linhvu

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trái phiếu chỉ giao dịch thoả thuận

Câu 1: Phân tích vai trò của TTCK

Thứ 1: tích tụ,tập trung và phân phối vốn

Thứ 2: góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, giải quả sự tập trung quyền lực kinh tế

Thứ 3: tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý DN

Thứ 6: cung cấp dự báo về các chu ký kinh doanh trong tương lai

Thứ 5 : tạo cơ hội cho chính phủ huy động vốn

Thứ 4: tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế

Thứ 1: tích tụ,tập trung và phân phối vốn

- thông qua việc tạo ra các chứng khoán có tính thanh khoản cao

- tạo 1 sự cạnh tranh hiệu quả trên thị trường tài chính

- các công ty có thể tăng nguồn vốn bằng cách phát hành chứng khoán => tránh được các khoản vay có chi phí lớn và kiểm soát chặt chẽ của NHTM.

- thu hút vốn đầu tư nước ngoài

Thứ 2: góp phần thực hiện tái phân phối công bằng hơn, giải quả sự tập trung quyền lực kinh tế

- thông qua buộc các tập đoàn gia đình trị phát hành chứng khoán ra công chúng

- tăng cường tầng lóp trung lưu cho xã hội, tăng cường sự giám sát của xã hội => cạnh tranh công bằng hơn

Thứ 3: tạo điều kiện cho việc tách biệt giữa sở hữu và quản lý DN

- tiết kiệm vốn và chất xám, thúc đẩy cổ phần hóa DNNN

- giám đốc động tiêu cực trong quản lý, tạo điều kiện kết hợp hài hòa giữa lới ích của chủ sở hữu, nhà quản lý và người làm công

Thứ 4: tăng tính lỏng và cạnh tranh trên thị trường quốc tế

- công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài

- mở rộng cơ hôi hợp tác kinh doanh của các công ty trong nước

Thứ 5 : tạo cơ hội cho chính phủ huy động vốn

- không tạo ra áp lực lạm phát

- tạo công cụ cho việc thực hiện chính sách tiện tệ

Thứ 6: cung cấp dự báo về các chu ký kinh doanh trong tương lai

- thông qua việc thay đổi giá chứng khoán

- tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế

PER(P/E) và EPS và cách tính giá cổ phiếu

P/E là một tỷ lệ phần trăm giữa thị giá một cổ phiếu và thu nhập trên một cổ phhiếu. Nếu giá một cổ phiếu cuả IBM là 60 đôla và thu nhập của mỗi cổ phiếu là 3 đôla thì tỷ lệ P/E sẽ là 20 (60/3). điều này có nghĩa là nhà đầu tư sẵn sàng trả 20 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận của công ty. Nếu P/E giảm xuống còn 18 có nghĩa là nhà đầu tư chỉ trả 18 đôla cho mỗi đôla lợi nhuận.

EPS và P/E có ý nghĩa thế nào trong đầu tư?

Tôi muốn biết P/E và EPS là chữ viết tắt của thuật ngữ gì, và các thuật ngữ này có ý nghĩa như thế nào trong đầu tư chứng khoán. (Đỗ Mạnh Hùng)

Trả lời:

EPS (Earning Per Share) là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu.

Đây là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi công thức:

EPS = (Thu nhập ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi) / lượng cổ phiếu bình quân đang lưu thông.

Trong việc tính toán EPS, sẽ chính xác hơn nếu sử dụng lượng cổ phiếu lưu hành bình quân trong kỳ để tính toán vì lượng cổ phiếu thường xuyên thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường hay đơn giản hoá việc tính toán bằng cách sử dụng số cổ phiếu đang lưu hành vào thời điểm cuối kỳ. Có thể làm giảm EPS dựa trên công thức cũ bằng cách tính thêm cả các cổ phiếu chuyển đổi, các bảo chứng (warrant) vào lượng cổ phiếu đang lưu thông.

EPS thường được coi là biến số quan trọng duy nhất trong việc tính toán giá cổ phiếu. Đây cũng chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỉ lệ P/E. Một khía cạnh rất quan trọng của EPS thường hay bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo ra thu nhập ròng (net income) trong công thức tính trên.

Hai doanh nghiệp có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một trong hai có thể có ít cổ phần hơn tức là doanh nghiệp này sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu như các yếu tố khác là cân bằng thì rõ ràng doanh nghiệp này tốt hơn doanh nghiệp còn lại. Vì doanh nghiệp có thể lợi dụng các kỹ thuật tính toán để đưa ra con số EPS hấp dẫn nên các nhà đầu tư cũng cần hiểu rõ cách tính của từng doanh nghiệp để đảm bảo "chất lượng" của tỉ lệ này. Tốt hơn hết là không nên dựa vào một thước đo tài chính duy nhất mà nên kết hợp với các bản phân tích tài chính và các chỉ số khác.

Hệ số giá trên thu nhập (P/E) là một trong những chỉ số phân tích quan trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số P/E đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - P) và thu nhập của mỗi cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau: P/E = P/EPS

Trong đó giá thị trường P của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua bán ở thời điểm hiện tại; thu nhập của mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi nhuận ròng sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm tài chính gần nhất.

P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần, hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường được công bố trên báo chí.

Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình và sẽ trả cổ tức cao.

Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu AAA không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao nhiêu là hợp lý? Lúc đó cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các loại cổ phiếu tương tự với cổ phiếu AAA, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ số P/E sẽ cho chúng ta giá của loại cổ phiếu AAA.

Câu 2: Chức năng của TTCK hả.theo mình thì gômg những chức năng như:

-Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế

-Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng

-Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán

-Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp

-Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô

- phân chia lại giá trị(cân bằng giá trị) giữa người giầu và người nghèo

1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.

2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.

3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.

4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.

5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô

Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.

Câu 3: các loại rủi ro trên thị trường chứng khoán

Rủi ro phi hệ thống (Nonsystematic Risks)

 Rủi ro phân tán được, tức rủi ro phi hệ thống là một phần rủi ro đầu tư mà nhà đầu tư có thể loại bỏ được nếu nắm giữ một số loại chứng khoán đủ lớn. Loại rủi ro này là kết quả của những biến cố ngẫu nhiên hoặc không kiểm soát được chỉ ảnh hưởng đến một công ty hoặc một ngành công nghiệp nào đó. Các yếu tố này có thể là những biến động về lực lượng lao động, năng lực quản trị, kiện tụng hay chính sách điều tiết của chính phủ. Vì hầu hết các nhà đầu tư có hiểu biết tối thiểu đều có thể loại bỏ rủi ro có thể phân tán được bằng cách nắm giữ một danh mục đầu tư đủ lớn từ vài chục đến vài trăm. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu lựa chọn chứng khoán một cách cẩn thận thì chỉ cần khoảng 15 chứng khoán là có thể làm nên một danh mục đầu tư loại bỏ được hầu hết rủi ro có thể phân tán được. Rủi ro phi hệ thống được chia làm hai loại chính là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.

Rủi ro kinh doanh xuất phát từ tình trạng hoạt động của công ty, khi có những thay đổi trong tình trạng này công ty có thể sẽ bị sút giảm lợi nhuận và cổ tức. Nói cách khác, nếu lợi nhuận dự kiến tăng 10% hàng năm trong những năm tiếp theo, rủi ro kinh doanh sẽ cao hơn nếu như lợi nhuận tăng tới 14% hay giảm xuống 6% so với lợi nhuận nằm trong khoảng 9-11%. Rủi ro kinh doanh có thể được chia làm hai loại cơ bản: Bên ngoài và nội tại. Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động của công ty. Mỗi công ty có một loại rủi ro nội tại riêng và mức độ thành công của mỗi công ty thể hiện qua hiệu quả hoạt động.

Mỗi công ty có một kiểu rủi ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của công ty. Các yếu tố bên ngoài, từ chi phí tiền vay đến sự cắt giảm ngân sách, từ mức thuế nhập khẩu tăng đến sự suy thoái của chu kỳ kinh doanh. .., và có lẽ yếu tố quan trọng nhất là chu kỳ kinh doanh. Doanh số của một số ngành công nghiệp thép, ô tô có xu hướng bám sát chu kỳ kinh doanh trong khi doanh số của một số ngành khác lại có xu hướng đi ngược lại. Các chính sách chính trị cũng là một phần của rủi ro bên ngoài, các chính sách tiền tệ và tài khoá có thể làm ảnh hưởng đến thu nhập thông qua tác động về chi phí và nguồn vốn.

Rủi ro tài chính liên quan đến việc công ty tài trợ vốn cho hoạt động của mình. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi mà phải được thanh toán cho chủ nợ trước khi trả cổ tức cho cổ đông nên nó có tác động lớn đến thu nhập của họ. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một công ty không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.

Bằng việc đi vay, công ty đã thay đổi dòng thu nhập đối với cổ phiếu thường. Cụ thể là, việc sử dụng tỷ lệ vay nợ gây những hệ quả quan trọng đối với những người nắm giữ cổ phiếu thường, đó là làm tăng mức biến động trong thu nhập của họ, ảnh hưởng đến dự kiến của họ về thu nhập, và làm tăng rủi ro của họ.

Giả sử chúng ta có hai công ty có hoạt động kinh doanh như nhau, chỉ khác nhau về cơ cấu vốn: Công ty C, nguồn vốn hoàn toàn từ 1 triệu cổ phiếu thường, bán với giá 20 đôla/1cổ phiếu. Công ty khác, công ty D, có nguồn một nửa là từ cổ phiếu thường 500.000 cổ phiếu, bán với giá 20 đô la/ cổ phiếu và một nửa là từ vay nợ 10 triệu USD với lãi vay là 5%. Như vậy, tài sản có của mỗi công ty là 20 triệu USD, dự kiến sẽ có lợi nhuận 1 triệu USD, hay là 5% trên tổng tài sản. Chúng ta giả sử rằng không có thuế thu nhập công ty. Thu nhập 1 triệu USD có thể dễ dàng chuyển đổi sang thu nhập cho mỗi cổ phiếu. Công ty C sẽ có lãi 1 đô la/1 cổ phiếu. Công ty D phải trả lãi 500.000 đô la và phần còn lại chia cho cổ phiếu cũng được lãi 1 đô la/1cổ phiếu. Tại điểm này, cả hai công ty đều có mức thu nhập trên cổ phiếu là 1 đô la. Như vậy ta không thấy có hệ quả của việc vay nợ đối với thu nhập của cổ đông. Nhưng nếu năm tiếp sau đó, lợi nhuận cả hai công ty tăng thêm 50%, vậy trong trường hợp của công ty D, cổ đông được hưởng thêm 1 đôla/cổ phiếu nhiều hơn cổ đông của công ty C chỉ được hưởng thêm 0,5 đôla/cổ phiếu, vì lợi nhuận D lúc đó là 1,5 triệu USD mà vẫn chỉ phải trả lãi suất 5% trên số tiền cho vay. Ngược lại, nếu lợi nhuận giảm 50% sẽ làm cho lợi nhuận trên 1 cổ phiếu của công ty C giảm xuống 50% từ 1 đô la xuống 0.5 đô la nhưng lợi nhuận trên một cổ phiếu của Công ty D sẽ giảm từ 1 xuống 0. Qua đó chúng ta thấy được những hậu quả trực tiếp mà rủi ro tài chính gây ra cho thu nhập của nhà đầu tư chứng khoán.

Rủi ro hệ thống (Systematic Risks)

Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống hay là rủi ro không phân tán được. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một ngành công nghiệp hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế và chính trị... Đa dạng hóa đầu tư cũng không thể loại bỏ loại rủi ro này. Những công ty chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ thống là những công ty mà doanh số, lợi nhuận và giá chứng khoán thường theo sát các diễn biến kinh tế và những diễn biến trên thị trường chứng khoán. Phần lớn các công ty trong những ngành công nghiệp cơ bản và khai khoáng, những ngành có định phí lớn hay những ngành liên quan đến sản xuất ô tô chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ thống, ví dụ ngành thép, cao su, kính,... Rủi ro hệ thống được chia làm 3 loại rủi ro chính:

Rủi ro thị trường: Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thể rất khác nhau nhưng phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị trường.

   Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội còn các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn và sau đó kéo theo những phản ứng dây chuyền làm tăng vọt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở.

2. Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro.

3. Rủi ro sức mua: Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của nhà đầu tư. Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư, biến động giá càng cao thì rủi ro sức mua càng tăng nếu nhà đầu tư không tính toán lạm phát vào thu nhập kỳ vọng.

Mỗi chứng khoán có một mức độ riêng rủi ro không thể phân tán được và được đo bằng hệ số bêta. Bêta cho thấy cái cách mà một chứng khoán phản ứng trước những nhân tố của thị trường. Nói khác đi, giá của một chứng khoán càng phản ứng với thị trường mạnh mẽ bao nhiêu thì hệ số bêta của chứng khoán đó càng cao bấy nhiêu. Bêta của một chứng khoán được tính thông qua mối liên hệ (chính xác là hệ số tương quan) giữa suất sinh lợi của chứng khoán đó và suất sinh lợi của thị trường mà chứng khoán đó đang giao dịch.

4. rủi ro tỷ giá là rủi ro do tác động của của tỷ giá đối với khoản đầu tư. Khi nhà đầu tư cho rằng đồng nội tệ có thể giảm giá trong tương lai thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ vì khi đó giá trị chứng khoán sẽ bị giảm.

giải pháp để phòng ngừa rủi ro tỷ giá

Một khi đã quyết định nên ngừa rủi ro tỷ giá, tiếp theo nhà quản lý cần ra quyết định ngừa rủi ro bằng giải pháp nào. Nhìn chung quyết định giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá là quyết định lựa chọn sử dụng một trong những giải pháp sau đây:

    Hợp đồng kỳ hạn

·       Hợp đồng hoán đổi·       Hợp đồng giao sau (tương lai

  Hợp đồng quyền chọn·       Sử dụng kết hợp các giao dịch trên thị trường tiền tệ

   Sử dụng các giải pháp khác.

Trong các giải pháp trên, bốn giải pháp đầu tiên được xem như là sử dụng các công cụ tài chính phái sinh trên thị trường ngoại hối (currency derivatives) để phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Việc quyết định lựa chọn giải pháp nào trong những giải pháp nêu trên nhiều khi không đơn giản, nó không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào lợi ích và chi phí mà đôi khi phụ thuộc vào khả năng thương lượng và khả năng cung cấp giải pháp đó trên thị trường.

Câu  4: tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư

xác định tỷ lệ lợi tức yêu cầu của NĐT bằng việc đánh giá độ rủi ro của luồng tiền tương lai của trái phiếu

-khái niệm ý nghĩa phương pháp xác định ‘k’

tỷ lệ lợi tức yêu cầu là tỷ lệ các nhà đầu tư yêu cầu phải có trên vốn đầu tư sao cho đủ đền bù những rủi ro của trái phiếu

-phương pháp tính

về mặt lý thuyết mỗi nhà đầu tư có thể yêu cầu một tỷ lệ lợi tức khác nhau đối với mỗi một loại chứng khoán cụ thể. Tuy nhiên giám đốc tài chính chỉ quan tâm đến tỷ lệ lợi tức yêu cầu được biểu hiện bằng giá cả thị trường của chứng khoán công ty. Nói cách khác, sự nhất trí của nhà đầu tư về tỷ lệ lợi tức yêu cầu dự tính được phản ánh trong giá cả thị trường của trái phiếu.

để tìm tỷ lệ lợi tức dự tính cho một trái phiếu, sử dụng bảng tính giá trị hiện tại được thực hiện bởi phương pháp thử và tìm lỗi. ta phải tiếp tục thử những tỷ lệ mới cho đến khi tìm thấy tỷ lệ chiết khấu mà tại đó, giá trị hiện tại của những khoản lợi tức trong tương lai và giá trị đáo hạn của trái phiếu vưà đúng bằng giá trị hiện tại của thị trường hiện tại của trái phiếu. nếu tỷ lệ dự tính nằm ở giữa những tỷ lệ trong bảng giá trị hiện tại, cần phải sử dụng phép nội suy để tìm giá trị của những giá trị này

VD: trái phiếu của công ty Brister được bán với giá 1100 đô la, lãi suâts Coupon 9%/năm và có thời hạn 10 năm. Nếu ta thử tại tỷ lệ chiết khấu 7%/năm, giá trị hiện tại của trái phiếu là 1140,16 đô la, lớn hơn giá trị thị trường 1100. tiếp tục thử tại một tỷ lệ cao hơn, chẳng hạn lên 8%/năm, giá trị hiện tại là 1066 đô la, thấp hơn giá trị thị trường. vì vậy tỷ lệ lợi tức dự tính của nhà đầu tư nằm giữa 7% và 8%. Có thể nội suy để tìm lãi suất mong đợi.

Câu 5: các quan hệ trong định giá trái phiếu

Quan hệ thứ nhất: giá trị của trái phiếu có quan hệ ngược với sự thay đổi của tỷ lệ lợi tức yêu cầu của NĐT. Nói cách khác, khi lãi suất tăng (hoặc giảm), thì giá trị của trái phiếu giảm (hoặc tăng)

Những thay đổi trong giá trái phiếu thể hiện một yếu tố không chắc chắn đối với NĐT trái phiếu. Nếu lãi suất hiện hành (tỷ lệ lợi tức yêu cầu) thay đổi, giá cả của trái phiếu sẽ dao động. Một sự tăng lên của lãi suất sẽ làm cho trái chủ phải chịu một khoản lỗ về giá trị thị trường. Vì lãi suất tương lai và giá trị cuối cùng của trái phiếu không thể đoán trước chắc chắn, nên NĐT trái phiếu phải chịu rủi ro của sự thay đổi giá trị khi lãi suất thay đổi. Rủi ro này gọi là rủi ro lãi suất.

Quan hệ thứ hai: giá trị thị trường của mỗi trái phiếu sẽ thấp hơn mệnh giá nếu tỷ lệ lợi tức yêu cầu của NĐT cao hơn lãi suất coupon và giá sẽ cao hơn mệnh giá nếu tỷ lệ lợi tức của NĐT nhỏ hơn lãi suất coupon.

Quan hệ thứ ba: khi ngày đáo hạn đến gần, giá thị trường của trái phiếu cũng tiến đến gần mệnh giá. Từ đó, có thể rút ra kết luận:

- Trái phiếu thưởng là trái phiếu bán cao hơn mệnh giá. Giá của nó sẽ giảm theo thời gian và bằng đúng mệnh giá tại ngày đáo hạn;

- Trái phiếu chiết khấu có giá bán thấp hơn mệnh giá. Giá trái phiếu chiết khấu tăng dần theo thời gian và bằng đúng mệnh giá tại ngày đáo hạn.

Quan hệ thứ tư: trái phiếu dài hạn có rủi ro lãi suất lớn hơn so với trái phiếu ngắn hạn.

Quan hệ thứ năm: tính nhạy cảm của giá trị trái phiếu đối với sự thay đổi lãi suất phụ thuộc không chỉ vào độ dài thời gian cho đến khi đáo hạn, mà còn phụ thuộc vào phương thức trả gốc và lãi. 

Câu 6: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHỨNG KHOÁN :TÍNH THANH KHOẢN VÀ TÍNH RỦI RO

Chúng ta đã được biết tầm quan trọng của tiền mặt trong hoạt động kinh doanh, nhưng sẽ thật là thiếu xót nếu bỏ qua một khái niệm bao hàm hơn và không kém tầm quan trọng đó chính là tính thanh khoản.

Thuật ngữ "tính thanh khoản" có thể được hiểu theo 3 cách. Thứ nhất, dùng để chỉ khả năng chuyển thành tiền của tài sản (tất nhiên bao gồm cả chứng khoán) nhằm trang trải các khoản nợ và nghĩa vụ ngắn hạn. Để làm được việc này, doanh nghiệp cần phải sở hữu các tài sản có tính thanh khoản, đó là tiền mặt và tương đương tiền (bao gồm, cổ phiếu blue-chip và các chứng khoán trên thị trường tiền tệ ví dụ trái phiếu chính phủ). Các tài sản có tính thanh khoản phải đảm bảo có thể được mua bán trên thị trường nhanh chóng mà không ảnh hưởng đến giá cả, tức là giá giao dịch không bị chênh lệch quá nhiều so với giá gốc. Tất nhiên, các nhà đầu tư yêu thích đầu tư vào các tài sản có tính thanh khoản cao vì họ có thể dễ dàng rút khỏi vụ đầu tư và lấy lại khoản đầu tư của mình (kèm theo cả lãi hoặc nếu là lỗ thì số tiền bị mất cũng không đáng kể). Thứ hai, tính thanh khoản chỉ khả năng trả nợ của doanh nghiệp khi đến hạn. Và, thứ ba tính thanh khoản liên quan đến khả năng vận hành trơn tru của thị trường xét về khía cạnh các giao dịch mua và bán.

Khả năng trả nợ của doanh nghiệp và tính thanh khoản của tài sản

Tính thanh của tài sản giao dịch ngoài tương tác với hoạt động của thị trường còn ảnh hưởng rất lớn đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp, trực tiếp nhất là khả năng trả nợ.

Có rất nhiều công thức cho phép xác định tương đối khả năng trả nợ của doanh nghiệp, tuy nhiên công thức Tỉ lệ nợ rất đơn giản và dễ hình dung.

Tỉ lệ nợ = Nợ phải trả (ngắn hạn và dài hạn) / Tổng tài sản

* Nếu tỉ lệ nợ > 1 có nghĩa là doanh nghiệp đang nợ nhiều hơn số tài sản mà mình có. Nếu công ty gặp phải tình trạng như thế này sẽ rất khó để có thể thu hút được nhà đầu tư hoặc ngân hàng cho vay tín dụng bởi vì rủi ro không trả được nợ của công ty là quá lớn.

* Nếu tỉ nợ < 1 có nghĩa rằng tổng tài sản của doanh nghiệp có khả năng bù đắp được cho khoản nợ. Khi đó lại phải cân nhắc thêm một số yếu tố khác.

Nếu tài sản của doanh nghiệp không thể chuyển thành tiền mặt khi cần (tức là khả năng thanh khoản kém) thì doanh nghiệp không có khả năng trả nợ khi đến hạn. Khả năng thanh khoản kém không hẳn đồng nghĩa với vỡ nợ nếu về lâu dài tài sản vẫn có khả năng bán đi được. Tuy vậy, rõ ràng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi vì nợ quá hạn có thể còn phải gánh lãi suất và tiền phạt do trả chậm. Rủi ro cao hơn xảy ra nếu tài sản hoàn toàn không có tính thanh khoản, khi đó doanh nghiệp không có tiền trả nợ và tất nhiên sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ. Khoảng cách giữa vỡ nợ và phá sản chỉ là vấn đề thời gian, bởi vì sau khi bị vỡ nợ doanh nghiệp hoặc các chủ nợ có thể nộp đơn yêu cầu tòa án phá sản tuyên bố phá sản để thanh lý tài sản trả nợ.

Câu 7: các đặc trưng của chứng khoán

1- khái niệm chứng khoán

- quan điểm xuất phát từ hình thức tồn tại mang tính truyền thống của chứng khoán: CK là thuật ngữ để chỉ những chứng từ có giá xác nhận khoản tiền mà người chủ sở hữu đã bỏ ra để được quyền hưởng các khoản lợi tức nhất định theo kỳ hạn

- quan điểm hiện đại: CK là chứng  chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. CK được thể hiện dưới hinh thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau:

   + cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ

   + quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.

Xem xét các khái niệm trên cho thấy: CK đại biểu cho một số tiền nhất định mà người sở hữu đã ứng ra với mục đích là CK sẽ đem lại cho người sở hữu được hưởng quyền và lợi ích nhất định trong tương lai

2- Các đặc trưng cơ bản của CK

Tính sinh lợi

Tính rủi ro

Tính thanh khoản

Tính sinh lợi: là khả năng mà nó đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng

Các chứng khoán luôn chứa đựng một khả năng sinh lợi nhất định bởi lẽ khi phát hành ra chúng, nhà (tổ chức) phát hành luôn hứa hẹn,cam kết một khoản thu nhập sẽ thanh toán cho nhà đầu tư, chính vì điều này mà nhà đầu tư mới bỏ vốn mua chứng khoán với tư cách là một hoạt dộng đầu tư.

Với các loại chứng khoán khác nhau thì mức độ và tính chất các khoản thu nhập mà chứng khoán đem lại cho người nắm giữ cũng khác nhau. Có những loại chứng khoán mà thu nhập của nó cho nhà đầu tư tương đối ổn định trong suốt thời gian đầu tư, có những loại chứng khoán mà thu nhập của nó hoàn toàn phụ thuộc vào chất lượng hiệu quả của các hoạt động kinh tế của tổ chức phát hành, cũng như tình hình quan hệ cung – cầu loại chứng khoán đó trong nền kinh tế.

Ví dụ:

- đối với cổ phiếu: người nắm giữ cổ phiếu sẽ được hưởng cổ tức hàng năm khi công ty cổ phần quyết toán kết quả hoạt động kinh doanh, ngoài ra họ có thể có thêm một khoản thu nhập tiềm năng trong tương lai dưới dạng chênh lệch giá chứng khoán nếu giá thị trường của cổ phiếu gia tăng do các nguyên nhân khác nhau

- đối với trái phiếu: theo các kỳ hạn cam kết của tổ chức phát hành, các trái chủ được quyền nhận trái tức, ngoài ra cũng có thể nhận thêm một khoản thu nhập thứ hai là chênh lệch giá nếu giá thị trường của trái phiếu tăng lên

Tuy nhiên khả năng sinh lợi bao giờ cũng quan hệ chặt chẽ với rủi ro của tài sản, thể hiện trong nguyên lý – mức độ chấp nhận rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng cao

Tính rủi ro của chứng khoán

Rủi ro là những tình huống khách quan có thể xảy ra và không thể lường trước được

Tính rủi ro của chứng khoán là những sự cố bất lợi có nguồn gốc từ chứng khoán đối với người sở hữu chứng khoán

Đối với chứng khoán bất kỳ một loại chứng khoán nào cũng tiềm ẩn một rủi ro nhất định. Vì bên cạnh tính sinh lợi của chứng khoán thì trong thời gian sở hữu chứng khoán, chủ sở hữu cũng có thể bị tổn thất thiệt hại do những rủi ro nhất định gây ra. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán có thể dẫn đến giá trị của chứng khoán bị giảm hoặc bị mất hoàn toàn hoặc thu nhập của chứng khoán bị giảm hoặc bị mất.

Ví dụ:

- rủi ro về thu nhập: là sự không chắc chắn, không ổn định về các khoản thu nhập của chứng khoán đem lại cho người chủ sở hữu.

Ví dụ: một cổ đông sở hữu cổ phiếu sẽ  có thu nhập qua các năm không ổn định, hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. doanh nghiệp hoạt động sxkd có hiệu quả thì thu nhập của cổ đông sẽ cao. Ngược lại, nếu doanh nghiệp hoạt động sxkd kém hiệu quả thì thu nhập sẽ thấp, thậm chí có thể không có thu nhập

- rủi ro về khả năng thanh toán: là sự không chắc chắn khi thu hồi vốn đầu tư của chứng khoán do sự yếu kém về mặt tài chính của người phát hành

Ví dụ: một người mua trái phiếu của doanh nghiệp X, thời hạn thanh toán là 5 năm, nhưng chưa đến thời hạn thanh toán thì công ty phá sản và đang hoàn tất thủ tục. như vây, người này có thể bị mất một phần hoặc toàn bộ số vốn đã bỏ ra.

- rủi ro lạm phát: hay rủi ro về sức mua xuất hiện vì sự thay đổi trong giá trị của dòng tiền mặt của trái phiếu do lạm phát khi đo lường giá sức mua.

Ví dụ: khi một nhà đầu tư mua một trái phiếu với lãi suất trái phiếu là 7% nhưng tỷ lệ lạm phát là 8%, thì sức mua của dòng tiền mặt thực tế đã giảm. đối với những trái phiếu có lãi suất thả nổi những nhà đầu tư được ngừa trước rủi ro lạm phát bởi vì nhà phát hành đã hứa sẽ điều chỉnh để giữ một lãi suất thực tế cố định trong suốt vòng đời của trái phiếu.

- rủi ro về tỷ giá hối đoái xảy ra đối với những chứng khoán được  thanh toán bằng ngoại tệ. dòng tiền mặt nội tệ phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái tại thời điểm các khoản lợi tức được thanh toán. Ví dụ: giả sử rằng nhà đầu tư mua trái phiếu thanh toán bằng USD. Khi USD giảm giá so với tiền đồng VND thì tiền đồng sẽ nhận ít hơn tại thời điểm thanh toán. Và ngược lại khi USD tăng giá so với tiền đồng thì tiền đồng sẽ được nhận nhiều hơn tại thời điểm thanh toán

- rủi ro về thị trường: là những rủi ro do hoạt động trên ttck gây ra dẫn đến giảm giá chứng khoán, giảm tính thanh khoản của chứng khoán

Nói chung chứng khoán là các tài sản tài chính mà giá trị của nó chịu tác động lớn của rủi ro, bao gồm rui ro hệ thống và rủi ro không có hệ thống

- tính thanh khoản của chứng khoán là khả năng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt của người nắm giữ chứng khoán

Tính thanh khoản của chứng khoán còn được gọi là tính hoán lệ, tính lỏng, tính lưu thông,… nó thể hiện khả năng chuyển các chưng khoán thành tiền mặt một cách dễ dàng trong thời gian ngắn  và không có rủi ro sụt giảm giá trị tiền tệ của chứng khoán đó. Các chứng khoán khác nhau, tính thanh khoản cũng tồn tại ở mức độ cao thấp khác nhau. Tính thanh khoản của mỗi chưng khoán phụ thuộc vào tiêu chí:

+ thời gian và chi phí cho việc chuyển đổi

+ việc đảm bảo duy trì giá trị ban đầu của chứng khoán

* mối quan hệ giữa các đặc trưng

3 đặc trưng nói trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau

Thông thường các chứng khoán có rui ro tiềm ẩn cao nhưng khả năng sinh lợi cao. Đó chính là yếu tố hấp dẫn nhà đầu tư nắm giữ các chứng khoán có mức rủi ro dự kiến cao.

Giữa khả năng sinh lời va tính thanh khoản cũng có mối liên hệ mật thiết. các chưng f skhoan có tính thanh khoản cao thì mức sinh lợi thấp đông thời ít rủi ro – vì vậy mà các nhà đầu tư thường chọn những chưng khoán này do chúng có lợi thế trong giao dịch. Bất cứ lúc nào người nắm giữ chưng khoán cũng có thể bán đi với mức giá hợp ly

Tính sinh lời của chứng khoán đã thu hút một số lượng lớn nhất định các nhà đầu tư nắm giữ chúng. Tuy nhiên tính rui ro lại là yếu tố tác động tới việc họ nên nắm giữ chwg khoán như thế nào và nên rút vốn vào lúc nào là hợp lý

Còn tính thanh khoản của chứng khoán sẽ chuyển hóa thành hình thức đầu tư  trung và dài hạn thành yếu tố ngắn hạn làm linh hoạt các công cụ đầu tư, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư chứng khoán thu hồi vốn đầu tư hoặc chuyển vốn đầu tư một cách dễ dàng

Câu 8: Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu

Giá của cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố vĩ mô và vi mô.

Do đó, khi đầu tư cổ phiếu, nhà đầu tư cần quan tâm tìm hiểu và phân tích tác động của các yếu tố tới cổ phiếu mình đang đầu tư, để đưa ra các quyết định đầu tư thích hợp. Sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu mà nhà đầu tư cần biết.

Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu

\- Sự tiến triển của nền kinh tế quốc dân, tình hình kinh tế khu vực và thế giới: Thông thường, giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi nền kinh tế phát triển (và có xu hướng giảm khi nền kinh tế yếu đi). Bởi khi đó, khả năng về kinh doanh có triển vọng tốt đẹp, nguồn lực tài chính tăng lên, nhu cầu cho đầu tư lớn hơn nhiều so với nhu cầu tích luỹ và như vậy, nhiều người sẽ đầu tư vào cổ phiếu.

 Lạm phát: Lạm phát tăng thường là dấu hiệu cho thấy, sự tăng trưởng của nền kinh tế sẽ không bền vững, lãi suất sẽ tăng lên, khả năng thu lợi nhuận của DN bị hạ thấp khiến giá cổ phiếu giảm. Lạm phát càng thấp thì càng có nhiều khả năng cổ phiếu sẽ tăng giá và ngược lại.

- Tình hình biến động của lãi suất: Lãi suất tăng làm tăng chi phí vay đối với DN. Chi phí này được chuyển cho các cổ đông vì nó sẽ hạ thấp lợi nhuận mà DN dùng để thanh toán cổ tức. Cùng lúc đó, cổ tức hiện có từ cổ phiếu thường sẽ tỏ ra không mấy cạnh tranh đối với nhà đầu tư tìm lợi tức, sẽ làm họ chuyển hướng sang tìm nguồn thu nhập tốt hơn ở bất cứ nơi nào có lãi suất cao. Hơn nữa, lãi suất tăng còn gây tổn hại cho triển vọng phát triển của DN vì nó khuyến khích DN giữ lại tiền nhàn rỗi, hơn là liều lĩnh dùng số tiền đó mở rộng sản xuất, kinh doanh. Chính vì vậy, lãi suất tăng sẽ dẫn đến giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm có tác động tốt cho DN vì chi phí vay giảm và giá cổ phiếu thường tăng lên.

Tuy nhiên, sự dao động của lãi suất không phải luôn được tiếp theo bởi sự phản ứng tương đương và trái ngược của giá cổ phiếu. Chỉ khi nào lãi suất phản ánh xu hướng chủ đạo trong lạm phát, nó mới trở thành thước đo hiệu quả sự dao động của TTCK. Lãi suất có xu hướng giảm khi lạm phát giảm và lạm phát giảm khiến giá cổ phiếu tăng cao hơn. Ngược lại, lạm phát tăng cùng với lãi suất, giá cổ phiếu sẽ giảm. Nhưng nếu lạm phát không phải là một vấn đề nghiêm trọng và lãi suất tăng, đầu tư vào TTCK thường mang lại nhiều lãi. Bởi vì trong trường hợp này, lãi suất tăng là do nền kinh tế tăng trưởng.

- Chính sách thuế của Nhà nước đối với thu nhập từ chứng khoán: Nếu khoản thuế đánh vào thu nhập từ chứng khoán cao (hoặc tăng lên) sẽ làm cho số người đầu tư giảm xuống, từ đó làm cho giá chứng khoán giảm.

- Những biến động về chính trị, xã hội, quân sự: Đây là những yếu tố phi kinh tế nhưng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến giá cổ phiếu trên thị trường. Nếu những yếu tố này có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tình hình kinh doanh của DN thì giá cổ phiếu của DN sẽ tăng lên.

- Những yếu tố nội tại gắn liền với nhà phát hành biến động: yếu tố về kỹ thuật sản xuất: trang thiết bị máy móc, công nghệ, tiềm năng nghiên cứu phát triển...; yếu tố về thị trường tiêu thụ: khả năng về cạnh tranh và mở rộng thị trường...; yếu tố về con người: chất lượng ban lãnh đạo, trình độ nghề nghiệp của công nhân; tình trạng tài chính của DN...

- Tâm lý nhà đầu tư: Theo thuyết lòng tin về giá cổ phiếu, yếu tố căn bản trong biến động của giá cổ phiếu là sự tăng hay giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với tương lai của giá cổ phiếu, của lợi nhuận DN và của lợi tức cổ phần. Vào bất cứ thời điểm nào, trên thị trường cũng xuất hiện 2 nhóm người: nhóm người lạc quan và nhóm người bi quan. Khi số tiền do người lạc quan đầu tư chiếm nhiều hơn, thị trường sẽ tăng giá và khi số tiền bán ra của người bi quan nhiều hơn, thị trường sẽ hạ giá. Tỷ lệ giữa 2 nhóm người này sẽ thay đổi tuỳ theo cách diễn giải của họ về thông tin, cả về chính trị lẫn kinh doanh, cũng như những đánh giá của họ về nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng.

Chính vì thế, cùng một loại chứng khoán, có người cho rằng, xấu quá cần phải bán đi, nhưng ngược lại có người cho rằng, tương lai của nó rất sáng lạn cần phải mua vào. Điều này cũng lý giải tại sao trên TTCK lúc nào cũng có người mua, người bán.

Ngoài ra, các hành động lũng đoạn, tung tin đồn nhảm, các biện pháp kỹ thuật của nhà điều hành thị trường, ý kiến của các nhà phân tích... cũng có thể khiến thị giá cổ phiếu biến động.

Câu 9: trình bày nội dung – tính chất – điều kiện áp dụng các lệnh cơ bản trong kinh doanh chứng khoán

1, LỆNH GIỚI HẠN

a)Khái niệm :Lệnh giới hạn là lệnh mua/bán chứng khoán tại một mức giá xác định hoặc tốt hơn.

b)Ví dụ:

-Lệnh LO (định kỳ):

Cổ phiếu : AAA

 Giá tham chiếu: 99

 Sổ lệnh như sau:

KL Mua

Giá Mua

Giá bán

KL Bán

   5000

    100

     98

   1000

    100

   1000

Kết quả khớp lệnh: Giá khớp 100- Khối lượng khớp:2000

Sổ lệnh sau khi khớp:

KL Mua

Giá Mua

Giá bán

KL Bán

  3000

   100

-Ví dụ về lệnh LO (liên tục)

Cổ phiếu : AAA

Giá tham chiếu : 99

Sổ lệnh như sau:

KL Mua

Giá Mua

Giá bán

KL Bán

(C) 5000

100

    98

   100 (A)

   100

   1000 (B)

 Kết quả khớp lệnh :  Giá 98 - KL khớp 1000

                                  Giá 100 - KL khớp 1000

Sổ lệnh sau khi khớp:

KL Mua

Giá Mua

Giá bán

KL Bán

(C) 3000

   100

c)Đặc điểm:

    Thường không thực hiện ngay. Trong khoảng thời gian lệnh chưa thực hiện thì khách hàng có thể thay đổi giá giới hạn. Khi hết thời gian đã định lệnh chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa đủ mặc nhiên sẽ hết giá trị.Là lệnh mua bán tại mức giá xác định hoặc tốt hơn.

    Lệnh có ghi giá. VD: mua REE 1000 giá 70

    Giá thực hiện (nếu lệnh được thực hiện) bằng hoặc tốt hơn giá ban đầu

    Áp dụng khớp lệnh định kỳ và liên tục

       Ưu điểm:Giúp cho nhà đầu tư dự tính được mức lời hoặc lỗ khi giao dịch được thực hiện

       Nhược điểm:Nhà đầu tư có thể gặp rủi ro do mất cơ hội đầu tư, đặc biệt trong trường hợp giá thị trường bỏ xa mức giá giới hạn

 Một số trường hợp, lệnh giới hạn có thể không được thực hiện vì không đáp ứng được các nguyên tắc ưu tiên trong khớp lệnh

 d)Hiệu lực lệnh:

Đến lúc kết thúc ngày giao dịch hoặc cho đến khi lệnh bị hủy bỏ

e)Ý nghĩa:

 Nhà đầu tư tránh được việc mua bán CK với mức giá không có lợi

f)Áp dụng:

 Lệnh thường được sử dụng khi giá thị trường biến động lớn 

g) tính chất: Đây là loại lệnh mua bán cần ghi rõ mức giá

2,  LỆNH THỊ TRƯỜNG

a) Khái niệm :

 Lệnh thị trường là loại lệnh khách hàng không đưa giá trong lệnh. Nói cách khác đây là loại lệnh mà khách hàng chấp nhận mua/bán với bất kỳ mức giá nào trên thị trường.

b) Ví dụ:

Ví dụ về lệnh thị trường:

Sổ lệnh cổ phiếu BBB như sau:

KL Mua

Giá mua

Giá bán

KL Bán

5000(C)

MP

120

1000(A)

121

2000(B)

Kết quả khớp lệnh:

 -(C)3000  - 1000(A)(120)                

          - 2000(B)(121)

- 2000 chuyển thành lệnh LO mua tại mức giá 122.

Sổ lệnh cổ phiếu BBB sau khi so khớp như sau:

KL Mua

Giá mua

Giá bán

KL Bán

2000

122

c) Đặc điểm:

    - Lệnh mua tại mức giá bán thấp nhất hoặc lệnh bán tại mức giá mua cao nhất hiện có trên  thị trường.

    - Là loại lệnh được sử dụng rất phổ biến trong các giao dịch chứng khoán.

    - Nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn chưa thực hiện hết thì lệnh MP sẽ được xem là lệnh mua tại mức giá bán cao hơn hoặc lệnh bán tại mức giá mua thấp hơn tiếp theo hiện có trên thị trường. Nghĩa là nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh thị trường vẫn còn, lệnh MP sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua (bán) tại mức giá cao(thấp) hơn 1 đơn vị yết giá so với giá giao dịch cuối cùng trước đó.

     - Lệnh thị trường chỉ sử dụng trong phiên khớp lệnh liên tục (9:00 - 10:00).

Không nhập được khi không có lệnh đối ứng

Chỉ sử dụng trong phiên khớp lệnh liên tục

    - Lệnh thường được áp dụng trong trường hợp bán chứng khoán vì tâm lý của người bán là bán nhanh theo giá thị trường và đối tượng của lệnh này thường là chứng khoán “nóng” nghĩa là chứng khoán đang có sự thiếu hụt hoặc dư thừa tạm thời.

    - Lệnh không ghi giá (ghi MP)

Nhược điểm:

    Đối với sàn giao dịch chứng khoán: áp dụng lệnh MP để dẫn đến biến động giá bất thường, ảnh hưởng đến sự ổn định giá chứng khoán trên thị trường do lệnh luôn tiềm ẩn khả năng thực hiện ở 1 mức giá không thể dự tính trước.

    Đối với nhà đầu tư: có thể bị bất lợi nếu giá cả trên thị trường tạm thời biến động ngược chiều theo dự đoán của nhà đầu tư.

Ưu điểm:

    Đối với sàn giao dịch chứng khoán: tăng nhịp độ và tỷ lệ giao dịchàtăng tính thanh khoản cho thị trường

   Đối với nhà đầu tư: họ chỉ cần đưa ra khối lượng giao dịch mà không cần chỉ ra mức giá cụ thể. Ngoài ra nhà đầu tư và các công ty chứng khoán sẽ tiết kiệm được chi phí do ít sai sót hoặc không phải sửa cũng như hủy lệnh.

d) Ý nghĩa

    Lệnh này tiết kiệm được thời gian và chi phí cho cả nhà đầu tư và công ty chứng khoán

e) Áp dụng:

     Khi nhà đầu tư tin tưởng tuyệt đối vào nhà môi giới hoặc giá cả trên thị trường ổn định tương đối

     Nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn chưa thực hiện hết thì lệnh MP sẽ được xem là lệnh mua tại mức giá bán cao hơn hoặc lệnh bán tại mức giá mua thấp hơn tiếp theo hiện có trên thị trường.

     Nếu khối lượng đặt lệnh của lệnh MP vẫn còn, lệnh MP sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua (bán) tại mức giá cao (thấp) hơn một đơn vị yết giá so với giá giao dịch cuối cùng trước đó.

     Trường hợp giá thực hiện cuối cùng là giá trần đối với lệnh MP mua hoặc giá sàn đối với lệnh MP bán thì lệnh thị trường sẽ được chuyển thành lệnh giới hạn mua tại giá trần hoặc lệnh giới hạn bán tại giá sàn.

      Các thành viên không được nhập lệnh MP vào hệ thống giao dịch khi chưa có lệnh giới hạn đối ứng đối với chứng khoán đó.

      Các lệnh mua MP của nhà đầu tư nước ngoài nếu không được thực hiện hết sẽ tự động bị huỷ bỏ.

3, LỆNH DỪNG:

a,Khái niệm: Lệnh dừng là lệnh để mua hoặc bán một lọai cổ phiếu ngay khi giá thị trường đat được một mức cụ thể nào đấy, gọi là mức giá dừng. Khi giá thị trường đạt tới điểm này thì lệnh dừng của bạn trở thành một lệnh thị trường (market order).

b,Phân loại: lệnh mua và lệnh bán

- Lệnh dừng để bán

Khách hàng mua 100 cổ phần với giá 12 ngàn đồng/cổ phần. Sau một thời gian giá cổ phiếu này lên tới 20 ngàn đồng/cổ phần. Khách hàng chưa muốn bán vì ông ta cho rằng giá còn tăng nữa. Nhưng để đề phòng trường hợp giá không tăng mà lại giảm, khách hàng này đặt lệnh dừng với người đại diện công ty chứng khoán để bán với giá 19 ngàn đồng/cổ phần chẳng hạn. Nếu thực tế giá cổ phiếu đó không tăng mà lại giảm thì giá cổ phiếu đó giảm tới 19 ngàn, người môi giới sẽ bán cho ông ta.

- Lệnh dừng để mua

Lệnh này thường được dùng trong trường hợp bán khống để giới hạn sự thua lỗ. Chẳng hạn khách hàng vay của công ty chứng khoán một số cổ phần và bán đi với giá 30 ngàn đồng/cổ phần với hy vọng giá cổ phiếu giảm xuống tới 20 ngàn đồng/ cổ phần, ông ta sẽ mua để trả. Nhưng để đề phòng trường hợp giá cổ phiếu không giảm mà lại tăng, khách hàng đó đặt một lệnh dừng để mua với giá 35 ngàn đồng. Khi giá lên tới 35 ngàn đồng, người môi giới sẽ mua cổ phiếu đó cho ông ta và ông ta đã giới hạn sự thua lỗ của mình ở mức 5 ngàn đồng / cổ phần.

Một lệnh dừng để mua được đưa ra trên mức giá thị trường hiện hành còn một lệnh dừng để bán được đưa ra thấp hơn giá thị trường hiện hành.

Ưu điểm của loại lệnh này là bạn không cần ngày nào cũng phải để mẳt tới các biến động của cổ phiếu.

Hạn chế của nó là khi mức giá thị trường đạt tới mức giá dừng mà bạn đề ra thì lệnh dừng của bạn sẽ trở thành lệnh thj trường, nhưng mức giá mà tại đó lệnh của bạn đựơc thực hiện thì có thể khác rất nhiều so với mức giá dừng này bởi vì giá cả thay đổi rất nhanh chóng trong một thị trường đầy biến động như hiện nay. Để tránh các rủi ro có thể gặp phải đối với lệnh dừng thì bạn có thể đưa ra lệnh hỗn hợp (stop-limit order)

Lệnh dừng giới hạn (Stop-limit order)

Lệnh dừng giới hạn là một lệnh kết hợp cả đặc tính của lệnh giới hạn (limit order ) và lệnh dừng (stop order). Lệnh dừng giới hạn sẽ được thực hiện ở một mức giá cụ thể sau khi giá thị trường đạt tới mức giá dừng (stop price). Khi mà giá thị trường đạt tới mức giá dừng (stop price) thì lệnh dừng giới hạn sẽ trở thành lệnh giới hạn mua hoặc bán một loại cổ phiếu tại mức giá giới hạn hoặc mức giá tốt hơn.

Ưu điểm chính của lệnh dừng giới hạn là bạn có thể kiểm soát một cách chính xác lệnh của bạn sẽ được thực hiện như thế nào.

Nhược điểm của nó cũng giống với nhược điểm của các lệnh giới hạn khác đó là lệnh của bạn sẽ không được thực hiện nếu như loại chứng khoán mà bạn định mua hay bán không đạt được tới mức giá giới hạn (limit price).

Lệnh dừng là lệnh mà chỉ được thực hiện khi giá thị trường của chứng khoán đạt tới một mức nhất định. Lệnh giới hạn là lệnh được thực hiện ở mức giá cụ thể hoặc là tốt hơn. Với việc liên kết hai loại lệnh này thì mức độ chính xác trong thực hiện các giao dịch của các nhà đầu tư sẽ cao hơn. Nhưng vì lệnh dừng sẽ chỉ được thực hiện ở mức giá thị trường ngay sau khi giá thị trường đạt tới mức giá dừng (stop price) nên vẫn có khả năng lệnh của bạn sẽ được thực hiện không theo ý muốn vì thị trường thay đổi rất nhanh chóng. Lệnh dừng giới hạn thường được áp dụng đối với cổ phiếu được mua bán trên sàn giao dịch hơn là tại thị trường OTC. Một số nhà môi giới sẽ không chấp nhận thực hiện lệnh dừng giới hạn với một số loại chứng khoán, đặc biệt là chứng khoán trên thị trường OTC.

Ví dụ : giả sử rằng cổ phiếu của công ty ABC đang được mua bán với mức giá là 30đôla/cổ phiếu và có một nhà đầu tư đã đặt lênh hỗn hợp đễ mua loại cổ phiếu này với mức giá dừng là 35 đôla/cổ phiếu và mức giá giới hạn là 37 đôla/ cổ phiếu. nếu như cổ phiếu của công ty ABC lện trên mức giá 35 đôla/cp thì lệnh của bạn sẽ chuyển thành lệnh giới hạn. Chừng nào mà mức giá của cổ phiếu này trện thị trường còn dưới mức 37 đôla/cp thì lệnh của bạ sẽ được thực hiện. Tuy nhiên nếu như mức giá này vượt ngưỡng 37 đôla/cp thì lệnh của bạn sẽ không được thực hiện nữa.

4, LỆNH GIAO DỊCH TẠI MỨC GIÁ KHỚP LỆNH

Bao gồm: lệnh ATO (at the open) và lệnh ATC (at the close)

a.ATO

- Khái niệm:

ATO (lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá mở cửa) là lệnh đặt mua hoặc đặt bán chứng khoán tại mức giá mở cửa.

-                      Ví dụ:

Ví dụ: Sổ lệnh của cổ phiếu ABC có giá tham chiếu 10.000 đồng

KL mua

Giá mua

Giá bán

KL bán

1.500

10.000đ (3)

ATO

2.000 (2)

9.900 đồng

1.000 (1)

(1),(2),(3): Thứ tự lệnh được nhập vào hệ thống

         Với sổ lệnh trên, lệnh ATO dù vào sau lệnh (1) bán 1.000 cổ phiếu ABC giá 9.900 đồng, nhưng vẫn được ưu tiên khớp với lệnh mua 1.500 đơn vị ở giá 10.000 đồng. Lượng dư bán 500 đơn vị của lệnh ATO sẽ tự động bị huỷ bỏ.

         Giả sử lệnh ATO trên chỉ bán với khối lượng 500 đơn vị thì bên mua sau khi khớp vẫn còn thừa 1.000 đơn vị và lúc này lệnh (1) mới được khớp. Do lệnh (1) vào hệ thống trước nên được ưu tiên giá tốt và 1.000 đơn vị sẽ được khớp với giá 10.000 đồng. Khả năng mua được hoặc bán được của lệnh ATO rất cao, nhưng mức giá có thể không có lợi.

-                      Đặc điểm:

 Lệnh Là lệnh đặt mua hoặc bán tại mức giá mở cửa

Lệnh không ghi giá (ghi ATO).

Lệnh ATO ưu tiên trước lệnh giới hạn khi so khớp

Giá thực hiện (nếu lệnh được thực hiện ) là giá khớp lệnh xác định giá mở cửa

Lệnh được áp dụng trong phiên khớp lệnh định kỳ

-                      hiệu lực:

     Lệnh ATO được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định kỳ (hiện tại thời gian khớp lệnh định kỳ xác định giá mở cửa là 8h30-9h) xác định giá mở cửa. Lệnh này sẽ tự động bị hủy bỏ sau thời điểm xác định giá mở cửa đối với lệnh không được thực hiện hoặc phần lệnh còn lại chưa được thực hiện.

 Nhà đầu tư lưu ý, khi đặt lệnh ATO trên các phiếu lệnh tại công ty chứng khoán, không cần ghi giá cụ thể mà ghi ATO. 

b. ATC

- Khái niệm:

         Lệnh ATC (lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá đóng cửa) là lệnh đặt mua hoặc đặt bán chứng khoán tại mức giá đóng cửa. 

-                      Đặc điểm:

        Lệnh ATC được ưu tiên trước lệnh giới hạn trong khi so khớp lệnh. Lệnh ATC cũng tương tự như lệnh ATO nhưng được áp dụng trong thời gian khớp lệnh định kỳ để xác định giá đóng cửa.

-                      Hiệu lực:

       Lệnh ATC được nhập vào hệ thống giao dịch trong thời gian khớp lệnh định kỳ để xác định giá đóng cửa (10h15-10h30). Lệnh ATC sẽ tự động bị hủy bỏ sau thời điểm xác định giá đóng cửa đối với lệnh không được thực hiện hoặc phần lệnh còn lại chưa được thực hiện.

 5, Một số lệnh khác

Lệnh mở là lệnh có hiệu lực vô hạn. Với lệnh này, nhà đầu tư yêu cầu nhà môi giới mua hoặc bán chứng khoán tại mức giá cá biệt và lệnh có giá trị thường xuyên cho đến khi bị hủy bỏ.

Lệnh sửa đổi là lệnh do nhà đầu tư đưa vào hệ thống để sửa đổi một số nội dung vào lệnh gốc đã đặt trước đó (giá, khối lượng, mua hay bán…). Lệnh sửa đổi chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện.

Lệnh hủy bỏ là lệnh do khách hang đưa vào hệ thống để hủy bỏ lệnh gốc đã đặt trước đó. Lệnh hủy bỏ chỉ được chấp nhận khi lệnh gốc chưa được thực hiện.

Câu 10: bình luận về vấn đề phát hành cổ phiếu ở VN

Chủ đề Phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) của một số doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa (DNNN CPH) là những vấn đề được công chúng khá quan tâm như: Thế nào là đợt IPO hiệu quả? Chậm tiến độ IPO của một số DNNN lớn tác động đến  thị trường chứng khoán (TTCK) không? Thấy gì qua các đợt IPO của một vài doanh nghiệp trong thời gian qua? Làm thế nào để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao hiệu quả  IPO của một số DNNN CPH trong thời gian tới? Những vấn đề trên còn có ý kiến khác nhau. Theo cá nhân tôi xin được trao đổi  về một số nội dung xoay quanh vấn đề IPO DNNN.

IPO là việc doanh nghiệp phát hành một lượng cổ phiếu nhất định ra bên ngoài cho các nhà đầu tư và sau đó cổ phiếu được phép giao dịch trên thị trường. Để bảo vệ quyền lợi cho nhà đầu tư, nhiều quốc gia trên thế giới đều quy định chặt chẽ về điều kiện để một doanh nghiệp thực hiện IPO. Mặc dù trình độ phát triển và thực trạng từng nền kinh tế khác nhau, nhưng nhìn chung một doanh nghiệp muốn phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng, đều phải tuân thủ những điều kiện bắt buộc về số vốn điều lệ tối thiểu như: Tính chất đại chúng thể hiện ở tỷ lệ số lượng cổ đông nắm giữa cổ phiếu; Tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; Tính khả thi trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được từ đợt chào bán ra công chúng và cuối cùng là đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực và trình độ.

Ở Việt Nam, văn bản hiện hành về việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng cũng quy định cụ thể những điều kiện nêu trên. Do đó, về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế, doanh nghiệp muốn thực hiện IPO, doanh nghiệp phải có tiềm lực về vốn, phải thể hiện tính chất đại chúng và sẵn sàng trở thành đại chúng. Như vậy, hiểu thế nào là một đợt IPO thành công/hiệu quả?

Một số ý kiến cho rằng thành công của đợt IPO phụ thuộc vào 5 nhân tố: Tiềm lực doanh nghiệp; Thực trạng TTCK; Khối lượng phát hành; Quy mô đăng ký; Giá khởi điểm. Trong điều kiện TTCK Việt Nam hiện nay, một vài doanh nghiệp đã tiến hành IPO vừa qua, giá trúng thầu rất cao, bán hết số lượng cổ phần dự kiến phát hành. Nếu xét ở góc độ doanh nghiệp – nhà phát hành, như vậy là hiệu quả. Nhưng xem xét ở góc độ nhà đầu tư, thì mua được lượng chứng khoán lớn chưa hẳn đã được coi là hiệu quả. Về mặt lý thuyết, giá trúng thầu rất quan trọng của một đợt đấu giá, giá này phản ánh giá trị của doanh nghiệp và có tác động tới các nhà đầu tư trong việc đưa ra giá mua cổ phiếu của doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế vì nhiều lý do, trong đó có yếu tố kinh doanh theo “ bầy đàn”, nên giá trúng thầu chưa hẳn nói nên sự thật về tiềm lực của doanh nghiệp hiện tại và triển vọng trong tương lai. Đã có nhà đầu tư đặt giá rất cao, thậm chí gấp hàng trăm lần mệnh giá của cổ phiếu, nhưng lại không có ý định đầu tư, vì thế giá trúng thầu chưa phản ánh chính xác quan hệ cung cầu về cổ phiếu cổ phiếu của doanh nghiệp. Nên trong một số trường hợp giá trúng thầu cao nhất lại không phải là giá mà nhà đầu tư quan tâm, mà giá trúng thầu bình quân/hoặc thấp nhất lại được số đông các nhà đầu tư chú ý. Trong trường hợp này, bán được giá cao cũng chưa hẳn là đợt IPO hiệu quả. Mặt khác, CPH DNNN, phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng không phải là bán được giá càng cao càng tốt để Nhà nước rút được nhiều vốn, mà mục tiêu lớn nhất của CPH là tạo ra động lực giúp doanh nghiệp phát triển, quản trị tốt hơn, kinh doanh có hiệu quả hơn; đồng thời CPH DNNN hoặc Nhà nước rút bớt phần vốn của mình ra khỏi doanh nghiệp phục vụ cho mục tiêu khác, nhằm mục đích giảm bớt can thiệp của Nhà nước vào doanh nghiệp, hoặc bằng cách giữ nguyên phần vốn của Nhà nước, nhưng thu hút thêm vốn của các cổ đông bên ngoài, các nhà đầu tư chiến lược để cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp. Còn các yếu tố thị trường, cũng như khối lượng phát hành có tác động không nhỏ đến việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Nhưng không vì thế mà việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng sẽ không thành công khi thị trường đang có những biến động thất thường, bởi nhà đầu tư vẫn quan tâm đến cổ phiếu của doanh nghiệp làm ăn hiệu quả và có nhiều triển vọng trong tương lai. Như vậy, yếu tố thị trường có tác động đến cung cầu trên TTCK nói chung, IPO nói riêng, nhưng một số trường hợp không hẳn quyết định sự thành công của IPO. Vì vậy, 5 yếu tố kể trên nên coi nó là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến IPO. Vậy, thành công của IPO được hiểu như thế nào? Theo chúng tôi, phát hành lần đầu ra công chúng được coi là hiệu quả khi số lượng dự kiến vốn huy động được thể hiện bằng các cổ phiếu phát hành  bán hết với giá cả hợp lý.

Trước hết, về khối lượng  phát hành. Khối lượng phát hành nói lên mức cung của đợt IPO, khối lượng này phải phù hợp với khối lượng vốn dự kiến huy động và tính đến hiệu quả của việc sử dụng số vốn huy động được sau đợt IPO. Còn giá bán được coi là hợp lý đối với cả ba nhà: nhà phát hành - doanh nghiệp, Nhà nước và nhà đầu tư. Đối với  nhà phát hành, giá này phản ánh được hiện trạng và triển vọng của doanh nghiệp trong tương lai. Sau IPO, doanh nghiệp tăng được năng lực tài chính, góp phần cải thiện vấn đề quản trị nội bộ doanh nghiệp, cũng như không bị sức ép từ phía nhà đầu tư do sự kỳ vọng quá thái, đôi khi vượt quá tiềm năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với nhà đầu tư, tiền bỏ ra mua cổ phiếu của doanh nghiệp, không chỉ  phụ thuộc vào bản thân doanh nghiệp mà còn  phụ thuộc không nhỏ vào những thông tin “đồn thổi”. Nhưng với chi phí bỏ ra ngày hôm nay, nhà đầu tư lại kỳ vọng trong tương lai, giá cổ phiếu sẽ tăng do doanh nghiệp làm ăn phát đạt, thu nhập không chỉ có từ cổ tức, mà còn thu nhập từ giá trị gia tăng do chính doanh nghiệp tạo ra. Đối với Nhà nước, qua mỗi đợt IPO không hẳn là vấn đề tối đa hóa việc thu hút thặng dư vốn, mà vấn đề quan trọng hơn là không để mất vốn của Nhà nước, và việc thu hút các cổ đông trong và ngoài nước như thế nào để nâng cao hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng nếu thỏa mãn được hai vấn đề nêu trên, thì được coi là đợt IPO hiệu quả.

Trong thời gian vừa qua, việc chậm trễ IPO của một số doanh nghiệp, trong đó có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), theo chúng tôi không phải vì lý do thị trường? cũng không phải vì sợ cung quá lớn trong khi nhu cầu của nhà đầu tư lại có hạn nên phải dãn tiến độ, và chắc chắn cũng không vì chưa xác định được giá khởi điểm của ngân hàng này. Bởi một khi đã chấp thuận đấu giá công khai trên thị trường, thì việc bán với giá nào không còn là vấn đề phức tạp, điều quan trọng là trong tương lai doanh nghiệp có tạo ra được giá trị gia tăng như nhà đầu tư kỳ vọng hay không? Việc chậm trễ này, dù lý do nào đi chăng nữa, nó đã dẫn đến chậm tiến độ CPH các DNNN, chậm nâng cao năng lực tài chính, đổi mới phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của chính bản thân doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, số vốn đem đấu giá công khai của một số DNNN chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ (Ví dụ: Vietcombank là 6,5% khoảng gần 1.000 tỷ đồng) so với giá trị vốn hóa của cả TTCK, nhưng lại là không nhỏ so với một doanh nghiệp đã niêm yết, vì thế sự chậm trễ này không chỉ làm nản lòng một số nhà đầu tư, mà còn ít nhiều ảnh hưởng đến tâm lý chung của nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam.

Để đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả  IPO trong thời gian tới, cần phải xử lý đồng bộ nhiều vấn đề. Đặc biệt, một trong những vấn đề then chốt nhất là cần tiếp tục đổi mới tư duy, trong đó có vấn đề định giá doanh nghiệp.

Câu 11: phương thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu khi có đủ các điều kiện sau:

1. Là doanh nghiệp thuộc một trong các loại hình sau: công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

2. Có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động.

3. Có báo cáo tài chính của năm liền kề trước năm phát hành được kiểm toán.

4. Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi.

5. Có phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua.

PHƯƠNG THỨC PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP

Mục I: BẢO LÃNH PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU

Điều 30. Tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu

1. Tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp gồm các công ty chứng khoán và các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật.

2. Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn của tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu và công bố công khai hàng năm để doanh nghiệp phát hành trái phiếu và các tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu thực hiện.

Điều 31. Phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu

1. Việc bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể do một hoặc một số tổ chức đồng thời thực hiện.

2. Trường hợp nhiều tổ chức cùng thực hiện bảo lãnh phát hành trái phiếu, thực hiện theo phương thức đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu.

Điều 32. Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu

1. Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức nhận bảo lãnh phát hành.

2. Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu.

Mục II: ĐẠI LÝ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU

Điều 33. Tổ chức đại lý phát hành trái phiếu

1. Tổ chức đại lý phát hành trái phiếu là các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật.

2. Bộ Tài chính quy định tiêu chuẩn của tổ chức làm đại lý phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

Điều 34. Phương thức đại lý phát hành trái phiếu

1. Tổ chức phát hành trái phiếu có thể uỷ thác cho một hoặc một số tổ chức cùng làm nhiệm vụ đại lý phát hành trái phiếu.

2. Đại lý phát hành thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư theo đúng cam kết với tổ chức phát hành. Trường hợp không bán hết, đại lý được trả lại cho tổ chức phát hành số trái phiếu còn lại.

Điều 35. Phí đại lý phát hành trái phiếu

1. Phí đại lý phát hành trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với đại lý phát hành trái phiếu.

2. Phí đại lý phát hành trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu. 

Mục III: ĐẤU THẦU TRÁI PHIẾU

Điều 36. Phương thức đấu thầu trái phiếu

Tổ chức phát hành trái phiếu được lựa chọn các phương thức đấu thầu sau:

1. Đấu thầu trực tiếp tại doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

2. Đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian.

3. Đầu thầu thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán).

Điều 37. Nguyên tắc đấu thầu trái phiếu

1. Bí mật về thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu.

2. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

3. Cạnh tranh về lãi suất giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

Điều 38. Đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu

1. Đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu là các tổ chức, cá nhân quy định tại Điều 8 Nghị định này.

2. Các đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu thông qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán) phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

Điều 39. Hình thức đấu thầu trái phiếu

1. Đấu thầu cạnh tranh lãi suất.

2. Kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất.

Tỷ lệ trái phiếu đấu thầu không cạnh tranh lãi suất trong từng đợt đấu thầu do doanh nghiệp phát hành quyết định nhưng tối đa bằng 30% tổng khối lượng trái phiếu thông báo phát hành của đợt đấu thầu đó.

Điều 40. Phí đấu thầu trái phiếu

1. Phí đấu thầu trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức được ủy quyền tổ chức đấu thầu trái phiếu.

2. Phí đấu thầu trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu (kể cả trường hợp tổ chức phát hành tự tổ chức đấu thầu trái phiếu). 

Câu 12: THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VIỆT NAM

Là một công cụ hữu hiệu của Chính phủ trong việc huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển. Thị trường này đã trở thành một công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ quốc gia.

v    6 hạn chế cơ bản:

-                      Chưa hình thành được đường cong lãi suất trái phiếu Chính phủ trên thị trường.

-                      Các phương thức phát hành như đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước, đấu thầu qua Sở Giao dịch Chứng khoán, bảo lãnh phát hành còn rất nhiều vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu, cải tiến.

-                      Trái phiếu Chính phủ niêm yết, giao dịch trên thị trường thứ cấp còn ít về số lượng.

-                      Thiếu vắng các nhà kinh doanh trái phiếu chuyên nghiệp và nhà tạo lập thị trường.

-                      Trái phiếu Chính phủ đã từng bước được đa dạng về kỳ hạn nhưng vẫn còn nhiều đợt với các loại kỳ hạn, lãi suất, ngày đáo hạn khác nhau.

-                      Hiện nay duy nhất chỉ có Kho bạc Nhà nước đã và đang phối hợp với Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) và các đơn vị liên quan tổ chức được kênh đấu thầu trái phiếu Chính phủ theo lô lớn.

v    8 giải pháp quan trọng :

-                      Sửa đổi bổ sung và hướng tới hoàn thiện khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực huy động vốn.

-                      Xây dựng khuôn khổ pháp lý đối với hệ thống PDs, CRA, lựa chọn các thành viên thị trường trái phiếu Chính phủ có những đóng góp, ảnh hưởng và tích cực.

-                      Về lâu dài, khi điều kiện cho phép sẽ kết hợp hai hình thức đấu thầu và bảo lãnh thành một hình thức đấu thầu.

-                      Cải tiến cơ chế xác định lãi suất trái phiếu.

-                      Cần tập trung phát hành trái phiếu Chính phủ theo lô lớn để tiến tới giảm thiểu số loại trái phiếu Chính phủ đang lưu hành trên thị trường.

-                      Ứng dụng công nghệ thông tin vào việc phát hành, quản lý và thanh toán trái phiếu Chính phủ.

-                      Việc xây dựng phát triển thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ theo hướng chuyên biệt là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Duy trì đều đặn các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ; dành ưu tiên phát hành các loại trung hạn và dài hạn.

Câu 13: phương thức phát hành  cổ phiếu

Phát hành riêng lẻ

Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này.

Phát hành chứng khoán ra công chúng

Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.

Việc phát hành cổ phiếu ra công chúng được thực hiện theo một trong hai phương thức:

+ phát hành lần đầu ra công chúng (IPO): là việc phát hành trong đó cổ phiếu của công ty lần đầu tiên được bán rộng rãi ra công chúng đầu tư. Nếu cổ phần được bán lần đầu cho công chúng nhằm tăng vốn cổ phần thì đó là IPO sơ cấp, còn khi cổ phần được bán lần đầu từ số cổ phần hiện hữu thì đó là IPO thứ cấp

+ chào bán sơ cấp (phân phối sơ cấp): là đợt phát hành cổ phiếu bổ sung của công ty cho rộng rãi các công chúng đầu tư

Câu 14: bình luận về phát hành trái phiếu  doanh  nghiệp  ở việt nam

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp trước 2010

Khi một doanh nghiệp có nhu cầu đầu tư, huy động vốn để triển khai các dự án hoặc thậm chí, để trả các khoản nợ, lúc đó họ có thể phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp đã thực sự sử dụng hiệu quả kênh huy động vốn này?

2007, thị trường trái phiếu Việt Nam đang trong giai đoạn sơ khai, cơ cấu trái phiếu doanh nghiệp trong thị trường trái phiếu Việt Nam còn rất khiêm tốn (chỉ chừng 10%, trong số đó chủ yếu là các tổng công ty lớn như Vinaconex, EVN, Vinashin, Sông Đà…), trái phiếu chính quyền địa phương chiếm khoảng 10% trong khi trái phiếu chính phủ chiếm đa số (80-83%). Các nhà đầu tư chủ yếu mua và giữ trái phiếu tới khi đáo hạn, các dịch vụ liên quan hầu như chưa có…

Thị trường trái phiếu doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế do độ tin cậy của phần lớn các doanh nghiệp đối với nhà đầu tư chưa cao, các trái phiếu chưa được định hạn. Đối với thị trường nhỏ, các nhà đầu tư thường băn khoăn về tính thanh khoản. Nếu như trái phiếu chính phủ có mức rủi ro thanh toán thấp, tạo được sự tin cậy thì các nhà đầu tư lại tỏ ra khá dè dặt với trái phiếu doanh nghiệp. Thị trường trái phiếu Việt Nam chưa phong phú do số nhà phát hành nhỏ, số lượng trái phiếu phát hành còn thấp nên nhà đầu tư có rất ít lựa chọn. Nhìn chung, sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong thị trường trái phiếu Việt Nam rất lớn (đơn cử trường hợp của Vinashin, Lilama…).

Thị trường trái phiếu dành cho các doanh nghiệp nhỏ vẫn hết sức khó khăn. Đối với các doanh nghiệp hạng vừa, tình hình có khả quan hơn. Các cơ quan chức năng địa phương tạo ra thị trường giúp các doanh nghiệp phát hành trái phiếu của mình. Các doanh nghiệp nhỏ có thể không phát hành độc lập mà kết hợp với nhau, họ cũng có lợi thế với các thủ tục phát hành đơn giản, không cần xin phép chính phủ. Song khó khăn chính đối với doanh nghiệp cỡ nhỏ và vừa là lòng tin của các nhà đầu tư.

Phát hành trái phiếu doanh nghiệp năm 2010

Sự đi lên của thị trường bất động sản trong năm 2009 đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các công ty bất động sản huy động vốn từ kênh trái phiếu doanh nghiệp.

Mặc dù được biết đến và sử dụng từ khá lâu, nhưng các chuyên gia kinh tế lại cho rằng phải đến năm 2010, kênh huy động tiền qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp mới thực sự được quan tâm đúng mức.

 Sau những thảo luận về phương án tăng lãi suất cơ bản, Ngân hàng Nhà nước gần đây đã chính thức giữ nguyên mức lãi suất cơ bản ở mức 8%/năm, điều này đồng nghĩa với việc các ngân hàng sẽ càng phải thắt chặt tín dụng.

Trên thực tế, đối với doanh nghiệp, phát hành trái phiếu cũng là một hình thức vay vốn, nhưng hình thức vay lại dài hạn (thường là 5 năm), đồng thời có thể chủ động sử dụng nguồn vốn huy động từ phát hành mà không phải chịu sự giám sát chặt chẽ cho từng mục đích sử dụng vốn như đối với nguồn vốn đi vay ngân hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phát hành trái phiếu thường có những lợi thế như không phải chịu sức ép về cổ tức chi phối từ cổ đông mới như phát hành cổ phiếu, được hưởng lợi từ chính sách thuế đối với khoản lãi trả trái phiếu.

Những tiền đề thuận lợi

So với năm 2009, năm 2010 nền kinh tế đã thoát khỏi khủng hoảng, kinh tế vĩ mô sáng sủa hơn. Kinh tế phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án về dịch vụ tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp khởi động. Các kế hoạch sử dụng vốn trái phiếu sẽ có tính khả thi cao hơn.

Chẳng hạn, sự đi lên của thị trường bất động sản trong năm 2009 đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các công ty bất động sản huy động vốn từ kênh trái phiếu doanh nghiệp. Một yếu tố nữa hỗ trợ cho hoạt động phát hành trái phiếu phát triển là do thị trường chứng khoán phục hồi khiến cho việc phát hành trái phiếu chuyển đổi dễ dàng hơn nhiều. Hình thức phát hành trái phiếu chuyển đổi (với lãi suất cố định và khả năng thu được lợi lớn sau khi chuyển đổi sang cổ phiếu) là hấp dẫn với nhà đầu tư lớn.

 Không chỉ riêng các chuyên gia nhìn nhận những yếu tố thuận lợi đối với việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp năm 2010, mà ngay bản thân doanh nghiệp cũng coi đây là một kênh huy động vốn ưu tiên hàng đầu. Từ tháng 4 đến tháng 7/2010 việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã diễn ra rất sôi động, bởi lúc đó hoạt động của hầu hết doanh nghiệp vào “guồng”, nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất, đầu tư tăng lên. Mặt khác, doanh nghiệp cũng chọn thời điểm này để phát hành trái phiếu doanh nghiệp vì trông đợi vào luồng tiền giải ngân của các tổ chức tài chính, ngân hàng…

Vẫn cần lưu ý

Bên cạnh những tiền đề thuận lợi cho việc phát hành trái phiếu, doanh nghiệp vẫn cần cẩn trọng khi thực hiện. Đối với doanh nghiệp, dù ưu tiên và mong muốn được phát hành trái phiếu thay vì vay ngân hàng và phát hành cổ phiếu thì vẫn còn không ít khó khăn.

       Hạn chế lớn nhất khi các doanh nghiệp Việt Nam phát hành trái phiếu là việc tuân thủ các chuẩn mực về kế toán và có một tổ chức định mức tín nhiệm đo lường hệ số tín nhiệm của doanh nghiệp, làm cơ sở cho các phương án phát hành. Chỉ có một số ít doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm bởi các tổ chức quốc tế (một số ngân hàng hàng đầu) và nếu được xếp hạng thì ở mức rất thấp.

Một khó khăn khác ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả phát hành trái phiếu doanh nghiệp là triển vọng tăng lãi suất cơ bản và thắt chặt tiền tệ khá rõ ràng trong năm 2010. Lãi suất tăng cao khiến cho doanh nghiệp phải trả mức lãi suất cao hơn mới hấp dẫn được nhà đầu tư và phải thả nổi lãi suất trong thời hạn dài.

Ngoài ra, các tổ chức nếu mua trái phiếu sẽ nhìn vào giá trị thực của trái phiếu trên thị trường giao dịch, chứ không phải chỉ là lãi suất. Khi lãi suất tăng, giá trị thực của trái phiếu đã phát hành (với lãi suất cố định) sẽ giảm xuống. Có thể nói, những khó khăn trên đã lý giải việc cho tới nay nhà đầu tư mua trái phiếu doanh nghiệp chủ yếu vẫn là các tổ chức, doanh nghiệp có quan hệ làm ăn với nhau hoặc ngân hàng, vừa tư vấn phát hành vừa là nhà đầu tư.

Để giải quyết những khó khăn trên, ngoài vấn đề tâm lý của nhà đầu tư, cần tạo cho trái phiếu doanh nghiệp tính thanh khoản như trái phiếu chính phủ.

Doanh nghiệp cần minh bạch trong chế độ tài chính, báo cáo để tạo niềm tin cho nhà đầu tư; có kế hoạch sử dụng vốn hiệu quả, có tính khả thi cao để đảm bảo hoàn vốn và trả lãi cho nhà đầu tư. Một việc quan trọng nữa là cần tìm một nhà phát hành có uy tín có thể tư vấn cho doanh nghiệp về việc định giá trái phiếu, thời hạn trái phiếu. Nhà phát hành uy tín cũng sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận nhà đầu tư rộng hơn. Và cuối cùng doanh nghiệp niêm yết sẽ dễ dàng hơn trong việc huy động vốn do có số lượng nhà đầu tư đông đảo hơn.

Câu 15: bình luận về thị trường sơ cấp của vn

          Hoạt động phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng: năm 2009, trái ngược với sự sôi động cuả thị trường chưng khoán, hoạt động chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) lại lâm vào cảnh ‘chợ chiều’

          Theo sở giao dịch chứng khoán tp hcm (hose) và sở giao dịch chứng khoán hà nội (hnx). Từ đầu năm đến nay hai đơn vị này tiến hành IPO cho 27 doanh nghiệp song lượng cổ phần bán được cho nhà đầu tư không bao nhiêu

          Với sự thờ ơ từ phía nhà đầu tư nhiều doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc IPO dù số lượng Cổ phần chào bán không quá lớn. điển hình là công ty cổ phần Bến bãi Sài Gòn chỉ bán được 22.000 cổ phần trong tổng số hơn 600.000 cổ phần chào bán trong phiên đấu giá ngày 16/10, tại hose.

          Các doanh nghiệp tiến hành IPO với số lượng lớn cũng không khá hơn. Chăng hạn công ty Dây và cáp điện VN (Cadivi) bán được hơn 50.000 cổ phần so với lượng chào bán là 2,4 triệu,côn gty TNHH một thành viên Nước sạch Sài Gòn bán được 45.000 cổ phần trên tổng số 1,6 triệu cổ phần chào bán, công ty Nông sản thực phẩm xuất khẩu Cần Thơ bán được 39.000 cổ phần trong 10,3 triệu cổ phần chào bán.

           Mới đây nhất, ngày 22/10 công ty Cấp thoát nước Bình Thuận đấu giá 3,6 triệu cổ phần nhưng nhà đầu tư chỉ đăng ký hơn 540.000 đơn vị. có doanh nghiệp phải đấu giá tới bốn lần để hoàn tất IPO,như Công ty Du lịch Bình Thuận. thậm chí không ít doanh nghiệp buộc phải hủy các phiên đấu giá cổ phần do không có nhà đầu tư tham gia như công ty du lịch Tà Cú…

            Giải thích về sự ảm đạm của hoạt động IPO trong thời gian gần đây, nhiều chuyên gia cho rằng cơ chế IPO và bán cho nhà đầu tư chiến lược còn nhiều bất hợp lý nên không thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư tổ chức nước ngoài, thiếu hang ‘khủng’ của các doanh nghiệp ‘đại gia’, đặc biệt là có phần bị vạ lây bởi sự ảm đạm của thị trường OTC.

-                      Hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ: quí 1/2009 chính phủ quyết định phát hành 1 tỷ USD vốn trái phiếu CP. Nguồn vốn huy động từ đợt phát hành này được sử dụng cho mục đích đầu tư cho các dự án trọng điểm và bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, theo quyết định số 211/QĐ-TTg ngày 13/2/2009 của thủ tướng chính phủ về việc ban hành trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.

         Một thống kê cho thấy, tính đến ngày 9/9 đã có 40 đợt phát hành trái phiếu bằng tiền đồng và 2 đợt phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ do chính phủ bảo lãnh phát hành năm 2009 thực hiện tại HNX. Qua đó chỉ có 2.310 tỷ đồng và 230 triệu USD huy động được, và có tới 36 phiên đấu thầu không gọi được một đồng nào, nhiều  phiên không có nhà đầu tư tham gia hoặc chỉ đếm trên đầu ngón tay.

 Lý do:

Thứ nhất, cơ chế đấu thầu hiện vẫn sử dụng lãi suất trần.

Thứ hai, thời gian gần đây do áp lực giải ngân cho các dự án trong gói kích cầu của chính phủ nên lãi suất huy động trên thị trường tăng lên, cao hơn lãi suất kỳ vọng của Bộ tài chính nên không huy động được vốn hoặc rất ít.

III) Cấu trúc thị trường chứng khoán

Câu 16) Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và mối quan hệ

        a) Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành chứng khoán ra thị trường (IPO), nhằm huy          động vốn cho chủ thể phát hành.

- Đặc điểm

TTSC thể hiện mối quan hệ giữa nhà phát hành và nhà đầu tư

Trên TT này vốn từ nhà đầu tư được chuyển sang cho nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua bán chứng khoán mới, nhờ đó vốn của nhà phát hành tăng lên

-                      Vai trò của thị trường sơ cấp

Thực hiện chức năng quan trọng của ttck là huy động vốn cho các tổ chức phát hành, có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiếp kiệm lớn nhỏ của dân cư,lại có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các DN, các tổ chức… Tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không làm được

b) Thị trường thứ cấp

- Là thị trường giao dịch mua bán, trao đổi, chuyển nhượng nhuứng chứng khoán đã được phát hành nhằm đầu tư kiềm lời, di chuyển vốn đầu tư hay di chuyển tài sản

- Đặc điểm:

Thể hiện mối quan hệ giữa các NDT với nhau

Các khoản tiền thu được do bán chứng khoán thuộc về các NĐT và các nhà KDCK mà không thuộc về nhà phát hành do đó nó không làm tăng vốn của nhà phát hành

Là một thị trường hoạt động liên tục, các NĐT có thể mua CK nhiều lần trên thị trường thứ cấp

-                      Chức năng

TT thứ cấp làm tăng tính thanh khoản của chứng khoán

Là nơi xác định giá chứng khoán cho TTSC

c) Mối quan hệ giữa TTSC và TTTC

Về bản chất, mối quan hệ giữ 2 thị trường này là mối quan hệ nội tại biện chứng. TTSC tạo điều kiện, động lực cho TTTC, hai TT nay có mgh mật thiết, hỗ trợ nhau:

TTSC là cơ sở, tiền đề cho TTTC hoạt động và ptrien vì là nơi cung cấp hang hóa cho TTCK. Nếu không có TTSC sẽ không có hang hóa trên TTTC. TTTC không thể ra đời chừng nào chưa cóa TTSC rộng rãi, vững chắc với nhiều loại chứng khoán hấp dẫn nhà đầu tư và công chúng đến bỏ vốn đầu tư CK. Tuy nhiên, nếu chỉ có TTSC mà không có TTTC thì TTSc cũng không thể tồn tại và phát triển được vì khi đó chứng khoán đã phát hành ra trên TTSC sẽ không được lưu chuyển.

TTTC tạo đk dễ dàng để chuyển các CK thành tiền mặt, làm tăng tính lỏng của CK khiến chúng đc ưa chuộng hơn và như thế là dễ dàng hơn cho các công ty bán chứng khoán ở TTSC. Việc TTTC làm tăng tính lỏng của chứng khoán đã phát hành giúp lamg giảm rủi roc ho các NĐT. Các NĐT sẽ dễ dàng hơn trong việc sang lọc, lựa chọn kết cấu danh mục đầu tư trên cơ sở làm giảm chi phí cho các nhà phất hành  tong việc huy động và sử dụng vốn. Tăng tính lỏng của chứng khoán tạo đk cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn đồng thời tạo đk cho việc phân phối vốn 1 cách có hiệu quả. Tạo đk tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lí, làm cơ sở cho việc tăng hiệu quả quản lí DN.

-                      TTTC xác định giá của  CK đã được phát hành trên TTSC. TTTC được xem là TT định giá các công ty. Những người mua CK o TTSC chỉ chaaps nhận TT cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng NĐT trên TTTC sẽ tăng hơn nữa. Giá CK ở TTTC càng cao như vậy công ty phát hành sẽ phát triển được nhiều vốn đầu tư hơn và ngược lại

-                      Thông qua việc xác định giá, TTTC cung cấp 1 danh mục chi phí vốn tương ứng với các mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo cơ sở tham chiếu cho các nhà phát hành cunag như các nhà đầu tư trên TTSC.

Câu 17: Mục đích phát hành trái phiếu và cổ phiếu của DN

a)                  Mục đích phát hành TP

- Doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn để tài trợ cho các dự án cụ thể;

      -Việc giải ngân sử dụng nguồn vốn thực hiện trong một thời gian ngắn;

 -Doanh nghiệp phát hành mong muốn - tạo chuẩn mực và thước đo cho bản thân doanh nghiệp trên thị trường tài chính.

b) Mục đich phát hành cổ phiếu của DN

·                     Việc phát hành cổ phiếu giúp tăng khả năng thu hút các nguồn lực cần thiết cả trong và ngoài doanh nghiệp, mở ra một kênh huy động mới đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp một cách hiệu quả nhất cho tất cả các bên có nhu cầu và có khả năng cung cấp vốn trong xã hội…

·                     Mở rộng quy mô, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh do tiếp thu được các nguồn lực mới, cả về tài chính, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm và bản lĩnh kinh doanh, cũng như các tiềm năng phát triển khác từ các cổ đông và đối tác mới ở trong và ngoài doanh nghiệp, trong nước và nước ngoài...

·                     Cải thiện thu nhập và dân chủ về kinh tế cho các cổ đông, người lao động, tạo ra hình ảnh và chất lượng mới về tổ chức, cơ chế vận hành và đời sống doanh nghiệp hiện đại.

·                     Tăng hiệu quả, lợi nhuận kinh doanh, cũng như tạo ra nhiều việc làm mới cho doanh nghiệp do được tiếp thêm các xung lực tích cực trên…Từ đó, góp phần nâng cao sức cạnh tranh và cải thiện vị thế hệ thống các doanh nghiệp Việt Nam trong đời sống kinh tế-xã hội trong nước và thế giới.

Câu 18. Phương thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu

a)                  Phương thức phát hành trái phiếu

1.  Phát hành trái phiếu trực tiếp

Phương thức này chỉ áp dụng với việc phát hành trái phiếu Chính Phủ (cụ thể ở đây là trái phiếu kho bạc) hoặc áp dụng với việc phát hành một số giấy tờ có giá của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Thông qua phương thức này đơn vị sẽ tự tổ chức tiêu thụ trái phiếu trong nước và thông qua hệ thống văn phòng đại diện ở nước ngoài. Phương thức này thường được áp dụng khi thị trường chứng khoán chưa hình thành hoặc thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã hình thành nhưng phát triển chưa đủ mạnh.

2.  Đấu thầu trái phiếu

v    Tổ chức phát hành trái phiếu được lựa chọn các phương thức đấu thầu sau:

·                     Đấu thầu trực tiếp tại doanh nghiệp phát hành trái phiếu.

·                     Đấu thầu thông qua các tổ chức tài chính trung gian.

·                     Đầu thầu thông qua Trung tâm giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán).

v    Nguyên tắc đấu thầu trái phiếu

·                     Bí mật về thông tin của các tổ chức, cá nhân tham gia dự thầu.

·                     Bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

·                     Cạnh tranh về lãi suất giữa các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu.

v   Đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu là các tổ chức, cá nhân. Các đối tượng tham gia đấu thầu trái phiếu thông qua Trung tâm Giao dịch chứng khoán (Sở Giao dịch chứng khoán) phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật.

v    Hình thức đấu thầu trái phiếu

·                     Đấu thầu cạnh tranh lãi suất.

·                     Kết hợp giữa đấu thầu cạnh tranh lãi suất với đấu thầu không cạnh tranh lãi suất.

·                     Tỷ lệ trái phiếu đấu thầu không cạnh tranh lãi suất trong từng đợt đấu thầu do tổ chức phát hành quyết định nhưng tối đa bằng 30% tổng khối lượng trái phiếu thông báo phát hành của đợt đấu thầu đó.

v     Phí đấu thầu trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức được ủy quyền tổ chức đấu thầu trái phiếu. Phí đấu thầu trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu (kể cả trường hợp tổ chức phát hành tự tổ chức đấu thầu trái phiếu). 

v     

3.Đại lý phát hành trái phiếu

Là việc tổ chức phát hành ủy thác cho tổ chức khác bán chứng khoán cho nhà đầu tư. Tổ chức đại lý phát hành trái phiếu là các công ty chứng khoán, tổ chức tín dụng và các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật.

v    Phương thức đại lý phát hành trái phiếu

·                     Tổ chức phát hành trái phiếu có thể uỷ thác cho một hoặc một số tổ chức cùng làm nhiệm vụ đại lý phát hành trái phiếu.

·                     Đại lý phát hành thực hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư theo đúng cam kết với tổ chức phát hành. Trường hợp không bán hết, đại lý được trả lại cho tổ chức phát hành số trái phiếu còn lại.

v   Phí đại lý phát hành trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với đại lý phát hành trái phiếu. Phí đại lý phát hành trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu. 

4.                  Bảo lãnh phát hành trái phiếu

Là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện một số thủ tục trước khi phát hành trái phiếu, phân phối trái phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết trong đợt phát hành.

v     Tổ chức bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp gồm các công ty chứng khoán và các định chế tài chính khác theo quy định của pháp luật.

v     Phương thức bảo lãnh phát hành trái phiếu:

·                                             Việc bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp có thể do một hoặc một số tổ chức đồng thời thực hiện.

·                                             Trường hợp nhiều tổ chức cùng thực hiện bảo lãnh phát hành trái phiếu, thực hiện theo phương thức đồng bảo lãnh phát hành trái phiếu.

v     Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu do tổ chức phát hành thoả thuận với tổ chức nhận bảo lãnh phát hành. Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu được tính vào chi phí phát hành trái phiếu và hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc giá trị dự án, công trình sử dụng nguồn thu từ phát hành trái phiếu.

b)                  Phương thức phát hành cổ phiếu

Câu 19Trình bày về SGDCK ( khái niệm, chức năng,hoạt đông)

-                      Khái niệm

                Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch chứng khoán  (SGDCK) là thị trường giao dịch chứng khoán được thực hiên tại một địa điểm tập trung gọi là sàn giao dịch (trading floor) hoặc thông qua hệ thống máy tính.

Các chứng khoán được giao dịch tại Sở Giao dịch Chứng khoán thông thường là chứng khoán của các công ty có uy tín, công ty lớn đã trải qua thử thách trên thị trường và đáp ứng đủ điều kiện hay tiêu chuẩn niêm yết.

SGDCK không tham gia vào hoạt động mua bán chứng khoán mà chỉ là nơi tập trung các giao dịch chứng khoán một cách có tổ chức tuân theo những quy luật nhất định.

Sở Giao dịch Chứng khoán

-Chức năng

·                     Cung cấp, đảm bảo cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc giao dịch chứng khoán (địa điểm và hệ thống giao dịch). Đảm bảo việc giao dịch chứng khoán được diễn ra thông suốt, đúng pháp luật và công khai kể cả giá cả.

·                     Tổ chức niêm yết và giám sát các chứng khoán niêm yết, các tổ chức niêm yết.

·                     Tổ chức và giám sát chặt chẽ quá trình giao dịch chứng khoán.

·                     Giám sát chặt chẽ những người tham dự vào quá trình giao dịch.

-                      Hoạt động

    Hoạt động quản lý, điều hành thị trường:

  Hoạt động quản lý niêm yết:

  Hoạt động quản lý thành viên:   Hoạt động đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán:

  Hoạt động quản lý giao dịch:

Câu 20 Trình bày về các vấn đề cơ bản về TTGDCK OTC

-                      Định nghĩa

-                       

-                      Đặc điểm

+Hình thức tổ chức: về cơ bản thị trường OTC không có địa điểm giao dịch tập trung giữa bên mua và bên bán như đối với thị trường chứng khoán tập trung (Sở Giao dịch Chứng khoán). Tuy nhiên, vì kỹ thuật tin học phát triển và việc sử dụng mạng thông tin dữ liệu trên diện rộng đã làm cho việc giao dịch trên thị trường OTC có tính tập trung cao hơn.

+Chứng khoán giao dịch trên thị trường là chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán, trong đó chủ yếu là của công ty nhỏ và vừa; chính vì thế, chứng khoán trên thị trường này có độ rủi ro cao hơn so với chứng khoán trên Sở Giao dịch Chứng khoán. Tiêu chuẩn để chứng khoán được giao dịch trên thị trường OTC thấp hơn, linh hoạt hơn so với tiêu chuẩn niêm yết ở Sở Giao dịch Chứng khoán.

+Thị trường chứng khoán phi tập trung hiện đại là thị trường được tổ chức chặt chẽ, sử dụng hệ thống mạng tin học diện rộng liên kết với tất cả các đối tượng tham gia thị trường.

+Cơ chế xác lập giá trên thị trường OTC chủ yếu dựa trên cơ sở thương lượng, thỏa thuận giá giữa bên mua và bên bán.

+Hệ thống các nhà tạo lập thị trường.

+Cơ chế thanh toán trên thị trường OTC là linh hoạt, đa dạng hơn so với phương thức thanh toán bù trừ đa phương thống nhất ở Sở Giao dịch Chứng khoán.

+Quản lý thị trường OTC được thực hiện theo hai cấp: cấp quản lý nhà nước và cấp tự quản.

-                      Phương thức giao dịch

Phương thức giao dịch trên thị trường OTC khá đa dạng; Tuy vậy có 3 phương thức giao dịch chủ yếu:

1.                  Phương thức giao dịch thỏa thuận giản đơn

2.                  Phương thức giao dịch báo giá

3.                  Phương thức giao dịch có sự tham gia của nhà tạo lập thị trường

Câu 21 Trình bày khái niệm về nhà tạo lập thị trường, lợi thế và bất lợi, vai trò, hoạt động như thế nào?

a)                  Định nghĩa

là “những thành viên tham gia trên các thị trường mua bán các công cụ tài chính hoạt động theo phương thức khớp giá, thực hiện chức năng đặt các lệnh chào mua, chào bán. Những nhà tạo lập thị trường tạo ra thị trường có tính thanh khoản cao bằng cách thường xuyên yết lên các mức giá chào mua, chào bán, qua đó đảm bảo một thị trường hai chiều (mua bán liên tục

b)                  Vai trò

 - Vai trò là đại lý của các nhà môi giới: Công việc của chuyên gia là thực hiện lệnh cho các nhà môi giới đối với loại CK mà họ phụ trách. Nếu một khách hàng tiến hành đặt lệnh thông qua nhà môi giới, trong trường hợp lệnh giới hạn không thể thực hiện được, nhà môi giới sẽ chuyển lệnh này sang các chuyên gia, các chuyên gia sẽ trở thành người đại diện cho nhà môi giới đối với lệnh đó tại sàn giao dịch.

- Vai trò là nhà đấu giá: Trong toàn bộ phiên giao dịch, các chuyên gia sẽ đưa ra một mức giá chào mua - chào bán tốt nhất, trên cơ sở đó đến đầu mỗi phiên giao dịch họ thiết lập một mức giá giao dịch hợp lý đối với từng loại CK trên cơ sở cung - cầu về loại CK đó. Hoạt động này nhằm bảo đảm trật tự thị trường đối với từng loại CK mà họ phụ trách, đồng thời hạn chế sự dao động về giá cả của CK đó.

- Vai trò là nhà kinh doanh: Các chuyên gia thực hiện giao dịch tại một mức giá nằm trong khoảng giá chào mua cao nhất và giá chào bán thấp nhất. Họ là người chịu trách nhiệm giảm thiểu sự chênh lệch giữa lệnh mua và lệnh bán. Việc mua và bán này được thực hiện theo hướng của thị trường cho đến khi sự chênh lệch được cân bằng trở lại.

Trong trường hợp xảy ra biến cố về lệnh, về giá cả... tại thị trường giao dịch tập trung, vai trò của các chuyên gia trở nên rất quan trọng trong việc chủ động điều chỉnh các biến cố về trạng thái cân bằng và ổn định.

c)                  Hoạt động của nhà tạo lập thị trường

Thứ nhất, nhà tạo lập thị trường có thể đóng vai trò đối tác trong giao dịch, có nghĩa là nếu lệnh đặt đến là lệnh mua, nhà tạo lập thị trường sẽ bán các chứng khoán tương ứng có “trong kho” của mình. Còn nếu lệnh đặt đến là lệnh bán, nhà tạo lập thị trường sẽ tiến hành mua khối lượng chứng khoán mà nhà đầu tư muốn bán. Lệnh mua hay bán mà nhà tạo lập thị trường nhận được chính là lệnh đáp lại các chào mua, chào bán mà nhà tạo lập thị trường đã yết ra trên thị trường. Ở Dealer Market, trong các chào mua, chào bán của nhà tạo lập thị trường, giá yết ra do yêu cầu cạnh tranh nên sẽ thường phải bám sát với tình hình thị trường, khối lượng yết ngoài do nhà tạo lập thị trường quyết định tuỳ theo các phân tích của mình còn phải chịu thêm tác động của luật định về khối lượng nhỏ nhất phải đảm bảo giao dịch đối với mỗi lệnh yết ra. Thông thường để có thể chuyển sang yết mức giá khác, hay tham gia với một loại chứng khoán khác, nhà tạo lập thị trường phải thực hiện một giao dịch với số lượng tối thiểu theo qui định, điều này đảm bảo tính thanh khoản mà mỗi giao dịch tạo ra.

Thứ hai, trong trường hợp lệnh đặt mua đến nhưng nhà tạo lập thị trường không có đủ số chứng khoán đặt mua trong tài khoản của mình, hoặc lệnh đặt bán đến nhưng nhà tạo lập thị trường không đủ khả năng để mua toàn bộ số chứng khoán đặt bán của khách hàng thì để đảm bảo giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ phải tìm một lệnh đối ứng khác thoả mãn toàn bộ hoặc một phần khối lượng của khách hàng đặt ra. Để tìm lệnh đối ứng này, nhà tạo lập thị trường này sẽ phải tìm đến một nhà tạo lập thị trường khác. Nhà tạo lập thị trường kia có thể trực tiếp mua hoặc bán hoặc cũng có thể chuyển tiếp một lệnh mua hoặc bán của một nhà đầu tư khác mà họ nhận được sang để đối ứng. Cơ chế này được thực hiện rất nhanh thông qua hệ thống công nghệ cơ sở của toàn thị trường

IV Công ty chứng khoán

Câu22) Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán

Môi giới chứng khoán

Là một hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong đó công ty chứng khoán đại diện cho khách hang tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hang sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch. Tùy theo quy định của mỗi nước cách thức hoạt động của từng sở giao dịch chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại nhà môi giới khác nhau:

-                      Môi giới dịch vụ : Là hoạt động môi giới để cung cấp đầy đủ dịch vụ như mua bán chứng khoán, thu cổ tức, cho khách hang vay tiền, cho vay cổ phiếu để bán trước, mua sau và nhất là có thể cung cấp tài liệu, cho ý kiến cố vấn trong việc đầu tư

-                      Môi giới chiết khấu: là loại môi giới chỉ cung cấp một số dịch vụ như mua bán hộ chứng khoán

-                      Môi giới ủy nhiệm hay môi giới thừa hành

-                      Môi giới độc lập

-                      Nhà môi giới chuyên môn

a)                  Tự doanh chứng khoán

Là nghiệp vụ mà trong đó công ty chứng khoán thể hiện mua bán chứng khoán cho chính mình để nhằm mục đích thu lợi cho chính mình hoặc có khi chỉ là nhằm điều tiết giá trên thị trường, chứng khoán tự doanh có thể là chứng khoán niêm yết hoặn chưa niêm yết trên TTCK. Theo luật quay định về hoạt động tự doanh như sau: Công ty chứng khoán phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán cho các lệnh giao dịch của chính mình, không được đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu treen50% vốn điều lệ của công ty chứng khoán.

b)                  Ngiệp vụ quản lis danh mục đầu tư

Là hoạt động quản lí vốn của khách hang thông qua việc mua bán và nắm giứ các chứng khoán vì quyền lợi khách hang theo hợp đồng được kí kết giữa công ty chứng khoán và khác hang

Nghiệp vụ nayd được thực hiện khi một số nhà đầu tư tổ chức hoặc cá nhân muốn tham gia thị trường chứng khoán nhưng họ không đủ ĐK về thời gian hoặc kiến thức chuyên môn để quyết định đầu tư,

Các công ty chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ này ngoài việc được hưởng phí quẩn li họ có thể nhận được những khoản thưởng nhất định khi mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư.

c)                  Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành

Là việc bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chúc phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết

Tổ chức phát hành được hưởng phí bảo lãnh hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợi phát hành

Có hình thức bảo lãnh cam kết chắc chắn, bảo lãnh cố gắn tối đa, bảo lãnh tất cả hoặc không,bảo lãnh với hạn mức tối thiểu

d)                  Tư vấn tài chính và tư vấn chứng khoán

Là dịch vụ mà công ty chứng khoán cung cấp cho khách hang trong kĩnh vực tư vấn chứng khoán, tư vấn tái cơ cấu tài chính, chia, tách , hợp, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp…. trong việc phát hành và niêm yết chứng khoán.

Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của công ty chứng khoán,( xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành, tư vấn chia, tách hợp…)

e)                  Các nghiệp vụ hỗ trợ khác

Nghiệp vụ lưu kí chứng khoán

Cho vay cầm cố chứng khoán

Cho vay bảo chứng

Cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán

Câu23)Các mô hình kinh doanh chứng khoán

Căn cứ vào mô hình hoạt động của công ty chứng khoán có thể chia thành:

a)                  Công ty chuyên doanh chứng khoán

Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập chuyên môn hóa trong lĩnh  vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hang không được trực tiếp tham gia kinh doanh chứng khoán

Ưu điểm của mô hình này: hạn chế rủi roc ho hệ thống ngân hang, tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hóa cao hơn..

b)                  Công ty chứng khoán đa năng kinh doanh tiền tệ và chứng khoán

Theo mô hình này, các ngân hang thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này có ưu điểm là ngân hang có thể đa dạng hóa, kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh nhờ đó giảm bới rủi roc ho hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến động của TTCK  là cao. Mặt khác, ngân hang tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán, khách hang có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hang

Tuy nhiên mô hình này bộc lộ một số hạn chế như không phát triển được thị trường cổ phiếu do các ngân hang có xu huwowngss bảo thủ, thích hoạt đọng tín dụng truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu….

Câu 1: Phân tích vai trò của TTCK…………………………………...............................................................1

    EPS và P/E có ý nghĩa thế nào trong đầu tư?

Câu 2: Chức năng của TTCK hả…………………………………………………………………………………….3

Câu 3: các loại rủi ro tr ên thị trường chứng khoán      …………………………………………………………4.

 Câu  4: tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư…………………………………………………………………….,.7

Câu 5: các quan hệ trong định giá trái phiếu………………………………………………………………….,,.8

Câu 6:Phân tích mối quan hệ đặc  điểm của công ty chứng khoán: tính thanh khoản và tính rủi ro ................................................................................................................................................................,...8

 .

Câu 7: các đặc trưng của chứng khoán;………………………………………………………………………..,,9

Câu 8: Một số yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu………………………………………………………….,,.12

Câu 9: trình bày nội dung – tính chất – điều kiện áp dụng các lệnh cơ bản trong kinh doanh chứng khoán.. ……………………………………………………………………………………………………………….13

 Câu 10: bình luận về vấn đề phát hành cổ phiếu ở VN……………………………………………………….20

Câu 11: phương thức phát hành trái phiếu doanh nghiệp…………………………………………………….22

Câu 12:Thị trường trái phiếu chính phủ………………………………………………………………………..25

Câu 13: phương thức phát hành  cổ phiếu………………………………………………………………….….25

 Câu 14: bình luận về phát hành trái phiếu  doanh  nghiệp  ở việt nam ………………………………..….26

 Câu 15: bình luận về thị trường sơ cấp của vn III) Cấu trúc thị trường chứng khoán………………..…27

Câu 16) Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, và mối quan he…………………………………....……29

Câu 17: Mục đích phát hành trái phiếu và cổ phiếu của DN…………………………………………..…...31

Câu 18. Phương thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu……………………………………………………..….31

 Câu 19 Trình bày về SGDCK ( khái niệm, chức năng,hoạt đông……………………………………..…...33

Câu 20 Trình bày về các vấn đề cơ bản về TTGDCK OTC………………………………………………....34

Câu 21 Trình bày khái niệm về nhà tạo lập thị trường, lợi thế và bất lợi, vai trò, hoạt động như thế  nào?........................................................................................................................................................34

Câu22) Các nghiệp vụ cơ bản của công ty chứng khoán…………………………………………………...36

Câu23)Các mô hình kinh doanh chứng khoán……………………………………………………..………..37

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#linhvu