lính-lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Các bác thân mến, chuyện ăn uống của lính chắc chắn là kho chuyện dài nhiều tập. Tôi biết bây giờ đời sống vật chất, tinh thần của cánh lính chắc đã được cải thiện đáng kể, thỉnh thoảng xem tivi thấy bữa ăn của anh em lính tráng bây giờ cũng tươm lắm rồi, nhưng ấn tượng nhất là mỗi người mỗi phần ăn trên mâm riêng với đầy đủ 4 món cơm, canh, rau, mặn ...(không biết có áp dụng trong toàn quân không nữa ? ). Mà nếu được như vậy, đám lính trẻ thời này chắc sẽ há hốc miệng khi nghe về 01 thời mâm 6 của cha chú...

Ngày ấy, tụi mình cũng chịu chung cảnh như toàn quân: lính luôn bị cảm giác đói dày vò ( mình đoán như vậy - không khẳng định đâu nhe). Chưa ăn đói đã đành, nhưng ăn song rồi vẫn còn cảm thấy đói...có lẽ vì là thanh niên đang sức ăn, sức lớn...mà bị đó thường xuyên nên luôn ở trong tâm trạng đó, mặt khác vì bị "đói góp" nên nếu được bữa no chắc cũng không thể xóa được cảm giác đó. Mình nhớ khẩu phần lương thực quy gạo dành cho lính cao ngất ngỏng: 21 kgs, tính ra cao gấp rưỡi người bình thường thời đó (học sinh cấp 3 thời bao cấp hình như được 15kgs gạo/ tháng thì phải...), bữa sáng 2 lạng, bữa chính trưa, chiều 2 lạng rưỡi ( tương đương 01 lon sữa bò vun đầy). Vậy mà với khẩu phần như vậy nhưng lính ta luôn trong tình trạng đói...???.

Hồi đó, cơm nấu trong chảo gang lớn, nấu = củi và than đá là chính nên khi cơm chín luôn có một mảng cháy vàng rộm bám sát thành chảo...Cơm được súc bằng sẻng và chia vào các thau nhôm nhỏ mà lính tráng quen gọi là mâm 6. Khi xuất gạo nấu cơm cho bộ đội, chỉ có B trưởng nuôi quân + quản trị tiểu đoàn + thủ kho trực tiếp cân và giao nhận gạo theo lệnh xuất kho, thỉnh thoảng có sự giám sát của trợ lý cậu cần D hoặc D phó hậu cần...tuy nhiên khi cơm chín thì việc chia vào các mâm 6 hết sức ước lệ, cứ thấy ngang mặt là chia sang mâm khác, sau khi chia hết + thêm vài mâm dự phòng khách của C, D ... bắt đầu chia thêm vào các mâm nếu cơm vẫn còn...cứ như vậy cho đến khi chỉ còn cháy trong chảo ( các thủ trưởng D lệnh cháy cũng phải cạo cho hết cơm để chia cho bộ đội...). Chưa kể chậu mâm 6 thì móp mép, lớn nhỏ ( mặc dù không nhiều) nên chắc chắn một điều: không có gì đảm bảo lượng cơm đến với 6 người là đủ. Bên cạnh đó còn rất nhiều chuyện dở khóc dở cười liên quan đến gạo như gạo này nở, lần tới lại không nở...nhưng nhớ nhất là loại gạo hẩm ( loại gạo được dự trữ trong các tổng kho, đến gần hết niên hạn sử dụng mới được cung cấp về cho bộ đội) do vậy ẩm mốc, thậm chí vón cục và bị mọt là chuyện bình thường...nhưng khổ nhất vẫn là khi nấu loại gạo này. Tôi vẫn nhớ cơm chưa sôi đã bị nát, lính không dám dùng sẻng đảo nhiều vì sợ nát cơm ...nên cơm rất dễ bị khét và nhão, và hậu quả là chia vào các mâm 6 thấy khẩu phần bị hụt đi thấy rõ. Còn chuyện sạn, cát, thóc lẫn trong gạo là chuyện cơm bữa, thóc có thể sàng nhưng sàng thóc thì thâm hụt tiêu chuẩn...tôi nhớ mãi bữa cơm đầu tiên của lính khi chúng tôi mới nhập ngũ và đóng quân tại Đồng Sơn - Tiền Giang, cơm nấu chia cho lính hai hạt cơm cõng một hạt thóc ( tất nhiên là ngoa rồi nhưng ý tôi nói là thóc nhiều kinh khủng )... Gạo mục, gạo hẩm nhưng vẫn là gạo, có cơm ăn vẫn là hạnh phúc cho dù là cơm không người lái. Thời đó, dân còn đói lấy gì bộ đội được no, tất cả các đơn vị bộ đội ( chắc có lẽ ngoại trừ tuyến 1) đều phải tăng gia tự túc lương thực vài tháng trong năm ( lâu quá tôi không nhớ chính xác là mấy tháng). Trung đoàn tôi có 1 D tăng gia trên núi Tổng Tần, các D thay phiên nhau cho anh em lên tăng gia trên đó. Tôi nhớ mãi nơi này vì Danh, bạn tôi đã mất nơi đây do sốt rét và may sao được công nhận liệt sĩ, hy sinh trong khi thực hiện nhiệm vụ. D tăng gia chủ yếu trồng khoai mì, khoai mì thu hoạch về chia cho các tiểu đoàn, mấy ngày đầu mới nhập về tuy khoai đã chạy chỉ nhưng vẫn còn ăn được nên cũng có cải thiện hơn cơm vì lính ăn no hơn, nhưng những ngày sau lượng khoai bỏ đi ngày một nhiều, khẩu phần giảm rõ rệt, mặt khác khoai chạy chỉ nặng ăn thật khó nuốt.

Ngoài khoai mì lính thời đó luôn nhắc đến 4 từ " bánh xe lịch sử "...bột mì. Bột mì được các chú nuôi quân chủ yếu nặn thành bánh xe rồi đem luộc chín và ăn thay cơm. Ăn bột luộc ngán quá mức cộng với việc bột nặn bánh khi luộc thường bị bể, hao hụt nhiều và nếu để lâu thì cứng còng, khó nuốt... nên các chú nuôi quân nhà ta bắt đầu nghĩ cách làm bánh bao. Bột nở được làm từ bột ủ chua...cuối cùng lính ta cũng có banh bao chay hấp để ăn. Chuyện liên quan đến cái bánh bao có nhiều nhưng tôi nhớ nhất cái thú của lính mình nướng bánh bao trên bếp lò cho vàng lớp vỏ, bóc ăn rồi nướng tiếp rồi bóc ăn ...cho đến còn trơ ra cái que nướng...cái thú này đặc biệt có ý nghĩa trong những ngày đông tháng giá, vừa nướng bánh, vừa sưởi ấm bên bếp than hồng...ấm áp còn gì sướng bằng. Liên quan đến việc ăn bột mì, có thời gian ta nhập về bột giống như bột cám, loại bột này không dẻo và dai như bột mì trắng và ăn lạp sạp như ăn cám và không thể làm bánh bao mà chỉ có thể luộc. Tuy nhiên do loại bột này không dẻo như bột mì trắng nên khi luộc chín, cục bột chỉ còn lại hơn nửa do bột tan trong nước luộc tạo thành 01 loại cháo loãng...bộ đội ăn đói đành phải húp thêm thứ cháo bột bất đắc dĩ được chia ra chậu...  

Kẹo Cu đơ là kẹo đậu phộng trong mình, nhưng cách làm có hơi khác, ăn thơm và dẻo chứ không khô và cứng như kẹo trong miền Nam, cũng có nhiều loại Cu Đơ: loại ngon thì ăn dẻo thơm, nhưng loại rẻ tiền thì ăn cũng tương tự như kẹo đậu phộng trong mình. Ngày nay có dịp đi ngang Hà Tĩnh và cả Nghệ An nữa chúng ta sẽ thấy hai bên đường bán tràn ngập Cu Đơ, nhưng cái thời năm 1979 thì rất hiếm hoi. Đúng như bạn thanh 63 đã kể, lúc đó lính chúng ta lúc nào cũng thấy đói, đói đến mức thảm hại (tôi sẽ kể sau về cái chuyện đói này) Câu chuyện sau đây lại liên quan đến bạn Dấm nhà ta, trong thành phần đó có cả tôi và Trâu con nữa. Số là lính đói nên tìm đủ mọi cách để có cái ăn, dân trong vùng cũng tìm cách để tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho gia đình...một số người dân quanh vùng bắt đầu bán kẹo Cu đơ cho lính, lúc đầu lính còn có tiền, nhưng về sau thì không còn nữa và Anh Dấm nhà ta bắt đầu phát huy bản chất...Thời gian đó lính nhà ta mất quần áo liên tục, lúc thì cái khăn tắm, lúc thì cái quần đùi, khi thì cái áo, bản thân mình cũng mất một cái áo (mãi về sau này khi ngồi lại với nhau, mình mới biết ai là thủ phạm) tất cả những thứ bị mất này đều được biến thành kẹo Cu đơ hết, rồi cuối cùng quần áo của anh em quản lý chặt quá thì Bạn Dấm nhà ta nảy ra một sáng kiến mới. Hôm đó tự nhiên Dấm rủ mình và một bạn nữa đi qua sau tiểu đoàn 4 chơi, mình thấy cậu Dấm nhà mình đi đến bên một cô gái, lúc đầu mình không biết có việc gì, nhưng sau đó mới biết là cô ta bán kẹo Cu đơ, sau một hồi ngã giá, mình thấy cậu Dấm chụp lấy một bịch kẹo và...chạy, mình và Trâu con cũng hết hồn hết vía ùa chạy theo (Sợ quá, lần đầu tiên tòng phạm) Cô gái hốt hoảng la lên: " Anh Cương ơi, nó cướp keo" 

Nói thêm về việc bán kẹo Cu đơ cho bộ đội đã bị Sư đoàn cấm, nếu phát hiện được là bị tịch thu, nên người bán cũng luôn lén lút và thường là giấu ở bụi cây, hốc đá khi nào có người mua mới lấy ra bán

Đây là một kỷ niệm chẳng hay ho gì, nhưng nó đã xảy ra

Minh viết ít dòng về chuyện đói ăn của lính thời kỳ tại Khe Lang (Hà Tĩnh), đúng như thanhh 63 đã kể, nhưng vẫn còn chưa đầy đủ lắm, mình chỉ kể lại những gì mình có tham gia và biết thôi

Gần khu vực tụi mình đóng quân, Dân trồng rất nhiều khoai mì và khoai lang, vì đói quá nên mình và một vài bạn trong tiểu đội 2 mới đi  hái đọt lang (ngọn khoai lang) về để tính luộc ăn, nhưng quy định không cho bộ đội được tự tiện nấu nướng, nên tụi mình tính xuống nhà bếp để nhờ luộc giúp, nhưng không được, do vậy tụi mình tự lấy nước xôi (nước do bếp D nấu cho bộ đội uống) để lấy đọt lang nhúng vào cho tái tái một chút rồi ăn (nói nước xôi chứ nó cũng nguội rất nhiều rồi)

Về chuyện ăn da trâu, thì chỉ có da trâu hầm cho nó nở bung ra thôi chứ làm gì có thêm gia vị gì đâu, nấu da trâu cũng phải lén lút, đi xa khỏi doanh trại mới dám nấu, thật tình lúc đó sao da trâu hầm ngon thế không biết nữa. Lúc tụi mình thấy da trâu thì nó đã thối lắm rồi, mà cũng không biết tại sao người ta lại bỏ da trâu trên đồi như thế? không lẽ có ai đó giết trâu trộm... Nhắc đến chưyện bắt chuột thì lại nhớ đến đồng chí CỐNG, hiện tại bây giờ không biết đ/c Cống sinh sống ở đâu, chỉ gặp nhau được một lần khi họp mặt kỷ niệm 20 năm, nghe nói hoàn cảnh kinh tế cũng khó khăn... không biết Ban liên lạc Tiểu đoàn của mình có liên hệ với Cống được không để có thể giúp đỡ chút ít cho đồng đội (giống như giúp Khánh Vân)

Lại nhắc đến chuyện đói: Mâm 6 thì riêng cơm mỗi đ/c chỉ được khoảng 2 bát thôi, vậy là có đ/c có sáng kiến ra ngoài dân xin hoặc mua bằng được cái bát to (gọi là bát B52) vào bữa ăn mặt cứ trơ ra và múc đúng 2 bát theo quy định ;D ;D đến bây giờ mình vẫn còn nhớ

Tiếp tục chuyện gạo thóc của lính...tôi nhớ ngày ấy mỗi lần đi công tác ...nói chung là không ăn cơm ở đơn vị, lính ta thường được cắt gạo mang theo để tự thổi cơm ăn. Cả thời ở Hà Tĩnh lẫn khi đã về QĐ 3, chúng tôi luôn thích thú khi được cắt gạo đi công tác. Cũng dễ hiểu thôi vì đi công tác như vậy chúng tôi được thanh toán gạo, tiền ăn...và cho dù công tác ngắn ngày hay dài ngày thì lính ta luôn có lợi từ khẩu phần ăn của mình. Các bác biết mà, mang tiếng định lượng 21 kgs/ tháng, nhưng không bao giờ lính ta được hưởng đầy đủ vì nhiều lý do khách quan, chủ quan, tế nhị...nhưng khi đi công tác thì lính ta được hưởng đầy đủ chế độ của mình. Gạo dư dả, tiền ăn rủng rỉnh ( tất nhiên là vào thời đó cũng chẳng nhiều nhặn gì...) chúng tôi luôn có những bữa "liên hoan" từ những dịp đó. Gạo được bán bớt, bù thêm tiền ăn, chúng tôi cải thiện thêm tí chút mỡ màng, vả lại khi đi công tác thường các chú nhà ta mang gạo vào các nhà dân quen để "bố mẹ" nấu cho, nhưng khổ nỗi thấy các con cực khổ, "bố mẹ" lại bù lỗ thêm cho các con...thật quá sướng.

Nhưng sướng nhất vẫn là những đợt công tác dài ngày không thanh toán gạo trước và mang theo người được, tất nhiên trong trường hợp này chúng tôi phải tự túc 100%, tuy nhiên chẳng chú nào mất đồng nào vì ngoài công việc phải làm, chúng tôi có 1001 cách dân vận để được nuôi "miễn phí" ( phần này tôi sẽ bật mí sau - lính thời đó gọi nôm na là "đi cứu"...) hoặc té về nhà (chỉ với các chú lính Thăng Long quê đàng trong vẫn còn bà con, họ hàng nơi đất Bắc...) để có hậu phương lo. Và như vậy sau đợt công tác trở về đơn vị thì khoản công tác phí, tiền ăn, tiền bán gạo cũng là một khoản kha khá...chắc các bác khắp nơi trong toàn quân cũng mần như vậy trong thời kỳ đó. :( :( :(   

nói về thời còn đóng quân ở khe lang thì có vô vàn kỷ niệm nhớ đời, có những kỷ niệm "sống để bụng,chết mang theo" chỉ có vài ô thân như là ruột "thừa"mới nhớ hết như ô,sơn "chợ", phong"tồ,huyện",hải"lò o",thiệu"tẹo,dấm,"châu"đề",lâm"lùn,hoặc là paul" và mình nữa( tức là hải"nghé") thì có thể mới nhớ 1phần nào thôi: trước khi vào chuyện mình cũng muốn nói cho rõ về những bí danh mà mấy ô bạn tốt bụng đặt cho nhau, không phải ô nào cũng tự nhiên mà được hân hạnh có những có những biệt danh nổi tiếng ấy, phải mất một thời gian cực khổ tìm tòi,sưu tầm và có cả đoán mò nữa mấy ô bạn mới có thể sống với những biệt danh ấy. như ô bạn thanhh chính thật tên là hải"mây" vì bố của ô này tên là "Vân" mà,còn ô hải "lò o" có biệt danh như vậy là bố của ô này tên là "Hảo" mà lò o tiếng kampuchia là tốt,mà đã "tốt" dịch sang tiếng tàu là ''HẢO", còn tớ thì ai cũng gọi là hải "nghé" vì bố mình tên "Châu", đúng là mấy thằng con trời đánh, làm cho mấy cụ ở nhà suốt ngày hắt hơi,xì mũi. vậy có thể các bạn suy ra những ô còn lại" toàn là gọi tên bố của nhau ra mà chửi" đúng là một lũ "bất hiếu", đấy là những ô bạn mà đã biết chính xác tên bố hoăc mẹ. còn có ô mặc dù đã hơn 30năm nhưng cũng chỉ là đoán mò thôi,như ô thiệu chẳng hạn,gọi là thiệu"tẹo" vì mấy bố nghi là mẹ của ô thiệu tên là tèo hay teo gì đấy(nó mà đọc đc chắc lại chửi mình chết mất thôi),cho đến tận hôm nay cũng chỉ là phỏng đoán. tớ muốn bắt đầu từ những cái tên và những biệt danh, các bạn hãy chờ đấy và xem hồi sau sẽ rõ thế nào là thịt chột,thế nào là da trâu, thế nào là sắn nướng,thế nào là săn chó, thế nào là vịt rừng ....

Chuyện thóc gạo thời đó chắc cũng đã hòm hòm, nhưng vẫn mong các bác có gì góp nấy cho sống lại ký ức của một thời "hào hùng" nhen...Bây giờ xin phép chuyển qua chuyện thực phẩm của lính tụi mình  thời đó (tất nhiên tôi chỉ kể được những chuyện ở đơn vị tôi mặc dù tôi biết nó hầu như giống nhau...), hy vọng có điểm gì đó hơi khang khác một chút chỗ các bác:

Có lẽ bây giờ mà nói "canh toàn quốc, nước chấm đại dương..." chắc có lẽ không còn phù hợp, nhưng thời đó thì chính xác 100%. Bữa ăn bây giờ chúng ta có thể đảm bảo cho bộ đội 4 món ( cơm, canh, xào hoặc luộc, mặn ) nhưng thời đó chúng tôi cũng có 4 món: cơm (hoặc các thứ quy đổi khác như đã nói ở trên) canh, xào hoặc luộc, mặn ( nhưng không phải thịt, cá mà là nước chấm đại dương...).

Cơm thì đã kể ở tập trên, còn món canh: Món canh và xào hoặc luộc là 2 món trong 1 lần nấu, rau muống (chủ lực) được luộc chín, giữ lại nước bỏ thêm thìa mỡ hóa học trắng tinh( loại này hình như bây giờ bị tuyệt chủng rồi thì phải ???) hoặc dầu + thêm thìa bột canh ( loại này bây giờ thành VIP khi người ta có khuynh hướng loại trừ bột ngọt ra khỏi thực đơn vì những tác dụng phụ của nó đến "bộ nhớ") là thành canh. Vì đã vớt hết rau nên canh đúng là toàn quốc - toàn nước đến 99% do còn sót vài vụn lá rau. Còn nếu muốn có món xào thì rau luộc trộn đều với thìa mỡ hóa học, thêm ít muối thành rau xào...Jan can cook phải chào thua vì tính tiện dụng trong nghệ thuật ẩm thực của cánh lính chúng mình.

Và cuối cùng là món chính: món mặn...Bây giờ trong thực đơn tại các nhà hàng món mặn luôn là món chính, còn thời đó nó cũng là chính vì nhiều nhất ( đôi khi cũng thiếu ), giúp lính ăn hết khẩu phần ít ỏi của mình. Món mặn chủ lực là nước chấm, phụ thêm thỉnh thoảng là các protit và lipit từ thịt và cá... Tôi nói nước chấm là chủ yếu vì nó luôn hiện diện trong bữa ăn của lính, còn thịt và cá là thứ yếu vì họa hoằn dăm bữa đến nửa tháng...mới có. Nước chấm - một nghệ thuật ẩm thực - thật vậy vì ngày nay một món ngon lệ thuộc rất nhiều vào nước chấm, món nào nước chấm đó mà, không chung đụng, các món ăn tạo được sự độc đáo, khác biệt là nhờ nước chấm ngon, độc đáo...Tuy nhiên nước chấm của lính thời đó thì đơn giản ( dễ làm ) và phổ thông vô cùng ( món nào cũng dùng được ). Công thức pha chế: gạo rang cháy + muối hột + nửa chén nước mắm + chút mỡ hóa học cho nổi váng + một chảo nước sôi để nguội...= một chảo nước chấm phục vụ cả tiểu đoàn đôi khi còn thiếu... Các chú lính ăn đầu tiên thường cố gắng vớt váng mỡ cùng với nước chấm, còn các chú lấy sau thì chỉ còn loang loáng màu mỡ mà thôi. :o :o :oBây giờ nói về món thứ yêu thỉnh thoảng mới có thịt hoặc cá, nhưng chủ yếu là thịt, còn cá thì hầu như là của hiếm chỉ có cá gỗ là nhiều trong giai đoạn đó. Đối với anh em mình, những ngày lễ trong năm thật sự là thiên đường. Lễ thường như 2/9, 22/12...thịt kho, thịt luộc 02 món "phủ phê" đảm bảo một người 2, 3 miếng, ngày tết thịt 3 món ( có thêm món áp chảo )...Còn lại trong bữa ăn hàng ngày thịt là thứ xa xỉ. Tôi nhớ mỗi khi nghe đồn bữa ăn có thịt, lính tráng cứ thèm nhỏ nước dãi và háo hức đến lạ thường. Bình thường nuôi quân phải trổ tài thái thịt sao cho mỗi mâm 6 phải có 6 lát thịt rộng gần = 2 đốt tay, còn độ mỏng của lát thịt thì khỏi phải bàn, nhiều chú nói đùa do thái mỏng quá nên gió thổi bay mất hết...Thỉnh thoảng có tình huống dở khóc dở cười: mâm 6 không đủ 6 lát, vậy là lính tráng phải chia thêm một lần nữa cho đủ 6 phần. Tôi nhớ mãi cái cảm giác được ăn thịt thời bộ đội, cảm giác này cho đến tận bây giơ mãi mãi chỉ là ký ức không thể tìm lại được mặc dù tôi đã nhiều lần cố thử: cắn lát thịt từng chút, từng chút ...nhép nhép miệng thật chậm rãi ... để tận hưởng cảm giác beo béo của mỡ, ngòn ngọt của phần thịt ít ỏi trong lát thịt...tất nhiên để có thể có cảm giác đó, lát thịt phải được để dành đến phút cuối cùng của bữa ăn vì khi "lâm trận" không có thời gian để phí phạm...vì ăn chậm đồng nghĩa đói.

Còn món cá là của hiếm là đương nhiên vì trong quân đội cá khó bảo quản, khó nấu nướng và chia ra các mâm nên ký ức về cá trong bữa ăn của lính hầu như rất mờ nhạt, chỉ duy nhất có món cá gỗ là còn in đậm rõ mồn một... Nói về cá gỗ mọi người sẽ nhớ ngay con cá = gỗ treo lơ lửng trên mâm cơm, đã từng hiện diện đâu đó trong văn học và cả trong đời thường ở các tỉnh miền Trung...giúp người ăn có cảm giác cá khi ăn...Nhưng với chúng tôi thời đó: ăn "cá gỗ" thật 100%...Hồi đó chúng ta nhập bất kể thứ gì có thể ăn được về cho bộ đội ăn, kể cả thứ bột mì giống bột cám mà tôi đã đề cập phần trên và cá gỗ. Cá gỗ là cá biển đã ép hết dầu, chất bổ để làm dầu cá...chỉ còn xác cá khô khốc, cứng còng, dao không thể chặt nếu không ngâm nước vài ngày cho mềm trở lại. Có lẽ thớ thịt của cá giống vân gỗ + độ cứng của nó + những com mọt đục bên trong như những con mọt gỗ...nên người ta gọi nó là cá gỗ. Loại này muốn ăn ngoài việc ngâm trước vài ngày cho mềm để có thể cắt thành từng cục, sau đó phải hầm nhiều giờ, thêm muối, bột canh...cho đậm đà là chúng tôi đã có món cá gỗ kho. Cánh lính bảo với nhau cá gỗ cũng giống như nước chấm vì chẳng có chất bổ gì cho cơ thể, ăn chẳng qua phục vụ một nhu cầu sinh lý tất yếu của con người, nhưng may mà còn có các con mọt đục trong thân cá...nên mang lại chút gì gọi là chất tanh. Bác qtdc nói rõ chút nữa đi, tôi chưa được hân hạnh "nếm" món đó. Còn với tụi tôi, thịt mỡ là số dách rồi...

Tôi nhớ lại những ngày cơ cực đó mỗi khi được nhấm nháp lát thịt là tôi thầm cảm ơn quân đội rất nhiều vì kể từ khi nhập ngũ, tôi mới biết lát thịt 3 rọi ngon đến cỡ nào... Thú thật tôi sinh ra trong gia đình công chức bình thường, hưởng chế độ tem phiếu như bao gia đình khác thời bao cấp, nhưng không hiểu sao cả 3 anh em tôi đều rất sợ ăn thịt heo ba rọi, loại thịt mà nạc ít, mỡ nhiều lẫn lộn, mà hồi đó mỗi lần mua thịt chỉ có thịt ba rọi là chủ yếu. Mỗi lần lên bữa ăn, ba tôi gắp cho mỗi đứa một miếng thịt to, 3 anh em để trên chén từ đầu bữa đến cuối bữa, đến khi ba tôi trợn mắt nhìn 3 anh em, 3 thằng liền nuốt chửng miếng thịt, khổ nỗi miếng thịt cũng hơi to, không mỏng như lát thịt của quân đội nên nuốt trọng, mắc cổ, nước mắt nước mũi ràn rụa, chục bữa như chục. Hôm trước nằm hồi tưởng  lại, mình đang định nhắc lại chuyện cá gỗ, bây giờ bạn giành mất rồi. thôi kể thêm một tí: Hồi đó người ta nói cá gỗ, mình cũng nghĩ như Mây thôi, nhưng đúng  là khi ra Khe Lang mới được thương thức cá gỗ thật sự, mình được tham gia nấu cá gỗ, trước hết phải lấy búa bổ củi bổ cho nhỏ ra sau đó mới bỏ vào chảo quân dụng hầm, hầm qua đêm chứ không phải hầm mấy tiếng đâu, ăn thì cứ như xơ vậy đó, nhưng chỉ có tụi mình mới được ăn thôi, các em cháu sau này làm sao mà được hưởng diễm phúc...

Ngày 24 tháng 4 này các bạn nhớ về Tiền Giang họp mặt nhé: 10h tại Nhà hàng Tạ Hiền, năm nay làm nhỏ thôi, không được hoành tráng như mọi năm đâu, nhưng nhớ mang theo ít nhất là 200.000 lệ phí

Các bạn còn nhớ anh Trong - Gò Công không, nhắc đến anh Trong là mình nhớ đến vụ đốt Chợ Giấy, mình chỉ nghe nên không biết vụ việc đó như thế nào?

Hồi đó đi khai thác trên Hương Sơn đúng như Mây nói, tuy cực nhưng mà được ăn no, chỉ ở Hương Sơn mình mới phải trần truồng như nhộng thôi, số là lính nhà ta đi khai thác gỗ và nứa, suốt ngày lội bì bòm dưới nước, quần áo lúc nào cũng ướt và.... ở truồng là thương sách, vì trong rừng cũng chả có ai ngoài mấy thắng lính nhà mình, vậy là cứ vô tư thoải mái, khi ra khỏi cửa rừng thì lại mặc quần áo vào, quần áo khô cong thoải mái vô cùng... Còn nhớ một lần tụi mình đi khai thác trên Hương Sơn: Tuấn bát và Bình Xì Líp về muộn và ở bên kia bờ suối, bất ngờ lũ ập về, 2 cu cậu về không được, mà quần áo lại bị ướt hết thế là mò sâu vào  phía trong , may sao trong đó có một tiểu đoàn nữ đóng quân (mình cũng không rõ, Tiểu đoàn nữ đó làm nhiệm vụ gì ở đó nữa, gần biên giới Lào mà) thế là 2 chàng nhà ta lạc vào động tiên, được các em đưa quần áo khô cho mặc, cho ăn uống no nê lại còn được ngủ lại đó mới sướng chứ, may mà hồi đó mấy chị em ta nghiêm chỉnh chứ gặp mấy đứa tuổi teen bây giờ nó hiếp dâm cho chết ::) ;D ;D

Hồi đó mình ngủ trong chiếc xe cải tiến , phải lấy gạch kê hai đầu cho nó khỏi tùng bê, vậy mà có lúc nửa đêm xoay xở thế nào mà gạch nó đổ xuống thế là lật nhào...tức ghê mà không dám nói với ai..hi hi . Đi khai thác mình sợ nhất là vắt, có lần nó cắn mình mà mấy tiếng đồng hồ sau máu vẫn chảy, mình sợ vắt vô cùng

Chuyện ăn uống "bây giờ mới kể" của các chính khách đến VN

Các chính khách đến Việt Nam, có người rất cầu kỳ trong chuyện ăn uống, nhưng cũng có người hết sức giản dị đến bất ngờ.

Bê nguyên cả đoàn "bếp" sang Việt Nam

Đặt ra những yêu cầu khó khăn hay những đòi hỏi về mặt thời gian có lẽ chưa gây sốc bằng việc mang theo cả đoàn đầu bếp lẫn đồ ăn, thậm chí là nước uống đến khách sạn.

Anh Ngô Văn Cường, Quản lý Bộ phận đặt tiệc của Khách sạn Daewoo vẫn chưa hết sửng sốt khi kể về đoàn khách của vua và hoàng thân Brunei đã nghỉ ở đây.

"Nhân viên an ninh của họ qua đây trước cả tháng trời để kiểm tra, đầu bếp thì sang trước gần 1 tuần mang theo tất cả đồ ăn chuẩn bị đầy đủ cho cả chuyến đi của họ. Họ chỉ mượn tủ lạnh của chúng tôi để bảo quản đồ ăn, sau đó khóa và niêm phong lại chỉ người của họ mới được mở.

Thậm chí, toàn bộ nước uống của họ cũng được đóng chai mang từ Brunei sang chứ không dùng nước của khách sạn. Nhân viên, phụ bếp của khách sạn phải qua sự kiểm tra gắt gao của họ từ lý lịch cho đến trình độ, nếu đảm bảo mới được sử dụng".

"Chúng tôi đã đón rất nhiều đoàn khách từ nhiều nước như Trung Quốc, Mỹ, châu Âu... các nhân vật quan trọng như Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Tổng thống Mỹ  G.Bush hay Tổng thống Nga Putin (nay là Thủ tướng Nga) cũng đã đều nghỉ tại đây nhưng chưa lần nào chúng tôi gặp phải một đoàn cầu kỳ như đoàn của Brunei".Theo anh Cường thì bình thường Nhà nước sẽ thiết tiệc ở bên ngoài để mời các đoàn chính khách nhưng nhiều khi họ cũng tổ chức tiệc mời lại một số vị lãnh đạo của chúng ta ngay tại khách sạn, nhưng các bữa tiệc này mang màu sắc chính trị nên có nhiều đòi hỏi và yêu cầu rất cao.

Từ việc kiểm soát đồ ăn, nước uống đều phải qua sự kiểm tra của Bộ Ngoại giao, Bộ Y tế và nhân viên an ninh của họ.

Ngoài ra, khách sạn cũng phải nghiên cứu rất kỹ về những nét văn hóa, truyền thống, màu cờ của nước họ để bài trí phòng từ trải khăn rải bàn, đệm bọc ghế, những loại hoa sẽ cắm để không bị "phạm húy".

Như nếu tiếp đoàn của Trung Quốc thì trong phòng tiệc phối màu sẽ theo tông đỏ - vàng, tiếp đoàn Mỹ thì tông màu sẽ là xanh - đỏ hay đoàn Hy Lạp thì thiên về màu xanh - trắng... sẽ khiến cho khách cảm thấy gần gũi, dễ chịu hơn.

"Mỗi nước có một nét văn hóa riêng, phong tục riêng, sở thích riêng... nên nếu không nghiên cứu kỹ sẽ dễ dẫn đến những phản cảm trong cách bày biện, trang trí. Không cẩn thận còn phạm phải những điều cấm kỵ của nước họ thì sẽ kéo theo nhiều chuyện rất phức tạp.

Chúng tôi còn phải nghiên cứu kỹ về cách ăn uống của từng người khách trong đoàn để đưa ra những thực đơn phù hợp như xem trong đoàn có người nào ăn kiêng không, hay có ai bị dị ứng với một loại đồ ăn gì đó để có những sự điều chỉnh".

“Một chiếu trước làng...”

Ngay cả việc sắp xếp vị trí ngồi của khách cũng là một vấn đề không hề đơn giản mà nhiều khi phải điều chỉnh đi điều chỉnh lại đến tận sát buổi tiệc vẫn chưa xong.

Như khi đón những đoàn chính khách nước ngoài, sơ đồ bố trí bàn tiệc và chỗ ngồi cho từng vị khách sạn phải xây dựng trước rồi gửi sang Bộ Ngoại giao duyệt, sau đó lại phải gửi qua cho đoàn khách xem lại, nếu họ đồng ý mới bắt đầu thực hiện.

"Nhưng nhiều khi bên Bộ Ngoại giao sửa rồi, đoàn khách yêu cầu thay đổi, rồi Bộ lại sửa lần nữa, cho đến sát tận bữa tiệc lại có sự thay đổi khiến chúng tôi cứ rối tung cả lên".

Vì lẽ đó mà có nhiều trường hợp dở khóc dở cười khi những khách ăn kiêng thì lại được phục vụ đồ ăn mặn còn những người bị dị ứng lại được mang ra đúng món mình sợ nhất rồi đành lắc đầu ngán ngẩm chờ nhân viên đổi đồ ăn.

Cũng có những vị vua lại hết sức giản dị như là vua Cata, ngoài những bữa tiệc ra thì ông ấy thường xuyên xuống phòng ăn như những người khách bình thường khác chứ không yêu cầu phòng ăn riêng. Nếu không thấy vệ sĩ và cảnh vệ đứng trong phòng thì chắc chẳng ai biết mình đang dùng bữa cùng một ông vua.

Hồi kí CCB - Mũi chính diện giải phóng Nông pênh - hướng sư đoàn 7 bộ binh.

Ngày đó 30.4 và 1.5 năm 1978 khi cả nước vui mừng kỷ niệm 3 năm hoàn toàn thống nhất trên giải đất VN hình chữ S này , đường phố Hà nội rợp cờ hoa của lễ hội , những điểm vui chơi ca hát tràn ngập trên đường phố , một nền hòa bình , điều mà nhân dân VN chúng ta luôn khát vọng từ nhiều thế kỷ qua đã chính thức có được 3 năm . Còn gì xung sướng hơn khi chúng ta là công dân được sống trong nền hòa bình , độc lập của dân tộc . Tôi lớn lên và bước vào đời trong cái không khí đó của cả nước , 18 tuổi xuân với bao khát vọng và những điều tốt đẹp hứa hẹn ở phía trước .

Ngày 2.5.1978 lệnh đổi tiền thống nhất trên toàn quốc , một nước độc lập cũng cần có sự thay đổi của ngành tài chính , thống nhất trên toàn quốc một loại tiền , ngày đó cũng như một ngày hội của cả nước , đó cũng là niềm vui , hạnh phúc của chúng ta sau nhiều năm chiến tranh , đánh dấu một giai đoạn ,thời kỳ của Đất nước đã thật sự liền một giải với sự thống nhất về tiền tệ .

Ngày 8.5.1978 chúng tôi nhập ngũ trong cái không khí hòa bình đó của cả nước , những chàng trai trẻ của Thủ đô HN vui vẻ tòng quân với nhiều khu (quận)cùng nhiều ngày khác nhau của những ngày giữa tháng 5 đó . Tôi thuộc khu Hoàn kiếm nên đi vào những ngày đầu tiên , điểm nhận quân là xã Lĩnh lam Thanh trì HN , cùng phố với tôi đợt đó có 5 anh em cùng đi , điều làm tôi vui nhất yên tâm nhất là cùng số nhà với tôi có Vinh lùn cùng đi đợt đó , Vinh hơn tôi 2 tuổi nhưng từ nhỏ quen gọi tên xưng tôi khi chơi cùng nhau nên lâu nay quen rồi , Vinh hiền lành ít nói chịu nhịn không tranh chấp với ai cái gì bao giờ, nhưng cũng chớ ai dại mà giây vào Vinh , một con người có nhiều tiềm ẩn bên trong mà không thể ngờ hết , không gì thể hiện ra bên ngoài nên không ai biết nhưng tôi thì biết , thậm trí biết rất rõ hơn mọi người .

Ngày đó tại sao tôi phải đi nghĩa vụ quân sự trong khi tôi cũng không cần phải đi nếu muốn ở nhà ?

Đơn giản thôi , mải chơi không chịu đi học , đua chơi cùng chúng bạn nên có giấy gọi đi NVQS của địa phương , tôi cũng muốn đi đâu đó để khẳng định mình , để làm cái gì đó , để chứng minh bản thân mình trước xã hội . Đi thôi sợ gì NVQS thời hòa bình , khi xưa chiến tranh còn chẳng sợ , nay thời bình rồi sợ cái gì ?

Trước ngày tôi đi , gia đình họp lại bố nói :

- Có 2 con đường cho con lựa chọn trước cuộc sống trước mắt :

1- Đi công an , sẽ luôn được ở gần nhà chẳng đi đâu xa khỏi HN , chuyện trong tầm tay bố nói một tiếng là xong ngay . Tôi biết điều đó bố tôi làm được , cũng chẳng khó khăn gì với ông cả .

2- Đi bộ đội , sẽ xa nhà , sẽ nhiều khó khăn vất vả , khi đơn vị chuyển đi đâu bố không biết , không quen ai mà nhờ vả gửi gắm , con tự đi tự phấn đấu rồi tự về .

Tôi chọn phương án thứ 2 , không suy nghĩ và cũng chẳng cần cân nhắc đắn đo .

Tôi yêu màu xanh áo lính , tôi tự hào về bộ quân phục , quân hàm đỏ trên ve áo , tôi ngưỡng mộ sự giản dị của người lính , trong mắt tôi khi đó những người lính là thần tượng là điều mà tôi muốn mình hướng tới , chẳng phải để mong rằng mình được là ông này ông kia mà chỉ bởi muốn thử thách chính mình trước sóng gió ( thời hòa bình thì lấy đâu ra sóng gió). Tôi đã nghĩ như vậy đơn giản thế thôi và tôi đã đi .

Chia tay tôi cũng chẳng có gì , vài đứa bạn thân , dăm ba gói bánh kẹo , bà con ruột thịt , hàng xóm tiễn đưa , 2 thằng cùng xóm lên đường 1 ngày cùng ăn cùng ở cùng tất cả mọi thứ của những ngày vất vả trên thao trường . Mẹ cho tôi mang đi ngày đó đâu 100 đồng tiền mới đổi , cô dì chú bác cho thêm ít nữa , cũng đến 50 đồng nữa , 150 đồng ngày đó cũng là tài sản lớn của nhiều gia đình , quá ổn đối với thằng lính mới nhập ngũ như tôi , lòng phơi phới niềm vui tôi lên đường nhập ngũ .

Thật chẳng giống ai điểm nhận quân lại là cái bãi đất rộng mấp mô ngay đầu dốc Lĩnh lam vế tay phải ngoài đê sông Hồng , sau này ngồi nghỉ mọi người nhìn kỹ lô đất đó , nó là bãi tha ma với cỏ mọc sâm sấp , điểm nhận quân trên bãi tha ma , nếu duy tâm thì đó là điều nên tránh , hãy để những người đã mất được nằm yên và những người sẽ đi lòng không một gợn nghĩ chứ ai lại nhận quân đi bộ đội trên bãi tha ma của xã Lĩnh lam bao giờ . Khoảng 5 600 người lính mới hôm nay được nhận tại đây trong khoảng thời gian ngắn 5 6 7 tháng hay 1 năm cũng đã dần dần nằm xuống giống như những người đang nằm dưới đất đây trên cả 2 chiến trường BGTN và BGPB . Đó là điều hết sức bất ngờ tất cả mọi người có mặt tại đó hôm đó không ai tưởng tượng ta nổi .

Ở điểm nhận quân tôi gặp rất nhiều bạn bè xưa học cùng lớp , cùng trường , nhà gần nhau đông lắm , nhìn tới nhìn lui toàn bạn bè cả , chơi với nhau từ nhỏ giờ đi bộ đội cùng nhau sẽ vui hơn có chuyện để tâm sự , một số thằng có bạn gái tiễn đưa , cũng xụt xùi trong nước mắt , họ đứng khuất đâu đó với những lời hứa hẹn vội vàng lưu luyến , chẳng ai để ý làm gì , hãy cho họ những phút giây riêng tư bên nhau vì những ngày mai đây dù muốn cũng không có cơ hội nữa . Tôi lạc lõng trong khung cảnh đó vì khi đó tôi đâu có người yêu , chỉ có bạn và chỉ là bạn thôi , tôi không muốn lúc ra đi phải nặng lòng chuyện yêu đương hơn nữa tôi khi đó cũng chỉ 17,5 tuổi biết gì đâu mà yêu với chẳng đương , ngày còn ở nhà chơi chung với nhau , hàng ngày phóng xe tít trên đường phố , đèo bạn gái sau xe máy hết sức vô tư biết gì , nghĩ gì đâu . Giờ đây mới thấy mình thiệt thòi biết vậy yêu bừa một em cho em ngóng chờ dài cổ cho biết mặt.

Đêm đó chúng tôi xuất phát từ Lĩnh lam đi về ga Thường tín , trời mưa to theo dọc đê sông Hồng mà đi rồi rẽ về hướng ga Văn điển lên đường QL1 , lội bùn dưới ruộng đi vào cả những làng bên đường , sủa dâm dan , đồ đạc cũng không có gì , bộ quần áo thay trong túi vài thứ lặt vặt 2 cái bánh mỳ thịt cho bữa sáng trưa mai vậy mà thấy nặng , đúng là toàn loại công tử con thành phố chẳng biết vất vả là gì , ra tới Văn điển thì vẫn thấy bảo đi nữa , ừ thì đi , bộ đội thì chỉ có đi chứ ai cho ở một chỗ mà ngại đi . Khoảng 11h đêm đi trên đường nhựa chân tôi đá phải cái gì mềm mềm , nhặt thử xem , ơ cái bánh mỳ , thằng nào làm rơi thế nhỉ ? Đi thêm đoạn nữa lại đá phải cái nữa , cứ thế liên tiếp đá phải bánh mỳ , cái bánh mỳ ngày xưa nó to chứ không nhỏ như bây giờ , sao thế nhỉ ? Hóa ra nặng chúng nó vứt đi , đồ ăn cũng vứt . Bố khỉ , có vậy mà đã vứt cả rồi , mới gần 10km đi bộ trên đường nhựa mà cứ như vượt Trường sơn không bằng .Toàn một lũ ăn hại cả .

Thế rồi chúng tôi cũng lê lết bò được cái thân ra tới ga Thường tín , thôi thì cứ gọi là loạn , tùy nghi di tản , thằng nào chui được vào đâu tìm được chỗ nghỉ ngả được cái lưng thì tự ý mà nằm , tôi cùng Vinh kiếm ngay được 2 cái lan can xây của bưu điện Thường tín nằm , vừa đẹp với vóc dáng nhỏ bé của chúng tôi , thỉnh thoảng những giọt mưa bay bay rơi trên mặt , kệ lính thì một chút phong sương có đáng gì , tập làm quen đi nay mai còn có bão tố đang chờ ấy chứ . Đang mơ màng thì một thằng ở đâu đến giọng rất hách dịch :

- Dậy đi chỗ khác nằm , chỗ đó của tao .

- Đây là nhà của mày à ? Tôi hỏi lại

Nó túm tôi lôi dậy , lúc đó tôi mới để ý vài thằng chúng nó đứng quanh , chúng nó thèm cái chỗ nằm của chúng tôi quá nhưng là đứa đến sau nên cậy đông người hơn vào bắt nạt 2 thằng tôi kiếm chỗ ngủ . Tôi là thằng không bao giờ mang vô lý đến cho ai nhưng cũng không thể chấp nhận kẻ khác mang vô lý đến cho mình , xưa nay vẫn vậy .

Bốp , bốp , tôi đánh ngay 2 quả đấm vào mặt nó không thương tiếc , bản lĩnh chiến đấu tay không tôi có dư hơn nữa bên tôi lại có Vinh lùn sợ gì mấy thằng chúng nó , thấy vậy Vinh chồm lên lao ra , 2 thằng tôi đánh dạt mấy thằng chúng nó , lúc này mới có thời gian và ánh sáng mờ mờ nhìn mặt nhau , thì ra mấy thằng bên phố hàng Buồm , chúng nó cũng nhận ra mấy thằng chúng tôi , biết gặp phải quân mặt rắn rồi nên chúng lảng và nhận bạn bè anh em . Từ đó cho mãi đến về sau mỗi lần gặp chúng tôi chúng đều tỏ thái độ nể , anh hùng hào kiệt đôi khi nể nhau chút máu chút bản lĩnh với nhau vậy thôi , biết nhau rồi cũng tránh va chạm .

Sáng hôm sau khoảng 8h tàu từ HN chạy vào ga Thường tín , chúng tôi lên tàu , trời đã sáng rõ bây giờ mới có thời gian nhìn mặt nhau , bây giờ mới biết chắc thằng nào đi bộ đội cùng với mình , hôm trước đông người lộm nhộm quá ai mà biết cho hết , thôi thì đủ hết , lớp chúng tôi của khu Hoàn kiếm , bạn học ngày cấp 1 đến cấp 3 đủ cả , quanh phố nhà tôi hết , biết nhau cả , thằng nào chưa biết sẽ phải biết , nhiều thằng tranh thủ tới làm quen chúng nó cũng như chúng tôi thôi , chắc có nghe chuyện đêm qua nên muốn gây cảm tình mà nhờ vả sau này , tránh bị bắt nạt cũng nên . 2 thằng tôi đâm gia oai giữa cái đám cùng khu phố đấy .

Tàu đến ga Ghềnh thì có lệnh xuống tàu , đi bộ về đơn vị , đường đi về hướng thị trấn Nho quan , lại lôi thôi lếch thếch đi giữa đồi núi Ninh bình ( lúc này gọi là tình HNN rồi ) các đơn vị doanh trại bộ đội liền nhau , chắc cũng sắp đến rồi , khu này toàn bộ đội cả nhưng càng đi càng mất hút , mấy ông nhận quân cũng chẳng thấy đâu nữa hóa ra vớ được cái xe các ông ấy nhảy tót lên với lời dặn đi về bến xe Nho quan nhé , rắn mất đầu quá đem con bỏ chợ , biết sau này khổ thế thì khi đó nhảy tót lên xe về lại nhà cho xong , ai hỏi bảo lạc đơn vị đi lại đợt sau ( nói vui thế thôi không dám như vậy ). Cũng may vẫy được cái xe của bộ đội cho đi nhờ về đến Nho quan nếu không có lẽ chúng tôi phải đi cả đêm mất , chân cẳng phồng rộp hết lên rồi , khoảng 8h tối về đến bến xe , lại cảnh không có chỗ nằm trong cái nhà chờ xe ô tô khách đó , chen lấn xô đẩy mấy bà buôn chuyến nằm nhà chờ xe kêu oai oái . Thằng Phú lỏi cùng phố kiếm cho tôi một chỗ nằm kha khá , mồm nó to và cứ quang quáng :

- Lui ra cho thằng H và thằng Vinh lùn nằm chúng mày .

Không thằng nào cãi hay hỏi lại cứ thế nằm xích lại với nhau hơn cho 2 thằng tôi cùng nằm chung , chúng tôi trở thành anh Hai lúc nào không biết , ra đời có chút bản lĩnh vẫn hơn kẻ nể người kiêng ăn trên ngồi chốc thiên hạ , cũng hay . Nửa đêm đói quá hỏi nhau còn gì ăn được không ? Thế là chúng nó mang bánh quy bánh xốp ra mời , có thằng còn có cả nước nữa , chúng nó có kinh nghiệm đi xa nhà có khác chuẩn bị kỹ thế .

Sáng hôm sau chúng tôi lên đường tiếp , mấy ông nhận quân từ những doanh trại quanh đó ra tìm quân , các ông có bạn đóng quân gần đó nên ghé vào ngủ nhờ mặc xác mấy thằng lính cầu bơ cầu bất này ngoài bến xe , chỉ với câu ngắn gọn về bến xe Yên thủy nhé thế là đi , bao nhiêu km ? không ai biết , cứ đi thôi bao giờ tới nơi sẽ biết , cũng đến 30km nữa , giữa rừng cây mua cây sim và núi đá , chim sáo từng đàn bay trên vách đá , ruộng ngô bạt ngàn cảnh đẹp nên thơ . Khoảng 3h chiều cũng về được đến bến xe Yên thủy thuộc tình Hà Sơn Bình , ở đây toàn nhà sàn và dân tộc Mường , vậy là chúng tôi đi xiên qua nhiều tỉnh rồi , sao đường đi vòng vèo thế nhỉ ?

Một anh bộ đội đứng ngay cái ngã 3 đó chỉ đường đi tiếp , trời ơi đi thế này bao giờ đến nơi ? Chân không còn bước nổi nữa , bao nhiêu hy vọng được ngủ một giấc sau nhiều km đi bộ mà giờ đi nữa , cũng may 4 5 km thì về đến doanh trại của đơn vị nhận quân .

Tới đây chúng tôi chính thức là người của D1 E 584 đơn vị huấn luyện tân binh trực thuộc QK3 ( Khi đó ta chưa thành lập QKTD như bây giờ ), chúng tôi được chia về ở nhờ trên nhà sàn của dân , mọi người thật tốt khi tiếp đón chúng tôi , không còn thiết tha gì nữa , bụng đói người mệt mỏi tôi làm một giấc không còn biết trời đất ra sao nữa cho tới tận sáng hôm sau , anh em khác cũng vậy .

Một chặng đường dài quá vất vả với những thằng công tử chúng tôi .

Sáng hôm sau chúng tôi dạy muộn , chẳng ai thiết gì ăn sáng của đơn vị , cán bộ cũng biết chúng tôi mới đi chặng đường dài thiết gì cơm sáng của lính nên cũng mặc kệ , khoảng 9h sáng mấy thằng tôi rủ nhau đi ăn phở , sẵn tiền trong túi đang dủng dỉnh đây , ra đến ngoài đường nhìn trước ngó sau bốn bề đều rừng và núi , những nhà sàn của người dân tộc Mường khuất sâu trong , nương sắn ruộng ngô bạt ngàn tầm mắt vậy thì lấy đâu ra quán bán phở cho mấy thằng tôi ăn , sao lúc này thấy nhớ bát phở của HN đến thế , mùi thơm ngào ngạt khói bốc nghi ngút , nước dùng ngọt lịm với hành thơm ớt cay cay một chút , bảo đảm nếu có khi đó tôi sẽ ăn 2 bát liền , thèm lắm , mới xa HN có 2 ngày mà thấy như đã là rất lâu , biết vậy trước lúc đi bộ đội tôi ăn thoải mái phở cho lúc này khỏi thèm .

Trưa hôm đó một kỷ niệm suốt đời không bao giờ quên đối với những thằng lính mới nhập ngũ như tôi . Bữa cơm đầu tiên của lính , chúng ta có thể quên hàng trăm hàng ngàn bữa cơm với cao lương mỹ vị nhưng bữa cơm này đã là người lính thì không thể quên được , chúng tôi xếp hàng từ nhà ở tạm nhờ của dân đi về nhà ăn của C , cái sân phẳng sạch sẽ có cái cột cờ đứng xếp hàng dưới sân đó , nhìn vào trong nhà ăn mâm bát đã đầy đủ , từng chậu cơm màu vàng trước mặt những thằng lính bụng đang đói meo , thằng nào cũng thắc mắc , nhà ăn cho ăn gì mà vàng thế nhỉ ? cũng lạ xưa nay có thấy cơm màu vàng như thế bao giờ đâu ? một thằng tuyên bố xanh dờn đầy hiểu biết :

- Cơm nấu trộn với bột trứng của bộ đội . Thằng khác cãi

- Của đâu ra mà lắm thế , lính mà đòi ăn cơm trộn với lòng đỏ trứng .

- Mày biết gì , bộ đội có tiêu chuẩn bột trứng rất nhiều nấu trộn với cơm ăn rất ngon . Bữa cơm đầu tiên đơn vị muốn gây ấn tượng cho lính nên đã làm như vậy.

Nó khẳng định đầy hiểu biết đế thêm câu chú tao bảo thế , vậy là chắc ăn rồi nhà nó có người truyền đạt lại kinh nghiệm của lính thì cãi làm sao được với hiểu biết của nó , chúng tôi đều công nhận như vậy .

Sau một loạt màn giới thiệu chào hỏi của mấy anh cán bộ đơn vị huấn luyện rồi đến tiết mục ăn cơm trưa , cho ăn thôi chúng tôi cũng đói bụng lắm rồi , phải tâm lý với chúng tôi một tý chứ bụng đói làm sao nghe được , hiểu được cái gì , ăn thôi . Vậy là từng nhóm vào nhà ăn ăn cơm , theo hàng theo lối trật tự và dưới sự giám sát của các anh cán bộ , bộ đội đúng là rách việc đến ăn mà cũng nghiêm nghỉ có người kiểm tra giám sát nhìn ngó cứ như sợ chúng tôi ăn tranh hết cơm của nhau không bằng ấy .

Lúc này chúng tôi mới té ngửa ra , trời ơi cơm độn ngô , cơm nấu độn với ngô xay nên nhìn cơm nó màu vàng , lấy đâu ra cơm trộn lòng đỏ trứng cho những thằng lính như chúng tôi . Thôi thì cơm bộ đội cơm tập thể có sao ăn vậy đòi hỏi làm sao được , ai cũng vậy thôi , ai bảo lâu nay chúng tôi sống xung sướng trong vòng tay cha mẹ quen rồi nên giờ đây cơm độn ngô đã là cả một vấn đề . Cố lắm mỗi thằng cũng chỉ nuốt nổi một bát cơm còn lại bỏ đấy , mấy anh cán bộ nhìn chúng tôi cười khẩy như muốn nói rồi chúng mày cũng phải ăn thôi , xem nhịn và chê cơm đơn vị được mấy bữa .

Sáng hôm sau chúng tôi tập trung trên sân đại đội , một cái bàn giữa sân ngay bên cột cờ , thế rồi một ông bê cái cặp ra ngồi với một ông nữa ngồi bên , sổ sách lôi ra đọc tên từng thằng lên nhận tiền phụ cấp tháng đầu tiên . Ơ hay nhỉ mới vào bộ đội có 3 ngày đã được nhận tiền rồi , giá như ngày nào cũng được gọi lên nhận tiền thế này thì tốt , tôi xin dành cả kiếp này và nhiều kiếp sau nữa của cuộc đời mà đi bộ đội .

Nhận giấy 5 đồng mới tinh màu xanh , tôi ngắm nhìn nó mãi , nó là đồng tiền đầu tiên QD đã chi cho tôi để dùng vào những chi tiêu lặt vặt của cá nhân mình trong một tháng , không gọi là lương mà gọi là phụ cấp , chỉ có lính nghĩa vụ hay hạ sỹ quan mới gọi là phụ cấp , còn SQ thì mới gọi là lương vì lương thì chỉ dùng cho lính chuyên nghiệp . Ra vậy , từ nay tôi chính thức là người của QD , QD phải lo cho tôi cơm áo gạo tiền , chuyện đó không còn là việc của bố mẹ tôi nữa , tôi sẽ là lính của cụ Võ nguyên Giáp , cụ Giáp sẽ lo cho tất cả chúng tôi từ những thứ nhỏ nhất và đương nhiên chúng tôi sẽ làm tất cả những gì cụ sai khiến . Làm lính của cụ cũng hay đấy chứ .

Mấy ngày sau lệnh chuyển quân , chúng tôi bị tập trung hết lên sân đại đội mang theo cả tư trang , mấy thằng tỏ ra hiểu biết hơn nói , chắc lại bắt đi tập gì đây , tôi không tin vì vẫn quần áo mặc ở nhà lên , chưa sắp xếp gì cả người chỉ huy cũng lung tung đã ra đâu vào với đâu mà tập với chẳng tành , thì cứ mang hết đồ của mình lên đã xem sao , đọc tên một loạt đứng sang một bên , cũng đến 6 70 thằng chúng tôi theo một anh quân hàm thượng sỹ người gày cao mặt sắt đen xì , mắt nhìn gườm gườm như muốn nuốt tươi những thằng như chúng tôi không bằng , vẫn cái kiểu nghiêm nghỉ vô duyên hết sức bởi xểnh ra là nghiêm với chả nghỉ rồi , một ngày cả trăm lần như vậy, hình như hết cái để làm rồi hay sao mà lấy chuyện nghiêm nghỉ ra đây cho có việc vậy , chán quá rồi anh ấy nói luyên thuyên một tràng , tôi cũng chẳng buồn nghe , nghe làm quái gì cho mệt óc , biết ông oai rồi , biết ông to rồi . Thế rồi đi , cũng chẳng biết đi đâu chẳng kịp chào chủ nhà mà mình đã tá túc mấy ngày qua , chẳng ra làm sao cả , biết chuyển chúng tôi đi thì cho biết để chúng tôi chào họ một tiếng cho thắm tình quân dân , ai lại làm vậy họ nghĩ gì về chúng tôi , nghe nói chúng tôi toàn trai HN nhập ngũ họ cũng nể ít nhất là con nhà có văn hóa dân thanh lịch dân Thủ đô , vậy mà họ để chúng tôi có lỗi với những người dân tộc Mường đó quá .

Đi khoảng hơn 10h thì qua trung đoàn bộ của E 584 nói vậy chứ biết ai vào với ai đâu , một đoàn lính nữ đi ngang , các chị chào hỏi chúng tôi rồi gọi đồng chí . Hay , mình cũng có đồng chí đấy chứ , anh mặt sắt đen xì kia cũng nói chuyện với mấy chị đó nên chúng tôi cũng được nghỉ ít phút , rồi lại đi và trên đường gặp rất nhiều nhóm anh em đi ngược lại chúng tôi , nhìn họ ăn mặc kém hơn chúng tôi có anh chơi nguyên cái quần màu đỏ chót thế là thành chuyện cười để nhóm chúng tôi trêu chọc , hỏi lính quê đâu đấy ? Lính Hà đây . Quái lính HN đâu có cái giọng nói đó ? Người HN đâu có ăn mặc nhếch nhác vậy ? Hỏi , lính Hà nào ? Hà Nam Ninh . Trời HNN thì bảo HNN ai lại lính Hà đây , xưa nay nói lính Hà không thì người ta vẫn nghĩ là lính HN thôi . Vậy là trêu chọc nhau gọi mấy anh lính HNN là QUẠI , vâng quại , từ nói nhại của QUÊ , chê mấy anh đó là quê , khổ , tôi cũng chẳng ưa kiểu gọi đó chẳng hay tý nào nên chẳng gọi anh em HNN với cái từ đó bao giờ , là người lính chưa chắc ai hơn ai sao mà gọi nhau như vậy được và 4 tháng sau thôi từ đó của lính HN cũng biến mất , tình đồng chí đồng đội quan trọng hơn cái đó nhiều .

Đi ngang cái nhà bên đường chúng tôi tìm chỗ nghỉ chân , chưa được 5 phút cái anh mặt sắt đen xì kia lại thúc đi , nói đàng hoàng cũng có người nghe thôi , nếu như những thằng như tôi đứng dậy mà đi thì anh em cũng đứng dậy đi theo , đằng này anh ra lệnh , quát tháo trợn mắt ra oai bắt đi nhanh cho kịp giờ cơm trưa của đơn vị , tôi nhỏ nhẹ nói báo cáo anh :

- Anh em mệt vì đi đường xa anh cho nghỉ ít phút rồi đi

- Gì đâu mà mệt , đứng dậy đi nhanh .

Thế là những thằng tôi lăn đùng ra không đi nữa , muốn làm quái gì chúng tôi thì làm , ăn thịt chúng tôi thì chẳng dám rồi , anh em khác a dua theo thế là gần 70 thằng chúng tôi cứ lỳ ra làm đếch gì được chúng tôi. Anh ta bèn xuống nước cho nghỉ thêm 10 phút nữa rồi đi tiếp .

Cũng đến gần 2h chiều mới về đến đơn vị , bữa cơm trưa lạnh ngắt , chẳng nhớ được đã ăn cái gì nữa bởi bữa ăn đó chẳng còn gây được ấn tượng gì với những thằng lính mới chúng tôi .

Lại nghiêm và nghỉ rồi chuyển qua cắt tóc , cắt thì cắt ai cho lính để tóc dài đâu , mấy cái kéo và cái lược được vứt ra thế là lính tự cắt cho nhau dưới sự giám sát chất lượng của mấy ông cán bộ , chẳng có tiêu chuẩn nào cả , chúng nó cắt tóc cho tôi 3 lần mới được , cứ như lỗi tại tôi không bằng ấy , vẫn cái anh mặt sắt đen xì kia gườm gườm nhìn tôi , ai mà tự cắt tóc cho mình được , muốn thế nào các anh phải chỉ bảo chứ , bỏ ra mấy cái kéo bảo cắt cho nhau đi thì những đứa biết nó cắt cho như vậy chứ đâu phải tại chúng tôi , thế rồi chia về các B của đơn vị tôi lại về đúng cái B của anh mặt sắt đen xì kia , hình như anh đó đã ngầm hỏi thằng nào đó trong số anh em HN nên biết tên của tôi và đưa tôi về B của anh ấy , rồi từ B chia tiếp về các A . Tôi chính thức thuộc quân số của A6 B2 C18 D5 E 584 QK3 , một chặng đường dài để trở thành quân số của đơn vị này , chúng tôi được chia về ở nhờ trên nhà sàn của người dân tộc Mường trong đội hình huấn luyện của A 6 , người dân vùng đó nghèo quanh năm toàn sắn với ngô nhưng lòng họ thì rộng mở đón bộ đội đến ở nhờ , nhà nào cũng vui vẻ .

Ở đây một điều nữa chúng tôi được biết số anh em HNN mà chúng tôi đã gặp dọc đường đi cũng là người của đơn vị này chuyển qua một nửa , thì ra họ muốn tách lính cùng quê ra khỏi nhau chia mỗi bên một nửa quân số cho dễ trị , nếu để lính cùng quê ở với nhau khó dạy khó bảo hơn , nên ở đây đã có một nửa quân số anh em HNN rồi , cũng hay bởi vậy hôm nay mới có chuyện CCB hai tỉnh chúng tôi hàng năm gặp nhau và lính chúng tôi hôm đó có mặt trên khắp các mặt trận BGTN hay BGPB trong thời gian đó .

Thao trường luôn là những ngày khó khăn nhất của những thằng lính mới chúng tôi .

A6

border=0 title=ng class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1025">

chúng tôi có 12 người , 6 người lính HNN và 6 người HN dưới sự chỉ huy của

border=0 title=ng class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1026">

A trưởng tên Nam lính 1974 quê Lào cai , anh người thấp hơi đậm trắng và cũng rất đẹp trai , tính hiền lành tình cảm , dễ mến sống chan hòa với anh em , là người đúng mực và luôn là người chúng tôi tin tưởng yêu mến , sau này khi vào chiến trường rồi chúng tôi cũng vẫn hay viết thư cho anh và anh Nam cũng hay viết thư cho chúng tôi , nhưng sau này do thuyên chuyển đơn vị hay gì đó không thấy thư của anh nữa . Chuyện lính huấn luyện viết thư về đơn vị cũ cho cán bộ huấn luyện trên thao trường cũng là chuyện ít có bởi ở đó ít gây được cảm tình với lính mới , họ làm nhiều việc thái quá nên lính sau khi huấn luyện xong chuyển đơn vị khác là quên luôn .

Cái anh mặt sắt đen xì kia , người cao ngổng cao ngồng mặc cái quần táp 7 ngày không đến gấu , lúc nào cũng hằm hằm như muốn ăn tươi nuốt sống chúng tôi là anh Sướng lính pháo cao xạ 1972 , sau chuyển qua huấn luyện lính bộ binh chúng tôi , anh quê Ninh bình , nghe đâu cách đơn vị tôi có 50km , thỉnh thoảng vẫn tranh thủ phóng xe đạp về thăm nhà , chắc thân phụ của anh xưa kia nghèo khổ quá chẳng ước mơ gì hơn nên đặt tên anh là Sướng cho cuộc đời thay đổi đi cũng nên . Sướng gì mà sướng khi bản mặt lúc nào cũng như đâm lê như vậy .Thực ra anh này cũng là người hiền lành biết điều, nhiệt tình quá đôi khi hơi cứng nhắc , chưa biết thì vậy sau này thân quen nhau rồi cũng rất tình cảm và thương lính chúng tôi , làm anh thì phải vậy chứ để các em nó ghét thì cũng khó sống đấy .

C trưởng chúng tôi của

border=0 title=ng class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1028">

C18 là anh Thụy lính 196x chuẩn úy đeo đến bạc cả quân hàm , quê anh Hải hưng , cũng tác phong kiểu anh Sướng quát tháo lính suốt , đôi khi hơi gia trưởng , ông ấy cứ làm như chúng tôi là con của ông ấy không bằng , nhưng thôi công việc và nhiệm vụ của họ phải như vậy . Cả C có mỗi cái nhà ăn và bếp của C còn lại ở nhờ nhà của người dân tộc Mường hết , chúng tôi được ở nhà sàn , mỗi B

border=0 title=ng class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1029">

một bãi tập riêng ,

border=0 title=ng class=inlineimg v:shapes="_x0000_i1030">

B tôi có bãi rộng ngay gần suối từ nhà ra cũng gần và là B gần đường quốc lộ nhất , chỉ cần đi tắt xiên rừng ngay chân nhà đi 500m nữa là ra tới đường rồi .

Vinh lùn và tôi vẫn được ở cùng nhau , thêm Hải trắng hàng Buồm và thằng Thể chọ chẹ , thằng này nói đặc giọng Nghệ an , bố nó làm công an HN mới chuyển được gia đình vợ con từ quê ra nên nó từ bé sống trong Nghệ an , nó nói thì phải có phiên dịch , tiếng nặng khó nghe nhưng được cái tính ngoan , hiền lành và rất sợ ma (của nợ , đi lính rồi mà vẫn sợ ma ). Rồi anh Vũ và thằng Sơn nhà Quốc tử Giám , trong đám chúng tôi anh Vũ lớn tuổi nhất còn lại choai choai như nhau cả . Anh em HHN cũng 6 người , anh Sinh lớn tuổi hơn cả , có vợ con ở nhà rồi , sức khỏe yếu hay ốm vặt , Bình trắng trẻo đẹp trai , Sơn cao ngổng cao ngồng to khỏe từng là thợ kéo xẻ nên gọi là Sơn ngồng , Minh cũng như Sơn nhưng do va chạm nhiều nên sống có thủ đoạn anh em không ưa , Định đen lùn ăn nói ngây ngô trí tuệ hơi kém và cuối cùng là thằng Quân chớt , thằng này tên là gì đó , anh họ nó tên Quân hiện đi vắng nên khi có giấy gọi đi bộ đội nó đi thay, có 15 tuổi hơn tính còn trẻ con lắm , nói cái gì cũng chớt ngay , chúng tôi chẳng hiểu là gì cả sau tìm hiểu ra đó là tiếng địa phương của nó từ chớt nghĩa là ăn , ăn ngay , của khỉ gọi tiếng địa phương thế thì bố thằng nào mà hiểu được , cho nó cái gì ăn được là nó chớt ngay , thế thôi , vậy là tôi đặt cho nó cái tên Quân chớt . Anh em HNN toàn người hiền lành thật thà cả , họ sợ chúng tôi a dua nhau đánh họ , họ biết lính HN đoàn kết cao hơn , sẵn sàng ăn thua đến cùng nếu cần , nhưng đó là lý vậy thôi chứ chúng tôi cũng quý họ lắm , sống với nhau hàng ngày tình cảm ắt sẽ nảy nở ai nỡ làm chuyện vô lý đâu mà họ phải sợ , điều chúng tôi muốn là sống tốt với nhau và tình cảm thế là được rồi .

Mấy ngày sau được phát quân trang , một màu xanh rờn mới cứng trên cả C18 , thế rồi những ngày nghiêm nghỉ , tập hợp , giải tán rồi mốt hai mốt bắt đầu , những ngày học chính trị buồn ngủ vô cùng , CTV của tiểu đoàn xuống giảng bài cho cả 2 C 17 và 18 chúng tôi , ngồi đó nghe mà hồn đang nơi góc phố HN , nhớ nhà lắm lúc nào cũng muốn ra đường nhảy xe về ngay , thế rồi thì thụt bàn bạc với nhau , từng nhóm từng nhóm tính chuyện trốn về thăm nhà , do thiếu kinh nghiệm nên phần lớn anh em bị bắt lại , không mấy người về thoát , vậy mà vẫn trốn , đêm nào cũng có thằng bỏ trốn , cán bộ A B C đau đầu với mấy thằng lính HN chúng tôi , tôi cũng trốn 2 lần mà không thoát , có lần đi gần về đến Nho quan rồi còn bị bắt ngược trở lại , rồi phạt phơi nắng dưới cột cờ rồi đứng trước đại đội hô to 10 lần

Ai cũng như tôi thì mất nước .

Nhưng lính vẫn trốn vẫn về dù chỉ là một phần nhiều tia hy vọng . Tôi ngẩm nghĩ mãi chẳng hiểu sao cả 2 lần trốn của tôi chỉ nói cho mỗi thằng Minh HNN biết mà chỉ đi khoảng 2km là cán bộ đuổi theo rồi mặc dù tôi đã rất cẩn thận , mặc màn lên giường nằm cho cán bộ thấy , kiểm tra xong là đi , kết luận chỉ có thằng này báo cán bộ biết chứ chẳng còn ai , anh Nam thì bật đèn xanh cho bọn tôi , thằng nào về được thời gian này thăm nhà thì cứ về , đương nhiên chỉ nói riêng với lính HN thôi , còn ai nữa ngoài thằng này , nó ôm chân cán bộ B rồi , vậy là ghét , sẽ có lúc tìm lý do cho nó một trận , lính với nhau mà chơi vậy là hèn .

Sau lần bị bắt lại lần thứ 2 tôi điên lắm , xin gặp riêng đại đội trưởng Thụy , được đồng ý trưa hôm đó sau bữa cơm trưa , tôi vào thẳng BCH đại đội ngồi nối chuyện với anh , tôi nói :

- Em rất muốn về thăm nhà ít ngày , thứ nhất lấy ít thuốc đau dạ dày (lúc này tôi có triệu chứng đau dạ dày)thứ 2 lấy thêm ở nhà lên ít đồ ăn và xin nhà tiền tiêu , ăn uống của đơn vị tôi ăn không được .

Anh trợn mắt trợn mũi với tôi nghe chừng ngạc nhiên lắm , làm huấn luyện lâu năm làm gì có thằng lính nào ngang tàng như tôi ,xin gặp rồi đi thẳng vào vấn đề không cần úp mở rào đón . Thế là ông sổ ra hàng đống quan điểm , hàng gánh tội đổ lên đầu tôi và giọng thì cũng cực kỳ bố tướng , tôi cho nói chán đi rồi nói :

- Nói gần nói xa chẳng qua cũng đi thẳng vào vấn đề , dứt khoát tôi phải về nhà dù chỉ một lần , nếu anh tạo điều kiện cho về thì tốt , nếu không tôi vẫn trốn về đến bao giờ về được thì thôi , kỷ luật tôi thế nào cũng được , nhưng tôi phải về .

Thế là ông lại lôi ra một đống chuyện để kể đe dạy tôi

- Chuyện có thằng lính đơn vị đóng cách nhà có 30km , bố nó chết nó xin đơn vị về chịu tang , đơn vị không cho về vì sắp tới phải đi bắn đạn thật , nó ở lại mặc dù rất buồn nhưng vẫn bắn được 30 điểm , hoàn thành nhiệm vụ ...vv Thao thao bất tuyệt chuyện người đầy tính nhiệm vụ và trách nhiệm , chẳng biết chuyện có thật hay bịa ra không nhưng tôi nghe thấy chối , anh làm tốt nhiệm vụ thật nhưng anh đã đánh mất đi chữ HIẾU của đạo làm con , anh sẽ bị người đời nhiều năm chửi rủa , anh quên mất cội nguồn quên đi công cha như núi Thái sơn , loại người đó thì cũng hay ho gì mà đưa ra đây cho chúng tôi học tập

Tôi tuyên bố hùng hồn :

- Loại người đó đem bắn 3 lần chưa hết tội , làm con sống phải có hiếu nghĩa với mẹ cha chứ . Ai sinh và nuôi lớn cái thằng đó ra ? Anh đừng nói những cái chuyện đó với tôi , tôi không nghe đâu , điều tôi nói tôi sẽ làm và làm bằng được , tôi sẽ trốn 5 lần chưa được thì 10 lần .

Thế là lão khùng lên với tôi , quát tháo ầm ỹ , nâng quan điểm thi hành kỷ luật ngay lập tức , phạt đứng nắng giữa sân đại đội , lôi ra lò gạch đứng cho nắng to mà chết đi . Tôi chẳng ngán và lần trốn về thăm nhà lần thứ 3 chót lọt , tôi và anh Vũ bỏ đi lúc nửa đêm , cũng tỉnh táo hơn có 3 anh em tôi biết , Vinh lùn thì cậy răng nó cũng không nói rồi , đường đi cũng lắm gian truân nhưng cũng về được đến nhà , HN của chúng tôi đây rồi sao nó thân thương thế cái nơi mà những người con của HN đi xa không thể không nhớ , cha mẹ anh em họ hàng , bà con chúng tôi ở đây , nơi chúng tôi sinh ra và lớn lên này , nó là máu thịt của chúng tôi , từng góc phố hàng cây ăn vào từng tế bào trong cơ thể làm sao không nhớ cho được .

Hà nội ơi ! con đã về đây . Về nhà được một tuần , vui lắm thích lắm , ai cũng hỏi thăm bạn bè xúm xít suốt ngày , hàng xóm cũng nhìn tôi bằng con mắt khác , anh bộ đội cụ Hồ rồi , bộ đội là bố trẻ con rồi đâu còn bé bỏng như ngày nào nữa . Anh em đơn vị cũng lác đác trốn được vài thằng , tụ họp nhau lại qua về thăm hỏi nhau , bố mẹ chúng nó cũng quý chúng tôi dù mới gặp lần đầu , bố tôi vui thấy con về thăm nhà nhưng cũng buồn vì biết tôi vô kỷ luật trốn đơn vị về chơi .

Hôm đó đi chơi về khoảng 6h tối gặp ngay anh công an hộ tịch phố trước cửa nhà , bắt tay chuyện trò hỏi thăm tôi anh quen biết quan hệ với gia đình tôi lâu năm rồi , thân tình như người nhà , rồi anh hỏi tôi về có việc gì ? Giấy tờ đâu đưa anh xem ? Tôi nói , em trốn đơn vị về chơi đấy , mấy ngày nữa em lên , thế rồi khuyên giải nói cả tiếng đồng hồ , động viên rồi truyền thống Cách mạng của gia đình ý thức trách nhiệm công dân , thôi thì bao nhiêu ngôn từ tốt đẹp nhất anh nói ra cả . Chắc ông này lo tôi trốn về không đi nữa đây . Tôi hứa rằng em sẽ lên đơn vị mà , không trốn hẳn đâu em chỉ về chơi thôi mấy ngày nữa em đi rồi . Phải hứa lên hứa xuống ông ấy mới chịu tin cho và hỏi chính xác ngày nào đi để anh còn tiễn , thôi tiễn đưa làm gì cho rách việc ra , sáng thứ hai em đi .

Đấy , ngày đó con người ta cũng hiền hòa hơn , tốt với nhau hơn , quan tâm đến nhau thật lòng hơn mặc dù bây giờ tôi chẳng còn liên quan gì tới chuyện công an địa phương nữa .

Chúng tôi lên đơn vị và chịu kỷ luật , bến xe Hà đông ngày có duy nhất một chuyến xe chạy hướng lên Yên thủy từ sáng sớm , thằng nào cũng tải hàng ba lô đầy đồ ăn mang từ nhà lên , tôi thì ngoài những thứ gia đình cho mang theo cũng không quên mua thêm bánh thuốc lào và chai nước mắm biếu bà mẹ chủ nhà người dân tộc Mường , trên đó họ thèm mấy thứ này lắm , nghe đâu nước mắm 1 năm mới được mua 1 chai ăn Tết còn thuốc lào thì ít phải mua ngoài cũng hiếm lắm , dân Mường họ hút thuốc lào nhiều , già trẻ , gái trai , lớn bé đều hút cả , điếu cày thì đi đâu , ở đâu cũng thấy có , họ dựng điếu ở khắp nơi từ ruộng lúa đến rừng xa đâu đâu cũng có . Thôi thì đường sữa bánh kẹo cafe thuốc lá (lúc này tôi tập tọe hút thuốc lá rồi , ngu thế) mỳ sợi thì đầy chặt ba lô thêm cái túi xách tay nữa vẫn chưa hết , mẹ chuẩn bị cả cơm thịt kho thịt luộc cho tôi ăn đường , thêm tập tem thư và 200 đồng đút túi nữa , yên tâm rồi tôi từ biệt mọi người lên đường về đơn vị . Chuyến xe đi Yên thủy hôm đó đặc lính HN D5 chúng tôi , không một ai đi được ngoài lính , vé xe khi đó khó mua vì ưu tiên cho mấy bà buôn hết rồi , thời đó là vậy đi lại khó khăn lắm , nhưng lính là vậy cùn hết chỗ nói , xông thẳng vào ban điều vận bến xe với hàng tỷ lý do khẩn cấp trở về đơn vị , chắc mấy ông bến xe cũng ngại giây với lính nên vội hoãn hết vé đã bán đi hôm nay chuyển sang ngày mai còn hôm nay chỉ chở lính về đơn vị , mấy bà mẹ có con trong đợt bọn tôi đi lên thăm con đúng ngày này cũng hưởng xái khi chúng tôi nhận đó là người nhà , ngày đó họ ưu tiên bộ đội lắm nói cái gì họ cũng cho là đúng là phải , chỉ có ông lái xe là buồn vì ngày nay chắc không kiếm trác được gì thôi .

Xe chuyển bánh , càng chạy càng xa dần cái nơi chúng tôi chẳng muốn rời , nhưng thôi muốn hay không cũng phải đi người lính không có quyền nói tôi muốn hay không muốn . Khoảng 5h chiều chúng tôi về đến đơn vị , nhóm C18 chúng tôi gần 20 thằng tập trung hết lên C bộ , ông Thụy nhìn chúng tôi ngán ngẩm , 1 2 thằng còn tìm cách dọa nạt chứ 20 thằng thì ông khóc cũng phải thôi , chỉ chờ ông Thụy nói một câu đuổi khỏi đơn vị thôi thì cả 20 thằng tôi quay ngoắt 180 độ về ngay , ngược lại ông ấy cho về tắm rửa nghỉ ngơi mai lên nhận công tác , chúng tôi nhìn nhau cười hể hả vì đánh thắng ngay trận đầu với quân số đông áp đảo , chia nhau thằng nào về A B thằng đó , ba lô nặng trịch với hàng nhu yếu phẩm mới mang từ nhà lên , tối đó bên A của tôi như ngày hội , anh em xúm lại chuyện nhà chuyện HN , cafe thuốc lá quà cáp tưng bừng , tôi trịnh trọng mang biếu gia đình bà mẹ dân tộc Mường 2 món quà đã chuẩn bị kỹ từ nhà , mẹ xúc động lắm từ xưa đến nay không biết bao nhiêu đoàn bộ đội ở nhờ nhà mẹ mà có ai có quà cho mẹ đâu , đến ở nhờ rồi đi rồi đoàn khác đến , ai cũng khó khăn cả mấy ai có gì biếu mẹ , vậy mà cái thằng tôi bướng như quỷ hỗn như gấu này khi về nhà còn nhớ tới mẹ . Nhiều năm sau chúng tôi còn nhớ đến tình cảm mà gia đình và mẹ dành cho những đứa con bộ đội chúng tôi , nhiều đứa không bao giờ về gặp lại mẹ nữa nhưng mẹ vẫn nhớ và chúng tôi vẫn nhớ về mẹ như vậy . Sáng hôm sau gần 20 thằng lính vô kỷ luật chúng tôi được tập trung lên C bộ nhận nhiệm vụ mới , anh em khác vẫn ra thao trường tập bắn như bình thường , cũng gần đến ngày bắn đạn thật bài 1 rồi , nghe nói là cuối tuần này thì phải , mấy thằng chúng tôi cũng đã tập được bao nhiêu đâu , mới được vài buổi đã bỏ về rồi , bây giờ không cho ra thao trường tập định làm gì nữa đây .

Hành ! bị hành tỏi sau khi vi phạm kỷ luật của đơn vị , đó là điều dễ hiểu , chúng tôi chấp nhận .

Hai anh Thụy và Sướng tập hợp chúng tôi lại , vẫn cái nét mặt và giọng điệu đó , trói tội nâng quan điểm , mắng mỏ rủa xả thậm tệ , một tòa án quân sự cấp C với sự chủ trì của quan tòa và tội phạm , không luật sư bào chữa hay viện kiểm sát , đố ai tìm thấy tính dân chủ ở đây , lời buộc tội thì đanh thép hùng hồn và phán quyết cho những tội danh dài hàng trang giấy , cái gì cũng được nâng cao quan điểm lên gấp 30 lần trở lên . Phạm nhân không cãi , không biểu lộ tình cảm và cũng không hề ăn năn hối hận điều đã làm .

Sang phần quyết định tội :

Chúng tôi phải lao động kỷ luật dưới sự giám sát kiểm tra đôn đốc của anh Sướng , tay sát thủ của những thằng lính vô kỷ luật trong C18 chúng tôi .

Lại đến ông Sướng này mắng mỏ rủa xả lần thứ 2 rồi đi đến cụ thể của việc thi hành kỷ luật , chúng tôi sẽ bị chia làm 2 nhóm , nhóm thứ nhất dọn dẹp sân đại đội , chuyển đống củi tổ bố kia lên cái nền nhà cũ cao hơn , dọn dẹp quanh sân , san lấp những điểm lồi lõm trong sân đại đội do những trận mưa gây lên , nhóm thứ 2 dọn sạch chuồng lợn của đại đội , cắt cỏ lạc bỏ vào chuồng cho lợn nằm và làm phân xanh luôn , tôi đương nhiên là thuộc nhóm thứ 2 rồi , ông Sướng này chỉ đích danh tên tôi và anh Vũ qua nhóm này , chạy lên mây cũng không thể thoát nổi .

Chúng tôi nhận cuốc xẻng rồi ra chuồng lợn của đại đội . Một dãy chuồng khoảng 5 khoang , mỗi khoang độ 4 con lợn trên dãy nhà tranh nền đất nằm tít ngoài xa kia , chung quanh toàn buộc bằng những thanh gỗ chưa đi đến nơi đã ngửi mùi ô uế , cảnh tượng đập vào mắt tôi khiến tôi rùng mình khiếp sợ , gần như 20 con lợn sống ngập ngụa trong phân và nước tiểu của chúng , cái thứ nước đặc sệt bẩn thỉu đó ngập đến tận bụng chúng , trên mình những con lợn đó phân trát đầy , những vết lở loét đầy mình do chúng cắn nhau nhiễm trùng không lành được . Kinh khủng khiếp .

Nhiệm vụ của chúng tôi là vào trong chuồng lợn cào xúc hết phân , nước tiểu đó ra cho chảy vào cái rãnh phía sau chuồng , rồi cắt cỏ lạc bỏ vào chuồng lợn lại cho chúng nằm , chỉ từng đó thôi cũng là quá lớn với những thằng lính như chúng tôi , từ nhỏ đến giờ đâu biết lao động và nếu có thì chưa bao giờ tiếp xúc tới bẩn thỉu mất vệ sinh tới mức thế này . Chúng tôi đun đẩy nhau nhưng rồi cũng phải bắt tay vào thôi không làm thì làm sao cho xong được , xắn quần cởi áo nhảy vào chuồng lợn , những con lợn hốt hoảng chạy lung tung trong chuồng thế là nước bẩn văng khắp người chúng tôi , thằng nào cũng phân lợn văng từ đầu đến chân , cái mùi hôi thum thủm quện lấy người 3 ngày sau vẫn còn thoang thoảng , cứ 2 thằng một khoang , tôi với anh Vũ nhận một khoang dọn vệ sinh , chỉ 2 anh em nên không thằng nào đun đẩy cho nhau được nên anh em bảo nhau làm cho nhanh còn chạy , ở đây lâu tổn thọ lắm . Khoảng 10h anh Sướng xuống kiểm tra , vẫn chưa được phải làm lại lần nữa , lại chui vào chuồng lợn cào vét phân anh Sướng đứng đó kiểm tra nghiệm thu trực tiếp , cũng tưởng vậy là xong , có thể lo tắm rửa chuẩn bị ăn cơm trưa nhưng chưa hết , đi cắt cỏ lạc bỏ vào chuồng trong buổi sáng nay , vậy là lại dao , liềm đi cắt cỏ lạc , chúng tôi phải đi ra sát bờ suối gần C17 mới có nhiều cỏ để cắt rồi ôm làm mấy chuyến mới đủ cho lợn nằm , gần 12h trưa cũng xong việc , chạy vội ra suối ngâm mình dưới nước cho trôi đi hết những thứ bẩn thỉu bám trên người , gội đầu kỳ cọ cho nhau cả tiếng đồng hồ chưa sạch hết , về đến C bộ nhìn mâm cơm chán chẳng buồn động đến , chúng tôi cũng chẳng thiết cơm đơn vị mà cũng không còn thời gian để ăn nữa , kẻng buổi chiều ra thao trường cũng đã bắt đầu được một lúc rồi .

Lại tập họp và 2 hàng nghiêm nghỉ giữa sân đại đội , lại ông Thụy quán triệt ông Sướng trực tiếp chỉ huy , chúng tôi phải tập bắn bia bài 1 cho kịp với anh em khác nên sáng trưa chiều tập liên tục không nghỉ , thế là lại ra thao trường , nhóm này được tập riêng và bãi tập là gần cái lò gạch cạnh suối , khu vực cả ngày không lúc nào mát cây cối trơ chụi lấy đâu ra bóng dâm , giữa trưa đứng đây 15 phút đã thấy hoa cả mắt rồi , mặt đất lúc nào cũng hâm hấp nóng , nghe vậy chúng tôi đã sợ rồi , một vài ý kiến nho nhỏ kêu nắng nóng , ông Sướng quoắc mắt nhìn chúng tôi nói :

- Nóng gì mà nóng , tôi chịu được các đồng chí cũng chịu được , tôi không bị kỷ luật mà cũng phải chịu khổ như các đồng chí không khác gì bị kỷ luật , tôi không kêu tại sao các đồng chí kêu nắng với nóng ?

Chịu rồi , gặp ông khùng khùng điên điên này theo sao nổi , chơi cái trò này thì chúng tôi xin thua là cái chắc , mấy thằng công tử trắng như cục bột , mặt non choẹt còn hơi sữa mắt còn mộng mơ nhìn đời phải theo cái ông mặt sắt đen xì này thì có lẽ gục hết thôi , rèn luyện kiểu hành xác này thì chết trông thấy .

Chúng tôi ra thao trường và tập bắn dưới sự giảng dạy chỉ bảo của anh Sướng , nằm dưới đất dưới trời nắng như đổ lửa ngắm bắn , một lúc thì mắt hoa lên nhìn cái gì cũng nhòe cả , má thằng nào cũng đỏ hồng sờ vào đầu nóng như sốt , một mình anh Sướng đánh vật với 20 thằng chúng tôi suốt buổi chiều , anh cũng mệt vì liên tục phải đứng lên nằm xuống dùng kính ngắm kiểm tra từng thằng chúng tôi , cũng phải thôi , chúng tôi ngây ngấy sốt thì anh cũng phải hâm hấp nóng chứ đều là con người với nhau cả sức chịu đựng cũng có giới hạn của nó .

Sang ngày thứ 3 liên tiếp tập tành với nhau sỏi đá cũng sinh tình cảm , thái độ của anh Sướng cũng nền nã hơn không còn cáu gắt cục cằn nữa , có thể phần nào anh cũng hiểu chúng tôi , trong thời gian đó chúng tôi tập rất nghiêm túc với tinh thần học hỏi cao , sự căng thẳng trong quan hệ cũng trùng xuống , chúng tôi đã nói chuyện với nhau , mời nhau uống nước hút thuốc trong những phút giây nghỉ giải lao hiếm hoi trên thao trường , anh Sướng nói :

- Anh Thụy vừa hỏi tôi về chuyện luyện tập của anh em bị kỷ luật mới lên đơn vị , có hỏi chuyện đăng ký bắn đạt loại mấy để còn nộp báo cáo lên D và E , tôi không dám đăng ký nhiều chỉ dám đăng ký 6 người loại khá còn lại trung bình hết .

Chúng tôi hỏi lại anh bắn đạn thật như thế nào là đạt loại trung bình , khá và giỏi .

- Bắn đạn thật đạt 28 đến 30 điểm là loại giỏi , 24 đến 27 loại khá , 20 đến 23 điểm là trung bình , còn dưới nữa là loại kém .

Chúng tôi nhao nhao đăng ký toàn khá và giỏi không , anh hỏi :

- Các đồng chí có dám đăng ký và quyết tâm bắn đạt với lời hứa không ? Nếu dám tôi sẽ lên đăng ký lại và phải chịu trách nhiệm trước thành tích của đơn vị .

Chúng tôi xin đăng ký và xin chịu trách nhiệm về lời hứa của mình , 12 người đăng ký loại giỏi còn lại toàn loại khá . Chiều hôm đó chúng tôi vui lắm , tập nhiệt tình và tự giác hơn , những lúc nghỉ giải lao anh Sướng tranh thủ giảng thêm về lý thuyết và truyền đạt lại kinh nghiệm khi bắn đạn thật , yếu tố tâm lý cũng rất quan trọng , điều cơ bản là thật bình tĩnh , không có điều gì phải lo sợ cả và với thực tế qua kiểm tra trên kính ngắm anh tin chúng tôi sẽ thực hiện được lời hứa trước đơn vị .

Về chúng tôi thì toàn thằng thuộc loại không biết sợ thì chuyện bắn đạn thật cũng chẳng phải là cái gì ghê ghớm cả dù chưa từng bắn súng bao giờ . Làm gì tới mức như mọi người nói có anh lính lên bệ ngắm bắn sợ quá đái ướt cả quần và bệ bắn .

Hôm sau chúng tôi tập hăng hái hơn , không cần phải thúc ép rục rã , lần lượt thay nhau tập không nghỉ , tâm lý cũng thoải mái hơn trong quan hệ giữa cán bộ và chiến sỹ cũng là phần thúc đẩy lính chúng tôi tự giác tập .

Ngày thứ sáu chúng tôi chuẩn bị cho hôm sau đi bắn đạn thật , không tập tành gì nữa , ăn uống nghỉ ngơi tắm rửa và học chính trị , quán triệt nhiệm vụ và nội quy trường bắn , tối đó anh em đi ngủ sớm sáng mai dậy sớm đi về trường bắn của trung đoàn .

C18 chúng tôi bắn thứ 2 sau C17 , cũng rất nhanh 10 người một lượt lên bệ bắn , thực hiện nội quy trường bắn rất tốt , thành tích C18 đạt được trên mức đã dăng ký nhiều . Ai cũng phấn khởi , cán bộ khung thực sự vui khi thấy kết quả của chúng tôi nói thay cho thành tích của họ .

Riêng nhóm bị kỷ luật của chúng tôi thành tích trên mức đăng ký 15 người đạt loại giỏi 5 người đạt loại khá với số điểm sát nút loại giỏi . Tôi bắn đạt 28 điểm . Sau mấy ngày học chính trị chúng tôi lại chuyển qua tập bắn bài 2 , với 12 viên đạn và 6 loạt điểm xạ , 3 loại đầu nằm tại bệ bắn , 3 loạt sau vận động ở cự ly 200m , chỉ cần bắn trúng bia là được tính điểm , 3 loạt đầu phải bắn trúng bia ít nhất 1 viên , nếu trượt coi như không hoàn thành nhiệm vụ không được vận động bắn khi bia hiện lên , một điều nữa và cũng rất quan trọng là bắn phải liên thanh 2 hoặc 3 viên một lần không được tắc cú , khi ta vận động bia sẽ ẩn đi , khi xuất hiện trở lại là phải lập tức quỳ xuống bắn . Bài tập này tương đối khó nhưng rất cần cho bộ binh trên chiến trường , đây là chuyện hàng ngày của lính chiến đấu , nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào , đòi hỏi người lính khi tập phải vận dụng tất cả như tay cò , chân chạy và tư thế quỳ bắn , mắt quan sát khi vận động , chỉ thiếu mỗi mồm hô xung phong nữa thôi là đúng như những tình tiết có thể xảy ra trên chiến trường . Đây là một trong những bài tập bắn súng khó của lính bộ binh .

Chúng tôi chuẩn bị thao trường và đi vào tập luyện , những ngày đầu tương đối vất vả nhưng sau rồi thì cũng dần quen , vẫn sinh hoạt đơn vị như bình thường .

Đây là thời kỳ khó khăn nhất của chúng tôi , chuyện ăn uống của lính đã có vấn đề , lúc đầu thì thay cơm bằng hạt bo bo , nhai tới sái quai hàm chưa hết 1 bát bo bo hầm , thức ăn thì coi như không có gì vào nhà ăn chỉ trơ mỗi chậu bo bo và mấy cọng rau do đơn vị tăng gia được vào những chiều thứ bảy , chậu nước chấm thoang thoảng mùi nước mắm để trên gần bảng tài chính công khai của đơn vị , chẳng hiểu họ đã công khai cái gì khi mà ăn uống chỉ có vậy .

Lính ăn bo bo như thế nào thì khi ra cũng vẫn nguyên thế , chẳng thể tiêu hóa được lính tụt sức khỏe trông thấy , ai cũng uể oải mệt mỏi , nét đói đã phủ lên gương mặt lính và nhất là anh em HNN khi hoàn cảnh gia đình khó khăn hơn , anh em không được gia đình cung cấp thêm .

Khoảng nửa tháng sau thì chuyển qua ăn bột mỳ hấp , sáng mỗi người một cái to bằng cái chén uống nước Trung quốc loại to , trưa và chiều mỗi bữa 2 cái , ít rau xanh chậu nước canh rau cho thêm chút muối và ít mỳ chính , mấy con cá kho nhỏ kho hay dim , vì cá nhỏ quá nên khi xào nấu xong nhìn lại còn mỗi đầu và đuôi cái thân phần bụng nó đã nát hết rồi , lính đói ra mặt nét mặt chán nản hiện rõ nhất là những thằng lính ăn khỏe thì luôn nhăn nhó . Chúng tôi thì vẫn còn nhiều đồ ăn mang từ nhà lên , cũng chia xẻ với anh em nhưng cũng phải lo cho mình nữa chứ , mấy thằng trốn về đợt này có thằng Thành bên hàng Buồm , nó chơi với tôi hồi còn ở nhà chẳng hiểu về nhà nói những gì mà khi nó lên lại đơn vị mẹ tôi gửi nó mang lên hộ tôi hàng ba lô đồ ăn gồm sữa đường và bánh bích cốt , nguyên một con vịt quay hàng Buồm cho anh em tôi liên hoan , thuốc lá sông Cầu cả cây , mỳ sợi cả bao cùng tiền mặt cho tôi tiêu vặt . Chuyện mẹ tôi gửi đồ lên đơn vị cho tôi cải thiện cứ như chuyện lạ đó đây trong C18 khi đó , gia đình tôi thuộc loại khá giả của HN khi đó nên cũng chỉ là chuyện thường thôi không ảnh hưởng gì kinh tế của gia đình , anh Sướng tuyên bố :

-Tao huấn luyện không biết bao nhiêu đợt lính với 6 năm quân ngũ nhưng chưa bao giờ thấy gia đình nào lo cho con như mày bây giờ .

Tính tôi cũng rộng rãi có đồ ăn là chia cho anh em cùng ăn , anh em HNN của A tôi cũng được tôi mời , họ cũng giữ ý lắm sợ miếng ăn chúng tôi khinh thường , nhưng đâu phải vậy thấy anh em khổ thì mình thương mình có thì mời cùng ăn cùng chia xẻ vậy thôi . Những khi có đồ ăn như vậy thì tôi không ăn mỳ hấp của đơn vị nữa , nhưng vẫn phải lên nhà ăn , dù không ăn mà không lên thì bị cho là tư tưởng nhưng mỗi lần lên nhà ăn là máu trong người tôi nó sôi lên rồi mỗi khi nhìn cái bảng tài chính công khai . Có một lần tôi nổi máu ném thẳng 2 cái nắp hầm bột mỳ hấp kia vào cái bảng tài chính đó , cả C từ cán bộ đến chiến sỹ đang ăn bỗng rầm rầm tôi ném trước , sau vài giây ngỡ ngàng mọi người há hốc mồm nhìn tôi nhất là anh em HNN , anh em HN thấy thế đồng loạt đứng dậy ném thẳng tất cả số bánh mỳ hấp lên bảng tài chính thế là cứ rầm rầm ném , bánh hấp lăn lóc khắp nhà ăn , anh em đứng dậy bỏ hết ra ngoài , các cán bộ huấn luyện biết nhưng họ làm ngơ , bản thân họ cũng thấy quá khổ như chúng tôi .

Một con gà khoảng 1kg mua của người dân tộc Mường 6 7 đồng với 1 kg gạo cũng 1 2 đồng gì đó thế là chúng tôi có nồi cháo gà rồi , thêm chút hành nữa thì thôi coi như là nhất , A chúng tôi liên tục tổ chức cải thiện vì không ai có thể ăn được cơm đơn vị , 6 thằng HN trong A thì phần lớn là gia đình khá cả nên chuyện cải thiện đối với chúng tôi chỉ còn là chuyện ai đi mua và nấu nướng mới là điều quan trọng . Một lần trên đường từ nhà ăn đại đội về thằng Bình HNN mạnh dạn nói với tôi :

- H ..này , bánh hấp của đơn vị mày không ăn thì cho chúng tao ăn , đừng ném như vậy phí lắm , chúng tao đói không có mà ăn còn mày ném vậy tiếc quá .

Tôi ngạc nhiên là sao chúng nó lại ăn cái của nợ đó và chợt nhận ra , lâu nay tôi vô tâm thật , nghĩ ai cũng như mình đều được gia đình gửi lên cho như mình đâu có biết anh em họ khổ lắm , gia đình họ làm gì có mà cho họ như nhà tôi . Vậy là từ nay xuất ăn đơn vị tôi không ăn là cho thằng Bình , nó thấy sướng lắm và nhận nhiệm vụ thay tôi mỗi khi tới lượt tôi phải ra suối gánh nước về rửa chân trước lúc đi ngủ và sáng ra để đánh răng rửa mặt theo phân công của A . Nó biết tôi không gánh được , mỗi lần phải gánh nước là so vai rụt cổ đi loạng choạng , gánh nước cả nửa tiếng mới về được đến nhà . Cũng từ đó chúng tôi hiểu anh em HNN hơn , thương họ hơn và cũng giúp đỡ họ nhiều hơn , nhất là trong C bất kể thằng nào trêu chọc đánh đấm người của A chúng tôi thì coi như thằng đó gặp hạn , nhẹ thì cảnh cáo , nặng thì dình khuất mặt cán bộ khung là chúng tôi đập cho một trận , nhiều thằng bị đánh không biết cả lý do . Đó là công lý , cái công lý của kẻ mạnh nhưng cũng không ngoài lẽ phải . A 6 của chúng tôi luôn là A đoàn kết vui vẻ nhất của C18 khi đó , tất nhiên đứa bị ghét nhất vẫn còn đó , chưa có lý do để dạy nó một bài học của cuộc đời và nó không bao giờ được ngồi trong nhóm của chúng tôi.

Một hôm cũng như mọi buổi sáng , chúng tôi chuẩn bị ra thao trường thì anh Sướng gọi riêng tôi ra lên C bộ có việc cần , một mình tôi lên C bộ với bao phân vân , không biết tôi đã mắc tội gì đây , bao nhiêu người không gọi lại là đích danh tôi , lúc này tôi là thành viên của A thứ 13 của C18 , một cái A do chúng tôi tự thành lập với những thằng cứng đầu của C chuyên đấu tranh với cán bộ những chuyện chướng tai gai mắt của đơn vị , tất nhiên chỉ là lý lẽ và lẽ phải , mấy ông cán bộ chẳng ưa nhưng đây là hội đồng quân nhân Cách mạng và chúng tôi cũng chẳng làm điều gì quá đáng . Vậy thì tại sao hôm nay lại gọi riêng một mình tôi lên C bộ ?

Lên đến nơi tôi vào thẳng C bộ gặp anh Thụy , anh cho tôi biết tôi lên D trong sáng nay gặp bố Vĩnh có việc cần . Tôi lên đường lên D , vẫn phân vân như vậy suốt dọc đường .

Lên đến nơi tôi vào gặp Bố Vĩnh , thấy tôi bố vẫy vào ngay , tự tay chính trị viên D pha nước bỏ thuốc lá ra mời tôi rồi bố con thao thao bất tuyệt chuyện trò , chuyện gia đình nhà cửa chuyện HN ..vv

Kết thúc bố hỏi :

- Có phải H... nhà ở phố ..số nhà ...con bố ...mẹ... đúng không ?

Tôi hơi giật mình , sao bố Vĩnh nắm về lý lịch của tôi rõ thế nhỉ ? Tôi nói vâng .

- Có biết chú ... bạn của bố cháu không ?

- Có , chú ấy là bạn của bố con .

Thế rồi chuyện về chú ...bạn của bố tôi cứ như pháo , bố Vĩnh không đi thẳng vào vấn đề mà loanh quanh rất vòng vo tôi hiểu rằng chú ... bạn của bố tôi và bố Vĩnh này có quan hệ gì đây . Thế thôi , chuyện chán cũng trưa rồi bố Vĩnh cho tôi về với lời khuyên cố gắng học tập ..vv

Tôi về đến C18 cũng là bữa cơm trưa , anh em tụ tập hỏi lên D có chuyện gì ? Chẳng chuyện gì cả , bố Vĩnh nhớ tao thì gọi lên cho uống nước chè hút thuốc nói chuyện vui thôi . Tất cả chúng nó không tin nhưng sự thật là như vậy , chuyện có quen biết bên trong thì tôi không nói ra nhưng tôi biết từ nay trở đi tôi có làm điều gì dù có động trời thì đứng sau lưng tôi cũng có người che chắn cho tôi , nhưng tôi cũng không bao giờ lợi dụng có mối quan hệ đó để làm bất kể điều gì cả , trừ khi tôi nhớ nhà quá thì cứ trốn bừa về rồi lại lên đơn vị lại , nếu có bị kỷ luật nữa thì trên anh Thụy đã có bố Vĩnh của tôi rồi .

Ba lô lính chiến tăng 1972

Năm 1972, chúng tớ đi hai tiểu đoàn từ Vĩnh Phú, mỗi tiểu đoàn hơn 30 chiếc. Có giai thoại trong lính cứ đồn rằng, đi B2 sâu mút mùa, chẳng biết thế nào, đói lắm. Thế nến, tớ nhớ nhất là lúc trang bị đi B. Bốn thằng, mỗi thằng 12 bộ gabađin, hai bộ phi, hai bộ áo công tác sơn hai chữ KT trên ngực, hai bộ quần áo lính. Mỗi người phải xếp đồ vào ba lô một danh mục... 43 thứ, từ kim tiêm, đá lửa, lưỡi câu, cước đến thuốc, lương khô, tăng, võng, màn….

Đồ ăn nói trước. Biết không, mỗi thằng 40 cân lương khô, một nửa là loại 701, một nửa là 702, mỗi thùng 10 cân. Bốn thằng là 160 cân. Tiếp đó là mỡ nước đựng trong thùng sắt, 10 cân một thùng. Cũng 160 cân thịt hộp, cố mà nhét, một nửa thịt xay, một nửa thịt kho. Rồi sữa bột cũng 160 cân, chia ra làm 320 hộp xanh to, loại 0,5 cân một hộp. Ruốc hành quân cũng 160 kg chia làm 320 gói nửa cân. Đường Cuba một tạ, gồm bốn bao loại 25 kg. Gạo 4 bao loại 70 kg, mỗi bao tính ra là 280 kg mỗi xe. 50 kg miến dong. Muối một tạ. Một con heo 70 kg...

Cuối cùng là 400 đồng tiền miền bắc để mua bán dọc đường trước khi vào Nam. Trị giá thế nào à? Thì cứ tính, lúc đó ăn ở miền Bắc, cứ trung bình một con gà là 5 đồng, từng ấy là mấy đàn gà? Từ Phà Mía - Sơn Tây vào trong, tiền chỉ để mua gà vịt, mua rượu bỏ bi đông. Ngày đầu tiên có tiền mua gà, tớ “làm” bốn con, mỗi con nửa luộc, nửa chiên. Bốn thằng bổ một thùng 10 lít mỡ ra rán. Lần đầu tiên trong đời tớ được rán gà trong mỡ sâu như thế. Bốn con là 16 miếng. Luộc, rán trong nồi quân dụng, rồi còn làm một nồi miến nữa mà bốn thằng ăn gọn.

Ông Lai, tớ còn nhớ là Tham mưu trưởng Trung đoàn 207 Tăng thiết giáp dặn: “Đây là đồ cho các đồng chí ăn trong sáu tháng hành quân vào B2”. Thế làm gì mà chả lắm. Chưa kể thuốc bệnh cấp một thùng đủ dùng cho một trung đội bộ binh. Nào thuốc sốt rét, bơm tiêm rồi vitamin tổng hợp, độ 10.000 viên.

Món bồi dưỡng khi ốm là bột trứng, bốn thùng loại 5 kg/thùng, chỉ cần đổ nước sôi ăn luôn, nếu không thì để đánh tan, rán trứng. Mì chính cũng một thùng sắt nặng 5 kg...

Quan trọng nhất là vũ khí. Pháo 100 ly 36 quả; loại 12ly7 là một vạn viên. Đạn súng máy là khoảng hai vạn nữa. 20 mắt xích thay, một bánh chịu nặng cột trên pháo. Hai phi dầu đằng sau dự trữ. Riêng nhiên liệu thì đi đến đâu, các binh trạm cấp đủ đến đó.

Riêng tớ, càng vào sâu, càng kinh nghiệm. Pháo 100 ly phải xin lên 50 quả. Muốn để đâu thì để, muốn treo đâu thì treo, không xin gì chỉ xin thêm đạn. Chuyện ăn uống cũng phải dạy nhau. Tớ ăn một cân lương khô trong hai phút. Cắn một thanh lại tợp một ngụm nước. Tớ nạt lính trẻ, không biết cách ăn nhanh, vào chiến trường chỉ có chết. Ăn nhanh lấy sức nhanh, nó mà đánh mình đã xong rồi, chiến đấu được. Để đói là chết.

Lính ta sáng tạo lắm. Chả có đâu, nước nào, bánh xích dự trữ dắt vào tháp pháo. Thịt hộp nhiều thế, 160 kg mỗi xe, tới 12 ba lô thịt trong xe, mấy thằng tính toán, quyết định tháo sàn xe đủ vừa lỗ đặt. Thế là diện tích sàn 3,2 mét x 6 mét, xếp hết thịt hộp, rồi hành quân trên Trường Sơn, đồ hộp cho cả vào pháo 100 ly. Cứ đồ nào ngon, hàng chiến lược cho vào xe, đồ nào tầm tầm bỏ ra ngoài xe. Vào Nam, cũng lính tăng cũ hỏi : “Sao chúng mày được cấp nhiều thế”, tớ bảo “Đâu biết. Trên cấp là chở đi thôi”. Năm đó, có vẻ chuẩn bị đánh lớn. Dốc toàn lực. Xe tăng càng được ưu tiên, chắc thế!

Chiến trường, ngẫm lại

Từ 1972, đánh Lộc Ninh, rồi An Lộc, tăng thiết giáp của ta hao hụt lớn. Riêng An Lộc tôi nghe gần 100 liệt sĩ. Ở đó có bia liệt sĩ riêng của lính tăng thiết giáp. Theo tớ, là cái thằng lính chiến, đánh nhiều trận rồi, điểm yếu nhất là xe tăng không kết hợp tốt với bộ binh. Cho đến tận 1977-1978 đánh Tây Nam tớ góp ý nên có hệ thống thông tin sao đó để xe tăng nói chuyện thẳng với chỉ huy bộ binh. Chứ kiểu liên lạc như thời đánh Mỹ hồi ở An Lộc, xe lên không thấy bộ binh đâu; điện đài bộ binh theo mã số bộ binh, xe tăng theo mã số xe tăng, đợi khi gọi về tuyến sau, chỉ huy gọi được lên điều hành xe phối hợp thì đã chậm mất thời gian độ 10 quả đạn pháo rồi. Tớ nói không ngoa là sau 1973 với Hiệp định Pari, Mỹ nó phải rút, chứ cứ thực tiễn chiến trường mà nói, nó đánh xe tăng khá lắm. Mà nếu mình đánh nó không phát huy được phương tiện do trình độ có hạn thì tổn thất ghê gớm.

Theo tớ đánh tăng của ta những trận thắng lớn là Làng Vây, Lộc Ninh, Phước Long. Còn thiệt hại nặng nề, phải nói đến Cửa Việt, An Lộc. Đánh An Lộc cũng vậy.

Thứ hai, kinh nghiệm xương máu của tớ là lính tăng càng được học văn hoá cao càng tốt. Hồi chúng tớ, ít nhất là lính lớp 10 thì mới sử dụng phát huy tương đối tốt. Sinh viên đại học vào sau càng tốt. Cùng với cán bộ thì phải có chính sách cán bộ tốt. Tớ nói thật thế này, bao nhiêu trận đánh thua, thiệt hại xe và người nặng nề đều do công tác cán bộ. Chính trị viên đa số chỉ làm tốt công tác chính trị thôi. Thiếu người, bắt họ chỉ huy xe là chệch choạc. Cán bộ kỹ thuật cũng vậy.

Chuyện khó

tin hậu chiến

Ngày 18-11-2011, Đoàn đặc công 429 đi cải táng một liệt sĩ ở miền Tây (Có một thời gian, do đặc thù, bộ đội tăng thiết giáp Miền Đông Nam bộ được biên chế trong Đoàn đặc công 429). Đến nơi, tớ trèo lên thắp nhang cho Lê Văn Quyền, pháo thủ 2 hy sinh ở xe mình. Rồi đến ông thứ hai hy sinh là Nguyễn Văn Thuyết, trung sĩ trưởng xe khác. Bỗng ở đâu, một con ong phóng lên, đốt thẳng vào tai đau buốt. Tớ xuống đồi, liền gọi ngay cho một thằng bạn biết xem Kinh Dịch hỏi. Nó gieo quẻ, phán: “Thứ nhất, mày không phải chỉ đi thắp nhang cho hai mộ mà là đi làm cho bẩy mộ. Thứ hai, con ong đốt mày là vì mày thắp cho ông quân hàm bé, binh nhất trước, rồi mới đến ông trung sĩ. Ổng giận, xúi ong đốt. Quẻ nói vậy”. Tôi bảo liền : “Để tao quay lên, nói lại với chúng nó”.

Tôi làm nắm nhang nữa, lại leo lên khấn tiếp: “Nếu bảo người lên biên giới này thắp nhang cho thằng Quyền và mày, thì tao là đứa lên nhiều nhất. Thằng Quyền ngồi xe tao, gắn bó hơn, tao lại thấy mộ nó trước nên tao thắp trước. Chân tao, đánh nhau biên giới Tây Nam, Pôn Pốt nó lấy một cẳng rồi, bước thấp bước cao, không quỳ được, mày phải thông cảm cho tao chứ! Chúng mày giận gì mà xúi ong đốt tao?”.

Chuyện có thật mà như là ma trơi. Thằng bạn tôi còn cam đoan “ Thứ ba, quẻ này nói, mày không có tiền đâu!” Mà đúng phóc không à! Ở ngay đó, tớ đi khắp bốn bàn, bốn ông bán vé số mà không tìm được một tờ nào có số con ong (số 56). Về thị xã Tây Ninh, tớ lùng sục thử mua số 56 mà cũng không hề gặp. Quyết thử dò đến cùng, tớ gọi cho thằng bạn ở Long An bảo tìm mua “con 56” “đánh khá khá” lên một chút. Nó bảo hết tiền, chỉ còn đúng 3.000. Thế mà được 210.000 ngay đấy. Vậy mà riêng tôi lùng không được. Vì quẻ bảo là “không có tiền”.

Chuyện lính tăng, nhiều cái không biết thế nào. Tin quá thì lại có khi là mê tín. Mà không tin không được. Hồi ở ngoài Bắc, có ông tự nhiên nhòm tớ bảo : “Khoảng 26-27 tuổi dính nạn binh đao, thập tử nhất sinh, ông bà cứu, đồng đội cứu, may sống!” Cụt lủn, nguyên văn từng chữ vậy. Đấy là năm 1970, trước khi vào lính. Lão còn bảo tiếp: “Tao thấy cái sống, chết của mày lúc ẩn lúc hiện. Nhưng giờ, rõ là sống rồi”.

Bẵng đi chả nhớ làm quái gì. Linh tinh hơi đâu nhớ! Đánh miết đến 1975 chiến thắng. Ai ngờ ! Tớ sinh năm 1952, đến 1975 là 23 tuổi. Hóa ra đến năm 1978-1979 lại binh đao tiếp thật, chả 26-27 tuổi rồi là gì. Ngày 27-9-1977, vừa mở mắt đã thấy bốn chiếc xe Hồng Hà lên sớm thế. Ông phụ trách tập hợp, đọc tên từng thằng đi nhận nhiệm vụ mới. Ngày 28-9-1977, họp tiếp. Trung đoàn trưởng thông báo: “Samát đã chiến tranh. Xe bọc thép, xe bánh lốp lên bị diệt hết rồi. Trên điều tăng T59 đi chiến đấu”

Thế là cái xe đi cùng đời binh nghiệp chống Mỹ của tôi T59 biển số B 366 tiếp tục lên đường (biển đầu 3 , 4 là dòng T59 thí dụ cùng loại với xe B 390 húc đổ Dinh độc lập; biển đầu 8, 9, 7 thí dụ xe 843 húc đổ Dinh độc lập, là T54)

Tớ không quên một kỷ niệm buồn. Vừa hối hận và tiếc. Khó tin là sao hồi đó mình lại làm vậy? Chị em thanh niên xung phong hồi đó khổ lắm, áo quần rách tơi tả hết. Vậy mà hồi đó, xe đi qua trọng điểm, tớ chỉ tặng chị em thực phẩm lương khô, quần áo thì chỉ dám cho đồ lót mà không tặng quần áo dài trong khi mình có tới mười mấy bộ.

Khổ! Hồi đó còn trẻ, nghe bảo “vào B2 khổ lắm”, lính miền Đông Nam Bộ vào sâu lắm, không biết sống chết thế nào, nên cứ lo chết đói, chết rét không có tiếp tế. Mình trang bị tận răng, thanh niên xung phong có gì đâu, thế mà…! Vào đó, trà Lăngcôbơ, thuốc lá Chim Chơrao, thuốc Miên, thuốc lá rơm (rế) xài thoải mái, đồ có dùng đâu, chỉ rặt quần cộc áo bà ba, khăn rằn, biết thế, tớ đã tặng hết ngoài này rồi. Mà họ trần lưng làm đường, phá bom, dẫn lối cho mình. “Cậu biết không, vào B2, trung bình cứ 100 chiếc xe tăng thì bị hỏng, bị bom đánh, bị rơi xuống vực …đủ loại mất khoảng 10 chiếc. Thế mà mình có cái quần áo dài, cho còn tiếc. Nếu bảo chiến tranh có gì hối tiếc, thì chuyện đó, càng nghĩ càng tự hận mình lắm.”

Tôi chuyển ngành về làm truyền hình ở phía nam, bộ phận tổ chức cán bộ. Có người bảo “màu mỡ tha hồ mà ăn!” .Vớ vẩn! Hồi đánh nhau, mình vác bao nhiêu thương binh, liệt sĩ ra vòng ngoài, đâu có ngã giá “tao mang mày ra, mày sống trả tao mấy chỉ, mấy cây !” Các “chú” này nhầm to, chả hiểu đếch gì lính chúng tớ! Các “chú” vào mà “ăn”!

Lính tráng trước sau vẫn thế. Đến giờ vẫn thế. Mình còn sống là may mắn hơn đồng đội lắm rồi. Vẫn nhớ bạn bè chiến đấu lắm. Làm con người phải thanh thản. Có làm có hưởng. Nhưng mình không phải có làm có lộc mà không biết chia nhường, san sẻ. Chỉ có đừng ăn bẩn.

TRƯỜNG SA… ĐỒ HỘP

ất nhiều bạn, khi nói hoặc hỏi chuyện Trường Sa với mình cứ nức nở: “Sướng quá còn gì!. Bộ đội mình sống khỏe, quá đầy đủ chất nhờ bao nhiêu loại đồ hộp!” khiến mình cứ băn khoăn: Hình như vẫn còn có rất nhiều người coi Trường Sa là điểm du lịch, nơi đi chơi cho “biết đó biết đây” và hành trình ra đảo là “tour” đặc biệt, dùng để chém gió – khoe khoang với bạn bè trong các cuộc bia, chầu nhậu, mà không hiểu rằng những người lính đảo, thiếu từ tiếng cười thật đến ca nước ngọt, cọng rau xanh?..

Nói chuyện “đồ hộp” với anh em Vùng 4 (nhất là những người đã có “thâm niên” ở đảo cấp II, III từ nhiều năm trước), rất dễ nghe tiếng… nôn khan – Mấy ông bạn mình đã khẳng định vậy, khi đề cập đến “cuộc sống hàng ngày của bộ đội”.

Mình thì đã chứng kiến cảnh 1 ông bạn, khi nhìn thấy đĩa thịt hộp xào rau cải, để cả cục to bằng nắm đấm, đã chạy vội ra ngoài, trớ luôn và thành thật kể nguyên nhân: “Đó là món ăn kinh hoàng, sau 4 năm ở đảo!”…

Thật ra ở ngoài đảo, không ăn đồ hộp thì chẳng biết ăn gì. Đảo nổi có cây cối xanh tươi đấy, nhưng toàn là cây chịu mặn như phong ba, bàng vuông, muống biển… Rau cỏ có trồng, cũng phải mang đất từ bờ, từng nắm theo tàu và gượng nhẹ chăm chút, yêu thương.

Với những đảo chìm, rau tươi – thịt tươi là những khái niệm xa xỉ, có khi chỉ hiện hữu trong những giấc mơ vật vã cùng bão biển, hú lên từng chặp bên ngoài cử sổ nhà lâu bền, dày khự bê tông.

Cũng cứ báo cáo, ghi thành tích là “tăng gia sản xuất” đấy, nhưng những khay rau xanh mướt, bò lợn vịt gà đồng ca trên đảo chỉ để… ngắm cho mát mắt và khách đến thăm, báo chí chụp ảnh – quay phim tuyên truyền.

Chứ thật ra, trồng cả tháng mới được ngọn rau chứ ăn thì chỉ vài phút, ai dại gì “kiếm củi 3 năm, đốt 1 giờ”. Nuôi gia súc – gia cầm khó ngang nuôi người ốm, cũng chả dại gì, hơi tý ngả ra đánh chén, thớt dao.

Và thế, cứ quanh năm suốt tháng, lính đảo phải gắng sống bằng thức ăn khô, đồ hộp. Nếu chi tiết kể ra, có đến hàng vài chục loại đồ ăn đóng hộp: Thịt (bò, gà, lợn) các món xay, hấp, sốt cà, pa tê; cá; rau; măng; hoa quả; mắm muối… quen thuộc với lính đảo.

Quen đến nỗi, đến các đảo tinh ý là thấy vỏ đồ hộp chất đống trong bếp ăn và còn được lính ta khéo tay, rỗi rãi mang vỏ hộp kì cạch “tái chế” thành rất nhiều vật dụng khác: Hộp đựng bút, kem bàn chải đánh răng; trồng rau – hoa; cốc uống nước; gạt tàn thuốc; dây báo động…

Quen đến nỗi, những đảo chìm khó khăn, mỗi tuần phải co kéo tổ chức vài bữa… ăn tươi: Lính tráng mắt sáng rực, gõ bát rầm rập khi anh nuôi bê ra nồi to đùng nghi ngút khói, bên trong lóng bõng nước, ngọt lừ mì chính với loáng thoáng màu rau xanh chiều nay mới được tỉ mẩn chọn tỉa, gượng nhẹ thái nhỏ, vào nồi rồi, những “mẩu rau” ấy cuống quýt lộn nhào trốn đũa gắp, muôi múc và những gương mặt bộ đội rạng ngời xì xụp, đặt mẩu rau trên đầu lưỡi mút mát, ngon hơn cả mỹ vị cao lương.

Quen thế đấy, nhưng trúng ngày dài bão biển, rau cỏ cây cối trên đảo chết hết, tàu tiếp tế lại không ra được, các anh nuôi trên đảo lớn đánh vật với mưa gió – bão bùng để hoàn thành “kiệt tác” là nồi cơm nóng, cho bộ đội ăn với đồ hộp, mắm kem… Ăn mãi cả tháng như vậy có những đảo, có đến già nửa quân số bị táo bón, ôm bụng khóc dở với nhau.

Ở đảo chìm – nhà giàn những ngày bão biển, mạng sống con người mong manh trước đại dương, chuyện ăn uống cũng chỉ dừng lại ở lương khô, cơm sấy và khẩu phần ăn dã chiến.

Nói đến cái gọi là Khẩu phần ăn dã chiến  (KPADC), lính đảo ai cũng quen thuộc bởi đó là định lượng ăn (có thể ăn liền) được cấp đến từng người để sử dụng trong tác chiến.

Nếu như trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, KPADC của bộ đội chủ yếu là gạo rang, cơm nắm… thì đến thời kỳ chống Mỹ, quân đội ta đã nghiên cứu chế biến thực phẩm và khẩu phần chế biến sẵn như lương khô, cơm sấy, đồ hộp (bộ đội Đặc công có khẩu phần ĐC1, ĐC2, trong khẩu phần có viên tăng lực, viên chống lạnh, giảm khát, thậm chí những năm 90 của thế kỷ trước, ta còn nghiên cứu khẩu phần ăn dạng tuýp sử dụng cho đặc công nước. Bộ đội có thể vừa bơi vừa ăn và ăn liên tục từ 2-3 ngày vẫn bảo đảm sức chiến đấu) và đến nay, quân đội ta cũng đã nghiên cứu khẩu phần KP1, KP2 phục vụ bộ đội tác chiến trên đảo…

Hôm ngồi nhậu ở Đoàn Trường Sa trong bờ, thấy mình thun thút món thịt lợn xay đổ ra đĩa, lấy tăm cắt thành mấy khoanh và cũng lấy tăm xiên lên chén, thay đũa… anh em lắc đầu: “Chịu bố!”.

Trưa rồi qua Sơn Ca, 1 thành viên trong đoàn công tác cũng theo mình xuống bếp, thấy mấy cậu chiến sĩ đang lúi húi mở nắp hộp măng, liền hít hà: “Măng ngon thế! Tươi như không!” khiến mấy anh em dẹt mắt: “Bác thử ăn ngày 3 bữa măng hộp, trong chỉ 1 tuần liền thôi, xem sao?. Chịu bố!”.

Buổi chiều ở Trường Sa Đông, mấy đồng hương gặp nhau, lục tung cái hầm tăng kiêm nơi ở của anh em vũ khí đạn tìm đồ đãi khách, bê ra toàn những hoa quả đóng hộp.

Bật nắp hộp dứa và ngồi khoanh tay nhìn mình cắm tăm ăn ngon lành, các đồng hương lại lắc đầu: “Chịu bố!” khiến mình tò mò dò hỏi: Thì ra tháng trước, đảo dính liền vài cơn bão – áp thấp nhiệt đới, đồ ăn phải dè sẻn bóp miệng, rút cục anh em cũng phải mang hoa quả hộp ngọt lịm ra… nấu canh ăn hàng ngày, nên giờ cứ thấy đồ ngọt là sợ”.

Mình nghe chuyện của lính đảo, cũng buột miêng: “Chịu các bố!”.

Có rất nhiều người ước chỉ 1 lần ra với Trường Sa, dù phải bỏ tiền tỉ, nhưng mơ ước vẫn chỉ là ước mơ, bởi Trường Sa không phải resort 5 sao, cứ có tiền là vào ở được.

Có rất nhiều người may mắn được ra thăm Trường Sa, nhưng với họ hình như chuyến đi cũng chỉ là chuyến đi, thi thoảng được nhắc đến khi họ chợt sờ đến cục đá san hô, con ốc biển mà họ đã dành hết thời gian khi lên “thăm và làm việc” với các đảo, để tìm kiếm moi móc, giờ nằm yên trong ngăn kéo bàn.

Có những người chuyên làm kinh tế, nhìn mọi thứ bằng ánh mắt “quy ra thóc” và “liên hệ thực tiễn” từ đời sống sung sướng, thừa mứa của mình, trong câu chuyện “kinh tế lan sang chính trị” cho đẹp lòng cấp trên ngồi cạnh, cũng nhắc đến Trường Sa theo cách: “Cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng nhiều tiền!”…

Ừ! Thời buổi này, có tiền là sẽ có tất cả. Với Trường Sa, tiền cũng làm thay đổi diện mạo biên đảo và cuộc sống của những người giữ đảo đỡ vất vả hơn.

Thế nhưng duy nhất có 1 thứ mà không tiền bạc nào mua được, đó là sự sẻ chia – đồng cảm và yêu thương giữa con người với con người, giữa đất liền và đảo nhỏ, giữa nơi đầy đủ và chốn khó khăn. Niềm yêu thương này, dĩ nhiên cũng phải xuất phát từ sự thông hiểu về cuộc sống thực của những người lính thực, với những khó khăn thực. Giống như câu chuyện đồ hộp, rất thực ở Trường Sa, từ bao nhiêu năm nay…

Lê Như Cọp

Quê tôi ở Huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên. Làng tôi nằm cách Tiên Châu xưa chỉ một cánh đồng. Thuở xa xưa, vào thời nhà Mạc, làng bên ấy có ông Trạng ăn Lê Như Hổ. Năm 30 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ, rồi ra làm quan, lên cao nhất đến chức Thượng thư trong Triều nhà Mạc.

Nhưng cái sự nổi tiếng của ông mà không ai có, để được truyền tụng đến muôn đời lại chính là tài ăn và sức khỏe. Bình thường, ông ăn bằng mười người khác, tất nhiên làm việc cũng phi thường. Còn để ăn cho đã thì ông ăn phải bằng ba mươi người. Cha mẹ ông thuộc hàng trung lưu trong làng mà cũng chỉ đủ sức nuôi ông đến tuổi trưởng thành. Ông phải đi ở rể sớm vào nhà giàu, và rồi sau này làm quan có bổng lộc triều đình, mới có thể đủ ăn mà sống đến năm 70 tuổi.

Chẳng hiểu ông Đác-Uyn người Anh, cha đẻ của thuyết tiến hóa có nghiên cứu về Gen di truyền "ăn" hay không, nhưng Tiên Châu ngày nay vẫn nổi tiếng là có nhiều người ăn khỏe. Tất nhiên bây giờ mà khoe ăn thì chẳng hay ho gì, vì người ta cứ hay quan niệm "

miếng ăn là miếng nhục

". Cũng chẳng ai dại gì tổ chức cuộc "thi ăn" vì "

thóc đâu mà đãi gà rừng

". Của đáng tội, bây giờ mà có khách Tiên Châu đến nhà chơi là cũng hơi lo khoản ăn. Đãi bôi thì người ta cười cho là keo kiệt, không mến khách, còn đãi thật thì một ngày khách ăn bằng cả tháng nhà ăn.

Tôi cũng có một thằng vừa là bạn vừa là anh em họ xa bên bà nội tôi ở Tiên Châu. Tên cúng cơm là Lê Loáng, nhưng có biệt danh là Lê Như Cọp, vì sức ăn của hắn cũng mang Gen di truyền của tiền bối. Hắn ra nhà tôi chơi đúng đợt vợ con tôi đi nghỉ một tuần theo cơ quan vợ, chỉ có mình tôi ở nhà. Hôm đầu tiên hắn ra nhà, tiện gì ăn nấy, tôi thổi năm bơ gạo, luộc hai đĩa rau muống và mươi bìa đậu rán, kèm tí tôm rang. Có hai thằng mà sau bữa ăn, mọi thứ nhẵn như chùi, nồi cơm không còn sót một hạt, khiến con mèo Hoàng miêu nhà tôi một phen suýt chết đói. Buổi tối nằm gác chân nói chuyện, hắn chỉ xoa bụng, nói chuyện uể oải. Tôi bảo: "Mày còn đói à". Nó giả lời, không đói, nhưng chưa đã.

Sáng sau, tôi nấu cả bịch mì ăn liền, loại mì cân MICOEM đóng gói 1 ký. Tôi chỉ chén hết một bát nhỏ, còn Loáng xơi sạch. Sau đó tôi rủ hắn ngồi hàn huyên, ôn đủ thứ chuyện, từ chuyện làng xã, chuyện mấy thằng bạn đi làm cửu vạn trên Lạng Sơn, đến chuyện giải bóng đá châu Âu. Tôi lấy cà-phê cho vào túi vải rồi bỏ vào ấm nấu lên như kiểu nấu cà-phê bit-tất, vì pha phin thì có mà đợi dài mặt ra cũng không kịp có để uống. Thằng Loáng uống cũng phi thường. Cả cái ấm cà-phê lít rưỡi, tôi chỉ làm một ly nhỏ, còn hắn uống hết. Cũng chả say hay cồn cào ruột gan gì hết. Thôi, bữa trưa nay phải nấu một mẻ cho ra hồn mới được.

Tôi với nó cùng ra chợ. Tôi mua hai cân vó bò và nửa lít tương. Loại này rất hợp để kề cà, chưa no thì răng đã muốn tạm biệt hàm ra đi rồi. Tôi mua thêm nửa cân sườn, hai cân khoai sọ kèm mớ rau muống về nấu canh. Lại một chục củ su hào to và không quên mua lít rượu làng Vân Hà Bắc, thứ rượu nấu bằng sắn chảy rựa có gia giảm chút phân đạm đựng trong xăm ô tô. Về nhà tôi luộc tất su hào, nấu canh sườn khoai tây và thổi ba ký gạo. Chẳng cỗ bàn gì, nhưng khi bày ra nhìn, khéo đủ ăn cho hơn chục người. Đúng 11 giờ 30, hai thằng ngồi vào mâm. Tôi chỉ làm chén rượu nhỏ rồi nhẩn nha nhắm vó bò. Tôi bảo Loáng:" Thôi, có hai thằng, mày ăn gì cứ ăn, cơm tự xới cho nó tiện". Loáng gật đầu. Chúng tôi lại vừa ăn vừa nói chuyện. Loáng ăn khỏe mà nhanh. Tôi định bảo nó là "nhai kỹ no lâu", nhưng nhìn nó nhai như máy khâu, tôi nghĩ mình nhai chưa chắc đã nhuyễn bằng nó nên lại thôi. Sau nửa tiếng thì tôi chỉ nói chuyện đưa bữa, còn Loáng vẫn nhịp nhàng. Chợt nghĩ đến chuyện nàng dâu nhập hộ thời phong kiến, tôi cười trong bụng. Cô con dâu nào về nhà thằng Loáng này mà phải ngồi đầu nồi xới cơm cho bố chồng thì mỏi tay bằng đi tát nước một đêm trăng. Gần cuối bữa, tôi chợt nhớ ra vội gẩy muôi cơm làm suất ăn cho con Hoàng miêu thì Loáng cũng sới nốt chỗ cơm còn lại. Nó tổng động viên toàn bộ canh sườn, su hào còn lại cho vào bát, "soạt" ba nhát là kết thúc bữa. Đĩa vó bò cũng chỉ còn lại nửa cọng rau thơm, và chai "cuốc lủi rởm" cũng vất chỏng chơ góc mâm. "Đã chưa", tôi hỏi. Loáng gật đầu cười mãn nguyện. Tôi dọn dẹp qua loa, rồi hai thằng lăn ra ngủ.

Buổi chiều tỉnh dậy tôi vơ vẩn nghĩ. Cứ cái điệp khúc này thì chỉ riêng đi chợ đã đủ mệt. Gạo thì không có vấn đề gì vì vợ tôi vừa gửi mua được dăm chục cân trên Điện Biên. Nhưng còn thức ăn, đã mua phải số lượng lớn, bữa nào cho bữa ấy chứ không để lâu được. Mà chả lẽ cứ hôm nào cũng sào với luộc, vì tôi cũng không giỏi khoản chế biến lắm. Tôi định bụng sẽ đãi hắn một bữa toàn thịt xem hắn ăn được bao nhiêu. Tôi chợt nhớ tới vận động viên thể hình Lý Đức. Nghe nói khi luyện tập ở cường độ căng, vị này phải xơi mỗi bữa hai con gà loại hai cân, cân rưỡi thịt nạc, ba chục quả trứng gà và hai nải chuối. Thế thì tôi đãi thằng Loáng này chưa được tới như thế. Tôi nhìn hắn ngủ, nghĩ thầm. Sao không có ai giới thiệu thằng này đi tập và thi đấu thể hình nhỉ. Được ăn như hoặc hơn Lý Đức, chắc năm nào nó cũng giành Huy chương Vàng giải Khu vực.

Nghĩ vơ vẩn thế, nhìn đồng hồ đã gần 6 giờ tối. Bây giờ mà đi chợ chắc phải mua vét toàn của ôi. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ. Sao mình không đưa nó đi ăn Buffet nhỉ. Dạng này là ăn khoán tự chọn, không hạn chế. Bây giờ ở Hà Nội cửa hàng ăn loại này mọc lên nhan nhản. Có khi thế lại hay.

Thế là tôi lôi cổ nó dậy bắt đi tắm, rồi hai thằng đóng bộ lên đường. Đầu tiên tôi chọn cửa hàng Hoàng hậu Mariana trên phố Trấn Vũ, vì nghe nói ở đây tuy ít món, nhưng giá khá mềm, có 120 ngàn đồng một suất không kể đồ uống. Nhưng có hề gì, ít món mà lượng nhiều là được rồi, vì mục tiêu của chúng tôi là "ăn lấy được" chứ có cần thưởng thức phong cách ẩm thực gì đâu.

Trên đường đi, tôi giảng giải cho Loáng một số điều căn bản. Trong tất cả các ngành thương mại, thì dịch vụ ăn uống là có tỷ lệ lãi cao nhất. Có thể đạt đến 40%, thậm chí là 60%. Có nghĩa là nếu mày bỏ tiền đi mua đồ rồi về nhà nấu hết có 4 đồng, thì cũng với lượng ăn như thế, ra cửa hàng phải trả 10 đồng. Điều này đã được qui định từ thời bao cấp xa xưa. Bây giờ các cửa hàng ăn loại Buffet người ta thu khoán một số tiền vào cửa. Sau đó, ở trong ấy mình muốn ăn gì trong những món họ bày thì ăn. Mục đích của khách là ăn được ngon và ăn càng nhiều món có giá trị càng tốt. Thường người ta chọn ăn các món có nhiều đạm như thịt, cá … , nhưng dù thế nào cũng không thể ăn bằng được với số tiền vào cửa. Có như thế cửa hàng mới có lãi chứ. Trong cửa hàng cũng có nhiều món bình dân loại rẻ tiền nhưng ăn chóng no như bánh mỳ, bánh cuốn, phở, bún riêu, thậm chí là ngô, khoai. Xơi độ dăm lát bánh mỳ với hai bát bún riêu thì no rồi, còn ăn gì khác được nữa. Trường hợp này thì khách chỉ ăn độ bẳng một phần năm 

số tiền bỏ ra thôi, và cửa hàng càng lãi. Đại thể là như vậy, sau khi vào cửa rồi thì mày cứ "độc lập tác chiến", không phải nhìn ai.

Lúc chúng tôi bước vào cửa hàng, chỉ có độ vài chục người. Cửa hàng này khá rộng, đủ chỗ ăn cho 200 thực khách. Trong khi những người khách khác xúm xít quanh các món ngao hấp, đuôi bò hầm đỗ đỏ, thịt bê thui, gà KFC … thì thằng Loáng tiến ngay lại chỗ bánh cuốn. Nó nhấc luôn cả hai đĩa loại tẩm hành và loại có quấn thịt, cùng một đĩa chả quấn trước sự ngạc nhiên của tay đầu bếp. Nhưng ăn là quyền của khách, chỉ cần không bỏ dở là được. Tôi bảo nó, sao mày lại ăn thế. Loáng cười, mày yên chí, chỗ mấy món thịt kia đang đông người, tao xơi cái này trước, đằng nào rồi cũng sang đó cơ mà. Biết Loáng ăn khỏe, tôi im lặng. Khi tôi vừa mới ăn xong bát súp cua với ngô xay khai vị, thằng Loáng đã xơi xong cả hai đĩa bánh cuốn và đĩa chả. Thấy nó nhìn quanh, tôi bảo:"Mày cứ để đĩa bẩn đấy, khắc có người dọn. Cứ ra mà lấy món khác đi". Nhoáng một cái, thằng Loáng đã đem về bàn một cục thịt bê to tướng, một đĩa gà KFC, một đĩa thịt nướng và mươi lát bánh mì, kèm một cục bơ to. Thấy bàn chỉ có hai thằng tôi, đám phục vụ bàn bắt đầu để ý. "

Lấy nhiều thế kia mà không ăn hết thì chết với chúng ông

", chắc chúng nó nghĩ vậy. Tôi cười thầm trong bụng, cầm lát bánh mì nhẩn nha ăn trong khi vừa nhìn Loáng ăn, vừa liếc xéo quan sát vẻ mặt từ nhạc nhiên đến nghệt ra của bọn phục vụ. Cả mấy đĩa thức ăn vậy mà Loáng cũng làm nhanh gọn trong mấy phút.

Loáng lại ra quầy lấy đồ ăn. Lần này có cả một cậu phục vụ bám theo sau. Nó lại ôm về một lô thứ, và lại chén hết. Lại ra lấy tiếp. Hình như đến lúc này sự lao xao của đám phục vụ đã đánh động những khách ăn. Họ kín đáo xem Loáng ăn. Rồi tay quản lý cửa hàng cũng mò ra xem. Cuối cùng thì mọi người công khai xem Loáng ăn. Bây giờ thì trước mặt họ không phải là một kẻ phàm ăn tục uống, mà là một gã đang trổ tài ăn khỏe, và cửa hàng Hoàng hậu Mariana là nhà tổ chức bất đắc dĩ. Họ trầm trồ xem Loáng ăn, khoái trá đến mức bản thân họ không ăn mấy cũng thấy no. Lúc này có thêm rất nhiều khách đã vào cửa hàng và họ cũng bị đám đông xem ăn thu hút mà quên cả ăn. Loáng đã đảo qua hầu hết mọi món trong cửa hàng, điều mà hầu như không thực khách nào làm được nếu chỉ vào cửa hàng một lần, dù cho mỗi món chỉ ăn một miếng. Loáng cũng biết mọi người đang tò mò xem hắn ăn, nên hắn cũng tỏ thái độ như một đấu thủ đang trong một cuộc thi ăn, chẳng ngượng ngùng gì. Bốn bát chè đỗ đen kèm thạch có trộn nước cốt dừa đã kết thúc màn biểu diến ăn của Loáng. Nó đứng dậy lấy khăn lau miệng. Mọi người im lặng một lúc, rồi chợt vỗ tay hoan hô rào rào. Tay quản lý nhà hàng ứng xử cực kỳ linh hoạt, để tỏ ý là nhà hàng mong muốn khách ăn được nhiều, đã tiến tới bắt tay Loáng và trao cho nó một bó hoa không biết kiếm ra từ lúc nào.

Chúng tôi ra về trong không khí hân hoan và náo nhiệt của đám đông thực khách. Về tới nhà, tôi pha ấm chè và hai thằng ngồi xem ti vi. Loáng có vẻ phấn khích ghê lắm. Nó bảo, Hà Nội có kiểu hàng ăn hay thật đấy. "Hay cái con khỉ", tôi gắt. "Toàn là khách thường thôi, chứ nếu ai cũng như mày thì các cửa hàng ăn loại này sập tiệm, bán xới". Thằng Loáng hê hê cười.

Sáng hôm sau, chúng tôi lại nấu mì ăn liền điểm tâm sáng. Tôi bảo Loáng, ăn ít thôi còn để bụng trưa nay đi ăn Buffet tiếp. Loáng cười bảo: "Mày cứ nấu cả cân đi, lại đói veo ngay ấy mà". Tôi trợn mắt, gừ cho nó một cái, nhưng rồi vẫn nấu cả cân mì. Ăn xong ngồi nói chuyện tào lao, chán rồi lại quay sang chuyện ăn. Tôi bảo Loáng: "Hôm nay bọn mình đến chỗ khác, cho biết mỗi nơi một tý. Nhưng thống nhất là chủ yếu đến ăn thôi, còn uống thì về nhà. Nếu mày thích rượu, tao sẽ mua vài chai Votka Lò Đúc cho mày nhâm nhi". Loáng gật đầu đồng ý.

Gần trưa, tôi đưa Loáng đến nhà hàng "Cây cau lùn" 

trên phố Tô Hiến Thành. Ở đây có một sân rộng và nhiều phòng nhỏ có máy lạnh. Các loại đồ ăn để một dãy dài hình thước thợ ở một phía góc sân. Cũng đủ các món chế biến từ thịt lợn, thịt bò, gà và cả vịt quay Bắc Kinh. Rau cũng đủ loại từ su hào xào bầu dục, súp lơ xào nấm hương có tim gan, đến salat Nga phủ đầy kem bơ và đỗ trọng. Ở đây còn có món cá thu nướng thơm lừng, mỗi khúc to như cái bánh đa khoai dày cộp. Mới đi qua một lượt, chưa kịp chọn bàn để ngồi mà thằng Loáng đã nuốt nước miếng đánh ực. Tôi kéo nó ngồi xuống ghế, bảo nó xé khăn lạnh lau mặt cho mát, mày cứ bình tĩnh quan sát toàn bộ trận địa đi, đánh chắc tiến chắc cho có trọng điểm. Loáng cười.

Bây giờ tôi đóng vai như người bảo vệ, hay là tai mắt của Loáng cũng được. Tôi lấy ít món cho vào cái đĩa rồi đem về bàn ngồi ăn và quan sát Loáng chiến đấu. Ngay pha đầu tiên của Loáng gồm một đĩa gà rán to tướng, gần nửa con vịt quay chặt miếng ăn theo kiểu Việt Nam cùng một đĩa đầy tú ụ thịt lợn hun khói đã làm tay đầu bếp người mập mạp và thấp lùn như Napoleon phải tròn mắt ngạc nhiên và há hốc mồm nhìn, đến 5 phút sau mới ngậm miệng lại được. Chẳng cần phải dao với nĩa cắt từng mẩu thịt bé tẹo như cái lưỡi mèo kiểu cách, Loáng xua cả "năm quân" rồi cả "thập cẩm y vệ" vào trận chiến. Mười phút là đủ giải quyết đợt tấn công thứ nhất. Loáng ra lấy các món ăn đợt hai. Lần này thì toàn là chất bột. Lượng bánh mỳ Loáng lấy ra bằng cả một cái bánh gối vuông loại cân rưỡi. Tất nhiên kèm theo đó giò, chả và cả bơ lẫn đường. Cửa hàng này chơi sang có cả món Pho-ma bò cười, Loáng cũng lấy đủ cả nguyên một khoanh 10 miếng. Đợt này Loáng không ôm một lúc nhiều đĩa, mà nó đi làm ba lượt, xếp về cho đủ một góc bàn đồ ăn rồi mới chén một thể. Một thằng phục vụ bàn ở đây có vẻ thiếu kiên nhẫn đã nhắc nhẹ nó: "Chú cứ lấy ít một, ăn hết rồi lấy tiếp chứ không ăn hết lại bỏ phí". Loáng nhe răng cười, gí mũi vào sát cái mặt vừa nhăn nhó, vừa căng thẳng của thằng phục vụ bàn: "Cậu em lại gần mà xem anh đánh chén nhé. Nếu anh chén hết mà còn đói, phiền chú mày lấy giúp tiếp đồ ăn cho anh đỡ mất công đi lại, hì hì". Nói rồi Loáng ngồi vào bàn ăn như máy trước sự ngơ ngác của tay phục vụ. Nói thật là tôi cũng tập trung quan sát xung quanh xem tình thế để có gì còn hỗ trợ Loáng xử lý tình huống, nên ăn uống cũng thiếu tập trung và tất nhiên là không nhẩn nha đi chọn các món theo ý thích được.

Cũng như ở cửa hàng Hoàng hậu Mariana, đến đợt ăn thứ ba của Loáng thì đã thu hút sự chú ý của nhóm phục vụ. Tôi liếc nhìn đồng hồ, mới có hơn nửa tiếng mà Loáng đã giải quyết xong ba đợt ăn. Đến đợt thứ tư, khi Loáng vừa soạn xong mấy đĩa đồ ăn thì người quản lý của cửa hàng bước đến. Đó là một người phụ nữ gần độ tứ tuần, có nhiều nét đẹp, còn kém xa tuổi Loáng. Cô ta chào Loáng, tự giới thiệu và ngỏ ý xin được tiếp bữa ăn cùng Loáng. Thắng Loáng chưa gặp phải tình huống này, mặt hơi nghệt ra rồi nhìn tôi dò hỏi. Tôi lịch sự mỉm cười chào cô chủ, cũng tự giới thiệu và kéo ghế mời cô ngồi. Cái vẻ mặt tự tin và hơi hài, nhưng thân thiện của tôi làm cô ta yên lòng và vui vẻ ngồi xuống. Tôi tỏ ý quan tâm, hỏi cô ăn món gì để tôi đi lấy cho cô, nhưng tôi thừa biết những người chủ tiệm sẽ làm gì trong những tình huống như thế này. Cô ta bảo tôi cứ ngồi vào bàn, rồi quay lại nói nhỏ câu gì đó với người phục vụ vừa tiến đến phía sau. Chỉ một lát, mấy người phục vụ đã bê ra mấy đĩa thức ăn gồm gà rán, tôm nướng và một đĩa nộm, kèm theo một chai vang Bordeaux của Pháp loại 1,25 lit và 3 chiếc cốc chân cao. Người phục vụ khui rượu và rót ra lưng 3 chiếc cốc. Cô chủ tiệm mời rồi nâng cốc cùng chúng tôi. Cô chủ động mời Loáng ăn tự nhiên, và nhỏ nhẹ trò chuyện. Thực ra chỉ có tôi và cô nói chuyện là chính, còn Loáng thì ăn là chủ yếu, thỉnh thoảng nó mới tạm dừng lại gật đầu xác nhận để đưa đẩy câu chuyện của chúng tôi.

Tôi đã kể cho cô chủ cửa hàng nghe về cái làng Tiên Châu cùng vị Tổ sư của làng, Trạng ăn Lê Như Hổ. Cái sự tích này có ghi chép trong Chuyện Dân gian Việt nam, nhưng không đưa vào sách giáo khoa cho học sinh học, nên không phải ai cũng biết. Nhiều người cũng chỉ nghe nói phong thanh về Trạng ăn, cũng như nghe chuyện về Trạng Quỳnh, Trạng lợn … nên không tường chuyện lắm. Vì thế mà cô chủ đã rất thú vị khi nghe tôi kể chuyện ông Lê Như Hổ. Chuyện về ông thì không phải cầm sách, cả xã tôi ai cũng thuộc lòng. Tôi lại thêm tí gia vị vào câu chuyện nữa, khiến nó vừa thần thoại, vừa thật, vì đã có hậu duệ Lê Loáng đây chứng minh. Cô chủ nghe chuyện vui vẻ và thích thú ra mặt. Thật đúng là “tai con gái”. Chỉ nghe chuyện ăn thôi mà đã có vẻ quên cả ngôi chủ khách, khiến cho tôi càng thêm hào hứng. Mấy gã phục vụ phải đứng xa phía sau nghe hôi câu chuyện tiếng được tiếng mất nhưng cũng có vẻ náo nức lắm.

Hết chai rượu ngon, hết thêm vài đĩa thức ăn nữa, bữa ăn kết thúc. Mọi người uống chén trà, còn Loáng tráng miệng hết một quả dưa hấu. Sau đó cô chủ tiệm vui vẻ tiễn chân chúng tôi. Chỉ tiếc rằng chúng tôi chỉ là khách ăn, bữa nay làm vui cho người phụ nữ này một lần rồi chia tay, chứ nếu là đối tác hay quan hệ khác thì chắc cô cũng sẽ mong gặp lại chúng tôi và quan hệ cũng có nhiều cơ sở để phát triển.

Buổi chiều, loáng không ngủ. Nó bảo tôi hay là chúng mình đi bơi vẫy vùng sông nước tí chút. Tôi đồng ý và đưa nó ra bể bơi Thái Hà. Chưa kịp gửi xe, Loáng đã nhìn bể nước và nghi ngại bảo tôi: “Bơi ở cái bể bơi bằng cái lỗ mũi này ấy à”. “Mũi là mũi thế quái nào”, tôi cự lại. Mày nhìn xem, mấy chục người đang vẫy vùng thế kia cơ mà. "Nhưng tao thấy nó bé lắm, có đủ quạt độ dăm sải không", nó nói, thái độ chán nản ra mặt. Thấy vậy, tôi đưa Loáng quay ra, vòng lên bể bơi Ngọc Khánh. Bể này tương đối cao cấp, giá bơi thuộc loại đắt nhất Hà Nội. Vẫn không đủ rộng để thuyết phục Loáng, nó nhìn qua rồi ngao ngán bảo: “Hà Nội chỉ có mấy cái chỗ bơi toen hoẻn thế này thôi à”. Tôi tự ái, nhưng thầm nghĩ nó nói cũng đúng. Tôi quay ra bảo nó. Nếu chính thống thì Hà Nội từ xưa cũng chỉ có độ dăm cái bể bơi thôi, toàn loại này. Ngày trước tao cũng ưa thoáng nên hay lên hồ bơi Quảng Bá. Nước sâu và chiều ngang hồ cũng tới hơn 200 mét. Mùa nước đầy thì trông cũng mênh mông lắm. Nhưng bây giờ dân họ lấn chiếm quanh hồ, lại xây đủ các quán ăn đặc sản vứt bừa chất thải xuống đó nên nước hồ cũng ô nhiễm lắm, bơi chỉ tổ bẩn ngứa thêm. To nhất thì có hồ Tây, nhưng không có bến xuống. Ở đó chỉ có dân sở tại quanh vùng và bọn câu cá trộm bơi lội thôi.

Loáng cười buồn, rồi chúng tôi quay về. Dọc đường tôi chợt nhớ ra bên con đường cao tốc Láng-Hòa Lạc mới mở, phía gần Tây Mỗ có một hồ nước lớn, một số dân bơi Hà Nội đã rủ nhau tới đó bơi buổi chiều. Nhưng mình phải tự lo là chính, vì đó không phải hồ bơi nên không có dịch vụ hay công tác cứu hộ nào cả. Loáng thích thú gật đầu liền. Nó bảo tôi, "mày yên tâm đi, thế mọi khi ra sông bơi thì ai dịch vụ và bảo hộ". Tôi cười. Nói thế thôi chứ tài sông nước của Loáng thì tôi chịu rồi. Khi bé ở quê, mặc dù ao hồ lẫn mương tiêu nhan nhản khắp quanh làng, nhưng Loáng vẫn hay rủ chúng bạn ra sông Hồng hay sông Luộc tắm. Đi xe đạp mà cũng phải gần tiếng mới ra đến sông. Loáng nổi tiếng bơi giỏi khắp vùng. Nó cũng thuộc loại to khỏe có sức vóc hơn người. Lại nhớ, ngày xưa thời Chúa Trịnh Doanh thế kỷ 18, bên Thanh Hà, Hải Dương có cuộc khởi nghĩa nông dân của ông Quận He Nguyễn Hữu Cầu. Tài bơi lội của ông được ví với cá He ngoài biển Đông, được tôn là Yết Kiêu tái thế. Đội quân thủy của ông rất mạnh, ngang dọc sông nước khắp vùng. Tôi chợt nghĩ, nếu thằng Loáng sinh vào thời đó, thể nào nó cũng gia nhập nghĩa quân, được làm tướng dưới trướng Nguyễn Hữu Cầu. Sau này lớn lên, Loáng có đi bộ đội, vào Hải quân và được tuyển chọn vào Đặc công nước. Nó đã từng bơi 30 cây số trên mặt biển. Tuy thế đến khi đơn vị nó được điều động vào Nam thì chiển cuộc đã thay đổi, miền Nam giải phóng đến nơi rồi. Loáng theo đơn vị ra tiếp quản quần đảo Trường Sa mà không phải đánh trận đặc công nào. Nếu không, chắc nó cũng đã nằm lại dưới lòng sông nào đó trong Nam rồi, vì đặc công nước ra đi 100 thì chỉ có 1 trở về.

Đến cái hồ bơi thiên nhiên bên đường Láng-Hòa Lạc ấy thì đã có hơn hai chục người đang bơi. Toàn là thanh niên, đàn ông. Hồ rộng có dễ đến gần chục hec-ta, mênh mông nước. Chúng tôi chọn chỗ, dựng xe rồi cởi quần áo xuống bơi. Tha hồ mà vẫy vùng. Thằng Loáng sải những cánh tay dài bơi vòng rộng ra giữa hồ. Tôi bơi kém hơn nên chỉ làm vòng nhỏ gần bờ. Trong đám thanh niên ở đây, nhiều đứa bơi tốt ra phết, nhưng xem sức vóc và tầm cỡ bơi lội thì không ai có thể so được với Loáng.

Vùng vẫy giữa trời nước phải đến hai tiếng đồng hồ, chúng tôi mới chịu lên bờ, mặc quần áo và ra về. Thế mà tới nhà cũng đã gần 6 giờ tối rồi. Tôi giục Loáng thay quần áo để còn đi ăn tối.

Tôi nhẩm tính lướt qua trong đầu rồi chọn quán Khang Sinh trên phố Nguyễn Thái Học. Chỗ ấy là vừa phải, không xa quá và cũng tương đối náo nhiệt vào buổi tối. Quán này chỉ có vài buồng nhỏ bật đèn mờ, còn chủ yếu khách ăn ngoài trời. Cái sân gạch đỏ rất to kê nhiều dãy bàn, có một ít cây cau và tre đàng ngà nghiêng cành sát bàn ăn, lại có cả vài bụi chuối rừng tạo vẻ gần gũi thiên nhiên. Dãy đồ ăn cũng nằm sát góc sân, có mái che sương. Quán này mưa to là phải đóng cửa. Tiền vào ăn là 15 “đô” một người, cũng vào loại thứ hạng cao trong các quán ở Hà Nội. Chỗ này có hơi đặc biệt một chút, có món sườn cừu nướng sả ớt mà dân miền Trung hay miền Nam rất khoái. Nó thơm ngon chứ không hôi rình và gây gây như món thịt cừu hun khói mà những gã thảo dân Mông cổ vẫn mang theo làm lương thực trên các chuyến tàu hỏa xuyên Á chạy từ Liên xô về Trung Quốc. Lại có một quầy có 2 gã phục vụ món tôm nướng tại chỗ. Tôm đang bơi vớt ngay từ bể kính ra, loại tôm sú to cỡ 25-30 con một cân. Ngoài ra lại có mấy quang gánh có bún ốc, bánh đúc riêu, phở gánh do mấy cô gái mặc áo tứ thân kiểu thôn nữ phục vụ. Thằng Loáng có vẻ thích mắt, nó không vội ăn như ở mấy quán trước, mà ngồi tại bàn chống tay lên má nghiêng người ngắm các cô một lúc khá lâu.

Chén xong đĩa ngao hấp, tôi mới giục Loáng ăn. Ở quê đi kéo vó ngoài ruộng chỉ có tép nhỏ, hợp với món kho khế. Tôm càng to chỉ có ở các ao lâu tát. Loại này phải câu hoặc đánh dậm. Xét về chất, tôm càng ở đồng ngon hơn tôm sú, nhưng lại bé hơn nhiều. Tôm càng mà làm món bánh tôm là số một. Thằng Loáng chắc cũng muốn so sánh, nên quyết định khởi đầu bằng món tôm nướng. Ở đây không nướng sẵn mà chờ khách yêu cầu mới bắt tôm để nướng. Mỗi kẹp chỉ có năm con. Thường mỗi người chỉ lựa một kẹp, ăn xong nếu thích mới yêu cầu thêm, còn thường là đổi sang món khác. Loáng yêu cầu luôn 2 kẹp. Mười con tôm sú nướng chấm tương ớt không đủ cho Loáng ngồi nóng chỗ. Nó lại ra yêu cầu hai kẹp nữa và lại thanh toán xong trong chớp nhoáng. Khi Loáng yêu cầu hai kẹp tôm lần thứ ba thì thằng nướng tôm hơi cau mặt. Nó bảo, anh nên ăn sang món khác đi, để người khác còn ăn. Loáng không chịu, nó bảo, cậu cứ nướng đi, ăn gì là quyền tớ cơ mà. Thằng nướng tôm tỏ vẻ khó chịu nhưng vẫn phải nướng tiếp hai kẹp tôm đưa cho Loáng. Tôi vừa cắt miếng thịt bò bít-tết chậm rãi nhai vừa nhìn Loáng. Lần này nó ăn từ tốn hơn, nhưng mười con tôm to cũng không kéo được quá năm phút. Loáng lại ra yêu cầu tôm nướng. Thằng nướng tôm có vẻ cáu, nhưng nhìn bắp thịt cuồn cuộn ở cánh tay của Loáng thì cũng ngại. Nó giở trò trẻ con nói với Loáng để hoãn binh, hay anh cứ ăn tạm món gì khác đi, chờ em nướng mấy kẹp này cho khách khác rồi em nướng cho anh. Loáng phẩy tay, ừ một tiếng rồi quay sang bên cô hàng bún gần đó: “Em làm cho anh hai bát bún ốc thật to, cho nhiều ớt một chút”. Cô gái vâng khẽ rồi nhanh nhẹn làm bún. Thằng nướng tôm thấy thế quay người cười thầm. Chắc nó nghĩ cái đồ vai u thịt bắp như gã khách này chắc quái gì đã xơi hết cả hai bát bún ốc. Mà xơi xong rồi thì no lòi kèn, còn chỗ nào trong bụng mà đòi thêm tôm nướng. Loáng bê hai bát bún nóng về bàn, đẩy một bát sang phía tôi, "

mày ăn một bát cho vui"

. Tôi lắc đầu, miếng bò bít-tết tôi đã chén xong đâu. Loáng không khách xáo, cầm thìa và đũa lên chén sạch hai bát bún khi còn chưa hết nóng. Nó khà nhẹ một tiếng khoan khoái, lấy cái khăn lau mồm rồi đứng dậy. Mày đi đâu đấy, tôi níu nó. Tao ra lấy tôm, Loáng nhe răng cười. Tôi thấy hơi ngài ngại, nhưng rồi để mặc Loáng. Thằng Loáng tiến lại chỗ nướng tôm, e hèm: “

cho anh hai kẹp tôm

”. Gã nướng tôm đã quan sát, biết Loáng vừa chén hết hai bát bún ốc to, nên kêu lên: “

Anh chưa no cơ à? Làm sao anh ăn hết hai kẹp tôm bây giờ

?”. Loáng bảo, "

hai kẹp tôm ăn thua gì, chục kẹp nữa tớ xơi cũng hết"

. Mười kẹp tôm là năm chục con, cỡ hai cân chứ ít ỏi gì. Loáng đã xơi hết sáu kẹp tôm và hai bát bún ốc to. Thằng nướng tôm biết vậy nhưng không thể biết Loáng thuộc loại “Trạng ăn”, nên đã làm một việc ngu ngốc là cá cược với Loáng. Nó bảo,"

 em sẽ đưa 4 kẹp tôm nướng nữa, nếu anh ăn hết, em sẽ chịu suất tiền ăn tối nay cho anh, nếu không, anh phải trả em năm trăm ngàn, chịu không?". 

Loáng cười, đưa bàn tay vạm vỡ ra bắt.

Loáng cầm 4 kẹp tôm về bàn, nói nhỏ với tôi chuyện cá cược. Tôi gật đầu, thầm nghĩ, mọi người lại phải chuẩn bị xem Loáng biểu diễn đây. Bọn nướng tôm chỉ để lại một đứa làm việc tiếp, còn một đứa và hai thằng phục vụ bàn tiến lại cạnh bàn chúng tôi làm vai trò trọng tài. Tôi vẫn ngồi nhưng không ăn nữa mà nhìn Loáng biểu diễn. Loáng từ tốn bóc vỏ từng con tôm, chấm đẫm vào đĩa tương ớt rồi đưa lên mồm. Nó cũng từ tốn cắn mỗi con làm ba miếng. Liên tục hết con tôm này đến con tôm khác. Hai chục con tôm hết veo, Loáng lấy khăn lau tay và liếm mép tỏ vẻ như còn thèm thuồng trước sự tròn mắt ngạc nhiên của ba gã thanh niên nhà hàng. Tôi cũng cười, vì biết trước sự việc sẽ diễn ra như thế. Loáng vỗ vai gã nướng tôm: “

Thôi, chú mày về làm việc đi và chuẩn bị lát nữa trả tiền cho anh. Còn bây giờ, để anh còn đi thưởng thức các món khác

". Nghe vậy, ba gã thanh niên càng tròn mắt ngạc nhiên hơn. Chúng đứng ngây người ra hồi lâu, nhìn Loáng ra xúc một bát chân giò hầm đậu Hà Lan to đem về bàn xúc ăn ngon lành như không, rồi mới giải tán. Tôi chỉ túc tắc ăn và làm tiếp nhiệm vụ giới thiệu cho Loáng biết nhà hàng này còn món gì, để ở chỗ nào …

Ăn kiểu như Loáng mà không gây sự chú ý với ai thì mới là điều lạ. Sự việc bây giờ lại diễn ra gần như ở các quán khác và không còn làm chúng tôi phải nghĩ ngợi gì nữa. Bọn phục vụ lại báo chuyện với tay quản lý. Gã quản lý ở đây tuổi cũng tầm ngoài 40, người to tròn trông như gã đồ tể trong chuyện Thủy Hử của ông Thi Nại Am. Gã tiến lại chào chúng tôi. Sau vài câu chào hỏi thăm dò, gã đề nghị được tiếp ăn cho Loáng. Sau cái phẩy tay của hắn, một gã phục vụ bê ra một thùng bia Heineken, bóc hộp rồi xếp bia lên bàn. Gã quản lý đưa tay mời mọc. Tôi biết thằng này có ý thử đểu. Thường uống bia thì không thể ăn nhiều. Thằng Loáng bạn tôi đã ăn một lô thứ đủ để bội thực nhiều người, nay nốc bia có men vào dạ dày, nó sủi lên làm trương tất cả các thứ trong đó lên thì chỉ còn nước vỡ bụng. Tôi không lo lắm vì biết sức của Loáng, nhưng về cái khoản kiến thức khoa học thì tự cho mình cũng hơn nó, nên nhắc nhỏ Loáng về chuyện bia có khả năng làm lên men đủ thứ. Loáng cười rồi tự tay ra chỗ để đồ ăn lấy về một lô các món toàn loại chắc nịch như sườn sào chua ngọt, sườn cừu nướng, bê thui và gà rán. Ở đây thằng quản lý chỉ mời bia thôi chứ không phải tiếp chuyện lịch sự như cô chủ quán “Cây cau lùn” nên nó không ngồi ăn cùng, mà cũng để mặc Loáng muốn lấy món ăn gì thì lấy. Cả một thùng bia 24 lon, nó chỉ bật ra một lon rồi xoay xoay trên tay nhấp từng ngụm và đẩy cả 23 lon còn lại về phía Loáng. Tôi cũng muốn uống đỡ Loáng một chút, nhưng vì vốn kém cái khoản rượu bia, lại vì thằng quản lý có ý mời riêng Loáng khoản uống này nên tôi cũng coi như không quan tâm.

Loáng vẫn vừa ăn vừa uống một cách bình thường, vẻ ngon lành kiểu thưởng thức chứ không phải là cố gắng ăn kiểu thách đố. Tôi biết Loáng dư sức ăn bữa dăm cân thịt luộc, cơm nấu dăm bảy đấu gạo và hết cả lít “cuốc lủi”, nhưng không nghĩ bụng nó chứa được cả hơn hai chục lon bia. Thế mà hết nhẵn, lại chẳng thấy đỏ mặt tía tai hay say sưa gì cả. Dọn sạch mọi thứ trên bàn xong, Loáng còn thong thả ngồi lấy tăm xỉa răng, dáng vẻ ung dung thư thái. Nó cứ nhe răng ra mà xỉa như lão Nghị Quế trong cuốn "Tắt đèn" của cố nhà văn Ngô Tất Tố. Đúng là quê. Nhưng hình như nó cố làm vậy để chọc tức thằng quản lý thì phải. Gã quản lý ngồi im không nói gì, hình như chờ nó vỡ bụng thì phải. Xỉa răng chán rồi, Loáng mới vươn vai đi ra khu Toilet. Nó vào đấy chừng năm phút, đủ để thải cái chỗ nước bia sau khi đã được lọc qua cơ thể nó. Chén một mạch, rồi mới đi "tồ" một mạch, thế chẳng phải đã khác người sao?

Chưa hết. Về đến bàn, Loáng còn chén thêm ba ly kem và một đĩa dưa hấu to nữa rồi mới chịu chùi mép kết thúc bữa.

Chúng tôi vui vẻ bắt tay chào gã quản lý rồi ra về. Tất nhiên là tôi chỉ phải trả tiền cho một suất ăn thôi.

Về nhà, tôi cứ sợ Loáng ăn bữa tối nay hơi nhiều, liệu có sao không. Nói dại chứ, phải đi cấp cứu bệnh viện vì chuyện bội thực ăn uống thì thật chẳng ra làm sao, ê cả mặt. Nhưng tôi lo cũng bằng thừa. Quen thân là thế mà hóa ra tôi vẫn chưa phải là kẻ đã hiểu hết về Loáng. Các ông "Trạng văn" còn có giới hạn bởi 3 quyển thi trong ba ngày lều chõng, chứ cái loại "trạng ăn" này thì đã có sách nào định lượng được đâu?  Rửa chân tay xong, cởi bỏ đám quần áo dài vướng víu, đánh mỗi quần đùi áo may-ô, Loáng lại hô tôi pha ấm chè thái ướp sen. Hai thằng lại ngồi ngoài hiên uống chè, ngửa cổ ngắm sao trời và tán láo đủ thứ chuyện đến tận khuya.

Đấy mới là hơn hai ngày Loáng ở chơi nhà tôi với ba bữa đi ăn buffet. Kể tiếp tỉ mỉ nữa thì cũng bằng thừa. Tất nhiên trong mấy ngày ở chơi nhà tôi, Loáng không chỉ ngồi ăn và tán chuyện. Nó đòi tôi đưa đi thăm danh lam thắng cảnh của Hà Nội. Quả là bắt bí nhau, biết đi loanh quanh chỗ nào bây giờ ở đất Hà thành này. Tôi ở Hà Nội lâu, nhưng có lẽ chưa biết đến mấy cái danh lam thắng cảnh nào. Đọc thơ, nghe hát thì hay đấy, nào là Chiều hồ Tây lộng gió, đàn chim Sâm Cầm bay rợp  đầm sen, rồi phố vắng thơm mùi hoa sữa … nhưng hình như chẳng có chỗ cụ thể nào cả. 

Tôi nhớ ngày bé có một lần thăm Di tích Cổ Loa bên Đông Anh, nhưng hình như không phải ngày hội thì cũng chẳng có ai đến. Thôi thì cứ xem người các tỉnh lên Hà Nội thì đi đâu, thì mình cũng đưa nó đến đấy. Tôi dành một buổi sáng đưa nó đến Lăng Bác, cảm nhận cái không khí nghiêm trang của dòng người lặng lẽ chầm chậm vào Lăng, sau đó theo ra khu nhà sàn của Bác, xem đàn cá thế hệ thứ bao nhiêu đó của đàn cá thời Bác còn sống, thăm ngôi chùa Một-cột. Thằng Loáng hơi ngỡ ngàng trước chùa Một cột. Nó bảo chùa này chỉ độc đáo về kiến trúc thôi, chứ bé tẹo mà vắng vẻ. Vắng vì có mấy ai được vào chùa ngoạn cảnh hay thắp hương gì đâu.

Hôm khác chúng tôi đến công viên Thủ Lệ xem con voi già và mấy con hổ ốm nhách. Mấy con hổ ấy đói ăn gầy còm sống trong chuồng sắt đã mất hết cả sinh khí, có khi còn không được ăn nhiều bằng thằng Loáng. Cảnh vật công viên nói chung buồn tẻ. Chỗ nào cũng thấy người bán rong mấy thứ đồ vơ vẩn như vài qủa bóng bay, tí kẹo cao su, chai nước khoáng… Mà cũng toàn do người nhà quê ra kiếm sống vặt vãnh qua ngày đem bán. Vèo một cái đã hết các nơi cần đến. Loáng bảo còn chỗ nào nữa. Tôi bảo nó, hay mày có đến các Nhà Bảo tàng không, mỗi nơi phải hết một ngày. Loáng lưỡng lự rồi hỏi tôi khu phố cổ. Tôi cười, chúng mình có phải như mấy ông Tây bà Đầm ngô ngô nghê nghê như từ mặt trăng rơi xuống đâu mà phải đi xem phố cổ.

Thế là ngoài cái vụ đi bơi đúng gu của Loáng, tôi rủ nó đi xem bóng đá. Không phải bóng đá giải Quốc gia hay khu vực gì vì độ này không đúng dịp. Chúng tôi đi xem bóng đá ngoài sân vận động của phường, vào và ngồi xem tự do không phải mua vé. Chỉ là thanh niên 2 phường cá cược nhau một trận bia, vậy mà khí thế và sôi nổi, hay chả kém gì V-league.

Chơi chán rồi, đến bữa thì phải ăn. Trừ bữa sáng chúng tôi tự nấu, còn trưa và tối nào tôi cũng đưa Loáng đi ăn Buffet. Mỗi nơi chúng tôi đến một lần cho biết. Từ những nhà hàng trên phố Liễu Giai, ở đường Nguyễn Chí Thanh, Láng Hạ hay phố Hàng Chuối hoặc cho đến nơi xa tít như đường Lạc Long Quân hoặc tận Nguyễn Văn Cừ bên Long Biên, tôi đều đưa Loáng đi. Giá cả các nhà hàng không chênh nhau nhiều lắm, cứ trong khoảng hơn trăm đến hai trăm nghìn một suất tùy theo bữa. Bữa tối thường đắt hơn bữa trưa 40%, vì có nhiều món hơn, và thời gian ngồi ăn nhâm nhi cũng được lâu hơn. Chỗ nào Loáng cũng gây sự chú ý đặc biệt cho cả nhà hàng lẫn thực khách. Mỗi nơi một hình thức tiếp nhận, nhưng ở đâu người ta cũng tò mò xem Loáng ăn. Có phải ai cũng ăn nhiều được như thế đâu, và có phải hôm nào cũng có ông khách như thế này vào nhà hàng đâu. Bởi vậy chỗ nào người ta cũng tiếp đón tốt thằng Loáng và không nhà hàng nào dám để xảy ra ấn tượng là không mến khách, vì thực khách nhìn vào là chính chứ nếu chỉ hai chúng tôi thì có đáng kể gì.

Đúng vào lúc cánh nhà báo săn tin biết chuyện, muốn tìm rủ Loáng đi ăn buffet để phỏng vấn nó và viết phóng sự cho mấy tờ báo đang trên đà "lá cải hóa", thì Loáng ngỏ ý muốn về quê. Cũng phải. Vụ cày sắp đến rồi, bao việc đồng áng đang chờ nó ở nhà. 

Tôi đưa Loáng ra bến xe Lương Yên, bắt tay và hẹn gặp lại nó vào  kỳ Seagames sau tổ chức tại Việt Nam.,.

Phép vua thua lệ làng", "Nhập gia tùy tục".

Chuyện ấy ai mà chẳng biết, nhưng những cái "tục" nhiều khi cũng làm ta cảm thấy khó xử hay buồn cười. Xin phiếm chơi về 3 chuyện sau để góp vui trong lúc trà dư tửu hậu.

 Chuyện thứ nhất: 

Từ Hà Nội theo đường 32 lên phía Sơn Tây chừng hai chục cây số là Thị trấn Phùng. Nơi đây có cây cầu sắt đã hỏng từ thời Pháp, có đường vượt nước tràn băng qua sông Đáy. Con sông Đáy bây giờ không còn đầy ắp, hiền hòa và "trong xanh như mắt trẻ", mơ mộng kiểu "sông trăng hay sông lụa" trong mắt các nhà thơ nữa. Thị trấn Phùng đang trên đà đô thị hóa, nhưng nó còn loam nhoam bởi con đường 32 hoành tráng đi qua nó thi công cả chục năm vẫn còn chưa xong. Đất bụi mù mịt khiến mỗi lần đi thăm bạn qua đó, tôi phải khoác áo mưa dù trời nắng để khỏi nhuộm hồng bộ quần áo mặc trên người.

Nhiều thứ đổi thay, nhưng có một tập tục từ bao đời vẫn không thay đổi. Đó là trong các cỗ to (như đám cưới) dứt khoát trong mâm cỗ theo chuẩn 4 khô 2 ướt phải có một đĩa thịt chuột mới gọi là sang. Thịt chuột đồng chỉ có hai món phổ thông là luộc và nướng, ở đây người ta làm thịt luộc ướp lá chanh chấm muối cho giản tiện. Nhiều vùng quê, trong đó có quê tôi người dân cũng khoái món thịt chuột, nhưng phải là thịt chuột đồng chính hiệu bắt vào vụ chiêm, khi đó chuột béo nhất và món chuột đồng nấu theo kiểu giả cầy thì thật khó mà chê cho được.

Đám cưới thường phải tổ chức khi đã nông nhàn nên chuột thường không béo. Nhiều khi thiếu chuột đồng, những tốp đàn ông thôn quê rủ nhau đạp xe mang theo đủ đồ nghề lên cả thành phố bắt chuột đem về làng bán, nên nhiều khi lẫn cả thứ chuột cống lắm mầm bệnh. Bây giờ người quê tản lên thành phố đi làm nhiều hơn, nên khi có việc cũng có lắm khách đô thị về làng góp vui. Thật khổ thân cho những khách má hồng không quen, ngồi nhìn đĩa thịt chuột trong mâm cỗ mà cứ cắn đũa nhìn, ghê lây cả các món khác không dám gắp.

 Chuyện thứ hai: 

Vẫn theo con đường 32 lên Thị xã Sơn Tây, từ Phùng trở đi hầu như tất cả các làng đều có tập tục trong bữa cỗ, nhất là những cỗ mời cả xóm làng, phải có một đĩa trứng vịt sắp theo đầu người. Đơn giản thì mỗi người một quả, nhiều nhà phong lưu hơn làm mỗi người hai quả, nhìn đĩa trứng vịt trong mâm 6 người với 12 quả đã thấy đầy cả một góc mâm. Tôi đã đến nhà bạn bè ở vùng này ăn cỗ nhiều lần, thấy nhiều khi khách không ăn trứng trong bữa mà gói cầm về, coi như một món quà, một món lộc của bữa ăn, đem về cho con trẻ ở nhà. Thôi thì thế cũng có vẻ hợp lý. Nhưng lại có rất nhiều nhà tỏ vẻ chơi sang, đãi khách hẳn loại trứng vịt lộn, mà nhiều khi cũng mỗi người hai quả mới ác. Khổ hơn nữa là trứng vịt lộn phải ăn nóng, không để dành đem về nhà ăn nguội được.

Có lần vào bữa ăn, thằng bạn chủ nhà xăm xắn mời tôi: "Mày phải ăn ngay cho nóng, thứ này phải thế mới ngon", rồi hăng hái bóc giúp tôi luôn hai quả trứng lộn. Ai chả biết thế, nhưng đầu bữa đã đánh hai quả trứng vịt lộn ngang bụng rồi thì còn ăn uống gì nữa. Nể chủ nhà mà ăn, nhưng sau độ hai lần như thế, tôi đâm ngại lên vùng này ăn cỗ. Nhưng tình cảm bè bạn nhiều khi lại không thể chối từ. Lần lên ăn cỗ thứ ba, sau khi thằng bạn bóc hai quả trứng lộn sắp vào bát cho mình, tôi bảo nó, "có khi mày cho tao thêm luôn hai quả nữa cho gọn". Nó tròn mắt: "mày thích ăn trứng lộn thế sao?" Tôi bảo: "không phải thế, nhưng ăn hai quả gần no rồi, tao ăn thêm hai quả nữa cho nó no hẳn, xong bữa luôn cho nhanh". Thằng bạn ngẩn người giây lát rồi hiểu ra. Nó cười bảo, "thôi từ nay mày không ăn thì cứ để đấy cũng được". Từ sau lần đó, tôi mới đỡ ngại và mới dám rủ cả vợ cùng lên chơi nhà nó vào những dịp khác.

 Chuyện thứ ba: 

Một lần, tôi cùng một thằng bạn lính Hà Nội khác lên thăm một thằng bạn lính ở Sơn Tây nhân dịp nó làm lễ lên ông (49 tuổi). Gớm, cái tập tục này nhiêu khê thế. Năm chục tuổi mà lên "ông" nỗi gì, trong khi lứa chúng tôi vẫn gọi nhau là "thằng" và vẫn nói chuyện "mày, tao". Tôi bảo, "hay tại quê mày lắm con gái xinh mà chúng mày cứ lẫn lộn "chú" với "anh" nên làng phải đặt ra tục lệ như thế, đôn chúng mày sớm lên ngay chức "ông" cho đỡ xí sớn gái làng". Thế là nó gân cổ lên thanh minh bằng được.

Thôi thì kệ cái tục lệ làng nó, có chết đến mình đâu mà tranh cãi.

Để làm quà mừng, chúng tôi mua tặng nó một chiếc quạt cây "Điện cơ" và một cái phích nước nóng. Thằng bạn đi cùng còn cẩn thận mua thêm mấy gói kẹo, bánh làm quà cho trẻ nhỏ và cân đường, hộp sữa biếu mẹ của thằng bạn lên "ông". Khi chúng tôi lên đến nơi đã gần trưa, khách khứa đã đến mừng, xơi cơm và về gần hết. Một hai thằng lính cựu cùng làng và thằng bạn vẫn ngồi chờ chúng tôi để làm một mâm. Chuyện cỗ lạt không nói làm gì, nhưng tôi thấy giữa nhà nó kê một cái bàn gỗ to, trên đó xếp hàng dãy cơ man nào là đường trắng, toàn túi một cân, trông cứ như bàn phát thực phẩm cho lính đi B năm xưa. Thấy tôi tròn mắt, thằng bạn giải thích, đấy là quà mừng của bà con dân làng. Cứ mỗi người đến ăn cỗ thì mừng cho gia chủ một cân đường. Điều đáng nói là ở đây cách mừng này cũng đã thành lệ như thế rồi. "Thế thì có mà ăn đến Tết Công-gô à", tôi thắc mắc. Thằng bạn cười bảo. "Đến mai lại đưa hết ra ngoài cửa hàng tạp hóa đầu xã thôi. Khi nào có việc lại ra đấy mua. Làng này trong năm lắm dịp giỗ, lễ lắm". Thật là cái nợ đồng lần, và cách làm cũng thật nhiêu khê. Buồn cười hơn nữa khi biết thêm là cùng ngày hôm nay trong xã có tới ba chục người cùng làm lễ lên "ông", vì xã thống nhất tổ chức tập trung mỗi năm chỉ làm vào một ngày cho tất cả.

Trên đường về tôi và thằng bạn lính đi cùng chợt thầm cười cả về cân đường, hộp sữa mình đem biếu mẹ thằng bạn. Lại nghĩ với cách thức này thì cái cửa hàng tạp hóa của xã việc gì phải mua đi bán lại cả mấy trăm cân đường quanh năm làm gì cho mệt, chỉ làm những cái phiếu to như cái thiếp để quy ước là xong chứ gì?

Truyện ma Chài

Tác giả: Tam Tang

Note:

Chúa Nhật tôi hay lái xe về chổ bố mẹ tôi cư ngụ, nơi đó có đông người Việt sinh sống hơn! Bố tôi quen một số người mới qua (5 năm trở lại) theo diện HO! Họ hay tới nhà bố tôi chơi, ăn uống và kể chuyện đời. Trong đó có những chuyện về đời lính) Tôi rất thích nghe những mẫu chuyện vui buồn này của họ, và nhiều khi viết lại và đăng lên đây để chia sẻ với các bạn !

Trong thâm tâm tôi, những người xứng đáng nhất để được định cư tại Mỹ này chính là những người đi theo diện HO này ! Họ đã chiến đấu khi xưa, bị bỏ rơi không thương tiếc! Và sau cuộc chiến 75, họ bị tù đày bao năm trong ngục tù CS! Hầu hết thì rất nghèo làm gì có tiền đi vượt biên như những người khác ! Họ là kẻ ngậm đắng nuốt cay suốt gần hai chục năm nay!! Tôi rất khâm phục họ !

Có những kẻ nhờ thời thế, nhờ tiền bạc v.v. có được cơ hội qua đây trước, nhìn những người HO với con mắt khinh thường, coi họ là kẻ nghèo hèn hơn mình! Họ nói đến từ HO với một giọng chứa đầy vẻ miả mai! Họ có biết đâu nếu những người HO này có cơ hội qua đây sớm thì họ cũng đâu thua gì ai! Mà có lẽ còn hơn nữa kià vì đa số hàng sĩ quan đều có bằng Tú Tài khi xưa ! Tôi tin chắc là với căn bản sẳn có như vậy, nếu có cơ hội họ sẽ dễ dàng thành công trong việc học vấn ở bên này! Vì qua đây quá trể nên đa số đã lớn tuổi, họ đành phải hy sinh bản thân mình cho gia đình, bám vào các nghề với đồng lương thấp kém với hy vọng con cái của họ sau này có cơ hội may mắn hơn họ !

Hãy nhìn những người HO với con mắt thán phục và biết ơn hơn, vì sự hy sinh của họ cho đất nước và cho cả chúng ta (những kẻ may mắn hơn họ, nhưng thường thì vô ơn !!)

Bài sau đây tôi viết theo lời kể của một người lính thuộc tiểu đoàn 21 Biệt Động Quân đồn trú tại tỉnh Đarlac (nay gọi là Đắc Lắc mà nhiều người chỉ biết nó qua cái tên quen thuộc hơn Ban Mê Thuột )

Tam Tang

Sau năm 73 khi lính Mỹ rút khỏi VN thì các căn cứ biên phòng dọc biên giới Việt Lào và Miên Việt được giao lại cho quân đội VNCH trấn đóng! Và Biệt Động Quân là lực lượng được giao phó cho trách nhiệm này! Tiểu đoàn 21 BDQ của tôi trấn giữ một đồn biên phòng sát vùng Tam Biên (Việt Miên Lào) gần Buôn Đông tỉnh Đarlac! Buôn Đông là một nơi bị cô lập với thế giới bên ngoài! Chỉ có một con đường đất đỏ nối với Ban Mê Thuột, nhưng đã bị CS phá nát và gài mìn bẫy! Binh lính CS lại thường phục kích trên con đường này nên mọi phương tiện ra vào, tiếp tế v.v... đều được thực hiện bằng phi cơ trực thăng ! Nhưng vì viện trợ Mỹ đã bị cắt xén thê thảm cho nên việc tiếp tế chỉ thu hẹp lại một tháng một lần mà thôi ! Ngay cả việc tiếp tế lương thực, thuốc men, đạn dược, tải thương, phát lương, đi phép v.v. cho đồn chúng tôi cũng chỉ có một lần cho mỗi tháng !!

Vùng này rừng núi âm u, chung quanh chỉ thấy mây mù và cây cối trùng trùng điệp điệp ! Ngày ngày chỉ nghe tiếng vượn hú quanh đồn! Tiếng chim "bắt cô trói cột" kêu buồn thảm trong các buổi chiều u ám! Cách đó mấy cây số có một làng người Thái, họ đã được ông Diệm đưa lên đây lập nghiệp sau khi họ di cư vào Nam năm 54 ! Cũng có vài buôn làng của các dân tộc khác như Ra Đê, Mơ Nông, Lào v.v. Nhưng họ Ở xa đồn hơn mà chúng tôi không có dịp đặt chân tới! Nhiệm vụ của chúng tôi là ngăn chận đường xâm nhập của quân chính qui CS từ bên kia biên giới sang! Vì thế Tiểu Đoàn Trưởng của chúng tôi thường phái các toán quân nhỏ đi hành quân tảo thanh, đi tiền đồn với một công hai chuyện: Bảo vệ cho đồn biên phòng và phát hiện quân CS, rồi báo cáo về xin phi cơ dội bom các nơi đóng quân của địch!

Tôi là trung đội trưởng của một trung đội thuộc đại đội 3, nên cũng thường được phái dẫn trung đội đi thi hành các nhiệm vụ này! Tôi thường tránh cho binh lính đi vào các bản làng ! Một là tránh bị phát hiện, hai là đề phòng việc các phần tử xấu gây thiệt hại cho dân chúng ! Ta thường nghe nói: "Bạc như dân, bất nhân như lính! Nên đề phòng thì vẫn tốt hơn! Trong một cuộc hành quân an ninh vòng đai như thường lệ , tôi dẫn trung đội băng rừng về hướng Tây của đồn cố giữ bí mật với hy vọng sẽ phát hiện được dấu vết của bọn CS để lại khi chuyển quân ! Nhưng gần cả ngày vất vả chúng tôi không tìm được gì ! Qúa trưa tôi ra lệnh rút về đồn, khoảng hai tiếng sau chúng tôi băng qua khu rừng gần làng Thái ! Tôi ra lệnh bố trí nghỉ mệt, hầu như mọi người đều đã uống cạn bi đông nước của mình ! Hai người lính xin tôi vào làng xin mấy nón sắt nước cho mọi người cùng uống! Tôi ngại lắm nhưng rồi cũng phải bằng lòng vì đồn vẫn còn cả 5 cây số nữa và nước suối vùng này rất độc không thể uống bậy được!

Khoảng 20 phút sau hai người lính trở ra với bốn nón sắt nước, mọi người chia nhau uống rồi tiếp tục lên đường về đồn ! Thế nhưng chuyện lạ đã xảy ra ! Một người lính của tôi đâm ra đau bụng thảm thiết! Mà anh này lại là một trong hai người đã đi xin nước bữa trước ! Rồi bụng anh ta một ngày một lớn ra! Anh ta rên la thảm thiết, y tá cho uống thuốc giảm đau cũng chỉ tạm thời dịu bớt mà thôi ! Xui cho anh ta là lúc ấy chỉ là khoảng mười mấy tây thôi, chúng tôi phải đợi đến gần cuối tháng mới có chuyến trực thăng vào ! Thời cuối cuộc chiến lúc đó rất khó mà xin được phương tiện cho nhu cầu mình muốn !! Anh ta bỏ cả ăn uống, rên la kêu vợ kêu con thảm thiết lắm mà chúng tôi đành đứng nhìn thôi ! Tôi không biết việc gì đã gây cho anh ta bịnh đó, hay là trong nước có độc! Nhưng các người khác không sao mà ! Tôi muốn hỏi anh ta nhưng anh ta mê man, lên cơn sốt liên miên đâu có tỉnh táo đâu để mà hỏi ! Tôi bèn kêu người lính cùng đi xin nước với anh ta lại hỏi cho ra đầu đuôi !

Anh lính trả lời:

_ Tui thiệt tình không rỏ lắm! Tui vào một nhà ở đầu làng và xin nước, bà già chủ nhà đồng ý và tui ra giếng kéo nước đổ vào bốn cái nón sắt ! Trong khi đó thằng Hải (tên người lính kia) nói là để nó đi vòng vòng xem có gì lạ không và đồng thời bảo vệ an ninh cho tui trong khi lấy nước ! Khi lấy nước xong tui kêu với nó! Nó chạy ra từ một căn nhà gần đó, miệng còn nhồm nhoàm nhai! Trên đường ra nó nói với tui : "Tao vào cái nhà đó lên tiếng gọi, không có ai ở nhà hết ! Tao thấy ba trái bắp luộc để trong cái rổ trên bàn, đang đói bụng tao dớt hết trọi! Mà lạ một điều là nhà không có ai mà mỗi khi tao ăn một trái là tao nghe có tiếng đếm mày à ! Cả thảy là ba cho ba trái bắp tao ăn đó! Tao cũng hơi teo teo nhưng đói quá tao làm hết trơn ba trái luôn! Êm cái bụng cho tới chiều rồi !" Tui chửi nó là đồ tham ăn, không biết để dành cho tui một trái ! Nó cười trừ hề hề ! Không biết có phải là do nó ăn mấy trái bắp mà bị sình bụng hay trúng thực không nữa !

Mấy hôm sau có máy bay vào đồn tiếp tế, chúng tôi cho tải anh ta về Quân Y Viện để chửa trị ! Ba ngày sau chúng tôi nhận được điện gọi vào từ hậu cứ cho biết là anh ta đã chết ! Trong bệnh án ghi là chụp quang tuyến X thấy đương sự nuốt ba cây đinh 10 phân vào trong bụng, bị nhiễm trùng rất nặng, đã lây lan qua gan, phổi! Qúa trể nên bị chết vì nhiễm trùng! Đêm đó tôi qua chổ thằng bạn chơi, ngồi uống cà fê đen và kể chuyện đời với nhau ! Tôi kể cho nó nghe về chuyện của người lính vừa chết ! Người trung sĩ trung đội phó của nó cũng ngồi đó nghe chuyện, anh ta là một người thượng Ra Đê! (Lính trên vùng cao nguyên này hơn một nữa là dân thiểu số rồi!) Nghe tôi kể xong anh ta chậm rãi lên tiếng:

_ Nó bị chài rồi! Mấy cái người Thái đó bùa ngãi đữ lắm! Nó đã bị ma xó đếm rồi ! Không biết thì chỉ có nước chết thôi !

Tôi ngạc nhiên hỏi:

_ Cái gì là ma xó! Tôi chưa hề nghe qua loại ma này lần nào hết !?!?!

_ Một số người Thái thờ ma xó trong nhà để giữ của ! Ai vào lấy cái gì mà không được phép chủ nhà thì ma xó sẽ đếm ! Cứ mỗi thứ thì nó đếm lên một, và tùy loại ma xó mà nó sẽ chài đinh hoặc đá, hay khúc gỗ vào bụng của kẻ ăn trộm đó!

_ Thế là không có cách gì cứu à ???! _ Tôi hỏi lại !

_ Nếu biết sớm thì lại xin chủ nhà trả lại đồ, hay thường bồi thiệt hại thì may ra chủ nhà sẽ xin ma xó tha cho ! Nếu mà tui biết anh ta ăn mấy trái bắp của người Thái thì có lẽ tui đã đoán ra và kêu ông cho người tới nhà đó xin để cứu nó rồi !Để lâu quá thì ma xó cũng không cứu lại được người nó thư đâu! Vì cái bụng cái gan cũng bị sình thúi hết rồi! Tội nghiệp cho nó quá !

_ Nói cho tôi biết ma xó là thứ ma gì mà người Thái lại thờ vậy ?! Dân tộc các anh có thờ nó không vậy ?!

_ Khi gia đình người Thái nào muốn thờ ma xó thì khi gia đình họ có ai chết, họ chặt một khúc cây to, xong khoét bọng bên trong rồi nhét kẻ chết vào đó rồi bít kín lại ! Họ làm lễ tế phù phép gì đó rồi để khúc gỗ đó ở chổ kín trong góc nhà !! Và kẻ chết trở thành ma xó coi nhà cho gia đình ! Chỉ họ mới biết cách biến người chết thành ma xó mà thôi, đó là bí quyết của người dân tộc ở biên giới Việt Hoa! Còn các dân tộc ở Cao Nguyên này không biết được cái bùa phép này ! Nhiều người Thái còn cho ma xó giữ nương rẫy của họ nữa kìa! Cho nên các dân tộc khác ở vùng này không ai dám lấy trộm cái gì trên rẫy của người Thái hết ! Ông nên nói cho mấy người lính của ông biết để họ đừng có động đến các thứ gì của người Thái sau này !

Tôi bán tín bán nghi, không biết người trung sĩ thượng này có đúng không !!! Nhưng thường thì những người thượng chất phát này không nói dối! Để đề phòng sự việc có thể tái diễn, các lần đi hành quân sau này tôi luôn dẫn lính tránh xa các bản làng, không riêng gì một mình làng Thái ! Biết đâu các dân tộc khác lại có thứ bùa ngãi khác của riêng dân tộc họ thì sao ! "Cẩn tắc vô áy náy" mà, từ đó cho đến tháng 3/75 đơn vị tôi không thấy có trường hợp nào tương tự xảy ra nữa ! Cho đến bây giờ tôi cũng không biết có đúng là người Thái có thờ ma xó thật không nữa vì tôi chưa từng trực tiếp tiếp xúc với một người Thái trắng nào cả !!!

Từ bữa đám giỗ lịch sử

Các vị bô lão trong làng kể lại rằng đám giỗ ấy tổ chức vào ngày đầu tháng hai năm Mậu Thân (1908). Đó là giỗ tộc Trương - một tộc lớn ở Phiếm Ái lúc bấy giờ. Đông đủ quan khách và con cháu nội ngoại tộc Trương về dự. Trong số này, có nhóm đồng dân: Trương Hoành, Trương Tổn, Trương Đính, Trương Côn, Lương Châu và Hứa Tạo - những học trò Khâm Thiên Giám văn hay, chữ tốt nhưng khá lận đận trong khoa cử; đặc biệt rất giống nhau ở tính quyết đoán, mình làm mình chịu, không đổ thừa cho ai. Đồng dân có nghĩa là đồng hành, đồng lòng với nhân dân chống cường quyền, bất công. Hưởng ứng phong trào Duy tân do cụ Tây Hồ chủ trương, lâu nay nhóm đồng dân sốt sắng vận động dân chúng học chữ quốc ngữ, dùng vải nội hóa Quảng Nam, tham gia diễn thuyết, rồi mạnh dạn hớt tóc ngắn để "bỏ cái ngu, cái dại"…

Gần trưa, các thủ tục cúng tế đã hoàn tất. Tiệc rượu bắt đầu. Cả một năm trời họ tộc mới có dịp hội ngộ, sum vầy. Thế nhưng, đám giỗ năm ấy, không khí có vẻ trầm lắng hẳn đi. Mấy năm liền, từ năm Giáp Thìn (1904) đến cuối tháng giêng năm Mậu Thân, trời làm hạn hán, mùa màng thất bát, ruộng đất bỏ hoang. Nhiều người phải ăn lõm chuối, hạt chát để cầm hơi. Dân tình thậm khổ mà nhà nước Bảo hộ cứ dửng dưng, chỉ biết thu thuế, bắt xâu. Sau vài tuần rượu, Trương Hoành "khai hỏa": "Dân tình khổ hơn con chó, rứa mà sưu thuế cứ đến hẹn lại lên. Năm ni lại mất mùa đói kém, chục nhà đói cả chục. Nhà nước chẳng thương xót dân, lại còn tăng thuế. Chịu hết nổi rồi bà con ơi!...Bà con tính coi, nước ta từ nhiều năm ni chịu quá nhiều thứ thuế. Nào đinh, sưu, nào thuế điền thổ, thuế chợ, thuế đò, thuế rượu... Cái chi cũng đóng thuế cả. Thứ thuế mô cũng cao ngất trời. Đơn cử như cái khoản thuế điền thổ, mỗi mẫu phải nộp tới 4 đồng 50 xu, cao gấp 5-6 lần so với xứ Nam Kỳ. Canh tác chỉ đủ nộp phân nửa số thuế là cùng. Lợi tức của nhà nông hầu như chẳng lo được chuyện ăn uống hàng ngày. Lại còn khoản công sưu nữa chớ. Từ 1 đồng 10 xu đã tăng lên tới 2 đồng 60 xu. Quanh năm, nạn tạp dịch vừa xong đã tới quan dịch. Hết hương dịch lại có lệnh của cố dịch. Mấy cái "dịch" quái ác này, dân mình vừa chẳng có tiền công, vừa phải tự lo liệu cái ăn, cái uống. Ngủ gục ngoài đồng, ngoài đường cái. Ốm đau chẳng ai lo. Bị đòn roi, đói chết, đau chết không ai hay. Ôi! Thảm thương quá!...".

Trương Hoành bỗng uất nghẹn. Không khí đám giỗ vốn đã trầm, càng thêm lắng. Đây đó có tiếng sụt sùi. Lương Châu, người Hà Tân, rể Trương Nhiếp, hắng giọng: "Đã rứa lại thêm cái lũ quan lại, lương đã cao mà còn muốn kiếm chác thêm cho đầy túi. Chúng cậy cái oai, cái thế quan nhà nước để làm càn, cướp trắng của dân. Tui vừa nghe tin huyện Lãng căm tức vụ dân mình kiện hồi tháng trước, giờ đã tăng khống số dân lên cốt tăng số thuế hòng trả thù! ". Nghe đến đây, cả bàn tiệc sôi sục: "Trời! tri huyện nhẫn tâm quá, hèn hạ quá! Đúng là kẻ mọt dân, đồ vô liêm sĩ!".

Hứa Tạo đứng dậy. Cử tọa vốn biết tiếng vị lý trưởng làng Ái Nghĩa này tính tình khẳng khái, lại thương người. Ông từng đứng ra xin giảm sưu thuế, thậm chí chịu hình phạt thay cho dân. Hứa Tạo đĩnh đạc nói: "Thưa quý vị, tức nước thì vỡ bờ. Tui nghĩ kỹ rồi. Không có lẽ ta ngồi chịu chết, phải cùng nhau cương quyết một phen. Nhóm đồng dân đã bàn và thống nhất phải làm đơn lấy chữ ký của lý trưởng các xã trong huyện. Rồi bà con mình kéo tới trình quan huyện chuyển đạt lên Tòa sứ. Nếu cần, triệu cả tri huyện cùng đi xin giảm nhẹ sưu thuế cho dân. Rút kinh nghiệm chuyến trước, lần ni ta nên tổ chức đi thành đoàn cho có trật tự. Đồng bào mình cùng nhau mặc áo rách, đội nón cời để vừa tạo thanh thế, vừa để cho quan thấy dân mình thậm khổ, thực tình muốn xin xâu, giảm thuế chứ chẳng làm điều chi trái phép. Phải mang theo khoai mo, cơm gói, nước uống vì chắc chuyến ni phải đấu tranh dài ngày. Xin các vị cho ý kiến!".

Mọi người cùng hướng mắt về phía Trương Nhiếp (Nghè Nhiếp). Tháng trước, ông giữ vai trò "cố vấn" cho nhóm đồng dân trong cái vụ kiện huyện Lãng, viên tri huyện Đại Lộc bất công, hiếp đáp dân lành lên Tòa Công sứ Pháp ở Hội An. Công sứ Charles bao che, xử tri huyện không có tội nhưng cũng phải kiềng mặt "dân điêu ngạnh". Sau vụ này, hào lý trong huyện càng chán ghét huyện Lãng. Vốn tùng sự nhiều năm, Hàn lâm viện Trước tác Trương Nhiếp thừa biết sưu thuế là việc có quan hệ đến đại chính của quốc gia nhưng ông lại nghĩ khác. Dân dĩ thực vi tiên. Dân đang đói thì lấy chi mà nộp thuế. Nghè Nhiếp gật đầu tán đồng ngay: "Ông Hứa Tạo nói chí phải. Chuyện ni dân mình phải kiện cho tới nơi, chớ không thì làm răng hết khốn cùng. Phần tôi sức yếu nhưng xin cùng các chú Trương Tổn, Trương Kỳ và con rể Lương Châu thay mặt bà con các xã viết đơn đề đạt quan trên giảm sưu thuế".

Ngồi nghe mọi người bàn tán, Huấn Liên im lặng suy nghĩ. Cùng với Nghè Nhiếp, ông là một trong hai người của họ Trương đỗ cử nhân. Được bổ làm quan Huấn đạo ở huyện Duy Xuyên, Trương Liên chẳng mặn mà chi với chốn quan trường. Đã mấy lần ông xin từ quan. Nhưng không được chấp thuận. Gần đây, Huấn Liên ngầm khuyến khích một số trường trong huyện tổ chức cho học sinh học chữ quốc ngữ và cải cách việc học theo mô hình trường Phú Lâm ở Tiên Phước. Chuyện xin xâu giảm thuế cho dân chúng là điều mà ông đã tính tới nhưng chưa tiện nói ra. Bản tính làm việc chi cũng cẩn trọng, Huấn Liên điềm đạm bàn: "Dân ta đấu tranh dài ngày là cái chắc. Nên theo thiển ý của tôi, ta phải phân công người ở nhà lo chuyện chạy gạo, chạy tiền hỗ trợ người ra "tiền tuyến". Rồi, còn phải tính chuyện thay người. Lớp này mệt về thì cử lớp kia tiếp ứng, thay thế". Trương Nhiếp tán thưởng, đoạn hướng về phía Trương Kỳ: "Chuyện đại sự ni, hào lý các vị phải ra tay mới được. Chú Kỳ là lý trưởng nên bàn với anh em hương chức đứng ra tổ chức đón tiếp và lo cơm nước cho bà con đi xin xâu cho chu đáo!". Trương Kỳ sốt sắng: "Dạ! chuyện ni em xin nhận."

 Thấy "cuộc họp" đã ngã ngũ, Trương Hoành khéo léo kết thúc: "Thưa các vị, ngay sáng mai, nhóm đồng dân sẽ chia nhau đi vận động các lý trưởng trong huyện. Các vị cố gắng bí mật loan báo cho bà con mình hay nhưng phải cẩn thận đề phòng. Kẻo quan huyện biết, vu cho dân khởi ngụy mà ton hót với Công sứ thì hỏng cả việc lớn!"...

Những gì diễn ra tiếp theo sau bữa đám giỗ lịch sử năm ấy đã được sử sách nhắc lại khá nhiều. Chúng tôi chỉ tóm lược nội dung chính: Khi kế hoạch lấy chữ ký đang triển khai suôn sẻ, đơn xin giảm sưu thuế đã được 35 lý trưởng các làng ký thì tên lý trưởng làng La Đái sau khi ký đơn lại phản, lén đi báo tri huyện. Tình thế đã thay đổi, khiến những người thủ lĩnh đi đến quyết định mới: không đợi lấy đủ chữ ký mà ngay lập tức phát động quần chúng kéo đến huyện đường với lá đơn xin giảm thuế để "nhờ quan đứng xin giúp". Thế nhưng, khi đến nơi thì tri huyện đã bỏ chạy xuống tỉnh cấp báo. Thế là, đoàn biểu tình kéo xuống tỉnh đường La Qua. Sau khi bao vây tỉnh đường, biết quan huyện đã xuống Tòa Công sứ (Hội An), Trương Hoành, Hứa Tạo và các thủ lĩnh khác tiếp tục lãnh đạo "đội quân" mặc áo rách, đội nón cời, mang theo cơm gạo ùn ùn kéo về Tòa Sứ đấu tranh. Trên đường đi, nhiều người gia nhập đoàn biểu tình. Ngày 11-3-1908, khi đến Tòa Công sứ, lực lượng quần chúng tham gia đã lên đến hàng nghìn người. Công sứ Charles hoảng sợ, tìm cách xoa dịu, cho lính ra bảo dân về, hứa sẽ giải quyết sau. Dân nhất quyết không về. Khi hắn cho mời đại diện của đoàn biểu tình, các ông Trương Hoành, Hứa Tạo, Lương Châu... thay mặt dân vạch rõ chế độ xâu dịch hà khắc của thực dân, phong kiến, yêu cầu giảm xâu, giảm thuế, đòi trừng trị những viên quan ô lại. Tên Công sứ cho rằng việc giảm thuế, giảm xâu không phải là phận sự của hắn và bảo dân giải tán chờ báo lên Khâm sứ Pháp và Nam triều xem xét. Thế nhưng, nhân dân quyết không về. Tức tối, Công sứ Sarles ra mặt đàn áp, cho lính dùng gậy gộc, roi, báng súng đánh đập quần chúng một cách dã man và bắt giam những người đại diện của dân. Trương Hoành, Hứa Tạo, Lương Châu và những thủ lĩnh khác rơi vào tay giặc. Nhưng ý chí của các ông đã được quần chúng giữ vững. Ngay lập tức nhân dân đã bầu các thủ lĩnh mới để tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh. Khắp nơi trong tỉnh Quảng Nam, đồng bào lũ lượt kéo về Tòa Công sứ đấu tranh. Một biển người "áo rách, nón cời, tóc ngắn" thay nhau bao vây Tòa Công sứ. Họ tổ chức ăn uống tại chỗ, lập ra đội quân xung phong chống khủng bố, đầu đội mo cau, quần áo lót mo cau đứng ở vòng ngoài để đỡ đòn đánh đập của lính. Sau này, không chỉ bao vây ở Tòa Công sứ Hội An mà quần chúng ở phủ, huyện nào thì tổ chức bao vây phủ, huyện đó, đòi giảm xâu, giảm thuế. Khí thế ngất trời. Từ Quảng Nam, phong trào lan rộng ra khắp các mười tỉnh Trung Kỳ, trong đó có cả Kinh đô Huế. Tại đây, Nguyễn Tất Thành (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh) cùng bạn học là Lê Đình Dương (người Điện Bàn, Quảng Nam) đã tham gia làm thông dịch cho đoàn biểu tình của nông dân Thừa Thiên - Huế.

Đã tròn một thế kỷ đã trôi qua, kể từ thời điểm nổ ra phong trào chống sưu, thuế ở Quảng Nam và Trung Kỳ, song, ý nghĩa và giá trị lịch sử của phong trào vẫn không hề phai nhạt. Sức mạnh vĩ đại và tinh thần quật khởi của giai cấp nông dân đất Quảng nói riêng và Việt Nam nói chung đầu thế kỷ XX đang tiếp tục được phát huy mạnh mẽ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở thập kỷ đầu của thế kỷ mới này. Lòng yêu nước, chí khí kiên cường, trí thông minh của những người nông dân "đầu đội trời, chân đạp đất" tham gia phong trào năm ấy luôn là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn đối với hậu thế. Bởi vậy, theo chúng tôi, sớm xây dựng ở làng Phiếm Ái, Đại Nghĩa, Đại Lộc - nơi diễn ra bữa đám giỗ lịch sử 100 năm trước, xuất phát điểm của "Trung kỳ dân biến"- một công trình tưởng niệm nhằm tri ân và tôn vinh công trạng của tiền nhân.

VÌ ...CÁI MỒM!

Trưa nay, các bác, các anh chị đi Tây Nguyên về, gồm: bác Lân, vợ chồng anh Duy, chị Hằng, bác Nguyễn Vĩnh Tuyền, em Liên… mời các nhà văn, nhà thơ, nhà báo – là bạn bè trong đại gia đình Xóm Lá ở Hà Nội, dự bữa cơm thân mật mừng thành công chuyến đi. Các bác còn rất chu đáo, mang cả quà Tây Nguyên về tặng chúng tôi. Quà là café, ai cũng có phần. Riêng thuốc bổ dương, mua tại nhà cụ Amakong, thì chỉ có một thang. Khách mời gồm nhiều Quí ông, thuốc chỉ một thang nên anh Duy (phu quân Nhà thơ Chử Thu Hằng) đề nghị các Quí ông tự nguyện khai báo, ai "kém" cái khoản "ấy" thì tặng. Thật không ngờ, quá bán Quí ông giơ tay! Kết quả bốc thăm rơi vào Nhà báo Nguyễn Chu Nhạc. Nom anh Nhạc thư sinh, chắc yếu… (biết đâu gầy thầy các các khoản?). Anh Chu Nhạc lại muốn nhường cho bạn mình là Nhà thơ Trần Đăng Khoa, vì vợ anh Khoa trẻ, đẹp lắm, nhưng anh Khoa xem ra không quan tâm lắm đến thang thuốc quý này. Còn tôi, cao 1,7m, nặng 80 ký, nhìn bề ngoài ai cũng tưởng phong độ, đang “khổ vì khỏe”, không cần thứ thuốc bổ ấy, nhưng kỳ thực, tôi đã “rửa tay gác kiếm” từ lâu! Mấy con Zì (Thúy Tím, Mùa Thu Vàng) tỏ vẻ không tin. Tôi mới giải thích, đại để, máy bay thiết kế có ngần ấy giờ bay, bay nhiều, phải đến lúc hạ cánh!

Là kể vui vậy thôi, thật ra, thời gian gần đây, bệnh của tôi diễn biến rất phức tạp. Kỳ khám sức khỏe định kỳ và khám bệnh chuyên khoa mới đây, các bác sỹ kết luận tôi bị tiểu đường, rối loạn mỡ máu, suy giảm chức năng gan, thận ; huyết áp tăng thất thường. Tuần trước, uống thuốc tây và thuốc nam, đường máu giảm xuống 6,7, tôi đã mừng mừng, nay lại tăng cao. Uống thuốc tây thì ảnh hưởng đến gan, thận. Đó là mối mâu thuẫn, rất khó giải quyết cho phác đồ điều trị. Tôi không nhớ ai đó đã nói, khi khỏe, người ta thèm đủ thứ, nhưng khi ốm, chẳng thèm gì, chỉ thèm có sức khỏe.

Vì sao tôi phải mang những thứ bệnh này? Thưa, vì cái mồm! Vì tôi đã ăn uống, sinh hoạt vô độ! Vì những năm làm báo ở miền núi tôi đã cùng đồng bào “thức nhắm tràn trề, những bữa tiệc tàn đêm” (thơ Ngô Tiến Cảnh). Thủ phạm chính là rượu, là thức nhắm, là thuốc lá, thuốc lào. Những thứ ấy đã quật đổ tôi, khiến bây giờ tôi phải “rửa tay gác kiếm”. Và, chính nghề báo đã đẩy tôi vào thảm cảnh này. 

Nhân đây, xin đăng lại bài báo của tôi nói về bệnh của nhà báo, để mong được sự chia sẻ của bà con. Tôi cũng mong ai có bài thuốc nam hay, mách hộ tôi. Tôi trân trọng cảm ơn.

Sau mỗi chuyến đi cơ sở, về nhà anh thường ôm bụng nhăn nhó vào ... toa lét kịch kiệt! Vợ anh càu nhàu: “Đi cho lắm, nốc cho đẫy vào ...”. Khổ thân anh! Chuyện ăn uống thời nay đâu có phải ham hố giành giật, quyết ăn cho kỳ no kỳ chán như trước. Bây giờ, đến cơ sở được các đơn vị thiết đãi cơm; dù cơm công nghiệp cũng sang hơn cỗ thời bao cấp. Tuy nhiên, phần nhiều nhà báo phải lang thang, bạ đâu ăn đấy. Nào cơm bụi, nhà hàng đặc sản; nào thịt chó, lòng lợn tiết canh, thượng vàng hạ cám. Có hôm nhỡ đường sà vào quán nước, vớ gói mì tôm, quả cóc làm “mồi” đưa mấy chén rượu coi như cơm bữa. Rồi bạn bè, lâu ngày gặp nhau, bạn lôi vào quán, gọi rượu thịt ra, không lẽ từ chối...

Về cái sự ngủ, cũng... chẳng ra làm sao cả! Nhiều đợt đi công tác dài ngày, được các đơn vị bố trí ngủ nhà khách, khách sạn thật sang, nhưng cũng không hiếm khi “tuỳ nghi di tản” ngủ vạ vật. Có bữa trời rét căm căm, đang đêm vẫn lang thang ở vùng mỏ, chưa biết ngủ đâu, đành mở danh bạ điện thoại, gọi điện tới gia đình các người quen xin ngủ qua đêm. Một hôm ngủ nhờ nhà ông Trần Tâm, là nhà thơ ở Cẩm Phả. Đêm tỉnh dậy, con chó đẻ xồ ra. Nhà thơ Trần Tâm mặc quần đùi, khoác vội áo bành tô vớ then cài cửa canh chó nhưng vẫn hoảng, đành nhịn... “dị hóa” cho tới sáng!

Đấy! Ăn uống, ngủ nghê thất thường vô độ, bừa phứa như thế nên mới sinh cái chứng đau đại tràng kinh niên! Tôi biết, trong đám đồng nghiệp chúng tôi ở Hà Nội, Quảng Ninh, Thái Nguyên, rất nhiều người bị bệnh đường tiêu hoá, mặc dù họ ăn uống kiêng khem. Nói vô phép, cứ vào toa - lét nhà bạn khắc biết. Trong toa - lét chất một xấp sách báo. Đó là phương tiện để các nhà báo bị mắc bệnh tiêu hoá tranh thủ đọc, bởi cái sự “đi” của họ không bình thường!

Thợ lò dễ mắc bệnh phổi, bác sỹ, cảnh sát hình sự nguy cơ cao về phơi nhiễm vi rút HIV... còn nhà báo, chỉ nói riêng về bệnh lý, nguy cơ cao nhất là bệnh về đường tiêu hóa. Hiện tại, chưa ai thống kê về số nhà báo mắc bệnh này nhưng tôi khẳng định rằng, trong gần 19 nghìn nhà báo chuyên nghiệp của Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh đường tiêu hoá rất cao. Có thể được xem, đó là một trong những loại bệnh nghề nghiệp của nhà báo.

Tôi rất thấm thía câu nói của JulesJanin : “Nghề báo đưa người ta đến bất cứ đâu, miễn là thoát được ra nó”. Thật vậy, trước cách mạng tháng 8/1945, nghề báo đã đưa các nhà báo, nhà văn Lê Văn Trương, Lan Khai, Vũ Bằng... và cả Nguyễn Tuân vào “ngọn đèn dầu lạc” (tên một tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân nói về thuốc phiện) và hát ả đào. Thời nay, báo chí cách mạng với những quy định chuẩn mực về đạo đức về nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người làm báo, không dung nạp những người cầm bút non kém về tư tưởng, về đạo đức tác phong, người mắc các tệ nạn xã hội càng không thể có trong đội ngũ những người làm báo. Tuy nhiên, những thói quen xấu, tật hư như nghiện thuốc lá, ham rượu bia thì nhiều nhà báo khó tránh khỏi. Nhà báo giao thiệp rộng, lắm bạn bè nhưng về nhà, khi chong đèn lên, ngồi trước trang giấy trắng mới thấy cô đơn khủng khiếp. Nhiều người vẫn ví, trang giấy đối với người cầm bút như “pháp trường trắng”. Tư tưởng, quan điểm, yêu ghét của nhà báo đặt cọc vào tờ giấy. Nhân cách, phẩm giá, uy tín, tiền bạc của đối tượng phản ánh và thái độ của hàng nghìn bạn đọc cũng được đặt trước trang giấy trắng đến rợn người. Đã không ít những nhà báo điêu đứng chỉ vì vài trăm con chữ đăng trên mặt báo. Bởi vậy, ta hãy quan sát hình ảnh nhà báo trước “pháp trường trắng”: Tóc tai bơ phờ, mặt nhàu nát, kính tụt xuống chóp mũi, thi thoảng vung tay đập muỗi. Lúc bí thông tin, chưa lập được ý, buông bút đứng dậy, gương mặt ngây dại đờ đẫn, miệng nhạt hoét liền với bao thuốc châm lửa, hoặc với chai rượu tợp một ngụm cho đỡ căng thẳng, đỡ nhạt miệng. Lại nữa, khi hoàn thành một ý hay, một bài báo tâm đắc, nhà báo buông bút khoan khoái, gương mặt hân hoan như trẻ con đón mẹ đi chợ về; nhà báo muốn dốc đổ niềm vui đang ứ đọng. Nhưng xung quanh yên ắng quá, cô đơn quá, nhà báo đành tự thưởng cho mình bát mỳ tôm, mấy chén rượu và đốt thuốc. Cứ triền miên viết trong môi trường ấy và dùng rượu, thuốc lá giải toả tâm trạng buồn vui, dần dần thành thói quen, thành nghiện, khó mà sửa được. Tôi biết trong giới báo chí rất nhiều người mắc phải tật xấu trên, Nhà báo AĐ, Báo Đ. ung thư gan giai đoạn cuối nhưng đi đâu cũng kè kè chai rượu trong túi; các nhà báo Hữ Ước, Tổng biên tập báo Công an Nhân dân, Xuân Ba, báo Tiền Phong... hút thuốc lào như xé dẻ, thậm chí sang nước ngoài các ông cũng mang theo cả điếu cày.

Rượu, thuốc lá, thuốc lào đã huỷ hoại sức khoẻ con người như thế nào, mọi người đã biết, các nhà báo lại càng biết. Nhưng làm việc trong điều kiện trên, rất dễ bập vào nó và cũng rất khó sửa chữa. Những nhà báo mắc phải các bệnh mà nguyên nhân chính do rượu, thuốc lá gây ra thì có thể hiểu rằng đó là hậu quả do tính chất của nghề làm báo mang lại.

Trong lúc cả thế giới đang tẩy chay nạn hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia mà có kẻ là tôi, lại biện minh cho những người mắc phải tật xấu tật hư kia thật đáng chê trách. Nhưng đây, chỉ xin nêu vài dòng để bạn đọc “đọc chơi” và hiểu thêm công việc của nhà báo để chia sẻ.

Chào Bác nhuthin, đọc bài viết của Bác làm em bồi hồi nhớ lại về cái ĐÓI.Tuổi thơ của em đã đói, chứng kiến về cái đói của nhiều gia đình khác thời bao câp , thế mà cũng từ những gia đình bữa no, bữa đói ấy  biết bao người con đã lên đường tiến ra các mặt trận và lập lên biết bao chiến công lưu vào sử sách. Thế mà Bác biết không, ngày chiến đấu ở MT 579, hướng Đền Preavihia, cái đói người lính có thể vượt qua được vậy mà CÁI KHÁT người lính nhiều lúc lại phải đầu hàng, như trận đánh căn cứ 547 của f307 mùa khô năm 1983 ta đã bị thua vì thiếu nước uống cảnh lính chiến vứt bỏ lương khô, gạo sấy đi để rút lui quá đau sót phải không Bác.Những người lính dũng cảm, can trường nơi trận mạc, vũ khí mạnh hơn địch, kinh nghiệm chiến đấu có thừa mà thua vì lý do THIẾU NƯỚC thôi Bác ạ. Sau này vào mùa khô năm 1984 trong trận đánh lại cũng chính căn cứ đó ta đã chuẩn bị nước uông đầy đủ hơn nên dù địch mạnh hơn hẳn trước do đã có sự phòng bị ma ta đã đánh và thắng lợi vang dội. Chính trong lần hành quân và ém trong rừng cao su gần Long thành,lần đầu tiên trong đời tôi mới biết cơn khát nó khủng khiếp thế nào.Không chịu nổi, tôi liều đục hộp cá của Canada ra húp nước ,mà làm sao có thể đỡ khát bằng cái thứ đó chứ,thế là khát vẫn hoàn khát mà còn mất toi hộp cá to tướng.Chiều hôm tiến đánh Long thành lại còn khiếp hơn ,vớ được cái hố cá nhân ven đường có một tí nước bùn cũng đành cố gạn để uống! Khi lội qua mương nước "sạch",tôi chơi nguyên bộ lao xuống nước uống lấy uống để, còn lấy đầy bi đông.Đến cửa ngõ Long thành, thấy có gói đường trong ba lô bị chảy,tiếc của tôi hòa luôn nước đó uống vậy mà cũng chẳng sao.Nhưng sách mới là cơn khát nặng nhất. Cả mấy năm ở QT mà không có gì để đọc.Chỉ duy nhất có một quyển thơ mua được ở Đông hà,có những bài của Dương hương ly... Ở Long thành,vớ được tờ báo lá cải cũng đọc ngấu nghiến và lúc đó mới biết thằng Tầu đã ăn cướp Hoàng sa. Đến SG thì quá đã, tha hồ đọc. Có quyển như"phía tây không có gì lạ" ngoài Bắc đã dịch từ 1969 nhưng còn rất nhiều quyển khác như "bố già", "papilon" vv...lúc ấy mới biết.

GỎI ĐU ĐỦ TAI HEO

Đăng ngày: 13:58 15-10-2009

Thư mục:

Tổng hợp

M

ỗi dịp đông về nhìn những cây đu đủ lúc lỉu quả trên cây mà thấy thèm. Nghe người ta nói đến nộm đu đủ tôi cũng muốn làm thử một lần cho biết, nhưng khi làm xong ăn nó cứ làm sao ấy. Không đúng. Nhìn cái đĩa nộm nhợt nhạt mỡ, ăn vào vẫn nghe vị chát của nhựa đu đủ. Bực mình.

Quên hẳn quả đu đủ vài năm, một lần tình cờ đi Bình Dương 

thăm bạn lính. Nhậu gỏi đu đủ, thằng ny nấu ăn ngon lắm, hôm nay tôi quyết định học mót nó món này.

Hái một quả đu đủ ở giữa chừng đám quả lúc nhúc, bỏ vào thau nước, chẻ ra làm tư, gọt vỏ bóc ruột rửa sạch, bỏ lên rổ cho ráo nước. Lỗ tai heo cạo sạch lông, đổ ngập nước luộc lửa lớn, bỏ đó cho nó chín ta đi bào đu đủ. Những lát đu đủ bào bằng dao hai lưỡi dọc chiều dài của quả sao cho độ bằng hai ngón tay, dài nữa thân quả là được, phần gần ruột quả nên bỏ vì thường phần đó kém giòn. Bào đu đủ xong đem rửa lại cho bớt nhựa, rồi để lên rổ cho ráo. Bây giờ thì lỗ tai heo đã chín, nhớ đừng để cho lỗ tai heo nhừ quá coi như mất ngon. Lỗ tai heo đem xắc lát mỏng làm sao cho phần sụn trắng tinh ở giữa thẳng đều đẹp mắt. Giờ thì đu đủ đã ráo nước ta bỏ vào thau hoặc nồi nhỏ, đổ hai muỗng lớn đường, một muỗng lớn giấm ăn trộn đều lên, dùng tay bóp đến khi nào miếng đu đủ trong veo là được, làm như vậy khoảng 10 phút, rồi đem thau đu đủ ấy ra rửa thật sạch và lại để lên rổ cho ráo nước. Bây giờ hãy đi chuẩn bị những thứ sau: vắt nước 4 quả chanh giấy, xắc lát mỏng một củ tỏi to, khoảng 3 trái ớt cay.

Đổ đu đủ vào thau, nước cốt chanh, tỏi, 4 muỗng càphê nước mắm ngon, 2 muỗng lớn đường, ½ muổng lớn bột ngọt và ớt vào. Đeo bao tay nilon vào bóp đến khi nào nếm trông cái nước chua, cay, mặn, ngọt, thơm xông lên mũi đê mê đầu lưỡi là được. Phần đu đủ thế là xong, vớt đu đủ rải đều lên một cái đĩa to. Lưu ý đừng vắt nước mà chỉ vớt đu đủ ra thôi, vì nếu vắt để một lúc ăn sẽ không còn ngon nữa.

Thau nước bóp gỏi hãy còn, bây giờ bạn vắt thêm một trái chanh vào đó, thêm một chút nước mắm và đổ phần lỗ tai heo vào, trộn đều và bóp khi nào cảm thấy màu trong ra và lỗ tai heo mềm đi là được, vớt ra rải đều trên mặt tạo 

một lớp thứ hai trên phần đu đủ. Chẻ hoa 2 quả ớt sừng, khoảng 5,6 ngọn húng quế rải lên trên, xong. Một chén nước mắm chua ngọt làm ngay sau đó và … nhậu thôi !!... chưa được đâu, hãy thêm một chút hành phi, vài hột đậu phộng rang nữa. Ok.

Một hương vị đặc biệt. Trong sự giòn lát xắc của đu đủ, giòn tan của đậu phộng rang, béo giòn lúc khúc của lỗ tai heo, cay của ớt, cay của tỏi của rau quế, vị mặm nhẹ nhàng của nước mắm. Một đũa thôi, thật là … nhậu thôi. Chắc cũng nên say một lần.

Gặp lại “người rừng” bất đắc dĩ

Ông không quá già so với cái tuổi sắp 70 của mình như trong tưởng tượng của tôi. Sau 19 năm thành “người rừng” bất đắc dĩ, ông lại bắt đầu một cuộc sống mới trong vòng tay yêu thương của đồng bào Hre làng mình.

Ông là Đinh Văn En (69 tuổi), hiện ở Dốc Mốc, xã Ba Cung, huyện Ba Tơ, Quảng Ngãi.

Cuộc vượt trại cùng 20 viên đá lửa

Như rất nhiều thanh niên Hre thời chống Mỹ, đến tuổi “quân dịch”, đa số đều bị bắt đi lính (ngụy), ông Đinh Văn En cũng vậy. Ông đi lính bảo an, ở đồn Ba Vì, cách thị trấn Ba Tơ ngày nay khoảng 20km theo quốc lộ 24 đi Kon Tum. Sau gần 10 năm lính nhưng En cũng chỉ lên đến cấp bậc thượng sĩ, bù lại, đám lính bảo an ở đồn Ba Vì ngày ấy, tất thảy đều sợ En một phép. Họ đồn ông En có bùa ngải. Đồng bào Hre mà nghe ai có bùa ngải là sợ lắm.

Cầm đồ thuốc độc là một hủ tục của người Hre. Người ta đồn rằng, hễ ai có “đồ”, chỉ cần dùng “đồ” ấy “yểm” vào nhà người nào thì người đó sẽ chết hoặc tan gia bại sản.

Theo quan niệm của người Hre thì “đồ” được hình thành từ chiếc ria mép của con hổ cái, đem gói chung với một loại lá cây đặc biệt rồi mang chôn ngoài rừng. Đúng ngày , “đồ” được lấy lên và mang theo người để “yểm” vào ai mà mình muốn. “Đồ” ở đây là một dạng của bùa ngải mà ông En từng sở hữu- dĩ nhiên là theo lời đồn thổi của đám lính bảo an.

Thượng sĩ “già” Đinh Văn En không thèm cải chính về lời đồn thổi nọ, trái lại, ông lấy chuyện đó để “phòng thân”. Chả đứa nào dám đụng vào En, từ tên đại đội trưởng đến những tay lính lác bợm nhậu. Mỗi khi đám lính ăn nhậu tưng bừng, hễ thấy En liếc mắt một cái, cả bọn rã đám ngay. Cái “uy” ấy đến giờ vẫn còn truyền tụng trong dân làng Dốc Mốc.

Anh Phạm Văn Don, hàng xóm ông En ra chiều hiểu biết về “người rừng” này: “Ổng ghê lắm, đạn của du kích bắn ổng biết mấy mà có thủng đâu, vậy nên ổng mới sống đến giờ chớ!”. Nghe ông hàng xóm “tán” vậy, Đinh Văn En cười hiền khô, thay cho lời đính chính: “Nếu mà đạn bắn không thủng, tui đâu có trốn trại để thành người rừng làm gì!”.

Ngày giải phóng (1975), En lẩn vào đám tàn quân chạy trốn nhưng giữa đường bị quân giải phóng bắt làm tù binh. Ông được dẫn giải về trại cải tạo Kim Sơn huyện An Lão, Bình Định.

Một buổi sáng của năm 1979, Đinh Văn En cùng những bạn tù đi chặt cây rừng. Đám bạn tù, đa số là sĩ quan rỉ tai nhau nhưng cố để En nghe được: “Thượng sĩ già như thằng En này, chắc là có nợ máu với dân nên mới bóc lịch lâu đến vậy. Trước sau gì cách mạng cũng “xử” những thằng như hắn thôi”.

Lo sợ trước cái tin trời búa nọ, En bàn với 3 bạn tù nữa, cũng người Hre cùng quê, quyết định trốn trại. Trại cải tạo Kim Sơn thuộc huyện An Lão, tỉnh Bình Định nhưng tiếp giáp với huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi. Những năm sau giải phóng, rừng còn rậm rạp lắm, thú dữ cũng còn rất nhiều. En và 3 bạn tù người Hre không biết được quãng đường mà mình sẽ đi ấy bao xa nhưng điều này thì họ biết: Nguy hiểm đang chờ họ trong những ngày sắp tới.

Tìm hướng để băng rừng đối với người Hre là chuyện vặt, sợ nhất là lấy đâu ra lương thảo để ăn dọc đường? “Tôi đã xin trong anh em của trại tổng cộng 20 viên đá lửa làm hành trang cùng chiếc soong nhỏ rồi lên đường. Chúng tôi sẽ nấu củ và rau rừng bằng chiếc soong ấy” – ông En nhớ lại.

Tôi hỏi ông: “Các ông có nghĩ đến việc khi về quê, chính quyền cách mạng sẽ hỏi giấy “hoàn thành cải tạo” thì trả lời sao không?”. Ông En nói rằng, nếu mà nghĩ được như vậy thì sẽ không có chuyện mắc kẹt trong rừng 19 năm sau đó! Ông chỉ nghĩ đơn giản là thoát ra khỏi trại Kim Sơn để tránh một cuộc hành quyết sắp tới thôi.

Trở thành “người rừng”

Chiều hôm ông En đào thoát, cán bộ quản giáo trại Kim Sơn kiểm tra quân số và thấy vắng 4 người. Họ biết các trại viên người Hre đã trốn. Một cuộc truy lùng ráo riết, nhằm hướng Ba Tơ trực chỉ. Ông En kể: “Chúng tôi chỉ ngủ cùng nhau một đêm đầu tiên, khi biết bị truy đuổi, chúng tôi tự giải tán và đi riêng lẻ. Đến giờ tôi cũng không rõ số phận của 3 người kia thế nào, chỉ biết rằng, sau hơn một tháng, tôi mới đặt chân về đến vùng rừng huyện Sơn Hà, quê vợ tôi”.

Về đến Sơn Hà, ông En nhận tin buồn: Người vợ của ông sau 4 năm chờ đợi, cứ tưởng ông chết, bà đi bước nữa. Và rồi ông chọn cánh rừng Sơn Nham của huyện Sơn Hà để “định cư”. Hàng ngày, En mò ra các rẫy lúa của đồng bào Hre để “ăn cắp” những thứ có trong rẫy, lúc thì trái bắp, khi thì quả bí, quả bầu. Tối lại, ông chui vào các hang đá để qua đêm, nếu mùa mưa, ông chọn những thân cây to, có ba chạc để “ngủ úp” trên đó nhằm tránh thú dữ.

Chỉ qua một mùa mưa, bộ quần áo tù mà En mang theo đã rách tả tơi. Ông lại ra rẫy đồng bào, lấy áo rách của “bù nhìn” mà dân dùng để đuổi chim để mặc. 20 viên đá lửa mà ông mang theo, sau 1 năm là hết nhẵn. “Mùa khô thì tui dùng hai viên đá để “ghè”, lấy con cúi làm mồi lửa, sang mùa mưa thì đành ăn… sống!” – ông En cho biết.

Có một dạo, dân Sơn Nham đồn ầm lên về việc xuất hiện “người rừng”, đồng bào đi rẫy tận mắt nhìn thấy có một người tóc rất dài, trên người không một mảnh vải… Chỉ cần nghe tiếng động là “người rừng” ấy biến rất nhanh. Công an và kiểm lâm đã nhiều lần mai phục nhưng không bắt được. Cho đến một hôm…

Mùa mưa năm 1998, hay tin có một nhóm lâm tặc đang chặt cây tại vùng Sơn Nham, Kiểm lâm huyện Sơn Hà đã xuống hiện trường. Họ đi rất khẽ nên tình cờ phát hiện “người rừng”. Ông En nhanh chóng biến ngay vào rừng rậm nhưng chẳng may bị vấp ngã gãy tay và bị bắt. Ông được đưa về huyện Sơn Hà để “thẩm vấn” nhưng sau gần 20 năm ở rừng, En gần như quên hết tiếng người! Phải mất cả buổi, tiếng người mới dần hồi phục trong ông.

“Tôi biết một cái tết trôi qua là khi leo lên cây và nghe tiếng nổ của pháo dưới thị xã Quảng Ngãi. Thế nhưng, có một thời gian dài, tôi không nghe tiếng pháo nữa, dù hoa dại đã nở trắng rừng, biết tết cũng vừa qua. Sau này tôi mới biết, năm ấy nước mình cấm đốt pháo (1994)”.

Điều kỳ lạ là từng ấy năm ăn sống nuốt tươi nhưng ông En chưa một lần bị ốm! Ông chỉ “ốm” sau khi công an đưa ông về Ba Tơ, cho ông ăn uống thật “sướng” thôi. “Ăn sống quen rồi, giờ ăn đồ chín mà đau bụng mới kỳ cho chứ!”. Ông En cười xòa.

Những tưởng bà con Hre sẽ “làm tội làm tình” ông, hóa ra họ đón ông En bằng tất cả tình thương đối với đứa con lỡ dại lạc loài. Ông bây giờ ở một mình trong ngôi nhà “đại đoàn kết” mà chính quyền xây cho. Sắp 70 tuổi rồi mà Đinh Văn En vẫn làm quần quật, không nghỉ ngày nào. “Mỗi ngày tui kiếm được 70-80 ngàn”. Ông khoe với khách rồi cười hồn nhiên như chưa từng trải qua những bi kịch của đời mình

Mặt trận Biên giới Tây Nam

Những ngày rảnh, mà nằm chốt thì toàn những ngày rảnh. Rất khoái! Không vất vả như thời huấn luyện. Chỉ có mỗi ban đêm khổ vì gác địch. Những ngày như thế, tôi xách AK đi vẩn vơ dọc bờ mương bắn cá. Tháng 12 rồi mà sen hồng, súng hồng vẫn nở. Điều đó quả là lạ với một anh học trò mới đi bộ đội. Nhớ sen hồ Tây, cữ tháng chạp là sen tàn. Chỉ còn những cọng khô, tiêu điều xơ xác. Lá sen tàn, quăn lại trong gió bấc. Đầm sen hiu hắt, lấy chỗ cho những con le le lầm lụi, chổng mông lên lặn hụp kiếm mồi. Ở đây sen, súng vẫn rộ như mùa hè. Nước trong leo lẻo… Đứng rình một lúc, từng đàn cá “mã giáp” to cỡ bàn tay từ từ nổi lên. Thân cá dẹp, lốm đốm chấm hoa, đôi râu vây ngực dài thướt. Đích thị cá mã giáp(!). Tôi há cả mồm ra mà nhìn. Nghĩ thầm sao cá mã giáp ở đây sao nó to khủng thế?

Ngày bé, tôi ham nuôi cá cảnh. Buổi trưa hay mò ra hàng mấy bà bán cá, nơi tiếp giáp giữa chợ Đồng Xuân và chợ Bắc qua. Cá gì mà tôi không lạ? Vạn long, mã giáp, thần tiên, sê can, hồng tử kỳ, kiếm mắt đỏ, mún, ngựa vằn, hắc quần, mây chiều…Rồi chọi hồng, chọi tím than…Rẻ nhất, mắn đẻ nhất là mấy anh khổng tước. Con đực bé tí và đỏm dáng, lúc nào cũng xun xoe quanh con cái, rình húc mõm vào cái bụng đầy trứng. Cái giống khổng tước cái, động tí là chửa... Tóm lại không thiếu loại gì tôi không biết. Nhưng quả thực cá “mã giáp” to như bàn tay thì chưa thấy bao giờ.

Bụp! Cá láng trắng nước. Tôi lội ào xuống vớt được mấy con chạy về khoe ầm lên. Các anh ấy ôm bụng lăn ra cười. Mày bảo gì? Cá mã giáp hả? Mã giáp là cá gì? Ối giời ơi…! Mấy con sặc bông mà bày đặt mã giáp.

Lại học được thêm một từ mới :”bày đặt”. Đơn vị năm đó toàn lính Bắc, từ quan tới lính. Nhưng ngôn từ thì điển hình rặc Nam bộ, tuy vẫn giữ giọng Bắc. Từ đó, tôi quen dần với những từ :”cà chớn”, “dễ nóng”, “bầy hầy”, “siêng nhác”, “nói nam nam”…Và cũng học thêm một điều nữa là bắn cá xong phải lấy miếng mùng rách vớt ngay.. Vì nó bị sức ép, bị choáng thôi. Chỉ một lát sau là nó hồi lại. Cá mang về đun với lá, với đài hoa cây chân vịt chua cọng tím là món ăn hàng ngày của lính chốt.

Bố Nhương lại có kiểu bắt cá khác. Không biết anh ấy kiếm đâu được quả đạn B.40 lép liền tháo ngòi nổ ra. Buộc vào một thanh tre cứng dài chừng 2m rồi vác xuống cái đìa cạn gần đại đội 4. Vào xin ít liều cối tọng vào đầu đạn đốt. Thuốc nổ TNT bắt lửa cháy thổi ra đen kịt. Thế là cha ấy gí cái dụng cụ bắt cá quái dị ấy xuống đìa. Rà đi rà lại một lúc như đi cày cho thuốc cháy hết rồi lội ào xuống. Quờ quạng, quăng liên tiếp lên bờ những con cá lóc đen bị say thuốc to cỡ bắp tay. Tôi ngán cái dụng cụ nghề cá ấy quá. Kinh bỏ mẹ! Thôi! Để em xách cá về cho nào...

Ăn cá mãi cũng phát chán. Có thằng còn đập chết con chuột đồng. Phanh bỏ ruột, ướp ngũ vị hương, kẹp tre tươi nướng vàng lên chén ngay. Lần đầu tiên tôi mới thấy người ta ăn thịt chuột. Dù đọc hồi bé, biết rằng ở làng Đình Bảng bên Bắc Ninh, cỗ chỉ đóng tư. Và chỉ có cỗ nào to mới có thịt chuột đồng hấp, ép lá chanh dưới cối đá.

Buổi trưa nằm hầm, thiu thiu nửa ngủ nửa thức. Vẫn nhớ in cái nóng âm âm, giữa không gian tịch mịch, giữa cánh đồng chỉ nghe tiếng gió lào thào... Tịch lặng đến mức có thể nghe tiếng lá thốt nốt đang nỏ dần, cựa mình tí tách trên mái lá nóc hầm…Loạt xoạt loạt xoạt…Một cái đuôi đen dài thòng xuống, rồi cái lườn xanh bóng loáng duyên dáng ườn ra. Cái đầu nhỏ tí lại rúc vào phía trong mái. Phần thân béo núc lồ lộ. Chết mẹ mày con rắn mối! Ai cho ỉa lên đầu chúng ông? Mà phân của loài này thì rất khó ngửi. Thằng Đồng với cái que thông nòng, lấy cái thùng đại liên kê đứng lên. Roạt…! Vô mánh rồi! Cái đuôi tự rụng, văng ra giãy giãy. Nhặt lấy nốt! Nó để nguyên con kẹp cây, xuống anh nuôi cời than nướng luôn cả vỏ. Đó là kiểu nướng mọi: thơm phức, và thịt rất ngọt. Chấm muối ớt ăn thôi rồi ngon.

Cả trận địa phòng ngự chúng tôi dàn hàng ngang, tựa vào bờ đê. Nhìn về phía địch thấy một rặng cây xa mờ. Buổi trưa tan sương, thấy rõ bên đó một mái chùa đỏ ngói. Còn ban đêm, đôi khi thấy những vệt đèn pha chấp chới rồi tắt ngấm. Chúng tôi đào khoét vào thân đê những cái hố chiến đấu hình móng ngựa. Những bụi cây ráy, cây điên điển lúp xúp che khuất những bờ đất mới đắp trên ụ. Còn ngủ thì trong những cái lán nửa nổi nửa chìm. Phần nổi đắp đất dày ba mặt chống đạn nhọn. Mái lán thì úp đủ các loại: chằm lá thốt nốt, che tôn hoặc lợp rạ sơ sài. Hầm và ụ hoàn toàn không có nắp đắp như hầm phòng không thời đi sơ tán máy bay Mỹ. Hẳn là hỏa lực cối pháo địch ở đây không đáng kể. Mọi hoạt động của đơn vị hoàn toàn diễn ra sườn bên này con đê.

Có một lần, tôi không biết gì, mới mặc nguyên cái áo lót có tay còn trắng ra chỗ cây xoài cổ thụ. Chỗ đó là đài trinh sát 27 của sư đoàn. Trên đó, tổ đài làm một cái sàn nhỏ. Họ nằm cả ngày trên đó quan sát binh tình địch. Điện đàm lúc nào cũng léo nha léo nhéo. Tính leo lên theo cái thang làm bằng thân cây tre buộc vào thân, lên đó xin các ông ấy cho nhòm qua ống nhòm xem địch nó thế nào. Các anh ấy chửi um lên, bắt tôi leo xuống. Đ…má, mầy mặc áo trắng nó tỉa cho phọt óc bây giờ! Nghĩ lại thấy đúng là điếc không sợ súng. Rồi cuộc đời nó sẽ còn dạy cho nhiều bài học nữa. Thể tích hình cầu, đạo hàm F(x) bậc 2 cùng tuyến tính, hay những công thức tính lượng giác của các góc đặc biệt…ở đây chẳng có ý nghĩa gì hết. Phải nghe những người lính đi trước! Phải sống! Phải giết chết nó trước khi nó kịp giết mình là bài học có ý nghĩa nhất của chiến tranh.

Ở đại đội 1, tôi hay mò xuống trung đội 2 chơi. Ở đấy có thằng T và thằng Căn là bạn cùng đoàn. Anh Khương khàn, lính 75 quê ở Hà tây là trung đội trưởng. Anh ấy thường lọ mọ lấy xẻng bộ binh đi đào khoai nước ven đê, tống vào thùng đại liên để luộc ăn chơi. Tiếng anh ấy nói khíu khíu như tiếng ngỗng kêu. Không tinh thì chẳng nghe được câu nào. Chắc biết thế nên anh Khương ít nói. Chỉ cười hiền, khoe hàm răng ám khói thuốc rê vàng khè. Cán bộ đơn vị chiến đấu khác hẳn cán bộ đơn vị huần luyện. Ở Phủ Lý, cỡ trung đội trưởng như anh ấy thì cứ gọi là thét ra lửa.

Một hôm, tiểu đoàn gọi xuống, lệnh cho mỗi đại đội 5 người đi lấy gạo và thực phẩm. Thằng T cùng trong quân số được phân công. Nó đi qua chỗ tôi, dúi cho cái bàn chải với túyp thuốc đánh răng Ngọc lan còn mới. Nó kéo tôi ra, thì thầm bảo là tao biến luôn đây. Tao vẫn để cái chăn sợi Nam định với bộ quần áo đang phơi lại lán để chúng nó khỏi nghi. Mai mày xuống mà lấy nốt. Nói rồi nó khoác cái ba lô lép, chạy ù theo đám vận tải về trung đoàn. Tôi không biết nói một lời nào. Chỉ mong sao cho nó đi được thuận, chứ vệ binh họ tóm được thì khổ. Mà đã trông thấy thằng địch nào đâu mà bảo sợ, bảo hèn? Đến đêm, khi anh em trở về đại đội thì không thấy nó đâu nữa. Cũng chẳng thấy ai quát nạt, kiểm điểm những người còn ở lại. Bởi có lẽ còn bao nhiêu việc phải làm.

Thằng bạn thân nhất cùng lớp đã trốn đi. Mấy đứa kia thì đã sang tiểu đoàn 6. Từ nay lớp cũ còn mỗi mình tôi. Đêm đó thật buồn! Mé đất Việt, một quầng sáng hắt lên mây một màu vàng đục. Anh Ky bảo đấy là thị trấn Mộc Hóa. Nhìn thấy cái quầng sáng mà thèm, mà nhớ quê nhà. Cái quầng sáng ấy gần lắm! Tưởng chừng chỉ băng qua cái cánh đồng đầy cỏ lác này chừng hơn tiếng là đến nơi…Trời ơi là cái cánh đồng chó ngáp. Ban ngày xanh cỏ, loáng nước chói chang nhưng yên tĩnh. Ban đêm sôi động tiếng cá ăn móng, tiếng ếch nhái côn trùng, tiếng rắn trườn hay chuột chạy bùm bũm…Những âm bè lạc điệu ấy bị nhấn chìm trong một bè chính vĩ đại, là tiếng vĩ cầm của triệu triệu con muỗi đang rung cánh vu vu…Ca gác ban đêm, thấy cái gì cũng to ra, cái gì cũng kỳ quái như chứa đầy hiểm họa…

Ký ức tuổi thơ máu lửa

Ngược thời gian hơn 40 năm về trước. Xóm nhỏ của tôi là vùng tranh chấp. Cán bộ , du kích ở ngay trong dân. khi Giặc MỸ hay lính ngụy đi càn thì làng xóm bị pháo dập tan tành.

Khi Mĩ đến, đàn ông thì chạy đi, gấp quá thì rút xuống hầm bí mật.Thường thì cũng có phân công các em thiếu nhi chăn bò cảnh giới. Khi thấy chúng đến thì la: "bò ăn lúa" hay "trâu ăn sắn"

 Hôm ấy, mới sáng sớm, Mọi người đều còn ở nhà thì đã thấy lính Mĩ từ phía sau vườn đạp bờ rào đi vào. Tên lính mĩ trăm một tràng gì đó, mẹ tôi và anh chị cứ lắc đầu "no biết". Chúng hỏi gì thì cũng chỉ biết trả lời "NO BIẾT". Còn tôi thì chạy ra đưa tay nói: "Chú, cho xin tán kẹo". Có khi cũng được nhiều kẹo, nhưng hôm đó thì không có.

Tụi chúng đi vòng quanh nhà chỉ thấy đàn bà và trẻ con rồi bỏ đi. Một lúc sau bổng nghe một tiếng nổ lớn ở xóm trong. Mọi người chưa hiểu chuyện gì xảy ra, nhưng nhà ai nấy ở, không dám chạy vào xóm trong xem thử ra sao.

Đến gần trưa khi tụi mĩ đã rút lên đồi mọi người mới chạy vào nơi phát ra tiếng nổ ấy thì dân làng đang kéo từ căn hầm nhà bà kính ra ba thây người chết nám đen thân người nào cũng te toét máu.Thì ra hôm ấy nhà bà Kính đang ăn cơm sớm mai có 2 du kích ở đó nữa, Mĩ đến sớm quá bất ngờ,  3 người đàn ông (2 du kích và ông Sinh, con trai bà Kính, cũng là cán bộ) không kịp chạy, vội chui xuống hầm tránh pháo của gia đinh - không kịp xuống hầm bí mật.

Tui Mĩ chẹn miệng hầm và gọi lên, nhưng không ai dám lên, chúng bèn đặt mìn và giật trước mặt mẹ, con  ông Sinh.

 Ôi lần đầu tiên khi mới 5 tuổi đầu tôi đã thấy người chết do bom mìn . Thật kinh hải đến bây giờ.

Sau vụ 3 người chết do Mĩ giật mìn thì các nhà đều lo củng cố lại hầm tránh pháo, hầm bí mật và cảnh gới nghiêm ngặt hơn. Riêng cô bé Sinh - con ông Sinh ( gọi theo tên con) trở thành cô bé mồ côi lúc 6 tuổi. Mẹ thì đã bỏ đi Sài Gòn lấy chồng khác - do mâu thuẩn gia đình -trước đó mấy năm.  Cha cũng bị giặc Mĩ giết rồi. Hai bà cháu sống lây lắt qua ngày, cùng tản cư chạy bom đạn đến hết cuộc chiến tranh. Bây giờ cô bé ấy sắp trở thành bà ngoại rồi đó.

 Cũng xin liên hệ lại lịch sử một tí. Sau Hiệp định Giơ ne vơ 1954. Ở quê tôi chỉ còn một số đảng viên cài cắm trong dân, một số thì lên núi. Chính quyền Ngô Đình Diệm ra chính sách "Tố cộng, diệt cộng".  Từ 1960 đã thực hiện xây dựng "Ấp chiến lược" Mỗi gia đình phải nộp hàng trăm cây tre dài 3m rào quanh làng, bên trong có lính Bảo an, Dân vệ canh phòng.

 Những cán bộ từ trên núi mò về có người đã bị bắn chết nằm trên bờ di (Hàng rào Ấp chiến lược bằng tre) Riêng có ông Phận là một đảng viên kỳ cựu, ra vào ấp chiến lược như " Xuất quỉ nhập thần".

 Chuyện nầy nghe người lớn kể lại :

 Hôm ấy gần 12g đêm , dân trong ấp đang ngủ say thì có một loạt súng nổ. Có tiếng la của Dân vệ: "Bắt lấy nó, bắt lấy nó..." Sau đó là tiếng kẻng dồn dập. Mọi người cầm đèn chạy ra, lại có tiếng la: "Bắt lấy ông Phận!"

Có người thấy một bóng đen chạy dọc theo bờ di lẫn vào hàng cây trong ấp. Đó chính là ông Phận.

Lúc đó ông cũng nhanh trí chạy lẫn vào đám đông, chộp ngay một chiếc đèn dầu của ai đó và cũng hô to:

- Bắt lấy ông phận, hắn chạy ra hướng cổng ấp kìa.

 Mọi người chạy theo hướng ấy. ông lại la to:

- nó chui qua cổng rồi - Mở cổng ra mau

Tên lính Dân vệ vội chạy ra mở cổng. Mọi người túa ra chạy về các ngã tìm kiếm

thì ông cũng vừa chạy vừa la như thế rồi ra xa ném đèn chạy thoát.

 Người dân chẳng ai muốn bắt bà con của mình nhưng sống trong ấp chiến lược, bọn ngụy o ép phải làm như thế. Đến 1965 thì Ấp chiến lược nhiều lần bị đốt cháy tan tành. Bọn ngụy phải chạy xuống đóng đồn ở Trà Câu. Quê tôi trở thành vùng Giải phóng.

 Trong thôn có một trường làng, học Lớp 5, lớp 4 (Tức lớp 1, 2 bây giờ) lớp 4, lớp 5 bây giờ thì gọi là lớp nhì, lớp nhất.

 Có hôm tôi theo anh chị đến trường chơi, gặp lúc máy bay bay ngang cả lớp phải chui xuống hầm ở trong trường để trốn, hết máy bay lại ra ngồi học.

 Thời gian nầy pháo 105li của lính ngụy ở Gò Hội (TT Đức Phổ) vẫn thường xuyên bắn vào làng, nhiều người đi làm bị trúng pháo chết ngoài đồng.

Mỗi lần pháo bắn như thế anh em tôi lại chui xuống hầm. Tiếng nổ làm rung chuyễn cả căn hầm, nổ xong thì nghe o.o ...

 Hầm tránh pháo của các nhà hầu hết đều làm bằng tre hình chữ A rồi đắp đất bên ngoài nên không thể chịu nổi pháo 105. Bây giờ có phong trào cưa đường rầy xe lửa về làm hầm. Nhà của tôi chỉ có mẹ tôi và 4 con (ba tôi đã hy sinh) chị gái đầu mới 14 tuổi thì lấy ai đi cưa đường rầy.

Hằng ngày tôi chạy lên đường tàu để xem vì đường tàu chỉ cách 200m. Có rất nhiều người dẫn cả trẻ em làm nhiệm vụ chế nước vào lưỡi cưa cho 2 người lớn ngồi kéo cưa sắt qua lại. Cưa cả ngày mới đứt một đầu đường ray. Đường ray thời pháp làm nhỏ hơn đường ray bây giờ nhiều, nếu như bây giờ thì cưa biết chừng nào xong.

Một số người thì cầm cà lê mở ốc để lấy Tà vẹt -  gọi là máng sắt, nặng khoảng 40kg để cố định 2 đường ray. Tôi chạy về hỏi mẹ

 - Mẹ ơi. sao mẹ không đi cưa đường ray về làm hầm?

 - Con có đi cưa được không?

 - Con chế nước cho mẹ và chị Ba cưa.

 - Thôi, mẹ và chị phải lên gò cuốc củ mì chứ không mưa đến củ sẽ thúi hết đấy.

Thế rồi ít hôm sau mẹ tôi phải nhờ các chú trong xóm đi cưa đường ray. Cưa được một đoạn và lấy được mười mấy cái máng sắt. Rồi các chú làm lại căn hầm cho nhà tôi, lấy máng sắt đặt sít lại hình chữ A, gác đoạn đường ray lên trên làm cây đòn dông, sau đó đắp đất lên 2 bên và làm âm nền hầm xuống dưới mặt đất khoảng 5 tấc, đắp đất phủ lên cả cây đòn dông, bên dưới thì lót ván rồi trải chiếu lên.

Mẹ tôi trả tiền công các chú không lấy. Sau đó mẹ tôi đi gặt hoặc nhổ củ dùm lại cho các chú ấy. Từ ngày có hầm mới tôi không còn sợ mỗi khi pháo bắn mà lại thích chơi súng đạn nữa chứ.

Mỗi khi mẹ đi chợ tôi lại dặn :

- Mẹ ơi. đi chợ mẹ mua cho con cây súng thiệt (súng thật) nghen

- Ờ. Ở nhà không được chạy đi đâu xa, cây nông (pháo) nó bắn chạy không kịp đấy

Chục lần dặn mẹ như thế và vui mừng khi mẹ về cũng chỉ được chiếc bánh bò hoặc vài tán kẹo mâm - loại kẹo thắng bột và đường từng viên bằng ngón tay, không có bọc giấy bên ngoài, để lên mâm bán. Ai mua thì thì bỏ vào lá chuối gói lại đem về - Chỉ một lần cuối cùng mới được mẹ mua cho cây súng nhựa màu vàng là mừng nhất.

 Cuộc sống cứ thế tiếp tục. Tới mùa gặt thì mẹ và chị đi gặt, tới mùa phá củ thì cả nhà che chòi trên gò ngay đám củ để nhổ và xắt phơi ngay trên đất vài hôm củ khô mới đem về

 Một hôm. Chị Hai Biên là người bà con vừa khóc vừa chạy vào nhà tôi báo tin cho mẹ tôi :

 - Mợ Ba ơi. Mẹ con bị Mĩ giết rồi .

 - Giết làm sao? bao giờ?

 - Mới sáng nay. Khi con vừa đi chợ nghe tin lính Mĩ đi càn vô xóm. Trưa nay khi im tiếng súng con mới dám chạy về thì nghe tin cả nhà con bị lính Mĩ ném lựu đạn vào hầm, bây giờ con chưa dám về.Nói xong chi ngồi khóc nức nở. Mẹ tôi an ủi chị và bảo phải ở lại đây vì có thể lính Mĩ vẫn còn phục kích ở đó.

 Làng của chị là thôn Bình Mĩ cách làng tôi chừng 2 cây số . Những ngày ấy bom đạn nổ hoài , những thằng bé con như tôi thì cũng chẳng biết Mĩ đi càn ở đâu, ngoại trừ khi chúng vào làng mình.

 Sáng hôm sau. Khi được tin Mĩ đã rút, Mẹ tôi, các cô, ông nội của tôi chạy vào mãi đến chiều mới về cho hay: Hôm đó Du kích xã tổ chức chống càn còn dân thì rút vô hầm. Trận đó lính Mĩ chết 2 tên. Khi vào được làng Gặp bất kỳ căn hầm nào chúng cũng đều ném lựu đạn vào. Mẹ chị Hai lảnh ngay trái lựu đạn, 3 người em của chị bị thương. Riêng anh Sáu thì đổ ruột ra ngoài. bị lính Mĩ đưa lên trực thăng đem đi đâu mất tích.

 Một buổi chiều nọ, có một chú bộ đội không biết từ đâu một mình đến xóm nhỏ của tôi. Chú hỏi đường đi về Trà Câu (bây giờ mới biết có lẽ đó là lính trinh sát). Nhờ ai đó đẫn đi chứ chú không biết đường và tình hình địch ở đây như thế naò

 - Ai có thể dẫn đi bây giờ ? Trời thì sắp tối.

 - Ở đây chỉ có ông Tuôi là có thể dẫn chú đi - Bác gái của tôi nói

 Còn tôi thi lần đầu tiên mới thấy chú bộ đội giải phóng - mặc đồ bạc màu nhưng bỏ vào trong quần bên ngoài có đeo thắt lưng to, nhiều lổ, bên hông đeo 2 trái gì như 2 lon cá hộp, vai thì khoát khẩu súng dài.

 Tôi thích quá chạy theo chú và mấy người đến nhà ông Tuôi ở cách nhà tôi một mảnh vườn. Sau đó ông Tuôi cùng chú đi rồi thì tôi mới chạy về.

Đến một hồi lâu sau mọi người thấy ở nhà ông Tuôi rộ lên tiếng la khóc. Tôi cùng anh chị chạy qua thì thấy chị gái con đầu ông Tuôi la khóc nức nở.

 - Trời ơi. ba con bị Mĩ bắn chết rồi

 - Bắn ở đâu? mới đi đây mà, Sao không nghe tiếng súng nổ gì cả vậy? mọi người lao nhao hỏi.

 - Bị bắn ở Mương co. Má con hạy xuống dưới rồi

  Sáng hôm sau có hai người phụ nữ khiêng ông Tuôi trên một cái võng về đến đầu ngõ, người còn ướt nước tôi đứng nhìn, không dám lại gần. Hai người phụ nữ kể rằng Chiều qua Mĩ phục kích ở mương co. Từ làng tôi đi xuống Trà Câu 4km phải qua cánh đồng Mương co. Ông Tuôi và Chú bộ đội bị bắn chết ngã xuống ruộng nên người chú bây giờ vẫn còn ướt.

Ông Tuôi thì được khiêng về nhà chôn còn chú bộ đội thì dân ở xóm gần đó đem về chôn ở bìa xóm đó.

 Các con của ông Tuôi thì lăn lộn kêu khóc, nhưng chúng cũng còn diễm phúc hơn tôi vì chúng còn được thấy mặt cha. Còn Ba tôi thì hy sinh khi tôi mới vừa 6 tháng tuổi. Nên tôi cũng chưa hề biết tình cảm cha con như thế nào

 Sau này theo lời kể của mẹ. Cha tôi tham gia hoạt động bí mật ở địa phương từ thời Ngô đình Diệm. Tên Phục cũng là người bà con xa ở trong xóm là Dân vệ theo dỏi đã mật báo với lính Bảo an ở trong huyện.

 Đêm đó Tên Phục dẫn lính về vây nhà bắt cha tôi trói lại. Tên Phục lục soát trong tủ thấy 6 lon sữa bò liền hỏi:

 - Sữa để tiếp tế cho cộng sản phải không?

 - Sữa để cho con tô , chứ sữa nào cho cộng sản - Mẹ tôi trả lời

 Tên Phục vẫn biết sữa đó để dành cho tôi nhưng hắn vẫn tịch thu.

Rồi chúng dẫn cha tôi đi trong đêm. Mấy hôm sau những người tù trở về báo tin chúng nhốt cha tôi tại chi khu Đức Phổ và tra tấn bằng gậy gộc, Giày đinh, roi điện rất dã man.

 Mẹ tôi và chị tôi liền chạy ra đồng bắt cua về giã vắt lấy nước đem vào để cha tôi uống sẽ tan bớt máu bầm. Nhưng vào đến chi khu chúng lại không cho gặp cha tôi. Cha tôi bị giam phòng giam đặc biệt. Vì dù tra tấn dã man nhưng ông vẫn một mực không khai ra tổ chức bí mật. Vài ngày sau chúng dùng kiểu tra tấn cực kỳ dã man khác là

treo 2 tay, 2 chân cha tôi lên xà nhà, bên dưới để một ngọn đèn ống khói (loại đèn dầu lớn) đốt rún đến khi chết

.

 Riêng tên Phục từ đó chạy ở hẳn trong thị trấn làm tay sai cho giặc . Sau nầy chiến tranh ác liệt đã bỏ chạy vào Sài Gòn.

Mãi đến 1982 mới dám mò về thăm quê. Khi về đầu xóm  chưa dám về nhà mẹ ruột, hắn ghé vào nhà em gái thăm dò tình hình. Gia đình tôi hay được liền rủ anh em, chú, cháu cầm cây gậy chạy đến ập vào nhà.

- Tất cả ngồi im. Anh tôi hô lớn

Chúng tôi chặn hết lối ra vào. Tên phục đang ngồi trên ghế vội đứng dậy định chạy ra ngoài nhưng chú tôi dơ cây lên liền đứng lại như trời trồng. Hắn chưa biết chuyện gì xảy ra.

- Tên Phục mày phải đền nợ máu

Ngày mai ra trận

ấy khi anh em gặp nhau trong Hội nghị quân chính tháng 5.

MCS

chạy quanh cố kiếm xem có cái chi chi quân mình ăn tươi một bữa. Mùa ni mưa dông chín chiều. Túi túi ếch, nhái, ễnh ương…râm ran cũng dân quân chính xôm tụ hệt lính chính quy. Cấy ni hay đây. Xin anh nuôi một vá mắm cái quậy vô chút nứoc mang lên đầu suối trút xuống. khoảng mươi phút ếch nhái... cõng nhau ra như hội. Có mồi ngon thì rắn rít…cũng loe ngoe nhào dô.

Mả cha hận. Quân ni rắn đầu phải đập chết cha hận tiệt tí ta tí tởn.

Rảnh rang cuối tùn có món ni mời các quan bác cùng vui. Hơi tốn bia đây nhưng nọ sao. Lính tráng mừ. Vui với nhau cấy đã. Ngày mai đi nhận nhiệm vụ không dám nói sui gỡ. Ngày mai …ai biết ?

Nhái đồng chiên nước mắm nhỉ cá cơm Nha trang – Châu Sơn

ngon số dzách. Món ngon tốn bia này không phải chỗ mô cũng có. Xin mời ghé quán Miền Tây, tại số 30 Lữ Gia, P.15, Q.11

,

    Người ta thường soi nhái vào buổi tối, thời điểm đám nhái cơm, nhái bén  lò mò ra khỏi hang để tìm mồi. Nhái thường bị "đứng hình" với ánh đèn, nên mỗi khi bị soi, chúng lờ đờ như gà mắc tóc. Lúc ấy, việc săn nhái dễ như... lượm ốc bỏ rổ. Cứ thế, sau 2 tiếng đồng hồ, túi nhái đã nặng tay với vài chục con kêu la inh ỏi.

 Mỗi vùng có cách chế biến món nhái khác nhau. Người miền Trung  khoái đem nhái xay nhuyễn, cuộn với lá dâu tằm, lá lốt rồi chiên lên. Vì thịt nhái vốn đã ngon đẳng cấp nên không cần phải nêm gia vị nhiều. Chỉ mới bỏ vào chảo dầu sôi lăn tăn, mùi thịt nhái đã phất phơ khắp lối, khiến bụng ai cũng đói cồn cào. Cũng có người đem nhái lột da um măng ăn để giã rượu.

     Trong khi đó, người Hà Nội từ lâu đã ghiền món chả nhái, mà nổi bật nhất là chả nhái làng Khương Thượng. Trước đây, làng này vốn là nơi có nhiều ao hồ, đồng ruộng. Sau những đêm mưa rả rích, lũ nhái thi nhau khoe giọng thành những dàn đồng ca vô tận. Người làng Khương Thượng cứ thế  bắt về để ăn, dần dà phát triển thành món chả nhái thơm ngon nức tiếng như ngày nay.

   Riêng khu vực phía nam, nhái được để nguyên con chiên nước mắm . Nhái sau khi lột da làm sạch, đầu bếp cho vào chảo dầu sôi ùng ục để chiên giòn từ thịt đến xương. Sau đó, nhái chiên xong được bỏ vào một chiếc chảo khác để khìa sơ cùng nhiều gia vị, với thành phần chủ đạo là nước mắm Châu Sơn - Nha Trang. Để thịt nhái thấm gia vị và mặn mà hơn, trước khi khìa sơ với gia vị, người ta sẽ dùng tăm tre nhọn, đâm từng lỗ nhỏ trên thân nhái đã chiên giòn giúp gia vị thấm sâu vào bên trong. Món này nhai giòn rụm, beo béo, mằn mặn đầu lưỡi, cực hao bia!

Nào cùng zô ô ô….và nghe thơ viết về lính cụa

Trần Đăng Khoa. Nỏ hiệu hắn có đi lính ngày mô không mà thơ hắn việt rất…Lính.

   Cho hấn cùng nhập cuộc. Đông hao nhưng cụng... đông vui hề.

bữa cơm chiều trongdinh độc lập

Có những bài thơ gắn liền với sự kiện lịch sử, có thể là một khoảnh khắc, có thể là cả một giai đoạn. Với những bạn đọc cùng thời với tác giả, bài thơ nhắc họ nhớ lại những khoảnh khắc chẳng thể nào quên hoặc một giai đoạn đáng nhớ; còn đối với thế hệ bạn đọc lớn lên sau này, bài thơ không chỉ đem đến cảm hứng thi ca, mà cung cấp cho họ hiểu biết ít nhiều về sự kiện lịch sử đó. “Bữa cơm chiều trong Dinh Độc Lập” của nhà thơ Hữu Thỉnh là một bài thơ như thế

Dù tác giả không nói cụ thể chiều nào, nhưng ai cũng biết đó là chiều 30 tháng 4 năm 1975, một trong những ngày vĩ đại nhất, đáng nhớ nhất trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta. Tôi từng đặt câu hỏi với bạn bè và đồng đội: “Với anh (chị), ngày nào hạnh phúc nhất”? Và nhận được rất nhiều câu trả lời là ngày 30 tháng 4 năm 1975! Những ai đã từng tham gia cuộc chiến tranh dai dẳng, kéo dài suốt mấy chục năm trời với bao gian khổ, tổn thất, hy sinh mới thấy được ý nghĩa của ngày toàn thắng. Ngày toàn thắng là ngày hạnh phúc nhất của hàng chục triệu con người là một điều hiển nhiên. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng mang niềm hạnh phúc đó, lại có thêm niềm vui, niềm tự hào, chính binh chủng xe tăng của anh là những người đầu tiên tiến vào và cắm cờ trên Dinh Độc Lập. Anh không viết về chuyện xe tăng hùng dũng húc tung cánh cổng sắt tiến vào dinh, anh không viết về người lính xe tăng cầm lá cờ Giải phóng chạy lên cắm trên nóc dinh… Anh viết về bữa cơm chiều của đơn vị, của lính xe tăng khi Sài Gòn mới về ta mấy tiếng đồng hồ. Tôi nghĩ rằng, nhà thơ, người lính xe tăng Hữu Thỉnh viết bài thơ này, trước hết nói niềm hạnh phúc của mình, của đơn vị mình trong ngày đầu giải phóng. Đọc bài thơ ta cũng biết được đơn vị xe tăng của anh, cụ thể là Lữ đoàn 203 đã hành quân đánh giặc từ ngoài Bắc vào theo đường số Một:

Sáng chiếm núi Bông, chiều cửa Thuận

Vượt đèo Phước Tượng buổi nhiều mây

Hoặc: Xích còn vương đất đỏ Phan Rang…

Không những thế, anh còn cho biết Binh chủng Tăng-Thiết giáp đã thực hiện mệnh lệnh của Tổng tư lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa…” là “Bỏ lại đằng sau bao trận đánh”!

Những ai từng tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử năm đó thì thật dễ hiểu câu thơ này. Với tương quan thế và lực hoàn toàn có lợi cho ta, để mau chóng tiến tới cái đích cuối cùng, chúng ta hành quân thần tốc, bằng cách bỏ qua những căn cứ, đơn vị nhỏ của giặc cạnh đường hành quân, nếu chúng không làm trở ngại cuộc tiến công của ta.

Một lý do nữa, theo tôi, để nhà thơ Hữu Thỉnh viết bài thơ này là anh muốn nêu nét tương phản giữa quang cảnh, tiện nghi thành phố với hoàn cảnh dã chiến quen thuộc của người lính. Chính câu thơ đầu tiên anh đã nêu điều đó: Cơm dã chiến nấu bằng bếp điện. Nồi quân dụng của lính quen với bếp Hoàng Cầm giấu khói, quen với củi rừng, nói chung là bếp dã chiến, thì ngày đặc biệt này nấu bằng bếp điện. Màu xanh tươi của rau muống cũng làm lính ngạc nhiên, vì lính ta trong những chặng đường hành quân đánh giặc thường ăn lương khô, thịt hộp và nói chung là thiếu rau. Nếu có rau cũng là rau để lâu ngày vàng úa, nên chiều nay “Rau muống xanh như hái tự ao nhà” làm anh ngỡ ngàng. Anh còn ngỡ ngàng với “Màu xanh sân cỏ xanh mải miết”. Thế đấy, có những thứ quá quen thuộc với người thành phố thì lại làm ngạc nhiên người lính.

Bản thân tôi cũng đã được ăn cơm trong Dinh Độc Lập đầu tháng 5-1975. Bữa cơm đó không có gì đáng nhớ vì người mời tôi là anh bạn công tác trong Phái đoàn Bốn bên. Còn nhà thơ Hữu Thỉnh “ăn bữa cơm ở đích cuối cùng” này thì không thể quên được. Bữa cơm chiều của lính tăng có phần nào giống như bữa cơm gia đình, có chủ, có khách. Chủ là lính tăng thì rõ rồi. Khách có khách thường và khách đặc biệt:

Khách thường: thương mấy anh nhà báo

Theo tăng băng dốc mấy mươi ngày

 Nhà thơ nhắc đến “khách thường” này không ngoài mục đích để bạn đọc hiểu thêm hành trình của đơn vị xe tăng. Còn khách đặc biệt là ai đó:

Vừa mới vào mâm, anh nuôi bận

Chia thêm Tổng-thống-ngụy-đầu-hàng.

Thực ra thì đến chiều 30 tháng 4, Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh không ở Dinh Độc Lập nữa, và nếu có ở đó thì cũng không ăn cơm cùng lính xe tăng, nhưng tác giả bài thơ muốn nhấn mạnh một sự kiện lịch sử trọng đại: Ở Dinh Độc Lập này, ngày hôm đó, có một tổng thống đã đầu hàng. Câu thơ “Chia thêm Tổng-thống-ngụy-đầu-hàng” cũng còn một cách hiểu khác: Quanh mâm cơm lính ta nói chuyện đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, nên tác giả hóm hỉnh gọi chuyện này như một “món ăn” mà anh nuôi đã chia thêm vào!

Có một điều đáng chú ý ở bài thơ này là mặc dù viết về bữa cơm, nhưng tác giả không chú ý đến chuyện ăn, như tất cả lính ta ngày ấy: Vui quá quên ăn. Rau muống ở câu thứ hai bài thơ, tác giả nhắc đến, theo tôi, ít vì nó là thực phẩm, mà vì màu non tươi khác thường của nó. Cuối bài thơ có nói đến bát canh, cũng như thế, không phải để ăn, mà để ngỡ ngàng về “bát canh ngày hẹn”. Viết về bữa cơm nhưng tác giả không hề nói đến khẩu vị, mà toàn thị giác. Lính ngồi bên mâm cơm, không ai chịu gắp, chỉ ngắm trời, vì:

Tự do xanh quá, mênh mông quá

Vượt mấy ngàn bom mới tới nơi.

Tôi may mắn có mặt ở Sài Gòn ngay sau khi miền Nam được giải phóng. Những ngày đó vì vui quá, chúng tôi đi hết chỗ này đến chỗ khác mà không để ý đến chuyện ăn, cuối ngày không nhớ mình đã ăn những gì, thật giống những người lính tăng trong bữa cơm chiều đặc biệt này.

Đây không phải là bài thơ hay nhất của nhà thơ Hữu Thỉnh, nhưng là bài thơ gắn liền với sự kiện lịch sử nhất của anh. Ở bài thơ này ta gặp lại thi pháp quen thuộc của nhà thơ, đặc biệt là câu: “Độc lập theo tăng vào cổng chính”, vừa chơi chữ tài tình, vừa nói được ý nghĩa lớn lao mà cuộc tiến công của lính xe tăng nói riêng, quân đội ta nói chung, đã đem lại.

Chỗ ngủ của chúng tôi là những dẫy giường 2 tầng bằng sắt. Không chăn màn, không chiếu. Chúng tôi nằm lăn ra trên những tấm ván gỗ co ro chịu rét, chịu đói. Sáng hôm sau, sau khi vệ sinh cá nhân xong tôi mới nhận thấy cả doanh trại hầu như chẳng còn thằng lính nào. Tất cả chúng nó đã chuồn hết trong đêm, chỉ còn lác đác vài thằng mỗi đại đội. Hồi ấy tôi ngơ ngáo và dát lắm nên chẳng dám chuồn. Phải đến gần một tuần sau, các đơn vị mới tập trung đủ quân và bắt tay vào học tập, huấn luyện.

Những buổi đầu tiên trong quân ngũ sao mà buồn chán và dài lê thê. Suốt ngày chỉ thấy học chính trị, học truyền thống và tập đi mốt hai mốt. Phải gần một tháng sau chúng tôi mới được dự lễ ....gì nhỉ? Buổi lễ có duyệt đội ngũ và ...hôn quân kỳ trên tận sư đoàn ở thị trấn Xuân Mai.

@ối dời! Sao cũng là lính,mà cũng là lính Hà........lội,mừ sao các bác sướng thế.Tụi em nhập ngũ trong một khung trời đông thật ảm đạm.

Chiếc commangca 67 cũ rích,bạt xe bạc trắng mốc,chở 6 thằng len lỏi giũa những làn xe đạp ngược xuôi,như xa vào màng nhện .Dòng người xe cứ hối hả trôi về các ngả,như không có ai để ý đến sự khác thường của những chiếc xe,chở đầy những chàng trai của phố phường Hà Nội,đang rời phố xá thân yêu,lên đến chân cầu Long Biên tùng đoàn xe từ các ngả đổ về trên xe chở đầy những chàng trai vượt qua cầu thẳng hướng Gia Lâm.

Đúng là ngày hội.Khi chúng tôi đến nơi đã có những đơn vị bắt đầu nhận quân,một bên là người đưa tiễn và một bên là những chàng trai đã hóa thân vào sắc lính,những cánh tay giơ lên vẫy vẫy từ cả hai phía,tiếng dặn dò ơi ới....có cả những dòng nước mắt ấp áp lăn trên gò má của những bà mẹ thương con lần đầu xa nhà và những cô gái phải tạm biệt người yêu.....v...v..

Hôm đó nhiều đơn vị về nhận quân lắm,đủ các binh chủng,nhưng phần lớn là các đơn vị ở phía Bắc.qua buổi trưa mới đến đơn vi nhận chúng tôi.Cũng nhận quân trang và được cấp một chiếc bánh mỳ không người lái cho bữa trưa và một chiếc cho bữa tối.sau bữa ăn nhẹ lệnh tập trung,thành nhiều hàng ngang trước sân của một làng nào đó ở Gia Lâm ? Phải có cán bộ nhận quân đi đến tận nơi nhắc nhở cái đám lính mới .Rồi cái hàng lính mới đó,mới được đẹp như con rắn đang đang trườn trên cánh đồng Lại Mật.

Nghe quán triệt song,cũng là lúc trời vừa tối,cả đoàn lính mới đó hành quân theo hàng dọc rời làng ,theo đường tàu 01hàng hành quân đến gần Ga tàu tất cả tản sang một bên ngồi theo hàng không được nói chuyện ( sau này nghĩ lại,các bố đi nhận quân tài thật rèn lính theo kiểu rèn vợ....từ thủa bơ vơ....) khoảng 21 giờ ( 9 giờ tối ) đoàn tàu từ Hà Nội đến tiếng phanh nghiến ken két,đầu máy hơi nước thở phì phì thấp thoáng bóng kiểm soát quân sự chỉ dẫn các đơn vị lên tàu...con tàu nặng nề lăn bánh,mỗi người mỗi cảm xúc nhưng có lẽ đã thấm mệt do cả ngày chờ đợi vật vã và vì trời tối nên không có ai hứng thú nhìn ra màn đêm tối đen đậm.đám lính mới lục tục lôi nốt khẩu phần được cấp từ buổi chiều ra ăn,ngoài đám lính quen biết nhau từ trước khi nhập ngũ còn chuyện trò chút ít,số còn lại đã lăn ra ngủ,đủ tư Thế,thân hình khẽ lắc lư theo nhịp lăn của đoàn tàu.Sáng hôm sau chúng tôi tới một ga tàu nằm dưới thung lung,xung quanh bao boc bởi những quả núi đá trắng mốc lầm lỳ như thách đố.Đó la ga Đồng Mỏ,chúng tôi được tập trung thành hàng dọc và bắt đầu hành quân tiếp,khoảng nửa tiếng sau vào tới chân núi đá bên phải Thị trấn.Được nghỉ giải lao,xe quân lương của đơn vị phát khẩu phần ăn,thấy xe quân lương của đơn vị đến phát khẩu phần ăn tất cả chúng tôi đều mừng chắc sắp về tới đơn vị rồi ai cũng vui.nghỉ khoảng 15 phút chúng tôi tiếp tục hành quân,hỏi còn đi bao lâu nữa,còn xa không.Các cán bộ nhận quân không trả lời,hỏi nữa vẫn thế,chán rồi không ai hỏi nữa lầm lũi đi,người sau bước theo chân người trước.Bắt đầu leo núi,con đường đá lổn nhổn uốn éo lượn quanh,dốc gập mặt chỉ nhìn thấy cặp giò của người đi trước,đi qua biết bao quả núi,nương dẫy,làng bản đến 9 - 10 giờ tối chúng tôi về tới đơn vị không kịp rửa ráy chân tay mặt mũi ( sông chỉ cách 30 mét mà không ai biết cán bộ không nói chắc sợ lính đi về mệt đi ra đó vào buổi tối mà đông quá không quản nổi),cứ 5 thằng một khay cơm với mấy cọng rau muống mấy lát thịt heo ăn gấu ăn nghiến,hai hôm mới được ăn cơm kiểu gì cũng ngon.thêm 30 phút quán triệt giới thiệu rồi cũng được tự do.Hơn 30 thằng nằm chung 01 chiếc sạp làm bằng cây vầu ( le) trẻ đôi đập dập ghép lại thành giường do lính cũ làm sau hai ngày hành quân mệt nhọc,được nằm ngủ đã là thiên đường,nhưng đến ngày Thứ hai thì lại khác,cứ một người chằn trọc không ngủ được là ảnh hưởng đến những người còn lại vì tiếng kêu ọt ẹt của sạp cây và vì quá chật nên cứ một người xoay là cả sạp phải xoay theo cùng đổi hướng nằm.

Tụi em đến giờ này mới chỉ biết hun mui Kỳ Đà thui...

Bước đầu tiên để rèn lũ lính mới chúng tôi là khoa mục...vác đá ong để xây doanh trại. Chà chà ! Nặng ơi là nặng. Mỗi viên đá ong nặng có dễ đến hai ba chục ký chứ chẳng chơi. Công trường khai thác đá nằm phía trên cầu Vai réo, cách chỗ chúng tôi chừng 2,3 cây số. Mỗi buổi sáng, toàn đại đội chạy tập thể dục xuống công trường và lúc về vác mỗi thằng một viên. Chạy đến nơi đã bở cả hơi tai, hí húi chọn đi chọn lại để tìm viên nhỏ nhất rồi vác chạy về, mệt ơi là mệt. Mười một chế độ trong ngày, suốt từ 5 giờ sáng đến 9.30 giờ tối hôm nào cũng kín mít, trừ mỗi ngày chủ nhật. Mà nào có được nghỉ ngon lành đâu. Tối hôm trước, sinh hoạt trung đội, B trưởng đã nhắc :

- Ngày mai, mỗi đồng chí nộp hoặc 100 kg phân xanh hoặc 50 kg phân chuồng hoặc 30 kg phân bắc để tăng gia. Xong sớm nghỉ sớm.

Nói thì đơn giản nhưng để đạt được mức ấy thì tôi bở cả hơi tai. Phân xanh thì chặt mãi cũng hết, muốn lấy được nhiều chỉ còn cách là lên rừng cách đơn vị 5, 7 cây số. Phân chuồng thì đâu có nhiều, trâu bò có ị ra bãi nào thì dân cắm que đánh dấu hết cả. Vào dân xin mãi cũng ngượng, lúc đầu dân còn cho, sau họ chẳng cho nữa. Phân bắc thì .... Hố xí đại đội nào, đại đội ấy giữ còn hơn giữ mả tổ. Nào rấp cành tre gai chống lấy cắp, nào phân công trực nhật canh gác. Vậy mà vẫn bị mất cắp như thường. Vậy là được bãi nào phải thu luôn bãi ấy. Lắm hôm, đang ngồi phía trên, ngó xuống đã thấy có cái xẻng thập thò hứng phía dưới rồi. Rồi nhiều trò ranh mãnh được giở ra. Phân chuồng, phân bắc lấy về trộn thêm với đất cho đựơc nhiều. Cán bộ A, B đâu có kiểm tra, cân kẹo gì? Cứ thấy mang về sọt to, sọt nhỏ là ...OK. Bố bảo chúng nó cũng không dám đến gần mà cân với kẹo.

Xin dân mãi rồi cũng không đủ vì mấy bản Mường dân thưa thớt, lấy phân đâu mà phục vụ cho cả Trung đoàn bộ đội đang ...đói ấy. Ngay bên kia đường quốc lộ 21 là trại chăn nuôi của sư đoàn. Một cái trại toàn nuôi trâu, bò, dê nhiều.....phân vô kể. Lính tráng nhìn sang đấy toàn với ánh mắt ...thèm thuồng. Tôi và thằng Hộ ( người Nghệ an ) đánh liều sang đấy để...ăn cắp. Một buổi sáng chủ nhật như thường lệ. Mới 4 giờ sáng, hai đứa đã cắp nách hai chiếc bao tải rách bò sang trai chăn nuôi. Không cuốc, không xẻng hai thằng bò vào chuồng bò ra sức dùng tay vơ thật lực phân trâu bò để tống vào hai chiếc bao tải. Thật không may, đang bốc lấy bốc để thì bị mấy anh lính bên trại tóm được. Phen này hai thằng ăn chắc phát kỷ luật. May sao, sau khi hỏi han tình hình, lý do.... ăn cắp phân. Các anh ấy thương tình tha cho. Sau khi rửa ráy sạch sẽ, uống hết một ấm trà nóng lại còn khuyến mại hai thằng, mỗi thằng một bao tải đầy... phân. Sướng! Lần đầu tiên vào ngày chủ nhật mà tôi lại được đi chơi sớm thế. Xong xuôi công việc mới chưa đầy 7 giờ sáng.

Ba tháng huấn luyện, ngoài tăng gia rau xanh như rau muống, su hào, cải bắp chúng tôi còn phải đi nhổ mạ, cấy lúa, trồng khoai, trồng sắn. Mùa đông năm ấy rất lạnh. Đơn vị sợ đưa trâu bò xuống ruộng cày bừa sẽ bị chết rét, các cán bộ liền nảy ra sáng kiến đưa tụi lính mới chúng tôi xuống ruộng đạp bùn thay cho trâu bò. Những hôm rét như vậy, nếu được phân công trực nhật thì quả là may mắn. Trực nhật phải gánh cơm ra tận ruộng phục vụ anh em. Tuy phải gánh xa nhưng so với lội ruộng thì hẳn vẫn còn may chán. 

Đợt tôi nhập ngũ , không hiểu sao rất đông thành phần bất hảo , tiền án , tiền sự đầy mình ,thành phần nhập ngũ lần thứ 2 , thứ 3 cũng không hiếm .Thí dụ  có ông 27 tuổi 4 tiền án và tiền sự thì không nhớ là bao nhiêu, ông này tên Khải " đầu to " , nổi tiếng ở HN lúc ấy . Có câu thơ về ông này " rung chuông đầu Vọng , gõ kẻng đầu mơ ai ai cũng biết Khải " đầu to " ).Ông Hảo ở chợ giời 25 tuổi 2 tiền án , đi lính cũng lần thứ 3 , đợt cuối là tháng 2/83 cùng đợt với bác Thắng ,Thằng Hưng bạn tôi 1 tiền án cũng đi lính lần này là lần thứ 3 vì vậy ngoài gia đình thì người đi tiễn cũng toàn những tay bất hảo . Nói vậy chắc các bác cũng biết nó lộn xộn đến mức nào . Lúc tập trung ở Yên Thường ( Đông Anh ) , mấy trận đánh nhau liên tục ,nào là vác dao đuổi chém nhau loạn cả lên , nào là hội đi tiễn xông vào vườn mía của dân bẻ mía , mấy trai làng ra bị vác dao đuổi chém chạy loạn cả lên . Nhận quân trang xong , chúng tôi được dẫn sang 1 vườn hoa ở Yên Viên . Tại đây được phát bánh mì và thịt hộp , đại diện của các phường lên nhận cho phường mình . Dĩ nhiên là các tay đầu gấu tự nhận là đại diện . Sau đó thì ....

  -" Hỏi cái đ... gì ... đánh bỏ m... mày bây giờ "

Có thằng thì lẳng lặng bỏ đi , có thằng thì cũng không vừa , thế là lại đánh nhau ...

Sau đó thì hành quân vào ga chờ tàu . Độ 10 giờ đêm thì tàu đến , tất cả được lệnh lên tàu . Lệnh lên tàu được phát ra cũng là lúc lính mình , thằng thì ăn không trả tiền , thằng thì cướp cả hộp thuốc lá bỏ chạy ... Lúc đầu là lác đác , sau thì rộ lên ... Thằng Cồ Việt Mạn ở Vân Hồ ngồi cùng quán nước với tôi lúc ấy nhân lúc bà bán quán không để ý cũng cầm luôn cái điếu cày chạy lên tàu . Mỗi toa tàu chứa khoảng 200 thằng nên chật như nêm , lúc tàu chuyển bánh thì lại bắt đầu cãi , chửi nhau và lại... đánh nhau vì chỗ ngồi . Chả hiểu cán bộ nhận quân ngồi ở đâu mà toa tôi ngồi chả thấy ông nào cả !

  Có lẽ bác Cao Sơn lúc nhập ngũ bị dân ném đá là vì " đổ vỏ " của những đợt lính thế này đấy !

Cái Duyên

Nam

Bắc

Khi ngồi viết những giòng chữ này thì vợ cháu đang ngủ say sưa trên giường. Nhìn đôi chân dài thườn thượt của bà thò ra khỏi chăn, tự nhiên cháu bật cười. Thì ra vợ cháu cũng thuộc loại…chân dài ra phết, cao xấp xỉ 1,70 mét chứ chẳng phải chơi. Năm ngoái gặp lại đám bạn cũ cùng binh chủng, trong lúc chụp ảnh chung bỗng có thằng la lớn : „Chúng mày ơi ! đứng bên cạnh bà này chắc ông phải kiễng chân lên mời xứng!“, làm vợ cháu ngượng chín người. Nghe nói bên Việt Nam bây giờ người ta tung hô tán tụng „những cô gái chân dài“ dữ lắm, làm phim, lên ảnh, quảng cáo rùm beng, làm các cô cứ tưởng mình là cái rốn của vũ trụ không bằng. Có điều lạ là hầu như các mợ toàn là gốc miền Bắc, nói năng giọng Bắc, nhìn đời với con mắt người Bắc và cư xử thì cứ „tự nhiên như người Hà Nội“.(Bật mí cho các cụ nhé: bây giờ thì đa số các mợ Hà Nội chính gốc đã thi nhau làm „con chim đa đa“ bay qua xứ khác lấy chồng xa hay đi kiếm cơm hết ráo, còn lại toàn là gốc Hà-Nam-Ninh hay Thanh- Nghệ-Tĩnh lên Hà Nội lập nghiệp). Hay là ông Trời sinh ra người càng ở vùng phương Bắc thì da càng trắng, mũi càng cao và chân càng dài, cứ nhìn mấy ông Tây bà Đầm là biết ngay. Thế nhưng ”bà già chân dài” vợ cháu lại là dân Nam kỳ tuốt luôn tận phương Nam, là thứ Nam kỳ chính hiệu con nai vàng, quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn. Hoá ra „mũi cao, chân dài“ đâu phải độc quyền của các mợ Bắc Kỳ 75, các mợ nhờ „tàn dư đế quốc“ nên chỉ mới xuất hiện sau này thôi, chứ ngay trong „thời kỳ chiến tranh“ cách đây mấy mươi năm thì “mũi cao, chân dài” như Nam kỳ vợ cháu đã nhởn nhơ đầy đường. Đúng là một cọng giá thời kỳ chiến tranh vẫn hơn một gánh rau muống thời kỳ hoà bình đổi mới !

Bố mẹ cháu sinh cháu ra tại miền Bắc, học hành và lớn lên cùng với gia đình trong miền Nam, để rồi trưởng thành tận ngoài miền Trung. Từ những tính chất của ba miền đã hợp lại tạo nên cháu thành một thứ “hẩu lốn” như canh chua nấu với...rau muống, giá sống ăn với...bún riêu, 

nhậu bia với ché mà lại chấm với ...xì dầu. Thế nhưng cái bản chất Bắc kỳ vẫn là cái cốt lõi trong con người cháu từ lúc sơ sinh, vẫn Bắc kỳ rau muống mắm tôm, Bắc kỳ truyền thống, Bắc kỳ muôn thuở...Nhưng ông Trời oái oăm lại sai ông Tơ bà Nguyệt xe duyên cháu làm thằng tù khổ sai chung thân cho một bà vợ Nam kỳ quốc. Lạ thật ! Duyên hay nợ đây Trời !

Hồi còn bé, thú thật cháu chẳng ưa gì Nam kỳ. Còn ghét, còn hận nữa là khác. Chuyện cũng dễ hiểu thôi : lần đầu cắp sách đến trường tiểu học Bàn Cờ ở quận 3, Sài Gòn, chỉ có cháu với một thằng nhô nữa là Bắc kỳ. Thằng này có hàm răng đưa hơi xa ra phía trước, mà văn chương Bắc kỳ gọi là “vẩu”, còn Nam kỳ gọi đơn giản và rất tượng hình là cái “bàn nạo dừa“. Bố nó (không vẩu tí nào) rất thân với bố cháu (cũng chẳng có bàn nạo dừa) vì cả hai gia đình cùng đi chung chuyến tàu “há mồm“ vào Nam năm 54. Hai thằng Bắc kỳ con nhất định ngồi cạnh nhau tạo thế liên hoàn “dựa nhau mà sống“ trong cái lớp học 27 trự Nam kỳ con. Bọn chúng hè nhau trêu chọc, ăn hiếp hai đứa chúng cháu. Mỗi lần ra chơi hai thằng Bắc kỳ con luôn tìm chỗ ít người mà đứng để khỏi nghe bọn Nam kỳ đọc thơ chọc quê chửi bới. Thằng Vọng, đứa đầu xỏ và to con nhất đám (bây giờ đang ở Canada) leo lên cây vú sữa giữa sân, đọc thơ rang rảng:

“Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn nhằm lựu đạn...chết cha Bắc kỳ” Một thằng khác sẵn giọng phụ họa :

Có cái thằng nhỏ nó “đao“ làm sao

Lỗ đ. nó dính cái cọng “rau”, Người ta ai mà kỳ như “dzậy” ?

Thế là cả bọn đồng loạt chỉ ngay vào bọn cháu rồi rống lên : “Thôi rồi ! Bắc kỳ, Bắc kỳ !”

Cháu tủi thân lắm ! Ôi thôi ! buồn da diết, buồn vô biên, buồn phát nghiền !

Về nhà hỏi mẹ tại sao gia đình mình lại vào đây làm quái gì để chúng nó trêu con suốt ngày. Mẹ cháu rướm nước mắt, xoa đầu cháu giải thích đơn giản :

-       

Tại vì người ta đánh nhau quá nên gia đình mình phải 

“ri cư “ vào đây con ạ ! Thôi chịu khó đi con, mẹ biết làm sao bây giờ !

Nào đâu đã hết, chúng nó còn hè nhau tụ tập trước cửa nhà cháu. Mẹ cháu cầm chổi lông gà ra đuổi. Chẳng đứa nào sợ, trái lại còn tru tréo to hơn. Chợt thấy hàm răng của mẹ cháu nhuộm đen ngòm và bóng loáng, thế là chúng nó cứ thế mà gào :

“Bắc kỳ ăn cá rô cây, ăn nhằm cục c. , hàm răng đen thùi ”

Trong gia đình, chỉ có bố cháu là chẳng thằng Nam kỳ con nào dám giỡn mặt. Có lẽ nhờ khuôn mặt có oai hay nhờ đôi mắt nghiêm khắc của ông, mà chúng sợ một vành không dám trêu chọc một lời ?

Ngày tháng qua mau, cứ thế mà đám Bắc kỳ ”ri cư”, trong đó có gia đình cháu, vẫn sống phây phây trên mảnh đất Nam bộ lạ hoắc nhưng trù phú này. Những cảnh chọc quê dần dần biến mất, bạn bè nhiều hơn, trong đó dĩ nhiên không ít đứa Nam kỳ. Đứa Sài Gòn chính tông, đứa Sa Đéc, đứa Vĩnh Long, đứa Mỹ Tho, Cần Giuộc...Nhưng đứa nào cũng chửi cháu là ”thằng Bắc kỳ lắm mồm”. Không ”lắm mồm” chứ để chúng mày ăn hiếp ông hả ? Nghĩ cho cùng, không ”lắm mồm” thì đâu còn là Bắc kỳ nữa ! Thứ ”lắm mồm” được việc, ”lắm mồm” nghe vẫn bùi tai, ”lắm mồm” dễ mến, thiếu thì nhớ, vắng thì mong, ”tay chơi” nhưng vẫn ”chân tu”, gái Nam kỳ cứ thế mà...”lắc lư con tàu đi”. Càng lớn lên cháu càng khoái Miền Nam, khoái Sài Gòn, nơi dễ có nhiều bạn, mà bạn lại không tồi. Nơi đó có dừa xiêm dzú sữa, có chè đậu xanh bột báng nước dừa, có bánh bèo trét mỡ trắng phau phau, có nước mắm đường ngọt lịm, có cá bống trứng kho tiêu, có trái cóc ngâm đường cắm que cà rem chấm muối ớt, có quán cơm bà Cả Đọi, có cả những con đường hẻm ngoằng nghoèo dẫn đến nhà ...chị Tình. Miền Nam và Sài Gòn thật trong veo khoáng đạt, không tự tôn như cái Bắc kỳ đã có sẵn từ bẩm sinh trong bụng cháu, không rườm rà ”màu mè ba lá hẹ”, chân thành thật thà, thẳng ruột ngựa, không làm vẫn có ăn, chơi xả láng sáng về sớm, để rồi vẫn cứ yêu người, yêu đời. Có lẽ cũng cùng một cảm nhận như thế nên đám Bắc kỳ ”ri cư” chúng cháu mới vào Nam chỉ có cái quần xà loỏng trên ”tàu há mồm” đã lợi dụng thời cơ hè nhau tung ra dành dân chiếm đất khắp cõi Nam bộ, mà lại ăn nên làm ra trên mọi lãnh vực, trong đủ tầng lớp xã hội, nhất là vùng Sài Gòn Gia Định và các vùng phụ cận, chỗ nào làm ăn ngon lành thuận lợi là mấy mợ Bắc kỳ rau muống sang tay hàng loạt, ngoại trừ phía bên trong chợ Bến Thành và vùng Chợ Lớn, vì chẳng thèm ”kèn cựa” với các chú Ba. Đã bảo rồi mà...: ” Bà đã nàm thì nàm thật chứ không thèm nàm nấy ne, nàm nấy nệ !” Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy ”dzô tuyến chuyền hình” hay cái ”ra dzô” ra thì thấy liền, các ”xướng ngôn dziêng” hầu như ”chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng ”E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe ”em người Hà Lội” hết ráo ! Chẳng biết tại ”dziêng dzáng” hay ”phe đảng” ?

Bố cháu trái lại, cái chất Bắc kỳ đã ăn vào máu, thấm vào cốt lõi xương tủy của ông từ bao đời, nhất quyết bắt anh em cháu phải thi vào trường Chu Văn An (CVA), con em gái phải thi bằng được vào trường Trưng Vương, toàn là những trường nổi tiếng từ miền Bắc, kéo theo các thày cô ”ri cư” vào Nam. Phần vì bố cháu là cựu học sinh trường Bưởi, phần vì ông cũng có chút thiên kiến và ít tin tưởng vào các trường miền Nam như Petrus Ký hay Gia Long.

”Mình dân Bắc thì phải học trường của người Bắc, chúng mày đừng có bàn với bạc lôi thôi !”, bố cháu phán cứ như đinh đóng cột. Mà lạ thật ! Vào học Chu Văn An mới thấy toàn đám học sinh Bắc kỳ, le que vài trự Nam kỳ lạc lõng vô duyên, đếm chưa đủ mười đầu ngón tay đã hết đứa Trung kỳ. Cho đến các thày đa số cũng lại Bắc kỳ nốt, từ thày hiệu trưởng Dương Minh Kính đến thày thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Còn bên Petrus Ký thì ngược lại, hầu hết Nam kỳ. Hóa ra vung nào thì vẫn cứ đi tìm nồi nấy, hay hoặc giả có chính sách của chính quyền thời đó hay không ? Chẳng thành vấn đề, chỉ biết bọn Nam kỳ Petrus Ký châm biếm đổi tên Chu Văn An thành ...Chết Vì Ăn ! Cháu tức máu trả đũa, rằng chúng mày ghen ông vì chúng mày chiêm ngưỡng các em Bắc kỳ Trưng Vương mà thèm nhỏ dãi, nhưng sờ vào thì chúng mày sẽ thành con dế mèn để các em Bắc kỳ thọc cọng nhang sau gáy thổi quay vòng vòng ! Tức quá, mấy trự Petrus Ký chỉ biết ”ngậm ngùi” đồng ca bản ”Khúc nhạc đồng quê” rằng thì là :

”Quê hương tui Bắc kỳ nhào dzô quá trời

Bên bờ sông bên bờ ao...trồng rau muống !”

Hay cũng là :       

”Quê hương tui cái mùng mà kêu cái màn !....”

Thôi thì cũng đúng thôi ! Mấy trự Nam kỳ hay Trung kỳ chỉ cần nghe một mợ Bắc kỳ uốn éo ra chiêu vài đường lưỡi thì đã nhũn như chi chi, mắt trợn ngược, mồm há hốc, quên luôn cả tên họ mình. Chỉ có trai Bắc kỳ mới trị nổi các mợ Bắc kỳ thôi ! Này nhé, các cụ cứ chịu khó nhìn chung quanh đi, cứ một trăm trự Nam kỳ chưa chắc có được một trự vớ được một mợ Bắc kỳ. Tìm mỏi con mắt mới có một trự ”diễm phúc” bế được một mợ mang về nhà thì bảo đảm suốt cuộc đời còn lại chỉ biết bốn chữ ”gọi dạ bảo vâng”, răm rắp tuân lệnh bà, chẳng bao giờ còn nhìn thấy mặt trời, mặc dù suốt ngày ngửa mặt than Trời ! Đấy mới chỉ là các mợ Bắc kỳ 54 thôi nhé ! Gặp cỡ các mợ 75 hay các mợ quê quán Hà Đông hay Bắc Ninh ”...cầm roi dạy chồng” thì ôi thôi ! cái te tua nó kéo luôn theo cả tông ti họ hàng, suốt đời hưởng ”cái thú đau thương”, nghe chửi cứ tưởng nghe...hát. Hỡi các chú Nam kỳ hậu sanh: chớ chơi dại! Đừng nghe ông Phạm Duy hát bài ”Cô Bắc kỳ nho nhỏ” mà ham, lừa đấy ! Gặp Nam kỳ thì cái ”nho nhỏ” kia sẽ phình to hơn cái vại, mà cái vại có nanh ! Ngược lại, một cậu Bắc kỳ rau muống quơ được một cọng giá Nam kỳ ”đem về dinh” –vụ này nhiều lắm- thì cứ như ”rồng thêm cánh”, như ”diều gặp bão”, như lái ô tô không cần Navigation... cả đời có người ”nâng khăn sửa túi” không công. Hóa ra hôn nhân cũng có quy luật đấy chứ :

Chồng Bắc kỳ + vợ Bắc kỳ = Vợ chồng đề huề, nếu biết cách

Chồng Bắc kỳ + vợ Nam kỳ = Chồng phây phả, phè cánh nhạn.

Chồng

Nam

kỳ + vợ Bắc kỳ = Chồng

tua, lưng còng.

Nhưng đã

 là ”

luật” thì bao giờ cũng có ”luật trừ”, nghĩa là cháu không dám vơ đũa cả nắm đâu, với lại cháu chỉ lợi dụng cái ”tự do ngôn luận” trên xứ người, xin bàn bậy vài chữ ngu ngơ để các cụ trong lúc ”trà dư tửu hậu” đem ra trước là mua vui, sau là cho bớt chút căng thẳng trong cái cuộc đời ... đen như mõm chó này.

 Xin lỗi các cụ, nẫy giờ nói loanh quanh mãi, bây giờ cháu xin trở lại chuyện của cháu.

Bố cháu nghiêm khắc lắm và dĩ nhiên giáo dục con cái

 theo 

truyền thống Bắc kỳ. Đã có gốc có ngạnh, có cả sự nghiệp bề thế trong Nam nhưng vẫn...thờ cơm Bắc kỳ, vẫn lễ phép Bắc kỳ, vẫn giữ giọng nói Bắc kỳ và thậm chí còn ra lệnh, dâu rể cũng phải...Bắc kỳ ! Mỗi lần cháu dẫn bạn gái về nhà, bố cháu liếc mắt một cái là biết ngay cô nàng Bắc hay

Nam.

 Có một ông bố tinh đời như thế đôi khi lại...phiền. 

Với một mợ Bắc kỳ, bố cháu thân mật tươi

 cười ”

Cháu vào nhà chơi !

 bố 

mẹ cháu khỏe mạnh không ?”, cứ làm như quen biết từ lâu vậy. Gặp cô ả

Nam

kỳ thì lạnh nhạt khinh

 khỉnh ”

Không dám, chào cô !” Cô bạn gái

Nam

kỳ mặt nghệt ra thưởng thức văn chương Bắc kỳ, còn cháu nghe qua mà thốn từ dạ dầy đến ruột

. Nghe Bắc kỳ chê, nghe Bắc kỳ chửi, mà cứ tưởng mình đang nghe thơ phú hay nghe nhạc êm dịu mới chết

 chứ ! 

Nếu quen cô nào Trời sinh có mấy cái vòng hơi...sexy một tí, Bắc cũng như

Nam, cháu phải dấu biệt vì sợ lựu đạn nổ

 tung 

trong nhà.

 Điệu này coi bộ hơi khó sống. 

Thôi thì Bắc Trung

Nam

cũng một nhà, hạnh phúc lứa đôi đâu phải do thằng hàng xóm, mà là do chính mình. Thế rồi cháu đã từng hạ quyết tâm với bố: lấy vợ Bắc kỳ, cho phải đạo làm con.

 Em nào Bắc kỳ, rước về nhà cho bố xem mặt mà bắt hình dong (cứ như đi mua gà chọi). Em nào Nam kỳ, điểm hẹn sẽ là mấy ống cống dưới gầm cầu xa lộ Đại Hàn.

Thiên bất dung nhan!

 cháu 

lại phải lòng một ả

Nam

kỳ,

Nam

kỳ không lai giống, cái thứ

Nam

kỳ Gia Long kên kên xí xọn.

 Hồi đó cháu đi lính Không Quân của miền Nam, thấy đám phi 

công trời đánh đa số cũng đều là Bắc kỳ, chẳng hiểu tại sao? 

Dân Nam kỳ cũng có, Trung kỳ lại càng ít hơn, nhưng đứa nào cũng có ...”cái mồm Bắc kỳ”. Cháu còn nhớ khi thi gia nhập Không Quân, phải đủ ký lô, đủ kích thước, lục phủ ngũ tạng bị khám tuốt luốt, phải trần trùng trục như con nhộng rồi nhẩy lên nhẩy xuống cho mấy ông bác sĩ ...”vạch lá tìm sâu”, chứ đâu có thi tuyển đứa nào ”lắm mồm”! Thế mà thằng nào thằng nấy đều có cái ”chứng chỉ lắm mồm” cao hạng dấu kỹ trong túi áo bay. Một hôm đang trực phòng hành quân thì ông xếp (ông này Nam kỳ quốc) hỏi có thằng nào rảnh ra phi đạo chở con cháu gái vợ của xếp theo tàu từ Sài Gòn ra Nha Trang đem về nhà bà vợ đang có bầu sắp đẻ. Tưởng đi biệt phái hành quân chứ cái màn này cháu khoái lắm : ”Chuyện nhỏ mà xếp, có tui ngay !” Ông xếp của cháu cũng chẳng vừa, nhìn thấu tim gan thằng đàn em : ”Lẹ lẹ lên coi, tàu sắp đáp rồi đó, sách tao mày học hết còn dư có cái bìa, nhưng mà từ từ thôi nghe cha nội, lạng quạng con mẻ chửi tao thấy bà !” Lúc đó cháu đâu có ngờ rằng, cái chuyện nhỏ như mắt muỗi này lại thành chuyện lớn, lớn khủng khiếp, ảnh hưởng đến hết cả cuộc đời cháu !

Cô cháu gái ông xếp không có cái dạng ”ngực tấn công, mông phòng thủ” như trong ”xi la ma”, thế mà ngay từ phút ban đầu cháu đã bị dáng ngay tim một cái búa tạ chình ình chứ chẳng phải tiếng sét tầm thường.

”Cô đi máy bay có mệt lắm không ?”

”Dạ !”.

”Ra thăm cô dượng hả ?”

”Dạ !”. 

”Cô lên xe đi, tôi đèo cô về”

”Dạ !”... 

Chèng đéch ơi ! sao mà cụt ngủn cộc lốc thế bà nội ? Cái gì cũng ”dạ” hết ráo thì cháu biết đâu mà rờ ! Đúng gái Nam kỳ ! Chợt nghĩ, không biết bà dzợ xếp tới giờ này có còn ”ngây thơ”, ”dạ dạ” với xếp như dzậy nữa hay không ? Xếp cháu đang ở San José, nếu xếp có đọc những giòng chữ này thì xếp cũng bỏ qua dùm vì thằng em đã thuộc lòng trọn bộ sách của xếp từ khuya rùi !

Từ đó cháu với nàng rủ rỉ rù rì cùng nhau đánh vần mấy chữ ”hình như là tình yêu”. Cuộc tình của cháu với nàng êm ả như quả lắc đồng hồ treo trên tường phòng khách nhà cháu, nhưng mỗi khi nghĩ đến bố cháu thì quả lắc đồng hồ bỗng ngất ngư như bị đứt dây thiều. Thương quá, cháu đánh liều, ”mấy sông anh cũng lội, mấy đèo anh cũng qua”, chuyến này nhất quyết không chui ông cống gầm cầu xa lộ, mà dắt nàng về nhà trình diện bố.

Bố vẫn khinh khỉnh:

”Không

 dám ! chào 

cô”. Nàng vui tính

: ”

Ba anh coi ngầu quá hén!”, cháu tỉnh bơ: ”Không ngầu sao làm bố anh được !”.

Thật ra thì bố cháu đâu có ghét Nam kỳ, ông chỉ phàn nàn rằng dân Nam kỳ được trời đãi, cho sống trên mảnh đất mầu mỡ phong phú, không làm vẫn có ăn, mà lại ăn ngon nữa, nên có tính lè phè, hoang phí, không chăm chỉ hạt bột, không cần cù tiết kiệm như Bắc kỳ. Ông chỉ vì thương con, lo cháu lấy nhằm cô vợ

Nam

kỳ cả ngày chỉ biết...phè cánh nhạn, ăn no lại nằm, thì con cưng của ông sẽ thành thân trâu ngựa suốt đời. Còn mẹ cháu, vốn dĩ nhà quê răng đen mã tấu bảo rằng, nghe

Nam

kỳ nói chuyện cứ tưởng nghe tiếng nước ngoài, chỉ hiểu một

 nửa ! 

Cháu cãi lại, Bắc kỳ cũng

 có  khối 

đứa lười, lười như..

cháu 

đây là hết mức rồi !

 Một hôm cháu đưa nàng về nhà, gặp lúc bố mẹ cháu sửa soạn mở tiệc đãi ông bác từ Hố Nai lên thăm. 

Ông bác vui tính bảo tiện bữa ngồi

 ăn 

luôn, cháu đang chần chừ thì nàng vén áo hạ ngay cái bàn tọa tròn lẳng xuống ghế, cháu kéo lên không kịp. Cháu thủ thỉ giải thích cho nàng rằng, đi đâu gặp khách Bắc kỳ mời ăn thì chớ có ăn liền, cứ để người ta mời dăm lần bẩy lượt, ăn liền người ta chửi mình...chết

 đói ! 

Nam

kỳ thì thẳng ruột ngựa, mời là cháp lẹ, không cháp dọn xuống bếp, đói ráng chịu, không mời lần thứ hai, ai biểu mời không

 ăn ! 

Bỗng mấy đứa em cháu thay phiên

 nhau : 

”Mời bác xơi cơm, mời bố xơi cơm, mời mẹ xơi cơm, mời anh xơi cơm, mời chị xơi cơm”, mời... mời... mời tùm lum!. Thằng em út cháu mời dài nhất, mời lâu nhất, mời từ trên xuống

 dưới , 

trong nhà chỉ có con Tô Tô đang nằm chực dưới gầm bàn là nó không mời. Nó lại chẳng được ai mời để xơi, út

 mà ! nhưng 

rồi vẫn xực ào ào !

 Cô bạn Nam kỳ của cháu trố mắt nhìn cháu chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. 

Cháu vội ghé tai thì

 thầm :

-       

Em mời gia đình ăn cơm

 đi !

-       

 Ủa ! gia 

đình anh mời em ”ăng” mà ?

 Bộ ”

ăng” cũng phải mời...mời...xơi ...xơi sao ? Nàng ấp a ấp úng cũng ráng

 mời :

-       

Dạ mời bác, mời bác, dạ mời... à... à... mời anh, mời em...

Chợt bố cháu lên

 tiếng :

-       

Thôi đủ rồi, cháu mời người trên thôi, còn mấy em cháu không phải mời...Mà hay

 thật ! con 

bé này vui vẻ, ngoan ngoãn lắm !

 sao

con cứ ăn hiếp nó mãi !

Nghe bố cháu nói mà bụng cháu cứ như mở cờ, ông còn cao hứng bảo khi nào nàng nấu cơm Nam kỳ cho gia đình cùng ăn. 

Cô nàng hí ha hí hửng nói

 liền :

-       

 Dạ ! 

lại 

dạ!), để bữa nào cháu nấu bún(g) mắm dzới thịt heo ba rọi cho bác ăn(g),

bún(g) mắm thịt ba rọi Trà Dinh ngoong nhức miền

Nam

nghe bác !

-       

 Sao ? cô 

muốn búng hả ? Lỗ tai tôi đây này, muốn búng bao nhiêu thì cứ búng

 đi ! Thế là cả nhà cháu được một trận cười nắc nẻ. 

Nào đã hết đâu, mẹ cháu chợt bảo:

-       

Cháu xuống bếp lấy cho bác mấy cái ”cùi dìa” với cái ”muôi” để trong ngăn kéo đấy !

Nàng ngớ ra cứ như được nghe tiếng...Tây, nhìn cháu cầu cứu. 

Cháu cười hì hì khoái tỉ, ra cái điều thông thái giải thích

 ngay :

-       

Cái ”cùi dìa” Nam kỳ kêu là cái ”muỗng”, tại Bắc kỳ sống lâu với bọn Tây, chúng nó

gọi là ”la cuiller” thì Bắc kỳ gọi luôn là cái ”cùi dìa” cho tiện. Còn cái ”muôi” Nam kỳ

kêu là cái ”vá”, chữ ”vê” thì đọc là ”dê” cho nên gọi là cái ”dzá”, phải không ? Nàng đỏ mặt, bĩu

 môi : 

”Cái đồ dzô dziêng, tui đi dzìa à nghen !”

Sau bữa cơm hôm ấy, hình như bố cháu bắt

 đầu ”

chuyển hệ”, có vẻ gần gũi thân mật với nàng hơn vì thấy nàng thật thà, có sao nói dzậy, không bãi bôi, không vòng vo tam quốc, nhất là...không lười như ông nghĩ.

 Thừa thắng xông lên, cháu thủ thỉ với mẹ cháu là cháu muốn lấy nàng làm vợ. Mẹ bàn với bố, bố vẫn ngần ngừ. 

Tại bố cháu không biết đấy chứ, cháu đọc lóm từ một quển sách nào đó người ta viết rằng, trong lịch sử nước ta hầu hết các vua chúa miền Trung đều có nhiều bà vợ bé, mà hầu như bà nào là Chánh Cung Hoàng Hậu cũng đều là Nam kỳ: vua Minh Mạng có rất 

nhiều vợ, đa số là các bà Nam kỳ, Chánh Cung là bà Hồ Thị Hoa, người Biên Hòa; Chánh Cung của vua Thiệu Trị là bà Từ Dũ, người Gia Định; Vợ chánh của vua Bảo Đại là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng Hậu), là người Gò Công. Mấy ông vua cũng tinh đời đáo

 để ! 

Nhưng

 cháu ”

không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường”, chỉ xin ”...quỳ lậy Chúa trên Trời, sao cho lấy được ...con nhỏ Cái Bè con thương !” Thật là oái oăm: cá đã cắn câu mà bố cháu vẫn chưa cho giựt cần! Tuy thế, thỉnh thoảng bố cháu cũng dò hỏi về gia đình nàng. Thì cháu đã nói rồi mà, ”quê Cái Bè, nội Cái Răng, ngoại Cái Dồn”, ruộng đất mênh mông, sông nước dập dình, ăn nói ”ngắn gọn và dễ hiểu” chứ không ”dài dòng nhưng khó hiểu”... kiểu Bắc kỳ ! Chấm hết!

Ngày vui nhất đời cháu là ngày bố cháu ra lệnh sửa

 soạn ”

lên đồ dzía” đến thăm gia đình nàng. Sao bố cháu không nói thẳng thừng ra là

đi ”

hỏi vợ”, đi ”chạm ngõ” cho xong. Nhưng mà cần gì phải ”chạm ngõ” với lại ”chạm cổng” cho rườm rà rắc rối, nhà của nàng cháu biết từng phòng, quen từng góc, rõ từng cột. Mỗi lần cháu từ đơn vị ”dù” về đều có chút quà biếu ba má nàng, cho mấy đứa em nàng và cho cả cô Ba giúp việc trong nhà (học theo sách dụ khị của xếp cháu đấy !).

 Lần nào gặp ba nàng là lần đó có...nhậu. 

Đồ nhắm lúc nào cũng có sẵn, lúc củ kiệu tôm khô, khi ra sau hè ngắt mấy trái xoài tượng chấm mắm nêm ngào ớt, kẹt quá cột sợi ny-lông dzô ngón chân cái, đầu kia cặm mấy con trùng liệng xuống sông, cũng câu được mấy con cá lên nướng làm mồi.

Nam

kỳ trù phú

 mà ! 

Ổng không nhậu

 bia 

nhậu rượu, mà nhậu đế; không nhậu bằng cốc hay ly mà nhậu bằng tô, tô nào tô nấy bằng cái bát ăn cơm nhà cháu. Thế mà ổng lúc nào gặp cháu thì cứ nói rằng

: ”

Dô dzới tao dăm ba sợi nghe mày !” Chưa tới nửa sợi cháu đã guắch cần

 cẩu ! 

”Lính tráng như mày chi mà yếu xìu sao oánh giặc

 nổi ? 

Dzô cái

 coi !” 

Ổng thương, ổng coi như con như cháu, ổng mới kêu cháu

 bằng ”

mày”.

 Tiếng ”

mày” của

Nam

kỳ biểu lộ cái chân tình, sự gần gũi thân thương, không như Bắc kỳ khi đã xổ ra tiếng ”mày” rồi thì ... ô hô !

 ô 

hô !

thiện 

tai !

 thiện 

tai !

 chạy 

cho lẹ !

Một hôm đang nướng con mực khô nhậu lai rai với ổng, bỗng có khách gõ cửa bước vào, mặt ổng sáng lên như sao băng, vừa cười vừa

nói :

-       

Chèng đéc ơi anh Sáu

 Lèo ! 

hôm qua tui chờ qua qua mút chỉ cà tha, hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng qua, hôm nay qua nói qua hổng qua mà qua lại qua, nay qua rồi có thằng rể tương lai tới thăm, nhào dzô chơi vài xị, hôm nay có ớt nè qua !

Nói chi mà cứ qua đi qua lại, qua tới qua lui, nói cũng như thơ phú đấy chứ, thế mà mẹ cháu cứ nói tiếng

Nam

kỳ nghe sao như tiếng...nước

 ngoài !

Bắc kỳ vẫn có

 câu ”

dâu là con, rể là khách”, nhưng

Nam

kỳ thì ”dâu là con, rể cũng là...con luôn”. Bố dzợ chịu chơi lại gặp thằng rể cũng chịu chơi luôn, dzô ba xị rồi thì coi như...bạn, chơi xả láng sáng dzề sớm, còn má dzợ bỗng nhiên thành... chơi

 chịu ! Nàng kể cho cháu nghe, nhiều lần ổng đi nhậu quá giờ giới nghiêm chưa chịu về, cả nhà trông đứng trông ngồi. 

Chợt nghe tiếng xe Vespa quen thuộc chạy ngang nhà, cứ thế nghe cái ”dzù” rồi lại chạy mất tiêu, lại nghe cái ”dzù” rồi đi tuốt luốt ! Sinh nghi, nàng chạy ra cổng đón đường chặn

 xe : 

”Ba ui ! Ba

 ui ! 

Tới nhà rồi

 nè !

”. Ổng chợt tỉnh, quẹo dzô thắng

 cái ”

két”, xe đổ cái rầm, ổng té cái đụi, miệng lèng nhèng ” Ủa, nhà mình đây rồi sao? Dzậy mà tao chạy dzòng dzòng kiếm hoài hổng

 ra !”

Ngày cưới, cháu chọn nhà hàng Đại La Thiên của chú Ba tuốt bên Chợ Lớn cho có vẻ trung dung, không Nam cũng không Bắc mà là cơm Tàu.

 Không xài Karaoke nhưng chơi nhạc sống. Có ông chú dzợ tên là Ba Phoóng làm nhạc trưởng cho mấy bà xồn xồn Nam kỳ lên sân khấu ca cải lương hà rầm. Hình như 7 thứ nghệ thuật của nhân loại đối với Nam kỳ đều tóm gọn trong mấy câu dzọng cổ thiệt mùi. Đám cưới cháu người ta chụp nhiều hình lắm. 

Ông bố vợ coi hình gục gặc cái

 đầu : 

”Chèng đéch ơi !

 thằng 

rể tao chụp hình coi phông độ dzữ hén ! Ráng nghe

 mày !” 

Cháu chẳng hiểu ổng nói cháu phải ráng cái

 gì ? 

Nhưng có một cái cháu phải ráng là cái chắc, ai biểu ham dzợ

Nam

kỳ...mũi cao chân

 dài ! 

Còn bố cháu xem ảnh thì lại phán một câu xanh

 rờn : 

”Con dâu bố chụp với bố ảnh này đẹp quá, giá mà đứng cạnh bố con khoanh tay lại thì còn đẹp hơn biết bao !”. Ông xếp cháu, khơi khơi tự nhiên thành ông dượng, sẵn có dăm ba ly nhưng mắt vẫn láo liên ngó bà cô, rồi len lén kể lể làm

 oai : 

”Thấy chưa mày! Hồi đó tao xách máy bay xuống Vĩnh Long rồi lạng qua Cái Bè, mới lạng chơi dzài ba dzòng là dzớt luôn bà cô mày, ngon

 chưa !” 

Cám

 ơn ”

ông xếp dượng” đã có công ”nối giáo cho giặc” rồi rước luôn giặc vào nhà. Còn mấy thằng bạn Không Quân quỷ sứ thì xúm nhau ca

 bản ”

Mùa thu chết ”... đã chết rồi, cho mày...chết luôn!

Ngày qua ngày, cháu không chết mà vẫn sống nhăn răng với bà vợ ”quý phái bình dân”, bây giờ đã có 4 con với 3 đứa cháu ngoại để nựng.

Nam

kỳ cũng chăm chỉ đấy

 chứ ! 

Thế là xong một đời phiêu bạt giang hồ, bay bướm, quậy

 phá ! Được cái vợ cháu cưng cháu lắm (Nam kỳ mà!), bao nhiêu công việc trong nhà từ lau nhà, rửa chén, hút bụi, trồng cây, giặt đồ...vợ cháu dành làm hết ráo. 

Bả

 nói ”

tay chân ông như thằng cùi, làm đâu hư đó, để tui làm luôn cho lẹ !”. Cháu đi làm mang tiền về, bả cũng không thèm động tới, bảo

 rằng ”

tui hỏng cần anh nuôi tui !” Thế nhưng vợ cháu ghen khỏi nói, trong vườn trồng nhiều ớt hơn trồng hoa, ghen có đẳng có cấp, ghen có kế hoạch, có phương

 án 

đàng hoàng. Ghen thì ghen, lâu lâu cháu cũng theo bạn bè...nhảy dù vài sô, về nhà im thin thít, thế mà bả cũng ”nghe” được mùi, lườm lườm, nguýt nguýt, rồi cũng huề tiền. Sau này cháu mới khám phá ra vợ cháu rất sòng phẳng, đâu ra đó,

 nếu ”

ăn bánh trả tiền” là...cho qua cầu gió bay, không thèm chấp. Một hôm vô tình đọc báo thấy tin cô Quờn, người Sóc Trăng, ghen chồng lăng nhăng, lẳng lặng lựa lúc chồng đang say túy lúy, xách con dao bếp cắt luôn...của quý của chồng đem quăng sau vườn.

 Cô Quờn ra tòa ngồi chơi 4 năm tù. 

Trời đất Thiên địa ơi!

Nam

kỳ mà ghen kiểu này chắc cháu chết sớm, cháu dấu luôn tờ báo, ai dè vợ cháu chu môi oỏng

 ẻng : 

”Cái đó còn đỡ à nghen !

 gặp 

tui là tui cho luôn dzô cái máy xay thịt rồi quăng cho bầy gà ăn, chớ giờ người ta dzăng minh lắm, khâu nối lại mấy hồi !” Má ơi là

 má ! 

Cháu nghe mà ớn lạnh xương sống! Chơi kiểu này thì hơn xa các mợ Bắc kỳ

 rồi ! 

Nhưng cháu lại được phép kéo bạn bè về nhậu...xả láng,

 nhậu ”

vô tư”.

Xỉn quá

 thì : 

”Anh mệt rồi nghen, uống ly nước đá chanh nè, rồi dzô đây em cạo gió hết liền !”.

Bạn bè ói mửa tùm lum

 thì : 

”Hổng sao đâu, anh ngồi tiếp mấy ảnh đi, em dọn cho !”

Mấy thằng bạn có vợ Bắc kỳ ngó phát thèm !

Chắc khí thiêng sông núi Bắc kỳ linh thiêng hùng vĩ , hay nói theo khoa học hiện đại là cái

”dzen” Bắc kỳ quá mạnh, nên vợ cháu nửa dưới vẫn còn là Nam kỳ, nhưng nửa trên đã hóa thành Bắc kỳ: không nói ”bự bành ky” mà nói ”to vật vã”; không gọi ”trái bom” mà gọi ”quả

táo”; thích ăn canh rau muống hơn nấu canh chua; nhưng đặc biệt nhất là ăn nói không còn

”ngắn gọn và dễ hiểu” như xưa, mà bây giờ thì..

 ôi 

thôi ! ”dài dòng, ào ào như thác đổ”, nghe riết muốn

 khùng ! 

Bố cháu

 ăn ”

bún(g) mắm thịt ba rọi” của vợ cháu nấu, đến phát nghiền, nghiền luôn cả chén nước mắn pha đường. Nhà cháu có bốn anh em trai thì bố cháu

có tới ba ả dâu Nam kỳ, nhưng cả đám hợp lại vẫn thua xa một mợ dâu Bắc kỳ, ăn nói ngọt như đường phèn, dịu dàng khoai thai như thiên nga, thêm cái tài...chửi như hát di truyền. Thế là cái

 mộng ”

dâu rể phải là Bắc kỳ” của bố cháu bị nước sông Cửu Long vùng

Nam

bộ

cuốn trôi tiêu tùng. Bố cháu bây giờ cũng

 rành ”

sáu câu” về

Nam

kỳ lắm, ông bảo người ta nói rằng:

-       

”Tính tình gái

Nam

kỳ giống như mưa Sài Gòn: đỏng đảnh nhưng mau quên; tính tình gái Bắc kỳ giống như mưa Hà Nội: âm ỉ và

dai 

dẳng”.

Lợi dụng lúc ông đang vui vẻ, cháu bèn phụ

 họa :

-       

Bố biết không, người ta cũng

 bảo : 

”Ở Sài Gòn nhiều em sinh viên giống như ca ve;

Ở Hà Nội nhiều em ca ve giống như sinh viên”, đúng không

 bố ?

Bố cháu quắc

 mắt : 

”Sao dám ăn nói lăng nhăng thế hả ?”.

 Cháu chuồn nhanh kẻo ông nổi giận. 

Thôi thì đến nước này rồi, cúi xin các cụ cũng rộng lòng bỏ qua cho cháu nếu có gì gọi là thiên vị, bởi vì con gái Nam kỳ bây giờ đã là ”cây nhà lá vườn” của cháu, nên cháu đành phải ”ta về ta tắm ao ta”, ôm lấy cái ao Nam kỳ, ôm cứng cái cây sầu riêng Nam bộ cho phải đạo ”tình Bắc duyên Nam”, nếu không cháu phải ôm thùng mì gói suốt đời. Mong sao các cụ đọc xong rồi bỏ qua, cứ coi như một chuyện tầm phào, bởi vì cháu đã liều mình như mấy mợ Hà Nội làm con chim đa đa, không lấy vợ gần mà lấy vợ xa, xa tuốt luốt tận cái xứ Nam kỳ với giòng sông 9 cửa.

Người Hà Nội không quên rau muống luộc

Có lẽ trong danh mục ẩm thực, rau muống luộc là món ăn có mặt lâu bền nhất trên mâm cơm của người Hà Nội. Kể từ thuở tem phiếu phân phối, thực phẩm khan hiếm, đến thời đồ ăn thức uống ê hề như hôm nay, rau muống vẫn chưa lúc nào vắng bóng.

Cơm bụi, không thiếu rau muống đã đành, ngay đến uống bia hơi, khách vẫn thường gọi một đĩa rau muống và một bát nước luộc vắt chanh, nêm chút muối. Mà thật lạ, trên đời này không có thứ nước luộc rau nào lại ngon bằng nước rau muống luộc. Cũng không có thứ nước rau nào trung hòa tuyệt vời được với tất cả gia vị chua: chanh, me, lá me, quả sấu, quả dọc...

Biên độ trung hòa rộng như thế, nhưng món ăn này lại không hề tạp. Chả thế, luộc rau muống dễ mà không dễ. Nếu nói có cả một bí quyết luộc rau muống cũng không ngoa. Rửa rau như thế nào, củi lửa, nước sôi ra sao để vừa chín tới, rau thật xanh, nước dịu ngọt và không nồng là điều không đơn giản. Chính vì thế, cái tiêu chuẩn tối thiểu của một người nội trợ là... luộc rau muống. Mẹ chồng kể xấu con dâu chỉ cần nói: “Ngay đến luộc rau muống nó cũng không biết” thì kể như cô dâu đó hết xài.

Từ lâu, rau muống luộc đã trở thành thân thương, bình dị. Không những thế, nó còn liên quan đến một sự lạ. Đã có thời người ta xúm vào nghiên cứu việc làm sạch và bổ sung nguồn nước cho hồ Gươm để tạo môi trường thuận lợi cho các cụ rùa sinh sống. Giải pháp không thiếu, nhưng rồi tất thảy đều giật mình. Nạo vét lòng hồ và thay nước sẽ làm mất đi cái màu xanh cố hữu - màu của nước rau muống luộc - vốn được tạo nên bởi rong tảo, phiêu sinh (hay gì gì đó). Các cụ rùa sẽ không thể sống nổi nếu nước hồ Gươm khác đi, không còn màu của nước luộc rau muống.

Dạo mới giải phóng ở TPHCM đã có không ít thắc mắc (và cả vài lời chê bai) người Bắc sao khoái rau muống. Câu giải thích đơn giản là nó dễ trồng và rẻ. Song đến bây giờ thì lời giải thích đã khác. Rau muống là món khoái khẩu của cả người Bắc lẫn người Nam. Tại một quán ăn Nhật ở đường TVL, TPHCM - nơi có nhiều tiệm ăn sang trọng - thực khách đến đây để uống rượu sakê hâm nóng và ăn thịt trừu (cừu). Nhưng nếu là khách sành điệu, sẽ gọi kèm một bát rau muống luộc, vắt chanh Đà Lạt. Nước luộc rau muống đựng trong tô Nhật màu xanh lam, hoa văn cầu kỳ. Khách trân trọng uống từng ngụm nhỏ...

Vẫn thường là như thế. Cái cổ sơ, bình dị, đi suốt hết đời này sang đời khác hẳn nhiên phải có một giá trị huyền diệu nào đó. Mới hay, người Hà Nội không quên được rau muống luộc.

Có một bài viết nào đó nói rằng đặc trưng của Hà Nội là quá trình chuyển đổi từ làng thành đô thị. Tớ thấy như thế thật. Ngay cả bây giờ, đầu thế kỷ 21, Hà Nội đang tiếp thu vào mình những khu vực mà cách đây không lâu đúng là những làng thật sự: Ngọc Hà, Cổ Nhuế, Vĩnh Tuy, Nhân Chính… Khi nhớ lại thời thơ ấu của mình, tớ cũng thấy nó giống ở “làng” hơn là giống ở thành phố, nếu so sánh với trẻ con ở các thành phố lớn khác trên thế giới. Thậm chí cũng có đổ dế, đào củ mài, câu cá, bắt lươn, bắt rắn… chả giống gì ở Vienna, mặc dù nhà tớ chẳng xa trung tâm Hà Nội bao nhiêu, đi xe đạp 20 phút đến Hồ Gươm. Thế hệ bọn tớ là một thế hệ chuyển tiếp.

Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà tôi ở đó.

Đêm nằm nghe trong gió, tiếng sông Hồng thở than.

Và thế là, tớ được sinh ra trong thời chiến. Nhưng trong đầu không còn chút ý ức nào về bom đạn. Kể ra lúc lớn lên cũng thấy gần nhà có một cái vỏ bom to tướng, làm nơi trẻ con ẩn nấp khi chơi trốn tìm. Nhà tớ còn một tấm bản đồ năm 75. Tổng động viên, cha đang là giáo viên cũng nhập ngũ, bí mật quân sự không cho phép mẹ biết cha ở đâu. Mẹ bèn đánh dấu những nơi quân giải phóng tiến vào Nam. Rồi cha trở về nguyên vẹn, may mắn hơn nhiều người khác. Mẹ tớ là người Sài Gòn, đất nước thống nhất còn đem đến niềm vui đoàn tụ. Nhưng rồi những lo toan trong cuộc sống nhanh chóng lấn át sự vui mừng khi đất nước thống nhất.

Bây giờ, khi đã lớn, tớ mới hiểu những nỗi lo toan của cha mẹ. Như nhiều gia đình ở Hà Nội khác, lúc này miếng ăn đã không còn là nỗi bận tâm hàng ngày nữa. Lớp thanh niên bọn tớ đã trưởng thành nhòm ngó công ty nọ công ty kia, nhà nào khá giả còn bàn tính chuyện đất cát, chuyện cho con cái du học… Những “giấc mơ con” bây giờ đã vượt qua khỏi chuyện chiều nay ăn gì, phiếu vải đã đến chưa, gạo mới hay gạo cũ. Nhưng ngày ấy… Những ngày cửa hàng mậu dịch có bán thịt phiếu, gạo sổ là cả một sự kiện. Cả ngõ cùng xôn xao bình phẩm, đi ra đi vào mùi mỡ rán, hành phi, mùi thịt kho thơm nức, dân mình vốn có tài trong việc tạo mùi (tớ đã làm điếc mũi các chú Tây mấy lần bằng những kinh nghiệm này). Tiêu chuẩn mấy lạng thịt một tháng được chế biến ngay với mọi sáng tạo. Người lọc hết mỡ rán ăn dần, người đem rang thịt giã ruốc cho trẻ con, có người luộc tất ăn một bữa rồi cả tháng ăn chay. Niêu tóp mỡ sau khi rán có khi dùng được cả tuần, nào rim, nào xào tỏi xào rau. (Ờ, 10 năm sau tớ lại một lần nữa nếm mùi tem phiếu, nhưng không phải ở Hà Nội, mà ở… nước Nga). Tớ có lần đọc một bài báo trong đó các phi công Mỹ bị bắt than phiền chế độ ăn uống trong nhà tù không chấp nhận được, nhưng tớ chỉ cười ruồi. Đâu chỉ tù binh Mỹ, bữa cơm của họ còn có chất đạm, cả Hà Nội hồi ấy thiếu thốn, cơm độn mỳ, su hào kho ăn cả tháng là chuyện bình thường.

Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay... câu ấy trong một bài hát nào đó tớ nghe rất nhiều thời bé.

Trước cửa nhà tớ có một giàn mướp, mùa hè hoa vàng rực rỡ. Canh mướp ăn trưa hè mát ruột. Có nhà không trồng mướp thì cũng bầu bí sắn dây, mỗi lần đào sắn dây là cả một ngày vui. Nhà nhà tăng gia, khắp nơi vườn rau tự cấp, rau cải rau muống rau ngót rau đay, nhà này bán cho nhà kia (bây giờ tớ đang thèm một đĩa ngọn bí xào tỏi đây) Không thể tưởng tượng được Hà Nội ngày ấy khác bây giờ nhiều thế nào. Tớ còn vài tấm ảnh đen trắng, trông chang một miền quê nào đó, con đường đầu ngõ vết lốp xe đạp chằng chịt, cây cối dây leo um tùm. Có lần đi học, tớ còn bắt gặp một đám đông đuổi lợn rơi từ… ban công tầng 3 xuống đất. Kết quả của kế hoạch nuôi 2 triệu con lợn để phát triển nền kinh tế chăn nuôi gia đình Ờ, mà ở Hà Nội lúc ấy còn có cả củ mài nhé, hoặc là một loại củ gì đó tương tự như thế, không hiểu sao lũ trẻ bọn tớ gọi là củ Hoài Sơn, tớ đào được hẳn một củ to đùng, dễ phải đến 4-5 ký. Hồi ở Nga có lần tớ gặp một bụi ngải cứu xanh rờn ngay sau khoa, hái về đúc trứng được mấy ngày, mấy chú Tây toàn trêu là mày giống... thỏ.

Thời ấy tớ chỉ biết vô tư chơi bời nghịch ngợm. Con trẻ con thường hay chơi đuổi bắt giữa những đường hào, những công trường cả năm vẫn thế. Buổi sáng đi học, trong túi có một cái rút dép, chạy nhiều quá đứt quai là hì hục rút, cho đến khi không còn rút được nữa thì vắt vai vác về nhà. Đi học về là quẳng ngay cặp sách lên giường, dép vào gậm giường, rồi biến. (Sau này có mốt gò trắng, nhựa trong có quai hậu hẳn hoi, “quân khu” đi cải tạo về thường trưng diện cùng với áo bay mũ cối nhập từ Liên Xô. Nhìn từ xa thấy một anh trông chân chất ngồi quán nước đang rít thuốc lào là phải lảng, lôi thôi “nhìn đểu” là bị trấn khăn quàng đỏ như chơi). Việc nhà duy nhất là buổi sáng đi đá bóng về được mẹ sai ra cửa hàng rau gần Bạch Mai mua về một bó rau muống. Rau muống mậu dịch chở bằng xe tải vào đổ xuống cả một vỉa hè, xanh xanh, vàng vàng, trông xấu nhưng mà rẻ, tấp nập người xông vào chọn. Buổi trưa sau khi nghe tiếng còi báo yên lúc 12 giờ, vắt chân lên cổ chạy ra nhà bát giác để xếp hàng lĩnh bánh mỳ, đến nơi đã thấy người đứng người ngồi, người không có mặt xếp hàng bằng những viên gạch vỡ, nón rách, nón mà úp mấy viên gạch là những mấy người đã chiếm chỗ. Tiêu chuẩn 13 cân gạo một tháng, thường là 7 cân gạo 3 cân mỳ và 3 cân đổi bằng bánh mỳ. Vừa nghe câu chuyện cảnh giác vừa ngồi nhặt thóc. Vào thời ấy cái gì cũng quy ra phở, cái này được hai bát phở, cái kia năm bát.

Xếp hàng man rợ nhất có lẽ là xếp hàng mua gói đồ ngày tết (btw, cái hàng xếp dài nhất trong đời mà tớ đã nhìn thấy có lẽ là hàng người mong vào cửa hàng McDonals đầu tiên ở Matxcơva năm 92, dễ đến cả cây số, vòng quanh công viên). Nhịn ăn nhịn mặc cả năm nhưng có 3 ngày tết, trẻ con nhà nào cũng quần mới áo mới. Tính toán sắp đặt trước đó cả tháng. Ba nhà chung một nồi bánh chưng, tối 27 ánh lửa bập bùng, khoai vùi trong tro lấy ra vừa ăn vừa thổi. Lợn tiết kiệm đổ ra. Kéo nhau ra công viên Thống Nhất. Chụp ảnh. Nhặt pháo rơi. Vây quanh ông già nặn tượng. Không khí thật náo nhiệt, bây giờ ngày tết cũng không khác ngày thường bao nhiêu, giống như mấy ngày nghỉ cuối tuần.

Những trò chơi trẻ con thuở ấy rất đa dạng, phần nhiều là bằng những đồ tự tạo, nhiều khi thành mốt, cả Hà Nội rộ lên và cùng chơi. Khắp nơi trẻ con cầm một cái que đẩy một cái vòng sắt chạy leng keng, đến vỉa hè giật lên một cái điệu nghệ chạy tiếp, oai không để đâu cho hết. Mùa hè những cây nhãn trong khu đầy bọ xít, trẻ con lại có một trò chơi mới, đua bọ xít, vặt chân dán nhựa đường vào một miếng tôn. Đua xe 1 động cơ, hai động cơ, thậm chí đến 10 động cơ, trong đó có vài động cơ không thèm vỗ cánh. Rồi dính ve bằng crếp ngâm xăng. Đấy là những trò tớ thấy lạ lạ, chứ chơi bi đánh dáo, nuôi cá chọi, thả diều, chơi chun... thì chắc trẻ con ở đâu cũng chơi. Bây giờ thì thôi rồi, thằng em họ tớ chỉ có ngồi bắn Half Life suốt cả ngày thôi.

Buổi tối nằm trong cái chái nhà lợp giấy dầu, nhìn qua khe vách thấy một bầu trời đầy sao, kể cũng thú vị và lãng mạn. Nhưng nỗi khổ đến khi trời mưa, khắp nơi trong nhà là chậu, là nồi, có nơi chỉ là một cái ly để hứng những giọt mưa tý tách. Năm 84 thì phải, Hà Nội ngập lớn, cha vẫn tại ngũ, ba mẹ con ngồi lên giường, nước ngập mấp mé, nhìn thấy cả rắn nước loăng quăng bơi lượn trong nhà. Anh em tớ còn thích thú thả câu, mẹ thì lo lắng. Đi học tàu điện chết gí không chạy qua Trại Găng được, cặp sách đội trên đầu, cứ thế lội nước đến trường. Thế nhưng có một điều là bọn tớ hồi ấy lại rất chăm học, toàn rủ nhau đi mượn tạp chí Kvan về ngồi giải toán.

Không khí chiến tranh duy nhất mà tớ còn nhớ là những ngày tháng hai năm 79. Còn bé tý, tớ phải đội mũ rơm và đeo túi cứu thương đến lớp. Xung quanh nhà xuất hiện những hố cá nhân và giao thông hào được thanh niên xung phong đào bới. Không khí thật khẩn trương, radio phát bài tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới…. Trẻ con bọn tớ lại lôi súng gỗ ra chơi. Chiến tranh với lũ trẻ con ngây thơ bọn tớ giống như một trò chơi. “Lệnh bắt sống”, “trên từng cây số”, những Dianov với Popov lúc ấy là những thần tượng. Ôi, giá như con người chỉ... make love, not war thì hay nhỉ

Lớn lên một chút, tớ biết yêu. Cô bé thật xinh, thích Dianov, và tớ cũng thật lỳ. Dù tớ vốn nhút nhát, không có thể hình cũng như năng khiếu gì đặc biệt, tình yêu đã là động lực để tớ học (hy vọng gây ấn tượng). Mà đã nói yêu gì đâu, cầm tay cũng không. Nhưng cả hai biết rằng có một cái gì đó lớn hơn tình bạn, vì mắt trong mắt nói rất nhiều Kỷ niệm trong hành trang lên đường là một tấm hình 6x9 đen trắng. Tấm hình đã theo tớ rong ruổi ở xứ người.

Nhét vào đây thêm hai cảm nghĩ của tớ:

Ngày đặt chân đến nước ngoài: Cảm giác ấy vẫn còn trong đầu tớ như mới ngày hôm qua vậy. Thằng tớ lần đầu tiên bước chân lên cái máy bay IL86 to vật lúc mới 16 tuổi, nhìn cái gì cũng lạ, cũng thơm một mùi sang trọng. Thậm chí tớ sợ làm rớt đồ ăn ra khay, sợ sẽ làm bẩn một cái khay đẹp như thế. Các bác thông cảm, Việt Nam lúc ấy còn nghèo, chưa được như bây giờ. Máy bay xuống Sheremetievo 2, sân bay quốc tế, từ sáng sớm. Mùa hè nhưng nhìn qua cửa sổ thấy sương mù dày đặc. Bị bỏ đói cho đến trưa, bọn tớ được ùa ra canteen, nhìn món ăn nào cũng ngây ngất, có điều khi ăn thì không thể nào nuốt nổi, món nào cũng đầy váng sữa, kể cả súp và Salad (mấy năm sau ăn như điên, còn đổ thêm cả váng sữa vào đó nữa). Bước ra ngoài trời, mịa kíp, cái gì thế này, không gian trong không chịu nổi. Chả bù cho ở nhà, khói và bụi trên đường B52 đi học hàng ngày đã thành quen trong tiềm thức. Không khí trong vắt, tớ nhìn thấy cả những cái cây xa tít ở chân trời, trong đến mức tớ cảm thấy choáng, cứ ngỡ như ảo ảnh, phải ra đứng sau… cái ống xả xe buýt một lúc mới bình tĩnh lại được (j/k). Con đường vào thành phố thì dài, nhưng tớ thấy cũng như đường Nguyễn Trãi nhà mình thôi, nhà tập thể giống nhau như đúc, cứ một đoạn lại cảm giác mình lặp lại. Có điều, sao mà chúng nó to đến thế, lại sạch như lau như ly. Đầu buổi chiều, tớ trốn vào thành phố chơi, lang thang khắp nơi trong những bến tàu điện ngầm hai ba tầng được xây như những cung điện, dạo bước trên những viên gạch của phố cổ Arbat, đứng nhìn nhà thờ trên quảng trường Đỏ, cái mà tớ vẫn nhìn thấy từ bé qua tranh ảnh. Chắc là những người xung quanh lúc ấy có nhìn tớ thì sẽ thấy buồn cười. Một cảm xúc nổi bật trong muôn vàn cảm xúc mà tớ có lúc ấy, bây giờ tớ vẫn nhớ. Đó là mong muốn có bên cạnh mình một người, giá như người ấy có mặt ở đây cùng với mình, cùng chia sẻ bao nhiêu những cảm giác mình đang có, thì hay biết bao.

Ngày về: trên máy bay tớ cứ bồi hồi, chỉ mong cho mau đến nhà. Cô bạn gái tớ đã đi lấy chồng. Máy bay phải đổi rất nhiều chặng, càng gần Việt Nam thì càng đông người Việt, mấy tiếng đồng hồ cuối cùng từ Sài Gòn vào Hà Nội máy bay giống y cái xe buýt. Nhốn nháo, khạc nhổ, trẻ con khóc í éo, người lớn cãi cọ. Hành lý để khắp nơi, nào khăn mặt, nào giấy báo, nào mũ nón. Ấy là mùa hè năm 96. Trên máy bay đã thấy ruộng đồng nhà cửa nhom nhem. Đến Nội Bài, sân bay quốc tế lụp xụp. Ra đến cửa thì thấy người là người. Sao mà nhiều thế, vẫy, gọi, la hét. “Cô ơi” “bác ơi” “đi đằng này đằng này” “nhìn cái vali kìa” “xê ra nào” “em về Hà Nội hả, để đấy anh xách cho”. Đường cao tốc Bắc Thăng Long bé tý, có đàn trâu đi ngang qua. Tay bám chặt vào ghế, tớ hoảng sợ trước những tiếng còi xe.

Nhưng tình cảm của tớ về quê hương thân yêu nhanh chóng thay đổi. Ký ức hiện về rõ nét. Tớ thì thầm với mình tên những con đường quen thuộc khi xe đi ngang qua. Đây Cầu Giấy, đường Láng, Ngã Tư Sở, Ngã Tư Vọng. Kia rồi hồ Bảy Mẫu rợp bóng cây, Đại Cồ Việt với những rặng Bằng Lăng tím... âm thanh phố phường mới hấp dẫn làm sao, ai cũng nói tiếng Việt, nghe cái hiểu ngay. Đến khi gặp mẹ già thì tớ đã hiện nguyên hình là đứa con trai Hà Nội. Những ngày sau đó tớ không nén nổi xúc động khi gặp lại bạn xưa. Cô hàng xóm bé nhỏ ngày nào, rất thích mài sắn dây, giờ đã là hoa khôi trường Ngoại Ngữ. Thầy giáo cấp hai tóc đã bạc trắng, sau một lúc vẫn nhận ra thằng học trò cũ. Bọn đồng lứa vẫn đá banh, đuổi bắt có thằng bây giờ vợ con đùm đề. Tớ cảm thấy thời gian ở VN là quá ít.

Quay lại châu Âu, tớ lại choáng lần nữa, lần này có điềm đạm hơn. Khi nhìn những phong cảnh bên này, tớ hậm hực một điều là người VN mình vẫn chưa được hưởng những sung sướng ấy. Bây giờ tớ đã quyết định, tương lai của tớ là ở VN.

Bên box ITC có một bác nào sống ở nước ngoài lâu mới về, post rằng ai bảo là sống ở Việt Nam là khổ, ở nước ngoài họ lo lắng đủ thứ, ở nhà tha hồ ăn chơi. Tớ lại thấy ngược lại. Những nỗi âu lo của người Việt mình, nó cứ bám lấy suốt đời, như một định mệnh. Thằng bạn trong một buổi chiều ngồi uống cà phê giữa quảng trường đầy chim bồ câu đã than thở “sao tao thấy những khuôn mặt Tây ở đây nó sáng sủa hạnh phúc quá, cuộc sống thật đơn giản, không phải nghĩ ngợi nhiều, người Việt lo đủ thứ”. Một buổi sáng đi qua Ngã Tư Sở, giờ đi làm bị tắc đường, cả một biển người kẹt cứng, khói xe máy um cả lên, tớ có dịp ngắm nhìn những khuôn mặt người Hà Nội, đăm chiêu. Những nỗi lo muôn thuở, vụn vặt, lo đến cơ quan đối phó với xếp, lo học này học kia, lo lương lo thưởng, sáng sớm đẩy cái xe máy ra đường đã bắt đầu phải lo. Hát karaoke đấy, uống bia đấy, nhưng vẫn là khuôn mặt của những lo toan không dứt.

Tìm Trăng Đáy Nước

ăn nhà trông ra mảnh sân chung, lúc nào cũng thấy cái lưng còng của cụ Nhổn nhấp nhô ở đó. Bà cụ chín chục tuổi mà minh mẫn, lọm cọm làm việc không ngơi tay. Bí quyết trăm tuổi của cụ rất đơn giản. Sáng dậy, đái một bãi ra tay, xoa khắp mặt, lại uống một ít, thế là bách bệnh tiêu tán. Cụ khỏe thật, nhưng cái sân chung của xóm, nơi cụ vẫn thực hành "trị bệnh" thì khai buốt óc. Cụ Nhổn tên cúng cơm là Lê Kim Anh. Cụ Vòng tầng dưới là Kiều Nga. Tuổi già, đến cái tên đẹp cũng không giữ được. Ai cũng thành cụ tất, chứ làm sao mà hình dung ra Kim Anh rửa mặt bằng nước đái, Kiều Nga vê cứt mũi ăn ngon lành, bảo là cốm Vòng! Những cái tên thời con gái như phấn hương, phai cả.

    Bấy giờ nó còn là con cái Choắt. Gọi Choắt nhưng đã khá phổng phao. Mỗi lần ra sân phơi quần áo, bất kể giờ nào Choắt cũng bắt gặp thằng hàng xóm. Nó đứng giữa cửa, dạng chân, quần mở banh, con cu như hỏa tiễn chực rời bệ phóng đâm vút vào Choắt. Ông giáo sư cùng phố cũng hay đến cho mượn sách lúc cả nhà đi vắng. Ông giáo vuốt má cô cháu gái hờ, hơi thở mỗi lúc một hổn hển làm héo cả lớp lông tơ trên má dậy thì. Cánh tay ông như gọng kìm, xiết dần, xuống dưới. Quyển sách rơi bộp xuống đất. Choắt không dám kêu. Ông giáo già hơn tuổi bố, suốt đời độc thân, nghiêm khắc có tiếng. Mẹ bảo: "Đàn bà con gái, cần nhất là đạo đức." Mẹ bảo vệ đạo đức cho con gái bằng quần áo cắt may luộm thuộm. Choắt mười bảy tuổi, mặc áo cũ của mẹ, quần cũ của mẹ, đi dép cao su, đầu đội nón lá già vàng khè.

    Hôm ấy mưa xuân phây phẩy, ướt đẫm khóm trúc Phật bà của mẹ. Nhà có khách. Người đàn ông tóc muối tiêu, người lòng khòng, vừa chửi rất tục, vừa xin lỗi luôn miệng. Ông khách đến chơi bất ngờ, đi tay không thảnh thơi, cái áo khoác ngoài màu rêu, trùm mông, chứa đầy bí mật. Móc túi phải, này cháu gái, rang hộ bác mớ lạc. Móc túi trái: hành khô, tỏi, một túm thì là xanh tươi. Mở nắp túi trên: cút rượu đầy sóng sánh. Lục lọi túi trong:mấy quả ớt. Vỗ vỗ bên ngực phải: chai mắm tôm Thanh thơm nức mũi. Cái túi bên hông phồng phồng chứa cả cân bún tươi, trắng nõn. Túi bên kia là một bọc đầu cá lăng sống, béo vàng. Chưa hết, từ các túi áo trên, túi quần dưới tiếp tục tuôn ra: nghệ, cà chua, chanh quả, dấm bỗng, bánh phồng tôm, tiêu hạt, hành tây, hành ta, rau sống... Hôm ấy không cần cặm cụi nhặt sạn trong rá gạo hôi mùng mục, không bị thâm móng tay vì rau muống mậu dịch già ngoanh ngoách, cả nhà xúm xít xào nấu, hành tỏi phi điếc mũi hàng xóm. Ông khách chặn tay Choắt đang tỉ mẩn lột vỏ mấy tép tỏi: "Không cần. Để cả vỏ đấy, bác có cách." Choắt vâng, tò mò chờ xem phép lạ của ông khách ảo thuật tách vỏ tỏi không cần bóc. Đến lúc ăn, vỏ tỏi vẫn bám nguyên, phải lấy răng nhằn. Ông khách vỗ đùi, cười lớn: "Thấy chưa, cách này khỏi cần bóc mà vỏ vẫn đi đằng vỏ." Choắt bật cười theo, hơi nóng thức ăn làm mồ hôi li ti rịn hai bên thái dương, má hồng rực. Ông khách nhìn, chợt buông đũa than: "Cháu ơi, mày ăn mì, ăn bo bo mà sao đẹp thế?". Choắt cúi mặt xuống bát cơm. Lần đầu tiên Choắt nghe nói mình đẹp, nhưng sao ông khách lại thở dài, và cả nhà im lặng thế?

    Ông khách là bạn học cũ của bố, muời mấy năm lưu lạc mới gặp lại. Chàng công tử Hà thành ăn chơi lệch đất, cổ lủng lẳng bình axít, anh chị đầu gấu mấy đụng phải cũng ngán ngẩm lảng xa. Ông sĩ quan uống đến đái ra rượu, bắt lính cõng về đồn, nửa đường tụt xuống, ra lệnh: "Mày trèo lên lưng để tao cõng trả, cho công bằng." Người tù cải tạo chưa từng biết chuyện bếp núc, xung phong đi làm lòng lợn để hít tí không khí tự do, cầm cả bộ lòng giặt như giặt áo, khi đem về trại lòng còn nguyên cứt, bị phạt cùm vì tội lừa cán bộ... Người như ông, chẳng biết sợ là gì, cũng chưa từng nói dối. Choắt trốn vào góc nhà, săm soi mình trong chiếc gương nhỏ bằng lòng bàn tay. Gò má lấm chấm tàn nhang. Lông mày xếch. Miệng rộng. Mẹ vẫn than con gái sao giống bố, chẳng được nét gì. Nhưng hôm ấy ông khách đã nói: "... sao đẹp thế! ". Đêm, Choắt thấy thằng hàng xóm nhìn mình đăm đắm, cái nhìn buồn bã, ngây dại. Lại thấy hơi thở nóng bỏng của ông giáo sư phà bên tai. Và cậu bạn trai cùng lớp kín đáo cầm tay, vuốt ve ngón út. Tỉnh dậy, ngón tay út còn cong lên, mơn man cảm giác. Cái Choắt đã đổi tên thành Phương Thảo từ lúc ấy. Cọng cỏ ngát hương mướt xanh muời bảy tuổi. Phương Thảo tóc rất dài, chân dài, đuôi mắt cũng dài, lá cỏ sắc cắt hồn.

    Đạo đức cần mà tiền cũng rất cần. Mẹ đành để Phương Thảo đi bán quán. Nhưng lại dặn làm gì đến mười giờ tối cũng phải về nhà, giữ tiếng cho bố mẹ. Bố mẹ đã sống một đời giữ tiếng cho ông bà. Ông bà giữ tiếng cho cụ kỵ. Tiếng là gì mà đời nào cũng phải đa mang? Me bảo đừng hỗn. Chủ nhà này trước kia là bác sĩ, kĩ sư cả đấy, ăn ở thế nào mà cứ đi vắng là hàng xóm vứt cứt vào nhà. Từ ngày bố mẹ về đây, cả xóm già trẻ ai cũng niềm nở. Cô hàng xóm ném cứt giấu tay vẫn bị bà hàng xóm bên kia lột quần lót trên dây phơi ném vào vũng nước đái cụ Nhổn. Bà hàng xóm ấy thì chốc chốc lại réo mả tổ cha tiên nhân con đĩ nào đang yên đang lành động cỡn úp ngược cái bếp dầu của bà để chảy hết cả dầu sao nó không về úp cái đầu lâu bố nó...Quần lót mẹ phơi trên dây không ai động đến, bếp dầu nằm ngay ngắn, nhà không bị vứt cứt. Ăn nhau cũng nhờ cái tiếng. Bố mẹ sống như hai bậc hiền giả giữa chốn bụi trần. Bụi trần cả theo nghĩa đen vì căn nhà cấp bốn trống trải bốn bề lúc nào cũng ngập bụi từ bốn phương tám hướng đổ về. Bụi nhà máy điện, bụi mùn cưa, bụi cuốn theo vệt bánh xe ngoài phố... Mẹ dũng cảm chống trả bằng phất trần, chổi, giẻ lau... nhưng vô ích. Bụi dầy lên bám mờ ảnh thờ, mẹ đành mua tấm lụa đỏ che mặt các cụ, chỉ ngày giỗ tết mới mở ra. Bàn thờ nhấp nhô những vuông lụa đỏ, quá khứ trở nên vô hình vô ảnh nhưng bù lại được bọc gói sạch sẽ. Tổ tiên trông xuống con cháu qua lớp lụa ấy sẽ thấy đời giống y lời bài hát: "hồng như màu của bình minh, đỏ như màu máu của mình tim ơi ". Mẹ gom gạch, xây trước cửa nhà bồn cây. Sau vài tuần chăm chỉ tưới tắm, hoa lá lên chẳng ra hình thù gì, nhưng những cái tên thảo mộc nghe thật sướng tai: khóm trúc Phật bà, cây phun châu nhả ngọc, bụi hồng tỉ muội, cây trinh nữ hoàng cung, lan cẩm cù, hoa trạng nguyên, lá hoàn ngọc... Thằng Bi nhà bên mỗi sáng mắt nhắm mắt mở lại ra bắc cái vòi xinh xinh đái vào khóm trúc Phật bà của mẹ. Lá trúc úa vàng, hoa phun châu nhả ngọc thâm thâm màu đất, hồng tỉ muội còi cọc không hoa, chỉ có khóm trạng nguyên mỗi độ Noel là đơm bông đỏ chói chang. Năm nào mẹ cũng phấn khởi bảo đấy là điềm lành.

    Điềm lành hay không chả biết nhưng từ độ Phương Thảo đi bán quán thì cuộc sống ở nhà cũng dễ chịu lên. Thay vì rượu sắn uống nhức đầu, bố chuyển sang mua rượu gạo. Rượu gạo thực ra vẫn hại, bố uống bia hơi, bia Tàu, rồi bia lon, mỗi lần uống lại khề khà bảo bây giờ sướng thật, những thứ này ngày xưa có tiền cũng phải quen mới được mua phân phối, các cô mậu dịch mặt vác lên tận trời xanh. Mẹ lại có niềm vui khác. Thỉnh thoảng, Phương Thảo mang từ chỗ làm về đầu tôm hùm, chân gà, chân cua ghẹ, đầu cá. Mẹ hỉ hả gỡ gạch ở đầu tôm, tuốt thịt cua, chặt chân gà..., vừa làm vừa mắng tụi Tây phí phạm, không biết ăn miếng ngon. Nó ngu thế mới tới phần mình. Mình khôn nên chẳng tốn xu nào mà chế biến ra bao nhiêu món đặc sản. Đầu cá nấu canh riêu, gạch tôm thịt cua làm nem, chân gà hầm tam thất con gái ăn đỏ da thắm thịt. Nhà ăn không hết, mẹ cho hàng xóm lấy thảo. Uy tín của bố mẹ trong xóm càng cao, bụi cây trước nhà mặc sức lên tươi tốt không ai bẻ. Ăn đặc sản, uống bia lon, ngắm hoa trạng nguyên miễn phí. Cuộc đời vẫn đẹp sao!

    Có hai điều làm mẹ chưa được mãn nguyện. Thứ nhất là mùi. Bụi cây cảnh tên rất đẹp của mẹ không lọc được các mùi hỗn tạp ùa vào từ mảnh sân chung. Mùi nước tiểu của bà già, trẻ con, chó. Mùi khói bếp than. Mùi dầu hỏa. Mùi vỏ cam, vỏ chuối, cuống rau thối mục từ tầng trên quẳng xuống mái nhà tầng dưới. Mùi thùng nước gạo lên men. Nhưng rùng rợn nhất là những ngày đổi thùng. Công nhân vệ sinh đeo khẩu trang, đi ủng, xách xô, xẻng vào nhà vệ sinh nậy nắp hố xí. Phân tươi tràn ra lênh láng. Các chị công nhân lấy xô múc, gánh từng thùng ra vào kĩu kịt, phân rải như hoa sao dọc đường vào ngõ. Nhà nào nhà nấy buông rèm, đóng cửa kín mít, thắp hương, có người nhạy cảm hơn thì lấy khăn mặt dấp nước quấn quanh mũi như kinh nghiệm phòng chống hơi ngạt thời chống Mỹ. Chẳng ăn thua gì. Cái mùi nhọn sắc như lưỡi khoan bén, xuyên qua mũi, xoáy sâu vào tận cùng não bộ, một ngày không quên, một đời không quên. Chỉ có cụ Nhổn là thản nhiên. Cụ bảo thế ăn thua gì. Cũng là của con người cả, làm gì mà rầm rĩ nhặng xị lên. Như ở Cổ Nhuế người ta còn thờ cả cứt. Buổi sáng, chợ phân họp đông đúc. Người bán kẻ mua xắn tay áo lên tận nách, khuấy vào thùng phân, nặn bóp ngửi xem chất lượng, chê phân này chua, phân kia nhão. Phân cũng giả đấy. Có đứa trộn đất sét, có đứa nghiền khoai lang vứt vào, mua bán không cẩn thận là lỗ vốn. Lại chia phân hạng một, hạng hai. Hạng nhất là phân khu Giao tế, Tôn Đản, bốn quận nội thành nói chung chất lượng tốt. Ngoại thành nhà quê ăn rau dưa nhiều, phân loãng xanh chẳng quý. Quý nhất là phân ngoại. Chẳng phải hàng imported gì nhưng là nguồn tuồn từ sứ quán Tây ra. Phân ấy đắt gấp đôi thường, nghe bảo bón cây nào cũng lên to vật vã như đổi giống... Xóm mình đây còn đỡ, chứ nhìn sang khu tập thể đối diện mà xem. Hơn hai trăm con người, tám nhà vệ sinh. Buổi sáng hàng người xếp hàng trước nhà xí như con rồng tám đầu, đầu vào nhăn nhó, đầu ra thảnh thơi. Từ ông giáo sư đến chị quét rác vào đây nhất loạt là bình đẳng. Cánh cửa nhà vệ sinh chẳng hiểu sao lại chỉ cao đến ngang ngực. Người ngoài cứ việc nhìn vào mặt người trong là biết nông nỗi đoạn trường. Sau có đứa sáng kiến đem mẹt đến đấy bán, vừa để che mặt, vừa phẩy phẩy chống hơi nóng, mùi hôi, nhất cử tam tứ tiện. Cái thằng bán mẹt ấy kiếm bạc nghìn ngon ơ. Từ đấy, mỗi người đi vệ sinh lại trang bị thêm cái mẹt tre, như tấm mộc của hiệp sĩ thời trung cổ. Tưởng tượng hai trăm cái mẹt cùng vẫy lên một lúc là con rồng trước cửa nhà vệ sinh xòe vây, giương vẩy bay vút lên chín tầng trời. Sau này đi đây đi đó nhiều, Phương Thảo đôi lúc thấy bọn Tây đơn điệu quá đâm nhàm. Hố xí nhất loạt giật nước, giấy vệ sinh biến báo thế nào cũng na ná như nhau. Chúng nó còn lâu mới sáng tạo được như mình. Con bé hàng xóm tâm sự đi vệ sinh em thích nhất là giấy báo. Vừa đọc giải trí quên thối, khi dùng vò ra lại mềm, lại dai, lại thấm nước. Nhưng mà báo thì chả phải lúc nào cũng có. Nhìn vào mớ giấy thải trong nhà vệ sinh mới thấy hết độ phong phú. Giấy kẻ ô li xé từ vở học trò. Giấy báo Nhân Dân, An Ninh, Văn Nghệ, Pháp Luật, Lao Động. Giấy sách khoa học, văn chương, từ điển... Miếng được vuốt sắc cạnh rồi mới xé. Miếng xé vội lam nham. Có những miếng giống nhau đều tăm tắp. Lại có miếng to miếng nhỏ luộm thuộm. Bao nhiêu mẩu giấy là bấy nhiêu học vấn, thói quen, tính cách. Tháng một lần, mẹ bịt khẩu trang, lấy chổi cán dài gom mớ giấy lưu cữu thành đống rồi hỏa thiêu, khói bay ngút trời.

    ở đây không gian thơm ngát. Nhà vệ sinh nức hương biển Thái Bình Dương, xà phòng trầm hương, nước tắm hoa cam, nước gội đầu tổng hợp mùi hoa mùa xuân. Phòng khách thoảng hương rừng nhiệt đới, nước cọ sàn mùi táo, nước rửa bát hương chanh Địa Trung Hải, nước rửa tay mùi hoa hồng... Đôi khi cuộn mình trong chăn nệm thơm tho, Phương Thảo nhớ cái mùi xóm nhỏ. Chẳng biết nên vui hay buồn. Cửa sổ buồng ngủ bây giờ trông ra cây dẻ lớn. Tháng năm, hoa bừng lên như lửa trắng trên cây. Mỗi lần gió nổi, cả núi hoa lung lay, xao động. Hoa dẻ hữu sắc vô hương, không giống như hoa sữa ở nhà. Cây sữa mọc ở đầu mảnh sân chung, khi heo may về nhú lên những chùm hoa xanh nhạt, bông nhỏ như đinh hương. Duy nhất chỉ vào dịp ấy, hương hoa sữa lấn át tất cả các mùi hỗn tạp trong xóm. Căn phòng của bố mẹ bồng bềnh trôi trong biển hương sữa. Những lớp sóng hương ngạt ngào mê man xô đẩy Phương Thảo hai mươi tuổi vào miền cổ tích. ở đó chàng hoàng tử giương cánh buồm đỏ thắm chờ nàng Lọ Lem từ lâu lắm. Mẹ không biết con gái đã nhận lời đính ước với hoàng tử, có hương hoa sữa làm chứng. Mẹ bắt đầu lo vì Phương Thảo không bao giờ về muộn, lúc nào cũng đúng mười giờ tối. Đi một mình, về một mình, như bài học đạo đức của mẹ. Đi qua cầu thang nơi ông hàng xóm đặt cái tivi để nuôi gà. Tivi panasonic hỏng, moi hết ruột vứt đi, vỏ ngoài chắn lưới mắt cáo, thành cái chuồng gà hiện đại. Trên nóc tivi là chuồng vẹt Hồng Kông. Vẹt ỉa xuống đầu gà. Cám gà vãi tung ra đất. Con chó tha thẩn ngửi hít rồi bỏ ra thùng nước gạo sục mõm tìm xương. Phương Thảo đi qua mảnh sân chung nước đái cụ Nhổn trộn nước đái thằng Bi. Qua dây phơi trĩu trịt quần lót áo lót. Qua góc bếp sực mùi than tổ ong, mùi dầu hỏa. Qua khóm trúc Phật bà, hồng tỉ muội, trinh nữ hoàng cung của mẹ... Đi qua tất cả mà chẳng chạm vào vì Phương Thảo đang bận tâm sự với hoàng tử. Chàng nàng liên hệ với nhau hai ba tiếng rưỡi trên hai bốn, trừ nửa tiếng Phương Thảo xếp hàng đi vệ sinh. Lúc đó hoàng tử chẳng nên đến gần. Lúc đó mới thật là toàn tâm toàn ý như Thiền. Thời gian còn lại, Phương Thảo nói, hoàng tử lắng nghe và chàng hiểu hết. Bao nhiêu năm, hoàng tử ở bên Phương Thảo như cuộn giấy thấm tuyệt hảo, hút mãi những nỗi niềm không cạn. Bây giờ khi nhớ lại, Phương Thảo nghĩ có thể đó là hội chứng hoa sữa, giống người say nấm độc tự huyễn hoặc mình bởi những ảo ảnh. Một sáng bừng tỉnh sau cơn mê hoa sữa, Phương Thảo chợt thấy mình đang là vợ goá của hoàng tử. Tài sản thừa kế là một núi tâm sự không biết trút vào đâu, còn lại thì trống rỗng. Ngoài vườn, hoa dẻ đã tàn gần hết. Những cánh dẻ như ngàn vạn con bướm trắng phiêu tán theo gió. Bay mãi rồi cũng rơi về đất.

    Thế thì sao không thử bắt đầu từ đất? Nhờ anh hàng xóm lực lưỡng cuốc giúp mảnh vườn, trồng mấy cây hoa dê dễ sống. Anh hàng xóm lần nào Phương Thảo mở cửa ra cũng gặp, nhiệt tình hơn cả ông giáo sư cùng phố ngày xưa cho mượn sách. Hay ừ quách cậu đồng nghiệp đầu vuốt gôm như lông nhím, chân tay không vạm vỡ bằng nhưng có thể cùng đi dạo biển, buổi tối đàn ghita phừng phừng mắt đắm đuối môi ướt. Hay thả mình bình yên như cọng cỏ mềm nép vào lồng ngực chắn gió của người bạn thân rất thân. Hay gặp lại cố nhân chín năm trước đã theo Phương Thảo về tận gốc cây sữa đầu nhà, người chẳng ngại bay chín nghìn cây số tìm lại cọng cỏ ngày xưa...Hay là gửi cả tá bình xịt khử mùi, nước hoa, nước tắm thơm về cho mẹ. Dùng hàng ngoại đánh át mùi nước đái cụ Nhổn, thằng Bi, xua đuổi hương hoa sữa. Khi đó Phương Thảo có thể về hát karaoke vô tư với thằng Cà Chô. Cà Chô không phát âm được chữ cà chua nhưng lại thích hát. Chiều chiều, bố mẹ nó hãnh diện bật giàn karaoke cực xịn để thằng con ba tuổi gào vào máy: "Chái tim tù lù, anh êu em đến tàn lu". Cà Chô không đọc được lời bài hát ở dưới: "Trái tim ngục tù, anh yêu em đến ngàn thu". Chẳng sao, tim tù lù chắc dễ chịu hơn. Có điều Phương Thảo lại biết đọc, và hiểu rằng chịu ngục tù như thế là sến lắm lắm, nhưng thoát ra bằng cách nào đây? Thư mẹ viết thiết tha, con ơi về đây sướng khổ có nhau. Bây giờ ở nhà khác lắm. Mẹ đã lắp xí bệt giật nước kiểu Tây, trước cửa trồng thêm giàn thiên lý. Hương nó thơm ngọt ngào chứ không gắt như hoa sữa. Về đi mẹ nấu canh thiên lý giò sống cho mà ăn.

    Thì về. Cái xóm nhỏ xem ra cũng nhiều thay đổi. Cụ Vòng đã quy tiên, bia mộ đề tên Nguyễn Thị Kiều Nga. Cụ Nhổn nhờ nước tiểu trị liệu nên còn minh mẫn, chỉ tội yếu. Phương Thảo biếu cụ tiền ăn trầu, cụ bảo thôi thôi nhưng bàn tay khô khỏng móng như vuốt chim giữ chặt tiền không rời. Thằng hàng xóm ngày xưa giờ một vợ hai con, mặc com lê, lái taxi, chỉ học phất phơ có một tuần đã lấy bằng tay lái lụa, đi taxi của nó lúc nào cũng có thể là đi suốt lên thiên đường. Phương Thảo đi giầy đinh, mặc áo hở rốn, tay xách camera tìm về những con đường ngày xưa. Con đường xao xác hoa kim phượng, cánh vàng rải lăn tăn trên gạch đỏ màu son. Con đường rợp bóng sấu già, sau cơn mưa, lá sấu giập thơm mát như úp mặt vào trái dưa hấu mới bổ. Con đường ngày xưa phượng nở cháy trời, bây giờ không phải mùa hoa, chỉ có những trái già nâu sẫm đung đưa trong gió... Các chị bán hàng lưu niệm cho Tây "hênô" Phương Thảo, tụi trẻ tổ bán báo Xa Mẹ mấy lần mời mua postcard cảnh hồ Gươm lung linh cầu Thê Húc. Phương Thảo nghĩ mình phải đi may gấp áo bà ba lụa tơ tằm cho thiên hạ đỡ mất công xổ tiếng Tây. Cô thợ may vừa đo vòng ngực, vừa hỏi: "Chắc chị không phải người ở đây, hay là đi xa lâu lắm mới về?"

    Lỗi tại hoa sữa. Mà cũng tại ông khách đã buột miệng "...sao đẹp thế!". Nếu chẳng bao giờ nghe ông nói, có lẽ Phương Thảo cứ là cái Choắt. Sẽ vô nhiễm với hoa sữa. Sẽ đóng đô trong xóm nhỏ, yên tâm phấn khởi cùng đám các bà nội trợ chuyển từ bếp than sang bếp dầu, bếp điện và thỏa mãn khi mua được bếp ga. Sẽ tự tin giống con bé bán trứng vịt lộn nhà đối diện. Nó hân hoan khoe với Phương Thảo chiếc váy Siđa mới mua, ngắn đến ngang đùi. Mặc váy này vào, ngồi sau xe honda của chồng, con bé bán trứng sẽ cởi lốt thành mệnh phụ, à quên, thành đầm, đầm bây giờ mới môđen chứ mệnh phụ lỗi thời rồi. Chồng nó đạp xích lô lọng vàng, đậu ở cửa khách sạn ba sao kia kìa, nó sợ chồng nhìn đầm quen mắt về chê vợ nhà quê nên sắm váy mini bảo vệ hạnh phúc gia đình. Mới tâm sự hôm trước, hôm sau, Phương Thảo đi ăn sáng, ngạc nhiên thấy hàng trứng vịt lộn đóng im ỉm. Con bé bán trứng đội nón sùm sụp đi ngang cửa, vẫy tay chào: "Thằng khốn lạn ló bảo em mặc váy ngắn như con phò. Ló đánh em tím cả mặt. Em dọn về nhà mẹ đây. Bái bai chị." Tiếc cho thằng chồng không thức thời!

    Phương Thảo tự biết cái mác đi Tây về của mình không đủ làm con bé bán trứng thán phục. Tây gì mà chỉ thấy lóc cóc đi bộ hoặc xe ôm, chả bao giờ gọi taxi hay bước lên xích lô lọng vàng của chồng nó. Thần tượng của con bé bán trứng là bố mẹ thằng Cà Chô, chủ số đề kiêm buôn lậu bao cao su và ảnh cởi truồng của Trung Quốc tuồn qua biên giới. Mẹ Cà Chô sắm toàn hàng xịn trong shop thời trang, đeo vàng đỏ chói. Sáng sáng, cô ấy mặc áo lụa mỏng dính, xịt nước hoa thơm ngồi ở bàn chờ Ôsin* mua phở bưng về ăn điểm tâm. Buổi chiều hai vợ chồng quần áo thể thao trắng muốt, lái xe ôtô nhà đi đánh tennis, tối thì đi nhảy đầm. Con bé Ôsin nhà ấy chỉ mặc quần áo thải ra của bà chủ mà thành niềm mơ ước của tất cả đám Ôsin choai choai khác. Ôsin mặc quần bò thụng, hai ống xòe ra như cái nơm úp cá, đánh mông đi lại cực kỳ mãn nguyện.

    Mẹ Cà Chô vừa ngắm nghía chiếc nhẫn hồng ngọc mới mua, vừa ái ngại nghe Phương Thảo kể chuyện ở bên Tây làm gì có Ôsin, cái gì cũng tự làm. Cơm nước giặt giũ đã đành, đi làm xe đạp còng cọc đã đành mà đến việc nặng như sửa xe, cưa, bào, khoan, đục, sơn quét nhà cửa... đàn bà cũng phải cố học mà làm lấy. "Tây hóa ra khổ thế em nhỉ ", mẹ Cà Chô kết luận, lại đăm chiêu bộc bạch: "Nhưng mà thời nào ở đâu cũng có cái khổ của nó thôi. Có Ôsin thì nhàn thân, nhưng cũng đau cả đầu..." Một tối bố mẹ Cà Chô đi nhảy đầm về sớm, thấy nhà khóa cửa. Cà Chô bị nhốt trong nhà từ chiều, gói bim bim được hối lộ ăn hết từ lâu, đang khóc sụt sịt vì đói quá. Gần mười hai giờ đêm mới thấy Ôsin trang điểm lộng lẫy, mặc váy đầm của bà chủ đi chơi về. Hôm sau, mẹ Cà Chô đích thân áp tải Ôsin ra bến xe gửi trả về quê. Bẵng đi vài tháng, bố Cà Chô đi hát karaôkê ôm thì gặp lại Ôsin cũ, giờ là giọng ca vàng của quán, không còn tên là Na như hồi trước mà đổi thành Lan, "Nệ Nan". Mẹ Cà Chô nhắn nhe khắp nơi tìm người giúp việc, bây giờ chỉ muốn thuê bà già. Ôsin mới ngót nghét năm chục, mặt mũi ngờ nghệch thật thà, mỗi tội chả biết dạ thưa cho phải phép mà cứ hồn nhiên gọi mợ chủ là mày, xưng tao, ý chừng cho mình lớn tuổi hơn. Ôsin này quanh năm hái chè trên đồi Vĩnh Phú, thành ra cũng không biết gọi theo kiểu người đồng bằng. Khi cần gọi ai, Ôsin chỉ hú, nội lực hùng hậu từng được thử thách trên những đồi chè mênh mông, tiếng hú lan xa cả dãy phố, ai nghe cũng rờn rợn xương sống. Ôsin Vĩnh Phú lại không biết lau nhà, mấy chục năm ở nhà nền đất nện, giờ đi trên sàn đá hoa cương trơn bóng cứ trượt chân như làm xiếc. Nấu ăn thì kinh quá, cái gì cũng chỉ luộc và cho muối. Cả nhà Cà Chô nuốt không được, đành tự túc ăn đặc sản tháng, Ôsin lĩnh tiền ăn cơm bụi. Ngày ngày, Ôsin ngồi phệt ở thềm nhà, bắt chuyện với người qua lại, thì thào kể đêm qua ông bà chủ cãi nhau, duyên do rằng thì là ông chủ mua cái vợt chơi gì mờ đắt thế, những mấy triệu, nhà tôi ăn cả năm không hết chỗ tiền ấy, lại kể hái chè ở Vĩnh Phú ngày được hai nghìn tiền công, nắng xuyên qua lớp vải dầy xém lưng, ở đây cả ngày chả biết làm gì, chân tay bải hoải, ăn miếng cơm trắng mà cứ nhạt thếch, buồn nhớ nhà quá thể... Được hai tuần ăn cơm Hà Nội, Ôsin Vĩnh Phú đổi mới tư duy, từ bỏ cái quần vải đen mang từ dưới quê lên bị các bà bán rau chê là "âm lịch". Ôsin mặc quần hoa xin được, đứng vịn vào giàn karaôkê, chụp ảnh màu gửi về động viên tinh thần bố con nó dưới quê. Ông chồng Vĩnh Phú nhận ảnh, nhắn vợ về lập tức. Biết ngay là ra đất ăn chơi con người nó hư hỏng, năm chục tuổi đầu mà mặc quần hoa như thế là để đi đánh đĩ. Ôsin sợ chồng, ngậm ngùi từ chức, về lại bản quán hái chè.

    Phương Thảo tình cờ thấy ông giáo sư hàng xóm cũ. Ông đạp xe như nép vào lề đường, xe máy, ôtô rầm rầm qua lại, nhấn còi ầm ĩ. Một gã choai choai phóng Dream láng tay lái xẹt qua ông, ghé sát mặt quát: "Bố già đi sai đường rồi. Đường về Văn Điển ** đi hướng kia kìa." Ông giáo gầm lên tiếng gì không rõ, hầm hầm kéo xe lên vỉa hè. Giờ tan trường, những tà áo dài trắng thướt tha túa ra, đẹp hơn Phương Thảo của mười mấy năm về trước, nhưng ông giáo không nhìn nữa. Cánh tay ông, từng như gọng kìm ám ảnh Phương Thảo, giờ không còn đủ sức trừng trị gã trai mất dậy, run lên giận dữ, bất lực. Gã choai choai đã biến mất trong dòng người xe, quẳng lại cho ông luồng khói xăng khét lẹt và chuỗi cười khả ố. Không ai dừng lại, không một cái liếc mắt về phía ông già lạc lõng đứng ở vệ đường.

    Điện tín từ bên kia bờ đại dương nhắn về. Người bạn thân hôm qua uống cả vỉ thuốc ngủ. Đêm ấy chia tay, anh bảo tóc Phương Thảo sao lại có mùi hương hoa sữa. Lần này về Hà Nội đúng vào mùa cúc, nhớ ngắm luôn cả cho anh. Anh nói như thể hai đứa đã không hẹn nhau một ngày cùng lang thang trên các phố hàng. Hàng Lược, Hàng Bồ, Hàng Quạt, Hàng Gai, Hàng Đường, Hàng Bạc... Những gánh cúc vàng rưng rưng trôi nổi khắp các con phố cổ. Cô bán hoa vừa bán hàng, vừa hốt hoảng trông chừng công an đến phạt. Thành phố mới ra quyết định cấm bán hàng rong, cho nên những xe hoa trái cứ cuống cuồng rong ruổi. Năm bông cúc này cho em, năm bông này cho anh, hãy tỉnh lại mình cùng ngắm. Anh vẫn thích hoa này, bông cúc quý, tàn héo rồi mà cánh chẳng rụng rơi. Những cánh nhỏ bám chắc lấy đài. Như anh muốn giữ em, như em giữ mùi hương sữa. Ràng buộc nhau thế để làm gì? Tỉnh mà xem em cắm cúc trong bình gốm sẫm màu. Cánh vàng óng giữ nắng chiều ở lại. Rồi cũng sẽ tàn phai, cả hoa lẫn nắng. Anh vội làm gì?

    Vội làm gì đêm nay trăng lên. Những đám mây chẳng ra hình thù gì nối nhau lướt trên vòm hoa sữa ngậm hương, trôi mãi trôi về đâu. Thằng Cà Chô đang hát bài "Trái tim tù lù" ưa thích. Trăng vằng vặc soi lên vũng nước đái cụ Nhổn loang trên sân. Trăng trong nước đái cũng sáng như trăng trên trời... Ngày mai, Phương Thảo lại ra đi…

    Amsterdam, rằm tháng tư Nhâm Ngọ

    * Ôsin: sau một phim truyền hình nhiều tập của Nhật Bản kể về cuộc đời nhân vật chính Ôsin, là đầy tớ phấn đầu vươn lên thành bà chủ, từ "Ôsin" thành tiếng lóng gọi người giúp việc trong nhà.

    * * Văn Điển: tên một nghĩa địa lớn ở ngoại thành Hà Nội.

Gánh lá Cúc Tần

Ba con đường Mai Động - Lĩnh Nam gập ghềnh, lầy lội, chúng tôi về xã Vĩnh Tuy để tìm lại dấu ấn thời gian trên gương mặt những người nông dân vùng ven đô một thời tăm tối. Vĩnh Tuy bây giờ đang sống dậy với làng hoa mới thay cho làng ven đô xưa trũng ướt, với những người dân lam lũ, quanh năm bắt ốc, mò cua. Họ ở cách

Hồ Hoàn Kiếm

không xa, nhưng ngày ấy nếu có được giáp mặt với đô thành thì cũng chỉ làm cu-ly, kéo xe tay, buôn thúng, bán mẹt. Sang hơn cả là các cô gái tóc bỏ đuôi gà gánh lá cúc tần ra bán cho các quầy hoa làm vòng hoa tang. Lá cúc tần to bằng ba ngón tay ghép lại, màu xanh lá cây đậm, mọc trên thân cành mềm và dài, tươi rất lâu, được dùng để quấn vòng hoa tang. Vĩnh Tuy không có dấu vàng son của một làng cổ gần kinh kỳ, may còn lưu lại được mái đình, mái chùa cong để nhắc về làng xã. Dù giờ đây nhà nhà đang được xây dựng lại, nhưng vẫn còn những đám cỏ hoang, những bè rau muống dại ghi lại một thời nghèo đói, hoang sơ. Những lớp người hậu sinh chẳng dám trách ông cha nghèo, không để lại con đường làng lát gạch đỏ au, nhưng họ biết họ phải làm gì cho làng xóm hôm nay trở nên văn minh và mang đậm chất văn hoá, hồn người.

Ông Dương Văn Keng dẫn chúng tôi dạo quanh làng. Đường làng, ngõ xóm đang được bê tông hoá, dẫn thẳng đến các vườn hoa từng nhà. Đó đây, những bông hồng Đà Lạt còn sót lại sau vụ úng lụt lớn vừa qua, đang vẫy vùng trong bùn đất vươn mình dưới nắng thu. Nhìn những ông bà già, những chàng trai, cô gái miệt mài xới đất vun gốc cho những cây hoa, tôi hiểu người Vĩnh Tuy đang vật lộn với đất, với trời, đổi màu rực rỡ trên mảnh vườn nhà thay cho màu xanh lét của rau muống, xua đi cảm giác đói nghèo. Nhưng ký ức về cái đói, cái nghèo mãi mãi ám ảnh người Vĩnh Tuy. ông Keng hãi hùng nhớ lại thời dân Vĩnh Tuy cắt rau muống cả gốc mang đổi cho mậu dịch lấy gạo, mỳ, bo bo:

- Cái thời bán như cho, mua như ăn xin đã qua rồi. Ngày nay ai thèm ăn thứ rau muống trắng, su hào ngốc, rau cải nhạt của chúng tôi nữa, vì thế phải nghĩ cách trồng rau cao cấp. Bây giờ dân Hà Nội không chỉ ăn ngon, mà còn chơi hoa, cây cảnh, dân tôi sẽ đáp ứng nhu cầu đó bằng cách vừa trồng hoa, cây cảnh, vừa tạo ra cảnh quan làng hoa hấp dẫn thị trường.

Vừa trò chuyện, chúng tôi vừa xót xa trước những vườn hồng úa vàng ngập nước. Nhưng khi bước tới khu trại vườn của ông Dương Hùng thì cảm giác ấy qua nhanh. Đó là khu vườn rộng tám sào Bắc Bộ, có trên mười loại cây, hoa quý xanh tươi, e ấp chờ dâng hương sắc cho đời. Những bông hoa hồng, hoa súng, hoa phăng. . . những cây trắc bạch diệp, thông, bách tán, quất... như đang rì rào ca hát cảm ơn ông Hùng đã cứu chúng thoát khỏi những trận bão tháng bảy phũ phàng... Gặp ông Hùng, tôi bất ngờ bắt gặp một số phận thăng trầm, gắn liền với số phận đất nước hay số phận của làng Vĩnh Tuy. ở ông còn là một tâm hồn từng vượt lên giông bão cuộc đời để hoàn thiện nhân cách. ông đã lớn lên cùng với gánh lá cúc tần của Vĩnh Tuy ngày ấy. Giọng kể của ông nghẹn đầy nước mắt:

- Năm 1945 - nạn đói, tôi mới lên ba, nhưng tôi vẫn nhớ hai mẹ con tôi hành khất các ngõ phố Hà Nội và lấy quán hoa Bờ Hồ làm nơi ngủ lại. Hồi đó, bà Mắm, người làng Vĩnh Tuy, (mẹ nuôi tôn thường gánh lá cúc tần lên bán tại các quán hoa ấy. Bà kể lại: mẹ tôi cực kỳ nghèo khó vẫn toát lên dáng vẻ của người đàn bà con nhà giàu, có chút văn hoá, tóc bỏ đuôi gà, mặc yếm đào, răng trắng. Còn tôi gầy còm, bé nhỏ nhưng vận bộ py-gia-ma. Những ngày cuối cùng, mẹ tôi bị phù nặng, mặt phù, chân tay mọng nước. Bà kêu cứu: "Tôi yếu lắm rồi, có ai thương xót cứu cháu giùm tôi với". Không ai dám nhận tôi, vì ai ai cũng sắp chết đói. Mấy ngày sau, bà Mắm nhận tôi. Bà dặn mẹ tôi: "Tôi vẫn để tên cháu Hùng. (Họ Dương là họ của bố nuôi tôi). Tôi ở Vĩnh Tuy. Nếu khoẻ thì về tìm cháu. Bà Mắm biếu mẹ tôi toàn bộ số tiền bán gánh lá cúc tần hôm đó. Bà mời hai mẹ con tôi ăn chè ở quán Bờ Hồ, nhưng mẹ tôi ăn không hết bát chè. Tôi về nhà bà Mắm. ông bà không có con, nhưng phải nuôi ba người em, thành a năm, sáu miệng ăn. Đói khát, vất vả, bố mẹ nuôi tôi lục đục cãi nhau, có lúc mẹ nuôi phải đưa tôi đi ở với bạn ở Ngọc Hà. . . Sau không hiểu vì cờ bạc hay ốm đau, ông cụ bán nhà, hai mẹ con tôi phải đi ở nhờ. Đêm đêm hai mẹ con ôm nhau ngủ đắp chung chiếc khố tải, nhưng đó là những năm tháng hạnh phúc nhất của đời tôi. ông cụ mất. Bà cụ ở lại nuôi tôi năm năm rồi đi lấy chồng. Lúc đó tôi mười ba tuổi, đi học trường làng. Tôi đã hiểu tình cảm bị ngược đãi của đứa trẻ cầu bơ, cầu bất, không cha không mẹ. Tôi xin ở riêng. Mẹ nuôi cho tôi mảnh đất một sào rưỡi góp vào hợp tác xã. Tôi ngày ngày vừa đi học vừa đi làm ruộng, tối ngủ nhờ nhà cô bác. Có hôm chỉ ăn ngô rang, nhưng tôi vẫn đến lớp. Tôi kiếm sống từng bữa, bằng cách gánh lá cúc tần đi bán. Đêm đêm tôi cắt lá, sáng gánh tới cổng trường, học xong, trưa gánh lá lên quầy Bờ Hồ bán. Mỗi lần đến đó, tôi như nhìn thấy mẹ giơ tay vẫy gọi tôi, nhưng tôi chới với, không thể nào sà vào lòng mẹ được. Tôi chỉ nghe tiếng mẹ thoảng trong gió hồ xan xác. "Cố học lên con nhé. Học để sau này đời con hết khổ". Cứ thế tôi tốt nghiệp cấp ba vào loại khá, nhưng tôi mê nhất môn sinh vật Tôi vừa học vừa cấy lúa trồng hoa. Đi bộ đội, tôi được học kỹ sư sửa chữa tên lửa, nhưng tôi vẫn ngẩn ngơ thương nhớ về đồng quê, nhớ về bà mẹ nuôi với gánh cúc tần, nhớ những gánh cúc tần đẫm nước mắt tôi khóc mẹ . . . Những năm Hà Nội đánh B52, tôi được ở trong đoàn không quân giữ bầu trời Hà Nội. Đêm nào không có máy bay địch, tôi thường nhìn lên bầu trời yên tĩnh đầy sao, tôi muốn tìm linh hồn mẹ tôi. Mẹ là ngôi sao nào trong vô vàn vì sao lấp lánh kia? Có thể hình hài mẹ, tôi không còn nhớ nữa, nhưng ở trên cõi xa mờ kia, linh hồn mẹ vẫn ấp ủ, chở che cho tôi. Và đêm đêm, mẹ vẫn về đất Vĩnh Tuy tìm tôi. Vì thế tôi yêu mảnh đất này như chính đất mẹ đã sinh ra tôi Rời quân ngũ, tôi về với đồng đất Vĩnh Tuy cùng vợ con xây mái ấm và tôi còn muốn làm cái gì đó góp sức mọn của mình cho làng xã. Cả đời tôi đã sống trong cơ cực, bần hàn, nhờ tự lập, tự tin, tự trọng mà tôi nên người. Nhưng tôi không mơ làm giàu theo kiểu ích kỷ. Tôi mơ làm cho đất nở hoa, cây đơm trái, cho dân làng bớt nghèo khổ. Sau mấy cuộc chiến tranh, tôi hiểu con người sinh ra được sống trên đời là quý. Nhưng quý hơn là sống có ích. Tôi sống thiếu tình mẹ cha từ nhỏ cho nên khao khát tình cảm. Quá nửa cuộc đời rồi tôi bơ vơ đi tìm mẹ. Tôi buồn tủi vì không hình dung nổi gương mặt của mẹ tôi. Có lẽ mẹ tôi có đôi mắt buồn thăm thẳm và giọng nói, nụ cười đầy nước mắt. Tôi đành lấy ngày rằm tháng bảy là ngày cúng giỗ mẹ tôi cùng với những linh hồn oan khuất bơ vơ.

Nhìn những giọt nước mắt lã chã tuôn rơi trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông đã ngoài năm mươi tuổi khóc mẹ, tôi thật sự bối rối. Tôi biết, chẳng gì có thể chia sẻ được nỗi đau mất mẹ với ông Hùng. Và hãy cứ để cho những giọt nước mắt nhớ thương mẹ tuôn rơi. Những giọt nước mắt vừa cay vừa mặn ấy sẽ nhắc nhở những người con về tình người. Chính ông Hùng đã lớn lên, hoàn thiện nhân cách, trở thành người có ích nhờ những giọt nước mắt khóc mẹ thấm trên những gánh lá cúc tần ngày ấy. Gần nửa thế kỷ qua, làng Vĩnh Tuy đã thay da đổi sắc, bởi có những người con như ông Hùng. Họ không khuất phục đói nghèo, giặc giã và biết yêu thương. Tình yêu thương ấy bắt nguồn từ những giọt nước mắt khóc thương người mẹ của mình.

Tam sao thất bản” về chuyện PGS Cương nuôi lợn

Năm 1971, sau khi học ở Liên Xô về, mặc dù là phó tiến sỹ nhưng lương của ông chẳng đủ ăn. Ông nhớ lại: “Hồi đó còn khó khăn lắm, cũng vì thế mà bà vợ ở nhà đã nuôi lợn rồi. Tôi cũng chỉ giúp bà ấy đi vớt bèo về cho lợn”. Hai ông bà cùng vợ quây mảnh sân nhà làm chuồng nuôi lợn. Kể đến đây, ông chợt thanh minh: “Đúng là tam sao thất bản. Chuyện tôi nuôi lợn là có thật nhưng không phải là nuôi tận trên tầng 4 như nhiều người vẫn đồn, nhà tôi đâu có tới 4 tầng, mà tôi nuôi ở tầng 1”. Nói rồi ông lại mỉm cười, rung rung chòm râu bạc.

Ông cũng có bí quyết nuôi lợn hết sức độc đáo khiến nhiều người phải học tập. Sẵn có hộp sữa bột được phân theo tiêu chuẩn, mỗi bận cho lợn ăn, ông lại hòa thêm một chén sữa hoặc có khi thêm chén nước mắm cho đậm đà. Thế nên, lợn nhà PGS Văn Như Cương cứ lớn nhanh như thổi.

Ngày đó có người quen hàng tháng vẫn cho gia đình ông một cái phiếu mua cám. Ông chỉ dành một nửa số cám để nuôi lợn còn một nửa lại đem đi bán để kiếm tiền.

Vì vậy ngoài lợn, nhà ông cũng nuôi được mấy chú chó con. Một hôm có một bà ở khu Cầu Giấy vào nhà ông hỏi mua chó về nuôi. Ông nghĩ bụng bán đi cũng chẳng có giá nên đã biếu bà mua chó mà không lấy tiền. Ngờ đâu, bà ấy lại là nhân viên bán rau mậu dịch nên ngày nào cũng dành cho gia đình ông một mớ rau ngon và dài nhất. Bà bán rau còn dặn thêm: “Khi nào thầy thiếu rau thì cứ qua chỗ em lấy rau về mà ăn”. Vậy mà với mớ rau muống “khổng lồ”, ông đã khéo léo chế biến chẳng bỏ phí chút nào. Phần cuộng dài và cứng ông băm ra cho lợn, đỡ được tiền mua cám, còn phần ngọn ông thì cả gia đình ăn.

Cũng nhờ có những người bạn tốt bụng, mỗi tháng, trừ các loại chi phí rau cám, chú lợn của ông cũng đem lại cho chủ 70 đồng, bằng đúng một suất lương của ông. Ông hay nói đùa: “Không phải Văn Như Cương nuôi lợn mà là lợn nuôi Văn Như Cương”. Bạn bè đến chơi, ông cũng cười rồi đùa rằng: “Nhà có hai phó tiến sỹ đấy, một tôi, một lợn”. Nhưng rồi lợn cũng chỉ nuôi được 2 - 3 lứa là phó tiến sỹ hết tiền mua thức ăn, đành phải bán sớm. Lại có người đến chơi hỏi sao ông cho nó “bảo vệ” sớm thế, lần này ông cười, vẫn rất hài hước: “Hết đề tài (rau cám) nên tôi cho nó “bảo vệ” sớm chứ sao”!

Ngày đó, câu chuyện về phó tiến sỹ Văn Như Cương nuôi lợn đã được lan truyền khắp các nơi và trở thành giai thoại. Nói đến đây, ông chợt xua tay đính chính: “Tôi vốn là người hài hước nên muốn nhìn sự việc theo một cách gì đó dí dỏm. Thế rồi trong những lần ngồi chơi cùng bạn bè tôi đã kể câu chuyện, có anh phó tiến sỹ nọ nuôi lợn trên tầng và bị đoàn vào lập biên bản. Anh ta có nói: “Các ông không được viết là tôi nuôi lợn mà phải là lợn nuôi tôi thì tôi mới ký”. Ông cười rồi bảo: “Đấy là một nhân vật trong câu chuyện vui của tôi chứ không phải là tôi. Vì tôi cũng chưa bao giờ bị lập biên bản với cái tội đó đâu”.

Câu chuyện mang tính gây cười, nhưng ông bảo dẫu sao để nhớ lại một thời đáng… nhớ. Cái thời mà đến bữa cơm chỉ thấy toàn hạt bo bo và canh rau muống, khiến ta phải ao ước “nay ở trong cơm nên có… gạo” hoặc “nay ở trong canh nên có…thịt”. Trong những lúc khó khăn, tiếng cười có tác dụng giải tỏa ưu phiền…

Ngày đó, cuộc sống còn khó khăn, gia đình ông thường phải lấy phiếu thịt để đổi được 2 suất mỡ. Lâu lâu vào dịp cuối tuần hay khi có khách quý tới chơi nhà, ông mới phá lệ để mua ít thịt, thậm chí là mua ít thịt thủ và xương.

Ông kể câu chuyện của người bạn thân của ông nghe còn đáng buồn cười hơn cả câu chuyện nuôi lợn ông vừa kể. Chuyện là ông có một người bạn đi sang làm chuyên gia ở châu Phi. Mỗi tháng người này gửi về cho gia đình 100USD còn bên kia ông ấy cũng ăn uống tằn tiện, tích góp để mua chiếc xe máy cũ rồi bán đi bỏ hết số tiền dành dụm vào ngân hàng. Mấy năm sau, sau một đợt đổi tiền, đồng tiền bỗng trở nên mất giá. Vậy là ông bạn của PGS Văn Như Cương cũng không buồn rút tiền từ ngân hàng ra nữa.

Lại có chuyện khác của một phụ huynh lên Hà Nội chơi với con có tâm sự với thầy Văn Như Cương như sau: “Trước đây tôi đã bán cả đàn bò để lấy tiền cho cháu nó học đại học. Nhà tôi nghèo nhưng không thể để thiếu cái chữ được. Nhưng bây giờ số tiền đó hiện chỉ còn mua được mấy cân thịt bò”.

"Bài ca sư phạm không đành bỏ"

Khi tôi đề đạt nội dung câu chuyện cần trao đổi, nhà giáo Văn Như Cương như khơi được đúng nguồn. Ông nói như chẳng biết mệt. Ông bảo: “Tôi nghĩ nếu anh Châu (GS Ngô Bảo Châu) mà ở Việt Nam thì chưa chắc ngày hôm nay đã giành được giải thưởng Fields. Làm khoa học hết sức khó khăn nên phải rất tâm huyết. Nếu mà chưa giải quyết được nó sẽ mãi lơ lửng trong đầu không thể làm được việc khác. Anh Châu đã may mắn vì đã gặp được một người thầy xuất sắc và có một đội ngũ các nhà khoa học tài năng bên cạnh”.

Nói về sự đầu tư cho giáo dục và khoa học hiện nay, bản thân ông cũng hơi buồn lòng. Với đồng lương ít ỏi khoảng 2 triệu đồng một tháng của một giáo viên trẻ mới ra trường thì chưa đủ sống nếu phải gánh trên vai các nỗi lo về tiền thuê nhà, tiền ăn, tiền xăng xe, tiền mừng bạn bè cưới hỏi… Ông vẫn thường trêu các giáo viên trẻ trong trường, muốn sống được với đồng lương ít ỏi đó thì nhất thiết phải cắt giảm hết mọi thứ đến tối đa, không đi xe máy, không được hút thuốc, cũng chẳng được tụ tập bạn bè…

Ở trường Lương Thế Vinh nơi ông làm hiệu trưởng luôn thực hiện ba không: không họp hành, không bầu bán, không khen thưởng. Với ông, chất lượng giáo dục mới là niềm quan tâm hàng đầu. Ông kể mỗi khi mùa tuyển sinh đến ông lại phải “trốn” lên Tam Đảo hay phải đi du lịch nước ngoài để tránh những cuộc điện thoại xin nhờ vả. Mỗi khi mùa tuyển sinh đến, nhiệm vụ tuyển sinh lại được giao cho những người ông hoàn toàn tin tưởng để đảm bảo rằng mọi học sinh vào học tại trường đều xứng đáng.

Trong quãng thời gian làm hiệu trưởng của mình, ông cũng không thể nhớ được ông đã phải từ chối biết bao những phong bì các bậc phụ huynh mang đến. Nhiều khi số tiền đặt trong phong bì lên tới hàng nghìn đô la.

Tuy vậy, vẫn có những trường hợp đặc biệt. Ông tâm sự: “Cứng nhắc quá cũng không được. Nhưng phải có lý có tình và phải được giáo viên và phụ huynh học sinh đồng tình."

Tôi vẫn còn nhớ khi ông ra tận cửa đón tôi vào cũng là có một phóng viên chuẩn bị kết thúc buổi phỏng vấn của mình. Cô phóng viên đó có hỏi với đại ý, thầy định bao giờ thì nghỉ. Ông vuốt nhẹ chòm râu trắng muốt nhẹ nhàng nói: Tôi đã nghỉ hưu lâu rồi, nhưng vẫn nuối tiếc cái nghề mình đã gắn bó bao nhiêu năm. Còn sức khỏe là tôi còn theo. Rồi ông đọc thơ: “Ta phải về thôi, tuổi xế chiều / Dẫu còn dan díu chút tình yêu / Bài ca sư phạm không đành bỏ / Sự nghiệp trồng người vẫn cố theo…”

NGÀY ẤY...

Ngày ấy, muốn đến ĐHSPHN1 có thể chen lấn trên xe buýt hoặc đi tàu điện từ Cửa

Nam

đến Cầu Giấy, chỗ cổng trường Giao thông rồi đi bộ hơn 2km nữa. Đoạn đường ấy còn hoang vắng, gió từ phía chùa Hà thổi hun hút qua cánh đồng nước. Tối đi xem phim ở bãi Cầu Giấy phải rủ được các bạn nam đi và đợi nhau về cùng. Mỗi lần đi qua bưu điện Cầu Giấy lại tức mắt vì chữ "điện", dấu nặng lại bỏ vào chữ i - "địên". Bọn tôi hay được ra Chùa Hà tập quân sự, tuy phải đi xa nhưng thích lắm. Xung quanh chùa còn là vườn ruộng, gò bãi, um tùm cây bạc hà trồng để chưng cất tinh dầu. Bọn tôi tập chiến thuật, lăn lê bò toài, ẩn trốn trong vòm lá xanh và thơm ngát. Dưới gốc bạc hà là cỏ gà, cỏ mật. Lúc giải lao, bọn tỉnh lẻ chúng tôi chỉ cho các bạn Hà Nội - tỉnh chẵn - chơi chọi gà, tìm nhổ cỏ mật giắt lên đầu, hương thơm ngọt ngào đến ngỡ ngàng...

Con đường trục ở cổng chính rất rộng, hai bên là hàng phượng, dãy C là khu ký túc ở bên trái, D là dãy phòng học ở bên phải, cả hai đều lợp nứa. Mùa xuân, từ trên mái thỉnh thoảng lại rơi độp xuống những con sâu róm lông lá đen ngòm, bò quằn quại trên bàn ghế, sách vở và cả đầu tóc quần áo... Đi vào trong, ta sẽ gặp cái gọi là "hội trường nhà lá" - tên chính thức của hội trường lớn nhất.

v:shapes="_x0000_i1031">

. Đúng như tên gọi, hội trường lợp lá gồi, mỗi lần hội diễn văn nghệ lại thêm tơi tả vì bà con chen lấn trèo lên cả xà nhà. Mãi đến khi bọn tôi học năm thứ tư mới có cái hội trường mới, cũng tệ không kém, lợp tôn, gọi là hội trường nhà kho

.

Xung quanh trường là cánh đồng lúa, là ruộng trồng rau cải xoong trải dài đến tận con đường đi Chèm, bây giờ hình như là đường Nguyễn Phong Sắc. Con đường chạy qua nhà cũ của Aficio trước kia mới chỉ có đoạn từ sau nhà A7 chạy ra đường lớn, nhỏ và chỉ đầy cỏ dại, buổi tối là con đường hò hẹn của khoa Văn nhưng đầy hiểm nguy vì vắng ngắt và tối thui. Cánh đồng ấy là nơi bọn tôi đứng ở hành lang nhìn ra để nhớ nhà. Là nơi tôi theo Hảo đi "xét cá rô" một buổi sáng sớm sau trận mưa đêm thật lớn. Cả hai đứa ướt nhẹp mà không dám nói cho cả phòng biết là đi đâu vì chỉ được một con cá mù bé tí hin.

v:shapes="_x0000_i1033">

Khi kết thúc năm học, trước khi về nghỉ hè, bọn tôi liên hoan bằng một bữa bún riêu cua. Tôi theo Dung, Thuấn, Hạt đi ra đồng bắt cua. Bọn nó bắt giỏi cực, tôi chỉ xách xô đi trên bờ. Ngọc, Hoa mang chày cối vào kỳ cạch giã. Bao nhiêu giấy nháp được huy động... Cả bọn xì xụp thật vui.

Ngày ấy, thầy Văn Như Cương (hiệu trưởng trường dân lập Lương Thế Vinh bây giờ) còn đi xe đạp, đội nón lá đi mua rau muống mậu dịch "cho ngày nay, cho ngày mai, cho ba ngày hôm sau", thầy Ngô Thúc Lanh - cây đại thụ của đại số cao cấp - cùng chen xe buýt với sinh viên vào trường dạy, thầy Tắc lên lớp suốt mùa chỉ có một cái áo vét sờn cũ, cô Hoàng Xuân Sính - niềm ngưỡng mộ của chúng tôi - thấy thật vất vả. Thầy Dũng, chủ nhiệm lớp năm thứ 2, một hình mẫu lãng tử : trẻ đẹp, cao ráo, thông minh, hào hoa, kiêu kỳ... làm cho bao nữ sinh viên mê mẩn, điển hình là Hà Bắc, mê thầy đến hoang tưởng. Một hôm có cơn bão thật lớn, mưa gió dữ dội, cây cối đổ ngổn ngang, dãy nhà lá tốc mái tứ tung, trung đội tự vệ cơ động Toán 3B được điều động đi giúp chống bão. Tình cờ lại giúp đúng dãy nhà của thày mình. Khi gió lớn làm bay tung áo mưa, thày mình ngượng ngùng trong trang phục quần tà lỏn, áo may ô ướt nhẹp ngồi vắt vẻo trên mái nhà ... Thấy mất hình tượng luôn

v:shapes="_x0000_i1035">

!

Ngày ấy, da trắng hồng và mắt sáng long lanh, tóc mượt đen tết bím gập đôi thả dài trước ngực ... tự mình soi gương còn thích ngắm lâu

v:shapes="_x0000_i1036">

. Cái gương mỏ neo mà phòng nam tặng phòng nữ nhân ngày 8/3 năm thứ nhất soi rất nịnh mặt

. Sau khi ra trường cả phòng nhất trí tặng lại nó cho chị Thủy, trưởng phòng, yêu anh Hòa lớp trưởng với lời nhắn gửi : nó đã in mặt bọn em trong suốt 4 năm trời

. Nghe nói con trai họ bây giờ học cực giỏi

Ngày ấy có một câu mà ai cũng biết “ăn như sư, ở như phạm”. Năm thứ nhất, bọn tôi ở dãy nhà lá, tối tăm và ấm thấp. Đằng sau còn trồng được rau muống để cải thiện nhưng toàn bị cắt trộm. Năm sau được chuyển lên cùng cả khoa ở A6, hai lớp AB chung một phòng, sinh hoạt nhiều bất tiện. Rồi anh Trưởng bố trí cho hai lớp ăn trộm bương ở kho nhà trường : lợi dụng lúc kho mở để xuất cho nơi nào đó, nữ hai lớp từ từ vào, cứ hai đứa một cây chuyển đi. Không được vào cùng một lúc, không được vội vã! Bọn tôi đi mà chân run bắn, sợ mà không được chạy. Khi họ phát hiện ra ngăn lại thì chẳng biết bọn tôi đã mang số kia đi đâu rồi. Bương chẻ ra dựng khung, mua bìa về dán, thực ra thì chỉ là hình thức, nhưng thế mỗi lớp cũng tiện lắm rồi.

Tôi chưa từng thấy lớp nào ham học và học hành nghiêm túc như cái lớp tôi hồi ấy. Đi chơi một buổi tối hay ngày nghỉ cũng tiếc một buổi tự học. Khi mới nhập trường đã choáng vì phần lớn các bạn đều học chuyên Toán các tỉnh, thành tích về học tập, nhất là về Toán thật rực rỡ, có bạn đã từng trong đội tuyển quốc gia thi Toán quốc tế (Vũ Hoài An). Còn tôi thì dân học Văn chuyển ngành! Học kỳ I năm thứ nhất đối với tôi thật vất vả. Học ngày đêm vì những kiến thức các bạn tiếp thu rất dễ dàng, tôi phải mất công nghiền ngẫm. Thi học kỳ I, làm xong môn giải tích, về phòng tôi nằm lăn ra khóc vì nghĩ mình không làm bài được. Đến khi công bố kết quả thi trước cả khối, khi đọc điểm của tôi xong, thầy giáo vụ dừng lại : “cô này cô ấy cố một chút nữa thì đạt sinh viên ưu tú”

vì điểm thi của tôi cao nhất khối.

v:shapes="_x0000_i1038">

Cái môn mà tôi khóc cũng được 7 điểm. Sau này tôi không làm được bài thật chúng nó cũng chẳng thèm an ủi, vì “mặc kệ nó, nó khóc nó cũng được 7 điểm”. Nhưng tự tôi tôi biết, tôi chẳng giỏi bằng các bạn, mặc dù tôi cũng có vài năm là sinh viên tiên tiến. Tôi đạt được cái gì thì công sức bỏ ra nhiều lắm. Một bài học mà sau này khi đi dạy toán rồi tôi lại càng thấm thía : mình hãy làm cái gì mà mình có năng khiếu và yêu thích. Khi đó mình mới có thể tự tin và dễ dàng khẳng định được mình. Giá như... giá như cuộc đời đừng phải nghĩ đến hai từ giá như... Và tốt nhất là cố không nghĩ đến...

Năm qua đi, tháng qua đi...

Chuyện của 4 năm học, gần 1400 ngày, biết bao buồn vui...

Tôi sẽ ghi lại dần dần, ghi lại cho tôi thôi, kẻo vài năm nữa lẫn, chẳng còn nhớ gì đến một thời để nhớ...

Rau Cresson, báo Yomiuri và ng

ườ

i thu ti

n báo

.

Rau cresson, tên Vi

i là xà-lách son hay rau c

i xoong,

bên nhà mình thì r

u và m

t bó thư

ng to như rau mu

ng. Mua v

tha h

xào, n

u, nhúng l

u, tr

n d

u olive làm salad… c

i là c

nhà tho

i mái cùng ăn xanh ru

t. V

y mà không hi

u sao

cái x

này rau cresson l

i như là m

t lo

i rau quý và vì th

ế

nó khá đ

t khi c

n làm nh

ng món “dân dã mà xa x

” theo ki

u Vi

t Nam.

M

t bó rau cresson

đây

thư

ng ch

đ

8-10 c

ng, m

i c

ng dài ch

ng 15cm, có khi dài x

p x

1 gang tay mà giá bán lúc r

cũng ph

i 120 yên/bó, lúc đ

t thì 200 yên/bó. Th

ế

nên m

i khi mu

n xào thì ph

i mua 5-6 bó v

, xào v

i 200g th

t bò mà s

p lên đĩa rau ch

ng th

y rau đâu toàn th

y th

t. Nhà ch

có hai ngư

i, ch

p v

p, mi

ng l

p “

ch

p ch

p… hôm nay nhà mình zeitaku quá!

” b

i vì th

t bò xào rau ch

không ph

i rau xào th

t bò. Th

ế

là “zê” quá còn gì!

class=wp-smiley v:shapes="_x0000_i1039">

Ngư

i Nh

t, dù là nhà hàng, cũng ch

dùng cresson v

đ

trang đi

m bày bi

n trên đĩa th

c ăn cho đ

p ho

c đ

n loáng thoáng trong đĩa salad, cho vào món soup rau ki

u Tây hay vài món khác cho có v

ch

ai làm c

t lúc v

xào chén vèo cái h

ế

t c

đĩa như ngư

i Vi

t mình. N

ế

u th

ế

là “ăn sang”

đây thì m

y b

a nay mình toàn “ăn sang” và tình hình là c

tu

n v

ế

c “ăn sang” như th

ế

i các ngăn đ

ng rau trong 2 cái t

l

nh nhà mình đ

y

toàn rau cresson. Cơ mà cái s

ăn sang “zeitaku” b

ng rau cresson thì liên quan gì t

i ngư

i thu ti

n báo?

Nhà mình ký h

p đ

ng đ

t báo Yomiuri, hàng ngày c

m 4 rư

i 5h sáng là báo bu

i sáng đã đư

c phát t

n c

a nhà. Tr

i mưa thì c

p báo và t

p qu

ng cáo dày c

đư

c b

c trong túi nylon cho kh

i ư

t. Quanh năm, th

ế

t dù có mưa bão hay tuy

ế

t giá c

nào thì c

đúng gi

đó là có báo

c

a, hi

ế

m khi tr

. M

i năm gia h

n h

p đ

ng đ

t báo m

t l

n và th

ế

là c

năm không m

n mua xà bông máy gi

i các hãng báo, do c

nh tranh, thư

ng khách hàng m

t lư

ng xà bông đ

t qu

n áo trong c

năm (tính cho m

i tháng 1 h

p). Chưa k

th

nh tho

ng h

l

ng nh

ng th

l

t v

t khác như lúc thì đôi vé xem phim, xem xi

ế

c, lúc thì vài b

ch túi nylon b

rác

đây mu

rác ph

i mua túi đàng hoàng m

i đư

c v

t rác)

, lúc thì m

y chai nư

c r

a bát chén, không thì m

y b

ch khăn lau

(lau gì cũng đư

c tr

dùng lau ngư

hay khăn m

t in hình qu

ng cáo các đ

i bóng chày n

ế

ng v.v… Báo cũ đ

c xong thì x

ế

p vào cái túi gi

y c

a hãng báo cung c

p, đ

ế

n ngày quy đ

nh s

có xe đi thu l

i đ

tái ch

ế

và c

ch túi báo cũ s

đ

i đư

c 1 cu

y toilet. Th

ế

cũng t

t vì n

ế

u hãng không đi thu báo cũ thì ch

còn nư

c kéo v

o xương đi v

t rác b

đây không th

ki

ế

m bà đ

ng nát nào d

v

a hè đ

i vào x

lý th

công như bên nhà. Công đo

n đ

i báo cũ l

y gi

y toilet thì cũng không ph

i là c

nhà nhà x

ế

p hàng ra ch

 “báo trao, gi

y múc”

mà các nhà c

gom các túi báo vào khu t

p trung, r

i ghi tên và s

nhà mình lên t

y in s

n mà hãng báo phát t

trư

c đ

ngư

i đi thu bi

ế

t nhà nào có m

y b

ch báo cũ s

x

ế

đ

các cu

y toilet vào đó. R

i các nhà c

đi h

c đi làm c

ngày, chi

u t

i v

ghé l

y gi

y. Bao nhiêu b

ch báo thì b

y nhiêu cu

y, dù không có ai trông coi và cũng không có t

khóa nhưng có đ

qua đêm t

i vài ngày sau cũng ch

ng ai l

y l

n c

a ai. Hãng thu báo cũ cũng ch

ng đưa thi

ế

u gi

y toilet c

a nhà ai bao gi

. Đ

t báo th

t là ti

n l

i nhi

u đư

ng, không ch

ích v

thông tin ki

ế

n th

c mà có còn l

i c

vi

c khác, t

trên xu

ng dư

class=wp-smiley v:shapes="_x0000_i1040">

V

i cách d

ch v

n tình chu đáo như th

ế

, th

h

i khách hàng nào mà n

lòng c

báo mình đang đ

t cho đư

c. Chí ít n

ế

u có nh

t đ

nh mu

n đ

i sang đ

báo khác cũng còn ph

i nghĩ cái lý do h

p lý nh

t đ

kh

i làm r

u lòng ngư

i c

a hãng báo mà mình g

i tháng khi h

i nhà thu ti

n. Ngư

i thu ti

n báo

khu v

c nhà mình g

đâu h

cũng chào h

i tươi cư

và th

t l

là h

đi thu bi

ế

t bao nhiêu nhà nhưng r

t nh

ch

nhà nào

khu v

c nào. H

không l

nh lùng, không ăn nói tr

ng không, không hách d

ch đe d

a như nhi

u nhân viên thu ti

n đi

n, nư

c, đi

n tho

bên nhà mình (đôi khi làm th

ế

) mà ngư

c l

i h

t l

phép, nhã nh

n. Không ph

i vì h

mình không tr

n báo đúng h

n mà cơ b

n là h

quan ni

m v

d

ch v

theo đúng nghĩa c

a d

ch v

, khách hàng là đ

i tư

ng đ

ph

c v

. N

ế

u không ph

c v

đàng hoàng, khách đ

t báo khác, th

ế

là m

t khách.

Trư

c đây, ngư

i thu ti

n báo khu v

c nhà mình toàn là nam gi

i, nhưng d

n đây l

i là m

t ch

ph

. Tác phong ch

t nhanh nh

n, tính toán chính xác, ch

ng bao gi

ph

i dùng t

i máy tính khi c

l

n th

a. Ngoài vài phút g

p ch

i tháng đ

n báo thì hi

ế

m khi mình chuy

n trò lâu v

i ch

. V

y mà có l

i thu ti

n, ch

còn mang cho m

t túi khá nhi

u đ

u que

 (lo

đ

u ingen

 này

Nh

t bán cũng không r

như rau thư

. Mình ng

i quá và xin tr

n nhưng ch

nh

t đ

nh không l

y, c

nói là “

c

a nhà tr

ng đư

c

“, mà nhà ch

quê th

t, ch

o đem cho thôi. Mình đã nghĩ b

ng có d

ng l

i ch

th

gì đó mà r

i chưa k

p làm thì it ngày sau, ch

l

i mang t

t túi rau cresson b

ng kho

ng 5-6 bó mua ngoài siêu th

. Ng

i quá mà t

ch

i mãi không đư

c và có l

đây là l

n đ

u tiên mình m

i nói chuy

n v

i ch

lâu m

t chút. Khi đó ch

i h

i mình là ngư

i nư

c nào vì trong câu chuy

n mình nói r

t thích rau cresson và

c mình rau cresson không bó bé xíu như

Nh

t. Ch

ra v

, mình đã nghĩ nh

t đ

nh ph

i chu

món quà t

ng l

i ch

khi tháng sau ch

i thu ti

n báo. V

y mà ch

cách vài hôm ch

l

i, không ph

i đ

thu ti

n báo mà lôi ra m

t túi rau cresson to g

p 2 l

a trư

c đ

cho, làm mình ái ng

i quá vì v

n chưa k

p có món quà gì. Mình đâu nghĩ ch

l

i đ

t như v

y.

Ch

o th

y mình thích rau cresson nên ch

l

i mang cho,

quê nhà ch

君津

-Kimitsu) tr

ng đư

c nhi

u, nư

c r

ch nên c

yên tâm mà ăn. Mình nh

t đ

nh đòi tr

n còn ch

thì nh

t quy

ế

t không nh

n. Mình đành nh

n rau và d

m ý: “

N

ế

u nhà ch

ng đư

c nhi

u thì hàng tháng tôi có th

đ

t mua đư

c không?

” (vì th

ng là mình cũng mu

n mua ăn, ch

ai mà nh

n không, ng

i ch

ế

t). Ch

tròn m

c nhiên “

Không, tôi không bán đâu, tôi mang cho cô thôi và r

t vui vì có ngư

i thích ăn. M

i c

mùa này nư

c l

nh bu

t l

m, không ph

i lúc nào cũng l

i xu

ng hái đư

c nên tôi không bán. Ngư

i Nh

t không ph

i ai cũng thích v

rau này vì h

cho là cay là hăng, th

y cô thích ăn nên tôi hái mang cho cô, cô đ

“. Đành xuýt xoa c

m ơn t

m lòng c

a ch

và b

a t

i hôm đó, l

n đ

u tiên k

khi s

Nh

t, nhà mình ăn “siêu sang” v

l

n rau cresson xào không khác gì

Vi

t Nam. Có

đây m

i hi

u cái s

ăn rau này còn đ

t hơn ăn th

t cá và m

ế

t cái r

to rau cresson kia nó quý như th

ế

nào. Rút kinh nghi

nh

đâu ch

l

l

i và mang rau t

a nên mình đã chu

n món quà là nư

c táo ép, th

c táo đ

c s

ế

vùng chuyên tr

ng táo Aomori c

a Nh

t.

Nghĩ cũng bu

n cư

i, trư

c nay chưa bao gi

mình đ

ý ngày thu ti

n báo là ngày nào trong tháng, c

th

y h

m chuông thì ra tr

n thôi. Gi

thì l

i c

mong ch

thu ti

n báo t

i đ

còn đáp l

món quà cây nhà lá vư

n c

a ch

. Và cách đây 3 hôm ch

đã t

i, tr

n báo xong mình còn đ

ng nói chuy

n c

m ơn ch

v

món rau cresson hôm trư

c. Ch

cũng t

ch

i mãi món quà nh

c

a mình nhưng t

t nhiên là đ

i nào mình đ

ch

ch

i đư

c. Ch

ra v

, mình cũng c

m th

y vui. Nhà có hai tên, m

t tên đang đi công tác,

nhà m

t mình ta c

a đóng then cài cho ch

c. Là lá la… vào b

ế

p làm món gì ăn t

i nào…

M

i đư

c m

t ch

c l

i nghe chuông c

a ping…pong… Hé, gi

này mà ai t

i? Ngó màn hình camera,

a l

i ch

thu ti

n báo? Ch

t mình nghĩ hay chi

u nay m

i nói chuy

n đã tr

thi

ế

u ti

n cho ch

, t

nhiên có c

m giác nóng b

ng. Th

ế

th

t thì ngư

ng quá! V

i v

i ví ti

n lăm lăm trong tay ra m

c

a và th

nhìn th

y trên tay ch

là m

t túi b

ch

ng rau cresson. Hóa ra lúc bu

i chi

u nói chuy

n, th

y mình thích ch

l

i mau mau v

nhà hái mang t

i cho. Tr

i đ

t, mình không th

th

t ra l

i kho

ng cách t

ch

mình

i quê nhà ch

đâu có g

n, ch

đi cách nào mà v

hái rau nhanh v

y? Sau m

t h

i đùn đ

y t

ch

i, cu

i cùng mình ph

i nh

n và c

m ơn ch

th

t nhi

u. M

t túi rau to th

ế

này, mua ngoài siêu th

là c

t kho

n không nh

, sao ch

mang cho nhi

u th

ế

? C

3-4kg ch

không ít, trong khi rau c

小松菜

/komatsuna

) hay c

i bó xôi (

ほうれん草

/horenso

đây m

t bó cũng ch

có tr

ng lư

ng 180g~250g đã là to r

 (cái tr

ng lư

ng này mình bi

ế

t đư

c b

i vì hàng tu

n hay đ

t Co-op mang th

c ph

m rau qu

, tr

ng, s

a tươi t

i nhà)

. K

ế

t qu

là các ngăn đ

ng rau nhà mình gi

đang đ

y ch

t rau cresson. Ba ngày nay, ngày nào mình cũng “zeitaku” đã đ

i ăn u

ng “super sang” v

i đ

các món t

ch

ế

ế

n v

i rau cresson.

Vi

t Nam, khi có đ

y đ

c

nhà, cũng chưa bao gi

mua nhi

u rau cresson như th

ế

, hu

ng chi là nhà mình

đây ch

có nhõn 2 tên mà m

t tên hi

i còn đi v

ng.

M

y hôm nay, h

l

nh th

y ch

rau cresson, t

nhiên trong đ

u l

i ch

t nh

câu hát nhái c

a Bài ca xây d

 “cho ngày nay, cho ngày mai, cho 2 ngày sau…

” mà bác th

may hàng xóm ngày xưa hay ph

n kh

i hát toáng lên m

i khi x

ế

p hàng mua đư

c m

y bó rau mu

ng già c

a m

u d

ch v

nuôi gà công nghi

p h

i nh

ng năm 80. Còn ta, ch

c gì ta cũng s

x

lý h

ế

t đư

c ch

rau này sau 2 ngày n

a k

c

là có ăn như gà công nghi

p. Đ

c báo Dân trí th

y vi

ế

 “C

i xoong là lo

i rau đ

c bi

t giàu vitamin C (45 50mg/100g); các vitamin B1, B2, E, và các ch

t, ph

t pho, it

t có tác d

o v

c kh

e, ch

nh t

t, nhi

m trùng, ch

lão hóa, gi

gìn xuân s

c tươi tr

. C

i xoong lu

c, n

u canh ho

c tr

n d

u d

m đ

u r

vì có nhi

u dư

c tính đáng quý. Do ch

t senevol, c

i xoong có tác d

t cho s

bài ti

ế

t c

a ph

i. T

l

t, canxi trong c

i xoong khá cao và d

h

p th

, giúp phòng ch

ng bư

u c

, tăng kh

năng t

v

c

a cơ th

, tăng s

c trao đ

i ch

t c

a các t

ế

bào, ch

nh còi xương, các b

nh ngoài da, b

nh xơ c

ng đ

ch

ngư

i già. Mu

i khoáng trong c

i xoong có kh

năng ch

ng thi

ế

u máu, ăn kém ngon, u

i, m

i. C

i xoong là món rau ăn ngon, b

ng, t

y đ

c, l

u. Nó có kh

năng t

y r

a d

dày, thông gan và góp ph

n ch

a b

nh

máu. C

i xoong không ch

là rau ngon mà còn có dư

c tính t

t”

. Úi, rau gì mà như là thu

c ch

a bách b

nh, th

ế

nên là tích c

c ăn thôi…

class=wp-smiley v:shapes="_x0000_i1041">

Nh

m lòng ch

thu ti

n báo Yomiuri mà mình v

a đư

c ngon mi

ng v

i rau cresson v

n đ

t đ

Nh

t, l

i v

a như đư

c dùng thu

c b

thiên nhiên cho cơ th

và cho tinh th

n v

y. Cám ơn t

m lòng c

a ch

. Mình còn chưa h

i tên c

a ch

a. Gochisosamadeshita!

Tạp văn

Một Thời Chưa Xa

Nguyễn Thị Hậu

Cuối Những Năm 1980, Khi ấy Mới Bắt Đầu Bước Vào Thời Kỳ “Mở Cửa”, Đời Sống Của Phần Đông Cán Bộ Viên Chức Còn Rất Khó Khăn. Nhất Là ở Hai Thành Phố Lớn Là Hà Hội Và Sài Gòn, Không Có Đất Cát Ruộng Vườn Gì Để Trồng Trọt Cải Thiện, Hầu Hết Cán Bộ Nhà Nước Xoay Xở Đủ Nghề Làm Thêm, Từ May Gia Công Đến Bỏ Mối Hàng, Từ Trông Xe Phụ Bàn ở Nhà Hàng Đến Nuôi Gà Nuôi Heo Trong Những Căn Hộ Chung Cư Chật Hẹp… Gia Đình Tôi Cũng Như Mọi Nhà, Cũng Làm Thêm Đủ Việc. Má Tôi Ngăn Một Góc Sân Nuôi Mấy Con Heo. Nhờ Làm Ngân Hàng Nên Bà Mua Được Cám Heo Với Giá Mậu Dịch. Hàng Ngày Đi Làm Về Chị Dâu Tôi Xếp Hàng Mua Rau Muống, Phần Tôi Thì Tối Nấu Cám Heo. Ai Về Sớm Thì Cho Heo Ăn, Có Bữa Cả Nhà Về Trễ Mấy Con Heo Đói Kêu ầm Ĩ… Có Lần Heo Bịnh Má Tôi Lo Đến Mức Muốn… Bịnh Theo!

Người Bạn Của Tôi Lúc ấy Sống Với Ba Đứa Con Trong Căn Nhà Phố Khang Trang Của Gia Đình Chị. Cả Nhà Đã Vượt Biên Nhiều Năm Không Có Tin Tức. Chị Mới Lấy Chồng, Chồng Chị Không Chịu Đi Nên Chị ở Lại. Chị Là Con Út, ốm Yếu Từ Nhỏ, Lấy Chồng Rồi Có 3 Đứa Con Đúng Lúc Đời Sống Khó Khăn Nhất Nên Khá Vất Vả. Từ Nhỏ Không Quen Làm Gì Ngòai Việc Nội Trợ Nên Hầu Như Chi Tiêu Trong Nhà Đều Trông Vào Đồng Lương Ít ỏi Của Chồng Chị. Được Một Thời Gian Vợ Chồng Bàn Nhau Bán Ngôi Nhà Đang ở, Nhưng Lúc ấy Không Bán Được Vì Là Nhà Của Người “Vượt Biên” Dù Chị Có Tên Trong Hộ Khẩu ở Đó. Một Thời Gian Sau Chị Nhận Được Tin Tức Gia Đình. Rồi Cha Mẹ Chị Giúp Tiền Bạc Cho Chồng Chị Ra Đi. Chị ở Lại Và Chờ Đợi Chồng Đến Nơi ổn Định Sẽ Đón Vợ Con Qua Sum Họp, Dù Chưa Biết Đến Bao Giờ… Vậy Nhưng Chồng Chị Đã Lấy Người Khác – Một Phụ Nữ Anh Gặp Trong Chuyến Vượt Biển Dài Ngày. Có Lẽ Những Nguy Hiểm Của Chuyến Đi Đã Làm Họ Gắn Bó Với Nhau, Và Có Lẽ Cũng Vì Anh Không Muốn Vợ Con Mình Cũng Phải Chịu Những Gì Anh Chứng Kiến Trong Chuyến Đi Kinh Hòang ấy…

Nhận Được Tin Anh Lấy Vợ, Tinh Thần Và Sức Khỏe Của Chị Suy Sụp Tưởng Như Chị Đã Bỏ Lũ Trẻ Mà Đi Theo Ông Bà. Cha Mẹ Chị Tìm Mọi Cách Gửi Tiền Gửi Đồ Cho Chị Sinh Sống Để Chờ Cơ Hội Bảo Lãnh. Nhưng Chị Đã Gượng Lại, Cố Gắng Nhận May Gia Công, Chiều Đi Nhận Trả Hàng, Sáng Và Tối Miệt Mài Đạp Máy. Thấy Chị Vất Vả Cơm Nước Con Cái Nên Thời Gian May Đồ Không Được Bao Nhiêu, Bạn Bè Giúp Tìm Người Phụ Việc Nhà. Lúc ấy Tôi Nuôi Con Bằng Đồng Lương Đi Dạy Thiếu Trước Hụt Sau Nên Cũng Cần Việc Làm Thêm.

Đến Giúp Việc Cho Chị, Tôi Chỉ Biết Chị Đang Chờ Gia Đình Bảo Lãnh Đi Nước Ngòai. Còn Chị Cũng Coi Tôi Như Những Người Giúp Việc Mà Trước Kia Gia Đình Chị Vẫn Có. Hàng Ngày Buổi Sáng Tôi Lên Lớp Hay Làm Việc Khác, Từ 3 Đến 6 Giờ Chiều Tôi Đến Nhà Chị, Dọn Dẹp Giặt Giũ Và Tắm Rửa Cho Bọn Trẻ Khi Chúng Đi Học Về, Nấu Cho Mẹ Con Chị Mấy Món Ăn Đơn Giản. Thỉnh Thỏang Rảnh Rỗi Chị Vào Bếp Và Nấu Ăn Rất Ngon Dù Chỉ Là Những Món Ăn Bình Thường. Chị Bảo Chị Được Mẹ Dạy Rất Kỹ Việc Bếp Núc. Giúp Chị Mà Tôi Cũng Học Được Nhiều Chuyện Nội Trợ. Tôi Không Tò Mò Chuyện Nhà Chị, Chị Cũng Không Hỏi Tôi Về Hòan Cảnh Gia Đình. Chị Kỹ Tính Nhưng Nói Năng Nhẹ Nhàng Dễ Nghe, Hàng Tháng Gửi Tiền Công Để Trong Bao Thơ, Đưa Tận

Tay

Với Lời Cám Ơn Thật Lòng. Tôi Làm Việc Nhà Chị Cũng Như Việc Nhà Mình, Các Con Chị Cũng Rất Quý Tôi. Vì Vậy Cả Hai Chẳng Có Gì Phải Phiền Hà. Chúng Tôi Dần Trở Thành Bạn Với Nhau.

Được Một Thời Gian Đâu Khoảng 4, 5 Tháng Gì Đó, Tình Cờ Chị Biết Tôi Là Giáo Viên Đi Làm Thêm. Số Là Gần Nhà Chị Có Mấy Em Sinh Viên Trọ Học, Hôm Đó Tôi Vừa Đến Cửa Nhà Chị Thì Gặp Các Em. Các Em Chào Tôi Và Hỏi Cô Đi Đâu ạ? Chị Ra Mở Cổng, Nghe Sinh Viên Hỏi Thế Thì Nhanh Nhẹn Trả Lời: À, Đây Là Cô Em Của Bác Đấy! Hôm ấy Chị Và Tôi Nói Chuyện Với Nhau Rất Lâu. Hóa Ra Chúng Tôi Có Nhiều Điểm Giống Nhau: Cùng Là Con Út Được Cha Mẹ Cưng Chiều, Lấy Chồng Rồi Cũng Vất Vả Hơn Các Anh Chị Em. Chị Bảo, Nếu Không Lập Gia Đình Sớm Thì Chị Đã Học Sư Phạm Và Cũng Sẽ Là Một Cô Giáo Như Tôi. Đấy Là Nghề Chị Mơ Ước Từ Nhỏ. Với Chị Hình ảnh Cô Giáo Dịu Dàng Trong Chiếc Áo Dài Là Một Điều Thánh Thiện Nhất! Vì Vậy Chị Rất Áy Náy Khi Phải Để Tôi Giúp Việc Nhà. Tôi Bảo, Tôi Có Một Người Chị Khỏang Tuổi Chị, Cũng Con Cái Bận Rộn Suốt Ngày. Giúp Chị Cũng Như Giúp Chị Gái Mình. Vả Lại, Giúp Việc Nhà Là Công Việc Kiếm Tiền Đàng Hòang, Không Vì Thế Mà Mình Mất “Tư Cách”, Tôi Nghĩ Thế. Chúng Tôi Vẫn Giữ Công Việc Cũ Và Mối Quan Hệ Tốt Với Nhau Nhưng Chị Âm Thầm Tìm Việc Khác Cho Tôi. Rồi Một Hôm Chị Dẫn Tôi Đến Cơ Sở May Mà Chị Vẫn Làm Gia Công, Tôi Được Mượn Máy May Và Bắt Đầu Nhận Hàng Về Nhà Làm.

Khỏang Năm 1994 Thủ Tục Bảo Lãnh Của Cha Mẹ Chị Hòan Tất. Trước Khi Đi Chị Nhắn Tôi Đến Chơi. Lúc ấy Tôi Vẫn Đi Dạy Nhưng Không Còn May Gia Công Nên Ít Gặp Chị. Nghe Tôi Nói Lúc Này Làm Thêm Là Đi Nấu Tiệc Đám Cưới Nên Thu Nhập Khá Hơn, Chị Xót Xa Sao Giáo Viên Mấy Em Cực Quá…

Từ Đó Tôi Không Nhận Được Tin Chị…Chắc Rằng Cuộc Sống Của Chị Và Các Cháu Bên ấy Mọi Sự Tốt Lành. Chiều Nay Đi Ngang Con Phố Nhỏ Có Ngôi Nhà Củả Chị Ngày Nào, Bỗng Nhớ Chuyện Cũ Của Một Thời Chưa Xa.../.

Tiểu gia đình” Việt tại Úc

Cộng đồng người Việt được xem là một trong năm cộng đồng người nhập cư có số dân cao nhất tại Úc. Người Việt tập trung nhiều ở tiểu bang New South Wales (NSW) với khoảng 58.000 người.

Ra riêng vì con cá khô

Một người quen biết với tôi được đứa cháu ruột bảo lãnh sang Úc chơi dăm ba tháng, nhưng chỉ ở được vài tuần thì đã rục rịch đòi về vì cho rằng cuộc sống ở Úc quá tẻ nhạt. Thật vậy, khi mới rời VN sang Úc, đa số người lớn tuổi đều cảm thấy bị sốc và buồn phiền về những thay đổi trong đời sống gia đình.

Hình thức gia đình phổ biến hiện nay tại Úc là “tiểu gia đình”. Theo đó, mỗi gia đình chỉ có hai thế hệ: cha mẹ và con cái, khác hẳn hoàn toàn với hình thức đại gia đình ở VN. Những ông bà cụ từ VN sang thường than phiền con cháu bên đây sao quá lạnh lùng. Một bậc cao niên trong lúc trà dư tửu hậu đã “tả oán” rằng bữa nọ ông lỡ nướng khô cá trong nhà, thằng cháu nội làm dữ bảo ông làm hôi nhà. Tức giận vì lời lẽ hỗn xược của thằng cháu, ông nhờ người quen tìm hộ cho ông một chỗ ở riêng. Ông dọn ra riêng gần một năm mà con cháu viếng thăm chẳng được dăm lần.

Có nhiều gia đình khi con cái đến tuổi dựng vợ gả chồng, nếu con cái kết hôn với một người nước ngoài mà cha mẹ không biết tiếng Anh thì xem như trớt huớt. Một người quen bùi ngùi kể lại: “Tui có thằng rể Úc. Tui cất công nấu đồ ăn ngon cho nó ăn, nó không ăn thì thôi, còn làm ra vẻ hãi hùng, thấy buồn lòng lắm”.

Làm nông mới khá

Người Việt rất giỏi làm ăn và đã thành công ở nhiều lĩnh vực, nếu biết tiếng Anh dĩ nhiên sẽ có nhiều cơ hội hơn. Ở phạm vi bài viết này, xin chỉ đề cập công việc làm ăn của đại bộ phận người Việt không thể sử dụng tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai.

Tùy theo thiên thời, địa lợi, nhân hòa của từng tiểu bang mà người Việt sinh sống bằng nhiều ngành nghề khác nhau. Chẳng hạn người Việt ở tiểu bang

Queensland

có thế mạnh về đánh bắt hải sản, người Việt ở

Sydney

hayMelbourne

thì may tại gia, giữ trẻ, mở nhà hàng, buôn bán nhỏ... Người Việt ở tiểu bang Tây Úc rất thành công trong lĩnh vực trồng trọt ở nông trại.

Nghề trồng trọt ở Úc rất cực nhọc nhưng thu nhập không phải ít. Trong những lần về VN, những Việt kiều - nông dân đã tranh thủ đem vào Úc đủ thứ hạt giống rau. Vì thế có thể nói bất cứ loại rau nào có ở VN thì cũng có ở Úc. Giá cả của chúng thì chắc nông dân VN nghe phát thèm: rau răm, ngò gai, rau om 45 đôla Úc/kg (tính ra tiền Việt tương đương 600.000 đồng), rau muống 8-10 đôla/kg (giá bán tại tiểu bang Tây Úc). Đặc biệt, vào mùa đông giá cả tăng lên gấp bội vì khó trồng hơn, phải chăm sóc kỹ lưỡng trong nhà kính. Bởi vậy mùa đông được xem là mùa hốt bạc của giới làm nông người Việt.

Sau nghề nông thì may tại gia và làm bánh mì được đa số người Việt chọn lựa. Cười ra nước mắt có lẽ là nghề làm bánh mì, cả thợ lẫn chủ lò đều có nỗi khổ nhưng không có nỗi khổ nào giống nỗi khổ nào. Thợ làm bánh phải thức đêm để sáng hôm sau có bánh nóng giao tận nơi cho các “shop Tàu” (cách người Việt gọi cửa hiệu bán hàng châu Á để phân biệt với siêu thị của Úc).

Người Việt mình ở đây vẫn thích ăn những loại bánh mì giống ở VN, nên giới làm bánh mì người Việt luôn sẵn sàng làm hài lòng khách hàng, vẫn giữ cách chế biến bánh mì truyền thống và loại bánh mì này rất khó bán cho người Úc. Các anh thợ bánh mì thường là độc thân hoặc đa số có cuộc sống gia đình không được “mặn mà” cho lắm, bởi vì làm ca đêm ban ngày ngủ vùi, không có thời gian quan tâm chăm sóc vợ con. Về phần chủ lò bánh mì đôi khi cũng phải mở miệng kêu trời, vì “luật” của các shop Tàu là nếu bán không hết thì được trả hàng lại, nên gặp bữa chủ lò gom về cả xe bánh mì.

Đối với những bà con có tuổi, ở nhà có thời gian rảnh rỗi có thể nấu các món ngon VN như xôi chè, phở, hủ tiếu, bún mắm... bỏ hộp rồi đem bỏ mối cho các shop Tàu, thu nhập không đến nỗi tệ.

Nhưng làm ăn mạnh nhất có lẽ là các anh chủ shop Tàu. Những năm sau này mối quan hệ mậu dịch giữa Úc và VN phát triển thuận lợi, nhiều nông, thủy, hải sản từ VN được nhập ồ ạt và đa dạng qua Úc. Đây là những món ăn mà bất cứ người Việt xa quê nào cũng “cầm lòng không đặng”. Do đó, các shop Tàu lúc nào cũng dập dìu khách mà đa số là người Việt.

Mùa sấu - nỗi nhớ trong tôi

Chua là một vị không thể thiếu trong bữa cơm của người Việt. Ðể tạo ra vị chua, mỗi vùng, mỗi dân tộc đều có những chất liệu, hoa quả riêng khó kể hết: Mẻ, bỗng rượu, khế, chanh, thanh trà, muỗm xanh, cà chua, măng chua, dứa, tai chua, lá bứa, lá giang, nhót xanh... Và, không thể thiếu quả sấu.

Những quả sấu be bé xanh xanh trông chẳng có gì bắt mắt nhưng nó là loại quả đặc trưng của Hà Nội từ rất xa xưa. Nó có mặt trên mâm cơm của mọi gia đình từ giàu có đến bình dân. Nhà văn Vũ Bằng trong tác phẩm "Miếng ngon Hà Nội" đã nhớ đến quả sấu be bé đó: "Miếng ngon Hà Nội ngon từ mấy bìa đậu phụ sống Phú Thụy chấm với mắm tôm chanh ớt vào một ngày oi bức hay một chén sấu dầm nhắm nhót một ngày đìu hiu vào cuối thu... Khi thấy lá rụng đầu thu, thấy mưa ngâu ta nhớ đến sấu dầm".

Tuổi thơ của tôi biết bao kỷ niệm về một góc phố Trần Hưng Ðạo với đầy hoa sấu rụng. Tôi còn nhớ những bữa cơm thiếu thốn thời bao cấp, đa phần là rau muống luộc, nước rau "đánh" sấu có mầu trắng hồng trông thật thích mắt. Mẹ tôi dành lại ít quả dầm vào bát nước mắm "mậu dịch" để chấm rau. Thêm đĩa lạc rang mặn, mấy miếng cà dầm là đã được một bữa cơm ngon lành. Sung sướng hơn, hôm nào mua được thịt phiếu, mẹ tôi băm ít thịt nấu canh chua sấu với hành, đó là bữa "ăn tươi" của cả nhà. Thuở đó, ít quà, cứ đến mùa sấu tụi con gái chúng tôi thường túm năm tụm ba ăn sấu chấm muối ớt. Cầu kỳ hơn thì làm sấu dầm: những khoanh sấu được lạng sát hột, cho muối, chút đường và vài lát ớt... là bữa tiệc linh đình với chúng tôi khi ấy.

Hà Nội giờ cuộc sống đã khác trước. Tụi trẻ cũng bận túi bụi chẳng có lúc nào để tha thẩn dọc phố nhặt hoa sấu rụng như thời chúng tôi nữa. Nhưng trong mâm cơm cũng vẫn là quả sấu "đánh" nước rau muống. Trong nhiều quán giải khát, gia đình, bên cạnh lọ mơ đường vẫn có lọ sấu ngâm đường, gừng mặn ngọt. Ðây là thứ nước tuyệt hảo dành cho mùa hè.

Gần đây Hà Nội rộ lên món vịt om sấu, âu cũng là "cải biên" khi ăn mãi vịt quay, vịt luộc. Vịt được chặt miếng to, tẩm ướp kỹ rồi om với sấu, nhiều nhà hàng còn cho thêm cả khoai sọ, rau muống, rau dút... Riêng tôi chỉ thích om với sấu không thôi, khi vịt chín mềm, sấu đã nát, nước om quanh quánh, sền sệt. Miếng vịt ngọt, kèm với vị chua dịu của sấu, thêm ít rau răm ăn với bún, cơm hoặc nhắm với bia đều rất tuyệt vời.

Thật là thiếu sót nếu không nhắc đến một món ăn nữa được làm từ sấu: đó là ô mai sấu. Sấu được ngâm muối, phơi nắng cho quả răn reo lại rồi xào với đường, gừng, cam thảo... hội tụ được đủ vị chua cay, mặn ngọt là món quà "ruột" của tuổi ô mai. Quả sấu thân thương gần gũi đến nỗi bạn bè thường đùa vui chọc những cô gái hơi kém nhan sắc là "ô mai sấu cuối lọ".

Ai đã từng xa quê, sống ở nước ngoài, bỗng dưng được cho "chút quà Hà Nội là mấy quả sấu" mới thấy quý, mới sung sướng làm sao. Cầm bọc sấu trên tay, nâng niu từng quả nhỏ, không nỡ gọt chỉ cạo sơ vỏ ngoài, rửa sạch, để ráo rồi cho vào túi ni-lông cất vào ngăn đá dành để ăn quanh năm. Những ngày đông rét buốt, tuyết rơi trắng trời. Bên mâm cơm Việt, bát canh chua sấu bốc hơi nghi ngút chợt thấy quê nhà rất gần, vơi đi bao nỗi nhớ...

Mai Hương

HOÀN CHỈNH SAI

Tiểu thuyết của

PHAN KHÁNH

Kỳ 1

Khu tập thể Sở Lục Lộ bé tẹo, chưa đầy một mẫu Tây. Tuy gần đây có được cải thiện nhiều, các hộ gia đình đã có bếp riêng, mỗi hộ đủ ba mét vuông xây lấn ra sân nhưng cũng tiện đáo để. Duy nhà vệ sinh, nhà tắm còn sử dụng chung cho cả hộ gia đình và khối cán  bộ độc thân.

Ba cái bể nước và ba cái vòi công cộng trở thành câu lạc bộ thông tin, nơi các bà tập trung lấy nứơc, rửa rau và giặt giũ. Thôi thì trên trời dưới đất, thượng vàng hạ cám, đủ mọi thứ chuyện trong xã hội đều được nơi đây bình luận.

- Này! Xe gạo từ miền Nam đã bắt đầu lăn bánh, cùng lắm là tuần sau mỗi nhà có thêm vài ba chục ký.

- Em định sớt vài yến về cho mẹ ở Khu Bốn, “trong nớ ăn cơm là chuyện lạ” mà!

Đại để là xoay quanh những thời sự thường ngày, rôm rả nhất là vấn đề thời sự trong sở. Không biết các bà moi đâu mà nhanh nhậy tin tức đến thế.

Vừa thấy bóng bà Ngang vợ lão Ngạnh, người ta thường gọi lão là vô pháp vô thiên, dắt xe đạp ra cổng, bà Mỹ vợ ông cán bộ “bảo vệ chính trị” đã lườm nguýt:

- Lão ấy chết đến nơi rồi mà không biết, còn hơn hớn cái mặt lên. Kế toán tuy kiếm được khá nhưng liệu có nuôi nổi gia đình không! Còn thăm nuôi chồng ở trại giam nữa chứ.

Biết là một cái miệng VIP về thông tin nhân sự nên các bà xúm lại thì thầm. “Thế nào! ruột thịt nó trong Nam là ác ôn hả! Chắc lão đã liên hệ với quân vượt biên!”. Mọi người càng háo hức, bà Mỹ càng lặng thinh. Chờ cho mọi người thật mót bà mới dài giọng ra.

- Không phải! Ngữ ấy trong Nam cũng chỉ là là bần cố nông thôi; Đằng này là cái vạ mồm Nhân Văn giai phẩm cơ ?

Bà kể vanh vách về bốn ông phó sở vừa đồng loạt đề bạt gần đây, về bọn “Nhân Văn”, rỗi hơi gái goá bàn việc triều đình đả kích lãnh đạo mới.

- Phó sở là “dưới một người trên trăm người” thì liên quan gì đến lão Ngạnh, vốn đã đứng dưới tất cả mọi người?

Bà Mỹ càng dài giọng: Gông giữa đàng đem mang vào cổ! Rõ ngu! Không biết lão “Vô Pháp Vô Thiên” mang từ đâu về mấy câu đồng dao tân thời phát tán trong cơ quan:

Hà Trưởng sở bất đắc chí

Trần Mạnh Trì bất đáo lai

Sở lục lộ hoàn chỉnh sai

Chú Đình Dung vớ bở

Nếu phải thời phong kiến, Vô Pháp Vô Thiên đã bị cắt lưỡi. Phía ngoài đê sông Hoàng trước mặt Sở cũng có cái bãi Cắt Lưỡi. Vế sau gọi trại ra là bãi Cất Lưới.Truyền thuyết kể  lại vào thời chúa Trịnh Sâm gì đó, lúc chúa ốm nặng sắp mất, Tuyên phi Đặng Thị Huệ, con còn trứng nước, lại bị nhiều người căm ghét bèn tằng tịu với Huy Quận công Hoàng Đinh Bảo, kẻ đang cầm binh quyền để nương tựa về sau. Thế là có đồng dao:

Trăm quan có mắt như mờ

Để cho Huy Quận vào sờ Chính Cung

Triếu đình căm lắm cho mật thám đi lùng bắt những người hát đồng dao đem ra tập trung ở bãi ấy, cắt lưỡi một lúc chết mấy chục người. Dân vô tội ngu dốt chết oan. Kẻ viết đồng dao núp trong bóng tối, cũng có thể là triều thần bên cạnh chúa, lại vô can. Xã hội dân chủ không còn cái phong kiến tàn bạo. Đặt vè hay hát đồng dao không việc gì. Thuở còn chiến tranh lạnh “hai phe bốn mâu thuẫn’’ trấn áp “phản ứng giai cấp’’ gắt gao cũng chỉ bị quy Nhân Văn – Giai Phẩm là cùng. Không bị tù đầy. Có lão nào đó ngông nghênh viết lên báo:

Ngồi buồn đốt một đống rơm

Khói bay nghi ngút chẳng thơm chút nào

Bay lên đến tận Thiên Tào

Ngọc Hoàng phán hỏi thằng nào đốt rơm

Người ta nói lão này mỉa mai đường lối văn hoá – văn nghệ của đảng, có thể đúng như vậy, nhưng cũng chỉ bị nhốt chung vào rọ Nhân văn. Hồi đó nhiều người nói trái ý lãnh đạo cũng bị quy Nhân văn. Đương nhiên có “Nhân văn Trung ương’’ như cái lão nhà văn nói trên, có nhân văn cấp bộ, cấp tỉnh, cấp huyện, nhân văn trong từng cơ quan, xí nghiệp vv... Tìm cách đi được khỏi cái cơ quan ấy hoặc địa phương ấy là hết “nhân văn’’. Phấn đấu tốt là đường vào đảng lại thênh thang. Khi câu chuyện này xảy ra thì dân chủ đã mở rộng gấp bội so với thời nhân văn. Đồng dao hay còn gọi '“ca dao cạo’’ chỉ khích bác cá nhân, pháp luật không bao giờ sờ tới. Bọn trẻ còn trêu chọc các cụ“ trâu già ăn cỏ non’’:

Cái cục cưng cần cụ cố cóc có

Cái cục cưng có cụ cố cóc cần

Đương nhiên chẳng ai ngu dại gì mà bô bô những câu đồng dao liên quan đến những người có thế lực trong cơ quan, trừ Vô Pháp Vô Thiên. Người ta đặt cho lão cái biệt danh sặc mùi Kim Dung trong tiểu thuyết chưởng cũng là vì thế.

Lão không Đoàn viên thanh niên Cộng sản. Trung niên và đang trên đường về già cũng chẳng ai nghĩ đến kết nạp lão vào đảng. Đoàn viên công đòan đương nhiên là có vì lão ăn lương nhà nước.“Chữ tin còn một chút này’’ (nhại Kiều) thế mà lão chẳng cầm cho vững lại giầy cho tan. Dạo phân phối nhà mới, lão được công đoàn đề nghị, nhưng khi lên hiệp thương cân đối bị loại. Thế là lão cho luôn một bài “Công đoàn như cái vú đàn ông, không ai là không có, nhưng có cũng chẳng để làm gì, đến sờ chơi như cái của nhà hàng karaoke cũng chẳng ai thèm’’

Cái ghế quy hoạch cán bộ chẳng ai dành cho lão.

Nâng bậc lương hàng năm trước đây chẳng ai nghĩ đến lão. Tuy thuộc diện năm năm đủ tiêu chuẩn thời gian, nhưng cái chỉ tiêu mười lăm phần trăm, hai mươi phần trăm số người đủ tiêu chuẩn đã gạt lão ra. Rồi thì ưu tiên những người tuy thiếu thời gian, nhưng được lãnh đạo coi là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chen vào vì thế lão chẳng bao giờ quan tâm đến bậc lương.

Rớt lại sau, có đến mười năm liền lão không được lên bậc lương nào cả. Từ ngày không hạn chế phần trăm số đủ thời gian, có bao nhiêu người nâng bậc bấy nhiêu, người được ưu tiên thời gian tính riêng, thời gian lại rút xuống ba năm một lần. Nhưng riêng lão đôi khi vô tình vẫn bị kéo dài, khi sáu tháng khi một năm, lý do cũng rất vớ vẩn. Cán bộ tổ chức bỏ sót hoặc là đang có dư luận đợi xét. Những lúc ấy lão chỉ nhún vai triết lý “chó của Chích cắn vua Nghiêu không phải vì Chích ghét vua Nghiêu mà chẳng qua chó muốn tâng công với Chích’’. Mấy tay cán bộ tổ chức nghe được, lão càng thêm lận đận.

Nhưng vợ lão thì lại khác. Gái Thái Bình sắc sảo khôn ngoan kết duyên với lão lúc mới ra trường bởi lão có mác “miền Nam”.

Lão tập kết ra Bắc thuộc diện “đi ào ào” trong những chuyến vét của tàu Ba Lan. Bạn bè  “tam đồng” (đồng tuế, đồng hương, đồng tiêu chuẩn tập kết) với lão, hầu hết đã vỗ cánh bay cao, nếu không nói là tất cả đều đại học trở lên, kỹ sư, bác sĩ, tiến sĩ. Riêng lão cứ nắm nguyên cái bằng trung cấp kỹ thuật.

Vợ lão dựa hơi tập kết, từ một cấp dưỡng nhà trường “tại chức mãi” cũng đã lên được cái bằng cử nhân kinh tế và đang làm kế toán tài vụ, hơn lão đến mấy bậc lương.

Sống với nhau rất hạnh phúc, chỉ hơi lục đục những lúc lão trở chứng ở cơ quan, nhất là từ ngày thằng con trai lớn ra trường.

Lão vừa mang đồng dao về, cơ quan có nhiều người xầm xì nghe trộm, chẳng ai dám công khai bàn tán thiệt hơn. Nhưng trong nhà lão tối hôm ấy suýt cãi nhau to.

Vợ lão chì chiết: “Ông chỉ sướng cái mồm mà khổ cái thân. Người ta là cấp phó sở, đụng đến người ta làm gì. Suy cho cùng cũng chẳng đụng đến quyền lợi của ông, chẳng chen ngang bậc lương với ông như mấy thằng cùng lứa tác, nó như cái phiếu B, phiếu C, có bao giờ chen ngang xếp hàng với cái thứ phiếu E, phiếu N như ông với tôi”.

Nói rồi chị ta ngồi gục mặt xuống đầu gối thở dài sườn sượt. Lão đang định thanh minh, chị ta rít lên:

- Cho rằng cái chân phó sở không vào cái con người ấy, tổ chức không chọn được ai cũng thà quẳng ra sân, đâu có cho những lớp người như ông.

Thằng con trai cũng chen vào: “Những bốn người được đề bạt sao người ta lại chỉ nhắm vào ông Dung mà khích bác”. Chị vợ giải thích: “Vì ông ấy là kỹ sư trẻ tuổi, chưa có bề dày chính trị như ba ông kia”

- Lạ nhỉ! Cần người tài hay cần bề dày chính trị để mà ngồi đó gật gù “Chủ nghĩa Mác Lênin vô địch”, còn chuyên môn thì để bọn gian dối qua mặt.

- Cháu còn trẻ người non dạ biết gì mà nói!

Tiếng người ngoài sân vừa vọng vào thì Chỉ nổ đã xuất hiện. Tuy không ưa nhau vì Chỉ hay nổ và thường nổ to hẳn hoi,Vô Pháp Vô Thiên thì hay bốp chát. Nhưng hai người lại gặp nhau ở góc nhìn thời cuộc. Chỉ nổ kỹ thuật đơn thuần cũng chỉ có “cái vú đàn ông” (đoàn viên công đoàn) duy nhất nhưng lý lịch cũng khá phức tạp. Khi thì anh ta nói đã học AnBeXaRô có bằng tú tài Bacaloréa hẳn hoi rồi đi bộ đội đánh Pháp. Qua chín năm trường kỳ kháng chiến anh ta được chuyển thẳng vào Bách khoa khoá Một. Những lúc ấy Vô Pháp Vô Thiên thường hay đốp luôn: “Ông đỗ Bắc Côlêra (bệnh thổ tả) năm đói Ất Dậu ấy à! Năm ấy nhiều người dính cái này lắm”. Đoạn trích ngang ấy có nhiều mâu thuẫn về thời gian, về hoàn cảnh, ai cũng biết, chỉ cái bằng Bách Khoa khoá một là có thật. Nhưng mười mấy năm rồi vẫn là kĩ sư bậc một, chính trị thì chỉ có cái “vú đàn ông”.

Chỉ nổ cũng hay đến nhà Vô Pháp Vô Thiên vì ở cạnh nhau và mỗi khi thích đàm luận về nhân tình thế thái. vừa nhấp cạn chén trà tàu do Vô Pháp Vô Thiên mời, Chỉ nổ đưa mắt:

- Cái bài đồng dao ấy thật là hay! Đích là giọng lưỡi đồ nghệ, nhưng hợp cảnh hợp tình với sở ta quá!

Chỉ nói chưa hết câu thì thằng con của Vô Pháp Vô Thiên cười lớn:

- Bác Chỉ ạ! Có điều con không hiểu là những bốn ông đồng loạt lên phó sở, sao lại đi chì chiết một mình ông Dung.

Vô pháp vội mắng con: “Hỗn! Mày thì biết gì, chuyện người lớn mà xen vào!”. Chỉ Nổ vừa cười vừa giơ tay ngăn Vô pháp: “Ấy chớ! Con khôn hơn cha là nhà có phúc! Bọn chúng gặp thời thế hơn ta bác ạ ! Cũng phải nhắc lại lịch sử về thời của chúng ta cho chúng nó hiểu một tý chứ.”. Vợ Vô pháp chen vào :“Lịch sử, lịch sử cái con khỉ, ai cần gì lịch sử cơ chứ, cái người ta cần là lịch lý tức lý lịch. Cứ mò mò vào lịch sử không khéo thì người ta lại phát hiện ra ông cụ, ông kỵ nào đó của mình đã từng làm quan triều Nguyễn thì nguy to!”. Chị ta còn định nói nữa nhưng Vô pháp ngăn lại : “Bà nó cứ để bác Chỉ giải thích cái câu hỏi của thằng Hệ đã nào ! Lịch sử cũng có ích chứ. Bác Chỉ lại học rộng nhớ dai.”

Nói rồi lão rót thêm cho Chỉ chén trà nóng như thể động viên. Chỉ nổ ngồi lại ngay ngắn, thói quen của lão khi cất giọng triết gia. Sau khi  nhấp giọng ngụm trà lão hướng vào thằng Hệ :

- Trước đây người ta coi thường lịch sử, nhất là lịch sử về tụi phong kiến, một số người cực đoan cho rằng thế giới chỉ có lịch sử cách mạng vô sản là đáng lưu giữ để học tập mà thôi. Bởi vậy dạo cải cách ruộng đất vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh, thần phả, tộc phả, gia phả đến đôi câu liễn đình lăng “ Vó ngựa Đằng giang xin nối gót – Thanh gươm Phù Đổng quyết ra tay” cũng quy là chống đảng đem đốt hết. Đến “Thượng kính ký sự” bản nôm của họ Lê Hữu Trác cũng bị nông dân tịch thu đem đốt vì liên quan đến phong kiến.

- Hình như gần đây có người nói lịch sử như xương cốt, chỉ sau khi vấp ngã rạn xương gãy tay con người mới nhớ ra là phải đọc nó để biết mà tránh thì hay biết mấy.

Thằng Hệ vừa nói góp thì Vô Pháp đã mắng át đi : “Hỗn! Lý với chả luận! Bác Chỉ kể tiếp tục đi”

Vẫn giọng nói thủng thẳng kiểu triết gia, Chỉ Nổ lần lượt phân tích từng vấn đề. Trước hết đồng dao chỉ nói đến một mình ông Dung, con người hiền lành tử tế nhất trong đám bốn người, vì tư tưởng nô lệ chính trị đã hằn sâu trong đầu óc thiên hạ. Trước đây dăm ba năm, chính trị là thống soái. Khoa học, kỹ thuật, chuyên môn nói chung xuất sắc lắm và chỉ những vị trí cần thiết ở cấp thấp mới được làm phó lãnh đạo.

- Cũng phải thôi ! Tốt nghiệp học viện chính trị Nguyễn Ái Quốc là có tài về quản “lý mà”.

Thằng Hệ lại cắt ngang. Lão Vô pháp chưa kịp quát con thì Chỉ nổ đã cười sằng sặc :

- Bác đang nói chuyện lịch sử mà ! Lịch sử với hiện tại khác nhau cháu ạ !

Lão tiếp tục nhẩn nha phân tích. Nói đúng ra cụm từ “cán bộ chính trị” là không có văn bản nào quy định, từ điển tiếng Việt cũng không có, nó là một cụm từ dùng trong văn nói, không dùng trong văn viết, do hoàn cảnh lịch sử đẻ ra. Nói đúng đán là do mấy ông “ít chữ” ấy đẻ ra. Đó là những cán bộ ít chữ trước hết phải là đảng viên, phần đông hoạt động từ xóm, xã, huyện đi lên. Không được đào tạo chuyên môn, nói là cán bộ phong trào cũng không sai. Sau năm 1955 Miền Nam tập kết đã bổ sung vào đội ngũ này một số lượng rất lớn. Tuy không học hành chuyên môn nhưng lại là những phần tử “Cách mạng nhất”, được tin tưởng nhất. nếu không ở cương vị lãnh đạo thì cũng phải ở những vị trí then chốt đòi hỏi lòng trung thành hơn là trình độ chuyên môn. Họ thường làm công tác tổ chức, lao động tiền lương, bảo vệ chính trị, chuyên trách công đoàn, thanh niên. Nguyên tắc cũng bất thành văn là lý lịch cán bộ chính trị chỉ những cán bộ chính trị có trách nhiệm mới được tìm hiểu, người khác thậm chí còn không được phép biết tên thật và ngày sinh tháng đẻ của họ.

Cán bộ chính trị đều là đảng viên nên thường có hai tên : tên khai sinh (tên thật) và tên cách mạng (tên giả). Tên khai sinh do cha mẹ đặt mang đậm tính giai cấp xuất thân. Trước cách mạng tháng tám, theo tập quán xã hội thực dân phong kiến, thường rất khó nghe đôi khi hơi thô tục. Còn tên cách mạng do họ tự chọn để đưa vào lý lịch đảng, thường rất mỹ miều kể cả họ lẫn tên. Có vị lấy họ tên của một học giả nổi tiếng đương thời để tự đặt cho mình, bỏ hẳn tên thật là Gian Thành Giảo. Có vị họ Kiều, quê gốc ở gần Đại La, nghe đâu là hậu duệ của Kiều Công Tiễn (Gia tướng phản chủ của Dương Diện Nghệ). Họ tên khai sinh là Kiều Văn Chuột, nhưng tên cách mạng tự đặt là Lê Hồ Nam, còn cái tên Kiều Văn Chuột không mấy ai biết. Lê ý chừng hướng về Lênin, Hồ đương nhiên hướng về Hồ Chủ tịch, vì tên này đặt sau cách mạng tháng tám.

Tư tưởng nô lệ chính trị đó đã hằn sâu trong óc mọi người. Chính trị càng thuần khiết, nghĩa là xuất thân không dính dáng gì tới tri thức, văn hóa càng thấp càng tốt. Tuy không “đả đảo trí phú địa hào” như thời Xô viết nghệ tĩnh, nhưng xuất thân có cái bằng cấp, đương nhiên phần lớn là bằng cấp của thực dân là đáng ngờ rối. Như cái sở Lục lộ này nói bốn ông là chính trị cũng đúng. Phó Khắc tuy là kỹ sư nhưng nhờ hoạt động chính trị đã lọt vào hàng ngũ lãnh đạo từ lâu rồi. Chỉ riêng ông Dung là bạch diện thư sinh mới vào đảng chưa lâu (thực ra cũng mười năm tuổi đảng rồi), kỹ sư nhưng chưa từng làm lãnh đạo, lại nhảy một phát lên phó sở. Tuy mấy năm nay đã có nghị quyết của đảng về bồi dưỡng chính trị cho cán bộ khoa học kỹ thuật để đưa lên lãnh đạo, nhưng cũng chỉ là lãnh đạo cấp thấp. lần này một bạch diện thư sinh vọt lên cấp sở quả là quá sốc.

Ông Dung trong trắng lý lịch ai cũng biết rõ, nhưng vì ông thuộc diện khoa học kỹ thuật, nên đã trở thành tấm bia cho dư luận. Có người đã nói rằng làm bia cho dư luận thì thà rằng làm bia cho người ta tập bắn đạn thật còn hơn.  Nhiều chuyện kể, nhiều giai thoại về cái chưc phó sở của ông. Bản thân ông cũng mặc cảm tự ty. Ông không dám lên xuống xe con tiêu chuẩn trong sở và trong khu nhà tập thể bình dân mà vợ chồng ông dành dụm mua được. Ông phải lên xuống ngoài phố chỗ khuất rồi mới đi bộ vào sở cũng như vào nhà.

Trưởng sở Hà ra đi không đề nghị đề bạt Phó Khắc, kỹ sư lão làng có bề dày chính trị như đã nói trên, không ai rõ lí do. Trưởng sở Nguyễn là tay đầy mình kinh nghiệm lãnh đạo, đã tha thiết xin chủ tịch phê chuẩn thêm phó Khắc.

Về sau người  ta đọc được trong hồi kí của trưởng sở Nguyễn về việc này :“kinh nghiệm lãnh đạo của tôi, một cây măng mọc thẳng! Tốt đấy! Nhưng ở vào chỗ gió bão phải có cây tre già ở cạnh để trụ vững thành tre.”

Cuộc trò chuyện trong nhà Vô Pháp không biết thế nào lại lọt được vào tai của cán bộ tổ chức.

Cuộc đời không may của hai vị cũng từ đó mà ra.

Bảy năm sau !

Tết Tân Dậu nghỉ những bốn ngày nhờ có chủ nhật bắc cầu thêm ngày mùng bốn. Ngày làm việc đầu năm được hôm đẹp trời. Nắng xuân ấm áp. Cổng sở mở toang cả hai cánh một cách hồ hởi. Ông già Long tưởng mình đến sớm nhất. Sau khi vui vẻ bắt tay chúc tết bác thường trực và nhận điếu thuốc lá ba số, thong thả đi lên lầu hai. Bác rút chìa khoá từ túi quần lững thững đi về cuối hành lang, nơi phòng làm việc.

Thoáng chút ngạc nhiên, cửa phòng có ai đã mở sẵn. Chiếc bàn trà nước được ai đó phủ một tấm ni lông đỏ sáng rực. Cửa sổ mở toang. Nắng xuân hắt vào canh đào cắm trong chiếc lọ sứ ánh' lên màu xuân mới. Xoay quanh lọ hoa đã thấy một gói mứt mậu dịch quốc doanh và gói Thăng Long chưa bóc. Áng chừng quà tết bớt từ tiêu chuẩn bìa gia đình đem đến góp vui.

Bác Long cũng cẩn thận rút trong túi xách ra ra chai rượu chanh nhãn hiệu nhà máy bia Hà Nội, một gói mứt mậu dịch.

Vừa quay lại, bắt gặp bà Ánh Dương, khệ nệ bưng khay ấm chén vừa đánh sạch bong từ sân đi lên :

- Năm mới! Chúc bác vạn sự như ý.

- Chúc cô xuân Tân Dậu như ý vạn sự, đắc tài đắc lộc.

    Hai người tươi cười bắt tay nhau. Bác Long cẩn thận vốc một ấm trà Bắc Thái loại của hiếm thiên hạ nhưng với phòng kế hoạch chỉ đạo thi công lại rất sẵn. Ông già cẩn thận lường đi lường lại cho hợp với dung lượng chiếc ấm. Bác thường nói ghét nhất là trà loãng nhưng cũng không ưa gì trà đặc. Bà Ánh Dương cẩn thận tráng qua một lượt nước sôi sau đó mới cho vào đầy ấm.

   Vừa lúc hai cánh cửa mở toang. Cô Nga, cô Mận, trưởng phòng Dũng, Vô Pháp vô Thiên, đồng loạt ùa vào. Trên tay người nào cũng có quà tết mang theo, trông cứ như đi lễ chùa.

- Hai bác đến khai phòng sớm quá nhỉ ? Cái điềm phòng ta sẽ lên tổ đội lao động Xã hội chủ nghĩa đây.

Cô Nga pha trò chưa hết câu là bà Ánh Dương đã lườm ngay

- Các cô còn trẻ, Xã hội chủ nghĩa rồi lên Cộng Sản chủ nghĩa như Liên Xô tha hồ mà sung sướng. Còn lũ già chúng tôi quá độ Xã hội chủ nghĩa thì chỉ có «cố đoạ » mà thôi.

          Bà Ánh Dương vốn thạo nói lái, nghe đâu bà cùng huyện với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, nay đang ở phố Trúc Bạch cũng là phường khán xuân của bà chúa thơ nôm giỏi nói lái. Cô Mận vui vẻ khoe: « Nhà em năm nay được hai suất thịt Công đoàn, hôm ba mươi tranh thủ tiếp tế cho mẹ một ít, trời mưa đường trơn mãi đến giao thừa anh nhà em mới đạp xe về đến khu tập thể ». Vô Pháp Vô Thiên tiếp lời : «Tưởng nhà trường chỉ có chữ nghĩa giáo trình, nào ngờ bà Ngang nhà tôi mang về khối thứ có cả thịt bò là loại quốc cấm. Cả thành phố chỉ có một địa điểm phân phối cho các cụ cao cấp». Mạnh Kha, anh chàng hay đùa tếu vừa vỗ vai Vô Pháp vừa góp chuyện :

- Nói thịt Công đoàn đúng mà cũng không đúng. Vú đàn ông thì làm gì có thịt phải không bác Ngạnh. Nhưng cũng đúng, đố thằng đàn ông nào không có vú. Thịt tết cũng vậy vì đây là thịt lậu vượt quá tiêu chuẩn nhà nước. Công đoàn nhân danh đời sống đứng ra chịu trận. Nhưng đằng sau phải là chính quyền, là thủ trưởng. Bò, lợn giá thu mua của sở ta đều từ mấy huyện có công trình trạm bơm về phải không nào ?

          Ông già Long lúc này mới lên tiếng : «Phải ! Năm nào cũng vậy khi các Sở, Ban, Ngành nhận được thông tư cấm mua lậu trâu bò, lợn của Hợp tác xã về ăn tết, là lúc đi qua vườn Bách thảo đằng sau uỷ ban đã thấy dăm sáu con trâu bò nhởn nhơ gặm cỏ để chờ ngay ra pháp trường.

          Vừa lúc Chỉ nổ bước vào :

-    Chào năm mới ! Tôi lên muộn vì gặp ông Dung và ông Giáo (hai vị phó sở) giữ lại nói chuyện với phòng bảo vệ. Các ông đi rồi mới được lên đây !

Hiểu đuợc tính nổ của Chỉ, quả này lại chưa lớn nên chả ai đáp lời ngoại trừ bà Ánh Dương lầm bầm : «Cũng như cái sự học trường Anbexarô, có trời mới biết được». Chỉ vội đùa quả nổ thứ hai to hơn

- Năm nay gia đình tôi rất vui. Vừa được nhận nhà lắp ghép thì lại được chủ tịch Đỗ Chín đến thăm chúc tết, ngồi chơi chừng nửa tiếng, thật vinh dự.

Quả nổ này quá lớn. Người đầu tiên lên tiếng là Vô Pháp Vô Thiên :

- Thôi đi ông ! Tưởng ông bà ông vải hiện về chúc tết nhà ông mới là chuyện lạ. Với cánh này thì đỗ hay lạc, Chín hay Tám thì cũng vậy, không có gì là quan trọng.

      Vừa nói y vừa ném tờ báo đăng tin và hình ảnh chủ tịch Đỗ thăm khu tập thể Xuân Khanh nơi có căn hộ của Chỉ Nổ tít tận lầu năm vừa mới được phân phối. Bị tẽn tò vì câu bốp chát nhưng biết đối thủ là ai Chí nổ vội chuyển gam : «Năm mới sở ta sắp có nhiều cái mới đây!». Vô Pháp đối tiếp :

- Ông lại gặp đồng chí bạn học thời Li xê an be Xa Rô đang làm thư ký riêng cho chủ tịch Đỗ chứ gì ! Cánh này thì cứ nhìn thái độ bọn «Bộ tứ» chuyển pha là biết ông Nguyễn sắp đi rồi.

- Sắp có trưởng sở mới ư ? Ai thế ?

          Mọi người nhao nhao hỏi giật. Riêng Ánh Dương, người đàn bà đáo để nhất trong cơ quan nói to lên :

-    Ai đi ai đến thì cũng chỉ liên quan đến quyền lợi của bọn bộ tứ. Chúng thì như con tắc kè hoa, như cái chong chóng đo gió của khí tượng. Ưu ái của ai đi nữa thì cũng chỉ quanh quẩn trong cái xóm ấy mà thôi. Chúng mình thì cứ năm năm lên một bậc, tuần tự như tiến, đến hẹn lại lên liên quan gì đến ai ?

     Nói xong bà bỏ về. Cuộc thảo luận không vì thế mà kém phần sôi nổi.

     Nhiều ý kiến cho rằng không thể có chuyện người sở khác đến thay ông Nguyễn. Thời điểm này đang thịnh hành phương châm «nguồn lực tại chỗ ». Không biết có phải là một sai lầm không. Nguồn lực tại chỗ nên bất kỳ cơ quan nào, địa phương nào cái ghế thủ trưởng bao giờ cũng là cái ghế lửa. Nếu nhấc  được bác trưởng ra khỏi ghế bằng bất cứ cách nào thì cả một dây chuyền kế cận trong cơ quan đều được nâng lên một cấp. Nói dại ra nếu thủ trưởng có đi lên Niết Bàn hay Thiên đường thì nỗi buồn cũng chóng khuây khoả hơn là già rồi mà vẫn giữ riệt lấy cái ghế, làm dồn toa thiệt chung cho nhiều người.

       Sôi nổi nhất là phần đoán già đoán non, nguồn lực tại chỗ thuộc cánh chính trị hay khoa học kỹ thuật. Cánh chính trị được «xét» trước, sùng bái chính trị vẫn nặng trong đầu óc mọi người. Phó Chút được loại khỏi vòng đàm luận đầu tiên tuy ông là phó sở già đời nhất so với các vị khác, chỉ thua trưởng sở Nguyễn mà thôi. Ông thuộc thành phần cách mạng «thuần khiết» nhất, chẳng những không liên quan đến giai cấp phong kiến, thực dân, bóc lột mà cũng không liên quan đến nhiều chữ nghĩa. Trước  cách mạng, làm phu khuân vác cho nhà máy xay Yên Mỹ. Có thành tích dám ném cả bao trấu vào mặt tên cai, thể là được giác ngộ. Vết đen lý lịch lại chính là thành tích trong cải cách ruộng đất. Ông đã «phát hiện đánh trúng» nhiều phần tử «phản cách mạng» chui vào đảng, đã leo cao hơn ông. Thành tích kháng chiến chống Pháp của họ là thật. Miệng lưỡi ông đã biến họ thành Quốc dân đảng chui vào, thành tích chiến đấu của họ là để «leo cao phá to». Cái tôi chết người của họ là thành phần xuất thân không vô sản thuần khiết như ông.

Các đồng chí xuất thân càng vô sản thuần khiết, càng tự hào bao nhiêu thì các đồng chí không vô sản thuần khiết nghĩa là có tý chút dính dáng đến thành phần đủ ăn đủ mặc, biết chủ nghĩa trở lên thì lại luôn luôn mặc cảm tội lỗi thành phần của mình, thường e dè tránh né. Các đồng chí vô sản thuần khiết làm gì cũng đúng, nghĩ gì cũng đúng. Cho đến khi gây hậu quả nghiêm trọng như cải cách ruộng đất, cải tạo công thương thì lại được coi là việc làm sai nhưng động cơ tốt tả khuynh một cũng không sao. Hàng ngàn cái chết oan uổng của đảng viên có công với cách mạng, được đổi lấy vài lời xin lỗi sau khi các đồng chí thuần khiết đã «tự nghiêm khắc phê bình và kiểm điểm».

Phó Hoàng và phó Bùi cùng đề bạt một lần với phó Dung, bề dày chính trị không bằng Phó Chút và cũng không phức tạp như Phó Chút nhưng cũng đều có vấn đề. Thuở đảng chưa ra công khai, thủ tục chuyển sinh hoạt đảng thiếu chặt chẽ. Hai ông tuy ở hai địa phương khác nhau nhưng đều giả mạo thủ tục để «tự vào đảng ». Nhờ tài ăn nói nên chả mấy chốc đều lên chức huyện ủy. Sau khi đổi tên thành đảng Lao Động, đã tiến hành rà soát lại lý lịch. Hai ông đều không có chi bộ nào nhận đã kết nạp theo như điều lệ. hai ông biết nguy nên đã tự thú trước, nên được đảng xét đặc cách công nhận và chuyển đi địa phương khác công tác.

Phó Hoàng và Phó Bùi có vẻ nặng ký như nhau nếu Chỉ nổ không lôi ra một cái tin động trời. Tính lão hay nổ, rất to nữa là đằng khác. Nhưng đôi khi những thông tin không liên quan đến lão và nhất là khi lão ra vẻ khệnh khạng long trọng thì cũng đúng ra phết. Lão chờ cho mọi người ngước mắt chờ đợi mới hấp háy cặp mặt ti hí khề khà :

- Tôi được một ông bạn cùng học thuở Lycée Anbe-Xarô (trời mà biết lão có học lycée hay không) hiện làm thư ký cho bí thư kể lại rằng thì là mấy năm về trước, trưởng sở Nguyễn dẫn theo các phó sang báo cáo với bí thư dự án xây dựng thủy điện Tả Hoàng kết hợp cắt lũ. Phó Khắc đứng ra báo cáo. Vốn thận trọng ông nêu hết những khó khăn và yêu cầu to lớn về vật tư, công nghệ và thời gian thi công mặc dầu biết tính bí thư hay sốt ruột :

- Nếu có Liên Xô giúp, công trình này mấy năm mới hoàn thành ?

Bí thư ngắt lời ra vẻ nóng vội. Phó Khắc vẫn bình tĩnh :

- Dạ thưa, nhanh nhất cũng phải mười năm.

Không khí đang căng thẳng, bí thư đang sa sầm nét mặt. Khoảnh khắc lặng im của một núi lửa sắp phun. Bỗng phó Bùi giơ tay xin nói. Trưởng sở Nguyễn bối rối biết phó Bùi sẽ gây hoạ vì hay nói theo kiểu «nghe hơi nồi chõ». Nhưng khoảng cách quá xa không cho phép bấm chân bấm tay.

- Dạ thưa kinh nghiệm của thế giới !

- Thế giới nào !

Bí thư cau có chặn họng. Trưởng sở Nguyễn khấn thầm trong bụng : «Lạy trời ! Xin đừng nói đến Trung Quốc». Không kịp nữa rồi ! Phó Bùi tuôn ra một mạch nào là mười mấy năm về trước đi tham quan Trung Quốc, đã thực mục sở thị họ xây dựng Tam Môn Hiệp. Quy mô khối lượng khó khăn gấp nhiều lần Tả Hoàng …

- Thôi ! Đừng dài dòng ! Họ làm trong mấy năm !

- Dạ thưa bốn năm ạ !

Rầm! Chiếc bàn con trước mặt bí thư bị bàn tay hộ pháp của ông giáng xuống với tất cả tức giận có thể có được. Ấm chén rơi loảng xoảng. Phó Khắc nhổm cả đít lên. Bí thư hét lớn :

- Anh kia ! Có phải là phản động không đấy ! Định bôi xấu Liên Xô phỏng ! Đây không có chỗ cho anh ! Ra ngay !

Bí thư chỉ ra phía cửa. Khi phó Bùi đã khuất sau cánh cửa, ông Nguyễn mới đỡ lời :

- Dạ thưa ! Anh ấy là cán bộ chính trị nên đã nhầm to !Bốn năm chỉ mới làm xong dẫn dòng thi công. Còn xây dựng thì hơn chục năm nay vẫn chưa đâu vào đâu.

Bí thư dịu ngay nét mặt :

- Có thế chứ! Thôi! Các anh về nghiên cứu kỹ lại rồi bàn với tôi sau ! Nhớ đừng bao giờ nhắc đến tay ấy trước mặt tôi.

Bí thư nhớ dai lắm. Nghe đâu, năm vừa qua khi đến dự cuộc họp để nghe báo cáo quy hoạch sông Cồn Hàn phía nam, vừa gặp trưởng sở Nguyễn ông đã hất hàm : «Anh không mang theo thằng cha mách lẻo khoác lác ấy chứ »

Tất cả đều nghiêng về phó Hoàng. Lý lịch phó Hoàng cho đến nay vẫn được giấu kín. Theo « Bình loạn » của Vô Pháp Vô Thiên thì không có văn bản nào quy định lý lịch cán bộ chính trị là hồ sơ mật, chẳng qua là mấy ông làm công tác tổ chức tự đặt ra để tự bảo vệ lẫn nhau vì xem ra lý lịch của mấy ông chính trị thường có lắm vấn đề. Tuy nhiên cán bộ chính trị thường «Nói vậy mà không phải vậy ». Đôi khi chính bọn họ lại gián tiếp tiết lộ những vết đen động trời trong lý lịch những vị mà họ không ưa, không cùng phe cánh. Riêng phó Hoàng đang là phó sở thường trực, phó bí thư đảng đoàn, đồng hương với trưởng sở, đang được cây đa cây đề nâng đỡ cùng cánh hầu với bộ tứ của cơ quan.

Phó Hoàng chắc chắn sẽ là người thay thế ông Nguyễn.

Cùng một lúc hai bà dọn vệ sinh tập thể lên gặp trưởng phòng quản trị xin nghỉ việc.

Bà chuyên dọn vệ sinh nhà xí nói trước :

- Thưa thủ trưởng, hai mươi buồng xí xổm ngót nghét cho sáu trăm con người, em đã kiệt lực rồi. Nay lại thêm ngót ba chục con lợn nuôi trong nhà, phân cũng hót đổ ra đấy em làm sao kham nổi. Xin thủ trưởng cho em hưu non hoặc về mất sức ạ.

Bà dọn rác cũng nhăn nhó : «Phân lợn đổ nhà xí, còn hàng đống cọng rau, phân gà, cám bã thừa lại đổ sang hố rác. Em cũng xin nghỉ nốt ».

Ông Cựu phụ trách quản trị, quân nhân chống Pháp chuyển ngành, một con người nói năng không văn hoa nhưng thực bụng, tin người. Thế mà vẫn vò đầu bứt tai dậm chân :

- Các bà nghỉ hết để họ đổ vào nhà tôi à ? Có bảy mét vuông, có đổ cũng chưa đến một ngày là đầy ắp.

Hai bà vẫn cứ năn nỉ. Ông Cựu gần như hét lên :

- Cơ quan nhà nước mà các bà làm như cái chợ, muốn ở là ở, muốn đi là đi. Các bà cũng biên chế nhà nước, cũng có thẻ công đoàn. Tưởng tôi không khó khăn chăng ? Các bà đang làm khó tôi đấy. Mỗi người phải cùng ghé vai chứ. Để ngày mai tôi sẽ có biện pháp.

Câu chuyện có lẽ còn tiếp tục nếu không có bà Nguyệt vợ kế của phó Hoàng đi qua

- Chào chị ! Có việc gì mà chị phải đi vào cái «trại hủi» này vậy.

Ông Cựu tươi cười lên tiếng trước. Hai bà công nhân vệ sinh biết ngồi lại cũng vô duyên nên lí nhí chào bà Nguyệt, chào ông Cựu rồi ra về. Bà Nguyệt tươi cười :  «Đúng vậy ! Không có việc không ai đến điện Tam bảo phải không thủ trưởng ». Bà chỉ đứng trước cửa, không vào vì thấy căn buồng của ông Cựu quá chật. Bà yêu cầu thay hàng loạt bóng đèn cho căn hộ của bà. Đèn neon quá tuổi chỉ sáng lờ mờ. Bà cũng yêu cầu văn phòng cải tạo lại khu vệ sinh nhà tắm luôn thể.

Ông Cựu thoáng chút nhíu mày nhưng lại tươi cười ngay lập tức :

- Bóng đèn thì tôi sẽ cho thay ngay chiều nay ! Còn cải tạo cải tiếc gì đó thì còn phải dự trù vật liệu, nhân công ! Cái đó tính sau chị nhé !

- Vâng, cũng được !

Bà Nguyệt vừa đi khỏi, ông Cựu lầm bầm : «Cải, cải cái con khỉ ! không nhìn thấy khu trại hủi này ư ? Ngồi đấy đợi đến mùa quýt nhé ! ». Lời lẽ đối đáp giữa hai người không qua mắt được mấy bà đang xúm đen lấy nước, giặt giũ ở cái vòi công cộng gần đó. Ông Cựu vừa khép cửa cái rầm vì bực bội thì câu chuyện quanh vòi nước đã râm ran.

- Bà Nguyệt từ bữa ra tết đến nay thay đổi lạ, mềm mỏng dịu dàng với mọi người.

- Mà cũng lạ. Nhẽ ra trước yêu cầu của bà ông Cựu phải «Dạ ! Dạ ! Em cho làm ngay ! » như thường lệ, lại nói dự trù dự triếc và lại để tính sau. Thế thì có khác gì là từ chối.

-    Trước đây nếu thế bà nguyệt đã nổi tam bành lên rồi. – Bà Chiến vợ ông cán bộ tổ chức nửa úp nửa mở.

-    Trước đây làm gì có chuyện từ chối mà có chuyện nổi tam bành. Lời của ông Hoàng bà Nguyệt là Quân lệnh như sơn, khó khăn nào cũng phải vượt qua. Sắp sửa có thay đổi đấy.

Câu chuyện của bà Chiến đang hấp dẫn thì có người gõ cửa buồng ông Cựu và báo tin ngày mai có xe chở cám gà, cám lợn về phân phối. Thế là mọi người quay qua chuyện đời sống. Khi những lọ mỡ của tết Tân Dậu vừa cạn thì cũng là lúc dư âm cải thiện của đợt bù giá vào lương lần thứ nhất cũng chấm dứt. Bảy mặt hàng tem phiếu định lượng tuy vẫn không bớt, nhưng giá nhu yếu phẩm khác thì lại tăng vùn vụt phi nước đại, bỏ xa anh « bù lượng » chậm chạp như rùa. Thà rằng đừng thi chạy thì hơn. «Tố Hữu tăng lương không theo kịp, Trần Phương tăng giá ».

Đời sống kinh tế ngày càng khó khăn, có nguy cơ bất ổn. Chiến tranh biên giới tuy ngừng tiếng súng nhưng chưa phải kết thúc. Hàng triệu bộ đội vẫn phải túc trực chiến đấu, một số lớn còn phải sang giúp đỡ chính quyền non trẻ của nước bạn để ngăn ngừa Khơ me đỏ ngóc đầu dậy. Thêm một lực lượng không nhỏ công an canh giữ vùng biên ngăn ngừa làn sóng thuyền viên di cư sang các nước tư bản. Đồng thời cũng ngăn ngừa bọn ngụy quân ngụy quyền lưu vong lăm le trở về gây rối.

Nông nghiệp đã suy thoái đến tận cùng, ngày càng nhiều ruộng bỏ hoang vì nạn «rong công phóng điểm » của bộ máy quản lý hợp tác xã. Mỗi ngày công cật lực của xã viên được tính ngang bằng một buổi nhậu nhẹt của cán bộ tiếp đón cấp trên hoặc «thăm đồng » là dạo xem đồng ruộng để «chỉ đạo » sản xuất. Một ngày công lao động phải cõng ba bốn ngày công gián tiếp của cán bộ. Thóc ít, công điểm nhiều, mỗi ngày công bình quân có nhiều nơi chỉ còn ba lạng thóc.

Ruộng đất bỏ hoang, mỗi năm phải nhập khẩu hơn triệu tấn lương thực. không còn nguồn viện trợ của phe ta như thời còn chiến tranh mà phải «Tiền trao cháo múc». Hạt bo bo, tấm, lửng … những cái mà nước ngoài để chăn nuôi thì nước ta tính vào khẩu phần lương thực. Hàng hóa vật dụng nhu yếu phẩm ngày càng khan hiếm, mặc dầu cuộc cải tạo công thương ở nửa nước phía nam vừa giải phóng đã thành công tốt đẹp. không chỉ vải vóc mà ngay đến cái kim sợi chỉ cũng phải thực hiện chế độ phân phối.

Để có hàng hóa bao cấp cho giới chức ăn lương với số lượng quá ư khổng lồ, nhà nước phải bán phân phối với giá rẻ mạt, «bán như cho » một khối lượng hàng hóa khổng lồ không kém. Để tránh lạm phát bội chi ngân sách nhà nước buộc phải thu mua hàng nông sản của nông dân cũng với giá rẻ mạt với định lượng bắt buộc gọi là bán nghĩa vụ. Để hoàn thành chi tiêu pháp lệnh thu mua, buộc chính quyền các địa phương phải ngăn sông cấm chợ. Cấm liên thông mọi thứ hàng hóa theo luật pháp của địa phương.

Để có nguồn hàng «bán như cho», buộc phải «mua như cướp». Nông dân bị «mua như cướp» nông sản thực phẩm, nhưng lại được «bán như cho»các mặt hàng nhu yếu phẩm như vải vóc, xà phòng, thuốc chữa bệnh …Đặc biệt là «cho không » y tế, giáo dục. Con em đi học không phải đóng bất cứ «phí gì », còn được «mua như cho » sách vở, bút mực. Về y tế thì cho không thuốc chữa bệnh và viện phí, không có cửa hàng thuốc tư nhân, tiêu chuẩn cung cấp. Tuy có chênh lệch nhưng không có sự phân hóa giàu nghèo. Không có gian thương, chỉ có mua đi bán lại tiêu chuẩn tem phiếu để ăn chênh lệch chút đỉnh đã bị coi là tệ nạn xã hội, gia đình cán bộ đảng viên không ai dám làm cái việc xã hội khinh bỉ gọi là con phe.

Để tìm cách bứt ra khỏi khủng hoảng kinh tế, nhà nước đã vùng vẫy hết sức trong cái lồng «quan liêu bao cấp » xã hội chủ nghĩa bằng cách lập nhiều ban bệ cải tiến. Vĩ đại nhất là ban giá – lương - tiền, rồi đến ban lưu thông phân phối, ban phân bố lao động. Ăn theo trào lưu cải tiến, không liên quan gì đến kinh tế, ngành văn hóa cũng thành lập ban tuyển chọn quốc ca. Đồng dao thành ngữ, tiếu lâm thời đại nở rộ như nấm sau mưa. Nào là mười loạn «Thứ nhất là loạn quốc ca, thứ hai loạn giá, thứ ba loạn tiền» hoặc là : «Trần Phương cùng với Trần Quỳnh, thêm ông Trọng Tuyến giá càng leo cao »

Câu chuyện chiều chủ nhật tuần trước giữa ông Cựu và bà Nguyệt được bà Ánh Dương đem kể ở cơ quan. Phòng kế hoạch và chỉ đạo thi công luôn tỏ ra nhanh nhẹn với thời sự, nhất là với ba cái thứ đồng dao, thành ngữ biến tấu nói trên, nhưng lại rất tẽn tò về sự dự báo đầu xuân Tân Dậu mà họ luôn cho rằng như đinh đóng cột. Đó là chuyện phó Hoàng, ứng cử viên nặng kí nhất vào chức trưởng sở lại đột ngột ra đi lặng lẽ, quyền lợi tuy vẫn là cấp phó Sở.vì ban phân bố lao động tuy đặt dưới lãnh đạo của trưởng Sở thương binh và xã hội nhưng nó vẫn là cấp sở.

Sáng nay, trưởng phó phòng đều lên hội trường để dự lễ tiễn đưa. Cuộc « bình loạn » mỗi khi vắng lãnh đạo được bà Ánh Dương khai mạc, khi bà ngước mắt về phía Chỉ nổ :

- Ông Chỉ à ! Ông «BBC» vỉa hè quen biết nhiều thư kí của các quan chức cỡ bự mà sao lần này lại lạc hậu với thời sự đến thế ?

Mọi người cùng nhao nhao : «Lần này thì ông Chỉ trật lấc rồi»

Vô Pháp Vô Thiên đế thêm : « Vì mấy ông bạn « thuận phong nhĩ, thiên lý nhãn » của ông Chỉ trên thiên đình di vắng ».

Nhưng Chỉ nổ đâu phải là người dễ dàng bị bài xích. Chờ cho mọi người bớt nhao nhao lão mới thủng thẳng đi lại bàn nước tự rót cho mình một chén trà đặc. Thói quen sắp nổ đấy. Mọi người nháy mắt với nhau.

Quả đúng như vậy ! Chỉ vừa ngồi vào chỗ, đưa chén trà lên miệng nhấp một ngụm. Cả phòng tự nhiên im lặng chờ đọi.

- Tôi đâu có bất ngờ. Quả là hơn tháng nay mấy ông bạn chí cốt của tôi nơi Bí thư và Chủ tịch điều đi nước ngoài. Việc ông Hoàng ra đi đối với tôi cũng như cuộc Tổng tấn công tết Mậu Thân của ta đối với Giôn-xơn, nghĩa là không bị động về chiến lược mà bị động về chiến thuật.

Chỉ nổ giải thích rằng tín hiệu ông Hoàng ra đi đã có từ vài tháng trước. Có điều Chỉ chưa nói vì chưa biết ngày giờ chính xác, và cũng muốn để dành sự bất ngờ cho toàn phòng. Tín hiệu rõ nét nhất là nhìn vào thái độ đối xử của bộ tứ, và mấy tay ở phòng thư ký.

Phòng làm việc của phó Hoàng ít tấp nập hơn trước. Gặp phó Hoàng ở sân hay ở hành lang bọn họ cũng bớt khúm núm và tiết kiệm nụ cười. Có mấy anh cán bộ tổ chức còn to tiếng cãi vã với bà Nguyệt kế toán trưởng, vợ kế của phó Hoàng, khi thanh toán công tác phí…Bà Nguyệt vốn hống hách và được mọi người trong sở nể trong gần đây cũng đâm ra mềm mỏng hơn nhiều.

Nhất là khi biết chắc ông Hoàng sang sở mới không được mang theo cán bộ nào cả, kể cả bà vợ yêu mà biết chắc mọi người sẽ căm ghét. Người mới, việc mới, một thân một mình,  « hàng thần lơ láo ». Cũng mất luôn hai chữ thường trực của chức phó đầy  quyền lực.

Nói theo kiểu Vô Pháp Vô Thiên thì cánh chính trị coi như hạ màn. Cánh kĩ thuật sẽ lên ngôi.

Ông già Long, ít điều nhất đám lần này lại nói trước :

- Phó Khắc tuy bề dày chính trị và kĩ thuật hơn hẳn mọi người. Trong mắt trưởng sở Nguyễn là « cây tre già » để cho ngọn măng phó Dung đứng vững trong giông bão, và nay đã trở thành tre. Vì tuổi cao sức yếu, lại quá cẩn thận khiêm tốn. nói cái gì cũng rào trước đón sau với cụm từ « có nhẽ ». vốn dòng dõi nho gia, không muốn « làm chi để tiếng về sau », nên ông đã tự loại mình ra khỏi cuộc đua.

Nhân vật nặng ký nhất là ông Giáo, đề bạt phó sở sau ông Dung chừng ba năm. Gọi ông Giáo vì ông là giáo sư được nhà nước phong vào đợt đầu tiên và là giáo sư đầu tiên của ngành. Chính trị thì ông chỉ thua có trưởng Hà và trưởng Nguyễn. Còn « hồng » thì ông thắm hơn các ông kỹ thuật khác.

Còn chuyên sâu thì không cần phải nói.

Cũng có thể được coi là kĩ sư và tiến sĩ của ngành được đào tạo đưới mái trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc và Liên Xô. Nếu như không có cái loạn  Khơrútsốp, cái bọn đòi xét lại chủ nghĩa Mác-Lênin kim chỉ nam muôn thuở của loài người thì ông đã làm xong cái luận án của tiến sĩ cấp hai.

Ông vào đảng trước tất cả các cán bộ khoa học trong sở. Con đường học hành cũng đi trước họ.

Dưới con mắt « lập trường » thì ông xuất thân cũng không được thuần khiết vô sản. Có nghĩa là bố mẹ ông không quan lại quan lại địa chủ nhưng không nghèo khổ. Ông không bị ai « róc xương rút tuỷ » mà chỉ có việc cắp sách đến trường, bụng lại nhiều chữ, nên bị liệt vào đảng viên lớp trên, dễ quay lưng lại với giai cấp.

Tai hoạ ập xuống đầu ông mấy chục năm trời cũng chỉ do cái loạn Khơrútsốp.

Có thể liệt ông vào loại chăm chỉ, thông minh, học rất giỏi. Khi phó Dung còn học cấp một thì ông đã học ban tú tài. Ông Dung lên cấp hai thì ông Giáo đã du học Trung Quốc.

Về chính trị, ông cũng là đàn anh trong cánh khoa học kĩ thuật trong ngành. Vào đảng năm 1948 khi còn đang học tú tài, còn ông Dung lúc ấy lại đang sinh hoạt thiếu nhi.

Nỗi oan của ông bắt nguồn từ học rộng tài cao, nhân cách hào hoa phong nhã, thích khôi hài kiểu đồ nghệ cả trong những năm tháng u ám của cuộc đời.

Dưới con mắt của những nhà vô sản thuần khiết, lập trường kiên định thì ông là người đã quay lưng lại với giai cấp. Ghét nhưng chẳng làm được gì.

Bỏ dở bằng tiến sĩ cấp hai vì loạn Khơ rut xốp về nước là dịp may cho những người thi thố lập trường. Lãnh đạo cao nhất của sở nhận xét về ông ghi trong sổ tay : « thành phần tốt, có tài nhưng tự kiêu tự mãn, khinh thường giai cấp (có lẽ là khinh thường những người dốt nát), cần lưu ý giáo dục ».

Ông vẫn được sinh hoạt Đảng nhưng đi đâu người ta cũng xì xào là «thằng xét lại». Hơn mười năm trong nhiệm kỳ của trường sở Hà, ông không nhận bất cứ chức vụ nào của Đảng, chính quyền hoặc đoàn thể. Có dạo được bầu vào chức vụ công đoàn phòng giáo vụ mà vẫn bị cấp trên bác bỏ bắt bầu lại người khác.

Nhất cử nhất động của ông đều được theo dõi phản ánh kịp thời với trưởng sở Hà và tổ bảo vệ chính trị cơ quan.

Có lần đi xếp hàng may mắn mua một lúc bốn mớ rau muống mậu dịch. Phấn khởi quá, ông vừa đi vừa huýt sáo. Dừng xe đạp ngoài sân, ông cẩn thận gỡ từng mớ vừa ném vào căn bếp nhỏ, vừa nhìn vợ vừa hát: “Cho ngày nay, cho ngày mai, cho hai ngày sau”.

Lãnh đạo Sở đã cho điều tra về tội mỉa mai chế độ. Tổ đảng, công đoàn và khu tập thể có mặt ở sân hôm đó, đã chứng nhận khi vất bó rau thứ nhất ông có hát “cho ngày nay”, bó thứ hai “cho ngày mai”, không phải là “cho muôn đời sau” như người ta phản ánh.

Một nhà khoa học đầu tiên và đầu ngành bị dìm như rứa đó Già Long vừa nghỉ lấy sức thì bà Ánh Dương chen vào:

- Khổ thế đã thấm vào đâu so với ông Tâm, ông giao còn có đoạn tái hồi kim trong để làm phó Sở và nhân học hàm giáo sư. Còn ông Tâm thì nhảy xuống song Tiền Đường mà không có ai vớt.

Bà Ánh Dương tiếp tục kể về lai lịch ông Tâm trong quãng “bốn năm liên lạc”. cho tới lúc “giọt nước Tiền Đường chẳng rửa oan” của ông ấy.

Cùng học sinh tú tài trong kháng chiến chống Pháp, cùng Đảng viên, cùng du học Trung Quốc một khoá với ông giáo, cũng có bằng đỏ. Hơn ông giáo ở chỗ bố đẻ là Đảng viên cộng sản trước năm 1945, khi ông Tâm du học, bố đang là bí thư huyện ủy. Trong đợt chỉnh đốn tổ chức song song với cải cách ruộng đất, bị các đồng chí vu cho là Quốc dân Đảng chui vào leo cao phá to. Không chịu được truy bức, đã tự tử trong tù, nên khi sửa sai không được khôi phục Đảng tịch.

Di hoạ để lại cho con. Ông Tâm trở về nước tự dưng không được giới thiệu sinh hoạt Đảng. Cũng không được giao nhiệm vụ gì mặc dầu Sở lúc ấy chỉ có vài ba kỹ sư . Ba bốn năm, nằm dài trong buồng ngủ tập thể làm thơ. Không ai chơi với ông vì sợ liên quan đến thằng chống đảng.

Ngay cả ông cán bộ cùng hoạt động trước năm 1945 với bố Tâm cũng cho rằng bố ông là phản động nên không thèm nhìn nhận khi ông mới về nước đến chào xã giao! “Ai quen biết bố anh mà chú với cháu! Tôi là người làng chỉ khuyên anh cải tạo tốt”. Cuối năm 1959 áng chừng không chịu nổi dồn nén nên trên đường về quê giỗ bố, đã nhảy xuống bến phà Ghép tự tử. Ông cán bộ tổ chức thay mặt cơ quan xử lý vụ đó về đã hạ một câu xanh rờn “tao chôn thằng chống Đảng đó như chôn một con chó”.

Chị Nổ lúc này mới chen vào:

- Bách khoa khoá một, Đại học y khoá đầu tiên trước khoá một ở Sở ta cũng có hàng chục anh vẫn ăn lương trung cấp mà không được phát bằng đấy là gì!

- Sao không khiếu kiện? Một cán bộ trẻ đột ngột cắt ngang.

Chỉ Nổ không tự ái vẫn tiếp tục: “Kiện ai! kiện như vậy là kiện “tổ chức”, kiện trên” một cụm từ thiêng liêng không ai dám đụng chạm. Nhịn nhục để may còn sống được, và khi trưởng sở Nguyễn về thay đã xét và trả lại bằng cấp với bậc lương.

- Bác Chỉ đây bậc lương cũng lận đận nhưng nhìn vào những anh em cùng khóamột, tự thấy mình cũng còn may. “Tri thường bất túc tri hạ hữu dư” mà.

Biết vô Pháp vô Thiên chửi xỏ mình, Chỉ Nổ vội chuyển gam

- Cùng được “giải phóng” một lúc nhưng ông giáo được phóng to hơn, lại có lãnh đạo cấp cao là bạn học, biết tài năng và nỗi oan của ông, nhưng trước đây không dám gỡ. Dây vào nghi án chính trị chết oan như chơi. Trong cải cách ruộng đất có ông Đoàn uỷ bấm bụng ký vào bản án tử hình một đồng chí trước đã ngồi chung xà lim thực dân với ông hàng năm trời. Ký xong quăng bút quay mặt vào tường, thế mà còn bị cô phục vụ đem cái vỏ gối ướt đẫm nước mắt trình lên đoàn trưởng. May mà lý lịch vô sản thuần khiết nên chỉ bị thôi biên chế về đuổi gà cho vợ.

Như chạm phải nỗi đau chung, nhiểu người cướp lời Chỉ Nổ. Người ta kể rằng trong cái hèn nhát chung, Đảng viên cũng có người oanh liệt. Như cái ông gì đó ở khu Bốn, cán bộ tuyên huấn khu uỷ, cũng vô sản thuần khiết, nhiều chữ nghĩa mà không vướng bằng cấp được Đoàn uỷ cái cách ruộng đất cử làm chánh án lưu động “ toà án nhân dân đặc biệt”.

Toà án nhân dân! Vì gồm toàn bần cố nông. Đặc biệt! Vì từ phó chánh án đến các hội thẩm đều không biết chữ, có biết cũng không đọc nổi chữ đánh máy. Công tố thì đã có hàng trăm khổ chủ và hàng ngàn tiếng hô xé xác hỗ trợ uy hiếp bị cáo. Không có thư ký vì không cần biên bản.

Kết thúc phiên toà là vị chánh án lưu động rút bản án đã đánh máy sẵn ở nơi Đoàn uỷ, trịnh trọng tuyên đọc và thi hành ngay. Bị cáo cũng không kịp hiểu. Quần chúng reo hò vang trời. Sau đó ai về nhà nấy, không ai nghi ngờ hỏi han bản án đã tuyên vì ông chánh án đã đi sang xã khác. Lợi dụng sự sơ hở đó, ngài chánh án đã làm thử. Nếu là tù chung thân trở xuống ông không can thiệp. Nhưng nếu tội nhân là Quốc dân Đảng, hay địa chủ cường hào gian ác nhưng đã “chui vào Đảng” để “leo cao phá to” mà bản án ghi là tử hình thì ông trịnh trọng tuyên bố là chung thân.

Qua hai đợt cải cách ruộng đất cuối cùng trước khi sửa sai lại kết hợp chỉnh đốn tổ chức, số đảng viên bị bắn khá nhiều, ông đã nhập nha cứu được nhiều cán bộ của Đảng bị vu oan. Cho đến một hôm, bị một thằng Đội cải cách cáo già phát hiện. Ông bị bắt trói và đánh cho tưởng chết. Đang thản nhiên ngồi trong nhà lao chờ án tử hình thì được tha.

-    Bố ơi! Cứ như là chưỵen Liêu trai ! Bố có phịa để bịp chúng con không đấy !

Mấy cậu trẻ không tin, vừa lên tiếng thì bà Ánh Dương đã quát : « chuyện cải cách ruộng đất thì chúng mày cái gì cũng không tin. Chúng tao thực mục sở thị mà ngồi nghe cứ tưởng như phịa. Còn ông chánh án ấy nay đã già lắm. Có muốn gặp mặt hôm nào cứ đi công tác chị sẽ dẫn đến thăm».

Thấy mọi người đi lạc đề, Chỉ nổ vỗ tay mấy cái: «Trưởng phó phòng sắp về rồi đấy! Thế mấy vị bảo ai sẽ là trưởng sở tương lai nào ? »

Mọi người đều nhất trí như đinh đóng cột là ông giáo.

Năm sáu năm nay uy tín ông giáo nổi như cồn, vua biết mặt chúa biết tên. Ông đi nước ngoài như đi chợ, nhiều lần còn tháp tùng các cây đại thụ.

Từ một thằng «xét lại », dạo này ông được cánh bộ tứ kính trọng quá mức. Họ còn gán cho ông những thành tích khoa học mà nhiều lúc ông phải phì cười vì sự vô duyên của nó.

Ông giáo sẽ lên trưởng sở. Ông Dung không được đưa ra bàn cãi.

Thực Đơn Chủ Nhật

C

hủ nhật tôi đến thăm bà ngoại trên căn gác không cửa sổ chỉ có một lỗ thông hơi bằng viên gạch đục ra phía trên bàn thờ ông ngoại cho ông ngoại được chút khí trời. Những đám mây bên ngoài trôi qua chỗ ấy như trong tivi. Bà ngoại nằm trên hai tấm ván ghép vào nhau kê bằng kinh Phật và rương hòm bé xíu cùng với chai lọ guốc dép bình vôi những quyển sổ những quả cam mốc meo một chiếc bô sứ và một chiếc bô nhựa. Bà nằm đồ sộ trên toàn gia sản nhìn mây trôi. Một nén hương cho ông ngoại mỗi tuần tôi thắp trong chiếc hộp diêm kín mít này cũng đủ để bà cháu nhìn nhau qua khói mù mịt.

Tôi bảo tuần vừa rồi thứ hai có gà kim hoa ngọc thụ, thứ ba phượng hoàng hoài thai, thứ thư long tu, thứ năm bào ngư hoàng sa, thứ sáu cua thiên phù dung, thứ bảy bạch điểu quy sào, hôm nay chủ nhật thì vịt hải sâm vạn thọ. Mỗi chủ nhật tôi thay một thực đơn. Như thế trước khi dùng hai mảnh ván vào việc khác bà ngoại được yên tâm là sự nghiệp nấu bếp nhà quan của bà không uổng. Mẹ tôi làm cấp dưỡng mậu dịch bây giờ mở quán cơm xích lô, mỗi chủ nhật đưa tôi hai tờ năm nghìn bảo: "Hôm nay cho mày nghỉ, về đi du lịch với bà." Bà cháu đi ngược một đời người, đi mãi, bà cứ dẫn tôi đến trước mâm cơm sơn son đậy lồng bàn bằng sa thì dừng lại. Về phần mình tôi cũng tỏ ra xứng đáng bằng những món ăn chẳng biết nội dung ra sao chỉ thấy tên kêu như Viện Hàn Lâm Hán Việt. Rồi tôi rón rén đặt hai tờ năm nghìn lộ phí lên bàn thờ cho ông ngoại có chút bồi dưỡng, tôi nghĩ biếu xén người chết lịch sự hơn biếu người đang sống. Và để bà ở lại ngồi thịt vào những cọng giá đầu thế kỷ.

Cơm xích lô nhà tôi mùa nóng nhiều canh, mùa lạnh nhiều mỡ, món chủ đạo quanh năm là dưa chua và đậu rán, thay đổi thì có khó, thịt kho, tôm kho, trứng tráng, rau xào. Mẹ tôi có bao nhiêu kinh nghiệm của cửa hàng ăn uống mậu dịch đều dùng được, canh nấu một nồi pha thành ba, nước mắm một lít chế thành năm, trứng đánh điêu hoa phồng như gối giường cưới, ba miếng thịt bày rầm rộ như tế thần. Hồi mới mở quán tôi nghĩ nhà mình hai chục năm kinh hãi nghệ thuật của mẹ, bây giờ lại đem trưng ra ngoài đường cho thiên hạ thưởng thức thì dơ. Mẹ tôi dặn: "Nhỡ bà hỏi thì bảo nhà mở đặc sản." Mùng Hai Tết năm ngoái mẹ nấu mọc đông sai tôi mang cho bà dùng. Lúc bà lật bát thật may mọi thứ cũng thành hình khum khum trên đĩa, bình thường những món đông của mẹ nhão như bùn vầy trong đã muốn ngất. Tôi mừng cho mẹ nhưng khấp khởi đợi mãi không thấy bà dùng nên xin phép về. Bà dặn: "Mang về bảo mẹ lấy vải màn lọc nước bì đi đã, tiêu thì rang sớt thôi, hai đảo bắc ra ngay, nấm cắt chân thật sát, mình chính thế này là định đầu độc bà già hay sao." Trên đường về tôi ném đĩa mọc xuống Hồ Hoàn Kiếm. Mẹ hỏi tôi bảo bà khen ngon để bà và mẹ xích lại gần nhau, cơm xích lô bày mâm sơn son là thành tốt một trường phái.

Nhưng tôi đã lo không lâu. Mẹ tôi tự biết mình chẳng phải là nàng dâu đáng giá nhất của trăm họ nên không làm cao. Phương châm của mẹ là vì nhân dân quên mình, hai trăm cũng bán, suất sang nhất là nghìn rưởi, nên khách đông bàn ghế không đủ phải tràn ra phố đứng ăn rào rào, ở ngoài nhìn vào thấy đũa vung tíu tít chấm chấm mút mút rất vui mắt. Việc ở quán do hai mẹ con và anh Thái là cháu họ đằng bố tôi nhà ở Bưởi đảm nhiệm. Anh Thái làm những việc nặng như phun nước, bê nồi, đổ rác, nhóm lò, rửa bát và giữ trật tự vì khách nhà tôi không thuộc loại ăn uống rón rén như sợ hạt cơm đau, ba chén rượu vài củ lạc và một bìa đậu là đủ cho họ sinh ra những sự không ai lường trước được. Mọi việc anh Thái đều lười, chỉ chăm giữ trật tự, chỗ nào hơi động tĩnh một tí là vác con dao dùng để bổ củi xông ra đứng tấn, mẹ tôi lựa lời can thì dỗi, xuống bếp tè vào nồi nước rau. Mẹ tôi sợ cho anh thôi việc có khi còn nguy hiểm hơn nên gắng nhịn, thỉnh thoảng lại dúi cho vài nghìn bảo anh đi hát karaoke vì nếu để anh xả tâm hồn ở quán thì bắn nước bọt vào mặt khách mất lịch sự. Anh chỉ hát bài "Chiều thu buồn." Tôi bảo bà ngoại là tiệm đặc sản của nhà thuê hẳn một vệ sĩ đã du học ở Nhật. Karaoketoschibaajinomototoyotahondayamahasanyomitschuschubiohaiotokyo. Bà ngoại bảo nghe còn hay hơn mẹc xì lù bố cu. Bà đổ cho thằng Tây tội hủ hoá khẩu vị nước mình. Tôi phải rất cẩn thận để không hở ra những món rôti, phá-xí, cùng là bơ sữa xúc xích dăm bông để lòng yêu nước dậy mùi mắm tôm hành tỏi của bà không bị khuấy đảo. Tội của mẹ còn nặng hơn thằng Tây. Là tội tàn phá. Tôi đoán bà sẽ mang chiếc bô sứ Trung Quốc mỏng tang có hình những cô tiên xuống mồ để giữ gìn nền văn minh phương đông còn chiếc bô nhựa để lại cho lũ chúng tôi con cái cháu chắt của một thời đại lai căng dung tục từ việc ẩm thực đến đại tiểu tiện nói theo chữ của Viện Hàn Lâm Hán Việt.

Những việc còn lại hai mẹ con chia nhau. Đi chợ thì mẹ mặc cả tôi xách làn, nấu nướng mẹ pha chế tôi thực hiện, đúng mười rưỡi hàng ngày mẹ ngự sau quầy còn tôi lo chạy bàn hầu khách và phụ rửa bát cho anh Thái. Khi nào khách đông quá tôi cũng được xới cơm và gắp rau, mẹ độc quyền những món nhiều prôtít vì sợ tôi còn trẻ nhiều sĩ diện gắp quá tay cho khách thì nhà sạt nghiệp. Thực ra những miếng thịt mẹ thái không miếng nào có thể nhỉnh hơn miếng nào, cá và đậu cũng có cỡ chuẩn, tôm nhộng đong sẵn bằng một gạt chén uống trà, mẹ bảo đấy là phần cứng vì ở đó không được mủi lòng, còn phần mềm là cơm, rau, canh, và nước chấm thì thỉnh thoảng cũng có thể linh động để khách hàng được thật sự là thượng đế. Tôi đoán anh Thái đã tiết lộ thông tin nội bộ này cho đám xe thồ ở Bưởi. Mỗi lần vào quán họ gọi toàn cơm rau ăn với cá khô mang sẵn và liên tục xin thêm nước chấm thật nhiều chanh ớt rồi còn chê ít mì chính. Mẹ thấy thế đổ sẵng vào mỗi bát nước chấm một muôi mì chính rồi bảo tôi, nghề nào cũng có một nỗi đau riêng, quên đi mà sống con ạ. Tôi sợ đám xe thồ làng Bưởi bị đầu độc nên lén chan thêm cho họ mấy muỗng nước rau muống đánh dấm, ở nhà mỗi lần tôi nghẹn nấc đau bụng cảm cúm mẹ đều bảo uống nước rau đi là hết.

Nếu mọi sự cứ diễn ra bình thường như vậy tôi không có gì phải phàn nàn. Tôi không mơ mặc váy chẽn để đánh mông kiều diễm tiến đến những bàn phủ khăn dâng món khai vị là bảng thực đơn bằng ba thứ tiếng. Mấy cô tre trẻ như tôi làm ở những chỗ ấy thì lộ vẻ hãnh diện, môi ướt như được hôn cả ngày. Tôi cũng muốn biết thế nào là được hôn. Ở quán cơm xích lô ngoài phận đàn bà của hai mẹ con còn lại toàn đàn ông dữ dằn, tôi được phát vào mông cũng nhiều nhưng những cái hôn dường như bướm, đậu cả vào những hoa khác mất rồi. Anh Thái cũng là đàn ông, một đàn ông tục tĩu hung hăng và hay hờn, lúc quá trớn sục vào bếp luồn trướng sống vào cổ áo tôi để xem tôi cuống quýt cởi áo cứu trứng. Thế thôi. Ở quán cơm này đặc biệt vui sống thì khó, nhưng cũng không buồn, nhiều lúc tôi còn cảm thấy mình có tình ruột thịt với những người đang ăn rào rào kia như thể họ đã chung mâm với tôi từ tấm bé, ngon thì không nhưng no hoàn toàn. Vả lại họ đều là những người bôn ba gánh vác việc của thiên hạ, không ai nhàn ngay cả trong bữa cơm, tôi được lây cảm giác sống gấp rút mê man như lên đồng. Nhiều người trong họ thực ra trong rất mất cảm tình, ngồi chồm hổm trên ghế như đi cầu tiêu và xỉa răng như quét chợ, những câu chửi đời phun ra giữa hai lần và soàn soạt nghe thối không chịu được, nhưng mẹ bảo, khách đã là thượng đế thì thế chứ bĩnh ra đây mình cũng phải nuốt, quên đi mà vui sống con ơi. Tôi phải nhận là nhân sinh quan nguyên mậu dịch viên chỏng lỏn phũ phàng của mẹ bây giờ đã đầy hài hước và tình người.

Ngày ở đây trôi điên khùng hơn mây trong tivi ở nhà bà ngoại, từ mười rưỡi trở đi không có phút nào để nghĩ linh tinh, chỉ buổi sáng ngồi nấu bếp tôi mới vẩn vơ lẩm nhẩm những thực đơn chủ nhật để nhìn vào xoong chải không bị rùng mình. Tôi biết rõ nồi canh hôm nay là nồi canh hôm qua ngụy trang bằng hành tươi và nồi canh hôm qua là nồi canh hôm kia, còn trong xoong thịt đang vui vè sình sịch màu cánh rán kia là hai cân mốt ế chợ chiều, ruồi và cứt ruồi bám như đậu đen vừng đen. Nhưng khách nhà tôi sống gấp vào ngày quá, thức ăn không ở lâu trong miệng cuống cuồng chạy thẳng xuống dưới, chẳng ai có thời gian nhằn ra canh hôm qua canh hôm nay. Phần tôi lẩm nhẩm một lúc giò hoa ám nguyệt, chả cá ngọc lan đình, canh bạch tuyết, gà tần hải sâm ... cũng qua cơn rùng mình. Tôi chẳng biết hải sâm là gì, nhưng nghe rất bổ. Hễ bổ là ngon, bà và mẹ đều nhất trí như vậy. Thế thôi. Tôi không khó khăn như bà không xuề xoà như mẹ. Bếp đầu thế kỷ bếp cuối thế kỷ của mẹ và bà ngoài ra đều nhất trí ở mục đánh lừa người ăn. Cái ruột cá của bà thì nống thành râu rồng. Miếng chả của mẹ thì toàn bột và bột. Bà cho người ta no bằng tai và mắt. Mẹ cho người ta no bằng độn cứng dạ dày. Cả hai đều hết lòng kính trọng prôtít. Đến lượt mình ở thế kỷ hai mốt không khéo tôi kết hợp cả hai nghệ thuật lừa mị, cho bà mẹ thành bất tử trong một trường phái có thể đặt tên là "Việt Nam bếp núc tân cổ giao duyên," tôi sẽ tẩm quất cả tai mắt lẫn dạ dày và cộng thêm lòng sĩ diện của khách, rút cục thì cái đáng ngại là sĩ diện của khách chứ không phải sĩ diện của tôi. Và sẽ viết một cuốn sách dạy dỗ nhiều điều bổ ích hơn tất cả những sách nấu ăn tôi đã học mỗi chủ nhật ở thư viện Hà Nội trước khi đến báo cáo thực đơn trong tuần với bà ngoại.

Cơm xích lô nhà tôi đang hưng thịnh, nghệ thuật của mẹ đang ở đỉnh cao và tôi đọc vừa hết sách nấu ăn của thư viện Hà Nội thì công an đi chiến dịch "Sạch đẹp thành phố" ào qua khuân hết lên đồn, tôi từ trong bếp chạy ra thấy mẹ lăn lộn trên những mảnh bát vỡ trong vũng canh cua xanh xanh xám xám, gạch cua bết vào tóc mẹ như cườm. Lúc ấy còn sớm chưa có khách ăn. Anh Thái cầm vòi cao su lần lượt nhằm vào từng món ngổn ngang trên mặt đất xả như rửa xe máy, mỗi xả một "Ông thì sạch này!", mỗi xả một "Ông thì đẹp này!". Cả quãng phố thành nồi canh thập cẩm lênh láng, mẹ tôi thấy thế thì nhỏm dậy cười rũ rượi, cườm gạch cua dính trong tóc rung rinh rung rinh.

Hôm ấy không có việc nên tôi về thăm bà. Bà ngoại lấy tôi làm lịch, than rằng bà mới chợp mắt một lúc mà đã hết tuần. Thực ra đây là một ngày thứ tư. Tôi không đính chính để bà được thọ hơn nên lại mang thực đơn chủ nhật ra báo cáo. Tuần vừa rồi có bạch hạc hầu cờ, gà chi lan, vịt viên tuyết hoa... Bình thường sau mỗi món ăn bà chỉ "ừ", tôi đoán bà cũng chẳng biết đấy là món gì, sách tôi đọc trong thư viện Hà Nội toàn loại mới soạn sau này, tác giả phần lớn là người trong nam, họ ăn uống hiện đại nghĩa là cho nấm, dăm bông và ngò vào mọi món. Trong quyển "Việt Nam phong tục" tôi thấy ông Phan Kế Bính cũng là người đầu thế kỷ viết rằng việc ăn uống của ta sơn hào hải vị chẳng thiếu thức gì, chỉ hiềm cách nấu nướng thì còn vụng lắm, thợ nấu ăn chẳng qua là mấy tay người nhà đầy tớ theo tục mà làm thế nào cho ăn được thì thôi chứ không ai học nấu ăn cao siêu gì. Mẹ cũng bảo: "Ôi dào tao chém to kho mặn, còn bà thì í à cũng đến ba món xào dăm món nấu, vây cá vịt hầm là hết." Cho nên mỗi chủ nhật nghe bà "ừ" tôi được mừng, nửa phần là xoá bớt tội cho mẹ, nửa phần là thực đơn tôi soạn thế là không chỉ ngon cho riêng mình. Trong cái hộp diêm kín mít khói và mây tranh nhau trôi qua lỗ thông hơi này một miếng ngon tôi nhặt ở đâu mang đến cũng đủ để bà cháu mềm môi cả tuần. Có thể những cố gắng Hán Việt của tôi bây giờ làm cho đầu thế kỷ của bà oanh liệt hơn thực tế. Có thể đầu thế kỷ của bà làm thiên niên kỷ sắp tới của tôi nhố nhăng hơn tự nó. Tôi không lục vấn, không buồn, chỉ thỉnh thoảng hơi lúng túng vì mỗi người gắn với mỗi thời tự nhiên như tranh gắn vào khung, phần tôi chưa biết gắn vào đâu, cứ vất vả đi vào khung này đi ra khung kia mãi không được ổn định. Thế thôi. Tôi không khó khăn như bà không xuề xoà như mẹ.

Lúc kể đến món hải sâm hấp chim không thấy bà "ừ", tôi nhìn mặt bà thấy nụ cười là lạ nên chột dạ, sợ bà hỏi hải sâm là cái gì thì có lẽ cả bà lẫn cháu đều khó nói năng. Nhưng bà không hỏi, chỉ cười mãi, rồi nói rất dịu dàng: "Con hải sâm, con đột đột ấy khi ăn lấy nước cua đồng mà ngâm..."

Tôi nhẹ người, trong mâm cơm sơn son đây lồng bàn sa đen của bà thế là cũng có ít nhất con hải sâm. Nhưng bây giờ tôi vẫn không biết con đột đột là con gì. Đợt mãi không thấy bà dạy thêm, tôi cúi nhìn mặt bà một lúc rồi co cẳng chạy ra ngoài. Đến Hồ Hoàn Kiếm tôi sực nhớ là quên cài cửa nên quay lại. Bà ngoại vẫn nằm đồ sộ trên toàn gia sản nhìn mây trôi. Tôi lưỡng lự rồi xin phép bà vào vuốt mắt. Bây giờ bà có thể chợp mắt một lúc là hết thế kỷ nhưng điều đó chẳng quan trọng, hôm nay là chủ nhật, ngày mai là chủ nhật, ngày kia cũng là chủ nhật, đấy mới là điều quan trọng. Tôi lấy hết sức khẽ nhấc một đầu ván rút ra được quyển kinh Phật để vào tay bà. Bà nằm hơi cập kênh nhưng không sao, kinh Phật bây giờ chuyển sang chống phần hồn. Hồn bà cũng đồ sộ. Tôi đốt một lúc không biết bao nhiêu nén hương cho bà được thơm rồi cài cửa ra về. Ở quán, anh Thái ngồi một mình hát bài "Chiều thu buồn". Mẹ tôi chắc đã lên đồn mời thuốc ba số. Hai đứa không biết làm gì, tự nhiên đi cả vào bếp. Anh Thái luồn nhiều trứng vào cổ áo tôi. Tôi để anh giúp tôi hứng trứng suốt một chiều buồn. Sau này nhất định tôi sẽ lấy chồng. Những lúc tan hoang như thế này có chút đàn ông bên cạnh nếu được hôn nữa thì ngày cũng trôi qua.

Nhiều ngày trôi qua. Ngày nào tôi cũng đến thăm bà ngoại buổi sáng, buổi chiều về chơi trứng với anh Thái. Sách nấu ăn cạn rồi, bây giờ tôi lấy dần những tờ năm nghìn lịch sự trên bàn thờ ông ngoại đi mua đặc sản về trình bà. Đặc sản thật. Mỗi hôm một món. Tôi vào những tiệm có mấy cô trẻ trẻ như tôi mặc váy chẽn. Tiệm nào cũng na ná nhau, gồm hai ba chục món cố định đặt tên bằng ba thứ tiếng chứ không phong phú và Hán Việt như thực đơn chủ nhật của tôi. Tôi khắc phục bằng cách thêm nấm, dăm bông, và ngò vào mỗi món. Thưa bà hôm nay có kim kê hoàn lạc thủy. Hôm nay có xuân hoa ngũ sắc. Hôm nay có cơm bát bửu lá sen. Bà luôn vừa lòng, người già im lặng thế kia là vừa lòng, nên xong phần chính thống tôi cũng đánh bạo bình luận ngoài lề. Theo tôi thì người ta nhúng tay can thiệp thật lộ liễu vào đồ ăn, nhìn sự chăm sóc cho màu hồng của cà rốt nổi bật cạnh màu dưa chuột xanh và những miếng phồng tôm tênh hênh cưỡng xoè một vành hoa trắng ngậy tôi thấy lõa lồ quá. Theo tôi rút rỗng một con vịt để ngồi vào đó một con gà, trong con gà lại là con bồ câu, và tất cả chín nhừ trong một quả dưa khổng lồ là một cái gì điên đảo đã sáo mòn. Theo tôi âu yếm với đồ ăn không phải là mơn man khắc khắc tỉa tỉa trên những quả cà chua rất vô tích sự, không phải là nhồi thịt vào những cọng giá, còn những kinh nghiệm mậu dịch của mẹ tôi thì khỏi cần trích dẫn, đấy là hành hung. Là tàn phá. Âu yếm với đồ ăn khác xa thần phục prôtít. Khác xa những cái tên kêu quá thể. Tình yêu trong miếng ăn đòi rất nhiều sự nguyên vẹn dịu dàng của cả đôi bên.

Theo tôi... Tôi không có gì mà theo. Tất cả lí thuyết hăng hái của tôi dựa trên suất cơm xích lô đùm vào trang sách nấu ăn của thư viện Hà Nội đặt trong chiếc mâm sơn son. Thế thôi. Thậm chí tôi không biết con đột đột là con gì.

Nhưng bà ngoại không thể nhìn tôi ngượng. Khói mù mịt quá và ruồi bu như mưa đen. Mỗi lần mở cửa tôi nép sang bên cho một trận mưa đen thốc ra, cuốn theo một chút của bà và chút lễ mọn của tôi. Tôi thắp thật nhiều hương, đặt thêm một đĩa xuống sàn đã la liệt sơn hào hải vị rồi ngồi xuống báo cáo thực đơn. Tôi không thấy rõ bà, hôm nay dường như bà thêm đồ sộ trương phình, xé quần áo chật mà bung ra, ngày mai dường như sắp tiêu tán, ruồi và kiến sắp khiêng bà đi vào cuộc du lịch xuôi ngược một kiếp người. Dường như bà ngả sang màu Phật, áo phin nõn trắng bây giờ thành nâu. Dường như nụ cười của bà nở phồng một đóa hoa tím.

Tôi tiêu đến tờ năm nghìn cuối cùng trên bàn thờ thì sàn nhà cũng không còn chỗ để dọn thêm một đặc sản. Bà ngoại nằm nghiêng trên sàn. Mặt hướng ra cửa chờ tôi, miệng kề bát vây cá, một dòng rùng rợn từ bát nấu dâng lên hay từ miệng bà xuôi xuống bát nấu. Tôi cố trấn tĩnh, xin bà lại về chỗ cũ ngoảnh mặt xem mây trôi qua ông ngoại thì hơn, tiệc nằm thế này lộn xộn quá. Nhưng hai tấm ván cập kênh đã ụp xuống toàn gia sản của bà. Những cô tiên nhẹ như bông trên chiếc bô sứ Trung Quốc nằm quằn quại ngổn ngang. Tôi nhắm mắt lại. Lúc mở mắt ra tôi thấy triệu triệu con ròi bận rộn.

Tôi co cẳng chạy ra ngoài. Chạy thẳng vào bếp tìm anh Thái không thấy anh Thái. Chỉ có trứng vỡ chưa ai dọn, chiều hôm qua chúng tôi chơi hăng quá trứng rơi nhớp khắp ngường. Mẹ tôi đã được dịp cho hẳn anh Thái về làng Bưởi, có lẽ sắp tới anh đi xe thồ. Tôi bảo mẹ bà thèm món mọc đông. Tôi sẽ nấu để mẹ mang cho bà dùng. Để bà và mẹ xích lại gần nhau. Cỗ ma tôi dọn xong rồi, còn một món chót xin mẹ tự tay dâng bà với sự chứng kiến của ông ngoại. Vả lại mẹ biết phải làm gì với hai tấm ván. Tôi lấy vải màn lọc nước bì, nấm cắt chân thật sát, tiêu thì rang sớt...

Mẹ đi thăm bà, tôi không biết làm gì, ngồi hát bài hát nghe lỏm của anh Thái. Tôi hát nhảy cóc từ câu này sang câu kia linh tinh. Những lúc vắng vẻ như thế này hát đi hát lại một bài chỉ thuộc lõm bõm thì ngày cũng trôi qua.

Tuần sau chiến dịch sạch đẹp thủ đô lắng đi, cơm xích lô nhà tôi lại mở.

Chị Phở Mậu Dịch

Ở bài này, tớ sẽ mời các bạn diện kiến bạn Phở Mậu Dịch. Nhưng trước hết tớ phải đi măm măm cái đã. Hẹn các bạn sau!

Superbee Returns!

Sozi các độc giả thân iu vì sự chậm trễ này. Chiều nay phóng viên báo Lá Cải QueenBee phải chạy long sòng sọc ngoài đường nên nộp bài chậm, các bạn thông củm. Vào cái giờ hoa mắt chóng mặt và bạn Dạ Dày gào thét ầm ầm, tớ lại phải mơ tưởng đến bạn Phở Mậu Dịch để phục vụ bạn đọc.

Thoạt đầu tớ định gọi bạn ấy là bạn Phở Mậu Dịch, nhưng do bạn này ra đời đã lâu lắm rồi, đến mức không ai rõ nữa, và cái cung cách vẫn y nguyên mậu dịch như hồi nào, vì vậy tớ cung kính gọi bạn ấy là chị, vâng, chị Phở Mậu Dịch.

So với nhà bạn Bún Chửi thì nhà chị Phở Mậu Dịch ở khá xa. Để đến được nhà chị Mậu Dịch, các bạn sẽ phải oánh võng lòng vòng ở các con phố cổ tôi tối và u ám màu thời gian của Hà Nội. Nào Hàng Phèn, Hàng Gà, Hàng Thiếc, Hàng Vải... Mỗi phố có một đặc trưng riêng, nhưng phố nào cũng cổ kính và u tịch, dường như sự thay đổi chóng mặt của các phố như Nguyễn Chí Thanh, Liễu Giai... chẳng hề hấn gì với các bạn phố cổ này cả. Vật đổi sao dời, các bạn vẫn cứ trơ trơ. Những căn nhà nhỏ xíu như chuồng chim câu, những ngõ hẹp sâu hun hút như nuốt chửng bất kỳ ai bước vào đó...

Ngoắt ngoéo qua mấy con phố ấy, các bạn sẽ đến phố Bát Đàn. Ở đầu phố có một cái đền lúc nào cũng khóa cửa. Đối diện ngôi đền là quán phở Bát Đàn ngon có tiếng, đặc biệt là món phở xào. Phở xào ở đây có thứ nước sốt rất sánh và đặc trưng, nó làm cho đĩa phở béo ngậy và thơm phức. Nhưng đừng vì cái mùi hương quyến rũ ấy mà dừng lại, chưa đến nhà chị Phở Mậu Dịch đâu nhé.

Cất ánh mắt nuối tiếc và nuốt nước miếng đánh ực một cái nào, chúng mình thẳng tiến một đoạn nữa, đến số nhà 46 thì dừng lại ở bên phải ấy. Đừng ngạc nhiên khi thấy "một đoàn tàu nhỏ tí xíu ấy là chúng em" xếp trước cửa hàng với một sự kiên nhẫn đáng nể. Người nọ xếp sau người kia, đều tăm tắp, không ai chen ai, không ai than thở một câu. Chị Phở Mậu Dịch già rồi mà kiêu kỳ đáo để. Nhà chị chẳng buồn trang hoàng, cũng không có những anh phục vụ lăng xa lăng xăng. Đôi ba chiếc bàn ghế nhựa ngoài cửa, bên trong là bàn ghế gỗ cổ cổ. Khách của chị Mậu Dịch gọi đồ rồi tự động tìm bàn ghế mà ngồi. Không có chỗ ư? Chân để làm gì nhỉ? Đứng chứ còn gì nữa.

Nhà Chị Mậu Dịch chỉ có phở bò. Bò tái, bò chín, bò nạm gàu, bò xào lăn... các loại. Ở góc nhà ngay bên ngoài là "khu chế xuất" rộn ràng. Bát nhà chị Mậu Dịch cũng thuộc đời Napoleon cởi truồng. Giá mỗi bát tầm 12 - 15K. Chị Phở Mậu Dịch cũng roi rói như người ta, trắng nõn trắng nà. Mỗi tội nếu phở bình thường sợi trắng, mỏng tang và mướt mát thì chị Mậu Dịch vẫn giữ dáng vẻ thô kệch từ thời bao cấp để lại. Thân hình chị không bành ra, nhưng nó dày và hơi gồ ghề. Bù lại, chị được đắp bởi vô số hành hoa, và đặc biệt là thịt bò. Nhà chị Mậu Dịch được cái thoáng, bát nào bát nấy đầy người lái. Vô phúc ai đó kêu bò tái chín thì cứ gọi là ngáp ngáp vì bội thực thịt bò.

Chị Mậu Dịch thô kệch và không đỏm dáng tí nào cả. Phở, bò, hành hoa cứ đắp đống cả lên, ai thích làm gì chị thì làm. Bù lại, chị ngọt ngào và đằm thắm lắm. Thế nên khách đến tìm chị cứ lũ lượt từ thời bao cấp đến thời mở cửa. Chị kiêu, chả buồn môi son má phấn điệu đà cảnh vẻ chào khách. Hữu xạ tự nhiên... ngon, nó thế!

BÁT PHỞ ĐẦU TIÊN

Yêu quý tặng Mẹ của con.

Ở đây không phải là luận cái sự ăn phở như cụ Nguyễn Tuân hay cụ Vũ Bằng theo triết lý tinh hoa của văn hóa ẩm thực nước ta mà là về bát phở đầu tiên tôi được ăn trong đời. Chuyện ăn phở ấy đến giờ mỗi khi nhớ lại, tôi vẫn thấy như vừa mới diễn ra hôm qua, hôm kia...

Cái cửa hàng ăn uống thời mậu dịch tọa lạc ngay trước Công ty xổ số kiến thiết. Trên ô văng, chĩnh chện một hàng chữ đúc bằng xi măng xám ngoét Điểm Tâm - Giải Khát. Mấy cái bàn đá granito sứt sẹo chân sắt han gỉ mặt láng nhờn những mỡ. Dăm ba ông khách đầu đội mũ cối vội vã xì xụp ăn uống. Vài cô mậu dịch viên tạp dề ngả màu cháo lòng gác chân lên ghế khinh khỉnh. Ngoài thứ nước bột đậu xanh nhờ nhờ và nước chanh không đá, cái cửa hàng này còn bán cả phở. Một thứ quà xa xỉ mà thời đó không thể tìm thấy ở bất cứ đâu ngoài mậu dịch quốc doanh.

Sau năm 75, mấy chị em tôi theo bố mẹ rời ngôi nhà gianh lụp xụp trên cái nền cũ của Chùa Cầu – nơi gia đình tôi sơ tán bom Mỹ, để trở về Thị xã Bắc Giang sinh sống. Đối với tôi, một thằng bé gốc gác thành thị nhưng sinh ra và lớn lên ở nhà quê, cho đến lúc đó cái khái niệm về phở còn lờ mờ lắm.

Cái hôm mẹ tôi dắt đến trường Ngô Sỹ Liên để nhập học lớp Hai, đi qua cái cửa hàng ăn uống kia, tôi đã nhìn thấy tấm bảng gỗ có hàng chữ viết bằng phấn lem nhem sai chính tả. Phở à, lạ nhỉ. Tôi tò mò định hỏi song hình như mẹ cố ý kéo tôi đi nhanh hơn.

Cái thời bao cấp khốn khổ ấy nó làm cho những gia đình nhà giáo như gia đình tôi lúc nào cũng chỉ nơm nớp lo hết gạo, hết mỳ sợi, hết tem phiếu 

chứ dừng nói là dám tơ tưởng đến phở. Bác Hợp “Xồm”, bạn cố tri của gia đình tôi túng quá tức cảnh làm bài thơ “Khóc Thùng Gạo” có đoạn :

        Ơ hay ! Không biết làm sao nhỉ

       Cứ đến đôi mươi dạ rối bời

       Gạo bột trong thùng trơ đáy gỉ

       Hòm không lăn lóc ống bơ ngơi…

“Đôi mươi”

ở đây là khoảng ngày 20 trở ra của tháng. Gạo mua theo sổ thường 29, 30 cuối tháng mới bán. Có tháng còn phải duyệt sổ gạo mất mấy ngày. Bây giờ nói chuyện đó bọn trẻ không hiểu được.

Quay trở lại chuyện phở.

Lần ấy, giáo viên trường mẹ tôi dạy đều phải mua một tấm vé xổ số kiến thiết để đóng góp xây dựng thị xã. Mẹ tôi gấp tờ vé cẩn thận lắm. Người kẹp sâu trong quyển giáo án. Bố tôi đùa, mẹ mày đận này chắc dễ trúng xe đạp quá. Cả nhà có mỗi chiếc xe đạp từ thời ông Nội để lại hiệu Xteclinh của Pháp, bền lắm. Mấy chục năm mà phụ tùng vẫn tốt. Duy có săm lốp hiếm, quấn dây cao su mãi đến lòi cả tanh ra ngoài nên bố tôi đành treo gác bếp mà đi bộ.

Mẹ tôi trúng xổ số thật. Giải Năm hẳn hoi. Hồi đó, giải Nhất là một chiếc xe đạp Thống Nhất, giải Năm là một cây bút máy Kim Tinh.

Bố tôi cũng có một cây bút Kim Tinh. Cây bút màu cà phê sữa nắp bằng hợp kim trắng bóng, đầu khảm hình mũi tên vàng, thân khắc dòng chữ in hoa “Kỷ Niệm Mặt Trận Trị - Thiên - Huế”. Cây bút đó là của chú Bảy gửi từ chiến trường Thành cổ Quảng Trị ra tặng bố tôi. Chỉ mới tính đến giá trị vật chất, cây bút Kim Tinh đã là cả một tài sản. Một ước mơ của những nhà giáo có hơn chục năm trong nghề như mẹ tôi.

Sáng hôm ấy, mẹ dắt tôi đi lĩnh thưởng. Gương mặt người vui lắm. Chắc người nghĩ đã đến lúc không còn phải cặm cụi soạn giáo án bằng cây bút gỗ, ngòi con tôm chấm mực nữa. Chắc mẹ nghĩ đến việc chỉ cần hút mực đầy ruột bút là có thể viết được cả tuần lễ mà không cần mang theo lọ mực xanh Cửu Long lên lớp nữa. Mẹ tôi vui lắm.

Bà nhân viên trả thưởng sau khi soi xét kỹ tờ vé, lấy con dấu đã trả thưởng đóng cái cộp vào mặt sau, cất giọng hỏi lấy tiền hay lấy hiện vật . Lấy tiền à, bao nhiêu. Mười đồng. Mẹ tôi đắn đo…

Chả theo dõi cuộc trao đổi làm gì, tôi đang bận nghển cổ sang phía cái cửa hàng có dòng chữ “Điểm Tâm - Giải Khát” bên kia đường. Thấp thoáng sau cái tủ gỗ quây vừa bằng lưới thép, vừa bằng kính nào là thịt bò nguyên miếng đỏ tươi, nào là hành dọc xanh mởn, rổ bánh phở chưa thái trắng phau. Rồi ớt, tỏi, chanh, dấm và cả đĩa lớn bánh quẩy vàng rộm. Trên bếp than hồng rực, nồi nước dùng ninh xương bò kêu sùng sục. Hơi bốc nghi ngút tỏa mùi thơm sang tận bên này đường làm cho đôi môi tôi đang tái nhợt vì lạnh cũng như hồng lại.

Mẹ tôi tay mân mê chiếc bút Kim Tinh màu xanh đen bóng, nắp mạ vàng chói. Bỗng bắt gặp ánh mắt của tôi đang hút về phía cửa hàng phở. Tần ngần một lát, người dắt tay tôi quả quyết sang đường.

Cầm cái Tích kê trên tay, mẹ tôi lại gần cái ô cửa có song sắt hình vuông thấp lè tè loáng thoáng mấy cái tạp dề đã ngả màu đang đi lại. Lát sau, mẹ trở ra vẻ mặt rạng lên với một bát phở trên hai tay.

Phở ! Đúng là phở thật. Lần đầu tiên tôi mục sở thị một bát phở, một bát phở mậu dịch quốc doanh hẳn hoi. Một bát phở tôi sắp sửa được ăn thật chứ không phải trong mơ. Khứu giác của tôi như bị hút vào nó. Lờ mờ trong màu nước dùng đùng đục bốc khói tỏa ra một hương vị mà từ bé đến giờ tôi chưa từng được ngửi. Thấp thoáng vài lát thịt bò mỏng như không thể mỏng hơn. Những sợi bánh phở thái to nghiêng ngả quấn lấy nhau một cách hờ hững. Vài ba củ hành dọc tráo đầu đuôi nửa nổi nửa chìm…, chỉ ngần ấy thôi cũng đã đủ làm cho cái thằng tôi tứa nước bọt, tay chân lập cập với những đũa, những thìa mà 

không còn đủ tỉnh táo để thấy rằng mẹ chỉ mua một bát phở cho tôi còn người thì ngồi bên cạnh nhìn tôi ăn.

Tôi cắm đầu ăn thẳng một mạch. Phở nóng làm cho mồ hôi trên trán rịn ra. Ngoài kia trời tháng Ba lành lạnh nhưng hai má tôi ửng hồng lên tự bao giờ. Sau khi húp đến giọt nước dùng cuối cùng trong bát tôi buông đũa nhìn lên, bắt gặp ánh mắt chứa chan niềm yêu thương xen lẫn hạnh phúc của mẹ. Người đã ngồi nhìn tôi ăn nãy giờ. Lấy khăn mùi xoa lau nhẹ mồ hôi trên trán tôi, đôi bàn tay gầy nổi những sợi gân xanh của mẹ một đời vất vả, nhịn nhường. Đôi bàn tay của một thời con bồng con bế…

Bát phở những một đồng.

Cây bút Kim Tinh mười đồng.

Mẹ mang về chín đồng vừa đủ mua hai cái lốp xe đạp gia công cho bố đi dạy học xa.

Tôi lớn lên đi khắp đó đây, từng thấy nhiều của ngon vật lạ nhưng cam đoan rằng không có gì ngon bằng bát phở mậu dịch một đồng mẹ mua cho tôi ăn ngày ấy.

Ph

Hoài c

Thursday, May 21, 2009 4:21:34 AM

Hoàng Ph

Ng

c T

ườ

Ph

Hà N

i nam du t

i Sài Gòn vào năm 1954, lúc đ

u có m

i là ph

B

c Hà, m

ườ

i năm sau g

n l

thành ph

B

c, và sau cùng, khi đã h

i nh

p hoàn toàn vào phong hóa mi

n Nam, nó tr

l

i cái tên g

c gi

n d

c

a nói, là Ph

.

Năm 1957, tôi vào

Sài Gòn, tr

i c

ư

xá sinh viên mi

n Trung

đ

ườ

ng Bùi Quang Chiêu (nay là đ

ườ

ng Đ

ng th

Nhu). Sáng nào cũng ăn ph

B

c Hà

m Tr

ườ

ng Ca đ

ườ

ng Yersin ngay đ

u ph

. H

c b

ng sinh viên Đ

i h

c s

ư

ph

m khóa I đ

ượ

c 1.500 đ

ng/ tháng, t

ô ph

ch

có 1 đ

ng, nên xem ra tôi sung s

ướ

ng h

ơ

n sinh viên bây gi

, sáng nào cũng ăn ph

, m

i tháng ch

t 30 đ

ng. Đ

y là th

i kỳ đ

u tiên ph

B

c vào Nam. Ph

Hà N

i có l

th

i vua Lý Thái T

đ

nh đô

Thăng Long đ

ế

, v

t cung cách quý

phái riêng c

a mình, h

ươ

ng v

sâu th

m, ch

v

i th

t bò và m

y nhánh hành h

ươ

ng. Vào Nam, ph

B

c v

n ch

t ph

c

a nó, đ

ng th

i cũng phát tri

n theo tính đa d

ng c

a Sài Gòn muôn đ

i. B

ng th

c đ

ơ

n c

a ph

Sài Gòn đ

ượ

c b

sung ngày càng dài, không

ch

đ

ơ

n có vài ba món, mà còn ph

chín, n

m, g

u, dai, gân, sách, tr

ng chim cút; v

i th

t gà còn có nh

ng món ph

riêng: da gà, lòng gà, phao câu.... T

t c

có đ

ế

n vài ch

c món ph

khác nhau. Tôi r

t kính n

(và th

c ra cũng r

t mê thích) tính hàn l

âm trong văn hóa- ph

c

a Nguy

n Tuân, đ

ng th

i cũng r

t khoái ph

B

c Hà ki

u Sài Gòn, đ

c bi

t là món rau th

ơ

m ăn kèm bao gi

cũng ng

n, m

ơ

n, th

ơ

m tho.Ti

m ph

Sài Gòn tôi t

i hàng ngày d

ướ

i tên hi

u "Tr

ườ

ng Ca" k

ch

l

n, còn dòng ch

ghi rõ

"Tr

ướ

c

Đình Hàng B

c- Hà N

i". Sau đó đ

c bài ph

c

a Nguy

n Tuân in l

Sài Gòn kho

ng 1958- 1959 gì đó, tôi m

ế

t thêm r

ng ph

Tr

ườ

ng Ca này là m

t đ

a ch

ế

Hà Thành, n

ơ

p c

a văn ngh

sĩ nh

ng năm đ

u kháng chi

ế

n, tr

ướ

c khi rút

kh

i Hà N

i. V

n theo tác ph

m c

a Nguy

n Tuân, sau khi Tr

ườ

ng Ca vô Nam, m

t ông b

ướ

c n

u cao lâu Tàu bèn nh

y ra làm ph

, b

quy sai trong c

i cách ru

ng đ

t ph

ngh

; đ

ế

n th

a sai l

i đ

ượ

c quay v

m; Nguy

n Tuân khen r

ng bát "ph

i oan" có ý v

đ

m đà ch

t phác... Sau này có lúc tôi tò mò đi tìm l

i d

u tích hai nhân v

ế

ng này c

a bút ký Nguy

n Tuân, nh

ư

ng không th

y đâu c

. Ph

S

a Sai ch

c đã d

m th

i qu

c doanh hóa, còn ph

Tr

ườ

ng Ca c

a tôi không ch

ng bây gi

đang

n hi

u

qu

n Cam bên M

.

L

i nói sang chuy

i. Sài Gòn hi

n có t

i năm, b

y ti

m ph

mang tên B

c H

i. Vi

c này cũng có đi

n tích riêng c

a nó. S

dĩ là sau th

i c

ư

th

ươ

ng, Hà N

i ch

có toàn ph

u d

ch. Đ

ướ

c đang th

i th

t l

ư

bu

c b

ng, ph

u d

ch ch

có bánh và n

ướ

c mà không có th

t, bán ba hào, dân gian g

i là "ph

không ng

ườ

i lái". T

1964 tr

đi, khi M

ế

n hành ném bom mi

n B

c, đ

đáp

ng nhu c

u tiêu dùng c

a nhân dân trong hoàn c

nh khó khăn, nhà n

ướ

c bèn cho phép m

thêm ít nhi

u hàng quán t

ư

nhân, trong đó có hàng ph

. Tôi đoán r

ng cái nhóm t

"ph

không ng

ườ

i lái" r

t gây

ượ

ng này ra đ

i vào th

i đi

y, cùng lúc vi

c máy bay trinh sát không ng

ườ

i lái c

a M

h

ng ngày bay qua bay l

i trên b

u tr

i Hà N

i.

Tôi ra Hà N

i l

n đ

u vào th

i sau Hi

p đ

nh Paris, có d

ế

m đ

mùi v

ph

Thăng Long, k

c

ph

không ng

ườ

i lái. Nh

ng hi

u ph

ư

nhân sáng chi

u đ

y dân ghi

n x

ế

p hàng. Lũ chúng tôi năm b

y anh em "văn ngh

Vi

t C

ng" v

a

ng ra, r

t l

ườ

i c

huy

n x

ế

p hàng nên th

ườ

ng kéo theo sau anh b

n nhà văn Tr

n Công T

n, nh

th

th

ươ

ng binh, xông ngang vào hi

u ph

Bà C

Phây

ph

Lò Đúc, kh

i ph

i ch

. M

i hi

u ph

ư

nhân

Hà N

i h

i đó đ

u gi

ng nh

ư

ph

Tr

ườ

ng Ca th

i tôi

Sài Gòn, nghĩa là r

n và giá cũng m

t đ

t bát. Ch

riêng ph

B

c H

ph

Thu

c B

c thì ch

t l

ượ

ng cũng th

ế

nh

ư

ng giá ch

y hào. Ph

B

c H

i đ

ượ

c nhi

u ng

ườ

i ái m

là vì th

ế

, vì r

ch

không ph

i vì ngon h

ơ

n nh

ng hi

u khác. Dù sao thì cái mác "B

c H

i" cũng đã n

ế

ng su

t th

i chi

ế

n tranh phá ho

i; và sau năm 1975, âm vang c

a nó dài vô t

n Sài Gòn, có l

đó mà bây gi

nh ai n

y.... B

c H

!

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro