li hoc

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phương pháp học Vật Lí

Đối với một số học sinh, môn lý rất khó để học tốt. Nhưng đối với tôi, môn lý rất thú vị. Cũng đã đạt được nhiều thành tích tốt với môn này như học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp khu vực, cấp quốc gia, tôi muốn chia sẻ với các em học sinh những kinh nghiệm học tập của tôi.

 Môn vật lý là môn nghiên cứu những hiện tượng xảy ra trong đời sống. Nên chỉ cần hiểu rõ hiện tượng là có thể hiểu và tìm được hướng giải cho bài toán vật lý. Phần còn lại là áp dụng công thức đã học cùng với những dữ kiện của đề bài, thêm một chút tính toán; học sinh có thể giải bài toán lý một cách dễ dàng. Điều quan trọng là phải hiểu rõ công thức để không làm sai. Trước tiên, để có thể hiểu rõ những vấn đề trong môn vật lý, học sinh phải chăm chú nghe giảng. Những hiện tượng chỉ tuân theo một số nguyên tắc nhất định, và để hiểu rõ những hiện tượng đó thì học sinh có thể hỏi thầy cô trên lớp, những bạn giỏi về môn này để giải thích giúp.

Học sinh có thể lên mạng để tìm những hình ảnh minh họa, những đoạn phim mô phỏng những thí nghiệm học trên lớp. Trên mạng có rất nhiều tư liệu và minh họa dễ hiểu. Chỉ cần hiểu rõ hiện tượng là học sinh đã phần nào làm được những câu lý thuyết. Sau đó là công thức tính toán, môn lý có hai phần: thứ nhất là phần lý thuyết, thứ hai là phần bài tập. Việc nhớ rõ công thức là điều rất quan trọng. Vì nếu học sinh nhớ sai công thức thì kết quả bài làm sẽ sai. Lúc học những công thức mới, tôi cũng cảm thấy rất khó nhớ. Nhưng tôi không cố gắng học công thức ngay từ đầu mà lấy bài tập ra làm. Trong lúc làm vẫn lấy công thức ra xem. Nhưng rồi làm nhiều bài như vậy, khoảng 10 bài là đã nhớ công thức. Như vậy vừa hiểu rõ công thức, vừa biết áp dụng đúng và nhớ công thức lâu.

Một việc nữa là trong sách giáo khoa, để cho dễ hiểu, người ta thường đưa ra những công thức rút gọn cho những trường hợp đặc biệt từ một công thức tổng quát. Và điều này giúp học sinh làm câu hỏi trắc nghiệm nhanh hơn. Vì thế số lượng công thức mà học sinh phải học là nhiều hơn và khó nhớ hơn. Điều này dễ làm rối học sinh. Theo tôi thì nên nhớ một công thức gốc, rồi tùy trường hợp mà đơn giản công thức lại. Nếu học sinh nào có thể nhớ hết thì rất tốt, nhưng theo tôi số lượng công thức là nhiều, rất nguy hiểm khi học sinh nhớ không rõ công thức, và việc nhớ một công thức tổng quát sẽ làm học sinh cảm thấy dễ chịu hơn và nhớ lâu hơn. Và nếu làm nhiều học sinh sẽ quen với những trường hợp đặc biệt mà không cần cố nhớ công thức cho những trường hợp đặc biệt lúc đầu. Tôi để ý thấy một số học sinh sau khi đọc xong đề thì tưởng tượng trong đầu hiện tượng rồi viết công thức tính toán ngay. Tôi nghĩ nên vẽ hình minh họa hiện tượng trước rồi hãy tính toán. Điều này giúp học sinh hiểu rõ hiện tượng hơn và ít bị rối hay làm sai bài toán. 

Với những bài phức tạp thì việc vẽ hình còn quan trọng hơn nữa, nhưng tôi thấy một số học sinh vẽ hình minh họa rất sơ sài hay vẽ rất nhỏ. Theo kinh nghiệm, tôi nghĩ nên vẽ hình lớn một chút, vì sau đó ta còn viết hay vẽ thêm nhiều dữ kiện khác. Điều này giúp cho hình minh họa dễ nhìn hơn và có thể viết những dữ kiện đề bài cho ngay trên hình vẽ. Nó sẽ giúp việc tính toán chính xác và nhanh hơn. Trình tự làm một bài toán vật lý mà tôi đã làm là: Đọc để hiểu đề muốn tìm những đại lượng nào. Tóm tắt đề bài: ghi ra những đại lượng cần thiết cho việc tìm ra đại lượng mà đề bài yêu cầu. Đổi đơn vị nếu cần (học sinh thường không để ý hay quên làm bước này). Vẽ hình minh họa (nếu hiện tượng có nhiều vật tham gia hay có nhiều trường hợp).Suy nghĩ những công thức nào có thể dùng để giải. Tìm ra đại lượng cần tìm sau khi biến đổi và kết hợp các công thức (chưa vội thế số). Thế số để tìm ra kết quả cuối cùng. Để ý đơn vị của kết quả có phù hợp thực tế không. 

Về việc tóm tắt đề bài, tôi thấy một số học sinh không làm bước này mà tìm những dữ kiện cần thiết trong đề. Điều này dễ làm rối học sinh vì trong đề có rất nhiều chữ và những con số cần thiết thì không nhiều. Việc tóm tắt sẽ làm học sinh biết được đề bài cho những đại lượng nào, đại lượng nào chưa có để học sinh có hướng giải cho bài toán. Còn một điều nữa là thông thường tôi thấy học sinh hay than vãn về một môn nào đó mà chúng không giỏi. Và tại vì không giỏi nên làm thế nào cũng không giỏi, không chịu dành thời gian nhiều hơn cho môn đó. Học sinh thường tập trung cho những môn chúng giỏi, dành nhiều thời gian hơn cho những môn đó và ít dành thời gian cho những môn chúng không giỏi. Vậy là môn giỏi thì càng giỏi và môn không giỏi thì càng không giỏi. Với môn lý cũng vậy. Nếu học sinh muốn giỏi thì bỏ thời gian ra làm bài tập, hỏi thầy cô, bạn bè, hay đi học thêm cũng được. Nhưng điều quan trọng là phải có cách học hợp lý và dành thời gian đúng mức cho môn đó. Tôi cũng vậy, mỗi lần học xong một chương sách mới, tôi cảm thấy rất khó hiểu. Nhưng vì tôi cố gắng dành thời gian giải bài tập và mua sách đọc thêm. Và cũng nhờ vậy mà tôi thấy môn lý không quá khó như các bạn tôi than vãn. Tôi cũng dành nhiều thời gian cho môn toán, và kết quả môn toán của tôi cũng rất tốt.

Đây là một số kinh nghiệm học tập của tôi. Mong có thể giúp phần nào cho những em học sinh học tốt hơn trong môn tự nhiên này và những môn khác nữa.

Học + làm trắc nghiệm VL

Hướng dẫn học và trả lời trắc nghiệm môn vật lý

Câu trắc nghiệm vật lý có nhiều loại khác nhau: câu trắc nghiệm đúng sai, câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn, câu trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi, câu trắc nghiệm điền khuyết… Trong các kỳ thi tốt nghiệp và thi tuyển sinh hiện nay đều dùng loại câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn, trong đó có cả câu trắc nghiệm lý thuyết và câu trắc nghiệm bài tập.

Câu trắc nghiệm lý thuyết là loại câu không yêu cầu thí sinh tính toán mà chỉ cần nắm chắc lý thuyết, và biết vận dụng nó vào trường hợp cụ thể để chọn phương án trả lời.

Ví dụ: Trong một đoạn mạch không phân nhánh, nếu dòng điện trễ pha đối với hiệu điện thế giữa hai đầu đoạn mạch thì trong đoạn mạch đó:

A. không có cuộn cảm

B. không có tụ điện

C. có điện trở thuần và cuộn cảm nối tiếp.

D. cảm kháng lớn hơn dung kháng.

Học sinh nắm vững tính chất của đoạn mạch RTC nối tiếp sẽ tìm thấy phương án A không thỏa mãn vì trong đoạn mạch này dòng điện cùng pha hoặc sớm pha đối với hiệu điện thế. Trong các đoạn mạch nêu ở phương án B và C, dòng điện có thể trễ pha đối với hiệu điện thế nhưng chúng chỉ là các trường hợp riêng, không thể khẳng định chắc chắn trường hợp riêng này sẽ xảy ra. Phương án cần chọn là D.

Câu trắc nghiệm bài tập là loại yêu cầu thí sinh phải vận dụng công thức hoặc lập phương trình để tính toán chọn đáp số cần tìm. Khác với toán trong câu tự luận, bài toán trong câu trắc nghiệm thường không dẫn đến hệ phương trình phức tạp, mà chỉ một hoặc vài ba phép tính là có thể tìm được đáp số hoặc khẳng định được đáp số là sai hay đúng.

Ví dụ: Một vật sáng nhỏ đặt vuông góc với trục chính của một thấu kính mỏng, cho ảnh ảo bằng 3 lần vật và cách vật 20 cm. Tiêu cự thấu kính là:

A. -15cm. B. 10cm. C. 15cm. D. 30cm.

Học sinh có thể nhận xét ảnh lớn hơn vật nên thấu kính phải là thấu kính hội tụ, tiêu cự có giá trị dương, do đó loại được phương án A, nhưng ba phương án còn lại đều là đáp số dương nên phải áp dụng công thức thấu kính để chọn đáp số đúng. Để tìm tiêu cự thấu kính ta cần tính d và d từ các phương trình: k = -d/d = 3; -d – d = 20cm. Sau đó tính được d = 10cm; d = -30cm, thay vào phương trình: 1/f = 1/d + 1/d sẽ tìm được f = 15cm. Ta chọn phương án C.

Trong các đề thi tốt nghiệp và tuyển sinh, số câu trắc nghiệm bài tập thường nhiều hơn số câu trắc nghiệm lý thuyết.

Mỗi loại câu trắc nghiệm đều có thể có mức độ khó dễ khác nhau: nhận biết, thông hiểu, vận dụng. Với các câu hỏi ở mức nhận biết, học sinh chỉ cần nhận ra một công thức, một định nghĩa, một định luật hoặc chỉ thay số liệu đơn giản là đã tìm được phương án trả lời. Tuy nhiên vẫn có một số học sinh không được điểm khi làm loại câu này do không nắm vững lý thuyết hoặc chủ quan không đọc kỹ câu hỏi. Các câu hỏi trắc nghiệm thường rải ra nhiều phần khác nhau của chương trình, không có trọng tâm, trọng điểm. Do vậy nếu học tủ và không rèn luyện để có một trí nhớ tốt, học sinh sẽ bị mất điểm ngay ở một số câu dễ.

Đối với câu trắc nghiệm ở mức độ thông hiểu, học sinh muốn chọn phương án đúng phải nắm được ý nghĩa của khái niệm hoặc sự kiện hiện tượng để suy luận, hoặc chuyển dịch nó từ mức độ trừu tượng này sang mức độ trừu tượng khác. Để làm được câu này, học sinh không chỉ nhớ và thuộc lòng máy móc mà cần có thói quen nhận xét sự vật, hiện tượng ở các trường hợp khác nhau.

Ví dụ: khi học công thức thấu kính: 1/f = 1/d + 1/d cần tự biến đổi để làm quen với công thức đó ở các dạng khác nhau như: d = df/ d-f; d = df/ d-f; f = dd/ d+d và các trường hợp đặc biệt: khi d = ∞ thì d = f; khi d = f thì d = ∞; khi d = 0 thì d = 0. Như vậy học sinh sẽ không ngỡ ngàng mà nhận ra ngay công thức này dù nó không được viết tường minh như ở sách giáo khoa.

Đối với câu trắc nghiệm ở mức độ vận dụng, học sinh muốn trả lời đúng phải nắm được bản chất sự vật hiện tượng và thường xuyên có thói quen áp dụng nó vào các trường hợp cụ thể, qua đó nắm được phương pháp vận dụng các kiến thức, kỹ năng đã học được. Vấn đề đặt ra trong câu trắc nghiệm ở mức vận dụng có thể là tình huống mới hoặc nhiệm vụ mới. Học sinh cần bình tĩnh, đọc kỹ câu hỏi để khai thác giả thiết cho ở phần dẫn của câu trắc nghiệm để suy ra các kết quả, rồi từ đó phát hiện mối liên hệ giữa giả thiết và kết luận.

Vật lý là môn khoa học thực nghiệm nên nhiều câu trắc nghiệm vật lý liên quan đến vấn đề nảy sinh trong thực nghiệm hoặc trong thực tế. Sẽ rất có lợi nếu hằng ngày học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào đời sống. Ví dụ khi học về gương cầu, hãy quan sát ảnh qua gương lắp ở xe máy, xem ảnh ở gương này khác nhau thế nào khi vật ở xa, khi vật ở gần, từ đó nhận xét về tính chất ảnh và điều kiện tương điểm đối với gương cầu.

Khi học về thấu kính, hãy thử tìm cách ước lượng xem tiêu cự của kính đeo mắt mà em có hoặc người thân của em có là bao nhiêu. Những thói quen đó giúp học sinh dần dần nâng cao khả năng vận dụng kiến thức, giúp đạt điểm cao khi làm loại câu ở mức vận dụ

Làm trắc nghiệm ĐH VL

Không nên học vẹt lý thuyết Cách ra đề thi Vật lý hiện nay đòi hỏi thí sinh (TS) phải nắm những lý thuyết cơ bản; phải có tư duy tổng hợp, phân tích kiến thức. Ví dụ: Khi hỏi về máy biến thế, câu hỏi có thể là quy luật vật lý vận dụng trong máy biến thế. Câu này không có sẵn trong sách giáo khoa nên TS phải tự tìm hiểu, phân tích để trả lời. Vì thế, ngay từ bây giờ, các em nên từ bỏ tư tưởng học vẹt, học tủ lý thuyết.

Biết cách phân phối thời gian hợp lý khi làm bài Không nên mất quá nhiều thời gian vào việc tóm tắt đề bài. Tóm tắt đề bài có thể giúp TS nắm chắc đề bài hơn, làm bài một cách có trình tự hơn nhưng hãy làm thao tác này thật nhanh ra nháp vì phần này không có điểm.

Câu dễ làm trước, câu khó làm sau. Hầu hết các thầy cô giáo ở các trường phổ thông đều nhắc nhở các em vấn đề này. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có rất nhiều TS khi làm bài thi "thích đâm đầu" vào câu khó trước. Điều này đôi khi gây ra cho các em áp lực tâm lý khi không thể giải quyết câu khó trong một thời gian ngắn. Vì thế, kết quả bài thi không cao. 

Không làm tắt, làm ẩu Khi làm bài thi Vật lý, TS nên tránh làm tắt, làm ẩu. Có những TS khi làm bài lại bỏ qua phần lập luận hoặc bỏ qua phần biến đổi trung gian trong khi chính những phần này lại giúp các em gỡ điểm. 

Không nên lệ thuộc vào máy tính Khi tính toán, đa số TS đều sử dụng máy tính nhưng nếu lệ thuộc quá nhiều vào máy tính thì đôi khi lại không tốt. Ví dụ, khi xử lý số liệu, máy tính có thể tính toán ra những số lẻ tới hàng chục đơn vị (1,2587345223 chẳng hạn) nhưng trong bài thi Vật lý, các em chỉ nên lấy 3 chữ số có nghĩa đầu tiên là đủ (1,25). Khi đo khối lượng hạt nhân, khối lượng các hạt trong bài toán năng lượng chẳng có máy đo nào có thể đo được khối lượng cụ thể như máy tính xử lý.

Nguồn: Th.S Lương Tất Đạt (GV trường THPT Hà Nội - Amsterdam )

Thủ thuật TNVT

Hiện nay, việc kiểm tra và thi trắc nghiệm là một tâm điểm nóng trong giới “giang hồ võ lâm”. Với chút kinh nghiệm kém cỏi của một kẻ mới “hành tẩu giang hồ” chưa được bao lâu, tôi xin được chia sẻ với các bạn một số thủ thuật khi làm bài trắc nghiệm môn vật lí sao cho có kết quả khả quan nhất. Bạn nào có kinh nghiệm hay nữa thì xin hiến kế, góp dzui cho thiên hạ nhé.

Chiêu thứ 1.

Khi trong 4 phương án trả lời, có 2 phương án là phủ định hoàn toàn của nhau, thì câu trả lời đúng chắc chắn phải là một trong hai phương án này.

Ví dụ: Cho đồ thị biểu diễn một quá trình biến đổi trạng thái của chất khí (hình dưới). Trong quá trình diễn biến từ trạng thái 1 đến trạng thái 2

A. áp suất chất khí giảm;

B. thể tích chất khí tăng;

C. nhiệt độ chất khí thay đổi;

D. nhiệt độ chất khí không đổi.

Chọn đáp án SAI.

Rõ ràng với trường hợp câu hỏi này, ta không cần quan tâm đến hai phương án A và B, vì C và D không thể cùng đúng hoặc cùng sai được. Nếu vào thi mà gặp câu hỏi như thế này thì coi như bạn may mắn, vì bạn đã được trợ giúp 50 - 50 rồi ! Chiêu thứ 2. Khi 4 đáp số nêu ra của đại lượng cần tìm có tới 3, 4 đơn vị khác nhau thì hãy khoan tính toán đã, có thể người ta muốn kiểm tra kiến thức về thứ nguyên (đơn vị của đại lượng vật lí) đấy. Ví dụ: Một động cơ có thể kéo một chiếc tàu đi xa 100m trong khoảng thời gian 20 giây với lực phát động trung bình 5000N. Công suất của động cơ này là A. 500 000 J; B. 500 000 kg.m/s; C. 34 CV; D. 34 N.s. Với bài toán này, sau một loạt tính toán, bạn sẽ thu được đáp số là 34 CV. Tuy nhiên, chỉ cần nhanh trí một chút thì việc chọn đáp số 34 CV phải là hiển nhiên, không cần làm toán. Chiêu thứ 3. Đừng vội vàng “tô vòng tròn” khi con số bạn tính được trùng khớp với con số của một phương án trả lời nào đấy. Mỗi đại lượng vật lí còn cần có đơn vị đo phù hợp nữa. Ví dụ: Một hòn đá nặng 5kg đặt trên đỉnh một tòa nhà cao 20m. Lấy mốc thế năng bằng không tại mặt đất và g = 10m/s2. Thế năng của hòn đá này là A. 100 J; B. 100 W; C. 1000 W; D. 1 kJ. Giải bài toán này, bạn thu được con số 1000. Nhưng đáp án đúng lại là 1 cơ. Hãy cẩn thận với những bài toán dạng này, “giang hồ hiểm ác” bạn nhé. Chiêu thứ 4. Phải cân nhắc các con số thu được từ bài toán có phù hợp với những kiến thức đã biết không. Chẳng hạn tìm bước sóng của ánh sáng khả kiến thì giá trị phải trong khoảng 0,400 đến 0,760 mm. Hay tính giá trị lực ma sát trượt thì hãy nhớ là lực ma sát trượt luôn vào khoảng trên dưới chục phần trăm của áp lực. Trong ví dụ sau, hai con số 0,5 N và 6,48 N rõ ràng là không thể chấp nhận được. Ví dụ: Một ô tô có khối lượng 2 tấn đang chuyển động với vận tốc 36 km/h thì tắt máy, sau khi đi được đoạn đường 200m thì dừng hẳn. Lực ma sát trung bình tác dụng lên ô tô trong quá trình này có độ lớn A. 500 N; B. 0,5 N; C. 6,48 N; D. 6480 N. Bao giờ cũng vậy, trong 4 phương án trả lời, với một chút tinh ý và óc phán đoán nhanh, trên cơ sở kiến thức đã học, bạn luôn luôn có thể loại trừ ngay 2 phương án không hợp lí. Chiêu thứ 5. Luôn luôn cẩn thận với những từ phủ định trong câu hỏi, cả trong phần đề dẫn lẫn trong các phương án trả lời. Không phải người ra đề thi nào cũng “nhân từ” mà in đậm, in nghiêng, viết hoa các từ phủ định cho bạn đâu. Hãy đánh dấu các từ phủ định để nhắc nhở bản thân không phạm sai lầm. Ví dụ: Hệ số đàn hồi (hay độ cứng) của một vật đàn hồi không phụ thuộc vào A. tiết diện ngang của vật đàn hồi; B. chiều dài ban đầu của vật đàn hồi; C. bản chất của vật đàn hồi; D. khối lượng riêng của vật đàn hồi. Hãy nhớ là mỗi kì thi có không ít sĩ tử “trận vong” chỉ vì những chữ “không” chết người như trên đây ! http://top9xy.wap.sh Chiêu thứ 6. Tương tự, bạn phải cảnh giác với những câu hỏi yêu cầu nhận định phát biểu là đúng hay sai. Làm ơn đọc cho hết câu hỏi. Thực tế có bạn chẳng đọc hết câu đã vội trả lời rồi. Ví dụ: Chọn câu phát biểu ĐÚNG. A. Khi các phân tử ở rất gần nhau, lực tương tác giữa chúng là lực hút; B. Không có nhiệt độ thấp hơn 0 K; C. Trong quá trình đẳng áp, thể tích khí tỉ lệ nghịch với nhiệt độ tuyệt đối; D. Trong hệ tọa độ (p, V), đường đẳng nhiệt là một parabol. Cho như câu này là nhân đạo lắm ! Sĩ tử có thể chết “bất đắc kì tử” vì những câu “thòng” phía sau như câu sau đây, mà không hiểu sao, có nhiều bạn không thèm đọc đến khi làm bài ! Ví dụ: Khi vận tốc của một vật biến thiên thì A. động lượng của vật biến thiên; B. thế năng của vật biến thiên; C. động năng của vật biến thiên; D. cơ năng của vật biến thiên. Chọn đáp án SAI. Chiêu thứ 7. Đặc điểm của bài kiểm tra trắc nghiệm là phạm vi bao quát kiến thức rộng, có khi chỉ những “chú ý”, “lưu ý”, “nhận xét” nhỏ lại giúp ích cho bạn rất nhiều khi lựa chọn phương án trả lời. Nắm chắc kiến thức và tự tin với kiến thức mà mình có, không để bị nhiễu vì những dữ kiện cho không cần thiết. Xét ví dụ sau: Ném một vật lên cao với vận tốc ban đầu 5 m/s. Biết lực cản của không khí tỉ lệ với bình phương vận tốc của vật. Vận tốc của vật khi rơi xuống chạm đất có giá trị A. vẫn là 5 m/s; B. lớn hơn 5 m/s; C. nhỏ hơn 5 m/s; D. không thể xác định được. Trong bài toán này, chi tiết “tỉ lệ với bình phương vận tốc” đưa ra chỉ với một mục đích là làm cho bạn bối rối. Mấu chốt vấn đề là ở chỗ có sự xuất hiện của lực cản trong bài toán. Đơn giản thế thôi. Hãy vứt đi chi tiết “tỉ lệ với bình phương vận tốc”, là dữ kiện không cần thiết (dữ kiện gây nhiễu), bài toán hẳn là đơn giản đi rất nhiều. Trên đây là một số thủ thuật làm bài kiểm tra trắc nghiệm vật lí. Hi vọng là mấy “chiêu thức” đơn sơ này có thể giúp ích cho bạn phần nào khi bước vào phòng thi. Tuy nhiên, có một điều tôi muốn nhấn mạnh với bạn rằng: Cho dù hình thức kiểm tra, đánh giá có thay đổi như thế nào đi nữa thì học cho chắc và bình tĩnh, tự tin khi làm bài vẫn là hai yếu tố then chốt quyết định cho sự thành công của bạn. Chúc may mắn.

Khung ôn thi tốt nghiệp VL

Nội dung ôn tập bám sát theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lý cấp THPT, đặc biệt là lớp 12 theo chương trình chuẩn và nâng cao. Đề thi trắc nghiệm có 40 câu.

A. Mục tiêu

1. Lý thuyết:

- Nêu được các hiện tượng; khái niệm, ý nghĩa vật lý của các khái niệm, các thuyết.

- Phát biểu được các định luật vật lý; viết được công thức tính các đại lượng, nêu tên và đơn vị đo các đại lượng có mặt trong công thức.

- Vận dụng kiến thức đã học để giải thích được các hiện tượng vật lý, giải các bài tập định tính đơn giản.

- Kỹ năng trả lời câu hỏi trắc nghiệm khách quan.

2. Bài tập:

- Nắm được phương pháp và có kỹ năng giải các loại bài tập dưới dạng trắc nghiệm trong chương trình.

- Vận dụng nội dung kiến thức đã học để giải được các bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập và những bài tập tương tự.

- Kỹ năng giải bài tập dưới dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan.

B. Nội dung

Nội dung ôn tập bám sát theo chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông môn Vật lý cấp THPT, đặc biệt là lớp 12 theo chương trình chuẩn và nâng cao.

Thí sinh phải biết vận dụng các kiến thức thuộc các nội dung nêu dưới đây để trả lời các câu hỏi trắc nghiệm khách quan.

I. PHẦN CHUNG CHO TẤT CẢ THÍ SINH [32 câu]

Chủ đề Nội dung kiến thức Số câu

Dao động cơ · Dao động điều hòa

· Con lắc lò xo

· Con lắc đơn

· Năng lượng của con lắc lò xo và con lắc đơn

· Dao động tắt dần, dao động duy trì, dao động cưỡng bức

· Hiện tượng cộng hưởng

· Tổng hợp hai dao động điều hòa cùng phương, cùng tần số. Phương pháp giản đồ Fre-nen

· Thực hành: Chu kì dao động của con lắc đơn 6

Sóng cơ · Sóng cơ. Sự truyền sóng. Phương trình sóng

· Sóng âm

· Giao thoa sóng

· Phản xạ sóng. Sóng dừng 4

Dòng điện xoay chiều · Đại cương về dòng điện xoay chiều

· Đoạn mạch điện xoay chiều chỉ có R, L, C và có R, L, C mắc nối tiếp. Cộng hưởng điện

· Công suất dòng điện xoay chiều. Hệ số công suất

· Máy biến áp. Truyền tải điện năng

· Máy phát điện xoay chiều

· Động cơ không đồng bộ ba pha

· Thực hành: Khảo sát đoạn mạch RLC nối tiếp 7

Dao động và sóng điện từ · Dao động điện từ. Mạch dao động LC

· Điện từ trường

· Sóng điện từ

· Truyền thông (thông tin liên lạc) bằng sóng điện từ 2

Sóng ánh sáng · Tán sắc ánh sáng

· Nhiễu xạ ánh sáng. Giao thoa ánh sáng

· Bước sóng và màu sắc ánh sáng

· Các loại quang phổ

· Tia hồng ngoại, tia tử ngoại, tia X

· Thang sóng điện từ

· Thực hành: Xác định bước sóng ánh sáng 5

Lượng tử ánh sáng · Hiện tượng quang điện ngoài. Định luật về giới hạn quang điện

· Thuyết lượng tử ánh sáng. Lưỡng tính sóng ? hạt của ánh sáng

· Hiện tượng quang điện trong

· Quang điện trở. Pin quang điện

· Hiện tượng quang ? phát quang

· Sơ lược về lazer

· Mẫu nguyên tử Bo và quang phổ vạch của nguyên tử hiđrô 4

Hạt nhân nguyên tử · Cấu tạo hạt nhân nguyên tử. Khối lượng hạt nhân. Độ hụt khối. Lực hạt nhân.

· Năng lượng liên kết, năng lượng liên kết riêng

· Hệ thức giữa khối lượng và năng lượng 4

· Phóng xạ

· Phản ứng hạt nhân

· Phản ứng phân hạch

· Phản ứng nhiệt hạch

Từ vi mô đến vĩ mô · Các hạt sơ cấp

· Hệ Mặt Trời. Các sao và thiên hà

Tổng 32

http://top9xy.wap.sh

II. PHẦN RIÊNG [8 câu]

A. Dành riêng cho thí sinh học theo chương trình chuẩn [8 câu]

Chủ đề Số câu

Dao động cơ 4

Sóng cơ và sóng âm

Dòng điện xoay chiều

Dao động và sóng điện từ

Sóng ánh sáng 4

Lượng tử ánh sáng

Hạt nhân nguyên tử

Từ vi mô đến vĩ mô

Tổng 8

B. Dành riêng cho thí sinh học theo chương trình nâng cao [8 câu]

Chủ đề Số câu

Động lực học vật rắn 4

Dao động cơ 4

Sóng cơ

Dao động và sóng điện từ

Dòng điện xoay chiều

Sóng ánh sáng

Lượng tử ánh sáng

Sơ lược về thuyết tương đối hẹp

Hạt nhân nguyên tử

Từ vi mô đến vĩ mô

Tổng 8

(Nguồn: Bộ GD&ĐT)

↑↑↑↑

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#bluesky