Lich su Dang

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP TỐT NGHIỆP

LỊCH SỬ  ĐẢNG & TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 

PHẦN 1: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.

Câu 1 : Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam?

+) Sơ  lược tiểu sử của Nguyễn  Ái Quốc ( Hồ Chí Minh )

      Chủ  tịch Hồ Chí Minh ( lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học là Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn  Ái Quốc và nhiều bí danh, bút danh khác ) sinh ngày 19/05/1890 ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ  An, mất ngày 2/9/1969 tại Hà Nội.

      Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên  ở một địa phương có truyền thống yêu nước, anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào và những phong trào đấu tranh chống thực dân. Người sớm có  chí đuổi thực dân, giành độc lập cho đất nước, đem lại tự do, hạnh phúc cho đồng bào.

      Với tình cảm yêu nước thương dân vô hạn, năm 1911, Người đã rời Tổ quốc đi sang phương Tây để tìm con đường giải phóng dân tộc. 

+) Những hoạt động của Nguyễn  Ái Quốc trong hành trình tìm  đường cứu nước đến khi bắt gặp chủ  nghĩa Mác-Lê nin và tin theo chủ  nghĩa Mác.

      Ngày 5/6/1911, Bác Hồ với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã rời bến cảng Nhà Rồng đi sang các nước phương Tây tìm đường cứu nước.

      Giữa tháng 12/1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự  Do, Bác không để ý đến ánh hào quang trên  đầu tượng mà chỉ xúc động trước cảnh những nô lệ đen dưới chân tượng. Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh. Năm 1917, Người từ Anh trở lại Pháp. Một thời gian sau, Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Trong thời gian đó Người đã đi nhiều nơi phân biệt rõ bạn và  thù. Năm 1919, Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc.

18/6/1919, các nước Đế quốc thắng trận họp hội nghị Vecxai để chia lại thị trường thế giới. Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp đã đưa tới hội nghị bản yêu sách 8 điểm đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Những yêu sách nói trên không được chấp nhận nhưng đòn tấn công trực diện đầu tiên đó của nhà cách mạng trẻ tuổi vào bọn Đế quốc đã có tiếng vang lớn đối với Nhân dân Việt Nam, Nhân dân Pháp và Nhân dân các thuộc địa của Pháp.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Luận cương của Lenin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lenin, dứt khoát đứng về Quốc tế thứ ba.

Tháng 12/1920, Bác tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp tại Tours ( từ 25 đến 30 tháng 12 năm 1920 ) và bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba và lập ra Đảng Cộng sản Pháp, tách khỏi Đảng Xã hội. Điều này đánh dấu bước ngoặt trong hoạt động của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lenin và theo con đường Cách mạng vô sản, giải quyết được cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc.

+) Những hoạt động chính của Nguyễn  Ái Quốc từ năm 1920 đến năm 1930 và  vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn này

Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp. Khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Người tham gia những hoạt động chính trị sôi nổi ngay trên đất Pháp như : tham gia hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Năm 1919, Người tham gia Đảng xã hội Pháp.

Tháng 6/1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi “Bản yêu sách 8 điểm” đến hội  nghị Vecxai, nhằm tố cáo chính sách của Pháp và đòi chính phủ Pháp thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

Mặc dù không được chấp nhận, nhưng “Bản yêu sách”  đã gây tiếng vang lớn đối với nhân dân Pháp và  nhân dân các nước thuộc địa của Pháp. Tên tuổi Nguyễn Ái Quốc từ đó được nhiều người biết đến.

Tháng 7/1920 : Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ khảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lenin. Người vô cùng phấn khởi và tin tưởng, vì Luận cương đã chỉ rõ cho Người thấy con đường để giải phóng dân tộc mình. Từ đó, Người hoàn toàn tin theo Lenin, dứt khoát đi theo Quốc tế thứ III.

Tại đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp họp tại Tua vào cuối tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường Cộng sản.

Năm 1921 : Người sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp để tuyên truyền, tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa đế quốc.

Năm 1922 : Ra báo “Le Paria” (Người cùng khổ) vạch trần chính sách đàn áp, bóc lột dã man của chủ nghĩa đế quốc, góp phần thức tỉnh các dân tộc bị áp bức đứng lên tự giải phóng.

Năm 1923 : Sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân, sau đó làm việc ở Quốc tế cộng sản.

Năm 1924 : Dự Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ V. Ngoài ra, Người còn viết nhiều bài cho báo Nhân Đạo, Đời sống công nhân và viết cuốn sách nổi tiếng “Bản án chế độ thực dân Pháp” – đòn tấn công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân Pháp

Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ( chủ yếu trên mặt trận tư tưởng chính trị ) nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin vào nước ta. Thời gian  này tuy chưa thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam, nhưng những tư tưởng Người truyền bá sẽ làm nền tảng tư tưởng của Đảng sau này. Đó là :

Chủ nghĩa tư bản, đế quốc là kẻ thù chung của giai cấp vô sản các nước và nhân dân các thuộc địa. Đó là mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng chính quốc và thuộc địa.

Xác định giai cấp công dân và nông dân là lực lượng nòng cốt của cách mạng.

Giai cấp công dân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng, thông qua đội tiên phong là Đảng cộng sản.

Tháng 6/1925 : Người thành lập “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và cho xuất bản tuần báo “Thanh niên” làm cơ quan ngôn luận của hội.

Tháng 7/1925 : Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng quốc tế, lập ra “Hội các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”, có quan hệ chặt chẽ với Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.

Tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã mở nhiều lớp huấn luyện ngắn ngày để đào tạo, bồi dưỡng cách mạng.

Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp huấn luyện ở Quảng Châu sau đó đã được xuất bản thành sách “Đường Kách Mệnh”.

Từ năm 1928 : Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã xây dựng được cơ sở của mình ở khắp nơi. Hoạt động của Hội góp phần truyền bá tư tưởng Mác-Lenin, thúc đẩy phong trào cách mạng Việt Nam theo xu thế cách mạng vô sản. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng là bước chuẩn bị chu đáo về chính trị, tổ chức và đội ngũ cán bộ cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam sau này.

Giữa năm 1927 – 1930 : Nguyễn Ái Quốc đã từ Xiêm (Thái Lan) về Trung Quốc, với danh nghĩa đại diện Quốc tế cộng sản triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng cộng sản duy nhất tại Việt Nam.

+) Vai trò của Nguyễn Ái Quốc  đối với việc thành lập  Đảng cộng sản Việt Nam

      Cuối thế kỉ XIX, sau khi bình định xong Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ  một nước phong kiến  độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

      Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp  đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt, hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ  yếu đó. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào  Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh; khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, song cuối cùng đều bị thất bại, vì  thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.

      Trong bối cảnh đó, tháng 6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Năm 1920, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ  nghĩa Mác- Lenin; đây không chỉ là bước ngoặt  đối với cuộc đời hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, mà còn là bước ngoặt của cách mạng Việt Nam. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lenin đã soi rọi cho Nguyễn Ái Quốc : Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc thì trước hết phải có  “Đảng Kách Mệnh” để “trong thì vận  động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”. Từ nhận thức đó, Nguyễn  Ái Quốc ra sức chuẩn bị mọi mặt cho việc thành lập một chính Đảng, Người từng bước truyền bá  có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lenin vào trong nước, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ đấu tranh tự phát lên tự giác; đưa phong trào yêu nước chuyển dần sang lập trường cộng sản.

      Tháng 3/1929, Chi bộ cộng sản đầu tiên được thành lập ở số nhà 5D, Hàm Long, Hà  Nội gồm có Trần Văn Cung, Trịnh Đình Cửu, Ngô  Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Văn Tuân và Dương Hạc Đính. Ngày 1-5-1929, tại Đại hội toàn quốc của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Hương Cảng, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đưa ra đề nghị thành lập  Đảng cộng sản. Đề nghị đó không được chấp nhận, trở về nước, ngày 17-6-1929, những đảng viên trong Chi bộ Cộng sản 5D Hàm Long đã tuyên bố  thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngày 25-7-1929, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở  Nam Kỳ. Tháng 9-1929, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn  được thành lập ở Trung Kỳ. Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ  chức cộng sản được tuyên bố thành lập. Điều  đó phản ánh xu thế tất yếu của phong trào  đấu tranh cách mạng ở Việt Nam. Song sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là  cần có một Đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn  Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng yêu cầu đó của lịch sử : thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.

      Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản họp tại Cửu Long ( Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Tham gia hội nghị có  các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh ( đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng); Nguyễn Thiệu, Châu Văn Liêm (đại biểu An Nam Cộng sản  Đảng). Đại biểu Đông Dương Cộng sản Liên  đoàn không đến kịp. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ tóm tắt của Đảng. Ngày 3 tháng 2 năm 1930 trở thành ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

      Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân và  phong trào yêu nước; là kết quả của quá  trình lựa chọn; sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử  và là kết quả của quá trình chuẩn bị  đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ  chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là  một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã  hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí  Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. 

+) Kết luận :

     Với tấm lòng yêu nước thương dân, đau xót trước cảnh người dân mất nước, ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba nước ngoài, cuối cùng, Người cũng gặp được chân lí cách mạng đúng đắn. Đó là chủ nghĩa Mác-Lenin.

     Nguyễn Ái Quốc chính là người truyền bá  chủ nghĩa Mác-Lenin vào nước ta tạo ra bước chuyển cách mạng lớn dẫn đến sự ra đời của  Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ  vĩ đại của dân tộc Việt Nam, là tấm gương chói lọi về tinh thần cách mạng, chí khí  kiên cường bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ  Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, tận tụy hi sinh suốt đời phấn đấu vì sự  nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và  giải phóng loài người, vì độc lập tự do, vì  chủ nghĩa xã hội cộng sản.

     Kinh nghiệm thực tế và lịch sử cho thấy muốn cách mạng thành công thì điều kiện không thể  thiếu là phải có một chính đảng vững mạnh lãnh đạo. Hiểu được sự bức thiết phải thành lập một chính đảng để phục vụ việc giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc và các đồng chí  của mình đã chuẩn bị rất chu đáo về tư  tưởng chính trị và tổ chức. Và đến ngày 3/2/1930, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta, đó là việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở  ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về  Nguyễn Ái Quốc, Người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với Quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt Nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời  đại ngày nay, tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lenin. Người đã sáng lập Đảng ta và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân. Người luôn chăm lo rèn luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. 

Câu 2 : Vì sao Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là một tất yếu lịchsử? Ý nghĩa sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam?

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là một tất yếu lịch sử vì :

Ptrao CMVS trên TG đang diễn ra sôi nổi, CM T10 Nga thành công dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Xô Viết mang lại quyền lợi cho nhân dân lao động.

Năm 1928 phong trào công nhân và phong trào yêu nc ở VN phát triển mạnh mẽ dẫn đến yêu cầu tất yếu cần phải có sự lãnh đạo thống nhất của môt tổ chức lãnh đạo.Yêu cầu khách quan đó tác động vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hóa tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên các tổ chức cộng sản ở VN

Từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1929 ở VN liên tiếp xuất hiện ba tổ chức cộng sản : Đông Dương CS Đảng (17/6/1929); An Nam CS Đảng (8/1929); Đông Dương CS Liên đoàn (9/1929).Các tổ chức CS này hoạt động riêng rẽ nên có sự tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, ảnh hưởng đến sự đoàn kết ở VN, làm cho lực lượng và sức mạnh phong trào CM bị phân tán. Điều đó  không phù hợp với lợi ích của CM và nguyên tắc tổ chức của ĐCS.Chứng tỏ xu thế thành lập ĐCS đã trở thành tất yếu của phong trào dân tộc ở VN

Năm 1930 NAQ rời Xiêm về Hương Cảng (TQ) với tư cách là phái viên của Quốc tế CS có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào CM ở Đông Dương nên người đã chủ động triệu tập đại biểu của các tổ chức CS và chủ trì hội nghị hợp nhất đảng.

Ý nghĩa sự ra đời của Đảng cộng sản VN :

Là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp ở VN

Là sản phẩm của sự kết hợp CN Mác –Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN

Đảng ra đời với đường lối CM đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo CM và đường lối cứu nước

Đảng ra đời chứng tỏ giai cấp CNVN thực sự trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM VN

Làm cho CM VN trở thành một bộ phận khăng khít của CM thế giới

Đối với Đảng :

+ Đây là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài chu đáo

+ Phù hợp với xu thế phát triển của CM thế  giới

+ Phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử

+ Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc

Câu 3 : Phân tích tính đúng đắn sáng tạo của bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam?

Ngày 6/1/1930, Hội nghị hợp nhất Đảng bắt đầu họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng… do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là một cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh được thể hiện ở những vấn đề sau:

Về cơ sở lí luận: Cương lĩnh được xây dựng trên nền tảng lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, một hệ thống lí luận tiến bộ, đúng đắn và khoa học.

Về đường lối chiến lược cách mạng của Đảng : tiến hành cuộc “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy, cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng đó kế tiếp nhau, không có bức tường nào ngăn cách. Qua đó cho thấy rằng, ngay từ đầu, Đảng Cộng sản việt Nam đã thấu suốt con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là điều hoàn toàn đúng đắn vì nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở nước ta. Đồng thời, chúng ta cũng thấy được sự vận dụng hợp lí và sáng tạo lí luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta: đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất,... Điều này cũng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh thể hiện ở chỗ Cương lĩnh đã giải quyết đúng hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam lúc đó là: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược; mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến. Cách mạng Việt Nam muốn đi đến thắng lợi phải giải quyết thành công hai mâu thuẫn đó, nghĩa là hoàn thành hai nhiệm vụ mà Cương lĩnh đã đề ra.

Về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ trên : Cương lĩnh đã đề cao vấn đề dân tộc (chống đế quốc) lên trên vấn đề giai cấp (chống phong kiến) là đúng đắn, sáng tạo vì xã hội Việt Nam lúc đó có hai mâu thuẫn như vừa nêu trên, nhưng mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp) là mâu thuẫn bao trùm, chi phối các mâu thuẫn khác. Vấn đề giải phóng dân tộc là vấn đề bức xúc nhất.

Về lực lượng cách mạng : Cương lĩnh xác định ngoài giai cấp công nhân và nông dân thì cách mạng Việt Nam “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập”. Như vậy, ngoài công nhân và nông dân là hai lực lượng chính của cách mạng, Cương lĩnh chủ trương phải tranh thủ cả các lực lượng khác như tư sản dân tộc, tiểu tư sản, địa chủ yêu nước. Điều đó hoàn toàn phù hợp với thực tế lịch sử Việt Nam vì ngoài công nhân và nông dân, các giai cấp và tầng lớp khác cũng có những bộ phận yêu nước cần phải tranh thủ lợi dụng. Đó cũng là vấn đề thể hiện sự ưu tiên hơn cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc của Cương lĩnh, một điều hoàn toàn đúng đắn và hợp lí.

Cương lĩnh đã xác định đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng: Cách mạng muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân. Bởi vì, giai cấp công nhân là giai cấp tiến bộ nhất và cách mạng nhất. Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân.

Cương lĩnh khẳng định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Đây cũng là một nội dung thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của Cương lĩnh. Vì giai cấp tư sản ở các nước trong thực tế đã câu kết với nhau để đàn áp phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Cho nên, cách mạng ở các nước thuộc địa muốn thắng lợi thì nhân dân các nước thuộc địa phải đoàn kết lại với nhau và đoàn kết với giai cấp vô sản thế giới.

Tóm lại, Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là Cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp của chủ  nghĩa Mác – Lênin, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn; trong đó, độc lập dân tộc và  tự do là tư tưởng cốt lõi. Nó đặt cơ sở cho Đảng ta kế thừa và hoàn chỉnh đường lối lãnh đạo cách mạng nước ta trong các giai đoạn cách mạng tiếp theo. 

Câu 4 : Phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệmcủa cách mạng tháng Tám 1945?

Nguyên nhân thắng lợi :

Nguyên nhân khách quan

+ Kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta thì đã bị phát xít Nhật đã bị Liên Xô và  đồng minh đánh bại

+ Quân đội Nhật ở Đông Dương mất hết cả  tinh thần chiến đấu, chính phủ Trần Trọng Kim rệu rã

+ Đảng CS Đông Dương đã chớp thời cơ đó phát  động phong trào toàn dân nổi dậy nên đã giành đc thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu

Nguyên nhân chủ quan :

+  Đảng CS Đông Dương là người tổ chức và  lãnh đạo cuộc CM T8

+ Đảng đã có đường lối CM đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm đấu tranh, đoàn kết và thống nhất, quyết tâm lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền

Đảng là điều kiện cơ bản nhất quyết định thắng lợi của CM T8

Ý nghĩa lịch sử :

Là bước nhảy vọt vĩ đại đánh dấu một biến đổi cực kì to lớn trong lịch sử tiến hóa của dân tộc ta, mở ra kỉ nguyên độc lập tự do

Đập tan sự thống trị của thực dân Pháp, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế vầ ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước VN dân chủ cộng hòa, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Nhân dân VN từ thân phận nô lệ trở thành người dân của nước độc lập tự do, làm chủ vận mệnh của mình

Cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc

Để lại cho Đảng và nhân dân VN nhiều kinh nghiệm quý báu, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận CM giải phóng dtoc và khởi nghĩa dân tộc

CM T8 thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp chống chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới

Bài học kinh nghiệm :

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến

Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công nông

Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

Kiên quyết dùng bạo lực CM và biết sử dụng bạo lực CM một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân

Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Xây dựng một đảng Mác – Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Câu 5 : Phân tích nguyên nhân, ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm của cuộckháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1974)?

Nguyên nhân thắng lợi :

Do sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS VN, người đại biểu trung thành cho những lợi ích sống còn của cả dtoc VN, một đảng có đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo

Thắng lợi đó là kết quả của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hi sinh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của cán bộ, chiến sĩ và hàng chục triệu đồng bào yêu nước ở miền nam ngày đêm đối mặt với quân thù, xứng đáng danh hiệu “Thành đồng tổ quốc”

Do kết quả của sự nghiệp CM XHCN ở miến bắc, của đồng bào và chiến sĩ miền bắc vừa chiến đấu vừa xây dựng, hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của hậu phương lớn, hết lòng hết sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Là kết quả của tinh thần đoàn kết chiến đấu của nhân dân VN, Lào, Capuchia và kết quả của sự ủng hộ hết lòng và sự giúp đỡ to lớn của các nước XHCN anh em. Sự ủng hộ nhiệt tình của phong trào công nhân và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới cũng như nhân dân tiến bộ Mỹ.

Ý nghĩa lịch sử :

Đây là thắng lợi vĩ đại nhất, hiển hách nhất của dân tộc ta trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Thắng lợi đó được ghi vào lịch sử dân tộc như một trong những trang chói lọi nhất

+ Một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng CM, trí tuệ con người

+ Một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế

Quân và dân ta đã đánh bại cuộc đấu tranh xâm lược tàn bạo nhất, dài ngày nhất của nước Mỹ, làm suy yếu trận địa của chủ nghĩa đế quốc.Góp phần tăng cường lực lượng của XHCN, phong trào độc lập dân chủ và hòa bình trên thế giới

Với thắng lợi này nhân dân ta đã quét sạch bọn đế quốc xâm lược,chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn 1 thế kỉ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới trên đất nước ta

Cuộc CM dân tộc, dân chủ nhân dân đã hoàn thành trên phạm vi cả nước, mở ra kỉ nguyên mới cho dân tộc VN : kỉ nguyên hòa bình thống nhất và  đi lên XNCH

Bài học kinh nghiệm :

   Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại những bài học kinh nghiệm có giá trị lịch sử và thực tiễ sâu sắc

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH nhằm huy động sức mạnh toàn dân đánh Mỹ, cả nược đánh mỹ

Đảng đã tìm ra được đường lối đấu tranh đúng đắn, sáng tạo

Sự chỉ đạo chiến lược đúng đắn của TW Đảng và công tác tổ chức chiến đấu tài tình qua các cấp bộ Đảng, các cấp chỉ huy quận đội

Đảng ta hết sức coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CM và lực lượng chiến đấu trong cả nước

Câu 6 : Trình bày đường lối đổi mới của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986)? Phân tích ý nghĩa?

Hoàn cảnh Đại hội :

ĐH họp từ ngày 05-18/12/1986 tại HN

Đường lối đổi mới của ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) :

ĐH6 đánh giá đúng mức những thành tựu đạt được trong 20 năm XD CNXH và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, ĐH chỉ ra những mặt yếu kém, những khó khăn gay gắt của nền KT – XH của nước ta.

ĐH rút ra những bài học kinh nghiệm lớn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động chỉ đạo sự nghiệp XD CNXH. Những bài học đó là :

+ Lấy dân làm gốc

+ Luôn xuất phát từ thực tiễn hành động theo quy luật khách quan

+ Kết hợp sức mạnh dtoc và sức mạnh thời đại trong hoàn cảnh mới

+ Chăm lo XD đảng ngang tầm với đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc CM XHCN

Xác định nhiệm vụ bao trùm và mục tiêu tổng quát của CM nc ta là XD thành công CNXH, bảo vệ vững chắc XHCN

Đề ra đường lối đổi mới toàn diện trọng tâm là đổi mới kinh tế

ĐH xác định công cuộc XD CNXH ở nước ta thì phải trải qua nhiều chặng đường và nhiệm vụ của chặng đường đầu tiên là ổn định mọi mặt KT-XH, tiếp tục XD tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh CNH XHCN trong chặng đường tiếp theo

ĐH đề ra mục tiêu cụ thể trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên:

+ Sx đủ tiêu dùng có tích lũy

+ Bước đầu tạo ra 1 cơ cấu kinh tế trong đó  đặc biệt chú trọng 3 chương trình kte :

            _ lương thực, thực phẩm

            _ hàng tiêu dùng

            _ hàng xuất khẩu

Coi đó là một sự cụ thể hóa nội dung CNH trong chặng đường đầu tiên

Làm cho thành phần KT XHCN giữ vai trò chi phối liên kết chỉ đạo các thành phần KT khác

Cải tạo XHCN theo nguyên tắc phát triển sx, nâng cao hiệu quả KT, tăng thu nhập cho người lao động

XD và hoàn thiện 1 bước quan hệ sx mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triênn của lực lượng sx tạo ra những chuyển biến về mặt XH, việc làm, công bằng XH, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ gìn kỉ cương phép nước

Bảo đảm nhu cầu củng cố quốc phòng an ninh

ĐH đề ra phương hướng cơ bản và hệ thống giải pháp để thực hiện mục tiêu

Chủ trương cải thiện chính sách đối ngoại tăng cường hợp tác với LX và XHCN, bình thường hóa quan hệ với TQ, hợp tác với các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đôi bên cùng có lợi

ĐH nêu rõ Đảng phải đổi mới về mọi mặt : tư duy, tổ chức, đội ngũ cán bộ, phong cách lãnh đạo, công tác

Bầu BCH TƯ mới, bầu Trường Chinh làm tổng bí thư

Tiếp tục đưa cả nước đi lên XHCN, ĐH tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng KT_XH, thể hiệnquan tâm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên CNXH ở MN

Phân tích ý nghĩa :

Đại hội VI của Đảng là Đại hội kế thừa và quyết tâm đổi mới, đoàn kết để tiến lên. Đại hội VI có  ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội và mở ra thời kỳ phát triển mới cho cách mạng Việt Nam. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, thể hiện quan điểm đổi mới toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VI đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo. Đại hội VI là  Đại hội “trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và đổi mới”. Tuy nhiên, Đại hội VI còn có những hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông. 

Câu 7 : Trình bày nội dung cơ bản  và ý nghĩa của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII(7/1998).

Hội nghị  lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) đã họp từ  ngày 6 đến ngày 16-7-1998, tại Thủ  đô Hà Nội. Đồng chí  Tổng Bí thư Lê  Khả Phiêu đã chủ  trì, khai mạc và bế  mạc Hội nghị. 

      Theo Chương trình làm việc, Hội nghị Trung ương đã tập trung xem xét và ra Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Ngoài ra, Hội nghị cũng nghe báo cáo về tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về kinh tế, xã hội và xác định những giải pháp lớn nhằm triển khai thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1998 và kế hoạch 5 năm 1996-2000, đồng thời thảo luận và quyết định một số vấn đề quan trọng khác.

Nội dung cơ bản của hội nghị lần thứ năm BCH TƯ Đảng khóa VIII (7/1998)

Nghị quyết “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Hội nghị  thống nhất nhận định: Từ hơn nửa thế  kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc; vận dụng và  phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư  tưởng Hồ Chí Minh; thu được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học giáo dục...Nhiều nét mới trong giá trị  văn hoá và đạo đức được hình thành. Giao lưu văn hoá với nước ngoài ngày càng được mở rộng. Hệ thống pháp luật về văn hoá từng bước được hình thành.

Bên cạnh đó, Hội nghị cũng thẳng thắn chỉ ra những mặt yếu kém đang có chiều hướng gia tăng trên nhiều lĩnh vực của đời sống văn hoá tinh thần. Một bộ phận không nhỏ các cán bộ, đảng viên bị suy thoái về đạo đức, lối sống, hoài nghi về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Nhiều biểu hiện tiêu cực trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo; đời sống văn học, nghệ thuật, thông tin đại chúng còn những mặt bất cập; giao lưu văn hoá với nước ngoài chưa tích cực, chủ động; đời sống văn hoá còn quá nghèo nàn ở  một số vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa...

Trên cơ  sở phân tích thực trạng văn hoá nước ta, Nghị quyết đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Ban Chấp hành Trung ương đã khẳng định phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là: phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền vǎn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa vǎn hóa nhân loại, làm cho vǎn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Từ  đó, Hội nghị đã xác định những quan điểm chỉ đạo cơ bản cần nắm vững: một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội; hai là, nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; bốn là, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; năm là, văn hoá là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.

Nghị  quyết cũng nêu rõ trong thời gian tới cần phải thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cụ thể, đó là: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính cao đẹp; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá; phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và  khoa học - công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số, thực hiện chính sách văn hoá đối với tôn giáo; mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá; củng cố, xây dựng và hoàn thiện thể chế văn hoá.

Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5, Hội nghị  đã đề ra nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện từ nay đến năm 2000: xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội; kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hoá, biến chất về đạo đức ra khỏi tổ chức đảng và cơ quan Nhà nước; xây dựng nếp sống văn minh, đời sống văn hoá trong nhân dân.

Ban Chấp hành Trung ương cũng xác định những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hoá là: mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá''; xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hoá; tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá.

Về tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 về kinh tế-xã hội trong 6 tháng đầu năm 1998:

Hội nghị  đã xác định: cần nhận thức đúng mức những thành tựu, thấy hết những yếu kém, khuyết điểm, những thách thức mới hết sức gay gắt, khắc phục mọi biểu hiện của cả hai khuynh hướng bi quan và chủ  quan.

Về  mặt thành tựu, Hội nghị đã biểu dương nhịp  độ tăng trưởng khá của nền kinh tế nước ta trước những khó khăn về thiên tai và những biến động phức tạp của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở khu vực và châu Á. Hội nghị  đồng thời cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém đang gây trở ngại cho sự phát triển của kinh tế, nhiều chỉ tiêu quan trọng của năm 1998 khó đạt và có thể còn ảnh hưởng tới kế hoạch của những năm sau.

Trên cơ  sở phân tích tình hình thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 về kinh tế-xã hội trong sáu tháng đầu năm, Ban Chấp hành Trung ương đã quán triệt tư tưởng chỉ đạo: phát huy cao nhất năng lực nội sinh của dân tộc, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; đồng thời đề ra những giải pháp lớn trong sáu tháng cuối năm: tập trung tạo động lực phát triển mạnh mẽ trong mọi tầng lớp nhân dân, tiếp tục giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tối đa nội lực, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài; nghiên cứu những giải pháp chiến lược để giải quyết cơ bản những vấn đề kinh tế vĩ mô còn yếu kém, trước mắt thực hiện những giải pháp cấp bách về tập trung phát triển nông nghiệp, nông thôn, dồn sức phát triển các sản phẩm công nghiệp có thị trường tiêu thụ, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế đi đôi với khai thác và sử dụng tốt vốn cho đầu tư phát triển, tìm kiếm thị trường để mở rộng xuất khẩu, làm lành mạnh các hoạt động tài chính, tiền tệ, giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, ngăn chặn các tệ nạn xã hội...

Ý nghĩa :

Hội nghị đã kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đoàn kết xây dựng nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc dtoc

Khơi dậy ptrao thi đua yêu nc và bảo vệ tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, XH công bằng

Nghị quyết của hội nghị kịp thời chỉ đao công tác XD nền VH, thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ KT năm 1998, tạo đà thắng lợi cho KH 5 năm 1996- 2000.

Câu 8 :  Nội dung, ý nghĩa của bài học: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ?

Nội dung bài học :

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một bài học quan trọng mà Đảng ta giải quyết đúng đắn, sáng tạo phù hợp với  những điều kiện lịch sử của thời đại mới về mối quan hệ :

Giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp

Giữa con đường giải phóng dân tộc với con đường giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động bị áp bức, bóc lột.

Đường lối đó đã được Đảng ta thực hiện một cách đúng đắn, sáng tạo qua các thời kỳ đấu tranh cách mạng.

Thời kỳ Bác Hồ tìm đường cứu nước và chuẩn bị vận động thành lập Đảng :

     + Trong thời đại mới, sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc chỉ có thể gắn liền với cuộc cách mạng vô sản vai trò lãnh đạo là  giai cấp công nhân. Nguyễn Ái Quốc đã chỉ  rõ : “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”.

         + Trong “Chính cương vắn tắt”,  “Sách lược vắn tắt”, “Luận cương chính trị”  đều xác định : cách mạng Việt Nam, trước hết là  cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, sau đó là  cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua chế  độ tư bản chủ nghĩa. Mục đích cuối cùng là xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.

Thời kỳ cả nước thực hiện một chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (1930- 1945) :

         Trong thời kỳ này, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân là mục tiêu trực tiếp, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa mới chỉ  là phương hướng, là triển vọng tiến lên của cách mạng Việt Nam.

         Đặt cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong phương hướng, triển vọng tiến lên chủ nghĩa xã hội sẽ qui định tính triệt để của cuộc cách mạng đó, vì cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng ta tiến hành là cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới, thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Đó là điều kiện cơ bản để thực hiện cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thời kỳ cả nước tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng (1945- 1975):

   + Tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng là  một hình thái độc đáo, sáng tạo của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và  chủ nghĩa xã hội.

   + Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có tác dụng quyết định nhất đối với sự  phát triển của toàn bộ cách mạng cả nước, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có  tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự  nghiệp đánh đuổi đế quốc Mỹ giải phóng miền Nam.

   + Nhờ kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và  xác định đúng vị trí và nhiệm vụ  của cách mạng mỗi miền, Đảng ta đã phát huy được sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội ở miền Bắc và miền Nam để đánh Mỹ và thắng Mỹ, xây dựng và  bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ  quốc. Đường lối chiến lược giương cao ngọn cờ  độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho phép Đảng ta kết hợp được sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ  nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam.

Thời kỳ cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ( từ 1975 đến nay) :

   + Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cách mạng Việt Nam chuyển sang một thời kỳ  mới – thời kỳ cả nước hòa bình, độc lập, thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội.

   + Nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ  này vẫn là đường lối chiến lược cơ bản của  Đảng ta. Vì cả nước đi lên chủ nghĩa xã  hội vẫn phải tiếp tục giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn  đề giai cấp, giữa độc lập dân tộc và chủ  nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với dân tộc.

   + Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội từ  đây gắn chặt với nhau. Độc lập dân tộc là điều kiện để nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã  hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội mang lại  đời sống ngày càng tự do, ấm no, hạnh phúc, văn minh, là điều kiện để bảo vệ và củng cố nền độc lập dân tộc. Xây dựng chủ  nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã  hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. 

Ý nghĩa bài học :

   Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là một bài học kinh nghiệm lớn, có tính chất bao trùm của Đảng ta vì :

   - Từ khi có Đảng, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam.

   - Là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam.

   - Với đường lối cơ bản này, Đảng ta đã giải quyết thắng lợi một loạt vấn đề cơ bản về  chiến lược, sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ  cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

- Cho phép  Đảng ta khơi dậy được sức mạnh của quá khứ, của hiện tại, của tương lai, sức mạnh của dân tộc ta với sức mạnh của thời đại, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#lien