu Quốc Hội. Nơi tham gia kỳ họp có nghĩa là đại biểu Quốc Hội phải tham gia đầy đủ các phiên họp toàn thể cuả Quốc Hội, các sinh hoạt tổ đại biểu và đoàn đại biểu Quốc Hội,

sinh hoạt các tổ chức của Quốc Hội mà đại biểu là thành viên nhằm giải quyết những vấn

đề thuộc chương trình kỳ họp Quốc Hội.

Khi tham gia kỳ họp đại biểu có quyền tham gia quyết định chương trình kỳ họp, nêu những  vấn  đề  đề nghị  Quốc  Hội  xét  và  quyết  định bổ  xung  vào  Chương  trình  kỳ  họp Quốc Hội. Đại biểu Quốc Hội có quyền trình dự án luật ra trước Quốc Hội. Trình tự dự

án luật như đã trình bày ở phần trên. Đây là quyền quan trọng của Đại biểu Quốc Hội, nhưng thực tế cho thấy rất ít trường hợp đại biểu Quốc Hội có đủ khả năng và điều kiện thực hiện quyền này. Đại biểu Quốc Hội có quyền chất vấn Chính phủ và các thành viên của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

tối cao. Thủ tục chất vấn và trả lời chất vấn được quy định cụ thể trong Hiến pháp, luật và quy chế. Đại biểu Quốc Hội có quyền tham gia thảo luận, tranh luận hoặc tham gia về các vấn đề ghi trong chương trình kỳ họp toàn thể  Quốc Hội, tại các cuộc họp tổ, đoàn hoặc

các tổ chức khác của Quốc Hội mà đại biểu là thành viên. Khi phát biểu, đại biểu Quốc Hội có thể được uỷ nhiệm thay mặt đoàn đại biểu Quốc Hội, thay mặt toàn thể, tổ chức của mình hoặc nhân danh cá nhân. ý kiến phát biểu của đại biểu Quốc Hội được ghi vào biên bản, tổng hợp và sử dụng. Đại biểu Quốc Hội chịu trách nhiệm về ý kiến phát biểu của  mình.  Đại  biểu  Quốc  Hội  không  bị  truy  cứu  trách  nhiệm  về  ý  kiến  phát  biểu  của mình. Đại biểu Quốc Hội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những lời phát biểu của mình trước Quốc Hội.

Đại biểu Quốc hội có quyền tham gia bầu cử và có thể được bầu vào các cơ quan Nhà nước, các chức danh lãnh đạo, các tổ chức của Quốc Hội. Các đại biểu Quốc Hội được quyền tự do thể hiện quan điểm của mình về mọi vấn đề đưa ra Quốc Hội, quyết định bằng cách biểu quyết thông qua vấn đề đó. Đại biểu Quốc Hội có quyền biểu quyết tán thành, không tán thành hoặc bỏ quyền biểu quyết.

Giữa hai kỳ họp Quốc Hội, đại biểu có những nhiệm vụ giữ mối liên hệ chặt chẽ với

cử tri, tiếp xúc, gặp gỡ cử tri, sau mỗi kỳ họp, đại biểu Quốc Hội tiếp xúc cử tri để phổ biến nội dung kỳ họp và động viên nhân dân thực hiện nghị quyết của kỳ họp Quốc Hội, phải định kỳ tiếp xúc cử tri, thường xuyên gặp gỡ trao đổi với nhân dân để nắm tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, phản ảnh tâm tư, nguyện vọng đó với Quốc Hội và các cơ quan Nhà nước khác.

Tiếp dân là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi đại biểu. Đại biểu Quốc Hội tiếp dân theo định kỳ , theo lịch tại trụ sở tiếp dân và tiếp dân tại nhà, tại nơi công tác. Đại biểu tiếp  dân  để  nghe  nhân  dân  góp  ý  xây  dựng  Nhà  nước,  đồng  thời  giúp  dân  giải  quyết những thắc mắc, khiếu nại và tố cáo.

Ít nhất mỗi năm một lần đại biểu Quốc Hội phải báo cáo với cử tri về việc thi hành nhiệm vụ đại biểu, nghe cử tri phát biểu ý kiến nhận xét về hoạt động của đại biểu và của Quốc Hội.

Khi nhận được kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân đại biểu Quốc Hội có trách nhiệm nghiên cứu, chuyển đến các cơ quan có trách nhiệm giải quyết, theo dõi và đôn đốc việc giải quyết, báo cáo cho đương sự biết kết quả giải quyết.

Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại tới lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của công dân, đại biểu Quốc Hội có quyền yêu cầu các cơ quan Nhà nước và những người có trách nhiệm thi hành những biện pháp cần thiết để kịp thời chấm

dứt những việc làm trái pháp luật đó.

Đại biểu Quốc Hội có quyền gặp gỡ và yêu cầu các cơ quan Nhà nước, các tổ chức

xã  hội  cung  cấp  tình  hình  và  tài  liệu  cần  thiết  liên  quan  đến  hoạt  động  của  đại  biểu.

Những người phụ trách các cơ quan và tổ chức này có nhiệm vụ tiếp và đáp ứng các yêu cầu của đại biểu.

+ Đại biểu Quốc Hội có nhiệm vụ tham gia các hoạt động của đoàn đại biểu Quốc

Hội theo chương trình và lịch làm việc của đoàn.

+ Đại biểu Quốc Hội có quyền tham dự hội nghị Hội đồng nhân dân các cấp nơi mình bầu ra. Đại biểu tham dự hội nghị nhằm mục đích nắm tình hình và tìm hiểu nguyện vọng của nhân dân. Tham gia ý kiến vào các vấn đề quản lý Nhà nước và các vấn đề có quan

hệ đến đời sống nhân dân địa phương, tuyên truyền, phổ biến pháp luật.

+ Đại biểu Quốc Hội là thành viên của Hội đồng và Uỷ ban của Quốc Hội có nhiệm

vụ tham gia hoạt động, hoàn thành các phần việc được phân công, tham gia sinh hoạt đều

đặn theo chương trình và kế hoạch của Hội đồng và các Uỷ ban đó.

+ Đại biểu Quốc hội có nhiệm vụ giữ quan hệ và thông báo tình hình hoạt động của mình với Chủ tịch Quốc Hội, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc địa phương,

Trong số đại biểu Quốc hội có những đại biểu làm việc theo chế độ chuyên trách. Đại biểu theo chế độ chuyên trách phải dành hết thời gian cho hoạt động của Quốc hội, hưởng lương do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định theo quy định của Luật tổ chức Quốc Hội.

ít nhất là phải có một số đại biểu làm việc chuyên trách để bố trí công việc ở các Hội

đồng, Uỷ ban của Quốc Hội. Ở mỗi đoàn đại biểu Quốc hội sẽ có khoảng một hoặc hai

đại biểu chuyên trách. Luật cũng quy định điều kiện bảo đảm để đại biểu yêu cầu hoạt

động cho Quốc Hội. Đại biểu chuyên trách được bố trí nơi làm việc ở trụ sở Quốc hội tại

trụ sở các đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương.

Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế nơi đại biểu làm việc trước

khi hoạt động chuyên trách có trách nhiệm tiếp nhận và bố trí việc làm cho đại biểu sau

khi hét nhiệm kỳ. Thời gian hoạt động chuyên trách, đại biểu được tính vào thời gian công tác liên tục của đại biểu.

Đại biểu hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm đước dành ít nhất một phần thời gian làm việc để làm nhiệm vụ đại biểu Quốc Hội.

Trong  thời gian  làm  nhiệm vụ  đại  biểu  Quốc  Hội,  đại  biểu  không  thể bị  bắt  giam hoặc truy tố nếu không có sự đồng ý của Quốc Hội và trong thời gian Quốc  Hội không họp, không có sự đồng ý của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Chỉ có Viện trưởng Viện kiểm

sát nhân dân tối cao mới có quyền đề nghị bắt giam hoặc truy tố đại biểu Quốc Hội. Nếu

vì phạm pháp bắt quả tang mà bị giam giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Uỷ

ban thường vụ Quốc Hội xem xét và quyết định (Điều 51, Luật tổ chức Quốc Hội).

Đại biểu Quốc Hội không thể bị cách chức, buộc thôi việc, nếu không được Uỷ ban thường vụ Quốc hội đồng ý.

Những quy định này nhằm đảm bảo để đại biểu Quốc Hội hoạt động, với tư cách là người đại diện cho nhân dân. Ai cản trở đại biểu Quốc Hội làm nhiệm vụ sẽ bị xử lý theo pháp luật. Những quyền này trong thuật ngữ pháp lý là quyền miễn trừ đại biểu.

Đại biểu được cung cấp đầy đủ tài liệu và thông tin cần thiết để hoạt động. Theo quy

định hiện hành, đại biểu Quốc Hội được cung cấp công báo, các văn kiện chính thức của

kỳ họp Quốc Hội, các tài liệu khác mà Chủ tịch Quốc Hội xét có thể giúp đại biểu trong hoạt động của mình.

Đại biểu Quốc Hội được thông báo trước khi Quốc Hội họp ít nhất 20 ngày. Trong trường hợp bất thường phải được thông báo ít nhất 5 ngày trước khi họp. Những báo cáo

tài liệu cần thiết có liên quan đến kỳ họp phải được gửi đến đại biểu Quốc Hội trước khi

Quốc Hội họp.

Ở  địa phương, đại biểu  Quốc Hội được cung cấp báo và các văn  bản có tính chất pháp luật của địa phương, được thông báo tình hình, tài liệu cần thiết, được mời dự hội nghị Hội đồng nhân dân nơi đại biểu được bầu ra.

Đại biểu Quốc Hội được tạo điều kiện thuận lợi để làm nhiệm vụ đại biểu; Được bố

trí thời gian và địa điểm gặp gỡ tiếp xúc cử tri, xắp xếp thời gian và phương tiện; Được

đài thọ lương và phụ cấp trong thời gian tạm thời không làm công tác thường xuyên của mình để làm nhiệm vụ đại biểu; Được quyền ưu tiên mua vé tầu xe, máy bay... Được hưởng chế độ cung cấp thuốc men, nằm bệnh viện theo tiêu chuẩn cán bộ trung cấp.

Đại  biểu  Quốc  Hội  được  hưởng  một  khoản  hoạt  động  phí  hàng  năm  do  Uỷ  ban thường vụ Quốc Hội quy định. Khoản hoạt động phí này, hiện nay không lớn nhưng có

tác  dụng  thiết  thực  một  mặt  gíup  đại  biểu  hoạt  động,  mặt  khác  nhắc  nhở  đại  biểu  về

nhiệm vụ của mình.

Hãy xem Hộp dưới đây:

Thử bàn về tương lai của

CÔNG TÁC

DÂN NGUYỆN QUỐC HỘI

Nguyễn Đăng Dung

1. Từ nhu cầu phải tăng cường công tác dân nguyện của Quốc Hội,

Trong  Báo  cáo  dẫn  đề  của  Hội  thảo  về  Công  tác  Dân  nguyện  Quốc  Hội được tổ chức vào tháng 12 năm 2005, tại thành phố Hồ Chí Minh, Ông Phó Ban Dân Nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội trăn trở:

« Cuộc sống muôn màu, muôn vẻ hàng chục triệu cử tri đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, làm sao để cử tri nói thật, nói hết. Bằng phương pháp nào để tập hợp được hết, hiểu được hết. Làm sao phân loại, xử lý và chuyển tải được hết những  ý  kiến,  kiến  nghị  của cử  tri  đến  những  cá  nhân  và  tổ  chức  có  trách

nhiệm để xử lý. Làm sao để có kết quả xử lý tạo niềm tin cho cử tri, để họ tiếp tục tin Quốc Hội. ..

Đây là một chu trình khép kín, hàng loạt hoạt động xử lý, đòi hỏi phải được tiến hành một cách rất công phu, tỷ mỉ, chu đáo ».1

Làm tốt công tác dân nguyện không phải là công việc dễ.  Từ cả chỗ phải có

sự tổng kết những việc đã làm được và chưa làm được của những năm trước đây, đến chỗ thậm chí có thể phải chỉnh lý lại một số những nhận thức đã hình  thành  vào  những  năm  trước  đây  của  thời  kỳ  cơ  chế  cũ,  tập  trung  kế hoạch. Trước phải về mặt tổng kết cần phải nhận thấy rằng công tác tiếp dân,

1  Xem, Báo cáo về công tác dân nguyện của Ông Nguyễn Đăng Đại , tại Hội nghị về công tác Dân nguyện tháng 12

năm 2005

tiếp xúc cử tri nắm ý nguyện cử tri của Quốc Hội đã có một bước tiến rất dài,

từ không đến có:

- Từ không có tiếp dân, tiếp xúc cử tri đến có tiếp dân, tiếp xúc với cử tri trước và sau kỳ họp Quốc Hội;

- Từ chỉ tổ chức tiếp dân cho các chuyên viên giúp việc ở trung ương, Văn phòng Quốc hội cho đến đã tổ chức cho các đoàn đại biểu Quốc Hội tiếp dân

ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

- Sự thành lập ra Ban Dân nguyện của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

- Đến việc các đại biểu đã có các cuộc tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ

họp Quốc hội.

Nhưng để có những thành công tiếp theo cần phải có nhiều việc phải làm, thậm  chỉ cần  có  những  bước  ngoặc  cả về  mặt  nhận  thức  tư  tưởng.  Chế  độ chính trị của nhà nước chúng ta là chế độ chính trị dân chủ, nên việc tổng hợp lấy ý kiến của dân được rất nhiều tổ chức, cơ quan và các thể chế chính

trị khác nhau thực hiện. Muốn có những thắng lợi, việc lấy ý kiến nhân dân của Quốc Hội tìm ra những nét đặc thù rất khác với của các cơ quan, tổ chức

khác. Những nét đặc thù này luôn gắn với chức năng của Quốc Hội, cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước có chức năng lập pháp và quyết định các

chính sách quan trọng liên quan đến quốc kế dân sinh. Vì vậy, trước hết việc tổng hợp ý nguyện của dân chỉ phát huy được tác dụng khi có tác động làm thay đổi chương trình lập pháp và làm việc của Quốc Hội, rồi đến có thể làm

thay đổi các dự thảo chủ trương, đường lối chính sách thể hiện trong dự thảo luật được  dự  trình,  sau  đấy  là  làm  thay  đổi  các  quyết  về  nhân  sự,  dự toán ngân sách của các cơ quan nhà nước trung ương…

Kết quả của công tác dân nguyện phụ thuộc là rất lớn, nó phụ thuộc   vào khả năng vận động sử dụng quyền hạn cũng như kỹ năng sử dụng quyện hạn đến đâu của các đại biểu Quốc Hội trước mỗi ý nguyện của dân.

Các khiếu kiện, tố cáo, cũng như ý nguyện của người dân  đến với các nghị

sỹ/đại biểu cũng có cách thức giải quyết khác với các cơ quan nhà nước khác.

Nó không được giải quyết ngay và trực tiếp, mà chỉ có tác dụng thúc đẩy việc giải quyết, kể cả những mô hình obuschman của người Thụy điển, cho đến mô

hình hòa giải của Viện nghiên cứu của Nhà Vua bên Thái Lan. Nhưng sự thúc đẩy này có một ý nghĩa rất to lớn, có thể dẫn đến thay đổi cả một chế độ, cả một chính sách, cả một đường lối phát triển của một quốc gia.

Trong một nhà nước dân chủ hiện nay, kể cả của phương Tây và của các nước xã hội chủ nghĩa đang trên con đường chuyển đổi, Chính phủ và các Đảng cầm quyền luôn luôn có quyền trình ra các chính sách thông qua việc trình các dự án luật trước Quốc Hội, có thể gọi là nhu cầu lập pháp của hành pháp.1  Mặc  dù  mọi  nhà  nước  dân  chủ  đều  được  tuyên  bố  là  nhà  nước  của nhân dân, nhưng với bộ máy làm việc chuyên nghiệp gắn với mục tiêu của đảng cầm quyền, các dự án của chính quyền đều có xu hướng thoát ly cuộc

1  Xem, Nguyễn Đăng Dung :  Nhu cầu lập pháp của Hành pháp/ Hiến kế lập pháp Văn phòng Quốc Hội , số   năm

2005.

sống đầy sôi động của thực tế. Với tư cách là cơ quan đại diện của nhân dân, Quốc Hội phải phản ánh tố ý chí của người dân vào các quyết định của các

cơ quan nhà nước.  Vai trò của lập pháp của Quốc Hội không phải nằm ở chỗ

quyết định và thông qua các dứan luật từ khâu chuẩn vị cho đến khâu cuối cùng là biểu quyết thông qua, mà theo thời gian chỉ còn là chỉnh lý và chính thức hóa các quyết sách cảu các cơ quan hành pháp. Công tác dân nguyện của Quốc hội vì vậy ngày càng trở nên cấp bách của hoạt động lập pháp.

Tại sao vậy?

Vì chỉ có thông qua công tác  dân nguyện thì Quốc Hội mới có khả năng thực hiện chức năng xã hội của mình. Có lẽ trong tương lai Quốc Hội không

chỉ là cơ quan lập pháp chung chung nữa, mà phải chuyển thành cơ quan làm công tác dân nguyện trong khuôn khổ của chức năng lập pháp. Với mục đích

lấy  dân  nguyện  làm  cơ  sở  cơ  bản  nhất  trong  việc  chỉnh  sửa  lại  những  chủ trương, chính sách của Chính phủ trong các dự thảo luật đệ trình Quốc Hội thông qua.

Nhìn dưới góc độ này công tác Dân nguyện trở thành một công tác chính

yếu của Quốc Hội. Cũng không khác hơn công việc này trở thành một công việc chính yếu của từng người đại biểu được nhân dân trực tiếp bầu ra, vì Quốc Hội là cơ quan đại diện được hình thành bằng các hoạt động có quyền hạn ngang nhau của các thành viên. Thông qua công việc lấy ý nguyện của cử

tri bằng nhiều hình thức khác nhau, mà người đại biểu Quốc Hội nói riêng và

cả của Quốc Hội nói chung thực hiện tốt chức năng lập pháp của mình.

Trong những hình thức lấy ý kiến nguyện vọng của cử tri, vận động hành lang theo cách gọi thuật ngữ của nước ngoài là lobby có một ý nghĩa rất lớn. Lobby có một lịch sử rất gắn bó với hoạt động của nền dân chủ nghị viện. Thuở ban đầu lobby cũng bị lịch sử dị nghị như là nạn bè phái cần phải loại trừ, nhưng với sự phát triển của lịch sử, lobby được thừa nhận một cách công khai, và được luật hóa ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hơn hẳn các phương thức vận động của ý nguyện khác, vận động hành có tác dụng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả bỏ phiếu của nghị sỹ.

2.  Đến  Lobby  –  một  kinh  nghiệm  của  thế  giới  /Áp  dụng  Lobby  vào  Vi ệt

Nam. Tại sao không? Cơ sở của vấn đề.

Thứ nhất, đó là cơ sở của tuyên bố: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình

đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể tước đoạt, trong những quyền  đó  có  quyền  được  sống,  được  tự  do  và  được  mưu  cầu  hạnh  phúc”  / Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ Quốc 1776 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng

9 năm 1945.

Thế nào là quyền được mưu cầu hạnh phúc: Phải chăng đó không phải là những quyền bảo đảm cho người dân có cơ hội cho việc sự vận dụng nhân

lực, vật lực sẵn có của mình để tìm kiếm hạnh phúc một cách không vi phạm

đến quyền lợi của người khác.

Trong khi Quốc Hội đang thảo luận và đi đến những quyết định, mà họ tin chắc rằng sẽ ảnh hưởng đến tương lai và hạnh phúc của họ, sao lại ngăn cản

người ta không được tiếp xúc, không được gây ảnh hưởng đến quyết định đó

của Quốc Hội, thông qua việc vận động đến việc bỏ phiếu quyết định của các

đại biểu / nghị sỹ do chính họ bầu ra;   về nguyên tắc các người nghị sỹ này phải có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ. Không làm như vậy

là một cách vô tình hay cố ý chính là một trong những biểu hiện quan trọng ngăn cản quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân, mà đáng lý ra nhà nước thông qua các quy định các thể chế khác nhau của mình phải có trách nhiệm

đảm bảo cho quyền đó của người dân không bị vi phạm.

Thứ hai, đó là quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp cung cấp các cơ

sở pháp lý “những nhóm lợi ích đặc biệt”. Các nhóm lợi ích ra đời nhằm bảo

vệ những lợi ích về kinh tế. Vận động hành lang như là một chức năng của các hiệp hội nghề nghiệp mà không hẳn của các đảng phái chính trị.

Trong  một nền  kinh  tế  thị  trường  nhiều  thành  phần dẫn đến  lợi  ích của  nhiều  tầng  lớp  cư  dân  là  khác  nhau.  Xuất  hiện  các  nhóm  lợi  ích  khác nhau. Các nhóm lợi ích là sản phẩm của các phong trào xã hội, phát triển qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử Thế giới từ những ý nguyện cụ thể

của những người dân bình thường nhất. Chẳng hạn các phong trào đấu tranh

bãi bỏ chế độ nô lệ, đòi tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc, đòi quyền bình đẳng của phụ nữ…

Các nhóm lợi ích ra đời nhằm tìm kiếm lợi ích từ chính phủ trong lĩnh vực  kinh  tế  và  cả  lĩnh  vực  chính  trị,  tinh  thần.  Đặc  biệt,  khi  chính  phủ  mở rộng các hoạt động của mình thì đồng thời cũng xuất hiện thêm các nhóm lợi

ích để gây ảnh hưởng tới chính sách của chính phủ nhằm nâng cao lợi ích của họ. Chẳng hạn như sự ra đời của các tổ chức hưu trí, cựu chiến binh, hay

cả những nhóm lợi ích thuộc Chính phủ như Liên Hiệp Quốc gia các thành

phố, Liên đoàn các Thị trưởng…

Các nhóm lợi ích ra đời cũng nhằm đối phó với những quy định của chính phủ. Khi có thêm các công việc kinh doanh và nghề nghiệp hoạt động

dưới  sự  điều  hành  của  nhà  nước,  nhiều  tổ  chức  mới  lại  ra  đời  để  bảo  vệ những lợi ích của họ. Các nhóm lợi ích này thường là những hiệp hội nghề nghiệp có hiểu biết sâu về lĩnh vực của mình. Trong số này, những nhóm lớn

và mạnh như Hiệp hội y tế Mỹ, Hội luật gia Mỹ, Hiệp hội quốc gia các đài

phát thanh...

Thứ ba, đó là vấn đề của hoạt động nghị viện đều phải quay trở lại nguyên tắc “Hãy trả lại quyền cho người đại biểu.” Với trách nhiệm to lớn

đại diện cho ý chí của nhân dân, người đại biểu phải có nghĩa vụ thu thập ý kiến,  nguyện  vọng  của  cử  tri,  và  chuyển  tải những  ý  kiến  nguyện  vọng  vào

hoạt động đại biểu của mình, mà nhất là trong việc bỏ phiếu thong qua các quyết định của Quốc Hội.

Thời kỳ phong kiến ý nguyện của nhân dân ta được thông qua Hội nghị Diên Hồng là một thí dụ điển hình. Điểm cần phải lưu ý là ý nguyện đó đã tác động trực tiếp đến Nhà Vua – chủ thể quyết định cuối cùng của chế độ chính trị này.

Vậy thì ngày nay khi nhà Vua của chế độ chính trị phong kiến không còn nữa, thì ý nguyện của dân phải tác động đến đâu, đến chủ thể nào là vấn đề cần  phải  được  nghiên  cứu.  Và  đâu  là  khâu  quyết  định  cuối  cùng  của  các quyết  sách  quốc  gia.  Với  tư  cách  là  nhà  nước  của  dân,  do  nhân  dân  và  vì nhân dân, theo Hiến pháp quy định mọi cơ quan nhà nước, mọi công chức cho đến nhân viên nhà nước đảm trách các nhiệm vụ của nhà nước đều phải

có trách nhiệm lấy ý kiến nguyện của nhân dân, nhưng trách nhiệm nặng nề nhất của công việc này là Quốc Hội. Vì Quốc Hội là cơ quan duy nhất do nhân dân toàn quốc bầu ra. Vì  vậy, ý nguyện của nhân dân phải tác động đến các quyết định của Quốc Hội.

Lobby/ vận động hành lang có ý nghĩa rất lớn cho việc tác động rất có  hiệu quả đến hoạt động của Quốc Hội, cũng như làm nâng cao tính hiệu quả hoạt động thiết thực của các đại biểu Quốc Hội. Nhưng bên cạnh điểm lợi như vậy, lobby cũng có những điểm rất có hại, nếu không có động tác phòng ngừa tốt.

Ví dụ như sự xa ngã vì đồng tiền của các vị đại biểu khi họ bị các nhóm lợi

ích mua chuộc. Khắc phục chuyện yếu  điểm này cần phải có luật quy định tính  minh  bạch,  và  công  bằng  của  hoạt  động  lobby.  Không  phải  vì  thế  mà chúng ta không áp dụng.

VII. QUỐC HỘI TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.Sự cần thiết của Quốc hội trong một nhà nước pháp quyền

Xu hướng chung của các quốc gia trong thế giới hiện đại là xây dựng nhà nước pháp  quyền.  Xây  dựng  nhà  nước  pháp  quyền  trở  thành  một  đòi  hỏi  cấp  bách  của  nhà nước Việt Nam  hiện nay trên con đường hiện đại hoá và công nghiệp hoá đất nước.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quan trọng này về mặt học thuật bên cạnh việc cần

phải hiểu được khái niệm cũng như nội dung các yếu tố câú thành nhà nước pháp quyền một cách chung, mà còn phải thấu hiểu một cách cụ thể các yếu tố cấu thành của nhà nước pháp quyền. Các yếu tố cấu thành nhà nước pháp quyền là rất khác nhau theo các quan điểm khác nhau của các nhà nghiên cứu khoa học. Nhưng điểm chung nhất được nhiều người thừa nhận trước hết nhà nước đó phải là một nhà nước hợp pháp, sau đấy là nhà nước đó phải có hiến pháp, phải có pháp luật vì con người, việc tổ chức quyền lực nhà nước phải tuân theo nguyên tắc phân quyền ....

Phải nói rằng tất cả các yếu tố nêu trên đều đòi hỏi có một cơ quan lập pháp có những tiêu chí đòi hỏi riêng. Hay nói một cách khác trong một nhà nước pháp quyền không thể không có quốc hội (lập pháp).

Trong  nhà  nước  pháp  quyền  không  thể  thiếu  vắng  vai  trò  của  cơ  quan  đại  diện  là Quốc hội. Lý thuyết về cơ quan đại diện và thực tiến thành lập Quốc hội gắn liền với  lí thuyết về nhà nước pháp quyền. Những lí thuyết gia về nhà nước cũng chính là những người đề xuất tư tưởng đại diện và cũng chính tư tưởng của họ ảnh hưởng về mặt thực

tiễn là việc thành lập Quốc hội trong nhà nước tư sản.  Có thể nói rằng tư tưởng về thành

lập cơ quan đại diện (Quốc hội) là một nội dung trong lí thuyết về nhà nước pháp quyền.

Sở dĩ như vậy là vì Quốc hội là một định chế có vai trò quan trong trong việc thực hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.

Ngày nay, Quốc hội mặc dù có những tên gọi rất khác nhau như Nghị viện, Xô viết

tối cao, Hội đồng các dân tộc…, nhưng đều là một định chế không thể thiếu trong bất cứ quốc gia dân chủ nào. Quốc hội chính thức ra đời từ sau cách mạng tư sản. Trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với giai cấp phong kiến, giai cấp tư sản đã đạt được sự hạn chế quyền  lực  của  vương triều  phong  kiến  bằng  cách  thành  lập  bên  cạnh  nhà  Vua  một  cơ quan gọi là Nghị viện hoặc thiết lập chế độ công hoà dân chủ thừa nhận quyền của những người có của. Những cách thức này đã được xác lập và mặt hình thức bởi Hiến pháp. Nghị viện sinh ra cùng với sự xuất hiện của Hiến pháp và tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân.

Trước hết, sự hiện diện của Quốc hội khẳng định chủ quyền nhân dân và cơ sở

hợp pháp của chính quyền.

Một trong những nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền là chủ quyền nhân dân. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước nhận quyền lực từ nhân dân. Việc nhận

quyền  lực  từ  nhân  dân  khẳng  định  tính  hợp  pháp  của  chính  quyền.  J.Locke  cho  rằng:

chính quyền được tạo dựng trên cơ sở sự bằng lòng của dân chúng và hành động của chính quyền không được sự đồng lòng của dân chúng là không có giá trị hay không được

uỷ quyền. Không cơ quan nào khác hơn, Quốc hội phúc đáp một cách đầy đủ nhất nhu cầu của nhà nước pháp quyền về sự bằng lòng của dân chúng đối với chính quyền và do

đó tạo cơ sở cho tính hợp pháp của chính quyền.

Phương thức để nhân dân uỷ thác quyền lực cho người đại diện chính là việc nhân dân thông qua bầu cử để thành lập ra Quốc hội.   Lý thuyết đại diện là cơ sở tưởng cho việc thành lập Quốc hội. Quốc hội là một kênh để nhân dân thực hiện quyền lực của nhân dân. Do đó sự hiện diện của Quốc hội  nói lên nguồn gốc quyền lực nhà nước từ từ nhân dân. Sự tồn tại Quốc hội phủ nhận quan điểm thần quyền giả thích quyền lực nhà nước từ những lực lượng siêu nhiên như Chúa Trời, Thượng Đế hay từ một ý niệm tuyệt đối theo chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Nhân dân thành lập ra Quốc hội và đến lượt mình Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc thành lập ra các cơ quan nhà nước khác. Điều này tuỳ thuộc vào các loại hình chính thể.

Quốc hội của những nhà nước có hình thức chính thể cộng hoà đại nghị tham gia vào việc thành lập người đứng đầu nhà nước, chính phủ, cơ quan tư pháp. Thí dụ, theo quy định   của Hiến pháp Cộng hoà Liên bang Đức 1949, Tổng thống liên bang do hai viện của Quốc hội cùng đại diện cơ quan lập pháp của các chủ thể liên bang bầu ra, Thủ

tướng liên bang do Bundextas (Hạ viện) bầu theo đề nghị của Tổng thống liên bang, thẩm phán của Toà án Hiến pháp liên bang do hai viện của Quốc hội bầu ra.

Quốc hội của các nước quân chủ đại nghị chỉ tham gia vào việc thành lập chính phủ. Ở những nước này, Chính phủ do người đứng đầu nhà nước thành lập nhưng cần phải nhận được sự tín nhiệm của Quốc hội. Thí dụ,  Theo Hiến pháp Tây Ban Nha 1978, Thủ tướng Chính phủ do Nhà Vua bổ nhiệm trên cơ sở sự tín nhiệm của  viện Đại biểu(

hai viện).

Quốc  hội  củacác  nước  cộng  hoà  lưỡng  tính  không  những  tham  gia  thành  lập

Chính phủ mà còn thành lập cơ quan tư pháp. Thí dụ, theo Hiến pháp Cộng hoà Ba Lan

1997 Thủ tướng và các thành viên chính phủ do Tổng thống bổ nhiệm, trong thời hạn 14 ngày kể từ ngày bổ nhiệm, Thủ tướng phải đệ trình trước Xâyim (Hạ viện) chương trình hành động của Chính phủ(1).

Trong chính thể cộng hoà Tổng thống, Quốc hội cũng có vai trò quan trọng trong

việc  thành  lập  nên  các  cơ  quan  nhà  nước.  Thí  dụ,  ở  Mĩ,  mặc  dù  ba  ngành  quyền  lực

(1)  Vũ Hồng Anh. Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới. NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội,  tr201

ngang hàng song ngành lập pháp thường đi đầu trong việc hình thành cơ cấu và trách nhiệm của hai ngành kia. Hiến pháp có đề cập các ban,  bộ và quan chức hành pháp, song

lại  không  nêu  cụ  thể  cơ  cấu  và  trách  nhiệm  của  họ,  ngoài  các  trách  nhiệm  của  tổng thống.(1)Như vậy, cơ cấu tổ chức của ngành  hành pháp được giải thích rõ ràng trong các

đạo luật do Quốc hội phê chuẩn và Tổng thống ký. Trừ Toà án tối cao liên bang do Hiến

pháp trực tiếp thành lập, các  toà án khác đều được thành lập theo một đạo luật do Quốc hội ban hành.

Trong chính thể của các nhà nước xã hội chủ nghĩa, do việc thực hiện nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước, Quốc hội được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, tham gia một cách tích cực vào việc thành lập các cơ quan nhà nước khác. Quốc hội trong chính thể nhà nước Việt Nam là cơ sở của hệ thống các cơ quan nhà nước. Trên cơ

sở Quốc hội , các định chế Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án, Viện kiểm sát, các cơ quan

chính quyền nhà nước ở địa phương được thành lập.

Việc Quốc hội thành lập nên các cơ quan nhà nước khác giải thích rằng quyền lực của các cơ quan nhà nước do Quốc hội thành lập xuất phát từ nhân dân. Và do đó quyền

lực của cả hệ thống nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân.  Chính điều đó đảm bảo yêu cầu của nhà nước pháp quyền về sự đồng lòng của nhân dân với chính quyền trong nhà nước pháp quyền.

Đối với nhà nước pháp quyền, chính quyền phải được hình thành bằng con đường

hợp pháp. Con đường hợp pháp đó chính là việc nhân dân thành lập ra nhà nước. Phương thức để nhân dân thành lập ra nhà nước là nhân dân trực tiếp bầu ra Quốc hội, và trên cơ

sở Quốc hội nhân dân gián tiếp thành lập ra các cơ quan nhà nước khác. Như vậy, sự tồn

tại của Quốc hội khẳng đinh tính hợp pháp của chính quyền trong nhà nước pháp quyền.

Nhà  nước  cánh  mạng  đầu  tiên  ở  Việt  Nam chứa  đựng  những  yếu  tố  của nhà nước pháp quyền. Điều này trước hết biểu hiện ở việc thành lập Quốc hội. Nhận thấy thời cơ của cách mạng sắp đến, tháng 10.1944, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trương triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động nhất   trí của toàn thể quốc dân ta để tạo sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời có thuận lợi

thực hiện cho   được mục tiêu độc lập, tự do(1). Tháng 5.1945, trước tình hình cao trào kháng Nhật cứu nước đang dâng lên trong cả nước, toàn dân đang mong đợi một Chính phủ cách mạng lâm thời của nươc Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị gấp rút họp Đại hội đại biểu quốc dân. Tại Tân Trào, Quốc dân đại hội, khai mạc chiều ngày

16.8.1945, đã thành lập ra Uỷ ban giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đề nghị cải tổ Uỷ ban dân tộc giải phóng thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 27-2945, Chính phủ lâm thời ra lời Tuyên cáo, trong đó có nói  : “Chính phủ lâm thời ... thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hoà chính thức (1). Một ngày sau khi đọc Tuyên

ngôn độc lập, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã nói  : “Tôi đề nghị tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử  với

chế độ phổ thông điều phiếu”(2)  . Ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số

14.SL về cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. Sắc lệnh ghi rõ   : “Xét thấy rằng trong tình

thế hiện giờ sự triệu tập Quốc dân đại hội không những có thể thực hiện được mà lại rất

(1)  Roger H. Davidson và Walter J. Oleszek. Quốc hội và các thành viên. NXB Chính trị  Quốc gia,H,2002, tr28.

(1) .  Văn phòng Quốc hội. Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960),NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1994, tr25.

(2)   Hồ Chí Minh.Toàn tập, tập 4.NXB Chính trị quốc gia,Hà Nội  2000, tr8.

(3)  Văn phòng Quốc hội. Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960),NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội,1994. tr.31.

(4)  Hồ Chí Minh.Toàn tập ,tập 4.NXB Chính trị quốc gia.  Hà Nội, 2000, tr8.

cần thiết cho toàn dân tham gia vào công cuộc củng cố nền độc lập và chống nạn ngoại xâm...”(4).

Quốc hội đầu tiên của Việt Nam ra đời khẳng định quyền lực nhà nước bắt nguồn từ

nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Tổng tuyển cử... tức là dân chủ". Có nghĩa bầu cử

là cách thức nhân dân thự hiện quyền lực của mình, thông qua bầu cử  nhân dân uỷ quyền cho nhà nước, để nhà nước đại diện nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân. Chúng ta gọi chế độ dân chủ đại diện   như vậy là chế độ "dân uỷ". Phương thức dân uỷ là "Do Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội, Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. chính phủ đó thực

là Chính phủ toàn dân. "(1)  Như vậy, Quốc hội khẳng định nguyên tắc chủ quyền nhân dân trong nhà nước pháp quyền.

Chính việc sự hiện diện của Quốc hội khẳng định nhân dân thành lập ra nhà nước cũng khẳng định tính hợp pháp của chính quyền. Sau Tuyên ngôn độc lập, Nhà nước Việt

Nam dân chủ cộng hoà ra đời là một Nhà nước độc lập, tự do, nhưng chưa một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Hơn nữa, các thế lực đế quốc và tay sai đang ráo riết chống

lại Đảng Cộng Sản và Việt minh, hòng lật đổ chính quyền cách mạng và thành lập một chính quyền tay sai cho đế quốc. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh đã gấp rút xúc tiến việc bầu cử   Quốc hội khẳng định cơ sở hợp pháp của Nhà nước cách mạng Việt Nam,

tạo cơ sở pháp lý cho nền độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, chủ trương bầu cử Quốc hội của

Hồ Chí Minh còn nhằm mục đích phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để

bảo vệ nền độc lập vừa dành được trước thế “ngàn cân treo sợi tóc” của chính quyền cách mạng mới ra đời.

Tóm lại, sự hiện diện của Quốc hội là một bảo đảm quan trọng cho các yêu cầu của nhà nước pháp quyền về chủ quyền nhân dân và tính hợp pháp của chính quyền.

Quốc hội bảm đảm cho chính quyền được điều chỉnh bởi pháp luật.

Nhà nước pháp quyền đỏi hỏi việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước phải dựa trên một nền tảng pháp lí. Pháp luật là cơ sở của  mọi hình thức tổ chức quyền lực công

khai, mọi chủ thể trong xã hội, trong đó có cả những cơ quan nhà nước bất kể ở cương vị

nào đều phải  tuôn theo pháp luật. Mọi đường lối, chính sách và quyết định của nhà nước

đều phải dựa vào luật, phục tùng luật và tất cả các mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và

cá nhân cũng phải dựa trên cơ sở của pháp luật.(1)

Quốc hội có vai trò quan trong trong việc thực hiện nhu cầu của nhà nước pháp quyền

về chính quyền chịu sự kiểm soát bởi pháp luật. Hiến pháp là bản văn có hiệu lực pháp lý

tối cao có tác dụng hạn chế quyền lực của các cơ quan tối cao của nhà nước, bảo đảm cho mọi cơ quan nhà nước tôn trọng pháp luật. Mọi cơ quan nhà nước phải đặt trong vòng kìm  chế  của  pháp  luật,  với  mục  đích  bảo  vệ  quyền  con  người  trong  một  xã  hội  văn minh.(2)  Thiết lập nên Hiến pháp để giới hạn hành vi của chính quyền trước hết phải kể

đến vai trò của Quốc hội.

Trong các nền dân chủ hiện đại, Quốc hội của nhiều nước chính là cơ quan thông qua Hiến pháp để làm khuôn mẫu cho việc tổ chức và hoạt động của chính quyền. Nhân dân bầu ra Quốc hội để Quốc hội đại diện cho ý chí của nhân dân đặt ra Hiến pháp. Quốc hội được thành lập với mục đích như vậy gọi là Quốc hội lập hiến. Ngoài Hiến pháp Quốc

(1)  Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4. NXB Chính trị quốc gia.  Hà Nội  2000, tr133.

(1)  Xem, Đào Trí Úc : Về nhu cầu, mức độ sửa đổi  Hiến pháp 1992 và quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền. Cộng sản số 21 năm 2001. tr.32

(2)  Xem, Nguyên Đăng Dung: Hiến pháp sửa đổi – một số vấn đề nguyên tắc. Cộng sản số 16 năm 2001

hội  còn  ban  hành  các  văn  bản  pháp  liên  quan  đến  lĩnh  vực  tổ  chức  nhà  nước  để  điều chỉnh hành vi của chính quyền.

Quốc hội bảm đảm sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của công dân và quyền con người.

Nhà nước pháp quyền phải tồn tại trong môi trường của xã hội công dân. Đó là một xã

hội mà pháp luật là thước đo của tự do, làm chuẩn mực cho các hành vi của công dân. Quốc hội với tư cách là cơ quan lập pháp, có vai trò quan trong trong viêc tạo dựng một môi trường xã hội công dân, đảm bảo thực hiện nguyên tắc về tính tối cac của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của công dân trong nhà nước pháp quyền.

Vai trò của Quốc hội thể hiện ở chỗ Quốc hội ban hành ra các đạo luật, tạo một khuôn mẫu pháp lí cho hoạt động của công dân, và thực hiện giám sát đối với hoạt động của công dân để đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng.

Pháp luật trong nhà nước pháp quyền làm khuôn mẫu cho hành vi của công dân là

là pháp luật phụ vụ nhân dân, pháp luật bảo về các quyền con người. Bảo vệ quyền con người được coi là một nguyên tắc quan trọng của nhà nước pháp quyền. Thông qua chức năng lập pháp, Quốc hội có vai trò to lớn đối với việc bảo về nhân quyền. Quốc hội bảo

về quyền con người bằng cách đặt ra các quy định pháp luật ràng buộc, không được vi phạm quyền con người, nhất là các quy định cho phép các công dân khi tham gia vào các

quan hệ xã hội có thể tự kiểm soát và bảo về được mình để ngăn chặn những nguy cơ

xâm phạm tử phía các chủ thể khác.

Thông qua hoạt động lập pháp, Quốc hội tạo ra một giới han pháp lí ngăn cấm sự

vi phạm quyền con người từ phía chính quyền. Pháp luật quy định nghĩa vụ của nhà nước trong việc thừa nhận và bảo về quyên con người, nhà nước không được xâm phạm đến

các quyền tự do của công dân.

2.  Những  đòi  hỏi   hay  là  những  yêu  cầu  của  Quốc  hội  trong  một  nhà  nước  pháp quyền

Phần trên chúng tôi có phân tích tính khách quan của sự tồn tại và phát triển của Quốc hội trong một nhà nước pháp quyền. Phần này có tính chủ quan hơn muốn vấn đề được đặt một cách ngược lại. Muốn tồn tại trong một nhà nước pháp quyền thì,  Quốc hội phải có những tố chất nào cấu thành? Đương nhiên là hai mặt này có liên quan mật thiết

với nhau. Sự khác quan cũng chính là đòi hỏi của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền.

Thứ nhất, trong một nhà nước pháp quyền Quốc hội phải thực hiện tốt chức năng vốn có của mình là lập pháp.  Trong trường hợp Việt Nam chúng ta Quốc hội còn có cả chức năng lập hiến. Xét cho cùng hai chức năng này là một. Hệ thống pháp luật có đầy

đủ những tiêu chuẩn pháp luật của nhà nước pháp quyền chủ yếu phải dựa trên hệ thống luật do Quốc hội ban hành, mà không dựa trên hệ thống pháp quy của chính phủ. Trong trường hợp không có hệ thống luật đạt tiêu chuẩn trên tức là không có một Quốc hội đạt tiêu chuẩn là một Quốc hội của nhà nước pháp quyền. Khi xét xử toà án phải dựa trên cơ

sở của hệ thống luật của Quốc hội,  mà không dựa trên các văn bản pháp quy của chính phủ.

Khi Việt Nam chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền thì vai trò quan trong của Quốc hội chính là ở chỗ xây dựng được một hệ thống pháp luật làm khuân mẫu pháp

lí cho hành vi của công dân, bảo về quyền con người ngày càng hoàn thiện hơn.

Quốc hội trong nhà nước pháp quyền của chúng ta hiện nay phải khác với Quốc hội của nhà nước tập trung, bao cấp trước đây.

Trong nhà nước tập trung, bao cấp, sinh hoạt lập pháp của Quốc hội kém sôi nổi vì nhà  nước  quản  lí  xã  hội  chủ  yếu  bằng  chính  sách,  việc  làm  luật  của  Quốc  hội  cũng thường hướng vào việc ban hành các đạo luật  hoàn thiện tổ chức nhà nước. Nhìn chung trong  nhà  nước  tập  trung  bao  cấp  luật  liên  quan  đến  đời  sống  của  công  dân  kém phát triển.

Bước vào xây dựng nhà nước pháp quyền, khi nhà nước không còn quản lí xã hội bằng chính sách mà thay vào đó là pháp luật, thì vai trò lập pháp của Quốc hội cũng phải được điều chỉnh.

Quốc hội phải   tập trung vào việc ban hành các đao luật phục vụ nhân dân, pháp luật của dân, do dân, vì dân. Quốc hội phải tạo ra một môi trường pháp lí an toàn trong sinh hoạt xã hội của công dân. Quốc hội phải hướng hoạt động của mình về xã hội công dân và bảo về quyền con người. Nôi dung lập pháp của Quốc hội phải hướng vào các vấn

đề: Quyền con người; các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân như các quyền bầu cử ứng cử, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do thân thể...; chống độc quyền; giải khuyết khiến nại tố cáo; quyền bào chữa...

Một trong những quyền quan trọng nhất của quyền con người là quyền sở hữu. Hoạt động lập pháp của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có vai trò tích cực trong việc tạo dựng một môi trường pháp lí an toàn, lành mạnh cho việc hoạt động sản xuất kinh doanh. Pháp luật phải tạo điều kiện thúc đẩy, hỗ trợ, khích lệ, bảo vệ các thành phần kinh tế mới hình thành trong cơ chế kinh tế thị trường. Hoạt động lập pháp của Quốc hội không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh. Pháp luật về kinh tế tốt nhất là

liệt kê ra các điều cấm. Đặc biệt là Quốc hội thông qua hoạt động lập pháp của mình phải

tạo được một môi trường pháp lí an toàn cho hoạt động kinh doanh. Do đó Quốc hội phải hướng sự quan tâm của mình trong việc ban hành các đạo luật về cạnh tranh lành mạnh

và chống độc quyền.

Như vậy vai trò của Quôc hội trong nhà nước pháp quyền là rất lớn. Để thực hiện

tốt vai trò của mình Quốc hội Việt Nam trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay cần phải được kiện toàn về cơ cấu tổ chức và phải nâng cao hiệu quả hoạt động.

Để có thể ban hành những đạo luật tôt tạo dựng môi trường xã hội công dân, bảo về nhân quyền, Quốc hội cần phải được tằng cường các cơ quan chuyên môn, các đại biểu chuyên

trách, nâng cao năng lực của các đại biểu Quốc hội. Có như vậy Quốc hội mới có thể ban hành được những đạo luật kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội, có tính ổn định, đồng

bộ, ngày càng hoàn thiện, phục vụ nhân dân.

Thứ hai, bản thân Quốc hội cũng phải hoạt động một cách cẩn trọng hơn, để dảm bảo cho các quyết định của quốc hội không sai sót, có tính lâu dài.  Chính sự lâu dài các văn bản luật của Quốc hội sẽ có cơ sở tạo lên sự ổn định của chế độ chính trị. Trong

trường hợp văn bản luật của Quốc hội vi phạm hiến pháp cũng ph¶i cã c¬ chÕ xö lý.

Quốc hội phải thực hiện việc giám sát tối cao đối với các cơ quan nhà nước để đảm bảo tính hợp pháp  của chính quyền. Đây là chức năng phổ biên của Quốc hội  các nước trên thế giới. Quốc hội các nước có quyền giám sát các hoạt động của cơ quan hành pháp, trong một số trường hợp là người đứng đầu nhà nước, cơ quan tư pháp, cơ quan tự quan

địa phương, và một số cơ quan nhà nước khác.(1)  Nhìn chung, Quộc hội giám sát các cơ

quan nhà nước bằng các hình thức sau: Nghe báo cáo của Chính phủ và các thành viên của  Chính  phủ  quyền  chất  vấn  của  các  đại  biểu  Quốc  hội,  những  câu  hỏi  miệng  hoặc bằng văn bản của các đại biểu Quốc hội hoạt động của các Uỷ ban chuyên môn của Quốc hội.

Quốc hội ở Việt Nam là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hệ thống  cơ quan nhà nước. Hoạt động giảm sát của Quốc hôi nhằm làm cho  những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thực thi một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Khi chúng ta đã khẳng định việc xây dựng nhà nước pháp quyền, thì việc nâng cao hiệu quả thực hiện quyền giám sát tối cao của Quốc hội đối với các cơ quan nhà nước có ý nghĩa

hết sức to lớn trong việc kiểm tra tính hợp pháp hành vi của chính quyền.

Quốc hội là một cơ quan ban hành pháp giới hạn hành vi của chính quyền nhưng chính

Quốc hội cũng phải chịu sự kiềm toả của pháp luật. Bản thân Quốc hội cũng phải tuân

thủ chính những luật pháp do mình đặt ra. Quốc hội phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm Hiến pháp của mình.

Nói tóm lại Quốc hội trong nhà nước pháp quyền thứ nhất, phải là nơi ban hành ra

các đạo luật tạo thành một hệ thống pháp luật vì con người, vì sự phát triển, an toàn cho

cả cá nhân con người lẫn cho cả sự thịnh vượng của quốc gia; thứ hai, Quốc hội phải có trách nhiệm tham gia tích cực vào sự kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà

nước, và thứ ba, ph¶i cã mét c¬ chÕ kiÓm tra tÝnh hîp hiÕn c¸c ®¹o luËt do Quèc héi ban hµnh.

Kết luận

Trong toàn bộ hệ thống các cơ quan tạo thành bộ máy nhà nước Việt Nam Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa, Quốc Hội nổi lên theo quy định của Hiến pháp là cơ quan quyền lực

Nhà nước cao nhất. Là cơ quan Nhà nước duy nhất do nhân dân toàn quốc trực tiếp bầu

ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc Hội Việt Nam có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến sự phát triển của quốc gia như việc thông qua hiến pháp, các đạo luật, quyết định các vấn đề liên quan đén vận mệnh quốc gia, quốc kế dân sinh, thành lập ra các cơ quan nhà nước trung ươn, định ra nhiệm vụ,

cơ cáu và giám sát các hoạt đọng của chúng.

Câu hỏi ôn tập

1.Địa vị pháp lý của Quốc Hội theo quy định của Hiến pháp hiện hành.

2. Sự biến đổi chức năng  của Quốc Hội.

3. Cơ cấu và các hình thức họat động của Quốc Hội.

4. Trình tự lập pháp của Quốc Hội.

5. Mối quan hệ giữa Quốc Hội và Chính phủ theo quy định của Hiến pháp Việt Nam.

(1)  Vũ Hồng Anh. Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới. NXB Chính trị Quốc gia. Hà

Nội , Tr. 26.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro