Lịch sử sư đoàn 312

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LỊCH SỬ SƯ ĐOÀN BỘ BINH 312

Nhà xuất bản QĐND

Số hoá: ptlinh

Chỉnh sửa: Sao Vang

" Ở đâu các chú cũng phải nhớ quan hệ tốt và đoàn kết với nhân dân và chính quyền địa phương, quân với dân như cá với nước, có sức mạnh quân dân đoàn kết, ta đã đánh thắng giặc Pháp. Quân dân đoàn kết một lòng là sức mạnh dời non lấp biển, có sức mạnh đó, kẻ thù nào ta cũng đánh thắng, nhiệm vụ nào ta cũng làm tròn..."

Lời Chủ tịch HỒ CHÍ MINH căn dặn cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn bộ binh 312 ngày 1 tháng 1 năm 1964

LỜI NÓI ĐẦU

Đại đoàn 312 trước đây, Sư đoàn bộ binh 312 ngày nay là sư đoàn chủ lực cơ động của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập từ trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngay sau khi thành lập, sư đoàn đã đánh thắng trận đầu giòn giã ở Xuân Trạch trong chiến dịch Trung Du. Từ đó sư đoàn liên tiếp tham gia nhiều chiến dịch lớn: Hoàng Hoa Thám, Lý Thường Kiệt, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào... Trong chiến dịch Điện Biên Phủ sư đoàn tiến công tiêu diệt cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch, đánh vào trung tâm Mường Thanh bắt sống tướng Đờ Cát-xto-ri và toàn bộ bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm. Với chiến công này sư đoàn đã vinh dự được Bác Hồ tặng cờ Quyết chiến - Quyết thắng.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sư đoàn làm nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, huấn luyện chi viện chiến trường, đồng thời trực tiếp chiến đấu, lập nhiều chiến công trên chiến trường Thượng Lào, Quảng Trị. Mùa Xuân 1975 trong đội hình tiến công thần tốc của Quân đoàn 1, sư đoàn đã tiêu diệt sư đoàn 5 nguỵ ở cửa ngõ phía bắc Sài Gòn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử góp phần cùng toàn quân, toàn dân giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Với những thành tích xuất sắc trong xây dựng và trong chiến đấu, ngày 15 tháng 1 năm 1976 sư đoàn vinh dự được Quốc hội và Chính phủ tuyên dưương danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân". Sau ngày miền Nam giải phóng, sư đoàn tiếp tục làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc và xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại theo đường lối đổi mới của Đảng.

45 năm xây dựng chiến đâu và trưởng thành, sư đoàn lưuôn được sự quan tâm lãnh đạo trực tiếp của Đảng, của Bác Hồ và Bộ Quốc phòng, sự đùm bọc yêu thưương của nhân dân, sự giúp đỡ tận tình của các đơn vị bạn. Dưới ngọn cờ quang vinh của Đảng, lớp lớp cán bộ chiến sĩ đoàn đã anh dũng chiến đấu, hăng say lao động góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ngày càng tô thắm truyền thống "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng" mà Bác Hồ kính yêu đã tặng sư đoàn.

Ghi lại lịch sử xây dựng chiến đấu chiến thắng vẻ vang của sư đoàn để giáo dục truyền thống cho lớp lớp cán bộ, chiến sĩ là một việc làm có ý nghĩa lớn, được lãnh đạo chỉ huy sư đoàn các thời kỳ rất quan tâm. Tiếp theo cuốn "Sư đoàn Chiến Thắng" (Ký sự 2 tập), các cuốn lịch sử 'trung đoàn Sông Lô", 'Trung đoàn Ba Vì", "Trung đoàn Thành Đồng Biên Giới" được xuất bản. Cuốn "Lịch sử sư đoàn bộ binh 312!' đã được xuất bản lần này là công trình lịch sử phản ánh chặng đường 45 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của sư đoàn.

Nhân dịp cuốn sách ra mắt bạn đọc, Đảng ủy, chỉ huy Sư đoàn 312 xin chân thành cảm ơn các thế hệ cán bộ chiến sĩ sư đoàn đã chiến đấu anh dũng, lao động quên mình viết nên những trang lịch sử anh hùng của sư đoàn trong 45 năm qua và đã đóng góp nhiều công sức trí tuệ tư liệu quý cho cuốn sách. Cám ơn Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Phòng khoa học - công nghệ - môi trường quân đoàn 1, các cơ quan Trung ưương và địa phương, các đơn vị bạn đã giúp đỡ cho việc hoàn thành cuốn sách này.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc chỉ đạo nội dung, trong quá trình sưu tầm tài liệu và biên soạn, nhưng do hạn chế về trình độ của những người viết và tư liệu chưa được sưu tầm đầy đủ, cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp phê bình của các đồng chí và các bạn.

ĐẢNG ỦY VÀ CHỈ HUY SƯ ĐOÀN 312[/i]

Chương I:

ĐẠI ĐOÀN CHIẾN THẮNG RA ĐỜI

TRẬN ĐẦU CHIẾN THẮNG

TRÊN CHIẾN TRƯỜNG TRUNG DU

1. Các đơn vị tiền thân của đại đoàn

Cách mạng tháng Tám thắng lợi. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Nhưng ngày 28 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp được sự giúp sức của các thế lực đế quốc đã trắng trợn gây hấn ở Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

Nhân dân ta đã nhất tề đứng lên kháng chiến chống xâm lược, "thà chết tự do hơn là sống nô lệ" (Chú thích: Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Việt kiều ở Pháp, Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, t4, tr52). Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị kháng chiến kiến quốc "Động viên lực lượng toàn dân kiên trì kháng chiến, tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến lâu dài". Đảng chủ trưương "Vũ trang nhân dân", "mở rộng quân giải phóng Việt Nam" (Ghi chú: Nghị quyết Hội nghị toàn quốc Đảng cộng sản Đông Dương 8-1945.)

Theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, ở các tỉnh Việt Bắc, Tây Bắc, tháng 1 năm 1946 tiểu đoàn 564 và các tiểu đoàn 502, 508, 420 Khu 10 đã cùng nhân dân các địa phương tiêu diệt bọn Quốc dân đảng phản động và bọn thổ phỉ, giải phóng vùng thượng lưu sông Hồng, sông Lô, sông Chảy. Ngày 15 tháng 1, quân ta tiến vào thị xã Lào Cai đuổi bọn tàn quân Quốc dân đảng sang bên kia dòng Nậm Thi.

Ngày 19 tháng 1 năm 1946, tại thị xã Lào Cai vừa giải phóng, tiểu đoàn 564 do đồng chí Trần Quân làm tiểu đoàn trưởng, Nông Hoài Thanh làm chính trị viên và các đại đội độc lập: Thăng Bình, Ba Đông, Trần Hợp, Yên Bình Xã1 (Chú thích: Tên các đại đội gắn liền với tên người chỉ huy đơn vị (Ba Đông, Trần Hợp, Thăng Bình,) hoặc địa bàn đóng quân (Yên Bình Xã).) tổ chức lễ thành lập trung đoàn Lao Hà. Đồng chí Đàm Quốc Chủng một trong những chiến sĩ đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được cấp trên giao làm trung đoàn trưởng trung đoàn Lao Hà.

Trong những ngày sôi động đó các tiểu đoàn 502, 508, 420 được lệnh của Bộ tư lệnh Khu 10 tập trung về vùng núi Tổ Sơn (gần thị xã Tuyên Quang) để chuẩn bị thành lập trung đoàn mới. Các chiến sĩ ba tiểu đoàn trên là con em của đồng bào các dân tộc miền núi Tây Bắc, Việt Bắc. Nhiều người trong số họ đã từng là chiến sĩ du kích Bắc Sơn, từng bám đất xây dựng cơ sở Lao Hà, có người từng làm nhiệm vụ bảo vệ khu căn cứ Tân Trào - Hồng Thái. Tháng 3 năm 1946, trung đoàn thứ 2 của Khu 10 mang phiên hiệu trung đoàn 112 được thành lập do đồng chí Bế Sơn Cương làm trung đoàn trưởng, đồng chí Lê Thùy làm chính trị viên trung đoàn.

Ngay sau ngày thành lập, trung đoàn 112 tỏa đi các vùng dọc sông Lô, sông Chảy vừa luyện quân vừa tiễu phỉ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Còn các chiến sĩ trung đoàn Lao Hà phân tán thành nhiều toán nhỏ hoạt động ở vùng biên giới, diệt thổ phỉ, trấn áp thổ ty gian ác, chặn đánh các cánh quân Pháp đi càn. Mùa đông ở Tây Bắc sương giá lạnh thấu xương, chăn không có, cán bộ chiến sĩ hai trung đoàn phải lấy lá rừng, vỏ cây thay chăn đắp. Mỗi người chỉ có một bộ quần áo, khi giặt phải chui vào bụi cây hốc đá chờ khô. Nhiều đồng chí sốt rét li bì, thuốc men thiếu thốn, một viên ký ninh phải pha vào một ống nứa đầy nước rồi chia nhau mỗi người một ngụm nhỏ. Ở những bản làng hẻo lánh xa xôi dọc biên giới, ánh sáng cách mạng chưa lọt tới bị bọn xấu kích động, chia rẽ có nơi các chiến sĩ ta bị dân bản xua đuổi. Gian khổ, thiếu thốn, nhưng cán bộ chiến sĩ hai trung đoàn vẫn bền bỉ bám địa bàn vừa tuyên truyền giác ngộ nhân dân, bảo vệ cơ sở cách mạng, vừa tích cực huấn luyện, xây dựng lực lượng, kiện toàn các tổ chức lãnh đạo và chỉ huy chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.

Trong khi các chiến sĩ hai trung đoàn Lao Hà và 112 chiến đấu và xây dựng lực lượng trên địa bàn Khu 10 thì ở Liên khu 3 phong trào chiến tranh du kích ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, sông Đáy cũng phát triển mạnh. Từ các đội dân quân, du kích đánh giặc giữ làng, Liên khu 3 đã từng bước tổ chức huấn lưuyện bổ sung lực lượng xây dựng các tiểu đoàn chủ lực của liên khu.

Tháng 4 năm 1947, tại Ân Thi (Hưng Yên) tiểu đoàn 11 được thành lập gồm các đơn vị đã lập nhiều chiến công oanh liệt ở Hải Phòng, Kiến An, Bần, Yên Nhân. Các đại đội 58, 670, 89, 77 vốn là những đơn vị hoạt động độc lập ở Bắc Ninh, Bắc Giang đường số 4 cũng được bổ sung lực lượng kiện toàn tổ chức. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ tư lệnh hai Liên khu 1 và 3, tiểu đoàn 11 và các đại đội độc lập vừa thực hiện nhiệm vụ đánh địch bảo vệ địa bàn, vừa xây dựng lực lượng, kiện toàn tổ chức. Theo sự điều động của Bộ, các đơn vị trên đã cơ động chiến đấu phối hợp trong các chiến dịch hoặc tăng cường cho các đơn vị chủ lực của Bộ trong từng thời gian, từng trận đánh.

Thu đông năm 1947, giặc Pháp mở cuộc hành quân lớn lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến. Ngày 2 tháng 9 năm 1947, trung đoàn 112 được lệnh cơ động về Tuyên Quang đánh địch. Các tiểu đoàn của trung đoàn được bổ sung quân số, trang bị. Trung đoàn 112 đổi phiên hiệu thành trung đoàn 87.

Trong cuộc hành quân lớn đánh lên Việt Bắc, quân Pháp cho một cánh theo đường bộ tiến lên Lạng Sơn, Cao Bằng, một cánh theo đường thủy ngược sông Hồng, sông Lô; một cánh khác nhảy dù chiếm Bắc Cạn, chợ Mới, chợ Đồn. Bộ tư lệnh Liên khu 10 giao nhiệm vụ cho trung đoàn 87 cùng các đơn vị bạn chặn đánh cánh quân đường thủy của địch trên sông Lô. Trung đoàn Lao Hà cùng quân dân Lào Cai, Hà Giang chặn đánh cánh quân đường bộ. ở Liên khu 3, tiểu đoàn 11 và các đại đội độc lập được lệnh của Bộ, lên phối hợp chiến đấu với các đơn vị bạn chặn địch ở mặt trận Thái Nguyên, Bắc Cạn.

Công việc chuẩn bị chiến trường và cơ động lực lượng của các đơn vị rất khẩn trưương. Quân ta tranh thủ từng giờ từng phút để chuẩn bị chiến đấu nhất là bám nắm địch, trinh sát địa hình, chọn khu quyết chiến.

Sau khi cử đoàn cán bộ đi trinh sát địa hình ven sông Lô, trung đoàn 87 quyết định chọn khu vực Bến Then, Đoan Hùng, Khe Lau để phục kích tàu, ca-nô chiến đấu của địch.

Sáng ngày 24 tháng 10 năm 1947, tàu chiến Pháp ngược sông LÔ lên Đoan Hùng. Vừa tiến chúng vừa xả súng bắn như vãi đạn sang hai bên bờ sông: Phối hợp với đơn vị sơn pháo 75, các chiến sĩ trung đoàn 87 phục kích bắn chìm 4 ca -nô, 1 tàu chiến, diệt 350 tên địch.Tiếp đó ngày 10 tháng 11, trung đoàn lại thực hiện thành công trận phục kích ở Khe Lau (ngã ba sông Gậm), bắn chìm 2 tàu chiến, diệt 400 tên địch. Ngày 15 tháng 11, một cánh quân địch tiến lên Tuyên Quang bị tiểu đoàn 420 của trung đoàn phục kích ở ki-lô-mét 21 diệt hơn 100 tên. Trung đoàn còn phối hợp với dân quân du kích chôn mìn địa lôi, bắn tỉa, tổ chức các trận tập kích vào Ngọc Chúc, An Đạo, làm cho binh đoàn Com -muy-nan nhiều phen kinh hoàng.

Với nhiều chiến công xuất sắc trên sông Lô, ngày 20 tháng 12 năm 1947 khi trung đoàn về lại vùng núi Tổ Sơn để tổng kết chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến thăm, trao huân chưương Quân công hạng ba cho trung đoàn và báo tin vui: Bác Hồ và Trung ương Đảng đã quyết định tặng danh hiệu "trung đoàn Sông Lô" cho trung đoàn 87

Hai ngày sau, lễ mừng chiến thắng và đón danh hiệu "trung đoàn Sông Lô" được trung đoàn tổ chức trọng thể tại sân vận động thị xã Tuyên Quang. Trên hướng trung đoàn Lao Hà, cán bộ chiến sĩ ta sát cánh cùng nhân dân địa phưương liên tục chặn đánh địch. ỷ vào quân đông lại có bọn thổ phỉ, thổ ty giúp sức, dẫn đường, cánh quân Pháp từ Phòng Tô tiến sang liên tiếp mở nhiều đợt tiến công vào phòng tuyến của trung đoàn. Nhiều trận đánh ác liệt xảy ra. Do lực lượng ta mỏng, tiếp tế khó khăn, quân ta phải rút khỏi Lào Cai, Hà Giang.

Thế trận chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc có lực lượng vũ trang làm nòng cốt của ta đã phá tan cuộc tiến công thu đông năm 1947 của giặc Pháp. Đúng một năm sau ngày toàn quốc kháng chiến, đêm 19 tháng 12 năm 1947 quân Pháp phải tháo chạy khỏi chiến trường Việt Bắc.

Cuối năm 1947, trung đoàn Lao Hà về Yên Bái để củng cố lực lượng. Tại đây trung đoàn được biên chế thêm tiểu đoàn 542 (bộ đội chủ lực tỉnh Hà Giang do các đống chí Triệu Minh và Chu Thanh Hưương chỉ huy) và tiểu đoàn 115 (bộ đội chủ lực tỉnh Yên Bái do đồng chí Trần Kiên chỉ huy) . Sau khi kiện toàn đủ ba tiểu đoàn bộ binh (564, 542, 115) và các đại đội trực thuộc, trung đoàn đổi tên thành trung đoàn Lao Hà Yên, mang phiên hiệu 165. Đồng chí Lê Thùy từ trung đoàn Sông Lô sang làm trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Giảng làm chính trị viên trung đoàn.

Các chiến sĩ tiểu đoàn 11 và các đại đội độc lập của Liên khu 3 tham gia chiến dịch Thu Đông 1947 sau những trận thắng oanh liệt ở cầu Thi Ngạc, Đại Từ, Lư Đình, Nha thôn lại trở về hoạt động trên địa bàn liên khu. Trong thời gian này phong trào đỡ đầu binh sĩ của đồng bào cả nước phát triển mạnh. Tiểu đoàn 11 được Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đỡ đầu

Ngày 8 tháng 1 năm 1948 Tổng quân ủy triệu tập hội nghị mở rộng ở Khuôn Rịa (huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên), đồng chí Võ Nguyên Giáp Bí thư Tổng quân ủy chủ trì hội nghị.

Sau khi đánh giá những thắng lợi to lớn cũng như những mặt còn hạn chế của quân dân ta trong chiến dịch Việt Bắc và nghe các đơn vị trao đổi kinh nghiệm tác chiến trên chiến trường rừng núi, hội nghị đã phân tích âm mưu địch trong thời gian tới, đề ra chủ trương và biện pháp chống âm mưu "Dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch, chống tư tưởng muốn thương lượng hòa bình, phê phán những biểu hiện ngại cơ động xa, ngại luồn sâu bám địch ở các đơn vị cơ sở.

Qua thực tiễn chiến đấu và chỉ đạo tác chiến trên các chiến trường, Bộ Tổng chỉ huy nhận thấy khả năng chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu tập trung của ta còn hạn chế (do thiếu cán bộ, thiếu phưương tiện chỉ huy) nên đã hoãn việc tổ chức các đại đoàn, trung đoàn độc lập và chủ trương tiếp tục thực hiện phương châm "đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung" mà Thường vụ Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy đã đề ra ngay khi bước vào chiến dịch Việt Bắc. Chủ trương trên phù hợp với nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng mở rộng ngày 15 tháng 1 năm 1948: phát triển chiến tranh du kích khắp nơi, nhất là trong vùng địch kiểm soát đồng thời tùy theo tình thế tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, quét những đồn lẻ của địch, buộc địch thu hẹp địa bàn, đột nhập những thành phố nhỏ

Liên khu 10 được lệnh gấp rút tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền luồn sâu vào lòng địch, gây cơ sở trong nhân dân và phát động chiến tranh du kích. Trung đoàn 165 phái 6 đại đội do các đồng chí Thăng Bình, Việt Lê, Ba Đông, Vân An, Trần Hợp, Tô Đỉnh chỉ huy hoạt động trong lòng địch từ các vùng Bảo Hà, Phố Ràng, Làng Mai (tả ngạn sông Chảy) đến các vùng Bảo Thắng, Nghĩa Đô, đồn Lá, Bắc Hà (bên hữu ngạn sông Chảy), có đơn vị mở những mũi hoạt động sâu, lên tận Lào Cai, Lai Châu. Những ngày đầu khó khăn chồng chất tưởng không thể vượt qua nổi, nhưng nhờ kiên trì bền bỉ vận động thuyết phục quần chúng, nhờ tinh thần chịu đựng gian khổ khắc phục khó khăn, chiến đấu dũng cảm và lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 165 đã bám dân, bám địa bàn tích cực xây dựng chính quyền cách mạng. Đến cuối năm 1948 trung đoàn đã xây dựng được chính quyền ở tất cả các xã thuộc hai tỉnh Lào Cai, Hà Giang.

Thời gian này trung đoàn Sông Lô cũng có những thay đổi về tổ chức biên chế. Nhiều cán bộ chiến sĩ được điều đi xây dựng các đơn vị mới. Đầu xuân 1948, trung đoàn đón nhận hàng nghìn thanh niên vừa xung phong tòng quân từ các tỉnh miền xuôi. Sau khi bổ sung quân số và cán bộ chỉ huy các tiểu đoàn 502, 508, 420 đổi phiên hiệu mới là tiểu đoàn 130, 154 và 166. Đồng chí Vũ Lập và Hoàng Thế Thiện được điều về làm trung đoàn trưởng và chính trị viên trung đoàn. Ngay sau khi củng cố lực lượng, trung đoàn Sông Lô đã đánh trận nổi tiếng ở Nghĩa Đô khiến cho quân địch ở vùng Việt Trì, Phú Thọ khiếp sợ. Tháng 8 năm 1948, quân Pháp tập trung lực lượng mở cuộc hành quân đánh lên Phú Thọ. Cùng với các đơn vị bạn, trung đoàn Sông Lô liên tục quần nhau với địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Trong trận Phong Vực dưới sự chỉ huy mưu trí dũng cảm của hai đồng chí đại đội trưởng (Chu Phưương Đới và Huệ), hai đại đội ta đã phục kích diệt gọn một đại đội địch. Trong các trận Bến Then, Thiện Kế, Việt Trì, các đơn vị của trung đoàn tiêu diệt được nhiều sinh lực địch bảo vệ được một địa bàn rộng từ Phú Thọ, Phong Vực, Đồng Bủa đến Phúc Yên, Phủ Lỗ.

Trong đội hình các đơn vị chủ lực của Bộ tham gia chiến dịch đường số 3 nhằm quét sạch quân địch ở vùng Thái Nguyên, Bắc Cạn, tiểu đoàn 11 được giao nhiệm vụ đánh đồn Phủ Thông mở màn chiến dịch.

Đồn Phủ Thông cách thị xã Bắc Cạn 20 ki -lô-mét về phía bắc, án ngữ ngã ba Bắc Cạn - Ngân Sơn - Chợ Rã. Địch chiếm Phủ Thông nhằm giữ con đường huyết mạch từ Cao Bằng đi Bắc Cạn, tạo thành một lá chắn từ xa bảo vệ quân Pháp ở thị xã Bắc Cạn và khống chế uy hiếp vùng Chợ Rã, Lương Thượng, Na Rì. Đồn do 150 tên lính Âu Phi, trang bị 10 trung liên, 1 đại liên, 1 cối 81, 2 cối 60, 1 súng 12,7 ly, nhiều súng trường và lựu đạn thuộc trung đoàn lê dương số 3 đóng giữ. Sau lần bị quân ta đánh (thu đông năm 1947) địch đã củng cố công sự, bố phòng vững chắc, cẩn mật hơn. Với trang bị và trình độ tác chiến của ta lúc bấy giờ thì Phủ Thông là một vị trí rất kiên cố.

Sau một ngày đêm bí mật triển khai đội hình bao vây áp sát hàng rào địch, 18 giờ 15 phút ngày 25 tháng 7 năm 1948 tiểu đoàn 11 nổ súng tiến công đồn Phủ Thông. Do pháo 75 không phát huy được tác dụng nên quân địch trong các lô cốt chống cự rất quyết liệt. Tiểu đoàn phải tập trung các loại hỏa lực chế áp, tạo điều kiện cho xung kích lên mở đột phá khẩu, dùng thang ván vượt rào vào đồn địch. Nhiều cán bộ chiến sĩ anh dũng hy sinh khi vượt qua rào. 20 giờ 45 phút ta chiếm được nửa đồn, quân địch cố thủ chờ quân tiếp viện. Ta tiếp tục mở nhiều đợt xung phong, cả đội dự bị và đội trợ chiến đều được tung vào tiếp sức cho xung kích. Nhưng do chiến đấu kéo dài, đạn và lựu đạn đã cạn, lực lượng của ta thương vong gần 100 đồng chí nên sức đột kích giảm không thể phát triển chiến đấu tiếp, gần sáng tiểu đoàn phải lệnh cho bộ đội rút ra ngoài. Trận đánh tuy không dứt điểm, nhưng cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 11 đã chiến đấu rất dũng cảm diệt được gần hết quân địch chỉ còn sống sót khoảng một tiểu đội thu nhiều vũ khí. Từ trận đánh này ta rút ra được nhiều kinh nghiệm quý về đánh công kiên nhất là chuẩn bị hỏa lực chế áp và các phương tiện phá rào. Sau trận đánh, tiểu đoàn 11 được Bộ Tổng tư lệnh tặng danh hiệu "tiểu đoàn Phủ Thông".

Dưới sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh hai liên khu, các đại đội độc lập 58 670, 39, 77 tiếp tục bám địa bàn hoạt động ở hai bên đường 5, ven sông Hồng. Con đường chiến lược của địch từ Hà Nội đi Hải Phòng nhiều phen tắc nghẽn, nhiều ô tô xe pháo của địch đã bị các chiến sĩ Hồng Hà phá hủy. Cùng với hoạt động đánh phá giao thông địch, ngày 30 tháng 5 năm 1948 các chiến sĩ đại đội 58 đột nhập sân bay Gia Lâm phá hủy 2 máy bay địch. Với chiến công này, đại đội 58 được tặng thưởng huân chương Quân công hạng ba.

Năm 1949, tình hình cách mạng trong nước và trên thế giới có nhiều biến chuyển có lợi cho cuộc kháng chiến của ta. Ở trong nước, phong trào chiến tranh du kích phát triển rộng rãi và mạnh mẽ. Ở Trung Quốc, quân giải phóng tiến nhanh xuống Hoa Nam.

Quân Pháp gặp nhiều khó khăn ngày càng lún sâu vào thế bị động. Chính phủ Pháp phái tướng Rơ-ve - tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương vạch kế hoạch quân sự mới mang tên Rơ-ve.

Nội dung chính của kế hoạch này là tăng quân cho chiến trường Bắc Bộ, coi Bắc Bộ là chiến trường chính, mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du để từ đó thực hiện các ý đồ quân sự khác.

Mở đầu kế hoạch Rơ-ve, ngày 24 tháng 4 năm 1949, quân Pháp mở chiến dịch Pô Môn đánh lên Phú Thọ - Tuyên Quang nhằm thực hiện tiến công kiềm chế không cho quân ta ở Tây Bắc tràn về Trung Du. Trung ương Đảng và Tổng quân ủy quyết định sử dụng trung đoàn 308 (chủ lực Bộ) trung đoàn 209 (Liên khu 10) cùng quân dân Phú Thọ, Tuyên Quang chống cuộc càn Pô Môn của 2500 quân địch. Ban chỉ huy chiến dịch được thành lập gồm đồng chí Bằng Giang - chỉ huy trưởng, đồng chí Vương Thừa Vũ và Lâm Kính - chỉ huy phó. Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ chặn đánh cánh quân địch trên sông Lô. Với 10 trận đánh liên tiếp. Trung đoàn đã tiêu diệt 538 tên địch bắn chìm 1 ca nô và gần 100 chiến thuyền, góp phần phá tan âm mưu tấn công lên Tây Bắc lần thứ hai của địch, ghi thêm một chiến công vẻ vang trên dòng công Lô lịch sử.

Ngày 6 tháng 6 năm 1949, sau khi quân Pháp phải rút chạy khỏi chiến trường Sông Lô, trung đoàn được lệnh trở về Phú Thọ tiếp tục củng cố lực lượng. Để đáp ứng yêu cầu tác chiến ngày càng lớn, Bộ chủ trương tổ chức trung đoàn Sông Lô thành trung đoàn mạnh trực thuộc Bộ làm nòng cốt cho việc tổ chức một đại đoàn mới khi cần. Theo chủ trương đó trung đoàn chỉ giữ lại tiểu đoàn 130 (các tiểu đoàn còn lại nhận nhiệm vụ hoạt động trên hướng khác). Trung đoàn được bổ sung 3 tiểu đoàn mới (630, 142, 450) từng hoạt động trên địa bàn Yên Bái, Vĩnh Phúc, tây nam Phú Thọ. Khi về đội hình trung đoàn, 3 tiểu đoàn trên được biên chế lại và mang phiên hiệu của 2 tiểu đoàn 154 và 166. Đồng chí Lê Trọng Tấn - Phó tư lệnh Khu 10 về làm trung đoàn trưởng kiêm chính ủy. Đồng chí Nguyễn Bàng, trung đoàn trưởng trung đoàn Sơn La về làm trung đoàn phó. Đồng chí Lê Minh làm chủ nhiệm chính trị. Tháng 3 năm 1950 Bộ Tổng tư lệnh cử đồng chí Trần Độ, nguyên chính ủy đặc khu Hà Nội và trưởng phòng tuyên truyền về làm chính ủy trung đoàn.

Sau khi chấn chỉnh tổ chức biên chế, ngày 2 tháng 9 năm 1949 tại khu rừng Kim Lăng (cạnh đường số 2 thuộc tỉnh Phú Thọ), cán bộ chiến sĩ trung đoàn Sông Lô đón nhận quyết định tổ chức thành trung đoàn mạnh trực thuộc Bộ mang phiên hiệu trung đoàn 2091 (Chú thích: 1: 209 là con số đầu ngày 2 tháng 9. Ngày truyền thống của trung đoàn Sông Lô được xác định là ngày 2 tháng 9 năm 1947).

Trung đoàn 165 hoạt động phân tán trên địa bàn hai tỉnh Hà Giang, Lào Cai. Tháng 1 năm 1949, trung đoàn được lệnh của Bộ tư lệnh Khu 10, tập trung lực lượng chuẩn bị cho tác chiến lớn. Từ một đơn vị tác chiến tập trung chuyển sang hoạt động phân tán nay tập trung trở lại, cán bộ chiến sĩ trung đoàn Lao Hà Yên đã có thêm nhiều kinh nghiệm chiến đấu phong phú. Trình độ kỹ chiến thuật của các phân đội, bản lĩnh của cán bộ chỉ huy qua các đợt hoạt động dài ngày trong lòng địch với nhiều tình huống phải xử trí gay go phức tạp đã tôi luyện cán bộ, chiến sĩ thêm vững vàng. Sau khi ổn định tổ chức, bổ sung quân số, trang bị, đầu tháng 2 năm 1949 trung đoàn bước vào đợt luyện quân nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng.

Tháng 5 năm 1949, trung đoàn tham gia chiến dịch Sông Thao. Lần đầu tiên phối hợp cùng các đơn vị bạn đánh những trận lớn, trung đoàn đã lập công xuất sắc ở Khe Phìa, Ngòi Mác, Mã Yên Sơn, Làng Nhoi, phá vỡ âm mưu đánh chiếm khu vực sông Thao của địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng Yên Bái - Lào Cai.

Cuối năm 1949, khi địch đánh lên Đông Bắc ta chủ trương mở chiến dịch Lao Hà để buộc địch phải phân tán lực lượng. Trung đoàn 165 là lực lượng chủ yếu của chiến dịch đã tiêu diệt gọn 2 vị trí quan trọng của địch ở Phố Lưu, Bàn Lầu, tiến sâu vào phía thị xã Lào Cai, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ với các đơn vị bạn và dân quân du kích địa phương bao vây bức rút hơn 20 vị trí khác, mở rộng vùng căn cứ Khu 10 lên sát thị xã Lào Cai.

Cùng tham gia chiến dịch Sông Thao với trung đoàn 165, tiểu đoàn 11 (trong đội hình trung đoàn 308) liên tiếp đánh địch ở Đại Phác, Phố Ràng. Trong trận Đại Phác do chiếm lĩnh trận địa từ đêm trước và bí mật cắt được 20 mét rào nên khi đơn vị bạn đánh đồn Đại Bục, các chiến sĩ Phủ Thông đã chủ động tiến công đồn Đại Phác (theo kế hoạch đánh xong đồn Đại Bục ta mới dùng pháo chi viện đánh đồn Đại Phác). Mặc dù không có pháo chi viện, nhưng do chuẩn bị chiến đấu tốt, nắm chắc thời cơ nên sau hơn 1 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt đồn Đại Phác. Tiếp đó đêm 24 tháng 6, tiểu đoàn được phối thuộc 2 pháo 75, 2 đại đội bộ binh, một số đơn vị trợ chiến và du kích tiếp tục tiến công đồn Phố Ràng. Đây là một đồn mạnh do 150 lính (có 1 phần 4 lính Âu Phi) chiếm giữ. Mặc dù bị lộ ngay từ khi tiếp cận, bộc phá hỏng không phá được tường, rào, bộ đội ta vẫn dũng cảm bò lên dưới làn mưa đạn địch, dùng xăng tẩm vào chăn đốt các đoạn rào tre. Rào đổ, ta dùng thang ván vượt tường xung phong vào đồn. Trận đánh diễn ra ác liệt suốt đêm hôm đó. Địch dựa vào hầm ngầm cố thủ, ta chiếm được 2 phần 3 đồn thì trời sáng, phải tạm dừng để củng cố lực lượng. Đêm 25, tiểu đoàn tiếp tục tiến công. Lợi dụng địa hình các chiến sĩ ta vây chặt các hầm cố thủ, liên tiếp dùng lựu đạn, thủ pháo ném vào trong hầm ngầm. Gần sáng, quân địch trong các hầm cố thủ bị tiêu diệt hoàn toàn. Trận này ta diệt và bắt toàn bộ quân địch trong đồn, thu 130 súng, tám tấn đạn các loại, ta thương vong hơn 100 cán bộ, chiến sĩ. Sau trận thắng này, tiểu đoàn tiếp tục tham gia đánh địch ở Phố Lưu, Nghĩa Đôi.

Tiếp theo thắng lợi mùa hè, tiêu diệt hàng loạt đồn bốt địch trong chiến dịch Sông Thao, thu đông năm 1949 Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch Lê Lợi, phá thế uy hiếp của địch, mở rộng giao thông liên lạc giữa Việt Bắc và Khu 3, tiêu diệt sinh lực địch trên đường số 6, ven sông Đà, giải phóng đất đai, phá kế hoạch lập xứ Mường tự trị của địch. Bộ Tổng tư¬ lệnh cử đồng chí Hoàng Sâm làm tư lệnh, đồng chí Lê Quang Hòa làm chính ủy, đồng chi Lê Trọng Tấn làm phó tư lệnh chiến dịch.

Trung đoàn 209 chủ lực của Bộ, trung đoàn 66 Liên khu 3, trung đoàn 9 Liên khu 4, các đơn vị địa phương và một số đơn vị binh chủng tham gia chiến dịch. Trung đoàn 209 tiến công 2 vị trí Suối Rút trên đường số 6 và Mỏ Hèm ven sông Đà mở màn chiến dịch. Chiều ngày 25 tháng 11 năm 1949, tiểu đoàn 130 tiến công Suối Rút, tiểu đoàn 166 tấn công vị trí Mỏ Hèm, tiểu đoàn 154 chặn viện ở bến Bởi và làm lực lượng dự bị cho trung đoàn. Đồn Suối Rút có 4 lô cốt, bao quanh đồn là tường cao, bên ngoài là những hàng rào tre vót nhọn. Ta dùng bom 94 ly do công binh chế tạo và 2 khẩu cối 120 ly (nòng súng là những đoạn ống tuýp đầu xe hỏa cũ) để công đồn. Bom nổ nhưng tường không thủng. Khẩu cối 120 do thuốc phóng không đúng quy cánh, máy ngắm sơ sài bắn ước lượng nên đạn bắn ra đều lạc mục tiêu. Mặc dù không phá được lô cốt nào của địch, các đại đội vẫn quyết tâm dùng hỏa lực trong biên chế và các phưương tiện thô sơ để chiến đấu. Chiến sĩ dùng câu liêm giật đổ rào tre rồi dùng thang ván vượt tường. Đạn địch từ các lỗ châu mai bắn ra như mưa, đại đội phó Quốc Sủng và nhiều chiến sĩ hy sinh khi đánh chiếm lô cốt đầu cầu. Suốt đêm hôm đó ta tổ chức xung phong nhiều lần nhưng đều bị địch đánh bật ra.

Trong khi đó, ở đồn Mỏ Hẻm cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 166 cũng gặp khó khăn, cả đêm ta không vào được đồn, đến sáng tiểu đoàn phải ngừng tiến công để củng cố lực lượng.

Phán đoán địch sẽ đưa quân lên ứng cứu, Ban chỉ huy mặt trận lệnh cho các đơn vị tiếp tục vây chặt đồn. Quả nhiên ngày hôm sau một đại đội địch từ Hòa Bình lên tiếp viện. Quân địch lọt vào trận địa đã phục sẵn của tiểu đoàn 154 ở bến B¬ởi bị diệt gọn. Đêm 27 tháng 11, quân địch ở Suối Rút, Mỏ Hẻm hoang mang bỏ đồn rút chạy. Ta diệt và bắt gần hết số quân ở hai đồn này. Ngày 28 tháng 11, địch tiếp tục cho ba đại đội đánh lên với ý định chiếm lại Suối Rút, Mỏ Hẻm, nhưng đều bị ta phục kích đánh tan. Cho đến ngày kết thúc chiến dịch, trung đoàn 209 còn đánh nhiều trận, giải phóng toàn huyện Mai Châu. Kinh nghiệm đánh điểm diệt viện vây điểm diệt viện" ngày càng được trung đoàn vận dụng linh hoạt, sáng tạo.

Đến tháng 12 năm 1949, các trung đoàn Sông Lô (209), Lao Hà Yên (165), tiểu đoàn 11 (Phủ Thông) các đại đội 58, 670, 39, 77 đã liên tục hoạt động 3 - 4 năm trên địa bàn Khu 10, Liên khu 1 và Liên khu 3. Dù ở chiến trường rừng núi Việt Bắc, Tây Bắc hay vùng châu thổ sông Hồng, khi phân tán thành phân đội nhỏ hay tập trung trong đội hình tiểu đoàn, trung đoàn, dưới sự lãnh đạo chỉ huy trực tiếp của các Bộ tư lệnh liên khu hay của Bộ Tổng tư lệnh, các đơn vị đều phát huy tinh thần khắc phục khó khăn, dũng cảm chiến đấu, đoàn kết một lòng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Chặng đường đầy thử thách, gian khổ hy sinh những năm đầu kháng chiến đã tôi lưuyện bản lĩnh của cán bộ chỉ huy, rèn lưuyện kỹ năng chiến đấu của chiến sĩ, xây đắp nên truyền thống chiến đấu vẻ vang của các đơn vị. Đó chính là nền tảng vững chắc để các đơn vị tiếp tục phát huy khi tập trung trong đội hình lớn: đại đoàn chủ lực cơ động của Bộ.

2. Đại đoàn 312 được thành lập

Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta có bước phát triển mới, ta đã tiến bộ nhiều về phương diện tác chiến cũng như về phưương diện xây dựng lực lượng. Cơ sở chính trị của ta mạnh, hậu phư¬ương ta vững, tinh thần quân dân ta cao1 (Chú thích: 1. Đánh giá của Hội nghi lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1 năm 1950.). Cách mạng Trung Quốc thắng lợi. Việt Nam nối liền với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, được nhiều nước trên thế giới công nhận càng làm cho thế và lực của ta thêm mạnh. Trong khi đó, được sự giúp đỡ của Mỹ, thực dân Pháp cố thoát ra khỏi tình trạng bị động lúng túng trên chiến trường Đông Dưương. Chúng tiếp tục thực hiện kế hoạch mở rộng phạm vi chiếm đóng ở đồng bằng và trung du, tăng cường phòng thủ khu tứ giác Lạng Sơn -Tiên Yên - Hải Phòng - Hà Nội, bao vây căn cứ địa Việt Bắc và phong tỏa biên giới Việt - Trung, xúc tiến kế hoạch lập "nước Thái", "nước Nùng" "nước Mường" tự trị. Đồng thời chú trọng phát triển ngụy quân, tích cực củng cố các phòng tuyến Trung Du, sông Đáy, tăng cường lực lượng cho tuyến phòng thủ đường số 4 chuẩn bị điều kiện để mở các cuộc hành quân lớn đánh phá hậu phương ta. Về phía ta, từ Hội nghị toàn quốc lần thứ 3 (tháng 1 năm 1950) Trung ương Đảng chủ trương: "... Nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch... gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị"1 (Chú thích: 1. Nghi quyết Hội nghị lần thứ 3 của Ban chấp hành Trung ương Đảng ( l-1950) nhằm giành thắng lợi lớn, tạo chuyển biến cục diện chiến tranh có lợi cho ta, xây dựng bộ đội chủ lực hợp với khả năng và tình thế mới" "xây dựng một quân đội nhân dân ngày càng tinh nhuệ, ngày càng chính quy hóa, trung thành với lợi ích của nhân dân, và lợi ích của cách mạng" 2 (Chú thích 2. Báo cáo quân sự tại Hội nghi toàn quốc lần thứ 3 (1-1950).)

Tiếp sau Đại đoàn 308, tháng 3 năm 1950 Đại đoàn 304 được thành lập. Ngày 11 tháng 7 năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh tổ chức cơ quan Bộ Tổng tư lệnh gồm: Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị và Tổng cục Cung cấp. ở các liên khu ta đã thành lập được các trung đoàn chủ lực, một số đơn vị binh chủng. Hai trung đoàn chủ lực trực thuộc Bộ (209 và l74) được kiện toàn thành những đơn vị mạnh. Cuối tháng 4 năm 1950, trung đoàn 209, trung đoàn 174 cùng với Đại đoàn 308 tập trung về biên giới Việt -Trung huấn luyện. Đợt huấn luyện trong thời gian 2 tháng nhưng với tinh thần ham học hỏi và được sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn, cán bộ chiến sĩ trung đoàn 209 đã tiếp thu được nhiều kinh nghiệm quý, nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật. .. tạo điều kiện thuận lợi để các chiến sĩ Sông Lô bước vào chiến dịch Biên Giới: đồng thời cũng là bước chuẩn bị để trung đoàn phát huy vai trò nòng cốt xây dựng Đại đoàn 312. Tháng 6 năm 1950 Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên Giới nhằm: tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch giải phóng biên giới, phá thế bị bao vây từ bên trong mở thông giao lưu quốc tế, phát triển tiềm lực kháng chiến, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc giành quyền chủ động trên chiến trường, đẩy địch lún sâu vào thế phòng ngự bị động hơn nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: "chiến dịch này chỉ cho đánh thắng không cho đánh bại"2. (Chú thích 1, 2 Báo cáo tổng kết chiến dịch Biên Giới) Lực lượng tham gia chiến dịch gồm Đại đoàn 308, trung đoàn 209, trung đoàn 174, trung đoàn pháo 95, ba tiểu đoàn bộ đội địa phương và dân quân du kích hai tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng. Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập do Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp phụ trách. Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Chính ủy. Cùng với quân dân Việt Bắc, trung đoàn 209 và các đơn vị bạn khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch Trên hướng mặt trận Tây Bắc, trung đoàn 165, tiểu đoàn 4283 (Chú thích 3. Tiểu đoàn 428 thành lập đầu năm 1950 gốm 4 đại đội 58, 670, 39, 77 do đồng chí Lương Thinh làm tiểu đoàn trưởng Trần Nguyên Phi chính trị viên), cũng rầm rộ tiến hành các hoạt động nghi binh phối hợp. Quá trình nghiên cứu chiến trường, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy Cao Bằng là một cứ điểm mạnh của địch có địa thế phức tạp, nhiều cứ điểm kiên cố, nếu ta đánh Cao Bằng trước (theo kế hoạch tác chiến ban đầu) sẽ gặp khó khăn, không bảo đảm chắc thắng nên đã đề nghị chuyển sang đánh Đông Khê trước. Ngày 16 tháng 8 năm 1950, Đảng ủy mặt trận họp nghiên cứu thêm phương án tác chiến.Sau khi cân nhắc kỹ tình hình địch ta, địa hình, Đảng ủy nhất trí với đồng chí Tư lệnh, Bí thư đảng ủy mặt trận về chủ trương đánh Đông Khê trước, buộc địch phải kéo viện binh từ Lạng Sơn lên, ta có điều kiện diệt quân viện khi chúng vận động.

Nếu ta chiếm được Đông Khê, diệt được quân viện thì quân địch ở Cao Bằng bị cô lập sẽ phải rút lui, tạo điều kiện cho chiến dịch phát triển thắng lợi. Phương án tác chiến được Ban thường vụ Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn y.

Ngày 24 tháng 8, Bộ chỉ huy chiến dịch mở hội nghị từ cấp trung đoàn trở lên để thảo luận quán triệt quyết tâm và giao nhiệm vụ cho từng đơn vị. Trung đoàn 209 được Tổng tư lệnh trực tiếp giao nhiệm vụ cùng trung đoàn 174 đánh Đông Khê, nổ tiếng súng mở màn chiến dịch. Đại đoàn 308 bố trí ở đoạn giữa Đông Khê và Thất Khê sẵn sàng đánh viện binh địch.

Sau hội nghị, chỉ huy trung đoàn 209 và 174 tổ chức đoàn cán bộ trinh sát khu vực Đông Khê Ta bí mật lên núi Nà Rịa cách Đông Khê khoáng 800 mét, hàng ngày quan sát các hoạt động của địch. Ban đêm các đơn vị tổ chức xâm nhập vào tận hàng rào, lô cốt địch để tìm hiểu cách bố trí binh hỏa lực, xây dựng quyết tâm chiến đấu thông qua Bộ chỉ huy chiến dịch.

Đông Khê là cứ điểm quan trọng của địch trên phòng tuyến đường số 4, phía tây cách thị xã Cao Bằng 45 ki -lô mét. Phía nam cách thị trấn Thất Khê 25 ki -lô-mét. Cứ điểm Đông Khê gồm 2 điểm tựa lớn, xung quanh có 7 vị trí kiên cố bố trí trên các điểm cao có tầm quan sát rộng, phát huy được các loại hỏa lực nhằm ngăn chặn ta tiếp cận từ xa. Trong khu vực Đông Khê có phố, đồn chính và sân bay lên thẳng. Đồn chính có hàng chục lô cốt thấp sát mặt đất, ở dưới có hầm ngầm, xung quanh đồn có tường cao và dây kẽm gai bao bọc. Lực lượng địch ở Đông Khê thường xuyên có 2 đại đội thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn lê lượng số 3, một trung đội lính ngụy, một phân đội pháo 105 ly, số quân khoảng 350 tên.

Quá trình trinh sát và chuẩn bị chiến đấu hai trung đoàn đã xây dựng kế hoạch tác chiến cụ thể. Trong hội nghị phổ biến nhiệm vụ lần cuối tại hang Bố Bạch, trung đoàn 209 được tăng cường đại đội pháo 70 ly đánh đồn chính và các vị trí Pò Hẩu. Pò Đình, Phủ Thiện, Nha Cũ. Các đơn vị bạn được phân công đánh Đông Khê phố và chặn viện. Ngày 12 tháng 9 năm 1950, trung đoàn 165 và các lực lượng vũ trang địa ph¬ương nổ súng đánh địch ở PaKha, Lào Cai tiểu đoàn 428 đánh địch ở Đồng Đăng, Na Sần (Lạng Sơn) .

Quân dân Tây Bắc đã thực hiện thành công nhiệm vụ nghi binh chiến dịch. Địch cho rằng ta sắp mở chiến dịch Tây Bắc nên chúng tiếp tục điều quân lên Phú Thọ đánh thăm dò. Trong khi đó, ở mặt trận đường số 4 thế trận của ta đã chuẩn bị xong.

G giờ ngày 16 tháng 9 quân ta nổ súng tiến công cứ điểm Đông Khê. Các đơn vị lần lượt "đánh bóc vỏ" cácvị trí vòng ngoài.

Đêm 16 tháng 9 tiểu đoàn 130 do tiểu đoàn trưởng Hoàng Cầm chỉ huy nhanh chóng vượt qua phố Đông Khê dùng bộc phá lên tục mở cửa đánh đồn Đông Khê. Từ đồi cao đại liên địch bắn như vãi đạn trước cửa mở. Đại đội 366 do đại đội trưởng Trấn Cừ chỉ huy ng¬ười này ngã, người kia tiếp tục xông lên phá rào.

Cuộc tiến công kéo dài đến gần sáng, ta vẫn không mở được cửa. quân số thương vong quá một nửa. các đơn vị phải tạm thời rút ra ngoài vừa bao vây đồn vừa củng cố lực lượng. Rút kinh nghiệm, đêm 17 tháng 9 ta đánh chiếm nhà Phủ Thiện rồi từ đó đánh thẳng lên đồn cao. Cửa mở thắng bộ đội xông lên đánh chiếm đầu cầu nhưng bị một hỏa điểm ngầm mới xuất hiện chặn đứng trước cửa mở, bốn chiến sĩ ôm bộc phá lên đánh lô cốt đều bị thương. một tiểu đội trưởng xung phong ôm 20 ki-lô-gam bộc phá lên đánh lô cốt nhưng do vội vàng góc áp không đúng nên bộc phá nổ chỉ phá vỡ được một mảng lô cốt. Địch choáng váng. một số bỏ chạy vào lô cốt trong. Chớp thời cơ, đại đội trưởng Trần Cừ dẫn xung kích xông lên, khi anh tới gần lô cốt đầu cầu thì bọn địch trong lô cốt đã hoàn hồn, chúng điên cuồng xả đạn về phía quân ta. Tuy đã bị thương nặng, đồng chí Trần Cừ cố lết người về phía lỗ châu mai rồi bất ngờ xoay người bịt kín hỏa điểm. Trong khoảnh khắc đó. xung kích ta ào ạt. xông lên tiêu diệt đồn cao. Các tiểu đoàn 166, 154 tiếp tục phát triển đánh vào tung thâm.

7 giờ sáng ngày 18 tháng 9. tiểu đoàn 166 nổ quả bộc phá 40 ki -lô-gam đánh sập hầm chỉ huy kiên cố nhất của cứ điểm ĐôngKhê. Tên A-ly-úc chỉ huy đồn Đông khê và bọn còn sống sót ra hàng. Trong trận này trung đoàn 209 đã tiêu diệt và bắt 185 tên, thu vũ khí đủ trang bị cho một tiểu đoàn. Đông Khê bị tiêu diệt, phòng tuyến biên giới của địch như một con rắn bị đánh gãy khúc, Cao Bằng, Thất Khê bị cô lập, phán đoán thế nào địch cũng cho quân ra chiếm lại Đông Khê hoặc yểm trợ cho bọn địch ở Cao Bằng rút chạy, Bộ tư lệnh chiến dịch tiếp tục giao nhiệm vụ cho trung đoàn 209 phòng thủ Đông Khê và sẵn sàng cơ động cùng lực lượng Đại đoàn 308 chặn viện.

Ngày 18 tháng 9, địch điều thêm 2 tiểu đoàn lên Thất Khê nâng số quân ở đây lên 4 tiểu đoàn, toàn bộ lực lượng này do trung tá Lơ Pa-giơ chỉ huy. Địch có ý định chiếm lại Đông Khê để tạo điều kiện cho số quân ở Cao Bằng rút về Lạng Sơn.

Ngày 20 tháng 9, chúng dùng máy bay đổ thêm một tiểu đoàn xuống Cao Bằng, nâng tổng số quân ở Cao Bằng lên ba tiểu đoàn. Số quân này do trung tá Sác-tông chỉ huy chuẩn bị rút theo đường số 4. Trước khi rút, địch tổ chức nhiều hoạt động thăm dò, nghi binh thu hút lực lượng ta.

Trong khi đó, trung đoàn 209 và các đơn vị bạn vẫn kiên trì nằm rừng chịu đói, chịu rét sẵn sàng đón đánh quân tiếp viện. Đã hết tháng 9 mà vẫn không thấy địch động tĩnh gì, nhiều cán bộ, chiến sĩ nôn nóng đề nghị hành quân đi đánh nơi khác. nhưng Đảng ủy mặt trận chỉ thị: "Phải kiên nhẫn chờ đợi không được chủ quan khinh địch, tiếp tục làm tốt công tác chuẩn bị!". Các đại đội trưởng được lệnh đi chuẩn bị chiến trường còn chính trị viên thì đưa quân đi lấy thêm gạo chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dài ngày. Đúng lúc đó địch bất ngờ cho quân tiến lên Đông Khê.

Ngày 1 tháng 10 quân của Lơ Pa-giơ đến cách Đông Khê 4 ki -lô-mét, bắt đầu triển khai đội hình tiến công. Máy bay địch giội bom na -pan, trọng pháo địch bắn phá dữ dội các mỏm đồi quân ta đã chiếm lĩnh. Tuy quân số ở nhà còn ít, một số đơn vị thiếu cán bộ chỉ huy, nhưng tiểu đoàn 166 đã kiên cường chặn đánh, buộc quân địch phải dừng đội hình tấn công trên các mỏm đồi Nà Phá, Khâu áng, Khâu Luông và các điểm cao ở nam Đông Khê. Chiều 2 tháng 10, quân ta vận động bao vây, tiến công quân địch ở các mỏm đồi này.

Ngày 3 tháng 10, tiểu đoàn 154 mở nhiêu đợt xung phong. Trận chiến đấu kéo dài từ sáng đến chiếu, ta mới đánh chiếm được Khâu áng và truy kích địch đến đồi 760. Chín giờ sáng ngày 4 tháng 1 0, địch đổ quân tăng viện cho đối 760, mặc dù quân địch đông, chiếm được địa hình có lợi, nhưng do chỉ huy ta nắm vững thời cơ, tổ chức được một trung đội dùng thang dây bí mật bò lên phía tây cao điểm đánh vào sau lư¬ng địch nên chỉ sau ít phút chiến đấu, quân địch bị vỡ đội hình phải bỏ chạy sang đồi 765. Địch cho máy bay ném bom na-pan chặn đường ta truy kích. Đồng chí Đỗ Du chính trị viên tiểu đoàn bị bom cháy cả quần áo vẫn dẫn đầu đội hình đuổi đánh địch. Ta và địch quần nhau đến chiều. Đồng chí Đỗ Du bị bỏng nặng vẫn dũng cảm chỉ huy đơn vị chiến đấu và anh dũng hy sinh khi quân ta làm chủ đồi 765.

Trong khi cuộc chiến đấu ở đồi 765 của tiểu đoàn 154 diễn ra quyết liệt thì hai tiểu đoàn 130 và 166 được lệnh hành quân cấp tốc lên hướng Cao Bằng phối hợp với đơn vị bạn đến đánh binh đoàn Sác-tông. Sau 2 ngày chiến đấu liên tục, bộ đội đã rất mệt mỏi. Chấp hành mệnh lệnh của trên, kiên quyết không để quân địch chạy thoát, các chiến sĩ quên cả ăn ngủ, len lỏi cắt rừng bám địch.

Chiều 6 tháng 10, tiểu đoàn 166 đuổi kịp đội hình địch ở đồi 490. Quân ta nổ súng ngay, quan tư Ti-nô bị bắn chết. Tiểu đoàn ngụy binh bị đánh tan tác. tiểu đoàn lê dương thứ 2 của địch tìm đường chạy vào khu vực điểm cao 477 bị tiểu đoàn 130 và các đơn vị bạn diệt gọn. Liên tiếp trong những ngày sau đó, trung đoàn 209 phối hợp chiến đấu với các đơn vị bạn tiêu diệt nhiều quân địch ở khu vực Cốc Xá, điểm cao 477, 649, góp phần tiêu diệt và bắt toàn bộ hai binh đoàn Lơ Pa-giơ và Sác tông của địch.

Chiến dịch Biên Giới kết thúc thắng lợi, Đại tướng Tổng tư lệnh đến thăm trung đoàn 209. Đại tướng biểu dương trung đoàn đã hoàn thành tốt nhiệm vụ tiêu diệt địch ở Đông Khê, giữ vững trận địa. cơ động nhanh phối hợp chặt chẽ với đơn vị bạn tiêu diệt 2 binh đoàn địch. góp phân vào thắng lợi chung của chiến dịch Cao-bắc-lạng. Trung đoàn và cả ba tiểu đoàn được thưởng huân chương Quân công hạng ba

Trung đoàn l65, tiểu đoàn 428 và các lực lượng vũ trang địa phương trên mặt trận nghi binh phối hợp ở Tây Bắc được trung ương khen đã hoàn thành vượt mức nhiệm vụ chiến dịch. Do thành tích quét sạch quân địch giải phóng hai tỉnh Lào Cai - Hà Giang mở thông biên giới các chiến sĩ trung đoàn 165 được tặng danh hiệu, "Trung đoàn Thành Đồng Biên Giới". Các chiến sĩ tiểu đoàn 11 trong đội hình chiến đấu của Đại đoàn 308 cũng được đánh giá là đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ "Như vậy là tuy chưa chính thức đứng trong đội hình một đại đoàn chủ lực nhưng trong chiến dịch Biên Giới các đơn vị đã sớm gắn bó, hiệp đồng chiến đấu, cán bộ chiến sĩ các đơn vị hiểu nhau, tin nhau như anh emmột nhà.

Sau chiến dịch Biên Giới, hai tiểu đoàn 11 và 16 được lệnh rời Đại đoàn 308 về thành lập trung đoàn 141, Tiểu đoàn 428 đang hoạt động ở Tây Bắc cũng được điều động về thành lập trung đoàn. Ngày 11 tháng 12 năm 1950, trung đoàn 1411 (Chú thích 1. Phiên hiệu 141 lấy số đầu của các tiểu đoàn 16, 428, 11) được thành lập gồm 3 tiểu đoàn bộ binh 11, 16, 428 và các đại đội trực thuộc. Đồng chí Nam Long được cử làm trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Anh Bảo làm chính ủy lâm thời. Một thời gian sau đồng chí Mạc Ninh được cử làm chính ủy trung đoàn. Theo chỉ thị của Trung ương Đảng, các đơn vị khẩn trương tổng kết kinh nghiệm chiến đấu trong chiến dịch Biên Giới đẩy mạnh huấn luyện. củng cố lực lượng, chuẩn bị cho các chiến dịch tiếp theo.

Chủ trương tiếp tục xây dựng một số đại đoàn chủ lực để đảm nhiệm những nhiệm vụ tác chiến lớn hơn sau chiến dịch Biên Giới có thêm điều kiện để thực hiện. Trên cơ sở ý định xây dựng trung đoàn 209 thành trung đoàn mạnh trực thuộc Bộ để khi có điều kiện làm nòng cốt phát triển, xây dựng thêm một đại đoàn mới, Trung ương Đảng và Tổng quân ủy quyết định thành lập Đại đoàn bộ binh 312. Đồng chí Lê Trọng Tấn trung đoàn trưởng trung đoàn 209 được chỉ định làm Đại đoàn phó quyền Đại đoàn trưởng. Đồng chí Trần Độ chính ủy trung đoàn 209 được giao làm Phó chính ủy quyền Chính ủy Đại đoàn và là Bí thư đảng ủy lâm thời của đại đoàn.

Do các đơn vị được Bộ giao nhiệm vụ tham gia chiến đấu trong chiến dịch Trung Du, không thể chờ tập trung đủ nên thời gian đầu đội hình đại đoàn mới có trung đoàn 209, trung đoàn 141 vừa thành lập và một số cơ quan, đơn vị trực thuộc. Trung đoàn 165 đang làm nhiệm vụ chiến đấu ở biên giới, đến tháng 3 năm 1951 mới về đội hình đại đoàn. Tuy chưa đủ 3 trung đoàn, các cơ quan và đơn vị trực thuộc chưa kiện toàn, cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 khẩn trương bắt tay vào chuẩn bị cho chiến dịch Trung Du. Quyết tâm đánh thắng trận đầu thôi thúc cán bộ chiến sĩ hăng hái ra trận giết giặc lập công. Trang sử Đại đoàn 312 mở ra từ đây. Chiến công và những thử thách gay go ác liệt đang ở phía trước đại đoàn

3. Đại đoàn 312 trong chiến dịch Trung Du

Sau thất bại ở biên giới Việt - Trung, quân Pháp tập trung về bình định đồng bằng Bắc Bộ. Tranh thủ viện trợ Mỹ1 (Chú thích 1. Năm 1950 Mỹ viện trợ cho Pháp 52 tỷ phơ-răng, năm 1951 tăng lên 62 tỷ)., chúng ra sức củng cố lực lượng, chuẩn bị điều kiện để phản công tiêu diệt chủ lực ta, giành lại quyền chủ động và những địa bàn đã mất. Ngày 6 tháng 12 năm 1950 tướng Đờ Lát -đờ Tát -xi-nhi được chính phủ Pháp cử sang làm Tổng chỉ huy kiêm cao ủy Pháp ở Đông Dương. Với toàn quyền hành động cả về quân sự và chính trị, Tát -xi-nhi ráo riết thực hiện kế hoạch bình định gấp rút và phản công quyết liệt nhằm đối phó với các cuộn tiến công của ta, giànhlại quyền chủ động chiến trường.Về phía ta, sau chiến tháng Biên Giới, Trung ươngĐảng chủ trương: "Mạnh bạo khuếch trương thắng lợi cả ba mặt quân sự, chính trị, kinh tế nhưng lấy hoạtđộng tích cực về quân sự là chính"2 (chú thích 2. Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1950), nhanh chóng chấn chỉnh bộ đội, đẩy mạnh hoạt động trên các chiến trường, tiếp tục phát động chiến tranh du kích rộng rãi nhằm tiêu diệt sinh lực định, phá kế hoạch củng cố lực lư¬ợng và tình hình đồng bằng của chúng, giữ vững quyền chủ động chiến lược của ta trên chiến trường Bắc Bộ. Những tháng cuối năm 1950 quân và dân ta tích cực chuẩn bị mọi mặt để mở chiến dịch Trung Du (chiến dịch Trần Hưng Đạo) . Mục đích của chiến dịch được Trung ¬ương Đảng và Tổng quân ủy xác định là:

- Tiêu diệt sinh lực địch

- Mở rộng nguồn cung cấp lương thực ở đồng bằng Bắc Bộ, phát triển chiến tranh du kích rộng sâu vào trong lòng địch.

- Tranh thủ thời gian phá kế hoạch bình định vùng tạm chiếm nhằm vơ vét sức người, sức của, củng cố lực lượng và chuẩn bị phản công của địch.

Hướng chủ yếu của chiến dịch là khu vực Phúc Yên - Vĩnh Yên. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm hai Đại đoàn bộ binh 312, 308, hai trung đoàn bộ binh chủ lực độc lập thuộc Bộ, ba trung đoàn chủ lực Liên khu 3, một số tiểu đoàn bộ đội địa phương, đơn vị binh chủng (pháo binh, côngbinh) và dân quân du kích địa phương.

Đại đoàn 312 được Bộ giao nhiệm vụ cùng bộ đội địa phương đánh địch trong khu vực Vĩnh Yên, tiêu diệt từ 2 đến 4 đại đội địch. Phạm vi hoạt động của Đại đoàn từ Hương Canh đến Việt Trì. Đại đoàn 308 đảm nhiệm đánh địch từ Hương Canh đến Bắc Giang. Trong khi các đơn vị đang khẩn trương làm công tác chuẩn bị chiến đấu thì địch mở các cuộc hành quân càn quét thăm dò lực lượng ta. Chúng tung gián điệp, biệt kích dò la tin tức các đại đoàn chủ lực để xác định hướng ta mở chiến dịch. Phán đoán ta tập trung lực lượng đánh đồng bằng, ngày 10 tháng 12 năm 1950 Xa-lăng, tư lệnh chiến trường Bắc Bộ ra lệnh báo động binh đoàn cơ động số 1 ở Phúc Yên, binh đoàn cơ động số 3 ở Vĩnh Yên. Tiếp đó, để ứng phó kịp thời Tát-xi-nhi ra lệnh tổ chức thêm 1 binh đoàn mới sẵn sàng cơ động đánh lên Thái Nguyên. Ngày 19 tháng 12, tại cánh rừng làng Quang Nhiễu, tỉnh Tuyên Quang, Đảng ủy Đại đoàn 312 họp bàn biện pháp lãnh đạo các đơn vị thực hiện nhiệm vụ chiến dịch. Để bảo đảm cho chiến dịch thắng lợi, Đảng ủy nhận thấy cần tập trung lãnh đạo phát huy dân chủ nhất là về mặt quân sự, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trước khi bước vào trận đánh chẳng những thấu suốt nhiệm vụ được giao mà còn nắm vững kỹ thuật chiến thuật sẽ vận dụng để làm tốt công tác chuẩn bị trước khi vào trận cũng như chủ động xử lý khi gặp tình huống khó khăn phức tạp.

Căn cứ vào chỉ thị của Tổng cục Chính trị và nghị quyết của đảng ủy đại đoàn, ngày hôm sau (20 tháng 12) Đại đoàn triển khai kế hoạch hiệp đồng chiến đấu, bảo đảm bí mật, nắm vững chính sách vùng mới giải phóng và phát động phong trào thi đua giết giặc lập công trong các đơn vị. Trong các đêm 20. 21. 22 các đơn vị của đại đoàn lần lượt qua bến đò Phan Lương hành quân về địa điểm tập kết. Nhân dân các thôn. xã dọc sông Lô gần bến Phan Lương đã huy động hàng trăm thuyền nan chở bộ đội qua sông. Bộ phận đi trước chuẩn bị chiến trường được nhân dân vùng tạm bị địch chiếm dẫn đường cho mượn áo quần cải trang để nắm tình hình địch ở đồn Chợ Vàng đồn Ba Huyên. Nhân dân các tỉnh trung du còn huy động dân công giúp bộ đội tải lương chuyển đạn (mỗi trung đoàn khoảng 250 đến 300 dân công). Nhờ sự giúp đỡ chí tình đó ngày 24 tháng 12 các đơn vị của đại đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ đ¬ưa quân vào tập kết ở vùng Nội Sơn, Nội Mỹ, Tuân Sơn, chuẩn bị đánh đồn Chợ Vàng và đồn Ba Huyên.

Đợt 1 chiến dịch, đại đoàn chủ trương diệt một số đồn bốt địch để mở rộng phạm vi, tạo bàn đạp chuẩn bị tiến công lớn. Quá trình hành quân và chuẩn bị chiến trường, trung đoàn 141 được giao nhiệm vụ tiêu diệt đồn Ba Huyên, trung đoàn 209 tiến công đồn Chợ Vàng. Phương án chiến đấu của hai trung đoàn được Ban chỉ huy đại đoàn thông qua. Thời gian nổ súng là đêm 26 tháng 12 năm 1950. Do chưa phát hiện được sự chuẩn bị của quân ta, nên 7 giờ ngày 25 tháng 12 địch chuyển binh đoàn cơ động số ba (GM3) lên Vĩnh Yên mở chiến dịch "chim Gié Giun" Becassin do đại tá Mu-le chỉ huy đánh lên vùng Xuân Thạch - Bạnh Hạc. Chúng tổ chức 3 mũi tiến quân:

- Cánh thứ nhất, tiểu đoàn dù số 10 (10BPC) từ Liên Sơn đánh lên Thản Sơn - Xuân Trạch.

- Cánh thứ 2. tiểu đoàn quân ngụy M¬ường từ Liên Sơn đánh lên Tụy Sơn.

- Cánh thứ 3, tiểu đoàn lính da đen (24BTS ) từ Hữu Phúc đánh lên Bàng Hoàng xuống Xuân Trạch.

Sáng 26 tháng 12, cánh quân thứ nhất của địch qua khu vực Liên Sơn. Bộ tư lệnh đại đoàn nhận định: địch đã thoát ly công sự đây là thời cơ tốt đế tiêu diệt địch, cần nhanh chóng cơ động lực lượng tiếp cận tiêu diệt ngay khi địch chưa đến vị trí tạm dừng.

Bộ tư lệnh đại đoàn ra lệnh: trung đoàn 141 tạm dừng đánh đồn Ba Huyên: nhanh chóng ra chặn cánh quân thứ nhất. Trung đoàn 209 để một bộ phận nhỏ kiềm chế đồn Chợ Vàng, tập trung lực lượng cơ động sẵn sàng tiêu diệt địch trên các hướng. Nhiệm vụ chiến đấu vô cùng khẩn trương. Các trung đoàn vừa gấp rút cơ động lực lương. vừa bám nắm địch. tìm hiểu địa hình. Ai cũng hiểu rằng thời gian lúc này là lực lượng, dù khó khăn đến mấy cũng không được bỏ lỡ thời cơ diệt địch.

Tiểu đoàn 16 vận động ra đến phố Cọ thì gặp địch. Hai bên nổ súng địch xung phong chiếm được đồi cao dùng hỏa lực bắn chặn quân ta. Tiểu đoàn 16 cho một bộ phận vượt qua Liên Sơn bám sát đường cái. tiểu đoàn 428 sử dụng một đại đội chặn địch ở nam phố Cọ, một đại đội đánh quân địch đang tiến về phía Dương Chỉ, đồng thời cho một trung đội phối hợp với tiểu đoàn 16 đánh hất địch ra khỏi khu đồi cao. Pháo địch bắn phá dữ dội trận địa quân ta. Một đại đội địch đánh vào đội hình tiểu đoàn 16 và tìm đường ra Than Sơn. Một bộ phận lực lượng ta phải lui về Than Sơn chặn địch. Cuộc chiến đấu ở khu đồi cao diễn ra ác liệt. Ta và địch giành giật nhau từng thước đất. Gần trưa địch chiếm nửa đồi, ta giữ một nửa.

Tiểu đội của đồng chí Nguyễn Văn Thuần đánh lui hàng chục đợt xung phong của địch giữ vững trận địa1 (Chú thích 1 Sau trận đánh, tiểu đội Nguyễn Văn Thuần được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhất.) Đến trưa, tiểu đội chỉ còn 5 người, tiểu đội trưởng Thuần động viên anh em mở sẵn lựu đạn và lắp lê để đánh gần. Cuộc vật lộn diễn ra ác liệt. Đến 12 giờ trưa, được sự chi viện của đại đội 243 quân ta hất được quân địch xuống chân đồi. 14 giờ địch tập trung lực lượng phản kích vào sườn phải tiểu đoàn 16 nhưng bị đại đội 245 chặn đánh quyết liệt

Sau 30 phút chiến đấu, cánh quân này bị ta tiêu diệt. Thừa thắng, đại đội 245 đánh thẳng ra Thản Sơn. Địch dùng hỏa lực pháo binh ngăn chặn ta truy kích rồi vòng qua Ba Làng, Dương Tự, Bồ Tỉnh tìm đường tháo lui. Quyết tâm của Đại đoàn là kiên quyết tiêu diệt, không cho địch chạy thoát. Trung đoàn 141 được lệnh tiếp tục truy kích . Các chiến sĩ tiểu đoàn 11 và 428 quên cả đói, mệt cắt rừng chặn địch.

15 giờ ngày 26 tháng 12 năm 1950 trận đánh kết thúc. Tiểu đoàn dù địch bị tiêu diệt và tan rã hoàn toàn. Tiểu đoàn quân ngụy Mường (cánh quân thứ 2) đến Tụy Sơn nghe tin cánh quân thứ nhất bị tiêu diệt vội vã quay trở lại Liễn Sơn tìm đường rút lui. 12 giờ trưa cánh quân thứ ba của địch tới Dương Chỉ. Đại đoàn trưởng nhận định thế nào địch cũng phải qua Xuân Trạch, một làng nằm gần ngã ba con đường từ Ngọc Kỳ đi xuống phía nam nối liền với vùng Lập Thạch, Bạch Hạc. Sau khi trao đổi trong Đảng ủy, Bộ tư lệnh đại đoàn hạ quyết tâm tiêu diệt quân địch ở Xuân Trạch.

Làng Xuân Trạch nằm giữa một thung lũng hẹp giữa các quả đồi trọc xen lẫn rừng thưa; phía bắc cách dốc Chùa, Động Ngõa, Bàng Hoàng khoảng 8 đến 10 ki -lô-mét. Phía đông, cách Thản Sơn, Liễn Sơn, sông Đáy 5 đến 7 ki-lô-mét; phía nam, theo đường liên huyện đến huyện Lập Thạch khoảng 15 ki -lô-mét, xa hơn là Việt Trì. Chọn Xuân Thạch làm nơi bày trận, ta có lợi thế về địa hình, có thể bố trí binh hỏa lực ở thế cao và tiện cơ động, lực lượng địch ở thế thấp, khó đối phó, các ngả đường dễ bị ta cắt nên dễ rơi vào tình trạng bị cô lập. Nếu ta để cho quân địch vượt qua được khu vực Xuân Thạch xuống phía nam, tây nam là những cánh đồng rộng sẽ khó khăn cho việc bao vây tiêu diệt chúng.

Tình hình lúc này rất khẩn trương. 15 giờ cùng ngày, quân địch chỉ còn cách Xuân Trạch 5 ki-lô-mét. Các đơn vị của đại đoàn đang trên đường cơ động đánh địch ở khu vực Hữu Trũng, Phù Liễn.

Tại sở chỉ huy đại đoàn, chỉ còn duy nhất một trung đội vệ binh làm nhiệm vụ bảo vệ chỉ huy sở. Để làm chậm bước tiến của địch trung đội vệ binh được lệnh cùng dân quân du kích địa phương ngăn chặn địch, buộc chúng phải dừng lại ở Xuân Trạch trước khi trời tối. Trong khi đó, trung đoàn 209 được lệnh cấp tốc điều tiểu đoàn 130 về tây nam Xuân Trạch, sẵn sàng chặn đánh không cho địch vượt qua Xuân Trạch; tiểu đoàn 166 sử dụng một đại đội chặn địch ở khu vực bắc Đồng Ngõa, không cho địch quay trở lại Dương Chỉ. Lực lượng còn lại của tiểu đoàn 166 và tiểu đoàn 154 nhanh chóng cơ động chiếm khu vực Dốc Chùa, khống chế con đường đi Kèo Cái, Bàng Hoàng. Trung đoàn 141 cơ động lực lượng về khu vực Liễn Sơn, Thản Sơn, sẵn sàng đánh địch ớ đông nam Xuân Trạch.

Ý định của đại đoàn là hình thành bao vây chặt trước khi tấn công, tập trung hoả lực đánh đòn phủ đầu tiêu diệt một phần sinh lực địch. Tổ chức xung phong nhanh, diệt gọn từng bộ phận, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch. Để kịp thời chỉ huy các trung đoàn trong chiến đấu, sở chỉ huy đại đoàn rời lên khu vực Bồ Tỉnh (tây nam điểm cao 275). Đại đoàn trưởng trực tiếp gặp chỉ huy các đơn vị giao nhiệm vụ cụ thể sau khi đi trinh sát nắm địch về.

Đêm 20 tháng 12 năm 1950 tiểu đoàn 24 BMTS dừng lại ở khu vực Xuân Trạch. Chúng tổ chức đào công sự và bố phòng canh gác tương đối cẩn mật. Đêm tối mù mịt. Khu vực Xuân Trạch có nhiều luỹ tre, khóm cọ nên việc trinh sát, nắm bố phòng cụ thể của địch rất khó khăn. Đến nửa đêm ta vẫn chưa xác định được các hỏa điểm và đội hình bố trí của địch. Đội trinh sát vũ trang của tiểu đoàn 130 do tiểu đoàn trưởng Hoàng Cầm chỉ huy phải dùng trung liên và cối 81 bắn vào điểm cao 10 và làng Xuân Trạch. Quân địch bắn trả, qua ánh lửa đạn và tiếng nổ ta xác định được một số hỏa điểm và cách bố phòng của địch.

Chỉ huy trung đoàn 209 gấp rút thông qua phương án chiến đấu, sử dụng tiểu đoàn 154 được tăng cường hỏa lực tiến công hướng chủ yếu vào bắc Xuân Trạch. Tiểu đoàn 130 tiến công điểm cao 10, nam làng Xuân Trạch. Tiểu đoàn 428 (trung đoàn 141) đánh vào Xuân Trạch từ phía tây. Tiểu đoàn 166 (thiếu 1 đại đội) làm lực lượng dự bị. 5 giờ sáng ngày 27 tháng 12 năm 1950, Đại đoàn phát lệnh tiến công Xuân Trạch.

Ngay từ phút đầu. hỏa lực ta bắn cấp tập mạnh vào đội hình địch. Điểm cao 10, con đường cái đi Ngọc Kỳ chìm trong khói đạn. Sau 15 phút, hỏa lực chuyển làn bắn chi viện bộ binh xung phong. Tiểu đoàn 130 tổ chức nhiều mũi xung phong lên điểm cao 10, địch bắn trả quyết liệt. Ta chiếm được nửa điểm cao, địch giữ một nửa. Nhận rõ vị trí quan trọng của điểm cao 10 địch tiếp tục tăng quân giữ chắc nửa còn lại. Tiểu đoàn 154 vừa áp sát phía bắc Xuân Trạch vừa sử dụng một mũi đánh vòng sang phía tây hỗ trợ tiểu đoàn 130 đánh điểm cao 10. Tiểu đoàn 428 hình thành nhiều mũi đánh vào phía tây làng. Đại đoàn ra lệnh tiếp tục vây chặt Xuân Trạch, đồng thời điều chỉnh hỏa lực, xốc lại đội hình chuẩn bị đợt tiến công mới.

6 giờ 30 phút đợt tiến công thứ 2 bắt đầu. Tiểu đoàn 154 được tăng cường thêm lực lượng của tiểu đoàn 166 đánh mạnh chiếm phía bắc làng. Phía đông đại đội 670 (tiểu đoàn 428t) chiếm được các công sự vòng ngoài. Tiểu đội trưởng Đặng Minh Cơ chỉ huy hai khẩu trung liên bí mật bò vào trong làng cách địch 20 mét mới nổ súng diệt nhiều địch. Chúng hốt hoảng bỏ làng Xuân Trạch dồn cả lên điểm cao 10, địch mở đường máu chạy xuống các cánh đồng phía nam.

Trận chiến đấu ở điểm cao 10 và cánh đồng phía nam, tây nam Xuân Trạch diễn ra quyết liệt chừng 40 phút nữa mới kết thúc. 7 giờ 30 phút quân ta hoàn toàn làm chủ khu vực Xuân Trạch. tiểu đoàn 24BMTS bị diệt và bắt hoàn toàn (ta bắt 240 tù binh trong đó có tên tiểu đoàn trưởng đại úy Pít-xca) . Trận càn "chim Giẻ Giun" của Đờ Lát bị thất bại hoàn toàn.

Chỉ trong 2 ngày binh đoàn cơ động số 3 bị mất 2 tiểu đoàn tinh nhuệ nhất buộc phải rút về Vĩnh Yên củng cố. Đại tá Mu-lê mới nhận chức được 7 ngày đã bị lột lon triệu hồi về nước. Chiến thắng Liễn Sơn - Xuân Trạch mở đầu trang sử chiến đấu vẻ vang của Đại đoàn 312. Với ý nghĩa đó, Đảng ủy Đại đoàn 312 đã quyết định và được trên chấp thuận lấy ngày 27 tháng 12 năm 1950 làm ngày thành lập, ngày truyền thống hàng năm của đại đoàn (Chú thích: Sau khi chiến dịch Trung Du kết thúc thắng lợi, ngày 27 tháng 1 năm 1951 Đảng ủy Đại đoàn 312 đã triệu tập hội nghị mở rộng tại khu rừng Kim Lăng, Vĩnh Phúc thông qua quyết định trên.)

Sau chiến thắng Xuân Trạch, đêm 27 tháng 12 tiểu đoàn 166 trung đoàn 209 được tăng cường hai khẩu pháo 75 ly tiến đánh đồn Chợ Vàng. Do chủ quan cho rằng địch ở đồn Chợ Vàng đã mất tinh thần, nên việc tổ chức trận đánh rất lỏng lẻo. Bộ đội chưa phá xong hàng rào, cán bộ đại đội đã hạ lệnh xung phong. Nửa đại đội lao lên chen chúc nhau trước đột phá khẩu, quên cả đội hình, đến gần lô cốt mới biết còn hàng rào dây thép gai không vào được. Do hiệp đồng với hỏa lực không chặt chẽ, khi đại bác mới bắn đến phát thứ ba, xung kích đã lên gần sát lô cốt nên bị thương vong do chính đại bác của ta. Cũng vì chủ quan nên khi thê đội 1 chưa vào được, tiểu đoàn đã điều thê đội 2 bám sát nên bị ùn, bị súng cối địch bắn ra sát thương. Trận đánh kéo dài đến gần sáng. Ta không chiếm được đồn, thương vong lớn. Tiểu đoàn 166 phải rút ra ngoài củng cố.

Đêm 28 tháng 12, trung đoàn tăng cường cho tiểu đoàn 166 hai đại đội của tiểu đoàn 130. Lần này, trận đánh vẫn không thành công vì địch bố trí và đề phòng cẩn thận hơn trong khi đó tiểu đoàn 166 vẫn chủ quan cho là hôm trước đã phá được ba hàng rào thì hôm sau có thể đánh được, không biết địch đã làm lại hàng rào cẩn thận chắc chắn hơn trước.

Cũng trong đêm 28 tháng 12. tiểu đoàn 154 xuống đánh Sơn Kiệu (có 17 tên bảo an chốt giữ) bốt Văn Hội (có 30 tên bảo an) nhưng ở cả hai nơi đều không thu được kết quả, do tổ chức chiến đấu kém, chiến sĩ hy sinh trong đồn không đem ra được.

Trận đồn Chợ Vàng không dứt điểm nguyên nhân chính là chủ quan, cán bộ chỉ huy không nắm vững tình hình, chuẩn bị chiến đấu thiếu chu đáo. Qua trận này đại đoàn rút được kinh nghiệm quý báu là trong công kiên công tác chuẩn bị phải thật kỹ càng thật đầy đủ, chưa chuẩn bị đầy đủ chưa đánh; chỉ huy chiến đấu công kiên phải thật tỉ mỉ, nắm chắc tình hình dự kiến mọi tình huống xảy ra để có kế hoạch đối phó kịp thời.

Ngày 29 tháng 12 năm 1950, đợt một chiến dịch kết thúc. Trong đợt một trên toàn bộ mặt trận ta đã tiêu diệt và bắt 1200 tên địch (có 4 phần 5 là Âu Phi) giải phóng hoàn toàn hai huyện Hoành Mô, Bình Liêu (tỉnh Hải Ninh) và một phần huyện Đa Phúc (tỉnh Vĩnh Phúc) . Cùng với các đơn vị bạn, đại đoàn 312 đã thực hiện vượt mức chỉ tiêu diệt sinh lực địch mà Bộ giao cho. Riêng trung đoàn 209 chưa thực hiện đúng kế hoạch của đại đoàn.

Kịp thời rút kinh nghiệm trong đợt một, Đảng ủy vạch ra hai điểm cần chú ý: một là làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ thắng lợi và những thiếu sót để giải quyết tư tưởng chủ quan và bi quan; hai là lãnh đạo công tác sơ kết rút kinh nghiệm, kịp thời, dân chủ xây dựng tinh thần đoàn kết không tranh công đổ lỗi, hết sức giữ bí mật tích cực chuẩn bị mọi mặt quyết hoàn thành tốt nhiệm vụ đợt hai.

Theo kế hoạch chung, các đơn vị đều tiến hành rút kinh nghiệm, bình xét những đồng chí đã lập được chiến công để khen thưởng kịp thời. Do đó tinh thần cán bộ, chiến sĩ được đề cao, tin tưởng ở sự lãnh đạo của cấp trên, rút ra được kinh nghiệm đánh công kiên, cũng như đánh vận động, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới.

Sau các trận đánh của ta trong đợt 1 chiến dịch, tướng Đờ-tát-xi-nhi điều thêm một số binh đoàn cơ động lên phòng thủ khu vực Vĩnh Yên, Phủ Lỗ, Lục Nam, Tiên Yên; đồng thời tăng thêm lực lượng cho các cứ điểm đồn Chợ Vàng, Ba Huyên, Hữu Bằng, Thằn Lằn, Núi Đôi. Trên tuyến phòng thủ thứ nhất lực lượng địch khá mạnh, tuyến thứ hai và hậu phương mỏng yếu.

Do tình hình địch đã có một số thay đổi, bước vào đợt hai chiến dịch, Bộ Tổng tư lệnh quyết định tập trung binh lực đánh các cứ điểm quan trọng, diệt quân viện, phá vỡ thế phòng thủ của địch trên tuyến thứ nhất. Đại đoàn 312 được tăng cường một đại đội pháo 75 (2 khẩu với 30 viên đạn) có nhiệm vụ đánh đồn Ba Huyên, đồng thời sẵn sàng lực lượng cùng Đại đoàn 308 diệt viện binh địch từ thị xã Vĩnh Yên đi Bảo Chúc.

Ba Huyên thuộc huyện Tam Đường, là một vị trí kiên cố của địch nằm trên phòng tuyến Trung Du, án ngữ che chở cho phía bắc thị xã Vĩnh Yên. Đồn xây trên một quả đối cao năm, sáu mét so với mặt ruộng. Bên ngoài đồn có hàng rào tre, dưới hàng rào tre có cắm chông. Trong hàng rào tre có 4 hàng rào dây thép gai, có hào sâu, tiếp đến là bức tường dày, cao khoảng 3 mét. Trong đồn có bốn lô cốt chính bằng bê tông cốt thép xây 2 tầng, nhiều lô cốt phụ bằng gạch đất. Lực lượng giữ đồn có năm trung đội (hai trung đội ngụy, ba trung đội Âu Phi) do một tên quan ba Pháp chỉ huy. Sau một số thất bại, tinh thần địch có phần hoang mang, nhưng chúng vẫn tin ở công sự, pháo binh chi viện và cho rằng ta không thể nào diệt được.

Được Đại đoàn giao nhiệm vụ tiến công tiêu diệt đồn Ba Huyên, trung đoàn 141 sử dụng tiểu đoàn 11 và đại đội 58 (tiểu đoàn 428) tiến công hướng chủ yếu, tiểu đoàn 16 làm nhiệm vụ dương công, tiểu đoàn 428 (thiếu đại đội 58) làm dự bị của trung đoàn sẵn sàng chiến đấu trên các hướng.

Trong khi trung đoàn 141 đánh đồn Ba Huyên, Bộ chỉ huy mặt trận phán đoán thế nào địch cũng tiếp viện nên tập trung Đại đoàn 308 và trung đoàn 209 đánh viện. Sau một thời gian khẩn trương chuẩn bị, 16 giờ ngày 13 tháng 1 năm 1951, trung đoàn 141 tập kết ở khu rừng Dương Chỉ bôn tập bao vây đồn địch. Ngoài vũ khí, đạn, mỗi chiến sĩ bộ binh mang theo một sọt đất để giúp pháo binh làm công sự được nhanh chóng.

Đường bôn tập xuất phát từ khu tự do xuyên vào vùng địch hậu dài trên 10 ki-lô-mét. Trên đường hành quân, nhân dân ven đường đem nước, trái cây, cơm nắm cho bộ đội. Mười giờ đêm, toàn đơn vị đã tới vị trí, giữ được bí mật, cắt được một hàng rào dây thép gai. Do chiến sĩ tiểu đoàn 16 đào công sự gây tiếng động to, địch phát hiện được, súng cối trong đồn bắn ra và đại bác của chúng ở Vĩnh Yên tới tấp bắn lên. Chừng năm phút sau yên tĩnh trở lại.

Ta nhận định có thể địch cho là bộ đội địa phương quấy rối, yếu tố bí mật vẫn còn nên chưa nổ súng, tiếp tục hoàn thành công tác chuẩn bị. Một giờ sáng ngày 14 tháng 1 năm 1951, các đơn vị hoàn thành tổ chức trận địa. Một giờ mười phút, trận chiến đấu bắt đầu. Đại bác của ta bắn vào các lô cốt để bộc phá lao lên phá hàng rào. Địch ở trong đồn chống cự ác liệt. Đại bác địch ở Vĩnh Yên bắn chặn đội hình quân ta. Mũi đại đội 241 gặp khó khăn. Ba giờ sáng, đại đội 241 và 58 vẫn chưa mở xong đột phá khẩu. Đến bốn giờ ta mới phá hết hàng rào. Pháo binh chỉ còn năm viên đạn, mà vẫn chưa diệt hết các lô cốt. Trung đoàn hạ lệnh pháo 75 bắn hết đạn rồi rút ra. Tình thế gay go, căng thẳng.

Sau khi đánh xong quả bộc phá ống một chiến sĩ quay xuống khiêng mấy gói bộc phá lên đánh tiếp. Khi lên đồng chí bị chông xuyên qua bàn chân, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu hoàn thành nhiệm vụ. Đại đội 58 phá được một mảng tường gần lô cốt số một, anh em công kênh nhau lên ném lựu đạn, thủ pháo vào trong rồi nhảy vào đồn chiến đấu.

Đại đội 241 vẫn chưa vào được, một bộ phận theo đường mở của đại đội 58 xung phong vào đồn. Bộ phận bộc phá đầu cầu của đại đội 241 tiếp tục dùng bộc phá đánh lô cốt, phá tường cho xung kích tiến lên. Ba chiến sĩ Trà, Khung, Sinh đặt ba quả bộc phá chụm thành một quả lớn ở chân tường cho chiến sĩ Sinh điểm hỏa. Do dây cháy chậm cắt quá ngắn, Sinh mới chạy được hơn mười bước thì bộc phá nổ hất anh đi mấy mét. Đột phá khẩu mở được một mét chiều rộng. Đồng chí Cưu tiểu đội phó tiểu đội đầu cầu chỉ huy tiểu đội cùng nhảy vào đồn ném lựu đạn diệt địch tạo điều kiện cho đơn vị xung phong. Hai đại đội 241 và 58 phối hợp với nhau chiến đấu trong trung tâm rất gay go, ác liệt.

Ta đã chiếm được các lô cốt số một, hai và bốn. Số địch còn lại rút vào lô cốt số ba cố thủ, lô cốt này chúng xây chắc chắn, chân lô cốt dày bốn mét, trong có cốt sắt. Do chỉ huy sở chưa bị diệt, nên quân địch còn lại tiếp tục chống cự. Nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vẫn không rời trận địa. Đồng chí Đông Hy (đại đội 58) cho nổ quả bộc phá gần bốn mươi ki-lô-gam mà vẫn không diệt được lô cốt địch.

Từ sở chỉ huy của đại đoàn ở xóm Vẽ (phía bắc đồn Ba Huyên 3 ki -lô-mét), Bộ tư lệnh đại đoàn theo dõi chặt chẽ tình hình, nhận định: địch đã hoang mang, khả năng chi viện bằng không quân, pháo binh có hạn, ta đủ sức dứt điểm đồn Ba Huyên. Nếu địch cho viện binh ra ứng cứu ta càng có thời cơ diệt địch. Trên cơ sở nhận định đó đại đoàn ra lệnh: Trung đoàn 141 tiếp tục đánh ban ngày kiên quyết diệt bằng được mục tiêu. Trung đoàn 209 sẵn sàng diệt viện binh địch.

Chấp hành lệnh của đại đoàn, 7 giờ ngày 14 tháng 1 trung đoàn 141 điều hai đại đội (243, 245) vào chiến đấu. Tiểu đoàn 16 chọn 6 chiến sĩ cảm từ ôm bộc phá lên đánh lô cốt. Vượt qua bãi trống đến gần lô cốt địch 5 chiến sĩ trúng đạn hy sinh. Còn lại một mình, đồng chí Nguyễn Văn Thái quan sát thấy một đoạn hào cụt liền bò vào đó đề nghị trung đội dùng hỏa lực bắn mạnh vào các lỗ châu mai để anh tiếp cận dùng tiểu liên, thủ pháo diệt địch trong lô cốt. Ba khẩu trung liên cùng bắn yểm hộ cho Thái. Tuy đã bị thương nặng, nhưng Thái vẫn cố gắng bò được đến gần lỗ châu mai địch, ném hai quả thủ pháo. Hỏa điểm bị diệt nhưng đồng chí Nguyễn Văn Thái đã anh dũng hy sinh (Chú thích: Sau trận đánh đồng chí Nguyễn Văn Thái được truy tặng huân chương Quân công hạng ba.).

10 giờ ngày 14 tháng 1 năm 1951 quân ta tiêu diệt toàn bộ địch ở Ba Huyên, thu nhiều vũ khí. Trong lúc cuộc chiến đấu ở đồn Ba Huyên đang giằng co quyết liệt, thì địch cho quân ra tiếp viện. 8 giờ ngày 14, một tiểu đoàn địch lọt vào trận địa của trung đoàn 209 ở khu vực Thủy An. Các đơn vị được lệnh chờ viện binh địch vào hết trận địa mới nổ súng. Một giờ sau, địch lại cho thêm hai tiểu đoàn lên tiếp viện. Đại đoàn ra lệnh: để cả ba tiểu đoàn địch vào hết trận địa mới đánh.

Khi tiểu đoàn đi đầu của địch đến An Huy, tiểu đoàn 154 xuất kích chặn địch buộc chúng phải chạy về xóm Le. Một đơn vị của Đại đoàn 308 xuất kích phối hợp đánh địch ở xóm Le. Chúng chạy về Cẩm Trạch. Quân ta truy kích đuổi chúng chạy về Đạo Tú và tiêu diệt hoàn toàn. Hai tiểu đoàn khác của địch lên đến gần An Huy, nghe tiếng súng nổ dữ dội, chúng hoảng sợ quay về, nhưng bị tiểu đoàn 154 truy kích và hai đơn vị của Đại đoàn 308 kịp thời phối hợp tiêu diệt.

Vào lúc 11 giờ trung đoàn 209 cho tiểu đoàn 130 sang phối hợp tiêu diệt địch ở Đông Đạo. Địch chạy về Vĩnh Yên. Lực lượng Đại đoàn 308 cùng Đại đoàn 312 bao vây Vĩnh Yên. Sáng 15 một đại đội địch ra thăm dò, bị một đại đội của tiểu đoàn 166 xuất kích tiêu diệt 30 tên, số còn lại rút chạy về Vĩnh Yên. Sau thất bại ngày 14, ngày 15 tháng 1 quân Pháp nhảy dù tăng viện cho lực lượng ở thị xã Vĩnh Yên (1 tiểu đoàn, 1 đại đội) và điều 2 tiểu đoàn từ Hương Canh lên.

Sáng 16 tháng 1 địch cho 3 tiểu đoàn có phi cơ pháo binh yểm trợ tiến về phía bắc thị xã. Ý định của địch là đánh chiếm dãy núi đất, mỏm cao nhất là điểm cao 210 phía tây bắc thị xã Vĩnh Yên làm bàn đạp để tổ chức đánh sâu vào đội hình tác chiến của Đại đoàn 312. Điểm cao 210 nhân dân trong vùng thường gọi là Núi Đanh, cách phía bắc thị xã Vĩnh yên khoảng 8 ki-lô-mét, cỏ lau mọc rậm rạp, sườn bắc dốc đứng, sườn nam thoải, lưng chừng nhô ra một mỏm đồi trọc. Dưới chân Núi Đanh có con đường nhựa chạy từ Vĩnh Yên lên khu nghỉ mát Tam Đảo. Do tầm quan sát rộng, từ Núi Đanh có thể dùng hỏa lực khống chế cả vùng xung quanh.

Nhận rõ vị trí quan trọng của Núi Đanh, bộ chỉ huy chiến dịch và đại đoàn đã cho trung đoàn 209 xuất kích chiếm Núi Đanh trước để phá cuộc tấn công của địch. Trung đoàn 141 chiếm điểm cao 88 - chặn cánh quân thứ hai không cho chúng tới phía tây Núi Đanh và bảo vệ sườn cho trung đoàn 209 và đơn vị bạn. 6 giờ sáng ngày 16 tháng 1, địch chia thành ba mũi tiến công Núi Đanh:

- Cơ giới theo trục đường đánh vào Núi Đanh từ phía nam .

- Bộ binh vòng qua điểm cao 47, 101 đánh vào Núi Đanh từ phía đông nam.

- Mũi chia cắt bảo vệ phía sau đội hình tiến công đánh vào khu vực Nhân Mỹ.

7 giờ sáng cuộc chiến đấu bắt đầu. Cánh quân cơ giới tiến theo đường Vĩnh Yên - Tam Đảo của địch bị Đại đoàn 308 chặn đánh phá hủy một số xe ở khu vực tây bắc Bảo Sơn . Cánh quân địch tiến theo đường Nhân Mỹ - phía tây Núi Đanh bị tiểu đoàn 428 (trung đoàn 141) và một đại đội của tiểu đoàn 166 (trung đoàn 209) chặn đánh ở điểm cao 83. Cánh quân chính của địch tiến theo hướng đông nam có máy bay và pháo yểm trợ cũng bị quân ta chặn lại ở khu vực điểm cao 47 và 101. Đại đội 363 (tiểu đoàn 130, trung đoàn 209) nhận nhiệm vụ bảo vệ Núi Đanh đang khẩn trương xây dựng công sự trận địa sẵn sàng đánh địch. Trận địa phòng ngự chủ yếu ở phía đông nam, tập trung hỏa lực khống chế trục đường và đoạn yên ngựa phía đông nam nối điểm cao 210 và điểm cao 101.

Trong 5 giờ liền vừa đào công sự, vừa chiến đấu liên tục, đại đội 363 đã đánh lui tám đợt xung phong của quân Pháp. Đến mười hai giờ trưa, lực lượng ta trên Núi Đanh chỉ còn chừng hai tiểu đội. Một số chiến sĩ bị thương vẫn tình nguyện chiến đấu. Đạn, lựu đạn gần hết, đại đội trưởng Xuân Minh bị thương gãy đùi. Anh tự băng bó, bò tới từng vị trí chiến đấu động viên anh em giữ vững trận địa. Máy bay và pháo địch bắn chặn quyết liệt vào đội hình của tiểu đoàn 130 khi tiểu đoàn vận động lên tiếp ứng cho đại đội 363 ở bắc cao điểm. Lần đầu tiên xuống đồng bằng, bộ đội gặp bom na-pan, không có kinh nghiệm phòng tránh nên thương vong nhiều. Đồng chí Hồ Kỳ Lân tiểu đoàn phó anh dũng hy sinh. Tiểu đoàn trưởng Hoàng Cầm củng cố các đơn vị và trực tiếp chỉ huy đại đội 360 vượt qua bom, pháo địch. Một làn pháo địch trùm lên đội hình của đại đội 360. Chiến sĩ liên lạc của tiểu đoàn nằm đè lên che đạn cho tiểu đoàn trưởng và đã hy sinh anh dũng.

Đại đội 360 chia làm hai mũi. Một mũi theo sườn phía bắc lên đỉnh Núi Đanh tăng cường cho đại đội 363. Một mũi vòng qua sườn đông cao điểm, đánh vào sườn đội hình địch đúng vào lúc quân địch dồn sức vào đợt xung phong mới. Mũi tiến quân chủ yếu của địch bị bẻ gãy hoàn toàn. Lần đầu tiên chiến đấu vận động ban ngày ở địa hình trống trải, dưới hỏa lực phi pháo địch, suốt từ 7 giờ sáng đến năm giờ nhiều, bộ đội ta đã kiên cường giữ vững trận địa. Nhưng do ít kinh nghiệm phòng tránh phi pháo nên thương vong lớn. Trung đoàn 209 diệt được 250 tên địch nhưng số hy sinh và bị thương lên tới 263 đồng chí. Ngày 17 tháng 1 năm 1951 chiến dịch Trung Du kết thúc. Cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 312 vinh dự đón nhận thư khen của Đại tướng Tổng tư lệnh: " Suốt trong 2 ngày 15 và 16, trong điều kiện phi cơ địch xuất hiện gần 100 lần chiếc 1 ngày, trọng pháo địch tập trung hỏa lực khá mạnh để đối phó, các đồng chí đã chiến đấu không ngừng giữa ban ngày trên những cánh đồng bắc Vĩnh Yên. Điều đó là một thành tích lớn, là thắng lợi lớn của ta. Sẽ mở đường cho nhiều thắng lợi lớn sau này của đại đoàn."

Trong chiến dịch nhân dân Trung Du vận chuyển trên 5.000 tấn gạo và vũ khí cho bộ đội. Số dân công tham gia chiến dịch là hai vạn người, tính ra tới hai triệu ngày công. Cấp ủy và chính quyền địa phương đều lấy việc phục vụ tiền tuyến làm trọng tâm và đã huy động nhiều cán bộ phục vụ chiến dịch. Riêng Đại đoàn 312 được Tỉnh ủy Vĩnh Phúc cử đồng chí Sinh là Tỉnh ủy viên đi sát Bộ tư lệnh đại đoàn để cùng bàn về tác chiến, vận động nhân dân phục vụ tác chiến. Nhân dân tự động nấu cháo, thổi cơm, săn sóc thương binh. Những nắm cơm gạo trắng kèm theo một miếng thịt được các anh chị em thanh niên chuyển đến tận tay từng cán bộ, chiến sĩ trong những ngày bộ đội lặn lộn chiến đấu. Nhiều anh chị em dân công quên mình xông vào lửa đạn cứu thương binh. Có người gánh thuốc men, dụng cụ cho quân y khi gặp địch đã chiến đấu hy sinh thân mình để bảo vệ thuốc men. Người dân Trung Du không chỉ ủng hộ bộ đội, săn sóc thương binh mà còn sát cánh cùng bộ đội giết giặc. Du kích dẫn đường, vào đồn địch nắm tình hình. Bộ đội địa phương, du kích phối hợp với chủ lực nhổ 36 đốn bốt, tiêu diệt 88 lính Âu Phi, 60 ngụy, bắt 20 lính Âu Phi và 89 ngụy, diệt và phá nhiều ổ nhóm phản động. Trong 22 ngày hoạt động trên chiến trường Trung Du, ta đã tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu 5.000 tên địch, diệt 30 vị trí, 40 tháp canh, thu trên 1000 súng trường, 88 trung liên, 25 đại liên và nhiều quân trang, quân dụng, giải phóng vùng bắc Vĩnh Yên, huyện Đa Phúc, phát động chiến tranh du kích rộng rãi và mở rộng cơ sở nhân dân trong vùng địch hậu Vĩnh Phúc.

Trong hai đợt chiến đấu Đại đoàn 312 đã tiêu diệt 907 tên, bắt 140 tên, phần lớn là lính Âu Phi tinh nhuệ. Đại đoàn hy sinh 195, bị thương 404 cán bộ, chiến sĩ. Chiến dịch Trung Du là chiến dịch đầu tiên Đại đoàn 312 chiến đấu tập trung, sử dụng lực lượng lớn xuất kích ban ngày, quần nhau với các binh đoàn cơ động tinh nhuệ của địch có phi cơ, pháo binh yểm hộ. Chiến thắng giòn giã của đại đoàn đã gây lòng tin trong cán bộ, chiến sĩ có thể đánh và đánh thắng quân tinh nhuệ của địch trên các loại địa hình. Qua chiến dịch Trung Du, cán bộ chiến sĩ đại đoàn có thêm kinh nghiệm trong công kiên, vận động đặc biệt là kinh nghiệm công kiên ban ngày dưới phi pháo địch, trong khi viện binh địch có thể uy hiếp. Chiến dịch Trung Du thắng lợi là biểu hiện của tinh thần chiến đấu dũng cảm. đoàn kết và anh dũng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ như đồng chí Đông bị thương vẫn tiếp tục đánh địch, đồng chí Thái dũng cảm dùng thủ pháo diệt lô cốt địch. Tiểu đội đầu cầu của đại đội 243 do đồng chí Nguyễn Văn Nhật chỉ huy anh dũng giữ vững đầu cầu trong lửa đạn. Nhiều chiến sĩ vết thương chưa lành đã xin về đơn vị tiếp tục chiến đấu. Cán bộ đảng viên gương mẫu ở những nơi khó khăn, ác liệt, được chiến sĩ tin cậy.

Sau chiến dịch tờ báo "Anh Dũng" của đại đoàn được lưu hành rộng rãi trong đơn vị, tên tờ báo tượng trưng cho truyền thống anh dũng tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312. Đánh giá về sự trưởng thành của Đại đoàn 312, tại hội nghị tổng kết chiến dịch Trung Du ngày 23 và 24 tháng 1 năm 1951, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp nêu rõ: "tuy mới thành lập, nhưng Đại đoàn 312 đã thành công về phương diện xây dựng đại đoàn ngay trong chiến đấu. Bộ tư lệnh đại đoàn có tác phong tích cực và mạnh bạo nhưng đôi khi đã hơi chủ quan và thiếu tỉ mỉ". Đại tướng nhận định về trung đoàn 209 và 141:

- Trung đoàn 209 làm tròn nhiệm vụ ở Xuân Trạch, Đạo Tú, thất bại ở Chợ Vàng, có tác phong anh dũng kiên quyết, nhanh chóng khi chấp hành mệnh lệnh. Đặc biệt tiểu đoàn 130 lần nào cũng xung phong dũng cảm và giữ vững được tinh thần trong mọi trường hợp.

- Trung đoàn 141 mới thành lập nhưng đã có thành tích chiến đấu gan dạ, biết đoàn kết với đơn vị bạn chiến đấu, nhưng nắm quân còn kém và chậm.

Lời khen và nhắc nhở ân cần của Đại tướng là những bài học quý đối với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312. Từ trận đầu, chiến dịch đầu xuất quân chiến thắng giòn giã trên chiến trường Trung Du cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 312 càng thêm tin tưởng và phấn khởi bước vào những chiến dịch mới.

Chương 2

XÂY DỰNG LỰC LUỢNG, NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ TÁC CHIẾN TẬP TRUNG CỦA ĐẠI ĐOÀN TRONG CÁC CHIẾN DỊCH (3-1951 - 5-1953)

1. Trên chiến trường Đông Bắc

Sau chiến dịch Trung Du, lực lượng vũ trang ta đã mạnh lên cả về số lượng và chất lượng. Tiếp sau các Đại đoàn 308, 304, 312, các Đại đoàn 320, 316 và Đại đoàn công pháo 351 ra đời . Qua chiến dịch Trung Du, bộ đội chủ lực ta đã có thêm kinh nghiệm, quân số được bổ sung, trình độ chiến thuật, kỹ thuật có tiến bộ. Bộ đội địa phương, dân quân du kích phát triển mạnh, vùng tự do ở Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang được mở rộng.

Thế trận của ta ở trung du được củng cố vững chắc hơn, nhưng ta cũng có những khó khăn: bộ đội chủ lực chưa quen tác chiến lớn ở đồng bằng; tân binh nhiều, vũ khí trang bị thiếu; trong cán bộ, chiến sĩ còn có biểu hiện ngại đánh ở đồng bằng, ngại phi pháo địch.

Để đối phó với các hoạt động của ta, địch ra sức củng cố tuyến công sự vững chắc bao quanh Trung Du và đồng bằng Bắc Bộ, tăng cường quân phòng thủ, dùng quân cơ động và phi pháo ngăn chặn ta từ xa. Ơ Bắc Bộ, trước chiến dịch Trung Du địch có 64 tiểu đoàn, sau chiến dịch chúng tăng lên 79 tiểu đoàn, lực lượng cơ động từ 31 tiểu đoàn tăng lên 45 tiểu đoàn. Chúng ráo riết tăng quân để xây dựng thêm 7 binh đoàn cơ động...

Lực lượng địch ở Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang đến Phả Lại khá mạnh, nhưng trên tuyến đường 18 chúng có nhiều sơ hở. Các cứ điểm đóng trên tuyến này phần lớn có khoảng một trung đội đóng giữ. Lực lượng cơ động tại chỗ chỉ có một tiểu đoàn ở Uông Bí và Đông Triều. ở Tiên Yên, Móng Cái và đường 17 nhìn chung lực lượng địch mỏng yếu.

Trên cơ sở nhận định về địch và khả năng tác chiến của bộ đội ta, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh quyết định mở chiến dịch ở hướng Đông Bắc (đường số 13 và 18) lấy tên là chiến dịch Hoàng Hoa Thám.

Nhiệm vụ của chiến dịch là: tiêu diệt một bộ phận sinh lực quan trọng của địch (từ 6 đến 8 tiểu đoàn) phá kế hoạch chấn chỉnh tuyến phòng ngự của địch, đẩy mạnh du kích chiến tranh.

Phương châm tác chiến là đánh công kiên và đánh vận động ngang nhau, sau đó tùy theo điều kiện phát triển của chiến dịch đề phát triển hình thức tác chiến thích hợp; chuẩn bị đánh liên tục, đánh bất ngờ; phối hợp chặt chẽ nội ngoại tuyến để phân tán địch và khuếch trương chiến quả.

Hướng tác chiến chính của chiến dịch là đường 18, hướng phối hợp là Vĩnh Yên, Khu 3. Khu vực này thuộc mấy tiềnh Đông Bắc có nhiều nguồn lợi thiên nhiên như than Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Kênh, rừng thông Yên Lập, có hải cảng lớn nhất Bắc Bộ, có vịnh Hạ Long, có những đường bộ quan trọng như đường 18 và đường thủy theo sông Kinh Thầy, sông Thương, sông Lục Nam, sông Bạch Đằng. Nhân dân phía bắc đường 18 gồm các dân tộc Kinh, Tày, Nùng, Dao, phía nam đường phần lớn là người Kinh. Từ năm 1947 vùng này đã bị địch tạm chiếm đóng. Cuộc chiến đấu của nhân dân đông Bắc rất gay go. Địch càn quét liên tiếp và ngày càng khốc liệt Nhiều nơi chúng lập vành đai trắng. Nhân dân mong đợi bộ đội chủ lực đến để cùng tác chiến, giải phóng vùng mỏ, giải phóng miền đông bắc giàu có của Tổ quốc.

Mở chiến dịch Hoàng Hoa Thám ta có nhiều khó khăn như chiến trường xa căn cứ địa, bộ đội phải hành quân dài ngày đi qua vùng địch tạm chiếm, tiếp tế khó khăn, phía bắc đường 18 dân cư thưa thớt, kinh tế nghèo nàn. . .Nhưng ta cũng có nhiều thuận lợi do địch bố trí phân tán, quân chiếm đóng đa số là ngụy. Nhìn chung phòng tuyến trung du, duyên hải đường 18 là nơi địch yếu hơn cả Chúng chủ quan cho rằng do đường xa, tiếp tế khó khăn ta không thể đưa nhiều chủ lực lên vùng này. Bộ đội ta đã chiến đấu ở trung du, đã đánh những đồn kiên cố, những đội quân ứng chiến tinh nhuệ của địch. Ta có nhiều khả năng tiêu diệt địch.

Đây là chiến dịch thứ hai mở ở vùng đổng bằng nhưng về địa hình so với chiến dịch Trung Du có phần thuận lợi hơn. Trong chiến dịch Trung Du, bộ đội chiến đấu ở địa hình trống trải, nay chiến đấu ở một vùng có đồng bằng, có rừng núi, nhiều đường cơ động.

Đại đoàn 312 (thiếu trung đoàn 165) được Bộ giao nhiệm vụ cùng Đại đoàn 308 chiến đấu ở chiến trường chính làm nhiệm vụ dự bị, đợi đánh viện binh địch. Nhiệm vụ cụ thể tùy tình hình trong quá trình chiến dịch Bộ sẽ giao. Trong lúc chuẩn bị đi chiến dịch, trung đoàn 165 đang trên đường hành quân về tập trung trong đội hình đại đoàn. Về đến Phú Thọ trung đoàn được Bộ tư lệnh đến phố biến tình hình và giao nhiệm vụ: huấn luyện 5 tuần lễ, làm nghi binh kiềm chế thu hút địch, nếu có điều kiện thì tiêu diệt một vị trí nhỏ của địch. Đại đoàn chỉ thị cho một số cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn của trung đoàn 165 đi theo đại đoàn để học tập kinh nghiệm chiến đấu.

Đầu tháng 3 năm 1951 Đại đoàn 312 mở hội nghị quán triệt nhiệm vụ trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Hội nghị họp ở Xóm Cúng (Phú Thọ), Bác Hồ đến thăm đơn vị, Bác hỏi han tình hình học tập của cán bộ chiến sĩ tình hình sẵn sàng nhận nhiệm vụ của đại đoàn. Bác thăm nhà bếp, xem bữa ăn của bộ đội và dự liên hoan với hội nghị. Nói chuyện thân mật với cán bộ chiến sĩ, Bác căn dặn: "Muốn đánh thắng trước hết phải đoàn kết chặt chẽ và có quyết tâm cao". Cán bộ chiến sĩ toàn đại đoàn rất phấn khởi ghi sâu lời dạy của Bác, khẩn trương làm công tác chuẩn bị hành quân đi chiến dịch.

Ngày 7 tháng 3 năm 1951 Đảng ủy đại đoàn họp để bàn kế hoạch lãnh đạo, bảo đảm cuộc hành quân đến vị trí tập kết an toàn và đúng giờ đã quy định.

Công tác tham mưu: bảo đảm kế hoạch hành quân chặt chẽ, xử lý kịp thời các tình huống. Công tác chính trị xác định rõ nhiệm vụ cho đảng viên, chi ủy phát động phong trào "ủng cán, ái binh tăng cường công tác giáo dục chính sách chiến trường. Chú trọng công tác thông tin tuyên truyền.

Công tác cung cấp lo tìm nguồn bảo đảm, tổ chức vận chuyển phục vụ chiến trường.

Ngày 8 tháng 3 năm 1951, cuộc hành quân về hướng đường 18 bắt đầu. Xuất phát từ Phú Thọ, qua Thái Nguyên, Bắc Giang vượt qua sông Chủ, đèo Bồng quân ta tiến về vùng mỏ Uông Bí, Mạo Khê đến đường 18, đường dài trên 170 ki-lô-mét. Cán bộ chiến sĩ đều nhận rõ vinh dự được tham gia chiến dịch, hứa quyết tâm chiến đấu và chiến thắng để xứng đáng với lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người đến thăm đại đoàn.

Hành quân xa, mang vác nặng, đường độc đạo, ngoài quần áo, vũ khí, các chiến sĩ phải mang theo gạo dự trữ trong sáu ngày. Công tác lãnh đạo bảo đảm hành quân sôi nổi, rộng khắp. Trong hành quân các hội đồng quân nhân, tổ ba người cũng như chi ủy đã lãnh đạo và vận động tương trợ lẫn nhau. Một đồng chí đau chân, tụt lại lập tức tổ ba người phân công nhau mang vác giúp và dìu đi. Trên đường hành quân cán bộ và chiến sĩ cũ đi sát anh em tân binh, kể chuyện những ngày kháng chiến anh dũng, những kinh nghiệm xương máu. Cảm kích trước tình thương yêu đồng đội, có chiến sĩ đau ốm vẫn cố gắng bám sát đội hình quyết không chịu đi sau. Gian khổ, mệt nhọc, ăn đói vác nặng, leo qua đèo cao dưới trời mưa suốt đêm các chiến sĩ vẫn cất cao giọng hòa tiếng hát động viên nhau vượt qua gian khổ. Anh em nuôi quân hành quân theo đơn vị, đến vị trí trú quân phải tranh thủ thổi cơm trước sáng để tránh phi cơ.

Toàn đại đoàn phát động phong trào "ủng cán, ái binh" Tác phong sâu sát, đồng cam cộng khổ với chiến sĩ phổ biến trong cán bộ, nhất là cán bộ chính trị. "chiến sĩ chưa có chỗ ngủ, cán bộ chưa ngủ, chiến sĩ chưa được ăn, cán bộ chưa ăn". cán bộ, chiến sĩ trên dưới hòa thuận bình đẳng, thông cảm với nhau, gian khổ cùng chịu, làm cho những người xa gia đình, xa quê hương đi chiến đấu vì hạnh phúc của nhân dân kết thành một khối gắn bó với nhau như trong một gia đình..

Trên đường hành quân trung đoàn 209 giữ được bí mật nên không để xảy ra thương vong mặc dù hướng chiến dịch đã bị lộ, phi cơ địch luôn luôn theo dõi. Trung đoàn 141 tuy đến đúng chặng nhưng chưa chấp hành mệnh lệnh triệt để, để bộ đội hành quân ban ngày nên bị phi cơ oanh tạc làm 40 dân công và 7 chiến sỉ thương vong

Qua hơn 10 ngày hành quân vất vả gian khổ ngày 20 và 21 tháng 3 các đơn vị của đại đoàn đến vị trí tập kết an toàn .

Ngày 23 tháng 3 năm 1951 chiến dịch Hoàng hoa Thám mở màn.

Đợt 1 từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 31 tháng 3 năm 1951, Đảng ủy mặt trận giao cho Đại đoàn 308, trung đoàn 174 tiêu diệt các vị trí Lán Tháp, Lọc Nước, Máng Nước, Sống Trâu. Đại đoàn 312 có nhiệm vụ giấu lực.lượng đồng thời chú ý điều tra theo dõi Mạo Kh.ê, Tràng Bạch, Lâm Xã. Sau khi Đại đoàn 308 và trung đoàn 174 tiêu diệt các vị trí nói trên, nhận thấy địch không tích cực đôi phó, vì ta đã chờ 3 ngày mà viện binh địch không lên, Đảng ủy mặt trận chủ trương đánh một số vị trí lớn xung quanh Uông Bí để kéo viện binh địch ra. Đại đoàn 308 có nhiệm vụ đánh Bí Chợ, Đại đoàn 312 nhận nhiệm vụ công kiên đồn Tràng Bạch.

Đồn Tràng Bạch nằm trên đường 18 cách tây nam Uông Bí 18 ki-lô-mét. Lực lượng địch có 87 tên đa số là quốc dân đảng và ngụy binh (có 6 tên Pháp) do một quan hai Pháp và một sĩ quan quốc dân đảng chỉ huy.

Trung đoàn 141 sử dụng tiểu đoàn 428 được 2 sơn pháo 75 chi viện hỏa lực đánh Tràng Bạch. Trong khi chuẩn bị đánh có cán bộ nêu lý do bộ đội mệt, bộc phá ướt, địch tình chưa rõ, đường hành quân khó. Trong chiến sĩ cũng có biểu hiện không tin vào thắng lợi của trận đánh.

Để giải quyết tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ, đảm bảo đánh chắc thắng, công tác lãnh đạo bảo đảm cho trận đánh được tiến hành rất chu đáo. Đồng chí Lương Thính, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 428 đi điều tra tình hình địch hai, ba lần, đắp sa bàn đồn địch để hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ thảo luận dân chủ bàn cách đánh. Các đồng chí cố vấn và ban chỉ huy trung đoàn xuống các đơn vị trực tiếp kiểm tra phương án chiến đấu. Anh em thắc mắc bộc phá ướt không nổ, đã cho thử bộc phá để kiếm tra, đồng thời cho một đại đội đi trước sửa đường. Mọi người đều quyết tâm thực hiện nghị quyết của Đảng ủy trung đoàn "Chuẩn bị chu đáo, bảo đảm trận đánh thắng 100 phần trăm"

Trung đoàn 209 dồn bộc phá cho trung đoàn 141 để trung đoàn đánh Tràng Bạch Cán bộ, chiến sĩ 209 coi nhiệm vụ đánh Tràng Bạch của 141 như nhiệm vụ của mình. Tiểu đoàn 11 cử cán bộ, chiến sĩ có kinh nghiệm đánh bộc phá sang hướng dẫn cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 428.

17 giờ ngày 27 tháng 3 năm 1951, tiểu đoàn 428 và hai sơn pháo 75 từ đèo Nang xuất phát bí mật chiếm lĩnh trận địa. 1 giờ 35 phút tiểu đoàn cho nổ bộc phá, mở màn trận đánh. Sau chừng một phút, hỏa lực địch bắn mạnh. Qua ánh lửa phát hiện được mục tiêu, hai khẩu sơn pháo của ta, mỗi khẩu bắn 6 phát phá được lô cốt số 1 số 4 và số 2, bịt hỏa điểm, uy hiếp tinh thần địch, tạo điều kiện cho bộ binh mở đột phá khẩu.

10 phút sau, các cửa mở đã thông. Pháo ngừng bắn để bộ binh xung phong. Trung đội trưởng Nguyễn Văn Song dẫn đầu trung đội xông vào đồn. Hỏa lực địch từ trung tâm bắn ra bất ngờ, một bộ phận địch ra chặn đường xung phong của ta Địch và ta giành giật ở đột phá khẩu. Do quân địch đông hỏa lực mạnh, lực lượng ta bị đánh bật ra ngoài đột phá khẩu. Sau đó chúng tập trung hỏa lực trong đồn và gọi pháo ở Mạo Khê bắn cấp tập vào đội hình ta, làm nhiều cán bộ, chiến sĩ thương vong. Sau hơn 1 giờ chiến đấu ta vẫn chưa phát triển được vào trung tâm. Trung đoàn lệnh cho pháo 75 tiếp tục bắn diệt các hỏa điểm. Đại đội 670 và một trung đội của đại đội 58 xung phong vào đồn, chiếm được đột phá khẩu, phát triển về lô cốt số 1 và lô cốt số 3, số 4. Đồng chí Song bị cháy xém một bên má nhưng vẫn kiên quyết chỉ huy. Phối hợp với mũi điểm, mũi diện cũng nhanh chóng chiếm đột phá khẩu, phát triển vào tung thâm, diệt lô cốt chỉ huy. Hai tiểu đội địch cắt dây thép gai chạy trốn. Một trung đội của đạiđội 58 diệt được hơn một tiểu đội, số còn lại chạy thoát ra ngoài. Vào lúc 3 giờ ta chiếm được đồn. Các đơn vị pháo và cối được lệnh rút ra ngoài. Bộ binh để lại một bộ phận thu dọn chiến trường. 3 giờ 20 phút bộ phận bao vây bên ngoài nghe thấy còn tiếng nổ, phán đoán địch còn ẩn nấp trong đồn, liền tổ chức một bộ phận tiến vào nhanh chóng bao vây, dùng hỏa lực tiêu diệt 15 tên, bắt sống một. Địch chi còn 3 tên chạy thoát.

Ba giờ 30 phút ngày 28 tháng 3, đồn Tràng Bạch bị tiểu đoàn 428 tiêu diệt hoàn toàn, địch chết 73 tên, bị bắt 5 tên Ta thu được một cối 81 ly, 2 trọng liên 12,7, chín tiểu liên, 21 súng trường, phá hủy 1 ô tô, ta hy sinh 7, bị thương 27. Địch chạy thoát 9 tên.

Cùng đêm hôm đó đơn vị bạn đánh đồn Lâm Xa nằm giữa Tràng Bạch và Bí Chợ thắng giòn giã. Ngày 28 tháng 3, Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh tiếp tục tiêu diệt Uống Bí và Mạo Khê. Quân địch ở Mạo Khê đóng làm hai nơi: Mạo Khê phố, Mạo Khê Mỏ.

Trung đoàn 209 được giao nhiệm vụ đánh Mạo Khê Mỏ. Trung đoàn 86 (Đại đoàn 308) phối thuộc cho đại đoàn đánh Mạo Khê Phố.

Đồn Mạo Khê Mỏ xây trên một khu đất cao hơn mặt ruộng 1,5 mét, nằm cạnh đường goòng của mỏ, bao bọc quanh đồn là bốn bức tường cao 2,5 mét, dày 0,55 mét, bốn mặt tường đều có lỗ châu mưai, ngoài có hàng rào tre và dây thép gai. Trong đồn có 19 nhà trong đó có nhà số 1 cao 12 mét, 3 tầng, có vọng gác trên nóc. Lực lượng địch đóng giữ có 140 tên, do một quan hai chỉ huy, vũ khí gồm 15 tiểu liên, 5 trung liên, 2 đại liên, 1 cối.

Trung đoàn 209 sử dụng tiểu đoàn 130, một đại đội của tiểu đoàn 166 và ba khẩu pháo 75 ly đánh Mạo Khê Mỏ. Tiểu đoàn 154 bố trí diệt viện từ Mạo Khê Phố lên Mạo Khê Mỏ, kiềm chế Mạo Khê Phố, đồng thời diệt tàn quân từ Mạo Khê Mỏ chạy về. Tiểu đoàn 166 (thiếu một đại đội) làm dự bị của trung đoàn, các đơn vị tập kết ở vị trí cách đồn Mạo Khê 7 ki-lô-mét . Trên đường hành quân tiếp cận có một con suối, đưa pháo qua rất khó khăn. Trời tối, người đưa đường thiếu, bộ đội bị lạc.

Cuộc hành quân chiếm lĩnh trận địa của tiểu đoàn 130 bị kéo dài, dự định 11 giờ đêm ngày 29 tháng 3 nổ súng nhưng mãi đến 3 giờ 30 ngày 30 tháng 3 mới phát hỏa. Ta mở đột phá khẩu rất nhanh, xung phong vào đồn, nhưng bị địch đánh bật ra. Sau đó ta tổ chức xung phong lần thứ hai, lại bị địch đánh bật ra. Lần xung phong thứ ba, địch còn chừng 30 tên, rút vào lô cốt ngầm cố thủ và rút lên gác nhà 3 tầng. Từ trên cao địch bắn xuống, trong hầm ngầm bắn ra. Trong lúc khó khăn đồng chí đại đội trưởng chủ công nao núng nằm ở ngoài, đại đội phó vào chỉ huy lúng túng nên đơn vị bị thiệt hại.

Trong lúc cuộc chiến đấu ở Mạo Khê Mỏ đang diễn ra quyết liệt, khoảng 10 giờ ngày 30 tháng 3, một toán địch từ Mạo Khê phố lên tiếp viện cho Mạo Khê Mỏ bị tiểu đoàn 154 chặn đánh diệt 20 tên, bắt 5 tên, số còn lại chạy về Mạo Khê Phố. Bộ phận đánh Tháp Canh và phá cầu Thân Mưai, chặn viện từ Đông Triều lên Mạo Khê không làm tròn nhiệm vụ, để cho đoàn xe 27 chiếc đưa một tiểu đoàn địch từ Đông Triều chạy thoát lên Mạo Khê phố. Toán này gặp tiểu đoàn 154 bố trí gần Mạo Khê Phố chặn đánh. Bốn lần địch tấn công vào trận địa tiểu đoàn 154 nhưng đều bị đánh bật trở lại. Đại đội phó Lê Nhỡn, chỉ huy đại đội lợi dụng đường goòng chặn địch. Mặc dù bị thương vong một trung đội, anh em vẫn chặn được quân địch. Tiểu đội đồng chí Minh dùng lưỡi lê, lựu đạn đánh giáp lá cà với địch. Nhiều chiến sĩ bị thương đã tự băng bó để tiếp tục chiến đấu Chiến sĩ Lê Lan bị đạn từ máy bay địch bắn gãy đùi, bảng súng bị vỡ đã cởi áo trấn thủ bao quanh lõi sắt làm báng súng bắn trả máy bay địch. Có chiến sĩ bị bom na-pan cháy ỏa quần áo đã cởi vứt quần áo tiếp tục đánh địch. Trận đánh kéo dài hơn một giờ, địch mới vào được Mạo Khê Phố.

Sau khi củng cố lại đội hình, tiểu đoàn 130 tiếp tục tổ chức các đợt xung phong đánh Mạo Khê Mỏ. Chiến sĩ Nguyễn Văn Tiền, lợi dụng địa hình bò đi, bò lại cõng mỗi chuyến 20 ki-lô-gam bộc phá tạo thành khối 60 ki-lô-gam rồi cho nổ. Nhưng khối bộc phá ấy cũng chỉ phá thủng tường mà không sập nhà. Trong khi đó địch gọi máy bay và pháo bắn mạnh vào đội hình tiếp ứng của ta. Đơn vị đột phá thương vong nhiều, sức đột kích yếu Từ hướng Đông Triều địch dùng một tiểu đoàn phản kích đánh bật ta ra khỏi đồn. Chiến sĩ ta lại dùng thang bám tường leo lên đánh, chiếm được tầng hai. Địch rút lên tầng 3 chống cự quyết liệt. Một số đồng chí bị thương vong đội dự bị không lọt được vào đồn. Trước tình thế ấy trung đoàn 209 phải dừng tiến công, chỉ để lại một trung đội bám sát nhà gác chờ trời tối đánh tiếp.

Khoảng 17 giờ, lợi dụng lúc phi cơ hoạt động dữ dội, số địch còn sống sót ở Mạo Khê Mỏ rút lui về Mạo Khê Phố mà tiểu đoàn 130 và 154 đều không phát hiện được. Nhận được tin địch rút chạy ban chỉ huy trung đoàn 209 hạ lệnh cho tiểu đoàn 130 truy kích nhưng đã quá muộn. Chúng đã về tới Mạo Khê Phố.

Sau ba ngày đánh Mạo Khê Mỏ trung đoàn 209 diệt được 100 tên địch, ta hy sinh 46, bi thương 209 và mất tích 14 đồng chí. Trận này ta chiếm được đồn nhưng thương vong của ta cao, để địch chạy thoát

Cùng thời gian trên, trung đoàn 36 (Đại đoàn 808) phối thuộc với đại đoàn tiêu diệt Mạo Khê Phố. Đêm đầu trung đoàn 86 không đánh kịp. Chiều 30 tháng 3, Đảng ủy mặt trận đã ra lệnh thôi không đánh, trả trung đoàn 36 vế đại đoàn 308, vì địch đã tăng cường cho Mạo Khê Phố chừng 700 quân. Lệnh của đại đoàn không truyền đạt tới kịp, nên đêm 30 tháng 3, trung đoàn 36 vẫn đánh Mạo Khê Phố, diệt 250 tên, phá được 7 xe trong đó có một xe tăng, trung đoàn 36 bị thương vong 200 cán bộ, chiến sĩ.

Sau đợt tiến công của ta, địch tăng cường cho Đông Triều hai tiểu đoàn, điều một bộ phận GM4 từ Lục Nam xuống Phả Lại, đưa một số tàu chiến vào sông Bạch Đằng. Đảng ủy mặt trận chủ trương chuyển hướng hoạt động xuống phía nam đường 17 và quyết định tiêu diệt Bến Tám, Bãi Thảo, Hoàng Gián.

Đại đoàn giao nhiệm vụ cho trung đoàn 209 sử dụng tiểu đoàn 166 và một đại đội của tiểu đoàn 130 tiêu diệt đồn Hoàng Gián (có hai trung đội địch đóng giữ).

Rút kinh nghiệm trận Mạo Khê Mỏ, trung đoàn 209 đã đưa bộ đội đến vị trí tập kết cách đồn 5 ki-lô-mét giấu quân bí mật sau đó đưa cán bộ đi nghiên cứu thực địa, nhưng đêm 4 tháng 4 hành quân vào chiếm lĩnh trận địa xuất phát tiến công lại không bố trí người dẫn đường cụ thể nên đến đường rẽ các đơn vị bị lạc và đến chậm, định 12 giờ nổ súng mà đến 3 giờ mới bắt đầu đánh. Địch đối phó yếu ớt. Pháo địch ở Đông Triều chỉ bắn lác đác. Sau 15 phút chiến đấu ta phá được hết lô cốt nổi của địch, nhưng từ lúc địch rút xuống hầm ngầm cố thủ do tiểu đoàn trưởng không nắm chắc tình hình, đã không kịp thời điều động thêm bộ đội để tiêu diệt nốt một tiểu đội địch cố thủ trong hầm .

Năm giờ 30 phút, tiểu đoàn 166 rút ra ngoài, trận này ta tiêu diệt được 50 tên, ta hy sinh 5, bị thương 34 đồng chí nhưng không thu được vũ khí, đạn dược. 12 giờ trưa ngày 5 tháng 4, địch từ Đông triều lên chiếm lại Hoàng Gián.

Hoàng Gián là một vị trí nhỏ địch có hai trung đội. Ta dùng một tiểu đoàn tấn công, tin chắc tiêu diệt được hoàn toàn quân địch. Nhưng kết quả không hoàn thành nhiệm vụ vì trung đoàn chủ quan không kiểm tra tỉ mỉ kế hoạch tác chiến của tiểu đoàn, mặc dầu đã cử trung đoàn phó xuống trực tiếp giúp đỡ. Tiểu đoàn trưởng 166 không nắm chắc tình hình, chỉ huy thiếu linh hoạt nên suốt hơn hai giờ chiến đấu không quyết tâm điều động bộ đội lên tiêu diệt địch.

Cũng trong thời gian này, đại đoàn bạn đánh Bến Tắm không thành công viện binh địch không ra. Đại đoàn 312 không có cơ hội diệt viện binh theo kế hoạch.

Ngày 5 tháng 4 năm 1951 sau 15 ngày đêm chiến đấu Đảng ủy mặt trận quyết định kết thúc chiến dịch. Trên chiến trường chính ta đã tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, phát triển được du kích chiến nhưng so với yêu cầu đề ra của chiến dịch, các đơn vị mới thực hiện được một phần nhiệm vụ.

Trên hướng chính của chiến dịch ta tiêu diệt 1190 tên, bắt 119 tên, thu và phá hủy 412 súng các loại, phá huỷ 12 ôtô, 2 xe tăng, 1 thiết giáp, bắn rơi một máy bay. Thiệt hại của ta trên hướng này là 2.262 người (hy sinh 495, bị thương 1673, mất tích và bị địch bắt 94) . Bộ chỉ huy chiến dịch đánh giá: "ta không hoàn thành nhiệm vụ chiến dịch, bị tiêu hao nhiều lực lượng"1.(Chú thích . 1 Lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản năm 1991, tr.463.)

Đại đoàn 312 là một trong những đơn vị chiến đấu trên hướng chính được Bộ chỉ huy chiến dịch sơ bộ đánh giá:

- Nhiệm vụ làm tổng dự bị, đại đoàn đã giấu quân được bí mật) địch không rõ thực lực của đại đoàn .

- Nhiệm vụ đánh công kiên, trận Tràng Bạch hoàn thành nhiệm vụ trận Mạo Khê nói chung thắng lợi, nhưng không hoàn thành tiêu diệt toàn bộ quân địch trận Hoàng Gián địch bị tiêu hao; ta cũng bị tiêu hao, trận Lâm Xã không hoàn thành, đại đoàn chỉ huy trungđoàn 36 đánh Mạo Khê Phố tiêu diệt được một bộ phận sinh lực địch, ta cũng bị tiêu hao. Ngoài ra đại đoàn còn hai lần nhận đánh viện từ Mạo Khê đi Tràng Bạch, từ Đông Triều đi Hoàng Gián Bến Tám nhưng địch không ra.

Sau chiến dịch, lực lượng đại đoàn bị hao hụt nhiều, một phần vì bị thương vong, một phần đau ốm. Trung đoàn 141 ốm 200 người, trung đoàn 209 mỗi tiểu đoàn ốm chừng một trung đội. Riêng tiểu đoàn 16 ốm nhiều nhất vì cấp dưỡng kém, ăn uống không được bảo đảm.

Trở vế vùng giáp ranh Tuyên Quang - Phú Thọ, ngày 7 tháng 4 Đảng ủy đại đoàn họp, có các đồng chí Trán Độ, Lê Trọng Tấn, Hà Minh Quân Mạc Ninh, Nam Long. Hội nghị mở động mời đồng chí Nguyễn Bàng Trần Quang Khanh Lâm Kính, Mạnh Việt, Đồng Sỹ Nguyên và đồng chí Dinh Dư ở Tổng cục tham dự

Tổng kết chiến dịch, Đại đoàn biểu dương nhiều gương hy sinh anh dũng của chiến sĩ và nghiêm khắcvới cán bộ. Cán bộ toàn đại đoàn đã đề cao tự phê bình và phê bình từ trên xuống dưới. Mở đầu là Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn, tiếp đến là trung đoàn trưởng 209 Nguyễn Bàng. Nhiều cán bộ cấp dưới noi gương cấp trên đã tự phê bình thành khẩn, nghiêm khắc, không tranh công đổ lỗi, ai cũng thấy đúng thiếu sót, như chủ quan khinh địch, nắm địch không kỹ, tổ chức chiến đấu thiếu chu đáo, thiếu dự tính nhiều tình huống khi gặp chiến sự diễn biến phức tạp thỉ lúng túng, ngại đánh công sự vững chắc, cách đánh thiếu sáng tạo...

Chiến dịch Hoàng Hoa Thám bộc lộ trình độ chỉ huy của cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chiến đấu quy mô tập trung lớn. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến của đại đoàn chưa hình thành rõ ràng, cơ sở vật chất chuẩn bị không chu đáo, do đó bộc lộ nhiều lúng túng, mất dần thế chủ động khi gặp khó khăn, dẫn đến tổn thất lớn.

Ngày 26 tháng 4 năm 1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh dự hội nghị tổng kết chiến dịch do Bộ chì huy chiến dịch mở. Người nói: "Trước ta nói phê bình và tự phê bình, bây giờ phải nói tự phê bình và phê bình. Nói như thế là chú trọng phê bình mình trước, phê bình người sau. Phê bình mình là chính, phê bình người là phụ...Tự phê binh và phê bình là để thống nhất tư tưởng. Tư tưởng có thống nhất, hành động mới thống nhất. Tư tưởng và hành động có thống nhất mới đánh thắng được giặc" Cán bộ Đại đoàn 312 dự hội nghị này vô cùng thấm thía những lời dạy của Bác.

Sau hội nghị, Đảng ủy Bộ tư lệnh đại đoàn thống nhất nhận định những mặt thành công và chưa thành công của đại đoàn trong chiến dịch Hoàng Hoa Thám, phổ biến đến từng cán bộ chiến sĩ đề xây dựng tinh thần đoàn kết, thắng không kiêu bại không nản. Đồng thời tiến hành bình công khen thưởng, đề bạt và điều động cán bộ, bổ sung quân số, trang bị, kiện toàn các tổ chức lãnh đạo, chỉ huy của các đơn vị, thực hiện tốt chính sách đối với thương binh liệt sĩ. Đại đoàn chỉ đạo các đơn vị tăng cường công tác nuôi quân, phòng bệnh và quyết định cấp thêm cho mỗi đơn vị một bữa chè, cấp cho cán bộ tiểu đoàn một ki-lô-gam đường, một ki-lô-gam thịt, cán bộ trung đội, đại đội mỗi người 0,5 ki-lô-gam đường, 0,5 ki lô-gam thịt, cán bộ tiểu đội 0,5 ki-lô-gam đường.

Sau chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Đại đoàn tổ chức chỉnh huấn trong thời gian 2 tháng 20 ngày tổng kết, 40 ngày học quân sự), sau đó bước vào chuẩn bị chiến trường ở Vĩnh Phúc, tử đường số 3 đến Việt Trì. Riêng trung đoàn 141 được lệnh hành quân về Vĩnh Phúc tiêu diệt vị trí Chùa Tiếng phối hợp với Liên khu 3.

Các trận đánh trên chiến trường Đông Bắc cuối xuân 1951 tuy không giành được thắng lợi giòn giã nhưng đã góp phần rèn luyện khả năng cơ động, nâng cao trình độ tác chiến tập trung của đại đoàn. Qua chiến dịch này cán bộ chỉ huy các cấp học tập được nhiều kinh nghiệm về sử dụng binh lực, bảo đảm cơ động và bảo đảm cụng cấp trên một chiến trường xa hậu phương đánh với đối tượng địch có khả năng cơ động cao, hỏa lực phi pháo mạnh.

2. Tham gia các chiến dịch Lý Thường Kiệt, Hòa Bình

Sau chiến dịch Quang Trung ở đồng bằng Bắc Bộ địch ra sức củng cố lực lượng, tăng cường càn quét phá cơ sở cách mạng, giành thế chủ động đánh ra vùng tự do trước mùa khô nhằm phá mùa màng và sự chuẩn bị của ta

Trước tình hình khó khăn ở địch hậu và khả năng địch có thể tiến công ra vùng tự do của ta, Tổng quân ủy đề nghị Trung ương Đảng cho mở một chiến dịch nhỏ ờ hướng tây bắc và phát động một tháng du kích chiến tranh buộc địch phải bị động đối phó.

Ngày 3 tháng 9 năm 1951, Bộ Tổng chỉ huy giao cho Đại đoàn 312 lên Tây Bắc, mở chiến dịch mưang tên Lý Thường Kiệt. Yên Bái là một tiềnh miền núi thuộc Tây Bắc, số dân 130.149 người, gồm các dân tộc Kinh, Thái, Dao, H'mông..., diện tích 9.596 ki-lô-mét vuông, núi rừng trùng điệp. Sông Hồng chia Yên Bái làm đôi. Phía đông, hai huyện Bảo Hà và Lục Yên là vùng tự do. Từ bờ sông trở vào là ba huyện Văn Bản, Trấn Yên, Than Uyên, phần lớn bị địch chiếm đóng ngay từ ngày đầu kháng chiến.

Sau chiến dịch Sông Thao, các vị trí Phố Ràng, Đại Bục, Đại Phác bị tiêu diệt, vùng tạm bị địch chiếm bị co lại một phần. Các huyện Văn Bản, Trấn Yên, Than Uyên có nhiều rừng già, núi cao. Những năm dưới ách địch, nhân dân sống rất chật vật, hàng năm thiếu ăn tới 3, 4 tháng. Địch lập xứ Thái tự trị tìm cách chia rẽ dân tộc. Chúng bắt nhân dân về tập trung quanh đồn. Nhiều gia đình nghèo, một năm phải 6 tháng ăn củ mài, 2-3 người chung nhau một cái quần... Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đều một lòng đoàn kết kháng chiến. Nhân dân Hưng Khánh (Trấn Yên) đã tích cực tham gia xây dựng chiến khu từ năm 1945, gia nhập Giải phóng quân chống Nhật và quốc dân đảng.

Năm 1947, giặc Pháp tấn công lên, nhân dân đã thực hiện khẩu hiệu "vườn không nhà trống", tổ chức đội vũ trang tiêu diệt được nhiều địch. Đội du kích Cao Phốc (Văn Chấn) lúc thành lập (năm 1947) chỉ có 6 người với vài khẩu súng. Các chiến sĩ phải sống ở đầu khe, ngọn suối, có khi phải vào rừng ăn quả, củ mài 3, 4 tháng liền nhưng anh em vẫn bền gan hoạt động, luôn đi sát nhân dân được nhân dân yêu mến. Suốt mấy năm chiến đấu mặc dù có nhiều anh em trong đội bị bắt, đã hy sinh anh dũng, nhưng đội du kích vẫn ngày một phát triển và lập được nhiều thành tích.

Những tháng đầu năm 1951, địch chiếm lại Phòng Tô, Binh Lư, Than Uyên, tăng cường càn quét vùng Sơn La Yên Bái để phá các hoạt động du kích, đồng thời liên lạc giúp đỡ bọn thổ phỉ quấy rối. Ơ Phân khu Nghĩa Lộ lực lượng địch có 1 tiểu đoàn Thái và 4 đại đội bổ sung chiếm đóng (LCSM) phân ra làm 4 điểm: Nghĩa Lộ, Gia Hồi, Ba Khe, Thượng Bằng La, mỗi điểm có một đại đội. Quan tư Gi-ra-din chỉ huy toàn phân khu. So với các chiến trường khác, lực lượng địch ở Tây Bắc bố trí phân tán và cô lập. ở vòng ngoài công sự tương đối vững chắc nhưng các vị trí ở vòng trong bố trí sơ sài; thành phần phức tạp gồm chỉ huy và một số quân Pháp, quân Thái, Tày chiếm tới 90 phần trăm.

Sau những trận đánh của bộ đội địa phương tháng 4 năm 1951 tinh thần địch hoang mưang, dao động. Pháo binh cơ giới ít tác dụng, không quân bị hạn chế vì xa căn cứ và bị dịa hình rừng núi hạn chế hoạt động lực lượng ứng cứu yếu hành quân chi viện khó khăn, nhiều nơi không sử dụng được cơ giới vận chuyển do đường rừng núi hiểm trở.

Quyết định mở chiến dịch Lý Thường Kiệt ở chiến trường Tây Bắc, ý định của Bộ Tổng tư lệnh là tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch (khoảng 3 tiểu đoàn), phát triển du kích chiến tranh, diệt thổ phỉ, mở rộng cơ sở nhân dân ở hậu địch, bảo vệ mùa màng. Phương châm tác chiến chiến dịch là tạo thế bất ngờ, bao vây tiêu diệt bằng được các cứ điểm của địch, đồng thời có kế hoạch cụ thể sẵn sàng đánh địch, không cho chúng rút lui hoặc tăng viện bằng đường bộ, đường không. Đại đoàn 312 được tăng cường một liên đội sơn pháo (5 khẩu), 2 đại đội công binh, được phối thuộc lực lượng bộ đội địa phương Phú Thọ, Yên Bái, Tuyên Quang có nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở phân khu Nghĩa Lộ trên hướng chính của chiến dịch, sau đó phát triển về Quang Huy, giúp đỡ địa phương phát triển du kích chiến tranh, gây cơ sở nhân dân ở vùng địch hậu. Trung đoàn 148 và lực lượng địa phương Lào Cai làm nhiệm vụ phối hợp tiêu diệt địch ở Bình Lư, Phong Thổ. Tổng quân ủy giao cho Đại đoàn 312 tổ chức chỉ huy toàn bộ chiến dịch: Bộ tư lệnh Liên khu Việt Bắc có nhiệm vụ chỉ đạo du kích chiến tranh và mở rộng cơ sở .

Để đảm bảo cung cấp cho chiến dịch, trên năm nghìn dân công các tiềnh Vĩnh Yên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái đã được huy động vận chuyển 10 tấn muối, 556 tấn gạo. Ngoài ra còn huy động một số dân công của Phú Thọ chuyển 200 tấn gạo lên đến Vạn Phú, ở hậu phương huy động 300 người phục vụ ở các bến đò và bảo đảm quân y. Tính trung bình mỗi dân công phục vụ chiến dịch 20 ngày.

Ngày 8 và 9 tháng 9 Bộ tư lệnh đại đoàn phổ biến nhiệm vụ chiến dịch đến cán bộ tiểu đoàn và bộ phận đi trước làm công tác chuẩn bị. Đại đoàn họp với tiềnh ủy Yên Bái để báo cáo biện pháp bảo đảm cho chiến dịch, gặp tiềnh ủy Sơn La để nắm tình hình và bàn kế hoạch phối hợp tác chiến. . .

Từ ngày 13 đến 15 tháng 9, các đồng chí trong Đảng ủy đại đoàn, đại diện Liên khu Việt Bắc, đại diện tỉnh ủy các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên tổ chức hội nghị nghiên cứu chỉ thị của Trung ương về mở chiến dịch và chỉ thị của Liên khu ủy Việt Bắc gửi cho các tỉnh ủy. Hội nghị kiểm điểm tình hình, đánh giá thuận lợi, khó khăn, thảo luận và thông qua nghị quyết phát triển du kích chiến tranh và chính sách đối với khu giải phóng của tỉnh ủy, đồng thời quyết định thành lập ủy ban tiếp quản vùng giải phóng. Về tình hình bộ đội, hội nghị nhận định: tinh thần chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ sau thời gian học tập chính trị được nâng cao hơn trước, biểu hiện quyết tâm lập công, không thắc mắc gì về nhiệm vụ chiến dịch, nhưng cần đề phòng tư tưởng thiếu dũng cảm, ngại hy sinh, nhất là trong cán bộ. Khắc phục biểu hiện chủ quan về thành tích chiến đấu, về chỉnh huấn có kết quả, về địch yếu ở trung đoàn 141; cho là mình đã quen chiến trường rừng núi ở trung đoàn 165, cho đánh địch trong chiến trường Tây Bắc dễ hơn đường 18 ở trung đoàn 209. Hội nghị còn dự kiến những khó khăn do địch gây ra, những khó khăn về địa hình, về vận chuyển thương binh, lương thực khi phải đánh ban ngày, đánh quân nhảy dù, giải quyết tư tưởng ngại đánh phân tán, ngại truy kích trong đơn vị.

Trên đường hành quân, các đơn vị bắt đầu phổ biến nhiệm vụ chiến dịch, tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ học tập các chính sách đoàn kết dân tộc, chính sách đối với ngụy quân, ngụy quyền, những quy định về bí mật đồng thời phát động rộng rãi hình thức "công ước" (lời giao hẹn lập công) trong các đơn vị.

Đại đoàn hành quân đến Yên Bái thì địch phát hiện. Chúng cho máy bay theo dõi, ban đêm tuần tiễu dọc sông Hồng, thả đèn sáng để do thám tình hình hoạt động của bộ đội ta. Ngày 16 tháng 9, máy bay địch oanh tạc vào đội hình bộ đội và dân công trên đường hành quân. Ngày 17 tháng 9, chúng điều lên Nghĩa Lộ 100 lính Thái và tăng cường tổ chức phòng thủ. Bộ tư lệnh đại đoàn nhận định: hướng chiến dịch đã bị lộ, địch đã chú trọng đề phòng, nhưng chúng ta vẫn còn nhiều khả năng tranh thủ bất ngờ vì địch mới phát hiện được hướng chiến dịch. Đảng ủy phân tích nguyên nhân lộ bí mật là do huy động dân công ồ ạt, cán bộ địa phương đi phổ biến nhiệm vụ bị bắt (1 cán bộ Gia Hội). Ý thức bảo mật của bộ đội, dân công còn kém, đi lại nhiều trên đường, không giữ khói lửa. Cán bộ chiến sĩ viết thư cho gia đình, bạn bè nói lộ bí mật. Mạng lưới gián điệp của địch ở dọc sông Hồng hoạt động ráo riết. Đảng ủy đại đoàn chủ trương: chuẩn bị tinh thần và vật chất thật đầy đủ cùng lúc ba trung đoàn nhanh chóng vượt sông tiến vào bao vây địch, tạo thế bất ngờ trong chiến đấu để mở màn chiến dịch, tạo điều kiện cho chiến dịch toàn thắng

Công tác động viên tư tưởng sôi nổi, công tác chuẩn bị được tiến hành ráo riết. Ngoài vũ khí, đạn dược, mọi người còn phải chuẩn bị lương khô đủ ăn trong hai, ba ngày vì sau khi đã vượt sông, các đơn vị hành quân liên tục không nghỉ để nhanh chóng bao vây tiêu diệt địch, tạo bất ngờ trong chiến đấu .

Đêm 23 tháng 9 từ các bến đò Mậu A, Cổ Phúc lực lượng đại đoàn vượt sông tiến vào Tây Bắc. Hai trung đoàn 209 và 141, cùng 4 khẩu pháo 75, hai đại đội Yên Bái, Tuyên Quang, một đại đội công binh theo đường Khâu Lao, Sài Bòng theo đường Đại Phác, Khâu Vác tiến vào Nghĩa Lộ. Trung đoàn 165 cùng một khẩu pháo?5, một đại đội Yên Bái, một đại đội công binh theo đường âu Lâu tiến vào Ca Vịnh. Tiểu đoàn địa phương Phú Thọ tiến vào Thượng Bằng La. Đường âu Lâu - Ca Vịnh bị phá hoại từ đầu kháng chiến, cầu cống bị phá hủy, cỏ mọc um tùm. Đường Khâu Lao dây leo kín, lại có nhiều dốc như dốc KhâuVác cao hơn 1.700 mét, các đơn vị phải rẽ cây tìm lối, sửa chửa lại những đoạn dốc thẳng đứng thành đường bậc thang để đi. Qua sông trời bắt đầu mưa và mưa không ngớt. Đêm tối, đường dốc, người đi sau không nhìn thấy người đi trước. Anh em lấy lân tinh gài lên mũ để người đi sau khỏi lạc. Nước mưa ướt hết quần áo, chăn màn. Tạnh mưa cởi vắt hết nước, mặc vào, gần khô lại mưa. Cơm nắm bị nước mưa, đến bữa ăn phải gọt bỏ lượt ngoài, chỉ còn bằng quả cam nhỏ mà ăn vẫn còn mùi chua. Phi pháo địch luôn luôn oanh tạc.

Ngày 28 tháng 9, đại đoàn bộ và trung đoàn 209 bị oanh tạc, hy sinh 10 đồng chí, bị thương 7 đồng chí. Khó khăn gian khổ không làm giảm quyết tâm tiêu diệt địch. Cấp ủy, cán bộ đi sát chiến sĩ. Khẩu hiệu cắm dọc đường, khẩu hiệu viết lên thân cây nhắc lại lời giao ước thi đua, khích lệ, động viên mọi người ra sức khắc phục khó khăn, bao vây tiêu diệt địch. Trèo lên đỉnh Khâu Vác, đỉnh cao nhất và cũng là đỉnh cuối cùng để xuống Nghĩa Lộ, các chiến sĩ vui vẻ động viên nhau:

Đèo cao thì mặc đèo cao

Ta lên tới đỉnh ta cao hơn đèo

Theo kế hoạch, chiến dịch Lý Thường Kiệt dự kiến chia làm 3 đợt:

- Đợt 1: tiêu diệt vị trí Ca Vịnh, bao vây Ba Khe uy hiếp Gốc Báng, sau đó tiêu diệt Ba Khe, chặn đích từ Gốc Báng rút về Nghĩa Lộ, tiêu diệt Bàn Tủ, chặn đánh địch trên đường Gia Hội, Nghĩa Lộ, thực hiện bao vây Nghĩa Lộ, tổ chức nhân dân sơ tán, vận động ngụy binh.

- Đợt 2: tập trung toàn lực tiêu diệt Nghĩa Lộ.

- Đợt 3: phát triển về Thượng Bằng La, Phú Yên, củng cố Nghĩa Lộ.

Ngày 29 tháng 9, Bộ tư lệnh đại đoàn triệu tập hội nghị cán bộ gồm các đồng chí trong Bộ tư lệnh và các đồng chí Nam Long, Lâm Kính, Nguyễn Bàng bàn quyết tâm chiến đấu . Hội nghị nhận định: địch đã nắm được đường tiến quân của ta. Chúng không những báo động mà còn tăng quân cho Nghĩa Lộ, Sơn La. Do đó cần đề phòng địch phục kích ở rừng, ở gần các bản, đề phòng địch tổ chức một bộ phận đóng trong đồn, một bộ phận rút ra rừng quấy rối. Trên đường hành quân, nếu gặp địch ngăn chặn thì nhanh chóng bao vây tiêu diệt, mở đường cho đại quân tiến, kiên quyết thực hiện phương án tác chiến đã đề ra.

Ngày 30 tháng 9, trung đoàn 141 hành quân đến Nga Hai, gặp một trung đội địch đóng trên một quả đồi. Trung đoàn sử dụng đại đội 670 đánh địch. Sau 30 phút ta tiêu diệt được một tiểu đội, bắt sống 2 tên, số còn lại chạy về Nghĩa Lộ, ta thương vong 3 đồng chí.

Ngày 30 tháng 9 Nghĩa Lộ bị ta bao vây ba mặt. Cán bộ, chiến sĩ chờ lệnh nổ súng vào đồn Ca Vịnh. Ca Vịnh là một tiền đồn của địch, xây trên một quả đồi cao, bên cạnh đường âu Lâu đi Nghĩa Lộ, cách âu Lâu 20 ki-lô-mét. Xung quanh đồn là 3 hàng rào dây thép gai, trong đồn lực lượng địch có 135 tên gồm 15 lính Pháp, 2 trung đội dõng, 2 trung đội kho, do tên quan hai Rếch chỉ huy. Vũ khí trong đồn có 12 trung liên, 2 cối 60, 1 đại liên.

Đêm 30 tháng 9 năm 1951, trung đoàn 165 sử dụng tiểu đoàn 115 và một khẩu pháo 75 tiến công Ca Vịnh. Đây là trận đầu tiên trung đoàn 165 đánh công kiên nên rất tích cực chuẩn bị quyết tâm đánh thắng để xây dựng truyền thống cho đơn vị. Nhưng khi đi trinh sát, một số cán bộ trung đội và đại đội thấy đồn địch bố phòng sơ sài nên rất chủ quan. Tiểu đoàn dự định 22 giờ ngày 30 tháng 9 sẽ nổ súng, nhưng đồng chí dẫn đường đi lạc nên đến gần 3 giờ ngày hôm sau mới bố trí xong, đội hình không kịp đào công sự . Tiểu đội bộc phá của đại đội 501 bí mật tiến sát hàng rào. Tiểu đội trưởng bò lên quan sát và giao cho chiến sĩ Hoàng Đình Kỳ. đánh bộc phá mở đột phá khẩu. 5 giờ 30 phút, bộc phá nổ, địch mới biết ta tiến công. Lúc này bên mũi diện vẫn chưa phát hỏa. Địch tập trung hỏa lực uy hiếp đại đội 501. Do không đủ bộc phá để phá nốt hai hàng rào còn lại, Hoàng Đình Kỳ đề nghị với tổ trưởng cho lên cắt nốt hàng rào. Được lệnh, Kỳ cùng một tổ viên bò lên cắt đứt hai hàng rào cuối cùng. Xung kích xông lên chiếm giao thông hào, dùng lựu đạn diệt lô cốt địch, phát triển vào trong đồn. Chiến sĩ Trần Đình Khánh dẫn tổ phát triển nhanh, diệt hỏa điểm địch. Sau 30 phút chiến đấu, đại đội 501 đã chiếm được 3 phần 4 đồn. Địch rút xuống hầm ngầm cố thủ, chống cự mãnh liệt. Cán bộ, chiến sĩ đại đội 501 chưa có kinh nghiệm đánh hầm ngầm, gọi nhau to nên địch phát hiện dùng hỏa lực ngăn chặn làm nhiều chiến sĩ bị thương, hy sinh. Đến 5 giờ sáng thấy ta bắn thưa thớt (vì súng đã bắn hết đạn), địch nhảy khỏi hầm ném lựu đạn, đánh bật đại đội 501 ra ngoài. Đại đội 305 (thê đội 2) lên thay cũng bị địch đánh bật ra.

Trận đánh kéo dài đến chiều vẫn không dứt điểm, bị thương vong cao, nên tiểu đoàn phải rút ra ngoài tổ chức bao vây. Ngày 1 tháng 10 số địch sống sót trong đồn rút chạy về Ba Khe. Lực lượng ta kịp thời chặn đánh diệt 85 tên, bắt một thiếu úy Pháp.

23 giờ 30 đêm 1 tháng 10, tiểu đoàn 166 tấn công Bản Tủ, tiền đồn của Nghĩa Lộ. Lực lượng địch trong đồn có 120 tên, do một tên quan hai chỉ huy, vũ khí có 6 trung liên, 2 súng cối 60 ly.

Trong 10 phút đầu bị hỏa lực ta uy hiếp mạnh, địch chống cự yếu ớt. Sau 5 phút ta phá xong đột phá khẩu nhưng vẫn chưa vào được đồn. Lúc này đồng chí Trần Chí đại đội phó đại đội 606, một cán bộ chỉ huy gan dạ, mang bộc phá lên phá hàng rào thứ nhất. Đến hàng rào thứ hai thiếu bộc phá đồng chí cho liên lạc chạy xuống lấy bộc phá, còn mình nằm chờ ở hàng rào. Bộc phá đặt ở hàng rào cuối cùng không nổ, đồng chí Trần Chí kiên quyết giữ đúng kế hoạch, hạ lệnh cho xung kích phải tìm cách vượt rào và tự mình xông lên xé rào, vắt chăn cho xung kích vượt qua, dẫn đầu đơn vị đánh vào trong đồn. Quân địch dựa vào công sự chống cự quyết liệt Đồng chí Nguyễn Văn Tham dùng trung liên dập tắt hỏa điểm địch phía trước cửa mở, nhanh chóng chiếm chiến hào bắn yểm hộ cho xung kích. Đổng chí Lê Văn Mưu phụ trách tổ súng máy dũng mãnh thọc sâu vào nhà chỉ huy địch. Một số chiến sĩ thương vong vì mìn địch. Phát hiện quân ta đã vào trong đồn, địch chống cự lẻ tẻ và bắt đầu rút chạy về Nghĩa Lộ.

24 giờ 40 phút quân ta chiếm được đồn, địch bị diệt 12 tên, bị bắt 16 tên (trong đó có tên quan hai chỉ huy). Do ta bao vây kém nên phần lớn quân địch chạy thoát. Tiểu đoàn 166 hy sinh 9 đồng chí, bị thương 71 đồng chí.

Sau khi Bản Tủ bị tiêu diệt, đường vào Nghĩa Lộ đã mở, trung đoàn 141 tiến vào bao vây Nghĩa Lộ.

Trước năm 1945 đồn Nghĩa Lộ là một trại lính khố xanh và là một trại giam chính trị phạm. Khi quay trở lại xâm lược, quân đội Pháp xây Nghĩa Lộ thành một đồn (có đồn thấp và đồn cao) trên quả đồi ngay cạnh phố Nghĩa Lộ. Xung quanh đồn có một hàng rào tre, trong có hầm ngầm, ba lô cốt cao, hai lô cốt thấp. Bên ngoài các lô cốt có dây thép gai bao bọc. Lực lượng địch có 350 tên, do quan tư Gi-ra-din và quan ba Boi-lot chỉ huy. Vũ khí có ba súng cối, chín trung liên và một khẩu 12,7 ly.

Trung đoàn 141 giao cho tiểu đoàn 11 làm chủ công đánh Nghĩa Lộ. Tiểu đoàn 16 đánh mũi diện. Tiểu đoàn 428 kiềm chế Pú Chạng. Từ khu tập kết vào chiếm lĩnh trận địa đường rừng 3 ki-lô-mét. Để đảm bảo 22 giờ nổ súng, trung đoàn xuất kích lúc 16 giờ. Nhưng do dẫn đường sai, mũi chủ yếu đi theo đường của mũi kiềm chế Pú Chạng nên đến 3 giờ chiều ngày hôm sau (ngày 3 tháng 10) mới phát hiện bị lạc, phải quay lại đường cũ, gây tình trạng lộn xộn. Trong khi mũi chủ yếu bị lạc, mặc dù chưa có lệnh của trung đoàn, mũi thứ yếu đã dùng bộc phá đánh chiếm được đồn thấp. Địch chạy lên đồn cao đối phó.

Tiểu đoàn 11 đánh mũi chủ yếu bị lạc khi quay lại, bước vào chiến đấu rất cập rập. Tiểu đoàn mở được cửa nhưng xung kích không tiến lên được. Địch dựa vào hầm ngầm phản kích, đánh bật ta ra. Đại bác địch từ Pú Chạng bắn chặn, gây cho ta nhiều thương vong. Một số chiến sĩ ta nằm trong hàng rào không ra được đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Đêm hôm sau (4 tháng 10) ta tổ chức tiến công Nghĩa Lộ lần thứ hai. ở đây lực lượng địch đã tăng thêm hai đại đội vào Nghĩa Lộ. Khi hành quân vào chiếm lĩnh mũi chủ yếu lại bị lạc, mãi tới 2 giờ 30 phút sáng mới chiếm lĩnh xong. Trong khi đó mũi diện đã phá được bốn hàng rào và xông vào đồn. Quân địch rút xuống hầm ngầm, đốt nhà bên trên, lửa cháy sáng rực.

Mũi chủ yếu mở cửa xong phải vượt qua đường băng sân bay trong ánh lửa chiếu sáng mới tiến được vào trung tâm. Quân địch dùng hỏa lực cản ta quyết liệt. Nhiều chiến sĩ hy sinh anh dũng. Vũ khí kiềm chế chủ yếu của ta là mấy khẩu trung liên đều bị hỏng. Trời sáng rõ, ta phải rút ra ngoài.

Sau hai trận chiến đấu ta đã diệt 150 tên địch (có 1quan tư, 1 quan hai), bắt 19 tên (có 1 đội, 1 cai). Nhiều đồng chí cán bộ chiến sĩ trung đoàn 141 đã hy sinh và bị thương (hy sinh 118, bị thương 200) . Một số cán bộ, chiến sĩ hy sinh trong đồn không lấy ra được. Có hai chiến sĩ bị thương tự động bò ra ngoài nằm giấu trong lùm cây, đến tối tiếp tục bò về đơn vị. Có chiến sĩ lạc vào một bản được bà con cất giấu, săn sóc thuốc men, cơm nước đến tối đưa đến trạm quân y.

Trước sức tiến công của ta, địch rút bỏ các cứ điểm Ba Khe, Đông Bộ, Thượng Bằng La, Sài Lương, Gốc Báng, Cửa Nhì. Ta tiến vào khu mới giải phóng giúp dân đắp mương, làm nhà, xây dựng lại bàn làng, đồng thời tiếp tục bao vây chặt Nghĩa Lộ.

Quân địch tiếp tục thả dù tiếp tế; đồng thời thả hai tiểu đoàn dù xuống Gia Hội giải vây cho Nghĩa Lộ.

Bộ tư lệnh đại đoàn quyết định chuyển cách đánh: vây Nghĩa Lộ để đánh viện.

Những ngày đầu tháng 10 từ Gia Hội quân địch bắt đầu phản kích giải vây cho Nghĩa Lộ. Một cánh khác từ Gia Hội tiến ra Nậm Mười phá căn cứ hậu cần của đại đoàn. Tiểu đoàn 154 và tiểu đoàn 130 (trung đoàn 209) kịp thời xuất kích chia cắt, tiêu diệt hai đại đội địch.

Sau khi thả dù thêm tiểu đoàn 10 số quân của địch ở các nơi rút về Nghĩa Lộ lên tới gần 800 tên1. (Chú thích 1 Tổng cộng địch đã tăng cường cho phân khu Nghĩa Lộ 3 tiểu đoàn dù (8ÈBPC, 2ÈBPC và LOÈBPC)

Ngày 8 tháng 10, trung đoàn 141 khẩn trương chuẩn bị đánh quân nhảy dù từ Nghĩa Lộ có thể lên đón quân ở Gia Hội xuống. Trung đoàn 209 tiếp tục bao vây tiêu diệt tàn quân địch bị đánh ngày 7 tháng 10 còn tản mát trong rừng. Trung đoàn 165 tấn công Cửa Nhì. Trận đánh kéo dài suốt đêm đến 4 giờ 30 sáng ngày 9 ta vẫn chưa vào được đồn nên phải rút ra.

Đảng ủy đại đoàn nhận định, địch đã tăng cường lực lượng cố thủ Nghĩa Lộ, trong khi cán bộ chiến sĩ đại đoàn đã bị thương vong, tiếp tục đánh sẽ khó khăn nên quyết định rút lui để bảo tồn lực lượng. Ngày 11 tháng10 đại đoàn ra lệnh kết thúc chiến dịch, để tiểu đoàn 154 ở lại nghi binh bảo vệ việc đưa thương binh về tuyến sau. Trung đoàn 165 để lại 2 tiểu đoàn ở Ba Khe để phát triển du kích chiến tranh.

Trong chiến dịch Lý Thường Kiệt đại đoàn đã đánh 9 trận (l trận công kiên thắng lợi giòn giã, 1 trận công kiên kéo dài) 4 trận công kiên không dứt điểm (2 lần đánh Nghĩa Lộ, 2 lần đánh Cửa Nhì) và 3 trận vận động thắng lợi. Ta đã tiêu diệt 430 tên, làm bị thương gần 400 tên, bắt 200 tên (đa số là lính âu Phi). So với yêu cẩu tiêu diệt địch trong chiến dịch, đại đoàn hoàn thành nhiệm vụ nhưng thương vong tương đối cao: hy sinh 235, bị thương 538 đồng chí (có 417 bị thương nhẹ có thể về đơn vị ngay) . Đại đoàn đã diệt 2 đồn Bản Tủ và Ca Vịnh; bức rút 6 đồn (Sài Lương, Ba Khe, Gốc Báng, Thượng Bằng La, Đông Bộ, Đèo Pha, giải phóng một vùng rộng lớn từ Quang Huy lên tới Ca Vịnh, Ba Khe, Sài Lương, phát động chiến tranh du kích ở vùng Trạm Tấu, Ba Khe, Suối Giàng đến Gia Hội, gây ảnh hưởng chính trị lớn trong đồng bào các dân tộc.

Quá trình chiến dịch, Đại đoàn đã trang bị cho bộ đội địa phương Yên Bái, Sơn La 100 súng trường, 10 súng máy, 300 quả lựu đạn) 5 hòm mìn, v.v...

Kiểm điểm ưu khuyết điểm trong chiến dịch các đơn vị nhận thấy việc lộ bí mật đã ảnh hưởng lớn tới thắng lợi. Phát hiện ta mở chiến dịch, địch đã báo động cho lực lượng ở phân khu Nghĩa Lộ và Sơn La tăng cường công sự và cho quân ra ngăn chặn. Trong tình huống đó Đảng ủy đã nhận định đúng tình hình và tìm mọi cách để bảo đảm thắng lợi như chủ trương vượt sông cùng một lúc, chia làm nhiều đường nhanh chóng bao vây, bảo đảm bí mật thời gian nổ súng. Nhìn chung toàn chiến dịch thì lộ, nhưng đi vào các trận đánh ta vẫn giữ được bí mật. Việc chuyển hướng từ công kiên sang vận động tương đối kịp thời Quá trình chiến đấu gặp khó khăn, Đảng ủy chủ trương lui quân để bảo tồn lực lượng là phù hợp. Nhưng trong tư tưởng chỉ đạo có phần chủ quan, nhận định sẽ hoàn toàn giải phóng được Nghĩa Lộ nên công tác lãnh đạo chính trị, chuẩn bị vật chất đều theo hướng đó. Kế hoạch chuyển thương binh và tiếp tế cũng chuẩn bị theo đường Yên Bái nên khi đại bộ phận phải lui quân theo đường Khâu Vác thì công tác tiếp tế và vận chuyển thương binh gặp nhiều khó khăn. Sự lãnh đạo của Đảng ủy chưa quán triệt đấy đủ tinh thần lấy tiêu diệt binh lực địch là chính, còn nặng về giải phóng đất đai.

Qua chiến dịch Lý Thường Kiệt, sức chiến đấu của đại đoàn đã được nâng cao, nhất là đối với trung đoàn 165 mới về đội hình đại đoàn chưa quen đánh tập trung lớn. Các trung đoàn 141 và 209 tiếp tục được rèn luyện nâng cao trình độ tác chiến tập trung. Tinh thần chấp hành mệnh lệnh, kỷ luật tác chiến hiệp đồng, phối hợp giữa bộ binh và các binh chủng trong chiến đấu của các đơn vị được đề cao. Đối với Bộ tư lệnh đại đoàn, đây là lần đầu tiên được Bộ giao độc lập chỉ huy một chiến dịch. Những lúng túng trong điều động lực lượng, xử trí các tình huống, mới nảy sinh trong chiến dịch là những bài học quý để mỗi cán bộ nâng cao trình độ lãnh đạo chỉ huy đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Đầu tháng 12 năm 1951 khi đang huấn luyện bổ sung, cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 312 vô cùng xúc động nhận được thư Chủ tịch Hồ Chí Minh:

"Gửi toàn thể chiến sĩ và cán bộ đại đoàn 312.

Bác đã nhận báo cáo ( 1 - 1 1 - 1 9 5 1 ) của các chú về chiến dịch Lý Thường Kiệt..

Bác vui lòng vì kết quả khá, địch bị bắt, bị giết và bị thương 970 tên) . Nhất là vì các chú tiến bộ khá:

- Tinh thần chiến đấu cao

- Ý thức dân vận khá

- Đối với chiến lợi phẩm giữ vững kỷ luật.

- Kỹ thuật khá tiến bộ

- Nhận rõ khuyết điểm của mình (chủ quan, kém bí mật) điều tra địch tình kém, đối với thương binh tử sĩ kém.

Bác mong các chú thật thà tự kiểm thảo lại, kiểm thảo theo đúng dân chủ từ trên xuống và từ dưới lên để rút kinh nghiệm, để sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm. Như thế thì sau này các chú sẽ tiêu diệt sinh lực địch nhiều hơn nữa và lập được chiến công nhiều hơn, to hơn nữa.

Mong các chú gửi tên tuổi những cán bộ và chiến sĩ xuất sắc nhất cho Bác biết.

Chào thân ái và quyết thắng

Tháng 12 năm 1951

HỒ CHÍ MINH"1

(Chú thích 1 Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội,1986, t6, tr.148)

Những lời động viên, dạy bảo ân cần của Bác như tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ đại đoàn phấn khởi, tin tưởng bước vào chiến dịch mới.

Thu đông năm 1951, với viện binh từ Pháp sang2 (Chú thích 2. 12 tiểu đoàn bộ binh Âu Phi, 5 tiểu đoàn pháo, 1 trung đoàn cơ giới nhưng hồi hương 2 tiểu đoàn (6EBPC và 2e Tabor) nên thực tế tăng 10 tiểu đoàn.) và phát triển thêm quân ngụy3; (Chú thích 3. Tổ chức thêm 32 tiểu đoàn.) thực dân Pháp ra sức củng cố tuyến phòng ngự tiếp giáp với vùng tự do của ta từ Quảng Ninh qua Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc tới ngã ba Thá (Hà Đông). ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ; địch tập trung khối chủ lực mạnh (83 tiểu đoàn), trong đó có 41 tiểu đoàn cơ động, sẵn sàng đánh ra vùng tự do của ta4 .(Chú thích 4. Lực lượng địch trên toàn Đông Dương là 162 tiểu đoàn.) .

Đấu tháng 11 năm 1951 Tổng quân ủy họp nhận định: lực lượng địch ở chiến trường Bắc Bộ đã được tăng cường, hệ thống phòng ngự được củng cố vững chắc hơn trước, tinh thần binh lính chúng bị hoang mang sau chiến dịch Biên Giới đã ổn định. Về phía ta, các đại đoàn chủ lực đã được bổ sung đầy đủ quân số và trang bị, được huấn luyện tác chiến ở đồng bằng và ruộng nước. Khối chủ lực cơ động của ta gồm 6 đại đoàn bộ binh nhưng có 2 đại đoàn vẫn đảm nhiệm hoạt động ở địa phương nên lực lượng thực sự để mở chiến dịch chỉ có 3 đến 4 đại đoàn. ở địch hậu ta gặp nhiều khó khăn. Sau khi phân tích Tổng quân ủy nhận thấy thu đông 1951 - 1952 ta ít có khả năng tập trung lực lượng đánh lớn nên đề ra phương châm hoạt động là:

- Phân tán chủ lực, phối hợp mật thiết với địa phương, hoạt động trên nhiều chiến trường.

- Bộ đội chủ lực luân phiên tác chiến, lúc nào cũng có đơn vị chiến đấu, đơn vị huấn luyện.

- Phối hợp nội tuyến và ngoại tuyến. Chủ lực có bộ phận đánh ngoài, có bộ phận đánh trong địch hậu.

- Phương châm tác chiến là đánh điểm, diệt viện, chống càn quét, phối hợp giữa đánh điểm và diệt viện.

Để giành chủ động, Tổng quân ủy chủ trương mở chiến dịch ở hướng Liên khu 3 nhằm đẩy mạnh du kích chiến tranh và thăm dò đối phó của địch.

Trong lúc ta đang tiến hành một số hoạt động chuẩn bị ở chiến trường Liên khu 3 thì ngày 9 tháng 11 địch sử dụng 11 tiểu đoàn do Đờ Li na-rét - tư lệnh quân đội Pháp ở Bắc Bộ trực tiếp chỉ huy đánh chiếm Chợ Bến. Tiếp đó từ ngày 11 đến 14 tháng 11 địch tiếp tục mở cuộc hành quân "Hoa Sen" sử dụng 20 tiểu đoàn bộ binh, 8 tiểu đoàn dù, nhiều binh chủng phối thuộc đánh chiếm Hòa Bình.

Ngày 15 tháng 11, địch thực hiện được kế hoạch chiếm đóng các mục tiêu ở Hòa Bình và khu vực sông Đà Ba Vì. Để chiếm đóng lâu dài, địch thành lập 3 khu: Chợ Bến, thị xã Hoà Bình và đường số 6. Trong mỗi khu, địch thiết lập hệ thống công sự dã chiến có hào giao thông và hàng rào dây kẽm gai. Ở những vị trí quan trọng, địch tăng cường thêm xe tăng, xe thiết giáp; Tại Hà Nội, Đờ Lát đờ Tát -xi-nhi họp báo công khai tuyên bố y đã giành thắng lợi lớn ở Hòa bình.

Sau khi địch đánh ra Hòa Bình, Trung ương Đảng và Tổng quân ủy nhận định đây là cuộc tấn công đầu tiên của địch vào vùng tự do của ta sau hơn 1 năm bị động đối phó. Trước mắt, địch chiếm được một địa bàn quan trọng, cắt đứt giao thông của ta giữa Việt Bắc với Liên khu 3, nối liền Hà Nội với các vị trí cô lập ở TâyBắc, đặt lại ách thống trị ở Hòa Bình. Nhưng địch có nhiều khó khăn, do lực lượng bị phân tán trên một tuyến dài đột xuất, công sự không vững chắc, địa hình không thuận lợi cho việc sử dụng binh lực lớn, lực lượng ở vùng đồng bằng Bắc Bộ bị dàn mỏng nên sơ hở.

Về phía ta, địch chiếm Hòa Bình có gây cho ta những khó khăn về các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, nhưng đã tạo ra thời cơ để ta tiêu diệt sinh lực địch ở chính diện cũng như hậu địch. Căn cứ vào nhận định trên, Trung ương Đảng và Tổng quân ủy đề ra quyết tâm:

- Tranh thủ thời gian, nhân lúc địch chưa kịp củng cố tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tiến tới phá kế hoạch chiếm đóng mới của chúng.

- Lợi dụng sơ hở của địch, mạnh dạn đánh sâu vào hậu địch, đẩy mạnh chiến tranh du kích, phá âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" của địch.

Trung ương Đảng và Tổng quân ủy sử dụng 3 đại đoàn bộ binh, 27 khẩu pháo, 3 tiểu đoàn công binh đảm nhiệm đánh địch trên hướng chủ yếu. Mặt trận phối hợp và vùng sau lưng địch sử dụng 2 đại đoàn. Bộ đội địa phương và dân quân du kích thuộc các tiềnh đồng bằng đẩy mạnh hoạt động phối hợp.

Ngày 17 tháng 11, Bộ Tổng tham mưu tổ chức hội nghị giao nhiệm vụ sơ bộ cho 3 đại đoàn (312, 308, 316) và Liên khu Việt Bắc.

.

Đại đoàn 312 được Trung ương Đảng, Tổng quân ủygiao hoạt động trên hướng chủ yếu của chiến dịch, có nhiệm vụ đánh địch từ thị xã Hòa Bình tới Trung Hà trên cả 2 bên tả ngạn và hữu ngạn sông Đà. Mục tiêu chính là tiêu diệt các cứ điểm địch mới chiếm đóng và lực lượng cơ động vận chuyển đường bộ, đường thủy, lực lượng càn quét chung quanh các vị trí của địch, sẵn sàng phối hợp hoạt động với Đại đoàn 308 theo lệnh của Bộ.

Đại đoàn 304 đánh địch ở phía nam mặt trận, tiêu diệt các cao điểm và cắt đứt đường số 6.

Phạm vi hoạt động của chiến dịch chiều ngang từ Xuân Mai đến Hòa Bình khoảng 30 kĩ-lô-mét. Chiều dài từ Trung Hà đến Hòa Bình khoảng 40 ki-lô-mét. Ngày 18 tháng 11, Đảng ủy đại đoàn họp quán triệt nhiệm vụ, quyết định sử dụng binh lực, phổ biến nhiệm vụ đến cấp đại đội. Trước tình hình một số cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện mệt mỏi sau chiến dịch Lý Thường Kiệt muốn được nghỉ ngơi, Đảng ủy đại đoàn đã bàn biện pháp lãnh đạo động viên cán bộ chiến sĩ hăng hái nhận nhiệm vụ. Thấy rõ đây là thời cơ địch ra cho ta tiêu diệt nên những băn khoăn cho là địch mạnh, ta yếu, tân binh nhiều, v.v... dần dần được giải quyết. Tuy vậy lẻ tẻ các đơn vị vẫn còn hiện tượng thoái thác nhiệm vụ.

Ngày 24 tháng 11 năm 1951, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị về phá cuộc tấn công của địch ra Hòa Bình, nêu rõ: đây là cơ hội tốt để ta đánh địch trên mặt trận Hòa Bình, trên các mặt trận khác và sau lưng địch". Từ Liên khu 4 trở ra phải đẩy mạnh hoạt động nhằm phối hợp với mặt trận Hòa Bình.

Cùng ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các đơn vị: "Trước kia ta phải lừa địch ra mà đánh, nay địch tự ra cho ta đánh đó là một cơ hội tốt cho ta. Muốn đánh thắng thì ta phải tích cực chủ động, bí mật mau chóng kiên quyết, dẻo dai, chắc thắng mới đánh. Nhưng tuyệt đối chớ chủ quan khinh địch. Bộ đội chủ lực đánh. Bộ đội địa phương, dân quân du kích cũng đánh. Các lực lượng phải phối hợp với nhau chặt chẽ, để tiêu diệt sinh lực của địch, để đánh tan kế hoạch thu đông của chúng.. . "1 (Chú thích . 1 Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cán bộ, chiến sĩ bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích 11-1951. Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1994, t. 1, tr325. . .)

Thư của Bác tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ đại đoàn trên đường ra trận.

Trong khi các đơn vị của đại đoàn đang trên đường hành quân đến Phục Cổ thì được tin tiểu đoàn ngụy Thái số 3 từ Quang Huy xuống Thu Cúc - Lai Đông càn quét thăm dò lực lượng ta. Chúng đốt 98 nóc nhà, giết 21 người và bắt nhiều trâu bò. Những cánh đồng lớn ở Thu Cúc bị địch ném bom đốt cháy hết. ở Lai Đồng bộ đội ta đã gặt giúp dân được 2 phần 3 diện tích, số thóc gặt được đem cất giấu cũng bị chúng sục sạo đốt sạch. Nhân dân ở Thu Cúc - Lai Đồng không còn hạt gạo nào. .

Đảng ủy đại đoàn họp ở Phục Cổ nhận định: địch càn quét Thu Cúc - Lai Đổng là thời cơ tốt để ta tiêu diệt sinh lực của chúng, giành thắng lợi đầu tiên khích lệ toàn mặt trận. Đại đoàn đề nghị Tổng quân ủy và Bộ cho đánh. Được Bộ chuẩn y, Đại đoàn sử dụng 2 tiểu đoàn của trung đoàn 165 và tiểu đoàn 11 trung đoàn l4l tiêu diệt tiểu đoàn Thái của địch. Ngày 25 tháng 11 các đơn vị hình thành thế bao vây quân địch ở Thu Cúc - Lai Đổng. Trong 2 ngày 25 và 26 tháng 11 ta đánh 2 trận tiêu diệt 3 đại đội địch. Địch phải thả dù xuống làng Chiết (Quang Huy) để đón tàn binh chạy về Quang Huy. Trận này ta tiêu diệt được 521 tên, 80 tên chạy thoát. Rút kinh nghiệm trong trận này tác phong chiến đấu của lực lượng ta còn chậm (đáng lẽ đánh đêm 24 nhưng đến đêm 25 mới bắt đầu nổ súng) tiêu diệt địch không gọn, công tác thương binh tử sĩ chưa được chu đáo.. . Mặc dù còn thiếu sót, thắng lợi ban đầu đã cổ vũ bộ đội nhất là các đơn vi có nhiều tân binh lần đầu ra trận .

Sau khi chiếm Chợ Bến, Hòa Bình các binh đoàn cơ động của địch theo đường 87, 89 từ Sơn Tây đến Trung Hà củng cố các vị trí đã chiếm dọc hai bên sông Đà. Trong khoảng 15 ngày, địch đã xây dựng và củng cố được các vị trí phòng thủ Ô La Phù, Đan Thê, Đá Chông, Thủ Pháp, Che, Tu Vũ... hình thành tuyến phòng thủ dài 40 ki-lô-mét từ Trung Hà đến Hòa Bình.

Khu vực thị xã Hòa Bình và đường số 6 địch có 7 tiểu đoàn chiếm đóng, 3 đại đội pháo binh do đại tá Cờ lê măng (Cléments) chỉ huy.

Khu sông Đà có 2 tiểu đoàn âu Phi, 3 tiểu đoàn cơ động, 3 đại đội pháo binh, 1 trung đội xe tăng do đại tá Đô-đờ Li-ê (Do de Lier) chỉ huy. Địch bố trí 2 cụm phòng ngự then chốt là La Phù - Đan Thê; Tu Vũ -Che. Mỗi cụm do 1 tiểu đoàn âu Phi phòng ngự. Khu sông Đà là hệ thống vòng ngoài, bảo vệ đường sông (đường tiếp tế chính của địch lên Hòa Bình) .

Trong cuộc họp bàn kế hoạch tác chiến ngày 1 tháng 12 năm 1951 khi phân tích tình hình địch, Tổng quân ủy nhận thấy muốn triệt tiếp tế của địch và thọc sâu vào đội hình của chúng, ta phải đánh khu sông Đà trước.

Sau khi thảo luận dân chủ, Tổng quân ủy đề ra phương châm "đánh điểm, diệt viện" và nêu quyết tâm: tập trung lực lượng tiêu diệt địch ở Tu Vũ, Che, đồng thời đánh viện trên sông, trên bộ. Nếu địch đóng lại Tu Vũ thì đánh lần nữa, đưa thêm lực lượng sang hữu ngạn để tùy thời cờ phát triển; kết hợp hoạt động của chủ lực với phát triển du kích chiến tranh trên khắp các chiến trường kể cả Sơn Tây và Hoà Bình.

Đại đoàn 312 được giao nhiệm vụ: diệt vị trí Che, đánh viện ở nam Ba Vì, đánh đường 87, đánh địch trên sông quãng Lạc Song và đánh địch càn quét ở phía bắc thị xã.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Bộ, hai tiểu đoàn 428 và 115 do đồng chí Lê Thùy, trung đoàn trưởng trung đoàn 165 và đồng chí Mạc Ninh, chính ủy trung đoàn 141 chỉ huy có nhiệm vụ luồn vào vùng Ba Trại hoạt động trên đường 87 và phía bắc Ba Vì để đánh cơ giới, phá cầu tiêu diệt sinh lực địch, ngăn chặn những cuộc hành quân của chúng từ Sơn Tây ra tiếp ứng cho Che và Tu Vũ, đồng thời tiêu hao địch ở Đan Thê.

Trung đoàn 209 được tăng cường tiểu đoàn 11 trung đoàn 14 1, tiểu đoàn 561 trung đoàn 165 được phối thuộc 3 khẩu pháo 75 ly, 1 khẩu 70 ly có nhiệm vụ tiêu diệt địch ở núi Che và diệt viện địch ở nam Ba Vì.

Tiểu đoàn 16 trung đoàn 141 được phối thuộc 4 khẩu 75, 2 khẩu ĐKZ 57 phục kích trên sông từ Đoan Hạ đi Tu Vũ.

Để chuẩn bị tấn công Che, đêm 8 tháng 12 đồng chí Nguyễn Bàng - trung đoàn trưởng trung đoàn 209 cùng đồng chí Nguyễn Tâm - tham mưu trưởng, một số cán bộ và đội trinh sát đi điều tra tình hình địch. Khi rút ra bị địch phục kích, đồng chí Bàng, đổng chí Tâm và một đồng chí đại đội trưởng bộ đội địa phương hy sinh. Đồng chí Hoàng Cầm - trung đoàn phó được chỉ định thay đồng chí Bàng làm trung đoàn trưởng trung đoàn 209.

Trung đoàn 209 dự định đêm 8 tháng 12 vượt sông, do thiếu thuyền nên hết đêm mùng 9 trung đoàn mới bí mật qua Bến Mai, sang tập kết ở vùng Trại Khoai, Bãi Vàng, không liên lạc được với 2 tiểu đoàn tăng cường (tiểu đoàn 11 và tiểu đoàn 564). Công tác chuẩn bị vượt sông vào vùng địch kiểm soát của trung đoàn 209 khá chu đáo. Mọi người đều tháo hết giày, dép khi qua bãi cát, không nói to, không hút thuốc, và luôn đề phòng gặp địch tuần tiễu trên sông. Những cành cây bị gập xuống trên lối đi phải cho người sửa lại để che mắt địch

Khi trung đoàn sang được sông Đà, tình hình địch đã có thay đổi, vị trí Che được tăng cường thêm 1 tiểu đoàn. Địch đang mở chiến dịch "Jasmin" càn quét khu Ninh Mít - Đồng Song phá phách, cướp bóc, triệt hạ cơ sở của ta, bảo đảm an toàn cho núi Che.

Do thời gian gấp, nhiều việc chuẩn bị chưa kịp và do lực lượng địch đã thay đổi nên Đảng ủy đại đoàn chủ trương vận động phục kích diệt tiểu đoàn đang càn quét ở Ninh Mít trước, dùng hỏa lực kiềm chế uy hiếp Che để hiệp đồng với đơn vị bạn đánh Tu Vũ.

Xóm Ninh Mít ở tây nam chân núi Ba Vì, xung quanh là đổi núi cây cối rậm rạp. Phía tây nam xóm Ninh Mít có tỉnh lộ đi lên Che về Đá Chông, và con đường ra xóm Sui.

Nhân dân ở đây, đa số là người Mường. Từ khi chiếm đóng Chẹt pháo địch thường xuyên bắn vào làng và nhiều lần càn quét nên nhân dân đã tản cư vào chân núi Ba Vì, chỉ còn du kích ở lại hoạt động. Khi bộ đội đến, du kích đã giúp đỡ dẫn đường và thông báo tình hình hoạt động của địch.

Trung đoàn 209 điều đại đội 612 hoạt động xung quanh thị xã Hòa Bình, lực lượng còn lại tổ chức thành 2 tiểu đoàn (154 và 166) , một đại đội cối 82 ly có 4 khẩu (đại đội này còn trên đường hành quân không kịp tham gia chiến đấu) có nhiệm vụ đánh Ninh Mít.

Thời gian này số tân binh (chiếm tới 30 phần trăm số quân của trung đoàn) đang trong thời kỳ huấn luyện chiến thuật kỹ thuật cá nhân và phân đội, địa hình chưa nắm vững, v.v.

6 giờ ngày 10 tháng 12, trung đoàn 209 hoàn thành công tác chuẩn bị chiến đấu. 7 giờ 30 phút một tiểu đoàn địch từ Núi Chẹ theo đường làng tiến vào Ninh Mít.

Lệnh của Đại đoàn trưởng chờ cho địch lọt hẳn vào trận địa mới nổ súng. Vào lúc 9 giờ, hai đại đội lọt vào trận địa của tiểu đoàn 130 chúng đi thẳng vào hướng ta bố trí 4 khẩu đại liên. Chờ cho địch vào thật gần ta mới đồng loạt nổ súng. Đội hình địch bị xé nát, nhiều tên chết tại chỗ. Chớp thời cơ, đại đội 366, 363 lập tức xung phong đánh giáp lá cà. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt khi các đại đội phía sau của địch chiến được thế cao bắt đầu tổ chức phản kích. Ta và địch giành nhau từng ngõ xóm, từng bờ ruộng. Chiến sĩ mới Lê Đông bắn hết đạn dùng lê đâm chết 2 tên lính Pháp. Chính trị viên đại đội 369 bị thương lần thứ 2 vẫn bám sát động viên bộ đội chiến đấu. Mặc cho pháo địch ở Đá Chông, Che bắn dồn dập chặn đường, sau khi chiến đấu với địch ở phía đường cái các đơn vị của trung đoàn đã vượt qua hàng rào hỏa lực tiếp sức cho tiểu đoàn 130. Các cánh quân địch bị bao vây, chia cắt, tiêu diệt, nhiều tên đầu hàng, một số mở đường máu tháo chạy về Chẹ.

Địch cho phi cơ và pháo tiếp tục bắn phá ngăn cản ta củng cố công sự, đồng thời điều lực lượng ở phía sau lên. 16 giờ địch cho 2 xe tăng, 2 xe bọc thép và 1 đại đội bộ binh đánh vào trận địa ta. Bị ta đánh trà quyết liệt đến 17 giờ địch phải rút về Che.

Sau một ngày quần nhau liên tục với địch, dưới hỏa lực phi pháo ác liệt, các chiến sĩ trung đoàn 209 đã diệt và bắt 305 tên (có 200 tên chết), thu 10 trung liên, 18 tiểu liên, 31 súng trường và nhiều đạn dược, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Tuy bị thiệt hại nặng nhưng ngày hôm sau địch vẫn ra lệnh cho GM4 từ Sơn Tây đánh ra Ninh Mít. Một tiểu đoàn địch đánh vào điểm cao 306, nơi tiểu đoàn 564 bố trí. Thấy quân địch đông, đồng chí Lê Kỳ chỉ huy tiểu đoàn có biểu hiện do dự không tổ chức cho bộ đội chặn đánh. Việc tổ chức của đại đoàn cũng có thiếu sót nên địch lọt vào trận địa pháo và cơ quan trung đoàn bộ. Đồng chí chính ủy chủ nhiệm chính trị và cán bộ nhân viên cơ quan cùng trung đội bảo vệ chiến đấu chặn địch, trong khi đó thương binh của ta ở khu tập kết chưa được chuyển về hậu phương. Khi địch sục đến, anh em bị thương đã chiến đấu và hy sinh rất anh dũng.

Trận vận động Ninh Mít là trận thắng đầu tiên trên mặt trận sông Đà. Chiến tháng Ninh Mít đã cổ vũ, khích lệ toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong đại đoàn và các đơn vị tham gia chiến dịch.

Chuyển từ công kiên Che sang đánh vận động Ninh Mít là một thành công về xử lý tình huống của đại đoàn. Công tác lãnh đạo tư tưởng trước trận đánh cho cán bộ chiến sĩ chu đáo vào trận với quyết tâm cao, mọi kế hoạch chuyển hướng chiến đấu được tổ chức nhanh, kịp thời.

Sau trận đánh công tác thu dọn chiến trường không gọn, thiếu kế hoạch chu đáo nên giải quyết không gọn. Sau trận Ninh Mít, công tác lãnh đạo có phần chủ quan nên tổ chức lực lượng chặn viện có nhiều sơ hở.

*

* *

Cùng thời gian trung đoàn 209 đánh Ninh Mít, tiểu đoàn 16 trung đoàn 141) được phối thuộc 3 khẩu pháo75 ly, 1 khẩu 70 ly phục kích bắn ca nô địch trên sông Đà (lúc này Đại đoàn 308 đã tiêu diệt Tu Vũ) nhằm cắt đứt liên lạc bằng đường thủy của địch lên thị xã Hòa Bình.

Sáng 11 tháng 12 tiểu đoàn 16 phục kích đoàn ca nô địch từ Trung Hà về Tu Vũ . Một số tên địch bị thương ngã xuống sông. Nhưng ca nô địch chạy thoát về Hòa Bình. Sau khi gọi phi pháo bắn phá trận địa tiểu đoàn 16, địch chủ quan cho rằng ta không dám bố trí ở đó nên đến 3 giờ chiều chúng lại cho ca nô từ Hòa Bình xuôi. Lần này ta để ca nô địch lọt vào trận địa mới bắn, 2 chiếc bị thương bỏ chạy, 1 chiếc ca nô vào bờ xin hàng.

Đêm 11 tiểu đoàn 16 rút vào trong 500 mét phục kích bộ binh địch. Sáng 12, hai đại đội địch từ Hòa Bình tấn công xuống, ta để địch lọt hết vào trận địa mới nổ súng, diệt một số tên. Số còn lại bỏ chạy tán loạn. Hai đại đội 18 và 20 (tiểu đoàn l6) tổ chức truy kích. Trận này ta diệt 23 tên bắt 14 tên.

Trên hướng luồn sâu trong hai đêm 7 và 8 tháng 12 tiểu đoàn 428 và 115 sang sông bằng thuyền nan, tập kết tại vùng Ba Trại, phục kích trên đường 87, chặn đường tiếp tế lương thực và cơ động của địch ơ Sơn Tây ra tiếp ứng cho phòng tuyến sông Đà. Vùng này nhiều rừng rậm và đồi thông rất tiện lợi cho việc giữ bí mật. Đêm 10 tháng 12, trong lúc trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) tiến công Tu Vũ, trung đội công binh dùng mìn phá một số cầu trên đường 87. Phán đoán thế nào địch cũng phải đem quân ra chữa cầu để viện binh hành quân nhanh chóng, hai tiểu đoàn 428 và 115 phục kích hai bên đường 87 (đoạn trung Thượng - Trạm Giá). Sáng ngày 12 địch cho một đại đội công binh có một trung đội cơ giới yểm hộ ra chữa cầu, do địch phân tán thành từng bộ phận nhỏ để sửa cầu nên nếu đánh ngay, sẽ tiêu diệt không gọn. Mặt khác khu vực bố trí gần vị trí địch, nếu tiến công buổi sáng có thể bị phi pháo và, súng cối sát thương nên ta chủ trương giữ bí mật bám sát địch khi nào chúng rút quân sẽ xuất kích tiêu diệt. Hai tiểu đoàn bố trí cách đường khoảng 300 mét, nhìn thấy địch đi lại, nghe tiếng chúng nói, nhưng do công tác ngụy trang. chấp hành kỷ luật chiến trường của bộ đội nghiêm nên suốt hơn 8 tiếng phục kích vẫn giữ được bí mật trận địa.

4 giờ chiều: một đại đội dù ở Sơn Tây ra yểm hộ cho bộ phận sửa cầu rút về. Chúng chủ quan không đề phòng gì. Chờ địch lọt hết vào trận địa hai tiểu đoàn 428 và 115 nhanh chóng xuất kích, phát huy hỏa lực diệt địch, làm cho chúng bị choáng váng không kịp đối phó Một số tên bị chết ngay từ loạt đạn đầu, số còn lại bỏ chạy thục mạng, ta truy kích diệt gần hết. Chỉ trong vòng 20 phút, hai đại đội và một trung đội cơ giới địch bị tiêu diệt gọn. Phi pháo của địch không kịp phản ứng, ta đã nhanh chóng rút vào chân núi Ba Vì an toàn.

Sau trận ngày 12 tháng 12, hai tiểu đoàn 428 và 115 vẫn tiếp tục hoạt động ở chân núi Ba Vì, Ba Trại, đường 87. Nhiều trận chiến đấu diễn ra liên tiếp, đặc biệt có trận phòng ngự của đại đội 58 ở chân núi BaVì đánh tan các đợt phản kích của một tiểu đoàn địch giữ vững trận địa. Chiến đấu sau hậu địch, đại đoàn phải chuyển thương binh qua sông Đà về vùng tự do. Trong nhiệm vụ vận chuyển thương binh anh chị em dân công, nhân dân địa phương đã khắc phục nhiều khó khăn gian khổ tìm mọi cách che giấu thương binh để chuyển qua vùng kiểm soát của địch ra hậu cứ an toàn. Trong khó khăn gian khổ, tình quân dân càng keo sơn gắn bó. Ngày 14 tháng 12, sau 4 ngày hoạt động, Tổng quân ủy nhận định: phía nam Ba Vì ta còn điều kiện diệt địch, nhưng có bộ phận bộ đội đã mệt mỏi. Theo chỉ thị của Bộ, Đại đoàn điều tiểu đoàn 16 trung đoàn 141 sang hữu ngạn sông Đà cùng hai tiểu đoàn 11 và 564, giấu quân vùng ở Giốc Bót, Giáp Thượng dụ địch ra càn quét tạo điêu kiện tiêu diệt sinh lực địch; điều trung đoàn 209 về tà ngạn sông Đà vừa củng cố tổ ehức, bổ sung quân số vừa sẵn sàng chiến đấu theo phương án mới. Ngày 17 tháng 12 năm 1951 các đơn vị sơ kết đợt 1 chiến dịch Hòa Bình. Tổng quân ủy nhận định: "Địch bị thất bại lớn về quân sự và chính trị, trong một thời gian ngắn chúng bị diệt 23 đại đội... Những trận thắng vừa qua đã giải quyết được nhiều vấn đề về chiến thuật.. . Bộ đội ta có thể đi sâu vào địch hậu nhưng vừa qua chưa có trận nào tiêu diệt gọn ghẽ. Ta còn bỏ lỡ nhiều cơ hội tiêu diệt đích trong vận động1 (Chú thích 1 Xem Lịch sử (Bộ Tổng tham mưu, Sđd, xuất bản năm 1991, tr. 538.).

Cùng với nhiệm vụ chiến đấu trong đợt 1 chiến dịch.Đại đoàn 312 đã cử một số đơn vị của trung đoàn 141 bảo vệ mùa màng ở Tam Nông, chuẩn bị công kiên La Phù và Tu Vũ (sau có lệnh thôi hoạt động), phối hợp với huyện Mai Đà đẩy mạnh hoạt động xung quanh thị xã Hòa Bình; trung đoàn 209 chuẩn bị đánh Che, đánh vận động ở Ninh Mít một số tiểu đoàn của trung đoàn 165 và 141 đánh phục kích trên đường 87, v . v . ..

Đại đoàn đã tiêu diệt 2 đại đội, 2 trung đội của tiểu đoàn 1 (1è BẹP) và 187 tên của binh đoàn cơ động số 4 (GM4.) 2 đại đội của tiểu đoàn 5 (5ÈBPC), tiểu đoàn Thái số 3 (chạy thoát 80 tên) hoàn thành nhiệm vụ được giao. Sau đợt 1, tinh thần bộ đội phấn khởi, cán bộ, cựu binh tin tưởng tân binh. Cán đơn vị đều khẩn trương chấn chỉnh tổ chức. Trung đoàn 209 quân số đầy đủ. Trung đoàn 141 ốm nhiều do tác chiến liên miên, việc bổ sung tân binh của trên cho trung đoàn chậm, cán bộ chiến sĩ mệt mỏi . Trung đoàn 165 chấn chỉnh xong tiếp tục huấn luyện tân binh để có thể chiến đấu được ngay. Bên cạnh những tiến bộ, các đơn vị còn có biểu hiện tự mãn sau chiến thắng (ở trung đoàn 209), thiếu tôn trọng cán bộ mới đề bạt, coi thường tân binh, khi huấn luyện tân binh có cán bộ còn quan liêu, quân phiệt. Trung đoàn 165 chủ quan để xảy ra 3 vụ địch ném bom vào khu vực trú quân gây thiệt hại. Tư tưởng dao động xuất hiện trong một số tân binh và lẻ tẻ ở cả cán bộ và cựu binh. ở trung đoàn 141 số đào ngũ lên tới 70 người. Một số cán bộ (tiểu đoàn 564 và trung đoàn 165) bị kỷ luật trong trận đánh ở điểm cao 306 ảnh hưởng đến tinh thần bộ đội. Sự tổn thất về tinh tờân đôi khi còn nặng hơn tổn thất về thương vong

Xây dựng đội ngũ cán bộ có ý chí, bản lĩnh chiến đấu vững vàng, sắp xếp bố trí cán bộ lãnh đạo chỉ huy đã qua rèn luyện thử thách trong chiến đấu là bài học sâu sắc đối với đại đoàn trong đợt hoạt động này. Sau đợt 1 chiến dịch, địch tăng cường củng cố công sự dùng phi pháo oanh tạc những nơi nghi ngờ có quân ta. Trên đường số 6, địch chú ý phòng ngự hơn trước. Tiểu đoàn cơ giới kỵ mã số 8 được phân tán để tăng lực lượng cho những vị trí quan trọng. ở đồng bằng Bắc Bộ do hoạt động mạnh của ta, quân địch rất hoang mang, lúng túng. Chiến thắng của ta ở Tu Vũ, Ba Vì, đường số 6 trực tiếp ảnh hưởng đến kế hoạch chiếm đóng Hòa Bình, những thắng lợi của ta ở vùng địch hậu làm hậu phương địch thêm rối loạn.

Tổng quân ủy nhận định: địch có thể đưa quân ở các chiến trường khác ra để đối phó với ta, âm mưu của chúng là củng cố các vị trí chiếm đóng. Chúng có thể chiếm lại Tu Vũ để giữ vững phòng tuyến Hòa Bình -sông Đà. Phát huy thắng lợi đợt 1, trong đợt 2 Tổng quân ủy chủ trương: "Tranh thủ tiêu diệt thêm sinh lực địch trong khu cơ động Ba Vì, đường số 6, bắc thị xã Hòa Bình. Chuẩn bị có thể đánh điểm diệt viện trong khu vực Đá Chông, Che và tiếp tục kiềm chế lực lượng của chúng để các hướng và vùng địch hậu có thể phát triển thuận lợi1 (Chú thích 1. Lịch sử Bộ Tổng tham mưu xuất bản năm 1991, tr. 538.) Mặt trận Hòa Bình lấy Ba Vì và sông Đà làm hướng hoạt động chính. Phương châm tác chiến vẫn là diệt điểm, đánh viện, kiềm chế và diệt pháo địch. Trong đợt 2 chiến dịch Đại đoàn 312 được phối thuộc trung đoàn 66 (Đại đoàn 304 hoạt động trên hướng chủ yếu của chiến dịch. Trung đoàn 141 có 2 tiểu đoàn phối thuộc chuẩn bị đánh cao điểm 600, 400 và đánh víện sau đó chuẩn bị đánh Thủ Pháp. Trung đoàn 66 đánh núi Che. Trung đoàn 209 tiếp tục chấn chỉnh ở vị trí cũ, sẵn sàng chiến đấu. hai tiểu đoàn 428 và 115 phối hợp với đại đội bộ đội địa phương Sơn Tây đánh địch vận chuyển trên đường 87. Theo lệnh của Bộ, Đại đoàn phối thuộc 2 tiểu đoàn cho Đại đoàn 308 đánh địch ở khu vực Đá Chông và đánh viện trên sông Đà.

Núi Ba Vì cao hơn 1000 mét, nằm bên tả ngạn sông Đà phía tây bắc Sơn Tây. Dưới chân núi có đường 87 từ Sơn Tay đi Đá Chông, Che- Núi Ba Vì có vị trí rất quan trọng trên tuyến phòng ngự sông Đà của địeh. Hai đại đội địch chiếm đóng vị trí này. Điểm cao 600 rất. lợi hại. Chiếm được điểm cao này địch có thể kiểm soát vùng Sơn Tây - Cỏ Đắng - Trung Hà - Ba Trại - Đá Chông - Tu Vũ - Chè - đường 87và sông Đà, chỉ điểm cho pháo binh bắn phá nếu phát hiện được ta. Quyết tâm của Tổng quân ủy là tiêu diệt vị trí 600, phá âm mưu dùng điểm cao 600 để kiểm soát phòng tuyến sông Đà và phía bắc Ba Vì của địch.

Đồng chí Hoàng Sâm được Bộ Tổng tư lệnh cử làm phái viên giúp đại đoàn trong đợt 2 chiến dịch. Đồng chí Hoàng Sâm, đồng chí Nam Long và một đoàn cán bộ trực tiếp đi điều tra cao điểm 600. Khó khăn lớn là địa hình núi cao hiểm trở, đường độc đạo, khó nắm tình hình địch. Tối 28 tháng 12 quân báo của ta nhận được 2 hàng binh ở điểm cao 600 ra. Qua khai thác ta phát hiện địch không có hàng rào thép gai, công sự chưa kiên cố Sau khi điều tra thêm Đảng ủy trung đoàn họp nêu quyết tâm chiến đấu tiêu diệt điểm cao 600 và đánh theo phương pháp tập kích. Sau đó, cán bộ toàn trung đoàn gồm cả cán bộ trung đội, đại đội và tiểu đôi đi nghiên cứu, thống nhất cách đánh là tiếp cận gần địch, giữ bí mật. Nhưng khi triển khai, các đơn vị gặp nhiều khó khăn về địa hình bố trí binh lực và tổ chức trận địa đặt pháo 75, cối 81. Con đường ô tô chạy qua mỏm 400 lên mỏm 600 địch cảnh giới rất ngặt, không thể cùng một lúc đánh cả 2 đồn mà phải đánh đồn thấp xong mới đánh đồn cao. Để bảo đảm chắc thắng, Đảng ủy đại đoàn đã bàn những công việc thật cụ thể: dùng các đại đội 241, 243, 245, 16, 20 tổ chức thành hai bộ phận trang bị nhẹ, chủ yếu là tiểu liên lựu đạn. Cách vượt vách đứng mang giày dép để áp sát một cách bí mật, v.v...

Chiều 29 tháng 12, ờ khu rừng bắc Ba Vì, các chi bộ, chi ủy, hội đồng quân nhân đều họp để bàn kế hoạch thi đua hoàn thành nhiệm vụ. Nhận thấy việc tải thương rất khó khăn vì điều kiện địa hình và pháo binh địch, trung đoàn đặt kế hoạch cụ thể về lấy thương binh, tử sĩ trên từng mũi, hướng.

Vào lúc 23 giờ 15 phút ngày 29 tháng 12, toàn tiểu đoàn 11 đã vào sát hàng rào đồn địch ở điểm cao 400. Khi bắt đầu công kích, đại đội 243 xung phong đạp đổ hàng rào tre qua đột phá khẩu, địch trong đồn chưa kịp đối phó đại đội 243 đã thọc sâu vào giữa đồn, phát triển sang bên trái; đại đội 241 nhảy qua hàng rào thọc vào diệt khẩu ĐKZ 57 và các ụ trung liên, đồng thời phát triển sang trái bắt liên lạc với đại đội 243 và 245, tiếp tục tiêu diệt các hỏa điểm còn lại.

Mất chỉ huy sở, binh lính địch hoang mang, một số ra hàng, một số lẩn trốn vào các ngách hầm.

Sau 30 phút chiến đấu ta hoàn toàn làm chủ đồn dưới và để lại một trung đội chiếm giữ các đơn vị tiếp tục đánh lên đồn cao.

Trong khi các đại đội 241, 243, 245 đánh đồn dưới thì đại đội 19 và 20 theo đường ô tô tiến lên đồn cao. Trong đêm tối, các đơn vị vừa đi, vừa quan sát nên tiến chậm, đến 2 giờ 30 phút sáng 30 tháng 12 mới bố trí xong và bắt đầu nổ súng. Đồn cao ở mỏm 600 không có hàng rào, địch dựa vào bức tường đá cao 2 mét xung quanh đồn để phòng ngự. Chúng ném lựu đạn, bắn tiểu liên xuống đường cái nơi ta bố trí. Khi công kiên đại đội 20 bắc thang trèo lên đồn bị chúng dùng hỏa lực, lựu đạn chống cự nên không vào được. Đại đội 19 tiến theo phía cổng đồn cũng bị đánh bật ra, phải dừng lại ở chân tường, bị địch ném lựu đạn xuống làm một số chiến sĩ thương vong. Đại đội 245 được lệnh tiếp ứng công kích. Đại đội 20 xung phong lần thứ ba mà vẫn không vào được đồn. Pháo địch ở Đá Chông, Sơn Tây bắn lên từng đợt quanh đồn rất dữ dội.

Trước tình hình giằng co chỉ huy trung đoàn 141 ra lệnh củng cố đơn vị, kiên quyết tiêu diệt vị trí 600 trước khi trời sáng.

Sau khi củng cố, các đơn vị tranh thủ bất ngờ, tiến công mãnh liệt vào nơi địch sơ hở, cách cổng chính 20 mét. Nơi này dốc dựng thành vại, đại đội 19 dùng thang và công kênh nhau trèo lên mặt tường. Tất cả tiểu liên, trung liên, lựu đạn phát huy mãnh liệt. Tiểu đội trưởng xung kích Phạm Văn Ngôn dẫn đầu tiểu đội trèo thang nhảy vào đồn, dùng lựu đạn, tiểu liên quét địch. Quân ta chiếm được đầu cầu, địch tập trung hỏa lực ngăn chặn nhưng bị trung liên ta dập tắt. Theo sau tiểu đội xung kích, các đại đội 19, 241 lần l¬ượt trèo lên đồn và phát triển sâu vào tung thâm. Đại đội 245 cũng vào được đồn, cả hai mũi nhanh chóng phát triển diệt các hỏa điểm và diệt bọn địch lẩn trốn trong hầm ngầm. khi trời sáng vẫn còn địch trong hầm ngầm chống cự Đồng chí Lê Văn Tỷ đặt súng máy ở cửa hầm bắn uy hiếp rồi gọi 40 tên lê dương ra hàng.

Chiến thắng ở điểm cao 600 - Ba Vì làm rung chuyển phòng tuyến sông Đà. Mất đường tiếp tế, mất chỗ dựa kiên cố, địch phải rút các vị trí Che. Đá Chông, Mỹ Khê.

Trận này ta diệt 120 tên (70 lính âu Phi, 50 lính ngụy, địch bị thương 32 tên, bị bắt 136 tên (53 lính âu Phi, 83 lính ngụy). Ta hy sinh 15, bị thương 90 cán bộ chiến sĩ.

Ngày 30 tháng 12, địch cho một trung đoàn và 3 tiểu đoàn dù lên chiếm lại điểm cao 400 và 600. Tiểu đoàn 564 và 542 phối thuộc với trung đoàn 141 đánh viện, nhưng do bố trí xa, không cơ động kịp nên bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt địch.

Đợt 2 chiến dịch kết thúc thắng lợi. Cán bộ, chiến sĩ toàn đại đoàn phấn khởi, tin tưởng. Nhưng qua một thờigian chiến đấu liên tục, dài ngày, có biểu hiện mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi.

Sang đợt 3 Tổng quân ủy chủ trương chuyển lực lượng xuống hoạt động, ở phía nam Hòa Bình và đường số 6, tranh thủ lúc địch còn sơ hở, tiêu diệt thêm sinh lực địch.

Đại đoàn 312 được Bộ giao nhiệm vụ hoạt động từ khu vực núi Che trở lên, đánh địch từ Pheo đến Đồng Bến.

Ngày 8 tháng 1 năm 1952 địch bắt đầu rút khỏi khu vực sông Đà, Ba Vì, và có nhiều triệu chứng địch muốn rút Hòa Bình. Tổng quân ủy chủ trương tiếp tục tiêu diệt sinh lực địch, tích cực phá hoại và cắt đứt đường số 6, mở rộng địch vận, chuẩn bị tiêu diệt một bộ phận sinh lực khi chúng rút. Phương châm hoạt động của ta.là: triệt để phá hoại cầu cống, đường sá, luôn luôn quấy rối. phá kho tàng phục kích đội tuần tiễu sửa đường; sẵn sàng diệt một bộ phận sinh lực địch rút lui.

Thời gian này đại đoàn đã đánh nhiều trận nhỏ như bắn kiềm chế Pheo và các vị trí trên đường số 6, vận động phục kích địch trên đường số 6. Đêm 17 tháng 2 năm 1952 tiểu đoàn 428 công kiên đồi Miếu nằm giữa Pheo và Bến Ngọc. Đây là vị trí địch mới chiếm đóng để yểm hộ lực lượng rút khỏi Hòa Bình.. Địch ở đồi Miếu có 2 đại đội, chúng dùng gỗ, nứa chất ngổn ngang quanh đồn, làm hàng rào nên lực lượng ta tiến rất chậm và mở đường khó, đánh nhiêu bộc phá mà chưa phá hết rào. Pháo địch ở Pheo, Bến Ngọc, Hòa Bình bắn yểm hộ rất dữ dội. Tiểu đoàn 428 mới chiếm được nửa đồn, trời đã sáng. Ta bị thương vong nhiều, các đơn vị phối hợp không chặt nên phải rút để mang thương binh ra. Kết quả địch chết 150 tên. Lực lượng ta hy sinh 34 đồng chí, bị thương 64 và mất tích 2 đồng chí.

Chiều 22 tháng 2, địch bắt đầu rút từ Phương Lâm sang thị xã đêm 22 chúng rút từ thị xã sang Bến Ngọc rồi rút Bến Ngọc đến Ao Trạch. Ta xuất kích chậm nên không đánh được địch.

Trong đợt 3 chiến dịch, nhiệm vụ đánh viện trên đường số 6 (ao Trạch - Đầm quảng) đại đoàn không thực hiện được mà chỉ tiêu hao nhỏ; đánh viện từ Bến Ngọc đến Pheo diệt hơn một đại đội. Các đơn vị phát triển vào vùng hậu địch Sơn Tây diệt được 4 đồn, một đại đội và một trung đội địch.

Được Trung ương Đảng và Tổng quân ủy giao nhiệm vụ cùng các đơn vị hoạt động trên hướng chủ yếu của chiến dịch Hòa Bình kể từ ngày 25 tháng 11 năm 1951 (ngày đại đoàn tiêu diệt gọn tiểu đoàn Thái số 3 ở Thu Cúc- Lai Đồng) đến ngày 25 tháng 2 năm 1952 đại đoàn đã chiến đấu liên tục trong 3 tháng, đánh 7 trận lớn: 1 trận vận động, 4 trận vận động phục kích, 2 trận công kiên, tiêu diệt 2.235 tên địch, bắt 320 tên, phá hủy 1 phi cơ, 1 ca nô và 3 xe tăng, thu 50 xe đạp 200 súng trường, 7 đại liên, 20 trung liên, 100 tiểu liên, 12 ô tô

Trong chiến đấu gay go ác liệt 498 cán bộ, chiến sĩ đại đoàn đã anh dũng hy sinh, 1034 đồng chí bị thương.

Chiến dịch Hòa Bình là một chiến dịch lớn, địa bàn hoạt động rộng, thời gian chiến đấu dài. Trong hoàn cảnh gay go, khó khăn, ác liệt, được nhân dân tích cực giúp đỡ, nhiều đơn vị của đại đoàn đã vượt sông an toàn, bí mật tiến sâu vào trong lòng địch, tiêu diệt nhiều sinh lực của chúng, trận Ninh Mít của trung đoàn 209, trận phục kích trên đường 87 của hai tiểu đoàn 428 và 115) trận điểm cao 600 núi Ba Vì của trung đoàn 141 là những trận đánh sáng tạo vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật của các đơn vị trong đại đoàn.

Trong chiến đấu gay go. ác liệt, các đơn vị đã đấu tranh kiên quyết chống tư tưởng tản mạn muốn nghỉ ngơi, ngại thương vong của một số cán bộ và chiến sĩ. Qua thực tế đại đoàn rút ra được kinh nghiệm: 'có đánh nhiều, đánh thắng thì xây dựng mới vững về tổ chức cũng như về tư tưởng".Công tác chính trị trong chiến dịch đã phát huy tốt. Trong chiến dịch Lý Thường Kiệt, công tác dân vận và xây dựng quyết tâm lập công của Đại đoàn có nhiều cố gắng. Trong chiến dịch Hòa Bình công tác vận động lập công không sôi nổi và công tác dân vận cũng có khuyết điểm. Chiến dịch Lý Thường Kiệt kém về công tác bí mật và thương binh, thì lần này vào hậu địch công tác bi mật và nuôi dưỡng cứu chữa thương binh được thực hiện tốt.

Qua chiến dịch, cán bộ đại đoàn có thêm nhiều kinh nghiệm chỉ huy đánh công kiên, đánh vận động phục kích, xử lý các tình huống. Trình độ hiệp đồng tác chiến của các đơn vị trong đại đoàn và các đơn vị bạn được nâng cao. Những biểu hiện sinh động đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng được hình thành ngay từ trận đầu đại đoàn ra quân, trải qua thử thách, qua các chiến dịch gian khổ và quyết thắng, đến chiến dịch Hòa Bình càng được tôi luyện trờ thành bản chất truyền thống của đại đoàn .

Về đến Phú Thọ đại đoàn tổ chức mừng công, đón huân chương Quân công hạng hai của Tổng quân ủy và lá cờ "Gìn giữ non sông" của kiều bào ta gửi tặng. Sau khi tổng kết rút kinh nghiệm chiến đấu trong chiến dịch Hòa Bình đại đoàn bắt tay vào chỉnh huấn trong mùa hè 1952.

3. Trên chiến trường Tây Bắc và Thượng Lào

Với chiến dịch Hòa Bình, quân và dân ta đã giành quyền chủ động trên chiến trường. Hè thu 1952, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng và Tổng quân ủy, các mặt trận tiếp tục chống địch càn quét có kết quà, cơ sở địch hậu được giữ vững, chiến tranh du kích phát triển. Bộ đội chủ lực trưởng thành qua chiến dịch Hòa Bình, qua chỉnh huấn chính trị, quân sự. Chuẩn bị cho Đông Xuân 1952 - 1953, Trung ương Đảng và Tổng quân ủy xác định nhiệm vụ chiến lược của quân và dân ta là:

- Tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh du kích chiến tranh.

- Phá chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh"của địch.

- Bồi dưỡng lực lượng nhân dân, lực lượng kháng chiến.

Còn cứ vào nhiệm vụ chiến lược đó, việc chọn hướng chiến dịch phải là nơi ta có điều kiện thực hiện được ưu thế hơn địch. Bắc Bộ có 3 chiến trường: đồng bằng, đông bắc, tây bắc. Đồng bằng là chiến trường địch mạnh nhất, còn tây bắc là chiến trường xa căn cứ, là vùng rừng núi địch khó phát huy chỗ mạnh về binh khí kỹ thuật, đại bộ phận là ngụy binh, tinh thần kém, công sự yếu, hơn nữa địch không đề phòng, vẫn chủ quan cho là thu đông 1952 - 1953, hoạt động chính của ta là ở đồng bằng. Tháng 9 năm 1952 Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc, nhằm mục đích: tiêu diệt sinh lực địch, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân; giải phóng một phần đất đai có tính chất chiến lược quan trọng.Chủ tịch Hố Chí Minh nhấn mạnh: "nhiệm vụ chính là tiêu diệt sinh lực địch" Phương châm chiến dịch là: "tiêu diệt sinh lực địch, đánh chắc, tiến chắc".

Tây Bắc có số dân khoảng 44 vạn người, gồm nhiều dân tộc, người Thái chiếm đa số. Mật độ dân cư thưa, trung bình 6 người trên 1 ki-lô-mét vuông, kinh tế lạc hậu, phong tục tập quán còn nhiều mê tín. Đời sống nhân dân rất khó khăn, có nơi quanh năm ăn củ mài, củ nâu . . .

Từ năm 1946, sau khi chiếm Lai Châu - Sơn La, thực dân Pháp đưa tên Đào Văn Long, lập "xứ Thái tự trị" chia rẽ dân tộc Thái với các dân tộc khác, dựa vào "xứ Thái tự trị" để bóc lột nhân dân. Nhân dân các dân tộc Tây Bắc có truyền thống đấu tranh cách mạng. Khi quân Pháp quay lại, đồng bào đã cùng cán bộ lập khu căn cứ du kích Mộc Châu. Năm 1949, nhiều căn cứ du kích của người Thái, Dao, H'mông thành lập. Các đội du kích tuy ăn đói, mặc rách liên lạc với miền xuôi khó khăn, nhưng vẫn kiên cường chống giặc. Nhiều chiến si du kích trở thành anh hùng, chiến sĩ thi đua như Sùng Phai Sinh, Lý Lục Chu...

Binh lực địch ở Tây Bắc có 8 tiểu đoàn quân chính quy gồm 3 tiểu đoàn lính Phi, còn lại là ngụy, 11 khẩu pháo các loại.. Địch bố trí làm 4 phân khu1 (Chú thích 1 Nghĩa Lộ. Sơn La. Lai Châu, sông Đà.) và 1 tiểu khu độc lập2 (Chú thích 2. Tuần Giáo.) đặt sở chỉ huy ở Nà Sản (Lai Châu) do tên trung tá Trancard chỉ huy. Với binh lực trên, địch bố trí thành 104 cứ điểm từ 1 trung đội đến 1 đại đội, có 40 cứ điểm trên 1 đại đội. Các cứ điểm phần lớn cách nhau trên 10 ki-lô mét đường rừng. Lực lượng cơ động của liên khu có 3 tiểu đoàn ở Lai Châu. Lực lượng cơ động phân khu có 1 đại đội ở Nghĩa Lộ.

Do dân cư thưa thớt, trình độ chính trị thấp, kinh tế lạc hậu nên việc sử dụng nhân vật lực ở địa phương bị hạn chế. Quyết tâm của Trung ương Đảng và Tổng quân ủy là. "Tập trung binh lực tiêu diệt địch ở Phân khu Nghĩa Lộ đồng thời tranh thủ tiêu diệt địch ở tiểu khu Phù Yên, phát triển thắng lợi, quét sạch địch tới sát bờ sông Đà. tạo điều kiện để tấn công Sơn La Quyết định mở chiến dịch Tây Bắc được phổ biến đến các đơn vị, gây niềm phấn khởi và quyết tâm thắng lợi trong chiến dịch thu đông này

Trước khi lên đường vào chiến dịch Tây Bắc cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 được học tập tài liệu "Cách mạng Việt Nam", "Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi" Thấm nhuần ý thức giai cấp, nhận rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tin tưởng vào cuộc kháng chiến trường kỳ nhất định thắng lợi.

Việc học tập quân sự thu được kết quả tốt. Các đơn vị vào diễn tập kỹ thuật chiến thuật công kiên, quân số được bổ sung đầy đủ, vũ khí trang bị được bổ sung, cán bộ được sắp xếp bố trí đủ, ai cũng náo nức được nhận nhiệm vụ, lập công.

Đợt 1 chiến dịch, Đại đoàn 312 được phối thuộc 1 đại đội sơn pháo 75, 1 trung đội súng cối 120 ly (2 khẩu), 1 đại đội công binh, có nhiệm vụ diệt quân địch trên đường Gia Hội đi Nghĩa Lộ, tiêu diệt vị trí Sài Lương (đông bắc Nghĩa Lộ 14 ki-lô-mét) và chuẩn bị đánh vị trí Gia Hội.

Sau khi tiêu diệt Sài Lương, trung đoàn 141 (thiếu tiểu đoàn 16) về Bản Tủ (bắc Nghĩa Lộ 6 ki-lô-mét) làm lực lượng dự bị cho chiến dịch. Tiểu đoàn 16 phối thuộc cho Đại đoàn 308 diệt các cứ điểm Nghĩa Lộ, Pú Chạng, Cửa Nhì.

Để tạo bất ngờ, các lực lượng tham gia chiến dịch tập kết ở tả ngạn sông Thao . Đêm 10 tháng 10 năm 1952 , cả 8 trung đoàn chia làm 4 mũi vượt sông bằng hàng trăm chiếc thuyền nan của nhân dân Phú Thọ - Yên Bái.

Đại đoàn 312 tiến theo 2 mũi: trung đoàn 209, trung đoàn 165, và đại đoàn bộ từ hướng bắc vượt qua đèo Nậm Bằng tiến vào bao vây Nậm Mười, Bản Tử Hụ (trên đường diệt 1 đồn nhỏ để mở đường) . Trung đoàn 141 vượt đèo Khe Lóng, tiến vào Sài Lương. 15 giờ ngày 14 tháng 10 trung đoàn nổ súng mở màn chiến dịch.

Địch trong đồn bí mật rút xuống hầm, gọi máy bay oanh tạc dữ dội xung quanh đồn. Sau 20 phút ta phá xong hàng rào, bộ đội xông vào đồn. Nhưng lên đồn mới biết lực lượng lớn của địch đã rút xuống khe suối, chỉ để lại một bộ phận nhỏ đối phó với ta bằng lựu đạn, tiểu liên rồi rút chạy. Ta chỉ diệt được 5 tên, bắt 4 tên. Tù binh khai ngay từ ngày 3 tháng 10 địch đã phát hiện dấu vết vào trinh sát của ta.

Chiếm được cứ điểm Sài Lương nhưng trung đoàn 141 không hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt sinh lực địch do nắm địch không kỹ càng, tỉ mỉ, lộ bí mật, vây không kín. Tuy vậy, chiếm Sài Lương ta đã nhổ được một điểm án ngữ của địch, mở đường cho các đơn vị bạn vào đánh Nghĩa Lộ.

Đêm 17 tháng 10 Đại đoàn 308 tiêu diệt 2 đồn Pú Chạng và Nghĩa Lộ, bắt toàn bộ chỉ huy phân khu.

Mất Nghĩa Lộ, đồn Gia Hội bị cô lập. Địch cho máy bay ném bom chặn ta rồi lặng lẽ rút lui. Sau khi Đại đoàn 308 chiếm được Nghĩa Lộ, trung đoàn trưởng trung đoàn 165 sử dụng tiểu đoàn 542 chặn đường địch chạy đoạn Phong Du - Tú Lệ đồng thời điều tiểu đoàn 115và tiểu đoàn 564 chuẩn bị đánh công kiên Gia hội. Bộ đội đã vào chiếm lĩnh trận địa, phát hiện địch đã rút chạy, tiểu đoàn 115 vội quay ra đuổi địch theo hướng Gia Hội - Tú Lệ

Tối 18 tháng 10 , khi tiểu đoàn 115 vận động đến cách Tú Lệ 7 ki-lô-mét thì gặp địch, ta nổ súng. Địch chạy vào cứ điểm, dùng hỏa lực chống trả. Các chiến sĩ lao theo địch vào đồn, nhưng do không tổ chức yểm trợ chu đáo nên bị hỏa lực và chướng ngại vật địch ngăn lại bị thương vong.

19 giờ 30 phút ngày 18, trung đoàn trưởng trung đoàn 165 lệnh cho tiểu đoàn 115 phải đánh ngay Tú Lệ nếu không địch sẽ chạy.

Do chưa nắm chắc địch, không có bộc phá, hỏa lực chế áp nên tiểu đoàn 115 chấp hành lệnh bằng cách vây chặt đồn, dùng một bộ phận nhỏ đánh vào chỗ sơ hở bên ngoài, vừa đánh vừa điều tra địch, chờ trung đoàn chi viện. 23 giờ ngày 18, đại đội 505 tiến vào sát sân bay vừa lúc gặp toán địch từ Gia Hội chạy về. Ta nổ súng. Địch bỏ chạy. Ta bắt 15 tên và đuổi địch đến tận cổng đồn. Tiểu đoàn 115 nhận định địch đang lúng túng, đánh có thể thắng và hạ quyết tâm đánh đồn ngay không cần phải tiếp tục trinh sát.

Một giờ sáng ngày 19 tiểu đoàn nổ súng. Hai đại đội 501 và 503 xung phong bị dây thép gai bùng nhùng cản lại, bãi mìn nổ. Địch dùng hỏa lực mạnh chống trà. Bộ đội thương vong nhiều ở cửa mở.

Như vậy là, do nhận định sai, nắm địch không chắc, hành động vội vàng, tiểu đoàn 115 đã mắc sai lầm .Quân số địch đông (500 tên) và tổ chức trận địa khá vững chắc, có dây thép gai và mìn làm hệ thống chướng ngại vật, lại nghi binh rút chạy để lừa ta vào túi lớn. Ta thương vong nhiều ngay ngoài cửa mở. Tuy vậy tiểu đoàn trưởng và chính trị viên vẫn quyết tâm chiếm được điểm cao, tiếp tục lệnh cho các mũi xung phong. Một lần nữa tiểu đoàn lại thương vong trước hàng rào địch .Trời sáng, địch dùng hỏa lực giội vào đội hình ta, thương vong lên cao hơn. Khi nhận ra tình hình nguy hiểm, tiểu đoàn lệnh rút ra để chặn đường rút chạy của địch thì đã muộn. Nhìn địch rút chạy mà đơn vị không còn sức đuổi lại mất liên lạc với trung đoàn, tiểu đoàn phải rút vào khe núi băng bó thương binh, củng cố đội hình. Tiểu đoàn 115 đã không hoàn thành nhiệm vụ.

Trong khi tiểu đoàn 115 gặp khó khăn ở Tú Lệ thì đêm 18 chỉ huy sở Đại đoàn mất liên lạc với các đơn vị Đại đoàn trưởng và Chính ủy cùng với một tổ điện đài xuống tiểu đoàn 154 (trung đoàn 209) động viên bộ đội trực tiếp nắm tiểu đoàn này đuổi địch.

Cơm đang nấu dở, anh em đang đói, nhưng tất cả cơ động ngay và đuổi địch thâu đêm. Sáng 19 khi lực lượng ta đến Tú Lệ thì vừa lúc địch rút khỏi cánh đồng. Quên cả đói, mệt các chiến sĩ tiểu đoàn 154 leo lên đèo Cao Pha bám sát địch .

Chiến sĩ Chu Viết Sòi1 (Chú thích 1 Đồng chí Chu Viết Sòi được bầu là Chiến sĩ thi đua toànquốc) cắp trung liên tắt rừng đón đấu bắn quét địch ở ngang dốc và xông thẳng vào đội hình địch. Đuổi địch trên dốc vừa đói vừa mệt, có lúc Sòi gục xuống nhưng lại vùng dậy đuổi tiếp. Anh đã nêu tấm gương thọc sâu, chiến đấu anh dũng. Trận truy kích này ta diệt được 2 đại đội lính dù thuộc tiểu đoàn 2 (2e BPC) bắt 27 tên.

Đêm 19 tháng 10, Đại đoàn trưởng gọi trung đoàn trưởng 165 và tiểu đoàn trưởng 115 lên phân tích khuyết điểm và phê bình nghiêm khắc. Chính trị viên tiểu đoàn 115 Ngọc Châu đã xin với Đại đoàn cho đơn vị lập công để sửa chữa.

Đại đoàn cho tiểu đoàn 115 thay tiểu đoàn 154 đuổi địch theo hướng Tú Lệ - Cao Pha - Ngọc Chiên - Ít Oong với chỉ thị: tiểu đoàn trưởng và hỏa lực đi đầu khi đuổi địch, gặp địch phải phát huy hỏa lực mạnh, đuổi nhanh, chia cắt địch từng mảng, đuổi sát bọn đi đầu. Hàng binh, thương binh để phía sau giải quyết.

10 giờ ngày 20 tháng 10 tiểu đoàn 115 vượt đèo Cao Pha. Trên đường tiến ta gọi hàng được 80 tên. Địch dùng một toán phục kích trên đèo, dùng máy bay chặn ta. Chiến sĩ thi đua toàn quốc Hoàng Đình Kỳ cùng 7 chiến si đã lao thẳng lên đèo bất ngờ đánh vào sau lưng toán phục kích, bắt 20 lính ngụy và 1 thiếu úy Pháp.

Tiểu đoàn 115 bị máy bay cắt làm đôi, toán đầu 50 người do tiểu đoàn trưởng chỉ huy, 18 giờ tối gặp địch ở chân đèo bên kia đã chia thành 2 mũi tập kích ngay, diệt và bắt 1 trung đội địch thuộc tiểu đoàn 57 vừa nhảy dù xuống chặn ta. Sau đó tiểu đoàn ủy 115 quyết định chọn 80 người lập một đội xung kích lao về phía Ít Oong. 4 giờ 30 phút sáng 21, địch bí mật rút khỏi Ít Oong. Chạy về đến Sơn La chúng gặp bộ đội ta truy kích. Anh em kêu gọi, bắt được một số hàng binh, số còn lại chạy thoát. Cả vùng Mường La được giải phóng.

Trong trận truy kích Tú Lệ - Ít Oong, tiểu đoàn 115 đã bắt 187 tên, thu 12 trung liên, 8 đại liên và hơn 100 súng các loại.

Sau 13 ngày chiến đấu, ta quét sạch địch khỏi khu vực sông Thao và sông Đà. Bộ đội ở lại Ít Oong giúp củng cố chính quyền địa phương và chuẩn bị đợt 2 chiến dịch Tây Bắc.

Trong đợt 1 chiến dịch, Đại đoàn 312 căn bản hoàn thành nhiệm vụ, diệt 150 tên, bắt 450 tên. Nhưng nhiệm vụ chính là tiêu diệt sinh lực địch chưa đạt yêu cầu do nắm địch không chắc, lúng túng, thiếu mưu trí, linh hoạt, đối phó với tình hình khi địch có nhiều thay đổi .

Các đơn vị đã tổ chức tự phê bình và phê bình ngay tại trận. Kết thúc đợt 1 chiến dịch, do mưa lũ, việc tiếp tế vận chuyển trên địa bàn rừng núi gặp khó khăn . Mặt trận phát động chiến dịch gạo Đồng chí Trần Đăng Ninh - ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban cung cấp của mặt trận trực tiếp huy động lực lượng vận tải và tổ chức quyên góp trong nhân dân. Để tiết kiệm gạo, trong lúc dừng, chuẩn bị đợt 2 chiến dịch bộ đội ăn cháo, đào củ mài, dè xẻn từng hạt gạo để dành cho đợt chiến đấu tiếp theo.

Để đối phó với hoạt động của ta, địch đổ thêm 9 tiểu đoàn cơ động xuống Tây Bắc, đưa số quân lên 16 tiểu đoàn và 32 đại đội, đồng thời mở cuộc hành quân Lo-ren dùng 3 binh đoàn cơ động đánh Phú Thọ, phá hậu phương chiến dịch của ta. Nhưng cuộc hành quân của địch đã bị trung đoàn 246 và trung đoàn 176 của Đại đoàn 316 cùng các lực lượng dân quân du kích địa phương đập tan. Ta giữ vững quyền chủ động về chiến lược và chiến dịch.

Bước vào đợt 2 chiến dịch Tây Bắc, Tổng quân ủy chủ trương tập trung 6 trung đoàn mở hướng tiến công chủ yếu vượt sông Đà, đánh vào cao nguyên Mộc Châu đồng thời tổ chức mũi vu hồi cùng các đơn vị của Tây Bắc do đồng chí Bằng Giang chỉ huy mang mật danh mặt trận Y3" đánh vào sau lưng địch ở bắc Sơn La, nam Lai Châu. Bộ tăng cường trung đoàn 165 cho mặt trận này.

Quân địch ở Mộc Châu, Sơn La tổ chức 2 khu vực phòng thủ. Khu Lai Châu - Sơn La do đại tá Giền (Gilles) chỉ huy. Phòng tuyến Tạ Khoa - Mộc Châu do Lăng Sa-đơ (Lan Sa de) chỉ huy.

Đêm 15 và 16 tháng 11 năm 1952 Đ ai đoàn 312 (thiếu trung đoàn 165) vượt sông ở khu vực Vạn Yên có nhiệm vụ tiêu diệt tiểu đoàn Ma-rốc số 3 và phối hợp với các cánh quân bạn phá vỡ phòng tuyến hữu ngạn sông Đà.

Cầu phao chưa bắc xong, trung đoàn trưởng Vũ Nam Long đã nhảy xuống bơi thử và quyết định tổ chức trung đoàn 141 thành nhiều đội gồm những người biết bơi vượt sông sang trước để kịp thời làm nhiệm vụ.

Trưa ngày 18, trung đoàn 209 do trung đoàn trưởng Hoàng Cầm chỉ huy áp sát Bản Hoa, bao vây và điều tra địch giữa ban ngày.

Bản Hoa do đại bộ phận tiều đoàn Ma-rốc số 3 gồm hơn 300 tên chiếm giữ do quan ba Ru-két (Ronquette) chỉ huy.

Đêm 18 rạng ngày 19 tháng 11, lực lượng ta chiếm lĩnh trận địa Bàn Hoa. Tổng tư lệnh đã gọi điện đến trung đoàn trưởng trực tiếp động viên cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 209. 8 giờ sáng ngày 19, bộ đội nổ súng. Địch bị bất ngờ. Sau 20 phút bộc phá mở cửa, xung kích tràn vào từ 3 hướng, chia cắt địch ra để tiêu diệt. Mũi nhọn của đồng chí Trần Can chọc thẳng vào cứ điểm địch vừa đánh vừa gọi hàng được 20 tên. Tân binh Trần Thành vừa phá xong hàng rào đã xung phong vào đánh chiếm hầm ngầm địch. 5 giờ 30 sáng ngày 19 địch phá rào chạy. Lực lượng ta bao vây, truy quét địch, diệt và bắt 300 tên. Quan ba Ru-két bị bắt sống. Nhiều đồng bào người dân tộc bị địch bắt giam được giải phóng.

Đây là lần đầu tiên đại đoàn đánh công kiên không có chuẩn bị trước. Trận đánh giành thắng lợi giòn giã.

Trung đoàn 141 tiến vào đánh Tà Pình, phát hiện địch đã rút chạy, nên trung đoàn nhanh chóng quay về đánh Ba Lay.

Ở Ba Lay địch có 2 đại đội đóng trên 2 mỏm cao. Ba Lay nằm trên đường Vạn Yên đi Mộc Châu.

Bốn giờ sáng ngày 20, pháo và cối 120 ly của ta bắn chuẩn bị. Sau 7 phút bắn pháo, đội bộc phá của Lê Văn Tỷ - chiến sĩ thi đua toàn quốc đã phá xong các lớp rào gai. Bị đạn xuyên qua ngực, đồng chí Tỷ vẫn động viên anh em trong tổ hoàn thành nhiệm vụ rồi mới ngã xuống. Tiểu đội trưởng Tống Tính bị thương gãy tay vẫn cắp tiểu liên xung phong cho đến khi bị loạt đạn địch xuyên qua người mới chịu ngã. Tiểu đội trưởng Lê Văn Huống bị thương, tự băng bó rồi tiếp tục chỉ huy tiểu đội chiến đấu. Tiểu đoàn 16 phát triển vào trung tâm. Trong khi đó, mũi phía tây của tiểu đoàn 11 bị hàng rào cản chưa phá được. Tiểu đội trưởng Hội đã đứng lên nâng hàng rào cho bộ binh vượt qua. Các chiến sĩ Mão, Lâm tự động ghép thành tổ chiến đấu đánh địch dưới hầm ngầm, gọi hàng 50 tên. Ta chiếm Ba Lay, tiểu đoàn Ma-rốc số 3 hoàn toàn bị xóa sổ.

Trong lúc Đại đoàn 312 đánh Ba Lay, các đại đoàn bạn cũng công phá thắng lợi các cứ điểm Mường Lúm ( 19- 11 ) và Mộc Châu ( 20- 11 ) . Hệ thống phòng thủ Mộc Châu của địch tan vỡ. Địch ở các cứ điểm ven sông Đà từ Hát Tiếu đến Tạ Khoa bỏ chạy co cụm về Nà ủan. Ta đuổi địch đến tận Nà Sản.

Ở hướng thọc sâu, trung đoàn trưởng 165 Lê Thùy nắm 2 tiểu đoàn 542 và 564 vượt sông Đà (tiểu đoàn 115 đang đuổi địch ở Ít Oong) . Tiểu đoàn của Tây Bắc vượt sông - đêm 7 tháng 11 tập kích Nậm Dìn. Tiểu đoàn 542 và 910 phát triển, thọc vào Quỳnh Mải. Bị bất ngờ, địch ở cả hai tiểu khu Luân Châu và Tuần Giáo đều bỏ chạy. Đường 41 từ Sơn La đi Lai Châu bị ta cắt đứt một đoạn dài 60 ki-lô-mét. Lai Châu bị cô lập. tiểu khu Điện Biên Phủ cũng bị chơ vơ, cô lập.. .

Đơ la Doa và Dim bối rối cấp tốc điều 2 tiểu đoàn định chiếm lại Tuần Giáo - Lai Châu rồi hội quân chiếm lại Quỳnh Mai, khôi phục vùng hậu phương vừa bị mất.

Tiểu đoàn 542 phục kích trên đường 41 đánh tan tiểu đoàn 57 BVN, diệt 92 tên, bắt 183 tên, thu 2 cối 81 và 200 súng các loại.

Tiểu đoàn 564 vượt sông Đà nhằm tiểu khu Mường Sài tiến vào.

Tiểu đoàn 115 mất liên lạc với trung đoàn, Đảng ủy. tiểu đoàn vẫn quyết nghị vượt sông, bám theo trung đoàn. Tiểu đoàn đã dùng 1 trung đội đốt đuốc hành quân qua đèo, khiến địch đoán nhầm là lực lượng lớn của ta đã vượt sông. Toàn tiểu đoàn vượt sông ở Mường Pin bằng thuyền độc mộc của nhân dân rồi thọc sâu với tốc độ 50km/ngày. Dọc đường lên Mường Pú tiểu đoàn bắt được 25 tù binh.

Đại đội 950 (tiểu đoàn 115) gặp địch ở dọc đường đã mưu trí bao vây rồi bất ngờ ập tới bắt hai tên chỉ huy, bắt chúng lệnh cho toàn đơn vị đầu hàng. Ta bắt 250 tên mà chỉ mất 1 băng tiểu liên thị uy. Đại đội 950 tiếp tục tiến công, diệt một đại đội âu Phi khác, bắt 1 đại úy Pháp, buộc bọn này phải dẫn đường đến Điện Biên Phủ.

Tiểu đoàn 564 (trung đoàn 165) tiến vào Mường Phủi thắng liền hai trận với hiệu suất cao do đánh bất ngờ và tổ chức đánh chính diện kết hợp vu hồi, diệt 16 tên, bắt 381 tên, cả 2 quan ba, 3 quan hai. 7 quan một, thu 12 cối, 5 đại liên, 36 trung liên và 600 súng khác.

Tổ liên lạc Nguyễn Văn Luân của tiểu đoàn 115 dùng mưu lừa địch khiến địch tưởng ta có hàng đại đội, bắt một trung đội địch đầu hàng.

Bộ tư lệnh "Y3' (Tư lệnh Bằng Giang, Phó tư lệnh Lê Thùy, Chính ủy Song Hào) lệnh cho tiểu đoàn 115vận động gấp bao vây thị xã Sơn La. Tiểu đoàn đốt đuốc hành quân suốt đêm, đến nơi chỉ còn chặn được chiếc xe cuối cùng của địch đang rút chạy, bắt một trung đội do trung úy tình báo Pháp Cơ-vít chỉ huy. Tiểu đoàn tiếp tục truy lùng, gọi hàng 450 lính, 5 sĩ quan, 1 chi châu, thu 4 cối 81, 6 đại liên, 32 trung liên, 12 điện đài và 400 súng khác..

8 giờ sáng ngày 20 tháng 11 năm 1952 tiểu đoàn 542 (trung đoàn 165) tiến vào cánh đồng Điện Biên Ta vừa nổ súng đánh trung đội cảnh giới thì cả tiểu khu địch đã bỏ chạy. Tiểu đoàn chủ lực Pháp do thiếu tá Găng Xi ca chỉ huy bị ta truy đuổi. Địch bị bắt và ra hàng 552 tên.

Nhân dân Tây Bắc được giải phóng, nô nức mang quà tặng bộ đội. Nhưng một chiến sĩ vô kỷ luật hãm hiếp một phụ nữ Thái gây ảnh hưởng xấu. Tòa án Mặt trận lập phiên tòa xử bắn tại chỗ, lấy lại lòng tin của đồng bào các dân tộc.

Đêm 22, tàn quân địch ở các nơi vùng bắc Sơn La tập trung về Nà Sản lập thành tập đoàn cứ điểm lớn gồm 28 cứ điểm có 8 tiểu đoàn phòng thủ.

Bộ chỉ huy chiến dịch hạ quyết tâm tiến công tập đoàn cứ điểm Nà Sản.

Đêm 30 tháng 11 tiểu đoàn 115 trung đoàn 165 gấp rút tiến công Bản Hời phía bắc Nà Sản, cách trung tâm tập đoàn cứ điểm 2 ki-lô-mét để phối hợp với đơn vị bạn đánh Pú Hồng. Do phải nổ súng gấp để chấp hành mệnh 1ệnh phối hợp với đơn vị bạn, tiểu đoàn 115 phải khắc phục rất nhiều khó khăn, dùng thuốc bom thay bộc phá. Mọi việc chuẩn bị của tiểu đoàn đều diễn ra dưới các đợt phi pháo địch. Trận đánh công kiên diễn ra vô cùng ác liệt ngay từ phút đầu. Do hết bộc phá, mở không hết hàng rào, bộ đội ùn tắc ở cửa mở, bị thương vong nhiều. Sau hơn một gìơ chiến đấu dũng cảm, tiểu đoàn 115 làm chủ Bản Hời, diệt gần một đại đội địch.

Phát huy thắng lợi, Bộ chỉ huy chiến dịch lệnh cho đại đoàn: tiếp tục công kích tập đoàn cứ điểm Nà Sản. Trung đoàn 209 được tăng cường lực lượng tiêu diệt Bàn Vậy - cứ điểm chính trong cụm cứ điểm phòng ngự phía nam Nà Sản. Địch ở cứ điểm Bàn Vậy có 2 đại đội lê dương, có hỏa lực cầu vồng, pháo 57, với nhiều lô cốt, hầm ngầm vững chắc. Do một mũi tiến quân của ta bị lộ, địch đã chủ động đối phó. Trung đội bộc phá mở cửa hầu như thương vong hết. Sau khi mở được cửa, bộ phận xung kích chiếm được một đoạn hào, nhưng do thương vong không đủ sức phát triển, phải dừng lại. Gần sáng địch tăng cường hỏa lực và phản kích. Ta không đủ sức đánh tiếp, phải rút lui. Trận đánh không thành công.

Đêm ấy đơn vị bạn tiến công Nà Si cũng không thắng lợi

Hôm sau địch cho quân nhảy dù tăng cường cho Nà Sản.

Bộ chỉ huy chiến dịch nhận thấy Nà Sản là một tập đoàn cứ điểm vững chắc mà ta chưa có kinh nghiệm đánh tập đoàn cứ điểm nên cho kết thúc chiến dịch vào ngày 10 tháng 12. Trên cả hai mặt trận đồng bằng và tây bắc, ta diệt 13.800 địch, giải phóng tiềnh Sơn La (trừ Nà Sản) với diện tích 28.50 ki-lô-mét vuông, 250.000 dân. Căn cứ địa của ta được mở rộng.

Đại đoàn 312 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, diệt trên 4.000 địch, thu nhiều vũ khí. Đại đoàn trưởng thành trong đánh công kiên và đánh vận động tiến công liên tục. Các đơn vị của đại đoàn đã vận dụng thành công nghệ thuật đánh thọc sâu, truy kích, kết hợp với địch vận và vận động nhân dân đấu tranh với địch bằng nhiều hình thức nên hiệu suất chiến đấu cao. Nhiều gương chiến đấu dũng cảm, kiên cường, mưu trí xuất hiện. Qua những trận đánh không thành công ở Nà Sản, đại đoàn tự nhận thấy sức mạnh chiến đấu và năng lực chỉ huy của cán bộ mới có ẩc năng giải quyết từng cứ điểm, cụm cứ điểm, chưa đánh được tập đoàn cứ điểm. Thực tế đó đã đặt ra trước đại đoàn yêu cầu mới về nâng cao sức mạnh chiến đấu đủ sức hoàn thành những nhiệm vụ ngày càng nặng nề trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến,Sau chiến dịch Tây Bắc 1952, địch phải co lại và phân tán chủ lực để đối phó trên 2 chiến trường. 19 tiểu đoàn cơ động ở đồng bằng, 14 tiểu đoàn ở Tây Bắc Thế chung của địch yếu đi, ở Tây Bắc địch gặp nhiều khó khăn.

Cuối tháng 12 năm 1952 địch rút khỏi Phong Thổ, nhưng mở rộng phạm vi chiếm đóng ra Cò Nòi, Chiềng Đông (25-12), tập trung củng cố Nà Sản - Có Nòi.

Sau chiến thắng Tây Bắc, ta có điều kiện củng cố thêm thế chủ động trên chiến trường Bắc Bộ, vùng giải phóng của ta mở rộng đến sát Thượng Lào. Cách mạnghai nước có điều kiện hỗ trợ nhau để phát triển.

Tháng 1 năm 1953, Tổng quân ủy đã dự kiến hướngmở chiến dịch mới có thể là Thượng Lào hoặc Lai Châu. Đến hội nghị mở rộng ngày 2 tháng 2 năm 1953 Tổng quân ủy đã phân tích tình hình địch, nhất trí mở chiến dịch Thượng Lào.

Sau hội nghị, đồng chí Võ Nguyên Giáp Bí thư Tổng quân ủy đã tóm tắt ý kiến thảo luận báo cáo lên Trung ương Đảng và Chủ tịch Hố Chí Minh.

Được Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Bạn nhất trí từ cuối tháng 2 năm 1953 Tổng quân ủy đã lệnh cho các đơn vị tham gia chiến dịch Thượng Lào làm công tác chuẩn bị chiến đấu.

Lúc này, Đại đoàn 312 đang củng cố và hoạt động phân tán. Trung đoàn 141 ở khu vực sông Mã, trung đoàn 165 ở Sơn La, trung đoàn 209 ở Phú Thọ. Các đơn vị vừa chỉnh quân vừa bổ sung tân binh để huấn luyện. Theo biên chế mới, mỗi trung đoàn có thêm 1đại đội pháo, 2 trung đội ĐKZ. Đại đoàn tổ chức thêm tiểu đoàn pháo phòng không. So với trước, quân số toàn đại đoàn đông hơn nhưng có nhiều tân binh (có đại đội tân binh chiếm 1 phần 3 đến 1 phần 2 quân số), cán bộ các cấp đủ, nhưng mới đề bạt nên còn ít kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu. ở các đại đội bộ binh thường và mạnh trang bị còn thiếu khoảng 20 súng các loại. Riêng trung đoàn 165 quân số so với biên chế mới đảm bảo được 70 phần trăm.

Đầu tháng 3 năm 1953, đồng chí Tổng tham mưu trưởng đi kiểm tra công tác chuẩn bị và thực lực của đại đoàn đã có chỉ thị để các cơ quan bổ sung quân số, trang bị cho Đại đoàn 312 đủ sức làm nhiệm vụ chiến đấu.

Trong khi các đơn vị tham gia chiến dịch ráo riết chuẩn bị thì ở Thượng Lào địch gấp rút củng cố Sầm Nưa, sửa chữa sân bay, củng cố công sự tăng cường thêm 2 tiểu đoàn chuẩn bị đối phó với ta.

Cùng với những cuộc sục sạo ở Tây Bắc (đánh ra Sốp Hào, yên Châu và từ phía Lào lên Sơn La), ở đồng bằng địch thọc sâu ra Hòa Bình, ra Kép (đường số 6) nhằm thăm dò, phá kho tàng và ngăn cản sự chuẩn bị của ta. Để tiếp tục đối phó với ta ở đồng bằng, cuối tháng 3năm 1953 địch tập trung 4GM mở cuộc càn quét Hốt-tơ An -pơ ở nam Ninh Bình giáp Thanh Hoá để thu hút lực lượng ta, ngăn cản hoạt động của ta ở Tây Bắc và Thượng Lào, phá hậu phương ta, mở thêm phạm vì chiếm đóng, ngăn chủ lực ta phát triển vào hậu địch.

Ở Tây Bắc ngày 29 tháng 3 địch tập trung 4 tiểu đoàn ra Yên Châu, Mộc Châu, nhưng đến La Ngà bị ta chặn đánh, địch phải rút lui.

Gặp lực lượng lớn của ta, địch cho rằng ta tập trung ở Mộc Châu nên vội vã rút khỏi Chiếng Đông, Cò Nòi về Nà Sản, tăng cường phi cơ hoạt động nhằm phá các con đường giao thông vận tải của ta như đường số 1, 3, 6, 41 , 7 và Hội Xuân - La Hán (Thanh Hoá) .

Trước tình hình bị uy hiếp ở Thượng Lào đầu tháng 4 năm 1953 địch tăng cường cho Cánh Đồng Chum (Xiêng Khoảng) 4 tiểu đoàn gồm 2 tiểu đoàn ngụy Lào (5è và 6ÈBCL), 2 tiểu đoàn lê dương, thành lập khu Sầm Nưa - Trấn Ninh và tách Thượng Lào thành một liên khu trực thuộc bộ chỉ huy Bắc Việt Nam.

Sau khi gấp rút hoàn thành công tác chuẩn bị, ngày 16 tháng 3 năm 1953 Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị cho các đơn vị hành quân vào khu vực tập kết ở Mộc Châu. Đêm 21 tháng 3, Đại đoàn 312 từ Nga Mỹ (Phú Thọ) hành quân vượt sông Đà lên Mộc Châu.

Đường dài hơn 200 ki-lô-mét qua nhiều núi cao vực sâu, bộ đội mang vác nặng (trung bình 30 ki-lô-gam một người). Do tổ chức chặt chẽ, quán triệt nhiệm vụ chu đáo nên các đơn vị đều giữ bí mật tốt, đi gọn, đến đủ. Ngày 3 tháng 4 đơn vị cuối cùng của đại đoàn tới địa điểm tập kết ở Tố Lang Mộc Châu) .

Ngày 5 tháng 4 các đơn vị của Đại đoàn 308 cũng tới địa điểm tập kết ở khu vực Chợ Lung.

Thời gian này. địch phát hiện một cánh quân ta tiến theo đường số 7 vào Xiêng Khoảng nhưng chúng vẫn chưa phán đoán được hướng chính của chiến dịch ta mở.,

Ngày 5 và 6 tháng 4 tại Sở chỉ huy tiền phương Bộ ở Chợ Lung, Bộ chỉ huy chiến dịch phổ biến kế hoạch tác chiến cho các đơn vị trên hướng chủ yếu: Đại đoàn 312.. và Đại đoàn 308 được giao nhiệm vụ tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Sầm Nưa. Bộ tư lệnh chiến dịch chủ trương dùng cánh bôn tập nhanh chóng bao vây toàn bộ quân địch ở Sầm Nưa, khống chế máy bay không cho địch tăng viện tiếp tế và công kích Sầm Nưa theo cách đánh tập đoàn cứ điểm.

Tập đoàn cứ điểm Sầm Nưa xây dựng trong một thung lũng, chiều ngang chỗ rộng nhất 1800 mét, chiều dài từ bắc xuống nam chừng 2.000 mét, từ phía nam sang phía đông dọc theo sân bay chừng 1500 mét, xung quanh có rừng núi bao bọc.

Địch có khoảng 13 đến 14 đại đội của 3 tiểu đoàn ngụy, cơ quan chỉ huy và 1 đại đội pháo, bố trí thành 11 vị trí và 1 vị trí đột xuất. Đây là tập đoàn cứ điểm lớn nhất ở Thượng Lào lúc bấy giờ.

Căn cứ vào nhiệm vụ Tổng quân ủy giao, Đảng ủy và Bộ tư lệnh đại đoàn dự kiến thực hiện chiến dịch theo 3 bước:

- Bước 1: Khống chế phá hoại sân bay không cho phi cơ địch hạ cánh và thả dù tiếp tế.

- Bước 2: Tiêu diệt vị trí Nà Viêng để phối hợp với đơn vị bạn diệt khu vực chỉ huy của địch.

- Bước 3: Tiêu diệt Nà Thông ngoài và các vị trí xung quanh.

Ngày 8 tháng 4, Đảng ủy và Bộ tư lệnh đại đoàn giao nhiệm vụ sơ bộ cho các đơn vị:

Tiểu đoàn 166 và một đại đội của trung đoàn 165, một đại đội phòng không của đại đoàn do đồng chí Hoàng Cầm và Biền Sơn chỉ huy) xuất phát trước để kiềm chế sân bay, trong đêm 15 rạng ngày 16 tháng 4 phải có mặt ở trận địa. Trung đoàn 141 diệt vị trí Nà Thông trong. Trung đoàn 165 tiêu diệt Nà Viêng. Trung đoàn 209 được phối thuộc tiểu đoàn 888 diệt Nà Thông ngoài, Hùa Khang. Tiểu đoàn phòng không (còn 2 đại đội) có nhiệm vụ tác chiến phòng không ở phía nam và phía bắc Sầm Nưa bảo vệ đội hình chiến đấu của đại đoàn.

Đêm 16 rạng 17 tháng 4, các đơn vị chiếm lĩnh xong trận địa, sẵn sàng nổ súng.

Để thực hiện yêu cầu tác chiến, hoàn thành nhiệm vụ của đại đoàn trong chiến dịch, Đảng ủy đại đoàn chủ trương giáo dục sâu rộng mục đích, ý nghĩa chiến dịch, làm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ, phát huy tinh thần chiến đấu anh dũng, bền bỉ, gan dạ, phát huy kết quả học tập chiến thuật, kỹ thuật bảo đảm thực hiện những yêu cầu quân sự; phát huy tinh thần quốc tế chân chính, chấp hành chính sách đoàn kết quốc tế, nêu cao tinh thần kỷ luật của quân đội để giành thắng lợi hoàn toàn cả về quân sự và chính trị.

Từ Mộc Châu sang Lào đại đoàn tổ chức hành quân theo 2 trục chính:

- Đại đoàn bộ, hai trung đoàn 209 và 141 hành quân theo đường Mộc Châu, Sốp Bao, Sốp Long, Long Khoang, Na Chông, M¬ường Liệt. Trung đoàn - 209 có nhiệm vụ đi trước mở đường ứng chiến phía trước. Trung đoàn 141 bảo vệ hai bên sườn và phía sau đội hình hành quân của đại đoàn.

- Trung đoàn 165 hành quân theo đường Mộc Châu, Sốp Hào, Mường Ngòi, Khăng Khít (đường số 6). Trong hành quân trung đoàn có phương án bảo vệ đội hình, chủ động xử lý mọi tình huống, hàng ngày giữ liên lạc với đại đoàn bằng vô tuyến điện theo giờ quy định.

Đêm 9 và 10 tháng 4, các trung đoàn và đại đoàn bộ lần lượt lên đường.

Càng tiến sâu vào đất Lào đường càng khó đi. Đêm đi ngày nghỉ và học tập mục đích ý nghĩa của chiến dịch, các chính sách dân vận và phong tục tập quán của nhân dân Lào.

Trong khi bộ đội ta bôn tập khẩn trương thì chiều 11 tháng 4 một trung đội trưởng của tiểu đoàn 888 chạy sang hàng địch. Kế hoạch chiến đấu bị lộ. Phát hiện lực lượng ta, địch ở Thượng Lào được lệnh cấp tốc rút lui về Cánh Đồng Chum. Đại đoàn nhận lệnh khẩn trương đuổi địch. Chiến dịch Thượng Lào trở thành chiến dịch truy kích đường dài lớn nhất của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Suốt 7 ngày đêm liên tục, các đơn vị đuổi địch trên đoạn đường 270 ki-lô-mét từ Sầm Nưa đến Xiêng Khoảng. Sau chặng đường hành quân hơn 300 ki-lô-mét vào chiến dịch lại bước ngay vào chặng đường đuổi địch là một thử thách lớn về ý chí đối với cán bộ, chiến si đại đoàn.

Đường truy kích nhiều ngày phải vượt qua những ngọn đèo cao vút, vách đá tai mèo và những thung lũng nhiều thác ghềnh. Có chặng không có nước, bộ đội nhịn khát, nhịn đói cả ngày, phải ăn nõn chuối. Có chặng suốt ngày lội suối, hai bàn chân trắng bệch, tê dại. Có chặng qua những bản làng bị giặc vơ vét và tàn phá xơ xác nhiều người già, trẻ em trong cơn hấp hối vì đói rét, các chiến sĩ lặng lẽ xẻ bớt phần lương khô cho bà con. Đơn vị đi đầu của ta đến thi xã Sầm Nưa lúc 17 giờ ngày 13 tháng 4 thì toán địch cuối cùng đã chạy được 8 giờ. 9 giờ sáng ngày 14, ta đuổi kịp địch ở NàNoọng cách Sầm Nưa 30 ki-lô-mét, bộ đội ta nổ súng tiến công tiêu diệt một tiểu đoàn địch.

7 giờ ngày 16 tháng 4, ta đến Hứa Mường (cách Sầm Nưa 60 ki-lô-mét) thì đuổi kịp bộ phận đi đầu của địch. Ta nổ súng, tiêu diệt 5 đại đội địch.

Liên quân Lào - Việt đã diệt bắt gần hết số địch bỏ chạy khỏi Sầm Nưa, chỉ còn 200 tên sống sót chạy về Cánh Đồng Chum.

Địch ở Sầm Nưa chạy đến đâu cuốn theo cả hệ thống đồn, bốt của Pháp cùng hệ thống chính quyền do chúng dựng lên làm công cụ kìm kẹp, áp bức nhân dân ở các tỉnh Sầm Nưa - Xiêng Khoảng. Cánh quân thứ hai của ta tiến theo đường 7 tiêu diệt gọn địch ở Bản Ban (Xiêng Khoảng) ..

Ngày 3 tháng 5 năm 1953 chiến dịch Thượng Lào kết thúc. Ba tiểu đoàn và 11 đại đội địch bị tiêu diệt. Toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và Phong-xa-lỳ với trên 30 vạn dân được giải phóng. Căn cứ kháng chiến của cách mạng Lào mở rộng, nối liền với căn cứ cách mạng của Việt Nam.

Tiếng súng truy kích vừa ngừng, các đơn vị của đại đoàn nhận nhiệm vụ cùng bộ đội Pa-thét Lào làm công tác tuyên truyền, vận động nhân dân ở vùng mới giai phóng. Các đội vũ trang tuyên truyền được cấp tốc thành lập, chia thành nhiều cánh trên đường truy kích và men theo bờ sông Chu sông Mã để hoạt động. Các đội công tác đến với từng làng bản giúp đỡ nhân dân tổ chức lại cuộc sống mới. Các chiến sĩ của đại đoàn đã nêu những tấm gương sáng về "anh bộ đội Cụ Hồ!', được nhân dân các dân tộc Lào thương yêu đùm bọc và tin tưởng.

Thắng lợi của chiến dịch là thắng lợi của tình đoàn kết quốc tế cao cả, của tinh thần liên minh chiến đấu giữa hai quân đội Việt - Lào.

Đại đoàn 312 hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy truyền thống: "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng'!.

Trở về Phú Thọ, đại đoàn bước ngay vào đợt học tập lý luận 20 ngày. Nội dung học tập gồm: quan điểm, nhận thức về thế giới khách quan, quan điểm và thái độ trong xem xét, đánh giá giai cấp địa chủ, giai cấp nông dân; tình hình nhiệm vụ cách mạng và nội dung phát động quần chúng của Đảng. Thông qua học tập, cán bộ có thêm cơ sở lý luận, quán triệt đường lối cách mạng chính sách ruộng đất của Đảng...

Từ 15 đến 20 tháng 8 năm 1953, đại đoàn tiến hành chỉnh quân cho 1420 đồng chí, đề bạt sắp xếp cán bộ, kiện toàn tổ chức, xử lý cán bộ vi phạm kỷ luật. Đợt học tập quân sự cũng thu được kết quả tốt: '3 đại đội đột phá của 3 trung đoàn đều bắn giỏi.

Cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn 312 phấn khởi, tin tưởng, sẵn sàng bước vào nhiệm vụ chiến đấu mớichương 3

ĐẠI ĐOÀN 312 TRONG CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG XUÂN 1953-1954 VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

1 . Rèn cán chỉnh quân chuẩn bị bước vào cuộc chiến dấu mới

Sau 8 năm trường kỳ kháng chiến, quân dân ta đã tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, củng cố vùng tự do, xây dựng được nhiều căn cứ du kích trong vùng sau lưng địch. Quá trình chiến đấu đánh bại âm mưu lấn đất, giành dân, "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của địch, quân và dân ta vừa tích cực củng cố hậu phương, xây dựng lực lượng, tạo ra những chuyển biến mới về thế và lực có lợi cho công cuộc kháng chiến.

Đánh giá sự trưởng thành của các lực lượng vũ trang ta, trong Báo cáo đọc tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa II) tháng 1 năm 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ "sau những lớp chỉnh huấn, quân đội ta đã tiến bộ khá, điều đó được tỏ rõ trong những thắng lợi vừa qua. Quân đội ta tiến bộ nhiều về tinh thần, về chiến thuật cũng như về kỹ thuật. Họ đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ. Du kích, vận động, công kiên bộ đội ta đều đánh khá, ở vùng đồng bằng, trung du, miền núi họ đều đánh được, cán bộ cũng như chiến sĩ đều tiến bộ. Toàn thể quân. đội tin tưởng vào sự lãnh dạo sáng suốt của Đảng và Chính phủ".

Để đẩy mạnh kháng chiến, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh 2 vấn đề: một là lãnh đạo cuộc kháng chiến, thực hiện 10 chính sách quân sự; hai là phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến tới cải cách ruộng đất.

Trên cơ sở những kinh nghiệm đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang đã được đúc rút trong tám năm kháng chiến, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra phương hướng xây dựng lực lượng, tiến hành các hoạt động chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu trong Đông Xuân 1953-1954. .

Về nhiệm vụ chiến đấu, nghị quyết Trung ương Đảng xác định: "Để tạo điều kiện giải phóng hoàn toàn Bắc Bộ, quân đội ta phải đánh địch ở những nơi địch sơ hở, đồng thời phải hoạt động mạnh sau lưng địch"1. "Bất kỳ ở miền núi hay đồng bằng quân đội ta phải chuẩn bị đánh những lực lượng, những cứ điểm ngày càng mạnh của địch"2. (Chú thích 1, 2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( 25-30. 1. 1953) "

Để đánh thắng thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ và bè lũ Việt gian, bù nhìn chó săn của chúng, ta phải Có một quân đội nhân dân thật mạnh và luôn luôn tiến bộ"3.(Chú thích 3. Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( l-1953)) .

Cùng với việc "thực hiện khẩu hiệu người cày Có ruộng, cải thiện đời sống cho nông dân, bồi dưỡng. lực lượng nhân dân, đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến"1 (Chú thích 1. Thông cáo về Hội nghị Trung ương lần thứ 4 và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Lao động Việt Nam ) việc nâng cao chất lượng lực lượng vũ trang được coi trọng. Các đợt chỉnh huấn chính trị, chỉnh huấn quân sự, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị hậu cần, v.v. thiết thực góp phần nâng cao khả năng chiến đấu của bộ đội ta trên các chiến trường.

Về địch, trong thời gian 8 năm kể từ khi trở lại xâm lược Đông Dương lần thứ hai, chính phủ Pháp đã 17 lần dựng lên đổ xuống, kế hoạch xâm lược của 6 viên tổng chỉ huy theo nhau phá sản, 5 viên cao ủy bị triệu hồi về nước. Bị thất bại liên tiếp về quân sự và trước phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh ngàycàng mạnh của nhân dân Pháp ở trong nước, chính phủ bảo thủ Pháp buộc phải cầu cứu Mỹ, tranh thủ viện trợ để tìm lối thoát danh dự bằng thắng lợi quân sự. Với chính phủ Mỹ đây cũng là thời cơ để can thiệp sâu hơn vào Đông Dương, thực hiện âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh, ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ.

Sau thất bại to ở chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc (đầu và cuối năm 1952 quân Pháp: "thẳng tay bóc lột, áp bức càn quét những vùng du kích và vùng tạm bị chiếm hòng phát triển nguỵ quân, ngụy quyền, thực hiện âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, chúng tìm mọi cách để phá hoại mùa màng và giao thông của ta, một mặt khác chúng lạy lục Mỹ, xin Mỹ viện trợ thêm cho chúng"2. (Chú thích 2. Báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng ( l-1953)) Với sự thỏa thuận của Mỹ, ngày 7 tháng 5 năm 1953 chính phủ Pháp cử tướng Na-va sang thay Xa-lăng làm tổng chỉ huy quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương. Cùng với việc tăng viện trợ, tăng quân, bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp cho ra đời kế hoạch quân sự mới mang tên Kế hoạch Na-va.

Trung tâm của kế hoạch Na-va là tổ chức khối chủ lực cơ động, trao quyền độc lập cho quân ngụy, dùng quân ngụy thay thế quân chiếm đóng, rút quân âu Phi đang làm nhiệm vụ chiếm đóng cùng với số quân mới điều từ Pháp sang làm lực lượng cơ động chiến lược. Kế hoạch chia làm hai bước:

Thu đông năm 1953 và mùa xuân 1954 giữ vững thế phòng ngự chiến lược đồng thời tập trung xây dựng khối chủ lực cơ động. Tránh quyết chiến với ta trên chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam nhằm chiếm đóng vùng tự do Liên khu 5, Tây Nguyên và Nam Bộ.

Đông Xuân 1954-1955, với khối chủ lực đã xây dựng xong sẽ tập trung toàn bộ lực lượng trên chiến trường miền Bắc để quyết chiến với chủ lực ta, giành thắng lợi quân sự quan trọng, tạo bước ngoặt để thoát ra khỏi chiến tranh trên thế thắng.

Với nỗ lực cao nhất, chính phủ Pháp rút 12 tiểu đoàn từ Pháp, Bắc Phi, Triều Tiên tăng viện cho Na-va. Ngụy quyền Bảo Đại tổng động viên, bắt hàng chục nghìn thanh niên vào lính. Chính phủ Mỹ tăng gấp rưỡi viện trợ quân sự cho Pháp. Thu đông 1958-1954, Na-va tập trung được 84 tiểu đoàn cơ động, đưa số quân ngụy lên 384.000 tên. Tháng 8 năm 1953 Na-va dùng máy bay rút toàn bộ quân của tập đoàn cứ điểm Nà Sản về làm quân cơ động. Chúng bố trí 44 trên 84 tiểu đoàn cơ động ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng mở hàng chục cuộc càn quét ở Bắc Bộ, Bình Trị Thiên và Nam Bộ, đánh phá hậu phương ta bằng máy bay, biệt kích và nhảy dù.

Tháng 9 năm 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, quyết tâm giữ vững quyền chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp trên phạm vi cả nước và trên toàn chiến trường Đông Dương. Sau khi nghiên cứu kỹ hai phương án tác chiến và nhận định Tây Bắc Việt Nam và Lào là nơi địch yếu, nhưng chúng không thể bỏ, đưa bộ đội chủ lực lên hướng đó Có khó khăn rất lớn về tiếp tế, nhưng ta sẽ buộc địch phải phân tán lực lượng, Có điều kiện tranh thủ tiêu diệt sinh lực địch, đẩy mạnh hoạt động ở khắp các chiến trường sau lưng địch, tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Trên cơ sở phương hướng chiến lược mà Hội nghị lần thứ 4 Trung ương Đảng đã đề ra, Bộ Chính trị phê chuẩn phương án 2, lấy Tây Bắc là mặt trận chính diện, tập trung các đơn vị bộ đội chủ lực vào mặt trận này.

Để giữ vững quyền chủ động trong mọi tình huống, Bộ Chính trị nhấn mạnh phương châm "tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt" và đề ra nguyên tắc chỉ đạo tác chiến là:

- Tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta.

- Đánh ăn chắc, đánh chắc thắng, đánh tiêu diệt.

- Chọn nơi địch sơ hở mà đánh, chọn nơi địch tương đối yếu mà đánh. Giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán.

Tháng 10 năm 1953, Na-va mở chiến dịch "Hải âu" với 6 binh đoàn cơ động, 9 tiểu đoàn pháo và 3 tiểu đoàn thiết giáp đánh vào Nho Quan (tây nam Ninh Bình) nhằm thu hút chủ lực ta giao chiến ở nơi địch có lợi thế.

Địch đánh ra tây nam Ninh Bình. Ta chỉ dùng một bộ phận chủ lực cùng một số dân quân địa phương và du kích quần nhau với địch ở Nho Quan, đẩy mạnh hoạt động ở sau lưng địch đánh vào hậu cứ các binh đoàn cơ động còn đại bộ phận vẫn khẩn trương tiến hành mọi công tác chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược đông -xuân.

Trung tuần tháng 11, Đại đoàn 316 tiến lên Tây Bắc, trung đoàn 101 (Đại đoàn 325) và trung đoàn 66 đại đoàn 304) tiến sang Trung Lào.

Sự xuất hiện của bộ đội chủ lực ta ở hướng địch bố phòng yếu nhất, sơ hở nhất đã buộc chúng phải đối phó. Ngày 20 tháng 11 năm 1953, Na-va cho sáu tiểu đoàn mở cuộc hành quân Cát-to nhảy dù xuống Điện Biên Phủ. Tiếp đó binh đoàn cơ động số 2 và 2 tiểu đoàn cơ động ở Trung Bộ cũng được điều sang tăng cường cho Trung Lào. Ngày 25 tháng 11, địch dùng 6 tiểu đoàn mở chiến dịch ác-đét-sơ đánh chiếm Mường Khoa, Mường Ngòi xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ.

Trong khi Na-va tăng cường binh lực, củng cố Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, chấp nhận quyết chiến để "nghiền nát chủ lực ta", ngày 6 tháng 12 năm 1953 Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện trận quyết chiến chiến lược.

Sau chỉnh quân đợt 2, Đại đoàn 312 vẫn lặng lẽ giấu quân ở vùng Đại Phạm, Quang Nhiễu, Lương Bằng (phía bắc tỉnh Phú Thọ).

Căn cứ vào phương châm chiến lược và chủ trương của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, Bộ tư lệnh đại đoàn chuẩn bị sẵn phương án đánh địch nếu chúng đánh ra Phú Thọ, Thái Nguyên, Yên Bái. Trong khi chờ nhiệm vụ chính thức, bằng mọi biện pháp đại đoàn phải giấu quân bí mật. Toàn thể cán bộ, chiến sĩ được học tập, đề phòng âm mưu địch trong kế hoạch Na-va, chấp hành nhiệm vụ thật bí mật để chiến thắng. Khi hành quân trong đêm, không được phát ra ánh lửa; bất chợt gặp người quen phải tìm cách lảng tránh, không tiếp xúc trò chuyện. Trú quân trong rừng không ca hát to, nội bất xuất ngoại bất nhập, anh nuôi ra ngoài mua bán phải cải trang mặc quần áo thường dân.

Cùng với việc lãnh đạo quản lý bộ đội thực hiện bảo mật nghiêm ngặt, đại đoàn tập trung chỉ đạo đợt chỉnh huấn chính trị, củng cố tổ chức, huấn luyện theo yêu cầu mới: đánh cứ điểm và tập đoàn cứ điểm.

Về chính trị, cán bộ chiến sĩ từ đại đoàn đến các tiểu đội đều được học tập nâng cao giác ngộ giai cấp. Từ đầu cuộc kháng chiến, các đợt sinh hoạt chính trị đều tập trung vào việc giáo dục lòng yêu nước. Đến đợt sinh hoạt này cán bộ, chiến sĩ được học tập nâng cao giác ngộ giai cấp.

Cũng trong đợt chỉnh huấn này, Bộ điều động hàng trăm cán bộ, giúp đại đoàn kiện toàn đội ngũ cán bộ chỉ huy, đặc biệt là cán bộ ở các đơn vị chủ công.

Cùng với chỉnh huấn chính trị, các đơn vị đẩy mạnh huấn luyện theo hướng đánh tập đoàn cứ điểm, hiệp đồng binh chủng. Những tấm gương chiến đấu của các đơn vị được phân tích, học tập . Các binh chủng được huấn luyện nâng cao trình độ kỹ thuật.

Ngày 10 tháng 12 năm 1953, Đại đoàn 308 tiến đánh Lai Châu mở màn cuộc tiến công chiến lược. Na-va buộc phải đổ thêm 6 tiểu đoàn quân cơ động xuống Điện Biên Phủ xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm mạnh.

Giữa tháng 12 năm 1953 Đại đoàn 312 nhận lệnh hành quân lên Tây Bắc. trên đường hành quân cán bộ, chiến sĩ đại đoàn vô cùng phấn khởi nhận được th¬ư động viên của Bác:

"Năm nay sau những cuộc chỉnh huấn chính trị và quân sự, các chú đã tiến bộ hơn. Các chú phải chiến đấu anh dũng hơn, chịu đựng gian khổ hơn, phải giữ vững quyết tâm trong mọi hoàn cảnh.

- Quyết tâm tiêu diệt địch

- Quyết tâm giữ vững chính sách

- Quyết tâm giành nhiều thắng lợi"

Trên đường hành quân, đại đoàn chuẩn bị sẵn sàng phương án nếu địch đánh ra Phú Thọ thì gấp rút quay lại để diệt địch. Đảng ủy đại đoàn họp ở Đại Phán để bàn biện pháp lãnh đạo hành quân nhanh chóng với 4 yêu cầu: ăn tốt, ngủ tốt, tổ chức lực lượng mang vác trang bị hợp lý, hành quân tốt bảo đảm thời gian, bảo đảm chặng đường, bảo đảm sức khỏe, không để tổn thất dọc đường. Vừa hành quân, đại đoàn vừa triển khai nhiều công việc như cử một đoàn cán bộ đi trước điều tra, nghiên cứu địch, địa hình và bảo đảm đường xá phía trước; biên chế một số phân đội, rút bớt quân ở các đại đội trợ chiến, súng cối phòng không bổ sung cho các đơn vị bảo đảm cầu đường, vận tải. Đại đoàn còn được bổ sung 1.225 dân công. Đây là cuộc hành quân lớn nhất kể từ ngày đại đoàn được thành lập. Từ vùng tự do hậu phương Phú Thọ lên Điện Biên Phủ, đường xa hơn 500 ki-lô-mét, trung bình mỗi cán bộ chiến sĩ mang 30 ki-lô-gam trên vai. Phát hiện địch tung gián điệp dò xét hoạt động của đại đoàn để phán đoán hướng tiến công của ta, việc bí mật trên đường hành quân càng. được đặt ra một cách gắt gao. Để thực hiện yêu cấu: ."Không bỏ sót một người nào ở dọc đường, không để lộ dấu vết của đại đoàn trên đường tiến quân", các đơn vị đều có sáng kiến làm thêm cáng tre để khênh cáng những đồng chí ốm yếu, cử người ngụy trang và xóa dấu vết trên các chặng đường.

Đại đoàn còn áp dụng một loạt biện pháp khác để giữ bí mật. Trong cùng một đêm mỗi trung đoàn vượt sông Hồng trên một bến thuyền khác nhau, lặng lẽ, nhanh chóng, gọn gàng. Quá trình vượt sông không để lộ một ánh lửa, không một tiếng gọi. Hàng trăm chiếc đò âm thầm đưa bộ đội qua sông như những con thoi. Mỗi đêm, hàng trăm chiếc thuyền được tập trung về bến, nhưng trước khi trời sáng bến sông lại vắng teo như trước đó chẳng hề có một chiếc thuyền nào.

Qua sông, đoàn quân lặng lẽ nối nhau đi trong đêm khuya dưới những rặng tre, hàng cọ. Nhiều cán bộ, chiến sĩ đi qua ngay trước cửa nhà mình lòng dậy lên bao xao xuyến nhớ thương nhưng chấp hành kỷ luật "bí mật để chiến thắng" họ chỉ lặng lẽ ngả mũ chào như thầm hẹn với quê hương sẽ gặp lại sau ngày chiến thắng.

Càng lên miền Tây Bắc không khí chuẩn bị chiến trường càng sôi động. Đường qua Thượng Bằng La, đèo Lũng Lô năm trước còn âm u rậm rạp giờ đã được mở rộng. Trên đèo Phiềng Bạn dân công miền ngược, miền xuôi gánh gồng tấp nập. Ra đường 41 gặp những đoàn. ô tô vận tải và xe kéo pháo. Dưới ánh sáng chập chờn của đèn dù và tiếng ầm ào của máy bay tuần tiễu, của pháo cầm canh, các hoạt động của bộ đội và dân công vẫn không ngừng nghỉ. Hành quân vất vả gian lao không sao kể xiết, nhưng nghe tin chiến thắng từ các chiến trường, các đoàn quân, bộ đội và dân công bừng bừng không khí ra trận.

Ngày 21 tháng 12 năm 1953 ta và bạn phối hợp tiến công địch ở Trung Lào. Sau 5 ngày chiến đấu liên quân Lào - Việt diệt 4 tiểu đoàn địch, giải phóng Thà Khét và hầu hết vùng Trung Lào, cắt đứt đường số 9. Na-va vội vàng điều 5 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên xây dựng tập đoàn cứ điểm mới ở Sê-nô.

Ngày 30 tháng 12, ta tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch ở A-tô-pơ (Hạ Lào) giải phóng cao nguyên Bô-lô-ven và thị xã A-tô-pơ. Na-va lại phải điều 4 tiểu đoàn tăng cường cho thị xã Pắc Xế để chặn ta.

Khối chủ lực cơ động của địch bị xé lẻ và bị giam chân ở nhiều nơi, không thể ứng cứu cho nhau. Chiến tranh du kích phát triển mạnh ở đồng bằng sông Hồng, Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ. Các trận tập kích sân bay Gia Lâm, Cát Bi, Ninh Hòa, Tân Sơn Nhất, diệt nhiều máy bay gây chấn động lớn, hạn chế hoạt động của không quân địch.

Ở hậu phương, việc phát động quần chúng nông dân triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức, chia lại công điền, chia ruộng đất của thực dân Pháp và Việt gian cho nông dân, thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất1 (Chú thích 1. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa II) họp từ ngày 25 đến 30 tháng 1 năm 1953) thu được nhiều thắng lợi. Dân cày Có ruộng phấn khởi tăng gia sản xuất ủng hộ kháng chiến. Hàng vạn thanh niên hăng hái tòng quân, đi dân công phục vụ chiến dịch. Hàng nghìn tấn lúa gạo, thực phẩm cùng các phương tiện vận chuyển được huy động cho Điện Biên Phủ2. (Chú thích 2. Nhân dân đã đóng góp 27.400 tấn gạo, hơn 2 vạn xe đạp thồ, 26 vạn dân công với hơn 3 triệu ngày công phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.) Nhiều cán bộ chiến sĩ gặp người nhà, biết tin vui ở hậu phương, càng thêm phấn khởi, tin tưởng, hăng hái chiến đấu lập công.

Gần một tháng trời hành quân trong mưa gió rét buốt, lại bị địch đánh phá liên tục chặn đường, cán bộ,..chiến sĩ Đại đoàn 312 đã vượt qua hơn 500 cây số đến vị trí tập kết ở khu vực cây số 15 đường Tuần Giáo -Điện Biên an toàn. Vượt qua thử thách này, cán bộ chiến sĩ đại đoàn được rèn luyện và càng thêm tin tưởng ở chiến thắng. 2. Kéo pháo vào và ra. Trận Him Lam mở màn chiến dịch.

Trong khi các đại đoàn của ta hành quân lên Điện Biên Phủ, địch cũng tập trung cố gắng tăng cường mọi khả năng cho tập đoàn cứ điểm này. Chúng ráo riết xây dựng trận địa, hào giao thông, sở chỉ huy kiên cố. Chúng triệt phá nhiều làng bản của dân để lấy vật liệu, mỗi ngày dùng từ 100 đến 200 chuyến máy bay vận tải chở khoảng 150 đến 300 tấn hàng lên Điện Biên. Hàng nghìn tấn dây thép gai, các bộ phận xe tăng, pháo lớn cũng được địch thả xuống lắp ráp ngay tại Điện Biên Phủ. Sân bay được mở rộng, các điểm cao phía bắc, phía đông được xây dựng thành những cứ điểm kiên cố. Địch tiếp tục đưa thêm lực lượng và nhiều loại vũ khí phương tiện mới đến Điện Biên Phủ1.(Chú thích 1. Số quân địch ở Điện Biên Phủ lên tới 16.200 tên, 40 khẩu pháo, cối từ 105 đến 155 ly, 10 xe tăng M24, một phi đội không quân thường trực 14 chiếc và nhiều loại vũ khí đặc biệt như súng phun lửa, trọng liên nhiều nòng, mìn, na-pan, các dụng cụ quang học, hồng ngoại để quan sát, bắn đêm...)

Địch bố trí trong 49 cứ điểm, tổ chức thành tám cụm. Mỗi cụm cứ điểm là một hệ thống hỏa lực nhiều tầng Có nhiều chiến hào ngang dọc, một số cứ điểm Có hầm ngầm. Các cứ điểm đều Có hàng rào dây kẽm gai bao bọc xung quanh dày từ 50 đến 200 mét, xen kẽ giữa các lớp hàng rào là các bãi mìn. Chúng bố trí lực lượng phòng ngự thành 3 phân khu.

Phân khu Trung tâm ở Mường Thanh, tập trung hai phần ba lực lượng địch, Có cơ quan chỉ huy, trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay và hệ thống cứ điểm bố trí trên các điểm cao ở phía đông.

Phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo cùng với cụm cứ điểm Him Lam (thuộc phân khu Trung tâm), hình thành ba trung tâm đề kháng bảo vệ Điện Biên Phủ trên hướng bắc.

Phân khu Nam là một cứ điểm Có trận địa pháo và sân bay Hồng Cúm, ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam. Với hai trận địa pháo bố trí ở Mường Thanh, Hồng Cúm và hai sân bay nối liền với Hà Nội, Hải Phòng bằng một cầu hàng không, khi cần thiết được 80 phần trăm lực lượng không quân ở Đông Dương chi viện, tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ là "một tập đoàn cứ điểm đáng sợ ", "một pháo đài bất khả xâm phạm", "mộtVéc-đoong ở Đông Nam Á .

Đầu tháng 1 năm 1954, tại hội nghị ở cây số 15 đường Tuần Giáo - Điện Biên, Bộ chí huy chiến dịch nhận định: chỗ mạnh của địch là lực lượng nhiều, chỉ huy thống nhất trong tập đoàn. Tuy vậy chúng bố trí phân tán, phía đông bắc mạnh, phía tây bắc sơ hở, tinh thần hoang mang vì đã thất bại nhiều trên chiến trường rừng núi.

Trước trận chiến đấu, nếu ta không giữ được bí mật, địch Có thể thay đổi bố trí lực lượng, hướng sơ hở Có thể được tăng thêm binh lực. Địch Có thể tổ chức những cuộc phản kích phá sự chuẩn bị tiến công của ta. Nếu kéo dài chiến dịch chúng Có thể đưa thêm quân tiếp viện. Căn cứ vào nhận định trên, Tổng quân ủy đề ra phương châm tác chiến là: "đánh nhanh, giải quyết nhanh".

Thực hiện phương châm trên, ta chủ trương: tập trung ưu thế binh lực, hỏa lực từ phía tây đột phá nhanh vào trung tâm, tiêu diệt quân địch ở các cứ điểm phía tây và tây bắc.

Đại đoàn 312 được phân công nhiệm vụ tiêu diệt đồi Độc Lập, Bản Kéo, Kang-na rồi phát triển chiến đấu tiêu diệt toàn bộ quân địch trong khu vực sân bay, gồm các cứ điểm 105, 203, 205, 206, 207, 309. Để thực hiện nhiệm vụ trên đại đoàn được phối thuộc một đại đội sơn pháo 75, một đại đội cối 120, một đại đội cối 82.

Khi hành quân đến vị trí tập kết đại đoàn nhận nhiệm vụ làm đường kéo pháo vào trận địa, đi qua những ngọn núi cheo leo dốc cao đến 60, 70 độ, qua vực thẳm...phải lấy đá, đắp thành kè cho pháo qua. Ngày 17 tháng 1 năm 1954 ta bắt đầu đưa pháo từ đường Tuần Giáo vào trận địa. Mỗi khẩu pháo phải dùng đến 150 người kéo Khi đưa hàng tấn thép lên dốc anh em vừa kéo vừa chèn cho pháo khỏi tụt. Theo khẩu lệnh "hai... ba" sau mỗi nhịp kéo, pháo chỉ nhích lên chừng 20-30 cen-ti-mét. Cứ như thế trong đêm đông gió rét mà mồ hôi nhễ nhại thấm qua áo bông, các chiến sĩ kéo từng khẩu pháo vào trận địa. Mỗi đêm nếu đường ít dốc và khô ráo thì kéo được pháo nhích lên khoảng 3 ki-lô-mét. Nếu gặp trời mưa, đường lấy lội thì Có đêm chỉ kéo được 500 mét. Kéo pháo lên dốc đã vất vả. xuống dốc càng vất vả hơn. Đường chạy quanh theo vách núi cheo leo, nguy hiểm, một bên vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm. Khi pháo xuống dốc hàng trăm người giữ đằng sau thả dây, đằng trước chèn giữ cho pháo đi đúng hướng. Anh em phát huy sáng kiến làm tời buộc dây kéo pháo vào trục rồi thả dần, vừa thả vừa chèn để pháo khỏi lao nhanh nguy hiểm, nhất là ở những quãng đường hẹp chỉ vừa 2 bánh pháo. Tuy đã kéo pháo suốt đêm nhưng ở những quãng rừng rậm các đơn vị vẫn tranh thủ kéo pháo ban ngày. Anh em lấy giang, nứa bện chão làm dây kéo pháo, chặt cây để ngụy trang. Có những quãng đường quang bộ đội phải làm giàn lấy cây phủ lên để giữ bí mật con đường. Ngày nắng, cây khô, lại phải thay. Có những quãng đường anh em phải đào cả một bụi nứa trồng ngụy trang. Lấy cây, lấy lá ngụy trang cũng phải lấy xa đường, xa chỗ trú quân để đánh lạc sự nghi ngờ của máy bay địch. Sau hơn một tuần, tranh thủ cả ngày lẫn đêm các trung đoàn đã hoàn thành việc kéo pháo vào trận địa. Ngay sau đó, đại đoàn bắt tay vào nhiệm vụ chuẩn bị đánh vào hướng đông nam sân bay, đồi Độc Lập và Bản Kéo.

Trung đoàn 209 nhận nhiệm vụ đánh vào đông nam sân bay đồng thời phát triển 1 mũi vào trung tâm phối hợp với trung đoàn 165 đánh cứ điểm Độc Lập. Sau đó cả 2 đơn vị phát triển vào chiếm sân bay, trung đoàn 141 đánh Bản Kéo.

Những ngày sau đó, phát hiện địch tăng cường mạnh hơn trước, bố trí của địch ở phía tây mạnh hơn, công tác chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị gặp nhiều khó khăn nên trưa ngày 26 tháng 1 năm 1954 Đảng ủy mặt trận họp nhất trí với đồng chí chỉ huy trưởng thay đổi phương châm "đánh nhanh giải quyết nhanh" bằng "đánh chắc tiến chắc" .

Việc xác định phương châm "đánh chắc, tiến chắc" dựa trên cơ sở phân tích tình hình thực tế chiến trường ở Điện Biên Phủ, địch đã tăng cường lực lượng và tổ chức phòng ngự vững chắc nếu đánh nhanh thắng nhanh thì khó bảo đảm thắng lợi. Đánh chắc tiến chắc là đánh từng bước để có thể tập trung tuyệt đối binh hỏa lực cao bảo đảm chắc thắng cho từng trận chiến đấu, tiến tới bảo đảm chắc thắng cho toàn chiến dịch. Ta giữ chủ động hoàn toàn, chuẩn bị đầy đủ và chắc thắng thì đánh, chuẩn bị chưa đủ, chưa chắc thắng thì chưa đánh. Do vậy chuyển phương châm chiến dịch từ "đánh nhanh giải quyết nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc" là chủ trương chính xác kịp thời và kiên quyết.

Thực hiện phương châm "đánh chắc, tiến chắc" mọi công việc chuẩn bị và thời gian chiến dịch sẽ phải kéo dài, nhiều khó khăn lớn đặt ra phải khắc phục. Do phương châm tác chiến mới nên mọi kế hoạch cũ đều phải thay đồi. Đại đoàn được lệnh kéo pháo ra đường 13. Trong cán bộ, chiến sĩ có biểu hiện hoang mang. Sau khi các đồng chí chính ủy trung đoàn trở lên đi họp về phổ biến phương châm tác chiến và nhiệm vụ mới, quán triệt sâu rộng tư tưởng chỉ đạo và quyết tâm đánh chắc thắng tư tưởng bộ đội thông suốt, quyết tâm chiến đấu được đề cao.

Để lãnh đạo kéo pháo ra, Bộ quyết định thành lập Ban chỉ huy kéo pháo gồm các đồng chí Tư lệnh pháo binh và đồng chí Lê Trọng Tấn - Đại đoàn trưởng Đại đoàn 312. Ngay trong phiên họp đầu tiên Ban chỉ huy đã bàn nhiều biện pháp lãnh đạo tư tưởng bộ đội, kéo pháo vào đã khó, kéo pháo ra còn khó gấp trăm lần, đặc biệt nhấn mạnh lãnh đạo kéo pháo ra an toàn.

Nhằm đánh lạc hướng phán đoán của địch, cô lập hơn nữa tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho các đơn vị kéo pháo ra và tiếp tục công tác chuẩn bị, ngay chiều ngày 26 tháng 1 năm 1954, Đại đoàn 308 được lệnh mở cuộc tiến công mới vào phòng tuyến địch ở lưu vực sông Nậm Hu (Thượng Lào).

Ngày 27 tháng 1, Đại đoàn 312 bắt đầu kéo pháo ra qua những đoạn đường dốc cao hiểm trở. Đường kéo pháo ngày càng bị lội vì hàng ngàn vạn người đi qua. Trong lúc đại đội 21 đang kéo pháo, người tập trung đông nghịt, đại bác địch bắn trúng vào giữa đội hình. Bảy chiến sĩ hy sinh, nhiều đồng chí bị thương, nhưng tất cả vẫn nắm chắc dây kéo pháo.

Nhiệm vụ kéo pháo ra gian nan, nguy hiểm. Các đại đội, tiểu đoàn lác đác có chiến sĩ cáo ốm bỏ nhiệm vụ. Nhưng rất nhiều chiến sĩ dù bị ốm sốt liên miên, không ăn uống, cán bộ cho nghỉ vẫn xung phong ra trận địa như đồng chí Lương Văn Vong, đảng viên mới kết nạp trên đường hành quân lên Điện Biên Phủ.

Ngày này qua đêm khác, nhiều chiến sĩ thức trắng, ăn uống thiếu thốn vẫn không rời vị trí dù phải đi đào củ mài, lấy bắp chuối, nõn chuối, rau rừng ăn thêm, nhưng anh em vẫn động viên giúp đỡ nhau quyết tâm làm tròn nhiệm vụ. Có lần 5 khẩu pháo do tiểu đoàn 130 kéo đang nằm ở lưng chừng dốc, bên cạnh khu đồi gianh, phi cơ địch ném bom, cỏ tranh bốc cháy lửa đỏ rực. Trong khi đó đại bác địch vẫn bắn chặn đường. Đồng chí Trần Can dẫn đầu tiểu đội xông ra dập lửa cứu pháo. Noi gương Trần Can nhiều đồng chí ở tiểu đoàn bạn cũng xông ra giúp sức. Lúc thường 40 đồng chí kéo pháo rất khó nhọc, nhưng trong bom đạn anh em như được tăng thêm sức mạnh mới. Tiểu đoàn 130 đưa được 5 khẩu pháo vượt dốc an toàn, nhìn lại mới thấy nhiều đồng chí quần áo cháy xém, tay chân bật máu.

Những ngày cuối tháng trời tối đen như mực, đường cheo leo, việc kéo pháo càng nặng nhọc, đổ cả mồ hôi và máu. ở đơn vị bạn đồng chí Tô Vĩnh Diện đã hy sinh thân mình cứu pháo. Gương hy sinh anh dũng của anh cổ vũ tinh thần kéo pháo của toàn mặt trận.

Trong những ngày kéo pháo gian khổ đó, nhân dân hậu phương đã gửi hàng ngàn lá thư, tặng phẩm, bánh chưng ra tiền tuyến cho bộ đội ăn tết. Các đơn vị đã phát động phong trào thi đua "lập công mừng xuân mới" quyết tâm kéo pháo ra trước tết.

Để động viên bộ đội đồng chí Hoàng Vân, đội trưởng văn công của đại đoàn đã sáng tác bài Hò kéo pháo ngay tại trận địa:.

Dốc núi cao cao nhưng lòng quyết tâm còn cao hơn núi

Vực sâu thăm thẳm, vực nào sâu bằng chí căm thù...

Bài hát ca ngợi tinh thần dũng cảm, tinh thần cách mạng của quân đội nhân dân nêu cao truyền thống anh dũng, chiến thắng của Đại đoàn 312.

Ngày 5 tháng 2 năm 1954 đại đoàn hoàn thành nhiệm vụ kéo pháo ra cây số 70 đường Tuần Giáo.

Trong thời gian kéo pháo riêng trung đoàn 141 có 29 đồng chí hy sinh, 106 đồng chí bị thương. Đại đội 366 (trung đoàn 209), đại đội 243 (trung đoàn 141 được Bộ Tổng tư lệnh tặng thưởng huân chương Chiến công hạng ba, trung đoàn 209 được phái đoàn nhân dân Tây Bắc và phái đoàn Bộ Tổng tư lệnh do Đại tướng Võ Nguyên Giáp dẫn đầu đến thăm.

Trong khi ta kéo pháo vào và ra, địch liên tiếp mở nhiều đợt tấn công nhằm thăm dò lực lượng ta, mở rộng phạm vi kiểm soát, ngăn chặn ta triển khai lực lượng. Nhiều trận chiến đấu đã diễn ra ác liệt

Trận đồi 75 lần thứ nhất diễn ra ngày 17 tháng 1 năm 1 954 khi trung đoàn 165 do trung đoàn trưởng Lê Thùy chỉ huy bí mật vượt dãy Tà Lèng vào sát Điện Biên phủ làm trận địa cho pháo binh và chuẩn bị xây dựng trận địa đứng chân của trung đoàn.

Trung đội của đồng chí Trần Độ gồm 32 người (kể cả đồng chí Phạm Đội Trưởng là đại đội phó được giao chỉ huy chung) được tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 542 giao nhiệm vụ tổ chức phòng ngự đồi 75 bảo vệ trận địa pháo của trung đoàn.

Ngay sau khi trung đội xây dựng trận địa, địch cho 2 tiểu đoàn có 3 xe tăng đi cùng đánh vào đồi 75.

Trận chiến đấu kéo dài suốt một ngày. Buổi sáng địch tổ chức 5 đợt xung phong đều bị ta đánh tan. Không chiếm được trận địa của ta, buổi chiều địch liên tục bắn đại bác vào vị trí ta, chúng còn cho máy bay thả bom và bắn đạn nổ trên không, khi ngớt phi pháo, địch tổ chức nhiều mũi đánh vào trận địa ta. Trận chiến đấu diễn ra ác liệt. Đồng chí Lộc. bị thương gãy tay vẫn hăng hái chiến đấu, dùng cánh tay còn lại ném lựu đạn, diệt được một ổ súng máy địch. Đồng chí Mai bị thương gãy chân vẫn cố lê người tiếp đạn cho đồng đội. Đồng chí Học chiến sĩ liên lạc nhiều lần luồn qua lửa đạn, bị thương vào ngực, vào tay vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ truyền lệnh cho đến khi hy sinh. Đồng chí Hồng cứu thương kiêm liên lạc cho trung đội xông xáo khắp nơi, vừa băng bó cho đồng đội vừa trực tiếp cầm súng đánh giặc Tổ ba người: Vinh, Ba, Viên đều bị thương, vẫn tiếp tục chiến đấu đánh lui đợt tiến công thứ 6 rồi thứ 7 của địch, chúng bỏ lại trận địa hơn 200 xác chết. Trận địa được giữ vững nhưng toàn trung đội cũng chỉ còn 5 đồng chí. Cấp trên điện biểu dương kịp thời và tặng thưởng huân chương cho trung đội.

Để tăng cường lực lượng bảo vệ đồi 75 tiểu đoàn 542 tiếp tục điều lực lượng vào thay. Những ngày sau đó, trung đội do đồng chí Mỡ chỉ huy đã kiên cường chiến đấu đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, Có trận đồng chí Lâm Văn Vướng dùng súng trường chặn đứng một mũi tiến công của địch diệt 32 tên. Trung đội trưởng hi sinh, trung đội phó bị thương 2 lần, trung liên có 2 khẩu hỏng 1, quân số bị thương vong hơn một nửa, anh em còn lại vẫn động viên nhau "'Quyết giữ vững trận địa đến cùng, còn một người còn đánh'. Máy bay giặc đến anh em tập trung súng trường, trung liên bắn máy bay. Bộ binh địch lên, các tổ phân công nhau chặn địch. Anh em đã phòng ngự ngoan cường, dũng cảm giữ vững được trận địa tạo điều kiện cho các đơn vị của đại đoàn kéo pháo ra. Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, trung đội của đồng chí Mỡ được thưởng huân chương Chiến công hạng nhất, trong số 35 đồng chí, 28 người được đề nghị tặng huân chương.

Học tập tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sĩ ở đồi 75 ngày 12 tháng 2 năm 1954 trên đồi 674 tiểu đội do đồng chí Mai chỉ huy và 5 chiến sĩ quân báo của trung đoàn 141 đánh bật 4 đợt tấn công của một đại đội địch, diệt 30 tên.

Bị thua đau, ngày 15 tháng 2, địch huy động 3 tiểu đoàn tấn công lên đồi 674. Bên ta, trung đội của đồng chí Trần Oanh có 45 đồng chí phòng ngự trên 2 mỏm đồi do đồng chí Thân, đại đội phó chỉ huy. Ngày hôm đó địch xung phong 12 lần, nhưng đợt nào cũng bị ta đánh không tiến lên được. Có những đợt ta cứ để cho chúng bò lên thật gần mới bắn và ném lựu đạn. Anh em ném lựu đạn kiểu tung bóng lên cao khi lựu đạn rơi xuống nổ ngang trên đầu, làm cho địch rất hoảng sợ Đống chí Châu bị thương không bắn được vẫn ở lại tham gia chiến đấu, nạp đạn cho đồng đội. Đồng chí đại đội phó Thân vừa chỉ huy các hướng phòng ngự vừa bắn tiểu liên, ném lựu đạn diệt địch. Anh đã hy sinh anh dũng khi quân ta đập tan đợt xung phong cuối cùng của địch trong ngày. Trận này ta diệt 100 tên, trong đó có một quan ba, hai quan hai.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ kéo pháo, đại đoàn khẩn trương hoàn thành các công tác chuẩn bị chiến đấu các trung đoàn đều làm thêm đường để pháo binh có thể cơ động chiến đấu trong mọi tình huống và xây dựng trận địa pháo. Ngoài trận địa chính kiên cố có trận địa nghi binh để thu hút sự theo dõi của địch. Trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, các đơn vị vẫn chú trọng chăm lo đời sống, nâng cao sức khỏe bộ đội, giữ vững quân số chiến đấu, tranh thủ học tập kỹ thuật, hiệp đồng với pháo, học cách cấu trúc trận địa...

Ngày 22 tháng 2 năm 1954, Tổng quân ủy triệu tập hội nghị kiểm tra mọi mặt công tác chuẩn bị. Nhận thấy thời kỳ thứ nhất đã chuẩn bị xong, Tổng quân ủy đề ra quyết tâm: tiêu diệt Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Sau đó tiếp tục tiêu diệt địch ở khu vực Mường Thanh, khống chế sân bay, chặn tiếp tế, tiếp tục tiêu diệt thêm sinh lực địch, chiếm những cứ điểm ngoại vi, thu hẹp phạm vi chiếm đóng, tạo điều kiện tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Đại đoàn 312 được phối thuộc 2 đại đội cối 120, 2 đại đội cối 82, 2 đại đội sơn pháo 75, 2 đại đội lựu pháo 105 được Bộ Tổng tư lệnh giao nhiệm vụ tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch.

Trung đoàn 165 (Đại đoàn 312) phối hợp với trung đoàn 88 (Đại đoàn 308), do Đại đoàn 308 chỉ huy tiêu diệt cứ điểm Độc Lập.

Nhận nhiệm vụ đánh Him Lam, đại đoàn bắt tay ngay vào việc xây dựng cấu trúc trận địa, đào giao thông hào để chuyển lương thực, vũ khí, đào hầm chỉ huy, đào hầm để ở, hầm cho cấp dưỡng nấu cơm, hầm mổ thương binh, hầm pha chế thuốc, hầm cho thương binh nằm... Tại mặt trận có đú các loại hầm: hầm vuông cho tổ ba người nằm, hầm chữ thập để học tập, họp hành, hầm.. tương đối rộng để có thể xem và nghe các anh chị em văn công biểu diễn các tiết mục nhỏ.. . Giao thông hào chiến đấu bao vây các đồn ngoại vi chuẩn bị cho bộ đội tiến công.

Cuộc sống gian khổ, khó khăn nhưng các chiến sĩ vẫn lạc quan tin tưởng. Nhiều tờ báo dán ở vách hào nói lên tinh thần anh dũng chiến đấu, chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn của đơn vị.

Sau những lúc chiến đấu gay go, ác liệt, khi trở về hầm các chiến sĩ tranh thủ nghỉ ngơi, vui chơi và chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới .

Đồng thời với việc xây dựng công sự trận địa, việc chuẩn bị đánh Him Lam, Độc Lập được tiến hành khẩn trương và tỉ mỉ. Nhận rõ ý nghĩa to lớn của trận Him~Lam, Độc Lập, Đảng ủy đại đoàn đã họp quán triệt quyết tâm của Trung ương Đảng, Tổng quân ủy kiên quyết đánh thắng trận đầu. Phân tích tình hình địch, địa hình, khả năng tác chiến của hai trung đoàn 141 và 209, Đảng ủy và Chỉ huy đại đoàn quyết định sử dụng trung đoàn 141 tiến công trên hướng chủ yếu (tiểu đoàn 11 và 428 đánh mỏm 1 và 2, tiểu đoàn 16 làm dự bị),- tiều đoàn 130 (trung đoàn 209) đánh mỏm 3, tiểu đoàn 154 chặn viện, tiểu đoàn 166 làm lực lượng dự bị của đại đoàn. Cùng với kế hoạch quân sự, các đơn vị đều học tập thấm nhuần quyết tâm của Tổng quân ủy và Đảng úy đại đoàn về các chính sách đối với thương binh, tử sĩ và tù hàng binh.

Để đảm bảo đánh chắc thắng trong trận chiến đấu mở đấu chiến dịch, sau khi nắm tình hình triển khai mọi mặt của các đơn vị, Đảng ủy họp lần thứ hai ở ki-lô-mét 74. Cuộc họp này có đồng chí Lê Liêm, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cùng dự. Hội nghị xem xét việc chuẩn bị chiến đấu và kế hoạch tác chiến cụ thể của các đơn vị, phân công đồng chí Đàm Quang Trung xuống trung đoàn 165, đồng chí Trần Độ xuống trung đoàn 141, đồng chí Lê Trọng Tấn xuống đại đội 366 chủ công của trung đoàn 209 để kiểm tra giúp đỡ đơn vị ở đơn vị,

Các chi bộ đảng các tiểu đội, các tổ ba người, rồi đến từng cá nhân, đều làm quyết tâm thư, đăng ký lập công. Cựu binh phổ biến kinh nghiệm cho tân binh. Cán bộ trung đội, đại đội, phân công đi sát giúp đỡ từng người. Từng tổ chuyền tay nhau đọc những chuyện chiến đấu như: trận Xta-lin-grat, Thượng Cam Lĩnh, bài thơ Đêm nay Bác không ngủ!' . . . Trong 7 ngày đêm chuẩn bị, nhiệm vụ kế hoạch tác chiến được đem ra bàn bạc rộng rãi phát huy dân chủ. Vũ khí, bộc phá được kiểm tra nhiều lần.

Ngày 11 tháng 3 năm 1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư¬ cho các chiến sĩ tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ:

"Các chú sắp ra trận, nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn khó khăn nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh huấn chính trị và quân sự, và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới.

Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng nhữngđơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.

Chúc các chú thắng to

Bác hôn các chú"1

(Chú thích 1 Hồ Chủ tịch với các lực lượng vũ trang nhân dân, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1962, tr. 152.)

Tiếp sau thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đảng ủy và Bộ tư lệnh đại đoàn cũng gửi thư động viên bộ đội.

Trong khi ta tích cực chuẩn bị để mở cuộc tiến công chiến lược tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì địch mở chiến dịch át-lăng đánh ra Quy Nhơn, thực hiện âm mưu phản công giành lại quyền chủ động và hoàn thành bước thứ 2 của kế hoạch Na-va.

Ngày 12 tháng 3, địch bắt đầu đánh ra Quy Nhơn, vùng tự do của ta ở Liên khu 5.

Ngày 13 tháng 3 năm 1954 quân ta mở cuộc tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Cứ điểm Him Lam cách Mường Thanh 2,5 ki-lô-mét về phía đông bắc do 1 tiểu đoàn lính lê dương và 1 đại đội ngụy Thái chiếm giữ, ngăn chặn ta tiến công từ phía đông bắc và từ Tuần Giáo vào trung tâm tập đoàn cứ điểm. Him Lam gồm 3 cứ điểm xây dựng trên 3 quả đồi là vị trí then chốt che chở cho sân bay và khu Mường Thanh. Tại đây địch đã xây dựng công sự rất vững chắc, xung quanh mỗi cứ điểm là các bãi dây kẽm gai chằng chịt Có chỗ dày tới 70 mét. Xen kẽ giữa các lớp rào kẽm gai là các loại mìn. Lính địch ở Him Lam được trang bị nhiều vũ khí phương tiện tối tân như máy nhìn đêm, máy nghe tiếng động từ xa. .. Đờ Cát -xtơ-ri cho Him Lam là vị trí bất khả xâm phạm. Tên thiếu úy Giắc-cơ1 (Chú thích 1.

Trong trận phục kích đầu tháng 3 năm 1954, tổ quân báo của đồng chí Lư bắt được thiếu úy Giắc -cơ và 3 lính Âu Phi.) bị bắt làm tù binh khuyên ta: "không nên đánh vào Him Lam".

Trong khi bộ đội ta xây dựng trận địa, nhiều lần địch đánh ra thăm dò. Đêm 11 tháng 3, ta đào hào xây dựng trận địa xuất phát xung phong. Sáng 12, địch cho quân có xe tăng, xe ủi đất ra lấp trận địa. Máy bay, pháo binh địch bắn phá ác liệt vào các cửa rừng, hốc núi, nơi nghi ngờ có quân ta.

Đêm 12 tháng 3, tranh thủ sương mù dày đặc bộ đội ta tiếp tục đào hào, xây dựng trận địa. Trưa ngày 13, địch cho 1 tiểu đoàn có 5 xe tăng yểm hộ cùng 1 xe ủi đất nống ra trận địa đại đội 670 và tiểu đoàn 428. Ta dùng lựu pháo chi viện cho các đơn vị bảo vệ trận địa, sau đó sử dụng pháo tập kích Him Lam, sân bay Mường Thanh, bắn cháy 2 phi cơ trinh sát và 1 phi cơ vận tải đỗ trên sân bay, phá một số công sự địch.

15 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1954, trên hướng chủ yếu trung đoàn 141 do trung đoàn trưởng Quang Tuyến, chính úy Mạc Ninh chỉ huy theo các đường hào tiến về cứ điểm Him Lam. Pháo binh địch liên tục bắn chặn từ sông Nậm Rộm đến đồi 674. Khi hai tiểu đoàn 428 và 11 vượt qua cầu Chim (do công binh ta bắc) nhiều cán bộ, chiến sĩ bị thương vong vì pháo địch.

Mặc pháo địch bắn như mưa, đồng chí Chất - chính trị viên đại đội 243 vẫn đứng bên đầu cầu động viên và tổ chức bộ đội vượt sông nhanh gọn. Đại đội hỏa lực của tiểu đoàn 428 đang tiến vào chiếm lĩnh trận địa trên mỏm đồi đối diện với hướng tiến công chủ yếu thì bị pháo địch bắn trùm lên đội hình. Đại đội trưởng, đại đội phó hy sinh, ĐKZ bị hỏng 1 khẩu, nhưng toàn đại đội vẫn kiên quyết chấp hành mệnh lệnh, vượt qua hỏa lực ngăn chặn vào chiếm lĩnh đúng vị trí. Tiểu đoàn trưởng Trần Huy Toàn, chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Xuyên. bất chấp nguy hiểm đến từng đơn vị động viên, tổ chức bộ đội vào chiếm lĩnh đúng thời gian.

Trên hướng phối hợp, trung đoàn 209 do trung đoàn trưởng Hoàng Cầm, chính ủy Trần Quân Lập chỉ huy dũng cảm vượt qua bom pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Vào lúc 16 giờ 30 phút, tiểu đoàn 130 áp sát phía đông mỏm 3.

17 giờ ngày 13 tháng 3, trên cả 2 hướng các đơn vị của đại đoàn chiếm lĩnh xong trận địa xuất phát xung phong cũng là lúc pháo binh ta dồn dập bắn vào Him Lam, phân khu trung tâm, sân bay Mường Thanh. Chỉ huy trưởng phân khu trung tâm (trung tá Gô-sê) bị chết ngay từ loạt đạn đầu. Sau 30 phút pháo ta chuyển làn bắn sâu vào phía trong, trên các hướng bộ binh ta áp sát các cửa mở dùng bộc phá liên tục phá rào.

Trên hướng phối hợp, trung đoàn 209 phát triển chiến đấu tương đối thuận lợi. 19 giờ tiểu đội xung kích do đồng chí Trần Can chỉ huy dẫn đầu đại đội 366 xung phong chiếm được lô cốt tiền duyên. Khi phát triển vào trung tâm, gặp lô cốt số 6 của địch chống cự mạnh, tiểu đội nhanh chóng áp sát lô cốt có sở chỉ huy đại đội địch. Quả bộc phá 10 ki-lô-gam nổ tung giết chết tên quan ba chỉ huy. Chiến sĩ thi đua Trần Can cắm lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" lên mỏm số 3. Trên hướng chủ yếu cuộc chiến đấu của trung đoàn 141diễn ra rất ác liệt, ở mỏm số 2, súng máy của tiểu đoàn 428 bị pháo địch bắn gần, đất cát vùi lấp. Các chiến sĩ ta phải tập trung tiểu liên, lựu đạn diệt lô cốt số 1, ổ đại liên ở lô cốt số 2 bắn ra dữ dội. Mặc dầu trên người bị nhiều vết thương, đồng chí Phan Đình Gốot vẫn nén đau, dùng tiểu liên kiềm chế hai hỏa điểm. Hỏa điểm số 2 của địch bắn rất mạnh, xung kích của ta ùn lại không tiến lên được. Đổng chí Phan Đình Giót ở gần hỏa điểm đó. Tuy đã bị thương nặng nhưng đồng chí vẫn cố sức lê dần tới sát lô cốt rồi bất ngờ xoay người, áp lưng lấp lỗ châu mai dập tắt hỏa điểm. Chớp thời cơ, mũi xung kích của đồng chí Trần Tử Khang tràn qua hỏa điểm như cơn lốc. Tiểu đội thọc sâu của đồng chí Nguyễn Ngọc Hỷ xông vào diệt lô cốt mẹ, tạo điều kiện cho toàn đại đội đánh tỏa ra các hướng. Tiểu đoàn 428 chiếm được mỏm số 2 sau 3 giờ chiến đấu.

Ở mỏm số 1, mũi chủ yếu của tiểu đoàn 11 gặp khó khăn ngay lúc mở cửa. Địch dùng hỏa lực chặn ta quyết liệt Trung đội 7 đại đội 243 đã mở được 7 hàng rào, đến hàng rào cuối thì bị hai hỏa điểm bắn chéo cánh sẻ trước cửa mở, các chiến sĩ đánh bộc phá lên người nào thương vong người đó. Trước tình hình đó, tiểu đoàn trưởng lệnh sử dụng trung đội bộc phá dự bị do đồng chí Thệ chỉ huy lên đánh tiếp, đồng thời tăng cường 1 khẩu ĐKZ lên yểm hộ cho mở cửa. . .

Địch vẫn tập trung hỏa lực bắn xối xả về phía đại đội 243. Trong lúc trận đánh đang diễn ra quyết liệt đại đội phó Hiệu bí mật bò lên quan sát, phát hiện hỏa điểm ngầm. Anh quay lại dẫn 4 tổ đại liên lên đồng loạt bắn chế áp tạo thời cơ cho bộc phá mở nốt hàng rào cuối cùng. Sau loạt bộc phá dữ dội, các chiến sĩ xung kích của tiểu đoàn 11 tràn qua cửa mở. Tiểu đội dao nhọn Trần Oanh lao vào trung tâm như lốc cuốn. Bị địch cản lại, Oanh phân công 5 chiến sĩ đánh các lô cốt nhỏ còn anh đánh lô cốt mẹ. Sau khi lừa địch, áp sát cửa hầm, chỉ bằng một quả thủ pháo Trần Oanh đã diệt xong lô cốt mẹ, cắm cờ lên đỉnh lô cốt vẫy toàn đơn vị đánh vào trung tâm.

Trước sức tiến công mãnh liệt của quân ta, địch còn sống sót hoảng loạn tháo chạy khỏi Him Lam. Trên đường chạy về Mường Thanh chúng bị tiểu đoàn 154 (trung đoàn 209 chặn đánh diệt hơn 1 đại đội.

23 giờ 30 ngày 13 tháng 3, Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo lên Bộ tư lệnh mặt trận: Đại đoàn 312 đã hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Him Lam, diệt 300 tên, bắt 200 tên thu toàn bộ vũ khí trang bị. Ta hy sinh 62 cán bộ, chiến sĩ.

Trận đánh Him Lam vừa kết thúc, chính ủy. trung đoàn 141 điện cho bộ chỉ huy của địch thông báo ta cho phép chúng đến trận địa lấy thương binh. Địch cho quân ra lấy một chuyến thương binh còn bỏ lại rồi dùng phi pháo hủy diệt. Việc làm nhân đạo của ta, sự tàn sát dã man của địch làm tinh thần binh lính địch trong tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thêm hoang mang.

Trận Him Lam thắng giòn giã làm nức lòng cán bộ chiến sĩ trên toàn mặt trận Điện Biên Phủ. Trận đầu ra quân thắng lớn đối với Đại đoàn 312 có ý nghĩa to lớn tạo nên niềm tin tưởng và sức chiến đấu mới cho bộ đội. Trận Him Lam chứng tỏ khả năng hiệp đồng tác chiến đánh cứ điểm kiên cường của chủ lực ta đã có những tiến bộ quan trọng cả về kỹ thuật, chiến thuật về tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng, tạo tiền đề thắng lợi cho những trận đánh tiếp theo.

Mất Him Lam bộ chỉ huy quân Pháp như bị một gáo nước lạnh giội lên đầu: "Thất bại nặng nề và bất ngờ đã gây nên sự sụp đồ về tinh thần cho quân đội chiếm đóng, từ chỗ tin tưởng tuyệt đối đi đến chỗ quá bi quan"1 (Chú thích 1. Nhận xét của tướng Ca-tơ-ru dẫn theo Đại đoàn Chiến Thắng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1963, t.1, tr.248.)..

3. Tiến vào trung tâm Mường Thanh, bắt tướng Đờ Cát- xtơ- ri

Trong lúc địch còn đang choáng váng vì cụm cứ điểm Him Lam vừa bị đập tan thì đêm 14 rạng 15 tháng 3, ta tiến công cứ điểm đồi Độc Lập.

Cứ điểm Độc Lập được xây dựng khá kiên cố trên một quả đồi cao 700 mét, cách Mường Thanh 4 ki-lô-mét về phía bắc do tiểu đoàn 5 Bắc Phi thuộc trung đoàn An-giê-ri số 7 và 1 đại đội ngụy Thái (tất cả gồm 5 đại đội) chiếm giữ, Có 4 khẩu cối 120 ly làm hỏa lực trợ chiến ngăn chặn ta trên đường Lai Châu -Điện Biên.

Bộ tư lệnh mặt trận sử dụng trung đoàn 88 (Đại đoàn 308), trung đoàn 165 (Đại đoàn 312), 2 đại đội sơn pháo 75 (vừa đánh Him Lam) cùng 2 đại đội cối 120 phối thuộc đánh Độc Lập.

Ngày và đêm 14 tháng 3 trời mưa to, đường lầy lội, pháo 75 phải khiêng từ khu vực Him Lam sang chiếm lĩnh trận địa.

Đêm tối, đường trơn dốc, nên tới 3 giờ 30 sáng 15 tháng 3 các đơn vị mới chiếm lĩnh xong trận địa và nổ súng.

Trung đoàn 88 (Đại đoàn 308) đánh hướng thứ yếu. Trung đoàn 165 do đồng chí Lê Thùy chỉ huy đánh hướng chủ yếu.

Ngay từ loạt đầu pháo ta đã bắn trúng cứ điểm. Một loạt khác bắn trúng bãi mìn địch, mìn nổ sáng rực như ban ngày. 40 phút sau, tiểu đoàn 115 (trung đoàn 165) mở xong cửa. Trong khi đó ở hướng trung đoàn 88 do hướng đặt bộc phá bị chệch nên khi nổ bộc phá không quét hết rào. Đại đội Tô Văn đánh đến 30 quả bộc phá mà vẫn không mở được đột phá khẩu. Xung kích của trung đoàn 88 phải quay lại đi vào hướng cửa mở của trung đoàn 165. Ở hướng chủ yếu sau khi mở cửa tiểu đội dao nhọn do Trấn Ngọc Doãn và Nguyễn Văn Các chỉ huy dẫn đầu đại đội 501 lao vào đồn giặc. Người nọ ngã, người kia tiếp tục xông lên. Vào đến khu trung tâm, mặc dù đội hình phía sau chưa lên kịp. Cả tiểu đội Trần Ngọc Doãn vẫn dũng mãnh đột phá. Đồng chí Doãn bắt 2 tù binh dẫn đường tới trận địa cối 120, nổ súng diệt gọn quân địch, phá hủy 4 khẩu cối. Theo phương án tác chiến, đến đây tiểu đội mũi nhọn đã hoàn thành nhiệm vụ nhưng không dừng lại, tiểu đội Doãn tiếp tục phát triển vào chỉ huy sở địch. Sau đợt tiến công bằng thủ pháo, tiểu liên, cùng với toàn đơn vị, tiểu đội Doãn đột phá vào sở chỉ huy cứ điểm, bắt sống cả 2 tên quan tư chỉ huy đồi Độc Lập. Lúc 6 giờ địch điều một tiểu đoàn bộ binh cùng 5 xe tăng lên phản kích, nhưng bị pháo binh ta bắn chặn, chiếc đi đầu bốc cháy còn 4 chiếc quay đầu chạy về Mường Thanh.

6 giờ 30 sáng ngày 15 tháng 3 ta đánh chiếm cứ điểm Độc Lập, bắt 500 tên, diệt gọn tiểu đoàn Bắc Phi tăng cường. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Bác mang nhiều vết đạn được đồng chí Tùng, người cuối cùng của tổ cầm cờ chưa bị thương giương cao trên nóc hầm chỉ huy cứ điểm Độc Lập. Trong 3 ngày chiến đấu từ ngày 13 đến 15 tháng 3, ta làm chủ cả hai cứ điểm Him Lam và Độc Lập. Đại đoàn 312 đã đánh hai trận công kiên lớn nhất từ trước tới nay trong lịch sử chiến đấu của quân đội ta. Hai trận đánh thắng lợi, mở toang hai cánh cửa chính để tiến vào trung tâm Điện Biên Phủ. Bị mất Him Lam và Độc Lập, ngày hôm sau (16 tháng 3) tiểu đoàn địch đóng giữ đồn Bản Kéo ở phía tây bắc bỏ chạy. Sân bay Mường Thanh bị ta uy hiếp. Bị đòn đau choáng váng, tinh thần binh lính địch hoang mang. Pi-rốt (Piroth)- chỉ huy pháo binh địch. ở Điện Biên Phủ dùng lựu đạn tự sát.

Sau 5 ngày tiến công, ta đã diệt được 2 vị trí kiên cố then chốt nhất của địch ở Điện Biên Phủ, diệt, bắt 2.000 địch, bắn rơi 12 máy bay. Thắng lợi lớn hơn hết là qua những trận chiến đấu này, bộ đội được rèn luyện về cách đánh công kiên tương đối chính quy, cán bộ chiến sĩ đều phấn khởi, tin tưởng ở sức chiến đấu của đơn vị mình, nhưng cũng xuất hiện tư tưởng chủ quan coi thường địch. Trước tình hình đó, Tổng quân ủy quyết định tổ chức hội nghị cán bộ trong 2 ngày đế rút kinh nghiệm và chấn chỉnh toàn mặt trận.

Tư tưởng chỉ đạo của Tổng quân ủy là: mặc dầu ta tiêu diệt được một bộ phận quan trọng sinh lực địch, nhưng hiện nay lực lượng chúng còn mạnh. Vì vậy, phương châm tác chiến vẫn là đánh chắc, tiến chắc, Tổng quân ủy xác định sau chiến thắng Him Lam - Độc lập ta mới hoàn thành một phần nhiệm vụ đánh chiếm ngoại vi. Vì thế sau đợt 1, Tổng quân ủy đề ra những nhiệm vụ cụ thể như sau :

- Tiếp tục xây dựng trận địa nhằm mục đích bao vây quân địch khắp các mặt đông - tây - nam - bắc để tất cả các loại pháo lớn nhỏ của ta đều có hiệu lực đồng thời chia cắt khu nam và khu trung tâm.

- Tiếp tục đánh những cứ điểm ngoại vi, khi có điều kiện đánh 2, 3 cứ điểm nhưng phải bảo đảm chắc thắng. - Chuẩn bị đánh phản kích chu đáo, chú ý phòng máy bay và xe tăng.

- Khống chế sân bay, tiêu hao quấy rối làm địch mất ăn, mất ngủ. Trước mắt các đơn vị phải tiếp tục đào hào, xây dựng trận địa để tiến sâu vào sát quân địch, khép chặt vòng vây quanh các cứ điểm còn lại để khống chế đi đến triệt hẳn tiếp tế và tiếp viện của địch.

Ngày 16 tháng 3 năm l954 địch tăng viện 3 tiểu đoàn dù cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Đây là thời kỳ gay go, gian khổ ác liệt vì trận địa nằm trên đồng ruộng bằng phẳng. địch có hỏa lực mạnh, phi cơ nhiều. Chiến hào đào về đêm mặc pháo sáng rực cả cánh đồng. Súng địch bắn như mưa. Bộ đội ta vừa đánh địch, vừa đào hào. Từng chiến sĩ nằm sát xuống đất bắt đầu đào trước ngực để tránh đạn địch. Trong những ngày đào hào gian khổ anh em ngày chỉ ngủ 4, 5 tiếng để lấy sức rồi lại lăn xả vào công việc.

Cùng với nhiện vụ xây dựng trận địa bao vây và tiến công quân địch, đại đoàn khẩn trương bổ sung quân số, tổ chức huấn luyện xen kẽ chiến đấu ngay trên trận địa, trong chiến hào để nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ tiếp theo.

Trong hệ thống phòng ngự còn lại của địch ở khu tung thâm có vị trí quan trọng nhất là dãy các điểm cao phía đông. Mất những vị trí này, tập đoàn cứ điểm sẽ bị uy hiếp nghiêm trọng. Vì vậy trong hội nghị từ ngày 25 đến 27 tháng 8, Tổng quân ủy quyết tâm tập trung ưu thế tuyệt đối binh hỏa lực tiêu diệt toàn bộ quân địch ở khu đông nhằm tiêu diệt sinh lực địch, chiếm lĩnh một số trận địa pháo và các cao điểm phía đông, biến những cao điểm đó thành trận địa của ta để uy hiếp khu tung thâm Mường Thanh, đồng thời tích cực chuẩn bị mọi mặt tạo điều kiện đầy đủ cho quân ta chuyển sang tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Trong đợt 2 chiến dịch đại đoàn được phối thuộc các phân đội hỏa lực Có nhiệm vụ tiêu diệt các cứ điểm đồi E, D1, D2, điểm cao 210. Sau khi tiêu diệt xong các vị trí trên, để lại một bộ phận nhỏ tăng cường hỏa lực bảo vệ trận địa không cho địch phản kích chiếm lại, đồng thời tổ chức những trận địa hỏa lực để khống chế và sát thương quân địch ở Mường Thanh.

Thực hiện quyết tâm của Tổng quân ủy, Đảng ủy đại đoàn họp ở ki-lô-mét 76 để bàn kế hoạch thực hiện và giao nhiệm vụ: trung đoàn 209 đánh đồi D1, D2; trung đoàn 141 được tăng cường tiểu đoàn 115; trung đoàn 165 đánh đồi E và điểm cao 210.

Ngày 29 tháng 3 địch cho một đại đội ra phản kích san lấp giao thông hào của ta. Bị ta đánh trả quyết liệt, địch phải lui nhưng chúng đã lấp của ta 50 mét giao thông hào. 12 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, tiểu đoàn1 66 và 154 trung đoàn 209 bắt đầu xuất phát chiếm lĩnh trận địa chuẩn bị tiến công đồi D1 . 17 giờ pháo hỏa chuẩn bị. 18 giờ ta bắt đầu đột phá, sau 5 phút phá xong 3 hàng rào và xung phong vào căn cứ. Mũi thứ yếu dự bị bị địch lấp mất 50 mét giao thông hào và gặp lầy, mở cửa thông nhưng bị hỏa lực địch bắn chặn nên mất gần 1 giờ mới xung phong lên được.

Khi vào tung thâm, địch còn ngoan cố chống cự nhưng đại đội 606 đã nhanh chóng thọc sâu chia cắt đội hình địch ra từng mảnh để tiêu diệt. Đồng chí Trần Can cùng tiểu đội dẫn đầu đơn vị chiếm từng ụ súng,. từng góc chiến hào. Sau 2 giờ chiến đấu ta chiếm được toàn bộ đồi D1. Tiểu đoàn địch đóng giữ cứ điểm bị diệt, một số chạy thoát về Mường Thanh.

Khi đánh xong D1, trung đoàn 209 lệnh cho tiểu đoàn 154 tổ chức phòng ngự ngay. Trong đêm, tiểu đoàn 154 xẻ một đường hào từ đỉnh xuống chân đồi để tiện cơ động quân từ phía sau lên. Tiểu đoàn 130 (dự bị của trung đoàn) được lệnh cơ động lên tiếp tục đánh phát triển sang đồi D2. Do tổ chức không chu đáo, đánh giá địch thấp và xác định không đúng hướng đột phá, xung kích liên tiếp bị hỏa lực địch bắn lướt sườn, tiểu đoàn 130 bị thương vong nhiều. Trận đánh kéo dài đến gần sáng. Địch bỏ chạy vào Mường Thanh. Cùng với các hướng tấn công đồi D1 , D2, C1 , C2, tiểu đoàn 115 men theo sông Nậm Rốm đánh vào điểm cao 210 nhưng bị pháo địch bắn chặn. Do nắm địch, địa hình không kỹ, bộ đội mất liên lạc với nhau nên nhiệm vụ đánh điểm cao 210 không thực hiện được.

Ở hướng đồi E, tiểu đoàn 16 và tiểu đoàn 428 (trung đoàn 141) được hoả lực đại đoàn và trung đoàn chi viện đắc lực. Sau 1 giờ 45 phút xung phong áp đảo, ta đánh chiếm xong đồi E. Đại đội 670 do đồng chí Lộ đại đội trưởng, đồng chí Khắc làm chính trị viên khẩn trương tổ chức phòng ngự đồi E và dùng súng ĐKZ, đại liên, cối chi viện cho các mũi thọc sâu của trung đoàn phát triển chiến đấu, khống chế điểm cao 210 của địch.

Ngày 1 tháng 4 địch huy động nhiều bộ binh, xe tăng, có pháo binh và không quân yểm trợ mở liên tiếp nhiều đợt phản kích lên đồi E. Đại đội 670 đã đánh bật nhiều đợt tấn công của địch. Nhưng do chiến đấu liên tục (đại đội thương vong gần 100 đồng chí), lực lượng của ta mỏng dần, việc tiếp tế đạn được ở phía sau không lên kịp nên chiều ngày 1 tháng 4 địch chiếm lại được đồi E . Ngay trong đêm 1 tháng 4 tiểu đoàn 11 nhận nhiệm vụ tiến công chiếm lại đồi E lần thứ 2. Tiểu đoàn sử dụng đại đội 243 luồn sâu vào cứ điểm phối hợp với lực lượng từ bên ngoài đánh vào. Khi đại đội vượt qua quãng đường độc đạo dài, hẹp giữa đồi D và đồi E để luồn sâu vào trong căn cứ thì bị địch phát hiện. Chúng tập trung hỏa lực bịt kín mặt đường. Mặc dù ở tình thế hết sức bất lợi, chỉ huy đại đội 243 vẫn bình tĩnh chỉ huy bộ đội chiến đấu. Đại đội nhanh chóng hình thành 2 mũi. Một mũi do đại đội phó Hiệu và chính trị viên Đại chỉ huy đánh vào bên sườn tiểu đoàn 5 ngụy ( 5e BPVN) . Một mũi khác do đại đội trưởng Nọa chỉ huy đánh thẳng vào trận địa pháo. Trước phản ứng mau lẹ của ta, tiểu đoàn 5 ngụy chạy dạt xuống chân đồi. Thừa thắng, đại đội 243 đánh thẳng vào sở chỉ huy tiểu đoàn âu Phi số 6, diệt trận địa pháo địch ở điểm cao 210, đuổi địch ra tận bờ sông Nậm Rốm. Gần sáng ngày 2 tháng 4, đại đội trụ lại bên đường 43 tạo thành một trận địa phòng ngự giữa cụm cứ điểm địch, nhưng liên lạc với tiểu đoàn, trung đoàn bị mất. Toàn đại đội chỉ còn 20 cán bộ chiến sĩ trong đó 7 bị thương. Chi bộ còn 4 đảng viên họp dưới lòng chiến hào do đại đội trưởng Nọa chủ trì hạ quyết tâm giữ trận địa đến cùng.

9 giờ sáng ngày 2 tháng 4, sau khi dùng pháo binh, không quân đánh phá ác liệt, địch huy động 1 tiểu đoàn có xe tăng đi cùng chia làm ba mũi phản kích vào trận địa ta. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt. Hết đạn, bộ đội ta phải dùng lưỡi lê, báng súng đánh giáp lá cà, vật lộn với địch đến người chiến si cuối cùng.

Cuộc chiến đấu ở đồi D1 từ sáng 1 tháng 4 cũng diễn ra rất quyết liệt. Địch dùng pháo binh, máy bay ném bom bắn phá dữ dội vào các trận địa của tiểu đoàn 154, sau đó cho một tiểu đoàn ra phản kích. Sau một đêm vừa đánh chiếm đồn địch vừa xây dựng trận địa phòng ngự, bộ đội ta đã rất mệt. Địch lợi dụng khói bom, đạn bò lên sát trận địa, các chiến sĩ cảnh giới hy sinh trong khi địch bắn phá nên khi bộ binh địch đến gần và nổ súng ta mới biết. Sau 25 phút địch chiếm gần hết đồi dồn đại đội 525 vào một góc. Đồng chí Lê Xuân Quảng tiểu đoàn phó tiểu đoàn 154 chỉ huy trận địa phòng ngự hy sinh. Tình thế nguy ngập, đồng chí Trần Ngọc Bội, tổ trưởng tổ ba người đã động viên các đồng chí xung quanh quyết tâm chiến đấu. Riêng đồng chí Bội ném 30 quả lựu đạn, phá 2 ổ trung liên. Tổ ba chiến sĩ Can, Kinh, Tuất kiên cường dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui nhiều đợt phản kích của địch. Lúc này đường dây điện thoại đã đứt, nhưng đài quan sát của trung đoàn phát hiện được nên đã báo cáo trung đoàn lệnh cho pháo bắn chặn và lệnh cho đại đội 520 và 366 lên đánh giải vây. Sau 45 phút địch bỏ chạy vế Mường Thanh . Trong khi trung đoàn trưởng Hoàng Cầm lên Bộ chỉ huy chiến dịch báo cáo kinh nghiệm và nhận kế hoạch tác chiến mới thì trung đoàn phó Thăng Bình, tham mưu trưởng Chu Phương Đới, chính ủy Trần Quân Lập tiếp tục tổ chức động viên bộ đội phòng ngự đồi D1 . Tư lệnh mặt trận gọi điện biểu dương nỗ lực, tinh thần cố gắng của cán bộ, chiến sĩ và xác định giữ vững đồi D1 là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của trung đoàn 209 trong thời điểm này.

Trên các hướng khác của chiến dịch, trung đoàn 98 (Đại đoàn 316.) chiếm đồi C1 thuận lợi, nhưng trung đoàn 174 chiến đấu suốt đêm chỉ chiếm được một nửa đồi A1 . Địch dựa vào hầm ngầm cố thủ. Cuộc chiến đấu ở đồi A1 những ngày sau đó vẫn tiếp tục diễn ra hết sức ác liệt.

Sau khi chiếm được các vị trí của địch, ta tổ chức phòng ngự, nhất là những vị trí gần sát sân bay, khu Mường Thanh, như đồi E, đồi D, đồi C.

Nhận thấy ở khu đông Mường Thanh bộ đội ta đã hoàn thành một phần quan trọng nhiệm vụ của đợt 2, Tổng quân ủy quyết định:

- Thay đổi lực lượng mới, tiếp tục tiến công Al, đồng thời tăng cường hoạt động ở mặt tây và mặt bắc Mường Thanh, buộc địch phải phân tán lực lượng đối phó. Đại đoàn 312 được phân công diệt điểm cao 105 và uy hiếp địch ở bắc sân bay Mường Thanh.

Vì chuẩn bị chậm nên đến đêm 4 tháng 4 trung đoàn 165 mới đánh điểm cao 105 do một đại đội lê dương chiếm đóng. Ta chiến đấu đến sáng, tiêu diệt một bộ phận nhỏ quân địch, chiếm 3 phần 4 điểm cao, lực lượng địch còn mạnh dồn vào một phía. 7 giờ sáng ngày 5 tháng 4, địch cho 1 tiểu đoàn và 5 xe tăng từ Mường Thanh ra tiếp ứng, ta chặn đánh tiêu diệt một bộ phận. Nhưng địch chiếm lại được điểm cao 105, trung đoàn 165 không giữ được trận địa vì chỉ huy không chặt chẽ, nhiều đơn vị phối hợp thiếu thống nhất, một bộ phận đánh viện khá, nhưng một bộ phận không hoàn thành nhiệm vụ.

Trận này ta diệt 1 đại đội, bắn hỏng 3 xe tăng địch bắt 30 tù binh. Ta hy sinh 50, bị thương 180, mất tích 7 đồng chí. Trong khi những trận chiến đấu của trung đoàn 209, 165 diễn ra ác liệt ở đồi E, đồi D, điểm cao 105 thì trung đoàn 141 tập trung toàn bộ lực lượng còn lại cùng các đơn vị bạn đào hào đánh lấn cắt đôi sân bay Mường Thanh - đầu cầu tiếp tế duy nhất của quân Pháp ở Điện Biên Phủ.

Từ ngày 7 đến ngày 10 tháng 4, Tổng quân ủy họp hội nghị cán bộ nhận định, ta đã thu được thắng lợi. Trong 2 đợt chiến dịch, trên khắp các chiến trường ta đã diệt khoảng 5.000 địch. Chúng ta đã tiến một bước lớn trong quá trình tạo điều kiện chuyển sang tổng công kích, nhưng vì một số đơn vị không hoàn thành nhiệm vụ cho nên điều kiện chưa đầy đủ.

Căn cứ vào nhận định trên, Tổng quân ủy đề ra quyết tâm tiếp tục đánh ngoại vi, đánh chiếm thêm một số vị trí có lợi, đồng thời củng cố và tiếp tục xây dựng trận địa tiến công và bao vây đến sát khu vực trung tâm của địch, tiến tới kiểm soát hoàn toàn sân bay, cắt đứt việc tăng viện và tiếp tế của địch, tạo điều kiện cho tổng công kích. Do hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ trong đợt hai, Đại đoàn 312 đã vinh dự được Tổng quân ủy trao cờ "Quyết chiến, quyết thắng " - cờ thưởng luân lưu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ngày 8 tháng 4 năm 1954, quân Pháp ném tiểu đoàn dù dự bị thứ tư xuống Điện Biên Phủ.

Sáng ngày 9 tháng 4, quân địch phản kích chiếm lại đồi C1 Để giữ chắc các bàn đạp đã chiếm được, Đại đoàn 312 nhận lệnh tiếp tục củng cố trận địa phòng ngự ở đối E, D, xây dựng trận địa tiến công các điểm cao 105, 203, 204 và tiểu đoàn Thái số 2, phối hợp với Đại đoàn 308 làm giao thông hào cắt ngang sân bay Mường Thanh ở phía nam, và củng cố các trận địa chiến đấu.

Trải qua 2 tuần liên tục vừa chiến đấu vừa đào công sự, ăn ngủ thiếu thốn, trời rét, cán bộ chiến sĩ đều mệt mỏi. Các đơn vị đã tổ chức đi đào củ mài, lấy rau rừng, đi đánh cá ở sông Mã để cải thiện đời sống cho bộ đội. ở một số đơn vị có biểu hiện dao động, bi quan ngại gian khổ ảnh hưởng đến việc chấp hành nhiệm vụ, không bảo đảm thời gian. Để khắc phục tình trạng này... Bộ tư lệnh đại đoàn cùng chỉ huy các trung đoàn. tiểu đoàn, đại đội đã sâu sát giúp đỡ động viên các chiến sĩ. ..Sự có mặt của cán bộ các cấp ở những nơi gian khổ ác liệt với các biện pháp chủ động, kịp thời và tinh thần. đoàn kết gương mẫu của các cán bộ đảng viên đã cổ vũ lôi cuốn các chiến sĩ vượt lên gian khổ hy sinh: "Tất cả cho Điện Biên Phủ toàn thắng".

Nhận thấy cứ điểm 105 có giá trị về quân sự, địch cố giữ cứ điểm 105 và 206 để bảo vệ sân bay và khống chế một khu vực tương đối rộng nhằm ngăn chặn quân ta tiến công. Do đó, Tổng quân ủy quyết định Đại đoàn 312, 308 phải gấp rút chuẩn bị để đêm 18 tháng 4 có thể đánh cứ điểm 105 và 206.

Đêm 16 tháng 4 trận địa của ta từ phía đông thông sang phía tây, nhiều chiến hào của ta đã gặp nhau ở giữa sân bay.

Đêm 18 tháng 4, trung đoàn 165 tiến công cứ điểm 105. Cuộc chiến đấu kéo dài đến sáng 19 mới kết thúc. Trước nguy cơ bị tiêu diệt bọn địch ở bắc sân bay định bí mật rút lúc 3 giờ sáng, nhưng vì bộ đội ta đã đào hào cắt ngang sân bay nên chúng bị bao vây không có nước uống, thiếu ăn. Trong khi đó ta tiếp tục đào hào vây lấn vào sát lô cốt địch, nhiều nơi chỉ cách 15 mét đến 30 mét. Từ các điểm cao đã chiếm được hàng ngày bộ đội ta kiểm soát được hành động của địch. Ta dùng hỏa lực bắn thẳng (ĐKZ, ba-dô-ka) bắn sập từng lô cốt. Trong khi đó các tổ bắn tỉa diệt những tên ra sửa công sự, ra quan sát hoặc đi lại trong đồn. Hàng rào địch gồm nhiều lớp, Có chỗ dày 50 đến 100 mét nhưng mỗi đêm ta cắt một ít hoặc dùng bộc phá phá một đoạn. Đến ngày 18, đồn bắc sân bay không còn một hàng rào nào. Bọn địch giữ đồn rất hoảng sợ tìm cách rút lui, ta chặn đánh tiêu diệt hơn 100 tên, bắt 30 tên.

8 giờ sáng 18 tháng 4, ta làm chủ đồn phía bắc (một cứ điểm quan trọng bảo vệ sân bay) . Trận địa ta tiến thêm được 700 mét vế phía Mường Thanh. Ngày 20 tháng 4 địch cho 2 xe tải chở lính, dây thép gai và các loại mìn chống bộ binh ra tăng cường cho lực lượng đang phòng ngự ở ngã tư sân bay.

9 giờ 40 phút ngày 20 tháng 4, sau khi đã dùng pháo cối bắn phá trận địa phòng ngự trực tiếp tiếp xúc của đại đội 19 (tiểu đoàn 16, trung đoàn 141) , địch cho một trung đội (khoảng 30 lính âu Phi ) đánh vào tuyến hào 1. Trung đội trưởng Dũng chỉ huy bộ đội đập tan đợt tiến công của địch.

Lợi dụng lúc ta tập trung lực lượng chiến đấu với trung đội lính âu Phi và đạn pháo nổ nhiều, địch bí mật cho 1 đại đội dù (khoảng 80-90 tên) và 2 xe tăng tiếp cận tuyến 1 đồng loạt nổ súng đánh vào trận địa đại đội 19. Chúng chiếm được trận địa cảnh giới và trận địa trung đội 1. Ta liên tục tổ chức phản kích, đến 16 giờ 40 phút mới khôi phục được trận địa.

Ngày 22 tháng 4, địch tiếp tục cho 2 đại đội có xe tăng yểm trợ quyết tâm chiếm bằng được ngã tư sân bay, ngăn chặn không cho ta đào hào. Cuộc chiến đấu của tiểu đoàn 16 diễn ra rất ác liệt, ta và địch giành đi giật lại ngã tư sân bay. Trong 2 ngày 21 và 22, tiểu đoàn 16 diệt 63 tên, bắn hỏng 2 xe quân sự, bắn bị...thương hàng trăm tên khác đẩy lùi các đợt tiến công.. của địch, kiên cường giữ vững trận địa phòng ngự ở ngã tư sân bay Điện Biên Phủ để các đơn vị bạn đào hào. siết chặt vòng vây. Đêm 22 tháng 4 trung đoàn 36 (Đại đoàn 308) diệt vị trí 206...

Vòng vây của ta khép dần, sân bay bị tê liệt, phi cơ địch không tiếp tế được, chỉ bay rất cao để thả dù. Một phần ba số dù lương thực, đạn dược rơi vào trận địa ta.

Vòng vây càng ép sát, cuộc chiến đấu chống những cuộc phản kích của địch càng ác liệt. Ta và địch giành giật từng thước đất. Nhiều tay súng bắn tỉa của đại đoàn đã đẩy địch tụt xuống chui rúc trong các hầm hào bùn nước ngập ngụa. Chiến sĩ Lục trung đoàn 165 nêu kỷ lục một ngày bắn tỉa diệt 30 tên . Trong 10 ngày, các chiến sĩ bắn tỉa của đại đoàn diệt 110 tên. Lo ăn uống cho những đơn vị ở trận địa phía trước là việc rất khó khăn. Hàng ngày các chiến sĩ nuôi quân vượt qua bom đạn đem cơm nước cho bộ đội. Nhiều chiến sĩ nuôi quân hy sinh. Chiến sĩ nuôi quân Đinh Văn Mẫu có sáng. kiến đeo thùng nước trên lưng, cơm cho vào bao gạo buộc quanh người bò qua những nơi hỏa lực địch kiểm soát, đưa cơm nóng đến tay từng cán bộ, chiến sĩ đang chiến đấu trên các trận địa1 (Chú thích 1. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, chiến sĩ nuôi quân Đinh Văn Mẫu được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) .

Do vây lấn dài ngay, cán bộ, chiến sĩ thương vong nhiều, nên phát sinh tư tưởng nôn nóng muốn tiến công chớp nhoáng, ngại đánh lâu dài. Đảng ủy đại đoàn và các cấp ủy đã tập trung lãnh đạo quán triệt phương châm "đánh chắc tiến chắc", nâng cao tinh thần chiến đấu, tổ chức hậu cần, cải thiện đời sống bộ đội ngay trong chiến hào để đảm bảo sức khỏe chiến đấu dài ngày. ở chiến hào sát nách địch nhưng sinh hoạt văn hóa, tinh thần vẫn được duy trì. Bộ đội làm thơ, ra báo tường và truyền tay nhau những lá thư từ hậu phương gửi tới. Họ lấy mũ sắt làm chậu, lấy vỏ đạn làm ống nước, lấy hòm đạn làm ghế ngồi, lấy vải dù làm rèm cửa. Các chiến sĩ thay nhau về phía sau tắm rửa và giặt quần áo. Đội tuyên văn của đại đoàn và văn công quân đội thường xuyên có mặt ở các đơn vị phía trước, mang tiếng hát, điệu múa, vở kịch đến tận các chiến hào.

Cùng với các sinh hoạt văn hóa, các chiến sĩ tranh thủ tăng gia, cải thiện đời sống, gieo hạt rau cải, rau muống lên mặt hào, nóc công sự.

Các đơn vị của trung đoàn 141 thay nhau đào hào khép chặt vòng vây. Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 16 Nguyễn Văn Thuần có sáng kiến đào từ trong đào ra khiến địch bất ngờ. Ta bí mật đưa quân vào trong đào hào ra. Đại đoàn phó Đàm Quang Trung đến tận các đường hào để kiểm tra và động viên bộ đội.

Trong khi ở trận địa bộ đội tiếp tục đào chiến hào vây lấn, đánh địch, cán bộ trung đoàn, tiểu đoàn tập trung về phía sau sơ kết đợt 2 chiến dịch. Trong hội nghị sơ kết, cán bộ đã nghiêm khắc tự phê bình và phê bình tư tưởng hữu khuynh, ngại hy sinh gian khổ. Quyết tâm chiến đấu của các đơn vị được củng cố. Phòng tham mưu đại đoàn gấp rút bổ sung quân số cho các đơn vị. Đây là lần thứ 3 bổ sung quân số trong chiến dịch để đảm bảo sức chiến đấu của đại đoàn.

Ngày 19 tháng 4 năm 1954, Bộ Chính trị họp, nhận định: "Hai đợt tiến công của quân ta ở mặt trận Điện Biên Phủ đều thắng lợi"1. Để tạo điều kiện căn bản cho quân ta hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt quân địch ở Điện Biên Phủ, Bộ Chính trị quyết định: "Toàn dân, toàn Đảng,. và Chính phủ nhất định đem toàn lực chi viện Điện Biên Phủ và nhất định làm mọi việc cần thiết để giành toàn thắng cho chiến dịch này"2 (Chú thích 1. 2. Nghị quyết Bộ Chính trị Trung ương Đảng ngày 19-4-1954.)

Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng được cử ra mặt trận, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Trên 10 vạn dân công được huy động phục vụ chiến dịch. Dự trữ lương thực, đạn được ở Điện Biên Phủ tăng lên nhiều lần. đảm bảo cho nhu cầu chiến đấu.

Về phía địch, hầu hết máy bay của Pháp trên chiến trường Dông Dương được tập trung cho Điện Biên Phủ. Mỹ viện trợ cho Pháp 100 chiếc máy bay chiến đấu và vận tải, cho mượn 10 chiếc máy bay vận tải cỡ lớn để Pháp cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Số lần oanh tạc của không quân địch lên tới 250 lần chiếc một ngày. Kho dù ở Đông Dương có hơn 6 vạn chiếc hết nhẵn.

Cùng với tăng viện trợ, Mỹ diễn tập ở Thái Bình Dương với tình huống đổ bộ vào Đông Dương và đưa ra kế hoạch diều hâu gợi ý Pháp sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật ở Điện Biên Phủ.

Trên chiến trường toàn quốc, địch bị đánh ở khắp nơi. Ơ đồng bằng Bắc Bộ, Trung Du, Khu 5, Nam Bộ ta đánh nhiều cứ điểm quan trọng, làm địch lúng túng đối phó. Trong khi đó ở Điện Biên Phủ, lính Pháp lâm vào tình thế khốn quẫn, chui rúc dưới những hầm ngập bùn nước. Thương tật, ốm đau, đói khát làm cho tinh thần sĩ quan binh lính địch rã rời.

Đêm 1 tháng 5 nam 1954, quân ta mở đợt tiến công thứ 3 đánh chiếm các cao điểm còn lại ở phía đông, thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch ở phía tây chuẩn bị cho cuộc tổng công kích tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ.

Mở đầu, tiểu đoàn 166 (trung đoàn 209) tiến công cứ điểm 505. Đây là nhột cứ điểm quan trọng nằm ở phía đông bắc khu trung tâm cách hầm chỉ huy của tướng Đờ Cát -xtơ-ri khoảng 1,5 ki-lô-mét.

Cứ điểm 505 dài khoảng 150 mét, chiều rộng 120 mét do đại đội 1 tiểu đoàn thuộc địa số 6 (6E-BPC ) chốt giữ. Địch có 80 tên chia thành 3 trung đội, (2 trung đội tập trung phòng ngự trong 9 lô cốt 2 phía bắc và đông cứ điểm 1 trung đội ở phía nam. Có 4 đại liên 6 trung liên, 2 cối 60, 1 ĐKZ57, 6 phóng lựu, 50 tiểu liên, xung quanh cứ điểm có hệ thống hàng rào, bãi mìn và công sự, trận địa được xây dựng kiên cố, liên hoàn. Cứ điểm 505 là một trong những cứ điểm mạnh của địch ở phía đông bắc sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm. Sau nhiều đêm trinh sát nắm tình hình địch và bắn xác định phần tử cho các loại hỏa lực, 16 giờ 30 phút ngày 1 tháng 5 hỏa lực ta dồn dập bắn phá cứ điểm 105.

Địch ở các điểm cao 507, 509 phản ứng quyết liệt. Đến 18 giờ cơ bản ta đã mở xong cửa mở, nhưng bị địch ngăn chặn. 19 giờ 30 phút, bộ binh từ các hướng mới thực hành xung phong. Đại đội 606 đánh chiếm đầu cầu, phát triển vào tung thâm thì bị đại liên địch ngăn chặn không phát triển được. Ở phía tây nam cứ điểm, trận đánh của đại đội 618 cũng diễn ra quyết liệt. Địch dựa vào công sự và trận địa cối ở đông nam cứ điểm bắn cấp tập vào đội hình tiến công làm nhiều chiến sĩ ta thương vong. Để tạo xung lực mạnh áp đảo địch, 21 giờ 30 tiểu đoàn quyết định đưa 2 đại đội (61 và 363) vào chiến đấu, vừa bao vây chặt các hầm cố thủ, vừa thọc sâu chia cắt diệt chỉ huy địch. 0 giờ 30 phút ngày 2 tháng 5, ta làm chủ hoàn toàn cứ điểm. Trận này ta diệt và bắt toàn bộ quân địch (80 tên) thu nhiều vũ khí nhưng thương vong của ta cũng lớn (40 đồng chí hy sinh, 55 đồng chí bị thương) .

Phối hợp chiến đấu với tiểu đoàn 166, đêm 1 tháng 5 tiểu đoàn 154 đánh chiếm điểm cao 505A. 4 giờ 30 sáng 2 tháng 5 năm 1954, hai tiểu đoàn 154 và 166 liên lạc được với nhau, tổ chức phòng ngự giữ trận địa và đánh phản kích. Cả hai tiểu đoàn cùng tranh thủ đào tuyến hào ngang qua ba lớp rào gai của cứ điểm 506, cách lô cốt ngoài của địch 15 mét. Mũi thứ yếu, tiểu đoàn 115, trung đoàn 165 cũng tranh thủ cắt hai lớp rào gai và đào hào tiến vào cứ điểm 506 từ phía tây bắc. Hào của ta ngày càng khép chặt xung quanh sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm của địch. Tiếng cuốc, xẻng đào hào đêm đêm vọng vào tận hầm sở chỉ huy địch. Đờ Cát ra lệnh cho binh lính ở tất cả các trận địa phải ghé tai vào vách đất nghe tiếng đào đất để xác định phương hướng phản kích và gọi hỏa lực bắn phá.

Ngày 4 tháng 5 năm 1954, địch thả tiểu đoàn dù cuối cùng xuống lòng chảo Mường Thanh nhằm thực hiện kế hoạch rút lui khỏi Điện Biên Phủ.

Đêm 5 tháng 5 năm 1 954, hai đại đội 918 và 501của trung đoàn 165 được giao nhiệm vụ đánh 506. Sau 12 giờ đột phá, đại đội 918 và 501 dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Thiết Cương hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ làm chủ vị trí 506, từ đây dùng hỏa lực uy hiếp cứ điểm 507.

Đêm 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn 130 (trung đoàn 209) đột phá cứ điểm 507 cùng lúc với tiếng nổ của khối bộc phá của đơn vị bạn đánh chiếm phần còn lại của cứ điểm đồi A1.

Cuộc chiến đấu ở điểm cao 507 diễn ra rất ác liệt. Bộc phá đánh hàng rào bùng nhùng không có hiệu quả, khi bộc phá nổ, hàng rào tung lên rồi lại dập xuống như cũ. Trời sáng hẳn mà chưa mở xong cửa mở, cả đại đội 463 (tiểu đoàn 130) ùn lại, bị thương vong nhiều; đại đội 366 lên thay. Trung đội trưởng Trần Can vắt người qua hàng rào để xung kích tràn qua nhưng hỏa lực địch bắn xối xả không ai vượt qua được. Trung đoàn 209 quyết định mở cửa hướng khác, nhưng cũng chỉ chiếm được một nửa đồn. Địch phản kích quyết hệt, trung đội trưởng Trần Can bị thương nhiều lần, nhưng vẫn dẫn đầu đơn vị xông lên. Cán bộ đại đội bị thương vong, Trần Can lên thay, chỉ huy đại đội đột phá dũng mãnh. Anh ngã xuống khi quân ta đã chiếm được một phần điểm cao 5071.(Chú thích 1. Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, liệt sĩ Trần Can được truy tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".)

Trong đêm 6 rạng ngày 7 tháng 5, các đơn vị bạn đánh chiếm xong đồi A1 và C1. Tin thắng trận khắp nơi thôi thúc trung đoàn 209 quyết tâm tiêu diệt cứ điểm 507.

Để tập trung dứt điểm 507, Đại đoàn lệnh cho trung đoàn 141 cơ động từ phía sau lên sẵn sàng tiếp sức cho trung đoàn 209. Trung đoàn 165 giữ chắc bàn đạp ở điểm cao 506 dùng hỏa lực chi viện đánh địch ở cứ điểm 507. Hỏa lực của đại đoàn tập trung bắn vào trung tâm và phía nam điểm cao 507 không cho địch ra ứng cứu.

12 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau khi tổ chức lại lực lượng, Đại đoàn trưởng ra lệnh cho trung đoàn 209 tiếp tục tiến công cứ điểm 507. Sau hai lần đột phá, tiểu đoàn 130 chiếm được cứ điểm 507. Thừa thắng các đơn vị của trung đoàn 209 đánh tràn sang chiếm luôn điểm cao 508 và 509. Đến 14 giờ các vị trí địch bên tả ngạn sũng Nậm Rốm đều bị quân ta tiêu diệt...

Nắm chắc thời cơ, 15 giờ ngày 7 tháng 5 Bộ chỉ huy mặt trận ra lệnh tổng công kích. Từ bốn phía quân ta ào ạt đánh vào trung tâm.

Vượt qua 3 cứ điểm địch đại đội 360 do đại đội trưởng Tạ Quốc Luật chỉ huy tiến thẳng tới đầu cầu Mường Thanh. Đại liên 4 nòng của địch ở bên kia cầu quét xối xả chặn ta. Các chiến sĩ Vinh. Nhỏ và tổ dao nhọn lừa địch, hút chúng về một phía rồi dùng thủ pháo diệt gọn các ổ đại liên, tạo thời cơ cho trung đội của Chu Bá Thệ vượt qua cầu. Tiểu đội dao nhọn của đại đội 360 nhảy vào hào địch, bắt 2 tù binh dẫn đường tới sở chỉ huy của tướng Đờ Cát. Đội bảo vệ chỉ huy sở của địch dùng xe tăng phản kích nhưng các chiến sĩ đại đội 360l ập tức đập tan và áp sát miệng hầm. Sau một loạt thủ pháo, tiểu liên uy hiếp, tổ chiến sĩ Vinh. Nhỏ dẫn đầu trung đội cùng đại đội trưởng xông. vào hầm bộ chỉ huy tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật dùng tiếng Pháp bắt tướng Đờ Cát -xtơ ri phải ra lệnh cho toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm đầu hàng. 1 giờ 30 phút ngày 7 tháng năm 1954 tướng Đờ Cát -xtơ-ri và bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm mang cờ trắng ra hàng.

Đêm đó, Đại đoàn 304 đuổi bắt 2.000 tên địch ở phân khu Hồng Cúm.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu vô cùng anh dũng quân và dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc tiến công chiến lược đông xuân 1953 -1954 bằng một chiến công chấn động địa cầu.

Đối với Đại đoàn 312 chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi của ý chí kiên cường, quyết tâm chiến đấu vượt qua muôn vàn hy sinh gian khổ của cán bộ chiến sĩ, là thắng lợi của công tác tổ chức xây dựng lực lượng, huấn luyện rèn luyện bộ đội trong những điều kiện vô cùng khó khăn ác liệt. Nó đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc về lãnh đạo chỉ huy, trình độ kỹ thuật, chiến thuật và khả năng tác chiến hiệp đồng của các đơn vị. Từ đột phá các cứ điểm đơn lẻ với lực lượng ít, thời gian ngắn tiến tới đột phá liên tục với lực lượng lớn, thời gian dài vào tập đoàn cứ điểm có bố phòng kiên cố phức tạp của địch. bộ đội ta đã vận dụng linh hoạt các hình thức thủ đoạn tác chiến vây lấn kết hợp với đột phá, tiến công chính diện kết hợp với vu hồi sau lưng bên sườn, thọc sâu, luồn sâu, v.v... linh hoạt và có hiệu quả.

Là lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu, đánh trận mở màn và kết thúc chiến dịch, đại đoàn đã tham gia 20 trận đánh lớn, tiêu diệt 17 đại đội địch, bắt sống hơn 4.000 tù binh, góp phần cùng các đơn vị bạn tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, giáng đòn quyết định, đánh bại ý chí xâm lược của thực dân Pháp, tạo ra chuyển biến lớn trong cục diện chính trị và quân sự ở Đông Dương.

Với chiến công xuất sắc đó, ngày 13 tháng 5 năm 1954 trong lễ duyệt binh của các đơn vị chiến thắng Điện Biên Phủ được tổ chức trọng thể ngay trên cánh đồng Mường Thanh, Đại đoàn 312 vinh dự được nhận vĩnh viễn cờ thưởng luân lưu "Quyết chiến quyết thắng"của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bốn năm đã trôi qua, kể từ trận đầu ra quân chiến thắng vẻ vang ở Liễn Sơn Xuân Trạch, bước chân những người lính Đại đoàn Chiến Thắng đã in dấu trên khắp các chiến trường Trung Du, Việt Bắc, Tây Bắc... Phát huy truyền thống "Đoàn kết, Anh dũng, Chiến thắng", dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Tổng quân ủy, Đại đoàn Chiến Thắng đã vừa chiến đấu, vừa xây dựng lực lượng, càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành. Từ chỗ cả đại đoàn chỉ có 3 tiểu đoàn đánh công kiên được (trong đó mới có 2 tiểu đoàn đánh khá) đến chiến dịch Điện Biên Phủ đại đoàn đã có 9 tiểu đoàn đánh công kiên khá. Từ chỗ phân tán đánh nhỏ lẻ, diệt các đồn bốt do các trung đội, đại đội địch đóng giữ, đại đoàn đã tiến lên đánh tập trung, đánh lớn, đột phá những cứ điểm kiên cố của địch ở Him Lam, Độc lập tiêu diệt tiểu đoàn địch. Thời gian 4 năm vừa chiến đấu vừa xây dựng chưa dài nhưng các chiến sĩ Đại đoàn Chiến Thắng đã tham gia 7 chiến dịch, đánh 84 trận lớn tiêu diệt 6513 tên bắt 6835 tên địch. Nhiều trận đánh như Xuân Trạch, Núi Đanh, Ninh Mít, Ba Vì, Him Lam, Độc Lập, Mường Thanh cũng tên tuổi các anh hùng liệt sĩ Trần Cừ, Trần Can, Phan Đình Giót đã đi vào lịch sử kháng chiến hào hùng của quân dân cả nước.

Trong cuộc chiến đấu trường kỳ đấy gian khổ và hy sinh. đại đoàn đã rèn luyện được một đội ngũ cán bộ, chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm chiến đấu đoàn kết trên dưới một lòng, tự phê bình và phê bình nghiệm khắc thắng không kiêu, bại không nản. Trước mọi thử thách ác liệt cán bộ chiến sĩ đại đoàn luôn bình tĩnh, mưu trí linh hoạt, chiến đấu anh dũng và chiến thắng oanh liệt. Nhiều cán bộ chiến sĩ ưu tú của đại đoàn đã ngã xuống vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhiều đồng chí qua rèn luyện thử thách ác liệt đã trưởng thành. 5 đồng chí trở thành anh hùng quân đội, 7 đồng chí trở thành chiến sĩ thi đua toàn quân và toàn quốc, Đại đoàn vinh dự được nhận nhiều cờ thưởng, nhiều huân chương Quân công và Chiến công cho tập thể, cán bộ, chiến sĩ. Những phần thưởng cao quý đó ghi nhận những đóng góp lớn lao của cán bộ chiến sĩ Đại đoàn 312 trong cuộc chiến đấu đã qua, cổ vũ và thôi thúc đại đoàn vươn lên phát huy truyền thống "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng" trong thời kỳ mới.

chương 4

XÂY DỰNG SƯ ĐOÀN CHÍNH QUY, HIỆN ĐẠI, SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ MIỀN BẮC, CHI VIỆN CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM

(1954 - 1968)

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) đã đưa đất nước ta sang một thời kỳ mới: miền Bắc hoàn toàn giải phóng và bước vào chặng đường. đấu tiên của thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tạm thời nằm dưới ách thống trị của bọn đế quốc và bè lũ tay sai. Sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước của nhân dân ta chưa hoàn thành trọn vẹn.

Từ giữa tháng 7 năm 1954 khi Hội nghị Giơ-ne-vơ chưa kết thúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch rõ: "Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dânViệt Miên, Lào"1, Người chủ trương: "Tập trung lực lượng chống đế quốc Mỹ"2 (Chú thích 1. 2. Hồ Chí Minh, Toàn lập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986,t.6, tr.580 và 582.). Lịch sử nước ta chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ chống Mỹ, cứu nước. Ở miền Nam nhân dân ta tiến hành đấu tranh chính trị đòi đối phương phải thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ. Quân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục và xây dựng về mọi mặt làm căn cứ địa cho cách mạng cả nước.

Ngày 5 tháng 9 năm 1954, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp đề ra nhiệm vụ trước mắt của quân và dân ta trên hai miền Nam Bắc là đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, ra sức củng cố miến Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.

Trong giai đoạn cách mạng mới, Bộ Chính trị xácđịnh "Quân đội nhân dân là cột trụ chủ yếu nhất, chắc chắn nhất để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình..., tăng cường xây dựng quân đội nhân dân) là nhiệm vụ quan trọng của Đảng, Chính phủ và toàn thể nhân dân ta. Cần phải xây dựng quân đội nhân dân thành một quân đội cách mạng, chính quy, tương đối hiện đại"1 (Chú thích 1 Nghị quyết quân sự của Đảng (1930 1960), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1959, tr.160.) .

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta trên hai miền Nam Bắc khẩn trương củng cố, sắp xếp lại lực lượng, xây dựng về mọi mặt, chuẩn bị bước vào cuộc đấu tranh mới.

Cùng với toàn quân, Đại đoàn 312 vừa chấn chỉnh, xây dựng lực lượng, ổn định tổ chức biên chế, trang bị, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước; đồng thời tham gia sản xuất, công tác, góp phần khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, các đơn vị quân đội lần lượt tiến vào tiếp quản các thành phố, thị xã và những vùng mới giải phóng. Tiếp thu vùng mới giải phóng là cuộc đấu tranh khá phức tạp trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hóa và phải có sự phòng bị về mặt quân sự. Do có cơ sở cách mạng, các tổ chức quần chúng và lực lượng vũ trang ta đã được xây dựng ở vùng sau lưng địch, sát đồn bốt kể cả trong thành phố, thị xã. Nhân dân ở đây có kinh nghiệm đấu tranh với địch, nên những điều kiện cơ bản, cần thiết cho công tác tiếp quản, đón bộ đội tới đã được chuẩn bị. Dựa vào nhân dân, quân đội ta có điều kiện thuận lợi để hoàn thành nhiệm vụ tiếp quản.

Tháng 9 năm 1954, Đại đoàn 312 được lệnh từ Phú Thọ tiến về tiếp quản khu vực Bắc Giang - Bắc Ninh. Ở Bắc Giang, việc rút quân của địch chia làm hai đợt: từ 27 đến 29 tháng 7 và từ 30 tháng 7 đến 4 tháng 8 năm 1954. Tại Bắc Ninh, địch rút theo hai khu vực: khu vực rút quân trong 80 ngày và khu vực rút quân trong 100 ngày. Ngày 31 tháng 7 năm 1954 địch rút hết các vị trí lẻ và ngày 8 tháng 8 rút khỏi thị xã Bắc Ninh.

Như vậy, trước khi đại đoàn tiến vào vùng Bắc Giang - Bắc Ninh thì quân Pháp đã cơ bản rút khỏi những khu vực trọng yếu và các lực lượng vũ trang cùng nhân dân địa phương đã tiếp quản vùng mới giải phóng. Đến khu vực Bắc Giang - Bắc Ninh, đại đoàn tiếp tục cùng với lực lượng vũ trang địa phương tham gia công tác xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, ổn định tình hình chính trị xã hội, tạo điều kiện cho các cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân trên địa bàn đóng quân hoàn thành nhiệm vụ cải cách ruộng đất ở vùng nông thôn. Đồng thời góp phần vào việc ổn định sản xuất ở các cơ sở công thương nghiệp trong thị xã.

Tại các vùng đóng quân, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị đã hăng hái giúp nhân dân khai hoang, phục hóa, tát nước chống hạn, đào mương thoát nước, cải tạo đồng ruộng đưa vào canh tác. Đại đoàn còn tham gia khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng. Cán bộ và chiến sĩ đã tích cực đóng góp công sức từ khi sửa nền, đập đá xẻ gỗ, vận chuyển tà vẹt cho đến lúc đặt đường ray và xây dựng những khu nhà ga mới, góp phần bảo đảm giao thông trên tuyến đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng.

Những năm tiếp theo, đại đoàn tham gia xây dựng các công trình kinh tế, xã hội như khôi phục tuyến đường sắt Hà Nội - Thái Nguyên, tham gia chống lũ, đắp đê sông Cầu, hàn khẩu đê vỡ ở Mai Lâm (Gia Lâm, Hà Nội), xây dựng khu gang thép Thái Nguyên và công trình thủy nông Bắc - Hưng - Hải. Cán bộ và chiến sĩ đại đoàn cùng với cán bộ các địa phương tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân sửa sai trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức theo chủ trương của Đảng. Trên các địa bàn đóng quân, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị đã đi vào từng thôn xóm, từng gia đình tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, giúp nhân dân vững tin theo Đảng và quý trọng "Anh bộ đội Cụ Hồ". Nhân dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, ổn định cuộc sống mới.

Trên những mặt trận mới, một lần nữa cán bộ vàc hiến sĩ Đại đoàn 312 thể hiện bản chất, phát huy truyền thống của quân đội cách mạng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, công tác và sản xuất: đại đoàn đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng huân chương Lao động hạng hai.

Đi đôi với thực hiện nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng đến nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân chính quy, hiện đại. Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị: "Phải ra sức xây dựng quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy, hiện đại để giữ gìn bảo vệ Tổ quốc"1 (Chú thích 1 Hồ Chí Minh với các lực lượng vũ trang nhân dân. Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1959, tr 7). Sau khi chiến tranh kết thúc, Tổng quân ủy đã chủ trương chấn chỉnh tố chức biên chế, cải tiến trang bị, bảo đảm cho toàn quân sẵn sàng chiến đấu và bước vào xây dựng chính quy hiện đại.

Cùng với các đại đoàn chủ lực thuộc Bộ, Đại đoàn 312 tiến hành chấn chỉnh tổ chức lại các đơn vị theo biên chế thống nhất của toàn quân. Tháng 6 năm 1955 Đại đoàn 312 đổi là Sư đoàn bộ binh 312 do đồng chí Đàm Quang Trung quyền Tư lệnh, đồng chí Nguyễn Anh Bảo -Sư đoàn phó và đồng chí Hoàng Cầm - Tham mưu trưởng. Sư đoàn có ba trung đoàn bộ binh 141, 165, 209 và các tiểu đoàn, đại đội trực thuộc: hai tiểu đoàn (pháo cao xạ 37 ly, công binh), ba đại đội (hóa học, trinh sát và vận tải cơ giới). .

Ngày 23 tháng 9 năm l955, trung đoàn 4 pháo binh thuộc Sư đoàn 312 được thành lập gồm ba tiểu đoàn: . tiểu đoàn 10 pháo 75 ly, tiểu đoàn 11 pháo 105 ly và tiểu đoàn 12 pháo 120 ly. Mặc dù thành lập trong hòa bình nhưng một số cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn đã từng ở các đơn vị đầu tiên của pháo binh Việt Nam. Có đồng chí từng tham gia chiến đấu trên mặt trận Sông. Lô ( 1947-1949), có đơn vị thành lập tử năm 1950, từng. tham gia chiến đấu liên tục từ chiến dịch Biên Giới đến chiến dịch Điện Biên Phủ. Đây là cơ sở vững chắc để xây dựng thành một trung đoàn mạnh của Sư đoàn.

Tiểu đoàn 10 pháo 75 ly tiền thân là liên đội 756 thuộc trung đoàn 675. Liên đội sử dụng súng cối phóng bom, sau ba tháng học tập, đơn vị được trang bị pháo75 ly, phối hợp với bộ binh tiêu diệt địch trong các trận Đông Khê, Ba Huyên, Chợ Vàng, Lán Tháp, Uông Bí. Nghĩa Lộ.. . Trong chiến dịch Hà-nam-ninh cán bộ và chiến sĩ đã khiêng pháo qua những cánh đồng chiêm lầy lội ngày phải dìm pháo xuống nước, đêm lấy pháo lên để phối hợp tác chiến. Đặc biệt là trong chiến dịch Hòa Bình, được tin một đoàn tàu chiến địch từ Hòa Bình về Trung Hà, liên đội bố trí lực lượng chặn đánh và ngay từ những phát đạn đầu tiên đã bắn trúng, nhấn chìm một tàu LCT và 4 ca nô địch. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, liên đội đánh kiềm chế sân bay Hồng Cúm, bắn cháy 2 máy bay địch. Kết thúc kháng chiến chống Pháp, liên đội 756 được tặng thưởng 4 huân chương Quân công và nhiều huân chương Chiến công. Tháng 8 năm 19t54 liên đội tách khỏi trung đoàn 756 về bổ sung choSư đoàn 312 và được chấn chỉnh tổ chức thành tiểu đoàn 10 .

Tiểu đoàn 11 pháo 105 ly từ lữ đoàn 349 chuyển sang. Tuy đơn vị mới thành lập, nhưng nhiều cán bộ và chiến sĩ đã từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tiểu đoàn 12 pháo 120 ly tiền thân là đại đội 75 thuộc tiểu đoàn 175 trung đoàn 675. Đại đội 75 được thành lập trước chiến dịch Biên Giới, từng tham gia chi viện hỏa lực cho bộ binh chiến đấu ở Đông Khê, Thất Khê, Tu Vũ. Pheo, Ca Vịnh, Mường Khoa, Nà Lọng. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đại đội tham gia đánh Him Lam, Độc Lập và bố trí trận địa đánh địch ở C1 ,C2 đến khi chiến dịch kết thúc. Đồng chí Bùi Đình Cư đội trưởng thuộc đại đội 75 vinh dự được tuyên dương danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" (31-8-1955) do đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp. Sau hòa bình lập lại đại đội 75 được bổ sung hai đại đội bộ đội địa phương Vĩnh Phúc tổ chức thành tiểu đoàn 12 thuộc trung đoàn pháo binh 4. Như vậy, ngay buổi đầu mới thành lập, hầu hết các đơn vị, các cán bộ và chiến sỉ của trung đoàn 4 đã được tôi luyện trong khói lửa ác liệt của chiến trường, đánh giỏi lập nhiều chiến công. Đội ngũ ban đầu ấy, truyền thống oanh liệt ấy là vốn quý và sức mạnh đưa trung đoàn 4 cùng với các đơn vị đứng trong đội hình Sư đoàn 312 viết nên những trang sử vẻ vang mới.

Thực hiện khóa huấn luyện đầu tiên trong hòa bình, sư đoàn đã khắc phục nhiều khó khăn. Do trình độ cán bộ hạn chế, nhiều chiến sĩ trình độ văn hóa còn thấp, sư đoàn đã gấp rút mở các lớp học văn hóa ở các đơn vị phổ cập cấp 1 cho chiến sĩ và cấp 2 cho cán bộ. Đồng thời tăng cường sinh hoạt tư tưởng, mở các đợt học tập quán triệt yêu cầu xây dựng Sư đoàn trong giai đoạn cách mạng mới. Hầu hết cán bộ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn và cơ quan được học thêm về lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo một giáo trình thống nhất do Tổng cục Chính trị biên soạn.

Chuẩn bị bước vào huấn luyện, Sư đoàn tổ chức nghiên cứu tổng kết, xây dựng nội dung huấn luyện cho bộ đội gồm hai hình thức chiến thuật: đánh vận động và đánh công sự vững chắc theo phương hướng tác chiến hiện đại Đây là hai hình thức chiến thuật cơ bản Sư đoànđã xây dựng và vận dụng thành công trong nhiều trận đánh thời kỳ chống Pháp. Song trước yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô ngày càng lớn và trước đối tượng tác chiến mới là đế quốc Mỹ, quân ngụy Sài Gòn, việc xây dựng và huấn luyện bộ đội phải có những bổ sung mới về nội dung theo chương trình cơ bản, hệ thống và toàn diện. Mọi hành động của bộ đội phải được thống nhất theo điều lệnh, điều lệ chính quy từ trên xuống dưới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy và Bộ tư lệnh, Sư đoàn mở đợt sinh hoạt chính trị rộng lớn, quán triệt những nhiệm vụ huấn luyện theo yêu cầu mới từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, kiên quyết khắc phục tư tưởng nặng về gò bó, cưỡng bức, nhẹ về giáo dục thuyết phục. Từ những bước đi ban đầu còn bỡ ngỡ, sư đoàn đã vượt qua mọi khó khăn và tạo được cho mình cơ sở vững chắc để bước vào xây dựng chính quy, hiện đại. Khí thế ra quân huấn luyện của Sư đoàn rất sôi nồi. Trên những ngọn đồi ở bắc thị xã Bắc Ninh, Sư đoàn trưởng xuống trung đoàn 141 trực tiếp hướng dẫn cán bộ luyện tập đúng động tác cơ bản của người chiến sĩ và người chỉ huy phân đội. Đồng chí nói: "Chúng ta đã có kinh nghiệm chiến đấu 9 năm, nhưng đối với phương thức tác chiến mới thì đây là bài học vỡ lòng. Bài học đầu tiên này chúng ta học chu đáo thì sẽ tiếp thu và học tốt các bài sau" .

Về kỹ thuật, Sư đoàn quyết tâm huấn luyện bộ đội bắn súng giỏi. Về chiến thuật, Sư đoàn bắt đầu huấn luyện từ động tác của người chiến sĩ đến phân đội (tiểu đội, trung đội, đại đội) cách tiến công và công kiên theo phương thức tác chiến hiện đại trên các loại địa hình. Ngay từ khóa huấn luyện đầu tiên này nhiều gương say mê luyện tập và điển hình trong huấn luyện đã xuất hiện ở các đơn vị.

Giữa lúc toàn Sư đoàn đang say sưa rèn luyện, học tập chiến thuật tại đồi Ba Huyên (Bắc Ninh), ngày 5 tháng 1 năm 1956 Bác Hồ đến thăm Sư đoàn. Bác ra thao trường của tiểu đoàn 16 trung đoàn 141 quan sát bộ đội luyện tập. Được tin, toàn đơn vị tập hợp báo cáo tình hình luyện tập và nghe Bác nói chuyện. Bác khen ngợi cán bộ và chiến sĩ đã khắc phục khó khăn, tích cực luyện tập và chỉ thị: "Xây dựng quân đội chính quy, hiện đại là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Cả nước chăm lo xây dựng. Bởi vậy, các chú phải cố gắng học tập Từ trước đến nay bộ đội ta còn nhiều thói quen du kích, bây giờ đã sang chính quy, có nhiều cái mới lạ và khó khăn. Ta phải thấy cái gì khó khăn để khắc phục. Các cấp ủy Đảng phải quan tâm đến việc học tập và đời sống của bộ đội. Đảng viên phải xứng đáng là lực lượng xung kích trong mọi việc. Như vậy nhất định ta sẽ tiến lên chính quy". Bác căn dặn cán bộ và chiến sĩ "cố gắng rèn luyện hơn nữa để xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân dân, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của quân đội ta, của Sư đoàn 312"1 (Chú thích 1 Tài liệu lưu trữ tại phòng truyền thống của Sư đoàn 312.).

Kết thúc khóa huấn luyện đầu tiên, các đơn vị trong sư đoàn đều đạt kết quả tốt. Trình độ kỹ thuật, chiến thuật của bộ đội được nâng lên một bước. Một trăm phần trăm số đơn vị bộ binh và binh chủng tham gia bắn đạn thật đạt yêu cầu. Nội dung và kinh nghiệm huấn luyện được Sư đoàn nghiên cứu bổ sung cho chương trình huấn luyện những năm tiếp theo.

Tháng 6 năm 1956, theo kế hoạch của Bộ, Sư đoàn chuyển quân từ Bắc Ninh về khu vực Trung Giã - Gia Sàng (Thái Nguyên). Tại nơi đứng chân mới, các đơn vị trongSư đoàn khẩn trương xây dựng doanh trại cơ bản. Các xí nghiệp sản xuất gạch, ngói, chế biến gỗ và xây dựng ra đời. Để tăng cường sức kéo gỗ tử khu rừng Phúc Thuận ra, Sư đoàn sử dụng hai con voi, trong đó có một con từng được gắn huân chương do thành tích kéo pháo ở Khu 4 trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Sau hơn một năm nỗ lực lao động, Sư đoàn đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng doanh trại thống nhất, khang trang, rộng rãi. Các đơn vị chuyển bộ đội từ nhà dân vào doanh trại, đóng tập trung trên địa bàn từ Đa Phúc (Vĩnh Yên) đến Phú Bình, Phổ Yên, Đồng Hỷ (Bắc Thái). Bộ đội ăn ở tập trung, sinh hoạt thống nhất, tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng nền nếp chính quy hiện đại.

Bước sang năm 1957, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trên hai miền Nam Bắc có những chuyển biến mới. Kế hoạch khôi phục kinh tế ở miền Bắc cơ bản hoàn thành. Tình hình xã hội và đời sống của nhân dân ổn định. ở miền Nam, sau khi thiết lập được bộ máy thống trị từ Trung ương xuống cơ sở, Mỹ - Diệm liên tiếp mở các đợt tố cộng, diệt cộng, phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta.

Tháng 3 năm 1 957, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 12 (mở rộng) ra nghị quyết về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ của quân đội là: "Bảo vệ công cuộc củng cố và xây dựng miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội; bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ và an ninh của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ yếu là đế quốc Mỹ và tay sai".

Phương châm xây dựng quân đội là: "Tích cực xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh, tiến dần từng bước lên chính quy hóa và hiện đại hóa".

Cùng với toàn quân, cán bộ cao cấp, trung cấp sau đó là cán bộ sơ cấp và chiến sĩ Sư đoàn đã học tập, quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng. Qua đợt học tập cán bộ và chiến sĩ đã nâng cao nhận thức, tin tưởng ở đường lối của Đảng trong xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đấu tranh giành độc lập ở miền Nam, thống nhất nước nhà; xác định rõ trách nhiệm xây dựng quân đội phấn đấu thực hiện thắng lợi những mục tiêu của kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ nhất.

Quán triệt nhiệm vụ xây dựng quân đội trong tình hình mới, năm 1957 Sư đoàn được Bộ giao nhiệm vụ huấn luyện và diễn tập: "Trung đoàn bộ binh có xe tăng và pháo binh phối hợp tiến công địch trong công sự vững chắc". Đảng uỷ và Bộ Tư lệnh Sư đoàn tập trung chỉ đạo các đơn vị khắc phục mọi khó khăn, nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ huấn luyện. Trung đoàn 141 là lá cờ đầu của Sư đoàn trong các mùa huấn luyện trước được Sư đoàn giao nhiệm vụ tập mẫu chiến thuật: "Trung đoàn bộ binh có xe tăng và pháo binh phối hợp tiến công địch trong công sự vững chắc theo kế hoạch của Bộ. Đây là lần đầu tiên chỉ huy và cơ quan Sư đoàn, trung đoàn 141 lập kế hoạch diễn tập về chỉ huy, tham mưu, chính trị và hậu cần trong chuẩn bị và thực hành chiến đấu. Công tác diễn tập thực binh thể hiện các nguyên tắc chiến thuật của trung đoàn bộ binh được tăng cường hỏa lực chiến đấu tiến công, hiệp đồng chặt chẽ các mũi, các hướng, giữa bộ binh và các đơn vi hỏa lực; đồng thời thể hiện rõ các yếu lĩnh của bộ đội về kỹ thuật, chiến thuật trong tiến công.

Tháng 5 năm 1957, tại khu vực Lập Thạch - Vĩnh Yên, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu và Bộ tư lệnh Sư đoàn, trung đoàn 141 tổ chức diễn tập: "Trung đoàn bộ binh có xe tăng và pháo binh phối hợp tiến công địch trong công sự vững chắc". Đây là cuộc diễn tập cấp trung đoàn đầu tiên của Sư đoàn. Trung đoàn 141và các đơn vị tham gia diễn tập đã hoàn thành tốt nhiệm vụ Cuộc diễn tập kết thúc, Sư đoàn được Bộ đánh giá hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Kết quả diễn tập đánh dấu bước tiến mới của Sư đoàn từ tác chiến bộ binh đơn thuần đến tác chiến hiệp đồng binh chủng tương đối hiện đại. Trình độ tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp và trình độ kỹ thuật của bộ đội được nâng lên một bước rõ rệt. Trong năm 1957, các trung đoàn 165, 209 cũng hoàn thành tốt công tác huấn luyện và nhiều nhiệm vụ đột xuất khác.

Trong những tháng đầu năm 1958, Sư đoàn mở cuộc vận động thực hiện những quy định thống nhất của điều lệnh nội vụ, điểu lệnh đội ngũ điều lệnh kỷ luật. Tại các đơn vị, từ doanh trại đến thao trường, bộ đội thực hiện thống nhất trong sinh hoạt, học tập và huấn luyện theo điều lệnh. Chế độ tuần tra canh gác, trực ban, trực chiến được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ. Cán bộ và chiến sĩ được học tập nắm vững các động tác cơ bản, rèn luyện lễ tiết tác phong quân nhân, thường xuyên cảnh giác. sẵn sàng chiến đấu Sau một thời gian học tập và rèn luyện, những thói quen tự do tùy tiện, tác phong du kích được khắc phục. Mỗi đơn vị mỗi cán bộ chiến sĩ dần quen với nền nếp chính quy thống nhất hành động theo điều lệnh của quân đội.

Theo quyết định điều chỉnh xây dựng quân đội của Tổng quân ủy (3-l958) Sư đoàn tiến hành chấn chỉnh lực lượng theo yêu cầu tinh giản quân số, cải tiến vũ khí trang bị, nâng cao trinh độ và khả năng tổ chức chỉ huy của cán bộ các cấp.

Thực hiện chủ trương giảm bớt tổng quân số, tăng thêm lực lượng cho xây dựng kinh tế, Sư đoàn giải quyết cho hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ đã trải qua chiến đấu phục viên chuyển ngành tham gia xây dựng các công nông trường, củng cố hậu phương miến Bắc. Trong năm 1958, 5000 cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn được điều động làm nòng cốt thành lập nông trường Mộc Châu, Sơn La. Điện Biên, tham gia xây dựng nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, nhà máy sứ Hải Dương, xây dựng khu công nghiệp Việt Trì, mỏ A-pa-tít Lào Cai. . . Trên mặt trận xây dựng kinh tế, tuy những ngày đầu còn bỡ ngỡ nhưng cán bộ, chiến sĩ đã phát huy truyền thống tốt đẹp của quân đội, của Sư đoàn, tổ chức và quản lý chặt chẽ, lao động đạt hiệu quả kinh tế cao.

Trong quan hệ quân dân, các trung đoàn, tiểu đoàn và đơn vị cơ sở tổ chức kết nghĩa với các địa phương trên địa bàn đóng quân thuộc hai tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc. Quan hệ quân dân mật thiết là nhân tố quan trọng đề xây dựng đơn vị cũng như xây dựng địa phương thêm vững mạnh.

Cũng trong năm 1958, thay thế cho lớp cán bộ, chiến sĩ phục viên chuyển ngành là lớp chiến sĩ được lựa chọn trong đợt tuyển quân đầu tiên, thực hiện thí điểm gọi thanh niên nhập ngũ theo chế độ nghĩa vụ quân sự ở hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ. Đây là lớp thanh niên trẻ khỏe, trình độ văn hoá cấp 2 hoặc cấp 3, có khả năng tiếp thu nhanh những vấn đề khoa học, kỹ thuật quân sự.

Việc thay quân hàng loạt thuận lợi cho việc xây dựng đơn vị, nhưng cũng đạt ra cho lãnh đạo chỉ huy Sư đoàn một vấn đề cấp thiết là phải ra sức nâng cao trình độ mọi mặt cho cán bộ. Trước đối tượng tác chiến mới, cán bộ không thể dừng lại ở vốn hiểu biết và kinh nghiệm đã có mà phải nâng cao trình độ của mình. Vì thế, việc học tập của cán bộ trong Sư đoàn được đẩy mạnh hơn trước. Cán bộ trung cấp, sơ cấp được học tập thường xuyên về đường lối, chính sách của Đảng, những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, những vấn đề về đường lối quân sự, nghệ thuật quân sự Việt Nam và bổ túc nâng cao trình độ văn hóa. Năm 1958, hàng trăm cán bộ của Sư đoàn được cứ đi học các lớp ngắn hạn hoặc dài hạn ở các nhà trường, học viện quân sự, chính trị trong nước và ngoài nước. Sư đoàn còn tổ chức các lớp học tại chức, lớp tập huấn ngắn ngày cho cán bộ từ tiểu đội, trung đội, đại đội đến tiểu đoàn và mở các lớp bổ túc để nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ.

Giữa năm 1958, Sư đoàn được bổ sung một số vũ khí trang bị mới như CKC, tiểu liên AK, trung liên RPĐ, Badôca 40. Ngoài súng bộ binh, Sư đoàn được trang bị thêm hàng trăm khẩu pháo mặt đất và súng máy cao xạ; nhiều xe ô tô vận tải, và xe kéo pháo. nhiều máy thông tin vô tuyến. hữu tuyến và thiết bị kỹ thuật khác. Sư đoàn được trang bị vũ khí tương đối 'thống nhất và đồng bộ. Sức mạnh hỏa lực của Sư đoàn đã tăng lên hàng chục lần so với những năm kháng chiến chống Pháp. Đồng thời với sự trưởng thành về bản lĩnh chính trị, về kỹ thuật, chiến thuật, việc tăng cường trang bị vũ khí góp phần nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của Sư đoàn.

Tháng 6 năm 1958, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Sư đoàn 312 tổ chức diễn tập: "Sư đoàn tiến công trên địa hình có làng mạc, đồng nước và đồi núi xen kẽ". Các đơn vị được giao nhiệm vụ đã hoàn thành tốt đợt diễn tập Thành công của cuộc diễn tập đánh dấu bước trưởng thành của Sư đoàn trong nghiên cứu vận dụng phương thức tác chiến hiện đại vào huấn luyện bộ đội trên các loại địa hình ở nước ta.

Tháng 7 năm 1958, Đảng bộ Sư đoàn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ nhất. Về dự đại hội có 130 đại biểu đại diện cho các đảng bộ toàn Sư đoàn. Đại hội đánh giá: từ ngày thành lập, Đảng bộ đã phát huy sức mạnh lãnh đạo toàn diện, lãnh đạo Sư đoàn hoàn thành mọi nhiệm vụ trong chiến đấu, xây dựng và công tác. Mỗi chiến công, thành tích và từng bước đi lên của Sư đoàn trước hết là nhờ sự lãnh đạo vững vàng của Đảng. Đội ngũ đảng viên các đảng bộ luôn luôn ở mũi nhọn trong các hành động thực tiễn sáng tạo, có mặt ở những nơi khó khăn ác liệt, nêu nhiều tấm gương mẫu mực về lòng dũng cảm hy sinh và tình thương yêu đồng đội.

Đại hội xác định phương hướng lãnh đạo thời gian tới là tập trung lãnh đạo xây dựng đơn vị thành một sư đoàn mạnh về mọi mặt. Đi đôi với việc tăng cường giáo dục chính trị phải luôn luôn nắm vững công tác huấn luyện quân sự là trung tâm. Trong huấn luyện phải lấy huấn luyện cán bộ làm nhiệm vụ hàng đầu. Cán bộ và cơ quan chỉ huy phấn đấu nâng cao trình độ tổ chức, chỉ huy, trình độ quản lý bộ đội. Đảng bộ các cấp phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời các chương trình, kế hoạch và nội dung huấn luyện, học tập của Sư đoàn. Trong kháng chiến chống Pháp, Sư đoàn đã xây dựng nên truyền thống Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng. Nay Sư đoàn càng phải phát huy tinh thần anh dũng lên một bước cao hơn để giành lấy chiến thắng trong cuộc đấu tranh mới: làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự, xây dựng Sư đoàn tiến lên chính quy, hiện đại. Đồng thời sẵn sàng nhận lệnh đi chiến đấu ở bất cứ đâu, đi từng phân đội, hay cả đoàn. sẵn sàng đập tan âm mưu và hành động xâm lược của Mỹ - Diệm.

Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ khóa I. Đồng chí Lê Chiêu - Chính ủy sư đoàn được bầu làm Bí thư Đảng ủy.

Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ nhất có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Sư đoàn. Nghị quyết của Đại hội là phương hướng hành động của toàn Sư đoàn trong quá trình xây dựng và sẵn sàng chiến đấu trong những năm tiếp theo.

Cuối tháng 11 năm 1958, Tổng quân ủy phát động cuộc vận động: "Tiến nhanh hoàn thành vượt mức kế hoạch xây dựng quân đội trong toàn quân. Hưởng ứng cuộc vận động và quán triệt nghị quyết của Đại hội Đảng bộ, toàn Sư đoàn bước vào xây dựng và phát triển với một khí thế mới.

Cùng với toàn quân, Sư đoàn tổ chức học tập, chấp hành điều lệnh, tích cực huấn luyện, thực hiện chế độ bảo quản vũ khí trang bị mới; đống thời thực hiện chế độ phục vụ của sĩ quan, chế độ quân hàm, chế độ tiền lương, chế độ khen thưởng do Nhà nước mới ban hành tháng 12 năm 1958.

Ở miền Nam, sau gần 5 năm ( 1954- 1958) đấu tranh quyết liệt, lực lượng cách mạng tuy có bị tổn thất, nhưng vẫn được duy trì và phát triển. Nhằm đưa cách mạng miền Nam chuyển sang bước phát triển mới Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (l-l959) quyết định: "Giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam" 1 (Chú thích.1 Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1985, t. 1, tr. 116.)

Chấp hành nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 15 và căn cứ vào kết quả thực hiện kế hoạch quân sự trong những năm 1955-1959, Tổng quân ủy quyết định tăng cường hơn nữa công cuộc xây dựng quân đội cách mạng chính quy. hiện đại, nâng cao sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của quân đội, đồng thời chuẩn bị kế hoạch đưa quân đội vào miền Nam chiến đấu.

Hướng về miền Nam huấn luyện sát với thực tế chiến trường, sẵn sàng vào Nam chiến đấu trở thành yêu cầu nguyện vọng tha thiết của mỗi cán bộ, chiến sĩ của các đơn vị quân đội trên miền Bắc. Trong khí thế khẩn trương xây dựng của toàn quân, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn 312 nỗ lực phấn đấu đẩy nhanh công cuộc xây dựng đơn vị tiến lên chính quy, hiện đại và sẵn sàng chiến đấu cao.

Cùng với phong trào thi đua sôi nổi của nông thôn đi vào hợp tác xã nông nghiệp, phong trào thi đua "Sóng Duyên Hải" trong ngành công nghiệp phong trào thi đua "Ba nhất" dấy lên trong toàn quân đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào xây dựng chính quy của Sư đoàn. Các đơn vị vừa tiếp tục thực hiện các chế độ, điều lệnh chính quy xây dựng doanh trại cơ bản, mở rộng quy mô huấn luyện, vừa tham gia xây dựng các công trình kinh tế của đất nước, đạt hiệu quả cao.

Ngày 8 tháng 6 năm 1959, Sư đoàn vinh dự được Bác Hồ đến thăm. Cùng đi với Bác có các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh và một số cán bộ cao cấp của Đảng và quân đội. Cũng như lần trước, Bác vào nơi làm việc của cơ quan Sư đoàn. Bác thăm một số phòng làm việc rồi đi thẳng ra bãi tập của tiểu đoàn 7 (tức tiểu đoàn 130) trung đoàn 209 ở Gia Sàng (Đồng Hỷ, Thái Nguyên) . Nói chuyện với bộ đội, Bác khen ngợi: "Các chú tập luyện thế là tốt. Nhưng đây mới chỉ là tập luyện ở thao trường. Các chú phải cố gắng hơn nữa để khi đến chiến trường đánh thắng địch, thắng to mà ta lại ít thương vong. Thế mới giỏi". Bác căn dặn: "Cán bộ và chiến sĩ phải đoàn kết, cán bộ phải quan tâm đến chiến sĩ. Đơn vị phải chú ý làm tốt công tác dân vận, thực hiện: "Đi dân nhớ, ở dân thương". Mong các chú cố gắng công tác và luyện tập giỏi hơn nữa, không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu.

Những tháng cuối năm 1959, Sư đoàn tập trung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật với những vũ khí trang bị mới. Đợt huấn luyện này, bộ đội được học tập về lý thuyết, tính năng, tác dụng, sức công phá của các loại vũ khí nguyên tử, vũ khí hóa học, cách đề phòng và sử dụng các phương tiện khí tài phòng tránh trong chiến đấu Kết thúc huấn luyện, Sư đoàn tổ chức diễn tập: "Sư đoàn tiến công'! đạt kết quả tốt. Qua đợt diễn tập, trình độ tổ chức chỉ huy của cán bò được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, trong diễn tập còn bộc lộ số mặt hạn chế như huấn luyện rập khuôn, máy móc. Hội nghị Tổng quân ủy tháng 2 năm 1959 mở rộng đã phân tích chỉ ra nguyên nhân chính là do cách đặt vấn đề huấn luyện chưa xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam để nghiên cứu và tiếp thu kinh nghiệm của bạn một cách có chọn lọc Trước đây, chúng ta thường nói: "Học trước, dùng sau, nắm nguyên tắc cơ bản trước rồi vận dụng sau'. Do đó dễ làm cho công tác huấn luyện sa vào chỗ rập khuôn, máy móc, thoát ly thực tiễn Việt Nam. Những biểu hiện lệch lạc này được Sư đoàn phát hiện, nghiêm khắc sửa chữa khắc phục, góp phần đẩy mạnh công tác huấn luyện trong những năm sau đạt kết quả tốt hơn.

Tháng 6 năm 1960, Đảng bộ Sư đoàn tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ hai. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ nhất, trong đó tập trung kiểm điểm công tác huấn luyện những năm 1958-1959 và đề ra phương hướng lãnh đạo, xây dựng Sư đoàn trong ba năm (1960-1962 )

Về công tác huấn luyện, Đại hội xác định: "Quán triệt đường lối quân sự của Đảng về chiến tranh nhân dân và quân đội nhân dân, quán triệt phương châm chiến lược tư tưởng chỉ đạo tác chiến và phương châm tác chiến. Xuất phát từ thực tiễn của Việt Nam bao gồm: tình hình cụ thể của đối tượng tác chiến, tình hình của quân đội ta, địa hình chiến trường và kinh nghiệm tác chiến của ta; hết sức coi trọng việc tiếp thu kinh nghiệm tiên tiến của quân đội các nước anh em, nhưng phải có thái độ học tập đúng đắn, phải có chọn lọc phân tích. Trong huấn luyện phải phát huy dân chủ và đề cao kỷ luật tự phê bình và phê bình, rút kinh nghiệm từng ngày, từng khoa mục để ngày sau, khoa mục sau huấn luyện tốt hơn ngày trước, khoa mục trước"

Thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ hai, công tác huấn luyện quân sự của Sư đoàn bắt đầu có sự chuyển biến mới. Cũng như các Sư đoàn bộ binh trực thuộc Bộ, Sư đoàn 312 không "khuôn nội dung" huấn luyện trong hình thức: "tác chiến trận địa, chiến hào liên tục theo tuyến!' của quân đội các nước anh em, mà đã kết hợp huấn luyện các hình thức chiến thuật đánh vận động, tập kích, phục kích. . . vốn là sở trường của các lực lượng vũ trang ta. Các thủ đoạn thọc sâu, chia cắt kết hợp với vu hồi, đánh hiểm. .. được coi trọng. Các đơn vị được học tập, rèn luyện chiến đấu trên các địa hình, trong mọi điều kiện thời tiết, cả ban ngày và ban đêm. Cán bộ được trang bị những tri thức cần thiết về chiến tranh du kích và nghệ thuật kết hợp tác chiến chính quy với tác chiến du kích. Đặc biệt, Sư đoàn thường tổ chức những cuộc hành quân diễn tập dài ngày để rèn luyện sức cơ động bền bỉ, dẻo dai và nâng cao sức mạnh chiến đấu cho bộ đội.

Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đề ra đường lối cách mạng Việt Nam: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà"1 (Chú thích 1 Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước t.1, Sdd, tr 130.).

Sau khi thực hiện một số chấn chỉnh về tổ chức biên chế, cuối năm 1960, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Sư đoàn 312 tổ chức diễn tập thực binh: "Sư đoàn phòng ngự trận địa". Tiếp đó là: "Sư đoàn chiến đấu trong điều kiện địch sử dụng vũ khí hạt nhân" để Bộ nghiên cứu, rút kinh nghiệm bổ sung phương án tác chiến chỉ đạo toàn quân. Các đơn vị tham gia hai đợt diễn tập đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Qua mỗi lần diễn tập, trình độ chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chửng của cán bộ và khả năng chiến đấu của bộ đội được nâng lên một bước.

Năm 1961, toàn quân bắt đầu triển khai công tác huấn luyện theo kế hoạch quân sự 5 năm lần thứ hai (1961-l965). Nhiệm vụ huấn luyện của Sư đoàn trong năm 1961 được xác định: về kỹ thuật, huấn luyện thành thạo các bài bắn súng cơ bản của bộ binh và pháo binh; về chiến thuật, huấn luyện động tác chiến đấu từ cá nhân đến trung đoàn tiến công. tiểu đoàn phòng ngự; đồng thời diễn tập cơ quan Sư đoàn, diễn tập pháo binh chi viện tiểu đoàn, trung đoàn bộ binh tiến công trong điều kiện không có thời gian chuẩn bị hoặc chuẩn bị gấp

Để nâng cao hiệu quả công tác huấn luyện, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn phát động phong trào: "phát huy sáng kiến, nâng cao chất lượng huấn luyện" trong toàn sư đoàn. Hưởng ứng phong trào thi đua, hàng trăm sáng kiến cải tiến kỹ thuật của cán bộ, chiến sĩ các đơn vị được áp dụng, nâng cao hiệu quả công tác huấn luyện. Sáng kiến nghiên cứu bài bắn pháo ứng dụng bằng phương pháp kẹp nòng của sĩ quan pháo binh Tô Bỉnh và sáng kiến dùng nạng tu chống rào thép gai của chiến sĩ Nguyễn Viết Độ (trung đoàn 165) được phổ biến rộng rãi trong toàn quân, vận dụng trong huấn luyện và trong chiến đấu ở một số đơn vị trên chiến trường miên Nam. Hai đồng chí Tô Bỉnh và Nguyễn Viết Độ được tặng thưởng huân chương Chiến công hạng ba.

Cũng trong năm 1961, tiểu đoàn 8 (trung đoàn 209) và tiểu đoàn 1 (trung đoàn 141) là hai tiểu đoàn được chọn xây dựng thành đơn vị điển hình của Sư đoàn đạt danh hiệu: "Tiểu đoàn bắn giỏi" trong đợt kiểm tra bắn đạn thật toàn sự đoàn. Đây cũng là hai đơn vị đầu tiên trong toàn quân đạt danh hiệu "Tiểu đoàn bắn giỏi" Những kinh nghiệm hay về xây dựng, huấn luyện vàc ông tác của tiểu đoàn 8 và tiểu đoàn 1 được Bộ phổ biến rộng rãi tới các đơn vị trong toàn quân.

Từ phong trào thi đua "phát huy sáng kiến, nâng cao chất lượng huấn luyện", trong Sư đoàn đã xuất hiện những đại đội huấn luyện giỏi về nhiều mặt. Tại các cuộc hội thao kỹ thuật toàn quân năm 1961 do Bộ tổ chức, các đại đội pháo binh, công binh, trinh sát của Sư đoàn đều đạt giải nhất, giải nhì. Một số cán bộ, chiến sĩ đã đạt được những kỷ lục mới trong các môn thi kỹ thuật quân sự. Chiến sĩ Bùi Văn Lâm đạt giải nhất toàn quân trong cuộc thi gói bộc phá. Trung úy Hoàng Hồng giành huy chương vàng trong cuộc thi báo vụ quốc tế (1962) Năm 1960 tại hội thao kỹ thuật toàn quân, cácđơn vị thuộc Sư đoàn tham gia thi cấp tiều đội bộ binh xếp thứ ba, ném lựu đạn xếp thứ nhất, bắn đại liên thứ hai, trinh sát thứ ba, và pháo binh thứ năm. Những thành tích đạt được đã cổ vũ mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ trong xây dựng, học tập và công tác. Năm 1961 Sư đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, được Bộ tặng bằng khen.

Quán triệt phương hướng xây dựng Sư đoàn trong thời kỳ mới, trong ba năm ( 1960- 1962 ), tỷ lệ lãnh đạo của Sư đoàn đạt 27 phần trăm, các đại đội chiến đấu từ 12 đến 17 phần trăm. Toàn đảng bộ có 113 chi bộ trong ba năm đã kết nạp được 409 đảng viên, đưa số đảng viên của Sư đoàn lên 1555 đồng chí.

Về công tác cán bộ, Sư đoàn đặc biệt coi trọng chất lượng chính trị, cử 200 đồng chí tham gia xây dựng đơn vị mới và đi chiến đấu; đồng thời cử hàng trăm cán bộ đi học ở các nhà trường, học viện quân sự trong nước và nước ngoài.

Trong công tác hậu cần, Sư đoàn đã tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho chủ nhiệm hậu cần cấp tiểu đoàn, đồng thời mở các lớp đào tạo cho 99 lái xe, 16 thợ sửa chửa xe và 243 y tá, góp phần bảo đảm cho các đơn vị tổ chức bộ đội huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu

Từ ngày 26 đến 28 tháng 4 năm 1962, Đảng bộ Sư đoàn tổ chức Đại hội lần thứ III. Dự đại hội có 120 đại biểu đại diện cho các đảng bộ toàn Sư đoàn. Đồng chí Lê Quang Đạo - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị dự đại hội. Báo cáo của Đảng ủy khẳng định bước trưởng thành của Sư đoàn 312 trong cộng tác huấn luyện những năm 1960~1962, đồng thời chỉ rõ một số mặt yếu kém của Sư đoàn về trình độ tổ chức chỉ huy và khả năng làm chủ vũ khí trang bị mới.

Đại hội xác định: quán triệt nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, nâng cao trình độ cho cán bộ, đảng viên, xây dựng quyết tâm sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ chiến đấu. Cán bộ, đảng viên đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện tư tưởng tiểu tư sản và tư sản, xây dựng tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nâng cao nhiệt tình cách mạng, xây dựng Sư đoàn tiến lên chính quy, hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Về xây dựng Đảng, phấn đấu 100 phần trăm chi bộ vững mạnh, đảng viên đạt tiêu chuẩn 4 tốt, không có đảng viên vi phạm kỷ luật. Giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng trong sinh hoạt, chỉ huy đơn vị và phát triển đảng viên. Nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật, trình độ tổ chức chỉ huy hiệp đồng binh chủng sát với thực tế chiến trường miền Nam, sát đối tượng tác chiến, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội.

Đại hội đã vui mừng đón nhận lời chúc mừng của đảng bộ, chính quyên và nhân dân huyện Phổ Yên (Thái Nguyên): "Sư đoàn đã giành nhiều thời gian và sức lực tận tình giúp đỡ nhân dân Phổ Yên hàng chục vạn ngày công trong phong trào thi đua sản xuất, cử hàng chục cán bộ tham gia xây dựng phong trào hợp tác xã, đặc biệt là hình ảnh anh bộ đội ngâm mình dưới nước, ngăn dòng nước lũ năm 1959 cứu hàng nghìn mẫu lúa khỏi ngập úng. Những lúc đời sống bà con gặp khó khăn, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn đồng cam cộng khổ giúp đỡ nhân dân hàng tấn gạo, hàng trăm đồng bạc.. . Tình thương yêu của cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn đối với nhân dân Phổ Yên thắm thiết hơn tình anh em ruột thịt...".

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa III, gồm 11 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết Đồngchí Lê Chiêu - Chính ủy Sư đoàn được bầu lại làm Bí thư Đảng ủy.

Sau Đại hội Đảng bộ Sư đoàn lần thứ ba, cán bộ và chiến sĩ khẩn trương bắt tay vào thực hiện các nhiệm vụ, nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ trên giao.

Thực hiện chủ trương. của Quân ủy Trung ương về việc đưa quân đội vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam, từ năm 1961, nhiều cán bộ chiến sĩ quê ở miền Nam hoặc quen thuộc chiến trường miền Nam đang công tác ở miền Bắc được điều động vào chiến trường. Đi B trở thành nhiệm vụ chiến đấu vẻ vang, niềm vinh dự, tự hào của mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội. Trong hai năm 1961 - 1962, hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ được huấn luyện chính quy trên miền Bắc đã nhận lệnh hành quân vào phối hợp với quân và dân miền Nam chiến đấu.

Tháng 2 năm 1963, Sư đoàn nhận lệnh cử một tiểu đoàn gồm 600 cán bộ, chiến sĩ thuộc trung đoàn 14 1vào chiến trường Trị - Thiên. Sau một thời gian chuẩn bị một tiểu đoàn biên chế đủ quân số và vũ khí trangbị do đồng chí Nguyễn Hỉ làm tiểu đoàn trưởng, đồng chí Bùi Tùng làm chính trị viên hành quân vào chiến trường. Đây là đơn vị đầu tiên của Sư đoàn từ Thái Nguyên vượt sông Bến Hải vào Nam. Đặt chân tới chiến trường, tiểu đoàn đánh trận đầu ở Chóp Chài, diệt một đại đội ngụy. Sau này, tiểu đoàn là lực lượng nòng cốt xây dựng trung đoàn Ba Gia ở Khu 5.

Cũng trong năm 1963, Sư đoàn tiếp tục cử một số đơn vị vào chiến trường miền Nam. Trong lần gặp gỡ tiễn đa bộ đội lên đường, đồng chí Sư đoàn trưởng nêu rõ: "Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước còn nhiều khó khăn và đầy hy sinh gian khổ. Song hiện nay theo yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu Sư đoàn mới cử một số đồng chí đi làm nhiệm vụ. Tất nhiên, đây không phải là đợt cuối cùng. Các đồng chí là những người được Đảng, quân đội và Sư đoàn tín nhiệm cử đi trước. Hơn bao giờ hết các đồng chí phải nhận rõ trách nhiệm, quyết tâm thực hiện tốt nhiệm vụ, xứng đáng với lòng tin cậy của Đảng, của nhân dân, quân đội và sư đoàn. Lịch sử Sư đoàn sẽ dành những trang xứng đáng để ghi nhận những chiến công oanh liệt của các đồng chí

Ngày 1 tháng 1 năm 1964 trong khi cán bộ chiến sĩ các đơn vị đang chuẩn bị năm huấn luyện mới, Bác Hồ đến thăm Sư đoàn. Cùng đi với Bác có đồng chí Nguyễn Chí Thanh và đồng chí Chủ tịch ủy ban hành chính tỉnh Thái Nguyên. nói chuyện với cán bộ và chiến sĩ, Bác khen Sư đoàn đã có nhiều tiến bộ trong xây dựng đơn vị và đoàn kết quân dân. Bác ghi vào sổ truyền thống của Sư đoàn lời căn dặn cán bộ, chiến sĩ:

1 Ra sức làm tròn nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc và tham gia đấu tranh thống nhất nước nhà..

2. Thi đua thực hiện cuộc vận động xây dựng quânđội năm 1964. Ra sức học tập chính trị, rèn luyện ttưởng, đạo đức cách mạng, nâng cao cảnh giác; ra sức học tập văn hóa và kỹ thuật; luôn luôn sẵn sàng chiến đấu sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.

3. Đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân. Các cán bộ và đảng viên phải gương mẫu trong mọi công việc. Chống tham ô, lãng phi, quan liêu; mở rộng dân chủ, đề cao kỷ luật.

4. Các cấp ủy và cán bộ cần lãnh đạo tốt việc vệ sinh, phòng dịch, chăm sóc sức khỏe và việc ăn uống của đơn vị. Cần tiếp tục tăng gia sản xuất hơn nữa".

Năm 1964 cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của quân và dân ta ở miền Nam có bước phát triển mới. Quân giải phóng miền Nam đẩy mạnh đánh tập trung cấp tiểu đoàn, trung đoàn, vừa chống càn vừa diệt đồn bốt, hỗ trợ nhân dân nổi dậy giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Trước nguy cơ chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản, đế quốc Mỹ tăng cường viện trợ, phát triển ngụy quân, đẩy mạnh càn quét quy mô lớn ở miền Nam, mở rộng chiến tranh bằng không quân ở Lào; đồng thời gây chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân đối với miền Bắc, hòng ngăn cản sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến, làm nao núng quyết tâm giải phóng miến Nam, thống nhất Tổ quốc của quân và dân ta.

Trước âm mưu và hành động chiến tranh mới của đế quốc Mỹ, ngày 9 tháng 1 năm 1964, Bộ Tổng Tham mưu triệu tập hội nghị phòng không nhân dân toàn miền Bắc lần thứ nhất bàn biện pháp chuẩn bị đánh trả các cuộc tập kích của không quân địch, hạn chế những thiệt hại do chúng gây ra.

Ngày 27 tháng 3 năm 1964 Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt. Người tuyên bố: "Nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại. Vì nhân dân cả nước sẽ kiên quyết đánh lại chúng, vì các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ toàn thế giới sẽ hết sức ủng hộ ta, vì nhân dân Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ cũng sẽ phản đối chúng"1 (Chú thích 1, Hồ Chí Minh. toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, t.9, tr 670, 672.) Người kêu gọi quân và dân trên miền Bắc: "Mỗi người chúng ta phải làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miến Nam ruột thịt.

Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Bác, quân và dân ta quyết tâm chiến đấu bảo vệ miền Bắc, đẩy mạnh cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.

Từ ngày 16 đến 18 tháng 4 năm 1964 Đảng bộ Sư đoàn tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ IV. Đại hội xác định: Sư đoàn 312 là lực lượng chủ lực cơ động của Bộ, có nhiệm vụ tác chiến trên mọi chiến trường, vận dụng mọi hình thức tác chiến trên các loại địa hình và trong mọi điều kiện. Nếu địch tiến công quy mô lớn xâm lược miền Bắc, Sư đoàn là đội quân tác chiến chủ yếu tiến công, phản kích tiêu diệt địch ở đồng bằng và rừng núi miền Bắc, đồng thời tiêu diệt địch ở miền Nam để thống nhất Tổ quốc.

Phương hướng xây dựng của Sư đoàn trong thời gian tới là: trên cơ sở nâng cao giác ngộ giai cấp, đề cao tinh thần triệt để cách mạng, tập trung mọi khả năng nâng cao ý chí chiến đấu, ra sức xây dựng, huấn luyện đơn vị làm chủ khoa học kỹ thuật quân sự, rèn luyện tác phong chính quy, tác phong chiến đấu, nâng cao trình độ tổ chức chỉ huy đơn vị, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao trong mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện. Đại hội phát động phong trào thi đua: "Phát huy truyền thống quyết chiến quyết thắng, mỗi người làm việc bằng hai vì chủ nghĩa xã hội, vì thống nhất Tổ quốc".

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa IV gồm 11 đồng chí. Đồng chỉ Hoàng Cầm -Sư đoàn trưởng được bầu làm Bí thư Đảng ủy.

Đối phó với những hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ, một bộ phận lực lượng vũ trang trên miền Bắc trong đó có Sư đoàn 312 được lệnh chuyển trạng thái từ thời bình sang thời chiến. Sư đoàn được lệnh rời khu doanh trại vào đóng quân trong các thôn xóm để đề phòng địch đánh phá. Một lần nữa Sư đoàn lại sống trong lòng dân, được nhân dân giúp đỡ, đùm bọc, che chở. Những thôn xóm thuộc các huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ, Phú Bình tỉnh Thái Nguyên và Đa Phúc tỉnh Vĩnh Phú trở thành căn cứ của một Sư đoàn cơ động, bàn đạp xuất phát đi chiến đấu trên khắp các chiến trường của Sư đoàn.

Thực hiện chỉ thị của Bộ, các Sư đoàn chủ lực cơ động đều chú trọng huấn luyện dã ngoại trên các loại địa hình. trong điều kiện thời tiết phức tạp nhằm rèn luyện sức cơ động dẻo dai cho cán bộ, chiến sĩ, đáp ứng yêu cầu hành quân xa, mang vác nặng từ hậu phương ra tiền tuyến. Sư đoàn 312, đơn vị mang tên Sư đoàn "Chiến Thắng" bắt đầu thực hiện kế hoạch huấn luyện hành quân đường dài, mang vác nặng. Ngoài thao trường hoặc tại bàn làm việc trong các giờ buổi sáng, buổi chiều, mỗi cán bộ chiến sĩ đều mang trên vai hoặc để bên cạnh mình ba lô trọng lượng từ 20 ki-lô-gam nâng dần lên 30, 40 ki-lô-gam và hơn nửa. Trong ba lô là tư trang. sách vở có lúc là gạch đá để rèn luyện mang nặng hành quân đường dài luôn thường trực trên đầu giường của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Nó trở thành biểu tượng nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn "vì miến Nam ruột thịt phải chịu đựng gian khổ để rèn luyện nâng cao sức cơ động sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng kẻ thù.

Tháng 6 năm 1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị: tăng cường sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm mưu khiêu khích phá hoại miền Bắc của không quân địch Chấp hành chỉ thị của Bộ Chính trị. Tổng Tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam ra lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu trong toàn thể các lực lượng vũ trang trên miền Bắc. Đến cuối tháng 7 năm 1964 mọi công tác chuẩn bị của các lực lượng vũ trang miền Bắc, đặc biệt là hai quân chủng Phòng không - Không quân và hải quân đã cơ bản hoàn thành.

Nhằm cứu nguy cho những thất bại ở miền Nam, sau khi dựng lên "Sự kiện vịnh Bắc Bộ", ngày 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mỹ dùng máy bay đánh phá các khu vực cảng sông Gianh (Quảng Bình), Cửa Hội (thành phố Vinh), Lạch Trường (Thanh Hóa), Bãi Cháy (Quảng Ninh), mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc.

Sang năm 1965, cùng với việc đưa quân viễn chinh vào miền Nam, đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá các tuyến đường bộ, đường sắt và nhiều khu vực dân cư bệnh viện, trường học ở miến Bắc.

Với tinh thần "Quyết tâm đánh tháng giặc Mỹ xâm lược" quân và dân miền Bắc đã anh dũng đánh trả địch, giành thắng lợi ngay từ những ngày đầu, đánh bại các bước leo thang chiến tranh của địch, lập nên những chiến công oanh liệt.

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, Sư đoàn chuyển trung đoàn 209 lên vùng Chi Lăng - Sông Hóa - Kép, bố trì trận địa phòng không phối hợp với quân dân hai tỉnh Lạng Sơn và Hà Bắc chiến đấu bảo vệ tuyến đường sắt đường quốc lộ la, đoạn từ Lạng Giang lên Lạng Sơn. Đồng chí Tạ Quang Thảo, phó chính ủy và đồng chí Trương Văn Hào Tham mưu trưởng trung đoàn 209 trực tiếp tổ chức chỉ huy các trận địa phòng không của trung đoàn ở khu vực này. Nhân dân Lạng Sơn và Hà Bắc, nơi bộ đội đóng quân, đã đóng góp tre, nứa, rơm cho bộ đội xây dựng doanh trại, công sự trận địa, nhà trực chiến. Cán bộ và chiến sĩ trung đoàn 209 thường xuyên tuần tra trực chiến, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh địch.

Tháng 8 năm 1965, không quân Mỹ bắt đẩu bắn phá đường sắt và quốc lộ la, đoạn từ Hà Bắc lên Lạng Sơn. Trong hai tháng 9 và 10, chúng đánh phá liên tục vào các khu vực cầu Sông Hóa, Đồng Mỏ, Phố Ví, Kép, v v Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, cán bộ và chiến sĩ trung đoàn 209 đã tổ chức các trận địa bắn máy bay địch bay thấp, bổ nhào phối hợp với bộ đội phòng không. Trong trận đánh ngày 31 tháng 10 năm 1965, trung đoàn lập công xuất sắc, bắn rơi 4 máy bay Mỹ ở vùng trời Chi Lăng - Sông Hóa - Kép bằng súng bộ binh. Những tháng cuối năm 1965, các trận địa của trung đoàn phối hợp với lực lượng phòng không của Bộ và địa phương bắn rơi hàng chục máy bay địch, bảo vệ các mục tiêu, giữ vững tuyến giao thông đường sắt và quốc lộ la Hà Nội - Lạng Sơn.

Cùng thời gian này, theo yêu cầu của Bộ, Sư đoàn tổ chức thêm hai tiểu đoàn 14A và 14B trang bị pháo Cao xạ 37 ly hành quân vào chiến đấu bảo vệ tuyến đường chiến lược phía tây Quân khu 4. Cán bộ, chiến sĩ hai tiểu đoàn đã khắc phục mọi khó khăn, triển khai các trận địa bảo vệ những mục tiêu giao thông quan trọng. Trong đợt hoạt động chiến đấu đầu tiên trên tuyến lửa Khu 4, hai tiểu đoàn 14A, 14B đã tổ chức đánh nhiều trận phối hợp với các đơn vị bạn, bắn rơi 36 máy bay Mỹ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ, giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho chiến trường miền Nam. Một thời gian sau, tiểu đoàn 14B được lệnh trở về Sư đoàn tham gia cụm cao xạ bảo vệ cầu Gié (Hà Tây), bắn rơi 4 máy bay Mỹ. Sau này, tiểu đoàn được trang bị súng máy phòng không 12.8 ly, làm nghĩa vụ quốc tế ở Lào và chiến đấu ở Quảng Trị, bắn rơi 30 máy bay các loại của địch, tô thắm chiến công chung của Sư đoàn.

Trước âm mưu đế quốc Mỹ mở rộng "chiến tranh cục bộ" ồ ạt đưa lực lượng chiến đấu Mỹ và chư hầu vào miến Nam; nhiều tiểu đoàn, trung đoàn, sau này là Sư đoàn với đầy đủ quân số và vũ khí trang bị theo biên chế được huấn luyện chính quy trên miền Bắc đã hành quân vào chiến trường sát cánh cùng quân và dân miền Nam chiến đấu. Theo kế hoạch của Bộ, mỗi khi một trung đoàn thuộc các sư đoàn chủ lực cơ động lên đường thì đều để lại một số sĩ quan, hạ sĩ quan, nhân viên kỹ thuật làm nòng cốt cùng cán bộ và tân binh mới bổ sung thành lập trung đoàn mới mang cùng phiên hiệu. Trong những năm 1965-1968, khi đưa các trung đoàn vào chiến trường Sư đoàn 312 đã thực hiện cách tổ chức đó.

Tháng 10 năm 1964, đại tá Hoàng Cầm, Sư đoàn trưởng nhận lệnh vào chiến trường miền Nam.. Đồng chí Sư đoàn trưởng lên đường đã nêu tấm gương mẫu mực cho cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 312 về tinh thần chấp hành nhiệm vụ chiến đấu. Đồng chí Lê Thanh được cử làm Sư đoàn trưởng và đồng chí Vũ Đức Thái làm Chính ủy.

Trung tuần tháng 10 năm 1965, Sư đoàn điều một tiểu đoàn khung lựu pháo 105 ly hành quân cấp tốc sang. Cánh Đồng Chum, phối hợp với Bạn chiến đấu. Sau 30 phút nhận lệnh các đồng chí được cử đi làm nhiệm vụ quốc tế đã có mặt tại sân bay Gia Lâm rồi sang Lào bằng máy bay. Cuối năm 1965, Sư đoàn còn tổ chức 4 tiểu đoàn bộ binh đủ quân số và trang bị vũ khí lên đường tăng cường cho quân chủ lực miền Nam. Tiểu đoàn 8 (tức tiểu đoàn 166) thuộc trung đoàn 209 và tiểu đoàn 2 (tức tiểu đoàn 420) thuộc trung đoàn 141 vào chiến trường Khu 5 chiến đấu. Các tiểu đoàn này trở thành nòng cốt xây dựng trung đoàn Ba Gia chủ lực Quân khu 5. Tiểu đoàn 9 (tức tiểu đoàn 254) thuộc trung đoàn 209 và tiểu đoàn trợ chiến hỗn hợp hành quân vào Mặt trận Trị - Thiên . Ngay sau khi các đơn vị ra mặt trận, Sư đoàn tổ chức ngay đơn vị mới và tập trung huấn luyện về mọi mặt, nâng cao sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho các đơn vị mới sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ

Bị thất bại liên tiếp trong cuộc chiến tranh phá hoại trên miền Bắc và bị thua đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ tập trng lực lượng không quân, hải quân mở rộng đánh phá trên toàn miền Bắc. Tháng 6 năm 1966 đế quốc Mỹ leo một nấc thang mới đánh phá Hà Nội và Hải Phòng. Đầu tháng 7 năm 1966, Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam dân chủ cộng hòa họp dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định những chủ trương lớn nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Ngày 17 tháng 7 năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Mình kêu gọi quân dân cả nước: chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn"1 (Chú thích 1 Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1989, t. 10, tr.375.).

Năm 1966, Sư đoàn được Bộ điều động sang tỉnh Hòa Bình triển khai huấn luyện theo phương án chiến đấu đánh vận động, đánh công sự vững chắc trong tình huống phức tạp, bất ngờ của chiến tranh.

Cũng trong năm 1966, Sư đoàn nhận lệnh đưa hai trung đoàn 141A và 165A với đủ quân số và vũ khí trang bị theo biên chế hành quân cấp tốc vào chiến trường Đông Nam Bộ tăng cường lực lượng cho khối chủ lực Miền. Trung đoàn 209A ở lại làm nòng cốt xây dựng sư đoàn..

Chấp hành mệnh lệnh, trung đoàn 141a do đồng chí Vũ Chất làm trung đoàn trưởng, đồng chí Đức Bao làm Chính uỷ đã cùng trung đoàn l65a hành quân bằng tàu hỏa vào Khu 4, sau đó hành quân bộ theo tuyến đường Trường Sơn vào Đông Nam Bộ an toàn.

Hai trung đoàn 141A và 165a là nòng cốt xây dựng Sư đoàn bộ binh 7 (ngày 13-6-1966), liên tục tham gia chiến đấu, lập chiến công oanh liệt trên chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ.

Tại hậu phương, khi các trung đoàn 141A, 165A vào chiến trường, Sư đoàn tổ chức xây dựng hai trung đoàn mới mang phiên hiệu trung đoàn 141B và trung đoàn 165B cùng với trung đoàn 209A tiếp tục huấn luyện sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Tháng 2 năm 1967 Sư đoàn cử hai tiểu đoàn 4 và 5 (trung đoàn 165B) vào chiến trường Trị - Thiên chiến đấu. Tháng 3 năm 1967 trung đoàn 165B được bổ sung đầy đủ quân số thực hiện huấn luyện chính quy nâng cao sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Sang năm 1968, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta giành được những thắng lợi to lớn và toàn diện. Tháng 1 năm 1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp thông qua nghị quyết của Bộ Chính trị (12-1967) nêu rõ: nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực to lớn của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa đề giành thắng lợi quyết định"1 (Chú thích 1. M ột số văn kiện của Đảng về chống Mỹ , cứu nước, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1986, t.2, tr.70.). Đối với miền Bắc, công tác xây dựng lực lượng bổ sung cho chiến trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng của hậu phương đối với tiến tuyến.

Tháng 1 năm 1968, Sư đoàn được lệnh đưa tiếp hai trung đoàn nữa vào tăng cường cho quân và dân miền Nam mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân. Việc chọn hai đơn vị vào chiến trường làm cho lãnh đạo chỉ huy Sư đoàn gặp khó khăn do cả ba trung đoàn đều xung phong ra mặt trận. Cuối cùng, Đảng ủy Sư đoàn quyết định cử trung đoàn 141B và trung đoàn 209A vào chiến trường Trung đoàn 165B ở lại làm nòng cốt xây dựng Sư đoàn.

Trung đoàn 141B mới được thành lập và huấn luyện khoảng 6 tháng do đồng chí Nguyễn Lãm - trung đoàn trưởng và đồng chí Khắc Hào làm chính ủy hành quân vào chiến trường Khu 5 chiến đấu. Sau một thời gian, trung đoàn trở thành lực lượng nòng cốt xây dựng Sư đoàn 3 chủ lực Quân khu 5. Một số cán bộ, chiến sĩ của trung đoàn được cử xuống các huyện, xã tham gia xây dựng bộ đội địa phương và dân quân du kích, góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân dân trên chiến trường Khu 5.

Trung đoàn 209A do đồng chí Trần Huy Toàn làm trung đoàn trưởng, đồng chí Phùng Vị làm chính ủy vào chiến đấu ở miền Đồng Nam Bộ. Đứng trong đội hình Sư đoàn 7, trung đoàn lập nhiều chiến công xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Như vậy là, trong 6 năm (1963-1968) Sư đoàn đã liên tục đưa 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn độc lập cùng nhiều cán bộ, chiến sĩ vào chiến trường miền Nam chiến đấu Từ một Sư đoàn 312, các đơn vị vào chiến trường đã được tổ chức thành một Sư đoàn hoàn chỉnh ở miền Đông Nam Bộ (Sư đoàn 7), làm nòng cốt xây dựng một sư đoàn và một trung đoàn ở Quân khu 5 (Sư đoàn 3 và trung đoàn Ba Gia) .

Tại hậu phương lớn, bộ phận "khung" còn lại được bổ sung quân số, vũ khí và gấp rút xây dựng, huấn luyện thành các đơn vị mới thay thế cho các trung đoàn, tiểu đoàn đã ra mặt trận. Sau hai lần thay thế lớn (vào năm 1966 và năm 1968) chỉ còn trung đoàn 165B do đồng chí Nguyễn Chuông làm trung đoàn trưởng và đồng chí Quang Thảo làm chính ủy ở lại làm nòng cốt tiếp tục xây dựng Sư đoàn.

Để xây dựng Sư đoàn 312 với đủ biên chế, trang bị tiếp tục làm nhiệm vụ của một Sư đoàn chủ lực cơ động, tháng 8 năm 1968, Bộ Tổng Tham mưu quyết định điều trung đoàn 42 chủ lực Quân khu Hữu Ngạn (thành lập năm 1946 về Sư đoàn thay thế vị trí trung đoàn 209A đã vào chiến trường. Tiếp đó điều ba khung tiểu đoàn từ Quân khu 4, Quân khu Tả Ngạn, Quân khu Tây Bắc về tham gia thành lập lại trung đoàn 141. Các đơn vị mới bổ sung về Sư đoàn nhanh chóng được tổ chức lại và chuyển hướng huấn luyện theo chức năng của một đơn vị chủ lực cơ động dự bị chiến lược. Thời kỳ này sư đoàn do đồng chí Nguyễn Năng làm Sư đoàn trưởng và đồng chí Hoàng Phương làm chính ủy.

Sau khi ổn định tổ chức biên chế, tại địa bàn hai tỉnh Hòa Bình, Hà Tây, Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Sư đoàn chỉ đạo các đơn vị thực hiện kế hoạch huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật và diễn tập chiến thuật cấp tiểu đoàn. Riêng trung đoàn 165 sau khi hoàn thành chương trình huấn luyện chiến đấu tiến công hiệp đồng binh chủng, chuyển sang huấn luyện cách đánh trong thành phố.

Tháng 8 năm 1968, Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Sư đoàn tổ chức diễn tập thực binh nhằm kiểm tra, đánh giá trình độ chỉ huy và thực hành chiến thuật của Sư đoàn. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoàn huấn luyện sau khi được tổ chức lại. Địa bàn diễn tập của Sư đoàn nằm trên trục đường số 6, đoạn từ Xuân Mai đến thị xã Hòa Bình và một đoạn dọc sông Đà. Lực lượng tham gia diễn tập ngoài Sư đoàn 312 còn có một số đơn vị không quân, hải quân, xe tăng thiết giáp, pháo binh, công binh, thông tin và lực lượng vũ trang hai tỉnh Hà Tây, Hòa Bình. Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Thượng tướng Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam đã đến thao trường theo dõi cuộc diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn .

Dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tham mưu, các đơn vị tham gia diễn tập đã tập kết lực lượng đúng kế hoạch và thực hành tác chiến theo tình huống tưởng định của Bộ, hoàn thành tốt cuộc diễn tập. Tại hội nghị sơ kết cuộc diễn tập, Đại tướng Bộ trưởng Quốc phòng đã đánh giá: Sư đoàn 312 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập.

Sau cuộc diễn tập trên đường số 6, Sư đoàn tiếp tục huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu; đồng thời, tham gia giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai như chống hạn cứu lúa ở Phú Xuyên, Thường Tín (Hà Tây), Triệu Sơn, Quế Võ (Hà Bắc), đắp đê chống lụt ở sông Đuống, sông Cầu; giữ đê ngăn dòng nước lũ ở Dốc Tời, Gia Lâm (Hà Nội) góp phần cứu tài sản, bac vệ mùa màng, giúp nhân dân sản xuất, ổn định đời sống.

Theo kế hoạch của Bộ, cuối năm 1968 Sư đoàn chuyển vào đóng quân trên địa bàn các huyện ngoại thành Hà Nội làm nhiệm vụ bảo vệ Thủ đô. Đồng chí Lê Chiêu được điều về làm Chính ủy Sư đoàn thay đóng chí Hoàng Phương chuyển sang công tác ở đơn vị khác.

Bị thất bại liên tiếp trên cà hai miền Nam Bắc, ngày 1 tháng 11 năm 1968 đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động quân sự đối với miền Bắc, chấp nhận họp hội nghị bốn bên gồm Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính phủ Mỹ và chính quyền Sài Gòn tại Pa-ri, thủ đô nước Pháp.

Ngày 3 tháng 11 năm 1968 Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi quân và dân cả nước: chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Song đó chỉ mới là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và xảo quyệt . . . Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc . ..

Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi" .

Thấm nhuần lời dạy của Bác, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn tiếp tục phấn đấu xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng cơ động, sẵn sàng lên đường chiến đấu khi có lệnh.

Trải qua 15 năm xây dựng và chiến đấu (1954-1968), sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện chiến đấu bảo vệ miền Bắc và chi viện lực lượng cho chiến trường miền Nam; tham gia xây dựng kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Qua xây dựng, huấn luyện,Sư đoàn đã trưởng thành về nhiều mặt, xứng đáng là Sư đoàn chủ lực cơ động của Bộ sẵn sàng lên đường đi các chiến trường cùng toàn quân, toàn dân đẩy mạnh sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

chương 5

THỰC HIỆN NHIỆM VỤ QUỐC TẾ, THAM GIA CÁC CHIẾN DỊCH TRÊN CHIẾN TRƯỜNG LÀO

(1969-1972)

[/b]

Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân của quân dân miền Nam và thắng lợi của quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1964-1968) đã tạo ra bước ngoặt quyết định của chiến tranh. Ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Chiến lược "chiến tranh cục bộ" phá sản, buộc chúng phải xuống thang và thay đổi chiến lược. Đầu năm 1969, thay Giôn-xơn làm tổng thống Mỹ, Ních-xơn đề ra chiến lược mới "Việt Nam hóa chiến tranh", củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền, từng bước thay dần quân Mỹ trong vai trò chiến đấu trên bộ, ngăn chặn, cắt đứt chi viện của miền Bắc cho miền Nam; đồng thời tìm cách mở rộng chiến tranh sang Lào, Cam-pu-chia và lợi dụng cuộc hội đàm ở Pa-ri, âm mưu dùng sức mạnh trên chiến trường để kết thúc chiến tranh trên thế mạnh.

Trước âm mưu chiến lược mới của địch, để động viên quân dân hai miền Nam, Bắc quyết tâm đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới đồng bào và chiến sĩ cả nước, khẳng định đế quốc Mỹ nhất định sẽ thất bại. Người chỉ ra con đường đi tới thắng lợi của quân và dân ta là:

"Vì độc lập, vì tự do,

Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào". .

[/i]

Tháng 1 năm 1969, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về thăm Sư đoàn 312. Sau khi kiểm tra mọi mặt công tác của sư đoàn, Đại tướng đến thăm và chúc tết trung đoàn 165. Đại tướng căn dặn cán bộ và chiến sĩ sư đoàn phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu thật cao, sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu nhanh. Trước mắt phải học tập chính trị, huấn luyện quân sự thật tốt, nâng cao trình độ chiến đấu hiệp đồng binh chủng. Quân đội ta vốn có truyền thống quyết chiến quyết thắng, sư đoàn không những phải tiếp tục phát huy truyền thống đó mà còn phải biết đánh, biết thắng giặc Mỹ. "Quyết đánh - quyết thắng - biết đánh - biết thắng" trở thành phương châm huấn luyện của sư đoàn trong năm 1969.

Tháng 4 năm 1969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra nghị quyết đẩy mạnh cuộc kháng chiến, đánh bại chiến lược Việt Nam hóa, phi Mỹ hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ. Theo tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, chủ trương nhanh chóng điều chỉnh lực lượng, tăng cường chất lượng các lực lượng vũ trang, đặc biệt là bộ đội chủ lực.

Nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới sư đoàn tổ chức đợt sinh hoạt chỉnh trị nâng cao nhận thức tình hình, phân tích so sánh lực lượng trên chiến trường, tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, chủ trương đúng đắn của Đảng là kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xây dựng quyết tâm chiến đấu cao cho cán bộ, chiến sĩ. Qua đợt học tập, ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của toàn sư đoàn được nhân lên gấp bội. Hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ viết "quyết tâm thư" sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.

Sau những thất bại trên chiến trường miền Nam và chiến trường Lào, từ tháng 4 năm 1969 đế quốc Mỹ đẩy mạnh "Việt Nam hóa chiến tranh" ở miền Nam, đồng thời mở rộng chiến tranh ở Lào, lấn chiếm vùng giải phóng theo công thức: "Quân đặc biệt (quân ngụy Lào) quân chư hầu cộng với sự chi viện hậu cần và hỏa lực Mỹ". Sau chiến dịch Nậm Bạc (1967) đội quân phái hữu phản động Lào không còn đủ sức đảm đương vai trò xung kích trên chiến trường. Đội quân đặc biệt Vàng Pao được Mỹ coi trọng, trở thành lực - lượng xung kích mới của Mỹ chống phá cách mạng Lào và phong trào cách mạng ba nước Đông Dương. Với âm mưu đánh chiếm Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trước mùa mưa năm 1969, địch tập trung ở Mường Sủi một lực lượng lớn gồm 7 tiểu đoàn phối hợp với các hướng Sâm Thông (tây nam) và Bom Lọng (bắc) đánh phá, lấn chiếm vùng giải phóng Lào.

Theo dõi, đánh giá đúng âm mưu của địch, Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang yêu nước Lào quyết định mở chiến dịch tiến công quân địch ở Mường Sủi nhằm tiêu diệt sinh lực, chặn đánh cánh quân địch chuẩn bị đánh chiếm Cánh Đồng Chum. Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang yêu nước Lào, đề nghị Bộ Quốc phòng nước ta cử lực lượng phối hợp tác chiến.

Theo yêu cầu của Bạn, cuối tháng 4 năm 1969, Bộ Tổng tham mưu lệnh cho Sư đoàn 312 tổ chức một bộ phận lực lượng (tương đương một trung đoàn hỗn hợp) gồm bộ binh, pháo binh, công binh, đặc công, phòng không sang chiến trường Lào làm nhiệm vụ quốc tế phối hợp với các lực lượng vũ trang yêu nước Lào và bộ đội tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch tiến công địch ở Mường Sủi. Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định tổ chức lực lượng gồm tiểu đoàn 25 vận tải (trung đoàn 141), tiểu đoàn 14 pháo cối, tiểu đoàn 16 súng máy cao xạ 12,7ly (trung đoàn 165) . Các đơn vị này được tổ chức thành trung đoàn hỗn hợp, do đồng chí Chu Công Luận tham mưu phó sư đoàn làm trung đoàn trưởng và đồng chí Phạm Thanh Nha phó chủ nhiệm chính trị sư đoàn làm. chính ủy. Đồng chí Lã Thái Hòa, sư đoàn phó được cử tham gia chỉ đạo chiến trường và giúp đỡ trung đoàn hỗn hợp..

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ tháng 5 năm 1969, cán bộ và chiến sĩ trung đoàn hỗn hợp làm nhiệm vụ quốc tế hành quân sang nước bạn an toàn. Ngày 23 tháng 5, toàn trung đoàn tới vị trí tập kết ở khu rừng phía bắc gần ngã ba Xa-la-phu-khun. Từ năm 1962, Mỹ đã xây dựng Mường Sủi thành một căn cứ quân sự rộng lớn. Từ đây, lực lượng đặc biệt Vàng Pao mở nhiều cuộc hành quân lấn chiếm vùng giải phóng, đàn áp nhân dân, chống phá cách mạng Lào.

Nhằm tiêu diệt một bộ phận sính lực địch, góp phần làm thay đổi tương quan thế và lực cho cách mạng Lào, đánh bại âm mưu lấn chiếm vùng giải phóng của địch, Bộ Quốc phòng nước ta và Bộ chỉ huy quân đội giải phóng Lào phối hợp tổ chức chiến dịch tiến công địch ở khu vực Mường Sủi (Thượng Lào).

Quân tình nguyện Việt Nam tham gia chiến dịch có trung đoàn hỗn hợp thuộc Sư đoàn 312, Sư đoàn 316 (thiếu một trung đoàn), hai tiểu đoàn đặc công, một tiểu đoàn pháo (cối 120 ly), một tiểu đoàn súng máy cao xạ 12,7 ly, hai đại đội xe tăng (của Quân khu Tây Bắc và của Bộ) . . .

Theo kế hoạch, trung đoàn hỗn hợp của sư đoàn được tăng cường tiểu đoàn 6 có nhiệm vụ tiến công từ cánh bắc xuống, chiếm địa bàn Mường-phu-xưng, tạo bàn đạp thọc sâu tiêu diệt cứ điểm Phu Xô nơi địch đặt sở chỉ huy cứ điểm. Ngày 28 tháng 5 năm 1969 các đơn vị chiếm lĩnh xây dựng trận địa phòng ngự trên các điểm cao và triển khai hỏa lực. Bộ phận trinh sát của tiểu đoàn 19 đặc công do tiểu đoàn trưởng Phùng Kim Tình chỉ huy vượt dãy Phu San tiến vào Phu Xô gặp một tiểu đoàn địch đang hành quân ra chiếm Phu Suông, một điểm cao có giá trị về chiến thuật. Trận đánh đã diễn ra ngay chân dãy núi Phu San. Mặc dù lực lượng ta ít nhưng do phát hiện địch sớm, chủ động nổ súng ta đã đẩy tiểu đoàn địch vào thế bất ngờ. Trong khi đó, một số chiến sĩ tiểu đoàn 19 được tăng cường 90 chiến sĩ trên đường đi lấy gạo nhận được tin đã kịp tới phối hợp chiến đấu, tổ chức Phu San thành một trận địa chốt kết hợp với tiến công địch từ hai bên sườn, liên tiếp bẻ gãy ba đợt tiến công của tiểu đoàn địch, diệt nhiều tên, buộc chúng phải rút chạy về hướng Mường Sủi. Thế bao vây chiến dịch của ta đã hình thành.

Quân địch điên cuồng đánh phá hòng đẩy lùi, phá vỡ thế bao vây của ta. Các chiến sĩ đại đội 6, tiểu đoàn 2 (trung đoàn 141) do đại đội trưởng Nguyễn Văn Được, chính trị viên Nguyễn Văn Vệ chỉ huy đã kiên cường bám trận địa, đánh bật hàng chục đợt tiến công của địch.

Ngày 3 tháng 6 năm 1969, địch sử dụng 40 lần chiếc máy bay đánh phá Phu Sủng hòng mở đường cho một tiểu đoàn tiến công chiếm lại Phu San. Mặc dù có vị trí chỉ còn 9 chiến sĩ, đại đội 6 đã giữ vững trận địa Phu Sủng suốt 20 ngày đêm, bẻ gãy nhiều đợt tiến công có pháo binh yểm trợ của địch, góp phần tạo thế vững chắc, bao vây quân địch ở Mường Sủi.

Một giờ 45 phút ngày 24 tháng 6 năm 1969, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công địch trên các hướng vào các điểm cao quan trọng ở cứ điểm Phu Xô cao. Sau 15phút chiến đấu, tiểu đoàn 19 đặc công nhanh chóng tiêu diệt gọn địch, trong đó có tên đại tá chỉ huy trưởng và 4 sĩ quan cấp tá cùng toàn bộ cơ quan tham mưu của địch ở Mường Sủi. Một bộ phận khác của tiểu đoàn 19 tiến công diệt tiểu đoàn 15 địch ở Phu Suông. Các đơn vị bạn có xe tăng, thiết giáp phối hợp nhanh chóng diệt địch ở Bàn Khai, Nậm Xoong và tiến vào trung tâm Mường Sủi. Cùng thời gian này, trung đoàn 165 nhận lệnh chuyển quân vào Nghệ An làm nhiệm vụ dự bị chiến dịch đưa một bộ phận trinh sát tới Cánh Đồng Chum nghiên cứu địa hình, sẵn sàng bước vào chiến đấu khi có lệnh.

Ngày 27 tháng 6 năm 1969, ta tổ chức đánh địch phản kích, đột phá tuyến phòng thủ vòng ngoài, buộc địch phải rút chạy bằng máy bay lên thắng. Tiếp đó, từ 28 tháng 6 đến 1 tháng 7 năm 1969, ta phát triển tiến công, làm chủ toàn bộ Mường Sủi rồi truy quét tàn quân, phát triển chiến đấu về Phụ Viếng đến ngã ba Xa-la-phu-khun, tạo thế uy hiếp địch ở Sảm Thông -Long Chẹng và kết thúc chiến dịch.

Mường Sủi là chiến dịch đầu tiên sư đoàn tham gia sau một thời gian dài huấn luyện, xây dựng. Lực lượng sư đoàn tham gia chiến dịch chỉ có một bộ phận, gồm nhiều đơn vị hợp lại, trong đó lực lượng xung kích là tiểu đoàn 19 đặc công và đại đội 6 bộ binh trung đoàn 141) . Trong hoàn cảnh nhận lệnh gấp, sư đoàn đã kịp thời tổ chức cơ quan chỉ huy, thành lập một trung đoàn hỗn hợp hiệp đồng chiến đấu với đơn vị bạn . Cơ quan chỉ huy trung đoàn hỗn hợp mới thành lập nhưng đã giải quyết tốt các công việc từ lúc nhận lệnh, huấn luyện và chỉ huy thực hành chiến đấu. Các đơn vị được giao nhiệm vụ chiến đấu chuẩn bị khẩn trương, chu đáo, hành quân nhanh gọn, chiến đấu kiên cường dũng cảm.

Các trận chiến đấu ở Phu San, Phu Sủng thể hiện quyết tâm chiến đấu cao và tinh thần khắc phục khó khăn. hiệp đồng tốt giữa binh chủng với hỏa lực, giữa lực lượng chốt giữ trận địa với lực lượng cơ động, giữa đơn vị ở phía trước và phía sau, chiến đấu liên tục giữ trận địa đánh bại ý đồ của địch, tạo thế cho chiến dịch phát triển giành thắng lợi hoàn toàn. Sau chiến thắng Mường Sủi, tháng 7 năm 1969, toàn bộ lực lượng của trung đoàn hỗn hợp thuộc sư đoàn hành quân trở về địa bàn bắc Hà Nội củng cố lực lượng, bổ sung trang bị, tranh thủ huấn luyện. Những kinh nghiệm của các trận Phu San, Phu Sủng, Phu Xô được sư đoàn nghiên cứu, tổng kết, vận dụng vào huấn luyện sát với yêu cầu chiến đấu của chiến trường, góp phần nâng cao hơn nữa trình độ và khả năng chiến đấu của sư đoàn, sẵn sàng hoàn thành những nhiệm vụ chiến đấu mới.

*

* *

Tháng 8 năm 1969, khi các lực lượng vũ trang ta ở Mường Sủi hành quân về các khu vực tập kết, sở chỉ huy HQ 333 (Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Thái Lan) vạch kế hoạch mở cuộc hành quân "Cù Kiệt" (Rửa hận) âm mưu chiếm lại địa bàn chiến lược Cánh Đồng Chum.

Ngày 26 tháng 8 năm 1 969, toàn bộ lực lượng quân đặc biệt Vàng Pao và một bộ phận lực lượng quân đội Hoàng gia Thái Lan được Mỹ tập hợp làm lực lượng xung kích, dưới sự chi viện của không quân và hậu cần Mỹ, thực hiện cuộc hành quân "Cù Kiệt". Được không quân Mỹ đánh phá mở đường, 52 tiểu đoàn địch từ các hướng Sảm Thông, Long Chẹng, Keo Bon, Bom Lọng, Mường Dệt, Xa-la-phu-khun ào ạt lấn chiếm vùng giải phóng Cánh Đồng Chum. Đây là cuộc hành quân quy mô lớn nhất, điển hình nhất kể từ khi Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược Lào. Sau khi triệt phá và dồn dân vào các khu tập trung, địch xây dựng khu vực Cánh Đồng Chum thành một hệ thống phòng thủ tập đoàn cứ điểm tương đối vững chắc. Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng trở thành một vùng trắng, không còn dân, không còn cơ sở cách mạng. Lực lượng cách mạng bị đẩy lùi về giáp biên giới Việt - Lào.

Trước tình hình nghiêm trọng đó, Trung ương Mặt trận Lào yêu nước và Bộ tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Lào quyết định mở một đợt hoạt động quân sự nhằm thu hồi vùng cao nguyên chiến lược Cánh Đồng Chum, gây dựng lại cơ sở, cứu nhân dân các bộ tộc Lào trong khu vực thoát khỏi cành khốn cùng, từng bước đưa họ trở về quê cũ làm ăn, đồng thời bảo vệ vững chắc vùng giải phóng và khu căn cứ cách mạng Lào.

Theo thỏa thuận giữa hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam - Lào, Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam quyết định tăng cường lực lượng cho Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam tại Lào, phối hợp với Bạn mở chiến dịch phản công tiêu diệt địch, thu hồi Cánh Đồng Chum, đánh đòn nặng vào mưu đồ của Mỹ trên chiến trường Lào.

Ngoài Sư đoàn 316, hai trung đoàn bộ binh 866 và 338, Bộ Tổng tham mưu quyết định điều Sư đoàn 312, đơn vị dự bị chiến lược và một số đơn vị binh chủng xe tăng, pháo binh, phòng không, đặc công, vận tải tham gia chiến dịch. Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa được lệnh huy động hàng nghìn dân công phục vụ chiến dịch.

Giữa lúc sư đoàn đang khẩn trương huấn luyện, chuẩn bị cho đợt chiến đấu mới, thì một tổn thất to lớn đến với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân: Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần.

Cả sư đoàn lặng đi trước mất mát to lớn này. Gần 20 năm qua từ những đơn vị tiền thân đến khi hình thành sư đoàn chủ lực các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong sư đoàn luôn nhận được sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của Bác Hồ kính yêu. Những năm đầu xây dựng trong hòa bình, Bác đã ba lần đến thăm động viên sư đoàn xây dựng, huấn luyện, nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành mọi nhiệm vụ . Biến đau thương thành hành động cách mạng, cán bộ và chiến sĩ sư đoàn nắm chắc tay súng, quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác.

Trong khi sư đoàn đang tiến hành đợt sinh hoạt chính trị: "Học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh" thì Bộ Tổng tham mưu thông báo kế hoạch mở chiến dịch phản công giải phóng Cánh Đồng Chum. Toàn sư đoàn chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động chiến đấu Các cơ quan tham mưu sư đoàn chuẩn bị kế hoạch sử dụng lực lượng khi có lệnh.

Ngày 5 tháng 9 năm 1969, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho một tiểu đoàn thuộc sư đoàn đi chiến đấu phối thuộc với đơn vị bạn, đánh chặn địch lấn chiếm trên hướng Noọng Pẹt, bảo vệ đường số 7, con đường huyết mạch từ tây Nghệ An sang Cánh Đồng Chum. Bộ tư lệnh Sư đoàn giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 5 (trung đoàn 165) đi làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào. Sau hai ngày chuẩn bị, đêm 7 tháng 9 năm 1969, tiểu đoàn 5 do tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Nhận chỉ huy đã lên đường với đủ quân số và vũ khí trang bị.

Ngày 13 tháng 9 năm 1969 Đại tướng Võ Nguyên Giáp ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trực tiếp giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 312 và các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam thực hiện nhiệm vụ liên minh chiến đấu với Bạn. Chiến dịch được mang tên "chiến dịch 139"1 (Chú thích 1 Chiến dịch 139 là lồng ghép của ngày 13 và tháng 9) ngày Bộ trực tiếp giao nhiệm vụ chiến dịch cho các đơn vị.) còn gọi là chiến dịch "Toàn thắng".

Sau khi giao nhiệm vụ cho các đơn vị, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gặp đồng chí Tư lệnh và đồng chí Chính ủy Sư đoàn 312 căn dặn: "Sư đoàn phải khiêm tốn học tập và đoàn kết tốt với Bạn, đánh thật giỏi, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến dịch".

Theo kế hoạch tác chiến chiến dịch, ta mở hai hướng đột kích chủ yếu dựa vào hai trục đường 7A và 7B, từ tây Nghệ An sang Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng, phối hợp với hoạt động của các lực lượng vũ trang bạn ở vùng sau lưng địch. Để thực hiện mục tiêu đó, kế hoạch tác chiến chiến dịch dự kiến chia làm hai giai đoạn:

Giai đoạn 1 : tạo thế, sử dụng lực lượng của Sư đoàn 312 luồn sâu, đánh chiếm một số địa bàn quan trọng ở thị xã Xiêng Khoảng (cánh Nam) và Noọng Pẹt (cánh Bắc) , mở rộng và giữ vững hành lang vận chuyển trên cả hai trục đường 7A, 7B để đưa lực lượng và vận chuyển vật chất trang bị vào phục vụ chiến dịch, tạo bàn đạp để phát triển tiến công tiếp.

Giai đoạn 2: tiến công địch trên các hướng, buộc chúng phảỉ co cụm về Cánh Đồng Chum để thực hiện trận quyết chiến bằng tác chiến hiệp đồng binh chủng.

Chiến dịch 139 là chiến dịch phản công. Khó khăn lớn nhất đối với sư đoàn cũng như các đơn vị tham gia chiến dịch là thực hiện luồn sâu; mở hành lang vận chuyển lương thực, thực phẩm, trang bị kỹ thuật, bảo đảm cho cả hai hướng chiến dịch. ở hướng nam, do địch kiểm soát, ta không thể sử dụng lực lượng vận tải cơ giới mà phải huy động lực lượng vận tài bộ. Hàng nghìn dân công và bộ đội được huy động để vận chuyển cơ sở vật chất từ các căn cứ hậu phương đến vị trí tập kết của các đơn vị tham gia chiến dịch.

Ngày 15 tháng 9 năm 1969, Đảng ủy sư đoàn họp bàn biện pháp lãnh đạo các đơn vị tham gia chiến dịch. Sau khi phân tích đánh giá khả năng của từng trung đoàn, Đảng ủy giao nhiệm vụ: .

- Trung đoàn 165 (kể cả tiểu đoàn 5 chiến đấu phối thuộc với đơn vị bạn) là lực lượng tác chiến chủ yếu, có nhiệm vụ đánh địch trên cánh Nam chiến dịch ở cả hai tuyến Then Phun, Nậm Pông và thị xã Xiêng Khoảng, Cánh Đồng Chum.

- Trung đoàn 209 (kể cả các tiểu đoàn hỏa lực trực thuộc) làm nhiệm vụ vận chuyển vật chất, kỹ thuật vào cánh Nam chiến dịch, phục vụ trung đoàn 165 chiến đấu đồng thời từng bước đưa dần lực lượng vào tham gia chiến dịch.

- Trung đoàn 141 làm nhiệm vụ dự bị của chiến dịch, sẵn sàng bước vào chiến đấu trên cánh Bắc (theo trục đường 7A) khi có lệnh của Bộ tư lệnh chiến dịch.

Sau mấy ngày chuẩn bị, ngày 18 tháng 9 năm 1969 trung đoàn 209 do đồng chí Lợi - trung đoàn trưởng, đồng chí Nguyễn Kê - chính ủy chỉ huy lên đường, tiếp đó các đơn vị lần lượt hành quân ra mặt trận. Ngày 22 tháng 9, toàn sư đoàn đến vị trí tập kết ở Diễn Châu (Nghệ An). Từ đây lực lượng sư đoàn bắt đầu phân tán hành quân theo nhiệm vụ chiến đấu. Cơ quan lãnh đạo, chỉ huy sư đoàn chia làm hai bộ phận để chỉ huy cánh Bắc và cánh Nam. Bộ phận chi huy từng cánh gọi là Ban cán sự. Ban cán sự cánh Bắc gồm các đồng chí Lê Chiêu, Lã Thái Hòa, Chu Công Luận, Phan Thanh Nhã.. . Ban cán sự cánh Nam gồm các đổng chí Nguyễn Năng, . Nguyễn Xuyên, Nguyễn Duy Hàn. Đồng chí Lê Linh - Phó chính ủy mặt trận trực tiếp làm Chính ủy cánh Nam. Tại cánh Nam, Sư đoàn tổ chức ban chỉ huy vận tải và bảo vệ hành lang chiến dịch. ..'

Tháng 10 năm 1969, sau hơn mười ngày hành quân, các đơn vị đã đến khu vực tập kết chiến dịch chuẩn bị bước vào chiến đấu.

Cánh Đồng Chum thuộc tỉnh Xiêng Khoảng (bắc Lào),rộng chừng 20 ki-lô-mét vuông là cao nguyên tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình là 1.000 mét. Xung quanh Cánh Đồng Chum là rừng núi, nổi lên các điểm cao trung bình hơn 1.500 mét. Đường 7 chạy từ đông sang tây, cắt ngang Cánh Đồng Chum đi Mường Sủi. Đây là con đường huyết mạch của cao nguyên chiến lược Cánh Đồng Chum. Ngoài ra còn có đường số 4, chạy vòng từ phía đông qua phía bắc sang phía tây. Đường 7B nối liền đường 4 tới thị xã Xiêng Khoảng rồi chạy về biên giới tiếp giáp với Nghệ An. Con đường này mới mở, có nhiều đoạn chưa thông xe.

Khi sư đoàn vào đến vị trí tập kết chiến dịch, địch đã tổ chức phòng ngự ở khu vực Cánh Đồng Chum -Xiêng Khoảng và xây dựng các tuyến ngăn chặn từ xa như Then Phun, Nậm đông, Thẩm Khảng, giám biên giới Việt Lào. Tại Cánh đồng Chum, các cụm cứ điểm địch hình thành nhiều tầng, nhiều tuyến gồm cụm chỉ huy hành quân, cụm trận địa pháo 105, 155 và khu sân bay Bản áng. Địch còn dựng lên các tuyến phòng thủ liên hoàn vòng ngoài, tạo ra lớp - "vỏ cứng" buộc ta phải đánh "bóc vỏ" từ ngoài vào, nhằng ngăn chặn ta đột phá.

Trước tình hình ấy, Sư đoàn quyết định: trung đoàn 141 không làm lực lượng dự bị mà chuyển sang làm nhiệmvụ chiến đấu trên cánh Bắc, theo trục đường 7A ở bốn khu vực (Bản San, Mã Tử, Phu-nốc-cốc, Phu Phỗng) . Bộ tư lệnh sư đoàn hạ quyết tâm sử dụng lực lượng chiến đấu tập trung cấp tiểu đoàn trên từng khu vực tác chiến, kết hợp tổ chức lực lượng luồn sâu đánh hiểm phía trong với đánh địch ở phía ngoài, vừa đánh địch vừa mở hành lang kết hợp với vận chuyển đưa hàng vào sâu và đánh địch bảo vệ đường, bảo vệ kho bãi.

Ngày 21 tháng 10 năm 1969, tiểu đoàn 3 nổ súng đánh địch ở đồi Mã Tử. Sau hai đợt tiến công tiểu đoàn không chiếm được Mã Tử. Trận đầu ra quân không dứt điểm, gây ảnh hưởng tinh thần đối với tiểu đoàn và cả trung đoàn. Tư tưởng sợ địch, không tin vào chỉ huy của cán bộ xuất hiện làm suy giảm sức chiến đấu và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đơn vị. Sư đoàn đã kịp thời rút kinh nghiệm và củng cố quyết tâm chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ.

Ở cánh Nam, đêm 28 rạng ngày 29 tháng 10, đại đội 1 tiểu đoàn 19 đặc công bí mật tập kích ở Sa Mọi, mở đường cho trung đoàn 209 đưa 3 tấn gạo, đạn vào phía trong phục vụ trung đoàn 165 luồn sâu đánh địch.

Theo kế hoạch, trung đoàn 165 đưa lực lượng luồn vào sát khu vực thị xã Xiêng Khoảng, tìm hiểu tình hình địch, chuẩn bị nổ súng. Thị xã Xiêng Khoảng bị địch tàn phá nặng nề. Nhân dân bị dồn vào các trại tập trung, phần lớn chạy sang vùng biên giới Việt-Lào lánh nạn Địch xây dựng, biến thị xã Xiêng Khoảng thành một cụm cứ điểm gồm ba tiểu đoàn (BV24, BV26, AC1) đóng quân trên các điểm cao. Đây là cụm quân địch nằm trên tuyến trung gian giữa Cánh Đồng Chum và Then Phun, ngăn chặn ta triển khai lực lượng trên tuyến đường 7B .

Sau một thời gian nghiên cứu chuẩn bị khẩn trương, đêm 7 rạng 9 tháng 11 , lực lượng luồn sâu của trung đoàn 165 do các đồng chí Nguyễn Chuông, Đỗ Trường Quân, Đỗ Phú Vàng chỉ huy đồng loạt nổ súng tiến công địch trên 5 điểm cao và khu sân bay trung tâm thị xã. Xiêng Khoảng. Nhờ chuẩn bị chu đáo, trinh sát nắm chắc địch, và kiểm tra đôn đốc các đơn vị hành quân nên tuy 5 điểm cao cách xa nhau, bộ đội ta đã đến vị trí tập kết đúng lúc và đồng loạt nổ súng, gây bất ngờ lớn cho địch. Thế trận liên hoàn của chúng ở phía trước và phía sau bị xé nhỏ. Trung đoàn 165 chỉ sử dụng 2 đại đội 1 và 19 tiến công nhanh, diệt gọn đại đội AC 1 , . đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn BV24, BV26 của địch, làm chủ cả 5 điểm cao. Thất bại ở Xiêng Khoảng làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch. Thế trận liên hoàn nhiều tầng, nhiều tuyến của địch bị chia cắt Địch muốn buộc ta phải đánh bóc vỏ từ tuyến ngoài vào thì ta lại luồn sâu vào phía trong đánh ra, kết hợp luồn sâu đánh hiểm với tiến công địch trên toàn tuyến.. Địch đang ở thế chủ động, nống lấn, sau thất bại Xiêng Khoảng buộc phải co vào đối phó với ta cả ở phía trước lẫn phía sau, cả ở trục đường 7A và đường 7B.

Trong khi đó, tiểu đoàn 2 trung đoàn 141 luồn sâu vào Phu Phòng. Các đơn vị của trung đoàn 165 và trung đoàn 141 phối hợp với trung đoàn 866 (Quân khu Tây Bắc) và lực lượng của tỉnh đội Xiêng Khoảng làm nhiệm vụ ở nam Xiềng Khoảng. Phu Phẹng là dãy điểm cao gồm ba mỏm núi ở phía bắc Cánh Đồng Chum, do tiểu đoàn 12BI chiếm giữ. Địch xây dựng công sự và hàng rào chướng ngại quanh điểm cao. Trên mỏm cao số 2, địch đặt sở chỉ huy và trận địa hỏa lực hỗn hợp gồm cối 106,7 ly, 81 ly và ĐKZ 82, 75 ly .

Đồng chí Lã Thái Hòa sư đoàn phó, trực tiếp chỉ đạo điều tra nghiên cứu địch, chuẩn bị kế hoạch tác chiến. Đêm 15 tháng 11 năm 1969 tiểu đoàn 2 dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Lê Anh Thọ và chính trị viên Nguyễn Hải Thanh bỉ mật tập kích địch ở ba điểmcao Phu Phúng. Các đại đội trưởng Nguyễn Văn Phúng, Nguyễn Văn Được, các trung đội trưởng Nguyễn Văn Thông, Đỗ Đức Trung chỉ huy bộ đội đánh trúng địch ngay từ những loạt đạn đầu. Các chiến sĩ Nguyễn Văn Tăng, La Kim Ngọc, Lê Tiến Trung, Nguyễn Văn Ngô nêu gương dũng cảm chiến đấu, dẫn đầu đơn vị phát triển tiến công địch trong cứ điểm. Với cách đánh hiểm, kết hợp thọc sâu chia cắt với đón lõng diệt địch, tiểu đoàn 2 nhanh chóng chiếm điểm cao có lợi để phát triển, tiến công làm cho địch đối phó lúng túng. sau một thời gian chiến đấu quyết liệt, tiểu đoàn 2 diệt nhiều địch, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 12BI.

Những ngày cuối tháng 11 và đầu tháng 12 năm 1969, tiểu đoàn 2 thực hiện hai lần "đánh bồi", "đánh nhồi" vào Phu Phúng, gây thiệt hái nặng cho tiểu đoàn BV21 địch. Cảm phục trước tinh thần chiến đấu dũng cảm của tiểu đoàn 2, nhân dân Bản Mi, bản Cầu may và các chiến sĩ du kích Khăm Muộn đã gọi tiểu đoàn 2 là "tiểu đoàn Phu Nịch" (tiểu đoàn thép). Cùng với chiến thắng của quân ta ở thị xã Xiêng Khoảng, Xa Mọi trên đường vận tải và chiến thắng của bộ đội Pa-thét Lào ở Xa-la-phu-khun, chiến công trên điểm cao Phu Phúng góp phần tạo thế có lợi cho bước phát triển mới của chiến dịch.

Sau các trận tập kích tiêu diệt 5 cứ điểm địch, đêm 8 tháng 11 năm 1969, tiểu đoàn 4 trung đoàn 165 tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ở thị xã Xiêng Khoảng, tiêu diệt tiểu đoàn BV24 . Ngày 26 tháng 11, đại đội 11 (tiểu đoàn 1) tiêu diệt một đại đội địch trên điểm cao 1378. ở tuyến ngoài, các tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165), tiểu đoàn 9 (trung đoàn 209) liên tiếp tiến công địch trên các điểm cao 1176, Màng Mê, Then Phun, Nậm Pông, đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn BS209, BS208, BS210 của địch, mở rộng hành lang cho sư đoàn đưa lực lượng vật chất vào tuyến trong chuẩn bị cho bước phát triển tiếp theo của chiến dịch.

Đến giữa tháng 11 năm 1969, trên hai hướng chính của chiến dịch, các lực lượng của sư đoàn đã bố trí xong thế trận, gây cho địch nhiều thiệt hại, buộc chúng từ thế nống lấn phải chuyển sang phân tán đối phó . Nhiều mắt xích quan trọng trên tuyến phòng ngự của địch đã bị chặt đứt, tạo thuận lợi cho ta phát triển chiến dịch sang giai đoạn mới.

Ngày 19 tháng 12 năm 1969, đại đội 2 (trung đoàn 165) tiến công địch ở điểm cao 1176 diệt 80 tên: Ngày 27 tháng 12, đại đội 2 tiếp tục tiến công tiểu đoàn BS209 ở Măng Mô. Ngày 28 tháng 12, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 209) tiến công tiểu đoàn BS406 ở Then Phun, đồi ĐK. Đêm 29 tháng 12, tiểu đoàn 19 tiến công tiểu đoàn BS209 ở Keo Hom, buộc địch phải chạy về Pu Sam Sao Ngày 17 tháng 1 năm 1970 đại đội 1 (trung đoàn 209) tiến công tiểu đoàn BS208 ở đồi ĐK. Đến ngày 21 tháng 1 năm 1970, tuyến phòng thủ của địch ở Then Phun -Nậm Phòng bị phá vỡ Ta đưa lực lượng và vật chất vào sát thị xã Xiêng Khoảng.

Cuối tháng 1 năm 1970, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định tập trung hai sư đoàn (thiếu) đột phá các khu vực Bàn Ban, Noọng Pẹt (cánh Bắc), cụm điểm cao đông nam Cánh Đồng Chum (cánh Nam), thị xã Xiêng Khoảng và chốt giữ Phu Tôn, tạo thuận lợi cho trận quyết chiến chiến dịch ở cụm Na Non - Bản áng, thu hồi cao nguyên Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng. Về sử dụng lực lượng: cánh bắc, trung đoàn 141 đột phá cụm điểm Phu-nốc-cốc, sau đó phát triển tiến công khu vực Bản Ban - Noọng Pẹt; tiểu đoàn 5 đứng vững trên điểm cao 1435 đánh chiếm các điểm cao Phu Khăm, Phu Buộc, sau đó phát triển vào hướng Bàn Ban - Noọng Pẹt.

Cánh Nam, trung đoàn 165 (thiếu tiểu đoàn 5) tiến công địch ở cụm điểm cao đông nam Cánh Đồng Chum, chốt giữ Phu Tôn, sau đó phát triển tiến công vào Mường Pin, Bản áng; trung đoàn 209 (trừ một bộ phận đang làm nhiệm vụ vận tải) kết hợp với đại đội 1 (trung đoàn 165) tiến công tiểu đoàn địch ở Đồi Dài, đồng thời bao vây, tiến tới phá tan phòng tuyến địch ở Thun Phun - Nậm Pông, sẵn sàng đánh địch phản kích ra vùng Sen Chỗ - Pa Kha.

Từ ngày 7 đến 11 tháng 1 năm 1970, các đơn vị của sư đoàn hình thành thế bao vây Cánh Đồng Chum. Trung đoàn 141 (thiếu tiểu đoàn 2) tiêu diệt tiểu đoàn địch trên cụm điểm cao Phu-nốc-cốc ( 1413) , Cò Luông, một cụm cứ điểm mạnh được mệnh danh là "Cánh cửa sắt của địch ở cánh Bắc, mở thông đường 7A, tạo thuận lợi cho các đơn vị bạn tiếp tục phát triền vào tung thâm Cánh Đồng Chum. Ngày 14 tháng 1, tiểu đoàn 2 được tăng cường đại đội 6 tiêu diệt tiểu đoàn BV24 trên điểm cao Phu Phóng; tiểu đoàn 5 (trung đoàn 165) tập kích điểm cao 1435. Các lực lượng của sư đoàn ở cánh Bắc tiếp tục phát triển tiến công giải phóng hoàn toàn vùng Bản Ban, Noọng Pẹt, dồn địch co cụm về Cánh Đồng Chum.

Ở cánh Nam, từ ngày 17 tháng 12 năm 1969 đến ngày 7 tháng 2 năm 1970, các đơn vị của sư đoàn liên tiếp đánh chặn địch trên tuyến Then Phun, Nậm Pông; đồng thời tích cực chuẩn bị cho bước phát triển chiến dịch trên hướng thị xã Xiêng Khoảng, đông nam Cánh Đồng Chum.

Để chặn lực lượng ta ở cánh Nam, Mỹ dùng trực thăng đưa tiểu đoàn 112 từ Nam Lào và tiểu đoàn hỗn hợp Lào - Thái từ phía đông ra tăng cường cố thủ thị xã Xiêng Khoảng. Mặt khác, Mỹ huy động toàn bộ quân của các tiểu đoàn BS208, BS209, BS210, ACLOA, ACLOB tới hỗ trợ.

Các lực lượng của Sư đoàn 312 ở tuyến Thun Phun, Nậm Pông gồm trung đoàn 209, một bộ phận trung đoàn 165 và các đơn vị hỏa lực sau khi đập tan cụm phòng thủ tuyến ngoài của địch nhanh chóng phát triển vào thị xã Xiêng Khoảng. Như vậy, trên cả hai cánh của chiến dịch, Sư đoàn 312 và các đơn vị bạn đã đập tan các tuyến phòng ngự của địch, tạo điều kiện quan trọng cho trận quyết chiến thu hồi toàn bộ Cánh Đồng Chum.

Tháng 2 năm 1970 quân địch buộc phải lui vào thế co cụm ở Cánh Đồng Chum và thị xã Xiêng Khoảng. Cuộc hành quân "Cù Kiệt" của địch đứng trước nguy cơ thất bại hoàn toàn. Phát triển tiến công, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định dùng trung đoàn 165 (thiếu) tiêu diệt cụm điểm cao đông nam Cánh Đồng Chum do hai tiểu đoàn địch đóng giữ. Đêm 11 rạng 12 tháng 2 năm 1970, trung đoàn 165 đồng loạt nổ súng tiến công cứ điểm địch. Bị đánh bất ngờ, địch chống cự lúng túng. Sau 30 phút chiến đấu ác liệt, ta đã làm chủ cả 5 điểm cao, diệt gọn tiểu đoàn số 2 địch, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 205, đập tan "lá chắn" cuối cùng che đỡ sở chỉ huy của địch ở Bản áng, đặt cụm trung tâm Cánh Đồng Chum vào thế bị bao vây cô lập. Phát huy thắng lợi trung đoàn 165 đưa đại đội 11 và đại đội 3 thọc sâu vào trung tâm Cánh Đồng Chum, đánh chiếm điểm cao Phu Tôn và xây dựng trận địa chốt ở đó. Địch dùng máy bay đánh phá ác liệt hòng dọn đường cho bộ binh chiếm lại Phu Tôn. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 165 đã kiên cường chịu đựng đạn bom ác liệt, kết hợp giữ chốt và vận động tiến công tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giữ vững trận địa.

Bị tiến công áp đảo trên cả hai cánh, trước nguy cơ đội quân đặc biệt được Mỹ dày công xây dựng bị tiêu diệt ở Cánh Đồng Chum, Vàng Pao ra lệnh rút nhanh về Sảm Thông - Long Chẹng. Chớp thời cơ, Bộ chỉ huy chiến dịch ra lệnh cho một bộ phận của Sư đoàn 316 và một bộ phận xe tăng thiết giáp của trung đoàn 202 từ Bản Son đột kích thẳng vào vùng Bản Len. Tiểu đoàn đặc công của Quân khu Tây Bắc do đồng chí Giám chỉ huy (có một bộ phận đặc công của trung đoàn 165 phối hợp) luồn sâu vào sân bay Bản áng. Đêm 20 tháng 2 năm 1970, bộ đội ta đồng loạt nổ súng. Đây là trận hiệp đồng chiến đấu giữa bộ binh, xe tăng và đặc công ở cánh Nam và cánh Bắc đạt hiệu suất chiến đấu cao.

Ngày 22 tháng 2 năm 1970, quân ta làm chủ hoàn toàn Cánh Đồng Chụm. Địch ở Xiêng Khoảng bị cô lập. Lúc này, ta chỉ có hai đại đội bộ binh, không đủ khả năng tiến công địch trên toàn cụm (gồm 18 cứ điểm) ở Xiêng Khoảng. Ban cán sự cánh Nam quyết định tiến công hai cứ điểm 1378 và mỏm số 7 (Đồi Dài), hai điểm mạnh nhất trong cụm cứ điểm địch.

Đêm 24 tháng 2 năm 1970 trùng đoàn phó Nguyễn Kiện trực tiếp chỉ huy hai đại đội đánh địch. Sau 30 phút chiến đấu quyết liệt, ta diệt một bộ phận sinh lực địch, làm chủ trận địa. Mất hai cứ điểm 1378 và Đồi Dài: hai tiểu đoàn địch hoảng sợ tháo chạy về hướng Pa Đông. Ngày 25 tháng 2. thị xã Xiêng Khoảng hoàn toàn giải phóng.

Sau 180 ngày đêm (25-10-1969 - 25-4-1970) liên tục chiến đấu. vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, Sư đoàn 312 đã sát cánh cùng các đơn vì bạn hoàn thành mục tiêu chiến dịch, đập tan cuộc hành quân "Cù Kiệt", thu hồi cao nguyên Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng.

Đây là chiến dịch đầu tiên Sư đoàn sử dụng lực lượng lớn, tự vận chuyển cơ sở vật chất, bào đảm chiến đấu trên tuyến đường dài gồm 12 cung vận chuyển bộ từ tuyến hậu cần chiến lược tới tuyến chiến đấu. Là trận ra quân đầu tiên quy mô sư đoàn trong kháng chiến chống Mỹ, đánh với đối tượng mới, toàn sư đoàn đã phát huy tinh thần tích cực, chủ động, anh dũng chiến đấu và khắc phục khó khăn, phát huy nhiều cách đánh, liên tục tiến công, hoàn thành nhiệm vụ của chiến dịch, góp phần giữ vững và mở rộng vùng giải phóng của bạn.

Ngay sau khi chiến dịch 139 kết thúc, Bộ chỉ huy Mặt trận 959 quyết định mở đợt hoạt động quân sự mới, tiến công các căn cứ địch ở Keo Bon, Bom Lọng, Sảm Thông, Mường Sủi. Trong đợt chiến đấu này, lực lượng vũ trang yêu nước Lào độc lập đảm nhiệm hoạt động ở hướng Mường Sủi. Sư đoàn 316 và trung đoàn 866 tiến công địch ở Sảm Thông. Sư đoàn 312 tiếp tục hoạt động phân tán trên ba hướng: trung đoàn 165 làm lực lượng dự bị của Sư đoàn 316; trung đoàn 141 tiến công căn cứ Bom Lọng; trung đoàn 209 bao vây căn cứ Keo Bon -Xê Bốt, Xăm Xúm . Đợt hoạt động này diễn ra từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 5 năm l970.

Trung đoàn 165 làm nhiệm vụ vận chuyển và trinh sát các cứ điểm địch ở khu vực Sảm Thông. Cuối tháng 3 năm 1970, trung đoàn 165 chuyển sang chiến đấu ngăn chặn địch ở thung lũng Thẩm Vựng; chốt giữ các điểm cao ở phu Lũng Mát, dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Đoàn Phục, chính trị viên La Văn Tý, tiểu đoàn phó Đào Duy Năm, tiểu đoàn 6 (chủ yếu là đại đội l0) đánh tan nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững trận địa suốt 60 ngày đêm, bảo vệ vững chắc hành lang vận chuyển chiến dịch, bảo đảm an toàn cho hàng trăm thương binh về tuyến sau.

Cụm điểm cao 1900 bị địch đánh phá rất ác liệt. Các chiến sĩ tiểu đoàn 6 (chủ yếu là đại đội 1) dưới sự chỉ huy của tiểu đoàn trưởng Nguyễn Văn Phụng, tiểu đoàn phó Trần Ngọc Tích, chính trị viên Hoàng Đa đã kiên cường bám trụ, giữ vững trận địa. Có lúc trận địa chỉ còn vài tay súng, tiểu đội trưởng Trần Ngọc Kha và chiến sĩ Nguyễn Văn Mến vẫn kiên quyết chiến đấu, đánh lui hàng tiểu đoàn địch, giữ vững trận địa cho đến khi lực lượng ta ở phía sau lên tiếp ứng. Bộ chỉ huy mặt trận và Sư đoàn 316 đã biểu dương và phát động các đơn vị học tập tinh thần chiến đấu của các dũng sĩ trên điểm cao 1900.

Trên cánh Bắc, trung đoàn 141 (được tăng cường một số phân đội hỏa lực của sư đoàn) tiêu diệt bọn phỉ ở Bom Lọng. Từ ngày 13 đến 29 tháng 4 năm 1970, trung đoàn 209 hoạt động ở khu vực Keo Bon, Xê Bốt, Xăm Xum. Hỏa lực cối 82 và 106,7 ly, pháo 85 và 122 ly) của trung đoàn tích cực chi viện tiểu đoàn 9 bộ binh tiến công trung tâm căn cứ Keo Bon. Nhân dân Lào ở bản Việt Hồng hăng hái phục vụ bộ đội chiến đấu, kêu gọi bọn phỉ đầu hàng. Kết quà, ta đã diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch gồm các tiểu đoàn AC25, 503VC, gọi hàng hàng trăm tên, giải phóng hoàn toàn khu vực Keo Bon, Xê Bốt, Xăm Xum.

Thắng lợi của ta ở làng Mẹt, điểm cao 1900, Keo Bon góp phần đánh bại âm mưu lấn chiếm của địch, mở rộng và củng cố thêm vùng giải phóng Cánh Đồng Chum. Cuối tháng 5 năm 1970, Sư đoàn 312 tập trung lực lượng ở khu vực Noọng Pẹt, Bản Ban làm nhiệm vụ vận chuyển hàng. Đợt vận chuyển này kéo dài ba tháng. Từ chiến sĩ đến sư đoàn trưởng đã khiêng vác, gùi thồ nhiều tấn lương thực, đạn dược, thuốc men từ đường 7 vào các kho dự trữ chiến đấu. Cuối tháng 8 năm 1970 sư đoàn được lệnh hành quân về nước để củng cố lực lượng, bổ sung trang bị, tiếp tục huấn luyện, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới .

Trải qua 11 tháng làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Sư đoàn 312 liên tục chiến đấu và công tác, đánh hơn 200 trận, diệt hơn 2.100 tên, diệt 4 tiểu đoàn địch, đánh thiệt hại nặng 6 tiểu đoàn khác, bắn cháy 34 máy bay, vận chuyển 400 tấn hàng phục vụ chiến dịch và dự trữ, vận chuyển và cứu chữa 1.352 thương binh.

Cán bộ và chiến sĩ sư đoàn đã nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, mưu trí, sáng tạo, hoàn thành tốt nhiệm vụ. 64 đơn vị và 161 cá nhân được tặng thưởng huân chương các loại, 1.083 đồng chí được kết nạp vào Đảng, 517 đồng chí được đề bạt từ cán bộ trung đội đến tiểu đoàn.

Thắng lợi và bước trưởng thành của sư đoàn trong gần một năm làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào góp phần tô thắm tình đoàn kết liên minh chiến đấu giữa hai Đảng, hai quân đội và nhân dân hai nước Việt-Lào. Đồng chí Phun Xi-pa-xớt, ủy viên Trung ương Mặt trận yêu nước Lào đánh giá: "Vừa qua bộ đội tình nguyện Việt Nam, Sư đoàn 312 đã cùng quân và dân Lào lập chiến công xuất sắc ở Cánh Đồng Chum. Nhân dân và cách mạng Lào mãi mãi ghi nhớ công lao của Đảng, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam". Thay mặt Đảng và Quân đội nhân dân Lào, đồng chí Phun Xi-pa-xớt đã tặng sư đoàn bức trướng: "Đơn vị lập công xuất sắc" cùng huân chương ít-xa la cao quý.

Mùa khô 1970-1971, Bộ Chính trị nhận định: địch có thể mở những cuộc tiến công quy mô vừa và lớn bằng lực lượng quân sự ngụy miền Nam là chủ yếu, có một bộ phận quân Mỹ hỗ trợ. Mục tiêu của địch là đánh vào vùng Trung, Hạ Lào và đông bắc Cam-pu-chia, nhằm phá cơ sở cách mạng, phá hủy cơ sở hậu cần, cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược của ta, cô lập chiến trường miền Nam..

Ngày 10 tháng 12 năm 1970, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: "Kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, quyết chiến quyết thăng, đánh cho quân Mỹ phải rút hết, đánh cho ngụy quân và ngụy quyền sụp đổ, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà.

Cùng ngày, Bộ Tổng tham mưu ra lệnh điều một trung đoàn của Sư đoàn 312 trở lại Cánh Đống Chum làm nhiệm vụ quốc tế. Bộ tư lệnh sư đoàn giao nhiệm vụ cho trung đoàn 141 và tiểu đoàn 9 (trung đoàn 209) sang chiến trường nước Bạn. Cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn 9 gấp rút hành quân ra trận. Do trung đoàn 141 còn nhiều khó khăn về chuẩn bị và công tác chính sách chưa giải quyết xong, sư đoàn chuyển giao nhiệm vụ cho trung đoàn 165. Ngày 25 tháng 12 năm 1970, trung đoàn 165 do trung đoàn trưởng Nguyễn Chuông chỉ huy hành quân trở lại chiến trường Lào. Dọc đường hành quân, trung đoàn được bổ sung 500 tân binh. Cùng đi với trung đoàn 165 còn có 300 dân công hỏa tuyến của các huyện Thanh Chương, Yên Thành, Nam Đàn (NghệAn) sang phục vụ chiến đấu. Hai tiểu đoàn 16 và 17 của sư đoàn cũng được lệnh trở lại chiến trường Lào: phối thuộc cho trung đoàn 165. Lực lượng ở lại miền Bắc của sư đoàn còn hai trung đoàn 209 và 141 (thiếu).

Ở chiến trường Lào, sau thất bại trong cuộc hành quân "Cù Kiệt', Mỹ ra sức củng cố lực lượng Vàng Pao và huy động lực lượng Thái Lan sang tham chiến. Nhằm chủ động phá hủy các căn cứ bàn đạp của địch ở xung quanh Cánh Đồng Chum, ngăn chặn âm mưu lấn chiếm của địch trong mùa mưa, Bộ chỉ huy Mặt trận 959 và Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang yêu nước Lào quyết định mở đợt hoạt động mùa khô 1970-1971 (mật danh là chiến dịch 74B). Mục đích đợt hoạt động là tiến công diệt các cụm quân địch ở Bản Na, điểm cao 1900, Bản Mèo, Phu Ra Xẻng và Mường Sủi. Trung đoàn 165 cùng các đơn vị bạn tiến công địch ở cụm Bản Na - Bản Mèo - điểm cao 1900

Bản Na nằm giữa vùng đồi núi cách Cánh Đồng Chum 7 ki-lô-mét về phía tây, do 3 tiểu đoàn địch (chủ yếu là tiểu đoàn 15BI quân Thái Lan) chiếm giữ. Chúng đóng quân trên 14 điểm chốt bao bọc trung tâm Bản Na. Các điểm chốt đều nằm trên mỏm núi cao, xung quanh là rừng rậm, suối sâu. Quanh mỗi điểm chốt có từ 4 đến 6 lớp rào thép gai bao bọc. Lực lượng địch trên mỗi điểm chốt khoảng 120 đến 150 tên. Các điểm chốt có thể cơ động ứng cứu cho nhau bằng bộ binh hoặc chi viện hỏa lực trực tiếp. Để chuẩn bị cho trận đánh thắng lợi, trung đoàn 165 gấp rút vận chuyển gạo, đạn vào; đồng thời khẩn trương xây dựng trận địa hỏa lực đào công sự, bao vây và bố trí lực lượng cơ động, Sẵn sàng đánh địch phản kích. Công tác chuẩn bị được tiến hành khẩn trương, nhanh chóng. bào đảm bí mật. Hai đại đội dân công các huyện Yên Thanh, Thanh Chương luôn bám sát phục vụ bộ đội.

Ngày 1 tháng 2 năm 1971, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiến công địch. Ngay trong ngày đầu, lực lượng vũ trang bạn tiến công nhanh, đánh trúng sở chỉ huy địch, giải phóng Mường Sủi và tiếp tục phát triền về hướng Xa-la-phu-khun. Trên hướng điểm cao 1900 các đơn vị bạn gặp sức kháng cự quyết liệt của địch. Ngày 2 tháng 2 năm 1971, trung đoàn 165 nổ súng tiến công các vị trí địch ở Bản Na. Quân địch điên cuồng chống trả bằng cả bộ binh và không quân. Bộ đội ta vừa nổ súng đánh địch vừa đào công sự, chiến hào, hình thành vòng vây siết chặt Bản Na. Các trận địa phòng không của ta hoạt động tích cực, khống chế và uy hiếp tiếp tế đường không của địch. Các chiến sĩ công binh bí mật đưa mìn vào phá hàng rào. Chiến sỉ Nguyễn Xuân Khiêm cho nổ một quả mìn DH10 diệt gọn một toán địch gồm 30 tên. Quân địch bị bao vây, cô lập tinh thần hoang mang, dao động.

Đầu tháng 4 năm 1971 ta đưa lực lượng bao vây cứ điểm số 3 nằm sát trung tâm Bản Na do một đại đội Thái lan đóng giữ. Các chiến sĩ ta vừa đào công sự lấn vào vừa dùng mìn định hướng mở liền 8 cửa mở, buộc địch phải rút vào công sự chống đỡ. Trung đoàn 165 xác định trận tiến công cứ điểm số 3 sát Bản Na là trận đánh then chốt quyết định của đợt hoạt động này. Từ các tuyến hào vây ép, các chiến sĩ trang bị gọn nhẹ, bí mật luồn qua cửa mở. nổ súng tiến công địch. Sau gần 2 giờ chiến đấu quyết liệt, ta làm chủ cứ điểm số 3. Trong trận này đại đội phó Đỗ Việt Mạc và mũi trưởng Nguyễn Như Kim nêu gương sáng về tinh thần kiên quyết tiến công mưu trí diệt địch, góp phần diệt gọn một đại đội. Mất cứ điểm số 3, cụm cứ điểm Bản Na bị uy hiếp nghiêm trọng. Ngày 5 tháng 4 năm 1971, trung đoàn 165 lệnh cho các đơn vị mở đợt công kích, đột phá trung tâm Bản Na. Địch hoảng sợ tháo chạy. Quân ta chuyển sang truy kích.

Cũng trong thời gian này, tiểu đoàn 6 phối thuộc trung đoàn 866 tiến công tiêu diệt địch trên cụm điểm cao 1752, góp phần cùng đơn vị bạn phá vỡ phòng tuyến địch ở Phu-pha-xay. Tiểu đoàn 4 hoàn thành nhiệm vụ dự bị cho trung đoàn 148 sau đó chuyển về đội hình trung đoàn 165 tham gia tiến công địch ở Bản Na. Tháng 5 năm 1971 trước tình hình mưa lũ kéo dài ảnh hưởng tới hoạt động tác chiến, Bộ chỉ huy Mặt trận 959 quyết định kết thúc chiến dịch 74B. Trung đoàn 165 và các tiểu đoàn 16, 17 chuyển sang chiến đấu phòng ngự khu vực điểm cao 1505, 1316, Bản Thẩm, đánh địch lấn chiếm, bảo vệ Cánh Đồng Chum.

Như vây, sau ba tháng chiến đấu (từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1971), trung đoàn 165 đã đột phá ba cứ điểm quan trọng, đánh thiệt hại nặng tiểu đoàn 15BI Thái Lan. diệt hàng trăm tên bắn cháy 4 máy bay, thu và phá hủy hàng nghìn tấn vũ khí. trang bị của địch, giải phóng Bản Na. Trung đoàn được thưởng 156 huân chương các loại. Hai đại đội 7 và 9 được tặng danh hiệu 'Đơn vị dũng sĩ".

Chiến thuật vây ép dài ngày, đánh thắng địch ở Bản Na của trung đoàn 165 được sư đoàn tổng kết, phổ biến cho các đơn vị học tập, nâng cao thêm sức mạnh chiến đấu

Trong khi một bộ phận lực lượng của sư đoàn làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, đại bộ phận lực lượng sư đoàn ở hậu phương được củng cố tổ chức, bổ sung trang bị, tiếp tục huấn luyện, nâng cao trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc và cơ động thực hiện nhiệm vụ dự bị chiến lược của Bộ.

Tháng 7 năm 1971, Sư đoàn được lệnh hành quân lên tuyến đê sông Hồng, sông Đuống làm nhiệm vụ bảo vệ đê, chống lụt, cứu tài sản của Nhà nước và nhân dân, giúp dân khắc phục hậu quả thiên tai, nhanh chóng ổn định đời sống.

Trong khi đó. ở chiến trường Lào mùa mưa đã đến. Lợi dụng mưa lũ, lực lượng đặc biệt Vàng Pao và quân đánh thuê Thái Lan gốm ba tiểu đoàn tràn ra đánh chiếm Cánh Đồng Chum. Trung đoàn 165 đang trên đường vế nước nhận lệnh quay trở lại chặn đánh địch ở khu vực Bản Thẩm. Trung đoàn nhanh chóng xây dựng trận địa chốt giữ trên các điểm cao, chặn đánh tiểu đoàn GM21 Vàng Pao, bảo vệ khu kho tàng dự trữ và Sở chỉ huy mặt trận. Từ trận địa chốt ban đấu, trung đoàn nhanh chóng tăng cường lực lượng, phát triển công sự chiến đấu xây dựng các điểm cao thành cụm trận địa vững chắc, nhiều tầng, nhiều tuyến, bảo vệ khu vực Phu Nhu - Bản Thẩm - Phu Ma - Bản Sao.

Theo mệnh lệnh của Bộ, Sư đoàn khẩn trương điều động trung đoàn 209 sang chiến trường Lào đánh địch ểao vệ vùng giải phóng. Sau gần 12 ngày hành quân. ngày 18 tháng 7 năm 1971, trung đoàn 209 vào vị trí tập kết thay trung đoàn 165 về tuyến sau củng cố lực lượng, bổ sung trang bị. Trung đoàn 209 tiếp tục bám chắc trận địa, đánh bật các đợt phản kích của địch, bảo vệ vững chắc các bàn đạp quan trọng của ta. chuẩn bị cho các chiến dịch tiến công mùa khô năm 1971-1972 .

Cuối tháng 7 năm 1971, Sư đoàn tham gia cuộc diễn tập chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn ở vùng Sơn Tây nhằm rút kinh nghiệm giúp Bộ chỉ đạo, huấn luyện các đơn vị chủ lực cơ động chuẩn bị tham gia những chiến dịch lớn. Trong đợt diễn tập này, sư đoàn được bổ sung hai trung đoàn bộ binh thay thế trungđoàn 165 và trung đoàn 209 đang làm nhiệm vụ ở chiến trường Lào. Các đơn vị đã hoàn thành tốt nhiệm vụ diễn tập được Bộ khen ngợi. Qua cuộc diễn tập, cán bộ chỉ huy sư đoàn có thêm kinh nghiệm tổ chức, chỉ huy đơn vị tham gia đánh lớn. sức chiến đấu của bộ đội được. nàng lên.

*

* *

Thắng lợi của quân và dân ta ở mặt trận Đường 9 - Nam Lào giáng một đòn nặng vào chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Ních-xơn . ..

Để thúc đẩy chiều hướng phát triển của tình hình, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (5-l971 ) chủ trương phát triển thế tiến công chiến lược trên chiến trường miền Nam, đánh bại chính sách "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, giành thắng lợi quyết định trong năm 1972, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trong thế thua". Trước mắt mở những chiến dịch tiến công nhằm tiêu diệt lớn quân địch tạo điều kiện cho chiến trường miền Nam mở cuộc tiến công năm 1972.

Từ đầu mùa khô 1971-1972 Bộ Tổng tham mưu và các cơ quan Bộ xúc tiến các mặt công tác chuẩn bị mở cuộe tiến công quy mô lớn trên các chiến trường. Tại Lào trước những hoạt động mạnh của ta trong mùa khô đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn quân ngụy Sài Gòn. quân ngụy Lào mở nhiều cuộc hành quân lấn chiếm Cánh Đồng Chum nhằm ngăn chặn và phá thế chuẩn bị của ta. Bộ Chính trị và quân ủy Trung ương chỉ thị cho bộ đội tình nguyện Việt Nam trên chiến trường Lào tiếp tục chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược. đồng thời kiên quyết đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch. giữ vững vùng giải phóng của Bạn. Ở khu vực Cánh Đồng Chum, bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với Quân giải phóng Lào đánh bại cuộc hành quân lấn chiếm của 27 tiểu đoàn địch, buộc chúng phải co lực lượng về phòng ngự. Sau hơn ba tháng mở đường, chuẩn bị cơ sở vật chất. xây dựng kế hoạch tác chiến và huấn luyện bộ đội Liên quân Lào-Việt mở chiến dịch tiến công khôi phục Cánh Đồng Chum, mật danh là chiến dịch Z . Nhiệm vụ của chiến dịch là tiêu diệt lớn quân địch, giải phóng Cánh Đồng Chum, tạo điều kiện cho quân và dân ta tập trung sức vào chiến trường miền Nam giành thắng lợi lớn trong năm l972

Trên địa bàn Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng sau đợt lấn chiếm trong mùa mưa năm 1971 địch đã lập được thế trận phòng ngự có chiều sâu do quân Thái Lan làm nòng cốt, quân ngụy Vàng Pao làm chủ lực hỗ trợ ở vòng ngoài. Tổng số quân địch gồm 2 GM (21, 23) 9 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh Thái Lan. Không quân Mỹ và Thái Lan thường xuyên hoạt động trinh sát nhằm phát hiện ngăn chặn ta từ xa.

Theo sự điều động của Bộ. các Sư đoàn chủ lực 312 và 316, các trung đoàn 335 và 866 quân khu Tây Bắc), lực lượng của Mặt trận 959 được tăng cường 6 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, pháo binh, cao xạ, công binh. vận tải cơ giới cùng hàng nghìn dân công tỉnh Nghệ An tham gia chiến dịch. Lực lượng Bạn có 9 tiểu đoàn và 4 đại đội bộ binh, một đại đội pháo. cụm pháo 130 ly một tiểu đoàn) và 2 tiểu đoàn đặc công.

Bộ chỉ huy chiến dịch được thành lập trên cơ sở Bộ tư lệnh 959 và Bộ tư lệnh Cánh Đồng Chum của Bạn. Đồng chí Lê Trọng Tấn Phó Tổng tham mưu trưởng được cử làm dại diện của Bộ Quốc phòng và Quân ủy Trung ương. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí Vũ Lập - Tư lệnh, Huỳnh Đắc Hương - Chính ủy. Các cơ quan Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Hậu cần chỉ đạo và giúp đỡ các đơn vị tham gia chiến dịch. Cách đánh chiến dịch được xác định là tiến công đồng loạt, hiệp đồng binh chủng nhằm tiêu diệt lớn quân địch về chiến dịch, tiêu diệt gọn quân địch về chiến thuật. Đối tượng tác chiến chủ yếu của chiến dịch là quân Thái Lan phòng ngự trong công sự vững chắc. Hướng tiến công chủ yếu do Sư đoàn 312 đảm nhiệm tiến đánh quân địch ở nam Cánh Đồng Chum trên dãy điểm cao Phu Thung Lũng, Phu Tôn rối phát triển vào Cam Sủng - Phu Xeo. Sư đoàn 316 và trung đoàn 335 tiến công cụm quân địch ở bắc Cánh Đồng Chum. Trung đoàn 866 làm nhiệm vụ đón lõng. Các lực lượng bạn chiến đấu phối hợp kìm giữ địch ở Mường Sủi, ngã tư Xa-la-phu-khun, Mường-ca-xi. Đồng thời làm nhiệm vụ nghi binh và phối hợp chiến đấu trên khắp các mặt trận.

Ngày 8 tháng 10 năm 1971 Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 312. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, Sư đoàn trưởng Lã Thái Hòa, Chính ủy Nguyễn Sinh chỉ đạo các đơn vị khẩn trương chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng bước vào chiến đấu trong thời gian sớm nhất.

Ngày 11 tháng 10 năm 1971, Đảng ủy sư đoàn họp quán triệt nhiệm vụ. Đồng chí Nguyễn Duy Hàn tham mưu trưởng, đồng chí Nguyễn Xuyên - chủ nhiệm chính trị cùng một đoàn cán bộ cơ quan Bộ tư lệnh sang Cánh Đồng Chum kiểm tra, đôn đốc các trung đoàn 165, 209 triển khai các mặt công tác chuẩn bị.

Ngày 2 tháng 11 năm 1971 , Bộ tư lệnh chiến dịch chỉ đạo các đơn vị tham gia chiến dịch hành quân vào vị trí tập kết. Khi nhận lệnh, các đơn vị của sư đoàn đang làm nhiều nhiệm vụ khác nhau. Hai trung đoàn 209 và 165 hoạt động ở mặt trận Cánh Đông Chum. Các tiểu đoàn 14, 16, 17 củng cố ở khu vực Bản Ban. Trung đoàn 141 và các lực lượng còn lại của sư đoàn đang ở Thanh Hóa. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của sư đoàn là đưa các đơn vị về tập kết ở đông Cánh Đồng Chum. Cuộc hành quân được tiến hành nhanh gọn, bộ đội phấn khởi, tin tưởng. Công tác chuẩn bị chiến đấu triển khai nhanh, đúng thời gian quy định. Các đơn vị hỏa lực được tăng cường cho sư đoàn gồm trung đoàn 226 pháo cao xạ, tiểu đoàn 42 pháo binh, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 866), đại đội 18 xe tăng cũng đã hành quân vào đến vị trí tập kết .

Theo kế hoạch chiến dịch, hướng tác chiến của sư đoàn nằm trong hướng đột phá chủ yếu của chiến dịch . Lực lượng địch ở cụm phòng ngự Phu Thắng Nòng, Bản Tôn (phía nam) gồm 9 tiểu đoàn, trong đó có 4 tiểu đoàn Thái Lan (BC.603, BC.605, BC.607, BC.609) làm nòng cốt và 4 tiểu đoàn (GM.22, BS.227 BS.229, BS Nậm Dụ) của Vàng Pao đóng vòng ngoài án ngữ tuyến đường 7B . Hỏa lực của địch gồm 21 pháo 105 và 155 ly, 13 súng cối 106.7 ly thuộc hai tiểu đoàn quân Thái Lan (BĐ.635, BA.636). Để phát hiện đối phương từ xa, địch dùng các loại máy bay L19, OV10, AC.130 bay trinh sát trên vùng trời Cánh Đồng Chum.

Đối tượng tác chiến chủ yếu của sư đoàn là quân Thái Lan đóng trên các điểm cao, có công sự vững chắc, hàng rào bao bọc và quân Vàng Pao bảo vệ vòng ngoài. Để bảo đàm chắc thắng cho trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, Sư đoàn trưởng Lã Thái Hòa cùng Ban tham mưu và chỉ huy các đơn vị chuẩn bị phương án tác chiến, dự kiến các tình huống, nắm chắc tình hình địch. Toàn sư đoàn sẵn sàng bước vào chiến dịch với ý chí quyết chiến quyết thắng

Trong khu vực tác chiến của sư đoàn nổi lên hai điểm cao có giá trị chiến thuật. Dó là điểm cao 1584 (Phu Theng Neng) và 1208 (Phu Tôn). Nếu ta diệt được quân địch trên hai điểm cao này thì thế phòng ngự của địch ở Cánh Đồng Chum sẽ tan vỡ, tạo thuận lợi cho ta phát triển tiến công sào huyệt của địch ở Sảm Thông -Long Chẹng.

Địa hình Phu Theng Neng gồm 3 mỏm cao từ 1.300mét đến l584 mét sườn dốc, rừng rậm. Tiểu đoàn BS609 Thái Lan gồm 500 tên tổ chức phòng ngự trên ba điểm cao Phu Theng Neng. Chúng bố trí hầm ngầm và nhiều trận địa hỏa lực, xung quanh cứ điểm có 3-4 lợp rào dây thép gai và bãi mìn. Quân Vàng Pao thường xuyên lùng sục xung quanh điểm cao Phu Theng Neng, máy bay Mỹ liên tục trinh sát, các trận địa pháo binh sẵn sàng chi viện hỏa lực nếu cứ điểm bị tiến công. Trung đoàn 165 có kinh nghiệm bao vây, tiến công địch ở Bản Na trong chiến dịch 139 vừa được củng cố đủ quân số và trang bị, được sư đoàn giao nhiệm vụ tiến công địch ở Phu Theng Neng. Đây là trận then chốt của sư đoàn trong chiến dịch.

Ở Phu Tôn. Địa hình trống trải, thuận lợi cho tác chiến hiệp đồng bộ binh với xe tăng, pháo binh. Trung đoàn 141 đã được tập huấn và diễn tập đánh hiệp đồng binh chủng ở hậu phương được sư đoàn giao nhiệm vụ tiến công địch ở Phu Tôn. Đây là trận có ý nghĩa quan trọng trên hướng tác chiến chủ yếu của sư đoàn.

Chiều ngày 17 tháng 12 năm 1971, các đơn vị chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công. 4 giờ sáng ngày 18 tháng 12, trận đánh bắt đầu. Trong khi pháo chi viện hỏa lực, trên các hướng công binh bắt đầu nổ mìn, phá hàng rào, mở thông các cửa cho bộ binh xung phong vào các cứ điểm Phu Theng Neng và Phu Tôn. Cùng lúc, trung đoàn 209 tiến công địch ở Bàn Quay, Đồi Xanh. Hai đại đội 2 và 6 nhanh chóng chiếm các điểm cao dọc đường và tổ chức trận địa chốt giữ bảo vệ các đơn vị phát triển tiến công.

Ở Phu Theng Neng, trận đánh diễn ra rất quyết liệt. Quân Thái Lan được không quân, pháo binh chi viện dựa vào công sự và lợi thế trên cao, dùng hỏa lực bịt các cửa mở, đồng thời liên tiếp phản kích. Đêm 18 tháng 12 năm 1971, bộ đội ta liên tục phá rào, mở nhiều cửa mở làm cho địch khó phán đoán hướng tiến công chủ yếu và phải phân tán hỏa lực để ngăn chặn mũi đột kích của ta. Xạ thủ B41 Hoàng Đăng Miện chớp thời cơ sau loạt bộc phá nổ vừa dứt, đứng lên bắn 4 phát B41, diệt 4 mục tiêu. Địch ở phía trước hoảng sợ bỏ chạy vào trung tâm. Suốt đêm hôm đó, trận đánh diễn ra ở thế giằng co giữa ta và địch. Bộ đội ta chiến đấu kiên cường, dũng cảm và rất mưu trí. Trung đoàn 165 tổ chức bộ đội mang theo vỏ chăn, bao tải để chứa đất chặn đạn địch và làm ụ súng lấn dần vào các khu cửa mở. Cán bộ và chiến sĩ động viên nhau nhanh chóng lấn vào gần các cứ điểm, hạn chế thương vong do không quân và pháo binh địch đánh phá.

Sau hai ngày đêm đánh lấn, bộ binh ta đã tiến sát các cửa mở. Địch ở Phu Theng Neng chống cự yếu dần. Nắm thời cơ, 13 giờ ngày 19 tháng 12 trung đoàn trưởng trung đoàn 165 Nguyễn Chuông lệnh cho các đơn vị chuẩn bị đột phá vào các cứ điểm địch khi trời vừa tối. Theo kế hoạch, 16 giờ 45 phút ngày 16 tháng 12 năm 1971 trung đoàn 165 tiến công điểm cao số 1 ở Phu Theng Neng. Đại đội trưởng Nguyễn Thế Thao dẫn đầu đại đội 9 tiến công trên hướng chủ yếu. Chiến sĩ Nguyễn Đức Thành xông lên cắm cờ trên điểm cao số 1. Cùng lúc trên hướng điểm cao số 2, đại đội trưởng Nguyễn Như Kim dẫn đầu tiểu đoàn 4 xung phong qua cửa mở Trung đội trưởng Nguyễn Xuân Thiên bị thương vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị chiến đấu. Trung đoàn phó Hà Kiểng và tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 6 vượt lên trung tâm điểm cao số 1 trực tiếp chỉ huy bộ đội chiến đấu . Sau 50 phút giành giật với địch từng đoạn hào, công sự, 17giờ 30 phút ngày 19 tháng 12 năm 1971, trung đoàn 165 đã diệt gọn tiểu đoàn BC.609 Thái Lan chiếm điểm cao số 1 và số 2. Thắng lợi của trận mở màn chiến dịch gây tiếng vang lớn.

Mất Phu Theng Neng, cụm quân địch ở phía nam Cánh Đồng Chum bị uy hiếp nghiêm trọng. Trung tâm Cánh Đồng Chum, sân bay, Bản áng, Phu Tôn bị ta khống chế. Trước tình thế nguy khốn, địch buộc phải rút bỏ Phu Tôn. Chúng tổ chức nghi binh bằng cách liên tục bắn pháo sáng và bắn súng bộ binh trên điểm cao 1208. Trung đoàn 141 không nắm chắc địch, bỏ lỡ cơ hội diệt địch. Trận đánh hiệp đồng của trung đoàn 141 với xe tăng và pháo binh cũng không thực hiện được như dự kiến, trung đoàn phải chuyển sang truy kích địch trên hướng Nậm Khô - Mường Pốt. Trên đường truy kích, trung đoàn tiêu diệt nhiều sinh lực địch ngoài công sự ở Nậm Khô. Trung đoàn 209 và tiểu đoàn 14 cũng tích cực đánh địch trên cánh đồng Càng Xẻng, diệt nhiều sinh lực địch. Tiểu đoàn 19 có nhiệm vụ chặn địch ở Bản Kéo đã bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt lớn khi địch tháo chạy về Mường Pang

Như vậy, trong trận đánh ở nam Cánh Đồng Chum, sư đoàn đã đánh quy mô sư đoàn (thiếu) trên một khu vực rộng, kết hợp nhiều hình thức chiến thuật phù hợp với các loại địa hình. phát huy sức mạnh hiệp đồng binh chủng, tiêu diệt 4 tiểu đoàn quân Thái Lan, góp phần cùng các đơn vị bạn hoàn thành nhiệm vụ trong đợt một chiến dịch, giải phóng Cánh Đồng Chum.

Từ cuối tháng 12 năm 1971 đến cuối tháng 3 năm 1972 thực hiện quyết tâm chiến dịch tiêu diệt lớn quân địch ngay trong sào huyệt của chúng, giải phóng Sảm Thông, Sư đoàn 312 được lệnh đưa các đơn vị vượt qua khu Khứu Tang - Phu Pha Xay, tiến công tuyến phòng ngự địch từ điểm cao 1516 đến 1780 và 1900; đồng thời mở đường từ Cánh Đồng Chum đưa binh khí kỹ thuật vào Sảm Thông. Trung đoàn 165 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt địch ở điểm cao 1516 (13 cứ điểm) và 1978 (3 cứ điểm). Trung đoàn 141 đánh chiếm dãy điểm cao 1800, giải phóng Thẩm Dương, tạo bàn đạp cho ta tiến công vào Sảm Thông. Trung đoàn 209 thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mở đường từ Cánh Đồng Chum vào Hin Tạng. Chỉ trong vài ngày 30 tấn lương thực đã được vận chuyển từ Cánh Đồng Chum vào Thẩm Lựng. Các đơn vị pháo binh, xe tăng thiết giáp ta vượt qua Hin Tạng vào khu tập kết Thẩm Lựng. Đây là bất ngờ lớn đối với địch .

Sau khi mất Cánh Đồng Chum, địch điều thêm GM33 và gần 20 tiểu đoàn độc lập từ Nam Lào lên bổ sung cho tuyến Sảm Thông - Long Chẹng. Dựa vào địa hình hiểm trở địch tập trung lực lượng cố thủ mạnh ở Sảm Thông - Long Chẹng, hang ổ của lực lượng đặc biệt Vàng Pao.

Để thực hiện tiêu diệt lớn quân địch, Sư đoàn quyết định sử dụng trung đoàn bộ binh 141 hiệp đồng với xe tăng thiết giáp tiến công trên hướng chủ yếu, đánh địch ở Sảm Thông, sau đó phát triển tiến công sang hướng Đồi Chuối và đồi Vành Khăn. Trung đoàn 165 tiến công cụm quàn địch ở điểm cao 1.664 rồi phát triển sang hướng điểm cao 1300 và 1599 (Nam Tra, Ta Can). Trung đoàn 209 làm lực lượng dự bị của sư đoàn.

Trước khi bước vào trận đánh, trên hướng chủ yếu trung đoàn 141 được củng cố về tổ chức, xây dựng quyết tâm và chuẩn bị phương án tác chiến. Đồng chí Đào Quý Khê được cử làm trung đoàn trưởng.

Phối hợp với hướng tiến cồng chủ yếu Bộ chỉ huy chiến dịch sử dụng trung đoàn 335 (Quân khu Tây Bắc) luồn sâu vào lòng địch, tiến công cụm điểm cao Phu Mộc, cắt đứt đường chi viện của địch từ Long Chẹng ra Sảm Thông. Trận tiến công Sảm Thông với quy mô sư đoàn (thiếu) dự định ngày 8 tháng 3 sẽ nổ súng nhưng do địch ngăn chặn, tăng thiết giáp chưa vượt qua được điểm cao 1800, nên phải lùi đến ngày 11 tháng 3 năm 1972.

7 giờ 30 phút ngày 11 tháng 3, pháo 130, 122, 85 và cối 120 ly bắn cấp tập vào các mục tiêu địch ở điểm cao 1664 và 1460. Bộ binh và công binh dùng mìn ĐH.20 mở cửa.

Sau nửa ngày bao vây và đánh lấn, 13 giờ ngày 11tháng 3, Tư lệnh sư đoàn Lã Thái Hòa lệnh cho các đơn vị phát triển tiến công các cụm quân địch. đến 17 giờ cùng ngày, trung đoàn 141 làm chủ khu vực Sảm Thông. Trung đoàn 165 diệt tiểu đoàn BV.26, làm chủ cụm cứ điểm 1664. Thừa thắng, quân ta chuyển sang truy kích diệt địch ở Vành Khăn và Đồi Chuối.

Trận Sảm Thông kết thúc sáng 20 tháng 3 năm 1972. Trong trận này, sư đoàn đã hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng, các đơn vị binh chủng trên các hướng, phát triển tiến công đúng lúc, kiên quyết và mau lẹ, tiêu diệt 4 tiểu đoàn địch (có một tiểu đoàn ngụy Lào). giải phóng hoàn toàn Sảm Thông.

Như vậy trong chiến dịch phàn công khôi phục Cánh Đồng Chum, sư đoàn đã đánh hai trận lớn quy mô sư đoàn, có các đơn vị binh chủng phối hợp; hai trận quy mô trung đoàn, bốn trận quy mô tiểu đoàn, tiêu diệt 8 tiểu đoàn địch (7 tiểu đoàn Thái Lan, 1 tiểu đoàn ngụy Lào), đánh thiệt hại nặng 5 tiểu đoàn khác, loại khỏi vòng chiến đấu 2.811 tên (.2.248 lính Thái Lan), bắt 109 tên, phá hủy 3 trận địa pháo, bắn rơi 54 máy bay (có 7 trực thăng), giải phóng hoàn toàn khu vực Cánh Đồng Chum - Thẩm Lương - Sảm Thông (chưa kế việc đánh tan các đơn vị quân Vàng Pao trong đợt phản kích ở nam Cánh Đồng Chum tháng 2 năm l972 ). Chiến dịch đánh dấu bước trưởng thành của sư đoàn trong chiến đấu hiệp đồng binh chủng đánh lớn. diệt gọn quân địch ở chiến trường rừng núi .

Trong quá trình tiến công giải phóng Sảm Thông, ngày 17 tháng 3 năm 1972, trung đoàn 141 phối hợpvới xe tăng tiến công tiêu diệt địch ở cụm cứ điểm Vành Khăn. Đồi Chuối. Cùng ngày, trung đoàn 165 có pháo binh yểm trợ thực hiện trận bao vây tiến công cụm quân địch ở điểm cao 1300 (Nam Tra), đẩy quân địch phải lùi về phía Long Chẹng để cố thủ.

Sư đoàn 312 đã cùng các đơn vị bạn, các lực lượng vũ trang cách mạng Lào đánh bại hai lực lượng xung kích của Mỹ ở Lào, giải phóng Cánh Đồng Chum, Sảm Thông và bắe Long Chẹng. Đồng chí Lê Trọng Tấn Phó Tổng tham mưu trưởng đánh giá: sư đoàn 312 có nhiều tiến bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong chiến dịch". Kết thúc chiến dịch, sư đoàn được tặng huân chương Quân công hạng hai và được Bộ tư lệnh Cánh Đồng Chum của Bạn tặng bức trướng: "Đơn vị lập công xuất sắc mùa khô năm 1971-1972" .

Từ chiến dịch Mường Sủi đến các chiến dịch 189, chiến dịch 74B và chiến dịch Z, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn 312 đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ chiến đấu anh dũng, tô thắm truyền thống đoàn kết chiến đấu quốc tế cao cả son sắt giữa Đảng, quân đội và hai dân tộc Việt - Lào anh em.

Cuối tháng 3 năm 1972 khi Sư đoàn 312 giải phóng Cánh Đồng Chum, Sảm Thông cũng là lúc cuộc tiến công chiến lược của quân và dân ta trên toàn miền Nam bắt đầu (31- 3-1972 ) . Để cứu vãn nguy cơ thất bại hoàn toàn của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" ngày 6 tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân gây lại cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn và phong tỏa lần thứ hai đối với miền Bắc.

Trước hành động leo thang chiến tranh mới của đế quốc Mỹ ngày 11 tháng 4 năm 1972 Chính phủ ta ra tuyên bố: "Không một sức mạnh tàn bạo nào, không một sự đe dọa nào lay chuyển được quyết tâm của nhân dân Việt Nam chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc". Theo mệnh lệnh của Bộ, cuối tháng 4 năm 1972, các đơn vị của Sư đoàn 312 lần lượt hành quân từ Cánh Đồng Chum về Quân khu 4 củng cố tổ chức bổ sung quân số và vũ khí trang bị, sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu mới.

Chương 6

SƯ ĐOÀN 312 TRONG CUỘC CHIẾN ĐẤU

BẢO VỆ VÙNG GIẢI PHÓNG QUẢNG TRỊ

(1972)

[/b]

Đến giữa tháng 6 năm 1972, cuộc tiến công chiến lược của quân dân miền Nam trải qua hơn hai tháng và đã giành được thắng lợi to lớn. So sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường có sự thay đổi quan trọng. Trước nguy cơ quân ngụy, xương sống của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" bị sụp đồ, Ních-xơn buộc phải huy động lực lượng "Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chúng tăng số máy bay chiến lược, chiến thuật lên gấp hai lần, tăng số tàu chiến gấp ba lần, sử dụng không quân và hải quân làm lực lượng chiến đấu trực tiếp, cùng quân ngụy phản kích hòng ngăn chạn, đẩy lui cuộc tiến công của ta, trọng điểm là mặt trận Quảng Trị.

Lực lượng địch tham gia cuộc phản công hòng chiếm lại Quảng Trị gồm có sư đoàn dù, sư đoàn thủy quân lục chiến và chiến đoàn 4. Lực lượng dự bị có sư đoàn bộ binh 1, thiết đoàn kỵ binh 11, 4 tiểu đoàn pháo 105 ly và một đại đội 155 ly. Lực lượng chi viện trực tiếp có sư đoàn 1 không quân, hải quân vùng 1 và một lữ đoàn kỵ binh thiết giáp. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, sau hai ngày dùng máy bay và pháo lớn đánh phá dọn đường Mỹ-ngụy huy động 2 sư đoàn dù và sư đoàn thủy quân lục chiến, một lực lượng lớn pháo binh và thiết giáp yểm trợ mở cuộc hành quân "Lam Sơn 72" hòng giành lại những khu vực đã mất, mục tiêu chính là thị xã và Thành Cổ Quảng Trị.

Lúc này, một bộ phận lớn lực lượng chủ lực ta đang tập trung ở nam sông Mỹ Chánh. Các đơn vị đứng trên từng khu vực đã chiến đấu dũng cảm đánh tan nhiều đợt phản kích của địch, giữ vững vùng giải phóng và thị xã Quảng Trị

Đứng chân trên địa bàn Quân khu 4, Sư đoàn 312 được Bộ giao nhiệm vụ: "triển khai lực lượng bảo vệ địa bàn Nghệ-tĩnh, tổng kết kinh nghiệm. củng cố đơn vị sẵn sẵng nhận nhiệm vụ mới. Trung đoàn 209 đóng quân trên địa bàn Yên Thành, Đô Lương; trung đoàn 141t đóng ở Thanh Chương và trung đoàn 165 bảo vệ thành phố Vinh. Đồng thời với việc bố trí lực lượng sẵn sẵng đánh bộ binh địch, bảo vệ Quân khu 4, Sư đoàn khẩn trương tổ chức một số trận địa phòng không. Các đơn vị đều tổ chức học tập tình hình nhiệm vụ mới, tiếp tục chấn chỉnh tổ chức biên chế, bổ sung quân số và vũ khí trang bị, sẵn sàng chiến đấu.

Đầu tháng 7 năm 1972, Mỹ-ngụy phản kích ở khu vực nam và bắc sông Mỹ Chánh, đoạn từ đường số 1 ra đến biển. Sau khi chiếm lại huyện lỵ Hài Lăng, địch tiến ra La Vang. Chúng ra sức củng cố các vị trí làm bàn đạp, hò hét tái thiết thị xã Quảng Trị. Ta chuyển đội hình từ tiến công sang phản công. Một số đơn vị chủ lực được điều động gấp rút tăng cường cho mặt trận Quảng Trị. Ngày 2 tháng 7 năm 1972, Bộ Tổng tư lệnh quyết định điều hai Sư đoàn 312 và 325 vào chiến đấu ở Quảng Trị. Trong thư gửi sư đoàn, Quân ủy Trung ương căn dặn: "Nhiệm vụ hành quân chiến đấu của các đồng chí hết sức khấn trương, phải đi thật nhanh, đến thật sớm và đầy đủ đảm bảo bí mật. an toàn, vào đến chiến trường là có thể hiện đấu được ngay, đánh thắng ngay từ trận đầu. Miền Bắc xã hội chủ nghĩa giao cho các đồng chí trách nhiệm trọng đại mang sức mạnh của hậu phương ra tiền tuyến đánh thắng quân thù"1 (Chú thích 1 Tài liệu lưu trữ tại phòng truyền thống của sư đoàn.).

Chấp hành mệnh lệnh của Bộ, ngày 4 tháng 7 năm 1972, sau khi thăm nhà Bác Hồ ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn (Nghệ An) báo cáo quyết tâm với Bác, trung đoàn 165 tổ chức lễ xuất quân vào Quảng Trị. Ngày 7 tháng 7, trung đoàn 209 xuất phát từ Thanh Chương theo đường 15 qua Nam Đàn vào Hà Tĩnh, Quảng Bình. Đêm 7 tháng 7, trung đoàn 141, đơn vị cuối cùng của sư đoàn hành quân từ Thanh Chương xuống Nam Đàn qua Linh Cảm vào Đức Thọ (Hà Tĩnh) .

Trên đường hành quân vào Quảng Trị, các đơn vị phải vượt qua nhiều trọng điểm máy bay và pháo binh địch đánh phá, ngăn chặn quyết liệt. Vào đến Quảng Bình sư đoàn nhận lệnh của Bộ tư lệnh Mặt trận B5 (Mặt trận Trị Thiên) đưa từng trung đoàn vào Quảng Trị, phối thuộc chiến đấu với các Sư đoàn 308, 304 và 320B. Bộ tư lệnh sư đoàn và các đơn vị trực thuộc tạm dừng ở Lệ Ninh (Quảng Bình).

Ngày 18 tháng 7 năm 1972 trung đoàn 165 - đơn vị đầu tiên của sư đoàn vào đến Quảng Trị. Ngày 19 tháng 7, trung đoàn vượt sông Bến Hải hành quân tiếp tới bắc sông Thạch Hãn. Tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn 4 nhận lệnh sang Tân Teo tăng cường cho Sư đoàn 308; tiểu đoàn 5 chuyển về Ái Tử, sẵn sẵng vượt sông khi có lệnh, phối thuộc Sư đoàn 320B bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị.

Trung đoàn 209 vào nam sông Thạch Hãn phối thuộc Sư đoàn 308, chiến đấu chặn địch ở khu vực La Vang. Tích Tường, Như Lệ, Đồi Cháy, cụm điểm cao 15, 29, 52. Trung đoàn 141 bị tổn thất vì B52 đánh vào đội hình trên đường hành quân, phải dừng lại củng cố, sau đó chuyển sang cánh tây phối thuộc Sư đoàn 304 chiến đấu ở khu vực Động ông Do, điểm cao 105, đồi Giang, đồi Con Cầy.

Lực lượng ta ở Quảng Trị có hai sư đoàn 312 và 325 mới hành quân vào, ba sư đoàn (308, 304, 320B), trung đoàn 271 độc lập, 5 tiểu đoàn đặc công, 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Trị, tiểu đoàn 47 Vĩnh Linh; ba trung đoàn pháo binh 164, 45, 84; trung đoàn thiết giáp 203 (18 xe) và hai trung đoàn công binh 209, 249 . Theo mệnh lệnh của Bộ, các đơn vị khẩn trương xây dựng trận địa, đánh bại các cuộc phản kích của chúng, giữ vững vùng giải phóng Quảng Trị, tạo điều kiện chuyển sang tiến công khi thời cơ có lợi.

Tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165) được Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 giao nhiệm vụ tiến công tiêu diệt địch, giải phóng làng Như Lệ Nằm bên bờ nam sông Thạch Hãn (tây nam thành Quảng Trị), làng Như Lệ án ngữ toàn bộ vùng Đá Đứng, Tân Tẹo, Phước Môn. Trước tháng 3 năm 1972, Như Lệ nằm trong vòng kìm kẹp của Mỹ -ngụy, tháng 4 năm 1972 được giải phóng. Do vị trí quan trọng của Như Lệ ngay khi mở cuộc phản công "tái chiếm Quảng Trị Mỹ -ngụy tập trung một lực lượng khá lớn đánh chiếm lại Như Lệ tạo bàn đạp tiến công thị xã Quảng Trị từ phía tây nam; chia cắt khu vực thị xã với Chùa Nga, Động Tiên. Một đại đội lính dù ngụy (khoảng 150 tên chiếm đóng nửa làng Như Lệ. Chúng đào công sự, bố trí thành từng tổ, rải rác khắp trong làng. Qua nhiều lần trinh sát nắm địch, tiểu đoàn 6 đề nghị Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 sử dụng hai đại đội 9 và 11 ém sẵn quân trong các hầm từ đêm hôm trước.

Theo kế hoạch, đại đội 9 và đại đội 11 bí mật ém quân và phát hiện hai đại đội địch từ Tân Tẹo thọc vào khu vực tiểu đoàn 6 chốt giữ. Nếu tổ chức đánh địch ngay sẽ ảnh hưởng tới kế hoạch tiến công Như Lệ, nên tiểu đoàn cử trung đội trưởng Hoàng Đăng Miện cùng 5 chiến sĩ luồn sang đối Sim bất ngờ nổ súng để nghi binh rồi lại nhanh chóng cơ động về vị trí của tiểu đoàn . 17 giờ 45 phút ngày 7 tháng 8 năm 1 972 (sớm hơn dự định 15 phút.), lệnh xuất kích tiến công Như Lệ được truyền tới các đại đội.

Hướng đại đội 11 có 3 xe tăng T34 dẫn đầu phát triển tiến công khá thuận lợi . Đại đội trưởng Hoán chỉ huy bộ đội nhanh chóng chiếm các vị trí ngoài làng rồi đánh thẳng vào tuyến phòng thủ bên trong của địch. Đại đội 9 tiến công trên hướng chủ yếu gặp khó khăn do địch sử dụng trọng liên 12,7 ly đặt trên gò cao bắn xuống. Được trên chi viện ba xe tăng nhưng cả 3 xe lạc đường sang đại đội 111 (Chú thích 1. 3 xe tăng được tăng cường cho đại đội 9 nhưng bị lạc đường sang phối hợp với đại đội 11.). Tiểu đoàn trưởng Phùng Tặng quyết định tiếp tục tập trung lực lượng tiến công Như Lệ. Đại đội trưởng Lê Văn Dương dẫn đầu đại đội 9 xung phong. Địch dựa vào hỏa lực yểm trợ đánh chặn quyết liệt. Đại đội trưởng bị thương, một số chiến sĩ hy sinh. Chính trị viên Nguyễn Văn Phong tiếp tục dẫn đại đội xông lên. Khi anh bị thương, trung đội trưởng Học thay vì trí chỉ huy. Nhưng ngay sau đó đồng chí Học cũng bị thương nặng.

Trước diễn biến ác hệt của trận đánh, tiểu đoàn trưởng Phùng Tặng đề nghị pháo binh chi viện hỏa lực. Đại đội phó Nguyễn Văn Quyến cùng trung đội Hoàng Đăng Miện, Bùi Văn Ưu tiến sát các hỏa điểm địch. Đại đội 11 đánh chiếm đỉnh đồi. Hai mũi tiến công của tiểu đoàn 6 tiêu diệt gọn đại đội dù ngụy ở Như Lệ

Chiến công đầu ở Như Lệ cổ vũ khí thế thi đua trong toàn sư đoàn. Nhiều trận đánh đạt hiệu suất cao như trận đánh ở ngã ba Bệnh viện của tiểu đoàn 4, trận Đồi Cháy của tiểu đoàn 6, trận Phước Môn của tiểu đoàn 7 . . . đặc biệt là trận chốt giữ thị xã Quảng Trị trong 31 ngày đêm gian khổ, ác liệt và anh dũng của tiểu đoàn 5.

Ngày 10 tháng 8 năm 1972, tiểu đoàn 5 vượt sông Quảng Trị vào phối thuộc với Sư đoàn 320B bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị. Tiểu đoàn 5 là đơn vị có kinh nghiệm chiến đấu trên chiến trường Lào. Cán bộ và chiến sĩ tiểu đoàn đều được rèn luyện trưởng thành trong chiến đấu. Những ngày hè 1972, chiến sự ở Quảng Trị diễn ra vô cùng ác liệt, ngày và đêm không lúc nào ngớt tiếng bom, pháo. Đang ăn - địch tiến công, đang ngủ - bom địch dựng dậy. Mọi sinh hoạt đều chuyển xuống hầm, dưới lòng đất. Mùa mưa đến làm cho mọi sinh hoạt và chiến đấu thêm vất vả. Mưa làm sập hầm, ngập chỗ ngủ, ngập cả nơi để đạn. lương thực. Số anh em bị thương vong và sốt rét ngày càng nhiều.

Đường tiếp tế đạn dược, lương thực vào trận địa gặp khó khăn. Tiểu đoàn 5 cùng các đơn vị bạn đã kiên cường chốt giữ 31 ngày đêm, bẻ gãy hàng trăm đợt phản kích của Mỹ-ngụy, góp phần cùng các đơn vị bạn lập nên chiến thắng vẻ vang: 1182 ngày đêm oanh liệt ở Thành Cổ Quảng Trị

Trong khi tiểu đoàn 6 giải phóng Như Lệ tiểu đoàn 5 bảo vệ thị xã thì tiểu đoàn 4 chốt giữ Phước Môn. Ngày 22 tháng 8 năm 1972 tiểu đoàn 4 nhận được lệnh: bàn giao trận địa, khẩn trương hành quân về ngã ba Bệnh viện phối hợp với một trung đoàn bạn, tiêu diệt 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ ngụy, bẻ gãy cánh quân mới này của địch) bảo vệ Thành Cổ từ xa,

Cán bộ, chiến sĩ tiểu đoàn 4 đã chiến đấu dũng cảm mưu trí, diệt 102 tên địch, bắn cháy 2 xe tăng. được Bộ tư lệnh Mặt trận khen ngợi: "đơn vị chấp hành mệnh lệnh nghiêm, chiến đấu mưu trí, dũng cảm, góp phần đánh tan một cánh quân phản kích cỡ lữ đoàn địch ngay khi chúng chưa kịp hành quân lấn chiếm" .

Cuộc hành quân " Lam sơn 72!' của Mỹ-ngụy nhằm tái chiếm thị xã Quảng Trị bị tổn thất nặng. Từ ngày 1 đến 15 tháng 7 năm 1972, 1.287 tên thuộc hai lữ đoàn dù ngụy bị loại khỏi vòng chiến đấu; lữ đoàn 285 lính thủy đánh bộ bị thương vong 2.551 tên.

Đầu tháng 9 năm 1972, lợi dụng mùa mưa, địch mở chiến dịch "Đại Phong Lôi" phản kích sang nam sông Thạch Hãn. Bộ tư lệnh Mặt trận ra lời kêu gọi: "Cán bộ và chiến sĩ toàn mặt trận hãy vượt qua mọi thử thách ác liệt, chủ động tiến công địch trước và trong quá trình chúng mở đợt phản công mới, thực hiện tốt phương châm tiến công kiên quyết, đập tan mọi ý đồ của địch".

Bước vào đợt chiến đấu mới, Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 giao nhiệm vụ cho trung đoàn 209 đột kích trên hướng chủ yếu. Trung đoàn 141 chặn đánh lữ đoàn dù 3 ngụy. Trung đoàn 165 phòng thủ khu vực thị xã, tiến công địch ở Đồi Cháy đồng thời làm lực lượng dự bị cho Sư đoàn 308.

Đêm 3 tháng 9 năm 1972, các đơn vị thuộc Sư đoàn 312 phối thuộc các sư đoàn bạn bí mật hành quân chiếm lĩnh các tuyến xuất phát xung phong. 16 giờ 30 phút ngày 4 tháng 9, pháo binh ta bắn mạnh vào các vị trí địch. Tiểu đoàn bộ binh 7 có xe tăng phối hợp tiêu diệt một đại đội địch, làm chủ Phước Môn 2, tiếp đó đánh tan hàng phục đợt phản kích của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị bạn tiến công tiêu diệt địch ở Phú Long, Long Hưng.

Sau một thời gian phối hợp chiến đấu với Sư đoàn 304, trung đoàn 141 chuyển sang phối thuộc Sư đoàn 308 chốt giữ từ điểm cao 39 tới Động Ông Do. Quán triệt phương châm tiến công để giữ trận địa, trung đoàn tổ chức nhiều trận đánh vừa và nhỏ, diệt một bộ phận sinh lực địch, bảo vệ trận địa ta.

Trong khi trung đoàn 209 chọc thủng nhiều vị trí quân địch ở tuyến tây nam, trung đoàn 141 giữ vững trận địa ở điểm cao 39 và Động ông Do thì trung đoàn 165 kiên cường chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị, Tân Tẹo và La Vang. Để mở rộng hành lang vận chuyển, Bộ tư lệnh Sư đoàn 308 giao nhiệm vụ cho tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165) diệt cứ điểm Đồi Cháy.

Đồi Cháy là điểm cao ở phía đông nam làng Như Lệ do một đại đội lính thủy đánh bộ ngụy chiếm giữ. Sau khi trinh sát nắm địch, tiểu đoàn 6 quyết định giấu quân ngay tại chân Đồi Cháy. Đêm 8 tháng 9 năm 1972 toàn tiểu đoàn bí mật luồn vào quanh điểm cao Đồi Cháy, cách địch khoảng 70 mét. Mỗi chiến sĩ đào một công sự nhỏ, ngụy trang kín đáo chờ lệnh hành động. 14 giờ ngày 9 tháng 9, một đại đội địch sục sạo đến gần, các chiến sĩ tiểu đoàn buộc phải nổ súng. Trận đánh diễn ra rất ác hệt. Sau khi chọc thủng tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, đại đội trưởng Nguyễn Đình Khuyến chỉ huy đại đội 10 đột phá tuyến phòng thủ thứ hai. Máy bay địch bắn phá dữ dội xung quanh Đồi Cháy. Trung đội trưởng Hoàng Đăng Miện thay đại đội trưởng Nguyễn Đình Khuyến vừa anh dũng hy sinh, chỉ huy bộ đội tiếp tục tiến vào trung tâm cứ điểm mặc cho pháo địch bắn dồn dập. Trận đánh kết thúc, tiểu đoàn 6 diệt 150 tên địch và làm chủ Đồi Cháy. Chiến dịch "Đại Phong Lôi" của Mỹ - ngụy bước đầu bị đánh bại.

Như vậy, từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1972, cả ba trung đoàn (165, 141 và 209) phối thuộc chiến đấu với các sư đoàn 304, 308, 325 từ khu tam giác Ái Tử -Phượng Hoàng - Ba Gơ vào đến Như Lệ, Tính Tường,Thanh Lệ, Đá Đứng và các điểm cao 39, 105, 132. Cán bộ chiến sĩ các trung đoàn đã vượt qua nhiều thử thách ác liệt và nhiều gian khổ do tác chiến dài ngày trong mùa mưa. Các chiến sĩ tiểu đoàn 5 ngâm mình dưới nước hàng tháng liền để giữ Thành Cổ Quảng Trị. Ở trung đoàn 141 và 209, ba chiến sĩ chung một hầm, đêm đêm hai người thay phiên nhau tát nước cho một người ngủ. Bom và pháo đêm ngày giội xuống trận địa, có ngày hầm bị sập ba lần. Gian khổ, ác liệt, nhiều hy sinh tổn thất nhưng không ai nao núng.

Cả ba trung đoàn ( 141 , 165 và 209) của sư đoàn đã cùng các đơn vị bạn giữ vững trận địa ba tháng liền dưới hỏa lực bom đạn ác liệt, tương quan lực lượng chênh lệch. Cán bộ và chiến sĩ các đơn vị đã nêu những gương sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiêu hao, tiêu diệt và kìm giữ một bộ phận quan trọng lực lượng cơ động chiến lược địch tạo điếu kiện cho các mặt trận khác đẩy mạnh hoạt động. Qua đợt chiến đấu này, các đơn vị có thêm nhiều kinh nghiệm về tác chiến phòng ngự trận địa.

Ngày 16 tháng 9 năm 1972, do chiến đấu dài ngày thương vong cao, sức khỏe của bộ đội giảm sút, công sự bị ngập nước do mưa lũ lớn, việc tiếp tế lương thực, đạn dược gặp nhiều khó khăn nên ta phải rút khỏi thị xã và Thành Cổ về bắc sông Thạch Hãn. Địch chiếm lại được thị xã, nhưng bị tổn thất nặng. Chúng phải rút lữ đoàn 258 lính thủy đánh bộ về phía sau củng cố, đưa lữ đoàn 147 lên thay, đồng thời điều liên đoàn 1 biệt động quân về làm đội dự bị cho sư đoàn dù.

Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy Trung ương dùng hình thức phòng ngự trận địa mới giành được thắng lợi", từ tháng 9 năm 1972, Bộ tư lệnh Mặt trận Trị-thiên chỉ đạo các sư đoàn xây dựng "kế hoạch tácchiến phòng thủ khu vực" nhằm đánh bại địch phản kích, bảo vệ vùng giải phóng. Các đơn vị chiến đấu bảo vệ Quảng Trị tập trung xây dựng hệ thống trận địa liên hoàn có chiều sâu hình thành thế trận phòng ngự ở từng khu vực. Vừa xây dựng trận địa, vừa điều chỉnh thế bố trí lực lượng, ta lần lượt đưa một số sư đoàn về phía sau củng cố, chuẩn bị cho những trận chiến đấu mới.

Cuối tháng 10 năm 1972, các Sư đoàn 308, 304 được lệnh rút khỏi Quảng Trị. Bộ tư lệnh Sư đoàn 312 hành quân vào Quảng Trị trực tiếp chỉ huy ba trung đoàn trong biên chế chiến đấu phòng ngự ở nam sông Thạch Hãn. Bộ tư lệnh Mặt trận giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 312!' vào thay thế các Sư đoàn 308, 304 , ngăn chặn và tiêu diệt địch, phòng ngự kết hợp với tiến công, giữ bằng được tuyến Động ông Do - Chùa Nga - điểm cao 132 -Tích Tường - Như Lệ. Bằng giá nào cũng phải bám trụ được ở nam sông Thạch Hãn, bảo vệ con đường vận tải chiến lược. Trong tình hình địch tập trung phi pháo điên cuồng bắn phá và cho xe tăng, bộ binh phản kích liên tục Sư đoàn cần động viên bộ đội giữ vững ý chí, linh hoạt trong các hình thức tác chiến, kiên quyết hoàn thành nhiệm vụ'.

Trong lịch sử chiến đấu sư đoàn đã từng thực hiện cách đánh phòng ngự trong một số trận đánh như chốt giữ đồi 75 trong chiến dịch Điện Biên Phủ, chốt giữ Phu Tâng trong chiến dịch Mường Sủi chốt giữ điểm cao 1435 và Phu Tôn trong chiến dịch Z, chốt giữ cụm điểm cao 1505 - 1507 - 1316 trong mùa mưa 1971 ở Mặt trận Cánh Đồng Chum... Quy mô các trận chiến đấu trên thường là cấp đại đội tiểu đoàn, trung đoàn, thời gian tác chiến ngắn và diễn ra khi ta thực hành chiến dịch tiến công hoặc phản công. Đợt chiến đấu phòng ngự lần này có quy mô lớn hơn, địch đang ở thế nống lấn (tiến công, ta không còn đủ lực lượng và khả năng bảo đảm vật chất cho phản công đẩy lùi địch. Toàn mặt trận chuyển sang cách đánh phòng ngự trận địa. Vì vậy, chiến đấu phòng ngự ở Quảng Trị có ý nghĩa chiến dịch, có quan hệ trực tiếp đến ý đồ chiến lược góp phần thực hiện mục tiêu chặn địch ở nam sông Thạch Hãn, bảo vệ vùng giải phóng bắc Quảng Trị, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực ta có thêm thời gian củng cố, chuẩn bị cho những chiến dịch mới.

Sau khi các Sư đoàn 308 và 304 rời khỏi Quảng Trị, toàn bộ khu vực từ Tích Tường, Như Lệ đến Đối Dá, Động ông Do rộng khoảng 35 ki-lô-mét vuông do Sư đoàn 312 đảm nhiệm. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tư lệnh Lã Thái Hòa, Tham mưu trưởng Nguyễn Duy Hàn và sự giúp đỡ của cơ quan tham mưu Mặt trận B5, cơ quan tham mưu sư đoàn đã nghiên cứu, xác định các khu vực phòng thủ quan trọng gồm: Tích Tường, Như lệ Đá Đứng. Thạch Lệ cụm điểm cao 15-29-52. cụm điểm cao 134-165 - Khe Trại, cụm điểm cao 132-105, đồi Giang và Động Tiên. Địa hình các khu vực này đều trống trải, đồi cỏ tranh xen lẫn sim mua. Trên cơ sở đánh giá, phân tích địa hình các khu vực, khả năng và điều kiện chiến đấu của từng đơn vị, Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định tổ chức lực lượng chiến đấu và bố trí các cụm phòng ngự từ Tích Tường - Như Lệ đến các điểm cao 52-29-15, trong đó cụm điểm cao 52-29-15 là cụm trận địa then chốt trong thế trận phòng ngự của sư đoàn.

Trung đoàn 141 do đồng chí Đào Quý Khê chỉ huy chuyển từ khu vực Tân Tẹo về phòng ngự trận địa ở cụm điểm cao 105-132, đồi Giang, đồi Ba Cây. Đứng sau trung đoàn 141 là trung đoàn 165 mới được củng cố, tổ chức phòng ngự trên các cụm điểm cao 165- 134, Khe Trại, đồng thời làm lực lượng dự bị của sư đoàn. Để tăng cường chỉ đạo, chỉ huy trên các hướng phòng ngự, Bộ tư lệnh sư đoàn đặt Sở chỉ huy cơ bản ở Chùa Nga và tổ chức Sở chỉ huy phía trước ở cánh bắc (hướng trung đoàn 209). Đồng chí Nguyễn Chuông - tham mưu trưởng sư đoàn được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy trung đoàn 141. Đồng chí Nguyễn Xuyên - phó chính ủy sư đoàn chỉ đạo trung đoàn 209.

Các trận địa hỏa lực của sư đoàn vươn lên phía trước đủ sức chi viện cho các cụm trận địa trung tâm bắn phá có hiệu quả. Mục tiêu bắn của các trận địa pháo, cối 120 ly được xác định cụ thể. Đạn dược vận chuyển đến tận trận địa, bảo đảm cho bộ đội chiến đấu trong thời gian dài.

Chuyển sang chiến đấu phòng ngự, sư đoàn xây dựng trận địa thành các tuyến có chiều sâu, có công sự tương đối vững chắc, nối liền với dải phòng ngự của Sư đoàn 320B ở phía đông. Đối diện với trận địa phòng ngự của sư đoàn là sư đoàn dù ngụy gồm ba lữ đoàn 1, 2 và 3. Ngoài hỏa lực của pháo hạm, quân địch được chi viện 139 khẩu pháo từ 105 đến 175 ly. âm mưu của địch là sau khi chiếm Động ông Do sẽ tập trung lực lượng chiếm điểm cao 132, đẩy lực lượng ta sang bắc sông Thạch Hãn, chiếm lại các khu vực Nhan Biếu, Ái Tử, Đông Hà, Cửa Việt.

Sau khi chiếm được thị xã Quảng Trị, địch tập trung hai sư đoàn và một số liên đoàn biệt động ngụy, có không quân và pháo binh Mỹ chi viện, mở cuộc hành quân lớn hòng chiếm lại toàn bộ vùng giải phóng Quảng Trị. Tại khu vực do trung đoàn 209 đảm nhiệm, Một số điểm cao có nguy cơ rơi vào tay địch. Động ông Do rộng khoảng 14 ki-lô-mét vuông, trong thời gian 25 ngày địch ném xuống 5.600 tấn bom đạn, trung bình mỗi ki-lô-mét vuông bị 630 quả bom. Hàng ngày, địch thường huy động từ 3 đến 4 đại đội bộ binh có xe tăng yểm trợ, tiến công các trận địa ta. Tại các chốt 39, 105, 24, Đồi Tròn do trung đoàn 141 phòng ngự diễn ra nhiều trận chiến đấu ác liệt giữa ta và địch. Nổi bật là các trận đánh ở điểm cao T.4 và 39.

Điểm cao T.4 nằm phía sau điểm cao 39, có vị trí quan trọng trên tuyến phòng ngự dài 10 ki-lô-mét của trung đoàn 141. Đầu tháng 11 năm 1972, sau khi dùng pháo bắn phá dữ dội, một tiểu đoàn địch luồn qua sườn điểm cao 39 tiến công vào phía sau chốt T.4 do đại đội 11 trấn giữ. Ta kịp thời phát hiện và nổ súng đẩy lùi các đợt tiến công của địch. Hôm sau, trời đổ mưa. Mới mờ sáng, pháo địch đã giội xuống trận địa chốt T4, máy bay A.37 ném bom dữ dội. Đại đội 11 bị tổn thất nặng. Đến trưa, trên chốt chỉ còn 5 chiến sĩ. Địch huy động hai tiểu đoàn dù tiến lên chốt. Năm chiến sĩ còn lại của đại đội 11 anh dũng đánh trả địch, bẻ gãy năm đợt tiến công của chúng. Trung đội trưởng Hiền là người cuối cùng của đại đội đã anh dũng chiến đấu đến cùng.

Sau khi chiếm được điểm cao T.4, địch tiếp tục tiến sang điểm cao 39 do tiểu đoàn 2 chốt giữ. Điểm cao 39 nằm trên tuyến phòng thủ phía nam sông Thạch Hãn. Mấy tháng trước, bốn tiểu đoàn dù thuộc lữ đoàn dù ngụy số 4 liên tục phản kích nhưng đều bị ta đấy lùi. Lần này, sau ba ngày bắn phá, địch tập trung quân tiến công ồ ạt. Ngày đầu các đợt phản kích của địch bị ta be gãy. Ngày thứ hai, tiểu đoàn 81 biệt động ngụy vừa triển khai đội hình, thì bị tiểu đoàn 9 bố trí từ đêm trước đánh thiệt hại nặng. Sang ngày thứ ba, tiểu đoàn 4 của địch có xe tăng yểm trợ mở đợt tiến công mới. Trận đánh diễn ra quyết liệt đến đêm hôm đó, lực lượng ta bị tổn thất nặng, địch chiếm được điểm cao 39.

Do chiến đấu dài ngày ác liệt, sức khỏe bộ đội giảm sút, quân số thiếu hụt, các đơn vị cần có thời gian củng cố bổ sung quân số, trang bị. Về phía địch, tuy chiếm được một số khu vực, chúng cũng bị tổn thất nặng buộc phải dừng lại củng cố, tổ chức phòng thủ. Sau một thời gian chuẩn bị, Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định mở đợt tiến công chiếm lại các điểm cao quan trọng, sau đó xây dựng trận địa phòng ngự chốt giữ. Trung đoàn 165 được giao nhiệm vụ chiếm lại Động ông Do, trung đoàn 209 chiếm Đồi Cháy và điểm cao 52, trung đoàn 141 đánh chiếm các điểm cao T.4, 105 và Đồi Tròn Sư đoàn còn đề nghị Mặt trận tăng cường cho trung đoàn 165 một tiểu đoàn pháo 130 và 85 ly; tăng cường cho trung đoàn 209 một tiểu đoàn pháo 122 và 85 ly. Các đơn vị pháo binh xây dựng gấp trận địa hỏa lực Các tiểu đoàn trinh sát, công binh, thông tin nhanh chóng triển khai hệ thống hầm hào, công sự, mạng thông tin, đài quan sát; đồng thời cùng với các đơn vị bộ binh đưa đạn, gạo qua sông vào trận địa. Phòng hậu cần và tiểu đoàn vận tải gấp rút mở các tuyến đường đưa vật chất tới các đơn vị. phòng tham mưu kiểm tra, bổ sung kế hoạch tác chiến trên các hướng. Phòng chính trị mở đợt sinh hoạt trong các đơn vị phát huy truyền thống, động viên tinh thần hăng hái lập công.

Sáng ngày 5 tháng 11 năm 1972, tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165) phối hợp với một đơn vị thuộc Sư đoàn 304 tiến công Động ông Do. Địch dùng máy bay ném bom và pháo ngăn chặn ta. 23 giờ cùng ngày, hai mũi đột kích của tiếu đoàn 6 chọc thẳng vào mỏm A, trung tâm điểm cao. Mũi của trung đội trưởng Biên đánh vào khu trung tâm chỉ huy. Mũi của đại đội phó Tạo đánh vào cánh phải để phối hợp. Địch chống trả quyết liệt. Một số chiến sĩ anh dũng hy sinh. Đại đội phó Tạo bị thương đến lần thứ ba vẫn cùng các chiến sĩ chiến đấu cho tới khi làm chủ hoàn toàn Động ông Do.

Đại đội 1 tiểu đoàn 4 đang trên đường hành quân tới phối thuộc chiến đấu với trung đoàn 141, thì nhận được lệnh đánh Đồi Tăng. Mặc dù nhận lệnh gấp, đại đội 1 đã nhanh chóng triển khai chiến đấu, diệt 30 tên địch, chiếm lại Đồi Tăng.

Trên các hướng khác, trung đoàn 209 chiếm lại các điểm cao 52, 29, 15; trung đoàn 141 đánh chiếm được điểm cao 105 và 24. Đợt chiến đấu kết thúc. Tiểu đoàn 6 và tiểu đoàn dù 11 ngụy bị tổn thất nặng. Từ phản công ồ ạt địch phải chuyển sang đánh từng bướt nhỏ lẻ.

Chiến đấu thắng lợi tạo khí thế mới trong toàn sư đoàn. Nhưng các đơn vị cũng gặp nhiều khó khăn do quân số bị hao hụt, cán bộ thiếu, gạo, đạn không chuyển vào kịp. Trong khi đó, địch tăng cường phản kích, quyết chiếm lại cái vùng bị mất. ở khu vực Tích Tường: Như Lệ (do tiểu đoàn 9 chốt giữ), 5 tiểu đoàn dù ngụy mở liên tiếp nhiều đợt tiến công hòng đấy ta sang bắc sông Thạch Hãn. Một mũi tiến công của địch chọc vào giữa trận địa đại đội 11 và đại đội 9. Trận địa của tiểu đoàn 9 đứng trước nguy cơ bị chia cắt.

Trong hai ngày 27 và 28 tháng 11 năm 1972. tại Đồi Cháy do tiểu đoàn 7 (trung đoàn 209) chốt giữ, địch đánh phá ác liệt trong suốt 10 giờ. Chúng bắn cả đạn pháo chứa chất độc hóa học. Các chiến sĩ tiểu đoàn 7 đã anh dũng chiến đấu. diệt 157 tên, bẻ gãy nhiều đợt tiến công của tiểu đoàn 8 dù ngụy, giữ vững trận địa.

Bên Đồi Đỏ, các chiến sĩ ta ngụy trang, áo, quần, tóc và cả súng đều phủ dầy một lớp bụi đất đỏ. Ngày 14 tháng 12 năm 1972, địch dùng bom pháo bắn phá dọn đường, sau đó cho bộ binh lên phản kích. Trung đội trưởng Nguyễn Đức May đến từng trận địa động viên các chiến sĩ. Bị thương vì pháo địch, anh vẫn tiếp tục chỉ huy bộ đội chiến đấu. Tiểu đoàn dù 9 ngụy mở đợt tiến công thứ hai lại bị tổn thất nặng, buộc phải lui quân. Địch không chiếm được trận địa, song ta cũng bị tổn thất. Đồng chí Nguyễn Đức May hy sinh anh dũng khi trận đánh kết thúc. Trên hướng do trung đoàn 209 chốt giữ địch chiếm lại Động ông Do, các điểm cao 52, 29, 15. Điểm cao 132 do một đơn vị tân binh thuộc tiểu đoàn 12 (trung đoàn 141) chốt giữ cũng bị địch chiếm. Trung đoàn 141 đã tự kiểm điểm nhận rõ trách nhiệm chưa hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu của mình là phải giữ vững trận địa và xác định quyết tâm chiến đấu mới.

Chấp hành chỉ thị của Bộ tư lệnh Mặt trận, sư đoàn tiếp tục tổ chức hệ thống phòng ngự trận địa trên địa bàn do sư đoàn đảm nhiệm. Cuối tháng 12 năm 1972, Hội nghị Thường vụ Đảng ủy sư đoàn nhận định: Sư đoàn đã từng tổ chức các trận địa phòng ngự nhưng mới ở mức tiểu đoàn, trung đoàn trên một địa bàn hẹp. Nay tổ chức tuyến phòng ngự toàn sư đoàn dài tới 35 ki-lô-mét, chiến đấu với kẻ địch vừa liều lĩnh, vừa được chi viện nhiều bom đạn nên gặp nhiều khó khăn. Vận dụng kinh nghiệm phòng ngự ở chiến trường Lào, trong các trận đánh trên các điểm cao 1900, Bản Tôn, 1505 và 1316, Đảng ủy, Bộ tư lệnh sư đoàn tin rằng sư đoàn sẽ phát huy được kinh nghiệm của mình tổ chức tuyến phòng ngự rộng và vững chắc hơn, đánh bật các cuộc phản kích của địch, giữ vững trận địa.

Đảng ủy sư đoàn hạ quyết tâm: "Lãnh đạo toàn sư đoàn tập trung sức lực, lập tuyến phòng ngự Tích Tường -Như Lệ đến Động Tiên, kiên quyết không cho địch thực hiện ý đồ tiến công sang sông Thạch Hãn". Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định:

1- Nhanh chóng củng cố trận địa trên các điểm cao 134, 165, 15, 29, 52, xây dựng cộng sự kiên cố đủ sức chống đạn pháo và bom phát quang của địch. Tư tưởng chỉ đạo tác chiến là tích cực tiêu diệt địch, đi đôi với kiên cường giữ đất.

2- Trung đoàn 165 thay thế trung đoàn 141 chốt giữ ở cụm điểm cao 134-165 . Trung đoàn 141 chuyển sang Động Tiên xây dựng trận địa phòng ngự chặn đánh cánh quân dù ngụy đang chuẩn bị tiến qua Động Tiên hòng cắt đường 15N.

3- Khắc phục mọi khó khăn, đảm bảo thông suốt các tuyến đường vận chuyển tới các trận địa. Coi trọng nuôi dưỡng bộ đội, điều trị và chăm sóc tốt thương binh, bệnh binh.

Sau khi giao nhiệm vụ cho các trung đoàn, Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định thành lập Sở chỉ huy nhẹ ở cánh bắc. Hướng trung đoàn 209 do phó chính ủy sư đoàn phụ trách. Các đơn vị đều tổ chức sinh hoạt, rút kinh nghiệm đợt chiến đấu vừa qua, tìm ra những điểm mạnh và yếu, làm cho cán bộ và chiến sĩ thấy hết ý nghĩa của tác chiến phòng ngự giữ vững trận địa, tích cực chuẩn bị thực hiện thắng lợi cách đánh mới.

Toàn sư đoàn khẩn trương xây dựng, củng cố công sự chiến hào, bố trí lại thế trận phòng ngự, triển khai kế hoạch bảo đảm và hiệp đồng chiến đấu.

Trung đoàn 165 được điều ra chặn địch trên tuyến Khe Trại và các điểm cao 134-165 . Nhận lệnh chiến đấu chỉ trong năm ngày, cán bộ và chiến sĩ trung đoàn 165 đã xây dựng được hệ thống hầm hào, trận địa trên dải điểm cao 134-165- Khe Trại - đồi 12ly7. Sở chỉ huy trung đoàn 165 đặt tại khu rừng giữa điểm cao 134 và 165 chỉ huy bộ đội ở hai cụm trận địa phòng ngự.

Sau khi kiểm tra nắm tình hình địch, trung đoàn 165 đưa tiểu đoàn 6 ra chốt giữ cụm điểm cao then chốt 134 (4 mỏm) . Tiểu đoàn 2 chốt giữ cụm điểm cao trên dãy 165 (2 mỏm). Tiểu đoàn 5 dựa vào điểm tựa 12ly 7 bố trí trận địa ở các điểm cao 134 và 165, kết hợp với lực lượng triển khai phía trước của tiểu đoàn 2 và tiểu đoàn 6, đánh địch từ xa, tạo thành nhiều tuyến ngăn chặn địch.

Trận địa hỏa lực bố trí chú yếu ở sườn đông bắc điểm cao 134 (khoảng giữa hai điểm cao 134 và 165) trực tiếp chi viện cho cụm điểm cao 134 - 165 và các điểm chốt Đồi Khói, Đồi Xanh, điểm cao 99. Các tiểu đoàn 2 và 6 đánh địch chiếm lại trận địa khi cần thiết.

Vừa xây dựng trận địa, trung đoàn 165 vừa tổ chức tập dượt theo các phương án chiến đấu bảo vệ trận địa và bảo đảm hậu cần, đồng thời tổ chức lực lượng sẵn sàng đánh địch ở tuyến trước. Trong thời gian trung đoàn xây dựng trận địa ở cụm điểm cao 134 - 165, hai tiểu đoàn dù ngụy mở nhiều đợt tiến công nhưng đều bị trung đoàn đánh bại.

Cùng với trận địa của các trung đoàn 141, 209, hệ thống trận địa phòng ngự của trung đoàn 165 tạo nên thế trận phòng ngự hoàn chỉnh. dài hơn 20 ki-lô-mét, trong đó có các cụm điểm tựa then chốt của sư đoàn.

Những ngày cuối tháng 12 năm 1972 cuộc đấu tranh trên các mặt trận quân sự và ngoại giao giữa ta và địch diễn ra quyết liệt và khẩn trương. Với ý đồ kết thúc chiến tranh trên thế mạnh, đế quốc Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng. Trên chiến trường miền Nam địch tập trung lực lượng phản kích hòng chiếm lại toàn bộ vùng nam sông Thạch Hãn gồm cụm điểm cao 134 -165, Động Tiên làm bàn đạp tiến công sang bắc sông Thạch Hãn. Chúng tập trung không quân, pháo binh đánh phá từng đợt kéo dài.

Kiên quyết đánh bại âm mưu mới của địch, Sư đoàn 312 được tăng cường tiểu đoàn 2 độc lập, 1 đại đội bắn tỉa, 200 tân binh và tiểu đoàn pháo binh 10 có nhiệm vụ đánh bại các đợt phản kích của sư đoàn dù ngụy, giữ vững trận địa ở nam sông Thạch Hãn, bảo vệ đoạn đường 15 và hậu cứ kho tàng của Mặt trận.

Chuẩn bị cho trận chiến đấu mới, sư đoàn kiểm tra đôn đốc các đơn vị củng cố công sự, chiến hào, tăng cường phương tiện thông tin liên lạc phục vụ các đơn vị đánh địch ở phía trước, bảo vệ trận địa từ xa, sư đoàn xác định giữ các cụm điểm cao 15 - 29 - 54 -134 - 165 là nhiệm vụ then chốt trong giai đoạn này. Lực lượng bắn tỉa được bổ sung cho các trận địa chốt. Rút kinh nghiệm các đợt chiến đấu trước sư đoàn chỉ đạo các đơn vị vận dụng nhiều cách đánh linh hoạt, hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và lực lượng binh chủng, ở phía trước với lực lượng ở phía sau.

Ngày 29 tháng 12 năm 1972, sau khi dùng máy bay và pháo binh bắn phá dữ dội, tiểu đoàn 6 ngụy tiến đánh điểm cao 134 và đồi 12 ly 7. Đại đội 5 chốt giữ đồi 12 ly 7 đã chiến đấu anh dũng bẻ gẵy 6 đợt tiến công eủa địch. buộc chúng phải cụm lại dưới chân đồi. Lợi dụng đêm tối. đại đội 5 bất ngờ tập kích, diệt nhiều tên.

Ngày 10 tháng 1 năm 1973, Bộ tư lệnh sư đoàn giao nhiệm vụ cho trung đoàn 141 chốt giữ cụm điểm cao Động Tiên, bảo đảm cho thế trận phòng ngự của sư đoàn có thêm chiều sâu. Trước khi sang Động Tiên, theo sự chỉ đạo của Bộ tư lệnh sư đoàn, trung đoàn 141 tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm chiến đấu, đồng thời củng cố tổ chức, bổ sung quân số và vũ khí trang bị. Đống chí Hoàng Sơn, nguyên trung đoàn phó trung đoàn 209 được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng thay đồng chí Đào Quý Khê và đồng chí Hoàng Đa, nguyên phó chính ủy trung đoàn 165 làm chính ủy thay đồng chí Nguyễn Văn Dỹ. Cán bộ cấp tiểu đoàn, đại đội, trung đội cũng được bổ sung đầy đủ.

Động Tiên nằm ở phía tây huyện Triệu Phong gồm các điểm cao then chốt 444, 282, 176, vừa bảo vệ tuyến phòng ngự, vừa góp phần tạo thế phát triển vững chắc cho ta ở nam sông Thạch Hãn. Để bảo đảm cho trung đoàn 141 đánh thắng địch, ngày 16 tháng 1 năm 1973 Bộ tư lệnh sư đoàn phê chuẩn phương án tập kích bằng hỏa lực diệt sinh lực địch ở điểm cao 314 của trung đoàn. Lực lượng tham gia trận đánh gồm đại đội 15, ĐKZ 75 ly, đại đội 14 cối 81 ly, đại đội 16 súng 12,7ly và các đại đội hỏa lực của các tiểu đoàn 1, 2 và 3 (gồm 2 khẩu ĐKZ 75 ly, 8 khẩu cối 81 ly, 8 khẩu cối 60 ly 2 súng 12,7 ly) . Thời gian tập kích là 11 giờ ngày 17tháng 1 năm 1973. thời điểm địch tập trung lực lượng đông nhất trên điểm cao 314. Đúng 11 giờ ngày 17 tháng 1, trung đoàn trưởng Hoàng Sơn lệnh cho các trận địa hỏa lực đồng loạt bắn vào điểm cao 314 .

Bị đánh bất ngờ và thiệt hại nặng, địch phải rút khỏi điểm cao. Trận tập kích diễn ra trong khoảng 10 phút giành thắng lợi lớn đã cổ vũ cán bộ chiến sĩ trung đoàn hăng hái chiến đấu. Đại đội 10 được trung đoàn giao nhiệm vụ lên củng cố trận địa phòng ngự ở điểm cao 314. Cán bộ và chiến sĩ đại đội 10 đã nhanh chóng xây dựng các công sự trận địa, lập phương án tác chiến. Ngoài bộ phận chốt giữ trận địa, đại đội sử dụng phần lớn lực lượng bố trí ở các trận địa phục kích chặn định từ xa; đồng thời bố trí mìn định hướng ở tuyến ngoài điểm cao nhằm diệt địch khi chúng tiếp cận.

Ngày 19 tháng 1 năm 1973, địch cho một đại đội lính dù có pháo binh và không quân chi viện, từ điểm cao 264 đánh sang điểm cao 374. Bộ đội ta kịp thời chặn đánh địch trên từng khu vực, tiêu hao sinh lực, làm giảm tốc độ tiến công của chúng. Lực lượng dự bị của trung đoàn 141 vận động tập kích vào hai bên sườn đội hình địch, diệt và làm bị thương nhiều tên, số còn lại hoảng sợ tháo chạy về điểm cao 264.

Cùng trong thời gian đó. tại trận địa phòng ngự ở điểm cao Động Tiên. trung đoàn 141 đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, bẻ gãy ý đồ kiểm soát đường 15N của chúng.

Các chiến sĩ bắn tỉa được bố trí trên các điểm tựa 134, 165, đồi 12 ly 7. Súng bắn tỉa của ta gây bất ngờ và nhiều tổn thất cho địch. Chiến sĩ bắn tỉa Nguyễn Văn Thành (trung đoàn 141) diệt hàng chục tên đỉnh ở điểm cao 99. Phân đội bắn tỉa của trung đoàn 209 lập thành tích xuất sắc. Chiến si Bùi Ngọc Lân diệt 100 lính dù ngụy. Phân đội trưởng Võ Văn Trí lập kỷ lục bắn 50 viên đạn diệt 49 tên địch trong một ngày. Các chiến sĩ ta không chỉ dùng súng bắn tỉa, mà còn dùng súng trường CKC tiểu liên AK, súng chống tăng B40, B41. Bộ đội công binh dùng đầu đạn chưa nổ thu được của địch phóng vào các cứ điểm, kéo địch ra cho đồng đội bắn tỉa.

Các đơn vị còn tổ chức những phân đội luồn sâu tập kích bất ngờ, gây cho sư đoàn dù ngụy nhiều thiệt hại .

Cuối tháng 1 năm 1973, trung đoàn 209 được lệnh tập trung toàn bộ lực lượng, chia làm hai cánh đánh chiếm cụm điểm cao 52, 29, 15. Cánh thứ nhất gồm các phân đội nhỏ luồn lên phía trước, vừa diệt sinh lực vừa nghi binh tạo điều kiện cho lực lượng ở phía sau cơ động lên diệt địch. Cánh thứ hai (mũi chủ yếu) gồm các tiểu đoàn bộ binh, công binh và hỏa lực phối hợp đánh từ nhiều hướng vào ba cứ điểm 52, 29, 1 5, trong đó trận tiến công cứ điểm 52 là trận then chốt.

17 giờ ngày 25 tháng 1 năm 1973, pháo ta bắt đầu bắn vào cứ điểm 52. Tiểu đoàn 9 gồm các đại đội 9, 10 chiếm vị trí xuất phát xung phong. Phân đội dự bị gồm các chiến sĩ trinh sát liên lạc, hậu cần và trợ lý của tiểu đoàn triển khai xong các mặt bảo đảm. Sau khi pháo bắn chuẩn bị, đại đội 9 chia làm hai mũi đánh chiếm các công sự vòng ngoài. Quân địch chống trả quyết liệt Tiểu đoàn phó Nguyễn Văn Nhắc điều đại đội 10 đánh thẳng vào khu trung tâm đẩy quân địch trên điểm cao 52 vào tình trạng rối loạn. Đại đội 9 kịp thời phối hợp, diệt và làm tan rã đại đội 4 lính dù ngụy.

Trên hướng tiểu đoàn 8, đại đội 6 do đại đội trưởng Phạm Văn Chiến chỉ huy bao vây đồi Không Tên, nằm bên điếm cao 15. Quân địch lúng túng chưa kịp đối phó, bộ đội ta đã xông vào diệt một trung đội. 17 giờ ngày 26t háng 1 năm 1973, trung đoàn trưởng trung đoàn 209 lệnh cho tiểu đoàn 8 tiến công cứ điểm 15. Sau 25 phút chiến đấu quyết liệt, tiểu đoàn diệt một đại đội dù ngụy, làm chủ điểm cao.

18 giờ cùng ngày. ta tập trung hỏa lực bắn mạnh vào 3 mỏm A. B C thuộc điểm cao 29. Đại đội 1 (tiểu đoàn 7) táo bạo thọc sâu diệt gọn địch trên mỏm B; đại đội 2 đánh chiếm mỏm C và đại đội 3 làm chủ mỏm A. Ngay sau trận đánh. trong khi bộ đội ta xây dựng trận địa, địch dùng pháo binh bắn phá ác liệt và tập trung bộ binh phản kích hòng chiếm lại hai mỏm A và B .

Cuộc chiến đấu ở điểm cao 29 diễn biến phức tạp. Tranh thủ thời cơ trước khi Hiệp định Pa-ri "về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam" có hiệu lực, sở chỉ huy cánh Bắc chỉ đạo các đơn vị kiên quyết chiếm lại điểm cao 29 và một số vị trí quan trọng khác. 4 giờ sáng ngày 28 tháng 1 năm 1973, tiểu đoàn 7 mở đợt tiến công mới vào hai mỏm A và B, làm chủ hoàn toàn cứ điểm vào lúc rạng đông ngày 28 tháng 1 năm 1973.

Chiếm được cụm điểm cao 15, 29, 52 thế trận phòng ngự của trung đoàn 209 ở nam sông Thạch Hãn thêm vững chắc. Cùng thời gian đó, một số đơn vị của các Sư đoàn 304, 320, 325, trung đoàn 126 và K25 hải quân có pháo binh và xe tăng phối hợp thực hiện trận phản đột kích thắng lợi ở Cửa Việt, giải phóng nhiều vùng quan trọng ở đồng bằng Quảng Trị.

Bị thất bại nặng nề ở miền Nam và trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc, nhất là trong cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng và các vùng phụ cận, ngày 27 tháng 1 năm 1973 chính quyền Mỹ buộc phải ký Hiệp định Pa-ri, cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. chấm dứt dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam.

Trải qua 18 năm chiến đấu, quân và dân ta đã thực hiện được nhiệm vụ: "đánh cho Mỹ cút" tạo ra thời cơ mới để tiến lên: "đánh cho ngụy nhào", giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Từ 8 giờ ngày 28 tháng 1 năm 1973 Hiệp định Pa-ri có hiệu lực trên toàn miền Nam. Tại Quảng Trị, đồng bào nô nức trở về quê cũ xây dựng cuộc sống mới. Chính quyền cách mạng các cấp được thành lập. Quảng Trị là nơi được chọn làm trụ sở của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sư đoàn 312 được giao nhiệm vụ tiếp tục ở lại cùng nhân dân và chính quyền địa phương bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng Quảng Trị.

Cán bộ và chiến sĩ sư đoàn nắm chắc tay súng trên các chốt tiền tiêu, nơi giáp ranh giữa ta và địch, sẵn sàng đối phó với âm mưu phá hoại hiệp định của ngụy quyền Sài Gòn. Trên tuyến giáp ranh, các chiến sĩ ta vừa tuyên truyền. giải thích các điều khoản của hiệp định. vừa làm công tác địch vận, vừa kiên quyết trừng trị những hành động vi phạm hiệp định, buộc địch phải nghiêm chỉnh thi hành lệnh ngừng bắn, giữ vững vùng giải phóng.

Kể từ ngày trung đoàn 165, đơn vị đầu tiên của sư đoàn tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng Quảng Trì (tháng 7 năm 1972) đến tháng 3 năm 1973 , Sư đoàn 312 đã chiến đấu liên tục 8 tháng trên chiến trường Quảng Trị.

Quá trình tham gia chiến đấu lãnh đạo chỉ huy sư đoàn và các đơn vị đã chọn vị trí, xây dựng trận địa vững chắc. vận dụng nhiều cách đánh dũng cảm, linh hoạt, kết hợp giữa đánh địch ở phía trước với đánh địch ngay trên trận địa.

Hơn 200 ngày đêm liên tục chiến đấu, cán bộ, chiến sĩ sư đoàn đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 6.470 tên địch, diệt một đại đội và 19 trung đội, đánh thiệt hại nặng các tiểu đoàn dù 6, 7, 9, 11, bắn rơi 4 máy bay, bắn cháy 15 xe tăng, xe bọc thép, thu nhiều vũ khí và trang bị của địch.

Trong những ngày chiến đấu phòng ngự ác liệt ở Quảng Trị, Sư đoàn đã phải bổ sung quân số tới 13 lần, mỗi lần khoảng 500 chiến sĩ mới. Cán bộ chiến sĩ sư đoàn đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống Đại đoàn Chiến Thắng, vượt lên mọi gian khổ, hy sinh, lập nên những chiến công xuất sắc ở Đồi Xanh, Như Lệ, Tích Tường, cụm điểm cao 52, 29, 15, nam sông Thạch Hãn...

Quá trình chiến đấu ở Quảng Trị, sư đoàn đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm về xây dựng trận địa phòng ngự vững chắc; về tổ chức chỉ huy chiến đấu trong tiến công hiệp đồng binh chủng tiêu diệt địch, giải phóng đất đai, xây dựng thế trận phòng ngự đánh địch phản kích, nhất là trong mùa mưa lũ bảo vệ vùng giải phóng. Đây là những trang mới trong lịch sử truyền thống vẻ vang của sư đoàn .

Chương 7 .

TRONG ĐỘI HÌNH QUÂN ĐOÀN 1 THAM GIA CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH LỊCH SỬ

(1973- 1975)

..Hiệp định Pa-ri được ký kết là thắng lợi to lớn của quân dân ta và thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ và bè lữ tay sai. Theo hiệp định, quân viễn chinh Mỹ và chư hầu phải rút khỏi miền Nam, Mỹ cam kết chấm dứt dính líu quân sự, không can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam. Song với bản chất ngoan cố, hiếu chiến, đế quốc Mỹ chưa chịu từ bỏ âm mưu thực hiện "học thuyết Ních-xơn", tiếp tục duy trì chủ nghĩa "thực dân mới" ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta.

Trong quá trình rút quân, đế quốc Mỹ để lại nhiều sĩ quan mặc áo dân sự và giao lại cho quân ngụy toàn bộ cơ sở vật chất, vũ khí, phương tiện chiến tranh. Dựa vào viện trợ Mỹ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu ra sức củng cố ngụy quân ngụy quyền, liên tiếp mở các cuộc hành quân "tràn ngập lãnh thổ", lấn chiếm vùng giải phóng.

Trước âm mưu và hành động mới của địch, Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ của quân dân ta là: Đánh bại mọi hành động bình định lấn chiếm của địch, giành dân và giữ dân, giữ vững vùng giải phóng và chính quyền cách mạng. Đồng thời phải chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt, nếu địch mở rộng chiến tranh, gây lại chiến tranh quy mô lớn thì kiên quyết tiêu diệt chúng" .

Những tháng đầu năm 1973, quân và dân ta ở miền Nam kiên quyết phản công và chủ động tiến công địch, đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm vùng giải phóng của chúng, giữ vững thế bố trì lực lượng trên các địa bàn chiến lược. Thế và lực của cách mạng ở miền Nam lớn mạnh, vững chắc. So sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi cơ bản và ngày càng chuyển biến, có lợi cho ta. Thời cơ chiến lược để quân và dân ta hoàn thành cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước xuất hiện sau khi có Hiệp định Pa-ri ngày càng chín muồi.

Sau khi hoàn thành nhiệm vụ trên chiến trường Quảng Trị và bảo vệ, xây dựng vùng giải phóng, cuối tháng 3 năm 1973, Sư đoàn 312 hành quân về bắc Thanh Hóa củng cố, huấn luyện, sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới. Một trong những nội dung huấn luyện được lãnh đạo, chỉ huy sư đoàn quan tâm là nâng cao trình độ kỹ thuật bắn súng cho cán bộ và chiến sĩ, nhất là đối với chiến sĩ mới. Với kinh nghiệm trong thực tế chiến đấu và tranh thủ điều kiện thuận lợi ở hậu phương, toàn sư đoàn quyết tâm khắc phục mọi khó khăn thực hiện tốt nhiệm vụ huấn luyện năm 1973. Về bắn súng, sư đoàn đạt thành tích đơn vị bắn giỏi. Khả năng cơ động và sức mạnh chiến đấu của sư đoàn được nâng lên một bước mới.

Tháng 7 năm 1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định: "con đường cách mạng của miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công"1 (Chú thích 1 Cuộc kháng chiến chống Mỹ. cứu nước - Những sự kiện quân sự, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam xuất bản, Hà Nội, 1988 tr.289.). Về phương hướng hoạt động quân sự, Trung ương Đảng nêu rõ: "Ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta nhằm đánh bại kế hoạch bình định" và lấn chiếm của địch"1 (Chú thích 1. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước - Những sự kiện quân sự ( Sđd, tr.290).

Quán triệt nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21, tháng 10 năm 1973, Quân ủy Trung ương họp xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang là nắm vững thời cơ chiến lược, tích cực chuẩn bị về mọi mặt theo yêu cầu tác chiến quy mô lớn, tăng cường lực lượng vũ trang, nhất là kiện toàn khối chủ lực cơ động dự bị chiến lược, sẵn sàng đánh lớn khi có thời cơ.

Vấn đề xây dựng các quân đoàn binh chủng hợp thành có sức cơ động cao, hỏa lực mạnh, sức đột kích lớn, làm lực lượng quyết định trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược trở thành một yêu cầu khách quan phù hợp với quy luật phát triển của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Vào thời điểm này, quân đội ta có đầy đủ điều kiện xây dựng quy mô lớn để hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Theo đề nghị của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng, tháng 10 năm 1973, Bộ Chính trị Trung ương Đảng phê chuẩn việc thành lập các quân đoàn chủ lực trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh.

Ngày 24 tháng 10 năm 1973, Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết Thắng) được thành lập gồm ba sư đoàn bộ binh (308, 312, 320B), Sư đoàn phòng không 367, lữ đoàn xe tăng 202, lữ đoàn pháo binh 45, lữ đoàn công binh 299, trung đoàn thông tin 140, các đơn vị binh chủng, phục vụ và các cơ quan. Các đơn vị trong đội hình quân đoàn từng lập chiến công xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, có nhiều kinh nghiệm trong. xây dựng và chiến đấu. Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng và Thiếu tướng Lê Quang Hòa, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị được cử kiêm chức Tư lệnh và Chính ủy đầu tiên của quân đoàn.

Trong phiên họp đầu tiên, Đảng ủy Quân đoàn ra nghị quyết nêu rõ: xây dựng quân đoàn cách mạng chính quy hiện đại, có sức chiến đấu cao, sức cơ động lớn, đột kích mạnh.

Để nâng cao sức mạnh chiến đấu, Đảng ủy và Bộ tư lệnh quân đoàn nêu khẩu hiệu "Toàn sư đoàn là một thao trường huấn luyện chính quy", từ các đơn vị đến cơ quan, từ tư lệnh đến người chiến sĩ đều quyết tâm khắc phục khó khăn hoàn thành chương trình, nội dung huấn luyện. Trong những năm trước do chiến tranh ác liệt các đơn vị của quân đoàn chưa có điều kiện huấn luyện cơ bản tập trung. Tranh thủ điều kiện thuận lợi và căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, Quân đoàn chủ trương đẩy mạnh huấn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt trọng tâm là nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật và tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn. Cuối giai đoạn huấn luyện, quân đoàn tổ chức các cuộc diễn tập cơ quan hai cấp, ba cấp; đồng thời tổ chức một số cuộc diễn tập thực binh hiệp đồng binh chủng.

Đầu năm 1974, Đại hội Đảng bộ lần thứ V của Sư đoàn 312 đã tổng kết kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và chiến đấu trong 10 năm (1964-1973) và đề ra phương hướng tiếp tục xây dựng sư đoàn ngày càng trưởng thành về mọi mặt, nâng cao trình độ chính quy hiện đại, sức cơ động, trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng trong đội hình quân đoàn

Sau đại hội Đảng bộ sư đoàn, không khí huấn luyện sôi nổi và khẩn trương trong khắp các đơn vị. Với quyết tâm cao, các trung đoàn 141, 165 và 209 đã hoàn thành tốt nội dung huấn luyện theo kế hoạch thống nhất của sư đoàn, quân đoàn. Kết thúc mùa huấn luyện, sư đoàn tham gia diễn tập chỉ huy tham mưu ba cấp trong chiến dịch tiến công, giải phóng một thị xã lớn và đánh quân địch phản kích ở vùng ven thị xã. Cuộc diễn tập do Bộ trực tiếp chỉ đạo đã nâng cao trình độ của người chỉ huy các cấp và khả năng chiến đấu hiệp đồng binh chủng của sư đoàn .

Cùng với các đơn vị trong đội hình quân đoàn, Sư đoàn 312 tích cực nghiên cứu xây dựng các phương án chiến đấu để khi có lệnh là lên đường và chiến đấu được ngay.

Những tháng cuối năm 1974, các đơn vị tham gia đắp đê Hoàng Long (Hà Nam Ninh) phục vụ công trình phân lũ sông Đáy. Cũng như ở chiến trường và thao trường, trên công trường đắp đê Hoàng Long, cán bộ và chiến sĩ sư đoàn đã phát huy tinh thần lao động hăng say, có tổ chức, có kỷ luật, đạt năng suất cao, được chính quyền và nhân dân địa phương khen ngợi.

Trên chiến trường miền Nam những tháng cuối năm 1974, tình hình có nhiều biến chuyển, từ hành quân lấn chiếm quy mô lớn quân ngụy buộc phải lui về phòng ngự, chỉ tổ chức được những cuộc hành quân lùng sục nhỏ lẻ. Trong khi đó, viện trợ của Mỹ cho ngụy quyền Sài Gòn giảm sút. So sánh lực lượng trên chiến trường ngày càng có lợi cho ta.

Tháng 10 năm 1974 và tiếp đó trong tháng 12 và tháng 1 năm 1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có nhiều phiên họp, phân tích tình hình, ra những quyết nghị quan trọng. Bộ Chính trị nhận định: diễn biến cơ bản của tình hình trong gần hai năm qua rõ ràng là ta đang ở thế thắng, thế đi lên, thế chủ động và thuận lợi; địch đang ở thế thua, thế đi xuống, thế bị động và khó khăn, chiều hướng này không thể đào ngược lại được... khả năng đế quốc Mỹ trực tiếp can thiệp hiện nay đang gặp nhiều khó khăn".

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình, Bộ Chính trị hạ quyết tâm: "Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên chiến trường miền Nam tiến tới tổng công kích - tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và làm tan rã ngụy quân đánh đổ ngụy quyền từ Trung ương đến địa phương giành chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước"

Bộ Chính trị nhấn mạnh: "Ngoài kế hoạch chiến lược cơ bản hai năm 1975-1976, cần phải có kế hoạch lợi dụng thời cơ. Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975".

Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị Quân ủy Trung ương xác định nhiệm vụ quân sự năm 1975 và chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu.

Ngày 4 tháng 3 năm 1975, bộ đội ta nổ súng mở màn chiến dịch Tây Nguyên. Sau một số trận đánh tạo thế và nghi binh chiến dịch, ngày 10 và 11 tháng 3, quân ta tiến công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là trận then chốt quyết định của chiến dịch, một trận điểm đúng huyệt, tiêu diệt và làm tan rã nhiều sinh lực địch, giải phóng hoàn toàn tỉnh Đắk Lắk tiếp đó là toàn bộ Tây Nguyên mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.

Những thắng lợi lớn và liên tiếp trên chiến trường làm nức lòng quân dân cả nước. Miền Bắc bừng bừng khí thế ra trận "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng". Trong những ngày sôi động này, nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội đã đến kiểm tra công tác huấn luyện của Quân đoàn 1 và động viên cán bộ, chiên sĩ quân đoàn chuẩn bị tốt về mọi mặt, sẵn sàng cơ động chiến đấu khi có lệnh.

Ngày 16 tháng 3 năm 1975, Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 lệnh cho các đơn vị chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Đảng ủy quân đoàn họp thống nhất phương án sử dụng lực lượng: Sư đoàn 320B và các đơn vị binh chủng ky thuật hành quân tập kết ở nam Quảng Bình và bắc Quảng Trị. Sư đoàn 312 sẵn sàng cơ động tiếp theo. Sư đoàn 308 bảo vệ miền Bắc và làm lực lượng dự bị chiến lược.

Chấp hành mệnh lệnh của Quân đoàn, Đảng ủy và Chỉ huy Sư đoàn 312 tập trung chỉ đạo các đơn vị chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu và khẩn trương tiến hành mọi công tác chuẩn bị. Cán bộ chỉ huy lo kiểm tra, đôn đốc đơn vị làm công tác chuẩn bị, chiến sĩ lo chuẩn bị tư trang, súng đạn. Từ cơ quan sư đoàn đến các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội trung đội và tiểu đội đều tấp nập khí thế chuẩn bị hành quân ra trận.

Để bảo đàm hậu cần cho các đơn vị, chủ nhiệm hậu cần sư đoàn, trung đoàn, các trưởng ban, trợ lý trực tiếp đôn đốc việc cấp phát lương thực, thuốc men, quân trang, quân dụng. Biết tin bộ đội sắp ra mặt trận, nhân dân địa phương nơi sư đoàn đóng quân đến thăm, động viên, giúp đỡ vật chất... Tình cảm thắm thiết của nhân dân tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ lên đường chiến đấu.

Ngày 18 tháng 3, theo mệnh lệnh của Bộ, Quân đoàn 1 di chuyển phần lớn lực lượng vào phía nam Quân khu 4. Sáng 19 tháng 3 Sở chỉ huy phía trước của Sư đoàn 320B và trung đoàn 27 hành quân vào nam Quảng Bình và Vĩnh Linh.

Ngày 21 tháng 3 năm l975 quân ta mở chiến dịch tiến công Huế - Đà Nẵng. Từ 21 đến 26 tháng 3, ta tiến công chia cắt Huế - Đà Nẵng. Sau 4 ngày chiến đấu ta giải phóng Thừa Thiên - Huế, tiếp đó giải phóng tỉnh Quảng Ngãi (25-3). Ngày 25 tháng 3 Bộ Chính trị nhận định: "Thời cơ chiến lược lớn đã tới, cần nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào phương hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho định không dự kiến kịp và không kịp trở tay hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam càng sớm càng tốt". Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam trước mùa mưa (tháng 5 năm 1975 )

Cùng ngày 25 tháng 3 Bộ Tổng tham mưu ra lệnh cho Quân đoàn 1 (trừ Sư đoan 308 ở lại bảo vệ miền Bắc) hành quân gấp vào tham gia chiến dịch giải phóng Đà Nẵng.

Từ 27 đến 29 ta phát triển tiến công giải phóng Đà Nẵng.

Ngày 29 tháng 3, Bộ tư 1ệnh Quân đoàn 1 giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 312 lên đường chiến đấu. Nhiệm vụ trước mắt là hành quân cấp tốc vào tập kết ở phía tây Đà Nẵng. Sư đoàn vừa nhận lệnh hành quân thì chiều ngày 29 tháng 3 thành phố Đà Nẵng được giải phóng.

Ngày 31 tháng 3 Bộ Chính trị nhận định: thời cơ chiến lược để tiến hành tổng tiến công và nổi dậy vào sào huyệt của địch đã chín muồi. Bộ Chính trị quyết định: mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4 không thể để chậm. Tư tưởng chỉ đạo của Bộ Chính trị là "Thần tốc táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".

Để động viên lực lượng cả nước quyết giành thắng lợi nhanh chóng và hoàn toàn cho chiến dịch (Bộ Chính trị chỉ rõ nhiệm vụ của quân đội ta là gấp rút tăng thêm lực lượng vào bao vây, cô lập Sài Gòn.

Ngày 1 tháng 4 năm 1975, Quân đoàn 1 (thiếu Sư đoàn 308) được lệnh hành quân gấp rút vào Đồng Xoài (Đông Nam Bộ) cùng các đơn vị bạn, tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn - Gia Định.

Sáng ngày 2 tháng 4, Sư đoàn 312 bắt đầu hành quân cơ giới ra mặt trận. Từ Kim Tân ra phố Cát và trên đường qua hai huyện Thạch Thành, Hà Trung (Thanh Hóa) hàng trăm xe ô tô của Tổng cục hậu cần và của sư đoàn chở cán bộ, chiến sĩ sư đoàn hướng ra đường số 1 Các đại biểu thay mặt đảng bộ và chính quyền địa phương cùng đông đảo nhân dân tập trung hai bên đường đưa tiễn sư đoàn lên đường chiến đấu. Đoàn xe tiến qua Dốc Giang, Tam Điệp ra đường số 1. Gần 200 năm trước vào những ngày đầu xuân 1789, Tam Điệp là nơi đại quân Nguyễn Huệ tập kết trước khi tiến ra Thăng Long, đại phá quân Thanh. Tam Điệp những ngày đầu tháng 4 năm 1975, là nơi đứng chân của Sư đoàn 312 trong đội ngữ trùng điệp của quân đoàn, của cả nước tiến nhanh về phía nam, giải phóng Sài Gòn và miền Nam thống nhất đất nước.

Ra đường số 1, tốc độ hành quân của sư đoàn tăng nhanh. Kể từ ngày thành lập, trải qua nhiều chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đây là cuộc hành quân thần tốc nhất của sư đoàn. Để tranh thủ thời gian, Sư đoàn tổ chức hành quân theo từng cung, chặng. Khi có lệnh dừng. từng tiểu đội tranh thủ ôn luyện các khoa mục bắn súng B40, B41 và trung liên cho các chiến sĩ mới. Do gần một nửa chiến sĩ mới bổ sung chưa được huấn luyện cơ bản, Bộ tư lệnh sư đoàn chủ trương bồi dưỡng một số kiến thức cơ bản về quân sự cho bộ đội ngay trên đường hành quân. Khẩu hiệu: "Thùng xe là giảng đường, thao trường là mâm pháo được thực hiện ở tất cả các đơn vị.

Ngày 5 tháng 4 năm 1975, sư đoàn vào tới trạm điều chỉnh giao thông của Bộ ở Đông Hà Quảng Trị). Tại đây sư đoàn nhận lệnh tiếp tục hành quân cơ giới theo đường Tây Trường Sơn vào miền Đông Nam Bộ. Từ Đông Hà đội hình hành quân rẽ sang đường số 9 vượt qua Lao Bảo để theo đường Tây Trường Sơn tiến về phía nam. Lúc này, địch tập trung sự chú ý vào đường số 1 và đường biển. Ta chọn đường Tây Trường Sơn tuy là đường rừng, nhiều ngầm, nhiều dốc, khó đi, nhưng sư đoàn và một số đơn vị bạn có thể cơ động lực lượng lớn mà không bị ùn tắc, giữ được bí mật, vào vị trí tập kết nhanh và an toàn.

Thời gian dừng chân ở Đông Hà chỉ nửa ngày. Các trung đoàn, tiểu đoàn khẩn trương nhận bổ sung súng đạn, lương thực, thực phẩm. Cán bộ chỉ huy nhận xe, sắp xếp các đơn vị chuyển từ xe của Tổng cục Hậu cần sang xe Đoàn 559 để tiếp tục hành quân. Nhiệm vụ của sư đoàn là tổ chức các đơn vị hành quân vào miền Đông Nam Bộ đúng thời gian, đủ quân số, gọn đội hình và đến nơi bước vào chiến đấu được ngay. Từ Thanh Hóa vào Đông Hà hành quân theo đường số 1, sư đoàn chia thành 4 khối, mỗi khối xuất phát cách nhau vài ki-lô-mét. Từ Đông Hà vào miền Đông hành quân theo đường Tây Trường Sơn, đường khó đi. Để bảo đảm tốc độ hành quân, Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định:

1- Toàn sư đoàn cùng xuất phát, các khối bám nhau, mỗi khối có một cán bộ sư đoàn trực tiếp chỉ huy.

2- Giáo dục bộ đội giữ nghiêm kỷ luật trong hành quân cơ giới. Cán bộ ngồi trên xe có trách nhiệm quản lý đơn vị mình về mọi mặt; đồng thời phải đoàn kết tốt với lái xe để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ.

3- Tốc độ hành quân từ 100 đến 150 ki-lô-mét một ngày. Riêng trung đoàn pháo hành quân từ 80 đến 100 ki-lô~mét một ngày. Bộ tư lệnh sẽ trực tiếp quy định vị trí tạm dừng của từng ngày.

4- Cán bộ cấp phó từ sư đoàn trở xuống chịu trách nhiệm chỉ huy hành quân. Cán bộ cấp trưởng đi cùng xe với tư lệnh và chính ủy sư đoàn, chuẩn bị trinh sát, nắm địch, làm kế hoạch chiến đấu, kế hoạch hiệp đồng.

Từ Thanh Hóa vào Đông Hà sư đoàn hành quân theo các cung trạm đã được bố trí trước, nên tuy đường dễ đi tốc độ chỉ đạt 100 đến 120 ki-lô-mét một ngày. Từ Đông Hà trở đi, sư đoàn bố trí lực lượng hậu cần bảo đảm đi cùng với các khối hành quân cơ giới; bố trí các tổ sửa chữa kỹ thuật, trạm quân y xen kẽ trong độihình, nên tốc độ hành quân nhanh hơn.

Trong những ngày sư đoàn đang hành quân, tình hình chiến trường phát triển rất mau lẹ. Sau khi đập tan ý đồ co cụm của địch ở Đà Nẵng, các binh đoàn chủ lực của ta kết hợp giữa tiến công quân sự với nổi dậy của quần chúng giải phóng Nam Trung Bộ, đồng thời cơ động lực lượng., lập thế trận bao vây tiến công Sài Gòn.

Để bảo đảm cho sư đoàn hành quân nhanh, đến nơi có thể bước vào chiến đấu được ngay, Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định tổ chức các bộ phận đi trước làm nhiệm vụ chuẩn bị chiến trường gồm các đồng chí chỉ huy trưởng, tham mưu trưởng và cơ quan tác chiến của các đơn vị. Các đồng chí chỉ huy phó, chính ủy các đơn vị chỉ huy đơn vị ìanh quân.. Mỗi trung đoàn hành quân thành một khối. Các đơn vị hỏa lực của sư đoàn đi cùng với các khối tạo thành lực lượng binh chủng hợp thành ngay trên đường hành quân, khi có tình huống và nhận được lệnh, các đơn vị có khả năng chiến đấu được ngay.

Đảng ủy và chỉ huy trung đoàn đặc biệt quan tâm giúp đỡ động viên các chiến sĩ lái xe. Đoàn 559 đã bố trí mỗi xe hai người lái để thay phiên nhau. Các chiến sĩ bộ binh nhiệt tình giúp đỡ lái xe mỗi khi xe hỏng hóc, khắc phục chướng ngại trên đường và lau chùi bảo quản xe lúc nghỉ ngơi. Với tinh thần " thần tốc và quyết thắng" tốc độ hành quân đã tăng từ 120 lên 150 ki-lô-mét một ngày.

Cuộc hành quân trên đường Trường Sơn không theo các cung chặng bố trí trước. Gặp nơi có khe nước hoặc bãi rộng, các đơn vị tạm dừng để nghỉ ngơi, ăn uống và bổ sung xăng dầu, sau đó lại tiếp tục lên đường. Ngồi trên xe liên tục cả ngày và đêm là sự thử thách rất lớn đối với các chiến sĩ bộ binh. Xe đi nhanh, qua nhiều ghềnh, dốc, đường xóc và bụi, ngủ nghỉ thất thường... Nhưng cao hơn cả lúc này là tinh thần hướng ra chiến trường, tranh thủ từng giờ từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam.

Những trọng điểm trên đường Trường Sơn năm xưa vẫn còn nguyên những hố bom, đạn địch đánh pháo. Đoàn xe đi giữa ban ngày, bụi đường cuộn lên nhuộm đỏ cả tóc quần áo và xe pháo.

Chiều 10 tháng 4 năm 1975, khi đoàn xe của sư đoàn tạm dừng bên một dòng suối dưới chân đèo ăm-pun thì nhận được mệnh lệnh hành quân của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Khẩu hiệu "Thần tốc" được viết lên vách đá thân cây rừng, viết lên mặt đường, lên thùng xe và bệ pháo. . .

"Thần tốc, thần tốc hơn nữa

Táo bạo, táo bạo hơn nữa

Tranh thủ từng giờ, từng phút

Xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam.

Quyết chiến và toàn thắng".

[/i]

Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn kịp thời phổ biến mệnh lệnh của Đại tướng đến toàn thể cán bộ và chiến sĩ Các cấp ủy chi bộ và thủ trưởng đơn vị bàn biện pháp lãnh đạo, tổ chức bộ đội thực hiện.

Cuộc hành quân ra mặt trận sôi nổi hào hứng như trong ngày hội. Xe nào hỏng thì dạt vào bên đường sửa chữa, nhường đường cho xe sau vượt lên. Tốc độ hành quân tiếp tục tăng từ 150 lên 200, có ngày lên tới 250 ki-lô-mét. Xe tăng, xe kéo pháo cũng tăng nhanh tốc độ hành quân.

Ngày 12 tháng 4 năm 1975, sư đoàn vượt qua ngã ba Đông Dương, theo đường 14A qua Tân Cảnh, PLâyCu, Buôn Hồ, Buôn Ma Thuột.

Ngày 13 tháng 4, sư đoàn dừng chân ở Đức Lập để tiếp nhận xăng dầu cho chặng đường hành quân cuối cùng. Ngày 15 tháng 4, các trung đoàn 141, 165, 209 và các tiểu đoàn trực thuộc đi đầu đội hình vào tập kết ở Đồng Xoài. Ngày hôm sau (16 tháng 4}, toàn sư đoàn đến vị trí tập kết đầy đủ, đúng thời gian, bí mật, an toàn. Cuộc hành quân đường dài (1.700 ki lô-mét) trong 14 ngày đêm với 98, 4 phần trăm quân số đến đích là một chiến công xuất sắc trong lịch sử xây dựng và chiến đấu của sư đoàn.

Sau thất bại ở Phan Rang, Xuân Lộc, kế hoạch phòng thủ từ xa của địch bị phá sản. Tổng thống Mỹ hạ lệnh di tản người Mỹ khỏi Sài Gòn. Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu từ chức tổng thống ngụy quyền, Trần Văn Hương lên thay và chỉ sau một tuần lại bàn giao cho Dương Văn Minh. Trong thế tuyệt vọng, Mỹ - ngụy vẫn cố thu thập tàn quán với âm mưu giữ Sài Gòn và đồng bằng Nam Bộ qua mùa mưa ngăn chặn cuộc tiến công của ta.

Trung tuần tháng 4 năm 1975, các cánh quân lớn của ta trên năm hướng đã áp sát Sài Gòn.

Ngày 16 tháng 4 năm 1975 tại rừng cao su Đồng Xoài, Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 giao nhiệm vụ cho các đơn vị. Sư đoàn 312 được tăng cường một đại đội xe tăng (8 chiếc T59), một đại đội xe bọc thép (5 chiếc), một trung đội súng phun lửa, một trung đoàn pháo cao xạ (57 và 37 ly), hai tiểu đoàn và một đại đội bộ đội địa phương Thủ Dầu Một, 6 trung đội du kích huyện Châu Thành. Trong quá trình chiến đấu được tăng cường hai tiểu đoàn pháo binh (pháo 130 và Đ74) của quân đoàn. Nhiệm vụ của sư đoàn là:

1 Tiến công tiêu diệt căn cứ Phú Lợi, ngăn chặn không cho sư đoàn 5 địch co cụm về Sài Gòn, tiến tới tiêu diệt sư đoàn 5 địch ở Lai Khê - Bến cát, đường số 13, 14, 15.

2. Phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân địa phương tiến công và nổi dậy giải phóng thị xã Bình Dương.

3. Làm lực lượng dự bị của quân đoàn trên hướng bắc Sài Gòn.

Để thực hiện các nhiệm vụ trên, sư đoàn và tỉnh Thủ Dầu Một thành lập Bộ chỉ huy thống nhất. Sư đoàn trưởng Nguyễn Chuông làm Chỉ huy trưởng và đồng chí Sáu Phát, Bí thư tỉnh ủy Thủ Dầu Một làm Chính ủy. Bộ chỉ huy thống nhất có nhiệm vụ lãnh đạo và chỉ huy hiệp đồng chiến đấu giữa sư đoàn và lực lượng quân sự địa phương, phối hợp nhịp nhàng giữa tiến công và nổi dậy.

Trên hướng bắc Sài Gòn, lực lượng phòng thủ chủ yếu của địch là sư đoàn bộ binh 5 ngụy, ngoài ra còn có chi đoàn xe bọc thép số 1, một số đơn vị biệt động và lực lượng địa phương. Chúng ra sức xây dựng tuyến phòng thủ trên các trục đường 13, 14, 15, từ cầu Bình Triệu, Cầu Đen đến Lái Thiêu, Tân Uyên, Phú Lợi, Bình Dương.. . Trên đường 13 đoạn từ Lai Khê đến Bến Cát địch bố trí các trận địa pháo tự hành và xe tăng.. . lập lá chắn bảo vệ sở chỉ huy sư đoàn 5 ngụy, sẵn sàng cơ động ứng phó hoặc co cụm về Sài Gòn.

Trong hệ thống các cứ điểm trên, Phú Lợi là căn cứ vững chắc nhất. Mấy năm trước Phú Lợi là căn cứ quân sự của sư đoàn bộ binh số 1 Mỹ, được giao lại cho sư đoàn 5 ngụy (4-1970). Căn cứ Phú Lợi chia làm 7 khu vực, xung quanh có vật chướng ngại nhiều tầng, nhiều lớp với các bãi mìn, hào chống tăng, chống bộ binh và hàng chục lớp rào dây thép gai.

Bộ tư lệnh sư đoàn hạ quyết tâm: sử dụng lực lượng binh chủng hợp thành vượt đường 16, thọc sâu vào bao vây căn cứ Phú Lợi, cắt đường co cụm của sư đoàn 5 ngụy. Cùng lúc tiến công Phú Lợi, sư đoàn sử dụng một bộ phận lực lượng chốt chặn trên đường 13. Sau đó, lực lượng này cùng với lực lượng dự bị của sư đoàn phát triển tiến công chiếm Lai Khê - Bến Cát, phối hợp với hướng Phú Lợi, giải phóng thị xã Bình Dương, tiêu diệt từng bộ phận tiến tới tiêu diệt lớn, làm tan rã sư đoàn 5 ngụy.

Ngày 26 tháng 4 năm 1975 Bộ tư lệnh sư đoàn giao nhiệm vụ cho các đơn vị:

Trung đoàn 165 do trung đoàn trưởng Trần Măng chỉ huy được tăng cường một đại đội xe tăng và một đại đội xe bọc thép, tiểu đoàn 2 (trung đoàn 141), tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 bộ đội địa phương Thủ Dầu Một, có hai trung đội du kích dẫn đường có nhiệm vụ bao vây và tiến công cụm căn cứ Phú Lợi, sau đó phát triển theo đường 13, phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân đìa phương giải phóng tỉnh Bình Dương.

Trung đoàn 209 dưới sự chỉ huy của trung đoàn trưởng Hoàng Đình Kiểm có nhiệm vụ chốt chặn địch trên đường 13, 14, sau đó phối hợp với các lực lượng của sư đoàn, phát triển tiến công các căn cứ Lai Khê, Bến Cát, tiêu diệt sở chỉ huy và lực lượng còn lại của sư đoàn 5 ngụy.

Trung đoàn 141 (trừ tiểu đoàn 2 phối hợp với trung đoàn 165) được tăng cường một đại đội xe bọc thép làm lực lượng dự bị của sư đoàn. Trước mắt, trung đoàn phối hợp với pháo binh và tiểu đoàn 2 bộ đội địa phương Thủ Dầu Một tiến công căn cứ điểm Bình cơ - Bình Mỹ, mở thông đường 16 đưa lực lượng sư đoàn vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công trên cánh bắc Sài Gòn, mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm bộ tổng tham mưu ngụy. Cùng ngày 26 tháng 4, Đảng ủy sư đoàn họp thông qua quyết tâm chiến đấu. Để lãnh đạo sư đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu trong chiến dịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy sư đoàn xác định: nhiệm vụ tác chiến cụ thể của từng đơn vị nằm trong kế hoạch tác chiến của sư đoàn, quân đoàn, có quan hệ mật thiết đến việc thực hiện nhiệm vụ trọng đại của toàn chiến dịch. Các cấp ủy Đảng, chi bộ và các đơn vị bộ binh cũng như binh chủng, bộ đội chủ lực cũng như bộ đội địa phương phải quán triệt đầy đủ các yêu cầu:

1 Tranh thủ thời cơ, mạnh dạn, táo bạo thọc sâu "đánh tiêu diệt quân địch.

2. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng, các lực lượng, tiến công kiên quyết, liên tục, tiêu diệt gọn từng tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch trên địa bàn tác chiến và sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.

3. Phối hợp chặt chẽ giữa tiến công và nổi dậy của quần chúng. Khắc phục mọi khó khăn, kiên quyết hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Đồng chí Nguyễn Thế Bôn, Phó tư lệnh Quân đoàn duyệt quyết tâm và phương án tác chiến, giao nhiệm vụ trước mắt cho sư đoàn đánh chiếm căn cứ Bình Cơ -Bình Mỹ, mở thông tuyến đường 16 bảo đảm cho đội hình lớn của quân đoàn hành quân vào chiếm lĩnh, triển khai thế trận chiến dịch trong đêm 27 tháng 4 năm 1975. Trận tiến công cứ điểm Bình Cơ - Bình Mỹ do tiểu đoàn 3 (trung đoàn 141) và tiểu đoàn 2 Phú Lợi thực hiện dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh sư đoàn. Mọi công tác chuẩn bị cho trận đánh được tiến hành khẩn trương. 16 giờ 30 phút ngày 27 tháng 4 năm 1975, tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 2 chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công, cách địch 150 mét. Một đơn vị pháo cối thuộc trung đoàn 186 cũng chiếm lĩnh xong trận địa, sẵn sàng chi viện hỏa lực khi có lệnh .

16 giờ 45 phút ngày 27 tháng 4, pháo ta bắn mạnh vào căn cứ Bình Cơ - Bình Mỹ. Được hỏa lực pháo binh chi viện tiểu đoàn 2 Phú Lợi nhanh chóng thọc sâu vào căn cứ địch. Đại đội 9 (tiểu đoàn 3) do đại đội trưởng Hoàng Long Biên chỉ huy vượt qua bãi trống đánh thẳng vào cứ điểm. Tiểu đoàn bảo an 306 khét tiếng ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân vùng chiến khu Đ bị đánh tan. Đường 16 được mở thông. Các lực lượng cánh bắc Sài Gòn tiến vào các vị trí xuất phát tiến công, cùng với các cánh quân lớn trên các hướng áp sát Sài Gòn. Để thực hiện nhiệm vụ tác chiến của Bộ tư lệnh quân đoàn giao: "Chặn đánh không cho sư đoàn 5 ngụy co cụm về Sài Gòn, tiến tới tiêu diệt toàn bộ quân địch trên địa bàn Thủ Dầu Một", Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn quyết định:

1 Trong đêm 28 tháng 4, trung đoàn 209 vượt đường 14, một bộ phận vượt đường 13, lập trận địa chốt chặn, sẵn sàng tiêu diệt sư đoàn 5 ngụy nếu chúng co cụm về sài Gòn.

2. Hai tiểu đoàn bộ đội địa phương Thủ Dầu Một phối hợp với một bộ phận lực lượng Sư đoàn 312 hình thành thế bao vây ở nam ấp Phú Cường, chặn đường địch rút theo ven sông Sài Gòn.

3. Trung đoàn 141 làm lực lượng dự bị của sư đoàn trong đêm 29 vào tập kết ở bắc cầu Thê ụt sẵn sàng cơ động đánh địch trên cả ba hướng: Phú Lợi, thị xã Thủ Dầu Một và đường số 13, 14.

4. Pháo tầm xa khẩn trương chiếm lĩnh trận địa và sẵn sàng nổ súng từ đêm 29 để chi viện bộ binh tiêu diệt địch.

5. Chuyển thuốc nổ và đạn B40 ở phía sau lên trong đêm 28 tháng 4, đồng thời hoàn thành việc bố trí Sở chỉ huy, trạm phẫu thuật và thông tin liên lạc chuẩn bị cho trận đánh.

Đồng chí Phó chính ủy và Phó tư lệnh sư đoàn trực tiếp đôn đốc, giúp đỡ trung đoàn 209 xây dựng trận địa chốt chặn đánh địch trên đường 13, 14.

Sau khi đập tan tuần phòng thủ của địch trên đường 16, ngày 28 tháng 4 năm 1975 lực lượng Quân đoàn 1 chuyển xuống nam sông Bé. Sư đoàn 312 tiến vào bao vây căn cứ Phú Lợi. Trên tất cả các hướng, các mũi bộ binh, xe tăng và pháo binh khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh tiêu diệt sư đoàn 5 ngụy. Đêm 29 rạng sáng 30 tháng 4, sư đoàn tiến công căn cứ Phú Lợi. Trên hướng đột phá chủ yếu trận đánh diễn ra thuận lợi. Bộ binh và xe tăng ta được pháo binh chi viện kịp thời, chính xác đã phát triển tiến công mãnh liệt, đè bẹp sự phản kháng của địch. 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4, bộ đội ta làm chủ căn cứ Phú Lợi. Phát huy thắng lợi, các đơn vị phát triển tiến công, giải phóng thị xã Bình Dương, bắt toàn bộ ngụy quyền, trong đó có đại tá Nguyễn Văn Của, tỉnh trưởng Bình Dương.

Cùng thời gian đó, trung đoàn 141 vượt qua Trảng Bàng phối hợp với trung đoàn 209 phát triển tiến công trên hướng Lai Khê - Bến Cát.

Trên đường 13 và 14 ngày 28 tháng 4 các lực lượng của sư đoàn đã đánh chiếm căn cứ An Lợi, cắt đoạn đường từ Ấp Xoài; đến Mỹ Thanh. Do đại đội 1, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 209) chốt chặn cách xa đường, nên đêm 28, sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn 5 ngụy vượt qua đường 13 chạy về Bình Dương. Sư đoàn phó Hoàng Lê trực tiếp chỉ huy trung đoàn 209 đưa lực lượng lên đường 13, dựa vào các chốt cũ của địch tổ chức thành trận địa, chốt chặn của ta. Khi Phú Lợi bị tiến công, chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ - sư đoàn trưởng sư đoàn 5 ngụy lệnh cho trung đoàn 9 cơ động lên cứu viện nhưng không thực hiện được vì đường 13 và 14 đã bị ta cắt. Xe pháo của địch ùn tắc dày đặc trên mặt đường.

Mất đường 13 và 14, sư đoàn 5 ngụy bị bao vây, không còn đường co cụm hoặc tháo chạy về Sài Gòn. Trước nguy cơ bị tiêu diệt và tan rã, chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh thứ 19 của sư đoàn 5 ngụy đã tự sát tại căn cứ Lai Khê.

10 giờ ngày 30 tháng 4, quân ta hoàn toàn làm chủ đường số 13 và 14. Sư đoàn 5 ngụy bị tiêu diệt, bị bắt và tan rã. Phát triển tiến công trung đoàn 209 và trung đoàn 141 đánh chiếm căn cứ Lai Khê - Bến Cát. Lá cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của Sư đoàn 312 tung bay trên căn cứ sư đoàn 5 ngụy ở Lai Khê. Sư đoàn 312 đã góp phần xứng đáng vào chiến công đột phá của Quân đoàn 1 trên hướng bắc Sài Gòn.

Cùng với trận tiến công của Sư đoàn 312, trên tất cả các hướng, các binh đoàn chủ lực của ta tiến nhanh vào Sài Gòn. Cán bộ và chiến sĩ muôn người như một, quyết tâm đập tan mọi sự kháng cự của địch. Sáng ngày 30 tháng 4, quân ta mở đợt tiến công cuối cùng. Trung đoàn 66 bộ binh Sư đoàn 304 và lữ đoàn 203 xe tăng Quân đoàn 2) là những đơn vị đầu tiên tiến vào dinh Độc Lập. Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh và toàn bộ nội các chỉnh quyền Sài Gòn đã đầu hàng. Cờ Tổ quốc tung bay trước tòa nhà chính của dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30 phút.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc thắng lợi. Quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn đội quân ngụy gồm hơn một triệu tên, đập tan bộ máy ngụy quyền, xóa bỏ ách thống trị thực dân mới của Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Trong đội hình Quân đoàn 1, Sư đoàn 312 đã thực hiện thắng lợi cuộc hành quân thần tốc từ Thanh Hóa vào Đồng Xoài trong 14 ngày đêm, kịp thời tham gia trận quyết chiến chiến lược giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam.

Trong tác chiến, sư đoàn đã thực hiện tiến công bằng sức mạnh binh chủng hợp thành, đập tan lực lượng quan trọng và chủ yếu của địch trên tuyến "tử thủ' bắc Sài Gòn; tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ sư đoàn 5 ngụy, . diệt 279 tên, bắt 7.740 tên, gọi hàng 3.500 tên (có 40 sĩ quan ngụy), thu 327 xe các loại.... giải phóng thị xã và toàn tỉnh Bình Dương, góp phần vào chiến thắng chung của chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Ngày 1 tháng 5 năm 1975 cùng với các đơn vị thuộc các cánh quân chủ lực tiến vào giải phóng Sài Gòn, Sư đoàn 312 được giao nhiệm vụ quân quản thành phố và tiếp quản các cơ sở quân sự của địch. Sư đoàn đã làm tốt công tác quản lý bộ dội, nâng cao ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần cảnh giác cách mạng, hoàn thành nhiệm vụ tiếp quản. Đồng thời cùng với cán bộ đảng và nhân dân truy quét tàn binh địch, thu hồi, quản lý trang bị vũ khí địch tham gia xây dựng chính quyển cách mạng và lực lượng vũ trang từ cơ sở, góp phần đưa sản xuất và đời sống của nhân dân nhanh chóng ổn định. Cán bộ và chiến sĩ sư đoàn đã làm tốt chức năng đội quân công tác, tô thắm thêm truyền thống tốt đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ".

Ngày 15 tháng 5 năm 1975 tại Sài Gòn, quân và dân ta tổ chức mít tinh, mừng chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Trong ngày vui đại thắng, cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn 312 đội ngũ chỉnh tề cùng các quân chủng, binh chủng toàn quân và các đoàn đại biểu của nhiều tầng lớp nhân dân Sài Gòn rầm rộ tiến qua lễ đài giữa tiếng hoan hô chào đón của hàng vạn nhân dân. Đây là cuộc duyệt binh và diễu hành lịch sử của quân đội ta, của các lực lượng vũ trang địa phương, các đoàn thể và tầng lớp nhân dân Sài Gòn giữa thành phố mang tên Bác Hồ kính yêu.

Tổ quốc đã thống nhất. Từ đây, trong đội hình Quân đoàn 1, Sư đoàn 312 cùng với toàn quân bước vào một thời kỳ mới: Thời kỳ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. .chương 8

SƯ ĐOÀN 312 TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU CỦA THỜI KỲ

XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC

(1975 - 1995)

1. Tiếp tục xây dựng sư đoàn chính quy hiện đại sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Non sông thu về một mối.Tổ quốc độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới.

Trong lễ mừng chiến thắng được tổ chức trọng thể ngày 15 tháng 5 năm 1975 tại thành phố Hồ Chí Minh, các chiến sĩ Sư đoàn 312 vô cùng phấn khởi tự hào trong đội ngũ của đoàn quân chiến thắng tiến qua lễ đài. Chặng đường 25 năm chiến đấu và chiến thắng vẻ vang với bao thử thách hy sinh và những chiến công oanh liệt, là niềm tin và sức mạnh cổ vũ cán bộ, chiến sĩ sư đoàn bước vào thời kỳ lịch sử mới.

Sau lễ duyệt binh mừng chiến thắng, ngày 20 tháng 5năm 1975 sư đoàn nhận lệnh hành quân ra Bắc. Cuộc hành quân theo quốc lộ la qua nhiều thị xã - thành phố vừa được giải phóng. Việc bảo đảm an toàn giao thông, chấp hành nghiêm chính sách vùng mới giải phóng được Đảng ủy sư đoàn và chỉ huy các đơn vị xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình hành quân.

Để quản lý phương tiện và bộ đội chặt chẽ, sư đoàn tổ chức hành quân gọn theo đội hình tiểu đoàn, trung đoàn. Pháo và khí tài nặng được chuyên chở bằng đường biển và một phần bằng đường sắt. Thời gian xuất phát và dừng lại ở các trạm nghỉ trên đường theo sự điều hành chung của toàn quân đoàn . Tuy là cuộc hành quân ra nhưng các đơn vị vẫn tổ chức chặt chẽ chu đáo không kém cuộc hành quân vào chiến đấu. Nhờ kinh nghiệm của cuộc hành quân thần tốc trên đường Trường Sơn vào chiến dịch những ngày tháng 4, với tác phong khẩn trương, chỉ huy chặt chẽ và chu đáo, đội hình hành quân gồm hơn 500 xe đã bảo đảm an toàn, đúng cung chặng và thời gian quy định. Đầu tháng 6 năm 1975 toàn sư đoàn về đứng chân ở địa bàn Hà Trung (Thanh Hóa) .

Vừa đến vị trí đóng quân, cán bộ chiến sĩ sư đoàn bắt tay ngay vào xây dựng củng cố doanh trại. Nhà ở của bộ đội những năm đó còn là nhà tạm bằng tre nứa lợp tranh nên rất chóng bị hư hỏng, dột nát. Trời tháng 6 nắng như đổ lửa. Sau chiến dịch và sau cuộc hành quân đường dài, nhiều cán bộ, chiến sĩ còn mệt mỏi. Nhưng trước yêu cầu ổn định nơi ăn ở để nhanh chóng bước vào huấn luyện, các đơn vị đều tranh thủ lên rừng chặt tre nứa, cắt tranh làm nhà, vừa củng cố doanh trại vừa tăng gia cải thiện đời sống. Nhìn những bữa cơm rau muối, những gian nhà ở còn thiếu giường nằm của bộ đội, nhân dân địa phương càng cảm phục sự hy sinh của những người lính Cụ Hồ. Cảm thông với những khó khăn của sư đoàn, nhiều gia đình cho mượn nhà, giường phản nhằm tạo điều kiện cho cán bộ chiến sĩ sư đoàn có nơi ăn chốn ở đỡ phần vất vả trong những ngày củng cố doanh trại. Khi bước vào chiến dịch chiến đấu, lãnh đạo chỉ huy sư đoàn tập trung vào nhiệm vụ lớn nhất là đánh thắng thì giờ đây những yêu cầu để bảo đảm đời sống bộ đội lại được đặt ra trước tiên. Trong phiên họp đầu tiên ở Kim Tân để tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ trong chiến dịch Hồ Chí Minh và bàn biện pháp lãnh đạo sư đoàn trong giai đoạn cách mạng mới. Đảng ủy sư đoàn đã phân tích tình hình, đề ra phương hướng xây dựng sư đoàn chính quy, hiện đại, tác chiến hiệp đồng binh chủng với sức chiến đấu cao, sức đột kích mạnh, sức cơ động lớn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng luôn luôn sẵn sàng chiến đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ vững chắc nhà nước chuyên chính vô sản và lợi ích của nhân dân. Đồng thời ra sức xây dựng sư đoàn trở thành. đơn vị làm kinh tế giỏi lao động có kỷ luật. có tổ chức và năng suất cao, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thông qua việc thực hiện hai nhiệm vụ trên mà bồi dưỡng cho cán bộ, chiến sĩ thành những con người mới xã hội chủ nghĩa".

Nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu được xác định là trung tâm hàng đầu. Nhiệm vụ lao động xây dựng doanh trại và làm kinh tế rất quan trọng. Trước mắt cần tập trung củng cố doanh trại, ổn định đời sống bộ đội để sau hai tháng bắt tay vào huấn luyện.

Song song với nhiệm vụ lao động, củng cố doanh trại, chuẩn bị huấn luyện, căn cứ vào chủ trương của trên, sư đoàn thành lập những đoàn cán bộ tham gia giải quyết chính sách thương binh tử sĩ, công tác hậu phương quân đội. Thấu hiểu nỗi đau mất mát, đáp ứng nguyện vọng tha thiết của gia đình người thân đồng đội, hơn 60 cán bộ chiến sĩ của sư đoàn do trưởng ban chính sách phụ trách lặn lội trở lại Trường Sơn, Cánh Đồng Chum. Quảng Trị, miền Đông Nam Bộ lặng lẽ "đi tìm đồng đội". Công việc này được tiến hành ròng rã hơn 2 năm. Với tinh thần trách nhiệm và tình yêu thương đồng đội vô bờ bến, gần 3.000 mộ liệt sĩ đã được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nghĩa trang các địa phương nơi sư đoàn từng chiến đấu. Những năm sau này tuy không tổ chức thành các đợt tập trung, sư đoàn vẫn thường xuyên cử cán bộ chiến sĩ tiếp tục công việc "đi tìm đồng đội". Việc làm nghĩa tình đó đã để lại những kỷ niệm không phai mờ trong nhiều gia đình thân nhân liệt sĩ của sư đoàn.

Tháng 8 năm 1975, theo chỉ lệnh huấn luyện của Quân đoàn, toàn sư đoàn bước vào mùa huấn luyện đầu tiên trong hòa bình. Ngoài các bài tập kỹ thuật, chiến thuật, trong đợt huấn luyện này sư đoàn dành nhiều thời gian để học đội ngũ duyệt diễu binh, chuẩn bị tham gia duyệt binh lớn mừng ngày Quốc khánh 2 tháng 9. Các đơn vị đều tranh thủ luyện tập để thống nhất điều lệnh đội ngũ, làm cơ sở cho xây dựng chính quy và chuẩn bị tham gia diễu duyệt trong lễ kỷ niệm 25 năm ngày thành lập sư đoàn

Khẩu hiệu hành động "toàn sư đoàn là một thao trường huấn luyện" được các đơn vị sôi nổi thi đua thực hiện. Các chế độ huấn luyện được sư đoàn duy trì chặt chẽ. Trước đây theo yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu và do thời gian gấp, một số nội dung huấn luyện được lược bỏ hoặc huấn luyện "nhảy cóc". Nay tất cả các khoa mục đều phải huấn luyện cơ bản, toàn diện, hệ thống, thống nhất. Yêu cầu đó đối với những cán bộ chiến sĩ vừa trải qua chiến tranh quen vận dụng linh hoạt" không phải dễ dàng. Những biểu hiện tự do tùy tiện trong chấp hành thời gian chấp hành các quy định, những biểu hiện muốn nghỉ ngơi xả hơi cho bõ những năm tháng nằm rừng ngủ bụi, những biểu hiện tự do, công thần địa vị đã xuất hiện trong một số cán bộ chiến sĩ. Hiện tượng đảo ngũ, gây gổ mất đoàn kết vi phạm chính sách dân trận ở các đơn vị tăng lên.

Trước tình hình đó, Đảng ủy và Bộ tư lệnh sư đoàn đã nghiêm túc kiểm điểm, tìm ra nguyên nhân chủ quan, khách quan, chỉ thị biện pháp khắc phục cho các đơn vị kết hợp tốt giữa huấn luyện với tăng gia sản xuất cải thiện đời sống bộ đội, giữa giáo dục tinh hình nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới với phát động phong trào thi đua làm việc tốt nói điều hay, xứng danh là bộ đội Cụ Hồ, tổ chức diễn đàn "thanh niên với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Trong xây dựng chính quy, yêu cầu đối với cán bộ chỉ huy là gương mẫu sâu sát, tỉ mỉ, có phương pháp huấn luyện tốt và tác phong chững chạc. Trước đây do yêu cấu của cuộc chiến đấu ác liệt, nhiều cán bộ lãnh đạo chỉ huy trưởng thành trong chiến đấu, dày dạn chiến trường, có nhiều kinh nghiệm quý, nhưng việc tổ chức huấn luyện chính quy thì còn nhiều bỡ ngỡ. Với 70 phần trăm cán bộ chưa được đào tạo cơ bản, sư đoàn phải có những giải pháp đúng trong quá trình xây dựng huấn luyện đưa sư đoàn tiến lên chính quy hiện đại. Cùng với việc tích cực cử cán bộ đi học ở các trường sĩ quan, các học viện, Sư đoàn và Quân đoàn đã mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ các cấp .

Giữa những ngày toàn sư đoàn bám thao trường thi đua huấn luyện một tin vui làm nức lòng cán bộ chiến sĩ: ngày 12 tháng 9 năm 1975, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký quyết định tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4). Sư đoàn bộ binh 7 gồm ba trung đoàn 141, 165, 209 (Sư đoàn 312) vào chiến đấu ở chiến trường những năm cuộc kháng chiến chống Mỹ diễn ra ác liệt nhất. Tiếp đó ngày 15 tháng 1 năm 1976 Sư đoàn bộ binh 312 được tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đây là niềm vinh dự và tự hào của sư đoàn thôi thúc cán bộ chiến sĩ sư đoàn hăng say luyện tập, viết tiếp trang sử vẻ vang của Đại đoàn Chiến Thắng. Kết thúc mùa huấn luyện năm 1975 Sư đoàn 312 được Bộ tư lệnh quân đoàn đánh giá là một trong những đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Trong dịp kỷ niệm 25 năm ngày thành lập sư đoàn. (27-12-1950 - 27-12-1975) nhiều đại biểu các cơ quan trung ương nhân dân các địa phương nơi sư đoàn đã từng chiến đấu, xây dựng và trưởng thành đã về dự. Thay mặt hơn 9.000 cán bộ chiến sĩ sư đoàn, các đồng chí Nguyễn Chuông - Sư đoàn trưởng và Nguyễn Xuyên - chính uỷ đã ôn lại truyền thống chiến đấu oanh liệt của sư đoàn 25 năm qua, nêu quyết tâm phấn đấu xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, tiến lên chính quy hiện đại thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Cuối tháng 4 năm 1976 Đảng ủy sư đoàn họp quán triệt nghị quyết Bộ Chính trị và nghị quyết của Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ của quân đội trong giai đoạn tới. Căn cứ vào nhiệm vụ của quân đoàn, Đảng ủy xác định sư đoàn có 3 nhiệm vụ:

1. Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc nhà nước chuyên chính vô .sản, bảo vệ công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bất kỳ tình huống nào.

2. Xây dựng sư đoàn trở thành đơn vị chủ lực cơ động, vững mạnh toàn diện theo phương hướng chính quy hiện đại, tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

3. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất góp phấn xây dựng kinh tế, cải thiện nâng cao đời sống bộ đội.

Năm 1976 sư đoàn có nhiều biến động về tổ chức biên chế. Để phù hợp với tình hình đất nước sau chiến tranh 2.776 cán bộ chiến sĩ của sư đoàn được chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ. 1.652 đồng chí đi học các ngành và tăng cường cho cấp huyện. 150 cán bộ chiến sĩ đi học các trường sĩ quan, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật. Theo chủ trương chung. một số đơn vị quân đội chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Các đơn vị thường trực cũng giảm biên chế. Từ sư đoàn chiến đấu đủ quân, tháng 11 năm 1976 sư đoàn chuyển biên chế thành sư đoàn huấn luyện thường xuyên. Tháng 3 năm 1977 tiếp tục giảm biên chế. Trong thời gian này chỉ huy sư đoàn có thay đổi, đồng chí Đỗ Trường Quân được cử làm Chính ủy thay đồng chí Nguyễn Xuyên đi nhận công tác mới. Ban chỉ huy các trung đoàn cũng có một số thay đổi.

Để phù hợp với nhiệm vụ huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu trong giai đoạn mới, tháng 10 năm 1976 sư đoàn được lệnh di chuyển vị trí đóng quân. ở vị trí mới, Sư đoàn tiếp nhận một số doanh trại do đơn vị bạn bàn giao, làm thêm một số nhà tạm đảm bảo yêu cầu ăn ở trước mắt, đồng thời tích cực chuẩn bị vật liệu để xây dựng doanh trại cơ bản.

Mặc dù có những biến động về tổ chức và di chuyển vị trí đóng quân, trong hai năm 1976 - 1977 sư đoàn vẫn hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Chỉ trong một thời gian ngắn, toàn sư đoàn xây dựng được 8 vạn mét vuông nhà ở, đảm bảo cho các đơn vị có doanh trại chính quy. Hàng chục tấn lương thực, thực phẩm do sư đoàn sản xuất thiết thực góp phần cải thiện đời sống bộ đội

Cuối năm 1977 trong đợt kiểm tra các môn kỹ thuật chiến thuật bộ binh do Quân đoàn tổ chức, 75 phần trăm các khoa mục sư đoàn được kiểm tra đạt loại khá và giỏi. Riêng các đơn vị chuyên môn kỹ thuật do thiếu cán bộ. việc huấn luyện khai thác sử dụng một số phương tiện khí tài còn gặp khó khăn lúng túng.

Những tháng cuối năm 1977 đầu năm 1978 tình hình biên giới Tây Nam ngày càng căng thẳng. Tiếp theo nhiều vụ tàn sát đồng bào ta ở dọc biên giới. tập đoàn diệt chủng Pôn Pốt đã phát động chiến tranh xâm lược mở nhiều cuộc tiến công vào sâu trong đất liền của ta. ở biên giới phía Bắc. các hoạt động quân sự của đối phương cũng tăng lên.

Trước tình hình đó, ngày 19 tháng 2 năm 1978 Đảng ủy quân đoàn họp quán triệt nghị quyết của Thường vụ Quân ủy Trung ương về nhiệm vụ và đối tượng tác chiến của các lực lượng vũ trang trong tình hình mới. Để đáp ứng tình hình. nhiệm vụ. một số đơn vị của quân đoàn được lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu.

Đầu tháng 3 năm 1978 sư đoàn nhận nhiệm vụ chuyển thành sư đoàn huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. Tổ chức và lực lượng của sư đoàn được nhanh chóng phát triển để đáp ứng nhiệm vụ.

Cùng với việc tổ chức cho các đơn vị về các tỉnh Nam Hà. Thái Bình, Hải Hưng nhận tân binh, Sư đoàn mở đợt huấn luyện bổ sung nâng cao trình độ chiến đấu ở địa hình biên giới cho 2.500 cán bộ chiến sĩ. Cuối tháng 5 năm 1978 số cán bộ chiến sĩ này được bổ sung cho Quân khu 9 tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam. 100 phần trăm cán bộ chiến sĩ vui vẻ nhận lệnh lên đường. Vào đến chiến trường nhiều đồng chí đã tham gia chiến đấu, lập công xuất sắc ở Kiên Giang Xa Mát. Tân Biên.

Được các địa phương nhiệt tình giúp đỡ, chỉ trong 15 ngày các đơn vị của sư đoàn đã tuyển đủ 5.000 tân binh. Đầu tháng 6 năm 1978, bốn trung đoàn và các đơn vị trực thuộc đều bước vào huấn luyện. Đối tượng tác chiến mới đặt ra cho sư đoàn những yêu cầu huấn luyện mới. Kết hợp kinh nghiệm chiến đấu trong chiến tranh chống Mỹ với giáo trình huấn luyện và một số kinh nghiệm thực tiễn của các đơn vị đã tham gia chiến đấu ở biên giới, Sư đoàn chú trọng rèn luyện bộ đội ở địa hình núi cao, rừng rậm, tác chiến ban đêm. Vừa huấn luyện thực sự thực tế sát với yêu cầu chiến đấu, Sư đoàn vừa tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, giáo dục nhiệm vụ xây dựng quyết tâm chiến đấu khắc phục những biểu hiện mơ hồ mất cảnh giác, giảm sút ý chí trước yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Kết thúc giai đoạn huấn luyện 1 (trung tuần tháng 8 năm 1978) sư đoàn cùng các đơn vị trong quân đoàn tham gia một đợt diễn tập. Cuộc hành quân quy mô lớn với hàng tràm xe pháo, hàng nghìn bộ đội qua nhiều địa hình phức tạp, nhiều vùng đông dân cư trong mọi thời tiết và thời gian gấp đòi hỏi trình độ tổ chức chỉ huy hiệp đồng chặt chẽ giữa các đơn vị ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm của bộ đội. Trong 5 ngày thực hiện nhiệm vụ cơ động, phối hợp chiến đấu với nhiều đơn vị, nhiều địa phương, mặc dù thời tiết mưa bão gây nhiều trở ngại, địa bàn rộng, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn đã hoàn thành tốt các nội dung diễn tập.

Trở về nơi đóng quân, đầu tháng 9 năm 1978, sư đoàn vinh dự được đón phái đoàn quân sự cấp cao nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào do đồng chí Khăm-tày Xi phăn-đon, ủy viên Bộ Chính trị, Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng dẫn đầu về thăm. ôn lại những năm tháng chiến đấu vẻ vang của sư đoàn trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên đất Lào, ghi nhận những chiến công và tình cảm keo sơn gắn bó giữa quân đội, nhân dân hai dân tộc Việt - Lào nói chung, đối với Sư đoàn 312 nói riêng, đồng chí Khăm-tày Xi-phăn-đon đã trao tặng sư đoàn lá cờ truyền thống vẻ vang của quân đội nhân dân cách mạng Lào.

Sau diễn tập, Sư đoàn tổ chức cho các cơ quan diễn tập công tác tham mưu nhằm nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ và nhân viên chuyên môn. Căn cứ vào kế hoạch huấn luyện, các trung đoàn tổ chức diễn tập cho các phân đội hình thức vận động tiến công, phòng ngự từ tiểu đội đến tiểu đoàn

Mùa huấn luyện năm 1978 qua nhanh trong tiếng súng diễn tập chiến đấu hiệp đồng của các phân đội. Đây là năm sư đoàn huấn luyện nhiều tân binh nhất, diễn tập các hình thức chiến thuật phân đội nhiều nhất và cũng là năm đạt kết quả cao nhất (kể từ khi kết thúc cuộc khiến tranh chống Mỹ) . 100 phần trăm các khoa mục đạt yêu cầu, có 80 phần trăm đạt khá và giỏi.

Sau gần một năm nhận nhiệm vụ chuyển thành sư đoàn thường trực cơ động sẵn sàng chiến đấu, với cố gắng vượt bậc, cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 312 đã khắc phục mọi khó khăn, nhanh chóng kiện toàn tổ chức biên chế. tập trung huấn luyện đạt kết quả tốt. Kiểm tra khả năng sẵn sàng chiến đấu của sư đoàn cuối năm 1978 Cục Quân huấn Bộ Tổng tham mưu và Bộ tư lệnh quân đoàn đánh giá: "Với khả năng hiện nay Sư đoàn 312 đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu thê đội 2 hoặc đảm nhiệm hướng tiến công chủ yếu của binh đoàn trong các chiến dịch".

Đây là cơ sở để sư đoàn thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.

2. Sư đoàn 312 trong nhiệm vụ huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu và chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc

Đầu năm 1979 dưới sự lãnh đạo của Mặt trận cứu nước Cam-pu-chia với sự giúp đỡ đầy tình nghĩa của bộ đội tình nguyện Việt Nam. quân dân Cam-pu-chia đã đập tan chế độ diệt chủng Pôn Pốt, giải phóng đất nước. Ngày 12 tháng 1 năm 1979 chế độ Cộng hòa dân chủ nhân dân Cam-pu-chia được thành lập.

Biên giới phía Tây Nam vừa yên tiếng súng thì ngày 17 tháng 2 năm 1979 chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc lại bùng nổ.

Chiều 17 tháng 2, Sư đoàn 312 nhận lệnh chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao, trước mắt sẵn sàng một lực lượng cơ động để khi có lệnh tham gia chiến đấu cùng đơn vị bạn trên hướng Lạng Sơn. Ngay đêm hôm đó Sư đoàn trưởng Nguyễn Kiệm và Chính ủy sư đoàn Đỗ Trường Quân cùng các đồng chí trong chỉ huy sư đoàn, chỉ huy các trung đoàn, các cơ quan và đơn vị trực thuộc họp, triển khai nhiệm vụ sơ bộ cho các đơn vị. Mạng thông tin của sư đoàn được lệnh mở máy canh 24 trên 24 giờ đảm bảo cho sư đoàn sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu.

Theo dõi diễn biến chiến đấu trên các mặt trận, hướng ra biên giới các đơn vị của sư đoàn vừa tích cực luyện tập bổ sung phương án chiến đấu, vừa làm tốt mọi công tác chuẩn bị chiến đấu để khi có lệnh là lên đường được ngay.

Ngày 3 tháng 3 năm 1979, trung đoàn 209 được tăng cường pháo của trung đoàn 186 và tiểu đoàn pháo 130ly của quân đoàn do đồng chí Phạm Thế Mỹ, trung đoàn trưởng trung đoàn 209 chỉ huy, nhận lệnh hành quân triển khai sẵn sàng chiến đấu tại khu vực Kép (Hà Bắc) .Trung đoàn và các đơn vị tăng cường đã chấp hành nghiêm mệnh lệnh, cơ động nhanh đảm bảo 100 phần trăm quân số và vũ khí trang bị đến vị trí tập kết an toàn triển khai chiến đấu được ngay. Trong khi trung đoàn 209 cơ động, hai trung đoàn 141, 165 triển khai nhiệm vụ trực chiến ở khu vực quy định và sẵn sàng các phương án cơ động tiếp theo.

Đáp lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và lệnh tổng động viên của Chủ tịch nước. toàn dân ta hướng về biên giới phía Bắc với khẩu hiệu "toàn dân là chiến sĩ" quyết chiến đấu bảo vệ độc lập của Tổ quốc. Các lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc biên giới kiên cường chiến đấu bảo vệ vững chắc từng tấc đất thiêng liêng. Ngày 5 tháng 3 năm l979 đối phương tuyên bố rút quân về nước.

Tuy chưa trực tiếp tham gia đánh trả đối phương nhưng tinh thần chấp hành nghiêm mệnh lệnh, cơ động nhanh, sẵn sàng chiến đấu cao của trung đoàn 209 và các đơn vị trong sư đoàn đã được Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Quân đoàn đánh giá cao.

Ngày 9 tháng 3, Đảng ủy sư đoàn họp đánh giá công tác chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu của các đơn vị trong sư đoàn. Căn cứ vào nhiệm vụ trên giao Đảng ủy tập trung nghiên cứu bàn các biện pháp nhằm đảm bảo cho sư đoàn thực hiện tốt các nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và huấn luyện năm 1979. Sau cuộc họp, các đơn vị tích cực giải quyết các vấn đề bảo đảm cơ động lực lượng, huấn luyện bổ sung, tăng cường hành quân dã ngoại, hành quân mang vác ban đêm, nghiên cứu để huấn luyện sát hợp với địa hình biên giới, với đối tượng tác chiến mới và một số vũ khí trang bị mới.

Đầu tháng 4 năm 1979. Quân đoàn giao cho sư đoàn nhiệm vụ tuyển quân dự nhiệm ở Thái Bình về huấn luyện. Trong 10 ngày sư đoàn tiếp nhận đủ 900 quân đưa về sư đoàn huấn luyện bổ sung, phân loại chuyên môn sau đó bổ sung cho các đơn vị trong quân đoàn. Do tìm hiểu kỹ, sư đoàn đã chọn được các chiến sĩ có chuyên môn kỹ thuật đưa về đúng các binh chủng mà quân đoàn đang thiếu.

Trước yêu cầu phát triển lực lượng và tăng cường sức mạnh chiến đấu, đầu tháng 7 năm 1979 sư đoàn được tiếp nhận trang bị mới. Để quản lý trang bị kỹ thuật ngày càng lớn, theo quyết định của trên. Sư đoàn thành lập phòng kỹ thuật do đại tá Nguyễn Huy Thống làm chủ nhiệm.

Tháng 9 năm 1979, tiểu đoàn 16 pháo phòng không (37 ly) tách khỏi trung đoàn 86 về trực thuộc sư đoàn . Hệ thống chỉ huy và hỏa lực phòng không của sư đoàn có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng.

Theo kế hoạch của Quân đoàn, trung tuần tháng 10 Sư đoàn tổ chức diễn tập thực binh vận động tiến công tiêu diệt sư đoàn địch sau đó chuyển vào phòng ngự. Đây là cuộc diễn tập do Quân đoàn trực tiếp chỉ đạo phục vụ việc nghiên cứu sử dụng lực lượng của các đơn vị trong quân đoàn. Trong diễn tập có bắn đạn thật và sử dụng một số khí tài mới. Qua cuộc diễn tập, cán bộ chiến sĩ sư đoàn đã thể hiện tinh thần nỗ lực cao, khả năng thích ứng mau lẹ với những điều kiện chiến đấu mới, nhanh chóng làm chủ vũ khí trang bị trong biên chế.

Trước những hoạt động khiêu khích quân sự mới của địch ở biên giới, ngày 19 tháng 1 năm 1980 Bộ Chính trị ra nghị quyết "Về những công tác lớn năm 1980" nhấn mạnh việc cảnh giác trước âm mưu mới của địch, kiểm tra và chỉ đạo chặt chẽ công tác quốc phòng trong tình hình mới. Ngay sau đó theo chỉ đạo của Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh quân đoàn, sư đoàn khẩn trương bổ sung hoàn thiện các phương án chiến đấu, kiểm tra mọi mặt công tác chuẩn bị cơ sở vật chất, phương tiện cơ động sẵn sàng phục vụ chiến đấu. Cán bộ chiến sĩ sư đoàn xác định quyết tâm: khi có lệnh tham gia chiến đấu từng trung đoàn hoặc cả sư đoàn trong đội hình quân đoàn hoặc tăng cường phối thuộc cho đơn vị bạn là lên đường ngay, đánh thắng ngay từ trận đầu.

Cuối tháng 1 năm 1980. Đảng bộ sư đoàn tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ VI. Đại hội nhận định: 5 năm qua sư đoàn đã đáp ứng tốt mọi yêu cầu của nhiệm vụ chiến đấu. Trình độ kỹ thuật chiến thuật của các phân đội trình độ chỉ huy tác chiến của cán bộ các cấp qua diễn tập, rèn luyện được nâng lên rõ rệt. 5 năm liên tục sư đoàn đạt thành tích bắn giỏi các loại súng có trong biên chế và đã tổ chức tốt các đợt tập huấn nâng cao trình độ cán bộ chỉ huy các cấp. Trong 5 năm với 133 lớp sư đoàn đã tập huấn cho 5.314 lượt cán bộ từ tiểu đội trở lên. trong đó có 651 lượt cán bộ binh chủng; đã xây dựng được ý chí quyết tâm chiến đấu cho cán bộ chiến sĩ, củng cố vững mạnh về chính trị tư tưởng cho sư đoàn. Song song với nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu. các đơn vị đã tích cực tham gia đóng góp lao động sản xuất 12 vạn ngày công làm kênh, đắp đê chống lụt, làm đường, làm ra 365 tấn lương thực, 90 tấn thịt cá, 2.000 tấn rau, 2 triệu viên gạch, 24 vạn viên ngói, xây dựng 83.000 mét vuông nhà ở, tiếp nhận vận chuyển hàng trăm tấn đạn dược, lương thực, thực phẩm, quân trang phục vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu.

Trước tình hình còn diễn biến phức tạp, Đại hội xác định phải tập trung lãnh đạo toàn sư đoàn huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu sẵn sàng bổ sung lực lượng cho các đơn vị chiến đấu phía trước đống thời xây dựng sư đoàn theo hướng cách mạng, chính quy hiện đại tinh nhuệ thiện chiến tích cực lao động sản xuất: xây dựng doanh trại đảm bảo đời sống cho bộ đội.

Những tháng đầu năm 1980, đối phương đưa nhiều lực lượng áp sát biên giới, tăng cường diễn tập, trinh sát Ngày 22 tháng 3 Bộ Quốc phòng ra chỉ lệnh sẵn sàng chiến đấu nêu rõ "các lực lượng vũ trang phải hết sức đề cao cảnh giác từng ngày, từng giờ, từng phút, phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu kịp thời đánh bại mọi âm mưu và hành động phá hoại của địch - hoàn thành nhiệm vụ của lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc...".

Chấp hành chỉ thị của Bộ và của Quân đoàn, Sư đoàn duy trì nghiêm ngặt các phân đội trực chiến với 100 phần trăm quân số, vũ khí trang bị sẵn sàng chiến đấu cử một số đơn vị cùng trinh sát quân đoàn nắm địch trên hướng được phân công. Để nâng cao chất lượng huấn luyện thực sự thực tế sát yêu cầu chiến trường nhiều phân đội của sư đoàn đã tổ chức các cuộc hành quân dã ngoại, trinh sát địa hình. phối hợp hoạt động với lực lượng vũ trang địa phương các tỉnh biên giới.

Ngày 30 tháng 9 năm 1980, Bộ Quốc phòng ra quyết định thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội. Cùng với các đơn vị trong quân đoàn Sư đoàn đã tổ chức hội nghị quân chính quán triệt chỉ thị của Bộ, thống nhất tư tưởng và hành động của cán bộ, chiến sĩ. Theo lệnh điều động của Bộ, đồng chí Trần Minh Vân về làm Sư đoàn trưởng, đồng chí Trần Văn Trấn làm Sư đoàn phó chính trị.

Sau khi sơ kết cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân ngày 9 tháng 2 năm 1981 Ban Bí thư trung ương Đảng ra chỉ thị L05CT/Tư tiếp tục thực hiện cuộc vận động với những yêu cầu mới :

1 Ý chí mạnh, trách nhiệm cao, đoàn kết tốt, kỷ luật nghiêm.

2. Nâng cao ý thức và năng lực làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, cơ sở vật chất.

3. Nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức, chỉ huy, quản lý xây dựng cơ sở vững mạnh.

4. Đoàn kết quân dân, đoàn kết quốc tế tốt.

5. Tổ chức tốt đời sống vật chát tinh thần cho bộ đội.

Trên cơ sở nhiệm vụ Quân đoàn giao. bước vào mùa huấn luyện năm 1981 Sư đoàn phát động phong trào thi đua giành 5 mục tiêu thi đua của cuộc vận động. Từ cơ quan sư đoàn đến các trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội đã tổ chức ký kết giao ước thi đua tập trung vào các nội dung: đảm bảo quân số, nâng cao chất lượng huấn luyện giữ tốt dùng bền. an toàn tiết kiệm, xây dựng cơ quan đảng bộ chi bộ trong sạch vững mạnh, đoàn kết nội bộ. đoàn kết quân dân, cải thiện đời sống bộ đội. Kết thúc giai đoạn huấn luyện 1, sư đoàn hoàn thành tốt các nội dung đề ra với 75 phần trăm các khoa mục kiểm tra đạt khá giỏi. Bước vào giai đoạn 2, đồng thời với nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu sư đoàn được Bộ và Quân đoàn giao nhiệm vụ sử dụng một bộ phận lực lượng làm đường quân sự TN81 , đoạn Sơn Động - Hà Bắc. Các đơn vị tham gia thi công với tiểu đoàn 17 công binh sư đoàn và các đại đội công binh của các trung đoàn làm nòng cốt đã thực hiện đúng tiến độ, chất lượng tốt được Bộ tư lệnh quân đoàn biểu dương.

Năm 1981 , Quân đoàn giao nhiệm vụ cho Sư đoàn 312 thường xuyên sử dụng một tiểu đoàn lao động trên công trường lấn biển Bình Minh. Đây là công trình lao động vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa quốc phòng. Cùng các đơn vị bạn, sư đoàn tích cực đắp đê lấn biển trồng cói, nuôi tôm, thả cá, trung bình mỗi năm thu hoạch gần 100 tấn cói, hàng chục tấn tôm cá, góp phần cải thiện đời sống bộ đội.

Cùng với nhiệm vụ huấn luyện thường xuyên, trong năm 1982, sư đoàn tập trung huấn luyện một số nội dung phục vụ diễn tập thực nghiệm của Bộ; đồng thời tổ chức cho cán bộ chiến sĩ học Luật nghĩa vụ quân sự và Luật sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là dịp tốt để sư đoàn đẩy mạnh xây dựng chính quy, hướng các mục tiêu thi đua vào thực hiện cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp. nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân".

Tháng 4 năm l982: Sư đoàn giải quyết cho 2.100 chiến sĩ hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về các địa phương theo luật định; đồng thời tuyển 1.800 tân binh. Trước khi bước vào huấn luyện các giáo viên. cán bộ của sư đoàn được tập huấn ở Bộ và Quân đoàn. Học cụ. thao trường đội mẫu cũng được chuẩn bị kỹ hơn mọi năm. Trong quá trình huấn luyện, sư đoàn đã được Bộ và Quân đoàn chỉ đạo kịp thời. Các nội dung ý định huấn luyện được các đơn vị thực hiện đầy đủ có chất lượng, nhất là kỹ thuật bắn các loại súng trong biên chề. bắn tiểu liên AK bài l, bài 3 cả ban ngày và ban đêm. học chiến thuật từ tiểu đội đến trung đoàn bộ binh trong chiến đấu tiến công và phòng ngự có bắn đạn thật.. .

Kết thúc năm huấn luyện, Sư đoàn 312 được giao tổ chức diễn tập thực nghiệm, một cuộc diễn tập quy mô lớn. thời gian chuẩn bị dài: có nhiều đơn vị tham gia. Kết thúc diễn tập sư đoàn được Bộ và Quân đoàn đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Ngày 21 và 22 tháng 3 năm 1983. Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện cuộc vận động "Phát huy bản chất tốt đẹp nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân" do Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động (1978-1982 ). Sư đoàn 312 là 1 trong 16 đơn vị lập thành tích xuất sắc (trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. xây dựng đơn vị... được nhận cờ thưởng luân lưu (của Hội đống Bộ trưởng)

Đầu tháng 5 năm 1983, Đảng ủy và Bộ tư lệnh quân đoàn chỉ đạo rút kinh nghiệm xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh ở trung đoàn 48 (Sư đoàn 390). Sau hội nghị, Đảng ủy quân đoàn chỉ đạo Đảng ủy Sư đoàn 312 tập trung xây dựng cơ sở đảng trong sạch vững mạnh ở trung đoàn 141 để rút kinh nghiệm. Trong năm 1983, trung đoàn 141 kiện toàn xong các tổ chức đảng, tổ chức quần chúng. Các trung đội đều có tổ đảng, đại đội có chi bộ không phải sinh hoạt ghép do thiếu đảng viên như mấy năm trước. Các tiểu đội hoả lực mở cửa của các đại đội chủ công của trung đoàn đều có 1 đến 2 đảng viên. Tổ chức chỉ huy cũng được kiện toàn. Ban chỉ huy từ trung đoàn đến các đại đội đủ 4 đồng chí.

Đầu tháng 5 năm 1984, trung đoàn 141 được tăngcường tiểu đoàn 4 (trung đoàn 165) đại đội 15 (trung đoàn 209) và một số phân đội pháo của Sư đoàn 308 nhận nhiệm vụ tiến công khôi phục lại một số điếm cao bị lấn chiếm trên biên giới phía Bắc. Thiếu tá Đào Trọng Hạc - tham mưu phó sư đoàn trực tiếp chỉ huy trung đoàn.

Sau một ngày một đêm hành quân cơ giới đến vị trí tập kết đường dài trên 300 ki-lô-mét, trung đoàn được lệnh vào chiến đấu. Quá trình cơ động vào chiếm lĩnh trung đoàn gặp nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở, việc tổ chức trinh sát nắm địch chưa kỹ, thời gian gấp, một số khâu hiệp đồng giữa các đơn vị không đạt được ý định. Trước tình hình đó, trung đoàn trưởng và phái viên mặt trận đã bàn bạc đề nghị chỉ huy mặt trận cho lui thời gian nổ súng từ 2 đến 3 ngày. Tư lệnh mặt trận động viên trung đoàn khắc phục khó khăn cố gắng thực hiện kế hoạch vì lợi ích chung toàn mặt trận.

Nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, 17 giờ ngày 12 tháng 5 trung đoàn nổ súng tiến công địch ở điểm cao 1030. Trận đánh kéo dài đến hết ngày hôm sau. Trung đoàn không phát triển chiến đấu tiếp được do thương vong nhiều và hết đạn. Trung đoàn phải cho bộ đội dừng lại củng cố. giải quyết hậu quả, chuyển sang phòng ngự giữ vững địa bàn. Trận đánh không thành công do không đánh giá đúng khả năng của địch, công tác chuẩn bị của đơn vị chưa kỹ bộ đội chủ quan. Cách đánh chưa phù hợp, địa hình tác chiến phức tạp.. .

Ngày 14 tháng 5, Bộ tư lệnh mặt trận lệnh cho các đơn vị lui về phía sau, sẵn sàng nhận nhiệm vụ tiếp theo.

Sư đoàn kịp thời tổ chức rút kinh nghiệm, đánh giá đúng khả năng phòng thủ của địch sau khi lấn chiếm bổ sung nội dung huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật từng người và phân đội, rèn luyện các hình thức tác chiến và khả năng cơ động. bảo đảm chiến đấu trên địa hình núi cao, rừng rậm. Cuối tháng 6 năm 1984. trung đoàn 141 nhận lệnh hành quân về vị trí đóng quân. Sau một thời gian tập trung giải quyết chính sách thương binh liệt sĩ, ổn định tổ chức, trung đoàn tiếp tục cùng các đơn vị bước vào giai đoạn huấn luyện 2.

Ngày 16 tháng 7 năm 1984. Bộ Tổng tham mưu ra chỉ lệnh động viên và huấn luyện lực lượng được động viên, giúp người chỉ huy nắm vững các biện pháp động viên quân dự bị, nâng cao trình độ tổ chức động viên quân đội trên cơ sở nắm chắc các lực lượng đã được xác định. Kết hợp chặt chẽ với các địa phương trên địa bàn đóng quân và các khu vực được quân đoàn giao, sư đoàn bước đầu đã làm tốt công tác triển khai cán bộ xuống các cơ sở. nắm vững số quân dự bị ở các địa phương bảo đảm cho kế hoạch động viên năm sau.

Đầu năm 1984 chấp hành chỉ thị của trên, cùng với toàn quân đoàn, sư đoàn tổ chức thực hiện Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị về đổi mới, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, sự nghiệp quốc phòng và thực hiện chế độ một người chỉ huy trong quân đội". Theo cơ chế mới sư đoàn có hội đồng quân sự và hội đồng phòng chính trị. ở trung đoàn có bí thư Đảng, bí thư Đoàn chuyên tránh làm công tác đảng và công tác quần chúng. Quá trình thực hiện cơ chế mới tuy gặp một số khó khăn, cán bộ chiến sĩ sư đoàn đã đoàn kết chấp hành nghiêm quyết định của trên.

Ngày 19 tháng 12 nam 1984, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập quân đội nhân dân Việt Nam: Sư đoàn 312 cùng một số cơ quan, đơn vị vinh dự được Hội đồng nhà nước tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh

Bước sang năm 1985. cùng với các đơn vị trong quân đoàn, Sư đoàn 312 tích cực luyện tập hoàn thành tốt nhiệm vụ. Bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện xây dựng đơn vị tuổi trẻ, sư đoàn tích cực tham gia triển lãm "Tuổi trẻ sáng tạo khoa học, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc" do Quân đoàn phát động. 10 sáng kiến cải tiến kỹ thuật của sư đoàn được quân đoàn lựa chọn tham gia triển lãm của quân đoàn và toàn quân.

Ngày 9 tháng 6 năm 1985, Bộ Chính trị ra nghị quyết số 24/NQTư về những vấn đề cơ bản của đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Về phương hướng xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân. nghị quyết nêu rõ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng hùng mạnh có trình độ chính quy hiện đại ngày càng cao, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng để bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng vững mạnh và rộng khắp" "Quân đội nhân dân phải có số lượng đủ, nhất là có chất lượng cao". Từng đơn vị có đủ quân số theo biên chế, phát huy hết khả năng của từng người và của toàn đơn vị, xây dựng tổ chức mạnh và từng người mạnh, đơn vị mạnh, cơ quan mạnh..".

Theo phương hướng đó. Sư đoàn 312 được Bộ và Quân đoàn từng bước đầu tư xây dựng thành sư đoàn bộ binh mạnh với đủ số quân, vũ khí trang bị theo biên chế, đảm bảo cho sư đoàn đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu trước mắt và lâu dài. Theo quyết định của Bộ, đồng chí Nguyễn Đức Sơn được cử làm Sư đoàn phó về chính trị thay đồng chí Lê Viết Viên nhận nhiệm vụ mới.

Tháng 10 năm l985 sư đoàn tham gia diễn tập đề mục "Sư đoàn bộ binh tấn công địch phòng ngự trận địa". Đây là cuộc diễn tập chỉ huy tham mưu 2 cấp có thực binh trong thời gian 16 ngày. Mặc dù công tác bảo đảm lớn, bộ đội luyện tập cường độ cao. nhưng với tinh thần tích cực chủ động, cán bộ chiến sĩ sư đoàn đã thực hiện cuộc diễn tập đạt kết quả tốt. Đánh giá thành tích huấn luyện của sư đoàn qua 2 đợt thực hiện nhiệm vụ, Bộ tư lệnh quân đoàn nhận xét "Sư đoàn 312 tiến bộ đồng đều. có đủ khả năng thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu đánh địch trong công sự vững chắc"

Ngày 27 tháng 12 năm 1985 sư đoàn tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 35 năm ngày truyền thống vẻ vang của Đại đoàn Chiến Thắng. Cán bộ chiến sĩ sư đoàn vinh dự được đón đồng chí Thượng tướng Lê Trọng Tấn -Tổng tham mưu trưởng, nguyên Đại đoàn trưởng đầu tiên, cùng hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ cũ của sư đoàn về họp mặt.

Nói chuyện thân mật với cán bộ chiến sĩ sư đoàn, Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng biểu dương: 10 năm xây dựng huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và trực tiếp cử một số cán bộ chiến sĩ, đơn vị tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và phía Bắc, Sư đoàn 312 đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Phát huy truyền thống "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng" trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, sư đoàn vừa huấn luyện giỏi. vừa tích cực lao động tăng gia sản xuất xây dựng doanh trại khang trang, tổ chức tốt đời sống văn hóa tinh thần cho bộ đội. .

Ngày 4 và 5 tháng 8 năm 1986, Sư đoàn tổ chức Đại hội đại biểu lấn thứ VII. Đại hội đánh giá quá trình xây dựng sư đoàn những năm 1981 - 1985, quán triệt Nghị quyết 27 của Bộ Chính trị về tiếp tục kiện toàn cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và sự nghiệp quốc phòng, đề ra phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ tới và bầu đại biểu dự Đại hội Đảng quân đoàn và toàn quân. Năm 1986 là năm sư đoàn tổ chức nhiều cuộc huấn luyện dã ngoại thời gian dài. Với phương châm huấn luyện sát thực tế chiến đấu, nhiều đơn vị của sư đoàn đã huấn luyện dã ngoại ở địa hình tương ứng với địa hình biên giới. Các tiểu đoàn bộ binh tổ chức diễn tập phòng ngự, tập thao tác tháo lắp, khiêng vác pháo bắn thẳng ở địa hình núi cao. Đây là năm bộ đội được rèn luyện tương đối kỹ, nhất là hình thức tác chiến phòng ngự.

Từ ngày 15 đến 18 tháng 12 năm 1986 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại thủ đô Hà Nội, mở đầu thời kỳ đổi mới của đất nước..

Về nhiệm vụ an ninh quốc phòng, Đại hội nhấn mạnh: phải thấu suốt - và thực hiện đúng quan điểm: "toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước..." . Đại hội đánh giá cao thành tích của các lực lượng vũ trang trên các mặt nhất là về xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, củng cố cơ sở chính trị ở địa bàn xung yếu, xây dựng lực lượng dự bị kết hợp kinh tế với quốc phòng... Đại hội quyết nghị: " . . . Xây dựng quân đội nhân dân chính quy ngày càng hiện đại, có chất lượng tổng hợp ngày càng cao, có tổ chức hợp lý, cân đối gọn và mạnh, có kỷ luật chặt chẽ, có trình độ sẵn sàng chiến đấu cao...".

Đầu tháng 3 năm 1987, sư đoàn ra quân huấn luyện theo nhiệm vụ. Vừa đảm bảo huấn luyện, sư đoàn vừa cử lực lượng trinh sát thực địa, nắm địa bàn được phân công. Căn cứ vào địa hình, tình hình địch và khu vực mục tiêu được giao, sư đoàn tổ chức huấn luyện kỹ các môn kỹ thuật bộ binh như: bắn súng, ném lựu đạn - công sự, vật cản. ngụy trang trên địa hình núi đất và núi đá. Về chiến thuật, tập trung huấn luyện kỹ từng tổ phòng ngự, đại đội, tiểu đoàn hiệp đồng đánh địch lấn chiếm trong đội hình trung đoàn, sư đoàn. Chú trọng huấn luyện phương pháp thay quân, tuần tra canh gác đánh địch đột nhập ban đêm và rèn luyện sức chịu đựng dẻo dai của bộ đội. Tháng 6 năm 1987, sau khi hoàn thành các nội dung huấn luyện các tiểu đoàn đều diễn tập kiểm tra tiểu đoàn bộ binh phòng ngự có bắn đạn thật.

Rút kinh nghiệm những mặt đạt được và những mặt còn thiếu sót, hạn chế, sư đoàn chỉ đạo các trung đoàn tập trung huấn luyện nâng cao trình độ hiệp đồng tác chiến và kết thúc huấn luyện bằng diễn tập trung đoàn bộ binh phòng ngự vào trung tuần tháng 7. Trên cơ sở kết quả đạt được sư đoàn tiến hành hợp luyện tổng hợp trong đội hình sư đoàn đồng thời tích cực chuẩn bị mọi mặt để nhận nhiệm vụ chiến đấu phòng ngự thay Sư đoàn 356 (Hà Giang) dưới sự chỉ huy của Bộ tư lệnh Quân khu 2.

Sau khi nhận nhiệm vụ, đại tá Trần Minh Vân - Sư đoàn trưởng khẩn trương chuẩn bị cho đội hình chiến đấu của sư đoàn (thiếu trung đoàn 209) hành quân lên biên giới. Sư đoàn được tăng cường trung đoàn 48 (sư đoàn 390), tiểu đoàn công binh 3 (lữ đoàn 299) và một số binh khí kỹ thuật của quân đoàn. Ngày 25 tháng 7: cơ quan sư đoàn và trung đoàn 165 xuất phát ; tiếp đó là hai trung đoàn 186 và 48. sau cùng là trung đoàn 141.

Trung đoàn 209 nhận nhiệm vụ huấn luyện quân tăng cường cho sư đoàn.

Ngày 2 tháng 8, toàn sư đoàn đến vị trí tập kết an toàn. Từ ngày 16 tháng 8 sau khi hoàn thành kế hoạch thay quân, sư đoàn bắt đầu làm nhiệm vụ phòng ngự ở tuyến tiếp giáp đối phương...

Mặc dù thời gian chuẩn bị ngắn, phương tiện bảo đảm cơ động không đồng bộ, đường xa, qua nhiều địa hình phức tạp sư đoàn đã phát huy truyền thống và kinh nghiệm hành quân thần tốc, thực hiện đi gọn đến đủ, an toàn với đầy đủ quân số và vũ khí trang bị. Việc tổ chức thay phiên được tiến hành nhanh, gọn đảm bảo. bí mật.

Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải thiện tình hình biên giới, từng bước tiến tới bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhiệm vụ tác chiến của sư đoàn được xác định là:

1 Tích cực củng cố công sự, hầm hào, trận địa, bảo đảm chiến đấu liên tục dài nừay quyết không cho đối phương lấn chiếm, giữ vững dải phòng ngự được phân công.

2. Chủ động làm công tác tuyên truyền về tình hữu nghị giữa hai dân tộc, coi trọng vận động binh lính đối phương. giảm căng thẳng, không nổ súng trước.

Kiên quyết chấp hành nghiêm mệnh lệnh của trên, cán bộ, chiến si sư đoàn đã dũng cảm trụ bám trận địa mặc dù đối phương bắn phá, khiêu khích, dù sinh hoạt thiếu thốn vẫn không quản ngại. Hàng ngày giáp mặt với đối phương, có trận địa chỉ cách 10 mét, mọi sinh hoạt của bộ đội đều ở dưới lòng đất, trong các ngách đá, đường hào vô cùng gian khổ nhưng không cán bộ, chiến sĩ nào tỏ ra nao núng, thoái thác nhiệm vụ.

Khó khăn lớn nhất trong đợt hoạt động này là công tác bảo đảm phục vụ chiến đấu. Đối phương có lợi thế về địa hình, chiếm giữ các điểm cao có tầm quan sát rộng, phát hiện ta từ xa. Chúng theo dõi chặt chẽ các hoạt động của bộ đội ta, thường xuyên dùng pháo, cối bắn phá các trận địa đường vận chuyển của ta. Mọi hoạt động của bộ đội ta đều diễn ra dưới tầm hỏa lực đối phương và vào ban đêm. Cán bộ chiến sĩ toàn sư đoàn đã nêu khẩu hiệu "tất cả vì điểm tựa quyết thắng",vì đồng đội trên chốt. tiền tiêu Các chiến sĩ vận tải thay phiên nhau ngày đêm đưa lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng lên các điểm tựa. Có đêm thức 3 - 4 lần đưa hàng vào trận địa, thương vong, đói, mệt, nhưng nghĩ đến đồng đội ở phía trước trên điểm tựa đang cần lương thực, đạn dược bổ sung cho chiến đấu, anh em lại vui vẻ lên đường.

Cán bộ chiến sĩ trên các điểm tựa thường xuyên nêu cao cảnh giác, ngày đêm sẵn sàng chiến đấu và khi cần, chia lửa cho các chiến sĩ vận tải, đã không ngần ngại thu hút hỏa lực đối phương về phía mình. Trong gian khổ ác liệt, càng ngời sáng truyền thống và bản chất tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ.

Để giữ gìn lực lượng chiến đấu lâu dài, các đơn vị thực hiện phòng ngự chặt ở phía trước đồng thời cứ 10 đến 15 ngày luân phiên về phía sau nghỉ ngơi huấn luyện và bổ sung quân số, trang bị. Ngày tiếp ngày các công sự trận địa được xây dựng ngày càng vững chắc và trở nên thân thuộc với cán bộ, chiến sĩ. Đang ngủ có lệnh báo động chỉ cần nói ở vị trí số mấy là cán bộ. chiến sĩ đã biết phải vận động lên bằng đường nào, triển khai đội hình đánh trả ra sao. Phần tử bắn thì đã được các pháo thủ ghi nhớ, chỉ cần thông báo tọa độ là ngay lập tức bão lửa giội xuống đầu đối phương. Bị ta đánh trả số lần địch lấn chiếm khiêu khích giảm dần. Thế trận phòng ngự của sư đoàn ngày càng thêm vững chắc với hàng ngàn mét hào giao thông, nhiều đoạn được kè đá vững chắc, có những đoạn hào phục vụ vận chuyển và hàng trăm hầm trực chiến, hầm sinh hoạt.

Hướng ra biên giới "tất cả vì điếm tựa quyết thắng", . các đơn vị trong quân đoàn và nhân dân các địa phương đã gửi tặng sư đoàn hơn 11 tấn gạo. hàng trăm ki-lô-gam đậu xanh, thực phẩm khô, nhiều thuốc chữa bệnh... Nhân dân còn gửi lên biên giới hàng vạn chiếc bao để đựng đất đá làm công sự. Nhiều đoàn cán bộ của hội phụ nữ. các địa phương, các đội văn nghệ đã lên tận chiến hào thăm hỏi động viên bộ đội.

Những ngày chiến đấu ở Hà Giang (từ tháng 8 năm 1987 đến tháng 4 năm 1988) là thời gian thử thách ý chí. nghị lực của cán bộ chiến sĩ sư đoàn. Để động viên nhau vượt qua khó khăn, ác liệt, bộ đội ta đã đặt tên đường hào mùa xuân", "ngã ba chiến thắng" . . . Trên các điểm tựa tiền tiêu bộ đội ta vẫn được xem phim xem văn nghệ. nghe ca nhạc qua máy điện thoại, đọc sách báo. Tám tháng chiến đấu, sư đoàn đã kết nạp được 415 đảng viên và hơn 1.500 đoàn viên.

Tháng 4 năm 1988 sư đoàn bàn giao trận địa cho đơn vị bạn trở về doanh trại. Đánh giá hoạt động của sư đoàn trong thời gian chiến đấu phòng ngự ở Hà Giang, Bộ tư lệnh Quân khu 2 biểu dương: "Sư đoàn tổ chức phòng ngự tích cực kiên cường, cảnh giác cao, sẵn sàng chiến đấu, kịp thời phát hiện địch từ xa, hiệp đồng chặt chẽ trong mọi tình huống, kịp thời ngăn chặn mọi hành động lấn chiếm của đối phương, giữ vừng trận địa. Vừa chiến đấu. vừa tích cực xây dựng công sự trận địa củng cố thế trận phòng ngự, sư đoàn đã xây dựng được nhiều công trình có ý nghĩa chiến lược, tranh thủ huấn luyện, duy trì kỷ luật chiến trường, tích cực xây dựng đơn vị về mọi mặt nên càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành".

Trở về doanh trại, sư đoàn khẩn trương rút kinh nghiệm chiến đấu, thực hiện các chính sách đối với thương binh. liệt sĩ, củng cố tổ chức và bước vào huấn luyện theo yêu cầu nhiệm vụ mới.

Ngày 8 tháng 12 năm 1988 Đảng bộ sư đoàn tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ VIII. Đánh giá hoạt động của sư đoàn trong những năm 1986 - 1988, Đại hội nêu rõ nhiệm kỳ vừa qua Đảng bộ đã lãnh đạo sư đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ thay phiên chiến đấu phòng ngự tại.. ., giữ trọn vẹn các điểm tựa. Kết thúc nhiệm vụ đã được Bộ tư lệnh Quân khu 2 đề nghị tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhất. Qua chiến đấu các đơn vị đã trưởng thành về nhiều mặt.

Bên cạnh những ưu điểm trên, so với yêu cầu nhiệmvụ chiến đấu công tác xây dựng đơn vị bộc lộ một số yếu điểm như: chất lượng huấn luyện giữa các đơn vị chưa đồng đều vững chắc, chưa thật sát với yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu, công tác giáo dục chính trị có nội dung còn hạn chế, quản lý tư tưởng bộ đội chưa chặt chẽ, lãnh đạo xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật và quản lý bộ đội có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung chuyển biến còn chậm, v.v. . .

Đại hội đề ra phương hướng lãnh đạo trong 2 năm 1989 - 1990 nhằm mục tiêu xây dựng các trung đoàn, sư đoàn vững mạnh toàn diện . . . Đại hội bầu Ban chấp hành đảng bộ khóa mới gồm 9 ủy viên. Đồng chí Ngô Luân - Sư đoàn phó chính trị được bầu làm bí thư, đồng chí Nguyễn Trọng Thắng - Sư đoàn trưởng làm phó bí thư.

3. Xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện theo đường lối đổi mới của Đảng

Trước những diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước, để đẩy mạnh công cuộc xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ngày 13 tháng 12 năm 1988, Bộ Tổng tham mưu ra chỉ thị 116 nêu rõ 5 yêu cầu xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện:

1. Tất cả cán bộ chiến sĩ trong trung đoàn luôn sẵn sàng nhận nhiệm vụ chiến đấu, công tác, quản lý tốt quân số. vũ khí trang bị theo biên chế được giữ gìn, bảo quản, sử dụng tốt.

2. Động tác chiến đấu từ cá nhân đến phân đội, từ tiểu đội đến tiểu đoàn thuần thục, phù hợp với yêu cầu chiến đấu và đúng với nghệ thuật quân sự của ta.

3. Khi hợp luyện diễn tập trung đoàn phải thể hiện được khả năng tổ chức, chỉ huy tham mưu thông suốt theo đúng chiến thuật và công tác tham mưu.

4. Công tác đảng, tổ chức quần chúng, tổ chức đảm bảo hậu cần, kỹ thuật thường xuyên được củng cố kiện toàn, hoạt động đúng chức năng nhiệm vụ, đúng quy chế quy định. Bộ đội được rèn luyện kỷ luật nghiêm, mọi hoạt động sinh hoạt theo nền nếp chính quy của điều lệnh. đời sống vật chất tinh thần tốt, lành mạnh.

Đảng ủy Sư đoàn 312 đã mở hội nghị chuyên đề bàn biện pháp tổ chức thực hiện chỉ thị của Tổng tham mưu trưởng, giáo dục cán bộ chiến sĩ nhận thức rõ vinh dự và trách nhiệm xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Đối với đơn vị điểm là trung đoàn 165, nhanh chóng ổn định biên chế, sắp xếp tổ chức điều động cán bộ, bảo đảm cho trung đoàn có đủ 100 phần trăm quân số theo biên chế, cán bộ các cấp được kiện toàn đầy đủ từ tiểu đội đến trung đoàn. Một số cán bộ có kinh nghiệm huấn luyện được ưu tiên điều về cho trung đoàn.

Về trang bị, trung đoàn được đảm bảo đủ số lượng và chất lượng theo yêu cầu huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu.

Về bảo đảm đời sống, trung đoàn được ưu tiên sửa chữa, làm mới 3.000 mét vuông nhà ở, bảo đảm cho bộ đội có nơi ăn nghỉ sinh hoạt tương đối sạch sẽ, thoáng mát.

Cùng với việc chỉ đạo trung đoàn 165 xây dựng vững mạnh toàn diện, Sư đoàn tổ chức tốt việc tiếp nhận tân binh, giải quyết ra quân cho chiến sĩ theo Luật nghĩa vụ quân sự; đảm bảo tốt các chính sách chế độ.

Kết thúc giai đoạn huấn luyện 1, đại đội pháo BM13 của trung đoàn 186 được phối thuộc chiến đấu cho đơn vị bạn đã thực hiện nhanh gọn, đồng bộ đến vị trí triển khai nhiệm vụ được ngay.

Sau một thời gian củng cố, trung đoàn 165 tổ chức cuộc hành quân luyện tập dã ngoại đường dài 150 ki-lô-mét với đầy đủ vũ khí trang bị. Mặc dù thời tiết khắc nghiệt, nắng nóng, cán bộ chiến sĩ của trung đoàn đã đảm bảo đúng thời gian quy định diễn tập bắn đạn thật đạt kết quả tốt .

Để phục vụ công tác huấn luyện và diễn tập trong năm 1989 sư đoàn sửa chữa và làm mới 96 thao trường huấn luyện chiến thuật phân đội nhỏ làm mới 4.035 bia các loại và hàng nghìn học cụ; mở 36 lớp bồi dưỡng gần 2000 cán bộ từ tiểu đội đến tiểu đoàn trước khi bước vào huấn luyện, đồng thời chuẩn bị tốt cho hai lớp tập huấn của Bộ và Quân đoàn tại sư đoàn.

Điểm nổi bật trong huấn luyện ở sư đoàn từ sau khi có chỉ thị xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện là cán bộ các cấp thực sự coi trọng chất lượng huấn luyện, lấy huấn luyện thực sự thực tế sát yêu cầu nhiệm vụ chiến đấu là chính. Cuối năm 1989 sư đoàn hoàn thành tốt cuộc diễn tập (trung đoàn 165 làm thực binh) Lực lượng phòng không và vận tải của sư đoàn tham gia hội thao quân đoàn đạt giải nhất và giải nhì. Trung đoàn 165 hoàn thành tốt 5 nội dung huấn luyện xây dựng trung đoàn vừng mạnh toàn diện, được Bộ và Quân đoàn biểu dương rút kinh nghiệm để nhân rộng trong toàn quân.

Với những thành tích toàn diện, trong năm 1989 Sư đoàn 312 có 98 đơn vị và cá nhân được công nhận danh hiệu đơn vị chiến sĩ quyết thắng, 118 cán bộ chiến sĩ được tặng danh hiệu chiến sĩ thi đua, 177 cá nhân và đơn vị được tặng bằng khen.

Tiến tới kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống của sư đoàn từ đầu năm 1990 Đảng ủy và Chỉ huy sư đoàn ra nghị quyết: "Tập trung mọi nỗ lực. bằng các hoạt động thiết thực có hiệu quả đẩy mạnh huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành tốt các mục tiêu đề ra, tiếp tục xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, tạo sự chuyển biến mới trong bảo đảm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội".

Trên cơ sở kết quả đạt được trong xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện của trung đoàn 165, được sự hỗ trợ của quân đoàn, trong năm 1990 Sư đoàn tiếp tục chỉ đạo trung đoàn 209 xây dựng vững mạnh toàn diện. Trong điều kiện có nhiều khó khăn, cơ sở vật chất có hạn, nhưng nhờ vận dụng các kinh nghiệm của trung đoàn 165, trung đoàn 209 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện theo 5 yêu cầu. Trong đợt diễn tập thực binh, ở địa hình thời tiết phức tạp trung đoàn 209 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được Bộ tư lệnh quân đoàn khen ngợi.

Kết thúc mùa huấn luyện năm 1990 sư đoàn được Bộ và Quân đoàn đánh giá là "đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ, sư đoàn ổn định, nội bộ đoàn kết, có nhiều tiến bộ trong rèn luyện nền nếp chính quy và xây dựng doanh trại cơ bản".

Ngày 27 tháng 12 năm 1990 sư đoàn kỷ niệm trọng thể 40 năm ngày thành lập. ôn lại chặng đường 40 năm chiến đấu và xây dựng vẻ vang của sư đoàn, đồng chí Sư đoàn trưởng nhấn mạnh nhiệm vụ của sư đoàn trong giai đoạn cách mạng mới là tiếp tục phát huy truyền thống "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng". ra sức huấn luyện, xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, nắm chắc tay súng bảo vệ công cuộc xây dựng đổi mới đất nước. . .

Năm 1991 sư đoàn tiếp tục chỉ đạo trung đoàn 14 1thực hiện 5 yêu cầu xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện.

Tháng 8 năm 1991 đồng chí Nguyễn Trọng Thắng và đồng chí Ngô Luân đi nhận công tác mới, đồng chí Phùng Quang Thanh và Lê Xuân Thu được điều về làm Sư đoàn trưởng và Sư đoàn phó chính trị.

Tháng hai ngày 24 và 25 tháng 9 năm 1991 Đảng bộ sư đoàn tổ chức Đại hội Đảng bộ lần thứ IX. Kiểm điểm công tác lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trong nhiệm kỳ qua, Đại hội nêu rõ: hai năm qua Đảng bộ đã lãnh đạo sư đoàn hoàn thành các nhiệm vụ được giao trong đó nổi bật nhất là nhiệm vụ huấn luyện trung đoàn điểm. Đã hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng trung đoàn 165, 209 theo 5 yêu cầu xây dựng trung đoàn vững mạnh toàn diện. ..

Trình độ huấn luyện của đội ngũ cán bộ các cấp được nâng cao, qua các đợt diễn tập sư đoàn được Quân đoàn và Bộ đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ...

Đời sống bộ đội được cải thiện đáp ứng yêu cầu xây dựng chính quy và rèn luyện sẵn sàng chiến đấu.

Sau khi phân tích tình hình nhiệm vụ của sư đoàn trong giai đoạn mới, Đại hội đề ra phương hướng xây dựng sư đoàn trong những năm 1991 - 1995 với mục tiêu chủ yếu là: "Xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện theo yêu cầu của Bộ, sẵn sàng nhận và hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, xây dựng nề nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật nghiêm, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật tốt tích cực đẩy mạnh tăng gia sản xuất. đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất tinh thần của bộ đội...".

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành đảng bộ gồm 9 ủyviên. Đồng chí Lê Xuân Thu - Sư đoàn phó chính trị được bầu làm bí thư ổang ủy, đồng chí Phùng QuangThanh - Sư đoàn trưởng được bầu làm phó bí thư.

Theo quyết định của Bộ bắt đầu từ năm 1992 Sư đoàn 312 (cùng với Sư đoàn 325) được chọn làm điểm xây dựng "Sư đoàn vững mạnh toàn diện" để rút kinh nghiệm chỉ đạo toàn quân. đây vừa là vinh dự đồng thời là trách nhiệm nặng nề đối với cán bộ chiến sĩ sư đoàn.

Ngày 4 tháng 1 năm 1992 Đảng ủy Sư đoàn 312 ra nghị quyết "lãnh đạo nhiệm vụ xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện trong 3 năm (1992 - 1994) " và bàn chủ trương, biện pháp công tác lớn trong năm 1992 với các mục tiêu:

- Toàn sư đoàn có bản lĩnh chính trị vững chắc, có sức chiến đấu cao sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ chiến đấu.

- Huấn luyện giỏi, kỷ luật nghiêm, xây dựng nền nếp chính quy tốt.

- Tổ chức bảo đảm tốt đời sống vật chất tinh thần cho bộ đội, đảm bảo quân số khỏe 98 phần trăm. Nghiêm chỉnh thực hiện các quy chế quản lý tài chính, sử dụng có hiệu quả các nguồn cơ sở vật chất hiện có.

- Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả các loại vũ khí trang bị không để hư hỏng xuống cấp nhanh, bảo đảm sẵn sàng chiến đấu cao. Các nhà kho, nhà xe, khu kỹ thuật phải đúng tiêu chuẩn, bảo đảm an toàn các loại xe pháo và có hệ số kỹ thuật cao.

- Đoàn kết quân dân tốt, phát huy bản chất tốt đẹp của bộ đội Cụ Hồ thực hiện quân với dân một ý chí.

Song song với nhiệm vụ huấn luyện, các đơn vị trong sư đoàn đều tích cực làm công tác vận động quần chúng, xây dựng địa bàn đóng quân an toàn, duy trì nghiêm các chế độ trực ban, trực chiến, trực chỉ huy, đảm bảo cho sư đoàn xây dựng rèn luyện chính quy và sẵn sàng chiến đấu cao. Trong năm sư đoàn đã cử 17 cán bộ đi làm nhiệm vụ ở quần đảo Trường Sa. Số cán bộ này đều phấn khởi nhận nhiệm vụ.

Nắm vững phương châm huấn luyện "cơ bản, thiết thực, vững chắc vận dụng 3 quan điểm, 6 kết hợp trong huấn luyện, coi trọng huấn luyện thực hành, bước vào mùa huấn luyện năm 1993 sư đoàn chú trọng tập huấn cán bộ tiểu đội, trung đội, nâng cao trình độ quản lý bộ đội cho cán bộ phân đội.

Ngày 14 tháng 3 năm 1993, Đảng uỷ quân sự Trung ương ra chỉ thị số 37CT DUQSTư) về đẩy mạnh xây dựng chính quy lên một bước mới. Chỉ thị nêu rõ! "Tập trung nâng cao trình độ chính quy về trang phục, lễ tiết, tác phong quân nhân, thực hiện có nến nếp các quy định trong điều lệnh quản lý bộ đội trước tiên là các chế độ sinh hoạt trong ngày, các chế độ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện quân sự, giáo dục chính trị, chế độ quản lý vũ khí trang bị kỹ thuật"

Cùng với toàn quân, Sư đoàn 312 đã có nhiều biện pháp giáo dục, quản lý, rèn luyện bộ đội, đưa các chế độ chính quy từng bước đi vào nền nếp.

Tháng 10 năm 1993, đồng chí Phùng Quang Thanh Sư đoàn trưởng được cử đi nhận nhiệm vụ mới. Đồng chí Nguyễn Khắc Nghiên - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 390 được trên điều động về làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 312. Cuối năm 1 993 sư đoàn tiến hành sơ kết 2 năm xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện và đề ra những biện pháp mới trong hai năm 1994 - 1995 .

Qua sơ kết sư đoàn đã rút ra những kinh nghiệm quý giúp cho các đơn vị trong toàn quân nghiên cứu thực hiện.

Một trong những thành công của sư đoàn trong 3 năm thực hiện "Xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện" là xây dựng được các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, đội ngũ cán bộ có phẩm chất năng lực tốt đủ sức hoàn thành mọi nhiệm vụ theo chức trách. Đến hết năm 1994 hầu hết cán bộ đã tự huấn luyện được theo phân cấp. Cán bộ cơ quan sư đoàn, trung đoàn tự soạn thảo được văn bản điều hành diễn tập cấp mình. Kết quả kiểm tra năm 1994 có 100 phần trăm các môn huấn luyện đạt yêu cầu trong đó 70 đến 75 phần trăm khá, giỏi. Tháng 9 năm 1994 Thanh tra Bộ Quốc phòng đã tiến hành thanh tra 17 nội dung công tác quân sự của sư đoàn trong đó 8 nội dung đạt giỏi, 9 đạt khá.

Ba năm xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, sư đoàn có bước chuyển biến quan trọng về bảo đảm đời sống bộ đội. 100 phần trăm doanh trại của sư đoàn đã được ngói hóa. Trung đoàn 209 đã hoàn thành xây dựng doanh trại chính quy là "đơn vị điểm" về xây dựng của toàn quân. Các đơn vị trong toàn sư đoàn có đủ điện, nước sinh hoạt cho bộ đội. Các đại đội: phòng, ban có vô tuyến truyền hình màu. Đời sống vật chất tinh thần của bộ đội được nâng lên một bước rõ rệt.

Với những nỗ lực vượt bậc, trong 4 năm (từ 1991 đến 1994) sư đoàn liên tục được xếp thứ nhất khối thi đua các sư đoàn trong toàn quân đoàn. Trong 4 năm liền trung đoàn 165 được nhận cờ thưởng luân lưu của Thủ tướng Chính phủ. Năm 1994 trung đoàn được Nhà nước thưởng huân chương Chiến công hạng nhì.

Phát huy truyền thống "Đoàn kết-Anh dũng - Chiến thắng" cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 312 đang ra sức huấn luyện, xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, nắm chắc tay súng bảo vệ công cuộc đổi mới, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh

KẾT LUẬN

27-12-1950 - 27-12-1995, Sư đoàn bộ binh 312 - Đại đoàn Chiến Thắng vừa tròn 45 tuổi

Là một sư đoàn chủ lực cơ động của Bộ. ra đời từ những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được sự lãnh đạo của Đảng, sự quan tâm dạy dỗ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự chăm lo đùm bọc của nhân dân, Sư đoàn 312 đã xây dựng, chiến đấu anh dũng, vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, viết nên truyền thống vẻ vang "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng".

Ngay từ khi ra đời, đội hình sư đoàn đã bao gồm nhiều đơn vị từng lập chiến công oanh liệt trên các chiến trường Việt Bắc, Tây Bắc, Trung Du và đồng bằng Bắc Bộ

Trung đoàn 209 - đơn vị nòng cốt thành lập đại đoàn - từng hai lần chiến thắng giặc Pháp trên sông Lô (1947-1949), được tặng danh hiệu "trung đoàn Sông Lô". Trung đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến dịch Biên Giới với gương hy sinh anh dũng lấy thân mình lấp lỗ châu mai của anh hùng Trần Cừ.

Trung đoàn 165 - trung đoàn Lao Hà - chịu đựng và vượt qua muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bám dân, bám đất, gây dựng cơ sở cánh mạng ba lần giải phóng Lào Cai, Hà Giang được tặng danh hiệu "trung đoàn Thành Đồng Biên Giới"

Trung đoàn 141 nòng cốt là tiểu đoàn 11 - đơn vị đánh địch trong công sự vững chắc đầu tiên ở Phủ Thông, được tặng danh hiệu "tiểu đoàn Phủ Thông". Trong chiến dịch Hòa Bình (l952.), trung đoàn lập chiến công oanh liệt, tiêu diệt quân Pháp trên điểm cao 400 và 600 (núi Ba Vì), được tặng danh hiệu "trung đoàn Ba Vì".

Ngay từ trận đầu ra quân trong chiến dịch Trung Du, sư đoàn đã tiêu diệt 1 tiểu đoàn âu Phi trong trận vận động trên cánh đồng Xuân Thạch (Vĩnh Yên), đập tan cuộc hành quân "chim Dẽ Giun" của quân Pháp, mở đầu trang sử chiến đấu và chiến thắng vẻ vang.

Từ đó, chiến công nối tiếp chiến công, sư đoàn liên tục tham gia các chiến dịch lớn trên các chiến trường Trung Du, Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc. Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, sư đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh các trận mở đầu nổi tiếng ở Him Lam, Độc Lập và kết thúc oanh liệt bằng trận đánh thẳng vào sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm địch ở Mường Thanh, bắt sống tướng Đờ Cát-xtơ-ri và toàn bộ bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm.

Chiến dịch Điện Biên Phủ đánh dấu bước trưởng thành nhanh của sư đoàn: từ một đơn vị hoạt động phân tán đánh nhỏ lẻ, sư đoàn đã tiến lên đánh tập trung tiêu diệt địch trong tập đoàn cứ điểm.

Sự trưởng thành vượt bậc cùng những chiến công xuất sắc của sư đoàn gắn liền với những tấm gương chiến đấu dũng cảm tuyệt vời của các anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quân, toàn quốc: Phan Đình Giót, Trần Can, Nguyễn Văn Thuần, Đinh Văn Mẫu, Chu Viết Sòi, Phan Xuân Hội, Trần Văn Chơ... với những tập thể dũng sĩ kiên cường trên trận địa phòng ngự đồi 75, tiểu đội thọc sâu Trần Ngọc Doãn, tổ chiến đấu Luật - Vinh -Nhỏ, v.v...

Phát huy truyền thống vừa xây dựng vừa chiến đấu, xây dựng ngay trong chiến đấu sau chiến dịch Điện Biên Phủ, sư đoàn đã cùng với toàn quân tiến lên xây dựng huấn luyện chính quy, hiện đại theo phương hướng cơ bản hệ thống, toàn diện, đáp ứng yêu cầu tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn.

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sư đoàn vừa huấn luyện, chiến đấu bảo vệ miền Bắc, vừa tích cực chi viện chiến trường. Nhiều đơn vị của sư đoàn đã vào tham gia những trận chiến đấu mở đầu cao trào diệt Mỹ, diệt ngụy ở miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế. Từ năm 1965 đến năm 1968 sư đoàn đã lần lượt đưa 4 trung đoàn, 9 tiểu đoàn bổ sung cho chiến trường. Từ một sư đoàn phát triển thành hai sư đoàn hoàn chỉnh, một số trung đoàn được Bộ điều đi làm nòng cốt thành lập các sư đoàn mới hoặc làm nòng cốt xây dựng lực lượng vũ trang ở các địa bàn quan trọng ở miền Nam.

Năm 1969, sư đoàn được Bộ cử đi làm nhiệm vụ quốc tế cùng nhân dân và các lực lượng vũ trang yêu nước Lào sát cánh bên nhau chống kẻ thù chung. Sư đoàn liên tục tham gia 5 chiến dịch, cùng lực lượng bạn tiêu diệt địch, thu hồi Cánh Đồng Chum, giải phóng Mường Sủi, Sảm Thông, Long Chẹng. Keo Bon và nhiều vùng quan trọng khác. Sư đoàn đã làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang của Đảng và nhân dân giao cho.

Mùa hè năm 1972, từ Cánh Đồng Chum trở về, sư đoàn đã tham gia chiến đấu đánh địch ở Quảng Trị. Tại đây, lần đầu tiên toàn sư đoàn thực hành chiến đấu trong chiến dịch phòng ngự. tiêu diệt địch, góp phần giữ vững vùng giải phóng.

Tháng 10 năm 1973, sư đoàn được đứng trong đội hình chiến đấu của Quân đoàn 1. Sau một năm huấn luyện xây dựng. mùa Xuân 1975 sư đoàn hành quân thần tốc tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu tiêu diệt sư đoàn 5 ngụy trên cửa ngõ phía bắc Sài Gòn.

Sau ngày Tổ quốc độc lập thống nhất, nhận thức đúng đắn vai trò nhiệm vụ của một sư đoàn chủ lực cơ động trước yêu cầu bảo vệ và xây dựng đất nước cán bộ chiến sĩ sư đoàn hăng hái luyện lập xây dựng đơn vị theo hướng cách mạng chính quy tinh nhuệ, từng bước hiện đại đồng thời tích cực lao động, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Khi chiến tranh ở biên giới Tây Nam và phía Bắc nổ ra, toàn sư đoàn đã nhanh chóng tập trung huấn luyện nâng cao sức mạnh chiến đấu, cử hàng nghìn cán bộ chiến sĩ tăng cường cho các đơn vị bạn chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, đồng thời hai lần tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc Tổ quốc.

Trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, ba năm (1989 -1990 - 1991) sư đoàn đã xây dựng thành công 3 trung đoàn vững mạnh toàn diện theo 5 yêu cầu của Bộ. Từ năm 1992, trong 4 năm liên tục, sư đoàn tiếp tục hoàn thành tốt nhiệm vụ xây dựng sư đoàn vững mạnh toàn diện, dẫn đầu phong trào thi đua của quân đoàn.

45 năm chiến đấu xây dựng trưởng thành sư đoàn không ngừng rèn luyện bản lĩnh và nâng cao trình độ chiến đấu từ tác chiến phân tán, đánh nhỏ tiến lên đánh tập trung hiệp đồng binh chủng quy mô sư đoàn trong đội hình quân đoàn và nhiều quân đoàn với nhiều hình thức chiến thuật phong phú: đánh vận động, đánh công sự vững chắc, tiến công phản công, phòng ngự trận địa.. . Ở hình thức nào sư đoàn cũng tìm ra cách đánh sáng tạo với hiệu suất chiến đấu ngày càng cao. Qua chiến đấu, sư đoàn tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý góp phần làm phong phú nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Từ trong xây dựng, chiến đấu gian khổ ác liệt truyền thống "Đoàn kết - Anh dũng - Chiến thắng" của sư đoàn được tôi luyện phát huy mạnh mẽ. Đoàn kết là yếu tố hết sức quan trọng để tạo nên sức mạnh chiến đấu: vì vậy lớp lớp cán bộ, chiến sĩ không ngừng củng cố và phát huy truyền thống "Đoàn kết " trong học tập, rèn luyện chiến đấu.

Trong những tháng thiếu cơm, nhạt muối thời kỳ kháng chiến chống Pháp hay trên chiến trường nước bạn, những ngày chiến đấu cực kỳ ác liệt, gian khổ ở Quảng Trị, những ngày phân tán phối hợp chiến đấu với các đơn vị bạn, nhờ trên dưới đoàn kết một lòng, đoàn kết với đơn vị bạn, đoàn kết với nhân dân mà sư đoàn đã vượt qua mọi khó khăn và chiến thắng vẻ vang. Cán bộ, đảng viên không những là hạt nhân đoàn kết nội bộ, nhường cơm, sẻ áo, chia lửa cho nhau, tạo thuận lợi cho bạn, giành khó khăn về mình, mà còn là nhân tố tạo nên sự phát triển mới, sinh động trong khối đoàn kết nhất trí vững mạnh của toàn sư đoàn..

Truyền thống Anh dũng của sư đoàn không chỉ dừng lại ở tinh thần chiến đấu tiến công dũng mãnh, phòng ngự kiên cường. dám xả thân vì dân. vì nước, vì nghĩa vụ quốc tế mà còn là biểu hiện ở tài trí của cán bộ, chiến sĩ, nắm vững khoa học và nghệ thuật quân sự trong công tác tổ chức, chỉ huy, sáng tạo trong vận dụng chiến thuật và thực hành chiến đấu. Cùng với những anh hùng: chiến sĩ thi đua trong kháng chiến chống Pháp đã có thêm nhiều anh hùng dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ như Hoàng Đăng Miện, Nguyễn Thế Thao, Nguyễn Văn Được, Nguyễn Như Kim, Đỗ Viết Mạc. Nguyễn Xuân Quy, Nguyễn Văn Nhắc, Y Hòa, Phạm Hòa Bình và hàng nghìn chiến sĩ khác, là những tập thể tiểu đội dũng sĩ trên điểm cao 1378. đại đội 1, đại đội 6, tiểu đoàn 16, trung đoàn 165, trung đoàn 209 anh hùng bằng hành động thực tế của mình đã không ngừng tô thắm truyền thống "Anh dũng" của sư đoàn.

" Đoàn kết", "Anh dũng" đã đưa đến hiệu quả: "Chiến thắng" . Sư đoàn đã đánh thắng địch trên các địa bàn, các chiến trường, cả mùa mưa và mùa khô, cả trong tiến công và trong phòng ngự trận địa, cả trong đánh nhỏ, đánh vừa và đánh lớn, đã ra quân là chiến thắng, thắng địch ngay từ trận đầu, thắng địch cả trong lúc khó khăn, thiếu thốn, tiêu diệt gọn từng đơn vị địch, từ 1 tiểu đoàn đến nhiều chiến đoàn, trung đoàn địch.

Ghi nhận những đóng góp lớn lao của cán bộ chiến sĩ sư đoàn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngày 15 tháng 1 năm 1976. Quốc hội và Chính phủ đã quyết định tặng sư đoàn danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".

Mỗi chiến công, mỗi bước trưởng thành của sư đoàn 45 năm qua gắn liền với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng của Bác Hồ, sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh, sự giúp đỡ của các đơn vị bạn, công lao nuôi dưỡng đùm bọc của nhân dân, sự giúp đỡ của anh em bầu bạn quốc tế. Tự hào về truyền thống chiến đấu vẻ vang, về những chiến công oanh hệt của sư đoàn 45 năm qua, cán bộ chiến sĩ sư đoàn hôm nay càng ghi nhớ công ơn của các anh hùng liệt sĩ đã quên mình vì Tổ quốc, ghi nhớ công lao của nhân dân các địa phương từng gắn bó đùm bọc sư đoàn suốt những năm tháng chiến đấu gian lao và anh dũng, ghi nhớ sự đóng góp hy sinh của các gia đình thương binh liệt sĩ đã cống hiến cho quân đội nói chung, sư đoàn nói riêng những cán bộ chiến sĩ ưu tú. Sự hy sinh thầm lặng và những đóng góp to lớn của nhân dân đã tiếp thêm sức mạnh cho sư đoàn vượt qua mọi thử thách hy sinh vươn lên giành nhiều thắng lợi trong chiến đấu và trong xây dựng sư đoàn chính quy hiện lại.

Với truyền thống vẻ vang và kinh nghiệm phong phú của 45 năm chiến đấu và xây dựng, với trang bị hiện đại, được huấn luyện chính quy, tinh nhuệ, cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 312 đang ngày đêm nâng cao cảnh giác, rèn luyện. sẵn sàng chiến đấu, góp phần cùng toàn quân và toàn dân đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động bảo vệ vững chắc công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng nhân dân, quân đội giao cho trong giai đoạn cách mạng mới.

PHỤ LỤC

I - NHỮNG PHẦN THƯỞNG CAO QUÝ

- Năm 1950 sư đoàn được Bộ Tổng tư lệnh tặng cờ "Gìn giữ non sông" do kiều bào Pháp tặng Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam.

- Năm 1954 sư đoàn được Bộ Tổng tư lệnh trao tặng cờ "Quyết chiến, quyết thắng" của chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Năm 1961 - 1962 - 1963 - 1964 sư đoàn được Bộ Quốc phòng tặng cờ "Đơn vị huấn luyện khá nhất".

- Từ năm 1965 đến năm 1968, bốn trung đoàn ( 14la, 165A, 209A, 141 B ) và một số tiểu đoàn vào chiến đấu ở chiến trường miền Nam. Ba trung đoàn 141A, 165A, 209A được tổ chức thành Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4), một trong những sư đoàn chủ lực của Miền, hai lần được tuyên dương "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân" .

- Trong 3 năm từ năm 1969 đến năm 1972, sư đoàn đã cùng quân và dân vào chiến đấu trong các chiến dịch lớn 139, 74b, Z . Sư đoàn đã diệt gọn nhiều đơn vị địch bắn rơi 97 máy bay, phá hủy 630 khẩu pháo các loại, giải phóng nhiều vùng quan trọng, được tặng thưởng 1 huân chương Quân công hạng nhì, 7 huân chương Quân công hạng ba, 51 huân chương Chiến công.

- Trong chiến dịch 139 (9.1969-8.l970) giải phóng Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng lần thứ nhất, Sư đoàn được ủy ban trung ương mặt trận yêu nước Lào tặng bức trướng "Đơn vị lập công xuất sắc" và huân chương ít xa-la.

- Năm 1972 sư đoàn được Bộ tư lệnh mặt trận Cánh Đồng Chum - Xiêng Khoảng tặng cờ "Đơn vị lập công xuất sắc mùa khô 1971 - 1972".

- Ngày 15-1-1976, sư đoàn được Quốc hội và Chính phủ tuyên dương danh hiệu "Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân".

- Năm 1976, sư đoàn được Chủ tịch Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa. Tháng 9-1978, sư đoàn được Nhà nước Lào tặng cờ "Truyền thống vẻ vang của Quân đội nhân dân cách mạng Lào".

- Năm 1982, sư đoàn được Bộ Quốc phòng tặng cờ "Đơn vị xuất sắc trong cuộc vận động phát huy bản chất tốt đẹp, nâng cao sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang nhân dân" do Ban Bí thư Trung ương Đảng phát động từ năm 1978 đến năm 1982.

- Ngày 19 tháng 12 năm 1984, sư đoàn được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng huân chương Hồ Chí Minh.

- Năm 1987, sư đoàn được Hội đồng Bộ trưởng tặng cờ "đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua".

- Năm 1988 sư đoàn được Bộ tư lệnh Quân khu 2 tặng cờ "Đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ chiến đấu tại mặt trận Vị Xuyên".0902293979

- Ba năm 1992 - 1993 - 1994 trung đoàn 165 được tặng cờ luân lưu "Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua" của Hội đồng Bộ trưởng.

- Bốn năm 1991 - 1992 - 1993 - 1994 sư đoàn được Bộ tư lệnh Quân đoàn 1 tặng cờ luân lưu "Đơn vị dẫn đầu khối thi đua sư đoàn".

- Năm 1993 trong Hội thao diễn tập vận tải bộ toàn quân lần thứ 2, sư đoàn được Bộ Quốc phòng tặng cờ: nhất môn vận tải bộ, nhất môn vận tải xe thô sơ, nhất toàn đoàn.

- Đầu năm 1994 sư đoàn được Chủ tịch nước Lê Đức Anh gửi tặng lẵng hoa.

- Năm 1994 trung đoàn 165 được Nhà nước tặng thưởng huân chương Chiến công hạng nhì.

II - NHỮNG ĐƠN VỊ, CÁ NHÂN ĐƯỢC TUYÊN DƯƠNG DANH HIỆU ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

* Đơn vị:

- Sư đoàn 312.

-Trung đoàn 209.

- Trung đoàn 165.

- Tiểu đoàn 16 .

- Đại đội 1, tiểu đoàn 7, trung đoàn 209.

- Đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 141.

* Cá nhân:

- Đồng chí Trần Cừ: quê xã Đức Bắc, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú. Đại đội trưởng đại đội 366, tiểu đoàn 130, trung đoàn 209, lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận Đông Khê, chiến dịch Biên Giới 1950.

- Đồng chí Phan Đình Giót: quê xã Tam Quan, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Tiểu đội trưởng (đại đội 6, tiểu đoàn 428, trung đoàn 141) lấy thân mình lấp lỗ châu mai trong trận Him Lam, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

- Đồng chí Trần Can: quê xã Sơn Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Tiểu đội trưởng (đại đội 366, tiểu đoàn 130, trung đoàn 209) cắm cờ trên cứ điểm Him Lam. Hy sinh khi chỉ huy đại đội 366 tiêu diệt cứ điểm 507, chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

- Đồng chí Nguyễn Văn Thuần: quê xã Quỳnh Lâu, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 16, trung đoàn 141 luôn luôn dẫn đầu đơn vị xung phong diệt địch. Từ trận Phủ Thông đến chiến dịch Điện Biên Phủ được tặng 7 huân chương Quân công và Chiến công.

- Đồng chí Đinh Văn Mẫu: quê xã Phú Khánh, huyện Yên Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Chiến sĩ nuôi quân tiểu đoàn 154, trung đoàn 209. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ dũng cảm, mưu trí vượt qua bom đạn ác liệt, đưa cơm nước cho chiến sĩ ra tận chiến hào.

- Đồng chí Hoàng Đăng Miện: quê xã Thịnh Đức, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc. Chiến sĩ B41 đại đội 9, tiểu đoàn 6, trung đoàn 165, lập nhiều thành tích xuất sắc trên chiến trường Lào, hy sinh anh dũng trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972..

- Đồng chí Nguyễn Thế Thao: quê xã Quỳnh Lưu, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đại đội trưởng đại đội 9, tiểu đoàn 6, trung đoàn 165 chỉ huy đơn vị đánh chiếm nhiều cứ điểm của địch ở chiến trường Lào, lập công xuất sắc trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972.

- Đồng chí Nguyễn Văn Được: quê xã Thành Tín, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Đại đội trưởng đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 141. Chỉ huy chiến đấu dũng cảm, lập công xuất sắc trên chiến trường Lào và trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972.

III CÁN Bộ LÃNH ĐẠO, CHỈ HUY SƯ ĐOÀN QUA CÁC THỜI KỲ

* Sư đoàn trưởng:

- Lê Trọng Tấn: 1950 - 1955 .

- Hoàng Cầm: 1955 - 1964 .

- Lê Thanh: 1964 - 1967

- Nguyễn Năng: 1967 - 1970

- Lã Thái Hòa: 1971 - 1974

- Nguyễn Chuông: 1974 - 1978

- Nguyễn Văn Kiệm: 1978 - 1979

- Trần Minh Vân: 1979 - 1980, 1982 - 1988

- Dương Quang Bách: 1980 - 1981 .

- Phùng Quang Thanh: 8-1988 - 2-1989, 8- 1991 - 8-1993

- Nguyễn Trọng Thắng: 3-1989 - 8-1991

- Nguyễn Khắc Nghiên: 8-1993...

* Chính ủy (phó sư đoàn trưởng về chính trị):

- Trần Độ : 1950 - 1955

- Nguyễn Anh Bảo: 1955 - 1960

- Lê Chiêu: 1961 - 1963, 1968 - 1971

- Vũ Đức Thái: 1964 - 1967

- Hoàng Phương: 1967 - 1968

- Phạm Sinh: 1971 - 1974

- Nguyễn Xuyên: 1974 - 1976

- Đỗ Trường Quân: 1976 - 1979

- Trần Văn Trấn: 1980

- Lê Viết Viên: 1981 - 1984

- Nguyễn Đức Sơn: 1985 - 8-1988

- Ngô Luân: 8-1988 - 8-1991

- Lê Xuân Thu: 8- 1991 . . .

IV CÁC TƯỚNG LĨNH TỪNG THAM GIA XÂY DỰNG VÀ CHIẾN ĐẤU Ở SƯ ĐOÀN 312

- Đại tướng Lê Trọng Tấn .

- Thượng tướng Đàm Quang Trung

- Thượng tướng Hoàng Cầm

- Thượng tướng Đào Đình Luyện

- Trung tướng Trần Độ

- Trung tướng Nguyễn Năng

- Trung tướng Hoàng Phương

- Trung tướng Phạm Sinh

- Trung tướng Lê Linh

- Trung tướng Vũ Nam Long

- Trung tướng Trần Nhẫn

- Trung tướng Lê Thùy

- Trung tướng Lê Nam Phong

- Trung tướng Nguyễn Văn Kiệm

- Thiếu tướng Lê Thanh

- Thiếu tướng Lê Chiêu

- Thiếu tướng Vũ Đức Thái

- Thiếu tướng Nguyễn Phú Chú

- Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh

- Thiếu tướng Vũ Chí Đạo.

- Thiếu tướng Nguyễn Anh Đệ

- Thiếu tướng Trần Nguyên Độ

- Thiếu tướng Chu Phương Đới

- Thiếu tướng Trần Duy Hạnh

- Thiếu tướng Vũ Khắc Hào

- Thiếu tướng Tạ Đình Hiếu

- Thiếu tướng Hồ Quang Hóa.

- Thiếu tướng Nam Hồ

- Thiếu tướng Trần Linh

- Thiếu tướng Hoàng Kiện

- Thiếu tướng Đỗ Trường Quân

- Thiếu tướng Nguyễn Xuyên

- Thiếu tướng Nguyễn Chuông

- Thiếu tướng Đinh Tích Quân

- Thiếu tướng Vũ Việt Hồng.

- Thiếu tướng Chu Thanh Hương

- Thiếu tướng Trần Văn Khánh

- Thiếu tướng Đặng Hữu Lộc

- Thiếu tướng Dũng Mã

- Thiếu tướng Trần Văn Phác

- Thiếu tướng Đinh Đình Sành

- Thiếu tướng Đỗ Phú Vàng

- Thiếu tướng Lê Thế Trung

- Thiếu tướng Bùi Đức Tùng

- Thiếu tướng Phạm Đăng Ty

- Thiếu tướng Tạ Vân

- Thiếu tướng Vũ Xuân Sinh

- Thiếu tướng Nguyễn Thế Trị

- Thiếu tướng Nguyễn Văn Được

- Thiếu tướng Phùng Quang Thanh

- Thiếu tướng Đặng Ngọc Trung

The end.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#doan#lich