LINH TINH-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Bên rổ rau muống

       Mới sáng bảnh mắt ra đã có tiếng kính coong rời rạc của cái chuông đồng…Ngọ vừa đi ra cửa vừa lâm râm, chạy trời không khỏi nắng: Không ai ngòai cái nhà ông “thầy cúng” đây...Cuối tuần nào cũng vậy, cứ bẩy, tám giờ là ông ta đã lừng khừng có mặt trước nhà, tay tờ báo, tay điếu thuốc lá, và chậm rãi giật chuông như điểm hồi chuông chiêu mộ, vang vọng cứ như gọi đò sang sông ấy.

       Khách của bố đi qua gian bếp…Ngọ quơ rổ rau muống và ba mớ cà leo lên sân thượng sửa sọan bếp núc trong ngày. Nếu tiện tay thì tưới thửa rau trồng trong mấy bệ gạch ở trên ấy, cô nghĩ thầm vậy. Mà sân thượng nhà cô nào có gì, toen hỏen một khỏang trống nhỏ hẹp, thu vén chỉ loe ngoe có dăm mớ rau thơm, lèo tèo vài khóm ớt, khóm dong. Rõ ra thua đứt mấy nhà ông bà hàng xóm có cả cây leo cho dàn bầu, dàn bí. Nhưng cái khỏan riềng, lá mơ thì không thể thiếu với bố cô, trái nắng trở trời bố cô vẫn thường hòai đồng vọng là gỏi cá sống, phải đầy đủ một đĩa lá bứa, lá ổi, lá quất, lá dái mít…Mỗi lần mẹ cô mây mò với món đồ nhắm trên, thể nào bố cũng chêm một câu vớt vát: “Gỏi cá sống phải có lá sung…và ăn tùng tục mới ngon”.

      Nhưng đó là chuyện cũ…năm xửa…năm xưa.

      ***

      Các cụ ta vào trong Nam, đã bao năm ăn vẹt ở mòn, tứ tán tám hướng mười phương, nhớ nhà, nhớ quê, nên mang theo cả vườn tược vào đây, rau mùi, tía tô cũng theo chân các cụ, chọn mảnh đất eo sèo này để sinh sôi nẩy nở với sáng nắng chiều mưa. Đất lạ quê người, các cụ có thể đổi cách ăn mặc, đổi tính đổi nết, nhưng món nào ra thức nấy, không thể thiếu và cũng chẳng đổi thay, như ăn trầu phải quét tí vôi cho cay lưỡi đỏ môi. Nay còn rơi rớt lại, không ngòai mớ rau muống nằm trong rổ ngay trước mặt cô đây. Cô vẩn vơ tiếp, dẫu gì các cụ hay ngay cả bố mẹ cô cũng vẫn còn một chuỗi quá khứ với cây đa bến cũ con đò xưa để hòai cổ. Riêng cô, thu vén cho lắm tối nằm không, cũng không ngoài một tấm chồng. Chồng cô là người tình đầu đời: Gặp. Yêu. Rồi lấy…Nsỏ chỉ luồn kim, vá chằng vá chịt váy chùm, váy đụp, nên chẳng lẽ rỗi hơi hòai cố nhân mãi ở tận chân trời góc biển nào đó…

       Nói xa chẳng qua nói gần, cô mượn cái bóng mát dưới mái hiên của cái sân thượng với cái ý nghĩ tuềnh tòang, ngày đi đêm lại, cuộc sống cứ vật vờ nổi trôi tẻ ngắt…Thế nhưng cô hay ai đấy, một ngày nào đó gặp nhau ở bên đường…Cô và họ cùng vấp ngã, lom khom đứng dậy nhìn lại thì chỉ là một hòn đá thô meo mốc, để rồi quãng đời của cả hai, sau đấy có những lao xao đổi thay :

Nhớ ai nhớ tận cuối tuần

Nhớ quay nhớ quắt, bần thần nhớ ai

        Cái kim nằm chết dí trong cái bị cói lâu ngày cũng lòi ra…Như một khúc phim trắng đen quay chậm, hình ảnh rời rạc khi ẩn khi hiện…Với cô, như cuộn chỉ rối đang được tháo gỡ trong một ngày nhạt nắng với buổi sáng hôm nay đây…

        ***

        Nếu như trước kia, Ngọ lắm bận cũng bực với “người này” lắm, nhưng tính Ngọ hay cả nể. Vả lại ông là bạn thâm căn cố đế của bố cô, cũng là con mòng “cúng” tiền nước, tiền điện cho cả nhà nên mới có cái tên ấy. Ngọ tủm tỉm cười thầm vì học mót được các cụ câu…đen nghĩa là không đỏ. Lại nữa, không có ông thì canh tổ tôm cũng sập sùi. Nhà bé bằng cái lỗ mũi, khách chơi bài lại ồn ào như cái chợ, vì vậy Ngọ phải trốn lên cái sân thượng, riết rồi thành quen. Ấy cũng là một thế giới riêng của Ngọ để…ẩn thân, dấu mặt từ ngày lấy chồng. Nhưng nhờ có khách chơi bài nên bố mẹ cũng khuây khỏa được hai ngày cuối tuần…Như Ngọ lúc này vậy.

       Ngọ hồi tưởng lại những ngày mới lớn, ngồi chồm hổm bên chiếu các cụ chia bài thoăn thoắt…Gừng càng già càng cay, chả biết đúng không, nhưng Ngọ phải công nhận là các cụ cũng bát nháo lắm, thì nó sờ sờ ra cả đấy như bánh đúc bày hàng có gì phải nói ngoa. Số là có “cụ” tuổi thọ mới lóp ngóp bốn mươi đã bày vẽ lễ tứ tuần đại khánh. “Cụ” khác chớm năm mươi đã ậm ừ với ngũ thập tri thiên mệnh. Giỗ tết mấy cụ trịnh trọng khăn đống áo dài, đầu môi chót lưỡi “bẩm cụ” với “kính ông”. Bỗng cô tủm với câu chào hỏi “thưa chị” với “thưa cô” của ông dở hơi nghe ngứa cả ruột…Nghe chướng gì đâu chả biết nữa! Bỗng dưng không đâu hai chữ “thưa cô” với “thưa chị”, thêm một lần…”người ta” lại đi guốc nhẩy bổ vào đầu Ngọ để mà ngọ nguậy đến nhức nhối.

       Với ổ rau muống này, làm ù cái là xong, nhưng cô vẫn nhởn nha đợi, đợi gì cô cũng chẳng biết nữa. Bỗng dưới nhà lại có thêm tiếng chuông rộn rã, Ngọ đóan thầm khách tổ tôm của bố đã tới đông đủ. Ngọ lại thả hồn theo mấy cụ với một thuở hoàng kim nào là tậu ruộng sâu giữa đồng, trong nhà sập gụ chân quỳ, trải chiếu hoa cạp điều, ngòai vườn thì chuồng rậm rịch lợn đàn trâu nái.

       Sẵn cái mạch quê hương bản quán vạn kiếp tha hương nghìn đời thê thảm ấy, cùng cái gạch nối giữa cô và bố mẹ chẳng qua là chuyện nắng mưa, là ruộng vườn ở mảnh đất Bắc Ninh chìm khuất nào đó. Hóng chuyện, cô cũng thấy nao nao, lại càng nhớ nơi chốn bỏ đi của bố mẹ, lại càng thương những giậu mồng tơi quanh năm xanh lá, cùng rặng tre cuối vườn. Nghe bố mẹ kể lại thì nhà Ngọ ở quê hình chữ môn, cô chẳng biết chữ môn ra sao, chỉ biết ba gian hai chái là nhà chính, hai bên là nhà ngang, một bên làm bếp thổi nấu, cối xay cối giã, xay lúa giã gạo, bồ thóc. Giữa là sân, một bên là buồng kho, chật ních với bừa, cuốc, cào, bên kia là chuồng trâu, chuồng lợn. Trước nhà là ao cá, vườn sau um tùm với bòng, nhót, ổi, gặp ngày mưa dầm liên miên, làm biếng đi chợ, nhặt nhạnh ít rau sau vườn, cả nhà cũng có bát canh rau dền, lười chẩy thây ra thì quều cào nắm lá ớt hoặc canh rau đay với vài nụ mướp. Ngày rộng tháng dài, cô lại bồi hồi đến mẹ cô những ngày còn con gái quanh quẩn bên cái sân đuợc lát bằng gạch Bát Tràng đỏ nâu gan gà, hòn nào hòn nấy vuông vức, chắc nịch và đâu đây đằng góc vườn, vết chũng lờ mờ của mấy phiến đá xanh, viên nào viên ấy to bằng gần nửa cái bàn mộc chất một đống ở góc vườn. Sau mấy bác lực điền ì ạch khuân ra dựng đứng ở ven sân, cô mới biết đó là mấy tảng đá để đập sảy này kia.

       Không chỉ có bấy nhiêu, vì rằng bây giờ đây còn nhiều nữa, đang ngập đầy trong cô…Nhếch nhác cùng những ngày tháng qua mau với cái ngày chạm mặt ông bạn vong niên của bố với gọng kính cận đồi mồi vuông như hai cái cái quai chảo là Ngọ đã thấy ngứa mắt. Người gì mà mặt mũi hâm hâm như ông từ giữ đền, mắt cứ như lòa dở, gà gà mắt lên như người say thuốc lào, mở miệng ra trịnh trọng giống ông lão với thưa gửi. Mà ông ta…già gì cho cam, ngót nghét thua tuổi bố Ngọ một con giáp là hết đất. Vậy mà với bố Ngọ, một già …”một trẻ” xem như tương đắc lắm, riêng với Ngọ thì chả tương đắc tương bần gì sất cả, ngòai cái bộ vó như ông từ giữ đền…Nói phải tội, cân, đo, đong đếm cho đầy, người ta chỉ được một cái là chỉn chu, mực thước. Vậy mà Ngọ lại mát da mát ruột với tiếng.. ”cô” tiếng “chị”, nghe chẳng xa lạ là mấy. Nhưng cô nghĩ mình cũng rắc rối tệ, nghĩ lại cái lúc một tay chia bài tổ tôm 120 quân, trong đó một quân bài có ông râu dài được làng gọi là…ông cụ. Từ thầy cúng, cô gọi người ta là…”ông cụ non” như gọi tên bốn mùa lúc nào cô cũng chẳng hay.

        Với quá khứ vị lai, lùi lại nhăm năm về trước, bạn cô dậy khôn rằng chuyện tình của cái tuổi ô mai cũng chỉ lẩn quẩn ở anh bạn hay…ông hàng xóm. Anh bạn thì đông như tổ đỉa nhưng còn đang mải mê chơi bi, đánh đáo. Nên cô phải chui qua hàng rào bên kia có vườn cây tầm ruộc tìm kiếm và nỗi buồn chạm mặt là gặp ngay anh Nam kỳ giá sống. Cứ vậy theo năm tháng, có ai nắm tay được đến đến tối, gối tay được đến sáng đâu, cho đến cái tuổi…lấy chồng để cứ ngỡ ấy là tình yêu. Gần ngày cưới, mẹ Ngọ thở dài thườn thượt: “Mẹ bố cô nhá, chồng còng thì lấy vợ còng, nằm phản thì chật, nằmh long thì vừa”  và mặc nhiên như chuyện đã rồi với tình Bắc duyên Nam.

        Mải mê nhặt bỏ những cọng rau héo, cô lại loay hoay với mớ bòng bong của cô…Chuyện là sau ngày lấy chồng, cứ cuối tuần là cô về nhà bố mẹ để nghe hơi nồi chõ ông cụ non ấy vừa thửa được một bà nạ dòng về hầu…Nghe các cụ kháo nhau, rõ khéo, chuyến này tậu bò lại được cả bê: “Ối dào, trò đời đàn ông như cái nơm, chòm chọp úp xuống cầu may ấy mà”. Cụ khác góp chuyện: Cá mè một lứa, cái ngữ ấy trước sau gì cũng được chim bẻ ná, được cá quăng nôm đấy thôi”. Nghe lóang thóang cô cũng chẳng bận tâm, vì chuyện trâu buộc ghét trâu ăn là chuyện của các cụ, nào đâu có dây mơ rễ má gì đến cô. Ấy vậy mà…

        Ấy vậy mà lây lất từ chuyện này qua chuyện kia những ngày rau lụi, cô lại liên tưởng đến một lần ông cụ non ngồi ăn cơm với bố. Bố nói với ông…bạn già: “Chú biết bói toán, chú chấm cho cho nó một quẻ..” Cô chỉ nghe ông đáp: “Dạ vâng”.  Rồi thôi. Thấy cánh lá mồng tơi tươi tốt, bố nháy nhó với ông cụ non và thơ thẩn: “Nếu đừng có giậu mồng tơi - Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng”. Cô thấy ông ngồi rung đùi và gật gù…Sau đấy từ rau mồng tơi ông cụ non bắt qua rau muống, nào là phải cắt ngắn từng hai đốt ngón tay, nào là luộc rau cho tái lên, trộn với khế thái mỏng, bỏ vào mấy con tép, xong rắc mè rang, phủ dăm ba lá húng chũi, kinh giới và chấm với mắm tôm chanh đường. Khế thì phải thái xéo, trước khi ăn, phải dốc nghiêng đĩa cho bớt nước. Giời ạ, mục ăn uống thì chém chết ông khảnh ăn và hợp với bố cô ở cái khoản này.

       Một lần cả nhà về Cái Sắn thăm ông bà ngoại, có ông Tần đi theo, rồi hình như mẹ cô hỏi về cái tên của ông. Nhìn bè rau muống nhấp nhô, lững lờ cùng những bông hoa tím nhạt hay trắng, ông bảo rau muống còn gọi là…rau tần, dựa vào hai câu thơ của một ông thi sĩ nào đó nhìn ra cánh đồng thấy đầy những rau muống và làm thơ: “Mưa bay trắng lá rau tần - Thuyền ai bốc khói xa dần bến mưa”.Ông lơ đãng nhìn lên trời xanh, mây trắng, nắng vàng và nói một ngày nào đó, ông sè viết về…rau muống của đất quê. Cô lững lờ nhìn ông, thóang đôi mắt già nua nhuốm mùi sương khói lại ra dáng có…tạng văn sĩ như hớp hồn cô. Đất quê vật vờ trong tâm tưởng nay cô bắt gặp qua ông cùng bờ mương, ao cá, ruộng vườn, và cô như lịm dần trong âm hưởng hồn quê cùng cái giọng rất….Bắc kỳ rau muống của ông.

        Dâu là con, rể là khách thì cũng…đúng thôi như mẹ cô vẫn hay nói, chả là chồng cô những ngày mới quen trước kia ít nói, cô thấy dễ thương bao nhiêu, nay về làm rể Bắc càng ù lì bấy nhiêu. Mẹ cô thì chỉ lào thào với nồi nhà ai quai nhà ấy. Riết rồi cô cũng mặc, hồn ai nấy giữ. Nặng nợ với chữ nghĩa thi cô nào có khác gì với “Tôi vẫn đi bên lề cuộc đời, ái ân lạnh lẽo của chồng tôi”. Để rồi mặc ai nấy sống cho riêng mình cho mãi đến tận cái ngày cô tìm ra cái mái hiên trên sân thượng để nấp bóng.

      Đó là chửa nói đến cái tuổi cập kê mới đây chứ đâu, cô vẫn chả biết chuyện vợ chồng nó méo như củ ấu ra sao…Cho đến một tối, cô đang chong đèn học bài, đêm đã khép cánh. Bố đi khuya về tắt, cô dấu mẹ ra mở cổng thì cả xóm nhà cô họ đã đi ngủ từ chập tối, tv, ra-di-ô đều ắng tiếng. Nhưng dẫu có họ cũng chẳng xem, chẳng nghe. Giờ này là lúc họ làm khổ tai nhức óc láng giềng và họ đây là cặp nhân tình nhân ngải ngay sế cửa nhà…Giữa khuya, bỗng bên kia bò tường thấp, như khéo trêu ngươi, văng vẳng vọng qua tiếng đú đỡn. Họ cấu chí nhau. Họ nghịch ngợm nhau. Họ la hét. Rồi thỉnh thỏang dóng lên những tiếng chói tai: “Cắn chó gì mà đau thế, bố ai mà chịu được”. Rồi có tiếng chửi đổng: “Tiên sư thằng nhãi, bà đã mệt phờ rồi mày con hành bà à”. Tiếp: “Sư cha mày, không có tao nằm ngửa ra thì lấy chó gì đổ vào nồi à. Nói cho mà biết…”.

       Ngừng một chút, tứ bề im ắng và tiếng chanh chua lại rõ hơn:”Mày nữa, mày còn liếc ngang liếc dọc con mắt xanh đỏ mỏ nào nữa tao cho một nhát xong đời đấy, hiểu chưa, chó nào chủ ấy chứ. Cái hạng mày cứ sấp mặt xuống..”.

       Cô thuỗn ra không hiểu với…”sấp mặt xuống” đế….”ngửa mặt lên”. Khi không cô liên tưởng đến…“ông cụ non” với bà nạ dòng đang ở đâu đó. Cô nhìn bố. Bố nhìn cô lắc đầu và ngần ngừ nói: “Gần nhau chẳng hẳn là cứ ăn nằm với nhau ”.

      Ôm nhẹ vai cô, bố đằng hắng và tiếp: “Lớn lên con sẽ hiểu”.

      ***

       Với cái tâm thái liêu xiêu như thế, cô lan man về cái hôm khách tổ tôm neo người. Cô đang ngồi nhặt rau trên sân thượng, bỗng cô thấy ông ở đằng sau lưng cô hồi nào không hay. Người cô đuồn đuỗn ra như con cá rô đực và tảng lờ làm như không biết, vẫn cắm cúi bấu, ngắt những cọng rau già. Thấy cô nhặt rau, ông vừa đứng vừa đẩy đưa bằng cách nói chuyện…rau muống. Rằng cứ chân quê theo các cụ ta xưa thì không gì thấm thía, ngọt ngào hơn câu ru con trong buổi trưa hè, võng đưa kẽo kẹt: “Còn ai còn đó còn đây, còn ao rau muống thì còn chum tương”. Ông nghiệm ra một điều, rau cỏ hình như đều chắt lọc từ cái hồn của đất, cái tinh khiết của hương trời. Như rau muống có từ tháng chín ta, nhưng đến lúc đó chưa hẳn là ngon, phải qua những ngày rét đậm, rét ngọt, cây rau muống mới trắng, mới mềm. Qua cái rét của tháng một, tháng chạp, rau muống vừa ngon vào mùa xuân. Sang tháng hai, tháng ba có mưa rào, trứng cóc nở đầy ao rau, rau ăn cứng quèo, nhạt thếch. Rau muống cấy trên nước cạn quanh bờ ao, sâu khỏang hơn gang tay, lá xanh mỏng và cọng mềm trắng, nên gọi là rau muống trắng. Còn rau nổi trên mặt nước thành từng bè, cọng dài lá to là rau muống đỏ, có khác là cách nấu nướng, như ông chỉ thích gỏi rau muống, hay nham rau muống, mà ít lâu nay chỉ riêng..”cô” mới làm vừa ý ông thôi.

        Cô vẫn lui cui với rổ rau, vẫn váng vất với “tháng ba có mưa rào, trứng cóc nở đầy ao rau” như lời ông nói. Rồi ông lững thững quay đi, ngỡ đi đâu, hóa ra ông ngắm nghía hòn non bộ to gần bằng cái bể nước mưa. May mà hôm nay, cơn mưa bóng mây vội vã đến, rồi vội vã đi, mấy con chẫu chuộc ễnh ương không u ơ…”gọi tình”, cô chỉ sợ ông nhòm thấy con cái…“dính chặt” với con đực thi ê mặt, thì cô chả biết trốn vào đâu. Rồi ông tẩn mẩn nhìn cái chuồng chim bồ câu, hôm nay lũ chim lại đi bay đi đâu kiếm ăn hết cả chuồng, chẳng còn con nào ở lại, cô lại sợ ông dòm thấy con trắng…“tỏ tình” với con xám thì cô chỉ có nước độn thổ. Cô chợt nhớ đến bố cô và ông vào cái năm nào bàn chuyện lấy chồng của cô với bói tóan rồi ông tịt mít. Và cô đợi dịp này chỉ có hai người để hỏi cho ra nhẽ. Vừa lúc ông quay lại, cô ngượng ngập ngẩng đầu lên tính hỏi thì rõ chán như cơm nếp nát vì ông lại lẩn mẩn tiếp câu chuyện còn dở dang là…Năm nào giời dở chứng, gặp trận mưa sập sùi, mấy ngày mấy đêm, tuần sau lại nắng nong, nắng hanh nữa thì ôi thôi, cái giống này ngập ao, ngập vườn, chỉ tổ béo cho đàn lợn sề, lợn ỉn, vì vậy mới có…rau muống lợn.

        Nghe thủng xong, cô cúi mặt, ngập ngừng hỏi trống không, như hỏi người dưng nước lã: “Ông là thầy bói hở”. Ông tủm tỉm cười và ngồi xuống cạnh cô, ông cầm bàn tay cô mò mẫm, đường gia đạo chi chít như khu Bàn Cờ. Ông đăm dăm nhìn vào lòng bàn tay cô và chậm rãi nói rằng cung mệnh cô có thiên việt, thiên khôi, thêm cát tinh hợp chiếu nên cô thích ẩn dật, cung này lại có thiên đức, nguyệt đức nên có sức thu hút, quyến rũ, có duyên và đa tình nên…hợp với văn chương chữ nghĩa…Cô nhủ thầm, cái này thì chém chết ắt hẳn là bố cô chỉ đường cho hươu chạy để ông “hươu vượn”. Chợt cô chột dạ…Ủa mà xem chỉ tay sao lại có…sao sẹt, sao chiếu hay ông tính dở trò ma mãnh đây, cô liếc nhìn ông thăm chừng, mặt ông cứ lặng như nước ao tù, trong khi mặt cô đỏ như quả mận chín. Ông lại mân mê tay cô, trong cô có một chút giao động lâng lâng khó tả. Như thấy cô đang rối rắm, ông không nói chuyện sao hôm, sao mai nữa, mà ngó chăm chăm rổ cà, với tinh thần ăn uống, ông nhì nhằng hỏi cô nấu cơm Bắc hay Nam. Chẳng đợi cô trả lời, ông tiếp chuyện cái đầu rau…

       Đã là người Bắc mình thì ai mà không xiêu lòng với miếng cà muối chua chua, nhai cứ giòn xồn xột, thêm lá ớt đỏ tươi cay xé lưỡi. Hôm nào có bát canh rau đay, canh mồng tơi, thì thế nào cũng phải có được dăm quả cà muối quen thuộc. Thế rồi chẳng hỏi mà khai, ông bắt qua chuyện tình cũ xì từ cái thuở tám kiếp nào với mỗi buổi chiều đi dậy học về, ngồi bần thần nhìn mâm cơm, nhớ nhung những ngày tháng mầu tím hoa cà, miên man hòai niệm dai dẳng về người tình vừa bỏ ta đi…như những dòng sông nhỏ…Cô thấy ông là người thông tỏ mọi chuyện, mồm miệng trơn như tráng mỡ và veo một cái là hết..chuyện.

       Hết chuyện, cô nhòm chẳng thấy mặt mũi dòng sông nhỏ với người tình vớ vẩn của ông ở quanh đây. Nhưng biết rằng ngay dưới sân thượng dưới kia là cái mương, cuối ngõ có cái rạch có cả trăm con lăng quăng. Có một dạo, cô vớt chúng lên sân thượng nuôi cá vàng trong cái hòn non bộ, rồi lũ lăng quăng thành con nòng nọc và sinh nở ra cóc nhái thế thôi. Chẳng phải vì nghe đến “người tình bỏ ta đi” mà cô eo sèo với mấy con cóc nhái. Rõ ra từ ông, bắt quàng qua mẹ cô, mỗi lần nói chuyện bếp núc thì mẹ cô lại than thở là đám con của bà như lũ vịt chống gậy, nào có gì đâu, cà thì phải gọt sạch nuốm, ngâm vào vại, mà vại cà nào chẳng có nước, có dấm, nêm chút muối, chút đường. Chỉ khác một nhẽ là cà muối sổi thường là cà pháo, nếu là cà bát thì cắt ra từng miếng, cho thêm mấy nhánh tỏi dã dập để cho cà trắng. Cà phải trắng phau, ròn tan mới ngon mắt, sướng mồm, rồi đậy bằng cái vỉ tre, ba, bốn ngày sau thì lấy ra ăn. Còn cà nén thì thường là cà bát, mẹ vẫn nhắc chừng chị em cô, đừng quên cho thêm vài củ riềng giã nhỏ để có mùi thơm, rồi dùng cối đá nén khỏang dăm tuần để trái cà dẹp lép, vì vậy các cụ xưa ta vẫn thường ví von là cà riềng, cà tỏi là thế.

        Thế đấy, từ mắm, tỏi, ớt, đường…Cô lây lất qua cay, đắng, ngọt, bùi, nhìn cái màng nhện giăng giăng trong cái chậu cây, cái đầu cô đẩy đưa, cô đánh bạo hỏi ông về chuyện gia đạo. Ông cũng phóng tầm mắt vào chú nhện đang giăng tơ và dường như ông cũng đang giăng một mảnh lươi tình với một mai. Ông trầm giọng nói về cung mệnh cô có sao đào hoa…chiếu mệnh, vì đang có người ấp ủ hình bóng cô với thương và nhớ. Ông xuống giọng khe khẽ như để mình cô nghe: “Một mong, hai đợi vấn vương tình – Ba thương, bốn nhớ, cô mình ngẩn ngơ – Năm chờ, sáu tưởng đường tơ – Dù không quen cũng bẩy, tám, chín mơ, mười tìm”.Đầu óc cô vấn vương rối mù, bất giác cô ngẩn ngơ nhìn lên bầu trời có những gợn mây kéo về qua những sợi dây điện cuối ngõ. Đảo mắt qua cái chuồng bồ câu, hai con cái con đực cũng vừa bay về chuồng. Cô lại căm cúi xuống nhặt hai qua cà trái mùa, cô vân vê và chẳng nói chẳng rằng một tiếng. Thóang như cô chớm cảm ông thì phải, cô cũng chẳng biết nữa và cô chỉ biết rằng hình ảnh của ông với đôi kính cận mà cô đã ấp ủ từ cái tuổi ô mai nay theo thời gian ẩn hiện qua ông thật rõ nét. Nhất là cô như tìm thấy ông qua hình ảnh bố với cái khỏan đào hoa lăng nhăng thì theo cô, cũng chẳng kém gì bố cô bao nhiêu. Bất giác cô thở dài, khác hẳn với…chồng cô, như đôi đũa lệch. Lúc này cô mới thấy cay như vã ớt.

      Nghe tiếng thở ra như một cơn gió thỏang của cô, như đọc thấu tâm can cô. Ông chậm rãi bâng quơ với ai đó: “Trong người đàn ông bao giờ cũng có hai người đàn bà, một là người vợ và một là người tình”. Cô nín lặng nuốt từng chữ, chẳng dám ngửng đầu lên và trong người cô như chùng xuống, như có tiếng nói trốn chui trốn nhũi trong tâm khảm, bây giờ mới rủ rê nhau mò mẫm chui ra. Cô thầm nói trong vô thức cùng buông lơi: “Đàn ông như anh nói thì dễ, còn đàn bà như em thì…”. Cô chợt bắt gặp với chính cô, cô vừa thầm gọi ông bằng “anh” và cô lại xưng “em” với ông ấy…Đồng cảm như cô, ông nói thật nhỏ như gửi gấm với chính ông: “Đến cuối đời, tôi vẫn còn đang đì tìm một người người tình cho riêng tôi, chỉ mình tôi. Bây giờ và mãi mãi…“

       Bóng “tôi” khuất chìm sau cầu thang, nhưng tiếng ông còn rơi rớt lại xóay vào đầu vào tim cô. Và cô buông một tiếng thở dài. Người cô như tê dại, cô lẩm nhẩm trong tâm tư chìm khuất: “Anh đừng làm em khóc bây giờ”. Cô như phân bua với “tôi”, người vừa vắng mặt quanh đây. Cô bám víu, níu kéo: “Đã bảo đừng nói mà” và cô cũng chẳng biết mình nói với ai, với ông hay chính mình. Cô như bừng tỉnh giấc mơ hoang, cô chẳng dấu diếm với chính cô: “Vậy là điều em lo sợ nhất cũng đã tới làm em chống đỡ không nổi”. Cô đang khóc và cô đang sợ.

        Như một cái gì không tên ngủ quên trong ngõ ngách của tâm thức với cả một thời gian dài ẩn khuất, dấu mặt, bây giờ nó đánh thức cô dậy và cô khóc vì hạnh phúc có thật đang chan chứa trong cô. Cô lặng nhìn mớ rau muống trong rổ, cô vẩn vơ đến “những ngày tháng mầu tím hoa cà, miên man hòai niệm dai dẳng về người tình vừa bỏ ta đi…như những dòng sông nhỏ”. Cô sợ những hợp tan, những mất mát. Cô nhìn lên cái chuồng chim bồ câu và ước gì mình có một đôi cánh dang rộng, cô thốt lên trong khỏang không với mây trắng giăng giăng cuối ngõ: “Em lại bay bổng rồi nữa rồi anh ơi”.

       Như một truyện tình có thật đã ẩn nấp trong cô bấy lâu nay…

       ***

      Loạy ngoạy mấy tháng rồi, vậy mà cô thấy như mới hôm qua, sáng nay ông Tần vừa mới đến và hiện đang ở dưới kia nói chuyện với bố cô. Ông có mang tới túi sấu xanh miền cao nguyên đất đỏ. Cô cười mỉm chi loay hoay với ý nghĩ tinh nghịch với ông Bắc kỳ rau muống này, hay là nấu canh rau muống với sấu chua cho ông ấy…”sơi”. Cô lại đổi ý, hay là muối sổi cho ông ta một hũ dưa chua, thêm chút rau cần, ngoáy một nhát là xong ngay ấy mà. Cũng dễ thôi, thêm ít giá sống, rau răm và hẹ. Thường thì theo mẹ cô, muối rau muống với rau ngổ trâu vì hai cái giống này hay mọc chung với nhau ở ao nhà. Nhất là mới sau cơn mưa đầu mùa kéo dài cả tuần lễ, lại gặp nắng hanh, những cọng rau to bằng ngón tay út, lá ra mơn mởn xanh mầu cốm giót, dài như lá tre, ngoi ra khỏi bờ và bò lổm ngổm trên mặt cỏ, cứ như rau muống đỏ vậy. Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa, cắt thái mớ rau muống, rửa sạch, ngâm hũ dưa chua xong, cô ngồi thừ người và cũng chẳng biết mình thẩn thơ gì nữa.

      Lóang một cái đã giữa năm, ngày tháng vẫn đủng đỉnh đi qua, bây giờ là tháng sáu, tháng sáu trời mưa trời mưa không dứt, cô nhìn lên bầu trời xanh như đi tìm những đám mây báo hiệu cho cơn mưa đầu mùa nhưng chẳng thấy. Dường như cô đã đậm đà với…”ông bạn già” của bố cô. Cô lại được dịp tủm tỉm cười thầm qua khuôn mặt ma mãnh của ông, vậy mà có duyên và cô thì chúa ghét khuôn mặt như khỉ ăn gừng của…chồng cô, lúc nào cũng ủ dột, bẩy ngày chỉ thấy trời mưa…

       Nhớ lại cái buổi sáng hôm nào trên sân thượng, ngón tay ông táy máy nghịch ngợm trong lòng bàn tay đầy da thịt non của cô, sao cô thấy “ngứa ngáy” với bần thần thế nào ấy, để sau này trong cô, mỗi về đêm, mỗi ngập tràn những nhớ và mong, buồn buồn nôn nao khôn tả…Tối tối cô thao thức chập chờn, thóang như cô đang bước những bước chim di, thóang như ông Tần đang “khuấy động” cuộc sống bình lặng một ngày như mọi ngày của cô. Trong bóng tối trống vắng, cô nhìn cô trên vách cùng những nhạt nhòa thầm nhớ. Và cô thiếp vào giấc ngủ với cơn mộng chẳng bình yên chút nào cùng những cắn rứt khôn nguôi của một ngườ đang lạc vào bến mê, bến ngộ để chẳng thấy đâu là bờ với bến. Để cô thêm một lần, chẳng thể chạy trốn với những thầm kín, trong cô lại hiện một hình bóng…

      ***

      Sáng nay, cô lẳng lặng lên sân thượng và ngồi ở đấy đã lâu với những bâng quơ. Với cô những cọng rau muống như những bám víu hòai mong, vừa nhặt rau vừa quẹt những giọt ngắn dài, hai mắt cô ăm ắp nước. Bỗng ở hòn non bộ, trong những ngõ ngách hang sâu ngập nước, có tiếng kêu ồm ộp của con cóc ở một hóc hẻm nào đó cất lên, xa vắng rời rạc. Được một lát thì lại có tiếng kêu của một con khác đáp lại ở trong rãnh nước dưới con ngõ nhỏ văng vẳng vọng lên. Cô lắng tai nghe thì hình như một con đực, một con cái, ngừng một lát như thăm dò, rồi chúng lại dục dã gọi nhau đứt quãng. Tiếng con trên sân thượng thanh và ngắn hơn, e dè hơn và cô đóan chừng chắc là con cái. Còn con đực thì ve gái như giã chầy giã cối, lúc khoan thai, lúc dồn dập như thôi thúc, mời gọi. Trời sau cơn giông, ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước, các cụ ta dậy chả sai tí nào. Mà cũng lạ, không hiểu sao chúng cứ tậm tịt vào những lúc mưa gió, cứ nhao nhao lên như chào mào ăn dom, cứ như tháng bẩy mưa ngâu, giống vật muôn lòai cũng đa tình cả đấy, cứ như người vậy, nào ai biết. Ngu lâu đần dai cách mấy, cô cũng hiểu ra rằng cái đẹp của con cóc đực là…là…con cóc cái.

       Và cô cứ lửng lơ như người mất hồn qua những ngày còn bé, ngay dưới cái cột chuồng chim bồ câu là hòn non bộ nuôi cá vàng. Ở đấy sau mỗi lần mưa bão, chẳng hiểu lũ ễnh ương chẫu chuộc rủ rê, một bầy con đực cõng con cái bơi lóp ngóp qua mặt nước. Trong khi con đực ngụp lặn lấy hơi, cả thân mình chìm sâu dưới nước, ngóc đầu lên để lấy khí trời, chỉ thấy mắt và mũi, bốn chân thi nhau đạp lấy đạp để, để mang người tình đến một nơi cao ráo, người tình cóc ngồi trên lưng nhởn nhơ ôm vai bá cổ, thảnh thơi ngắm trời ngó mây…Như thể chẳng có chuyện gì sẩy ra, như chuyện thường tình của đất trời. Ngày ấy cô hỏi bố…Bố vò đầu cô nói: “Ít nữa con sẽ hiểu”.

       Một lần khác trước ngày lấy chồng, cô lại hỏi bố sao đám cóc nhái cứ dục dã nhau sau cơn mưa. Bố cô nhìn vào khỏang không, trầm ngâm: “Lớn lên cô sẽ hiểu…”

       Hình ảnh gắn bó không rời của cóc con đực, con cóc cái ấy lại ám ảnh cô với cái chuồng chim với “chung thủy như chim bồ câu. Cô được ông bà bảo thế, lớn lên đọc sách cũng thấy như vậy, rồi sau này cũng không ra ngoài cái khuôn thước đó. Cho đến một buổi sáng…Cô nhớ như in là cái hôm ông Tần lần đầu tiên có mặt ở nhà cô thì cô đang lóng ngóng phơi quần áo trên sân thượng. Ngay chỗ này, cô nhìn thấy tận mắt, cô mới ngớ ra. Điều được nhìn thấy rõ rành rành, vì nó trái ngược quá, đầu đuôi thế này:

       Chuyện là bố cô có một chuồng nuôi chim bồ câu hai ngăn. Sau khi nuôi được một đôi xám, bố nuôi thêm một đôi trắng nữa, không may con chim mái mầu trắng chết. Mẹ nhiều lần phải nhắc mua ngay một con mái khác để ghép đôi, cho con góa trắng khỏi bay mất. Nhưng vì bận quá, bố cứ chần chừ mãi, cũng may con góa vẫn lủi thủi sống một mình.

       Buổi sáng hôm đó, tình cờ cô nhìn vào chuồng con góa thì thấy không phải một mà là hai con, đang quấn quýt, chõ mỏ tỏ tình với nhau: “Chắc là con mái nhà ai lạc vào”, cô nghĩ như thế và định đứng lên lại gần để xua nó đi. Cô chưa kịp nhấc chân thì từ ngăn chuồng ấy, một con chim mầu xám đi ra: Đúng là chị chim mái lông mầu xám nhà mình, lúc này anh chồng nó đang vắng mặt.

        Cô sững sờ và nghĩ mình trông lầm, để cho rõ trắng đen…Thóc ở đâu bồ câu theo đó, nhà thành phố đào đâu ra thóc, thế là cô quây quả xuống nhà lấy một nắm đậu tương mà chúng rất thích, và cho vào cái máng ăn chung đặt trước hai cửa chuồng. Anh góa trắng nhòai ra cùng ăn với chị mái xam, vui vẻ lắm, chẳng có chuyện ai dành ai, bỗng anh chồng quay về, cũng sục vào ăn. Lạ chưa, chị vợ bỗng nhiên nhẩy bổ vào anh góa, mổ lia lịa vào đầu vào cổ. Cô nghĩ chòen chọet: “Có thế chứ, đúng là mình nhìn lầm” và hình tượng chung thủy của họ nhà chim bồ câu, lại trở về ngự trị trong đầu óc, nào có khác gì giống cò, giống hạc hay hoặc giả như phượng, loan của người Tầu.

       Cô thở phào nhẹ nhõm.

       Ăn xong, anh chồng lại bay đi, anh góa trắng toan quay vào thì chị xám tới gần chàng và lần này thì việc tỏ tình, diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật, chẳng cần dấu diếm. Cô không hé răng, mân mê một nắm đậu tương nữa, chờ anh chồng quay về và anh chồng vỗ cánh phành phạch bay  về thật, nhưng trước đó mấy giây, chị vợ đã có mặt ở trước cửa để đón. Và cảnh chị vợ mổ anh góa tới tấp lại diễn ra, chuyến này có phần hăng hơn. Đến khi anh chồng bay đi thì việc tình tứ lại tiếp tục như không có gì sẩy ra.

       Ngay trưa hôm đó, cô tạt qua Chợ Cũ trên đường Hàm Nghi, chợ bán chó  mèo và chim chóc và mua một con chim mái để ghép đôi cho anh chim góa, nhưng lý do vì hấp tấp và lơ đễnh, cô mua phải chị già mầu nâu và tệ hại hơn nữa là mỗi bàn chân chỉ còn có hai ngón, bước đi cứ khập khiễng. Cô bỏ chung vào chuồng anh chim góa rồi lấy các thanh nứa ken cửa lại, chắc mẩm chỉ vài hôm sau, chuyện sẽ ổn, không ngờ anh góa mổ chị nâu rất dữ, buộc cô phải mở cửa ra từng lúc để giữ nó trên tay, chờ cho anh góa nguôi nguôi mới lại thả vào. Tưởng chuyện ghép đôi của chim là đơn giản, chỉ cần ghép trống với mái là xong, ai dè! Anh góa không chịu sự có mặt của con mài nâu trong “lều tranh” của nó, chiều đến, con mái nâu phải ngủ trên thanh gỗ đầu hồi…

       Tuần sau, chị xám sang hẳn bên “tổ ấm” của anh góa trắng, ngày cũng như đêm. Còn anh chồng lông xám, ngày ngày đi kiếm ăn xa, tối về nằm chèo queo một mình…

       ***

       Cả tuần đó, cô như người đi trong mơ, nửa tỉnh nửa mê, như có tiếng cóc nhái gọi nhau râm rả nhau trên sân thượng và có lúc cô thóang thiếp đi một lát. Và như người mộng du, cô thấy cô thơ thẩn ở cái ao trước nhà bố mẹ cô mãi tận làng Nội Duệ, Bắc Ninh, mò mẫm khơi mấy cọng rau muống, như tìm một cái gì cô đã đánh mất. Để rồi lững lờ ra vườn sau, lẩn thẩn vén luống cà, như tìm tòi một cái gì mà cô vừa đánh rơi…

       Và trong sương chiều, hình như cô thóang thấy đôi chim bồ câu, một con xám, một con trắng, đang mập mờ, ẩn hiện đậu bên kia hàng giậu.

       Giấc mơ quan luống mẫn canh dài, qua đồng chiều cuống rạ. Từ dạo ấy, cô hay buồn vớ vẩn, nhớ vẩn vơ. Buồn, chỉ là buồn vô cớ. Nhớ, thường chỉ nhớ xa xôi…

Bí mật ngõ nhỏ

Ngõ 101 nằm ở phố Tiến- trọc. Phố này có tên một danh nhân, để khỏi ai bắt bẻ hạch họe bèn tạm đặt tên vậy. Phố dài chừng 800 mét, vài hàng tạp phẩm, độc nhất một hàng bún ốc dưới cây bàng đầu ngõ, đây là hàng bún ốc ngon khét tiếng, ai thích ăn bún ốc không thể không biết bún ốc Tiên.

Bà chủ tất nhiên tên Tiên, trắng trẻo múp máp, tóc có vài sợi bạc rồi nhưng ngực phồng như ngực gái tơ, mỗi lần bà cúi xuống múc múc chan chan hai bầu vú núng nính nõn nà khẽ rung rinh, chao qua chao lại trước mắt khách, đã quá trời luôn. Hàng bún không bàn không ghế, khách ngồi vây quanh, kẻ chồm hổm, người kê cục gạch lót báo, có người chẳng cần gạch ghiếc báo biếc, cứ thế tương đít ra nền vỉa hè. Đụng có ông trật tự phường đi qua, từ xa đã thổi còi cái roẹt, quát như sấm rền giải tán giải tán. Mọi người tự giác bưng bát tản đi. Bà Tiên đẩy gánh bún vào ngõ, rút ra hai chục nghìn đưa ông, ông lại thổi còi cái roẹt, quát như sấm rền giải tán giải tán rồi túc tắc bỏ đi. Ai nấy lại bưng bát quay về chỗ cũ.

Ăn uống nhếch nhác vậy nhưng hễ ai đã ăn hàng bún ốc này rồi đều không muốn bỏ. Ốc nhể nguyên con, mỗi bát bún hơn chục con, không biết ngâm tẩm kiểu gì thơm ngon hết nhẽ, cắn phát đánh sật, nước ốc trào ra miệng ngọt lừ, thơm thơm cay cay, lại thêm nước bún váng mỡ gà, nước ốc bươu xương gà hầm ngấm rau mùi thơm nồng, vừa ăn vừa hít hà, cực đã.

Chỉ có hai mẹ con, bà Tiên và cô con gái hai mươi tuổi tên Thủy cũng trắng trẻo múp máp, đít lồng bàn tròn căng, đàn ông ăn ở đấy mười anh dán mắt vào đít nó cả mười. Ông nào cũng thế, sấp mặt vào bát bún húp húp và và, mắt liếc xéo phát ngực bà Tiên, lại liếc xéo phát đít con Thủy, và miếng bún thấy ngon thêm bội phần, cắn con ốc cái sật nhai nhồm nhoàm đã đời như đớp phải mòng con bé.

Con bé lúi húi bưng bê dọn dẹp rửa ráy chưa khi nào thấy nó ngẩng mặt lên, chưa thấy ai gọi mà nó mở miệng đáp, người gọi Thủy ơi lấy anh quả ớt, người gọi con ơi lấy bác nhúm mùi. Nó lẳng lặng đáp ứng nhưng cất tiếng vâng dạ thì tuyệt nhiên không. Người nói có khi con bé này câm, người nói câm đéo đâu, gái thời nay thế, hễ mọc mầm được chút gì ngon ngon là mặt vênh mày váo.

Oan cho con bé, nó đổi tính từ thủa 13 tuổi, từ ngày bố nó lâm bệnh. Bố nó là ông Quí dạy toán cấp ba, đẹp trai cực kì, bà Tiên hồi đó học sinh lớp 12, mê man theo ông, suốt ngày rình ông đi chỗ vắng thì chạy vụt ra, nói em chào thầy, rồi cười rinh rích ù té chạy, mông đít ngoay ngoảy. Đêm ông đang soạn bài ở phòng nội trú, bà lén vào ném qua cửa sổ khi thì bông hồng khi thì bài thơ, nói thầy ui em dớ thầy, rồi lại cười rinh rích ù té chạy. Đến khi không chịu nổi, bà nhảy ào vào phòng ông, cởi tuột áo phơi cả cặp tuyết lê đẹp mê hồn, nói dạ thưa thầy. Ông Quí hốt hoảng vùng dậy, nói chết chết mặc áo vào đi em, chết chết. Bà ôm chặt lấy ông, nói không không em muốn chết, thầy cho em chết đi.

Lấy được ông Quí, bà Tiên sướng như mê, đẻ được con Thúy vẫn sướng như mê. Chẳng dè ông bị tai nạn, vẹo cột sống, chấn thương sọ não, mặt mày méo xẹo, sợ nước sợ gió, sợ cả người, suốt ngày ngồi ru rú trong phòng. Hai mẹ con chạy ngược ngước xuôi chạy chữa cho ông, vay tiền cả khu phố đưa ông sang tận Singapore , tiền mất cứ mất tật mang cứ mang, bệnh ông ngày một trầm trọng, nhìn ai cũng ra phản động với khủng bố. Họ bán căn hộ trả nợ, kéo nhau về ngõ này.

Đây là ngõ cụt, rộng chừng tám tấc sâu hun hút, hai bên đặc quánh chẳng có nhà nào. Đi mãi mới gặp nhà ông Quí bà Tiên chia ra hai ngách, ngách trái chừng 10 mét vuông, ngách phải chừng 20 mét vuông. Đi thêm một khúc nữa thì có thêm nhà ông Đức bà Hiền gác dưới, nhà ông Bá và thằng Hoàng con trai ông gác trên. Nghe nói ngõ này xưa là lối vào chuồng ngựa của một tư sản giàu sụ, đã dinh tê vào Nam năm 1950. Nhà ông Đức Bà Hiền là chuồng ngựa, gác trên nhà ông Bá là nơi ở của người nuôi ngựa, còn nhà ông Quí bà Tiên vốn là nơi cất thóc cỏ cho ngựa, mới chia ra hai ngách như thế. Nghe cũng có lý.

Ngõ thiếu khí thiếu sáng, ngày cũng như đêm tối thui, ai mới vào cũng ngạc nhiên không hiểu sao người ta có thể an tâm sống ở đây. Trong khi người trong ngõ thì thấy thường, thậm chí còn thấy tiện lợi hơn nhiều nơi sáng sủa. Chợt nhớ một nước bà con, ai ở nơi khác đến thì rùng mình kinh khiếp như vừa sa vào bãi sình lầy, thế mà dân ở đấy thì hân hoan múa hát tưng bừng, ca ngợi ngất trời nơi họ sống. Cho hay thói quen con người thật đáng sợ.

Thôi không nói chuyện này nữa, quay lại với hàng ốc Tiên.

Một buổi sáng có một thằng chừng ba chục tuổi đi taxi đến, nó đi vào ngõ hồi lâu mới quay ra, sà vào hàng bún. Thằng này ăn mặc không phô trương nhưng nhìn kĩ toàn đồ đắt tiền, làm bộ nhún nhường, cái nhìn cầu hòa, nụ cười chiếu cố với đám thị dân nửa mùa quanh gánh bún, biết ngay người sang hoặc cố tình làm sang từ nơi xa vừa về Hà Nội. Nó đỡ bán bún từ tay con Thủy, mỉm cười nói cảm ơn, nhón tí rau thơm nói xin phép, gắp con ốc lên ngửi ngửi, bỏ vào miệng nhỏm nhẻm nhai như nhai kẹo cao su, biết ngay ông Việt kiều khéo tỏ mình là Việt kiều trước đám chân đất mắt toét.

Nó mỉm cười với con Thủy, nói em gì ơi, đây có phải ngõ 101 không, con Thủy hất mặt về cái biển số ngõ, gật gật. Nó cười cười, nói cái số ngõ có từ xưa à em, con Thủy hơi nhăn mặt, gật gật. Nó vẫn cười cười, nói nhà của em ở đầu tiên à, con Thủy ném vào nó cái nhìn khó chịu, gật gật . Bà Tiên nguýt thằng này phát, nói anh ơi, anh nói quách với con gái tôi là anh có tiền, anh muốn ngủ với nó có phải nhanh không, đu đưa gì lắm sốt ruột. Thằng này vội vàng quay lại, nói cô ơi cô hiểu nhầm cháu rồi, cháu hỏi để mua nhà cô đó. Bà Tiên nguýt thêm phát nữa, cười nhạt nói nhà tôi đến chó nhà anh nó còn chê, anh mua làm gì. Thằng này cười nói cháu mua thật mà, cô bán đi, cháu cần lắm. Bà Tiên nguýt thêm phát nữa, sấp mặt múc múc chan chan không nói thêm câu nào nữa.

Hết thảy khách hàng đều châu mặt về thằng này. Nó tỉnh bơ, bỏ bát trả tiền, lấy giấy ăn lau nhẹ một vòng quanh mép, nói cô bán đi, bao nhiêu cháu cũng mua…Lại lấy giấy ăn lau nhẹ một vòng ngược lại quanh mép, nói cháu đến đây không phải để ăn bún… để mua nhà cô đó… cháu tìm mãi mới thấy cái nhà ưa ý. Bà Tiên hất mặt lên, nói thôi thôi anh đi đi cho tôi lấy chỗ cho khách. Nó đứng dậy cười cười, nói cháu nói thật mà cô cứ tưởng cháu đùa. Điên, bà Tiên cầm cái môi gõ vào nồi xáo cái queng, nói 200 cây anh mua không? Nó nói mua, cô bán cháu mua liền.

Con Thủy đang bê chồng bát, nghe nó nói thế thì giật mình làm rơi chồng bát. Nó đặt cái cardvidit cho bà Tiên, nói bất kì khi nào cô muốn bán cứ gọi điện cho cháu. Bà Tiên trợn mắt há mồm không biết nói sao. Một người kêu to ui giời, cái bướm hai trăm cây. Nó vừa lên xe, đám khách liên bâu quanh bà, người nói nó không mua nhà đâu, nó mua con Thủy đó, cơ mà được giá, ngon ngon, bán bán. Người nói chị ơi bán đi, người mẫu có hai cây, hoa hậu có hai chục cây, con gái chị giá 200 cây, ngang giá đệ nhất phu nhân đó rồi chị. Người nói xưa em có mỗi cái quạt tai voi với trăm dây mai xo cũng kiếm được cô vợ mê hồn, dùng mãi đến giờ vẫn chưa chán, được giá lắm rồi bán đi bán đi.

Bà Tiên ngồi ngẩn ngơ, liếc sang con Thủy thấy mặt nó cũng đực như ngỗng ỉa.

2. Nhà thứ hai trong ngõ 101 là nhà ông Bá.

Ông Bá vốn là nhà khảo cổ, chơi đồ cổ nổi tiếng, giàu có cự vạn, một vợ sáu nhân tình tiền của vẫn thừa mứa để cho thằng con trai là thằng Hoàng đi đánh bạc, hút xách. Hơn chục năm trước ông dồn vốn mua cái trống đồng, đặt cược cả cái nhà rộng rinh rang quyết lấy cho kỳ được cái trống, chẳng ngờ bị tom. Người ta khui luôn cả kho đồ cổ.

Bốn năm ra tù, nhân tình tất nhiên biến sạch, vợ ông cũng theo trai. Thằng Hoàng hành nghề ăn cắp, nó đưa ông về trú ở ngõ này. Ông sững cồ nói mày cho tao ở cái hang chuột này à. Nó nói trộm quốc gia như bố thì nhà lầu xe hơi, trộm vặt như con thì ở thế này thôi. Ông nói đã mang tiếng trộm cắp thì trộm quốc gia, trộm vặt làm cái gì, ngu. Thằng Hoàng nói đéo vào, trộm quốc gia phải hội ý hội báo, biểu quyết biểu keo mệt lắm, trộm vặt cho xong, tay làm hàm nhai khỏe xác. Ông cười khì khì, nói tiên sư thằng này thế mà khôn.

Thằng Hoàng nói bố ở đây, nếu bố tuân thủ chế độ tập trung dân chủ thì con đảm bảo cho bố được làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Ông nói tập trung là sao, dân chủ là sao. Nó nói tập trung là con chỉ đạo bố, dân chủ là bố toàn quyền ca ngợi con. Ông cười khì khì, nói đ. mẹ thế thì tao biết rồi.

Thằng Hoàng nói sao làm vậy, ông ưa ăn gì uống gì nó hầu tất, mỗi tháng bốn lần nó gọi gái về tận nhà hầu ông, thích béo có béo thích gầy có gầy… tha hồ lựa chọn. Ông sống đúng như vương, có điều luôn luôn trong túi không có một xu. Ông nói mày cho tao ít tiền tiêu vặt, thằng Hoàng nói không, thứ cán bộ như bố hễ có tiền là hư hỏng liền. Ông tức, nói đ. mẹ đến mấy đồng tiêu vặt mày cũng tiếc, đồ bất hiếu. Nó đập bàn cái rầm, nói đồng chí bố muốn làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu thì phải tuyệt đối chấp hành chi thị của cấp trên, ông đứng đực, nói đ. mẹ nhất trí. Thằng Hoàng ăn cắp kì tài, trừ ngân hàng là nó chưa dám động đến, còn bất cứ thứ gì nó muốn đều lấy được tất. Phải cái nó ham cờ bạc, thành thử của thiên trả địa, hai bố con đành yên tâm sống trong cái ngõ tối om này.

Ông Bá ở nhà một mình buồn, thường lân la nhà ông Quí chơi. Ông Quí từ ngày đổ bệnh ở một mình căn phòng 10 mét bên ngách trái, đóng cửa ngồi ru rú trong phòng suốt ngày. Sáng nào cũng hệt như sáng nào, ông Bá gõ cửa một nhịp hai gõ ba lần, nghe đúng ám hiệu ông Quí mới mở cửa, mặt mày nghiêm trọng vội kéo ông Bá vào, lập tức khép cửa lại ngay. Ông Quí ngó trước ngước sau vô cùng cảnh giác, nói này, tôi vẫn chưa hiểu vì sao vượn biến thành người.

Ông Bá cười khì khì, nói có mỗi chuyện đó mà ngày nào ông cũng hỏi. Ông Quí trợn mắt lên, nói ông đừng có chủ quan, ngộ nhỡ vượn biến thành việt gian bán nước thì sao. Ông Bá cười khì khì, nói tôi nói lại nhé. Đầu tiên vượn ở trên cây, sau nó nhảy xuống đất, nó đi lom khom như thế này này. Muốn hái quả, nó phải kiếm cây gậy, cầm cây gậy rướn lên như thế này này, cứ rướn lên hết triệu năm này sang triệu năm khác, dần dần cái lưng nó thẳng ro, thế là thành người, nhất trí chưa. Ông Quí nói chưa nhất trí. Ông Bá bảo sao. Ông Quí nói tại sao vượn không nhảy phóc một phát lên cây vặt quả, lại cầm gậy rướn lên hết triệu năm này sang triệu năm khác, ngu thế. Ông Bá cười khì khì, nói có thế mới gọi là khoa học.

Ông Quí nói khoa học khảo cổ của ông hay nhỉ, nhặt được mỗi cái răng nanh là các ông dựng lên được một thế hệ hào hùng. Ông Bá cười khì khì, nói chứ sao. Ông Quí nói thế ngộ nhỡ đó là cái răng của bọn Việt gian bán nước thì sao. Ông Bá nói thì có cấp trên, cấp trên lo xác định răng người hay răngViệt gian, mình cứ thế mà nghiên cứu khoa học thôi. Ông Quí nói cấp trên bảo vượn biến thành người à, ông Bá nói chứ sao, ông Quí nói thế thì tôi nhất trí.

Chợt có tiếng gõ cửa cộc cộc cộc, ông Bá chực mở cửa, ông Quí ngăn lại, mặt mày lấm lét, nói sai ám hiệu không được mở cửa. Hai ông nhìn qua cái lỗ khóa thấy thằng thanh niên cầm cái samsonite đứng trước cửa, nó là thằng sáng qua hỏi bà Tiên mua nhà. Ông Quí nói cảnh giác cái samsonite, nó đựng mìn định giờ đấy, nguy hiểm lắm. Ông Bá cười khì khì, nói ngộ nhỡ nó đựng tiền thì sao. Ông Quí nói tiền dính siêu vi trùng, nguy hiểm lắm. Ông Bá cười khì khì, nói ừ ừ tiền nguy hiểm lắm, nếu nó vứt ra, ông cứ để tôi liều chết lấy cho.

Vừa lúc thằng thanh niên nói trong nhà có ai không, ông Bá chực nói, ông Quí hoảng hốt bịt miệng ông Bá, nói không được tiết lộ bí mật. Thằng thanh niên lại nói cháu nghe các bác nói chuyện trong nhà, các bác cho cháu xem cái nhà chút thôi. Ông Quí chõ mồm qua lỗ khóa, nói nhà tôi mười năm liền đủ tiêu chuẩn gia đình văn hóa mới, không việc gì phải xem xét, yêu cầu đồng chí đi ngay. Thằng thanh niên lắc đầu thở dài, nói khổ quá, rồi bỏ đi.

Ông Quí kéo ông Bá rỉ tai, nói ông thấy có nguy hiểm không. Ông Bá cười khì khì, nói nguy hiểm cái giầy, nó muốn xem nhà, ông không cho thì nó đi, nguy hiểm cái giầy. Ông Quí nói ông chủ quan lắm, chủ quan lắm, nó xem nhà tôi làm gì, tại sao lại xem nhà tôi, thành phố ngàn năm văn hiến không xem tại sao lại đi xem cái ổ chuột. Ông Bá nói là sao, tôi không hiểu. Ông Quí nói thằng này một là thằng khủng bố đi tìm chỗ đặt mìn, hai là thằng phản động chui vào ngõ ổ chuột này quay phim chụp ảnh để bôi nhọ chế độ.

Con Thủy từ ngoài ngõ lật đật vào, nói bố ơi sao bố không cho anh mua nhà vào. Ông Quí đập bàn trợn mắt quát ngu, ngu. Mẹ con chúng mày tiết lộ tung tích, ngu ngu. Ông Bá nói nó mua bao nhiêu, con Thủy nói hai trăm cây. Con Thủy vừa dứt lời, ông Quí trợn mắt sùi bọt mép, lăn đùng ra ngất xỉu, nước tiểu chảy dầm dề ướt sũng cả hai ống quần.

Lát sao ông Quí mở mắt thều thào, nói hai trăm cân mìn định giờ, cả phố cổ… tan hết…Tôi hy sinh đây… tôi thà hy sinh chứ kiên quyết không để cho chúng nó làm cho tan xác. Ông Quí run run cầm tay ông Bá, nói có tiền tử tuất… các đồng chí gửi về cho vợ con tôi… đừng để thất lạc…

3. Nhà thứ ba là nhà ông Đức, bà Hiền. Ông Đức thua ba Hiền 12 tuổi, ông bỏ nhà đi bụi từ bé, vẫn trú ở vỉa hè phố Tiến Trọc. Còn bé vẫn xưng là cô cháu với bà Hiền, đến tuổi thanh niên ông thuê xích lô ngày ngày đưa đón bà Hiền đi chợ thì xưng là chị em. Một lần ông Đức vác mấy bao tải cá khô vào nhà bà Hiền, nói chị ở đây một mình à. Bà Hiền cười cười liếc xéo cái, nói ừ, mày thích thì ở đây với chị.

Ông Đức nghe nói vậy thì xông tới bóp bóp rờ rờ, nói của bà chị hoành tráng quá nhẩy. Bà Hiền đá đít ông Đức, nói tắm đi thằng kia, mày định nhét cục phân vào tao à. Xong trận mây mưa bà Hiền cười he he he, nói mày được đấy, có thích làm chồng tao không. Ông Đức nói chồng con cái giầy, em ở đây cơm ngày ba bữa, mỗi tháng trăm đồng, chị muốn kiểu gì em hầu kiểu đó, bảo đảm đêm bảy ngày ba ngoài ra không kể. Bà Hiền nói đắt quá, năm chục đồng thôi, ông Đức nói năm chục thì một đêm một phát thôi nhé, nếu có phát sinh thì bà chị phải chi thêm, o ca? Bà Hiền cười he he he đá đít ông Đức, nói thằng này tính toán chi li gớm nhỉ, dưng mà o ca.

Đến nay đã hai chục năm họ sống với nhau như vợ chồng, khi gọi chị em khi gọi ông tôi, đôi khi rửng mỡ còn anh anh em em tình cảm phết. Bà Hiền vẫn phải trả lương cho ông Đức, trượt giá đến nay một tháng hơn triệu đồng. Bà Hiền nói hay tụi mình có đứa con cho vui cửa vui nhà, ông Đức nói tôi biết con cái là gì rồi, cực như chó, đéo vào. Với lại có con tôi phải làm bố, bà cúp lương của tôi thì sao.

Ngày hai buổi ông Đức chở bà Hiền đi chợ, còn lại thời gian chẳng biết làm gì ông la cà đầu đường xó chợ uống ba chén rượu, chơi cờ tướng, đánh tá lả đợi hết ngày. Sáng sớm ông Đức chở bà Hiền đi chợ, bà Hiền nói ông cứ ăn chơi lêu bêu, không biết trong nhà ngoài ngõ xảy ra chuyện gì cả. Ông Đức nói chuyện gì. Bà Hiền nói nhà ông Quí sắp bán cho thằng Việt kiều 200 cây. Ông Đức nói cứt, nhà đó hai chục cây nó chẳng thèm. Bà Hiền nói ngu lắm, có làm sao nó mới mua 200 cây, chắc dưới nền nhà có chum vàng nghìn cây là ít. Ông Đức nói cứt. Bà Hiền nói ngu lắm, ông Đức nói cứt, bà Hiền nói ngu ngu ngu, ông Đức nói cứt cứt cứt. Hai người cứ ngu ngu cứt cứt ầm ĩ dọc phố, người qua đường nhìn họ cười, nói vợ chồng nhà này động rồ, khoe gì không khoe toàn khoe mấy thứ ở đâu cũng có.

Ông Đức đưa bà Hiền ra chợ, lập tức quay về ngõ. Ông gõ cửa nhà ông Quí một nhịp hai gõ ba lần, nghe đúng ám hiệu ông Quí mở cửa, mặt mày nghiêm trọng vội kéo ông Đức vào, lập tức khép cửa lại ngay. Ông Quí ngó trước ngước sau vô cùng cảnh giác, nói này, có Việt gian đột nhập. Ông Đức cũng làm bộ nghiêm trọng, nói thế à, nguy hiểm quá. Ông Quí nói vừa vào đây xong, nói năng vô cùng khả nghi, toàn mật mã không thôi, tôi chưa biết giải mã thế nào. Ông Đức ghé sát tai ông Quí, nói mật mã thế nào. Ông Quí hạ giọng, nói nó bảo trong nhà có ai không. Ông Đức kêu lên ôi thôi bỏ mẹ rồi. Ông Quí tái mặt, nói là sao. Ông Đức nói nó bảo trong nhà có ai không, tức là nó đang xác định kẻ thù đấy. Ông Quí nói nó cũng xác định kẻ thù giống mình à. Ông Đức nói chứ sao. Ồng Quí mặt tái nhợt, nói rồi nó bảo cháu nghe các bác nói trong nhà. Ông Đức vỗ đùi đánh bốp, nói đấy đấy thấy chưa, bước tiếp theo nó vạch mặt kẻ thù. Ông Quí run lên, nói sao mình làm gì nó cứ làm theo nấy là thế nào. Ông Đức nói nó còn nói gì nữa không, ông Quí nói nó bảo cho cháu vào xem cái nhà chút thôi. Ông Đức chém tay, tối hậu thư đòi xâm lược. Ồng Quí ôm chầm lấy ông Đức, nói nguy hiểm quá, chú Đức ơi nó kết luận vô cùng nguy hiểm. Ông Đức nói nó kết luận thế nào. Ông Quí nói nó bảo khổ quá. Ông Đức đập bàn cái rầm, nói đểu cáng, vô cùng đểu cáng, nó muốn đày ngõ mình xuống bùn đen vạn kiếp. Ông Quí tè ướt quần, nói bây giờ làm thế nào đồng chí Đức ơi. Ông Đức nghiến răng chém tay, nói phải quyết tử cho ngõ mình quyết sinh. Ông Quí run lẫy bẫy, nói nhất trí nhất trí, các đồng chí cứ quyết tử, tôi xin xung phong quyết sinh.

Vừa lúc bà Tiên dắt thằng thanh niên mua nhà đi vào, ông Quí trợn mắt sùi bọt mép, nói vợ tôi cõng rắn cắn gà nhà, nguy hiểm quá…. Rồi lăn đùng ra sàn. Bà Tiên vội vàng đỡ lấy ông Quí, nói ông ơi ông ơi, đây là Việt kiều yêu nước, không phải phản động, khủng bố đâu. Ông Đức nói chị phải kiểm tra xem nó là Việt kiều yêu nước hay Việt kiều yêu cấp trên, tơ lơ mơ nó cho ăn cứt có ngày. Thằng thanh niên nói cháu là người đi mua nhà, Việt kiều Việt kéo gì đâu. Ông Đức chụp cổ áo nó, nói mày chỉ chỗ cái chum vàng nghìn cây, chúng tao cho mày cả ngõ này. Thằng thanh niên cười khẩy, nói nếu các bác đào được cái chum vàng nghìn cây, cháu xin biếu các bác thêm nghìn cây nữa. Ông Đức nói không phải chum vàng thì là cái gì, nói mau. Thằng thanh niên lại cười khẩy, nói mỏ Bô xít đấy, đào đi mà làm giàu. Nói rồi bỏ đi thẳng.

Bà Tiên nhảy chồm chồm trước mặt ông Đức, nói chú làm mất mối của tôi rồi. Không bán được nhà, tôi tru di chín họ nhà chú. Bà Tiên ba chân bốn cẳng đuổi theo thằng thanh niên, nói cháu ơi cháu ơi, dừng lại dừng lại, cô bán cô bán, bô xít chứ bô gì cô cũng bán.

Ông Quí lồm cồm bò dậy, nói dứt khoát nó là thằng phản động. Ông Đức nói đúng rồi. Ông Quí nói đang khi mọi người đồng thuận không ai nhắc đến Bô xít nó lại nhắc, báo cáo ngay lãnh đạo phường tóm cổ nó. Ông Đức nói nhưng lỡ nó là Việt kiều yêu cấp trên thì sao. Ông Quí ngẩn người, nói ờ nhỉ, nguy hiểm quá.

4. Bà Tiên chạy ra ngõ thì thằng thanh niên biến mất, bà quay vào gặp ông Đức, túm cổ áo ông vày vò, nói cha tiên nhân nhà mày, tao mất đống của vì mày đấy. Ông Đức cười to, nói chị ngu lắm, đống của nhà chị dưới nền nhà chị chứ đi đâu mà mất. Bà Tiên nói mày đừng có lừa tao, Ông Đức nói thế tôi hỏi chị vì sao nó dám bỏ 200 cây mua nhà của chị. Ông Bá lật đật chạy ra, nói đúng rồi đúng rồi. Bà Tiên nói sao. Ông Bá nói chị không nhớ ngõ này xưa là nhà của thằng đại tư sản à, cách mạng về nó bỏ của chạy lấy người, chị ở trên đống vàng mà chị không biết. Bà Tiên dẩu môi bịp một tiếng, nói chả tin.Ông Đức nói bác Bá là chuyên gia đào bới quá khứ, chị không tin thì tin ai. Bà Tiên lại dẩu môi bịp một tiếng, nói đời tôi toàn tin nước bọt mới khổ thế này đây. Rồi bà ngoảy đít bỏ đi.

Nói vậy nhưng bà Tiên đóng chặt cửa, sai con Thủy xoi xoi chọc chọc nền nhà, nói đào khe khẽ thôi, nhỡ đào được vàng hàng xóm lại đòi chia. Con Thủy cười hi hi, nói con tưởng mẹ tin 200 cây chứ không tin nước bọt. Bà Tiên lườm con, nói mày thì sao, con Thủy nói không tin nước bọt làm sao con có bằng đại học. Ông Quí ngủ dậy, thấy hai mẹ con xoi xoi chọc chọc, sợ hãi nói hai mẹ con chúng mày làm cái gì đấy. Bà Tiên nói đào hầm bí mật cho ông, thằng Việt gian sắp đến rồi. Ông Quí giật mình run lẫy bẫy, nói nguy hiểm quá nguy hiểm quá, ngõ nhà mình đã quyết tử chưa. Con Thủy nói quyết tử hết rồi bố ạ, ông Quí nói thôi thì để bố quyết sinh vậy. Nói rồi nhảy tót vào tủ hai buồng nấp kín.

Ông Bá kéo ông Đức lên nhà, nói chúng mình phải đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng, kiên quyết không cho bà Tiên bán nhà. Ông Đức nói bác tin có chum vàng thật à. Ông Bá lôi ra một chồng giấy dó toàn chữ Hán, đọc xung xoẻng chi chong chẻng… rồi dịch năm 207 Tần Thủy Hoàng sai Huy Đức và Đỗ Chung Quân mang bốn chục ngàn lượng vàng đi về phương nam tìm thuốc trường sinh. Ông Đức hồi hộp nói rồi sao rồi sao, đọc đi đọc đi. Ông Bá đọc Quan kíu cheng chín chí… hai thằng vượt qua sông Nhị Hà, Đỗ Chung Quân nói Hoàng đế vì ngu si mà sai tụi mình đi tìm thuốc trường sinh, tụi mình đi tìm thật hóa ra còn ngu hơn. Huy Đức nói phải phải.

Ông Đức thích thú nói rồi sao rồi sao, đọc đi đọc đi. Ông Bá đọc Cheng chéng chiu xang xú… hai thằng ở lại đây tung vàng ra ăn chơi nhảy múa cả năm trời. Tể tướng Võ Đắc Danh đi tuần thú, biết được bèn tâu lên Tần Thủy Hoàng. Tần Thủy Hoàng cả giận liền sai đô đốc Nguyễn Trọng Tín đem ba chục chiến thuyền về phương Nam bắt cho kì được Huy Đức và Đỗ Chung Quân.

Ông Đức phấn chấn, nói rồi sao rồi sao, đọc đi đọc đi. Ông Bá đọc xư xứ xé chi cheng … hai thằng sợ quá, vội vàng chôn vàng rồi bỏ chạy về nước Chiêm. Vua Chiêm sợ vạ lây, nói cho nó ít phong bao rồi đuổi chúng nó đi, hai thằng làm báo đấy, trẫm muốn yên thân. Sợ quá, hai thằng chạy tít vào tận Sài Gòn tiếp thị, thay tên đổi họ là Osin và Emxi.

Ông Đức vỗ tay bôm bốp, nói hay quá hay quá… nhưng sao bác biết chúng chôn vàng ở đây. Ông Bá bày ra sơ đồ ngoằn ngoằn ngoèo ngoèo, đọc khoảng khi ki cang kí… đi thẳng 900 bước, Xi xí cang hảo huơ … rẽ phải 800 bước, li hú hang hao chi… rẽ trái 500 bước…đích thị là chỗ này đây. Ông Đức mắt sáng lên, nói đúng chỗ này à. Ông Bá nói chứ sao. Ông Đức cười to, nói rồi, ngõ nhà mình sắp giàu to rồi, dù chúng chôn vàng ở đâu thì vàng này cũng của chung cả ngõ, không riêng của nhà bà Tiên. Ông Bá nói phải phải, nhưng phải bí mật, đừng để bà Tiên làm ầm lên, phường biết phường vào tịt thu thì bỏ mẹ. Ông Đức nói nhất trí nhất trí.

Ông Đức vừa ra khỏi nhà, ông Bá cười khì khì, nói thế nào 200 cây cũng vào túi tao. Thằng Hoàng nãy giờ vẫn nẳm ngủ, chợt vùng dậy cười to, nói món sử của bố chỉ lừa được bọn điếm chữ thôi, không lừa được bọn đầu đất đâu. Ông Bá nói sao, thằng Hoàng nói bố ơi, thời buổi đổi thay rồi, lừa đảo cũng phải thay đổi đi, mấy bài sử cũ rích của bố không lừa được ai đâu, chúng nó giả vờ bị lừa thôi.

Ông Đức rình ở ngoài, nghe được, bịt mũi cười một mình, nói sư bố chúng mày, để xem ai lừa được ai. Ông Đức lập tức mò đến khách sạn tìm thằng thanh niên, nói nhà chú rộng gấp đôi nhà bà Tiên nhưng chú chỉ lấy một trăm cây thôi. Thằng thanh niên nói không, cháu chỉ mua nhà bà Tiên. Ông Đức nói mày mua nhà bà Tiên hay mua bướm con Thủy, cứ nói cho chú yên tâm. Thằng thanh niên nói không, cháu chỉ mua nhà bà Tiên.

Ông Đức vừa ra cổng gặp khách sạn thì gặp ông Bá, ông Bá cười khì khì khì, nói đ.mẹ tôi không lừa được chú mày. Ông Đức nói anh em mình đều mèo mả gà đồng cả, lừa nhau làm gì, phải đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng mới thắng được vụ này. Ông Bá nói nhất trí nhất trí. Ông Đức nói bác đừng vào gạ bán nhà cho nó nữa, nó chỉ mua nhà bà Tiên thôi. Ông Bá vỗ đùi đánh đét, nói đ.mẹ tôi đoán mò thế mà trúng, dưới nền nhà bà Tiên nhất định có chum vàng, ông Đức nói bác xứng đáng là sử gia, ông Bá nói đúng đúng, nhiệm vụ của sử gia là biến không thành có. Họ cười ha ha ha, nói tụi mình triết lý cái đéo gì cũng hay, rồi khoác vai nhau vào quán rượu.

Khuya, hai ông mò về ngõ thì thấy ngõ vắng hoe, tanh bành như vừa qua một cuộc chiến. Nhà bà Tiên hai cái hố sâu hoắm, cái hố phòng ngách trái có hai cái vại nhỏ, cái hố phòng ngách phải có một cái chum to, tất cả đều rỗng không. Ông Bá giật mình, nói bỏ mẹ, chúng nó đào được vàng rồi.

Họ tức tốc chạy về nhà, gác dưới không có bà Hiền gác trên không có thằng Hoàng, ông Đức ngửa cổ cười cười ha ha ha, nói chúng nó ôm vàng chuồn hết rồi, giỏi giỏi, hóa ra chúng nó là lũ siêu lừa.

Ông Bá rơi phịch xuống nền nhà, nói khốn nạn, cô Hiền chẳng qua là vợ hờ, bỏ anh cũng phải. Nhưng thằng Hoàng tham vàng bỏ bố nó thì tôi không sao hiểu nổi. Ông Đức lại ngửa cổ cười ha ha ha, nói bác trách gì nó, công lao ông bố tóm lại cũng chỉ một giọt tinh trùng. Ông Bá ngồi đực, nói bây giờ làm gì đây. Ông Đức nói hỏi khó thế, dân ăn bám lại đi hỏi nhau khó thế.

5. Ông Bá, ông Đức đoán trật. Khi hai ông vừa ra khỏi nhà, thằng Hoàng cũng bỏ đi ăn cắp, bà Hiền lập tức chạy đến nhà bà Tiên, nói em đã thuê thợ đào hố rồi, phải đào thật nhanh, không lão Bá về phải chia ba thì bỏ mẹ. Bà Tiên cười nhạt, nói của nhà tôi chia hai chia ba cái gì. Bà Hiền nói chị đừng có mà tham, em báo phường một phát là chị trơ mép đấy. Bà Tiên cười cái xoẹt, nói ừ thôi chị em mình đoàn kết vậy.

Họ gọi thợ đào cả hai nền hai ngách nhà bà Tiên, ngách trái tìm được hai cái vại, bà Hiền cười he he he, nói chị em mình chia hai cực dễ luôn. Bà Tiên nói ừ, chia hai. Một vại chia hai, còn vại kia phần riêng nhà chị, nhất trí chưa. Bà Hiền cười nhạt, nói để em lên hỏi phường xem phường có nhất trí không đã.

Bà Tiên tức, nói cha tiên nhân mày tham như chó, tao đã hy sinh cho nửa vại mà còn tham. Bà Hiền tức, nói á a bà nói ai tham như chó. Họ xông vào cấu xé nhau. Ông Quí thò đầu ra, nói cái gì cái gì, tại sao đánh nhau cãi nhau. Bà Tiên nói ông cứ yên tâm quyết sinh đi, chúng tôi đang quyết tử đây. Ông Quí chỉ hai cái vại đang nằm dưới hố, nói mìn à, Việt gian chôn mìn à. Bà Tiên nói ừ, ông Quí nói nguy hiểm quá, hèn gì các bà giành nhau quyết tử.

Ông Quí vừa chui vào tủ hai buồng, hai bà lại xông vào cấu xé nhau, rơi xuống hố, mỗi người chụp vội một vại lôi lên, hóa ra hai cái vại không. Con Thủy tấm tức khóc, nói tại hai người cãi nhau, trời ghét trời lấy đi rồi. Bà Tiên ngồi tiếc ngẩn ngơ, nói còn một nền nữa, nếu có vại nào chị em mình đừng cãi nhau nhé. Bà Hiền nói vâng, đào nền nhà bên, bất luận mấy vại em cũng xin chị một vại thôi.

Vừa lúc thợ đào phải cái chum to, cả nhà mừng rú. Bà Tiên giục con Thủy lấy cái vại, nói mày chuẩn bị đong cho cô Hiền một vại thật đầy nhé. Bà Hiền nói chị sai rồi, cái này là cái chum phải tính khác đi chứ. Bà Tiên tức, nói cha tiên nhân nhà mày lại tham như chó. Bà Hiền nói á a bà nói ai tham như chó. Họ lại xông vào cấu xé nhau, rơi xuống hố, giành nhau lôi cái chum lên, cái chum rỗng không.

Cái Thủy cười, nói xong om, trời lại lấy đi rồi, hết vàng hết bạc nhé. Bà Tiên mếu máo, nói Thủy ơi, mày gọi thằng thanh niên bán nhà cho nó đi con, năm chục cây cũng bán, ở đây toàn loại thối tha không sống được đâu. Con Thủy nói mẹ chẳng bán được còn bảo con, bà Tiên tru lên, nói mày không biết xòe bướm ra mà thách giá với nó à.

Con Thủy đi được vài phút thì cán bộ phường đến, lôi cổ bà Tiên bà Hiền lên ủy ban phường, nói hai chị vừa đào được cái gì khai ra, hai bà nói không có gì. Cán bộ phường nói tại sao lại không có gì, hai bà nói tại vì không có gì. Cán bộ phường nói tại sao không có gì mà đào, hai bà nói tại vì đào rồi mới biết không có gì. Cán bộ phường bảo hai bà viết tường trình. Hai bà hí húi viết bá cáo phường lúc đầu chúng em nghĩ là không có gì nhưng rồi lại nghĩ chả nhẽ không có gì, chúng em đào nền thứ nhất không có gì, đào nền thứ hai không có gì, phường đến hỏi có gì không, chúng em nói không có gì, phường nói tại sao không có gì, chúng em nói tại vì không có gì, phường nói tại sao biết không có gì vẫn cứ đào, chúng em nói tại vì đào rồi mới biết không có gì.

Cán bộ phường cầm bản tường trình trợn mắt đập bàn, nói các chị đùa với chúng tôi đấy à, tại sao toàn không có gì thế này. Hai bà sợ hãi, nói bá cáo phường chúng em thấy không có gì thì nói không có gì, tại sao phường lại mắng chúng em là không có gì. Cán bộ phường lắc đầu ngao ngán, nói đ. mẹ không có gì thật.

Trong khi đó con Thủy tìm đến khách sạn gặp thằng thanh niên, nói anh ơi bố mẹ em nhất trí bán nhà cho anh rồi. Thằng thanh niên nói xin lỗi anh không mua nữa, con Thủy hỏi tại sao, thằng thanh niên nói tại vì quy hoạch thay đổi, người ta không làm đường chạy qua trước nhà em nữa, anh vừa được thông báo xong. Con Thủy nói sao buồn cười thế, thằng thanh niên cười hi hi, nói quy hoạch không buồn cười thì cái gì buồn cười.

Con Thủy về nhà cũng vừa lúc bà Hiền bà Tiên từ phường trở về, họ thấy ông Quí bị vùi dưới hố sâu, lôi lên sờ thấy còn nóng, cả ba hối hả đưa ông đi bệnh viện. Đến viện tự nhiên ông Quí tỉnh như sáo, nói tôi thấy mìn, mười thỏi mìn cả thảy, nguy hiểm quá. Con Thủy khóc, nói bố ơi ngõ mình không có gì, ai đi gài mìn hả bố. Ông Quí trợn mắt chỉ tay, nói chủ quan chủ quan, chúng nó đặt mìn phá hoại không có gì đấy, nói xong thì tắt thở.

Xong đám tang, bà Tiên hỏi con Thủy, nói bố mày nói thế là ý gì nhỉ, tại sao lại mười thỏi mìn. Con Thủy nói con cũng nghi nghi, bà Tiên nói tao cũng nghi nghi. Con Thủy nói khi mẹ con mình đi vắng, bố sợ mới chui xuống hố đào hầm bí mật. Bà Tiên nói đúng rồi, bố đào được mười thỏi vàng nhưng tưởng đó là mìn. Con Thủy nói đúng rồi, lúc đó thằng Hoàng về, nó lừa bố, nói để nó ôm mìn đi quyết tử. Bà Tiên nói đúng rồi, bố mày càng sợ càng đào sâu hơn, hập sập… bố mày chết. Con Thủy nói đúng rồi, sau đó chú Đức bác Bá về thì mọi chuyện đã xong.

Bà Tiên òa khóc nức nở, nói ôi anh ơi là anh ơi… anh làm mất mười thỏi vàng rồi. Con Thủy cũng òa khóc nức nở, nói ôi bố ơi là bố ơi, một thỏi là một trăm cây, bố làm mất nghìn cây vàng rồi. Thằng Hoàng đi ăn cắp về, ngang qua nghe được bèn nhảy vào, nói thôi hai mẹ con đừng khóc nữa, muốn có lại nghìn cây cũng dễ thôi, có cách hay lắm. Bà Tiên nói cách gì. Thằng Hoàng nói cô lấy bố cháu cô có năm trăm cây, em Thủy lấy cháu em Thủy có năm trăm cây, nhất trí chưa. Hai mẹ con cười toe toét, nói nhất trí nhất trí.

Ngày hôm sau bà Tiên lên ở với ông Bá, thằng Hoàng xuống ở với con Thủy. Ở được một tháng, con Thủy hỏi thằng Hoàng, nói năm trăm cây đâu đưa em cất. Thằng Hoàng búng chim nó phát, nói cái này trị giá năm trăm cây, bảo đảm em sung sướng cả đời. Bà Tiên hỏi ông Bá, nói năm trăm cây đâu đưa đây tôi giữ, ông Bá cười khì khì, nói đ. mẹ có đéo đâu. Bà Tiên con Thủy nhảy chồm chồm tru tréo, nói hóa ra không có gì à. Ông Bá thằng Hoàng cười khì khì, nói không có gì thì vẫn không có gì chứ sao.

SA MẠC TRẮNG

Hắn vụt ra từ cánh trái cái tủ ba buồng, chụp tấm chăn chiên lên mặt người đàn ông. “A…oái!” Người đàn ông thất kinh, giãy đành đạch, nhưng hắn khỏe hơn ít nhất năm lần, lẹ làng gí mạnh ngón tay cái phía sau ót nạn nhân, chỗ tiếp xúc cột sống với đầu mà các pháp s¬ư thường ba hoa đấy là lỗ thoát của linh hồn.

Chừng vài giây người đàn ông đã mềm nhũn trong tay hắn. “Xong rồi ! ” – Hắn thở phào. Vợ người bị nạn từ lúc hắn hành sự đến giờ vẫn trùm kín chăn “ngủ như¬ chết” bỗng bật đậy. Thị liếc nhìn kẻ bất hạnh, chợt rùng mình, mặt trắng nhợt. “Anh giết …” – “Không – Hắn nhếch mép cười – Lão chỉ ngủ đúng ba tiếng, sáng mai sẽ tỉnh lại, rồi rối loạn trí nhớ chừng năm ngày – Hắn bật cười thành tiếng – Năm ngày… Tốt”. Người đàn bà nghệch mặt, cười. Cái mặt cười méo xệch.

Thị xách tay nải, thở hắt ra: “Đi được chư¬a?” Hắn ôm chặt thị, thè lưỡi liếm quanh mặt thị: “Em ơi! Tiên sư¬ bố nó… tự do rồi!”. Thị cười rúc rích, đúng hơn, thị cố rúc rích cùng hắn. Thị thò tay bóp mạnh vào vật khả kính của hắn: “Đi thôi, sắp sáng rồi”. Hắn gật đầu, lôi thị ra khỏi nhà.

Chúng rón rén ra khỏi làng. Trăng sắp tàn, trơ cái mặt nhợt nhòm chúng vư¬ợt qua một trăm sáu mươi chín nóc nhà, tạt vào rừng bạch đàn, lò mò đến trảng cát.

Trảng cát rộng chừng bốn cây số vuông, nơi trú ngụ của ‘bốn mươi vạn cộng trừ vài vạn con thuộc mư¬ời sáu giống bò sát sinh sống trong hai trăm rưỡi nấm mồ của những kẻ hoặc tứ cố vô thân hoặc tha phương cầu thực hoặc bị bệnh truyền nhiễm, nói chung là những kẻ sống không ra gì, chết cũng chẳng ra làm sao.

Vào giờ này, dân tứ phía từ kẻ ngu đần một dấu phẩy cũng không biết đến các nhà thông thái có thể dùng các phép toán tích vi phân để chứng minh ma là một Zero, không ai dám vác mặt qua đây. Khoa học là một chuyện, sợ hãi là một chuyện khác.

Hắn biết chắc như vậy và chọn đúng giờ hiểm dắt người đàn bà thơm thịt này qua đây. Chỉ cần nửa giờ nữa hắn sẽ lội hết trảng cát, nửa giờ nữa hắn đến làng Mò Ó, nửa giờ nữa hắn ăn cắp một chiếc thuyền nan bơi qua sông Trúm, nửa giờ nữa hắn v¬ợt đèo Ngút, nửa giờ nữa… A ha? Tiên sư¬ bố nó… tự do!

Hắn sẽ tậu một ngôi nhà nhỏ trong thị trấn rách r¬ưới dọc sông Ngờ, xì ra một chỉ mua một giấy kết hôn, một chỉ tám phân mua một hộ khẩu, hai phân mua một chứng minh thư dởm. Thế là xong. Hắn sẽ có một cuộc đời khác, một cái tên khác, một nghề nghiệp khác: có thể một nhà giáo nghỉ h¬ưu, một bộ đội phục viên, một nhà văn thất nghiệp, một giáo s¬ư tiến sĩ bất hợp tác với đời… được tuốt nếu hắn muốn.

Đời hắn là một mớ hổ lốn những may mắn và thua lỗ, và thường thì sau một cú thua đậm là một trận thắng lớn. Vì vậy hắn không bao giờ run sợ trước bức tư¬ờng vô minh mà cha hắn, một chân sư¬ ở núi Ngọ, vẫn thường đem ra dọa hắn.

Hắn là kết quả của một cuộc hợp tác bẩn thỉu giữa một gã đàn ông đại bịp và một mụ đàn bà ngu xuẩn, và bị vất ra lề đường ngay khi mới sinh ra, được vị chân sư¬ Babu một trăm hai mươi chín tuổi đem về nuôi nấng dạy dỗ cho đến lúc hắn ngộ ra chân lý: “Hãy gõ rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm rồi người sẽ gặp” chắc chắn là dành riêng cho hắn, thì hắn rời khỏi núi Ngọ, nhảy vào cuộc tang bồng đã hai mươi sáu năm nay.

Không phải hắn khinh thường mọi ân đức mà cha nuôi hắn đã kiên nhẫn ban phát cho hắn suốt thời ấu thơ, thậm chí hắn coi cha nuôi hắn là bậc đại nhân hiếm hoi trong cõi thế. Hắn kính trọng sự hiểu biết bao la và đức tin mà cha nuôi hắn theo đuổi, có điều hắn chỉ coi hành trình của cha nuôi hắn là một cuộc viển vông, trong khi hắn thích một cuộc viển vông khác.

Đầu tiên hắn được một mụ nạ dòng tên Doan bốn mươi sáu tuổi giúp vốn ban đầu bằng cách mỗi lần hắn làm cho mụ kêu lên như¬ lợn chọc tiết, mụ thưởng hắn hai chục ngàn đồng Sau một tháng hắn kiếm được nửa triệu và cảm thấy phát ớn mụ. Đến nỗi mỗi lần mụ giục hắn thực thi nhiệm vụ, hắn rùng mình, nổi cả da gà.

Hắn quyết định trốn khỏi cặp kìm trắng nhão nhoét của mụ Doan, nhảy lên tàu bắt đầu cuộc sinh nhai trên con lắc vĩ đại của cuộc sống. Chính tại đây hắn mới thấy cuộc sống mới huyền diệu làm sao, vô số những ngẫu nhiên may mắn nằm chờ trên mỗi bước chân của hắn. Buôn gian bán lậu, cư¬ớp giật, lừa đảo, trộm cắp và sau đó là những cuộc truy hoan, hắn đã làm, đã thành công trên mỗi chu kỳ sống của con lắc vĩ đại này.

Một ngày nào đó hắn sẽ bò về núi Ngọ nói với cha hắn rằng: “Th¬ưa cha, cuối hành trình của cha và con đều thu về cái được. Cha đập vỡ bức tường vô minh và sẽ được, còn con thì cố xây cất nó ngày một thêm vững chắc và cũng sẽ đư¬ợc. Cái được của bậc chân nhân thật tội nghiệp, nó không đem về cho cha cái gì cả. Còn con, phàm cái gì không thuộc về con đều phi lý”.

Thốt nhiên hắn phì cười, ngửa mặt lên trời mà cười khiến người đàn bà bên cạnh hắn giật mình: “Sao thế?” Hắn không trả lời, tiếp tục tràng cười vừa lạnh lùng vừa đểu giả của hắn. Người đàn bà thấy lạnh xương sống. Thị ngó quanh: vẫn bốn cây số vuông cát trắng lạnh.

Im lặng như một nấm mồ, chỉ có tiếng chân thị và hắn lạo xạo trên cát, bây giờ thêm tiếng cười gớm guốc của hắn gây cho thị cảm giác im lặng đang bị rạn nứt. Thị nhìn hắn đang ngửa mặt lên trời mà cười, dưới ánh trăng vàng xạm mặt hắn nh¬ư cái tã rách.

Thị muốn hét thật lo cho hắn câm mõm, không phải, thị muốn rống lên để lẩn trốn sự ớn lạnh đã bám riết lấy xương sống thị kể từ khi thị bước chân ra khỏi nhà, chạy theo hắn đến đây, cũng không phải nốt, thị muốn rống lên để chồng thị biết thị đang ở đâu mà tìm đến, không phải, không phải nốt, thị muốn rống lên… có thế thôi.

“Anh có im đi không!” – Cuối cùng thị đã rống lên. Hắn giật mình, quát: “Em làm cái trò gì thế?”. Thị ngồi bệt xuống cát: “Em mệt”. Hắn hỏi và quì xuống bên thị: “Gắng lên chút nữa, đến làng Mò Ó hẵng nghỉ, ở đây trống trơn quá. Trời sắp sáng rồi”. Thị cúi mặt không nói.

Hắn khẽ thở dài, xòe lửa hút thuốc; quàng tay ôm riết lấy thị, mấy ngón tay điêu luyện của hắn bắt đầu biểu diễn dưới áo thị. Hắn biết thị nhất định bị khuất phục bởi những ngón tay hắn, cũng như¬ lần đầu tiên thị đã kêu lên vừa sung sư¬ớng vừa kinh ngạc khi những ngón tay hắn chạm phải da thịt thị, thị đã chồm lên ôm riết lấy hắn, sau đó đã tự nguyện theo hắn suốt đời.

Da thịt thị bắt đầu rung động, hai tai thị nóng dần lên, ôi những con lươn quỉ quái, chúng đã làm cho thị lúc nào cũng lên cơn co giật kể cả những thời khắc thị thấy chán ngoét, như¬ lúc này chẳng hạn. Như¬ lúc này chẳng hạn, thị vùng dậy đè hắn xuống cát giật tung tất cả những gì cản trở cuộc hành xác tuyệt vời. Mảnh vải cuối cùng đã tung lên trời, ối cha mẹ ơi…

Trăng sắp tàn, trơ cái mặt nhợt nhòm chúng hì hục cho đến lúc lịm đi, nó tụt nhanh xuống chân núi Ngọ nhường chỗ cho vệt sáng màu huyết dụ đang nhú lên phía đông.

Lúc này chúng mới lồm cồm bò dậy, hối hả giục nhau chạy, chạy thật nhanh, nhanh đến mức không thể nhanh hơn được nữa, nếu không sẽ hỏng hết, ánh sáng sẽ bóp cổ chúng.

Thị thở không ra hơi trong khi hắn vừa kéo mạnh tay thị vừa gào lên: “Ráng lên! Ráng lên! Chạy gì mà cứt thế?” Làng Mò Ó trước mặt phải không nhỉ? Sao cứ thấy đỏ rực lên nh¬ư phía chân trời thế này? Có một cây số cát mà chạy hơn một giờ không tới là thế nào? Hay là nhầm?

Nhầm sao mà nhầm, trước mặt là làng Mò Ó, bên phải là làng Quách, bên trái là Xanh, đằng sau là làng Hiệp – cái làng chúng vừa bỏ trốn. Ờ, sao bốn phương tám hướng đều trắng toát, làng mạc biến đi đằng nào, có bốn cây số vuông cát chớ mấy mà không nhìn thấy làng.

Đứng lại nhìn kỹ xem nào, có khi chạy dữ quá mặt hoa lên cũng nên. Không thấy, quái, h¬ướng nào cũng mờ mịt cát, cứ y như thằng chó đẻ nào vừa kéo trảng cát rộng ra bốn chục cây số vuông. Chạy, bốn chục cây số vuông cũng chạy, chạy miết ắt đến.

“Em mệt quá!” – Thị rên rỉ. “Ráng lên” – Hắn trợn mắt. “Em không thể… đứng lại đi!” Thị ngã sấp xuống. “Đ. mẹ mày… có chạy không thì bảo!” – Hắn rít lên. “Không…” – Mặt thị dúm dó cầu xin hắn.

Mặt trời đã lên quá một con sào. Hắn bế xốc thị lên, chạy. Đầu hắn bốc cháy, không biết mồ hôi hay máu tràn vào miệng hắn mặn chát. Mặt trời lên tới đỉnh đầu, hình như¬ hắn đang chạy điên cuồng trong lò bát quái. Thật không thể tin được nữa, hắn càng chạy chân trời càng nới rộng ra, không phải bốn chục cây số vuông nữa mà bốn ngàn cây số vuông, có khì hơn.

Máu trong thân xác hắn đang bốc khói ngùn ngụt. Một quả tạ đỏ lửa giáng vào ngực hắn, hắn “hự” lên một tiếng khô khốc và gục xuống, chân trời cát quay tám vòng trước mắt hắn trước khi hắn ngất xỉu.

Rạng sáng hắn tỉnh dậy, đầu nh¬ư đá đeo, toàn thân phổng rộp. Người đàn bà nằm co quắp cạnh hắn, thở khò khè, có lẽ thị bị cảm lạnh. Hắn cởi áo đắp cho thị rồi nằm duỗi thẳng, cố phân tích xem trảng cát ma quái này là cáI gì và vì sao hắn rơi vào mê lộ tuyệt vọng này.

Hắn phát giác ra bài học con kiến bò trên trang giấy trắng mà cha hắn đã dạy cho hắn thủa ấu thơ. Con kiến không hề biết được có một chiều thứ ba trong không gian sống của nó, do đó trước mắt nó, trang giấy sẽ hữu hạn nếu người ta trải rộng ra, sẽ vô hạn nếu người ta xếp nó thành một hộp vuông – con kiến tội nghiệp và xuẩn ngốc kia sẽ tìm kiếm suốt đời cho đến khi gục chết vẫn không biết vì sao mình không thể v¬ợt qua dưới hạn cuối cùng của trang giấy.

Bất giác hắn rùng mình, có khi bây giờ hắn đang mang thân phận của con kiến tội nghiệp và xuẩn ngốc kia. Chỉ khác với con kiến là hắn đã quá thông thuộc chiều thứ ba nhưng chiều thứ tư¬ khủng khiếp mà cha hắn đã từng nhắc nhở hắn thì hắn không biết, không thể biết, không cách gì có thể biết được, chó chết. “Chết! Chết thật rồi! Ố… ố…ôi ? ” – Hắn tru lên đau đớn.

Người đàn bà tỉnh giấc, ngơ ngác thấy hắn lăn lộn trên cát. Hắn bốc cát ném lên trời và chửi thề. Thị lết về phía hắn: “Anh làm sao thế”. Hắn cười gằn, nghiến răng thông báo cho thị rằng hắn và thị đang rơi vào sa mạc chết, y nh¬ư tam giác quỉ mà cả thị và hắn đều nghe nói từ thủa ấu thơ, y như¬ một phần thế giới mà các giáo sư¬ vẫn lảm nhảm ở các trường đại học, y như¬ cõi âm mà thiên hạ vẫn thắp hương khấn vái, y như¬ cái bao tải mà hắn vẫn nhét chó vào, buộc chặt ném xuống sông, y nh¬ư… “Cuối cùng là thế nào?” – Thị cắt ngang lời hắn, bằng một tiếng thét ghê rợn. “Cuối cùng là thế này!’ Hắn vốc một nắm cát ném vào mặt thị.

Lát sau hắn chống gối đứng dậy lững thững đi tìm hang ổ m¬ười sáu loại bò sát, nguồn lương thực duy nhất của hắn và thị trên sa mạc chết này. Dù sao cũng phải sống, phải tìm kiếm một lối thoát dù hy vọng tìm được nhỏ nh¬ư một hạt cát cũng phải tìm, một cuộc đáy biển mò kim đang kêu gọi hắn và thị.

Sau một hồi khóc lóc, than thân trách phận, thị cũng đứng dậy lủi thủi đi theo hắn. Thị biết hắn đang tìm gì. Hắn tìm gì thị sẽ tìm đúng cái đó. Đầu tiên phải tìm cái gì để sống, sau đó tìm chỗ để thoát.

Thị đuổi kịp hắn, lặng lẽ giẫm chân lên từng dấu chân hắn. Chúng lầm lũi đi về phía rạng đông. Mặt trời bắt đầu nhú, chúng bắt đầu đi chậm hơn, quan sát bốn xung quanh một cách kỹ l¬ưỡng.

Mặt trời quá một con sào, vư¬ợt lên đỉnh đầu, chầm chậm rơi về phía sau lưng chúng. Cả hai vẫn lầm lì bước đi, không ai nói với ai, im lặng là cách giữ sức duy nhất trong khi chúng chư¬a tìm được một con nào trong số bốn mươi vạn con cộng trừ vài vạn con thuộc m¬ời sáu giống bò sát trên trảng cát này theo ước đoán của một tiến sĩ bò sát.

Im lặng là cách để chúng tính toán xem chúng sẽ sống bằng gì nếu quả nhiên không có một sinh vật nào tồn tại trên sa mạc chết. Hắn ngoái lại phía sau, một ý nghĩ lạnh lùng chạy dọc xương sống hắn, biết làm thế nào được, rốt cuộc thị phải là nguồn lương thực dự trữ của hắn, nhưng bây giờ thì ch¬ưa. Thị rùng mình bắt gặp cái nhìn trộm của hắn, ngay lúc đó thị tự ý thức được rằng thị phải sống, phải nhờ thân xác hắn mà sống để tự mình tìm lấy lối thoát, biết thế nào được nhưng bây giờ thì ch¬ưa…

Ánh sáng đã tắt, bóng đêm lại trùm lên sa mạc. Chúng rũ mình xuống cát, kiên trì moi từng nắm cát tìm nguồn nước uống. Hố cát sâu chừng một mét thì có nước. Hắn bụm nước đ¬ưa cho thị: “Em uống đi!’. Thị uống từng ngụm ngon lành, thè lưỡi liếm từng giọt nhỏ còn sót lại trên bàn tay hộ pháp của hắn. Xong, thị lại bụm nước đưa cho hắn: “Anh uống đi”. Hắn vục mặt vào tay thị. Nhìn hắn uống thị muốn khóc quá, ôi giá bây giờ thị khóc được.

Hắn ng¬ước lên, mặt thấm đầy nước, rồi gục vào mặt thị: “Em ơi, chư¬a bao giờ anh thương em như¬ lúc này. Em có tin không?” Thị tin, bởi vì thị cũng thấy ch¬ưa bao giờ thị thương hắn như¬ lúc này. Thị vuốt tóc hắn, hôn nhẹ lên gáy hắn.

Chúng nằm xuống ôm ghì lấy nhau, run rẩy cởi áo cho nhau, thôi hãy sống với nhau cho đến lúc không thể sống với nhau được nữa. Hắn đặt tay lên bụng thị nắn nhẹ và chạm thấy một khối gì cứng cứng. “Cái gì thế này em?” – Hắn hỏi thầm. “Con. Đã ba tháng rồi…” Thị cầm tay hắn đặt dúng chỗ đứa con của hắn và thị đang thành hình. Hắn vùng dậy nhìn chằm chằm vào mặt thị.

Thị cũng trân trố nhìn hắn. Tự nhiên hắn phát giác ra một điều gì đó và phì cười, cười rất to, cười rung cả đêm đen. Lúc đầu thị ngớ ra, sau, nhìn hắn lăn lộn trên cát mà cười, tự nhiên thị cũng phát giác ra một điều gì đó và cũng thấy buồn cười quá. Thị cười, ôm bụng mà cười, cười đến đau ruột, cười đến chảy nước mắt…

Bạn Tù Sơn La

Phan lạc Phúc

Trời Sydney năm nay lạnh hơn mọi năm. Đêm đông buốt giá, phải trở dậy kiếm cái heater. Mở đèn lên, nhìn ra ngoài vườn, sương đêm đã đọng thành một màn băng mỏng.

Nhìn màn băng mỏng trên sân, ký ức tôi bỗng trở về cái lạnh buốt xương năm 1976, khi tù cải tạo miền Nam năm đầu tiên ra Bắc. Tụi tôi được "chiếu cố" cho ở Sơn La, địa danh nổi tiếng "Nước Sơn La, ma Vạn Bú". "Sơn La âm u, núi khuất trong sương mù". Tù cải tạo thuộc trại 1, liên trại 2 được phân ra ở trong trại tù Sơn La thời Pháp thuộc. Sau nhiều cuộc biến thiên, nhất là sau vụ ném bom miền Bắc, các trại tù này đã đổ nát, chỉ còn lại cái nền xi măng. Nhà tù đã đổ bây giờ được che tạm bằng ni lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miền cao nên lạnh sớm. Mới tháng 11 gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12, lạnh vào cao điểm... Chậu nước để ngoài sân, qua đêm đã đọng thành băng mỏng bên trên.

Tù thì nóng cũng khổ, lạnh cũng khổ. Nhưng nóng thì đôi khi còn trốn được. Tạt vào một lùm cây hoặc là tạm ngâm mình xuống ao, xuống suốị Còn lạnh thì không trốn vào đâu được, nó theo mình suốt ngày, suốt đêm. Nhất là anh em trong Nam ra cứ yên trí là "học tập một tháng", nên quần áo đem đi làm gì nhiều cho nặng. Ra ngoài Bắc đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh lại càng thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo.

Hồi đó nằm cạnh bên tôi là hai người bạn tù cùng trong đội rau... Một ông nguyên là dân Thiết Giáp, một ông nguyên là Thượng Tọa (giám đốc nha Tuyên Úy Phật giáo). Ông Thiết Giáp trước đây vốn là một tay hào hoa rất mực. Ông thuộc loại "Tây con", học trường danh tiếng Saumur, đánh giặc rất chì, ăn chơi rất bảnh... Đôi lần tâm sự vụn, ổng rút trong ngực áo ra có tấm ví có hình một bà rất đẹp, rất mignonne mà khẽ nói "bà xã moi". Đôi mắt đục và nhăn vì đói lạnh của ông chợt sáng lên khi nhìn lại hình ảnh vợ. Mới đây ổng vừa nhận được một gói quà 1kg đầu tiên từ trong Nam gửi ra.ï Ông hy vọng lắm vì có người nhận được ít thịt khô, ít ruốc chà bông. Gói quà của ông, xem đi xem lại mãi chỉ có một cái áo lạnh và đặc biệt có hai cái quần slip màu hồng nhạt, chắc là của phái nữ. Tôi không tiện tò mò, hỏi han về việc riêng của bạn nhưng tôi chắc bà xã của bạn phải yêu thương lắm, phải lãng mạn lắm mới gửi món quà để "tưởng nhớ một mùi hương" như vậỵ. Đôi khi rảnh rỗi, ông bạn tù hàng xóm của tôi lại khẽ giở món quà đặc biệt ra hồi tưởng...

Trước đây ông bạn tôi thường hút Luckỵ. Đi cải tạo ông mang theo một cái pipe Dunhill và vài hộp thuốc Half and Half. Nhưng đã lâu rồi hết thuốc hút pipe, ổng cũng như mọi người khác hút thuốc lào. Quá nửa đời người rồi mới biết cái hấp dẫn của thuốc lào. Nhất là mùa rét, sáng sớm tinh mơ ngồi dậy, hút một điếu đầu tiên trong ngày, cho nó say lơ mơ quên trời, quên đất, quên cảnh lên voi xuống chó, quên luôn cảnh lưu đày tù tội. Ôi phút tuyệt vờị…Thuốc lào hấp dẫn như vậy nên trong tù đã có thành ngữ "Có thuốc lào là có tất cả". Nhưng ở miền Bắc cái cần thiết nhất là gạo, ăn còn không đủ thì lấy đâu ra thuốc lào cho tù. Đành trông chờ vào quà của gia đình gửi tới. Nhưng trong những chuyến gửi quà đầu tiên, có mấy ai được nhận thuốc lào. Thuốc lào thành của hiếm... Ở trong tù cái gì thiếu cũng chấp nhận được, nhưng thiếu thuốc lào là một thiếu thốn rất lớn lao. Thuốc lào không những làm quên hiện tại mà thuốc lào còn là dấu móc để người tù cải tạo thêm kiên nhẫn đi tiếp cuộc đời tù dằng dặc. Trong trại không có ai có quyền đeo đồng hồ. Phải gửi đồng hồ cũng như những đồ tùy thân có giá ở trại. Ngày ngày đi làm, cuộc sống khổ sai nhọc nhằn, đời tù hun hút, thời gian mịt mờ.

Trong khi đó quy định của trại giam cứ một tiếng rưỡi đồng hồ lao động là có "kẻng" nghỉ 10 phút "hút thuốc, uống nước". Điếu thuốc lào ở trên một cái đích gần gũi để người tù vươn tới, một đoạn đường dù ngắn nhưng sắp đến nơi. Nó cũng là một an ủi nhỏ sau hơn một giờ cực nhọc. Vì vậy nên dù khó kiếm, dù đắt đỏ, cũng không ai muốn bỏ thuốc lào. Những tay có thuốc lào thấy vậy nên càng ngày càng lên giá. Một phần ăn sáng (một phần tư chiếc bánh mì luộc) trước đổi được 5 điếu thuốc lào, sau xuống giá còn 3, rồi còn 2 điếu... Người ta sẵn sàng quên đi cái đói để đổi lấy một vài phút say quên.

Anh bạn tù hàng xóm của tôi, nghiền thuốc lào quá nặng, rét đến nơi mà không thuốc hút. Anh liền lấy cái pipe Dunhill nổi tiếng của Ăng lê ra đổi thuốc lào. Được chừng 10 hôm là hết thuốc. Có người mách lấy lá ngải cứu phơi khô thái nhỏ hút vô nghe được lắm. Anh bạn tôi nghe lời, phơi đi phơi lại lá ngải cứu trộn thêm với nước điếu và một chút nước mắm, một chút đường. Hôm hoàn thành thuốc lào ngải cứu, anh có mời tôi hút thử, cũng thấy say say nhưng không êm bằng thuốc lào, mà rát cổ họng. Ông bạn tù Thượng tọa mới bảo rằng không nên hút cái giống ấy, hao người, hao phổi. Nhưng anh bạn tôi thèm thuốc quá cứ hút thuốc ngải cứu cho đỡ thèm. Một hôm, vừa hút xong, chưa kịp đặt cái điếu cày xuống, máu mũi anh đã chảy ròng ròng.,..

Mùa đông đầu tiên ngoài Bắc, anh bạn tù hào hoa một thuở của tôi vừa đói, vừa lạnh, vừa thèm thuốc. Theo anh thì mùa lạnh ở VN khó chịu hơn bên Tây nhiều mà lạnh nhất là hai cái taị "Nhiều khi tôi cứ tưởng hai cái tai lạnh cóng của tôi nó rụng mất rồi". Anh vừa nói, vừa run lập cập. Một buổi tối trời vừa lạnh, vừa mưa, lán lợp giấy nilong, nước mưa giột tí tách, anh bạn tù của tôi chợt có sáng kiến mớị Anh lấy chiếc quần slip của vợ gửi cho chụp lên đầu, kéo sụp xuống tận mí mắt, che kín hai taị Trong cái chập choạng của một ngọn đèn dầu hỏa, tôi thấy anh "không giống ai", mà trên thế giới này chắc không thể có một cái mũ, cái nón nào ly kỳ đến vậỵ Anh nhếch một nụ cười, vừa hài lòng vừa ngượng ngập và khẽ nói: "Cho nó ấm hai cái tai mà đỡ nhớ thương vợ con, ông ạ..."

Dạo ấy, tù cải tạo còn thuộc quyền quân quản, thuộc Bộ quốc phòng, chưa thuộc Bộ nội vụ. Quân đội trông nom tù, chưa phải công an. Anh em chưa phải vào các trại tù mà ở trong các lán, có dây thép gai bao quanh và bộ đội canh gác ở ngoài. Buổi tối chưa có lệ vào phòng giam, xích cửa lại, gióng sắt đưa lên giam tù trong đó suốt đêm, sáng mai mới tháo xích, mở cửa, ăn uống, ỉa đái trong đó luôn như các trại tù công an sau này. Nhưng mỗi tuần vài ba lần thế nào quân đội Vi Xi cũng có kiểm tra đột xuất, mà kiểm tra thường vào ban đêm. Nghe tiếng còi gắt gỏng rít lên là anh em phải vội vàng trở dậy, mắt nhắm mắt mở chạy ra sân đứng xếp hàng 2 để cho cán bộ kiểm soát. Anh "lán trưởng" sau khi kiểm lại số người trong lán, đứng nghiêm báo cáo.

- Báo cáo cán bộ, lán 4 trại 1, 30 người đủ.

Tên Thượng úy chính trị viên cầm đèn pin, đứng cạnh một anh lính mang AK tùy tùng, hất đầu ra lệnh:

- Được, cho vào.

Tù hàng hai lần lượt kéo nhau vô lán. Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang giở thức giở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái "mũ" không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng:

- Anh kia đứng nại.

Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửạ Anh em lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài:

- Cái này là cái gì?

- Dạ... cái quần...

- Ở đâu ra?

- Vợ tôi gửi cho tôi.

- Tại sao mà anh nại đội cái quần của vợ anh...

- Tại trời lạnh quá... mà không có mũ...

- À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì? Mai nên nàm việc...

Tên Thượng úy Vi Xi này anh em trong trại đặt tên là "Thượng úy Không No". Tuần nào sáng thứ Hai, y cũng lên lớp anh em về mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Nói thì ngọng líu, ngọng lo, l đánh ra n nhưng lúc nào cũng thở ra giọng "đỉnh cao trí tuệ". Một hôm trong đề tài "an tâm học tập, cải tạo" y ta lên tiếng: "Các anh không no, gia đình các anh không no, nhân dân không no, đã có đảng và nhà nước no". Mọi khi, y ta nói trời trăng mây nước gì, tù cũng cứ ậm ừ, coi như gác bỏ ngoài tai. Bữa ấy, khi vừa nghe y nói tới đó, đám bạn tù cải tạo bỗng phát lên một trận cười rầm rĩ cũng với tiếng vỗ tay vang dậy. Y ta tưởng bở, lại càng đỏ mặt tía tai lên mà nói tiếp....

Nhưng sau này không biết có tên "thối mồm" nào đó mới lý giải cái cười rôm rả và tiếng vỗ tay không ngớt của tù cải tạo cho y. Y ta giận lắm. Giận lắm nên y hành hạ anh em tù sát ván. Một anh bạn tù đói quá, nhổ trộm khoai mì (sắn) mọc trên sườn non. Trước đây, cái tội như thế này chỉ bị cảnh cáo trước đội, rồi viết kiểm điểm "rút kinh nghiệm" là xong. Kỳ này, chính trị viên "Không no" liền nhốt anh bạn nhổ trộm sắn 1 tuần vào trong cái cũi dây thép gai, một kỳ công của đỉnh cao trí tuệ. Đây là một túp lều, nhưng một túp lều quây bằng dây kẽm gai. Không có tường mái, chỉ có một tấm bạt được coi như mái lềụ Ở trong dây thép gai quấn ngang dọc, chằng chịt cao thấp. Người vô ở trong đó phải cẩn thận lắm không thì bị gai cào rách lưng, rách mặt, đặc biệt là ngồi không được vì thấp quá, nằm cũng không được vì không đủ chỗ. Lúc nào cũng phải nửa nằm, nửa ngồi cứ lom khom, lom khom...

Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết Giáp của tôi lên gặp "y ta làm việc". Khi về NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ "không no" tuyên bố không cho anh đội cái mũ "thiếu văn hóa" ấy nữa. Anh phải làm kiểm điểm" hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của cán bộ". Buổi tối, bên ngọn đèn dầu tuôn khói mịt mù, anh bạn thiết giáp của tôi thở phào phào ngồi viết kiểm điểm, vừa viết vừa run vì đói lạnh, vì không có cái mũ che tai... Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng:

- Đừng có lo, rồi đâu có đó...

Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo "Thượng tọa" của ông mà đưa cho ông Thiết Giáp.

- Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm... Rồi ta tính...

Chúng tôi, ông Thượng tọa, ông Thiết Giáp, và tôi, là 3 người trong số 1 tổ "tam tam" trong đội rau. Ba người chúng tôi phụ trách một khu rau ở bên bờ suối, cạnh bệnh xá và khu B dưới gốc cây lim già... Chúng tôi cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm... nên hiểu nhau nhiều lắm. Được làm với ông già này là một điều may mắn lớn. Vì ông Thiết Giáp với tôi, từ xưa đến giờ đâu có biết cày cuốc, trồng rau trồng củ ra làm sao đâu. Ông già Thượng tọa chỉ vẽ cho chúng tôi hết thảy. Từ cách cầm cái cuốc, cái thế đứng khi cuốc phải như thế nào? Cuốc hùng hục "như trâu đánh mả" như tôi là không được. Cuốc như thế là "cuốc lật" dành cho việc cuốc ruộng, cuốc vườn. Ở đây trồng rau thì cuốc phải "đầm", nhẹ nhàng, từ tốn như mưa dầm, mưa lâu thấm đất. Cuốc hùng hục như tôi thì sức đâu mà cuốc cả ngày cả buổi. Ông cụ còn chỉ cách sử dụng các loại cuốc thật nhỏ, chỉ lớn hơn cái bay thợ nề một chút thôi. Rồi còn ủ phân, pha nước tiểu, tưới bón, trồng trọt... Mỗi loại rau, mỗi thời kỳ đều tưới bón khác nhau, lúc nhỏ tưới bón khác, lúc lớn phải bón thúc lại khác. Bây giờ chúng tôi đang trồng rau cải ngồn ngộn, những trái su hào no tròn... Đi tưới nước giữa hai hàng cây cải tốt tươi, tiếng vòi nước hoa sen dội vào lá cải nghe rào rào, ông cụ ung dung làm việc, thần thái an nhiên. Ngoại cảnh hình như không ảnh hưởng được đến ông cụ. Ông giống như một ông già nhà quê thuần hậu, quanh quẩn bên cây lá trong vườn. Ông hình như không lo, không sợ cái gì. Ông nói ít, cái câu thường thấy ở ông cụ là: "Đừng có lo, rồi đâu có đó"...

Để cho cái việc của ông bạn Thiết GIáp "đâu có đó" đối phó với anh thượng úy "không no", ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu "Thượng tọa" của ông lấy vải may cho ông bạn Thiết Giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết Giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động. Ông cụ đã cắt chiếc đạo y ra may mũ. Ai cũng tiếc chiếc áo dài theo ông cụ đã lâu, chắc mang nhiều kỷ niệm tu hành của một vị cao tăng, nhưng ông cụ chỉ cười xòa mà nói: "Thì nó cũng chỉ là cái áo..."

Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay. Đúng là "giậu đổ bìm leo", vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn... Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có nó có liên hệ "hữu cơ" với nhau. Càng đói thì càng rét - mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người "nằm xuống" vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Quý Thuyết tòa án quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh NQ Thuyết, có nói rằng "Anh NQ Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. Chắc là bị ngộ độc nên đã chết".

Ở xứ thượng du này có cái rất sẵn là đá và cỏ. Những bữa trời quang mây tạnh, trèo lên núi kiếm lá về ủ phân, thấy bát ngát toàn núi là núi. Những chỏm núi gần xa, chập chùng ngút mắt trông giống y như một màng lưới bao la mà mỗi ngọn núi là một mắt lưới. Sơn la: lưới núi. Hay thật, đúng y như thế thật. Tù mà ở trong cái lưới núi này thì chạy đi đâu cho thoát. Vì nhiều núi nên có nhiều loại đá. Một bạn tù trẻ tuổi ở khu B bên cạnh, Vũ Xuân Th. tay biệt kích dù mũ xanh kiệt hiệt có khá nhiều tài: đóng ciné, điêu khắc, vẽ, đánh bóng chuyền có hạng, mưu sinh kỳ tài... Bây giờ Vũ Xuân Th. kiếm ăn lần hồi những khi rảnh rỗi bằng cách chọn đá marble về gọt thành nõ điếu hút thuốc lào. Nõ điếu made in Vũ Xuân Th. thì khỏi nói, vừa đẹp vừa có khắc hoa, khắc chữ (theo yêu cầu) vừa kêu ròn rã không thể tả. Giá rẻ thôi: một ký sắn hay 2 cục đường tán 1 cái. Tôi và Vũ Xuân Th. là chỗ "bồ tèo" nên Vũ Xuân Th. có tặng một cái nõ điếu tuyệt vời: rất kêu (cái này là dĩ nhiên rồi) mặt trước có khắc nổi hình một con diều hâu đậu trên cành thông, một bên là một đóa hoa hồng, một bên nữa là khắc năm tháng... Khi đem tặng cái nõ điếu, Vũ Xuân Th. mới "bốc láo" rằng: "Một đóa hồng cho đại bàng cô đơn đây". "Đại bàng đại biếc gì nữa ông ơi, đáng lẽ ông phải khắc một con quạ già mắc bẫy".

Trong khi đó ông bạn già Thượng tọa của tôi cũng đi kiếm đâu được mấy mảnh đá dài dài. Lúc nào rỗi rãi lại thấy ông cụ ra bờ suối mài mài, đục đục.... Một hôm tôi thấy trong lều dụng cụ của tổ rau tụi tôi, hình dạng hai tấm bia đá thô sơ có khắc tên Vũ Văn Sâm, mất ngàỵ.., Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ.. Tôi nhấc tấm mộ bia lên, nhìn ông cụ? Ông cụ ngó mông ra khoảng rừng núi chập chùng mà nói: "Thì cũng mong đánh dấu được vài nắm xương tàn."

Một sáng mùa đông vào khoảng nửa buổi, tôi đang lặc lè 2 thùng "ô doa" (arrosoir) tưới nốt cho khoảng vườn rau trước mặt, gần nhà bếp khu B thì bỗng có tiếng gọi khe khẽ, khẩn trương:

- Này, nàỵ

- Ai đấy?

- Vũ Xuân Th. đây.

- Làm gì đấỷ

- Bữa này làm "chảo trưởng". Thổi cơm nhà bếp. Ăn cháy không?

Tại sao mà bạn ta hôm nay lại hỏi một câu "thừa thãi" như thế nhỉ. Tôi và Vũ Xuân Th. đều là dân "volley". Tôi thì già rồi còn Th. thì đang sức. Trong làng "bóng chuyền" tụi tôi, mỗi khi mà cây nêu lỡ tay nêu sang lưới bên kia thì dân bóng chuyền kêu bằng "cơm nắm cho tù", nghĩa là đối phương được biếu không một trái banh ngon lắm, bổ lắm, chắc ăn lắm, ít khi có lắm. Bây giờ chúng ta là tù "chính cống bà lang trọc" rồi, đói lòi xương, vàng mắt mà lại còn hỏi "có ăn cháy không?". Chừng như nhận ra sự vô duyên của mình, Vũ Xuân Th. vội nói:

- Chạy ra góc vườn lấy mảnh lá chuối lại đâỵ

- Có ngay.

Sau đó từ cái lỗ mắt cáo của hàng rào nhà bếp khu B, qua đám lá duối và dây leo bìm bìm, tôi nhận được từ bạn ta Vũ Xuân Th. một cái gói lá chuối âm ấm, nóng nóng. Để ngay cái gói này áp sát vào bụng, mà đi về dưới gốc lim già bên bờ suối, nơi cái lều nhỏ của tiểu tổ chúng tôi.. Ôi chao, cái làn da bụng lép kẹp của tôi đang được sưởi ấm, đang được phỉnh nịnh. Cái may mắn này ít khi có lắm. Tôi phi về như bay. "Tây con" Thiết Giáp thấy tôi mặt mày tươi rói liền ngẩng đầu lên hỏi:

- Cái gì mà hí hửng thế?

Tôi bước vô lều, nhìn trước nhìn sau, rút từ trong bụng ra gói lá chuối còn tươm khóị Mở ra, miếng cháy vàng rộm, nóng hổi, đang bốc hơi.

"Tây con" sáng mắt ra, vội hỏi:

- Ở đâu ra thế?

Tôi chỉ sang khu B mà khẽ nói:

- Bạn vừa cho...

Tôi để phần ông cụ một miếng, ông cụ đang bận tay ngoài chỗ "cây giống". "Tây con" và tôi chia nhau miếng cháy nóng, vừa ăn rau ráu vừa hít hà. Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách ít ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẩy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột mì cứu trợ rồi. Cái gọi là "bữa sáng" chỉ là một chén cháo bột khoai mì loãng đầy mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. Mùa lạnh nước suối cạn, phải lần xuống dưới lòng suối mới múc được nước. Leo lên bao bậc đá trơn, tay xách đôi thùng tưới, miệng thở dốc, sức cứ oải dần, tay chân càng lúc càng nặng trĩu, nhấc không muốn nổi. Trời thì lạnh và ẩm. Cái rét thượng du miền Bắc rất thấm, rất sâụ Người Bắc kêu bằng rét ngọt. "Cái ngọt nó lọt tận xương", lại thêm xách nước nên áo quần thấm nước suối. Cái lạnh bên ngoài cái đói bên trong nó hành mình tơi tả. Đang khi sức cùng lực kiệt, đầu váng mắt hoa như thế thì có miếng cháy nóng này…"Ôi món quà từ trên trời rơi xuống". Chưa có món bánh mì nào trên thế giới có thể sánh được với miếng cháỵ

Ông cụ ăn từ tốn, không có ào ào như tụi tôi. Ông cụ làm còn nhiều, còn mạnh hơn tụi tôi nữa mà hình như ông già không thấy mệt mỏị Lúc nào cũng nhẩn nha, lững thững mà việc gì cũng xong. Ông cụ vẫn nói "từ lúc nhỏ đi tu ở nhà chùa.... thì tôi vẫn làm lụng như thế này, cũng dưa cà như thế này... chỉ tội nghiệp các ông..." Ông cụ chỉ vẽ cho chúng tôi cách làm vườn, trồng cây, bón tướị.. Những công việc gì khó khăn, vất vả ông cụ giành lấy mà làm. Như cái món lấy phân bắc (phân người) về ủ, ông cụ cũng tự tay làm lấy. Hôm nay, sau khi ăn miếng cháy xong, ông cụ khẽ nheo mắt, tay giơ một nhúm thuốc lào mà nói "hút đi". Thuốc lào thật, dẻo quánh, thơm nồng, đâu phải thuốc lào "ngải cứu" hay thuốc lào "lá cải khô".

- Hút luôn hở cụ. Hay là xái nhì, xái ba?û

- Hút luôn đi.

Trong cái lúc thuốc lào khan hiếm như lúc này, nếu có thuốc lào thật, đâu có dám hút luôn cả điếu. Phải hút xái nhì, có khi xái ba, tức là một điếu thuốc mà hút 2 hay 3 người. Người thứ nhất châm lửa, rít một hơi, người thứ 2 rít một hơi, rồi người thứ 3 hơi cuối cùng. Người nào mà được hút cuối cùng là "đặc biệt", vì được hưởng cái hậu, được rít kêu lóc cóc... Hôm nay, trúng số rồi. Vừa được ăn "bữa lỡ", lại có thuốc lào thật rít thẳng tay. Tôi hút xong điếu thuốc lào mà say lừ đừ. Từ mấy bữa nay, hôm nay mới có thuốc lào thật. Còn toàn hút thuốc lào "lá cải già tẩm nước điếu phơi khô". Ăn xong, hút xong thấy đời sáng láng, phơi phớị Tôi liền tà tà đi ra gần chỗ nhà bếp, đằng hắng lấy giọng mà thưa với bạn ta rằng:

"Tương phùng được buổi hôm naỵ.. Trùng phùng lại nhớ giờ này hôm sau".

Tôi nghe thấy tiếng cười rinh rích rồi Vũ Xuân Th. vừa cười, vừa nói vọng ra:

- Được rồi, hiểu rồị.. ông nội ... Cứ khoảng giờ này ngày mai ông lại tới đâỵ.. Nhưng mà khéo léo đấy nhá.

Thế là cứ vào khoảng nửa buổi, 9 giờ rưỡi mười giờ sáng những ngày sau đó, mỗi khi thấy bạn tôi "chảo trưởng" ra cơm, tiếng xẻng khua xuống chảo gang kêu xoèn xoẹt, là tôi lại lững thững giả vờ bắt sâu bọ, bên bụi ruốị.. rồi lĩnh từ tay bạn ta một gói cháy vừa chín tới mang về...

Nhưng cái thời gian "bồi dưỡng" này không được bao lâu. Chừng hơn nửa tháng sau, bạn tôi Vũ Xuân Th. đã rời khỏi nhà bếp, ra làm công việc khác. Nguồn tiếp tế của tụi tôi bị cắt. "Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí", bạn Thiết Giáp NVP của tụi tôi cũng điều sang đội chăn nuôi. Cái khu rau này, thượng úy "không no" tuyên bố: "Chỉ cần 2 người cũng đủ. Các anh khắc phục". Công việc 3 người làm trước đây đã "bá thở" bây giờ còn lại có 2 ngườị Ông cụ gần như bao giàn hết công việc cũ của NVP nhưng tôi vẫn phải làm thêm. Nhưng điều đáng phàn nàn là trong thời gian bồi dưỡng vừa qua cái bao tử của tôi nó bắt đầu quen ăn "bữa lỡ" hồi 9, 10 giờ sáng rồi. Bây giờ "ăn quen nhịn không quen" cứ nửa buổi là tôi phờ phạc, đói mịt mờ, cất chân, cất không muốn nổi. Thấy tôi rũ rượi như "gà chết" ông cụ một bữa nhìn tôi rồi chắt lưỡi: "Đừng có lo..." Ông cụ cầm con dao, xách cái bị cói phăng phăng, chừng nửa giờ sau ông cụ về, đặt phịch cái bị vào trong bếp. Trong cái lều nhỏ của tụi tôi, lúc nào bếp cũng cháy lim dim, vừa để đun nước, hút thuốc vừa để sưởi những lúc nghỉ tay… Bây giờ ông cụ quạt lửa lên, lấy mấy củ sắn ở trong bị ra bỏ vào bếp nướng. Ông cụ bảo tôi ra ngoài coi "động tĩnh". Tôi lại bắt đầu mừng vì có đồ ăn, nhưng lại ghê vì tôi biết ông cụ vừa lên trên đồi lấy sắn của trại. Ở các trại tù hoặc các nơi đóng quân của Vi Xi, ở chung quanh thế nào cũng có một số đất đai thống thuộc. Ở vùng đồng bằng hoặc trung du thì trồng lúa, trồng ngô khoai trồng trà, trên thượng du như Sơn La này thì trồng sắn, trồng ngô, trồng mía. Thứ sắn lưu niên để từ năm này sang năm khác, coi như là nguồn lương thực dự trữ. Đây là thứ cây lương thực dễ trồng nhất trong thiên hạ. Nhổ cây sắn lên lấy một chùm củ. Xong rồi cứ cây sắn ấỵ lấy dao chặt một gang tay, phải có ít nhất là 3 mắt. Cuốc một nhát cuốc hay lấy dao đào lên, nhét một cái hom lên trên mặt đất. Cứ thế là chừng năm sau, mỗi cái hom lại thành một cây sắn, lại cho một chùm củ. Đất tốt thì củ lớn, đất xấu thì củ nhỏ. Trong những thứ lương thực ở trại tù miền Bắc, sắn được xếp vào hạng bét. Chỉ tiêu, cân đo, đong, đếm của lương thực là 1 gạo ăn 2 ngô, hay là 3 khoai, hay là 4 sắn. Dù là hạng bét nhưng đối với tù đói nhăn răng, nó vẫn là rất quý. Tù mà động đến sắn, ngôi, khoai của trạị.. là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa". Nhất là trong khi thượng úy "Không no" cứ như cái bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chuyên môn rình rập theo dõi anh em. Đó là nghề của hắn.

Tôi có một anh bạn cùng khóa, NKB xưa nay tính tình "nhà binh" cho đến tận kẽ răng. "Reglo" số 1, việc làm răng rắc quần áo là ủi thẳng tắp, giầy bottle de saut bóng láng, huy chương đeo một dề, xe díp bóng ngời nệm trắng tinh tươm. Đi cải tạo ra Bắc bây giờ bạn tôi, không biết vì không hợp thủy thổ hoặc đói khát ra sao mà răng rụng hết, thành một ông già móm xọm. Nhưng bạn tôi lại thèm đường thèm mật quá. Ở gần khu trại mộc của đội anh có một khu trồng mía. Mía cứ bị bẻ trộm hoài, thượng úy "không no" rình rập mãi mà không bắt được ai. Một bữa, thượng úy thấy thấp thoáng bóng người trong ruộng mía liền nhảy ra bắt giữ. Gặp ông bạn móm xọm của tôi.

- Anh vào đây nàm gì? Ăn trộm mía phải không?

- Tôi đi kiếm rau "tàu bay", tôi đâu có ăn trộm mía.

- Không ăn trộm mía vào đây để làm gì?

Anh bạn tôi liền há mồm ra, chỉ vào hai hàng lợi không răng mà phều phào nói:

- Tôi đâu còn răng mà ăn mía.

Thượng úy "không no" thấy vậy, không còn bắt bẻ vào đâu được nữa nên vùng vằng bỏ đi. Nhưng y ta nhất quyết bắt cho bằng được người ăn cắp mía. Một bữa không biết y ta đến từ bao giờ, cải trang ẩn dạng ra sao mà ông bạn móm của tôi vào chặt một cây mía là bị y ta bắt được ngay tại trận. Y rất bằng lòng về chiến công "bắt trộm" của mình. Bạn tôi quá thiếu chất đường (cũng như hầu hết các tù cải tạo thèm chất ngọt và thèm mỡ) nên thường lén vô ruộng mía, đem dao chặt vội một vài đẫn, nhét vào người mang về. Lấy dao dóc mía, chẻ mía ra từng miếng nhỏ đưa vào miệng không răng mà nhần, mà ngậm. Nó cũng khỏe lên được phần nàọ Còn vỏ mía thì phải chôn xuống đất ngoài vườn.

Ngay bữa bắt được kẻ trộm mía, thượng úy "không no" liền biểu diễn quyền uy của mình bằng cách khác; không có giam tội nhân vào cái cũi dây kẽm gai mà y bắt ông bạn không răng của tôi cầm nguyên một cây mía đứng riêng ở ngoài cổng trạị Y ta nói: "Hãy nhìn cho kỹ đi, thượng cấp của các anh đấy". Anh em đi làm về đều thấy ông bạn tù gì, cầm cây mía đứng lom khom, cúi mặt không dám nhìn ai. Ai cũng thương anh.... đồng cảm với anh vì đi tù cải tạo trăm người như một đều phải "cải thiện" cách này, cách khác. Con người "một động vật xã hội", nên "đói là đầu gối phải bò". Thế thôi, chả ai coi thường, chả ai bỉ thử anh đâu. Nhưng tôi biết, bạn tôi vốn trọng phép tắc lễ nghi nên bạn tôi đau lắm.

Do vậy nên bây giờ thấy ông bạn già Thượng tọa đi lấy trộm sắn về cho tôi ăn vì tôi thèm quá, đói quá, tôi vẫn cứ ghê ghê trong bụng. Thượng úy "không no" mà bắt được, không biết y ta sẽ hành hạ mình cách nào đây? Nhưng sợ bị bắt là cái lo xa. Còn đói cồn cào ruột gan là cái lo gần. Thế thì ta hãy cứ ăn cái đã. Đang đói bụng mà lại có sắn lùi bếp than thì nhất thế giới rồi. Tôi cứ chạp thẳng cánh. Ông cụ đi lấy sắn, nướng sắn mà ông cụ có ăn bao nhiêu đâu. Tôi ăn phần lớn. Và sau đó cứ vào khoảng 9, 10 giờ sáng, tưới bón xong là ông cụ xách cái bị đi ra. Lúc thì sắn lúc thì khoai, lúc thì củ giong... Tôi cứ có ăn đều đặn.

Bạn "Tây con" Thiết Giáp NVP phải đổi sang đội chăn nuôi, trong cái rủi lại có cái may. Bên ấy có công tác lên rừng đẵn cây chuối hột về cho heo ăn. Được ra ngoài thuộc "diện rộng" đi xa xa, gặp được 'đồng bàó nên mới có cơ hội kiếm ăn, đổi chác. Vắng mặt tên quản giáo, len lén đem được một cái quần tây, một cái ao pull, một cái kính, một cái bật lửa... đem "quy ra thóc" lấy xôi, lấy cơm mắm... hoặc 'quy ra thuốc' lấy thuốc lào... đều được cả, thành ra tụi tôi dạo này có vẻ "phong lưu" hơn trước.

Một bữa lấy sắn về ông cụ đang ngồi trong lều, quạt đang đều tay, sắn đã bắt đầu chín bốc mùi thơm ngậy, tôi đã chực sẵn đến giờ ăn, thì bỗng có tiếng động nhẹ đằng sau. Tôi quay lại thì thấy đôi ủng màu đen đã đứng sau lưng tự lúc nào rồi. Tôi chết sững. Thượng úy "không no" đã tới.

- Biết ngay mà, cứ vào khoảng 10 giờ nà cái nều này có khóị - Thượng úy "không no" đắc chí.

Tôi cứng họng không biết nói năng gì, tâm thần hoảng hốt. Ông già thượng tọa của tôi, khẽ ngước lên, nhìn thượng úy "không no" rồi điềm đạm nói:

- Cán bộ thứ cho. Anh em chúng tôị.. đói quá...

Giọng nói ông bình tĩnh, người ông vẫn ngồi vững vàng, cái tay quạt sắn vẫn đều đặn không thay đổi, không cuống quýt, mà cũng không ngừng nghỉ.

- Như thế này là nâu rồi đấy nhá. Không phải chỉ một hôm nay mà thôi đâu?

Thượng úy "không no" vừa nói vừa quay ra xem xét, kiểm soát căn lều. Chợt y thấy hai cái mộ bia mà ông già Thượng tọa của tôi mới đục xong còn để đó. "Vũ Văn Sâm mất ngàỵ..", "Ngô Quý Thuyết mất ngàỵ..." Y đọc mộ bia xong nhìn chúng tôi, một anh tù già tóc bạc phơ, một anh tù trung niên xác xơ ốm đói. Hình như có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói:

- Sau không được thế nữa nhá. Ninh tinh.

...Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh... hoặc là phong thái "đại hùng, đại lực, đại từ bi" của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy được "chút tính người còn sót lại" trong y ?

Kể chuyện thời bao cấp

Nhà tớ ở khu tập thể, mái lá cọ. Không biết do hồi xưa nhiều bão hơn bgiờ hay sao mà cứ thỉnh thoảng lại có gió bão/lốc... Mỗi lần gió to mái nhà lại được nhấc bổng lên rồi ụp xuống, thổi bay lên rồi lại rơi bụp xuống..., sợ hết hồn. Bụi, rác, mạng nhện... rơi lả tả khắp nơi. Bố để lại cho một bài học là mỗi khi gió to như thế hay mưa đá... thì chui vào gầm bàn để tránh bị cái gì đó rơi vào đầu.

Nhà nền đất, đi nhiều nó mài mòn thành lỗ chỗ từng viên tròn tròn nổi lên. Mãi sau này mới có xi măng. Bố lát xi măng xong để se se rồi lấy cái chai 65 lăn, miết thế nào mà nền trở nên trơn bóng. Những chỗ láng bóng đó những ngày nồm thường rất trơn, trượt.

Hôm nào sẽ ăn lại món cơm với mỡ muối. Mỡ lợn đông lại ấy, cho thêm muối hạt vào lạo xà lạo xạo, mà ăn với cơm sao ngon thế. Cho mỡ vào với nước mắm để ăn cơm cũng ngon. Hôm nào hết mỡ thì cho mấy hạt cơm rơi vào bát nước mắm cho ngấm đẫm lên thành màu vàng sậm, rồi vớt ra ăn dè với cơm thay thức ăn mặn. Gạo nấu thành cơm xong vẫn có màu vàng khè, bây giờ cái mùi hôi ấy như thế nào vẫn nhớ.

Không biết vì sao mà lại có sữa bột nữa, nhưng rất hiếm. Bọn tớ thường rủ nhau ăn trộm sữa này của bố mẹ rồi hẹn nhau mang ra đầu hồi cơ quan bố mẹ, gói từng gói mỏng vào giấy (bố mẹ làm bên báo nên giấy không hiếm lắm) rồi kê xuống mông đít để ngồi lên, vừa ngồi vừa chơi chuyền, ô ăn quan.... Lúc sau lấy sữa đó ra thấy kết thành bánh, ăn thấy sung sướng làm sao, he...

Đến hồi có gạo trắng rồi, hết phải độn, cái chị hàng xóm mới tập nấu cơm, nhà đông người phải nấu nồi gang to, mà bị sống hết cả nồi, liền ra vườn đào hố chôn xuống để khỏi bị mắng. Bố mẹ về thấy chó, gà thi nhau bới chỗ đó lên :Laughing:

Dép hồi đó thì phải hàn là đương nhiên, ngoài ra trẻ con thì thường phải đi dép rộng nữa vì "phòng lớn". Chân tớ bé tí, suốt ngày thọc mũi chân ra khỏi mũi dép, bọn bạn nó trêu là "đồ đi dep phòng lớn" mà cứ xấu hổ mãi. Bây giờ cho hàn dép vẫn làm được :Angel:

He he, xà phòng 72 hôi khủng khiếp, thế mà không có kem đánh răng thì lấy bàn chải răng chà chà nhẹ vào bánh xà phòng đó rồi đánh xùi bọt ra ngon lành.

Bác nào kể chuyện bóc lạc mới nhớ cái kẹp lạc, không thì quên hẳn. Hồi đó bóc lạc bằng kẹp tre hoặc chụm đầu ngón tay cầm đầu củ lạc đập xuống nền nhà cho vỡ đôi ra. Không phải ai cũng làm được vậy vì lạc dễ bị vỡ đôi theo. Mình mang công nghệ này về quê biểu diễn từ hồi đó, lâu lắm hôm vừa rồi mới trở lại gặp bà cụ hỏi có phải cái đứa này là đứa ngày xưa nó về bóc lạc đập đập thế này không, giỏi thế, he he... Lạc bóc xong mẹ mang đổi vải, được một miếng vải gì vừa dày vừa cứng toàn nilon nhưng có in hoa xanh xanh... Về mẹ săn siu cắt ra khâu tay thành tận 2 cái áo tiết kiệm, cái nào cũng ôm chặt lấy cái bụng giun tròn xoe của mình.

Thời bao cấp, lương bố mẹ ko đủ ăn, sáng sớm bố mẹ phải dậy từ 3h đi lấy bã đậu về bán kiếm thêm… những đêm mùa đông rét căm căm, mưa gió thế nào cũng ko bỏ một ngày… hồi đó mình còn bé tý (4t) mà sao thấy thương bố mẹ quá !

Thời bao cấp, 4,5h sáng dậy đi xếp hàng tem phiếu… gần đến lượt thì nhờ ai trông chỗ hộ rồi chạy về nhà gọi bà/bố mẹ ra mua… có ngày bị người ta lấy mất chỗ ngồi khóc hu hu, ấm ức lắm mà ko làm gì đc!

Thời bao cấp, ko có gạo đủ tiêu chuẩn, phải ăn độn, nào ngô hạt nào cũng vừa to vừa cứng, nào khoai thì hà, sắn thì mốc xanh cả lên, về lấy bàn chải cọ mãi cọ mãi ko hết… vậy mà vẫn cứ phải ăn. Hai em còn bé thì đc ăn cơm, mình và bà nội thì 1 bữa cơm, 1 bữa độn, thương bố mẹ ngày 2 bữa chỉ dám ăn ngô, khoai sắn… ko động đến 1 hạt cơm để phần cho con !

Thời bao cấp, bà về hưu non mở hàng bán muối… Cháu 7,8 tuổi ngày nào cũng lên mậu dịch xếp hàng mua muối đen về cho bà bán thêm, đội mười mấy cân muối trên đầu… riết rồi ko cao lên đc, hehe đổ lỗi cho cái thúng muối… Rồi thì đi bộ mấy km sáng bên kia cầu, chờ người ta thồ muối lên thì xem hàng, rồi mặc cả,.. rồi dẫn về cho bà mua… Bé tý mà cũng được việc phết !

Thời bao cấp, quần áo mặc đi mặc lại, từ bố đến mẹ, đến con thì hai cái mông thủng ko còn chỗ để mà tic kê nữa, bố liền trổ tài may cho con cái quần từ quần của bố, ống loe quần bố thì thành mông quần con, … hồi đấy ai cũng mặc quần ống loe, riêng con bố thì mặc quần ống luồng ! Rồi cụ mất, bao nhiêu vải câu đối hết 100 ngày biến thành các mảnh vải trắng để dành, may cho mấy chị em thành quần áo đi học… nhìn chẳng giống ai….

Chuyện nhớ nhất là được giao làm ruốc cho em, 1kg thịt lợn Tết của bố… nhớ sao mà nhớ cái mùi thịt nạc xào lên thơm thơm… ko cầm lòng được nếm thử một miếng… một miếng .. rồi lại một miếng nữa…giã xong chỗ ruốc thì chắc chỉ còn 2/3… bố mẹ biết nhưng ko nỡ mắng con bé … vì nó suốt ngày chỉ đc ăn cơm với muối hay xì dầu … cảm giác xấu hổ, tội lỗi đấy đến giờ vẫn chưa quên !

Cái vụ sữa PAM, mình nhớ hồi bà dì sanh thằng em họ, ông dượng ở bên quân đội nên cũng có sữa PAM, mình chưa biết mùi sữa bột là gì nên thèm lắm, cứ đứng nhìn thèm. Ông dượng qua nói với bố mình, ông cụ giận cảnh nhà khổ sở, bản thân không lo được cho bằng con người ta nên gọi mình về quát rõ to trước mặt ông dượng “mày đứng nhìn em bé hay thèm sữa?” Con bé mới gần 5 tuổi (chính xác là 4,5 tuổi) đã biết khóc mếu nói dối đỡ bố “con đứng nhìn em bé”. Sau này, bố mình cứ nhắc mãi, lần nhắc nào mắt cũng đỏ hoe….

Hồi nhỏ mình cực kỳ ghê gớm, mà tòan ghê gớm ngầm (khéo bây giờ vẫn còn ghê gớm, chồng mình rền rĩ suốt là sao em dữ thế :Laughing:). Hồi đó bánh qui là thứ cực kỳ xa xỉ, có hôm được mẹ chia bánh, ông anh tham ăn bỏ tọt vào miệng rồi nhìn miếng bánh của mình đang gặm lý nhí mà nuốt nước miếng. Con bé đanh đá là mình bẻ vụn miếng bánh, rải xung quanh chiếu rồi bắt ổng bò theo để liếm bánh!!! Khổ thân ông anh tham ăn, chơi xấu đến thế rồi nhưng vì miếng ăn ổng vẫn bò liếm sạch bách. Ah mà ông anh mình có cái thói xấu dễ sợ là chuyên giành phần ăn ngon bằng cách liếm một vòng để mình ghê không thèm ăn nữa. Rất rất nhiều lần cái cách đó của ổng đã phát huy tác dụng triệt để đối với con bé khảnh ăn là mình, mặc dù mẹ tha hồ thuyết phục là chỉ cần gọt bỏ một chút bên ngòai là ăn được rồi. Bởi vậy tới lớn mình cao được có non 3 mét bẻ đôi, còn ổng cũng được gần mét bảy!

Nhớ có lần nước sông Kim Ngưu bị cạn (trước đây nước Kim Ngưu cũng trong lắm chứ không đen đặc như bây giờ), người người đổ ra tát cá thầu dầu…. Ông anh trai mình mới khỏang 6, 7 tuổi gì đó cũng kiếm được già nửa xô để mẹ tha hồ vừa kho vừa băm làm chả cá.

Còn khi nhớ tới cửa hàng mậu dịch lại nhớ cô mậu dịch ở đối diện nhà mình, cổ vừa mập, vừa xấu, học vấn nghe đâu cũng chỉ lớp 6 lớp 7 nhưng con ông to nên được vào làm mậu dịch viên, vớ ngay được một chú mới đi Hung-ga-ri làm tiến sĩ về, cao to, đẹp trai lồng lộng. Đến hết bao cấp, con trai cô lúc đó cũng khỏang chừng mười, mười mấy tuổi thì nhà cổ suốt ngày ầm ĩ tiếng cãi nhau, cuối cùng là cô chú mỗi người mỗi ngả. He he bây giờ mình tòan trêu ax, cỡ anh ngày trước là chỉ có vớ mấy bà bán thịt heo, văn hóa lùn thôi đấy nhé. Đúng là một thời khốn khổ, con người ta cũng trở nên khốn khổ theo….

Chả hiểu mọi người có nhớ Hà Nội thời bao cấp không nhỉ? Tớ là tớ nhớ đến già, đến chết cái thời khổ ơi là khổ đó.

Mua cái gì cũng xếp hàng dài dằng dặc để mua từ bánh xà phòng giặt khét mù đến lạng thịt lợn ném thủng trán. Mà chẳng hiểu họ tích trữ kiểu gì mà dân ăn tem phiếu chuyên phải chén thịt lợn đóng băng, cá đông cứng vì đá, đậu phụ chua loét và rắn đanh, gạo đỏ quạch lại hôi sì. Tớ cứ ấm ức mãi "Sao họ không bán cho mọi người ăn lúc còn tươi nhỉ? Cứ tống vào ướp lạnh mới đem bán cho dân. Sao mà họ ác thế không biết".

Lạ một điều là gạo đã hôi hôi lại lắm sạn, nhiều thóc, mỗi lần thổi cơm đãi gù cả lưng. Đong được yến gạo bằng sổ lương thực thì xếp hàng tóat mồ hôi mẹ lẫn mồ hôi con. Mua được lít nước mắm thì ứa nước mắt vì bị chị "hai ngón" móc mất tem phiếu mua thịt, cá và tiền.

Tớ nhớ mãi hồi lên 10 xếp hàng mua nước mắm ở cửa hàng thực phẩm dưới nhà, sắp đến lượt thì bị một chị lượn đi lượn lại móc vèo mất tập tem phiếu, tớ túm được tay chị đó và kêu tóang lên đòi lại bằng được. Sau một hồi giằng co, chị "hai ngón" đành trả lại tớ và nhận xét "Con ranh này đanh đá thật!". Mọi người nói "Cả tháng ăn nhà nó ở đấy, mất hết thì nhịn ăn à?". Ấy thế mà hai năm sau, chị "giải nghệ" và trở thành dâu của phố nhà tớhttp://us.i1.yimg.com/us.yimg.com/i/mesg/emoticons7/1.gif.

Nhà tớ ở chợ Hàng Bè nên mỗi khi xe rau của cửa hàng mậu dịch về là tớ biết ngay rau loại gì, ngon hay không ngon, non - già ra sao để te tái chạy xuống chen mua. Rau ngày đấy chỉ đủ tiêu chuẩn để nuôi ỉn, vậy mà người vẫn nô nức xếp hàng để mua bằng được. May mà quen với các cô mậu dịch viên nên được ưu ái rau được gọi là ngon. Sao mà nhục thế không biết.

Đến Tết, từ mồng 1 tháng Chạp âm lịch, tớ lại ra bách hóa 12 Bờ Hồ để xếp hàng mua túi hàng Tết bằng tem phiếu. Cái túi hàng Tết lèo tèo nhưng cực quý vì không có nó thì đồng nghĩa nhịn Tết. Vừa xếp hàng vừa lo đối phó với các anh - chị "hai ngón". Bố Mẹ bận đi làm nên tớ phụ trách toàn bộ đống tem phiếu của cả gia đình (trừ sổ gạo và tem mua dầu vì hàng nặng, tớ không vác được) nên các cô mậu dịch viên ở các cửa hàng nhẵn mặt tớ.

Lại còn dép guốc và quần áo mới gọi là nhộn. Chả hiểu vải vóc kiểu gì mà quần nào cũng xoăn tít đến tận đầu gối, áo mới mặc được một tháng nhưng vải đã tơ mành mành như vải xô. Được đôi dép nhựa Tiền Phong hoặc Hàm Rồng thì mặt cứ song song với giời. Dép đứt hả? Đem ra hàng hàn đi hàn lại đến dày cộp cả lên. Có người đi mòn vẹt cả gót mà vẫn chưa thải, không phải vì tiếc mà là vì vứt thì lấy gì để đi.

Ngày bé, tớ được ăn diện nhất vì suốt ngày mặc đồ của nhà may Đức Hạnh, váy Liên Xô và đặc biệt là đôi giày mà Bố tớ được mua phân phối ở Xí nghiệp. Thế là tớ trở thành đứa "lập dị" nhất vì "Con gái mà lại đi giày chẳng giống ai". Tớ lại có cái xe đạp hai bánh của Trung Quốc cũng chả giống ai và lại cũng trở thành tiêu điểm của lũ trẻ con cùng phố.

Nghĩ lại mà thấy buồn cười cái thời bao cấp tăm tối đó!

Bây giờ, muốn ôn lại thời bao cấp, mời bà con ra Bát Đàn hoặc Lý Quốc Sư xếp hàng ăn Phở. Một lần, tớ dẫn mấy bác nước ngoài đi xếp hàng ăn Phở ở Lý Quốc Sư, các bác ôm bụng cười lăn lóc và rất khóai chí khi bê bát phở chạy tong tẩy tìm chỗ ngồi

nhớ nhất là cảnh bố mang cạp lồng cơm đi làm,toàn là cơm thôi,mấy quả cà để dưới dáy cạp lồng,dưới mỡ,tí tẹo mỡ thôi lên trên,dưới thêm cả nước mắm ớt nữa,thế là bố mang đi làm,mẹ cũng 1 cạp lồng như vậy,lương 2 công nhân làm sao nuôi đủ,con ở nhà cũng cơm nguội,nhưng không chỉ có cà và nước mắm đâu,thương bố mẹ lắm

Bố mẹ tớ là công nhân trong xưởng. Ngày bé tớ rất tự hào vì bố mẹ tớ là giai cấp công nhân, giai cấp tiền phong của Đảng. :5:

Bố tớ thì luôn luôn có cặp lồng cơm mang theo bên mình, đến tận khi về hưu vẫn còn cái cặp lồng đó. Nó bằng nhôm và có 2 ngăn. Sáng bố tớ cho cơm và thức ăn vào, chiều về thể nào trong đó cũng có mấy khúc củi :Laughing:. Chỉ là thói quen thôi, nhưng bố tớ k bỏ đc.

Mẹ tớ cũng làm trong xưởng sản xuất, trưa người ta đi ngủ thì mẹ tớ đi quét lá xà cừ vè để đun cám lợn. Hic.... Hầu như chiều nào mẹ tớ cũng có 1 bao tải lá và cành cây, đôi lúc kèm theo cái lốp cao su hỏng, mang về nhóm bếp.

Có thời gian nhà đun than, không phải than tổ ong đâu mà là than cám trộn với bùn lấy ở hồ gần nhà, nhào kỹ lên rồi có cái khuôn tự tạo, cho than vào đó, phơi khô. Đến chiều là bẻ cái bánh than đó cho vào lò nấu nướng. Tớ thì bé nhưng thích giúp đỡ mẹ, giúp đỡ hăng hái lắm. Có lần hết lốp cao su, k biết làm thế nào để nhóm bếp, tớ lấy trộm chai xăng của bố, tưới vào củi cho dễ cháy. :mad::mad::mad: Tớ thề hôm đó xăng bùng lên nhanh quá, tớ ngửi thấy mùi lông và tóc cháy :Crying:, chạy ra bể nước soi thì... ôi... 1 bên lông mày của tớ...ra đi ... Tớ khóc ôi là khóc... Cả lông mũi nữa, cũng cháy, nhưng không nhìn thấy, chỉ ngửi thấy thôi

Thời bao cấp, mình nhớ khi đó mình khoảng 9 tuổi gì đó. Khu nhà mình ở là nhà C10, cả dẫy chỉ có 6 nhà thì 5 nhà là cán bộ cao cấp, mỗi nhà mình bố mẹ đều là công nhân. Nhà cuối dẫy rất giầu, thời đó nhà họ đã có xe máy, mà bây giờ hay gọi là cúp-tôm thì phải. Nhưng xe máy để trong nhà mình chưa thấy họ cưỡi lên ngày nào, toàn phủ chiếu. Có cái Ti vi thỉnh thoảng họ thoáng tính lại để lũ trẻ hàng xóm là mình và mấy đứa bạn sang xem, không thì cứ thấy mặt là họ xua xua và đóng sầm cửa lại.

Kế bên nhà đó là nhà của một bác giảng viên ĐH giao thông, nhà đó mình toàn gọi là nhà đa quốc gia, do óc liên tưởng của mình thôi:Smiling:, vì tên bà mẹ và các con đều là Anh, Nga, Đức,.. và cả nhà đều biết ngoại ngữ (tất nhiên trừ cô con út bằng tuổi mình). Nhà họ rất nghèo. Cô con út rất thích sang nhà mình chơi, mỗi lần sang việc đầu tiên là cô ý vào bếp, mở vung nồi cơm nhà mình và nhón một cục cơm hoặc miếng cháy. Hoặc mở vung nồi khoai tây xào bốc ăn. Hồi đó hình như bố mẹ mình được trả lương bằng khoai tây, 1 tuần thì 5 ngày ăn khoai tây xào với cà chua, nhưng không xào với mỡ, mà xào bằng nước.

Nhà mình thì có mẹ làm thủ kho gạo, nhưng thủ kho nhà mình chẳng to hơn thủ trưởng, mà thủ kho nhà mình chỉ dám nhón 1-2kg gạo giấu vào cặp lồng cơm mang ra ngoài bán, thế mà thủ kho nhà mình cũng khá là oai, được mấy bà bán thịt ở mậu dịch kết thân, bán cho thịt đủ cân đủ lạng, được cô bán gạo mậu dịch ưu tiên không bao giờ phải lo xếp hàng (nêu em gái mình hồi đó toàn được cô giáo dặn dò nhờ vả mẹ đong gạo hộ, bù lại nó nghịch ngợm nhưng không bị cô ghét), và nhờ thế nhà mình có đủ gạo ăn, và tuần có vài bữa thịt ăn (thịt toàn thịt thủ, mẹ mua về cái tai toàn lông lá ngồi cạo nhẵn, kho tầu, ăn ngon chán, ngon hơn thịt kho tầu bây giờ :Drooling:).

Hồi đó mình rất lười tắm :p, và cực sợ bị cắt tóc, bố mẹ đi làm suốt nên không có thời gian chăm sóc cho con gái, tóc con gái bị cắt cụt ngủn, như cái rế úp trên đầu, để dỗ cho mình khỏi khóc khi cắt tóc, mẹ cho 1 cốc đường (là thứ khá xa xỉ đối với mấy nhà hàng xóm), nhưng tính mình ghét đồ ngọt, thế là cô bạn hàng xóm có bố làm giảng viên đại học càng có lý do để thích chơi với mình hơn, cốc đường đó được cô ý giải quyết ngon lành. Mình thì có bạn chơi, cô bạn thì giải quyết được cơn thèm.

Lại nhớ thêm, hồi đó cũng nhờ mác thủ kho của mẹ mình, mà nhà mình thường xuyên có mì chính (hình như nó cũng là của quý thời đó), cô bạn hàng xóm rất thích sang nhà mình,mở lọ mì chính, cho ngón tay vào miệng cho ướt rồi thọc tay vào lọ, rồi đưa lên miệng mút ngon lành cái thứ mì chính lợ lợ đó.

Nhắc lại thấy nhớ quá, cái thời đó, so với bây giờ thấy con người thời đó sao ngu ngơ lạ, nhưng rất hiền, cuộc sống chỉ lo cơm áo gạo tiền chứ không phải lo đối phó với người khác như bây giờ..

Thế này nhé. Những năm 80 là cơ cực nhất của thời bao cấp ai cũng thiếu thốn chắc các bạn thường nghe câu " Thời Buổi Khó Khăn" câu này xuất phát từ những năm này đấy. Lũ chúng tôi đang tuổi lớn vừa học xong phổ thông thằng đi Lính thằng nào được bố mẹ chạy cho đi học ở trường chuyên nghiệp là may lắm đấy. Ngày ấy mấy đứa vào ĐH được ngay đâu, Bố tôi quen với một ông làm tại Ban Tuyển Sinh thế là có chỉ tiêu vào học ở trường Cơ Khí Đường Sắt( Mãi Thái Nguyên cơ) thế là cụ bảo" Tao mê nghề cơ khí mày học cái đó nhất nghệ tinh nhất thân vinh con ạ, với lại đi học như thế được 19 kg gạo nhé, 0,9 kg thịt nhé, 0,5 kg đường nhé và hơn thế nữa lại được phiếu vải 5mét oai chưa?

lúc ấy sinh viên ĐH mỗi tháng cũng chỉ dc có 350 gam thịt/tháng thôi và phiếu vải chỉ có loại 4mét. thế là thằng bé nghe lời bố lên trường đi học. Xuống Ga Lương Sơn sao thấy nó xa HN quá. Chuyến tàu đêm hôm ấy đến ga muộn, mãi gần 11 giờ mới vào đến trường mất điện tối om tối mù (chán). sáng hôm sau nhập học và buổi trưa được ăn bữa cơm đầu tiên ở nhà ăn tập thể cái quang cảnh ấy chắc không bao giờ quên dc một nhà ăn toàn cơm là cơm đổ tóe loe ra sàn xi măng cùng với nước canh. chúng tôi 6 thằng mới ngồi chung 1 mâm được nhận 2 cái xoong 1 cái là cơm 1 cái là canh nó chỉ lõng bõng loáng thoáng vài cái rau lại còn thoang thoảng mùi dầu hỏa. Bụng thì đói nhưng đưa miếng cơm vào mồm ôi trời ơi chỉ toàn sạn với cát không thể nào nhai nổi. Chúng tôi cùng nhau khg ăn và cũng bắt trước các Ma Cũ hòa cơm với canh đổ tóe ra nhà nhịn đói.

đấy mới là tập 1 trong gần 2 năm đi HỌC CHO BỐ của tôi đấy.... tôi sẽ kể tiếp với các bạn những chuyện dài thời bao cấp ấy nghĩ lại thấy lạ tại sao lại tồn tại đc cho đến bây giờ?:)

Nhớ hồi ấy ăn lõi dứa lúc đói say đứ đừ thế mà vẫn ăn, còn có cả kẹo "cứt dê" viên tròn tròn bé tí ti, kẹo gôm xanh như bạn gì đó nói ở trên, cả xóm có mỗi cái ti vi thế mà bà í thu tiền bọn trẻ con trong ngõ (1 hào hay 1 đồng 1 đứa thì phải), tầm 9h là bà í đuổi về sạch. Mình cũng còn nhớ hồi ấy có còn tàu điện, chạy từ Chợ Mơ lên Bờ Hồ, cả lũ trẻ con tòan trèo lên tàu điện ngồi đúng 1 vòng CHơ Mơ Bờ Hồ CHợ Mơ...

Nhớ cả hồi ấy ở chợ Mơ có nguyên một đội quân móc túi, kiêm luôn cả phe dầu hỏa ở xưởng dầu đầu ngõ MAi Hương (bây giờ là phố Hồng Mai)- theo mẹ ra chợ chỉ có mỗi nhiệm vụ là đứng cách mẹ 1 đoạn để ngó xem mẹ có bị móc túi không!

Nhớ hồi lớp 1 lần đầu được ăn cơm với chả, vác bát ra ngõ cứ giơ tít lên cao đố nhau :"Đố mày hôm nay nhà tao ăn cơm với gì?", lúc hạ bát xuống thì chẳng còn miếng chả nào vì anh hàng xóm thó mất :Sigh:

Hồi ấy còn tị :"Sao mẹ ăn gạo đỏ mà con không được ăn?" - vì gạo đỏ là gạo mậu dịch hôi rình nên bố mẹ nấu ăn riêng, còn 4 đứa con được ăn cơm trắng.

Khách sạn Bông Lúa ở phố Bạch Mai ngày xưa là cửa hàng gạo (bọn mình hay gọi là xưởng gạo thì phải) có một bà cụ lưng còng ngày nào cũng quét các bậc cầu thang để nhặt nhạnh những hạt gạo rơi kíêm thêm bữa cơm qua ngày - thương cụ ghê...

Một thời đã qua, bây giờ thỉnh thoảng nhớ ngõ cũ lại lên ngõ 403 Bạch Mai ấy để ăn sáng, 80% dân cư từ hồi mình sinh ra và lớn lên vẫn ở đó, Giờ cũng hết tệ nạn ma túy, mại dâm rồi, tên cũ Ngõ Mỹ Ký cũng ko còn, ngõ Chôn vùi tuổi trẻ cũng không còn... Ngày trước mẹ tớ hay nhặt những lá dừa khô, củi rác ở trên cơ quan về làm chất đốt.

Có hôm buổi chiều 2 bố con tớ nấu cơm xong xuôi rồi, dọn cơm lên nhà , 2 bố con ngồi đợi mẹ về. Đợi mãi đến tận gần 8 giờ tối chẳng thấy mẹ về, bố tớ sốt ruột bảo tớ ra cổng ngóng mẹ .

Ra đến cổng thấy mẹ ngồi ở cổng nước mắt ngắn nước mắt dài. Hoá ra mẹ về từ lâu rồi nhưng gọi cửa không được ( nhà tớ từ nhà trên ra đến cổng khoảng 30m).

Hôm đó xe mẹ bị thủng lốp, mẹ phải dắt bộ từ Khâm thiên về nhà ( ở Láng ). Đằng sau xe thì chở lá dừa lá cọ cao chất ngất. Đi đến nửa đường thì đứt dép . Mẹ đi chân đất dắt xe về vì tiếc tiền vá xe. Về đến nhà không còn hơi để gọi cửa nữa. Hơn 20 năm qua rồi tớ vẫn nhớ như in chiều hôm ấy.

Mẹ tớ có 1 cái túi như cái hộp bằng cao su luôn đeo đằng sau xe đạp. Có năm gần tết được phân phối 1 kg đường trắng , mẹ tớ để trong cái thùng ấy . Đi làm về thì mẹ tớ bị ngã vào ổ gà ngập nước, người ướt lướt thướt, rét run cầm cập , về nhà mở cái túi cao su đó ra thì 1/2 túi là nước bùn đỏ quạch, cân đường bơi trong nước. Sau đó tớ dùng đủ mọi cách nào là đun chỗ đường đó lên rồi đánh bông trứng gà cho vào để hút chất bẩn , rồi lọc các kiểu để cứu cân đường. Cuối cùng thì thành màu hoa mai. Thế mà vẫn ăn ngon lành.

BỐ tớ về hưu mở quán chữa xe đạp, bố tớ hay ốm, nhiều hôm bố tớ mệt nhưng vẫn dọn hàng vì: tháng này bố chưa kiếm đủ tiền đóng học cho con. Riêng tiền học thì không bao giờ được thiếu, cô giáo bảo đóng là phải có ngay.

Năm 89 tớ rời khỏi gia đình đi xa, bố mẹ viết thư : GIờ gia đình không nuôi lợn nữa.

Tớ ngẩn ngơ : Bố mẹ không nuôi lợn nữa thì bố mẹ sống bằng gì nhỉ

Tớ là thế hệ 7X đời cuối thành ra cũng không có nhiều kỷ niệm thời bao cấp lắm. Chỉ nhớ hồi đó nhà nghèo, ăn uống khổ lắm, toàn rau xào. Mẹ thương hai con đang tuổi lớn, mua cho lạng thịt nạc để ăn bồi dưỡng. Hic… chả bù bây giờ, phải giảm ăn thịt không thì béo ú. Lọ mơ mẹ ngâm được mấy hôm, mơ mới nổi mọng nước chưa kịp ngấm đường đã bị tớ chén sạch. Mà tớ không mất thời gian trong việc vớt mơ ra khỏi lọ đâu nhé mặc dù cổ lọ mơ nhà tớ nhỏ nhưng nhà tớ có cái muôi I nốc của Nga, kiểu như muôi chan nước phở, cán vuông góc với muôi ý nên vớt rất nhanh. Lọ mơ nhà tớ bây giờ ngâm ba năm chả ai đụng, nước sậm màu hắn lại. Mẹ tớ bảo giờ nó thành thuốc chữa đau bụng rồi, mơ ngâm lâu thành thuốc mà.

Lớp một phải dùng que tính, thế là hai mẹ con ra chỗ kem Tràng Tiền nhặt que kem về rửa sạch, được bộ que tính xịn như ai :D

Chuyện nhà vệ sinh thì khổ ơi là khổ. Cả xóm mấy chục hộ đi chung 3 cái nhà vệ sinh ở sát vườn rau cuối hồ. Eo ôi, tối mà ra đấy thì có khi chết ngất vì sợ, nhất là vào mùa đông. Bà cô tớ kể ngày xưa có hai cô bạn gái chơi chung ở xóm. Cả nhóm quy định là một đứa có nhu cầu là cả hai đứa kia phải đi cùng áp tải. Có cái cảnh hai cô bạn gái đứng dứoi gốc muỗm xào xạc, rét run, 5’ lại gọi vọng vào “ Xong chưa ?”… :D

Nhà vệ sinh hồi ấy ở đâu cũng giống nhau, đều ở cuối xóm và rất bẩn. Xóm đối diện nhà tớ còn có một anh nghiện đọc truyện trong nhà vệ sinh. Hic…. nhớ nhất hồi nghỉ hè sang nhà đứa bạn chơi, thấy anh phụ trách đội đi ngang qua mặt mũi cau có cầm quyển truyện dày ự. Độ nửa tiếng sau là nghe thấy tiếng bà già hàng xóm kêu inh “ Ai ở trong đấy mà lâu thế ?”

\Hàng xóm nhà tớ có một cô bé bằng tuổi cậu em trai, ba đứa chơi với nhau trong ngõ nhỏ. Bố mẹ nó đi vắng để nó ở nhà, đeo cho cái chìa khoá ở cổ. Trưa nó mang cơm và ca canh rau ngót ( nó hay được cho ăn canh rau này nên tớ nhớ lắm) xuống ăn chung với chị em nhà tớ. Vui dã man. Nó hồi đấy là con một, nhà lại khá giả nên có nhiều thứ rất thú vị. Tớ vẫn nhớ những quyển truyện đầy mầu sắc đẹp “ Cuộc phiêu lưu của Mít đặc và các bạn”, “ Bác sĩ Ai bô lít” của NXB Cầu vồng, bồ đò nấu ăn bằng nhôm bé tí mà có thể nấu cơm được, có cả cháy hẳn hoi, con búp bê bằng gỗ…. Nó hào phóng cho bọn tớ chơi cùng và phá hoại cùng… Tuổi thơ thật hồn nhiên, Tớ chơi trò cô giáo với cô bé hàng xóm và cậu em trai, Tớ làm giáo viên và hai đứa kia làm học sinh. Chám điểm thiên vị cho cậu em trai. Nó khóc nức nở và còn đợi bố tớ về xuống nhà tớ mách và khóc thêm chập nữa. Thế là xong. Mấy con lươn nắm trên mông tớ. Còn nớ được bố tớ chấm điểm lại hả hê ra về.

Bọn trẻ con ở xóm to thì nhiều trò hơn. Nhưng bọn trẻ con đấy đều hơn tuổi bọn tớ. Con trai hay rủ nhau chơi đồ, chơi trận giả inh ỏi cả xóm buổi tối. Nhớ nhất có hôm bọn nó chơi trận giả hăng quá, còn lấy nắp bô của các nhà hàng xóm có con nhỏ để ngoài cửa để làm khiên đánh nhau. Kinh hoàng !

Rằm trung thu hồi nhỏ với tớ là một ấn tượng sâu sắc. Tớ thích đi chợ Hàng Mã lắm, chỉ để ngó thôi chứ làm gì có tiền mà mua. Mãi mới được mua một con búp bê bằng nhựa bé tí. Được chị hàng xóm khéo tay cắt may cho búp bê một cái váy thun vừa vặn rất đẹp từ cài quần cũ của mẹ. Tớ yêu nó cực. Chơi búp bê với những đứa khác toàn cho búp bê của mình đóng vai công chúa. Bọn trẻ con xóm tớ chuẩn bị trung thu bằng việc tích trữ những xâu hạt bưởi bóc sẵn, phơi khô. Tiếng trống sư tử náo nức từ hôm 13 khiên cho không khí càng rộn ràng hơn. Đêm hôm rằm trẻ con xóm tớ tụ tập ở sân đình, đứa nào có gì mang đấy. Đốt tí nến xong là phá cỗ luôn chả cần trăng. Xong bắt đầu vào màn múa sư tử tụ túc. Hồi đấy chỉ có cho mỗi cái rá vào bụng giả vờ làm ông địa nhảy múa một tí mà háo hức thế, cả lũ cứ cười không dứt. Khoảng 8 h tối bắt đầu có múa sư tử là tất cả hội trẻ con kéo ra xem. Rồi đi theo đám rước sư tử đến tận đầu phố. Nhễ nhại mồ hôi vì chen lấn những chẳng thấy mệt gì cả. Cứ đến nhà nào treo phần thưởng, nghe tiếng trống giục là lại nghển cổ, la ó chen nhau để xem sư tử múa thế nào.

Chao ôi là nhớ .... ngày xưa ! Ngày nhỏ mình rất hay bị bố mẹ đánh vì tội "ăn vụng". Khổ. đói quá thành ra cái gì cũng thấy thèm. Ăn vụng mỡ để rưới cơm nóng với nước mắm. Lấy trộm đường rang lạc làm kẹo. Đi ăn trộm lá me chua người ta trồng làm hàng rào về trộn muối ớt ăn.

Các bạn có biết tách giấy vở làm đôi để viết được nhiều không? Bây giờ chắc không ai hình dung ra làm sao có thể tách 1 tờ giấy thành 2 tờ được nhỉ?

Ngày ấy các bạn nam rất ga lăng, đi cắt trộm dây viễn thông tết nhẫn tặng các bạn nữ. Ngày mùng 8-3 các bạn mua đường, bột nặn bánh trôi đãi cả lớp.

Thời bao cấp ai cũng nghèo, xa xỉ nhất là cái quần bay (vải liên xô), mũ cối tàu, dép cao su đúc...

20-11 Cả lớp đến thăm cô giáo mang biếu cô 1 nải chuối to và 2kg cam, cô thấy lũ học trò nhễ nhại mồ hôi đem bổ cam, cắt chuối và lũ học trò chén sạch bách số quà tặng cô.:Laughing:

Ngày đổi tiền, hình như năm 1986 nhà mình chỉ đổi được có mấy chục đồng. Ấn tượng rõ nhất sau thời bao cấp là mẹ mình nhận ký gửi quần đùi bán cho cửa hàng bách hóa kiếm thêm mấy đồng phụ vào lương. Bữa cơm đã bắt đầu có thịt. Mẹ mình vẫn kể lại rằng có lần cả nhà 4 người (bố, mẹ, 2 con) gầy trơ xương mà xơi hết 1.2 kg thịt luộc vẫn thòm thèm.

Trẻ con tụi mình rất mong đến hè được đi sinh hoạt, được ca hát, phong trào văn nghệ khu phố rất phát triển. Cuối hè có thi thể dục thể thao, thi hát, thi cắm trại. Giải thưởng thì chả nhớ mấy, chỉ nhớ là thi xong buổi trưa tất cả các bạn đều được ăn phở.

Nghĩ đến những ngày đó thấy sao mình sống nghèo mà hàng xóm yêu thương nhau thế. Giờ chỉ quí cái tình ngày xưa, chứ sống nghèo như xưa thấy sao khổ cực quá.

Mình không có thời gian đọc hết các bài, nhưng hình như ở đây các bạn phần lớn ở thành thị, mình thì hồi đó ở nông thôn. Ít phải đi xếp hàng, chỉ những dịp tết mới phải xếp hàng mua hàng tết: bánh kẹo, mứt. Nhưng cũng đói và khổ lắm.

Về ăn uống

Cơm gạo: ở nông thôn hơn ở thành thị là được ăn gạo mới, không bao giờ phải ăn gạo mốc, gạo hôi, nhưng phải ăn độn: độn ngô, độn khoai. Mình nhớ bát cơm khi đó nó màu đen nhiều hơn màu trắng vì toàn khoai khô (khoai lang thái nhỏ phơi khô), hai tới ba phần khoai mới có 1 phần cơm. Mình là con út trong gia đình có 6 anh chị em, thì được mẹ chọn chỗ cơm có phần trắng nhiều hơn cho ăn. Khổ nhất là những dịp mùa ngô, loại ngô ngày trước trồng toàn loại ngày nay người ta làm thức ăn gia súc, ăn 1 bữa cơm độn ngô thì cả ngày không tiêu được, đến lúc đi ra thì có mà khóc nó cũng không ra, đau lòng lắm. Người lớn đi làm, trẻ con ở nhà nấu cơm, có những bạn nấu nồi cơm xong, không bê nổi vì người làm thì đông, nồi cơm to, người nấu cơm thì nhỏ quá, mới học lớp 2 hay lớp 3 gì đó.

Nhà có gà, có lợn, nhưng chỉ khi nào có khách hay có giỗ mới được ăn thịt gà, tết mới được ăn thịt lợn, vì vậy trẻ con chỉ thích nhà có khách, nhiều nhà phải làm mâm cơm riêng cho khách, trẻ con thập thò chỉ chờ khách gọi vào ăn cùng, vì vậy bố mẹ chỉ cho ngồi dưới bếp, khi nào mâm cơm khách ăn xong, mẹ bê xuống mới được ăn (thức ăn còn lại của khách).

Ăn quà: chỉ mong ốm để được ăn bánh, ăn bát miến, cháo gà... Lâu lâu có ai đi xa về có kẹo là quý lắm, nhiều khi thèm ăn đường, đặc biệt nếu ốm thì được uống thuốc ho, vì vậy trẻ con rất thích ho, mới được uống xi rô, ngọt như nước đường. Nhà nấu chè đậu đen, ở nông thôn không có đá, anh mình cho chè vào chai thả xuống giếng nước chờ nó mát rồi uống, nhưng có lần bị lấy trộm, không còn cơ hội uống chè nữa.

Về xe cộ:

Nhà mình có 1 cái xe đạp thống nhất, thời đó (những năm thập kỷ 70) thì nhà có xe đạp cũng không nhiều. Hồi đó mua được cái săm (ruột) hay cái lốp (vỏ) là khó lắm. Săm thì vá, vá và vá, thậm chí không có tiền vá phải kiếm miếng cao su non về ngâm với xăng mới có keo để tự vá lấy. Nhớ có lần 2 anh em đèo nhau đi chơi bị thủng săm, mang ra vá, ông thợ bảo không còn chỗ để vá nữa rồi, bây giờ chỉ còn cách là cắt đoạn thủng đi, lấy đoạn lành ở cái săm cũ nối vào, dù nó có 2 màu khác nhau, mà cái săm của mình cũng có mấy mối nối rồi (măng sông). Dù vậy vẫn vui, vì còn có xe mà đi. Còn lốp xe thì đi bánh sau mòn thì chuyển lên bánh trước, nhiều khi lốp trơn không còn tí ma sát nào nữa.

Về xã hội:

nếu ai xem phim Đất và Người thì đúng 99% xã hội nông thôn thời bấy giờ, khi TV phát phim đấy, mình xem cũng thích, nhưng có nhiều người không sống thời đó ở nông thôn thì thấy không hay.

Về học hành:

Vì khổ và cần người lao động nên nhiều nhà chỉ cho con học để biết chữ và biết cộng - trừ - nhân - chia. Mình nhớ có ông bố bảo con, con chỉ học đến khi nào đọc xong 1 tờ báo Nhân dân là được rồi, học nữa thì lấy gì mà ăn. Đầu tiên là vụ ăn uống. Công nhận là hồi xưa dễ ăn. Mà quan trọng là có đâu mà ăn nên cái gì chả quý. Tớ hôm nào đi học về, nhất là mùa đông, có tý tóp mỡ với mắm ở dưới cặp lồng, rồi cho vào bếp mùn cưa hâm nóng lên ăn thấy ngon lắm lắm. Nghĩ cảnh trẻ con bây giờ, ăn uống chả thiếu gì mà đa phần bố mẹ ông bà oshin phải dỗ lên dỗ xuống mới xong bữa, thấy thương bọn nó nhiều hơn :D; Thi thoảng được số lượng điểm cao nhất định, he he, bố mẹ chở đi cho ăn trứng vịt lộn hoặc bánh rán. Phở thì hiếm lắm, thèm lắm. Mà đúng là toàn lúc ốm mới được ăn, chỉ béo đứa nào không ốm thôi. Hôm nào mà ăn gà, hình như 1 năm may ra được một lần thì không được chặt, mà một con phải ăn làm 3 bữa là ít, ăn xong còn phải tẩu tán xương từ từ, hi hi. Mà hồi bé, tớ thèm nhất nộm bò khô góc Đinh Liệt, của một ông cụ người tầu. Mỗi lần lượn sang nhà họ hàng ở góc đấy, cô cháu anh chị em họ nếu được ông cho tiền lại hè nhau đi tìm cụ, đúng là phải đi tìm vì có hàng quán đàng hoàng và dám ngồi 1 chỗ đâu, chẹp, nhưng mà ngon tuyệt. Sau rồi oánh nhau, chắc cụ phải về quê mất. Tiếc lắm í.

- Vụ học hành cũng nhiều chuyện buồn cười. Mỗi dịp lễ tới nhà cô giáo, toàn thấy mang cam, bút bi hoặc sổ. Có thằng bạn tớ nổi tiếng tới giờ vì tới nhà cô giáo lớp 4, mang cho con cô mặt nạ, làm con bé sợ khóc thét. :D. Bọn tớ học trong trường làng. Buổi tối ờ lớp thả trâu bên trong, ngày lại đuổi trâu ra cho học sinh vào. Ngày nào tới lớp cũng phải dọn chiến tích nó để lại. Thật, tớ ghét trâu từ hồi đấy. Bọn lớp mình hay ra ao xung quanh lớp lấy quả bồ kết non về ăn, rồi bọn con trai hay lấy đỉa hoặc rắn nước vào trêu bọn con gái. Do được luyện tập từ dạo đấy nên lớn lên tớ chả sợ mấy cái con vớ vẩn đấy :D, trộm vía con tớ cũng được cái gen này, he he.

- Ngày tết thường rục rịch trước vài tháng chứ chả phải vài ngày như bây giờ. Vì mua được một món cũng phải chờ đợi, nhờ vả chứ có đơn giản đâu. Xong rồi khoảng 27, 28 gì đó gói bánh chưng. Nhà tớ ăn ít nhưng năm nào cũng phải gói. Công nhận các cụ nhà mình cũng chiều con phết. Gói bánh chưng thích nhất là được 2 cái bánh con con cho 2 chị em. Xong rồi ngồi canh bánh với bố, ngủ gật là chính. Mà hoa ngày tết, tuyền là thược dược với violet, hic hic, rất ít các hoa khác. Vậy nên bây giờ, ngày tết 2 cụ bà nội ngoại nhà tớ cứ phải làm lọ violet với thược dược mới bảo là có tết. Khổ thế đấy!

- Ông/Bà thu mua lông gà lông vịt, đồng nát hoặc đổi kẹo kéo, kẹo dổi hoặc bánh quế. Mà đồ đồng nát, ví dụ như dép chẳng hạn, phải đúng là nát thật cơ. Dép tớ đi phải hàn qua độ chục mũi rồi mới thải. Mà dùi ui, sao kẹo ngon và thơm thế kia chứ. Tay chân cả 2 bên vừa bốc lông gà lông vịt hay đồng nát xong, người này lấy kẹo đưa người kia liếm láp, chả thấy bệnh tật gì nhờ! He he. Bây giờ mà con chúng ta làm thế, các mẹ lại chả nhảy tưng tưng lên ý chứ. Mà đồ chơi toàn là gỗ, vỏ bảo, bìa. Cả khu nhà tớ có 1 thằng, mẹ nó đi LX về mua cho quyền Mít đặc. Giời ơi, tớ tốn không biết bao nhiêu bánh quế cho cái thằng đấy để được đọc nhờ đấy. Mà sao Mít Đặc bản tiếng Việt bây giờ chả thấy quyền nào màu mè gì cả nhỉ. Hay nhất là ở đoạn đấy mà lại chả có.

- Đóng giả làm ăn xin, khoác áo rách, đội nón lá đi xin... quanh nhà hàng xóm. Đồ xin được mang về nấu cơm, rau mùng tơi hái ở hàng rào nấu canh. Ăn uống xì xụp với nhau. Mà hồi xưa cứ 1 người ăn xin tới thì trẻ con cả khu tập thể kéo nhau đi theo, vui đáo để :D. Có đứa bạn tớ, đến lượt nó đóng giả làm ăn xin sang nhà bác hàng xóm (tên là Đường) gõ cửa, bác í ra thì nàng ý bảo: Bác Đường ơi, cho cháu xin ít gạo :));

- Mỗi lần ở khu tập thể có nhà nào thịt lợn thì trẻ con được ngày vui. Xem từ lúc chọc tiết lợn, mổ bụng và hay rình để lấy quả “bóng” để thồi :));

- Quả WC thì đúng là như các mẹ ở đây bàn. Tớ hãi đến tận bây giờ.

- Vụ quần áo thì cứ đứa bé mặc lại của đứa lớn. Quần áo vá là chuyện thường ngày ở huyện. Đi học và xung quanh hàng xóm, đứa nào chả có tivi, khỏi phải tị nạnh nhau cho mệt.

- Ở KTT nhà tớ còn cùng nhau nuôi cá, tận dụng mấy cái ao xung quanh. Chả thấy cho ăn bao giờ, toàn thi thoảng thả rau hay rác xuống thôi. Nhưng đến cuối năm tát ao thì vui cực. Bọn trẻ con dậy từ sớm, chả phải gọi rồi ra canh cá. Lúc nào tát cạn thì đứa nào lớn cũng được xuống sục bùn. Sướng như điên í.

- Nhà tớ với nhà hàng xóm, phần bếp xây cách nhau bức tường bằng rơm và đất. Một ngày đẹp giời tường đổ, 4 đứa trẻ con ở 2 nhà sướng như điên, vì giao thông dễ dàng, đi lại thuận tiện. He he.

No lâu

     Đã thành lệ, buổi sáng sau khi phóng xe đến cơ quan ngồi quanh bàn trà với đồng nghiệp rôm rả mọi chuyện xa gần, lúc xách cặp về phòng riêng, tôi mới sực nhớ ra rằng mình chưa ăn bữa sáng. Khổ thế đấy, ăn bữa sáng đúng giờ ăn sáng là cả một vấn đề, không phải vì quá bận bịu, mà cái chính là cơ thể không có nhu cầu, nhưng nếu mình bỏ qua đi thì tới gần trưa lại đói, khó làm việc. Vấn đề không kém nan giải nữa là nên ăn gì, có khi tự thống kê ra các loại món ăn bữa sáng, nhưng cơ thể cứ dửng dưng, chẳng mặn mà với món nào. Bởi thế sáng hôm ấy tôi lang thang dọc vỉa hè, nghĩ mãi mà vẫn chưa quyết định được nên ăn sáng bằng gì. Phở, bánh mì sốt vang, cháo lòng, bánh cuốn hay bún cua... ? Cơ thể quá nhạy cảm trong việc phát hiện ra những mặt hạn chế của các loại món ăn đó để thoái thác chứ không chịu "duyệt" một món nào. Bỗng có lời mời bằng giọng phụ nữ:

     - Bác ơi, bác ăn ngô luộc cho cháu đi!

     Ngô luộc à, hay đấy! Tôi quay đầu tìm thì gặp một người đàn bà đang dắt chiếc đạp chở cái nồi khá to, vung mở sẳn, hơi bay nghi ngút. Nhìn qua làn hơi thấy lưng nồi ngô luộc màu trắng sữa, từng bắp ngâm lấp lửng trong màu nước vàng nhạt. Thấy tôi chú ý, chị bán hàng dừng lại, dồn sức giữ cho chiếc xe khỏi mất thăng bằng. Khi tôi ngỏ ý mua, chị hồ hởi rút cây gậy cài cho xe khỏi đổ rồi dùng đủa chọn cho tôi những bắp vừa ý. Khi trao túi cho tôi, chị nói:

     - Bác cứ ăn đi, ngô luộc vừa ngon miệng, vừa no lâu lắm đó. Ăn bây giờ, quá chiều bác không ăn cơm cũng chưa thấy đói đâu!

     Tôi không nhìn vào túi ngô chị đưa mà nhìn chị, bởi cái từ no lâu chị vừa nói, người quê tôi quen dùng một thời, hay chính xác hơn là cả quãng đời tuổi trẻ của tôi. Ăn no, mặc ấm là khát vọng của bao kiếp người và đối với một số khá đông thì mãi mãi chỉ là khát vọng. Ăn chỉ cốt để lấy no, nên ưu tiên cho món ăn nào no được lâu để có sức mà làm việc. Cháo, bánh đúc có thể tức thời làm cho người ăn có cảm giác no, nhưng chỉ cần lội mấy đường cày hoặc gánh vài gánh phân ra ruộng là mắt đã hoa lên vì đói. Khoai lang cũng thế, cơ thể tiêu hóa quá nhanh nên người nông dân không quý bằng ngô. Người quê tôi chẳng ai biết trong ngô có chất gì và dinh dưỡng ra sao, chỉ biết ăn ngô no lâu, nhất là loại ngô tẻ hạt già đãi sạch vỏ, ninh mềm. Tôi nhớ vào năm đói, nhiều người nói rằng, nếu chỉ được ăn một bát, giữa cơm và ngô thì sẳn sàng chọn ngô bởi cái giá trị no lâu của nó.

     Tôi cũng như phần lớn dân thành phố bây giờ có ý tránh những loại thức ăn gây béo, trong khi đó, gắp được miếng mỡ trong nồi rau xào là hạnh phúc của bao đứa trẻ nông thôn và miền núi. Trong khi chúng ta sung sướng vì thấy bụng mau đói, thì được no lâu còn là điều quan tâm của biết bao người.

     Hầu hết lớp trẻ lớn lên ở thành phố lầm tưởng rằng nghèo đói là chuyện ngày xưa, chỉ còn tồn tại trong câu chuyện kể của các bậc bố mẹ như để ôn nghèo, nhớ khổ. Họ biết đâu rằng, nghèo khổ còn là chuyện thời sự của nhiều nơi, mặc dù nghe đài báo thì thóc lúa thu hoạch ngày một tăng, giá gạo liên tục giảm, nhưng không vì thế mà hạt gạo đã làm no tất cả mọi người trên mọi vùng của đất nước chúng ta. Vật lộn vì miếng cơm manh áo chẳng phải chỉ là chuyện của vùng sâu, vùng xa, mà ngay quê chị bán ngô cho tôi là một huyện ngoại thành, cách trung tâm thành phố cũng chỉ vài chục cây số. Qua câu chuyện, tôi mới biết rằng, chị sinh con chưa đầy hai tháng đã phải gửi lại cho bà nội trông, ba giờ sáng thức dậy luộc ngô rồi chất lên xe đạp về thành phố để sáng ra kịp bán cho những người dân đi tập thể dục về, sau đó dắt xe đi bán rong theo các phố. Chị cho biết rằng, ngày nào được mươi, mười lăm ngàn đồng là hạnh phúc lắm rồi, chứ có hôm gặp mưa, bán không được phải đem về nhà ăn trừ bữa. Được cái ăn ngô lành bụng và no lâu nên nếu có ế thì cả nhà cũng không ai kêu ca...

     Xóa đói, giảm nghèo là chủ trương nhân đạo của đảng và Nhà nước đã giành được những thành tựu đáng kể thể hiện cụ thể trên tỷ lệ đói nghèo các vùng quê giảm xuống so với trước đây. Điều đáng tiếc là nạn tham ô lãng phí vẫn còn là một vấn đề thời sự, làm nghèo đất nước, hạn chế tốc độ xóa đói giảm nghèo. Có người bằng cách này hay cách khác, kiếm được nhiều tiền bất chính, họ kéo nhau vào quán ăn uống xả láng gọi là "đập phá", có khi một chai rượu ngoại có giá tiền xấp xỉ hai tấn thóc! Trong khi đó dịp tết, nhiều gia đình nghèo đói không biết tìm đâu ra bát cơm để cúng tổ tiên. Nghĩ cho cùng, chính những kẻ tham ô lãng phí tiếp tay cho cái đói, cái rét hành hạ những người dân lương thiện.

     Với số đông chúng ta, cái đáng ngại là sự vô cảm trước nỗi khổ của người khác. Có lẽ sự vô cảm cũng là kẻ đồng lõa với đói rét và bao tệ nạn khác.

     Tôi nhìn dáng điệu tất tả cùng nước da xanh tái của chị mà thầm trách mình chóng quên quá khứ nghèo khổ chưa xa. Cám ơn lời mời mộc mạc của chị đã giúp tôi nhớ lại và xác định được rằng quá khứ nghèo khổ của mình còn là hiện tại của nhiều người khác.

     Và từ hôm đó, cứ mỗi lần phân vân khi chọn món ăn bữa sáng là hai từ no lâu của chị hàng ngô lại văng vẳng bên tai...

HẾT ĐÓI - Truyện ngắn của Phạm Phát

Anh bạn làm bảo tàng một hôm bảo tôi: Anh từng sống dưới chếđộ cũ, coi thử còn giữđược hiện vật gì hay cho bọn này xin với. Ảnh nói như chơimà tôi thì nghĩ thật. Ước gì có thể gởi cho ảnh cái cặp tre, đồ nghề của người xóm Bãi làng tôi hay là chín hạt gạo cuối cùng trong đời một bà lão cũng ở cái xóm ấy!

Chắc chắn, đó sẽlànhững “hiện vật biết nói” trong gian trưng bày vềcuộc sống bi thảm của dân mình trước cách mạng.

Thuở đó, làng tôi nghèo lắm. Ngoài mấy hộởxóm Trong cónhàngói, xe đạp, màhồiđó chỗtôi gọi là… xe máy, còn ra thìnghèo xơ nghèo xác.

Nghèo mạt rệp làdân xóm Bãi. Người xóm này sống bằng cái nghềmàngày nay nghe lại phát rùng mình: nghề lượm phân người. Phân lượm về, phơi khô, đập vụn, mang đổi khoai, đổi gạo. Cứ mỗi người một đôi quang sọt, mo cơm khoai buộc ở đầu gánh, cái cặp bằng tre trên tay, vừa để gắp phân, vừa làm vũ khí tranh đấu với… loài chó. Người xóm Bãi có câu cửa miệng: làm cái nghề này chỉ thấy mặt chó, chẳng thấy mặt người. Thì trời còn tối đất đã đi, tha thẩn đầu cồn cuối bãi, đến nhọ mặt người mới về tới nhà.

Mà cơkhổ, nhàđâu córa nhà. Cứlà lụp xàlụp xụp khắp lượt: mái rạ, phên nan trát cứt trâu, bước vô nhà là hôi rình rình.

Nhưng cái mùi nhàđó chừng nhưlại hợp với cảnh người lớn, mỗi người chỉmỗi cáiáo lành, thường làcáiđã váquàng, điđâu mới xỏtay. Thường ngày, đi làmđi lụng thìvá chồng váchắp. Còn trẻcon íà, lớn tồng ngồng vẫnởtruồng dồng dỗng.

Và cái mùi khốn khổ đó cũng rất hợp với những bữa ăn: giữa chiếc chiếu cũ trải trên nền đất là rổ khoai đặt cạnh nồi canh rau nấu mắm. Để ăn cho mau no, người già nuốt đỡ nghẹn.

Ở đây, gạo mới đúng là hạt ngọc của trời. Ngày thường dễ chi thấy. Phải đợi đến ngày giỗ ngày tết, may ra mới ngửi được hơi cơm. Có được lưng lon gạo, đổ re re vào cái niêu đất bằng trái bưởi. Cơm chín, bới ra hai chén, chập lại vừa được một chén cơm in, cắm đôi đũa đặt lên bàn thờ. Hết tuần hương, bưng chén cơm cúng xuống, xẻ đều cho cả nhà để ai cũng được hưởng lộc.

Nhưng lộc cómấyđời bén tới nhàkhó!

Nghèo khónhất xóm Bãi phải kểđến nhàbà Dện. Tên thực làVện mànói theo giọng Quảng nên nghe ra vậy (chịruột của bàtên làMực, chết lâu rồi). Nhàchỉcóhai bàcháu. Bàthìđã giàlắm, lưng còng riết. Mỗi lần ra đường, hai cánh tay cứ thỏng xuống, ve vẩy, ngón vừa chạm đất, đi mà ngó như bò. Đứa cháu gái nghe nói đã bộn tuổi mà người thấp xịt, ngực bằng thín y chang con trai.

Thường thấy hai bàcháu dắt nhau đi mót. Khắp xóm Bãi này, ngólại chỉ có nhà này là không “đi phân”. Hơi sức đâu mà kham cho nổi cái nghề trời hành này: bà thì đã quá già, cháu lại còn quá bé. Đành đi mót đi máy sống qua ngày. Cứ sáng ra, kéo cái chà gai rấp cổng, hai bà cháu lách người ra. Bà thì nón cời, áo vá, vá kín vải. Cháu thì tay liềm vai bị, mưa nắng chi cũng giơ cái đầu trọc, mình trần thui lũi, bốn mùa chỉ độc cái xà-lỏn ngắn cũn cỡn dính trên người. Vừa ra khỏi cổng, bà đã à ừ nói như người ta đọc kinh:

-Thiên hạai chẳng đi mót, người mót cái này kẻmót cáikhác. May mà Trời Phật còn cho bà cháu mình được mót máy các cái sạch. Chớ còn, con coi…

Như an ủi mình. Nhưdỗdành cháu. Nhưng đứa cháu lại gắt“Cứnói miết chừng nớ!”. Bà la lại: “Thìkệtao!”Rứa làngày đi mót của hai bàcháu bắtđầu. Mùa nào mót nấy. Ai gặt lúa, tới mót lúa. Ai giở khoai, tới mót khoai. Ai tát đìa, tát ao thì mót tôm, mót tép. Ngày không có chi mót thì lần vô xóm Trong, có ai sai làm chi thì làm, kiếm cơm. Là nói vậy, chứ ở cái xứ moi được củ khoai dưới đất lên đã chảy máu mắt thì kiếm được cái đưa vào miệng đâu có dễ. Vậy nên, quanh năm suốt tháng, hai bà cháu cứ đói xanh xương, vàng mắt.

Tới bữa nọ, bọn con nít xóm Trong ýới gọi nhau: Bà Dện chết, đi coi đi bay ơi. Tôi cũng chạy theo. Tới nơi, chỉ dám thập thò ngoài hàng rào gai, ghé mắt vào. Trong căn lều tối thui, bà Dện nằm trên chõng, đắp chiếu. Chiếc chiều thảm không phủ kín người, để thòi ra hai bàn chân. Chao ôi, đôi bàn chân người chết ngó bắt kinh: mu bàn chân thì đen nhẻm, gan bàn chân lại vàng ệnh như sáp. Không thấy vắt cơm, quả trứng với ngọn đèn lu lu đặt ở đầu chõng. Chỉ thấy ông Mười Sang, người chuyên đi liệm người chết, đứng chống nạnh nhìn cái chõng. Không hiểu sao đã đi làm cái nghề này, mà ổng lại có cái tên nghe kì vậy. Ổng cứ đứng lắc đầu, dường như chưa biết xoay xở thế nào. Rồi nghe như có tiếng khóc, khóc mà cứ khò khử trong cổ họng như con mèo hen. Nhìn kĩ mới thấy đứa cháu gái đang cuộn mình như con cuốn chiếu, ôm chặt lấy cái chân chõng mà khóc, làm như cái chõng ọp ẹp sắp tha bà nó đi không bằng.

Nghe tiếng khóc, ông Mười thong thả bước tới, cúi sát xuống nói nhỏ “Đừng khóc nữa con, để bà con đi cho nhẹ nhàng”. Rồi ông đứng thẳng người lên, nói như ra lệnh:

-Thôi, nínđi, coi thửcóchi đưa theo cho bàmi không?

Nghe ông Mười nói, đứa cháu nhưsực nhớvội giở chiếu, thò tay vào ngực bà, lần mò hồi lâu mới lôi ra được một cái túi hình vuông bằng nửa bao diêm, khâu bằng vải cũ, có đính hai sợi chỉ. Có lẽ, hồi còn sống, bà hắn vẫn thường đeo cái túi đó trước ngực, như đeo bùa. Hắn nâng cái túi nhỏ xíu đó lên, nói lí nhí:

-Bà cháu dặnđưa cái này cho ông…

Ông Mười cầm cái túi, nắn nhẹ xem thử rồi đưa ra ngoài sáng, cẩn thận khui ra. Chợt ông sững người, đổ mấy hột gạo ra lòng bàn tay, dùng đầu ngón tay gạt nhẹ từng hột, lẩm nhẩm đếm. Một, hai, ba, bốn,…Đếm đén hạt thứ chín, ông rên khẽ một tiếng, ngửa mặt lên trời, lầm rầm gì đó trong miệng không nghe rõ, rồi chậm rãi bước vào. Hai bàn tay từng rửa ráy, gói ghém cho hàng trăm người chết, giờ bỗng run bần bật, thận trọng nhét từng hạt gạo vào miệng bà Dện*.

Xong đâu đấy, ông lùi một bước, phủi tay nhè nhẹ rồi chắp lại trước ngực, vái hai vái, thầm thì khấn như chỉ đủ cho mình bà Dện nghe:

-Nam môa di đà…rứa làtừnay hếtđói rồiđó, bàhỉ!!...

Ổ THIÊN ĐƯỜNG - Truyện ngắn Nguyễn Hữu Hồng Minh

Mọi con đường đều dẫn vềnhàcủa mình. Không biết ai đã từng nói câuđó màPhong cảm thấy rất có lý.Đó làchốn bình yên. Nơi mình được chính làmình nhất. Cho dùchật

hẹp thì nóvẫn làmộtổthiên đường.

*

Vậy mà phải mất hai mươi năm lang bạt sống ởSài gòn Phong mới tạo dựng được cáiổthiênđường đó. Gọi làổvìnóhơi khiêm tốn, căn hộba mươi mét vuông trên tầng bốn của cưxá lao động bình dân. Nóởxa thành phốtới mức mỗi ngàyđi làmđủ cho Phong cảm giác rã rời. Ngày đầu tiên anh chở Uyên về họ gặp cơn mưa lớn. Cơn mưa chào đón người mới đến tàn bạo đến mức anh ngỡ thiên nhiên đang phẫn nộ, bừng bừng tạo tác lại mọi cảnh giới theo ý nó. Từng dòng nước xé phăng, trút xuống giữa trời như thác đổ. Những cái bong bóng to như nắp xoong, vặn xoáy bập bùng, sôi réo ùng ục trước khi bị nuốt trửng vào họng cống. Đoàn người nhích tới từng bước. Đo đếm con đường dài. Nhiều kẻ lo âu ngửa mặt nhìn trời. Nước từ từ ngập lên dưới chân. Phong không nghĩ mưa lớn và nước có thể dâng lên nhiều đến mức ấy! Gần như hệ thống cống rãnh tê liệt hoàn toàn. Đoạn đường gần ray xe lửa, dưới bảng hiệu “Coi chừng tàu hỏa” trũng xuống, nước từ các nơi đổ về lênh loang cuộn xiết như dòng sông. Muốn đi tiếp phải băng ngang nên hầu hết các xe rơi tõm xuống đó gầm rú, giãy dụa, vượt thoát. Có chiếc may mắn thoát được. Nẹt pô chạy cố mạng, tháo thân. Nhưng phần lớn nối đuôi lũ lượt tắt máy. Nước cứ tiếp tục dâng lên. Sâm sấp mắt cá chân. Liếm lai quần. Và ngập quá ống pô. Những cái áo dơi sấp ngửa bay lồng lộng trên đường. Đường về nhà sao quá xa! Phong chờn chợn nghĩ cái ổ hạnh phúc của anh khuất mờ sau màn mưa giá lạnh kia. Những ngày đã qua là ở trọ ư? Vậy hôm nay là gì? Ổ trọ. Hay hình tượng diêm dúa, ổ thiên đường. Thì cũng lang thang loanh quanh một kiếp mượn thôi mà. Phong như bỏ quên Uyên. Anh đắm chìm vào dòng suy tư khi cả hai tấp vào trú dưới mái hiên. Thời gian thực ra là gì nhỉ? Rất khó định nghĩa cụ thể. Mới đó đã năm năm sau đám cưới. Phong đi hết thời trai trẻ và đã có một cậu con bốn tuổi. Rồi thuê mướn, vạ vật hết hang cùng ngõ hẻm. Một Sài gòn của những cửa hiệu u tối. Của kiếp trọ. Những cực nhọc đó là thực hay ảo ảnh? Thuê trọ không chỉ khốn đốn bởi tiền bạc đóng hàng tháng réo đuổi mau chóng dập dồn như trống trận mà còn ngàn lẻ một lý do khác. Khi rối boong như mê lộ, lúc trùm úm sấp ngửa giống lật bàn tay. Hãy hình dung thế này, vui chủ nhà cho ở, buồn kiếm cớ đuổi đi. Như cái chặng cuối cùng đẩy Phong đến quyết định phải làm cú liều mạng vay tiền mua nhà là bởi không dưng trong vòng tám tháng vợ chồng anh buộc phải chuyển đổi chỗ ở đến bốn lần. Lần nào cũng vào thế chẳng đặng đừng, bất đắc dĩ. Để lại sự ngơ ngác trong mắt con trẻ. Thằng bé vừa chuyển tới chỗ mới, chưa kịp làm quen với bạn bè đã phải chuyển đi. Lần thứ nhất căn hộ mướn trên tầng ba của một chung cư cũ kỹ, hai vợ chồng bàn nhau sửa sang lại. Uyên buôn bán áo quần nhì nhằng qua mạng. Có áo quần thời trang, mốt kiểu nào hay trưng lên woép (1) hết. Người mua vào xem từng cái. Thấy mẫu nào ưng ý thì còm-men (2) hay gọi điện trao đổi. Công đoạn cuối khách chuyển tiền qua tài khoản, chủ đóng gói chuyển hàng theo địa chỉ qua bưu điện. Công việc buôn bán đang khá khẩm vì đột nhiên chủ nhà “nhảy” hợp đồng, lấy lại nhà. Thế là hai vợ chồng méo mặt bấm bụng dọn đi. Lần thứ hai mới ở được một tháng, thì chủ nhà bán được giá khi trước đó treo biền rao quảng cáo hàng năm chẳng ma nào ngó tới. Lần thứ ba chủ hộ cho thuê để rồi đi mướn lại chỗ khác tiện nghi, gần trung tâm hơn. Nhưng nửa chừng không ký tiếp được hợp đồng buộc phải lấy lại để ở. Và lần thứ tư thì lý do có vẻ lạ. Phong là nhà báo. Một hôm anh và nhóm cộng sự tác nghiệp bị xem là có vấn đề khi vô tình viết vào một lãnh vực chống tiêu cực. Khi loạt bài vừa đăng thì lật tức anh bị làm khó dễ. Có một quyền lực vô hình nào đó trên anh xoắn xuýt như một cái lưới. Bằng những mối quan hệ, đối thủ này triệt phá, cản trở anh, không lối thoát. Khi bị lấy lại nhà, anh ngớ người chẳng hiểu sao! Tay chủ nhà mặt cứ thơn thớt, cười nói, hai tay vung vít. Miệng xoen xoét xin lỗi. “-Thật phiền quá! Tình huống bất ngờ. Mong ông anh thông cảm!”. Sau này khi tình cờ gặp lại nhau, y mới cho Phong biết rằng y bị ép lấy lại nhà để cho Phong văng ra đường, đi đâu thì đi, lao đao cùng quẫn. Cảnh tỉnh anh xớ rớ vào những đề tài nhạy cảm.

Đúng là lúc đó Phong căng muốn nổóc. Vợ dại, con thơ. Đồ đạc ngùn ngụt chất đống. Oải nhất là sách. Có cả ngàn cuốn. Mỗi lần di chuyển mọi thứ tung tóe như giáp la cà một trận tử chiến. Nhìn mà cám cảnh. Đó chưa kể phải làm một loạt việc khác như ra phường đăng ký lại tạm trú, thông báo bạn bè thay đổi địa chỉ, số điện thoại bàn, liên hệ với các đối tác để tiếp tục nhận bưu phẩm, thông tin từ nhà bán bảo hiểm, ngân hàng cho vay trả góp. Rồi đến chỗ mới đâu phải ngã ra mà ngủ được. Phải thuê bao lại điện thoại, internet, truyền hình cáp…những phương tiện gắn chặt, liên quan đến công việc và đời sống hàng ngày của Phong. Rồi dọn dẹp, chùi rửa, sắp đặt bàn thờ, cúng kiếng…đôi khi cả tuần còn chưa xong. Cứ tái diễn đi lại cảnh này không biết còn xô dạt tới bao giờ nữa? Bởi trong hợp đồng soạn cho thuê nhà, sau khi kỳ nheo đủ thứ như tiền đặt cọc, thời gian niên hạn được ở, tiền trả vào ngày đầu hay cuối tháng…thì bao giờ chủ nhà cũng thòng thêm một câu đắt địa chết người: -“Trong trường hợp khẩn thiết cần phải lấy lại thì chủ hộ sẽ báo trước một tháng” (!?). Và sự thật thì có trường hợp nào lấy lại nhà mà không phải đặt vào tình thế “khẩn thiết”? Và sau tất cả ghi chú tưởng như rành mạch, tươm tẽ, khó bắt bẻ hay bên nào chơi khó bên nào được thì khi va vào “trường hợp khẩn thiết” này xem ra mọi thứ lại đổ nhào!

*

Hôm về nhàmới, trong lúc Uyên làm cơm chiều, tựdưng hưng phấn, Phong hỏi: - Cóbao giờem thửtính từkhi vào Sàigònđến giờđã sống qua bao nhiêu nhàtrọkhông?

Uyên nghĩ ngợi một lúc. Hình như nàng đang nhẩm đếm. Rồi nàng nói nhẹ ơ: -Chừng hơn chục cái gì đó! Mà em thấy việc đó cũng bình thường mà! Sài gòn là đô thị lớn, nơi người từ bao nhiêu nẻo tụ về! Rồi ai cũng phải lo cuộc đời của mình!...

Đúng là bình thường thật. Vì vợ chồng anh cũng phải sống qua đó thôi. Mọi thứ cần phải tự cân bằng để đi tiếp. Nếu cứ thường xuyên thất bại, triền miên buồn bã thì đố ai chịu nổi. Đôi khi cần trấn an bằng sự bông đùa và tập lãng quên trong những giấc ngủ. Hai vợ chồng lại quay qua dọn dẹp, lục tục trong căn hộ mới. Một ổ hạnh phúc mà từ nay thực sự của họ. Tha hồ trang hoàng bày biện. Không còn sợ ai gõ cửa, thương lượng đòi nhà ban sớm hay nửa đêm nửa. Tự nhiên nước mắt Phong chảy. Anh vụng về nhấp nhoen con mắt chìu vội vào tay áo không để Uyên biết. Và kỳ quặc. Liên tục những ngày sau đó Phong mất ngủ. Tối qua, Phong chợp mắt được một lúc. Anh mơ và la hét loạn xạ. Uyên sợ quá phải lay gọi mãi Phong mới tỉnh. –“Anh làm gì ú ớ khiếp thế?” – Uyên lấy khăn chườm nước lạnh lau mặt cho chồng, lo lắng. Mồ hôi còn dâm dấp trên mặt Phong. -“Anh mơ giấc mơ lạ quá - Phong kể - Anh thấy mình cứ loang quanh hết đường tắt ngõ hẹp mà không tìm thấy lối ra. Rồi toàn thân tự dưng biến thành nhựa dẻo. Ấn vào chỗ nào lún lụt chỗ ấy. Nhưng chỉ cần buông tay một phát, chỗ lún lại phồng lên…”. “Người nhựa - Uyên nhoẻn cười - Chắc anh nhớ mấy vụ căng thẳng vì dọn nhà chứ gì? Em thấy anh lúc đó như đơ ra. Bảo gì làm nấy. Gần như không còn suy nghĩ gì được cả…”. Phong nằm lơ mơ trong chăn ấm. Nếu Ngọc đã sống qua chừng chục cái nhà trọ thì anh phải đến bao nhiêu nhỉ? Rồi Phong bỗng ngủ thiếp đi…

*

Phong thấy mình không đủ tiền thuêmột chỗtiện nghi hay lớn hơn mười sáu mét vuông. Anh đã bỏcái hầm rượu ra đi. Đó làcăn nhàtrũng thấp hơn mặtđường anh ởchung với bạn bè. Gọi như thế trước hết do cái phòng trọ ngột ngạt. Không gian ẩm thấp, lạnh lẽo. Sau đó chủ nhà còn bán một quán cơm bình dân. Không hiểu sao ông có một hầm rượu quốc doanh quá dát lạc tem cả chục năm. Đó là những chai vốt-ka, nếp mới, hồng đào…sản xuất từ những thập kỷ tám mươi thế kỷ trước. Trong một lần cao hứng khi nhậu, ông kể, khi từ miền Tây lên Sài gòn thuê lại căn nhà này để bán cơm ông đã “tiếp quản” hầm rượu từ một tay buôn tạp hóa. Những chai rượu như tặng không vì hết hạn sử dụng chẳng ai dám uống nữa. Đó là giai đoạn sản xuất bao cấp, nước đường, men hóa học đóng chai thì đúng hơn. Tay chủ nhà đùa nếu muốn tẩy rửa hay lộn trái bao tử thì cứ dùng! Cho không đấy! Nhưng rồi thành thật. Một lần cả bọn vả quá, không có tiền để kéo nhau ra quán cóc nên mò một chai uống thử. Nó có phong vị đặc trưng. Một dòng nước đo đỏ như sắt rỉ, bốc một mùi thơm như quế lâu năm. Uống thử một chút nhạt thếch đầu lưỡi. Sau đó hơi cay cay. Uống nhiều vẫn còn khả năng nóng người, mê mẩn các xúc giác. Nói chung dễ chịu cho một bọn đói tiền đang muốn tìm hơi men. Thế là tưng bừng tụ họp nhậu nhẹt. Những chai rượu cứ đập bôm bốp nát đầu vào tường. Mấy lần có đứa còn bị đứt cả ngón tay vì mảnh chai sắt lẻm cứa vào. Cái hầm rượu quá đát cứ thế vơi dần. Nhiều ngày không có hạt cơm nào trong bụng, bọn Phong vẫn say lê lết. Có đứa vật vã nôn mửa. Không thằng nào chịu nghĩ tất cả đều sẽ bị đau bao tử khi uống mãi thứ rượu cồn công nghiệp đó. Mồ hôi, mùi người, mùi thực phẩm cặn bã của quán lâu ngày quyện lại thành một thứ mùi khăm khẳm ngây ngấy. Chua lè và buồn nôn. Và một câu chuyện quái dị xuất hiện. Những con chuột cống nửa khuya theo thói quen, đánh hơi từ dưới rãnh nước mò lên. Bóng đêm là thế giới của chúng. Bầy chuột lết thết hoang đàng, hung dữ. Bốn cái chân chĩa ra những móng cứng như sắt, khi di chuyển, kéo vẹt cả mặt bê-tông. Cứ thế, chúng vững chãi kéo lê chiếc đuôi dài, lừ đừ dấn tới. Hình như chúng không còn sợ ai. Đôi mắt như hốc tối, phả cái nhìn lành lạnh, rờn rợn. Như sẵn sàng lao vào xé toạc bất cứ đối thủ nào nếu cản trở bước tiến của chúng. Trong cái biển đen nhức ấy, điểm thêm mùi lông hăng, như chấm một vệt đỏ loang mãi bơ vơ trong đêm tối. Bầy chuột vục đầu vào những cái chai rượu cặn nếm náp say sưa đến hạt cuối cùng. Có con lướt khướt lăn kềnh ra chổng bốn vó lên trời. Thở khì khịt như đàn lợn. Phong hé mắt nhìn. Trước những con vật khổng lồ ấy, Phong thấy mình quá nhỏ bé. Anh cảm giác bất lực, không thể chống lại. Đàn chuột lổm ngổm, mặc nhiên bò qua người anh. Để lại phía sau một mùi hôi thối tanh tưởi, nồng nặc…

*

Trên người vàtâm hồn Phong đãđầy những vết thương vuốt sắt. Anh muốn tìm một không gian dễthởhơn. Cần cóthời gian để làm lành sựmưng mủ. Anh thấy vây bủa quanh mình ngột ngạt cơnđiên. Anh cần ởmột mình. Vàquyếtđịnh rời Hầm rượu. Nhưng thời điểm này anh hết tiền, trong túi không còn một đồng. Đành phải điện thoại mượn người bạn. Anh cũng phải nhờ đến một công ty giới thiệu môi giới nhà cửa để tìm một chỗ ở mới. Như yêu cầu của anh, một nơi rẻ nhất thành phố. Chọn lựa của Phong có được lúc này là một chỗ ngủ đêm an toàn, tránh mưa gió rồi sẽ tính tiếp. Tay dắt mối bảo anh đóng tiền khi mở gói dịch vụ. Y sẽ đại diện công ty dẫn anh đi xem các nhà trọ, cho đến khi anh thuê được mới thôi. Bây giờ thì tên cò phóng xe chạy trước. Phong bám càng theo. Cả hai đang lượn lách ngoằn ngoèo trong một khu xóm lao động nằm phía sau ga xe lửa. Đã nhiều lần Phong đi qua nơi này nhưng chưa hình dung được những con hẻm ngằn nghịt, lắt léo chạy dài phơi phóng ô hợp một đời sống lao động bình dân. Hai bên con kênh Nhiêu Lộc cằn khô, ngút mùi cống rãnh. Những người đàn bà phờ phạc, hết nhan sắc, mặt mày cau có dữ dằn như những con cá kiếm lúc nào cũng ở tư thế săn mồi. Còn những gã đàn ông cởi trần, ngực lép, phô những dẻ xương sườn cứu Chúa, tay chân toàn hình xăm. Họ tụ tập trước cửa, săm soi những kẻ tình cờ đi lạc vào xấc mé như nhìn những tờ bạc lẻ. Đó là thế giới riêng mà cuộc đời thuê trọ của anh đã đụng độ không ít. Anh thấy đám văn nghệ ở một khía cạnh nào đó có nét gần với bọn du đãng. Nhà thơ và tướng cướp. Đó là phiêu lưu bay lượn trong mê lộ của mình. Hôm nay tẹc-ga(3) sống đến tận cùng cảm giác. Không lối thoát. Ngày mai có thể chết vì không còn cái gì ăn.

Đi mãi rồi cũng đến. Cuối cùng, tên còđưa Phong băng qua cây cầu nhỏ, có mấy miếng ván mục ruỗng do thời gian và mọt mối rệu xuống. Bên dưới lờ đờ dòng nước chảy đen kịt. Bên kia cầu là một căn nhà gỗ tuềnh toàng. Một người đàn bà có khuôn mặt choắt, ranh ma như một con cú đánh hơi thấy mồi thơm:- “Cậu thuê nhà hả? Vào xem đi! Mà không phải lúc nào cũng có để thuê đâu nha! May cho cậu đó! Có người mới trả chỗ hôm qua/ Chỉ năm mươi ngàn đồng một tháng thôi!...”.

Nóiđúng, giánày gần nhưkhông phải thuênhàmà chỉnhưcho thuêchỗtrọtátúc qua đêm. Một cáiổchật hẹpđể có thểnằm ngủ, không bịai quấy rầy. Từ đó, có thể đến thiên đường hay bắt đầu cho những cuộc phiêu du hoang lộng. Mọi người thuê chỗ ở đây đều là dân lao động. Đi làm suốt ngày. Tối về vật ra ngủ. Tất cả đều sinh hoạt chung, toi-let, phòng tắm và sàn gỗ. Chỉ có một thứ riêng, hồn ai nấy giữ.

-Ởđây giáthuêgiárẻnhất thành phố. Cậu tin tôiđi, không thểtìmđược một chỗ nào rẻhơnđâu!”- Con cúnói, môi dẫu ra nhưcáiống. Phong biết chắcđây không phải chủnhàmàmình đang đụng thêm một mụ bẻcò (4). - “Ban này đâu ai ở nhà làm gì! Chỉ tối về cần một chỗ để ngủ thôi!...”.

Phong quan sát tấm sàn màmình sẽđược ngảlưng khi bắtđầu làmột thành viên mới. Nókhoảng ba mươi mét vuông. Đượcđóng bằng thứgỗ tạp, rẻtiền. Theo thời gian, nhiều người đã nằm vệt mồhôi nâu bóng lên. Nhiều cái nẹp đóng chèn bị mối mọt ăn, đã gãy. Những nhát búa gia cố, đóng vội vàng. Thế nằm một phía thì ổn nhưng khi xoay mình sẽ nghe kêu những tiếng ọp ẹp. Căn nhà ở cuối hẻm cụt. Tối tăm khủng khiếp. Chỉ có khoảng trời nhỏ nhô ra trước mái hiên lỗ chỗ vết tôn thủng có cây trứng cá là tương đối dễ chịu. Phong đã quyết định ở lại đó. Anh cần phải cố gắng tìm công việc làm thật nhanh để thoát khỏi cảnh này. Nhưng bây giờ thì chưa.

Trên cái sàn gác mười bảy người nằm ngổn ngang nhưnhững dấu trừ. Phong cũng không biết cụ thể ai là ai? Ban ngày tất cả tan đi khắp thành phố tất bật với công việc mưu sinh kiếm sống. Hình như ai cũng làm lao động tay chân cực nhọc với đồng lương ít ỏi, mỏi mòn. Bởi nếu kiếm được khá khẩm thì họ sẽ ra đi để tìm một chỗ nương náu tốt hơn. Đó cũng là cách chọn lựa của rất nhiều người trước đây. Như Phong, với tấm bằng vừa tốt nghiệp, anh bươn bả nộp hồ sơ sinh việc các công ty tuyển dụng. Anh biết mình không thể sống mãi với một kiếp xô dạt như thế. Nhưng vận may vẫn chưa đến với anh. Rời khỏi cái ổ trọ từ sáng sớm, đến tối mịt Phong mới trở về. Căn nhà đón anh với niềm vui sống và nỗi hy vọng ngày mai. Có nhiều đêm đang ngủ, Phong bật dậy. Xung quanh anh khung cảnh lờ nhờ, lặng im như một mặt biển. Phong nhìn quanh quất. Không nhận ai ra ai. Và dường như từ ngày đến đây anh cũng chưa làm quen hết. Mỗi mặt người thanh thản lặng sóng. Nhưng nỗi lo âu hình như vẫn lảng vảng đâu đây. Trong những hơi thở rách, yếu ớt hay tiếng phì phò khó nhọc như kéo bễ. Dưới ánh đèn vàng vọt, tất cả hiện lên nhạt mờ như những con cá ướp muối. Đó là không khí biển những ngày mùa đông. Giấc ngủ lạnh không tìm ra bờ. Những con cá nằm im hơi bên nhau. Sợ hãi. Đuối sức và vô vọng. Một ngày qua lại đối mặt với bao gian khó mà đôi khi vượt qua rách toạt cả mang. Máu rướm trong bọt phổi li ti. Phong nằm bẹp, dí sát vào một góc. Mồ hồi tứa ra rít rẩm. Ngủ bên cạnh anh là một người đàn ông mù, bại liệt hai chân. Ông vẫn được một người đàn bà chăm sóc. Họ có phải là hai vợ chồng không thì Phong chưa rõ. Chỉ biết mỗi đêm về ông lầm bầm, miệng nồng nặc hơi rượu. Người đàn bà mập ú, gương mặt đăm chiêu như một câu kinh chưa tan, chùi rửa ông như tắm táp một đứa bé. Vừa bỏ lên sạp là ông đã lăn đùng ra ngủ. Trong mơ, ông ú ớ nhiều nhất. Có thể ông mơ thấy quê nhà nghèo khó với những đứa trẻ lam lũ hiền lành như đất. Và rồi ông cũng phải rời bỏ mảnh đất thân yêu ra đi để tìm cách nuôi bầy trẻ đó. Chỉ có rượu mới giúp ông kéo gần lại viễn cảnh sum họp đầm ấm. Rượu xoa dịu, an ủi ông. Để rồi một ngày mới thắp, bà béo lại lên gác ẵm ông xuống xe lăn. Đẩy qua các con phố mời chào vé số. Bán từng tờ hy vọng…

Đêm tối đã thuộc về thế giới khác. Cùng những viên thuốc ngủ, Phong thường cất cánh bay thoát khỏi hiện thực buồn tẻ, tăm tối và nghèo nàn. Anh thấy mình ít ra vẫn còn có một ý nghĩa, giá trị hơn. Không bị những con chuột điên cắn vào chân hay những con gián mù bay loạn xạ đâm vào mắt. Chỉ còn hơi thở rấm rít của những con cá muối cần lao. Rồi Phong thấy mình đi theo chiếc xe lăn của ông mù bại liệt để lạc vào con hẻm đầy ma cô mặt mày hung dữ. Sự lam lũ làm tất cả vêu vao, sinh tử, khẳng khiu. Vây quanh Phong còn đám gái non nhưng đã hết đát như đàn bướm xuân tàn tạ nhan sắc. Chẳng khác gì hơi rượu cặn quá niên hạn xử dụng ủ bệnh bao tử. Tất cả như vừa thức dậy sau một đêm dài với những ước mơ khát khao trong xanh. Những cánh bướm xòe cánh xà vào gánh hủ tiếu lốc cốc. Những cô khác gọt dũa móng chân, cãi nhau chí chóe. Thấy anh cả đàn bướm vụt bay lên rập rờn hương sắc, kêu gọi…

*

Phong tỉnh giấc. Thìra tất cảnhững gìanh vừa thấy đều diễn ra trong giấc mơ. Bên cạnh, Uyên vẫn ngủ say. Trên môi nàng như đang nở một nụ cười đầy mãn nguyện và hạnh phúc. Căn phòng mới hoàn toàn yên tĩnh. Ánh đèn dịu vặn nhỏ trên bàn khiến Phong càng nghi hoặc không rõ là mấy giờ? Cho đến khi Phong nhìn thấy tấm ảnh cưới của hai vợ chồng vừa treo lúc chiều mới tin đang ở trong căn nhà mới của mình. Một cái ổ hạnh phúc đầy mật ngọt từ giấc mơ thiên đường. Vậy là anh đã thoát khỏi kiếp trọ? Có chắc chắn vậy không?

Điều lạ mãi Phong vẫn chưa quen được với cảm giác tinh khiết đó. Bao giờ anh cũng ở trong cảm giác thảng thốt là sắp hết tháng. Mình như con thằn lằn xéo giữa vòng vây nợ. Những gương mặt bí hiểm, đầy chiêu chước của những bà chủ cho thuê nhà hôm nào. Định đoạt cho những cuộc ra đi bầu đoàn thê tử giữa Sài gòn hoa lệ và nước mắt. Anh bỗng nhớ mùi mồ hôi mặn của những con cá muối. Từ biển khơi nó bị dạt lên bờ, búng bẩy, vô vọng. Con cá rách mang bị câu thúc hay lèn chặt trong những cái ổ khít khắm. Những sàn gỗ bóng nhoáng mồ hôi. Nó chỉ còn biết tin vào đường bơi và hơi thở của chính mình. Hơi thở của một ngày mới. Bởi không có niềm tin bao kẻ vẫn còn lạc chốn và mất dấu trên thiên đường…

Đói...

Đăng bởi KeChuyen Chuyên mục: Cuộc Sống, Lao Động, Tuyên Quang

Bố mẹ để con trong nhà để đi tìm cái ăn, mấy ngày sau mới đưa được củ mài về, con đã đói run người. Đói, không có củ thì vặt tạm lá rừng, lá nào sâu ăn được mình cũng ăn được… Chuyện về cái đói ở Pác Củng kể cả ngày không hết.

Đã nhiều tháng nay, người dân thôn Pác Củng, xã Thượng Nông, huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang phải kéo nhau đổ dồn lên núi tìm củ mài, củ sắn, rau rừng để cầm cự với cái đói tấn công người dân suốt 10 tháng qua.

Cả thôn đói dài đói dạc

Thôn Pác Củng nằm giữa một thung lũng sâu và hẹp, bốn bên là núi cao chót vót. Ông Trần Văn Nên - Trưởng thôn Pác Củng - cho biết, trước đây toàn bộ người dân trong thôn sống du canh du cư, từ năm 1985 mới về định cư tại đây cho đến nay.

Cả thôn có 40 hộ dân thuộc hai dân tộc Sán Chỉ và Dao. Mỗi nhà trong thôn chỉ có một mảnh ruộng nhỏ. Nhưng vào những tháng giáp mưa, tìm khắp Pác Củng cũng không kiếm nổi một giọt nước để trồng trọt.

Chúng tôi vượt núi tìm đến Pác Củng, đi dọc con dốc dài, gập ghềnh, bắt gặp những đứa trẻ chừng 5, 6 tuổi đang lúi húi đào bới bên sườn rừng. “Bản tôi tính đến nay ít nhất cũng đã phải chịu đói 10 tháng rồi. Đói không phải là chỉ ăn cháo mà đến củ mài, củ sắn cũng không có mà ăn…”, trưởng thôn Nên lý giải.

Hóa ra năm vừa rồi nước hiếm quá, lúa lại không được mùa, tháng 9 thu hoạch lúa mà tháng 10, hầu như cả bản đã phải lũ lượt kéo nhau lên rừng tìm củ, tìm rau sống qua ngày.

Chuyện về cái đói ở Pác Củng kể cả ngày không hết. Có nhà bố mẹ nhốt con trong nhà để đi tìm cái ăn, mấy ngày sau mới đưa được củ mài về, con đã lả gần chết. Hộ nào cũng đói, hộ nào cũng đi tìm củ mài, thế nên bây giờ đi bộ mấy cây số, tìm mỏi mắt may ra mới thấy cái ăn. Ông Nên bảo đói quá, không có củ thì vặt tạm lá rừng, lá nào sâu ăn được thì mình cũng ăn được.

Đi khắp Pác Củng đâu đâu cũng gặp cảnh người già và trẻ em ngồi tựa bậu cửa những ngôi nhà lụp xụp, đôi mắt đờ đẫn ngóng xa xôi chờ người thân mang cái ăn về.

Chúng tôi đi qua nhà bà Lý Thị Lịch, gặp bà và con trai Bàn Văn Pú đang nướng một củ sắn. Bà Lịch bảo đã đi từ sáng khắp núi mới kiếm được củ sắn này, về nướng ăn tạm rồi hai mẹ con lại đi tìm tiếp.

Nhà bà Lịch có 5 người con thì 4 con gái đã lấy chồng hết, còn một cậu con trai. Bà bảo: “Đói thế này sắn không có ăn biết sống được không mà lấy vợ”.

Trưởng thôn Trần Văn Nên dẫn chúng tôi vào một ngôi nhà tối om. Trong góc nhà, bốn đứa trẻ đang nhềnh nhệch khóc. Người mẹ trẻ tưởng như chỉ nhỉnh hơn đứa con lớn vài tuổi - chị Bàn Thị Quản - ngồi bất động ôm đứa con nhỏ mới vài tháng tuổi. Mấy ngày qua hai vợ chồng chị lăn lóc trên rừng mà không kiếm được cái gì ăn. Sáng sớm nay, chồng chị, anh Lý Văn Đoằn, đã phải mang gùi vượt đến một quả núi thật xa tìm củ. Chị Bàn và các con ở nhà, mong chờ vào những thứ anh sẽ mang về vào buổi tối.

DỮ VỚI MA ; HIỀN VỚI BỤT ; ÁC VỚI BẠN

( Người kể: Đặng Tuấn Phương - Sài gòn .Trường Rừng Leningrad )

Những ai đã từng trải qua, đều tâm sự rằng thời sinh viên chính là quãng đời đẹp nhất trong cuộc sống của họ ! Tôi là Đặng Tuấn Phương cũng rất tâm đắc câu nói trên .

Thời Dự bị Kiev 71, tôi sống chung phòng với Nguyễn Bá Tòng, Võ Duy Vinh, và 2 sinh viên người Nga hoặc Ucraina . Lúc đó, bản thân chúng ta còn chưa hết trẻ con, cũng chưa ra người lớn, nên tất cả những gì chúng ta suy nghĩ và hành động đều hơi dở dở ương ương... Chính nhờ dở dở ương ương, đến bây giờ chúng mới biến thành những kỷ niệm đẹp đẽ, đầy ắp trong tâm trí cựu sinh viên ! Sau đây, xin kể cùng các bạn 3 kỷ niệm không thể nào quên đối với tôi .

Chuyện thứ nhất xảy ra trong phòng giải trí của ký túc xá ob.6 . Tối nào cũng vậy, rất đông sinh viên Nga, sinh viên Việt nam và sinh viên các nước khác tụ tập vào đây để xem TV . Hôm ấy, chúng tôi đang ngồi yên lặng, chăm chú theo dõi chương trình khá hay... Đột nhiên, một sinh viên người Ucraina mở cửa bước vào, chẳng nói chẳng rằng, anh ta ngang tàng tiến thẳng đến TV, bật sang kênh khác đang chiếu bộ phim thuyết minh bằng tiếng Ucraina . Đó là thứ tiếng riêng của dân tộc Ucraina, không dễ hiểu chút nào đối với những người đang học tiếng Nga, tất nhiên chúng tôi cũng như vịt nghe sấm !

Lập tức nổi lên tiếng xì xào khó chịu, kèm theo thái độ phản ứng của mọi người đã ngồi xem trước đó, kể cả các sinh viên bạn . Rồi một sinh viên Việt Nam tiến lên bật trả kênh cũ, ai nấy đều tán thưởng hành động này, lác đác vài người vỗ tay . Nhưng khi anh sinh viên Việt Nam vừa về chỗ ngồi của mình, thì anh sinh viên Ucraina hồi nãy lại ngang tàng tiến lên bật sang kênh mới ! Tiếng xì xào phản đối nổi to hơn, một sinh viên Việt Nam khác tiến lên bật trả kênh cũ, rồi sinh viên Ucraina kia vẫn ngoan cố bật sang kênh mới . Sự việc cứ lặp đi lặp lại ba bốn lần... Vài sinh viên Việt Nam nháy mắt nhau, thì thầm bàn tính .

Tôi xin ngắt ngang câu chuyện ở đây, để có lời miêu tả chân dung sinh viên Ucraina kia . Đó là một người cao trung bình, mặt xương xương, tóc hoe vàng, môi mỏng, răng thưa, khi nói miệng hơi chu nhọn ra, đặc biệt là đeo kính cận khá dày . Quá bực tức nên tôi đã quan sát kỹ, nhớ rõ khuôn mặt này, thậm chí còn nhớ tên anh ta là Victor .

Bất ngờ, toàn bộ ánh sáng trong phòng giải trí phụt tắt . Rồi nghe rõ tiếng đấm đá, thoi thụi huỳnh huỵch, kèm theo tiếng la oai oái thất thanh . Dù tối om chẳng nhìn thấy gì, tất cả chúng tôi đều nhận biết tiếng kêu la của chính Victor . Sau khi bị lãnh đòn, Victor cố gắng lần mò tới mở cửa, chạy thoát ra ngoài, biến mất khỏi hành lang ! Đèn liền bật sáng, mọi người vẫn trầm tĩnh, đâu ngồi yên đó, chăm chú xem tiếp chương trình cũ trên TV, như chưa từng xảy ra chuyện gì .

Từ hôm ấy trở đi, mỗi khi người mới bước vào phòng giải trí có ý định chuyển sang kênh khác trên TV, đều phải lên tiếng đề nghị :" Ở bên kênh kia có chương trình hay lắm đấy các bạn... " . Nếu đa số chấp thuận, sẽ đổi kênh xem thử, hay thì cùng xem, dở thì trở lại kênh cũ . Luôn luôn thiểu số phục tùng đa số . Tôi thường gặp lại Victor trong ký túc xá, anh ta tiếp tục đến xem TV, nhưng khiêm tốn hơn và mất hẳn thái độ ngang tàng ngày nào .

Tôi nghĩ Victor nhớ bài học tối hôm ấy rất lâu, có thể là đến tận bây giờ chăng ? Sinh viên Dự bị Kiev 71 chẳng những dạy anh ta phục tùng đa số, mà cao hơn, là thái độ ứng xử văn minh lịch sự ở nơi công cộng, không nên ích kỷ, phải tôn trọng mọi người và mọi dân tộc trên toàn thế giới...

*

Chuyện thứ hai xảy ra vào thời gian ôn thi cuối năm . Tôi nhớ rằng Dự bị Kiev 71 được chia thành bốn khối chính : khối kinh tế, khối kỹ thuật, khối xã hội, khối luật và quan hệ ngoại giao . Hồ Ngọc Phương và tôi học chung ở khối kinh tế, một hôm đẹp trời bèn rủ nhau ra vườn táo gần ký túc xá để ôn thi .

Chắc chắn tất cả chúng ta đều nhớ vườn táo ấy . Đó là địa điểm lý tưởng để ăn, học, chơi, yêu... Khi “song” Phương đến vườn táo, nhiều nhóm khác đã chiếm cứ các địa điểm thuận lợi . Muốn tìm nơi riêng biệt yên tĩnh phải tiến vào sâu hơn, cuối cùng chúng tôi chọn được nơi vừa ý . Bỗng nhiên, nhìn xung quanh thấy toàn là rau dền, rất non, tươi xanh mơn mởn, nhiều lắm ! Sướng mắt quá đi thôi, nhưng bây giờ hãy học cái đã, rồi tính sau . Chiều về, chúng tôi hái một cặp táp nén đầy ắp rau dền non, cặp vẫn đóng chặt kín đáo, vì chưa muốn tiết lộ bí mật này với ai .

Tại nhà bếp ký túc xá, chúng tôi đổ rau dền ra rửa sạch, chuẩn bị nấu một nồi cháo mì kinski tuyệt hảo . Trong nhà bếp lúc ấy còn có một nam sinh viên Nga, và vài nữ sinh viên châu Phi, người Côngô . Anh sinh viên Nga tròn mắt ngạc nhiên, hỏi :" Các bạn ăn thứ cỏ này à ?". Chúng tôi gật đầu, bình thản trả lời :" Vâng, chúng rất ngon !". Anh ta nhún vai, lắc đầu tỏ vẻ hồ nghi .

Tôi để ý thấy các nữ sinh viên Côngô chăm chú nhìn đống rau dền của chúng tôi, xí xô xí xào với nhau bằng tiếng Pháp . Rồi một cô hỏi bằng tiếng Nga :" Các bạn mua rau này ở đâu vậy ?". Chúng tôi cười, bịa ra tên của một cửa hàng thực phẩm trên đường phố nào đó . Họ mừng rỡ, vồn vập hỏi ngay :" Ở đâu ? Xa không ? Còn bán rau này không ?...". Chúng tôi tiếp tục diễn trò nói dối của ngày 1 tháng 4 theo phong tục châu Âu :" Cửa hàng chẳng xa lắm, nhưng rau thì bán hết rồi !". Sự mừng rỡ của các cô liền biến mất, nét mặt họ xìu xuống, lộ vẻ tiếc nuối thèm thuồng... Chúng tôi bàn nhau, rồi nói :" Các bạn cũng biết ăn rau này à ? Nếu muốn, các bạn có thể lấy một ít !" . Ôi chà chà, họ chẳng thèm từ chối lời nào, mà còn thẳng tay bốc mất hơi nhiều rau dền của chúng tôi, miệng luôn cảm ơn rối rít, phụ nữ là thế đấy .

Một cô cầm cây rau dền, đến hỏi anh sinh viên Nga :" Cây rau này tên gì bằng tiếng Nga, anh biết không ?". Sinh viên Nga cầm cây rau dền, ngắm nghía quan sát hồi lâu, thốt ra một từ gì đó, nhưng ngập ngừng giây lát, anh ta phất tay tự phủ nhận . Rồi suy nghĩ và nói ra một từ khác, rồi lại tự phủ nhận... Rốt cuộc, anh ta đành thú thật :" Tôi không biết !".

Sự việc trên làm tôi ngạc nhiên với một phát hiện thú vị . Như vậy có nghĩa là cây rau dền cũng mọc ở châu Âu (Nga), châu Phi (Côngô), chứ không riêng gì ở châu Á (Việt Nam), và có thể là nó mọc ở hầu khắp trên thế giới . Một số dân tộc rất thích loại rau dền bổ dưỡng và ngon lành này . Ngược lại, một số dân tộc không biết rằng rau dền có thể ăn được, thậm chí chẳng cần biết nó tên gì . Tất nhiên, các nhà sinh vật học đã gán cho cây rau dền một cái tên khoa học bằng tiếng Nga, nhưng nói chung dân tộc họ chỉ coi nó là loại cỏ dại ! Sau này, trong các chuyến đi công tác, tôi lại phát hiện ra vô số cây mã đề mọc hoang ở nhiều nơi trên đất Nga về mùa hè . Chẳng hiểu họ có biết cây mã đề cũng là một loại thực phẩm chữa trị bệnh tật hay không ?

*

Chuyện thứ ba liên quan tới một người khác đời, chắc chắn các bạn đều nhớ “Tín lùn” ? Tín lùn sống chung phòng với Mai Hà, đối diện hơi xéo với phòng của tôi .

Còn nhớ lúc ấy chúng tôi hay hát nhại bài “Bé bé bằng bông” để trêu ghẹo Tín lùn như sau :” Chú Tín dài râu, hai má bầu bầu . Chú đi sơ tán bế em theo cùng…”. Tánh tình Tín lùn hiền với bạn, nên thường hay bị chúng tôi trêu ghẹo, mà chẳng bao giờ nổi cáu giận dữ .

Mỗi lần từ nhà vệ sinh đi ra, tôi đều ghé vào phòng của Tín lùn, nhìn quanh nhìn quất, rình xem hễ chẳng ai để ý thì cố tình lấy cái khăn phơi trên đầu giường của Tín lùn để lau tay ! Trong thời gian khá lâu, tôi cứ đinh ninh Tín lùn chẳng hề biết việc đó…

Một hôm, nhờ nguồn tin tình báo bí mật, tôi khám phá ra Tín lùn biết thừa việc làm của tôi từ lâu, nhưng vẫn giả lơ, cứ để yên cái khăn ấy, dành riêng cho tôi lau tay . Đồng thời, Tín lùn kín đáo sử dụng một cái khăn khác để lau mặt, đem cất giấu kỹ vào tủ nhỏ riêng .

A ! Thế thì chết với tớ ! Từ đó về sau, tôi không thèm dùng cái khăn để ở ngoài nữa, mà quyết rình lén mở tủ lấy bằng được cái khăn giấu trong ấy để lau tay, thích chí vô cùng . Chẳng biết Tín lùn có phát hiện điều này không ?

Bây giờ nhớ lại, tôi thấy mình vừa trẻ con, vừa “ác ác” thế nào ấy với bạn . Nếu đọc những dòng thú tội này, tôi thiết tha xin Tín lùn ban cho hai chữ “Đại Xá” nhé !

Hiện nay, website Chi hội Kiev khá rôm rả, bạn bè thường gặp gỡ chào hỏi nhau, viết kể đủ thứ chuyện trên diễn đàn, vui lắm ! Tuy vậy, sau gần 40 năm xa cách, hầu hết chẳng ai nhớ rõ mặt mũi người đang giao tiếp với mình .

Tôi cũng rất “máu”, vừa nghe Hội trưởng thông báo liền hấp tấp nhảy vào website . Ngỡ ngàng quá, tại sao chẳng gặp ai cả, nhìn quanh quất thấy nơi này hoàn toàn vắng lặng, yên ắng trơ trọi, loe hoe vài đóa hoa, tuy chớm tàn nhưng trang điểm sặc sỡ, đương mải mê đấu hót ầm ĩ, dòm ngó khen chê sắc đẹp của nhau… May mắn thay, một bạn Kiev vô tình đi ngang, nhận ra tôi, bảo cho biết là nhảy vào sai địa chỉ rồi, lạc quá xa sang mãi tận Chi hội Odessa, hãy mau mau trở về Kiev đi !

Tìm được lối quay về Kiev, lập tức tôi nhiệt tình tham gia, và nhanh chóng trở thành một người vừa lập công, vừa ghi tội ! Tôi hăng háí viết những bài gợi nhắc kỷ niệm, các bạn đều vỗ tay trầm trồ sao trí nhớ tốt thế ? Hứng chí, tôi bèn đề xướng lên phong trào “ Những con số thú vị “, đề nghị mọi người cùng thống kê nhiều thứ, ví dụ như ai đẹp gái nhất, ai đẹp trai nhất, ai xấu gái nhất, ai xấu trai nhất, ai cao nhất, ai lùn nhất, ai còn sống và ai đã chết… Thú vị thế mà sao mọi người chỉ ậm ừ cho qua chuyện, không tham gia ?

Chẳng bận tâm ai khen ai chê, tôi quyết chí suy nghĩ bày thêm trò mới, lần này chuyển sang đề tài tình yêu, ắt hẳn mọi người sẽ phải mê thích đến chết chưa chịu thôi . Vắt óc suy nghĩ, đắn đo tìm tòi lâu lắm, tôi quyết định cái tên của phong trào mới là “ Những tình yêu song phương và đơn phương “ ! Càng suy gẫm, càng thấy cái tên này vô cùng thâm thúy, đã kêu rang rảng, lại còn ngầm ẩn chứa đến 2 lần tên riêng của chính bản thân tôi, nghe sướng tai quá đi mất : “…Phương …Phương”. Chơi chữ tuyệt vời ! Người ta nói không sai, đúng là “văn mình, vợ người”, thường thường ai chẳng khoái chí những của này, thì mình cũng vậy thôi .

Nhưng hãy khoan vội vã công bố lên diễn đàn, kẻo lại dục tốc bất đạt như kỳ trước, lần này tôi muốn ngấm ngầm tiến hành công việc một cách hoàn toàn bí mật ! Trước hết, cần tìm nhớ kỹ xem lúc ấy ai đã từng da diết thầm yêu trộm nhớ hình bóng của ai ? Nếu “người ấy” ngỏ ý đồng tình, cùng rủ rỉ rù rì, thì được xếp vào loại tình yêu song phương . Nếu “người ấy” chẳng thèm quan tâm, ngoe ngoắt bỏ đi, thì bị xếp vào loại tình yêu đơn phương… Đã đến tuổi cập kê, dĩ nhiên ai cũng tìm hiểu yêu đương, nếm thử mùi đời, có làm gì xấu đâu mà chẳng dám công khai cho vui cả làng ?

Bước cờ kế tiếp, tôi cần kiên quyết phơi bày vài mối tình tiêu biểu để nêu gương điển hình, vận động thành phong trào sôi nổi khắp nơi, người người phấn khởi, lũ lượt cầm tay nhau kéo lên diễn đàn, nô nức thi đua công khai tình yêu !

Thế là ngay trên diễn đàn Chi hội Kiev, một lần nữa tôi lại làm việc ác với bạn . Kỳ này ác với một người mà tôi chẳng nhớ rõ mặt mũi dài ngắn ra sao ! Tuy tự thấy câu hỏi của mình hơi ‘khí không phải’, nhưng vì quá nôn nóng, muốn xác định rõ ràng đúng người đúng việc, nên tôi vẫn kiên quyết đăng bài lên diễn đàn công cộng, hỏi thẳng thừng A như sau :” Có phải bạn là người tìm hiểu B hồi đó không ? Nếu đúng thì tôi nhớ một chi tiết như thế này : bạn và B ‘tán’ nhau rất khuya ở cầu thang . Đêm khuya tĩnh mịch, dù các bạn ‘tán’ nhau rất ‘nhỏ’, nhưng rất ‘vang’… Một lần có người đã phải lên tiếng :” Đi ngủ đi cho người khác ngủ, sáng mai còn đi học !”. Nếu có sự nhầm lẫn, xin bạn hoan hỉ bỏ qua, nhưng nếu hoàn toàn đúng vậy, thì bạn phải lên tiếng xác nhận đàng hoàng đi nhé, để mọi người còn biết rõ mặt mũi bạn là ai, đã cả gan làm những việc gì !”. Chẳng hiểu tại sao A lặn biến mất tăm, bỏ mặc tôi nóng lòng chờ đợi câu trả lời ? Còn B thì mắc bệnh hiểm nghèo, từ trần lâu lắm rồi, bây giờ biết hỏi ai hỡi trời ?

Thật không ngờ, sau khi đăng bài hỏi A, lập tức tôi bị bạn bè thổi còi, góp ý rằng đem phơi bày tình yêu vụng trộm riêng tư của người khác lên diễn đàn là đi quá xa, có dám tự kể tình yêu thầm kín của mình ra nơi công cộng như vậy không ? Ai cũng có quyền phát biểu góp vui, nhưng vẫn cần đôi chút thận trọng, đừng để vượt quá xa những giới hạn vô hình của nơi diễn đàn công cộng !

Tôi cảm thấy hối hận vô cùng, đăng bài xin lỗi chân thành, bày tỏ lý do, ngỏ lời sẽ không làm vậy nữa đâu… Cũng trong bài xin lỗi này, để tỏ rõ thiện chí ăn năn, tôi thực thà thú nhận thêm chính mình đã từng phanh phui cuộc tình thầm kín giữa C và D ! Kế tiếp, tôi đưa ra kết luận hùng hồn rằng tất cả những cuộc tình vụng trộm tại Dự bị Kiev đều thất bại thảm hại, chẳng đem lại ích lợi nào cả . Thà chúng ta đem những khoảng thời gian phung phí cho các cuộc tình vô bổ ấy mà chăm chỉ siêng năng học hành, có lẽ chú Lệ và Sứ quán hài lòng biết bao .

Sau đó, tôi quay sang lớn tiếng tuyên dương khen ngợi duy nhất chỉ một cuộc tình giữa E và F đạt thắng lợi vẻ vang, kéo dài dai dẳng… Thật tiếc, vẫn còn chút khuyết điểm nhỏ, nên rút kinh nghiệm nội bộ, là cặp uyên ương này đáng lẽ phải bắt đầu tò te tú tí với nhau sớm hơn, ngay trong khoảng thời gian 1971-1972, để tặng cho mọi người niềm hãnh diện lớn lao, tự hào rằng đây đích thực là mối tình tiêu biểu điển hình cho thời Dự bị Kiev !

Bài xin lỗi của tôi mới đăng còn chưa ráo mực, thì cái người thổi còi lại dở chứng, nhắn nhủ tôi tréo ngoe thế này :” Thực ra ai cũng tò mò, mê thích nghe kể những cuộc tình vụng trộm . Lần sau, nếu bạn muốn kể, phải nhớ thì thầm giữa ban ngày, đừng thì thầm giữa đêm khuya tĩnh mịch, vang to lắm, lỡ người trong cuộc nghe được sẽ gay go !”.

Chẳng bao giờ tôi dại làm thế nữa đâu ! Tôi biết rõ luật nhân quả rồi, làm điều thiện được lên thiên đàng, phạm tội ác bị đày địa ngục . Nếu may mắn được lên thiên đàng, quả thật tôi rất ngại bị linh hồn của B (đã từ trần) tìm gặp quở trách . Mà xuống địa ngục thì đau khổ triền miên, cũng đáng sợ lắm… Hiện giờ, trong đời tôi mới làm vỏn vẹn mỗi 1 điều thiện là hiền với bụt, nhưng lại phạm đến 2 tội xấu là dữ với ma và ác với bạn ! Bởi vậy, thú thật tôi chỉ muốn sống mãi trên cõi trần gian này thôi, được yên tấm thân, khỏi đi đâu hết, nhưng biết chắc chắn Trời sẽ chẳng cho .

Có lẽ một ngày đẹp duyên nào đấy tôi nguyện tìm đến cửa chùa, ăn năn sám hối, hy vọng làm cuộc đời mình trở nên cân bằng giữa điều thiện và việc ác :” Dữ với ma ; hiền với bụt ; ác với bạn ; tu với Phật .

Nhịn đói một đêm không chết đâu!

Trích bản thảo tập truyện Những chuyện chưa được kể - dự án Phòng chống bạo hành MSM

Lộ Lộ viết theo lời kể của Trúc Lam

Nó khó nhọc vì váy xống và giầy cao gót, leo lên chiếc xe Jeep của công an vừa chạy đến mà lòng chưa khỏi bàng hoàng. Nó chưa biết mình phạm tội gì! Bên cạnh nó là cả đám bạn gay lộ mặt mũi đầy son phấn, đang ngồi chồm hổm như những phạm nhân bị áp giải mà nó vẫn thường thấy trong phim. Tất cả bị đưa về trụ sở công an phường.

Hôm nay cũng như mọi ngày nó cùng đám bạn hẹn nhau gặp mặt ở công viên trung tâm thành phố. Nó trang điểm rồi lên xe đến điểm hẹn đã quá quen thuộc của mình. Bọn nó hẹn nhau ở đây rồi đi đâu đó ăn vặt, không ngờ vừa tới đã bị tóm lên xe. Mọi lần trước thì chúng nó chỉ bị đuổi đi hoặc xét hỏi giấy tờ thôi vì nơi chúng nó đứng là lề của công viên, và chúng nó cũng không làm điều gì sai quấy. Có chăng là vì có người trong số bọn nó dù đã trang điểm rất kỹ nhưng mọi người vẫn nhận ra là con trai.

Nó thấy thật vô lý mỗi lần công an, dân phòng đến xét hỏi bọn nó giấy tờ. Bao nhiêu người ngồi chơi ở cái công viên này, nhưng chỉ có bọn nó là bị xách nhiễu. Những người công an, dân phòng đối xử với bọn nó như những người mang bệnh truyền nhiễm. Họ cứ nghĩ chúng làm gái để đi bán dâm. Cách họ đối xử với bọn nó như thể bọn nó là những người mang tệ nạn xã hội vậy. Và dù bọn nó có đưa ra giấy tờ đầy đủ thì vẫn phải nhanh chóng nộp tiền phạt để được yên thân. Cũng chẳng có bằng chứng về việc chúng nó bị phạt như thế nào. Chúng nó chỉ biết nộp tiền phạt thôi còn cũng không dám đòi hỏi giấy tờ gì. Đòi hỏi lôi thôi lại khiến bọn nó bị hành thêm.

Mọi lần thì như thế, nhưng hôm nay cả bọn chúng nó đều bị bắt về phường.

Việc đầu tiên khi về đến trụ sở công an phường là bọn nó bị đưa vào một căn phòng nhỏ. Sau đó thì nó và các bạn nó lần lượt bị xét hỏi giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, giấy phép lái xe, giấy đăng ký xe và nguyên nhân vì sao chúng nó hay tụ tập ở khu vực đó. Công an nói những lời trịch thượng và khó nghe với bọn nó. Nhiều câu hỏi sỗ sàng, khó chịu và vô lý. Nó im lặng càng khiến cho người công an điên tiết, chửi tục.

- Thằng pê-đê này mày có nghe tao hỏi gì không? Mẹ mày! Tụi mày giả gái tụ tập ở đó làm đĩ rồi móc túi người ta. Đơn tố cáo tụi mày ở đây cả đống, khôn hồn thì khai đi.

Nó lắc đầu ngơ ngác. Nó vẫn biết cái vụ giả làm gái mại dâm rồi móc túi lấy tiền, điện thoại di động khi khách làng chơi mất cảnh giác. Nhưng đó là nó chỉ nghe đồn thế chứ có phải bọn nó làm đâu. Nó ngồi im lặng một hồi thì bị quát đuổi sang phòng bên cùng đám bạn. Lúc đó, trời cũng đã khuya. Nó vừa mệt vừa đói, liền hỏi đám bạn:

- Ê tụi mày có gì ăn không? Tao đói quá.

Cả bọn nhao lên, đứa thì than đói, đứa than khát rồi có đứa thì than mệt …

- Hay là ra mua cái gì vô ăn đi, nhớ mua nước uống nữa nha. Tao khát lắm rồi. Tiền nè - một đứa trong bọn lên tiếng.

Nó bước ra ngoài định chạy lại xe bán bánh mì gần đó thì bị chặn lại.

- Ê thằng kia mày định chạy đi đâu đó?

- Dạ em ra mua mấy ổ bánh mì với mấy chai nước suối. Tụi em đói và khát quá. Anh thông cảm cho tụi em đi.

Nó cố nài nỉ vì chỉ còn vài mươi mét nữa là nó có thể thoát khỏi cái đói và khát.

- Không có đi đâu hết, đi vô. Muốn gì thì sáng mai ba mẹ tụi mày lên làm giấy bảo lãnh rồi tính. Nhịn đói một đêm không chết đâu - Ông công an lạnh lùng quát nó trở vào.

Nó cũng không hiểu sao ông ấy lại ghét pê-đê đến vậy. Nó buồn thiu trở vào báo lại việc vừa xảy ra cho cả bọn nghe. Một số đứa than trời. Một vài đứa thút thít khóc. Một số đứa gào lên la lối còn nó thì rủa thầm, mong điều xấu xẩy ra cho người công an đó. Nó cũng không hiểu sao bọn nó đói đến vậy. Có phải vì bữa tối chưa kịp ăn hay vì tác dụng của các loại hormone nữ? Nó không biết nữa, chỉ cảm thấy hoa mắt chóng mặt vì đói và cổ họng thì khát cháy.

***

Thời gian trôi. Xung quanh im lặng như tờ. Bụng nó cứ sôi ùng ục và cổ rát khô. Nó cố nài nỉ một anh dân phòng gần đó.

- Anh làm ơn ra mua dùm tụi em mấy ổ bánh mì với mấy chai nước. Hồi nãy em đi ra mà chú công an không cho. Anh làm ơn ra mua dùm tụi em. Tụi em đói và khát lắm.

Chắc thấy cái vẻ thiểu não của nó mà anh ấy thương. Anh dân phòng cầm tiền rồi bước nhanh ra ngoài đường. Nó ngồi chờ đợi nhưng bỗng nghe thấy tiếng ai quát từ phía ngoài.

- Mày không ở trong đó canh chừng mà bỏ đi đâu vậy?

- Dạ em ra mua dùm cho tụi nó mấy ổ bánh mì và mấy chai nước. Anh dân quân lí nhí trả lời.

- Đ.mẹ mày, mày lãnh lương nhà nước là đi làm mọi cho mấy con quỷ bóng lại cái đó hả? Dzô! không có mua dùm cái gì hết. Mày vô canh chừng tụi nó cho tao. Sáng mai làm giấy rồi tính. Đ.mẹ! Đứa nào có tiền án tiền sự tao đưa đi trại hết…

Anh dân phòng trở vô đưa trả tiền lại cho nó. Nó hậm hực ngồi bệt xuống đất. Nó đã quá mệt vì đói và khát rồi. Đám bạn nó, có đứa gục đầu dựa vào nhau ngủ thiếp đi, mong cho qua mau cái đêm đáng nguyền rủa. Nó cúi xuống nhặt một cái vỏ chai nhựa rỗng rồi đi vào toilet.

- Ê mày định hứng nước vòi uống hả? Thôi ghê lắm má - có đứa can.

Rồi nhiều đứa nhao nhao phản đối sự mất vệ sinh của nó. Nhưng nó khát lắm rồi. Cái cổ họng đang đau rát cần có cái gì đó làm dịu đi. Nó phải uống thôi. Nó ực một hơi hết cả chai. Nó lại trở vào hứng thêm một chai nữa. Lần này thì có đứa đến lấy uống. Một đứa rồi hai đứa cuối cùng thì ai cũng phải uống nước hứng trong toilet. Nó không bao giờ tưởng tượng nổi có ngày mình lại rơi vào hoàn cảnh như thế.

Rồi trời cũng sáng, cha mẹ tụi nó lần lượt đến đóng tiền phạt rồi lãnh tụi nó về. Nó nghe thấp thoáng tiếng của mấy ông công an hồi đêm vẫn còn gay gắt.

- Ông bà đem tụi nó về dạy dỗ dùm. Tụ tập ăn cắp ăn trộm gây mất trật tự. Lần sau vô đây thì khỏi về!

Giấy phạt ghi tội danh tụ tập gây mất trật tự giá phạt là tám mươi ngàn đồng, ai không có bằng lái xe hay giấy đăng ký xe thì phạt thêm mấy tội đó nữa.

***

Mẹ nó đến bảo lãnh con về. Người công an nhìn mẹ nó dò xét, thấy mẹ đeo mấy chiếc vòng tay màu vàng, ông ta nói “Nhà chị này, con cái không dậy, để giả gái đi làm đĩ lấy tiền về mua vàng đeo phải không?!”

Khổ thân mẹ nó là người hiền lành nhút nhát, chẳng dám to tiếng với ai bao giờ. Mẹ nó chỉ biết đứng im lặng chịu trận. Nó đứng bên cạnh, phẫn uất nhưng cũng không dám làm gì hơn. Nó đã quá mệt rồi. Liệu bị giam ở đây mãi thì số phận nó sẽ như thế nào?

Cuối cùng nó cũng được về. Trong ánh sáng ban ngày, nó cảm thấy vô cùng nhục nhã khi thất thểu, bước thấp bước cao đi trên chiếc giày cao gót, phấn son chảy xệ, đầu bù tóc rối ra khỏi đồn công an. Đấy, nó đang là cái người mà người ta nói là dị hợm đấy. Mà ai không dị hợm khi trải qua một đêm như thế! Nhìn nó bây giờ, ai có thể nhận ra, tối qua, trước khi bị bắt, nó là một cô gái xinh đẹp như thế nào.

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông

Người Con Gái Không Nịt Ngực

Sau khi được tàu Mỹ vớt, chúng tôi nằm la liệt trên sàn tàu. Mười sáu ngày vùi dập bởi sóng biển, đói khát, rét lạnh làm mọi người tơi tả. Một em bé sanh ra trên tàu được cấp tốc đưa vô phòng cấp cứu. Chiếc tàu nhỏ loại đánh cá chở chúng tôi đi buộc dây kéo theo sau, nhỏ bé như con kiến đi cạnh con voi. Chỉ một thời gian ngắn sau, các miếng gỗ của tàu cũng sút ra từng mảnh, trôi lênh đênh...

Ôi! Chiếc tầu nhỏ, quá nhỏ, chỉ ba mươi ba người mà đã chật không còn chỗ ngồi hay đứng. Chỉ mới qua đêm thôi, khi ngồi bó gối trong thân tầu, bị sóng biển nhận chìm, đưa lên rồi lại bị nhận chìm sâu hơn nữa vào trong lòng biển lạnh, rồi nghe tiếng kêu răng rắc của những mạnh gỗ bắt đầu bị lồi ra những cây đinh thì chúng tôi hiểu rằng chiếc tầu thân yêu không còn có thể gánh vác mạng sống của chúng tôi xa hơn được nữa.

Tôi đưa mắt nhìn những thủy thủ trên tầu Mỹ, lòng tràn ngập niềm vui và niềm biết ơn khó diễn tả. Và lon Cola mà tôi được phát, chao ôi sao mà nó ngon! Trôi tuột vào cổ họng khô khát... Có lẽ đó là lon coca ngon nhất trên đời tôi được uống. Chỉ mới hôm qua thôi, ngày thứ mười lăm, khi một em nhỏ trên tàu thoi thóp khóc vì quá khát thì mẹ em đã gieo cho em chút hy vọng: "Ráng đi con, khi nào có tầu vớt thì con sẽ được uống nhiều nước. Có khi lại có Coca!". Lúc ấy chúng tôi mới chỉ nghĩ đó như một giấc mơ. Hai đứa em tôi nằm bên cạnh, rên lên khi nghe nói tới nước...Từ cả hơn mười mấy ngày trước, khi đói và khát quá thì thằng nhỏ nhất bắt đầu mơ tưởng đến đồ ăn thức uống: " Chị ơi! Em đói quá! Em thèm một tô phở. Và một ly trà đá thật bự! Hay cái gì cũng được! Một tô mì, bánh xèo, hay bún bò..." Một bà trên tầu gắt lên: "Trời ơi! Đói khát thế này mà cứ kể ra mấy món ấy có chết không cơ chứ?". Rồi bà lâm râm đọc kinh, cả tầu cũng đọc kinh...Em tôi không dám nói lớn nữa, nhưng ráng thì thào bên tai tôi: "Chị ơi! Hay chị cho em một chén cơm nguội cũng được!" Tội nghiệp! Nó quá nhỏ để hiểu cuộc hành trình này không có quyền chọn lựa. Rồi nó không thì thào được nữa, mà bắt đầu khóc, và chỉ vào hạ bộ của nó đang sưng đỏ vù. Tầu nhỏ, không có chỗ ngồi huống chi chỗ đi tiểu, đi cầu...Lúc đầu mọi người còn ráng ra ngoài để tìm chỗ đi, nhưng khi say sóng và đuối sức thì ai ngồi chỗ nào đi chỗ nấy. Sau những ngày không được chùi rửa vệ sinh, hạ bộ đỏ u lên. Em tôi không hiểu tại sao hạ bộ nó sưng phồng, đỏ lòm và to gấp hai, ba lần bình thường. Mỗi lần nước biển tạt vào, nước muối mặn sát vào da thịt rát quá làm mọi người kêu la, oằn oại như thấu trời xanh. Rồi cộng thêm với những đêm bão lạnh kinh hoàng mà mỗi giọt nước rót vào người là như mũi dao xẻ thịt xẻ da, thì em tôi cảm giác như có những mũi dao cắt đứt đi cái phần cơ thể riêng tư quý báu đang bị sưng vù nên vểnh lên cao nơi hạ bộ của nó. Cho tới bây giờ tôi vẫn còn hình dung thấy hình ảnh những em trai nhỏ và những người con trai cúi cong người che hai chân lại rên xiết mỗi lần những cơn và sóng biển ập xuống.

Trên tầu Mỹ, vì không đủ phòng tắm cho mọi người cùng vào, chúng tôi được chia làm hai hàng nam và nữ. Hai thủy thủ cầm hai ống nước gấp rút xịt nước tắm cho mọi người, tất cả quần áo được cởi ra để đem khử trùng giặt sấy. Các thủy thủ gom góp áo quần của mình phân phát cho mọi người mặc tạm. Những bộ quần áo Mỹ rộng lớn bao che thân thể Việt gầy nhỏ, chúng tôi bơi lội trong đó như bơi lội trong niềm hạnh phúc và lòng tri ân được vượt thoát bình an.

Ngày hôm sau quần áo giặt sấy xong được trả về cho mọi người. Vì ở rải rác trên boong tầu không có mặt lúc phát lại quần áo, hoặc có những người nhận lộn đồ, chúng tôi đa số người lạc áo kể lạc quần, giầy dép không còn. Tôi còn lạc mất chiếc nịt ngực. Ngày đặt chân lên trại tị nạn, đôi chân trần bước trên đất nóng, tôi vẫn không thấy ngại bằng cảm thấy bộ ngực vô cùng trống trải. Thủa ấy tôi mới vừa mười tám tuổi, sinh ra và lớn lên trên cao nguyên Đà Lạt. Ở thành phố nhỏ hoa anh đào đó, đời sống là áo trắng hiền ngoan, má đỏ môi hồng, thẹn thùng e ấp. Vậy mà bỗng chốc lăn vào đời, chân không giầy dép, người không nịt ngực. Cái nịt ngực đối với tôi, nhất là ở xứ lạnh, là một vật dụng thân thiết ít khi rời. Nó vừa giữ ấm cho người, vừa che đậy nâng đỡ một phần cơ thể kín đáo. Ở phần dưới nịt ngực thường có một viền sắt mỏng hay viền vải chắn ngang, và một lớp vải dầy với miếng mút ôm gọn hai bầu vú để giữ cho phần ngực không rung rinh di chuyển theo mỗi bước đi và không lộ rõ núm vú. Khi sinh hoạt, dù trong nhà, cũng nên mang. Thế mà bây giờ, ở chốn đông người, giữa ban ngày ban mặt, tôi đi đứng chạy nhảy mà chẳng mang nịt ngực. Cái cảm giác trống trải không kín đáo này đối với tôi, một người con gái Á Đông lần đầu bước vào đời là cái cảm giác không an toàn, hở hang, bất an...

Tôi lên trại xin cấp nhưng chưa có. Trại chuyển tiếp có những nhu cầu cần thiết hơn phải được giải quyết trước. Miếng ăn, nước uống, thuốc men, nhà vệ sinh, tất cả còn thiếu mà người tị nạn đổ về mỗi lúc một đông. Lúc bấy giờ ở Việt Nam mà đa số là đàn ông thanh niên bị kêu gọi tham gia "thanh niên xung phong" hoặc bị gởi qua chiến trường Cam Bốt khốc liệt. Mọi người vội vã tìm đường vượt biên, trại rất đông đàn ông con trai. Và đủ mọi hạng người. Mỗi lần sáng chiều đi lãnh cơm, đi tắm, đi hứng nước hay có loa gọi gấp lên làm giấy tờ, tôi đi giữa những hàng chòi lá và dãy nhà tập thể, cảm nhận có những cặp mắt nhìn theo bộ ngực vô tình nhấp nhô theo từng bước chân chạy...

Tôi vừa mất cha nên có miếng tang đeo trước ngực, không biết người ta nhìn miếng tang cảm thông với tôi hay nhìn vào ngực và biết tôi thiếu cái nịt ngực...Có những cái nhìn rất soi mói, như lột trần mình ra. Con gái mới lớn, bộ ngực nở nang không làm tôi hãnh diện mà chỉ làm tôi thêm ngại ngùng khổ sở. Ở lứa tuổi học trò ngây thơ thủa đó, cảm giác nhận được là nhột nhạt, khó chịu, bất an. Tôi bỏ luôn thói quen mỗi sáng tập thể dục ngoài trời, vì khi không có nịt ngực thì những động tác nhún nhẩy có thể tạo sự chú ý. Ngay cả những ngày hè nóng nực ở trại tị nạn cũng không thoải mái thả mình theo sóng biển, bởi quần áo càng dính chặt vào người, núm vú càng hiện rõ, lộ liễu. Ở cái tuổi con gái tươi trẻ tung tăng mà tôi không hề dám tung tăng. Có hôm đang đi, nghe tiếng huýt sáo trêu ghẹo đuổi theo, tôi ngại và mắc cỡ quá lính quýnh đi như chạy, vấp té làm áo bị sút khuy nút. Hai tay vội vã cố gài khuy áo, tôi đi tiếp trong những tiếng cười tinh nghịch nham nhở. Có lần vừa sắp hàng đi hứng nước tắm về, thì nhạc quốc ca của trại trỗi lên, mọi người đang đi đường đứng nghiêm lại hát chào quốc kỳ. Tôi đang đứng nghiêm chỉnh bỗng nghe tiếng cười chỉ trỏ về phía mình, Một vài thanh niên đang ngồi trên tầng trên của chòi lá thò đấu ra nhìn tôi rồi một người chợt nói: "Chắc tắm về để quên cái nịt ngực!" Rồi họ cười hô hố. Một người khác tiếp theo: "Tên gì thế em! Tối nay đi chơi trọn đêm với anh nhá?" Một người lớn tuổi đang đứng chào cờ không xa, tỏ vẻ khó chịu. Ông ta nói vừa đủ tôi nghe: "Lần sau có ra đường hay chào quốc kỳ thì nhớ mặc nịt ngực! Con gái lớn ra đường ăn mặc đàng hoàng một chút!"

Tôi còn đang ngơ ngác thì tiếng quốc ca và mặc niệm chấm dứt, mọi người tiếp tục đi. Tôi cúi xuống cầm xô nước, ngỡ ngàng. Trời ơi! Thì ra có người tưởng tôi cố tình không mặc đồ đàng hoàng. Đây là lần đầu tiên tôi biết điều này. Tôi cảm thấy nghẹn không thể nói thành lời, muốn chạy đến người đàn ông khi nãy để nói rằng là tôi không phải cố ý như thế, mà hai chân tôi cứ bước như người không hồn, xô nước sóng sánh đổ ra mà không biết.

Dường như có giọt lệ nào, không chảy xuống mà chảy ngược vào tim tôi, lăn mãi, và lăn mãi...

Chiều chiều trong chòi lá nghe từ loa vọng lại bài hát "Người Di Tản Buồn", tôi thấy như bóng dáng mình trong đó..." Chiều nay có một người đôi mắt buồn, ngày ra đi lặng câm trong đau đớn..." Tôi ngồi bên xong cửa, thấy chiều rơi rất chậm, rồi "rưng rưng lệ vương mắt lệ nhòa "...

Rồi tôi cũng được chuyển sang một trại tị nạn chính thức khá hơn một chút, và xin được cái nịt ngực cũ. Cái cảm giác đầu tiên khi được mang lại vật dụng thân thiết ấy của người nữ làm tôi thật an toàn, yên ổn. Dù không vừa vặn nhưng thế là quá đủ!

Rồi tôi liên lạc được với người chị từ một trại khác vừa sang Mỹ. Ngày được bảo lãnh, khi chị đón ở phi trường, tôi nhìn chị, rồi như bị ám ảnh bởi hình ảnh của chính mình trong những ngày đầu tị nạn, tôi len lén nhìn vào ngực chị, trong phút chốc chợt mủi lòng, nhớ cha nhớ mẹ, nước mắt âm thầm lăn dài trên má. Chị cũng khóc, nhưng có lẽ lúc ấy chị không hiểu đích xác cái tủi buồn thầm kín của em mình.

Ngày hôm sau, vì trúng ngày thi cuối khóa nên chị nhờ người bạn trai là hôn phu chở chúng tôi đi làm giấy tờ và mua ít vật dụng cần thiết. Tôi đi trong thương xá rộng lớn, rồi bỗng sáng mắt khi nhìn thấy quầy bán nịt ngực, Chao ơi nhiều! đủ mầu đủ số. Tôi mân mê vuốt nhẹ lên từng phiến vải mềm, như muốn cảm nhận được tất cả sự dịu êm của từng miếng ren vải lụa, thấy lòng hạnh phúc reo vui như thể được cái gì quí giá lắm. Tôi chọn lấy một cái vừa vặn và một quần lót nhỏ cùng màu. Thế nhưng đến lúc ra quầy tính tiền, nhìn thấy người bạn trai của chị đang đứng chờ, tôi chợt thấy ngại. Tưởng tượng phải thả cái nịt ngực và cái quần lót nhỏ xuống trước mặt anh, tôi đã thấy ngượng. Tôi len lén bỏ lại, mơ hồ một cảm giác luyến tiếc sâu kín...

Hai em tôi đã chọn được cặp táp, vở học, và một ít quần áo. Còn tôi, tôi đã dành trọn thời giờ bên quầy nịt ngực...

Bây giờ tôi đã có nhiều chiếc nịt ngực, khác mầu, khác kiểu. Nhưng trong một góc ngăn kéo, tôi vẫn còn giữ lại cái chiếc chật cũ của những ngày tị nạn. Và trong một góc ngăn kéo rất sau thẳm của ký ức vẫn như còn đọng lại hình dáng một chiếc nịt ngực ao ước mãi của ngày xưa...

Sau này, khi các con tôi khôn lớn, sẽ có một lúc nào đó tôi dẫn vào thương xá, rồi như vô tình, đi ngang quầy bán nịt ngực, tôi sẽ kể các con nghe về chút kỷ niệm của thời mới lớn. Đơn giản thôi các con! Chỉ là một chiếc nịt ngực, mà đã từng là niềm mơ ước, nỗi ám ảnh của mẹ trong một khoảng đời con gái.

Giờ đây, tuổi trẻ các con lớn lên trong mệm ấm chăn êm. Thấy những gì đang có sẵn là tự nhiên, là bình thường. Đôi khi còn than thở, so sánh...Có biết đâu có những không gian và thời gian mà ở đó, ngay cả những cái nhỏ bé bình thường nhất cũng có thể là nỗi tủi nhục, niềm ao ước cháy bỏng. Đừng nói chi đến cái bầu trời tự do để thở như ở đây thì đã là quá tuyệt diệu và đã từng đánh đổi bằng biết bao là đau khổ chồng chất.

Có một thời gian, những câu chuyện vượt biên thống khổ như những vết thương mà người ta muốn quên đi để bớt nhức nhối trong một cuộc sống mới xa lạ và tất bật. Thế nhưng khi có dịp ôn lại và tìm về những kỷ vật cũ ấy, tôi chợt nhận ra rằng những đề tài cũ và đấy dấu tích đau khổ ấy, lại là những bài học tiêu biểu vô cùng cho những thế hệ sau...

Và tôi hiểu ra rằng đó còn chính là bài học cho chính tôi...

Ôi thảm nạn của những cuộc hành trình vượt chết vô tiền khoáng hậu! Ôi những chiếc tầu nhỏ bé một bloc chỉ có thể chạy trên sông mà đã băng biển vượt sóng rồi giông tố biển khơi, hải tặc tàn bạo, và nhục nhằn của bao người trong cuộc hành trình vượt chết...Thế mà bây giờ, tôi ngồi đây, trong cuộc sống có thể gọi là đầy đủ, nhiều lúc lại cho rằng đời sống sao mà khổ! Nào con cái, việc làm, nhà cửa, sao mà bận bịu! Nào "bill", nào "Job", nào chứng khoán trồi sụt...nhưng nghĩ cho cùng, thì có phải là những ngày đêm dài thăm thẳm trôi dạt trên thân tầu sắp vỡ, lúc gần chôn thây trong biển lạnh, lúc cận kề cái chết trong gang tấc, tôi chỉ ước mơ đứng trên đất liền, được sống...Có phải là khi ra đi tôi chỉ mong một bầu trời tự do hơn để thở, có phải là tôi đã ngủ quên cái hạnh phúc lớn lao mà biết bao người không may mắn có được... và, nhìn lại tủ áo, có phải là một lúc nào đó trong đời tôi chỉ ao ước một cái nịt ngực...

Có nghe, có đọc, có nhớ, có hình dung lại những cuộc hành trình biển đông năm xưa thì dường như ta mới cảm nhận được thấm thía hơn tất cả cái may mắn và hạnh phúc mình đang có.

Những thống kê về di dân đã cho thấy thế hệ di dân đầu tiên, như chúng ta, là thế hệ làm cầu nối cho các thế hệ kế tiếp vốn không có chút kỷ niệm và ấn tượng gì về quê hương mà cha mẹ đã phải bỏ lại. Đó là những thế hệ rất dễ ngày càng xa nguồn gốc nếu không được học hỏi giả thích.

Tôi tự nhủ, tôi sẽ không nhất thiết phải đi làm cho thật nhiều để các con có cuộc sống dư thừa, rồi để lại cho các con gia tài tiền của. Nhưng, đại dương sóng sau dồn sóng trước, tôi sẽ góp phần làm gạch nối giữa các con với những giá trị muôn đời của cội nguồn dân tộc. Các con sẽ được chia xẻ, rút tỉa những kinh nghiệm quí báu của cha ông đồng thời học hỏi những cái hay cái lạ của xứ người. Cái đó mới là cái đẹp riêng, là gia tài hành trang của các con, khi một lúc nào đó nhìn màu da khác người bản xứ, sẽ tự hỏi: " Tôi là ai? từ đâu đến, vì sao tôi ở chốn này?" Các con sẽ được giải thích để hiểu rõ, để tự tin, hãnh diện, và sẽ có lúc giải thích cho các con của mình hiểu. Những lúc yếu mềm, không nghị lực, không lối thoát, hãy lăn bành một chút về dĩ vãng, học ở đó những bài học xương máu. Khi tìm hiểu về những chiến trận anh hùng, những hành trình thống khổ đầy gương can đảm, các con sẽ thấy rằng ở đời có muôn ngàn cái khổ, nhưng có những cái khổ và cái can đảm làm rung chuyển lương tâm nhân loại. Máu, mồ hôi, nước mắt nhiều khi liên tiếp đổ ra mà chưa chắc đánh đổi được những gì chúng ta đang có. Rồi hãy hít thở đi cho ngập tràn khí quản cái tự do hạnh phúc quí báu vô vàn, rồi can đảm tiếp bước đi trên đường đời ngang dọc.

Đừng quên rằng chung quanh chúng ta, có những không gian và thời gian mà ở đó có những điều cần thiết, tuy nhỏ bé và bình thường, nhưng chỉ một chiếc nịt ngực thôi, cũng có thể là nỗi ước ao triền miên của những khoảng đời cơ cực...

:::Amy Phương Lê :::

Họ Tên: Amy Phương Lê

Nghề Nghiệp: Computer Programmer/Real Estate Broker

Hiện đang nghỉ làm để học xong Teacher Credential/Master of Science of Education.

Suy nghĩ về cuộc thi viết "Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông ":

Xin hoan hô và ủng hộ hết mình! This is for a great cause! Khi các con mình đi học ở trường, các thầy cô thường bảo các cháu kể và viết essay về "How your Dad and Mom came to America". Và các cháu cần làm thuyết trình, research...Các cháu và bạn bè thường thắc mắc hỏi về về những đề tài như thế. Có thêm những tài liệu và chuyện kể về cuộc hành trình này thì thế hệ mai sau và những người ngoại quốc sẽ càng hiểu được nguyên do chúng ta phải ra đi, ra đi bi thảm như thế nào, cùng với biết bao hoàn cảnh nghiệt ngã, oan khiên khác. Người American Indians năm 1838 có cuộc hành trình thống khổ

Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông

Sống Sót Trên Biển

Chiếc ghe vượt biên chở khoảng 150 thuyền nhân bị lạc đường, hư máy nằm bềnh bồng trên song nước bao la đã hơn ba tuần lễ nay.

Là một chiếc ghe được đăng ký, có thời gian là phương tiện để chuẩn bị đầy đủ nhiên liệu, lương thực, nước uống trong hai tuần lễ cho cuộc hành trình ngắn ngủi quá lắm là hai hôm khởi hành từ cửa Đại đi tới Thái Lan. Ghe lại được công an hộ tống an toàn ra biển. Trong khi đó các trại tị nạn Á Châu mới được dựng nên còn vắng hoe, đang mở rộng cửa, ân cần đón khách thuyền nhân. Vượt biển như thế thì chắc ăn quá, có khác gì đi du lịch đâu. Vậy mà bóng dáng thần chết vẫn đến viếng thăm họ. Đúng là con người sống, chết đều có số.

Cũng bởi chiếc hải bàn của chiếc ghe này bị hư, người tài công đành phải nhắm hướng sao mà tiến cho nên chiếc ghe đi không chính xác, bị lạc, cứ thế mãi cho đến khi hết cả nhiên liệu, thực phẩm, nước uống cũng chưa thấy bến bờ nào cả. Trong cuộc hành trình lạc đường, chiếc ghe đã ba lần gặp bão, nhưng là ghe vượt biển của nhà giàu nên được đại tu bổ công khai trước khi khởi hành tại bến nên chắc kinh khủng. Ghe cũng đã hai lần gặp hải tặc, nhưng nhờ đám thuyền nhân có mang theo của cải, vàng bạc, đô la, lên tiếng điều đình vì thế đám cướp biển tối mắt, chỉ lấy của cải rồi bỏ đi, nên đám phụ nữ trên ghe thoát màn hãm hiếp hay bị bắt đi.

Thoát được bão tố, hải tặc, đoàn người lâm vào cảnh cạn hết lương thực, nước uống, và hư máy tàu. Niềm hy vọng được tầu buôn, hay chiến hạm của Mỹ đi ngang đây cứu vớt họ cũng tan thành mây khói khi mọi người bị kiệt sức vì đói sau bốn ngày không còn gì để ăn. Cũng may nhờ những cơn mưa, nên họ đã hứng được nước để mà sống cầm hơi. Trong hoàn cảnh này, những cây vàng lá Kim Thành, những cục hột xoàn sang lấp lánh đã chẳng còn giá trị so với miếng bánh mì tổ phơi khô, củ khoai lùi, hay bát bo bo nhai như ăn phải sạn.

Tội nghiệp nhất là những người già và đám trẻ con chết vì đói, được thủy táng trong lòng biển. Qua mấy hôm trời nắng, số nước uống dự trữ lại cạn khô.

Chiều nay, lại thêm ba mạng đàn ông nữa qua đời vì sẵn đau yếu trong người. Người ta không đủ sức để làm thủy tang nửa. Mọi trách nhiệm dọn xác đều phó thác cho người tài công lái ghe là ông Thới, và người chủ thầu tổ chức chuyến đi là ông Phản.

Tối đến, đám thuyền nhân còn sống nằm rạp hết trong khoang ghe, thoi thóp. Trên buồng lái, ông tài công Thới cũng đến hồi kiệt sức, nằm ẹp xuống sàn, miệng khô ran chẳng còn chút miếng nước. Chỉ còn ông Phản nhờ thân thể mập mạp, khoẻ mạnh nên chỉ bị gầy đi chút đỉnh chứ chưa bị quị luôn. Ông Phản đổ dầu cặn ra chiếc thau nhôm nhúng cái giẻ lau máy tàu đen nhẻm vào, rồi đốt lên. Đây là công việc mà ông vẫn làm mỗi đêm để hy vọng có chiếc tàu nào đó đi ngang thấy được ánh lửa mà tới tiếp cứu chiếc ghe này.

Ba cái xác chết chưa thủy tang vẫn còn nằm phơi mình trên sàn ghe. Ông Phản kéo lại rồi lấy lưới phủ lên. Gió bắt đầu thổi mạnh. Ông Phản mừng rỡ chạy vào phòng lái gọi ông Thới và nói:

- Có cơn giông đang kéo tới đây, anh Thới à.

Ông Thới chợt ngồi nhổm dậy:

- Vậy mình lo lấy đồ hứng nước đi.

Hai ông xục xạo một hồi tìm được một tấm bạt nylon khá to, hì hục căng thành một cái võng. Cơn gió thổi càng lúc càng mạnh. Ông Thới mừng rỡ nói

- Trời thương chúng mình rồi, mưa lớn lắm

Những ánh chớp loé liên hồi, rồi những bụi nước nhỏ tạt vào mặt hai người. Ông Thới vội chạy xuống khoang la lớn:

- Có mưa rồi bà con ơi!

Đám đàn ông còn chút sức lực cố ngồi trỗi dậy để chia xẻ tin vui. Ông Thới lấy cái can nhựa và tất cả những gì có thể hứng được nước đem lên. Vài người đàn ông đã bò lên được phía trên. Họ nằm ngửa trên sàn ghe chờ đợi.

Rồi mưa đổ ập xuống như một phép nhiệm mầu. Đám người sắp chết khát la to lên mừng rỡ. Những hạt mưa lớn tạt vào mặt mọi người đau rát. Đám đàn ông hả miệng hớp những giọt mưa rồi nuốt một cách sung sướng. Mưa tạt xuống khoang. Đám người ở dưới cố lết tới miệng hầm để đón những giọt nước trong mát tưới lên cơ thể khô héo của họ. Những người còn sức lực kéo cả lên trên boong, nằm xuống sàn ghe. Đám trẻ con cũng được chuyển lên trên nằm hứng nước. Mưa thật lớn. Nước cứ tuôn xuống như thác. Đám người vượt biển nhưu được hồi sinh. Chưa bao giờ trong đời họ lại được nuốt những ngụm nước ngon đến như vậy. Tấm bạt nylon đã căng trĩu đầy nước. Chiếc can nhựa cùng với đám nồi niêu cũng đã đầy tràn nước. Người ta hăm hở lấy nước. Tất cả những túi, bịch, lon và những cái gì có thể đựng được nước, đều được đem ra trưng dụng hết.

Mưa một lúc lâu lại tạnh. Nước mưa hắt xuống cửa hầm khá nhiều nên đáy ghe cũng lấp xấp nước, nhưng chưa ngập đến tấm ván lót để mọi người ngồi. Gió biển bắt đầu lành lạnh. Mọi người lại lục tục rút xuống khoang nằm nghỉ. Bây giờ họ không còn khát nhưng cái đói vẫn tiếp tục hành hạ mọi người.

Tối hôm sau, ông Phản lại tiếp tục đốt lửa lên làm hiệu cầu cứu. Ông Thới cố ngồi được một lúc rồi chịu đựng không nổi cái mệt của cơn đói hành hạ nên ông đứng dậy nói với ông Phản:

- Tôi nằm xuống một chút để cho nó dịu cơn đói rồi lên đấy canh tiếp với anh.

Nói xong, ông bước xuống khoang. Đám người bên dưới lại nằm lả đi. Cơn đói cứ tới rồi biền đi không biết bao nhiêu lần, bây giờ lại trở về hành hạ họ dữ dội hơn.

Ông Thới nằm thiếp đi cho tới nửa đêm thì chợt tỉnh lại. Sực nhớ tới ông Phản, ông bèn gắng trỗi dậy leo lên để canh thế ông Phản. Vừa chui lên khỏi miệng hầm, ông Thới chợt ngửi thấy mùi thịt nướng. Ông Phản vẫn còn ngồi canh bên đống lửa đốt dầu cặn, đang cầm cắn ngon lành một món gì trên tay. Mắt ông Thời sang rỡ, ông lướt nhanh tới, cất tiếng hỏi:

- Anh ăn gì đó?

Ông Phản vừa nhai, vừa đáp;

- Cá nướng.

Ông Thới ngồi xề xuống;

- Cho tôi một miếng.

Ông Phản đưa cho ông Thới một xiên thịt đang nướng trên đám lửa đốt bằng dầu chạy máy tàu khét lẹt. Ông Thới cạp một miếng thịt nóng phỏng lưỡi, nhai ngon lành. Thịt ngọt và thơm ngon, nhưng mùi oi khói. Ông Thới ăn một loáng đã hết xiên thịt. Có thức ăn vào bụng, cơ thể ông tỉnh táo hẳn ra. Ông Phản vẫn thong thả nhai, vừa ăn vừa nhìn nét mặt sung sướng của ông Thới. Năm xâu thịt nướng được hai ông chia nhau ăn sạch. Ông Thới quệt miệng nói;

- Phải chi có xị đế như mọi lần mình đi đánh cá thì tuyệt quá!

- Anh ăn thấy làm sao?

- Còn gì ngon hơn trong lúc này. Đói mà có ăn như vậy là tiên rồi.

Rồi chợt nhớ ra điều gì, ông Thới hỏi ông Phản;

- Cá gì mà sao mùi vị nó giống thịt vậy anh?

Ông Phản bình thản đáp;

- Vì muốn cho anh ăn, tôi đã nói dối là cá, chớ thiệt ra là…thịt người đó!

Ông Thới chợt ré lên một tiếng, rồi cố móc họng khạc nhổ, nhưng chẳng có gì khạc nhổ ra ngoài được. Mặt ông chợt xanh mét:

- Anh cho tôi ăn thịt ai vậy?

- Một trong ba cái xác chết tôi dấu dưới đống lưới!

Ông Thới nằm bật ngửa ra, thở dốc. Trời ơi, ông đâu có ngờ, mấy miếng ông ăn ngon lành lúc nãy là thịt người. Cảm giác tội lỗi chợt kéo đến tâm hồn ông. Nước mắt ông chợt trào ra. Ông Phản lên tiếng;

- Mình cần phải ăn để mà sống anh Thới ạ. Sở dĩ tôi chưa liệng mấy cái xác đi là biết trước, sau gì chúng ta cũng phải cần đến nó. Lấy thịt của người chết để nuôi người sống cũng chẳng có gì là tội lỗi cả, bởi chúng ta đã kiệt lực vì đói. Không ăn nó thì ăn cái gì nay?

Ông Thới nằm yên, mắt nhìn trừng trừng lên trời đêm. Dù ông biết lời ông Phản rất chí lý trong trướng hợp này, nhưng ông vẫn thấy nó ghê rợn làm sao ấy. Ông không trách ông Phản, bởi vì ông cũng nhờ mấy miếng thịt vừa rồi mà lấy lại sức sống.

Thế rồi, thịt của ba người chết được hai ông già bí mật lóc ra từng mảnh nhỏ, xương cốt, ruột gan của ba xác chết được thảy xuống biển khơi. Số thịt được ướp nước muối, phơi khô, và số nước hứng được trong trận mưa đã kéo dài sự sống cảu đám người trên chiếc ghe bất hạnh được thêm mấy ngày nữa. Họ cứ đinh ninh đó là thịt một loài cá mập con như lời hai ông nói. Chưa có ai hân hạnh được ăn thịt cá mập bao giờ nên họ cũng không thắc mắc đén cái mùi vị khác lạ của miếng thịt họ được ăn, và cũng không thắc mắc làm sao mà hai ông lưới được cá mập.

Khi mớ thịt muối đã hết, đoàn người lại lâm vào cảnh đói, khát thì may mắn thay, họ được một chiếc thương thuyền mang cờ Mỹ đi ngang qua, tiếp cứu, cho tất cả lên tầu.

Chuyện ăn thịt người đã được hai ông già giữ kín. Sau này, khi được định cư tại Hoa kỳ, lúc gặp lại nhau trong bàn tiệc nhậu hai ông vui miệng kể lại chuyến đi khủng khiếp đó và thú thật đã cho thuyền nhân ăn thịt người, nhưng chẳng ai tin. Còn những người đi cùng chuyến ghe định mệnh đó thì cứ nhất định khoe với hàng xóm là họ đã được ăn thử thịt cá mập.

Tôi đã định về sớm nhưng sa đà chén rượu, câu chuyện, dứt không nổi, ba giờ chiều mới lên xe. Trên con đê ven sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, nhẩm tính 70 km vẫn kịp tới Hà Nội trước khi trời tối. Bất ngờ mây đen ập đến. Trời như trút nước, tôi ướt lướt thướt, người ớn lạnh. May có cái điếm canh đê vào trú. Mưa dai dẳng gần hai tiếng đồng hồ. Đường xấu lại sũng nước, cái xe Honda cà khổ đời 78 không bốc lên được. Ra đến đường I Phủ Lý chắc tối mất.

Lối rẽ. Trên đê tôi phi xe xuống. Sau mưa, ráng chiều đỏ ối. Bất thần trên nền trời trước mặt sừng sững cây đa ba đầu. Tôi nổi da gà, xung quanh tối sầm, người hẫng đi, rơi vào chốn mung lung. Cảm giác ấy diễn ra chẳng biết bao lâu. Rồi tôi nghe tiếng người lao xao, đầu nhức như búa bổ. Hình ảnh cây đa ba đầu ở cái làng Ma chập chờn. Sao nó ở đây nhỉ? Mình đang ở Hà Nam cơ mà? Loáng thoáng tôi nghe tiếng ai nói xa gần:

- Người nóng quá... Chắc gặp mưa cảm lạnh...

Tôi gượng lầm bầm hỏi:

- Đây... là... đâu? Sao có... cây đa ba đầu? Làng Ma...?

- Anh ta nói gì...? Làng Ma! Ô hay, anh ta gốc ở đây ?

- Thế... thế cụ Tĩn?

- Kìa... anh ta biết cụ Tĩn à, ông lão ở làng Ma...

Sao lại là làng Ma? Đây đất Hà Nam, đâu phải Hải Dương? Đầu óc tôi lùng nhùng những câu hỏi.

* * *

Hồi ấy, đang thời chiến tranh đánh phá miền Bắc ác liệt của không quân Mỹ, những năm sáu bảy sáu tám. Lúc đó tôi tròn mười tuổi. Mẹ gửi tôi sơ tán ở nhà người họ hàng với bác cùng cơ quan mẹ. Làng thuộc huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Mẹ tính đấy là vùng xa quốc lộ, không nhà máy xí nghiệp, máy bay ít oanh tạc. Cứ chủ nhật cuối tháng, từ cơ quan ở Hà Nội, mẹ lóc cóc đạp hơn bảy chục cây số theo đường tắt đèo những thức cần thiết cho tôi. Những ngày đầu một mình chốn lạ, tôi nhớ nhà, nhớ mẹ, thường ra đầu làng ngóng hay lủi vào góc kín thút thít khóc. Dần dà tôi cũng quen với cuộc sống mới. Có lẽ bởi nông thôn nhiều trò lạ trước đứa trẻ thành phố như tôi. Trò trèo cây xem ổ chim non, mấy con chim ra ràng đỏ hỏn, nghển cổ chiêm chiếp đòi ăn; xem trận kịch chiến giữa bầy ong vàng và tên hung thần ong đen đến đánh cướp ong non; theo lũ trẻ ra bờ sông câu cá lác, loại cá mắt thố lố như cái đèn pha, vắt vẻo trên đầu... Thú nhất vẫn là đi câu. Cũng vì trò ấy tôi quen cụ Tĩn, ông già cất vó ở rìa cống, giáp sông. Chẳng rõ cụ Tĩn có người thân nào không, chỉ thấy cụ thui thủi một mình ở cái chòi cất vó. Một bận tò mò tôi hỏi, nhà cụ ở đâu, cụ Tĩn chỉ vào trong đê, nơi bọn trẻ bảo đấy là làng Ma. Trước có cái chợ họp ở đó. Năm đói người dồn về, chết, xác chôn chung nên có gò gọi là mả Chung, Những đêm trở trời, ma đói tụ tập họp chợ dưới gốc đa. Sợ thì sợ, nhưng học xong chiều nào tôi cũng ra bằng được. Không biết ham câu hay vì những câu chuyện cụ Tĩn kể. Phải nói cụ Tĩn là kho chuyện cổ tích. Cụ kiên nhẫn trả lời, giải thích các câu hỏi dường như vô tận của tôi, một đứa trẻ lên mười.

Trưa ấy đi học về, ăn vội vàng, rồi cầm chiếc cần, câu tôi phóng ra bờ sông. Vào chòi chẳng thấy cụ Tĩn đâu, chỉ thấy bốn gọng vó không lưới đung đưa trên mặt nước. Tôi dáo dác tìm quanh. Cụ ở đâu nhỉ? Hay ốm nằm nhà? Mà từ trước đến giờ chưa thấy người thân nào của cụ. Thử vào nhà xem sao. Phân vân một lúc vì sợ, nhưng nghĩ cụ Tĩn ốm, tôi đánh liều vào làng Ma. Lâu rồi làng Ma thành vườn cây các cụ. Tuy lần đầu vào đấy tôi vẫn tìm được nhà cụ Tĩn ngay. Khu vườn có ngôi nhà cụ là duy nhất, ba gian lợp rạ, ọp ẹp cũ.

- Ông ơi... !

Tiếng vòng vọng trong vườn cây. Nghe, tôi rờn rợn, hốt hoảng gọi liên tiếp. Từ chái nhà có tiếng cụ:

- Thằng cháu đấy à?... Ông đây, ông ở đây.

Xộc vào, tôi thấy cụ Tĩn đang lúi húi trong bếp. Một nồi mười cháo to vật, đang sùng sục khói trên cái bếp, kê bằng mấy ông bù rau. Tôi vội hỏi:

- Ông ốm à? Sao ông nấu nhiều cháo thế?

- ồ không (cụ Tĩn trả lời). Hôm qua ông quên mời thằng cháu. Chiều nay ở đây ăn cơm, à... ăn cỗ với ông. Hôm nay rằm tháng bảy, lễ xá tội vong nhân.

Nói rồi cụ Tĩn nhờ tôi ra vườn hái lá mít, cụ thì rọc những tàu chuối. Hai ông cháu mang đám lá xuống cầu ao rửa, cả đám lá đa, chắc cụ Tĩn nhặt dưới gốc cây đa ba đầu từ trước. Rửa xong, ông cháu tôi bê rổ lá vào nhà lau cẩn thận. Tôi chẳng biết đám lá để làm gì. Lúc này tôi mới có dịp quan sát nhà cụ Tĩn. Ngôi nhà tềnh toàng, ngoài ban thờ ám khói, đầy tan nhang và chiếc chõng tre cũ, đồ đạc chẳng còn gì nữa. Tôi tò mò hỏi:

- Ông ơi, thế bà đâu? Các cô chú đâu?

Mải lau lá hay suy nghĩ gì, cụ lơ đễnh trả lời:

- ờ... ờ... bà và các cô chú... Kìa, nhanh tay lên cháu... Họ đang chờ... Đói, ma đói mà!

Tôi lạ quá và cảm thấy sờ sợ, lấm lét nhìn quanh. Chẳng có ai. Cụ Tĩn bước lại ban thờ, bày mấy gói bỏng ngô và thắp nén hương, rồi bảo tôi rải những chiếc lá mít, lá đa đã lau sạch ra sân và cụ bê nồi cháo theo. Tôi trố mắt ngạc nhiên khi cụ Tĩn cầm muôi múc cháo đổ vào từng chiếc lá. Xong rồi cụ lại sai tôi bê rổ lá không ra vườn rải tiếp. Vườn cây um tùm rậm rạp. Đến lúc này tôi mới thấy mấy mô đất cụ Tĩn chỉ cho, cỏ mọc xanh rờn: - “Hai đống liền kề kia là nhà đĩ... à nhà cô Mít, cô Na; đống cuối vườn là nhà bà; đống..." Rồi giọng cụ nghèn nghẹn: -"Thày bu ơi, các con ơi, mẹ... mẹ cái đĩ... về nhà mà ăn cháo, cháo trắng bố Tĩn nấu". Tiếng cụ nức nở. Chiều ấy tôi nghe câu chuyện cụ Tĩn kể về làng Ma, về chuyện đói, về những người thân của cụ.

Trước, đây có tên là xóm Trại, không phải tên làng Ma như người ta gọi. Xóm Trại đông đúc, gần hai chục nóc nhà, ngót nghét trăm rưởi khẩu. Nhà cụ Tĩn có chín người (lúc đó dân Trại gọi cụ là bố Tĩn), gồm ông bà Nhiêu, vợ chồng bố Tĩn và năm đứa con, cả trai lẫn gái. Đĩ lớn chưa đầy mười ba, cu bé đang bú. Nhà bố Tĩn có năm sào công điền. Vụ mùa ấy lúa bị bệnh, gọi là hoàng trùng. Năm sào ruộng, thóc gặt về, trừ sưu thuế và các khoản, còn chưa đầy mười thùng thóc. Mười thùng thóc, nhà chín miệng ăn, từ tháng mười đến tháng tư vụ chiêm, đói là cái chắc. Đã thế thóc lại lép, xay giã đớn như kê, nấu ăn đắng ngắt. Trong làng ra đến xóm Trại nhao nhác, chuyến này đói to. Ngày mùa mà nhiều nhà cháo cám hay cơm độn rau. Gạo ở chợ giá tăng vòn vọt, từ 15, 20, 30 rồi lên tới 80 đồng một thùng. Cái chợ toen hoẻn đầu đê cũng có người phủ Ninh Giang đến đong thóc. Nghe nói cân thóc tạ cho Nhật. Mẹ Tĩn vốn dân hàng xáo, trước quen biết họ nên nhận được phần xay giã. Nhờ thế nhà cũng đỡ, kiếm chút cám bổi.

Xóm Trại mới giữa tháng chạp nhiều nhà đứt bữa, nhưng chưa ai chết. Kẻ chết đói đầu tiên là người thiên hạ, chết ở cái chợ đầu đê và cái chết thật hãi hùng. Chợ họp hai hôm một phiên, chớp nhoáng buổi sớm, vậy mà người đói cứ ùn ùn kéo đến. Có người đàn bà chửa không biết từ đâu tới. Chị ta trở dạ tầm xế trưa. Người đàn bà chẳng còn sức vật vã. Dân đói ở chợ chỉ lơ ngơ nhìn. Đói làm người ta thờ ơ mọi chuyện, vô cảm dửng dưng trước đồng loại. Chẳng ai biết chị ta đẻ lúc nào. Tận khi nghe tiếng trẻ khóc và tiếng chó ăng ẳng, mấy con giằng cướp lằng nhằng đám nhau thai chạy... Qua tết, trong làng ngoài trại lác đác người chết. Nhà bố Tĩn còn cầm cự được nhờ nguồn cám bổi xay giã thuê, rồi bố đánh dậm, gái lớn kiếm rau, lại khoản tiền công chôn xác đói. Lúc đầu công chôn đồng một xác. Khi chết rộ, giá xuống một hào. Sau chỉ mấy xu. Cuối cùng không công. Không đi không xong. Trương tuần đốc, lôi thôi ăn gậy ngay. Buổi đầu còn sức, lại hai ba trai đinh, nên xác được khiêng ra đồng, có quan tài hoặc ghép cánh cửa, không thì bọc chiếu, bọc dát giường. Sau nhiều quá, cứ chôn đại. Trong làng ngoài Trại chôn cánh đồng gần đấy, đào huyệt lấp đất qua loa; xác ở chợ hất xuống hố chung, phủ đất. Đã chôn nhiều người, vậy mà bố Tĩn vẫn hết hồn bởi một lần bị nã đi. Người ấy chết mấy hôm, bụng trương to. Cái xác nằm còng queo giữa nhà. Bố Tĩn định kiếm tấm dát giường, ngó thấy cái chiếu nằm lồng bồng trên giường, bố Tĩn kéo. Động, từ trong ấy rinh rích nhảy ra mấy con chuột. Bố Tĩn giật mình, chiếc chiếu vừa kéo ra, để lộ đứa trẻ hai hố mắt sâu hoắm, dòi trắng lổm ngổm bò trên mặt...

Nhà bố Tĩn, bà mẹ là người chết đầu tiên. Cháo cám lâu ngày, cụ mắc bệnh kiết lỵ. Rồi đến cháo cám cũng không có, chỉ mỗi thứ ốc tép nấu rau. Hết thóc, hết người đến cân thóc tạ, nhà bố Tĩn mất nguồn xay giã. Không còn sức đưa xác mẹ ra đồng, bố Tĩn đành chôn mẹ ngay trong vườn. Bố Tĩn cố đào cái huyệt sâu. Lúc đào gắng sao khỏi quỵ, người đi chôn mà quỵ sẽ không đứng lên được, chính bố Tĩn đã nhìn thấy cảnh đó. Ghê quá, đi chôn người mà người ta phải chôn luôn mình. Sau cái chết của bà mẹ, đến lượt vợ và đứa con út. Bố Tĩn biết trước vợ sắp chết. Buổi sáng thằng bé lóp chóp mút vú, mẹ nó thì lã chã nước mắt. Lúc sau thấy vợ lủi vào góc nhà. Thường người sắp chết đói hay lảng vào chỗ khuất, giấu mặt, họ buồn và lo sợ. Chết đói khác chết bệnh, cứ từ từ, thoi thóp. Bố Tĩn nhoài đến lay vợ, lần đầu người còn ấm, lần sau thì lạnh rồi. Nghe tin mẹ chết, có cái đĩ lớn phều phào khóc, còn mấy đứa nhỏ ngơ ngơ đứng, ngó theo chị và bố đưa xác mẹ cùng em ra vườn. Trừ bố Tĩn, liên tiếp mấy hôm ấy, ông cụ nhiêu và lũ cháu lần lượt ra đi... Nghĩ sắp đến lượt mình, nên đói mà bố Tĩn cũng chẳng thiết kiếm gì nhét vào bụng. Người ta bảo ăn độc rau má thôi, ăn linh tinh là chết. Nhà bố Tĩn đã gắng kiếm rau má, vậy mà vẫn "đi" hết.

Mưa rả rích mấy hôm. Sáng đó khát quá, bố Tĩn lảo đảo ra sân kiếm chút nước. Đói làm bố Tĩn sa sẩm, nhìn mọi thứ hoa hoa. Bất chợt bố Tĩn thấy mảnh đất gơ rau lang rìa bờ ao có mậm khoai đỏ tía, mưa làm trồi mỏm củ khoai lên mặt đất. Lạ, đám đất đào bới bao lần, vẫn sót củ khoai. Bố Tĩn sà xuống, hai tay bới móc. Không kịp rửa ráy, cứ thế tống vào mồm, ngấu nghiến nhai. Củ khoai nhãi giúp cơ thể đói hồi sức. Lúc này người đàn ông mới thấy lạ: Sao mấy hôm rồi trương tuần không đến nã đi chôn xác đói. Mà xóm trại vắng lặng quá. Chết hết rồi sao? Bố Tĩn khật khưỡng ra khỏi nhà. Chả gặp ai. Ra đến cánh đồng đầu xóm, cũng không thấy ai be tát, đánh dậm. Bố Tĩn trố mắt nhìn thửa ruộng trước mặt, lúa đã ngậm sữa. Không còn sợ hãi và chẳng biết ruộng ấy của ai, bố Tĩn lật bật xuống tuốt. Kẻ đói nhai, nuốt, nhổ, rồi lại tuốt, nhai, nuốt, nhổ. Gió mát cùng dòng sữa lúa non làm bố Tĩn tỉnh hẳn. Ngồi một lúc trên bờ ruộng, bố Tĩn chợt nảy ra ý vào làng. Chã nhẽ cả làng chết hết rồi ư?

Làng vẫn còn người. Thấy bố Tĩn họ rất ngạc nhiên. Người trong làng tưởng dân xóm trại chết hết rồi. Bố Tĩn càng ngạc nhiên hơn, lúc trước xin vã bọt mép không ai cho nổi củ khoai, giờ bỗng dưng có người cho cả rá thóc. Nghe họ nói đã phá kho thóc nhà cụ Bá, chia cho dân làng, đang phòng quân Nhật vào trả thù. Lúc đó bố Tĩn nào còn để ý gì. Hình ảnh bố mẹ và đàn con thoi thóp đói... " Các con ơi, sao không cố mà sống! Bố có thóc... có gạo nấu bát cháo trắng rồi".

* * *

Câu chuyện cụ Tĩn kể về làng đói, về những cái chết cứ ám ảnh tôi. Đến nỗi nhiều đêm, tôi hét trong mơ, bà chủ nhà phải lay gọi. Dịp ấy tôi bị ốm bệnh tình khá nặng, phải đi viện. Các bác sĩ chẩn đoán sốt thương hàn. Tóc rụng, đầu trọc, tôi gầy da bọc xương, mẹ về chăm sóc cả tháng. Đang thời kỳ máy bay đánh phá ác liệt, năm sáu bảy, sáu tám, tôi vừa khỏi, mẹ vội đưa về Hà Nội. Gần ba mươi năm trôi qua, tôi không quên kỷ niệm cái làng hẻo lánh ấy, về những lần đi câu cá, về cây đa ba đầu... Nhiều lần tôi tự nhủ sẽ trở lại thăm chốn cũ, nhất là thăm cụ Tĩn. Chắc cụ già lắm rồi. Vậy mà... tôi vẫn chưa có dịp trở lại. Trận cảm mưa và một làng Ma vô tình, gợi tôi nhớ về cái làng Ma và những kiếp người

Người về từ Libya kể chuyện:Cực đói - Đói - Vẫn đói

Ngôi làng nhỏ Lai Tê, xã Trung Chính, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh có 7 người đi lao động ở Libya mới trở về. Họ đã cùng nhau nếm trải những khốn khó nơi đất khách quê người, cùng nhau hoang hoải giấc mơ hồi hương, rồi cùng nhau thỏa nguyện khi cùng được đặt chân lên máy bay về nước. Giờ đây, họ lại cùng nhau nếm trải sự bải hoải, chán chường, mệt mỏi, và... đói của kẻ thất nghiệp.

Về nhà: Vẫn đói

Tôi có chút dè dặt khi bước chân vào ngôi nhà cấp 4, chỉ bởi một lí do duy nhất là sợ... chó. Nhưng ngôi nhà này im ắng một cách khác thường. Sau một hồi lưỡng lự, rồi tôi cũng bước vào. Trong nhà tối om, dù mới có 3h chiều. Bỗng nhiên tôi giật bắn mình, lù lù một cha, một con ngồi thu lu trong góc nhà đột ngột lên tiếng. Tôi hỏi: Phải anh vừa từ Libya trở về không? Trả lời: Phải. Mời chị ngồi.

Tôi tự đặt mình vào chiếc ghế nhựa màu đỏ, có lẽ là vật hào nhoáng và tinh tươm nhất trong căn nhà. Một lát, tôi lại gần hai cha con anh Thắng. Một cái nồi cơm điện bong tróc, nắp đi đằng nắp, nồi đi đằng nồi. Nắp dựng bên cạnh tường, còn trong nồi cơm, một bát đậu phụ và một bát nhỏ nước mắm bốc mùi vừa mặn, vừa chua. Đứa bé cứ oặt đi, không chịu ăn miếng đậu phụ ỉu xìu. Tôi bỗng dưng phát bực, gắt lên: Nó bé tí thế ăn làm sao được đậu phụ chấm nước mắm mà cứ bắt nó ăn. Bất ngờ vì bị... mắng, Thắng ngước nhìn tôi, đôi mắt bỗng dưng ầng ậng nước.

Chưa có chiến sự: Đói

Một lát thì Nguyễn Đức Công và Lê Văn Nhất, "đồng đội" của Thắng cũng tới. Có lẽ, từ Đói được những người này nhắc đi nhắc lại với nỗi kinh hoàng nhiều nhất. Tất nhiên, tôi không tránh khỏi ngạc nhiên, khi từ này được nhắc đến khi họ kể về những tháng ngày bình yên, khi chưa có chiến sự ở Libya. Công dí dỏm: Sáng nào bọn em cũng được hưởng... trứng. Khổ nỗi, đầu bếp nước ngoài không biết chế biến trứng thành nhiều món khác nhau như ở nhà mình, thành ra sáng nào, cũng là trứng sốt. Không gì khác, ngoài trứng sốt. Cuối cùng thì bọn em phát sốt lên vì trứng. Sáng ra, cứ nhìn thấy trứng sốt, là gai hết cả người. Mấy anh em đành nhịn đói đi làm. Đề nghị mãi, rồi họ cũng đồng ý cho đổi đầu bếp người Việt. Từ đó, được giã từ món trứng sốt. Chỉ có điều, ròng rã mấy tháng trời, sáng nào cũng trứng, trứng và trứng. Nhưng đã là trứng ốp, trứng rán, trứng luộc thay cho món trứng cứ đảo loạn xạ lên. Cơn đói rau cũng khủng khiếp không kém. 63 người Việt, được có một, hai cây bắp cải thái chỉ ra để nấu canh, khoắng nồi canh mỗi  đứa chỉ được có một... sợi rau. Hôm nào "hoành tráng" lắm, thì được hẳn... 3 cây, mặt mũi ai cũng hớn hở, vì hôm đó có nhiều nguyên liệu thì được ăn rau xào.

Chiến sự: Cực đói

Cả ba người trước mặt tôi đều có chung một ánh mắt mơ màng và những lời nói trìu mến khi nhắc tới một chiếc xe máy họ đã nhìn thấy ở nước bạn xa xôi. Nơi họ làm việc là một nhà máy nhiệt điện nằm trong vùng sa mạc. Mỗi khi "có điều kiện" (điều kiện là do họ phải tự tạo ra bằng cách góp tiền đi taxi), họ lại đi vào thị trấn cách nơi làm việc chừng 25km. Thị trấn toàn ô tô tham gia giao thông, nhưng bỗng nhiên, họ nhìn thấy một chiếc xe máy. Nỗi nhớ nhà ngùn ngụt dâng tràn. "Ở nhà mình, xe máy nhiều như... kiến. Thế mà sang đây, cũng chỉ duy nhất một lần nhìn thấy xe máy, mà cũng chỉ nhìn thấy có một chiếc duy nhất mà thôi. Xe máy làm bọn em nhớ Việt Nam kinh khủng" - Lê Văn Nhất thủ thỉ. Điều hỉ hả nhất của cả ba người này, ấy là ngày 15/2/2011, họ đã gửi trót lọt tiền lương về cho gia đình bằng dịch vụ chuyển tiền nhanh. Tôi hỏi sao lại phải chuyển tiền bằng dịch vụ, cả ba đều lắc đầu: "Lúc đầu mới sang, công ty yêu cầu bọn em lập tài khoản tại Việt Nam, sau đó chuyển tiền lương vào tài khoản đó. Nhưng cứ bị cắt 50 - 77 đô không rõ lí do. Chị bảo được có tí tiền gửi về nhà, lại bị cắt hơn triệu bạc như thế thì chết à? Bọn em đi gửi tiền ở thị trấn vừa nhanh vừa không bị "cấu".

Ngày 17/2, những người Việt  ở Libya phong thanh biết tình hình có thể có chiến sự. Mọi người bắt đầu đổ xô xuống căng - tin xếp hàng dài dằng dặc mua nước và lương thực tích trữ, chủ yếu là mua bánh quy vì  ngoài bánh quy ra, cũng chẳng còn gì. Sau đó, thì nước, và bánh quy cũng chẳng còn có mà mua.

"Đến ngày 19/2, khoảng 2 - 3h chiều, khi đứng làm việc trên cao, thì bọn em nhìn thấy đoàn người biểu tình trên mấy chục chiếc xe cách khoảng 200m, lúc này, mới bắt đầu tin là thật sự có chiến sự. Công ty vẫn bắt phải làm việc, nhưng công nhân tất cả các nước đều đồng lòng phản đối. Cuối cùng, công ty họp bàn và cho nghỉ.

Đêm 19, nghe tiếng súng nổ, công nhân người Bangladesh chạy tán loạn ra khỏi nơi ở, công nhân Việt hóa ra lại gan nhất, hô nhau chuẩn bị tư trang, lương thực, bảo nhau phải đoàn kết, không được rời đoàn, không được bỏ nhau. Lúc này, công nhân Việt lấy giấy bút ra ghi số điện thoại, địa chỉ gia đình ở Việt Nam cho nhau, bảo: đứa nào còn sống, nhất định phải tìm về báo tin cho gia đình những đứa chết. Tiếng súng làm hoảng loạn, nhưng lại làm gia tăng tinh thần đoàn kết cho 63 công nhân người Việt nơi đây. Cũng có người, nghe tiếng súng, sợ quá, đến bấn loạn, quên cả tên bạn cùng phòng, cứ lắp bắp hỏi đi hỏi lại: mày tên là gì, dù ở chung phòng ngày nào cũng gọi tên nhau.

Từ ngày 20/2, không có  thức ăn, nhà bếp còn gì, họ đem phát cả.  Đói quá, đói đến mức không còn sức để kêu  đói. Có miếng cháy, đem đổ nước lã vào rồi chia nhau.

Điện thoại không gọi được, bấm cả chục nghìn cú điện thoại một ngày mà họa hoằn lắm mới được một cuộc. Đến đêm ngày 26, khi đặt chân lên ô tô, ai nấy đều bảo nhau: thế là sống rồi. Nhưng đi được chừng 2 - 3km, lại phải quay về, lại tràn trề thất vọng. Cơn đói lại hoành hành, toàn thân run lên vì đói, mồ hôi túa ra, đầu óc quay cuồng, mắt không còn nhìn được gì nữa" - Nguyễn Đức Công kể.

May sao, đến rạng sáng ngày 27 thì được đi thật. Sang đến Ai Cập, biết là  sống thật rồi, nhưng vẫn đói đến mức không thể  mừng vui. Đến 3h chiều, có người Việt mang bánh mì cho ăn. Mấy đứa cấu véo chia nhau một chiếc bánh mì bé tẻo, nhưng vẫn chia cho cả công nhân người Philippines, nhìn họ người to đùng, đói lả, mà tội quá. Họ cảm động, cứ nói cảm ơn, cảm ơn ríu rít.

Nguyễn Đức Thắng bảo: Công ty Hàn Quốc, đơn vị thuê mình làm việc ở Libya cũng tốt, họ hết lòng lo cho anh em công nhân, sang đến Ai Cập cũng còn cho bánh mỳ để ăn cầm hơi. Rồi người của Đại sứ quán Việt Nam cũng long sòng sọc lên lo lắng, chạy ngược chạy xuôi lo cho anh em, rồi không biết bao nhiêu người dân trong nước lo lắng cho chúng tôi, chúng tôi mới an toàn được về với gia đình, chứ không thì không biết giờ này ra sao. Lúc khốn khó, mới thấy tình người đã giúp mình sống. Lúc tôi tạm biệt, thấy vợ anh Thắng hí húi thái nửa cây bắp cải cho bữa cơm chiều bên bờ giếng, chợt thấm thía từ Đói.

Sống qua cơn đói

Những người đói cướp lại thóc gạo do Nhật chiếm, bị quân đội Nhật hành hung (1945) - Ảnh: Võ An Ninh

Gia đình ông bà tôi thuộc lớp trung lưu. Bà nội và mẹ tôi rất căn cơ, tiết kiệm. Thế mà không thoát đói. Sau này lớn lên tôi mới biết đó là cái đói Ất Dậu - cái đói mênh mông trùm khắp bao vùng miền, bao tỉnh huyện, không đâu và không ai thoát khỏi được.

Cái đói không của riêng ai

Tôi là cháu trai nên được bà rất chiều, còn mẹ - khỏi phải nói. Chợ về bao giờ cũng có quà. Quà phiên chợ đói mẹ đưa về cho chúng tôi lúc tấm mía gầy, lúc mấy củ khoai lang còi cọc. Mấy đứa em xúm quanh nhìn tôi bóc khoai, bóc cẩn thận cho thật hết vỏ.

Khoai được chia cho hai em phần lớn, còn tôi phần nhỏ hơn bởi tôi còn được tất cả phần vỏ còn lại, vun một nắm cho vào miệng nhai ngon lành. Vỏ khoai là thứ xưa nay không ai ăn vì nào có tiêu được, ăn vào bụng rồi trả lại cho đất mà thôi. Mấy anh em xúm quanh mấy củ khoai, trịnh trọng bóc và hăm hở nhai cả vỏ - đó là kỷ niệm về đói tôi không bao giờ quên.

Cả làng hiu hắt, vườn cổng đóng kín. Thế mà vẫn có người chui được vào nhà vì không còn chó. Người không có cái ăn thì chó cũng chết hết để làm cái ăn cho người. Người làm mướn cho ông bà tôi, một người đàn bà góa rất nghèo, đến thăm ông bà, ngồi ở góc nhà, mắt nhìn khắp trần nhà, dưới nhà. Không phải đến bây giờ mà ngay từ lúc ấy tôi đã thấy mắt của người đói rất đặc biệt.

Quan sát bà làm mướn và quan sát những người trong làng tha thẩn ngoài đường, ngoài ngõ tôi thấy họ thân hình thì khô quắt, chỉ còn da bọc xương, đi đứng không vững, cử động thì chậm chạp, nhưng mắt lại rất tinh. Cặp mắt săm soi nhìn khắp mặt đất và đảo khắp chung quanh để tìm.

Tìm một mầm xanh của cây lá để ngắt; tìm một cái gì còn động đậy để vồ lấy, bất kể đó là con chuột, con nhái, con cào cào, thậm chí là con kiến, con gián. Tôi nhớ lần ấy bà làm mướn có nói với mẹ tôi là gián ăn cũng được, và còn ngon là đằng khác. Người đói ăn được cả gián, đó là tri thức của tôi trong năm đói 1945.

Sau này xem phim Papillon - người tù khổ sai khi thấy Papillon nằm bẹp trên nền đất, tay quờ quạng, ráo riết bắt cho được một con gián dưới quầng sáng của ánh đèn phòng biệt giam, tôi lại nhớ đến câu chuyện mẹ tôi được nghe từ một người đói ngày ấy.

Rồi lại nhớ đến lần đón khách Cộng hòa dân chủ Đức, năm 1972, ở khách sạn Métropole, Hà Nội, khi thấy một con gián lấp ló ở góc phòng, ông bạn giáo sư Hans Kortum bỗng kinh hãi và đòi đổi phòng ngay. Bởi, với ông, gián là thứ insecte (côn trùng) kinh tởm nhất.

“Nghệ thuật làm no”

Cái năm Dậu ấy tôi được thấy, hoặc được nghe kể biết bao người trong làng đã cố níu lấy sự sống bằng tất cả những gì có thể ăn được. Thân và gốc cây chuối và cây đu đủ. Gốc củ ráy (ngứa vô cùng). Rau má và tất cả các loại rau dại mọc ở rìa làng. Kể cả cây choóc - ngứa không kém củ ráy, ở ngoài đồng. Tất cả bỗng dưng trơ trụi, rồi biến hết. Bởi rau cỏ là thứ lành bụng.

Nhà tôi còn có cơm ngày hai bữa, mỗi bữa một lon sữa bò hai lạng rưỡi gạo, cho trộn với một rổ rau má to, xóc đều, rồi chia ra bốn cái bát lùm lùm, ai nấy lào xào ăn, chỉ một lúc sau lại đói meo. Một loại thức ăn khác là cám và khô dầu. Cám là thứ cho lợn, bây giờ làm thành bánh cho người. Cám được xem là bùi bùi, thơm thơm và nhất là no lâu. Ăn một cái bánh cám, uống một bát nước thì cứ là lưng lửng cả ngày.

Cũng như cám, khô dầu là bã của các loại hạt béo như lạc, đỗ sau khi đã ép hết nước dầu. Khô dầu đóng thành bánh bán ở chợ để chăn nuôi gia súc, bây giờ người tranh nhau mua để thay cơm. Khô dầu ăn nhiều tức bụng, ăn ngày này qua ngày khác có thể sưng bủng ra mà chết. Không phải chết đói mà là chết... no. Tôi lại nhớ Một bữa no của Nam Cao.

Tôi đã thấy bao người đói đi lại quanh quẩn, vùng này qua vùng khác để tìm cái ăn. Đồng ruộng bạc phếch, không một màu xanh. Vườn tược hoang phế, không còn cây cối. Làng mạc hết cả tiếng chó sủa, tiếng gà gáy. Những người chết thì đã được bó vào chiếu đưa ra đồng. Cho đến lúc chiếu cũng không còn để mà bó. Những người sống thì tha thẩn trong nhà ngoài ngõ, hoặc vất vưởng trên đường, đi đứng liêu xiêu, dáng hình lểu đểu... mới thấy khủng khiếp đến thế nào cái đói của cả làng, cả nước.

Bây giờ nghĩ lại chuyện đời thấy sao dân ta khổ quá. Đọc truyện Một làng chết của Thanh Tịnh (trong tập truyện Quê mẹ) và Quái dị của Nam Cao ta hiểu cái chết do dịch tễ gây ra cho một làng. Dịch tễ như đậu mùa, dịch hạch, dịch tả, kiết lỵ... khiến cả “một làng chết”, ít còn ai sống sót, không còn người đi chôn.

Đọc Nghệ thuật làm no... của Ngô Tất Tố ta biết người nông dân quê ông đã có cách ăn đất sét để đánh lừa dạ dày khi cả một vùng đồng bãi phía bắc sông Hồng bị nhận chìm trong lũ lụt - một thứ lũ lụt ngâm rất lâu khiến cây cỏ khó mà sống sót...

Còn cái đói và chết năm Ất Dậu là đói và chết trên cả một địa bàn rộng lớn gồm cả trung du và đồng bằng Bắc bộ, lan vào cả một nửa miền Trung, trong đó có quê tôi. Cái chết của 2 triệu người do hậu quả của biết bao chính sách thâm hiểm và tội ác của Nhật - Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng.

Hai triệu người, tức là ngót 1/10 dân số VN lúc ấy; và có thể còn chết thêm nữa nếu không có khẩu hiệu phá kho thóc do Việt Minh đưa ra - vậy là thóc vẫn còn ở các kho; rồi tổng khởi nghĩa tháng tám, cả dân tộc từ Bắc đến Nam rùng rùng chuyển động trong cả một rừng cờ đỏ sao vàng. Một nạn đói khủng khiếp, và tiếp đó, một cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc - đó là ấn tượng và ký ức Ất Dậu 1945 mà một đứa trẻ lên bảy như tôi đã được chứng kiến và trải nghiệm để in sâu vào bộ nhớ cho đến suốt đời.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh giữa những ngày tháng thương tâm ấy của năm Ất Dậu. Chỉ một ngày sau khi ra mắt toàn thể quốc dân, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, vấn đề cứu đói đã được đưa ra: “Nhân dân ta đang đói... Những người thoát chết đói, nay cũng bị đói. Chúng ta phải làm thế nào cho họ sống”.

Nhớ rừng

Một câu truyện có thực, vô cùng xúc động kể về một cô gái bỏ phố lên rừng, đánh voi đuổi cọp…

Há há, bốc phét đấy, chuyện của tao thời trẻ thôi

^-^

Hôm nay ngồi lục lại đống ảnh cũ, hơn chục năm rồi, kể từ lần đầu tiên mình biết cuộc sống rừng rú với Frontier*, nghĩ lại vẫn bồi hồi

Ngày trẻ mình bị kèm chặt như hoa hậu làng, chả được đi chơi đâu, chả được sinh hoạt hè, chả được chơi những trò mà bọn trẻ khác chơi thoải mái. Ước muốn được tung cánh chả bao giờ tắt trong mình, rồi dịp may cũng đến

Học đại học kỳ cuối, được đi thực tập làm đề tài ở Ba Vì, chả xa Hà Nội mấy nhưng ở tịt luôn trên đó, sao chẳng thấy nhớ Hà Nội tí nào…

Rồi một ngày ẩm giời, thầy Nghĩa hỏi mình có muốn đi rừng, chậc, đâu cũng đi, miễn không phải Hà Nội…

Không ngờ cái tặc lưỡi đã làm thay đổi cả cuộc đời mình, chả biết sao lúc đó lại tặc lưỡi nữa

Thầy dắt đến 1 văn phòng cũ kỹ 4 tầng trong trường ĐH Bách Khoa, giới thiệu là học trò, muốn tham gia 1 phase đi đầy với FRONTIER* (ngày đó các thầy gọi đi nghiên cứu đa dạng sinh học là đi đầy do cuộc sống mỗi phase 3 tháng ở dí dị trong rừng quá cực khổ). Tiếng anh lõm bõm hê lô với gút bai nên mình còn chưa tưởng tượng nổi mình sắp dấn thân vào chỗ nào, chỉ đến khi tập kết mới mường tượng được tí tẹo teo…

Lốc nhốc mấy chục Tây sinh viên trẻ trung trắng trẻo, lèo tèo mấy người Việt nhỏ thó, mỳ tôm cân, bánh ép (lương khô), chăn màn, xong chậu, xe min khờ… tống cả lên một chiếc xe buýt cũ tã, cả nhóm lên đường.. Đi 6 tiếng nôn khoảng 20 túi, tay lái xe đưa cái túi nilon cuối cùng tiếc rẻ: Hết túi rồi, cô nôn nữa tôi cho cô xuống đường. Lúc say thì nghĩ nó đẩy mình xuống đâu mình xuống đấy, chả ngại… rồi cũng đến nơi.

Mấy chục con người đã hơi lấm lem 1 tí bắt đầu xoay trần ra dựng trại. Mấy cái lều cá nhân thì dễ rồi, mất 20 phút là căng xong, nhưng nhà dài cho tập thể sinh viên ở thì phức tạp hơn chút. Phải kiếm được chỗ đất phẳng to to để dựng trại

Người Việt dù có sống ở Thành phố thì vẫn lanh hơn Tây ở khoản này, các bạn chân dài chỉ được cái chăm đọc sách chứ sờ vào thực tế thì…

Bìa rừng có nhiều tre nứa, mỗi người được phân công lấy 1 cây tre, đần như mình thì cũng chỉ mất 1 tiếng là hì hụi vác được về cây bé bé nhưng các bạn kia thì cứ nghe thấy tiếng chặt bồm bộp mà mãi chả thấy về. Hóa ra các bạn ấy tham, nhè cây to nhất mà phang, không quan sát vị trí mọc của cây nên sau khi chặt đứt rồi không thể nào rút ra khỏi rừng được , mà các bạn ấy không phang chéo dao cứ phang ngang con dao nên lực vào thì nhiều nhưng cây Tre thì vẫn vênh váo cười, mãi không đổ…Nếu để các nhà khoa học VN mà dựng lều chắc 1 ngày xong 2 cái nhưng dưới sự chỉ đạo của sách vở, các bạn ấy làm 2 ngày mới xong 1 cái, dù sao thì cũng xong, mỗi bạn 1 phòng riêng (trong 1 cái màn tuyn), buổi tối rắn bò sột soạt dưới lớp lót lều, có tiếng hát, có tiếng đàn, có cả tiếng khóc thút thít…

Mình được phát một cái lều cá nhân, lần đầu tiên chả biết dựng thế , chạy ra nhờ Tây mà nói mỏi hết cả tay chúng nó mới hiểu. Tối nằm trong lều, gió thổi phần phật, xung quanh tối đen như mực, lạnh thấu tim… chỉ muốn nhảy đại vào lều tập thể cho đỡ sợ. Lều tập thể (long house) chứa độ hai chục đứa sinh viên, ngăn nào ngăn ngăn đấy nên chả thể chèn thêm được cái chiếu manh nào, có một cách là đổi chỗ ngủ, mình nhường cho sinh viên cái lều của mình. Cân nhắc một hồi nghĩ mình mà trình bày được xong cái chuyện đổi lều bằng tiếng Anh thì chắc cũng phải đến rạng sáng tây nó mới hiểu, thôi, lại nằm in chờ giời sáng, ngày trời nóng là thế nhưng đêm thì lạnh co ro, chửa kịp đếm cừu thì mình lăn ra ngủ, sáng dậy đã thấy khói bếpMọi người đã dậy từ khi nào, quần áo tươm tất (để đi rừng). Tôi chui vội ra khỏi lều, oánh răng không dùng nước, nhanh nhanh cho xong bữa sáng để kịp đoàn.

Nhóm sinh viên tự giác chia nhau cứ mỗi ngày có 2-3 người nấu nướng và rửa bát đĩa. Các nhà khoa học và cán bộ thì không phải tham gia mục này. Người Việt được xem là khó tính trong nhóm vì không chén nổi thức ăn tây nấu.

Các bạn tây nấu cơm công thức thế này: một phần gạo, ba phần nước, đun sôi 5 phút, đổ 1 hộp sữa bò vào, ngoáy đều, bắc ra => CHÁO SỮA.

Nấu khoai tây thì các bạn không rửa, cũng chả gọt vỏ, cứ thế cắt lát, đảo đều, thế là sạn đầy đáy chảo …

Rửa bát đĩa theo cách sau: Đổ 20ml nước rửa bát vào 1 cái chậu, oánh tơi bọt, cho bát đĩa vào, dùng cái chổi cọ nhẹ phát úp lên giá luôn, trên giá bát đĩa bọt xà phòng vẫn còn long lanh óng ánh dưới nắng mai…

Hôm nay là ngày đầu tiên, chúng tôi chưa đi trại phụ (một đợt nghiên cứu kéo dài 3 tháng, khảo sát trên khảong 6-8 điểm, mỗi điểm sẽ dựng 1 trại tạm gọi là trại phụ, khu trại đầu tiên dựng từ ngày đầu tiên đến là trại chính, nơi họp hành, nghỉ ngơi giữa mỗi đợt nghiên cứu tại các điểm phụ, tập kết lương thực trong suốt 3 tháng nghiên cứu trong rừng), chúng tôi khởi động bằng cách tập đi bộ ở khoảng cách ngắn trong 6 tiếng, chọn địa hình dốc, và đi về trong ngày luôn nên không phải mang theo đồ đạc. Buổi đầu tôi sợ đủ thứ, tôi sợ bỗng dưng 1 con thú lớn phí ra tấn công, tôi sợ những con vắt ngoe nguẩy dưới đống lá khô, hay con rắn lục nhỏ xíu trên cây đúng tầm mặt mình. Tôi đội mũ vành rộng để những con sâu buông mình thì nó cũng treo trên vành mũ. Thỉnh thoảng tôi lại đứng sững lại vì 1 bạn sâu ngoe nguẩy trước mắt. Các bạn tây thì không sợ rắn, không sợ sâu và các bạn tuy ở nơi khác nhưng biết thừa sẽ chả gặp được con thú lớn nào nếu chúng tôi đi đoàn đông và chuyện trò rôm rả thế, nhưng các bạn cực kỳ sợ Nhện, hí hí, cứ có 1 con Nhện là có 1 tiếng thét. Tôi chưa học được thói quen đọc sách nên cứ tưởng rừng là có hổ, sau này đi nhiều nhận ra nếu gặp được bãi phân Lợn lòi hay phân Khỉ là quý lắm rồi, mứt mà gặp được Hổ, Báo…

Tối về quây quần bên bàn ăn, chúng tôi ăn mì tôm tranh với Trâu đâm cũng ngon hơn. Chả là nơi này bà con thả Trâu rông cả tháng, chả cho ăn ở nhà nên chúng nó kiếm j ăn nấy. Tình cờ đi qua trại chính có cái mùi thơm điếc mũi Trâu, chúng nó xô tới để ăn, Trâu với Bò đâu chả biết sợ người, cứ hục mặt vào cái xoong nhôm, chúng tôi dùng que tre xua chán chê, đập đến giập cả tre cả nứa mà chúng nó vẫn xông vào ăn, rõ khổ, đành hy sinh lọ tương ớt, cay quá chúng nó mới bỏ đi, cuối cùng mình cũng chả ăn được, phải đồ đi, lại phải nấu mấy nồi nhỏ nhỏ, quây tròn người xung quanh hòng mong không có chanh chấp ăn uốnguổi đi bộ đầu tiên này làm mọi người phờ phạc, đêm về bắp chân đau mỏi suốt đêm, đội tiền trạm đã chuẩn lịch cho chúng tôi một ngày khởi động mệt nhoài, tôi ngủ không vẫy tai.

****

Đi rừng toàn ăn mì tôm, cái mì tôm cân í chứ không được mì gói. Mì cân đóng 12 bánh 1 túi, nấu lên nở to lù lù, váng mỡ trắng đục, ăn bứ không thể chịu được. Suất là mỗi thằng 1 bánh, 20 thằng cả tây cả ta thì nấu luôn 2 túi cho nó sang, mặc dù đói vàng mắt vì ăn uống không đủ chất lại đi bộ hùng hục cả ngày nhưng thường xuyên nồi mì bị thừa. Nhưng đến lượt ai nấu thì cũng sợ mọi người đói nên cũng vẫn tương đi 2 túi 24 bánh vào nồi…

Chỗ mì tôm thừa vứt đi thì phí quá, thế là cứ phiên ai trực nhật nấy đội đèn pin đến nhà dân ở gần đó để cho mì tôm đổ cho lợn, ngày đầu mình phải đi dịch hộ không nhỡ dân nghĩ tây nó cho mì tôm thừa tự ái chết…

Rồi một ngày, tây đi đổ mì tôm cho lợn về, có thêm 2 bác nông dân đi theo

- Coi du bò (tiếng Thái là có khỏe không), cả 2 bác đồng thanh, 1 tay để trước ngực (tả thì thật khó, nhưng nhìn dễ thương lắm)

- Coi du (khỏe), có việc gì mà hai bác đến đây

- Cái lợn nhà bác nó không thích mì cơm của chúng mày, từ mai chúng mày không mang sang để chúng tao đỡ phải đi đổ

Há há há, ôi, mình cười vỡ đê… dịch ra cả hội cười lăn ra khỏi ghế. Hế hế, thế là bao nhiêu nhà khoa học (toàn gà sống thiết sót – GS.TS), bao nhiêu sinh viên tiềm năng (giờ chúng nó là tiến sĩ hết rồi) của thế giới chứ chả phải chỉ nội địa, cả lũ toàn ăn thức ăn …Lợn nó cũng chê

Ăn trộm vì đói

Đói. Mắt mờ. Chân bủn rủn. Những bước đi chệnh choạng, vẹo xiêu. Đường rừng hun hút, sũng nước, hoang lạnh. Gió rượt đuổi, dỡn đùa, rồi thở dài thườn thượt trong các hang núi. Cả đại đội nhếch nhác, lầm lũi trườn qua những con dốc trơn tuột. Mùa khô đi qua lâu rồi. Và bấy giờ, mưa đang xéo qua mặt buốt lạnh, mơn trớn đến tai quái.

Tôi ngoái lại phía sau, nói với Minh trong tiếng thở dồn gấp gáp:

- Đói! Đói quá mày ơi.

Thằng Minh lưng vẫn còng xuống, để chiếc gùi và khẩu đại liên trên lưng như nhúi thêm cho những bước chân vốn dĩ đã còng xuống. Hắn động viên tôi, cũng là trong tiếng thở dồn gấp gáp:

- Cố chút nữa đi. Về hậu cứ, chỉ cần nghỉ vài ngày là tao kiếm thêm được cái ăn.

-----------------------------***

Mùa khô. Đại đội tôi chốt giữ trên các cao điểm. Trên ấy, tuồng như gần mặt trời hơn. Không thế, sao mà nóng rát đến vậy? Nắng khô khốc. Gió cũng khô khốc. Gió xát muối vào mặt. Gió cuốn bụi đất từ những bãi pháo kích mà lũ chó chết chúng nó đang giã giò dưới chân đồi, hất xối xả lên đỉnh. Bụi đất quyện với khói đặc sệt. Cơ hồ mớ tạp chất ấy đặc quánh như xắn được ra từng mảnh. Người lính suốt ngày ngập ngụa tắm trong mớ hỗn mang ấy. Nhầy nhụa. Nhớp nhúa. Cứ hàng tháng trời như vậy trên chốt. Rồi mưa cũng đổ xuống. Đất trời cũng dịu xuống. Khi mùa mưa vào sâu hơn, ấy là khi chúng tôi được xuống chốt.

Xuống chốt rồi, hành quân ngược lên miền tây. Nơi ấy là đại ngàn. Đại ngàn là hậu cứ. Ở đấy có những cung đường, ngày đêm oằn mình chịu bom pháo. Cũng nơi ấy, có những kho hậu cần luôn chất ngất gạo và thực phẩm. Đơn vị tôi sau một mùa khô khắc nghiệt, đang hành quân về phía ấy. Về hậu cứ, ta như được về với chính ngôi nhà ấm cúng của gia đình. Cheo leo bên vách suối, những căn nhà lá của lính, một năm có được vài tháng ấm hơi người. Vài tháng ấy, căn nhà luôn chộn rộn, ăm ắp tình của lính. Ấy là khi đã về ổn định trong thời gian củng cố. Còn lúc đang hành quân, sau một mùa khô oằn mình trên chốt, bước đi đang chới với vì cái lạnh, cái đói, cái mệt rã rời, khoan hãy nói đến chút thảnh thơi.

------------------------------***

Thằng Minh sinh ra và lớn lên ở một vùng bán sơn địa. Nhà hắn nằm sâu trong một thung lũng có suối, có những bãi chuối rừng, bãi rau dại ngút ngàn ven bờ suối. Ngày ấy, chưa ai biết lập trang trại, nhưng nhà nó đã nuôi đến cả chục con trâu. Suốt ngày thằng Minh đầm đìa cùng lũ trâu trong những thung lũng ấy. Hắn như một con ma rừng, con thú hoang ma mãnh của rừng. Tối lùa trâu về, bao giờ trong cái tay nải quấn bên người, cũng đầy ắp cái ăn, tỉ như cá, như gà rừng, rắn, ốc... Thôi thì đủ thứ.

Đại đội tôi được trời phú mà có nó. Năm ấy, những ngày ở chốt là những ngày đói, nhưng về hậu cứ rồi vẫn không có cơm ăn đủ no. Nghe đâu, trên những cung đường, chúng nó dập bom pháo suốt ngày đêm, ròng rã cả tháng trời. Đằng sau một chiếc xe chở được hàng vào, có cả chục chiếc đã cháy rụi, trơ lại xắc xi chơ chỏng bên vệ đường. Những căn hầm chất ngất gạo kia là cơ số lương thực dự trữ cho mùa khô tới, cho chiến dịch nay mai. Liếc nhìn kho gạo, cái bụng nghe có tiếng ong óc như to hơn. Mắt mờ như tỏ hơn. Ấy là thèm, là ước mà ra vậy thôi, chứ rồi để có những bữa cơm no cũng chỉ là ao ước.

Ậm ạch ba ngày hành quân, rồi đơn vị tôi cũng trườn được về cái hậu cứ thân quen. Khu hậu cứ nằm lọt thỏm giữa đại ngàn. Những căn lán tám tháng rồi vắng lạnh hơi người. Sập sùi ẩm mốc. Dây leo chằng chéo. Đường đi, bến nước, meo xanh xám phủ dày. Tất cả sự xập xầu ấy đang chờ bàn tay của lính, để căn nhà, bến nước, con đường có hơi ấm con người.

Dọc theo suối nước, ngược lên vài chục phút đường rừng là kho hậu cần của trung đoàn. Đấy là cái hầu bao, duy trì sự tồn tại cho hàng ngàn lính. Mỗi lần có việc đi qua cái kho, mắt thằng Minh như sáng hơn. Như mắt diều hâu, đảo điên, liếc ngó hết lượt khu nhà kho. Tôi biết, trong đầu hắn đang toan tính. Canh giữ cái kho ấy, có một tiểu đội lính hậu cần. Họ cũng được trang bị đầy đủ vũ khí như một tiểu đội chiến đấu. Có B.40. Có AK. Có lựu đạn. Nếu biệt kích đột nhập kho, họ cũng chiến đấu như bọn tôi ngoài mặt trận. Khổ cho lính gác kho. Lũ lính chiến bọn tôi ăn cắp như rươi. Lơ đểnh là mất gạo, mất muối như bỡn. Thằng nào vô phúc bị lính kho bắt, rồi dẫn lên trung đoàn là có chuyện chẳng lành. Có làm vậy, họ mới giữ được cái hầu bao trong những ngày đói kém.

------------------------------***

Một tuần nghỉ ngơi, dọn dẹp nhà cửa đã qua. Với lính chiến, giống như lũ ngựa thồ. Ngày không đi kéo cái gì đó, chủ phải dẫn ngựa chạy bộ vài ba tiếng. Không làm vậy, ngựa sẽ chùm chân. Lính quần quật hơn nửa năm nay, không thể ăn chơi mãi thế. Phải làm, làm cái gì cũng được. Bất luận nắng hay mưa. Càng nặng nhọc càng tốt. Càng khắc khổ càng tốt. Vậy là, chưa kịp hồi sức sau những ngày ở chốt, chúng tôi lại bắt tay vào huấn luyện. Với lính, ừ thì làm gì cũng được. Xong hết, nhưng khi cái bụng âm ấm cơ. Đằng này xuống chốt rồi, cái bụng lính vẫn cứ lưng lửng, nếu không nói là đang đói. Với chừng ấy lương thực một tháng do tiểu đoàn cấp, chỉ đủ ăn no chưa được vài chục ngày. Đem chia đều ra 30 ngày, hỏi sao không đói?

Những thứ mà thằng Minh và tiểu đội anh nuôi kiếm được, như rau hái trong thung lũng, cá đánh dưới sông, thú săn được trong rừng sâu... cũng chỉ là ăn dặm thêm mà thôi. Nói thế, nhưng giả tỉ không có thằng Minh, liệu có ngần ấy cá, có một tháng vài ba con thú rừng? Dưới sông, trong khe, trong suối, thằng Minh như một con rái cá. Trong những cánh rừng sâu, nó như con beo thiện nghệ. Sáng xách khẩu súng lỏn vào rừng, vài tiếng sau trở về, thế nào trong gùi của nó cũng có con gì đó bị hắn tỉa, hoặc giả sập bẫy hắn gài từ hôm trước. Hắn được đại đội cho miễn tất cả các buổi luyện tập. Còn chúng tôi, ngày hai buổi ra thao trường. Cũng lăn lê, bò toài; cũng “đánh nhau” hùng hục, có khác chi ngoài mặt trận. Cái lạnh ở rừng như sắc hơn. Rét cứa vào da thịt lính như bén ngọt hơn. Lính ta chẳng xem đấy là sự khổ. Bởi không lăn lộn trên thao trường, cũng đi gùi hàng, cũng đi mở đường mới. Chỉ có điều, cái đói thì luôn cào cấu, luôn kìm bước chân họ.

Một sáng nọ, khi đi qua khu vực kho hậu cần, lội theo con suối về đơn vị, thằng Minh đi sát tôi, nói như chỉ vừa đủ hai đứa nghe:

- Xong rồi! Công việc trinh sát nắm tình hình "địch" xem như ổn. Tao định tối nay tiến hành "tập kích". Mày lên báo ông Chiến đi.

Tôi là lính, nhưng tôi chơi thân được với Đại đội trưởng Chiến. Có thế thằng Minh mới giục tôi lên báo đại đội. Cho thì hành động. Không cho thì thôi. Có lần nó nói với tôi:

- Cái kho ấy là của núi, chỉ tội không biết cách khai thác mà thôi. Nằm bên đống gạo như vậy mà để bụng đói, hèn quá. Chôm một tuần vài bao, có thấm gì. Có ai kiểm tra, ai đong đếm đâu mà họ biết mất mát bao nhiêu? Chôm để mà ăn. Ăn để có sức mà đánh. Có mang về nhà cho cha mẹ đâu mà sợ.

Tôi đưa ý định đột nhập kho lên bàn với anh Chiến. Anh gãi đầu, bứt rứt, chần ngần. Tôi đưa cái lí của thằng Minh ra thuyết phục. Rồi anh quyết:

- Thôi được rồi. Tao nhất trí. Nhưng chúng mày phải "đánh" cho gọn. Bị bắt, tự mà gỡ lấy. Tao không chịu trách nhiệm.

Nhất trí rồi, nói là nói vậy, nhưng tôi thấy anh vẫn đăm chiêu. Với bản tính của một người chỉ huy dạn dày kính nghiệm, chắc trong đầu anh đang tính đến những tình huống xấu có thể xẩy ra. Anh cho gọi thằng Minh lên cùng bàn tính kĩ cho trận "đột kích" đêm ấy.

------------------------------***

Đêm tháng mười. Mới đầu đông, nhưng ở vùng sơn cước ấy, trời như đã chuồi sâu hơn vào giá buốt. Về đêm, rừng như hoang lạnh hơn. Thi thoảng có cơn gió mạnh, những cây cổ thụ uể oải rùng mình rũ nước. Xa lắm, từ đồng bằng, lâu lâu lại vọt lên không vài quả pháo sáng vàng ạch, chới với, rồi mau chóng tắt ngụm trong màn đêm đen đặc. Tôi và thằng Minh ra khỏi lán khi tiểu đội đã chìm trong những cơn mộng mị. "Trận" mở đầu, hai thằng chỉ đề ra chỉ tiêu làm sao "đánh" được 2 bao gạo là thắng lớn rồi.

Như 2 con thú ăn đêm, 2 thằng nhón từng bước nhẹ nhàng tiến về cái kho hậu cần. Tất cả các động tác như tiềm nhập vào cứ điểm của địch đã quá thuần thục, chúng tôi đã áp sát vùng kho. Cả khu vực kho vẫn ắng lặng. Từ kho hắt ra tiếng dế rỉ rê. Thằng Minh sờ tay véo nhẹ vào đùi tôi ra ý dừng lại. Nó thều thào vào tai tôi:

- Mày nằm lại đây. Tao đột nhập vào xử lí.

Dứt câu, nó tan vào bóng đêm đen đặc. Chừng 15 phút sau, từ cửa kho cái bóng khom khom loạng choạng tiến ra. Thằng Minh đã ra. Trên lưng bao gạo 40 kí thơm lừng. Nó bảo tôi vác bao gạo xuống suối, rồi lên ngồi ở vị trí cũ đợi nó. Nó lại tan vào bóng đêm.

Tôi đang loay hoay tìm hòn đá to giữa suối để đặt bao gạo thì trong kho đèn pin bật sáng, lia loạn xạ, và có tiếng quát đanh như tiếng búa gõ xuống đe:

- Ai, đứng im! Rục rịch tao bắn!

Rồi! Thế là thằng Minh dính rồi. Tôi trườn lên, ép sát vào một gốc cây xem sự thể. Trong kho đã có ánh sáng. Mấy cái đèn dầu đã được thắp lên. Thằng Minh bị dẫn vào cái hầm chính của kho. Từ đó, tôi chẳng biết gì thêm về hắn. Lúc ấy, đâu đã hơn ba giờ sáng. Tôi quay lại, vác bao gạo chuồn nhanh, kịp trước khi lính kho sục xuống.

Sự việc đã trở nên phức tạp. Rơi vào tay địch còn có cơ chạy trốn, nhưng bị lính kho bắt, có mơ cũng chẳng thoát. Nếu không cứu được thằng Minh về trong đêm nay, sáng ra lính kho điện lên trung đoàn là bể chuyện. Đêm vẫn tịch mịch như chưa có chuyện gì xẩy ra. Đêm đâu có hay, cả ban chỉ huy đại đội tôi đã họp bàn phương án cứu thằng Minh hơn một tiếng rồi.

------------------------------***

Hơn 4 giờ sáng. Trời vẫn ngập chìm trong buốt giá. Rồi bỗng trên đỉnh núi, một tiếng nổ xé toạc màn đêm. Kế đó là những tiếng nổ chát chúa của những quả thủ pháo. Một nửa đại đội tôi tiến lên đỉnh theo hai hướng. Hướng bọc bên trái, theo sườn đông lên. Hướng chính, ngược theo suối, ào qua kho hậu cần tiến thẳng lên đỉnh. Gần kho gạo, chừng 300 mét đã có vài quả thủ pháo nổ. Tôi áp sát vào cửa kho mà thét như ra lệnh:

- Đồng chí Minh nhanh chóng ra khỏi vùng kho, dẫn tiểu đội tiến thẳng lên đỉnh.

Khoảng năm phút sau, tiếng nổ dứt. Đêm đã giãn ra, rồi khép nhanh lại. Đội hình chính của đại đội lại ào qua cái kho, chộn rộn ở đấy mươi phút, rồi rút nhanh về hậu cứ. Trời đã hừng đông. Đã nghe eo óc tiếng gà rừng. Tôi thấy thằng Minh đang lững thững từ trên lán xuống suối đánh răng. Nhìn thấy tôi, hắn toét miệng cười, nói như chẳng có chuyện gì đã xẩy ra:

- Mấy ông đại đội bày trò chơi đánh trận giả mà y như thật. Tiếc là tao không được tham gia.

Cụ Đồ cho chữ- Truyện ngắn:..

Tác giả: Lưu Quôc Hoà

Ông nội của gia đình ấy tên cúng cơm là Tuất. Lão Cu Tuất ho lao nhưng chẳng được chết vì bệnh ho lao.

Vậy lão chết vì cái gì?

Làng Đình Lạc năm xửa năm xưa là đất nghịch. Chuyện kể lại rằng: Có hai người, một làm quan to và một ăn cướp thượng thặng gả con cho nhau, bên nhà ăn cướp có con trai và bên làm quan có con gái, chả rõ hà cớ gì mà họ thông gia với nhau, thôi đấy là chuyện kiếp trước! Kệ họ, chỉ biết rằng khi thành gia thất rồi, ông bố làm quan cho gọi con rể lên dinh ở. Vốn có sẵn máu lưu manh truyền thống do cha đẻ nặn ra, ông con dể quý tử vẫn nổi máu ăn cắp, thấy cái gì hay hay có thể ăn cắp được là thó luôn của bố vợ giấu đi. Trên bàn làm việc của quan có cái con triện, mỗi khi bố vợ đóng triện là bị đơn hay nguyên đơn đều móc túi lót tay. Vốn chẳng hiểu gì sự đời, ông con rể coi đấy là bảo bối in ra tiền nên thó trộm và trốn về quê. Bị mất triện, ông quan nọ sợ vã mồ hôi hột, nghĩ ngay đến ông con "dữ tế" ăn cắp của mình. Ông cho lính về quê thông gia hạch tội con rể. Vốn làm quan Phụ Mẫu, tự xưng là bố mẹ thiên hạ, ông quan chửi cả thông gia. Vốn là tay ngang ngạnh, lão thông gia chửi lại và thế là hai bên giáp chiến. Kết quả là cả hai đều tử vong sau đó chôn tại gò đất làng Đình Lạc...Chả biết thực hư thế nào nhưng từ đấy đất làng đỗ nhiều quan to và cũng nổi lên những tướng cướp khét tiếng. Dân làng thờ cả hai ông trong một miếu, lấy tên là Miếu Hai.

Mẹ lão Cu Tuất là gái làng Đình Lạc. Gần đến ngày ở cữ nhưng vì nhà nghèo nên vẫn phải vác giậm đi kiếm ăn. Sớm ấy, bà ta đến ao Miếu Hai, đánh được nửa giỏ cua thì trở dạ và đẻ Cu Tuất ngay bên gốc muỗm cửa miếu. Chắc là ông ăn cướp cho vía nên sau này lớn lên, đứa con đẻ rơi cũng ăn trộm, ăn cướp đứng đầu trong vùng. Đã có tật ăn cướp, lão lại còn có tật hay hiếp dâm, lão có rất nhiều mẹo quái đản để bức hiếp người ta. Đêm tháng ba, hắn bắt đom đóm tích vào lọ thuỷ tinh rồi tỉ mẩn kết thành vòng quanh người, chờ đêm tối lão thắt vào, lão trùm chăn ngồi phục trong bụi. Mấy bà đi chợ sớm bị lão tóm được, lão tung chăn, cả khối sáng ma quái nhoang nhoáng  chạy vòng quanh các bà, hắn vừa nói tiếng ma, vừa nói tiếng người, có bà sợ quá lăn đùng ra bất tỉnh nhân sự. Cái con ma đực ấy dở trò khá nhiều lần nên dân trong vùng đi chợ sớm phải nổi đèn đuốc, có đàn ông khoẻ mạnh, cầm giáo mác đi áp tải đến cổng chợ mới về.

************

Mà lão ăn cắp mới tài. Cái năm trời làm đói kém, lão lúc ấy đâu ngoài hai mươi tuổi, đi đánh ống thả lờ với mấy đứa bạn cùng làng, lão thèm lấy vợ nhưng con gái đứa nào cũng ngại cái tướng mắt ốc nhồi, cái da thiết bì như thịt trâu toi. Lão có tướng Ngũ Đoản nhưng tóc xoăn, tai nhỏ, mũi lại tí hin nên không thành tài, chỉ lắm tật xấu. Ông Tự Hỷ bắt tướng bảo thế...

  Có cô tên là Đĩ Nâu, người cùng làng hay đi bắt cá cùng hắn. Cô vụng nên bao giờ cái giỏ cũng ít cá hơn cả bọn. Cu Tuất thấy thế gạ: "Chịu lấy tao, tao bày cho cách đầy giỏ"

      Cô Đĩ Nâu nhà nghèo, thấy Cu Tuất khoẻ mạnh lại lắm mưu nên cảm tình. Một lần bị Tuất ghẹo, cô cũng mạnh mồm đá đưa:                         "Này! Nghe nói đằng ấy giỏi ăn cắp, đây đố cái này, nếu làm được đây lấy làm chồng"... Đêm ấy, cô đổ hết giỏ cá trê, cá quả vào chiếc thúng sơn, lấy mâm đậy và đặt cạnh thành giường, mặc váy nơm rồi lấy hai chân đặt lên trên thúng cá, trời nóng như rang, đêm oi bức lạ. Nâu tốc váy đến bẹn phe phẩy quạt mo. Nâu đố Tuất đêm nay ăn cắp được thúng cá. Nâu định bụng thức suốt đêm, nửa người nằm ngang trên giường, quài chân xuống đè thúng cá. Có mà tài thánh thằng kẻ trộm nào lấy nổi cái vẩy. Vừa quạt, vừa nhìn lên mái nhà, Nâu tủm tỉm cười thầm và đắc ý với kế hoạch phòng thủ của mình. Quạt lắm mỏi tay mắt lại bắt đầu đòi ngủ. Cô nàng biết đâu lúc này tên kẻ trộm đã lẻn nằm gọn dưới gậm giường. Hắn vót cái que nhọn, nhẹ nhàng đâm vào bắp vế trắng hều hễu của cô nàng đang nằm phưỡn ra trên giường, hắn đâm đủ đau bằng con muỗi đốt làm cô nàng co chân lên mà đập, mà gãi, mà làu bàu, tức mình cô nàng co một chân lên, chân còn lại vẫn thường trực phòng thủ trên mâm gỗ. Hắn lại chọc, cô lại nâng chân và mỗi lần như thể, hắn nâng mâm, một con cá đã bay sang bao tượng của hắn, cuối cùng là cả thúng sạch trơn. Gà gáy, cô nàng bật dậy chuẩn bị đi chợ thì ôi thôi! Thúng cá không còn một con... Sáng bảnh mắt, Tuất nhăn nhở mang túi cá đến lẳng trước mặt cười khì... Tuất và Nâu thành vợ chồng và đẻ một mạch bốn thằng con trai, đứa nào cũng giống bố như tạc. Thuận mồm, Tuất đặt tên con: Tại- Tài - Tải - Tái. Cả làng ai cũng bảo: Giỏ nhà ai, quai nhà ấy, lũ nhà nó rồi cũng giống bố thôi! Đứa nào cũng tóc bết, mắt ốc nhồi, nhìn ai cũng muốn ăn thịt người ta.

Làng nghèo xác sơ, có lấy trộm cũng chỉ nải chuối, buồng cau hay ổ gà nhiếp, ăn chẳng bõ dính răng, mà cái làng này hễ mất trộm cái gáo múc nước đái, nó cũng chửi rủa rác tai, những con mẹ véo von chõ miệng sang nhà hắn mà chửi, nó chỉ thiếu gọi tên, nó lại rủa xả mới kinh chứ! Gan sắt cũng kinh. Nào là chết trôi sông đắm đò, nào là trời tru đất triệt cái nhà thằng ăn cắp kia cụt mầm thâm rễ, mất giống mất nòi, nào là nó vặt lông thứ tám, chẻ tạm làm tư để trói lù khu cụ kị đứa ăn cắp. Nó rủa thằng ăn cắp chết chẳng toàn thây, chết "đêm không ai hay - ngày không ai biết". Mẹ cha cái làng khố dây này! Chữ nghĩa mù tịt mà sao nó lắm văn chửi thế không biết. Bọn đàn bà đung đưa cái mông ra đứng bụi tre, tay quạt, miệng chửi như gánh hát tuồng diễn tích trò, góc này chửi chán lại đến góc kia. Tuất thù cái làng Đình Lạc này lắm! Sao mà nó khoẻ chửi rủa thế không biết. Tuất thù những cái miệng ăn trầu vỏ, đỏ loe đỏ loét như miệng yêu tinh mà ngoa ngoắt tận mây xanh...Đã thế ông mày không thèm ăn trộm cái làng này. Tuất quay ra ăn cướp... Tuất kết giao với bao kẻ du thủ du thực các làng xung quanh lập ra đảng cướp, mà đã cướp là cướp thằng giàu. Gặp thằng non tay thì đe rồi sấn vào mà cướp, gặp thằng rắn mặt có thế lực thì phục kích đào tường khoét ngạch.

  Trong vùng ngày ấy có nhà Phú Nho giàu nứt đố. Lão là lính viễn chinh theo Pháp đi đánh nhau với An- gê- ri. Bị thương rồi hồi hương, ăn hưu trí.  Lão mang con vợ lai Tây cũng là con tư sản về quê chuyên cho vay nặng lãi. Nhà lão kín cổng cao tường, chó đực nhà lão thiến cho mảnh sành vào bìu nên dữ hơn cả hổ báo. Đêm ấy, toán cướp sau khi đánh bả lũ chó, tiến đến chân tường khoét ngạch. Ai hay "vỏ quýt dày móng tay nhọn", lão Phú Nho có súng lục nạp đầy đạn Tây. Lão theo dõi và cho thuộc hạ quây gọn ổ cướp. Đứa nào chống cự lão bắn cầy đất ngay mũi bàn chân. Sáu tên cướp giơ tay chịu trói. Biết Tuất là đầu đảng. Phú Nho giam chặt một chỗ và nhét giẻ vào mồm. Năm thằng được dẫn vào phòng và được mời ăn cháo tóc. Phú Nho ác khét tiếng. Lão cắt nhỏ tóc người trộn vào cháo hoa bắt húp no mòng bụng rồi thả về. Cái thứ bả ấy găm vào ruột gan phèo phổi người có thuốc thánh cũng không cứu nổi. Riêng Tuất, lão có cách đối xử khác, lão nghĩ cái thằng uống máu người không tanh này, có thả nó ra sớm muộn nó cũng trả thù, tốt nhất là cho chầu Hà Bá. Phú Nho lấy nẹp buộc giang tay giang chân rồi lấy lá chuối khô, rơm khô quấn vào người Tuất, mỗi lần quấn lại một lần lạt. Khi cả thân hình Tuất là một khối to khổng lồ rơm và lá chuối, hắn sai người đem ra Cống Giang thả trôi sông. Không biết làn nước chảy trôi Tuất đến nẻo nào, chỉ biết rằng từ nay làng Đình Lạc vĩnh viễn mất một tên ăn cắp, ăn cướp, hiếp dâm và dĩ nhiên cô Nâu tội nghiệp phải nuôi 4 đứa con trai trong cảnh goá bụa...Việc ấy đã xảy ra lâu lắm rồi, từ ngày còn thực dân phong kiến, pháp luật còn là sợi cao su mà kẻ hành pháp thoải mái co dãn đối với mạng người. Coi mạng người như con sâu, cái kiến.

  Cho đến bây giờ không biết mồ mả của ông Cu Tuất  ở đâu, người ta đồ rằng: Sau khi bó lá ngấm nước, Tuất bị chìm và làm mồi cho thuồng luồng, dải cạn.

*******************

     Chỉ khổ chị Đĩ Nâu. Từ ngày mất chồng sinh ra quẫn bách. Khi chồng còn sống, mọi chèo lái áo cơm chị chẳng phải lo, chị như cái máy đẻ, sáu năm bốn đứa ra đời, đứa nào cũng bụ thun lút và háu ăn, cái váy nơm loã toã, chị Đĩ  ngày nào cũng chợ xa chợ gần, người ta bán của tay làm ra, Nâu bán của do chồng lấy trộm, khi thì buồng chuối, khi đàn gà con, ổ trứng ấp dở. Lúc đầu cũng sợ nhưng lâu dần rồi quen. Người ta bảo "ăn trộm quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm" kể cũng chẳng sai.

  Bộ tứ tử trình làng: Tại - Tài - Tải - Tái lúc này cũng thấc lên. Chúng giống bố cả hình hài lẫn tính khí, chúng tranh nhau ăn như hổ đói chung chuồng. Cái đất quê chó ăn đá, gà ăn sỏi, lúa cấy một vụ chó chạy để đuôi, người khôn của khó lấy đâu nuôi chúng. Khi bố còn sống thì cơm trắng cá béo, giờ đói quắt đói quay. Mẹ chúng phải trèo sung, hái từng chùm, bỏ vào cối giã dập rồi cho vào nồi, loáng thoáng vài hạt gạo, miếng "cơm" ấy chát lè lưỡi. Những bữa không có cơm thì lấy cám rang vàng, cuộn lá ổi, bít mũi lại cho khỏi sặc rồi nhẹ nhàng, khẽ khàng thả vào miệng.

Đói ăn vụng túng làm liều, lũ trẻ lại đi ăn cắp. lúc đầu, chúng moi lạc, bẻ ngô của nhà địa chủ.

      Trận lụt năm ấy mới kinh hoàng làm sao. Câu thơ "quai Mễ Thanh Liêm đã vỡ rồi" của cụ Nguyễn Khuyến còn đến bây giờ ai cũng thuộc. Hôm đó vào canh tư thì ục bối Cây Đa, nước phăm phăm thuỷ phá thổ. Dân trong bối kêu khóc như ri vỡ tổ. Đèn đuốc như sao sa, cõng bế , lôi tha nhau chạy lụt. Dòng lũ quái ác réo như hổ xổng cũi lao vào xóm mạc. Người ta xếp nạn "thuỷ" là thứ giặc đứng đầu trong bốn thứ giặc ngày ấy. Bao nhiêu ruộng cả ao liền mấy đời tổ tiên để lại, bao nhiêu cây trái lưu niên quý như vàng cũng bị dòng nước cuốn phăng.

     Giữa lúc đê vỡ, cả làng nháo nhào chạỵ, chị Đĩ Nâu vớ được cái mủng hái rau, mang thằng con út men theo vệ cây tránh dòng nước xoáy bơi thục mạng. Chị hét ba đứa con trai mau mau đóng bè chuối mà chạy. Máu tham nổi lên, chúng bảo nhau lần đến mấy nhà hào phú phá tủ để tìm vàng lá bạc cây. Bao nhiêu vàng bạc của nhà giầu bỏ lại chúng cho tất vào cái đẫy tượng, chúng loá mắt vì tiền nên mải mê lục lọi. Nước đến ngang ngực mới nghĩ kế rút lui. Lúc này bao nhiêu chuối dân làng đã nhanh tay đốn làm bè và thoát lũ, ba thằng leo phứa lên một mái nhà tranh gần đấy, nửa giờ sau mái tranh cũng bị cuốn đi, cả ba thằng kêu la thảm thiết nhưng còn ai mà cứu. Không biết xác chúng trôi dạt phương nào. Ông Ba Liển thoát chết đợt ấy trông thấy phút cuối của ba anh em, ông may mắn leo được lên ngọn mít cổ thụ cao nhất làng, ăn búp mít và dái mít non nên không chết đói. Ông kể lại rành rọt chuyện này cho làng cho tổng về cái chết tham vàng của ba anh em Tại - Tài - Tải con nhà lão Cu Tuất. Người ta chép miệng than vãn: Đúng là trời quả báo, thằng bố với ba đứa con trai chết cùng một kiểu.

Sau trận lụt thảm khốc năm ấy. Chị Đĩ Nâu chỉ còn hai mẹ con, một thời gian sau phát dại, cởi quần áo nhồng nhỗng, cười khành khạch suốt này, gặp ai cũng hỏi là có nhìn thấy ba đứa con mình đâu không, Chị chết bên gốc quéo giữa đồng sau một đêm rét cắt da cắt thịt.

    Thế là từ nay Tái còn lại một mình. Tái dựng lều trên mảnh vườn cũ và ngày ngày lang thang, kiếm được cái gì ăn cái nấy, đói quá lại vừa ăn cắp, vừa ăn xin. Được cái làng Đình Lạc hay thù và cũng hay quên. Họ cưu mang Tái như ban ơn cho những vong hồn bao người thân gia đình nhà Cu Tuất. Suy cho cùng, cả nhà Cu Tuất chịu nhiều quả báo khắc nghiệt của luật nhân quả...Biết là đáng đời đấy nhưng nghĩa tử là nghĩa tận. Không ai nỡ thù người chết " Sống ư Nhân - Thác vi Thần" họ bảo nhau như thế.

   Tái trốn làng vào đội dõng theo Tây. Tái đi càn và lại tham lam,  tàn ác nên chóng lên Đội. Tái chỉ huy toán quân toàn những kẻ tàn ác khét tiếng. Những trận càn, chính tay Tái đã xả súng không thương tiếc vào bao cụ già em nhỏ, hãm hiếp bao phụ nữ không kịp chạy càn. Chính quyền cách mạng ngày ấy đã ký lệnh tử hình vắng mặt tên Việt Gian với bàn tay nhuốm máu đồng bào. Khi hiệp định giơnevơ ký kết, biết không còn chỗ dung thân, hắn trốn vào Nam làm nghề bán hủ tiếu, lấy vợ và sinh mỗi mống con trai, sau này con trai lại bỏ hắn vượt biên và lại làm mồi cho cá ngoài Biển Đông.

 Bao nhiêu năm xa cách giờ nhớ quê lão lại lần về. Một ông lão ngoài tám mươi với chòm râu lờ phờ, bước đi ngục ngoặc. Cả đời lão chịu bao cay đắng của số phận. Bên tai lão còn như văng vẳng tiếng chửi rủa năm xưa của những mụ đàn bà mất gà mất chó. Chả lẽ lời chửi rủa trôi sông đắm đò năm xưa nó vận vào gia đình lão để mấy đời lần lượt chết không tìm thấy xác. Nó vừa thật lại như mơ hồ, vừa như mơ hồ lại vừa thật...Nhân gian cõi Người có bao điều khó bề lý giải.

  Lão thấy ân hận, một nỗi ân hận muộn màng. Lão về lần này bao nhiêu vàng bạc, của cải tích cóp được tậu lại mảnh vườn xưa làm ngôi nhà nhỏ đủ nương thân, lập ban thờ cúng những vong thất lạc trong gia đình, còn lại đem hiến cho làng sửa đường, xây nghĩa trang, lão muốn xây cái cổng làng cho đẹp, muốn xin ông đồ nho ngoài trăm tuổi ghi lên đấy mấy chữ nhân nghĩa. Cụ đồ trễ cặp kính dày nhìn lão và phác mấy dòng hào hoa "Nhân ác bất khả cường". Cụ hỏi lão: "ông có biết nghĩa của câu này không! Ông thuận lòng thì để mà nghịch lòng thì bỏ đi tôi không ép". Thấy lão Tái ngẩn mặt, Cụ cắt nghĩa: Đây là câu của Khổng Tử trong Kinh Dịch, có nghĩa là: "Kẻ ác không phải là kẻ mạnh" ông thấy thế nào?"... Ông Tái tỏ ra nghĩ ngợi lung mung lắm. Sau phút lưỡng lự ông thưa với Cụ Đồ: Chí lý lắm Cụ ạ! Cụ cho xin mấy chữ này nhé! Mà tôi nghĩ để chữ Quốc Ngữ, chữ ta thôi. Đề chữ Nho sợ lũ trẻ thời nay khó hiểu.

Hôm sau lão Tái lại gặp Bí Thư, gặp mấy ông già trong hội người cao tuổi. Lão tấm tắc khen chữ cụ Đồ là chí lý. Lão gạ: " Cho tôi thuê thợ khắc ván làm bức Đại tự đặt trong Miếu Hai"

Lão chống gậy về nhà. Trên đường đi lão lẩm nhẩm chữ cụ Đồ cho nhập tâm: Nhân ác bất khả cường có nghĩa là kẻ ác không phải là kẻ mạnh...nhân ác bất khả cường... có nghĩa là ..."

..:Chó đẻ- truyện ngắn:

Con Mực xé cái chổi rơm sồn sột. Hai chân trước đè cái chổi xuống nền xi măng trước nhà. Nó làm việc gấp gáp, cuống cuồng như sợ ai cướp mất cái chổi, vừa xé nó vừa đảo mắt coi chừng cô Thơm, chủ của nó nhìn thấy sẽ quở mắng và đòi lại. Cái chổi lúa bằng rơm nếp còn mới và rất dày dặn cho cái Tho, con bé 5 tuổi, học quét sân mỗi buổi chiều. Cô Thơm bắt con bé học quét sân bằng chổi không cán và hướng dẫn tỷ mỷ từng động tác liền nhát chổi để không phải "một nhát đến tai hai nhát đến gáy", không được tớn ngọn chổi lên cho bụi. Chớ tưởng quét sân quét nhà là dễ nên cái chổi được bảo quản cẩn thận ở góc hè... Nhà đi vắng hết, cái Tho giờ này vẫn chưa tan lớp, mẹ ra đồng, còn chị Thảo nó đi học thêm cùng đám bạn.

Con Mực bụng khệ nệ, lặc lè và để ý kỹ thấy đàn con đang quẫy đạp bên trong. Mực đang trở dạ cho đàn con chào đời. Nó gấp gáp chuẩn bị chỗ nằm ở một xó bếp hơi khuất và tối để sinh con. Mực công những nẹn rơm và quây ổ đến khéo. Giá không bị trận lụt trôi mất đống rơm thì đâu đến nỗi, mang tiếng nhà quê mà bói không ra nắm rơm. Xong việc, Mực nằm quằn quại chịu cơn đau sinh nở.

Cô Thơm vác cuốc từ ruộng về, như thói quen thường lệ cô đảo mắt một lượt bao quát khu vườn, căn nhà... Vẫn nguyên cả, lũ gà mái no nê đang rỉa lông góc vườn, con gà trống đẹp mã phởn phơ đi lại quanh tụi thê thiếp vẫn thường ngày phục tòng cái nghĩa vụ bất khả kháng. Dạo này, trộm đạo chốn nhà quê nhiều lắm, lơ mắt là mất chó mất gà, mất buồng cau, trái chuối. Đấy không phải là lũ trộm đói cơm mà là lũ đói thuốc, bạ cái gì cũng lấy.

Quái lạ! con Mực đâu nhỉ? Mọi lần về nhà nó vẫn lút cút lao ra mừng cuống cả lên, mắng mãi vẫn không buông chân. Nó bổ thượng lên cào chân vào phía sau phía trước rồi rít lên sung sướng đến tội nghiệp. Khổ thật đấy, nó mừng còn hơn cái Tho. Cái Tho thỉnh thoảng vẫn được mẹ cho nắm kẹo, trái chuối, quả cam khi đi đám về. Mực có được gì đâu mà nhanh chân hơn con bé, có khi vội quá còn xô ngã con bé... Hôm nay, Mực đi đâu nhỉ? Lé mắt vào góc sân không thấy cái chổi rơm, cái chổi còn trơ lại nõ tre vẫn đóng cứng ngăng ngắc trên cuống. Một đường vương vãi những cọng rơm tơ tớp từ sân vào bếp. Chị ngầm đoán điều gì xảy ra.

Trong cơn đau cào cấu, con Mực nhìn thấy chị ló cổ vào bếp, nó vẫy đuôi xắng xít, ánh mắt như cầu cứu, van lơn. Nó rên nhẹ như ngầm bảo chị rằng: Đau lắm! Sung sướng lắm bà ơi! Tôi sắp được làm Mẹ... Hãy tha lỗi cho tôi.

Hình như các giống cái trên đời này có sự đồng cảm về nỗi đau sinh nở. Chị Thơm nhẹ nhàng xoa đầu con Mực, vỗ lên khoáy nó an ủi vỗ về. Tự dưng chị nghĩ thầm trong bụng, một ý nghĩ bỗng dưng loé lên, hơi trái khoáy, kỳ quặc nhưng rất thật: "Bố sư khỉ! Mày ngủ với thằng chó đực nào mà bây giờ nó mất mặt, sinh nở một mình...". Chị thừa biết chả con chó đực nào nhận con và chăm chó cái đẻ bao giờ nhưng vẫn cứ chửi, ấy là chị nghĩ đến cô Bính con bà Cả Nho hôm nọ cũng vác bụng đến trạm xá xã khi trót dại với một gã Sở Khanh đời mới.

Chị gọi điện thoại cho bác Nhân buôn cá ở chợ Bầu:

- Em nhờ bác một tý nhá! Bác nhớ đừng quên nhá! Tý nữa về bác mua dùm em mớ cá thau tháu, qua chỗ hàng thịt lấy cho em ít xương ống xương cạng.

Đầu bên kia bà Nhân cười khanh khách:

- Nhà mày đổ đốn hay sao mà liên hoan mặn kỳ cục thế! Nói lại lẫn nữa cho tao nhớ...

Cô Thơm nổi lửa đùng đùng nấu cháo và mắt ngóng ra cửa lẩm bẩm: Con Tho thế thì thôi! Lại đánh chắt đánh chuyền ở đâu, giờ này chưa ló mặt về.

Vừa cời lửa chị vừa chép miệng bâng quơ, nói bâng quơ một mình. Con Mực trong cơn đau vẫn ấm ứ rên. Khổ thân nó quá, tại sao ông trời bắt cái giống nó phải mang nặng đẻ đau một mình cơ chứ. Lan man cô lại nghĩ về sự có mặt của con Mực trong nhà mình những năm qua.

****************

Đấy là một con chó cỏ mũm mĩm, đôi chân ngắn thùn lụt và lông màu đen tuyền, trên lưng nó lại có túm lông bờm toẽ ra hai bên sườn như bờm ngựa. Khác lạ hơn nữa, trên hai mắt lại có hai chấm vàng tròn như viên bi. Người ta vẫn gọi đấy là giống chó bốn mắt. Dân thành phố thường hay nuôi chó lai to như con bê nhưng dại khờ và bắng nhắng. Loại ấy rất dễ bắt quen với người lạ khi có kẹo hay có cái gì đấm mõm, cứ gọi đúng tên là thích chí ngoáy đuôi mừng. Loại ấy chỉ làm cảnh chứ trông nhà chỉ trông cái nóc. Chó cỏ nhà quê lại khác, nó trung thành với chủ đến tội nghiệp. Nó xứng với câu ca người xưa: Con không chê bố mẹ khó/Chó không chê nhà chủ nghèo. Có đói đến chết cũng không ai nhử mà chịu theo, nó chỉ ăn cơm chủ và mẫn cán với việc trông nhà cho chủ... Con Mực bốn mắt nhà chị Thơm mua là giống chó mang đủ cái phẩm chất chó mà tạo hoá đã trao khi làm bạn với người.

*************

Hôm đó là chợ phiên, chị gánh rau đi chợ. Qua hàng bún chị thấy một gã nhà quê răng vổ mặc bộ cánh gụ đã sờn, đặt lồng chó ba con, lão lấy chân đè lên sợ mất cắp, tay đũa tay chén, gã đang ăn lòng lợn tiết canh. Mấy con chó vẫn vô tư đùa nghịch trong cái lồng tre. Chúng nâng chân trước bá lên cổ nhau, vật nhau oành oạch. Cô Thơm chống đòn gánh nghênh mặt ngắm mãi một con chó cái to nhất trong lồng, gã bán chó trong cơn say lè nhè bảo: "Thích con nào thì bảo đây bán hữu nghị cho toàn giống quý huyền đề bốn chân đấy". Chị lấy ngón tay thọc qua nan lồng chỉ đích con Mực: Đây! Con này! Bao nhiêu hả ông? Kỳ kèo thêm bớt, con chó bị lôi ra khỏi lồng và vĩnh biệt hai em nó để về nhà cô từ nay. Hình như biết thân biết phận, nó ngoan ngoãn để cô quàng đoạn dây thừng đứt vào cổ và ngồi then lét nhìn cô bán hết gánh rau. Mực về nhà cô, ngơ ngác vì mất mẹ, mất em, nó ư ử khóc, quài chân lên mặt mà khóc, mà kêu. Mãi đến khi cái Thảo đến xoa đầu, bế lên vuốt ve mới tạm yên lòng, lấm lét thè lưỡi liếm vào tay, nó nhắm mắt rồi lại mở mắt như dò hỏi đây là đâu, lành hay dữ... Cái rủi may phận làm chó bao giờ chẳng nhờ vào phúc phần nhà chủ. Tốt nhờ, xấu chịu.

Cái Thảo giờ đã vào cấp ba Trung học với ánh mắt lung liêng, bước đi nhún nhảy, cái ngực có lùm vú đội áo cồn lên...Nhanh thật, thế mà đã mười năm. Tuổi xuân cái Thảo mới bắt đầu nhưng tuổi Mực đã là xế bóng. Vòng đời của chó vốn ngắn ngủi so với con người. Mực vô tình không nhận ra điều ấy.

Tuổi xuân của Mực cách đây lâu lắm rồi, hình như về nhà cô Thơm già nửa năm Mực đã làm mẹ. Mực đẻ liền hai lứa đều đặn mỗi lứa bốn con. Bốn con không sài đẹn và giống mẹ rồi sau đó vài tháng, lũ con lại vào rọ ra chợ và chị em nó lại vĩnh biệt nhau để về nhà người khác ở cái phương xa lắc xa lơ không bao giờ có cơ hội bên nhau. Chỉ có hai lần làm mẹ, Mực tuyệt đường sinh nở khi có bà thú y đến tiêm phòng.

Sáng ấy, đài trong xã ra rả đọc lệnh tiêm phòng chó dại. Mực bị xích và chờ đội thú y tiêm cuốn chiếu từ đầu làng đến cuối làng. Tất cả chó trong làng đều phải tiêm theo danh sách kê khai từ mấy hôm trước. Cái Thảo lừa Mực vào khe cửa, cánh cửa bất thần kẹp lại. Đầu mực bên kia và phần còn lại bên ngoài. Một nhát kim nhói lên sau mông, Mực tru lên đau đớn, toàn thân giật nảy lên. Mũi tiêm vô tình trúng huyệt nên chân tê cứng. Có ai cẩn thận khi tiêm chó đâu, cứ chọc, cứ bơm và cứ ký sổ rồi thu tiền. Mực bị thọt một chân và thọt luôn sinh nở từ ấy.

Tuy thọt mất một chân sau nhưng nó vẫn làm chức phận coi nhà rất chu đáo và khôn ngoan. Ban đêm, khi mọi người đã yên giấc, nó nằm trước cửa, ệp bụng xuống đất, hai chân trước toài ra, tai cúp xuống, mọi tiếng động quanh nhà, Mực phân tích tỏ tường. Mấy người hàng xóm đi đêm về hôm làm nghề chạy chợ lỉnh kỉnh xe đạp, rổ rá, quang thúng vừa đi vừa nói chuyện léo xéo hay mấy ông say rượu cạnh nhà, chân đi vòng kiềng lả thả, Mực cho qua. Đám bắn chim hay kích cá đêm thì không thể được, lũ này ngờ lắm, cứ chấm chân vào mép vườn là nó sủa những tiếng áp đảo, tự tin, nếu tiến sâu vào lãnh địa do nó cai quản, Mực vừa cắn vừa lùi vào trong thủ thế. Chính vì cái khôn bảo mạng ấy, nó không bị đánh bả, bị kích điện để chui vào bao tải lũ kẻ cắp chuyên bắt chó. Mực là con chó duy nhất của cả xóm thọ dai, nó thọ dai cũng còn một lý do nữa là cự tuyệt bọn chó đực vẫn đeo đuổi ve vãn quanh nhà. Anh chàng nào vào sân đòi tỏ tình, Mực lao ra cắn cho tơi bời phải cúp đuôi tháo chạy. Mực trở thành con chó cái khắc kỷ và phớt đờì khi không còn những cơn động dục gào thét. Mũi tiêm vào huyệt năm xưa đã lấy mất tuổi xuân mà tạo hoá công bằng ban phát cho muôn loài. Giống chó là giống khôn nhưng cũng là giống dại nhất khi tìm bạn tình. Bất kể giống đực hay giống cái khi có bạn tình rủ rê là quên mất chức phận, sẵn sàng bỏ cửa lìa nhà mà giao hoan, những cuộc giao hoan đau đớn, khó nhọc và lộ liễu, bất cẩn để rồi mất mạng. Ngẫm ra cuộc đời này muôn loài đều bị cái vòng ấy cương toả, nó làm muôn loài mờ mắt, điếc tai, lú lẫn không tính toán thiệt hơn, nó làm đổ quán xiêu đình. Hình như sự ấy có tên gọi là "bại hoại".

*************

Cách đây không lâu, bỗng dưng cái chân hồi phục. Mực đi lại nhanh nhảu. Mực hay liếm bộ lông đen cho mượt và hay ra khỏi nhà ngóng mắt đâu đâu, dáng vẻ túng tớn lắm. Cô Thơm mắng yêu: Sao hả nàng! Giở chứng à! Bố nhà chị, già mốc mới dở chứng. Rõ nỡm, có giỏi đẻ vài lứa tao xem có ra chó con hay ra chim cánh cụt. Con Mực chừng hiểu ý ngoáy đuôi xoắn xuýt, toàn thân đung đưa, oặn ẹo, cái mõm có hai lỗ mũi tròn ướt nhườn nhượt hít hít và rên lên ư ử. Bà chủ lại xoa đầu, lại mắng yêu: Bố nhà chị! Đúng là loại đĩ già. Cái Thảo lườm mẹ: Kệ nó mẹ ạ! Sao mẹ đùa ác thế. Cô Thơm tuế toá: Ấy là tao đùa cho vui! Tao quý nó như mấy chị em mày ấy chứ, nó có nghĩa lắm đấy, nó còn có nghĩa hơn mấy thằng mất dạy làng này đối với mẹ với cha; nó còn trung thành, trung thực hơn chán vạn mấy thằng mạnh bên nào ôm áo bên ấy. Con Thảo lại nhăn mặt: Thôi đi mẹ! Lại mênh mông rồi! Sao mẹ lại ví chó với người! Kinh quá, người lớn toàn lôi thôi. Cô Thơm cũng không chịu lép, cô chỉ tay bảo cái Thảo: Này! Nghe tao hỏi! Chúng mày đừng cậy biết vi tính hay internet! Đừng cậy biết đi chat đi chua, đừng cậy biết hát ôkê! Không là cái đinh gì đâu con ơi, đừng khinh loài vật, nó không biết nói đấy thôi chứ nó mà biết nói, biết chữ, biết viết đơn khiếu kiện, có khi cuộc đời này tốt lên nhiều đấy. Nó không biết uốn ba tấc lưỡi nên người mới khinh nó. Thế mày có biết bên Trung Quốc, cái tỉnh Thiểm Tây thiểm Tầu gì ấy, các con vật còn dự báo động đất trước mấy ngày mà người thì có biết "mốc" gì đâu. Bao nhiêu viện này viện nọ, bao nhiêu nhà nọ nhà kia đều toi cơm để người phải vùi trong nhà lầu...

Gớm chết! Cuộc khẩu chiến lằng nhằng của mẹ con cô Thơm có mà kể quanh năm không hết, sa đà có khi lại thành tuyên truyền phản động.

********

Dạo trước tết năm con mèo có anh chàng chó đực ngốc nghếch đến gạ gẫm. Chàng ta là giống chó lai, hậu duệ tám đời của giống Bẹc dê gốc Đức. Loại Hậu duệ loạn luân trực hệ nên ngớ ngẩn vụng dại lắm. Nó thục cái mõm vào sau đuôi con Mực mà nghiên cứu thăm dò. Mực vẫn để yên và quay lại liếm mép con Bẹc chứa chan ân ái. Mực dụ cậu người tình vào cái chảo cơm mời mọc. Con Bẹc rởm hít hít bỏ đi không thèm liếm một hạt. Nhà Bẹc ông chủ vẫn cho ăn bằng khay trắng muốt, đầy phổi bò phổi lợn, thỉnh thoảng lại có trứng gà húp sống. Cái thứ cơm nhà Mực chỉ có lũ chó cỏ chịu ăn, không ăn lập tức bọn gà tranh phần nháy mắt hết veo. Bẹc đến nhà vì cái khác hối thúc chứ ai thèm ăn thứ cơm thừa canh cặn. Khi cơn khát dục bùng lên thì anh công tử nhà giầu cũng phải ve vãn bạn tình cách xa đẳng cấp... Cứ thế, mỗi ngày mấy lần, Bẹc ghé chơi với Mực. Cô Thơm chỉ ra sân nói với con: Thấy chưa lũ mày! Tao nói cấm có sai! Con Mực nhà mình lại dở chứng...

Một buổi sáng, Mực mất tích. Gọi khản cổ không thấy tăm hơi, cả nhà bảo nhau: Nó theo con Bẹc để bọn trộm chó đánh bả mất rồi. Cái điệp khúc "Già không trót đời" từ miệng cô Thơm lại được dịp tuôn ra. Khổ nỗi thật, chả cái khổ nào giống cái khổ nào trên đời này cả! Khổ nỗi thật.

Cuộc truy tìm của mấy mẹ con thất bại. Họ kéo nhau về mỗi người ngồi mỗi góc. Cái Thảo, cái Tho thì thút thít khóc, mẹ nó luôn chép miệng đay trì con Mực. Mọi người đều nhìn ra ngoài hiên, nơi con Mực vẫn nằm. Đã mười năm, hình ảnh con Mực in đậm trong ngôi nhà này. Nó nhẫn nhịn, ngoan hiền, bị mắng biết sám hối, được khen biết vui mừng đáp lễ, lúc đói, lúc no, lúc mặn, lúc nhạt, Mực đều vui vẻ với khẩu phần đạm bạc của mình. Mực dâng hiến tất cả sự trung thành để trả nghĩa cho mọi người, biết chia sẻ ấm lạnh buồn vui...Giờ này, nó ở đâu không biết để cái hiên nhà bỗng rộng rênh trống vắng.

Khi mọi người hết hy vọng thì Mực về, nó thèn lẹn cúp đuôi nép vào hàng rào đợi cô Thơm ra cửa, Mực quỳ hai chân trước phủ phục rồi cứ thế lê vào nhà. Nó biết cái lỗi tày đình hôm nay nó trót gây ra. Những kẻ không bao giờ mắc lỗi, khi mắc lỗi thì coi đấy là chuyện ghê gớm lắm, dù có chịu quở phạt thế nào cũng đành lòng, cũng là chưa đáng với lỗi đã gây ra, thế thì ai nỡ nào quở phạt.

Mọi người, nhất là cô Thơm đã hiểu ra cái lỗi của Mực. Toàn thân nó ướt át, túm lông bờm trên lưng rụng gần hết sau những trận hoan lạc đau đớn và dai dẳng với con Bẹc sung mãn. Giống chó giao hoan thật là một cực hình, thật là ỏm nhả và lộ liễu. Con Mực nhà này đã trải qua những đau đớn đến sung sướng của loài chó... Khổ cho cái loài nó thật, nó là giống có nghĩa nhất trong nhà nhưng lại bị ai đó nhẫn tâm khinh thị. Mà đời này kể cũng bất công, có hai con vật nuôi thì con Mèo lại là giống mất dạy nhất, cái gì cũng ăn vụng, chỗ nào sang nhất thì ngự lãm kể cả trên bàn thờ ông vải; già thì bỏ đi hoá cáo quay lại bắt gà nhà. Thế mà nó được người bế ẵm, vuốt ve thậm chí mùa đông còn được ngủ chung với người cho ấm.

***********

Nồi cháo xương vừa nhừ thì Mực khai hoa kết nụ bốn con. Cô Thơm ủ lửa lom đom rồi xà đến ngồi cạnh con Mực, vuốt ve đầu nó, tự dưng cô lẩm bẩm: Cố lên con! Có đau lắm không! Ừ sướng chưa! Ai bảo?... Con Thảo, con Tho cuống cả lên, bọn nó chạy lăng xăng quanh mẹ không dám gần, nó sợ câu nói của người lớn: Dữ như chó đẻ... Mực có dữ đâu, nó liếm láp những đứa con trìu mến và mãn nguyện, nó liếm tay cô Thơm thay lời cảm ơn. Nó ngước nhìn hai chị em, hai cô chủ nhỏ thương mến và nhè nhẹ ngoáy đuôi... Mẹ con nhà Mực ấm áp và tin cậy khi ở giữa những người tốt bụng.

Đám chó con ra khỏi bụng mẹ gặp hơi giời hơi gió khô lông và phổng lên nhanh lắm. Nó cũng giống mẹ bởi bộ lông và hai vết chấm tròn trên mắt. Chúng chưa mở mắt chỉ đánh hơi mẹ rồi rúc đầu bú ngay. Chúng kêu khin khít và còn oe oe khóc nữa mới thương. Biết là khổ như chó nhưng tạo hoá vẫn cho giống nòi nó khai hoa kết nụ.

Con Bẹc đa tình lại xuất hiện. Lần này nó không đến tìm con Mực mà gạ gẫm một con cái lai cách đấy mấy nhà. Qua cửa, thấy đàn chó con kêu, nó vô cảm không thèm để ý. Con Mực nhìn thấy quay đi, cái đuôi không động cựa, tự dưng nó thở phì một cái rõ dài rồi cúi xuống liếm đàn con đang bú.

Cái loa nén trên cột điện đầu làng lại ra rả thông báo lệnh cấm chó. Chỉ ít ngày nữa thôi, đội "xung kích" sẽ đến tiêu diệt tất cả.

Ba mẹ con thẫn thờ sau tiếng loa vừa dứt. Nồi cháo đã nguội. Cô Thơm bưng đến tận miệng Mực. Suất bồi dưỡng gái đẻ thơm lừng.

Cô đang nghĩ kế. Có chịu tội gì đi nữa cũng để mẹ con nhà Mực vuông tròn rồi tính sau. Đêm nay mải yêu con chắc Mực quên giữ nhà! Thôi mình thức vài đêm vậy, lũ nghiện nó nhòm đàn gà mái và cái bơm nước từ lâu rồi.

..:Đánh đụng chó

Đấy là một cây đa cổ thụ không biết mọc từ bao giờ, chỉ biết qua bao dự án cải tạo Thành Phố, nó vẫn không bị chặt hạ. Sau cây đa là một ngôi chùa ngày đêm bảng lảng khói hương, rầm rì kinh kệ.

Ông Liễm bà Tho vào tuổi lục tuần mà đã có đám cháu ngoại thau tháu gần chục đứa. Dưới gốc đa râm mát chúng nô đùa rình rịch. Lũ trẻ ở khu phố nhỏ cũng tụ bạ thêm cho xôm trò. Các bà đi lễ, trước khi ra khỏi cổng chùa đều phát lộc cho chúng, lúc thì vốc táo, chùm nho, lúc vài gói Bim Bim. Chúng cúi đầu khoanh tay lạy mọp như diễn tuồng, nói mấy câu học vẹt do người lớn bày cho: Cháu cám ơn bà! Cháu cám ơn cụ ạ ...Rồi chí chóe chia nhau ăn tem tẻm.

Cùng a dua với chúng có một con chó nhỏ mà lũ trẻ vẫn gọi là con Húng. Con chó ấy là của gia đình ông Liễm nuôi để đảm đương khâu vệ sinh khi các cháu của ông bà vô phép. Nó là giống chó cỏ nên nhanh nhẹn và rất đẹp mã. Bộ lông Húng đen mượt như nhung lại có mấy đốm vàng. Bên trên hai con mắt có hai chấm nên nhìn rất ngộ. Nó túng tớn chạy theo lũ trẻ và cái đuôi ngoáy tít, bốn chân chạy tăn tắt, luồn lách vào khe chân đám trẻ làm nhiều đứa vấp bò nhoài đè lên. Thật là một đám hỗn quân hỗn quan bất trị. Chúng lấy chạy nhảy, hò hét làm đầu. Một lũ hai chân lĩnh xướng để một con bốn chân theo đuôi, chúng là bức tranh sinh động làm bừng lên niềm vui cho mọi người trong con phố nhỏ.

Chó con cũng là giống nghịch. Húng can dự, tọc mạch bất kỳ trò gì do lũ hai chân bày ra. Húng hếch cái mũi ướt nhượt hút hít vào chân lũ trẻ. Húng ngồi xổm, cái đuôi chấm đất như bông lau nhỏ khua đảo tưng bừng, nghênh tai ra chiều nghĩ ngợi, nguyên cứu rồi chẳng biết đồng tình hay phản đối, cũng hếch mõm lên "roách roách" mấy câu ý chừng là đã hiểu, rồi sau đó quài chân lên cổ gãi nhanh nhách một hồi, gãi chán, thò móng cào sồn sột trên đất. Lũ trẻ không thèm để ý đến can dự của Húng. Dưới con mắt ngây thơ, chúng coi Húng là đứa theo đuôi, chỉ gây nhiễu và ăn bám, vòi vĩnh, chia trác khẩu phần xin được của các bà đi lễ chùa. Cái gì lũ trẻ ăn được Húng cũng cố ăn, mấy quả sung chát lè, mấy khẩu mía rắn câng cúng cho cô hồn quả tú, mấy chùm nho chua gẫy răng được chia Húng cũng nhá. Húng theo dõi xát xao quyền lợi và đòi chia trác công bằng, nếu không bình đẳng, nó thượng chân lên mà phản đối, bất bình quá nó chạy ra một đoạn ra chiều phân tuyến giai cấp mà xủa về đám trẻ, tiếng nó tru lên cũng chua ngoa, ai oán và khinh bỉ, nó đấu tranh đến khi nào bình đẳng mới thôi. Húng tự cho phép mình có đòi hỏi quyền lợi hợp pháp khi tham dự nhóm Gốc Đa cùng lũ hai chân bắng nhắng, om xòm lại tham ăn tục uống.

Lũ trẻ nhóm Gốc Đa toàn là con nhà lao động. Đứa bố mẹ bán cơm bụi, xe ôm, xe lôi, xe ba gác, đứa con nhà buôn thúng bán bưng hay làm cửu vạn. Chúng không có quần áo đẹp và đồ chơi điện tử, chả đứa nào phải học thêm nên mắt sáng như sao, cứ hè về là tha hồ chạy nhảy. Chúng cũng chẳng ốm đau phải đi nhập viện như con nhà giàu. Cảm sốt đắp chăn rên hừ hừ, ăn vài cái roi kèm lời đe của bố mẹ:" Bêu nắng lắm vào! Cho mày chết! Mai còn thế tao chặt chân" ...vậy mà sớm mai bên gốc đa lại nhảy tưng tưng, quên phéng lời đe, vẫn chứng nào tật nấy.

Như đã kể đầu chuyện. Sau gốc đa cổ thụ là chùa Lương Thiện. Bên trong chùa Lương Thiện có một vị sư gần 40 tuổi, mặt lấm tấm mụn cá và trắng như sáp nặn. Chưa đến 40 tuổi đã được phong Đại Đức thì ngẫm ra cũng là bậc chân tu. Còn nghi ngờ gì nữa, không đức cao vọng trọng thì làm sao các bà nhà quê mấy thứ tóc, lưng dấu hỏi vẫn phải lạy như tế sao mỗi khi bậc Thiền khoan thai đi trong khuôn viên nhà chùa. Sư trụ trì có tên nhà Phật cũng oai lẫm. Khắp vùng vẫn gọi là "cụ" Thích Đàm Thứ. Mấy lão ba láp sống ở cổng chùa nên "gần chùa gọi bụt bằng anh" lại nhạo lái tên thành "Thích đủ Thứ". Chưa thỏa cái thói trần tục, mấy gã cửu vạn lại kháy đám trẻ xóm Gốc Đa. Cứ thấy "cụ" ra khỏi cổng chùa lại xếp hàng nhất hô bá ứng đều tăm tắp: " Lạy cụ Thích Đủ Thứ ạ! Chúng cháu lạy cụ Thích đủ Thứ ạ". Con Húng chả hiểu mô tê gì cũng tru lên hưởng ứng cùng lũ trẻ làm " Cụ" giận lắm. Mấy lần cụ vung roi đen đét gầm lên:" Bá ngọ lũ quỷ Đông! Bá ngọ cái lũ quỷ đằng Đông".

*

Giờ thì Gốc Đa vắng lắm. Nó vắng từ khi ông Liễm Bà Tho gây "sự kiện vùng vịnh". Sự kiện ấy có từ lâu rồi nhưng ém trong phòng lanh với cửa kính màu dày một phân. Họ gây sự kiện thế nào thì chỉ có họ biết hay bất quá là có ông giời cùng biết. Dân phố có thói quen tọc mạch, dòm rỏ chuyện nhà khác. Khi ấy, lũ cháu ngoại của ông bà và lũ trẻ hàng xóm vẫn bình yên chạy nhảy bên ngoài.

Lần này thì khác. Cuộc chiến đẫm máu ấy xảy ra trước gốc đa, có nghĩa là xảy ra bên ngoài cửa kính có độ cách âm gần như tuyệt đối.

Sau cú đạp cửa thoát hiểm mau lẹ. Bà Tho vớ được hòn gạch vỡ. Bà thủ thế bên ngoài, mắt trừng trừng ngó về phía cửa kính nhà mình. Để tăng phần khí lực, bà vắn cái cạp quần màu huyết dụ lên vài đao, lùi dần về phá đống gạch vụn xếp bên đường chờ đợi. Vừa yên vị thì ông Liễm cầm con dao chọc tiết lợn lao ra. Cái yết hầu ông co lên hạ xuống theo phương tịnh tiến và đỏ như màu gà chọi. Ấy là ông một phen quyết tử với bà Tho. Hãi thật! Không khí phừng phừng như lửa sôi khi ông tiến về phía bà. Bỗng "cấc" và kèm theo là tiếng "ái", nửa hòn gạch đã đáp trúng cái trán vung nồi đồng ông Liễm. Ông khựng lại, lấy tay vuốt trán. Một dòng máu tươi phè phè theo tay lả rả rơi xuống đất. Như không tin vào mắt mình, ông lại vuốt lần thứ hai. Vẫn thế, vẫn là máu đỏ như máu lợn bị chọc tiết. Còn nghi ngờ gì nữa, thủ phạm kia rồi! Con nặc nô, con giặc cái, con sư tử Hà Đông kia rồi. Mặt nó đỏ như lưỡi cày nung, cái miệng vạt ống dầu lèm bèm khiêu chiến đang nhơn nhơn thách thức trứơc mặt. Như con trâu dái đang hăng, ông lao về đối phương với con dao chọc tiết lợn. Tuy quyết đấu nhưng cuối cùng thì con dao không thể tiếp cận nổi đống gạch mẩu và chịu ôm đầu máu quằn quại rồi được hàng xóm vực lên tắc xi tới viện. Trong cơn đau đớn, ông Liễm vẫn lảm nhảm đe dọa đối phương, lời đe dọa thều thào bị lấp bởi tiếng la xoe xỏe của bà Tho đang sắn váy quai cồng, thượng lên bên đống gạch mẩu.

Chỉ khổ lũ trẻ và con Húng. Khi trận hỗn chiến xảy ra, chúng chạy tóa tòa loa như mối vỡ tổ. Chúng co cụm vào các góc khuất run bần bật khi nhìn thấy máu me đầm đìa. Chúng ôm nhau rú lên kinh hãi khi nhìn thấy con dao bén sắc huơ lên nhoang nhoáng. Con Húng chui tọt vào lòng cái The, hai tai cúp xuống, lấm lét nhìn đám trẻ. Chắc là nó chờ đợi động thái lũ hai chân vẫn chơi bời hàng ngày với nó. Lũ trẻ then lét một xó, cái The ôm Húng vào lòng, vỗ vỗ vào cái đầu, vân vê cái tai trấn an con Húng. Con Húng ve vãn cầu cạnh đám trẻ. Nó ệp bụng xuống đất, lê hai chân bò đến từng đứa, thè cái lưỡi đỏ, liếm quèn quẹt, liếm nhun nhút bất kỳ chỗ nào nó vớ được. Húng là con chó mang ơn cả hai người chủ đang đánh nhau, nó chẳng biết bênh ai, bỏ ai nên đành lấy lũ trẻ làm chung gian, làm chỗ dựa lúc binh biến trong nhà.

Thế là mấy tháng sau.Ông Liễm bà Tho ra tòa ly dị. Họ ly dị vì lý do gì chỉ có họ và Tòa án Thành Phố biết mà thôi. Hai ông bà mỗi người mỗi ngả về với đám cháu ngoại. Ông ở nhà này thì bà ở nhà kia. Họ như sao Hôm và sao Mai trong gầm trời oan nghiệt.

Căn nhà bên gốc đa của họ giờ vắng bóng đàn cháu ngoại vẫn đeo bám ông bà. Cái cửa kính cách âm đóng lại, đám trẻ xóm phố không còn tụ bạ dưới gốc đa trước cửa chùa để lẻo mép xin lộc người đi lễ. Cái sân trước vẫn nhẫn thín bước chân người lớn trẻ con giờ mốc rêu vì thiếu người qua lại, lá đa tầng lâu tầng mới đè lên nhau, lớp dưới bốc mùi hoai mục. Trong tâm trí lũ trẻ, trận hỗn chiến diễn ra cách đây nửa năm vẫn là nỗi ám ảnh kinh hoàng.

Cũng gần nửa năm con Húng vắng chủ. Mỗi đêm nó không còn hạnh phúc được nằm trước cửa kính, bò nhoài hai chân, áp tai xuống nền xi măng để làm chức phận giữ nhà cho chủ. Bây giờ Húng đã là của mọi nhà, nó lang thang cùng đám trẻ và tiện đâu ăn đấy, tiện đâu ngủ đấy. Thỉnh thoảng nhớ nhà, Húng lần về tần ngần bên cửa kính, ngó nghiêng một hồi rồi buồn bã cúp đuôi lảng đi. Nó bỏ thói quen sủa đêm vì có ai mượn nó giữ nhà đâu mà sủa. Ai với nó bây giờ cũng là người quen. Lũ trẻ xóm Gốc Đa vẫn không ghẻ lạnh nó. Chúng thay phiên nhau mời Húng về nhà, cho ăn no, lấy xà bông tắm thơm tho rồi ôm hôn Húng. Con chó tội nghiệp lớn rất nhanh, núng nính chạy nhong nhong thăm hỏi mọi nhà. Nó là thành viên của xóm Gốc đa bên những con người mưu sinh lam lũ và tất bật.

Cái giống nghiện ngập trong thành phố dạo này tác quái vô cùng. Không biết thằng sáng chế lưu manh nào lại cung cấp cho chúng loại súng bắn chó. Gọi là súng nhưng thực chất nó là bộ phận kích điện cao áp bằng Pin. Ngang phố ban đêm, chúng nhằm Húng nhả tên, cũng may cái The phát hiện được hô hoán mà Húng thoát chui vào bao tải bọn kẻ cắp. Húng được The đem về nhưng lưỡi cứng do điện giật nên không ăn không uống được. Bác Lãm xe ôm họp toàn dãy phố thông báo tình hình. Lũ trẻ cũng bỏ chơi, suốt ngày quanh quẩn vuốt ve chăm bẵm Húng. Húng nhìn lũ trẻ với ánh mắt tin cậy và biết ơn nhưng không thể thè cái lưỡi đã cứng đơ,liếm láp vào lũ bạn hai chân đã cùng Húng buồn vui trong xóm Gốc Đa. Lưỡi Húng thâm dần và lông xù ra như đám phoi tre chiếc đũa cắm bát cơm trên quan tài người chết.

Bà Tho điện về: Tôi đang nhập viện nên rất khó khăn tiền bạc, thôi các ông các bà đánh đụng con chó đi kẻo nó chết hoài của.

Cô Hiền ngay từ buỏi chiều hôm trước đã đi chợ. Cô mua bao nhiêu là gia vị giềng, xả, mắm tôm, chanh ớt đem về. Đám hành quyết Húng đã mài dao, Húng được bốn nhà đánh đụng.

Không khác được, số phận của Húng đã được định đoạt rồi. Sáng hôm sau, chú Tùng xe ôm lại lôi đâu về một ôm rơm vàng óng, cái thau nhôm đã được đánh sáng bong, nồi nước trên bếp than tổ ong cô Hà đã lăn tăn xôi. Tất cả sẵn sàng. Húng thản nhiên nhìn cái thớt, con dao nhọn và cái làn đầy ắp gia vị trước mặt...Lũ trẻ con nhớn nhác nhìn người lớn bày pháp trường, nhiều đứa rân rấn nước mắt.

Húng bị trói quặt hai chân trước nhưng không đủ sức kêu, nó ứa hai hàng nước mắt nhình lũ trẻ. Húng bị điệu lên chiếc ghế gỗ, một người nhanh tay vặt núm lông cổ, cái khăn sạch lau chỗ chọc tiết đã sẵn sàng...Con dao bén nhọn sau nhát chọc điệu nghệ tìm tia hồng. Người Húng co giật lên rồi lả dần. Con dao bầu ngoáy thêm nhát nữa, chiếc thau nhôm long tong dòng máu khi con dao ngày càng nong rộng...

Dẫu biết việc ấy sẽ sảy ra nhưng khi nhìn thấy dòng máu của Húng, lũ trẻ mặt xanh nanh vàng bỏ chạy rồi tru lên khóc. Chúng lại tìm góc khuất co cụm mà run, đứa nào cũng quờ tay tưởng Húng đang nằm trong lòng mình như hôm ông Liễm bà Tho hỗn chiến..

Mùi thịt thui thơm lựng bay vào cửa chùa và bay lan ra phố. Giờ thì Húng đã vàng hươm và trên lớp da , một lớp mỡ óng ánh nhầy nhẫy gợi thèm trần tục. Vị sư trụ trì lấp ló nhìn qua xong cửa sắt.

Ai đoán được vị ấy đang nghĩ gì?

..:XÂY TỔ

 - Buồn cười lắm cơ! Buồn nhưng vẫn phải cười...

   - Thì cứ nói toẹt ra đi nào, lấp lửng mãi !.

   - Ra xóm Gốc Hồng mà xem. Vợ chồng nhà Kĩnh hú hí với nhau hay lắm cơ.

   - Vợ chồng hú hí với nhau thì có gì lạ. Thế vợ chồng nhà mày hú hí thì ai tọc mạch?

   -  Tao khác, nó khác. Vợ chồng nhà nó cứ làm sao ấy. Già mốc với nhau mà  cứ như lũ con nít, lúc nào cũng dính vào nhau như chuồn chuồn vướng nhựa mít. Thế rồi thuận miệng, mụ ta tô tổ ngoáy mông hát điệu cò lả:

       Còn duyên(thời) buôn cậy(í) bán hồng/ Hết duyên(là) buôn mít(ấy) cho chồng(mà) gặm xơ/ Còn duyên thì(em) kén (cái) trai tơ / Hết duyên (thì) ông lão(ấy) cũng vơ làm chồng. 

*

Một trưa hè oi ả vì mất điện lưới. Cả làng nhao ra luỹ tre mà hóng mát, mà kháo chuyện. Cái thuật ngữ đời mới gọi là "buôn dưa lê" mà nhà quê dưa lê bao giờ chả được mùa. Chăm chỉ gieo vãi là mấy mụ nạ dòng hay hóng hớt. Kinh quá đi thôi, cấm có chuyện gì là kín. Đã không kín, lại còn vạch hở toang hoác ra vì lời thêu dệt cho nó ly kỳ oái  oăm.

*

Tưởng là chuyện gì, chứ chuyện vợ chồng nhà Kĩnh tôi biết từ tám hoánh, biết tường tận gấp 9 lần mấy mụ đang kháo nhau bên gốc tre.

Chuyện phải có đuôi có đầu. Lặng yên tôi kể mà nghe, đừng nghe phong thanh, thất thiệt. Chuyện mấy mụ kia khó tin lắm. Các mụ ấy chỉ nghe hơi nồi chõ chứ biết quái gì...                                                  

                                               *

Nhan lấy Kĩnh ngày tôi còn xa nhà đi công tác. Khi tôi về, họ đã có một con bụ thun lút như củ khoai lang đất cát. Nhan là con ông Phó Thòm bên làng La Khê. Gọi là phó nhưng ông không sắm vai chức sắc gì và một chữ bẻ đôi không biết. Quanh năm ngày tháng với cái đòn tre đực ngả màu cánh gián, thũng thẵng trên vai, vừa đi ông vừa rao: Cối ơ! Cối ơ...Ấy là ông đi làm thợ đóng cối xay lúa. Kể ra, dân nhà quê cũng gọi chức danh rất bậy. Ngày xưa có Phó lý oai bốc mùi, đứng trong làng hét ra lửa, oai đến mức đám dân đen ao ước phải mua lại cái "bóng". Ấy là cụ Phó mua. Cụ Phó mua, cũng giống cụ phó cối phó mộc, phó hoạn lợn và bạt ngàn các loại phó. Cái "thị dục huyễn ngã" ấy đã ăn sâu vào não bộ những  người thích danh vọng. Chả cứ thời xưa, mà bây giờ cũng đầy đàn, đầy lũ. Cái danh mua các cụ nghĩ ra còn lương thiện hơn bây giờ. Họ mua danh cho vui, chứ không can vào chính sự .

Cụ Phó Thòm đẻ ra cô Nhan. Thượng đế ghép Nhan với Kĩnh làm vợ chồng, bởi Kĩnh xấu người nhưng khoẻ mạnh. Nhà quê chỉ cần kén chồng khoẻ mạnh là được. Đấy là cái vốn cố định bao la, là con trâu dái cày khoẻ ra ngô, ra lúa. Kĩnh như hòn đất thó thợ đấu vừa vật lên, cục mịch và nhẫy nhụa lấm láp. Kĩnh vừa đen, vừa hôi hám, thô kệch nhưng lại hám gái. Mới thấc lên đã lân la tìm bạn tình. Bản năng nhục dục của hắn bốc ngùn ngụt như cháy nhà gặp gió hanh. Tắm sông thì hắn chọn bến gần đàn bà. Hắn lặn như nhái cá mở mắt ra nhòm người ta. Nhiều khi không nhịn được, hắn lấy tay bốc bải rồi lủi nhanh ra xa, làm đám ấy cứ tưởng thuồng luồng đớp, kêu ré chạy lên bờ và cứ thế nồng nỗng vừa chạy vừa kêu. Sợ  quá nên cái dây thần kinh xấu hổ nó đứt. Hắn trèo lên cây đa nép vào như con thằn lằn, ngó đám trai gái tự tình ôm ấp nhau dưới gốc. Có một lần, kể ra đây cũng hơi tục tĩu. Có đôi trai gái đang hành sự, gã con trai thì úp mặt xuống đất và dĩ nhiên cô gái nọ ngửa mặt lên trời. Đang cơn hương lửa đùng đùng, bỗng cô gái ngó thấy trên cây có đôi chân đang thõng xuống. Một mái tóc tổ quạ đen ngòm chả rõ là người hay ma. Hãi quá, cô bật bưng dậy, hất cả người tình xuống đất, vơ quần áo tháo chạy thục mạng. Gã trai nọ vùng dậy, ngơ ngác gọi với: "Sao thế! Kiến vống đốt mông à".  Đại loại, Kĩnh là tên ma mèo như thế.

Nhan - vợ Kĩnh, da bánh mật, mình cá trắm và có cái mắt, cái miệng ưa nhìn. Duy chỉ có mái tóc là  bồng lên, đấy là tóc mây. Ông thày tướng phán, đàn bà tóc mây là khổ đến lúc chết. Tính cô nết na, nhẫn nhịn. Làm vợ Kĩnh cũng  khổ nhưng mà bù lại cái khoản "tỉnh tình tinh" luôn thừa bứa bất kể đêm hay ngày. Người ta bảo, giống đàn ông lùn tụt, da thúc bì, tóc hoa gáo là mạnh cái khoản ấy lắm. Đã thế, Kĩnh lại có máu hay ghen. Kĩnh ghen với bất kỳ nam phụ lão ấu khi tiếp xúc với Nhan. Đi chợ về, cái chóp nón bị hơi rúm ư? Thôi, nhất  định thằng nào vừa vồ mày ngoài đường, rồi  hắn tra khảo:

- Nó làm những gì? Mà đúng rồi! Thế nào nó cũng thộp vào ngực để xoa nắn cặp vú bánh dày của mày. Sau khi cho vài cái tát và không nghe vợ phân trần, hắn vác dao đi tìm tình địch. Biết nó ở đâu mà tìm cơ chứ? Thằng Cột, thằng Kèo, thằng Ngô, thằng Đậu... đi đầy đường. Ai trong bọn kia đã vồ vợ hắn? Hắn nhòm mặt từng thằng và thấy đứa nào cũng khả nghi. Ban đêm, hắn xách đèn, vác nơm đi soi cá. Giữa lúc cá vật đẻ đùng đùng, hắn chợt nhớ ra vợ đang nằm nhà. Hắn hốt hoảng chạy về, vạch màn ngó vợ rồi soi gậm giường. Cẩn thận hơn, hắn ký gửi mấy câu doạ bâng quơ vào chỗ giời ơi đất hỡi, để có thằng nào lởn vởn quanh nhà biết mà hãi. Vợ hắn đi đánh dậm "đúm" với làng. Hắn bế con ngồi trên bờ canh, đánh gần đàn ông là chết với hắn. Đi đâu cũng nghi có đàn ông vồ lấy. Khốn khổ, gái nạ dòng nhà quê lưng đeo vú thắt, lại ăn mặc nhôm nhoam, khác gì con ma dại hiện hình, ai mà "vồ" làm quái gì. Một lần oan ức quá, Nhan gào lên: Ối làng nước ơi! Có ai hiểu cho tôi không? Tưởng nó lấy tôi về làm giống làm má, ai ngờ nó làm cá nấu canh". Thằng chồng vũ phu, thộp cổ  bảo rằng: "Yên mẹ cái mồm đi! Tao mất tiền mua mâm, tao đâm cho thủng" Khổ quá! Cũng may là cái "mâm" siêu bền bị đâm ngày, đâm đêm mà không hề hấn gì. Nếu mà loại "mâm đểu" chắc  tanh bành từ tám hoánh.

Hiền mấy, nhẫn nhục mấy, nhưng như con giun xéo lắm phải quằn. Nhan cũng đanh đá dần dần, tục tằn và chua ngoa dần dần. Cô cũng xắn váy quai cồng, nhẩy lên cồ cồ rồi xỉa vào mặt Kĩnh: "Có giỏi thì mày cắt "thẽm" tao mà treo lên cổ mày ấy! Buông tha cho tao để tao đi kiếm gạo nuôi con". Những trận hỗn chiến rác tai ấy, tôi vẫn thường xuyên theo dõi và thầm cám cảnh cho những đôi vợ chồng nhà quê. Họ thiếu thốn đủ đường, nghèo túng đã bủa vây lại thêm những mông muội, tục tằn. Họ tự hành hạ nhau. Người nọ cứ tưởng vì người kia gây ra nỗi khổ cho mình. Bệnh ghen vợ hay ghen chồng nhà quê cũng có "giai điệu, tiết tấu" riêng biệt của nó, kiểu ghen như Kĩnh nghe đâu y học người ta liệt là hoang tưởng và bệnh hoạn.

  Lẽ thường, yêu nhau thì chăm sóc vuốt ve nhau, cho nhau ăn ngon, mặc đẹp rồi rót mật rót đường vào tai nhau. Có ai chơi hoa, lại vặt hết hoa để ngắm cái cọng. Ấy là trường hợp Kĩnh. Đi đám thấy vợ tết tóc đuôi sam, lúc la lúc lắc sau mông để mấy gã say rượu trêu. Kĩnh lôi vợ về nhà cắt nham nhở. Vợ Kĩnh đi đâu cũng phải tùm hụp khăn che. Quần áo lúc nào cũng xoăn như lòng lợn. Dưới bàn tay phá hoại của Kĩnh, Nhan tàn lụi như đoá hoa bị phơi nắng hè. Kĩnh  là tay bạo dâm. Hắn ân ái vợ như kiểu người ta đè lợn ra mà chọc tiết. Càng ngày kẻ nằm dưới càng xoăn xeo, nhầu nhĩ. Không mắc chứng điên, nhưng dung nhan xiêm áo, tóc tai Nhan y hệt kẻ điên.

Họ đã có 3 mặt con với nhau và đã lên ông nội bà ngoại hẳn hoi. Cái vương quốc eo xèo ấy tồn tại giữa làng để hành hạ nhau ngày qua tháng đoạn. Từ ngày con cái "cơm chín vần ra" thì đỡ hơn, nhưng lại âm thầm đẻ ra tật lão Kĩnh thèm của lạ. Đi đâu hắn cũng hau háu nhìn đàn bà con gái, rồi toét miệng ra chọc ghẹo. Cái  bất động sản không có quyền nhượng bán của lão đã  hết "đát" rồi. Mặt mũi nhăn như táo tầu và hàm răng cải mả lúc khúc. Đã thế, các loại xú uế của mấy loại cháu thi đua xả vào, càng tăng thêm cái dư vị nồng nàn. Lão Kĩnh chả thèm ghen tuông làm gì. Bà Nhan bây giờ có cáp vàng  vào cũng chẳng có đàn ông nào để ý. Cả đời, có đi đâu xa mà lơ với lẳng. Dưới con mắt bà, cái lũ đàn ông trong làng miệng phả ra rượu, ra mùi tỏi, mùi thuốc lào là nỗi ám ảnh sợ hãi. Động một tí là huơ tay huơ chân, ngoạc mồm oang oang như lệnh vỡ, nói tục và chửi bậy, tham ăn và dâm dục...Đủ cả. Hình như cái xấu của giống người nó tụ cả trong làng này, mà nhập vào mấy lão đàn ông chết tiệt.

Qua tết con Hổ, bà ung thư máu. Cái bệnh tai ác nó cướp người nhanh lắm. Lúc thấy mình đã gần đất xa trời, bà kéo lão Kĩnh vào bên thầm thào: "Ông ở lại  cố chăm bẵm bảo ban con cháu. Tôi đi trước là tôi trốn nợ trần gian, để ông  gánh vác. Cho tôi vái ông năm vái, để xin lỗi vì tôi trốn nợ trần gian..." Bà  vái đến  vái thứ hai thì lão Kĩnh quay lại vái trả. Lão khóc như trẻ con bị đòn, rồi nức nở: "Tôi có lỗi với bà nhiều lắm. Bà đừng oán tôi. Tôi hay ghen tuông đánh đập bà". Giời ơi: "Yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau". Chả biết với cái đầu mít tịt chữ nghĩa, tại sao lại có lời hay như thế tuôn ra đằng lỗ miệng? Bà thều thào dặn với: "Tôi mà chết đợi lâu lâu, hãy lấy vợ kẻo con cháu nó cười cho. Tôi biết ông không thể nhịn được đàn bà nên mới nói thế. Tôi van ông đừng lăng nhăng để con cháu nó bỉ mặt cho là không dạy được chúng...Trâu chết để da, người chết để tiếng đấy ông ạ...Mà có lấy ai cũng đừng hành hạ người ta, phận đàn bà chúng tôi nó  khổ lắm...".

Bà Nhan mất được 6 tháng. Có nghĩa là mộ bà cỏ mới lún phún mọc, lão đã nhấp nhinh lấy vợ. Hắn mặc áo trắng bóc, sơ vin đóng thùng, chải đầu rẽ ngôi cẩn thận. Hắn thửa chiếc Phượng Hoàng xích hộp, màu cánh trả mới hự, bóng nhẫy như phết mỡ. Lúc đầu chưa biết đi thì dắt bộ. Sau đấy thầm vụng khổ luyện tập tành và biết đi hẳn hoi. Hắn nghênh cái mặt, vặn vẹo cái mông đạp trên đường làng, làm đám trẻ con nhông nhốc chạy theo mà cổ vũ. Hắn lột xác như dưới âm ti vừa hiện về chốn dương gian. Cái sự lạ ấy là pha hài, làm những người làng hắn ồn lên. Mà cũng lạ. Thời buổi này, người ta còn bay lên cung trăng, chứ đi xe đạp là cái nước mẹ gì. Lão Kĩnh phải gió nên mới thành lạ. Nó lạ bởi con trâu phế canh đang phì phò cày ruộng trũng, bỗng bay vút lên mây xanh, để học làm con loan con phượng...

Thế mà có một người thích lão ta đấy. Thích bởi nhìn cái trán vung nồi đồng bóng nhẫy của hắn vẫn dư thừa sinh khí đàn ông. Nhìn cái cổ vại mấy ngấn nung núc thịt, cứ như muốn nhảy cỡn lên. Đấy là cái cối giã gạo đời cổ, nhưng thửa bằng gỗ tốt không mối mọt, cái cần cối bịt đồng thau. Có giã mỏi chân cả đời cũng không vẹt.

Ấy là bà Thục làng bên. Gọi là bà thì hơi quá, phải gọi là cô Thục mới phải. Cô Thục không có chồng, vì thời trẻ cô cao cấp lắm.  Đầu  tiên cô  làm công tác phong trào với những chiến dịch trống dong cờ mở mà khởi sự đầu tiên là  áp dụng khoa học mới : Bỏ cấy thưa bằng cấy dày. Cô được tập huấn một lớp ngắn ngày về kỹ thuật canh tác mới, áp dụng vào các hợp tác xã nông nghiệp lúc bấy giờ. Ngày ấy mới ra đời hợp tác xã nông nghiệp, dân đang hăng, bảo sao nghe vậy. Cô sáng tác bao nhiêu hò vè, ca dao phổ biến  cho dân, hội nghị nào cũng ngâm nga, tưng bừng đàn sáo. Ngay vụ gặt đầu tiên, thứ khoa học "cải lùi" này đã làm dân đói vàng mắt. Cây  mạ cắm mau ri rít trên thửa rộng ngấu với phân gio đầy đủ lúc đầu bén rễ rất nhanh và lên mơn mởn nhưng khi  lúa vào  thời con gái cứ vóng như que tăm vì không đẻ nhánh được. Thiếu quang hợp nên sâu bệnh có dịp tàn phá. Chả lẽ đổ tội cho cô, cô chỉ là cái loa mở hết công suất mà hô hào. Sau vụ ấy cô được thuyên chuyển lên làm cán bộ huyện để làm lực lượng hậu bị. Bẵng đi một thời gian lại thấy cô  là Trưởng phòng Nông nghiệp  huyện rồi lại vài cái bẵng đi, cô thành Chiến sỹ Thi đua toàn quốc về Nông nghiệp. Cô lại được cử đi học một lớp quản lý và cứ như thế đến lúc về hưu cô đã là  bà Phó chủ tịch tỉnh phụ trách Nông nghiệp một tỉnh trọng điểm lúa.  Cô đi báo cáo thành tích, đi dự các  cuộc mít tinh để  kể chuyện cánh đồng 5 tấn cho cả rừng người hau háu nhìn lên và bất thần vỗ tay như động đất. Mấy ông cũng mon men tỏ tình, nhưng thấy thiếu tự tin, nên lảng dần. Yêu một bà phó chủ tịch xe đưa xe đón, tiếng nổi như cồn, đâu phải chuyện đơn giản. Mấy anh lang nhang thì có thèm cũng đành nuốt nước bọt. Cô Thục như loá mắt với ánh hào quang. Tự cô, cô cũng thấy mình rất chi là quan trọng.

Rồi dư âm bàn ra tán vào về  việc thành bại lắng dần. Thất bại thì tại thời tiết, tại thiên tai địch hoạ chứ đâu phải tại người...Những ngày hào quang chói lọi ấy, cô đeo bao nhiêu thứ danh hiệu trên ngực để đi trong ý tưởng sôi cuồng háo hức. Chuyện chồng con với cô là thứ tào lao, nhàm tẻ.  Cô mong ước, cô kỳ vọng ở tương lai mà mình đang được trải nhung lụa hãnh tiến, sẽ mãi hanh thông nên quên mọi chuyện, nhất là chuyện chồng con thì quá ư tầm thường, nên khi thời cuộc xoay vần cô bị lực văng ly tâm của cái mới hất văng ra, có nghĩa là không ai có thể chấp nhận một con người duy ý chí đến thảm hại nắm quyền điều hành cái mới, cũng có nghĩa là cô phải về hưu non và  thành gái già quá lứa... Bao người đàn ông đến với cô, thì cũng bấy nhiêu người lặng lẽ rút lui. Họ cần sự nhuần nhị của con gái, cần cái bình dị nữ tính, chứ không cần tìm lại phía sau người con gái ấy là cái chức vị gì. Thật là cái cảnh "cao khó với, thấp không thông", chỉ có cái già nua hăm hở tìm đến làm bạn. Lúc này cô thèm một mái ấm, thèm một bàn tay đàn ông che chở, vuốt ve, chia sẻ những khi trái gió trở trời, những ấm lạnh thất thường của tứ thời bát tiết. Cô đang sống một mình, nước lọ cơm niêu trong ngôi nhà tranh mẹ cha để lại. Cô chán nản có sao dùng vậy, không muốn cải tạo bất kể thứ gì, cứ mặc cho ngôi nhà dột nát và yên phận trong xóm nghèo buồn tẻ với con đường lở loét vết chân trâu, ban đêm lập loè đom đóm và rông rốc tiếng chó sủa ma.

Lão Kĩnh ào đến cuộc đời cô, như cơn gió thốc vào đống dấm đang âm ỉ cháy. Ngày nào hắn cũng đạp xe mấy bận qua nhà, cũng toét miệng ra cười và tán mấy câu nhạt thếch. Lão nhổ cả mấy cụm sả, trồng mấy vạt hương nhu để cô gội đầu. Mỗi khi ốm đau, lão hộc tốc đạp xe đi mua thuốc. Lúc đầu cô cảm thấy sự có mặt của lão như sự sỉ nhục với mình, dần dà lại thấy có gì đấy ấm áp. Cho đến lúc này, cô tự thú với lòng là thích hắn, rồi yêu hắn. Cô nhớ hắn nôn nao những lúc chiều tà, khi nhà bên người ta lục tục chồng nào vợ ấy. Sau một ngày tơi bời vật vã mưu sinh, họ tụ về mái nhà. Có thể là nói cười và rất có thể vặc nhau, chửi nhau. Họ loảng xoảng mâm bát và í ới gọi con gọi cháu với những câu buông tuồng: "Bớ cái lũ giời tru đất triệt! Giờ này mà chưa tha xác về ăn cơm! Có ăn hay không tao đổ tất cho chó".  Rồi tiếng vợ rủa chồng: "Đi chết trôi sông, đắm đò ở đâu mà giờ này chưa thấy hiện hồn về ăn cơm".Ôi! Cái giai điệu làng quê muôn thuở. Ngày còn xuân, cô Thục thường chép miệng: "Sao mà tội nợ thế! Đúng là cái địa ngục trần gian". Thế mà bây giờ, mỗi khi chạng vạng, cô lại thèm cái địa ngục ấy. Nó bình dị. Bình dị như người ta trót sinh ra trên mặt đất và tạo hoá xếp họ với những thân phận, hoàn cảnh khác nhau. Cái thanh tao, chen cái tục tằn, nhưng vẫn song hành, mơn mởn tồn tại. Cô nhận ra con người cần có mái nhà với đầy đủ ý nghĩa; có một anh chồng trái tính, trái nết để mà ỏm nhả với nhau. Có cái nhầy nhụa "lửa tắt cơm sôi". Được quằn quoại  trong mang nặng đẻ đau, rồi ngất ngây với vị nước đái khai khai và cứt xu xu trẻ nhỏ. Bình thường mà không tầm thường, là con người với nhịp sống muôn thuở trên mặt đất. Cô là cái gì trong làng này nhỉ? Dật dờ và dị mọ, cô đơn và nhàm tẻ. Cha mẹ mất rồi, chị em mỗi người mỗi phận. Cô sống một mình và cái hào quang hôm nào chỉ còn lại trong cuốn sổ nhật ký nhàu nát, trong những tấm ảnh đen trắng nhợt như xác người chết trôi. Cô vẫn thỉnh thoảng mở cái hòm gỗ ngó qua và thở dài, rồi thẫn thờ cất đi.

*

Trời đổ cơn giông lớn. Những đám mây xám như chì. Những tia chớp như thừng lửa nhoáng lên. Bụi tre gai vặn mình răng rắc. Gió bắt đầu hối lên. Những tấm tranh cỏ bái ải mục bị gió thốc vào chới với trên chiếc đòn tay tre. Cơn giông đầu mùa bỡn cợt thốc vào làng. Căn nhà ba gian thu mình nhỏ nhoi trước trận cuồng phong. Mưa bắt đầu nặng hạt. Sấm ùng oàng xé không trung. Cô bịt tai, nhắm mắt sợ hãi trong sự cô đơn! Căn nhà bị lột mấy mảng tranh nên làm mồi cho gió, cho mưa tuôn vào. Cô co ro trong manh áo ni lông, lấy thau hứng nước. Những giọt mưa quất vào mặt. Cô lấy tay vuốt. Quái lạ, sao nước mưa lại mặn chát thế?

Một bóng người như Thiên Lôi vừa ném xuống mái nhà cô. Ấy là lão Kĩnh. Lão đã băng đồng chạy sang giữa lúc mưa giông lớn. Cũng không biết bằng cách nào, lão vọt được lên mái nhà. Cơn giông tan dần, cũng là lúc mái nhà đã được đắp đậy. Lão cởi trần nùng nục, thu dọn những cây đổ, quét dọn lại cái sân đất nhầy nhụa lá tre, lá mít. Lão thầm lặng làm và không nói nửa câu. Cô Thục cứ ngây ra nhìn và  không biết làm gì hơn. Cô lặng lẽ xách cái chai đi mua rượu, mua đồ ăn ngoài cái chợ cóc đầu làng. Con gà mái lú lườn như bát úp cũng bị hoá kiếp. Cô và lão lụi cụi bên bếp lửa, làn khói bình yên lan vào mái rạ và quấn quýt bay lên. Hình như trong đời con gái, chưa có lần nào ấm áp như thế. Bữa cơm chiều nay. Căn nhà quạnh quoẽ có thêm một người đàn ông lạ.

Lão Kĩnh vừa chặt thịt gà kênh kếch, vừa nói như người hụt hơi:

•-  Tôi ở một mình bên ấy buồn lắm. Hay là tối nay cho tôi ở lại đây nhá.

Má cô Thục chợt ửng đỏ. Cô lí nhí:

- Cũng được! Nhưng ăn xong thì về tắm táp thay quần áo đi, ướt hết rồi còn gì. Trước khi đi nhớ thắp hương cho chị ấy nhá.

Trên đường về, lão lẩm nhẩm lời định khấn bà Nhan. Nghĩ mãi rồi cũng ra.  Lão nhẩm đi, nhẩm lại cho thuộc:

- Bà sống khôn chết thiêng phù hộ cho con cháu, cho cả  tôi và cô Thục nữa. Tôi nhớ lời dặn bà lúc còn sống rồi. Tôi sẽ chăm sóc, yêu thương người ta như lời bà dặn.

..:Đấu thóc chẩm mạ

rong ngôi nhà ngói ta ẩm mốc, bữa giỗ có bốn người đàn ông luống tuổi. Bốn ông một mâm là điều trái lệ dọn cỗ thời nay nhưng chủ nhà muốn thế. Bữa giỗ người cậu ruột của họ hôm nay chỉ là cái cớ cho họ ngồi lại với nhau mà ôn chuyện đời.

Chủ nhà là một Nhà văn và những người còn lại gọi ông ta là bác thay con. Họ là anh em đôi con dì với nhau, mỗi người mỗi phận, tứ tán khắp nơi, chẳng mấy khi quần tụ nên những dịp thế này hiếm lắm.

Nửa bữa rồi mà họ vẫn im lặng, thỉnh thoảng hỏi nhau những chuyện vu vơ về gia sự và làm ăn thường nhật.

Ba anh em "đôi con dì" được mời đều là nông dân. Một loại nông dân đời mới với cái chất tiểu nông có pha chút lưu manh. Ông đầu tên là Cả Lưỡng và hai ông kế theo có cái tên khác nhau mỗi dấu huyền. Đấy là Hai Cương và Ba Cường. Ba con người nhôm nhoam lực lưỡng, giọng nói ồm oàm, hầm hử và bỗ bã...Cả Lưỡng cất giọng: Quái lạ! Trời đầy bác hay sao ấy mà bác đi làm Nhà Văn Nhà thơ. Em thấy lúc nào bác cũng lẩn thà lẩn thẩn như thằng động kinh ấy! Em đây này, kệ mẹ đời, cứ no bụng là tốt nhất, chẳng cần văn với thơ, hò mới vè cho nhọc xác.

Hai ông em còn lại cũng tiếp lời: Em thấy bác viết cả gần chục quyển sách mà toàn cho với tặng, biếu với xén. Mấy quyển bác đưa con vợ em nó đọc vài trang rồi gối đầu giường rồi lũ cháu nhà em nó đem xé dán diều bay tít lên trời rồi diều đứt dây lại lao tõm xuống sông.

Chủ nhà, cái ông Nhà văn có cái tên là Phong Hóa nét mặt đượm buồn. Tự nhiên hai hàng nước mắt lã chã rơi. Ông lặng lẽ nói với mấy người em đôi con dì:

- Thực tế bây giờ là như vậy và còn tệ hơn như vậy. Các chú không nói thì anh cũng biết... Ngập ngừng một lát ông tiếp: Giá anh còn trẻ thì các chú còn kịp mà khuyên anh, ngặt nỗi anh chẳng mấy nả nữa mà theo ông bà ông vải nên có hối cũng không kịp...Thôi chuyện ấy ta bàn sau. Hôm nay có mặt cả mấy anh em, anh muốn hỏi các em một điều, nếu các em biết rồi thì ta có nói lại cũng không thừa mà nếu chưa biết anh nói lại cho mà nghe

- Chuyện gì mà bác tỏ ra quan trọng thể...Ba Cường nghênh mặt hỏi

Uống cạn chén rượu. Phong Hóa hỏi mấy ông em:

- Hôm nay giỗ Cậu Điềm, cậu ruột của chúng ta. Các em có biết vì sao Cậu chúng ta chết non thành Ông Mãnh không?

Cả ba ậm ừ:

- Chết non thì thành ông mãnh bà cô chứ sao. Cậu mình chết là vì không sống, không sống thì là đã chết chứ còn gì mà bàn.

- Đúng thế! Chết có nghĩa là không sống nhưng mỗi cái chết đều có giai thoại khác nhau. Có người một rúm tuổi đã chết nhưng là nỗi đau âm ỷ. Có người sống già đầu mốc trán chết thì người ta quên ngay khi điếu văn vừa đọc chữ cuối. Thế mới sinh ra nghĩa lý cuộc đời. Thế mới cần đến những người viết văn và làm thơ, những thư ký trung thành của cuộc sống mọi thời, mọi thể chế chính trị.

- Bác lại to tát rồi! Ngồi với bác toàn cái to tát đâu đâu. Chả trách người ta ví các bác là tâm hồn treo ngược ngọn đa... Cả Lưỡng nhận định.

Bữa cỗ lại tiếp tục. Phong Hóa ngó lên ban thờ. Cây hương xạ cháy chỉ còn đốt ngón tay. Ông đứng lên thận trọng thắp thêm 3 thẻ nữa và ngồi chưa ấm chỗ, bát hương bốc cháy đùng đùng. Mấy bà te tái đứng lên định dập lửa. Ông ngăn: Cậu hóa đấy! Hôm nay cậu vui vì gặp mấy cháu nên hóa. Ông mãnh chết oan là thiêng lắm đấy, cứ cho cháy bằng hết chả hỏa hoạn gì đâu mà sợ.

- Cậu Điềm thiêng nhỉ? ...Cả 3 anh em Cả Lưỡng ồ lên khi bát nhang vừa tắt lửa

- Thế bây giờ các em có nghe chuyện về cái chết cậu ấy không? Phong Hóa hỏi mọi người

Cả nhà im lặng khi câu chuyện bắt dầu

*****************

Làng mình ngày ấy như một cái chăn rách của gã ăn mày trải ra trên đất. Cái chăn ấy đã ải mục lại còn vá víu nhiều thứ mụn trông lõa thõa đến thảm hại. Trước mặt làng là con sông như chiếc khăn bao xanh uốn éo chảy làm con đê cũng lượn vòng theo. Có 2 loại người quần tụ trong địa danh ấy, người du mục dưới sông và người định cư trên bờ. Người dưới sông thả lưới quăng chài, người trên bờ cấy lúa trồng khoai và đi làm mướn. Họ nương tựa vào nhau mỗi khi có biến động thiên nhiên. Rồi cũng có đôi ba cặp vợ chồng thành gia thất sinh con đẻ cái với nhau.

Năm ấy đói kém, cả dưới sông trên bờ đều lâm vào cảnh củi quế gạo trâu. Chỗ góc khuất dòng sông có một cái đầm, người thì gọi là đầm, người thì gọi là vụng vì nó hình tròn. Giữa vụng với sông nối nhau là con ngòi nhỏ gọi là Lạch Lươn. Dân chài lưới tối về neo thuyền ở đấy mà thổi cơm nấu nước, một gia đình nhỏ gồm 2 vợ chồng và mấy đứa con nằm trên đò. Lũ trẻ nghệch ngạc mũi rãi, bụng ỏng đít beo. Bố mẹ chúng cũng vậy, chui dưới đò quanh năm đi khom đi cúi nên xương sống cũng cong vì vậy đàn ông thì hơi gù còn đàn bà cong đít, lên bờ đi là hai cái tay bai ra, cái dễ phân biệt ấy là do nghề nghiệp mưu sinh tạo ra.

Trong đám vạn chài ấy có vợ chồng ông bà Đĩ Lơ. Chồng thì vận khố quanh năm, vợ váy "màn tờ lồng ộp". Cậu bé trên chiếc đò nhỏ ấy đã lên 6 nhưng ông không có thêm mống nào vì ông mắc bệnh quai bị...Một buổi sáng rét như cắt thịt, người đò bên nghe thấy tiếng cậu bé gào thảm thiết bên xác cha mẹ. Cái đói rét cùng bệnh đậu mùa hợp sức quật ngã cả hai vợ chồng nên họ cùng chết trong đêm. Lác đác các đò bên cạnh, sáng ra cũng có người chết như thế. Cả một vùng đầm tang tóc, chết dần chết mòn vì đói rét. Người trên bờ chết , nhà khá giả còn có quan ván hoặc ngả cánh cửa ghép lại mà chôn. Người du mục dưới sông làm gì có, cứ ai chết là đem bó chiếu mà cũng chẳng lấy đâu ra chiếu lành. Những thây người xám ngoét cứng đơ trong manh áo vá bị cuộn vào manh chiếu, lẳn 3 vòng thừng rồi lôi lên bãi sông, chức dịch trên bờ cử Trương Tuần và tay Thủ Lộ giúp thêm, đào cái hố nông choèn vùi đi, mà cũng không rõ chôn nghiêng hay chôn sấp. Người ta cũng chẳng còn sức đâu mà khóc nhau, cái chết "ôn vật" ngày nào chả có...

Ông Phong Hóa lấy khăn chấm mắt, đám đà bà mặt mũi căng thẳng nhìn vào ông như đang xem một cuốn phim quay chậm về cái chết ghê rợn năm xưa. Mấy vị đàn ông cũng không còn dám bông phèng. Họ chống đũa đăm chiêu, nghe lời kể của ông anh cùng cốt nhục. Đây không phải là chuyện cổ tích, chuyện bịa. Họ tin ông anh họ. Một Nhà văn nông dân và chưa bao giờ nói vống những điều hệ trọng như câu chuyện ông đang kể.

...Các chú, các thím có biết 2 người vừa chết là ai không? Là cụ Ngoại chúng ta đấy và cậu bé 6 tuổi sống sót là ai không?...Ông Ngoại chúng ta đấy các em, các cháu ạ...Ông Phong Hóa nhìn mọi người một lượt rồi kể tiếp

...Người chết ở vụng đầu xuân năm ấy nhiều vô kể thế nên Bãi Mây bây giờ mồ mả vô chủ la liệt, hôm giải phóng mặt bằng khu Công nghiệp Đồng Mây cánh chủ dự án phải vét sạch tiểu xành ở làng Gốm Quế, không đủ lại vào Thanh Hóa - Hà Bắc mua thêm để di rời khu mả Mây. Chính hôm đó anh cũng lang thang xem có hy vọng tìm ra hài cốt của Cụ Ngoại mình. Hai thế kỷ trôi qua lại không còn bằng cớ thì sao mà tìm. Anh đứng lặng trước những dãy thủ cấp cái nâu, cái trắng với hai hố mắt thô lố cái nào cũng giống cái nào mà tự hỏi: Loài người ơi! Có phải kiếp người là phù du và dâu bể. Cái thời ta tạm trú trên Trần gian này, ai đói, ai no, ai đau khổ, ai hạnh phúc thì chết đi cũng là nắm xương tàn...

- Bác kể tiếp đi...Ông Nggoaị mình sau đó ra sao?

Tất nhiên là ông không chết, ông lang thang lên bờ và bỏ lại con đò ở đấy. Ngày thì đi ăn xin trong làng, khốn nỗi ai cũng đói sắp chết., người đời chỉ thảo lúc no lòng, khi họ sắp chết đói thì lấy đâu cho người khác. Ông Ngoại mình trèo sung vặt quả, ăn dái mít non rồi đói quá nghĩ ra mẹo lấy đất xét trắng cán mỏng ra phơi nắng, tìm củi đốt lấy than nướng "bánh đa". Tìm các loại hàng da hỏng đã vứt đi đem về bỏ vào niêu đất ninh nhừ rồi tống vào bụng. Khi người ta đói, bản năng tự sinh tồn nó trõi dậy ghê gớm lắm...

Thấm thoắt thế mà qua 2 năm ông sống như cầm thú hết chỗ này đến chỗ khác nhưng với bản tính gan lỳ và thông minh ông vẫn không chịu chết đói chết rét như bao người cùng cảnh tứ cố vô thân. Bước vào năm lên 8 khi đã khá nhanh nhẹn và làm được một số việc đồng, việc nhà. Có lão tên là Binh Tư về lập ấp trong làng mình. Lão là lính đánh thuê của Pháp bị thương về ăn hưu trí, sẵn tiền hắn mua hết ruộng của nhà nghèo, mua cả vườn tược hay bất kỳ bát hương hay các đồ thờ bằng đồng của dân nghèo bán tống bán tháo lúc giáp hạt. Một lần đến ăn xin cửa lão, lão nhận là con nuôi. Nhà hắn có 2 vợ chồng và 4 đứa con ăn trắng mặc trơn, hắn ngoài 30 tuổi thế mà đi đâu cúng xưng ông với cả làng và coi mạng người nghèo không bằng cỏ rác. Như chết đuối vớ được cọc. Ông mình về nhà hắn làm con, cái thứ con nuôi danh nghĩa nhưng kỳ thực là con ở không công. Mụ binh Tư bắt ông làm trâu cho con cưỡi để mua vui cho con mình. Bữa ăn thì tạm ngồi xó bếp, khi nào dọn mâm bê xuống vét lại có gì ăn nấy, hết thì nhịn. Nhiều lần ông chúng ta phải ăn vụng cám lợn nhà binh Tư. Ban ngày ông đi cắt cỏ và đón trâu khi tan buổi, ở luôn ngoài đồng để coi trâu...Đói khổ như thế nhưng ông không bỏ nhà binh Tư. Khi 17 tuổi ông đã là một lực điền và rất đẹp trai. Lúc này Binh Tư đã chết vì bệnh ho lao, trao lại sản nghiệp cho Cả Nhậm. Cả Nhậm kém ông mình 1 tuổi nhưng bắt ông gọi bằng anh. Lão ta giống bố đẻ, tàn ác và hách dịch. Ông mình không chịu. Như con giun xéo lắm phải quài lên. Ông đánh lão ta một trận và chỉ vào mặt: Tao làm nô bộc nhà mày thế là đủ rồi, tao nai lưng làm nuôi mày ăn học để mày có chữ nghĩa mà mày láo lếu. Từ nay làm lấy mà ăn đừng bám vào sức tao"...Ông bỏ nhà và lại sắm thuyền xuống sông chài lưới và gặp bà mình ăn ở với nhau không giá thú.

LẠI MỘT BƯỚC NGOẶT NỮA XẢY RA...Sau khi ông đi khỏi nhà với hai bàn tay trắng. Cả Nhậm mải ăn chơi bán vợi gia sản. Cả Nhậm lấy liền 3 cô vợ trong 3 năm và đẻ sòn sòn. Có lúc cả 3 vợ cùng vác bụng chửa ne ne thưỡn thẹo đi lại. Bà Binh lăn ra ốm liệt giường rồi bán thân bất toại. Cả Nhậm xuống đò lạy lục ông quay về. Nể tình ông chấp thuận lên bờ để cáng đáng việc nhà khi cả nhà đang lâm vào sức tàn lực kiệt. Được mấy năm ông bà Ngoại sinh 2 con gái đặt tên cô chị là Ấp, cô em là Ầm và lấy họ Binh Tư khai sinh với Hội Lại làng này. Hai cô con gái ấy là mẹ anh và mẹ các chú bây giờ đấy.

Lại nói đến ông bà mình khi ấy là trụ cột trong nhà: Bà Binh Tư trước khi chết thấy ân hận, gọi Hội Lại đến làm di chúc cắt cho một mảnh vườn liền kề để anh em sống gần nhau. Bà chết chưa xanh cỏ Cả Nhậm đã trở mặt đốt văn tự và đuổi anh ra khỏi nhà. Ông mình uất quá sinh ra tâm thần, suốt ngày lẩm bẩm hát một mình và không nói với ai câu nào. Lúc này Bà Ngoại đang mang thai đứa con thứ 3 sau đó sinh ra một bé trai. Từ khi có con trai, ông hết điên và hỳ hục gánh đất tôn nền, dựng nhà. Hai ông bà vui vầy với 3 đứa con cho dù no hay đói. Cậu con trai đó tên là Điềm, có nghĩa là cậu ruột chúng ta. Cậu là hy vọng, là đốm lửa hồng sưởi ấm thân phận nghèo hèn của hai kiếp đời oan nghiệt.

Khi lên 6 tuổi. Ông ngoại ta vẫn vừa chài lưới, vừa cày thuê. Bà Ngoại đánh dậm và đi mót lúa nuôi 3 đứa con. Vào kỳ giáp hạt. Cô Ầm, mẹ các chú lên sởi chạy hậu, ông bà mải chăm con nên nhà không còn hạt gạo. Giữa lúc bối rối, ông vác thúng sang nhà Cả Nhậm vay lúa non vơi giá cắt cổ. Lúc này cậu đã biết thương bố và can ngăn: Bố ơi! Em không đói đâu, cả chị Ấp Chị Ầm cũng thế, chúng con ăn xung cũng ngon lắm, bố đừng đi vay họ bắt bố đi cày đỉa cắn thì em thương bố lắm"...

Ông Ngoại đội thúng thóc chẩm mạ từ nhà Cả Nhậm về, cái giống lúa chẩm mạ thâm xì, lép kẹp nhưng vẫn có cái đổ vào miệng còn hơn nhìn con chết đói. Ông bà xay nháo nhào và thổi cơm. Những hạt gạo gãy vụn và ngai ngái bốc mùi chua. Được một đấu bà đem đi nấu cơm và cơm chưa chín hẳn, nhìn cậu Điềm nhểu nước miếng bà thương nên xúc một bát cho con ăn trước...Ai ngờ đấy là thứ gạo nhiễm nấm độc nên nuốt xong bát cơm, cậu trợn mắt, vãi một bãi phân và đái ra quần rồi từ từ ra đi...Khi ông Đốc tơ ta đến người cậu đã lạnh ngắt và ông cho biết là cậu bị ngộ độc nấm mốc từ gạo chẩm mạ.

Chôn cậu xong, mấy tháng liền ông bà mình thay nhau , cứ đến đêm lại mang đuốc ra nằm ấp mộ đứa con trai. Ông Ngoại lại phát điên và một thời gian sau nhảy xuống sông chết. Cùng lúc ấy, lão Cả Nhậm bỏ vợ con theo Tây.

...Một không khí lặng ngắt bao trùm ngôi nhà, có nhiều tiếng khóc thút thít của đám đàn bà...Tiếng thở dài thưỡn thượt của đám đàn ông. Ông Phong Hóa lau nước mắt rồi nghẹn ngào: Đấy, Cậu Điềm là cậu ruột chúng ta đã chết như thế.

Cả Lưỡng cũng nức nở: Lần đầu tiên em biết chuyện này đấy. Mẹ em có kể gì đâu?

- Thế các chú có biết thằng chủ Tây vừa đi Ô - tô về nhà anh tháng trước là ai không?

- Em nghe láng máng là Việt Kiều yêu nước về xây dựng quê hương, hình như lập khu chế xuất thức ăn chăn nuôi gì ấy.

- Đúng nhưng chưa đủ. Lão già ấy chính là Cả Nhậm và đứa to cao giống lão như đúc là con trai đầu hắn đấy. Hắn về nhận họ với anh và bảo chúng ta là người một nhà, hãy giúp lão bằng tiếng nói Nhà văn mà kêu gọi dân hiến đất 2 lúa cho khu chế xuất, lão bảo lão đã mua được bọn cán bộ xã này rồi, dân ho he là có an ninh giải tỏa và trừng trị theo pháp luật. Các chú cũng biết đấy, luật pháp thời nào chả do con người đẻ ra nhưng thường luật pháp vẫn bị tận dụng những kẽ hở khi thừa hành, có khi kẽ hở được bít lại thì  đã có bao điều bất cập  nẩy ra.

Ba Cường hùng hổ: Rồi sao? Bác đồng ý à! Hắn mua bác bao nhiêu?

- Chú nhầm rồi! Tôi chửi vào mặt nó và quẳng cả nắm lúa chẩm mà bà ngoại đã cất giữ bao năm, trao lại cho mẹ anh rồi mẹ chết lại trao cho anh. Nhìn nắm lúa chẩm năm xưa hắn tím mặt và lên xe chuồn thẳng...Hai đời nay lọ thóc trẩm vẫn được cất giữ, phơi hong cho khỏi ẩm mốc. Đấy! Việt Kiều yêu nước nhân đức như thế đấy, cả thằng con lão Cả Nhậm nữa, bố nào con ấy, cũng thớ lợ, lòe bịp và giả nhân giả nghĩa y hệt thằng bố. Đúng là rau nào sâu ấy. Cái lời đầu môi chóp lưỡi và tâm địa con người nó xa vời vợi, có khi nó đối lập nhau như đêm và ngày, như nước với lửa. Lão Nhậm 3 vợ và đống con mà dám bỏ đi theo Tây một mình, chả bỗng chốc tốt nhanh đến vậy. Cái loại lừa thày phản bạn nhẫn tâm cả với người cưu mang mình không bao giờ nhân đức cả

Cả Lưỡng hùng hổ đứng dậy:

- Lần sau nó về bác bảo em, em ném cứt vào mặt nó, em băm nó ra. Bố sư cha nó, nó lại định cướp đất à, chúng em không học hành chữ nghĩa, mất đất chúng em đi ăn mày à, con cháu chúng em lại đi ở cho nó như ông Ngoại bà Ngoại rồi lại ăn thóc chẩm mạ lăn ra chết à?

Cả Lưỡng hậm hực:

- Chuyện thời nay nó vậy! Chỗ nào cũng nhao lên vì tiền dự án, có đứa muốn bật mả cha, mả ông lên mà bán cho Tây, cho Tầu. Làm dân tự do giả mà làm nô lệ thật cho đồng tiền mỡ nổi. Cứ sân gôn với dự án mà sống. Bờ sôi ruộng mật thì bán tống bán tháo đi. Bao nhiêu đất hoang hóa trên rừng sao bỏ mặc, cứ nhè đất 2 lúa đồng bằng mà xây nhà máy rồi bắt thằng nông dân đi làm thuê như nô lệ.

Đám giỗ Cậu ruột cũng đến lúc tàn. Trước khi ra về. Hai Cương đắn đo hỏi anh:

- Sao bác còn ít tuổi mà biết chuyện đầu lâu cuối lấu thế. Hay là bác bịa .

- Đấy là nhiệm vụ, thiên chức Nhà Văn. Câu chuyện anh kể cho các chú nó truyền từ đời ông sang đời bố và chính Mẹ truyền lại cho anh trong những đêm mưa, lúc đi làm đồng. Miếng ngon nhớ lâu mà, anh là thư ký của câu chuyên. Thư ký cuộc sống là Nhà văn, các em hãy nhớ điều ấy.

Nắm thóc chẩm mạ chia ra làm bốn phần. Từ bữa giỗ hôm nay nó sẽ là lời nhắc nhở về một quá vãng..

:Những đứa trẻ Xóm Bãi Sông.:..

Tác giả: Lưu Quôc Hoà

        Truyện ngắn 

Cái xóm ấy có khá lâu rồi. Dân quanh vùng quen gọi là xóm Bãi Sông. Nó mọc lên đơn lẻ rồi đông đúc, từ đông đúc thành chật chội và cho đến giờ này, chính quyền tỉnh Nam mặc nhiên phải công nhận và thu nạp thành một địa danh hành chính.

Thế là họ thành "người thành phố" hẳn hoi. Người thành phố đầu tiên có chứng chỉ là tấm giấy CMND. Cái thẻ công nhận quyền làm người trĩnh triện mực đen dấu đỏ. Họ làm đủ mọi nghề táp nham trong cái thành phố mới được khai sinh này. Góc phía Nam là dân vạn chài, cái dân "ăn đằng mũi, ỉa đằng lái" thất nghiệp dưới sông vì nạn nước đen thượng nguồn đổ về, họ ghé thuyền vào bãi và phát hoang một vạt cắm lều để sống qua ngày, không kiếm tôm cá thì đi làm thuê trên phố lấy miếng cơm chín cho vào miệng ...Góc phía Tây là đám xe lôi, xe ba gác, cửu vạn bến xe nhà quê mất ruộng, dắt nhau lên đây tá túc. Giữa xóm có đám đàn bà buôn thúng bán bưng. Vợ trước, chồng sau kéo vào dựng lều mà ở...Thế mà cũng thành làng, làng cũng như con đường ấy mà, cứ đi nhiều thành vệt thì gọi là đường, cứ lắm người ở thì gọi là làng, cái địa danh quân hồi vô phèng không có ai đứng đầu khuân xử các vụ việc. Họ tự cắt đặt lấy nhau. Nhưng đã thành địa danh hành chính rồi thì tất nhiên phải đủ lệ bội chức sắc và thế là góc phía Đông thành phố có Xóm Bãi Sông.

Dân nghèo mà lại mắn đẻ, có ai cấm họ đâu, họ bảo các cụ dạy : "Một của một con ai từ" nên càng đói khổ càng mắn con. Dân chài lưới đổ cho gió sông mát quá, hay do muỗi đốt khi nằm dưới đò không ngủ được nên tần mần, nên tý táu tý mẻ với nhau sinh lắm con. Dân xe kéo bảo : Nhà dột không ngủ được cũng sinh sự, dân cháo lòng tiết canh thì đổ tại lão chồng hay ăn hành sống, giá sống...Chả biết đâu mà lần, chỉ biết họ mắn đẻ nên sinh ra một làng đông trẻ con nhất cái thành phố mới đặt tên này. Lũ trẻ như đàn ong ve, mũi dãi nhệch nhạc, lê la bò toài. Chúng lớn lên như cỏ dại và vô bệnh tật. Ông giời đến là công bằng, nhà nghèo thuốc men đâu ra mà chữa bệnh trọng cho đám trẻ suốt ngày bêu nắng tóc vàng như rơm nếp. Mùa đông rét cắt thịt chúng vẫn phong phanh mảnh áo mỏng rồi chạy rình rịch, mặt mũi đỏ hân hân, sao chúng chẳng viêm phổi, chẳng cảm lạnh hay ho gió ho khan, ho gà, chúng uống nước lã tòm tọp rồi quệt mép, chúng trèo hái ổi xanh, khế chua nhem nhẻm ăn, chúng bắt cua, bắt ốc vệ sông rồi vơ lá nướng ăn sống xít...Kể về chúng tốn giấy mực lắm, chỉ biết rằng cái xóm vệ sông ấy cứ đàn đàn, lũ lũ thấc lên thành người, vô khối đứa cũng thành trai thanh gái lịch khi dậy thì... Thôi đấy là chuyện khác, để khi khác kể cũng chưa muộn, hãy tạm kể chuyện bây giờ đã, cái chuyện đám trẻ ven sông trong cái làng cũng ven sông, ven thị tứ mới được chính quyền tỉnh Nam đưa vào dư địa chí.

******************

Mặt trời lên đã mấy con sào. Những tia nắng đầu xuân e ngại lấp ló sau làm mây xám như chì. Ông mặt trời lười nhác, nửa muốn chui ra, nửa muốn ngủ vùi vào làn mây đã đóng bánh bao ngày phủ lấy ông... Ông ra rồi kia kìa! Ông bợt bạt như đàn bà hết xuân, hà tiện tãi nắng xuống vạn vật đang ẩm ướt...Giờ này cả xóm vắng bóng người lớn, họ túa ra chợ, họ nhoài xuống sông kiếm ăn, chỉ mấy ông bà già nghúc nghích, lệnh rệnh ra vào, thỉnh thoảng khum tay, hướng cái mắt đục như cùi nhãn lên ngóng mặt trời, lầm bầm ca cẩm, oán thán điều gì ấy. Mấy chị đang ở cữ, kiêng gió máy tùm hụp khăn che, róm rém ra vào, trước sân trắng lốp tã lót đem chờ hong nắng. Xóm Bãi Sông với những mái nhà mốc thếch ém mình sau bụi tre gai, bụi nhãn cũng "phơi gan cùng tuế nguyệt" để cho bao người tồn tại, họ tồn tại lúi xùi giữa chốn đô hội chỉ cách họ mấy bước chân. Chốn ấy bên kia con lộ nội đô, vừa làm đường giao thông vừa là đê quai chắn nước sông Châu mùa lũ...Bên ấy là những nhà cao tầng đủ màu đủ kiểu với những con người cũng đủ kiểu đủ màu phong lưu, đài các. Hai chốn ấy nhìn sang nhau nửa thương hại, nửa thách thức nhau về thân phận người đang cùng sống với nhau giữa gầm trời có tứ thời bát tiết .

Lũ trẻ xóm Bãi Sông hôm nay nghỉ học. Ngôi trường chúng cắp sách đến là cơ sở tình thương do một cô giáo là TNXP quá lứa lỡ thì, lấy việc dạy học không công cho lũ trẻ làm vui. Đã lâu rồi, đám trẻ mới có ngày tạnh ráo mà chơi trò, ngày nào cũng phải giúp cha mẹ cơm nước, đón em nhà gửi trẻ...Nhiều việc tập tàng lắm, chúng không phải chịu cảnh dậy thêm học thêm như luc trẻ bên kia đường nên không phải mang xề xễ kính trên mắt.

**************

Hôm nay chúng chơi trò "cô dâu chú dể". Đóng vai chính trò chơi là thằng Đùng làm chú rể và con Hẹn làm cô dâu. Hai đứa sinh cùng năm khác tháng, mặt mũi dễ coi hơn cả bọn. Thằng Đùng bố làm nghề đạp xích lô và mẹ đi phụ hồ cho hiệp thợ xây bên làng La Mịch bên kia sông. Con Hẹn bố chết sớm, mẹ ở vậy nuôi hai chị em bằng mẹt bánh khúc.

Đầu tiên là chúng tập hợp quân bằng hiệu lệnh riêng. Thằng Can trèo lên cây nhãn già , nó vơ một nắm lá, mang theo cái bật lứa ga , nó chọn cái chạc cây to nhất và nổi lửa. Nắm lá ngún khói và bay vằn vèo lên trời. Đứa nọ gọi đứa kia khi nhìn thấy làn khói. Địa điểm hội quân của tụi chúng là sau bức tường đổ của ngôi miếu đã phế tích. Hơn ba chục đứa trẻ ăn mặc nhem nhuốc bí mật lẻn xuống vệ sông và theo một lối mòn cố định để về tụ bạ sau miếu. Đây là địa điểm người lớn ít để ý vì họ đồn có ma. Lũ trẻ chẳng biết ma là gì nên vô tư chạy nhảy và bày trò.

Đã đủ mặt. Thằng Can, con độc nhất của một bà mẹ quá lứa lỡ thì mang bầu với gã xe ôm rồi hắn lẩn mất... chum hai ngón tay lên miệng ré lên thứ âm thanh kỳ quái. Lũ trẻ xếp hàng trật tự theo sự chỉ huy của thằng Can.

.Can lên giọng thủ lĩnh:

- Tụi mày nghe đây: Nhóm thằng Bùng Làm cơm cỗ đám cưới . Nhóm thằng Kênh dọn cỗ, nhóm cái Nhĩnh làm nhà làm phòng cưới cho con Hẹn lấy thằng Đùng. Cái My làm con của vợ chồng thằng Đùng...Chúng mày nghe rõ chưa?

Như một kịch bản được sắp sẵn rất điêu luyện, đám trẻ vào việc đều tăm tắp và rất kỷ luật.

Chúng tìm mảnh chai làm chảo, vỏ hến làm bát, ven sông này cơ man là đặc sản cho chúng làm cỗ cưới: Chuối xanh vặt trộm, khế, ổi, cua và ốc vặn ...Nhiều lắm, cứ tưởng tượng món ăn mà làm

La liệt là cõ bàn sơn hào hải vị. Chúng ghép mâm như người lớn, rót rượu ra vỏ ốc nhồi rồi mời nhau, rượu chúng là nước sông đựng trong những vỏ chai nhựa, chúng chạm ly lóc dóc, Mời các cụ! Trăm phần trăm nào! Hai ba...Dô

Nhà trai và nhà gái được tách biên giới bằng hàng que cắm. Cô dâu được trang điểm loè loẹt trên đầu là vòng hoa dâm bụt và tà áo dài khâu bằng bì bao tải xác rắn bỏ đi. Chú dể thắt cà vạt bằng lá rứa dại, đi dày Tây bằng bẹ chuối. Hai họ tưng bừng chuẩn bị và thỉnh thoảng chí choé cãi nhau.

************

Đấy là cuộc vui của đám trẻ lên năm lên ba, đứa vừa vào lớp Một, đứa còn tuổi đi mẫu giáo, chúng lôi tha nhau bồ nhếch bồ nhác dự cuộc chơi...Chúng vô tư hồn nhiên như cây cỏ ...Chúng có để ý đâu khi bên kia đường có một cô bé xinh như búp bê đang đứng trên gác thượng theo sát. Nó tên là Lan Kha, lên sáu , đang học ở trường tiểu học thành phố. Bố mẹ Lan Kha giàu nhất dãy phố và nghe đâu cũng giàu nhất nhì TP này với một Công ty buôn bán bất động sản. Mẹ em có văn phòng Luật tại trung tâm TP. Không mấy khi có mặt ở nhà. Mình cô bé một gian phòng đầy ắp tiện nghi và với những đồ chơi đắt tiền. Chiếc sập to giữa nhà chứa Gấu bông đủ các màu, chậu hoa và cây cảnh xùm xoà ngoài ban công. Lan Kha được cô giáo đến tận nhà dạy nhạc, cây đàn ogan đặt góc trái kề bên góc học tập. Lan Kha có một thế giới riêng cách biệt với bụi bặm phố phường...Tất cả sinh hoạt dư thừa, duy chỉ có một thiếu thốn là bạn. Lũ trẻ bên kia đường không bao giờ dám gọi lũ trẻ Xóm Bãi Sông. Chúng cũng nhận ra một điều bất cập về thân phận. Mà thường kẻ nghèo bao giờ chẳng tự ty, cái câu mỉa mai các cụ để lại "thấy sang bắt quàng làm họ" đã ngấm vào máu cha mẹ chúng và cố nhiên khi nằm trong bụng mẹ, lũ trẻ nghèo kia cũng đã lây nhiễm rồi...

Lan Kha cứ đứng như thế rất lâu, nỗi thèm bạn ngày một khó cưỡng nổi, nó biết lũ trẻ kia là một thế giơi riêng, Chúng hôi hám và bẩn thỉu với những bộ quần áo rẻ tiền, nhàu nhĩ. Bọn chúng làm gì có những đồ chơi hiện đại và loè loẹt như em, ngay cả cái Ty vi, cái đầu đĩa chúng cũng thèm thuồng mỗi khi ngang qua nhà giầu cứ đi chậm lại ngó vào...Nhìn trước, ngó sau, cửa vẫn mở, giờ này bà giúp việc vẫn quay lưng vào nhà tắm nhặt rau và yên chí cô chiêu nhà chủ đang chơi với gấu bông trên gác . Lan Kha lẻn trốn và đi về phía vệ sông với đám trẻ xóm Bãi .

Nó cứ đứng thế rất lâu mà ngắm, đúng rồi, các bạn nó đang chơi trò đám cưới. Nó như người ngoài hành tinh vừa hạ cánh xuống mặt đất đầy bụi bặm và rắc rối nhiêu khê. Tại sao người lại đẻ ra người nhỉ, đẻ thế nào mà sinh ra lắm người thế không biết. Tại sao lại gọi là vợ với chồng, sao vợ chồng lại phải làm đám cưới để mời nhau ăn cỗ...Kìa! Lũ trẻ đang đưa dâu, gớm chưa, chúng nó ngoạc mồm ra mà gào rồi rồng rắn đưa dâu vừa đi vừa đọc đến hay:

Cô Dâu chú dể

Đội rế lên đầu

Đi qua cây cầu

Đánh rơi mất rế...

Gớm chết, chú rể vừa đi vừa tỏm tẻm nhai quả sung chín, cô dâu mặc áo cưới bao tải rách te tua như bà lão ăn mày, môi lại đỏ loét như mụ Phù Thuỷ...Lan Kha tỏn tẻn cười rồi khanh khách cười thích thú.

Thằng Can là đứa phát hiện tiếng cười ấy đầu tiên và tiến lại đề nghị:

- Vào chơi với chúng tao đi! Sao cứ đứng đấy mà cười! Mày khinh chúng tao à?

Lý nhí, Lan Kha tõn tẽn trả lời:

- Thật nhá! Cho em chơi với nhá.

Đám cưới đến hồi kết. Có nghĩa là cô dâu chú rể phải vào " Phòng cưới"... Đấy là giai đoạn "gay go" nhất của cuộc chơi...Gã máy ảnh với cái ống nhòm hỏng nhặt ở bãi rác, nghiêng nghiêng vẹo vẹo đi lại, thỉnh thoảng lại quài tay lên cổ gãi nhanh nhách. Cái "phòng hạnh phúc" to bằng cái nong trong lùm duối được lót lá chuối khô có chăn là bì tải và gối là mấy hòn gạch xỉ được bọc giấy báo chờ cô dâu chú rể "động phòng hoa trúc" tất cả đã sẵn sàng. Ngó trước, ngó sau thằng Can hạ lệnh:

- Cho cái này làm cô dâu! À mà mày tên gì?

- Dạ em là Lan Kha ạ

- Mày làm được cô dâu không thì bảo?

- Làm cô dâu như trong phim chứ gì, em biết rồi? Em làm được đấy. nhưng em không mặc áo kia đâu. Bẩn lắm.

- Cũng được. Mày mặc váy thế còn đẹp hơn cô dâu! Nào đứng bên thằng Đùng đi, như trong phim đi, Lạy nhau đi, hai ba: Phu thế giao bái.

Lũ trẻ xướng to xướng đều như diễn tuồng và đôi "phu phụ" lụp cụp lạy nhau.

Nào chuẩn bị: Động phòng hoa trúc.

Cô dâu chú rể nằm bên nhau cùng ăn sung tem tẻm và cười như nắc nẻ...Đám bên ngoài bắt đầu nhảy múa như con choi choi, đứa nào thuộc câu nào cứ thế mà hát lên rồi múa may như cung quăng.

Đúng là trẻ con với trò chơi trẻ con ...Góc miếu hoang như đám vỡ chợ.

************************

Trên gác thượng vợ chồng ông Lâm vừa đi làm về. Như thông lệ, hai vợ chồng về đầu tiên là hôn nhau và cùng lên phòng chơi với con. Ông Đại gia này khôn lắm và cũng Tây lắm, ông rất phong tình và rất nhiều bồ nhí các nơi nhưng càng lắm bồ ông càng nịnh bà Luật sư đài các "chính thất" của mình...Phòng con bé Lan Kha vẫn mở, nó đi đâu nhỉ, xưa nay nó có được đi đâu khỏi phòng sau giờ học . Bà giúp việc đâu rồi. Ông bổ xuống tầng dưới và gọi, bà ngớ ra, chỉ tay lên tầng thượng như người đóng kịch câm, ấy là bà ấy cuống, bà ấy sợ cái lòng tử lợn luộc của ông chủ vừa nhướng lên...Chợt bà Luật sư la lên thất thanh như cô chiêu nhà bà vừa bị ai bắt cóc:

- Kia rồi anh ơi! Nó đang chơi chỗ Miếu Ma! Mau lên anh ơi...Chết mất thôi con ơi là con, sao lại thế này cơ chứ.

Cô dâu chú rể đang đắp bì tải nằm ăn sung thì bố mẹ xộc đến. Đầu tiên là "chú rể" bị thộp cổ ăn liền hai cái tát không thương tay. Máu mũi nó ộc ra! Lũ trẻ bị bà lấy roi quất túi bụi và luôn miệng chửi tục. Thằng Can bướng bỉnh vừa chạy vừa ngoái cổ lại chửi : Đ. mẹ chúng mày! Đ... mẹ vợ chồng nhà thằng ác...Bú con C... ông đây này.

**********************

Cuộc rượt đuổi bắt đầu. Lão Lâm vơ mấy hòn đá con ném theo thằng bé. Thằng Can ngang bướng vẫn vừa chạy vừa ngoái cổ lại chửi, lão Lâm càng cáu tiết. Can vòng về phía bể nước để chạy lối tắt lên đường lộ. Lão Lâm vẫn hăng hái rượt đuổi. Qua cái sân rêu cạnh bể nước lão trượt chân giáng mông đánh huỵch, đau điếng, như trả được hận, thằng Can đứng lại cười ...Thế này thì mày nhừ đòn con ạ! Lão vùng dậy tiếp tục rượt đuổi. Thằng Can lại chạy. Lần này nó hình dung được nỗi cay cú trong lòng địch thủ đang bốc lên ngùn ngụt, lão mà tóm được chỉ có nhừ xương. Can cắm cổ chạy và không còn dám ngoái lại. Con lộ kia rồi. Lên đến lộ có mà trời đuổi được nó, cố lên...Vừa chạm chân tới mặt đường bỗng một tiếng còi xe ré lên, một tiếng phanh gấp rợn người. Không kịp nữa rồi, chiếc tắc xi đâm chính diện người Can. Nó bị hất tung lên rồi rơi xuống lăn mấy vòng trên đường nhựa. Máu tai, máu mũi và một mảng đầu vỡ toác. Can giãy như con cá đang nằm trên thớt bị nhát dao đập bất thình lình, chỉ ít phút lòng con ngươi đã không còn hoạt động.

Lũ trẻ ào đến vây quanh khóc như ri, chúng hờ gọi tay thủ lĩnh có tài tổ chức những trò chơi nhất quỷ nhì ma bao năm nay ở cái xóm Bãi nghèo màn, buồn tẻ. Can như bừng tỉnh giây lát, con mắt như cố nhướng lên lần cuối để vĩnh biệt bao gương mặt bạn bè thân thương đã cùng nó vui buồn trong quãng tuổi thơ khốn khó. Tự nhiên khoé mắt Can ứa hai dòng lệ và khoé mép chảy ra một vệt máu tươi. Người ta bảo : Những người chết oan khi gặp người thân đều có hiện tượng ấy xảy ra

                                                        *

Đám tang em đông người vô kể. Lũ trẻ xóm bãi đều chít khăn tang, không ai phát khăn thì chúng tự kiếm lấy mà thắt lên đầu, những bì sác rắn ngoài bãi thải chúng nhặt về quấn vào người như tang phục người lớn vẫn đeo khi người thân quá cố. Chúng lặng lẽ đi sau quan tài Can ra nghĩa địa cách xóm dễ chừng 3 cây số. Dọc đường chúng thi nhau tìm hoa dại ngắt từng bó ôm vào người. Không đứa nào khóc cả. Hàm răng chúng nghiến ken két và bọn con trai mỗi đứa đều sắm , đều tự tạo cho mình một hung khí ém trong người...Những mũi dùi nhọn như kim đựơc mài từ thép phế, những con dao dọc giấy bằng y nốc được mài nhọn thành dao găm, bén đến ghê da thịt...Những súng cao su bắn bằng tên sắt. Chúng thầm thào vào tai nhau những điều bí hiểm...Tuổi thơ trong trắng của  chúng lần đầu tiên nảy ra lòng hận thù. Sự hận thù rất trẻ con và cũng rất thật.

                                                            *

Chuyện đã qua 6 tháng rồi...Những vòng hoa trắng viếng nó hôm đưa đám còn trơ lại những khung nứa mốc thếch, nhưng những bó hoa dại lũ trẻ đặt vào hôm ấy rụng hạt xuống lại nở vô vàn đoá hoa không tên. Cứ ngày nghỉ là lũ trẻ xóm bãi kéo nhau ra thắp hương và đặt lên đấy những chum ổi, chum khế chúng mới lượm sau miếu Ma bên bãi Sông Châu đầy nắng và gió. Chẳng biết có phải thằng Can thiêng không. Bao giờ chúng đến cũng có đàn bướm trắng bay về. Những cánh bướm rập rờn bên hoa dại. Con bướm to nhất đàn đậu lên vai, lên cổ, lên đầu mỗi đứa rồi mới chịu bay đi. Không đứa nào bắt bướm, chúng xòe tay nâng nâng để cánh bướm đậu vào rồi đồng thanh hát câu đồng dao:

Rồng rắn lên mây

Có cây lúc lác...

                                                              *

Vợ chồng Lão Lâm rời Thành phố sau đận ấy, hình như cũng phải hầu toà vài lần nhưng vẫn nhơn nhơn cưỡi xe hơi về TP mỗi khi có việc. Nghe đâu án của lão được pháp luật cho là: Gián tiếp gây chết người không có chủ định...Tội ấy nhẹ thôi mà.

.:Truyện không muốn đặt tên - truyện ngắn:..

Tác giả: Lưu Quôc Hoà

     Ra khỏi ngõ khá xa, có nghĩa là có nói thì chỉ có tai liền mồm nó nghe chứ chẳng có ma nào nghe cả. Tam mới lẩm bẩm: Mẹ nhà nó, cái đồ giàu có thế mà bẩn! Bẩn hơn cả chó đẻ! Nói lỗ miệng thì như sắp xẻ cửa xẻ nhà cho người khác thế mà khốn nạn! Bẩn! Bẩn quá! Đếch bằng ông! Ông xây cái chuồng lợn mà còn có bữa vào bữa ra đằng này xây cái nhà to thế mà quệt mỏ! Lại con vợ nữa mới ghét, cái mồm leo lẻo thế mà chó không ăn được cứt, có nải chuối cúng Thổ Công vội vàng qué vào làn...Nó cứ làm ông nó thèm nhạt lắm! Ỉa vãi vào trăm đống chứ. Mẹ kiếp! Chuối nhà ông mày chín cây còn nuôi chào mào, cứ làm như chúng ông chết đói chết thèm không bằng.

Vừa đi hắn vừa lầm bầm chửi một mình, bình phẩm một mình về cái lão Đức Cao, cán bộ rất to ở Tỉnh mới về hưu, thuê hắn và tốp thợ làng Nhị Giáp xây nhà. Hôm nay là ngày động thổ. Cái ngày rất quan trọng cho thằng Người an cư lạc nghiệp...

      Chửi chán mỏi mồm lão nhớ lại sáng ấy, tại chân công trình, nơi lão Đức Cao khai nhát cuốc đầu tiên để đặt móng

                                                                              *

       Đấy là thổ đất rông chừng 200m2 hai mặt phố. Mặt chính là khu trường chuyên nghiệp của Nhà nước với ngào ngạt nam thanh nữ tú, như tổ ong, như đàn bướm vỡ tổ, sáng, trưa, chiều tuốn vào cổng rồi lại túa ra đường, toàn là những cái mồm hay ăn quà vặt, toàn là những đứa tiêu tiền bằng thẻ ATM của cha mẹ bán cốt lột xương gửi cho ăn học. Có một cửa hàng đón lõng chỗ ấy thì đắt như tôm tươi. Mặt sau nhà trông ra bờ hồ, công viên Thành phố, phía ấy có hàng bán dày thể thao và các đồ lặt vặt phục vụ cho thể thao giải trí còn gì tốt bằng. Mảnh đất như thế mà để cỏ mọc khoảng năm năm khi lão Cao đang ở độ tuổi "ngoại tứ" đang giữ chân Trưởng phòng, một loại trưởng phòng lắm lộc tứ phương. Mảnh đất ấy cũng là đất đẻ ra từ lộc giời ơi đất hỡi của thiên hạ, mỗi người một tý góp vào. Lão Cao khôn hết phần thiên hạ, có lộc trong túi, khác với các lão thích đú đởn ăn chơi, lão tích lại mua vàng, mua đô la. Như thế nó gọn, có muốn chơi cũng không được. Đấy là tính toán của kẻ "đãi cứt sáo lấy hạt đa - đãi cứt gà lấy tấm mẳn", mà nếu cho thiên hạ vay, vừa lấy lãi, vừa được ơn thì vay bằng vàng. Cứ nhè lúc giá vàng lên ngất ngưởng là lão đòi, không trả lão cũng không xong, mà lý do đòi toàn chết người cả: Đi viện cắt khối u, Con nhập học, mẹ già đang mổ sắp chết đến nơi. Không trả lão có mà mặt mo, để lão phình cái khối u lên à, để mẹ già lão chết oan à, để con lão thất học à...Tội to lắm. Ai bảo lúc vay mồm nói xoen xoét là "chớm đòi trả ngay"...Thế là vàng lại ra cửa hàng theo giá mới mà lãi tháng lão có tha xu nào đâu. Đau mà nuốt bồ hòn làm ngọt và vẫn phải cám ơn vẫn phải xoa tay nói lời phải đạo.

      Tích dần mấy năm, lão mua gọn thổ đất rẻ như bèo khi cùng phòng lão có gã chơi lô phá sản. Người thấp mưu là vội vã xây nhà, lão thì kìm lại, lão nhờ thằng em vợ đứng tên, tuồn tiền cho nó mua rồi để đấy, đang nhậm chức mà ty toe nhà cửa đất cát lắm kẻ xì xèo, ảnh hưởng đến thanh danh là nô bộc của dân đen, lão cứ "Giản Văn Dị" với cái xe máy cà khổ, phun khói như nhúm than tổ ong. Vợ con ở nhà ổ chuột cùng đám cửu vạn. Cái vai lão đang sắm còn quý hơn vạn lần thứ hoa hoè hoa sói triềng thiên hạ, cứ để đấy! Rồi chúng mày biết mưu ông, ông hạ cánh là mua máy bay lên thẳng chứ không thèm đi ô tô, chúng mày sợ tắc đường chứ ông không bao giờ chịu cảnh ấy.

       Cầu được ước thấy, lão lên chức vù vù. Cái bằng chuyên tu của lão đỗ loại ưu với lẩu và thịt chó, với mấy cuộc ăn chơi...Chăn trâu thì chăn đồng xa / Chớ chăn đồng nhà, làng biết thì nguy". Cái gì lão cũng khôn hơn đời, khôn kín mới là khôn.

       Lão vừa hạ cánh an toàn, ngó trước trông sau, chẳng thằng nào làm gì được mình, chẳng con nào thằng nào ho he hóc hách gì được mình, lúc này lão mới khởi công xây nhà ở cái địa điểm ho ra bạc, khạc ra tiền. Lão nhờ Tam, bạn bắn ca nông quen nhau từ ngày Tam đến sửa toa lét cho văn phòng hắn, đứng ra lo việc xây cất.

Buổi làm lễ động thổ mới rườm rà làm sao! Lão thày cúng to như ông Hộ pháp, thụng thà thụng thịnh trong bộ nâu sồng đến hành lễ. Lão đọc từ tên củ tên cái nhà lão Cao lên vanh vách, Toàn những cái tên nghe lạ cái lỗ nhĩ, nào thì: Khoằm, Mưỡng, Rích, Dịch, Tỏng , Tảnh nghe đến buồn cười, vô số cái tên đọc đau cả lưỡi, Lão bổ thượng rồi bổ hạ vái tứ phương, lão hú, lão hét rợn cả tóc gáy. Hai vợ chồng khổ chủ cứ bò nhoài ra mà lễ, khốn khổ! Vợ lão đã béo lại mặc quần bò ngắn đũng, quỳ một hồi, hai quả mông sấn trắng hễu cứ tòi dần ra. Mấy gã hàng xóm đa dâm dán mắt vào mà tủm tỉm cười, chả biết từ các ô cửa lân bang, người ta chiêm ngưỡng lễ vật gì, chỉ thấy cười rinh rích, đấm lưng nhau thùm thụp rồi ré lên cười. Đám thợ xây chống cuốc chống xẻng ngáp vặt. Mùi xôi, mùi thịt thà bốc lên thơm lựng trêu ngươi cái đám người lao động cơ bắp...Người ta bàn tán: Lễ vật hậu thế kia chắc gia chủ đại phúc.

      Lễ vừa xong, Lão Cao phẩy tay ra hiệu. Tam bổ nhát đầu tiên, chả là Tam tuổi hợp với thổ đất này nên thay mặt gia chủ. Cả tốp thợ theo lệnh Tam ào ào ra quân. Đúng lúc còi tầm, Lão Cao mới gọi cả tốp thợ vào uống nước nhân trần và hút thuốc lào vặt. Mọi người không ai bảo ai nhưng chắc mẩm: Lão giàu thế nên thể nào cũng có bữa "vào" thịnh soạn...Họ nhầm to! Vợ chồng lão lạnh lùng bưng mâm ngồi ăn tem tẻm và mời với: Các bác ăn cơm nhé! Chiều nhớ đến đúng giờ mà làm. Đám thợ chưng hửng vì đã cắt cơm nhà theo lệ nhận công trình buổi đầu, họ kéo nhau ra quán cơm bụi rồi ra gốc cây xỉa răng và ngáp vặt.

- Cái giống giàu nó bẩn thế đấy chúng mày ạ! Một gã thợ lốm nhốm râu tóc thả ra lời đầu tiên. Lão khác tiếp lời:

- Bẩn như chó mới có mới giàu, các cụ nói chẳng sai.

Một lão khác, sau khi rít mồi thuốc lào mới hiu hiu con mắt chó giấy từ tốn nhận xét:

- Đừng vơ đũa cả nắm mà tội! Nhiều người giàu có nhưng nhân đức lắm, chúng mày không nhớ hôm làm nhà cho ông Lâm bên Giáp Nhất à! Cái ông làm trang trại ấy! Bọn mình vừa được đánh chén say bí tỷ lại còn được phong bì lót tay, mỗi thằng hôm khánh thành được mời cả nhà lại được ông ấy cho áo quần vải vóc, trẻ con đi theo cho tiền sách bút...

- Tại ông ấy là dân chứ không phải đầy tớ của dân như lão Cao. Bọn đầy tớ của dân nên nó vậy! Đã là đầy tớ của dân nên ta cũng phải ra dáng ông chủ chứ! Ông chủ không thèm chấp đầy tớ...Một tay để ria mép cười khẩy và nhả ra lời chua chát.

     Phía trái cái đội hình nhem nhuốc thợ thuyền, một chị thợ phụ tỏ ra triết lý hơn, chị thủng thẳng mà rằng:

- Thói đời là thế! Cái thằng chuyên nhận thì chẳng muốn trao ai cái gì! Trao nó sót lắm! Càng nhận nhiều càng tốt! Lợi cho mình ắt phải ác với người. Chùa làng mình chả thờ lẫn Ông Thiện Ông Ác đấy sao? Nhưng buồn là buồn Ông Ác nhiều Lộc hơn Ông Thiện, vì thế bụng ông Ác mới to hơn.

- Bụng to là chứa cứt đấy! Đầy bụng cứt chứ báu bở gì.

Mọi người vô tình nhìn xuống cái bụng lép kẹp đến xương sống của mình đang hí hóp sau lần áo nước dưa và thầm tự hào, cái tự hào của kẻ yếu cũng tội nghiệp. Họ hãnh diện là bụng mình ít cái điều gã kia vừa bỗ bã nói ra.

                                                                           *

       Ba tháng trời vật lộn. Mai là ngày đổ mái tầng cuối cùng. Lão Cao đã nhờ thầy xem cẩn thận. Ngày mai đúng giờ Thìn phải đổ mái. Đúng giờ ấy! không sai một ly một lai. Đêm nay bằng mọi giá phải ràn xong phần sắt cho kịp. Lão bàn với Tam huy động nhân công làm đêm, lão chăng đèn cao áp sáng rực góc trời. Lão đốc thúc, lão hô hào, tự tay hắn đi kiểm tra các mẩu thuốc lá đầu lọc bọn thợ lỡ tay vứt. Bọn này vô trách nhiệm thật. Công trình cả đời lão tích cóp mới có, bóp nặn bao nhiêu cái phong bì mới có, thế mà chúng nó vứt đầu lọc lẫn vào, mai đổ bê tông lẫn lộn là hỏng bét! Lão hình dung nếu mái thẩm lậu thì hỡi ôi. Mưa sẽ ngấm, sẽ nhỏ xuống nền đá hoa, giấc ngủ của lão bên người vợ có quả mông phốp pháp sẽ mất hết sự an toàn. Lão còn sống lâu lắm, năm mươi chín tuổi răng còn khít khịt mà cắn dập xương gà, tóc còn đen nhưng nhức để vùi đầu vào rúc rích với cô vợ kém lão gần 20 tuổi. Trời phú cho lão cái mẽ trẻ rai, cái tóc trên đầu xanh ngằn ngặt chứ đâu như mấy tay cùng tuổi cứ phải dùng thuốc nhuộm mà "cưỡng dâm"... Lão còn sống lâu lắm, hưởng lâu lắm cái lộc đời. Chỉ mai thôi kín trên bền dưới. Công trình này sẽ ngạo nghễ giừa phố phường, nhiều thằng đi qua nhểu nước miếng...Lan man ý nghĩ, lão đi như mộng du trên tầng thượng khi sắt đã dàn xong. Xóm bên sông vọng sang tiếng gà canh tư đã gáy.

      Mọi người làm đêm đã ra về. Xe trộn bê tông đã đậu trước cửa. Đã gần sáng lão vẫn không ngủ được. Có một cái gì chưa yên ổn trong lòng! À ! Đúng rồi, còn hai cây sắt trên tầng thượng bọn thợ làm thừa vẫn để đấy! Không tin bọn này được. Mai chúng nó lên sớm, lợi dụng sơ hở sẽ cấu kết với lũ hàng xóm lưu manh mà tuồn sang có giời đòi. Cái lũ dân xung quanh là khả nghi lắm, người ta gọi là "Dân gian" chứ ai gọi là "Dân ngay"...Lão vừa nghĩ và vừa bước lên tầng. Cả nhà đã ngủ yên sau bao nhiêu huyên náo. Lão vươn tay dựng ngược cây sắt dài 4 mét định bụng ghé vai vào giữa...Xoẹt! xù ỳ Xoẹt. Trong đêm ánh lửa nhoáng lên, tóe hoa cà hoa cải. Cây sắt chạm vào đừơng cao thế, cả một giàn sắt dưới chân lão đánh lửa tanh tách và lão ngã vật ra. Khi ATÔMAT tự động vừa cắt được là lúc lão tắt thở. Đội sử lý sự cố khiêng lão xuống thì thân hình lão chỉ còn một dúm xương khô quoắt. Hai con mắt vẫn còn ở trên tầng thượng. Cái giống điện cao thế phóng vào người, bao giờ mắt cũng vọt ra bên ngoài.

       Hai tốp thợ và dân phố lặng lẽ đi sau quan tài lão chiều ấy. Họ trầm mặc đi theo lão ra nghĩa địa và thỉnh thoảng xuýt xoa tiếc rẻ, người thì tiếc cái nhà to, người thì tiếc cho mạng sống thằng người .

                                                                                      *

      Đã gần một năm rồi, ai ngang qua khu đất ấy vẫn thấy một công trình đang bỏ dở. Hàng sắt mái đã hoen rỉ qua nắng mưa. Vợ lão Cao hình như sau đận ấy bỏ thành phố về quê. Cứ nghe thấy ai mời đi ăn cỗ đổ mái là lăn đùng ra ngất

:Leo ơi, Hàng gì mà rẻ thế!:..

Tác giả: Lưu Quốc Hoà

     Vợ con hắn bỏ về nhà bà ngoại. Trước khi cuốn nhau đi, mụ dặn: "Các thứ đồ đạc em không mang đi một thứ gì, nhớ dùng xong lại để vào chỗ cũ. Anh là chúa hay đãng trí". Hắn nghĩ bụng Mẹ kiếp! dặn như dặn trẻ con, ông mày đãng trí chứ có phải mất trí đâu.

     Mụ vợ đã ngồi lên xe, lại sực nhớ chạy vào: "À quên, anh hay ăn dấm, nhớ cho cơm vào mẻ". Mẹ kiếp! người còn chả thiết, thiết gì đến mẻ. Tiếng xe máy xa dần, hắn cũng dần tĩnh trí, như một con tàu vừa mới vào ga, nghỉ ngơi vài phút rồi lại hành trình. Đã gần một năm nay, căn nhà này giống như cái trại giam, mụ vợ hắn lúc nào cũng ra dáng bà chúa ngục, cai quản tất cả, phủ định tuốt tuột, lúc nào cũng uốn nắn như nhắc nhở phạm nhân " nhớ phải cải tạo thật tốt để mau mau trở lại với cộng đồng". Rồi cũng đến ngày "già néo đứt dây" - "Thôi mày về nhà mày, tao ở nhà tao". Vợ hắn tròn mắt ngạc nhiên đòn này thật chắc như kiểu đấu tranh giai cấp - "Anh đuổi mẹ con em đi thật à?" - "Ừ". Hắn thét lên

chứ lại không à, như thế mới giải quyết tận gốc. Mụ hạ giọng: " Anh bình tĩnh lại, vì anh, vì con, thực tình em không muốn như thế... định thanh lý hợp đồng à, không để cho dễ dàng như thế đâu mụ định đổ tội: "Em yêu anh chứ không yêu văn" - "Văn thì sao nào, xấu à?" - "Không! Em lấy thợ xây chứ không lấy nhà văn. Nếu biết một ngày anh như thế này, thà em làm bà cô".

     Vợ hắn đi rồi Được!Không ly dị thì ly thân, đằng nào cũng thế! Hắn rất ức vợ "em lấy thợ xây chứ không lấy nhà văn" mẹ kiếp! Nhà văn mà không bằng thợ xây à? Nó ăn phải cái gì mà dám xếp nhà văn bên dưới thợ xây? Thợ xây công tám chục/ngày, nếu ký được hợp đồng khoán gọn, không hớ thì cũng được vài trăm ngàn một công. Đơn giản có thế thôi! Đầu óc cũng đơn giản, không phức tạp như nhà văn. Tám chục ngàn một công là đủ sống trong một ngày, đủ tồn tại đến ngày mai, vẫn duy trì được giống nòi, đủ chất để con đực và con cái tớn lên với nhau vài ngày một lượt. Đơn giản lắm! Nghề thợ xây, cứ vác bay đi là có tiền, chỉ cần có cái bay và chút mồ hôi là có tiền, có tiền là có tình, Chỉ cần tình thôi, không cần tưởng , tưởng là cái gì đó cao siêu, mơ màng  không ấm được vào thân, thoát tục, siêu thực, khó thấy, không mùi, không vị. Còn tình là lương thực,  ngũ cốc, là củ hành, rau răm, cảm khoái trung thực, mắt thấy tay sờ, chỉ cần nghĩ đến nó thôi là đã đủ thấy sự chắc chắn để tồn tại. Mẹ kiếp! Văn cũng là nghề, nó phải cao hơn thợ xây một bậc, nhàn hạ, cao sang mà chả phải mua vốn. Một cây bis giá 1.000đ, một vở tập 48 trang giá 2.000đ, viết ba truyện vẫn thừa, vị chi đầu tư mất 1000đ/truyện, bằng hai gói tăm tre. Truyện có sẵn trong đầu không phải mua, chết đem đi cũng phí,  giá vốn rẻ như cho không còn gì. Viết truyện đơn giản cũng như xây một cái bếp, tư tưởng như móng, kết cấu như zằng, nguyên liệu như gạch, ngói, cát, xi, văn như vôi ve, màu mè chứ có gì! Nhà văn bảo viết khổ sở lắm, dằn vặt lắm, khó lắm, có mà giấu nghề thì có! Hắn nghĩ nhà văn như nhà sản xuất, cứ sản xuất ra mà bán, cũng như mọi hàng hoá khác có mua là có bán, cứ việc sản xuất những hàng mà nhà nước không cấm, có gì đâu? Viết văn chứ có phải trộn hồ đâu mà dám so đo chữ nghĩa với xi măng, cát vàng? Văn thì giời cho còn xi măng với cát thì người làm ra, thế chả hơn thợ xây à? Chả nhàn hạ hơn thợ xây à? Có phải mưa nắng gì đâu? Còn xây mới khó, xây mà đổ sẽ bị bắt đền, tai nạn phải vào viện, phải đau, chết thì vợ con thiệt, tiền bệnh viện thu đủ có khuyến mãi bao giờ đâu...

     Hắn cứ nằm miên man suy nghĩ, rồi ông sẽ nổi tiếng cho mà biết, có lần hắn đã nói như thế, vợ cứ tửng từng tưng: "Em chỉ cần anh xây nổi tiếng thôi", hắn phát cáu lên: "Tôi muốn chuyển nghề cho vữa nó đỡ ăn tay"- "Vữa ăn tay cũng không chết, nhưng viết văn là chết"- "Bất tài mới chết" - "Tài cũng chết, mà toàn chết non, chưa tài đã chết". Hai vợ chồng hắn cứ cãi vã, ỏm nhả  với nhau chỉ vì bỗng chốc hắn muốn đổi nghề, muốn thành nhà văn! - "lành lặn không muốn lại muốn dở hơi" - "Cô bảo ai dở hơi?" - "Thì mấy cái ông nhà văn đó, còn hơn cả dở hơi" - "Có cái lò nhà cô dở hơi thì có" - "Phải, cái lò nhà tôi có một người bị bệnh điên nhưng mà là điên "xịn", điên "xịn" mới sướng" - "Mẹ kiếp! Điên còn biết sướng" - "Không biết mới sướng, còn hơn nhà văn khổ vì biết, điên cũng vì biết, cứ khổ khổ điên điên!" - "A, mày dám bảo văn sỹ là điên à" rồi đuổi đánh vợ rình rịch, vợ vừa chạy vừa cãi: "Thợ xây mà cũng đòi trí thức", chả trách hắn càng điên hơn đuổi suýt bắt được, mụ hãi quá phải chạy sang nhà hàng xóm nương náu mấy hôm mới dám về. Suốt mấy tháng liền vợ chồng hắn cứ đày nhau trong bốn bức tường rồi vợ hắn bế con về nhà bà ngoại. Hắn được tự do, liền bắt tay ngay vào sản xuất. Cứ cầm bút lên là chữ chẩy ra giấy. Viết xong hắn đem truyện cho bạn bè đọc thử. Thực không dễ như hắn tưởng, xem xong nhận xét: "Không đẹp bằng xây bếp, cứ như một đống gạch". Một thằng phụ vữa còn chõ mõm vào: "Viết thế này mà cũng viết!" Hắn cố kìm tự ái thợ xây thì biết cái chó gì - " Viết thế nào mới là viết?" - "Viết như vầy..." rồi giảng giải: "Phải viết những truyện kể cả đám thợ hồ như chúng em cũng thích, viết những cái mà mọi người cần đọc ấy!". Thì ra là vậy, đám thợ hồ cần ít bị chủ bóc lột, nhà nông cần miễn các loại thuế. Công nhân cần một người đại diện đích thực cho mình.Dân đen cần ấm no, dân xanh thì cần dân chủ, dân đỏ thì muốn công bằng...rồi hắn cũng về xem lại, viết cái khác rồi lại đem đến nhờ xem. Hắn chờ cho lũ thợ hồ nghỉ việc liền mời: "Đi uống nước đi" rồi bỏ tiền ra mua bia cho chúng nó đọc hộ. Lại vẫn cái thằng thợ phụ vữa ấy nhận xét: "Lần này khá hơn, nhưng vẫn thấy anh trong ấy" rồi nâng cốc bia làm một hơi mẹ kiếp!Thằng này uống như lợn, không thấy yết hầu của nó đâu  - "Hay tao viết sex cho chúng mày đọc nhá" - "Ui da, viết được thì tốt quá. Ở đời đứa chó nào chả sex, đến lợn còn sex". Một thằng thợ cả ra dáng: "Nói chung có rất nhiều thứ chúng tôi cần. Chúng tôi rất cần có nhu cầu giải trí, không thích được dạy dỗ, tự chúng tôi biết phải làm gì chứ! Thế nhỡ cứ nghe nhà văn, nếu sai thì nhà văn có đền được không? Trong Tắt đèn, cụ Tố cứ để cho nó tối thui như thế, là cụ khôn đấy! Nếu không may cụ lại chỉ cho nông dân đi vào Hợp tác, nhỡ chết đói, cụ có đền được không? Hay chỉ thằng nào nghe xui dại là thằng ấy thiệt?"lòng buồn tã tượi, nhìn "đống gạch" mà chán nản, rồi "đập ra", "xây lại" cuối cùng truyện cũng hiện ra như một cái "bếp" thật. Xong xuôi hắn đem bản thảo nhờ một nhà văn lớn, có cái chân tập tễnh góp ý: "Được đấy!Có truyện đấy! Anh là thợ xây phải không? Thảo nào văn còn dính đầy vôi vữa". Hắn đem về sửa chữa, "rửa ráy" chữ nghĩa cả ngày, cả đêm bất kể thời gian, thức ngủ chập chờn, quyên cả ăn, con chó cũng phải đói theo, cứ ve vẩy cái đuôi theo hắn đòi ăn, hắn cúi xuống vuốt vecả nhà này chỉ có mày là trung thành với tao, con vợ tao cũng không được bằng mày. Thấy chẳng sơ múi gì nó lủi đi ra góc nhà phục xuống đôi chi trước, hai mắt liu thiu chán hẳn. Hôm sau hắn quyết định đem chồng bản thảo lên nhà xuất bản. Có người góp ý: "Cái nhà xuất bản nó khinh người lắm, phải bíêt lách đấy, như kiểu chó lách qua kẽ cửa ấy" Thế có khác gì ăn trộm, không bán được chỗ  này thì bán chỗ khác, sợ gì rồi hắn cứ đi, phóng xe một mạch, xem địa chỉ, đến đường Âu Cơmẹ kiếp! Đẻ gì mà đẻ khiếp, 100 đứa một lúc, bừa bãi quá! Sinh với chả đẻ. Đến cổng nhà xuất bản thấy hai dãy đại lý bán báo, hắn sán vào chỗ mấy con mụ đang cầm quạt phe phẩy quạt cho báo. Thấy hắn tất cả nhao nhao: "Bác múc cho em con lô" - "Chú ơi! Chú chọc lỗ nào để cháu ghi cho" - "Anh ơi, sim Vina đang khuyến mại toàn cầu"...hắn hỏi một bà: "Sao lại quạt cho báo?" - "Không quạt nhỡ ruồi ỉa vào thì bán cho ai" - "Cho tôi hỏi thăm toà soạn báo Văn" - "Tầng tư ấy, hứ!". Hắn đi lên tầng bốn, gặp thư ký toà soạn, trao tập bản thảo. Liếc nhìn bút danh, thư ký hỏi: "Anh mới viết à?" - "Vâng! mới tinh" rồi cắm cúi đọc một đoạn đầu, một đoạn cuối ra cái điều xem hắn mở, kếtthế nào, diễn ngôn có đạt không, chắc thế! Rồi ngẩng cái mặt lên, chiếc kính tụt xuống sống mũi thành ra hai con mắt cứ dốc ngược lên - " Được, nói chung để in được chúng tôi sẽ biên tập lại, có chương phải roóc đi, có đoạn phải bồi thêm vào cho nó hay hơn" - " Các bác đã roóc xương, lọc da thì đâu còn là người ta nữa, có hay hơn thì cũng đâu phải là họ nữa, thế ra là thành Văn máy à?" - " Tuỳ thôi! anh mới viết chắc không biết đâu, nhiều ông lớn chúng tôi còn lột da ra nữa là. Tuỳ thôi! Nhìn chung cả chúng tôi, cả bạn nữa đã bước vào đây tức là bước vào nhà của người khác, nói thế anh bạn hiểu chứ?" - " Không hiểu lắm" - " Rồi từ từ sẽ hiểu, tốt nhất là biết thôi, biết là đủ đấy". Nói xong thư ký đứng dậy như ý bảo kết thúc - " Thế này nhá - rồi chìa tay ra - Anh cứ về, chúng tôi sẽ xem hàng của anh, cái nào in được, cho in, còn bản thảo nhà xuất bản không gửi lại, chắc anh biết". Hắn nắm bàn tay ướt nhèo nhẽo, lạnh như tay người chết: "Thế còn quyền lợi thì sao ạ" - "Nhuận bút 50.000/truyện, chúc anh thành công". Suốt dọc đường về, hắn nhẩm 50.000/ truyện, mỗi tháng phải sản xuất 56 truyện mới bằng lương của một thợ xây, một năm 672 truyện, cả đời...eo ơi!

Nghe nói có nhà văn cả đời chỉ sản xuất được có mỗi một truyện, thế thì lấy gì mà ăn? Không ăn đến thánh cũng chết đừng nói đến nhà văn! Năm nay 09, hắn 30, từ nay đến tuổi về hưu hắn phải sản xuất tối thiểu 20.160 truyện mới đủ ăn. Nghĩ đến đấy mồ hôi hắn vãi ra như cơm nguội, có thứ nghề nào như nghề Văn không? Có không hả giời? Hắn nghe nói có ông nhà văn Phụng kêu: "Nhà văn Việt Nam khổ như chó". Mẹ kiếp! Được như chó đã sướng, còn được ăn no, lại không bị rọ mõm, còn nhà văn bây giờ rõ khổ hơn chó.Thế mà hắn cứ tưởng bở, lúc nào cũng bớ lên, sôi nổi đến lạ. Giờ bình tĩnh lại mới thấy nghề văn đếch chơi được, dễ đâu là tưởng, là mộng mị, đầu óc du dương cái nghề sang trọng, ôi nghề...nghề ơi là nghề! Nhìn cái tập hàng họ mà phát chán! Giá lúc ấy có ai rủ xuống âm ty thì cũng đi. Ngày trước các cụ viết văn để chơi, viết cho nó sướng, cho nó sang vì nó khó, càng khó càng thích, văn càng thanh tao thì càng thoát thực, càng được xã hội khen. Thế mới chết! Ngang với các cụ bỏ bom lũ con cháu còn gì. Các cụ càng nêu cao tinh thần coi thường vật chất, gọi nó là tầm thường, cho mình là tao nhã để dạy con dạy cháu đẽo gọt cốt cách. Nhưng có ai biết các cụ toàn lừa các cụ bà, nếu không bám vào gấu váy của vợ chắc cũng thường thôi. Thế cho nên nhà Trần ba lần đại thắng quân Nguyên mà các cụ cũng chả có nổi lấy một Hồi chứ đừng nói đến cả bộ đồ sộ như Tam Quốc bên Tàu. Còn thời nay con cháu các cụ nó khác, toàn một lũ tóc xanh, mỏ đỏ không lừa được các mụ đâu, các mụ có mà thèm vào cái thanh tao kẻ sỹ, đừng hòng cho bám, đã không cho bám thì thôi lại còn còn chê nhà văn là lũ dở hơi! Đúng là cái đồ chọc tiết lợn đằng đít. Thế mới biết con cháu các cụ mất dạy hơn các cụ nhiều. Mộng tưởng vỡ như bong bóng giọt gianh, đúng như mụ vợ hắn nói "chưa tài đã chết", sao lúc này hắn thèm có bao nhiêu cái TÀI đem giả quách đi cho xong, giả hết không bớt lại tí nào để "thần tài" đừng có hòng mà cựa quậy. Có người bảo hắn nghề văn bây giờ không sống được đâu, phải tầm gửi vào một cái nghề nào đó, lấy nghề khác để nuôi nghề văn. Mẹ kiếp! Sang trọng thế mà phải ký sinh à? Văn của hắn lại phải ăn nhờ vào vôi vữa hay sao? Đã là nghề thì phải cho rõ ràng ra, nghề ra nghề, phải được tự do hàng hóa như các nghề khác chứ? Nếu không có thì giờ cái thần hồn, đang đứng trên giàn giáo mà đầu óc cứ nghĩ đến người Dơi là lộn cổ xuống đất ngay lập tức. Làm thợ xây ăn no, ngủ kỹ xách bay đi, loáng một cái là có vài ba chục ngàn, đằng này vài ba ngày chửa chắc đã viết được mươi dòng, chẳng khác nào bị đi kiết lị, sản xuất đã "khổ như chó", đến lúc đemhàng đi thế mà có nhà xuất bản lại bảo: "Chúng tôi đăng cho là tốt rồi!!!", hàng chùa à? Có nhà đài còn cứ như là bắt được truyện, lấy ra đọc để lôi kéo khán giả, nhà văn nghe được cứ lim dim ngồi nghe xem chừng cảm động lắm! Vợ đi qua lừ mắt: " Để cho đỉa hút máu thế mà cũng chịu được, thật đúng là đồ dở hơi!". Hắn không tin rồi kén mãi mới có nhà xuất bản Văn mua cho năm mươi ngàn bạc, mẹ kiếp! Hàng chó gì mà rẻ thế! Thậm chí lại còn cho không nữa chứ, giời đất ơi...!Mình đi xây, khách hàng mời mọc, xếp hàng đông như kiến, đuổi đi không hết. Mà xây cũng khó chứ tưởng à? Nhà văn liệu có xây được bếp không? Không chứ gì! Xây làm sao được, xây khó lắm! xây đã khó vậy lại còn phải biết "nhẩy dù" từ giàn giáo xuống sao cho hạ chân tay, đầu óc, mình mẩy cho thật an toàn, thợ xây là cũng tài lắm chứ tưởng à? Thử hỏi xem nhà văn có dám đi chu du thế giới không? Thách đấy! Nhưng thợ xây thì: " Mỹ à? Đi thôi, đi Liên Xô thì tao thèm vào", nó cứ làm như nhà văn sang nhà hàng xóm chơi không bằng! Ừ, không nói phét đâu, thợ xây vác bay ra khỏi nhà cộng với ít mồ hôi thì đúng là đi đâu thì đi thật, chỉ cần làm vài ba buổi là có tiền hạ trại, chơi chán lại đi chỗ khác. Hắn cứ lang thang như mộng du, không ra điên, nhưng giống dở hơi lắm! Chết,chết, giống lắm! Thảo hèn nào mà mụ vợ cứ giẫy lên đành đạch khi hắn muốn chuyển nghề viết văn, văn là NGƯỜI, là người khác, không phải hắn, là người hay ho, đẹp đẽ, cao thượng, toàn những chàng với nàng, đi đứng thướt tha, nói như phun châu nhả ngọc, còn nhìn nhà sản xuất văn kìa, có ra hồn người không? Cứ mở mồm ra là: mẹ kiếp, mẹ kiếp...từ ngày vợ bỏ đi là biết ngay, trông thân tàn ma dại, nhưng mà vẫn ra dáng lắm! Ai không biết cứ tưởng là sang trọng lắm, cũng lừa được khối kẻ nhẹ dạ. Nhưng nhiều đứa cũng đểu, thấy nhà văn đi mua rau ăn chay, nó "giết" cho 50.000 một lạng, bạn hàng trách: " Sao mày bán đắt thế", nó tru cái mõm ra đáo để: " Cho chết cụ nó đi", đứa khác thêm vào: "Thế mà nó chả chết, cứ đua nhau mọc như cỏ dại. Chỉ khổ đứa nào lấy phải thằng chồng dở hơi"...cái đầu dị mộng dẫn đôi chân hắn lang thang đến một quán bia hơi, mùi mực nướng thơm ác quá, gã chủ quán đem những con mực ranh đốt cho cháy khét rồi dùng quạt công nghiệp thốc ra như bão. Mùi mực nướng lẫn với hương bia tươi cuồn cuộn đổ ra đường, dính vào mũi khách đi qua, bố thằng nào mà chịu được! Đấy mới là đích thị cuộc sống, có mùi và có vị, nước dãi chảy ra đầy chân răng là có thật, không hư ảo, lừa phỉnh, không trí trá. Ôi, cuộc sống ơi, cuộc sống mới thật đáng yêu, người ở quanh ta mà ta cứ loanh quanh tìm kiếm...như buổi chiều nay như mọi  chiều hè, sau một ngày vật lộn cật lực với tiền bạc, lại được ngồi cùng với bạn bè, với cốc bia trên tay, tròng ghẹo con người mới thấy thấm thía nụ cười, nụ cười từ trong gan ruột, không sâu hiểm, không ác độc với cuộc đời... hắn bỗng rùng mình như tán cây rũ những hạt mưa đậu nhờ trên lá vì hắn chợt nhận ra một điều: cuộc sống vốn giản dị, thật thà với tất cả mọi người, không gét bỏ ai, công bằng, thân  ái, ai muốn lấy gì cho phù hợp với bản thân mình thì lấy. Có thế thôi mà hắn cứ loanh quanh, cứ tự dối mình...

   - Ôi, nhà văn, nhà văn! Ngồi xuống đây.

     Hắn thấy mấy người bạn cũ, thấy ông nhà văn lớn có cái chân quèkhiếp! Hôm nay mới thấy ông ấy tã quá! Nhà văn hỏi: " Dạo này hàng họ thế nào?" - " Cháu đầu hàng rồi!" - "Ừ, hàng là đúng". Mấy người bạn hỏi: "Dạo này còn đi xây không?" - "Còn chứ!" - "Thế thì ngày mai khởi công xây cho tao cái bếp". Nghe tiếng "xây", mấy bàn bia xung quanh ùa đến:

     - Anh là thợ xây à?

     - Chú em là thợ xây à?

     - .......

     Tíu tít đặt hàng. Nhà văn già đứng dậy trả tiền bia qua vỗ vai hắn:

     - Đấy mới là hàng thật cháu ạ! rồi tập tễnh đi ra, lừa đôi chân qua các hàng bàn xiêu vẹo...

     Ngay chiều hôm ấy, hắn về bà ngoại đón vợ con, vợ mừng quá, quýnh lên, nhìn chồng như vừa ngoi dưới âm ty lên, không nói được bằng mồm, nói toàn bằng mắt Nếu có cái đuôi ở mông, hẳn sẽ vẫy rối rít.

     - Về nhà thôi! Về nhà thôi! Hắn reo lên như một đứa trẻ, trông ngây ngây, thương thương đến tội nghiệp. Hắn khoe: "Anh vừa ký được hợp đồng, ngày mai vợ chồng mình đi xây bếp"- "Anh về trước đi, để em đi ra chợ" rồi mụ đi thật nhanh, mua bán thật nhanh vì vui quá, sướng quá, niềm vui nóng hôi hổi mình phải nâng niu,  đừng có dại mà chạm vào Đam Văn Mê của anh ấy, nhớ đấy! anh ấy hồi nghề rồi, hồi rồi, ôi sao mà sung sướng thế không biết! lúc mụ xách mớ cá về, vẫn thấy hắn đợi vợ ở cửa Anh ơi, em vẫn đợi cảnh này, sao mà ấm áp thế! Đời này, kiếp này anh đừng có mà viết văn anh nhá! Nhá! Nhá! Con chó nhẩy bỗ lên hôn cả vào cổ hắn, thấy mà vui! Mụ xách cá đi vào bếp: "Mình ơi, em nấu dấm cá nhé!" - "Ừ,

anh thích mà!". Một lúc thấy vợ tiu nghỉu đi ra:

     - Anh ơi, mẻ chết mất rồi...!

:Đèo bồng:..

Tác giả: Lưu Quôc Hoà - truyện ngắn

Nhân bất khả hữu khinh ngạo thái

Nhiên bất khả vô khinh ngạo cốt)

                           Kinh Dịch 

Đêm đã khuya lắm rồi. Tiếng ồn ã của người , của xe đã lắng xuống. Dãy đèn đường toả ánh sáng vàng vọt, mệt mỏi hắt xuống lòng hẻm phố. Hình như ánh đèn cũng liu riu buồn ngủ theo người. Thỉnh thoảng một chiếc xe máy vù qua như lốc cuốn ,. Một vài gã say xỉn đi lại liêu xiêu, vẹo vọ. Sau bóng đèn đường, những dáng đi nhễ nhại và xệch sạc ấy in xuống đất thành những hình thù kỳ quái. Đâu đó thoang thoảng mùi ngô nướng, mùi bánh sèo của các quán ăn đêm. Không gian mơ đãng và khê nồng sau một ngày mưu sinh vất vả.

          Căn hộ số 18/2 ở phố NT vẫn còn sáng đèn và cánh cửa khép hờ. Bên trong là bóng mấy cô gái mặc áo hai dây thưỡn thẹo đi lại trong thứ ánh sáng nhàn nhạt của gian phòng tồi tàn được dán giấy rẻ tiền che đi những mảng tường tróc lở xây từ ngày bao cấp...Một chiếc biển hộp cáu bẩn bụi đường thập thõm dòng chữ: Thuỳ Mai - Gội đầu thư giãn mát xa.

          Căn hộ ấy có hai phòng. Phòng ngoài là nơi hành nghề của 2 cô gái từ quê ra tỉnh, phòng trong là nơi trú ngụ của mấy mạng người. Gọi  "phòng" là thuận miệng thôi chứ thực ra nó là hành lang hẹp bước chưa thoả một bước. Vốn dĩ nó sinh ra để làm lối đi chung cho mấy hộ. Khi lối đi được cải tạo đón con đường vừa mở. Chủ hộ xây bít lại để chứa đồ lặt vặt.

          Vợ chồng Hải Hồ dắt riu nhau đến đây thuê phòng với giá ngang bằng các bác xích lô. Ban ngày gửi con cho một bà mù rở nhà bên để đi ra chợ lao động ngáp vặt chờ người mua sức. Ban đêm ôm con cho vợ hành nghề. Cái thứ nghề mà danh mục cũng mới phát sinh từ ngày xã hội khá no ấm và bắt đầu cựa quậy những thú chơi phóng đãng.

                                                    2

Đêm nay thật khó ngủ. Hải Hồ trân trân nhìn lên trần nhà. Những chú Thach sùng bâu quanh chiếc bóng điện nhỏ như quả cà chua chiêm đang nhẫn nại rình mồi, thỉnh thoảng lại cắn đuôi nhau, có con tượt chân rơi xuống nền nhà...Hải Hồ thở dài nghĩ đến kiếp người trên cõi đời. Nghĩ đến sự trượt dốc sa chân xểnh bước như lũ thạch sùng đang đu ngược trên trần nhà kia. Ánh sáng vàng vọt của ngọn điện không đủ soi hết những đồ vật thảm hại trong nhà: Một cái quạt điện cổ lỗ, lũ nồi soong méo mó mở vung nằm tềnh hệch, mấy cái bát cóc gặm. Cái dây phơi căng ngang lại loè loẹt những bộ đồ lót phụ nữ đắt tiền. Những chiếc quần bò lửng ngắn đũng, những chiếc áo hai dây hờ hững, hở hang. Tất cả phô bầy cái sự trễ nải và thông thoáng, sự tiện lợi chóng mặt của xiêm y, cãi cọ nhau trong cảnh hổ lốn và kệch cỡm đến thảm hại.

          Chợt thằng cu nằm cạnh cọ quậy và đái dầm. Cái chim non  như luồng đạn bắn thẳng phun vào áo ông bố nằm úp thìa với nó. Chiếc chiếu cũ rich, khai khẳn và thủng một lỗ to ở giữa, te tua những cuống. Hải Hồ ngồi bật dậy, vê áo mình và vắt nước đái con. Bên ngoài những lời lả lơi ong bướm của mấy gã "tam kim"như mũi dùi nhọn xoáy vào não chàng:

          - Đứng yên nào em ...Từ từ để anh ngắm "hàng" của em tý nào...Những tiếng hấm hứ, hổn hển , rột roạt và lại một lời nhừa mhựa cất lên:

          - Sao đầu "ty" đen thế này! Mấy con rồi em! Thằng bất tài nào lấy em để em phải khổ thế này hở bông hoa đồng nội của anh? Bỏ bố nó đi, theo anh tha hồ mê tơi ăn mặc, đú đởn cho bõ kiếp người.

          Hải Hồ bịt chặt tai lại, hai dòng nước mắt lân rân bò trên gò má, chảy xuống môi mằn mặn...Vợ chàng đấy, một người vợ không giá thú và chưa bằng tuổi con út chàng mà chàng trót đa mang và cắn răng chịu đựng vì  không thể giải thích bằng lý lẽ thông thường. Nó không có một công thức hay định luật nào để bấu víu vào mà giải thích, chỉ biết rằng đã mấy năm rồi, chàng bỏ cửa lìa nhà, xa rời tổ ấm bình yên đã bao năm vun vén để sống chui sống lủi, dạ rât vỉa hè góc chợ cùng mối tình không lấy gì làm thơ mộng. 

                                             3 

 Con người do ông trời đỏng đảnh sinh ra. Ông đỏng đảnh nên sản phẩm của ông nặn ra cũng đỏng đảnh, cái đỏng đảnh tai quái nhất là tình yêu, cái ngớ ngẩn nhất trần gian là tình yêu, cái mù quáng và đầy cảm tính nhất cũng là tình yêu...Nó làm con người lú mụ trước phải trái, trắng đen, thật giả. Người ta uống thuốc độc, thắt cổ tự tử cũng vì yêu, đốt cháy sự nghiệp vì yêu. Trước tình yêu mấy ai đặt lên bàn cân điều hơn thiệt. Cả dân đen và vua chúa, cả người khôn lẫn kẻ dại cũng bị cái vòng kim cô ấy cương toả...Khổ lắm ông giời ạ! Đặc ân của ông là sinh ra giống người nhưng có khi tình yêu là tội lỗi mà ông bỡn cợt quàng vào cổ họ 

                                                       4 

 Nhà hàng "chiều tím" đêm ấy có một toán khách sang trọng vừa hạ cánh. Những công tử Bạc Liêu bụng phệ núng nính bước đi, kệnh rệnh những cặp số, máy ảnh, những cái khoát tay đầy quyền lực vung vinh. Họ hào nhoáng và thơm tho. Đi bên cạnh họ là một Nhà thơ lòng khòng chân cò tay nhện, loã toã cái quần bò cũ tuột chỉ nhiều đoạn, áo bỏ ngoài quần, chân đi dép tổ ong, thỉnh thoảng lại thò tay gãi mái tóc tổ quạ đã lốm đốm mấy sợi bạc. Người ta khó đoán tuổi anh ta vì áo quần đầu tóc đều nhôm nhoam. Ai trong cái thị trấn tỉnh lẻ này cũng biết tài thơ của chàng Thy sỹ nghèo có tên là Hải Hồ. Sự có mặt của chàng trong toán khách kia cũng có nhiều lý do. Có người thì ngưỡng mộ tài thơ nhưng đa phần là thích ăn nhậu với anh chàng ngồ ngộ, hâm hâm, liêng biêng Thy sỹ . Họ mời anh nhậu cùng cũng giống như mời một con sáo biết nói tiếng người, con chó, con mèo biết làm trò mua vui. Nói điều này hơi bất nhẫn nhưng quả thật nó như vậy. Đám bụng phệ kia gã nào cũng sẵn sàng mở toang cặp số, rút soạt những tấm danh thiếp Giám Đốc hay Trưởng phòng đang đương nhiệm để hưởng lương ngân sách. Sẵn sàng huơ lên những bằng cấp mua bằng tiền qua tại chức, chuyên tu. Đám trưởng giả ấy vừa được Hải Hồ biên tập cho mỗi người một tập thơ hay hồi ký để triềng ra bất cứ lúc nào doạ đồng nghiệp, cấp dưới hay kính biếu quan trên để tỏ ra ta đây cũng đầy đầu chữ nghĩa. Công việc ấy đã đem lại cho chàng Thy sỹ vô công rồi nghề có khoản thu nhập thoát chết đói. Nhân buổi chiều thứ bảy nhàn rỗi, họ tổ chức "Hội thảo tác phẩm"...Sự có mặt của Hải Hồ trong đám trọc phú kia có thể giải thích vắn tắt , nôm na là như vậy. Con Hoạ my già lướt mướt, nhệch nhạc đi trong đám hào hoa kia như con cú đi lẫn trong đàn công với mỏ nhọn đuôi dài sặc sặc

                                                       5 

Bữa nhậu đã nửa chừng. Có nghĩa lúc này người ta vui thú lắm. Có nghĩa lúc này ông trời chỉ to bằng cái vung nồi đất và đập một cái là ông ta vỡ tanh bành. Có nghĩa là biển Đông bằng cái vũng trâu đằm quá lắm là bằng cái ao con và nước chưa sâu quá đầu gối. Bao việc hệ trọng cũng chỉ cần phán một câu xanh rờn: "nhạt toẹt". Bao nhiêu cái phiếu chi do thư ký tũn tỡn váy ngắn chìa ra đều "quyết" ngay tắp lự...Bị chuốc rượu bí tỷ, chàng Hải Hồ bỗng mình quan trọng nhất thế gian. Thơ phú của mình cũng vào hàng kim cổ , thậm chí "thiên cổ hùng văn" . Chàng hiu hiu con mắt đa tình ngắm đàn bướm trắng bướm nâu vo ve bưng đồ nhắm. Cọ những cặp vú tố hộ, nóng hôi hổi quanh người mình. Những cặp mông cớn cang theo nhịp bước. Có em cầm khăn lạnh ghé sát vào mặt, nũng nịu  kỳ cọ cái cổ nhầy nhỡ mồ hôi dầu của chàng...Ôi ! Vua chúa cũng thế là cùng chứ nước mẹ gì. Trước mắt chàng chỉ có rượu , nàng thơ, gái đẹp...Chàng vô thức thò những ngón tay chuối ngự của mình kéo các em vào lòng  và tần mần du lịch bàn tay trên cơ thể . Trước mắt chàng bao thi sỹ bụng phệ Ngọc Hoàng thượng Đế vừa di rời xuống trần gian lảo đảo đứng lên đọc thơ , lảo đảo ngồi xuống rồi lại lảo đảo đứng lên...Họ đọc cái con chó gì ấy nhỉ? Ừ! Toàn là những câu thơ do chàng đẻ ra và bán cho họ...Tự dưng chàng thấy mình oai lên một bậc nữa. Vậy là cái vườn chữ nghĩa của nhà trồng được vặt dần bán già bán non cũng có giá đáo để, thế mà con vợ ngu si nhà chàng cứ khạc nhổ vào cái vườn ấy và khạc nhổ vào cái mơ đãng phiêu bồng trong con người mang tâm hồn Thy sỹ như chàng...Chàng thấy con vợ nhà quê sao đáng ghét, đáng đào ba thước đất vùi xuống quách cho xong... Sao nó cứ nhệch cái mồm ra mà ca thán, lời nó sao cứ xoe xoẻ như bát vỡ...Đấy nhìn mà xem, bao thằng hét ra lửa ở cái đám quan trường tỉnh lẻ này còn cúc cung ca tụng chàng ., thế mà vợ hắn ở bên núi Thái Sơn mà cứ tưởng đống mối. Ở bên mặt trời hồng mà ngỡ cái niêu đất bán 2 ngàn ngoài chợ...Ội ! Chán vô cùng là vợ! Sao đời lại cứ phải lấy vợ làm gì cho nó tội nợ. Chàng thấy sai lầm lớn nhất của đời Thi sỹ là có vợ... 

                                                          5 

Cái bá cổ bất thần oà đến làm chàng chợt tỉnh cơn mộng mỵ. Chàng cố vén cái mắt ướt nhèm rỉ cò ke nhìn người đẹp thủ thỉ bên tai mình:

          - Anh yêu! Đã đến công đoạn khác rồi đấy! Ta về phòng đi anh! Các xếp cử em hầu hạ anh chu đáo! Nào ! Anh yêu đứng lên! Ngoan nào , để em dìu anh. Thế ...thế .

          Bàn tiệc ngổn ngang dày dép. Chàng xỏ bừa vào chân, một bên dầy, một bên dép tổ ong và bước vô hồn theo người đẹp. Cái pha hài độc nhất vô nhị ấy làm mồi cho một tràng pháo tay cổ vũ cuồng nhiệt, tràng vỗ tay ấy nâng bước chàng và theo đến phòng nghỉ gác 2, đến khi cửa kính và tấm rèm đóng lại mới phụt tắt...Chàng vật mình trên tấm đệm  và co quoắp như con tôm luộc miệng còn lảm nhảm:

                   - Mẹ kiếp! Đời là cái đếch gì...Ôkê đi...Bé tý.

Đêm ấy chàng bên người đẹp thơm tho và ẩm ướt, nồng nàn trong sự dâm đãng chết người. Mê đắm vì tài nghệ làm tình siêu hạng. Ả Cave tham lam như một con chó cái liếm nhẵn mọi vệt mỡ trên cái thớt., cái thớt ấy là chàng, mục ra, rỉ đi, quằn quại khoái cảm và kiệt quệ thân xác. Trong cơn nửa mê nửa tỉnh, Chàng mơ thấy vợ mình.  Quả thật có nếm  vật sớ miệng mới thấy cái vị lạ của ái tình mà vợ chàng chưa bao giờ ban phát cho chàng như thế. Chàng nhớ lại những giây phút "Có lửa mà không có hương" với vợ, chàng thấy mình là kẻ đi hiếp dâm chứ có phải đâu là ân ái gối chăn...và thế là tư giây phút này chàng thy sỹ ước ao một khoảng trời mới đầy mê đắm và loạn cuồng tình ái... 

                                                          6 

Khoảng trời ấy của chàng hiện nguyên hình là gia cảnh đêm nay. Là sự đèo bòng với một cô gái, trong một lần đi Mát xa với bạn, chàng đã mang theo làm vợ không giá thú.

Cô vợ chàng còn trẻ và cuồng nhiệt ái ân. Cô ta kém chàng gần hai con giáp và chàng cũng nhiều hơn "bố vợ" mấy tuổi. Họ lôi tha nhau qua các tỉnh và thuê nhà. Cô vợ vẫn phải làm nghề mát xa để kiếm sống. Cái nghề ai cũng hiểu: một kẻ chưa thoát mù chữ, không học nửa giờ nghiệp vụ thì xoa với nắn cái gì....Khốn nạn, cái danh mục nghề với hai chữ gây tượng hình rất chi là dâm dục kia mà vợ chàng đang "tác nghiệp" là thứ mại dâm trá hình mà chính chàng phải thoả hiệp để vì áo cơm, vì đứa con nhỏ không rõ của chàng hay của kẻ cha căng chú kiết nào trên mặt đất đầy  ong bướm trăng hoa. Cái bản ngã Thy sỹ của chàng là thế, đa mang thì dám đèo bòng, cắn răng vào mà chịu trách nhiệm với sản phẩm đã trót lỡ trăng hoa. Cái sinh linh bé nhỏ như hoa như nụ kia cần có chàng. Nó không có tội tình gì cả. Chàng yêu cả người con gái mà chàng trót đa mang. Nếu không có chàng, cô bé kia lại trượt dài trên con đường tình ái đầy lừa đảo của bao kẻ chơi hoa bẻ cành, không dám xả thân vì yêu...Còn mái ấm của chàng ư...Càng xa vợ anh càng thấm thía cái tội lỗi trăng hoa trót dại của mình. Giá như vợ đầu hiểu và thông cảm phần nào về sự đa đoan nghệ sỹ, mở một lối thoát khả dỹ để chàng làm trọn cái nghĩa của kiếp đàn ông văn nghệ sỹ thì chàng phần nào vợi đi vò xé lương tâm. Vợ chàng không hề tha thứ. Mỗi lần chàng nhớ tổ ấm cũ lần về là một trận lôi đình tá hoả của người phụ nữ bị chồng phụ tình...Cứ thế, cứ thế, chàng đành lầm lũi mà chấp nhận ngôi nhà mới cho dù đó là ngôi nhà dột nát xiêu vẹo. 

                                                          7 

Bây giờ thì chàng an phận với kiếp của mình rồi , không khác được. Áo cơm nó đè lên vai chàng, làm hoen rỉ những thiên bẩm thi ca  vốn có. Mấy năm rồi chàng không viết nổi bài thơ nào, cũng chẳng còn thời gian đâu mà cảm tác. Ban ngày thì phơi mặt ngoài chợ người để bán sức lao động. Ban đêm ôm con giấu mặt nằm trong cái quan tài bằng bê tông. Bịt tai khỏi nghe tiếng động bên ngoài, không dám ló mặt sợ  mất khách đến lả lơi với vợ...

Nằm ngửa mặt lên trần nhà đêm nay, chàng ước ao mmột phút nào đó bỗng rưng động đất. Chàng sẽ yên phận trong cái quan tài bê tông này để thoát khỏi kiếp người.

Đêm đã khuya. Không biết đây là toán khách thứ mấy lại mò đến. Bên ngoài lại có tiếng đàn ông cất lên: Ngoan đi cưng! Đứng yên nào! Xem nào.

Thằng cu con lại đái dầm. Chàng lại vê áo vắt cho khô.  Hình như đêm nay nó hành hạ chàng ba bốn lần như thế. Chàng lầm bầm không ra tiếng:

                   - Bố sư cha mày con ạ! Ăn mặn lắm vào để uống nước mòng bụng...sao mà đái lắm thế hở giời.

:Lời nguyền chưa hoá giải:..

Tác giả: Lưu Quôc Hoà

Lão Vược là người cao tuổi nhất làng Đường. Người cao niên thường hay bị lớp bụi thời gian phủ mờ ký ức đã qua. Lão lại khác. Lão nhớ rành rọt những  chi tiết cóp nhặt từ ngày còn để chỏm, diễn ra ở làng Đường. Cái làng trồng toàn mía và ngô. Trẻ con người lớn lúc nào cũng không để chân tay nghỉ ngơi bằng nghề đan đó tôm kiếm sống. Con sông Châu Giang chảy qua làng là dải bao xanh có vô vàn những mảnh đời lênh đênh chài lưới tụ bạ ở các lùm cây ven bờ. Đấy là dân vạn chài đời nọ nối đời kia quần tụ nơi khúc sông, sống nhờ tôm cá và khi chết cũng không kèn trống, ban đêm lẳng lặng ghé thuyền chôn trộm người quá cố để tránh sự nhiễu sách, vòi vĩnh của chức dịch trên bờ...Lan man lão kể khi tôi gợi chuyện. Cái chuyện "đời xửa đời xưa"...

Lão Vược nghiêng chai rót đầy oà  chén tôi, chén lão. Chai rượu tôi mang theo để dẫn dụ lão kể chuyện đã vơi quá nửa mà vẫn không vào được đề. Trong gió sớm dòng Châu, Ánh mắt đã ngả màu cùi nhãn xa xăm và đượm buồn, lão nhìn vời vợi về thượng nguồn, nét mặt già nua với những đốm tàn nhang, những vệt bã chè to như đồng xu, như vết khắc thời gian tạc lên cây cổ thụ đã đã qua nhiều trận cuồng phong trời đất và hôm nay trụ lại giữa cao xanh . 

      Ngày xửa ngày xưa...

Con sông vẫn chảy như thế này và mặt trời cũng mọc như hôm nay...Lão đủng đỉnh đắm vào hồi ức ... Làng Đường còn thưa người lắm. Cả làng có chưa đầy hai chục nóc nhà tranh. Đàn ông búi tó củ hành và vận khố hoặc mặc quần "la toạ". Quanh năm ngày tháng, sợi dây lõi bằng gai lúc nào cũng để nươm dưới rốn. Khi mặc quần người ta xỏ chân vào và lẳn vài nhát nên lúc nào cái quần cũng loã toã ống thấp ống cao. Đàn bà mặc váy quai cồng  màn tà lồng, đâu kiểu cách xanh đỏ như các cô các cậu bây giờ. Ăn lấy chắc, mặc lấy bền, cứ kín cái thịt và tiện lợi lúc làm đồng hay đi bắt cua bắt cá là được . Làng có một dúm đàn ông , đàn bà, ai sống được năm chục tuổi là thọ lắm rồi. Cứ  ngoài 40 tuổi là lo sắm cỗ hậu sự bằng gỗc gạo gỗ sung để chuẩn bị chui vào theo ông bà ông vải. Đấy là nỗi lo to nhất của một kiếp làm người theo cái vòng luân hồi, ai cũng phải một lần qua cầu sinh tử. 

          Trẻ con trong làng hiếm lắm. Đẻ thì sòn sòn đấy mà có nuôi được đâu. Trẻ mỏ chết cứ như đùa. Người ta quy tất cả là do ma tà nó ám chứ có Bác Sỹ đốc tơ như bây giờ đâu. Muốn chơi chắt chơi chuyền phải chạy từ đầu xóm sang cuối xóm tìm bạn...Lan man lão Vược kể với tôi về Làng Đường dị mọ, mông muội ngày xưa.

          Câu chuyện tôi muốn tọc mạch hôm nay không phải là sự tích điền dã mà là về chuyện người, cái chuyện tình duyên đôi lứa giữa làng Đường và làng Lạc Hoà,  cách nhau chưa vượt tầm một câu gọi đò không cần cả hơi cho lắm...Chẳng rõ đến bao nhiêu thế kỷ nay giữa hai làng chưa có mối tình nào nên đôi nên lứa, bao nhiêu nước mắt, bao kẻ bỏ làng vì yêu. Có đến mươi vụ quyên sinh vào dòng nước Châu giang vì lỡ lời thề ước, có đôi lứa cùng buộc chân tay lao xuống sông để vẹn lời thề non hẹn biển...Tất cả không ai dám vượt vòng cương toả lễ giáo mà căn nguyên là có một lời thề nguyền vô lối từ tổ tiên cụ kỵ để lại đến ngày nay.

  Lão Vược là một nạn nhân của lời nguyền ấy. Lão năm nay 93 tuổi mà vẫn cô đơn. Lão sống bằng nghề đan đó tôm trong một ngôi nhà tạm bợ bên dòng Châu trong mát. Dòng sông thơ mộng ấy không cứu nổi tình yêu của lão với cô gái làng có cái tên là Then đẹp người đẹp nết. Cụ Then Làng Đường đã qua đời đến mươi giỗ rồi...Có bất nhẫn quá không khi tôi gợi lại nỗi đau mà  cuộc đời hai cụ phải câm nín. Một người đã yên phận dưới mồ và một người vẫn tồn tại chốn nhân gian. Giữa đất làng Đường nhộn nhịp thời mở cửa.

Dễ đến mấy buổi, tôi cứ vòng vo lượn lờ bên  lề chuyện tình thâm cung bí sử của các cụ...Sau một đêm trằn trọc. Tôi thấy mình còn thiếu một cái gì đó, rất mơ hồ. Đúng rồi! Thử xem, những oan hồn thiêng lắm. Tôi chưa đến thắp hương cụ Then ...và tôi đã đến mộ cụ khấn vái...Trong chiều tà hoàng hôn sắp tắt. Nén  nhang tôi thắp bên mộ cụ Then vấn vít khói bay, vẽ lên thinh không nhiều dấu hỏi. Tôi khấn cụ hãy phù hộ cho tôi được nói về những điều đã đi qua và vẫn còn tồn tại ở hai làng, để thành bi kịch không đáng có, một nghịch lý, nghịch cảnh, nghịch luân thường đạo lý vẫn vô hình tồn tại, táp vào đời sống con người. Sự hù doạ vô lối và vô nhân đạo của nó đã đập bể bao nhiêu tình yêu thơ mộng.

          Chín nén nhang ngún khói và  đến nửa chừng thì bùng lửa. Có phải lời khấn của tôi đã linh nghiệm. Bó đuốc nhang nhảy nhót cháy. Tàn rơi xuống đống vàng mã bén lửa. Người ta bảo đó là điềm "hoá" của người âm, người trần đã giao hoà ứng nghiệm. Tôi gai người. Làn gió sông thốc lên và con sóng lóc bóc xô bờ. Tôi đi dọc triền sông và tìm về ngôi nhà, ở đấy có lão Vược ngồi như pho tượng, chuốt từng sợi nan tre trong ánh sáng ma quái của ngọn điện giờ cao điểm...Nhìn tôi, lão như choàng tỉnh như sau một giấc mơ dài. Lẳng lặng đứng lên khêu to ngọn đèn hạt đỗ lom dom cháy trên ban thờ. Thắp thêm tuần nhang, lâm râm điều gì đó tôi nghe không rõ. Chiếc đĩa con mốc thếch có một chiếc khăn bao xanh. Lão ngần ngừ bảo tôi: "Hôm nay giỗ bà Then! Nhanh thế...Đã 11 lần giỗ rồi! Chú ở chơi uống rượu, có mỗi một thân đàn ông, đàn ang, tôi chẳng bới vẽ cỗ bàn, tôi đặt con mẹ Lãm hàng phở một con gà luộc. một đĩa xôi tịnh để cúng bà ấy.Tí nữa nó đem vào".

         Lại thêm một điều linh ứng. Tôi có mặt trong nhà lão đúng ngày giỗ bà Then. Nhìn lên ban thờ, không thấy bức di ảnh nào, mà cũng đúng thôi. Có chăng nữa ông cũng không có quyền đặt bà trên ban thờ. Ông bà yêu nhau suốt cả cuộc đời mà không thể chung mái nhà dưới gầm trời oan nghiệt. Ông đặt ảnh bà trong tim suốt những tháng năm dài đằng đẵng. Bà cũng vậy. Tôi tin tình yêu ấy. Cả hai người sẽ tìm lại nếu con người có kiếp thứ hai. 

          Chai rượu vơi dần. Trong túp lều ven sông đêm nay, tôi và lão Vược là đôi bạn vong niên. Rượu vào làm người ta hay nói thật lòng mình. Câu chuyện bị chôn sâu, nén chặt, được hơi men pha loãng và tràn ra theo lời kể của một người già sống non một thế kỷ...

Tôi quen bà ấy trong vụ cấy chiêm thuê cho nhà Cự Liển. Nhà lão ta sau này bị quy oan là địa chủ và bị xử bắn. Tội cho lão chứ lão ta cũng khổ như chúng tôi, mà có khi còn khổ hơn ấy. Lão cũng cổ cày vai bừa và đầu tắt mặt tối  vì  ruộng cả ao liền đời bố để lại. 

          Bà Then là thợ cấy và tôi là thợ cầy thợ bừa. Cái thứ ruộng đất pha cát cứ phải bừa đến đâu cấy đến đó, để qua đêm hôm sau cát lắng là không thể cắm mạ được. Trong tốp thợ cấy ấy có một cô thôn nữ làng Lạc Hoà mắt sắc dao cau. Cô ít nói và hay liếc xéo sang tốp thợ cầy có ba lực điền và ba con trâu dái đang bì bọp, uồm ào kép ruộng.

Tốp thợ cấy có bà Đĩ Căn giỏi hát ví. Giữa buổi, bà ỏn thót, véo von vắt miệng ghẹo đám thợ cầy: 

             Ở đây đất đỏ mây vàng/ Em đi cấy mướn gặp chàng cầy thuê / Thương nhau ta rủ nhau về / Cấy mướn là vợ cầy thuê là chồng. 

          Bị hai lão đùn đẩy, tôi nóng tai cũng chõ sang đấu khẩu: Lấy anh em biết ăn gì/ Lộc sắn thì chát lộc si thì già / Lấy anh không cửa không nhà / Không cha không mẹ em đà cậy ai...

           Cứ thế nhí nhóp câu mốt câu hai quẳng sang nhau. Đến giờ giải lao cùng ăn cơm bên gốc đa giữa đồng. Cô Then đăm đắm nhìn tôi. Tôi không cha, không mẹ, cha mẹ tôi chết dịch đậu mùa từ ngày tôi còn chưa đầy một tuổi nên thua chúng, thua bạn. Có lẽ câu hát đối vô tình động lòng  thương của cô gái làng Lạc Hoà. Tôi biết cô là con ông Cả Nhẫn làm nghề chở đò dọc cho những tay buôn mía về lò mật Vĩnh Trụ - Cầu Không...Nói thì nó dài lắm và không biết nói thế nào cho anh hiểu, chỉ biết rằng tốp thợ cấy thợ cầy hết mùa làm mướn ai cũng thương nhau. Cái tình thương thầm lặng không biết tỏ thế nào, chỉ thấy xa là nhớ nhau lắm, mong được đi làm thuê với nhau lắm. Nhiều buổi tôi cứ ngao ngẩn vào ra trông về phía làng Lạc Hoà, ở luỹ tre bên ấy có Then của tôi đang đeo chiếc giỏ mõm bò ra đồng Quan mò ốc...

Hình như ông trời sắp đặt cho chúng tôi được ngỏ lòng với nhau...Chiều ấy, ong ong , tai tái màu chì. Những đám mây mọng nước   đen kịt phía đông. Những ánh chớp như trẻ con quăng thừng  nhảy dây, thỉnh thoảng vắt lên nhoang nhoáng. Một trận giông to, ngày ấy người ta gọi là "rồng hút nước"quét ào ào qua cánh đồng Quan. Then của tôi đang mải mê mò ốc nên chạy không kịp. Cô ấy bám vào con ngòi và cúi mặt để tránh cơn lốc kinh hoàng đang xiết trên đầu. Quần áo tơi tả và cơn lốc tung lên vật xuống  không biết bao lần. Đứng ở rặng tre đầu làng tôi nhìn thấy tất cả. Tôi lao về phía cơn lốc "rồng hút nước'' đang cuốn nhiều người ra vệ sông. Mấy làng nháo nhác tiếng kêu thét. Người ta mang nồi đồng, nong nia, váy đụp ra mà gõ, mà huơ lên xua đuổi cơn cuồng phong đang tàn hại trần gian. Quên cái sợ. Tôi lao ra đồng khi cơn giông quái ác đổi hướng. Tôi nhặt được Then và bế thốc về phía cây đa. Cô ấy không còn mảnh vải che thân, ngất lịm trên tay tôi. Tôi bứt tóc ngôi và hú hồn khản giọng...Trận "rồng cuốn" ấy, làng tôi mất hai đứa chăn trâu ngoài đồng và làng Lạc Hoà bị cuốn đi mấy ngôi nhà tranh và mấy  người bị văng xuống sông Châu chết đuối...Tôi và cô Then phải lòng nhau từ đấy. Chúng tôi đi đi về về bên nhau mỗi buổi làm đồng mà không sợ lời dèm pha của dân hai làng. Tối tối chúng tôi xuống đò và thay cha chở mía về Cầu Không  - Vĩnh Trụ ...Nửa năm đi qua, chúng tôi định thành gia thất thì trưởng họ cô ấy gọi cả hai bố con  bảo rằng: "Nếu ông Cả cho chúng lấy nhau thì hãy sắm lễ mà xin ra khỏi họ, khỏi làng. Xưa nay trai gái 2 làng có ai dám thành hôn đâu. Lấy nhau là Thành Hoàng 2 làng vật chết tươi. Cố mà lấy, sinh con sẽ quái thai hay bán thân bất toại. Đôi ấy sẽ lụn bại diệt vong". 

       Lão ngừng chuyện và tợp thêm ngụm rượu. Mấy vết chàm mốc trên gương mặt chân chim hình như cũng động cựa  ...Hình như lão khóc hay sao ấy?... Tôi chưa nhìn thấy người đàn ông gần trăm tuổi nào khóc nên chẳng rõ có đúng không. Chỉ thấy lời kể lão ngèn ngẹn, ngập ngừng và lặng lẽ quay đi chỗ khác...

Tôi gợi chuyện khi lão vừa  nhấp thêm chén rượu và vân vê nhét vào nõ điếu mồi thuốc lào.

Lời nguyền gì mà kinh thế.? Thù nhau gì mà hãi thế hở cụ? Đến ta với Pháp, với Mỹ còn chung sống hoà bình được thì chuyện làng nọ làng kia trong xã là chuyện nhỏ...

Anh ở nơi xa về đây nên anh không biết đấy thôi! Không phải thù nhau mà do quá yêu nhau mới nên chuyện. Nó diễn ra lâu lắm rồi. Tôi không biết mà bố tôi cũng không biết, chỉ đời này  kể lại cho đời sau. Mỗi đời lại thêm mắm thêm muối cho nó hệ trọng ly kỳ mà doạ nhau, mà làm khổ, làm hại nhau.

Lão Vược lại uống rượu tỳ tỳ. Hình như có âm hồn bà Then xui giục, nên đêm nay lão uống để cởi lòng mình với ông khách mới quen làm nghề chữ nghĩa...

Ngày xửa ngày xưa hai làng chỉ cách nhau một bãi ngô. Trâu bò gà lợn đến ngày động dục vẫn lạc sang làng nhau và được đem trả lại. Bên Lạc Hoà trồng mía và bên Làng Đường trồng ngô và đan đó tôm. Hai làng có hai ông tiên chỉ. Làng Đường này là cụ Cử Mền và bên Lạc Hoà cụ Tú Trúc...Chả rõ năm ấy vào đời nào, hai làng vừa qua dịch đậu mùa nên chết vãn cả. Lúc đầu còn hờ khóc được. về sau chết nhiều quá, cứ tắt thở xong là bó chiếu đem chôn. Người ta vẫn không biết đây là bệnh gì, chỉ quy là "ôn vật"Ai còn sống, vẫn đi đưa đám cho đúng  "nghĩa tử là nghĩa tận" và biết rằng thể nào mai kia người khác lại đi chôn mình. Già nửa làng chết và đem vùi ở bãi Mây ngoài Đồng Mía. Ai may mắn thoát chết nhờ vài thứ lá lảu cụ Lang Lùn thì sau này mặt giỗ tổ ong. Hai làng đi chôn nhau và thương lẫn nhau. 

          Qua đợt dịch là gần đến Hội việc làng 12 tháng 6 hàng năm. Hai cụ tiên chỉ thấy còn một nhúm người, bàn nhau tổ chức Tế chung...Hai làng ngả lợn cúng thần linh để cầu tai qua nạn khỏi. Bữa cỗ giữa đình ấy hai cụ tiên chỉ hai làng gọi là ăn giao hảo và kết nghĩa anh em. Hai làng coi nhau như ruột thịt cùng cha mẹ đẻ ra nên không được kết hôn với nhau. Ai trái lời nguyền là loạn luân và Thành Hoàng hai làng vật chết. Điều ấy được ghi trong Hương Ước hai làng.,,Khổ lắm anh ạ! Cái lời nguyền ấy làm tôi và bà ấy không lấy được nhau. Chúng tôi chẳng thiết sống nữa nên sinh ra liều. Một hôm chúng tôi rủ nhau buộc chân buộc tay nhau đến trước tam quan bên dòng Châu giang để cùng tự vẫn. Ngôi chùa vắng ngắt, vắng tê. Đã qua Tết nhưng trời còn rét. Chúng tôi thắp nhang khấn Thành Hoàng trước khi lao xuống dòng nước. Chẳng biết làm sao. Khi nén nhang vừa cháy. Cô ấy ôm chầm lấy tôi và nức nở: "Anh ơi em sợ lắm! Em không muốn chết đâu! Thôi không được làm vợ anh thì cho anh cái trinh, cái tiết của em".  Cô ấy cả quyết lôi tôi vào bụi ngâu trước cửa chùa. Ghì chặt lấy tôi và lột quần áo cả hai người...Chúng tôi bên nhau như thế suốt đêm và cho nhau tất cả. Gần sáng hôm ấy, cô lại lay tôi: " Cứ nữa đi anh! Nếu Thành Hoàng có thiêng thì vật chết luôn hai đứa, còn nếu sống thì Thành Hoàng thua ta. Đã thua thì ta không sợ Thành Hoàng. Chả tội gì mà chết. Mà có chết thì chết trên bờ để đem chôn Bãi Mây chứ chết dưới sông thuồng luồng nó gặm mất xác".

         Chúng tôi không chết đêm ấy là do chúng tôi liều. Ở đời đôi khi liều lên lại được việc anh ạ! Tôi xung phong đi cướp chính quyền Cách Mạng Tháng Tám, rồi vào bộ đội, rồi Nam tiến và bị giặc bắt làm tù binh, đầy ra Côn Đảo. Bà Then vẫn chờ tôi. Mãi sau này Xã có giấy báo tử tôi, bà mới lấy chồng. Chồng bà Là ông Vọng cũng là bộ đội miền nam ra tập kết. Ông bà ấy chỉ đẻ được một cậu con trai. Ông Vọng cũng mất sáu bảy năm rồi. Thằng Vinh con ông bà coi cả ba chúng tôi là bố mẹ...Nó ở bên Đức bên Tây gì ấy. Nó mời tôi sang đấy với nó nhưng tôi không chịu. Sang Tây làm gì. Tôi cứ ở đây khi nào chết về chôn cạnh ông bà Vọng. Tôi không còn họ hàng, máu mủ nhưng cánh thôn, cánh xã nó quý lắm! Tôi đã di chúc cho thằng Phác trưởng thôn rồi. Chết xin làng xóm cho ở gần bà Then ông Vọng...Cái nhà, cái vườn này nhờ thôn bán đi cho dự án dự iếc gì ấy. Được bao nhiêu, cho tất nhà mẫu giáo".

Hôm sau tôi gặp Phác. Nghề làm báo cho tôi cái tính hay cọ sát và tò mò. Tôi nhờ Phác dẫn lên uỷ ban và xin cho xem sổ lưu trữ  đăng ký kết hôn sau bao đời chủ tịch xã. Anh cán bộ Tư pháp tiếp tôi và đưa sổ đăng ký kết hôn. Quyển sổ dày cộp và nặng trình trịch ấy. Không có một đôi lứa nào của hai làng ký tên để thành vợ thành chồng. Đấy là chuyện có thật mười mươi giữa thanh thiên bạch nhật của thế kỷ 21...Thế mới biết những lề luật bất thành văn ở miền quê này đã tác oai tác phúc lâu bền đến vậy. Nếu Thành Hoàng có thật trên đời thì Ngài cũng lầm lẫn  thật tai hại: Ăn nằm, trao thân gửi xác cho nhau thì vô tội nhưng song hành với nhau trong cuộc đời là có tội...Ngài Thiện hay Ác, Ngài vô lý hay có lý? ...Hai làng vẫn tuần rằm lụp cụp khấn Ngài cơ mà, sao ngài chẳng động tâm.

Hai làng vẫn bên nhau. Hương ước hai làng hôm nay không còn điều khoản "cấm kết hôn" nhưng chưa ai dám phạm vào lời nguyền vu vơ vô lối. Cả cán bộ Đảng viên cũng chưa ai dám xé rào, tiên phong làm cuộc cách mạng về tập tục.

        Ngôi chùa, nơi ông Vược bà Then đến ngày xưa vừa tôn tạo lại. Bên bờ Châu Giang lộng gió. Những đôi trai gái vẫn nặng lòng yêu nhau. Họ không có tội. Con người sinh ra là yêu nhau và tồn tại giống nòi vậy chẳng cớ chi họ sợ Thành Hoàng. Họ vẫn thầm vụng trao gửi cho nhau tình yêu trước cửa chùa. Cái hồn nhiên đáng yêu của họ vẫn là mối lo ngại vu vơ của bậc sinh thành.

Ông Vược nhẹ nhàng nâng tấm khăn bao xanh. Kỷ vật tình yêu mà ông đãcất giữ lâu ngày, đặt vào chiếc hòm gỗ sung mốc thếch. Tôi dặn Phác : Bao giờ ông về  với tổ tiên, lúc khâm liệm nhớ gói theo ông .    

          Vườn ngâu trước cửa chùa tưới nước sông Châu, xanh mỡ màng và đang vươn tán. Tôi vào lễ chùa. Bao nhiêu trai thanh gái lịch của hai làng cũng vào theo...Họ thắp hương vái Thành Hoàng và chỉ một lát sau tiếng cười của họ đã cất lên sau vườn

Buồn vui làng xã - Kí sự:..

Tác giả: Lưu Quôc Hòa

Hôm ấy tôi đi chợ thay cho vợ. Con đường làng mà tôi vẫn đi ngày mấy lượt ấy sao hôm nay có gì hơi là lạ. Thỉnh thoảng lại thấy một số người làng xúm xụm thầm thào. Tôi nghĩ bụng: Chắc đêm qua Công an lại sờ gáy một ổ cờ bạc, hay lại có bà cô ông mãnh nào vừa xét nghiệm thấy HIV, hoặc giả thằng nào vừa trúng đề, trúng lô...Ôi thôi nhiều chuyện lắm. Cái làng có chưa đầy 300 hộ và gần 600 nhân mạng này lắm chuyện thời sự  và xôm trò lắm. Nó chẳng còn bình yên như những năm trước đây. Điều dễ nhận biết nhất là ánh mắt nhìn nhau hằm hè và cảnh giác bởi nhà ai cũng có vô khối chuyện thâm cung bí sử để vo nén trong 4 bức tường không muốn cho ai chia sẻ hay nhòm ngó...Tôi trấn an mình như thế để hoàn thành phần việc vợ giao...Cô vợ tôi hôm nay đi đại hội Phụ nữ xã. Từ sáng sớm đã dậy vôi ve, bỏ túi sách cái áo dài, chắc đến hội trường mới đổi lốt.

          Lang thang chè rượu. Tầm 9 giờ mới về. Định bụng hôm nay vắng người, viết lách tha hồ thuận lợi...Ấy là tôi nghĩ như thế.

                   Lạ chưa! Chuyện động trời gì đây. Con đường vào làng ken cứng cả những người là người. Họ nêm vòng trong vòng ngoài như kiểu đi xem hát xẩm chợ. Có tiếng một phụ nữ khau khau, khan khan gào thét:

-Tao chửi đấy! Tao tọng vào mồm chúng mày cái  ấy cái nọ đấy xem làm gì tao nào! Tiền tao có phải là lá đa đâu, tao bỏ cho chúng mày ăn nhậu, chơi gái, ăn rồi lại quệt mỏ à! Ăn hiếp bắt nạt tao à...Ới làng nước ơi! ới giời cao đất dày ơi...

          Cái máu nghề nghiệp thúc dục. Tôi lặng lẽ bật nguồn cái máy ảnh kỹ thuật số trong túi quần, vật bất ly thân của nghề làm văn, làm báo. Vừa hay có một đoàn 4 chiếc xe máy với 8 Công an cầm dùi cui đỗ khựng. Tôi nghĩ bụng: Con mẹ T quả này gặp hạn rồi! Bố láo bố lếu quá thể. Ai lại chửi cán bộ xã lèm lèm. Mà mấy lão xã nhà ta sao hiền thối ra thế, để nó cho ăn bao nhiêu của ngon vật lạ! Trói gô nó vào chứ để như thế còn gì là thể diện ...Công an chính nghạch đây rồi! Chết cha rồi ! đi chăn kiến, bóc lịch như chơi...

          Mụ ta càng gào lên xoe xoẻ. Vòng người kéo đến mỗi lúc mỗi đông vì vững bụng có công an ở đấy, bố đứa nào còn dở thói côn đồ, dao buá.

Bỗng dưng vòng người vỡ toá toà loa mà chạy, mà cười, mà ô hô, ê hê...Mà sao bọn đàn ông có tiếng là can trường, quả cảm lại chạy trước để bọn đàn bà liễu yếu đào tơ ré lên mà cười...Thấy mấy lão cạnh nhà tôi co cẳng, chẳng hiểu ra ngô ra khoai gì tôi cũng hoảng mà theo đuôi...Ừ có chạy ông cũng ngoái lại xem cái gì mà kinh thế không biết, và tôi ngoái lại thì giời ơi là đất hỡi! Con mẹ T đang tụt quần. Nó mặc cái quần ngủ màu huyết dụ, cái xịp lòng tôm, nó nằm ngửa tền hện trên nền đường vừa cưởi xieem y, vừa giẫy đành đạch, vừa rủa xả...Thì ra nó "nâng cấp" kiểu đấu tranh. Tưởng gì chứ cái ấy, bọn tôi coi nhạt toẹt. Mấy lão bạn tôi cứ ra vẻ làm khách. Thế mà ngày thường vẫn lén hối lộ bia để đòi tôi mở mạng xem trò "nhấp nhổm. com"

          Sẵn có máy ảnh trong tay, tôi bấm liền mấy kiểu. Cái máy tôi loại xịn "tám chấm" nên "nét" kinh khủng...Tôi cười thầm: Thế là được "chiêu đãi miễn phí"

Tôi lẳng lặng rút lui với cái chiến lợi phẩm của mình.

          Đi một đoạn có một vài nhà chấp pháp phóng xe chặn lại. Họ dằn mặt tôi đe doạ: "Nộp ngay mấy kiểu ảnh ông vừa chụp cho chính quyền". Bọn họ biết tôi là thằng làm báo viết văn nhưng cứ nhơn nhơn vô lối mà đòi.

Tôi cũng là thằng không vừa, phanh kít xe lại, "lơ vê" mặt lên mấy gấu trả lời:

-Tôi có cái quyền của tôi! Bắt nạt thằng này chắc! Còn khuya nhé! Sao không ra mà "làm việc" cái đứa tụt quần đi...Biết tôi rắn mặt, bọn họ quay lại đấu diụ:

Hay ho gì mà ông chụp! Chúng ta là chỗ thân quen ông làm như thế hỏi còn ra cái thể thống gì .

Thế là tôi vỡ lẽ! Họ sợ tôi đăng báo, ghi ảnh có mặt họ trong cái khung cảnh rất "Sex" kia. Tại sao họ lại sợ một con đàn bà, nó có cái gì gớm ghiếc đâu. Pháp luật quy định rành rành là nó đang chống người thi hành công vụ. Bắt nó nhẹ như rút điếu thuốc lá khỏi bao. Họ sợ xấu mặt nên mới chặn tôi lại như thế...

          Chuyện gì thì cũng có đầu có đuôi. Tôi kể chuyện này cho độc giả khỏi nghi ngờ là tôi hư cấu. Đầu trang tôi đã ghi là "ký sự" để đảm bảo điều này.

Mụ T vùng tôi có tiếng là giàu có. Nó giàu bằng cách gì kệ nó nhưng đã giàu lại khôn. Nó biết bịt mồm, bưng miệng khối ông cả bà lớn. Những buổi tiệc tùng nó đã lôi một số quan xã quan làng vào tròng. Nó cho ăn thịt chín rồi mời luôn thịt sống ngay tại nhà hàng. Nó chụp ảnh ghi âm, nhà báo còn phải nể. Với cái nghiệp vụ ma mãnh ấy bao kẻ làng xã tôi bị vòng cương toả rở khóc rở mếu. Sẵn tiền, nó thuê xe tải chở vật liệu lấn đất bất cứ chỗ nào nó thích. Khi quan trên hạch tội quản lý đất đai. Mấy ông có chức có quyền cứ như người ngậm hột thị, lúng ba lúng búng. Bị thúc ép quá, mấy vị ký lệnh sử phạt hành chính, nó cứ nhơn nhơn. Nó trắng trợn thách thức...Và cái nước cùng là nó tụt quần ăn vạ.

-Làm cán bộ thời này khó lắm mày ạ, cứ như cá trạch nằm trong giỏ cua...Thằng bạn "quan xã" một thời chăn trâu cắt cỏ, bạn của tôi thở dài thườn thưỡn nó bảo thế.

Tôi bảo nó:

Bọn mày cũng hư lắm cơ! Miếng thịt nó bịt cái mồm! Tao thấy mấy thằng răng cải mả, tóc muối tiêu, có "đắp" vàng vào người cũng nhận ra cái tướng "chân đất mắt toét" của làng xã nhà quê, có tý chức dân bầu cũng rửng mỡ ăn chơi, đục khoét. Chúng mày có lên cung trăng ở được đâu mà làm bao chuyện linh tinh, để bà con xầm xì ca thán. Mai kia chết, ai đưa ma chúng mày.

Nó cười méo miệng chua chát:

      - Nhỏ to gì cũng là quan, quan nhỏ phải luỵ quan to, quan to lại luỵ quan to nữa. Nịnh nhau bằng mồm sao được. Phải có lễ vật mới xong! Muốn có lễ vật thì phải đục khoét. Cái vòng luẩn quẩn nó nằm ở chỗ ấy. Rồi thuận miệng nó ẩm ử ngâm nga: Ban ngày quan lớn như thần / Ban đêm quan lớn tần mần như ma.

TP Phủ Lý 10 h 30 p đêm 10/2/ 2009

Lưu Quốc Hoà         

                                                Buồn vui làng xã

                                                                   Phần 2 

Thế là mọi việc lại qua đi như bao chuyện tày đình ở đất này vẫn diễn ra. Có nghĩa là con mẹ T kia chẳng ai làm gì được nó. Sẵn đà thắng lợi nó lại làm tiếp những việc nó thích làm. Nó lại lấn đất, nó lại khi cương khi nhu, nó lại cười tanh tách và bắn tin: Có khối ông nọ bà kia bảo lãnh, có tiền là lên trời hay xuống biển thì tuỳ thích. Thằng nào con nào mà ho he là nó cho đấu gấu "làm việc" nó coi luật pháp là muỗi đốt vào cột đình bằng gỗ lim...Nó đe lần trước tụt quần, lần sau tụt hết mà vỗ mà đập cho nó "sướng". Nó bảo tôi một câu xanh dờn lá mạ : Hổ tao còn không sợ, báo là cái nước mẹ gì. Mày xem báo chí tỉnh này toàn ca ngợi, toàn diễn văn, toàn hoan hô hoan hiếc, có thằng chó nào dám hé răng nói cái gì.

          Vợ tôi đi Đại hội về. Nàng chiềng phẩm vật khoe tôi vừa được đại hội thưởng cho thành tích đặt vòng tránh thai và nuôi con khoẻ, dạy con ngoan. Mụ xướng rơn với cảnh mấy ông nhà báo, nhà đài, nhà truyền hình cứ nhè mụ mà lia nòng đại bác vào rồi chớp đùng đùng. Tôi bấm bụng cười thầm: Thành tích cái của khỉ, đàn bà gần hết xuân còn ai đẻ đái nữa. Có ngậm sâm cũng chẳng tích sự gì...Lên bà nội bà ngoại rồi còn nuôi con khoẻ dạy con ngoan. Mấy đứa con tôi hùm ăn không hết thịt lo gì không khoẻ. Thưởng mới chả phạt, có mỗi cái khăn rửa mặt, bánh xà phòng, một cái sổ tay mỏng tèo, có đấu giá chắc chưa quá 15 ngàn bạc. ấy vậy mà thích lắm. "Miếng giữa làng, sàng xó bếp mà". Lẩn mẩn tôi lại nghĩ đến thằng bạn đại gia của tôi, nó "Phụng dưỡng" mấy mẹ anh hùng đã ngoài 90 xuân đang ung thư, đang đái đường, lúc nào cũng để sẵn đồng hồ ở đầu giường để chờ phút cụ đi. Thế mà kêu là "phụng dưỡng suốt đời" Kinh quá! Nó đang cần cái danh để leo lên ...Không ai có quyền phỉ báng vào lòng từ thiện. Phạm vào điều ấy là đồ bất lương. Nhưng lòng từ thiện bây giờ kể ra cũng lắm chuyện phải bàn. Làm báo mà không thính nhạy chuyện này, mà la lên cổ xuý có khi lại là điều phản cảm...Làm báo, viết văn mà "té nước theo mưa" là tự hạ nhục mình chứ chẳng chơi. Tôi hỏi mình: Bấy lâu nay có phải thằng tôi không sống thật với chính mình, là kẻ a dua a tòng để bốc thơm bao điều phù phiếm.

          Thấy tôi ngồi bên vi tính, nghểnh mặt như trâu nghênh. Mụ vợ tôi biết ngay là tôi đang có chuyện. Tay tôi vỗ như mưa trên bàn phím là lúc tôi đang làm phóng sự. Gõ mổ cò nhẩn nha là đang viết truyện ngắn, tiểu thuyết. Đủng đỉnh gõ một tay là làm thơ...Mụ đoán ngay tôi đang ám ảnh bới chuyện "tụt quần" Mụ sán lại can gián: Thôi anh ạ, kệ nó, sáng nay ngồi ở hội trường em vẫn nghe vô tuyến truyền mồm"nên biết hết cả rồi. Khoá này em trúng chấp hành. Anh không giữ miệng là mất hết uy tín của em"

          Tôi bổ vào mặt vật "bất động sản không có quyền nhượng bán" một câu khá bất nhã: " Còn cái hội Phụ nữ nhà cô nữa! Có tín đâu mà đòi uy. Tôi biết tỏng cái trò ma bùn. Trên rót về quỹ hỗ trợ phụ nữ vay vốn sản xuất, các cô bàn nhau ách lại mấy tháng để cho mấy thằng thầu khoán công trình vay lãi rồi chia nhau. May mà nó không "bùng" nên các cô chưa hầu toà. Liệu cái thần hồn đấy, tôi còn bận không có thì giờ tiền bạc để tiếp tế, thăm nuôi cô đâu..Nói trước không có lại bảo tôi bạc tình với vợ"...

          Tiền bạc ai mà chẳng thích. Chỉ có kẻ tâm thần phân liệt mới không thích tiền nhưng chính đồng tiền nó làm khổ hại nhiều quan làng, quan xã, quan tỉnh thời buổi này quá đi mất. Nhìn mà hãi vã mồ hôi. Cái án tù 8 năm cho một ông làm TBXH  trong xã khai khống, không báo giảm những người đã chết để ăn chia. Tiền thờ cúng liệt sỹ cũng bị chiếm dụng để vào "oke" vào nhà hàng đặc sản để đến nỗi một dây cán bộ phải thân bại danh liệt, kẻ ngồi bóc lịch kẻ miễn nhiệm, kẻ lo quá xuất huyết não mà đột tử, vẫn là cái gương tầy liếp ở  xã tôi. Thế mới biết con người trượt dốc còn nhanh gấp ngàn lần leo dốc. Thế mới biết cái mông cái vú đàn bà

Trong cõi Người, ai cũng có một miền quê để mà thương mến. Người ta vẫn nhắc nhau cái đạo làm người "con không chê bố mẹ khó, chó không chê nhà chủ nghèo". Hai phần trước của ký sự tôi toàn nói điều không tốt của làng xã. Nó đúng mười mươi đấy nhưng thực tình viết song, gác tay lên trán mà nghĩ sao thấy lòng trắc ẩn, không yên. Liệu ai đọc được có chửi tôi là cái thằng "bỏ làng". Vạch áo cho người xem lưng, cái lưng của người nhà quê đầy rôm sảy và đen đúa. Cái lưng ấy đã cõng địu bao nhọc nhằn, khổ ải qua mấy cuộc chiến tranh. Tôi nhớ một câu tổng kết chiến tranh của một học giả. Ông ta nói hình như thế này: "Tất cả các cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi với kết cục là một bên thắng trận và một bên bại trận, nhưng nhân dân hai bên đều là kẻ thất bại"...Khoan hãy nói chuyện vu đàm nhuốm màu chính trị. Cho tôi tưởng vọng và bái vọng biết bao con người đang nằm ở đài liệt sỹ. Đang nằm ở rải rác các nghĩa địa trong toàn xã

Trong đó có cả bố đẻ của tôi. Ông Lưu Quốc Ấn. Đảng viên CS năm 1930. Người treo cờ đỏ búa liềm đầu tiên của Đảng bộ Hà Nam được lịch sử Đảng bộ còn ghi trân trọng. Tôi là đứa con trai duy nhất còn lại của một gia đình có 3 con trai. Ông nội tôi lại là quan Lãnh Binh của chế độ thực dân và nửa phong kiến. Gia đình tôi là một mảnh ghép nhôm nhoam về thành phần chính trị. Tôi ý thức rõ ràng điều đó để có hướng lập thân vào đời. Nhưng hình như số phận đưa đẩy, tôi chẳng làm nên tích sự gì. Cuối đời, bố tôi nhà hoạt động lão thành nhưng bất đắc trí, ít nói và không thích giao du với ai. Ông bực bõ cái gì mà chính tôi cũng không hiểu. Ông chống gậy đi như cái bóng và lẩm nhẩm độc thoại một mình...

Ôi! Cái đường làng đầy lá tre, lá ổi, lổn nhổn vết chân trâu, hun hút gió bấc và mưa phùn, ôm oam tiếng chó sủa ma, lập loè đom đóm đã nuôi tôi lớn thành người. Cũng từ luỹ tre cổ tích ấy. Bố tôi đã hắt chén rượu vào mặt mà chửi tôi là cái đứa "dở ông dở thằng" khi tôi ba hoa với đám bạn về mấy bài thơ đăng báo. Chén rượu ấy vẫn làm mắt tôi cay như sát ớt đến bây giờ...Tôi là kẻ bất hiếu vì quá mê mẩn văn chương, không nghe lời người sinh thành dưỡng dục. Trang văn đêm nay tôi muốn tạ lỗi cùng Người. Một con người nạn nhân của bao ý tưởng tốt đẹp. Không chết đói nhưng đói đến chết.

Nguyên cớ gì mà bố tôi sinh ra trái nết trong những ngày tàn của cuộc đời. Bố tôi gọi bao người là "nửa người nửa ngợm" . Phải chăng con cháu, bạn bè làm ông mất lòng tin. Ông tiếc công be bờ đắp đập mà không ngăn được cơn lũ. Tiếc cái cây mình trồng, hom mía đặt xuống lại mọc ra sậy, ra le. Tôi cũng là cây sậy cây le ấy...

Khi tôi viết những dòng này. Cả quê hương tôi đang sống trong những biến động vật đổi sao dời. Ruộng đất bị quy hoạch làm khu công nghiệp. Dân nhận tiền đền bù, có người dùng đồng tiền ấy vào kinh doanh, có người đem đi xóc đĩa , đánh đề. Có người nhà cao cửa rộng, có người thân tàn ma dại vì lòng tham ở chốn nhộm nhoạm nửa quê nửa tỉnh. Quanh nhà tôi có bao chuyện buồn mà cái buồn nhất là tình thân, sự đổ vỡ mối quan hệ lân bang truyền thống. Tôi tự hỏi ta đang được gì và mất gì! Lúc nào người ta cũng nhao lên về dự án. Có cái tưởng ngày mai là có, là xong. Họ đón lõng để ăn vạ đền bù. Họ mua gạch xỉ nhão nhoét về xây nhà, xây bể. Khối nhà tường đổ quoè chân, vẹo cột sống. Họ lấy que vạch xuống đát mà tính ra cây, ra chỉ, ra đô, ra ơrô, ơ riếc. Cứ hoắng lên chả hiểu ra làm sao nữa...

Một tháng dễ mấy lần có ông nọ bà kia chỉ trỏ, đo đạc...Họ bí hiểm như Bắc cực. Đợi mãi, mừng mãi mà vẫn cứ ở đâu đâu. Nhà thì vay nợ lãi để chờ tiền đền bù, nhà mua đất đón lõng dự án dự iếc sắp sắp khởi công...Bao nhiêu mơ mộng giời ơi đất hỡi như phù thuỷ ma chơi len vào mộng mỵ trong giấc ngủ chập chờn ...Khổ lắm, tôi thấy làng tôi khổ lắm.

Tôi lại thấy khoé mắt cay cay, Hình như chén rượu năm xưa, cha tôi hắt vào mặt lau mãi mà không sạch.

                                                          12h đêm 13/2 /09

 Buồn vui làng xã - ký sự phần 4

            ( Tản mạn đêm 30 tết )

Ngày 30 Tết năm nay rét đến thấu xương. Tết mà rét ngọt thì còn gì bằng. Người ta khoe sống áo. Không lo thực phẩm ôi thiu...Ai cũng vội vội vàng vàng, có khi vội để mà vội cho nó có vị xuân. Những chiếc xe khách chạy như bão lốc trên đường lèn bao nhiêu là người. Ai ai mặt mày cũng quan trọng và hối hả. Thỉnh thoảng các gia đình lại to tiếng quát tháo con cháu về sự đểnh đoảng nọ kia.

Kệ cho thiên hạ sôi cuồng. Từ sáng sớm tôi đã lẳng lặng đi tảo mộ. Cái rét nhắc tôi nhớ về ông bà, cha mẹ. Các vị nằm cả ở kia, dưới vuông cỏ rối và dưới cái lạnh tê ngắt của đất trời. Tôi lẩm nhẩm đọc thơ Trần Đăng Khoa :

Cám ơn thiên nhiên hiền từ nhân hậu

Những so le người kéo lại cho bằng

Ít nhất cũng là khi nhắm mắt

Trong mảnh gỗ rừng, dưới một vầng trăng

.........

Ta chẳng ví mình là ngọn cỏ

Ngọn cỏ yếu mềm, ngọn cỏ nhỏ nhoi

Nhưng khi ta đã nằm dưới mộ

Cỏ vẫn xanh ngăn ngắt ở trên đời

.....

Trước thiên nhiên con người như khách trọ

Thoáng gần nhau, thoáng chốc lại chia xa

Ta sống với nhau dẫu năm này tháng khác

Cũng chỉ là một thoáng giữa sân ga 

Khoa  đã viết cho bao người trên cõi thế một lẽ giản đơn giữa sinh và tử. Cái lẽ giản đơn ấy sao mà chẳng đơn giản chút nào. Bao nhiêu kẻ xưng hùng xưng bá, đầu gấu đầu bò, hà hiếp , tàn hại nhau. Có quyền trong tay thì bắt vuông thành méo. Có tiền trong tay sẵn sàng đổi trắng thay đen, cứ cuống cuồng lên mà sống, mà hưởng...Chẳng là cái gì cả. Con người ơi! Rồi ai cũng phải chết, rồi ai cũng phải về thành phố Mộ này thôi. Ông tỉnh đi xe đen xe đỏ, Thằng cửu vạn ăn mày ăn nhặt, đứa cầu bất cầu bơ rồi cũng  về đây hưởng chung một vầng trăng. Không biết ở cõi âm ty kia có sự hà hiếp, những mưu toan vặt vãnh, bợm bãi đến ghê người như ở cõi ta đang sống, đang uống bia lon hêniken, ăn lẩu, chơi gái, vu vạ, tàn hại nhau. Tranh ăn với nhau không nhỉ. Ở âm ty có các lớp chuyên tu tại chức mà đỗ đạt toàn bằng tiền. Có tiến sỹ giấy và bằng đểu để ngồi mà ăn lộc vua ban. Người đường âm có biết nịnh hót và phỉnh phờ. Gian dối và lừa đảo, có lô tô, sổ số, có đánh đề và cờ bạc...Ừ ! sáng nay tôi thấy mình lẩn thẩn và hâm chập thế nào ấy...

          Ngày 30 Tết là ngày dồn tích của một năm. Trong đó có dồn tích cả công nợ. Một trong những món nợ lớn nhất thời hiện đại ở làng tôi là nợ cờ bạc. Các chủ nợ đốc thúc binh mã truy đuổi các con nợ. Cách nhà tôi mấy hộ. Ông em hàng xóm đã bán 2 lô đất mà chưa trả xong. Cậu ta đành bật bãi bỏ lại vợ con trong thời điểm đáng có mặt ở gia đình nhất. Trước Tết, một dây 32 con bạc bị công an tạm giam. Khốn nạn thật, năm nào gần tết cũng hàng lô kẻ vào khám.

          Trước lối vào làng mấy con mẹ lủi vào góc khuất ghi đề. Mấy bàn bi a hoạt động liên tục ngày đêm. Bây giờ tôi mới biết, đánh bi a số còn nhanh hết tiền hơn sóc đĩa, tổ tôm của các cụ ngày xưa. Rồi xe đen xe đỏ đỗ ở đầu làng xem bói, lễ bái cầu cúng mà không hiểu sao thánh lại nhập vào con mẹ đánh đỹ tứ phương. Là ca ve chính hiệu. Ăn cắp và lừa đảo nhanh như sóng di động. Các con khách là các ông các bà quyền cao chức trọng. Họ có học hành đàng hoàng chứ đâu phải loại xoàng. Chả ra làm sao cả...Đến thánh cũng không hiểu.

          Tôi lặng ngắm những sự nhố nhăng mà lòng buồn khôn tả...Tôi thấy cứ nháo nhào nhào giữa thật và giả. Các già làng tôi cũng là cái thân tội vì con cháu. Thời này chúng nó sành điệu lắm. Cái sành điệu lớn nhất và dễ thấy nhất là lũ chúng chỉ thích vật chất, chỉ thích sống vì mình. Chẳng cứ các già, lứa bọn tôi là người khổ nhất, phải cõng đụi những cái nợ trần gian nặng nhất

          Tôi có một cô bạn làm nghề bán thuốc Tây. Chồng chết sớm để lại 2 đứa con, một trai một gái. Cô ta nhẹ như cái phao vì sờ đâu cũng ra bệnh. Hai đứa con cứ xểnh ra là bỏ học, là đi chơi điện tử, đi chát đi chua. Qua cửa hàng tôi thấy cô ta cười thì ít mà khóc thì nhiều. Tôi hỏi :"sao mà vãi lắm thế"...Cô ta bảo:  "Em đau lưng không đứng dậy được, nhờ đứa nào cũng bảo để tý nữa, rồi chúng nó quên luôn...Tại sao con mình mà chẳng giống mình. Anh em chúng ta ăn rau ăn khoai mà biết thương bố mẹ. Giờ chúng nó sướng đủ  điều mà vô tâm. Có khi mình chết nó cũng mặc..."

          30 tết bây giờ quá là không vui như thời trước. Vợ chồng tôi tan tác mỗi đứa mỗi nơi. Đứa thì tìm con đang bị rủ rê cờ bạc. Đứa bò nhoài ở chợ mà bán hàng. 30 Tết ăn toàn mỳ tôm và cháo gói...Bàn thờ đã có hương vòng cháy liền 24 giờ cho khói phải thắp vặt. Ông bà ông vải ngồi trên bàn thờ chắc cũng buồn...

Tôi lại gặp cái thằng quan xã mắc bệnh "đái ra đường" phóng xe như ma đuổi. Cái di động lúc nào cũng úp vào tai và cái mặt "oai như thần". Cô vợ nhà quê như con  sáo xậu đậu trên lưng trâu,ôm đùm ôm bọc.  Tôi chắc bên trong cái đùm ấy là lễ. Một cái lễ tám phương. Tôi thấy nó khổ hơn tôi ngàn lần...30 tết là ngày đoàn tụ. Khó lắm. Bởi 365 ngày là một sâu chuỗi sự kiện, mỗi sự kiện lại có những điều bất cập. Mỗi sự bất cập lại như một giọt hơi nước tích tụ ra một cơn mưa! Mà không phải là mưa, nó là cơn cuồng phong để mỗi con người cứ vào ngày này, như một cuộc hội ngộ bất đắc dỹ phải đối mặt với nó. Tôi lại nhớ câu nói của ông Bằng trong tiểu thuyết "mùa lá rụng trong vườn" của anh Ma văn Kháng : Mỗi gia đình hình như phải có nghĩa vụ đóng góp cho xã hội một thằng khốn nạn, không có thì xã hội tốt quá đi  mất". Có người bảo đấy là nhận xét cực đoan. Tôi lại thấy chẳng cực đoan tý nào...Nó đúng từng chữ và đúng cả hình bóng các con chữ.

          Tôi bảo vợ: Tết này vợ chồng mình có cháu nội đích tôn. Anh chẳng đi chơi đâu nữa. Cuồng cẳng lắm rồi. Anh ngại comle ca vát, ngại tiệc tùng. Ngại tất cả, chỉ thích bình yên. Anh thương cái lũ người nhà ta lắm. Anh thấy mình không nên mắc bệnh đái đường...

Chỉ khổ cái đám dân "Voi đú .."

Thấy con mẹ T lấn đất cũng theo đuôi. Ấy thế cho nên sinh ra cảnh vừa bi, vừa hài. Đầu đuôi câu chuyện là như thế này:

Lối vào làng tôi có con hồ rộng chừng độ hơn một hecta . Đây là di tích còn lại của một con sông. Năm lần bảy lượt, cứ mùa lụt lã vỡ. Khi có con đê bao chặn lại , nó thành con hồ nông. Mồ mả vô chủ quanh hồ vô thiên lủng. Người ta bảo ở đây đất "nghịch" lắm. Oan hồn bà cô ông mãnh cứ vào đêm gió bấc, mưa phùn là kéo lên như ri mà khóc. Rồi những oan hồn bị tàu, bị Ôtô cán ở đoạn này tính ra cũng khá nhiều. Lại có người cam đoan rằng, có cả mấy con ma áo trắng chưa chồng cứ xoã tóc ngồi trên đường tàu mà khóc về tầm sao mai gần khuất. Rồi ma rủ người, bưng tai bịt mắt người thấy tàu hoả lao qua không nhìn thấy, cứ thế mà lao đầu vào. Đồn là vậy, chứ tôi là con "ma mò" ở đoạn này nhiều năm chẳng gặp bao giờ. Đi thả ống lươn, đi đặt câu ngày còn bé. Tôi còn thấy cả một lũ "ma chơi" . Cứ hôm nào lặng gió hoặc mưa phùn mùa xuân là bay ra mấy cục sáng loè, lượn lờ quanh hồ rồi biến mất. Không phải ma đâu! Đấy là khí Phốt pho đấy. Nó ở xương người và xương động vật chôn dưới đất tích lại và khi quá áp xuất là tự bay lên phát sáng. . Con mẹ làm nghề "thày cúng đểu" bên kia nhà tôi còn bảo : Tao thấy trước cửa nhà mày ( tôi có nhà sát đường tàu ) có một con ma áo trắng là đàn bà dong dỏng cao, tóc dài, cứ vào 1 hay 2 giờ sáng lại xoã tóc mà ngồi...Tôi chọc đểu luôn: 

          - Thế chắc là loại người mẫu "chân dài đến nách". Của này các xếp, các đại gia thích lắm. Nó yêu tao hay đánh đàn oogan nên đến nghe! Tiếc thật! lúc nào có mày cứ điện tao ra mở cửa dắt em ma vào! Nó "chiêu đãi ái tình miễn phí" mà mình làm khách thì còn đếch gì là con đực mang tiếng là đĩ thoã như tao...Có kiết ra tao cũng thù lao mày nửa triệu...Từ ấy nó không phỉnh phờ được nữa. Thày cúng như dạng nó ở làng vùng tôi nổi lên như mối vỡ tổ...Toàn nói láo, doạ đểu.

Thưở trước. Vị chí này không ai muốn ở. Nó vẫn vào loại đất "chó ỉa" hoang hoá và lạnh lẽo đến ghê 

                Người mỗi ngày một đông mà đất lại không đẻ như người nên có đôi ba hộ liều mạng đến đây sinh cơ lập nghiệp. Người cứ lấn dần ma, người tiến thì ma lùi. Lâu dần thấy êm êm, các hộ khác cũng theo nhau đến dựng nhà. Cái thời ấy có ai cấm đoán đâu, mạnh ai nấy ở. Thuế má cũng không phải nộp cho chính quyền. Người ta còn khuyến khích là "khai hoang, phục hoá nữa là đằng khác.

              Khoảng mấy năm gần đây. Nhất là khi Thị xã nâng cấp lên Thành phố. Khu này là "miếng gan miếng tiết". Bởi đất nằm cạnh đại lộ 1A.  Là chỗ người ta dựng cửa hàng buôn bán, kinh doanh,  Khu ấy là cửa ngõ vào tỉnh lỵ. Người ở chặt quá nên ma mất chỗ di tản đi đâu không biết. Mà quả thực, không ai nghĩ đến ma nữa vì người bây giờ còn mạnh, còn đáng sợ hơn ma. Họ còn ma hơn cả ma...Thế mới biết, ma âm phủ "chẳnglà cái đinh" gì.

              Làm vương bá khu này là một thằng đọc báo ngược. Có nghĩa là nó chẳng cần hiểu quái gì sự đời. Có chữ đâu mà đọc hiến pháp với pháp luật nước nhà. Đã thế tai nó lại ngễnh ngãng. Đài đóm là của thiên hạ chứ có lọt được vào lỗ nhĩ nó đâu. Hình như nó điếc lác theo giờ hay sao ấy. Có việc nói khẽ nó cũng ừ. Có việc gào lên nó chỉ "hở" với "hả". Cứ thế nó dựng nhà và tiến lên xây nhà và đắp bờ thả cá. Nuôi ngan, nuôi vịt, nuôi ba ba...Vụ được, vụ mất nhưng cũng nhôi nhai đủ sống. Ai chớm động vào hồ của nó, nó vác con dao nan dài nửa thước hoa lên trông ghê cả người. Quả thực, nó vác dao nhiều lần nhưng chẳng ai phải mất cái lông chân. Nó khôn lắm, biết cương, biết nhu để bảo mạng. "Chảy máu sáu quan" ai dại gì mà dây vào. 

                             Việc nó kinh doanh trên cái con hồ là có lý. Nó khôn như dận váy. Lợi lộc hoa màu, cá mú đâu không biết. Riêng khoản ăn vạ cũng ối tiền: Thằng ôtô mất phanh đâm xuống ư! Năm triệu...Ai bảo mày lao xuống, xăng dầu loang ra chết ngạt hết cá ao tao. Thằng hút cát bắc ống, bắc vòi qua ư : Một triệu...Ôi thôi nhiều lộc lắm. Vịt nó thả, ngan nó bơi kín cả mặt hồ. Rau muống nó thả ngọn bò xanh mơn mởn. Nó cứ vác dao nan mà đi vòng quanh con hồ mà nghĩ kế kiếm tiền. Thằng nào con nào cơi nới đất thổ cư, tốt nhất là vác xác vào nộp phạt rồi hãy làm. Cán bộ xã đến thu thuế thì nó chửi. Nó đe con cái đi học qua là nó cho con nó" làm việc". Nó như con trâu lấm với cái đuôi vẩy tứ tung, vậy sinh ra cảnh : Vua thua thằng liều. Mà nhà quê bây giờ vô khối thằng liều. Có thằng liều kiếm được cơm. Có thằng liều phải ở tù...Voi đú chó cũng đú, là cú cứ bắt chước hoạ mi. 

                             Từ dạo hè năm ngoái. Con mẹ T mua đất cạnh hồ. Mụ lẳng lặng đổ vật liệu, không thèm đếm xỉa đến cái thằng Chí Phèo đời mới. Nó chẳng là cái thá gì mà chấp. Tiền mụ như lá đa, cửa nào mụ cũng rắc. Đồng tiền nó mỏng tang nhưng nó có keo mà bưng lấy cái miệng nào cần bưng . ..Thiên hạ nhân, thiên hạ tài. "Cúng hổ thích hơn cúng chó"...Ấy là mụ bảo thế

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro