lich su TH phuong Tay

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

I. TRIẾT HỌC  - “CUỘC HNH TRÌNH HƯỚNG ĐẾN CHÂN LÝ”

1.     Triết học và đối tượng của triết học.

Tư tưởng triết học ra đời từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VII Tr. CN tại Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại. Thuật ngữ “Triết học”* xuất phát từ tiếng Hy Lạp                                                              (phiên âm ra tiếng Latinh là phileo) – yêu thích, và                 (sophia) – thông thái, có nghĩa là “yêu thích sự thông thái” (philosophia). Khi tự xem mình là “người yêu thích sự thông thái “(philosophos) Pythagoras (nửa sau thế kỷ thứ VI - đầu  thế kỷ V Tr.CN) đã nhấn mạnh ý nghĩa của triết học là khát vọng vươn tới tri thức, tìm kiếm chân lý. Platon (427 – 347 tr.CN) và Aristoteles (384 – 322 tr. CN) là những người đã phân biệt tri thức triết học với các lĩnh vực khác của nhận thức, xác định nhiệm vụ của triết học là nhận thức các chân lý vĩnh cửu và tuyệt đối (Platon), hay vươn tới cái phổ quát (universaly) trong thế giới, suy ra, đối tượng của triết học là cơ sở ban đầu và nguyên nhân của tồn tại. Như vậy triết học ở thời kỳ đầu tiên được xem như tri thức lý luận phổ quát duy nhất, bao trùm là “ khoa học của các khoa học”.

Từ thế  kỷ XV trở đi quá trình chuyên biệt hóa tri thức đưa đến sự ra đời các ngành khoa  học cụ thể, với hệ thống lý luận chuyên biệt của mình.Quan niệm truyền thống xem triết học là “khoa  học của các khoa học” trên thực tế đã không thể hiện được bức tranh chung và lôgíc nội tại của sự phát triển tri thức. Định nghĩa triết học, do lệ thuộc vào các yếu tố khác nhau như đặc thù của từng khu vực (phương Đông, phương Tây), sự mở rộng không ngừng các lĩnh vực nghiên cứu, những biến đổi chính trị – xã hội, cách tiếp cận chủ quan của từng nhà triết học… nên cũng không đạt được sự nhất trí hoàn toàn. Mặc dù vậy vẫn có thể chú ý đến các điểm chung nhất trong đối tượng nghiên cứu của triết học với tính cách là hình thái đặc thù của ý thức xã hộidạng nhận thức tổng quát như sau:

Nghiên cứu những vấn đề chung  nhất của tồn tại, hay khía cạnh bản thể luận * của triết học.

Nghiên cứu những vấn đề chung  nhất của nhận thức, hay khía cạnh nhận thức luận * của triết học.

+  Nghiên cứu những vấn đề chung  nhất của  sự vận động và phát triển xã hội, hay triết học xã hội.

Nghiên cứu những vấn đề chung  nhất và cơ bản nhất của con người, do con người tạo ra trong quá trình sáng tạo lịch sử, hay nhân học triết học* , triết học về con người.

Tóm lại, triết học là học thuyết  về những vấn đề và những  nguyên lý chung    nhất của giới tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ giữa con người với con người và với thế giới chung quanh.

Một cách cô đọng, có thể hình dung các bộ phận của triết học là học thuyết về tồn tại (hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này), học thuyết về nhận thức, học thuyết về giá trị, thông qua đó làm sáng tỏ  yếu tố nhận thức và yếu tố đánh giá trong mọi hệ thống triết học. Là sản phẩm tất yếu của sự phát triển và hoàn thiện của xã hội, triết học còn được xem như thành tố không tách rời của văn hóa tinh thần, tinh hoa tinh thần của mỗi thời đại và mỗi dân tộc trên những chặng đường nhất định.

Triết học luôn được trình bày dưới dạng lý luận,  trong đó thể hiện hệ thống các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật, các phương pháp nghiên cứu; chúng mang tính chất chung nhất, được phổ biến vào tự nhiên, xã hội, con người (tư duy về tư duy) – đó là đặc trưng của lý luận triết học. Nói cách khác, triết học xem xét thế giới như nội dung chỉnh thể và xác lập quan niệm có tính hệ thống về chỉnh thể đó.

2.     Triết học và thế giới quan.

Mọi triết học đều là thế giới quan, tức  hệ thống các quan điểm về thế giới khách quan, về vị trí con người trong thế giới, về quan hệ của con người với thế giới xung quanh và với chính mình, kể cả thái độ sống của con người, chính kiến, lý tưởng, nguyên tắc nhận thức và hoạt động, định hướng giá trị, chịu sự chế định của những quan niệm ấy. Khái niệm “thế giới quan” rộng hơn khái niệm “triết học”, nghĩa là triết học cũng là một dạng thế giới quan, có thể so sánh với các thế giới quan khác như thế giới quan thần thoại, thế giới quan nghệ thuật, thế giới quan tôn giáo…

Thế giới quan là kết quả phản ánh thế giới. Nó có thể diễn ra ở cấp độ đời thường, chịu tác động trực tiếp của điều kiện sống và kinh nghiệm của con người, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cấp độ  này của thế giới tồn tại dưới hình thức các quan niệm tự phát, thiếu hệ thống về thế giới. Sự phản ánh thông quan các khái niệm, vạch ra được tính quy luật, bản chất của các sự vật, hiện tượng, quá trình, là sự phản ánh ở cấp độ cao, gắn với tư duy trừu tượng và tri thức lý luận. Triết học thuộc về cấp độ này của thế giới quan. Thế giới quan triết học thể hiện dưới hình thức khái niệm, phạm trù,  dựa vào các thành tựu của khoa học chuyên biệt, cụ thể về tự nhiên, xã hội và con người như chất liệu sống cho những luận giải mang tính khái quát lý luận cao của mình.

Ở phương diện lịch sử thế giới quan triết học xuất hiện muộn hơn thần thoại và tôn giáo.* Theo các dữ liệu khoa học hiện đại tôn giáo xuất hiện vào khoảng hơn năm mươi ngàn năm trước đây, vào thời kỳ chớm bắt đầu tan rã của công xã nguyên thủy, còn thần thoại thì ngay từ buổi bình minh của lịch sử loài người đã trở thành hình thái ý thức chủ đạo, là thế giới quan của người nguyên thủy. Thần thoại là sự đối thoại đầu tiên, đầy tính hoang tưởng, của con người với thế giới xung quanh. Người  nguyên thủy bị vây bọc trong quyền lực của xúc cảm và của trí tưởng tượng; những quan niệm của họ về sự vật còn mơ hồ, rời rạc, phi lôgíc. Các  yếu tố tư tưởng và tính cảm, tri thức và nghệ  thuật, tinh thần và vật chất, khách quan và chủ quan, hiện thực và suy tưởng, tự nhiên và siêu nhiên chưa bị phân đôi. Triết học ra đời chính là sự vượt qua tư duy dưới hình thức hình tượng cảm tính và tự phát bằng tư duy lý luận, hay tư duy dưới hình thức các khái niệm, xác lập bức tranh về thế giới một cách có hệ thống. Triết học là trình độ tự giác trong quá trình phát triển của thế giới quan.

  Tóm lại, triết học là cấp độ cao nhất của thế giới quan,  là hệ thống các quan     điểm lý luận chung nhất về thế giới và vị trí của con người trong thế giới. Theo nghĩa đó triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan; nó có chức năng tìm hiểu và vạch ra ý nghĩa hợp lý và các quy luật phổ biến của sự tồn tại và phát triển của thế giới và con người.

II VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC.

1.     Thế nào là vấn đề cơ bản của triết học?

Với tính cách là tri thức lý luận có hệ thống luôn được làm giàu thêm qua mỗi chặng đường phát triển của lịch sử, triết học đứng trước hàng loạt các vấn đề cần giải đáp, trong đó có vấn đề vừa nêu trên: triết học là gì? Các nhà triết học  căn cứ vào việc giải quyết vấn đề đó mà hình thành quan điểm của mình, xác nhận những nội dung cụ thể và sử dụng những phạm trù thích hợp để làm sáng tỏ điều cần quan tâm. Mỗi học thuyết triết học thường đặt ra một vấn đề chính xuyên suốt, thông qua đó bày tỏ quan điểm chủ đạo của mình. Các vấn đề khác đều xoay quanh cái trục chính đó. Thời đại lịch sử cũng vậy: những đổi thay của xã hội, sự mở rộng không ngừng chân trời nhận thức của con người, sự phát triển ngày càng phong phú các lĩnh vực tri thức đưa đến sự điều chỉnh các vấn đề triết học. Cái hôm qua đóng vai trò chủ đạo ,hôm nay có thể biến thành thứ yếu,, nhược lại cái cá biệt, do sự vận động tiếp theo của lịch sử, có thể trở thành cái phổ biến. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn vấn đề chung, quy định bản chất của tư duy triết học, đó là vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay “ tâm” và “vật”, ý thức và vật chất. Đó là vấn đề cơ bản lớn của triết học,  bởi lẽ việc giải quyết nó là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác, đồng thời cho phép xác định tính khuynh hướng thế giới quan của các học thuyết triết học, mà tính khuynh hướng đó, xét đến cùng, tập trung ở chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, cùng các biến thái của chúng.

Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:

1. Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau, và cái nào là quyết định?

2. Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không, va nhận thức như thế nào?

2. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm 

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học đưa đến sự hình thành hai khuynh hướng lớn trong lịch sử triết học là chủ nghĩa duy vậtchủ nghĩa duy tâm. Các nhà duy vật giải thích mọi thứ từ vật chất, xem vật chất là cái có trước (ci mang tính thứ nhất), xuất phát và quyết định ý thức. Ngược lại, các nhà duy tâm giải thích mọi thứ trên cơ sở một bản nguyên tinh thần nào đó, xem tinh thần là cái có trước và quyết định trong quan hệ với thế giới vật chất. Sự phân cực thế giới quan như vậy được thực hiện ngay từ thời cổ đại, và xuyên suốt quá trình phát triển của triết học, tạo nên xung lực của sự phát triển tư tưởng triết học.

Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tm trong nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “siêu phàm”, cái “thần tính” của con người, để phân biệt với cái “không thuộc về thần linh”, không “siêu phàm”, tức thế giới không-phải-con-người. Vì thế m nhn đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn” (V.I.Lnin tồn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, H Nội, 2006, tr. 293).

+ Trong quá trình phát sinh và phát triển của mình chủ nghĩa duy vật trải qua các hình thức cơ bản sau:

1. Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ  (CNDV tự phát, xét theo cơ sở, qu trình hình thnh  lẫn trình độ của nó) tại các nước phương Đông(Ấn Độ, Trung Quốc…) và Hy Lạp, La Mã cổ đại là hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật. Các nhà triết học bước đầu vượt qua thế giới quan huyền thoại, màthần thoại là hạt nhân của nó, giải thích nguyên nhân thế giới từ chính các yếu tố vật chất sẵn có của thế giới (đất, nước, lủa, không khí…), xem xét sự hình thành của các sự vật một cách tự  thân. Tính chất ấu trĩ của chủ nghĩa duy vật cổ đại gắn với trình độ nhận thức chung của loài người thời kỳ này. Phần lớn nhận định của chủ nghĩa duy vật căn cứ vào sự quan sát trực tiếp hay suy tưởng của các triết gia, mà chư a được luận chứng bằng chất liệu sống  của tri thức khoa học, vốn còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai. Bên cạnh đó do chịu sự quy định của điều kiện xã hội, văn hóa hiện tồn, nhiều nhà duy vật chưa chấm dứt hẳn sự ràng buộc của thế giới quan nguyên thủy (vật hoạt luận, vật linh thuyết, nhân hình hóa…) và các yếu tố huyền học (occultism)*.

2. Chủ nghĩa duy vật máy móc -  siêu hình ở châu  Âu Phục hưng và cận đại ( thế kỷ XVII  -nửa đầu thế kỷ XIX) là hình thức lịch sử thứ hai của chủ nghĩa duy vật. Nó bắt đầu từ tư tưởng duy vật trong việc xác lập bức tranh vật lý về thế giới ở cc nh khoa học Phục hưng (Copernic, Bruno, Galilei...) đến các nhà duy vật thế kỷ XVII tại Anh, Pháp, Hà Lan, Italia... và kết thúc ở chủ nghĩa duy vật nhân bản Feuerbach tại Đức, trước khi được thay thế bằng hình thức tiếp theo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này phát triển trong mối liên hệ với khoa học tự nhiên. Nhờ biết dựa vào các thành tựu khoa học các nhà duy vật đã xác lập được các bức tranh mới về thế giới, bước đầu đưa ra những nhận định hợp lý về tự nhiên, các quy luật của nó, phát triển tinh thần hoài nghi và phê phán đối với chủ nghĩa giáo điều và giả khoa học, tham gia vào quá trình thiết lập  “nhà nước học lý tính”, đề cao hình ảnh” con người lý trí” và các giá trị nhân văn chủ đạo. Bên cạnh đó sự phổ biến mạnh mẽ của cơ học, là ngành khoa học chiếm vị trí thống trị vào thế kỷ XVII – XVIII, đã ảnh hưởng đến cách thức tư duy của đa phần các nhà duy vật. Dưới tác động của cơ học, các nhà triết học ( nhất là các nhà triết học thế kỷ XVII ) quy các quá trình của tự nhiên vào dạng vận động cổ điển là vận động cơ học, xem con người và các thiết chế xã hội như hệ thống máy móc phức tạp (công thức: “con người - cỗ máy”). Tính chất máy móc tất yếu gắn với tính chất siêu hình: trong khi nỗ lực đào sâu từng mặt, từng thuộc tính của sự vật , khám phá bản chất sâu kín của vạn vật (siêu hình), các nhà triết học duy vật xem xét chúng trong trạng thái tách biệt,  chưa vạch ra mọt cách thấu đáo mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng cũng như không đưa ra lời giải đáp hợp lý về nguồn gốc và động lực của vận động và phát triển.

3. Chủ nghĩa duy vật biện chứng, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật lẫn php biện chứng thời trước, tạo nên sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, sự thống nhất về thế giới quan và phương pháp luận.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền trước hết với tên tuổi của K. Marx và F. Engels, là hình thức hiên đại của chủ nghĩa duy vật,  đánh dấu bước chuyển từ tư duy” cổ điển” truyền thống, bắt đầu từ thời cổ đại sang phương pháp  tiếp cận mới đối với các vấn đề tự nhiên, xã hội và con người. Sự ra đời của chủ  nghĩa duy vật biện chứng đánh dấu bước ngoặt có tính cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học, làm tăng thêm vị trí và vai trò của triết học trong đời sống xã hội. Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn xã hội, các luận điểm nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn thường xuyên được bổ sung, điều chỉnh, và điêù này hoàn toàn phù hợp với chính bản chất của nó.

+ Trong phạm vi chủ nghĩa duy vật, cùng với việc làm sáng tỏ về mặt lịch sử các hình thức cơ bản của nó,  người ta còn phân biệt:

 - Chủ nghĩa duy vật triệt để va chủ nghĩa duy vật không triệt để. Sự so sánh này căn cứ vào tính chế định lịch sử – xã hội đối với từng học thuyết và đại diện của nó, do đó khó tránh khỏi một số yếu tố chủ quan trong đánh giá. Tuy nhiên căn cứ vào quy luật phát triển cái mới luôn thực hiện sự lọc bỏ biện chứng đối với cái đã qua. Xét theo nghĩa này chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để, bởi các nguyên lý của nó được phổ biến vào cả tự nhiên lẫn xã hội và tư duy con người. Ngược lại chủ nghĩa duy vật Feuerbach không triệt để, vì không dựa vào quan điểm duy vật trong việc phân tích các vấn đề lịch sử, xã hội. Một trong những ví dụ điển hình : Feuerbach xem xét tiến bộ xã hội qua lăng kính của sự thay thế Kytô giáo bằng “tôn giáo không có Chúa”, tức Tôn giáo của Tình yêu, nơi mà tất cả mọi người, không phân biệt địa vị xã hội, lập trường chính trị, giới tính …đối xử với nhau như những vị chúa nhân từ và hào hiệp, tức qua lăng kính của những biến đổi tinh thần, đạo đức, chứ không phải qua hoạt động nền tảng của con người. Trước đó chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII còn chịu  ảnh hưởng nhất định của thần luận, phiếm thần – đó cũng là biểu hiện của chủ nghĩa duy vật không triệt để.

-         Chủ nghĩa duy vật khoa học chủ nghĩa duy vật tầm thường.

Chủ nghĩa duy vật khoa học (trong thời đại ngày nay là chủ nghĩa duy vật biện chứng) trong khi khẳng định về nguyên  tắc tính có trước và tính quyết định của vật chất trong quan hệ với ý thức đã xét mối quan hệ đó một cách cụ thể, đồng thời thừa nhận tính độc lập tương đối của ý thức, sự tác động trở lại của nó đối với thế giới vật chất, cũng như các lĩnh vực hoạt động vật chất của con người.

Ngược lại chủ nghĩa duy vật tầm thường quy toàn bộ cái tinh thần, ý thức về cái vật chất, thậm chí đồng nhất ý thức với một dạng vật chất nhất định. Manh nha từ thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật tầm thường thể hiện qua các đại diện  tiêu biểu của mình vào thế kỷ XIX như L.Buchner (1824-1899), J.  Moleschott (1822-1893), K. Vogt (1817-1895)… Chủ nghĩa duy vật kinh tế* cũng có khá nhiều điểm tương đồng với chủ nghĩa duy vật tầm thường.

+ Chủ nghĩa duy tâm đối lập với chủ nghĩa duy vật ở khía cạnh thế giới quan, nhưng cũng là sản phẩm tất yếu của lịch sử, gắn liền với những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận và giá trị - văn hóa. Chủ nghĩa duy tâm trong nhiều trường hợp thể hiện sự ngạc nhiên thú vị trước cái “siêu phàm”, cái “thần tính” của con người, để phân biệt với cái “không thuộc về thần linh”, không “siêu phàm”, tức thế giới không-phải-con-người. Vì thế m nhn đọc Socrates, Plato, Hegel, V.I.Lênin nhấn mạnh:”Chủ nghĩa duy tâm thông minh gần với chủ nghĩa duy vật thơng minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn” (V.I.Lnin tồn tập, t.29, Nxb Chính trị Quốc gia, H Nội, 2006, tr. 293).

 Tương tự như chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm cũng không đồng nhất. Trước hết cần phân biệt hai biến dạng cơ bản của nó.

 1. Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuyên bố về sự độc lập của ý niệm ( idea),  thượng đế, tinh thần – nói chung bản nguyên tinh thần – không chỉ đối với vật chất, mà con đối với con người. Các đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm khách quan trong lịch sử:  Platon, Thomas Aquinas, Hegel.

2.Chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định sự lệ thuộc của thế giới bên ngoài, các thuộc tính và các mối quan hệ của nó, đối với ý thức con người. Hình thức cực đoan của chủ nghĩa duy tâm chủ quan là  thuyết duy ngã*. Theo thuyết duy ngã để đảm bảo tính xác thực của các phán quyết chỉ cần nói đến sự tồn tại  của cái Tôi và cảm giác của cái tôi. Các đại đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa duy tâm chủ quan trong lịch sử :Berkeley, Hume ( thế kỷ XVIII tại Anh)…

Mối quan hệ và sự tác động lẫn nhau, cuộc tranh luận thường xuyên giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, với tất cả tính phức tạp của chúng, đã tạo nên động lực bên trong của quátrình phát triển và hoàn thiện tri thức triết học. Chủ nghĩa duy vật về cơ bản là sự thể hiện quan điểm của các lực lượng xã hội tiến bộ. Trong từng trường hợp cụ thể các nhà duy tâm cũng đóng vai trò tích cực của mình trong “cuộc cách mạng lý trí” (ý nghĩa tích cực của ‘bước ngoặt Sokrates” trong triết học Hy Lạp, tính đột phá của triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII – XIX, một số gợi mở về trách nhiệm con người trong một số học thuyết thuộc trào lưu nhân bản – phi duy lý của triết học phương Tây đương đại v.v…).

- Cuộc tranh luận triết học về cơ sở ban đầu của tồn tại, ngoài việc dẫn đến hai khuynh hướng chủ đạo – chủ nghia duy vật và chủ nghĩa duy tâm, còn làm nảy sinh chủ nghĩa nhất nguyên (monism), nhị nguyên (dualism) và đa nguyên (pluralism).*

+ Theo chủ nghĩa nhất nguyên chỉ có một bản nguyên duy nhất của thế giới vật chất hoạc tinh thần. Với cách hiểu này chủ nghĩa nhất nguyên có thể là nhất nguyên duy vật, có thể là nhất nguyên duy tâm. Nhất nguyên duy vật nói chung dựa vào các dữ liệu của khoa học tự nhiên để rút ra cái tinh thần từ cái vật chất. Ngược lại nhất nguyên duy tâm xem tinh thần là cái quyết định tối hậu đối với vật chất và tìm giá đỡ tư tưởng ở quan niệm về sự sáng tạo thế giới bởi tinh thần siêu việt nào đó ( thượng đế), hay ý thức, ý niệm.

+ Chủ nghĩa nhị nguyên khẳng định tính đồng cấp của hai bản nguyên vật chất và ý thức, vật lý và tâm lý. Trong lịch sử nhị nguyên luận thường dẫn tới chủ nghĩa duy tâm, nghĩa là xác định một bản thể tối cao vượt lên trên hai bản nguyên đồng cấp ấy, và chi phối chúng. Đại diện tiêu biểu của nhị nguyên luận: Aristoteles (trong học thuyết về vật chất, đúng hơn, thể chất, và mô thức), Descartes (trong Siêu hình học).

+ Chủ nghĩa đa nguyên nêu ra khá nhiều luận điểm xuất phát khác nhau, nhưng đều đồng nhất ở sự thừa nhận nhiều bản nguyên của tồn tại . Quan niệm đa nguyên về cơ sở của thế giới có nguồn gốc từ triết học Hy Lạp cổ đại (phương án”đa nguyên” trong việc lý giải bản nguyên thế giới vào thế kỷ V tr. CN ).

3. Vấn đề về tính nhận thức được thế giới. Chủ nghĩa hoài nghi và thuyết bất khả tri.

 Việc tìm hiểu cơ sở ban đầu của tồn tại có mối liên hệ  với vấn đề về tính nhận thức được thế giới. Phần lớn các nhà triết học, cả duy vật lẫn duy tâm, đều tin vào khả năng con người đạt được tri thức đúng , chân lý, và cố gắng xác lập những quy tắc, chuẩn mực, phương pháp định hướng cho quá trình này. Những hiểu biết của con người về thế giới và bản thân sự tồn tại của nó, sự thâm nhập, khám phá bản chất của tồn tại với những cách tiếp cận khác nhau làm nảy sinh cuộc tranh luận về cơ sở của tính đồng nhất tư duy và tồn tại. Các nhà duy vật cho rằng vật chất đóng vai trò cơ sở của tính đồng nhất, ngược lại các nhà duy tâm nhấn mạnh đến ý nghĩa định hướng của ý thức, khuôn mẫu sẵn có của tư duy, và cho rằng (Hegel chẳng hạn) việc tìm hiểu các quy luật lôgíc của tư duy, hay “ ý niệm” trong nguyên chất của nó, là cơ sở để nắm bắt và lý giải các quy luật của thế giới, giới tự nhiên, xã hội.

+ Trong lịch sử triết học một số nhà tư tưởng cho rằng vấn đề chân lý của nhận thức không thể được giải quyết trọn vẹn, và do đó thế giới về nguyên tắc là không nhận thức được. Họ được biết đến như các đại biểu của thuyết bất khả tri.* Các đại diện tiêu biểu: Giorgias (nhà triết học Hy Lạp cổ đại, thuộc phái biện thuyết do Prothagoras sáng lập) với tuyên bố “không có gì tồn tại cả”, Kant (nhà triết học Đức thế kỷ XVIII, người sáng lập ra triết học cổ điển Đức) với tuyên bố về tính hữu hạn của nhận thức trong quá trình tìm hiểu bản chất sâu kín của vạn vật. Khá gắn với thuyết bất khả tri là khuynh hướng hoài nghi*, phủ nhận khả năng của tri thức xác thực, đề cao yếu tố xác xuất. Các đại diện tiêu biểu: Pyrrhon (người sáng lập phái hoài nghi trong triết học cổ đại Hy Lạp), Hume ( nhà triết học Anh thế kỷ XVIII)…

Cần nhớ rằng thuyết bất khả tri hay hoài nghi ra đời trong những điều kiện xã hội nhất định; chúng không phải là những khuynh hướng độc lập, mà chỉ là suy nghĩ hoặc nhận định nhất thời, cá biệt, đóng vai trò phản biện đối với quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Bên cạnh đó cũng nên phân biệt hoài nghi như nguyên tắc thế giới quan với tinh thần hoài nghi khoa học, hoài nghi vào cái lỗi thời để vạch ra con đường khám phá chân lý, xác lập cái mới, phù hợp hơn trong sự vận động tiến bộ của lịch sử.

III.             BIỆN CHỨNG VÀ SIÊU HÌNH.

1.Triết học như phương pháp luận.

+ Mỗi khoa học đều có phương pháp của mình. Tuy nhiên triết học đóng vai trò là phương pháp luận chung nhất, và đó cũng là thực chất của phương pháp triết học. Phương pháp luận triết học là hệ thống các nguyên tắc chung nhất của việc nắm bắt về mặt lý luận và thực tiễn đối với toàn bộ hiện thực, đồng thời là cách thức xác lập và luận giải chính hệ thống tri thức triết học.

 Cũng như  phương pháp của các khoa học khác,  phương pháp triết học lấy hoạt động thực tiễn của con người làm cơ sở, và ngay từ đầu đã là sự phản ánh lôgíc các quy luật của sự phát triển hiện thực khách quan. Đương nhiên điều này chỉ liên quan đến triết học nào dựa vào khoa học, bám sát vào trình độ nhận thức và khoa học của thời đại.

Phương pháp triết học đem đến các nguyên tắc nghiên cứu chung, ví như ngọn đuốc soi tỏ con đường hướng tới chân lý( F. Bacon). Tuy nhiên các trường phái và các khuynh hướng khác nhau xác lập và sử dụng các phương pháp triết học khác nhau tùy thuộc vào đặc trưng của mình và quan niệm về đối tượng triết học. Chẳng hạn chủ nghĩa đa nguyên cũng chủ trương đa nguyên cả trong phương pháp.

Tư duy lý luận chung được diễn đạt trong các phạm trù, các nguyên lý và các quy luật triết học.

Tìm hiểu phương pháp triết học không thể bỏ  qua các nguyên tắc có tính định hướng trong lý luận nhận thức, mà điều này lại liên hệ chặt chẽ với việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, đưa đến sự hình thành chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đại diện cho các cách tiếp cận và phương thức xem xét tồn tại và nhận thức. Lý luận nhận thức ngay từ đầu được quy định bằng việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, thiên nhiên và tinh thần, hay nói cách khác nó dựa trên một cơ sở thế giới quan nhất định – duy vật hoặc duy tâm.  Ở trường hợp của chủ nghĩa duy vật quá trình nhận thức được xem như sự phản ánh hiện thực khách quan  vào ý thức, còn ở trường hợp thứ hai nó biến thành sự nhận thức của ý thức, ý niệm tuyệt đối. Nói cách khác bản thể luận về cơ bản quy định nhận thức luận,  trước hết ở việc lý giải nguồn gốc, cơ sở  của tri thức.

+  Bước tiếp theo trong phương pháp triết học là phân biệt  phương pháp biện chứng va phương pháp siêu hình. Đó là hai phương pháp tư duy đối lập nhau trong lịch sử triết học, khi giải quyết vấn đề bản chất của tồn tại.

      Tư duy biện chứng thừa nhận sự vận động, biến đổi khơng ngừng của sự vật, xem xét chúng trong mối liên hệ, tác động, chế ước nhau, trong sự chuyển hóa, nhấn mạnh sự tự vận động, xem sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập ngay trong chính sự vật như  sở và động lực của phát triển                     

       Tư duy siêu hình xem xét sự vật trong trạng thái cô lập, tách rời nhau, ngưng đọng, xác định tính chỉnh thể của thế giơi một cách đơn giản và cứng nhắc, không vạch ra một cách  thấu  đáo cơ sở và động lực của vận động, phát triển.

Về nguyên tắc nhà duy vật lẫn nhà duy tâm đều có thể sử dụng phương pháp biện chứng, tạo nên phép biện chứng duy vật hay phép biện chứng duy tâm. Nhà duy vật có thể chịu sự chi phối của phép siêu hình, ngược lại nhà duy tâm có thể là nhà duy tâm biện chứng.

-  Phép biện chứng trải qua các hình thức và các giai đoạn phát triển, từ cổ đại đế hiện đại.

Phép biện chứng chất phc, ngây thơ (tự pht) trong triết học cổ đại, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đó. Tại phương Đông cổ đại tư tưởng biện chứng về thế giới hình thành tự phát trong thuyết Âm Dương, triết học Lão – Trang (Trung Quốc), một số triết học tôn giáo (Ấn Độ) . Thuật ngữ “phép biện chứng”* được nêu ra lần đầu tiên trong triết học Hy Lạp cổ đại. Tại đây trong một số học thuyết, từ Heraklitos đến PlatonAristoteles, đã  có những biểu hiện khác nhau của phép biện chứng. Nhà duy vật Heraklitos nhấn mạnh tính vận động và biến đổi thường xuyên, sự chuyển hóa của các mặt đối lập trong thế giới sự vật. Đó là biện chứng của các sự vật, hay biện chứng khách quan. Các nhà duy tâm Sokrates và Platon xem phép biện chứng như nghệ thuật đối thoại (dẫn dắt người đối thoại đến với chân lý bằng tư duy lôgíc, khả năng biện luận thuyết phục, có cơ sở, chứng cứ). Đó là biện chứng của các khái niệm, hay biện chứng chủ quan.

Phép biện chứng duy tâm thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phát triển tại Đức, bắt đầu từ Kant, đạt đến sự hoàn thiện ở Hegel. Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức xuất phát từ cơ sở thế giới quan duy tâm, nhưng đã gợi mở phong cách tư duy mới trong văn hóa tinh thần châu Au vào thời đó. K. Marx và F. Engels tiếp thu có  chọn lọc giá trị của  phép biện chứng duy tâm, nhất là phép biện chứng Hegel, cũng như những thành quả của chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –XVIII, đặc biệt là tư tưởng duy vật của Feuerbach (nửa đầu thế kỷ XIX), đồng thời khắc phục những mặt phiến diện của cả phép biện chứng và chủ nghĩa duy vật thời trước, sáng tạo ra phép  biện chứng duy vật như hình thức hiện đại của phép biện chứng. Quá trình này bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX.

- Phép  siêu hình, với tính cách là phương pháp tư duy và nhận thức đối lập với phép biện chứng, cũng có lịch sử của mình*. Nghĩa nguyên thủy của nó (trong triết học cổ đại Hy Lạp) gắn với nỗ lực của triết gia tìm hiểu bản chất sâu kín của vạn vật (không phải là các hiện tượng của thế giới vật lý, mà là những gì ẩn chứa đằng sau nó). Cuộc tranh luận về phương pháp nhận thức, cách thức tiếp cận và lý giải bản chất thế giới diễn ra sôi nổi và gay gắt vào thời cận đại, làm nảy sinh nhu cầu đánh giá có phê phán các quan điểm truyền thống. Phép siêu hình, xét từ góc độ đối lập với phép biện chứng, là khuynh hướng xác lập bức tranh tĩnh, một nghĩa về thế giới. Nói đến phương pháp siêu hình là nói đến cách thức xem xét các sự vật theo nguyên tắc tách biệt “có” – “không”, “trắng”, “đen”, “bạn” , “thù”… Khi tìm hiểu vận động phép siêu hình quy các hình thức phong phú của nó về một hình thức nào đó, thậm chí quy hình thức vận động cao về hình thức vận động thấp hơn. Điển hình cho trường hợp này là chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII –XVIII, đã quy các hình thức vận động về vận động cơ học, do đó còn được gọi là chủ nghĩa duy vật máy móc, thực chất là chủ nghĩa duy vật siêu hình.

-         Một số chỉ dẫn phương pháp luận khi tìm hiểu phép biện chứng và phép siêu hình.

Một là, cần thấy rằng phương pháp nhận thức chủ trương xem xét các sự vật và hiện tượng trong trạng thái tĩnh, đứng im, cũng như “cắt rời”, “đơn giản hóa” tồn tại,vẫn có chỗ đứng trong lịch sử. Phương pháp trừu tượng hóa của triết học siêu hình hoàn toàn có cơ sở khoa học trong những  điều kiện nhất định và được  các lĩnh vực  chuyên môn khác nhau sử dụng. Nếu như không vì đứng im mà xem nhẹ vận động, không vì trạng thái tĩnh mà xem nhẹ trạng thái động, thấy cây mà không thấy rừng, thì yếu tố đó của phép siêu hình tỏ ra cần thiết trong nhận thức, bởi lẽ nó cũng là một phần của phép biện chứng. Sai lầm phương pháp luận xuất hiện khi sự đứng im, hay một đặc tính, một khía cạnh nào đó của nhận thức tách khỏi mối  liên hệ phổ biến và sự chế ước lẫn nhau, biến thành cái tuyệt đối. Đây cũng là  nguồn gốc nhận thức luận của tất cả hệ thống triết học duy tâm. Vấn đề là ở chỗ theo quan điểm duy tâm nhân tố tinh thần tách khỏi vật chất, đóng vai trò sáng tạo tuyệt đối. Phương pháp luận tiếp cận như thế quên rằng cái tư duy, tinh thần xét đến cùng xuất hiện trên cơ sở cái vật chất.

Hai là, cần thấy rằng hiểm họa đối với nhận thức không chỉ thể hiện ở việc tuyệt đối hóa đứng im, mà cả việc tuyệt đối hóa mặt đối lập với nó, tức vận động. Cả hai đều đáng gọi là phương pháp nghiên cứu siêu hình. Quan điểm  thứ nhất dẫn tới chủ nghĩa giáo điều, quan điểm thứ hai dẫn tới chủ nghĩa tương đối vô điều kiện. Đối với phép biện chứng thực sự thì quá trình vận động không ngừng của thế giới chẳng những không loại trừ, mà còn bao hàm sự đứng im tương đối.

2.     Các khuynh hướng khác của phương pháp luận nhận thức trong lịch sử triết học

Trong lịch sử triết học hình thnh cc khuynh hướng, hay con đường cơ bản, chi phối sự phát triển của nó. Từ các khuynh hướng ấy các trường phái cụ thể  ra đời, tạo nên bức tranh đa dạng và phức tạp, với những đường nét đan xen nhau, thay thế nhau. Tính chất này đến nay vẫn tiếp tục được thể hiện.

-Từ quan niệm về cơ sở phương pháp nhận thức, trong lịch sử triết học hình thành chủ nghĩa duy cảm (sensualism), chủ nghĩa duy lý (rationalism) và chủ nghĩa phi duy lý (irrationalism)*. Những khuynh hướng đó ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt  học thuật, tạo nên những dấu ấn sâu đậm trong sự phát triển triết học.

. Chủ nghĩa duy cảm là nguyên tắc phương pháp luận mà theo đó cảm giác được xem như cở sở nhận thức .Thuyết duy cảm tuyệt đối hóa vai trò của các cơ quan cảm giác trong nhận thức và cho rằng mọi tri thức đều xuất phát từ hoạt động cảm tính. Các đại diện tiêu biểu: Epicuros, Locke, Berkeley, Holbach, Feuerbach. Cần phân biệt duy cảm luận duy vật, xem thế giới khách quan cảm giác được là cơ sở  của tri thức xác thực, và duy cảm luận duy tâm, tuyệt đối hóa vai trò của cảm giác, không thừa nhận nội dung  khách quan của tri thức .

. Chủ nghĩa duy lý là nguyên tắc phương pháp luận mà theo đó cơ sở của nhận thức và hoạt động của con người là lý trí, xem nhẹ vai trò của các yếu tố ngoài lý trí trong quá trình nhận thức thế giới. Các đại diện tiêu biểu: Descartes, Spinoza, Leibniz, Hegel. Trong khuynh hướng duy lý có cả các nhà duy vật lẫn các nhà duy tâm, tùy thuộc vào việc giải quyết vấn đề về quan hệ giữa vât chất và ý thức, tinh thần. Chẳng hạn phương pháp luận duy lý của Hegel dựa trên cơ sở thế giới quan duy tâm, còn Spinoza lại là nhà triết học duy vật dưới hình thức phiếm thần.

Duy cảm (sự phát triển cực đoan của chủ nghĩa kinh nghiệm) và duy lý hình thành rõ nhất vào thế kỷ XVII – XVIII, trong cuộc tranh luận về nguồn gốc, bản chất tri thức và phương pháp tiếp cận chân lý. Chủ nghĩa duy lý hiện đại, với các hình thức thể hiện khác nhau, đã có những thay đổi căn bản trong đối tượng nghiên cứu so với duy lý truyền thống, cổ điển.  Đối lập với chủ nghĩa duy lý hiện đại là chủ nghĩa phi duy lý.

Chủ nghĩa phi duy lý là là phương pháp luận triết học phủ nhận, hoặc ít ra là hạn chế vai trò của lý trí trong nhận thức, đề cao vai trò của phương pháp phi duy lý(xúc cảm, ý chí,niềm tin…) đối với quá trình tìm hiểu tồn tại. Trong triết học cận hiện đại chủ nghĩa phi duy lý ra đời như sự phản ứng trước thực trạng sinh hoạt xã hội và sự bất lực trong việc giải quyết các vấn đề bức thiết của đời sống con người. Các đại diện tiêu biểu: Schopenhauer, Kiekegaard, Nietzsche, Dilthey, Bergson, Heidegger…

. Sự phát triển vũ bão của khoa học và nhận thức trong mấy thập niên gần đây đưa đến việc xác định phương pháp luận như một lĩnh vực chuyên môn hóa của tri thức.Các cơ chế lôgíc nội tại, khả năng “thiết kế” mô hình phát triển thi thức, tiêu chuẩn về tính khoa học của nhận thức, nhân tố – công nghệ, điều khiển học… được đề cập thường xuyên. Cùng với quá trình này do nhu cầu phát triển xã hội sự liên minh giữa phương pháp triết học với phương pháp của các khoa học cụ thể ngày càng mở rộng, song không vì thế \mà triết học đánh mất vai trò phương pháp luận chung nhất của nhận thức và cải tạo thế giới.

IV.TRIẾT HỌC VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VÀ NHẬN THỨC KHOA HỌC.

1.     Chức năng của triết học.

a)  Chức năng thế giới quan. Mọi vấn đề thế giới quan đều nảy sinh từ đời sống con người và là sự nhận thức mục đích, ý nghĩa của cuộc sống con người. Đến lượt mình thế giới quan trở  thành nhân tố định hướng cho con người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan làm cho thế giới phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học cụ thể, chuyên biệt đem lại. Như vậy chức năng thế giới quan của triết học gắn liền với sự giải thích lý luận trừu tượng hóa, giải thích về mặt khái niệm, nhằm phân biệt với tất cả các hình thức và cấp độ thế giới quan khác. Lẽ cố nhiên triết học trong khi xác định đối tượng của mình căn cứ trên những thông số khác với các khoa học về tính chính xác. Ít tính một nghĩa hơn, nhiều tính linh hoạt hơn – đó là điều kiện của phản tư triết học. Các khái niệm triết học phản ánh các khía cạnh chung nhất của tồn tại, tính biện chứng của nó, do đó không thể đòi hỏi tính chính xác như vật lý, hay toán học. Các khái niệm và phạm trù triết học liên kết một cách biện chứng nơi mình các yếu tố xác định (ổn định) và các yếu tố không xác định (biến đổi), được hàm chứa ngay trong tồn tại.  Tính linh hoạt của khái niệm xuất phát từ chỗ triết học dựa trên toàn bộ sự phong phú của nhận thức, toàn bộ kinh nghiệm của con người. Chúng cũng có thể bao quát các lĩnh vực của tồn tại còn chưa được nhận thức, hoặc thậm chí về nguyên tắc không thể được nhận thức. Vì thế đôi khi khái niệm trở nên  “mơ hồ” đối với không ít người. Sự chấp nhận thế giới quan triết học nào đó, xét từ góc độ của một nhà khoa học, chính là sự  mở rộng tầm nhìn, hay không gian tư tưởng vượt qua khuôn khổ của tính chuyên biệt vốn có.

Trong phạm vi thế giới quan triết học không ngừng diễn ra cuộc đấu tranh giữa thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm, thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học, giả khoa học. Đằng sau  các cuộc luận chiến triết học là các lực lượng xã hội với những thiên hướng, chính kiến, lợi ích khác nhau. Nhà khoa học có thể chịu sự chi phối của thế giới quan triết học này hay thế giới quan triết học khác tùy từng  điều kiện cụ thể.

b) Chức năng phương pháp luận, thể hiện ở chỗ triết học là học thuyết chung về phương pháp và là tổng thể các phương pháp chung nhất của nhận thức và cải tạo thực tiễn. Trong lịch sử triết học việc lý giải các sự vật, hiện tượng thường dựa vào một phương pháp nhất định, tạo nên sự đa dạng các cách tiếp cận sự vật, sự ra đời phương pháp mới trong phạm vi chủ đề thống nhất của triết học. Nghệ thuật đối thoại (ở Sokrates và Platon…), hoài nghi toàn diện (Descartes), phê phán lý trí (Kant)… đều hình thành trên cơ sở trình độ nhận thức chung của thời đại mình. Trong số đó cuộc tranh luận giữa phép biện chứng và phép siêu hình có tác động đến cả thế giới quan lẫn phương pháp nhận thức chung, cũng như hoạt động thực tiễn của con người. Phép biện chứng duy vật là hình thức phát triển cao của phương pháp biện chứng.

c) Chức năng dự đoán.của triết học thể hiện ở chỗ trong phạm vi hệ thống các vấn đề nghiên cứu của mình các học thuyết triết học gợi mở về khuynh hướng phát triển chung của vật chất và ý thức, con người và thế giới. Những gợi mở, dự đoán về mặt lý luận tác động ở những mức độ khác nhau đến sinh hoạt xã hội, các lĩnh vực hoạt động thực tiễn. Dự đoán lý luận trên cơ sở các thành tựu  của khoa học và kinh nghiệm sống, thấu hiểu các quy luật vận động của tự nhiên và xã hội, thường đạt tính thuyết phục cao thông qua sự thừa nhận của các lực lượng xã hội. Bên cạnh đó triết học với tính cách là trường học tư duy lý luận va sự thông thái đem đến cho con người khả năng tự chủ trong việc lựa chọn thái độ sống và hoạch định dự án cho tương lai. Khả năng này được củng cố trước hết nhờ tìm hiểu lịch sử trioết học.

d) Chức năng phê phán gắn liền với quá trình phát triển tư duy triết học các thời đại, thể hiện các “vòng khâu” tất yếu của lịch sử tri thức, sự đánh giá lại và lọc bỏ biện chứng những giá trị đã dược tạo ra. Nguyên tắc “tôi hoài nghi tất cả” mà các thế hệ triết gia, bắt đầu từ thời cổ đại, tuân thủ, đã cho thấy tầm quan trọng của phê phán, hoài nghi tri thức hiện tồn. Thái độ này buộc những gì là “chính thống”, “chuẩn mực”, tự thẩm định, đánh giá lại, tự điều chỉnh, thậm chí tự đào thải, nếu không còn phù hợp với nấc thang phát triển mới của thực tiễn và nhận thức. Sự phê phán của các nhà triết học Phục hưng và Cận đại đối với triết học kinh viện trung cổ là ví dụ điển hình về trường hợp này. Tinh  thần hoài nghi và phê phán có cơ sở đóng vai trò lớn trong việc chống chủ nghĩa giáo điều. Ở đây phân biệt ý nghĩa tích cực của sự phê phán với chủ nghĩa hư vô, phủ định biện chứng với sự phủ định vô nguyên tắc, tính lịch sử cụ thể với những xét đoán trừu tượng, thiếu phương hướng.

e) Chức năng giá trị liên hệ mật thiết với chức năng phê phán. Giá trị * là khái niệm dùng để chỉ ý nghĩa văn hóa, xã hội hoặc nhân cách của các hiện tượng và các dữ kiện trong thực tiễn, nói cách khác giá trị là cái có ý nghĩa đối với hoạt động sống của con người. Bất kỳ hệ thống triết học nào cũng hàm chứa trong mình khía cạnh đánh giá đối tượng từ góc độ giá trị: giá trị xã hội, giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, giá trị tư tưởng v.v. Chức năng này thể hiện đặc biệt rõ nét vào thời kỳ chuyển tiếp của sự phát triển xã hội, khi mà việc lựa chọn xu hướng vận động được đặt ra cùng với vấn đề cái gì cần lưu giữ, cái gì cần loại bỏ từ các giá trị được tạo ra trong quá khứ. Trong hệ thống các giá trị có những giá trị đặc thù, có những giá trị mang tính nhân loại chung.

f) Chức năng xã hội – nhân văn của triết học được phân tích từ nhiều bình diện, bao quát các khía cạnh khác nhau của đời sống con người và xã hội. Ở bình diện chung triết học thực hiện hai nhiệm vụ thống nhất với nhau – giải thích bản chất con người, tồn tại xã hội, và tác động đến sự thay đổi thế giới cả về vật chất lẫn tinh thần. Trước khi dự định  biến đổi xã hội cần  bước đầu lý giải nó một cách xác đáng. Sức thu hút và mức độ cần thiết của một học thuyết triết học tùy thuộc vào khả năng  mỗi cá nhân đón nhận nó một cách tự giác và cùng với những cá nhân khác hình thành mục tiêu tập thể tập trung nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu tập thể đó. Nói cách khác, trong tính tổng thể của mình triết học hướng đến không chỉ các nhóm xã hội, mà còn đến từng con người cụ thể. Vấn đề là ở chỗ triết học đóng vai trò định hướng nhận thức và hoạt động của mỗi cá nhân, thúc đẩy việc hình thành các giá trị và lý tưởng nhân văn, khẳng định ý nghĩa và mục đích của cuộc sống. Triết học đảm nhận thực hiện chức năng liệu pháp trí tue rõ ràng nhất trong thời kỳ xã hội thiếu ổn định, khi các giá trị cũ xưa đang biến đi dần, nhưng cái mới chưa kịp hình thành, hoặc chưa đủ khả năng thâm nhập sâu rộng vào các tầng lớp xã hội. Một khi trở thành vũ khí lý luận của các lực lượng xã hội tiến bộ, triết học sẽ tác động tích cực đến sự vận động lịch sử tiến về phía trước.

1.     Triết học và khoa học, tri thức và niềm tin.

-         Triết học có phải là khoa học không ?

Vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức chung còn thấp, tri thức khoa học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, triết học đóng vai trò là tri thức lý luận duy nhất, giải quyết các vấn đề tự nhiên, xã hội và tư duy. Do chưa có sự phân ngành rõ ràng giữa các lĩnh vực tri thức nên triết học được xem như “khoa học của các khoa học”, còn các triết gia được tôn vinh như các bậc thông thái, am tường mọi thứ. Các lĩnh vực tri thức khác đều  là thành tố của “tri thức phổ quát” này. Từ cuối thời Phục hưng quá trình chuyên biệt hóa, cá thể  hóa trong tri thức khoa học đã dẫn đến sự ra đời các khoa học cụ thể với hệ thống lý luận của mình. Trên thực tế cách hiểu cũ về triết học không còn phù hợp nữa, nhưng tính chất khoa học của  những luận giải triết học chẳng những  không mất đi, mà ngày càng được bổ sung, mở rộng cùng với sự phát triển mãnh liệt của tri thức và văn hóa. Cách tiếp cận lịch sử đã cho thấy điều đó. Tri thức triết học, các vấn đề triết học, hệ thống các khái niệm triết học phổ biến và lôgíc nghiên cứu trong triết học là kết quả của sự kế thừa lâu dài từ sự phong phú của tri thức nhân loại.

Các kết luận trong phạm vi triết học không chỉ là phương tiện tiếp nhận tri thức khoa học, mà bản thân chúng cũng chứa đựng nội dung khoa học. Điều này giải thích vì sao nhiều nhà bác học lớn trong các lĩnh vực khoa  học cụ thể có thể là những đại biểu nổi tiếng của triết học. Triết học có ngôn ngữ và hệ thống khái niệm đặc trưng của mình, không ngừng thực hiện những tìm tòi khoa học, hướng con người tới những “điểm nóng” của thực tại, đem đến tri thức có hệ thống, chìa khóa mở vào cõi bí hiểm của  thế giới xung quanh. Trong tính muôn vẻ của tri thức triết học vẫn tồn tại những chuẩn mực chung, làm cơ sở cho việc đánh giá của từng học thuyết, từng trường phái, trong dòng chảy của tri thức khoa học nói chung, từ đó thực hiện sự sàng lọc, sự đào thải khách quan, tất yếu.

-         Sự tác động lẫn nhau giữa triết học và các khoa học chuyên biệt.

Mỗi khoa học chuyên biệt đều có đối tượng và phương pháp riêng, có trình độ khái quát nhất định, tùy theo lĩnh vực nghiên cứu. Từ thành quả của các khoa học chuyên biệt, triết học thực hiện  sự khái quát tiếp theo, nghĩa là nó chú trọng đến cấp độ cao hơn, cấp độ thứ hai của sự khái quát. Nếu cấp độ thứ nhất của sự khái quát dẫn đến sự hình thành các quy luật của khoa học cụ thể, thì cấp độ thứ hai làm sáng tỏ các khuynh hướng và các quy luật chung nhất. Các khoa học chuyên biệt đem đến cho các nhà triết học chất liệu sống, nhờ đó và căn cứ vào đó họ đưa ra những nhận định có cơ sở, phù hợp với thực tại, thể hiện được trình độ nhận thức chung của thời đại, đồng thời gợi mở những khả năng của tương lai. Những phát minh khoa học lớn không chỉ tạo ra sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội, mà còn làm thay đổi tư duy, nếp nghĩ, góp phần thẩm định lại, đánh giá lại các giá trị, các chuẩn mực hiện có, đẩy lùi chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm.

Bên cạnh đó phát minh khoa học và việc sử dụng các kết quả nghiên cứu khoa học có thể làm nảy sinh những vấn đề mới, liên quan đến sự sinh tồn của con người, thậm chí tạo nên sự xáo trộn tự phát trong  ý thức, tác động đến sự hình thành các khuynh hướng triết học có nội dung phê phán khoa học, hoặc chỉ ra sự bất lực của lý trí trong việc kiểm soát hành vi con người.

Như vậy, những thành tựu của khoa học có thể góp phần khẳng định cả các kết  luận triết học khoa học lẫn mặt đối lập của chúng, nghĩa là các khuynh hướng triết học chủ trương đào sâu mặt phi lý của đời sống do hệ quả của khoa học.

Triết học tác động như thế nào đến sự phát triển của các khoa học chuyên biệt? Cần khẳng định rằng triết học không trực tiếp tạo ra các phát minh cụ thể, không “làm” ra sản phẩm như các khoa học chuyên biệt. Tác động của triết học được thể hiện thông qua thế giới quan triết học, phương pháp luận và định hướng giá trị, nghĩa là tác động bằng nhiều cách đến lập trường xuất phát, phương pháp nhận thức, quan  niệm về thế giới, cũng như thái dộ của nhà khoa học đối với tính tất yếu và xu thế phát triển của một lĩnh vực tri thức nhất định.

Lý luận triết học sẽ trở nên nghèo nàn và trở nên lạc hậu nếu những nhận định của nó không bám sát vào các thành tựu của khoa học và không thực hiện sự khái quát khối tri thức to lớn từ các khoa học chuyên biệt. Ngược lại, nếu không được trang bị thế giới quan và phương pháp luận triết học đúng đắn thì bản thân nhà khoa học có thể đưa ra những kết luận sai lầm về triết học.

+ Triết học và giả khoa học. Tri thức và niềm tin.

- Nhận thức là  một quá trình phức tạp, và kết quả thu được vô cùng  phong phú, phản ánh cách tiếp cận khác nhau của con người về thế giới xung quanh và về chính mình. Cần phân biệt những lầm lẫn trong công việc nghiên cứu, dẫn đến các  nhận định thoạt đầu được xem là khoa học, nhưng dần dần bị đào thải qua  kiểm nghiệm thực tiễn, với sự mạo danh khoa học, trong đó có khoa học giả hiệu. Lịch sử từng biết đến các “khoa học” như chiêm tinh, khoa học huyền bí, ma thuật, phép phù thủy.

Không thể phủ nhận vai trò trị liệu tinh thần, tâm lý của các phép thuật mang tính chất huyền bí trong những điều kiện lịch sử nhất định , nhất là trong thời kỳ khủng hoảng xã hội, khi con người mong được giải thoát khỏi nỗi ám ảnh của cuộc sống bi kịch, hoặc tìm lời giải đáp về số phận cá nhân. Tuy nhiên, xét về vị trí, ý nghĩa văn hóa chung và chức năng khai sáng thì khoa học giả hiệu dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều đối lập với thế giới quan triết học, cũng như tri thức khoa học nói chung. Khoa học giả hiệu tỏ ra đặc biệt nguy hiểm khi bị sử dụng vì mục đích của các lực lượng thống trị, gắn với quyền lợi chính trị của một tập đoàn xã hội hay một tổ chức nào đó.

Sự tồn tại các biểu hiện của giả khoa học, ngụy khoa học ngay trong thế giới hiện đại, quan điểm dung hợp vô  nguyên tắc thế giới quan khoa học và khoa học giả hiệu chứng tỏ rằng vẫn còn nhiều lĩnh vực mà nhận thức con người chưa  vươn tới được.

- Hạn chế của lý trí tạo ra khả năng cho niềm tin,  trước hết là niềm tin mang tính tôn giáo. Niềm tin tôn giáo có tác dụng tích cực ở một số khía cạnh của đời sống đạo đức, thẩm mỹ, song xét đến cùng nó không thể thay thế vai trò của tri thức khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Mỗi thành quả của khoa học lại loại dần ảnh hưởng  của niềm tin ở cả bình diện bản thể luận lẫn bình diện nhận thức luận. Lịch sử nhận thức cho thấy răng không phải khoa học phát triển dưới ảnh hưởng của tôn giáo, mà chính các tín điều tôn giáo phải cải biến dưới ảnh hưởng của các phát minh khoa học, một khi những phát minh này dược thừa nhận như  các giá trị phổ biến, được thể chế hóa, xã hội hóa.

Bên cạnh đó cần lưu ý: - ý nghĩa của đức tin tôn giáo trong đời sống đạo đức, tinh thần của con người; - không nên chỉ liên tưởng niêm tin với yếu tố phi lý, hoặc chỉ biết có niềm tin mù quáng. Niềm tin cũng có ý nghĩa gợi mở, xây dựng sâu sắc.Đó là niềm tin của con người vào khả năng đạt đến chân lý khách quan – niềm tin vào sự chiến thắng của cái mới, cái hợp lý. Chủ nghĩa lạc quan, khát vọng sáng tạo tự do thuộc về loại niềm tin này.

MỘT SỐ CÂU HỎI ÔN TẬP VÀ ĐÁP ÁN VỀ LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

1.                 Phân tích các đặc điểm cơ bản của triết học phương Tây cổ đại (gợi ý : tính sơ khai, tính bao trùm về mặt lý luận, tính đa dạng, muôn vẽ về chủ đề v thế giới quan, tình biện chứng tự pht bẩm sinh, tính nhân văn).

Gợi ý phn tích:

Với gần một thiên niên kỷ tồn tại, tư tưởng triết học phương Tây cổ đại, mà Hy Lạp và La M l đại diện duy nhất,  đã để lại những dấu ấn đậm nét trên con đường phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại, tạo nên một trong những thời đại sôi động và bi kịch nhất, thể hiện khát vọng của con người vươn lên làm chủ tự nhiên, cải biến  xã hội và chính bản thân mình.

Có thể thâu tóm ba chủ đề chính của triết học phương Tây cổ đại, từ thời kỳ hình thành các thị quốc đầu tiên  đến khi trường phái cuối cùng bị đóng cửa vào đầu thế kỷ VI. Trước hết là tìm hiểu tự nhiên. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?”, “bản tính của thế giới là gì?” cho thấy nỗ lực của các triết gia mong muốn vượt qua ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại, đem đến lời giải đáp  hợp lý về thế giới xung quanh và về tác động của nó đến đời sống con người. Chủ đề tiếp theo là nhận thức. Bắt đầu từ Ta lét (Thales) và Pitago (Pythagoras) con người không chỉ được xem như một thành viên của vũ trụ, mà còn luôn chứng tỏ vị thế của mình trước vũ trụ ấy. Bản thân thuật ngữ “philosophia” cũng nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm và khám phá chân lý. Triết học – đó là con đường hướng tới chân lý. Các nhà triết học ngay từ cổ đại đã tập trung tranh luận  về khả năng và giới hạn của nhận thức, về các phương pháp và phương tiện nhận thức, về nguồn gốc, cơ sở và tiêu chuẩn của chân lý. Bên cạnh việc đề cao lý trí , óc khám phá sáng tạo của con người, vẫn còn một số triết gia đứng trước những diễn biến phức tạp, phi tất định của của đời sống xã hội, đã chủ trương “treo lửng phán quyết”, rơi vào chủ nghĩa hoài nghi.  Chủ đề thứ ba là con người, xã hội loài người với tất cả những biểu hiện phong phú và phức tạp của nó. Từ Xôcrát (Socrates) trở đi con người trở thành một trong những điểm nóng của các cuộc tranh luận triết học. Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng nghiên cứu. Chủ đề con người và thiết chế xã hội dành cho con người, cùng với các chủ đề liên quan đền hoạt động sáng tạo và định hướng giá trị của con người, được phân tích trong các công trình thẩm mỹ, nghệ thuật, đạo đức, pháp quyền. 

Triết học phương Tây cổ đại không chỉ phản ánh hiện thực của xã hội chiếm hữu nô lệ, mà còn xây dựng hàng loạt hệ chuẩn tư duy cho các thời đại sau, tạo nên truyền thống cổ điển trong văn hoá tinh thần phương Tây. Bằng chứng rõ ràng nhất của truyền thống này là quá trình phục hưng văn hoá cổ đại vào cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XVI và sự phát triển, phổ biến văn hoá cổ điển vào thời cận đại, đạt đến đỉnh cao tại Đức.  

- Đặc điểm trước tiên của triết học Hy Lạp ở những thế kỷ đầu tiên, là tính chất phác, sơ khai của nó, mối liên hệ của nó với thần thoai và tôn giáo nguyên thủy, đan xen với những mầm mống của tri thức khoa học, phản ánh trình độ nhận thức chung của xã hội. Sự ra đời của triết học không có nghĩa kỷ nguyên thần thoại đã hoàn toàn kết thúc. Ở mức độ nhất định, xét theo cội nguồn, triết học ra đời như nỗ lực tái thiết lại thần thoại bằng phương tiện của lý trí. Với thời gian, cùng với sự phát triển xã hội, sự phổ biến tri thức khoa học, những câu chuyện thần thoại dần dần được sử dụng vào mục đích thể hiện một nhân sinh quan, một triết lý sống. Những khái niệm có nguồn gốc thần thọai đều được cải biến, duy lý hóa để àm sáng tỏ thêm tư tưởng của các triết gia, những tư tưởng  cần đến giá đỡ của thần thoại nhằm đáp ứng thói quen ý thức của con người. Nietzsche cho rằng những nhà tư tưởng Hy Lạp đầu tiên là những con người hồn nhiên và dũng cảm nhất, chấp nhận “cô đơn trong rạng rỡ hào quang”, sẵn sàng thách đố thói quen ý thức để dấn bước vào con đường khám phá sáng tạo. Những cuộc tranh luận tư tưởng dẫu không đạt được kết quả cụ thể, song điều quan trọng là đã mimh chứng khả năng vô tận của con người (xem Nietzsche : Triết lý Hy Lạp thời bi kịch, Bản dịch của Trần Xuân Kiêm, Tân An, Sài Gòn, 1975, tr. 19, 65, 70…). Tinh thần Hy Lạp đã đặt nền móng cho phong cách tư duy phương Tây trong hàng ngàn năm qua.

-Đặc điểm thứ hai thể hiện ở tính chất bao trùm về mặt lý luận của triết học  đối với tất cả lĩnh vực của nhận thức. Vì ra đời trong bối cảnh trình độ nhận thức của con người còn tương đối thấp, tri thức về mọi mặt  chưa phát triển bao nhiêu, nên triết học đóng vai trò là dạng nhận thức lý luận hầu như duy nhất, hy vọng lý giải những vấn đề lý luận của các khoa học  cụ thể mà vào thời kỳ này còn đang nằm trong tình trạng tản mạn, sơ khai, mang nặng tính chất trực quan, thực nghiệm. Triết học được xem như “khoa học của các khoa học”, còn các triết gia thì được tôn vinh thành nhữn nhà thông thái, đại diện cho trí tuệ xã hội. Trong mô hình lý tưởng của tổ chức đời sống xã hội các triết gia được đặt ở vị trí cao nhất. Các tư tưởng đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, khoa học…đều quy về tư tưởng trết học, được hiểu như một phần của triết học. Quan niệm này tồn tại khá lâu trong lịch sử. Song điều đó lại đưa đến chỗ đối với các nhà triết học nhận thức lý luận là cái vượt lên trên hoạt động thực tiễn, biến thành “nhận thức tự thân”, “nhận thức để nhận thức”. Triết lý trở thành đặc quyền của một số ít nhà thông thái, “nhận thức tự thân” đối lập với thực tiễn, với ý thức đời thường. 

- Tính đa dạng, muôn vẻ, sự phân cực quyết liệt giữa các trường phái làm nên đặc điểm thứ ba của triết học phương Tây cổ đại trong suốt 10 thế kỷ; việc hình thành “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn” của triết học chi phối cách đánh giá các hình thức tư tưởng khác. Chẳng hạn cuộc tranh luận giữa “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn” lan sang cả tư tưởng chính trị, thể hiện thái độ của họ đối với nền dân chủ chủ nô. Tính chất này chịu sự chi phối bởi điều kiện địa lý đặc biệt của các thị quốc, sự thay thế nhau các trung tâm kinh tế, văn hóa, quá trình giao lưu với văn hóa phương Đông, phong cách phóng khoáng, yêu chuộng tự do kết hợp với sự khôn ngoan và tinh tế của người Hy Lạp, La Mã…Sự đối lập giữa “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn” thể hiện ở khía cạnh thế giới quan- bản thể luận, nhận thức luận, quan điểm con người, chính trị - x hội. Trong bức tranh muôn vẻ của triết học phương Tây cổ đại đã chứa đựng hầu như tất cả những hình thái và phương thức tư duy căn bản nhất, được tiếp tục hoàn thiện, cải biến và phát triển sau này. Chẳng hạn cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa hiện thực (Arixtốt) và chủ nghĩa lý tưởng (Platôn), quan điểm “khế ước” và “pháp quyền tự nhiên”, các hình thức nhà nước v.v..trong tư tưởng chính trị, hay vấn đề cái thiện, lương tâm, tự do ý chí, trách nhiệm, cái đẹp, cái bi, cái hài, cái cao thượng… trong đạo đức và thẩm mỹ đã là chuẩn mực cho những tìm tòi, khám phá và vận dụng vào đời sống xã hội ở các thời đại kế tiếp.

- Đặc điểm thứ tư là sự kết hợp tính biện chứng tự phát trong việc giải thích tự nhiên, khám phá các quy luật nhận thức, với tính duy lý trong việc xây dựng quan điểm về con người với tính cách là chủ thể hoạt động. Sự kết hợp này làm nên phong cách tư duy trong văn hóa cổ đại Hy Lạp – La Mã, nơi mà ngay từ đầu đã bộc lộ thiên hướng vươn đến cái tuyệt đối, “sự thông thái thần linh”. Truyền thống cổ điển đó tiếp tục được phát huy vào các thời đại sau, đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tư tưởng biện chứng về thế giới, giới tự nhiên được khai mở bởi Hraclít (Heraklitos), mặc d trước đó trong những yếu tố tiền triết học v trong trường phái Milê (Milet) đ xuất hiện những phc thảo sơ khởi về thế giới như một quá trình. Hraclít khơng chỉ xem xt thế giới như một quá trình (hình ảnh dịng sơng, ở đó “mọi thứ đều chảy”), mà cịn đưa ra tư tưởng về tính quy luật của thế giới đó. Logos l một trong những khi niệm trung tm của triết học Hraclít, hm chứa yếu tố duy vật v biện chứng ở trình độ tự phát. Các nghĩa của logos: thần ngơn; lời nĩi, hay học thuyết; lý trí; tính quy luật; tính tất yếu; trật tự, chuẩn mực; lửa.  Vũ trụ này là một ngọn lửa vĩnh cửu, mọi thứ từ lửa và kết thúc bằng sự phán quyết của lửa, nhờ đó mà diễn ra quá trình sinh - diệt thay thế nhau lin tục. Biện chứng của qu trình nhận thức thể hiện r nt trong cc luận chứng của trường phái Êlê (Elea) về tính mâu thuẫn, hay nghịch lý của nhận thức, về sự cần thiết giải quyết thấu đáo mối quan hệ giữa vận động và đứng im, hữu hạn và vô hạn, liên tục và giàn đoạn, tồnt ại và hư vô… Xôcrát (Socrates), Platôn (Plato), Arixtốt (Aristoteles, Arstotle) đ xc lập một số nội dung ban đầu về biện chứng chủ quan, làm cơ sở cho việc hình thnh lý luận nhận thức biện chứng sau ny.

 - Cuối cng, tính nhân văn có thể được xem là một trong những đặc điểm của nhiều nền trit học, song trình độ v hình thức thể hiện của nĩ khc nhau. Chủ nghĩa nhân văn (thuật ngữ humanism ra đời vào đầu thế kỷ XIX) xem con người là điểm xuất phát, và giải phóng con người là mục đích cuối cùng.  “Con người – thước đo của vạn vật”; lời tuyên bố này của Prôtago (Protagoras) chứng tỏ rằng dù không ngừng hướng ra vũ trụ, giải thích và khao khát chinh phục nó, người Hy Lạp vẫn dành nhiều tâm huyết tìm hiểu những vấn đề nhân sinh, xã hội. Từ Xôcrát trở đi con người vừa l chủ thể, vừa l đối tượng. Tìm hiểu thế giới của con người, kết hợp “hướng ngoại” và “hướng nội” quy định vị trí và số phận của các triết thuyết. Sự quan tâm  đến con người, tìm kiếm những chuẩn mực sống lý tưởng cho con người,l nt chung trong tư tưởng của Xôcrát, Platôn, Arixtốt và nhiều triết gia khác từ thời kỳ sơ khai đến thời kỳ Hy Lạp hĩa, khủng hoảng và suy tàn. Thực tiễn “có vấn đề” cũng là điều kiện cho sự tìm kiếm lời đáp để khắc phục nó, nghĩa là hình thnh cc phương án vượt qua ci hiện tồn. Cho nn trong cc học thuyết chính trị, x hội đ hình thnh chủ nghĩa hiện thực v chủ nghĩa lý tưởng, khắc họa con người và các thiết chế x hội từ cc gĩc độ khác nhau. Những tư tưởng chính trị, đạo đức, pháp quyền, thẩm mỹ do người Hy Lạp -  La Mã  xác lập trở thành nền tảng và điểm xuất phát của tư tưởng phương Tây.

2.                 Trình by khi qut v đánh giá nội dung cơ bản của triết học Trung cổ Tây Âu qua một số nhà tư tưởng tiêu biểu

           Một số gợi ý:

Nền mĩng của chề độ phong kiến tại Tây Âu được xác lập sau thời kỳ sụp đổ của Tây bộ đế quốc La M (476), song hình thức tri thức Trung cổ ra đời sớm hơn, gắn liền với sự ra đời của Kytô giáo (Christianity) vào đầu Công nguyên.

Sự ra đời của Kytô giáo là một hiện tượng có tính cách mạng trong đời sống tinh thần của x hội. Tuy nhin từ năm 392, khi Kytô giáo trở thành quốc giáo, tinh thần khoan dung đ bị biến dạng.

Trong qu trình hình thnh chế độ phong kiến, mà sự ra đời của Kytô giáo trong lịng chế độ chiếm hữu nô lệ là tín hiệu tinh thần, hay tiền đề tinh thần của nó, đ xuất hiện những tư tưởng mang tính chuyển tiếp, chẳng hạn chủ nghĩa khắc kỷ La M, hay chủ nghĩa Platơn mới. Bn cạnh đó sự truyền bá Kytô giáo cần đến những tín đồ có học thức, những nhà trí thức thực sự, đảm nhận chức năng khơi nguồn cảm hứng về hình thức tơn gio mới giữa thế giới đa thần.

Hai thời kỳ lớn trong triết học trung cổ : thời kỳ hình thnh (cũng cĩ thể gọi l thời kỳ đặt nền móng, thời kỳ chuẩn bị) v thời kỳ pht triển, “chuẩn hĩa”, tương ứng với triết học các giáo phụ và triết học kinh viện.

Giáo phụ là tên gọi của triết học Kytô giáo ở thời kỳ đầu tiên. Các giáo phụ là những người tiên phong trong công cuộc bảo vệ, truyền bá và phổ biến tín điều Kytô giáo trong những điều kiện khó khăn và đầy thách thức, về sau được nhà thờ chuẩn nhận, xem như các bậc cha chú của nhà thờ, còn tư tưởng của họ thì được xem như những chân lý cần được lưu giữ, học tập.  Dù nội dung tư tưởng cc gio phụ khơng thống nhất, song định hướng chung ở họ là đối lập tư tưởng Kytô giáo với triết học cổ đại, qua đó khẳng định ưu thế của Kinh thánh Kytô giáo như cái vịm của sự uyn bc tồn thế giới. Vấn đề trước tiên là mối quan hệ giữa niềm tin và lý trí, lm nn sự khc nhau giữa tư tưởng Trung cổ và tư tưởng cổ đại. Trong số các giáo phụ có những người cực đoan, theo chủ nghĩa sùng tín; có những người ôn hòa, cố làm dịu những điểm bất đồng giữa lý trí và đức tin. Tertullien nghiêng về chủ nghĩa sùng tín với tuyên bố “Tôi tin, vì đó là điều phi lý”, và phân chia xã hội thành hai phe – phe quỷ và phe thần. Cách phân chia rõ ràng đẩy con người vào tình thế hai chọn một. Đối với Tertullien con người tự do hay không tùy thuộc vào ý chí của Chúa. Mọi tham vọng tự do là biểu hiện của tội tổ tông. Tự do thống nhất với tính tất yếu : Chúa tạo ra luật, luật ấy ban cho con người quyền tự do.

Các giáo phụ đem đến sự thay đổi trong cách đặt vấn đề về thế giới, còn các nhà triết học kinh viện ở thời kỳ chính thống hóa, học đường hóa tư  tưởng Kytô giáo thì biến những ý tưởng giản đơn thành những ý tưởng chắc chắn, có hệ thống, đạt tới tính uyên bác thâm sâu. Các nhà khắc kỷ từng đánh giá đức hạnh con người gần như là từ góc độ quan hệ của linh hồn với thượng đế, hơn là quan hệ của công dân với nhà nước. Sau các nhà khắc kỷ những người Kytô giáo tin rằng nghĩa vũ của con người trước Thiên Chúa quan trọng hơn so với nghĩa vụ trước xã hội và nhà nước.

 “Phụng sự Chúa quên thân mình” – quan điểm ấy của St. Augustin được xem là kinh điển đối với tín đồ Kytô giáo. Trong “Thành phố của Chúa” (hay Vương quốc Thiên Chúa, Đô thành thiên quốc ...) St. Augustin xc lập những luận điểm nền tảng về ci cần cĩ thao tinh thần Kytơ gio, thay thế cho ci đang tồn tại. Thành phố của Chúa khơng phải l một nơi nào đó trên thiên đàng hay một thành phố cụ thể ở ci trần, bởi lẽ mỗi con người khi vừa được sinh ra không biết mình gia nhập vo thế giới no. Chính hoạt động sống của họ quy định cái mà họ sẽ gia nhập. Vậy Thành phố của Chúa thể hiện khát vọng về mộ khơng gian x hội lý tưởng mà con người cần kiến tạo ngay trên thế gian này. 22 cuốn sách vừa là lời cảnh báo, vừa mang đến thông điệp về một thế giới tồt lành mà con người đạt được bằng nỗ lực vượt qua cái ác, hướng đến cái thiện. Trong quyển 1 Augustin chỉ trích những kẻ dị giáo và những kẻ man rợ mang tai ương đến cho con người, cưỡng bức phụ nữ, cướp bóc thành Roma, đồng thời khẳng định vai trị của Kytơ gio trong việc ngăn chặn thờ tượng các thần và ngẫu thần, thông qua các lời chúc lành và chúc dữ. Quyển 2 tiếp tục mổ xẻ sự bất lực và vô trách nhiệm của các thần (trước Chúa Jesus). Sự đánh mất nhân cách và sự sa đoạ là cái mà con người đón nhận từ các vị thần ấy.  Trong Quyển 3, những tai hoạ từ thế giới đa thần giáo được tiếp tục làm r.  Quyển 4 mở đầu cho sự biện minh rằng chỉ có Kytô giáo, thờ một Thiên Chúa duy nhất, mới làm cho vương quốc trần thế được xác lập. Các quyển 5, 6, 7, 8 tiếp tục chỉ ra sự đối lập Kytô giáo và tinh thần dị giáo, văn hoá mới và văn hóa Hy Lạp, ; phân tích quan hệ giữa thuyết định mệnh (tiền định của Chúa) và ý chí tự do của con người. Đồng ý với cch phn chia của Varro về ba hình thức thần học – thần học tự nhin, thần học thần bí v thần học bình dn, Augustin cho rằng cả thần học thần bí v thần học bình dn đều khơng cĩ vai trị tích cực trong cuộc sống mai sau. Đặc biệt, trong quyển 8, khi bàn đến thần học tự nhiên,  Augustin bày tỏ thiện cảm của mình đối với Platon, người anh cả đáng mến của các học thuyết triết học, vì đ đề cập đến cuộc sống sau khi chấm dứt hiện hữu trần thế, ph hợp với gio lý Kytơ. Quyển 9 v quyển 10 được xem như tuyên ngôn về tính duy nhất của Chúa, trong đó Chúa Jesus là sự giáng thế. Chỉ có Chúa Jesus, theo Augustin, mới có quyền ban cho con người hồng phúc vĩnh cửu. Sự phân biệt hai vương quốc tập trung từ cuốn 11 trở đi. Augustin đem đối lập thế giới của Chúa và thế giới cõi trần với những nét đặc trưng cho hai thế giới. Thế giới của Chúa là thế giới sống theo ý chí Thiên Chúa, bao gồm những người mộ đạo, nhân từ, đề cao tình yêu lý trí và sức mạnh tinh thần, phụng sự Chúa quên thân mình, sống hôm nay kỳ vọng vào ngày mai, có sự đồng cảm giữa người cầm quyền và quần chúng. Thế giới cõi trần là thế giới sống theo chuẩn mực con người, gồm toàn những kẻ ích kỷ, đề cao tiện nghi và lạc thú vật chất, yêu bản thân quên cả Chúa, sống hôm nay chỉ biết hôm nay, luôn tranh giành quyền lực với nhau. Xét từ góc độ chính trị – xã hội “Thành phố của Chúa” có ý nghĩa phản kháng nhất định. St. Augustin sống trong thời đại suy tàn của chế độ nô lệ, nhìn thấy tận mắy nỗi đau, sự bất ổn, sự khủng hoảng lòng tin của con người do chiến tranh gây ra. Biểu tượng của thế giới cõi trần trong con mắt St. Augustin là Babylon quá khứ và đế quốc La mã hiện tại. Biểu tượng thế giới của Chúa là Jerusalem và những nơi linh thiêng khác. Theo St. Augustin thế giới cõi trần cần được thay thế bằng một trật tự xã hội mới, hợp ý Chúa – “Vương quốc nước Chúa” – nhà nước của sự hợp quần toàn nhân loại. Vào thời trung cổ xung đột giữa hai thực thể nêu trên mang ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa nhà thờ Kytô – Thiên Chúa giáo La Mã với chính quyền thế tục, giữa Giáo hoàng với nhà vua trong từng quốc gia riêng biệt. Người chiến thắng trong những cuộc xung đột này thường là Giáo hoàng, mà sự thể chế hóa nhà thờ phổ biến khắp Italia, Pháp, Tây Ban Nha, Anh, Đức, Ba Lan…

Tôn giáo thời trung cổ, cụ thể Kytô – Thiên Chúa giáo, trở thành hạt nhân, thước đo văn hóa và thế giới quan của xã hội phong kiến. Chính trị, luật pháp nằm trong tay tăng lữ, được xác định như lĩnh vực ứng dụng của thần học. Thế giới là tạo hóa của Chúa, là cuốn sách do Chúa viết nên và ban cho ý nghĩa đối với từng tạo vật. Hoa hồng, chim bồ câu, sư tử, con bê, phượng hoàng, ngọc châu… biến thành những biểu tượng tôn giáo thiêng liêng, và quy về sự tượng trưng cho Đức Kytô trong bốn thời điểm mang tính bước ngoặt trong cuộc sống của ngài : Kytô sinh ra như một con người, chết đi như một con bê, phục sinh như con sư tử, bay lên trời như chim phượng hoàng. Nhưng sự hy sinh của Chúa Kytô, theo luận giải của các nhà tư tưởng Trung cổ, cịn chứa đựng cả nỗi đau và sự trăn trở về thân phận con người, sự bỏ rơi và xa lánh, sự mặc cảm và dửng dưng. Đó là thế giới cần được phán xử, cũng có nghĩa là cần một hành động mang tính bước ngoặt, để đánh thức lương tri con người. Sự sụp đổ của đế quốc La M được mô tả trong nhiều văn bản thần học như cái chết tất yếu của một chế độ phi nhân tính, sa đoạ và sự báo trước chiến thắng của cái Thiện, xuất phát từ Cao Xanh.  

Ngay từ thời điểm sụp đổ của đế quốc La Mã triết học dần dần biến thành kẻ đứng sau thần học, còn từ thế kỷ XI trở đi – đứng sau thần học Thiên Chúa giáo. Thốt thai từ  thần thọai đa thần giáo, tư tưởng lý luận lại rơi vào sự quản chế của một thần thọai mới – Kytô giáo, trở thành kẻ phụng sự (nơ lệ) thần học, chứng minh cho các tín điều của nhà thờ. Giáo phụ Lactantius đòi hỏi “quàng vào cổ của lý trí một cái ách”, để buộc nó đi theo sự chỉ dẫn của đức tin. Cái ách ấy của niềm tin khó có thể được tháo gỡ, nếu không có những biến đổi cch mạng trong họat động thực tiễn của con người.

       Bắt đầu từ thế kỷ IX, khi thế giới trung cổ đi dần vào ổn định, xu hướng “chuẩn hóa” tri thức mang ý nghĩa quan trọng đối với việc củng cố trật tự chính trị – xã hội, cũng đồng thời củng cố địa vị của nhà thờ với tính cách là nền chuyên chính tinh thần (xem C. M và Ph. Ă, Toàn tập, T. 20, CTQG, 1994, tr. 459). Nhân danh “ổn định chính trị và tinh thần là trên hết”, nhà nước phong kiến liên minh với nhà thờ đặt ra những “vùng cấm” đối với sáng tạo khoa học và văn hóa. Chuẩn hóa, đạo đức hóa  toàn bộ đời sống chính trị - xã hội và hoạt động nhận thức là nét đặc trưng của trung cổ Kytơ  giáo.Tính chất hai mặt của chuẩn hóa tư duy thể hiện ở chỗ, một mặt, nó quy mọi cái tản mát về sự thống nhất, tạo nên môi trường tư  tưởng nhất quán trong điều kiện xã hội đang chịu nhiều thách thức; mặt khác, sự chuẩn hóa máy móc, chỉ biết đến “những chân lý sẵn có”, đã thu hẹp khả năng sáng tạo của con người theo tiêu chí “chỉ được phép trình bày nhữn gì trong giới hạn”, mà ở đây là giới hạn của các chân lý bất biến, vĩnh hằng. Từ thế kỷ IX phù hợp với xu thế này đã tồn tại thứ triết học chính thống, được giảng dạy tron các trường học, lấy kinh thánh làm chỗ dựa tư tưởng. “Triết học học đường” thời trung cổ (Scholastic) được gọi theo nghĩa rộng là chủ nghĩa kinh viện. Tri thức kinh viện đạt đến tính hệ thống, tính lôgíc, tính uyên bác, nhưng do chỗ các vấn đề được phân tích mang nặng tính hình thức, tính sch vở, sáo mòn, nên dần dần xa rời nhu cầu thực tiễn và biến thành tri thức thuần tuý tư biện.

Vào thời cực thịnh của triết học kinh viện đã nổi lên Thomas Aquinas (1225 – 1274) nhà thần học và nhà triết học, một  trong những đại diện lớn của tư tưởng khoa học trung cổ, người sáng lập ra chủ nghĩa Thomas (Thomism). Cơ sở học thuyết triết học của Thomas Aquinas là chủ nghĩa Aristoteles. Thomas được biết đến như người bảo vệ thuyết sáng tạo và sự tồn tại của Thượng đế căn cứ vào các dữ kiện vật lý học và các quy tắc lôgíc học Aristoteles. Theo ông, vật lý học tìm hiểu các hiện tượng khả giác, phân loại, mô tả chúng và rút ra quy luật từ sự biến đổi của chúng. Nhưng nếu vật lý học muốn giải quyết vấn đề nguồn gốc của vạn vật thì phải cần đến thuyết sáng tạo. Với lập luận như vậy Thomas đưa ra sáu chứng cứ  về sự tồn tại và sáng tạo của Thượng đế – chứng cứ do sự chuyển động, chứng cứ theo nguyên nhân tác thành của tồn tại, chứng cứ do ngẫu nhiên, chứng cứ theo các cấp độ hoàn hảo, chứng cứ mục đích, chứng cứ dựa vào trật tự đạo đức.

Ở lĩnh vực chính trị và liên quan đến chính trị, sau Aristoteles, Thomas khẳng định rằng  nhà nước là thiết chế tự nhiên, chứ không phải là thiết chế truyền thống, và là xã hội lý tưởng (Communitas Perfecpa). Nhà nước mang tính tự nhiên, vì con người là sinh vật xã hội. Con người cần liên kết với nhau để tồn tại, đảm bảo điều kiễn sống tốt và xác lập nền văn hóa của mình. Động vật hành động theo bản năng, còn con người dựa vào lý trí. Nhà nước mang tính lý tưởng, vì nó có khả năng đảm bảo cho conngười đạt đến mục đích đời sống của mình, bớt dần sự lệ thuộc vào ngọai giới. Mọi quyền lực, theo Thomas, đều xuất phát từ Thượng đế, gắn với quyền sống chết, đã được Thượng đế định trước.

Ở Thomas tri thức và đức tin được đặt trong mối quan hệ hài hòa, song xét đến cùng đức tin đóng vai trò định hướng . Theo sau Aristoteles , Thomas phân chia lý trí ra thành lý trí lý luận, vươn đến các nguyên lý, và lý trí thực hành, thể hiện trong họat động ý chí của con người. Tự do ý chí cho phép con người lựa chọn giữa thiện và ác, giữa hành vi đạo đức, dẫn đến Thượng đế, và hành vi phi đạo đức, xa rời Thượng đế. Trong tác phẩm triết học chính trị “Về sự điều hành của các lãnh chúa” (De regimine principium)Thomas trình sự phân tầng các quyền từ góc độ đạo đức hóa thần học hóa, kết hợp với những yếu tố của phái Khắc kỷ. Trước tiên Thomas nhấn mạnh quyền vĩnh cửu như tổng thể các quy tắc điều khiển thế giới của Thượng đế. Biểu hiện cá biệt của quyền vĩnh cửu là quyền tự nhiên, có nguồn gốc từ quan niệm của phái Khắc kỷ. Về mặt nguyên tắc quyền này có ở mọi sinh thể, song chỉ trong cuộc sống con người mới trở nên rõ ràng. Chỉ con người mới ý thức được rằng bằng cách sử dụng quyền tự nhiên một cách hợp lý, trong đó có quyền bình đẳng, họ hướng đến tính vĩnh cửu của quyền Thượng đế. Quyền con người là sự cụ thể hóa quyền tự nhiên; nó phân bố thành quyền nhân dân phổ biến và quyền công dân hợp pháp, vận hành trong một quốc gia cụ thể. Quyền con người không phải là quyền bất biến, mà luôn được điều chỉnh, thay đổi cho phù hợp với vận động xã hội.

Mặc dù xuất phát từ quan điểm chính trị – xã hội của Aristoteles, nhưng Thomas đã Kytô giáo hóa các luận điểm của bộ óc bách khoa này để phục vụ thần học. Aristoteles đặt cái tòan thể xã hội cao hơn tất cả, nhấn mạnh cuộc sống tự do và quyền công dân của thị quốc chiếm hữu nô lệ. Hơn nữa, hạnh phúc của con người, theo Aristoteles, cần tìm kiếm ở cuộc sống trần tục, hiện thực. Ngược lại, Thomas hiểu cái tòan thể xã hội là xã hội và nhà nước phong kiến, được bổ sung nội dung tôn giáo – thần học, mang nặng tính đẳng cấp. Trật tự xã hội, theo Thomas, là sự phản ánh trật tự Thượng đế như khuôn mẫu bất di bất dịch củasự hòan thiện các đẳng cấp xã hội. Trong xã hội như thế đa số thành viên làm nghề lao động chân tay, còn thiểu số lao động trí óc điều khiển đa số đó. Lao động chân tay được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất xuất phát từ nguyên tội tổ tông, xem lao động là sự chuộc lỗi, căn cứ vào lời phán truyền của Chúa Trời sau khi đuổi Ađam và Êva ra khỏi vườn Êđen :”  “ ( ). Cách thứ hai hình thành trong lịch sử Trung cổ như sự đánh giá lại vai trò của lao động trong đời sống xã hội. Cách thứ hai này được cácnhà nhân văn Phục hưng sau này đặcbiệt chú trọng, thậm chí họ cho rằng giá trị do lao động tạo a đặt con người vào vị trí danh dự, cao hơn các thiên thần (Ficino). Lao động của những người phục vụ Thiên Chúa giáo La Mã được trọng vọng nhất, vì xét đến cùng nó hướng đến lợi ích của cái tòan thể xã hội, cũng như của mỗi người. Nhưng mục đích tối thượng của công việc ấy là gì ? là cuộc sống bên kia, cuộc sống sau khi chết.

Vấn đề nhà nước và mối quan hệ của nó với nhà thờ về cơ bản được Thmas giải quyết theo thuyết thần là trung tâm. Quá trình hinh  thành từng bước các nhà nước dân tộc vào thời kỳ này tác động đến Thomas, làm thay đổi một phần quan điểm chính thống Kytô giáo. Theo Thomas, nhà thờ và nhà nước đều là kết quả sáng tạo của Thượng đế. Sự xác lập nhà nước là cần thiết, bởi lã bên ngòai nó không thể có đời sống hiện thực cảm tính của con người. Kế thừa tư tưởng tri61t học chính trị của Aristoteles, Thomas khẳng định rằng chủ quyền của quyền lực tối cao có tính chất tự nhiên, và rằng nó do Thượng đế đem đến, nhưng thông qua nhân dân. Chủ quyền có tính tự nhiên (khách quan, tất yếu) vì  nếu không có một tổ chức điều hành, đưa ra những giải pháp bắt buộc thực hiện, thì sẽ xảy ra tình trạng vô chính phủ, và mọi người có thể thủ tiêu nhau. Chủ quyền được đem đến thông qua nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân, không lệ vào hình thức cai trị. Nhà nước không lệ thuộc vào nhà thờ; mục đích và vai trò của hai thiết chế này hòan tòan khácnhau. Tuy nhiên với tính cách là nhà lý luận của nhà thờ Thiên Chúa giáo Thomas không thể không tin vào mục đích siêu nhiên của nhân lọai. Trong khi thừa nhận vai trò đứng đầu của quyền lực thế tục trong nhà nước, Thomas cho rằng sự cần thiết của quyền lực chỉ mang tính phái sainh, tính công cụ, nhà thờ mới đảm nhận việc điều khiển trực tiếp thế giới của con người nhân danh Đấng sáng thế duy nhất, cái thế giới không chỉ ở bên này một cách ngắn ngủi, mà tồn tại ở bên kia, vĩnh viễn. Theo quan điểm của chủ nghĩa Thomas nhà thờ không lệ thuộc vào nhà nước vì bất kỳ lý do nào, dưới bất kỳ hình thức nào, trong khi nhà nước cần phải chú trọng đến quyền lợi của nhà thờ, bởi lẽ mục đích của nó cao hơn, công dân nào cũng hướng về nó. Thomas so sánh mối quan hệ giữa nhà thờ và nhà nước với quan hệ giữa linh hồn và thân xác. Cả linh hồn lẫn thân xác đều đóng vai trò đặc biệt, không hòa lẫn, nhưng vai trò của linh hồn quan trọng hơn.

Thomas phân biệt 5 hình thức cai trị của nhà nước. Dân chủ bị ông đồng nhất với độc tài, vì phần lớn nhân dân, sau khi đàn áp những người giàu và những người có học, đã buộc họ tuân theo ý chí của mình. Thomas xem quân chủ là hình thức tự nhiên nhất của quyền lực nhà nước, sử dụng phép liên tưởng để luận chứng cho tính hợp lý của nó. Nếu Thượng đế chỉ có một trong thế giới, linh hồn chỉ có một trong cơ thể, đàn ong chỉ có một ong chúa, con tàu chỉ có một người cầm lái chính, thì con tàu nhà nước , tương tự như vậy, cũng sẽ vận hành tốt hơn, nếu giao cho một người cầm lái duy nhất là nhà vua. Hai hình thức còn lại – họat đầuquý tộc – không được Thomas chú ý nhiều, vì chúng là biến thái của các hình thức đã nêu.

Mọi dù mọi quyền lực đều có nguồn gốc thần thánh, song nguồn gốc cụ thể của nó, việc sử dụng hay lạm dụng nó, có thể tạo ra tình thế buộc công dân phải vùng lên lật đổ bộ máy hiện tồn. Thomas gắn vấn đề này với việc xâm hại quyền lợi nhà thờ. Các nhà cai trị thế tục chớ nên quên rằng  quyền lực của họ là có giới hạn; nếu vượt qua giới hạn cũng có nghĩa là phạm vào luật của Thượng đế. Do đó cùng với nhà thờ, nhà nước cần loại trừ những kẻ dị giáo cố tình phá vỡ tính thống nhất của tôn giáo.

Quan điểm chính trị của St. Thomas đến nay vẫn chưa mất đi ý nghĩa thời sự. Hàng lọat vấn đề do nhà “bác học thiên thần” này nêu ra, như vấn đề vị trí và vai trò của nhà thờ, chủ quyền nhà nước, quan hệ quyền lực, quyền công dân và sức mạnh của luật pháp, tiếp tục được hiện đại hóa trong điều kiện mới tại một số nước phương Tây. Việc liên kết chủ nghĩa Aristoteles với Kytô giáo ở St. Thomas đãtạo nên dấu ấn quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị.

Thời cực thịnh của triết học kinh viện cũng báo trước sự khủng hoảng của nó. Trong khuơn khổ của triết học kinh viện đ diễn ra cuộc đấu tranh giữa phái duy thực (realism) v phi duy danh (nominalism) xung quanh ý nghĩa của cc khi niệm “phổ quát” và “đơn nhất”. Phái thứ nhất xuất phát từ Platôn (xem Ý niệm l cơ sở, khuôn mẫu của mọi tồn tại); phái thứ hai, nhất là duy danh ôn hoà, xuất phát từ Arixtốt (xem tồn tại của sự vật l sự thống nhất “mơ thức” v “thể chất”, hay vật chất, trong đó mô thức là hiện thức, cịn thể chất l khả năng, từ đó đi tới quan điểm về mô thức “thuần tuý”, tuyệt đối, không gắn với thể chất, không sinh không diệt, đóng vai trị Động cơ đầu tiên, hay Thượng đế). Phi thứ nhất xem ci phổ qut l tồn ti bao trm, chi hpối tất cả, cịn cc sự vật đơn nhất, cá biệt chỉ là sự thể hiện không hoàn thiện của cái phổ quát (Thượng đế, Ci vĩnh hằng, Bất tử…). Ngược lại, phái duy danh, mà W.Occam là đại diện tiêu biểu, cho rằng chỉ có các sự vật đơn nhất, với tất cả sự phong ph về tính chất của nĩ, mới hiện diện trn thực tế, cịn những khi niệm phổ qut chỉ l những tn gọi  không thể hiện sống động bản chất của các sự vật cụ thể. Với cách tiếp cận ấy, phái duy danh đ mở đường cho tư tưởng nhân văn, bởi lẽ nó hướng sự quan tâm đến con người – cá nhân như bản thể tự chủ. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thì xem chủ nghĩa duy danh như biểu hiện đặc thù của tư tưởng duy vật trung cổ.

Những khm ph khoa học,  sự trỗi dy của cc phong tro “dị gio” v thần bí hĩa, sự phản biện đối với tư tưởng thần học chính thống, đ mở ra khả năng cho thời đại mới, xua tan đêm trường Trung cổ (“đêm trường” nhìn từ gĩc độ khoa học và triết học). 

3.                 Trình by nội dung cơ bản của triết học Phục hưng (trong nhiều nội dung bàn đến các vấn đề tự nhiên, nhận thức, khoa học, tôn giáo, chính trị… nổi bật tư tưởng nhân văn như trào lưu chủ đạo và xuyên suốt thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ tư bản chủ nghĩa)

Về kinh tế, thời Phục hưng chứng kiến quá trình phát sinh và phát triển cuả phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngay trong lòng chế độ phong kiến, vơí sự xuất hiện các trung tâm kinh tế lớn, nơi mà sự khởi sắc của hoạt động sản xuất được bắt đầu bằng sự thay thế tất yếu phuờng hôị già nua và chật hẹp bằng công xưởng thủ công, cái mà theo C. Mác là minh chứng rõ ràng của chuyển đổi quan hệ, phá vỡ tính chất tự nhiên khép kín tồn tại hàng ngàn năm. Cc pht minh khoa học, ứng dụng kỹ thuật và phát kiến địa lý đ mở rộng tầm nhìn của con người ra thế giới, đồng thời đem đến kích thích tố quan trọng cho qu trình tích lũy tư bản ban đầu (và cả đẩy nhanh quá trình xm chiếm thực dn). Từ góc độ chính trị – xã hội, nó tạo nên quá trình đơn giản hóa các quan hệ giữa người với người, từng bước phá vỡ chế độ đẳng cấp và thực trạng đạo đức hóa chính trị; hình thnh phương thức tổ chức quyền lực mới. Từ góc độ thế giới quan và nhận thức luận, nó tạo động lực cho các nhà khoa học  thực hiện quá trình sáng tạo, khám phá, vượt qua những cấm đoán, đem đến hiệu quả xã hội cho hoạt động của con người, và điều đó cũng có nghĩa nó mở ra cuộc tuyên chiến của tư tưởng tích cực, “thế tục” chống triết học kinh viện và thần quyền. 

'        Đặc điểm nổi bật của văn hóa Phục hưng nói chung, triết học nói riêng, phân biệt nó với thời trung cổ, là tính chất thế tục hóa, phi tôn giáo , thể hiện  ở quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa kinh viện và thần quyền, chuyển sự quan tâm từ Thượng đế sang thế giới, từ những vấn đề xa rời thực tiễn sang những vấn đề của chính con người, giải phóng từng bước triết học ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, thần học. Tính chất phi tôn giáo còn thể hiện ở chỗ, chủ đề tôn giáo được lý giải không từ góc độ của Kitô giáo đã kinh viện hóa, mà từ Kitô giáo nguyên thủy, dùng tư tưởng Sáng thế để làm nổi bật vị trí của con người trong quan hệ với thế giới thụ tạo còn lại, biến nội dung Kinh thánh thành các bằng chứng về khả năng của con người. Chẳng hạn các nhà tư tưởng Phục hưng cho rằng nếu con người, theo Sáng thế ký, được trao cho sứ mạng cai quản thế giới, thì sau Thiên Chúa, chỉ có con người mới đạt đến sự hoàn thiện cao nhất. Lôgíc của lập luận là : một khi con người được dành cho nhiều ân sủng, thì sự hoạt động của con người luôn luôn phải thể hiện trách nhiệm tạo dựng, thiết kế, để xứng đáng với ân sủng đó. Mệnh đề có tính chân lý hiển nhiên phải là một mệnh đề mà nội hàm của nó chứa đựng hình ảnh con người như bản thể được sáng tạo, và đồng thời là bản thể sáng tạo.

Như vậy, phi tôn giáo không có nghĩa là chống tôn giáo, mà làm cho những vấn đề của tôn giáo trở thành những vấn đề của con người sống, hoạt động, sáng tạo và hưởng thụ các thành quả của hoạt động. Phạm trù “hoạt động” được phục hồi, như điểm nhấn mạnh bản chất người. Cách hiểu như thế về hoạt động mở đường cho thời đại mới tiếp theo sau. Trong bản chất sâu xa của sự vật, có thể nhận thấy rằng sự lý giải mới Kinh thánh mở đường cho những chuyển biến tích cực của đời sống xã hội, làm cho hình ảnh Thiên chúa và con người gắn kết với nhau trong nổ lực tái thiết lại vũ trụ vì mục đích của con người, cũng là vì mục đích của chính Đấng tối cao. Nếu Kinh thánh Kitô giáo viết, Thiên Chúa tạo ra con người “theo hình ảnh” Chúa, “giống như “ Chúa (Kinh thánh, Sách Sáng thế, 1, 26), thì điều đó có nghĩa là, theo các nhà tư tưởng Phục hưng, sức sáng tạo của con người cũng vô biên như chính đấng Sáng thế. Rõ ràng, tính chất thế tục, phi tôn giáo là một sự trình bày khác về giá trị người. Sự trình bày này phù hợp với hoàn cảnh lịch sử lúc đó.    

 Tư tưởng nhân văn – trào lưu chủ đạo trong văn hóa nói chung, triết học Phục hưng nói riêng

Sự xuất hiện tư tưởng nhân văn sơ kỳ vào thế kỷ XIV được xem như quá trình thay thế tất yếu triết học kinh viện hậu kỳ. Triết học kinh viện, thứ triết học chính thống, “chuẩn mực”, được giảng dạy phổ biến trong các trường học thời trung cổ  theo các khuôn mẩu tư duy sẵn có nhân danh sự ổn định tinh thần của xã hội phong kiến, đã tạo nên tình trạng độc quyền tư tưởng trong nhiều thế kỷ. Cuộc tranh luận giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực trong phạm vi triết học kinh viện, sự hình thành các  phong trào chống đối nhà thờ, quá trình phục hồi sự quan tâm đến các di sản cổ đại, trong đó có khoa học, nghệ thuật, các tư tưởng triết học “dị giáo” như triết học tự nhiên Đêmôcrít, chủ nghĩa khoái lạc Epiquya … đã góp phần thu hẹp dần các vùng cấm đối với hoạt động sáng tạo của con người 

Các nhà nghiên cứu lịch sử triết học xem Phơlôrenxơ là thủ đô của nước Italia Phục hưng, bởi đây là nơi xuất phát của phong trào Phục hưng văn hóa và “chương trình giáo dục nhân văn” (Studia Humanitatis), ảnh hưởng tới những lĩnh vực khác của đời sống tinh thần tại nhiều nước. Phơlôrenxơ là quê hương của nhà thơ, nhà tư tưởng  A. Đantê (A. Dante,1265-1321) với những sáng tác thể hiện tư tưởng nhân văn trong vỏ bọc của ý thức hệ tôn giáo trung cổ. Về mặt hình thức Thần khúc được viết theo phong cách trung cổ, được trình bày phù hợp với suy nghĩ phổ biến của con người thời trung cổ, nhưng lại chứa đựng những yếu tố nhân văn sâu sắc. Trước hết Thần khc d mơ tả cuộc sống “bn kia”, song thơng qua tm trạng của những nhn vật chính trong Thần khc chính cuộc sống trần thế mới là cuộc sống đích thực, có ý nghĩa đối với cá nhân.  Thứ hai, Thần khúc phê phán mạnh mẽ tội ác của một bộ phận giới tăng lữ , những kẻ xuyên tạc giáo lý của Đức Chúa Kitô, “đánh đĩ những đồ thờ Chúa”, bị đày xuống địa ngục, sánh cùng loài qũy dữ.  biện minh cho các triết gia và các nhà khoa học cổ đại Hy Lạp, La Mã.

Thứ ba, điểm son về mặt tư tưởng triết học trong Thần khúc là thái độ của Đantê đối với các giá trị văn hóa cổ đại Hy Lạp – La Mã. Chính cách tiếp cận nhân văn về tư tưởng cổ đại đã làm nên tính chuyển tiếp trong tư tưởng Đantê, cũng như toàn bộ thời Phục hưng sau này. Đantê trở thành bước chuyển đặc trưng giữa trung cổ và Phục hưng, bởi lẽ vượt qua hình thức tư duy trung cổ, ông đã gợi mở lối suy nghĩ mới, “lệch chuẩn”, lối suy nghĩ lạ lùng và đầy thách thức đối với người đương thời, nhưng lại thể hiện tinh thần của tương lai đang đến. (Đantê, Thần khúc, Bản dịch từ tiếng Pháp của Lê Trí Viễn, Khương Hữu Dụng, NXB Văn học, HN, 1976, tr. 67). Nhà thơ nhìn thấy họ ở “Cõi vô tội” của đại ngục, nơi dành cho “những người chính trực chưa biết đến đức tin” (Kitô giáo). Họ là Hôme, Hôraxơ, Talét, Hêraclít, Dênông, Anaxago, Empêđốc, Hipôcrát, Đêmôcrít, Xôcrát, Platôn, Arixtốt…trong số đó không ít người bị xem là kẻ thù tư tưởng của Nhà thờ. Đantê được xem như “nhà thơ cuối cùng của trung cổ và đồng thời là nhà thơ đầu tiên của cận đại” (C.Mác và Ph. Angghen, toàn tập, t. 22, tr. 382, bản tiếng Nga). 

 Hướng về di sản cổ đại, xem các giá trị  truyền thống ấy là “chuẩn mực”, hay “cổ điển”, là điển hình của tinh thần khám phá, để từ đó tiếp tục mở ra những vòng khâu mới của phát triển, đó là điểm chung của tư tưởng triết học Phục hưng.    

Nếu Đantê là người khơi nguồn cảm hứng cho thời đại mới ở bình diện tư tưởng, thì  Pêtơrắccơ (F. Petrarca,1304-1374) là người sáng lập thực sự phong ttrào nhân văn ở Florence, người đầu tiên thể hiện tính chất thế tục (saecularis), phi tôn giáo trong tư tưởng. Sau Pêtrắccơ, quá trình khôi phục và phát huy các giá trị của văn hóa cổ đại trong “chương trình giáo dục nhân văn” (studia humanitatis) được L. Bruni, G. Manetti, L. Valla tiếp  tục triển khai theo những hướng khác nhau, thông qua việc dịch, chú giải, phân tích và đánh giá các bản văn của triết học cổ đại, từ đó gợi nên những suy tư mới về vị trí và số phận của con người trong thế giới. Bruni (1374 – 1444) dịch nhiều công trình của Platôn, Arixtốt, Plutác (Plutarch), Đêmôxten (Demosthens) và nhiều triết gia khác, kể cả những tư tưởng bị cấm truyền bá. Bruni xem Arixtốt là bộ óc vĩ đại nhất trong lịch sử cổ đại, người đã thống nhất toàn bộ tri thức khoa học của thời đại, tập những tri thức tản mạn thành hệ thống. Trong “Nhập môn khoa học đạo đức” Bruni nêu lên sự cần thiết “xây dựng lại’ quan điểm về con người như một chủ thể có năng lực lựa chọn  và sáng tạo tự do. Kế thừa tư tưởng đạo đức của Platôn và Arixtốt, Bruni xem công bằng là phẩm hạnh cao nhất.Phạm trù này ở Bruni trở thành điểm liên kết giữa đạo đức và học thuyết chính trị. Sự thay đổi thái độ của Bruni đối với triết học Platôn phản ánh sự chuyển biến tư tưởng hợp lý. Có thể nói Bruni là một trong những người tiên phong, triệt để và tích cực nhất trong việc phổ biến triết học cổ đại vào thế kỷ XV. Ông đã đặt nền móng cho quá trình tiếp cận và học tập di sản triết học Hy Lạp đối với công chúng, hiểu biết sâu sắc giá trị của công việc này trong sự nghiệp phục hồi và phát huy lý tưởng nhân văn. Hoạt động của các nhà nhân văn, trong đó có Bruni, xem mục đích của mình là làm quen người đọc với tư tưởng cổ đại, có ý nghĩa thế giới quan sâu sắc.  Bruni cũng là sử gia. Trong tác phẩm “Lịch sử dân tộc Phơlôrenxơ” lần đầu tiên ông phân ranh giới giữa cổ đại và trung cổ bằng sự sụp đổ của đế quốc La Mã.

Nhân bản luận nhân văn  xem tồn tại của con người trong tính toàn vẹn  và tính cụ thể  của nó là đối tượng nghiên cứu duy nhất. Đầu tiên hãy nói về con người, sau đó mới đến Đấng tạo hoá. Nếu xem con người là hình ảnh Chúa và giống như Chúa, thì điều đó có nghĩa con người cũng sáng tạo nên những điều kỳ diệu như thời điểm Chúa sáng tạo ra con người.

Nhân bản luận nhân văn không làm gần con người với tự nhiên, mà với Thượng đế. Nếu Thượng đế sáng tạo nên thế giới, “sự sáng và sự sống”, và trao cho con người quyền cai quản mọi thứ do Ngài sáng tạo nên, thì con người, về phần mình, sáng tạo ra văn hóa – vương quốc cùa con người, làm cho con người vượt lên trên tự nhiên.  Con người – đó là Thượng đế khả tử. Tính chất Thượng đế của con người thể hiện ở sức mạnh  và khả năng sáng tạo tầm mức vũ trụ, ở quyền của con người đối với những Thượng đế sáng tạo nên.

    Số mệnh và lý trí thù địch nhau, chỉ những kẻ mù quáng mới phó mặc cuộc đời mình cho số mệnh. Trong khảo luận “Về các phương thức chống số mệnh” Pêtrắccơ nói về tự nhiên như  người kiến tạo hợp lý, người mẹ tốt bụng và thông minh của con người, còn số mệnh là kẻ thù của con người. Hai sức mạnh này cùng tồn tại, xung đột và thâm nhập, thậm chí đan quyện vào nhau trong ý thức, do đó giữa chúng không có một ranh giới bất biến : hoặc tự nhiên, hoặc số mệnh (vel natura, vel fortuna). Tuy nhiên, xét đến cùng, tự nhiên và số mệnh là hai bức tranh khác nhau của thế giới. Theo Pêtrắccơ, có thể xem cái chết là quy luật bất di bất dịch, do tự nhiên thiết lập nên cho các thực thể khả tử, nhưng vị trí, thời gian và tính chất của nó do số mệnh định đoạt.

 Số mệnh trong quan niệm của các nhà nhân văn Phục hưng như một sức mạnh vừa xa lạ với con người, vừa thách thức con người. Ở bình diện khác, thông qua khái niệm số mệnh các nhà nhân văn cũng đụng chạm đến quyền uy của tôn giáo. Một khi cái sức mạnh xa lạ kia bị vượt qua, hoặc bị chế ngự, thì hình ảnh Thượng đế không còn được hiểu như cái Tuyệt đối toàn năng, định trước và phán quyết mọi thứ, như  nhận thức của con người thời Trung cổ.

Thách thức đáng kể đối với uy quyền nhà thờ thuộc về  chủ nghĩa Epiquya nhân văn, nghĩa là sự phục hồi triết lý nhân sinh Epiquya, trong đó có chủ nghĩa khoái lạc, như sự phản ứng trước chủ nghĩa khắc kỷ và chủ nghĩa khổ hạnh Kitô giáo. Đại diện tiêu biểu của chủ nghĩa Epiquya nhân văn là Lôrendô Vala (1407 – 1457). Valla không quan tâm đến nguyên tử luận, thậm chí cả nguyên tử luận đã nhân bản hóa của phái Epiquya, mà chủ yếu tập trung vào chủ nghĩa khoái lạc trên cơ sở duy cảm luận. Theo Vala con người được Thượng đế ban tặng sức mạnh, quyền uy và hạnh phúc, do đó không một thế lực nào, kể cả quyền lực cong cộng, có thể tạo ra những cấm đoán phi nhân tính đối với nó, bởi điều đó đơn giản là xuyên tạc ý chí Thượng đế. Valla hướng đến đạo đức học của phái Epiquya nhằm luận chứng cho giá trị trọn vẹn của cuộc sống con người, mà nội dung tinh thần của nó không tách khỏi sự no đủ vật chất, sự trải nghiệm và thụ cảm trong hoạt động đa diện đa chiều của nó.

Trong xu thế phục hồi các giá trị tư tưởng cổ đại, chủ nghĩa Plâôn cũng được quan tâm theo cách nhìn mới, đưa đến sự ra đời thuyết hỗn thành phiếm thần tại Phlôrenxơ với chủ trương Platôn hóa Kitô giáo, nhân bản hóa các nguyên lý triết học của Platôn và phái Platôn. Điều này phù hợp với một trong những đặc trưng của tư tưởng triết học Phục hưng là sự dung hợp những quan điểm tích cực của thời cổ đại với Kitô giáo. Thuyết hỗn thành (syceretism, syncrétisme…) quy tụ một số nhà nhân văn tiêu biểu như  G. Pliphôn (1355 – 1452), M. Phitrinô (Ficino, 1433 – 1499), Picô đêla Mirăngđôn (Pico della Mirandola, 1463 – 1494)…Phitrinô là đại biểu lớn của thuyết hỗn thành phiếm thần tại Phlôrenxơ. Cũng như nhiều nhà tư tưởng khác, công việc trước tiên của Phitrinô là dịch và chủ giải các bản văn triết học, đặc biệt các đối thoại của Platôn và các tác phẩm của những người theo chủ nghĩa Platôn mới, kế thừa có chọn lọc và cải biến theo tinh thần khoa học và nhân văn. Điểm mới trong tư tưởng triết học của Phitrinô thể hiện ở cách tiếp cận về quan hệ giữa tôn giáo và triết học, thần học và khoa học, niềm tin và lý trí. Phitrinô  xem tôn giáo và triết học là hai chị em song sinh , bình đẳng trong quan hệ với nhau – một đằng là “tôn giáo thông thái” (docta religio), cái vòm của tính uyên bác toàn thế giới, hướng con người đến nơi ngự trị của tình yêu và hạnh phúc đời đời; đằng khác là “triết học hữu ích” (pia philosophia), đem đến cho con người bài học về tư duy và hành động phù hợp với lý trí. Yếu tố phiếm thần của tư tưởng Phitrinô thể hiện ở mệnh đề “Thượng đế khắp mọi nơi”. Tuy nhiên ông bác bỏ quan điểm “hòa tan” Thượng đế vào tự nhiên, hay phương án tự nhiên  của thuyết  phiếm thần.  Theo ông, Thượng đế với tính cách là cái duy nhất ban đầu phi vật thể tuyệt đối nằm ở bên ngoài thế giới - đẳng cấp của sự suy giảm tinh thần và gia tăng thể xác. Đẳng cấp vũ trụ hiệu hữu trong Thượng đế mà từ đó ánh sáng  phóng chiếu khắp  thế giới. Tuy nhiên Thượng đế  không phải là cái tuyệt đối không thể nhận thức được, mà tồn tại trong mối liên hệ với tự nhiên và con người. Không phải Thượng đế – Đấng sáng tạo, mà  linh hồn vũ trụ, được hiểu như thang bậc phi vật thể cuối cùng, gần với thế giới trần tục, là cái được quan tâm trước tiên trong phiếm thần luận của Phitrinô.  Khái niệm “idea” của Platôn được phân tích từ bành diện cái lý tưởng, sự mời gọi vĩnh cửu đối với quá trình hoàn thiện bản chất con gnười trong khát vọng vươn đến đẳng cấp cao hơn trong trật tự vũ trụ thiêng liêng và đầy nhân tính. Con người hợp thành khâu trung tâm của vũ tru, đồng thời chiếm ưu thế trước thế giới vật thể bởi linh hồn vũ trụ đã được tuyệt đối hóa nơi con người. Tình yêu, cái đẹp, hạnh phúc, tất cả những gì gắn với “tố chất người”, đều trở thành những nguyên lý vũ trụ. Phiếm thần luận mang màu sắc hỗn thành của Phitrinô, do đó, đã làm suy giảm phần nào uy quyền của thuyết sáng tạo (creationism), học thuyết chính thống của Kinh thánh Kitô giáo và nền tảng bản thể luận của triết học trung cổ. Trong cái nhìn của Phitrinô con người đáng quý hơn cả các thiên thần, bởi lẽ con người để đạt được cuộc sống hạnh phúc phải làm việc vất vã suốt cuộc đời, trong khi các thiên thần chỉ biết rong chơi! Tuyên bố này đã tạo nên sự thay đổi quan trọng trong ý thức xã hội thời Phục hưng. Nếu theo Kinh Thánh, mà dựa vào đó hình thành cả quan niệm đạo đức phong kiến tại Tây Au, lao động bị xem là sự trừng phạt của Thiên Chúa dành cho con người do tội tổ tông (xem Kinh Thánh, Cựu ước, Sách Sáng thế, 3, 17 – 19, Nxb TP. HCM, 1998, tr. 36 – 37), thì theo Phitrinô và các nhà tư tưởng nhân văn khác, lao động trở thành một trong những đặc trưng cơ bản của tồn tại người.  

Người đưa ra tuyên ngôn điển hình của thuyết con người là trung tâm là Picô đêla Miranđôn (Pico della Mirandola, 1463 – 1494). Nét đặc trưng đối với các nhà tư tưởng Phục hưng là làm sống lại “thời vàng son”, đanh thức ý chí khám phá và tinh thần tranh luận trong mỗi con người. Pico nhấn mạnh tự do ý chí, thể hiện qua tự do lựa chọn như một trong những phẩm giá cơ bản của con người trong hoạt động sống và sáng tạo. Thượng đế ban cho con người quyền tự do, còn con người sử dụng nó như quyền lực của mình, với mục đích tạo dựng một thế giới tốt đẹp theo ý chí Thượng đế. Xúc phạm tự do của con người đồng nghĩa với xúc phạm ý chí Thượng đế. Con người tự do thừa nhận chân lý chỉ những gì mà mình tin, chứ không phải do áp đặt.             

Chủ nghĩa nhân văn (Humanism), bùng nổ vào thời Phục hưng, đã hàm chứa hai nội dung lớn là tôn vinh con người, lấy hình ảnh con người tiến lên tự do làm trung tâm; hướng đến một xã hội tốt đẹp, phụng sự con người, “thay sự thống trị của Thượng đế bằng sự thống trị của con người”. Từ việc tìm hiểu tư tưởng nhân văn sơ kỳ tại Phlôrenxơ – trung tâm của phong trào nhân văn, hay thủ đô văn hóa của Italia thế kỷ XIV – XV, có thể rút ra một số điểm đáng chú ý:

Thứ nhất, bằng họat động dịch thuật, phong trào nhân văn kêu gọi con người trở về với các giá trị văn hóa cổ đại, trong đó có cả các giá trị của Ky tô giáo sơ kỳ, từng bị nhà thờ xuyên tạc, lạm dụng; khôi phục tư tưởng khoan dung tôn giáo, trong đó có tư tưởng hoà giải, đối thoại giữa các tôn giáo, quyền tự do lựa chọn các hình thức truyền bá đức tin và hành lễ. Các nhà nhân văn Phục hưng, từ Pêtrắccơ trở đi, quan tâm đến triết học Platôn và Arixtốt không chỉ ở triết học tư biện và lôgíc học, mà còn mở rộng sang các vấn đề đạo đức, thẩm mỹ, văn hóa, chính trị, xã hội, đồng thời cải biến những vấn đề ấy cho phù hợp với những đòi hỏi của thời đại mới (xem Constance Blackwell, Sachiko Kusukawa, Philosophy in the Sixteenth and Seventeenth Centuries – Conversations with Aristotle, Ashgate, 1999, p. 1-15)

Thứ hai, đề cao tính chất thế tục, phi tôn giáo của đời sống, chuyển sự quan tâm từ Thượng đế sang con người, tạo nên sự nhận thức mới vê các giá trị đạo đức, trong đó có sự đánh giá lại vai trò của lao động, vấn đề tình yêu, hạnh phúc, khoái lạc, chống chủ nghĩa khổ hạnh ;

Thứ ba, nhận thức lại các vấn đề thẩm mỹ, sáng tạo nghệ thuật, nhất là các phạm trù trung tâm như cái đẹp, cái cao cả, bản thể luận hóa các chủ đề thẩm mỹ theo hướng đề cao năng lực con người, nhấn mạnh mục tiêu văn hóa nhân văn của hoạt động sáng tạo;

Thứ tư, giương cao ngọn cờ chống thần quyền, phục hồi từng bước vị ttrí của triết học và khoa học trong quan hệ với đức tin tôn giáo, giải phóng dần triết học ra khỏi vai trò kẻ phụng sự  tôn giáo và thần học.

Cuối cùng, thay thuyết Thần là trung tâm (theocentrism) bằng thuyết “con người là trung tâm (homocentrism),  thay “vương quốc của Thượng đế” (regnum Dei) bằng “vương quốc của con người” (regnum Hominis); sự thay thế này, theo Manetti, chứng tỏ con người trở thành thực thể tự quy định và tự phán xử , theo ân sủng mà Thượng đế ban tặng.

Bước sang thế kỷ XVI tư tưởng nhân văn đã được truyền bá tại nhiều nước, song Phlorenxơ vẫn giữ được vị thế tiên phong của mình. Hơn nữa “chương trình giáo dục nhân văn” đã mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác, trong đó có khoa học, chính trị, thách thức nền chuyên chính tinh thần của nhà thờ, đẩy nhanh quá trình khủng hoảng của ý thức hệ phong kiến và sự ra đời của ý thức hệ tư sản tiến bộ.

Những chuyển biến kinh tế, chính trị, xã hội thuận lợi đã làm sống dậy tinh thần  tranh luận và ý chí khám phá trong triết học. Sự quan tâm đến tự nhiên giờ đây không nhằm chứng minh hco thuyết  sáng tạo Kinh thánh, mà nhằm đề cao sức mạnh của con người. Cùng với sự  phục hồi “triết học tự nhiên” dưới hình thức phiếm thần, những khám phá trong khoa học đã góp phần xác lập bức tranh vật lý mới về thế giới. Nhiều nhà khoa học đồng thời là những nhà tư tưởng tiêu biểu của thời đại.

Tư tưởng nhân văn và xu thướng thế tục thể hiện trong các học thuyết chính trị, bao gồm: tư tưởng của Makiơvêli (Machiavelli), chủ nghĩa cộng sản không tưởng T.Môrơ ( More) và T. Campanela (Campanella), chủ nghĩa nhân văn Kytô giáo R. Êradơmuýt (Erasmus), v của nhiều nh tư tưởng khác như M. Môngten (Montaigne), E. Rabơle (Rabelais)… Học viên cần đọc thêm tư tưởng chính trị của Makiơvêli và Morơ như yêu cầu tối thiểu.

Phong tro cải cch tơn gio, với nội dung và thực chất của nó, cũng có mối liên hệ với tư tưởng nhân văn. Học viên cần đọc thêm sự ra đời, mục đích của phong trào cải cách tôn giáo do Luthơ (Luther) và Canvanh (Calvin) khởi xướng.

Thời Phục hưng không sản sinh ta những triết gia “chuyên nghiệp” thực sự, song ở tầm mức văn hóa, nó đã “sinh ra những con người khổng lồ: khổng lồ về năng lực suy nghĩ, về nhệt tình và tính cách, … về mặt có lắm tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng  (C. Mác và Ph. Angghen, toàn tập, t. 20, CTQG, HN, 1994, tr. 459 – 460)..

4.                 Phân tích các đặc trưng của triết học Tây Âu thế kỷ XVII – XVIII (gợi ý : ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản; liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên, vị thế áp đảo của chủ nghĩa duy vật trong thời đại các cuộc cách mạng tư sản; hai khuynh hướng chủ đạo trong lý luận nhận thức – kinh nghiệm v duy lý; lin hệ giữa triết học và tôn giáo trong điều kiện lịch sử mới, cuộc đấu tranh vì tự do tín ngưỡng, chống thần quyền; tinh thần khai sáng – nhân văn, vấn đề “con người lý tính” v “nh nước hợp lý tính” được Ph. Ăngghen hiểu như thế nào trong “Chống Đuyrinh” và “Biện chứng của tự nhin” – ý sau cng thuộc kiến thức mở rộng). Gợi ý

Trước tiên nên phác qua vài nét về bối cảnh lịch sử thế kỷ XVII – XVIII (kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học), tác động của nó đến triết học.

Lm r cc đặc trưng sau:  

1.Ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản

Được chuẩn bị từ phong trào văn hóa nhân văn Phục hưng (cuối thế kỷ XIV – đầu thế kỷ XVII), triết học the kỷ XVII-XVIII đã trở thành ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản và các lực lượng xã hội tiến bộ khác  trong cuộc đấu tranh chống ý thức hệ phong kiến lỗi thời. Cuộc đấu tranh này diễn ra ở nhiều bình diện : duy vật chống duy tâm thần bí, khoa học chống chủ nghĩa giáo điều và uy quyền tư tưởng, cải cách chính trị chống bảo thủ chính trị…Tính chất tiến bộ của triết học thời kỳ này được minh chứng bằng tinh thần hoài nghi và phê phán khoa học, bằng ưu thế của chủ nghĩa duy vật trước chủ nghĩa duy tâm. Nếu triết học thế kỷ XVII chú trọng đến phê phán tri thức, trước hết là tri thức kinh viện trung cổ, thì triết học thế kỷ XVIII, điển hình là triết học Khai sáng Pháp, kết hợp phê phán tri thức với phê phán xã hội, từ đó hình thành hai xu hướng vận động song song với nhau – cải tổ hoạt động tinh thần và cải tổ môi trường xã hội. So với thời Phục hưng, giai cấp tư sản thế kỷ XVII – XVII đóng vai trò lực lượng chính trị độc lập  cách mạng, tập hợp xung quanh mình các nhân tố tích cực, tiến bộ, tấn công trực diện vào chế độ phong kiến và nền tảng tinh thần của nó, xác lập những chuẩn mực, giá trị mới, đon giản hóa các quan hệ xã hội, phù hợp với sự vận động lịch sử.  Thời Phục hưng thể hiện quá trình chuyển tiếp từ chế độ phong kiến sang chủ nghĩa tư bản, còn thời đại mới đã là thời đại của các cuộc cách mạng tư sản và sự hình thành xã hội tư sản, với những đặc trưng mà xã hội trước đó chưa thể có được. Phục hưng về cơ bản gắn liền với sự trở về những giá trị bị lãng quên, để từ đó thực hiện sự nhận thức lại quá khứ và mở hướng cho tương lai. Thế kỷ XVII – XVIII tiếp thu tinh thần mở đó, và làm cho nó trở nên hiện thực thông qua cuộc cách mạng cơ cấu, nghĩa là cuộc cách mạng làm đảo lộn mọi quan hệ và cơ cấu xã hội, thay đổi hình thức và cơ chế quyền lực chính trị, phá vỡ các đặc quyền đẳng cấp, thay đổi quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ v.v.. Cách mạng trong lý trí đi trước cách mạng trong lĩnh vực thực tiễn, các học thuyết triết học  thực hiện quá trình phê phán cái cũ, cái lỗi thời, xác lập cái mới, cái tiến bộ, xem cái đang tồn tại, tức chế độ phong kiến và hệ tư tưởng của nó là cái phi lý, cũng đồng thời là phi nhân tính, đòi hỏi thay thế nó bằng cái hợp lý – hơp nhân tính, theo quan điểm phổ biến về sự thống nhất lý trí – nhân tính. Bêcơn, Đềcáctơ, Xpinôda, Lốccơ, Môngtéxkiơ, Vônte, Rútxô, Điđơrô, Hônbách …đều bắt đầu học thuyết của mình bằng tinh thần hoài nghi và phê phán như thế.  

2. Liên minh giữa triết học và khoa học tự nhiên

 Sự phát triển của triết học gắn kết chặt chẽ, hữu cơ  với sự  phát triển của khoa học tự nhiên, thể hiện trình độ nhận thức chung của thời đại. Nhiều nhà triết học đồng thời là nhà khoa học (Descartes, Newton, Pascal , Leibniz …) hoặc có những am hiểu sâu sắc về khoa học, trở thành bộ óc bách khoa của thời đại (Diderot chẳng hạn). Nói khác đi, trong điều kiện khoa học phát triển như vũ bão, các nhà triết học, để có thể đứng vững trong cuộc luận chiến tư tưởng, không có nhu cầu nào khác hơn là phải am hiểu những thành quả của khoa học. Mà để đạt được điều đó họ cần tự mình tìm hiểu, nghiên cứu các lĩnh cực khoa học, cần mài sắc tư duy bằng sự hiểu biết về bức tranh khoa học tổng thể, hoặc chi ít cũng làm quen với môi trường khoa học ở những nét căn bản nhất.

Nhờ biết nám sát vào những thành tựu của khoa học tự nhiên và trình độ nhận thức chung của xã hội, các nhà triết học đã xác lập bức tranh vật lý mới về thế giới, nắm bắt những tính quy luật khách quan của nó, đào sâu một số vấn đề bản thể luận mà trước đây chưa từng biết đến. Song ảnh hưởng của khoa học tự nhiên đến tư duy tríết học cũng làm nảy sinh những nan giải nhất định. Trước hết, sự thống trị của cơ học đã để lại dấu ấn trong triết học bằng quan điểm máy móc về thế giới, cả giới tự nhiên lẫn thế giới của chính con người. Tiếp theo,  quá trình tóan học hóa tư duy bên cạnh mặt tích cực của nó đã góp phần vào việc hình thành cách tiếp cận siêu hình đối với một số lĩnh vực tự nhiên, xã hội, chủ trương đưa khoa học chính xác vào môi trường nhân văn. Chẳng hạn, theo Hốpxơ, nếu chúng ta đã có vật lý học, nghiên cứu cụ thể về các vật thể tự nhiên, thì cần thiết phải xác lập “vật lý xã hội”, tìm hiểu các vật thể nhân tạo. Nếu trong tự nhiên có lực đẩy và lực hút, thì trong xã hội, hai lực ấy là chiến tranh và hoà bình! Hốpxơ  cũng xem l6ogíc tính toán là khoa học nhập môn của các lĩnh vực khác. Rất nhiều nhà triết học không chỉ lệ thuộc vào các nguyên lý cơ học trong nghiên cứu, mà còn từ đó hình thành phương pháp tư duy theo kiểu tách rời và đem đối lập một cách tuyệt đối “đúng – sai”, “trắng – đen”, “khoa học – không khoa học”… Phương pháp tư duy của Siêu hình học thế kỷ XVII – XVIII có những mặt tích cực nhất định, nhất là trong điều kiện các nhà khoa học cần đến “những chứng cứ của lý trí” để chống các hình thức nguỵ tạo khoa học và triết học kinh viện. Song phương pháp ấy lại tỏ ra không thích  hợp  trong việc giải thích bản chất cũa thế giới đang biến đổi.  Vấn đề là ở chỗ, trong khi tìm hiểu những mặt, những thuộc tính của sự vật, những kĩnh vực của đời sống, các nhà triết học và khoa học chưa vạch ra một cách thỏa đáng mối liên hệ và tác động lẫn nhau giữa chúng, hoặc tuyệt đối hóa maột mặt nào đó, đồng thời lý giải thiếu thuyết phục nguyên nhân, động lực của vận động và phát triển. Hình thức thứ hai của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII cũng chịu sự quy định của tính chất máy móc, siêu hình ấy, và được gọi là chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình, hay đơn giản là chủ nghĩa duy vật siêu hình.

3. Hình thành hai khuynh hướng chủ đạo trong nhận thức

Sự quan tâm đến nhận thức  đáp ứng đòi hỏi của con người trong điều kiện bùng nổ các khám phá và phát minh khoa học, phát triển lực lượng sản xuất. Có thể xác định một số đặc trưng của lý luận nhật thức thế kỷ XVII – XVIII. Một là, cùng với việc các khoa học cụ thể về tự nhiên và xã hội tách dần khỏi triết học, đã diễn ra sự thay đổi tất yếu của đối tượng triết học : các nhà triết học ngày càng tập trung sự chú ý vào việc quyết cùng lúc hai mặt của một vấn đề lớn, mà thiếu một trong số chúng, triết học sẽ mất đi vai trò xã hội của mình – mặt bản thể luận và mặt nhận thức luận – lô gíc học. Hai là, sự thay đổi căn bản trong quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, sự xuất hiện ngày càng nhiều các phương pháp chuyên biệt đối với các lĩnh vực  khoa học tự nhiên và lịch sử đặt ra trước  triết học nhiệm vụ khái quát các thành quả của chúng và xây dựng phương pháp triết học chung của nhận thức, cũng như làm sáng tỏ mối quan hệ giữa triết học với các khoa học chuyên biệt. Nhu cầu phân tích mang tính nhận thức luận đối với các kết quả nghiên cứu khoa học trở nên cấp bách, bởi lẽ các chất liệu tiềm tàng và đa dạng do khoa học đem đến cần được luận chứng và hệ thống hóa. Mặt khác, từ việc xử lý chất liệu cần vạch ra con đường nhận thức tiếp theo về thế giới. Chính vì thế các nhà tư tuởng đặt trọng tâm vào việc tìm kiếm phương pháp luận chung và làm sáng tỏ bản chất của tư duy. Ba là, những thành tựu trong nghiên cứu khoa học và những thay đổi trong phương pháp luận nghiên cứu cũng đặt ra nhiệm vụ tìm hiểu bản chất của quá trình nhận thức và nguồn gốc tri thức. 

Việc hình thành các phương pháp nhận thức khác nhau nhằm đạt đến mục đích khẳng định quyền lực của con người trước tự nhiên, giúp con người làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Tuyên bố của Bêcơn (Bacon) “tri thức là sức mạnh” đã trở thành tuyên ngôn của thời đại. Từ thế kỷ XVII trở đi vấn đề phương pháp trở thành một ntrong những chủ đề chính của các cuộc tranh luận triết học, góp phần xác định giá trị của mỗi học thuyết trong đời sống xã hội. Thậm chí một số nhà triết học đã quy giản đối tượng của triết học về phương pháp.

Trong quá trình tranh luận về phương pháp nhận thức đã hình thành nên hai khuynh hướng chủ đạo là kinh nghiệm (empiricism), do Ph. Bêcơn khởi xướng, và duy lý (rationalism), do Đềcáctơ đứng đầu. Khuynh hướng thứ nhất chú trọng vai trò của khoa học thực nghiệm, khuynh hướng thứ hai nhấn mạnh vai trò của toán học và xu thế toán học hóa tư duy. Sự khác nhua giữa hai khuynh hướng đó đề cập đến vấn đề nguồn gốc của tri thức, bản chất của nhận thức, phương pháp nhận thức cụ thể.  Hạn chế của cả hai khuynh hướng trên thể hiện ở tính phiến diện, không thấy được biện chứng của quá trình nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, không biết kết hợp vả hai phương pháp – quy nạp và diễn dịch – trong quátrình nhận thức và nghiên cứu khoa học  

4. Triết học và tôn giáo, khoa học và thần học

Triết học và khoa học thế kỷ XVII-XVIII chưa chấm dứt hăn những liên hệ với tôn giáo và thần học, thể hiện ơ các phương án dung hòa giữa các quan điểm, các cách tiếp cận dường như đối lập nhau, đó là  quan niệm hai chân lý (chân lý khoa học và chân lý thần học, đức tin đều có chỗ đứng rong tâm hồn con người), phiếm thần, thần luận tự nhiên. Tuy nhiên so với thời đại trước, những liên hệ này không tỏ ra nặng nề, thậm chí mang ý nghĩa tích cực nhất định: 1) phù hợp với điều kiện lịch sử, xã hội hiện có; 2) các nhà triết học đội khi sử dụng phiếm thần và thần luận tự nhiên trong cuộc đấu tranh vì tự do tín ngưỡng và tôn vinh những giá trị của con người.Điều này giải thích vì sao trong chủ nghĩa duy vật hiện diện đầy đủ các phương án vừa nêu, từ Bêcơn, Đềcáctơ đến Xpinôda, Lốccơ, phần lớn các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Hình ảnh Thượng đế trong nhiều trường hợp trở thành biểu tượng cao nhất của sự hoàn thiện lý trí. “Tự nhiên thần luận, ít ra là đối với nhà duy vật, chỉ là một phương pháp thuận tiện và dễ dàng để thoát khỏi tôn giáo” (C. Mác và Ph. Angghen, toàn tập, t.2, CTQG, HN, 1995, tr. 197).dnt

5. Tư tưởng nhân văn, khai sáng

 Tư tưởng nhân văn, khai sáng làm nên một trong những nội dung cốt lõi của triết học Cận đại. Quan điểm của Bêcơn về xã hội lý tưởng, được xây dựng trên cơ sở “quyền lực của tri thức” cho đến nay vẫn còn ý nghĩa thời sự. Nếu Bêcơn tuyên bố “tri thức là sức mạnh”, thì Hốpxơ nhấn mạnh rằng quyền lực cần phải hàm chứa yếu tố tri thức, nghĩa là được xác lập trên sự hiểu biết bản chất con người, hướng đến mục tiêu ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và thống nhất ý chí toàn dân. Lốccơ trở thành người đặt nền móng cho quan điểm nhà nước pháp quyền, được các nhà khai sáng Pháp thế kỷ XVIII phát triển và hoàn thiện ở đêm trước của cách mạng tư sản. Hình ảnh “con người lý trí” và “nhà nước hợp lý tính”, quan niệm về tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ … không chỉ gợi mở con đường đi tới một trật tự xã hội khác với chế độ phong kiến “phi lý” và phi nhân tính, ngự trị suốt hàng ngàn năm. mà còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc. Một số phác thảo của các nhà khai sáng về mô hình xã hội tương lai cho đến nay vẫn còn là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc.

Với những đặc trưng vừa nêu, có thể nói rằng, thế kỷ XVII – XVIII là một trong những thời đại sôi động nhất trong lịch sử loài người.

5.                 Trình by khi qut v đánh giá chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình như hình thức thứ hai trong sự pht triển của chủ nghĩa duy vật

           Xác định chủ nghĩa duy vật máy móc – siêu hình (cĩ thể gọi đơn giản là chủ nghĩa duy vật siu hình cũng được) là hình thức lịch sử thứ 2 trong sự pht triển của chủ nghĩa duy vật. Sự phn biệt ba hình thức mang tính tương đối, bởi lẽ ba hình thức được cô đọng lại chỉ l ba hình thức cơ bản, chứ không phải là toàn bộ các hình thức hết sức phong ph của CNDV. Tư tưởng duy vật trong triết học thế kỷ XVII – XVIII là biểu hiện tập trung và tiêu biểu nhất của chủ nghĩa DVMMSH. Những biểu hiện của hình thức ny đ có ngay trong triết học Phục hưng, với phiếm thần luận duy vật gắn với tư tưởng khoa học của G. Bruno, những yếu tố duy vật trong các kết luận khoa học, các phát minh khoa học của Copernic, Kepler, Galilei …

-                     Nêu khái quát điều kiện lịch sử và tiền đề của sự ra đời tư tưởng duy vật trong triết học thế kỷ XVII – XVIII : nhấn mạnh những biến đổi tích cực trong kinh tế, chính trị, x hội, văn hoá, khoa học, chỉ ra cội nguồn sâu xa (duy vật Hy lạp  - La M cổ đại), tác động của phong trào nhân văn và tư tưởng khoa học Phục hưng đến sự hình thnh chủ nghĩa duy vật my mĩc siu hình.

Nhấn mạnh rằng cũng như triết học nói chung, chủ nghĩa DV thời kỳ này là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản và các lực lượng x hội tiến bộ khc trong cuộc đấu tranh chống ý thưx1 hệ phong kiến v trật tự phong kiến “phi lý” v “phi nhn tính” (giải thích), hướng đến xác lập “nhà nước hợp lý tính”, tơn vinh “con người lý trí”. CNDV chiếm vị thế áp đảo trước CNDT. Với tính cách đó CNDV có những đóng góp to lớn vào truyền thống tư tưởng duy vật. Cụ thể:

+ Thế giới quan: Vấn đề này thể hiện trước hết trong khía cạnh bản thể luận, tức tìm hiểu vấn đề tồn tại của thế giới: giải quyết một cách duy vật vấn đề cơ bản của triết học, khẳng định tính tích cực nội tại của thế giới vật chất (Bacon), vật chất là cơ sở của tồn tại (Descartes trong Vật lý học của minh), xác định thực thể như causa sui,  tức “nguyên nhân tự nó” (Spinoza), loại bỏ Thượng đế ra khỏi đối tượng triết học, quy mọi thứ về “vật thể” (Hobbes), khẳng định giới tự nhiên tồn tại vĩnh viễn theo các quy luật “thuần tuý vật lý”, không do ai sáng tạo (duy vậ Pháp thế kỷ XVIII). Nhờ tác động của  khoa học tự nhin cc nh duy vật xc lập bức tranh vật lý mới về thế giới, tìm hiểu cc quy luật vận động của nó, tiến một bước trong việc giải thích các phạm trù “vật chất”,”vận động”, “không gian”,, “thời gian”, đi đến xem vđ, kg, tg là thuộc tính cố hữu và phương thức tồn tại của vật chất. Đặc biệt lưu ý vai trị của CNDV Php thế kỷ XVIII trong CNDV cận đại, chỉ r rằng một số quan điểm của Diderot, Holbach (vấn đề quan hệ nhân quả trong giới tự nhiên, tính quy luật khách quan của thế giới, nỗ lực tìm hiểu cc hình thức vận động của vật chất, hiểu vận động như “mọi sự thay đổi nói chung”).

+ Nhận thức luận : trước hết là tinh thần hồi nghi v ph phn khoa học. Vào thế kỷ XVII các nhà duy vật vạch ra những sai lầm trong nhận thức, phê phán tri thức kinh viện và uy quyền tư tưởng trong khoa học, chống thần quyền. Bacon với học thuyết về 4 “ảo tượng” (ngẫu tượng) của nhận thức. Descartes nêu cao tinh thần hoài nghi khoa học, xem nguyên tắc hoài nghi toàn diện là điều kiện để vượt qua hoài nghi, đến với chân lý. Spinoza, Hobbes, Locke, cc nh duy vật Php thế kỷ XVIII đều mở đầu hệ thống của mình bằng thi độ hoài nghi, phê phán thực trạng của nhận thức.

Thế kỷ XVIII : gắn phê phán tri thức với phê phán chế độ chuyên chế phong kiến, địi hỏi thay thế trật tự x hội phi lý, phi nhn tính bằng “nh nước hợp lý tính” trn cơ sở thừa nhận các quyền cơ bản của con người.

Xác lập phương pháp nhận thức khoa học. Hai khuynh hướng cơ bản trong lý luận nhận thức l kinh nghiệm v duy lý. Vạch ra sự khác nhau giữa hai khuynh hướng này trong cách hiểu về nguồn gốc và bản chất của tri thức, về cơ sở khoa học tự nhiên, về phương pháp cụ thể (vấn đề này đ phn tích kỹ tại buổi ơn tập).

+ Quan điểm chính trị, x hội (khía cạnh nhn sinh, hay nhn sinh quan): CNDV với vấn đề đấu tranh chống thần quyền, đề cao khoan dung tôn giáo, tự do tín ngưỡng. Không tưởng của Bacon như sự dự báo về vai trị của tri thức trong x hội (từ tuyn bố “tri thức l sức mạnh” đến ý tưởng về một x hội dựa trn quyền lực của tri thức, trong New Atlantis). Hình thnh những nội dung mới của đạo đức, chính trị mang ý nghĩa thế tục, chống chế độ đẳng cấp và nền chuyên chế, Đề cao quyền con người , thống nhất quyền con người và quyền công dân (Locke). Vấn đề “nhà nước hợp lý tính”. Lý trí như chuẩn mực và vị quan toà (Ph.Ăngghen) phán quyết hành vi con người. Vai trị của cc nh duy vật – khai sng Php thế kỷ XVIII trong việc xc lập những chuẩn mực, giá trị của thời đại mới. Lý tưởng chính trị (tự do, bình đẳng, bác ái, dận chủ …) hiện nay vẫn tiếp tục là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc.  

·        Hạn chế lịch sử của CNDV thời trước (cả DV thế kỷ XVII – XVIII lẫn Feuerbach thế kỷ XIX):

+Thế giới quan: tính máy móc, do chịu ảnh hưởng của cơ học (phân tích ý ny). Vật chất đồng nhất với vật thể, với nguyên tử, hoặc với các chất giả định mang các loại trường. Vận động quy về vận động cơ học. Công thức “con người – cỗ máy”. Tính chất này tất yếu dẫn đếntính chất thứ hai – siêu hình, nghĩa l xem xt sự vật trong trạng thi cơ lập, tch rời nhau, ngưng đọng, không vạch ra được mối liên hệ, tác động, chế ước lẫn nhau, chuyển hoá; trong quan niệm về phát triển nhiều nhà duy vật chỉ đề cập đến tăng trưởng về lượng, chưa làm r hoặc chưa thấy được quna điểm biến đổi về chất, giải thích thiếu cơ sở khoa học vấn đề nguồn gốc, động lực của phát triển. 

+Nhận thức luận: cực đoan, phiến diện (lấy ví dụ chứng minh, đ phn tích kỹ trong buổi ơn tập).

+Quan điểm chính trị, x hội: tính chất không triệt để (duy tâm, và cả yếu tố không tưởng). Lấy ví dụ chứng minh.

Tĩm : hình thức 2 của CNDV l CNDV my mĩc – siu hình, hay đơn giản là CNDV siêu hình.

6.                 Phân tích các đặc trưng cơ bản của triêt học cổ điển Đức (gợi ý : với đặc trưng 1 cần hiểu nhận định của C. Mác về triết học Kant, triết học cổ điển Đức nói chung, như “lý luận Đức của cvách mạng Pháp”; chỉ ra mặt tích cực v hạn chế trong lý luận nhận thức, sự pht triển chủ nghĩa duy tm với hai biến thi l duy tas6m chủ quan và duy tâm khách quan; chỉ ra đóng góp to lớn của triết học CĐ Đức vào sự phát triển triết học nhân loại là phép biện chứng, đánh giá phép biện chứng duy tâm tại Đức, nhất là phép biện chứng Hegel; chỉ ra mối liên hệ giữa triết học cổ điển Đức với khoa học thời kỳ này, vị trí của triết học cổ điển Đức trong lịch sử trtiết học phương Tây, triuyền thống “cổ điển” trong văn hoá phương Tây; vai trị của của Feuerbach – sự kết thc đầy ý nghĩa toàn bộ triết học tư sản “cổ điển”, vai trị của triết học cổ điển Đức đối với sự ra đời triết học Mác)

Cần đề cập vài nét về bối cảnh lỉch sử tác động đến sự hình thnh v tính chất của triết học cổ điển Đức;

Nêu một số đặc trưng cơ bản và phân tích từng đặc trưng một

1. Ttriết học cổ điển Đức là triết học Khai sáng, “thể hiện khát vọng của người tiểu thị dân Đức” (Ph. Ăngghen) muốn thay đổi trật tự hiện hành bằng ánh sáng của trí tuệ và lý tưởng tự do bình đẳng, bác ái, được kế thừa từ cách mạng Pháp cải biến cho ph hợp với điều kiện Đức. Tinh thần đó làm cho các hệ thống triết học, từ Kant đến Feurerbach, mang tính chất nhân văn sâu sắc. Mc xem triết học Kant l lý luận Đức của cách mạng Pháp. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác cách mạng lý trí (tư duy lý luận tiến bộ, cách mạng) đi trước cách mạng trong lĩnh vực thực tiễn, đóng vai trị l ngọn cờ lý luận của cc lực lượng x hội tiến bộ. Cch mạng lý trí trong trường hợp này thể hiện ở triết học cổ điển Đức. Thứ nhất, bằng nhiều phương thức khác nhau các triết gia Đức, từ Kant đến Feuerbach phê phán tình trạng “phi lý” của hiện thức v những hạn chế về phương pháp luận trong nhận thức, nêu lên sự cần thiết cải cách môi trường x hội theo hướng tích cực. Thứ hai, cng với sự ph phn tình trạng hiện có của đời sống x hội v “tinh thần Đức”, các triết gia Đức đưa ra nhiều quan điểm tích cực về chính trị, x hội, dự bo khả năng thay thế trật tự hiện tồn bằng “nhà nước hợp lý tính” (Kant, Fichte v Scheeling thời kỳ đầu, Hegel, đặc biệt là Feuerbach). Tuy nhiên do điều kiện lịch sử tại Đức chi phối mà tư tưởng nhân văn, khai sáng ở các triết gia Đức tỏ ra không triệt để; điều này thể hiện ở mệnh đề “cái gì hợp lý thì hiện thực, ci gì hiện thực thì hợp lý” trong triết học php quyền của Hegel. Mệnh đề ấy chặt chẽ và xác đáng từ góc độ nhận thức, thể hiện quan điểm của Hegel về sự đồng nhất tư duy và tồn tại, song ở  bình diện chính trị - x hội nĩ cho thấy tính mu thuẫn : kht vọng chiến thắng của “ci hợp lý” v sự dung hồ với thực tại phi lý (xt như mặt đối lập của cái hợp lý trong tư duy), nhưng đầy uy quyền là nhà nước quân chủ.  

2.Quan tâm đến vấn đề nhận thức, khắc phục hạn chế của lý luận nhận thức thế kỷ XVII – XVIII, xây dựng lý luận nhận thức với những nội dung phong phú v su sắc (dẫn chứng từ Kant, Hegel, đ hướng dẫn trong buổi ôn tập). Tuy nhin sự đề cao nhận thức, lý trí của con người đến mức thần thánh hóa đ ảnh hưởng đến tính chất duy tâm của triết học Kant, Fichte, Schelling, Hegel.  Dẫn chứng hai biến thi của chủ nghĩa duy tâm là chủ nghĩa duy tâm chủ quan (hầu như hiện diện ở Kant, Fichte, Schelling qua các phương án khác nhau, từ duy tâm tiên nghiệm đến “học thuyết khoa học” tuyệt đối hoá cái Tôi), chủ nghĩa duy tâm khách quan (chủ yếu Hegel, một phần ở Schelling trong triết lý về sự mặc khải thần bí). Mặc khác chủ nghĩa duy tâm Đức cũng l kết quả tất yếu trong qu trình chuyển trung tm tri thức từ Anh v Php sang Đức.

3.Triết học cổ điển Đức đóng góp to lớn trong việc phát triển phép biện chứng (ở Kant, Fichte, Hegel, một phần ở Schelling thời trẻ), hình thnh phong cch tư duy mới trong văn hóa châu Âu (và kể cả văn hóa nhân loại), khắc phục sự phân tuyến máy móc theo kiểu “đúng – sai”, “trắng – đen”, “khoa học – phản khoa học” như đ từng hiện diện ở siu hình học thế kỷ XVII – XVIII. Theo phương pháp nghiên cứu mới sự đánh giá các vấn đề thần thoại, tôn giáo, mà thuật tỏ ra xác đáng hơn, khoa học hơn. Nhấn mạnh : php biện chứng duy tm l hình thức thứ hai trong lịch sử php biện chứng. Lược khảo biện chứng của quá trình nhận thức ở triết học Kant, biện chứng ci Tơi v ci khơng-Tơi ở Fichte, khi qut đóng góp của Hegel vào sự phát triển của phép biện chứng: đưa ra cách hiểu mới (hiện đại) về phép biện chứng; hình thnh những nguyn lý cơ bản của phép biện chứng, đào sâu vấn đề biện chứng của quá trình nhận thức, đi đến tư tưởng về thống nhất phép biện chứng với lý luận nhận thức v lơgíc học, vận dụng php biện chứng để lý giải các vấn đề của tri thức khoa học… Phép biện chứng duy tâm Đức, nhất là phép biện chứng Hegel, thể hiện mặt tích cực, tiến bộ, cách mạng của “những người thị dân Đức” (Ph. Ăngghen). 

4. Triết học cổ điển Đức hình thành và phát triển trong sự gắn bó hữu cơ với toàn bộ nền văn hóa của nước Đức và nhân loại, với trình độ khoa học tự nhiên thế kỷ XVIII – XIX. Chính thực tiễn sinh động và sự khởi sắc tinh thần đã quy định tính đa dạng và đặc sắc, cũng như những mâu thuẫn của các hệ thống triết học.Những triết gia Đức thực sự là những bộ óc lớn, mang tính bách khoa, nhất là Kant và Hegel. Tính độc lập tương đối của ý thức thể hiện ở chỗ ý thức cĩ thể phản nh ph hợp thực tiễn, tồn tại x hội hiện tồn, hay “song hnh” cng với nĩ, cĩ thể tun theo tính quy luật nội tại, không bị chi phối bởi thế giới vật chất, mà vượt qua thế giới ấy. Các triết gia Đức đ vượt qua hiện thực nước Đức để thể hiện tinh thần thời đại trong tư tưởng của mình thơng qua tính quy luật kế thừa v pht triển tư tưởng.. Ở Kant bước ngoặt Copernic đ đưa đến sự ra đời hệ thống triết học với ba tác phẩm “phê phán”; ở Hegel ngoài hệ thống đồ sộ cịn cĩ cc tc phẩm lớn, bn về nhiều vấn đề, trong đó có những ỳ tưởng “vạch thời đại” (Engels).

Triết học Đức là sự kết thúc đầy vinh quang toàn bộ nền triết học tư sản cổ điển Trong sự kết thúc đó Feuerbach đ khơi phục truyền thống  duy vật trong bối cảnh chủ nghĩa duy tm v thần bí đang phổ biến. Triết học cổ điển Đức cũng là đỉnh cao của triết học theo nghĩa cũ , nghĩa “khoa học của cc khoa học”. Sau triết học Đức đ diễn ra wqu trình phi cổ điển hoá triết học trên nền chung của phi cổ điển hoá văn hoá châu Âu.

7.                   Sự ra đời của triết học Mác – bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học (gợi ý: khơng nn nhầm lẫn những yếu tố của tính bước' ngoặt cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện với “các đặc điểm của triết học Mác”; trình by khi qut – khoảng 1 trang về sự ra đời triết học Mác; phân tích : sự thống nhất chủ nghĩa DV và phương pháp biện chứng; sự thể hiện các nguyn lý của php BCDV vo thực tiễn x hội, hình thnh quan niệm duy vật về lịch sử; sự thống nhất lý luận v thực tiễn, giải quyết v/đ cơ bản của TH từ quan điểm thực tiễn, ý nghĩa “cải tạo thế giới”; sự thống nhất tính cch mạng v tính khoa học , chủ nghĩa nhân văn và lý luận giải phĩng con người; làm thay đổi quan niệm về tính chất và đối tượng của triết học, liên minh giữa triết học và các khoa học chuyên biệt)

         Dnh khoảng 1 trang trình by khi qut bối cảnh lịch sử, nhắc đến các tiền đề dẫn đến sự ra đời triết học Mác, các giai đoạn lớn của lịch sử triết hjọc Mác – Lênin. Sau đó đi vào nội dung, với 5 điểm chứng minh sự ra đời triết học Màc là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học.

1. Thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng

Công lao lịch sử của Hêghen là đã phát triển phép biện chứng từ trình độ tự phát trở thành một khoa học , từ tản mạnh thành hệ thống, đem đến cách hiểu hiện đại về phép biện chứng như học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, vượt qua cách hiểu mang nặng tính chủ quan về phép biện chứng như “nghệ thuật đối thoại”, xuất phát từ người Hy Lạp. Phép biện chứng, với tính cách như trên, được Hêghen trình bày trong Khoa học lôgíc, hay Lôgíc học theo nghĩa rộng, hàm chứa sự thống nhất phép biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc học. Tuy nhiên phép biện chứng Hêghen lại được hình thành trên cơ sở thế giới quan duy tâm, do đó tỏ ra không triệt để và đầy mâu thuẫn. Phoiơbắc phê phán chủ nghĩa duy tâm tư biện Hêghen, khôi phục truyền thống duy vật, kết hợp với thuyết nhân bản đặc trưng của mình. Song thứ chủ nghĩa duy vật ấy lại chịu sự chi phối của phương pháp tư duy siêu hình.   C. Mác và Ph, Angghen đã khắc phục tính chất phiến diện của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng của những người đi trước, nhất là các bậc tiền bối trực tiếp, xác lập hình thức hiện đại của chủ nghĩa duy vật, tức chủ nghĩa duy vật biện chứng, hình thức hiện đại của phép biện chứng, tức phép biện chứng duy vật. Triết học mácxít là sự thống nhất hữu cơ chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Bước chuyển đầy ý nghĩa này được bắt đầu từ những năm 40 của thế kỷ XIX, và từ cuối năm 1843 – đầu năm 1844 Mác và Angghen dần dần trở thành những nhà duy vật biện chứng. Tác phẩm điển hình – “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu”, “Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844”. Ở những thời ký tiếp theo chủ nghĩa duy vật mácxít được hoàn thiện, làm sâu sắc thêm trong “Chống D0uyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”…

2. Phát minh ra quan niệm duy vật về lịch sử,làm cho chủ nghĩa duy vật mácxít trở thành chủ nghĩa duy vật triệt để

. Các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng được thể hiện một cách sinh động và sáng tạo trong việc phân tích tiến trình lịch sử - xã hội, làm sáng tỏ các quy luật vận động và phát triển của nó. Khắc phục quan niệm duy tâm và siêu hình về lịch sử, triết học mácxít thực sự trở thành chủ nghĩa duy vật triệt để trong quan niệm về tự nhiên, xã hội và tư duy. Phát minh ra quan niệm duy vật về lịch sử là thành công lớn của Mác và Ăngghen.

Những vấn đề của quan niệm duy vật về lịch sử được Mác và Angghen lần đầu tiên phân tích một cách sâu sắc và có hệ thống trong “Gia đình thần thánh”(1845) và “Hệ tư tưởng Đức” (1845 – 1846). Đó cũng là hai tác phẩm viết chung đầu tiên của Mác và Angghen. Trong “Gia đình thần hánh” Mác và Angghen phê phán quan niệm duy tâm của phái Hêghen trẻ, xây dựng học thuyết duy vật về quan hệ giữa cá nhân và quần chúng nhân dân, về động lực của tiến bộ lịch sử, về đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản nhằm khắc phục tình trạng tha hóa “loài”.Trong “Hệ tư tưởng Đức” lần đầu tiên các khái niệm nền tảng, trung tâm của quan niệm duy vật về lịch sử (chủ nghĩa duy vật lịch sử), được nêu lên trong sự phân tích khoa học về  quy luật phổ biến của vận động xã hội, trong sự phân tích phương thức sản xuất,  rút ra quy luật về sự phù hợp của hình thức giao tiếp (quan hệ sản xuất) với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.  Trong “Hệ tư tưởng Đức” Mác và Angghen phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng kiến trúc thượng tầng, vạch ra tính tất yếu của sự thay thế các hình thức sở hữu, nói tóm, đã phác thảo những vấn đề cốt lõi của học thuyết mácxít về hình thái kinh tế – xã hội. Các vấn đề chủ quan niệm duy vật về lịch sử được hoàn thiện và làm sâu sắc thêm ở các thời kỳ sau, trong những tác phẩm và bài biết tiêu biểu, đặc biệt là “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”(1848), “Tư bản” (1867, t.1), “Chống Đuyrinh” (1876 - 1878), “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884)…Lênin bảo vệ , bổ sung và phát triển chủ nghĩa duy vật lịch sử trong điều kiện lịch sử mới.

3. Thống nhất lý luận và thực tiễn, giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn

Mác và Angghen khắc phục tính chất tư biện của triết học Hêghen, xây dựng một trong những nguyên tắc xuyên suốt của chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng, là  thống nhất lý luận và thực tiễn, thực hiện sứ mệnh  “cải tạo thế giới”, chứ không chỉ dừng lại ở “giải thích thế giới” ( xem “Luận cương vềPhoiơbắc”, luận cương thứ 11 ).. Trong “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu” và “Gia đình thần thánh” Mác không dưới một lần nhấn mạnh “thủ tiêu”, “xoá bỏ” , “phủ định” triết học theo nghĩa cũ, thứ triết học tư biện, “bay lượn cao” trên biển cả cuộc sống đầy bão táp. Đối với Mác không phải cuộc sống diễn ra theo những đồ thức luận tư duy, mà ngược lại, đồ thức luận tư duy cần thường xuyên được điều chỉnh theo những diễn biến của cuộc sống. Vì thế quan điểm thực tiễn đã trở thành quan điểm xuất phát, nền tảng trong triết học Mác. Lịch sử phát triển của triết học cho thấy phạm trù “thực tiễn” có từ thời cổ đại, và trở thành một trong những phạm trù được nhắc đến nhiều trong các học thuyết triết học. Điều này không khó giải thích, bởi lẽ không một nhà triết học nào chủ trương tách rời hệ thống triết học khỏi thực tiễn lịch sử – xã hội. Vấn đề là ở chỗ các học thuyết ấy hiểu thực tiễn như thế nào, dựa trên cơ sở thế giới quan nào. Cantơ, chẳng hạn, nhấn mạnh ưu thế của “lý tính thực tiễn” trước “lý tính thuần tuý”, vạch ra con đường biện chứng của nhận thức từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Song Cantơ hiểu thực tiễn theo nghĩa “hoạt động mang ý nghĩa thực tiễn”, tức đồng nhất phạm trù “thực tiễn” với phạm trù “hoạt động”. Hêghen cũng khẳng định “chân lý thực tiễn cao hơn chân lý lý luận”, nhưng cách hiểu của ông về thực tiễn không vượt ra khỏi khuôn khổ của chủ nghĩa duy tâm tư biện. Mác không chỉ  đưa vào phạm trù “thực tiễn” nhiều nội dung mới, xem thực tiễn như tồn tại có tính lịch sử – xã hội của con người, điều mà các nhà triết học thế kỷ trước chưa nghĩ đến, mà còn xác định tính vật chất của hoạt động thực tiễn. Đó là sự khác biệt giữa Mác với Cantơ và  Hêghen. Nhờ hiểu thực tiễn từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng mà nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn mang thông điệp mới.  Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học từ quan điểm thực tiễn nghĩa là phải xem thực tiễn như nguồn gốc, cơ sở, động lực, mục tiêu của nhận thức, tiêu chụẩn kiểm tra chân lý. Hơn thế nữa, chỉ xuất phát từ thực tiễn mới khắc phục được quan điểm siêu hình trong nhận thức và hành động, bởi lẽ thực tiễn biến đổi sẽ thực hiện quá trình sàng lọc, đào thải đối với lý luận; những quan điểm nào tỏ ra lỗi thời, không đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội, sẽ phải nhường chỗ cho cái mới, cái hợp lý. 

4. Thống nhất tính cách mạng với tính khách quan khoa học; vũ khí lý luận của giai cấp vô sản

Là học thuyết mang ý nghĩa “cải tạo thế giới”, triết học Mác ngay từ khi ra đời đã thâm nhập vào các phong trào quần chúng, trở thành một học thuyết tạo nên ảnh hưởng sâu sắc trong thế giới đương đại.  Xét từ góc độ lý luận giải phóng, triết học Mác là chủ nghĩa nhân văn đạt đến tầm cao mới, hình thành trong điều kiện xã hội tư sản, nhưng thông qua hiện thực đấu tranh của giai cấp vô sản đã dự báo về một xã hội lý tưởng, hay một liên hợp mà ở đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (M & Ă, t. 4, CTQG, 1995, tr. 628).  Điểm chung của chủ nghĩa nhân văn thể hiện ở chỗ xem con người là điểm xuất phát, và giải phóng con người là mục đích cuối cùng. Tuy nhiên không có chủ nghĩa nhân văn dành cho mọi thời đại. Chủ nghĩa nhân văn mácxít khác với chủ nghĩa nhân văn trừu tượng kiểu Phoiơbắc, hay chủ nghĩa cộng sản không tưởng kiểu Xanh Ximông (Saint Simon), Phuriê (Fourier), Ooen (Owen) về nội dung lẫn phương thức biến khả năng thành hiện thực, biến ý tưởng giải phóng thành lý luận khoa học về sự giải phóng. Sự khác biệt này được phân tích trong nhiều tác phẩm, từ “Hệ tư tưởng Đức”, “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đến “Chống Đuyrinh”, “Phê phán cương lĩnh Gôta” và nhiều bài viết khác của Mác và Angghen.

Triết học do Mác và Ăngghen xây dựng là lý luận giải phóng của giai cấp vô sản.

5. Sự thay đổi tính chất và đối tượng của triết học, quan hệ giữa triết học và các khoa học cụ thể, chuyên biệt

Sự ra đời của triết học Mác góp phần làm thay đổi quan niệm về tính chất và đối tượng của triết học, về quan hệ giữa triết học với các khoa học cụ thể. Vấn đề là ở chỗ, vào thời cổ đại, do trình độ nhận thức chung hãy còn thấp, tri thức khoa học còn nằm trong tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết học, do đặc điểm của mình, được xem như dạng tri thức lý luận duy nhất, giải quyết thay những vấn đề mà lẽ ra thuộc phạm vi của các khoa học cụ thể. Triết học đóng vai trò “khoa học của các khoa học”, còn các triết gia thì được nhìn nhận như những bậc thông thái am tường mọi thứ (mặc dù chính nhà triết học cũng chỉ nghĩ về bản thân như những kẻ “khao khát chân lý”, mong muốn vươn đến sự thông thái, hay “yêu mến sự thông thái”, vốn là đặc quyền của thần linh ). Quan niệm ấy tồn tại khá lâu trong lich sử , mà hệ thống Hêghen là sự thể hiện hoàn bị nhất, xét từ nội dung“cổ điển” truyền thống. Tuy nhiên ngay từ cuối thời đại Phục hưng, trong đời sống khoa học đã diễn ra quá trình chuyên biệt hóa, cá thể hóa, đưa đến sự ra đời các ngành khoa học cụ thể, chuyên biệt, với hệ thống lý luận của mình. Với thời gian triết học từ bỏ dần vai trò “khoa học của các khoa học”, hay thứ tri thức bao trùm nào đó. Thế giới quan triết học, với tính chất tổng hợp, tính hệ thống và tính khái quát hóa vốn có từ lịch sử, tiếp tục công việc của một lĩnh vực nhận thức đặc thù trong sự liên minh ngày càng bền chặt với các khoa học cụ thể, chuyên biệt. Trong liên minh theo cách hiểu mới các khoa học cụ thể đem đến cho triết học chất liệu sống, nhờ đó mà các nhà triết học đưa ra những luận điểm , những giải thích về sự vật một cách hợp lý, có căn cứ; đồng thời từ các dữ liệu của quá khứ, hiện tại, họ cùng các nhà khoa học gợi mở, dự báo về những vấn đề của tương lai. Về phần mình triết học tác động đến các khoa học tự nhiên – lịch sử ở phương diện thế giới quan và phương pháp luận. Cách hiểu mới về tính chất và đối tượng của triết học, liên minh giữa triết học với các khoa học cụ thể, được trình bày trong các tác phẩm và bài viết tiêu biểu như “Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu”, “Chống Đuyrinh”, “Biện chứng của tự nhiên”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của tiết học cổ điển Đức” …

Trong thời đại ngày nay sự tác động này trở nên rõ ràng hơn nhờ sự phát triển mạnh mẽ của tri thức khoa học, rất cần sự định hướng ở tầm mức của lý luận triết học, vượt ra khỏi ranh giới hẹp tương đối của khoa học chuyên biệt.

Trước khi kết thc bi viết cần chỉ ra: - vai trị của V.I.Lnin trong việc bảo vệ, pht triển chủ nghĩa Mc trong thế kỷ XX; - sự vận dụng sng tạo v pht triển chủ nghĩa Mc trong điều kệin Việt Nam; - giá trị và sức sống của chủ nghĩa Mác trong thời đại hiện nay. 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro