LIỆU OSHO CÓ BỊ NƯỚC MĨ ĐẦU ĐỘC KHÔNG?

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LIỆU BHAGWAN SHREE RAJNEESH CÓ BỊ NƯỚC MĨ CỦA RONALD REAGAN ĐẦU ĐỘC KHÔNG?

Sue Appleton

MỤC LỤC

Chương 1. Phát biểu sơ bộ về các sự kiện ........ 1

Chương 2. Bản dạo đầu của trận quyết chiến .... 5

Chương 3. Chính phủ chiếm tài sản Bhagwan ... 19

Chương 4. Ba ngày bị mất .................................. 35

Chương 5. Bom tại cuối cuộc hành trình ............ 41

Chương 6. Những giọt chất độc (thallium) .......... 53

Chương 7. Sheela - kẻ tình nghi .......................... 67

Chương 8. Một tình tiết đáng quan tâm ............... 89

***************************************************

CHƯƠNG 1

PHÁT BIỂU SƠ BỘ VỀ CÁC SỰ KIỆN

1. Tháng mười năm 1985, vào độ tuổi năm ba, Bhagwan

Shree Rajneesh vẫn còn mạnh khoẻ, thể lực ổn định,

vẫn còn chạy và bơi được khoảng cách xa như có thời

ông đã làm được. Suốt trên hai mươi năm, từ giữa

những năm 60 cho đến tháng 11/1985, ông thường xuất

hiện trước công chúng hàng ngày để thuyết giảng, hay

trong một thời kì ba năm rưỡi khi ông trong im lặng,

thì ông lái xe. Ông chỉ vắng mặt trước công chúng khi

ông đau ốm hay bị cơn hen (số lần có thể đếm trên đầu

ngăn tay), một hay hai lần khi ông bị bất động với vấn

đề nghiêm trọng ở lưng, một lần khi ông sợ bệnh thuỷ

đậu, và một lần khi ông bị nước vào tai.

2. Vào ngày 28/10/1985, Bhagwan Shree Rajneesh bị

cảnh sát trưởng Mĩ bắt ở Charlotte, Bắc California.

Mặc dầu không có lệnh bắt đưa ra, và mặc dầu đó là

việc làm chưa hề có trước là giữ người mà không kết

tội trước, người chỉ đương đầu với lời buộc tội không

bạo lực nhỏ, chính phủ Mĩ đã thuyết phục bồi thẩm

đoàn rằng ông đã bị giữ dưới sự giám sát của chính phủ

cho tới khi ông trở về Portland để đối chất với lời buộc

tội “vi phạm luật di trú.” Công tố viên Mĩ Bob Weaver

nói với bồi thẩm đoàn rằng có “khả năng là những đệ

tử của Rajneesh có thể cố gắng đầu độc ông ta hay rằng

ông ta có thể định tự tử nếu không bị canh giữ theo

lệnh bắt của cảnh sát trưởng liên bang.”

3. Cảnh sát trưởng liên bang giao Bhagwan Shree

Rajneesh cho nhà chức trách ở Charlotte trong bẩy

ngày. Rồi vào thứ hai, 4/11, họ áp giải ông tới máy bay

chở tù nhân liên bang để đưa xuống Portland. Ông tới

Portland (cách một khoảng cách năm giờ bay) vào tối

thứ năm, 7 tháng 11. Trong ba ngày ở giữa, ông đơn

thuần “biến mất” trong thinh không. Chính phủ Mĩ từ

chối báo cho luật sư của ông nơi ông đang ở. Về sau

điều đó được cảnh sát trưởng liên bang của Oklahoma,

Stuart Ernest, xác nhận rằng ông đã ở đêm đầu tiên (4

tháng 11) tại nhà giam quận của thành phố Oklahoma,

bang Oklahoma. Quận trưởng cảnh sát của nhà giam

quận, Sharpe, chối việc ông ở đó, nhưng việc tìm kiếm

tầng hầm để lộ ra rằng một ‘David Washington’ của thị

trấn Rajneeshpuram đã ở đó trong ngày 4 tháng 11. Hai

đêm tiếp ông ở trại cải tạo liên bang bên ngoài Thành

phố Oklahoma, theo lời cảnh sát trưởng liên bang.

Bhagwan Shree Rajneesh, người được coi như nhớ

toàn bộ về các sự kiện này, dứt khoát chỉ nhớ một đêm

ở đó - chỉ một đêm, ông nói, lúc ông có một giấc ngủ

thực sự say! Trong những giờ đầu của ngày 7 tháng 11

một trong những luật sư của ông đã lần ra dấu vết ông.

Luật sư, Bill Diehl, đã được cho biết rằng Bhagwan đã

bị giữ tại Oklahoma trong ba đêm thay vì thông thường

một đêm vì có sự thay đổi bất ngờ và không dự kiến

trước trong lịch bay. Ngay trước khi Diehl tới, viên

cảnh sát trưởng đã nói với báo chí, những người cũng

theo dõi Bhagwan xuống, rằng Bgahwan có lẽ vẫn còn

ở Oklahoma thêm ba đến bốn ngày nữa. Tuy nhiên sau

khi Diehl bắt đầu dò tìm vào vấn đề thì Bhagwan ngay

lập tức đã bay xuống Portland.

4. Toàn bộ ngày hôm đó (7/11) và trong những ngày tiếp

theo, Bhagwan Shree Rajneesh bị chứng nôn mửa

nghiêm trọng, đau đầu và ăn không ngon. Trọng lượng

ông sụt xuống 140 pound từ mức 150 pound. Ông được

thả tại nhà tù Portland vào tối 8 tháng 11 và mất cả

tuần sau đó điều trị thuốc men tại nhà.

5. Vào ngày 14 tháng 11, Bhagwan Shree Rajneesh được

lệnh rời khỏi Mĩ. Ông bay tới Himalayas nơi hàng trăm

đệ tử bắt đầu tụ họp để gặp lại ông. Tuy nhiên, lần đầu

tiên, lịch nói chuyện hàng ngày của ông thường bị ngắt

quãng bởi các cơn bệnh.

6. Trong suốt hai năm sau thân thể yếu đuối của ông

không chống đỡ nổi hết bệnh tật nhỏ nọ đến bệnh tật

nhỏ kia. Hiếm khi có được sáu tuần trôi qua mà việc

nói chuyện không bị cắt bỏ vì ông bị cảm hay bị các

bệnh tật khác. Đôi khi trong thời kì này ông để ý rằng

ông đã rụng nhiều tóc, và rằng phần tóc còn lại thì trở

thành bạc trắng. Ông cũng thấy rằng thị lực suy giảm

đến điểm ông không còn có thể đọc được sách, và ông

bắt đầu phải chịu chứng đau khớp tay và vai, mà mọi

sự điều trị đều không thể giải quyết được.

7. Tháng 9 năm 1987, Bhagwan Shree Rajneesh lại bị

nhiễm khuẩn tai. Bệnh lập tức được các bác sĩ chuyên

khoa tai, mũi họng điều trị, họ nói sẽ khỏi trong vòng

bẩy ngày. Phải mất bốn mươi bẩy ngày mới chữa được

và Bhagwan Shree Rajneesh gần như chết trong lúc

chữa chạy.

8. Được báo động, các bác sĩ hiểu ra họ đang phải xử lí

với không chỉ là thân thể già đi, mà còn phải có thời

gian để phục hồi từ cách đối xử thô bạo trong tay cảnh

sát trưởng Mĩ. Họ lấy mẫu tóc, máu, nước tiểu của

Bhagwan và chụp X quang xương của ông, để đem tới

phòng thí nghiệm pháp lí tốt nhất ở phố Harley,

London. Một loạt các cuộc kiểm nghiệm kĩ càng được

tiến hành ở đó loại trừ tất cả các chẩn đoán ngoại trừ

khả năng bị đầu độc bằng chất kim loại nặng, có thể là

thallium...

********************************************************

CHƯƠNG 2

BẢN DẠO ĐẦU CỦA TRẬN QUYẾT CHIẾN

Chính phủ Mĩ chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc về

việc Bhagwan Shree Rajneesh ở Mĩ.

Tổng thống Reagan, Chưởng lí Mĩ Ed Meese, luật sư

Mĩ cho vùng Oregon, Charles Turner, nghị sĩ vùng

Oregon Mark Hatfield, và những người khác trong màn

kịch đặc biệt này là những người Công giáo chính thống,

trung thành. Họ tin vào việc Christ sắp tới lần thứ hai và,

đặc biệt hơn, họ phải chuẩn bị cho trận quyết chiến chờ

đợi từ lâu giữa Christ và quỉ satan. (xem Tiên tri và Chính

trị, Người truyền giáo trung kiên trên con đường tới chiến

tranh hạt nhân của Grace Halsell, nxb Laurence Hill,

1986). Họ tin rằng người không là Công giáo đều thuộc

vào quỉ satan, và rằng nghĩa vụ thiêng liêng của họ là

nghiền nát và tiêu diệt “những kẻ chống Christ” như

Bhagwan Shree Rajneesh, ngay cả với giá tính mạng con

người và quyền con người. Rốt cuộc, với ngày tận thế sắp

tới của thế giới trong tầm nhìn trước mắt, (Reagan có lần

đã nói với nhà truyền giáo trên ti vi Him Backer rằng ông

ta tin rằng “chúng ta có thể là thế hệ chứng kiến trận quyết

chiến”), tại sao phải bận tâm tới quyền con người cho

những ai không thừa nhận Christ và do vậy chẳng có hi

vọng nào được cứu rỗi gì cả?

Reagan, có “một người mẹ đã gieo trồng một niềm tin

lớn trong tôi” như ông ta thú nhận với Billy Graham, đã

kiên quyết đưa bản thân mình vào con đường cứu rỗi qua

chiến dịch sốt sắng để đưa việc cầu nguyện vào trường

học, chống lại việc phá thai và chống lại cái ông ta gọi là

“quyền lực ác quỉ”. Trong các bài phát biểu ông ta ám chỉ

một cách bí ẩn (với những người chưa biết) tới cuộc chiến

của ông chống lại sự xâm lấn của “biển băng tối”.

Với những người Công giáo chính thống cuồng tín

này, Bhagwan Shree Rajneesh không chỉ là một bậc thầy

ngoại quốc không tên tuổi nào đó. Ông là mối đe doạ thực

sự. Vào lúc mà giáo đoàn Công giáo đang suy sụp nghiêm

trọng, thì gần hai mươi nghìn người đổ về Rajneeshpuram,

cộng đồng 126 000 a của Bhagwan ở Oregon, để kỉ niệm

bốn lễ hội hàng năm. Và ông đã hấp dẫn ngày càng nhiều

công luận hơn. Giữa tháng 7 và tháng 9 năm 1985, (ngay

trước khi ông bị bắt), Bhagwan đã xuất hiện trên đài

truyền hình quốc gia vào giờ chủ chốt chín lần, kể cả,

“Chào nước Mĩ vào buổi sáng” (17/07) và “Tuyến đêm”

(30/09). Và ông chẳng có gì hay ho để nói về Công giáo

cả. Với logic chính xác tàn nhẫn, ông đã chế nhạo và

xuyên thẳng vào niềm tin của người Công giáo và phơi

bầy ra thái độ đạo đức giả của những người vẫn thuyết

giảng về nó. (Chỉ người lập dị, ông nói, mới có thể rêu rao

mình là đứa con duy nhất của Thượng đế.) Ông cũng quất

mạnh vào Reagan và chính phủ của ông ta, bằng cách lên

án với lời lẽ bốp chát và không khoan nhượng về nền dân

chủ giả hiệu và do người Công giáo thao túng. (“Chẳng có

gì phải chọn lựa nhiều lắm giữa Liên xô và Mĩ - chỉ có

mỗi điều là Liên xô thì thẳng thắn, chấp nhận thẳng thừng

rằng đó là nền chuyên chính của vô sản. Mĩ chỉ là kẻ đạo

đức giả.” Ông nhằm vào các tu sĩ và chính khách xem như

những kẻ làm tha hoá loài người và là kẻ phá huỷ tự do

con người. Ông nói Kinh thánh đầy những chuyện khiêu

dâm, ông gọi Thượng đế là kẻ nói dối lớn nhất mà con

người bịa đặt ra.

Như một tác giả Mĩ có sách bán chạy nhất Tom

Robbins sau này có nói, “Ông hiển nhiên là một người rất

hiệu quả, nếu không thì ông đã không là một mối đe doạ

đến vậy. Ông nói những điều mà không ai có đủ dũng cảm

để nói ra. Một người có tất cả những loại ý tưởng đó, họ

không chỉ là kích động, họ cũng còn mang âm hưởng của

chân lí, điều xua đuổi những ham muốn quái dị về kiểm

toả ... Các nhà cầm quyền trực giác cảm thấy có gì đó

nguy hiểm trong thông báo của Bhagwan. Tại sao ông đã

bị chọn ra cho một loại khủng bố tinh ma mà họ chưa bao

giờ nhắm vào nhà độc tài Filipino hay don Mafia? Nếu

Ronald Reagan có cách thức của mình thì người ăn chay

này đáng phải bị đóng đinh lên thảm cỏ Nhà Trắng. Điều

nguy hiểm mà họ trực cảm được là ở chỗ trong lời nói của

Bhagwan... có thông tin rằng, nếu được hấp thu đúng, có

thể giúp cho đàn ông và đàn bà tháo lỏng sự kiểm toả của

họ. Không có gì đáng sợ cho quốc gia này, hay kẻ đồng

hành tội ác của nó, tôn giáo có tổ chức, nhiều bằng viễn

cảnh toàn dân đều suy nghĩ về chính mình và việc sống tự

do.”

Cho nên việc huỷ diệt “kẻ chống Christ” Bhagwan

Shree Rajneesh và công trình của ông ăn khớp đáng phục

với những mục tiêu Công giáo chính thống của Reagan, và

đã tạo nên bản dạo đầu cho điều Reagan coi như trận

chiến tối hậu đang tới.

Không chỉ có Bhagwan Shree Rajneesh là mục tiêu

của điều Gore Vidal gọi là “sự thèm khát tôn giáo nguyên

thuỷ” của Reagan (Armageddon, Andre Deutsh, 1988).

Chính quyền Reagan đã tung ra một chiến dịch tàn nhẫn

điều tra và hành động pháp lí chống lại Nhà thờ

Scientology, phong trào Hare Krishna, Da Free John, Nhà

thờ Thống nhất (Moonise), và phong trào hồi giáo da đen

và tôn giáo da đỏ. Nhưng, lương thiện nhất phải nói đấy

không chỉ là những người Công giáo chính thống cuồng

tín bị Bhagwan lật nhào.

Từ lúc ông bắt đầu nói, ở Ấn Độ, Bhagwan đã phải đối

phó với việc xa lánh của chính quyền Ấn Độ và tất cả

những người lãnh đạo tôn giáo Hindu khi ông lên án thẳng

thắn giới có uy quyền và tôn giáo chính thức. Khi những

người phương Tây bắt đầu dồn về đạo tràng Poona của

ông trong những năm bẩy mươi thì không chỉ có những

người lãnh đạo nhà thờ phương tây là được báo động về

việc mất “khách hàng” của mình cho ông, mà thậm chí

những chính phủ chính như Tây Đức cũng bắt đầu ra lệnh

điều tra “hiện tượng Rajneesh” (nguyên văn) và đưa ra lời

cảnh báo cho công dân mình phải đề phòng con người

này. (Xem 9/1979, báo cáo “Jugend Religionen”, Berich

der Bunders-Regierung an den Petitionsausschuss des

Deutschen Bundestages.)

Không phải là Bhagwan tán thành bất kì lí do hay tôn

giáo đặc biệt nào, hay chủ trương lật đổ chính phủ, hay

huấn luyện quân đội hay kẻ khủng bố, hay thậm chí lãnh

đạo bất kì tổ chức chính trị hay tôn giáo nào. Ông chỉ đơn

thuần nói về việc nâng cao tâm thức của các cá nhân để

cho họ không còn là nô lệ nữa vào những ước định, dạy

dỗ, xã hội, nền giáo dục, tôn giáo, nhà cầm quyền của họ.

Ông dạy mọi người cách thức sống tự nhiên, đến giản và

hồn nhiên, cách tìm ra tính cá nhân đích thực của riêng họ,

“khuôn mặt thật” của họ, thay vì chỉ là một loại người mà

những kẻ mối lái quyền lực cần để duy trì nguyên trạng

(như người chăn cừu cần đàn cừu).

Lời nói của Bhagwan là vũ khí duy nhất. Nhưng tác

động của những lời này là “đủ xua đuổi những ham muốn

quái dị về kiểm toả.” Việc Bhagwan bóc trần các phương

pháp mà các tu sĩ và chính khách sử dụng dùng suốt trong

nhiều thời đại để kiểm toả con người, để duy trì và làm

tăng quyền lực của riêng họ, hiển nhiên đã chạm nọc sâu

sắc, được đánh giá theo các phản ứng. Gần như mọi thể

chế đã thiết lập trên thế giới - dù là tư bản, cộng sản, Công

giáo, Do Thái giáo, Hindu hay phát xít, đều lên án ông.

Như họ đã làm với Jesus và Socrates trước ông, những

người đã có độc quyền về quyền lực bây giờ muốn huỷ

diệt Bhagwan. (Jesus và Socrates đã bị giết bởi vì họ đã

trở nên phổ biến, và giáo huấn của họ trực tiếp chống lại

những kẻ có quyền lợi - giáo sĩ, kẻ giầu có, kẻ bóc lột -

người kiểm soát chính phủ. Họ đã đe doạ sự cân bằng

quyền lực của nguyên trạng. Bhagwan cũng làm như vậy.)

Những sự kiện chỉ ra rằng ngay từ khi ông tới Mĩ

tháng 6/1981, chính phủ Mĩ đã dựng lên một chiến dịch để

tống khứ Bhagwan ra khỏi nước mình, điều ưa thích hơn

là phá huỷ cả sự kính trọng và việc đi theo ông. (Xem

Nước Mĩ và Bhagwan Shree Rajneesh : Khung cảnh bạo

chúa Công giáo, của Philip J. Toelkes, nxb Rebel

Publishing House, 1988). Ngay lập tức sau khi Bhagwan

chuyển tới Oregon, một người Công giáo chính thống,

nghị sĩ Oregon Mark Hatfield, đã bố trí bổ nhiệm một

người Công giáo chính thống khác, Charles Turner, làm

luật sư Mĩ tại vùng Oregon. Turner, dưới sự hướng dẫn

của Hatfield, chủ mưu nhiều việc điều tra về Bhagwan và

đệ tử ông để quấy nhiễu cộng đồng Rajneesh trong bốn

năm sau đó.

Tư liệu do luật sư của Bhagwan khám phá ra theo Luật

thông tin và tự do Mĩ để lộ ra rằng cơ quan chính phủ đều

có dính líu vào dự án này, từ Sở di trú tới Giáo dục, từ cơ

quan thuế tới bộ tư pháp, từ thuế quan tới cơ quan y tế và

phúc lợi xã hội. Tư liệu cũng chỉ ra rằng FBI đã dành

nhiều năm điều tra về những người theo Bhagwan để cố

chỉ ra rằng họ đã tham dự vào “buôn bán ma tuý và làm

tiền giả.” Mặc dầu họ không tìm được bất kì bằng chứng

nào, Bộ ngoại giao Mĩ vẫn gửi telex sang các nước đã đề

nghị cho Bhagwan ở lại sau khi rời khỏi Mĩ, nói rõ rằng

những người đi theo Bhagwan đã tham dự vào buôn bán

ma tuý, buôn lậu vũ khí và mãi dâm. Các tư liệu khác thu

được cũng chỉ ra rằng từ 1981 đến 1982 Cơ quan phòng

chống ma tuý Mĩ đã kiểm tra ngầm các thành viên cộng

đồng thông qua các toà đại sứ Mĩ ở Ấn Độ, Bỉ, Hà lan,

Đức và Anh. Tư liệu này cũng chỉ ra rằng đến 1983 Bộ tư

pháp Mĩ đã dùng văn phòng của FBI ở Las Vegas để điều

phối nhiều cuộc điều tra về Bhagwan và các tổ chức có cơ

sở tại cộng đồng. Hàng nghìn đô la và giờ làm việc đã

được đổ ra trong nỗ lực của chính phủ suốt bốn năm trời.

Ban đầu sự tập trung nhằm vào đến của Bhagwan xin

thường trú như một bậc thầy và nhà lãnh đạo tôn giáo.

Một người như vậy tự động có được quyền thường trú.

Chính phủ Mĩ phản ứng nhanh chóng. Một loạt các

telex đã được gửi từ các quan chức Bộ ngoại giao Mĩ ở Ấn

Độ về Sở di trú tại Washington, DC, với những câu

chuyện tiêu cực và không thể tin được với ngụ ý về

Bhagwan và đạo tràng của ông. Trên cơ sở những bức

telex này, chính phủ Mĩ đã từ chối việc đến của Bhagwan

như một nhà lãnh đạo tôn giáo.

Lí do được nêu ra là ở chỗ giáo huấn của Bhagwan là

“vô thần về tôn giáo,” và rằng ông không thể là một bậc

thầy vì ông “im lặng”. Điều này khơi ra sự phản đối kịch

liệt từ các nhà chuyên môn tôn giáo trên khắp Mĩ, và thực

tế trên toàn thế giới. (Xem Bhagwan Shree Rajneesh : The

Most Dangerous Man Since Jesus Christ, Sue Appleton,

The Rebell Publishing House, 1987). Điều đó cũng đem

lại sự nhắc nhở cho chính phủ từ phía các luật sư của

Bhagwan rằng những lí lẽ để từ chối là phi hiến pháp thô

bạo và vi phạm luật lệ riêng của Sở di trú. (Chính phủ Mĩ

không được phép về mặt hiến pháp và luật lệ để ưa

chuộng một tôn giáo này hơn tôn giáo khác và đưa ra các

luật lệ về sự hợp lệ của bất kì niềm tin hay giáo huấn tôn

giáo nào).

Chính phủ nhanh chóng rút lại lời từ chối của mình và

chuyển vấn đề “để xem xét lại.” Trong khi đó, bản sao của

các telex gốc của Bộ ngoại giao đã được dò rỉ một cách

nặc danh cho luật sư của Bhagwan. Khi phải đối chất,

chính phủ phủ nhận sự tồn tại của những bản telex này.

Luật sư của Bhagwan ra toà và hỏi được một mệnh lệnh

ép chính phủ tạo ra chúng. Họ đã làm. Nội dung của các

bản telex này nhanh chóng và dễ dàng được chứng minh

là giả mạo. (Xu hướng của chính phủ Mĩ để tạo ra và lan

truyền thông tin sai, hay “thông tin lạc hướng”, để xúc tiến

các mục tiêu chính trị của họ bây giờ ai cũng rõ. Năm

ngoái điều này được làm sáng tỏ với việc phát hiện ra rằng

chính phủ đã có cân nhắc kĩ càng “làm dò rỉ” cho báo chí

thông tin sai rằng họ đang lập kế hoạch tấn công Li bi lần

thứ hai và ném bom Kadaffi. Quả thực năm 1985 Carl

Jensen, Giám đốc “Dự án bị kiểm duyệt”, một dự án

nghiên cứu phương tiện truyền thông tại đại học bang

Sonoma, California, đã phát biểu rằng, “Lời cảnh báo

nghiêm trọng nhất trong kết quả năm nay là nỗ lực còn ít

được biết tới của chính quyền nhằm kiểm soát thông tin

bằng cách dùng các cơ quan liên bang cho các mục tiêu

chính trị... và, lần đầu tiên, phân phát một cách chính thức

các thông tin sai lạc.”)

Chẳng bao lâu sau khi những bức telex của Bộ Ngoại

giao về Bhagwan bị chứng minh là đầy những thông tin

sai thì chính phủ mới ban cho ông qui chế của bậc thầy tôn

giáo. Tuy nhiên, Sở di trú Mĩ lại từ chối hoàn toàn bước

thứ hai của tiến trình này - thay đổi qui chế của Bhagwan

từ ‘du lịch’ sang ‘thường trú’.

Luật sư Mĩ người Công giáo chính thống cho vùng

Oregon Charles Turner sau này thú nhận, một cách tự hào,

rằng sự chậm trễ bất hợp pháp (điều đó vi phạm luật liên

bang và qui định INS) trong việc xử lí đến xin thường trú

của Bhagwan là một phần của kế hoạch chính phủ để có

thời gian cho tới khi đưa ra được một loại buộc tội ông.

Một khi Bhagwan đã được ban cho qui chế thường trú

vĩnh viễn thì còn khó khăn hơn nhiều cho chính phủ để

đẩy ông ra khỏi nước, vì như một cư dân thường trú ông

sẽ có thể ra toà và tranh đấu với bất kì nỗ lực nào như thế.

Phát biểu của Turner còn được làm vững thêm bởi các

biên bản của INS mà luật sư của Bhagwan thu được. Các

biên bản phát biểu một ý đồ tiếp tục điều tra về Bhagwan

cho tới khi có thể tìm được một cơ sở để từ chối đến xin

thường trú của ông. Đó là điều bất hợp pháp rành rành.

Các cuộc điều tra làm lộ ra điều gì đó mà qua đó việc

bắt giữ Bhagwan rõ ràng được chỉ đạo từ trên chóp. Luật

sư của Bhagwan thu được một bản sao bức thư năm 1982

ở Nhà Trắng xác nhận một cuộc đối thoại về giám sát

bằng máy bay đối với Rajneeshpuram, và một cam kết

dùng bất kì nguồn tài nguyên nào cần thiết để tiếp tục điều

tra cho tới khi có thể tìm thấy một điều gì đó chống lại

Bhagwan. Bức thư cũng bầy tỏ mối quan tâm rằng khối

lượng đầu tư vào Rajneeshpuram của những đệ tử

Bhagwan chứng tỏ một sự cam kết ở lại mà không dễ cho

sự quấy rối của chính phủ cản lại được. Chữ kí của tác giả

đã bị bôi đen nhưng các nguồn tin đều chỉ ra rằng có lẽ đó

là của người Công giáo chính thốnng viên Chưởng lí Mĩ,

Edwin Meese.

Các cuộc điều tra tiếp tục trong bốn năm mà chẳng kết

quả gì. Cuối cùng trong năm 1985, luật sư của Bhagwan

bắt đầu gây sức ép pháp lí lên chính phủ Mĩ. Họ đến toà

án liên bang yêu cầu rằng INS phải phân xử đến xin

thường trú của Bhagwan.

Đồng thời Bhagwan bắt đầu nói trở lại với công luận,

và ông đã mở ra những cuộc công kích kịch liệt chống lại

chính phủ và người Công giáo giả mạo. Các phóng viên

vô tuyến truyền hình và báo chí đánh lẫn nhau để phỏng

vấn ông khi tên ông, ảnh và lời phát biểu được công bố và

phát trên toàn nước Mĩ. Sự chú ý không làm hài lòng

những người trong chính phủ đang cố gắng đuổi Bhagwan

ra khỏi nước.

Điều đó cũng không làm thư kí riêng của Bhagwan,

Sheela, hài lòng. Trong khi Bhagwan còn im lặng thì

Sheela đã đạt tới tiếng tăm đáng kể (hay khét tiếng) như

người phát ngôn duy nhất của ông. Nhưng khi Bhagwan

nói chuyện trực tiếp với báo chí thì thị chẳng được ai để ý

tới, thị mong muốn lắm có được sự chú ý. Vào giữa tháng

9 thị rời bỏ Bhagwan và Rajneeshpuram. Sau khi thị ra đi,

tiếng đồn về sự dính líu của thị vào nhiều việc làm sai trái

đưa tới Bhagwan. Ông lập tức triệu tập cuộc họp báo, qua

đó ông mời các quan chức chính phủ Mĩ tới để trình bầy

về các hoạt động của Sheela. Nói cách khác, chính bản

thân Bhagwan đã lưu ý cho chính phủ về những tội phạm

mà ông tin là người cựu thư kí của mình đã phạm phải.

Ông thường mời tất cả các cơ quan chính phủ tới thành

phố Rajneeshpuram để tiến hành cuộc điều tra đầy đủ.

Ông thậm chí còn sẵn sàng tự mình tham dự vào các cuộc

thẩm vấn để cung cấp cho chính phủ bất kì thông tin thêm

nào về phía mình.

Rajneeshpuram chẳng mấy chốc thành một thành phố

bị bao vây. Nó nhung nhúc các quan chức Bộ tư pháp Mĩ,

văn phòng Chưởng lí Mĩ, FBI, Cơ quan kiểm tra rượu,

thuốc lá và vũ khí, Văn phòng quận trưởng cảnh sát quận

Wasco, văn phòng quận trưởng cảnh sát quận Jefferson,

cảnh sát bang Oregon và cảnh sát thành phố Dalles. Trong

năm tuần họ đột kích vào các văn phòng và mang đi các

hồ sơ, thẩm vấn người thường trú và lục lọi trong nhà và

cửa hàng. Họ thậm chí còn tiến hành cả những cuộc lùng

sục bất ngờ bằng cách chĩa súng vào khu dân cư nằm ngay

trên các văn phòng mà đã được họ thuê. Khi họ mặt đỏ

gay trở xuống cầu thang, vẫn lăm lăm súng trong tay mà

chẳng thu được gì trong tay cả, họ đã bảo với viên trưởng

lực lượng cảnh sát Rajneeshpuram đang giận dữ (người

không được báo gì về “cuộc lùng sục” này) rằng họ đi tìm

việc đặt máy nghe trộm trong phòng ngủ tầng trên vì họ sợ

cuộc điều tra của mình bị kiểm soát!

Với tất cả những điều làm nhặng sị chính thức lên, các

nhà điều tra cũng chẳng tìm thấy điều gì chống lại

Bhagwan cả. Họ thậm chí cũng không nhận lời đề nghị

của ông về việc được thẩm vấn. Charles Turner, luật sư Mĩ

cho vùng Oregon, vài tháng sau thừa nhận điều đó, sau khi

Sheela đã bị kết án và bị xử phạt bởi những tội lỗi do

Bhagwan tiết lộ. Được hỏi trong cuộc họp báo tổ chức

trong văn phòng mình ở Portland ngày 22/06/1986, tại sao

Bhagwan lại không bị kết án mà lại bị tống vào tù, Turner

trả lời rằng, “Chính phủ đã đạt được mục đích của mình là

phá huỷ cộng đồng và tống Bhagwan ra khỏi đất nước. Và

không có bằng chứng gì gắn Bhagwan vào bất kì tội lỗi

nào cả”!

Một cách ngẫu nhiên, một trong các luật sư của

Bhagwan, Jack Ransom, đã có mặt trong cuộc họp báo đó.

Sau đó ông ta tới đài truyền hình để xin một bản sao băng

video lời chú thích của Turner, ông được bảo rằng băng đã

bị chính phủ “yêu cầu” lấy lại và rằng “không có bản sao.”

Thực tế chính phủ đã tìm thấy cái gì đó trong suốt bốn

năm và hàng nghìn đô la đổ ra cho cuộc điều tra - khả

năng là một số đệ tử người nước ngoài của Bhagwan đã

cưới công dân Mĩ để ở lại nước Mĩ. Bồi thẩm đoàn liên

bang đã nhóm họp để điều tra những đám cưới cho là giả

này - mười sáu trường hợp nghi ngờ trong toàn bộ năm

nghìn cư dân của Rajneeshpuram.

Chính phủ đã đập vụn đến đáy thùng. Cho dù không

có bất kì đám cưới nào như thế, thì vẫn cứ cố buộc

Bhagwan vào, họ giống như Mafia buộc Giáo hoàng vào

tội buôn ma tuý - đặc biệt khi quan điểm của Bhagwan

chống lại hôn nhân ai cũng rõ. Nhưng chính phủ vẫn cố

gắng.

Vào thứ tư, 23/10/1985 viên chủ tịch bồi thẩm đoàn

trao cho Charles Turner một bản cáo trạng liên quan tới

những ‘đám cưới giả’ này. Bản cáo trạng chứa ba mươi

hai lời buộc tội chống lại nhiều cá nhân khi vin vào sự

dính líu của họ trong việc tạo ra mười sáu đám cưới với

mục đích lừa dối Sở di trú. Bhagwan cũng bị nêu tên.

Không có lời buộc tội thực sự riêng nào về ông, mà chỉ là

một cớ để vin vào rằng ông “đã giúp đỡ, xúi bẩy, cố vấn,

chỉ đạo, xui khiến và chỉ bảo” cho những đám cưới đó.

Một lời buộc tội thêm nữa rằng ông đã vi phạm luật di trú

bằng cách tới Mĩ theo thị thực du lịch trong khi có ý đồ ở

lại nước Mĩ mãi mãi.

Luật sư và bồi thẩm đã đọc bản cáo trạng ‘bí mật’ này

sau đó rất ngạc nhiên - sau bốn năm điều tra mà chỉ có

những lời buộc tội về Bhagwan được mô tả nặc danh như

“thuần tuý kĩ thuật” và “mỏng như tờ giấy”.

Báo chí chế giễu về những lời buộc tội đám cưới giả.

“Hàng nghìn người đang sống ở Mĩ đều ‘phạm tội’ bởi sự

vi phạm tương tự,” tờ La Domenica del Corriere (Italia)

bình luận về bản cáo trạng này. Joel McNally trong The

Milwaukee Journal, 31/10/ 1985 lưu ý rằng, “Nếu chính

phủ liên bang bố ráp mọi người mà đám cưới của họ là giả

thì phải biến sân vận động thành nhà tù như người ta đã

làm ở Nam Mĩ.”

Về lời buộc tội “có ý định với chủ tâm ở lại nước Mĩ,”

thì các luật sư mô tả điều đó đơn thuần là một sự vi phạm

kĩ thuật mà chẳng bao giờ được dùng làm cơ sở cho việc

buộc tội chống lại người du lịch, người đã định đến để xin

qui chế thường trú. Nếu chính phủ có tìm ra ‘ý định với

chủ tâm’ như vậy thì chính phủ sẽ phủ nhận việc đến của

người đó và trục xuất anh ta. Chẳng cần phải mất thời gian

và tiền bạc ở toà án tội phạm để đạt tới cùng mục đích.

Nhưng để chính phủ tìm ra một nền tảng để dựa vào

đó công kích kẻ ‘chống Christ’ Bhagwan, đấy quả là

chẳng có giá trị gì...

**************************************************

CHƯƠNG 3

CHÍNH PHỦ CHIẾM TÀI SẢN CỦA

BHAGWAN

Ngày 28/10/1985 chính phủ Mĩ bắt Bhagwan trên cơ

sở bản cáo trạng của bồi thẩm đoàn và giữ ông bị xích và

bị giam, đồng thời che dấu sự kiện này với các luật sư

riêng của ông, trong mười hai ngày.

Ta cứ xem làm sao mà chính phủ phải xoay xở kìm

giữ trong một thời gian dài đến thế một người mà, như toà

án đã xác minh, là một người lãnh đạo tôn giáo nổi tiếng

thế giới không có tiền án tiền sự gì, người không gây ra sự

nguy hiểm bất hợp pháp nào cho công chúng, và người chỉ

đương đầu với những buộc tội rất nhỏ về phạm tội có tính

kĩ thuật, không bạo lực? Có lẽ thích hợp hơn cả - tại sao

chính phủ đã phải dùng một sự vi phạm có tính kĩ thuật

mà thông thường thì chẳng bao giờ được biến thành lời

buộc tội phạm, và điều trong trường hợp xấu nhất thì cũng

chỉ có thể đưa đến việc trục xuất, để ngăn cản Bhagwan

cứ cho là rời khỏi mước Mĩ (Chính phủ cho là Bhagwan đã trốn chạy khỏi nước mình để tránh bị bắt - mặc dầu tại sao, khi biết việc ra đi của ông sẽ bị các nhân viên chính phủ để ý, ông

lại chọn bay hai nghìn năm trăm dặm ngang qua nước Mĩ từ Oregon sang Bắc

California để “chạy trốn” nước này thay vì bay chỉ hai trăm tám mươi dặm lên

phía bắc sang Canada, (một nửa giờ bay), điều chưa bao giờ được chính phủ giải

thích thoả đáng.), và rồi lôi ông qua ngang

nước Mĩ trong mười hai ngày trong xiềng xích, chỉ để ra

lệnh cho ông đi ra thôi ý?

Việc xem xét về các sự kiện và hoàn cảnh xung quanh

việc bắt và giam giữ đưa ra một vài manh mối.

Sự kiện đầu tiên là ở chỗ không có lệnh bắt nào thực

tế được đưa ra đối với Bhagwan, mà cũng không có một

chỉ dẫn thực sự nào rằng một lệnh bắt như thế là có cả.

Trong thực tế người cầm đầu cơ quan cuối cùng có được

bản cáo trạng chống lại Bhagwan, (INS), thực sự đã gửi

một bản ghi nhớ cho các quan chức của mình để ra lệnh

cho họ không bắt Bhagwan trên cơ sở bản cáo trạng này.

(Xem Chương 6).

Nhưng vào giữa năm 1985 tin đồn bắt đầu lan truyền

rằng chính phủ đã triệu tập một bồi thẩm đoàn lớn để điều

tra ‘những đám cưới giả’ tại Rajneeshpuram. Vì Bhagwan

đã sống tách biệt và im lặng với công luận trong ba năm

rưỡi, không gặp ai ngoài thư kí và người phục vụ, cho nên

thực tế ông không thể tham dự vào những vấn đề như thế.

Ông đã, và bao giờ cũng phản đối chống lại hôn nhân, đôi

khi còn gọi điều đó là “sự mãi dâm hợp pháp.” Và nếu

như ông có biết, như chính phủ cho là vậy, về khả năng

luồn lách qua luật di trú Mĩ bằng cách tạo ra đám cưới cho

công dân Mĩ, và bỏ qua hành động như thế, thì người ta ít

nhất cũng trông đợi ông phải làm điều đó cho bản thân

mình trước đã. Điều đó còn dễ dàng hơn nhiều việc tranh

đấu với chính phủ để được thừa nhận như một nhân vật

tôn giáo, và ông sẽ không thiếu gì cô dâu hăng hái. Nhưng

ông đã không làm như thế.

Mặc cho những điều không chắc có về con người của

Bhagwan vẫn được kể ra có liên quan tới bất kì ‘đám cưới

giả’ nào, luật sư của ông vẫn quyết định không tận dụng

các cơ hội. Họ biết quyết tâm của chính phủ để tìm ra một

cái gì đó, bất kì cái gì, để buộc vào Bhagwan. Cho nên họ

tiếp cận tới Viên luật sư Mĩ tại vùng Oregon, Charles

Turner, yêu cầu rằng nếu Bhagwan bị nêu tên trong bất kì

bản cáo trạng nào thì hãy báo cho họ để cho họ có thể thu

xếp cho ông tự nguyện qui thuận tại Porland hơn là phái

cảnh sát tới Rajneeshpuram để bắt ông.

Charles Turner đảm bảo với luật sư của Bhagwan,

Swami Prem Niren và Peter Schey, rằng ông ta sẽ hợp tác

hoàn toàn trong sự kiện như vậy, đồng ý với mối bận tâm

của họ rằng bất kì việc bắt giữ nào tại Rajneeshpuram

cũng đều có thể gây ra một số sự kiện xấu.

Quả vậy, đến cuối tháng 10/1985, bầu không khí xung

quanh cộng đồng đã đạt tới đỉnh cơn sốt. Việc Osho vạch

trần cho công luận về tội phạm mà Sheela đã phạm phải

chống lại công luận và công dân riêng của vùng Oregon

đã được phương tiện truyền thông đại chúng công bố rộng

rãi và gây sự xúc động lớn. Kết quả làm khuấy động sự

thèm khát đẫm máu của những người đã thù địch với

Bhagwan và cộng đồng - và số này cũng có nhiều.

Bhagwan và những đệ tử của mình chưa bao giờ được

chấp nhận ở Oregon. Từ ngay ban đầu “tụi ngoại quốc với

tôn giáo kì lạ” đã bị đối xử một cách nghi ngờ và với sự

thù địch được che giấu mỏng manh bởi những người hàng

xóm Công giáo trung kiên.

Được cảnh báo rằng họ sẽ chẳng bao giờ ở lâu quá

một năm trên vùng trại sa mạc cằn cỗi mà họ đã mua, các

đệ tử của Bhagwan tuy thế đã trụ lại. Bắt đầu chỉ vài chục

người, nhanh chóng trở thành hàng trăm người rồi lên đến

vài nghìn người, họ không chỉ tồn tại trong mùa đông cay

đắng đầu tiên - họ còn thịnh vượng lên. Trong vòng ba

năm, với rất nhiều công trình vất vả không ngếi và nhiều

tiền của, họ đã biến đổi vùng sa mạc thành một thành phố

ốc đảo cho năm nghìn người. Họ xây dựng đường xá, đập

nước và cầu cống, sân bay, khu nhà ngoại ô có điều hoà và

nhà hai tầng có sưởi, trung tâm thương mại và khu văn

phòng, trang trại nuôi gà và nơi làm bế lớn, trang trại

trồng rau rộng năm mươi a, ba nhà ăn, một sàn nhẩy, một

phòng họp rộng hai a, một khách sạn bốn mươi bẩy phòng

sang trọng, và nơi sinh hoạt lễ hội tạm thời và các tiện

nghi cho mười lăm nghìn người. Họ có một đội trên một

trăm xe ô tô hiện đại, nhiều xe tải, xe kéo, xe ủi đất, trang

thiết bị làm đường và xây đập, năm máy bay và một trực

thăng, và hệ thống vận tải 100 xe buyt. Họ có hệ thống

cấp nước và thải nước phức tạp, một trạm phát điện con,

các xưởng kĩ nghệ nhẹ, dùng nhiệt mặt trời, bệnh viện và

các tiện nghi nha khoa, một trường học, cơ quan bưu điện,

toà thị chính và trạm cứu hoả, cửa hiệu, tiệm kem, xưởng

bánh và xưởng làm món pizza. Họ tưới tiêu và trồng cấy

trên đất vốn đã bị bỏ hoang trên năm mươi năm (đó là nơi

trại cừu đã bị điêu tàn). Họ làm vườn nho và hàng nghìn

cây cối, thảm cỏ và vườn. Họ có một ban nhạc miền tây và

đồng quê, một ban nhạc jazz, một ban nhạc rock và một

dàn nhạc thính phòng. Và họ nhảy múa và hát rất nhiều.

(Sự kiện rút ra từ Eugene (OR) Register-Guard,

25/11/1984; POL Magazine (Australia), 10/1984; West

Australian Sunday Times, 28/07/1985).

Các đệ tử của Bhagwan ham thích cuộc sống. Họ

mang chín mươi ba xe Rolls Royce tới cho Bhagwan dùng

- đấy là cách họ chế giễu chủ nghĩa vật chất Mĩ. Nhưng

chẳng ai đánh giá cao trò đùa đó cả.

Đầu tiên là những người Công giáo vùng Oregon bị

choáng váng. Rồi, khi họ hiểu ra rằng đệ tử của Bhagwan

không chỉ thành công mà còn thành công một cách sang

trọng thì họ trở nên thèm muốn và ghen tức. Vùng trung

tâm Oregon thì nghèo. Những chủ trại lân cận, mặc dầu có

đất mầu mỡ hơn đất của cộng đồng, vẫn chỉ có một cuộc

sống đạm bạc. Và cuộc sống sợ Thượng đế của họ không

cho phép có nhiều niềm vui. Họ từ chối lời mời tới thăm

khu trại để thấy tận mắt điều gì đang xảy ra, thay vì thế ưa

thích lên án nó từ xa. Họ bắt đầu thành lập các ban cảnh

giác và lái xe đi lại với dòng chữ dán trên tấm chắn “Thà

chết còn hơn tụi đỏ” (các đệ tử của Bhagwan hay mặc áo

thụng đỏ). Họ phân phát áo phông và mũ cát vẽ vạch xoá

lên hình mặt Bhagwan, và tổ chức các cuộc họp tại đó các

nhà truyền giáo khuơ bản Kinh thánh trong tay cảnh báo

về cộng đồng của lũ quỉ satan và những người tôn thờ quỉ.

Họ sẽ hẳn vui mừng khi thấy cộng đồng thất bại. Ngay

cả các chính khách địa phương cũng trở nên quan tâm. Tại

đây đang xuất hiện một thành phố mô hình là “thiên

đường cho các nhà môi trường,” (Sueddeutshe Zeitung,

(Thuỵ sĩ), 4/11/1985), nhưng nó lại do một bọn ngoại đạo,

bọn tôn thờ con người thay vì cây thánh giá, cai quản, và

do đó dứt khoát là “xa lạ với phong tục Mĩ”. Và trên mọi

thứ khác, nơi đó hấp dẫn hàng trăm thanh niên Mĩ đầy

sáng tạo và được giáo dục cẩn thận, những người đáng

phải đi tới nhà thờ như cha mẹ họ.

Công giáo không quen với việc giới trí thức trẻ sáng

láng “bị cải đạo” xa khỏi khuôn mẫu. Và người của nó

phản ứng lại mạnh mẽ. Việc tiết lộ của Bhagwan về

Sheela vào tháng 9/1985 đã mở cửa cống cho tất cả những

xúc động bị dồn nén này. Những nhóm om sòm tò mò,

giận dữ, bực bội và những người bạo hành hết sức bắt đầu

tụ họp thật đông như những khách thăm viếng. Tất cả đều

thấy đây là cơ hội của mình để bày tỏ những định kiến của

họ chống lại Bhagwan. Đe doạ và đòi hỏi rằng Bhagwan

và các sannyasin của ông phải rời khỏi nước họ đã vào -

một số còn buông ra lời tục tĩu, một số gợi lên lời cảnh

báo và tiên đoán khủng khiếp trong Kinh thánh, nhiều

người đơn thuần bạo hành đe doạ. Tốp “khách thăm” này

tụ tập bên ngoài khu buôn bán và tiệm ăn của

Rajneeshpuram và hô to và vẫy những biểu ngữ yêu cầu

rằng những người theo Rajneesh (mà tuyệt đại đa số đều

là người Mĩ) phải quay trở về Ấn Độ. Nhiều nhóm hát lên

bài thánh ca và truyền tay nhau các tờ rơi cảnh báo cư dân

ở đây phải rời bỏ “Thành phố Satan tội lỗi” trước khi quá

muộn. “Jesus yêu mến các bạn” những giọng khàn khàn la

hét, “ Hãy ăn năn ngay bây giờ đi!” Những chủ trại địa

phương và người lái xe tải dồn về thành phố vẫy súng và

bắn bừa vào biển hiệu bưu điện. Có một cảm giác rõ ràng

về một kiểu hành hình sắp xảy ra.

Quả thực hai năm rưỡi sau đó, vào tháng 2/1988, tên

giết người bị kết án John Wayne Hearn thú nhận ở Toà án

quận liên bang Houston rằng trong năm 1985 một chủ trại

vùng Oregon đã tiếp xúc với hắn ta để đặt vấn đề cho nổ

bom nhà cửa ở Rajneeshpuram. (The New York Times,

21/02/1988).

Được báo động rằng mọi việc có thể tuột khỏi tầm tay,

các cố vấn mới của Bhagwan, Hasya và John, quyết định

đưa ông tránh đi vài tuần cho tình hình dịu đi và báo chí

cùng các nhóm điều tra của cảnh sát rút đi.

Một người bạn giầu có, Hanya, đã hiến tặng ngôi nhà

đẹp của cô ấy ở vùng đồi núi yên bình Bắc California, và

điều đó dường như hoàn hảo. Hiển nhiên từ những cú điện

thoại và thư đe doạ nói lên rằng Bhagwan là tiêu điểm của

sự phẫn nộ của những người Oregon, và với việc ông xa

khỏi khu trại một thời gian, việc bạo hành ầm ĩ sẽ nhanh

chóng tiêu tan.

Vào chiều ngày chủ nhật, 27/10, Niren kiểm tra lần

nữa với luật sư Mĩ Charles Turner. Không, ông ta nói,

không có bản cáo trạng nào chống lại Bhagwan, và chẳng

có gì nói trước rằng ông ta biết về điều đó. Ông ta đã nói

dối. Vào chính thời điểm đó một bản cáo trạng có đóng

dấu nêu tên Bhagwan vì vi phạm luật di trú, được bồi

thẩm đoàn chuyển tay hôm thứ tư, đã nằm trong ngăn kéo

tủ ông ta.

Tại sao Turner lại nói dối? Liệu ông ta có trù tính nuốt

lời hứa với các luật sư và cứ để cảnh sát bắt giữ tại Trang

trại, và có thể có bạo hành? Có lẽ ông ta hi vọng, hay thậm

chí đã trù tính bày đặt, một sự bùng nổ bạo hành mà sẽ

cho phép quân đội chính phủ khai hoả vào các sannyasin.

(Hàng trăm Vệ binh quốc gia đã đóng trại gần kho vũ khí

The Dalles, “báo động hoàn toàn”, từ tuần trước.) Một thủ

thuật như vậy đã có lợi cho chính phủ nhiều, nhiều lần

trong quá khứ - tại các cuộc tụ tập và biểu tình chính trị,

Tại Wonded Knee, tại trường Billy Jack ở New Mexico,

và ở Đại học Kent State. Và đó cũng là cách thức dễ dàng

và rẻ tiền để gạt bỏ “vấn đề Bhagwan” hơn là cuộc chiến

pháp lí kéo dài về những lời buộc tội vu cáo về “vi phạm

luật di trú.”

Dù kế hoạch của ông ta thế nào, Turner cũng không có

cơ hội để làm nó thành kết quả. Sau đó, vào buổi chiều

chủ nhật, Bhagwan đã bay khỏi trang trại trên đường đi tới

Charlotte. Báo chí thấy ông rời đi, các quan chức và nhân

viên chính phủ, những người ở trang trại, cũng thấy vậy.

Những cú điện thoại về tin này lập tức được báo cho

Portland, kể cả một cú điện thoại của một sannyasin, Ava,

báo cho văn phòng luật sư Mĩ.

Niren điện thoại cho anh bạn luật sư Peter Schey để

báo cho anh ta. Schey không thích ý tưởng này - anh ta

nghĩa rằng với tất cả những tin đồn lan quanh bản cáo

trạng có thể thì việc ra đi tạm thời của Bhagwan có thể bị

hiểu sai. Anh ta gợi ý rằng Bhagwan trở lại.

Hasya và Niren để nhiều giờ tiếp đó cố gắng điện

thoại cho máy bay với lời khuyên của Peter. Họ đã gọi đến

bốn mươi lần. Hai lần họ gọi tới người kiểm soát không

lưu của Bộ phận quản trị hàng không liên bang, người

đang tiếp xúc với máy bay, và đều được hứa rằng thông

báo sẽ được truyền cho máy bay để gọi điện lại. Nhưng

chẳng có cú điện thoại nào gọi về cả. Về sau người ta mới

xác định được rằng Bộ tư pháp Mĩ đã chỉ thị cho Bộ phận

quản trị hàng không liên bang không được truyền bất kì

thông báo nào tới máy bay. Nghĩ lại thì đây là một sự triển

khai độc ác. Nhưng vào lúc đó Hasya đã không lo lắng

đúng mức - cô ấy điện thoại về nhà của Hanya muộn hơn

vào đêm đó.

Cô ấy sẽ có một chút lo lắng hơn nếu cô ấy chứng kiến

được sự đón tiếp đã được chuẩn bị tại sân bay Charlotte.

Cảnh sát trưởng Mĩ vùng Bắc California vừa mới nhận

được một cú điện thoại khẩn từ văn phòng luật sư Mĩ ở

Portland, báo rằng máy bay có chở kẻ trốn chạy luật pháp

nguy hiểm và có vũ trang, và rằng hành khách cần phải bị

bắt giữ. Ông ta lao vào hành động.

Hanya, sốt ruột chờ đợi đón mừng Bhagwan đến thành

phố cô, nghe tin máy bay của ông bay tới và bước ra từ

phòng đợi VIP của sân bay - đi thẳng vào với một cặp

xích tay và một khẩu súng. Khi máy bay chạy đến điểm

dừng, đèn pha rọi chiếu ra và mười hai lính gác vũ trang

chạy tới vây quanh, chĩa súng vào buồng lái và vào cửa

mở. Nhiều lính gác nữa bâu quanh những lính gác có vũ

trang này từ xa. Bhagwan và những người đồng hành

trong kì nghỉ bị ra lệnh rời khỏi máy bay giơ hai tay lên

trời, bị đẩy sang bên máy bay, bị súng dí vào đầu, tay bị

xích và đẩy vào từ trong một chiếc xe có còi báo động ầm

ĩ.

Việc bắt giữ tội phạm theo đúng sách giáo khoa...

Ngoại trừ mỗi điều không có lệnh bắt giữ. Và cũng không

có kẻ phạm tội. Điều mà cảnh sát trưởng Mĩ đã không

được bảo cho biết là ở chỗ những lời buộc tội trong bản

cáo trạng chống lại Bhagwan là phạm tội liên bang, (vi

phạm luật di trú), chứ không phải là phạm tội bang. Việc

vi phạm “trốn xét xử của toà án” chỉ xuất hiện khi một

người bị truy tố trốn khỏi bang này sang bang khác để

tránh bị bắt vì phạm tội bang, hay khi anh ta cố rời khỏi

quốc gia để tránh bị bắt vì phạm tội liên bang. Cáo trạng

về Bhagwan là ở mức liên bang, và nếu kế hoạch của ông

mà là trốn để khỏi bị bắt thì ông đáng phải nhằm sang

Canada, chỉ nửa giờ bay từ Oregon, chứ không phải là du

hành năm giờ rưỡi ngang nước Mĩ tới Bắc California.

Việc du hành của ông từ bang Oregon sang bang Bắc

California là không phạm luật - ông không trốn chạy sự

buộc tội bang và không có lệnh bắt giam ông với bất kì sự

vi phạm luật liên bang nào. (Bản cáo trạng không phải là

lệnh bắt giữ.)

Cho nên việc bắt giữ chĩa súng gây xúc động, khó chịu

này là không biện minh được về mặt luật pháp. Quả thế

quan toà Mĩ ở Charlotte chẳng vội vã để về sau bác bỏ

những lời buộc tội Bhagwan về việc trốn chạy khỏi luật

pháp. Nhưng bởi thế ông đã bị cảnh sát trưởng Mĩ bắt giữ

trong năm ngày. Và bởi thế mà trợ lí luật sư Mĩ cho vùng

Oregon, Robert Weaver, đã thu xếp để thuyết phục quan

toà rằng Bhagwan nên tiếp tục bị giam giữ cho tới khi ông

ấy trở về Oregon để trả lời những sự buộc tội trong bản

cáo trạng.

Lí do của ông ta là gì? Weaver đã báo cho quan toà

rằng nếu Bhagwan được thả ra theo thủ tục bảo lãnh thông

thường thì có thể là một số đệ tử của ông ấy sẽ cố giết chết

ông ấy hay có thể là ông ấy tự tử. (Xem Greensboro (Bắc

California) News Record, 31/10/1985 và San Francisco

Chronicle, 31/10/1985). Bằng cớ được nêu ra để hỗ trợ

cho khái niệm này là một báo cáo từ cảnh sát trưởng liên

bang rằng ông ta đã nghe Bhagwan nói rằng ông ấy sẽ

uống thuốc và không bao giờ dậy nữa, và một tiết lộ trước

đây của Bhagwan cho công luận rằng Sheela và đồng bọn

của thị (những người lúc đó đang ở Đức) đã định đầu độc

người chăm sóc sức khoẻ và người giúp việc của ông.

Điều kì lạ là một người có toàn bộ niềm tin tôn giáo là

việc khẳng định sự sống và người đã dành năm ngày trước

đấy trong giam cầm vẫn mỉm cười và đùa với các phóng

viên báo chí ngay cả khi ông ấy đã bị xích tay chân, thế

mà lại nói tới ý định tự tử. Cũng kì lạ nữa là một người chỉ

đối mặt với hai điều buộc tội nhỏ mà nhiều nhất thì cũng

chỉ dẫn tới trục xuất, và người đã nhận được hàng trăm

bức thư và điện tín, điện thoại ủng hộ hàng ngày gửi từ

khắp nơi trên thế giới tới, lại bị coi như có thể có nguy cơ

tự tử. Điều đáng quan tâm là lưu ý này lại được viên cảnh

sát trưởng liên bang nói tới, ngay cả lúc Bhagwan còn

đang trong nhà tù quận, (nhà tù quận Mecklenburg), do

bang quản lí. Điều cũng đáng quan tâm nữa là những câu

chuyện này lại được chính phủ cho lưu hành rộng rãi với

giới báo chí. Hồi tưởng lại thì điều đó có thể được xem

như một cố gắng để tạo ra một nguyên cớ, hay ít nhất

cũng là việc qui lỗi, rằng bất kì điều gì cũng có thể xảy ra

cho Bhagwan.

Mặc cho việc thiếu những bằng chứng hỗ trợ cho nỗi

lo sợ của chính phủ về việc tự tử, mặc cho sự kiện là

Bhagwan chưa bao giờ có tiền án tiền sự, mặc cho sự kiện

là những lời buộc tội ông chỉ là những vi phạm kĩ thuật

nhỏ bé và không có bạo hành, và mặc cho sự kiện là các

luật sư của ông đã đưa ra lời cam kết về việc ông tự

nguyện trở lại Oregon, quan toà vẫn ra lệnh rằng ông vẫn

phải bị giam giữ theo quyền liên bang cho tới khi ông tới

Portland.

Quyết định này thật là chấn động - và không chỉ cho

Bhagwan và luật sư của ông. Trong những hoàn cảnh như

được nêu ra ở trên thì thủ tục thông thường là tiến hành

bảo lãnh. Người gian giữ Bhagwan, Sheriff Kidd, đã chắc

chắn về việc thả Bhagwan đến mức anh ta đã đem quần áo

và đồ dùng cá nhân của ông tới toà án để cho ông không

phải quay lại nhà giam nữa.

Các luật sư của Bhagwan lập tức cung cấp cho chính

phủ một chiếc máy bay tư để chở ông bay trở lại Portland

với phi công và cảnh sát trưởng của chính phủ. Chính phủ

từ chối. Thay vì thế Bhagwan bị giữ thêm ba ngày nữa ở

Charlotte - cho tới thứ hai, 4/11.

Vào thứ hai đó ông và luật sư của mình đã được

khuyên rằng ông phải bay về Oregon - một chuyến bay

xấp xỉ năm giờ đồng hồ. Các luật sư và bạn bè của ông lập

tức lấy một chiếc máy bay ở đấy để đợi ông tới. Ông đã

không xuất hiện đêm đó. Rồi ngày hôm sau nữa. Rồi lại

ngày hôm sau nữa. Những cú điện thoại dồn dập gọi về

Charlotte đã xác nhận rằng ông đã rời khỏi đó trên chiếc

máy bay chở tù liên bang vào lúc 5 giờ chiều ngày thứ hai.

Các nhà cầm quyền từ chối nói thêm nữa. Ngay cả những

người phát ngôn báo chí ở đâu cũng có và thạo tin, cũng

mất dấu vết của ông.

Họ đã đem ông đi đâu?

Cuối cùng, vào đêm thứ tư, 6/11, một người rất quyết

tâm và gần kiệt lực Bill Diehl, luật sư vùng Charlotte của

Bhagwan, mới dò ra được dấu vết của ông - tại Oklahoma.

Diehl đã được một nhà báo Oklahoma nói bóng gió rằng

Bhagwan đang bị giữ tại trại cải tạo liên bang ở El Reno,

hai mươi ki lô mét bên ngoài Thành phố Oklahoma. Diehl

lái xe tới đó nhưng bị từ chối không cho vào và bị từ chối

không cung cấp bất kì thông tin nào. Ông lái xe ngược trở

lại thành phố lúc 11 giờ đêm và đánh thức cảnh sát trưởng

Mĩ cho vùng tây Oklahoma, Stuart Ernest. Ernest đồng ý

lái xe quay lại El Reno với Diehl, và quãng 1 giờ sáng đã

xoay xở với ông ta để gặp Bhagwan.

Bhagwan bảo với Diehl rằng đêm trước, khi ông bị

đưa vào nhà giam quận Oklahoma thì ông đã bị buộc phải

đăng kí dưới tên “David Washington.” Ông hỏi Diehl điều

gì đã xảy ra. Diehl không biết. Ông chưa bao giờ trải qua

những việc giống vậy. Ông bắt đầu hỏi lại người phụ trách

nhà tù và phát hiện ra rằng không có kế hoạch ngay cho

Bhagwan tiếp tục hành trình.

Trong thực tế, cảnh sát trưởng Ernest đã ra tuyên bố

với báo chí địa phương rằng chính chiều hôm đó (thứ tư,

6/11) mà “Rajneesh có thể vẫn còn ở Oklahoma thêm vài

ngày nữa trước khi có thể thoả thuận đưa ông tới Portland,

Oregon.” (Daily Oklahoma, 7/11) Báo chí đã buộc Ernest

phải thừa nhận rằng Bhagwan đã từng ở Oklahoma từ thứ

hai “tại một nơi kiểu như giam kín,” mặc dầu Ernest vẫn

“không xác nhận nơi Bhagwan bị giam giữ.” Cảnh sát

trưởng Ernest thừa nhận với Diehl rằng tù nhân tạm

chuyển thông thường chỉ ở lại một đêm ở Oklahoma, bao

giờ cũng tại El Reno, vì máy bay của cảnh sát liên bang

bay theo lịch thường ngày xuyên ngang qua nước Mĩ.

Nhưng, như sau này ông ta nói với luật sư của Bhagwan,

Swami Prem Niren, “bởi lí do nào đó - mà tôi vẫn chưa rõ

tại sao - lịch bay đã thay đổi sáng sớm hôm sau (sau khi

Bhagwan tới từ Charlotte), và tôi được văn phòng cảnh sát

nói rằng Rajneesh sẽ có thể ở lại chỗ tôi quãng bốn ngày.”

Sau khi Diehl yêu cầu về điều đã xảy ra với Bhagwan

và tại sao ông lại bị giữ tại đó một cách nặc danh thì bỗng

nhiên ông được khuyên rằng Bhagwan đã bay tiếp về

Oregon vào cùng ngày. Điều này ít hơn mười hai tiếng sau

khi Ernest đã nói với báo chí Bhagwan có thể còn ở thêm

vài ngày nữa. Để cho đủ chắc chắn, vào quãng 7 giờ sáng

ngày thứ năm, 7/11, Bhagwan được chở ra sân bay và đưa

lên chiếc máy bay chở tù thường lệ, bay từ Oklahoma tới

Seattle qua Arizona và California. Từ Seattle, Bhagwan

bay nhanh bằng một chuyến bay một giờ tới Oregon.

Điều đó làm nẩy sinh vài câu hỏi:

Tại sao chính phủ lại phải cố gắng vất vả như vậy, và

ngược lại tất cả các qui tắc thông thường, để giữ Bhagwan

trong giam cầm?

Tại sao chính phủ không chấp nhận đề nghị của bạn bè

của Bhagwan cung cấp máy bay mà trong đó chính phủ có

thể đưa Bhagwan trực tiếp về Portland thay vì đổi hướng

ông đi khắp nước với một chi phí công cộng đắt đỏ thế?

(kể cả việc bảo đảm an ninh chặt chẽ tại mỗi điểm dừng là

“điều lớn nhất tôi đã từng chứng kiến” như được cảnh sát

trưởng Ernest thú nhận).

Tại sao chỗ của Bhagwan lại phải giữ bí mật, ngay cả

đối với luật sư riêng của ông?

Tại sao cảnh sát Oklahoma nói rằng Bhagwan có lẽ

còn bị giam giữ bốn ngày khi tù nhân tạm chuyển thường

chỉ nghỉ qua đêm ở đó?

Tại sao lịch bay thường lệ lại “thay đổi” (mà quả thực

đã thay đổi) vào đêm Bhagwan tới Oklahoma, để cho ông

bị kẹt ở đó ba ngày?

Tại sao cảnh sát Oklahoma nói với báo chí địa phương

vào chiều 6/11 rằng Bhagwan có lẽ sẽ ở lại đó thêm bốn

ngày nữa, và rồi lại gửi ông ấy đi ngay sáng 7/11, sau khi

luật sư ông bắt đầu yêu cầu? Ông bay theo chuyến bay

chở tù thông thường - tại sao ông đã không được đặt chỗ

để đi đến đó từ trước?

Điều gì đã xảy ra cho Bhagwan nếu Bill Diehl gan dạ

không tìm ra dấu vết ông?

Nhưng dường như là Diehl quá trễ. Có vẻ như là điều

gì đó đã xảy ra cho Bhagwan tại Oklahoma. Trong thực tế

nhiều điều lạ đã xảy ra ở đó. Nhưng ý nghĩa của những sự

kiện này mãi về sau mới được nhận ra.

***********************************************

CHƯƠNG 4

BA NGÀY BỊ MẤT

Khi Bhagwan rời khỏi Charlotte vào thứ hai, 4/11, ông

đã được bay tới Thành phố Oklahoma qua Springfield,

Missouri. Với cuộc hành trình này một ông già năm mươi

ba tuổi không bạo lực lại bị còng tay và xích chân, cả hai

xích đều được nối với một xích khác vòng qua eo.

Bhagwan xuống Thành phố Oklahoma cùng với một

nữ tù nhân và cả hai được viên phó cảnh sát trưởng Mĩ

chở tới nhà giam quận trong Thành phố Oklahoma. Trời

đã tối khi họ đến nhà giam nhưng dưới ánh đèn phố,

Bhagwan có thể thấy một đám đông các phóng viên đang

đứng đợi bên ngoài nhà giam. Chiếc xe dừng lại và một tù

nhân bước ra. Khi viên phó cảnh sát trưởng Mĩ trao gói

quần áo và thuốc men của Bhagwan (về bệnh đái đường

và hen suyễn) ông ta thì thầm với viên lính gác mới của

Bhagwan, “Ông này nổi tiếng thế giới đấy - các phương

tiện thông tin đang tập trung vào ông ấy - cho nên đừng có

làm cái gì trực tiếp - phải rất thận trọng.”

Bhagwan và người nữ tù nhân nghe rõ ràng câu nói

đó. Cô ta lập tức bị đưa ra khỏi xe đi qua đám báo chí

đang chờ đợi và vào nhà giam qua cổng trước. Rồi chiếc ô

tô vòng lại sau nhà giam nơi Bhagwan bị đưa lén vào, bên

ngoài tầm nhìn của báo chí. Bên trong, Bhagwan được

viên phó cảnh sát trưởng trao cho một bản khai và được

dặn phải viết vào đó tên của David Washington. Bhagwan

từ chối, nói rằng đấy không phải là tên ông. Ông được bảo

cho biết sẽ phải ngồi đó cho tới khi viết xong - nếu cần thì

cả đêm. Bhagwan đã mệt - lúc đó là 8:30 tối, và ông vẫn

còn bị xích tay và xích chân trong suốt bốn tiếng. Ông yêu

cầu viên phó cảnh sát viết vào tờ khai, (cho nên chữ giả là

chữ viết của viên phó cảnh sát trưởng), và rồi ông kí vào

đó với chữ kí thông thường của mình, chữ kí duy nhất và

được biết rõ (và hoàn toàn không thể nhận ra được đang

biểu diễn cho bất kì cái gì). Khi viên phó cảnh sát trưởng

hỏi đấy là gì thì Bhagwan nói đấy là David Washington.

Viên phó cảnh sát trưởng cũng phải đã mệt mỏi nữa vì ông

ta cứ để như thế.

Một điều đáng quan tâm về vụ việc này là ở chỗ tên

của viên phó cảnh sát trưởng là Fred Washington. Phần

gợi tò mò về nó là ở chỗ viên luật sư Niren của Bhagwan

sau này được quận trưởng cảnh sát bảo rằng không có bản

ghi nào trong máy tính của nhà giam nói về Bhagwan

Shree Rajneesh hay David Washington đã ở ba đêm ở đó.

Việc ghé qua trại giam của bất kì “khách” nào khác, dù

tạm chuyển thế nào, đều được ghi lại cẩn thận trên máy

tính. Đó là bản ghi của chính phủ bang và Bhagwan thì

không có trong số đó. Chỉ khi Niren xuống hầm và bắt đầu

nói chuyện phiếm với một thư kí thì anh ta cuối cùng mới

có thể định vị được một tài liệu chỉ ra rằng một ‘David

Washington’ của Rajneeshpuram đã ở đó vào đêm 4/11.

Chữ kí phía dưới tờ khai đã bị bôi phủ trắng, (mặc dầu

một vài chỉ dẫn vẫn còn), và cái tên “WASHINGTON,

DAVIS” được gõ dập lên đó. Bản ghi nêu rõ ‘David

Washington’ đã vào lúc 8:35 tối và ra ngày hôm sau lúc

3:15 chiều.

Bhagwan nhớ việc mình ở nhà giam quận Oklahoma

rất rõ ràng. Trên đường đi về phòng giam ông được bảo

hãy lấy một cái đệm. Cái đệm thì mỏng, bẩn thỉu và cổ, và

hiển nhiên là tổ của một bầy gián. Đêm đó thật lạnh.

Phòng giam thì trần trụi, ngoài tấm đệm, không có ai khác

cư ngụ. Cũng chẳng có cửa sổ nào cả. Yêu cầu của

Bhagwan về một cái chăn và gối bị từ chối. Ông không

ngủ được mấy. Vào một giờ nào đó không xác định được

(tường đều tối) người ta đem vào cho ông một bộ chăn

đệm mới, kể cả gối và màn, và thức ăn - hai mẩu bánh mì

nhúng trong nước sốt đỏ có vị lạ (không phải cà chua).

Tuy nhiên gần như ngay lập tức, hay dường như đối với

ông là vậy, một lính gác tới xích ông lại và đưa ông trở về

ô tô.

Phần lớn câu chuyện của Bhagwan được viên cảnh sát

trưởng Oklahoma Stuart Ernest, người sau này thú nhận

với luật sư của Bhagwan, Niren, rằng ở lại nhà giam quận

Oklahoma thay vì ở trại cải tạo liên bang El Reno là điều

bất thường đối với tù nhân tạm chuyển liên bang. Ông ta

cũng có lời với Niren rằng Bhagwan đã bị giữ “cô lập” tại

nhà giam quận Oklahoma và trại cải tạo El Reno, mặc dầu

cả hai nơi giam giữ này đều gặp khó khăn với vấn đề

chung về việc quá đông người bị giam giữ. Ông ta cũng

thú nhận rằng họ đã có “sự thận trọng đặc biệt” với

Bhagwan, và rằng ông đã không được cấp cho thức ăn tù

thông thường mà là “thức ăn đặc biệt” - vì ông ăn chay.

Từ nhà giam quận Bhagwan bị đưa tới trại cải tạo El

Reno. Terry Watford, người quản lí đến vị đó chịu trách

nhiệm về những tù nhân tới, nhớ việc ông tới đó. Anh ta

bảo với Niren rằng Bhagwan tới lúc 7 giờ tối và được đưa

tới nơi canh giữ đặc biệt (một loại giam giữ cô lập) “như

hướng dẫn trước”.

Tại đó Bhagwan bị khoá trong buồng giam với một

người đã ở đó. Người này nhận ra Bhagwan trong ti vi

(việc bắt giữ Bhagwan là mục tin tức sốt dẻo nhất trong

toàn nước Mĩ vào lúc đó). Ông ta cảnh báo Bhagwan đừng

đến gần, vì ông ta đang bị bệnh phỏng rộp nhiễm khuẩn,

và khuyên ông đấm mạnh cửa để báo cho giám ngục và

yêu cầu được chuyển sang buồng khác.

Bhagwan đấm cửa. Một lúc lâu sau giám ngục mới tới,

mặc dầu ông ta ở cách đó mấy phòng thôi. Khi cuối cùng

ông ta xuất hiện, ông ta đi cùng một bác sĩ nhà giam.

Bhagwan nhắc lại điều người bị bệnh phỏng rộp đã nói

cho ông và lập tức được chuyển sang một phòng khác, mà

ông có một mình. (Chỉ trong hai nhà giam này ở

Oklahoma mà Bhagwan có được phòng giam xa hoa cho

mình.)

Bhagwan ngủ rất say đêm đó. Sau này ông nói rằng đó

là giấc ngủ đêm say duy nhất mà ông có được trong toàn

bộ mười hai ngày bị giam hãm của mình. Ngoại trừ điều

đó không phải là mười hai ngày!

Theo Bhagwan, người được coi là nhớ được hoàn toàn

về những sự kiện mà mình tham dự vào (ông đã làm nhiều

người bối rối bởi việc nhớ chính xác một điều gì đó họ đã

nói nhiều năm trước), ông đã mất tám đêm ở Charlotte,

một đêm ở nhà giam quận Oklahoma, một đêm ở trại cải

tạo El Reno, và một đêm ở nhà giam quận Multnomah,

Portland. Tất cả là mười một ngày. Việc đếm ngày và đêm

với báo chí và đệ tử là thường xuyên và nhất quán vào lúc

đó, (xem Light on the Path và India: Coming Back Home,

bài nói của Bhagwan Shree Rajneesh, The Rebel

Publishing House, 1988.)

Chỉ mãi đến khi tôi nghiên cứu về cuốn sách này tôi

mới hiểu rằng con số này không được cộng đúng. Có

mười hai ngày giữa đêm chủ nhật 27/10 khi Bhagwan bị

bắt và tối thứ sáu, 8/11 khi cuối cùng ông được thả ra. Cho

nên một đêm và một ngày đã bị mất. Tôi đã hỏi Bhagwan

về điều này nhưng ông nói tôi phải đã lầm và nên kiểm tra

lại. Tôi đã kiểm tra lại. Và thấy ra sai lầm. Đó là ba đêm

giữa thứ hai, 4/11, khi Bhagwan rời Charlotte, và thứ sáu,

7/11, khi ông tới Portland. Bhagwan nhớ chỉ có hai - một

tại nhà gian quận (thư hai mồng 4), và một tại El Reno nơi

ông ngủ say ngoại lệ. Tôi kiểm tra với El Reno - Bhagwan

đã ở đó hai đêm, 5/11 và 6/11. Nhưng một trong những

đêm này đã bị xoá sạch khỏi tâm thức ông - có thể bởi

thuốc ngủ.

Người ta đã ghi lại sự kiện là ngay khi ông được thả,

khi lần đầu tiên ông bắt đầu nhớ lại kinh nghiệm ở tù và

trước rất lâu khi nổi lên những gợi ý về đầu độc hay gian

trá, Bhagwan nhất quán duy trì rằng ông chỉ ở một đêm tại

trại cải tạo El Reno.

Tại sao Bhagwan lại ‘mất dấu vết’ cả một ngày ở

Oklahoma? Điều gì đã xảy ra ở đó?

Tại sao chính phủ phải đưa lén Bhagwan vào nhà giam

quận Oklahoma khi những từ nhân tạm chuyển của liên

bang bao giờ cũng được đưa tới nhà giam liên bang El

Reno?

Tại sao Bhagwan thừa nhận tại nhà giam quận

Oklahoma dưới cái tên giả ‘David Washington’, và tại sao

không có bản ghi nào về việc ông ở lại trong máy tính của

nhà giam?

Tại sao Bhagwan ra khỏi nhà giam quận lúc 3:15

chiều mà mãi tới 7 giờ tối mới vào El Reno? El Reno chỉ

cách nửa giờ lái xe - Bhagwan đã bị đưa đi đâu, và điều gì

đã xảy ra cho ông, trong bốn giờ chiều ngày 5/11?

Tại sao, khi Bhagwan đập cửa phòng giam tại El

Reno, viên giám ngục lại phải mất thời gian để lôi bác sĩ

trại giam tới trước khi phản ứng? Tại sao ông ta lại nghĩ

Bhagwan cần bác sĩ? Không có mối quan tâm về sức khoẻ

của Bhagwan được biểu lộ trước đó - liệu lính gác có được

báo động rằng Bhagwan có thể bỗng nhiên bị ốm trầm

trọng không? Họ trông đợi tìm thấy cái gì?

*************************************************************

CHƯƠNG 5

BOM TẠI CUỐI CUỘC HÀNH TRÌNH

Bhagwan tới Portland vào lúc 8 giờ tối ngày 7/11. Ông

đã đi bằng máy bay từ Oklahoma từ 8 giờ sáng hôm đó,

dừng trước hết tại Tucson, Arizon, rồi tại Luke AFB,

Arizon, rồi tại Long Beach, California, tiếp đó là

Vandengerg AFB, Calofornia, rồi Sacramento, California.

Máy bay tới Seattle lúc 5 giờ chiều. Tại đó mọi người đều

xuống ngoại trừ Bhagwan. Ông bị giữ trong máy bay thêm

hai giờ nữa, không được thông tin hay không khí trong

lành, sau đó ông được chuyển sang một chiếc máy bay

nhỏ hơn để bay trong một giờ tới Portland, Oregon. Trong

suốt cả ngày ông đều bị xích chân và tay, cả hai xích này

đều được mắc với một xích vòng qua eo.

Tại Portland ông lại được chở xe đi, lần nữa trong

chiếc xe cảnh sát có hú còi báo, tới nhà giam quận

Multnomath mới. Đến lúc này thành phố nhộn nhịp với

các nhà báo và các sannyasin đang lo âu thoáng nhìn về

thầy họ. Cảnh sát trưởng Mĩ của vùng Oregon, Kernan

Bagley, lại gần thư kí của Bhagwan, Ma Prem Hasya và

luật sư của Bhagwan, Jack Ransom, và bảo thẳng thừng

với cả hai rằng nếu có biểu tình hay rắc rối bất kì kiểu gì ở

Portland thì Bhagwan lập tức sẽ bị đưa sang nhà giam

khác, một trong những nhà giam nguyên thuỷ cổ mà đã

từng bị thay thế bởi toà nhà mới, và không ai sẽ biết ông ở

đâu cả. Không điều gì được phép tiến hành theo kiểu biểu

tình, ông ta nói, thậm chí không được có cả một khẩu

hiệu.

Trưa hôm sau Bhagwan bị xích lại và đưa tới toà án

liên bang. Sau kinh nghiệm của mình ở Charlotte, các luật

sư của Bhagwan đã chuẩn bị nhiều kế hoạch khéo léo để

nêu ra cho quan toà như các phương án giam giữ tiếp

Bhagwan - các kế hoạch bao gồm cả việc quản thúc tại

gia, v.v.. Tuy nhiên quan toà Leavy tuân theo thủ tục

thông thường giải quyết cho người lần đầu phạm tội với

tội phi bạo lực, và lập tức cho ông được bảo lãnh. Cả hai

phía đều dịu đi. Các luật sư của Bhagwan phải nhanh

chóng hối hả chuẩn bị phiếu nợ 500 000$, và chính phủ

liên bang thất bại trong trận chiến gay go về việc giam

giữ. Tuy nhiên cũng phải đến gần 4 giờ chiều ngày thứ sáu

và có khả năng là món tiền bảo lãnh không gửi đến đúng

hạn. Bhagwan bị xích tay lại và đưa trở về nhà giam quận

Multnomah.

Khi ông trở lại đó thì ông ngạc nhiên để ý rằng khu

vực tiếp đón ở tầng trệt trống không - chẳng ma nào ở đó

cả. Khi ông hỏi tất cả mọi người ở đâu thì Bhagwan được

trả lời rằng đó là việc đổi phiên. Hau cảnh sát đã mang

ông từ toà án tới trao ông cho người thứ ba và lập tức rời

đi.

Người này đưa Bhagwan vào một phòng nhỏ và bỏ

ông ở đó một mình, bị khoá trái cửa lại. Sau một chốc anh

ta quay lại với thông tin rằng số tiền bảo lãnh đã được gửi

tới và Bhagwan có thể được thả. Người này trao cho

Bhagwan tư trang và một phiếu mẫu để đính vào như giấy

biên nhận của họ. Bhagwan để ý rằng khuôn mặt người

này đầy mồ hôi và rằng phiếu mẫu run rẩy trong tay anh

ta. Bhagwan kí và phiếu mẫu và rồi người này thông báo

rằng anh ta phải đi để lấy chữ kí của sếp vào phiếu mẫu.

Bhagwan rất phân vân. Ông nói rằng phiếu mẫu này đơn

thuần đối với ông chỉ là để thừa nhận rằng ông đã nhận

được đủ tư trang, và rằng không có chỗ nào để cho “sếp”

kí vào đó, và quả thực là không có chỗ trên phiếu mẫu cho

bất kì ai khác kí vào. Người này đơn thuần khoá Bhagwan

lại trong phòng và biến mất.

Trong khi đó thư kí của Bhagwan Hasya đã vội vã từ

toà án nơi cô ấy vừa gửi số tiền, đi tới nhà giam để đón

Bhagwan. Khi cô ấy và hai người nữa cố gắng đi vào từ

cửa trước của nhà giam thì họ bị cảnh sát chặn lại. “Bà

không thể đi vào trong đó được, thưa bà,” họ nói với cô

ấy. “Tôi vào được chứ,” cô ấy trả lời, “tôi tới để đón

Bhagwan Shree Rajneesh, ông ấy đã được thả.”

“Rất tiếc, nhưng không ai được phép vào, có bom gài

ở đó.” Chỉ sau đó Hasya mới để ý đến tất cả mọi người

đều đang đứng quanh bên ngoài - cô ấy cứ tưởng họ là các

phóng viên.

“Nhưng Bhagwan đang ở trong đó!” cô ấy kêu lên.

“Ông ấy sẽ ra lối cửa sau,” là câu trả lời. Cô ấy chạy

quanh khu nhà ra đằng sau toà nhà lớn - chẳng có gì cả,

chẳng có ai cả. Cô ấy chạy trở lại phía trước và hỏi người

bình luận truyền hình điều gì đã xảy ra. Anh ta bảo cô

rằng người ta nhận được những cú điện thoại của cảnh sát

trước đó nói rằng bom đã được gài trong toà nhà và đặt

cho nổ lúc 5:55 chiều. Cảnh sát lập tức cho sơ tán các tầng

thấp và kíp dò bom đang lùng sục chất nổ. Viên phóng

viên truyền hình xác nhận với Hasya rằng Bhagwan đã bị

đưa vào trong toà nhà mà mọi người đã sơ tán hết, và như

anh ta biết thì ông vẫn còn trong đó.

Thế là chắc chắn Bhagwan vẫn còn bị khoá một mình

bên trong vùng tiếp tân ở tầng trệt. Sau khoảng nửa giờ

người coi tù quay lại với phiếu mẫu biên nhận - chẳng có

chữ kí của ‘sếp’ nào cả. Không một lời, anh ta đưa

Bhagwan xuống cầu thang ra ga ra, nơi một chiếc xe cảnh

sát đang đợi.

Trong lúc đó Hasya vẫn điên cuồng chạy quanh cố tìm

xem điều gì xảy ra bên trong - với Bhagwan. Cuối cùng cô

được mách cho rằng một chiếc ô tô đã tới từ ga ra tầng

hầm. Cô chạy quanh lối vào - đúng lúc thấy Bhagwan xuất

hiện từ phía dưới trong xe cảnh sát. Ông bị bỏ lại trên hè

khi những người bạn khác lo lắng chạy tới. Vài phút sau

lái xe của ông xuất hiện với chiếc xe Rolls Royce của ông.

Chỉ mãi về sau, tại sân bay nơi máy bay của ông đang

chuẩn bị đưa ông về Rajneeshpuram, Bhagwan mới được

phóng viên truyền hình cho biết rằng người ta đã tìm thấy

quả bom ở tầng trệt của nhà tù ngay sau khi ông tới đó.

Báo cáo chính thức của cảnh sát Oregon về vụ việc

này (#85-11948) nêu những tuyên bố sau đây của hạ sĩ

cảnh sát Dennis Branagan. “Khi tôi tới làm việc lúc 16:05

ngày 8/11/85, tôi được cho biết là có việc đe doạ tấn công

bằng bom tại Trung tâm Tư pháp và người ta đã tìm thấy

một thiết bị nổ khả nghi (đúng nguyên văn) trong một

trong những tủ khoá của khách thăm ở vùng hành lang.

Tôi lập tức đối phó với vị trí đó và quan sát đám đông

người ở phía trước toà nhà cũng như nhiều phóng viên từ

các đài truyền hình. Phần thấp của Trung tâm tư pháp đã

được sơ tán và các sĩ quan an toàn công cộng đã vây kín

cửa vào và ra.

“Trong hành lang tôi gặp trung sĩ Taylor, viên trưởng

Fessler và Skipper, trung sĩ Jim Davis, sĩ quan Maroni và

các nhân viên PSA. Tôi được bảo cho biết rằng trong khi

kiểm tra vùng này để tìm thiết bị nổ, người ta đã tìm thấy

một túi thể thao trong ngăn tủ #19 trong vùng tủ khoá của

khách thăm. (Chú thích của tác giả: vùng tủ khoá của

khách thăm ở tầng trệt, ngay cạnh vùng tiếp tân nơi

Bhagwan bị giam giữ). Hơn nữa cái túi này có một bo

mạch máy tính thấy được trên đỉnh với dây dợ đi vào

trong túi. Trong khi toán dò bom đang giám định cái túi

thì tôi gọi điện về cảng Portland để xem liệu chó đánh hơi

chất nổ của họ có đấy không, nhưng chúng không có đấy.

Vào lúc đó tôi lại được biết là BOEC (Sở liên lạc khẩn

cấp) đã đặt bẫy bắt số điện thoại để phát hiện máy điện

thoại của người gọi và số này sẽ cho lại địa chỉ. Đồng thời

toán dò bom, sau khi đã giám định thiết bị, buộc một sợi

dây vào nó và sau khi để mọi người ra hết đã kéo cái túi ra

khỏi ngăn tủ khoá. Sau khi giám định cái túi này thì thấy

có những thứ sau:

1. ba sổ ghi môn học mầu xanh lá cây

2. Một cuốn sách “Digital Circuits and Micro-computers”

của thư viện quận Mulnomah - xám và xanh bạc.

3. Quyển sách “Electronic Circuits and Devices,

Electronic Engineẻing Technology EET III” - mầu xám

4. Sổ ghi của “khu trườngIR” - đen và trắng

5. Lịch mùa đông 1986 của trường cao đẳng cộng đồng

Portland

6. sách chủ đề “Norcom” ć giấy 101/2x8

7. A.C.E 218 bộ đánh giá tất cả mạch với dây, di ốt v.v..

8. Hộp nhựa đỏ với chóp đỉnh có chứa dây, điện trở v.v...

9. Túi thể thao xám xấp xỉ 8” x 18”

“Cái tên (đã bị xoá) xuất hiện nhiều lần trong sổ ghi và

đã xác định là chủ thể này được sử dụng như người gác

cổng cho Servomation và thực hiện công việc ban đêm tại

trung tâm tư pháp, làm suốt đêm. Vùng tủ khác này là nơi

các nhân công bên ngoài, cũng như những người khác, cất

giữ an toàn tài sản của mình. Tiếp đó tôi đã nói chuyện

với Marsha Sanford của truyền hình KOIN TV và thu

được phát biểu của bà. Tôi cũng nói chuyện với BOEC và

yêu cầu lấy băng ghi âm về việc đe doạ đánh bom cũng

như gửi cho tôi bản sao của vụ việc này.

“Marsha Sanford kể lại rằng lúc 15:55 ngày

8/11/1985, bà ấy nhận được một cú điện thoại về bàn

mình và người gọi nói rằng ‘Tôi có một tin cấp báo cho

bà, sẽ có vụ đánh bom tại Trung tâm Tư pháp lúc 17:55 ở

giữa tầng ba và tầng sáu.’ Theo bà Sanford thì chủ thể gọi

lại tại trạm điện thoại lúc 17:20 và nói với phóng viên tên

là Ken Body và nói điều gì đó về ảnh hưởng của việc, ‘nó

sắp xảy ra trong vòng hai mươi phút nữa.’ Bà Sanford còn

nói thêm rằng cú điện thoại đầu xuất hiện ngay sau lúc

Kênh 6 đã loan tin sự kiện Bhagwan được phép bảo lãnh.”

Bản báo cáo này cũng nói rằng những cú điện thoại

tương tự cũng nhận được tại Sở liên lạc khẩn cấp, “và

nghe nói cả tại Văn phòng cảnh sát trưởng Portland.” Báo

cáo còn mô tả chi tiết việc điều tra được tiến hành để theo

dõi đe doạ đánh bom. Điện thoại gọi tới BOEC đã bị “đặt

bẫy” để cho người điều tra dò được dấu vết địa chỉ căn hộ

nào đó. Hai chủ nhân của căn hộ đã bị hạ sĩ điều tra giữ

lại, thẩm vấn, và kiểm tra giọng nói xem có sánh với băng

đã ghi lại cú điện thoại đe doạ. Hạ sĩ Branagan báo cáo

rằng, “Tôi đã giải thích cho người bị buộc tội rằng bằng

cách dùng việc phân tích sự nhấn âm lời nói chúng tôi cố

gắng so sánh tiếng nói ông ta với tiếng nói người gọi đã

ghi trên băng. Tôi bảo ông ta rằng việc so sánh tiếng nói

cũng tương tự như việc so sánh vân tay. Rồi người bị buộc

tội bảo tôi rằng tiếng nói ông ta thay đổi hàng ngày. Tôi

bảo ông ấy rằng điều này không đúng và tôi vẫn yêu cầu

rằng ông ấy cho phép tôi ghi băng tiếng nói ông ấy. Rồi

ông ấy bảo với tôi rằng ông ấy sẽ đồng ý ghi băng, nhưng

rồi ông ấy không thể đọc được. Kết quả là ông ta đã được

ghi băng với việc tôi nói từng câu và ông ta lặp lại câu

đó.”

Cả người bị buộc tội cũng chẳng có chứng cớ, và cả

hai đều đưa ra câu chuyện về khách thăm căn hộ của họ,

người đã thực hiện cú gọi điện thoại trong ngày đang xét.

Trong một báo cáo tiếp theo Branagan nói rằng, “nhiều

ngày sau vụ việc nguyên thuỷ, tôi đã nhận được một cú

điện thoại từ một người (tình nghi), người này đã thông

báo cho tôi rằng anh ta và người (đồng tình nghi) của anh

ta đã gặp rắc rối với đường điện thoại. Rõ ràng một bên

khác cũng đang trong cùng đường điện thoại và trong khi

(người tình nghi) đang nói với người trợ giúp danh mục

thì một giọng nói vang lên, “Mẹ kiếp anh, hôn con lừa tôi

ấy.” Người thao tác viên bảo anh ta gọi điện thoại tới dịch

vụ sửa điện thoại.” Branagan kể lại rằng việc điều tra chỉ

ra có rắc rối trên đường điện thoại ngày hôm đó, “rõ ràng

một cặp dây có thể là đường bị đấu chéo.” Anh ta cũng

nói rằng “ai đó với việc sửa điện thoại có thể đã mắc vào

đường này (không có cách nào chứng minh điều này).”

Báo cáo của Branagan kết thúc bất thình lình: “Vào

ngày 30/01/86 tôi đã nhận được một cú điện thoại từ sĩ

quan John Law tại sở nội vụ cảnh sát Portland, người cũng

đang nói (về kẻ tình nghi). Tôi đã thảo luận trường hợp

này với anh ta và anh ta bảo tôi rằng anh ta định lấy bản

sao báo cáo của tôi. Ngày 05/02/86 tôi nói với M. Cooper

của bộ phận an ninh PNB, người bây giờ giải quyết cho

việc tình nghi này. Tôi bảo bà ấy rằng đến 7/02/86 tôi sẽ

có bản sao cho bà ấy.”

Điều đó dường như đã là kết thúc cho vấn đề có liên

quan tới báo cáo của cảnh sát. Nhưng một lần nữa, nhiều

câu hỏi vẫn còn:

Tại sao Bhagwan lại bị đưa vào Trung tâm Tư vấn và

bị bỏ lại một mình trong nơi đón tiếp và vùng khách ở

tầng trệt khi toàn bộ tầng này đã đi sơ tán hết vì việc đe

doạ đánh bom và việc tìm thấy “thiết bị đáng ngờ”? (Ông

có thể bị giam giữ ở ngay toà án trong khi số tiền đang

được gửi tới.)

Liệu đấy có phải chỉ là sự trùng hợp rằng việc đe doạ

đánh bom được thực hiện ngay sau khi có công bố rằng

Bhagwan sắp được thả do bảo lãnh không?

Liệu đây có phải là một biện pháp gây hoảng sợ vì

Bhagwan được bảo lãnh bất ngờ không? Một biện pháp

mà rồi đã bị thất bại khi tiền bảo lãnh cho Bhagwan nhanh

chóng được gửi tới thế? Quả bom giả thiết sẽ nổ vào 5:55

chiều. Toà án thông thường nghỉ lúc 5:30, điều này nghĩa

là Bhagwan sẽ quay về vùng tiếp đón đã được sơ tán hết

vào khoảng thời gian đó. Liệu kế hoạch này bị bỏ đi có

phải vì toà án đã kết thúc sớm hơn một giờ rưỡi, và tiền

bảo lãnh Bhagwan đã được gửi quá mau lẹ, trước 5:55

chiều ?

Tại sao người coi tù của Bhagwan lại bỏ ông một

mình trong nửa giờ lấy cớ là đi lấy chữ kí của sếp về giấy

biên nhận của Bhagwan về tài sản cá nhân? (Không có

yêu cầu bất kì chữ kí nào trên giấy biên nhận đó, ngoài

chữ kí của bản thân tù nhân). Liệu người coi tù có kiểm tra

xem phải làm gì bởi vì Bhagwan đã trở lại nhà giam trước

lịch biểu?

Nếu có một kế hoạch để cho nổ bom trong vùng tiếp

đón trong khi Bhagwan vẫn còn đang ngồi đó một mình

thì kế hoạch này sẽ đòi hỏi phải tạo ra một cú điện thoại

“doạ đánh bom” để khởi động việc sơ tán cho toà nhà, cho

nên những người khác sẽ không bị hại. Những cú điện

thoại như thế đã được tiến hành, nhưng chúng đã bị bẫy

vào hệ thống điện thoại BOEC, mà điều này cho phép hạ

sĩ lần ra dấu vết nơi gọi ở một máy điện thoại nào đó. Tại

sao chỉ vài ngày sau đó anh ta mới hiểu và thẩm vấn ‘kẻ

tình nghi’, người sống tại địa chỉ đó, hạ sĩ đã nhận được

một cú điện thoại từ họ với một câu chuyện mang nhãn

mới rằng điện thoại của họ đã bị mắc chéo đường vào

ngày đặc biệt đó? Câu chuyện này dường như để thoát ra,

và hạ sĩ chú ý rằng cũng có thể một ai đó măc vào đường

điện thoại vào ngày đó và dùng nó. Liệu người tình nghi

ban đầu có phải là nhân viên chính phủ không, người đã

được giải cứu bởi câu chuyện “đường dây mắc chéo”, hay

người gọi là một thao tác viên đã được huấn luyện, biết

măc vào một đường đặc biệt?

Viên sĩ quan của Sở nội vụ cảnh sát Portland làm gì

khi nói tới ‘kẻ tình nghi’, và yêu cầu bản sao báo cáo của

điều tả viên?

Tại sao hạ sĩ Branagan lại bỏ đi vấn đề này ngay sau

khi anh ta đã làm kế hoạch so sánh tiếng nói của kẻ tình

nghi với băng ghi lời đe doạ đánh bom?

Tại sao một sĩ quan của an ninh PNB lại kế tục vấn đề

và khi đã xác quyết được từ bản ghi lại chôn vùi nó?

Liệu toàn bộ việc đe doạ đánh bom có phải do chính

phủ tạo ra để có được một tác động nào đó với luật sư của

Bhagwan không?

Với việc Bhagwan được ra nhờ bảo lãnh các luật sư

của chính phủ đã mất vị thế mặc cả của mình. Rõ ràng

rằng họ không muốn ra toà án - Luật sư Mĩ Charler Turner

sau này thừa nhận họ đã hoàn toàn không có bằng cớ nào

chống lại Bhagwan (Họp báo 22/07/1986). Nhưng họ cần

một cái gì đó để doạ luật sư và các cố vấn của Bhagwan

trong khi thoả thuận xử lí điều có thể giữ thể diện cho

chính phủ. Bất kì mối đe doạ nào về con người thể xác của

ông cũng đều được.

Và quả người ta làm thế. Luật sư của Bhagwan,

Swami Prem Niren sau này nói, “Chung cuộc việc chính

phủ Mĩ buộc tội Bhagwan, sự sẵn sàng của chính phủ

trong hành hung Bhagwan về thể xác qua việc bắt giữ,

việc giam giữ ông không cần thiết và nghiệt ngã, đe doạ

xử án kéo dài và thẩm vấn lâu, và cách đối xử nhẫn tâm

với Bhagwan trong vụ doạ đánh bom tại nhà giam

Portland, đã làm cho chúng ta thấy rõ rằng chính phủ Mĩ

sẽ không dừng lại chừng nào nó còn chưa phá huỷ được

Bhagwan về thể chất bằng cách lạm dụng cái gọi là hệ

thống tư pháp vốn hỗ trợ bảo vệ cho người vô tội. Khi

điều này trở nên rõ ràng, chúng tôi đã thúc giục Bhagwan

đồng ý với cách xử lí của chính phủ và rời khỏi Mĩ để

tránh bị săn lùng đến chết theo đúng nghĩa.” Nước Mĩ với

Bhagwan Shree Rajneesh: một khuôn cảnh bạo chúa Công

giáo, The Rebel Publishing House, 1988.

*********************************************************

CHƯƠNG 6

NHỮNG GIỌT CHẤT ĐỘC (THALLIUM)

Khi Bhagwan trở về tới Rajneeshpuram đêm đó (8/11)

ông đã được bác sĩ riêng điều trị chứng nôn mửa kịch liệt,

chóng mặt, đau đầu, yếu toàn bộ, không ngủ được và đau

vai, tay và lưng. Ông cũng có vấn đề với thị lực.

Bác sĩ, George Meredith, M.D., M.B., B.S., M.R.C.P.,

đã chăm sóc Bhagwan trong chín năm. Theo ông, cho đến

thời kì đó Bhagwan chưa bao giờ bị quá một lần cơn hen

(ông bị hen dị ứng), vấn đề đau lưng kinh niên phát triển

vào cuối những năm 1980, bệnh đái đường và một tình tiết

về “nước vào tai” ông bị khi bơi trong bể bơi tại

Rajneeshpuram.

Mặc dầu Bhagwan chẳng làm gì để duy trì sức khoẻ

thể chất của mình, (từ 1974 ông đã không đi ra ngoài

phòng ngoại trừ đi nói hai lần mỗi ngày hay đi lái xe hàng

ngày), ông vẫn có một thân thể cường tráng và mạnh

khoẻ. Tại trường học và đại học, và sau này như một giáo

sư triết học, ông vẫn đều đặn bơi những khoảng xa, đi bộ

và chạy lâu. Những bức ảnh bán thân cởi trần cuối cùng

của ông, năm 1981, vẫn chỉ ra một thân thể mạnh mẽ, lực

lưỡng.

Trong ba mươi năm, từ khi ông lần đầu tiên bắt đầu

nói, ông đã xuất hiện trước công chúng hàng ngày, gần

như không ngắt quãng vì ốm đau ngoại trừ những trường

hợp đã nói trên. Từ 1974 khi lần đầu tiên ông định cư ở

Poona, cho tới khi ông đi sang Mĩ năm 1981, Bhagwan đã

nói hai lần mỗi ngày, mỗi lần hai tiếng - một kì tích về thể

chất. Như bác sĩ Meredith viết:

“Trong những ngày này, Bhagwan là một người trông

hoà nhã trong độ tuổi bốn nhăm, với dáng đi ung dung

vững chắc, chuyển động cột sống nhẹ nhàng khi quay

mình hay uốn lượn, làn da trẻ trung thanh tú và vẻ mặt

không nhăn nheo. Trước khi bị bắt, Bhagwan đã hoàn toàn

kiểm soát được bệnh hen và bệnh đái đường, không bệnh

nào gây cho ông sự ốm yếu sức khoẻ. Trong toàn bộ bẩy

năm ở Poona, Bhagwan hiếm khi bỏ một ngày trong việc

nói chuyện vào buổi sáng và buổi tối.” (Jesus Crucified

Again in America, The Rebel Publishing House, 1988.)

Trong ba năm rưỡi đầu ở Mĩ, Bhagwan vẫn còn trong

im lặng và dừng việc nói hàng ngày. Nhưng ông vẫn tiếp

tục xuất hiện hàng ngày trong hai giờ lái xe trong khi hàng

nghìn đệ tử chào mừng đứng dọc đường. Và trong bốn

buổi lễ hội hàng năm từ 1981 tới 1985 ông ngồi trước

mười đến hai mươi nghìn đệ tử với tay giơ cao trong

không trung suốt gần một giờ mỗi lần - một bài tập đòi hỏi

cố gắng không thể tin được. Trong năm 1985 khi ông bắt

đầu nói lại ông cũng bắt đầu nhẩy múa với các đệ tử, đánh

nhịp tay trong không khí trong hai mươi phút hay hơn mà

không dừng.

Cho tới tận tháng 10/1985 vậy ông là một người mạnh

khoẻ. Khi ông bị bắt ông nặng 150 pound (quãng 75 kg).

Sau khi được thả mười hai ngày sau đó trọng lượng ông

còn 140 pound và ông phải chịu đựng mọi triệu chứng như

đã nêu trên.

Việc yếu sức khoẻ của ông sau khi được thả khỏi nhà

giam không phải là điều bất ngờ. Vì bệnh hen dị ứng nên

Bhagwan đã sống nhiều năm trong môi trường được kiểm

soát cẩn thận không có bụi và khói thuốc lá. Ông cũng đã

sống nhiều năm trong im lặng và cô lập - chỉ đi ra khỏi

phòng để nói chuyện. Thức ăn của ông cũng được điều

chỉnh cẩn thận để giữ cho bệnh đái đường trong phạm vi

kiểm soát. Cho nên cú mười hai ngày trong nhà giam đầy

khói, hôi hám, bẩn thỉu, ăn những thức ăn lạ và là chủ đề

bị truyền hình quấy rầy liên tục cùng âm nhạc ầm ĩ, việc

hành hạ đeo xích tay, được xem như có tác động xấu

mạnh. Cho nên bác sĩ của ông đã trị liệu tất cả các triệu

chứng mà không nghĩ chúng kì lạ quá mức.

Vào ngày 14/11/1985, một tuần sau khi được thả,

Bhagwan quay lại toà án Portland và được lệnh của đoàn

bồi thẩm phải rời khỏi nước Mĩ ngay lập túc và không

được phép quay lại trong ít nhất năm năm. Ông cũng được

lệnh phải trả tiền phạt 400 000 $. Đây là kết quả của ‘việc

xử lí’ giữa luật sư Mĩ và luật sư của Bhagwan.

Luật sư của chính phủ đã tiếp cận với luật sư của

Bhagwan để đưa ra cách xử trí. Điều này là kì lạ nếu xét

theo nhiều rắc rối mà chính phủ đã đi tới bắt giữ Bhagwan

trong tay mình.

Tại sao phải mất bốn ngày trong toà án ở Charlotte để

tranh biện rằng Bhagwan không nên được thả ra theo bảo

lãnh vì ông có thể chạy trốn khỏi nước này, chỉ để thương

lượng hai tuần sau đó để ông ra đi khỏi nước này với số

tiền phạt còn ít hơn một nửa số tiền bảo lãnh mà luật sư

của Bhagwan đã đưa ra ở Charlotte?

Tại sao phải lôi Bhagwan trong xiềng xích đi ngang

qua cả nước với chi phí rất tốn kém cho chính phủ, chỉ để

gợi ý cho luật sư của ông về việc kết án không giam cầm?

Tại sao phải bắt ông ngay từ đầu rồi bầy trò khôi hài

ba phiên toà, nếu như mục tiêu của chính phủ chủ yếu là

tống khứ ông ra khỏi đất nước? (Cái cớ của chính phủ cho

việc bắt giữ là, như chính phủ tuyên bố, chấm dứt việc

Bhagwan cố gắng rời khỏi nước Mĩ).

Câu trả lời có thể tìm được trong một số sự kiện mà tờ

báo The Oregonian đã nói rằng, “Phụ trách Sở di trú và

nhập tịch Mĩ đã đưa ra một bản ghi nhớ mật ngày 23/10

chỉ thị cho nhân viên của mình không được bắt giữ

Bhagwan Shree Rajneesh sau khi cơ quan này đã tốn bốn

năm chuẩn bị bản cáo trạng chống lại ông. Trưởng ban di

trú Alan C. Nelson gửi công điện bản ghi nhớ này cho luật

sư Mĩ Charles H. Turner ở Portland vào cùng ngày mà

quan toà đã kí bản cáo trạng bí mật về vị thầy và bẩy đệ tử

của ông... Bởi những lí do còn chưa được giải thích đầy

đủ, Nelson vào ngày đưa ra bản cáo trạng đã gửi cho

Turner một công bố chính sách bẩy điểm ngăn cản cơ

quan ông ta không đáp ứng lệnh bắt của riêng cơ quan đó.

Đó là một trong nhiều điểm ngoặt kì lạ trong trường hợp

này, điều được đánh dấu bởi những cuộc đấu tranh nội bộ

nghiêm trọng trong các cơ quan điều tra liên bang và giữa

các cơ quan bang và liên bang. Turner nói ông ta không

thể bình luận về thông báo không bắt giữ của Nelson

được. Nhưng những nguồn tạo tin luật pháp lại nói cơ

quan liên bang không để ý tới việc từ chối việc bắt giữ

trong trường hợp của riêng mình.

Tờ The Oregonian tiếp tục tường trình, “Một bên của

việc điều tra nói bản ghi nhớ của Nelson đặt Charlie

Turner vào tình thế rất khó khăn. Các nguồn tin nói rằng

cuộc khủng hoảng do Nelson tạo ra với chính sách không

bắt giữ đã được khuếch đại lên bởi việc nhấn mạnh đã nảy

ra trong việc điều tra - nhất là sự từ chối trước đây của

FBI để bắt giữ nhân danh cơ quan di trú.”

Cuối cùng, tờ The Oregonian tường thuật, cơ quan

thúc đẩy việc bắt Bhagwan (dưới sức ép của Bộ tư pháp

Mĩ) là Thuế quan, một nhánh của Kho bạc. Không lời

buộc tội nào đã được Kho bạc đưa ra để chống lại

Bhagwan, và quả thực chưa bao giờ có, vào bất kì lúc nào,

bất kì gợi ý nào như vậy cả.

Tại sao Sở di trú lại từ chối bắt Bhagwan Shree

Rajneesh theo bản cáo trạng di trú được đoàn bồi thẩm

trao tay? Có lẽ bởi vì trưởng cơ quan đó, hơn bất kì người

nào khác, biết rằng không có giá trị nào đối với lời buộc

tội trong bản cáo trạng, và rằng chính phủ sẽ bị coi như

ngu đần nếu cứ cố biện minh cho những lời đó ở toà án.

Nhưng đồng thời Bhagwan cũng đã bị bắt - không

phải bởi Sở di trú, mà bởi một cơ quan liên bang vốn

không có sự buộc tội hay phàn nàn nào về ông cả. Không

một lời giải thích nào về việc vào cuộc bất thình lình của

sở Thuế quan trong trường hợp này, mà vốn chỉ do chính

phủ trao nhiệm vụ. Việc hiển nhiên miễn cưỡng phải đến

toà án về phía buộc tội di trú, các luật sư của chính phủ đã

tiếp cận với luật sư của Bhagwan và đưa ra sự thoả thuận.

Bhagwan, khi ông nghe nói về điều đó, muốn từ chối việc

thoả thuận và tranh đấu với chính phủ ở toà án nơi ông

biết những lời buộc tội không thể lừa dối được. Nhưng

luật sư và cố vấn của ông, được báo động về những thiệt

hại gây cho thân thể ông sau mười hai ngày trong tay

chính phủ, và bị các luật sư chính phủ đe doạ với những

ngày thẩm vấn trong gian giữ, đã hối thúc Bhagwan đồng

ý với sự thoả thuận này. Vụ đánh bom tại nhà giam

Portland, họ biện luận, chỉ mình nó cũng đủ chỉ ra rằng

tính mạng của Bhagwan đang bị nguy hiểm nếu ông cứ

tiếp tục với trường hợp đó.

Bhagwan miễn cưỡng đồng ý đệ trình ‘lời yêu cầu

Alford’ trong đó ông đồng ý nhận bản án vì hai lời buộc

tội, trong khi đồng thời vẫn duy trì tính vô tội của mình.

Ông bị phạt tối đa - khoản tiền phạt 400 000$ và bản án tù

treo 10 năm - trước đây chưa hề có cho một người phạm

tội lần đầu tiên và cho những lời buộc tội như vậy, và lập

tức phải thi hành lệnh của toà án rời khỏi nước Mĩ.

Trong năm sau Bhagwan đã du hành vòng quanh thế

giới, tới Ấn Độ (nơi tất cả các đệ tử phương tây gần gũi

nhất của ông đều bị trục xuất), tới Kathmandu (nơi đã từ

chối kéo dài thị thực cho đệ tử của ông), tới Crete (nơi ông

đã bị bắt sau hai tuần và bị trục xuất ‘vì lí do an ninh quốc

gia’), tới Thuỵ sĩ, Thuỵ điển và Anh quốc (tất cả các nước

này đều từ chối cho ông vào ‘vì lí do an ninh quốc gia’ và

‘vì để tốt cho công chúng), tới Iceland (nơi yêu cầu ông

rời đi sớm nhất có thể được), tới Tây ban nha (không cho

vào), tới Uruguay (nơi từ chối kéo dài thị thực cho ông sau

ba tháng), tới Jamaica (nơi ra lệnh cho ông phải rời đi

cùng ngày ông tới), tới Bồ đào nha (nơi ông bị cảnh sát

địa phương quấy nhiễu), rồi cuối cùng trở về Ấn Độ. (Về

toàn bộ câu chuyện đi vòng quanh thế giới của Bhagwan

xin xem Bhagwan Shree Rajneesh : Con người nguy hiểm

nhất từ thời Jesus Christ, The Rebel Publishing House,

1987.)

Trong suốt toàn bộ những cuộc du hành này Bhagwan

thường xuyên chịu đựng những triệu chứng thể chất. Tại

Ấn Độ, ngay sau khi ông về từ Mĩ, mắt trái ông bắt đầu có

cơn co giật không kiểm soát được. Việc co giật này tiếp

diễn rồi ngưng trong mười hai tháng sau, và nó còn được

ghi lại rõ ràng trên một số băng video bài nói của ông

trong thời kì ấy. Đồng thời thị lực của Bhagwan bắt đầu

suy giảm nghiêm trọng. Đã có thời là một độc giả khát

khao đọc sách (ông quen đọc nhanh xấp xỉ mười bốn cuốn

sách một ngày ở Poona) ông thấy sau khi được thả khỏi

trại giam việc đọc sách làm cho ông chóng mặt và buồn

nôn, và gây ra chớp loé ánh sáng xuất hiện trước mắt ông.

Thị lực của ông cứ yếu dần qua năm tháng, sự xuất hiện

thông thường với bệnh đái đường và tuổi già, cho nên

trước năm 1985 ông đã đeo kính để đọc. Nhưng ông đôi

khi vẫn đọc - đó là một trong những điều ông yêu thích

nhất. Tuy nhiên từ khi bị giam ông không còn có thể đọc

được lấy một cuốn sách.

Vào lúc ông tới Iceland (3/1986) ông cũng đã có vấn

đề về sự thăng bằng. Đặc biệt ông đã cảm thấy rằng việc

điều khiển của ông đối với chân không còn tốt nữa. Và

ông đã bị khó chịu với cảm giác ‘tê tê’ trong cánh tay, bàn

tay và chân. Nhưng vấn đề lớn nhất là đau xương dai dẳng

ở vai và cánh tay. Điều này trở nên tồi tệ đến mức vào

tháng 4/1987, Bhagwan đã phải dừng ‘đánh nhịp’ với các

đệ tử khi tới và đi ra khỏi bài nói của ông. Việc đánh nhịp

của ông - tay giơ lên giơ xuống trong không trung theo

nhạc - đã từng là việc đùa giỡn giữa thầy và đệ tử, đã phải

bỏ đi rất nhiều.

Trong thời kì này, (sau khi bị giam), lần đầu tiên các

bài nói đều đặn hàng ngày của Bhagwan bắt đầu bị cắt bỏ

ngày càng nhiều hơn vì sức khoẻ yếu. Bác sĩ riêng của

ông, người đã du hành cùng ông cho rằng những triệu

chứng và bệnh tật đó là kết quả của việc Bhagwan bị đối

xử tồi tệ trong những tuần trước khi ông rời khỏi Mĩ, và sự

căng thẳng của việc du hành không quen thuộc (mặc dầu

du hành trên máy bay riêng và ở trong khách sạn hạng

nhất.)

Khi những triệu chứng này cứ dai dẳng mãi sau khi

Bhagwan đã định cư ở Bombay vào tháng 8/1986, gây cho

ông phải cắt bỏ việc thuyết giảng sáu lần với toàn bộ ba

mươi mốt ngày trong số 136 ngày, thì bác sĩ của ông mới

quyết định ông phải di chuyển. Vào đầu tháng giêng 1987

ông chuyển tới nơi khí hậu tương đối trong lành hơn ở

Poona. Tuy nhiên, ngay cả ở Poona, nơi hàng nghìn

sannyasin bắt đầu đổ về để nghe ông thì việc thuyết giảng

vẫn cứ bị cắt bỏ mười lần giữa tháng giêng và tháng mười

1987 trong tổng cộng chín mươi mốt ngày vì sức khoẻ

yếu.

Ngày 15/09/1987, Bhagwan lại phát triển chứng

nhiễm trùng tai. Một chuyên gia ENT, bác sĩ Mohan Jog

MD, F.R.C.S, D.L.O., D.O.R.L, đã chẩn đoán bệnh đó là

‘lành tính’, chữa nó và nói bệnh sẽ khỏi trong bẩy ngày.

Tiến trình chữa trị mất bốn mươi bẩy ngày, và theo

bác sĩ Meredith, Bhagwan gần như chết trong tiến trình

này.

Được báo động, bác sĩ Meredith hội chẩn với một số

các bác sĩ khác. Nhìn vào hồ sơ thuốc dùng cho Bhagwan

họ hiểu họ đang phải xử trí với nhiều điều hơn chỉ là một

thân thể đã bị hành hạ trong tay nhà cầm quyền Mĩ. Cho

dù cho chuyến đi vòng quanh thế giới có làm trầm trọng

thêm các vấn đề, thì việc nghỉ lại ở Bombay và Poona

đáng phải đủ cho Bhagwan phục hồi lại sức khoẻ. Nhưng

mọi thứ vẫn cứ tồi tệ đi. Và bây giờ hiển nhiên là ông mất

sức đề kháng với việc nhiễm trùng.

Bác sĩ John Wally M.D. đã gửi tới London một số

mẫu máu, tóc và nước tiểu của Bhagwan cùng ảnh chụp

tia x các khớp vai và tay vẫn gây ra khó chịu. Tại đó ông

hội chẩn với bác sĩ Paul Clark, M.R.C.P., một bác sĩ điều

trị cố vấn, người làm việc cùng với phòng thí nghiệm

JSPS trên phố Harley Street - phòng thí nghiệm lâm sàng

tư nhân tốt nhất ở Anh quốc. Bác sĩ Clark đã tiến hành

hàng loạt các phép thử chiếu cao cấp về mọi hệ thống cơ

quan nội tạng chính của thân thể - huyết học, hoá sinh

huyết thanh, huyết thanh học và vi sinh vật.

Khi nghe nói đến các triệu chứng này, ban đầu ông

tiến hành các phép thử phức tạp để loại trừ mọi bệnh tật có

thể có mà có thể tạo ra bức tranh lâm sàng như Bhagwan

hiện tại - kể cả những bệnh nhiễm khuẩn hiếm và AIDS

(phép thử thường lệ). Tất cả những phép thử này đều cho

kết quả âm tính, kể cả những nghiên cứu huyết học đầy

đủ, tiểu sử sinh hoá, nghiên cứu tuyến giáp, tự kháng thể,

nhân tố thấp khớp, nghiên cứu vi sinh học nước tiểu,

nghiên cứu huyết thanh học. Các bác sĩ Wally và Clark

còn tư vấn cả các chuyên gia phóng xạ hàng đầu ở

London, Colin Mackintosh FRCS (Ed), FRCR người xem

xét ảnh tia x cột sống cổ và vai của Bhagwan về những

khớp liên quan hay những thay đổi xương mà có thể giúp

thêm cho việc chẩn đoán, như bệnh thấp khớp, xem như

nguyên nhân gây ra đau tay. Bác sĩ Mackintosh loại trừ tất

cả các khả năng thông thường. Khi nói về việc đau xương

và những triệu chứng bệnh tật tàn phá của Bhagwan, bác

sĩ Mackintosh gợi ý chỉ có ba nguyên nhân có thể - ung

thư, tia phóng xạ hay... đầu độc bằng thallium. Triệu

chứng rụng tóc làm loại trừ ung thư. “Việc xuất hiện rụng

tóc có thể là một chẩn đoán hoàn toàn chắc chắn về đầu

độc bằng thallium,” bác sĩ Mackintosh nói. “Những

nguyên nhân khác duy nhất làm được việc này là thuốc

chống bạch cầu, và phóng xạ.” Bác sĩ Clark tiếp đó lại tiến

hành chiếu kim loại nặng trên các mẫu nước tiểu và tóc

của Bhagwan để tìm sự hiện diện của sự tập trung bất

thường của các kim loại nặng như chì, thạch tín, cadmium

và thuỷ ngân. Ông cũng chiếu về chất thallium, một kim

loại hay được dùng trong đánh bả chuột và là thuốc giết

người phổ biến nhất trên thế giới.

Thallium là phổ biến bởi vì nó không mùi và không vị,

nó có thể hoà tan được trong nước, và thường có sẵn. Nó

cũng phổ biến vì nó rời khỏi cơ thể mà không để lại dấu

vết gì sau sáu đến chín tháng (nó có nửa thời gian tồn tại

trong ba tháng). Mặc dầu một liều lớn có thể gây chết

người, người ta cũng có thể điều chế thallium trong nhiều

liều nhỏ không gây chết người nhưng có tác dụng phá huỷ

con người dần dần bằng việc làm suy nhược hệ thần kinh.

Một dấu hiệu cổ điển của việc điều trị về sau là việc thiếu

dai dẳng sức đề kháng với vi khuẩn của nạn nhân.

Nhưng không may là phép thử thallium chỉ nêu ra

được sự hiện diện của nó về số lượng nhiều hơn một

micro gam trên một lít chất lỏng. Cho nên phép thử trong

trường hợp của Bhagwan, được thực hiện hai năm sau khi

triệu chứng của ông bắt đầu và do đó rất lâu sau khi chất

độc đã rời khỏi thân thể ông, không thể nào đưa ra được

bằng chứng khẳng định. Nhưng tài liệu y học còn rõ ràng.

Các chỉ dẫn chẩn đoán về đầu độc bằng thallium là:

 rụng tóc (* 1, 2, 3, 4)

 đau xương cực kì, tê dại (* 2, 3, 4)

 tê liệt hay co cứng cơ mặt (co giật quanh mắt) (* 2, 3)

 lác hay “loạn xạ” chuyển động mắt (* 3)

 yếu cơ mắt (* 2, 3)

 phá huỷ thần kinh mắt với việc suy yếu thị lực (* 3, 4)

 rối loạn điều phối vận động (dáng đi run rẩy) (* 3)

 yếu cơ kéo dài (* 3, 4)

 mất đề kháng dai dẳng với bệnh nhiễm khuẩn nhỏ (* 3)

Bhagwan đã phải chịu tất cả những triệu chứng này.

Nhưng điều được kết luận, theo các chuyên gia, là đau

xương và rụng tóc - tất cả các sách y học đều chỉ tới

những triệu chứng này như những triệu chứng hoàn toàn

đặc trưng cho đầu độc bằng thallium.

Nhưng ai đã đầu độc ông? Và ở đâu, khi nào và tại sao

việc đầu độc đã xảy ra?

Khi nào thì rõ ràng hơn một năm trước đấy, nếu không

thì dấu vết kim loại sẽ được lộ ra trong phép thử chiếu

1) The Lancet, 11/04/1987, p.872

2) Quarterly Journal of Medicine, New Series, XLIII, No. 170, pp 293-319,

4/1974

3) Clinical Toxicology, 17 (1), pp 133-146 (1980)

4) The Johns Hopkin Medical Journal, 142, pp 27-31. 1978

trong phòng thí nghiệm. Việc xem xét lại các hồ sơ bệnh

án của Bhagwan và câu chuyện về các triệu chứng rõ ràng

chỉ ra một sự suy thoái bất thần và thảm kịch trong sức

khoẻ của ông từ thời kì bị giam giữ vào đầu tháng

11/1985. Các triệu chứng này lộ ra ngay lập tức sau đó và

trong suốt hai năm sau tất cả đều là triệu chứng của việc

đầu độc bằng thallium. Không một trong những triệu

chứng này có trước tháng 11 năm 1985.

Nơi nào thì chỉ có thể là một sự phỏng đoán. Nhưng

nhìn lại các sự kiện của thời kì đó thì rõ ràng rằng một cái

gì đó rất kì lạ đã xảy ra cho Bhagwan ở Oklahoma. Việc

mất toàn bộ một ngày khỏi trí nhớ ông, cái đêm “ngủ say

nhất mà tôi đã từng có,” điều bí ẩn không thể nào giải

thích nổi bao quanh việc giam giữ ông kéo dài trong thành

phố đó, và việc lưu trú ẩn tích đêm đầu tiên trong nhà

giam quận thay vì trại ở cải tạo liên bang, tất cả đều chỉ

ngăn tay nghi ngờ về Oklahoma. Và có lẽ không phải

trùng hợp ngẫu nhiên mà Oklahoma là thành phố nơi

Karen Silkwood đã bị đuổi bắt trên đường phố và bị giết,

việc được coi là do FBI chủ mưu năm 1974.

Nhìn vào khi nào, vốn là điều hiển nhiên, và nơi nào

vốn được chỉ ra bởi những bằng cớ theo hoàn cảnh rất

thuyết phục thì ai chỉ có thể là nhân viên của chính phủ

Mĩ. Đó là cảnh sát của chính phủ Mĩ người chịu trách

nhiệm duy nhất, và khống chế Bhagwan trong toàn bộ

mười hai ngày giam giữ ông. Đó chính là Bộ tư pháp Mĩ

nơi ép buộc việc bắt giữ Bhagwan bởi một cơ quan Mĩ,

(Thuế quan - vốn chẳng có liên quan gì với vấn đề cả), sau

khi Sở di trú từ chối bắt giữ ông theo lời buộc tội vi phạm

luật di trú. Đó là chính phủ Mĩ người đã tranh đấu mạnh

mẽ và kì lạ đến thế, đi ngược lại tất cả các thủ tục thông

thường, để giữ Bhagwan trong giam cầm sau khi bắt ông.

Và cũng chính phủ Mĩ cũng là người đã kéo dài việc vận

chuyển ông trở về Oregon bằng cách từ chối dùng máy

bay tư nhân, và bằng cách “lập lại lịch biểu” các chuyến

bay chở tù từ Oklahoma ngay sau khi Bhagwan tới đó.

Tại sao thì có chút ít khó khăn hơn để chỉ ra, nhưng

gần như chắc chắn nó bắt nguồn từ sự cuồng tín của

những người Công giáo chính thống đang nắm quyền, và

nỗi sợ của họ về sự phổ biến đang tăng và giới truyền

thông quan tâm tới Bhagwan, một ‘kẻ chống Christ’ bị

nhận diện, người đã phơi bầy điều mị dân và lố bịch của

những niềm tin của người Công giáo trên truyền hình Mĩ

vào những giờ cao điểm.

Biện pháp này không phải là không có tiền lệ trước.

Một tác giả chuyên nói thẳng chống lại các thể chế và hay

gây tranh luận, Wilhem Reich, (Hãy lắng nghe hỡi con

người nhỏ bé), đã bị chính phủ Mĩ sách nhiễu trong nhiều

năm như chủ thể cho chín cuộc điều tra khác nhau. Khi

Reich từ chối bị buộc phải làm chứng như người bị kiện

thì ông đã bị phạt hai năm tù vì không tuân lệnh toà án.

Ông chết trong tù vào độ tuổi sáu mươi (già hơn Bhagwan

bẩy tuổi vào lúc ông chịu hình phạt), người ta cho là bị

đau tim, và tất cả giấy tờ và bài viết của ông đều biến mất

trong phòng giam của ông.

Sự ngược đãi của chính phủ đối với Bhagwan đã

không trôi qua mà không bị để ý đến, ngay cả khả năng

ông sẽ bị giết. Hơn hai năm trước khi có bất kì hoài nghi

nảy sinh rằng Bhagwan đã bị đầu độc, nhà báo Oregon

Dell Murphy đã viết, “Chẳng có gì dừng họ (chính phủ

Mĩ) được chừng nào cộng đồng (Rajneeshpuram) còn

chưa bị tiêu huỷ. Phần lớn trong họ đều muốn phá huỷ

Bhagwan, con người phi Christ, phi Do thái, không phải là

chủ trại, người vẫn cưỡi xe Rolls Royce đi quanh và ăn

mặc những bộ quần áo khôi hài. Họ muốn thấy ông chết.

Và họ có thể thành công nếu đệ tử của ông không hành

động đúng lúc để cứu ông.” (The Rajneesh Story, Linwood

Press, 1986).

***********************************************************

CHƯƠNG 7

SHEELA - KẺ TÌNH NGHI

Liệu còn có những kẻ tình nghi nào nữa không?

Khi nghe thấy việc bảo lãnh ban đầu ở Charlotte, N.C.,

trợ lí luật sư Mĩ Robert Weaver đã bảo với quan toà rằng

nếu Bhagwan được thả theo bảo lãnh thì có thể là một số

đệ tử của ông sẽ cố gắng giết ông. Để hỗ trợ cho lời vu

cáo này Weaver trích dẫn tiết lộ trước đó của Bhagwan

cho nhà cầm quyền rằng cựu thư kí của mình, Sheela, đã

thử đầu độc người trông nom nhà cửa và bác sĩ riêng của

ông.

Liệu có thể Sheela cũng đã đầu độc Bhagwan không?

Ma Anand Sheela là thư kí của Bhagwan từ 1981 đến

1985, thời gian mà thị chỉ đạo xây dựng thành phố

Rajneeshpuram. Thị cũng chỉ đạo việc xây dựng một

quyền lực riêng của mình và tích luỹ quĩ cá nhân bí mật

rất lớn. Và thị đã thu được danh tiếng quốc gia như người

phát ngôn duy nhất cho Bhagwan Shree Rajneesh. Tiền

bạc, quyền lực và danh vọng - việc thu được tất cả những

điều này là có thể bởi vì Bhagwan đang trong im lặng và

cô lập, và Sheela là mối nối duy nhất với ông. Hàng trăm

nghìn người ngưỡng mộ Bhagwan trên khắp thế giới đã

làm bất kì cái gì thị bảo họ nhân danh Bhagwan. Và không

có ai cãi lại thị. Mục tiêu duy nhất mà thị không thể nào

đạt tới được, và điều thị thực hiện sẽ không thể nào có

được khi Bhagwan còn sống, là ước mơ của thị trở thành

người đứng đầu ‘Nhà thờ chủ nghĩa Rajneesh’. (‘Nhà thờ’

hoàn toàn là sự bịa đặt của riêng thị, điều Bhagwan về sau

loại bỏ khi tìm ra về nó.)

Năm 1984 Sheela hiểu rằng thế giới của thị sắp sửa

sụp đổ. Bhagwan công bố rằng ông sẽ bắt đầu nói lại với

công luận, mặc cho tất cả nỗ lực của thị thuyết phục ông

làm ngược lại. Còn tồi tệ hơn, ông bắt đầu mời một vài

người tới và nói với họ - nhất là Ma Prem Hasya, một

minh tinh Hollywood đầy quyến rũ, người sau này thay

thế Sheela làm thư kí. Thông báo viết được ghi lên tường.

Sheela không còn là mối nối duy nhất với Bhagwan nữa.

Thị không còn được các phương tiện truyền thông săn

đuổi nữa như người phát ngôn của Bhagwan - ông sẽ đích

thân nói. Thị đang sắp mất mọi thứ.

Bằng cớ bây giờ có được chỉ ra rằng vào khoảng thời

gian đó Sheela, trong thất vọng, bắt đầu hợp lực với các

quan chức chính phủ và thu xếp cách thức để Bhagwan bị

đầu độc, bằng cách định giết hai người chủ chốt chịu trách

nhiệm chăm sóc sức khoẻ ông. Khi nỗ lực của thị thất bại,

chính phủ đã dàn cảnh việc bắt giữ và giam cầm

Bhagwan, để hoàn tất tiến trình.

Sheela đã bị chính phủ bắt chỉ khi kế hoạch của thị để

giết hại một số kẻ đồng mưu chính phủ bị đưa ra ánh sáng,

nhưng thị được xử cực kì gọn bởi những tội lỗi thị đã

nhận. Thị được phép ở trong một trong những nhà tù tiện

nghi nhất nước Mĩ, tại đó thị có thể hàng ngày tiếp xúc với

bạn bè mình ở châu Âu và tiến hành các cuộc họp báo đều

đặn.

Nếu Sheela không để lộ mối nối của thị với chính phủ

thì thị có thể bước ra khỏi nhà tù tương đối vô sự, sau khi

thọ án hơn ba năm bởi những tội âm mưu giết người, hành

hung, đốt phá, nghe trộm điện thoại và đầu độc 750 người

bằng khuẩn salmonella. Nếu thị xúc phạm chính phủ theo

bất kì cách nào thì thị có thể bị truy tố về các tội phụ

(chính phủ đặc biệt giấu nhẹm những lời buộc tội chống

lại Sheela trên nhiều tội mà với nó chính phủ có bằng

chứng, kể cả âm mưu giết quan chức chính phủ), và khoá

kín trong tù với an ninh tối đa cho cuộc đời còn lại của thị.

Không ai trông đợi Sheela nói ra nữa.

Sheela bao giờ cũng tô vẽ bản thân mình như kẻ đối

lập với các quan chức chính phủ, nhưng tài liệu do Công ti

dịch vụ pháp lí Rajneesh thu được theo Luật Tự do thông

tin Mĩ chỉ ra rằng một trong những phụ tá chóp bu của thị,

Ma Yoga Vidya, đã cung cấp thông tin cho chính phủ liên

bang. Những tiếp xúc với cộng đồng tình báo Mĩ đã nêu

tên thị như một nguồn thông tin.

Vidya bị tố cáo nghe trộm điện thoại và vi phạm luật

di trú, tuy nhiên điều này không đủ cơ sở để trục xuất thị

về Đức - nơi thị đã sống công khai từ khi thị rời bỏ

Rajneeshpuram. Thị không bị tố cáo bởi nhiều vi phạm

nghiêm trọng, cho dù thị là giám đốc chương trình Chia sẻ

nhà, nơi nhiều nhân chứng xác nhận về những cuộc hành

hung và việc quản lí bất hợp pháp thuốc Haldol cho hàng

nghìn người vô gia cư, những người đã được đưa tới

Rajneeshpuram. Vidya nghe nói đã có mặt trong cuộc họp

khi việc giết bác sĩ của Bhagwan và những người khác đã

được thảo luận, ấy thế mà thị vẫn không bị tố cáo đồng loã

trong những tội ác này.

Những người gần gũi Vidya và Sheela tin chắc rằng

Vidya sẽ chẳng bao giờ có dũng cảm để chơi hai mặt với

Sheela bằng cách trở thành một tay sai của chính phủ bên

cạnh thị. Thị khiếp sợ Sheela, người thường mắng nhiếc

thị và làm cho thị khóc trong phòng sau nhà ở của Sheela,

Jesus Grove. Vidya nói với tác giả năm 1985 rằng thị lén

trốn khỏi khách sạn của cộng đồng ở Portland để “gặp với

bạn chúng ta”, chỉ ra rằng thị đã có cuộc gặp đều đặn với

người được xem như phạm vi bên trong của Sheela, nhưng

là người mà thị không thể gặp một cách công khai. Nếu

Vidya hợp tác với chính phủ, thì tất cả đều đồng ý, đấy

phải là dưới sự chỉ đạo của Sheela.

Những chiến thuật như thế không phải là bất thường

đối với Sheela người có tay chân đặt làm chỉ điểm cho Sở

di trú và nhập tịch, và xâm nhập vào các tổ chức chính trị

quốc gia và địa phương cũng như văn phòng của các chính

khách đối lập. Với những người biết tới thị, Sheela chưa

bao giờ ở vào phía của bất kì ai ngoại trừ của riêng thị.

Những đệ tử thân tín nhất của thị được coi như có thể cho

hi sinh nếu họ trở thành “tiêu cực,” người được coi như là

bất đồng với Sheela hay là người chỉ trích thị theo bất kì

cách nào.

Sheela, một người phụ nữ cực kì tham vọng, đến với

Bhagwan sau vài năm ở trường nghệ thuật và làm việc

như người phục vụ. Tại Poona thị tranh đấu theo cách của

mình để chiếm vị trí phụ tá cho Laxmi, rồi thư kí cho

Bhagwan, trong cạnh tranh cay đắng với Arup, phụ tá

khác của Laxmi. Sheela động viên mọi người đem vấn đề

trực tiếp đến cho thị, dùng mưu chước lừa hai phụ nữ khác

và củng cố quyền lực của mình.

Khi, với sự xúi bẩy của Sheela, Bhagwan tới Mĩ với lí

do sức khoẻ thì Sheela, người duy nhất trong ba phụ nữ

hàng đầu đã sống ở Mĩ và biết lối sống Mĩ, được chọn kế

tục Laxmi. Bhagwan lúc đó vẫn im lặng, cho nên Sheela

trở thành người phát ngôn duy nhất của ông.

Sheela khoác lác rằng thị chẳng tâm linh mà cũng

không quan tâm gì tới những vấn đề phi vật chất như giác

ngộ, thị còn tự thừa nhận nghiêm chỉnh mình là người có

sứ mệnh đem “chủ nghĩa Rajneesh” đến thế giới. Từ trong

tù thị vẫn tuyên bố mình là “người Rajneesh tối thượng.”

‘Chủ nghĩa Rajneesh’ là một khái niệm thực tế do

Sheela bịa đặt ra để thoả mãn Sở lợi tức nội bộ và Sở di

trú và nhập tịch, nơi vốn từ chối thừa nhận bất kì tôn giáo

nào không rơi vào khuôn khổ Công giáo - Do Thái truyền

thống. Sự phân biệt như vậy là trái hiến pháp, nhưng

chừng nào chưa bị ép buộc bởi nhiều năm kiện tụng thì

chính phủ liên bang dưới chính quyền Reagan vẫn còn

không quan tâm đúng mức tới khái niệm về tự do tôn giáo.

Giáo huấn của Bhagwan bao giờ cũng nói rằng các tôn

giáo có tổ chức với những giáo điều và tín ngưỡng của nó

luôn luôn bài xích cá nhân. Mỗi người phải tìm kiếm tự do

qua tôn giáo, điều duy nhất cho từng cá nhân. Vì giáo

huấn này rõ ràng nên cũng chẳng hại gì để gọi nó là “chủ

nghĩa Rajneesh” để thoả mãn cho giới quan liêu nhưng

các sannyasin đã không bị lầm lẫn về nó.

Rõ ràng, Sheela là người lẫn lộn nhất. Thị cứ nhấn

mạnh rằng cần phải tạo ra một cuốn sách gọi là “Sách về

chủ nghĩa Rajneesh” để thoả mãn chính phủ, mặc dầu

chẳng luật sư nào bảo thị như vậy. Thị có một cuốn sách

đặt ra “truyền thống” và “thực hành” về tôn giáo của chủ

nghĩa Rajneesh, và thị coi nó là quan trọng, cứ nhấn mạnh

mãi rằng những người du hành phải mang nó theo mình

vào mọi lúc. Những người làm chứng trước toà án được

bảo phải khăng khăng thề về điều đó dường như là nó

tương đương với Kinh thánh, cho dù Kinh thánh không

được dùng trong phòng toà án ở Oregon. Sheela có một bộ

váy đỏ được làm ra, nghe nói theo sự chỉ đạo của

Bhagwan, và mặc chúng trong tất cả các dịp “lễ hội”. Thị

thậm chí còn mặc cả váy trắng khi du hành khắp châu Âu.

Thị nói tới chính mình như “giáo hoàng của chủ nghĩa

Rajneesh” cho tới khi Bhagwan biết về điều đó và bảo thị

dừng lại.

Sheela cứ lặp đi lặp lại rằng Bhagwan đã bảo thị là

một ngày nào đó thị sẽ gặp với tổng thống và hoàng gia,

và cứ cho là vai trò của thị là người đứng đầu tôn giáo của

‘chủ nghĩa Rajneesh’. Sheela bây giờ nói rằng khi thị được

thả khỏi nhà tù thì thị sẽ cống hiến bản thân mình như một

cố vấn cho chính phủ, để hoàn thành lời tiên tri đó.

Trong một cuộc phỏng vấn được tiến hành từ nhà tù

‘Club Fed’ vào tháng 9/1987, thị nói:

“Tôi nghĩ tôi sẽ trở lại là nhân vật quốc tế sắp tới đây.

Một điều tôi thấy rất rõ ràng là tương lai tôi rất vàng son.

Lớn lao và vàng son. Tôi thực tế đã có linh ảnh về tương

lai mình. Tôi đã có linh ảnh về việc hiện tại đang làm cố

vấn cho mức chính phủ cấp cao... Bhagwan đã bảo tôi, ‘Ta

đang chuẩn bị cho con ngồi giữa các tổng thống và hoàng

đế, để khuyên bảo họ.”

Sheela và đệ tử của thị, Shanti Bhadra, Puja và Savita,

đều nói tới Sheela như ‘người Rajneesh số một”. Theo

nghĩa này thì họ là phải. Sheela là người đầu tiên tin vào

“chủ nghĩa Rajneesh”, và thị và những người của thị mới

là những người Rajneesh. Những người còn lại bằng lòng

là sannyasin, đi với nhau trên con đường cá nhân của

mình.

Tại Rajneeshpuram, Sheela rõ ràng thấy bản thân

mình là rất đặc biệt và cứ nhấn mạnh rằng mình phải được

cấp cho những phòng đặc biệt với những tiện nghi sang

trọng và riêng biệt bất kì khi nào thị du hành tới bất kì

cộng đồng nào trên thế giới, mặc dầu thị thường chịu sự ác

cảm của Bhagwan. Tại Jesus Grove thị cung cấp cho mình

những cái tốt nhất. Thị có một thẻ tín dụng bạch kim mà

thị thường dùng một cách tự do và du hành bằng máy bay

phản lực riêng.

Xem như người phát ngôn của Bhagwan thị được các

sannyasin rất kính trọng, và là trung tâm của sự chú ý vì

mọi người đòi thông tin về Bhagwan. Tuy nhiên thị đau

đớn nhận ra rằng thị là trung tâm của sự chú ý bởi vì mối

liên hệ với Bhagwan, chứ không phải bởi riêng thị. Nếu

như Bhagwan bắt đầu nói trở lại thì vị trí của thị sẽ giảm

thành một điều vô ý nghĩa. Shanti Bhadra bây giờ nói rằng

“Sheela là Bhagwan cho sannyasin”. Đó là cách thức

Sheela muốn được làm, nhưng thị biết điều đó không

đúng.

Sheela thường nói với những người thân tín của thị

rằng Bhagwan đang đe doạ sẽ nói trở lại, rằng thị không

muốn ông nói vì sức khoẻ của ông, những vấn đề an toàn

sẽ tạo ra cho thị, và sự thù hận ông sẽ tạo ra bằng việc nói

lên sự thật về các chính khách nước Mĩ. Điều thị đã nói là

ở chỗ thị không muốn ông nói vì thị sẽ không còn được

mọi người chú ý đến nữa. Thị mô tả Bhagwan như một

người không tự lo liệu được, người cần tới thị chăm sóc

cho ông, vì sự giác ngộ của ông đã làm cho ông không thể

nào chăm lo được chính mình.

Nếu Bhagwan mà chết đi hay trở thành ốm yếu đến

mức ông không thể nào nói được thì Sheela tin thị sẽ an

toàn ở vị trí của mình như người cầm đầu chủ nghĩa

Rajneesh. Sau khi tiêm nhiễm hương vị quyền lực và danh

vọng thị bất đắc dĩ phải từ bỏ nó.

Bên cạnh sự khao khát quyền lực và chú ý, Sheela còn

có một động cơ khác là giúp chính phủ khử bỏ Bhagwan.

Thị nản chí rằng ông bao giờ cũng bỏ qua những lời tán

tỉnh tình dục của thị và ghen tuông điên cuồng với bất kì

ai và mọi người làm việc gần gũi về thể chất với ông, hay

người nhận được sự chú ý của ông.

Sheela, người bị cưỡng hiếp khi còn là phụ nữ trẻ, gặp

khó khăn rất lớn khi giải quyết mối quan hệ của thị với

đàn ông. Tình dục của thị là một cái gì đó bị méo mó bởi

kinh nghiệm quá khứ. Thị làm cho các thành viên cộng

đồng khiếp hãi nhiều lần bởi việc thảo luận các vấn đề về

mối quan hệ của thị trong cuộc họp cộng đồng dưới chiêu

bài nói thẳng. Điều thực tế lộ ra là ở chỗ thị có quan hệ

với đàn ông ngay từ hồi còn ở trường trung học nữ sinh.

Không thể nào giải quyết được sự hấp dẫn của thị với tình

dục khác giới của đàn ông, thị bao quanh mình những

người đồng tính luyến ái, người không gây ra đe doạ gì.

Cuối cùng thị bỏ chồng Jay để lấy một người đàn ông

đồng tính luyến ái, người đã bị phải lòng vì quyền lực của

thị, nếu không phải là thân thể thị.

Theo nhiều cách, Sheela có sự phải lòng tình dục của

cô gái nữ sinh với Bhagwan. Thị từ lâu đã ghen tuông với

Vivek, người trong nom nhà cửa cho Bhagwan, vì sự gần

gũi thể chất của cô với Bhagwan và thị coi Vivek như vợ

của Bhagwan, và coi bản thân mình như người hầu gái của

Bhagwan. Sheela thường buộc tội Vivek muốn ngủ với

Bhagwan, nhưng chính Sheela mới là người ở cả đêm khi

thị tới thăm Bhagwan, chỉ trong trường hợp ông muốn thị

ở lại. Ông thì chưa bao giờ làm như vậy cả. Khi cuối cùng

thị rời bỏ Rajneeshpuram năm 1985 thì Sheela nức nở

rằng Bhagwan đã thay thế thị bằng người đàn bà khác

(Hasya, thư kí mới của ông), cho nên thị không thể nào

chịu đựng ở lại được nữa.

Việc không đáp ứng của Bhagwan với những mơ

tưởng tình dục của thị với ông làm Sheela nản chí và nổi

giận. Thị trở thành ngày càng ghen tuông mê muội với

những người sống trong nhà Bhagwan, trong khi lại bảo

tất cả những người nghe rằng chính họ mới ghen tị với thị.

Câu ngạn ngữ cổ nói rằng “Địa ngục cũng chẳng đáng sợ

bằng người đàn bà bị khinh miệt,” hoàn toàn đúng cho

trường hợp Sheela.

Dù Sheela được thúc đẩy bằng sự khát khao quyền lực

hay ngưỡng mộ, sự ghen tuông của người đàn bà bị thất

vọng, hay tổ hợp của hai điều này, thì những sự kiện vẫn

chỉ ra rằng thị có ý định đầu độc Bhagwan, và rằng thị

trông đợi chính phủ bỏ qua cho hành động của mình.

Hành động của Sheela chứng tỏ rằng những kế hoạch

của thị là dài hạn. Thị tin vào những người viết thư đe doạ

và thực hiện những cú điện thoại đe doạ với người khác

trong cộng đồng, nói rằng họ muốn giết Bhagwan. Một số

thư đe doạ là thực, nhưng nhiều thư thì không thực. Điều

này phục vụ cho Sheela theo hai mục đích. Nó cho phép

thị nói rằng cần có an ninh chặt chẽ để bảo vệ Bhagwan,

và do đó làm câm lặng những sannyasin bất đồng. Nó

cũng đưa ra cái cớ có nhiều “kẻ tình nghi bên ngoài” nếu

bất kì điều gì xảy ra cho Bhagwan.

Hai người Sheela muốn loại bỏ nhất, hoặc bằng cách

làm họ xa lánh khỏi Bhagwan hoặc bằng cách giết chết họ,

là hai người có thể chú ý nhất đến những thay đổi về sức

khoẻ của Bhagwan. Họ là Devaraj, bác sĩ của Bhagwan và

Vivek, người trông nom nhà cửa cho Bhagwan. Không chỉ

Vivek rất chăm nom tới sức khoẻ của Bhagwan mà cô còn

rất cảnh giác trong việc bảo vệ ông, cho nên sẽ rất khó cho

bất kì ai đến gần ông mà không có sự để ý của cô. Để đầu

độc Bhagwan thành công một cách chậm rãi và tránh sự

nghi ngờ, Sheela phải loại bỏ hai người này.

Một sự xét duyệt lại Sheela năm ngoái tại

Rajneeshpuram chỉ ra các mẫu hình đầu độc đã được nói

tới để loại bỏ người thân cận nhất với Bhagwan và cho

phép Sheela tiếp cận gần ông hơn. Một khi thị có cơ hội,

thị có thể giết ông hay giữ ông ốm yếu đủ để duy trì việc

kiểm soát tổ chức mà thị đã tạo ra quanh ông.

Vào đầu tháng 4/1984, Sheela tiến hành một nỗ lực

công cộng cụ thể để làm nhiều cư dân trong nhà của

Bhagwan, Lão Tử, xa lánh Bhagwan và các thành viên

cộng đồng. Mục tiêu đặc biệt của thị là Devaraj và Vivek.

Thị tổ chức nhiều cuộc mít tinh công cộng tại đó thị khiển

trách các cư dân tại nhà Lão Tử bởi “thái độ xấu” và ham

muốn của họ là “đặc biệt”, một sự buộc tội mà thị rõ ràng

đã không tìm ra sự mỉa mai nào. Thị cho lan truyền tin

đồn rằng Vivek đối xử xấu với Bhagwan, và rằng ngôi nhà

của ông dơ dáy.

Vào đầu tháng năm thị xúi bẩy “cuộc khủng hoảng”

viêm màng tiếp hợp trong đó đại đa số thành viên cộng

đồng đều bị chẩn đoán là bị bệnh viêm màng tiếp hợp và

phải được cách li. Những nạn nhân được nêu ra có dấu

hiệu trên mắt mà là thông thường trong một không khí lờ

mờ như thế, nhưng thực thì không phải chịu bệnh viêm

màng tiếp hợp tí nào. Một cách trùng hợp, tất cả các cư

dân tại nhà Lão Tử trừ một người đều bị chẩn đoán là có

bệnh này và được cách li. Hai phụ tá chóp bu của Sheela,

Savita và Krishna Deva, đã kiểm tra những người bị giữ

cách li để dò la họ hay tồi tệ hơn, cho tới khi Sheela trở về

từ cuộc họp với Bhagwan nói, “Chúng tôi phải gọi K.D và

Savita ra chỗ khác.”

Trong khi đó, Sheela gửi một nhóm người tới nhà Lão

Tử, với mục đích dọn sạch chỗ đó. Nhiều người tin rằng

những thiết bị nghe lén sau này tìm thấy ở đó đã được đặt

vào lúc ấy, có thể đoán là để cho phép Sheela thu thập

nhiều thông tin để “dùng chống lại” các cư dân, và để tìm

ra liệu họ có nói lại bất kì thông tin gì về các hoạt động

của thị cho Bhagwan không.

Sheela bắt đầu yêu cầu Bhagwan để gặp ông và các cư

dân tại nhà Lão Tử, để cho thị có thể trình bầy trường hợp

của mình. Thị đã chuẩn bị những người được lọc lựa của

mình cho cuộc họp, bảo từng người họ phải nói gì. Một

người phụ nữ, người được coi là có sự tin cậy của

Bhagwan đã bị ép buộc phải nói rằng Sheela nên chuyển

vào Nhà Lão Tử.

Khi cuộc họp xảy ra, Sheela đang trong sự tỉnh thức

đột ngột. Bhagwan bảo thị rằng vấn đề thực trong cuộc

tranh cãi chính là sự ghen tuông của thị. Thị đã từng ghen

tuông ở Poona vì thị không được mời vào sống trong nhà

Lão Tử cho đến cùng, và rằng việc ghen tuông vẫn tiếp tục

chống lại các cư dân hiện tại của nhà Lão Tử. Ông chuyển

sang “lời buộc tội” mà thị đã tung ra chống lại nhiều cư

dân, bảo thị rằng thị quá suy luận. Cuối cùng ông nói ông

muốn toàn bộ vấn đề này được loại bỏ ngay lập tức.

Vào lúc đó Sheela biết rằng thị sẽ không thành công

trong việc thuyết phục Bhagwan đẩy “kẻ thù” mà thị cảm

nhận ra xa. Thị thất vọng trong vài ngày rồi bắt đầu kế

hoạch tiếp. Thị bắt đầu có những cuộc họp bí mật trong

phòng ngủ của mình.

Trước đó, cửa phòng thị luôn mở. Bây giờ thì nó đóng

im ỉm cả ngày, với biển “Xin đừng quấy rầy” treo trên tay

cầm cửa. Nghe nói các cuộc họp về các biện pháp “an

ninh” mới, nhưng về sau bằng chứng chỉ ra những cuộc

họp này là sự mở đầu của một âm mưu giết người.

Thực tế, Sheela đã đặt nền tảng cho một cách tiếp cận

khác trước khi gặp với Bhagwan. Thị đã bảo một

sannyasin rằng Devaraj lập kế hoạch giết Bhagwan, lí do

căn bản mà sau này thị sẽ dùng để thuyết phục mọi người

cố gắng giết ông và Vivek.

Hai tháng sau đó Sheela, theo chỉ thị của Bhagwan,

công bố rằng ông đã chọn ba uỷ ban để tiếp tục ông trong

trường hợp ông chết. Hai uỷ ban đầu, những người ở đó

được coi là đã giác ngộ và những người sẽ trở nên giác

ngộ vào lúc Bhagwan chết, được dự định là uỷ ban lập

đường lối thực. Sheela và hầu hết những người chóp bu

của thị đều không có trong những uỷ ban này. Thay vì thế,

các uỷ ban được thành lập chủ yếu là những người Sheela

đã xác định như kẻ thù của mình, như các cư dân ở nhà

Lão Tử, nhóm lãnh đạo, và các sannyasin Ấn Độ lâu năm.

Uỷ ban thứ ba, trong đó có Sheela và người của thị là

uỷ ban có trách nhiệm tiến hành theo chỉ đạo của hai uỷ

ban kia. Người trong uỷ ban đó được gọi là Bồ tát và sẽ

được giác ngộ khi họ chết. “Thế đấy,” Vidya nói,

“Bodhischleps. Các anh cứ làm việc làm việc, làm việc

cho đến chết. Thế rồi ông ấy nói anh được giác ngộ.”

Sheela và những người thân cận thị, đặc biệt là Vidya,

rất đau khổ bởi thông báo này. Điều đó không chỉ nói lên

rằng Sheela sẽ không quản lí “tổ chức” sau khi Bhagwan

chết, mà dưới con mắt họ thì điều đó còn làm giảm vị thế

của họ trong cộng đồng bằng cách xác định họ như những

người sẽ không giác ngộ rất lâu sau nhiều thành viên cộng

đồng khác. Devaraj được coi là đã giác ngộ còn Vivek thì

sẽ giác ngộ khi Bhagwan chết. Cái chết của Bhagwan tại

điểm này sẽ có nghĩa là quyền lực chuyển sang những

người mà Sheela ghét.

Sheela làm mọi việc có thể để xoá bỏ thông tin này.

Thị đã không đưa ra thông báo cho cộng đồng, chỉ tuyên

bố cho một nhóm khách thăm đã tới vào lễ hội mùa hè.

Thị không viết ra bản danh sách tên có sẵn và cắt bỏ bài

báo đáng phải xuất hiện trong tạp chí Bhagwan Magazine.

Cuối cùng, thị sửa chữa lời bình của Bhagwan về các uỷ

ban trên băng video, điều vẫn được tiến hành mỗi đêm khi

ông nói cho một nhóm sannyasin tại nhà Lão Tử.

Ngay sau thông báo, Devaraj đã bị bỏ thuốc độc vào

thức ăn lần đầu tiên và gần chết. Ba người khác, những

người đã được công bố giác ngộ cũng bị ốm một cách bí

hiểm. Những người khác thì bị săn đuổi và bị buộc tội

nghĩ về mình đặc biệt bởi vì họ đã giác ngộ. Ngoài điều

này, thông báo dường như là, ít nhất cũng tạm thời, sự bảo

hiểm cuộc sống cho Bhagwan.

Trong vài tháng tiếp đó Sheela bận rộn với các kế

hoạch tuyển lựa sannyasin cho các vị trí khác nhau trong

quận Wasco, cho nên cuộc tranh tụng về sử dụng đất có

thể được giải quyết vĩnh viễn. (Điều nực cười và tranh

tụng về sử dụng đất có liên quan tới thị gần đây đã được

quyết định nghiêng về Thành phố Rajneeshpuram.)

Các kế hoạch của Sheela, kể cả đưa vào hàng nghìn

người vô gia cư để cho họ có thể đăng kí bầu cử, đăng kí

cử tri giả, và đầu độc toàn bộ thành phố The Dalles bằng

khuẩn salmonella để cho mọi người không thể đi bỏ phiếu

được. Kế hoạch của thị thất bại. Vào tháng 1/1985, thị có

hai người ném bom cháy vào Phòng kế hoạch quận

Wasco, vì người vạch kế hoạch đã tích cực phản đối sự

phát triển trong Rajneeshpuram. (Xem Bhagwan: The

Buddha For the Future của Juliet Forman, The Rebel

Publishing House, 1987).

Tháng 4/1985 Bhagwan nói rằng thông báo của ông

tuyên bố về những người giác ngộ chỉ là trò đùa. Vào lúc

đó không rõ liệu cấu trúc của uỷ ban có là trò đùa không,

nhưng Sheela lập tức coi là như vậy. Việc loại bỏ

Bhagwan lại có thể có thêm một lần nữa.

Vào tháng 6/1985 hoạt động đầu độc tại

Rajneeshpuram được tăng tốc. Devaraj và Vivek cả hai

đều bị đầu độc bằng chè và cà phê đem cho họ tại nhà của

Sheela, và Devaraj lại bị đầu độc nữa trong khi ăn tại nhà

ăn cộng đồng. Vào giữa tháng đó, một trong những tay sai

của Sheela, Ma Anand Su và ít nhất một người nữa tới nhà

Lão Tử muộn trong đêm với thuốc mê và một ống xi ranh

đầy chất độc để giết Vivek. Trước đó họ đã bố trí để bạn

trai của Vivek bị phái đi trực đêm cho thành phố

Antelope, cách xa hai mươi dặm. Và trước đó Sheela đã

có khoá của cả buồng của Vivek lẫn Bhagwan và đã làm

thêm khoá nữa. Không may cho Su và Sheela, và may

mắn cho Vivek, Vivek đã đặt chốt cửa bên trong của cả

hai cửa phòng Vivek và Bhagwan, và đã cài chúng đúng

chỗ khi cô ngủ. Khoá của Su không mở được cửa đêm đó.

Vào ngày 6/6/1985, trong ngày lễ Thầy, Ma Shanti

Bhadra đã tiêm cho Devaraj một liều chất độc có tiềm

năng gây chết người. Ông đã báo động cho một bác sĩ

khác, người này đưa ông đi gấp tới trung tâm cấp cứu.

Puja, hộ lí của Sheela, cũng vội tới đó và cố cản trở việc

chữa chạy bằng cách vứt bỏ thuốc giải độc mà các sĩ điều

trị đã đưa ra, và bằng cách làm chậm trễ máy bay đưa

Devaraj tới bệnh viện Bend. Mặc cho những nỗ lực của

thị, Devaraj vẫn sống, và chuyển lời tới Vivek để bảo

Bhagwan điều đã xảy ra. (Về toàn bộ câu chuyện những

sự kiện này, xin xem cuốn sách của Devaraj Bhagwan:

The Last and the First World Teacher, The Relel

Publishing House, 1988).

Bhagwan hỏi Sheela về vụ việc và thị chối đây đẩy

rằng người của thị có thể đã làm mọi thứ. Vivek và

Devaraj tiếp tục tìm ra bằng chứng.

Trong khi đó, Bhagwan bắt đầu nói mọi sáng tại

Rajneesh Mandir cho toàn bộ cộng đồng và mỗi đêm tại

Jesus Grove cho thành viên của báo chí. Sheela nổi giận.

“Dẫu sao thì ai mời ông ta tới nhà tôi vậy?” thị càu nhàu

với một người quét dọn. Mỗi đêm thị đều đưa Bhagwan

tới nhà thị, nơi mọi người chờ đợi nồng nhiệt để đón chào

ông và gần như chẳng cho thị một cái liếc mắt. Nếu ông

nhẩy múa với bất kì ai nhiều hơn một lần thì thị sẽ đứng

nhìn chằm chằm, mặt thị đầy giận dữ. Thị bắt đầu gặp ông

ngày càng ít dần, cử Savita hay Vidya làm thư kí thay chỗ

thị, và cuối cùng lập kế hoạch rời bỏ một tình huống mà

đã quá nặng không thể giải quyết được nữa.

Thị đã thất bại trong nỗ lực khử bỏ Devaraj và Vivek,

và Bhagwan biết về những nghi ngờ với thị. Nếu

Bhagwan được báo động thì thị không thể chắc tới gần

ông được nếu như thị không khử bỏ những người thân cận

ông. Đã đến lúc phải bỏ đi. Thị bỏ các kế hoạch, đóng gói

của báu dành dụm, làm những thu xếp cuối cùng, (theo

đồn đại thì thị đã lấy đi bốn mươi triệu đô la), và bỏ đi

hôm 14/09.

Sheela đi qua Đức nơi thị sống hoàn toàn cởi mở, đều

đặn cho báo chí phỏng vấn. Điều có ý nghĩa là thị ở Đức.

Thị có thể đi sang Thuỵ sĩ, nơi mà chính phủ Mĩ không

thể dẫn độ được thị. Thị biết điều này bởi vì Vidya đã có

nghiên cứu tại Công ti dịch vụ pháp lí Rajneesh về luật

dẫn độ quốc tế. Vậy thì tại sao thị lại công khai hoá việc ở

Đức của mình? Câu trả lời hiển nhiên là ở chỗ thị không

ngờ bị chính phủ Mĩ dẫn độ về tội phạm của mình. Một

chỉ dẫn thêm nữa về điều này là ở chỗ thị có bằng cớ băng

và thuốc để công khai trong căn hộ của thị khi thị bị bắt,

được các quan chức bắt giữ mô tả là “bằng chứng đáng

kể.”

Sheela dường như không nghĩ chính phủ có ý định dẫn

độ. Điều thị không biết là ở chỗ đệ tử trước đó của thị,

Ava, đã biến thành bằng cớ của nhà nước và nói với công

tố viên rằng Sheela đã lập kế hoạch giết cả viên chưởng lí

Oregon và luật sư Mĩ tại Oregon. Viên công tố không hài

lòng. Họ giữ thông tin đó trong khi bố trí để bắt Sheela,

Shanti Bhadra và Puja ở Đức. Ngay khi việc bắt giữ được

hoàn tất, thì họ tiết lộ bằng cớ của mình khi nghe nói việc

bảo lãnh của Bhagwan ở Bắc California.

Khi tiến trình dẫn độ trở nên bị sa lầy ở Đức, và dường

như là thời gian có thể hết hạn trước khi việc dẫn độ được

hoàn tất, viên luật sư Mĩ vùng Oregon đã tự thân đi sang

Đức để kết thúc việc dẫn độ. Một hành động không tiền

khoáng hậu như thế của viên luật sư Mĩ có lẽ là lời giải

thích tốt nhất cho sự kiện là ông ta là số một trong bản

danh sách nhằm tới các quan chức công cộng của Sheela,

điều Ava đã tiết lộ.

Vào lúc đó, Sheela, Shanti Bhadra và Puja đã được

đưa trở về Mĩ để ra toà, và chính phủ Mĩ yêu cầu chính

phủ Đức cho phép khởi tố họ dựa trên nền tảng phụ thêm

cho những điều đã được nói trong lệnh dẫn độ nguyên

gốc. Sheela và nhóm chống lại nỗ lực này. Điều đó có vẻ

là việc khởi tố tội phạm và việc bào chữa.

Thế rồi đến kết thúc đáng ngạc nhiên. Bất thần Sheela

đồng ý nhận là có tội với một phần những lời buộc tội và

đồng ý với việc mở rộng của lệnh dẫn độ để đổi lấy bản án

bị tù (thực tế là đã được thực hiện) không nhiều hơn bốn

năm rưỡi. Tất cả thời gian ở tù đều ở nhà tù liên bang với

an ninh tối thiểu tại Pleasanton, California, với mật danh

‘Club Fed’ vì những tiện nghi giải trí, người tù có văn hoá

và chính sách thăm viếng cực kì tự do. Nó giống như khu

trường đại học với hàng rào bao quanh hơn là nhà tù.

Những người quan sát có hiểu biết đều choáng váng, còn

những nạn nhân bị đầu độc thì phản đối. Một luật sư về tội

phạm cựu chiến binh và là trợ lí trước đây của luật sư Mĩ

mô tả bản án này “rất nhẹ” cho những tội đã phạm. Các

công tố viên vội vã nói với báo chí rằng họ đã đồng ý với

thoả thuận tố tụng để tiết kiệm tiền cho người dân đóng

thuế. Sau rốt, mục tiêu của chính phủ đưa “người

Rajneesh” ra ngoài Oregon đã được thực hiện.

Lời giải thích của công tố viên không nói đúng. Việc

thoả thuận tố tụng nói chung được dùng để tránh xử án

trong trường hợp việc kết tội là không chắc chắn hay có sự

buộc tội kép, nhưng là một thoả hiệp đến cực điểm để

giảm bản án từ 300 năm xuống bốn năm là không được để

ý đến trong trường hợp chính phủ gần như bảo đảm về

việc kết tội. Sheela đã bị buộc tội với những tội đủ để tống

thị vào tù trong 355 năm, nếu bị kết tội. Bất kì bồi thẩm

đoàn Oregon nào cũng đều sẵn lòng để kết tội Sheela về

hầu hết mọi việc, có hay không có chứng cớ. Các công tố

viên đều biết về việc này. Sheela đòi họ đã đưa ra những

tuyên bố tương tự cho luật sư của thị. Vậy thì tại sao họ lại

đồng ý với việc thoả tuận tố tụng để cho Sheela thoát ra dễ

dàng đến vậy? Nếu việc thoả thuận số tiền của Sheela là

phí tổn cho chính phủ để đưa thị ra toà thì liệu điều đó có

đủ biện minh cho một thoả hiệp như vậy không? Cứ xét

đến việc chính phủ phải chi ra một số tiền khổng lồ để tiến

hành những cuộc điều tra công khai hay dấu giơm về cộng

đồng Rajneesh dưới sự bảo trợ của cả chính phủ bang và

liên bang thì lập luận rằng chính phủ cần tiết kiệm tiền bạc

đơn thuần không làm cho ai tin được.

Tài liệu in nhỏ về việc thoả thuận tố tụng liên bang

thậm chí còn nhiều thông tin hơn. Không chỉ chính phủ

đồng ý bỏ không xét một số lời buộc tội đã nêu mà chính

phủ còn đồng ý không khởi tố Sheela về việc vi phạm luật

thuế lợi tức liên bang, các vi phạm khác về luật di trú liên

bang, và vi phạm luật liên bang có liên quan tới buôn lậu

tiền bạc và những vật có giá trị khác. Không một đối xử

tồi nào với một người đàn bà có hàng dài những nhân

chứng chống lại thị và không lời bào chữa mà là bạo dạn

và phủ nhận.

Tuy nhiên, phần đáng quan tâm nhất của thoả thuận

này có lẽ lại là điều không được đưa vào trong đó. Thoả

thuận này loại trừ rõ rệt bất kì hành động giết người nào

mà Sheela có thể đã dính líu vào, cả việc truy tố vì lập kế

hoạch để hành hung hay giết các quan chức của Mĩ. Điều

đáng quan tâm là ở chỗ bằng chứng hiển nhiên đã được

cung cấp cho chính phủ về hành động giết người có thể có

liên quan tới chương trình Chia sẻ nhà, và về âm mưu của

Sheela giết các quan chức công khai. Mặc cho các bằng

chứng đó, không có lời buộc tội nào đã được đưa ra có

liên quan tới những tội ác đó.

Cho nên vào bất kì lúc nào, chính phủ cũng có thể truy

tố Sheela về những tội phạm nghiêm trọng này, theo lời

của bản thoả thuận, “tìm kiếm mọi hình phạt do luật cho

phép kể cả việc giam cầm tối đa và những bản án tiếp

theo.” Thế đấy, chính phủ đã không tiến hành truy tố,

nhưng Sheela sống trong đe doạ.

Tại sao chính phủ lại phải vội vã tới Đức để dẫn dộ

Sheela sau khi biết về âm mưu giết người của thị, dùng

bằng cớ của âm mưu này khi biết việc bảo lãnh cho

Bhagwan, đưa ra vấn đề chính của âm mưu này với báo

chí, và rồi chẳng bao giờ truy tố Sheela về tội lỗi cả? Tại

sao Sheela lại được xử cho một bản án nhẹ thế với tất cả

những tội lỗi mà thị đã phạm phải? Sara Jane Moore, bạn

tù thân của Sheela tại Pleasanton, đã ở đó nhiều năm trước

thị, và sẽ còn nhiều năm nữa ở đó vì tội giết người có chủ

tâm, trong khi giết người có chủ tâm chỉ là một trong

những tội lỗi mà Sheela đã phạm phải. Và tại sao mối đe

doạ truy tố về những tội nghiêm trọng vẫn còn bị treo lế

lửng trên đầu Sheela?

Chỉ có một giải thích ăn khớp với các sự kiện, và đó là

điều Sheela đã đồng loã trước đó với chính phủ để đầu độc

Bhagwan, và đã được thưởng bằng bản án nhẹ. Vì thị

không thể tin được nên chính phủ treo trên đầu thị mối đe

doạ về truy tố thêm nếu thị để lộ ra tội đồng loã với họ.

Nhưng một điều là chắc chắn - Sheela đã không thành

công trong kế hoạch của thị để đầu độc Bhagwan. Thị

không thể xoay xở được bước sơ khởi chủ chốt về việc

đầu độc bác sĩ và người coi sóc nhà cửa của ông. Và

không khử bỏ được hai người này thì thị hoàn toàn không

thể thâm nhập tới Bhagwan được, hay tới đồ ăn, thức uống

của ông.

Điều đó để chúng ta quay lại chỉ với chính phủ Mĩ.

Chú thích của tác giả:

Phần lớn tài liệu của chương bẩy, về Sheela, được

Sangeet Duchane cung cấp, một luật sư sống trong nhà

của Sheela tại Rajneeshpuram. Cuốn sách của Duchane về

Sheela, “Sheela: bản sao phụ nữ của Adolph Hitler” xuất

bản năm 1988.

************************************************************

CHƯƠNG 8

MỘT TÌNH TIẾT ĐÁNG QUAN TÂM

Một điều rất đáng quan tâm đã xảy ra sau khi

Bhagwan đưa ra lời buộc tội chính phủ Mĩ trong bài nói

trước công luận ở Ấn Độ 11/06/1987.

Trong bài nói này, đã được xuất bản trong báo giới Ấn

Độ, ông đã mô tả những triệu chứng mà thân thể ông phải

chịu đựng trong hai năm từ khi ông bị chính phủ Mĩ bắt

giam. Ông giải thích rằng bác sĩ của ông đã tư vấn với các

chuyên gia hàng đầu ở Harley Street, London, và rằng các

phép thử của họ đã loại trừ tất cả các khả năng chẩn đoán

ngoại trừ việc đầu độc bằng thallium. Bhagwan tiếp đó chỉ

ra trong bài nói bằng cách nào và tại sao chính phủ Mĩ lại

đã đầu độc ông.

Hai ngày sau khi câu chuyện của Bhagwan xuất hiện

trên báo giới Ấn Độ, những dòng tiêu đề mới gào rú lên

rằng Bhagwan không phải bị đầu độc mà là bị bệnh AIDS.

Nguồn gốc của câu chuyện này, được xuất bản trong các

báo chí khắp thế giới, là một tin tức báo chí được viết và

trao tay cho tất cả các báo chính ở Bombay và các dịch vụ

điện tín, do một bác sĩ trẻ, I.S. Gilada đưa ra. Gilada đã

viết trong tuyên bố báo chí của mình rằng gã là một

chuyên gia về AIDS, và gã đã kí trong thông báo đó là

“Tổng thư kí Tổ chức Y tế Ấn Độ.” Trong thông báo này

gã đã yêu cầu rằng chính phủ Ấn Độ phải tiến hành cưỡng

bách phép thử AIDS với Bhagwan và tất cả các đệ tử, vu

cáo rằng, “Nếu việc can thiệp đúng lúc không được chính

phủ thực hiện thì đất nước chúng ta và đặc biệt là vùng

Poona sẽ phải đương đầu với thảm hoạ.”

Câu chuyện này được đăng tải trên mọi mặt báo chính.

Bhagwan Shree Rajneesh không có cách nào khác là phải

đệ trình các phép thử cho Viện vi rút quốc gia để chứng

minh rằng ông không bị AIDS. (Các phép thử nguyên gốc

tại Harley Street, điều đã loại trừ AIDS, là dưới tên của

“David Washington”. Bhagwan đã chỉ thị cho các bác sĩ

của mình dùng tên giả đó để tránh mọi định kiến ủng hộ

hay chống lại ông trong chẩn đoán lâm sàng. Ông đã chọn

tên đó vì nó là một cái tên mà chính phủ Mĩ đã buộc ông

dùng để đăng kí tại nhà giam nơi ông tin là việc đầu độc

đã xuất hiện.)

Xem như một luật sư quen thuộc với việc phía chính

phủ Mĩ phá huỷ Bhagwan Shree Rajneesh và công trình

của ông, tôi đã lập tức bị hấp dẫn bởi sự trùng hợp - tại

sao một người lạ nào đó lại gây ra rất nhiều rắc rối để làm

mờ tối lời công bố của Bhagwan rằng chính phủ Mĩ đã

đầu độc ông, bằng cách bôi nhọ trên tất cả các báo chí câu

chuyện giật gân rằng Bhagwan bị AIDS? Điều đó chắc

chắn có hiệu quả - báo chí nhanh chóng bỏ mọi câu

chuyện về việc đầu độc và thay vì thế tập trung vào, với

những dòng tít lớn trên trang nhất, câu chuyện về AIDS.

Những điều tra về tác giả của việc đưa tin báo chí về

“AIDS” đưa ra những điều rất đáng quan tâm. Bác sĩ

Gilada là một công chức y tế cấp thấp, tầm thường, làm

việc trong khoa da của một bệnh viện chính phủ lớn ở

Bombay. Gã ta chỉ là một MBBS từ trường Cao đẳng

Aurangabad, người đã trượt kì thi MD năm lần.

Tuy nhiên Gilada lại rất mạnh dạn trong các lĩnh vực

khác. Vài năm trước đó, gã ta đã thành lập Tổ chức Y tế

Ấn Độ (I.H.O), mà gã là thành viên, quan chức và nhân

viên duy nhất. Nhưng gã đã in những giấy tiêu đề rất trau

chuốt (mà gã dùng cho ‘đưa tin báo chí’) với việc thể hiện

kí hiệu của Tổ chức Y tế Thế giới - ngụ ý rằng “tổ chức”

của gã theo cách nào đó là chi nhánh của tổ chức đó. Việc

điều tra về quan chức của W.H.O để lộ ra rằng họ chưa

bao giờ nghe nói tới I.H.O, và chắc chắn chẳng có liên

quan gì tới nó theo bất kì cách thức nào cả.

Đấy mới chỉ là bắt đầu. Chẳng bao lâu sau việc đưa tin

báo chí của Gilada được in ra, đạo tràng của Bhagwan ở

Poona nhận được một số cú điện thoại và thư của các bác

sĩ ở Bombay, người bị xúc phạm bởi hành động của

Gilada. Họ tất cả đều nói rằng đây không phải là lần đầu

tiên Gilada đã cố gắng làm cái trò quảng cáo như vậy -

rằng gã đã rất nổi tiếng như kẻ đi tìm quảng cáo và một

“bác sĩ cho thuê” về bất kì lí do gì.

Chẳng hạn, trong năm 1981 gã đã xuất hiện tại cuộc

hội thảo W.H.O. tại Geneva, hội thảo này được nhóm họp

để soạn thảo bộ luật cổ vũ cho việc nuôi con bằng sữa mẹ

trong các nước thế giới thứ ba. Gã không phải là thành

viên của đoàn đại biểu Ấn Độ chính thức tới hội thảo,

đoàn tới đó để đại diện cho lập trường của chính phủ Ấn

Độ ủng hộ cho bộ luật này. Thay vì vậy, như về sau này

phát hiện ra, gã đã được một nhà sản xuất thức ăn trẻ con

tài trợ để tham dự cuộc hội thảo và cố gắng làm dừng việc

chấp nhận bộ luật. Gilada phân phát cho tất cả các đại biểu

một cuốn sách mỏng nói rằng lập trường chính thức của

chính phủ Ấn Độ là chống lại bộ luật. Gã đã kí vào cuốn

sách đó là “Bác sĩ I.S. Gilada, Tổng thư kí của Hiệp hội

sinh viên y khoa toàn Ấn Độ, chi nhánh của Liên đoàn

quốc tế các hội sinh viên y khoa.” Đoàn đại biểu Ấn Độ

chính thức đã bị xúc phạm và buộc phải gửi một bức thư

cho tất cả các đại biểu phủ nhận tuyên bố trong cuốn sách

của bác sĩ Gilada. Bác sĩ Gilada nhanh chóng xuất hiện

trong hội nghị, và khi việc điều tra được lần về Ấn Độ, thì

người ta phát hiện ra rằng chẳng có “Hiệp hội sinh viên y

khoa toàn Ấn Độ” nào cả mà cũng không có “Liên đoàn

quốc tế các hiệp hội sinh viên y khoa”.

Một phát hiện thú vị khác là ở chỗ chỉ vài tuần trước

khi bác sĩ Gilada đưa ra tin báo chí về Bhagwan bị AIDS,

gã ta đã đi một chuyến ngắn ngày sang Mĩ, được tài trợ

bởi một tổ chức “quyên góp” Mĩ nặc danh cho I.H.O của

gã.

Cho nên Gilada có liên hệ với Mĩ và gã có một lịch sử

về “một kẻ gây sự” được trả tiền ... một người hoàn hảo để

làm mũi nhọn cho chiến dịch làm mất uy tín Bhagwan

Shree Rajneesh và để làm chắc chắn việc buộc tội đầu độc

của Bhagwan đối với chính phủ Mĩ nahnh chăng bị mờ đi

trong băng tối. Dù ý tưởng về việc dùng tin đồn AIDS là

của Gilada hay của người đứng sau gã thì cũng chẳng liên

quan. Sự kiện là ở chỗ gã đã hành động rất nhanh chóng,

rất hiệu quả, và rất rất hiệu suất. Kích ć và tầm rộng lớn

của chiến dịch này chỉ ra rằng nó không thể là công việc

của một người. (Câu chuyện xuất hiện đồng thời trên mọi

báo chính trên toàn Ấn Độ và trên thế giới, kể cả những

nơi xa xôi như Brazil).

Người duy nhất có thể có bất kì cuộc điều tra nào

trong việc chôn vùi câu chuyện về nỗ lực đầu độc của

chính phủ Mĩ là các nhân viên của chính phủ Mĩ.

Và sự kiện là họ hành động nhanh chóng như vậy và

hiệu quả như vậy để dập tắt sự buộc tội của Bhagwan rằng

chính phủ Mĩ đã đầu độc ông nói lên rất nhiều về tính hợp

pháp của những lời buộc tội đó.

END

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro