LĨNHNAMCHÍCH QUÁI
Mục Lục
1- TRUYỆN HỒNG BÀNG THỊ
2- TRUYỆN NGƯ TINH
3- TRUYỆN HỒ TINH
4- TRUYỆN ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
5- TRUYỆN NHẤT DẠ TRẠCH
6- TRUYỆN MỘC TINH
7- TRUYỆN CÂY CAU
8- TRUYỆN BÁNH CHƯNG
9- TRUYỆN DƯA HẤU
10 - TRUYỆN BẠCH TRĨ
11- TRUYỆN LÝ ÔNG TRỌNG
12- TRUYỆN GIẾNG VIỆT
13- TRUYỆN RÙA VÀNG
14- TRUYỆN HAI BÀ TRINH LINH PHU NHÂN HỌ TRƯNG
15- TRUYỆN MAN NƯƠNG
16- TRUYỆN NAM CHIẾU
17- TRUYỆN SÔNG TÔ LỊCH
18 - TRUYỆN NÚI TẢN VIÊN
19- TRUYỆN 2 VỊ THẦN Ở LONG NHÃN, NHƯ NGUYỆT
20- TRUYỆN TỪ ĐẠO HẠNH VÀ NGUYỄN MINH KHÔNG
21- TRUYỆN DƯƠNG KHÔNG LỘ VÀ NGUYỄN GIÁC HẢI
22- TRUYỆN HÀ Ô LÔI
23- TRUYỆN TƯỚNG QUÂN HỌ CAO Ở VŨ NINH
24- TRUYỆN THẦN SÔNG BẠCH HẠC
25- TRUYỆN THẦN CHÍNH KHÍ LONG ĐỖ
26-TRUYỆN QUỐC SƯ XÂY ĐỀN SÓC THIÊN VƯƠNG
27- TRUYỆN ĐỀN THỜ HOẰNG THÁNH ĐẠI VƯƠNG
28- TRUYỆN BÀ PHU NHÂN TRINH LIỆT MỴ Ê
29- TRUYỆN ỨNG THIÊN HOÁ DỤC HẬU THẦN
30- TRUYỆN VỊ THẦN NÚI HỒNG LĨNH31- TRUYỆN THẦN NÚI VỌNG PHU
32- TRUYỆN HAI CON TRÂU VÀNG Ở HUYỆN TIÊN DU
33- TRUYỆN VỊ THẦN LÀNG BỐ BÁI
34- TRUYỆN VI THẦN Ở CHẰM LÂN ĐÀM1- TRUYỆN HỒNG BÀNG THỊ
Đế Minh cháu ba đời họ Viêm Đế Thần Nông sinh ra Đế Nghi, sau
nhân đi tuần về phíaNamđến núi Ngũ Lĩnh lấy được con gái bà Vụ Tiên rồi
trở về, sinh ra Lộc Tục. Tục dung mạo đoan chính, thông minh phúc hậu,
Đế Minh rất lấy làm lạ, muốn cho nối ngôi mình. Lộc Tục cố từ, xin nhường
cho anh. Đế Minh liền lập Nghi làm kẻ nối ngôi. Lại phong Lộc Tục là Kinh
Dương Vương để trị đấtNam, lấy hiệu nước là Xích Quá. Kinh Dương
Vương có tài đi dưới Thủy Phủ, lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình,
sinh ra Sùng Lãm hiệu là Lạc Long Quân, cho nối ngôi trị nước. Kinh
Dương Vương không biết đi đâu mất. Lạc Long Quân dạy dân việc cày
cấy nông tang, đặt ra các đẳng quân, thần, tôn, ti, các đạo cha con, vợ
chồng, đôi khi trở về Thủy Phủ mà trăm họ vẫn yên vui vô sự, không biết do
đâu được thế. Hễ dân có việc lại lớn tiếng gọi Long Quân rằng: "Bố ơi!
sao không lại cứu chúng tôi". Long Quân tới ngay, sự linh hiển của Long
Quân, người đời không ai lường nổi. Đế Nghi truyền ngôi cho con là Đế
Lai, cai trị Bắc phương. Nhân khi thiên hạ vô sự bèn sai quần thần là bọn
Xuy Vưu thay mình trông coi quốc sự rồi đi tuần xuống nước Xích Quỷ ở
phíaNam. Khi đó, Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không có chúa.
Đế Lai bèn để ái nữ là âu Cơ và các thị tỳ ở lại nơi hành tại rồi đi chu du
thiên hạ, ngắm các nơi danh lam thắng cảnh. Thấy hoa kỳ cỏ lạ, trân cầm
dị thú, ngọc ngà vàng bạc... các thứ đá quý, các cây trầm, đàn cùng các
sơn hào hải vật không thiếu thứ gì , khí hậu bốn mùa không lạnh không
nóng, Đế Lai rất ái mộ, vui quên trở về. Dân phươngNamkhổ vì bị người
Bắc phương quấy nhiễu, không được yên sống như xưa mới cùng gọi
Long Quân rằng: "Bố ơi ở đâu mà để cho dân Bắc xâm nhiễu phương
dân".
Long Quân đột nhiên trở về, thấy âu Cơ có dung mạo đẹp đẽ kỳ lạ,
trong lòng vui mừng, bèn hóa thành một trang thiếu niên phong tư tú lệ, tả
hữu kẻ hầu người hạ đông đúc, vừa đi vừa ca hát đánh trống. Cung điện
tự nhiên dựng lên. âu Cơ vui lòng theo Long Quân. Long Quân giấu âu Cơ
ở Long Đài. Nham Đế Lai trở về, không thấy âu Cơ, sai quần thần đi tìm
khắp thiên hạ. Long Quân có phép thần thông biến hóa thành trăm hình vạn
trạng yêu tinh, quỷ sứ, rồng, rắn, hổ, voi... làm cho bọn đi tìm đều sợ hãi
không dám sục sạo, Đế Lai bèn phải trở về. Truyền ngôi đến đời Du Võng,thì Xuy Vưu làm loạn. Vua nước Hữu Hùng là Hiên Viên đem chư hầu tới
đánh nhưng không được. Xuy Vưu mình thú mà nói tiếng người, có sức
khỏe dũng mãnh. Có người dạy Hiên Viên dùng trống da thú làm lệnh, Xuy
Vưu sợ hãi chạy về đất Trác Lộc. Đế Du Võng xâm lăng chư hầu, cùng
Hiên Viên giao binh ở Phản Tuyền đánh ba trận đều bị thua, bị giáng
phong ở đất lạc ấp rồi chết ở đó. Giòng họ Thần Nông tới đây thì hết. Long
Quân lấy âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh
đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra
một con trai, mới đem về nhà nuôi. Không phải bú mớm, các con tự lớn
lên, trông đẹp đẽ kỳ dị, người nào cũng trí dũng song toàn, người người
đều kính trọng cho là triệu phi thường. Long Quân ở lâu dưới Thủy Quốc
vợ con thường muốn về đất Bắc.
Về tới biên giới, hoàng đế nghe nói rất sợ hãi cho binh ra giữ cửa ải,
mẹ con Âu Cơ không thể về được bèn quay về nướcNammà gọi Long
Quân rằng: "Bố ở nơi nào mà để mẹ con tôi cô độc, ngày đêm buồn khổ
thế này". Long Quân bỗng trở về, gặp nhau ở đất Tương. âu Cơ nói:
"Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua
bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ
biết thương mình". Long Quân nói: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng
là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con,
nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau
được, nay phải chia lá. Ta đem năm mươi con về Thủy Phủ chia trị các xứ,
năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi, xuống
bể, hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên". Trăm con vâng theo, sau đó từ
biệt mà đi. âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn
nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên
nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động
Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15
bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc
Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, NhậtNam,
Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại
đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con
trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ
chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn,
đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng
Vương, không hề thay đổi. Lúc ấy, dân sống ở ven rừng, xuống nước đánhcá thường bị giống giao long làm hại, bèn nói với vua. Đáp: "Giống sơn
man và giống thủy tộc có thù với nhau, thường ghét nhau cho nên hại nhau
đó". Khiến người đời lấy mực xăm vào mình theo hình Long Quân, theo
dạng thủy quái. Từ đó, dân không bị tai họa giao long làm hại nữa. Tục
xăm mình của dân Bách Việt cũng bắt đầu từ đấy. Hồi quốc sơ, dân không
đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm
rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy
cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng
bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc
gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con
ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân
cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy
gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập
phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đó trăm người con trai chính là tổ
tiên của người Bách Việt vậy.
2- TRUYỆN NGƯ TINH
Ở biển Đông có con tinh ngư xà (còn gọi là Ngư Tinh) dài hơn năm
mươi trượng, chân nhiều như chân rết, biến hóa vạn trạng, linh dị khôn
lường, khi đi thì ầm ầm như mưa, lại ăn được thịt người nên ai cũng sợ.
Đời thượng cổ có con cá dung mạo như người, đi tới bờ Đông Hải, sau
biến thành người, biết nói năng, dần dần lớn lên, sinh ra nhiều con trai con
gái, hay bắt cá, tôm, sò, hến mà ăn. Lại có giống Đản Nhân sống ở một
cái gò dưới bể, chuyên nghề bắt cá, sau cũng biến thành người, giao dịch
với man dân đổi lấy thóc gạo, dao, búa, thường qua lại ở Đông Hải. Có
hòn đá Ngư Tinh, răng đá lởm chởm cắt ngang bờ bể, ở dưới đá có hang,
Ngư Tinh sống ở trong đó. Vì sóng gió hiểm trở, không có lối thông, dân
muốn mở một đường đi khác nhưng đá rắn khó đẽo. Thuyền của nhân dân
đi qua chỗ này thường hay bị Ngư Tinh làm hại. Đêm kia có bọn người
tiên đục đá làm đường đi để cho hành nhân có chỗ qua lại. Ngư Tinh bèn
hóa làm con gà trắng gáy ở trên núi. Quần tiên nghe tiếng ngỡ rằng đã
rạng đông bèn cùng bay lên trời. Tới nay người ta gọi lối đi ấy là Phật Đào
Hạng (ngõ Phật đào). Long Quân thương dân bị hại bèn hóa phép thành
một chiếc thuyền của thường dân, hạ lệnh cho quỉ Dạ Thoa ở Thủy Phủ
cấm hải thần nổi sóng, rồi chèo thuyền đến bờ hang đá Ngư Tinh, giả cách
cầm một người sắp ném vào cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng định nuốt.
Long Quân cầm một khối sắt nung đỏ ném vào miệng cá. Ngư Tinh chồm
lên quẫy mình quật vào thuyền. Long Quân cắt đứt đuôi cá, lột da phủ lên
trên núi nay chỗ đó gọi là Bạch Long Vĩ còn cái đầu trôi ra ngoài bể biến
thành con chó. Long Quân bèn lấy đá ngăn bể rồi chém nó. Nó biến thành
cái đầu chó, nay gọi là Cẩu Đầu Sơn. Thân trôi ra ngoài Mạn Cầu, chỗ đó
nay gọi là Mạn Cầu Thủy (còn gọi là Cẩu Đầu Thủy).
3- TRUYỆN HỒ TINH
Thành Thăng Long xưa hiệu là Long Biên, hồi thượng cổ không có
người ở. Vua Thái Tổ nhà Lý chèo thuyền ở bến sông Nhĩ Hà, có hai con
rồng dẫn thuyền đi, cho nên đặt tên là Thăng Long rồi đóng đô ở đấy, ngày
nay tức là thành Kinh Hoa vậy. Xưa ở phía tây thành có hòn núi đá nhỏ,
phía đông gối lên sông Lô Giang. Trong hang, dưới chân núi, có con cáo
trắng chín đuôi sống hơn ngàn năm, có thể hóa thành yêu quái, thành
người hoặc thành quỉ đi khắp nhân gian. Thời đó, dưới chân núi Tản Viên,
người Mán chôn gỗ kết cỏ làm nhà. Trên núi có vị thần rất linh thiêng,
người Mán thường thờ phụng. Thần dạy người Mán trồng lúa, dệt vải làm
áo trắng mà mặc cho nên gọi là Bạch Y Man (mán áo trắng).
Con cáo chín đuôi biến thành người áo trắng nhập vào giữa đám dân
Mán cùng ca hát rồi dụ dỗ trai gái trốn vào trong hang núi. Người Mán rất
khổ sở. Long Quân bèn ra lệnh cho lục bộ thủy phủ dâng nước lên công
phá hang đá. Cáo chín đuôi bỏ chạy, quân thủy phủ đuổi theo, phá hang
bắt cáo mà nuốt ăn. Nơi này trở thành một cái vũng sâu gọi là "đầm xác
cáo" (tức Tây Hồ ngày nay). Sau lập miếu (tức Kim Ngưu Tự) để trấn áp
yêu quái. Cánh đồng phía Tây Hồ rất bằng phẳng, dân địa phương trồng
trọt làm ăn, nay gọi là Hồ Đỗng (hang cáo). Đất ở đây cao ráo, dân làm
nhà mà ở nay gọi là Hồ Thôn (thôn Cáo). Chỗ hang cáo xưa, nay gọi là Lỗ
Khước Thôn.
4- TRUYỆN ĐỔNG THIÊN VƯƠNG
Hùng Vương cậy nước mình giàu mạnh, mà chểnh mảng việc triều cận
Bắc phương. Vua nhà ân mượn cớ tuần thú sang xâm lược. Hùng Vương
nghe tin, triệu tập quần thần hỏi kế công thủ. Có người phương sĩ tâu rằng:
sao không cầu Long Vương đưa quân âm lên giúp! Vua nghe lời, bèn lập
đàn, bày vàng bạc lụa là lên trên, ăn chay, thắp hương, cầu đảo ba ngày.
Trời nổi mưa to gió lớn, bỗng thấy một cụ già cao hơn chín thước, mặt
vàng bụng lớn, mày râu bạc trắng, ngồi ở ngã ba đường mà cười nói ca
múa. Những người trông thấy biết là kẻ phi thường, mới vào tâu vua. Vua
thân hành ra vái chào, rước vào trong đàn. Cụ già không ăn uống cũng
không nói năng. Vua nhân hỏi: "Nghe tin quân Bắc sang xâm lược, ta thua
được thế nào, ngài có kiến văn xin bảo giúp". Cụ già ngồi im một lúc, rút
thẻ ra bồi, bảo vua rằng: "Ba năm nữa giặc Bắc sẽ sang, phải nghiêm
chỉnh khí giới, tinh luyện sĩ binh mà giữ nước, lại phải đi tìm bậc kỳ tài
trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân phong tước ấp, truyền
hưởng lâu dài. Nếu được người giỏi, có thể dẹp được giặc vậy".
Dứt lời, bay lên không mà đi, mới biết đó là Long Quân. Ba năm sau,
người biên giới cấp báo có giặc ân tới. Vua làm theo lời cụ già dặn, sai
sứ đi khắp các nơi cầu hiền tài. Tới làng Phù Đổng, huyện Tiên Du, Bắc
Ninh, có một phú ông tuổi hơn sáu mươi, sinh được một người con trai
vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa
không ngồi dậy được. Người mẹ nghe tin sứ giả tới mới nói dỡn rằng:
"Sinh được thằng con trai này chỉ biết ăn, không biết đánh giặc để lấy
thưởng của triều đình, báo đáp công bú mớm". Người con nghe thấy mẹ
nói, đột nhiên bảo: "Mẹ gọi sứ giả tới đây". Người mẹ rất lấy làm kinh
ngạc, kể lại với hàng xóm. Hàng xóm cả mừng, tức tốc gọi sứ giả tới. Sứ
giả hỏi: "Mày là đứa trẻ mới biết nói, mời ta đến làm gì?".
Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: "Mau về tâu với vua rèn một ngựa
sắt cao mười tám thước, một thanh kiếm sắt dài bảy thước, một roi sắt và
một nón sắt. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh, giặc tất phải kinh bại, vua phải
lo gì nữa?". Sứ giả mừng rỡ vội về tâu vua. Vua vừa kinh vừa mừng nói
rằng: "T a không lo nữa". Quần thần tâu: "Một người thì làm sao mà đánh
bại được giặc?". Vua nổi giận nói: "Lời nói của Long Quân ngày trướckhông phải là ngoa, các quan chớ nghi ngờ gì nữa! Mau đi tìm năm mươi
cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón". Sứ giả tới gặp, người mẹ sợ
hãi cho rằng tai họa đã đến, bèn bảo người con. Con cả cười bảo rằng:
"Mẹ hãy đưa nhiều cơm rượu cho tôi ăn, việc đánh giặc mẹ chớ có lo".
Người con lớn lên rất nhanh, ăn uống tốn rất nhiều, người mẹ cung đốn
không đủ. Hàng xóm sửa soạn trâu rượu bánh quả rất nhiều mà người con
ăn vẫn không no bụng. Vải lụa gấm vóc rất nhiều mà mặc vẫn không kín
thân, phải đi lấy hoa lau buộc thêm vào cho kín người. Kíp đến lúc quân
nhà ân tới chân núi Trâu Sơn ở Vũ Ninh, người con duỗi chân đứng dậy
cao hơn mười thước (có chỗ nói là trượng) ngửa mũi hắt hơi liền hơn
mười tiếng, rút kiếm thét lớn: "T a là thiên tướng đây!" rồi đội nón cưỡi
ngựa. Ngựa chồm lên, hí dài một tiếng mà phi như bay, nháy máy đã tới
trước quân vua, vỗ kiếm đi trước, quan quân đều theo sau, tiến sát đồn
giặc. Quân giặc bỏ chạy, còn lại tên nào đều la bái kêu lạy thiên tướng rồi
cùng đến hàng phục. ân vương bị chết ở trong trận. Đi đến đất Sóc Sơn
huyện Kim Hoa, thiên tướng cởi áo cưỡi ngựa mà lên trời, hôm đó là ngày
mồng 9 tháng 4, còn để vết tích ở hòn đá trên núi. Hùng Vương nhớ công
ơn đó mới tôn là Phù Đổng Thiên Vương, lập miếu thờ ở nhà cũ trong
làng, lại ban cho một ngàn mẫu ruộng, sớm hôm hương lửa. Nhà ân đời
đời, 644 năm không dám ra quân. Sau Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên
Thần Vương, lập miếu ở làng Phù Đổng cạnh chùa Kiến Sơ, lại tạc tượng
ở núi Vệ Linh, xuân thu hai mùa tế lễ. Tới đời vua Thuần Đế nhà Lê, ở xã
Phù Lỗ có người con gái tên là Ngô Chi Lan chăm đọc sách, rành văn
chương, thơ ca điêu luyện, nhân đi dạo chơi tới núi này có đề bài thơ
rằng: Vệ Linh cây cỏ lẫn mây ngàn, Vạn tía muôn hồng rỡ thế gian. Ngựa
sắt bay rồi tên vẫn đó, Anh hùng sống mãi với giang san. (Dịch ý)
5- TRUYỆN NHẤT DẠ TRẠCH
Hùng Vương truyền tới đời thứ ba thì sinh hạ được người con gái tên
là Tiên Dung mỵ nương đến tuổi 18 dung mạo đẹp đẽ, không muốn lấy
chồng mà chỉ vui chơi, chu du khắp thiên hạ. Vua cũng không cấm đoán
nàng. Mỗi năm vào khoảng tháng hai tháng ba lại sắm sửa thuyền bè chèo
chơi ở ngoài bể, vui quên trở về. Hồi đó ở làng Chử Xá cạnh sông lớn có
người dân tên là Chử Vi Vân sinh hạ được Chử Đồng Tử, cha từ con
hiếu, nhà gặp hỏa hoạn, của cải sạch không, còn lại một khố vải cha con
ra vào thay nhau mà mặc. Kíp tới lúc cha lâm bệnh, bảo con rằng: "Cha
chết cứ để trần mà chôn, giữ khố lại cho con". Con không nỡ làm theo,
dùng khố mà liệm bố. Đồng Tử thân thể trần truồng đói rét khổ sở, đứng ở
bên sông hễ nhìn thấy có thuyền buôn qua lại thì đứng ở dưới nước mà ăn
xin, khi thì câu cá độ thân không ngờ thuyền Tiên Dung xốc tới, chiêng
trống nhã nhạc, kẻ hầu người hạ rất đông.
Đồng Tử rất kinh sợ. Trên bãi cát có khóm lau sậy, lưa thưa dăm ba
cây, Đồng Tử bèn nấp trong đó, bới cát thành lỗ nằm xuống mà phủ cát lên
mình. Thoắt sau, Tiên Dung cắm thuyền dạo chơi trên bãi cát, ra lệnh vây
màn ở khóm lau mà tắm. Tiên Dung vào màn, cởi áo dội nước, cát trôi
mất, trông thấy Đồng Tử. Tiên Dung kinh sợ hồi lâu, thấy là con trai bèn
nói: "T a vốn không muốn lấy chồng, nay lại gặp người này, cùng ở trần với
nhau trong một hố, đó chính là do trời xui nên vậy. Người hãy đứng dậy
tắm rửa, ta ban cho quần áo mặc rồi cùng ta xuống thuyền mở tiệc ăn
mừng". Người trong thuyền đều cho đó là cuộc giai ngộ xưa nay chưa
từng có. Đồng Tử bảo: "Đâu dám như vậy!" Tiên Dung ta thán, ép làm vợ
chồng. Đồng Tử cố từ, Tiên Dung nói: "Đây do trời chắp nối, sao cứ chối
từ?". Người theo hầu vội về tâu lại với vua. Hùng Vương nói: "Tiên Dung
không thiết tới danh tiết, không màng tới của cải của ta, ngao du bên
ngoài, hạ mình lấy kẻ bần nhân, còn mặt mũi nào trông thấy ta nữa". Tiên
Dung nghe thấy, sợ không dám về, bèn cùng Đồng Tử mở bến chợ, lập
phố xá, cùng dân buôn bán, dần dần trở thành cái chợ lớn (nay là chợ
Thám, còn gọi là chợ Hà Lương). Phú thương ngoại quốc tới buôn bán
tấp nập, thờ Tiên Dung, Đồng Tử làm chúa. Có người lái buôn giàu nói
rằng: "Quí nhân bỏ một dật vàng ra ngoài bể mua vật quí , sang năm có thểthành mười dật". Tiên Dung cả mừng bảo Đồng Tử: "Vợ chồng chúng ta
do trời tác thành, đồ ăn thức mặc do trời phú cho, nay hãy đem vàng cùng
phú thương ra bể buôn bán". Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn
lái buôn thường ghé lại đó uống nước. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng
tên gọi Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử lưu học ở đó,
giao tiền cho lái buôn mua hàng. Sau lái buôn quay lại am chở Đồng Tử
về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: "Linh
thiêng ở những vật này đây".
Đồng Tử trở về, giảng lại đạo Phật. Tiên Dung bèn giác ngộ, bỏ phố
phường, chợ búa, cơ nghiệp, rồi cả hai đều tìm thầy học đạo. Trên đường
viễn hành, trời tối mà chưa thấy thôn xá, hai người tạm nghỉ ở giữa
đường, cắm trượng che nón mà trú thân. Đến canh ba, thấy hiện ra thành
quách, lầu ngọc, điện vàng, đền đài dinh thự, vàng bạc châu báu, giường
chiếu chăn màn, tiên đồng ngọc nữ, tướng sĩ thị vệ, la liệt trước mắt. Sáng
hôm sau, ai trông thấy cũng kinh lạ, đem hương hoa, ngọc thực tới dâng
mà xin làm bề tôi. Có văn võ bách quan chia quân túc vệ, lập thành nước
riêng. Hùng Vương nghe tin, cho rằng con gái làm loạn, bèn sai quân tới
đánh. Quần thần xin đem quân ra phân nhau chống giữ. Tiên Dung cười
mà bảo: "Điều đó ta không muốn làm, do trời định đó thôi, sinh tử tại trời,
há đâu dám chống lại cha, chỉ xin thuận theo lẽ chính, mặc cho đao kiếm
chém giết". Lúc đó, dân mới tới đều kinh sợ tản đi, chỉ có dân cũ ở lại.
Quan quân tới, đóng trại ở châu Tự Nhiên, còn cách sông lớn thì trời tối
không kịp tiến quân. Nửa đêm, gió lớn thổi bay cát nhổ cây, quan quân hỗn
loạn. Tiên Dung cùng thủ hạ, thành quách phút chốc bay tản lên trời, đất
chỗ đó sụt xuống thành cái chằm lớn. Về sau, dân lập miếu thờ, bốn mùa
cúng tế, gọi chằm là chằm Nhất Dạ Trạch (nghĩa là chằm một đêm), gọi
bãi là bãi Mạn Trù, gọi chợ là chợ Thám còn gọi là chợ Hà Lương. Sau
vua Hậu Lương là Diễn sai Trần Bá Tiên đêm quân xâm lược phương
Nam. LýNamĐế sai Triệu Quang Phục làm tướng cự địch. Quang Phục
đem quân nấp ở chằm. Chằm sâu mà rộng, quân địch vướng mắc, tiến
binh rất khó, Quang Phục dùng thuyền độc mộc đột xuất ra đánh cướp
lương thực, cầm cự lâu ngày làm cho quân giặc mệt mỏi, trong ba bốn
năm không hề đối diện chiến đấu. Bá Tiên than rằng: "Ngày xưa nơi đây là
chằm một đêm bay về trời, nay lại là chằm một đêm cướp đoạt người".
Nhân gặp loạn Hầu Cảnh, vua nhà Lương bèn gọi Bá Tiên về, ủy cho tì
tướng là Dương Sằn thống lĩnh sĩ tốt, Quang 29 30 Prev Page 13 Next Phục ăn chay lập đàn ở giữa đầm, đốt hương mà cầu đảo, bỗng thấy thần
nhân cưỡi rồng bay vào trong đàn mà bảo Quang Phục rằng: "Hiển linh
còn đó, ngươi có thể cầu tới cứu trợ để dẹp bằng họa loạn".
Dứt lời, tháo vuốt rồng trao cho Quang Phục, bảo: "Đem vật này đeo
lên mũ đâu mâu có thể khiến giặc bị diệt". Đoạn bay lên trời mà đi. Quang
Phục được vật đó, reo mừng vang động, xông ra đột chiến, quân Lương
thua to. Chém Dương Sằn ở trước trận, giặc Lương phải lùi. Quang Phục
nghe tinNamĐế mất, bèn tự lập làm Triệu Việt Vương, xây thành ở Trâu
Sơn, huyện Vũ Ninh.
6- TRUYỆN MỘC TINH
Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây chiên đàn
cao hơn ngàn trượng cành lá xum xuê, không biết che rợp tới mấy ngàn
rậm. Có chim hạc bay đến đậu nên đất chỗ đó gọi là đất Bạch Hạc. Cây
trải qua hàng mấy ngàn năm khô héo mà biến thành yêu tinh, thường thay
đổi hình dạng, rất dũng mãnh, có thể giết người hại vật. Kinh Dương
Vương dùng nhạc mà đánh thắng yêu, yêu hơi chịu nhún nhưng vẫn nay
đây mai đó, biến hóa khôn lường, thường ăn thịt người. Dân phải lập đền
thờ, hàng năm tới ngày 30 tháng chạp, theo lệ phải mang người sống tới
nộp, dân mới được yên ổn. Dân thường gọi yêu là thần Xương Cuồng.
Biên giới tây nam giáp liền với nước Mi Hầu, vua Hùng Vương sai dân
man Bà Lô (nay là phủ Diễn Châu) hàng năm bắt giống người lão tử sống
ở khe núi tới tiến, không thể thay đổi được lệ ấy. Kíp tới khi Tần Thủy
Hoàng bổ Nhâm Hiêu làm quan lệnh ở Long Xuyên, muốn bỏ tệ ấy đi. Thần
Xương Cuồng tức giận vật chết Hiêu, vì thế về sau lại phải phụng thờ cẩn
thận. Đến đời vua Đinh Tiên Hoàng có pháp sư Văn Du Tường vốn người
phương bắc, đức hạnh thanh cao, đã từng đi qua nhiều nước, biết được
tiếng các dân man, học được thuật làm nanh vàng và răng đồng, năm hơn
80 tuổi sang nướcNam ta. Tiên Hoàng lấy lễ thầy trò mà tiếp, pháp sư
bèn dạy cho nghề tạp kỹ để làm trò vui cho thần Xương Cuồng xem mà
giết y. Đoàn tạp kỹ này có Thượng Kỵ, Thượng Can, Thượng Hiểm,
Thượng Đát, Thượng T oái, Thượng Câu. Hàng năm tới tháng 11 lại dựng
lầu Phi Vân cao 20 thước, dựng một cây đứng ở trong, tết vỏ gai làm dây
chão dài 136 thước, đường kính rộng 2 tấc, lấy mây mà quấn ngoài rồi
chôn hai đầu dây xuống đất, giữa gác lên cây. Thượng Kỵ đứng lên trên
dây mà chạy nhanh 3,4 lần, đi đi lại lại mà không ngã. Kỵ đầu đội khăn
đen, mình mặc quần đen. Dây của Thượng Can dài 150 thước, có một chỗ
mắc chạc ba. Can hai tay cầm hai cán cờ. Hai người đi trên dây, gặp nhau
ở chỗ chạc ba thì lại tránh, lên xuống mà không ngã. Khi thì Thượng Đát lấy
một tấm gỗ lớn rộng 1 thước 3 tấc, dày 7 tấc đặt lên trên cây cao 17 thước
3 tấc, Đát đứng ở trên nhảy 2, 3 cái, tiến tiến lùi lùi điên đảo. Khi thì
Thượng T oái lấy tre đan thành lồng hình như cái lờ bắt cá, dài 5 thước,
tròn 4 thước rồi chui vào đứng thẳng mình mà lăn. Khi thì Thượng Câu vỗtay nhảy nhót, la hét kêu gào, chuyển động chân tay, vỗ đùi vỗ bụng, tiến lùi
lên xuống, hoặc cưỡi ngựa bôn tẩu, cúi mình xuống lấy vật ở dưới đất mà
không ngã. Khi thì Thượng Hiểm ngả mình nằm ngửa lấy thân đỡ một cái
gậy dài rồi cho đứa trẻ trèo lên mà không rớt xuống. Khi thì cho bọn ca hát
gõ trống khua chiêng, ca múa rầm rĩ . Lại giết súc vật mà tế. Thần Xương
Cuồng tới, thấy thế bèn đến xem, pháp sư đọc mật chú rồi lấy kiếm mà
chém. Thần Xương Cuồng cùng bộ hạ đều chết hết, không thể trở lại thành
yêu nữa. Lệ tiến lễ hàng năm bèn bỏ, dân lại sống yên lành như xưa.
7- TRUYỆN CÂY CAU
Thời thượng cổ có một vị quan lang sức vóc cao lớn, nhà vua ban tên
là Cao cho nên lấy Cao làm họ. Cao sinh hạ được hai người con trai, con
cả tên là Tân, con thứ tên là Lang. Hai anh em giống nhau như đúc, trông
không thể phân biệt nổi. Đến năm 17, 18 tuổi, cha mẹ đều từ trần, hai anh
em đến theo học đạo sĩ Lưu Huyền. Nhà họ Lưu có người con gái tên là
Liên, tuổi cũng khoảng 17, 18. Hai anh em thấy nàng thì rất vừa ý, muốn
kết làm vợ chồng. Nàng chưa biết người nào là anh, mới bày một chậu
cháo và một đôi đũa, cho hai anh em cùng ăn, Người em nhường anh ăn
trước. Nàng về nói với cha mẹ xin làm vợ người anh. Khi cùng ở với nhau,
người anh thường lạt lẽo với em. Người em tự lấy làm tủi hổ, cho rằng anh
lấy vợ rồi thì quên mình, bèn không cáo biệt mà bỏ đi về quê nhà. Đi tới
giữa rừng, gặp một dòng suối sâu mà không có thuyền để qua, đau đớn
khóc lóc mà chết, hóa thành một cây mọc ở cửa sông. Người anh ở nhà
không thấy em bèn đi tìm. Tới chỗ đó, gieo mình chết ở bên gốc cây, hóa
thành phiến đá nằm ôm lấy gốc cây. Người vợ đi tìm chồng, tới chỗ này
cũng gieo mình ôm lấy phiến đá mà chết, hóa thành một cây leo cuốn
quanh thân cây và phiến đá, lá có mùi thơm cay. Cha mẹ nàng họ Lưu đi
tìm con tới đây, đau xót vô cùng, bèn lập miếu thờ. Người trong vùng
hương hỏa thờ cúng, ca tụng anh em hòa thuận, vợ chồng tiết nghĩa.
Khoảng tháng bảy tháng tám, khí nóng chưa tan, Hùng Vương đi tuần thú,
nhân dừng chân nghỉ mát ở trước miếu, thấy cây lá xum xuê, giây leo
chằng chịt, tự đưa lên miệng nhai, nhổ bọt lên phiến đá, thấy có sắc đỏ,
mùi vị thơm tho, Vương bèn sai đốt đá lấy vôi mà ăn cùng với quả và lá
dây leo, thấy mùi vị thơm ngon, môi đỏ má hồng, biết là vật quý, bèn lấy
mang về. Ngày nay cây thường trồng ở khắp nơi, đó chính là cây cau, cây
trầu không và vôi vậy. Về sau, người nướcNam ta phàm cưới vợ gả
chồng hay lễ tết lớn nhỏ đều lấy trầu cau làm đầu. Nguồn gốc cây cau là
như thế đó.
8- TRUYỆN BÁNH CHƯNG
Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc ân, nhân quốc gia vô sự,
muốn truyền ngôi cho con, bèn triệu hai mươi hai vị quan lang và công
chúa lại mà phán rằng: "T a muốn truyền ngôi cho kẻ nào làm ta vừa ý, cuối
năm nay mang trân cam mỹ vị đến để tiến cúng tiên vương cho ta được
tròn đạo hiếu thì sẽ được ta truyền ngôi". Các con đều đua nhau đi tìm của
ngon vật lạ khắp trên cạn dưới bể, nhiều không sao kể xiết. Duá có vị công
tử thứ 18 là Lang Liêu, bà mẹ trước kia vốn bị vua ghẻ lạnh, vì cô đơn mà
chết, tả hữu í t người giúp đỡ, khó xoay xở nên đêm ngày lo lắng, mộng mị
bất an. Một đêm kia, mộng thấy có thần nhân tới nói rằng: "Các vật trên
trời đất và mọi của quý của người không gì bằng gạo. Gạo có thể nuôi
người khỏe mạnh mà ăn không bao giờ chán, các vật khác không thể hơn
được. Nay đem gạo nếp làm bánh, cái hình vuông, cái hình tròn để tượng
trưng hình trời đất rồi dùng lá bọc ngoài, ở trong cho mỹ vị để ngụ ý công
đức sinh thành lớn lao của cha mẹ". Lang Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ mà nói
rằng: "Thần nhân giúp ta vậy!". Nói rồi bèn theo lời dặn trong mộng mà
làm, chọn thứ gạo nếp trắng tinh, lặt lấy những hạt tròn mẩy không bị vỡ, vo
cho thật sạch, lấy lá xanh bọc xung quanh thành hình vuông, cho trân cam
mỹ vị vào bên trong để tượng trưng cho trời đất, vạn vật rồi nấu chín, gọi là
bánh chưng. Lại lấy gạo nếp nấu chín, giã cho nát, nặn thành hình tròn,
tượng trưng cho trời gọi là bánh dày. Đến kỳ, vua vui vẻ truyền các con bày
vật tiến lên. Xem qua khắp lượt, thấy không thiếu thức gì . Duá có Lang
Liêu chỉ tiến dâng bánh chưng và bánh dày. Vua kinh ngạc mà hỏi, Lang
Liêu đem giấc mộng thuật lại. Vua đem nếm, thấy ngon miệng không chán,
hơn hẳn các thức của các con khác, tấm tắc khen hồi lâu rồi cho Lang Liêu
được nhất. Đến ngày Tết, vua thường lấy bánh này dâng cúng cha mẹ.
Thiên hạ bắt chước, đến nay đổi tên Lang Liêu thành Tiết Liệu. Vua bèn
truyền ngôi cho Liêu, anh em 21 người đều được chia giữ các nơi phiên
trấn, tụ tập bộ đảng mà thành phiên quốc. Về sau, các tướng tranh giành
nhau thường dựng mộc sách (hàng rào bằng gỗ) để phòng ngự; cho nên,
từ đó mới có sách, thôn, trang, phường.
9- TRUYỆN DƯA HẤU
Về đời Hùng Vương có viên quan tên là Mai Tiêm vốn người ngoại
quốc, khi lên 7, 8 tuổi, vua mua từ thương thuyền về làm nô bộc. Kíp tới khi
lớn lên diện mạo đoan chính, nhớ thuộc sự vật, vua ban tên cho là Mai Yển,
hiệu An Tiêm, lại ban cho một người thiếp. Tiêm sinh hạ được một trai
một gái. Vua rất tin yêu, giao cho công việc, dần dần trở nên phú quý, bổng
lộc rất nhiều. Sau Tiêm đâm ra kiêu căng ngạo mạn, thường nói rằng: "Đó
đều do tiền thân của ta, không phải do ơn chúa". Vua nghe nói cả giận,
phán: "Làm thần tử của người mà kiêu căng ngạo mạn, không biết ơn
chúa, lại nói là do tiền thân! Nay đưa nhà ngươi ra một nơi không có
người ở giữa bể xem có còn tiền thân không?" Bèn đày ra ngoài cửa bể
huyện Nga Sơn (còn gọi là Giáp Sơn), bốn bề toàn cát và nước không có
vết chân người qua lại, ban cho một số lương thực đủ ăn bốn năm tháng
để cho ăn hết thì chết. Vợ Tiêm than khóc, Tiêm cười mà bảo: "Trời sinh
ta tất nuôi nổi ta, sống chết bởi trời, ta đâu lo lắng". Bỗng thấy một con
bạch trĩ từ phương Tây bay lại đậu ở đầu núi, kêu lên 3, 4 tiếng 6,7 hạt
dưa theo tiếng kêu mà rơi xuống cát, mọc lên xanh rì rồi kết thành quả. An
Tiêm mừng rỡ mà nói: "đây không phải là dị vật mà là trời cho để nuôi ta
đó". Bèn bổ ra mà ăn, thấy vị thơm ngon, tinh thần sảng khoái, mới giữ lấy
hạt, năm sau đem trồng. n không hết, lại đem đổi lấy gạo nuôi vợ con.
Tiêm không biết gọi là quả gì , nhân vì chim trĩ ngậm hạt từ phương Tây bay
tới nên gọi là quả Tây Qua. Phường chài phường buôn ăn đều cho là
ngon. Những người ở thôn xóm xa gần đều mua để lấy giống. Sau vua
nghĩ tới Tiêm, cho người đến xem còn sống hay đã chết. Người đó về tâu
lại với vua, vua thở dài mà than rằng: "Hắn nói là do ở tiền thân, điều đó
thực không ngoa". Bèn ra chiếu gọi về cho phục chức cũ, lại cấp cho nô tỳ.
Bãi cát Tiêm ở gọi là bãi An Tiêm, làng đó gọi là Mai thôn. Có người lại
suy tôn nơi tổ tiên An Tiêm ở mà cho rằng nơi đó là châu An Tiêm thuộc
tỉnh Thanh Hóa.
10 - TRUYỆN BẠCH TRĨ
Về đời vua Thành Vương nhàChu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là
họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang tiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng,
Chu Công phải sai sứ qua nhiều lần dịch mới hiểu nhau được.ChuCông
hỏi: "Tại sao tới đây?". Họ Việt Thường đáp: "Đời nay không có mưa dầm
gió dữ, ngoài bể không nổi sóng lớn đã ba năm nay, ý chừng là Trung
Quốc có thánh nhân xuất thế, nhân vậy tới đây". Chu Công than rằng:
"Chính lệnh không thi hành thì người quân tử không bắt được kẻ khác
thuần phục mình, đức trạch không mở rộng thì người quân tử không hưởng
lễ của người. Còn nhớ Hoàng Đế có câu thề rằng: phương Việt Thường
không thể xâm phạm được". Bèn ban thưởng cho phẩm vật địa phương,
dạy răn mà cho về. Họ Việt Thường quên đường về, Chu Công bèn ban
cho 5 cỗ biền xa đều chế cho hướng về phươngNam. Họ Việt Thường
nhận lấy rồi theo bờ biển PhùNam, Lâm ấp đi một năm thì về tới nước.
Cho nên, xe chỉ nam thường dùng để đi trước đưa đường. Về sau, Khổng
Tử viết kinh Xuân Thu cho nước Văn Lang là một nơi hoang vu, văn vật
chưa có bèn bỏ trống mà không chép. Theo bản cũ chép thì Chu Công có
hỏi: "Người Giao chỉ cắt tóc ngắn, xăm mình, để đầu trần, đi chân đất,
nhuộm răng đen là cớ làm sao?". Đáp: "Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng
rú. Xăm mình để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài giao long
không phạm tới. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng
lửa. Để đầu trần để tránh lửa bén. n trầu cau để trừ uế cho nên răng đen
vậy".
11- TRUYỆN LÝ ÔNG TRỌNG
Cuối đời Hùng Vương có người ở xã Thụy Hương, huyện Từ Liêm, đất
Giao Chỉ họ Lý tên Thân. Khi đẻ ra rất to lớn, rồi cao đến 2 trượng 3
thước, tính tình hung hãn, hay giết người, tội ác đáng chết, Hùng Vương
tiếc mà không nỡ giết. Đời An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng muốn cất
binh đánh ta, An Dương Vương bèn đem Lý Thân tiến nhà Tần. Thủy
Hoàng mừng lắm, phong cho làm chức tư lệ hiệu úy. Khi Thủy Hoàng đã
lấy được cả thiên hạ, sai Lý đem quân giữ đất Lâm Thao, uá danh vang
dội đến Hung Nô, Hung Nô không dám xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng
phong Lý làm phụ tín hầu, lại gả công chúa cho Lý. Sau tuổi già trở về
nước. Hung Nô lại xâm phạm cửa ải. Thủy Hoàng nhớ tới Lý Thân, sai
người sang triệu. Lý Thân không chịu đi, trốn vào rừng núi. Vua Tần trách
quở, An Dương Vương tìm không được, nói dối là Lý đã chết. Vua Tần
hỏi vì sao mà chết. Trả lời: vì đi tả. Tần sai sứ sang khám. An Dương
Vương bèn nấu cháo đổ xuống đất để làm thực tích. Vua Tần đòi mang
xác sang, Lý Thân bất đắc dĩ phải tự vẫn (hôm đó là ngày mồng 2 tháng 2).
An Dương Vương sai lấy thủy ngân rắc lên xác rồi đem nộp vua Tần.
Thủy Hoàng lấy làm lạ, mới đúc đồng làm tượng, đặt hiệu là ông Trọng,
đem dựng ở cửa Kim Mã đất Hàm Dương. Trong bụng tượng chứa mấy
chục người để lay cho tượng cử động. Hung Nô trông thấy tưởng là quan
hiệu úy sống, không dám động tới cửa ải. Tới đời đường, Triệu Xương
sang làm quan đô hộ đất Giao Châu, đêm mộng thấy cùng Lý Thân giảng
sách Xuân Thu, Tả Truyện, nhân hỏi thăm nhà cũ, lập đền thờ cúng. Sau
Cao Biền dẹp giặc Nam Chiếu, Lý hiển linh cứu trợ, Cao Biền bèn sửa
sang lại miếu đền, tạc gỗ làm tượng, gọi là đền Lý hiệu úy nay thuộc xã
Thụy Hương, huyện Từ Liêm (xưa gọi là xã Thụy Hàm, nay gọi là xã Thụy
Hương) ở bên bờ sông Cái cách kinh thành 15 dặm.
12- TRUYỆN GIẾNG VIỆT
Giếng Việt ở miền Trâu Sơn huyện Vũ Ninh. Đời vua Hùng Vương thứ
ba, nhà ân cử binh sang sâm chiếm nướcNam, đóng quân ở dưới núi
Trâu Sơn. Hùng Vương cầu cứu Long Quân, Long Quân truyền đi tìm bậc
kỳ tài trong thiên hạ thì sẽ dẹp được giặc. Sóc Thiên Vương ứng kỳ mà
sinh, cưỡi ngựa sắt đánh giặc, tướng sĩ nhà ân đều bỏ chạy. ân Vương
chết ở dưới núi, biến thành vua ở địa phụ, dân phải lập miếu thờ, lâu năm
suy dần, đền miếu bỏ hoang. Qua đờiChu, tới đời Tần, có người nước ta
là Thôi Lượng làm quan cho nhà Tần đến chức ngự sử đại phu, thường
qua vùng này, thấy cảnh suy tàn, trạnh lòng thương cảm, bèn sửa sang lại
đền miếu. Sau các tướng Nhâm Hiêu, Triệu Đà đem quân xâm chiếm
phươngNam(đời An Dương Vương) trú quân ở dưới núi, sai tu sửa lại
miếu mạo, nghiêm cẩn khấn thờ. ân Vương cảm cái đức của Lượng xưa,
muốn đền ơn, bèn sai tiên nữ Ma Cô ra ngoài cõi tìm kiếm. Khi ấy Lượng
đã chết ở đất Tần, duá có con là Vỹ hãy còn du học. Khoảng đầu tháng
giêng, dân chúng tới thăm đền này, có người cúng một đôi bình pha lê, tiên
nữ Ma Cô cầm lên tay ngắm nghía, lỡ rơi xuống đất vỡ khuyết một mảnh,
bị người ta bắt đền. Ma Cô mặc áo rách, mọi người không biết là tiên, nên
đánh đập tàn nhẫn. Thôi Vỹ thấy vậy động lòng thương, bèn cởi áo đền
cho Ma Cô được tha. Ma Cô hỏi Vỹ ở đâu, Vỹ kể lại lai lịch của cha.
Ma Cô lúc ấy mới biết là con quan Thôi ngự sử, mừng rỡ mà nói với
Vỹ rằng: "Nay ta không có gì báo đáp, sau này tất sẽ tạ ơn". Nhân đưa cho
Vỹ một bó lá ngải mà nói: "Giữ cẩn thận vật này, đừng để rời khỏi mình,
sau này thấy ai có bướu trên đầu, đem cứu cho tan tất sẽ được phú quý
to". Vỹ nhận lấy, chưa biết đó là thuốc thiên. Đi đến nhà người bạn thân là
ứng Huyền, Huyền là một vị đạo sĩ có cái bướu trên đầu, Vỹ nói: "Tôi có lá
ngải có thể trị được tật này". Huyền nhờ chữa cho. Vỹ bèn dùng lá ngải mà
cứu, bướu lập tức tan, Huyền nói: "Đó là thuốc tiên, ta nay không có vật gì
báo đáp, xin lấy ơn khác đền lại. T a quen một vị quí nhân mắc tật này,
thường nói rằng ai chữa được thì sẽ chia sẻ gia tài mà không tiếc, ông
hãy tới đó chữa". Huyền đưa Vỹ tới nhà Nhâm Hiêu chữa, bướu tự khắc
tan. Hiêu cả mừng, nuôi Vỹ làm nghĩa tử, mở trường cho Vỹ học để chờ
khi hữu dụng. Vỹ là người thông minh, hay đọc sách, gảy đàn. Con gáiHiêu là Phương Dung thấy Vỹ thì phải lòng, bèn cùng tư thông. Con giai
Hiêu là Nhâm Phu biết chuyện, muốn giết Vỹ, đem Vỹ tế thần Xương
Cuồng, bèn dỗ rằng: "Cuối năm phải lễ thần Xương Cuồng mà chưa có
người làm đồ lễ nay không nên đi ra ngoài, e rằng bị bắt sống, phải ẩn vào
phòng kín để tránh". Vỹ vô tình nghe theo, Nhâm Phu bèn khóa cửa buồng.
Phương Dung biết ý, ngầm lấy dao đưa cho Vỹ, Vỹ đào ngạch mà ra. Ban
đêm, Vỹ lẻn đi, muốn tới nương tựa nhà ứng Huyền. Đi gấp lên trên núi,
núi có hang sâu. Vỹ lỡ chân rơi xuống hang.
Đương lúc canh một thì rơi tới đáy, Vỹ đau quá, hơn một khắc mới
ngồi dậy được. Đến lúc đúng ngọ, mặt trời chiếu thẳng xuống hang, thấy
xung quanh đều là vách đá, không có bậc lên. ở trên có một hòn đá, thạch
nhũ rủ xuống bàn đá. Có một con rắn trắng mình dài trăm trượng, mào
vàng, miệng đỏ, râu xanh, vẩy trắng, dưới cổ có cái bướu, trên trán có
dòng chữ vàng đề "Vương Kinh Tử". Rắn ra ăn thạch nhũ rồi lại chui vào
trong hang. Vỹ ở trong hang ba ngày, đói lắm phải ăn vụng thạch nhũ. Rắn
ra thấy trên bàn đá hết cả thạch nhũ, ngửng đầu thấy Vỹ thì định nuốt. Vỹ
kinh sợ, sụp lạy mà nói: "Tôi tị nạn rơi xuống dưới này, không có gì ăn, đói
dạ nên phải ăn vụng, thực là đắc tội. Nay thấy dưới cổ ngài có cái bướu
thịt, tôi có lá ngải để đã ba năm, xin khoan tha cho tôi để tôi thi thố chút tài
mọn". Rắn ngẩng đầu xin cứu. Bỗng thấy ánh lửa sáng, một mảnh than rơi
xuống hang. Vỹ lấy lửa mà cứu, bướu lập tức tiêu tan. Rắn quẫy mình tới
trước mặt Vỹ như có ý bảo Vỹ cưỡi lên lưng. Vỹ cưỡi lên, rắn bèn tức thì
đưa Vỹ ra khỏi hang. Đúng canh hai thì lên tới cửa hang, nhìn không thấy ai
qua lại, rắn bèn vẫy đuôi bảo Vỹ xuống, sau đó rắn lại trở vào trong hang.
Vỹ đi lạc đường, chợt thấy trước mặt có một tòa thành, trên cổng thành có
lầu cao lợp ngói đỏ lộng lẫy, ánh sáng mờ mờ chiếu tỏa. Trên cổng treo
biển đỏ viết chữ "ân Vương Thành" bằng vàng. Vỹ ngồi bên cạnh cổng
nhìn thấy trong sân có ao, giữa ao có sen ngũ sắc, cạnh ao có hòe, liễu
mấy hàng. Thấy đường gạch phẳng lỳ, điện ngọc cung châu, lầu cao gác
rộng. Trên điện kê giường kim qui, trải chiếu hoa bạc, có hai cây đàn cầm,
sắt, vắng lặng không thấy người. Vỹ bèn vào đánh đàn, bỗng thấy kim
đồng ngọc nữ hàng trăm người theo hầu ân hậu mở cửa mà ra. Vỹ cả
kinh, xuống điện phục lậy. Hậu cười phán rằng: "Thôi quan nhân ở đâu tới
đây?" Rồi lại mời lên điện mà nói: "Xưa kia điện ân Vương bỏ hoang đổ
nát, không người thờ cúng, nhờ có Thôi ngự sử sửa chữa, người đời mới
theo gương mà cúng thờ mãi mãi. T a đã sai tiên nữ Ma Cô đi tìm để báoơn, không gặp ngự sử mà chỉ gặp công tử. Vẫn chưa có gì báo đáp, nay
may được trông thấy mặt công tử, nhưng hiềm vì có sắc gọi cho nên
Vương lên chầu trời hiện không ở nhà". Bèn ban tiệc rượu, chuốc cho ăn
uống no say. Xong tiệc, bỗng thấy có một người râu dài bụng to tiến lên
dâng biểu, quỳ xuống mà tâu rằng: "Ngày 13 tháng giêng, người phương
Bắc là Nhâm Hiêu đã bị thần Xương Cuồng đánh chết". Tâu xong, Hậu
bèn nói: "Dương quan nhân hãy đưa Thôi công tử trở về trần thế". Hậu
quay vào. Dương quan nhân bèn bảo Vỹ nhắm mắt ngồi lên vai mình. Hơn
một khắc sau lại xuống tới đỉnh núi. Dương quan nhân biến thành một con
dê đá mà đứng ở trong núi, nay con dê ấy còn ở sau chùa Triệu Việt
Vương trên núi Trâu Sơn. Vỹ trở về nhà ứng Huyền kể lại đầu đuôi câu
chuyện.
Đêm ngày mồng 1 tháng 8, đương lúc xế bóng, Vỹ và Huyền cùng đi
dạo bên ngoài. thấy tiên nữ Ma Cô dắt một người con gái tới cho Vỹ để
kết làm vợ chồng, lại cho cả viên ngọc Long Tụy. Vốn xưa ngọc đó có hai
viên thư, hùng, suốt từ đời vua Hoàng Đế tới triều nhà ân vẫn được lưu
truyền là vật quí ở đời. Trong cuộc chiến trận ở Trâu Sơn, vua ân đeo ngọc
đó mà chết, ngọc bị vùi xuống đất mà hào quang của nó vẫn chiếu tỏa đến
tận trời. Thời binh hỏa đời Tần, báu ngọc đều cháy hết, người ta xem linh
khí mà biết rằng viên ngọc quí Long Tụy vẫn còn ở nướcNam, mới từ xa
tới tìm. Đến nay ân Vương lấy ngọc qúi này báo đáp ơn Vỹ. Người thời ấy
đem vàng bạc lụa là đáng giá trăm nghìn quan tới mua, Vỹ do đó mà giàu
lớn. Sau tiên nữ Ma Cô tới đón vợ chồng Vỹ đi đâu không biết, có lẽ đã
hóa thành tiên vậy. Nay giếng đã lở thành cái huyệt rộng, gọi là Việt Tỉnh
Cương.
13- TRUYỆN RÙA VÀNG
Vua An Dương Vương nước âu Lạc là người Ba Thục, họ Thục tên
Phán. Nhân vì tổ phụ ngày trước cầu hôn lấy Mỵ Nương là con gái vua
Hùng Vương, Hùng Vương không gả cho, bèn mang oán. Phán muốn
hoàn thành chí người trước, cử binh đi đánh Hùng Vương, diệt nước Văn
Lang, cải tên nước thành âu Lạc, rồi lên làm vua, xây thành ở đất Việt
Thường, hễ đắp tới đâu lại lở tới đấy. Vua bèn lập đàn trai giới, cầu đảo
bách thần. Ngày mồng 7 tháng 3 bỗng thấy một cụ già từ phương đông tới
trước cửa thành mà than rằng: "Xây dựng thành này biết bao giờ cho xong
được!" Vua mừng rỡ đón vào trong điện, thi lễ, hỏi rằng: "T a đắp thành
này đã nhiều lần băng lở, tổn nhiều công sức mà không thành, thế là cớ
làm sao?" Cụ già đáp: "Sẽ có sứ Thanh Giang tới cùng nhà vua xây dựng
mới thành công", nói xong từ biệt ra về. Hôm sau vua ra cửa đông chờ
đợi, chợt thấy một con rùa vàng từ phương đông lại, nổi trên mặt nước,
nói sõi tiếng người, tự xưng là sứ Thanh Giang, thông tỏ việc trời đất, âm
dương, quỷ thần. Vua mừng rỡ nói: "Điều đó chính cụ già đã báo cho ta
biết trước". Bèn rước vào trong thành, mời ngồi trên điện, hỏi vì sao xây
thành không được. Rùa vàng đáp: "Cái tinh khí ở núi này là con vua đời
trước, muốn báo thù cho nước. Lại có con gà trống sống ngàn năm, hóa
thành yêu tinh ẩn ở núi Thất Diệu.
Trong núi có ma, đó là hồn người nhạc công triều đại trước chôn ở
đây. ở bên cạnh, có một quán trọ cho khách vãng lai, chủ quán tên là Ngộ
Không, có một người con gái và một con gà vốn là dư khí của quỉ tinh,
phàm có khách qua đường nghỉ đêm ở quán thì quỉ tinh lại biến hóa muôn
hình vạn trạng để làm hại. Người chết vì thế rất nhiều. Nay con gà trống
trắng lại lấy con gái chủ quán, nếu giết được con gà trống thì trấn áp được
quỉ tinh, quỉ tinh sẽ tụ âm khí thành yêu, hóa ra con chim cú ngậm lá thư
bay lên trên cây chiên đàn tâu cùng thượng đế xin phá thành. Thần sẽ xin
cắn rơi lá thư, nhà vua tức tốc lặt lấy, thành sẽ xây được". Rùa vàng bảo
vua giả làm kẻ hành nhân nghỉ trọ ở quán, để rùa vàng ở phía trên khung
cửa. Ngộ Không nói: "Quán này có yêu tinh, đêm thường giết người. Hôm
nay trời chưa tối, xin ngài đi mau chớ nghỉ lại". Vua cười, nói: "Sống chết
có mệnh, ma quỷ làm gì được, ta không sợ". Bèn cứ nghỉ lại. Đến đêm,
quỉ ở ngoài vào, thét lớn: "Kẻ nào ở đây, sao chẳng mau mở cửa?" Rùavàng hét: "Cứ đóng cửa thì mày làm gì?". Quỉ bèn biến hóa trăm hình vạn
trạng, muôn kế nghìn phương để hòng dọa nạt, sau cùng cũng chẳng nổi.
Đến lúc gà gáy sáng, quỷ tinh tẩu tán. Rùa vàng cùng vua đuổi theo, tới núi
Thất Diệu, quỉ tinh thu hình biến mất. Vua bèn quay về quán. Sáng hôm
sau, chủ quán sai người đến lượm xác khách trọ để chôn, thấy vua vẫn
cười nói hớn hở, bèn cùng chạy tới lạy mà nói rằng: "Ngài được như thế
tất là thánh nhân, vậy xin ban thuốc thần để cứu sinh dân".
Vua nói: "Nhà ngươi giết con gà trắng mà tế thần, quỉ tinh sẽ tan hết".
Ngộ Không y lời, đem gà trắng ra giết, người con gái lập tức quay ra chết.
Vua bèn sai đào ở núi Thất Diệu, lấy được nhiều nhạc khí cổ và xương
cốt, đốt tan thành tro đem đổ xuống dòng sông. Trời gần tối, vua và rùa
vàng lên núi Việt Thường thấy quỉ tinh đã biến thành con chim cú sáu chân,
ngậm lá thư bay lên cây chiên đàn, rùa vàng biến thành con chuột đen theo
sau, cắn vào chân cú, lá thư rơi xuống đất, vua vội nhặt lấy, lá thư đã bị
nhấm rách quá nửa. Từ đó quỉ tinh bị diệt. Thành xây nửa tháng thì xong.
Thành đó rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, cho nên gọi là Loa
Thành, còn gọi là Tư Long thành, người đời Đường gọi là Côn Lôn thành,
lấy lẽ rằng nó cao lắm. Rùa vàng ở lại ba năm, rồi từ biệt ra về. Vua cảm
tạ nói: "Nhờ ơn của thần, thành đã xây được. Nay nếu có giặc ngoài thì lấy
gì mà chống?". Rùa vàng đáp: "Vận nước suy thịnh, xã tắc an nguá đều do
mệnh trời, vua có thể tu đức mà kéo dài thời vận. Song vua ước muốn, ta
có tiếc chi". Bèn tháo vuốt đưa cho nhà vua mà nói: "Đem vật này làm nẫy
nỏ, nhằm quân giặc mà bắn thì sẽ không lo gì nữa". Dứt lời, trở về biển
đông. Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy vuốt làm nẫy. Gọi là Linh Quang Kim
Quá thần cơ. Về sau Triệu Vương là Đà cử binh nam xâm, cùng vua giao
chiến. Vua lấy nỏ thần ra bắn, quân Đà thua lớn, chạy về Trâu Sơn cầm cự
với nhà vua, không dám đối chiến, bèn xin hòa. Vua cả mừng, hẹn rằng
phía bắc sông Tiểu Giang thuộc Triệu Đà cai trị, phía nam thì vua cai trị.
Không bao lâu, Đà cầu hôn. Vua vô tình gả con gái là Mị Châu cho con trai
Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm
làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt rùa vàng, nói dối là về phương bắc thăm
cha. Nói rằng: "Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không
thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, bắc
nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu?". Đáp: "Thiếp phận nữ nhi,
nếu gặp cảnh biệt lá thì đau đớn khôn xiết, thiếp có áo gấm lông ngỗng
thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rứt lông mà rắc ở ngã ba đường đểlàm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau". Trọng Thủy mang lẫy thần về
nước. Đà được lẫy cả mừng, bèn cử binh sang đánh. Vua cậy có nỏ thần,
vẫn điềm nhiên đánh cờ, cười mà nói rằng: "Đà không sợ nỏ thần sao?"
Quân Đà tiến sát, vua cầm lấy nỏ, thấy lẫy thần đã mất bèn bỏ chạy. Vua
đặt Mỵ Châu ngồi đằng sau ngựa rồi cùng nhau chạy về phươngNam.
Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng mà đuổi. Vua chạy tới bờ bể, đường
cùng, không có thuyền qua bèn kêu rằng: "Trời hại ta, sứ Thanh Giang ở
đâu mau mau lại cứu". Rùa vàng hiện lên mặt nước, thét lớn: "kẻ ngồi sau
ngựa chính là giặc đó!". Vua bèn tuốt kiếm chém Mỵ Châu, Mỵ Châu khấn
rằng: "Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại lại cha, chết đi
sẽ biến thành hạt bụi. Nếu một lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết
đi sẽ biến thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù". Mỵ Châu chết ở bờ
bể, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Vua
cầm sừng tê bảy tấc, Rùa vàng rẽ nước dẫn vua đi xuống bể. Đời truyền
rằng nơi đó là đất Dạ Sơn, tổng Cao Xá, phủ Diễn Châu. Quân Đà kéo tới
đấy không thấy bóng vết gì , chỉ còn lại xác Mỵ Châu. Trọng Thủy ôm xác vợ
đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Mỵ Châu đã chết,
Trọng Thủy thương tiếc khôn cùng, khi đi tắm tưởng như thấy bóng dáng
Mỵ Châu, bèn lao đầu xuống giếng mà chết. Người đời sau mò ngọc ở
biển đông lấy nước giếng này mà rửa thì thấy trong sáng, nhân kiêng tên
Mỵ Châu cho nên gọi ngọc minh châu là đại cữu và tiểu cữu.
14- TRUYỆN HAI BÀ TRINH LINH
PHU NHÂN HỌ TRƯNG
Theo sách Sử Ký thì hai bà Trưng vốn dòng họ Hùng, chị tên là Trắc,
em tên là Nhị, người ở huyện Mê Linh, đất Phong Châu, con gái quan
Hùng tướng đất Giao Châu. Xưa Trắc lấy Thi Sách người huyện Chu
Diên. Bà rất có tiết nghĩa, tính khí hùng dũng, có trí quyết đoán sáng suốt.
Thời ấy, Tô Định ở Giao Châu rất tham bạo, nhân dân rất khổ sở. Trắc thù
Định giết chồng mình, bèn cùng em là Nhị dấy binh đánh Định, vây hãm
Giao Châu; các quận Cửu Chân, NhậtNam, Hợp Phố đều hưởng ứng, hai
chị em bèn bình định được sáu mươi lăm thành ở Lĩnh Ngoại tự lập làm
vua, xưng hiệu là Trưng vương, đóng đô ở thành ạ Diên. Tô Định chạy về
Nam Hải, Hán Quang Vũ nghe tin, biếm Tô Định về quận Đạn Nhĩ sai
tướng là bọn Mã Viện và Lưu Long sang thay. Quân địch đến Lãng Bạc,
bà chống cự. Qua năm, bà thấy binh thế Mã Viện cường thịnh, tự lượng
sức quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, bèn lui về giữ đất Cẩm Khê.
Viện đem quân đến đánh, bộ hạ bà Trưng đều bỏ chạy. Bà thế cô, bị hại
trong trận. Có chỗ nói rằng bà lên núi Há Sơn rồi không biết đi đâu mất.
Người trong châu thương cảm, lập miếu ở cửa sông Hát Giang để phụng
thờ. Phàm những người gặp tai họa tới cầu đảo đều ứng nghiệm.
Thời Lý Anh Tông gặp đại hạn, vua sai Cảm Tĩnh thiền sư cầu mưa.
Một hôm mưa xuống mát lạnh thấu người. Vua mừng, ra xem, tự nhiên ngủ
thiếp đi, mộng thấy hai người con gái đội mũ phù dung, mặc áo xanh, thắt
lưng đỏ, cưỡi ngựa sắt theo gió lướt qua. Vua lấy làm lạ bèn hỏi. Hai
người trả lời rằng: "Chúng ta là hai chị em họ Trưng vâng mệnh thượng đế
làm ra mưa".
Vua muốn hỏi thêm cặn kẽ. Hai người bèn giơ tay ngăn lại. Vua tỉnh
mộng, cảm kích, ra lệnh tu sửa đền, đem lễ đến dâng. Về sau hai bà lại
thác mộng cho vua xin lập đền ở bãi Đồng Nhân. Vua nghe theo, sách
phong làm trinh linh nhị phu nhân. Triều Trần lại gia phong cho mỹ tự là
Hiển liệt chế thắng thuần bảo thuận. Cho đến nay vẫn được bao phong đời
đời, lửa hương không dứt.
15- TRUYỆN MAN NƯƠNG
Thời Hiến Đế nhà Hán, quan thái thú là Sĩ Nhiếp đóng đô thành ở bờ
phía nam sông Bình Giang (nay là Thiên Đức Giang). PhíaNamthành đó
có chùa thờ Phật, có vị sư từ phương Tây tới, hiệu là Già-la-đồ-lê trụ trì ở
đấy, có phép đứng một chân, mọi người đều kính phục gọi là tôn sư, kéo
nhau tới học đạo. Hồi ấy có người con gái tên là Man Nương, cha mẹ đều
đã mất, nghèo khổ vô cùng, cũng tới đó dốc lòng theo học đạo Phật,
nhưng vì ả có tật nói lắp, không thể cùng chúng tụng kinh, thường ở dưới
bếp, vo gạo, nhặt rau, nấu nướng cho các vị tăng trong chùa và khách tứ
phương tới học. Một đêm vào tháng năm, đêm ngắn, tăng đồ tụng kinh
đến lúc gà gáy. Man Nương nấu cháo đã chín mà tăng đồ tụng kinh chưa
xong, chưa tới ăn cháo. Man Nương bèn nằm tựa ở trong cửa bếp, không
ngờ ngủ quên đi mất. Tăng đồ tụng kinh xong đều về phòng riêng. Man
Nương ngủ ở giữa cửa, sư Già-la bước qua mình Man Nương. Man
Nương tự nhiên động thai. Có thai được ba bốn tháng, Man Nương xấu
hổ bỏ về. Sư Già-la cũng thẹn mà bỏ đi. Man Nương về tới một ngôi chùa
ở ngã ba sông thì ở lại đó. Đầy tháng sinh ra một đứa con gái, tìm sư Già-
la mà trả. Đêm đến, sư Già-la bế đứa con gái tới ngã ba đường thấy một
cây phù dung cành lá xum xuê, có một cái hốc sâu mà sạch sẽ, sư đặt đứa
trẻ vào mà nói: "T a gửi con Phật, mi giữ lấy sẽ thành Phật đạo". Già-la,
Man Nương từ giã ra về, Già-la cho Man Nương một cây trượng mà bảo:
"T a cho nàng vật này, nàng về nhà nếu gặp năm đại hạn thì lấy trượng cắm
xuống đất, lấy nước cứu sinh dân". Man Nương cung kính bái lĩnh mà về ở
trong chùa. Gặp năm đại hạn, nàng lấy trượng cắm xuống đất, tự nhiên
nước cuồn cuộn chảy ra, dân được nhờ ơn. Khi Man Nương ngoài chín
mươi tuổi là lúc cây phù dung bị đổ, trôi ra ở bến sông 83 84 Prev Page
19 Next trước cửa chùa, quanh quẩn ở đấy mà không trôi đi. Dân thấy
thế, định bổ làm củi nhưng rìu nào cũng đều bị gãy, bèn đưa hơn ba trăm
người trong làng ra kéo cây gỗ lên mà không chuyển.
Gặp lúc Man Nương xuống bến rửa tay, thử kéo chơi thì cây chuyển
động. Chúng đều ngạc nhiên, bảo Man Nương kéo lên bờ sai thợ tạc bốn
pho tượng Phật. Khi xẻ cây gỗ đến chỗ đặt đứa con gái thì thấy đã hóa
thành một tảng đá rất rắn. Tốp thợ lấy rìu đập tảng đá, rìu đều bị mẻ. Họliền vứt đá xuống vực sông, một tia sáng chói lên, hồi lâu đá mới chìm
xuống nước. Bọn thợ đều chết cả. Dân mời Man Nương bái lễ, thuê dân
chài lặn xuống nước vớt lên, rước vào tự điện, đặt vào bên trong tượng
Phật, tượng Phật tự nhiên trông như mạ vàng. Sư Già-la đặt Phật hiệu là:
Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Long, tứ phương cầu đảo không
điều gì không ứng. Dân làng đều gọi Man Nương là Phật mẫu. Ngày 4
tháng 4, Man Nương không bệnh mà chết, táng ở trong chùa. Người đời
lấy ngày này làm ngày sinh của Phật. Hàng năm, tới ngày ấy, nam nữ bốn
phương thường tụ hội ở chùa này vui chơi ca múa, người đời gọi là hội
Tắm Phật.
16- TRUYỆN NAM CHIẾU
Người Nam Chiếu là con cháu vua Vũ Đế Triệu Đà vậy. Thời Hán Vũ
Đế, thừa tướng nước Nam Việt là Lữ Gia không phục, giết sứ Hán là bọn
An quốc, Thiếu Quý. Hán Vũ Đế sai tướng là bọn Lộ Bác Đức, Dương
Phác đem quân chinh phạt, bắt Vệ Dương Vương Kiến Đức và Lữ Gia,
thôn tính cả nước, phân đất cho các quan cai trị. Con cháu họ Triệu tản
mát bốn phương, sau trở về Thần Phù, Hoành Sơn là những xứ vắng vẻ
không có người.
Khi bộ hạ đông đúc, họ bèn đóng tàu thuyền thỉnh thoảng ra bể đột
nhập vào nội địa cướp người ven bể, giết các quan lệnh của nhà Hán.
Dân đều sợ phục, gọi là Nam Triệu, sau gọi sai là Nam Chiếu, cho nên họ
mang danh hiệu ấy. Đến đời Ngô, Tôn Quyền sai Đái Lương, Lữ Đại làm
thú mục để đánh dẹp. Quân Nam Chiếu ở cả một vùng từ núi Thiên Cầm
tới Hà Hoa, Cao Vọng, Hoành Sơn, ạ Tung, Hải Ngạn, Sử Bộ, Trường Sa,
Quế Hải, Vọng Cái, Lỗi Lôi, núi cao bể rộng, sóng gió hiểm trở, không có
một vết chân người. Quân Nam Chiếu ở đấy thường lấy việc cướp bóc để
sinh sống, đánh giết thú mục, không thể ngăn cản nổi. Đồ đảng của chúng
khá nhiều, hay đem hàng hóa châu ngọc đút lót cho nước Tây Bà Dạ cầu
làm thân thuộc, cùng giúp đỡ nhau. Cuối đời Tấn thiên hạ rối loạn, có
người thổ tù là Triệu ông Lý cũng là con cháu của Triệu Vũ Đế, anh em
đông đúc, thảy đều dũng lược hơn người, ai nấy đều phục, cùng với quân
Nam Chiếu hợp lại, được hơn hai vạn người, lại đem châu ngọc tiến nước
Tây Bà Dạ, xin chỗ đất không ngay cạnh đó để ở. Khi ấy, Tây Bà Dạ quốc
chia đều bãi bể và đồng nội ra thành hai lộ. Một lộ trên từ Quý Châu, dưới
tới Diễn Châu gọi là lộ Gia Viễn, giết trâu ăn thề rồi giao cho nướcNam
Chiếu và Triệu ông Lý thống lĩnh. Sau đó, ông Lý xây thành ở tổng Cao Xá,
đất Diễn Châu, đông tới Giáp Hải, tây tới nước Bà Dạ, nam tới Hoành
Sơn, tự xưng làm chúa. Nhà Đông Tấn sai tướng quân là Tào Nhĩ đem
quân sang đánh, ông Lý phục tượng binh ở chỗ hiểm trở nơi đầu nguồn
sông mà đánh, rồi lại tới nấp ở Mê Sơn và Mạt Sơn ngoài bể, địch tụ thì
mình tán, địch tán thì mình tụ, sáng ra tối vào, cầm cự trong 4, 5 năm trời.
Quân Tấn không chịu nổi khí núi, tử vong quá nửa, bèn rút quân về. Quân
Nam Chiếu thường tới cướp các xứ Nam Thành, Đông Thành, Trường An,thú lệnh không thể dẹp nổi. Tới khi nhà Đường thịnh lên, vua ý Tông sai
Cao Biền đem quân sang dẹp, không đánh nổi phải bỏ về. Tới đời Ngũ
Đại, vua Tấn là Thạch Kinh Đường sai quan tư mã họ Lý đem 20 vạn quân
đánh vào Đồ Sơn, quân Nam Chiếu bèn rút về ở nhờ tại biên giới Ai Lao,
hiệu là Đầu Hoành Mô Quốc Bồn Mang, thường lấy sự cướp bóc làm
nghề, lúc đánh lúc nghỉ, chưa hề bao giờ yên chiến sự. Đất đó nay là phủ
Trấn Ninh, muôn đời sát nhập trong bản đồ nước Đại Việt.
17- TRUYỆN SÔNG TÔ LỊCH
Năm Hàm Thông thứ 6, vua Đường ý Tông sai Cao Biền làm đô hộ
tướng quân, đem binh đánh giặc Nam Chiếu. Lúc Biền trở về, nhà vua đặt
Tĩnh Hải quân ở thành LĩnhNam, cho Biền làm tiết độ sứ. Biền thông hiểu
thiên văn địa lý, xem hình thế đất mà xây thành Đại La ở phía tây Lô Giang,
chu vi 30 dặm để ở. Có dòng sông con từ Lô Giang chảy vào phía Tây
Bắc, cuốn quanh phía nam, ôm lấy thành Đại La rồi lại nhập vào sông cái.
Hồi đó đang giữa tháng sáu nước mưa lên cao: Biền cưỡi thuyền nhẹ
thuận dòng vào tiểu giang đi khoảng một dặm, bỗng thấy một cụ già râu
tóc bạc phơ, dung mạo dị kỳ, tắm ở giữa dòng sông, cười nói tự nhiên.
Biền hỏi họ tên. Đáp: ta họ Tô tên Lịch. Biền lại hỏi: Nhà ở đâu? Đáp: Nhà
ở trong sông này. Dứt lời, lấy tay đập nước bắn tung mù mịt, bỗng nhiên
không thấy đâu nữa. Biền biết là thần, bèn đặt tên sông là Tô Lịch. Một
buổi sớm khác, Biền ra đứng ở bờ sông Lô Giang, phía đông thành Đại
La, thấy trận gió lớn nổi lên, sóng nước cuồn cuộn, mây trời mù mịt, có một
dị nhân đứng trên mặt nước, cao hơn hai trượng, mình mặc áo vàng, đầu
đội mũ tím, tay cầm hốt vàng rực rỡ một khoảng trời, chập chờn lên xuống
trên khoảng không. Mặt trời cao ba con sào, khí mây hãy còn mù mịt, Biền
rất kinh dị, muốn yểm thần. Đêm nằm mộng thấy thần nhân tới nói rằng:
"Chớ yểm ta, ta là tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa linh, ông xây thành ở
đây, ta chưa được gặp, cho nên tới xem đó thôi, ta có sợ gì bùa phép?"
Biền kinh hãi. Sáng hôm sau, Biền lập đàn niệm chú, lấy kim đồng thiết
phù để yểm. Đến hôm ấy, sấm động ầm ầm, gió mưa dậm dật, đất trời u
ám, thần tướng hò reo, kinh thiên động địa. Trong khoảnh khắc, kim đồng
thiết phù bật ra khỏi đất, biến thành tro, bay tan trên không. Biền càng kinh
hãi, than rằng: "Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất chuốc lấy tai vạ”. Sau ý
Tông triệu Biền về, quả nhiên Biền bị giết và Cao Tàm được cử sang thay.
18 - TRUYỆN NÚI TẢN VIÊN
Núi Tản Viên ở phía tây kinh thành Thăng Long nước Nam Việt. Núi
cao một vạn hai nghìn ba trăm trượng, chu vi chín vạn tám nghìn sáu trăm
vạn (?) Ba núi đứng xếp hàng, đỉnh tròn như cái tán cho nên có tên ấy.
Theo sách Ai giao châu tự của Đường Tăng thì Đại Vương núi này là Sơn
Tinh họ Nguyễn, vô cùng linh ứng. Khi hạn hán, lúc lụt lội cầu đảo để phòng
tai trừ hoạn lập tức có ứng nghiệm. Kẻ thờ cúng hết lòng thành kính.
Thường thường, vào những ngày quang đãng như có bóng cờ xí thấp
thoáng trong hang núi. Dân trong vùng nói rằng đó là Sơn thần hiển hiện.
Khi Cao Biền nhà Đường ở An Nam muốn yểm những nơi linh tích bèn mổ
bụng con gái chưa chồng mười bảy tuổi, vứt ruột đi, nhồi cỏ bấc vào bụng,
mặc áo quần vào rồi đặt ngồi trên ngai tế bằng trâu bò, hễ thấy cử động thì
vung kiếm mà chém đầu. Phàm muốn đánh lừa các thần đều dùng thuật
đó. Biền đem thuật đó để tiến đại vương núi Tản Viên, thấy Vương cưỡi
ngựa trắng ở trên mây nhổ nước bọt vào mà bỏ đi. Biền than rằng: "Linh
khí ở phươngNamkhông thể lường được.
Cái vượng khí đời nào hết được!" Sự linh ứng đã hiển hiện ra như vậy
đó. Xưa kia đại vương trông thấy phong cảnh núi Tản Viên đẹp đẽ bèn
làm một con đường từ bến Bạch Phiên đi lên phía nam núi Tản Viên, qua
động An Vệ, tới các ngọn nguồn lạch suối đều dựng điện để nghỉ ngơi.
Rồi lại đi qua ria núi đến chỏm núi có mây che thì định cư ở đó. Đôi lúc
rong chơi trên sông Tiểu Hoàng Giang xem đánh cá, phàm đi qua các làng
xóm đều dựng điện để nghỉ ngơi. Về sau, nhân dân theo dấu vết các điện
đó mà lập đền miếu để thờ cúng. Lại theo truyện cũ ở sách Giao Châu ký
của Lỗ Công, tương truyền rằng Đại Vương sơn tinh họ Nguyễn, cùng vui
ở với loài thủy tộc ở đất Gia Ninh, huyện Phong Châu. Thời vua Chu Noãn
Vương, vua Hùng Vương thứ 18 đến ở đất Việt Trì , Châu Phong, lấy quốc
hiệu là Văn Lang. Vua có người con gái tên là Mỵ Nương (cháu gái 27 đời
của Thần Nông) có sắc đẹp; Thục Vương Phán cầu hôn, nhà vua không
bằng lòng, muốn chọn rể hiền. Mấy hôm sau, bỗng thấy hai người, một
người xưng là Sơn Tinh, một người xưng là Thủy Tinh đến để cầu hôn.
Hùng Vương truyền tỉ thí pháp thuật. Sơn Tinh chỉ núi, núi lở, ra vào trong
đá không có gì trở ngại. Thủy Tinh lấy nước phun lên không biến thành mâymưa. Vua nói: "Hai vị đều có phép thần thông, nhưng ta chỉ có một con
gái, vậy ai mang sính lễ tới trước, ta khắc gả cho". Sáng hôm sau, Sơn
Tinh mang ngọc quý, vàng bạc sơn cầm, dã thú... các lễ vật đến tiến, vua y
cho. Thủy Tinh đến sau, không thấy Mỵ Nương, cả giận đem loài thủy tộc
định đánh để cướp lại. Vương lấy lưới sắt ngăn ngang sông huyện Từ
Liêm. Thủy Tinh bèn mở một dải sông Tiểu Hoàng Giang từ Lý Nhân ra
Hát Giang, vào sông Đà Giang để đánh ập sau lưng núi Tản Viên. Lại mở
ngách sông Tiểu Tích Giang hướng về trước núi Tản Viên, đi quaCam
Giá, Xa Lâu, Cổ Hào, Ma Sá ở khoảng ven sông đánh sụt thành cái vũng
lớn để mở lối đi cho quân thủy tộc. Thường làm mưa gió mịt mù, dâng
nước lên đánh Vương. Dân ở chân núi thấy thế bèn cắm một hàng rào
thưa để đón đỡ, đánh trống gõ cối, hò reo để cứu viện. Thấy rơm rác trôi
bên ngoài hàng rào bèn bắn, thủy tộc chết biến thành thây ba ba thuồng
luồng trôi tắc cả khu sông. Hàng năm vào khoảng tháng bảy tháng tám vẫn
thường như vậy. Dân vùng chân núi hay bị gió to nước lớn, lúa má thiệt hại
cả. Người đời tương truyền rằng đó là Sơn Tinh và Thủy Tinh tranh nhau
lấy Mỵ Nương. Đại Vương được bí quyết trường sinh của thần tiên nên rất
hiển linh, đó là vị đệ nhất phúc thần của nước Đại Việt vậy.
19- TRUYỆN 2 VỊ THẦN Ở LONG
NHÃN, NHƯ NGUYỆT
Năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành, Tống Thái Tổ sai bọn
tướng quân Hầu Nhân Bảo, Tôn T oàn Hưng cất quân sang xâm lược nam
phương. Lê Đại Hành và tướng quân Phạm Cự Lượng kéo quân tới sông
Đồ Lỗ cự địch, hai bên đối lđá. Đại Hành mộng thấy hai thần nhân ở trên
sông vái mà nói rằng: "Anh em thần, một tên là Trướng Hống, một tên là
Trương Hát, xưa kia theo Triệu Việt Vương cầm quân chinh phạt nghịch
tặc mà lấy được thiên hạ. Về sau Triệu Việt Vương mất nước, LýNamĐế
triệu hai anh em thần. Bọn thần vì nghĩa không thể theo được, uống thuốc
độc mà tự tử. Thượng đế thương anh em thần có công lại trung nghĩa một
lòng, mới phong làm quan tướng trong hàng các thần linh, thống lĩnh quỉ
binh.
Nay quân Tống phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em
thần đến yết kiến, xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc này để cứu sinh linh".
Vua giật mình tỉnh dậy, mừng rỡ mà bảo cận thần rằng: "Có thần nhân giúp
ta rồi vậy". Bèn lập tức đốt hương ở trước thuyền ngự mà khấn rằng: "Nếu
thần nhân có thể giúp ta làm nên công nghiệp này, thì xin bao phong huyết
thực muôn đời". Đoạn giết súc vật tế lễ, hóa mũ áo, voi ngựa, tiền giấy.
Đêm ấy Đại Hành mộng thấy hai thần nhân mặc mũ áo vua ban đến bái tạ.
Đêm sau lại thấy một người dẫn đoàn quỉ áo trắng, tự phía nam sông Bình
Giang mà tới, một người dẫn bọn quỉ áo đỏ từ phía bắc sông Như Nguyệt
mà lại, cùng xông vào trại giặc mà đánh. Canh ba đêm ba mươi tháng
mười, trời tối đen, mưa to gió lớn đùng đùng. Quân Tống kinh hoàng. Thần
nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm rằng: Non sông nướcNam,
vua nướcNamở, Điều ấy đã định rõ trong sách trời. Nếu như giặc Bắc
sang xâm lược, Thì sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre. (Dịch ý)
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan, lầm giết lẫn nhau, ai
lo chạy thoát thân người ấy, bị bắt không biết bao nhiêu mà kể. Quân Tống
đại bại mà về. Đại Hành trở về ăn mừng, phong thưởng công thần, truá
phong cho hai vị thần nhân, một là Tinh mẫn đại vương lập miếu thờ ở tại
ngã ba sông Long Nhãn, sai dân ở Long Nhãn, sông Bình Giang phụngthờ, một là Khước mẫn đại vương lập miếu ở ngã ba sông Như Nguyệt,
sai dân ở bờ sông Như Nguyệt phụng thờ, hưởng huyết thực đời đời, nay
vẫn còn là phúc thần.
20- TRUYỆN TỪ ĐẠO HẠNH VÀ
NGUYỄN MINH KHÔNG
ông họ Từ tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích,
cha tên là Vinh, làm chức tăng quan đô sát ở triều Lý, thường qua chơi
làng An Lãng, lấy con gái người họ Lỗ tên là Loan, nhân thế ở lại đó. Lộ
tức là con bà họ Lỗ vậy. Thuở niên thiếu, thích giao du hào hiệp, phóng
khoáng, có chí lớn, hành động ngôn ngữ không ai có thể lường được,
thường cùng kẻ nho giả Mãi sinh, đạo sĩ Lê T oàn Nghĩa và người con hát
là Phan ất kết bạn. Đêm thì mải miết đọc sách, ngày thì thổi sáo đánh cầu,
vui sự chơi bời. Cha mẹ thường trách là trễ nải, một đêm ghé dòm qua
khe cửa vào trong phòng thấy ngọn đèn gần tàn, sách vở chồng chất, Lộ
gục xuống án mà ngủ, tay vẫn chưa rời khỏi sách; do đó cha mẹ không
còn lo nghĩ nữa. Sau Lộ dự kỳ thi tăng hương thí , đỗ khoa Bạch Liên.
Không bao lâu, cha dùng tà thuật làm phật ý Diên Thành hầu, Diên
Thành sai Đại Điên thiền sư dùng phép đánh chết, ném xác xuống sông Tô
Lịch. Xác trôi tới cầu An Quyết, đến trước cửa nhà Diên Thành hầu, hốt
nhiên đứng dựng lên ở đấy suốt một ngày không trôi đi. Diên Thành hầu
sợ hãi nói với Đại Điên, Đại Điên đến và hét lên rằng: "Người đi tu không
được phép giận quá một ngày" Dứt lời thây đổ xuống mà trôi đi. Lộ nghĩ
việc báo thù cho cha nhưng chưa nghĩ ra mưu kế. Một hôm, rình Đại Điên
ra ngoài, gây sự định đánh, bỗng nghe thấy trên không trung có tiếng thét
ngăn lại. Lộ sợ hãi quăng gậy mà đi. Muốn sang chùa ấn Quốc cầu phép
lạ để đánh Điên, đường đi qua đất rợ Kim Sỉ (răng vàng) thấy hiểm trở
bèn quay về, ẩn cư ở núi Phật Tích, thường ngày đọc kinh Đại-bi-đà-la,
đọc trọn mười vạn tám nghìn lần. Một hôm, thấy có thần nhân đến trước
mặt mà nói rằng: "Kẻ đệ tử tức là Trấn Thiên Vương, cảm phục thày có
công trì kinh nên lại đây để thày sai khiến". Lộ biết là đạo pháp đã thành,
thù cha có thể rửa, bèn thân đến cầu An Quyết, cầm cây gậy chống ở tay
ném xuống dòng nước chảy xiết. Gậy đi ngược dòng nước tới cầu Tây
Dương thì dừng lại. Lộ mừng mà nói rằng: "Phép của ta thắng được Đại
Điên rồi!" Bèn đến thẳng chỗ Điên ở, thấy Điên nói rằng: "Mày không nhớ
chuyện ngày trước sao?" Nói rồi nhìn lên không trung, tịnh không thấy gì ,bèn đánh liền. Điên phát bệnh mà chết. Từ đó, thù xưa đã rửa, tục lự nguội
dần mới du ngoạn các miền rừng rú để tìm dấu Phật. Nghe tiếng Kiều Trí
Huyền ở đạo Bình Hóa, bèn cung kính tới bái yết và hỏi về chân tâm, đọc
câu kệ rằng: Lâu ngày bị gió bụi làm đục không thấy rõ được vàng, Không
biết nơi nào mới thực là chân tâm. Mong được nghe lời chỉ giáo để mở
đường phương tiện, Thấy được bồ đề thôi không phải khổ công tìm tòi
(Dịch ý) Huyền đọc kệ đáp lại: Ngũ âm bí quyết biểu hiện rõ chân kim
(vàng thực), Trong đó, đầy tháng sẽ lộ rõ lòng thiền. Bát ngát như cát ven
sông đó mới thực là đạo Bồ đề, Hướng tới Bồ đề ngàn sự tìm tòi đều xa
cách. (Dịch ý) Lộ hoang mang chưa hiểu hết, bèn đi tới chùa Pháp Linh
Sơn yết kiến Phạm Hội thiền sư, hỏi rằng "Như thế nào là chân tâm? ".
Phạm nói: "A-nan-cá chính là chân tâm". Lộ bỗng nhiên tỉnh ngộ, hỏi rằng:
"Thế nào là phép hành trụ?" Phạm nói: "Đói thì ăn, khát thì uống". Lộ bèn
từ mà đi, từ đó phép lực ngày càng mạnh, duyên thiền càng kết. Các
giống rắn núi, thú đồng đến quấn quýt quanh mình. Lộ đốt ngón tay cầu
đảo, chú phép vào nước trị bệnh, không lúc nào không nghiệm. Có vị sư
hỏi rằng: "Phải chăng hành, trụ, tọa, ngọa đều là Phật tâm".
Lộ đọc kệ đáp rằng: Có làm thì mọi mối bụi cát đều có, Không làm thì
tất cả đều là không. Có hay không đều như mặt trăng dưới nước, Vật thì
trông rõ rệt nhưng lại là không. (Dịch ý) Hoặc lại nói: Mặt trời mặt trăng ra
ở đầu núi, Người người đều cháy ra một khối lửa. Người về có con ngựa
nhỏ, Đi bộ mà không cưỡi ngựa. (Dịch ý) Khi ấy vua Lý Nhân Tông không
có con, tháng ba năm Hội tường Đại khánh thứ 3, có người ở phủ Thanh
Hoa nói rằng: "ở bãi bể có đứa trẻ kỳ lạ, mới khoảng lên ba, tự xưng là
hoàng đế, lấy hiệu Giác Hoàng, phàm vua làm điều gì đứa trẻ ấy cũng biết,
đó chính là Đại Điên hóa sinh". Vua sai quan trung sứ tới xem, thấy đúng
như lời nói, bèn đón về kinh sư, cho ở chùa Báo Thiên. Vua thấy đứa trẻ
thông minh, rất lấy làm yêu dấu, muốn lập làm kẻ kế tự, quần thần đều cố
khuyên can là không thể được, và nói: "Nếu kẻ kia thực là linh dị, tất phải
thác sinh ở nơi cung cấm, sau mới có thể lập được". Vua nghe theo. Bèn
mở đại hội bảy ngày đêm cho đầu thai. Pháp Lộ nghe tin, nói với chị gái
rằng: "Đứa trẻ kia là yêu tà mê hoặc người ta quá đáng. T a há chịu ngồi
yên mà không cứu, để nó làm mê hoặc lòng người, rối loạn chính pháp
sao?". Nhân sai chị gái giả đò làm người đi xem hội, mật đem mấy tấm
bùa của Lộ treo ở trên rèm. Hội tới ngày thứ ba thì Giác Hoàng bị bệnh nói
với mọi người rằng: "Khắp biên giới trong nước đều có lưới sắt vây che,tuy muốn thác sinh, sợ không có lối vậy". Vua nghe có kẻ phá mất bùa chú,
bèn sai người đi tìm, quả nhiên bắt được Lộ ở Hưng thánh lâu, trói lại, họp
quần thần lại để xét xử. Vừa lúc đó Sùng Hiền Hầu đi ngang qua, Lộ năn nỉ
nói: "Xin ra sức cứu bần tăng khỏi phải chịu tội, ngày sau xin ngụ thai trong
cung để báo đáp công đức này". Hầu gật đầu. Sau ngày hội, quần thần tâu
với vua rằng: "Bệ hạ vô tự, nên cầu kẻ kia thác sinh, thế mà tên Lộ cuồng
dại dám tự ý giải chú, thật là đắc tội". Hầu tâu rằng: "Thiết tưởng nếu Giác
Hoàng có thần lực thì tuy có trăm tên Lộ giải chú, há đâu có hại được ru?
Nay lại trái hẳn, Lộ hơn hẳn Giác Hoàng, thần trộm nghĩ nếu như giết,
chẳng thà cho nó thác sinh". Vua bằng lòng. Lộ đến thẳng phủ đệ nhà Hầu,
nhằm chỗ phu nhân tắm, nhìn khắp cả. Phu nhân giận quá, mách với Hầu.
Hầu vốn hiểu ý, để mặc không hỏi đến. Phu nhân vì thế có thai. Lộ dặn Hầu
rằng đến lúc phu nhân lâm bồn phải báo cho biết trước. Đến kỳ lâm bồn,
Lộ được người báo tin, bèn tắm rửa thay quần áo, bảo học trò rằng: "Mối
túc nhân của ta chưa hết, phải thác sinh lần nữa ở đời, tạm làm đế vương,
kíp đến khi già chết làm nhị thập thiên tử. Nếu thấy thân thể tan ra đất, đó là
ta đã thâm nhập vào bùn đất không còn ở trong cõi sống chết nữa".
Học trò nghe nói, ai cũng cảm động sụt sùi. Lộ đọc kệ rằng: Thu tới,
không cho chim nhạn báo trước, Cười nhạt mà nhìn nhân gian đau xót.
Khẽ bảo bọn môn nhân chớ nên luyến tiếc, Thày xưa mấy độ hóa thày nay.
(dịch ý) Đọc dứt, nghiễm nhiên mà hóa. Hầu phu nhân bèn sinh con trai,
đặt tên là Dương Hoán. Khi lên ba, vua nhân tông nuôi ở trong cung, lập
làm hoàng thái tử. Nhân Tông băng hà, thái tử tức vị, ấy là vua Thần Tông
do Lộ thác sinh ra vậy. Hình xác Lộ nay còn ở hõm đá trong chùa Thiên
Phúc, núi Phật Tích, huyện Ninh Sơn. Xưa ở làng Đàm Xá, huyện Đại
Hoàng (còn có tên là Gia Viễn) đất Trường An có người tên là Nguyễn Chí
Thành ở chùa Quốc Thanh, hiệu là Minh Không quốc sư, lúc í t tuổi đi du
học, gặp Đạo Hạnh, học được đạo giáo, trải hơn mười năm. Đạo Hạnh
thấy người tiết tháo bèn truyền tâm ấn, lại đặt tên cho. Kíp tới khi Đạo
Hạnh sắp tạ thế bảo Minh Không rằng: "Xưa tôn sư của ta tu đã tròn quả
phúc mà còn bị cái nạn đao thương quả báo, huống chi ở cái thuở mạt thế
huyền vi này, há có thể tự giữ mình được sao? T a nay sắp xuất thế, ở cái
địa vị làm thầy người ta, bệnh trái kiếp sau quyết là khó tránh nổi. T a với
người có duyên, nên cứu giúp nhau". Đạo Hạnh đã hóa, Minh Không trở
về chùa cũ cày ruộng. Hơn hai mươi năm, không có tin tức gì . Khi đó Lý
Thần Tông bỗng mắc bệnh lạ, tâm thần rối loạn, tiếng kêu đau đớn gầm rúđáng sợ. Các lương y trong thiên hạ vâng chiếu mà đến, kể hàng ngàn
hàng vạn, đều chịu khoanh tay. Khi ấy có đứa trẻ hát rằng: "Dục trị thiên tử
bệnh, tu đắc Nguyễn Minh Không". (Nghĩa là: Muốn chữa bệnh nhà vua tất
phải tìm Nguyễn Minh Không). Triều đình bèn sai sứ đi tìm được Minh
Không. Minh Không thấy sứ giả đến, trong thuyền có rất nhiều lính chèo
thuyền, muốn dọn cơm chay cho ăn, bèn lấy một cái nồi nhỏ đem cho họ
cùng ăn, bảo họ rằng: "Anh em đông quá sợ không đủ no bụng, tạm ăn
vậy". Thế mà bọn lính chèo thuyền hơn một trăm người cùng ăn cũng
không sao hết. Lính ăn xong, sư lại bảo:
"Anh em hãy tạm ngủ say một lát nữa đợi nước triều dâng lên ta hãy
bắt đầu ra đi". Chúng nghe lời, đều nằm ngủ say ở trên thuyền. Mới trong
khoảnh khắc, thuyền đã trở về tới kinh đô. Bọn lính bơi chèo tỉnh dậy đều
lấy làm lạ. Khi Minh Không đến, các bậc có tiếng là học rộng ở các nơi
đều đang làm phép ở trên điện, thấy Minh Không quê mùa, không thèm
chào. Minh Không bèn lấy một chiếc đinh lớn dài hơn năm tấc đóng vào
cột điện, lớn tiếng nói rằng: "Có nhổ được đinh này hãy nói chuyện chữa
bệnh". Nói như vậy hai ba lần, không có ai dám nhổ. Minh Không bèn lấy
hai ngón tay trái mà nhổ, đinh bật phăng ra. Chúng đều kinh phục. Khi gặp
Thần Tông, Minh Không lớn tiếng nói: "Kẻ đại trượng phu được tôn lên
ngôi thiên tử, giàu có khắp bốn bể, cớ sao còn phát bệnh cuồng loạn như
vậy?". Vua nghe nói rất run sợ. Minh Không bèn lấy một cái vạc đựng dầu,
đun lên sôi sùng sục, rồi lấy tay khoắng vào bốn lần, rắc vảy lên khắp mình
vua, bệnh tức thì khỏi hết. Bèn phong Minh Không làm quốc sư, ban lộc
mấy trăm hộ để thưởng công. Năm Tân Sửu, niên hiệu Thái Bình thứ 22,
Minh Không tạ thế, thọ bảy mươi sáu tuổi.
21- TRUYỆN DƯƠNG KHÔNG LỘ
VÀ NGUYỄN GIÁC HẢI
Thiền sư Dương Không Lộ ở chùa Nghiêm Quang huyện Hải Thanh,
mấy đời làm nghề câu cá, sau bỏ nghề ấy mà đi tu, thường hay đọc kinh
Già-la-ni-môn. Trong các năm Chương Thánh, Gia Khánh đời Lý Thần
Tông thường cùng Giác Hải là đạo hữu cùng ở ẩn đất Hà Trạch quên cả
thân mình, ngoài không đi đến đâu, trong thì tu thiền định. Bỗng thấy tâm
thần tai mắt nhẹ nhàng sáng sủa, có thể bay lên không, đi trên băng giá,
bắt được hổ phải phục, bắt được rồng phải giáng, vô cùng quái đản
người ta không sao lường biết được. Sau tìm về một ngôi chùa ở quận
nhà mà ở. Một hôm người hầu bẩm rằng: "Mỗ tự khi tới đây chưa hề
được thầy chỉ giáo về những điều tâm yếu, dám xin trình thơ rằng: Rèn
luyện thân tâm cho được tinh vi, Hăm hở xoay lại đối diện với nghiêm đình.
Có người tới học không không pháp, Mình ngồi bên chiếc bình phong, ảnh
với hình hợp làm một". (Dịch ý) Sư bèn bảo rằng: "Nếu con đi đường bộ
mà tới, ta tiếp dẫn con, nếu con đi đường thủy mà tới, ta trao cho con.
Chẳng có chỗ nào mà ta không truyền cho con cái đạo tâm yếu". Nói xong,
ha hả cười lớn. Thường hay đọc câu kệ rằng:
Địa thế long xà chọn được nơi
Đồng quê cảnh thú suốt ngày vui,
Có khi dời bước non cao trót
Một tiếng kêu to lạnh cả trời (Dịch ý)
Ngày 3 tháng 6 năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hội Tường đại khánh thứ mười
thì tịch, môn nhân thu xác táng ở cửa chùa. Vua hạ chiếu cho sửa rộng
chùa này, quyên hai mươi hộ phụng hương hỏa. Thiền sư Giác Hải họ
Nguyễn, người Hải Thanh, ở tại chùa Diên Phúc quận nhà. Thuở nhỏ thích
câu cá, thường lấy thuyền con làm nhà, lênh đênh trên mặt nước. Năm hai
mươi lăm tuổi bỏ nghề ấy, cắt tóc đi tu, lúc đầu cùng Thiền sư Không Lộ
thờ một thày ở chùa Hà Trạch. Thời Lý Nhân Tông, sư thường cùng Thông
Huyền chân nhân được triệu vào ngồi hầu ở chùa Liên Mộng, đất Lương
Thạch. Bỗng một hôm có đôi cắc kè gọi nhau, nhức tai điếc óc. Vua truyền
Thông Huyền ngăn nó lại, Huyền lặng nhẩm thần chú, một con rơi xuốngtrước. Vua cười bảo: "Hãy còn một con xin để nhường nhà sư". Sư đọc
thần chú, trong nháy mắt con còn lại cũng rơi xuống nốt. Vua kinh lạ, làm
thơ rằng: Giác Hải lòng như bể Thông Huyền đạo cũng huyền, Thần thông
thêm biến hóa, Một Phật, một thần tiên (Dịch ý) Từ đó, danh tiếng sư vang
động thiên hạ, các vị tăng cùng kẻ tục đều ngưỡng vọng. Vua thường lấy
lễ thầy trò mà đãi sư, mỗi khi hạ giá tới hành cung ở Thanh Hải, tất trước
tới thăm chùa. Một hôm vua bảo sư: "Cái đạo ứng chân thần túc có thể
cho nghe được không?".
Sư bèn đọc kinh tám lần, bay vút lên không, cách xa đất năm trượng,
bỗng lại rơi xuống. Vua cùng quần thần đều vỗ tay xưng tán, ban cho chiếc
kiệu để ra vào nơi cung cấm. Tới triều vua Thần Tông, mấy lần vua triệu
vào kinh thành, sư 127 128 Prev Page 16 Next đều lấy cớ già yếu
không đi. Có vị sư hỏi rằng: "Phật và chúng sinh, ai là chủ ai là khách?".
Sư bèn đặt câu kệ rằng: "Đầu ta đã bạc, bảo ta là lão khách, nếu hỏi tới
những điều về đạo Phật thì ta cũng chỉ như con cá nhỏ không vượt khỏi
cửa rồng, đến nỗi trán bị chấm dấu. (Dịch ý) Lúc sắp tịch, bèn làm bài kệ
cáo chúng như sau: "Xuân tới, chính là thời tiết rất quen thuộc đối với
bướm hoa. Hoa bướm cũng phải lựa theo thời tiết. Hoa bướm xưa nay
vốn là mộng ảo. Cớ sao cứ phải giữ mãi chuyện bướm hoa trong lòng."
(Dịch ý) Đêm ấy có ngôi sao lớn rơi ở góc tây nam phương trượng. Sáng
hôm sau, sư ngồi ngay thẳng mà tịch. Vua xuống chiếu quyên 30 hộ phụng
thờ hương hỏa, phong hai con làm quan để thưởng công.
22- TRUYỆN HÀ Ô LÔI
Năm Thiệu Phong đời Trần Dụ Tông có người làng Ma La là Đặng Sĩ
Doanh làm chức An phủ sứ phụng mệnh sang Bắc quốc. Vợ là Vũ thị ở
nhà, trong làng có đền thờ thần Ma La, đêm đêm thần biến thành Sĩ
Doanh, thân thể hình dạng, dáng điệu đi đứng đều bắt chước hệt như Sĩ
Doanh, nhập vào phòng Vũ thị để tư thông, lúc gà gáy lại bỏ đi. Đêm hôm
sau Vũ thị hỏi: "Phu quân phụng mệnh sang sứ Bắc, sao đêm đêm thì về
mà ngày lại không thấy?" Thần nói dối rằng: "Vua đã sai người khác đi
thay, để ta hầu bên tả hữu, thường giữ ta đánh cờ không cho ra ngoài.
Song ta nhớ tình vợ chồng nên lén về với nàng để cùng ân ái. Sáng sớm
lại phải vội vã nhập triều, không dám ở lâu, nghe gà gáy lại đi". Vũ thị có ý
ngờ vực. Năm sau Sĩ Doanh đi sứ về, Vũ thị có thai đã đầy tháng.
Sĩ Doanh tâu lên vua, Vũ thị bị hạ ngục. Đêm vua nằm mộng thấy một vị
thần tới trước mặt tâu rằng: "Kẻ hạ thần là thần Ma La lấy vợ đã có mang,
bị Sĩ Doanh tranh mất con". Vua tỉnh mộng, hôm sau ra lệnh cho ngục quan
đem Vũ thị tới, phán rằng: "Vợ giả cho Sĩ Doanh, con giả cho thần Ma La".
Ba hôm sau, Vũ thị sinh ra một bọc đen, nở được một con trai, da đen như
mực. Năm mười hai tuổi đặt tên là Hà ô Lôi. Hà tuy đen như sơn, nhưng
da thịt bóng mỡ như cao. Năm mười lăm tuổi, vua triệu vào hầu, được rất
mực yêu dấu, đãi như tân khách. Một hôm ô Lôi đi chơi ở Hồ Tây, gặp Lã
Động Tân, Lã hỏi rằng: "Chú bé con kia có muốn gì chăng?". Đáp:
"Đương lúc thiên hạ thái bình quốc gia vô sự, coi phú quý như phù vân, chỉ
ham muốn thanh sắc để làm vui tai đẹp mắt mà thôi". Động Tân cười nói:
"Thanh sắc của ngươi mất một, được một, song tên tuổi có thể lưu lại cho
đời". Rồi bảo ô Lôi há miệng, nhổ nước bọt, bảo nuốt, sau đó bay lên trời
mà đi. Từ đó, ô Lôi tuy không biết chữ nhưng thông minh, lém lỉnh, thường
hay trêu ghẹo vương nhân, những câu từ chương thi phú, khúc điệu ca
ngâm, giao xướng phúng vịnh, trào phong lộng nguyệt đều khiến mọi
người kinh ngạc, đàn bà con gái ai cũng muốn biết mặt. Vua thường nói
với triều thần rằng: "Sau này thấy ô Lôi gian phạm tới nhà ai, bắt tới trước
điện sẽ được đền nghìn quan, nếu giết chết phải bồi thường nghìn quan".
Hồi ấy ở làng Nhân Mục có vị quận chúa thuộc dòng tôn thất, tên là A Kim,
tuổi vừa 23, chồng chết sớm ở góa, nhan sắc có một không hai. Vua rấtyêu, gạ gẫm không được thường lấy làm giận, một lần bảo ô Lôi rằng:
"Ngươi có kế gì cho ta được vui lòng chăng?". ô Lôi tâu: "Thần xin ra hạn
một năm, nếu không thấy về là sự không thành, thần đã chết". Bèn bái từ
mà đi, về nhà cởi bỏ hết quần áo, dằm dưới bùn, dầu dãi nắng mưa cho
xấu xí , rồi mặc quần vải giả làm người chăn ngựa gánh một đôi sọt tre đến
nhà quận chúa, lấy một gói trầu cau đút lót cho tên giữ cổng để xin vào
vườn cắt cỏ. Tên giữ cổng cho vào. Hồi đó vào khoảng tháng 5, tháng 6,
hoa thái lê đang đua nở, ô Lôi đem cắt hết cho vào trong gánh. Tên thị tì
của quận chúa thấy hoa trong vườn hết sạch, hô trói ô Lôi để đợi gia chủ
đến chuộc. Giữ quá ba ngày không thấy có người đến nhận, thị tì bèn hỏi:
"Mày là gia nô nhà ai, sao không thấy người đến chuộc và đền hoa trong
vườn?". ô Lôi đáp: "Tôi là kẻ phiêu bạt, không có gia chủ, không có cha
mẹ, thường gánh đồ theo bọn con hát kiếm ăn, hôm qua thấy một vị quan
quất ngựa đi ở phía nam thành, ngựa đói không có cỏ, chủ ngựa cho tôi 5
đồng sai đi cắt một gánh cỏ. Tôi mừng được tiền vội đi cắt cỏ, không biết
hoa thái lê là vật gì , nay không có gì đền xin đem thân làm gia nô để bồi
thường vậy". Bèn lưu ô Lôi ở cổng ngoài. Qua hơn một tháng, thị tì của
quận chúa thấy ô Lôi đói khát bèn cho ăn uống. Đêm đêm ô Lôi thường ca
hát cho người giữ cổng nghe, bọn thị tì và nội thị cũng đều lắng nghe. Một
hôm trời tối đã lâu mà đèn chưa thấy thắp, quận chúa ngồi mò một chỗ, tả
hữu không kẻ hầu hạ. Quận chúa gọi thị tì mà mắng, lại cầm roi toan đánh.
Chúng thị tì cúi đầu tạ tội rằng: "Chúng con nghe tên cắt cỏ hát trong lòng
ham say, không ngờ để đến nỗi này, quận chúa đánh đòn cũng xin cam
chịu". Quận chúa thôi mà không hỏi tội nữa. Lúc đó đang giữa đêm hè,
quận chúa cùng thị tì ngồi ở giữa sân, ngóng gió đùa trăng để tiêu khiển.
Bỗng cách tường nghe thấy tiếng hát của ô Lôi thoảng như điệu ca người
câu cá, khác hẳn âm thanh chốn dương gian, tâm thần mê mẩn, tình riêng
xúc động, bèn vời ô Lôi vào nhà trong cho hầu ở tả hữu, thành đứa gia nô
thân cận. Quận chúa thường bảo ô Lôi ca vịnh ngâm xướng để tiêu mối
sầu u uất. ô Lôi nhân đó hết lòng hầu hạ, quận chúa càng yêu mến tin cậy,
ngày cho ở dưới trướng, đêm cho khêu đèn ngồi hầu. Khi thì sai ca hát,
giọng ca bay khắp trong ngoài, quận chúa quá cảm động mà mang bệnh u
uất. Qua ba bốn tháng, bệnh càng trầm trọng. Thị tì hầu hạ lâu cũng mệt
nhọc mà mang bệnh, trong cơn bệnh lại thường ngủ say, quận chúa gọi
cũng không dậy. Duá có một mình ô Lôi ở lại hầu hạ, quận chúa không nén
nổi tình, mật bảo ô Lôi rằng: "Ngươi ở cạnh ta, ta vì giọng hát của ngươimà mang bệnh". Bèn cùng ô Lôi tư thông, bệnh tình cũng có bớt hơn. Tình
yêu ngày càng mặn mà, quận chúa chẳng kể gì đến hình dáng xấu xí của ô
Lôi, không còn tiếc gì nữa, muốn đem hết ruộng đất cho ô Lôi làm trang
trại. ô Lôi nói: "Thần vốn không có nhà cửa, nay được gặp quận chúa là
bậc thiên tiên, đó thực là điều phúc lớn của thần. Thần không cần điền
trạch, châu báu chỉ muốn được đội chiếc mũ vào triều của quận chúa thì
chết cũng được nhắm mắt". (Chiếc mũ đó là vật tiên đế ban cho, chỉ dùng
trong lúc tiến triều. Quận chúa vì quá yêu ô Lôi không còn tiếc gì hết). ô Lôi
được mũ bèn lẻn mang vào triều.
Vua trông thấy cả mừng, tức tốc sai vời quận chúa vào chầu, bảo ô Lôi
đội chiếc mũ kia đứng hầu bên cạnh. Vua hỏi quận chúa: "Có biết ô Lôi
không? " Quận chúa lúc ấy rất xấu hổ. Đời bấy giờ có bài thơ quốc ngữ
rằng: Chỉn đà náu đến xin làm tôi, Đành hay thiên tiên phúc để Lôi. Từ đó
danh tiếng ô Lôi vang lừng thiên hạ, vương hầu mỹ nữ thường bị Lôi trêu
ghẹo. Có câu thơ quốc ngữ rằng: Mang mang mặt mắt cháy ma lem, Kẻ
chợ khát, người qua mới thèm. Nhẫn có hoàng kim thanh sắc ấy, Mang
mang mặt mũi thế soi xem. Tuy người đời làm thơ ghẹo ô Lôi, nhưng vẫn
vì bị thanh sắc cám dỗ mà không thể tránh ô Lôi được. ô Lôi thường tư
thông với con gái các nhà vương hầu mà không ai dám đánh, sợ vua bắt
bồi thường. Sau ô Lôi tư thông cả với con gái trưởng của Minh Uá
Vương. Vương bắt được song chưa đem giết vội. Sáng hôm sau, Vương
vào chầu vua, tâu rằng: "Đêm qua ô Lôi lẻn vào nhà thần, tối như bưng
không rõ trắng đen nên thần đã giết chết mất rồi, nay xin bệ hạ cho biết
phải đền mấy nghìn quan để thần tiến nạp". Vua không biết là ô Lôi còn
sống, phán rằng: "Lỡ giết thì ta chẳng chấp nệ làm gì ". Hồi ấy vì hoàng hậu
Vi Từ là em ruột Minh Uá Vương, cho nên vua không hỏi cặn kẽ. Uá
Vương về lấy trượng đánh Lôi, Lôi không chết, Vương bèn lấy chày giã
chết. Khi sắp chết, ô Lôi có ngâm câu thơ quốc ngữ rằng: Sinh tử do trời
có quản bao, Nam nhi miễn đã được anh hào, Chết vì thanh sắc cam là
chết, Chết việc ốm đau cơm gạo nào. Lại nói: "Xưa Động Tân bảo ta
rằng: thanh sắc của ngươi được mất bù nhau, lời ấy nghiệm thật". Nói rồi
bèn chết.
23- TRUYỆN TƯỚNG QUÂN HỌ
CAO Ở VŨ NINH
Tướng quân họ Cao tên Lỗ, là người huyện Vũ Ninh. Thời An Dương
Vương, tướng quân được vuốt thần kim quá bèn chế ra nỏ Linh Quang
thần cơ, cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.
Tướng quân từng nhiều lần đánh lui được giặc lập nên công lớn sau bị
Lạc hầu dèm pha rồi trừ bỏ. Khi Cao Biền dẹp quân Nam Chiếu trở về,
qua châu Vũ Ninh, tới một chỗ, đêm nằm mộng thấy có một dị nhân mình
dài chín thước, diện mạo cương nghị, búi tóc, mặc áo đỏ, tự xưng họ tên
mà nói rằng: "T a ngày trước phò tá An Dương Vương, giết giặc lập đại
công, bị Lạc hầu dèm pha mà trừ bỏ. Sau khi ta chết, thượng đế thương
tình vô tội, một lòng trung liệt nên phong cho làm Quản lĩnh đô thống tướng
quân ở một giải sơn hà này.
Phàm việc chinh phạt giặc cướp và cày cấy nông tang ta đều đứng chủ
trương. Ngày nay, ta theo ngài dẹp yên nghịch tặc, thiên hạ lại được yên
ổn. Ngài trở về bản bộ, nếu không cáo tạ là trái lễ đó!". Biền lấy làm lạ, hỏi
vì cớ gì mà Lạc hầu ghen ghét. Dị nhân đáp: "Việc uẩn khúc, không tiện tiết
lậu". Biền nài hỏi mấy lần nữa. Đáp: "An Dương Vương là tinh phượng
vàng, Lạc hầu là tinh vượn trắng, phượng và vượn tương hợp, cùng với
rồng tương khắc, vì thế mà ghen ghét". Nói xong cưỡi mây mà đi. Biền tỉnh
mộng, bụng còn ghi tên Vũ Ninh, bèn nói cho bộ hạ biết và tự ngâm câu
thơ rằng: Đẹp thay cảnh Giao Châu, Dằng dặc ngàn năm lâu. Thần xưa
rày được gặp, Quyết chẳng phụ lòng nhau. (Dịch ý) Lại ngâm rằng: Trăm
Việt vững phong cương, Ba quân dẹp chiến trường. Thần tiên phù chính
nghĩa, Muôn năm vững triều Đường. (Dịch ý) Kẻ theo hầu là cao Viên chúc
mừng Biền rằng: Kiên cố non sông Việt, Thanh tân nhân vật Đường. Họ
Cao cao chí khí Phù trợ có Long Vương. (Dịch ý) Nam Việt non sông đẹp,
Long thần khí phách kinh, Người Giao đừng cau trán, Nay lại thấy thăng
bình. (Dịch ý) Cao Biền bèn gia phong mỹ tự cho thần -nay là Đại Than Đô
Lỗ thạch thần, quanh năm hương lửa không dứt. Đền Vũ Ninh tức là đền
Gia Định, có một hang đá ăn sâu vào Đại Than, hang đó do Long Vương
đào ra. Nước trong hang xoáy mạnh có thể xoay lật thuyền bè qua lại. Hễngười nào vào lễ đền trước rồi đi qua hang thì được vô sự. Đời Trần, thần
được phong làm Quả Nghị cương chính uá huệ chính thần đại vương. Đền
thường gọi là đền Đô Lỗ, ở xã Đại Than, huyện Gia Định. Còn một đền
nữa ở thôn Tráng Liệt, xã Phúc Cầu, huyện Đường An.
24- TRUYỆN THẦN SÔNG BẠCH
HẠC
Thần sông Bạch Hạc rất linh hiển. Khoảng các năm Vĩnh Huy đời
Đường Cao Tông, Lý Thường Minh làm chức đô hộ đất Phong Châu thấy
khoảng đất này kéo dài tới ngàn dặm, có sông núi vây quanh, bèn xây Đạo
Thánh linh quán ở ven sông Bạch Hạc, đặt tượng T am Thanh ở trong quán
để phụng thờ. Lại xây hai ngôi am ở phía trước và phía sau quán, muốn
tạc tượng thờ nhưng không biết tạc tượng ai, bèn thắp hương mà khấn
rằng: "Vị thổ thần ở đây, nếu như linh ứng thì mau hiện rõ tình trạng để ta
theo đó mà tạc tượng đặt ở am trước". Canh ba đêm ấy, mộng thấy có hai
dị nhân, diện mạo hùng vĩ , phong tư nhàn nhã đều mang theo quân hầu,
trước hò sau hét đi lại phía Thường Minh, tranh nhau chiếm am trước.
Thường Minh hỏi rằng: "Các ông họ tên là gì? Xin cho ta được rõ để tiện
phụng thờ".
Hai người riêng xưng tên họ, một tên là Thạch Khanh, một tên là Thổ
Lệnh. Thường Minh xin đọ tài nghệ, nếu ai thắng sẽ ở am trước. Thạch
Khanh ứng tiếng mà chạy, mới tới bờ sông đã thấy Thổ Lệnh ở cạnh sông
từ trước rồi. Thường Minh theo giấc mộng căn cứ ở hình dạng mà sai thợ
tạc tượng. Thổ Lệnh được ở am trước. Thần uá linh hiển hách người trong
châu đều kính sợ, hương lửa cúng thờ. Thần là vị phúc thần của ba con
sông. Phàm cầu đảo, đều rất ứng nghiệm. Đời Trần phong làm Trung Dực
võ liệt phụ quốc hiển uá vương. Chùa này ở ngã ba sông Bạch Hạc, ở
sông Bạch Hạc có một đoạn mấy chục trượng có giống cá anh vũ. Về mùa
đông, dân chài thả lưới vớt cá. Trên dưới khúc sông ấy đều không có
giống cá này, cá anh vũ cũng giống như loài cá chép, mùi vị thơm ngon, rất
tiện để làm gỏi, chả, thuộc loại thực phẩm thượng hạng. Người bắt được
đều mang tiến vua, cấm đem ra mua bán.
25- TRUYỆN THẦN CHÍNH KHÍ
LONG ĐỖ
Đời Đường, Cao Biền sang đóng ở nước ta, chiếm phủ, xưng vua,
đắp thêm La Thành. Vừa đắp xong, một buổi sáng sớm, Biền dạo xem
phía ngoài cửa đông thành, bỗng nhiên trời nổi mưa to gió lớn, thấy mây
ngũ sắc từ dưới đất dâng lên, ánh sáng lóe mắt. Một dị nhân mặc áo màu
sặc sỡ, trang sức trông kỳ vĩ , cưỡi con rồng đỏ, tay cầm giản vàng, lơ lửng
trong mây khói, khí thế ngùn ngụt, bay lên lượn xuống hồi lâu mới tan. Biền
kinh ngạc, cho là ma quỷ, muốn thiết đàn để cúng. Đêm ấy, mộng thấy có
thần nhân đến nói rằng: "Xin ông đừng có bụng nghi ngờ, ta không phải là
yêu khí đâu. T a chính là Long Đỗ Vương chính khí thần, vì muốn xem kỹ
thành mới mà hiện ra đó thôi!" Biền tỉnh dậy. Sáng hôm sau họp quần
thần, than rằng: "T a không khuất phục được người phương xa chăng?
Đến nỗi để cho loài ngoại quỷ dòm ngó điều không hay của mình ru!". Có
người khuyên lập đàn, và dùng nghìn cân sắt đúc tượng theo hình dạng
thần nhân để làm bùa yểm. Biền y theo kế đó. Vừa đọc thần chú bỗng trời
đất mù mịt ngày đêm, mưa gió giật đùng đùng, tượng sắt nát vụn ra mà
bay lên không. Biền sợ hãi, có ý muốn về phương Bắc. Người đời lấy làm
lạ, bèn lập chùa ở mạn phía đông kinh thành. Về sau, Lý Thái Tổ dời đô ra
đây, xây dựng phủ thành, lại mộng thấy thần nhân tới chúc mừng.
Vua nói: "Người chắc được hương lửa trăm năm chăng?" Đáp: "Mong
thánh thượng được trường thọ ức vạn năm, thần đâu há chỉ được hưởng
trăm năm hương lửa!". Vua tỉnh dậy, sai giết súc vật để tế, lại phong làm
Thăng Long thành hoàng đại vương. Thời ấy, ở cửa đông có mở chợ
buôn bán, đền thần kéo liền một dãy phố dài. Phố thường bị hỏa hoạn, gió
dữ thổi cháy rất nhiều, duá có đền là vẫn y nguyên không bị lửa bén tới.
Vua lại gia phong cho hưởng lộc, các buổi lễ nghênh xuân đều cử hành tại
đây. Ba lần hỏa tai mà vẫn không bị cháy. Đời Trần phong làm Thuận Dụ
tự ứng đại vương. Chùa ở phường Hà Khẩu huyện Thọ Xương nay gọi là
đền Bạch Mã.
26-TRUYỆN QUỐC SƯ XÂY ĐỀN
SÓC THIÊN VƯƠNG
Thời Lê Đại Hành, Khuông Việt thái sư Ngô Chân Lưu thường lưu lạc
tới làng Bình Lỗ, mến thích phong cảnh thanh u đẹp đẽ ở đây, bèn dựng
một ngôi am mà ở. Đêm, vào lúc canh ba, sư mộng thấy có vị thần đeo
qua vàng, cưỡi ngựa sắt, tay trái cầm cây thương vàng, tay phải cầm bảo
kiếm, theo sau tới hơn mười người, diện mạo đáng sợ, tới mà nói rằng:
"T a là Tỳ Sa Môn đại vương, kẻ theo sau đều là thần Dạ Xoa. Thiên đế có
sách sai ta tới Bắc quốc để bảo hộ hạ dân ở đó. T a vốn có duyên với
ngươi, cho nên tới báo để ngươi biết". Thái sư kinh hoàng tỉnh dậy, nghe
thấy trong núi có tiếng thét, trong lòng vô cùng sợ hãi, bèn thân vào núi,
thấy một cây lớn có mây lành vây ở trên bèn sai thợ tới đốn để tạc tượng
thần như hình dạng trông thấy trong mộng, rồi lập đền thờ, hương lửa cúng
vái. Năm Thiên Phúc thứ nhất, quân Tống vào ăn cướp, bên ta sai quân tới
đền cầu khẩn. Khi ấy, quân Tống đóng ở thôn Tây Kết, hai bên chưa giao
chiến, quân Tống trông thấy đã kinh hãi lui về giữ Đại Giang, lại gặp lúc
sóng nổi cuồn cuộn, giao long nổi lên mặt nước, quân giặc tan vỡ. Vua
cảm sự anh linh của thần, bèn xây thêm miếu võ, phong làm Sóc Thiên
Vương để trấn phương bắc. Đền ở xã Vệ Linh, huyện Kim Hoa, thường
xuyên phụng thờ không bao giờ ngớt. Có người cho rằng Đổng Thiên
Vương sau khi dẹp được giặc, cưỡi ngựa sắt tới cây đa núi Vệ Linh thì
lên trời, chỉ để lại một cái áo. Tới nay người đời gọi cây này là "cây thay
áo". Phàm khi thờ cúng, chỉ dùng những đồ chay tịnh. Tới triều Lý, để tiện
thờ cúng, mới xây đền vũ ở phía đông Tây Hồ để trấn phương bắc, lại tôn
làm phúc thần, nay là phường Nhật Quả Tây Hồ vậy.
27- TRUYỆN ĐỀN THỜ HOẰNG
THÁNH ĐẠI VƯƠNG
Hoằng Thánh đại vương chính là Phạm Cự Lượng ở triều vua Lê Đại
Hành. Cự Lượng người Nam Sách, ông nội Lượng là Chiêm làm chức
Đồng Giáp tướng quân nhà Ngô, bố Lượng là Mạn, làm chức tham chính
đời Ngô Nam Tấn Vương, anh Lượng là Dinh làm chức vệ úy tướng quân
đời Đinh. Khi vua Đinh còn thơ ấu, quân Tống sang xâm lược, Đại Hành
nắm mọi quyền binh. Đinh thái hậu truyền lựa chọn dũng sĩ để chống giặc
Tống, Đại Hành cử Lượng làm đại tướng quân. Đương khi đặt kế xuất
quân, Cự Lượng cầm đầu tướng sĩ , tôn Đại Hành làm hoàng đế. Lượng
làm quan đến chức thái úy. Năm Thông Thụy đời Lý Thái Tông, vua thấy
trong đô hộ phủ có nhiều nghi án, án quan không giải quyết nổi, có ý muốn
lập thần tự chuyên xét xử các án kiện, tỏ rõ sự linh hiển để thấy hết mọi kẻ
gian trá, bèn tắm rửa, thắp hương cầu khẩn thượng đế. Đêm đó, mộng
thấy có vị sứ giả mặc áo đỏ, vâng mệnh thượng đế tới phong Cự Lượng
làm minh chủ của các án quan ở đô hộ phủ. Vua hỏi sứ giả rằng: "Người
ấy là ai, giữ chức gì của ta?".
Đáp: "Chính là chức thái úy của vua Lê Đại Hành". Vua tỉnh mộng bèn
hỏi lại quần thần. Khi biết rõ chuyện, bèn phong Lượng làm Hoằng Thánh
đại vương, sai quân lập đền ở phía Tây cửa nam thành để phụng thờ lại
đổi làm Hồng Thánh, đời đời tôn là ngục thần.
28- TRUYỆN BÀ PHU NHÂN TRINH
LIỆT MỴ Ê
Bà Mỵ là vợ Xạ Đẩu, chúa nước Chiêm Thành. Lý Thái Tôn đánh được
Chiêm Thành, chém Xạ Đẩu, bắt Mỵ mang về. Đến sông Lý Nhân, vua sai
quan trung sứ triệu bà sang hầu. Bà căm giận khôn xiết, lấy chiên trắng
quấn quanh mình rồi nhảy xuống sông Hoàng Giang mà chết. Những buổi
sáng sớm sương mù và đêm trăng thường nghe thấy có tiếng than ai oán
ở khúc sông đó. Người nước ta bèn lập đền thờ cúng. Về sau, vua ta đi
qua hạt Lý Nhân, ngồi ngự ở thuyền rồng nhìn sang bên kia sông thấy có
đền thờ, bèn quay lại hỏi tả hữu. Tả hữu bèn đem chuyện bà tâu rõ lại. Vua
thương tình nói rằng: "Nếu quả thực là linh thiêng tất nàng sẽ báo cho trẫm
biết". Đêm đó vào hồi canh ba, bà bèn ứng mộng cho vua. Bà mình mặc y
phục Chiêm Thành, vừa vái vừa khóc mà tâu rằng: "Thiếp giữ đạo nữ nhi,
một lòng một dạ với chồng. Xạ Đẩu tuy không thể cùng bệ hạ tranh sáng,
nhưng cũng là người hiển hách ở một phương, thiếp thường vẫn chịu ơn
nghĩa của chàng. Ngày nay Xạ Đẩu lỗi đạo, thượng đế giáng chích, mượn
tay bệ hạ để trị tội cho nên nước mất thân tan. Thiếp hàng ngày vẫn muốn
báo ơn chàng nhưng chưa có dịp. Thiếp may mắn một ngày được gặp bệ
hạ. Bệ hạ sai quan trung sứ tiễn thiếp xuống dòng nước này, nhờ đó mà
giữ được tiết trong giá sạch, ơn đó kể sao cho xiết. Thiếp nào có pháp
thuật gì để dám tự xưng là linh thiêng, nào có lời nói gì có thể xứng tai bệ
hạ". Nói xong bỗng biến mất không thấy đâu nữa. Vua kinh hãi tỉnh mộng,
phong bà là hiệp chính nương phu nhân. Đời Trần Trùng Hưng lại gia
phong cho bà là tá lý phu nhân, thêm hai chữ trinh liệt để biểu dương cái
tiết đoan trinh của bà vậy.
29- TRUYỆN ỨNG THIÊN HOÁ
DỤC HẬU THẦN
Thần vốn là vị thổ thần ở nước Nam ta. Năm Thần võ thứ nhất đời
Thánh Tông, vua đi chinh phạt nước Chiêm Thành, tới cửa bể Hoàn Hải,
bỗng nhiên trời nổi mưa to gió lớn, sóng dâng cuồn cuộn, xa nhìn như núi,
ngự thuyền và chiến thuyền đều không thể qua bến được, bèn phải cắm
thuyền ở bờ biển. Đêm ấy, mộng thấy có người con gái mặc đồ trắng,
quần đỏ, trang điểm sơ sài, phong tư yểu điệu bước lên thuyền ngự mà
nói rằng: "Thiếp là tinh đất ở nước này, hồn đậu ở trên cây đã lâu. Nay gặp
lúc minh quân xuất chinh, nguyện xin cùng đi theo để lập chiến công". Rứt
lời không thấy đâu nữa. Vua bèn tỉnh dậy triệu tập tả hữu và các bậc kỳ túc
kể lại chuyện. Có vị tăng thống là Huệ Sinh tâu rằng: "Thần đã nói là đậu
nhờ ở trên cây, vậy nên cầu khẩn tất được yên". Bèn sai thân nhân tìm
khắp các núi trên bờ, ngẫu nhiên thấy một cái cây ngọn như hình người,
giống hệt vị thần trong mộng, bèn đặt trên thuyền ngự, thắp hương cầu
đảo, đặt hiệu là Hậu thổ phu nhân. Trong khoảng khắc, gió yên sóng lặng,
hành quân vượt biển thuận lợi, không lo ngại vì sóng gió nữa. Vua bèn lập
thần từ, phút chốc sóng gió lại nổi cuồn cuộn như trước. Huệ Sinh tâu
rằng: "ý thần không muốn ở lại bên bờ". Bèn về kinh xin âm dương để cầu
cho sóng bể được yên. Kíp khi về tới kinh, xây đền thờ ở làng An Lãng...
Tới đời Trần Anh Tông, gặp hạn hán, vua sai lập đàn để cầu đảo. Thần
bèn thác mộng cho vua, nói: "Đền này có vua Câu Mang, có phép làm
mưa". Vua tỉnh dậy, sai quân dâng lễ, quả nhiên được buổi mưa to gió
lớn. Vua bèn sách phong cho thần làm Hậu thổ đại phu nhân, đời đời gia
phong vì nghĩ thần có công với dân. Triều Trần lại phong làm ứng thiên hậu
thổ thần kỳ nguyên quân. Phàm tiết lập xuân đều mang thổ ngưu nộp ở
dưới đền, tới nay đã thành tục lệ.
30- TRUYỆN VỊ THẦN NÚI HỒNG
LĨNH
Núi Hồng Lĩnh ở đạo Nghệ An. Xưa ở huyện La Sơn có bốn người đốn
củi trong núi thấy một cái hồ, trong hồ có một mỹ nhân rất đẹp đang tắm
trên một tảng đá bằng phẳng. Mỹ nhân trông thấy bốn người thì nhảy xuống
hồ. Bỗng có một con ba ba lớn nổi ở trên mặt nước, bốn người kinh hãi
bèn hái những quả quí trên hồ mà đi. Đi suốt ngày không tiến được bước
nào, bỗng thấy một dị nhân đến nói rằng: "Vứt những quả quí đi thì mới có
thể ra khỏi chốn này, nếu về được tới nhà thì chớ có tiết lộ chuyện trong núi
cho ai biết". Về sau có người tiết lộ chuyện, hộc máu mà chết. Đến đời
Thánh Tông hoàng đế, vua tới núi này, cắm biển ở trên núi. Núi có chín
mươi ngọn. Tịnh không thấy hồ, chỉ nghe như có tiếng sóng vỗ. Trời lập
tức đổ mưa. Thấy thần rất là linh ứng, nhà vua ban phong cho điển lễ, đến
nay người đời vẫn còn kể lại chuyện xưa. Nơi đó là núi Hồng Lĩnh thuộc
huyện La Sơn, phủ Đức Quang, tỉnh Nghệ An, nay là hai huyện Nghi Xuân
và Can Lộc.
31- TRUYỆN THẦN NÚI VỌNG
PHU
Núi Vọng Phu thuộc huyện Vũ Xương, ở cửa bể của đạo Thuận Hóa.
Người đời tương truyền rằng: Ngày xưa có hai anh em một trai một gái
làm nghề đốn củi ở trong rừng. Người anh chặt gỗ, lỡ tay trúng phải mặt
em. Người em đau quá ngã lăn xuống đất. Người anh tưởng em chết, sợ
hãi mà bỏ trốn đi xa. Người em được một cụ già đem về nuôi, đến khi
trưởng thành, nhan sắc tuyệt đẹp, khác hẳn ngày xưa. Khi cụ già chết,
người em gái mới đi lấy chồng, lại lấy đúng người anh mình. Người anh
không biết vợ là em gái. Anh ta thấy trên đầu vợ có một vết sẹo, nhân hỏi
duyên do. Người vợ nói: "Lúc còn nhỏ thiếp theo anh trai vào rừng đốn gỗ,
anh thiếp lỡ tay chém trúng vào giữa trán thiếp rồi bỏ trốn mất, không biết
sống chết nơi nào". Người anh nhận ra em gái mình nhưng đã trót kết làm
vợ chồng, cho nên ngại mà không dám nói rõ, lấy cớ đi buôn, bỏ ra đi mà
không về nữa. Người em không biết chồng là anh mình, ngày ngày trông
đợi, chết mà biến thành hòn đá. Người đời bèn gọi hòn đá ấy là đá Vọng
Phu, lại thấy linh thiêng bèn lập đền thờ phụng.
32- TRUYỆN HAI CON TRÂU
VÀNG Ở HUYỆN TIÊN DU
Ngày xưa, đời thượng cổ, có Vương Chất đi đốn củi ở trong núi gặp
hai tiên đồng đang đánh cờ. Hai tiên đồng cho Chất một hạt táo, Chất ăn
khỏi đói rồi gác rìu mà ngồi xem đánh cờ. Tiên đồng bảo Chất: "Cán rìu
của người nát rồi". Chất cúi xuống, lúc ngẩng lên thì không thấy tiên đồng
đâu. Kịp đến khi trở về nhà thì không còn gặp lại những người thân cũ ở
trần gian nữa. Do tích đó người đời bèn gọi quả núi này là núi Lạn Kha
(núi rìu nát) còn gọi là núi Tiên Du (núi chơi tiên) rồi nhân lấy tên ấy để đặt
tên huyện. ở huyện Tiên Du nay vẫn còn vết cũ. Núi Tiên Du có tinh trâu
vàng nửa đêm thường tỏa ra ánh sáng. Có nhà sư lấy tích trượng yểm lên
trán trâu, trâu vàng bỏ chạy húc vào đất làm sụp thành cái hồ.
Nơi này sau gọi là thôn Húc. Trâu chạy đến địa phận Văn Giang, vì vậy
ở đây có cái vũng lớn gọi tên là vũng Trâu Đằm. Trâu chạy qua các xã Như
Phượng, Như Loan, Đại Lạn, Đa Ngưu. Các xã này sở dĩ tên như vậy là vì
có vết chân trâu đi tới. Trâu lại từ trong bến ra sông Cái, đến Ninh Giang,
đi men phủ Lý Nhân, theo ven sông Cái tới sông Tô Lịch, chỗ ấy chính là
Tây Hồ. Người đời truyền tụng rằng Cao Biền giỏi thuật số, thông địa lý,
thường cưỡi diều giấy bay trên không trung để yểm các nơi thắng cảnh.
Biền thấy trâu đi vào hồ Dâm Đàn (nay là Tây Hồ) rồi thoắt không thấy trâu
đâu nữa. Trên đường trâu chạy, khắp nơi biến thành khe, ngòi, rãnh,lạch.
33- TRUYỆN VỊ THẦN LÀNG BỐ
BÁI
Thần làng Bố Bái là tinh của Viêm Long. Xưa ở làng Hạn Kiều thuộc lộ
Hạ Hồng có hai anh em nhà họ Đặng, một tên là Thiện Minh, một tên là
Thiện Xạ xuống biển đánh cá gặp một vật lạ giống như hình cây gỗ, dài
hơn 3 thước, sắc như trứng quạ, dập dềnh trôi theo ngọn sóng. Hai anh
em lặt lấy đem về. Đến đêm bỗng nghe thấy ở trong vật ấy có tiếng động.
Hai anh em kinh hãi vội đem vứt ra giữa dòng nước, rồi sang thuyền khác
ngủ nhờ. Đêm ấy, hai anh em mộng thấy có một người đến nói rằng: "Ta là
vợ Đông Hải Long Vương, trót lỡ đi lại với Viêm Long Vương do đó sinh
ra đứa con ấy, ta sợ Đông Hải Long Vương biết nên đem gửi các ngươi.
Các người hãy giữ lấy và bảo hộ cho cẩn thận, không được để ai xúc
phạm tới. Sau này nó trưởng thành tất có thể ban phúc cho các ngươi".
Hai anh em kinh hãi tỉnh dậy thấy cây gỗ trước lại trôi theo thuyền, bèn
đem theo về. Tới nhà, hai anh em nghỉ đậu ở đất Bố Bái. Cây gỗ bỗng
nhảy từ trong thuyền lên mặt đất. Hai anh em bèn lập đền, lấy cây gỗ tạc
tượng để thờ, gọi là Long Quân. Đời Trần, vua sai thị thần lặn xuống bể
mò hạt châu. Thị thần không mò được gì cả, chỉ có con cháu họ Đặng mò
được rất nhiều. Thị thần hỏi duyên do, họ Đặng bèn đem hết chuyện xưa
nói rõ. Thị thần tâu lên vua. Vua sai dùng nghi lễ, âm nhạc đi rước tượng,
từ đó mò được rất nhiều châu ngọc. Vua giáng chiếu thưởng cho danh
hiệu Thần Châu Long Quân, tặng phong là Lợi tế linh thông huệ tín Long
Quân. Đền thờ đặt ở xã Bố Bái, huyện Quỳnh Côi. Phía đông đền có bãi
tha ma, đó chính là nơi khắc tượng ngày xưa. Trải qua các triều vua, thần
đều được gia phong mỹ tự. Tới ngày nay đền đó vẫn rất là linh ứng.
34- TRUYỆN VI THẦN Ở CHẰM
LÂN ĐÀM
Thần Lân Đàm chính là thần rồng vậy. Xưa thần thường hóa thành
người để tìm thầy học đạo. Thầy học lấy làm lạ bèn tìm chỗ ở của thần,
thấy thần náu ở trong chằm. Thầy học thường tra hỏi, thần bèn nói thực
rằng: "Năm nay trên thiên đình ngừng việc làm mưa". Thầy học cố nài thần
ra làm mưa. Thần bất đắc dĩ phải nghe lời. Sau trong chằm có biến động,
thầy học tới chằm thấy thần hút nước trong nghiên phun thành mưa mực
để trừ hạn hán. Thượng đế cho là việc đã tiết lộ bèn bắt tội thần. Thây thần
nổi ở trên chằm, thầy học thu về an táng, nhân đặt tên chằm là Long Đàm,
sau đổi thành Lân Đàm.
HẾT
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro