Đếm Ngược Thời Gian Sống Sót

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên gốc: 求生倒计时 - Cầu sinh đảo kế thì

Tác giả: Mộc Hề Nương

Thể loại: Nguyên sang, Đam mỹ, Cổ đại, Tình cảm, Xuyên sách, Ngọt sủng, Chủ thụ, Cung đình hầu tước, Cưới trước yêu sau, 1v1, HE

Nhân vật chính: Hoắc Kinh Đường X Triệu Bạch Ngư

Tình trạng: 107 chương + 10 phiên ngoại

Edit: Min

==

Một.

Nếu như cậu chuyển kiếp thì sao?

Triệu Bạch Ngư đáp: Thì nhân cơ hội này ngỏm luôn.

Hai.

Mẹ ruột của Triệu Bạch Ngư là công chúa kim tôn ngọc quý, điên dại vì tình mà không từ chuyện ác, cuối cùng bị trục xuất khỏi kinh thành, để lại Triệu Bạch Ngư còn quấn tã.

Thân thích ở Kinh đô vì thân mẫu của Triệu Bạch Ngư mà ghét luôn cả y.

Triệu Bạch Ngư sống rất khó khăn.

Y và Triệu Ngọc Tranh cùng cha khác mẹ là hai thái cực, Triệu Ngọc Tranh sinh non vì bị công chúa làm hại, tất cả mọi người đều cực kỳ cưng chiều đứa trẻ này.

Đến cả nhà ngoại của Triệu Bạch Ngư là Hoàng đế và Thái hậu cũng vì áy náy nên càng thêm yêu thương Triệu Ngọc Tranh.

Về phần Triệu Bạch Ngư, từ nhỏ đã chịu cảnh bị đối xử lạnh nhạt hà khắc, tuy vậy y vẫn giữ được tâm tính lạc quan tích cực, kiên trì với quan điểm cố gắng tẩy trắng là có thể cảm hóa được người khác.

Cho đến khi y bị những người đàn ông cưng chiều Triệu Ngọc Tranh bắt tay đưa vào quận vương phủ.

Mà quận vương này tính tình tàn bạo, đã từng ngược đãi người khác đến c.het.

Ba.

Triệu Bạch Ngư bị ngã đập đầu bỗng khôi phục trí nhớ, bất thình lình nhớ lại, y cứ cho rằng mình đã chuyển kiếp nhưng thật ra chỉ là xuyên vào một quyển tiểu thuyết đam mỹ đoàn sủng.

Nhân vật chính được đoàn sủng chính là Triệu Ngọc Tranh, mà y chỉ là nam phụ độc ác, lúc mới sinh ra đã bị công chúa cố tình hoán đổi thân phận.

Mười chín năm đời người bị đảo lộn, người đón nhận tình yêu thương lẽ ra nên là Triệu Bạch Ngư.

Đến tận kết cục chân tướng mới được vạch trần, không ai nhẫn tâm trách cứ Triệu Ngọc Tranh, hắn thì nhận lại được một người mẹ là công chúa thương yêu hắn như trân châu bảo vật.

Triệu Bạch Ngư: "..."

Phía trước nhường đường đê, đừng có cản chỗ người ta đi đầu thai.

Bốn.

Dẹp yên lũ lụt, trừ khử dịch bệnh, cứu lấy vạn người...

Một thanh đao ché.m ba trăm quan, Triệu Bạch Ngư trở thành đệ nhất thanh thiên của triều Đại Cảnh, nổi danh khắp thiên hạ, đến triều đình cũng phải khiếp sợ.

Nhận chiếu hồi kinh, đêm cung yến, Triệu Bạch Ngư cản đao thay Thánh thượng, mạng chỉ còn giữ lại được một sớm một chiều, lòng bá quan văn võ cả triều biến động, vậy mà y lại ngăn hành động rút đao của thái y, nói: "Đừng cứu ta, ta không muốn sống nữa."

Chỉ trong một đêm, những người năm xưa chán ghét, mắc nợ Triệu Bạch Ngư như sắp nứt hết lòng mề.

Gỡ mìn:

1. Thể loại cứu chuộc. Không khuyến khích tự s*t, chỉ muốn viết về một người bị vùi lấp trong ngục tù cố gắng tự cứu lấy mình.

2. Thụ đẹp – cường – thảm, giai đoạn trước vạn người ghét, sau thành ánh trăng sáng. Công tính cách kì cục nhưng vô cùng yêu thích, thiên vị thụ.

3. Quý trọng mạng sống. Cưới trước yêu sau (đặc biệt là thụ)

Một câu vắn tắt: Đừng cứu ta

Dàn ý: Quý trọng mạng sống

Chương 1

Kinh đô, tháng hai, kỳ thi mùa xuân.

Các thí sinh ở tỉnh đã lên đường đổ xô vào Kinh đô từ mùa thu năm ngoái để chờ thi. Phần lớn bọn họ đều chọn quán trọ cách gần trường thi nhất làm điểm dừng chân, những thí sinh xuất thân bần hàn thì chỉ có thể thuê những phòng trọ rẻ tiền ở ngoại thành hoặc sẽ tá túc tại mấy ngôi miếu tồi tàn, một đám học sinh tập trung đầy đất. Ngoài ra, khi cưới gả trở thành con đường thăng tiến đơn giản và nhanh chóng nhất, thì thường xuyên xảy ra chuyện "bắt rể theo danh sách" (*), thậm chí chỉ một người mà được tới ba nhà đến giành giật, bày ra những chiêu trò ngu xuẩn để bắt người.

(*) "Bắt rể theo danh sách" là một văn hóa hôn nhân ở thời nhà Tống. Đa số những người đi thi đều có học thức rất cao, vào ngày danh sách các thí sinh được đưa ra, những nhà giàu và quý tộc trên khắp đất nước cử người trong gia đình của họ đến cạnh tranh với nhau để lựa chọn một người làm con rể. Nhưng hình thức "bắt rể" này thường liên quan đến các giao dịch tiền bạn, móc nối quan hệ.

Để bảo vệ an toàn cho tính mạng của thí sinh, cũng vì để dọn dẹp sạch sẽ phần tử làm loạn, gần đây trong kinh đã tăng cường binh lực đi tuần tra. Trị an trong và ngoài hoàng thành vốn do thị vệ Thân quân ti phụ trách, sắp tới kì thi mùa xuân cần nhân lực, chỉ đành điều thêm quân viện tiền Kinh đô tới hỗ trợ.

Triệu Bạch Ngư nhận tiến cử của trưởng bối trong nhà ở Kinh đô làm việc, bận rộn tối mày tối mặt, bình thường buổi sáng thì phải bố trí quân tuần viện giữ trị an trong thành, buổi chiều lại chạy ra chợ xử lý mấy vụ ồn ào đánh nhau sứt đầu mẻ trán.

Suốt cả một ngày, bận đến nỗi nước miếng cũng không uống nổi.

Cuối cùng cũng có lúc rảnh rỗi, Triệu Bạch Ngư xách hộp thức ăn đến thăm hỏi ân sư, kết quả bị môn đồng (*) nhà ân sư từ chối.

(*) Môn đồng: cậu bé giữ cửa

Môn đồng: "Lang quân nhà ta đặc biệt dặn dò không để ngài vào gặp lão gia. Hắn nói ngài đến đây nhất định là có chuyện muốn nhờ, nhưng lão gia lần nào cũng không từ chối học sinh được, kiểu gì cũng lại liên lụy ông tuổi đã cao còn phải thu dọn tàn cuộc cho nhà ngươi nữa."

Triệu Bạch Ngư không đỏ mặt đáp: "Một ngày là thầy, suốt đời là thầy, ta vĩnh viễn là học trò của ân sư, có vấn đề tất nhiên phải tìm thầy rồi! Thánh nhân đã dạy ta phải khiêm tốn hiếu học. Huống chi lòng ân sư có kinh luân, chỉ cần chỉ điểm nhẹ ta một câu thôi là có thể định được trời đất rồi, ta đây không phải là đang học hỏi đó sao!"

Môn đồng: "Nịnh hót giả dối."

Triệu Bạch Ngư cười híp mắt: "Phiền ngươi giúp ta đem hộp đậu phộng này đặt lên bàn cơm của ân sư, ông thích ăn nhất là món này."

Môn đồng: "Trần phủ không nhận lễ."

Triệu Bạch Ngư kiên quyết nhét hộp thức ăn vào trong tay nó: "Đây là tâm ý của ta, sao có thể so sánh với những món lễ vật tầm thường kia chứ? Đúng rồi," Y thong dong móc một túi giấy dầu từ trong tay áo ra đưa cho môn đồng: "Thịt lừa nướng, cố tình đi đường vòng mua cho ngươi đó."

Môn đồng chỉ mới bảy, tám tuổi tròn mắt nhìn khuôn mặt thanh tú tràn ngập vui vẻ của Triệu Bạch Ngư, gò má không nhịn được đỏ ửng lên, nó nhận lấy hộp thức ăn và túi giấy dầu, lúng túng nói: "Cảm, cảm ơn. Nhưng mà ta thật sự không thể cho ngươi vào được. Đại Lang nói nếu như lại lén để ngươi vào nhà nữa thì sẽ đem bán hết đám bọn ta đó."

Triệu Bạch Ngư thở dài, cười nói: "Thôi được, ta còn có việc bận, đi đi."

Môn đồng vô cùng cảm kích, sau đó đóng cửa lại.

Triệu Bạch Ngư thu hai tay vào trong tay áo màu xanh mỏng rộng, chắp lại lịch sự nho nhã, quanh người toát lên một cỗ khí chất dịu dàng ấm áp như gió xuân. Y rũ mắt đi về phía trước, lúc rẽ sang một con ngõ suýt chút nữa là đụng trúng một người phụ nữ.

Người phụ nữ quấn một chiếc khăn che đầu, sắc mặt sợ sệt, nàng ôm ngực, lên tiếng mắng Triệu Bạch Ngư trước.

Triệu Bạch Ngư không muốn dây dưa với người ta, cho nên nhượng bộ nói xin lỗi.

Có lẽ người phụ nữ cũng có việc, hậm hực nhổ một bãi nước bọt rồi vội vã đi, lúc Triệu Bạch Ngư gần đi nhìn thấy dưới đất có một tấm thẻ, nhặt lên nhìn thì phát hiện đây chính là thẻ ngà mà cung nhân dùng dể ra vào đại nội, không khỏi nghi ngờ.

Người phụ nữ kia là người trong cung sao?

Nhớ không lầm, nàng mới đi ra từ cửa sau Trần phủ, chẳng lẽ là có quan hệ gì với ân sư?

Đào mận (*) của ân sư ở khắp nơi trong thiên hạ, ông thích làm việc thiện giúp người, tri kỉ cũng nhiều, nói không chừng là kết giao với vị nào đó trong cung, hoặc trong phủ có người hầu là người thân của người phụ nữ đó. Có điều mất thẻ ngà là chuyện lớn, tội nặng sẽ mất mạng, hay là cứ giao cho tiểu môn đồng cất giữ, nếu như nàng ta phát hiện mình đánh mất thẻ ngà, nhất định sẽ quay lại hỏi môn đồng.

(*) Đào mận: ý chỉ học sinh

Nghĩ vậy, Triệu Bạch Ngư liền quay trở lại giao thẻ ngà cho môn đồng rồi lại vùi đầu ra đường. Trên một con đường khác gặp được Trần Phương Nhung, con trai trưởng của ân sư, chính là Trần gia Đại Lang cố ý dặn dò môn đồng không được phép cho y vào phủ.

Trần Phương Nhung mặc đồng phục học sinh của Quốc tử giám Thái học (*), bên hông đeo một khối ngọc bội vân mây, khí chất quân tử dịu dàng như ngọc. Hắn năm nay hai mươi, có tài trạng nguyên, mười sáu tuổi đã trúng cử, bị ân sư ép đọc thêm ba năm sách vở nữa mới đồng ý cho tham gia kì thi hội, người này có giao tình ba năm cùng trường với Triệu Bạch Ngư.

(*) Thái học: cấp học cao cấp nhất thời phong kiến.

Nhưng gã không thích Triệu Bạch Ngư.

Trong lòng Trần Phương Nhung, nhìn chung Triệu Bạch Ngư chính là một kẻ hai đầu trăm mặt chỉ biết a dua nịnh nọt lấy lòng phụ thân gã, thực chất là núp dưới cái bóng gia tộc, không có tài học, quả thực không thể bì được với bốn đứa con phong quang tễ nguyệt (*) còn lại của Triệu gia, nhất là Triệu ngũ lang.

(*) Phong quang tễ nguyệt: gió trong, trăng tỏ. Ý trong câu là người có tâm địa thẳng thắn.

"Sư huynh." Triệu Bạch Ngư ngăn Trần Phương Nhung lại, lấy quẻ cầu phúc mà y cầu được ở Bảo Hoa tự đưa tới, "Mấy ngày trước ta vào miếu ba quỳ chín khấu thay huynh cầu một quẻ linh, chúc huynh mở cờ đánh thắng, đề tên bảng vàng, văn chương lai láng, như có thần giúp, thi đâu đỗ đó, bình an vô sự."

"Nói xong chưa?" Biểu cảm Trần Phương Nhung lạnh lùng.

"Xong rồi."

Trần Phương Nhung cười mỉa mai: "Mới nãy ta thấy cái sạp nhỏ trong chợ phường bày đầy quẻ linh loại này, hình dạng nét chữ giống nhau như đúc, ấy vậy mà ngươi lại nói với ta là ngươi ba quỳ chín khấu cầu được? Triệu Bạch Ngư, chẳng cầu ngươi phải vừa có tài vừa có đức, nên bớt nói láo lừa gạt lại, ngươi có lấy lòng ta cũng vô dụng thôi."

Triệu Bạch Ngư xoa xoa mũi, thầm nghĩ lái buôn ở Kinh đô ai nấy cũng đều lươn lẹo, dám lén lút sản xuất hàng loạt quẻ linh của Bảo Hoa tự nhà người ta, thế có trả phí bản quyền cho bọn họ không!

"Thì cũng là một phần tâm ý của ta mà."

Triệu Bạch Ngư nhét quẻ linh vào trong ngực Trần Phương Nhung rồi nhanh chân chạy đi, người nọ bị bất ngờ cầm lấy quẻ linh, sắc mặt vẫn lạnh lùng, lúc đi ngang qua đầu hẻm chẳng thèm để ý ném thẳng xuống cống.

Triệu Bạch Ngư không biết tâm ý của y đã bị chà đạp, dù có đoán ra được thì cũng chỉ cười trừ, không để trong lòng, dù sao cũng không phải là lần đầu tiên đối mặt với ác ý, hơn nữa không chỉ có mỗi mình Trần Phương Nhung có ác ý đối với y.

Thậm chí, tổn thương do ác ý của Trần Phương Nhung tạo thành nhỏ đến nỗi y có thể không chú ý tới nó.

Hoàng hôn xuống, Triệu Bạch Ngư ghé quán ven đường gọi một bát hoành thánh, nghe thực khách ngồi bên cạnh nói: "Sáng nay có chuyện vui mới, các ngươi đã nghe qua chưa?"

"Bớt vòng vo lại, nói nhanh lên."

"Lý nương ở ngõ Kim Hoàn ngồi vị trí hoa khôi được ba năm, nay đã bị người mới cướp đi rồi đấy, lại xảy ra trò cược gì mới mẻ chăng?"

"Chuyện này thì liên quan đến đánh cược đấy." Thực khách râu dê gật gù đắc ý, chỉ trỏ nói: "Hình như cũng liên quan đến con trai nhỏ của đương kim Tế chấp (*) thì phải?"

(*) Tế chấp: là cách gọi chung của tể tướng và quan chấp chính thời Tống Nguyên. Ở thời tống, quan tế chấp là người mà nhất cử nhất động đều mang sức ảnh hưởng rất lớn.

Có liên quan đến tiểu đệ Triệu Ngọc Tranh của y ư?

Triệu Bạch Ngư không khỏi tò mò.

"Mấy ngày trước, ở đường Khúc Viện có một cô nương xinh đẹp bán thân để an táng phụ thân, được Triệu ngũ lang thương hương tiếc ngọc nhìn thấy muốn mua về, ai ngờ ngân lượng không đủ bèn kêu người làm hồi phủ lấy. Có điều làm vậy cũng vô ích thôi, cô nương bán thân kia đã được Lâm An quận vương nhìn trúng mua trước. Vốn là một nữ cô nhi nghèo khổ, được quý nhân vừa mắt là chuyện tốt. Nhưng mà cả Kinh đô này ai mà không biết Lâm An quận vương tính tình tàn bạo, trai gái chết trong tay hắn không biết bao nhiêu là mạng rồi!"

"Tiểu nương tử khóc ràn rụa nước mắt rồi ngất đi. Triệu ngũ lang sống như tiên nhân, lòng dạ cũng là lòng dạ Bồ tát, sinh ra trong gấm vóc lụa là, từ Thiên gia cho đến tôi tớ trong nhà ai cũng đối xử với hắn như trân châu như ngọc quý, được mấy người không kiêu căng phóng túng như hắn. Vậy mà lại tranh chấp với thân tín của Lâm An quận vương, bị kích động mắng một câu: Hung tàn ngang ngược, khắc chết mẹ ruột, dùng hình giết huynh đệ, không hổ là ác quỷ chuyển thế!"

"Uống!"

Mọi người xung quanh trái lại hít một hơi khí lạnh, trong lòng còn sợ hãi, chỉ vì hung danh của Lâm An quận vương, cộng với tiếng tăm cực cao trong quân, đến cả Thánh thượng cũng vô cùng yêu mến hắn, không ai cả gan tùy tiện chọc giận.

Triệu Bạch Ngư cảm thán, lá gan của Triệu Ngọc Tranh cũng lớn thật, cha bọn hắn là một quan Tế chấp còn không dám đắc tội Lâm An, vậy mà hắn lại đâm trúng chỗ kiêng kỵ của tiểu quận vương.

Có điều, nghĩ lại thì Triệu ngũ lang khác với kẻ bị vạn người căm ghét như y, sau lưng hắn có vô số nhân vật máu mặt làm chỗ dựa, tất nhiên bản thân không sợ đắc tội người ta.

Triệu Bạch Ngư tiếp tục ăn dưa.

"Sau đó thì sao?"

"Tiểu quận vương chắc chắn sẽ không từ bỏ ý định, hắn đã làm gì?"

"Tiểu quận vương nói sẽ không dùng quyền đè người, không muốn lạc nhân khẩu thật (*) bèn dùng trò đầu hồ (**) để cược, chơi năm lần thắng ba. Nếu tiểu quận vương thắng, Triệu ngũ lang và tiểu nương tử phải cùng vào quận vương phủ, ngược lại thì hắn sẽ chắp tay nhường nhịn, còn tặng thêm vàng bạc."

(*) Lạc nhân khẩu thật (Nguyên văn: 落人口实): chỉ việc làm không được chu toàn, để lại kẽ hở cho người khác công kích trong lời nói

(**) Đầu hồ: ném thẻ vào bình rượu (trò chơi phạt uống rượu trong những buổi tiệc thời xưa)

"Bắt nạt người ta sao? Một nữ cô nhi hèn mọn và mấy thứ vàng bạc kia sao có thể sánh ngang với Triệu ngũ lang tựa trăng sáng chứ?"

"Đúng vậy!" Thực khách râu dê vỗ bắp đùi nói: "Triệu ngũ lang giận đến nỗi gò má trắng bệch, tiểu quận vương còn tăng thêm tiền cược, nói rõ nếu như Triệu ngũ lang thắng, hơn trăm người trai gái hắn nuôi trong biệt viện cũng đem tặng hết cho. Lấy những thứ ô uế kia đặt cược cho một mình Triệu ngũ lang, kích thích ngài ấy nhận thách thức ngay tại chỗ, kết quả năm ván thắng ba!"

"Triệu ngũ lang thắng?"

"Thua."

"Cái này... Chẳng lẽ muốn thực hiện giao ước luôn sao? Triệu tế chấp có chịu không? Tiểu quận vương thật sự làm chuyện hoang đường thế ư?"

"Đêm hôm quận vương còn vào cung thỉnh chỉ, Thánh thượng ban hôn cho, Triệu tế chấp không chịu cũng phải chịu! Triệu ngũ lang không gả cũng phải gả!"

"Gả?! Đàn ông với đàn ông sao có thể thành thân? —— thật là hoang đường!"

Chúng thực khách lao nhao lên, vừa thổn thức vừa than vãn, rằng sức nặng của tiểu quận vương trong lòng Thánh thượng chắc phải ở tít trên tầng cao, cho nên ngay cả con trai nhỏ của đại thần là cánh tay phải đắc lực cũng có thể nói gả là gả.

Là thật hay giả đây?

Tuy bị ảnh hưởng bởi tập tục cởi mở của tiền triều, phương diện phong tục và giáo hóa của Đại Cảnh vẫn rất tiến bộ, nhưng nếu thật sự kêu đàn ông cưới nam thê, còn là do Thánh thượng ban hôn thì thật khó tin.

Triệu Bạch Ngư không để chuyện này trong lòng, coi như gả đi thật, thì cũng còn có cả đống người tranh nhau giúp Triệu Ngọc Tranh vượt qua ải khó. Người khác không biết, chẳng lẽ y cũng không biết Triệu gia cưng chiều Triệu Ngọc Tranh biết bao nhiêu? Làm sao có thể trơ mắt nhìn hắn đi vào núi đao biển lửa?

Lấp đầy cái bụng xong, đặt một đồng tiền xuống, Triệu Bạch Ngư trở về Triệu phủ, mới vừa vào cửa đã bị quản gia canh sẵn sau cửa gọi lại.

"Lão gia, phu nhân cho gọi."

Triệu tế chấp và Tạ thị? Hai người bọn họ không phải chỉ mong cho y khuất mắt thôi sao? Sao lại muốn gặp y?

Triệu Bạch Ngư ôm một bụng nghi ngờ đi đến đại sảnh, nhìn thấy tế chấp đương triều Triệu Bá Ung và vợ Tạ thị ngồi ngay ngắn trong chính đường.

Triệu Bá Ung đã bốn mươi mấy tuổi vẫn là đại thúc nho nhã anh tuấn, Tạ thị thì mang dáng vẻ thùy mị, khí chất uyển chuyển, một cái nhăn mày, một tiếng cười cũng làm lòng người rung động, chẳng trách có thể khiến cho Triệu Bá Ung vì nàng mà kiên quyết không nạp thiếp.

Giờ phút này, hai người đều mang vẻ mặt đầy lo lắng.

Triệu Bạch Ngư chấp tay: "Cha, mẹ, tìm ta có chuyện gì?"

Quê của Triệu Bá Ung ở Giang Châu, ông là Hội nguyên (*) năm thứ mười ba của cao trung Nguyên Phong, đứng đầu bảng thi đình, cũng là Trạng nguyên đầu tiên đỗ đạt Tam nguyên (**) kể từ khi Đại Cảnh khai quốc đến nay. Lúc đó là năm ông hai mươi mốt tuổi, cưỡi ngựa diễu hành, dáng người mảnh khảnh, mặt như quan ngọc, trâm hoa cài đầu, trong chớp mắt hút hồn các tâm hồn thiếu nữ ở Kinh đô, trong đó có cả quý nữ cao quý nhất, trưởng công chúa Xương Bình.

(*) Hội nguyên: người đỗ đầu khoa thi Hội, thời Minh-Thanh ở Trung Quốc

(**) Tam nguyên: nghĩa gốc (三元及第 – tam nguyên cập đệ) – Là người đứng nhất trong cả ba kì thi: thi hương (Giải nguyên), thi hội (Hội nguyên), thi đình (Trạng nguyên), ngoài ra còn được gọi là "liên trung tam nguyên".

Xương Bình là đích trưởng công chúa, rất được Hoàng đế cưng chiều, nàng vừa nhìn thấy Triệu Bá Ung đã yêu, quấn lấy không buông kiên quyết muốn gả cho hắn. Nhưng làm sao được khi Triệu Bá Ung và Tạ thị là thanh mai trúc mã, sớm đã trở thành đôi phu thê trẻ ân ái có thừa. Chưa kể lúc ấy Tạ thị đã sinh cho hắn hai đứa con trai, Triệu Bá Ung thật sự không thể nào bỏ vợ cưới thiếp được.

Trưởng công chúa dù đã bị cự tuyệt nhưng vẫn chưa từ bỏ ý định, dây dưa với Triệu Bá Ung ba năm, cũng chẳng để ý thanh danh của mình bị bôi bác, người thân chán chường, nàng dùng hết thủ đoạn bỉ ổi, rốt cuộc cũng được gả cho Triệu Bá Ung như ý nguyện, còn ép buộc Tạ thị phải làm thiếp.

Tuy nhiên sau khi cưới về rồi cũng bị lạnh nhạt, Triệu Bá Ung không muốn ở chung một phòng với nàng.

Mắt thấy Tạ thị được sủng ái, đã liên tục sinh ba đứa con lại được chẩn mang thai lần nữa, trưởng công chúa bị đố kị ăn mòn đứng ngồi không yên, bắt đầu giở thủ đoạn dơ dáy để mình mang thai, thời gian chênh lệch trước sau với Tạ thị hơn một tháng. Tạ thị vì thế mà bi thương cực độ, lại sơ sót trong quản lý nội bộ, bị lợi dụng sơ hở, thuốc giữ thai mỗi ngày một chén đã sớm bị hạ độc, chờ đến lúc phát hiện đã không kịp rồi, suýt nữa là thành một xác hai mạng.

Cũng may mẫu tử bình an, chỉ tiếc đứa con sinh ra mang độc, người yếu nhiều bệnh, bao nhiêu năm trời quanh quẩn ở quỷ môn quan, phải quan tâm chăm sóc kỹ mười mấy năm mới có thể sống được.

Sau đó truy lùng ra được người hạ độc là bà vú bên cạnh trưởng công chúa, Triệu Bá Ung lửa giận ngút trời, ban đêm xách kiếm xông vào phủ công chúa, giết bà vú và thị nữ thiếp thân ngay trước mặt công chúa khi nàng chỉ vừa mới hạ sinh đứa con trai không lâu.

Công chúa bị dọa cho kinh hãi, bất tỉnh tại chỗ.

Triệu Bá Ung chẳng nể nang tình cảm phu thê gì, vào cung tố cáo hành vi của trưởng công chúa, dung túng đầy tớ làm điều ác, xâm chiếm ruộng đất còn giết người vô tội, thậm chí đưa ra bằng chứng làm Thánh thượng á khẩu không đáp lại được lời nào.

Khi đó, Nguyên Thú đế cảm niệm Triệu Bá Ung lúc trước đã phản đối tiên đế phế Thái tử, liên thủ với cựu thần đỡ lão lên ngôi, lại thêm Xương Bình sa lầy vào tình ái, bỏ qua hết tháng ngày gian nan cùng thân mẫu và huynh trưởng đoạt quyền, cơ hồ đã tiêu hao hết sạch tình cảm đôi bên, Nguyên Thú đế và Thái hậu vì vậy mà nảy sinh lòng áy náy hiếm có.

Dù gì đây cũng là hôn sự mà tiên đế ban cho, vì thế không thể cố chấp hạ lệnh hưu thê hay hòa li, thế cho nên chỉ bỏ đi tước vị và phẩm cấp của Xương Bình, để lại phong hiệu, còn đâu giáng xuống ba cấp, bị đuổi ra khỏi kinh thành, đày đi Hồng Châu, Giang Tây, không có chiếu chỉ thì không được quay về. Sau đó cho Tạ thị bình thê, phong cáo mệnh (*), những năm gần đây còn ban thưởng rất nhiều thứ cho Triệu ngũ lang, thương càng thêm thương.

(*) Cáo mệnh: phụ nữ được phong tước hiệu trong thời phong kiến, thường thấy trong Bạch thoại thời kỳ đầu.

Cứ như vậy, dưới sự trấn an đó, sóng gió cuối cùng cũng lắng xuống, kết thúc một mối nghiệt duyên.

Chuyện này giống như hệt như nội dung trong một thoại bản (*) ngôn tình hay tuyệt vời, nam nữ chính bên nhau suốt đời, còn nữ phụ ác độc thì chỉ có thể tiêu điều rời sân. Mỗi người đều nhận được đại kết cục vui vẻ, chỉ có bé trai sơ sinh từ đầu đến cuối không được hoan nghênh ra đời, đứa nhỏ sinh non bị chính mẹ mình là công chúa nhẫn tâm bỏ rơi chỉ đành một mình chịu đựng tất cả oán hận của bao người.

(*) Thoại bản: một hình thức tiểu thuyết Bạch thoại phát triển từ thời Tống, chủ yếu kể chuyện lịch sử và đời sống xã hội đương thời, thường dùng làm cốt truyện cho các nghệ nhân sau này.

Đứa trẻ sơ sinh đó chính là Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư là người chuyển kiếp từ thế kỉ 21 tới, kiếp trước y nằm trên giường bệnh mười mấy năm, cuối cùng vì cơ quan trong cơ thể suy kiệt mà chết, mở mắt ra phát hiện mình đã biến thành một em bé không tự quản được việc ăn uống tè ị, thân thế còn phức tạp đến như vậy.

Sinh phụ và đích mẫu lại còn cực kì chán ghét mình.

Ba đứa con của đích mẫu năm đó cũng biết chuyện, bọn hắn đích thân trải nghiệm sự tàn độc đến điên cuồng của công chúa, lại suýt chút nữa mất đi mẫu thân và đệ đệ, tất nhiên là cực kì hận Triệu Bạch Ngư.

Thân là nhà ngoại, Hoàng đế cùng Thái hậu vì áy náy, cũng là để bù đắp, xem Triệu Ngọc Tranh như đứa cháu ngoại ruột thịt mà thương yêu, chưa bao giờ hỏi tới Triệu Bạch Ngư lẻ loi một mình trong hậu trạch Triệu gia.

Những người khác thì cho rằng mẹ nào con nấy, trưởng công chúa Xương Bình tàn nhẫn đến vậy, gốc rễ đứa nhỏ của nàng không đứng đắn, tính cách cũng sẽ chẳng khá hơn chút nào, vì vậy chỉ ngoảnh mặt làm ngơ, thỉnh thoảng bỏ đá xuống giếng.

Triệu Bạch Ngư sống rất khó khăn.

Nhưng y trân trọng cuộc sống này, khỏe mạnh lớn lên.

Trời sinh tính Triệu Bạch Ngư lạc quan kiên cường, nếu không đời trước cũng sẽ không làm con ma ốm chống đỡ căn bệnh kia mười mấy năm, cho đến khi chết cũng cố gắng cười an ủi bác sĩ và người nhà đang đau buồn.

Lòng người cũng là da thịt, không ai có thể coi thường lòng tốt ngày qua ngày, y tin chắc rằng một ngày nào đó mình sẽ loại bỏ được thành kiến của bọn họ.

Triệu Bạch Ngư nhìn Tạ thị, đối phương cúi đầu, không hề nhìn thẳng vào mắt y.

Cũng bình thường thôi, có thể hiểu được, ai lại nảy sinh thiện cảm với đứa con của kẻ thù chứ?

Huống chi mười chín năm qua, Triệu Ngọc Tranh mang độc trong người, tính mạng bị đe dọa nhiều lần, nhìn lại con của kẻ thù, Triệu Bạch Ngư thân thể khỏe mạnh, sao nàng có thể không hận?

Đặt mình vào trong hoàn cảnh của người khác mà nghĩ, Tạ thị không giết chết y, cũng không xúi giục ai làm khổ y, chẳng qua chỉ xem thường thôi đã là rộng lượng lắm rồi.

Triệu Bá Ung: "Ngồi đi."

Triệu Bạch Ngư ngồi xuống.

Triệu Bá Ung bưng tách trà nhấp một hớp: "Hôm nay Thánh thượng đã ban hôn cho Triệu gia, hạ chỉ gả Triệu ngũ lang cho Lâm An quận vương làm quận vương phi, chọn ngày lành tháng tốt thành hôn."

Trong lòng Triệu Bạch Ngư phỉ báng trăm lời, nói cho y biết có tác dụng gì? Muốn y chúc mừng sao? Chỉ sợ người ta rút kiếm tại chỗ đâm chết y thôi.

Đợi đã, vậy chuyện được đồn ngoài chợ là thật ư?

Mọi người đều biết Lâm An quận vương trai gái đều không kiêng kỵ, sinh hoạt cá nhân thối nát, tính tình lại tàn bạo, chuyện hoang đường cỡ nào cũng làm được, cưới nam thê cũng rất hoang đường, nhưng sao hành vi mà người cậu Hoàng đế của hắn làm cũng hoang đường theo luôn thế kia?

Hoàng gia ban hôn, chẳng qua là để kiềm hãm, phân quyền, nghĩ lại cũng không phải chuyện tốt đẹp gì.

Triệu Bạch Ngư lập tức đánh chết lòng hiếu kỳ mới vừa ló đầu, nhìn chằm chằm mũi chân chậm rãi nói: "Tiểu quận vương hung tàn ngang ngược, thật sự không thích hợp trở thành phu quân của Ngũ lang."

Mi mắt Triệu Bá Ung không nâng lên một chút nào: "Ngươi chuẩn bị sẵn sàng đi, Triệu phủ sẽ cho ngươi của hồi môn thật phong phú."

Triệu Bạch Ngư chợt ngẩng đầu: "Ngài nói gì?"

Triệu Bá Ung: "Triệu thị ngũ lang, Triệu Bạch Ngư." Ông đặt tách trà xuống, ánh mắt sắc lạnh nhìn Triệu Bạch Ngư: "Thánh thượng ban cho ngươi làm Lâm An quận vương phi, lựa ngày thành hôn! Dù sao ngươi cũng là người Triệu gia, có gả ra ngoài cũng sẽ không ai bạc đãi ngươi."

Triệu Bạch Ngư không dám tin, đứng vụt dậy, cơ thể không tự chủ được run rẩy: "Hoang đường! Ta là do Xương Bình công chúa sinh ra, là con trai thứ tư của Triệu phủ, ra đời sớm hơn Triệu ngũ lang nửa canh giờ! Chuyện này cả Kinh đô có ai không biết? Trên tịch nhập hộ ghi rõ, chẳng lẽ các ngươi còn có thể thay mận đổi đào, dối trên gạt dưới sao?! Ngài không sợ Thánh thượng trách tội ư?"

Triệu Bá Ung: "Lúc ấy tứ lang ra đời sớm hơn ngươi nửa giờ, ta thương xót nó trong thai kì mang độc, người yếu nhiều bệnh, sợ nuôi nó không tới bốn tuổi, nhớ ở quê nhà có tục ngữ 'Con út tay nắm châu, ma quỷ nhìn cũng sầu', liền tự ý chủ trương để cho nó xuống thứ năm."

Triệu Bạch Ngư: "Sợ không nuôi nổi Triệu Ngọc Tranh hắn tới bốn tuổi, lại chẳng sợ ta phạm phải điều kị chết oan uổng sao?"

Y nói xong, chợt thấy mình hỏi ngược lại thế này rất buồn cười, nếu không phải trời đất không dung kẻ giết con, Triệu Bá Ung đã sớm giết y rồi.

"Năm đó bà mụ, đại phu, tỳ nữ đều có thể làm chứng, hộ tịch cũng đã được hộ bộ sửa lại, chỉ đợi tâu lên Thánh thượng nữa là được." Triệu Bá Ung thờ ơ trước tất thảy sự giận giữ thất vọng của Triệu Bạch Ngư, lạnh nhạt uy hiếp, "Triệu Bạch Ngư, chớ làm chuyện ngu xuẩn giống như mẹ ruột của ngươi!"

"Tay Triệu tế chấp có thể xuyên trời, đặt điều thế nào không phải do các người định đoạt sao."

Triệu Bạch Ngư nản chí ngã lòng, không dám tin bọn họ vậy mà lại hy sinh y để cứu Triệu Ngọc Tranh.

Là do Triệu Ngọc Tranh tự khoe tài gây họa, dựa vào cái gì hy sinh y thay Triệu Ngọc Tranh đội cái nồi đó? Chẳng lẽ bọn họ không biết Lâm An quận vương là ai? Chẳng lẽ không biết nếu như gả y vào quận vương phủ sẽ có kết cục như thế nào.

Triệu Ngọc Tranh là bảo vật, Triệu Bạch Ngư y chỉ là cây cỏ thôi ư?

Là trưởng công chúa Xương Bình có lỗi với bọn họ, không phải là đứa trẻ Triệu Bạch Ngư vô tội! Không phải là Triệu Bạch Ngư mười chín năm qua không ngừng thử hòa tan khối băng cứng, cố gắng lấy lòng, toan tính để sống hòa bình cùng bọn họ!

Cánh môi Triệu Bạch Ngư mấp máy vài cái, nhưng rốt cuộc cũng không mở miệng lên án.

"Nếu như ta nhớ không lầm, bà mụ năm đó đỡ đẻ ta, đại phu, tỳ nữ đi theo công chúa đều đã bị đày đi Hồng Châu, mà bà đỡ, thái y của Triệu Ngọc Tranh đều xuất thân tiềm để, từng đỡ đẻ cho đương kim Thái tử và các hoàng tử, hiện tại vẫn còn hầu hạ trong cung ——" Trong mắt Triệu Bạch Ngư toát lên hy vọng, "Có lẽ ngài sửa đổi hộ tịch được, nhưng không nhất định có thể ra lệnh cho bọn họ thay ngài ngụy tạo chứng cứ."

Đương kim Thánh thượng cầm quyền anh minh cần kiệm, đã thoáng thể hiện chế độ cai trị hoàng quyền chuyên chính, tuyệt đối sẽ không chấp nhận để Triệu Bá Ung nhúng tay vào việc trong cung.

"Sao ngươi lại biết những chuyện này?"

Triệu Bạch Ngư lộ ra nụ cười miễn cưỡng: "Ngài quên à, ta có chức quan nhỏ ở Kinh đô, nhờ đó có thể tra ra không ít tài liệu của năm đó."

"Nếu ngươi đã biết chuyện đó rồi, thì hẳn cũng nên biết, không cần ta tự mình ra mặt cũng có người chuẩn bị xong chứng cứ cho Ngũ lang." Triệu Bá Ung lạnh lùng nhìn Triệu Bạch Ngư, trong mắt tràn đầy chán ghét, vừa nhìn thấy Triệu Bạch Ngư là ông liền nhớ lại công chúa Xương Bình như khúc xương nghẹn trong cuống họng, không nhịn được ghét bỏ y như ruồi muỗi.

"Nhị lang là thư đồng của Thái tử, Tam lang là đồng song (*) của Tam hoàng tử, Ngũ hoàng tử, Ngũ lang là bằng hữu của Lục hoàng tử, từ nhỏ đã được Thái tử và các hoàng tử yêu thương cưng chiều, lớn lên bên nhau, coi như huynh đệ máu mủ. Ngươi cho rằng bọn họ sẽ trơ mắt nhìn Ngũ lang bị đưa vào quận vương phủ sao? Không dối gạt gì ngươi, sáng nay khi ý chỉ của Thánh thượng còn chưa tới, Thái tử cùng các hoàng tử đã đưa bà mụ, thái y đến Triệu phủ, còn đồng ý đem theo chứng cứ đã thẩm vấn giao cho ta, bên trên còn có quan ấn của phủ doãn ở Kinh đô."

(*) Đồng song: Bạn cùng trường

"Hợp tình hợp lý, không hề có sơ suất, Thánh thượng cũng không thể nói thêm gì nữa."

Triệu Bá Ung phất ống tay áo: "Huống hồ, ngươi cho rằng Thánh thượng sẽ thật sự gả Ngũ lang vào quận vương phủ?"

Sắc mặt Triệu Bạch Ngư tái nhợt, thân thể đơn bạc khẽ run rẩy.

Môn đệ Triệu gia hiển hách, Triệu Bá Ung làm quan tế chấp, quản chuyện lớn nhỏ của ba tỉnh sáu bộ, ba người con trai không phải thư đồng của Thái tử thì chính là đồng song của hoàng tử, trong đó Triệu Đại Hòa Triệu tam vào Cấm vệ quân, Triệu nhị làm quan ở Diêm thiết ti, quyền quân chính tài của quốc gia đều để bọn họ chiếm một phần ba.

Nguyên Thú đế giờ đây cần Triệu gia để chống lại các thế gia, cân bằng thế lực triều đình, Thái tử, các hoàng tử tuổi trẻ cường tráng đều bon chen lấy lòng, nhận giúp đỡ từ Triệu gia, người trước không làm hết chuyện, kẻ sau không bỏ qua cơ hội tốt để lôi kéo.

Cho nên khi Nguyên Thú đế ban hôn cho tiểu quận vương cũng đã ngờ tới Triệu phủ sẽ làm ra kế sách đối phó, lão chỉ cần nhắm một mắt mở một mắt, đứng trên cao đường nhìn bọn họ ngấm ngầm đấu đá mà thôi.

Mà Triệu Bạch Ngư tứ cố vô thân, không còn đường sống!

"Nếu ngươi nghe lời, ngoan ngoãn thay Ngũ lang gánh chịu tai họa này, thì ngươi vẫn là Triệu gia tứ lang, ta đảm bảo ngươi không chết được."

"Nhưng ta sẽ sống không bằng chết!"

Triệu Bá Ung chợt vỗ bàn trách cứ: "Đừng bắt chước mẫu thân ngươi chanh chua cay nghiệt!"

Triệu Bạch Ngư cười khẩy.

Tạ thị cau mày, thấp giọng nói: "Triệu Bạch Ngư, ngươi cũng không hy vọng người bên cạnh mình xảy ra chuyện đúng không?"

Người bên cạnh? Lòng Triệu Bạch Ngư lạnh lẽo: "Bà đã làm gì bọn họ?"

Trong viện tử của y có ba người, từ trên xuống dưới là Tú ma ma nuôi dưỡng y, Ngụy bá và người hầu Nghiên Băng được y nhặt về nuôi lớn bên cạnh.

Tạ thị tránh né ánh mắt của Triệu Bạch Ngư: "Ngươi nghe lời, ta cam đoan sẽ không làm tổn thương bọn họ."

"À." Triệu Bạch Ngư cười mỉa mai, mặt không cảm xúc: "Được thôi, nhưng ta có hai điều kiện."

Tạ thị: "Ngươi nói đi, ta làm chủ đáp ứng cho ngươi."

Triệu Bạch Ngư: "Tú ma ma bọn họ theo ta xuất phủ, cũng sẽ được phế trừ tiện tịch."

Tạ thị: "Ngày ngươi xuất gia, ta sẽ tự minh đến hộ bộ tiêu tịch cho họ."

Triệu Bạch Ngư rũ mắt: "Điều kiện còn lại, để sau này hãy nói."

Tạ thị chăm chú nhìn y: "Được." Nàng dừng một chút, lại thấp giọng nói, "Ngươi có muốn trách thì cứ trách ta, chớ oán hận Ngũ lang, đây là do mẹ con các ngươi nợ nó."

Triệu Bạch Ngư lười tranh cãi nguyên tội của mình với bọn họ, mười chín năm qua lần đầu tiên không hành lễ xoay người rời đi, vừa ra đã gặp phải Triệu Trường Phong vừa mới từ Điện tiền ti giao ban trở về ở hành lang trước sân.

Triệu gia Đại lang, đại ca ruột của Triệu Ngọc Tranh, cũng chính là huynh trưởng cùng cha khác mẹ của Triệu Bạch Ngư.

Người này sắc mặt lạnh lùng, mặt một chiếc bào sam dài tay màu đỏ có thắt eo, bên hông treo một túi cá, tôn lên thân hình cao ráo, anh tuấn vĩ ngạn, không hổ là đối tượng kết hôn hàng đầu trong mắt các gia tộc ở Kinh đô.

Triệu Trường Phong không thường nói lời châm chọc hoặc khiến cho Triệu Bạch Ngư khó chịu như Nhị lang hay Tam lang, từ trước đến giờ gã chỉ xem thường y, coi y như không khí.

Tâm trạng Triệu Bạch Ngư không tốt nên cũng lười khách sáo chào hỏi, đi thẳng qua Triệu Trường Phong thì bị gọi lại, y ngạc nhiên xoay người, nghe thấy giọng nói thờ ơ của gã thốt lên uy hiếp: "Đừng nghĩ đến chuyện chạy trốn, các kỵ cấm quân đều có người quen của ta."

Hốc mắt Triệu Bạch Ngư ẩm ướt, siết chặt nắm đấm, ngực phập phồng kịch liệt, không nhịn được chất vấn: "Trong mắt các ngươi, chỉ có mỗi mình Triệu Ngọc Tranh là đệ đệ thôi sao?"

Ánh mắt Triệu Trường Phong xa xăm, bình tĩnh không gợn sóng: "Nếu như không có ngươi, Xương Bình công chúa sẽ không mạo hiểm mưu hại mẹ, cũng sẽ không hại Ngũ lang từ nhỏ đã yếu ớt."

Lời thật lòng như mũi tên nhọn đâm xuyên qua tim Triệu Bạch Ngư, mặc dù y biết người Triệu gia không ai muốn nhìn thấy mình, mặc dù đã nghe mãi thành quen vô số những lời lẽ ác độc, nhưng mười chín năm chung sống, cố gắng làm băng tan, lấy lòng lại không nhận được một nửa lời đáp, mãi mãi vẫn chỉ có ác ý nồng đậm như mực, y đã mất sạch hy vọng rồi.

Triệu Bạch Ngư lui về phía sau từng bước, Triệu phủ, hoàng thành trở thành ngục tù đáng sợ, những người quyền cao chức trọng kia, đại thần đại tướng, hoàng thân quý thích đều bảo vệ Triệu Ngọc Tranh như bảo vật trong tay, ai cũng bày mưu lập kế giúp hắn, sợ hắn bị thương, thánh chỉ ban hôn còn chưa tới mà một đám người trong phủ đã bôn ba gạt sạch hết từng tảng đá lớn trước mặt hắn.

Còn y thì sao?

Y là kẻ vừa ra đời đã bị đóng chặt cái tội vào người, bị đưa đi làm vật hy sinh là đáng đời lắm.

Vẻ mặt Triệu Bạch Ngư hoảng hốt, không để ý bậc thang dưới chân, sẩy một cái lăn xuống mấy chục bậc, âm thanh bình bịch vang lên, lăn vòng rơi xuống đất, trán đập mạnh vào cột đá bạch ngọc, thoáng chốc trời đất trở nên u ám, trong đầu lóe lên vô số hình ảnh.

Từ mười chín năm qua cẩn trọng lấy thiện cảm, hy vọng có thể tìm được một người thân, bằng hữu chân thành, đến kiếp trước tiếp nhận chữa trị ở bệnh viện, lúc nào chán sẽ mở tiểu thuyết đam mỹ đoàn sủng mà cô y tá trẻ đề cử cho để đọc.

Nội dung của quyển tiểu thuyết lẽ ra nên quên đi rồi, lúc này bỗng trở nên rõ ràng, nét chữ màu đen vuông vức biến thành từng hình ảnh sinh động chui vào trong tâm trí.

Trố mắt hồi lâu, trước khi hôn mê, biểu tình của Triệu Bạch Ngư giống hệt như vừa mới nuốt mười ngàn con ruồi vậy.

Chà!

Hóa ra không phải chuyển kiếp, mà là xuyên sách!

Chương 2: Đại tác chiến tìm đường chết

Theo như lời y tá trẻ nói,《Mỗi ngày bạch nguyệt quang đều được yêu thương》là một trong mười quyển quyền mưu ngọt văn hay nhất.

Không thấy quyền mưu chỗ nào, nói đúng hơn phải là ngọt ngào nhẹ nhàng cưng chiều nhân vật chính không có đầu óc được số phận cực kì ưu ái.

Nhân vật chính được đoàn sủng chính là Triệu Ngọc Tranh, giai đoạn đầu hắn được vô số người say mê, ngụy NP, hậu kì tăng thêm một phần dành cho Thái tử, chuyển thành quan phối, cái kết HE là Thái tử lên ngôi, Triệu Ngọc Tranh được phá lệ phong làm nam hậu, nhưng nghe y tá trẻ nói rằng ngoại truyện lại BE.

Lúc đó Triệu Bạch Ngư đang bệnh, không nghe cô nàng nói về kết cục BE, nghĩ nếu như sủng văn mà BE thì cũng là một kiểu kết thúc có hậu khác thôi.

Nhìn từ góc độ của nhân vật chính, thì đời người xuôi gió xuôi nước, được thương yêu đến thế, có gặp phải vai phụ độc ác thì cũng rất nhanh đã có thể vả mặt rồi, tình tiết cũng có lên có xuống, độc giả không ngừng kêu thỏa mãn, nhưng đổi cách nhìn khác thì cuộc đời vai phụ cũng quá bi thảm.

Vai phụ phản diện nhất là Triệu Bạch Ngư, trùng với cái tên kiếp trước của cậu, lúc y tá nhắc đến chuyện này còn trêu cậu chuẩn bị tinh thần xuyên sách đi, nhưng cậu nào ngờ rằng mình thật sự xuyên sách đâu.

Cuộc đời của 'Triệu Bạch Ngư' có thể tóm tắt đơn giản thế này: Vai phụ cả đời bị chê ác. Cuộc sống mà nhân vật đó trải qua cũng giống như đời người mà cậu từng trải qua vậy, cũng có một mẫu thân là công chúa độc ác, bị chán ghét, bị đuổi khỏi Kinh đô, để lại đứa con nhỏ còn quấn tã, cuối cùng hắn bơ vơ không nơi nương tựa, chịu đựng tất cả mọi oán hận, khinh rẻ của mọi người.

Chỉ khác với tính tình lạc quan của Triệu Bạch Ngư, 'Triệu Bạch Ngư' trong sách chịu hết mọi sự xem thường, bắt nạt, cả đời không có được tình thân, tình yêu lẫn tình bạn, cực kì thiếu tình thương, hèn mọn lấy lòng từng người trong Triệu phủ. Mặc dù ngưỡng mộ, ghen tị với Triệu Ngọc Tranh nhưng chưa từng hãm hại hắn, thật lòng chăm sóc hắn như đệ đệ, kết cục vẫn bị một đám đàn ông yêu thương Triệu Ngọc Tranh bắt tay nhau đưa vào Lâm An quận vương phủ.

Lâm An quận vương nổi danh tàn bạo, từng có chuyện quận vương phủ chỉ trong một ngày khiêng ra hai mươi thi thể, trai gái đều có, trên người đều là dấu vết do bị ngược đãi mà chết.

Trong nguyên tác, chuyện này phát sinh vào hai năm về trước, Triệu Bạch Ngư vừa được tiến cử đảm nhiệm chức phán quan ở Kinh đô, đi theo Thượng quan xử lý vụ án kia ở phủ quận vương, tận mắt chứng kiến thảm trạng của những thi thể được bày ra trên mặt đất, cũng nhìn thấy tiểu quận vương đứng ở một góc có bóng mát cách đó không xa. Triệu Bạch Ngư không nhìn rõ tướng mạo của đối phương, chỉ biết là gã cao, cuối cùng bị dọa cho sợ, sau khi hồi phủ gặp ác mộng cả tháng trời, muốn đi qua phủ quận vương cũng phải tìm đường vòng nào xa xa để đi mới được.

Có thể thấy, bóng ma mà Lâm An quận vương để lại lớn đến mức nào.

Cậu đã như vậy, 'Triệu Bạch Ngư' trong nguyên tác còn sợ tiểu quận vương hơn, sau khi bị ép gả vào phủ quận vương thì hắc hóa ngay tại chỗ, lấy việc giết chết Triệu Ngọc Tranh làm mục đích sống, không ngừng tự tìm đường chết, cuối cùng chết thảm ở cái tuổi hai sáu hào hoa phong nhã.

Đáng buồn là khi âm mưu của y bị phát hiện, tất cả mọi người đều bày ra dáng vẻ "Xem kìa, rốt cuộc nó cũng bộc lộ gương mặt thật xấu xa rồi", hóa ra, từ trước đến giờ thật thà hèn mọn lấy lòng người khác đều bị cho là có mưu đồ.

Càng buồn cười hơn nữa, là cả một câu chuyện cho đến kết cục chân tướng mới được vạch trần, hóa ra công chúa Xương Bình đã sớm tính toán, là bất luận Tạ thị có một xác hai mạng hay không thì đều phải uống thuốc giục sinh, sinh hạ đứa trẻ trước ngày dự sinh, sau đó đổi đứa trẻ mà mình sinh ra với con của Tạ thị.

Nói cách khác, Triệu Ngọc Tranh mới là con ruột của công chúa Xương bình, mà Triệu Bạch Ngư y lại là do Tạ thị sinh ra, là Triệu ngũ lang chân chính của Triệu gia!

Triệu Ngọc Tranh hưởng thụ chúng tinh củng nguyệt (*) mười chín năm trời, tất cả những thứ đó vốn thuộc về Triệu Bạch Ngư.

(*) Chúng tinh củng nguyệt (众星拱月): Sao vây quanh trăng, ý chỉ những người vây quanh Triệu Ngọc Tranh.

Kết cục của đoàn sủng văn chính là vạch ra sự thật, không ai trách cứ Triệu Ngọc Tranh, trái lại để cho Triệu Ngọc Tranh nhận được thêm một mẫu thân là công chúa thương hắn như trân châu bảo vật.

Triệu Bạch Ngư: "..."

Muốn đầu thai, đừng cản tôi.

Trước mắt xem ra dù cho tâm tư của 'Triệu Bạch Ngư' có thay đổi, thì nội dung truyện vẫn không đổi. Trước đây cậu tự cho là mình đúng, cũng bởi vì quá lương thiện, đổi góc nhìn khác, 'Triệu Bạch Ngư' trong nguyên tác không ngừng lấy lòng Triệu gia, cứ nghĩ đó là cuộc sống tích cực, tuy nhiên ở trong mắt người khác chính là kẻ hai lòng rắp tâm hại người, kết cục vẫn bị thay thế gả đi, bị một đám người sủng ái Triệu Ngọc Tranh ép vào phủ quận vương.

Kể cả khi sau đó y an phận không tìm đường chết, đoán chừng sức mạnh của nội dung truyện cũng sẽ khiến cho y buộc phải tìm tới cái chết, bị ép buộc đắc tội với Triệu Ngọc Tranh, chờ cho hắn trả đủ thù hận rồi mới chết thê thảm một cách cô độc ở độ tuổi đẹp nhất.

Dù sao cũng chết, thoải mái đi, bung xõa thôi, nhân cơ hội này ngỏm luôn cho rồi.

Cánh cửa bị đẩy ra kêu lên tiếng "két", một người hầu trắng trẻo thanh tú, tuổi chừng mười lăm đi vào, thấy Triệu Bạch Ngư mở mắt thì mừng rỡ hô lên: "Tỉnh rồi! Tú ma ma, Tứ lang tỉnh rồi!"

"Ông trời phù hộ không xảy ra chuyện lớn." Một lão ma ma mặt hiền lành, ước chừng bốn năm mươi tuổi bưng một cái chén sử đang tỏa nhiệt vào phòng nói: "Tứ lang, mau uống thuốc nhân lúc còn nóng đi."

Triệu Bạch Ngư xoay mình nằm lên đầu đối của ma ma: "Đầu con không đau, không uống được không?"

Tú ma ma yêu thương vén tóc mái xõa xuống gò má của Triệu Bạch Ngư, tâm địa sắt đá, bất động trước hành vi nũng nịu của y: "Không được. Đại phu nói con bị đập đầu, sợ bên trong có máu bầm, cần uống thuốc để ngăn ngừa hậu hoạn." Nói xong thở dài: "Con không biết lúc con được mang về đây, đầu cổ mặt mày đầy máu, ta và Nghiên Băng sợ con sẽ không tỉnh lại, Ngụy bá của con suýt nữa là đi tìm lão gia liều mạng rồi đâu."

Ngụy bá thân có võ công, nhưng một mình ông không thể đánh lại mấy trăm ám vệ mà Triệu phủ nuôi dưỡng.

"Không xảy ra chuyện gì chứ?"

"Cũng may kịp thời ngăn cản." Nghiên Băng đứng bên giường nói: "Ngụy bá còn đang giữ cửa viện kia, không cho phép những kẻ lòng lang dạ sói đó vào."

Nó giận dữ bất bình: "Ngài không biết đó chứ, sáng nay Triệu ngũ lang đưa một đám nô bộc đùng đùng tới trước viện chúng ta, mang theo một mớ đồ bổ nói muốn vào thăm ngài, còn nói hắn không biết hóa ra tiểu quận vương nhìn trúng ngài, nếu không đã chẳng đắc tội tiểu quận vương khiến đối phương nắm thóp —— thì ra trên dưới phủ này cũng gạt vị tiểu lang quân kim tôn ngọc quý này, không nói sự thật cho hắn biết, tất cả mọi người đều ép ngài thay hắn xông vào đầm rồng hang hổ, còn người trong cuộc lại chẳng biết gì! Không có gánh nặng trong lòng, không chút áy náy nào ư! Bọn họ sao có thể tuyệt tình đến vậy? Triệu ngũ lang là bảo bối yêu quý, còn ngài là chổi cùn rế rách hay sao?"

Triệu Bạch Ngư uống thuốc, từ đầu lưỡi đến cuống họng đắng ngắt.

"Nghiên Băng, ngươi nói ít thôi!" Tú ma ma nhét viên kẹo vào trong miệng Triệu Bạch Ngư, tràn ngập yêu thương: "Tứ lang, chạy trốn đi."

Triệu Bạch Ngư rũ mắt: "Trốn không thoát đâu."

Cũng không muốn trốn.

Truyện đã định trước vai phụ dù có phí hết tâm tư cũng không trốn được lại vừa phải chết, chẳng bằng cứ nằm yên hưởng thụ, thời gian còn dư lại không nhiều.

"Là vì chúng ta sao?" Tú ma ma đã rõ ràng.

Bà nhìn Triệu Bạch Ngư lớn lên, rõ ràng lòng dạ y mềm mại hơn ai hết, người ngoài đều nói mẹ nào con nấy, ai cũng mắng y khẩu phật tâm xà, nhất định vừa đố kỵ vừa căm tức Triệu ngũ lang khác biệt một trời một vực với mình, chỉ có Tú ma ma là không tin một lời nào.

Bà thừa nhận rằng lúc Triệu Bạch Ngư mới chỉ ba, bốn tuổi, lòng bà cũng có thành kiến với sự tàn ác của trưởng công chúa Xương Bình, cũng giống bao người ngoảnh mặt làm ngơ với đứa nhỏ bị lạnh nhạt, gian khổ cầu sinh ở hậu trạch. Nhưng cũng là Triệu Bạch Ngư lúc bà bị nhiễm phong hàn nặng sắp chết, xài hết tiền bạc lén lút tích góp được, mài lòng bàn chân đến mức máu tươi ràn rụa, tự mình chạy tới y quán mời đại phu chữa trị cho bà, bốc thuốc, sắc thuốc cho bà, thử hỏi làm sao bà có thể nhẫn tâm không thương tiếc cho Triệu Bạch Ngư?

"Cùng lắm thì chúng ta đánh trống la làng, cáo ngự trạng, ra trước cửa nha môn Kinh đô này dập đầu vào sư tử đá chết cho xong, ta không tin Triệu tế chấp có thể một tay che trời." Nghiên Băng nghiêm túc nói: "Tứ lang, chớ vì chúng ta mà để cho đám người Triệu gia uy hiếp ngài, không đáng."

Nó nhỏ hơn Triệu Bạch Ngư ba tuổi, lúc bảy tuổi chạy trốn thất bại, suýt bị tên lưu manh đánh chết, Triệu Bạch Ngư đã cứu nó, để nó theo bên người chăm sóc nó lớn lên, đối xử với nó như đệ đệ ruột thịt, còn dạy nó biết chữ đọc sách.

Trên cõi đời này, trừ cha mẹ, không có ai quan trọng với nó hơn Triệu Bạch Ngư.

Nếu như có thể, Nghiên Băng thật sự muốn giết chết Triệu Ngọc Tranh, trút giận thay cho Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư híp mắt cười: "Không nghiêm trọng vậy đâu, ta vẫn còn đường sống mà."

Tú ma ma hoài nghi: "Thật sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Con có lừa mọi người lúc nào đâu chứ?"

Thật sự chưa từng lừa.

Tú ma ma và Nghiên Băng nhìn nhau, có chút không yên lòng.

"Tiểu quận vương không phải người dễ đối phó, người hắn muốn là Triệu ngũ lang, bất kể chủ ý là để chơi đùa hay là nhất kiến chung tình, một khi ngươi gả qua đó thì đã chính là lừa gạt người ta rồi, chỉ sợ gã bộc phát cơn thịnh nộ lên người ngươi thôi."

Triệu Bạch Ngư: "Tiểu quận vương sẽ không hại ta."

Y chỉ từng đọc đoạn 'Triệu Bạch Ngư' gả vào phủ quận vương, còn đâu đều là do nghe y tá kể lại, cô nói nhân vật phản diện lớn nhất truyện chính là Lâm An quận vương, là người cẩn thận làm quyền mưu nhất truyện, nếu không phải đến hồi kết hắn bỗng dưng biến mất, có lẽ không tới lượt Thái tử lên ngôi. Thiết lập tiểu quận vương đã là nhân vật phản diện, tất nhiên xin Thánh thượng ban hôn sự với Triệu ngũ lang chắc chắn là vì mục đích khác.

Bị thay mận đổi đào dường như cũng nằm trong dự tính của tiểu quận vương, tuy hắn dùng chuyện này gây khó dễ cho bên ngoài, nhưng ở trong phủ lại không làm gì Triệu Bạch Ngư, đại khái cũng là do coi thường nhân vật bé nhỏ không quan trọng mấy như y.

Nhắc tới tiểu quận vương, thân mẫu của hắn mất sớm, nghe nói là vì sinh khó mà chết, năm mười tuổi đã tự tay giết chết thứ huynh đệ của mình, từ đó tiếng tăm tàn bạo mới được truyền ra, vì thế nên Triệu Ngọc Tranh mắng "Khắc chết thân mẫu, dùng hình giết huynh đệ" mới chọc giận quận vương như vậy.

Tuy nói hắn hung ác làm bậy, nhưng lại là tướng tài trời sinh.

Mười hai tuổi đã xuất chinh, mười lăm tuổi Đột Quyết đại bại dưới tay hắn, liên tục đoạt lấy mười tòa thành, nhất cử thành danh cả thiên hạ này đều biết, nhận phong vị tứ phẩm Minh Uy tướng quân. Mười tám tuổi trở thành chủ tướng dẫn quân khai chiến Đại Hạ, bắt sống chủ soái Đại Hạ, đại thắng còn đang cao trào đã thụ huân Thượng hộ quân. Hai mươi mốt tuổi bị tấn công, kẹt lại ở Nam Cương đánh một trận huyết chiến, lấy ít thắng nhiều, sau khi thắng lợi hồi triều giải giáp giao binh quyền.

Bởi vì lúc đánh trận hắn luôn đeo một chiếc mặt nạ sắt có răng nanh che nửa mặt, cho nên khi có người nhìn thấy khuôn mặt với những vết mụn độc thì truyền ra nói hắn có dung mạo xấu xí, từ đó được gọi là Tu La tướng quân.

Sau khi giao lại binh quyền, vân huy tướng quân cũng bị niêm phong, thụ huân hộ quân, chỉ có phẩm cấp, không còn quyền lực, lại phá lệ được phong Lâm An quận vương, ban cho đất phong, cho phép được ở lại Kinh đô mở Lâm An phủ.

Tuy không còn thực quyền, nhưng uy danh của hắn trong quân cực kì cao, rời chiến trường đã năm năm mà vẫn có thể được nhiều người ủng hộ, nhưng tiểu quận vương chỉ nghe lệnh Nguyên Thú đế, chưa bao giờ kết bè kết phái, vậy nên rất được tín nhiệm.

Nguyên Thú đế đáp ứng thỉnh cầu ban hôn hoang đường của tiểu quận vương thì chỉ có chừng này nguyên nhân, thứ nhất là vì coi trọng hắn, thứ hai là để ổn định lòng người, mượn việc này chấn nhiếp tâm tư muốn trỗi dậy của đại thần trong triều.

Ba là để tìm kiếm sự cân bằng giữ chư vị hoàng tử và Tế chấp, chỉ là sự hỗn loạn giữa họ, Triệu Bạch Ngư còn chưa nhìn ra được.

Người Triệu gia xem trọng Triệu Ngọc Tranh, Nguyên Thú đế sẽ không ép buộc quá mức, những hành vi của các hoàng tử lão cũng đã đoán trước được, tiểu quận vương bị lừa gạt cũng có thể nhận được bồi thường.

Trong ván cờ này, người nào cũng nhận được kết quả mà bọn họ mong muốn.

Chỉ có Triệu Bạch Ngư vô tội là bị hi sinh, nhưng mấy ai sẽ quan tâm?

Một sai lầm không khiến cho ai vui vẻ tồn tại mà thôi.

"Ta hôn mê bao lâu rồi?"

"Hai ngày."

Lòng Triệu Bạch Ngư rơi lộp bộp, "Xin nghỉ phép ở Nha môn chưa?"

Nghiễn Băng: "Ta đặc biệt đến xin rồi, bên kia ngoài miệng nói được, nhưng công văn vẫn đưa tới như thường, xếp đống như tình nhân luôn ạ. Đến cả cái chuyện nhỏ tí cũng để ngài phải xử lí, bọn họ còn nhớ lại ngài đang bị đập đầu hôn mê bất tỉnh sao? Ngài chỉ là một thiếu doãn, cấp trên còn có Tri phủ, phủ doãn, bên dưới là một đám viên quan, làm như thiếu ngài thì Nha môn không làm việc được luôn hay sao ấy!"

Ba năm trước, Triệu Bạch Ngư vốn định tham gia khoa cử, không ngờ Triệu Ngọc Tranh cũng chợt có ý nghĩ muốn tham gia, nhưng thân thể hắn không chịu nổi áp lực thi cử, Triệu gia vì để xóa bỏ ý nghĩ đó của hắn mà cũng ép Triệu Bạch Ngư bỏ thi, sau chuyện này, để bồi thường lại cho y nên mới tiến cử y lên Kinh đô làm phán quan (*) lục phẩm.

(*) Phán quan: chức quan phụ tá quan địa phương, xử lí công vụ thời Đường Tống, theo mê tín thì xem chức quan này là thuộc hạ của Diêm Vương, quyết định sự sống chết.

Từ khi lập triều Đại Cảnh tới nay, thi cử đã được áp dụng để tìm nhân tài, cũng có chế độ tiến cử do quan viên đảm nhiệm, việc thăng tiến có thể được quan viên có phẩm cấp cao tiến cử. Triệu Bá Ung cũng dùng lượt tiến cử của mình cho Triệu Bạch Ngư một chức quan nhỏ, nhưng điều đó lại khiến cho y mang tiếng là đứa con Triệu gia duy nhất dựa hơi trưởng bối để ngồi lên chức quan chứ không phải là người có tài học thật sự, cũng khiến cho danh tiếng vốn đã chắng ra gì của y ngày càng tệ hơn.

Cho đến hai năm trước, Triệu Bạch Ngư nhận một vụ án mạng thông thường, nhưng bởi vì dính dấp đến pháp lý nhân tình và luật tranh chấp đặc xá nên khó mà ra tay được, không ngờ cuối cùng Triệu Bạch Ngư lại tìm khắp luật điển rồi báo cáo lại với thượng quan tri phủ, vụ án mới được giải quyết tốt đẹp, ngay một năm sau đó, y đã được tri phủ tiến cử thẳng lên kinh đô thiếu doãn.

Tuy vẫn thuộc lục phẩm, chức năng không hơn phán quan là bao, nhưng cũng đã là một sự thay đổi lớn, chức quyền linh hoạt hơn, có thể thay thế đảm đương chức vị và quyền hạn của tri phủ. Nếu như tạm thời ủy nhiệm các quan khác làm thiếu doãn, thì thiếu doãn ban đầu lại được trở thành phán quan, đây thật sự là một vị trí có thực quyền, có thể thay đổi tùy thời.

Nghiên Băng vẫn không ngừng phàn nàn.

Triệu Bạch Ngư cười nói: "Xuân khuê sắp mở, công việc trong phủ khó tránh khỏi bận rộn —— ", đợi đã, "Xuân khuê đã mở chưa?"

"Hôm nay mở rồi."

Triệu Bạch Ngư nhớ lại lời kể của y tá, được biết âm mưu đầu tiên được thực hiện trong nguyên tác chính là gian lận thi cử, Thái tử cũng bị liên lụy trong vụ này, Triệu Ngọc Tranh vì là nhân vật chính vận may lớn nên tránh được một kiếp, không những thuận lợi thoát tội mà còn làm cho bè lũ đối địch triều đình của Tần vương ăn thiệt hại nghiêm trọng.

Với phe cánh của Triệu Ngọc Tranh và Thái tử thì vụ gian lận này cực kì có lợi, trái lại, đối với người khác thì chính là đại sự nhuốm đầy mưa máu gió tanh.

Nguyên Thú đế nhân cơ hội này dọn dẹp đại lao, chém chết mấy trăm người, đến cả quan ngự sử cũng câm như hến, không dám nói lời nào.

Gian lận thi cử, dọn dẹp đại lao, thật là một cơ hội tốt để đi chết!

Nghiên Băng hoài nghi: "Tứ lang, sao ngài vui thế?"

"Nghiên Băng, sau này ngươi nên gọi ta là Ngũ lang rồi, chớ để bị người ta nắm thóp gây khó dễ." Triệu Bạch Ngư cười híp mắt: "Ta đang chuẩn bị nghĩ kế hoạch, coi như thực hiện một tâm nguyện duy nhất."

Dù sao cũng phải chết, không bằng để cho y tự quyết định mình sẽ chết như thế nào.

Nếu phải chết, cũng là sẽ chết làm sao cho oanh liệt mới được.

Đời trước y rất ngưỡng mộ với danh sách những tâm nguyện của người sắp chết trong phim điện ảnh, biết bao nhiêu là hy vọng được thực hiện, hung hăng tìm chỗ chết xong thì quay sang ông trời dựng ngón giữa mắng: Chết ông nội mi!

Sau đó trong tiếng cười vang vọng, nhắm mắt không tiếc nuối.

"Kế hoạch gì ạ?"

Triệu Bạch Ngư cười nhưng không nói.

Kế hoạch tên là: Đại tác chiến tìm đường chết.

==

Tác giả muốn nói:

Trứng Cá Muối của chúng ta sớm đã có khuynh hướng tự hủy rùi.

Chương 3: Tán tài tiêu tai, hành thiện tích đức

Chế độ xã hội của Đại Cảnh có chút giống như giai đoạn Bắc Tống mà Triệu Bạch Ngư quen thuộc, việc thi cử còn chưa đủ hoàn thiện, không có trường thi chuyên dụng, nơi thi Hương và thi Hội phải dùng khu làm việc của lễ bộ, bao gồm cả thiết lập đề thi, trường thi, quy trình chấm bài thi cũng không kỹ càng như sau này, cực kỳ dễ dàng xảy ra hiện tượng gian lận, đây cũng là mưu quyền đầu tiên xuất hiện trong truyện gốc.

Không nói rõ chi tiết về chuyện này, y tá chỉ nói đã có một thí sinh thi rớt khua chiêng gõ trống, tố cáo rằng hai ngày trước khi kì thi Hội diễn ra có người bán đề ở ngoài chợ, cứ thế dẫn tới án gian lận thi cử lớn nhất trong cả triều đại.

Dĩ nhiên điểm chính không phải là án gian lận thi cử này, mà chính là sau khi lưu hành đại lao, giết bè đảng, đánh bại phe cánh Tần Vương.

Nhưng Triệu Bạch Ngư không biết tường tận nội dung, cũng chẳng có manh mối, hơn nữa kì thi Hội đã bắt đầu trong lúc y hôn mê, đề thi đã được công khai, không có cách nào xoay chuyển tình hình được nữa, chỉ có thể ngồi chờ diễn biến truyện diễn ra theo đúng trình tự thôi.

Có điều, rất nhanh y đã bận rộn tới nỗi sứt đầu mẻ trán, phủ nha vốn là nơi quản lý mọi sự vụ lớn nhỏ của một phủ hai mươi mốt huyện, mà Kinh đô lại còn là quốc đô của Đại Cảnh, dưới chân Thiên tử, là trung tâm văn hóa chính trị lẫn kinh tế, không được phép có nửa phần sơ sót.

Vừa vặn ngay lúc diễn ra khoa khảo.

Cũng vì tiền triều ngu xuẩn vô đạo, lúc khai quốc còn nhiều việc dang dở, quốc khố cũng trống trơn, phải khích lệ buôn bán, trọng chấn kinh tế, thế nên lĩnh vực buôn bán phát triển mạnh mẽ chưa từng có.

Nhưng những tai hại do nó gây ra chính là hệ thống thị trường, quản lí thành thị cùng với luật pháp liên quan không đồng bộ, chẳng hạn như các khu chợ vẫn chỉ mở vào ban ngày và dẹp vào ban đêm.

Chế độ này cần được cải cách ngay, nhưng biện pháp giải quyết đồng bộ việc quản lý, trị an thành thị còn chưa bàn bạc xong.

Vả lại, buôn bán phồn vinh nhất định sẽ kèm theo những vấn nạn như lừa gạt, quan thương cấu kết,...

Lừa người giữa thanh thiên bạch nhật, sử dụng hàng giả để bán ra là chuyên đã phát sinh rất nhiều lần, sau đó hối lộ cho quan lại quản lý thành thị để tránh bị truy cứu trách nhiệm, mấy vụ số bị người bị hại trả thù, bị đâm chết ngoài đường cũng chẳng còn lạ lùng gì nữa.

Cho nên từ tháng hai đến đầu tháng tư, Triệu Bạch Ngư bận bịu đến độ chân không chạm đất, nếu không phải sính lễ từ quận vương phủ đã được đưa vào Triệu phủ, có lẽ y còn không nhận ra được bao nhiêu thời gian đã trôi qua.

Thư mời được gác lại bên án, trên trâm hoa, một dòng chữ nhỏ khắc mạ vàng là ngày cưới vào mùng tám tháng sáu, bên dưới góc đề một cái tên viết bằng lối chữ thảo chính trực.

"Hoắc Kinh Đường."

Đây là tên của tiểu quận vương, người tàn nhẫn như vậy, thế bút lại lưu loát, phóng khoáng nhưng không ngang tàng, dù rằng tùy ý tự tại nhưng lại có bố cục riêng, không giống với người có hành vi vô đạo đức. Có điều chữ đẹp không thể nói rõ điều gì, ngoài kia còn vô số kẻ gian nịnh thần, hoạn quan có nét chữ rất đẹp.

"Tứ, à không, Ngũ lang, danh mục sính lễ quận vương phủ đưa tới ở đây, đã kiểm kê xong rồi, để ở nhà kho trong viện." Nghiên Băng cầm sổ gấp màu đỏ nhìn chằm chằm vào danh mục không để thừa một chữ: "Ngài chưa tận mắt nhìn thấy mấy bảo vật đó đâu, san hô hồng cao năm thước, được tạc thành một con sư tử rất sống động, cứ như thật vậy. Còn có một đôi Đông châu lớn như nắm tay ta này, một rương trân châu Nam Hải, toàn bộ là đá quý, trang sức ngọc thạch, càng đừng nhắc tới biết bao nhiêu là vàng bạc... Ta lớn từng này rồi còn chưa từng thấy qua nhiều bảo bối như vậy bao giờ."

"Ngũ lang, ngài nói xem, tiểu quận vương đưa tới toàn là bảo vật vô giá, có phải rất coi trọng cuộc hôn nhân này không? Có phải hắn rất thích vị chủ viện kia không?"

Nghiên Băng thật sự lo lắng rằng sau khi tiểu quận vương biết mình bị lừa gạt sẽ giận cá chém thớt lên Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư đang xử lý công vụ, nghe vậy bèn dành chút thời gian đi nhìn thử lễ vật cũng ngạc nhiên không kém: "Tiểu quận vương mang hết cả kho nhà hắn tới đây à?"

Nghiên Băng bĩu môi: "Có lẽ là một góc kho thôi." Nó cầm cốc nước đường mà Tú ma ma mới nấu xong tới đưa cho Triệu Bạch Ngư, nói: "Tiểu quận vương của chúng ta xuất thân không tầm thường, tuy không được cha ruột yêu thích, nhưng dẫu sao ông cũng là hoàng thân quốc thích đường hoàng, là huynh đệ của Thánh thượng, một trong số ít những vị vương gia còn sống! Lại nói về nhà ngoại, nhất đẳng trấn quốc công, trấn quốc đại tướng quân, người đó chính là công thần đã đi theo Thánh tổ khai quốc bắt đầu sự nghiệp! Mẹ ruột của tiểu quận vương là viên ngọc quý duy nhất của nhà quốc công, nghe nói năm đó từ thành Đông đến thành Tây bày mười dặm hồng trang, công chúa còn không được nhận đãi ngộ này đó."

Triệu Bạch Ngư nhíu mày: "Còn có người như thế này nữa sao?"

Tiểu quận vương là bóng ma trong lòng y, nguyên tác cũng quên mất bảy tám phần rồi, tất nhiên không biết Hoắc Kinh Đường còn có gia thế hiển hách đến vậy.

"Nhà hắn lợi hại như vậy, sao lại mới mười hai tuổi đã thân chinh chiến trường lấy lại tiền đồ cho mình?"

"Nói là Tĩnh vương, cũng là cha ruột của quận vương, ái thiếp diệt thê. Quốc công gia đó, từ khi cô con gái của mình chết vì sinh khó thì cũng cắt đứt liên hệ với vương phủ, nói chung rất oán hận tiểu quận vương."

"Chẳng trách."

Tuổi thơ bất hạnh cùng với việc ra đời sớm đều là điều kiện tất yếu bồi dưỡng hắn thành một kẻ như vậy.

Triệu Bạch Ngư đặt lễ vật xuống: "Kiểm lại cho kĩ rồi viết lại hai phần danh mục này, một phần đưa cho phụ thân, mẫu thân đi."

"Đưa cho bọn họ làm gì ạ?" Nghiên Băng không hiểu.

"Sính lễ của nhân gia đã như thế này, không phải ta cũng cần dựa vào nó chuẩn bị một phần của hồi môn hay sao? Huống chi chính miệng cha đáp ứng ta, sẽ hỗ trợ của hồi môn, cũng không bạc đãi ta mà."

Trấn an cũng được, áy náy cũng được, bây giờ y vẫn sẽ hài lòng với bất kì yêu cầu vô thưởng vô phạt nào.

Dáng người Triệu Bạch Ngư đoan chính, lưng thẳng tắp như cây trúc, giờ nhắc tới chuyện gả thay cũng đã có thể đối mặt như thường, tâm lặng như nước, sắc mặt bình tĩnh, và trong điều kiện trước mắt là không thể thay đổi cốt truyện, y nên giành lấy lợi ích lớn nhất cho mình, để khoảng thời gian còn lại có thể sống thật vui vẻ thoải mái.

"Dạ!" Nghiên Băng tràn đầy ý chí chiến đấu: "Ta nhất định sẽ khiến Triệu phủ này phải đổ máu!"

***

Đường Kim Hoàn là một con đường Sở quán Tần lâu (*), rất nhiều trà quán tửu lầu kinh doanh da thịt, gọi chung là phường hoa trà.

(*) Sở quán Tần lâu: Chỉ nơi kỹ viện

Sáng sớm ngày hôm đó, trong một cửa tiệm gần sông hộ thành ở phường hoa trà vọng ra một tiếng hét chói tai đầy thê lương của cô gái nào đó, bước chân của hộ vệ vội vã, đạp cửa vào phòng, nhìn thấy một cô nương mặt đầy hoảng sợ ngồi bệt ra đó, mà trên giường là một người đàn ông chết bất đắc kỳ tử.

Hộ vệ dẫn đầu mềm nhũn chân, không còn gì để nói.

Một thằng đầy tớ chui đầu vào, thấy vậy run rẩy nói: "Mau, mau báo quan!"

Tú bà hấp tấp chạy tới muốn ngăn cản, lại bị thằng đầy tớ chỉ vào mũi mắng: "Biết lão gia (*) nhà ta là ai không? Chính là nghĩa tử của vú nuôi ở Đông cung đấy! Các người hại chết lão gia nhà ta, còn muốn hủy chứng cứ sao?"

Nghĩa tử của vú nuôi trong Đông cung.

Mọi người nghe vậy mặt đầy lo sợ, tú bà lúng túng, không dám ngăn cản nữa.

***

Sáng sớm hôm sau, một thí sinh đến từ Giang Nam gióng trống khua chiêng tố cáo sự việc, kêu thẳng đến tai vua.

Giờ Tỵ cùng ngày, lần này học sinh tiến Kinh tham gia thi có tổng cộng một ngàn hai trăm mười người đều bị triệu vào Thùy Củng điện tổ chức lại kì thi Hội, Nguyên Thú đế sẽ tự mình chủ trì, đề thi được đại nho ở Viện hàn lâm ra, hai ngày sau sẽ công bố kết quả.

So với danh sách trúng cử ban đầu thì nhiều hơn tám mươi mốt người, số người vốn được nhận thừa ra ba mươi người.

Thùy Củng điện lặng yên như tờ, chư vị đại thần cũng câm như hến, Thái tử và Tần vương đứng ở hai phía cũng im miệng chẳng nói chẳng rằng, quan khảo thí phụ trách kì thi thì quỳ rạp dưới nền đất, mồ hôi lạnh túa ra ướt lưng, không dám thở mạnh.

Một hồi lâu sau, đại thái giám bên người Nguyên Thú đế liều mình đánh vỡ không khí cứng ngắc đến đáng sợ, chỉ thấy ông cung kính dẫn theo sau lưng một nam tử áo bào tím đi vào, thân người hắn cao lớn nhưng hơi gầy, quan phục tím làm bật lên nước da trắng như bạch ngọc, đai lưng da phác họa vòng eo cứng cáp, đôi chân thon dài cong duỗi đều đều theo từng bước đi. Dù một nửa khuôn mặt đã bị mặt nạ sắt tinh xảo che đậy, nhưng vẫn có thể nhìn ra được ngũ quan sâu đậm, mày như núi xa, mắt tựa lưu ly, đường nét khôi ngô rõ ràng, cộng với khí chất mạnh mẽ quanh người không kiềm chế được, mơ hồ không giống như người trần.

"Thần Hoắc Kinh Đường bái kiến Thánh thượng!"

Người tới chính là Lâm An tiểu quận vương, Hoắc Kinh Đường.

Nguyên Thú đế thấy Hoắc Kinh Đường đến, sắc mặt xanh mét bỗng dịu lại: "Tử Uyên, ngươi lại đây xem một chút."

Đại thái giám truyền tới cho Hoắc Kinh Đường một quyển sổ gấp được khởi cư xá nhân (*) ghi chép lại tường tận sự việc, người nọ nhận lấy, đọc nhanh như gió.

(*) Nghĩa gốc: 起居舍人 – theo mình tìm hiểu từ chú Baidu thì đây là người ghi chép lại những chuyện thường ngày của vua, hoặc ghi chép lại lời vua nói ấy, những lời này sẽ được lưu lại, và về sau có thể đặt trong các bảo tàng lịch sử. Tuy nhiên mình không biết nên dịch thế nào nên tạm để theo QT, ai có cách dịch hay thì cmt cho mình biết nha.

"Thế nào?"

Hoắc Kinh Đường gấp sổ lại nói: "Mở khoa thi tuyển chọn học sĩ, tiến cử đề bạt đều liên quan đến ổn định xã tắc cũng như trăm ngàn năm cơ nghiệp của Đại Cảnh, đây là chuyện quan trọng hơn hết. Cần phải dùng chuẩn mực để răn đe kẻ xấu, diệt sạch những kẻ làm việc bất hợp phát vì tình riêng cũng như người được nhận, như vậy mới có thể củng cố được nền móng hưng thịnh cho Đại Cảnh."

"Nói hay lắm!" Nguyên Thú đế mặt phủ sương lạnh, tất nhiên đã sớm định đoạt mọi thứ, chỉ chờ có người đề cập đến chuẩn mực răn đe, lúc này mới đưa ra quyết định, lão chỉ tay về phía quan chủ khảo Lễ bộ Thượng thư, quan khảo thí Lễ bộ Thị lang và các thí sinh gian lận có liên can: "Giải vào Đại lý tự chờ kiểm chứng. Những người khác có liên quan, từ nay trở đi không được phép rời khỏi trường thi, bất cứ lúc nào cũng phải hợp tác giải đáp câu hỏi điều tra. Tử Uyên, trạc (*) ngươi làm Đại lý tự khanh, phụ trách tra án gian lận thi cử, ba ti để ngươi điều khiển, hai phủ chủ động phối hợp, không được can dự!"

(*) Trạc: Cất lên, nhắc lên. Kẻ đang ở ngôi dưới được cất nhắc thăng chức gọi là trạc

"Thần lĩnh mệnh."

Thí sinh bị điểm tên, quan khảo thí nghe vậy bủn rũn ngã đầy ra đất, lúc này, trong các thí sinh trúng cử có một người bỗng nhiên ngẩn đầu, hơi sợ sệt, lo lắng nhìn về phía phụ thân mình, tức đồng quan khảo thí Lễ bộ Thị lang có dính dấp trong đó.

Nếu như có Triệu Bạch Ngư ở đây, tất có thể nhận ra đó chính là sư huynh Trần Phương Nhung.

Trăm quan rời khỏi Thùy Củng điện, tụm hai tụm ba bàn luận về án gian lận, duy chỉ có Hoắc Kinh Đường một mình đi đầu, mắt nhìn thắng, nhanh chóng bỏ xa những người khác lại sau lưng.

Thấy bóng dáng tiểu quận vương đã khuất khỏi tầm mắt mình, các quan viên trái phải Thái tử nói: "Cậy tài khinh người, bướng bỉnh bất thuần, nịnh bợ mê hoặc Thánh thượng, ấy vậy mà lại nhận được háo danh trực thần."

"Câm miệng!" Thái tử quát mắng, không nói thêm gì nữa.

Những người bên cạnh thấy vậy, trong lòng thừa biết Thái tử không thích Lâm An quận vương, vì người nọ giống hệt như một hòn đá đáng ghét dưới cái hố, dù có lấy lòng lôi kéo thế nào cũng không được đáp lại, thế mà được Thánh thượng vô cùng ưu ái tín nhiệm, làm cho một đám các hoàng tử cũng đều không thích hắn.

Lúc này, Triệu Bá Ung đi qua, hờ hững nhắc nhở: "Cẩn thận miệng lưỡi các ngươi. Cái danh trực thần là do chính miệng Thánh thượng khen ngợi quận vương."

Sắc mặt của quan viên mới vừa mắng người trở nên ảm đạm, không ngừng chắp tay vái về phía Diên Phúc điện.

Thái tử đuổi theo Triệu Bá Ung hỏi: "Tế chấp, không biết dạo gần đây Ngũ lang có khỏe không."

Triệu Bá Ung: "Thái tử hỏi nhi tử ta Ngọc Tranh sao?"

Thái tử: "Tất nhiên rồi."

Triệu Bá Ung đáp: "Ngọc Tranh là Tứ lang."

"À đúng rồi!" Thái tử bật cười: "Suýt nữa thì cô quên giờ Ngọc Tranh đã là Tứ lang rồi —— Mấy ngày nữa có cuộc thi đá cầu, phần thưởng là một con tuấn mã Tắc Ngoại (*). Ta nhớ kĩ thuật đá cầu của Tứ lang giỏi nhất Kinh đô, hắn cũng thích ngựa nhất, hơn nữa tháng trước vừa bị ức hiếp ở chỗ Hoắc Kinh Đường, vừa hay dùng phần thưởng này giúp Tứ lang xua đuổi vận xui cũng hay."

(*) Tắc Ngoại: Phía bắc Trường Thành (Trung Quốc)

Cùng lúc đó, Tam lang Triệu Ngọc Khanh cùng Tần vương đi tới từ đằng sau, Tần vương chủ động bắt chuyện: "Hoắc Kinh Đường là một kẻ kì lạ, tính tình hung ác, Tứ lang chắc là đã bị dọa sợ không ít, ta mang thêm một chuỗi ngọc như ý và một gốc san hô làm quà thưởng, để cho Tứ lang vui vẻ một chút."

Triệu Ngọc Khanh: "Phụ thân, đây là chuyện tốt! Tứ lang ở trong phủ bức bối cũng non nửa tháng rồi, chi bằng ra ngoài đi chơi, tránh cho tâm trạng xấu tích tụ lại sinh bệnh."

Nhắc tới con trai nhỏ, thần sắc Triệu Bá Ung liền trở nên hoà hoãn: "Tứ lang đồng ý là được."

Thái tử và Tần vương đồng thời nói: "Tứ lang nhất định sẽ rất vui!"

Nói xong thì ngước nhìn lẫn nhau, hai bên đều có địch ý.

***

Sau khi vụ án mạng xảy ra, cửa hoa lâu bị giăng kín lại. Khám nghiệm tử thi xong mới xác nhận được nguyên nhân cái chết chính là do người này đã hút kim thạch tán quá liều, sau còn uống thêm một ít thuốc trợ hứng, hưng phấn quá độ dẫn đến đột tử, mặc dù không truy cứu toàn bộ trách nhiệm, nhưng vẫn theo lý hỏi tội hoa lâu lén lút buôn bán kim thạch tán.

Theo thông lệ là phải hỏi tội tú bà, nhưng thật ra tú bà vẫn có thể nộp lên trên ngàn lượng bạc trắng để xóa tội, trên danh nghĩa là chuộc tội.

Nộp lên trên ngàn lượng bạc ròng, tú bà làm gì có chừng nấy tiền, thế là bèn phao tin sẽ bán ca nữ trong hoa lâu ra ngoài, còn đặc biệt sai người đi thông báo cho các khách quen hay, chưa đến một ngày tin tức đã truyền tới chỗ đám văn nhân phong lưu và con cái nhà giàu có trong Kinh đô, một đoàn xe ngựa trang hoàng hoa lệ nối đuôi nhau ở trước cửa hoa lâu, đêm còn chưa xuống đã đông như trẩy hội.

Bởi vì cô nương trong hoa lâu chất lượng thượng thừa, thậm chí danh kỹ có tiếng nhất Kinh đô Lý Ý Như cũng bị mang ra "chuộc mình", dĩ nhiên là hấp dẫn biết bao nhiêu tên đàn ông tự xưng thương hoa tiếc ngọc.

Dưới lầu vang vọng đầy tiếng ồn ào, bên trên cũng có vô số âm thanh lẫn lộn.

Bước tới bậc thang, nếu cẩn thận lắng nghe, sẽ nghe được tiếng khóc nức nở như lũ quét không dứt của những cô gái, thê lương vô cùng.

Tú bà đập cửa gỗ mắng: "Tiểu tiện tì khóc sướt mướt được gì? Những người tới đây đều là đại gia có tiền có quyền đưa các ngươi đi hưởng phúc đấy! Chớ làm kỹ nữ mà đòi lập miếu thờ, đúng là không biết xấu hổ!"

Nhất thời trong phòng yên tĩnh, tú bà hài lòng rời đi, hồi lâu sau lại truyền tới âm thanh huyên náo, một tiểu nha hoàn xinh xắn rón rén đi vào, nhìn các tỷ tỷ thần sắc bi thương trong phòng rồi đi thẳng vào bên trong, nơi cô gái nằm trên tháp dịu dàng lật sách nói: "Lý tỷ tỷ, ta xem thấy người nhà Trịnh viên ngoại ở Đông thành mang tới hai rương vàng lớn, sợ là tình thế bắt buộc..."

Những cô gái trong phòng nghe xong lời này như nghe báo tang cha mẹ.

Không được, Trịnh viên ngoại đó rất háo sắc, tuy chỉ là quan chức không có quyền thế gì, nhưng lại là cháu trai của đương kim Hoàng quý phi, không dám nói quyền thế ngút trời, nhưng lại dư sức đối phó với mấy cô gái lầu xanh các nàng.

Tiểu nha hoàn khóc nấc lên: "Lý tỷ tỷ, tỷ mau nghĩ cách đi thôi, cô nương ở trà quán bên cạnh bị Trịnh viên ngoại mua về cách đây không lâu đưa tới biệt viện ở ngoại ô, ngày đó hắn dẫn đám bằng hữu heo chó tới... Đến đêm cô nương đã thắt cổ tự tử luôn đấy! Mới nãy ta còn nghe thấy nô bộc nhà Trịnh viên ngoại nói với người ngoài, lão gia nhà họ muốn mua tỷ và các tỷ tỷ khác về mở tiệc đãi khách nữa —— nếu như mọi người đều bị bán đi thì chỉ có một con đường chết thôi!"

Các cô nương ôm mặt òa khóc.

Lý Ý Như quay đầu, trên khuôn mặt là đôi mày ngài xinh đẹp, răng trắng môi đỏ, khí chất nhạt như gió mát.

"Đến khế ước bán thân cũng nằm trong tay người khác, ta còn có thể làm gì đây?" Lý Ý Như xòe mười ngón tay ra, tay dính đầy vết mực, nàng cười khổ: "Khi xưa vô số người coi ta là hồng nhan tri kỷ, nói toàn lời hay ý đẹp với ta, vậy mà giờ này ta viết thư cầu cứu lại chẳng một ai đáp lại."

Lý Ý Như yếu ớt thở than: "Lòng người sao lại bạc bẽo đến vậy."

Nỗi tuyệt vọng tràn ngập trong lòng các cô nương, tử khí tràn ra khắp phòng, tiểu nha hoàn luống cuống không biết làm thế nào mới phải.

Đột nhiên có một cô nương nói: "Cùng lắm thì chết thôi! Ta thà bị giày vò đến chết, còn không bằng đập đầu mà chết, chỉ cầu còn có sĩ diện!"

Lời vừa nói ra, mọi người phụ họa rối rít.

Thói đời khốn khổ, cô gái lầu xanh nào mà không khổ mệnh! Khổ đến nước này rồi mà vẫn còn nỗ lực sống, sao có thể không tiếc cái mạng? Làm sao các nàng có thể không tuyệt vọng khi cái chết đã gần kề?

Đây là đường cùng, chẳng còn chỗ nào để đi nữa rồi!

Trong bầu không khí tuyệt vọng muốn chết, một sơ đầu nương tử đi ra nói: "Ta có một cách này có thể cứu chư vị nương tử."

Câu nói này như cọng rơm cứu mạng, mọi người lao nhao lên, vội hỏi xem đó là cách gì thì nghe nương tử nói: "Gửi một phong thử đến tận tay Triệu Bạch Ngư, Kinh đô phủ thiểu doãn, cầu xin hắn giúp chúng ta chuộc thân."

Sắc mặt đám người Lý Y Như kinh động tối sầm lại, không nhịn được hoài nghi, Triệu Bạch Ngư là người ở đâu chứ? Dựa vào cái gì giúp bọn họ chuộc thân? Kinh đô phủ thiểu doãn... Quan à, trên đời này có bao nhiêu quan tốt? Toàn là kẻ mưu danh cầu lợi, ức hiếp bách tính thôi! Lui mười ngàn bước mà nói, dù cho Triệu Bạch Ngư có thật sự là một người tốt đồng ý ra tay giúp đỡ, thì y cũng chỉ là một tiểu quan lục phẩm, sao có thể đấu với Trịnh viên ngoại túi giắt đầy tiền?

Gia thế không có, tài sản cũng không, đấu thắng thế nào được?

Mọi người lập tức muốn phản đối, nhưng thấy sơ đầu nương tử kia như đánh cược lên Triệu Bạch Ngư, vô cùng tính nhiệm vị thiểu doãn này, mà nàng cũng chỉ là có ý tốt thôi, thật sự không đành lòng để nàng thất vọng.

Dù sao thì thực tế cũng dạy nàng làm người.

Tất cả mọi người yên lặng, chỉ có tiểu nha hoàn sỏi đời là ngây ngốc hỏi: "Triệu Bạch Ngư là ai? Tại sao y lại nguyện ý giúp ta chuộc thân?"

Sơ đầu nương tử nhịn xuống sự kích động vì ân tình cảm tạ, cũng nhìn ra mấy cô nương không tin nàng bèn giải thích: "Các ngươi đều biết thân thế của ta, mười hai mười ba tuổi bị bán cho tên lưu manh chỉ bằng mấy lượng bạc vụn làm con dâu nuôi từ nhỏ, lúc đó ta vừa mất mẹ, còn trong kỳ thủ hiếu nên việc cưới xin chưa thể hoàn thành, đợi qua ba năm kết thúc, ta vẫn kiêu ngạo không muốn thành gia lập thất, tên lưu manh bèn có ý đồ làm nhục ta, trong tình thế cấp bách, ta chém hắn bị thương rồi đi tự thú. Bởi vì là tội giết chồng, theo luật phải xử tử hình."

"Vụ án được truyền lên Kinh đô, mọi chuyện đã được định đoạt cả rồi, nhưng có lẽ do mạng ta không nên tuyệt, lúc đó Triệu đại nhân còn là phán quan đã nhìn thấy hồ sơ nên bác bỏ vụ án này, sau đó tự mình đến gặp ta, hỏi rõ tiền căn hậu quả, tra luật xong thì nói ta vẫn còn trong kỳ thủ hiếu không thể tính là đã lấy nhau, vậy nên cũng không tính là giết chồng, chỉ kết tội làm tổn thương người khác. Hơn nữa ta còn tự thú, phải xử nhẹ."

"Nhưng phán quyết lại bị Đại lý tự trả về, giữ nguyên xử tử hình."

"Triệu đại nhân lại không ngại vất vả, bôn ba khắp nơi thuyết phục, đệ chiết tử thỉnh lên quan Tri phủ, thậm chí vào cung đấu lý trước mặt Thánh thượng vì ta, cuối cùng cũng được đặc xá xử nhẹ tội. Từ sau đó, ta liền sơ tóc làm một sơ đầu nương tử không bao giờ lập gia đình nữa."

Không nhiều người biết sự việc mà sơ đầu nương tử từng trải, nhưng vụ việc có liên quan thì lại đường truyền tai truyền miệng trong Kinh đô, đến cả lão phu tử bảo thủ nhất cũng khen ngợi người can gián trung trực lương thiện, xứng đáng được tôn vinh.

Lúc đó mọi người cũng cho rằng người làm mọi thứ vì cô gái nghèo khổ đó là Kinh đô Tri phủ, hóa ra không phải.

Vì dân chờ lệnh, vì bách tính dám can thiệp thẳng thắn chính là quan tốt, là thanh thiên mà dân chúng lập bia trường sinh trong lòng, huống chi là chỉ vì một cô nương yếu đuối, bơ vơ không chốn nương thân dám đứng ra can gián, sao lại không khiến cho ai nấy đều kính nể?

Lý Ý Như thở dài: "Triệu đại nhân ra tay cứu giúp, tất vì chúng ta tái sinh cha mẹ."

Các cô nương còn lại đều đồng tình.

Sơ đầu nương tử trầm tư chốc lát, nhờ Lý Ý Như đề bút viết một phong thư, nhân lúc mặt trời lặn vội vàng chạy tới Triệu phủ.

***

Viện tử của Triệu Bạch Ngư nằm tuốt xó xỉnh tệ hại nhất Triệu phủ, ở gần cửa sau, vậy nên mỗi lần ra ngoài cũng phải đi cửa sau, dĩ nhiên một nguyên nhân khác là bình thường cửa chính sẽ không mở cho y đi.

Ngày hôm đó như thường lệ đi bộ về phủ, từ xa y đã nhìn thấy một cô gái mặt mày nôn nóng cứ quanh quẩn ở cửa, bị hộ vệ ngăn ở ngoài. Đến gần thêm một chút, cô gái thấy Triệu Bạch Ngư thì mừng rỡ chạy đến, bị Nghiên Băng quát bảo dừng lại.

"Ngươi là ai?"

Cô gái vội vàng nói rõ ý đồ, dâng thư lên: "Cầu xin Triệu đại nhân mau cứu các cô nương ở phường hoa trà, một khi bị Trịnh viên ngoại mua về, chắc chắn các nàng sẽ phải chết."

Triệu Bạch Ngư nhận thư, sau khi xem xong nói: "Ngươi trở về nói với cô nương nhà ngươi, ta sẽ mang bạc tới đúng kỳ hạn."

Cô gái vui sướng: "Đa tạ đại nhân!"

Đợi nàng đi rồi, Nghiên Băng mới cau mày: "Mua hết các nàng phải xài bao nhiêu tiền? Ngài không nghe nàng ta mới nói viên ngoại gì đó mang tới hai rương vàng sao, chúng ta lấy đâu ra lắm tiền như vậy?"

"Sao lại không có tiền? Của hồi môn, sính lễ, cứ tùy tiện dùng thôi."

"Hả? Sao có thể dùng những thứ đó được?"

"Sao lại không thể? Cứu người quan trọng." Triệu Bạch Ngư giấu hai tay vào trong tay áo, cong mắt cười nói: "Vả lại bỗng nhiên giàu có, trong lòng ta không nỡ, chi bằng cầm tiền đi làm việc thiện."

"Tán tài tiêu tai, hành thiện tích đức."

==

Tác giả muốn nói:

Tử Uyên (yuan - 鹓)

Uyên: Phượng hoàng mang điềm lành.

==

Editor: Anh công xuất hiện rùi nè, về sau có khá nhiều sự thật được bóc tách, nên công không phải là người xấu như trong lời đồn đâu é ;;v;;

Chương 4: Bè đảng

Đại lý tự.

Vạt áo bào công phục màu tím nhẹ nhàng bay theo gió, túi cá vàng treo bên hông đung đưa, đốt ngón tay rõ ràng móc vào đai lưng da khảm ngọc bích, mấy đường gân xanh bò lổm ngổm trên mu bàn tay, xuống nữa là cổ tay gầy nhưng cực kì có lực. Người nọ băng qua công đường, ngồi xuống chủ vị giương mắt nhìn phía dưới, trong ánh mắt chứa đựng lưỡi dao sắc bén ngâm vào sương giá, cắt lên da thịt khiến cho người ta đau đớn.

Đại lý tự thiếu khanh vừa sửa sang lại áo mũ vừa chạy tới: "Hạ quan bái kiến quận vương! Bẩm quận vương điện hạ, hạ quan đã hỏi cặn kẽ tiền căn việc rò rỉ đề thi từ phạm nhân, có thể ký tên chấp thuận được rồi ạ."

Hoắc Kinh Đường khép hai ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn, phó quan sau lưng hắn hội ý, trước quát hỏi lời khai ở đâu, sau đó chộp lấy nhanh chóng xem qua, thấp giọng báo cáo với Hoắc Kinh Đường.

"Tư Mã Định, Tạ Tử Hiên, Tư Mã An, Trịnh..." Đọc lên sáu bảy cái tên, nhìn lướt qua hơn hai mươi tên họ phía sau nữa, Hoắc Kinh Đường đã định đoạt xong: "Tổng cộng ba mươi người thú nhận gian lận thi cử. Lễ bộ Thượng thư thừa nhận có thể đề bị lộ ở thanh lâu sở quán, mà quan kiểm bài, quan đóng dấu chia nhau táy máy tay chân trên bài thi, còn dùng vàng hối lộ quan chấm thi phê duyệt."

Tốc độ nói của Hoắc Kinh Đường rất chậm, âm thanh vừa trầm vừa khàn, cào vào trong tai ngứa ngáy.

"Xem ra, có thể có hai nhóm người tham gia vào gian lận. Chia ra một nhóm từ trường thi và quan chấm thi, nhóm còn lại là quan chủ khảo tiết lộ đề và các thí sinh mua đề."

Quan kiểm bài phụ trách trật tự trường thi giúp đỡ thay đổi bài thi, quan đóng dấu phụ trách dán tên táy máy tay chân trên bài thi của thí sinh, quan chấm thi được hối lộ nhận ra con dấu, trong quá trình thẩm duyệt sẽ thay đổi với bài thi đã viết xong, đây là phương thức gian lận thứ nhất.

Phương thức thứ hai chính là thí sinh Giang Nam hô hào tố cáo tình huống tiết lộ đề, mua đề.

Đại lý tự thiếu khanh: "Quận vương tổng kết rất đúng."

"Địa điểm, thời gian lộ đề mua đề, ai là người bắc cầu treo dây từ bên trong, người bán đề và quan chủ khảo có quan hệ như thế nào? Vì sao chỉ có lời khai của Lễ bộ Thượng thư mà không có của Trần thị lang?"

"Cái này..." Rõ ràng giọng hắn ôn hòa, nhưng sau lưng Đại lý tự thiếu khanh đã rịn đầy mồ hôi lạnh.

"Bộp" một tiếng, Đại lý tự thiếu khanh quỳ xuống nói: "Trần thị lang cứng miệng, dù hạ quan có tra hỏi thế nào cũng không chịu thừa nhận bài thi bị lộ đề, nhưng Vương thượng thư đã xác nhận lão ta. Ngoài ra, thí sinh mua đề đều nói người bán đều đi lại ở đường Kim Hoàn phường hoa trà, không biết tên họ, chỉ biết người ta gọi gã là Lưu lão bát. Hạ quan cũng đã tra hỏi Vương thượng thư, người khai báo thì rất nhiều, nhưng có một nửa không khớp —— "

"Còn hỏi được gì nữa?"

"Hỏi ra đã nhận hối lộ ngàn lượng vàng, cất ở trong phủ."

"Người hối lộ có ai?"

Đại lý tự thiếu khanh vừa nói ra cái tên người hối lộ, Hoắc Kinh Đường đã lập tức so sánh, phát hiện đều là những người tham gia phương thức gian lận thứ nhất.

"Đám người này là nhóm gây án, thường lui tới phường hoa trà, tụ tập ở những tửu lâu lớn, mỗi người nhận trăm lượng vàng là có thể hoàn thành một lần giao dịch, do quan kiểm bài, quan đóng dấu cùng quan chủ khảo chung sức hợp tác, trợ giúp bọn họ thông qua thi Hội và thi Đình."

"Nói xằng! Kì thi Đình do Thánh thượng chủ trì, ra đề tại hiện trường, điểm mặt gọi tên, sao có thể gian lận được!" Hoắc Kinh Đường đột nhiên tức giận.

Đại lý tự thiếu khanh run rẩy đáp: "Quận vương có điều không biết, thủ đoạn gian lận thi cử nhiều vô số kể, kiểu chữ, câu thức, độ đậm nhạt của mực... Đều có thể gian lận. Kiểu chữ của các thí sinh không giống nhau, vậy nên rất dễ nhận biết chữ người quen. Những thí sinh của đồng đảng chỉ cần học trước vài câu thông dụng trước khi tham gia thi, có thể thông qua những nội dung đó nhận ra người mình. Mực cũng vậy, có loại mực đậm cũng có loại mực nhạt, đa số người chỉ để ý kiểu chữ dễ nhìn mà không thường chú ý để độ đậm nhạt, bởi vì có rất nhiều người sử dụng mực đậm, vậy nên những kẻ kia đã thương lượng trước sử dụng mực nhạt, nhờ vào đó mà phân biệt đâu là người mình —— "

"Nói như vậy, quan chấm thi có dính dấp trong chuyện này không chỉ có hai vị Vương, Trần đại nhân?"

"Vâng. Hạ quan đã báo cáo đúng sự thật tiến triển điều tra, không dám giấu diếm điều gì." Đại lý tự thiếu khanh kiên định nhìn về phía Hoắc Kinh Đường, lại dè dặt nói: "Nhưng không biết là những phạm nhân có liên quan đó có phải bị bắt theo luật hay không ạ?"

Nói đến đây, trong miệng Đại lý tự thiếu khanh đã tràn ngập vị đắng, phải biết quan chấm thi của kì thi Đình đều là đại thần cốt cán trong triều, nếu bắt giam hết cả sợ rằng căn cơ quốc gia sẽ lung lay, huống chi gã cũng không dám làm liều, trong đó còn có ân sư, đồng liêu của gã!

Thật đúng là chuyện khó!

"Dẫn người tới đây."

"Ý quận vương là chỉ?"

Phó quan: "Đưa Vương thượng thư, Trần thị lang tới đây."

Đại lý tự thiếu khanh lĩnh mệnh, hai người Vương, Trần mặc tù phục nhanh chóng được dẫn vào công đường. Chỉ thấy Vương thượng thư thần trí hỗn loạn, tóc tai xốc xếch, mười đầu ngón tay đều là vết máu đã khô lại, hiển nhiên đã sợ mất mật rồi, trái lại Trần thị lang tuy sắc mặt uể oải nhưng ánh mắt vẫn rất kiên nghị, vô cùng có tinh thần.

Hoắc Kinh Đường vừa mở miệng, Vương thượng thư đã bị dọa sợ ôm đầu ngã xuống đất, luôn miệng lẩm bẩm, "Ta sai rồi, ta mang tội, ta có lỗi với bệ hạ", căn bản không tra hỏi được gì, Trần thị lang lại nói lưu loát: "Thỉnh quận vương tấu minh Thánh thượng, Trần Sư Đạo ta nhỏ bé vốn không đáng được nhắc tên, may mắn được Thánh tổ coi trọng, bất kể chuyện lúc trước được mời làm Quốc tử giám tế tửu, hay về sau tận tâm tận lực phụng bồi ba triều, môn sinh dưới gối ở khắp trong thiên hạ cũng lên đến ba trăm người. Nếu như có lòng thèm muốn thứ vàng bạc kia, ta cần gì phải làm một tiên sinh dạy học sống thanh bần vui đời đạo, lại tự cầu được làm Lễ bộ Thị lang không béo bở cũng chẳng có tiền đồ mấy? Sao lại không vào hàn lâm? Sao lại lo lắng không thể xuất tướng nhập tương, quan bái tam sư?"

Xuất tướng nhập tương, quan bái tam sư, khẩu khí thật lớn!

Trần Sư Đạo thật sự có tư chất này, hiếm ai biết được ông là người cuối cùng còn sót lại của tiền triều đỗ đạt Tam nguyên, bởi vì tiền triều không coi trọng khoa cử khiến cho vị Trạng nguyên lang này buồn bực không vừa lòng.

Tự khai quốc đến nay, Đại Cảnh vẫn luôn lễ độ đối đãi với sĩ tử tiền triều, trong đó có Trần Sư Đạo.

Trần Sư Đạo vào Quốc tử giám, bồi dưỡng nhân tài cho Đại Cảnh, có vô số học sinh, chưa từng nghe ông kết bè kết phái mưu lợi.

"Thanh giả tự thanh, Trần Sư Đạo tuyệt đối không làm ra chuyện sỉ nhục cốt cách thánh nhân!" Trần thị lang chính khí nghiêm nghị nói: "Quận vương cứ đến Trần phủ ta tra xét, nếu có thể tìm ra được dù là một món đồ cổ quý hiếm hay ngọc ngà vàng bạc gì, ngươi vẫn có thể trị ta tội danh tham ô!"

Công đường âm u không có bất kì tiếng động dư thừa, Vương thượng thư đã co quắp người nằm dưới đất, Trần thị lang vẫn đứng thẳng tắp lưng.

Một hồi lâu sau, Hoắc Kinh Đường mới nói: "Có tội hay không, bổn vương nhất định xử lý công bằng."

Vậy là đủ rồi, Trần thị lang quỳ lạy: "Tạ tiểu quận vương."

Hoắc Kinh Đường tự thân bước xuống đỡ người dậy: "Trần đại nhân dạy dỗ không quản mệt nhọc, đức cao vọng trọng, ta cũng khâm phục." Rồi sau đó nói với Đại lý tự thiếu khanh: "Trần đại nhân là lão nhân ba triều, Thánh tổ còn phải dùng lễ với ông, chuyện trước hết còn chưa rõ ràng, sao có thể đưa ra hình phạt được?"

Đại lý tự thiếu khanh muốn nói, rõ ràng Vương thượng thư xác nhận Trần thị lang cũng tham gia gian lận thi cử, lại nghe Hoắc Kinh Đường nói: "Chỉ là do một người xác nhận, còn chẳng đưa ra được chứng cớ, cũng có thể do hắn không nhận nổi hình phạt nên xác nhận qua loa thôi."

Đại lý tự thiếu khanh kinh sợ, lời này nghe như ám chỉ gã bắt người lại đánh cho nhận tội vậy, đành không dám nói nhiều nữa mà chỉ gật gù liên tục thay cho lời đáp.

Trần Sư Đạo trái lại rất ngạc nhiên với thái độ mềm mỏng của Hoắc Kinh Đường, không hề tàn nhẫn giống như trong lời đồn, thầm nghĩ quả nhiên không thể tin hết tất cả những tin đồn ngoài kia được.

Nhưng biểu hiện kế tiếp của Hoắc Kinh Đường làm cho hy vọng vừa dấy lên trong tim Trần Sư Đạo dập tắt, nếu không có ông, chỉ với thủ đoạn tra hỏi không quá xuất sắc của tiểu quận vương chắc là sẽ tra không được kết quả gì.

Đại lý tự thiếu khanh vốn nơm nớp lo sợ cũng đứng nghiêm lại, âm thầm lắc đầu, ngẫm lại thì tin đồn Lâm An tiểu quận vương quỷ thần khó lường hóa ra cũng chỉ có thể thôi, cả quá trình tra khảo không nắm bắt được chi tiết, cái nên hỏi thì qua loa lướt qua, cái chẳng quan trọng thì lại cạn tào ráo máng, thủ đoạn khắt khe lỗ mãng ngược lại phù hợp với hình tượng gã đàn ông liều lĩnh của hắn hơn.

Suy cho cùng thì người này cũng chỉ là một kẻ cục kịch chỉ biết hành quân đánh giặc thôi, làm sao có thể hiểu được chuyện lằng nhằng rối rắm trong triều đình.

Đại lý tự nhìn rõ bản chất của Hoắc Kinh Đường rồi thì chẳng sợ hắn nữa, chỉ cần vận động đầu óc lừa hắn là được, khí thế mạnh mẽ ban đầu thật sự dọa cho gã sợ một phen.

Làm việc đến trưa, vụ án cũng chẳng có tiến triển gì.

Đại lý tự thiếu khanh cung kính tiễn người đi, quay đầu nhìn trái phải nói: "Sau này ở trước mặt quận vương không cần để tâm quá, không có chuyện lớn gì cũng bớt phiền ta lại."

"Mới sáng sớm đã quấy rầy người ta ngủ, đúng là quái thai." Đại lý tự thiếu khanh vươn vai ngáp: "Về ngủ bù thôi."

Trong xe ngựa, phó quan ôm một bụng nghi ngờ: "Tướng quân, hình như ngài chẳng quan tâm vụ này mấy thì phải."

Hoắc Kinh Đường giấu tay vào tay áo, nhắm mắt dưỡng thần, sắc mặt tái nhợt: "Ý ngươi muốn nói ta làm việc không tận sức, thủ đoạn mềm yếu tầm thường, giống như sâu bọ ngồi không ăn bám?"

"Hạ quan không dám!"

"Ngươi có nhớ phần danh sách thí sinh gian lận không?"

"Nhớ thì nhớ, có vấn đề gì không ạ?"

"Ba mươi người, trong đó có tám người họ Tư Mã, năm người họ Tạ, bốn người họ Phạm, mười người họ Trịnh, còn có họ Lư, họ Tiêu... Một nửa là người nhà mẹ đẻ của Hoàng hậu, đám con cháu thế gia đi theo Thái tử, nửa còn lại là bè đảng Tần vương."

Phó quan sợ hoảng hồn: "Nếu như tra tới cùng, không phải sẽ đắc tội cả Thái tử và Tần vương luôn sao? Đây là một cái hố lửa đấy!"

"Lúc nào mà ta không đắc tội Thái tử và Tần vương?"

"Nói cũng phải, vậy —— "

"Một cái hố lửa thôi còn dễ giải quyết, suy cho cùng thì thế gia, Thái tử, Tần vương cũng chỉ sống dựa vào tín nhiệm của đế vương mà thôi."

Phó quan nhìn Hoắc Kinh Đường, đối phương đã tháo mặt nạ sắt xuống, để lộ ra khuôn mặt quá đẹp để đặt trên người một nam nhân, sắc mặt vô cảm, hai mắt nhắm chặt, không nhìn ra được gợi ý nào có thể khiến cho gã ngầm hiểu được, không thể làm gì khác hơn là khiêm tốn hỏi: "Còn có phiền toái gì khó giải quyết hơn cả Thái tử và Tần vương sao?"

Hoắc Kinh Đường mở mắt, con ngươi lạnh lẽo sáng ngời: "Bè đảng."

***

Đường Kim Hoàn, phường hoa trà · giờ Mậu canh ba.

Trong ngoài lâu tụ tập đầy người, từ thiếu niên chí học cho đến lão ông tám mươi tuổi đều có, mặt mày đỏ ửng đứng nghe tiểu khúc, ba hoa khoác lác với nhau, chủ đề chính không phải ngoại lệ nào khác là về các ca nữ bị bán ra ngày hôm nay, người được nhắc đến nhiều nhất chính là đương kim danh kỹ Kinh đô Lý Ý Như.

Giữa đại sảnh để trống một khoảng, một đài cao được dựng lên, cách đài hai thước vây quanh biết bao nhiêu là người, hoa quan cẩm y, tướng mạo trung hậu nhưng đôi mắt một mí thỉnh thoảng toát ra vẻ dâm dục tàn nhẫn phá đi sự lương thiện làm người ta cảm thấy không rét mà run.

Từ bên trong, hộ vệ dọn ra một cái bàn gỗ trắc, trên bàn bày một cái lư hương, trong lư cắm ba nén nhang.

Tú bà trang điểm lộng lẫy bước lên đài, đầu tiên vui vẻ ra mặt nói lời chúc mừng mở đầu, tiếp đến nhanh chóng tiến vào vấn đề chính: "Nếu không phải lần này cha mẹ ta gặp nạn, sao có thể cam lòng bán đứt mấy đứa con gái xanh non mơn mởn chứ? Mong rằng chư vị đại gia ở nơi này càng thêm thương tiếc cô nương nhà ta mới phải!" Giọng nói đột nhiên thay đổi, cất cao như giọng hát, nói: "Hôm nay bán đi mười chín cô nương nhà ta, lấy ba nén nhang làm hạn định, người trả giá cao nhất sẽ có được!"

Hộ vệ đẩy đám ca nữ ra xếp thành một hàng, người bên dưới nhìn thoáng một cái là đã phát hiện ra không có hoa khôi Lý Ý Như, lúc này lớn tiếng rêu rao tú bà đùa bỡn bọn họ, sử dụng danh kỹ làm mánh khóe lừa mọi người đến đây nhưng lại đem giấu bảo bối thật sự.

Tú bà: "Ta nào dám lừa gạt chư vị? Có điều đầu cơ mới kiếm được lợi, các cô nương phía sau ta đây tuy cũng là xướng điều dã diệp (*), nhưng suy cho cùng thì cũng chẳng bì được với Lý nương tử sắc nước hương trời, giống như gốm sứ và đất nung không thể đặt cùng trên một giá được, các cô nương cũng không thể đứng trên cùng một đài với Lý nương tử có phải không nào?"

(*) Ý chỉ kỹ nữ

"Ha ha ha... Khéo dụ dỗ thật, nhưng cũng có lý!" Trịnh viên ngoại cười to nhạo báng.

Tại đây, bất kể có biết thân phận của hắn hay không cũng chẳng ai dám lắm mồm lắm miệng, ít nhất hắn dám cho mọi người biết thân phận của mình ngay tại kỹ viện này, cũng cho thấy trong một đám người, gia thể của hắn là cao nhất.

Trong sảnh đường, tiếng trả giá cất lên lúc lớn lúc nhỏ, thay nhau vang vọng, mười chín ca nữ sắp sửa khóc lên, mong mỏi nhìn về phía tất cả mọi người, hy vọng có thể nhìn thấy Triệu đại nhân tốt bụng mà sơ đầu nương tử đã nói, nhưng mãi đến khi Trịnh viên ngoại lên tiếng gọi: "Một trăm lượng vàng!" Cũng không thấy bóng dáng Triệu đại nhân đâu.

Sảnh đường xôn xao một trận, tú bà hớn hở ra mặt, các cô nương trên đài đã sụt sùi khóc, hoàn toàn bị tuyệt vọng bao phủ.

Lý Ý Như ở phòng sau vẫn luôn chú ý đến tình hình phía trước, sơ đầu nương tử cùng ba người nữa đều mang vẻ mặt lo lắng, tim đã treo cao tới cổ họng.

Trăm lượng vàng có thể đổi lấy xấp xỉ ngàn lượng bạc trắng, mà mấy lượng bạc vụn là đã có thể mua đứt một người, hao phí bách kim chỉ vì ca nữ đã là kẻ hào phóng không ai bì nổi ở Kinh đô này rồi.

Ngay cả một vài người không muốn ló mặt ở sương phòng trên lầu cũng muốn chú ý đến Trịnh viên ngoại, cửa sổ trước gian phòng riêng bên trái hé mở phân nửa, loáng thoáng có thể nhìn thấy y sam màu đen có chất liệu rất tốt, vạt áo và ống tay áo đều được thêu hoa văn chỉ vàng sậm.

Bên cạnh thân hình này còn có thêm một tên hộ vệ, dáng người thẳng tắp như cây thương, bên hông giắt một thanh Hoàn Thủ Đao chuyên dụng trong quân đội.

"Trịnh Hữu, năm nay ba mươi mốt, là bà con xa với Trịnh quốc công, thường lấy danh hiệu cháu của Hoàng quý phi đi lại trong Kinh đô, là kẻ quần là áo lụa đứng đầu trong kinh. Mười sòng bạc, tửu lâu, rạp hát thì hắn là ông chủ của tám nhà rồi, ngoại trừ kỹ viện không công khai trắng trợn, nhưng nghe nói thường xuyên mua nữ cô nhi, ca nữ về nuôi ở biệt viện ngoài ngoại ô, dùng để mở tiệc chiêu đãi khách khứa, không khác gì lầu xanh."

Hoắc Kinh Đường: "Quần là áo lụa? Chưa chắc."

"Ăn uống chơi gái đánh cược đều dính líu tới hắn, còn không phải quần là áo lụa ư?"

"Sòng bạc, tửu lâu, rạp hát kiếm tiền rất mau, lời nhiều nghề, cái gì cũng dính, cái gì cũng kiếm. "Chơi gái" hình như không phải là kiếm tiền, nhưng ngươi xem mỗi lần hắn bày tiệc mời khách đều có ai đến? Ta đoán trong triều hơn phân nửa người từng đi qua biệt viện của hắn rồi, dù là huynh đệ của những tên quan này, hay con cháu gì đó, phàm có một người đã từng vào biệt viện của hắn sẽ không tránh khỏi chuyện tin tức bị lộ ra ngoài!"

"Shh!" Phó quan hít vào một ngụm khí lanh: "Trịnh quốc công này đúng là, trong nhà chẳng có ai chịu ăn không ngồi rồi, Trịnh đại lang theo phụ thân nhập ngũ, cha con nắm giữ quân Ký Châu, con trai thứ nhậm chức ở quân Long Phụng, người cháu xa này lại làm tiền ở Kinh đô, kinh doanh mạng lưới giao thiệp cùng quan viên triều đình để lấy tin tức, cái này còn nghiêm trọng hơn cả gian lận thi cử đấy."

Chẳng trách tướng quân lại nhắc đến bè đảng, hành động bất chính này là kết bè kết phái không phải sao?

Lực lượng quân bị của Đại Cảnh rất mạnh mẽ, trong đó Cấm quân là mạnh nhất, chia ra làm quân Tây Bắc, quân Ký Châu và quân Trung Ương. Quân kỷ quân Tây Bắc nghiêm minh, nổi tiếng khắp thiên hạ, là nơi sinh ra những cường tướng, danh tướng, Hoắc Kinh Đường và phó quan đều xuất thân Tây quân, là nơi khó vào nhất, Trịnh quốc công chỉ đành nuôi thế lực ở quân Ký Châu và quân Trung Ương, mà cầm đầu đảng phái chính là Hoàng quý phi cùng với Tần vương.

Phí tâm kinh doanh, nuôi thế lực lớn như vậy có lẽ vì muốn giành lấy vị trí tối cao.

"Sao ngài không mua đám ca nữ kia, kết giao với Trịnh Hữu đó, chớp thời cơ vào biệt viện của hắn thử xem trong đó thế nào?"

"Chờ chút nữa hãy nói."

Mà lúc này đây, dưới lầu không có ai tranh mua với Trịnh viên ngoại, thời gian ba nén nhang sắp hết, tú bà mất kiên nhẫn thúc giục, hỏi xem có ai ra giá cao hơn hay không.

Gọi mấy lần cũng không có ai đáp lại, kết cục đã định.

Sắc mặt của các ca nữ hoảng sợ, Lý Ý Như thất vọng.

Tiểu nha hoàn khóc sụt sùi: "Vị Triệu đại nhân kia không phải đã đồng ý cứu các cô nương sao? Sao ngài ấy còn chưa tới?"

Sơ đầu nương tử cũng lo sợ không kém, quả thật Triệu Bạch Ngư đã đáp ứng nàng, sao lại chưa tới chứ? Thanh niên ngày xưa bôn tẩu vì nữ cô nhi nàng đã nuốt lời rồi sao? Thật sự lừa nàng ư?

"Không phải ai cũng có dũng khí bỏ ra trăm lượng vàng cứu giúp những nữ tử phong trần không chút liên hệ đâu." Tuy rằng trong lòng khổ sở, nhưng Lý Ý Như vẫn tỉnh táo phân rõ thực tế: "Trăm lượng vàng đối với quan phổ thông mà nói, chính là phải táng gia bại sản mới có thể góp đủ, nếu như vị Triệu đại nhân mà ngươi nói thanh chính liêm khiết, chắc chắn y sẽ không đem tiền tới đây. Huống chi, người khác không có nghĩa vụ phải cứu chúng ta."

Lời tuy như vậy, nhưng vẫn không nhịn được nản chí.

Trong người các nàng không có đồng nào, tiền bán thân đã bị tú bà và tay chân của nàng vơ vét cả rồi, nếu không đã có thể mang số tiền chuộc đó giao cho người đáng tin có thể giải quyết kiếp nạn đêm nay cho các nàng.

Tú bà: "Không ai ra giá nữa sao? Có còn ai nữa không? Đã hết ba nén nhang rồi —— "

Tiểu nha hoàn và sơ đầu nương tử ở phòng sau mềm nhũn người ngã xuống đất, không đành lòng nhìn nữa. Bên dưới cũng có người tiếc cho, nử tử như hoa như ngọc đáng thương chỉ không đến một tháng nữa thôi sẽ ngọc nát hương tan. Những người có giao hảo với Trịnh viên ngoại thì đã lăm le chuẩn bị đến biệt viện của gã vui chơi.

Phó quan của Hoắc Kinh Đường cất lời, muốn kêu giá.

"Mười chín ca nữ sau lưng kia mau cùng Trịnh viên ngoại trở về —— "

"Đợi đã!"

==

Chương 5: Triệu tứ lang dùng sính lễ ngài đưa tới, mua hai mươi ca kỹ!

Chợt có giọng nói vang lên, người còn chưa thấy đâu đã nghe thấy tiếng: "Ta trả ba trăm lượng vàng mua bọn họ!"

Tiếng xôn xao vang lên khắp nơi như muốn lật tung cả nóc nhà, tú bà kích động siết chặt khăn tay, đám người tự động tản ra chừa một lối đi, chỉ thấy một thanh niên vận thanh y, tay giấu trong tay áo rộng, ý cười tràn đầy trong đáy mắt, đi theo bên người là một thư đồng trắng trẻo.

Ngừng lại ở bên dưới đài, cách Trịnh viên ngoại ba bước, Triệu Bạch Ngư nghiêng đầu: "Hửm?"

Nghiên Băng trách cứ: "Sao không tiếp đãi lão gia nhà ta?"

Hộ vệ trong lầu lập tức cúi người gật đầu dọn ghế Thái sư tới, còn đem thêm trà ngon, vô cùng cung kính mời Triệu Bạch Ngư ngồi xuống thưởng trà. Tú bà cười tươi đến mức mặt đầy nếp nhăn, hỏi trước tên họ, sau lại nói lời hoa mỹ, xác nhận có thật là ra giá ba trăm lượng vàng hay không, lấy được câu trả lời chắc nịch liền cao giọng tuyên bố Triệu Bạch Ngư ra giá cao nhất, các cô nương đều thuộc về y hết.

Vừa nói xong, Trịnh viên ngoại đã ra vẻ kiêu ngạo nói: "Mẹ nó nhìn rõ rồi nói, lấy ba nén nhang làm hạn định, trong thời hạn người trả giá cao thì được, nếu như ta nhớ không lầm, lúc hương cháy hết, vị Triệu lão gia này mới đến đúng chứ?"

Tú bà thấy vậy, mặt lộ vẻ khó xử.

Tuỳ tùng của Trịnh viên ngoại tiếng lên hai bước uy hiếp: "Cố ý bắt nạt lão gia nhà ta thế đơn lực bạc sao?" Vẻ mặt hung thần sát ác khiến người ta cực kì sợ hãi.

Quyền quý ỷ thế hiếp đáp người khác nhất Kinh đô này lại hô hào người ta bắt nạt bọn họ, đúng là đổi trắng thay đen. Nhưng tú bà không dám nói gì, vội vàng cười nịnh, nàng không biết thân phận của Triệu lão gia, nghĩ chắc là thương nhân phú hộ gì đó mới tới Kinh đô, nhất định không thể so với cháu trai của Hoàng quý phi!

Chỉ do dự một chút thôi, tú bà nhanh chóng quyết định tuyên bố tất cả cô nương thuộc về Trịnh viên ngoại.

Trịnh Hữu bắt chéo chân, liếc nhìn Triệu Bạch Ngư, "Có vài kẻ cho rằng áp trục ra sân, đi về phía trước ngồi xuống là có thể cướp hết đầu ngọn gió. Như mọi người đã biết, khắp nơi đâu đâu cũng cần có quy tắc ứng xử đúng mực, nhất là dưới chân Thiên tử! Xóm làng chơi tuy là địa phương hạ cửu lưu, nhưng hạ cửu lưu cũng có quy tắc của hạ cửu lưu, ngươi có chơi cũng phải theo quy củ mà chơi! Dù là ở đâu, dù ngươi có quyền có tiền đến đâu thì cũng phải tuân theo quy củ!"

Triệu Bạch Ngư búi tóc cao dùng dây lụa màu xanh cột lại, phần dây còn dư rũ xuống sau lưng, ăn mặc đơn giản, nhẹ nhàng khoan khoái, chính là cảnh đẹp ý vui. Lúc này y nghiêng mặt, đường nét gọn gàng, nước da trắng nõn, trán đầy đặn, sống mũi cao thẳng, môi cong lên, tản ra khí chất vô cùng ôn hòa lương thiện.

"Nói hay! Không có quy tắc không đủ tiêu chuẩn, ta rất tán thành quan điểm của huynh đài, xin hãy tiếp tục giữ vững. Có điều những người này ta vẫn phải đưa đi."

Trịnh Hữu sầm mặt xuống.

Triệu Bạch Ngư: "Nghiên Băng."

Nghiên Băng tiến lên, giơ cao lư hương: "Xin chư vị nhìn cho kỹ —— "

Mọi người ngước cổ lên nhìn.

"Đã thấy rõ chưa? Ba nén nhang còn chưa cháy hết, vẫn còn đến hai phân đây này."

Cổ đại ba phân bằng một xăng-ti-mét, hai phân dài bao nhiêu cũng không biết nữa.

"Trịnh lão gia, ngài nhìn thấy chưa? Lão gia chúng ta đề phòng ngài thế này nên lúc vào cửa kêu giá đã dặn ta bẻ gãy hương, cho nên vẫn còn trong thời hạn, ngài có phục hay không? Còn bảo là không có quy củ?"

Trong ánh mắt xem thường của Trịnh Hữu hiện lên tia máu, khi mọi người run sợ trong lòng, cho rằng gã sắp nổi giận rồi thì đột nhiên lại vỗ tay cười to: "Trịnh Hữu ta cầm được buông cũng được, bình sinh coi trọng nhất là quy tắc trò chơi! Mấy cô gái thôi mà, nhường cho ngươi nào có ngại gì!"

Triệu Bạch Ngư gật đầu: "Đa tạ nhường nhịn."

Ca nữ bình thường chẳng qua là tiền thưởng mà thôi, người quan trọng nhất là danh kỹ Kinh đô Lý Ý Như cơ mà. Nàng được đẩy lên đài, mới đầu còn có người nối nhau kêu giá, năm trăm lượng vẫn lác đác vài người, đến ngàn lượng thì chỉ còn lại Trịnh Hữu và Triệu Bạch Ngư đối đầu.

Ba ngàn lượng vàng, trong sân không còn tiếng động.

Sắc mặt Trịnh Hữu tái mét, dùng ba ngàn lượng mua một kỹ nữ thật là hoang đường, nếu như không phải có đại nhân vật muốn có được —— đêm nay không thu hoạch được gì quả thật không cam lòng.

Trái phải ghé tai gã tận lực khuyên giải, một là không mang đủ tiền tới, hai là không đáng giá, ba cũng là sợ gián quan tố cáo hành vi phóng đãng của gã, liên lụy đến Trịnh quốc công phủ, Hoàng quý phi và Tần vương, bình thường Hoàng quý phi cùng Tần vương cũng đã chi tiêu vô độ, phô trương lãng phí, sớm có gián quan ngứa ngáy con mắt, lúc này đây càng không thể để bị nắm thóp.

Tuy đạo lý là như vậy, nhưng Trịnh Hữu nuốt không trôi khẩu khí này, trừng mắt nhìn Triệu Bạch Ngư, mặt mũi không nén được tức giận, nhất thời nổi sát tâm, người trong Kinh đô có ai mà gã không biết mặt? Tên họ Triệu này trẻ như vậy, có lẽ chỉ là một nhân vật nhỏ bé thôi, có chết cũng không dấy nổi sóng gió.

Trịnh Hữu không muốn phá hư quy củ cuộc chơi này, nhưng tại chỗ ai ai cũng nhìn chằm chằm gã, nếu như đêm nay gã đấu thua tiểu tử vắt mũi chưa sạch này, ngày mai Kinh đô sẽ nhìn gã bằng ánh mắt gì? Đám nhà quyền quý còn có thể vì gã sai đâu đánh đó không?

Đừng chỉ coi hắn là một kẻ phá của bị xem thường, cả ngày chỉ biết ăn uống, chơi gái, đánh cược, cả Kinh đô này ai mà không yêu thích bốn thứ đó chứ?

Quần là áo lụa cũng có thú vui của quần là áo lụa, giao thiệp kinh doanh, ăn uống chơi gái đánh cược là nhanh kiếm được tiền nhất, nếu những năm này Trịnh quốc công phủ không có gã khổ tâm làm ăn, làm sao có thể duy trì được phong quang hôm hay? Còn cả vốn liếng của Hoàng quý phi, Tần vương dùng để chống lại bè đảng Thái tử nữa?

Bấy nhiêu nguyên nhân nặng nề ghì Trịnh Hữu không thể xuống đài được, tia máu trong mắt càng nhiều hơn, trông rất đáng sợ.

Nghiên Băng không nhịn được nuốt nước bọt, nhỏ giọng hỏi: "Chẳng lẽ hắn muốn nổi điên chém người sao?"

Triệu Bạch Ngư quan sát thần sắc điên cuồng của Trịnh Hữu, đoán trước khi gã tới đây đã dùng kim thạch tán.

Mức độ gây nghiện và độc tính của thạch tán này yếu, vậy nên không hoàn toàn bị cấm, nhưng phàm là đã dùng qua một lượng dù ít hay nhiều vẫn rất dễ khiến tâm thần mất khống chế, nếu chọc giận gã, nói không chừng gã sẽ rút đao chém chết y tại chỗ này, vậy nên tốt nhất là nhằm vào sở thích của gã khiến cho gã thoải mái bước xuống bậc thang kia.

"Yểu điệu mỹ nhân, quân tử hảo cầu, vốn là chuyện gió chuyện trăng, cần gì phải nóng giận gây tổn thương hòa khí? Vàng bạc là tục vật, dùng tục vật này định giá Lý nương tử cũng là bôi nhọ cái danh hoa khôi. Ta từng nghe trò sở trường của Trịnh Hữu thành Đông là quan phác (*), hơn nữa rất giỏi ném tiền. Chi bằng chúng ta đánh cược một ván định thắng thua, mỹ nhân về với người thắng, thế nào?"

Làn gió đánh bạc dù đã bị cấm ở Đại Cảnh, nhưng đầu đường cuối hẻm vẫn có thể thấy các loại trò cược khác nhau, tiền thưởng lớn nhỏ đều có, đến cả quý nhân trong cung đôi khi cũng ngứa tay chơi hai cây, còn có canh bạc được đặc biệt cho mở vào các ngày lễ, chơi theo quy định, cho nên dối với những kẻ nhà quyền quý biết chơi mà nói, dựa vào đánh cược để giải quyết vấn đề nan giải chính là nấc thang tốt nhất, thua thôi không mất mặt, thua mà không thừa nhận mới đáng bị phỉ nhổ.

Nếu như ngươi chiến đấu với một người vì tiền, bằng chính sức mạnh của ngươi, thua ngươi sẽ chết, nhưng còn trong cờ bạc, nếu ngươi thua cược, cùng lắm thì nói một câu kỹ năng không bằng người ta, nhận thua cuộc thì ngươi vẫn là hảo hán.

Vì vậy, sắc mặt của Trịnh Hữu không xuống đài được trở nên hòa hoãn hơn, chậm rãi bước xuống bậc thang mà Triệu Bạch Ngư đã dọn sẵn ra, nhắc đới kỹ năng đánh cược gã có thể kiêu ngạo ưỡn ngực, Triệu Bạch Ngư biết điều tung hô tài đánh bạc của mình, vậy nên cũng có cảm tình với y, cảm thấy người này không còn đáng ghét như trước đó nữa.

"Được thôi!" Trịnh Hữu: "Tới đi, đem sáu đồng tiền lên đây!"

Cái gọi là quan phác chính là một loại cờ bạc đánh cược bằng cách ném tiền, cách chơi không khác mấy với trò đổ xúc xắc thời hiện đại, cầm sáu đồng tiền ném ra phía sau, người thắng là người ném ra được nhiều mặt đồng xu giống nhau nhất.

Triệu Bạch Ngư: "Mời viên ngoại trước."

"Vậy ta sẽ không khách khí." Trịnh Hữu nhận lấy tiền đồng, quơ tay lắc lư trái phải rồi ném ra sau, kỹ thuật kiến người xem hoa mắt, sáu đồng xu nằm trên mặt đất, tùy tùng báo lại: "Ngũ thuần!"

Tức năm mặt chính diện của đồng xu, căn bản có thể quyết định người thắng rồi.

Có cực ít người có thể ném ra sáu mặt chính diện, cũng giống như thời hiện đại, nếu như không dùng đúng kỹ thuật lắc xúc xắc, không trải qua huấn luyện thì cũng sẽ tương đương với việc không thể ném ra đồng thời sáu mặt cùng kiểu được.

Trịnh Hữu kiêu ngạo tự đắc: "Đa tạ."

Đã xem Lý nương tử là đồ của mình rồi.

Mọi người thổn thức, Lý Ý Như mím môi, sắc mặt ảm đạm.

"Ta còn chưa chơi mà."

"Còn cần phải chơi sao?"

"Thử thôi."

"Ha ha ha... Thử đi thử đi."

"Viên ngoại, mượn đồng tiền của ngài dùng nhé."

"Cầm đi!"

Triệu Bạch Ngư cầm lấy sáu đồng tiền, không sử dụng một đống chiêu thức giống như Trịnh Hữu, chỉ thuận tay ném đi, ngay cả một động tác thừa cũng không có, chỉ nghe tiếng 'leng keng' dưới đất, mọi người không khỏi nín thở, ngó nghiêng xuống nền đất, chỉ thấy tùy tùng của Trịnh Hữu lại tiến lên nhìn một cái, thở dài nói: "Lục thuần!"

Trịnh Hữu cả kinh, mông cũng nhấc khỏi chỗ ngồi, ló đầu nhìn kĩ, quả nhiên sáu mặt đồng tiền đều ở chính diện!

Ý kính nể bỗng nhiên nảy sinh, họ Trịnh gã bất kính quỷ thần bất kính thiên địa, nhưng xưa nay khâm phục người kỹ thuật đánh cược cao. Lập tức không chỉ cam tâm tình nguyện nhường Lý Ý Như, còn có ý muốn kết giao với Triệu Bạch Ngư, ngoại trừ kỹ thuật thành thạo kia, gã còn nhìn ra được bản lĩnh phóng khoáng của y, thậm chí ngỏ lời mời đến cuộc thi đá cầu ở ngoại ô mấy ngày sau.

"Đây là một bữa tiệc tốt." Trịnh Hữu đưa thiệp mời ra, chắp tay hướng về phía hoàng thành bái một cái, "Các quý nhân cũng sẽ tới, quen bừa một người thôi cũng đủ để tiền đồ của ngươi ở Kinh đô trở nên xán lạn rồi."

Triệu Bạch Ngư vui vẻ nhận lấy thiệp mời, hỏi: "Hữu huynh có thể tiết lộ quý nhân nào sẽ đến không?"

Trịnh Hữu thấp giọng: "Ngũ lang nhà đương kim Tế chấp, à, bây giờ đã là Tứ lang rồi, có nghe nói qua chưa? Chưa từng nghe cũng không sao, tóm lại đó là quý nhân mà ngươi không trèo tới nổi đâu. Biết Đông cung chứ? Biết Tần vương chứ? Đều là bằng hữu, đồng song thuộc dòng dõi hoàng tộc của Tứ lang cả."

Triệu Bạch Ngư tỏ vẻ sợ hãi, vô cùng cảm kích: "Viên ngoại đối với ta có đại ân đại đức, nếu Triệu mỗ có thể kết giao với quý nhân, một bước lên mây, tất sẽ đến tận cửa đền đáp."

Cái Trịnh Hữu muốn chính là "đền đáp" của thương nhân họ Triệu này.

Ngay lúc Trịnh Hữu muốn tiến thêm một bước trao đổi kỹ thuận đánh cược, một nô bộc hấp tấp chạy tới, rỉ rả bên tai gã mấy câu, mặt Trịnh Hữu biến sắc, vội vàng từ giả.

Buổi mua bán kết thúc, sóng người nhanh chóng tản đi.

Tú Bà trao đổi khế ước bán thân của các cô nương với ngân phiếu của Triệu Bạch Ngư xong, hài lòng rời khỏi đó.

Nghiên Băng nhỏ giọng bên tai Triệu Bạch Ngư: "Ngũ lang, một đôi tay quỷ, xuất sắc luôn."

Môi Triệu Bạch Ngư giật giật: "Ca ngươi là tổ sư gia đánh bạc mà lại."

Nghĩ lại thì, năm đó nhờ y bày sạp đánh cược với người ta mới có tiền mua Nghiên Băng, sau đó còn có thể dùng số tiền đó mua thuốc cho ma ma, giúp Ngụy bá chuộc thân, cùng với tiền chi tiêu cho cuộc sống những năm gần đây cũng đều nhờ y cải trang chui vào gian hàng người ta cá cược kiếm được, mãi đến khi có được công việc đàng hoàng rồi mới không đụng tới nửa.

Kỹ thuật của Trịnh Hữu đúng là lợi hại, nhưng có thể lợi hại hơn kẻ mài luyện trong đám tam giáo cửu lưu như y sao?

Triệu Bạch Ngư dặn dò Nghiên Băng: "Đưa các cô nương đó lên xe ngựa đi, tìm một chỗ nghỉ ngơi đã rồi nói sau."

Nghiên Băng lanh lợi nên đã sớm gọi vài chiếc xe ngựa tới, đỡ mấy ca nữ lên xe, sau đó hai người cũng rời đi theo sau.

Đợi bọn họ đi rồi, cửa sổ của gian phòng trên lầu mới đóng lại.

"Đó chính là Triệu gia Tứ lang, là đứa trẻ do trưởng công chúa Xương Bình sinh ra, từ trước đến nay không được yêu thích, bình thường vô năng, nghe nói lòng dạ hẹp hòi, chỉ giỏi a dua nịnh hót, không thể so sánh với Triệu ngũ lang đâu. Bởi vì ngài nhất thời nảy lòng nên Triệu tế chấp mới thay thành Triệu tứ lang thôi, đó chính là 'vị hôn thê' mà bệ hạ ban cho ngài đấy."

Gọi một nam tử là 'vị hôn thê' của quận vương có cảm giác mất tự nhiên như thể thật sự xem đối phương là chủ mẫu tương lai vậy, phó quan cau mày, kiềm nén cảm giác kì lạ đó lại, xòe lòng bàn tay nắm tờ ngân phiếu ra: "Ngân phiếu này chính là tiền Triệu tứ lang dùng để mua ca nữ, giống hệt với số hiệu trên ngân phiếu mà cửa hàng bạc đưa lại vào đoạn thời gian trước, khi người của ta mang một lượng vàng bạc lớn ra khỏi quận vương phủ rồi gửi vào cửa hàng ấy. Tra ra thì lượng vàng bạc đó chính là sính lễ mang ra khỏi quận vương phủ. Tướng quân, Triệu tứ lang dùng sính lễ ngài đưa tới, mua hai mươi ca kỹ, trong đó còn có cả danh kỹ Kinh đô!"

Phó quan ghét nhất là mấy tên suồng sã ăn chơi đàn đúm, không nhịn được nói: "Thứ người như vậy vào phủ sẽ trở thành một cái gai phiền phức, chi bằng gửi chiết tử báo lên Thùy Củng điện, bệ hạ nhất định sẽ đứng về phía ngài!"

Hoắc Kinh Đường không ngừng lần chuỗi tràng hạt trong tay phải, cười một tiếng, phản ứng không quá mức như Phó quan, có thể nói là vô cùng bình tĩnh: "Y tên gì?"

"Triệu Bạch Ngư, không có tên tự."

"Ta nhớ năm nay y mười chín?"

"Vâng." Phó quan nhìn sắc mặt của hắn, nhìn không ra đó là thái độ gì, chỉ suy đoán rồi nói: "Nếu thật sự phải cho y vào phủ, chi bằng ngay bây giờ phái người đi theo dạy y vài quy củ... Ít nhất cũng phải dẹp cái điệu bộ ăn chơi đàn đúm đó đi mới được."

Hoắc Kinh Đường: "Ngươi đi theo sau quan sát bọn họ đi."

Phó quan: "Là để thuộc hạ ra tay dạy dỗ sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Không, đi theo." Hắn cười một tiếng, "Nếu đêm nay y để ca nữ lại, hoặc làm chuyện vui vẻ gì với mấy cô nàng hồng tụ thiêm hương này thì ngươi phải cướp người về ngay."

"Cướp, cướp ai?"

Hoắc Kinh Đường nheo mắt nhìn gã, không nói gì.

Phó quan: "..."

Tiêu đời, tướng quân vẫn luôn tự giữ mình trong sạch muốn cướp ca nữ về tay, tiền mà 'vị hôn thê' kia tiêu pha thì không thèm lấy lại, một lần cướp hai mươi người, chẳng lẽ những năm này hắn ngột ngạt quá rồi?

***

Triệu Bạch Ngư thu xếp cho các ca nữ ở căn nhà trống mà y đã mua lại lúc trước, cũng đưa lại khế ước bán thân và trăm lượng bạc ròng tặng cho các nàng, làm xong hết thảy thì gọi Nghiên Băng lại: "Về nhà thôi."

"Triệu đại nhân, xin dừng bước."

Lý Ý Như đưa các cô nuong đến trước mặt Triệu Bạch Ngư, sau đó đồng thời quỳ xuống, dập đầu lộp cộp trên mặt đất: "Đa tạ ơn cứu mạng của ân công."

"Không cần tạ ta, đứng lên đi."

Tâm tình Triệu Bạch Ngư phức tạp, nếu như đặt tình huống ở thời hiện đại, các ca nữ lương thiện này đều là người bị hại, bị tú bà ép làm gái điếm, nàng ta, Trịnh Hữu đều nên bị súng bắn chết mới đúng, ngay cả người tham gia mua bán là y cũng có tội.

"Khế ước bán thân này tùy các ngươi xử trí, cầm số bạc này muốn đi nơi nào thì đi, nếu không có nơi để đi, muốn ở lại nơi này thì cứ ở."

"Ân công, ơn này không lời nào cảm tạ hết được, ngày sau nếu như ngài yêu cầu Ý Như đi đâu làm gì, ta tất vào dù có là nơi dầu sôi lửa bỏng." Lý Ý Như nhận lấy một cái hộp gỗ trong tay nha hoàn: "Ơn cứu mạng này không thể báo đáp, hy vọng ân công nhận lấy phần lễ mọn này."

Mở hộp gỗ ra, bên trong có một khối gỗ trắc bốc lên mùi hương khó ngửi vô cùng, bên cạnh còn đặt thêm một cây trâm lưu ly trong suốt màu lam đậm.

Thời này người ta thường cài trâm lưu ly, không còn hiếm có như tiền triều, trái lại không phải vật quá quý giá, nhưng trâm này phối màu sắc thoáng như mưa rào ngày xanh, khác hẳn với trâm lưu ly khác. Khối gỗ bên cạnh y không nhìn ra là thứ gì, nhưng có lẽ cũng không phải vật bình thường.

Triệu Bạch Ngư suy nghĩ một chút, không từ chối: "Vậy ta sẽ giữ giúp ngươi, nếu một ngày nào đó ngươi muốn lấy lại thì cứ tới tìm ta."

Không ép buộc báo đáp trả ơn, cũng không muốn đoạt lấy đồ của người khác.

Lý Ý Như càng khâm phục phẩm chất con người của vị thiếu doãn này hơn nữa, quả thật là một chàng trai thanh chính liêm khiết.

==

Tác giả muốn nói:

Phó quan: Nam chủ mẫu? Không hợp!

==

Chú thích:

(*) Quan phác: Một hình thức đánh bạc ở thời Tống Nguyên. Tất cả hàng hóa của thương nhân có thể dùng để bán, cũng có thể dùng để phác. Hai bên tham gia quan phác sẽ ước định trước giá cả, dùng tiền xâu (tiền đồng) lắc trong lọ sành hoặc ném xuống đất, căn cứ số mặt giống nhau của số đồng tiền để phán định thắng thua. Người thắng có thể đổi tiền lấy vật phẩm, người thua trả tiền. Trò cược này đúng hơn không phải cược tiền mà là cược đồ vật nên người ta chỉ xem như trò giải trí. Lúc đó quan phác không giới hạn đồ dùng sinh hoạt hằng ngày, tuy nhiên có những khi đồ cược rất lớn, "Có người hốt một lần ba mươi phác. Lấy tới xe ngựa, đất đai, ca cơ, vũ nữ,..." (Nguồn: Baidu)

==

Chương 6:

Chương 6: Trần tiên sinh dính líu đến án lộ đề, ông ấy là đồng quan chấm thi, cũng là một trong những chủ mưu!

Chạng vạng, hai con tuấn mã màu mận chín một trước một sau phi nhanh như bay, đột nhiên có một người lao ra giữa đường, người phóng ngựa bị dọa chợt siết chặt dây cương, ngựa hí vang lên, hai vó trước nâng cao rồi lần lượt rơi xuống đất, sượt qua sát vai người cản đường, vô cùng nguy hiểm.

Người trước còn chưa lên tiếng, gia nô cưỡi ngựa phía sau đã hoảng đến nỗi suýt đứng tim, tức giận quát lên: "Ai dám cản ngựa ngoài đường thế?! Có biết lang quân nhà ta là ai không? Nếu gây ra chuyện không may, lột da cả nhà ngươi ra cũng trả không đủ!"

"Ngũ lang, là ta."

Thanh niên đang trấn an tuấn mã nghe vậy quay đầu, chỉ thấy hắn mặc một bộ đồ bắn cung dài tay màu đỏ, trên hông đeo thắt lưng chín khoen, chân mang giày da nai ống cao, lưng đeo cung tên, một tay giữ dây cương, một tay cầm roi ngựa, dưới ánh nắng chiều vẫn có thể nhìn thấy rõ ràng lớp lông măng trên gương mặt nhỏ nhắn, bên tai cài nhành hoa đào hái ở ngoại ô, chói lọi rực rỡ, là thiếu niên lang tiên y nộ mã tràn đầy hăng hái.

Người này chính là Triệu Ngọc Tranh.

Triệu Ngọc Tranh nhìn kĩ kẻ cản đường, đột nhiên nở nụ cười: "Là Trần sư huynh sao? Ta còn chưa chúc mừng sư huynh cao trung, đề tên bảng vàng đâu!" Dừng một chút, nụ cười chỉ còn lại đường chỉ, quan sát Trần Phương Nhung từ trên xuống dưới: "Sao sư huynh trông tiều tụy thế?"

Gò má Trần Phương Nhung gầy nhom, dưới mắt xám đen, tinh thần uể oải, không còn vẻ phấn chấn giống như trước đây nữa.

Gã hít sâu một hơi, chắp tay cúi người thật sâu trước Triệu Ngọc Tranh: "Ngũ lang, bây giờ ta không có cách nào nữa rồi, chỉ có thể đi cầu ngươi cứu lấy cha ta thôi."

Triệu Ngọc Tranh tung người xuống ngựa: "Chuyện gì xảy ra vậy?"

Trần Phương Nhung kể rõ chuyện hắn làm sao lại bị dính vào án gian lận thi cử, sau đó hấp tấp đảm bảo cha mình vô cùng chính trực liêm khiết, nhất định sẽ không thu tiền hối lộ, xin Triệu Ngọc Tranh ở trước mặt Triệu tế chấp, Thái tử và Tần vương cầu một lời giúp đỡ.

Triệu Ngọc Tranh lộ vẻ khó xử: "Gian lận thi cử là án lớn, đến cả cha ta cũng bị gạt ra ngoài, mấy người Thái tử và Tần vương cũng không có quyền can dự... Như vậy đi, ta sẽ nói với cha và bọn họ một câu, nhưng không bảo đảm nhất định có thể cứu Trần thị lang đâu."

Nghe thấy Triệu Ngọc Tranh gọi cha mình bằng cái danh "Trần thị lang" xa lạ, ánh mắt của Trần Phương Nhưng không khỏi tối sầm lại.

Trần Sư Đạo từng đảm nhiệm chức Tế tửu ở Quốc tử giám, trước kia mỗi lần nhìn thấy cha, Triệu Ngọc Tranh đều luôn cung kính gọi hai tiếng "Tiên sinh" hoặc "Ân sư", cha chỉ mới rời Quốc tử giám ba năm, cách gọi đã thay đổi rồi.

Biết Triệu Ngọc Tranh chỉ nghe cha giảng bài một hai lần, nói dúng hơn chưa được tính là học sinh của ông, thay đổi cách xưng hô cũng dễ hiểu thôi. Hơn nữa bây giờ cha đang bị nhốt trong nhà lao, đổi lại là người ngoài né tránh còn không kịp, ít nhất Triệu Ngọc Tranh còn nguyện ý giúp đỡ, vậy cũng coi là nhân hậu lắm rồi.

Nghĩ vậy, Trần Phương Nhung đã chẳng còn đường lui nữa quỳ rạp người xuống đất: "Đa tạ."

"Trời không còn sớm nữa, ta về phủ trước, huynh phải bảo trọng nhé. Đúng rồi, mong rằng sau này sư huynh hãy gọi ta là Tứ lang."

Triệu Ngọc Tranh nói xong liền giục ngựa đi xa, Trần Phương Nhung vẫn quỳ dưới đất một lúc lâu mới thẳng lưng đứng dậy, từ từ đi về.

Lại nói đến Triệu Ngọc Tranh đang thúc ngựa chạy như điên bên này, mới phi qua hai con phố, suýt chút nữa đã đụng phải một người khoác áo gai (*), Triệu Ngọc Tranh siết chặt dây cương, còn chưa kịp nổi giận, nam tử mặc áo gai kia đã quỳ xuống dập đầu nói xin lỗi.

Triệu Ngọc Tranh thấy đối phương mặc đồ tang, phủ đệ sau lưng lại treo đèn lồng trắng, tất nhiên là đang làm đám tang, nhất thời cảm thấy xui xẻo nên cũng lười trách mắng, phất tay ý bảo người mau cút đi.

Nam tử áo gai vội vàng đứng dậy nhường đường, một cuộn giấy bỗng rơi ra khỏi tay áo, cơn gió đâu đó thổi qua lộ ra vài chữ trên giấy, Triệu Ngọc Tranh vội liếc qua, trong đầu chợt lóe sáng, đột nhiên quát lên: "Đây là cái gì?"

Nam tử mờ mịt, sợ hãi đáp: "Dạ, là đồ lấy từ trong thư phòng lão gia nhà ta, sắp sửa đốt đi đưa xuống dưới cho lão gia."

Triệu Ngọc Tranh: "Lão gia nhà ngươi là ai?"

"Lưu Từ Đức, đứng thứ tám, còn, còn gọi là Lưu lão bát."

Triệu Ngọc Tranh vươn tay ra: "Đưa đây cho ta."

Cầm lấy cuộn giấy, Triệu Ngọc Tranh nhìn chằm chằm chữ viết trên giấy: "Phù phí di quảng."

Là đề thi sách vấn (*) của khoa thi lần này, nhìn nét chữ kia, rõ ràng là chữ của Trần Sư Đạo —— Lộ đề thi Hội là từ chỗ Trần Sư Đạo sao? Ông ta thu hối lộ?

(*) Sách vấn - 策问: thi vấn đáp (về chính trị thời xưa)

Ông ấy không phải người sẽ làm vậy.

Lòng Triệu Ngọc Tranh tràn đầy hoài nghi, ngẩng đầu nhìn thấy phía sau cánh cửa lớn đang mở trước mặt lấp ló bóng dáng một người phụ nữ trung niên đầu cài hoa trắng, mặt mũi rất quen thuộc, dường như đã từng gặp ở đâu rồi.

Hắn cau mày suy nghĩ, bỗng dưng con ngươi co rút cực nhanh, hắn nhớ ra người phụ nữ đó là người ở đâu rồi!

Dùng roi ngựa chỉ vào nam tử áo gai, Triệu Ngọc Tranh hỏi: "Người mới vừa đi qua đó có quan hệ thế nào với lão gia nhà ngươi?"

Gia nô Lưu gia ngờ vực một chút: "Người ngài hỏi chính là lão phu nhân? Bà, bà là nghĩa mẫu của lão gia."

Mặt Triệu Ngọc Tranh liền biến sắc, nhét tờ giấy vào trong tay áo, không nói hai lời thúc ngựa về nhà, tìm thấy Triệu Bá Ung thì nhanh chóng thuật lại chuyện mà hắn vừa nghe thấy.

"Con nói, bà vú của Thái tử dính dáng tới án lộ đề thi sao?"

"Vâng." Triệu Ngọc Tranh cầm tờ giấy ra nói: "Con nhận ra chữ của Trần thị lang, nhất định đây chính là đề bị lấy ra từ phòng của ông ấy. Bất kể là bị lấy trộm hay Trần thị lang vốn tham gia vụ lộ đề này, cuối cùng cũng sẽ liên lụy đến Thái tử thôi."

Triệu Bá Ung thu tờ giấy lại, suy nghĩ kĩ mấy giây rồi nói với Triệu Ngọc Tranh: "Tứ lang, con làm rất khá, chuyện này chớ để lộ ra ngoài."

"Con biết rồi." Triệu Ngọc Tranh nhớ đến một chuyện, do dự nói: "Cha, dù gì Trần thị lang cũng từng giảng bài cho con, có thể nói vài câu trước mặt bệ hạ giúp ông ấy được không?"

Triệu Bá Ung lắc đầu: "Nếu như không có tờ giấy này, bệ hạ sẽ vì công phụng sự ba triều mà tha cho ông ta một mạng, nhưng có tờ giấy này, ông ta phải là người kết thúc án lộ đề khoa thi."

Triệu Ngọc Tranh hiểu ý Triệu Bá Ung, lại nghĩ đến Trần Phương Nhung quỳ rạp dưới đất cầu xin hắn, trong lòng không khỏi thở dài, không còn cách nào nữa, hắn cũng đã tận lực rồi, đáng tiếc cho vận thế của Trần Sư Đạo sắp sửa chấm dứt.

Triệu Bá Ung đóng kín thư lại, sai người mang phong thư này giao cho Triệu đại lang đang làm việc ở đại nội.

Triệu Trường Phong nhận được tin, mượn chức vụ đêm hôm gõ mở cửa Đông cung, tụ họp bàn bạc.

***

Đông cung.

Cung nhân đốt nến, đèn đuốc sáng ngời, canh cửa nghiêm ngặt, trong viện im lặng như tờ. Trong thư phòng, đám người Thái tử, Ngũ hoàng tử và Triệu Trường Phong đều trầm ngâm nhìn đề thi đặt trên bàn.

Ngũ hoàng tử bỗng dưng vỗ bàn: "Hừ! Vú nuôi kia thật to gan, bất kể mụ ta làm sao lấy được đề thi ở chỗ Trần Sư Đạo, thì khi để cho nghĩa tử của mụ buôn bán thứ đó khắp cả thành cũng phải nghĩ đến Thái tử một chút chứ! Cũng may Tứ lang phát hiện sớm, nếu như để cho Hoắc Kinh Đường và Đại lý tự tra được rồi đến tai phụ hoàng, Nhị ca huynh nhất định không thoát khỏi liên can."

Trong lòng Thái tử vẫn còn sợ hãi, sắc mặt u ám, chỉ khi nhắc tới Triệu Ngọc Tranh, biểu cảm mới dịu lại đôi chút: "May nhờ có phúc tướng của Tứ lang."

Ngũ hoàng tử: "Nhị ca, tránh cho đêm dài lắm mộng, không bằng thẳng tay diệt khẩu?"

Thái tử: "Không thể."

Ngũ hoàng tử cuống cuồng: "Ngài còn băn khoăn cái gì nữa?"

Thái tử: "Mấy ngày trước, Đại lý tự trước lúc xét duyệt thẩm tra vụ án lộ đề thi có đến Hình bộ đối chiếu lại, sau khi ta xem xong người đổ đầy mồ hôi lạnh, có biết vì sao không?"

Ngũ hoàng tử lắc đầu: "Không biết."

Thái tử: "Thí sinh tham gia mua đề thi, hối lộ quan chấm thi có một nửa là người bên dưới của chúng ta! Nếu không phải buổi đối chiếu diễn ra dưới sự kiểm soát của ta, thật sự là ta chết như thế nào cũng không hay đấy!"

Thái tử quản Hình bộ, đồng thời kiêm nhiệm một chức vị không có thực quyền ở phủ doãn, mà Đại lý tự muốn thẩm tra thì cần phải đệ trình lên Hình bộ để tiến hành đối chiếu, vì vậy hắn mới biết được có bao nhiêu nguy cơ trong vụ gian lận thi cử này.

Ngũ hoàng tử lộ vẻ sợ hãi, đến cả Triệu Trường Phong không nói lời nào cũng là vì đang âm thầm hoảng sợ.

Thái tử: "Cũng may một nửa còn lại chính là người của Tần vương. Lần này gian lận có hai nhóm người tham gia, nếu như ta không đoán sai, nhóm người kia là người dưới trướng Tần vương, phụ trách dẫn dắt bắc cầu hối lộ quan chấm thi, thu về một số tiền lớn, sau đó nâng đỡ người mình lên. Nếu như có thể ở trong cung viết văn, nói không chừng có thể khiến Tần vương ăn một thiệt nhiều."

Ngũ hoàng tử tỏ vẻ vui mừng.

Triệu Trường Phong nói: "Muốn bắt kẻ gian phải cầm tang vật, cần có nhân chứng vật chứng, đóng cứng tội danh mới được."

Thái tử: "Ta cũng sầu lắm, ném chuột sợ vỡ bình nên không dám động vào Tần vương. Nhưng ông trời cũng đang giúp ta đây, ông đã đem tờ giấy này đến chỗ ta kia mà!"

Ngũ hoàng tử: "Ý của Nhị ca là?"

Thái tử: "Trần thị lang ra đề thi, Vương thượng thư cũng biết chứ?"

Ngũ hoàng tử: "Ông ta là quan chủ khảo, chắc chắn sẽ biết!"

Thái tử cười một tiếng: "Vậy thì giao tờ giấy này cho Vương thượng thư, bắt ông ta nói sự thật bà vú làm lộ đề, nếu ông ta muốn cứu gia đình mình thì sẽ biết phải làm gì thôi."

Ngũ hoàng tử không hiểu: "Không phải chứ? Huynh không phải, không phải đang tự chui đầu vào lưới sao?"

Thái tử: "Ta nhớ không lầm, Trần thị lang từng đảm nhiệm chức Tế tửu Quốc tử giám, phụ trách dạy học ở đó. Năm Nguyên Thú thứ ba, Tần vương bắt đầu vỡ lòng, Hoàng quý phi cầu phụ hoàng để Thái phó của ta làm thầy dạy Tần vương, bị phụ hoàng cự tuyệt mới quay lại mời Trần thị lang làm lão sư vỡ lòng cho Tần vương. Tuy chỉ dạy không đến hai năm, nhưng cũng là ân sư của hắn."

Ngũ hoàng tử còn hơi mông lung, nhưng Triệu Trường Phong đã rõ ràng, làm đúng theo như lời dặn.

***

Cùng lúc đó, bước chân của Trịnh Hữu vội vã, tiến vào biệt viện liền tháo mũ chụp đầu xuống, nhìn mấy người trong nhà, đột nhiên vỗ bàn một cái: "Đại lý tự tra việc gian lận thi cử, tra tới trên đầu các ngươi rồi chứ gì? Ai đã nói lời không nên nói? Mau chủ động khai ra, đừng để ta phải tra."

Một đám người cúi đầu, không ai dám nói lời nào.

Một người đứng đầu chủ động nói: "Lão gia, chúng ta biết gian lận là chuyện không nhỏ, miệng cũng dán kín mít, không dám nói gì bậy bạ!"

Trịnh Hữu: "Phải không? Chứ không phải uống nhiều rượu rồi ăn nói xằng bậy sao?"

Gã chần chừ kéo dài, nhìn xung quanh, phía sau có một người bỗng quỳ xuống đất cầu xin được tha thứ: "Hữu gia, ta sai rồi, ta không dám nhiều lời! Ta biết tội rồi, ta nguyện ý lập công chuộc tội, cầu xin Hữu gia tha mạng!"

Trịnh Hữu hỏi: "Ngươi đã nói cái gì?"

Người nọ thấp thỏm không yên, trả lời: "Ta ta, ta chỉ nói, có thể giúp hắn vượt qua kì thi Hương, hắn... Hắn ra tay phóng khoáng, ăn mặc cũng không tầm thường, lời nói hành động cũng mơ hồ, ta cho rằng hắn là một thương nhân dốt nát muốn trúng cử —— nhưng ta có nói với hắn là chỉ có thể giúp được cho kì thi Hương tú tài ở Giang Tây, Giang Đông thôi, còn ở Kinh đô thì chớ hòng mơ tưởng —— "

"Vô liêm sỉ!" Trịnh Hữu nổi giận: "Ngươi mẹ nó không phải gián tiếp nói cho người khác biết chúng ta dám nhận hối lộ, gian lận để kiếm chác ngay cả trong kỳ thi cấp tỉnh sao?!"

Người nọ đổ mồ hôi lạnh, không dám lên tiếng nữa

Trịnh Hữu lấy lại bình tĩnh hỏi: "Ngươi có nhớ người nhờ cậy mình có dáng vẻ thế nào không?"

Người kia vừa nhớ lại vừa miêu tả, Trịnh Hữu nghe càng lúc càng kinh hãi: "Hán đao cái gì? Tiêu sư cái gì? Đó là Hoàn Thủ Đao! Là quân đao chuyên dụng của quân Tây Bắc! Mẹ nó, đó là người của Lâm An quận vương!"

Trịnh Hữu lạnh lùng: "Ta sẽ cấp một ngàn lượng phí an trí, đảm bảo người nhà ngươi không chết."

Nhất thời, người nọ quỳ rạp không dậy nổi.

***

Triệu Bạch Ngư dùng cơm tối, tiêu thực xong xuôi, quay về phòng việc trước tiên làm là kiểm tra lại các vụ án đã phê duyệt theo thói quen, nhìn thấy một vụ phát sinh ở phố hoa trà cách đây không lâu.

Vừa hay, chính là tửu lâu nơi Lý Ý Như và các cô nương ở.

Người chết tên là Lưu Từ Đức, tên thường gọi là Lưu lão bát, là phú hộ trong thành, dưới góc phải còn ghi chép lại, nghĩa mẫu của gã chính là bà vú của Đông cung Thái tử, hóa ra lai lịch lại lớn như vậy, chẳng trách vụ án lại được tra nhanh đến thế.

Đặt hồ sơ liên quan sang một bên, Triệu Bạch Ngư cầm một xấp hồ sơ khác lên xem, bỗng nhiên cửa thư phòng bị đẩy ra, y giương mắt lên nhìn thấy một ông lão râu dài, khoảng chừng năm mươi tuổi, ông vội vã tiến vào nói: "Ngũ lang, Trần tiên sinh bị bắt vào Đại lý tự rồi!"

"Ân sư? Có chuyện gì vậy?"

"Trần tiên sinh dính líu đến án lộ đề, ông ấy là đồng quan chấm thi, cũng là một trong những chủ mưu!"

Ông một tiếng, Triệu Bạch Ngư như bị gậy sắt đánh vào đầu, thoáng chốc đầu váng mắt hoa.

==

Chương 7: Muốn cứu lấy ân sư thì phải đắc tội cả triều văn võ.

Nhờ sự giúp đỡ của Ngụy bá, Triệu Bạch Ngư tránh được Cấm quân tuần tra ban đêm, gõ cửa Trần phủ.

Tiểu môn đồng mở cửa, mắt nó hồng hồng, không khỏi mơ hồ: "Triệu Bạch Ngư?"

"Trần Phương Nhung đâu rồi?" Triệu Bạch Ngư lách người chui vào cửa, băng qua sân đi thẳng tới nơi ở của Trần Phương Nhung, Ngụy bá theo sát sau lưng y, tiểu môn đồng vội đóng cửa, cũng chạy theo y hô với.

"Đại lang nói không thể cho ngươi vào phủ."

"Chờ đến lúc ân sư có thể thoát khỏi nhà lao, ta sẽ tự mình đưa cho hắn một tấm bảng 'Triệu Bạch Ngư và chó không được vào phủ'." Triệu Bạch Ngư bước nhanh hơn, cất giọng hô to: "Trần Phương Nhung!"

Rẽ qua chín khúc cua hành lang, Trần Phương Nhung đâm đầu đi tới, thần sắc tiều tụy bảo tiểu môn đồng dừng bước, nhìn về phía Triệu Bạch Ngư, giọng điệu quái dị: "Ngươi vì chuyện của cha ta nên mới đến Trần phủ ngay trong đêm sao?"

"Nói nhảm!" Triệu Bạch Ngư lạnh mặt hỏi: "Huynh biết được bao nhiêu chuyện?"

Mặt Trần Phương Nhung tái nhợt: "Ta còn chưa nhậm chức, không có nhân mạch, cũng không có nổi một đường dây tin tức, hơn nữa tình ngay lý gian, nói không chừng đến công danh cũng đều bị tước đoạt rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Lộ đề có liên quan đến thầy hay không?"

Ánh mắt Trần Phương Nhung trở nên sắc bén, cao giọng hỏi: "Ngươi nghi ngờ cha ta ư?"

Triệu Bạch Ngư cuộn hai tay lại đứng nghiêm chỉnh, từ trước đến nay, mỗi khi gặp chuyện y đều tỉnh táo, càng khó giải quyết thì càng bình tĩnh.

"Huynh cũng đã nói tình ngay lý gian còn gì, bây giờ thầy là đồng quan chấm thi, cũng là một trong những người ra đề, với lý lịch của thầy, rất có thể phần lớn đề thi đều là do một mình thầy ra, ngoại trừ ông thì cũng chỉ có quan chủ khảo có thể biết trước đề thi. Hiện giờ thầy ngay thẳng vẫn bị nghi ngờ, cứ cho rằng ông không làm lộ đề nhưng cũng mang hiềm nghi lớn nhất! Thầy không lộ đề, không nhận hối lộ, nhưng không đảm bảo trong phủ không có người ham tiền bán lương tâm."

Trần Phương Nhung không phải kẻ ngu, hắn nghe hiểu ý Triệu Bạch Ngư, cũng nhận ra y đúng là đang nghĩ đủ mọi cách cứu cha mình.

"Ngươi nghi ngờ có người trộm đề của cha ta đem ra ngoài bán?"

"Trừ phi quan chủ khảo là người tiết lộ đề, bằng không chỉ có khả năng này."

Hỏng bét nhất chính là lúc này chế độ thi cử không hoàn thiện bằng đời sau, quan viên được bổ nhiệm làm quan chấm thi vẫn có thể về nhà, trong khoảng thời gian đến khi chính thức bắt đầu khoa thi thì đều sẽ ở nhà, vậy nên có vô vàn cách để tiết lộ đề thi ra ngoài.

Triệu Bạch Ngư thở dài không gây tiếng động, đáng tiếc y không thể biết trước ân sư sẽ được bổ nhiệm làm quan chấm thi, cũng trách bản thân quá bận rộn, hai tháng nay không đến thăm ân sư, nếu không đã có thể tìm hiểu chút tình hình để kịp chuẩn bị trước khi án gian lận thi cử bùng nổ, giờ đây cũng không đến nổi luống ca luống cuống.

"Trước tiên triệu tập người trong phủ lại, vặn hỏi từng người. Bên nhà lao Đại lý tự có người ta quen biết, ta có thể nhờ hắn giúp săn sóc ân sư, sẵn tiện dò la tin tức. Bây giờ huynh không cần gấp, chớ có lún sâu vào chuyện này, trước tiên phải tránh khỏi hiềm nghi. Ta xem thứ hạng của huynh rồi, cũng may không phải nhất giáp (*), tuy nhiên cũng đủ gai mắt rồi, cẩn thận kẻo bị đưa đi làm văn."

(*) Đời khoa cử, thi tiến sĩ lấy "nhất giáp" 一甲, "nhị giáp" 二甲, "tam giáp" 三甲 để chia hơn kém.

Hai lần thi Đình, Trần Phương Nhung đều đứng hàng nhị giáp, chỉ vậy thôi cũng đủ để chứng minh thực lực của hắn, nhưng trước mắt thật sự không có quen biết ai, hiềm nghi lại quá lớn, không giỏi văn chương cũng có thể đi làm văn, đến lúc đó ngược lại trở thành công cụ đánh ngã ân sư thì không ổn.

Từ sau khi cha bị cuốn vào án gian lận, Trần Phương Nhung liền chạy đi khắp nơi cầu người, đồng song ngày xưa, học sinh của cha, bằng hữu thân thiết của cha, không phải từ chối thì cũng là không dám nhúng tay, còn có người trực tiếp đóng cửa không tiếp khách, kiêu ngạo to lớn của gã đã sớm bị mài mòn chẳng còn mấy, nội tâm cũng dần nảy sinh nỗi phiền muộn u ám.

Ngày thường thì đạo đức nhân nghĩa, tôn sư trọng đạo, đại nhân đại nghĩa, lời hay ý đẹp treo ở bên mép, đến lúc thật sự nguy cấp lại chẳng có một ai dám đứng ra!

Trái lại là Triệu Bạch Ngư, người mà gã xem thường nhất, người gã luôn nghĩ là kẻ hai mặt khẩu phật tâm xà, chỉ vừa mới nghe tin tức đã không ngại Cấm quân tuần tra, suốt đêm bôn ba chạy tới, không phải để nói những lời an ủi vô nghĩa, mà là vì để tra rõ chân tướng, hành động đâu ra đấy rõ ràng.

Nỗi phiền muộn tăm tối của Trần Phương Nhung được giải tỏa đôi chút, thấp giọng nói: "Cảm ơn."

"Đừng nói những câu này."

Y nghĩ về nguyên tác, vụ gian lận thi cử này đã giúp Thái tử chèn ép phe cánh Tần vương —— chờ đã, vậy là cũng có liên quan dến Thái tử sao?

Triệu Bạch Ngư nhớ lại, hai tháng trước mình có đụng phải một người phụ nữ ở cửa sau Trần phủ, lúc này mới hỏi: "Cha huynh có quen biết nữ hầu nào làm việc trong Đông cung không?"

Trần Phương Nhung: "Cha ta nào có lui tới làm việc với Đông cung, không có giao tình."

Triệu Bạch Ngư quay đầu hỏi môn đồng: "Ta hỏi ngươi, hai tháng trước ta giao lại thẻ ngà cho ngươi, có người nào tới lấy hay không?"

Môn đồng gãi đầu nghĩ ngợi chốc lát rồi đáp, "Dạ không."

Triệu Bạch Ngư, "Đem tới đây."

Môn đồng lên tiếng đáp lại, chạy như bay về phòng cầm thẻ ngà tới.

Trần Phương Nhung hỏi có chuyện gì xảy ra, Triệu Bạch Ngư chỉ nói: "Có manh mối. Chờ lát nữa huynh trực tiếp tra hỏi người làm trong phủ, tháng trước ai là người nhận tiền, ai là người bỏ tiền, sau đó cho quản gia đi lục soát, xem trong phòng người nào có giấu tiền."

Trần Phương Nhung làm theo, vội vàng chạy ra tiền thính.

Một lát sau, môn đồng chạy trở lại đưa thẻ ngà cho y, Triệu Bạch Ngư giấu vào tay áo rồi đi tới tiền thính, lại gặp phải Trần Phương Nhung sắc mặt khó coi đến cực điểm ở đối diện.

Ánh mắt Trần Phương Nhung rét lạnh: "Có người dùng hai đĩnh vàng mua chuộc người hầu để lẻn vào phủ, trước kì thi ba ngày, đó là lúc cha ta vừa mới chốt đề thi!"

"Có hỏi ra được là ai không?"

"Chỉ nói là một người phụ nữ, còn lại không biết. Ngươi mới nhắc đến thẻ ngà... Là cung nhân Đông cung ư? Có liên quan đến Thái tử sao?"

Triệu Bạch Ngư chưa nói, Trần Phương Nhung cũng biết y không muốn tiết lộ quá nhiều, nói nhiều tất mất, rất dễ gây thêm rắc rối.

"Người phụ trách vụ án này là ai?" Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên hỏi, giờ phút này y nghĩ, nếu không được nữa thì phải tìm Thượng quan Tri phủ của y giúp đỡ thôi.

"Là Lâm An quận vương." Vừa nói xong, Trần Phương Nhung liền nhớ tới việc Triệu Bạch Ngư bị Thánh thượng chỉ hôn, giờ đã là 'vị hôn thê' của Lâm An quận vương rồi.

Danh tiếng của Lâm An quận vương cực kì kém, ai cũng biết Triệu Bạch Ngư phải hy sinh thay Triệu Ngọc Tranh gả đi. Trước kia không cảm thấy có vấn đề gì, bây giờ mới giật mình phát hiện, những năm này Triệu Bạch Ngư thật sự khốn khổ biết bao nhiêu.

Trong lòng Trần Phương Nhung ngũ vị tạp trần, nhất thời không nói gì.

Triệu Bạch Ngư như có điều suy nghĩ: "Thân phận này thật ra lại hữu dụng."

Trần Phương Nhung nghe vậy chắp tay, khom người thật sâu: "Đại ân đại đức của ngươi, ngày sau Quý Ngọc sẽ trả."

Triệu Bạch Ngư đỡ gã dậy: "Vì học, không có gì quan trọng hơn tôn trọng ân sư, về tình về lý, làm quan hay làm học sinh, ta đều sẽ tận tâm tận lực."

Hốc mắt Trần Phương Nhung ẩm ướt, rất lâu cũng không thể đứng thẳng người.

Hay cho vì học không có gì quan trọng hơn tôn trọng ân sư, hay cho làm quan hay làm học sinh cũng sẽ tận tâm tận lực, trên đời này mãi mãi sẽ không tìm ra được một Triệu Bạch Ngư thứ hai!

***

Triệu Bạch Ngư vừa rời khỏi Trần phủ đã lập tức đến tìm nha dịch ở Đại lý tự, đối phương từng nhận ân tình của y, không nói hai lời lập tức đáp ứng chiếu cố Trần Sư Đạo trong nhà lao nhiều hơn, lại ngó chừng không có người, lặng lẽ nói cho y biết tiến triển vụ việc.

"Vương thượng thư cùng cử tử có liên can đã nhận tội rồi, Trần đại nhân rất kiên định, khăng khăng mình vô tội, nhưng Vương thượng thư chỉ điểm ông, ta thấy vụ việc này được kết luận cũng là chuyện sớm hay muộn thôi. Tiểu quận vương cũng từng đến đại lao một lần, phân phó mấy thuộc hạ chiếu cố Trần đại nhân, nhưng sau đó không có quay lại, nhìn giống như là muốn bỏ mặc hết thảy, mọi sự đều không quan tâm nữa. Đúng rồi, ngày đó tiểu quận vương tới, vừa hay ta cũng ở đây, nghe hắn nói có đến hai nhóm người tham gia gian lận."

"Nói hết cho ta nghe."

Nha dịch nói hết những gì hắn nghe được ngày đó ra.

"Ngươi nói người bán đề tên gì?"

"Lão cửu lão bát gì đấy thì phải?"

"Lưu lão bát?"

"Đúng vậy, chính là cái tên này!"

Lưu Từ Đức, Lưu lão bát, có nghĩa mẫu là bà vú của Thái tử, là người phụ nữ đánh rơi thẻ ngà của Đông cung, mua chuộc người hầu của Trần phủ để lẻn vào đánh cắp đề thi mà ân sư định ra ——

Triệu Bạch Ngư xâu chuỗi đơn giản ngọn nguồn của án lộ đề thi, nghe còn khó giải quyết hơn y tưởng tượng, Lưu lão bát đã chết đột ngột, chỉ còn lại chứng cứ là bà vú của Thái tử, mà bà ta lại đang ở Đông cung.

Trong nguyên tác, vì Triệu Ngọc Tranh có hào quang nhân vật chính nên phe Thái tử tránh được một kiếp, có lẽ là bọn họ biết trước chuyện bà vú đi trộm đề thi. Giả thiết Đông cung đã biết, bọn họ sẽ dùng cách gì để thoát tội đây?

Đại lý tự đã tra được Lưu lão bát, thuận tay là đã có thể tra ra quan hệ của gã và Đông cung, hơn nữa một nửa học sinh gian lận và bè cánh Thái tử là một mớ dây mơ rễ má, quan hệ phức tạp, có làm gì cũng không tránh khỏi liên quan.

Phe Thái tử phải làm sao mới có thể thoát thân?

"Kẻ gây tai họa, tự biên tự diễn." Triệu Bạch Ngư lẩm bẩm: "Tần vương, một hiệp khách đội nồi chuyên nghiệp."

Dù ai có gặp họa đi chăng nữa, ân sư cũng rất khó mà thoát tội, ông sẽ trở thành cái đinh làm tổn thương Tần vương hoặc Thái tử, mà Nguyên Thú đế không thể nào ra tay với con ruột của mình, lão chỉ còn cách tìm dê thế tội thôi.

Mà ân sư chính là con dê đó, kết cục ông chắc chắn sẽ phải chết.

Kể cả có tra rõ ràng sự thật thì cũng chẳng có ai giúp đỡ cho ân sư thoát tội, bởi vì vụ án có dính líu đến Tần vương và Thái tử, thậm chí liên quan đến cả bá quan, bè cánh tranh đoạt quyền thế sau lưng bọn họ.

Muốn cứu lấy ân sư thì phải đắc tội cả triều văn võ.

==

Chương 8: Ngài nhìn món đồ này thử xem? Có giống huyết phách ngàn năm không?

Lâm An quận vương phủ.

Phó quan bước nhanh, đẩy cửa thư phòng, mùi thuốc nồng nặc từ phía đối diện xộc vào mũi, cửa sổ cũng đóng chặt, bốn lò lửa đang cháy cùng một lúc, đốt nóng căn phòng thành một cái lồng hấp.

Chăn lông cừu dày rũ xuống tháp, một góc trượt xuống mặt đất, Hoắc Kinh Đường cuộn mình trong chăn nghỉ ngơi, dù đang ở trong cái lồng hấp mà vẫn cóng đến nỗi mặt mũi tái mét.

Phó quan: "Bẩm tướng quân, người bán đề Lưu lão bát đã chết đột ngột được hơn nửa tháng nay rồi, còn kẻ trước đó bị thẩm vấn ở phường hoa trà cũng tự vẫn tại nhà, mấy tên bán đề ngoài chợ, thu hối lộ giúp tìm cách gian lận qua một đêm liền không xuất đầu lộ diện nữa."

Hoắc Kinh Đường lần tràng hạt: "Ta đã nói rồi, ngày đó ngươi không nhanh chóng trừ khử chúng, sau này khó mà bắt lại được."

Phó quan hổ thẹn: "Thuộc hạ chỉ muốn thả dây dài câu cá lớn."

Hoắc Kinh Đường: "Cỏ cây đều là binh lính, người người đều tự nhận ra nguy hiểm, bọn chúng sẽ cho ngươi có thời gian đợi cá lớn sao?"

Phó quan cúi đầu thấp hơn, biết mình đã làm hỏng việc được giao, không còn mặt mũi nào gặp người khác, đột nhiên nhớ đến gì đó bèn nói: "Thuộc hạ còn tra được một chuyện, Lưu lão bát tên là Lưu Từ Đức, nhận bà vú của Thái tử làm nghĩa mẫu, cả hai người đều giỏi đánh cược, nhưng lại đều thiếu nợ ngàn lượng tiền cược. Nhưng hai tháng trước bọn họ đã trả xong món nợ đó rồi, thậm chí dùng tiền thừa đi tìm thú vui, thuộc hạ muốn hỏi chuyện bà vú ở Đông cung, nhưng Đông cung nói bà ta mất con thương tâm quá độ đã trở nên điên loạn. Có điều trước lúc ra khỏi Đông cung, ta có nghe thái giám tổng quản khiển trách vì có một tấm thẻ ngà bị mất hai tháng cũng không ai báo lên, ta kiểm tra ghi chép thì phát hiện người cuối cùng dùng thẻ ngà đó chính là bà vú của Thái tử!"

"Còn nữa." Phó quan chần chừ một chút rồi nói tiếp: "Thuộc hạ cho người đi dò la ở các tỉnh khác một chuyến, trên đường gặp một tú tài bị thương nặng. Hắn đến từ Giang Tây, chuẩn bị lên kinh tố cáo quan chủ khảo tỉnh Giang Tây là Trần Chi Châu nhận hối lộ, công khai gian lận thi cử, bạo lực trấn áp các thí sinh đến khóc oan ở Khổng miếu, ép người ta đến nỗi tay chân tàn tật, còn cho người chặn đường đánh thí sinh đi cáo ngự trạng —— người của chúng ta không kịp cứu hắn, nhưng đã đưa bốn trăm năm mươi ba thí sinh Giang Nam và bức huyết thư cáo trạng Trần Chi Châu mà hắn mang theo đi."

Hoắc Kinh Đường không nhúc nhích, hồi lâu mới nói: "Tìm người theo dõi Trịnh Hữu đi. Tay chân của hắn quá dài, khoa cử tỉnh ngoài cũng dám đụng vào, trừ trường thi Giang Nam, cũng không biết còn đụng đến bao nhiêu tỉnh —— hình như quy tắc của bọn chúng là tiền nhận một nửa trả một nửa, để ở tiền trang (*) chờ đến khi xong việc thì kết khoản chót, còn thấy không ổn thì lại rút về."

(*) Tiền trang: ngân hàng

Phó quan: "Vâng."

Hoắc Kinh Đường: "Ta nhớ không lầm, Tri phủ kinh đô là môn sinh của Thập thúc, ngươi mượn danh Thập thúc đến Nha môn, nhờ Tri phủ tra hết tất cả sòng bạc, tửu lâu, rạp hát ở hai thành Đông, Tây, phàm là sản nghiệp của Trịnh Hữu thì đều phải tra hết. Đợi đến khi hắn dùng hết tiền, thiếu bạc chắc chắn sẽ động vào khoản chót. Chỉ cần hắn ra tay, ta sẽ bắt gọn hết một mẻ."

Phó quan do dự: "Nhưng tướng quân, ngài nói bây giờ ai cũng nhận ra nguy hiểm, hắn ta dám ở bước ngoặc này cho người đi lấy bạc sao? Số bạc đó không chừng có thể làm bọn chúng bại lộ đồng bọn ở tỉnh ngoài, Trịnh Hữu dám bí quá hóa liều sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Phủ Trịnh quốc công quen thói phô trương, thường dùng tiền đút lót trên dưới, thích nhất là lấy lý do cắt giảm chi phí và lương thực trong quân để khoe tài lấy lòng với bệ hạ, thật ra toàn dựa vào tiền bạc mà Trịnh Hữu đưa cho mới giữ cho quân Dực Châu không đến nỗi bị giải tán."

Mấy chục cả trăm người há miệng chờ cơm, mỗi ngày đúng giờ đúng điểm đốt tiền, một khi khoản thu bị cắt đứt, có thể tưởng tượng được hậu quả sẽ nghiêm trọng biết bao nhiêu.

Nhắc tới cha con Trịnh quốc công, mỗi lần trên triều cấp quân phí đều nhảy ra nói láo không biết ngượng, nói gì mà giảm bớt quân phí lương bổng, cắt quân đội, gì mà chủ yếu là phải hoàn hảo, mặt dày mày dạn tranh nhau khóc nghèo, tính toán chi li cả quân phí của quân Tây Bắc, phó quan tức lắm mà không có chỗ phát tiết.

"Tuân lệnh! Ta trái lại muốn xem thử bọn họ làm sao có thể giả vờ trước mặt bệ hạ!"

Vẫn chưa tới một nén nhang, mà trên trán phó quan đã đầy mồ hôi, cảm giác cực kì khó chịu, lại nhìn đến mặt mũi Hoắc Kinh Đường cóng tới nỗi không còn giọt máu, bất giác càng phiền não hơn, lòng tràn ngập bi phẫn: "Bây giờ mới tháng tư, cổ độc đã bắt đầu phát tác rồi, chi bằng lại phái người đi tìm Từ thần y thôi ạ?"

Năm đó, Hoắc Kinh Đường hai mươi mốt tuổi đánh một trận với Nam Cương, bị trúng cổ, mặt nổi mụn độc, vậy nên mới có chuyện hắn sửa danh xưng là La tướng quân. Sau khi trúng cổ độc, vào mùa đông thì nhiệt độ cơ thể tăng cao, mùa hè thì lạnh như bị nhét vào hầm băng, độc này không làm người trúng chết ngay, mà là muốn để cho người đó bị hành hạ liên miên, sau đó mới chết đi trong thống khổ.

Sau khi giao binh quyền về lại kinh đô, bệ hạ và Khang vương đều phái người đi tìm thuốc giải, ở biên giới Đại Cảnh và Giao Chỉ (*) tìm được thần y Từ Minh Bích, thần y chẩn đoán qua, nói chỉ có thể làm dịu nó chứ không có cách nào trừ tận gốc, độc tố trên mặt được loại bỏ, nhưng mỗi năm cứ đến tháng mười một mười hai, và hai tháng bảy tám đều phải chịu khổ.

(*) Giao Chỉ (chữ Hán: 交趾) là địa danh một phần lãnh thổ Việt Nam trong lịch sử, từ thời Hùng Vương đến các kỳ thời Bắc thuộc. Nó cũng là tên Bắc Tống và Nam Tống gọi 3 nhà nước của nhà Đinh, nhà Tiền Lê, và nhà Lý từ 975 đến 1164. (Wikipedia)

Năm ngoái, đến tận lúc mùa hè nóng bức nhất cổ độc mới phát tác, năm nay mới tháng tư đã bắt đầu hành hạ, nói rõ thuốc áp chế đã không còn hiệu quả nữa.

"Vô dụng thôi." Giọng Hoắc Kinh Đường rất thấp, tốc độ cũng chậm, giờ phút này hắn cực kì yếu ớt, tinh thần phải vô cùng mạnh mẽ mới có thể giữ mình tỉnh táo.

Lại nói hành tung của Từ Minh Bích bất định, không muốn làm quan. Ba năm trước còn bị thương nên đã lánh đời không gặp người khác, trước đây hắn cũng nói chẳng phải không có cách trừ tận gốc cổ độc kia, chỉ là thiếu một vị thuốc: huyết phách ngàn năm.

Huyết phách ngàn năm còn khó có được hơn cả tùy châu ngọc bích, thứ đó từng xuất hiện ở một nhà giàu có nhất Giang Nam, bốn năm trước gia chủ bị diệt môn cũng đã biến mất theo, mấy năm gần đây bọn họ phái ra vô số ám vệ đi tìm cũng không tài nào tìm ra được.

Phó quan cắn răng bất lực.

"Ra ngoài đi, đừng có đứng đờ trong phòng ta như trúng nắng thế kia." Hoắc Kinh Đường hé nửa mắt ra, đôi con ngươi trong trẻo như khảm lưu ly tùy ý liếc qua, lại trông giống như ánh mắt từ bi của Bồ tát vậy.

Phó quan lòng ngập khổ sở, ra đến cửa viện, nam nhi cao thước tám nhăn mặt khóc lên, bị Khang vương đến thăm nhìn thấy.

Khang vương đứng hàng thứ mười, từ nhỏ đã được nuôi nấng bên cạnh Thái hậu, tuy không cùng một mẹ sinh ra với Nguyên Thú đế nhưng tình như thủ túc, xưa nay vẫn luôn yêu chiều đứa cháu trai Hoắc Kinh Đường này.

"Ôi, vương gia nhà ngươi còn chưa chết mà đã khóc tang rồi à."

Phó quan vội vàng hành lễ, không nhịn được bẩm báo tình trạng ngày càng tệ của Hoắc Kinh Đường, xong chuyện này mới nhắc tới việc được giao.

Khang vương vốn muốn vào gặp Hoắc Kinh Đường một lúc, nghĩ đến đứa cháu trai đang bị giày vò, cổ độc chỉ càng lúc càng nghiêm trọng hơn thì trong lòng lo lắng không thôi, người cũng chẳng vào gặp, nói sau khi rời phủ sẽ phái một đám ám vệ tiếp tục đi tìm huyết phách vạn năm.

Ông vừa nói vừa phàn nàn, đã như vậy Nguyên Thú đế còn ném vụ lộ đề cho Hoắc Kinh Đường, lão già này là đang bồi dưỡng người hay là muốn hành hạ người đến chết đây?

Suốt cả buổi phó quan chỉ biết tự coi mình là người điếc.

***

Còn chưa chờ Triệu Bạch Ngư tìm cách chui vào Đông cung, Đại lý tự đã truyền tới tiến triển mới của vụ án.

Nha dịch lặng lẽ nói cho y biết, mấy ngày trước có người nhân lúc đêm xuống vào nhà lao gặp Vương thượng thư, ngày hôm sau ông ta liền chủ động cung khai chủ mưu lộ đề là Trần thị lang.

Trần thị lang và bà vú Đông cung cấu kết, vì giúp bà ta trả nợ nên mới cầm đề thi bán ra ngoài, do bà vú là người của Đông cung, hơn nữa cử tử tham gia mua đề gian lận có một nửa dính líu đến đảng phái của Thái tử, thành công cắn Thái tử một nhát.

Không biết Tần vương làm sao biết được tiến triển mới này, lúc lâm triều cả một đoàn quan viên cùng lên tiếng tố cáo Thái tử, Nguyên Thú đế giận đến nỗi phát hỏa tại chỗ, Thái tử bị mắng xối cả, đến cả Lâm An quận vương cáo nghỉ không tới cũng bị giận cá chém thớt, mắng hắn lĩnh chức hơn nửa tháng mà chỉ bước vào Đại lý tự một ngày, quả thực lơ là cương vị.

Có điều lửa giận chủ yếu tập trung trên người Thái tử, trước tiên để hắn tự kiểm điểm bản thân, sau nghiêm khắc răn đe thuộc hạ của mình, bắt hắn tra ra bên dưới cùng những người có dây mơ rễ má trong chuyện này, còn phải giao bà vú ra phối hợp với Đại lý tự điều tra, đồng thời tước mũ quan của Vương thượng thư và Trần thị lang, bao gồm cả chức vụ vẻ vang mà ông hầu hạ ba triều mới có được, tiếp đó hạ lệnh vây cấm Trần phủ, tra rõ xem thành tích của con trai Trần thị lang Trần Phương Nhung có phải lả chân tài thực học hay không.

Chờ đến sau mùa thu, khi kết án xong Trần thị lang sẽ bị xử trảm, coi như nghiêm khắc cảnh cáo!

Một lời đã định, tương đương với xét xử tử tội cho ân sư, không ai dám mở miệng cầu tha thứ.

Sau khi Trần phủ bị vây cấm, Trần Phương Nhung leo cây nhảy ra ngoài gặp Triệu Bạch Ngư, nói hắn chuẩn bị đi gõ trống kêu oan: "Triều đình nay dù đã bất hòa đủ đường, nhưng trăm quan đều rõ, cha ta không thuộc về đảng phái nào, cha ta trong sạch vô tội, nhưng bọn họ không ai dám đứng ra chỉ trích Tần vương vì để tấn công Thái tử mà đến cả nguyên lão ba triều cũng có thể bêu rếu! Bè đảng Tần vương lợi dụng cha ta để lật đổ Thái tử, còn bên Thái tử thì gắng sức rũ bỏ quan hệ với cha, ông ấy đã trở thành vũ khí cho bọn họ công kích lẫn nhau, dù chân tướng có thể nào đi nữa, kết cục vẫn là đường chết thôi. Trừ phi ta tự mình đến Thùy Củng điện minh oan —— bây giờ người duy nhất có thể cứu cha ta là Lâm An quận vương, hắn không thuộc về bất kì đảng phái nào, càng không sợ đắc tội trăm quan."

Trong ánh mắt Trần Phương Nhung ôm quyết tâm liều chết khẩn cầu: "Triệu Bạch Ngư, ta cầu xin ngươi đến tìm Lâm An quận vương, cầu hắn trả lại trong sạch cho cha ta đi."

Trần Phương Nhung biết tính tình Lâm An quận vương, cũng biết hành động của mình là đang ép buộc Triệu Bạch Ngư, nhưng thật sự không còn cách nào khác nữa rồi.

Cha đã bị dồn đến bước đường cùng, hắn thân làm con, sao có thể thờ ơ cho được?

Thật ra gõ trống kêu oan cũng không thể thay đổi được gì, trừ phi Trần Phương Nhung đập đầu tự tử ở Thùy Củng điện, dùng cái mạng của mình mới có thể đổi lấy thái độ nói rõ cho thiên hạ biết về sự việc này của Nguyên Thú đế.

"Huynh đừng có mà suy nghĩ đến chuyện chết chóc nữa, vụ án còn chưa kết thúc thì vẫn còn cơ hội xoay chuyển. Chờ đi, Thái tử còn phải phản kích, trước tiên để bọn họ đấu đá với nhau một trận đã. Còn Lâm An quận vương, ta đã đến tìm hắn rồi, người ta không muốn gặp."

Nhắc tới chuyện này, Triệu Bạch Ngư liền đau đầu.

Vất vả lắm mới vượt qua được nội tâm sợ hãi Hoắc Kinh Đường, chân run cầm cập tới trước cửa quận vương phủ, vậy mà hai con sư tử đá cứ nhìn chằm chằm y gõ cửa, cuối cùng bị cho ăn chè bế môn (*).

(*) Từ chối không cho khách vào nhà gọi là cho khách ăn chè bế môn.

Người gác cổng vừa nghe đến thân phận của Triệu Bạch Ngư, trước hết trừng mắt xem thường, sau đó đóng sầm cửa lại, vào trong phủ bẩm báo xong, lấy lý do trước khi kết hôn không thể gặp mặt để từ chối y.

Triệu Bạch Ngư bèn đóng cọc trên con đường Hoắc Kinh Đường phải đi để về phủ chặn hắn lại, vậy mà đối phương ba bốn ngày liên tiếp cũng không ra khỏi nhà.

Hơn nữa, dù cho chặn được người, y có thể dùng lý do gì để thuyết phục Hoắc Kinh Đường giúp mình cứu ân sư đây?

Hắn đã nhận công việc này nhưng vẫn lẫn tránh thật xa, thà bị la rầy cũng không dính vào trong cuộc, thái độ đủ để thấy rõ.

Triệu Bạch Ngư phất tay, để cho Ngụy bá hộ tống Trần Phương Nhung hồi phủ, cũng bảo đảm: "Yên tâm đi, năm ngày nữa nếu như không có chuyển biến tốt thì ta đi gõ trống được chưa."

Ân sư chỉ có một đứa con ruột là Trần Phương Nhung, y cũng không muốn ân sư chưa ra khỏi nhà lao đã phải để tang con.

Tuy lời bảo đảm đã nói ra, nhưng nếu muốn nhúng tay vào vụ án này, một tiểu quan lục phẩm như y căn bản không có cửa.

Bên Hoắc Kinh Đường không thuận lợi, Triệu Bạch Ngư chỉ có thể đi tìm Thượng quan.

Vừa đúng lúc Thượng quan vừa mới tiễn khách quý đi, vẻ mặt lo lắng vuốt chùm râu dê, Triệu Bạch Ngư tiến tới chắp tay chào hỏi.

"Kỷ đại nhân, ngài đang lo âu việc chi?"

Kỷ tri phủ thở dài: "Được người ta nhờ vả, không thể từ chối. Có vài việc thì dễ làm, nhưng cũng có một số việc khó —— còn ngươi đến đây làm gì? Hôm nay cũng không phải ngày báo cáo công vụ, sao lại đích thân ghé phủ? Có chuyện gì muốn nhờ sao."

"Kỷ đại nhân tường tận mọi việc, Ngũ lang không gạt ngài được!"

"Bớt nịnh ta, nói chuyện trước đi."

Kỷ tri phủ rất tán thưởng Triệu Bạch Ngư, những năm nay đường làm quan của y trôi chảy, mấy lần vì trình lên thượng sách mà được khen ngợi, có một cấp dưới cực tốt như Triệu Bạch Ngư, năng lực vượt trội lại không tham công, sao ông có thể không yêu thích chứ?

Vậy nên đối với chuyện mà y sở cầu, ông cũng có thể cho đi mấy phần tình mọn.

"Đại nhân có quen biết bằng hữu nào có thể can thiệp án lộ đề thi không?"

Kỷ tri phủ hoảng sợ nhìn Triệu Bạch Ngư: "Mau bỏ cái ý nghĩ tìm chết đó của ngươi đi! Ngươi suy nghĩ cái gì vậy? Muốn kiến công lập nghiệp cũng không cần phải đi con đường tà đạo này!" La rầy một phen, an tĩnh được chút lại hỏi: "Ngươi là vì ân sư Trần thị lang sao?"

"Vâng." Triệu Bạch Ngư cúi người bái một cái: "Ân sư gặp khó khăn, học sinh ăn ngủ không yên, nếu như thấy chết mà không cứu, lương tâm cả đời học sinh khó an, xin đại nhân hãy giúp hạ quan một tay!"

Kỷ tri phủ vô cùng xúc động: "Ngươi là người chân thành hiếm thấy. Trần Sư Đạo vừa xảy ra chuyện, tới chó cũng tránh đi ngang cửa nhà hắn, còn ngươi lại chủ động tới gần... Ôi, tuy ta phụ trách quản lý sự vụ lớn nhỏ của kinh kỳ (*), nhưng không có quyền can thiệp vụ án của Đại lý tự, huống chi lần này không phải chuyện đùa, đến cả Thái tử cũng bị kéo vào, ai mà có gan làm giúp ngươi?"

(*) Kinh kỳ: kinh đô và vùng lân cận.

Thấy Triệu Bạch Ngư chưa từ bỏ ý định, hơn nữa đứa nhỏ này quả thực hết lòng hết sức cứu ân sư, vô cùng hiếm thấy, nếu để cho y một phần ân tình, ngày khác gặp nạn cũng có thể nhờ đến hôm nay bôn ba giúp y.

Thân ở triều đình, tình hình lại hết sức nguy cấp, ai mà lại không ước ao có được một bằng hữu sẵn sàng giúp mình khi gặp nạn?

Kỷ tri phủ liền nói với y: "Thập vương gia mới vừa tới phủ ta, nhờ ta tìm một món đồ vô cùng quý hiếm để tặng cho quý nhân, nó được gọi là huyết phách ngàn năm. Nếu như ngươi cũng có thể tìm ra nó dâng lên, quý nhân kia nhất định sẽ giúp ngươi."

Kỳ trân dị bảo gì mà đến vương công quý tộc cũng chẳng có?

Bọn họ cũng không tìm được, một nhân vật bé nhỏ không quyền không thế như Triệu Bạch Ngư làm sao tìm ra?

Nghĩ đến đây, Kỷ tri phủ cảm thấy mình đã nảy ra một ý tưởng thật tệ, liên tục thầm thở dài.

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Huyết phách ngàn năm có hình dạng như thế nào?"

Ngay cả hình dạng của nó cũng không biết, nói chi đến chuyện có thể tìm được? Kỷ tri phủ: "Nó màu đỏ, giống như khối gỗ bình thường nhưng hơi mốc, còn có mùi khó ngửi. Nhưng nếu nướng qua một lửa, sau đó dùng nước lạnh dội lên, nó sẽ trở thành một vật trong suốt như lưu ly, còn có hương thơm nữa."

Màu đỏ? Khối gỗ? Mùi khó ngửi?

Có hơi quen thuộc, dường như đã gặp ở đâu rồi ấy nhỉ.

Triệu Bạch Ngư lục lọi trong ký ức, cuối cùng cũng nhớ đến món quà tạ ơn mà Lý Ý Như đã đưa mình, vội vã từ biệt chạy về nhà tìm cái hộp kia, dùng cách mà Kỷ tri phủ nói thử nghiệm một lần, rốt cuộc khối gỗ kia cũng phát ra mùi thơm lạ, trở thành huyết phách ngàn năm sáng trong tựa như hồng ngọc.

Bên này, Kỷ tri phủ vừa mới ngồi xuống phẩm trà đã thấy Triệu Bạch Ngư chạy đi chạy lại, cầm theo hộp gỗ hào hứng hô lên: "Kỷ đại nhân, ngài nhìn thử xem đây có phải huyết phách ngàn năm hay không?"

Nhìn thử một chút, mới chỉ một nén nhang trước đó còn chẳng biết huyết phách ngàn năm là gì, chỉ sau một nén nhang đã tìm được, đừng nói là bị mấy kẻ bán hàng rong đầu đường lừa bịp, kêu món đồ rách rưới rẻ tiền là bảo bối.

Huyết phách ngàn năm là bảo vật trân quý mà ân sư của ông tìm bao nhiêu năm cũng còn chưa tìm ra, sao có thể nói tìm là tìm được liền?

Kỷ tri phủ không tán thành nói: "Ngũ lang, ta biết ngươi nóng lòng cứu người, nhưng ngươi không thể có bệnh thì vái tứ phương, đem khối gỗ nhặt đầu đường tới gọi bảo bối được. Cũng may đó là ta, nếu ngươi làm bừa đưa nó tới Thập vương phủ, chọc giận Thập vương gia, mười cái mạng của ngươi cũng không đủ chém —— "

Lời nói hơi ngập ngừng khi Triệu Bạch Ngư mở hộp gỗ ra để ngay trước mắt ông.

Kỷ tri phủ nhìn đồ vật như khối lưu ly huyết phách, ngửi thấy hương thơm lạ, ngẩng đầu thấy Triệu Bạch Ngư cười đến hai mắt cong cong.

"Ngài nhìn món đồ này thử xem? Có giống huyết phách ngàn năm không?"

Kỷ tri phủ: "..." Sau đó trợn mắt há mồm.

==

Min: Cá nó làm một pha cứu chồng chuẩn không chê vào đâu được các chị ạ =)))))))

Chương 9

Kỷ tri phủ tìm thái y quen biết kiểm tra huyết phách ngàn năm mà Triệu Bạch Ngư trình lên, chắc chắn là thật không nhầm mới dám đem nó giao đến chỗ ân sư Thập vương gia.

Thập vương gia mừng rỡ không kể xiết, lại kêu người thử nghiệm một lần nữa, đảm bảo có kì hiệu chữa trị được cổ độc mới tự mình mang đến phủ Lâm An quận vương, tận mắt nhìn thấy Hoắc Kinh Đường sử dụng huyết phách xong sắc mặt hồng hào trở lại, rốt cuộc cũng ra dáng người bình thường thì tâm trạng vui hẳn lên, quay đầu chuẩn bị về ban thưởng cho Kỷ tri phủ.

Nhưng nói thật, Kỷ tri phủ không dám tham công.

Thập vương gia: "Hóa ra là Triệu gia tứ lang Triệu Bạch Ngư à? Là cháu ngoại lớn, cháu dâu tương lai mà ta chưa từng gặp mặt đó sao?"

Chuyện Xương Bình làm năm đó quá xấu xa, đến cả ông cũng không muốn nhìn mặt Triệu Bạch Ngư, những năm này cứ mặc cho y lớn lên một mình ở hậu trạch Triệu phủ, nay bị ép gả đi cũng không ai thay y ra mặt, có thể tưởng tượng được cuộc sống không có nhiều điều như ý.

"Nó có biết huyết phách là để cho ai dùng không?"

Kỷ tri phủ chắp tay nói: "Học sinh chỉ nói là ân sư tìm thuốc giúp quý nhân, hơn nữa học sinh cũng mới biết quý nhân đó chính là quận vương."

Thập vương gia: "Ngươi nói nó muốn thay ân sư của nó cầu một ân điển, vậy ân sư của nó là ai?"

Kỷ tri phủ: "Lễ bộ Thị lang Trần Sư Đạo."

Thập vương gia khàn giọng đáp: "Không được." Nói rồi nhìn về phía bàn bát tiên đối diện, Hoắc Kinh Đường vẫn còn nửa nằm trên tháp, bảo: "Ngươi là Đại lý tự khanh, chủ thẩm án gian lận thi cử lần này, vừa là biểu ca cũng vừa là hôn phu của nó, sao nó lại không đến tìm ngươi?"

"Tìm rồi." Hoắc Kinh Đường tuy đang nằm nhưng tư thế vẫn hào sảng bất kham, cùi chỏ tay phải đặt lên đầu gối, ngón tay lần tràng hạt, "Không cho vào."

"Vậy mà lại tìm rồi?!" Thập vương gia vỗ bàn cười to: "Vì cứu người ta, Triệu Bạch Ngư nó chỉ đành dùng cả cái danh hôn phu của ngươi đấy, cũng còn may là không dùng thân phận Lâm An quận vương phi chạy đến Đại lý tự!"

Cười xong, Thập vương gia lại xúc động: "Có điều, trong tình thế cấp bách thế này thì vẫn có thể hiểu được. Bây giờ kinh quan đều xoay quanh Trần phủ, một mình nó ngược dòng đón khó khăn, cũng là người có lòng hiếm thấy. Nếu như nó thật sự không biết ai đang cầu có huyết phách ngàn năm, không biết rốt cuộc bảo vật đó dùng để cứu mạng ai, thì chính là ông trời đang giúp đỡ nó. Trời không tuyệt đường ngươi, không tuyệt Trần Sư Đạo, cũng không tuyệt tấm lòng của Triệu Bạch Ngư."

Hoắc Kinh Đường không đáp lời nào, Thập vương gia vẫn bùi ngùi xúc động.

"Ôi, ngươi nói xem, sao huyết phách ngàn năm lại ở trong tay Triệu Bạch Ngư? Bốn năm năm nay chúng ta đi tìm nó, quay lại đã chậm một bước rồi. Của cải của Hoàng huynh ở khắp nơi, người dưới tay ta, hiệu buôn trải rộng cả nước không nói, mười tỉnh hai mươi mấy phủ ít nhất cũng có tai mắt, còn có bảo khố của nhà ngoại ngươi Thôi quốc công cũng toàn được giữ gìn từ đời thánh tổ, bao nhiêu người góp sức cũng không ai tìm được huyết phách ngàn năm!"

Thập vương chỉ phó quan mặt mày mù tịt: "Ngươi nói xem tại sao?"

Phó quan yên lặng hồi lâu: "Tại vì Triệu Bạch Ngư dùng sính lễ của tướng quân mua hai mươi ca nữ."

Thập vương: "?"

Ông mê man nhìn đứa cháu của mình, hy vọng có thể nhận được một lời giải thích, kết quả chỉ thấy ánh mắt Hoắc Kinh Đường tràn trề ý cười nhưng lại tỏa ra khí giận khó tả.

"Một sự trùng hợp kỳ lạ thôi." Hoắc Kinh Đường nói.

Phó quan sốt sắng gật đầu, trùng hợp là thật, kỳ lạ cũng là thật!

Ai mà ngờ huyết phách ngàn năm bọn họ mất ngần ấy thời gian để tìm kiếm lại nằm trong tay một cô hoa khôi ở Kinh đô chứ?

Ngay dưới mắt bọn họ chứ đâu!

Mà mục tiêu tìm kiếm của bọn họ trước đây đều đặt ở chỗ kỳ nhân dị sĩ, quan lại quyền quý.

Làm gì có ai biết được Triệu Bạch Ngư dùng sính lễ quận vương phủ đưa tới mua lại hai mươi ca nữ, lại hoàn toàn xuất phát từ sự tốt bụng, không tồn tại tâm tư riêng, cho nên được danh kỹ Kinh đô tặng cho huyết phách.

Lại vừa hay Tri phủ là môn sinh của Thập vương, cũng là Thượng quan của Triệu Bạch Ngư, lòng vòng quanh quẩn một phen, tiên dược cứu mạng lần mãi không ra lại được chủ động dâng tới cửa, có thể không kì lạ hay sao?

Nếu nói là trùng hợp, nào có sự trùng hợp đến nỗi như vậy?

Vô cùng kì lạ!

Đến giờ phó quan cũng còn chưa tỉnh táo, cảm thấy Triệu Bạch Ngư cũng lạ.

Gã như mất hồn mất vía, Hoắc Kinh Đường vẫn giữ nguyên nụ cười thâm sâu khó dò, giống như đang suy nghĩ chuyện xấu gì đó.

"..." Thập vương lặng lẽ nhấc mông cách xa chủ tớ hai người họ.

***

Sau khi Kỷ tri phủ trở lại, thần bí nói với Triệu Bạch Ngư chuyện y muốn nhờ quý nhân đã biết, chỉ cần an tâm chờ tin là được, còn những chuyện dư thừa dù Triệu Bạch Ngư có lôi kéo thế nào đi nữa cũng không muốn tiết lộ nhiều thêm.

Triệu Bạch Ngư đành chịu, hoàn toàn gửi gắm hy vọng vào người khác không phải là phong cách của y, vì vậy bắt đầu chạy sòng bạc, chỉ chọn sòng bạc Trịnh gia mở mà vào, đúng giờ hoàng hôn tới, rạng sáng đi, liên tục ba ngày thắng không dưới vạn lượng bạc trắng, cuối cùng cũng làm kinh động Trịnh Hữu.

Lúc Trịnh Hữu đến nơi, Triệu Bạch Ngư đang chơi bài cửu (*), y bị người ta vây kín tới nổi nước chảy không lọt, đám người hô hét mở bài, nhà cái không ngừng lau mồ hôi, uống hớp nước trà, mà mặt bàn phía Triệu Bạch Ngư đã chất chồng bạc trắng, tất cả đều là tiền đặt cược mà y thắng được.

(*) Bài cửu: Một dạng bài tựa tựa như domino vậy á.

Nhà cái cắn răng đưa bài, nhìn chằm chằm Triệu Bạch Ngư: "Mời."

Cách chơi của bài cửu không quá phức tạp, mỗi lượt so sánh hai tụ với nhau, ở tụ đầu tiên, Triệu Bạch Ngư bóc được một quân 6:6 và một quân 6, thắng nhà cái chỉ có một quân 6:6 và quân 5. Đến lượt sau, nhà cái có được song thiên, tương đương với đôi A trong bài poker, Triệu Bạch Ngư phải có đôi quỷ vương mới có thể thắng được, nhưng xác suất rất thấp, trừ phi kỹ thuật đánh bạc của Triệu Bạch Ngư vô cùng xuất thần. (1)

Những tay chơi bạc nín thở tập trung, gấp rút còn hơn cả người trong cuộc, chỉ hận không thể thay y lật bài.

Triệu Bạch Ngư không hoảng không vội: "Ở đây ta có tám tấm ngân phiếu một ngàn lượng, ba mươi khối bạc một trăm lượng, đều là do ta thắng được ở sòng bạc của các ngươi, bây giờ ta đặt hết, lại được lật bài một phen." Y rướn người cao giọng, rồi lại nhoài người lên bàn cược nheo mắt nói: "Nói thật, ta không thiếu tiền, tới sòng bạc này là muốn tiêu tiền, cũng muốn tìm một thần cược có thể đánh bại ta. Năm ta một tuổi, sờ được bạc cụ rồi theo nó lớn lên, mong ước cả đời chính là độc cô cầu bại!"

"Khá hay cho độc cô cầu bại!" Trịnh Hữu bước ra, cúi đầu nhìn Triệu Bạch Ngư: "Triệu huynh, lại gặp mặt rồi."

Triệu Bạch Ngư vui vẻ ra mặt: "Hữu huynh? Khéo quá, lại gặp huynh ở đây."

Tùy tùng của Trịnh Hữu đáp: "Đây là ông chủ sòng bạc của chúng ta."

Triệu Bạch Ngư bừng hiểu ra, mặt lộ vẻ áy náy: "Ta không biết —— "

"Không sao, mở cửa làm ăn, đã tới thì chính là khách." Trịnh Hữu, "Triệu huynh, ta cũng muốn thấy mặt bài của ngươi."

Triệu Bạch Ngư khó xử: "Không được đâu..."

Trịnh Hữu: "Ta nhận cược của người này, có táng gia bại sản cũng sẽ trả lại tiền cược! Lật đi, Triệu huynh."

Triệu Bạch Ngư không còn cách nào khác, lật mặt bài, bên cạnh có người rướn cổ lên nhìn: "Đinh tam phối nhị tứ, hầu vương đối, chí tam bảo —— thắng!"

Sòng bạc thua hai mươi hai ngàn lượng, Triệu Bạch Ngư đổi thẳng thành ngân phiếu, chắp tay với Trịnh Hữu rồi thất thiểu rời đi, tuyên bố phải đến những sòng bạc khác độc cô cầu bại —— vậy mà bị Trịnh Hữu cản lại, mời tới phòng riêng nói chuyện.

"Kỹ thuật đánh cược của Triệu huynh tuyệt thật, có thể, có thể nào..."

"Dạy huynh?"

"Đúng vậy!"

"Nhưng đây là chỗ huynh kiếm ăn..." Triệu Bạch Ngư do dự một lúc, cắn răng nói: "Thôi được! Ai bảo huynh cho ta mối làm quen quý nhân, có đại ân với ta chứ. Có điều chúng ta vừa học vừa cược, dạy là dạy, nhưng thua vẫn phải nhận."

"Nhận! Chắc chắn sẽ nhận!" Trịnh Hữu nâng cao giọng, mừng rỡ như điên, nhanh chóng kêu người dọn ra nhiều loại bài bạc cổ thỉnh giáo Triệu Bạch Ngư.

Trên triều, đảng Tần vương và Thái tử đang đối đầu dầu sôi lửa bỏng, tiền bạc ở Trịnh quốc công phủ thì cứ rào rào chảy ra, Trịnh Hữu còn chưa kịp đau lòng đây, cửa hàng bên kia của gã vẫn thường bị Kinh đô phủ tra kia kìa.

Cứ một ngày tra một nơi, ngày đó tiền sẽ không vào được.

Sổ sách nhập vào không đủ, lòng Trịnh Hữu phiền muộn nóng nảy, đã vậy còn nghe thấy sòng bạc mà gã giấu kĩ nhất xuất hiện kẻ thắng cược liên tiếp mấy ngày, thế là bèn chạy tới muốn gây khó dễ, ai ngờ gặp được người quen, con sâu cờ bạc bò lúc nhúc trong lòng, mười ngón tay ngứa ngáy, phiền não gì đó cũng ném ra sau đầu.

Triệu Bạch Ngư vỗ bụng: "Ta đói rồi."

Trịnh Hữu: "Mang rượu và thức ăn lên."

Lúc này, Triệu Bạch Ngư mới cười cầm con xúc xắc lên, "Cách chơi của mấy trò bạc cũ nếu không phải quá đơn giản thì chính là quá phức tạp, hôm nay ta dạy huynh một trò mới, nhìn đơn giản thế thôi nhưng rất có triển vọng. Nếu huynh dùng nó chơi trong sòng bạc của mình, ta đảm bảo khách sẽ tới như ngùn ngụt luôn."

Trịnh Hữu hoài nghi: "Có trò thần kì vậy sao?"

Triệu Bạch Ngư chân thành: "Đúng thế."

Trịnh Hữu vội vàng muốn chơi thử, trò Triệu Bạch Ngư dạy gã chính là diêu đầu chung, một kiểu lắc xúc xắc trong cốc.

Trong thời đại này không phải là không có trò đổ xúc xắc, mà nó thường được sử dụng như một công cụ hỗ trợ cho các phương pháp đánh bạc khác, cũng có những người sáng tạo ra trò chơi xúc xắc nhưng cực kỳ phức tạp, không thích hợp để quảng bá đại chúng.

Mặt khác, trò chơi lắc xí ngầu cược lớn nhỏ đã trở nên thịnh hành trên toàn thế giới, đây cũng là một trò thiết yếu cũng rất được chào đón trong bất kì một sòng bạc hiện đại nào.

Quả nhiên Trịnh Hữu hoàn toàn mê mệt, thậm chí quên luôn chuyện phải học thuật đánh bài, vừa uống rượu vừa chơi, nhanh chóng thua sạch tiền trong túi, lần mò toàn thân móc ra một tấm giấy của hiệu cầm đồ nói: "Thứ này vô giá, nhưng ta tính cho ngươi mười ngàn lượng!"

Triệu Bạch Ngư lật qua lật lại tờ giấy nhìn xem, "Một quyển《Kinh Thi》có thể trị giá ngàn lượng sao? Đừng hù ta chứ."

Trịnh Hữu uống rượu đỏ mặt, tay gõ cộp cộp trên mặt bàn: "Đỉnh đến nỗi ta phải đội lên đầu đây này, ngươi thử nói xem có đáng giá hay không!"

Triệu Bạch Ngư vờ từ chối không được, bán tính bán nghi nhận lấy tờ giấy, đổi thành ngân phiếu vạn lượng, nắm bắt thời cơ hỏi: "Ta thấy lão ca đứng ngồi không yên, khô miệng khô lưỡi mặt đầy lo âu, có phải gặp chuyện gì phiền lòng không?"

Trịnh Hữu vẫn lắc xúc xắc, phiền não không dứt: "Trừ tiền bạc ra, còn có thể có chuyện gì đáng lo hơn nữa?"

Triệu Bạch Ngư: "Lúc ta vừa mới đến nơi này đã nghe danh điểm thạch thành kim (*) của Trịnh viên ngoại, ngài còn than thiếu bạc thiếu hoa, dân thường không phải chết nghèo hết rồi sao?"

(*) Điểm thạch thành kim: sửa văn dở thành văn hay.

Trinh Hữu: "Những kẻ đó thì biết cái gì? Ta kiếm được từng nấy tiền cũng không chịu nổi bao nhiêu kẻ ở trên há miệng chờ bạc! Trong cung muốn ta hối lộ, triều đình muốn ta khom mình, các tỉnh mấu chốt cũng phải mở thông, sao có thể không ăn bạc! Gần đây có đại án, tình thế khẩn, quan phủ lạm dụng danh nghĩa tra xét cửa hàng từ trên xuống dưới, muốn mở hàng phải cầm tiền đi biếu. Tiền trong Kinh chưa thể thu vào, tiền ngoài tỉnh lại không đụng tới được —— "

"Tiền ngoài tỉnh sao lại không đụng tới được?"

"Đụng là rơi đầu —— " Trịnh Hữu sốt ruột ngừng nói, nắm chung xúc xắc hỏi: "Mau dạy ta làm sao để ra lớn hơn nhỏ hơn đi, sao xúc xắc vào tay ngươi lại nghe lời ngươi như vậy?"

Triệu Bạch Ngư lấy xúc xắc y mang theo bên người ra, đem hết kỹ thuật mà lão tổ tông lưu truyền lại dạy cho Trịnh Hữu, người nọ liên tục thán phục, vui vẻ quên sầu.

Để xúc xắc lại cho Trịnh Hữu, Triệu Bạch Ngư nói mình muốn đi nhà xí.

Trịnh Hữu liếc thấy xấp ngân phiếu y để đó không cầm đi, giấy cầm đồ hắn mới đưa ra cũng được kẹp bên dưới nên yên tâm để cho Triệu Bạch Ngư chạy.

Đợi hết hai nén nhang rồi mà người còn chưa quay lại, Trịnh Hữu gạt hết ngân phiếu rút giấy cầm đồ ra, phát hiện nó bị xé mất một góc rồi, Trịnh Hữu bất thình lình rùng mình một cái, tỉnh rượu non nửa, đập bàn quát lên: "Mau! Mau đuổi theo tên họ Triệu kia lấy lại giấy cầm đồ!"

Nhưng Triệu Bạch Ngư vừa ra khỏi sòng bạc đã lập tức đổi quần áo khác, đội nón lá được Ngụy bá đưa đến căn nhà gần đó, là nơi mà y đã sắp xếp cho các cô nương phường hoa trà.

Triệu Bạch Ngư không đánh thức các nàng, trời hửng sáng đã đi ngay.

Trước khi đi, Triệu Bạch Ngư để lại một bức thư báo cho Lý Ý Như biết rằng huyết phách ngàn năm đã được y dùng vào chuyện khác rồi, bởi vì nó là trân bảo hiếm thấy, cho nên nếu như ngày sau nàng có gặp khó khăn gì, có thể đến tìm y giúp đỡ.

Lý Ý Như vô cùng xúc động, cũng không nói gì nữa.

***

Lúc này lại nói về Đông cung.

Tuy Đại lý tự phụng mệnh truy bắt bà vú của Thái tử, nhưng không thể thật sự xông vào Đông cung bắt người, chỉ đành chờ Thái tử tự mình đưa bà vú tới Đại lý tự. Đợi hai ngày, tấu chương trăm quan gửi đến đã chất chồng như núi, nửa đêm Đông cung đột nhiên gõ cửa Thái y viện.

Lúc tảo triều, Thái tử bẩm báo bà vú vì xấu hổ nên đã tự vẫn, chỉ để lại huyết thư tố cáo Lễ bộ Thị lang Trần Sư Đạo lừa dối bà, lợi dụng bà để hãm hại Thái tử, bản thân bà cũng sa chân vào vũng lầy cờ bạc, may mắn đã kịp thời quay đầu, nguyện lấy tính mạng thấp hèn này dâng lên để cho người trong thiên hạ biết được chân tướng.

Cũng may cung nhân phát hiện kịp thời, cứu bà vú một mạng, đến nay vẫn còn đang hôn mê, đợi điều dưỡng thân thể một thời gian mới có thể giao cho Đại lý tự.

Tần vương đảng đề ra nghi ngờ Thái tử tự biên tự diễn, dù sao bà vú cũng ở Đông cung, hành xử thế nào cũng nằm trong tầm kiểm soát của Thái tử. Thái y viện có thể làm chứng cho Thái tử đảng, bà vú cũng chưa chết, đợi bà ta tỉnh lại có thể cho tự mình đến Thùy Củng điện diện Thánh.

Cảnh tượng tàn sát diễn ra khốc liệt trên triều, Tần vương và Thái tử đều quỳ xuống, vây cánh công kích lẫn nhau sau lưng, Nguyên Thú đế mặt vô cảm không nói gì.

Chờ cho bọn họ ồn ào xong, Nguyên Thú đế mới ấn vào huyệt thái dương đang đau nhức: "Khoa cử là đại sự, có liên qua đến xã tắc, sự ổn định của triều cục, vậy mà hai con trai trẫm đều dính vào nó. Chư vị khanh gia, các ngươi nói xem trẫm nên xử lý như thế nào? Nên tước đoạt chức vị hay là tống vào ngục giam đây?"

Trăm quan nghe vậy kinh hãi, vội quỳ rạp xuống đất, hô ba lần không dám.

Nguyên Thú đế: "Trẫm thấy các ngươi dám đấy! Không nghĩ biện pháp tra rõ chân tướng, không thể đưa ra cho học sinh trên thiên hạ một câu trả lời, không tìm cách diệt sạch tệ nạn gian lận thi cử, chỉ biết nghĩ đến bản thân mình, kết bè kết phái công kích lẫn nhau! Ngay trước mắt trẫm còn tìm đủ cách chụp cái mũ cho chính địch, làm sao để áp bức đánh con trai trẫm vào chỗ chết!"

Trăm quan quỳ sát xuống đất, sợ hãi không dám thở mạnh.

Nguyên Thú để: "Hoắc Kinh Đường!"

Hoắc Kinh Đường: "Có thần."

Nguyên Thú đế: "Trẫm để cho ngươi tra án, cuối cùng thành ra cái gì? Không tra được kết quả, trái lại gom về một đống nghi vấn, làm cho trẫm lẫn trăm quan hiểu lầm công kích lẫn nhau, trẫm thấy mấy năm nay ngươi ở trong phủ rảnh rỗi đến hồ đồ rồi!"

Hoắc Kinh Đường: "Thần có tội!"

Nguyên Thú đế: "Hạn cho ngươi năm ngày nữa để giải quyết cho xong vụ án, không hoàn thành thì sau này không cần tới gặp trẫm nữa!"

Hoắc Kinh Đường: "Thần lĩnh mệnh!"

Ánh mắt Nguyên Thú đế uy nghiêm quét qua từng người: "Tế chấp ở lại, những người khác bãi triều!"

Trăm quan rời khỏi Thùy Củng điện, Tần vương và Thái tử vội vã bước khỏi đại điện định bụng giữ chân Hoắc Kinh Đường, nhưng nhìn đông nhìn tây cũng không thấy người đâu, gọi tiểu thái giám đến hỏi mới biết bây giờ hắn đã ra đến cửa cung rồi.

Thái giám còn nói: "Thái tử điện hạ, Lâm An quận vương nói bà vú là nhân chứng quan trọng, nội trong ngày mai phải đưa bà ta đến Đại lý tự, để bên đó trông coi."

Thái tử: "Biết rồi."

Lòng Tần vương rét lạnh, không chút nghĩ ngợi xoay người đi gặp thân mẫu của gã Hoàng quý phi.

***

Trong xe ngựa.

Phó quan: "Hôm nay cuối cùng cũng kéo được Tần vương và phe cánh của hắn xuống nước, bệ hạ còn cho án treo thêm năm ngày nữa. Xem ra đây là kiếp nạn đắc tội trăm quan mà ngài không tránh nổi rồi."

Hoắc Kinh Đường nghịch chuỗi tràng hạt, không lên tiếng.

Phó quan: "Như đã nói, bà vú của Thái tử bây giờ đang là nhân chứng quan trọng, cũng là củ khoai nóng bỏng tay, tốt nhất là bà ta nên ở lại Đông cung, chết là Thái tử đội nồi, không chết thì đến lượt Tần vương gặp xui xẻo, sao còn chủ động tiếp cận Đại lý tự chứ?"

Hoắc Kinh Đường: "Ngươi nói ai hy vọng bà vú chết nhất?"

Phó quan: "Tần vương."

Hoắc Kinh Đường: "Hắn là một, nhưng cũng chỉ hy vọng bà vú chết ở Đông cung thôi, người hy vọng bà ta chết nhất chính là Thái tử."

Phó quan suy tư một phen, bỗng nhiên tỉnh ngộ: "Ta hiểu rồi! Bà vú chết ở Đông cung là do bị Thái tử hại, chết ở bên ngoài Đông cung là chết không có đối chứng, không liên quan gì đến Thái tử, nhưng nhất định không tránh khỏi dính đến Tần vương."

Hoắc Kinh Đường khép hờ nửa mắt: "Cho nên lúc đưa bà vú ra khỏi Đông cung sẽ có người ta tay."

"Đại nội hoàng cung, ai dám động thủ?"

Hoắc Kinh Đường nhắm mắt, lật mặt hắn đọc Kinh kim cương đi.

Phó quan: "..."

Hoắc Kinh Đường đột nhiên nói: "Bên phía Trịnh Hữu có động tĩnh rồi, chú ý hơn một chút."

Phó quan: "Đã cho người theo dõi."

"Còn nữa, nội dung nghị luận trên triều sáng nay, lựa ra vài chuyện rồi nói cho Triệu Bạch Ngư biết."

"Tại sao?" Phó quan khó hiểu: "Đại sự trong triều, một tiểu quan như y đâu được phép biết? Dù có biết cũng không thể gây nên sóng gió gì."

"Coi như trả ơn y cứu mạng đi."

==

Chú thích:

(1) Bài cửu là một loại bài như domino, nói đơn giản thì là cược bằng cách cộng số nút trên quân bài, người nào có nhiều nút hơn thì thắng. Trong đó song thiên tương đương với đôi Ace, đôi quỷ vương tương đương với đôi Poker.

Chương 10

Trời còn chưa sáng, Triệu Bạch Ngư đến hiệu cầm đồ chuộc quyển Kinh Thi mà Trịnh Hữu gửi ở đó.

Chân trước vừa ra cửa, chân sau người của Trịnh Hữu đã vội vã vào, không lâu sau liền chạy ra ngoài tìm bóng dáng Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư đem Kinh Thi về phủ, lật qua lật lại cũng không nhìn ra vấn đề gì.

Nghiên Băng: "Ngài đi cả đêm không về, giờ lại cầm quyển Kinh Thi này xem cả nửa ngày rồi, xem có thể lòi ra đồng bạc nào sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Không chừng có bạc lòi ra thật đấy!"

Nghiên Băng nghe vậy, tràn trề hứng thú cầm Kinh Thi lên nhìn tới nhìn lui, giũ giũ ba lần, cảm thấy mình thật ngớ ngẩn: "Ngũ lang, ngài lại đùa ta à?"

Triệu Bạch Ngư: "Trịnh Hữu nói sách này quý lắm, nếu chẳng phải hắn uống say thua cược, ta cũng sẽ không nhặt được đồ tốt thế này. Nhất định nó còn quan trọng hơn cả tính mạng của hắn và cả nhà hắn. Cứ để đây trước đi, không chừng đến lúc mấu chốt có thể dùng để cứu mạng."

Lúc này Ngụy bà vào nhà, nói lại cho bọn họ tin tức nghe được ban sáng, lúc tảo triều Thái tử đảng bị làm khó dể, phía Tần vương cũng bị kéo xuống nước, bệ hạ nghiêm lệnh cho Đại lý tự tra rõ vụ án trong vòng năm ngày.

"Trong dự liệu rồi. Bây giờ nhân chứng mấu chốt có thể cứu lấy ân sư chính là bà vú của Thái tử, nhưng cả Thái tử và Tần vương đều chỉ hy vọng bà ta chết. Một kẻ muốn người chết ở Đông cung, kẻ kia lại muốn người chết bên ngoài cung. Sự sống chết của bà vú đều ảnh hưởng thế lực hai bên, đâu đâu cũng không thể đắc tội, nhưng còn phải xem Hoắc Kinh Đường nghĩ thế nào."

"Lâm An quận vương không chịu giải quyết rõ ràng sao?"

"Bệ hạ xiên hắn nướng trên lửa, hắn không thể không đếm xỉa đến."

Trong nguyên tác cũng có chuyện lưu hành đại lao, nhưng nếu tổng quát về lịch sử của đời trước, trừ phi liên quan rất rộng, ảnh hưởng cực lớn, nếu không chẳng cần phải làm thế, hơn nữa đại lao chủ yếu tập trung hoàng quyền đến thời Đại Thanh. Lại nói về thời đại này, chế độ khoa cử mới chỉ thành lập chưa đến hai trăm năm, thế gia phiên vương vẫn năm trong tay quyền lên tiếng nhất định, phong kiến tập quyền cũng không đạt đến trình độ của Đại Thanh, vậy nên muốn lưu hành đại lao tất nhiên cần phải có đầy đủ lý do.

Một lý do làm cho Nguyên Thú đế phẫn nộ không dứt.

Người dưới quyền Thái tử tham gia gian lận, hắn không biết, là do bọn họ tự làm tự chịu.

Còn Tần vương thì sao? Gã có biết bè phái của mình lợi dụng gian lận thi cử để mưu lợi hay không?

Triệu Bạch Ngư nghĩ mà đau đầu, tin tức mà y có thể biết được quá ít, nghĩ nhiều cũng vô dụng, biết quá nhiều lại càng vô dụng hơn, y chỉ là tiểu quan lục phẩm, nhưng cũng biết một tảng đá trong Kinh đô tùy tiện rơi xuống là có thể giết chết biết bao nhiêu người.

"Chỉ cần bà vú của Thái tử nằm trong tay chúng ta, lấy lời khai bà ta vu oan hãm hại ân sư là được, những thứ khác mặc kệ." Ánh mắt Triệu Bạch Ngư kiên định, hướng thẳng về phía hoàng thành: "Ta muốn vào Đông cung!"

Đông cung nằm trong hoàng cung, ra vào cung cần thẻ ngà, khâu quản lý vô cùng nghiêm ngặt, thiếu một tấm thẻ là phải rơi đầu, ở ngoài không thể sao chép được. Có may mắn chui dược vào Đông cung thì vẫn sẽ gặp phải Cấm quân tuần tra và vô số cao thủ, hàng canh gác dày đặc, không cẩn thận cũng phải rơi đầu.

Triệu Bạch Ngư: "Hết cách rồi, không đi cũng phải đi. Vừa hay trong tay ta có thẻ ngà mà bà vú của Thái tử làm rơi, ngày mai Triệu Ngọc Tranh ra ngoại ô đá cầu, Tần vương và Thái tử nhất định sẽ đi cùng hắn, phòng thủ của Đông cung chắc chắc sẽ ít đi một chút."

Ngụy bá không tán thành: "Con không quen thuộc địa hình hoàng cung, cũng không biết rõ, bà vú của Thái tử là nhân chứng quan trọng, nhất định sẽ có người bên cạnh trông coi, con chui vào được nhưng không chắc sẽ ra được."

Triệu Bạch Ngư: "Đánh cược vận may của con, chắc chắn có thể bình an mang người trở ra."

Sự tự tin này đến từ việc vẫn chưa đạt đến thời điểm nhân vật nam phụ độc ác nhận cái chết trong cốt truyện.

Ngụy bá lấy thẻ ngà: "Để ta đi."

Triệu Bạch Ngư không đồng ý, Ngụy bá còn không có hào quang vai phụ, ai biết được ông có gặp phải chuyện gì hay không.

Ngụy bá không cho y có cơ hội từ chối: "Tin ta đi, nếu cần ai đó phải vào hoàng cung, người đó chỉ có thể là ta."

Ánh mắt ông kiên định đến nỗi Triệu Bạch Ngư bất lực không từ chối được.

Ngụy bá là người được y mua lại từ tay đám thương nhân khi chỉ mới bảy, tám tuổi, với võ công cao cường và kiến thức phi phàm, Triệu Bạch Ngư có thể khẳng định ông không phải người bình thường, chỉ là ông chưa từng đề cập đến quá khứ của mình.

Ông không muốn nói, Triệu Bạch Ngư cũng không hỏi.

Triệu Bạch Ngư cũng muốn Ngụy bá dạy võ công cho, nhưng Ngụy bá nói y căn cốt quá yếu, không thể tập võ được mới đành buông tha.

"Được rồi, có điều người nhất định phải đặt an toàn của bản thân lên đầu. Không đưa được bà vú ra ngoài cũng không sao, con vẫn có thể tìm được cách khác cứu ân sư."

Tần vương phủ.

Một thái giám hậu cung mặc thường phục tiến vào Tần vương phủ, diện kiến Tần vương rồi nói với hắn: "Nhân thủ đã chuẩn bị xong, quý phi nương nương nhất định sẽ cho người chứng minh cái chết ở Đông cung!"

Tần vương nghe vậy thở phào nhẹ nhõm, cầm ngân phiếu nhét vào trong tay thái giám, "Phiền công công đi một chuyến."

Thái giám cười ha hả nhận lấy.

Đám người vừa đi, Tần vương đã lập tức phấn chấn tinh thần: "Tới đây, thay y phục ra ngoài."

Đông cung.

Thái tử đương lúc lên ngựa, tha thiết dặn dò Triệu Trường Phong: "Tất cả đều nhờ ngươi, người phải chết ở bên ngoài Đông cung! Còn nữa, tốt nhất là bắt lại mấy người làm nhân chứng sống."

Triệu Trường Phong: "Mạt tướng chắc chắn không phụ phó thác của Thái tử!"

***

Lâm An quận vương phủ.

Phó quan nói: "Ta nghĩ rõ rồi! Thái tử đảng và Tần vương đảng, bên nào chúng ta cũng không đắc tội nổi, cho nên nhân chứng tốt nhất nên chết ở Đông cung, chuyện này sẽ không liên quan gì đến chúng ta hết!"

Hoắc Kinh Đường đang điêu khắc một khối gỗ màu tím, nghe vậy cũng không ngẩng đầu lên, nói: "Nhân chứng mấu chốt chết rồi, vụ án sẽ trở thành huyền án (*), Thái tử lẫn Tần vương không ai rửa sạch nổi hiềm nghi, ngươi đoán xem bổn vương có thể trong thời gian cho phép còn lại tìm ra được một nhân chứng nào đó chứng minh được Thái tử hoặc Tần vương trong sạch hay không?"

(*) Huyền án: Án chưa giải quyết

Phó quan bối rối: "Vụ án kết thúc ở Vương thượng thư, Trần thị lang là được rồi, à đúng rồi, còn một tên Trịnh Hữu nữa, Thái tử Tần vương đều có phần, mỗi người đánh một ván cờ lớn, dù sao cũng thật sự có liên quan, bệ hạ sẽ chỉ trừng phạt một trận nhỏ cảnh cáo to, sửa thành một tội danh không quá nghiêm trọng rồi nhẹ nhàng bỏ qua, tất cả oan ức đều vứt cho người ở dưới, tuyệt đối không thể thật sự giết con ruột."

Có câu nói Thiên gia vô tình, Đế vương tiền triều giết cha giết con ví dụ nơi nơi, nhưng điều đó sẽ không xảy ra với Nguyên Thú đế. Bởi thời niên thiếu đã từng trả qua phụ tử huynh đệ nghi kị, thù giết lẫn nhau, Nguyên Thú đế vô cùng coi trọng phụ tử hiếu đạo cũng như tình thủ túc, từng vì chuyện nhỏ như không đủ quan tâm đệ đệ bị bệnh mà nghiêm nghị trách mắng Thái tử.

Đây chính là chỗ khó giải quyết của vụ án này, tra đến cuối cùng, chủ mưu sẽ không bị định tội, trái lại người tra án trong ngoài mới có lỗi.

Hoắc Kinh Đường: "Không xuống tay với con ruột được, nhưng những người khác thì không chắc."

Khắc xong đoạn cuối của đồ vật kia, thổi bay vụn gỗ, Hoắc Kinh Đường đặt bút gọt xuống, nhận lấy khăn ướt mà người hầu đưa tới lau tay: "Ngươi cho rằng Thánh thượng thật sự không biết mọi chuyện bên dưới?"

Phó quan: "Là sao ạ?"

Hoắc Kinh Đường: "Vào sáng sớm Tần vương kết hợp với đại thần tố Thái tử kia, trong một khắc đó sự nhẫn nại của bệ hạ đã đạt tới cực hạn."

Phó quan vẫn không hiểu, mơ hồ nhìn Hoắc Kinh Đường, chỉ nhận lấy ánh mắt lạnh như băng của chủ tử kèm theo một câu cảnh cáo "Đọc nhiều sách đi".

***

Triệu phủ.

Trong lúc Tạ thị đang ân cần dặn dò, Tam lang Triệu Ngọc Khanh và Tứ lang Triệu Ngọc Tranh đồng loạt lên ngựa, sau đó từ giã Tạ thị, thúc ngựa chạy về phía ngoại ô nơi đang tổ chức cuộc so tài đá cầu.

Bọn họ mới vừa đi khỏi, Triệu Bạch Ngư liền dắt ngựa ra sau, đụng mặt Tạ thị.

Từ lần trước lúc Tạ thị ép buộc y thay thế Triệu Ngọc Tranh gả cho Lâm An quận vương đến nay đã hai tháng không gặp mặt. Khi đó, y vẫn xem Tạ thị là đại nương (*), nhưng bây giờ y đã biết nàng chính là mẹ ruột đời này của mình, tâm tình Triệu Bạch Ngư không khỏi trở nên phức tạp khi trông thấy nàng.

(*) Đại nương: Vợ cả của cha

Triệu Bạch Ngư nhìn kĩ mặt Tạ thị mới phát hiện, đôi mắt của mình và nàng rất giống nhau, đều là mắt hạnh vô hại hơi tròn, không giống với mắt phượng của Triệu Bá Ung, cũng không giống mắt cáo mị hoặc độc ác của công chúa Xương Bình.

Ba đứa con trước của Triệu gia thì lại có đôi mắt giống của Triệu Bá Ung, còn Triệu Ngọc Tranh, mắt hắn thoáng nhìn sẽ thấy giống mắt phượng, nhưng nhìn kĩ so sánh rồi mới nhận ra nó càng giống như mắt cáo hơn.

Hóa ra y và Tạ thị lại có một điểm giống nhau độc nhất vô nhị đến thế, mà đó cũng chính là mối dây liên hệ huyết thống duy nhất giữa hai người bọn họ.

Triệu Bạch Ngư lui về phía sau, chắp tay thi lễ, cúi người chào thật thấp.

Tạ thị hơi ngạc nhiên, nàng cứ nghĩ từ lần trước sau khi ép gả, Triệu Bạch Ngư sẽ trở nên cực kì hận nàng, không bao giờ tôn kính nàng như ngày trước nữa.

Môi Tạ thị giật giật, nhớ tới trưởng công chúa Xương Bình, rốt cuộc vẫn giữ thái độ lạnh nhạt lướt qua Triệu Bạch Ngư vào phủ.

Triệu Bạch Ngư sửa sang lại vạt áo, sắc mặt bình tĩnh rời đi.

Nếu như có người hỏi y, tại sao sau khi biết được thân thế rồi vẫn không đòi lại công đạo cho mình?

Y nhất định sẽ trả lời, bởi vì đến cuối cùng vẫn chẳng có ai quan tâm đến y, Tạ thị vì chuyện Triệu Ngọc Tranh suýt chút nữa bị thuốc độc hại chết mà hận y đến tận mười mấy năm, tình yêu thương của người mẹ cũng đã quen dành hết cho Triệu Ngọc Tranh rồi.

***

Xế trưa, có một đội ngũ mặc thường phục đi tới, ngừng xe ở giữa đường đối diện cửa cung, thị vệ ngồi trên lưng ngựa mang ủng quan, đưa ra lệnh bài Đại lý tự cùng với Hoàn Thủ Đao quân dụng, tất nhiên là người của Đại lý tự, cũng đồng thời là quân nhân, người mang địa vị kép thế này chỉ có thể là người có xuất thân từ quận vương tiềm để.

Bọn họ phụng mệnh mang nhân chứng đi, chặn đứng đường cửa cung, mặt trời đã lệch sang một bên mà mãi vẫn không thấy bóng người của cung nhân Đông cung đâu.

Triệu Bạch Ngư đứng ở phía xa xa nhìn bọn họ một hồi, hạ mi rũ mắt đánh xe ngựa chạy vào con đường khác, đi qua mấy con phố dài đến trước một cánh cửa cung nào đó.

Đây là cửa phía Đông của hoàng cung, cách gần Đông cung hơn, mỗi ngày đều có xe vận chuyển nước cắm cờ rồng vận chuyển nước dùng trong cung đi vào, đến tận giữa trưa mới ra ngoài.

Lúc này, một chiếc xe chuyển nước màu đỏ thẫm đi ra, canh phòng ở cửa cung theo lệ cẩn thận kiểm tra, chắc chắn không có trộm mới thả cho đi. Sát theo sau là một chiếc xe chuyển nước khác, Triệu Bạch Ngư nhận ra người đánh xe chính là Ngụy bá, trái tim đột nhiên bị treo lên lơ lửng.

Canh phòng kiểm tra thùng nước dưới đáy xe, rồi nhày lên mở nắp một cái thùng khác, chắc rằng bên trong trống không, lại nhìn mặt Ngụy bá chăm chú, bắt ông trình thẻ ra vào, kiểm đi kiểm lại thấy không có vấn đề gì mới cho phép người đi.

Triệu Bạch Ngư thở phào nhẹ nhõm, cho rằng Ngụy bá đã hành động thất bại, không thể đưa nhân chứng ra khỏi cung.

Dù thất vọng, nhưng Ngụy bá bình an vô sự đã là may mắn lớn rồi.

Xe chuyển nước đi vòng qua khúc quanh sâu của ngõ hẻm, Ngụy bá dùng dao cắm dọc theo khe hở của đáy thùng xe chuyển nước. Dao ghim vào, cạy ra, để lộ một cái ngách ẩn náu có thể chứa được hai người.

Triệu Bạch Ngư kinh ngạc: "Đây là?"

Ngụy bá đỡ bà vú đang hôn mê vào trong xe, thay đổi y phục và kiểu tóc, sau đó cũng nhảy lên xe ngựa nói: "Trong lãnh cung, đôi lúc sẽ có vài cung nữ khí phi lén lút chạy trốn, hoặc là trộm vài thứ đem ra ngoài bán, lúc đó sẽ sử dụng loại xe chuyển nước dưới đáy có ngách ẩn thân. Nghe nói Hoàng đế tiền triều muốn bắt trộm kỹ nữ vào cung, khổ nổi không có đường nào để đi, thái giám dưới quyền liền ra chiêu hồ đồ này. Người biết nhiều dễ bị rơi đầu lắm, coi như đây là bí mật rất ít người trong cung biết được.

Chỉ sợ không chỉ đơn giản là "rất ít người biết" như vậy, bí mật trong cung thường được giữ rất kín, làm sao Ngụy bá biết được?

Triệu Bạch Ngư không hỏi đến bí mật này, mà hỏi: "Không bị thương gì chứ?"

Ngụy bá nhận được sự quan tâm của Triệu Bạch Ngư, sắc mặt dịu đi đôi chút: "Ta không phát sinh xung đột chính diện với bọn họ, nghiêm túc mà nói thì ta chính là may mắn sửa được mái nhà dột thôi. Lúc đó có kẻ gian mặc y phục đen xông vào Đông cung muốn bắt nhân chứng, Cấm quân kịp thời chạy tới, đánh người đó sống dở chết dở, ta đi theo phía sau bọn họ, phát hiện Cấm quân không quan tâm nhân chứng lắm, chỉ muốn bắt tên thích khách đó lại làm nhân chứng sống, ta liền nhân cơ hội đưa nhân chứng ra ngoài."

Triệu Bạch Ngư: "Còn bắt nhân chứng sống sao?"

Ngụy bá: "Bắt được năm, ba tên bị giữ lại, hai người đã trốn đi rồi."

Triệu Bạch Ngư như có điều suy nghĩ: "Quả nhiên là dẫn rắn vào hang, Tần vương mắc bẫy rồi."

Tần vương sẽ không bị gian lận thi cử quật ngã, ba mươi học sinh gian lận tuy là con cháu trăm quan trong triều, nhưng cũng không đến nổi trở thành lý do để lưu hành đại ngục, trừ phi hậu cung cấu kết với tiền triều.

Hắc y tặc ám sát Đông cung nhất định được gửi đi từ Trịnh quốc công phủ, có Hoàng quý phi nội ứng ở trong cung, đảm bảo cho bọn họ vào đại nội như đến đất không người, mặc cho Hoàng đế vô cùng nhân từ nhưng sẽ không bao giờ chấp nhận ngọa tháp của mình bị xâm phạm.

Lúc này chỉ cần cho một mồi lửa là có thể hoàn toàn bùng nổ.

Mồi lửa sẽ là gì đây?

==

Chương 11

"Nhân chứng sống bị bắt rồi?!"

Trong đình sân thi đá cầu ở ngoại ô, Tần vương giận tím mặt vỗ bàn: "Đều là tử sĩ phái đi từ phủ Quốc công, sao có thể bị bắt làm nhân chứng sống?"

Tử sĩ liều mạng trốn ra được đáp: "Là do Cấm quân Trung Ương mai phục ở bên ngoài!"

"Được lắm." Trong mắt Tần vương ngập tràn lửa giận, "Thái tử cao tay, sớm đoán ra hành động của ta, chỉ chờ ta tự chui đầu vào lưới thôi! Lưu thị thì sao? Đã giết được chưa?"

Lưu thị là bà vú của Thái tử.

"Chưa giết, các huynh đệ cũng trúng mai phục, chưa kịp lấy mạng Lưu thị, hẳn là đã bị đưa về Đông cung rồi ạ."

Đầu Tần vương đổ đầy mồ hôi: "Mẫu phi có nói gì không? Không được, ta phải về cung —— "

"Bây giờ ngươi về cung mới chính là không đánh đã khai!"

Một âm thanh sang sảng vang lên, nghe thấy tiếng phân biệt người, lại nhìn thấy một người đàn ông trung niên có râu quai nón, mặc văn võ bào bước vào đình, vóc người ông ta khôi ngô, mắt như điểm sơn, vô cùng uy phong lẫm liệt.

"Đại cữu cữu!" Tần vương ngạc nhiên, mừng rỡ tiến tới: "Sao ngài lại về đây?"

Người đến chính là con trai trưởng của Trịnh quốc công Trịnh Sở Chi, Quy Đức tam phẩm tướng quân, là đô tuần kiểm sứ Định Châu kiêm thống binh châu, quyền cao chức trọng, mang trong mình nhiệm vụ trấn an biên phòng, không có chiếu chỉ không được trở về.

"Ta đến kỳ nhậm chức, hồi kinh báo cáo công việc, đúng lúc nghe được chuyện này. Đến điểm dừng chân mới ngọn nguồn liền chạy đến khuyên ngài một câu, cứ an tâm chớ nóng vội."

Tần vương gấp gáp: "Bắt được nhân chứng sống, Thái tử nhất định sẽ bẩm báo lên phụ hoàng, đến lúc đó tội danh hành thích Đông cung đổ lên đầu bổn vương, bổn vương chết đi là hết chứ gì?"

"Bệ hạ trọng thiên luân (*), sẽ không ra tay với ngài, có thì cũng chỉ là loại trừ đảng phái của ngài, xử lí Hoàng quý phi và phủ Trịnh Quốc công mà thôi."

(*) Thiên luân: quan hệ cha con, anh em

"Không được! Cữu cữu ngài mau nghĩ cách đi, cứu mẫu phi của ta đi mà."

Nhìn thấy Tần vương coi trọng Hoàng quý phi như thế, Trịnh Sở Chi rất vui vẻ: "Thứ cho thần nói thẳng, điện hạ ngài hồ đồ quá! Đông cung là nơi nào? Là đất Trữ quân tương lai, lại ở trong đại nội, bên cạnh chỗ nằm của bệ hạ, các ngươi tự ý phái tử sĩ vào Đông cung, bất kể mục đích là gì, thì cũng tương đương với hành động gây hấn với uy nghiêm của Hoàng đế!"

"Ta chỉ là hận Thái tử chơi ta một vố, ta muốn để cho hắn gieo gió gặt bão."

"Lời chứng của một bà vú mà thôi, vả lại trước đó bà ta đã xác nhận Thái tử rồi, chớp mắt lại đổi ý xác nhận ngươi, trong một sớm nắng chiều mưa, lời chứng của một kẻ bội tín bỏ chủ có bao nhiêu sức nặng. Mục đích của Thái tử cũng không phải là muốn dựa vào bà ta quật ngã ngươi, mà là lợi dụng bà ấy khiến ngươi mắc bẫy! Chỉ là một mối gian lận thi cử nhỏ tẹo, đáng giá để ngươi đánh mất chừng mực sao? Nếu ngươi dốc hết sức thoái thác là do mình trị dưới không nghiêm, môn khách lợi dụng danh hiệu Tần vương của ngươi lén lút cấu kết, hối lộ với nhau bên ngoài, tội lớn sẽ không rơi trúng đầu ngươi."

Trịnh Sở Chi đóng quân bên ngoài nhiều năm, nhưng thế cục triều đình vẫn rất rõ ràng, rõ nhất là tính tình của đương kim bệ hạ.

"Coi như thật sự phạm vào tội lớn, bệ hạ cũng sẽ không để cho tiếng xấu nội bộ hoàng thất bất hòa bị truyền ra ngoài."

Tần vương: "Nhưng mà ta cũng đã phái tử sĩ hành thích Đông cung... Nên làm gì bây giờ?"

"Liều chết không nhận." Trịnh Sở Chi lạnh lùng nói: "Hai tên nhân chứng sống thôi, chỉ cần không lục soát ra được món đồ gì trên người tử sĩ có liên quan đến phủ Trịnh Quốc công, Thái tử sẽ không viết cáo được. Mặc kệ Đông cung có nói thế nào đi nữa, dù sao nhân chứng, tử sĩ cũng đều ở trong tay Đông cung, hành thích cũng phát sinh ở Đông cung, ai biết có phải chúng tự biên tự diễn hay không."

"Hơn nữa, Cấm quân nội cung lệ thuộc trực tiếp vào bệ hạ, thời gian trực và địa điểm mỗi ngày đều phải theo quy định, ta nghĩ quý phi nương nương nhất định đã sắp xếp thời điểm để thích khách tránh được Cấm quân, nhưng tình huống thực tế là Cấm quân lập tức chạy tới Đông cung, nói rõ trong Cấm quân có người của Thái tử và Hoàng hậu. Nhúng tay vào Cấm quân nội cung còn nghiêm trọng hơn cả việc ngươi phái tử sĩ vào Đông cung nữa."

Tần vương cực kì vui mừng: "Phụ hoàng có biết không?"

"Bệ hạ anh minh thần vũ, không gì có thể gạt được ông ta." Trịnh Sở Chi sờ râu quai nón, nói với Tần vương: "Cho nên ngươi không cần phải làm gì cả, cái gì cũng không biết, chuyện này không xảy ra! Lòng bệ hạ nếu đã tường tận, cũng sẽ không hỏi tội phủ Trịnh Quốc công, hiện nay quân Tây Bắc trấn thủ biên ải Tây Bắc, Nam Cương và Đại Hạ đã lom lom mắt rồi, đại quân sẽ không dễ dàng rút lui. Phía Đông còn có Đột Quyết, quân Ký Châu của chúng ta đang trấn áp tại đó, mà gần đây Đột Quyết đã rục rịch, gươm ngựa sẵn sàng, bệ hạ sẽ không khai đao với phủ Trịnh Quốc công. Mười mấy tên tiểu tốt vì lòng riêng mua chuộc quan khảo thí để gian lận thi cử chỉ là chuyện nhỏ mà thôi, không động được tới trên đầu ngài, điện hạ cứ thư giãn đi!"

Ánh mắt Tần vương lóe lên: "Bổn vương biết rồi, sẽ không hành động thiếu suy nghĩ."

"Trịnh Hữu đâu?"

"Ở sân ngựa."

"Gọi nó tới đây, ta có chút chuyện cần tìm."

Tần vương gật đầu, phái một tiểu thái giám đi gọi Trịnh Hữu.

***

Trịnh Hữu mặt hầm hầm đi đến bãi nuôi ngựa, bắt một người hầu trong nhà lại hỏi: "Không tìm ra được sao?"

Người hầu đau khổ nói: "Dạ không, không... Tôi mở to mắt nhìn lắm rồi đấy. chỉ hận không có thêm một đôi mắt nữa thôi, tôi còn nhìn kĩ từng người vào cửa hôm nay rồi, nhưng không tìm được họ Triệu kia!"

"Con mẹ nó!" Trịnh Hữu đạp ngã người hầu: "Đánh nhạn bị nhạn mổ mù mắt rồi, chớ để cho ông bắt được, nếu không hắn sẽ phải chết đi sống lại! Đi, tìm đám côn đồ trong thành, dù có lật cả Kinh đô này lên trời cũng phải tìm ra họ Triệu cho ta! Nói, nói nếu tìm ra được người, gia đây thưởng hắn mười cây vàng!"

Người hầu vội vàng chạy đi làm chuyện được giao.

Tùy tùng hai bên không dám thở mạnh, Trịnh Hữu lên ngựa, không nhịn được mắng: "Lần nào hồi kinh cũng đòi tiền, coi ông đây là cái bồn chứa tiền chắc? Một tháng trước đưa tin muốn mười ngàn lượng, bây giờ nhúng tay một cái đòi năm mươi ngàn lượng, mẹ nó ta đi đâu mà lấy tiền!"

Tùy tùng tiến lên đề nghị: "Lão gia, ngài còn có một khoản tiền gửi trong tiền trang..."

Trịnh Hữu cắn răng nghiến lười: "Hai ngươi bị ngu à? Tiền đó có thể dùng được sao?"

Tùy tùng: "Không tra đến chúng ta đâu. Làm chuyện lén lút cũng không phải là lần đầu tiên làm. Trước kia gặp phải nhiều nguy hiểm hơn mà vẫn còn bình an vô sự đấy thôi? Hơn nữa mấy người tiết lộ tin tức đều bị giết cả rồi, chẳng ai có thể tra ra được khoản bạc trong tiền trang kia đâu, mà có tra ra thì cũng đã làm sao? Có sổ sách ghi chép nguồn gốc đàng hoàng, mỗi một khoản đều là tiền làm ăn có được, nguồn vào rõ ràng, sao lại không thể dùng?"

Trịnh Hữu híp mắt, có vẻ mềm lòng.

Đáng lẽ ra trong thời điểm đặc biệt thế này vốn nên cẩn thận, nhưng hiện tại hắn nhập không đủ xuất. sòng bạc tửu lâu đã nửa tháng không kiếm được đồng bạc nào, đã vậy còn phải nuôi mấy lão già nuốt vàng, mới vừa nãy hắn bị Trịnh Sở Chi kêu đến gặp, vừa mở miệng đã bảo hắn đưa cho năm mươi ngàn lượng.

Đừng tưởng hắn ở bên ngoài phong quang vô hạn, tất cả mặt mũi đều đến từ phủ Trịnh Quốc công và Hoàng quý phi thôi, vào phủ quốc công nhìn thấy quý nhân cỡ Vương công như chuột thấy mèo, vâng vâng dạ dạ, để người ta cầu gì được nấy.

Trịnh Sở Chi ép hắn gay gắt, bày vẽ mưu kế để hắn cấu kết với quan chấm thi tỉnh ngoài hối lộ Tần vương, rồi đứng một phía theo dõi mà không đưa ra bất kì một lời gợi ý nào. Trịnh Hữu thật sự không còn cách nào khác, bị tùy tùng khuyên nhủ vài câu đã động lòng, cuối cùng cũng mất kiên nhẫn.

"Gọi mấy tên chưởng quỹ đến tiền trang nói chuyện."

***

"Bắt được nhân chứng sống rồi à? Tốt, tốt lắm, để cho Triệu Trường Phong thẩm vấn, nhất định phải ép cung hỏi chúng kẻ xúi giục là ai!" Thái tử vô cùng vui mừng, đi qua đi lại, hỏi: "Lưu thị đâu?"

"Không thấy nữa."

"Không phải ta bảo các ngươi bảo vệ Lưu thị cho tốt sao?" Thái tử sầm mặt.

Thị vệ dập đầu nói: "Trong lúc đuổi theo thích khách, Lưu thị đã mất tích rồi, đã lục soát trong ngoài Đông cung nhưng cũng không tìm được thi thể, có lẽ là đã được cứu đi rồi."

"Là do Tam đệ cứu sao? Mục đích của nó không phải là để cho Lưu thị chết ở Đông cung ư?" Thái tử hỏi sau lưng Ngũ hoàng tử: "Có phải muốn lợi dụng Lưu thị để trả đũa không?"

Ngũ hoàng tử: "Có ích lợi gì chứ? Nhân chứng Tam ca hành thích Đông cung còn ở trong tay chúng ta, hắn cũng không nói gì được đâu."

Thái tử lắc đầu: "Người hành thích là tử sĩ, không tìm được vật chứng trên người, nếu như liều chết cũng không nhận, vậy chúng ta cũng hết cách. Hôm nay Lưu thị biến mất khỏi Đông cung, rất có thể bị nói thành tự biên tự diễn, ngược lại hiềm nghi lớn nhất."

Ngũ hoàng tử: "Huynh đưa người cho đệ, đệ đến Văn Đức điện khóc cho!"

Thái tử: "An tâm đi, đừng nóng. Nếu như thi thể của Lưu thị ở trong tay chúng ta, ngươi đi khóc mới có tác dụng, nhưng bây giờ Lưu thị nằm trong tay Tam đệ, chúng ta không tránh khỏi vướng vào thế bị động."

Ngũ hoàng tử: "Nói vậy cũng không phải, Hình bộ của huynh có không ít người, cho ta mượn vài người đi. Ta không tin là dùng hết cực hình của Hình bộ mà còn không thể cạy nổi hai cái miệng!"

Thái tử suy tư chốc lát: "Cũng được. Nhưng chuyện này phải làm kín đáo thôi."

Ngũ hoàng tử: "Đệ biết rồi!"

***

Theo như lời Hoắc Kinh Đường nói, quả nhiên phó quan không đón được Lưu thị, sau khi hồi phủ liền chạy thẳng đến chủ viện phục mệnh: "Mấy cửa cung đều có người canh gác, không phát hiện có điều khác thường, Đông cung có thích khách, bắt được nhân chứng sống nhưng lại bình tĩnh lạ thường, tin tức bị che đậy rất kĩ, những kẻ bị bắt chắc vẫn còn ở Đông cung."

"Nếu như ở Đông cung, tại sao lại không đưa đến Đại lý tự?"

Phó quan sững sốt, cau mày suy nghĩ: "Không an toàn sao? Đại lý tự thiếu khanh là môn khách của Tần vương, hắn không tin tưởng người này?"

"Đại lý tự còn có ta, Đại lý tự thiếu khanh không dám giở trò bức cung Lưu thị, sau lưng bà ta là Thái tử, không phải là tội phạm mang tội chém đầu như Vương thượng thư. Lưu thị tiếp tục ở lại Đông cung sẽ gây ra hiểu lầm cho các đại thần trong triều đối với Thái tử, bây giờ đưa bà ta vào Đại lý tự mới là cách làm tốt nhất."

"Nhưng mà Đông cung đã từ chối... Chẳng lẽ Tần vương đã đắc thủ chăng?"

"Nếu thuận lợi thì bây giờ đã đến lượt Thái tử mang thi thể và tử sĩ đến Văn Đức điện khóc lóc rồi."

"Chẳng lẽ người của Tần vương đã đưa Lưu thị đi? Cũng không đúng, Lưu thị ở trong tay Tần vương nói rõ hiềm nghi của hắn là lớn nhất mà? Vậy, rốt cuộc Lưu thị kia đang ở đâu?"

Phó quan bối rối, không nghĩ ra được Lưu thị vốn là biến số nhỏ nhất làm sao lại đột nhiên biến thành sự tồn tại khó hiểu nhất.

"Ngươi chắc chắn các cửa cung đều không xảy ra điều gì bất thường?"

"Những người canh gác ở cửa cung đều là người lão Du điều tới, do ta đích thân kiểm tra!" Phó quan vỗ đầu mình nói: "Cũng kì lạ thật. Không có ở Đông cung, cũng không ở trong tay Tần vương, cửa cung cũng được canh cẩn thận, chẳng lẽ Lưu thị đã trốn lui trốn lủi ở xó xỉnh nào trong cung rồi?"

***

Lưu thị trốn ở Tây viện, Đông viện chính là nơi các cô nương phường hoa trà ở, đã đi hết sáu người, còn lại mười bốn cô nương đều là những người không còn nhà để về.

Triệu Bạch Ngư dặn dò các cô đừng đến Tây viện, mỗi ngày ba bữa ăn đúng giờ đưa đến là được.

Ngụy bá thẩm vấn Lưu thị một ngày một đêm cũng không thể cạy miệng bà ta, ông nói với Triệu Bạch Ngư: "Miệng bà ta rất chặt, đối với Thái tử có một phần tình cảm nuôi nấng bằng sữa mẹ, cộng thêm nghĩa tử đã chết, cảm tình đều ký thác vào trên người Thái tử, thấy chết không sờn, rất khó cạy miệng."

Triệu Bạch Ngư bật cười một tiếng: "Ta ở Kinh đô này thẩm tra trên trăm tên phạm nhân, cũng đã từng tiếp xúc với sơn tặc cực hung ác mang tội giết người, chẳng có kẻ nào không sợ chết. Lưu thị hưởng hết vinh hoa phú quý nhưng lại thích đánh cược, cược thua rồi liền không tiếc bán đứng chủ tử, cũng là người bà ta nuôi lớn, thứ người như vậy chưa chắc đã cứng rắn đâu. Trước tiên cứ mặc kệ đi, ta vẫn chưa muốn dùng thủ đoạn ép cung, tránh cho đến lúc đó lấy được chứng cứ lại bị nói là ta dùng tư hình bức cung."

Ngụy bá: "Được."

Hai người đi tới căn phòng nhốt Lưu thị, thấy Lý Ý Như đang đứng ở cửa, không khỏi tò mò bước về phía trước, nàng nhìn thấy hai người thì nhẹ nhàng hành lễ rồi nói: "Ân công."

Vừa dứt lời đã nghe thấy trong phòng vang lên giọng nói u ám của Lưu thị: "Ta có thể giúp các ngươi đến Đại lý tự phản cung chứng minh Trần đại nhân trong sạch, nhưng ngươi phải thề ngay trước mặt ta, thề sẽ không bỏ đứa trẻ trong bụng, tận tâm tận sức nuôi dưỡng nó lớn lên!"

Triệu Bạch Ngư cau mày: "Chuyện gì vậy?"

Lý Ý Như giải thích: "Cô gái bên trong là Yểu nương, trước khi Lưu Từ Đức chết thì gã chính là người đàn ông duy nhất qua lại với nàng. Hai ngày trước thân thể khó chịu, mời đại phu tới chẩn mạch thì phát hiện nàng mang thai hơn một tháng rồi. Yểu nương còn nói, năm đó Lưu thị vì để được làm bà vú của Thái tử nên nói dối con trai mình đã chết, thật ra Lưu Từ Đức là con ruột của bà ta, cái thai trong bụng Yểu nương bây giờ chính là huyết mạch duy nhất của Lưu Từ Đức."

Triệu Bạch Ngư đã hiểu: "Các ngươi lợi dụng đứa nhỏ đó để cạy miệng Lưu thị sao?"

Lý Ý Như gật đầu: "Đại nhân có ơn cứu mạng Yểu nương, nghe thấy đại nhân gặp nạn nên tự nguyện tới giúp."

Triệu Bạch Ngư không đồng ý với cách làm này.

Lý Ý Như cười nói: "Đại nhân có phải cho rằng Yểu nương sẽ nhẫn nhịn sinh hạ đứa nhỏ hay không? Sẽ không, Yểu nương không có người thân, không nơi nương tựa, cũng không thích Lưu Từ Đức, đứa nhỏ đó sẽ chỉ làm lỡ tương lai của nàng thôi. Đợi Lưu thị viết lời khai xong sẽ bỏ nó. Huyết mạch của tên đàn ông bẩn thỉu có gì đáng để giữ lại?"

Không ngờ lời này lại khiến cho Lưu thị bức bách nói: "Ngươi mau thề đi, dùng mạng của ngươi, mạng của người thân còn trên đời này, ngươi sẽ phải vào cửa Lưu gia ta, vì ta mà lập bài vị, đốt đèn trường sinh, sinh ra là người nhà họ Lưu, chết cũng là quỷ nhà họ Lưu!"

Mặt Triệu Bạch Ngư vô cảm.

Lý Ý Như cũng đã lạnh mặt, vô cùng phiền muộn vì chưa chi đã đáp ứng lời nhờ vả của Yểu nương, tự ý đưa nàng đến tìm Lưu thị. Nếu như thề độc, với tính tình cẩn thận của Yểu nương, chỉ sợ thật sự bị trói buộc cả đời.

"Nếu ngươi làm trái với lời thề thì sẽ chết không được tử tế! Sau khi chết tất sẽ vào địa ngục A Tì!"

Căn phòng rơi vào tĩnh mịch, một lát sau, Yểu nương lên tiếng: "Ta thề —— "

"Không chỉ muốn con gái nhà người ta thay con trai đoản mệnh của bà sinh con mà còn ép nàng làm quả phụ, trên đời này lấy đâu ra chuyện tốt như thế?" Triệu Bạch Ngư chợt đẩy cửa phòng, gương mặt từ trước đến giờ ôn hòa ngay lúc này phủ đầy sương lạnh: "Ta vốn không muốn dùng thủ đoạn tra tấn trong ngục để đối phó với bà, trái lại để cho bà được voi đòi tiên!"

Yểu nương ngạc nhiên quay đầu, cúi người hành lễ.

Triệu Bạch Ngư đỡ người dậy, bước lên phía trước, ánh mắt sắc lạnh như băng: "Lưu thị, sống đến từng tuổi này rồi, tích đức đi."

Lưu thị chẳng mảy may sợ hãi: "Bây giờ các ngươi cầu xin ta phản cung, nhưng ta nói cho ngươi biết, trừ phi nàng ta bái đường với bài vị của con trai ta, thề sinh hạ cháu trai duy nhất của ta, nếu không đừng hòng ta chứng minh Trần thị lang trong sạch! Ta không sợ chết, từ khi ta bị cầm tù ở Đông cung —— không, từ khi ta lộ đề thu tiền, ta đã chuẩn bị tinh thần để chết rồi! Trong cung, thủ đoạn tra tấn nào mà ta chưa từng thấy? Hơn nữa ta từng giết người rồi, còn sợ cái gì nữa chứ!"

"Cũng can đảm thật. Không biết bà đã từng nghe đến khai gia quan chưa?"

Khai gia quan là cực hình giết người không thấy máu ở Minh triều được Chu Nguyên Chương phát minh, Lưu thị tất nhiên không thể biết được.

Ngụy bá đã mang đến một xấp giấy dầu và thau nước, Triệu Bạch Ngư cầm lấy một tờ áp lên mặt Lưu thị, ung dung giảng giải đơn giản cách thực hiện khai gia quan, miêu tả tỉ mỉ cảm giác không có cách nào hít thở được cùng với dáng vẻ kinh khủng sau khi bị ngạt thở mà chết, sau đó không đợi Lưu thị mở miệng đã bắt đầu đổ nước lên giấy.

Lưu thị không ngừng vặn vẹo giãy giụa, giống như con trùng bị giữ chặt cái đầu.

Triệu Bạch Ngư dán thêm năm sáu lớp giấy không chút lưu tình, lạnh giọng nhắc nhở Lưu thị: "Muốn nói chuyện thì duỗi chân ra."

Lưu thị liều mạng duỗi chân, Triệu Bạch Ngư làm ngơ như không thấy, lại dán thêm hai tờ nữa, đến khi Lưu thị ngất đi mới lột bỏ xấp giấy xuống rồi tạt nước bà ta. Lưu thị tỉnh lại, vừa há miệng thở dốc vừa hoảng sợ trợn mắt nhìn Triệu Bạch Ngư, thanh niên nhã nhặn thanh thú trong mắt bà ta giờ đã biến thành ác quỷ đáng sợ nhất trên đời này.

Triệu Bạch Ngư: "Bà rất lợi hại, tội phạm giết người hung dữ nhất trong nhà lao cũng chịu không nổi đến năm tờ đã sợ đái đầy ra đất, khóc lóc van xin được tha thứ." Y dừng một chút, nở nụ cười vô hại: "Hận ta sao? Muốn đổi ý ư? Chẳng sao cả, ta tiếp tục dán, dán mười bảy, mười tám tờ, dán đến mức buổi tối nằm mộng bà cũng không thể thở được, xung quanh đều là mặt của ta. Ta còn có rất nhiều cách hành hạ người trong lao, đảm bảo có thể để cho bà muốn sống cũng không được, muốn chết cũng chẳng xong."

Lưu thị sợ hãi lắc đầu: "Ta nói! Ta nói hết!"

Lý Ý Như và Yểu nương trợn mắt há mồm, lúc này các nàng mới phát hiện hóa ra Triệu đại nhân điềm đạm lại có một mặt đáng sợ như vậy, có điều nghĩ lại, dù sao y cũng là Kinh đô phủ Thiếu doãn, ngày qua ngày tiếp xúc với biết bao nhiêu tên tội phạm, không tàn nhẫn một chút thì khó mà giữ gìn bình an cho trăm họ một phương.

Nghĩ vậy, hai cô gái liền không sợ Triệu Bạch Ngư nữa.

Lý Ý Như tạ lỗi với Yểu nương: "Là do ta suy nghĩ không chu toàn."

Yểu nương lắc đầu, yếu ớt cười một tiếng, thật ra nàng cũng rất sợ hãi, trước kia, những cô nương nào trong lâu có thai cũng sẽ bị uống một chén thuốc, dù may mắn không chết nhưng rồi cũng sẽ chết đi vì thân thể nhanh chóng suy tàn.

Nàng thà rằng chết sớm cũng không muốn sinh con, nhưng muốn trước khi chết có thể báo đáp ơn cứu mạng của Triệu Bạch Ngư.

Ra khỏi đình viện, Triệu Bạch Ngư đứng trước mặt Yểu nương hỏi nàng: "Ngươi có muốn sinh đứa trẻ hay không?"

Yểu nương kiên định lắc đầu: "Ta không muốn."

"Được." Triệu Bạch Ngư nói: "Ở đây ta có hai toa thuốc, một cái là toa phá thai, một cái là toa điều dưỡng thân thể sau khi phá, đợi lát nữa sao chép ra rồi các ngươi đem đi bốc thuốc. Điều dưỡng cho tốt mới có thể khiến cho thân thể hồi phục như trước."

Đời trước, ông ngoại của y là thầy thuốc Đông y dày dặn kinh nghiệm, trong nhà cất giữ lại rất nhiều phương thuốc cấp quốc gia, lúc Triệu Bạch Ngư có thời gian đến thăm, buồn chán nên học thuộc không ít toa thuốc, trong đó có cả toa phá thai đến từ thời Minh – Thanh.

Vào thời phong kiến, các cô gái mệnh khổ, phá thai, sẩy thai xong để lại tổn thương cực lớn đối với cơ thể, chỉ cần lơ là thì sẽ mất một xác hai mạng. Dù cho có lập tức làm sẩy thai cũng khiến cho cơ thể bị thương tổn nặng nề, cơ bản không sống nổi đến hai ba năm.

"Mời một đại phu đến viện chẩn mạch cho từng người nữa, thân thể người nào có bệnh ngầm, nội thương, nhân lúc còn đang trẻ tuổi thì điều dưỡng cho kỹ, nếu như không ngại ta là nam tử, có thể nói chứng bệnh cho ta biết, ta xem thử rồi hốt thuốc nào nhẹ và phù hợp cho mà chữa."

Đôi mắt Yểu nương ướt lệ, cúi người lạy thật thấp: "Đa tạ đại nhân."

Lý Ý Như hít sâu một hơi: "Ý Như thay các cô nương, lần nữa đa tạ ân công!"

Nàng biết, có một vài toa thuốc có thể truyền lại cho đời sau, đáng giá ngàn vàng, vậy mà Triệu Bạch Ngư lại có thể tùy tiện đưa ra cho đám hạ cửu lưu trong mắt thế nhân như các nàng, quả thật là một người có tâm địa thẳn thắng.

Triệu Bạch Ngư cười, khoát tay nói không có gì.

Dù sao cũng chết sớm, sinh không mang tới chết không mang đi, có thể cứu được người nào thì hay người đó.

==

Tác giả muốn nói:

Bé Cá Muối vò mẻ lại sứt: Đều là vật ngoài thân thôi!

(Ý nói những thứ ngoài cơ thể đều là những thứ không đáng tiếc nếu phải bỏ đi)

==

Chương 12

Trịnh Hữu gọi tới tiền trang chừng mười tên chưởng quỹ, là những kẻ chia nhau phụ trách việc thu tiền hối lộ của một số cử tử trong Kinh đô và cả ngoài tỉnh để giúp tham gia gian lận thi cử.

Số tiền thu được vào kì thi Hương năm ngoái được gửi vào tiền trang ước chừng lên tới một trăm năm mươi ngàn lượng bạc trắng, tính tới tính lui cuối cùng chỉ lấy ra bảy, tám ngàn lượng để tiêu xài.

Trịnh Hữu: "Ta vốn không muốn động vào khoản bạc này, nhưng tình thế cấp bách các ngươi cũng thấy rồi. Ta lấy trước một nửa tiền, còn lại chờ cho qua chuyện rồi tính lại sổ cái, thiếu nhiều thì xóa bỏ thiếu ít bổ sung vào, nhất định sẽ không bạc đãi các ngươi, càng sẽ không một mình ôm hết khoản tiền này. Các ngươi đều thừa biết cách làm việc của Trịnh Hữu ta, đi theo ta chỉ cần thật thà, trung thành, hoàn tất việc được giao, ta sẽ để cho ngươi và cả nhà sống thoải mái. Nhưng nếu ai đó dám phản bội ta, bán đứng mọi người thì đừng trách ta ra tay vô tình!"

Mười mấy vị chưởng quỹ đồng thanh đáp lại: "Chúng tiểu nhân đã rõ!"

"Tốt lắm. Mặc dù đầu chúng ta giờ đã bị treo cùng trên một sợi dây, nhưng cũng không cần quá lo lắng sợ hãi, sau lưng ta còn có người trong triều hỗ trợ chu toàn, khoảng thời gian này chỉ cần cẩn thận nhiều hơn, đề phòng người ngoài không rõ lai lịch, uống ít hoa rượu (*) thôi!

(*) Hoa rượu: Ý chỉ uống rượu có kỹ nữ theo hầu

Các chưởng quỹ đều bảo đảm, Trịnh Hữu đã cho người đi lấy chìa khóa, đem ngân phiếu có thể dùng để đổi tiền được ở mười ba tỉnh và ba mươi mốt phủ ra, tổng cộng năm rương nhỏ.

Trong đó có bốn rương ngân phiếu, rương thứ năm để thêm một quyển Kinh Thi, Trịnh Hữu chạy thẳng đến cái rương đó cầm nó lên.

Mới vừa cầm lấy đồ trên tay, cửa sổ đã bị đá văng ra, Cấm quân người đeo giáp trụ kẻ vận hắc bào nghiêm chỉnh xông vào tiền trang, bao vây phòng nghị sự bắt mười mấy chưởng quỹ lại. Trịnh Hữu nhanh tay ném Kinh Thi vào lò lửa, một thanh Đường đao cắt qua không khí bổ tới, tiếng leng keng vang lên, lò lửa ngã xuống đất bị một cẳng chân mang giày ống cao mạnh mẽ đạp xuống, ngay tức khắc lõm vào một cái hố to, sức lực cực kì lớn của người này khiến cho bao người ở đây phải khiếp sợ!

Phó quan nhặt quyển sách bị cháy mất một góc lên hỏi: "Đây là cái gì?"

Trịnh Hữu: "Đại nhân không biết chữ à? Bên trên có viết rõ ràng đấy —— Kinh Thi." Hắn vung cánh tay giật ra khỏi bàn tay đang bấu chặt mình của Cấm quân mình: "Dám hỏi chư vị tự tiện xông vào tiền trang là để dùng luật lệ bắt giam bọn ta sao? Bọn ta là người dân tuân thủ pháp luật, trăng sáng như nước, nhân lúc có hứng bàn thơ luận đạo cũng là phạm phải điều luật nào của Đại Cảnh hay sao?"

Phó quan nói rõ ràng: "Các ngươi cấu kết với quan chấm thi, hối lộ công khai, gian lận bất hợp pháp, giết người diệt khẩu, cái nào cũng phạm vào trọng tội chém đầu, Đại lý tự đã đủ tư cách để bắt giam các ngươi chưa?"

Sắc mặt Trịnh Hữu sa sầm, mười mấy chưởng quỷ trong nháy mắt bị dọa sợ run, có người đã té xỉu tại chỗ.

"Cấu kết quan chấm thi ở tỉnh ngoài, đổi trắng thay đen, thay thế bài thi của người khác thành bài của các thí sinh đã nộp nhiều tiền hoặc khoanh tên của những thí sinh không có tài năng thật sự lấy vào danh sách, đột nhập vào trường thi, triệu tập được các thí sinh đến Khổng miếu để minh oan, ngươi liền ra tay đánh người ta đến tàn phế! Thậm chí tự tiện chặn đánh những người lên Kinh cáo ngự trạng! Gan lớn biết bao nhiêu, ngông cuồng hấp tấp, bây giờ còn dám ở đây nhắc tới pháp lệnh luật hình của Đại Cảnh với ta ư?"

Phó quan quát mắng: "Tới đây, giải bọn chúng về Đại lý tự!"

***

Trịnh Hữu mạnh miệng, bị roi quất đến thoi thóp cũng không hé nửa chữ, những chưởng quỷ kia không đủ kiên nhẫn như hắn, trước thì sợ sệt nghi ngờ, sau gia tăng hình phạt, chưa tới nửa ngày đã có người khai báo tội hối lộ quan chấm thi, gian lận kiếm chác và giét người diệt khẩu.

Trong hình đường của Đại lý tự có một phòng trà đơn sơ, cách nơi dùng hình tra tấn phạm nhân chỉ một bức tường. Phó quan đi vào phòng trà, đưa lời khai của mười mấy cái miệng cho Hoắc Kinh Đường xem. Hoắc Kinh Đường gác cùi chỏ lên tay vịn ghế thái sư đỡ nửa người trên ngồi nghiêng, không giấu được vẻ lười biếng, chẳng có chút phong thái ngay ngắn thẳng thóm nào của một sĩ đại phu cả.

Hoắc Kinh Đường lật xem lời khai, đọc nhanh như gió: "Không sai biệt lắm."

Yên lặng chốc lát, hắn lại hỏi: "Có hỏi ra được tác dụng của quyển Kinh Thi kia là gì không?"

Phó quan: "Hỏi rồi ạ, nói là sổ khoản đen. Trong đó ghi chép lại các khoản thu tiền giao dịch trong một năm đổ lại mà các thí sinh đã hối lộ quan chủ khảo, quan chấm thi ở trường thi Giang Nam, khoản nào cũng được liệt kê rõ ràng, cao nhất đến gần ba trăm ngàn lượng bạc trắng, ít nhất cũng ngàn lượng vàng. Từ tú tài, cống sinh, cử nhân, cống sĩ đến tiến sĩ đều có, giá cả được niêm yết rõ ràng, tính chất không khác gì với mua quan bán nước. Mạng lưới quan hệ khổng lồ như vậy, một viên ngoại như Trịnh Hữu nhất định không thể ôm đồm hết được, sau lưng hẳn phải có núi dựa rất lớn, không phải Tần vương thì cũng là Trịnh quốc công."

Lời vừa dứt, Đại lý tự thiếu khanh đứng bên cạnh không nhịn được bủn rủn hai chân.

Gã là môn khách của Tần vương, mặc dù chỉ mới đi nương nhờ cách đây không lâu, nhưng trong khoảng thời gian này đều nhờ vào mật báo của gã mà đảng Tần vương mới thuận lợi tiến hành kế hoạch. Nếu như Tần vương gặp họa, nói không chừng cũng sẽ liên lụy đến thân gia hắn, khó giữ tính mạng.

Như vậy, làm sao có thể không sợ cho được?

Hoắc Kinh Đường lật Kinh Thi ra xem: "Xem quyển khoản đen này thế nào?"

Phó quan: "Đây chỉ là nửa phần đầu, ghi chép lại thu chi tiền tham ô, còn một phần sau ghi lại các quan chủ khảo và thi sinh. Trịnh Hữu đã đem nửa quyển sau đó gửi vào tiệm cầm đồ rồi, phiếu gửi ở trên người hắn. chỉ có hắn biết tung tích của khoản đen đó ở đâu. Coi như đã bị tra ra một nửa khoản, chỉ cần giấu kĩ một nửa còn lại, chúng ta cùng lắm chỉ tra được tới đây là đứt đoạn. Lui mười ngàn bước mà nói, nửa quyển khoản đen đó không cẩn thận ném ra ngoài, có là thiên tài đi nữa cũng sẽ nghĩ không ra một quyển Kinh Thi lại là ghi chép toàn bộ tên của quan viên nhận hối lộ ở trường thi Giang Nam! Trịnh Hữu này thật sự là một tên tài giỏi, đáng tiếc không đi đường ngay."

Hoắc Kinh Đường: "Đã hỏi ra tung tích nửa quyển sau chưa?"

Phó quan: "Đã hỏi, nhưng bảo mất rồi."

Hoắc Kinh Đường: "Mất ở đâu?"

Biểu cảm của phó quan vô cùng quái dị: "Trịnh Hữu đi uống rượu đánh bạc với người ta, vì hắn thua nên dùng phiếu cầm đồ định giá. Khoản đen bị một tên thương nhân họ Triệu lấy đi, mà thương nhân họ Triệu đó cũng là Triệu Bạch Ngư ngày đó tranh đoạt ca nữ với Trịnh Hữu ở phường hoa trà."

Hoắc Kinh Đường ngạc nhiên: "...?"

Phó quan hơi sụp đổ: "Ta đã nói Triệu Bạch Ngư rất lạ rồi mà!"

***

Nghiên Băng: Mặc dù Lưu thị nhận tội, ít ra lời chứng của bà ta có thể dùng để chứng minh Trần tiên sinh trong sạch, nhưng làm sao để mang lời chứng này và cả Lưu thị đến Đại lý tự đây? Nếu cứ tùy tiện đưa Lưu thị đến đó, thì phải giải thích chuyện bà ta ở trong tay chúng ta như thế nào? Còn cả chuyện thẻ ngà nữa? Làm sao để ngăn chặn Lưu thị không cắn ngược ta một cái, tố chúng ta tư hình bức cung?"

Ngụy bá cũng có nỗi lo này: "Chi bằng nhân lúc trời tối đưa Lưu thị và lời khai đến trước cửa Đại lý tự đi?"

Triệu Bạch Ngư: "Không thể làm vậy. Chưa nói đến Cấm quân tuần đêm, bên ngoài Đại lý tự canh gác cũng rất nghiêm ngặt, lại nói Lưu thị đã biết mặt ta, vẫn có thể từ trong đối thoại của chúng ta suy đoán ta làm việc ở Nha môn, Đại lý tự tra đến ta là chuyện sớm muộn thôi."

Nghiên Băng khổ não: "Vậy làm sao bây giờ?"

Ngụy bá nói lời tàn nhẫn: "Hay là cho bà ta uống thuốc độc làm cho câm?"

Triệu Bạch Ngư: "Vậy thì lời khai chứng minh trong sạch cho ân sư cũng bị giảm đi rất nhiều." Y cất tay, mười ngón tay trong tay áo đan vào nhau, nói: "Tìm Thập vương gia giúp đỡ đi."

Ngụy bá không hiểu: "Thập vương gia sao lại chịu giúp đỡ?" Ông không biết chuyện huyết phách ngàn năm.

Triệu Bạch Ngư thuật lại ngọn nguồn một lần: "Kỷ đại nhân cứ nhắc đến quý nhân, lúc nói mặt đầy tôn kính, thân phận chắc chắn rất cao quý, lại còn có giao tình sâu nặng với Khang vương. Vị quý nhân đó thiếu ta tình cứu mạng, hẳn là sẽ bằng lòng giúp nói chuyện với tiểu quận vương."

"Quan hệ cậu cháu của Thập vương gia và Lâm An quận vương vẫn luôn rất tốt, đúng thật là người ổn nhất để tiếp nhận Lưu thị." Ngụy bá như vẫn có điều suy nghĩ.

Triệu Bạch Ngư: "Ta sẽ đi tìm Kỷ đại nhân ngay bây giờ."

***

Trong quận vương phủ, phó quan đang tận tình khuyên can Hoắc Kinh Đường, bảo hắn mau đi yết kiến bệ hạ rút lại hôn sự với Triệu ngũ lang: "Tướng quân, ban đầu ngài cầu xin bệ hạ gả người, vốn chính là để cho bệ hạ có được một mối dò xét nông sâu ở Triệu phủ, còn là để có lý do liên hệ với chư vị hoàng tử và trăm quan trong triều, không phải làm thật. Chỉ cần ngài lên tiếng, bệ hạ nhất định sẽ rút ý chỉ lại, ta đoán lão nhân gia đang chờ ngài chủ động nói trước, chứ làm sao thật sự để cho một người đàn ông vào quận vương phủ chúng ta chứ."

"Tướng quân, ngài cũng chớ giận dỗi bệ hạ, nay cổ độc trên người ngài đã được giải rồi, còn có nỗi lo về sau gì đâu? Lại nói Triệu ngũ lang kia cũng là bị ép gả đi, ngài giải trừ hôn ước còn vừa hay lấy tình cứu mạng?"

Phó quan sâu sắc cảm nhận Triệu Bạch Ngư là người không bình thường, trên đời nào có chuyện trùng hợp đến vậy?

Hoặc là bởi vì theo sắp xếp, cố ý đến gần tướng quân, hoặc là ý trời như thế, vậy thì lại càng không bình thường!

Hoắc Kinh Đường vẫn bình chân như vại, tiếp tục điêu khắc khối gỗ màu tím của hắn, trên khối gỗ đã xuất hiện những đường nét đầu tiên của một vị Bồ Tát.

Hắn ngoắc ngoắc tay, tỏ ý gọi phó quan đến gần, chờ cho gã lộ ra sắc mặt tò mò không hiểu mới lên tiếng: "Ngươi nói coi, nếu ta khắc nó thành pho tượng Văn Thù Bồ Tát (*) đưa cho Triệu ngũ lang làm sính lễ, y có thích không?"

(*) Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được biết đến là vị đại biểu cho trí tuệ. Ngài có dáng dấp trẻ trung, ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen. Biểu tượng đặc trưng là trên tay phải cầm một lưỡi gươm đang bốc lửa giương cao lên khỏi đầu.

Phó quan không chút nghĩ ngợi: "Ai mà lại thích sính lễ là tượng gỗ khắc Văn Thù Bồ Tát chứ?"

Hoắc Kinh Đường: "Vậy đổi thành Quan Âm thì sao? Văn Thù ý chỉ trí không, Quan Âm ý chỉ từ bi, cũng mang đến vận may, nghe nói còn quản chuyện cầu con."

Phó quan: "Đàn ông với nhau cầu con làm gì?"

Hoắc Kinh Đường dửng dưng: "Ta đang lấy ý kiến tốt nhất thôi mà Tông Chính, sao ngươi nghiêm túc vậy?"

Gã nghiêm túc sao? Phó quan im lặng một lúc rồi đáp: "Tướng quân, ta đang nói chính sự với ngài mà. Bây giờ tốt nhất là ngài nên cho người đi trộm quyển khoản đen còn lại ở chỗ Triệu ngũ lang đi, tránh lại gây thêm rắc rối."

"Gấp cái gì? Bây giờ người gấp nhất là Triệu ngũ lang, y sẽ chủ động đưa tới quyển nửa phần khoản đen còn lại thôi."

Vừa dứt lời, giọng nói của Thập vương gia đã truyền tới từ tận ngoài sân: "Tử Uyên, đoán xem ta mang ai tới này? Ha ha, là Lưu thị đã mất tích mà cả Thái tử, Tần vương và Đại lý tự lần mãi chẳng ra đây!"

Lưu thị mất tích? Phó quan kinh ngạc, tò mò không dứt.

Thập vương gia: "Đoán thử nữa xem ai là người đưa bà ta tới nào? Chắc chắn tên nhóc con nhà ngươi đoán không được! Nhất định sẽ không đoán ra đâu! Đến ta còn không kịp trở tay cơ mà —— " Khang vương hấp tấp, không đợi Hoắc Kinh Đường mở miệng hỏi câu nào đã huỵch toẹt câu trả lời ra: "Là Triệu ngũ lang! Triệu Bạch Ngư, là cháu ngoại của ta đó!"

Triệu Bạch Ngư? Tại sao lại là y?!

Nội tâm phó quan như bị sét đánh, ngạc nhiên nghiêng đầu nhìn Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường chống cằm cười ngoác miệng: "Ta đã nói y sẽ chủ động đưa đồ tới cửa mà, chưa chi đã tới rồi?"

Phó quan cảm giác tuyệt vọng cùng cực.

==

Tác giả muốn nói:

Phó quan: Thật sự chỉ có mình ta cảm thấy Triệu Bạch Ngư kì lạ thôi sao?

P/S: Mắt của lão Hoắc có màu vàng lưu ly, trong tác phẩm viết màu lưu ly trong vắt chính là màu vàng lưu ly đó, sẽ ngầm thừa nhận là màu vàng.

Thực tế không có giải thích nào cho màu lưu ly cả, cảm thấy nếu viết thành vàng lưu ly thì có hơi khó nghe, cho nên đã dùng màu lưu ly để thay thế.

==

Min: Ý tác giả là màu vàng trông như màu của con này nè ⬇️

==

Chương 13:

Hoắc Kinh Đường không được lộ mặt, vậy nên Khang vương trở thành người trung gian thay mặt hắn truyền lời, hỏi hai vấn đề.

Một là vì sao Lưu thị lại ở trong tay Triệu Bạch Ngư, hai là trong tay y có một quyển Kinh Thi chuộc về từ hiệu cầm đồ hay không.

Triệu Bạch Ngư không khai Ngụy bá ra, chỉ nói y từng nhặt được thẻ ngà ra vào cung mà Lưu thị làm rơi, lợi dụng có thẻ ngà và xe vận chuyển nước đưa Lưu thị ra khỏi Đông cung, nghe hỏi đến câu thứ hai tuy trong lòng hoảng sợ nhưng vẫn thành thật trả lời.

Quý nhân sau lưng Khang vương làm sao biết được trong tay y có một quyển Kinh Thi.

Trừ phi đối phương tra được từ trên người Trịnh Hữu.

Trong tình huống nào sẽ điều tra Trịnh Hữu? Người nào sẽ thẩm tra Trịnh Hữu?

Gian lận thi cử.

Đại lý tự khanh, Lâm An quận vương —— Hoắc Kinh Đường!

Quý nhân mà Khang vương thường nhắc đến chính là Hoắc Kinh Đường ư? Cẩn thận suy nghĩ thì thân phận cao quý, tình cảm chú cháu sâu nặng với Khang vương, trừ Hoắc Kinh Đường ra thì không có người thứ hai. Hơn nữa người này tuổi còn trẻ mà đã giao lại binh phù, trốn lui trốn lủi trong Kinh đô bốn năm năm, trong tay không có thực quyền cũng chẳng có dã tâm, nhìn thế nào cũng không giống nhân vật phản diện nghiêm túc quyền mưu nhất trong nguyên tác.

Nếu như hắn mắc phải bệnh lạ, không thể sống lâu, ngược lại có thể giải thích cho tất cả lý do đó.

Bốn năm năm trước khải hoàn hồi triều, nhớ không lầm thì trận chiến cuối cùng của hắn là ở Nam Cương, Nam Cương thiên về cổ độc, thần bí khó lường, chẳng lẽ Hoắc Kinh Đường bị trúng cổ độc?

Từ hai vấn đề mà Khang vương đưa ra, Triệu Bạch Ngư đã đoán được tám, chín phần sự thật nhưng vẫn tỉnh rụi, nhẹ nhàng kính cẩn trình bày: "Ngũ lang cũng biết, tự tiện xông vào hoàng cung là phạm vào tội chết không thể tha, vậy nên không dám cãi lại, nhưng cầu xin Vương gia nể tình bảo vật Ngũ lang đã dâng lên, giúp Ngũ lang một tay cứu ân sư Trần thị lang."

Khang vương chắp hai tay sau lưng quan sát Triệu Bạch Ngư, đây là lần đầu ông gặp mặt cháu ngoại, không ngờ y lại xinh đẹp, dễ chịu, trông rất hợp mắt như vậy, từ dung mạo đến phong thái đều tao nhã, một bộ áo xanh dịu dàng như ngọc, không giống vị trưởng tỷ Xương Bình công chúa mang nét đẹp kiều diễm rực rỡ nhưng dễ dàng làm bỏng những người bên cạnh của ông, trái lại càng giống như Triệu Bá Ung thuở thiếu thời say ngọc đồi sơn hơn.

Trong năm lang quân của Triệu gia, đứa cuối cùng, cũng là đứa con không được lòng người nhất, Triệu Bạch Ngư lại là người có phong thái giống với Triệu tế chấp nhất.

Bấy giờ, người ta đều nói Triệu thị Tứ lang Triệu Ngọc Tranh dáng vẻ mặt mày như long như phượng, là một viên ngọc sáng, cũng là trăng sao chói lọi, dường như toàn bộ linh khí Kinh đô đều chỉ tập trung trên người một mình hắn, cho nên đến cả Hoàng đế, Thái hậu cùng một đám hoàng tử công chúa đều yêu thích hắn.

Nếu như nói Triệu Ngọc Tranh là viên minh châu, thì Triệu Bạch Ngư cùng tuổi cùng ra đời một ngày với hắn chính là con mắt cá!

Đến cả cái tên cũng vô cùng bình thường, nghe nói y ra đời hơn hai năm mà còn chưa có tên, ma ma bên người liền cầu xin Triệu Bá Ung ban tên cho. Đúng lúc trong hồ nước có một con cá trắng vảy bạc tung mình nhảy lên, Triệu Bá Ung thấy nó liền thuận miệng thốt lên hai chữ "Bạch Ngư".

Thử hỏi ở Kinh đô này đứa trẻ nhà nào có cái tên bị lấy qua loa cho có lệ như thế?

Chỉ có duy nhất một mình Triệu Bạch Ngư vì liên lụy mẫu thân ruột mà nhận được đãi ngộ này, không ai bất bình cho y.

Nghĩ đến đây, Khang vương nảy sinh lòng áy náy hiếm có thương xót cho Triệu Bạch Ngư, không nhiều, chỉ ít thôi, nhiều hơn vẫn là cảm động vì để cứu ân sư, Triệu Bạch Ngư có thể làm đến mức này, có thể thấy là một người vô cùng trọng tình trọng nghĩa.

Lần đầu tiên, Khang vương cảm thấy câu nói mẹ nào con nấy không đúng chút nào.

"Đứng lên đi. Nếu như ta không muốn cứu Trần Sư Đạo, bây giờ cũng sẽ không gặp ngươi." Khang vương nói: "Giữ quyển sổ... Giữ quyển Kinh Thi đó lại đi, còn Lưu thị, thẻ ngà và lời khai giao lại hết cho ta. Nhớ lấy, ngươi chưa từng đến Đông cung, ban đầu nhặt được thẻ ngà đã giao ngay cho phủ Nha, vẫn luôn để ở phủ Nha, đến lúc Kỷ tri phủ và bổn vương nói chuyện mới biết chuyện thẻ ngà."

Triệu Bạch Ngư: "Ti hạ biết."

Khang vương gõ gõ mặt bàn: "Ngồi xuống đây, chúng ta trò chuyện một chút."

Triệu Bạch Ngư lên tiếng đáp lại rồi ngồi xuống, vô cùng ngoan ngoãn, không có chút nhuệ khí nào, xem ra là một chàng trai tính tình rất tốt.

Chính xác hơn là bởi vì bị trên dưới Triệu phủ bắt nạt nên cũng chẳng dám hùng hổ khí thế. Khang vương suy nghĩ một chút, trong lòng không mấy vui vẻ, vì vậy liền nói: "Nói mới nhớ, ngươi cũng là cháu ngoại của bổn vương, phải gọi ta một tiếng cữu cữu chứ. Có chuyện rắc rối hay phiền toái gì không thể giải quyết được có thể đến tìm ta. Không cần lần nào cũng phải dâng huyết phách bảo bối gì mới có thể tìm cữu cữu, bình thường muốn cứ thoải mái đến Khang vương phủ chơi."

Triệu Bạch Ngư biết là lời khách sáo, cũng hiểu là Khang vương cố tình muốn thiết lập quan hệ thân thiết và để dễ dàng liên hệ với mình, y cũng chắp tay cảm kích, vừa đáp lời xã giao: "Những năm gần đây, Ngũ lang thời khắc đều nhớ mong Thái hậu, bệ hạ và cữu cữu, trong lòng thường cầu phúc cho thân nhân, cũng biết cữu cữu bận rộn nhiều việc, vì triều đình giải khốn, vì trăm họ giải ưu, chắc chắn sẽ không đem chuyện nhỏ nhặt của bản thân đến quấy rầy người."

"Ngươi có lòng này là tốt rồi." Sắc mặt Khang vương hòa hoãn, ánh mắt càng toát ra vẻ hòa nhã, giống như một người cậu tốt thật lòng nhớ mong cháu mình vậy, "Sau này có chuyện gì cứ tới thẳng Khang vương phủ."

Ông tháo ngọc giác Hoàng Long đeo bên hông xuống tặng cho Triệu Bạch Ngư: "Năm đó ta còn là hoàng tử, phụ hoàng đã đưa ngọc giác này cho ta, thấy ngọc như gặp người, coi như là quà ra mắt của ta."

Triệu Bạch Ngư từ chối, Khang vương nói: "Trưởng lão ban cho, không được từ chối."

Triệu Bạch Ngư nghe vậy mới nhận lấy ngọc giác Hoàng Long.

Khang vương lại hỏi Triệu Bạch Ngư vài chuyện nữa, Triệu Bạch Ngư trả lời từng vấn đề một, cuối cùng hỏi y: "Nghe nói ngươi vốn đã tham gia kì thi Hương, có công danh tú tài trên người, sau đó sao lại không tiếp tục thi nữa?"

Triệu Bạch Ngư lẳng lặng nghĩ, giương cao khóe môi cười đáp: "Không khéo mắc bệnh, bệnh một trận rất lâu mới khỏi nên bỏ qua kì thi Hội ạ."

Đối với các sĩ tử trên thiên hạ này, tham gia thi cử chính là hy vọng cá chép vượt vũ môn hóa rồng, là đại sự, là phúc trạch ba đời, cho dù người có mang bệnh nặng, chỉ cần chưa chết đều sẽ đến trường thi, cho nên việc Triệu Bạch Ngư bỏ thi có lẽ có liên quan đến Triệu Ngọc Tranh và cả đám người Triệu phủ.

Khang vương: "Từ trước đến nay Đại Cảnh lấy nhân tài làm trọng, bệ hạ cầu hiền như khát, không giới hạn người có năng lực, phàm là người làm việc vì triều đình, vì bách tính, chỉ cần ngươi có khả năng, dù chữ to cũng không biết, ngươi vẫn có thể một bước lên mây, tấn phong hai phủ ba ti."

Triệu Bạch Ngư cảm tạ ông nói lời hay, sau đó nói thêm vài chuyện thường ngày. Hàn thuyên đơn giản thêm một lúc nữa, Triệu Bạch Ngư mới bái biệt Khang vương phủ.

Triệu Bạch Ngư vừa đi, Hoắc Kinh Đường đã bước ra từ căn phòng phía sau đại sảnh, nghe Thập vương gia xúc động: "Đúng là một đứa trẻ đáng thương, ngoan ngoãn như vậy, ngược lại những năm này chúng ta khinh thường nó, quả thật có lỗi. Tử Uyên à, hay thôi ngươi cứ đi nói với bệ hạ chuyện từ hôn đi, đừng làm khó dễ người ta."

Hoắc Kinh Đường bước tới cái ghế Triệu Bạch Ngư vừa rời khỏi ngồi xuống, gác lên tay vịn nói: "Nếu thật sự muốn giúp đỡ Triệu Bạch Ngư, chi bằng nhanh chóng nghĩ cách cứu ân sư của y trước đã."

"Đúng vậy." Khang vương: "Có điều chuyện này dây dưa quá nhiều, ngươi phải khai báo thế nào?"

Hoắc Kinh Đường không biết làm sao: "Khai báo đúng sự thật thôi, nhưng nếu để ta khai báo, Trần Sư Đạo nhất định sẽ chết."

Khang Vương cẩn thận suy nghĩ, vuốt râu dài gật đầu nói: "Chính xác. Nếu Trần Sư Đạo không chết vì ông ấy trong sạch, Lưu thị nói láo bêu rếu nguyên lão ba triều, lại là người của Đông cung, thì chắc chắn sẽ thành trở ngại đối với danh tiếng của Thái tử. Còn nếu khai báo đúng sự thật, sợ rằng bệ hạ sẽ cân nhắc mặt mũi hoàng tộc, danh tiếng trữ quân mà để Trần Sư Đạo nuốt xuống oan khuất này."

Hoắc Kinh Đường: "Cho nên không thể để cho ta nói ra."

Khang vương ngạc nhiên: "Ngươi có thật sự muốn cứu Trần Sư Đạo không?"

Hoắc Kinh Đường: "Quân tử nhất ngôn."

Khang Vương bất mãn: "Ngươi nghĩ cho kĩ, một Trần Sư Đạo thay cho danh tiếng của trữ quân tương lai? Hoàng tử đấu đá lẫn nhau, không tiếc bêu xấu nguyên lão vì Đại Cảnh ta đào tạo mấy trăm học sinh giỏi giang, truyền ra ngoài có dễ nghe không?"

Hoắc Kinh Đường: "Vậy một trữ quân vì để giết hại huynh đệ mà không tiếc bêu xấu triều thần thì cần thiết phải theo sảu ủng hộ hắn sao?"

Khang vương cứng họng, quả thực khi ông biết được sự thật cũng cảm giác lòng mình đã nguội lạnh, từ tận đáy lòng, ông cho rằng Thái tử không xứng làm quân chủ, chỉ là từ cổ chí kim bất cứ quân vương nào trước khi lên ngôi bàn tay cũng nhuộm đỏ máu tươi, chân đạp xương trắng, thật lòng mà nói, Đông cung làm vậy cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

"Thay đổi trữ quân, khó tránh khỏi khủng hoảng, triều đình biến động, quá bất lợi cho sự ổn định của thời cuộc trước mắt."

"Bệ hạ hiểu rõ mình cần làm gì hơn ngài, sẽ không dễ dàng thay đổi trữ quân, nhưng vẫn phải dọn dẹp vài con sâu nên cần dùng thủ đoạn lôi đình để trấn giết. Triều đình bách quan bách thái (*), bệ hạ đã tỏ, người tới báo cáo vụ án có phải ta hay không, chỉ cần biết quyết định sống chết của Trần Sư Đạo, sẽ không lung lay được kết quả sau cùng."

(*) Bách quan bách thái: Ý nói trăm vị quan là trăm dáng vẻ khác nhau, không ai giống ai

Hoắc Kinh Đường nhắm mắt lần tràng hạt, ý vị sâu xa: "Hành động mà ta làm hoàn toàn dựa vào tình thế."

***

Trịnh Hữu bị bắt vào Đại lý tự, Tần vương vô cùng sợ hãi, Trịnh Sở Chi đến tận cửa thăm, hỏi gã và Trịnh Hữu rốt cuộc còn che giấu bao nhiêu chuyện. Tần vương ấp úng, dù gì thì cũng phải nói rõ ràng chuyện gã và Trịnh Hữu đã cấu kết với quan chủ khảo ở trưởng thi Giang Nam để làm loạn.

Trịnh Sở Chi kinh hồn bạt vía, không thể tin nổi: "Hành vi này, các ngươi đã làm mấy năm rồi?"

Tần vương lúng túng: "Ba năm... Đó là do hao tổn quá lớn mà ra, quân Ký Châu của cữu cữu và ngoại công mỗi quý mỗi đốt trăm ngàn lượng bạc trắng, trung quỹ trong cung, bình thường đưa tới theo lệ, ban thưởng... Chuyện nào cũng phải tốn tiền, làm sao bổng lộc và tiền kiếm được bằng cửa hàng, tửu lâu mang danh Trịnh Hữu có thể cung cấp nổi?"

Trịnh Sở Chi giận sôi máu: "Cho nên các ngươi có thể lợi dung khoa cử sao? Ngươi có biết cái này không khác gì mua quan bán nước không? Đây là đại tội chém đầu đấy!"

Lòng Tần vương loạn lên: "Chẳng lẽ bổn vương không biết? Lúc cữu cữu xòe tay đòi tiền có từng nghĩ xem bổn vương lấy tiền ở đâu không? Muốn trách phải trách phụ hoàng thiên vị, bộ Hình cũng giao cho Thái tử, vị trí ở phủ doãn cũng cho Thái tử, đến Diêm thiết ti cũng có môn khách của Thái tử! Ai cũng biết, ngồi vào bất cứ chỗ nào ở Diêm thiết ti thì tiền bạc cũng vào như nước! Nhưng tại sao môn khách của bổn vương có làm thế nào cũng không chen chân vào được? Là bổn vương không có tài cán gì sao? Không, là do phụ hoàng đã thao túng tất cả mới đúng!"

Nguyên Thú đế cần cân băng thế lực triều đình, vậy nên vừa cho Hoàng quý phi cùng Tần vương vinh sủng, vừa hạ chế thế lực của Tần vương phát triển, suy cho cùng là để đề phòng phủ Trịnh Quốc công bọn họ. Trái lại sắp xếp cho môn khách của Thái tử nắm trong tay quyền kinh tế cả nước ở Diêm thiết ti, một bên vì nhà ngoại của Thái tử là thế gia cao quý Tư Mã thị, cũng là nơi gây dựng thế lực cho hắn, một bên mượn việc này để giám sát và áp chế thế lực đó lớn mạnh.

Có thể nói, đương kim Thánh thượng đã dày công tôi luyện, chơi đùa với quyền thuật triều đình đến mức hoàn hảo không chừa kẽ hở.

Trịnh Sở Chi có tức giận đến đâu đi nữa cũng không thể xoay chuyển chuyện đã có xu thế sụp đổ: "Chỉ còn cách hy sinh Trịnh Hữu thôi."

Tần vương: "Ý ngài là?"

"Cắt đuôi tìm đường sống." Trịnh Sở Chi tàn nhẫn nói: "Mẫu thân của Trịnh Hữu và đệ đệ nó vẫn còn đang ở Định Châu, chỉ cần nó nhận tội, ta sẽ chăm sóc bọn họ thật tốt. Còn ngài, ngài phải đi trước Lâm An quận vương một bước, đến trước cửa cung chịu đòn xin tội, phải nói mình trị dưới không nghiêm, tự xin hàng tước, phạt bổng lộc. Bệ hạ sẽ không giết ngươi, vậy nên ngươi nên tìm cho mình một nấc thang đi."

Tần vương không cam lòng hàng tước, nhưng hắn không còn cách nào khác nữa, trước mắt thì đây chính là con đường sống duy nhất.

Cùng một câu nói như vậy, Trịnh Sở Chi thuật lại một lần nữa cho Hoàng quý phi nghe, có điều đối tượng hy sinh đổi từ Trịnh Hữu thành Tần Vương Hoắc Chiêu Diệp. Tất nhiên Hoàng quý phi không chịu hy sinh con trai của mình, nhưng Trịnh Sở Chi đã bóc tách tình hình rồi vẽ vời thêm chuyện nói cho nàng biết.

Tần vương nhúng tay vào trường thi Giang Nam, thu hối lộ đã xâm phạm đến ranh giới cuối cùng của Nguyên Thú đế, nghiêm trọng hơn nữa chính là làm lung lay căn cơ của Đại Cảnh. Nguyên Thú đế không nhẫn nhịn được, càng phải để cho trăm quan trong triều và cả thiên hạ này một câu trả lời, tuyệt đối không thể chỉ đơn giản là "trị dưới không nghiêm", "hàng tước phạt bổng" như vậy.

Kèm thêm sẽ liên lụy đến chính Hoàng quý phi và cả phủ Trịnh Quốc công, nhưng do bọn họ chủ động vì việc nước quên tình nhà, cân nhắc đến quân Ký Châu còn đang chống cự Đột Quyết, bệ hạ sẽ không động đến phủ Trịnh Quốc công, còn có thể giữ được cho Tần vương một cái mạng.

"Nhiều nhất là bị tước vị, tống giam vào Tôn Chính tự. Không có Tần vương, ngài còn có Lục hoàng tử. Lục hoàng tử vô cùng thông minh, tài đức song toàn, trong quân chiêu hiền đãi sĩ (*), khiêm tốn lễ độ, rất được kính yêu. Vừa có phong độ của đại tướng, lại chẳng thiếu phong thái vương giả. Chờ Lục hoàng tử... Một ngày nào đó sẽ tự thân nghênh đón Tần vương ra khỏi Tôn Chính tự, khôi phục tước vị, cũng có thể đảm bảo tình huynh đệ tốt đẹp."

(*) Chiêu hiền đãi sĩ: thời phong kiến, chỉ vua chúa, quan thần hạ mình kết bạn với người hiền tài

Hoàng quý phi sinh được hai trai một gái, trừ Tần vương đứng thứ ba, còn có Lục hoàng tử nhỏ hơn gã bốn tuổi, ba năm trước đã theo Trịnh quốc công chinh chiến Đột Quyết, còn chưa được phong tước hiệu, cũng không dựng phủ ngoài cung.

"Quý phi nương nương, xin ngài hãy tự đến Văn Đức điện đại nghĩa diệt thân, cũng nên chủ động giao trung quỹ hậu cung ra đi."

***

Giờ Dần, có một kẻ mặc đồ đen lặng lẽ lẻn vào viện tử không người thăm hỏi của Triệu phủ, một ngọn nến nhỏ như hạt đậu được thắp lên đặt trước lớp màng cửa sổ lụa mỏng.

Triệu Bạch Ngư tỉnh giấc, trước hết nhìn về phía ngoài phòng nơi Nghiên Băng đang ngủ, nghe thấy tiếng nó ngáy o o mới biết mạng mình vẫn còn giữ được. Người tới mặc dạ hành phục đen tuyền, che kín mặt mũi, chỉ thấy được đường nét thân hình cao gầy, ước chừng cao hơn Triệu Bạch Ngư một cái đầu. Tóc buộc thành đuôi ngựa cao, để lộ vầng trán đầy đặn sáng bóng cùng đôi mắt màu lưu ly, nửa dưới khuôn mặt đã bị vải đen che kín.

Hắn thắp nến xong, ngồi bắt chéo ở chỗ gần cửa sổ, tay trái chơi đùa với tấm thẻ ngà lấy được từ trong cung, tròng mắt sâu thẳm phản chiếu bóng dáng Triệu Bạch Ngư.

"Triệu Bạch Ngư?"

"Các hạ là?"

"Ta là ai không quan trọng, muốn cứu Trần Sư Đạo không?"

"Tất nhiên."

"Cầm lấy." Người đó ném thẻ ngà qua, Triệu Bạch Ngư nhanh tay tiếp lấy, "Nửa giờ sau, đến cửa cung gõ trống, cáo trạng Trần Sư Đạo."

==

Min: Thật ra đối thoại phải là như này ⬇️

Bé Cá: "Các hạ là?"

Ngài Hoắc giấu tên: "Là chồng em."

==

Chương 14

Giờ Dần canh ba.

Văn Đức điện.

Đèn đuốc sáng choang như ban ngày, thái giám, cung nữ và Cấm quân các ty kỳ chức đều không dám thở mạnh. Trước canh ba, Hoàng quý phi dẫn một đám thái giám cung nữ ùn ùn kéo tới, quỳ ở trước cửa xin tội. Được triệu vào trong điện, không biết Hoàng quý phi đã nói cái gì, Nguyên Thú đế đột nhiên giận dữ, lệnh Cấm quân lôi thái giám thiếp thân của Hoàng quý phi ra đánh chết ở ngoài điện.

Lúc này, Tần vương cũng vào cung, quỳ xuống bên ngoài Văn Đức điện, dù cho Đại thái giám bên người Nguyên Thú đế có hỏi như thế nào cũng chỉ nói: "Nhi thần có tội, xin phụ hoàng trách phạt!"

Người khác không rõ đầu đuôi, nhưng Đại thái giám nhớ đến lần Đông cung bị tấn công lúc trước là đoán ra một hai, trong đầu nghĩ mẹ con hai người thật thú vị, kẻ trước người sau tới thỉnh tội.

"Vương gia, ngài đứng lên trước đã, chớ quỳ ép nô tỳ nữa." Đại thái giám xin tha.

Tần vương vẫn cố chấp: "Trừ phi phụ hoàng chịu gặp ta, nếu không bổn vương sẽ quỳ gối không dậy."

Đại thái giám bất lực: "Vậy ngài chờ một chút, nô tỳ sẽ bẩm báo cho bệ hạ biết."

Tần vương: "Làm phiền công công."

Đại thái giám vào trong điện bẩm báo tình hình rõ ràng, Nguyên Thú đế lạnh mặt, hừ một tiếng nói: "Mẹ con các ngươi cũng nhanh trí nhỉ, thông đồng với nhau, chân trước chân sau cùng đến ép trẫm!"

Hoàng quý phi dập đầu sát đất, nước mắt lã chã: "Cầu bệ hạ minh giám, thần thiếp thương con nóng ruột, chỉ một lòng trông con thành tài, thật sự không biết Diệp nhi ở sau lưng thần thiếp làm điều sai trái, mang tội đại nghịch bất đạo. Thần thiếp trằn trọc khó ngủ, càng đau lòng hơn, cũng từng nghĩ đến chuyện thay Diệp nhi che đậy tội lừa gạt, khuyên nó đi đường ngay, nhưng thần thiếp là thê tử của bệ hạ, cũng là bề tôi của bệ hạ, là cô nương mà phủ Quốc công gả ra ngoài, tổ tiên ta chinh chiến cả đời, tận tâm tận sức cống hiến cho triều đình, thanh danh ba đời, há có thể vì sự ích kỉ của bản thân mà phá hủy trăm năm căn cơ Đại Cảnh?"

"Có câu nói trai gái đều là nợ, Diệp nhi phạm phải sai lầm lớn, thần thiếp là mẹ nó, cũng mắc tội dạy dỗ con không thỏa đáng. Thần thiếp tự xin từ vị Hoàng quý phi, không quản lý trung quỹ nữa, trả lại kim ấn tỳ thụ, chỉ cầu xin bệ hạ tha cho Diệp nhi một mạng."

Ánh mắt Nguyên Thú đế rét lạnh như băng, quan sát người phụ nữ quỳ sát đất, rất lâu không nói gì.

Trong lòng Hoàng quý phi lo lắng, nơi tóc mai lấm tấm mồ hôi lạnh.

Trong điện vô cùng tĩnh mịch, một hồi sau, Nguyên Thú đế phất tay áo quát lên: "Gọi cái tên bất hiếu đó vào đây!"

Đại thái giám vội vàng triệu đến: "Tuyên Tần vương —— "

Tần vương vào trong điện, lập tức quỳ xuống đất hô to: "Nhi thần có tội!"

Lời còn chưa dứt, đáy mắt đã quét sang bóng dáng Hoàng quý phi không khỏi ngờ vực, nửa đêm canh ba, sao mẫu phi cũng ở Văn Đức điện chứ? Chẳng lẽ phụ hoàng đã một bước biết trước chân tướng, đang hỏi tội mẫu phi?

Tần vương càng suy đoán càng kinh sợ, đã nghe thấy giọng nói lạnh lùng của Nguyên Thú đế truyền tới trên đầu: "Nói thử xem, tội của ngươi là gì?"

Tần vương vội vã dập đầu đáp: "Nhi thần trị dưới không nghiêm, tin lời bậy bạ, gây gổ kể tội huynh đệ —— "

"Bè đảng Tần vương so đo tiền chu cấp, gian lận kiếm chác, mưu hại Đông cung, vì bản thân mình coi mạng người như cỏ rác, không quan tâm cơ nghiệp Đại Cảnh, không đảm nhiệm được việc lớn, không xứng làm hoàng tử vương tôn, xin bệ hạ giáng tội!"

Tần vương làm theo lời cữu cữu Trịnh Sở Chi tới chịu đòn nhận tội để được xử theo tội nhẹ nhất, chỉ là còn chưa nói hết lời đã bị mẫu phi mà gã tin tưởng nhất, kính trọng nhất cắt đứt, rất lâu mới hiểu được ý tứ trong lời nói của nàng, trong lòng mờ mịt chấn động, rất lâu vẫn chưa thể lấy lại bình tĩnh.

Gã biết mẫu phi là đang đại nghĩa diệt thân —— nhưng người phải hy sinh sao lại là gã? Gã gian lận kiếm chác, nhúng tay vào trường thi Giang Nam, trắng trợn hốt bạc chẳng lẽ không phải vì mẫu phi, vì Phủ Trịnh Quốc công hay sao? Gã tranh giành ngôi vị Hoàng đế, đối nghịch với Thái tử đủ điều, chẳng lẽ không phải là vì mẫu phi hy vọng gã ngồi lên vị trí kia hay sao?

Hoàng tử mà mẫu phi và ngoại công, cữu cữu xem trọng nhất, không phải là gã ư?

Nguyên Thú đế trầm giọng hỏi: "Lão tam, có đúng như lời mẫu phi ngươi nói hay không?"

Tần vương nhìn Hoàng quý phi, từ từ cúi đầu, không kêu trời kêu đất diễn trò nữa: "Lời mẫu phi nói, câu nào cũng là thật."

Rốt cuộc gã cũng nhớ ra, trước bảy, tám tuổi mẫu phi cũng đâu có thích mình. Bởi vì lúc sinh ra, gã bị sinh ngược đã hại mẫu phi suýt chết vì sinh khó. So với gã, mẫu phi yêu thích Lục đệ được sinh nở bình thường lại thông minh hơn. Cũng nhờ năm tám tuổi, Triệu Ngọc Tranh dạy gã cách lấy lòng phụ hoàng, mẫu phi mới dần coi trọng gã, nếu không sợ rằng những năm về sau cũng sẽ không có cảnh mẹ hiền con thảo thế này.

Thấy gã chủ động nhận sai, dù đã sớm động đến sát tâm nhưng không hi vọng mình bị lưu lại tiếng xấu giết con, sắc mặt Nguyên Thú đế đã hơi dịu lại: "Sự việc hành thích Đông cung, trẫm biết ý đồ của ngươi với Lưu thị. Nhưng trừ cái này ra, ngươi có động tới tâm tư nào khác hay không?"

"Nhi thần không dám! Trước đó nhi thần đã cùng Thái tử hẹn đám người Triệu tam lang, Triệu tứ lang ra ngoại ô đá cầu, rõ ràng Thái tử không có ở Đông cung, nhi thần tuy hồ đồ nhưng không có gan giết huynh đệ..."

Nói đến đây, Tần vương nghẹn ngào.

Nguyên Thú đế cẩn thận quan sát biểu cảm của gã, nội tâm thế nào tất nhiên không nhìn ra, trên mặt lộ ra vẻ hoài niệm, ông nói Tần vương lúc còn nhỏ là đứa trẻ chân thành thật thà lại hiếu thuận khiến cho ông vô cùng thương yêu, ai ngờ lòng người dễ đổi, mờ mắt trước quyền thế.

Trong lời nói tràn đầy sự thất vọng như một người cha bình thường nói chuyện với con mình, trong sự thất vọng đó lại cất giấu biết bao nhiêu là kỳ vọng, thương yêu đã từng có, Tần vương nghe xong sinh lòng hối hận, không ngừng nỉ non "Nhi thần biết sai".

Nguyên Thú đế bước qua người gã nói: "Tự đến Tôn Chính tự, xin tội liệt tổ liệt tông đi."

"Nhi thần lĩnh mệnh."

***

Giờ Dần sáu khắc, trời tờ mờ sáng, thành cung tập trung rất nhiều triều thần, có người ngồi xe, kẻ hoặc xuống ngựa, hoặc xuống kiệu đi bộ vào bên trong, đây chính là một cảnh tượng kì vĩ ở đại nội Kinh đô.

Mà trước cửa chính hướng ra con đường phía nam có một cái trống lớn đứng sừng sững, trống này chính là vật có thể dùng để tố oan tình lên Thiên tử.

Nhân vật bí ẩn nói: "Trần Sư Đạo trong sạch, Lưu thị phạm tội phao tin đồn, lăng nhục bêu rếu người khác. Bà ta xuất thân Đông cung sẽ chỉ liên lụy đến danh dự của Đông cung, cho nên không ai nguyện đứng ra chứng minh ông ấy trong sạch. Trần Sư Đạo và Lưu thị đều là tiểu tốt không đáng nhắc đến trong vụ án này. Trừ phi chính ngươi đi gõ trống kêu oan, cáo trạng Trần Sư Đạo trị gia không nghiêm, lòng tốt hà khắc, lương tháng cấp cho người làm không đủ dùng, dẫn đến bọn chúng nhận hối lộ của kẻ gian, xắn tay áo giúp kẻ gian vào phủ ăn trộm đề thi."

Lời đã nói hết, thông minh như Triệu Bạch Ngư trong nháy mắt đã hiểu rõ ràng, quay đầu quan sát hắc y nhân chốc lát, lui về phía sau ba bước, chắp tay cúi người hành đại lễ: "Đa tạ quận vương tương trợ!"

Hoắc Kinh Đường không bất ngờ mấy, dùng ngón trỏ ngoắc miếng vải đen xuống, chỉ để lộ ra một chút khóe môi nhạt màu hơi cong lên: "Đoán ra thân phận ta từ khi nào?

Triệu Bạch Ngư: "Từ lúc ngài nói cáo trạng ân sư của Ngũ lang."

Hoắc Kinh Đường không để ý lắm: "Sớm nhỉ."

Trong lúc Triệu Bạch Ngư đang giương mắt lên nhìn, Hoắc Kinh Đường lại kéo miếng vải đen lên, nhìn thẳng vào ánh mắt ngờ vực không hiểu nổi của y: "Nghe nói trước khi cưới gặp mặt, cưới về rồi sẽ không hoà thuận đấy."

Triệu Bạch Ngư: "..."

Hoắc Kinh Đường chắp tay ra sau lưng: "Ngẩn ra làm gì? Đi đi, mọi chuyện đều có ta chịu."

Lời này hệt như kim bài miễn tử vẫy gọi người ta tới yêu thương vậy, Triệu Bạch Ngư biết nếu thật sự xảy ra chuyện lớn, Hoắc Kinh Đường không nhất định sẽ đánh cược một mạng cứu y, nhưng không thể phủ nhận lời cam kết của hắn lúc này khiến người ta an tâm vô cùng.

Từ lúc mới sinh đến khi trưởng thành, Triệu Bạch Ngư vẫn lủi thủi một mình, không ai dọn đường phía trước, cũng chẳng có người nào phơi bày mặt trái vì y, mà y lại cố gắng hết sức bảo vệ những người thân thiết duy nhất mà mình có được, không biết mệt mỏi, không thiết ngưng nghỉ.

Nói thật không biết xấu hổ, cũng tự mình ăn năn hối hận, Hoắc Kinh Đường chính là người duy nhất trên đời này mở rộng con đường phía trước, cũng chuẩn bị sẵn đường lui giúp đỡ Triệu Bạch Ngư, vậy mà trước giờ y lại dùng hắn làm tài liệu ác mộng, dùng tận hai năm liền.

Triệu Bạch Ngư xấu hổ, chủ yếu do lúc ấy mới vừa đảm nhiệm chức phán quan không lâu đã được đưa thẳng tới địa điểm án mạng đầy mùi máu tanh, cũng vì là quan nhỏ chỉ có thể đụng vào ngoài rìa vụ án, y mới lầm tưởng Hoắc Kinh Đường cậy quyền thế để né luật pháp truy cứu trách nhiệm nên càng sợ hơn.

Trống kêu oan cao hai thước, thân màu đõ thẫm, da trống có màu vàng được kéo căng, giá trống đóng một lớp bụi mỏng.

Triệu Bạch Ngư cầm dùi trống, giơ cao cánh tay, vung mạnh khiến mặt da trống vang lên tiếng "Thình" cực lớn.

Vào thời đầu Đại Cảnh, vì để lôi kéo lòng dân, cao tổ đặc biệt ban bố luật lệ, yêu cầu Hoàng đế dù có đang làm gì đi nữa cũng phải lập tức xử lý vụ án được gõ trống minh oan, bất kể vụ lớn vụ nhỏ.

Tiền triều từng có chuyện được truyền lại, có một nông dân gõ trống thỉnh cầu tiên đế giúp hắn tìm con heo nhà đi lạc, tiên đế cười to, coi là thật giúp hắn tìm heo, sau đó kể việc này cho trăm quan trong triều cùng vui, thành công gây dựng hình tượng Hoàng đế yêu dân như con, vui tôi hòa thuận.

Chuyện xưa là thật hay giả đã không thể kiểm chứng, nhưng có thể thấy được lòng triều đình hướng về bách tính, gõ trống không giới hạn cấp bậc, cũng không cần điều kiện gì, để cho người bình thường có được một con đường giải oan.

Triệu Bạch Ngư đoán rằng trong giai đoạn sau của lịch sử, các loại điều kiện hà khắc để được gõ trống kêu oan có lẽ sẽ giống như một vài thiếp lập của triều đại ở đời trước, ví dụ như trừ phi là việc quân việc nước, kỳ oan thảm án mới được gõ trống, nếu không trước khi gõ trống phải lôi ra đánh ba mươi trượng, cơ bản là để hù dọa người ta.

Thu lại những suy nghĩ vẩn vơ, Triệu Bạch Ngư kiên định, mạnh mẽ gõ vào mặt trống, đến khi nhìn thấy nha dịch vội vàng chạy đi, truyền oan tình tố vào hoàng cung, rồi đến người của đại nội ra mời y vào Thùy Củng điện, ở trước mặt Thiên tử, cùng với trăm quan và chư vị hoàng tử, cáo trạng ân sư.

***

Trên Thùy Củng điện, trăm quan không ai lên tiếng.

Lâm An quận vương Hoắc Kinh Đường bẩm báo ngọn nguồn gian lận ở trường thi đúng theo sự thật, từ việc bà vú của Thái tử và Lễ bộ Thị lang Trần Sư Đạo tư thông lộ đề, đến việc Lễ bộ Thượng thư thu hối lộ giúp cử tử gian lận có dính líu dến Tần vương, cùng công tử nhà Trịnh quốc công cấu kết với trường thi Giang Nam, gây rối làm cho trường thi hỗn loạn, giết thí sinh tế Khổng miếu, giết người giệt khẩu, ba năm qua tiền hối lộ thu được không dưới hai trăm ngàn lượng, toàn bộ được hắn phân trần.

Trăm quan vốn tưởng đây chẳng qua chỉ là chuyện gian lận thi cử đấu qua đá lại nhỏ nhoi, dù sao cũng không phải chuyện gì mới mẻ, khóa nào cũng có một hai người gian lận, chỉ là lần này đặc biệt hơn, không cẩn thận để lộ đề, số lượng cử tử gian lận nhiều hơn một chút, cũng cho rằng kết quả chỉ để quan chủ khảo xuống chức bãi nhiệm, thí sinh không bao giờ được thi tuyển nữa là xong.

Thật sự không ngờ, Tần vương lại to gan lớn mật đến vậy.

Phải biết Giang Nam là nơi địa linh nhân kiệt, mỗi kì khoa cử không biết tuyển được bao nhiêu người tài giỏi giúp đỡ cho quốc gia, nơi đó đất rộng của đầy, lắm cá nhiều thóc, thuế hằng năm thu về có thể nuôi một nửa Đại Cảnh, vì thế quan trường cũng phức tạp, quan hệ chằng chịt, một vòng luẩn quẩn không ai là không động tâm, nhưng cũng không ai dám nhúng tay vào trường thi Giang Nam, dẫu sao thì ánh mắt nhìn chằm chằm vào nơi đó cũng quá nhiều.

Cho nên việc Tần vương và Trịnh Hữu có thể kiểm soát trường thi Giang Nam đến tận ba năm mới bị bại lộ âm mưu, thật sự khiến người ta không thể tin nổi.

Thái tử cúi gầm mặt, vừa sợ hãi vừa mừng như điên, sợ là sợ mình suýt chút nữa đã bị cuốn vào một vụ án lớn, còn vui là vì biết được sau này Tần vương sẽ khó có thể chuyển mình lần nữa.

"... Lời thần nói đều là sự thật, nhân chứng vật chứng đều có thể trình lên." Hoắc Kinh Đường nói xong câu cuối, trong điện lại rơi vào yên lặng.

Nguyên Thú đế đã biết chân tướng sớm nhất ngồi nghe hắn kể lể lại vẫn tức giận đùng đùng, chỉ là không để lộ ra cũng không nói nên lời, dùng ánh mắt sắc bén lướt qua trăm quan triều đình, ai cũng cúi đầu, không dám đối diện với ánh mắt ấy.

Bầu không khí như bị đóng băng, cả điện yên lặng như tờ.

Nguyên Thú đế: "Kết bè kết phái làm việc gian, gây rối khoa cử, giết người diệt khẩu, ăn hối lộ trái pháp luật, đây chính là con trai của trẫm, đây chính là đại thần cốt cán của trẫm! Quan chủ khảo Trần Chi Châu ở Giang Nam, năm xưa còn là trẫm tự thân chỉ hắn đi Giang Tây làm Chuyển vận sứ, phong cương đại lai một phương, không tạo phúc cho bách tính, trái lại cấu kết với hoàng tử, vương tôn hốt bạc trắng trợn, hãm hại trụ cột triều đình, khá cho một kẻ tham lam! Thật là uổng công đọc sách thánh hiền!"

Nguyên Thú đế vỗ mạnh lên tay vịn long ỷ, chỉ tiếc rèn sắt không thành thép, không nhịn được nổi giận: "Thái tử, ngươi nói xem nên xử trí Tần vương như thế nào?"

Thái tử chắp tay trả lời: "Bẩm phụ hoàng, khoa cử là kì thi xét theo công trạng, tuyển chọn nhân tài, chiêu mộ người giỏi trong thiên hạ cống hiến chí tài vì Đại Cảnh. Từ khi Đại Cảnh khai quốc tới nay, rút ra được bài học từ những rắc rối của môn phiệt tiền triều, lấy việc thế gia lũng đoạn làm tấm gương, lập ra khoa cử vì quốc sách, cao tổ và tổ tiên phụ cầu hiền như khát, chiêu hiền đãi sĩ mới lấy được lòng dân để có được Đại Cảnh hưng thịnh ngày nay. Vậy nên, gian lận thi cử không thể làm to chuyện lên, nhưng cũng không thể buông tha dễ dàng. Tam đệ tuy là hoàng tử nhưng lại phạm pháp cùng tội với thứ dân, chẳng qua nể công bảo vệ đất nước của Trịnh quốc công, nể một phần cả nhà trung liệt với triều đình, cũng nhìn nhận những năm qua Tam đệ nhậm chức làm việc cẩn thận bao nhiêu, tính thêm một phần lao khổ công cao, xin phụ hoàng tha tội chết cho Tam đệ."

Lời nói này hay, vừa nhấn mạnh được tầm quan trọng của việc thi cử, dùng nó làm nền chứng tỏ hành vi hoang đường của Tần vương là tội không thể tha, lại dùng Phủ Trịnh Quốc công cầu một lời tha thứ, để cho Tần vương khó mà thoát tội, chỉ miễn tội chết, đánh thẳng vào tâm tư của Nguyên Thú đế.

Nhưng lại cực kì hợp với tâm tư đó.

Mặt Nguyên Thú đế vô cảm: "Thái tử, ngươi không phát hiện ra nỗi khổ sở của Tam đệ ngươi sao?"

Lòng Thái tử bối rối, quỳ rạp xuống đất: "Nếu nhi thần sớm biết, nhất định sẽ khuyên bảo Tam đệ kiềm cương ngựa trước bờ vực!

Nguyên Thú đế: "Nghe nói thời gian trước Đông cung bị tấn công?"

Thái tử: "Vâng. Không có thiệt hại gì, tuy bắt được hai nhân chứng sống, nhưng bọn răng lợi bọn chúng quá cứng, không hỏi ra được gì."

Nguyên Thú đế: "Sao không chuyển giao cho Đại lý tự?"

Tay Thái tử run lên, cẩn thận nói: "Dựa theo luật lệ Đại Cảnh, nếu như không có chỉ dụ cần phải áp tải nghi phạm đến bộ Hình trước, đợi thẩm vấn xong mới giao cho Đại lý tự duyệt lại, nhi thần vốn định qua hai ngày sẽ chuyển giao vụ án lại cho Đại lý tự."

Nguyên Thú đế không nói câu nào, giây lát lại lên tiếng: "Ngày đó Cấm quân trực ca nghiêm túc tuân thủ chức trách, trung dũng đáng khen, phải thưởng."

Trên trán Thái tử đã rỉ ra mồ hôi lạnh, trở nên kính cẩn hơn, sắc mặt cũng thay đổi đôi chút, hoài nghi vì sao Nguyên Thú đế lại đột nhiên nhắc tới Cấm quân, nhất định không chỉ là để ban thưởng đơn giản như thế, vậy là bởi vì cái gì?

Cấm quân trực ca? Nghiêm túc tuân thủ chức trách?

"!" Lúc này Thái tử mới hoàn hồn, bị dọa cho cả người đổ mồ hôi, không dám nhiều lời nữa mà chỉ cúi đầu thấp hơn.

Nguyên Thú đế cảnh cáo Thái tử, bắt hắn kìm chế sự kiêu ngạo của mình lại, chuyển sang hỏi ba vị nắm quyền Tể tướng gồm Triệu tế chấp, Lô tri viện và Cao đồng tri viện thấy thế nào.

Ba lão quan đã là hồ ly thành tinh đáp lời tự nhiên trôi chảy, nào dám lấy thân phận bề tôi để định tội hoàng tử vương tôn? Ngoài miệng nói lời đường đường chính chính, thực tế đều đẩy quyết sách về lại cho Nguyên Thú đế, nói lấy ý chỉ của bệ hạ làm trung tâm.

"Tước phong hiệu, phẩm cấp của Tần vương, cách chức làm thứ dân, cấm túc ở Tôn Chính tự. Cởi bỏ quan phục quan chủ khảo Giang Nam, quan chấm thi Trần Chi Châu và những người khác, cùng với quan chủ khảo thi Hội, kể cả quan chấm thi Trần Sư Đạo, tất cả đều phải qua Đại lý tự thẩm vấn, tội không sai thì theo luật chém đầu răn đe! Quan viên lớn nhỏ tham gia nhận hối lộ, quan viên có lui tới cùng Tần vương, bất luận là ở Giang Tây, Giang Đông hay kinh quan, tất cả đều phải bị xử trí nghiêm khắc theo pháp luật!"

Nhất thời trăm quan lòng hoang mang, Giang Nam là trường thi của kì thi cuối năm, quan chủ khảo lớn nhỏ, quan chấm thi cộng lại phải đến hai ba mươi người, người tham gia nhận hối lội thì đến bốn, năm mươi người, còn cả kinh quan, sợ là phải chết trên trăm người.

Bệ hạ là đang quyết tâm bắt hết bè đảng, gõ núi chấn hổ, cảnh cáo đám lão thần bọn họ đây mà!

Từ khi Đại Cảnh khai quốc đến nay, đây chính là hình án lớn nhất.

"Hoắc Kinh Đường, vụ này không cần ngươi làm nữa, tiếp theo đều giao cho Triệu tế chấp hết đi."

Giọng Nguyên Thú đế chán ngán như là đã quá bất mãn với cách Hoắc Kinh Đường đảm nhiệm chức Đại lý tự khanh.

Triệu tế chấp và Hoắc Kinh Đường đồng thanh đáp: "Vâng." Dù nội tâm có cuồn cuộn thế nào cũng sẽ không để lộ ra bên ngoài.

"Có còn chuyện gì muốn tâu nữa hay không? Không có thì bãi triều —— "

Lời còn chưa dứt, viên thái giám quản việc đánh trống đã vội vã xông vào trong điện la lớn: "Bệ hạ, Kinh đô có dân gõ trống kêu oan!"

"Người nào, trình án gì?"

"Nhân sĩ Kinh đô họ Triệu cáo trạng Lễ bộ Thị lang Trần Sư Đạo!"

Triệu Bạch Ngư!

Cáo trạng cho Trần Sư Đạo đã bị phán tử hình?

Trăm quan xôn xao, ghé đầu rỉ tai nhau, vẻ mặt trang nghiêm của Triệu Bá Ung cũng rét lạnh, không giấu nổi chán ghét, vô cùng khó coi. Thái tử cũng trở nên kinh ngạc, họ Triệu? Có quan hệ gì với Triệu tế chấp? Hoắc Kinh Đường rũ mắt, không ngạc nhiên, không sợ hãi đứng bất động.

Nguyên Thú Đế cau mày hỏi: "Đó là người phương nào? Có quan hệ thế nào với Trần Sư Đạo? Vì sao lại cáo trạng Trần Sư Đạo?"

Viên thái giám vẫn luôn cung kính: "Triệu Bạch Ngư con trai của trưởng công chúa Xương Bình, từng là học trò được Trần Sư Đạo dạy dỗ, muốn cáo trạng Trần Sư Đạo trị dưới không nghiêm, hà khắc thiếu tình cảm."

Con trai của trưởng công chúa Xương Bình... Không phải là con trai thứ năm của Triệu tế chấp, Triệu gia Ngũ lang sao? Từng là học trò được Trần Sư Đạo dạy dỗ ——

Người này ngự tiền tố cáo ân sư, từ xưa đến nay là người đầu tiên!

==

Chương 15

Nhắc đến Triệu Bạch Ngư, cả triều văn võ không mấy người biết, nhưng nhắc đến công chúa Xương Bình thì đều như lẽ đương nhiên nhìn về phía Triệu tế chấp, người sau sừng sững bất động, phảng phất như từ chối không nhận có quen biết với người tên Triệu Bạch Ngư này.

Mọi người có thể hiểu được, đều là đàn ông, nếu như được một cô công chúa xinh đẹp si tình quấn lấy là một chuyện tình yêu tuyệt vời, nhưng công chúa ngang tàng bá đạo, đoạt nhân sở ái, đố kỵ thậm chí muốn giết hại thê tử hậu trạch của người ta, thật sự là không thể chấp nhận nổi mà.

Trăm quan nhanh chóng nhớ lại sự việc cưới gả om sòm vào đoạn thời gian trước, người vốn bị gả đi là Triệu Ngọc Tranh được cưng chiều nhất, kết quả đổi thành Triệu Bạch Ngư, tiết mục treo đầu dê bán thịt chó này, trong lòng ai nấy đều rõ.

Đến đây, cả triều văn võ lại chú ý thêm một đối tượng nữa, Lâm An quận vương.

Nguyên Thú đế chau mày, quét qua Triệu Bá Ung và Hoắc Kinh Đường không để lại dấu vết gì, người đứng trước sắc mặt âm trầm, ghét cay ghét đắng cái tên Xương Bình, hận ốc cùng ô (*) nên hẳn là không biết chuyện, nhìn lại Hoắc Kinh Đường bất lộ thanh sắc, bình tĩnh vững chãi, có lẽ chắc cũng không phải do hắn đưa ra chủ ý!

(*) Nguyên văn là 恨屋及乌: nghĩa của nó giống như câu thành ngữ bên mình: yêu ai yêu cả đường đi – ghét ai ghét cả tông ti họ hàng.

"Truyền người vào điện."

Chỉ ý truyền xuống, bóng dáng Triệu Bạch Ngư nhanh chóng xuất hiện trước cửa Thùy Củng điện, chỉ thấy y mặc một bộ quần áo mùa hè bằng lụa trắng, quảng tụ trường sam, tóc búi cao, cơ thể cao ráo, thẳng tắp như chim hạc, khí chất quân tử như ngọc, lịch sự tao nhã, trái lại mang theo vài phần phong thái của một sĩ phu.

Triệu Bạch Ngư vào trong điện, quỳ xuống chắp tay: "Thần Triệu Bạch Ngư tham kiến bệ hạ."

Nguyên Thú đế hỏi: "Thiên địa quân thân sư, vậy mà ngươi lại muốn cáo trạng ân sư của mình sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Trời đất chứng giám, quân ở trước sư, ta cáo trạng ân sư là vì lương tâm thúc giục, cũng là hành động của trung quân. Vi thần cáo trạng ân sư Trần Sư Đạo chấp mà không hóa (*), không biết vu vi, làm quan đã bốn mươi năm mà vẫn sống dựa vào bổng lộc triều đình, gia cảnh quá nghèo không dư thừa đồng nào, đến cả người làm hầu hạ nhiều năm xuất giá cũng không lấy ra được món gì ra làm quà ban thưởng. Nhà khó khăn, đến khi người môi giới đều biết trong phủ Lễ bộ Thị lang Trần Sư Đạo không có gì béo bở để vơ vét thì đùn đẩy ba lần bốn lượt không ai dám tới làm, không còn cách nào khác phải mua lại tay cờ bạc tự bán thân mình với cái giá rẻ mạt. Tay cờ bạc vào phủ vẫn nghiện ngập không thay đổi, Trần phủ lớn đến thế cũng không đút nổi cho hắn no, vậy nên hắn nhận tiền cấu kết với kẻ gian, cho bà ta lẻn vào phủ, dẫn thẳng đến thư phòng của Trần thị lang, để bà ta đánh cắp đề thi mới nhất, làm hỏng đại điển tuyển tài!"

(*) Chấp mà không hoá: Ý nói cố chấp làm một việc không thay đổi

Mạch suy nghĩ của Triệu Bạch Ngư rõ ràng, đứng trên điện cất cao giọng nói: "Cho nên vi thần cáo trạng Trần Sư Đạo trị dưới không nghiêm, cay nghiệt thiếu tình cảm! Nếu như Trần Sư Đạo không quá rộng lượng với người hầu, thì làm sao bọn họ có thể mất đi lòng kính sợ, chỉ vì mấy chục lượng bạc trắng mà bán đứng gia chủ? Nếu chẳng phải Trần Sư Đạo quá coi trong lề thói cũ, ngày lễ ngày tết không thạo thu lễ, hằng năm bên dưới đưa băng đưa than tới đều một mực từ chối, làm sao lại không có tiền khen thưởng cho người làm? Bình thường ít ban ân huệ, vậy nên gian tặc trong nhà mới có thể bị người ngoài mua chuộc! Từ đó dẫn đến tai họa lộ đề! Giặc trong nhà Trần Sư Đạo gây sự, học sinh thiên hạ phải chịu liên lụy hay sao! Trên thật tình cáo lỗi với sự tin tưởng của bệ hạ, dưới thật tình cáo lỗi với lê dân bách tính, cử tử trong thiên hạ, nhưng vi thần muốn không phụ lòng trời đất chứng giám, không phụ lòng bệ hạ, cho nên cáo trạng ân sư, đại nghĩa diệt thân!"

——

Thùy Củng điện lại bị yên lặng bao trùm, bá quan văn võ không nói gì nhìn về phía Triệu Bạch Ngư đang quỳ trên đại điện, dáng vẻ không thẹn với trời đất, trong lòng là hàng vạn con chữ phóng to không thể nói.

Cái này gọi là cáo trạng ân sư sao?

Cái này gọi là đại nghĩa diệt thân ư?

Gì mà còn cay nghiệt ít ân, chấp mà không hóa, trị dưới không nghiêm —— thiệt cho y phải nói ra điều đó!

Tên này làm quan cùng lắm được ba năm, còn là nhờ dựa vào gia tộc mới có thể làm một chức quan thất phẩm nho nhỏ, ấy vậy mà da mặt còn dày hơn cả đám người làm quan mấy chục năm như bọn họ.

"Càn rỡ!" Nguyên Thú đế tức giận: "Ngươi tố cáo Trần Sư Đạo là giả, thật ra muốn cáo trẫm không phân biệt được trắng đen sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Vi thần không dám, vốn dĩ ý của vi thần đúng là cáo trạng ân sư Trần Sư Đạo. Đại điển tuyển tài, khoa thi cuối năm, chuyện liên quan đến nền tảng dựng nước, chỉ vì một việc nhỏ mà gây họa cho cả thiên hạ giống như ngàn dặm đê bị phá bởi một ổ kiến. Lòng thần buộc với triều đình, phát hiện "ổ kiến" nghèo khó của Trần Sư Đạo, tất nhiên trước hết phải nói cho triều đình, nói cho bệ hạ biết!"

Trong điện vẫn yên lặng, trăm quan như ngừng thở, nghe Triệu Bạch Ngư dùng lòng trung oan ức tố cáo, trái tim đập liên hồi cũng dần chậm rãi lại.

Nguyên Thú đế bật cười: "Vậy trẫm phải khen thưởng cho ngươi nhỉ?"

Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ là nhân quân thánh minh thiên cổ, nhìn rõ mọi việc, yêu dân như con, vì bệ hạ phân ưu chính là bổn phận của thần, không phải là để được khen thưởng."

Một câu nói chặn đứng hết thảy, lại còn được tiện nghi khoe tài. Nguyên Thú đế bị cản trở nhanh chóng lạnh mặt trở lại, trong lòng tự biết chuyện này ông đúng là nên xử lý công bằng.

"Thái tử!"

Thái tử nhanh chóng quỳ xuống: "Có nhi thần!"

"Người ta nói kẻ tư thông với Trần Sư Đạo là Lưu thị, nói người bị Trần Sư Đạo lợi dụng, kẻ cùng làm lộ đề với ông ấy cũng là Lưu thị, lời khai trước sau không giống nhau, cũng bước ra từ Đông cung, chẳng lẽ là ngươi bày mưu lập kế để bà ta bêu xấu nguyên lão ba triều sao?"

"Oan cho nhi thần!" Thái tử lập tức hô không dám, đầu óc nhanh nhạy xoay chuyển: "Ban đầu là Vương thượng thư ở trong nhà lao cấu kết vu cáo Lưu thị và Trần Sư Đạo, vậy mới dính líu đến nhi thần. Mọi người đều biết, Vương thượng thư là môn khách của Tần vương, ngoại trừ chuyện công ở triều đình thì không có quan hệ gì với nhi thần cả. Nhi thần vì để chứng minh trong sạch, lay động Lưu thị, cũng hiểu lý, làm Lưu thị hoài cảm tình nuôi dưỡng nhi thần năm đó mới khiến bà ta đổi lời giúp nhi thần thoát tội. Lưu thị để lại huyết thư tự vẫn, nhi thần tuy ứng phó không kịp nhưng cũng hết sức cứu chữa. Lưu thị mà chết ở Đông cung, chẳng qua nhi thần chỉ bị nghi giết người diệt khẩu, nhưng bà ta bị đưa vào Đại lý tự, sự thật được tra ra là chuyện sớm muộn. Cho nên nếu như thật sự là do nhi thâng xúi giục Lưu thị bêu xấu, thì tại sao đêm hôm còn gõ cửa mời thái y đến giữ mạng cho bà ấy?"

Dứt lời để lại một khoảng lặng, Nguyên Thú đế rât lâu cũng không nói gì.

Lúc này Hoắc Kinh Đường mới bước ra: "Bệ hạ, Lưu thị là do thần thẩm vấn, chính xác là vì áy náy nên đã tự nguyện viết thư tự vẫn, không phải là do Thái tử ép cung."

Nghe vậy, sắc mặt Nguyên Thú đế hơi hòa hoãn lại, nghiêm nghị chất vấn: "Ngươi nói Lưu thị bêu xấu Trần Sư Đạo, có chứng cứ không?"

"Ngày Lưu thị trộm đề, thần đã bắt gặp thẻ ngà bị rơi, chỉ cần điều tra ghi chép xuất cung ngày đó là được. Người làm bị Lưu thị mua chuộc nên giao ra cũng đã giao rồi, thỉnh bệ hạ cho phép để Lưu thị và người làm đối chất."

Lúc này Hoắc Kinh Đường mới chắp tay trả lời: "Vậy thần sẽ đi bắt người!"

Nguyên Thú đế lại liếc nhìn hắn vài lần, thấy Hoắc Kinh Đường vẫn còn dám ra vẻ hắn cũng rất ngạc nhiên thì không khỏi bực bội. Người phụ trách toàn án là hắn, chẳng lẽ hắn không biết sự thật?

Hồ sơ được hắn trình lên chỉ viết lại lời Lưu thị khai báo bà và Trần Sư Đạo tư thông trộm đề, không phải là mua chuộc người làm để được trộm đề, rõ ràng là lo lắng cho danh tiếng của Thái tử!

Nhưng tâm tư hắn lại tài tình, chỉ điểm Triệu Bạch Ngư gõ trống. Để cho y tự tới kêu oan thay Trần Sư Đạo.

Bởi vì chân tướng vụ trộm đề lại đơn giản như vậy, đơn giản đến mức người ta khó mà tin được, cũng chính vì người dính dấp trong đó và lợi ích cũng đơn giản đến mức có thể nói là không đáng kể, cho nên đến cả Đại lý tử kết án như thần cũng không tra được mấu chốt quan trọng trong đó.

Càng nói rõ hơn Thái tử và những người còn lại không liên quan, tất thảy xuất phát từ đám người Lưu thị vì lợi riêng mà tham lam.

Dù là người làm kia hay là Lưu thị, đều là thứ tiểu nhân lừa gạt phản chủ, như Triệu Bạch Ngư nói, ngàn dặm đê bị hủy chỉ vì một ổ kiến, trị dưới không nghiêm, trái lại bị trừng phạt.

Nghĩ đến đây, Nguyên Thú đế nhìn về phía Triệu Bạch Ngư, tuy là được Hoắc Kinh Đường chỉ điểm, nhưng dám gõ trống kêu oan vì ân sư mà lên tiếng chứng minh trong sạch, quả là một tấm lòng son.

Chỉ là ân sư thôi mà đã tri ân báo đáp như vậy, ấy là còn chưa nói đến lòng trung quân ái quốc.

Nguyên Thú đế lên tiếng: "Ngươi theo Thừa Giới đi xử lý lời khai của Lưu thị lần nữa đi, còn Trần lão trong sạch, thuận tiện chuyển giao vụ án một chút."

Triệu Bá Ung tự Thừa Giới, ông và Hoắc Kinh Đường đồng thời đáp vâng.

Trăm quan từ việc Nguyên Thú đế thay đổi cách gọi Trần Sư Đạo thì nhìn ra được ông nghiêng về đâu, vì vậy cho dù vụ án có chuyển giao cho Triệu tế chấp, thì ông ta vẫn phải xử lí theo lẽ công bằng.

Bệ hạ tuy lưu hành đại ngục, nhưng ông vẫn để ý đến nguyên lão ba triều Trần thị lang, vẫn luôn nghĩ đến vị lão thần này.

Trăm quan rối rít xúc động, bởi vì Nguyên Thú đế mới vừa rồi không lưu tình mà lòng phát rét, trước mắt đều an tâm thở phào, thả lỏng thần kinh căng thẳng.

"Còn ngươi, Triệu Bạch Ngư, tuy rằng bổn ý là lòng tốt, nhưng phương pháp cứu người có hàng ngàn cách, thầy như cha mẹ tái sinh, ngươi lại muốn lánh ích hề kính (*) cáo trạng ân sư! Dùng trí khôn để đạt lợi, khoe khoang thông minh, phạt ngươi hai tháng bổng lộc." Nguyên Thú đế nhìn mọi người ở xe, khoát khoát tay: "Lui xuống hết đi."

Nguyên văn 另辟蹊径 (Lánh ích hề kính) Thành ngữ chỉ những phương pháp mới thoát ra hẳn những lề thói, quan niệm cố hữu.

Trăm quan ra khỏi Thùy Củng điện, Triệu Bạch Ngư vẫn còn quỳ tại chỗ, đến khi Hoắc Kinh Đường dừng lại bên cạnh y nói: "Không sao rồi, đứng lên đi." Y mới há miệng thở dốc, nghe được tiếng tim mình đập như sấm rền.

Triệu Bạch Ngư trên điện hùng hồn kể lể, nhìn như ung dung tự tại, thực tế chỉ y mới biết sau lưng mình đã bị mồ hôi thấm ướt.

Thiên gia oai phong, xã hội phong kiến không thể giỡn chơi, Thiên tử cũng không nhu nhược hay ngỗ nghịch giống như trên ti vi thời hiện đại. Cả trọng thần mà Thiên tử tin cậy nhất như Hoắc Kinh Đường vẫn phải nghĩ đủ mọi cách giúp y chu toàn, phải rất khéo léo mới có thể cứu được ân sư, huống chi y chỉ là một người bình thường không được yêu thích?

Người xưa tôn sư trọng đạo, coi như y có lòng cứu người, nhưng cáo trạng ân sư lại không hợp với giá trị quan của thánh nhân môn sinh, hơn nữa ngang ngược chống lại lời Thiên tử, nếu nói không cẩn thận sẽ đẩy Thái tử vào tình cảnh bất nghĩa, hình phạt hai tháng bổng lộc đã là kết quả tốt, vô cùng tốt rồi.

Triệu Bạch Ngư rốt cuộc cũng hiểu, tại sao Kỷ đại nhân lần nào bãi triều trở về cũng khó chịu tựa như phát cơn bệnh nặng vậy, không khí như thế này, ai mà chịu nổi?

Giọng nói của Hoắc Kinh Đường truyền tới từ trên đỉnh đầu: "Còn đi được không?"

"Được." Triệu Bạch Ngư nuốt nước bọt, trán áp sát đất, từ từ khôi phục hơi thở, nhỏ giọng nói: "Đa tạ quận vương."

Hoắc Kinh Đường lạnh giọng: "Người một nhà, cần gì phải nói lời xa lạ như vậy?"

"..." Triệu Bạch Ngư ngẩng đầu, phát hiện Hoắc Kinh Đường vào triều lại đeo mặt nạ, cho tên tin đồn hắn bị hủy dung, mặt mày vàng vọt là thật sao? "Dám hỏi lúc Vương gia gửi sính lễ đến có biết đối tượng là ta không? Ngài nhìn kĩ đi, ta không phải Triệu Ngọc Tranh."

Hoắc Kinh Đường nghiêm túc nhìn y, gật đầu một cái.

Triệu Bạch Ngư đoán không ra ý hắn, hỏi tiêp: "Ta không phải đối tượng mà ngài muốn cầu hôn ban đầu, không đắc tội ngài, không được Triệu gia coi trọng, cũng không có giá trị lợi dụng, ta không nghĩ ra lý do gì để ngài mãi không chịu từ hôn đấy."

Hoắc Kinh Đường rũ mắt nhìn Triệu Bạch Ngư, con ngươi mang sắc lưu ly rất nhạt, từ góc độ Triệu Bạch Ngư ngửa mặt trông lên thì thấy giống hệt như ánh mắt Bồ Tát trong chùa nhìn xuống thế nhân vậy, vừa lạnh nhạt vừa như trách trời thương dân.

Hoắc Kinh Đường vươn tay ra, ngón tay có bốn đốt xương, thon dài trắng nõn như ngọc, nhưng lòng bàn tay và ngón tay có nhiều vết chai sần, Triệu Bạch Ngư giương mắt nhìn bàn tay ấy vỗ lên đầu mình một cái, không phải là động tác vỗ về chó con mèo con, mà giống như sự quan tâm, an ủi đôn hậu mà cẩn trọng không tiếng động của người cha, của anh lớn vậy.

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên, bối rối đến mức tim đập trật mất mấy nhịp, tinh thần còn chưa tỉnh táo lại, Hoắc Kinh Đường đã đi xa, nhưng không khí quanh y vẫn còn lưu lại mùi đàn hương ấm áp tinh tế trên áo bào của Hoắc Kinh Đường, nồng đậm thơm phức.

Một hồi lâu sau, Triệu Bạch Ngư bước đi trên đường rời cung, vỗ bộp vào đầu mình một cái: "Vậy là tới lui vẫn chẳng chịu nói có từ hôn hay không à!"

Rốt cuộc Hoắc Kinh Đường có ý gì?

==

Tác giả muốn nói:

Kinh đô phủ thiếu doãn là quan lục phẩm, nhưng trong mắt đại quan không khác gì với quan thất phẩm.

==

Chương 16

Bá quan văn võ trước sau nối nhau rời khỏi hoàng cung, thỉnh thoảng nhìn về phía ba vị Tế chấp và Thái tử đang đi phía đằng trước.

Lư tri viện: "Triệu tế chấp có một đứa con trai ngoan, vì cứu ân sư mà gõ trống kêu oan, xông vào Thùy Củng điện diện kiến Thánh thượng, trọng tình trọng nghĩa, chân thành như vậy, sao trước đây chưa từng nghe nhắc đến? Vẫn còn đi học ở Quốc tử giám à? Nhưng sao lại có công danh (*) trong người?"

(*) Công danh ở đây là nói về công việc, chức vụ á.

Biểu cảm Triệu tế chấp thờ ơ: "Nghịch tử ngu ngốc lỗ mãng, gánh không nổi lời khen của Lư tri viện. Bổn quan còn phải làm việc bệ hạ giao phó, thứ cho bổn quan đi trước một bước."

Nói xong liền chắp tay với Thái tử, phát tay áo đi thẳng.

Lư tri viện hừ lạnh một tiếng, nhìn sang Thái tử liền đổi lại vẻ mặt ôn hòa: "Uyển nhi dạo này thế nào rồi?"

Con gái nhỏ của Lư tri viện là Lư Uyển, người yếu nhiều bệnh, là viên ngọc quý mà Lư tri viện rất yêu thương, nuôi đến hai mươi tuổi thì đồng ý gả nàng vào Đông cung. Năm nay đã là năm thứ ba Lư Uyển gả vào Đông cung mà vẫn chưa có thai, mà đến nay Đông cung cũng không có tiểu Thái tôn nào ra đời, Hoàng hậu càng lúc càng không hài lòng, cũng may có Thái tử nói giúp vài lời.

Vì vậy Lư tri viện rất vừa ý Thái tử.

"Thời gian trước có dặn thái y đổi toa thuốc, thấy gân cốt cơ thể Uyển nhi tốt lên rồi, nói là bồi bổ thêm mấy tháng nữa là có thể chuẩn bị mang thai được." Thái tử cười ấm áp.

Lư tri viện mừng rỡ: "Tốt quá! Trong phủ ta gần đây có được một ít thuốc tốt, còn có vài món đồ chơi hải ngoại mới lạ nữa, đợi một lát sẽ sai người đưa đến Đông cung."

Thái tử: "Uyển nhi nhất định sẽ rất vui."

Hai người đang nói chuyện, Triệu Trường Phong dẫn đầu Cấm quân đi qua, chắp tay vái Thái tử một cái.

Thái tử nhất thời thất thần, trong chớp mắt như nhìn thấy Triệu Ngọc Tranh trong bộ y phục đỏ, giơ roi giục ngựa loáng thoáng lướt qua, dường như có hơi lơ là cuộc dối thoại với Lư tri viện, có điều không có ai nhìn ra dáng vẻ qua loa lấy lệ đó của hắn.

Bỏ rơi cả lời ong tiếng ve của bá quan văn võ đang nói về chuyện của Triệu Bạch Ngư như nói chuyện nhà: "Triệu ngũ lang này hoang đường thật, làm việc quá là khác người, vậy mà dám đến trước mặt Thiên tử cáo trạng ân sư, không phải là phụ lòng dạy bảo của chí thánh tiên sư hay sao? Cư xử ngang ngược, trái nguyên tắc phản đạo, làm nhục người có học!"

"Nói hay! Cho dù bổn ý tốt, nhưng tại sao trước đó lại không thông báo qua Đại lý tự để tra rõ chân tướng, thỉnh chỉ bệ hạ à? Y và Lâm An quận vương không phải là quan hệ cưới gả được Thánh thượng ban cho sao?'

"Chỉ sợ y lánh ích hề kính, muốn nở mày nở mặt trước bệ hạ chứ sao."

"Nghe nói bản thân y không có công danh gì."

"Chẳng lẽ không phải ư!"

Những lời nói liên tục mang hàm ý suy đoán ý đồ của Triệu Bạch Ngư vang lên, đột nhiên có một người đi qua bên cạnh, hừ một tiếng giễu cợt: "Triệu ngũ lang là vì tình, vì tính hay không vì gì cả, nếu đã trái nguyên tắc phản đạo, vậy sao không bẩm lên Đại lý tự thông qua Lâm An quận vương, trong lòng chư vị đại nhân lẽ nào thật sự không biết? Chư vị đại nhân đều là người đề tên bảng vàng, thông minh tuyệt đỉnh, lý nào lại nhìn không thấu phẩm chất đối nhân xử thế của một tiểu quan thất phẩm?"

Người này đi lên phía trước, quay ngang nhìn mọi người bằng ánh mắt lạnh lùng, triều phục đỏ thẫm kết hợp với túi cá màu bạc, là người có tính cách cực kì thẳng thắng, Công bộ Thị lang Phạm Văn Minh.

"Trong chư vị cũng có người từng làm quan chủ khảo, tự tay tuyển chọn học sinh, là để tạo ra một mạng lưới các mối quan hệ giữa người với người. Dù cho không có học sinh thì cũng có cố lại (*), có đồng niên hữu nghị, có thể nói bạn bè học sinh ở khắp trên thiên hạ, nhưng thầy bại thì tớ cụp đuôi, chư vị đồng liêu lòng như gương sáng, có dám nghĩ đến chuyện một ngày nào đó mình bị nhốt vào nhà lao, bên ngoài có một vị đồng sự, môn sinh, bạn bè, học sinh bôn ba khắp nơi kêu oan giúp các ngươi, mạo hiểm đắc tội với các đại nhân vật như thần như phật để cứu các ngươi, đến Thùy Củng điện, quỳ trước mặt bệ hạ, không cầu đường sống, không sợ chết, chỉ vì để các ngươi còn được trong sạch hay không?"

(*) cố lại: ý chỉ chức quan không có phẩm cấp.

"Chỉ sợ các người không dám nghĩ tới, chưa từng nghĩ tới, khó mà tưởng tượng ra được cảnh đấy thôi đúng chứ."

Phạm Văn Minh chế nhạo: "Chư vị đặt tay lên ngực tự hỏi đi, có ước ao không?"

——

Không khí lặng ngắt như tờ.

Mọi người bất mãn, có kẻ bị đâm trúng tâm tư trở nên lúng túng nhưng không ai biểu lộ ra, vậy mà sau đó cả chặng đường không ai giễu cợt Triệu Bạch Ngư nữa, bởi vì Phạm Văn Minh nói rất đúng.

Không ước ao sao?

Làm sao có thể không ước được như vậy!"

Ánh mắt hâm mộ của bọn họ sắp sửa rỉ máu rồi đây!

Triệu Bạch Ngư chạy đi khắp nơi kinh quan có từng nghe thấy, y vì để chứng minh Trần thị lang vô tội mà xem thường cái chết, không sợ đắc tội Thái tử, Tần vương, thậm chí ngự tiền đấu lý với bệ hạ.

Người trọng tình trọng nghĩa như vậy, nếu như là học sinh, cố lại hoặc bạn bè của bọn họ, nhất định có thể đối đãi thẳng thắn với nhau như tri kỷ!

Mặc dù y cáo trạng ân sư ở trước mặt Thiên tử, nhưng từng câu chữ đều là lời có cánh.

Trần thị lang trị dưới không nghiêm, người làm tráo trở sao?

Rõ ràng thái độ làm người vô cùng khoan dung độ lượng!

Trần thị lang hà khắc thiếu tình cảm, đối xử tệ bạc với người làm trong phủ sao?

Là vì ông làm quan nghèo khó, trải qua ba đời, làm quan hơn bốn mươi năm, vậy mà vẫn nghèo rớt mồng tơi, ông ấy là một quan viên thanh liêm chuyên cần đến mức nào cơ chứ!

Chuyện này vừa lọt ra ngoài cửa cung, tất nhiên là được xôn xao khắp dân gian, danh tiếng thanh chính liêm khiết của nguyên lão ba triều Trần Sư Đạo truyền đi khắp đại giang nam bắt, là tiếng tốt làm rạng rỡ tổ tiên, quang vinh ba đời, nói không chừng sau này sẽ được đứng hàng tam công (*).

(*) Tam công: ba chức quan cao nhất thời phong kiến gồm: thái sư, thái phó, thái bảo

Mà đây chính là danh tiếng mà Triệu Bạch Ngư thay ân sư của y truyền đi!

Vậy nên làm sao bọn họ có thể không ước ao cho được?

***

Triệu phủ.

Triệu tam lang tức giận vỗ bàn: "Lòe thiên hạ! Một đứa vô danh tiểu tốt như Triệu Bạch Ngư sao có thể biết rõ nội tình vụ án như vậy? Còn có thể nghĩ tới chuyện ngự tiền cáo trạng ân sư? Rõ ràng là bị người ta xúi giục!"

Triệu Ngọc Tranh: "Ý tam ca là Ngũ lang bị người ta cố tình lợi dụng để đối phó với Đông cung sao?"

Triệu tam lang còn chưa nguôi giận: "Nếu không phải thì sao?" Gã nhìn đại ca Triệu Trường Phong, giọng rất xung: "Gian lận thi cử là một vụ lớn, càng được điều tra cẩn thận, người ngoài càng không thể biết được? Gì mà vừa hay đụng trúng Lưu thị trộm đề thi, nhặt thẻ ngà trong cung bị rớt, mượn lý do này để tra ra được người làm cấu kết với Lưu thị bán đứng gia chủ... Các ngươi nói xem, có chuyện trùng hợp đến vậy sao? Triệu Bạch Ngư cũng không thường ở Trần phủ, thỉnh thoảng mới đến thăm mà cứ vậy đúng lúc gặp phải người kia à? Lại còn tự nghĩ ra được điểm mấu chốt như vậy? Không nói cái khác, y chỉ là một tiểu quan thất phẩm, không phải người làm việc trong bộ Hình cũng như Đại lý tự, làm sao biết được nhân chứng quan trọng trong án lộ đề là Lưu thị?"

Triệu tam lang tiếp tục cười lạnh: "Tên ngu xuẩn đó chắc là bị Lâm An quận vương dùng làm thương để mà sai sử rồi!"

"Cẩn thận lời nói!" Triệu Trường Phong trách, trừng mắt nhìn Triệu tam lang: "Không có căn cứ, ít nói nhảm đi!"

Triệu tam lang: "Trái phải không có ai, trong nhà mình mà đệ cũng không thể nói vài ba câu sao?"

Triệu Trường Phong cau mày.

Triệu Ngọc Tranh vội vàng níu lấy cánh tay Triệu tam lang: "Tam ca, tai vách mạch rừng." Không đợi Triệu tam lang kịp nổi giận, vội vàng lái sang chuyện khác: "Tần vương bị phế, Hoàng quý phi ăn thua thiệt nên bực bội giao trung quỹ ra, trước mắt là Hoàng hậu và Đông cung được lợi, vô cùng huênh hoang. Cứ cho rằng y... Bị dùng làm thương để sai sử, cũng đã là một nước cờ không đánh tới Đông cung rồi."

Triệu tam lang: "Ta không ưa cái vẻ làm bộ làm tịch của Triệu Bạch Ngư, Xương Bình mẹ y ác độc như vậy, tính tình y thì có gì tốt đẹp đâu? Thật đúng là da mặt dày không biết nhục, hợp ở chung với Lâm An quận vương lắm, chẳng lẽ y thật sự chờ đến ngày cưới tháng sáu vừa đến sẽ leo lên kiệu tám người khiêng gả vào quận vương phủ luôn sao?"

Triệu Trường Phong: "Nếu không thì đệ hi vọng Triệu Bạch Ngư làm gì?"

Triệu tam lang: "Quân tử có thể giết không thể nhục!"

Triệu Trường Phong: "Đệ mong y tự vẫn, để cho người trong thiên hạ đều mắng Lâm An quận vương vì để làm điều xấu mà ép người lương thiện, còn bệ hạ gả người đi là giúp kẻ xấu làm điều ác sao?"

"Đệ —— " Triệu tam lang nghẹn họng, bất mãn nói: "Đại ca, sao huynh lại nghiêng về phía Triệu Bạch Ngư vậy?"

Triệu Trường Phong: "Bởi vì chúng ta vốn nên xin lỗi Triệu Bạch Ngư về chuyện thay mận đổi đào biết chưa! Bất kể sáng nay đệ ấy ầm ĩ tỏ vẻ ở trước điện, kết quả Trần Sư Đạo cũng được cứu rồi! Đệ ấy làm bộ làm tịch, lòe thiên hạ cũng được, kết hợp với Lâm An quận vương làm việc xấu, bị lợi dụng gì cũng được, nhưng đệ ấy đã chạy đông chạy tây để cứu ân sư, đó chính là cao thượng."

"Nhưng mà..." Triệu tam lang không cam lòng, biết được sự thật là một chuyện, nhưng muốn gã thừa nhận chính là một chuyện khác. Nếu đổi lại là một người nào đó, gã sẽ lập tức tìm tới cửa kết bạn, từ xưa đến nay gã vẫn luôn kính nể những người có lòng cao thượng.

Nhưng người ấy lại là Triệu Bạch Ngư!

Trưởng công chúa Xương Bình năm xưa hại mẹ nhiều lần, còn muốn hại chết cả ba huynh đệ bọn họ, suýt nữa làm cho mẹ và tiểu đệ một xác hai mạng, vậy mà về sau chỉ bị cách chức, vẫn còn có thể ở Giang Nam vinh dưỡng hết phần đời còn lại, làm sao Triệu tam lang gã có thể nhịn được những lời ác ý như thế đây?

Triệu Ngọc Tranh: "Tam ca, đúng là chúng ta nên xin lỗi Triệu Bạch Ngư." Mặt mũi hắn ảm đạm, vẻ xinh đẹp cũng tối đi không ít: "Nếu như không phải tại đệ khoe tài, trong lúc tức giận đắc tội Lâm An quận vương thì cũng sẽ không được chỉ hôn, mẹ và các huynh cũng sẽ không phải vì ta mà đẩy Ngũ lang ra ngoài."

Triệu tam lang vội an ủi hắn: "Đổi góc độ suy nghĩ thì, nếu đối tượng gả đi không phải Triệu Bạch Ngư, nó cũng không có cơ hội làm quen với Lâm An quận vương thì sao có thể cứu ân sư được? Hay cứ coi như chúng ta đánh bậy đánh bạ giúp y đi."

Triệu Ngọc Tranh không nhịn được bật cười: "Sao có thể coi là như thế được?"

Triệu tam lang trợn mắt: "Sao không thể? Đệ không biết lần này Triệu Bạch Ngư gả đi tổn thất bao nhiêu đâu, của hồi môn đưa đi có cả minh châu Nam Hải, văn tập đồ cổ các thứ, chưa kể còn có cả vàng bạc châu báu biết bao nhiêu rương, trang trại, cửa hàng bồi gả mấy chục cả trăm! Cha mẹ sớm đã đáp ứng y một chân hồi môn phong phú, vậy mà dời hết nửa cái kho, y là người được lợi chứ còn ai!"

Triệu Ngọc Tranh: "Dù sao cũng là hôn sự do bệ hạ ban, không thể để mất mặt được. Trở về đệ cũng tìm thêm vài món để vào, coi như là một phần tâm ý."

Triệu Trường Phong nhìn Triệu Ngọc Tranh, ánh mắt dịu dàng trở lại, vui vẻ yên tâm: "Vẫn là Tứ lang hiểu chuyện."

Triệu tam lang hất tay hắn ra: "Được rồi được rồi, chỉ có đệ là không hiểu chuyện thôi. Đệ đến biệt trang chọn mấy con ngựa tốt đưa cho Triệu Bạch Ngư là được rồi chứ gì?"

Lời vừa dứt, có người hầu chạy tới truyền lời, nói Tạ thị gọi bọn họ đến chủ viện dùng cơm, ba huynh đệ liền cùng nhau đến chủ viện sum họp với cha mẹ.

***

Đông cung.

Thái tử và Ngũ hoàng tử đang mật đàm ở thư phòng, lúc nhắc đến đoạn nguy hiểm lúc lâm triều, cả người đổ đầy mồ hôi lạnh.

Ngũ hoàng tử: "Triệu Bạch Ngư này gặp Lưu thị, nhặt được thẻ ngà bà ta làm rơi tra được chân tướng Trần Sư Đạo bị hãm hại... Thật sự có chuyện trùng hợp như vậy sao? Đệ cứ cảm giác quái quái thế nào ấy?"

Thái tử: "Sau khi ta trở về cũng có nghĩ, trăm mối không lời giải, vụ án vốn đang phủ bụi lắng xuống lại đột nhiên nhảy ra một tên, chẳng phải ai khác mà lại là Triệu Bạch Ngư... Thật sự ngẫu nhiên gặp được Lưu thị sao, quá là kì lạ."

Ngũ hoàng tử: "Chỉ sợ không phải là ngẫu nhiên."

Thái tử: "Tại sao?"

Ngũ hoàng tử: "Hôn sự của Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư là do ban đầu huynh và đệ hợp lực lệnh cho bộ Hộ đổi thứ tự ra đời của Triệu Bạch Ngư và Tứ lang, đổi đối tượng gả đi từ Tứ lang thành Triệu Bạch Ngư còn gì. Chuyện này là do chúng ta bắt tay đùa bỡn Hoắc Kinh Đường, không dám chắc hắn không phải là người lợi dụng Triệu Bạch Ngư nóng lòng cứu ân sư, xúi giục y đến ngự tiền trần tình đối phó với Nhị huynh!

Thái tử cả kinh, lập tức suy nghĩ kĩ càng.

Ngũ hoàng tử: "Hoắc Kinh Đường còn trẻ đã thành danh, uy lực trong quân lại hiển hách, năm đó danh tiếng của hắn phủ khắp Kinh Đô, ai ai cũng muốn dựa vào. Nhưng giờ hắn đã là người không còn binh quyền, co đầu rụt cổ ở Kinh Đô làm một tên quận vương nhàn rỗi, trong lòng chẳng lẽ không bất bình sao? Nhị ca đừng quên, phụ thân của Hoắc Kinh Đường là Bát thúc của chúng ta, Tĩnh vương năm đó tranh đoạt ngôi vị Hoàng đế với phụ hoàng suýt nữa là thắng đấy! Nếu như năm đó người thắng là Bát thúc, thì bây giờ Hoắc Kinh Đường đã là Thái tử rồi, chưa chắc hắn ta không bao giờ có ý nghĩ chiếm lấy nó!"

Thái tử tựa như có điều băn khoăn.

Ngũ hoàng tử: "Cũng may phụ hoàng bất mãn vì Hoắc Kinh Đường lần này làm việc không tới nơi, rút hắn khỏi vị trí Đại lý tự khanh, giao quyền thẩm tra bè đảng Tần vương cho Triệu tế chấp."

Sắc mặt Thái tử nghiêm lại: "Ngươi nói sai rồi, phụ hoàng không hề bất mãn, trái lại ông ấy vô cùng hài lòng khi Hoắc Kinh Đường không hoàn thành tốt công việc. Hắn đã giải quyết chuyện này quá hoàn hảo, kéo được tấm màn đen của trường thi Giang Nam xuống, để cho phụ hoàng có một lý do chấn chỉnh quan trường, chèn ép phủ Trịnh quốc công.

Ngũ hoàng tử: "Nếu hài lòng tại sao còn rút Hoắc Kinh Đường khỏi việc đó?"

Thái tử: "Lưu hành đại ngục, giết bè đảng, ngươi cho rằng đây là công việc gì tốt đẹp chứ? Đây là việc làm đắc tội người khác! Quan trường là một vòng luân hồi đầu thai chạy không thoát nổi, gia tộc nào mà không có cố lại môn sinh? Ai mà không có móc nối quan hệ với người này kẻ kia? Hôm nay giết một người, ngày mai có cả đoàn người chờ chết chung!"

Hắn xoay đầu nhìn rừng trúc ngoài cửa sổ, chắp tay sau lưng cảm thán: "Phụ hoàng là muốn bảo vệ Hoắc Kinh Đường, vứt bỏ Triệu tế chấp thôi."

"Được rồi, chuyện này tạm thời để sang một bên, việc quan trọng nhất trước mắt chính là thu thuế, sắp đến lúc phải thu tiền các nơi, Lưỡng Giang, Chiết Giang thì đã thu xong nhưng vẫn phải chú ý nhiều hơn nạn lụt năm nay. Ngươi quản bộ Hộ, bỏ công lo nghĩ một chút đi, lấy Tam đệ và trường thi Giang Nam làm tấm gương, dặn người bên dưới đừng quá phóng túng."

"Yên tâm, đệ biết chừng mực. Đúng rồi, cuối tháng chín là đại thọ thứ sáu mươi của Hoàng tổ mẫu, đệ đặc biệt sai người chở một khối đá Thái Sơn mang điềm lành về, định sẽ dùng nó dâng lên làm quà thọ thần."

"Lòng lễ Phật của Hoàng tổ mẫu vô cùng thành kính, đá Thái Sơn vốn mang điềm lành lại kèm thêm may mắn, nhất định sẽ khiến cho Hoàng tổ mẫu vui vẻ."

==

Chương 17:

Ngày Cấm quân lui khỏi vòng vây cấm túc Trần phủ, Trần Phương Nhung đứng sau cửa hơn một giờ, đến khi nắng sớm chiếu rọi khắp nơi, đầu đường xa xa truyền tới tiếng hô hào của tiểu thương thì hắn mới tỉnh mộng, bước chân lảo đảo chạy đến cái rãnh cống ở đầu ngõ rồi chẳng quan tâm nước cống hôi hám nhảy thẳng xuống, hai tay mò mẫm tìm kiếm thứ gì đó.

Một hồi lâu sau, rốt cuộc cũng tìm được thẻ cầu phúc bị hắn ném xuống từ tận ba tháng trước.

Triệu Bạch Ngư vì hắn ba quỳ chín khấu thỉnh thẻ cầu phúc về, lúc đó Trần Phương Nhung không tin là y chân thành cầu nguyện, đến lúc rối rắm lên mới chạy khắp nơi, chạy đến Bảo Hoa tự cầu thần hỏi phật mới nhìn thấy được ghi chép giải xăm được Triệu Bạch Ngư để lại.

Cũng may nó vẫn còn ở đó.

Trần Phương Nhung nắm chặt thẻ cầu phúc trong lòng bàn tay, vùi đầu đi về phía trước, người đi đường thấy cả người hắn vừa bẩn vừa hôi thì tránh né theo bản năng, lúc hắn về đến trước cửa phủ chợt nghe thấy có người gọi mình.

Quay đầu nhìn lại, là Triệu Ngọc Tranh.

"Trần sư huynh, cha ta đã điều tra rõ Trần tiên sinh trong sạch, đợi đến lúc lâm triều sẽ tấu lên Thánh thượng, tiên sinh có thể về nhà rồi."

Trần Phương Nhung mặt đơ như khúc gỗ, đáp: "Tế chấp tường tận mọi việc, hiểu rõ mưu gian, ngày nào đó ta sẽ đến cửa bái tạ."

Triệu Ngọc Tranh xách một hộp đựng thức ăn tinh xảo đưa tới cho Trần Phương Nhung nói: "Đây là cơm ngũ phúc ta cầu từ Bảo Hoa tự, đưa tới nhân dịp Trần tiên sinh trở về. Vụ án lần này ta không giúp được gì, trong lòng áy náy —— này là tấm lòng ít ỏi của ta, phiền sư huynh đưa cho tiên sinh giúp ta."

Nói xong nhét hộp đựng thức ăn vào trong tay Trần Phương Nhung, lui về phía sau ba bước, chắp tay xá một cái rồi nói lời từ biệt.

Trần Phương Nhung đưa mắt nhìn bóng lưng người đã đi xa, nếu như là ba tháng trước, hắn nhất định sẽ xúc động vì Triệu Ngọc Tranh biết thức thời, giàu tình cảm, dù chỉ nghe cha giảng bài một hai lần nhưng vẫn hiểu lễ tôn sư trọng đạo, chu toàn mọi mặt, thoải mái hào phóng, nhưng trải qua khoảng thời gian cha bị nhốt trong nhà lao, gia cảnh khốn đốn, hắn mới hiểu được bọn họ chỉ là đám con cháu quan lại từ nhỏ đã được dạy dỗ cho khôn khéo, sống một cuộc sống thuận lợi nên không hề thật lòng.

Môn đồng mở cửa ra nói: "Đại lang, đã chuẩn bị xong chậu lửa, lá ngải và nước bưởi, còn có cả cơm ngũ phúc xua đuổi tà ma của Bảo Hoa Tự bọn ta cũng hấp nóng lại rồi, chỉ chờ lão gia về thôi ạ!"

Trần Phương Nhung ngạc nhiên: "Các ngươi đến Bảo Hoa tự cầu cơm ngũ phúc sao?"

Môn đồng: "Là Tứ lang, à không, là Ngũ lang tự mình đến Bảo Hoa Tự tranh hộp cơm ngũ phúc đầu tiên đó! Sáng sớm đã đưa tới rồi, vẫn còn bốc hơi nóng luôn."

Bảo Hoa tự là ngôi chùa nổi tiếng ở Kinh đô, thẻ cầu phúc và cơm ngũ phúc ở nơi này rất được hoan nghênh, trong đó cơm ngũ phúc là món ăn có thể xua đuổi tà ma trừ xui, được nấu bằng nước của dòng suối chảy sau Bảo Hoa tự, nghe nói rất linh nghiệm, được bán vào mùng mười lăm mỗi tháng, một lần chỉ bán một trăm phần, muốn mua thì phải đi lấy chỗ từ lúc trời còn chưa sáng mới tranh nổi, đặc biệt hộp cơm ngũ phúc đầu tiên là khó tranh nhất, giống như thắp được nén hương thứ nhất vào mùng một đầu năm vậy.

Trần Phương Nhung nhìn chằm chằm thẻ cầu phúc, trong lòng ngổn ngang cảm xúc, hốc mắt trở nên nóng bừng: "Cha thường nói với ta quan trường không có bạn bè, chuyện triều đình rắc rối, tiến vào quan trường nhất định không thể phạm sai lầm, càng không thể tâm tình thổ lộ với người khác. Môn sinh, cố lại, đồng liêu, lúc không có việc gì ai cũng là bạn, vừa gặp chuyện chỉ hận không thể vòng đường khác mà đi, nhắc tới thì hô không quen không biết, cho nên không thể bày tỏ tâm tư, không được quản chuyện không nên quản, trong quan trường không có chính nghĩa, chỉ có lợi ích."

"Trước kia ta nửa tin nửa ngờ những lời cha nói, đến khi cha gặp chuyện ta đã hoàn toàn tin rồi, lòng ta căm ghét thế tục, cảm thấy mặt ai cũng khó ưa, chỉ vì lợi riêng, nhưng Triệu Bạch Ngư đã cứu ta."

Khi đó hắn suýt nữa là bị hủy hoại hoàn toàn, một kẻ với trái tim tràn đầy thù hận với sự nghiệp ngắn ngủi đã định, có người cha dính líu vào án gian lận thi cử càng khẳng định đường làm quan của hắn đã kết thúc ngay sau đó, thậm chí Trần Phương Nhung đã từng nghĩ đến chuyện chờ phán quyết được đưa ra sẽ đập đầu tự tử ở Thùy Củng điện để nhân danh Trần gia trung liệt.

Nhưng Triệu Bạch Ngư đã cứu hắn và cha, cũng cứu lấy thanh danh trong sạch mấy đời của Trần gia, với Trần gia, với hắn mà nói không thua gì ơn tái sinh.

"Y cứu ta, để cho ta biết lời cha nói là đúng. Quan trường không có bạn, không phải là vì lợi riêng, mà là vì phải bảo toàn bản thân mình, tự biết nguy hiểm. Như trong án gian lận này, tù oan rầm rộ, có hai ba môn sinh dù chỉ thư từ qua lại bình thường với Tần vương cũng bị xem là bè đảng, tích thu tài sản lẫn diệt tộc. Nhưng quan trường hiểm trở, càng bo bo giữ mình thì lại càng làm nổi bật lòng người vô giá!"

"Nói hay lắm!"

Giọng nói bất ngờ vang lên khiến cho Trần Phương Nhung và cả môn đồng ngạc nhiên quay đầu cùng lúc, thấy ông lão tuy đầu tóc đã bạc trắng nhưng vẫn còn khỏe khoắn đầy sức sống thì không khỏi mừng rỡ, hô lên: "Cha!", "Lão gia!"

Trần Sư Đạo: "Trải qua chuyện này khiến con hiểu được một chút cách thức của quan trường, đúng là chuyện tốt. Lòng người vô giá, cần được trân trọng. Tứ lang vất vả ở bên ngoài, cha ở trong ngục biết hết —— thằng bé đâu rồi? Sao không giữ lại?"

Môn đồng: "Y nói ở phủ Nha còn vụ án chất chồng bận về giải quyết, có lẽ đến muộn mới ghé qua đây."

Trần Sư Đạo vào phủ, theo quy trình xua đuổi tà khí xong xuôi, rửa mặt thay một bộ đồ mới rồi đến đại sảnh dùng cơm ngũ phúc mà Triệu Bạch Ngư mang tới. Còn hộp gỗ tinh xảo mà Triệu Ngọc Tranh đưa đã sớm bị Trần Phương Nhung ném qua một bên rồi.

Ăn đầy một bụng tấm lòng của Triệu Bạch Ngư, Trần Sư Đạo mới đặt đũa xuống nói: "Cha định liều đi khuyên giải."

Trần Phương Nhung giật mình.

Trần Sư Đạo: "Liều chết khuyên bệ hạ hủy bỏ hôn sự của Lâm An quận vương và Tứ lang! Ngũ lang Tứ lang thay mận đổi đào gì cũng không nhận, Triệu Bạch Ngư ở chỗ ta chính là Tứ lang! Trong sạch, lương thiện, chính trực, không có liên quan gì đến Tế chấp, công chúa gì hết! Triệu Bá Ung ngày xưa cũng là Tam nguyên cập đệ, nay lại là Tể tướng đứng dưới một người mà vẫn làm chuyện hồ đồ thế này! Ông ta bị một người đàn bà tính kế, sao lại trút giận lên đầu một đứa con nít chẳng biết gì chứ? Từ trên xuống dưới Triệu gia không một ai có đầu óc à, người người ỷ lớn hiếp nhỏ, không thể làm gì công chúa kia thì chạy đến trách một đứa trẻ vô tội ư!"

Trần Sư Đạo nổi trận lôi đình, ngôn từ sắc bén: "Nếu như Tứ lang lòng dạ hẹp hòi, đố kỵ làm hại người hiền thì thôi, nhưng nó và công chúa Xương Bình là hai người hoàn toàn trái ngược, từ nhỏ đã thông minh hiếu học, quý sư trọng thầy, trọng tình trọng nghĩa, động lòng trắc ẩn, công minh chính trực —— " Nếu không phải một hơi nói đến đây, có lẽ ông còn khen được thêm trăm chữ nữa. "Con có tự xưng là tài hoa hơn người cũng không thể đạt được Tam nguyên cập đệ, nhưng nếu Tứ lang được tham gia thi cử, chắc chắn có thể tranh được cái danh thiên tài đó. Thật đáng tiếc cho Triệu gia bỏ lỡ thằng bé!"

Trần Phương Nhung giật thót lòng, cẩn thận hỏi thêm mới biết trước khi Triệu Bạch Ngư đảm nhiệm chức phán quan còn có nội tình thế này, người có học thức trở nên đồng cảm, lúc này mới có cảm giác tràn đầy ác cảm với mấy người Triệu gia cùng với Triệu Ngọc Tranh vì lợi ích cá nhân mà đánh mất tương lai của người khác.

"Cha, hay để con đi khuyên giải cho nhé!"

Trần Sư Đạo hung dữ khinh người: "Mi thì khuyên cái con chim! Mi có đáng giá bằng nguyên lão ba triều như cha không hử?"

Trần Phương Nhung: "..." Sao tự dưng cha lại chửi tục thế nhỉ?

***

Phủ Ngũ hoàng tử.

"Điện hạ!" Tiểu thái giám từ bên ngoài phủ quay về, thở hồng hộc nói: "Người chúng ta phái ra ngoài tìm mua đá Thái Sơn bị Nha môn Kinh đô phủ giữ lại rồi!"

Ngũ hoàng tử đang đùa giỡn với con chim bèn hỏi: "Nha môn ăn tim hùng gan báo dám bắt người của ta sao! Đi, cầm thẻ bài của ta đến gặp Kỷ Hưng Bang, bảo ông ta thả người ra cho ta!"

"Vâng."

"Chờ đã, bọn họ phạm phải tội gì mà bị bắt?"

"Phạm luật cấm đêm ạ."

Ngũ hoàng tử sai người cầm thẻ bài đi bảo lãnh người về, đột nhiên nhớ tới chuyện gì lại kêu thái giám quay lại: "Ngươi nói người bị bắt vào nhà lao Kinh Đô sao?"

Tiểu thái giám: "Đúng vậy."

Phủ Nha... Triệu Bạch Ngư kia không phải là Thiếu doãn sao?

Tuy nói Nhị ca đảm nhiệm Phủ doãn ở Kinh đô, nhưng ai cũng biết đây là một chức vụ vô ích không cần quản lí việc gì, nếu như gây ra án oan gì trong phủ Nha thì cũng sẽ không trách tội Nhị ca được.

"Ta nhớ trong đám người chở đá Thái Sơn có một kẻ vừa mới mất mẹ đúng chứ?"

"Hình như là hắn có gửi tin về báo chuyện này, điện hạ nhân từ nên đã chi trả tiền chôn cất cho hắn ạ."

"Được! Đúng là chuyện tốt! Phàm là thi hành công vụ, chết tang, sinh đẻ đều có thể xin đi lại, nếu như người bị hành hình thì có thể tuyên bố hắn bị đánh là quá bất công, bị vu oan giá họa. Ngươi đi đến đại lao Kinh Đô một chuyến, dặn dò người trong đó là phải để cho đánh. Xong chuyện bổn hoàng tử sẽ thưởng lớn!"

Ngũ hoàng tử cười nhạt: "Triệu Bạch Ngư dạo này huênh hoang hết sức, mấy tên bảo thủ hèn hạ còn dám so sánh hắn với Tứ lang, cũng không xem hắn xứng ở chỗ nào."

Triệu Bạch Ngư cam chịu bị Hoắc Kinh Đường dùng làm thương giáo để sai sử, vậy thì cũng đừng trách gã dùng bản lĩnh để giết gà dọa khỉ!

Diêm vương thì còn khó đối phó, chẳng lẽ không đánh lại được một tên tiểu quỷ?

***

Nha dịch vội vã chạy tới: "Triệu đại nhân, trên phố lại có mấy kẻ gian xảo bán đồ nhái chọc phải kẻ thù, đánh lộn ngoài đường ngoài xá, quan lại quản lý phường thị lại vờ như không thấy, suýt nữa đánh chết người ta rồi."

Một tên nha dịch khác chạy tới: "Đại nhân, đêm qua ở phía Đông bắt được một đám phú thương vùng khác tới vui chơi giải trí, những người dân cung cấp trà nước và trò vui ban đêm đều là vì quá nghèo khổ, hôm nay đều đã giải đến Nha môn, theo luật lệ Đại Cảnh thì đều bị phạt đánh tám mươi roi. Người có tiền còn đỡ, người nghèo phạt xong không có tiền xem bệnh mua thuốc, hơn nửa chiếu rơm cũng gom lại ném bãi tha ma thôi."

Triệu Bạch Ngư: "Trước tiên ngươi cứ giam vào nhà lao đi đã, chờ ta bẩm báo cho Kỷ đại nhân rồi tính tiếp."

Hai tên nha dịch lĩnh mệnh.

Triệu Bạch Ngư báo cáo lại việc này cho Kỷ tri phủ, người nọ cũng bày ra vẻ mặt ủ dột: "Ngày nay thương nghiệp phồn vinh, trao đổi qua lại, nhưng chế độ của phường thị quá cũ kĩ gây trở ngại nghiêm trọng cho việc phát triển, bên trên cũng có ý định nới lỏng cấm đêm nhưng không tìm ra quy chế cụ thể phù hợp, cũng không đưa ra lời chính thức nào, quả thật là quyết định không tốt. Bắt được tổng cộng mấy người?"

"Thương nhân và bá tánh nghèo tổng cộng tám mươi bảy người."

"Nếu dùng roi thực hình theo luật lệ, sợ là sẽ xảy ra án mạng mất. Ngũ lang, ngươi có cao kiến gì không?"

"Hạ quan cho rằng muốn cởi dây phải tìm người buộc dây, cần có một lời của bệ hạ, tự ngài thoái thác hủy bỏ chính lệnh giới nghiêm, mở cửa chợ đêm."

"Không đơn giản vậy đâu. Sau khi hủy bỏ lệnh cấm đêm, kinh sư sẽ thịnh vượng, đồng nghĩa trật tự công cộng sẽ loạn, hoả hoạn, nạn cướp bóc, ăn trộm nguy hiểm sẽ xảy ra dồn dập, quản lý như thế nào được?"

Triệu Bạch Ngư thốt lên: "Lập chuyên khu để tuần quản và tuần kiểm đồng thời quản lý, chọn vùng chuyên khu lấy một nơi làm chỗ xử lý công vụ, bên dưới bố trí quân tuần cửa hàng, lệnh cho trên đường cứ cách mỗi hai trăm bước thì có một quân tuần. Sau đó sắp xếp thêm một đơn vị chữa cháy và đội quân cảnh dập lửa xử lý hiện tượng cháy nổ, bảo đảm trật tự ổn định cho chợ phường."

Kỷ tri phủ ngạc nhiên, nheo mắt nhìn y: "Có phải ngươi dự tính trước từ lâu rồi không?"

Triệu Bạch Ngư mím môi cười: "Đại nhân, quản lý trị an Kinh đô là chức trách và bổn phận của hạ quan." Dừng một chút, y lấy một phần chiết tử từ trong tay áo bào ra nói: "Đây là phần ghi chú ta căn cứ theo diện tích đất đai và dân số ở Kinh đô, cùng với chợ phường, khu buôn bán phân chia đều các chuyên khu, chuyên khu tuần quản, sở công sự, quân tuần cửa hàng và đơn vị chữa cháy, từng chế độ và cơ cấu ta đều chú giải cặn kẽ. Có điều đại nhân à, chỉ dựa vào nỗ lực của một mình ngài thì sẽ rất khó để thúc đẩy việc bãi bỏ cấm đêm ở Kinh Đô."

Kỷ tri phủ nhận lấy chiết tử hỏi: "Ý ngươi là để ta kéo đám người này cùng tấu lên sao? Bây giờ người người đều sợ kết bè kết phái, ai dám lén bệ hạ cấu kết?"

Triệu Bạch Ngư: "Trời sập xuống còn có người cao đội trời, sao ngài không tìm Lâm An quận vương kia kìa?"

Kỷ tri phủ vỗ gáy mình một cái: "Đúng rồi! Ôi, vậy sao ngươi không tự mình đệ trình chiết tử?"

Triệu Bạch Ngư: "Nghe nói quận vương nổi tiếng không tranh công, nếu ngài không muốn gây dựng sự nghiệp thì ta đi cũng được —— "

"Chờ đã, đại nhân ta phải làm gương cho binh sĩ, để ta đi!"

Triệu Bạch Ngư vui mừng tiễn Kỷ tri phủ đi, trông mắt nhìn xa, trong đầu đều là đời sống sinh hoạt ban đêm, đời trước nằm trên giường bệnh chỉ có thể nhìn thấy chợ đêm trên ti vi cho đỡ thèm, mà dù là phim điện ảnh hay truyền hình, tiểu thuyết hay sự kiện lịch sử được tái hiện, thì không thể phủ nhận được chợ đêm thời Bắc Tống Biện Lương là phát triển mạnh mẽ nhất.

Quầy bán quà vặt, trà phường tửu lâu, câu lan ngõa xã tranh kỳ đấu diễm... Bày la liệt ngày đêm không ngơi nghỉ, là chợ đêm khiến người ta lưu luyến mãi không quên.

Quan trọng nhất chính là, miếng đất xây cửa hàng mà mấy năm trước y dồn hết tiền mua lại cuối cùng cũng có thể dùng để kiếm tiền rồi!

==

Chương 18

Đại lao phủ Nha.

"Sao? Cháu trai còn dám đánh ông sao? Ông đây nói cho các ngươi biết, lãnh đạo Tri phủ của các ngươi đến đây cũng phải dập đầu nhận tội thôi! Hai phủ ba ty sáu bộ bao nhiêu kinh quan còn phải biếu quà cho ông, ở chỗ Triệu tế chấp ông cũng có mấy phần mặt mũi đấy biết chưa hả!"

Triệu Bạch Ngư vừa đi vào liền nghe thấy mấy tên tù nhân phách lối khiêu khích, đứng yên tại chỗ nghe một lúc rồi hỏi người đi cùng: "Mấy kẻ này là ai?"

"Là thương nhân từ vùng khác tới."

"Kiêu căng phách lối, đằng sau bọn họ là ai thế?"

"Không biết, nghe như cả kinh quan đều là người phía sau bọn họ vậy. Đại nhân, ngài đừng tin lời bọn họ nói, nghe là biết nói nhảm rồi, ta làm quan nhiều năm hạng người nào mà chưa từng thấy? Còn có kẻ kia tự xưng là thân thích của Vương gia gì đó, cuối cùng chỉ là nô bộc nhà mẹ đẻ của tiểu thiếp ở hậu viện của Vương gia mà thôi!"

"Không nói đến người làm đó, mà chính cha mẹ ruột của tiếu thiếp kia trong Kinh Đô này cũng chỉ là một tên ất ơ nhỏ bé không tên tuổi. Đại nhân, chi bằng dạy dỗ bọn họ một chút! Làm theo luật đánh tám mươi roi, dù cho có kéo ra đường lớn, cũng không thể nói chúng ta làm quan ác đánh phạm nhân."

"Mạnh miệng thôi mà, tội gì phải so đo với bọn họ." Triệu Bạch Ngư khoát tay: "Theo lệ thẩm vấn và viết trạng chấp thuận là được."

Lính canh ngục chỉ đành nghe theo lời y, lên giọng tức giận mỉa mai mấy tên tội phạm, không hề dùng roi ngược đãi.

Mấy thương nhân trong lao thấy dù có khiêu khích đến mức nào cũng không khiến mình bị đánh thì rất ngạc nhiên, theo lẽ thường, chỉ cần bị bắt vào đại lao phủ Nha, không cần để ý có tội hay không tội cũng sẽ lệnh đánh một trận, cái này gọi là gậy giảm uy*.

(*) Gậy giảm uy - 杀威棒 : trong xã hội phong kiến, phạm nhân bị đưa đi sung quân hoặc đi đày khi vừa đến biên trấn, để khiến họ bỏ đi hoặc giảm bớt vẻ kiêu căng/kiêu ngạo, đều sẽ bị đánh trước 120 gậy vào mông hoặc chân, vì thế gọi là "sát uy bổng", sát là giết, là làm giảm hay làm yếu đi, uy là oai, ở đây là kiêu ngạo hoặc tương tự vậy (Baidu)

Mấy kẻ đó cứ mắng chửi ồn ào, nhưng thậm chí chẳng có hình phạt nào được đưa ra, nếu nói là sợ hãi thế lực đứng sau trong miệng bọn họ, thì sao mấy chục dân thường cũng không bị đánh.

Thương nhân nghĩ mãi mà không ra bèn thảo luận lại một chút, xì ra ít bạc mua chuộc một tên lính canh, để cho hắn xách một người trong số bọn họ ra ngoài đánh tám mươi roi, tạo ra vết thương ngoài da không được đụng đến gân cốt, chỉ cần máu thịt lẫn lộn, muốn thảm bao nhiêu có bấy nhiêu là được.

Lính canh không hiểu, nhưng dưới sự sai khiến của bạc trắng chói lóa liền làm theo ngay.

***

Hoắc Kinh Đường đã xem xong chiết tử mà Kỷ tri phủ trình lên.

"Ý tưởng hay đấy, có thể thử nghiệm xem sao."

Phó quan: "Không ngờ Kỷ tri phủ còn có thể giỏi đến độ này, trước kia ông ấy cũng đề cập nhiều phương án cải cách khác, tất cả đều được tiếp nhận, lại đem tới hiệu quả nhanh chóng, quả là một vị quan có năng lực."

"Ngươi cảm thấy cái này là do Kỷ Hưng Bang nghĩ ra?"

"Chứ không phải ạ?" Phó quan sửng sốt, hoài nghi hỏi: "Chẳng lẽ là người khác? Không phải đâu, đề nghị đẩy mạnh bãi bỏ cấm đêm ở Kinh Đô nếu thật sự thực hiện được thì chính là kiếm được thành tựu để đời, người nào lại đẩy công lao ra xa mình như thế?"

"Sức nặng cửa Kỷ Hưng Bang không đủ để thuyết phục Thánh thượng đẩy mạnh bãi bỏ cấm đêm, ông ta cần tìm người ở trên. So với ta chẳng có giao tình gì với ông ấy, thì chẳng phải ân sư của ông là Thập thúc sẽ thích hợp hơn sao?"

"Ý ngài là?"

"Có người khác bảo ông ấy tiến cử ta, người đó mới là người viết phần chiết tử này."

"Nhưng sao hắn lại tiến cử ngài?"

Hoắc Kinh Đường nhét chiết tử vào trong tay áo quan rộng, chống cằm nheo mắt nhìn phó quan nói: "Đáp lễ."

Sao cảm giác như còn có chút tự hào nhỉ? Phó quan nghĩ hoài không ra, tò mò truy hỏi: "Đáp lễ gì ạ? Quà cảm ơn? Nào phải đâu, tướng quân ngài lòng dạ hẹp hòi, cũng có lúc bố thí ân huệ cho người ta à —— "

Phó quan im dần trước ánh mắt lạnh thấu xương của Hoắc Kinh Đường, vùi đầu đến ngực như con đà điểu, rất lâu mới nghe thấy tiếng hắn cười khẽ: "Cái tên lỗ mãng nhà ngươi thì biết cái gì gọi là đầu mộc báo quỳnh*! Về sao chép Tứ thư** bốn lần đi!"

(*) Theo mình tìm hiểu thì đầu mộc báo quỳnh xuất hiện trong 2 câu đầu bài thơ Mộc qua 2 của Khổng Tử: Đầu ngã dĩ mộc đào / Báo chi dĩ quỳnh dao.

Dịch nghĩa (sương sương):

Người ném tặng ta trái mộc đào / Ta đáp lại bằng món ngọc dao đẹp đẽ.

(**) Tứ thư: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử

Phó quan: "..."

Hoắc Kinh Đường không có thực quyền gì, trừ phi được triệu kiến, hoặc được ủy nhiệm chức vụ tạm thời mới cần vào triều sớm tấu bẩm công vụ, thời gian còn lại không nhất định phải đến điểm danh làm việc. Trước mắt đã bị thu lại chức Đại lý tự khanh, Hoắc Kinh Đường chỉ có thể chủ động vào cung trình đề án hủy bỏ giới nghiêm mở chợ đêm này.

Một khi bãi bỏ cấm đêm thì không phải chỉ là chuyện của Kinh Đô, mà là cả nước 18 tỉnh, 38 phủ, 254 châu cũng đều phải bỏ, đều phải bố trí chuyên khu và sở công sự phù hợp, cùng với đơn vị chữa cháy vân vân, quy mô có thể nói là quá lớn.

Bên cạnh đó, môi trường mở cửa buôn bán cũng có thể mang lại lợi nhuận cực kì to lớn.

Tiền triều hồ đồ vô đạo, bổn triều khai quốc đến nay chưa tới trăm năm, trải qua ba triều đại, Thiên tử ba triều đều ngày đêm chuyên cần cẩn thận không dám ngơi nghỉ, nhưng ngân khố quốc gia và nội khố vẫn luôn trong tình trạng thiếu hụt nghiêm trọng, cho nên nếu Hoắc Kinh Đường mang đề án chứa đựng món hời hết sức to lớn kia, chắc chắn sẽ hấp dẫn tâm tư của Nguyên Thú đế.

Nguyên Thú đế triệu tập làm việc ở đại nội vào giữa đêm, quan viên từ tam phẩm trở lên cùng nghiên cứu phần đề án này xem có được hay không.

***

Trên đường tảo triều, Hoắc Kinh Đường cố tình đi chậm lại sau trăm quan, chờ Trần Sư Đạo chủ động đi tới chắp tay nói cảm ơn.

Trần Sư Đạo: "Hạ quan còn chưa bái tạ quận vương tình chiếu cố khi còn trong lao ngục, miễn cho hạ quan nhận thêm hình phạt."

Hoắc Kinh Đường: "Đại nhân phụng sự ba triều, huống chi vốn chẳng có chứng cứ nào chứng minh đại nhân tham gia gian lận khoa cử, bổn vương chỉ xử lý theo lẽ công bằng thôi."

Trần Sư Đạo ngẩng đầu nhìn Hoắc Kinh Đường, sau khi rời khỏi Đại lý tự liền hỏi thăm ngọn nguồn án gian lận khoa cử, biết được Lâm An quận vương một tay tra được Tần vương cấu kết với quan chủ khảo Giang Nam, vén lên tấm màn đen ở trường thi Giang Nam, tức cười ông trước đây còn tưởng tiểu quận vương chỉ biết đánh giặc không thể làm quan.

Thấy cả quá trình từ lúc nhận án đến lúc kết án hắn đều xử lí vô cùng mượt mà, vốn nên đắc tội trăm quan nhưng lại ẩn mình một cách hoàn mỹ, còn có thể mượn tay Triệu Bạch Ngư kéo ông ra ngoài, thủ đoạn lão luyện có lẽ người thấm nhuần hai mươi năm quan trường như ông cũng chẳng bì nổi.

"Ân tình của quận vương như núi cao biển sâu, hạ quan không thể trả nổi, nhưng chỉ cần không phải khi quân nghịch tổ, không gây họa cho bách tính, Trần Sư Đạo dù tan xương nát thịt cũng sẽ dũng cảm quên mình! Nhưng Triệu thị Tứ lang Triệu Bạch Ngư tính tình chất phác lại ngây thơ, thành tâm thành ý, vốn là long câu phượng sô, đáng tiếc thằng bé quá ngoan ngoãn nhưng số lại không thuận lợi, long đong trắc trở, dù vậy, hạ quan vẫn muốn liều cái mạng già yếu ớt này che chở cho nó. Mong rằng tiểu quận vương thương xót mạng già của lão, để cho Triệu tứ lang một đường thoát. Nếu không lấy chồng vào quận vương phủ, mai kia Triệu Bạch Ngư sẽ trở thành trọng thần đắc lực của Đại Cảnh ta! Hy vọng tiểu quận vương thương tài tiếc hiền, đừng hủy hoại Triệu Bạch Ngư!"

Trần Sư Đạo nói đến đây đã muốn quỳ xuống, Hoắc Kinh Đường đỡ người dậy, liếc thấy tấu chương và thẻ ngà voi trong áo quan của Trần Sư Đạo, tâm trạng thay đổi nhanh chóng, biết ông đang muốn làm gì.

"Ta hiểu tiên sinh thành khẩn, yêu mến học sinh. Nhưng tiên sinh có nghĩ đến hậu quả của việc kháng chỉ không tuân hay không? Tiên sinh nghĩ lời nói khuôn vàng thước ngọc của Thiên Tử là lời bông đùa sao? Dù ông có đụng đầu chết trên triều hôm nay, thì có thể ép bệ hạ thu hồi ý chí đã ban xuống ư, rồi để về sau có nguyên lão ba triều lại đập đầu chết trên triều, cũng có thể ép buộc bệ hạ thu lại mệnh lệnh đã ban ra, lợi dụng điểm yếu uy hiếp bệ hạ đưa ra chỉ ý có hại cho xã tắc sao? Người trên đời này đều biết lấy cái chết cưỡng ép người khác sẽ khiến cho triều đình thay đối xoành xoạch, Thiên tử có còn uy nghiêm hay không?"

Từ xưa đến nay không có ví dụ nào cho việc thu hồi ý chỉ, Thiên tử không thể sai sót. Cho dù có sai lầm đi nữa thì cũng là khi triều đình đang lúc nguy nan, cần phải làm yên lòng người, chứ không phải là Thiên tử phạm sai.

"Tiên sinh vì tình thế cấp bách mà hồ đồ rồi." Hoắc Kinh Đường thấp giọng an ủi Trần Sư Đạo: "Có điều một mối hôn sự mà thôi, triều ta không có luật phò mã* không được làm quan, huống chi chỉ là một quận vương phi. Vào quận vương phủ, Triệu Bạch Ngư vẫn có thể làm quan, nếu ông lo lắng tương lai của y, đợi sau khi thành hôn mấy năm thì hai người hòa li —— đâu có ai nói rõ quy định Thánh thượng ban hôn là không thể hòa li, chẳng phải tiền triều cũng có chuyện công chúa hưu phò mã hay sao?"

(*) Phò mã: con rể của vua

"Thật sự có thể hòa li à?"

"Dĩ nhiên."

Trần Sư Đạo gật đầu không ngừng, cẩn thận suy nghĩ lời nói của Hoắc Kinh Đường, người đổ mồ hôi lạnh, đế vương uy nghiêm, quân không nói đùa, cũng không thể nói lời sáo rỗng, đầu óc của ông đúng là bị giam đến hồ đồ rồi, những năm này ở Quốc tử giám dạy học cũng hồ đồ nốt, suýt chút nữa thì quên mất đạo làm quan cơ bản nhất:

Quân vương luôn đúng, có sai đi chăng nữa thì cả thiên hạ cũng không thể bắt lỗi.

Dù có chết trên triều đình cũng chẳng thể ép bệ hạ thu hồi mệnh lệnh đã ban xuống, làm trái sẽ chọc giận quân vương, dính líu đến cả Trần phủ và Triệu Bạch Ngư.

Trần Sư Đạo không nhịn được vỗ đầu mình một cái: "Hồ đồ, hồ đồ rồi. Đa tạ quận vương nhắc nhở." Trong lòng cảm động, tiểu quận vương đúng là ôn hòa lương thiện.

Trong triều hội, theo lệ tấu bẩm các sự việc, đến khi sắp kết thúc, Giám sát ngự sử bước ra khỏi hàng ngũ nói: "Thần xin tố Thiếu doãn Kinh Đô Triệu Bạch Ngư không hỏi nguyên do, đánh oan phạm nhân!"

Vừa nghe đến Triệu Bạch Ngư, Nguyên Thú đế đã liếc mắt đến Hoắc Kinh Đường vừa mới báo án gian lận thi cử trở về chỗ, vô cùng hào hứng nói: "Tấu rõ đi."

Giám sát ngự sử: "Nhân sĩ Lý Đống, làm việc sữa chữa và chế tạo ở Hộ bộ, ngày hôm trước vì vi phạm cấm đêm nên đã bị quân tuần cửa hàng bắt vào đại lao Nha môn, phải chịu đòn tám mươi roi."

Nguyên Thú đế: "Phải làm theo luật, xử phạt rất thích đáng."

Giám sát ngự sử: "Bệ hạ chỉ biết một không biết hai, Lý Đống phạm luật cấm đêm là vì mẹ ruột vừa qua đời, ban đêm vội về chịu tang, theo luật thì có nguyên nhân, phạt không thích đáng. Thiếu doãn Kinh Đô có trách nhiệm duy trì trật tự, Triệu Bạch Ngư chưa hỏi tội đã cho đánh người thừa sống thiếu chết, đúng là xem mạng người như cỏ rác!"

Thái tử quay đầu ra, thấy trên mặt Ngũ hoàng tử chứa đầy ý cười, lập tức sáng tỏ Ngũ đệ đây là đang chỉnh Triệu Bạch Ngư, thay hắn trừng trị kẻ mình ghét bỏ, lúc này bước ra khỏi hàng bẩm lên: "Phụ hoàng, Thiếu doãn trợ giúp Tri phủ trông coi trị an ở kinh kỳ, thẩm tra vụ án lớn nhỏ, cảnh cáo trước, truy xét sau, còn người dân trong sạch, không hỏi nguyên do đã hành hình đánh người vi phạm là không làm tròn nhiệm vụ. Nhi thần đảm nhiệm Phủ doãn Kinh đô, người dưới trướng không làm tròn chức trách, nhi thần cũng không thể đổ trách nhiệm cho người khác, vì vậy nhi thần thỉnh cầu phụ hoàng hãy để nhi thần xử lý chuyện này."

Nguyên Thú đế: "Ngươi là Thượng quan của Triệu Bạch Ngư, tự mình xử lí chuyện này cũng hợp tình hợp lý." Ông vỗ đùi một cái, nhìn vòng quanh điện, ánh mắt rơi xuống trên người Hoắc Kinh Đường hai ba giây rồi tự nhiên dời đi, đứng dậy nói: "Không còn gì nữa thì bãi triều."

==

Tác giả muốn nói:

"Đầu mộc báo quỳnh." Lão Hoắc hất cằm: "Rất khó nói đây có phải là đáp lễ nạp chinh hay không."

Nạp chinh: Đàn trai đưa thư mời, lễ thư, sính kim, tiền mừng đến nhà đàn gái, lúc này, nhà bên nữ cần đáp lễ.

==

Chương 19

Bước chân Kỷ tri phủ vội vã, vào trong Phủ nha đầu tiên là gấp gáp nói với Triệu Bạch Ngư: "Ngươi gây họa rồi biết chưa!"

Triệu Bạch Ngư bình tĩnh đáp: "Sao vậy?"

Kỷ tri phủ: "Ta hỏi ngươi, lần trước bắt tám mươi mấy người phạm cấm đêm, ngươi có phạt roi bọn họ hay không?"

Triệu Bạch Ngư phủ nhận.

Kỷ tri phủ gấp đến độ vỗ tay nói: "Người nhà người ta cáo đến Ngự sử đài rồi kìa, sáng nay còn tố cáo ngươi trước mặt bệ hạ, nói người bị đánh oan ban đêm chạy tang. Phàm là đi sứ công vụ, chết tang, sinh đẻ đều có thể không cần phải tuân thủ cấm đêm, ngươi đánh người không hỏi nguyên nhân, vu oan giá họa thì chính là án oan. Đông cung cũng là Phủ doãn, nói sẽ tự mình đi tra hỏi vụ này, ngươi mau đến đó một chút xem có hiểu lầm gì không? Nếu là do người bên dưới tự tiện giải quyết, ngươi có thể bỏ qua thì nên bỏ qua, làm việc không tận sức còn khá hơn gánh cái tiếng xấu là một tên quan ác."

Triệu Bạch Ngư: "Đừng gấp, ta đi hỏi tình hình trước đã."

Kỷ tri phủ: "Không kịp rồi, Thái tử, Ngũ hoàng tử bọn họ đều đã ở tiền đường chờ rồi, ta sẽ nói những gì ta biết cho ngươi —— vừa đi vừa nói."

Lúc này, ở tiền đường phủ Nha, Thái tử ngồi trên bàn xử án, một ghế bên trái là Hoắc Kinh Đường đi cùng tới ngồi, hai ghế bên phải là Ngũ hoàng tử và Triệu tam lang Triệu Ngọc Khanh trên đường tới gặp phải nên cũng đến góp náo nhiệt.

Ngũ hoàng tử phe phẩy cái quạt trong tay, đang lúc vô cùng buồn chán thì nhìn chăm chú vào Hoắc Kinh Đường ở đối diện: "Tiểu quận vương ngày thường ít giao du với bên ngoài, chẳng thèm kết giao với trăm quan, sao hôm nay vừa hạ triều đã hấp tấp đi theo sau lưng Nhị ca thế kia?"

Hoắc Kinh Đường ngồi nghiêng ngã, một tay chống cằm đối mặt với sự khiêu khích của Ngũ hoàng tử chỉ lướt nhẹ ánh mắt: "Ta cũng đâu thể cứ trơ mắt nhìn tiểu lang quân của ta bị bắt nạt, đúng không?"

"!"

Mấy người trên tiền đường khó chịu như nuốt phải con ruồi. Ngũ hoàng tử vốn định dùng Triệu Bạch Ngư đế chế giễu Hoắc Kinh Đường không chỉ làm chuyện hoang đường như việc cưới về một người đàn ông, mà đó còn là một món hàng "kém chất lượng", nào ngờ Hoắc Kinh Đường lại thừa nhận quan hệ của hắn và Triệu Bạch Ngư như một điều hiển nhiên, còn tỏ rõ hôm nay hắn ở đây chính là để bảo vệ Triệu Bạch Ngư.

Chỉ vậy thôi cũng đủ để cho mấy người muốn cố tình gây khó khăn cho Triệu Bạch Ngư trở nên khó xử, ai cũng biết Hoắc Kinh Đường là hỗn thế ma vương, cũng do mấy năm nay hắn tu dưỡng ở Kinh Đô, dưỡng thành dáng vẻ mất đi sức sống nhưng thật ra trong xương tuỷ vẫn thấm đẫm máu tanh, năm đó hắn còn dám cả gan đối đầu với Nguyên Thú đế làm biết bao nhiêu người nhăn mặt.

Thật sự phiền phức muốn chết, Hoắc Kinh Đường có gan liều lại không biết xấu hổ, một đám hoàng tử, kinh quan bọn họ không ai dám nhăn nữa.

Nếu như thật sự ồn ào đến tai Nguyên Thú đế, bọn họ nhất định sẽ bị phạt.

Thái tử: "Tử Uyên, quan triều phá án hoàn toàn bằng chứng cứ, có tội tất phạt, không thể thiên vị, nhất là chúng ta thân làm hoàng tử, vương gia thì càng phải trở thành một người tốt, làm một tấm gương sáng cho người trong thiên hạ."

Hoắc Kinh Đường lần tràng hạt, lười nhác nói: "Bổn vương nào có ngăn các ngươi làm tấm gương sáng cho thiên hạ? Không phải từ lâu bổn vương đã là tấm gương sáng cho người trong thiên hạ rồi sao? Tông Chính, bổn vương không phải sao?"

Phó quan: "Ở Tây Bắc nhà nhà đều dựng bia trường sinh của ngài đấy ạ."

Thái tử và Ngũ hoàng tử nghe vậy thì ấm ức ra mặt, người còn lại cũng không dám chủ động trêu chọc Hoắc Kinh Đường nữa, đúng là tự chuốc họa vào thân.

Triệu Bạch Ngư nhanh chóng được đưa đến, Thái tử bỗng nhiên gõ kinh đường mộc, quát hỏi Triệu Bạch Ngư tại sao lại lạm dụng hình phạt, Triệu Bạch Ngư trả lời từng câu.

"Phạm nhân phạm pháp."

"Trên đơn kiện còn viết rõ ràng, lúc đó Lý Đống vì chạy tang mới ra ngoài ban đêm, không cần phải tuân thủ cấm đêm."

"Phạm nhân chưa từng nhắc đến chuyện này." Triệu Bạch Ngư buông tay: "Lúc thẩm vấn tại sao hắn không nói?"

Thái tử sai người dẫn phạm nhân Lý Đống lên, người đó vật vờ, sắc mặt tái nhợt, quần áo tù trên người nhuốm máu, chỉ có thể nằm trên đất nói chuyện, người nhà gã thấy vậy càng khóc thê thảm hơn nữa.

Phạm nhân khóc lóc kể: "Điện hạ minh xét, hạ quan nhấn mạnh lần nữa rằng mình chạy tang mới ra ngoài ban đêm, còn dùng dây gai đang buộc quanh bụng làm chứng, lúc đó Triệu đại nhân ở ngay trong phòng giam nhưng không nghe hạ quan giãi bày, trực tiếp phân phó phạt tám mươi roi. Hạ quan thường nghe người ta nói, chỉ cần vào đại lao, bất kể có tội hay không có tội đều sẽ mất nửa cái mạng, có nghĩa là phạm nhân bước chân vào ngục sẽ bị đánh mấy thập đại bản trước, gọi là sát uy bổng. Hạ quan còn tưởng rằng quy củ hoang đường này sẽ không xuất hiện ở Nha môn dưới quyền của Thái tử, không ngờ lại gặp họa."

Ngũ hoàng tử đột nhiên trách mắng: "Triệu Bạch Ngư, ngươi đã biết tội chưa?"

Triệu Bạch Ngư: "Hạ quan phá án luôn công bằng, chưa bao giờ làm việc trái với pháp luật vì tình riêng." Y hỏi Lý Đống: "Ngươi nói ngươi giải bày nhưng vẫn bị ta cho hình phạt tám mươi roi, vậy có nhân chứng không?"

Lý Đống: "Đương nhiên là có!"

Gã vừa nói ra cái tên của các nhân phạm, đều là mấy tên thương nhân bị bắt vào. Không đúng, không phải là thương nhân, mà là người có quan chức, hẳn là đều làm việc dưới Hộ bộ.

Thái tử: "Dẫn nhân chứng lên."

Nhân chứng có sáu người, bị đưa tới thì rối rít quỳ xuống xác nhận Triệu Bạch Ngư ngay tại chỗ, không để ý Lý Đống tự thuật chuyện ban đêm chạy tang, lấy cấm đêm làm lý do phạt roi gã, nói thêm trong nhà lao còn có một lính canh có thể làm chứng.

Lính canh cũng được triệu đến tiền đường, quỳ xuống đất không dám ngẩng đầu: "Tiểu nhân tên là Lý Giáp, là lính canh nhà lao trông chừng phạm nhân."

Ngũ hoàng tử bước về phía trước hai bước: "Ngươi có thể làm chứng lời Lý Đống là thật không?"

Lý Giáp nghĩ đến lời Lý Đống hứa sẽ cho mình một chức quan ở huyện khác bèn cắn răng thề độc: "Tiểu nhân làm chứng, câu nào cũng là thật! Nếu như có một câu sai với lời Triệu đại nhân đã nói, đầu tiểu nhân sẽ rơi xuống đất!"

"Được!" Ngũ hoàng tử tức giận chỉ Triệu Bạch Ngư: "Nhân chứng vật chứng đều ở đây, ngươi còn có lời gì muốn nói không?"

Triệu tam lang ẩn nhẫn chỉ trích: "Thời gian trước ngươi bôn ba cứu ân sư, ta còn thấy ngươi cao nghĩa, hóa ra chữ nghĩa còn phân biệt người nữa sao? Triệu Bạch Ngư, đừng quên chức quan của ngươi hôm nay là từ đâu mà có! Ở bên ngoài chớ làm mất mặt Triệu phủ!"

Triệu Bạch Ngư: "Ta chắc chắn sẽ không quên, ban đầu các ngươi làm sao ép ta bỏ đi suy nghĩ tham gia khoa cử vì Triệu Ngọc Tranh, lại vì bồi thường mà tùy tiện bố thí cho ta một chức tiểu quan thất phẩm, trong lòng ta tất nhiên ghi nhớ ân tình của cha mẹ. Có điều như đã nói, đáng tiếc Triệu Ngọc Tranh không có hứng thú gì với vũ cử, nếu không tam ca cũng phải bỏ quyền thi võ rồi, bây giờ cũng không thể trở thành chỉ huy ngũ phẩm tương lai rộng mở ở quân Long Phụng. Nói không chừng sẽ cùng ta làm việc ở Khai phong phủ, làm một bộ đầu cũng rất vui vẻ phải không?"

Triệu Ngọc Khanh chưa bao giờ bị Triệu Bạch Ngư châm chọc cay độc như vậy, trước kia dù cho bọn họ có làm gì, Triệu Bạch Ngư cũng sẽ vui vẻ chấp nhận, đến nỗi họ đều cho rằng Triệu Bạch Ngư là một kẻ không biết nóng nảy cũng chẳng có khí thế gì.

"Ngươi —— ta!" Triệu tam lang bị oán giận đến mức không nói thành lời.

"Sao Triệu tiểu lang quân lại nói chuyện làm người phát nghẹn thế này?" Không ai ngờ tới, kẻ đầu sỏ làm khó người ta lại là Hoắc Kinh Đường, chỉ nghe thấy hắn chậm rãi nói: "Dẫu sao Triệu tế chấp cũng cho một mình ngươi một chức tiểu quan thất phẩm, phải biết tiến sĩ may mắn được làm quan cũng phải từ cửu phẩm đi lên."

Mậc dù Hoắc Kinh Đường cứ mở miệng là khiến ai nấy đều ghét, nhưng nghe lời hắn nói xong, Ngũ hoàng tử cười lạnh nói: "Có mấy người, bản tính là con sói mắt trắng, đã không biết đội ơn thì thôi mà còn rắp tâm oán hận, ngông cuồng chỉ trích! Quả nhiên là gốc rễ nghiêng ngã..."

Lời còn chưa dứt đã nghe thấy phó quan bên cạnh Hoắc Kinh Đường lớn tiếng nói: "Tướng quân, không thể tính như vậy được! Quan chức được tiến cử thì làm đến ngũ phẩm coi như hết rồi, khác rất nhiều so với môn đồ của thánh nhân, môn sinh của Thiên tử và cả chính nhi bát kinh xuất thân tiến sĩ chính quy, tiến sĩ dù nhậm chức tiểu quan cửu phẩm, nhưng tốc độ thăng tiến của bọn họ nhanh như pháo trúc vậy, đi lên đều đều, bái tướng nhập tướng, địa vị cực cao!"

Hoắc Kinh Đường: "Vậy sao?"

Phó quan gật đầu liên tục: "Nghe Trần thị lang nói Triệu tiểu lang quân năm đó tài hoa hơn người, phong thái rất giống với Tam nguyên cập đệ Triệu tế chấp, chỉ tiếc bỗng nhiên im hơi lặng tiếng, không thể tỏa sáng ở khoa trường. Nếu như lúc đó tham gia khoa thi, không chừng bây giờ đã đến lượt y làm Tri phủ rồi."

Hoắc Kinh Đường: "Đúng là đáng tiếc thật —— đáng tiếc! Cản người tham gia thi cử, chặt đứt đường làm quan của người ta như đào mộ tổ tiên họ ra, việc làm này không phúc hậu chút nào."

Chủ tớ hai người kẻ xướng kẻ họa, trách đến nỗi Triệu tam lang mặt đỏ tía tai. Ngũ hoàng tử cũng tựa như bị sặc máu gà nghẹn hết lời, Thái tử chỉ đành lên tiếng lôi kéo sự chú ý của mọi người về lại vụ án của bản thân.

"Biết rõ pháp luật còn cố tình phạm phải, dùng hình ép cung, biếng nhác không làm tròn trách nhiệm, theo như luật lệ phải tháo mũ quan, phạt ba mươi trượng! Triệu Bạch Ngư, ngươi có nhận tội không?"

"Hạ quan không nhận." Triệu Bạch Ngư lặng lẽ nhìn Hoắc Kinh Đường, người nọ nháy mắt với y, đôi mắt Bồ Tát màu lưu ly mang lại cảm giác như khoảng cách bị kéo gần lại vậy. "Hạ quan xác nhận mình có phạt roi phạm nhân, nhưng hình phạt này có nguyên nhân."

"Bởi vì cái gì?"

"Lý Đống thân là mệnh quan triều đình, vậy mà lại tụ tập ngoài phố đánh bạc, phạm vào lệnh cấm các quan viên Đại Cảnh không được tụ tập đánh bạc, bị bắt vào nhà lao còn nói láo không biết ngượng, tuyên bố kinh quan không ai dám đắc tội mình, đến cả Triệu tế chấp nhìn thấy hắn cũng phải nể mặt mấy phần, vậy nên hạ quan sai lính canh phạt hắn ba mươi roi để cảnh cáo. Còn chuyện chạy tang vào ban đêm, hạ quan xác nhận mình không biết, nếu như biết, chắc chắn sẽ để lính canh đánh năm mươi roi! Phận làm con cái cần phải tận sức hiếu đạo, đang để tang mẹ mà không thủ hiếu lại còn ở bên ngoài đánh bạc, đây là tội chồng thêm tội!"

Đánh bạc?

Thái tử lập tức nhìn Ngũ hoàng tử, người nọ tái mét mặt mày, giận dữ trợn mắt nhìn Lý Đống như muốn xẻo thịt gã, chó má nó lúc kêu oan lại dám giấu diếm hành vi tụ tập đánh bạc.

Đại Cảnh có luật cấm đánh bạc, mặc dù cấm nhiều lần cũng không được, nhưng trong điều khoản luật lệ rất rõ ràng, quy định quan viên không được tham gia đánh bạc, huống chi còn là đánh bạc trong lúc chạy tang, đó là tăng thêm tội danh!

Thái tử: "Có nhân chứng không?"

Triệu Bạch Ngư: "Tám mươi người bị bắt lại đều có thể làm chứng cho hạ quan, cả nha dịch khi đó bắt bọn họ cũng vậy."

Thái tử nhìn Hoắc Kinh Đường, đối phương cứ chăm chú vào chuỗi vòng Phật như ngắm bông hoa nở, mừng thầm vì hắn không mượn chuyện này đại náo công đường, vậy nên cất lời giảng hòa: "Nếu như là hiểu lầm thì Triệu đại nhân phục chức đi, án này không cần tra nữa."

"Chờ đã!" Nhưng Ngũ hoàng tử thì lại không vui: "Theo luật phạt ba mươi roi, Lý Đống lại bị phạt tám mươi roi, ngươi còn dám nói mình không dùng hình ép cung ư?"

Triệu Bạch Ngư: "Điện hạ có điều không biết, với sức lực của lính canh làm việc mười hai mươi năm trong đại lao của bọn ta, phạm nhân chịu không tới tám mươi roi đã nát thịt tan xương mà chết rồi. Ta thấy Lý Đống nằm xuống mà vẫn còn khí thế như vậy, trông làm sao cũng không giống như bị đánh tám mươi roi, điện hạ thử mời lão canh ngục có kinh nghiệm đến xem thử, thương tích của Lý Đống là do ăn phạt tám mươi roi hay là ba mươi roi mà ra? Nếu như không tin người của Nha môn thì có thể đi mời người ở bộ Hình tới cũng được."

Bộ Hình do Thái tử quản, bất kể lính canh có kiểm ra được kết quả thế nào, Triệu Bạch Ngư cũng không thua thiệt. Trái lại nếu Thái tử thật sự mời canh ngục của Hình bộ tới kiểm tra, thì sẽ vừa thể hiện hắn là người hẹp hòi, vừa tỏ rõ bản thân hắn đứng đầu Phủ doãn mà cũng không tin tưởng Nha môn dưới quyền quản lý của mình.

Triệu Bạch Ngư nói lời này là cố ý chọc tức hắn, nhưng cũng chỉ là đơn thuần phủ đầu phe Thái tử, đôi bên không đau không nhột.

"Không cần, cô tin tưởng Triệu đại nhân." Thái tử nén bực bội khen ngợi Triệu Bạch Ngư.

"Điện hạ còn có nghi vấn gì không?"

Ngũ hoàng tử hùng hổ dọa người: "Coi như Lý Đống tự làm tự chịu, nhưng tổng cộng tám mươi bảy người bị bắt, tại sao chỉ thẩm vấn mỗi mình hắn? Nghe nói Kinh Đô có luật bất thành văn, phạm là người phạm phải cấm đêm thì phải nộp tiền phạt, nộp không đủ thì phải giam thêm một năm rưỡi, có chuyện này sao?"

"Tuyệt đối không có chuyện này, điện hạ không thể nghe những lời đồn đãi bậy bạ!"

Ngũ hoàng tử phất tay áo: "Vậy thì xử lý ngay bây giờ đi! Quan trên của ngươi là Thái tử và Kỷ tri phủ đều ở đây, vừa hay xem thử bình thường ngươi chấp pháp như thế nào!" Gã ép sát tới gần, nhìn thẳng vào mắt Triệu Bạch Ngư, "Dẫn phạm nhân tới, theo luật phạt tám mươi roi, bọn ta ở đây nhìn ngươi hành hình!"

Tám mươi bảy người đồng thời bị dùng hình, trong số đó còn có phụ nử, người già và trẻ nhỏ, nói không chừng phạt chưa xong đã chết một nửa rồi, tuy là do Thái tử, hoàng tử ra lệnh, nhưng vụ án đã qua tay y, pháp luật cũng do y thực hiện, khoản nợ chết người tất nhiên đều đổ lên đầu Triệu Bạch Ngư.

Nếu như lúc này chấp pháp, sáng mai gián quan có thể chụp ngay cho Triệu Bạch Ngư một cái nồi.

Triệu Bạch Ngư đứng đắn đáp lời như đinh chém sắt: "Thứ cho hạ quan không thể tuân mệnh."

==

Chương 20

"Trước mặt cấp trên, ngươi dám không làm tròn nhiệm vụ ư?"

"Hạ quan cả gan hỏi đây là ý riêng của điện hạ hay là quân lệnh của Thái tử?"

"Láo xược! Chẳng lẽ không có quân lệnh của cấp trên thì ngươi cũng không cần phải tra án nữa sao?"

"Hồi bẩm điện hạ, không phải hạ quan không làm tròn chức trách của mình, mà là lời khai của tám mươi bảy người cũng không thể hỏi được hết. Tùy tiện phạt roi, không chừng có lẫn người bị bắt nhầm, há chẳng phải hạ quan mang tiếng vu oan giá họa hay sao? Hơn nữa có lời khai cũng không thể vội định án, còn phải sai người bên dưới đi thăm dò làng trên xóm dưới và thân thích của người đó để tránh cho không nói dối, sau đó đem hồ sơ đi đóng dấu, đợi Tri phủ đại nhân xét duyệt một lần nữa mới có thể kết án. Một quy trình từ trên xuống dưới, ít nhất cũng mất một tháng mới xong."

Triệu Bạch Ngư vội vàng giãi bày: "Không phải hạ quan lười biếng, mà do Nha môn nhiều việc lại thiếu người, vừa phải xử lý hồ sơ các huyện Nha đưa tới, còn phải giữ trật tự trong Kinh Đô, phải tuần tra theo thông lệ, dập lửa hỏa hoạn... Nhân sự không đủ dùng!"

"Lý do lý trấu đùn đẩy chứ gì! Thiếu người thì cứ tuyển thêm người thôi?"

"Không có tiền."

"Ngươi!"

"Có điều trước mắt đã kiểm tra tội danh của bảy người, tụ tập đánh bạc, phạm cấm đêm, chứng cứ đã xác thực, bây giờ có thể phạt! Tám mươi roi, một roi cũng không thể thiếu! Đánh chết rồi thì treo lên cửa Nha môn để tuyên bố với mọi người, xem ai còn cố tình phạm pháp!" Triệu Bạch Ngư xoay người, chỉ về phía bảy người Lý Đống: "Điện hạ! Chính là bọn họ!"

Bảy người Lý Đống thấy vậy, bị dọa sợ lập tức quỳ xuống đất cầu xin tha thứ: "Điện hạ, điện hạ tha mạng cho ta đi điện hạ, cầu xin điện hạ mau cứu chúng tiểu nhân! Tiểu nhân làm chuyện này vì điện hạ —— "

"Câm miệng!" Ngũ hoàng tử thét lên.

Triệu Bạch Ngư lạnh nhạt nói: "Nói mới biết, cũng nhờ có điện hạ giúp đỡ, hạ quan mới đỡ cất công chạy một chuyến đến nhà bọn họ lấy chứng cứ. Còn Lý Đống, chưa đánh đã khai, liên quan đến đồng bọn lơ là cương vị cũng coi là lập công nhỉ, chi bằng giảm bớt cho hắn hai mươi roi đi?"

Lý Đống vừa nghe vậy liền vội dập đầu: "Cảm ơn Triệu đại nhân, Triệu đại nhân khoan dung độ lương tha cho tiểu nhân!"

Những người khác trợn tròn mắt nhìn gã: "Lý Đống, cái tên tiểu nhân này, rõ ràng là ngươi mua chuộc lính canh để cho chúng đánh ngươi, còn bắt bọn ta giúp hãm hại Triệu đại nhân! Bây giờ ngươi bán đứng chúng ta để được giảm hai mươi roi ư? Ta đánh chết ngươi cái con rùa này!"

Mấy người nhào tới bắt giữ Lý Đống, có một kẻ to cao ngồi phịch ngay xuống mông Lý Đống, gã hét thảm thiết một tiếng, đến khi nha dịch chạy tới kéo người ra, tình hình mới yên ổn lại một chút.

Triệu Bạch Ngư tiến lên hai bước, biểu cảm nghiêm túc: "Thái tử điện hạ, Ngũ điện hạ, tiểu quận vương, còn có phó quan đại nhân đây đều nghe được rồi chứ ạ, Lý Đống tự biên tự diễn bôi nhọ hạ quan, còn sai người nhà đến Ngự sử đài, tố cáo hạ quan trước mặt bệ hạ. Nếu như không phải điện hạ và tiểu quận vương sáng suốt uy vũ, nhìn rõ mọi việc, hạ quan có nhảy xuống sông hộ thành cũng không thể rửa sạch oan khuất trên người, cầu xin điện hạ làm chủ cho hạ quan!"

Một câu cuối cùng lên giọng cực lớn.

Mọi người xung quanh đều yên lặng, trong chớp mắt chỉ có Triệu tam lang không được điểm mặt là cảm giác được một nỗi bất công kỳ lạ, trong tiếng kêu oan của Triệu Bạch Ngư chợt nhớ lại, mới vừa nãy gã cũng là người không phân biệt được phải trái đúng sai mà mắng y, nhất thời rơi vào tình cảnh hết sức lúng túng.

Thái tử nhìn Ngũ hoàng tử, người nọ ngượng ngùng cúi đầu, đã hơi muốn dẹp êm chuyện này xuống.

Thái tử hắng giọng: "Theo như luật lệ Đại Cảnh, bôi nhọ phỉ báng người khác đều quy về tội bôi nhọ. Lại bởi vì bôi nhọ mệnh quan triều đình nên tội thêm một bậc, phạt mỗi người sáu mươi trượng. Gián quan, Ngự sử tuy tung tin thất thiệt nhưng không thêm tội. Án này đã xong, không có việc gì nữa thì lui —— "

"Rắc." Bất thình lình có một âm thanh vang lên dọa cho mọi người giật mình, cũng hấp dẫn ánh mắt của bọn họ về phía đó, vậy mà lại thấy Hoắc Kinh Đường đang cầm trên tay cái tay vịn ghế gỗ mà hắn mới tiện tay bẻ gãy, ném xuống mặt đất phát ra tiếng vang giòn tan.

Hoắc Kinh Đường lẩm bẩm: "Không chịu nổi mà, đến cái ghế ngồi cũng bị mọt ăn thủng hết rồi, trở về nói với bệ hạ đi, đừng để đường đường là Nha môn phủ Kinh Đô lại tồi tàn như thế này nữa, làm ta tưởng như đang ngồi trong cái Nha môn nghèo nàn nào ở Tây Bắc ấy."

Trở về nói với bệ hạ chuyện Nha phủ? Không phải cũng sẽ vạch trần sự việc hôm nay hay sao?

Bảy người này đều làm việc dưới trước Hộ bộ, quan hệ với Ngũ hoàng tử không đơn giản, nếu bị hắn vạch trần thì sao?

Thái tử nhanh chóng vỗ kinh đường mộc, nói: "Đám người tụ tập đánh bạc kia, cả tội phạm vào cấm đêm nữa, tính tội phạt hết, đem ra sân đánh chết đi!"

Triệu Bạch Ngư chợt ngầng đầu, con ngươi co rút nhanh, bảy người sau lưng quỳ xuống dập đầu cầu xin tha thứ, bị kéo ra bên ngoài hành hình, tiếng roi xé gió hòa với tiếng kêu khóc thảm thiết, từ thê lương đến dần dần không còn âm thanh nào nữa, người lần lượt đi vào báo cáo phạm nhân đã chết, mà ai trong công đường cũng bày ra vẻ mặt đã thành thói quen.

Ngay cả Hoắc Kinh Đường chỗ dựa của Triệu Bạch Ngư cũng tỏ vẻ thờ ơ, đến Kỷ tri phủ nhát gan sợ phiền phức nhất cũng trở nên dửng dưng.

Môi Triệu Bạch Ngư giật giật, muốn nói thật ra bọn họ không đáng tội chết, y không muốn để bảy người kia đền mạng, lại nghĩ ngợi thêm nữa, thương tâm nhận ra mục đích Lý Đống bôi nhọ y chính là vì muốn đẩy y vào chỗ chết.

Thái tử xuống khỏi bàn xử án, đi tới trước mặt Triệu Bạch Ngư nói: "Vụ án sáng tỏ rồi, ngươi cứ tiếp tục làm Thiếu doãn đi. Ta thấy hai năm nay thành tích của ngươi không tệ, lúc tại vị làm việc cũng vô cùng cẩn thận, trở về ta sẽ cất nhắc ngươi với bên trên, cho ngươi đến bộ Hình làm việc dưới trướng ta."

Triệu Bạch Ngư: "Tạ điện hạ ân điển."

Thái tử gật đầu, xoay người đối mặt với Hoắc Kinh Đường: "Tử Uyên nói không sai, Nha môn đúng là có hơi tồi tàn, về truyền cho bộ Hộ, phân phát một khoảng bạc xuống để bọn họ tu sửa lại."

Hoắc Kinh Đường quấn vòng Phật châu vào cổ tay, đứng dậy vươn người nói: "Còn lại tám mươi mốt người kia có thấm vấn hay không?" Hắn nhìn Ngũ hoàng tử rồi hỏi: "Hoàng tử có muốn để lại quân lệnh ở đây không, lệnh cho Triệu Bạch Ngư thẩm tra kết quả trong vòng mấy ngày gì đó?"

Ngủ hoàng tử vui mừng: "Có chứ!"

Thái tử cau mày: "Ngũ đệ!"

"Nhị ca, huynh cũng khen thành tích của hắn nổi bật mà, ta đây không phải cho hắn một cơ hội lập công để được điều đi bộ Hình sao?" Ngũ hoàng tử sai Triệu Bạch Ngư: "Ta bảo bộ Hộ cho ngươi năm mươi ngàn lượng bạc, ngươi dùng nó tu sửa Nha môn, tuyển thêm nhân công, trong vòng bảy ngày thẩm tra được kết quả! Bảy ngày sau bổn điện hạ tự mình tới xem hình phạt."

Triệu Bạch Ngư mặt không gợn sóng đáp ứng, nhưng nội tâm thì bùng nổ tức giận, vì ân oán cá nhân mà lấy tính mạng dân thường làm thương giáo, dù có giỏi nhẫn nhịn đến mức nào thì cũng không thể nào cứ thế ra tay được.

Sắc mặt Thái tử hòa hoãn gọi Ngũ hoàng tử đi.

Triệu Ngọc Khanh đi chậm lại phía sau, không đồng tình lắm với thái độ hùng hổ dọa người của Ngũ hoàng tử, thấp giọng nói với Triệu Bạch Ngư: "Ngũ hoàng tử chỉ là muốn ngươi ăn bực tức chịu thua thiệt, ta đi cầu tình giúp ngươi, sau này ngươi cứ việc cố gắng làm việc thật tốt để đền tội, bọn họ cũng sẽ bỏ qua chuyện này thôi."

Triệu Bạch Ngư: "Cảm ơn. Khỏi cần."

"Ngươi!" Triệu tam lang thấy ánh mắt Triệu Bạch Ngư lạnh như băng, vừa chột dạ vừa nổi nóng: "Coi lòng tốt thành ý xấu, nếu ngươi không phải người Triệu gia thì ai thèm quan tâm đến ngươi?"

Triệu Bạch Ngư hoài nghi: "Vậy có bao giờ ngươi xem ta như đệ đệ của ngươi không?"

"Ta —— " Triệu tam lang nghẹn họng, hậm hực bỏ đi.

Hoắc Kinh Đường lặng lẽ đi đến bên cạnh Triệu Bạch Ngư làm y giật mình, lúc bấy giờ mới phát hiện Kỷ tri phủ và cả Thôi phó quan đều không còn ở đây nữa, trên công đường chỉ còn lại y và hắn.

Triệu Bạch Ngư lui về sau hai bước, chấp tay vấn an nhưng Hoắc Kinh Đường không đáp lại, mắt lưu ly hờ hững khiến y không thể giải thích được cảm giác hoảng sợ khi bị một vị Bồ Tát nhân từ nhìn không chớp mắt.

Hoắc Kinh Đường: "Ngươi không sợ cũng chẳng vui, hình như hơi tức giận nhỉ."

Triệu Bạch Ngư giương mắt: "Không có."

Hoắc Kinh Đường hỏi: "Là vì bảy người mới vừa bị đánh chết, hay là lo lắng bảy ngày nữa không thể báo cáo công việc?"

Triệu Bạch Ngư cau mày, yên lặng mấy giây rồi buồn bực nói: "Ta có mạo hiểm liều mạng mất chức cũng sẽ bảo vệ bá tánh cho bằng được."

Hoắc Kinh Đường không nhịn được cong khóe môi nhưng lại nhanh chóng hạ xuống, trầm ngâm chốc lát rồi nói: "Bảy ngày hẳn là đủ để các đại thần kia bàn bạc xong về vấn đề bãi bỏ cấm đêm, theo sự hiểu biết của ta về bệ hạ thì hẳn là ông ấy sẽ nghiêng về mở chợ đêm. Huống chi phần đề án kia viết không tệ, đã xác thực tỉ mỉ những ưu nhược điểm việc mở chợ, tất cả mọi mặt cũng đều được cân nhắc phù hợp, về cơ bản là sẽ không có nhiều người phản đối."

"Vậy ý ngài là vẫn sẽ có người phản đối ư?"

"Lệnh giới nghiêm từ xưa đã có, mở cửa chợ đêm là một quyết định ngoạn mục nghìn năm mới có, các phương diện hỏa hoạn, trị an chỉ là vấn đề nhỏ, nhưng sẽ có kẻ nhân cơ hội này kết bè kết phái, tìm cớ gây sự, nhiễu dân, làm hại đến an ninh quốc gia mới là vấn đề lớn. Nước láng giềng cứ luôn lom lom cái miếng đất Đại Cảnh mình, quân đội cũng thường gặp nhau ở biên giới, một khi mở cửa chợ đêm, nhất định có người lợi dụng lẻn vào Kinh Đô, làm hại Thiên tử. Cho nên ta đoán sẽ có kẻ mượn lý do này để ra sức ngăn cản bệ hạ bãi bỏ giới nghiêm."

Triệu Bạch Ngư có điều suy nghĩ: "Ngài nói xem... Có thể nhờ vụ án này thúc đẩy bãi bỏ giới nghiêm hay không?"

Con ngươi Hoắc Kinh Đường động đậy, ý bảo y nói thử hắn nghe.

Triệu Bạch Ngư: "Ta hy vọng Ngũ hoàng tử có thể tố cáo ta một phen trên ngự tiền."

Dường như Hoắc Kinh Đường còn suy nghĩ nhiều hơn y, nhưng vẫn gật đầu đáp: "Được." Đáp xong thì khựng lại một chút, cởi chuỗi vòng Phật ra đeo vào cổ tay Triệu Bạch Ngư nói: "Vòng này cao tăng đã làm phép, có thể trừ tà, xua đuổi hết tất cả quỷ yêu lẫn chuyện không may lại gần người."

Nói xong liền đi ngay.

Triệu Bạch Ngư ngây người nhìn tràng hạt quấn quanh tay mình, trong lòng nảy ra một ý nghĩ, chẳng lẽ Hoắc Kinh Đường cho rằng y sợ oan hồn của bảy phạm nhân bị đánh chết kia nửa đêm đến tìm y đòi mạng?

Nhưng đợi đã, những lời hắn mới vừa rồi sao lại giống như nội dung trong đề án y trình lên vậy?

Hay vì đề án là do Kỷ tri phủ đưa lên, cho nên hắn tự mặc định y là cấp dưới của Tri phủ nhất định sẽ biết về nó?

***

Bảy ngày sau, cuối cùng cũng thẩm vấn ra kết quả, tổng cộng tám mươi mốt người, mỗi người bị phạt tám mươi roi, Ngũ hoàng tử đích thân tới xem hành hình, dĩ nhiên là chỉ ở trong công đường quan sát từ xa mà thôi.

Ngoài công đường, người dân bị tiếng khóc của người nhà phạm nhân thu hút, kéo đến vây lại xem, mới đầu còn chỉ chỉ chõ chõ nói đùa, sau đấy nhìn thấy thi thể đắp vải trắng được khiêng ra liên tiếp nhau, cảm xúc trong lòng hỗn loạn, ánh mắt hướng về Nha môn tràn ngập sự sợ hãi.

Ba mươi bảy người chết, máu hòa vào vải trắng, chảy xuống đọng lại trong cái hố trũng nhỏ trên đường, tiếng khóc thanh ai oán vang lên ngập trời cứ như thế giới chẳng còn ánh sáng nữa vậy.

Ngũ hoàng tử ngồi xem toàn bộ sự việc, vỗ vai Triệu Bạch Ngư một cái nói: "Nghe lời đấy."

Triệu Bạch Ngư: "Điện hạ đảm bảo có thể dìu dắt hạ quan đến bộ Hình, vậy khi nào thì hạ quan có thể đến đó báo cáo?"

Ngũ hoàng tử cười to, cười Triệu Bạch Ngư hóa ra cũng chỉ là một kẻ trần tục chạy không thoát khỏi ham muốn thăng quan: "Chờ tin đi." Nói xong liền bỏ đi.

Triệu Bạch Ngư đưa mắt nhìn theo bóng lưng Ngũ hoàng tử, thay đổi nét mặt, ánh mắt lạnh lùng trong vắt, nha dịch bèn tới gần hỏi: "Đại nhân, có một nhóm người thân thích của người chết chặn ở bên ngoài Nha môn, có cần phái người đuổi đi không ạ?"

"Không cần." Triệu Bạch Ngư nói: "Cứ để họ khóc đi! Khóc cho lớn vào, quậy cho tan tành!"

Nha dịch không rõ ý lắm nhưng chẳng dám chống lại mệnh lệnh, để mặc cho đám người thân đó ngày đêm gào khóc ở ngoài Nha môn, lúc buồn bã kích động thậm chí đánh luôn cả quan sai, theo đúng luật phải bắt giam lại nhưng đều bị Triệu Bạch Ngư ngăn cản.

Nha môn phủ Kinh Đô là bộ mặt của kinh kỳ, là một nơi đại diện cho pháp trị công chính của Hoàng triều. Cửa Nha môn bình thường luôn yên tĩnh, nay bị tiếng khóc chấn động rung trời, tất nhiên gây được sự chú ý của Ngự sử đài.

Lần trước lúc Ngự sử đài tố sai Triệu Bạch Ngư đã chú ý đến người này, nay được Ngũ hoàng tử ra hiệu, ngay khi lâm triều lần nữa tố cáo Triệu Bạch ngư: "Ba mươi bảy người bị đem ra đường phạt roi đến chết, bên ngoài Nha môn già trẻ trai gái kéo đến chính mắt thấy người thân bị đánh sống dở chết dở, lục phủ ngũ tạng như bị thiêu cháy, đau thương tột độ, quỷ khóc thần gào, ngày đó trời như sập xuống, sương giăng mịt mù! Mà ba mươi bảy người này đều là dân thường, là chủ một nhà, mất đi người trụ cột trong gia đình, người già trẻ nhỏ trong nhà biết dựa vào ai? Nhưng không lẽ chỉ chết ba mươi bảy mạng sao? Còn có vợ con, cha mẹ già không thể tiếp tục sống như thế, chết đâu nữa chừng trăm người! Bệ hạ nhân từ thương dân, quan triều cũng yêu dân như con, vậy mà bá tánh ngay dưới mắt chúng ta lại bị hành hạ tàn nhẫn đến thế! Bệ hạ! Quan lại tiền triều vô cùng tàn nhẫn, tán tận lương tâm, tàn sát người vô tội tạo thành biết bao nhiêu án oan đại ngục cho hơn ngàn người, nắm trong tay đại quyền sinh sát dung túng cho kẻ xấu mưu phản. Trọng dụng quan ác, để mặc chúng hoành hành chính là lý do tiền triều suy sụp đấy ạ!"

Có một viên quan bước ra khỏi hàng tấu lên: "Triệu Bạch Ngư đánh chết ba mươi bảy người ở công đường, thủ đoạn ác liệt, tâm tính tàn nhẫn, tuy không thể so với quan ác tiền triều nhưng vẫn có hình bóng của bọn chúng. Huống chi Nha môn ta là mặt mũi của kinh kỳ, càng cần phải duy trì hình tượng pháp trị công chính, đồng thời thể hiện khía cạnh nhân từ của triều ta."

Lại có quan khác bước ra khỏi hàng: "Thần xin bệ hạ hỏi tội Triệu Bạch Ngư!"

Mấy tên quan kia cũng từng người bước ra bẩm: "Thần xin bệ hạ hỏi tội Triệu Bạch Ngư!"

Quan triều xin hỏi tội, Nguyên Thú đế chỉ đành đồng ý triệu kiến Triệu Bạch Ngư đến ngự tiền hỏi tội.

Chỉ trong một tháng ngắn ngủi, một tiểu quan thất phẩm lại lên ngự tiền hai lần, hai lần diện kiến Hoàng đế, đó là một vinh dự có thể đem đi khoe khoang đến hết đời.

Triệu Bạch Ngư chắp tay quỳ xuống đấp, đối mặt với chất vấn của quan triều đáp lại từng câu đúng mực: "Tám mươi phạm nhân đều phạm vào luật cấm đêm, theo lý phải phạt tám mươi roi, hạ quan chấp pháp công bằng, đã sai chỗ nào?"

Ngự sử đài: "Thủ đoạn tàn nhẫn, chết mấy chục mạng, ngươi còn cảm thấy chưa sai sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Người phạm pháp tất bị trừng trị, có luật phải theo, chấp pháp phải nghiêm, vậy ta sai ở đâu?"

Ngự sử đài: "Tục nói pháp lý không thể bỏ qua lẽ phải, lại nói pháp bất trách chúng, tám mươi người là chúng, người già yếu và phụ nữ trẻ con đều có, cũng có quá nhiều đàn ông tráng niên, là sức lao động duy nhất của gia đình, nhận lấy hình phạt tám mươi roi, không chết cũng bị thương, tàn tật suốt đời, mất đi sức lao động, mất đi nguồn kinh tế, cả nhà đói bụng còn có thể xuất hiện tình trạng chết đói, thử hỏi cớ sao mà lại ra nông nỗi này?"

"Chỉ biết nghiêm khắc chấp pháp, quên mất lẽ phải, không biết châm chước, không biết vu vi, không thông cảm với nhân dân gian khổ, vậy thì có khác gì đồ vật lạnh lùng vô tri vô giác?" Một quan viên nói.

" 'Hàn Phi Tử' có nói: Thị phi đi với thưởng phạt, nặng nhẹ gắn với cân nhắc, không trái với lẽ trời, không làm tổn thương tình cảm và tính cách. Cân nhắc vào tình thế nặng hay nhẹ mà lẽ trời, lẽ phải, pháp lý đều không được thiếu thứ nào, pháp luật ngăn cản đúng sai thị phi, lẽ trời thuật nhân nghĩa lễ trí, lễ ở trước pháp, trước hình, tám mươi phạm nhân phạm tội trong cùng một đêm, theo luật phải phạt. Nhưng mọi việc đều có nguyên nhân, phạm nhân phần lớn là dân thường, mạo hiểm vì mấy lượng bạc vụn để nuôi già trẻ gái trai trong nhà, ấy là có thêm nhân tố bên ngoài, Đại Cảnh ta khích lệ thông thương, tình hình trong nước cũng bị thúc giục nhưng chế độ ở các chợ phường lại tụt ở phía sau, áp chế sự phát triển mua bán hàng hóa trong Kinh đô, dân thường nghèo khổ nên đuổi theo cái lợi, mạo hiểm phạm cấm đêm âu cũng là chuyện thường tình. Có câu nói: Tình cảm con người khác xa tình thường, trước khi hạ pháp cần phải nghĩ đến lẽ phải."

Không ai ngờ Trần Sư Đạo lại bước ra khỏi hàng, nói đúng trọng tâm lại tựa như chẳng đứng về phía Triệu Bạch Ngư.

"Nhưng quốc có quốc pháp, gia có gia quy, lễ và phép gắn liền với nhau, hỗ trợ lẫn nhau từ trong ra ngoài, không thể bỏ cái nào. Chỉ có lệnh phải làm mới có thể chấm dứt tất cả. Mặc dù nguyên nhân của vụ án này xuất phát từ lẽ phải, nhưng cũng không thể nói xử phạt theo luật là sai, mục đích chấp pháp không sai, luật pháp cũng không sai, mà là chế độ chợ phường lạc hậu bị luật pháp ảnh hưởng thụt lùi phía sau! Vậy nên mới tạo ra thảm kịch ngày hôm nay!"

"Thà rằng phá lệ cũ lập lệ mới, tránh cho thảm kịch xảy ra lần nữa, còn hơn là truy cứu Triệu Bạch Ngư chấp pháp mà không hiểu lẽ phải."

Quan triều phản đối Triệu Bạch Ngư nghe đến đây đều biến sắc, còn tưởng rằng Trần thị lang này công chính liêm minh, thật sự chuẩn bị đại nghĩa diệt thân, ai ngờ ông ta chỉ chờ có thế này đâu!

Muốn đẩy phải kiềm, lạt mềm buộc chặt đúng không?

Đáng tiếc sai lầm rồi, hôm nay bọn họ chính là muốn ép cho Triệu Bạch Ngư mang tiếng quan ác, không tin rằng cả triều văn võ mà không làm gì được một tên quan thất phẩm bé tí như tôm tép!

Có chiếc thuyền mang tên Trịnh quốc công, một viên quan muốn nhân cơ hội này trả thù bước ra khỏi hàng, chưa kịp mở miệng, lại thấy Trần Sư Đạo chợt quỳ xuống đất, dập đầu phát ra tiếng vang lớn, lão bị dọa cho sợ đến nỗi quên mở miệng, bỡ lỡ một cơ hội tốt, giọng nói của Trần Sư Đạo vang lên mạnh mẽ, bẩm:

"Thần xin bệ hạ hủy bỏ giới nghiêm, mở cửa chợ đêm, bãi bỏ luật lệ cấm đêm!"

Trừ một vài đại thần, những người còn lại đều không khỏi ngạc nhiên, chẳng hiểu vì sao từ vụ án chinh phạt Triệu Bạch Ngư lại nhanh như gió chuyển thành nghị sự hủy bỏ giới nghiêm, mở cửa chợ đêm, căn bản không phải cùng một việc... Mặc dù nó có hơi liên quan thật.

Nhưng mà ——

Một bước này quá nhanh, bọn họ không theo kịp!

Công bộ Thị lang Phạm Văn Minh bước ra khỏi hàng: "Trần thị lang nói có lý, huống chi nên lấy lý do gì để buộc tội Triệu thiếu doãn? Nếu như Triệu thiếu doãn có tội, vậy có phải là nói quốc pháp sai rồi không? Cứ mãi vạch lá tìm sâu không bằng giải quyết vấn đề trước mắt. Hủy bỏ giới nghiêm, mở cửa chợ đêm là hành động vĩ đại nghìn năm mới có, người xưa đã không thể hoàn thành sự nghiệp muôn đời, thần xin bệ hạ bãi bỏ luật lệ cấm đêm và giới nghiêm!"

Sau đó có vài triều thần cũng bước ra khỏi hàng, cùng bẩm lên thỉnh Hoàng đế hủy bỏ giới nghiêm.

Ngũ hoàng tử xem cả quá trình không lên tiếng nhưng sắc mặt đã rất khó coi, Thái tử mím môi cau mày, mới vừa bước một chân ra chuẩn bị phản đối, đã thấy Triệu Bá Ung cũng bước ra khỏi hàng bẩm lên, tinh thần không khỏi chấn động, rồi hắn chợt ngẩng đầu lên nhìn Nguyên Thú đế, quả nhiên không tìm thấy được chút cảm giác bất ngờ hay tức giận nào.

Phản ứng này nói rõ phụ hoàng đã sớm có ý bãi bỏ cấm đêm, đại thần bên cạnh cũng đều đoán được Thánh ý, khổ nổi không bắt được thời cơ thuyết phục triều thần, vừa hay có vụ án của Triệu Bạch Ngư được đưa lên, tranh cãi về dùng pháp không độ lượng và ân huệ tình lý trái lại dẫn đến bãi bỏ giới nghiêm, như vậy vừa hợp lý bãi bỏ luật cấm đêm, vừa ngăn chặn thảm án tương tự xảy ra, có thể nói là một lần vất vả, nhàn nhã suốt đời.

Nói như thế vụ án này cũng nằm trong dự liệu của phụ hoàng và cả các Tể tướng sao?

Trần Sư Đạo rời hàng bẩm báo là ngẫu nhiên thuận theo Thánh ý, hay là được người khác chỉ điểm?

Triệu Bạch Ngư có biết hay không —— không, y hẳn là không biết, vụ án này dù sao cũng là do Ngũ đệ xúi giục, không có ai dẫn dắt, không ai thúc đẩy, chẳng lẽ tất thảy đều là trùng hợp sao?

Trùng hợp liên tục như thế?

Sao lại kì lạ quá vậy?

Thái tử nghĩ mãi mà chẳng ra, nhanh chóng bị lo lắng chiếm đoạt tinh thần, sao các đại thần biết được tâm tư của Nguyên Thú đế, còn hắn lại chẳng phát hiện được gì?

Đại thần góp lời tất nhiên sẽ ra hiệu, nhưng vì sao mà đến tiếng gió hắn cũng chẳng thể nghe thấy?

Tim Thái tử đập rộn không dứt, còn Ngũ hoàng tử thì nổi nóng rồi, gã muốn ra lên án mạnh mẽ Triệu Bạch Ngư, nhưng Lý Đống - lý do lần trước dùng để tố y lại là người của bộ Hộ, nếu nói ra thì ý nhắm vào Triệu Bạch Ngư là quá rõ ràng.

Đương lúc do dự, giọng nói tấu thỉnh hủy bỏ giới nghiêm trên triều càng lúc càng nhiều, dĩ nhiên không phải không có phản đối, hai phe nói có sách mách có chứng, giằng co cãi vã, nhanh chóng quên mất chuyện của Triệu Bạch Ngư.

Ngũ hoàng tử tức giận trừng mắt nhìn Triệu Bạch Ngư, lại thấy y nhìn hắn nở nụ cười khiêu khích, nhất thời giận mà không có chỗ phát tiết nên chỉ đành nhịn lại.

Vì đây là vấn đề nghiêm trọng, Nguyên Thú đế không thể cho biểu quyết ngay bèn cho bãi triều trước, ngày mai lại bàn tiếp.

Còn Triệu Bạch Ngư cũng được thả về nhà, sớm mai lại lên nghe chiếu.

Trên đường rời cung, Triệu Bạch Ngư bị Ngũ hoàng tử chặn lại.

"Ngươi xúi giục Trần Sư Đạo thay ngươi nói chuyện ở ngự tiền sao? Các ngươi kết giao bè đảng rồi chứ gì?"

"Quan hệ thầy trò từ lúc nào đã bị coi là bè đảng rồi? Nếu đây đã coi như bè đảng, điện hạ ngài cũng không thoát khỏi liên can!"

"Mồm mép dẻo quẹo! Ta hỏi ngươi, hôm nay Trần Sư Đạo đề nghị mở cửa chợ đêm, có phải là cách các ngươi đã thương lượng riêng với nhau để thoát khỏi buộc tội đúng không?"

"Điện hạ." Triệu Bạch Ngư thoáng lui về phía sau hai bước, lớn giọng la lên: "Ngũ điện hạ! Hạ quan cẩn trọng thực hiện quân lệnh của điện hạ, bảy ngày tra hỏi nội tình, trừng trị tám mươi kẻ phạm cấm đêm, tận tụy không dám lười nhác, may mắn hoàn thành sứ mệnh! Tạ điện hạ khen ngợi —— "

"Câm miệng!" Đường trong cung nhiều quan viên và Cấm quân đi lại như vậy, không biết có bị ai nghe thấy hay không, quay đầu còn là ngự tiền, Ngũ hoàng tử bị dọa sợ phải vươn tay bịt miệng Triệu Bạch Ngư: "Triệu Bạch Ngư, ngươi thật là càn rỡ!"

Triệu Bạch Ngư tránh trái né phải, cười tươi nhưng thấp giọng uy hiếp: "Điện hạ quá khen, hạ quan chỉ là muốn giữ lại cái mạng và chức quan này thôi. Rõ ràng là vì quân lệnh của điện hạ, hạ quan mới phạt người ta tới chết. Hôm nay lâm triều, hạ quan cắn chết cũng không nhắc đến ngài, nhưng lại thể không đảm bảo ngày mai sẽ không sợ hãi, mất đi lý trí mà há miệng khai tên!"

Ngũ hoàng tử bật cười: "Ngươi cho rằng trăm quan sẽ nghe ngươi bịa chuyện sao?"

Triệu Bạch Ngư trừng mắt nhìn gã: "Bệ hạ tin là được. Đến lúc đó hạ quan nói thêm chuyện Lý Đống bịa đặt, bệ hạ sẽ cho rằng Lý Đống và sáu tên bêu xấu ta đều là những người làm việc dưới trướng ngài, nói không chừng lại nghi ngờ điện hạ vì lợi riêng của bản thân mà ra tay hãm hại mệnh quan triều đình, giết oan dân chúng vô tội, không yên tâm để ngài quản quyền tài chính của quốc gia nữa, đổi một người khác đến thay vị trí của ngài... Không thể nói chắc chắn được."

Ngũ hoàng tử không dám tin: "Ngươi dám uy hiếp ta!"

Triệu Bạch Ngư: "Hạ quan chỉ trình bày thiệt hơn thôi."

Ngũ hoàng tử là dòng dõi Thiên hoàng cao quý, chưa bao giờ bị người dưới quyền chọc tức đến thế này, đây là lần đầu tiên, gã giận tới nỗi môi run lên, ngực không ngừng phập phồng: "Nói vậy mà còn không phải uy hiếp ông đây sao? Có tin ta giết ngươi dễ như giết con kiến không?"

"Nếu như không bị tố trước mặt Thánh thượng thì hạ quan tin. Nhưng bây giờ hạ quan gánh vác mong đợi của cả triều văn võ, mạng đổi được vàng, cực kì có giá, nếu như chết rồi sợ ngài không báo cáo nổi." Triệu Bạch Ngư tỏ ra tiếc nuối, giọng vô cùng bỉ ổi.

Ngũ hoàng tử cảm giác phổi sắp bị cơn giận làm cho nổ tung rồi, nhịn mấy bận mới cắn răng nghiến lợi hỏi: "Ngươi muốn thế nào?"

"Mạng, quan chức hạ quan đều muốn, nhưng ngài đã lên tiếng trước, vậy hạ quan cả gan còn muốn có danh tiếng tốt."

"Mẹ nó ngươi còn muốn có danh tiếng? Danh tiếng của ngươi thì tốt cái rắm!"

"Cũng không thể nói như vậy, nếu không phải vì quân lệnh của ngài, ta chỉ việc kéo dài vụ án đó thêm ba bữa nửa tháng nữa, đợi luật lệ được sửa lại xong sẽ thả bọn họ đi hết, nào có vướng phải cái tiếng "quan ác" xấu xa được?" Triệu Bạch Ngư cười ha ha, "Thật ra ta sẽ không làm khó điện hạ đâu, chỉ cần sáng mai lâm triều, điện hạ khen hạ quan vài câu nhân ái, cương trực, liêm khiết là được."

"Ngươi nằm mơ đi!"

"Vậy thì trong lòng hạ quan sẽ lo sợ lắm, mà sợ hãi thì lời sẽ ra."

Ngũ hoàng tử nghiến răng, rất muốn siết chặt cần cổ mịn màng của Triệu Bạch Ngư ngay, nhưng gã không thể, không chỉ không thể, mà gã thật sự sợ rằng sáng mai Triệu Bạch Ngư ngu ngốc mở miệng khai tên gã ra ngoài.

Nếu như không có chuyện bỏ giới nghiêm này, gã không sợ Triệu Bạch Ngư nói ra, dù sao vẫn có thể nói là mình đề nghị Triệu Bạch Ngư chấp pháp công bằng, không được lười nhác, là do y hiểu sai ý, chỉ vì cái lợi trước mắt nên mới giết người.

Nhưng có đề nghị bỏ giới nghiêm, lời đề nghị của gã sẽ thành sai, nếu không phải gã đề nghị, theo lời Triệu Bạch Ngư đợi qua một tháng nữa là có thể thả người ra hết rồi.

Huống chi trước mặt còn có Lý Đống bêu rếu đặt điều Triệu Bạch Ngư, tuy Lý Đống và Triệu Bạch Ngư không thù không oán, nhưng cái kẻ đó lại làm việc dưới quyền gã, lão lạt như Nguyên Thú đế chỉ cần liếc một cái là có thể nhìn ra gã đóng vai trò gì trong chuyện này.

Ngũ hoàng tử là người của phe Thái tử, nhà mẹ là thế gia cao quý, chi tiêu hằng ngày đều dựa vào việc làm ăn của Ngũ hoàng tử ở bộ Hộ. Nếu vì sự việc này mà bị Nguyên Thú đế kiêng dè, hạn chế quyền lực của gã ở bộ Hộ thì chỉ càng thêm bất tiện.

Sau khi cân nhắc thiệt hơn, Ngũ hoàng tử nhịn sự bực tức ngày hôm nay xuống: "Giữ mạng và chức quan thôi, khen ngươi mấy câu là được rồi chứ gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Tất nhiên."

Ngũ hoàng tử hậm hực: "Được rồi. Tốt nhất là ngươi nói được làm được, ôm vụ này cho chặt, dám nói lời nào liên quan đến ta, ta sẽ tự tay giết chết ngươi!"

Triệu Bạch Ngư cười gật đầu cung tiễn Ngũ hoàng tử, vừa xoay người đã bị Trần Sư Đạo gọi lại: "Mới nãy không phải là con bị hắn đe dọa rồi chứ hả? Đừng sợ, đợi thầy bắt cái đuôi sam của hắn, ta vào triều tố cáo Ngũ hoàng tử! Tố cho hắn chết!"

Triệu Bạch Ngư: "Không sao ạ, Ngũ hoàng tử đối xử với con rất tốt."

Trần Sư Đạo hoài nghi: "Thật sao?"

Triệu Bạch Ngư gật đầu: "Thật mà! Chính miệng Ngũ hoàng tử đồng ý cho con thăng chức, còn nói sẽ khen ngợi con cương trực liêm khiết trước mặt bệ hạ!"

Mấy viên quan làm bộ đi ngang qua nghe vậy thì không khỏi ngạc nhiên, là thật hay giả vậy? Chẳng phải Ngũ hoàng tử và Triệu Bạch Ngư vẫn luôn như nước với lửa ư? Sao mà nghe không giống như có thù oán gì, trái lại giống đang thu làm môn đảng ấy nhỉ?

Nhưng Triệu Bạch Ngư sẽ không nói dối, nào có ai lại mang chuyện này ra để lừa gạt người ta, không lẽ tình thế xoay chuyển rồi?

Triệu Bạch Ngư cười híp mắt nhìn bóng lưng vội vã của các viên quan, không kịp đề phòng ăn một cú cốc đầu, Trần Sư Đạo lườm y trách: "Gan con cũng lớn nhỉ, dám tính kế cả hoàng tử cơ đấy."

Triệu Bạch Ngư: "Còn thầy thì đoán được Thánh ý đúng lúc kia kìa, học sinh chỉ múa rìu qua mắt thợ thôi."

Trần Sư Đạo bật cười: "Ăn nói cho cẩn thận." Đi tới cửa cung mới nhỏ giọng nói: "Tiểu quận vương đã tìm tới phủ, nói cho ta chuyện hủy bỏ cấm đêm, ta xem đề án, quả nhiên là đại tài, từ trước đến giờ thầy đúng là không nhìn lầm con."

Triệu Bạch Ngư ngẩn người, ý của ân sư là gì?

Y ngẩng đầu nhìn thầy, bắt gặp ánh sáng trong mắt ông, nhất thời như được đề hồ tưới lên đỉnh đầu*, thoáng chốc thông suốt, hóa ra y mượn tay Kỷ tri phủ trình đề án mở cửa chợ đêm đến chỗ Hoắc Kinh Đường, hắn đã sớm đoán ra được.

(*) Từ ngữ này được dùng để ví dụ một khi trí tuệ khơi mở thì con người có thể trừ phiền não vô minh, được thanh tịnh sáng suốt. Bởi thế nó còn có nghĩa là giúp cho người học khai ngộ một cách mau chóng.

Trần Sư Đạo vui vẻ vỗ vai Triệu Bạch Ngư: "Tiểu quận vương tài trí mưu lược đều kiệt xuất, cũng có năng lực thuyết phục người khác, quả quyết sát phạt nhưng không thiếu tính lương thiện nhân ái, con đi theo hắn cũng coi như là đi theo đúng người rồi. Đối tượng là tiểu quận vương thì thầy mới có thể yên tâm được."

Triệu Bạch Ngư: "..."

Không ngờ thầy là người của thời xưa mà tư tưởng cũng cởi mở đến thế, còn tưởng rằng sẽ có một vụ đập đầu nào đó trên Thùy Củng điện cầu xin Thánh thượng hủy bỏ mệnh lệnh đã ban ra, y đã từng suy nghĩ mấy cách để bỏ ý nghĩ đó của thầy đi, kết quả chúng đều vô dụng cả rồi, trái lại thầy còn chúc phúc cho y và Hoắc Kinh Đường.

Suy cho cùng thì làm sao y có thể cao tay hơn thầy được chứ.

Trần Sư Đạo vui vẻ yên tâm lên kiệu, sờ râu nghĩa, nhân sĩ chết vì tri kỷ, còn với chủ công là vì nhân thần, người làm quan vui vẻ nhất có lẽ là vì những chuyện này.

***

Phủ nha Kinh Đô cách đại nội không xa, đi đến cuối đường quẹo vào một cái ngõ là đến.

Sau khi tảo triều, Triệu Bạch Ngư còn phải quay về Nha môn tiếp tục làm việc, vừa rẽ qua đầu hẻm là đã nhìn thấy Hoắc Kinh Đường đang nghiêng người đứng tựa vào tường, hai tay giấu trong áo ngửa đầu nhìn trời.

Triệu Bạch Ngư im lặng giây lát, không khỏi nghĩ đến trào lưu chụp ảnh ngẩng mặt 45 độ nhìn trời ở đời trước, có điều vóc người Hoắc Kinh Đường rất cao, vì mặc triều phục rộng rãi mà càng lộ rõ cơ thể hơi gầy, vẫn giữ được khí chất anh tuấn kiệt xuất tự nhiên của cuồng sĩ, trái lại giống như người bước ra từ trong bức tranh cổ hơn.

"Hôm nay trên triều ân sư đã tấu bẩm bãi bỏ giới nghiêm, có rất nhiều quan triều đã tán thành." Triệu Bạch Ngư chân thành nói: "Ngài lại giúp đỡ ta rồi, cảm ơn."

Hoắc Kinh Đường nhìn mặt y trước, rồi nhìn về phía cổ tay, chuỗi Phật châu màu tím đen quấn bốn năm vòng trên cổ tay gầy trắng nõn, một mảnh mặt dây tráng men treo giữa vòng đung đưa phát sáng, hắn lại giương mắt nói: "Phất tay một cái thôi. Đề án chế độ giới nghiêm ban đêm là ngươi đưa lên, cách để lợi dụng vụ án lần này thúc đẩy bãi bỏ giới nghiêm cũng là ngươi nghĩ ra, ta giúp ngươi nhiều lắm cũng chỉ là đi đường tắt một chút và thay ngươi nói vài lời. Có điều công lao lần này đều đã thuộc về ta và Trần thị lang, bản thân ngươi góp phần nhiều nhất lại bị xem thường, trong lòng không oán hận sao?"

Triệu Bạch Ngư lắc đầu một cái, nhìn về phía quầy điểm tâm ở bên kia đường, giọng mềm mại: "Tiểu quận vương, ngài chưa từng làm Thiếu doãn, không biết mỗi năm có biết bao nhiêu vụ án cần xử gửi tới từ một phủ hai mốt huyện, trong đó có vô số vụ án trăm họ nghèo khổ, nhân cơ hội phát triển buôn bán đế kiếm tiền nhưng lại phạm luật cấm đêm. Tay mắt ta không với được sâu hơn, không thể ngăn cản việc bọn họ bị đánh tàn phế, có khi đánh chết, ngoại trừ án cấm đêm, còn có những tranh chấp phát sinh từ việc quản lý chợ phường chưa phù hợp. Ngay tại phủ Kinh Đô này, dưới chân Thiên tử, năm nào cũng xảy ra mấy vụ lấy mạng người. Mấy lần xem hồ sơ ta chỉ đọc vài chữ thôi mà cũng thấy giật mình."

Y đến từ thời hiện đại với mức độ tự do cá nhân cao, mới hiểu rằng lịch sử ban tặng cho bọn họ những thời đại thái bình thịnh trị cũng chỉ là để đảm bảo dân chúng không phải lo cơm ăn áo mặc mà thôi.

"Nếu như đề án được thông qua, hoặc giả có thể cải thiện được tương lai của dân chúng nghèo khổ thì đấy cũng là một phần công đức."

Con ngươi màu lưu ly của Hoắc Kinh Đường nhìn chằm chằm Triệu Bạch Ngư một ly cũng không lệch, bên trong tựa như có một chùm sáng từ từ bung nở: "Vậy thì công đức của ngươi nhiều không thể đếm xuể mất."

Hắn vô thức nói chuyện bằng chất giọng trầm khàn chầm chậm, vốn chính là cào vào màng nhĩ người ta ngứa ngáy, nhưng lúc này lại giống như đang tựa vào hõm vai của tiểu tình lang mà nỉ non vậy.

Bả vai Triệu Bạch Ngư đột nhiên tê rần, dời tầm mắt đi nơi khác nói: "Hơn nữa, hơn nữa bệ hạ chắc chắn không biết ai mới là chủ bút thật sự của đề án đó đâu đúng chứ?"

Ánh sáng trong mắt Hoắc Kinh Đường rực lên, màu mắt lưu ly dưới ánh mặt trời càng trở nên trong veo, thoáng nhìn một cái còn tưởng rằng con ngươi có màu vàng.

"Xem ra ngươi còn rõ tính tình của Thánh thượng hơn là đám quan triều ngày ngày lên triều diện Thánh nữa đấy."

Triệu Bạch Ngư lắc tay: "Nào phải, suy đoán Thánh ý cũng đâu phải chuyện gì tốt đẹp."

"Đã ăn gì chưa?" Đi thêm một đoạn nữa, Triệu Bạch Ngư quay đầu nói: "Ta mời ngài ăn sáng."

Hoắc Kinh Đường rất biết lắng nghe.

Triệu Bạch Ngư dẫn người đến quầy điểm tâm đối diện cửa Nha môn ngồi xuống, gọi ba phần bánh bao súp hấp, hai phần canh thịt dê vụn bánh, rút khăn tay của mình ra lau đũa: "Ta đảm bảo bánh bao súp và canh thịt dê vụn bánh ở đây là chính thống và ngon nhất Kinh Đô, chắc chắn ngài chưa ăn bao giờ!"

Lẽ ra phải đưa đôi đũa đã lau xong cho Hoắc Kinh Đường rồi lau thêm một đôi đũa khác, mà từ đâu lại có một cánh tay đưa tới lấy mất đôi đũa và khăn tay mà Triệu Bạch Ngư đang cầm.

"Có qua có lại." Hoắc Kinh Đường nhướn mày, đưa đôi đũa đã lau xong nhét vào trong tay Triệu Bạch Ngư.

"..." Triệu Bạch Ngư cầm đũa ngơ ngác hồi lâu, đến tận khi ông chủ đem thức ăn đến cũng không tìm được cơ hội lên tiếng đòi lại cái khăn tay mình vẫn luôn mang trong người.

Ăn sáng xong, hai người chia tay.

Hoắc Kinh Đường đưa mắt nhìn Triệu Bạch Ngư đi vào Nha môn, phó quan xuất quỷ nhập thần từ đâu đó đột ngột chui ra.

"Tướng quân, ngài nhặt khăn tay này ở đâu ra vậy? Trông có hơi cũ, không giống với đồ vật mà các cô nương hay dùng."

Hoắc Kinh Đường cột khăn lên cổ tay, liếc phó quan một cái, giọng nói điềm tĩnh không chút hoảng hốt: "Quà đáp lễ."

Mả cha nó lại quà đáp lễ? Ai mà cứ đáp lễ hoài thế?

Phó quan cau có.

***

Tảo triều hôm sau, quần thần cùng thảo luận về vấn đề bãi bỏ cấm đêm, tình hình êm đềm xưa nay chưa từng thấy. Từ tấu sớ của các đại quan nhất, nhị phẩm ở hàng đầu cũng đã có thể đoán ra trước đó bọn họ đã soi nến đàm luận xuyên đêm với Nguyên Thú đế rồi, quan điểm chính của buổi nghị sự đã được quyết định, hôm nay gặp mặt chỉ là đi theo quy trình mà thôi, những quan viên khác đều là người sáng suốt, đoán ra ý của bề trên nên đều thuận theo cả.

Sau cùng móc nối trở lại vấn đề ban đầu, liên quan đến việc Triệu Bạch Ngư phạt roi chết tám mươi người phạm phải luật cấm đêm, để xem liệu hành động này có quá tàn nhẫn đến nỗi phải gán cho y cái tiếng quan ác hay không.

Ngự sử đài đứng ra, vẫn giữ nguyên ý kiến cho rằng Triệu Bạch Ngư không biết vu vi, tàn nhẫn vô tình, nếu như không phải y nóng lòng kết án, đợi thêm một hai ngày nữa đến khi bãi bỏ luật lệ thả phạm nhân ra, thì sẽ không xảy ra tình trạng thương vong như thế.

Một bộ phận triều thần vốn ủng hộ quan điểm của Ngự sử đài cẩn thận quan sát Ngũ hoàng tử, không chắc là mình có nên bước ra khỏi hàng gây khó dễ hay không, chẳng ai biết cuối cùng là Triệu Bạch Ngư này có phải đã kết bè đảng với Ngũ hoàng tử hay không?

Ngũ hoàng tử chưa ra tín hiệu, Thái tử cũng không lên tiếng.

Bọn họ cũng chỉ đành tạm thời đứng im, đợi Ngự sử đài xung phong đánh trận trước vậy.

Ngự sử đài ra sức vạch tội Triệu Bạch Ngư, phát hiện đồng minh của mình ai cũng như con rùa rụt cổ chẳng thèm hưởng ứng gì, vậy nên cũng từ từ không lên tiếng nữa.

Ông lặng lẽ quay đầu, ra hiệu bằng ánh mắt với đồng minh.

Chuyện gì xảy ra vậy? Lên đi! Ủng hộ lão phu đi chứ!

Đồng minh nhìn chằm chằm mũi giày, làm bộ như không thấy gì.

Ngự sử đài: "..." Một ngụm máu đột nhiên nghẹn lại trong lồng ngực.

Lúc này, Ngũ hoàng tử bước ra khỏi hàng: "Nhi thần có lời muốn nói."

Ngự sử đài nước mắt giàn giụa, điện hạ lên tiếng ủng hộ ông, kẻ sĩ chết vì tri kỉ, không uống công lão phu kiên định ủng hộ đảng trưởng tử.

Ngũ hoàng tử: "Không phạm pháp sẽ không phải chịu phạt, người đã phạm lệnh là người mang tội. Đây là đạo lý mà đứa trẻ ba tuổi cũng có thể hiểu, có lẽ Triệu thiếu doãn không hiểu lẽ phải, nhưng y đã làm theo luật nên cũng không sai, nếu như chấp pháp công bằng mà mang tiếng quan ác thì còn ai dám làm việc mà không thiên vị vì tình riêng? Có phải cũng có thể lấy lẽ phải để chối bỏ trách nhiệm hay không? Nhi thần cho rằng, Triệu thiếu doãn không những không sai, mà còn sẵn lòng khen y cương trực, liêm khiết, tuân thủ pháp luật, phải thưởng cho y mới đúng!

Ngự sử đài bối rối, bấy giờ đã nhận ra ông bị lợi dụng làm cầu nối nhưng lại không thể oán hận chút nào.

Thật ra Nguyên Thú đế cũng không muốn phạt Triệu Bạch Ngư cho lắm, bất kể nguyên nhân là vì đề án Triệu Bạch Ngư trình lên khiến ông xác định được y là người tài, hay vì đạo lý trong lòng ông vốn là tình phải đứng sau pháp.

Là một người thống trị, ông sẽ không cho phép tình lý, lẽ trời lấn át quốc pháp.

"Cũng có lý. Pháp lý không thể bỏ qua tình lý, nhưng có lệnh tất làm, đã cấm phải tuân, quốc pháp không thể tùy tiện nhân nhượng tình lý, nhưng Triệu Bạch Ngư, nhà ngươi đường đường là một quan phụ mẫu, trong lòng nhất định sẽ có phần tình cảm dành cho chúng dân, tùy thời điểm mà phải ứng biến sao cho phù hợp. Trẫm biết hình phạt chỗ các ngươi có cách để đánh tám mươi roi không chết người, cũng có cách đánh hai, ba mươi roi liền đứt đoạn xương hông, nhưng trẫm không muốn truy cứu, bởi vì đây chính là tình lý của trẫm. Tình lý không thể vượt qua quốc pháp, nhưng dưới quốc pháp thì có thể mắt nắm mắt mở cho qua."

Một lời tình ý sâu xa, trăm quan cảm động không thôi, đồng loạt quỳ xuống, hô ba lần bệ hạ thánh minh.

Triệu Bạch Ngư nghe mà người lúc lạnh lúc nóng, cảm giác Nguyên Thú đế đúng là cơ trí và khôn khéo, thật sự là đỉnh cao của chơi đùa với quyền thuật, sự lạnh lẽo của bậc đế vương quả là vô cùng đáng sợ.

"Vì vậy, trẫm sẽ không tra hỏi cũng như khiển trách để kết thúc vụ án này, nhưng trẫm vẫn phải phạt bổng lộc của ngươi để bồi thường cho nhân dân, Triệu Bạch Ngư, ngươi có phụ không?"

"Bệ hạ nhân từ, hạ quan vô cùng cảm tạ." Triệu Bạch Ngư cúi đầu nói: "Nhưng hạ quan còn có lời muốn nói —— hạ quan đã không phạt tám mươi roi các bách tính phạm cấm đêm."

Lời này vừa nói ra, quan triều liền xôn xao.

Triệu Bá Ung vẫn luôn không nhìn đến y cũng đột nhiên quay đầu lại tựa như lần đầu tiên biết đến Triệu Bạch Ngư. Thái tử cũng kinh ngạc không thôi. Còn Ngũ hoàng tử thì hoàn toàn bất ngờ, trái lại trong lòng Ngự sử đài đang gấp như đánh trống, mặt tràn đầy tuyệt vọng.

Ánh sáng trong mắt Nguyên Thú đế chợt lóe, biểu hiện của trăm quan trên điện đều được ông thu vào đáy mắt.

"Sao lại nói thế?"

"Tám mươi người hạ quan thẩm vấn lúc ấy là tám mươi tên thuộc phường cướp bóc hoặc những kẻ giết người ngoài đường phạm vào tội chết, trong quá trình tra hỏi khó tránh khỏi dùng hình, vô tình đánh chết ba mươi bảy tên tử tù, bởi vì có nhân chứng vật chứng rõ ràng, còn có con dấu của Đại lý tự, đến lúc nói rõ nguyên do cũng hợp tình hợp lý sẽ không thể hỏi trách hạ quan. Còn tám mươi bách tính phạm cấm đêm vẫn còn đang bị giam ở nhà lao, chưa có dùng hình."

Ngự sử đài lớn tiếng chất vấn: "Nói càn! Vậy sao ngày hôm qua ngươi lại thừa nhận mình đã phạt roi những kẻ đó?"

Triệu Bạch Ngư ung dung trả lời: "Hạ quan đã nói 'Tám mươi phạm nhân đều phạm vào luật cấm đêm, theo lý phải phạt tám mươi roi, hạ quan đã chấp pháp công bằng, đã sai chỗ nào?', chẳng qua chỉ là giả thiết hạ quan hỏi ngược lại thôi, nào phải thừa nhận. Hơn nữa hạ quan cũng không biết chuyện gì, rõ ràng đánh chết tử tù phạm tội nặng, lại bị truyền ra là thủ đoạn tàn bạo, đánh chết ba mươi bảy dân thường. Hạ quan là quan phụ mẫu do bệ hạ ủy nhiệm, kể từ ngày được làm quan đã cảm động ân đức của bệ hạ, từ trước đến nay luôn đối nhân xử thế vô cùng tốt, làm sao có thể ra tay đánh chết ba mươi bảy dân thường?"

Ngũ hoàng tử hiểu rõ mình bị đùa bỡn thì giận ứa gan, nhớ lại ban nãy mình còn mới lên tiếng khen ngợi Triệu Bạch Ngư, trước mắt lại tối sầm.

Triệu Bạch Ngư, cái tên không biết xấu hổ sao lại dám làm thế!

Sao hành vi của y lại kì lạ như vậy? Phong cách quân tử này ở đâu ra? Hay y là môn sinh của thánh nhân gì gì đó?

Ngự sử đài tức đến độ khó thở: "Ngươi ngươi ngươi —— vậy sao ngươi không phản bác?"

Triệu Bạch Ngư: "Lời Ngự sử đại nhân như châu như ngọc, nói năng khí thế, hạ quan làm gì có cơ hội lên tiếng, vả lại Ngự sử đại nhân dùng toàn từ ngữ cay độc, cãi lẽ sắc bén, hạ quan bái phục còn không hết nên nghe say mê, quên nói mất."

"Ngươi! Ta, ta, ta!" Ngự sử đài nổi nóng, hai mắt trợn ngược lăn đùng ra ngất.

Nguyên Thú đế không nhịn được nghĩ Ngự sử đài già cả thật rồi, mượn cái danh lão thần để mạnh miệng nhiều năm, cũng không đi mà học hỏi Trần Sư Đạo, cùng là nguyên lão ba triều, Trần Sư Đạo lại giỏi hơn lão rất nhiều.

"Đã vậy thì, Triệu Bạch Ngư, trẫm sẽ không phạt ngươi nữa. Giống như lão Ngũ nói, ngươi có công lao, vậy nên ban thưởng ngàn lượng, hai mươi xấp lụa, hai mươi thạch lương. Còn Ngự sử, khuyên can giữ gìn trật tự, nghiêm túc chính trực với kỷ cương vốn là chức trách nhưng chỉ vì một mối tình riêng, không tra rõ đầu đuôi câu chuyện mà đã vạch tôi mệnh quan triều đình nhiều lần, đó là không làm tròn bổn phận. Vậy thì cũng không cần làm quan nữa, về nhà dưỡng lão đi."

Ngự sử đài thật đáng thương, vừa mới tỉnh dậy đã nghe thấy lời này, nộ khí công tâm nên lại ngất xỉu lần nữa.

***

Ra khỏi điện, Ngũ hoàng tử ngăn Triệu Bạch Ngư lại, tuy giận dữ nhưng lại mỉm cười: "Ngươi cũng hay đấy!"

Triệu Bạch Ngư: "Tạ điện hạ khen ngợi."

Thái tử vội lên tiếng ngăn Ngũ hoàng tử sắp mất khống chế lại, nhìn Triệu Bạch Ngư bằng ánh mắt ôn hòa: "Nhắc mới nhớ, ngươi là biểu đệ của bọn ta, cũng là đệ đệ của Tứ lang, ngươi xuất sắc như vậy cô cũng rất yên tâm. Còn nữa, ngày cưới của ngươi và quận vương cũng sắp đến rồi, là mùng bảy hay là mùng chín tháng sáu nhỉ?"

Ngũ hoàng tử cười trên sự đau khổ của người khác: "Là mùng tám."

Thái tử: "Cũng chỉ còn tám, chín ngày nữa thôi, ở đây cô chúc biểu đệ tân hôn đại hỉ trước nhé."

Một người đàn ông thành thân với một người đàn ông, dù là gả đi một cách chính thức cũng đều không thể nhẫn nhịn được. Thái tử và Ngũ hoàng tử chỉ mượn cớ này để làm tổn thương Triệu Bạch Ngư, kích thích cơn giận của y mà thôi.

Triệu Bạch Ngư giương mắt, đúng lúc bắt gặp ánh mắt của Triệu Bá Ung đi qua cách đó không xa, tươi cười rộng lượng cất cao giọng nói: "Tâm ý này ta xin nhận, đến lúc đó mời các điện hạ và chư vị đại nhân ghé phủ uống chén rượu mừng! Đừng quên quà mừng nhé!"

"!"

Mọi người đều như mắc nghẹn, có lẽ không ai ngờ da mặt của Triệu Bạch Ngư có thể dày đến mức này.

==

Chương 21

Tám mươi người phạm cấm đêm được thả ra hết, quần chúng vây quanh cửa Nha môn khóc ngày khóc đêm mỗi người cầm một xâu tiền hớn hở đi về nhà.

Biết được "thân nhân" trước Nha môn đều là người dân được Triệu Bạch Ngư thuê tới cho có không khí, Ngũ hoàng tử giận đến nỗi ăn cơm không ngon.

Kỷ tri phủ: "Ngươi trực tiếp xúc phạm Thái tử và Ngũ hoàng tử, cơ hội lên chức đến bộ Hình cũng vứt luôn rồi."

Triệu Bạch Ngư cười xòa: "Bị điều đi bộ Hình chẳng khác nào rơi vào địa bàn của người ta, lúc đó mới thật sự là tiêu đời."

Kỷ tri phủ: "Cũng đúng. Bây giờ trong triều rất loạn, đảng phái mọc lên như rừng. Bệ hạ còn đang độ tuổi xuân, người bên dưới đã không kịp chờ nối dài thành hàng, cũng không ai sợ tới một lúc nào đó bị người khác tính kế." Ông lắc đầu một cái, thở dài nói: "Ở lại Nha môn vẫn tốt hơn, nhiều việc nhưng yên tĩnh."

Triệu Bạch Ngư: "Nhiệm kỳ của đại nhân sắp tới rồi đúng chứ?"

Kỷ tri phủ: "Sắp rồi."

Triệu Bạch Ngư: "E là ngài sẽ bị chuyển đi nơi khác đấy."

Kỷ tri phủ vừa nghe thì nổi lòng hiếu kỳ: "Ngươi có căn cứ không?"

Triệu Bạch Ngư: "Bè đảng Tần vương sau vụ án này thì có cả trăm chỗ trống, mà trống thì cần phải bổ sung người vào. Mặc dù kì thi mùa xuân năm nay tuyển được không ít môn sinh của Thiên tử nhưng vẫn còn non lắm, thiếu còn hơn tội, phải đưa người bên dưới lên, đưa người trong Kinh ra ngoài. Một cơ hội tốt để bồi dưỡng môn sinh, đào tạo thế lực, ngài đoán xem có biết bao nhiêu người nhìn chằm chằm cả trăm chỗ trống đó?"

Kỷ tri phủ: "Là miếng thịt ngon lành, muốn giành lấy thì phải sứt đầu mẻ trán!"

Triệu Bạch Ngư thấp giọng: "Chỗ tốt trong Kinh chỉ có mấy cái, đoán chừng đều bị đoạt hết rồi, nhưng tỉnh ngoài nhiều vị trí, nhất là khi Chuyển vận sứ Giang Tây và An phủ sứ Giang Đông vừa mới bị cách chức, nghe nói còn dính dấp đến Lưỡng Chiết, sa thải thêm mấy người nữa, nhiệm kỳ của Tri phủ Dương Châu cũng sắp đến rồi, đây chính là một chức quan béo bở! Mấy nhân vật máu mặt trên đầu chúng ta cũng muốn người dưới trướng mình được bổ sung vào chỗ trống, nhưng vị to nhất kia lại không dễ lừa, cũng không hi vọng nhìn thấy cục diện bị đảo ngược, vậy nên mới phải chọn mấy người đáng tin ở trong Kinh đưa ra ngoài."

"Kỷ đại nhân, ngài không kết giao bè đảng, không thuộc về đảng Thái tử, cũng không thuộc đảng Trịnh quốc công, vả lại chẳng có quan hệ gì với mấy vị Tế chấp, hơn nữa ngài là môn sinh của Thập vương gia, được bệ hạ vô cùng tin tưởng. Đến ngài còn không phải là lựa chọn thích hợp nhất nữa thì còn ai chứ?"

Sau khi nghe phân tích xong, đầu óc Kỷ tri phủ sắp sửa loạn đến nơi, không nhịn được hỏi: "Ôi trời, đưa Phật đưa đến Tây Thiên, giúp người phải giúp đến cùng, ngươi mau nói cho ta biết, ta có thể được bổ sung vào vị trí nào?"

"Ngài đừng mơ tới mấy chỗ ngon lành."

"Ta nào dám mơ tưởng chứ!" Kỷ tri phủ trợn mắt: "Miếng thịt béo như Tri phủ Dương Châu, cho ta mười lá gan ta cũng không dám mong, nói không chừng chọc vào chỗ hiểm lại rơi đầu. Nhưng ngoại trừ Dương Châu, Lưỡng Giang hay Lưỡng Chiết ta đều cho rằng có khả năng hơn. Tri phủ Kinh đô đang là ngũ phẩm, lại là kinh quan, có đưa ra ngoài phẩm cấp cũng không thể thấp hơn, ít nhất cũng phải lên tứ, tam, nơi có thể đi là Đề hình ti chăng? Hoặc là Đề hình ti Giang Tây, hoặc là Đề hình ti Giang Đông, Lưỡng Chiết không thiếu Đề hình ti, ta đoán không tám, chín thì cũng mười phần, đúng không?"

Triệu Bạch Ngư bật cười: "Ngài có thể mạnh dạn trông đợi cao thêm chút nữa mà, dù sao ngài trình đề án mở cửa chợ đêm lên cũng là tạo phước cho trăm họ, là công lớn, chỉ cho thăng có một cấp không phải quá bủn xỉn rồi sao."

"Thôi nào, đừng bôi bác ta chứ." Kỷ tri phủ nhăn mặt nói: "Đề án là do ai viết, trong lòng chúng ta đều rõ."

Dừng một chút, Kỷ tri phủ nói với Triệu Bạch Ngư: "Ta nói nhỏ chuyện này cho ngươi biết, thật ra trước khi tiểu quận vương nộp đề án lên đã ghi thêm một cái tên ở phần người soạn bút dưới cuối chiết tử, còn là đặt phía trước những cái tên còn lại."

Ánh mắt Triệu Bạch Ngư toát ra vẻ khó hiểu: "Thêm tên gì?"

"Triệu Mộ Quy." Kỷ tri phủ nói: "Do không muốn người có tài thật bị chôn vùi, lại muốn giúp hắn che giấu nên mới lấy một cái tên thay thế. Đặt là Mộ Quy tiên sinh, tên này nghe cũng được, còn có cảm giác thần bí. Ấy thế mà tiểu quận vương lại đặt thêm họ Triệu ở phía trước. Có câu nói 'Thanh thoa hoàng nhược thường y, hồng tửu bạch ngư mộ quy'*, Triệu Mộ Quy, Triệu Bạch Ngư, kẻ ngốc cũng có thể đoán ra được Triệu Mộ Quy là ai."

(*) Hai câu thơ này nằm trong bài thơ Điều Tiếu Lệnh • Ngư phu của Tô Thức (Tô Đông Pha). Nội dung chủ yếu miêu tả bức tranh về cuộc sống của ngư dân trên sông hồ, thể hiện sự ngưỡng mộ của Tô Thức đối với ngư dân và khao khát một cuộc sống ẩn dật của ông. Do mình tìm không ra bản dịch nghĩa lẫn dịch thơ nên mình sẽ để nguyên bản Hán - Việt ạ!

Triệu Bạch Ngư không giỏi thơ ca, cũng không biết Hoắc Kinh Đường đã ghi thêm một cái tên nữa ở phần soạn bút của đề án, chỉ vừa mới nghe chuyện này thôi mà y đã cảm giác Hoắc Kinh Đường suy nghĩ thấu đáo đến nhường nào.

Trước đây y không dám ra mặt quá nhiều vì sợ bị đánh bại tơi tả, sau đó mới biết được sự thật của thế giới này, biết được số mạng tương lai, bấy giờ tim phổi còn đây nhưng ý chí đã tàn, y thà tìm chỗ chết còn hơn là chui vào quan trường trèo lên trên cao, y không có hứng thú, càng không muốn tên tuổi được lưu danh sử sách, vậy nên không quan trọng công lao của mình rơi vào tay ai.

Nhưng mà có người lại nhớ đến những vất vả mà y đã bỏ ra, người ấy hy vọng y nhận được lời khen ngợi và vinh dự, chạm tới một điểm trong tim Triệu Bạch Ngư khiến nó rung động.

Ngón tay giấu trong áo của Triệu Bạch Ngư vô thức co lại, ho nhẹ hai cái rồi ấp a ấp úp: "Quay lại chuyện của ngài thôi, Kỷ đại nhân. Ta đoán ngài có khả năng vào chỗ Chuyển vận sứ Giang Tây nhất, thủy vận Giang Tây thông ra tứ phía lại phát triển, thêm thủ phủ Hồng Châu nơi Xương Bình công chúa đang trú đóng có thể giúp ngài nhanh chóng đứng vững. Đường thủy phía Bắc có bốn đường sông vận chuyển lớn, phía Nam chính là Giang Tây. Tiền triều đã khai thông bến tàu ở Quảng Đông, thiết lập Thị bách ti, trao đổi buôn bán với nước ngoài thu nhập được một khoản tiền lớn, muốn chuyển vào Kinh đô nhất định phải đi qua thủy vận Giang Tây, đó là đầu mối giao thông nối liền chuyển vận và hải vận lớn nhất, cũng là nơi dự trữ vàng thu được, cho nên bệ hạ sẽ chọn người đáng tin cậy nhất."

Nếu như hoàn thành tốt nhiệm kỳ, được điều trở về kinh thì chỉ có thể là tâm phúc của Nguyên Thú đế, đáng tiếc Trần Chi Châu tiền nhiệm đã phụ lòng tín nhiệm của Nguyên Thú đế.

Y còn chưa nói xong, Kỷ tri phủ vừa nghĩ chút là có thể đoán được, tâm trạng kích động không ngừng lại bị ép xuống lại, hoài nghi hỏi: "Lúc Xương Bình công chúa bị cách chức không phải ồn ào với bệ hạ một trận rất căng —— "

Ông đột nhiên ngừng nói, rốt cuộc cũng nhớ ra công chúa Xương Bình là mẹ ruột của Triệu Bạch Ngư.

Sắc mặt của Triệu Bạch Ngư vẫn như thường: "Trên đời này không có cha con nào qua đêm thành thù, cũng không có huynh muội nào qua đêm thành thù. Suy cho cùng thì Xương Bình công chúa và Nguyên Thú đế là huynh muội ruột thịt cùng chui ra từ một mẹ, ngày xưa đắm chìm trong tình yêu, hung hiểm cướp đoạt của người khác, công chúa Xương Bình cũng cảm thấy thẹn với mẫu thân và huynh trưởng. Dù cho năm đó nàng ta phạm phải sai lầm lớn, Nguyên Thú đế vẫn niệm tình huynh muội nên chỉ cách chức đưa tới Hồng Châu, Giang Nam. Giang Nam đất đai màu mỡ, không phải nơi mà tội nhân sẽ bị đẩy đến, công chúa tất nhiên đội ơn, thay Nguyên Thú đế kinh doanh thế lực thủy vận Giang Tây."

Mặc dù Xương Bình yêu mù quáng, lòng dạ lại ác độc nhưng cực kì thông minh, nếu không năm đó sẽ không phải là trưởng công chúa được mọi người yêu thương nhất.

Dĩ nhiên, công chúa Xương Bình là một quân cờ đen, sau này mọi chuyện bại lộ liền trở thành một trong những bắp đùi vàng để Triệu Ngọc Tranh ôm.

Kỷ tri phủ vỗ bụng đi qua đi lại, cứ mãi suy nghĩ, sau đó đứng thắng người, nghiêm túc nói với Triệu Bạch Ngư: "Nếu như lần thuyên chuyển này đúng như lời ngươi nói, Kỷ mỗ thiếu nợ ân huệ lớn bằng trời của ngươi."

Trước kia nhờ có Triệu Bạch Ngư giúp đỡ, Kỷ tri phủ đã báo đáp bằng cách đề bạt thăng quan cho y, lúc nào cũng chỉ bảo một chút đạo lý quan trường, Triệu Bạch Ngư thông minh, nhưng dù sao đi nữa thì cũng không có khả năng mới dấn thân vào liền như cá gặp nước được.

Mà nay, lần chỉ điểm này của Triệu Bạch Ngư thật sự vô cùng có ích cho ông, có thể bảo toàn được mạng sống cả nhà lẫn tài sản của ông!

Nếu như không biết nông sâu, tùy tiện đạp trúng khu vực ngoài tỉnh, đắc tội cường hào ác bá và công chúa Xương Bình, không an phận gây khó dễ thì kết cục sẽ trở thành Trần Chi Châu thứ hai.

Kỷ tri phủ cúi người thật sâu: "Kỷ mỗ phải cảm tạ ngươi đã chỉ điểm —— "

"Kỷ đại nhân, ngài là cấp trên của ta, không nên hành lễ." Triệu Bạch Ngư vội vàng đỡ Kỷ tri phủ dậy.

Kỷ tri phủ có qua có lại, dùng nhiều năm kinh nghiệm của mình dạy Triệu Bạch Ngư: "Sau khi ta đi, quan trên mới đến nhất định sẽ không chấp nhận cấp dưới có chủ kiến nhiều hơn mình đâu, ngươi nhớ phải nhún nhường một chút. Chịu đựng thêm mấy tháng nữa, ta nghĩ bệ hạ sẽ thăng cấp cho ngươi thôi. À, hôn sự của ngươi và tiểu quận vương thế nào rồi?"

"Tiến hành đúng hạn thôi ạ."

Kỷ tri phủ cau mày: "Ta là môn sinh của Khang vương, ít nhiều biết được bí mật mà người ngoài không biết. Tiểu quận vương kia cũng không phải là không kỵ sống nguội*, những năm này tự giữ mình rất tốt, đừng nói là hồng nhan tri kỉ, bên cạnh một kẻ hầu dáng dấp nhu mì cũng chẳng có. Cả Kinh đô này đồn đãi trời sinh tính quận vương phóng đãng, theo ta thấy thì hắn còn giống như chính nhân quân tử hơn là những kẻ nổi danh là môn sinh của thánh nhân kia. Ngày đó hắn vô tình gặp được Triệu tứ lang, tranh hơn thua rồi đi thẳng vào cung thỉnh chỉ, ta chỉ nghĩ coi như là hắn mượn cơ hội để đánh Tế chấp đại nhân một cú, nào ngờ lại cuốn luôn cả ngươi vào mớ rắc rối này."

(*) Ý nói không ăn láng trai gái như trong lời đồn.

Ngó trái phải bốn phía vắng lặng, Kỷ tri phủ mới lặng lẽ nói: "Hoàng đế và Tĩnh vương năm đó ầm ĩ tranh đoạt nên bất hòa nhưng bệ hạ lại rất coi trọng tiểu quận vương, ta thấy bệ hạ mới là người ngồi không yên nhất, sớm muộn gì cũng sẽ tìm lý do hủy bỏ hôn sự thôi."

"Thánh chỉ cũng có thể rút lại sao?"

"Qua một hai năm nữa nói thật nguyên nhân chuyện hôn sự của các ngươi, rằng thực tế là có tiếng không có miếng thôi, sau này mỗi người tự lập gia đình là được."

Triệu Bạch Ngư vẫn luôn nghi ngờ biểu hiện tỏ ra quả tin tưởng Hoắc Kinh Đường của Nguyên Thú đế. Bởi lẽ lấy đi binh quyền mười mấy năm mà Hoắc Kinh Đường liều chết có được, sau đó cho hắn một chức danh quận vương không thực quyền, lúc nào cũng để ngay dưới mắt trông coi hắn, Nguyên Thú đế không hề do dự chút nào.

Ngay cả án gian lận thi cử kia, Nguyên Thú đế cũng chẳng mảy may phân vân giao thẳng cho hắn làm.

Nếu xử lí hoàn hảo, cũng coi như lập được chiến công.

Những chuyện như lưu hành đại lao, điều tra bè đảng, không thể giao cho người có phẩm cấp quá thấp hoặc không đủ lai lịch đi làm, sợ rằng quá kiêng dè, trông trước ngó sau, không tra ra đủ hoàn toàn, cũng không thể giao cho người có tiền đồ tốt, phẩm cấp cao, sợ đắc tội cả triều văn võ, cắt đứt mất đường làm quan.

Đối với Triệu Bạch Ngư, người tốt nhất phải chọn là Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường có uy danh nhưng không có thực quyền, danh tiếng kẻ chê người khen, nửa nọ nửa kia, lai lịch đầy đủ cũng không cần sợ hãi hoạn lộ đứt đoạn, ai ngờ đâu Nguyên Thú đế lại tùy tiện tìm một lý do để bảo vệ hắn.

Đủ để thấy trong lòng Nguyên Thú đế tin yêu Hoắc Kinh Đường biết bao nhiêu, thật sự có mấy phần chân thực.

Đã như vậy, Triệu Bạch Ngư không hiểu vì sao Nguyên Thú đế lại đồng ý ban hôn cho hắn, trưởng bối sao có thể dễ dàng khoan nhượng để cho tiểu bối mình yêu thương cưới một người đàn ông về làm vợ được?

"Binh tới tướng đỡ, nước tới đất ngăn." Triệu Bạch Ngư cười nói: "Kỷ đại nhân nhớ ghé phủ uống rượu mừng."

Kỷ tri phủ gật đầu, từ chối cho ý kiến.

***

Ngày cưới càng lúc càng gần, Kỷ tri phủ đặc biệt cho Triệu Bạch Ngư nghỉ phép bảy ngày để y hồi phủ chuẩn bị.

Triệu Bạch Ngư còn định mang công chuyện về phủ giải quyết thì bị Kỷ tri phủ và nha dịch chặn lại, nói kết hôn là một trong bốn chuyện vui của đời người, dù cuộc hôn nhân này hoang đường biết bao nhiêu, nhưng cũng không thể để cho mấy chuyện giết chóc dùng hình này kia đụng đến hôn lễ được.

Hậu viện Triệu phủ bận rộn tới lui, tiền viện lại yên tĩnh không tiếng động.

Dù sao cũng nể tình y là thiếu gia Triệu phủ, lại còn là được Thánh thượng ban hôn, vậy nên trang trí trong ngoài rất công phu, tiền viện cũng kết hoa treo đèn, vô cùng có không khí ngày lễ.

Ngụy bá cứ luôn tay lau chùi binh khí để khắp trong phòng mình, lau đến mức lưỡi kiếm sáng bóng lên, vẻ mặt lúc nào cũng đằng đằng sát khí thoáng cái đã biến thành nỗi buồn khó tả, cảm giác cứ như con gái nhỏ trong khuê phòng của mình bị con heo chạy đến ủi đi vậy.

Tạ thị sai một lão ma ma tới trợ giúp thu xếp việc thành thân, Nghiên Băng không yên tâm bèn theo sau chu toàn mọi mặt, nhất là của hồi môn lẫn sính lễ đều không để thiếu mất một món nào.

Tú ma ma và Lý Ý Như cùng các cô nương thì ở ngoài sân nhỏ ôm đồm hết các loại đồ thêu, đồ cưới, giày, túi thơm và các loại vật phẩm chúc phúc.

Mấy vật nhỏ như giày, đai lưng, túi thơm tương đối dễ giải quyết, thêu thành kiểu của nam là được, nhưng đồ cưới và vật chúc phúc thì lại làm khó Tú ma ma và các cô nương.

Đàn ông không thể sinh con, nếu như thêu hình bách tử ngụ ý sinh nhiều con cái thì không hợp lý cho lắm, Lý Ý Như bèn đề nghị có thể thêu thành bốn loại chi lan ngọc thụ, hạc vũ nguyệt giang, phúc thọ diên niên, như ý cát tường để thay thế.

Tú ma ma đồng ý với lời đề nghị này, vậy còn đồ cưới, cần làm kiểu của nam hay kiểu nữ?

Từ xưa chỉ có nam nữ cưới gả, nào có tiền lệ nam nam cưới gả?

Chỉ có thể tham khảo theo nam nữ, trong đó một bên đảm nhiệm phái nữ, tất nhiên không thể là Lâm An quận vương được, vả lại người gả đi là Triệu Bạch Ngư, nhưng nếu để Triệu Bạch Ngư mặc váy qua cửa, không phải sẽ khiến người ta cười chê hay sao?

Các nàng không ngừng đắn đo, Tú ma ma liền chạy đến hỏi Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư nói: "Nghe theo ý quận vương đi."

Đối với y, cách thức chế tạo quần áo nam nữ không khác nhau là mấy.

Lâm An quận vương phủ nhanh chóng phái người sang báo tin: "Làm đồ cưới kiểu nam giống với kiểu của quận vương là được." Nói xong liền đưa một quyển kiểu dáng các loại quần áo, nói là trong cung sẽ tự quyết định đồ cưới, bảo mấy người Tú ma ma cứ thêu thêm một bộ như thường.

Sau đó, một đống ngọc quan, đai lưng khảm ngọc, ngọc bội và các loại trang sức thay cho mũ phượng của tân nương được dọn ra, Tú ma ma và các cô nương đều cảm thấy quận vương vô cùng tỉ mỉ, nghĩ rằng hắn cũng đến đây, vừa định mở miệng gọi người ngồi xuống uống một bát canh đã nghe tiểu hoàng môn nói tiếp: "Còn có mười con hãn huyết mã Tắc Ngoại mà quận vương đặc biệt vào cung thỉnh cầu bệ hạ đem về tặng cho Triệu tiểu lang quân."

Tú ma ma và các cô nương vô cùng khiếp sợ, phải biết ngựa tốt là vốn liếng để hành quân đánh giặc, không thể tùy tiện di chuyển khỏi quân bị, tiểu quận vương bạo tay như vậy, có thể thấy rằng hắn cực kì xem trọng tiểu lang quân nhà các nàng.

Tiểu hoàng môn tiếp tục giới thiệu những lễ vật khác được đưa tới, đều là vài món kì trân dị bảo, nhưng đối với mọi người trong phủ mà nói, châu ngọc ở trước mặt này vẫn rất khó thể lay động cảm xúc.

"Cuối cùng —— " Tiểu hoàng môn ho khan hai tiếng, dường như cũng cảm thấy ngượng đến phát hoảng, thẹn thùng nói: "Một pho tượng gỗ tử đàn Quan Âm Bồ Tát, do quận vương tự tay điêu khắc tặng cho Triệu tiểu lang quân."

Tú ma ma nhận lấy, các cô nương cũng lại gần xem thử, nhìn thấy Quan Âm Bồ Tát nhỏ dài chừng cánh tay của đàn ông trưởng thành được điêu khắc trông rất sinh động, gỗ đàn màu tím đen như phát sáng, dĩ nhiên khối gỗ này thuộc loại tốt nhất.

Lý Ý Như kiến thức sâu rộng, lúc này đã nhận ra pháp tướng của Quan Âm Bồ Tát: "Là Lang Kiến Quan Âm, ngụ ý mọi chuyện như ý, phúc thọ an yên."

Tiểu hoàng môn nghe thấy vậy đột nhiên ngẩn đầu, trợn to mắt nhìn thử, quả nhiên là Lang Kiến Quan Âm, sao cả đường Thôi phó quan cứ không ngừng lải nhải, kiên quyết nói bên trong là Tống Tử Quan Âm?

Hại hắn thật sự cho rằng đây là Tống Tử Quan Âm, còn khổ thân nghĩ không biết nên đưa tặng người ta thế nào!

Tú ma ma lộ ý cười: "Quận vương có lòng rồi. Công công cũng cực khổ quá, ngồi xuống uống bát canh ấm rồi đi."

Bà gọi Nghiên Băng đưa pho tượng gỗ vào thư phòng, sau đó bắt người ngồi xuống, tiểu hoàng môn không từ chối được, chỉ đành ở lại.

***

Trong thư phòng, Triệu Bạch Ngư nghiêng người dựa trên tháp cạnh cửa sổ đọc du ký.

"Ngũ lang! Ngũ lang!" Nghiên Băng hào hứng chạy vào, đặt hộp gỗ xuống, khoa tay múa chân miêu tả cảnh tượng quận vương phủ ngang tàng tặng quà: "Ngài không biết đâu, mấy người ở tiền viện cũng ngây ra luôn, hôm trước còn cười nhạo ngài không thể không gả cho quận vương hung ác, bây giờ kẻ nào cũng hâm mộ, ghen tị đến đỏ cả mắt ngoài kia kìa! Bảo bối phiền phức Triệu tứ lang của bọn họ ấy, nghe nói trong yến hội chúc mừng tân khoa đỗ đạt, vì ngài cứu được ân sư nên hắn bị Trần Phương Nhung làm cho mất hết mặt mũi, sau khi về thì đổ bệnh, nhất định kéo phu nhân ở lại bằng được, không để bà ấy giúp ngài lo liệu hôn lễ."

Bất kì chuyện gì liên quan đến Triệu Ngọc Tranh, Triệu Bạch Ngư đều không muốn biết.

Triệu Bạch Ngư liếc xuống hộp gỗ dưới chân Nghiên Băng, hỏi: "Đó là cái gì?"

Lúc này Nghiên Băng mới nhấc cái hộp lên đáp: "Là Quan Âm Bồ Tát. Quận vương tự tay khắc cho ngài đấy, là Bồ Tát có thể ban phúc lành."

"Cho ta xem thử." Triệu Bạch Ngư mở nắp hộp, bị tượng gỗ thật như đúc làm cho rung động, ánh mắt dính vào trên tượng gỗ như có nhựa cao su, ngón tay vươn tới nhẹ nhàng vuốt ve từng vết khắc trên thân Bồ Tát. "Ngươi nói, pho tượng này là do chính tay Hoắc Kinh Đường khắc sao?"

Nghiên Băng: "Đúng rồi ạ."

Triệu Bạch Ngư không nhịn được bật cười, lẩm bẩm: "Không ngờ còn là một nghệ thuật gia đấy." Y cầm lấy Quan Âm Bồ Tát đi đến nơi có nhiều ánh sáng, cẩn thận ngắm nghía, hỏi: "Sao lại nghĩ đến chuyện tặng Quan Âm Bồ Tát nhỉ?"

"Ta cũng không hiểu." Nghiên Băng nghĩ không ra: "Ai lại đưa Quan Âm Bồ Tát cho đối tượng của mình trước khi thành thân chứ? Hay là Bồ Tát ban phúc, giống như chữ viết tay mà trưởng bối thường viết để tặng cho tiểu bối vậy đó."

"À!" Nghiên Băng chợt vỗ tay một cái: "Có phải quận vương điện hạ xem ngài là đệ đệ không?"

Triệu Bạch Ngư: "Hắn có thiếu huynh đệ đâu."

"Nói không chừng, cả Kinh đô đều biết quận vương không hợp với huynh đệ, cứ gặp nhau là coi nhau như kẻ thù. Không sai đâu, ngũ lang ngài tin ta đi, nhất định là xem ngài như huynh đệ rồi, bằng không thì chính là con trai —— ôi chẳng lẽ thật sự muốn làm cha ngài sao?"

"Càng nói càng sai." Triệu Bạch Ngư cất tượng gỗ quý giá, lại hỏi người trong phủ quận vương đã đi chưa, biết người chưa đi liền cầm lấy một cái hộp lớn chừng bàn tay từ trên giá sách xuống mở ra, bên trong là ba viên xúc xắc bằng ngọc được chế tác tinh xảo: "Bảo bọn họ đưa nó cho Hoắc Kinh Đường, nói là quà đáp lễ."

Nghiên Băng ngạc nhiên: "Không phải ngài thích nhất xúc xắc ngọc này sao? Hồi đó cũng phải chuẩn bị hơn nửa năm, trải qua trăm cay ngàn đắng mới thắng được nó, ta đụng vào có chút ngài cũng đau lòng, bây giờ cứ đưa đi làm quà đáp lễ như vậy ạ?"

Triệu Bạch Ngư: "Đáp lễ không phải cần đáp bằng một vật trân quý như vậy sao? Đây là cách đối nhân xử thế cơ bản. Đừng nói nhảm nữa, mau đưa đi đi."

Đối nhân xử thế là như vậy à?

Trong đầu Nghiên Băng nghĩ: Cái giá phải trả quá cao, hay là sau này đừng có nhân tình qua lại gì nữa cho rồi.

***

Khi phó quan nghe thấy người hầu của Triệu Bạch Ngư nói đây là quà đáp lễ, cuối cùng cũng biết cái người hay đưa quà đáp lễ treo trên mép của Hoắc Kinh Đường là ai rồi. Gã tự tay đưa món quà đó cho Hoắc Kinh Đường, nhìn thấy ba viên xúc xắc ngọc thì cau mày, đẩu đầy dấu hỏi.

Tại sao thế?

Một đôi tân nhân còn chưa chính thức lấy nhau, một bên tặng Tống Tử Quan Âm, một bên tặng xúc xắc để đánh bạc? Mặc dù các vật liệu đều vô cùng quý giá, nhưng đúng là không thể xem thường tính tình khác người của bọn họ!

Tuy nhiên Hoắc Kinh Đường rất trân trọng nó, còn nói: "Quà tốt. Xúc xắc rất đẹp."

Nếu không phải bị ma ma tư nghi điều từ trong cung tới ngăn lại, chắc là hắn còn định chui vô trong kho tìm thêm quà tặng trở lại cho Triệu Bạch Ngư.

Phó quan không ưa cái đức hạnh đó chút nào, cảm lấy mệt mỏi vô cùng bèn tìm lý do chạy ra chỗ khác, mắt không thấy thì tâm sẽ tịnh.

***

Chớp mắt đã đến mùng tám tháng sáu, trời còn chưa sáng đã bắt đầu bận bịu.

Tiền viện tối om, còn hậu viện thì đèn đuốc sáng choang một vùng. Triệu phủ phái mười người hầu tới hỗ trợ, Tú ma ma chỉ đành tìm tới Lý Ý Như nhờ các cô nương đến giúp, sau còn có thêm một nhóm hai mươi mấy người đến từ phủ quận vương, cuối cũng ổn định được tình hình.

Trong phòng, Triệu Bạch Ngư đang mặc bào phục tân lang được thiết kế vội vàng.

Áo vải mỏng màu đỏ thẫm càng tôn lên nước da trắng như ngọc của y, đai lưng gấm Tô Châu thêu hoa văn chìm khảm ngọc thoải mái ôm vào vòng eo thon gầy, bên hông treo ngọc bội và túi thơm chứa các loại thảo mộc, dưới ánh nến mắt mày đẹp như tranh vẽ, mái tóc đen nhánh được buộc lại bằng ngọc quan để lộ vần trán sáng bóng đầy đặn, ánh sáng xinh đẹp lấp lánh chuyển động trong mắt, tựa như cỏ ngọc lan chi, là vầng trăng mà người ta chỉ muốn ôm vào lòng.

"Nâng áo vượt lưới đón gió xuân, đai lưng đỏ ngọc khắc kỳ lân." Lý Ý Như nhìn cảnh khen ngợi: "Ngũ lang uyên thanh ngọc nhứ, thanh phong tễ nguyệt, công tử văn nhã vừa thông tuệ lại nhanh nhẹn."

Triệu Bạch Ngư mỉm cười: "Lý tỷ tha cho ta đi, cả đêm này tỷ khen ta biết bao nhiêu lời rồi, lòng xấu hổ đã chết từ lâu của ta đã bị các nàng đánh thức rồi đó, bây giờ ta mắc cỡ chết đi được."

"Ha ha ha..."

Mọi người trong nhà đều cất giọng cười to.

***

Lúc này, ở một sân nhỏ khác trong phủ.

Tạ thị thắp nến chiếu sáng chủ viện, quay lại hỏi chồng: "Chúng ta có đến chỗ Triệu Bạch Ngư nhìn một chút không?"

Triệu Bá Ung im lặng một lúc, quả quyết từ chối: "Ta không qua đó đâu!" Rồi lại châm biếm: "Nghịch tử kia nhìn thấy chúng ta cũng chẳng vui vẻ gì!"

Sau đó mềm giọng nói: "Nàng cũng đừng quan tâm nữa, năm đó ả công chúa kia làm chuyện gì, kết cục thảm hại thế nào cũng là nó nên nhận, mẹ nợ con trả là lẽ bất di bất dịch. Những năm này nàng không bạc đãi nó đã trọn đủ tình nghĩa rồi."

Tạ thị vô thức đè lên ngực, chẳng biết vì sao tim lại đập rộn lên giống như lồng ngực đang phá cỗ khoét mất một miếng thịt, nàng cũng không biết vì sao lại như vậy.

Triệu Bá Ung nhanh chóng nhắc đến Triệu Ngọc Tranh đang bị bệnh để ràng buộc tâm trạng của Tạ thị, nàng liền cho rằng đó là vì mẫu tử liền tâm, cũng không nghĩ nhiều nữa.

Thiên viện.

Triệu Trường Phong múa giáo một mình, thương pháp vụt nhanh như sao rơi mang đến cơn gió rét lạnh lẫn vào trong bóng đêm như muốn xé rách bầu trời, thoáng chốc lại đánh xuống một cái quét sạch. Sát khí của giáo chém xuống đầu cành khô, cuồng phong góp lại, lá rụng rơi đầy sân.

Chợt có tiếng động, Triệu Trường Phong cảnh giác đâm tới, nghe được tiếng "Đại ca là đệ!" mới nhanh chóng ngưng chiêu, nghiêng người nhìn rồi cau mày hỏi: "Tam lang?"

Bước chân Triệu Ngọc Khanh ngập ngừng, tay vỗ sau gáy nói: "Đại ca, ta có tâm sự nên không ngủ được."

Triệu Trường Phong đã hiểu: "Vì Triệu Bạch Ngư."

"Đúng vậy!" Triệu tam lang phiền muộn nói: "Hôm nay y gả vào quận vương phủ rồi, nói thế nào cũng là huynh đệ của chúng ta, thay Tứ lang gả đi, y thành thân không có huynh đệ đến tiễn có phải không hợp lẽ thường không?"

Triệu Trường Phong vặn lại: "Cha sẽ không đồng ý đâu."

Triệu tam lang buồn bực thất vọng: "Đệ cũng lo rằng cha —— "

"Nhưng mà mẹ thì sẽ mềm lòng thôi." Triệu Trường Phong nói: "Từ nay về sau, đệ ấy không còn liên quan gì đến Triệu phủ chúng ta nữa. Lần này xem như y nhận một kiếp nạn thay cho Tứ lang, chúng ta cũng đã lo lót hết sức rồi, thù cũ đã thanh toán xong. Cho nên đi tiễn một chút cũng không sao, coi như là kết thúc ân oán lần cuối cùng đi."

Ánh mắt Triệu Ngọc Khanh sáng lên: "Vậy đệ đi nhé!"

Theo như lễ tiết, trước khi thành hôn thì phải qua cửa, bạn bè người thân của đàng gái sẽ chuẩn bị những cửa ải để làm khó đàn trai, đến khi đàn trai phá được từng tầng chướng ngại vật suông sẻ qua cửa, uống trà nói chuyện với cha và huynh đệ của đàn gái xong, cuối cùng mới đưa tân nương ra ngoài.

Nhưng vì Triệu Bạch Ngư là đàn ông, quan hệ với cha mẹ và huynh đệ đều không tốt cho nên được giảm bớt lễ tiết truyền thống như qua cửa, thế là Hoắc Kinh Đường cứ thế chạy thẳng đến tiểu viện nơi Triệu Bạch Ngư ở.

Tú ma ma mở cửa, Triệu Bạch Ngư đi ra, Nghiên Băng đi bên trái y, Ngụy bá đi phía trước bên phải, Lý Ý Như và các cô nương thì đứng ở đình viện, im lặng nhìn cảnh tượng này từ xa.

Hoắc Kinh Đường không thể vào sân, từ phía xa chỉ thấy được hắn đang chắp tay sau lưng, trên người là áo bào đỏ thẫm, đầu đội ngọc quan, thân hình cao ráo sáng sủa như chim hạc, dung mạo như long phượng, phong thái vô cùng xuất sắc, đôi mắt Bồ Tát màu lưu ly lướt qua, dưới ánh mặt trời tựa như không phải là người trần mắt thịt.

Tim Triệu Bạch Ngư đột nhiên lại nhảy nhót lên, đang chuẩn bị bước ra thì thấy Triệu tam lang xuất hiện trước cửa, ngước nhìn Hoắc Kinh Đường một cái rồi đi đến trước mặt y.

"Sau khi ra cửa rồi chân không thể chạm đất nữa, ta tới tiễn đệ đi." Triệu Ngọc Khanh nói.

Triệu Bạch Ngư cười một tiếng, đặt tay lên vai Triệu tam lang nói: "Không cần đâu." Y hiểu ý Triệu Ngọc Khanh, đó là giảng hòa, từ đây hết ân oán.

Triệu Bạch Ngư không muốn dính dáng gì đến người nhà họ Triệu nữa, nhưng kết thúc ân oán không có nghĩa là giảng hòa.

Y thẳng người đi về phía trước, lúc lướt qua người Triệu Ngọc Khanh chỉ để lại một câu nói: "Ta và Triệu phủ đã trả nợ xong xuôi cả rồi."

Từ nay về sau, dùng một đời để trả.

Niềm vui mừng trong lòng Triệu tam lang bị nước lạnh tưới xuống đầu dập tắt, ngây người nhìn bóng lưng càng lúc càng xa của Triệu Bạch Ngư, không hiểu vì sao phiền muộn trong lòng lại vẫn cứ dâng lên không ngừng.

Hoắc Kinh Đường vươn tay ra, ngón tay cái đeo một chiến nhẫn ngọc ban chỉ, lòng bàn tay có rất nhiều vết chai sần, trên cổ tay còn cột thêm một chiếc khăn tay cũ trông rất quen mắt.

"Ta tới đón em rồi đây, tiểu lang à."

Lòng Triệu Bạch Ngư lại run rẩy, nóng bừng lên như phải bỏng, ngón tay đặt vào lòng bàn tay của Hoắc Kinh Đường giật lên một cái, y vô thức muốn lùi về đằng sau nhưng bàn tay lại bị người nọ nắm chặt lấy dắt đi về phía trước.

Tiểu lang, như cha như huynh gọi, cũng là để chỉ những chàng trai trẻ tuổi, ngoài ra còn có nghĩa là tiểu trượng phu.

==

Tác giả muốn nói:

Lão Hoắc: "Xúc xắc lung linh khảm đậu đỏ, tương tư khắc cốt người có hay."

Bé Cá: "Ta nào có nghĩ nhiều đến vậy, đây chỉ là chúc phúc cho mọi chuyện được như ý bình thường thôi mà." (*'꒳'*)

==

Chương 22

Trừ chủ viện ra, vị trí đắc địa nhất, diện tích rộng nhất chính là viện được chia cho Triệu Ngọc Tranh, có thể đem nó ra so sánh với kiến trúc của Tô Châu Viên Lâm, từng viên gạch từng miếng ngói, mỗi cành hoa cọng cỏ đều có thể góp thành một bức tranh nên thơ.

Đên đường đá nhỏ, Tạ thị cùng một đám người hầu nối theo nhau đi vào trong sân nhà, mới vừa đến gần đã nghe thấy tiếng đồ vật bằng sứ rơi vỡ giòn tan, nàng dừng chân, hỏi hai ma ma chăm sóc Triệu Ngọc Tranh xem đã xảy ra chuyện gì.

Ma ma khó xử đáp: "Từ sáng sớm Tứ lang đã bị âm thanh ở tiền viện đánh thức, trong lòng ấm ức nên không chịu uống thuốc."

Tạ thị: "Đi sắc chén thuốc khác cho ta, những người còn lại đều ra khỏi phòng cả đi, đừng ở gần Tứ lang."

Đi đến trước hiên nhà, chợt nghe thấy tiếng pháo nổ từ xa xa, Tạ thị đột ngột dừng bước, hỏi: "Đến đón dâu rồi sao?"

Ma ma sau lưng đáp lại, cho rằng Tạ thị sẽ dặn dò gì đó, nhưng một lúc lâu cũng không thấy nói gì bèn ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy Tạ thị đang đứng ngẩn ngơ, sắc mặt hốt hoảng.

Một lát sau, Triệu Ngọc Tranh chạy chân không đến, đứng trước cửa lớn tiếng gọi: "Mẹ!"

Tạ thị choàng tỉnh, đi tới trước mặt hắn: "Con bệnh thì đừng ra hóng gió, ngoan ngoãn uống thuốc đi, đừng gây khó dễ cho bọn họ nữa."

Triệu Ngọc Tranh ôm lấy cánh tay của Tạ thị nũng nịu: "Thuốc đắng quá, nhà trước thì ồn —— nhưng con không có ý trách Ngũ lang đâu. Đúng rồi, quà mừng chuẩn bị cho y đã đưa qua chưa?"

Người hầu đáp: "Sáng nay đã đưa sang rồi ạ."

Triệu Ngọc Tranh: "Mẹ, sao mẹ không đến đó nhìn một chút đi?"

Tạ thị vỗ vỗ tay hắn nói: "Ở đó không cần ta."

Triệu Ngọc Tranh vui vẻ dựa sát vào người Tạ thị làm nũng một lúc, nỗi bất an đột nhiên nảy sinh bởi vì vừa nãy thấy được Tạ thị cứ trông về phía viện của Triệu Bạch Ngư trong chớp nhoáng tan thành mây khói.

Tạ thị canh Triệu Ngọc Tranh uống thuốc, dỗ hắn ngủ xong mới vội quay về tiền viện chủ trì việc trong nhà, đứng từ xa đã nhìn thấy đội ngũ tân nhân* đi qua, phía trước có tướng sĩ dũng mãnh trong quân đội hộ tống, phía sau là đội tấu nhạc, tư nghi được phái từ trong cung tới, rồi đến của hồi môn, sính lễ bảy, tám người gánh xếp thành một hàng dài không thấy được điểm kết, mà tân nhân Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường đang đứng ngay vị trí nổi bật nhất trong đám người.

(*) Tân nhân: Cô dâu, chú rể, thường dùng để chỉ cô dâu

Tạ thị vừa nhìn thoáng đã thấy được Triệu Bạch Ngư, trước kia nàng không muốn gặp gỡ y nhiều, chỉ sợ rằng thấy được ở y hình bóng của Xương Bình công chúa rồi vì nỗi thù hận mà mất khống chế, chứ đừng nhắc đến chuyện nhìn thấy Triệu Bạch Ngư tóc buộc ngọc quan, mặc trên người áo cưới đỏ thẫm như thế này.

Hôm nay đã thấy, cảm giác quen thuộc kì lạ chợt ồ ạt dâng lên trong lòng, Tạ thị không nhịn được hỏi người sau lưng mình: "Ma ma nhìn Triệu Bạch Ngư xem, trông nó có giống với dáng vẻ của lão gia khi mặc giáng sa bào ngày mới vừa đề tên bảng vàng năm ấy không?"

Mắt của ma ma không tốt, nhìn kỹ mấy lần cũng chỉ thấy được đường nét không rõ ràng, lắc đầu nói: "Không giống lắm đâu. Từ rong bụng ả kia sinh ra làm sao có thể giống lão gia được? Ta nhìn thế nào cũng không thấy giống!"

"Thật không?"

Trong lòng Tạ thị vẫn còn do dự, đã đi xa rồi mà vẫn liên tục ngoái đầu nhìn lại.

Triệu Bạch Ngư mặc giáng sa bào thật sự giống với chồng nàng năm hai mươi tuổi, nàng không thể nào tả được rung chấn trong lồng ngực mình, chỉ lén lút giấu đi cảm xúc lạ thường này ở nơi đáy lòng.

***

Tư nghi trong cung muốn dùng kiệu để đón tân nhân nhưng Hoắc Kinh Đường lại dứt khoát bác bỏ, lúc này rất khó chịu khi phải đứng đợi giữa hai con ngựa, giương mắt nhìn thấy đôi tân nhân đang đi tới thì trở nên kinh ngạc.

Bà nhìn Lâm An tiểu quận vương lớn lên, phong thái lẫn dáng vẻ tất nhiên đứng nhất, qua quýt kết hôn lại còn lấy đàn ông làm vợ thật sự khiến người ta chẳng thể vừa lòng nổi, nếu như người đó là kỳ lân của Triệu phủ Triệu Ngọc Tranh thì còn đỡ, ấy vậy mà lại là con mắt cá Triệu Bạch Ngư này, nỗi bất mãn trong lòng tư nghi đã đạt đến đỉnh điểm.

Tuy nhiên ngay lúc này đây khi thấy người ngay trước mắt, bà mới biết mấy câu tiêu sái ổn định, sáng như ánh trăng không phải là câu khen khoa trương, lại chợt nhớ đến khoảng thời gian trước y còn đánh trống kêu oan để cứu ân sư, đủ thấy nhân phẩm đáng quý biết bao nhiêu, tảng đá nặng trong lòng bỗng chốc tiêu tan.

Tư nghi nở nụ cười, cao giọng nói: "Mời tân nhân lên ngựa!"

Hoắc Kinh Đường phóng người lên ngựa, nhìn xuống Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư cũng lưu loát leo lên lưng ngựa, nghe thấy giọng nói đầy ý cười của Hoắc Kinh Đường vang lên: "Kim tiên mỹ thiếu niên, khứ dược thanh thông mã." —— suýt chút nữa là mềm chân té ngựa.

(*) Dịch thơ: Chàng trai vịn yên ngựa, nhảy lên lưng tuấn mã (Sinh tra tử – Yến Cơ Đạo). Ý nghĩa của bài thơ này là Chàng trai trẻ anh tú tay vịn chiếc yên vàng, nhảy lên lưng con tuấn mã, tư thế uy vũ biết bao. Chàng trai đã ra đi, nhưng người đẹp nơi lầu ngọc lúc nào cũng mong nhớ đến chàng. (Internet)

Tân nhân lên ngựa, khúc nhạc mừng vang lên, pháo nổ rền vang, ngựa băng qua đường phố, hai bên là nhà ở san sát nhau, đội ngũ đón dâu đi qua đến đâu là có người đi ra xem náo nhiệt đến đó. Đi ngang qua Nha môn, Kỷ Hưng Bang và đồng liêu đã đứng sẵn trước cửa, trên mặt là nụ cười tươi rói. Cảnh tượng mấy trăm gánh hồi môn, sính lễ còn hoành tráng hơn cả mười dặm hồng trang, dân chúng trong Kinh Đô đều vây lại xem, châu đầu ghé tai nhau nhao nhao nói, đàn ông lấy đàn ông thôi mà làm đám cưới còn long trọng hơn con gái nhà người ta gả đi nữa.

Có người liền chen vào: "Lễ cưới của công chúa Xương Bình ngày xưa cũng không rầm rộ bằng ngày hôm nay đấy."

Mấy đứa con nít trong đám đông chui ra, tụ tập lại chờ tân nhân trên ngựa cao đi qua la hét chúc mừng, Tú ma ma và Nghiên Băng vội vàng rắc kẹo và tiền đồng cho chúng. Hoàng hôn dần buông xuống, đội ngũ đưa dâu đã vào đến Lâm An quận vương phủ, mọi người ở bên ngoài mới dần tản đi.

Cửa lớn quận vương phủ vừa đóng lại, đội tấu nhạc cũng ngừng chơi, trong phủ vắng vẻ không bóng khách, cao đường chỉ để một bài vị duy nhất, người đứng bên cạnh là một nho sĩ trung niên có bộ râu dài, ông mặc y phục xanh, bên ngoài choàng văn võ bào, có vẻ như là một nho tướng đã buông bút tòng quân.

Ông ấy là ai?

Triệu Bạch Ngư dùng ánh mắt ngờ vực nhìn Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường: "Ngươi hẳn cũng biết quan hệ của ta và cha không tốt đến vậy, ông ta cảm thấy mất mặt nên không có ý định đến. Bài vị là của mẹ ta, có người ở đây là được rồi, còn bên cạnh chính là nhị cữu cữu, ông và mẹ là thai long phượng, ngươi cứ gọi ông là nhị cữu như ta là được. Quận vương phủ vẫn luôn không mở cửa đón khách để tránh sinh hiềm nghi kết bè đảng, ngươi có để ý không?"

Triệu Bạch Ngư lắc đầu.

Khách mời nếu không phải kinh quan thì chỉ có thể là người của Ngũ hoàng tử, nói là đến dự lễ thực ra là để cười nhạo. Bọn họ không dám dây vào Hoắc Kinh Đường, vậy nên những lời châm chọc đó chỉ có thể rơi hết lên đầu Triệu Bạch Ngư.

Nhưng Hoắc Kinh Đường được Thánh thượng tin tưởng như vậy, sao lại sợ bị nghi ngờ?

Có lẽ lo rằng hắn sẽ bị châm chọc, cho nên mới hủy bỏ phần dự lễ.

Triệu Bạch Ngư không sợ bị cười nhạo, y chỉ đang tiếc nuối vì không có cơ hội thu hồng bao thôi.

"Đi nào."

Hoắc Kinh Đường ngửa tay, Triệu Bạch Ngư vươn tay đến ngay lập tức bị hắn nắm chặt lấy, hai người tay trong tay đi vào sảnh chính.

Phó quan cầm khăn lụa trùm đầu đứng phía sau muốn nói lại thôi, tư nghi ma ma nhịn xuống nỗi lòng muốn rầy hai tân nhân phải tuân thủ lễ nghi, lại thầm nghĩ, đến cả bệ hạ còn không làm gì tiểu quận vương được cơ mà.

"Giờ lành đã đến, mời tân nhân vào nhà —— " tư nghi ma ma lớn giọng nói: "Nhất bái thiên địa!"

Từ đầu đến giờ, Triệu Bạch Ngư vẫn luôn nghĩ rằng sẽ không ai coi trọng cuộc hôn nhân này, mặc dù y đã rung động bởi số lượng sính lễ mà Hoắc Kinh Đường đưa đến, nhận ra tuy lòng dạ hắn có thay đổi đôi chút nhưng vẫn không hề nghiêm túc đối đãi.

Nào ngờ từ rước dâu đến bái thiên địa, cả một quy trình không thiếu sót chỗ nào cho thấy không giống như là đang đùa giỡn, chứng tỏ người ấy rất tôn trọng y, tôn trọng cuộc hôn nhân giữa hai người đàn ông này.

"Tái bái cao đường!"

Triệu Bạch Ngư kính trọng bái lạy bài vị mẹ của Hoắc Kinh Đường, lúc đứng dậy thì được nhị cữu đỡ lên.

Thôi nhị cửu dường như rất hài lòng với y, ánh mắt tràn ngập ngợi khen: "Con ngoan, từ nay về sau là người một nhà rồi." Sau đó ông lấy một miếng ngọc kỳ lân trong đai lưng nhét vào trong tay Triệu Bạch Ngư: "Tiểu bối Thôi gia chúng ta mỗi đứa đều có một miếng ngọc kỳ lân, sau này ở ngoài nếu gặp phải phiền toái gì, con có thể cầm nó đến tìm phủ cựu trấn quốc công."

Hoắc Kinh Đường: "..."

Hoắc Kinh Đường: "Nhị cữu, cháu ngài còn chưa bái đường xong đâu."

Thôi nhị cữu vỗ đầu một cái, ngượng ngùng cười ha hả: "Tiếp đi, mấy đứa cứ tiếp tục đi."

"Phu thê đối bái!"

Không có khách mời nào ngồi đây, nhưng phải xem trọng tư nghi ma ma thay mặt cho Nguyên Thú đế. Không có cha, nhưng có bài vị của mẹ, còn có cữu cữu tự mình đến tham dự.

Tất thảy mọi sự kính trọng cần có đều được thể hiện, thậm chí vượt qua cả mong đợi của Triệu Bạch Ngư.

Là do Hoắc Kinh Đường tưởng thật, hay là chỉ làm cho Nguyên Thú đế xem? Hoặc chỉ đơn giản là cảm thấy thẹn với y, muốn tôn trọng cũng như cho y chút thể diện.

Triệu Bạch Ngư sững sờ, bị tư nghi ma ma nhắc nhở: "Triệu ngũ lang, đến lượt phu thê đối bái rồi!"

Triệu Bạch Ngư vô thức nhìn Hoắc Kinh Đường, bắt gặp đôi con ngươi lưu ly ánh vàng, ánh mắt trầm tĩnh dịu dàng của hắn khiến cho tâm tư rối bời của y được trấn tĩnh lại một chút.

Y không cảm thấy xa lạ gì với tập tục cưới hỏi của thời xưa, trước kia chỉ là người đứng xem, chưa từng đích thân trải nghiệm cảm giác lạy trời đất, lạy cao đường, cũng chưa từng tỏ rõ ý kiến về việc phải chiêu cáo trời đất quỷ thần từ nay về sau kết làm phu thê một đời, nhưng khi y trở thành tân nhân, tự thân trải qua hết những việc đó mới biết kèm theo kết thúc quá trình thành hôn chính là sự biến hóa lặng lẽ không thể khống chế được của trái tim.

Quỳ xuống đất, dập đầu, Triệu Bạch Ngư nhẹ nhàng tiếp xúc với mặt đất lạnh như băng.

Quỳ xuống dập đầu một lần, nghĩa là Hoắc Kinh Đường đã trở thành người duy nhất trên cõi đời này cùng sống cùng đi, cùng hòm cùng mộ với y.

"Đưa vào phòng tân hôn —— "

Lời chúc rơi như mưa, tân nhân vào động phòng.

Yên ngựa được đặt trước bậc cửa phòng tân hôn, trên cửa dán câu đối, cửa sổ dán chữ song hỷ, trong phòng được đốt đèn trường mệnh cháy suốt đêm không tắt, mặt tường đối diện cửa treo một bộ cung tên, phía dưới là bàn bát tiên, hai chiếc ghế Thái sư, trên bàn bày hai cây nến lớn, dưa và táo đỏ. Đi sâu vào bên trái chính là giường nhỏ, còn bên phải là một chiếc giường thấp, bên cạnh lại là hai ghế Thái sư, cách bày trí tương đối đơn giản.

Triệu Bạch Ngư bước qua yên ngựa, được toàn phúc nhân dẫn về phía giường nhỏ, sau đó xếp vạt áo của y và Hoắc Kinh Đường chồng lên nhau, nói vài lời chúc phúc để kết thúc rồi mới dẫn người lui ra, trước khi đi còn dập tắt hết các loại ánh sáng khác chỉ chừa hai ngọn đèn trường mệnh ở trên bàn.

Ngoài viện có người hầu và binh lính canh giữ, trong viện cũng có nha hoàn trực đêm, tuy nhiên không ai dám tới náo động phòng, chủ viện yên ắng đến mức có thể nghe thấy tiếng côn trùng kêu râm ran.

Triệu Bạch Ngư cứ nhìn chằm chằm vào mu bàn tay, lúc này mới thật sự bắt đầu căng thẳng, tim đập như đánh trận muốn nhảy lên đến cổ họng, hoảng đến mức hai quả thận cũng co rút, cố gắng nhớ lại các bước cần làm trong đêm tân hôn.

Cởi quần áo, mặt đối mặt, da kề da trôi qua đêm dài, đó được gọi là cá nước vui vầy.

Cụ thể thì sao? Quá trình thì sao?

Dù gì đi nữa thì đời trước Triệu Bạch Ngư cũng từng trải qua tiết học sinh lý, biết rõ đàn ông và phụ nữ sẽ làm gì, nhưng còn hai người đàn ông thì sao? Y không biết, Hoắc Kinh Đường có biết không?

Vạt áo đột nhiên bị giật một cái, Triệu Bạch Ngư bị dọa giật mình, phản ứng đầu tiên là nghiêng đầu nhìn thử, vừa vặn chạm phải tầm mắt của Hoắc Kinh Đường, bỗng dưng cả người cứng ngắc nên vội vàng quay mặt đi không dám nhúc nhích nữa.

Hồi lâu mới nghe thấy giọng nói lười biếng của Hoắc Kinh Đường cất lên: "Chưa từng xem bí hí đồ* sao?

(*) Là tranh sếch đó =))))

Da đầu Triệu Bạch Ngư tê dại, rụt vai đáp: "Chưa."

Trong nháy mắt cảm giác bả vai bị một bàn tay nắm lấy hơi ấn mạnh vào, bả vai đang co lại bị đẩy ra, lưng Triệu Bạch Ngư lại không kiểm soát được ưỡn thẳng lên, bàn tay nọ thuận thế trượt xuống, vỗ một cái lên lưng y, sau đó lò dò lên trên nắn nắn cần cổ, y nghe thấy giọng nói pha trò của Hoắc Kinh Đường: "Thả lỏng đi, ta cũng đâu có ăn thịt ngươi... Xương cổ cứng quá."

Triệu Bạch Ngư: "Bình thường bận rộn công vụ, không để ý lắm."

Y cố gắng khiến cho lời nói của mình trở nên bình thường, xua đuổi bớt sự mập mờ dù chỉ là thoáng qua.

Hoắc Kinh Đường ngâm nga cười một tiếng, da đầu Triệu Bạch Ngư lại tê dại, xương sống mềm nhũn không rõ vì sao. Đột nhiên tay áo nhẹ tung lên, làn gió nhẹ sượt qua mang theo mùi đàn hương nhàn nhạt lả lướt trước mũi, lẫn vào đó là vị thuốc bắc không dễ nhận ra, Triệu Bạch Ngư hoàn hồn, chớp mắt nhìn thấy một cái muôi bầu, bên trong chứa xâm xấp rượu hợp cẩn (*).

(*) Lễ hợp cẩn: Bổ quả bầu làm đôi, cô dâu chú rể mỗi người cầm một nửa rót rượu mời nhau trong lễ thành hôn

Trên tay cầm của muôi bầu xỏ một sợi đây đỏ, nối với tay cầm của một cái muôi bầu khác đang nằm trên bàn tay có khớp xương rõ ràng, trên cổ tay rũ xuống một đoạn khăn tay mềm mại.

"Lại ngẩn người rồi?"

Triệu Bạch Ngư bình tĩnh lại, nhìn về phía Hoắc Kinh Đường: "Muốn uống rượu hả?"

"Rượu hợp cẩn." Trên môi Hoắc Kinh Đường treo nụ cười, con ngươi màu lưu ly phản chiếu Triệu Bạch Ngư, tay nâng muôi bầu lên ra hiệu cho Triệu Bạch Ngư: "Uống cạn một muôi, kết tình phu thê."

Nói xong liền uống cạn muôi rượu, Triệu Bạch Ngư cũng vội vàng uống theo, sau đó nghe thấy hắn nói: "Từ nay về sau, ngươi và ta phu thê một thể, hoạn nạn có nhau."

Triệu Bạch Ngư gật đầu nhưng cảm giác có chỗ là lạ.

Hoắc Kinh Đường trầm ngâm chốc lát rồi lại nói: "Hoạn nạn có nhau không được, nghe cứ như sau này phải chịu khổ sở vậy. Đổi lại thành phu thê một thể, có phúc cùng hưởng đi."

Triệu Bạch Ngư vẫn cảm thấy lại, cau mày nghiêm túc đề nghị: "Phải đổi thành phu phu một thể chứ nhỉ?"

Hoắc Kinh Đường lấy muôi bầu lại rồi ném đi, muôi bầu vững vàng bay về chỗ cũ. Hắn ngồi xuống giường nhỏ, tựa lưng vào trụ giường nói: "Tiểu lang thích ứng với thân phận tiểu phu quân nhanh vậy, ta vui lắm."

Mặt Triệu Bạch Ngư nóng bừng lên, cũng không biết là vì câu trêu ghẹo này hay là vì rượu, rốt cuộc cũng gom đủ dũng khí liếc Hoắc Kinh Đường: "Ngài nói gì nghe như lưu manh thế?"

Trên người y là giáng sa bào mới tinh, nghiêm chỉnh ngồi sát mép giường cưới của tân nhân, ngoan ngoãn đặt hai tay trên đùi, do có thoa ít son nên dưới ánh nến càng tôn lên khuôn mặt xinh đẹp, ánh mắt thoáng qua chút giận dỗi, miệng khép mở than phiền giống hệt nàng dâu đang oán trách người chồng tham rượu lạnh nhạt với mình vậy.

Sắc vàng trong mắt Hoắc Kinh Đường tối thành màu nâu sậm nhìn chằm chằm Triệu Bạch Ngư, rồi hắn chợt vươn tay rút trâm ngọc, tháo ngọc quan trên đỉnh đầu Triệu Bạch Ngư ra, mái tóc dài mềm mại đen nhánh xõa dài đến thắt lưng, vài lọn tóc rơi bên tai phác họa gò má, đôi mắt hơi tròn bình thường vẫn luôn rũ xuống tỏ vẻ nhún nhường giờ đây vì hoảng sợ mà hoàn toàn mở to, lại có hơi vô tội như ánh mắt đứa con nít, không thể nhìn ra được đây chính là Thiếu doãn Kinh đô sấm rền gió cuốn chuyên quản chuyện dùng hình kiện tụng.

"Say rồi sao?"

Triệu Bạch Ngư nhếch môi: "Nào có." Y uống rượu dễ đỏ mặt nhưng ngàn chén không say, lúc này đầu óc vẫn còn tỉnh táo, nhưng cũng không tỉnh lắm, y biết rõ nguyên nhân không phải do rượu.

"Ngài cho là thật ư?"

"Cái gì thật?" Hoắc Kinh Đường quấn lấy lọn tóc rơi trên vai của Triệu Bạch Ngư chơi đùa.

"Ngài thật lòng cưới ta, thật sự muốn cùng ta kết làm người yêu một đời, chứ không phải là bị Thánh chỉ ép buộc, chờ đến một hai năm sẽ tìm lý do để hòa ly hay sao?"

"Hoắc Kinh Đường ta không sợ bất cứ thứ gì, có chết cũng trung thành, sẽ không lấy hôn sự ra làm trò đùa." Hoắc Kinh Đường rũ mắt, trong ánh mắt không hề có ý cười cợt không đứng đắn mà hoàn toàn là tấm chân tình: "Triệu Bạch Ngư, Hoắc Kinh Đường quỳ một ngày một đêm ở Văn Đức Điện, cầu bệ hạ ban cho tư nghi ma ma, hôm nay cùng ngươi đi khắp đường phố Kinh đô, bái thiên địa, lạy bài vị mẹ ruột, chiêu cáo thiên địa quỷ thần cùng ngươi, không phải là đang làm trò cho người khác xem."

Bàn tay đang nghịch tóc vươn tới nắm lấy cằm Triệu Bạch Ngư, ngón tay chai sần cọ vào da thịt khiến cho nó ngứa ngáy.

"Trên đời này không có ai xứng đáng để cho bổn vương tự mình diễn kịch chọc cười họ." Hoắc Kinh Đường cúi người nhìn thẳng vào mắt Triệu Bạch Ngư: "Ta biết ngươi lo lắng, ngại vì là Thánh chỉ nên không dám phản kháng, chỉ có thể chấp nhận bị sắp xếp gả cho ta, nhưng ta sẽ cho ngươi một cơ hội để lựa chọn. Bây giờ nói cho ta biết ngươi có muốn chấp nhận ta trở thành chồng ngươi hay không? Nếu như từ chối, đêm nay ta ngủ trên giường nhỏ, sau này sẽ ngủ ở thư phòng, đợi một hai năm nữa sẽ viết giấy hòa ly đưa cho ngươi, để ngươi được tự do."

Triệu Bạch Ngư không thay đổi sắc mặt, chỉ có thể nhìn ra nội tâm không giữ nổi bình tĩnh từ hàng mi run rẩy không ngừng.

"Ngược lại, nếu ngươi lựa chọn ta làm chồng, ta cũng sẽ xem ngươi là tiểu phu quân của ta, sẽ tôn trọng ngươi, cho ngươi niềm vui và tình yêu vợ chồng. Ta trước hết là chồng của ngươi, lấy điều kiện "ta là chồng ngươi" làm tiên quyết, nếu như ngươi cần thì cũng có thể xem ta như cha, như huynh trưởng, như tri kỷ, tùy ý ngươi chọn lựa."

"Ta không thể đảm bảo sự sống chết của ngươi, nhưng có thể chắc chắn rằng, khi nào ta vẫn còn sống thì sẽ không bao giờ buông tay trước."

Phu quân như cha, như huynh, như tri kỷ, dành cho y vô vàn thiếu hụt, kể cả những khát vọng tình cảm vẫn luôn giấu kín, có thể động lòng hay không?

Rời bỏ đời người cô độc, tạm biệt cuộc đời không khác gì dừng chân quán trọ để rồi chợt nhận được lời đảm bảo, khi nào còn sống thì sẽ không buông tay, bên nhau đến bạc đầu, ngươi có thể động lòng hay không?

Triệu Bạch Ngư thừa nhận y rung động, tim đập như đánh trống, câu đồng ý muốn lao ra khỏi cổ họng nhưng y vẫn do dự, chần chừ không lên tiếng.

Y sợ rằng sức nặng của tình tiết truyện quá mạnh sẽ không thể nào thay đổi cái chết trong tương lai.

Trong vụ quyền biến đầu tiên của nguyên tác, Thái tử nhờ có Triệu Ngọc Tranh nhắc nhở mà thoát được một kiếp, loại bỏ được

thế lực của Tần vương, mặc dù khiến cho bọn chúng sa sút nhưng cũng chỉ là bị cách chức tới đất phong, không đến nỗi bị đẩy đến mức vây cấm.

Còn về việc Hoắc Kinh Đường "cưới" Triệu Bạch Ngư, thì trong nguyên tác không miêu tả phần bọn họ lui tới trước khi thành thân, không có cả phần Triệu Bạch Ngư kêu oan cứu ân sư, cho nên không biết chuyện này có thể khiến nội dung chính bị thay đổi hay không, cũng không biết nội dung không liên quan đến nhân vật chính có thể tùy ý thay đổi được hay không?

Cái chết của nam phụ độc ác thuộc một trong những nội dung chính, nhưng nếu không có phần đó, liệu y có thể mặc sức tận hưởng tình yêu và được yêu hay không? Có thể nào không phải cô đơn đối mặt với kết cục là cái chết hay không?

Bản thân y có xứng đáng nhận được tình yêu trước khi không còn trên thế giới này nữa hay không?

Cám dỗ kia quá lớn, Triệu Bạch Ngư không thể nào thẳng thừng từ chối được.

Thấy y cứ im lặng mãi không trả lời, Hoắc Kinh Đường chậm rãi thu tay về, cơ thể cũng nhích ra, mùi đàn hương đã nhạt dường như cũng đi theo hắn trở về.

Trái tim Triệu Bạch Ngư như bị siết chặt, y biết Hoắc Kinh Đường nói được làm được, một khi lên tiếng từ chối, quan hệ giữa bọn họ nhất định sẽ giống hệt như nguyên tác miêu tả: bằng mặt không bằng lòng.

Chưa kịp suy nghĩ xong, Triệu Bạch Ngư dần lấy lại tinh thần mới phát hiện bàn tay mình đang nắm chặt ngón tay cái của Hoắc Kinh Đường, nơi da kề da như bị ngọn lửa đốt nóng bừng, nóng đến mức không muốn buông tay.

Đời trước lẫn đời này đều chưa từng trải nghiệm tình yêu, lúc này đây có cơ hội yêu và được yêu, hà cớ gì lại không thêm nó vào những điều mong mỏi trước khi chết đi, gặp phải cũng không được để vụt mất?

Triệu Bạch Ngư giương mắt nhìn lên, Triệu Bạch Ngư nhẹ giọng khẳng định: "Ta nguyện ý."

Hoắc Kinh Đường hỏi ngược lại: "Nguyện ý cái gì?"

Triệu Bạch Ngư run rẩy đáp: "Ta nguyện ý chấp nhận ngươi làm —— chồng ta!"

Hoắc Kinh Đường: "Đêm tân hôn, động phòng hoa chúc, ngươi biết cái này có nghĩa là gì không?"

Hoan ái trên tầng mây cao vút, tóc mai quấn quít bên nhau, là lúc đôi vợ chồng có quyền được hưởng thụ niềm vui ân ái.

Triệu Bạch Ngư đáp lại rất nhỏ: "Biết."

Hoắc Kinh Đường cẩn thận nhìn y, ngón tay động đậy xoa lên gáy Triệu Bạch Ngư, trấn an trái tim hốt hoảng loạn nhịp của y, sau đó vuốt ve dái tai Triệu Bạch Ngư rồi lướt nhẹ qua tóc mai, dịu dàng cẩn thận từng bước một: "Thả lỏng đi, có thể chịu được không?"

Ngón tay Triệu Bạch Ngư co lại chạm lên ngực, nhanh chóng buông xuống, nghĩ ngợi một chút mới đáp: "Cũng được."

Không khó để chấp nhận, chỉ là Hoắc Kinh Đường có thể được không?

Y lặng lẽ nhìn hắn, đối phương rất cao, có lẽ tầm trên mét tám vậy mà tỷ lệ vẫn hoàn hảo, tay chân cũng dài, vòng hông gầy được y phục ôm sát lại, bình thường cũng không để lộ xương quai xanh, có lẽ là do thời gian cổ độc tồn tại trong cơ thể quá lâu khiến cho vóc người không còn cường tráng như xưa nữa mà trở nên đơn bạc, mạch máu trên mu bàn tay rõ ràng, xương ngón tay và cổ tay cũng rắn chắc, vô cùng sắc bén giống như có thể dễ dàng gây tổn thương cho người khác. Những lúc hắn ngồi im không lên tiếng trái lại mang đến cảm giác mỹ nhân bệnh tật, nhưng Triệu Bạch Ngư biết lực sát thương của Hoắc Kinh Đường không nhỏ chút nào.

Dù sao cũng là tướng quân thường thắng kiêu dũng thiện chiến, thuyền hư cũng còn ba tấc đinh mà phải không?

"Tiểu lang, giúp ta tháo mặt nạ xuống nào."

Triệu Bạch Ngư giật mình nhận ra, y chưa bao giờ nhìn thấy khuôn mặt bên dưới mặt nạ của Hoắc Kinh Đường, có lẽ là vì có người trời sinh đã có sẵn một lớp không khí mỹ nhân bao quanh rồi chăng?

"Sao ngươi lại có biệt hiệu là Tu La tướng quân thế?"

"Mấy năm trước đánh một trận với Nam Cương, sau khi trúng cổ thì da thịt bị thối rữa, lúc hồi kinh giao binh quyền, Triệu Ngọc Tranh bắt gặp ta ở trong cung, hắn bị dọa nên cứ tưởng mình thấy quỷ, sau nữa thì có tin đồn ta hủy dung xấu xí như ác quỷ được truyền ra ngoài." Hoắc Kinh Đường vậy mà lại hơi tiếc nuối: "Cũng may chưa hù hắn sợ chết."

Triệu Bạch Ngư bật cười, vươn tay ra tháo mặt nạ xuống, nụ cười đông cứng trong chớp mắt rồi dần dần biến mất, hoàn toàn bị sự ngạc nhiên bao phủ.

"Tiểu lang có hài lòng không?"

Triệu Bạch Ngư tránh né đôi mắt kia, nhanh chóng điều chỉnh tâm trạng, xong xuôi dùng ánh mắt tán thưởng và yêu thích nhìn Hoắc Kinh Đường, cúi đầu mỉm cười: "Phu quân mạo mỹ, tiểu lang hài lòng."

Vừa dứt lời cả người đã bị kéo ngã vào trong chăn đệm mềm mại, trước mắt tối sầm lại, màn đỏ lả lướt rơi xuống, chỉ còn lại ánh nến vẫn đang lập lòe cháy sáng ở bên ngoài.

Không lâu sao, giáng sa bào, áo lót trong ngoài và đai lưng đã cởi ra cùng lúc bị ném ra khỏi giường, gió lạnh ban đêm hiu hiu lướt qua màn đỏ, phất bay tầng tầng gợn sóng.

Mặt nước, ánh trăng hòa với bóng cây, nến đỏ đổ lệ, côn trùng cũng dần im hơi lặng tiếng, cái chiêng ngoài phủ đã báo qua canh ba, đã là lần thứ ba trong phòng truyền ra tiếng gọi người mang nước vào, thật là khiến người ta xấu hổ đỏ mặt.

***

Trước cửa quận vương phủ, Ngũ hoàng tử xanh lét mặt mày, trợn mắt nhìn lán trúc dựng đằng trước, bên trong kê ba cái bàn dài, mỗi toán trưởng ngồi một bàn, sau lưng họ chính là quản gia của quận vương phủ đang chỉ đạo.

"Gần đây họa kết bè đảng rất nghiêm trọng, tiểu quận vương của chúng ta sợ bị dính líu, thứ cho chúng ta không mở cửa đón khách, chư vị đại nhân đến bằng tâm ý là được, không cần phải vào trong."

Lúc nói chuyện, quản gia tươi cười, vẻ mặt ôn hòa, đến nỗi mấy thành phần căn bản không muốn đến dự lễ, cùng với mấy lão nho hay mắng đồi phong bại tục cũng thở phào một hơi, mừng vì không cần phải vào xem hai người đàn ông bái đường thành thân, đang chuẩn bị phất tay áo rời đi thì nghe quản gia lạnh giọng lên tiếng, nụ cười cũng đã thu lại: "Vị đại nhân nào tặng quà thi ghi giấy đỏ, vị nào không tặng thì ghi giấy xanh. Bệ hạ ban hôn, có Thánh chỉ ngự bút, còn có tư nghi ma ma trong cung đến tham gia, để xem coi đại nhân nhà nào không để lọt vào mắt!"

"!"

Mẹ nó! Người của Lâm An quận vương phủ cũng không biết xấu hổ y hệt như Lâm An quận vương sao?

Cái đám người Tây Bắc man rợ đáng chết này!

Ngũ hoàng tử bị Triệu Bạch Ngư trêu đùa chưa đủ, lại được y nhắc nhở nhớ phải tặng quà hôm nay thật sự đến tay không, gã chỉ muốn chỉ mặt chế giễu Triệu Bạch Ngư, phải cười cho y mất hết mặt mũi mới được mà thôi!

Nào ngờ ra trận chưa kịp thắng đã bị bóp chết!

Tên Hoắc Kinh Đường ngang ngược kia thế mà lại từ chối khách ư? Từ chối cũng được thôi, sao lại còn thu quà?!

Trên đời làm gì có chuyện tốt như đã không bày tiệc rượu còn bắt người ta đưa tiền mừng chứ? Ai lại đi làm cái chuyện bẽ mặt thế này? Hắn không sợ sau này sẽ không qua lại được với quan viên ở Kinh đô hay sao?

"..."

Nói thế thôi chứ Hoắc Kinh Đường thật sự làm được đấy, vì hắn vốn đã xem thường người làm quan ở trong Kinh, chỉ cần lấy lòng phụ hoàng một chút là đã thuận lợi đủ đường, vậy mà phụ hoàng vẫn chịu đựng được cái kẻ trực thần lừa bịp này!

Một người trong số ba toán trưởng nói: "Thôi quản gia, ngài xem Ngũ hoàng tử tuy không đưa quà nhưng người tới thẳng đây, có phải cũng ghi vào giấy xanh không?"

Thôi quản gia trách: "Im ngay! Ngươi bị ngu à! Ngũ hoàng tử có quan hệ thế nào với lão gia của chúng ta? Có thể dùng tiêu chuẩn tầm thường đế xem xét sao?" Nói rồi vội cười xòa nói: "Hạ nhân không biết điều, xúc phạm đến điện hạ, thật sự xin lỗi. Điện hạ không cần phải tặng quà, ngài đích thân đây rồi quận vương phủ chúng ta tất nhiên sẽ hoan nghênh."

Ngũ hoàng tử không vui nói: "Vậy thì mở cửa cho ta vào phủ."

Thôi quản gia do dự, nhìn trái nhìn phải rồi lại gần nhỏ giọng nói: "Không phải tiểu nhân không cho, mà thật sự là lão gia dặn dò phải thận trọng trước họa, nhất định không được hé cửa cho bè đảng vào nhà. Hôn nhân của quận vương là bệ hạ ban cho, ngài ấy làm gì, trong yến tiệc xảy ra chuyện gì, Thánh nhân ở trên đều nhìn thấy hết cả."

Ngũ hoàng tử kinh hãi, mặt biến sắc ngay, vô thức nhìn về hướng Văn Đức điện, chợt quay lại mắng Thôi quản gia: "Láo xược!"

Thôi quản gia lập tức lui về phía sau, cúi đầu nhận tội.

Ngũ hoàng tử không thể không thừa nhận Hoắc Kinh Đường lo lắng là có lý, nhưng gã quá mất mặt bèn tức giận phất tay áo bỏ đi, nào ngờ toán trưởng tiên sinh không có mắt vẫn cứ oang oang la lên: "Đi rồi hả? Vậy là ghi giấy đỏ nhỉ... Nhưng không đưa quà thì làm sao ghi?"

"Ghi là lưỡng tụ thanh phong đi."

(*) Lưỡng tụ thanh phong - 两袖清风 vốn chỉ trong hai ống tay áo ngoài gió ra thì không còn có thứ gì khác.

" —— !"

Ngũ hoàng tử vọt trở lại trước bàn của toán trưởng, rầm một tiếng đặt xuống bàn một xấp ngân phiếu và một khối ngọc bội, cắn răng gằn từ chữ: "Tặng! Quà!"

Toán trưởng tiên sinh liếc mắt: "Ghi, Ngũ hoàng tử tặng ngân phiếu hai trăm lượng, một khối ngọc bích thượng phẩm."

Người ngoài ghé mắt vào xem, ngạc nhiên, hình như Ngũ hoàng tử có hơi keo kiệt thì phải.

Ngũ hoàng tử: "..."

Mẹ nó, sớm muộn gì ông đây cũng sẽ san bằng cái phủ này!

==

Chương 23

Chim hót líu lo, ánh nắng xuyên qua cửa số chiếu vào màn đỏ sáng rực một vùng.

Lông mi Triệu Bạch Ngư run run, nhíu mày vùi mặt vào trong chăn, một lát sau ý thức mới trở về, từng mảnh kí ức vụn vặt thoáng qua, hình ảnh giường chăn đỏ thẫm bị mồ hôi thấm ướt dần cuộn trào như sóng trong đầu.

Trời đất đảo điên, hơi thở quanh quẩn bên tai tựa màn sương ẩm ướt mịt mờ, hòa với mùi đàn hương lẫn với thuốc bắc vẫn còn nồng đậm, trong bóng tối có ánh nến lay lắt, chớp nhoáng lại bắt gặp khao khát cuồn cuộn trong đôi mắt màu lưu ly, vừa từ bi lại vô tình, giống hệt như vị Bồ Tát sa đọa từ ba mươi ba tầng trời xuống biển hồng trần vô biên.

Cửa phòng bị đẩy ra kêu két một tiếng, Hoắc Kinh Đường ném roi ô kim lên bàn, tay trái tháo đai lưng, cởi áo bào ra rồi đi vào phía trong, hắn vén màn ngồi xuống mép giường, vươn tay thử nhiệt độ trên trán Triệu Bạch Ngư, bàn tay dường như to bằng nửa trên khuôn mặt, lúc y kéo cong khóe môi cười có thể thấy được hàm răng trắng đều.

Thân thể dưới chăn chỉ mặc một lớp trung y, vạt áo mở rộng lộ ra cần cổ và xương quai xanh, dấu đỏ nở bừng lan tràn xuống bên dưới, không cần vén chăn lên cũng biết bên trong còn dày đặc hơn thế nữa.

"Không có sốt."

Triệu Bạch Ngư rũ mắt, ỉu xìu đáp bằng giọng mũi: "Ừm." Y nằm trên gối, mí mắt cứ muốn sụp xuống, tóc đen xõa tán loạn ở đầu vai lẫn sau lưng, nếu vén qua thì sẽ thấy được cảnh tượng dấu hôn, vết cắn chằng chịt sau lưng, tất cả đều là tác phẩm của Hoắc Kinh Đường.

"Ngươi chạy đi đâu vậy?" Ngó roi ô kim trên bàn cùng với trang phục chỉnh tề của Hoắc Kinh Đường, trên trán và cánh tay đều có một lớp mồ hôi mỏng, mùi đàn hương và thuốc bắc trên người cũng nồng hơn, Triệu Bạch Ngư không thể tưởng tượng nổi, khàn giọng hỏi: "Mới sáng sớm đã đi luyện võ —— sao còn nhiều sức thế?"

Y cảm giác như từ cần cổ trở xuống đều không thuộc về mình nữa rồi, sao người thật sự làm hết mình thì tinh thần lại phấn chấn thế kia?

Hoắc Kinh Đường mỉm cười nhìn Triệu Bạch Ngư, xoa bóp sau lưng cho y: "Xương cốt của ngươi kém quá, đổi động tác một chút là chân vọp bẻ, eo vọp bẻ —— đời này ta chưa từng thấy ai bị vọp bẻ eo, ngươi đã khiến ta mở mang tầm mắt rồi."

Triệu Bạch Ngư thoải mái híp mắt, mất hứng phản bác: "Người bình thường không tập võ cũng đâu làm được động tác quá khó, huống chi ta là người làm việc công, cả ngày lẫn đêm ngồi phê văn sao có thể không mắc bệnh văn phòng* chứ?"

(*) Chỗ này bé Cá dùng từ hiện đại: Bệnh văn phòng hay hội chứng bệnh văn phòng (SBS) là thuật ngữ chỉ về các loại bệnh tật khác nhau có nguyên nhân từ những điều kiện và môi trường làm việc ở văn phòng, cao ốc và những công việc liên quan đến lao động đặc thù tại văn phòng. Đối tượng đặc thù của loại bệnh này chính là những nhân viên văn phòng thường xuyên tiếp xúc và làm việc với máy vi tính, giấy tờ, hồ sơ... với hoạt động lao động trí óc, có nhiều mối quan hệ công tác đa dạng, phức tạp, cường độ làm việc cao, áp lực công việc lớn, tình trạng va chạm, căng thẳng trong công tác nhiều, công việc thường không có giờ giấc cố định.

Mặc dù không biết từ "bệnh văn phòng" có nghĩa là gì nhưng cũng có thể dựa theo từ ngữ đoán ra ý, Hoắc Kinh Đường không tỏ rõ ý kiến: "Sau này theo ta học Ngũ Cầm Hí*, cần kiên trì tập luyện, nếu không mấy năm nữa người ngươi sẽ sinh cả đống bệnh cho xem. Nếu như còn muốn tiếp tục làm quan thì phải rèn luyện thân thể."

(*) Ngũ Cầm Hí (五禽戲), tập luyện dựa theo động tác của năm loài vật: hổ, hươu, gấu, khỉ và chim của Hoa Đà.

"Vậy thì liên quan gì đến làm quan?"

"Nếu như bị điều ra ngoài tỉnh làm quan, ít nhiều cũng phải bôn ba đường sá ba bốn ngày trời, ngươi chịu đựng được không?" Hoắc Kinh Đường vỗ mông Triệu Bạch Ngư một cái: "Dậy ăn chút gì đi."

Triệu Bạch Ngư gãi đầu ngồi dậy, phát hiện y phục đều bị gom đi cả rồi, nghiêng đầu nhìn thấy Hoắc Kinh Đường vỗ tay ba cái, một hàng tỳ nữ và hai tên thái giám chia nhau bưng chậu nước, khăn lông, các vật phẩm khác và y phục bước vào, một trong số những người đó có khuôn mặt rất quen thuộc, y nhớ mang máng là tỳ nữ đêm qua được gọi vào thay giường và chậu nước.

Ăn mặc ở trong gia đình quan lại đều có người hầu hạ, dù Triệu Bá Ung và Tạ thị chưa bao giờ quá nuông chiều con cái cũng sẽ sắp xếp mấy người hậu thân cận trong viện của các lang quân, đến cả Triệu Bạch Ngư còn có Tú ma ma kia mà.

Có điều Triệu Bạch Ngư đã quen với việc tự mình sửa soạn mọi thứ rồi.

Hoắc Kinh Đường thay bào phục, lúc đưa tay đòi đai lưng bỗng có một tỳ nữ dung mạo xinh đẹp tiến lên hai bước, to gan hỏi: "Quận vương điện hạ, để nô tỳ đeo cho ngài."

Động tác rửa mặt của Triệu Bạch Ngư ngừng lại, ngẩng đầu nhìn lên thấy tỳ nữ thẹn thùng nhìn Hoắc Kinh Đường, người hầu bên cạnh thì cúi đầu chuyên tâm làm việc, giả vờ như không thấy gì hết.

Hoắc Kinh Đường chỉ liếc một cái, tỳ nữ đã tránh né ngay, sau đó hắn chẳng nói gì nữa, cầm đai lưng thắt lại, hiển nhiên bình thường đã quen với việc không cần người khác hầu hạ mặc y phục.

Hành quân đánh giặc nhiều năm, từ một tên lính quèn đi lên, ai mà lại đi nuông chiều hắn đến mức cho hắn mang theo tỳ nữ thái giám vào quân doanh phục vụ cuộc sống thường ngày.

Trong nháy mắt biểu cảm của tỳ nữ đã trông như sắp khóc, hốc mắt đỏ au, tủi thân không yên xoắn khăn tay lùi về vị trí cũ.

Động tác của Hoắc Kinh Đường rất nhanh, Triệu Bạch Ngư cũng không tỏ ra khó chịu, mặc y phục đơn giản nhẹ nhàng, rửa mặt xong liền cùng hắn đến tiền viện ăn sáng. Hai ba người hầu cũng rời đi theo, chỉ còn lại người quét dọn trong nhà và ngoài sân, suốt cả buổi chẳng ai thèm ngó ngàng đến ả tỳ nữ vừa quyến rũ chủ nhân.

Tỳ nữ dậm chân, siết chặt lấy khăn tay bất bình: "Đắc ý gì chứ? Một tên đàn ông nằm dưới người khác mà cũng không biết xấu hổ!" Quận vương rồi sẽ cần người nối dõi tông đường, trước mắt cũng chỉ là vì thấy mới mẻ nên chơi cho vui thôi, kiểu gì cũng quay đầu phát hiện còn biết bao nhiêu phụ nữ tốt, đến lúc đó ả sẽ trở thành di nương, trắc phi, để xem coi đám nô tài không có mắt này còn dám coi thường người khác hay không!

Phải nói trước khi ả được đưa vào quận vương phủ, nghe nói Lâm An quận vương có biệt danh là Tu La tướng quân, dung mạo cực kì xấu xí, lúc đó ả còn không cam tâm, bây giờ thấy người thật mới biết cái gì gọi là thần tiên.

Ả đỏ mặt, ngượng ngùng bước ra khỏi phòng, cũng chẳng đụng vào chút việc nhà nào, chuẩn bị đi dạo đó đây trong phủ, vừa mới đặt chân đến đình viện đã bị ma ma ở quận vương phủ dẫn người tới cản lại.

"Cũng xinh đẹp đấy chứ, chẳng trách tâm tư cao ngạo dám mị hoặc chủ nhân." Ma ma chừng bốn mươi tuổi, tóc mai đã điểm bạc, ánh mắt cay độc tràn đầy kinh nghiệm, nắm cằm tỳ nữ nhìn trái nhìn phải, giọng thờ ơ: "Giam năm sáu ngày đi, cho ả ăn cháo giữ mạng là được, nếu cơ thể không có vấn đề sẽ đưa đi biệt trang làm ruộng."

Tỳ nữ nghe mà da đầu ngứa ran, kinh hoàng hét lên: "Các ngươi định làm gì? Các ngươi không thể đối xử với ta như vậy, ta là người trong cung đến đây, là do bệ hạ ban thưởng —— "

"Là do bệ hạ đích thân chỉ tay hay là vị nương nương kia ban thưởng?" Ma ma lạnh lùng cắt lời tỳ nữ. vừa lau tay vừa nói: "Tốt nhất nên cầu nguyện thân phận của ngươi đủ sạch sẽ, nếu không thì đến làm ruộng cũng không có cửa, mà là đứng khóc ở hoàng tuyền đấy."

Tỳ nữ mềm nhũn chân, không ngừng giãy giụa, mê sảng kêu la ả là cung nữ ngự ban, là trắc phi của quận vương vân vân mây mây, nhưng rồi cũng bị bịt miệng lại ép kéo đi.

Chủ viện khôi phục yên lặng, những người khác câm như hến, ma ma đảo mắt lướt một vòng, không dặn dò thêm nữa mà chi đi thẳng.

Giết gà dọa khỉ đã là cảnh giới cao nhất mà sự im lặng tốt hơn là lên tiếng, vậy nên không cần phải nhiều lời.

***

Triệu Bạch Ngư vừa húp cháo trắng vừa nghĩ bụng, xem ra quận vương phủ cũng không phải quá vắng lặng, còn tưởng rằng Hoắc Kinh Đường không có thực quyền nên mới cần ẩn thân để tránh bị người ta căm ghét.

Hoắc Kinh Đường: "Ba ngày nữa hồi môn*, có về không?"

(*) Hồi môn: Lại mặt, tức vợ chồng về nhà bố mẹ vợ sau ngày cưới.

Triệu Bạch Cá: "Không về."

Hoắc Kinh Đường múc một vá tào phớ vào trong bát y, "Đồ chuyển đến hết rồi à, có bỏ sót gì không?"

Triệu Bạch Ngư: "Sáng sớm đã kiểm tra xong rồi, Nghiên Băng đã quyết định không để lại Triệu phủ dù chỉ là một miếng gạch ngói. À đúng rồi, ta có thể để Nghiên Băng ở quận vương phủ được không?"

"Đến chỗ Hải thúc nói một tiếng là được, ông ấy là quản gia trong phủ. Ta nhớ bên ngươi còn hai người nữa, không đưa bọn họ đến đây luôn sao?"

"Ngụy bá không thích ở nơi nhiều người, ông ấy sẽ ra ngoài sống một mình. Tú ma ma thì quản lý quán rượu, tiệm trà, thuận tiện giúp Lý Ý Như và các cô nuong bắt đầu lại." Triệu Bạch Ngư tò mò hỏi: "Chờ đã, cần làm gì hả? Ta có cần đến thăm hỏi phủ ngoại gia của ngươi không? Thân phận quận vương phi của ta còn phải làm những gì nữa vậy, như xã giao, quản gia ấy?"

Động tác của Hoắc Kinh Đường rất tao nhã nhưng tốc độ ăn không chậm, Triệu Bạch Ngư mới ăn đến bát thứ hai mà hắn đã giải quyết xong ba bốn cái bánh bao và hai bát mì, ăn xong thì dùng khăn tay của Triệu Bạch Ngư lau miệng, nghiêng người tựa vào ghế ngồi, hai tay giấu trong tay áo, khép hờ mắt nói: "Ở không, chơi đùa, phơi nắng, không có gì làm thì ngủ. Ta không có chức vụ gì, trước mắt ngươi còn có ngày nghỉ kết hôn, thoải mái thả lỏng, mở lòng đi hưởng thụ thôi, chẳng ai dám nói gì ngươi. Quận vương phủ chưa từng kết giao với ai nên cũng không cần đi xã giao, nếu thích thì có thể cùng Hải thúc từ chối thiệp mời, tháng nào cũng có một xấp, cần kiếm đủ thứ cớ để không phải đi, Hải thúc còn đang muốn có người gánh vác giúp một phần đấy."

Triệu Bạch Ngư vội vàng lắc đầu: "Ta không thích xã giao đâu."

Hoắc Kinh Đường: "Trung quỹ trong phủ, đối ngoại đều có Hải thúc lo, hậu viện còn có mấy vị ma ma quản lí. "Còn những chuyện khác, nếu ngươi không ngại thì cứ nói với bọn họ một tiếng."

Triệu Bạch Ngư thở phào nhẹ nhõm, kiên định nói: "Ta cũng có một đống chuyện nhức đầu, thôi thì cứ giao cho người có chuyên môn đi."

Y là người có chức quan, vốn vô cùng bận rộn, nếu như còn tham gia xã giao, quản lí chuyện trong phủ nữa thì còn đâu thời gian mà làm việc? Cuối cùng nhất định sẽ bị buộc từ chức, thậm chí sẽ bị mấy việc lặt vặt ở hậu trạch ép cho không thở nổi.

"Đã từng đi lâm viên ở ngoại ô Kinh đô chưa?"

"Cái nào?" Lâm viên ở ngoại ô rất nhiều, nhưng nếu không phải đều là của các hoàng tử công chúa, thì cũng là của vương công đại thần, những người không phận sự không vào được, "Ta chưa đi cái nào cả."

"Sơn trang Long Tuyền nằm sau đỉnh núi Bảo Hoa tự, đó là phần thưởng ta được ban cho năm mười lăm tuổi sau khi đánh bại Đột Quyết, là biệt trang lâm viên duy nhất ở ngoại ô có suối nước nóng. Dù sao cũng đang nhàn rỗi không có việc gì làm, qua đó chơi mấy hôm nhé."

Triệu Bạch Ngư: "Được."

Cơm nước xong, sai người chuẩn bị xe ngựa đơn giản liền rời phủ, bên ngoài có người gọi Triệu Bạch Ngư lại, thì ra là Trần Phương Nhung.

Trần Phương Nhung lại gần nói: "Trải qua án thi cử và tranh luận đạo lý trên ngự tiền, bệ hạ cảm thấy cha ta là người thanh liêm có tài, ngay thẳng không nghiêng lệch, cũng không bảo thủ, càng không quan tâm đến đường làm quan, là người thích hợp nhất để đi đầu trong việc đốc thúc mở cửa cải cách, cho nên đã giao chế độ xây dựng sương phường cho cha ta, vậy nên ta cũng được nhờ. Vốn chỉ cần không đến mấy tháng là đã được thông qua, ta lại mất đến hai ba năm khảo hạch, dù sao cũng nhận được một chức Huyện lệnh ở huyện Tứ Thủy, Sơn Đông, giấy ủy nhiệm hai ngày nữa sẽ được gửi xuống."

Ngưng một chút, hắn móc một tấm linh ký tặng cho Triệu Bạch Ngư, dùng ánh mắt mong đợi nói: "Ta cầu ký văn này ở Bảo Hoa tự nửa tháng liên tục, là vật linh nghiệm nhất, có thể bảo vệ ngươi bình an."

Linh ký được đóng khung đẹp mắt, xâu thêm một chuỗi ngọc đẹp, nửa năm chỉ phát hai trăm tờ, gọi là ký văn linh nghiệm nhất được Phật tổ làm phép, đa số dùng để cầu duyên, số ít dùng để cầu sự nghiệp cầu bình an, Triệu Bạch Ngư nhìn một cái liền biết ngay đây chính là chiêu tiếp thị đói khát của mấy tên hòa thượng ở Bảo Hoa tự.

Y nhận lấy linh ký, mi mắt khiêm tốn vô tư: "Con đường phía trước mênh mông, mỗi người một chân trời, hy vọng người bảo trọng."

Trần Phương Nhung nhìn Triệu Bạch Ngư chằm chằm, hồi lâu mới lùi hai bước, mười ngón tay đan vào nhau giơ cao quá đầu, khom người cúi chào thật sâu, không hề nói một lời chia tay nào, rồi sau đó đứng thắng dậy, hai người nhìn nhau cười một tiếng, có lẽ đều đã thông suốt rồi.

Triệu Bạch Ngư bước lên xe ngựa, Hoắc Kinh Đường vươn tay ra trước mặt y rồi kéo y vào lòng, vùi mặt vào hõm vai Triệu Bạch Ngư chợp mắt, lười biếng nói: "Tiểu lang, ngủ với ta một chút đi."

Triệu Bạch Ngư bị lây cơn buồn ngủ ngáp một cái, cũng mơ màng ngủ theo hắn.

***

Ngâm suối nước nóng ở sơn trang mấy ngày, Triệu Bạch Ngư cảm thấy xương cốt y sắp sửa bị ngâm đến mềm luôn rồi, chứ đừng nói tới suối nước nóng trơn trượt ẩm ướt là nơi không khí thích hợp nhất để ân ái, Hoắc Kinh Đường căn bản không biết thỏa mãn là cái quái gì.

Mấy lần Triệu Bạch Ngư nửa tỉnh nửa mê được Hoắc Kinh Đường ôm ra khỏi hồ tắm. Nghiên Băng đáng thương cũng vì thế mà bị ép hiểu chuyện giường chiếu giữa hai người đàn ông trưởng thành, cuối cùng thì hôn nhân cũng trở thành bóng ma trong lòng của nó.

Quá sai lầm.

Triệu Bạch Ngư cảm thấy vô cùng có lỗi, cho phép Nghiên Băng đi hồ sen nhặt hạt sen chơi, không cần cứ đi kè kè bên cạnh mình, phải để cho đệ đệ đương tuổi thiếu niên mà mình nuôi lớn thậm chí xem như ruột thịt, nhìn thấy cảnh mình chẳng có chút uy danh nào thì thật là mất mặt.

Triệu Bạch Ngư vừa mới ngồi xuống, Hoắc Kinh Đường đang nằm nghiêng sẵn trên tháp liền tựa lên y như người không xương, cánh tay vòng qua eo y, mắt không mở nhưng lần tìm theo trí nhớ đến cần cổ trắng nõn của Triệu Bạch Ngư khẽ hôn lên: "Buổi sáng có ngắt ngó sen, làm canh sen đi, còn giết được con dê, cá và thịt trâu xắt lát ướp chừng hai giờ, vừa vặn làm một nồi cổ đông canh ăn trưa."

Cổ đông canh chính là món lẩu, thời Đại Cảnh có vô vàn món ăn ngon, cứ đến mùa đông là bàn ăn nhà nào cũng có một cái bếp lò nhỏ để ăn lẩu, có điều bây giờ đang là mùa hè.

Triệu Bạch Ngư giương mắt nhìn lên, y đang nằm trên tháp gần cửa sổ, cánh cửa đang hé mở nên có thể nhìn ra ngoài, loáng thoáng thấy được núi non xanh tươi hùng vĩ.

Sơn trang được xây ở chỗ cao, quanh đây chỉ toàn rừng núi trùng điệp, tòa tháp nơi mà bọn họ đang ở là nơi cao nhất của sơn trang, cao chừng bảy tầng, xấp xỉ ba mươi thước, tiền triều từng gọi kiểu kiến trúc này là lầu Trích Tinh, bây giờ đã đổi thành lầu Sơn Hà, hình ảnh này thường xuất hiện trong thơ ca văn chương của các văn nhân sĩ tử, mượn ý xưa để ngày nay hoài niệm, có thể thấy đây là một trong những danh lam thắng cảnh ở ngoại ô Kinh đô.

Lúc này, bên ngoài trời đang đổ mưa phùn, trong phòng vừa mát lại vừa tĩnh, lắng nghe gió thổi mưa bay qua dãy núi, thỉnh thoảng lại có tiếng chim hót, cứ thế một ngày nhàn nhã chậm rãi trôi qua, Triệu Bạch Ngư cảm thấy dường như linh hồn của mình cũng trở nên thư thái an tĩnh.

"Mưa bao lâu rồi?"

"Chắc là bốn năm giờ rồi."

"Không phải có hơi bất thường sao? Bình thường thì cuối hạ mưa bất chợt, cơn mưa có ngắn thì cũng sẽ như thác đổ, từng trận từng trận, hiếm khi mưa cứ tí tách nhỏ giọt không ngừng như vậy."

Thật ra thì cũng không phải quá nhỏ, phải là hơi to mới đúng.

"Ngươi đang lo lắng điều gì?"

"Mùa lũ năm nay."

Mùa lũ đến vào tháng bảy, tháng tám, liền ngay sau đó là lũ mùa thu vào tháng chín, mười, lũ mùa thu hàng năm chính là vấn đề gây đau đầu cho Nguyên Thú đế và kinh quan nhất, chỉ sợ Hoàng Hà vỡ đê, lũ lụt tràn lan.

"Công bộ thủy lợi, Đô thủy giám ở Nha môn từng địa phương và công nhân trú đóng ở công trình trị thủy đều đo đạc và ghi chép lại mỗi năm hơn mười lần, tất cả ghi chép về cơ bản là giống nhau, vậy nên năm nay Hoàng Hà sẽ không thể vỡ đê được."

"Vậy thì tốt."

Lòng Triệu Bạch Ngư hơi ổn định lại, trong đầu có ý tưởng nào đó chợt lóe lên, nhưng dù có cố nghĩ về nó thế nào đi nữa thì cũng không thể nghĩ ra được cho nên liền quên mất.

Chẳng mấy chốc người hầu đã mang cái lò đồng nhỏ lên, trên mặt bàn bày đầy rau củ tươi, thịt dê, thịt heo và cả thịt trâu đều đã được tẩm ướp sẵn, còn có đủ loại gia vị, ớt và hạt tiêu.

Thịt dê được sơ chế rất sạch sẽ, không còn mùi hôi, trộn lẫn với vị cay tê hơi nóng, bỏ vào trong miệng là cảm nhận được ngay hương vị tươi và thơm đến nỗi muốn nuốt cả đầu lưỡi.

Ăn được một lúc, cả người Triệu Bạch Ngư đã đổ đầy mồ hôi, lúc đang cởi áo lót ngoài thì có người hầu đến báo, khoảng một giờ trước, sơn trang có giúp đỡ một nhóm nhân sĩ vào phủ tránh mưa, bởi vì đã đưa cho bọn họ một chậu thịt dê tươi, đám người đó liền đòi gặp chủ nhà để tự nói lời cảm ơn.

Triệu Bạch Ngư nhìn Hoắc Kinh Đường, thấy hắn không ừ hử gì bèn từ chối.

Không lâu sau, người hầu lại mang đến một viên minh châu to bằng trái nhãn, nói là trong mấy người trú mưa đó có một công tử tặng quà tạ ơn.

Triệu Bạch Ngư thấy vậy thì rất ngạc nhiên, một viên minh châu thế này trị giá ít nhất cũng một hai ngàn lượng, trú mưa một chút thôi, nói đưa là đưa, đáng giá vậy sao?

Mặt Hoắc Kinh Đường vẫn không đổi sắc: "Trả về đi. Trong phủ có dù không?"

Người hầu không hiểu: "Có ạ."

Hoắc Kinh Đường: "Đưa mấy cây dù cho bọn họ đi về đi. Nếu sợ trời mưa đường trơn hay không thấy rõ đường đi, có thể đến Bảo Hoa tự ở mặt trước núi để trú."

Người hậu vội lui ra: "Vâng."

Triệu Bạch Ngư cắn đũa: "Là đến vì ngươi sao? Danh tiếng của ngươi trong Kinh làm người ghét chó ngại, sao lại có người muốn chạy đến tận đây lấy lòng thế?"

"Cũng không biết ai phao lời đồn, nói ta mặc dù đã giao lại binh quyền, nhưng thật ra trong tay vẫn còn giữ một đội binh thần quỷ kiêu dũng thiện chiến, những năm này có người lục tục tới thăm dò, mấy năm trước còn lợi dụng nhét vào phủ ta mười mấy hai mươi người nam nữ."

Triệu Bạch Ngư trố mắt ngạc nhiên: "Là hai mươi mấy thi thể mang ra từ trong phủ của ngươi đó sao?"

"Ngươi biết à?"

"Ta từng xử vụ đó."

"Tiểu lang có duyên với ta thật."

"..."

Hoắc Kinh Đường nhìn vẻ mặt rầu rĩ của y, cong môi nói: "Nhưng không ai biết chủ nhân sơn trang này là ta, năm đó ta là người nổi bật dễ bị chú ý, bệ hạ sợ cây cao đón gió, không dám công khai ban thưởng."

"Vậy là ai?"

"Những kẻ không phận sự thôi, đừng nghĩ nhiều."

***

Cửa nhỏ sơn trang.

Một thanh niên mặc đồng phục học sinh Quốc tử giám cầm lấy dù và viên minh châu bị trả lại, vô cùng tức giận: "Có gì đâu mà ra vẻ thanh cao? Biết chúng ta là ai không? Cả Kinh đô này ai mà không muốn chen một chân vào đám người của mình chứ! Tứ lang, chúng ta đừng ở cái nơi rách nát này nữa, đến Bảo Hoa tự trú mưa thôi."

Giữa đám người là Triệu Ngọc Tranh mặc la sa màu hạnh hoàng, hắn nhận lấy dù, nhếch môi nói: "Đi thôi."

Đã đi xa một quãng rồi, Triệu Ngọc Tranh vẫn còn quay đầu nhìn lầu Sơn Hà mờ mịt trong màn mưa, không rõ sắc mặt, ánh mắt sáng lên, không ai biết lúc hắn mười một, mười hai tuổi đã từng đi lạc lên một đỉnh núi, đứng từ xa thấy ở phía lầu Sơn Hà có một người đang đi lên, phong thái xuất chúng, hoàn toàn tách biệt với thế giới.

Sau đó, năm nào hắn cũng đến Long Tuyền sơn trang một lần, vậy mà chưa bao giờ gặp được chủ nhân của nơi này, vất vả lắm hôm nay mới thấy có người ở, muốn được gặp nhưng lại bị từ chối, Triệu Ngọc Tranh có hơi không cam tâm.

***

Giữa tháng bảy cùng năm.

Phương Bắc đã trải qua nửa năm hạn hán, bỗng một ngày mây đen giăng đầy trời, sấm chớp rền vang, tựa như những con rồng giấu mình nơi núi sông ao hồ chỉ trong vòng một ngày đều chui ra khỏi nơi ẩn náu. Ban đầu trời mưa vẫn còn rả rích nhỏ giọt, dần dà trút xuống như thác lũ, liên tục ba ngày, bầu trời giống như đang trải qua trận chiến, sắp sửa bị đâm thủng một lỗ, tình hình làm người ta lo lắng không thôi.

Trần Phương Nhung nhậm chức chưa tới một tháng, khoác áo tơi* đứng ở nơi có địa thế khá cao của đường sông nhìn sóng nước cuồn cuộn dưới dáy sông Tứ Thủy, trong màn mưa hướng về phía lão hà công** dày dặn kinh nghiệm rống lên: "Mưa to như trút nước vậy, thế nước cũng lên rồi, không có chiều hướng ngừng lại, ta lo rằng nó sẽ đánh vỡ đường sông, nhấn chìm huyện Tứ Thủy mất!"

(*) Áo tơi: áo choàng, khoác để che mưa, nắng, thường được đan bằng lá cây, lá cọ khô,...

(**) Hà công: công nhân trị thủy (làm việc ở công trình trị thủy trên sông)

Hà công cũng lớn tiếng đáp lại: "Bẩm đại nhân, hạ sai đã lệnh người xuống đường sông lấp thêm bao cát và đá rồi. Nhưng Tứ Thủy không phải là đường ra biển của sông Hoàng Hà, theo lý mà nói thì dù cho mưa có lớn hơn nữa, thì chỗ chúng ta không thể nào bị nhấn chìm được."

Trần Phương Nhu: "Chuyện chưa xảy ra vẫn nên phòng ngừa thì hơn —— chuẩn bị đưa bách tính đi trú ẩn ở nơi cao, ta đến Đô thủy giám một chuyến."

***

Huyện Dương Vũ, cửa sông Hoàng Hà.

Răng rắc! Đoàng đoàng! Tiếng sấm vang khắp trời đất, từng sợi sét bạc chằng chịt trong đám mây đen kịt, hạt mưa to như hạt đậu lộp độp đập xuống, nước sông chòng chành không ngừng đụng vào đường sông. Ầm! Bỗng nhiên có một tiếng nổ ầm vang lên át đi tiếng sấm, nước lũ đục ngầu cuộn trào mãnh liệt tựa như một con thú dữ tàn nhẫn nuốt chửng lấy nhà cửa và ruộng đất, chỉ trong một khoảnh khắc, mảnh đất đã trở thành một vùng mênh mông là nước.

Trên thượng nguồn, hà công trực thuộc Tu hà ti của Đô thủy giám trở nên khủng hoảng, tiếng kêu đầy sợ hãi phá vỡ màn mưa đêm: "Cửa Hoàng Hà vỡ rồi —— Cửa Hoàng Hà vỡ to rồi ——!!!"

***

Đêm khuya, huyện Tứ Thủy, Sơn Đông.

Ngọn đèn trong thư phòng huyện Nha vẫn sáng, dưới mắt Trần Phương Nhung là quầng thâm xanh đen, đốt đèn chiến đấu vài đêm liền, nhận ra sông Tứ Thủy vẫn còn khá vững như lời hà công nói mới thoáng buông lỏng thần kinh đã căng thẳng nhiều ngày.

Ngay lúc hắn sắp sửa chìm vào giấc ngủ, trái tim bỗng dưng đập lên liên hồi, Trần Phương Nhung chợt bật dậy đi qua đi lại, vô cùng bất an, ngay lập tức có đốc công phụ trách trông coi đê điều đội mưa đến gõ cửa huyện nha, suýt nữa là té trước mặt Trần Phương Nhung, thê lương kêu lên: "Đê vỡ rồi! Đê sông vỡ rồi."

***

"Tám trăm dặm tốc hành! Tám trăm dặm tốc hành!"* Bụi vàng cuồn cuộn, tuấn mã phi nhanh như bay, cửa cung đã mở sẵn, cũng trong lúc đó, Văn Đức điện đã đưuọc thắp nến sáng choang như ban ngày. Dịch binh xuống ngựa, chạy bước nhanh hô lên: "Hoàng Hà đổi dòng, đoạt Tứ nhập Hoài!

(*) Bát bách lý gia cấp – Tám trăm dặm tốc hành: Một phương pháp vận chuyển tin tức, hàng hóa bằng ngựa nhanh nhất của thời xưa, khi có việc khẩn cấp, ví như ý chỉ của hoàng đế hoặc đại sự theo lệnh của quan thì mới được dùng.

Keng một tiếng giòn giã, Nguyên Thú đế kích động quét đổ tách sử trên bàn, thái giám vội tiến lên dọn dẹp, mà dịch binh đã xông vào, người ngợm ướt đẫm quỳ xuống đất lớn tiếng bẩm: "Khởi bẩm Thánh thượng, cửa sông Hoàng Hà huyện Dương Vũ đã vỡ, lũ lụt đoạt Tứ nhập Hoài, nhà cửa trong thành đều sụp đổ, gia súc trôi đầy trong nước lũ, ruộng lúa, cây giống không còn sót lại gì! Hoàng Hà nuốt chửng Tứ Thủy, lấn đến sông Hoài, Từ Châu ở đầu sóng ngọn gió, thương vong vô số, người dân bị nạn ở khắp nơi, Kinh đông Đông Nam và phần lớn đất Hoài Nam gặp họa nghiêm trọng, cần sớm được cứu trợ, hồng thủy cần được xử lí gấp không thể chậm dù chỉ một giây!"

Nói xong, dịch binh cạn sức ngất xỉu, được dìu đi nghỉ ngơi.

Sắc mặt Nguyên Thú đế nặng nề: "Triệu kinh quan tam phẩm, không, tứ phẩm vào cung nghị sự ngay trong đêm nay!"

Giờ Tý, đèn trên nghị sự đường đều được thắp sáng rực. Nguyên thú đế ngồi bên trên, trăm quan ngồi ở dưới, mỗi người được dâng một tách trà đậm, sắc mặt căng thẳng nghị luận.

"Phạm Văn Minh, trẫm hỏi ngươi, đường sông huyện Dương Vũ cả trăm năm nay chưa từng xảy ra chuyện, vì sao lại đột nhiên vỡ cửa dưới quyền quản lí của ngươi?"

Công bộ Thị lang Phạm Văn Minh bước ra khỏi hàng hồi bẩm: "Gần trăm năm qua, sông Hoàng Hà chuyển dòng sang hướng Nam càng lúc càng rõ ràng, lòng sông được bồi đắp, chỉ cần có một nơi bị vỡ thì nó sẽ đổi dòng trở lại! Hiện tượng này xưa nay không ít, là thảm họa do tự nhiên gây ra, không phải tại người, những nơi trước đây không gặp phải nạn lụt bị sông Hoàng Hà chuyển hướng đột ngột tàn phá là chuyện bình thường, bởi vì chưa từng có tiền lệ, vậy nên vật liệu sữa chữa, ngân lượng dự trữ phát xuống các Đô thủy giám, Tu hà ti và công trình trị thủy ở Tứ Thủy, Hoài Nam tương đối ít hơn những nơi thường xuyên bị lũ lụt. Trước mắt bất ngờ gặp phải thiên tai, không kịp đề phòng, cũng không ai có thể dự đoán được tai họa xảy ra khi nào. Thần thỉnh bệ hạ, chờ đến khi lũ lụt được giải quyết triệt để rồi hãy truy cứu trách nhiệm những người làm việc không thỏa đáng. Hiện giờ quan trọng nhất chính là lấp kín chỗ vỡ, đắp đê điều, thu xếp ổn thỏa cho người dân bị nạn và các vấn đề khác."

Tế chấp Triệu Bá Ung bước ra khỏi hàng: "Bệ hạ, Phạm Thị lang nói phải. Ngay bây giờ ta cần cố hết sức giảm bớt thương vong và tổn thất, lấy đề phòng cửa sông lại bị vỡ lần nữa, cứu giúp người dân gặp nạn làm trọng, sau nạn lụt có thể còn xảy ra dịch bệnh, huống chi lần thiên tại này xảy ra không xa nơi này, phần lớn bách tính sẽ di dời về hướng Kinh đô lẫn Lưỡng Giang, Lưỡng Chiết, sợ rằng sẽ gây ra bạo động, Đột Quyết cũng có khả năng nhân cơ hội này xuôi Nam, uy hiếp sự an toàn của biên cảnh, đồng thời dẫn đến vùng biên Tây Bắc cũng không an phận, việc quan trọng nhất trước mắt chính là làm lắng mầm họa, ổn định lòng dân!"

Nguyên Thú đế: "Theo chư vị khanh gia, chúng ta nên làm như thế nào đây?"

Triệu Bá Ung: "Thần cho rằng, lệnh cho Chuyển vận sứ, Trấn phủ ti các tỉnh, Tri phủ các châu đề cao việc tu sửa sông ngòi, an trí cho dân gặp nạn, có thể điều động quân vụ xem xét lấp kín các cửa sông chưa bị ảnh hưởng, yêu cầu hợp tác với Đô thủy giám để trị thủy. Triều đình sẽ phát lương thực, phát bạc và thuốc men, cấm các thương nhân bán hàng tăng giá, lệnh cho Hàn lâm y quan, Thái y cục phái người đi theo đến nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất, phòng ngừa dịch bệnh xảy ra."

Nguyên Thú đế: "Được."

Thái tử cũng bước ra khỏi hàng: "Nhi thần đề nghị ta nên lệnh cho cường hào ở địa phương các nơi mắc thiên tai nghiêm trọng, hoặc cường hào ở các tỉnh, các châu lân cận gom góp ngân lượng để cứu trợ, sau chuyện này triều đình sẽ đứng ra tiến hành khen thưởng."

Nguyên Thú đế: "Chuẩn."

"Thần có tấu..."

Trăm quan lần lượt bước ra khỏi hàng, cùng nhau nghĩ cách, nhanh chóng nhập tâm vào vấn đề Hoàng Hà chuyển dòng, họa vào hai tỉnh Kinh Đông và Hoài Nam, cũng là đợt lũ lụt nghiêm trọng nhất từ khi Đại Cảnh khai quốc đến nay.

==

Tác giả muốn nói:

Trong lịch sử, huyện Dương Vũ ở Hà Nam, ở gần Khai Phong (thời Bắc Tống), trong truyện có lẽ hơi xa.

==

Chương 24

Mình có đôi lời muốn nói, mấy hôm nay mình rất vui vì truyện mình edit đã có thêm nhiều bạn biết đến, mình rất biết ơn từng lượt view, lượt vote của các bạn, cả bình luận mình cũng đọc được hết rồi và cảm ơn rất nhiều vì mọi người đã ủng hộ mình ^^

Sẵn đây thì mình xin báo lịch up truyện luôn, xin lỗi vì mình quên không thông báo ngay từ đầu nên có một số bạn đã hỏi, mình đã rep các bạn rồi tuy nhiên mình không thích bị hỏi vấn đề này lắm nên sẽ nói từ chương này nha, dìa sau bạn nào hỏi lại đừng trách sao mình block à 😎 còn nhắc nhở chính tả, câu cú hay gì đó thì cứ cmt cho mình biết để sửa nhưng hãy lịch sự giúp mình nhé!

➡️ Hiện tại mình đang edit đến chương 29 rồi, nếu mình vẫn giữ được tốc độ edit ổn định thì 1 ngày/chương, nếu không thì tầm 2-3 ngày/chương, còn hôm nào mà mình dui dẻ không quạo thì sẽ up một lần 2 chương luôn ạ hihi ^^

Thế thôi à, cảm ơn các bạn vì đã đọc hết mấy lời lê thê của mình, chúc mọi người đọc truyện vui vẻ!

Min.

==

Cuối tháng 7, dịch trạm Hoài Nam, Từ Châu.

Đêm khuya, có phòng vẫn còn sáng đèn, ở bên trong là Giám sát Ngự sử Chương Tòng Lộ trở về quê hương thăm người thân, lúc này đang cúi đầu trước bàn, tay viết thoăn thoắt: "Nghe tin An phủ sứ Hoài Nam – An Hoài Đức ưa thích vui chơi tiêu khiển, tụ tập tiệc tùng, bên trên sai thần theo dõi, thần kính cẩn nghe lệnh. Thần đã dò hỏi dân gian, tiểu thương tôi tớ ra vào, phát hiện bến tàu ở đây rất vắng vẻ, thuyền bè lui tới lác đác, lại nghe nói bên bờ đê hay phát ra tiếng leng keng, ngày đêm không ngừng nghỉ. Hỏi ngư dân bên sông, ngư dân bèn than thở, nói đây là ba dặm đê dài ngày sửa đêm dỡ, đang trong quá trình xây cất một ti phủ gạch vàng đá bạc đẹp đẽ. Hóa ra An phủ sứ Hoài Nam liên kết với Đô thủy giám lấy lý do tu sửa đê điều, chiếm riêng ngân lượng trị thủy được phân phát hàng năm, ban ngày sửa đê ban đêm lại dỡ ra, ngày qua ngày nối dài, tiêu phí ngân lượng dự trữ để tạo ra một Cung A Phòng (*)!"

(*) Cung A Phòng (阿房宫) (hay còn gọi là cung A Bàng) là một tổ hợp cung điện lớn do Tần Thủy Hoàng cho xây dựng vào năm 212 TCN. Cung điện này nằm ở phía nam sông Vị, cách thành cổ Trường An, nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, hơn 30 km về phía tây. Mục đích xây dựng cung A Phòng là vì "chỉ cung điện chính chưa đủ, cần có cung điện mới" và "cần biểu trưng sức mạnh sau khi sáu nước được thống nhất".

"An phủ sứ Hoài Nam – An Hoài Đức đã phụ Thánh ân, thần là đồng niên cảm thấy vô cùng hổ thẹn! Tài chính triều đình eo hẹp, thân là nhân thần, không nghĩ đến việc giúp quân phân ưu mà còn cậy quyền mưu lợi riêng, thần cảm thấy cực kì trơ tráo!"

Đầu tháng tư năm nay, có quan địa phương tố cáo An phủ sứ Hoài Nam – An Hoài Đức thích hưởng lạc, thường xuyên mở tiệc chiêu đãi tân khách, không quản quân vụ, vừa hay Giám sát Ngự sử Chương Tòng lộ xin nghỉ về quê, lộ trình phải đi qua Hoài Nam Từ Châu, Nguyên Thú đế liền lệnh cho ông tiện đường theo dõi điều tra An Hoài Đức.

Chương Tòng Lộ vốn chỉ định điều tra xem An Hoài Đức có phải là không làm tròn nhiệm vụ hay không, nào ngờ lại tra được cả tội tham ô đường sông.

Hàng năm triều đình chi ngàn vạn lượng dùng để quản lý Hoàng Hà, chi cho Hoài Nam ít nhất một hai thành (*), An Hoài Đức nhậm chức gần năm năm, nếu như năm nào gã cũng tham ô, có ít cũng phải đến sáu trăm vạn lượng.

(*) Một thành tương đương với 10%

Hoàng Hà chuyển dòng, đoạt Tứ nhập Hoài, đường sông mấu chốt ở Hoài Nam Từ Châu, Phi Châu to đến thế mà lại dễ dàng bị nhấn chìm, khó có thể nói không phải do An Hoài Đức tham ô ngân lượng, bỏ bê việc tu sửa đường sông và đê điều.

Tuy rằng lũ lụt là thiên tai nhưng cũng có một phần do người, Chương Tòng Lộ phát hiện ra sự thật bèn báo ngay cho Nguyên Thú đế, vì vậy vừa đặt chân đến dịch trạm liền viết ngay một phong thư, đóng gói kín lại rồi định gọi người ra roi thúc ngựa đưa về Kinh đô.

"Người đâu!"

Chương Tòng Lộ kêu lên, một lúc lâu cũng không thấy ai đáp lại, ông nảy lòng nghi ngờ, bước ra cửa thăm dò, kết quả vừa ra khỏi hành lang đã nhìn thấy người hầu bị sát hại.

Chương Tòng Lộ kinh hãi không thôi, dù có muốn hay không cũng quay đầu chạy trốn, nhưng sát thủ chờ ông đã lâu, hạ một nhát dao cứa đứt cổ, rút thư mật báo ra đốt cháy thành tro.

Chỉ trong khoảnh khắc, dịch trạm tiêu tan trong biển lửa, thi thể và bí mật cùng lúc bị tiêu hủy.

***

Chiết tử đưa tin dịch trạm Hoài Nam Từ Châu và Giám sát Ngự sử Chương Tòng Lộ chết cháy trong biển lửa đến trước án của Nguyên Thú đế đã là năm ngày sau. Nguyên Thú đế xem xong, đè chặt chiết tử xuống án, vô cùng thổn thức, cảm thán: "Chết trong biển lửa, hủy thi diệt tích, khá lắm An Hoài Đức!"

Đại thái giám tiến tới thêm trà, cẩn thận bẩm: "Bệ hạ, Khang vương cầu kiến."

Nguyên Thú đế: "Mau cho hắn vào."

Chỉ chốc lát sau, Khang vương vào điện hành lễ, quan sát vẻ mặt Nguyên Thú đế xong mới nói: "Sắc mặt bệ hạ không tốt, là vì mấy ngày gần đây gặp phải khó khăn vì trận lũ Hoàng Hà sao?

Nguyên Thú đế: "Lũ lụt Hoàng Hà là một chuyện, lòng người khó dò lại là chuyện khác."

Khang Vương: "Sao thế?"

Nguyên Thú đế đưa chiết tử cho ông xem: "Đệ xem thử đi."

Khang vương cầm chiết tử lên xem nhanh như gió, biểu cảm trở nên nghiêm túc, mày chau lại: "Là An Hoài Đức làm?"

Nguyên Thú đế: "Trẫm sai Chương Tòng Lộ bí mật điều tra An Hoài Đức, lại có chuyện trùng hợp như ông ấy sẽ chết trên đường đi hay dịch trạm bị cháy được sao?"

Khang vương: "Giết người diệt khẩu, xem ra Chương Tòng Lộ đã tra ra được gì rồi. Nếu không tìm cách triệu An Hoài Đức hồi kinh đi?"

Nguyên Thú đế: "Hoài Nam tổn thất nặng nề, nếu tùy tiện triệu hồi An Hoài Đức sẽ dễ dàng làm lòng người dao động. Trước tiên cứ để đó. Phái người đi quan sát, ta nhớ Chuyển vận sứ Hoài Nam là Tư Mã Kiêu phải không?"

Khang vương: "Vâng, là người nhà họ Tư Mã của Hoàng hậu. Thần đệ nghe nói Ngũ hoàng tử có quan hệ mật thiết với An Hoài Đức, An Hoài Đức từ lâu đã thuộc Thái tử đảng, hơn nữa Chuyển vận sử là người họ Tư Mã, có thể nói toàn bộ Hoài Nam đều nằm trong tay Thái tử."

Môn sinh của Tần vương phát triển nhiều tại Giang Nam, với độ sầm uất và sung túc đủ đầy của mình, Hoài Nam cũng có thể sánh ngang nó đã bị Thái tử thu về làm vật trong túi, phí tâm làm ăn và xem nơi này như một công cụ để chống lại sự phân bố quyền lực của Tần vương ở Giang Nam.

"Mấy đứa con trai của trẫm, bàn về kẻ có tài trị nước thì chẳng có ai, bàn đến bè lũ xu nịnh, kết bè kết phái thì đứa này thông minh hơn đứa nọ. Quốc gia còn chưa giao đến tay, chúng nó đã vội lôi kéo đại thần xếp thành hàng để diệt trừ phe đối lập, không thèm quan tâm sống chết của bách tính, trẫm thấy không cần chờ đến trăm năm đâu, cơ nghiệp Đại Cảnh sớm muộn gì cũng sẽ bị chúng gieo đầy tai họa thôi!"

Lời này nghiêm trọng, Khang vương không dám tiếp lời cũng không dám khuyên can, tạm thời giả điếc.

"Thái tử làm việc thế này, không thiếu công của Hoàng hậu và Tư Mã gia. Thế gia thanh quý... Hừ! Đến cả Cấm quân trong cung Hoàng hậu cũng dám nhúng tay, gánh nổi cái tiếng nữ tử thế gia thanh quý sao?

Khang vương chắp tay đáp: "Hiện tại trách cứ Thái tử cũng không làm nên chuyện gì, phải giải quyết nạn lụt ở Hoài Nam trước, sau đó hãy nghĩ cách làm tan rã thế lực bền chắc không thể phá được của Thái tử và Tư Mã gia ở Hoài Nam. Thần đệ nhớ Hình ngục sứ Hoài Nam là do thần đệ đích thân chọn ra trong kì thi Hội, cũng là môn sinh của thần đệ, có thể lệnh cho hắn để ý nhiều hơn, tìm cách điều tra cái chết của Chương Tòng Lộ."

"Cũng được." Nguyên Thú đế nói: "Trẫm còn phải ra lệnh Trịnh Sở Chi* tạm thời điều nhiệm Chuyển vận phó sứ Hoài Nam, Tri phủ Dương Châu – Tiêu Vấn Sách đề cử tạm thời kiêm nhiệm Thường bình sứ Hoài Nam!"

(*) Cho ai không nhớ thì Trịnh Sở Chi là cậu của Tần vương.

Khang vương kinh ngạc: "Trịnh Sở Chi, Tiêu Vấn Sách? Thần đệ nhớ không lầm, Tiêu Vấn Sách là tiến sĩ năm Nguyên Thú thứ mười một, lần đó Lô tri viện lại vừa vặn là chủ bút, ông ta cũng là cha của Thái tử phi... Đây chẳng phải là đưa người của bọn họ đến Hoài Nam rồi sao?"

Nguyên Thú đế: "Nhét người của chúng vào, để chúng tin rằng trẫm không hề hoài nghi mà vẫn ủy thác tín nhiệm chúng. Đề bạt Trịnh Sở Chi là để trấn an, cũng là để cảnh cáo, dù sao thì rồng khó thắng được rắn địa phương, huống chi chỉ là tạm thời điều nhiệm thành Chuyển vận phó sứ để gã có thể ở lại Hoài Nam, ở trong đại bản doanh của chúng thì có thể xảy ra sóng gió gì? Chỉ cần để cho bọn chúng tin rằng tình thế không thể bị lật ngược thôi là được."

Khang vương: "Nhưng Trịnh Sở Chi cũng không phải kẻ ngu, gã biết rõ vào đó chính là vào đầm rồng hang hổ, chẳng lẽ sẽ không bo bo giữ mình hay sao?"

Lúc này tâm tình của Nguyên Thú đế đã không quá tệ nữa, lão chắp tay sau lưng lắc đầu nói: "Ngược lại, Trịnh Sở Chi tuyệt đối sẽ không bo bo giữ mình, gã giống như con rắn độc vậy, đợi được thời cơ sẽ cắn chết cần cổ Hoài Nam. Tuy Tần vương không phải là trữ quân được chọn khiến cho bọn chúng hài lòng nhưng cũng là mối làm ăn mà chúng phí tâm phí sức, mối Giang Nam đã bị ta nhổ tận gốc, Trịnh Sở Chi làm sao nuốt trôi cục tức này được."

Khang vương như có điều suy nghĩ, mơ hồ hiểu ra gì đó, từ trong thâm tâm bội phục thủ đoạn mà Nguyên Thú đế đã mưu tính.

"Cứ để cho chúng đấu đi. Đấu cho đến khi một mất một còn mới được."

***

Phủ Ngũ hoàng tử.

Nhận được tin từ Hoài Nam, Ngũ hoàng tử xem xong thì không nói nên lời.

Sắc mặt Thái tử cực kì khó coi: "Đệ làm việc còn để lại cái đuôi, cũng may lần này phát hiện kịp thời, sớm giải quyết Chương Tòng Lộ, nếu không mối làm ăn ở hai tỉnh Hoài Nam, Kinh Đông hai ta khổ tâm đã uổng phí mất rồi!"

Ngũ hoàng tử có hơi hổ thẹn: "Đệ viết thư mắng cái tên An Hoài Đức, còn chẳng phải tại hắn bình thường lãng phí phô trương không biết tém lại, bị người ta vạch trần khiến phụ hoàng để ý sao."

"Đệ còn chưa nhận ra vấn đề à? Thử nhìn xem lần này lũ tràn Hoài Nam, biết bao nhiêu bờ đê bị nhấn chìm? Bốn kênh thủy vận phương Bắc đều nằm trong tay đệ còn chưa đủ cho đệ gom tiền hay sao mà phải đụng tới bạc dùng sửa đê!"

"Nhị ca, đệ, đệ cũng không ngờ cửa sông bị vỡ, năm trước lũ lên chỉ làm ngập đồng ruộng, không đến nỗi san bằng đất đai, ai biết năm nay lại Hoàng Hà lại đột nhiên chuyển dòng chứ!" Lòng Ngũ hoàng tử đã hoảng loạn, oán giận nói: "Chuyện này thật kì lạ, Hoàng Hà trăm năm không chuyển dòng đột nhiên lại thay đổi, Hoài Nam trước kia chưa từng ngập nước cũng bị ảnh hưởng, bằng không sao chuyện tham ô bạc sửa sông lại bị phát hiện được!"

"Đệ bớt nói vài câu đi!" Thái tử tiếc rèn sắt không thành thép, bất đắc dĩ nói: "Cũng may Hoài Nam là địa bàn của chúng ta, có An Hoài Đức ở đó, không xảy ra chuyện lớn đâu."

Ngũ hoàng tử hỏi: "Nhưng phụ hoàng cố tình phái Trịnh Sở Chi đến có phải là cố tình chỉnh đốn Hoài Nam không?"

Thái tử: "Là cảnh cáo, nhưng không thật sự muốn chỉnh đốn. Phụ hoàng còn phái cả Tiêu Vấn Sách, ông ta là môn sinh của Lô tri viện, cũng coi như là người của ta, đến lúc đó dặn Tư Mã Kiêu, An Hoài Đức mời gã đến tiệc rượu lôi kéo chút là được. Phụ hoàng phái gã tới là để khiến chúng ta an lòng, nói rõ rằng người còn tin tưởng chúng ta. Nhưng phái Trịnh Sở Chi vừa có trấn an cũng vừa để cảnh cáo. Dù sao cũng chỉ là điều nhiệm tạm thời, không có căn cơ gì, không gây ra sóng lớn được, nếu thật sự muốn chỉnh đốn Hoài Nam thì sẽ thẳng thắn nói cho chúng ta biết người phái một tên địch đến chỗ ta hay sao? Thuyên chuyển Trịnh Sở Chi cũng có ý nhắc nhở ta, rằng hắn nhất định sẽ nhân cơ hội này gây hấn nhưng không làm ầm lên được. Trịnh Sở Chi sẽ không dám một mình cắn chết Hoài Nam, hắn không dám."

Ngũ hoàng tử: "Phụ hoàng phái một lần hai người đến, nhiều ý đồ vậy sao?"

"Đây chính là cán cân quyền lực của đế vương!" Thái tử nói: "Đừng quên, Chương Tòng Lộ phát hiện tham ô đường sông, vạch tội An Hoài Đức trước, Hoàng Hà chuyển dòng sau, nếu không nhờ Hoàng Hà chuyển dòng, Hoài Nam mắc lũ, vụ việc Chương Tòng Lộ bị thiêu chết sẽ không dễ giải quyết như vậy, chắc chắn phụ hoàng sẽ triệu An Hoài Đức vào kinh."

Ngũ hoàng tử: "Vậy đệ còn phải cảm ơn Hoàng Hà chuyển dòng sao?"

Thái tử: "Có thể nói là vậy."

Ngũ hoàng tử ngẫm nghĩ lại, thấy đúng là vậy thì cười ha ha: "Đổi cũng tốt! Ngập cũng tốt! Bây giờ dù có kì lạ thì cũng hợp lí!"

Hoàng Hà chuyển dòng, đoạt Tứ nhập Hoài, thương vong nhiều vô kể, lời ra khỏi miệng hai vị dòng dõi Thiên hoàng quý tộc này thì trở thành chuyện tốt khó gặp, thật là khiến lòng người nguội lạnh.

***

Giữa tháng tám, tuy đã khống chế được lũ lụt sông Hoàng Hà, nhưng lại phải chuẩn bị nghênh đón lũ mùa thu, sợ là ngàn dặm lại sắp sửa mắc họa,

Điều lệnh ngoại phóng* của Kỷ tri phủ đã được đưa xuống như lời Triệu Bạch Ngư đoán từ trước, ông được chuyển đến tỉnh Giang Tây làm Chuyển vận sứ, trước khi đi cần phải bàn giao công việc với Tri phủ mới nhậm chức.

(*) Ngoại phóng: Thuyên chuyển đi nơi khác làm việc.

Vì thế nên Triệu Bạch Ngư cũng bận đến mức chân không chạm đất, trời còn chưa sáng đã phải chạy đến Nha môn làm việc, ngày nào cũng đến tận giờ Tý mới có thể trở về quận vương phủ

Hoắc Kinh Đường thấy y cực khổ, mỗi ngày đều đến đón y tan tầm, thỉnh thoảng ra tay trợ giúp hoặc chỉ điểm vài câu, có thể giải quyết được không ít vấn đề khó khăn làm khổ Triệu Bạch Ngư.

Đêm nay, như thường lệ, Hoắc Kinh Đường vẫn đến đón Triệu Bạch Ngư, gõ cửa phòng làm việc của y rồi đi thẳng vào, tìm một chỗ gần đó ngồi xuống: "Còn bận à?"

Triệu Bạch Ngư ngẩng đầu nhìn Hoắc Kinh Đường một cái rồi tiếp tục chỉnh sửa tài liệu giao nhận: "Hết cách rồi, Kỷ đại nhân đi Giang Tây, phải nhanh chóng sửa lại hồ sơ xuất Nha, sổ sách năm xưa, còn có các loại giấy nợ dân, nợ bộ Công bộ Hộ, với cả khoản dư đều phải xử lí hết, nhân lúc Kỷ đại nhân vẫn còn ở Kinh đô nên làm cho xong, nếu để nợ tồn đến nhiệm kỳ kế thì người nhức đầu chính là ta đây. Tân quan thượng nhâm tam bả hỏa*, một mồi lửa đốt sạch kẻ dưới, ta là trợ thủ đắc lực của Tri phủ còn chẳng phải đứng mũi chịu sào hay sao?"

(*) Lấy từ điển tích Gia Cát Lượng sau khi trở thành quân sư cho Lưu Bị, trong một thời gian rất ngắn đã ba lần hỏa công quân Tào: mang nghĩa quan viên mới nhậm chức cần phải làm những việc tỏ rõ tài cán, đánh đòn phủ đầu, khiến cho thủ hạ tâm phục khẩu phục.

Triệu Bạch Ngư nặng nề than thở: "Không sửa thì còn đỡ, sửa rồi mới phát hiện thiếu rất nhiều nợ, khoản dư bị thiếu hụt. Nha môn không có bao nhiêu bạc, Kỷ tri phủ lại chẳng phải tham quan, nhưng bạc phát xuống hàng năm lại chẳng biết dùng vào đâu rồi vậy nên thiếu không ít tiền, ta thật sự muốn từ quan, không làm nữa đâu."

Hoắc Kinh Đường: "Nha môn không có người tính sổ sao?"

"Cũng là câu này đây, tân tri phủ vừa gặp ta đã hỏi, rõ ràng là muốn bắt chẹt ta để ra oai."

"Tri phủ mới nhậm chức tên Phùng Xuân Sơn phải không?"

"Ngươi biết à?"

"Trước đây là Tri phủ Hàng Châu, không gây sự gì lớn, nhưng ông ta là anh trai của cố Trinh phi, cậu của Ngũ hoàng tử."

"Họ ngoại à. Lại là Ngũ hoàng tử, cuối cùng cũng hiểu tại sao lại ghim ta rồi." Triệu Bạch Ngư rõ ràng: "Tri phủ Kinh đô liên quan đến trị an kinh kỳ, sao bệ hạ lại đồng ý để cho một kẻ không có bản lĩnh gì đảm nhiệm vậy?"

"Không làm nổi được bao lâu."

Triệu Bạch Ngư nhíu mày, ít nhiều gì Hoắc Kinh Đường cũng biết nội tình, nhưng thấy hắn không muốn nói thêm nữa, y cũng chẳng hỏi nhiều.

Hoắc Kinh Đường: "Nha môn thiếu tiền là chuyện thường xảy ra, lửa không đốt lên đầu ngươi, ngươi cũng không ra tay giải quyết được."

Triệu Bạch Ngư đảm nhiệm chức Phán quan phủ Kinh đô rồi đến Thiếu doãn, tính tới tính lui cũng mới ba năm, lần đầu biết được chuyện Nha môn thiếu hụt là chuyện thường gặp, y bèn vội hỏi Hoắc Kinh Đường: "Nghĩa là sao?"

Hoắc Kinh Đường cúi đầu nghịch chiếc khăn tay cũ trên cổ tay: "Gần đây tiểu lang không đeo Phật châu ta tặng nữa, là vì không thích à?"

"Không phải, ta rất thích!" Triệu Bạch Ngư nhanh chân chạy đến ngồi cạnh bên Hoắc Kinh Đường, nắm bàn tay hắn dụ dỗ: "Nhưng ngày nào ta cũng phải thẩm vấn phạm nhân mà đúng không? Chỉ sợ máu me làm mất Phật tính, dù sao cũng là do ngươi tặng nên ta phải quý trọng chứ."

Hoắc Kinh Đường giương mắt nhìn y chằm chặp, sau đó móc một cái túi đựng vòng Phật giống hệt như vậy từ trong tay áo ra nói: "Ta sẽ làm một cái hộp."

Triệu Bạch Ngư: "..." Rốt cuộc ngươi yêu thích Phật học đến mức nào vậy?

Triệu Bạch Ngư nhận lấy Phật châu rồi quấn vòng lên cổ tay, y lẩm bẩm: "Thích Phật học thì không cần thanh tâm quả dục sao?"

Hoắc Kinh Đường vỗ lên mu bàn tay Triệu Bạch Ngư: "Phải thành tâm, đừng nói bậy."

Mê tín.

Triệu Bạch Ngư sờ tua rua trên Phật châu, hỏi: "Sau này ngày nào ta cũng đeo, bây giờ ngươi nói được chưa?"

Hoắc Kinh Đường: "Nha môn thiếu hụt là chuyện thường gặp, Nha môn phủ Kinh đô lại là một nơi tốt, dù gì cũng nằm ngay dưới chân Thiên tử, có thể tới bộ Hộ khóc nghèo, có thể mượn tiền trong kho, còn có thể thu quà biếu từ huyện nha bên dưới, bao nhiêu cũng có thể bù vào khoản dư khó coi đó. Còn mấy huyện nha ở dưới hay mấy nơi xa một chút, như huyện nha Tây Bắc kia kìa, nghèo đến mức cái trống nát ba năm cũng không có tiền mà sửa."

"Sao vậy?"

"Tồn lưu quá ít." Hoắc Kinh Đường nói: "Lúc Đại Cảnh khai quốc còn quá nghèo, cái gì cũng cần dùng tiền, vốn khích lệ buôn bán là để phát triển kinh tế, dù đã giao lưu buôn bán với một đám phú thương, bách tính mà triều đình nghèo vẫn hoàn nghèo. Không thì tiền từ đâu ra? Thu thuế. Nhưng thuế cũng không thể quy định quá cao, nếu không thì quá khắc nghiệt. Tóm lại, địa phương thu thuế xong phải đóng tám, chín thành, gọi là 'khởi vận', còn giữ lại một hai thành làm kinh phí sử dụng tại dịa phương, gọi là 'tồn lưu'."

Triệu Bạch Ngư đã nhận ra được vấn đề nằm ở chỗ: "Một hai thành thì cũng ít quá rồi."

Kinh phí cần dùng ở địa phương rất nhiều, ví dụ như tu sửa Nha môn, phát bổng lộc cho quan lại, người làm ở Nha môn, nếu gặp phải thiên tai nhân họa như sơn phỉ khởi nghĩa hay lũ lụt động đất, nạn châu chấu vân vân, thì đều cần chi tiền, một hai thành thuế tồn lưu căn bản chẳng đủ dùng.

"Cho nên chỉ có thể dùng tiền của công nộp thuế, vậy thì sẽ xuất hiện thiếu hụt. Ngươi xem thử ghi chép hạng mục thiếu hụt đi, rõ ràng dùng vào chuyện công, có thể giao cho Tam ty để bọn họ bồi hoàn cho ngươi. Có điều bộ Hộ do lão Ngũ quản lí, có thể sẽ đẩy chiết tử bồi hoàn của ngươi về."

"Không phải có thể, mà là chắc chắn." Triệu Bạch Ngư: "Lỗ bảy mươi ngàn lượng, lần trước chính miệng Ngũ hoàng tử đồng ý phát xuống năm mươi ngàn lượng, có thể miễn cưỡng bổ sung vào chỗ thiếu. Nhưng chỉ từng đó cũng không thể giải quyết sổ nợ của hai mốt huyện bên dưới."

Dừng một chút, Triệu Bạch Ngư lại hỏi: "Không đúng, ngươi nói thiếu hụt là chuyện thường... Chẳng lẽ quan ngoài tỉnh cũng nuốt riêng tiền chung? Nếu không vì lẽ gì lại không thanh toán?"

"Nuốt riêng cũng có, đa số là dùng vào việc công, nhưng bộ Hộ đều sẽ trả chiết tử của bọn họ về, từ xưa đến nay, bồi hoàn khoản ghi sổ sách là một vấn đề cực kì khó khăn, đến cả mấy người Triệu Bá Ung muốn làm cũng sẽ đau đầu thôi. Một là khi bồi hoàn Tam ty phải thu thêm tiền trà nước và phí vay tạm, cái này gọi là 'bộ phí', hai là quốc khố sẽ thiếu hụt nghiêm trọng."

Hoắc Kinh Đường lười biếng tựa vào ghế, hé lộ tường tận bí ẩn không được công khai của quan trường cho Triệu Bạch Ngư nghe: "Tài chính quốc gia vẫn luôn thiếu hụt, từ khi khai quốc đến nay, trong thì có thiên tai nhân họa, ngoài thì có cường địch, Đột Quyết, Đại Hạ và Nam Cương đều là kẻ thù đánh mãi không chết, dường như năm nào cũng chinh chiến, chi phí quân đội cũng căng thẳng. Phần lớn tiền bạc đều chi cho quân đội dẫn đến quốc khố hao hụt, cũng bởi vì thuế thu được nộp lên đến tám, chín thành, vậy nên bên dưới và các nhánh triều đình cũng thiếu, để giải quyết phần thiếu đó thì Thiên tử đã nhiều lần phải dùng đến tiền trong kho riêng của mình để bù vào, không nói là cho, chỉ nói cho 'mượn'."

"Ai mượn? Tể tướng tam ty lưỡng phủ đều mượn, bọn họ mượn dùng cho chuyện công, dùng để hỗ trợ thiên tai, làm nền móng thi công, dùng vào quân vụ, các nhánh cũng tới mượn, thành ra đến lượt Nha môn thiếu, các bộ thiếu, đến cùng quốc khố và kho riêng đều chẳng còn đồng nào."

"Không thể thay đổi sao?"

"Thể chế cồng kềnh phiền toái, nếu tìm cách thay đổi nhất định sẽ đụng vào lợi ích của một vài người, vẫn luôn có kẻ lợi dụng những sơ hở này để hốt bạc trắng trợn, tham ô vào các danh mục tiền công mà quốc gia dùng cho dân, cần có người đứng ra ngăn cản. Cắt bỏ bộ phí này là sẽ ngăn được đường tiền của một đám người. Bệ hạ mở cửa phát triển chợ đêm, cũng là gửi gắm hy vọng rằng khi hàng hóa, kinh tế phát đạt là có thể cải thiện được vấn đề tiền bạc."

Hoắc Kinh Đường chợt hỏi: "Ngươi bảo còn thiếu hai mươi ngàn lượng phải không?"

Triệu Bạch Ngư: "Hơn thế nữa. Mức thâm hụt của các huyện còn chưa tính đâu."

Hoắc Kinh Đường ngoắc ngoắc ngón tay: "Ta dạy ngươi cách đòi tiền."

Triệu Bạch Ngư kề tai lại gần nghe Hoắc Kinh Đường rỉ rả đôi câu, ánh mắt sáng lên: "Ngươi đúng là gian xảo." Y đẩy cánh tay Hoắc Kinh Đường, trêu chọc hắn: "Cả Kinh Đô này đều nghĩ ngươi chỉ nên đi đánh giặc, tính tình cũng hung ác ngang tàn đến thế, nào ngờ ngươi lại biết diễn như vậy?"

"Hàng năm nếu muốn đòi tiền, đòi lương, đòi quân tư đều phải giao thiệp với Tam ty, nếu không biết diễn thì đã chết sớm ở Tây Bắc rồi."

Thật ra thì Hoắc Kinh Đường cũng có tiền, tuy nhiên phân nửa đã tiêu hao cho quân Tây Bắc, chỉ còn dư lại một ít dùng để chi tiêu hằng ngày ở quận vương phủ, một ít dùng làm sính lễ, kho bạc nho nhỏ của Triệu Bạch Ngư cũng vì thế mà đầy thêm một chút, nhưng ở bên ngoài y cũng đã chi tiêu rất nhiều.

Hoắc Kinh Đường còn nuôi dưỡng một thôn lính giải ngũ đã già, Triệu Bạch Ngư thì cất một cái nhà dạy trẻ, thu nhận trẻ em mồ côi và tạo công ăn việc làm cho phụ nữ, chỉ có thể nói rằng hai nơi này như là thú nuốt vàng, vậy nên kho bạc trong phủ không thể tùy tiện đụng vào.

Huống chi cái chỗ rách của vấn đề Nha môn thiếu hụt, cần phải dùng bạc trong kho riêng để bù vào không thể để Triệu Bạch Ngư tự tay xé toạc ra, một khi xé to ra, đắc tội tất cả các quan trong lẫn ngoài kinh, thì đều sẽ không còn cách nào lăn lộn trong quan trường nữa.

Hoắc Kinh Đường: "Vi phu giúp ngươi giải quyết vấn đề khó, có phải tiểu lang cũng nên giúp ta giải quyết nỗi khốn khổ hay không?"

Triệu Bạch Ngư lườm hắn một cái: "Ngươi có thể nào học Bồ Tát tu thân dưỡng tính chút không, đừng có suốt ngày đòi làm chuyện người ta không thể nhìn."

Hoắc Kinh Đường nhìn y chằm chặp, tròng mắt lưu ly xinh đẹp trái lại biểu hiện một cảm xúc rất giả.

Triệu Bạch Ngư hơi căng thẳng: "Giận rồi à?"

Hoắc Kinh Đường chậm rãi đáp: "Ta đói rồi, chỉ mong ngươi nhanh lên một chút rồi cùng ta về nhà ăn cơm thôi. Nói thật xem nào, có phải vì thời gian này không thư thả, bức bối quá nên tiểu lang muốn làm không? Muốn thì cứ nói đi, vì đây là chức trách mà người làm chồng là ta đây không thể thoái thác."

"..." Triệu Bạch Ngư tiện tay cầm tập hồ sơ ném sang: "Xin ngài hãy im miệng đi!"

Yên lặng mấy giây, y mới nói tiếp: "Đợi ta chỉnh lý hồ sơ người cuối cùng này là xong rồi."

Da đầu y vì câu nói kia mà tê dại, gò má còn hơi nóng lên, Triệu Bạch Ngư ho khan hai tiếng, phải thừa nhận cơ thể của y thật sự hơi có cảm giác thực tủy tri vị.

Ổn định tinh thần một chút, Triệu Bạch Ngư lại nghiêm túc xem hồ sơ, đó là một vụ án vào nhà cướp bóc giết người ở huyện Giang Dương, Dương Châu, chủ mưu đã bị bắt, huyện địa phương, châu và tỉnh đều phán xử tử hình, án được trình lên bộ Hình và Đại lý tự để đưa ra phán quyết cuối cùng hoặc giữ nguyên án tử, bởi vì khoảng thời gian trước chấn chỉnh đại ngục, bộ Hình và Đại lý tự không có phòng giam trống, vậy nên đã đưa phạm nhân tới giam ở đại lao Kinh Đô, qua hai ngày nữa mới đưa đi xử chém.

Tam đường hội thẩm, kết quả vẫn không thay đổi, vụ án được giải quyết dứt khoát, Triệu Bạch Ngư tô một dấu đỏ ở cuối hồ sơ.

Triệu Bạch Ngư đi đến bên cạnh Hoắc Kinh Đường, hai tay rụt vào trong áo, cười dịu dàng, "Về nhà thôi." Dưới ánh đèn, làn da y trơn mịn, tựa như có thể phát sáng lên.

Hoắc Kinh Đường vươn tay nắm tay y, ống tay áo rộng phủ lên hai bàn tay đang nắm chặt lấy nhau.

***

Ngày hôm sau, Triệu Bạch Ngư liền kêu người triệu hai mươi mốt Huyện lệnh Kinh đô đến, lệnh cho bọn họ tính toán kĩ càng, báo toàn bộ tất cả các khoản thiếu hụt của năm trước lên, sau đó cho người gọi là toán phòng tiên sinh dò lại một lần nữa, bỏ đi một vài sổ sách dễ bị tra ra vấn đề, chỉ để lại những sổ có thể dùng để làm lớn chuyện trước.

Tri phủ vừa nhậm chức họ Phùng, lúc này đang tìm Triệu Bạch Ngư hỏi: "Sổ sách thế nào rồi?"

Triệu Bạch Ngư đem sổ sách đến giao cho Phùng tri phủ: "Mời ngài xem."

Phùng tri phủ liếc nhìn sư gia (*) sau lưng, sư gia nhận lấy sổ sách xem một lượt, cúi người nói nhỏ bên tai Phùng tri phủ mấy câu, mặt lão lập tức biến sắc, nổi giận với Triệu Bạch Ngư: "Triệu thiếu doãn, ngươi nói thử ta xem, Kỷ đại nhân nhậm chức cũng chỉ mới năm năm, sao sổ sách hụt mất hơn một trăm ba mươi ngàn lượng thế kia?"

(*) Sư gia: trợ lí mời làm riêng không có trong biên chế

Triệu Bạch Ngư: "Đại nhân có điều không biết." Y nói lý do ra.

Phùng tri phủ: "Vì sao lại không đến bộ Hộ thanh toán?"

Triệu Bạch Ngư tỏ vẻ khó xử: "Đại nhân, chuyện... Chuyện này thật sự rất khó khăn —— "

"Khó khăn cái gì?! Cả Kinh Đô này có Nha môn nào mà không theo nề nếp đến bộ Hộ thanh toán? Bộ Hộ không thanh toán cho chỗ nào? Đừng tưởng rằng ta không biết những mánh nhỏ này của các ngươi, chắc chắn là do lười biếng làm việc rồi! Triệu Bạch Ngư ta nói cho ngươi biết, thứ người như ngươi ta gặp nhiều rồi! Bây giờ ngươi hãy cầm những sổ sách này đến Tam ty, bộ Hộ báo tiêu đi, nếu không cân bằng sổ sách lại được thì khỏi về đây nữa!"

"Không được đâu —— đại nhân làm khó hạ quan rồi, ai ai cũng biết đến tìm bộ Hộ thanh toán khó không thua gì lên trời, đều là xí xóa khoản nợ mỗi năm một chút, ai mà chịu xóa một lần một khoản nợ bốn năm, một trăm ba mươi ngàn lượng trong nay mai? Chuyện này... Hạ quan thật sự không làm được, cầu xin đại nhân ngài đừng gây khó dễ cho hạ quan —— "

"Đại nhân ta nào có gây khó dễ cho ngươi." Phùng tri phủ nói: "Ngươi có biết trước đây ta ở đâu làm việc gì không?"

Triệu Bạch Ngư lắc đầu: "Không biết."

Phùng tri phủ: "Ta là Tri phủ Hàng Châu, làm việc rất tốt, chưa bao giờ để bị thiếu hụt khoản nào nên mới được triệu vào Kinh đảm đương chức vụ quyền Tri phủ mà cả kinh kỳ này ao ước!"

Triệu Bạch Ngư khen ngợi: "Đại nhân lợi hại."

Phùng tri phủ: "Bớt nịnh nọt! Ta nói cho ngươi biết, đại nhân của ngươi không có nói đùa, ta chẳng sợ Lâm An quận vương, cũng chẳng sợ Tế chấp đại nhân đâu, ta mặc kệ ngươi là quận vương phi hay con trai nhà Tế chấp gì đó, ở dưới trướng ta là phải làm việc đàng hoàng, bảo ngươi đi xóa nợ thì ngươi phải làm được, nếu không thì từ quan rồi cút đi!"

"Nhưng hạ quan làm gì có tư cách đi xóa nợ, dù sao cũng là công việc của đại nhân ngài, để cho hạ quan đi, người ta lại nói "Ngươi không được, gọi đại nhân nhà ngươi đến đi", thì ta phải làm sao?"

"Sao ngươi lại ngu xuẩn vậy? Hả? Ngươi nói do ta ra lệnh không được à? Thiệt thòi cho Kỷ đại nhân cứ khen ngợi ngươi thông minh ở bên tai ta, bây giờ xem đi, chẳng biết điều gì cả."

"Phải phải, hạ quan ngu dốt."

Phùng tri phủ không nhịn được mắng: "Biến đi!"

Triệu Bạch Ngư mất hết thể diện chỉ đành lui xuống.

Sư gia đứng bên cạnh Phùng tri phủ lập tức vẫy đuôi: "Đại nhân cao siêu thật, ai cũng biết Tam ty rất khó xóa nợ, để cho Triệu Bạch Ngư đi làm, y không làm được tức là không hoàn thành nhiệm vụ, đến lúc khảo hạch thành tích cuối năm chúng ta còn có lý do để kể tội y. Nếu như y đem tiền hối lộ Tam ty, ta có thể lấy danh Ngũ hoàng tử nói trước với bên đó một tiếng, sắp đặt sẵn một con đường cho Triệu Bạch Ngư đi, vậy là thêm một tội hối lộ. Trái phải đều sai, lúc này là có thể chỉnh chết y rồi."

Phùng tri phủ cười đắc ý: "Một mưu kế nhỏ thôi, phải giúp Ngũ hoàng tử trút giận chứ! Ta còn phải đến thăm Ngũ hoàng tử và ân sư Triệu tế chấp nữa, đồ kêu ngươi chuẩn bị đã xong xuôi hết chưa?"

Sư gia: "Đã chuẩn bị xong từ sớm rồi ạ!"

Sư gia thu nụ cười lại: "Có điều Triệu Bạch Ngư là con trai ân sư của ngài, chúng ta có thể nhằm vào y hay không..."

Phùng tri phủ: "Yên tâm đi, ân sư còn hận không muốn có đứa con này cơ mà, ta chỉ giúp Ngũ hoàng tử và ân sư hả giận một lần thôi!"

Sư gia: "Nhưng mà ta nghe nói Lâm An tiểu quận vương ngày nào cũng đến Nha môn đưa đón Triệu bạch Ngư..."

Phùng tri phủ giễu cợt: "Ngươi thật sự nghĩ Triệu Bạch Ngư được cưng chiều vậy sao? E là hắn mượn cớ làm vậy là để cho bệ hạ xem, cũng để nói cho bệ hạ biết Lâm An quận vương hắn thích nam nhân, sẽ không có uy hiếp mà thôi. Hừ! Mà cứ cho rằng Triệu Bạch Ngư được cưng chiều thì sao? Một nam nhân không thể sinh con thì tự hào được đến chừng nào? Đúng là một đôi hai ghế (*), bẩn thỉu không thể ngửi nổi."

(*) Hai ghế - 二椅子: Phương ngữ Đông Bắc, hai ghế đại diện cho hai giới tính nam – nữ, với người xưa, một người thuộc hai ghế có nghĩa là nam không ra nam, nữ không ra nữ.

Hai người đã đi xa, Triệu Bạch Ngư núp ở sau tường im lặng nghe toàn bộ cuộc hội thoại, trên mặt không có biểu cảm gì.

Mắng y thì không sao, nhưng Hoắc Kinh Đường đã đắc tội gì với lão ta rồi?

Hoắc Kinh Đường mười hai tuổi ra chiến trường, hắn đã chinh chiến biết bao nhiêu năm trời vì đất nước suýt chút nữa là bỏ mạng, tên rác rưởi dựa vào nhà ngoại để lên chức như Phùng Xuân Sơn làm sao xứng nhắc đến Hoắc Kinh Đường?

==

Chương 25

Tam ty trù tính toàn bộ tài chính của quốc gia, ngày nào cũng đối chiếu công văn ngập đầu, có thể nói là nhánh bận rộn nhất, gần đây xảy ra lũ lụt Hoàng Hà, rất nhiều vấn đề cần dùng bạc, nhiều ngày liên liếp phải xử lí vô số việc.

Ngay lúc bộn bề lại nhận được sổ sách từ Kinh Đô nộp lên, bảo bọn họ thanh toán một trăm ba mươi ngàn lượng bị thiếu hụt, Tam ty vốn siết chặt lưng quần nào bằng lòng xóa nợ?

Vậy nên lập tức gạt bỏ.

Gạt bỏ chưa được bao lâu, sổ sách báo tiêu lại xin được nộp lên, trên đường thượng triều, Đạc chi phó sứ quản lí tiêu trướng và phán quan bộ Hộ bị Triệu Bạch Ngư chặn ngay trước kiệu.

Hai người làm quan cùng triều, lại là đồng niên đồng trác, hai ông bạn già lâu năm trên đường gặp mặt nên mới đi chung, nào ngờ lại bị Triệu Bạch Ngư chặn đường.

Đừng thấy dáng vẻ Triệu Bạch Ngư như trăng như gió luôn cười ôn hòa, thật ra lời nói hành vi không khác gì phường lưu manh, nhất quyết chắn đường không cho ai đi: "Hai vị đại nhân, không phải hạ quan nhìn không hiểu sắc mặt, nhưng thật sự đã khó xử lắm rồi ạ."

"Triệu Bạch Ngư, ngươi muốn thanh toán sổ sách thì phải làm theo quy củ, mọi việc đều phải làm theo quy trình! Bên dưới cả ngàn huyện, châu, tỉnh cộng lại cũng trên trăm, ở đâu mà không muốn thanh toán? Ai mà lại không làm theo quy củ? Ai lại đi chặn đường như ngươi? Có phải ngươi định ngày nào cũng đến chặn bọn ta không? Ai cũng đều làm giống như ngươi thì quốc pháp ném đi đâu đây? Vậy thì mọi công việc đều không còn cần quy củ nữa sao?"

Đạc chi phó sứ tức giận: "Quay về đi. Nếu ngươi đã nộp sổ sách thì phải chờ Tam ty phán quyết, bị trả về thì phải tìm cách giải quyết phần bị thiếu, đây là chức trách của các ngươi!"

Triệu Bạch Ngư sờ ống tay áo: "Đại nhân, trong lòng ngài biết rõ Tam ty sẽ không đồng ý thanh toán một trăm ba mươi ngàn lượng cho Kinh Đô bởi vì chưa đưa phí vay tạm. Hạ quan biết Tam ty có lệ phải nộp bộ phí thỏa thuận để bồi hoàn và xóa nợ, nhớ không lầm thì hắn là một li ba hào? Vậy là tận một ngàn sáu trăm chín mươi lượng bạc trắng! Hạ quan phải gom bao lâu đây? Tất nhiên bây giờ thân phận của hạ quan đã khác, là quận vương phi, hồi môn, sinh lễ cộng với kho bạc nhỏ thì rất khả quan, nhưng hạ quan không thể nào lấy ra ngay được một ngàn sáu trăm chín mươi lượng bạc trắng! Hai vị đại nhân, nữ nhân làm vợ đã khó, một nam thê như ta lại càng khó hơn nữa! Hạ quan thật sự là bị ép đến mức không còn cách nào nữa rồi, Phùng đại nhân mới nhậm chức chỗ bọn ta ra lệnh cho ta phải tìm Tam ty các người để thanh toán cho tất cả sổ sách thiếu hụt của một phủ hai mươi mốt huyện!"

"Hai ngài nói xem, ta chỉ là thuộc hạ, có thể từ chối hay không?"

"Lời đe dọa như vậy, hai vị đại nhân không sợ chút nào sao?"

Phán quan bộ Hộ và Đạc chi phó sứ nhìn nhau một cái, sau đó hỏi: "Sợ cái gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Tri phủ đại nhân mới nhậm chức của bọn ta là người cậu duy nhất của Ngũ hoàng tử đấy, hơn nữa Phủ doãn Kinh Đô là Thái tử, hai ngài thử nghĩ xem nếu không có ý của Thái tử và Ngũ hoàng tử thì Phùng đại nhân dám bảo Tam ty các vị thanh toán sổ sách thiếu hụt bốn năm không?"

Hai người nhìn nhau cười, Phán quan bộ Hộ gật đầu nhẹ nhàng nói: "Dù có là bệ hạ ra lệnh thì cũng phải làm theo quy trình. Thái tử là trữ quân tương lai, Ngũ hoàng tử cũng nhậm chức ở bộ Hộ nhiều năm, hai vị điện hạ không thể nào không hiểu quy củ bồi hoàn xóa nợ. Ngươi đừng làm chuyện xấu mặt người có học nữa, trở về đợi đi, cứ từ từ rồi cũng sẽ đến lúc Tam ty thanh toán thay phủ Kinh Đô các ngươi thôi."

Đạc chi phó sứ: "Đúng vậy ha ha ha..."

Hai người cười lớn, vượt qua người Triệu Bạch Ngư đi thẳng.

Triệu Bạch Ngư nhìn hai bóng lưng đi xa, tâm trạng ổn định, không về Nha môn mà đi tìm Kỷ tri phủ, nhờ ông giúp nghĩ viết một phần chiết tử thay Nha môn Kinh Đô mượn bạc trong kho bạc của bệ hạ.

Kỷ tri phủ: "Con dấu ta có thể đóng, nhưng không thể dùng danh nghĩa của ta."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy nên ta mới đặc biệt chọn ngày ngài chuyển giao quan ấn để đến đó thôi, đến lúc chiết tử mượn tiền được chuyển vào trong kho thì ngài cũng đã điều nhiệm rồi, ngài đâu còn trách nhiệm gì với sổ sách đó nữa?"

Kỷ tri phủ: "Cũng đúng." Ông viết một chiết tử đưa cho Triệu Bạch Ngư, hỏi: "Ngươi định làm cái gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Ta chỉ đang nhận lệnh Phùng đại nhân làm việc thôi."

Kỷ tri phủ khuyên: "Đừng hành động theo cảm tính, dù gì ngươi cũng chỉ là người làm công, nhẫn nhịn cho qua là được rồi, lão ta cũng không dám làm gì ngươi."

Triệu Bạch Ngư cười nói: "Ta biết rồi."

Từ biệt Kỷ tri phủ, Triệu Bạch Ngư cầm chiết tử đến thăm hỏi quan nội thị Cao đô tri.

Cao đô tri từ nhỏ đã vào cung, được phân đến hầu hạ thiếp thân Nguyên Thú đế, sau đó đảm nhiệm chức Đô tri nội thị thay Nguyên Thú đế xử lí sổ sách trong kho.

Trăm quan tam ty lưỡng phủ muốn mượn tiền trong kho cần phải thông qua Cao đô tri.

Số lượng nhỏ thì không cần bẩm báo Nguyên Thú đế, nhưng lượng lớn như tiền cứu nạn thiên tai hay điều hòa biến động kinh tế, dân sự thì cần mượn thẳng Nguyên Thú đế, mà Triệu Bạch Ngư chỉ mượn một khoản nhỏ nên tới tìm Cao đô tri.

Điều làm người ta ngạc nhiên, chính là Cao đô tri cũng biết y sẽ tới, vậy nên đã đích thân đứng sẵn ở cửa chào đón: "Tiểu Triệu đại nhân ghé phủ, nơi hèn này vinh hạnh đón khách quý."

Triệu Bạch Ngư không thoải mái trước sự nhiệt tình của Cao đô tri nhưng vẫn nở nụ cười niềm nở, hàn thuyên vài câu rồi nói thẳng vào vấn đề.

"Mượn tiền?" Cao đô tri tỏ vẻ khó xử: "Nếu như là mượn tiền ta, ta nhất định sẽ không từ chối, nhưng tiểu Triệu đại nhân ngài lại muốn mượn tiền trong kho riêng, tiền đó thuộc về Thiên gia, ta chỉ thay mặt xử lí, nào có quyền nói mượn là cho mượn được."

Triệu Bạch Ngư cầm chiết tử nói: "Ta có mang theo chiết tử và giấy nợ, có quan ấn của Phủ doãn Kinh Đô và Tri phủ, Cao đô tri ngài chỉ cần báo lên một tiếng, thông qua là được."

Cao đô tri xem chiết tử và giấy nợ xong, trong lòng thoáng nhẹ nhõm: "Kinh kỳ là vùng trọng yếu, sao có một ngàn mấy trăm lượng mà cũng làm khó dễ chứ?"

Triệu Bạch Ngư đau khổ đáp: "Đô tri có điều chưa biết, Kỷ đại nhân của bọn ta lúc còn tại vị thanh chính liêm khiết, nhân từ nương tay, phàm là các huyện dưới xuất hiện nạn tuyết, nạn sâu bệnh gì cũng đều chi tiền hào phóng. Chi từng khoản nhỏ nhặt góp thành khoản to, thế chẳng phải không còn đồng nào sao? Phùng đại nhân mới đến muốn tạo uy phong chèn ép quan viên nhỏ, hạ quan đã hết cách nên mới đến mượn tiền trong kho."

Cao đô tri thấp giọng hỏi: "Xin mạo phạm, tiểu Triệu đại nhân có thể nhờ Lâm An quận vương ra mặt kia mà."

Mặt mày Triệu Bạch Ngư u sầu: "Cô gái mới gả không dễ dàng gì, nam thê mới gả thì cũng... Ôi."

Cũng vậy.

Cao đô tri thật tình có thể thông cảm cho Triệu Bạch Ngư, gã nghịch hai quả óc chó trong tay, suy nghĩ một chút rồi hỏi: "Đây là ý của Thái tử sao?"

Triệu Bạch Ngư nhìn trái nhìn phải, nói nhỏ: "Gần như là vậy đấy. Ngài biết Tri phủ mới nhậm chức là ai không? Phùng Xuân Sơn."

"Ngũ hoàng tử..."

"Đúng vậy! Ngũ hoàng tử và Thái tử huynh đệ tình thâm, cũng coi như có quan hệ với Phùng đại nhân, ngài xem cấp trên của Phùng đại nhân là Thái tử kia kìa, nếu như hai vị thần tiên không có ý, sao Phùng đại nhân dám mượn tiền trong kho?" Triệu Bạch Ngư ra vẻ rất tin tưởng Cao đô tri, chia sẻ chút bát quái cho gã biết: "Ta không có lừa gạt Đô tri, ngài đối xử với ta rất tốt, bản thân bị gả vào quận vương phủ, cả Kinh Đô này không ai vui vẻ gì khi thấy ta, chỉ có ngài là dùng lễ để đối đãi, những lời ta nói với ngài đều là lời thật lòng, Thái tử ấy, chính là cố tình mượn tay Phùng đại nhân chỉnh sửa vấn đề thiếu hụt sổ sách."

"!" Cao đô tri sợ kinh hồn bạt vía, "Thật không?"

Triệu Bạch Ngư: ""Tuy ta là quận vương phi, nhưng là nam thê không được coi trọng, phủ Tế chấp cũng không yêu thương ta, ta chỉ là một nhân vật nhỏ ảnh hưởng không đáng kể, nào dám nhúng tay? Chẳng lẽ ta lại không muốn sống nữa mà đắc tội toàn bộ quan trường? Lần trước suýt chút nữa là bị cuốn vào án gian lận thi cử, lại bị Tần vương ngáng đường, Thái tử rơi vào thế một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, nóng lòng muốn có thành tích, vừa đúng lúc Hoàng Hà nổi lũ, quốc khố, kho riêng đều thiếu tiền, chỉ cần ăn bớt..."

Triệu Bạch Ngư không nói rõ, chỉ ám chỉ: "Không phải là có tiền bù vào chỗ hụt rồi sao?"

Có lý. Cao đô tri đã tin hơn nửa phần, trong lòng kinh hãi, Thái tử vậy mà lại dám đao to búa lớn đụng vào bộ phí, còn đắc tội nhiều người hơn là một kẻ phải chịu trách nhiệm cho một án oan.

Phải biết rằng phí vay tạm có liên quan đến vô số mắc xích từ trên xuống dưới, ví dụ như từ huyện đến châu, từ châu đến tỉnh, tỉnh đến Tam ty, vô số khâu trong đó đều cần đút lót bộ phí, Thái tử động tâm tư chính là động vào lợi ích của rất nhiều người, không phải họ sắp bị tấn công rồi đấy chứ?

Cao đô tri: "Ta có thể châm chước giúp một tay, không bảo đảm chắc chắc được thông qua. Nhưng tiểu Triệu đại nhân à, ngài nhất định không được kéo bọn ta vào cuộc đấy!"

Triệu Bạch Ngư: "Tất nhiên rồi!"

Cao đô tri: "Chiết tử và giấy nợ ta sẽ nhận trước, về đợi tin tức đi."

Triệu Bạch Ngư: "Hạ quan cảm ơn Đô tri trước."

***

Tiễn Triệu Bạch Ngư đi xong, Cao đô tri ở nhà một mình đắn đo suy nghĩ, càng nghĩ càng sợ hãi, cũng may gã không dây vào, có điều Thái tử định ra tay thế nào? Ra tay từ đâu? Gã cho mượn một ngàn mấy trăm lượng bạc có tác dụng gì? Có nên cho mượn hay không?

Không cho mượn, vậy thì sẽ đắc tội trữ quân tương lại lẫn Ngũ hoàng tử, không phải tự tìm đường chết sao?

Cho mượn, không rõ có ảnh hưởng gì hay không, nhưng chỉ cần không liên quan đến bản thân mình thì chẳng sao cả.

Ngũ hoàng tử quản lí bộ Hộ, ngọn đuốc của Thái tử đốt lên sẽ đốt lây sang hắn, nhưng hai người là đồng đảng, lại là anh em, chỉ e là Ngũ hoàng tử không tình nguyện phối hợp!

Anh em tốt, hay cho trữ quân tương lai, lòng dạ của hai vị điện hạ đúng là sâu không thấy đáy.

Cao đô tri nhịp tay, quyết định sẽ cho mượn một ngàn mấy trăm lượng bạc trắng trong kho, bán đi mặt mũi của trữ quân tương lai, tuy nhiên cũng không thể đắc tội quan triều, chi bằng bán chút tình người nghĩ cách tiết lộ chuyện ra ngoài, thế là không đắc tội bên nào cả.

***

Triệu Bạch Ngư lấy được ngân phiếu mượn một ngàn sáu trăm chín mươi lượng từ trong kho, đem đổi được ba rương bạc trắng lòa chuẩn bị đưa đến Nha môn bộ Hộ, vừa vặn gặp Phùng Xuân Sơn đang đi tới.

Phùng Xuân Sơn hỏi: "Trả xong nợ rồi sao?"

Triệu Bạch Ngư nhanh nhảu đáp: "Bị bộ Hộ đuổi về, ta đang định đến Nha môn bộ Hộ xin tiếp đây."

Phùng Xuân Sơn chỉ ba cái rương ngoài cửa: "Kia là cái gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Là một trăm ba mươi ngàn lượng "phí vay tạm" để cho Tam ty xóa nợ, ngài biết mà đại nhân, đây là quy củ."

Phùng Xuân Sơn trợn mắt: "Quy củ cái gì! Ngươi đã hối lộ —— "

"Đại nhân!" Sư gia vội vàng chặn lời Phùng Xuân Sơn, ý nhắc nhở lão phải chờ cho Triệu Bạch Ngư tự chui đầu vào lưới mới được.

Phùng Xuân Sơn hắng giọng: "Không sai, là phí vay tạm... Không phải, ngươi lấy tiền ở đâu ra?"

Sắc mặt Triệu Bạch Ngư trở nên khó coi: "Đại nhân hỏi nhiều để làm gì?"

Lúc này Phùng Xuân Sơn muốn mắng y vô lễ với quan trên, nhưng lại bị sư gia kéo tay áo, cố gắng đè xuống lòng ham mê chức quyền, phất tay một cái nói: "Mau đi đi."

Triệu Bạch Ngư chắp tay cáo từ, sau đó lên đường đưa ngân lượng đến Nha môn bộ Hộ.

Sư gia lắc đầu tiếc nuối: "Thê thảm, tiếc thật, xưa nay ta chưa từng thấy có người nào mang một xe "bộ phí" đến bộ Hộ xóa nợ, công khai nói cho người ta biết mình hối lộ cả, Triệu Bạch Ngư sao có thể làm quan được vậy?"

Phùng Xuân Sơn khinh thường nói: "Cậy nhờ cha mẹ."

Sư gia: "Nhưng nghe nói y ngự tiền tố cáo ân sư, cũng khá cao nghĩa."

Phùng Xuân Sơn: "Ngu xuẩn, lỗ mãng! Nếu như y thật sự thông minh thì tại sao lại không đường đường chính chính tham gia thi cử? Sao đã ba năm trời mà vẫn là một tiểu quan tòng lục phẩm? Hai lần ngự tiền gặp bệ hạ mà vẫn không lên chức, không phải thứ rác rưởi vô dụng thì là cái gì?"

Sư gia chợt hiểu ra: "Đại nhân cao kiến."

Phùng Xuân Sơn: "Ngươi sai người đến bộ Hộ nói một tiếng, bắt tại trận Triệu Bạch Ngư hối lộ!"

Sư gia: "Đã biết!"

***

Nha môn và Tam ty khá gần, lúc nào muốn đều có thể qua lại, Phán quan bộ Hộ thám thính nội tình từ kho riêng của nội thị Cao đô tri thì vội vã tìm Đạc chi cùng mấy vị đại nhân Hộ bộ lưỡng ty, lúc này đang âm thầm bàn bạc.

Đạc chi phó sứ: "Nói nhảm! Ta không tin Thái tử dám đụng đến bộ phí, toàn lời chướng tai, hắn không nhất định phải lấy mình ra làm trò cười. Ngũ điện hạ làm Hộ bộ sứ đã nhiều năm, chưa nói đến bản thân, người bên dưới có ai chưa từng thu bộ phí? Lục soát thử xem nhà ai không giắt túi bạc triệu? Thái tử và Ngũ điện hạ thật sự dám liều dùng bộ phí mà chặt đứt đường tương lai của mình sao?"

Đạc chi phán quan nhìn về phía phán quan bộ Hộ: "Đại nhân, ngài làm việc dưới trướng Ngũ hoàng tử, không cảm thấy có gì lạ xảy ra sao?"

Phán quan bộ Hộ bày ra vẻ mặt lúng túng: "Ta không phải tâm phúc của Ngũ hoàng tử, chức vị cũng bất tiện. không bằng chính sứ, phó sứ, không thể trực tiếp đụng vào sổ thuế, còn chẳng bằng ngũ án dưới kia. Suy cho cùng, phán quan chỉ bị kéo tới chịu tội thay thôi, nếu thật sự có lòng chỉnh lý bộ phí, các người nói xem cuối cùng người bị đưa ra ngoài đội nồi là ai? Là mấy người chúng ta chứ còn ai?"

"Đạc chi chính sứ và Hộ bộ phó sứ đều là tâm phúc của bệ hạ, Thái tử động vào ai cũng không dám động đến bọn họ, địa vị của Diêm thiết ty so với lưỡng ty Đạc chi, bộ Hộ quan trọng hơn nhiều, có khai đao cũng sẽ không dám chạm tới Diêm thiết ty, chỉ có Đạc chi phó sư đại nhân nhà ngươi, cùng với Đạc chi phán quan đại nhân, còn có ta nữa, đỉnh đầu có Phật đè, dưới chân là một đám tiểu quỷ, sau lưng lại chẳng có núi dựa, ba người chúng ta mới là kẻ bị đẩy ra đội nồi!"

Lời này dọa cho Đạc chi phó sứ và phán quan mặt mày ủ dột.

Đang lúc ấy, có người đến báo Triệu Bạch Ngư đã đến, mang theo ba rương bạc trắng đến giao phí vay tạm.

"Có ý gì? Ba rương bạc trắng lớn —— lấy danh nghĩa của Thái tử mượn bộ phí từ chỗ bệ hạ sao! Được lắm, xem ra Cao đô tri nói không sai, chính là nhằm vào chúng ta rồi." Đạc chi phó sứ vỗ lên tay vịn của ghế luôn miệng nói: "Nợ của Kinh đô đều đưa đến chỗ chúng ta, Triệu Bạch Ngư chặn đường ai không chặn lại chặn chúng ta, rõ ràng là muốn đổ hết lên đầu ta mà!"

"Nhưng có phải là Triệu Bạch Ngư tự mình hành động không?" Đạc chi phán quan vẫn cảm thấy thấp thỏm vì chuyện này.

"Triệu Bạch Ngư? Một tiểu quan thất phẩm như y lấy đâu ra cái gan khai đao Tam ty?! Y dám đắc tội cả triều văn võ hay sao? Cứ coi như y làm vậy đi, thì động cơ ở đâu ra? Y sẽ nhận được lợi ích gì? Chỉ có Thái tử cần tiền, cần tín nhiệm từ bệ hạ, ta hiểu rồi!" Phán quan bộ Hộ chợt hiểu ra: "Thái tử liên lụy án gian lận thi cử dơ dáy kia, về sau bệ hạ dứt khoát cải cách giới nghiêm, toàn quyền giao cho Trần Sư Đạo, không cho phép Thái tử nhúng tay, chẳng lẽ đó là tín hiệu cho thấy bệ hạ đã sinh nghi Thái tử rồi? Còn có đợt lũ Hoàng Hà, họa tới Hoài Nam, mảnh đất này lại là sân sau của Thái tử, thật sự không sợ có liên quan đến cả bệ hạ sao?"

"Sợ! Cũng vì sợ, cho nên Thái tử mới cần giành công, Hoài Nam mắc lũ, thiếu bạc cứu trợ thiên tai, vậy nên vừa giành được công, vừa có tiền để bù vào, một mũi tên trúng hai con nhạn!" Đạc chi phó sứ cảm thán: "Đáng sợ, thủ đoạn đúng là đáng sợ, tâm tính cũng đáng sợ, chĩa mũi nhọn vào chúng ta, là muốn làm cho lòng triều thần Đại Cảnh e dè trước ta sao?"

Có người lại đi vào báo, nói là sư gia bên cạnh Tri phủ mới nhậm chức có ý muốn bọn họ bắt tại trận Triệu Bạch Ngư hối lộ.

Đạc chi phó sứ cười lạnh: "Được lắm, được lắm, đào hố chờ chúng ta nhảy vào à!"

Đạc chi phán quan: "Ta cảm thấy không đúng lắm, có phải là vì Phùng Xuân Sơn đang tận lực nhắm vào Triệu Bạch Ngư không?"

Phán quan bộ Hộ: "Tuy nói quan mới nhậm chức ra oai, nhưng chuyện này đều là nhắm về phía Triệu Bạch Ngư chứ không phải là chúng ta hay sao? Vì sao lại nhắm vào Triệu Bạch Ngư? Có lẽ ông không biết, Thái tử từng cam kết điều y đến bộ Hình làm việc, Ngũ hoàng tử cũng chính miệng nói rằng Triệu Bạch Ngư thanh chính liêm khiết trước mặt bệ hạ và quan triều!"

"Bọn họ chính là một phe!" Đạc chi phó sứ chắc như đinh đóng cột: "Thông đồng diễn thật tốt một vở kịch, một kẻ vai phản diện, một kẻ vai vô tội, đợi khi chúng ta bắt Triệu Bạch Ngư tội hối lộ, đưa y về Đại lý tự, bộ Hình, đến lúc thẩm vấn hỏi tại sao ngươi lại hối lộ, y liền có cớ vạch trần bộ phí, chưa kể tới lượt Ngự sử đài ngự tiền vạch tội thêm nữa —— "

Đạc chi phó sứ lắc đầu liên tục, ánh mắt vô hồn: "Thật sự muốn đẩy chúng ta vào chỗ chết rồi!"

Hộ bộ phán quan: "Ai sống ai chết còn chưa định, chi bằng ta chủ động xuất kích!"

Đạc chi phán quan: "Ông định làm gì?"

Hộ bộ phán quan: "Chúng ta đến chỗ bệ hạ tự vạch trần! Tục nói pháp bất trách chúng, nếu để bị tra ra được lại là một cảnh lao tù, trước mắt Đại Cảnh không thể chịu thêm bất kì hỗn loạn nào nữa, bệ hạ tất nhiên sẽ dòm trước ngó sau, đại khai ân điển, sẽ không truy cứu đến cùng. Tuy nhiên sẽ bắt những người bên dưới nộp bộ phí tham ô những năm này lên."

Rồi ông tựa như có điều băn khoăn: "Có lý. Triều cục trước mắt khó khăn, cần gấp nhất chính là thiếu ngân lượng cứu nạn thiên tai, quốc khố lẫn kho riêng... Nhưng nếu chúng ta chủ động tố giác bộ phí thì không phải là đắc tội đồng liêu hay sao? Ngày sau sẽ bị chỉnh chết mất!"

Đạc chi phó sứ nói: "Hừ! Nào có chuyện dễ dàng như vậy? Diêm vương khó dây, chẳng lẽ không đối phó tiểu quỷ được? Không đắc tội hai vị điện hạ nổi, chẳng lẽ không thể bắt Phùng Xuân Sơn chịu tội thay? Lão cho rằng lão ra lệnh cho Triệu Bạch Ngư đánh trận rồi là mình có thể núp bóng phía sau xem cuộc vui sao, ta nhất định sẽ lôi đầu lão ra!"

Vừa nói chuyện, Đạc chi phó sứ cho người truyền lời rằng bọn họ đã hiểu ý, cứ việc buông tay không dính líu, tốt nhất là để cho Phùng Xuân Sơn tự ra mặt ngự tiền vạch tội!

"Kinh đô phủ là nơi trọng yếu của kinh kỳ, bệ hạ bổ nhiệm cho Phùng đại nhân trách nhiệm nặng nề này là vị coi trọng, cố tình bồi dưỡng lão, Phùng đại nhân càng không thể phụ lòng bệ hạ. Cái gọi là quan mới nhậm chức thổi đuốc ra oai, thì cây đuốc đầu tiên phải cháy vang dội cháy cho bằng sạch, tốt nhất là khiến cho cả triều đình khiếp sợ, trực tiếp lọt vào mắt của bệ hạ!"

***

Câu trả lời của quan triều Tam ty nằm trong dự tính của sư gia, có điều thái độ quá nhiệt tình làm cho gã sinh lòng nghi ngờ.

Gã đem đầu đuôi thuật lại một lượt, Phùng Xuân Sơn vuốt chùm rấu ngắn mãi suy tư, cảm giác các quan nói rất có lý.

"Ngươi đừng khuyên ta, ngươi không hiểu đâu, tầm nhìn ngươi còn hạn hẹp, Tam ty sử muốn nói ta tự tố Triệu Bạch Ngư sao? Không, thật ra thì mục tiêu của ta chính là Lâm An quận vương sau lưng Triệu Bạch Ngư cơ! Ngươi biết trong Kinh thành có lưu truyền một bí mật, rằng Lâm An quận vương lén lút giấu cho mình đội binh thần quỷ không?" Phùng Xuân Sơn nện vào lòng bàn tay một cái nói: "Đúng rồi, đúng rồi! Ha ha, không hổ là Tam ty bộ Hộ dưới tay Ngũ điện hạ, gan trung gan nghĩa, suy một ra ba!"

Phùng Xuân Sơn sửa lại triều phục, vẻ mặt nham hiểm: "Sư gia, giúp bổn phủ nghĩ một phần tấu chương, bổn phủ muốn nhập cung dạ tấu!"

Sư gia không từ chối được, chỉ có thể đáp ứng.

***

Ba rương bạc trắng của Triệu Bạch Ngư bị giữ lại trong Nha môn Tam ty, sổ sách chờ xóa nợ cũng vậy, không ai cho một tin tức chính xác, chỉ đuổi y đi, bảo y hãy chờ đợi.

Triệu Bạch Ngư xoa mũi, khóe miệng ngậm cười rời đi, quay về Nha môn lại gặp mặt Phùng Xuân Sơn, hai bên đều cười tươi rói, dùng ánh mắt chết người chào hỏi lẫn nhau.

Phùng Xuân Sơn không giấu nổi niềm vui, quan sát Triệu Bạch Ngư rồi nói: "Không sai sót, làm việc không tệ nhỉ."

Triệu Bạch Ngư: "Đa tạ đại nhân khen ngợi, hạ quan lấy làm vinh hạnh."

Phùng Xuân Sơn: "Ngươi hoàn thành tốt công việc, âu cũng là công lao lớn, hôm nay không cần làm những chuyện còn lại nữa, tan làm sớm đi, trở về quận vương phủ dành thời gian ở bên cạnh Lâm An quận vương nhà ngươi cho nhiều vào."

Tựa như đang ban ơn, tỏ vẻ không đành lòng trước khi rơi giọt nước mắt cá sấu, dành cho Triệu Bạch Ngư một chút nhân từ.

Triệu Bạch Ngư cũng không vạch trần, ngây thơ ngốc nghếch nói cảm ơn rồi đi ngay, nhân lúc màn đêm vừa buông xuống hẹn Hoắc Kinh Đường đến ngõa xá mới mở cửa gần đây trải qua thế giới hai người.

***

Đêm xuống, Kinh đô phủ không còn giới nghiêm ban đêm, phố xá chợ phường đèn đuốc sáng choang, tiếng người ồn ào, tửu lâu trà phường mở thâu đêm suốt sáng, sạp nhỏ bày la liệt, rong tửu lâu kéo kèn đàn hát, bán văn kể chuyện cổ tích, tạp kĩ mải võ nhộn nhịp, đồ ăn vặt, thức uống trái cây lạnh cũng đặc sắc, cực kì phong phú.

Triệu Bạch Ngư kề vai sánh bước bên Hoắc Kinh Đường, tay áo bào lớn đã che đi mười ngón tay đan chặt của bọn họ. Hai người khi thì đứng trong tửu lầu nghe kể chuyện, nghe một khúc nhạc mới, khi thì ra một sạp nhỏ nào đó mua đồ ăn lấp đầy cái bụng, còn mua thêm trái cây ướp lạnh, gọi thêm một mớ thứ rồi kêu một tên chạy vặt đưa đến chỗ Nghiên Băng, Thôi phó quan, một phần khác thì đưa đến chỗ Tú ma ma và các cô nương.

"Ở đó có xiếc kìa, đi xem mau."

Hoắc Kinh Đường nhìn thử rồi chê bai: "Sau này đưa ngươi vào quân doanh, ta bảo bọn họ biểu diễn cho ngươi xem."

"Vậy thì không còn ý nghĩa nữa." Triệu Bạch Ngư níu tay áo của hắn, bừng bừng hứng thú nói: "Ngươi đừng đứng yên nữa, ta không thấy gì hết!"

Hoắc Kinh Đường đồng ý đi dạo chợ đêm với y không có nghĩa là hắn thích đến nơi có nhiều người, nhưng vì tiểu lang quân thích, vậy thì hắn cũng hết cách rồi. Thế nên hắn cứ đi trước mở đường, vạt áo rộng nhẹ phất lên một cái liền cảm giác như có một lực đẩy khẽ đẩy mọi người ra, có điều trong một biển người đông đúc thì khó mà phát hiện được.

Được mở đường, Triệu Bạch Ngư ung dung đi lên đằng trước, cũng may da mặt y không dày nến nỗi cướp chỗ của mấy đứa con nít, hai bên trái phải đều là người lớn.

Hoắc Kinh Đường đang ở bên trái bỗng lui về phía sau, dường như đang ôm lấy Triệu Bạch Ngư vào lòng, che chở để y không bị đẩy ra ngoài.

Triệu Bạch Ngư nhìn hàng xiếc trước mặt không chớp mắt, trong con ngươi phản chiếu ánh nến, có thể thấy y rất háo hức, thích thú lẫn vui vẻ.

Hoắc Kinh Đường thì vô cùng buồn chán, quyết định chỉ nhìn Triệu Bạch Ngư thôi là đủ rồi.

***

Cùng lúc đó, Phùng Xuân Sơn nhập cung dạ tấu, vừa vào đến Văn Đức điện đã lập tức quỳ xuống: "Tri phủ Kinh Đô Phùng Xuân Sơn khấu kiến bệ hạ!"

"Đứng dậy đi. Phùng Xuân Sơn, có chuyện gì cần tấu?"

Phùng Xuân Sơn đứng dậy, liếc mắt thấy bên trái còn có ba người khác, dù khuôn mặt xa lạ nhưng y phục, mão quan và túi cá bên hông thì đã lờ mờ đoán được chức quan gì.

"Thần muốn tố..."

Lòng Phùng Xuân Sơn chợt nặng nề, Dạc chi phó sứ? Phán quan lưỡng ty? Sao lại đều ở đây? Chẳng lẽ bọn họ cũng dạ tấu —— tấu cái gì? Chẳng lẽ là do Ngũ hoàng tử phái tới giúp lão tố cáo Triệu Bạch Ngư?

Nhưng Ngũ hoàng tử đã biết chuyện này rồi hay sao?

Phùng Xuân Sơn mờ mịt nghĩ, gã muốn lặng lẽ xử lí Triệu Bạch Ngư xong mới báo cho Ngũ hoàng tử biết, hóa ra lại bị biết trước rồi sao?

Nguyên Thú đế thấy lão nhất thời không nói gì bèn lên tiếng: "Có phải là muốn tố cáo Tam ty dùng quyền mưu lợi riêng, ước định tục thành, lợi dụng việc xóa nợ tham ô, nhận hối lộ hay không?"

Phùng Xuân Sơn gật đầu lia lịa: "Phải phải —— Ơ!"

Cái, cái gì?!

Phùng Xuân Sơn kinh ngạc, ngẩng đầu nhìn Nguyên Thú đế, rồi ánh mắt mông lung lại hướng về phía bà vị quan Tam ty ở phía trước, đây là tình huống gì? Không phải định tố cáo Triệu Bạch Ngư hối lộ ư, sao lại biến thành tố cáo Tam ty rồi?

Lão có bao nhiêu cái mạng đâu mà dám đi tố Tam ty?

"Không phải..."

"Trẫm biết rồi!" Nguyên Thú đế nhanh chóng chặn miệng Phùng Xuân Sơn lại: "Đạc chi phó sứ cùng phán quan Tam ty đều đã tự vạch tội mình rồi, vậy mới khiến cho trẫm biết được bên dưới xuất hiện một sơ hở lớn như vậy, hối lộ nhận hối lộ trắng trợn —— không, là ép người phải hối lộ! 'Phí vay tạm', 'bộ phí', ước định tục thành, một li ba hào là cái gì? Bóc lột tiền của còn hơn cả trẫm! Túi tiền ai cũng đầy ụ, trong khi quốc khố, kho riêng của trẫm còn xoay không nổi bốn trăm ngàn lượng cứu trợ thiên tai nữa đây!"

"Hay cho quy củ!" Nguyên Thú đế cảm thán: "Nuôi phải ung nhọt rồi, là sai lầm của trẫm, trẫm còn tưởng rằng mình trị dưới thanh minh, trăm quan dù không thể nói là một đầm nước hoàn toàn trong sạch, nhưng cũng không đến nổi trở thành một bãi bùn có đúng không?"

"Bệ, bệ hạ..." Phùng Xuân Sơn khóc không ra nước mắt, cơ thể run bắn lên, muốn nói nhưng lời lại không thể ra khỏi miệng, chân chính cảm nhận được thể khó gọi là cưỡi hổ khó xuống*, trước mặt là núi đao biển lửa, sống không bằng chết.

(*) Nguyên vãn: 骑虎难下 – Kỵ hổ nan hạ: Ý là đâm lao phải theo lao.

"Phùng Xuân Sơn, ngươi là một quan tốt." Nguyên Thú đế đội mũ cao cho lão rồi đem lão nướng trên lò lửa: "Tân quan thượng nhậm tam bả hỏa, ngọn lửa này của ngươi cháy cũng lớn, đốt sạch cả lòng trẫm rồi. Nếu như ai cũng giống như ngươi, vậy thì trẫm cũng không phải ưu sầu nữa."

Phùng Xuân Sơn cười còn khó coi hơn khóc, không cần ngẩng đầu lên cũng cảm giác được ánh mắt đầy thù hận của quan Tam ty đang hướng đến mình, tim gan run rẩy, thận cũng co rút, chân eo bủn rũn, ánh mắt cũng rời rạc.

Xong rồi, tiêu đời rồi.

Hỏng mất bao năm làm ăn của Ngũ hoàng tử, cắt đứt tất cả những con đường mưu cầu tiền tài của những nhánh phía dưới, còn sợ mình sẽ chết không toàn thây hay sao?

Huống chi quan hệ của lão cùng Ngũ hoàng tử không thể giải trừ, lão ra mặt cũng coi như đại diện cho bộ mặt của Thái tử, lão vạch tội Tam ty, tố bộ phí, coi như Thái tử ra tay tìm cách có được công trạng!

Lão có là con mèo thành tinh cũng không đủ mạng chết!

Sớm biết như vậy đã không đụng vào Triệu Bạch Ngư.

Khi không lại khiến cho bản thân trở nên tanh tưởi!

==

Chương 26

Quả nhiên Nguyên Thú đế lập tức chất vấn chuyện 'bộ phí', nổi cơn tam bành ngay trên triều, quan triều bị dọa mặt mũi như hoà vào màu đất, không ai dám đáp lời.

Tuy nhiên Nguyên Thú đến không lệnh truy cứu đến cùng, chỉ yêu cầu các bộ các nhánh thu nhận 'bộ phí' trong vòng bốn năm qua chủ động nộp tiền lên, cũng không giao cho bất cứ ai đi thăm dò mà để cho những người kia tự giác ăn năn hối lỗi, làm việc bằng trái tim!

Không cho người tra không có nghĩa là Nguyên Thú đế không biết gì cả, trái lại nói rõ ông đã có lòng tính toán sẵn từ trước, người nào tham ô, tham ô bao nhiêu, ông đã nhận định rõ ràng.

Tất nhiên Đạc chi phó sứ, Đạc chi phán quan cùng Hộ bộ phán quan như chim sợ cành cong, bị dọa cho tự thân vạch tội, đến nỗi việc chủ động tố giác khoản phí vay tạm không được công khai của bên dưới cũng bị quan triều và Tam ty các bộ biết.

Mặc dù ba người đáng hận, nhưng Tri phủ Kinh Đô vừa nhậm chức Phùng Xuân Sơn, người đã gài bẫy dùng Tam ty để ra tay càng khiến cho người ta ghét hơn nữa.

Tam ty đã chọc vào nơi nào của lão rồi?

Lão muốn có chính tích* đẹp nên ra tay với Tam ty, coi Tam ty là con mèo bệnh sao?

(*) Chính tích: Thành tích làm việc trong khi tại chức của quan lại

Ai cũng nói "dễ gặp Diêm vương, khó động tiểu quỷ", vậy mà bây giờ lão đắc tội ai không đắc, lại đi dây vào một bầy tiểu quỷ!

Các huyện, châu, tỉnh trên cả nước lần lượt kiểm tra sổ sách, hạch toán, thống kê các khoản mục bị thiếu, tạo sổ rồi trình lên Tam ty, sau đó nghiêm khắc xét duyệt lại lần nữa khoản tiền hụt có thể tấu tiêu... Các điều lệ đều trật tự có quy củ, từng bước đều cần có người kiểm tra, tra được bất kì vấn đề nào dù nhỏ nhặt cũng vẫn sẽ bác bỏ sổ sách cần thanh toán ngay lập tức, tính cho đến khi kết thúc nhiệm kì gom được một khoản nợ lớn, gọi những kẻ lãnh đạo tới xem rồi ngay lập tức đặt câu hỏi, nếu không nói ra được lý do sẽ đợi tội làm hụt tiền thuế của dân, thậm chí là tội tham ô rơi xuống đầu.

Các quan nhỏ vốn nhờ 'bộ phí' để làm đầy túi tiền, vậy mà đường dây tiền trước mắt nói đứt liền đứt, có thể không ghi hận Phùng Xuân Sơn sao?

Trong chốc lát chẳng biết làm gì, để rồi ngày qua ngày cuối cùng cũng biết được mùi vị bất thình lình bị gạt chân là cái gì.

Đều là cáo già, là tim mắt đài sen, Phùng Xuân Sơn tuy là chủ mưu vẫn bị đẩy ra trước mọi người làm tấm khiên chắn nên không còn gì đáng ngại. Suy cho cùng thì Thiên hoàng là dòng dõi quý tộc cao hơn người một bậc, có thể tùy tiện trút giận lên đám tay sai chạy trước mặt, không động vào được cũng chẳng oán hận được!

Đây là suy nghĩ chân thật nhất của một người khi lợi ích bị tổn hại, bắt nạt kẻ yếu, từ xưa đến nay là thế.

Phùng Xuân Sơn am hiểu đạo lý này, lúc lên triều sắc mặt tái nhợt, run rẩy không ngừng, căn bản không dám ngẩng đầu nhìn thẳng quan triều.

"Phùng đại nhân bày mưu hay tính kế tốt, nhưng ông muốn kiến công lập nghiệp, muốn có chính tích đẹp, vì lẽ gì lại đạp đồng liêu dưới chân thế kia?" Đạc chi sứ ngăn Phùng Xuân Sơn lại chế giễu: "Phùng Xuân Sơn, Phùng đại nhân, giẫm đạp lên xương máu đồng liêu chắc là cũng không dễ chịu gì đâu nhỉ!"

"Chuyện này, ta, không phải ta..." Phùng đại nhân muốn nói lão cũng bị dính bẫy, nhưng mới vừa rồi ở Thùy Củng điện được Nguyên Thú đế ra sức khen ngợi, nên dù lão có nói thế nào cũng sẽ không có ai tin.

Ngũ hoàng tử đi tới, sắc mặt u ám: "Đỗ đại nhân."

Đạc chi sứ liếc nhìn Ngũ hoàng tử, chắp tay hành lễ cho có: "Thần không quấy rầy điện hạ và nhà ngoại ôn chuyện cũ nữa, có điều lần sau nếu điện hạ còn muốn gây động tĩnh gì lớn xin hãy báo cho vi thần biết trước, dù sao cũng làm việc vì triều đình, vi thần không thể thoái thác!"

Nói xong xoay người rời đi.

Mấy vị quan triều khác bình thường nhìn thấy Ngũ hoàng tử hoặc Thái tử đều sẽ cung kính chào hỏi, lúc này cũng chỉ nhanh chóng hành lễ rồi vội vã kéo đi, cứ như tránh còn không kịp.

Thấy vậy, sắc mặt của Ngũ hoàng tử càng trở nên khó coi hơn, Thái tử cũng tỏ ra lạnh nhạt.

Cũng may là chỉ bắt "bộ phí" của Tam ty, chưa đụng đến "phí vay tạm" nhờ vả người ta làm việc của hai phủ sáu bộ, hơn nữa bọn họ cũng thường xuyên giúp Tam ty giải quyết những khó khăn đau đầu, đến cả Tế chấp cũng không ngoại lệ, vậy nên cảm thấy lần này Thái tử và Ngũ hoàng tử làm không tệ, đúng là thành tích thực đẹp đẽ nhất.

Quan triều đi theo Thái tử cẩn thận nghĩ, tuy rằng hành động đắc tội Tam ty của Thái tử có hơi lỗ mãng, nhưng vẫn còn có Ngũ hoàng tử phơi bày mặt trái của Tam ty, cũng xem như lợi nhiều hơn hại, cuối cùng cũng thể hiện được chút tác phong làm việc của trữ quân tương lai.

Lư tri viện trong lòng vừa ý nhưng ngoài miệng vẫn khuyên can Thái tử: "Làm việc không nên dễ kích động, là một quân giả, cần phải hiểu rõ cách để cân bằng và tiết chế bản thân."

Thái tử bị mưu hại vốn cũng không thoải mái gì, đột nhiên bị khuyên nhủ nên mất hứng, là kẻ nào mà cũng dám khuyên hắn?!

"Cô tự biết cách làm việc thế nào, làm sai đi sai phụ hoàng đều sẽ chỉ bảo, không nhọc Lư tri viện bận tâm."

Tim Lư tri viện đập thình thịch, thấy trong mắt Thái tử bừng bừng lửa giận thì vội vàng chắp tay nói: "Điện hạ nói phải, lão thần quá phận rồi."

Thái tử đè nén tức giận, khôi phục lý trí đỡ lấy cánh tay Lư tri viện: "Uyển nhi rất nhớ ngài và Lư phu nhân, cô đặc biệt xin mẫu hậu chuẩn cho nàng về nhà mẹ ở ba ngày."

Lư tri viện vui vẻ trong lòng nhưng vẫn giữ tư thế cung kính: "Uyển nhi đã là Thiên gia phụ, không thể phá hỏng quy tắc trong cung, vẫn là xin điện hạ thu hồi mệnh lệnh đã ban."

Thái tử: "Được rồi, cô ân chuẩn, còn có ân điển của mẫu hậu, Lư tri viện vẫn muốn từ chối hay sao?"

Lư tri viện cười to: "Lão thần tạ ơn Hoàng hậu nương nương, tạ ơn điện hạ."

Nói xong liền từ biệt Thái tử, mà Thái tử thì đã thôi cười, nhìn về phía Phùng Xuân Sơn theo Ngũ hoàng tử đến.

"Đã xảy ra chuyện gì?"

Ngũ hoàng tử tối mặt, kể lại ngọn nguồn câu chuyện, giận đến mức suýt nữa là ra tay đánh Phùng Xuân Sơn: "Ông nói đây chính là làm nhục Triệu Bạch Ngư trong êm đẹp đây sao?"

Phùng Xuân Sơn oan ức, hối hận đáp: "Ta chỉ muốn thay ngài, thay Thái tử điện hạ và ân sư Triệu tế chấp đại nhân trút giận, sẵn tiện... Sẵn tiện dò xét ranh giới cuối cùng giữa Lâm An quận vương và Triệu Bạch Ngư, ta vốn không để lại chút sơ hở nào, ai biết sẽ kỳ lạ như vậy? Đến bây giờ đầu óc ta vẫn còn mơ hồ đây, sao Đạc chi phó sứ và hai vị phán quan lại đột nhiên đến tự vạch tội trước mặt bệ hạ chứ? Thật sự là không bình thường chút nào!"

Ngũ hoàng tử giận sôi máu: "Ai cần ông trút giận giúp bọn ta? Hả? Ai cần ông tới dò nông dò sâu Hoắc Kinh Đường? Ông đi mà làm cho tốt cái chức Tri phủ của ông, quản lí trị an kinh kỳ cho tốt là được rồi! Ông tức giận với Triệu Bạch Ngư vì cái gì? Y cũng chỉ là một tiểu quan thất phẩm, rùa ngoài sông hộ thành còn ít hơn tiểu quan thất phẩm trong Kinh Đô! Ông lại liều chết tính toán với Triệu Bạch Ngư, có thể trút giận giúp ai chứ? Vốn chẳng có ai thèm để ý Triệu Bạch Ngư, ông lại xem y là cái đinh trong mắt! Ông tính kế y ư? Triệu Bạch Ngư kỳ quái như thế, bên cạnh còn có một Hoắc Kinh Đường không ngại làm chuyện hồ đồ, một đôi kết hợp không kiêng kỵ gì ai, ông còn muốn tính kế y sao?"

Ngũ hoàng tử nổi giận liên tục trách mắng Phùng Xuân Sơn đến độ ông ta váng đầu hoa mắt, dường như đã quên mất vì sao ban đầu mình lại nổi giận với tiểu quan thất phẩm tên Triệu Bạch Ngư kia rồi.

Thái tử đỡ trán: "Thôi được rồi, cứ coi như biến khéo thành vụng, tuy kéo hận thù từ Tam ty, nhưng một là chỗ ngồi của Ngũ đệ ngươi ở Tam ty vẫn sẽ vững chắc, tạm thời sẽ không phát sinh chuyện lớn gì, hai là vị trí Đạc chi phó sứ, Đạc chi và phán quan bộ Hộ đang trống, đệ phải tìm cách nâng đỡ người mình lên. Ba là chưa chắc chuyện này không có chỗ tốt, ít nhất cũng ổn định được tâm tư của môn khách, còn có thể giải quyết được vấn đề khó như ngân lượng cứu trợ thiên tai ở Hoài Nam. Tiếp theo, chúng ta nên tranh thủ lệnh cho người đến Hoài Nam cứu trợ, tránh gây thêm rắc rối."

Ngũ hoàng tử: "Nhị ca, đệ hiểu rồi."

Một giây sau lại lạnh mặt nhìn Phùng Xuân Sơn: "Trở về Nha môn của ông đi, đừng có mà động vào Triệu Bạch Ngư nữa!"

Phùng Xuân Sơn lau mồ hôi lạnh đầy đầu, liên tục gật gù, chạy bước nhỏ rời khỏi hoàng cung.

Ngũ hoàng tử bực mình, càng nghĩ về chuyện này càng thấy lạ, trong đầu ngẫm lại không biết Triệu Bạch Ngư có phải ôn thân hay không, sao lần nào đụng tới y, tính kế y đều gặp phải chuyện xui rủi? Chẳng lẽ người này thật sự có một trăm tám mươi tâm nhãn thật?

Không giống.

Nếu thật sự tính kế y, thì Thái tử, ngay cả đám người Tam ty học hành luồn lách trong quan trường nhiều năm cũng bất giác sa bẫy, chẳng lẽ Triệu Bạch Ngư là Gia Cát Khổng Minh tái thế?

Thông minh như thế mà cứ lăn lộn mãi cái chức tiểu quan thất phẩm, còn để mặc cho bọn họ bắt tay nhau đưa vào quận vương phủ, bức rức khuất phục làm nam thê của người khác hay sao?

Trùng hợp ư? Trùng hợp kì quái!

Năm hạn xui xẻo.

***

Phùng Xuân Sơn như đội một đám mây đen trên đầu, dùng mắt thường cũng đủ thấy lão uể oải không mấy phấn chấn, vừa vào đến Nha môn đã đi tìm Triệu Bạch Ngư đầu tiên, nhìn y chằm chằm bằng ánh mắt oán giận.

Triệu Bạch Ngư vừa đi vừa chắp tay: "Chào buổi sáng đại nhân."

"Đừng lại đây!" Phùng Xuân Sơn kích động hô lên, "Cách ta một trượng, không! Cách xa ta ba trượng đi! Từ nay về sau, hễ ta ở chỗ nào là ngươi phải tránh xa chỗ đó ra cho ta!"

Triệu Bạch Ngư mỉm cười: "Nhưng nếu ta cần tấu bẩm công vụ lên đại nhân thì phải làm sao đây?"

Phùng Xuân Sơn: "Viết ra, sau đó giao cho sư gia là được."

Triệu Bạch Ngư vẫn giữ nguyên nụ cười: "Truyền lời khó tránh khỏi xuất hiện sai sót, làm trễ nãi công chuyện thì sao? Công vụ, đề nghị mà ta tấu lên nếu như bị đại nhân bác bỏ, thì ta vẫn phải tự mình đến chỗ đại nhân thuyết phục bằng ưu nhược điểm mới được, đây chính là quyền hạn của Thiếu doãn đấy ạ!"

Nụ cười của Triệu Bạch Ngư đã trở thành nỗi kinh hoàng cực lớn trong mắt Phùng Xuân Sơn: "Bổn phủ sẽ không vì tình riêng mà làm trái luật pháp, bảo đảm làm việc công bằng."

Triệu Bạch Ngư: "Chính miệng đại nhân đảm bảm, hạ quan an tâm rồi."

Phùng Xuân Sơn hoảng sợ bỏ chạy tựa như có quỷ đuổi theo sau lưng.

Nghiên Băng đứng sau lưng Triệu Bạch Ngư thò đầu ra: "Cẩu quan dọa sợ không chết!"

Triệu Bạch Ngư thuận tay cốc đầu nó: "Im lặng, nhìn nhiều nói ít thôi."

Nghiên Băng xoa đầu mình đáp: "Vậy nên ta mới đi theo ngài đó, chờ ngài đích thân dạy dỗ ta."

Triệu Bạch Ngư: "Chi bằng ngươi đọc nhiều sách vào để ngày nào đó đi thi công danh, mang cái tiếng tú tài trong người cũng được rồi."

Nghiên Băng vừa bận bịu giúp y sửa sang lại công văn vừa lẩm bẩm: "Công danh nào có dễ thi? Người ta học tập gian khổ nhiều năm, học sinh chính nhi bát kinh Quốc Tử Giám còn không chắc đậu tú tài, ta thi kiểu gì chứ?"

Triệu Bạch Ngư cắt lời nó: "Dạy ngươi bao nhiêu lần rồi, ở trên đời, là đại trượng phu phải cúi đầu ngẩng đầu không thẹn với trời đất, không được xem thường chính mình!"

"Phải phải, Nghiên Băng biết rồi." Nghiên Băng nhặt xấp hồ sơ đã được phê đỏ dưới đất lên, mở ra xem nhanh: "Vương Quốc Chí, phạm tội cướp bóc, giết người, xử tử hình... Òa! Mới mười sáu tuổi mà đã dám vào nhà cướp bóc, còn tàn sát cả nhà người ta, thật sự là tội vô cùng ác."

Triệu Bạch Ngư đang xử lý công vụ, nghe vậy liền cảm thấy có chỗ không đúng: "Ngươi đang nói đến vụ án tên biển thủ vào nhà cướp của còn tàn sát cả nhà mà huyện Giang Dương, Dương Châu trình lên đó sao?"

Nghiên Băng gật đầu.

Triệu Bạch Ngư thấy lạ: "Hắn mới mười sáu tuổi thôi sao?"

Nghiên Băng: "Không phải ngài xem qua rồi à? Còn phê đỏ chót đây này."

"Lúc ta xem nào có thấy viết tuổi phạm nhân, sao lại mới mười sáu thế?" Triệu Bạch Ngư đứng dậy cầm lấy hồ sơ xem lại lần nữa, quả nhiên nhìn thấy ba chữ "mười sáu tuổi"*, bởi vì cách ngắt câu trong hồ sơ cần được người xem có kinh nghiệm phán đoán, mà mà chữ này nối trước nối sau tạo thành nghĩa khác nhau, rất dễ gây ra hiểu lầm khi ngắt câu.

(*) Mười sáu tuổi - 年拾陆: 拾 là cách viết hoa của số 10, tương tự 陆 là cách viết hoa của số 6, vậy nên khi đọc nếu không để ý sẽ dễ ghép lẫn vào các chữ trước sau và bị hiểu thành nghĩa khác.

Lúc xét duyệt, Triệu Bạch Ngư đã ngắt câu sai rồi.

"Tuy rằng vẫn có thiếu niên phạm tội hung ác, nhưng tỷ lệ rất ít." Triệu Bạch Ngư xem ghi chép về người bị hại: "Gia đình bị giết chết có tổng cộng năm người, trong đó có một người đàn ông trưởng thành, trừ phi Vương Quốc Chí là người luyện võ, nếu không thì không có khả năng một mình giết chết năm mạng còn có thể bình an vô sự thoát khỏi hiện trường."

Triệu Bạch Ngư mở hồ sơ ra trước mặt, xem lại lần nữa: "Đạo tặc Vương Quốc Chí nổi tiếng ở huyện Giang Dương, cuối tháng sáu đã chui vào đội ngũ nha dịch huyện Giang Dương, phủ Dương Châu, phụ trách tuần tra trị an trong huyện, thế nhưng lại lợi dụng chức quyền của mình ăn trộm nhiều lần, giữa tháng bảy, trong lúc tuần tra chợ đêm đã lặng lẽ rời đội, lẻn vào một nhà giàu ăn trộm bị phát hiện, vì phẫn nộ nên đã tàn sát cả nhà, sau đó nghênh ngang mà đi. Thảm án làm phủ Dương Châu khiếp sợ, ý kiến và thái độ của bách tính như sóng dậy, thúc đẩy huyện Giang Dương nhanh chóng phá án, đến cuối tháng đã bắt được đạo tặc Vương Quốc Chí. Trong quá trình thẩm vấn, Vương Quốc Chí đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, vì vậy đã bị phán tử hình, vụ án đã đưa qua Tri phủ Dương Châu lẫn An phủ sứ Hoài Nam, không ai có ý kiến, phúc thẩm ở Đại lý tự, bộ Hình vẫn giữ nguyên phán xử tử hình."

Nghiên Băng: "Tự mình nhận tội không giấu diếm, hơn nữa đã qua nhiều cơ quan theo trình tự, hay là cứ giữ nguyên phán quyết đi, chứng tỏ vụ án không phải vấn đề gì lớn."

Triệu Bạch Ngư: "Không nhất thiết. Nói chung, nếu như vụ án được làm sáng tỏ, phạm nhân, động cơ gây án, tổn thất rõ ràng, không có điểm nào khả nghi, thì trong khâu phúc thẩm án tử hình từ huyện phủ đến tỉnh, sẽ không có người đặc biệt chạy đến huyện điều tra."

Nghiên Băng: "Nhưng chiếu theo thông lệ, phạm nhân bị tuyên án tử hình phải áp giải lên phủ, tỉnh, Tri phủ, để cho Đề hình sứ hoặc An phủ sứ Hoài Nam tự mình thẩm vấn, kết quả cần được viết lại trong hồ sợ, lời khai của phạm nhân Vương Quốc Chí không hề thay đổi, không phát hiện vấn đề gì."

Triệu Bạch Ngư: "Một thiếu niên mười sáu tuổi không chỉ là đạo tặc nổi danh ở địa phương, mà còn ra tay tàn sát cả một gia đình, ngươi nói xem có giống như nhân vật chính là hiệp khách giang hồ trong thoại bản hay không?"

Nghiên Băng: "Sẽ không thể nào có chuyện trong mỗi một khâu phục thẩm đều có người muốn vu oan giá họa cho Vương Quốc Chí đúng chứ? Nếu như không phải là bị đánh cho nhận tội, ai lại ngu ngốc đến độ chủ động thừa nhận giết người?"

"Ngươi chưa hiểu chứ gì, cái này gọi là giết vịt trắng*." Triệu Bạch Ngư cười lạnh: "Đi thôi, đến phòng giam hỏi thăm chút."

(*) Giết (mổ) vịt trắng: Một gia đình có quyền thế nếu vướng vào các vụ kiện tụng kết án tử hình sẽ đi mua những đứa trẻ nhà nghèo, hoặc những kẻ lang thang không có công ăn chuyện làm thay thế hung thủ thật sự nhận tội. Hành động vì tiền mà chịu chết của những kẻ thay thế này giống hệt như việc vì ham lợi mà tùy ý đùa bỡn, giết chết những con vịt trắng béo bở.

Đến phòng giam mới biết Vương Quốc Chí đã bị đưa ra pháp trường chuẩn bị chém đầu, Triệu Bạch Ngư cũng vội vàng chạy đến pháp trường, trên đường đi gặp được Hoắc Kinh Đường, y thuật lại đơn giản ngọn nguồn sự việc cho hắn nghe, vừa dứt lời đã bị Hoắc Kinh Đường túm lên ngựa.

Triệu Bạch Ngư: "Phi ngựa trên đường phố sẽ giẫm phải người ta mất."

Hoắc Kinh Đường: "Ta biết đường ra pháp trường." Nói xong vung dây cương, tuấn mã tung bốn vó, rẽ vào con đường ít người dân qua lại, tuy nhiên muốn ra pháp trường vẫn phải băng qua một đoạn đường sầm uất.

Người đi lại trên đường nườm nượp, Hoắc Kinh Đường siết chặt dây cương, tuấn mã cất cao vó trước hí lên chói tai, người đi đường bị dọa sợ liền lật đật tháo chạy.

"Xuống ngựa."

Hoắc Kinh Đường giao ngựa cho người bán hàng ven đường trông, nhanh chóng kéo cổ tay Triệu Bạch Ngư hòa vào dòng người giống như một con cá thoăn thoắt trượt trốn, tay áo tung bay, ai nấy đều cảm thấy hoa mắt như có cơn gió nào vừa lướt qua, còn chưa kịp định thần, hắn đã ôm eo Triệu Bạch Ngư xuyên qua đám đông dày đặc.

Lúc này, ở pháp trường.

Người dân chen chúc tứ phía xem hành hình, châu đầu ghé tai nhau bàn luận sôi nổi, trên pháp trường có tổng cộng năm tên tử tù, trước mặt là quan giám trảm, sau lưng là quan hành quyết.

Đến giờ, quan giảm trảm lệnh một tiếng "Chém", quan hành quyết rút thẻ vong mạng sau lưng tử tù ra, giơ cao đao trảm chuẩn bị chém xuống, tử tù có thân hình nhỏ gầy đột nhiên điên cuồng hô lên: "Oan quá! Oan quá! Ta không phải Vương Quốc Chí, ta là nhân sĩ Giang Đô, Đặng Vấn An!"

Trong nháy mắt đám người trở nên sôi nổi, không hẹn mà cùng rướn cổ lên nhìn về pháp trường.

Quan giám trảm kinh hãi nhìn chung quanh, mấy tên tùy tùng cũng trố mắt nhìn nhau.

Một lát sau, tùy tùng nói với quan giám trảm: "Trước khi hành hình tử tù nào cũng kêu oan, đều nói hắn không phải kẻ phạm tội, nhưng vụ án của những tử tù này đều đã thông qua thủ tục xét duyệt của các bộ phận từ huyện, phủ, tỉnh, đến Đại lý tự và bộ Hình, nếu như thật sự có oan tình thì đã sớm bị trả về phản án rồi."

Quan giám trảm nghĩ thấy cũng đúng liền quát: "Ngơ ra làm gì? Hành hình mau lên!"

Tử tù gầy nhom la muốn rách cả cổ họng: "Vương Quốc Chí ——! Ngươi đồng ý sẽ cứu ta, ta mới thay ngươi nhận tội, ngươi nói mà không giữ lời! Ta là nhân sĩ Giang Đô Đặng Vấn An, đạo tặc giết người là Vương Quốc Chí ——!"

Quan giám trảm trợn trừng mắt: "Chém!"

Đao chém của quan hành quyết phản chiếu ánh sáng mặt trời chói mắt, tiếng bàn tán của dân chúng vây xem dần ầm ĩ lên, tim quan giám trảm đập rộn lên không ngừng, mà khi đầu người sắp sửa bị chém rơi, chợt có người kêu lên: "Để người dưới đao sống!"

Quan giám trảm giận lên vỗ bàn: "Kẻ nào dám làm loạn pháp trường!"

"Thiếu doãn phủ Kinh Đô Triệu Bạch Ngư!" Triệu Bạch Ngư bước ra, Hoắc Kinh Đường theo sau lưng y, "Án Vương Quốc Chí đầy điểm đáng ngờ, vẫn cần trả về thẩm tra lại."

Quan giám trảm: "Có công văn của Đại lý tự hay bộ Hình không?"

Triệu Bạch Ngư: "Không có."

Quan giám trảm giận tím mặt: "Không có công văn, ngươi chỉ là quan thất phẩm sao dám bác bỏ phán quyết của hai công đường?" Ông bước xuống khỏi chỗ ngồi, chỉ mũi Triệu Bạch Ngư mắng: "Ngươi thân là Thiếu doãn phủ Kinh Đô, từng xử lí không biết bao nhiêu án kiện, hình phạt, biết rõ quy trình xử án hình sự sao còn dám cố tình vi phạm? Nếu như ta nhớ không lầm, bộ Hình đều đưa tử tù đến đại lao phủ Kinh Đô, ngay cả hồ sơ cũng đưa đến, Thiếu doãn ngươi hẳn là phải xem và xét duyệt rồi, hồ sơ đã phê đỏ chứng tỏ ngươi cũng cảm thấy không có vấn đề gì mới dẫn đến ngày hôm nay tử tù bị đưa ra pháp trường!"

Triệu Bạch Ngư biết mình đuối lý: "Lúc đó ta chưa phát hiện ra vấn đề, bây giờ mới biết cho nên đã ngay lập tức bổ cứu*."

(*) Bổ cứu: dùng các biện pháp để uốn nắn, sửa chữa, xoay chuyển tình hình bất lợi

Quan giám trảm: "Án tử hình cần phải xem xét thận trọng, ngươi nói sai là sai được sao? Ngươi tự tin mình am hiểu kết luận, xử lí kiện tụng hơn cả bộ Hình và Đại lý tự ư?"

Triệu Bạch Ngư: "Tất nhiên hạ quan không luận án như thần bằng đại nhân, nhưng luật lệ Đại Cảnh quy định rõ ràng, nếu như phạm nhân kêu oan ở pháp trường, quan giám trảm phải tạm ngưng hành hình, trả vụ án về phúc thẩm. Mới vừa nãy ngài cũng đã nghe thấy 'Vương Quốc Chí' kêu oan đấy thôi, xin đại nhân hãy giải quyết cho!"

Sắc mặt quan giám trảm trở nên khó coi, ông là Hình bộ Lang trung, cũng là người phúc thẩm chính.

Thật ra nếu như vụ án bị sửa lại kết luận, ông cùng lắm chỉ mang tiếng làm việc không kĩ, nhưng chủ thẩm vụ án là Tri phủ Dương Châu, đưa vụ án về thẩm ra lại, Tri phủ Dương Châu có thể sẽ phải chịu trách nhiệm cho sai sót của mình, An phủ sứ Hoài Nam An Hoài Đức cũng sẽ bị dính líu, mà ông từng là bộ hạ cũ của An Hoài Đức, cần phải để lại vài phần tình mọn.

Hình bộ Lang trung hậm hực đáp: "Tạm giam Vương Quốc Chí lại, chọn ngày phúc thẩm."

"Chọn ngày không bằng gặp ngày, làm ngay hôm nay đi."

Giọng nam bất thình lình vang lên, Hình bộ Lang trung vốn đang phiền não đột nhiên bị châm lửa giận: "Là ai! Ra đây nói chuyện, thân phận của ngươi thế nào, lấy danh gì chỉ điểm bổn quan kết án? Nếu như không nói ra được nguyên do, đừng trách bổn quan xử ngươi tội kiếm cớ gây sự!"

"Bổn vương chỉ dựa vào đúng ra phải trái, dùng lý để phân trần tư tưởng, làm sao có đủ tư cách để chỉ điểm Lang trung kết án?"

Hình bộ Lang trung đưa mắt nhìn sang, thấy người đàn ông bước ra từ sau lưng Triệu Bạch Ngư, trong lòng mơ hồ đoán ra được mấy phần, nhờ khuôn mặt tuấn mỹ không đeo mặt nạ này so sánh với khuôn mặt trong trí nhớ, rốt cuộc cũng xác nhận người lên tiếng chính là Lâm An quận vương.

"Hạ quan tham kiến quận vương điện hạ." Hình bộ Lang trung vội vàng quỳ xuống.

Hoắc Kinh Đường cười như không cười: "Bổn vương chỉ cùng tiểu lang ra ngoài làm việc, ngươi cần hành hình thì cứ hành hình, cần phúc thẩm thì cứ phúc thẩm, vừa hay ta rảnh rỗi cả ngày, cũng từng đảm nhiệm chức Đại lý tự khanh nên có thể chỉ điểm giúp vài chỗ."

Hình bộ Lang trung ảm đạm đáp: "Hạ quan vô cùng vinh hạnh."

==

Công đường bộ Hình.

Hình bộ Lang trung ngồi ở vị trí của mình, bên trái là Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư, chính giữa công đường là thanh niên gầy yếu tự xưng là Đặng Vấn An.

Ầm! Hình bộ Lang trung gõ kinh đường mộc một cái, nghiêm nghị quát hỏi: "Đặng Vấn An, tại sao sơ thẩm phúc thẩm từ công đường huyện Giang Dương đến bộ Hình, ngưới trước sau cắn răng thừa nhận mình chính là Vương Quốc Chí đã tàn sát cả nhà người ta, lên đến pháp trường mới kêu oan chứ?"

Đặng Vấn An khóc lóc kể, hắn là tôi tớ của Vương Quốc Chí, Vương Quốc chí giết người xong liền nghiêm hình bức bách hắn giả mạo làm 'Vương Quốc Chí' đến huyện nha nhận tội, còn hứa sẽ cứu hắn ra khỏi đại lao. Mà Huyện lệnh huyện Giang Dương nghe nói bắt được hung thủ thì chẳng thèm tra khảo gì nữa mà chỉ nói hắn đã đồng ý nhận tội, đến lượt Tri phủ Dương Châu, An phủ sứ Hoài Nam phúc thẩm cũng không tra, mãi tới lúc bị đưa ra pháp trường hắn mới biết mình đã mắc lừa, vậy nên đành phải kêu oan cầu cứu.

Triệu Bạch Ngư ghé bên tai Hoắc Kinh Đường nói: "Cái này gọi là giết vịt trắng. Phạm nhân có tiền có thế bắt bách tính nghèo khổ không có quyền, uy hiếp dụ dỗ bọn họ nhận tội. Người sử dụng cách giết vịt trắng trên căn bản là đã đút lót xong xuôi rồi, đầu 'vịt trắng' rơi xuống đất, vụ án kết thúc thì chân tướng thế nào cũng chẳng ai quan tâm, Đặng Vấn An này thật may mắn, nếu không phải nhờ án gian lận thi cử dấy lên đại ngục, phạm nhân địa phương đều bị áp vào Kinh Đô, hai ta vừa vặn nhìn thấy, thì sợ rằng dù luật Đại Cảnh được phép kêu oan ở pháp trường, hay dù cho tháng sáu có tuyết rơi cũng sẽ không ai minh oan giúp hắn đâu."

Thay người nhận tội, từ xưa đã có.

Có người ngơ ngơ ngác ngác vị ép đi nhận tội, còn có những người làm cha mẹ vì tiền mà bán con mình đi nhận tội.

Lên đến pháp trường kêu oan, bất hạnh là khi quan giám trảm cũng đã bị thu mua, thì kết quả vẫn là bị chặn miệng chém đầu, còn may mắn thì sẽ gặp được quan thanh liêm có thể giúp minh oan trở về nhà, nhưng bởi vì giao dịch thất bại mà mất đi cha mẹ, quê hương, quan huyện địa phương cũng sẽ giận cá chém thớt oán trách người đó tham sống sợ chết.

Đây chính là hành động quan lại bao che cho nhau thường thấy nhất vào thời trước.

Hoắc Kinh Đường hiểu sự thối nát của quan trường, nhưng không ngờ đám quan lại dưới kia dám làm trái quốc pháp, đổi trắng thay đen làm xáo trộn thị phi trắng trợn đến nhường này.

Hắn quen thuộc với quan trường đấu đá lẫn nhau, tiến bước nào rào bước đó, người làm quan, càng là ngươi dối ta gạt thì càng thận trọng, dù vậy lòng vốn vẫn kính sợ hoàng quyền và quốc pháp. Nhưng con vịt trắng Đặng Vấn An bị làm thịt trước mặt này gầy gò không có sức mấy, nhìn thế nào cũng thấy yếu ớt, sức mạnh căn bản không thể một mình giết chết một nhà năm người!

Từ quan huyện thất phẩm đến Tri phủ ngũ phẩm, quan to nhị phẩm rồi một đám kinh quan phủ Kinh Đô, hoàn toàn không ai nhận ra chuyện này có vấn đề sao?

Hay là bọn họ vốn biết rõ đây là án oan, chẳng qua là không muốn phát sinh nhiều rắc rối, hoặc là ngại quan hệ giữa các đồng liêu nơi quan trường nên không muốn ra mặt thay một thường dân, hoặc là bị tiền bạc mua chuộc, hoặc là nóng lòng kết án lập công... Có đến mười ngàn lý do, chỉ là không một ai nhớ rằng chức trách làm quan của mình chính là vì dân thỉnh mệnh!

Hoắc Kinh Đường đột nhiên bật cười, trong đáy mắt ngập tràn phẫn nộ: "Đến phủ Kinh Đô cũng coi thường quốc pháp, xem ra thái độ xem mạng người như cỏ rác rất phổ biến ở địa phương, cương thần coi khinh triều đình, càng lúc càng xấc láo rồi."

Lòng Triệu Bạch Ngư kinh sợ, quay sang Hoắc Kinh Đường thấy hắn đang khảy phật châu, nơi đáy mắt thấm đẫm ý muốn giết người lạnh đến thấu xương, thoáng chốc hiểu ra chuyện của Đặng Vấn An nói nhỏ thì chỉ là quan huyện độc chức, xem thường mạng người, còn lớn thì chính là khinh thường quốc pháp, coi rẻ triều đình.

Chứng tỏ trong lòng cương thần không tồn tại niềm kính sợ.

***

Văn Đức điện.

Nguyên Thú đế đang đánh cờ với Khang vương, đối mặt với thế cờ bị tấn công vẫn rất nhàn nhã, ngay lúc Khang vương đang ôm niềm vui thắng trận thì lão bỗng nhiên ra tay, một kích toi mạng.

Khang vương nhìn ván cờ càng cảm thấy bội phục: "Huyền cơ chồng chất, thập diện mai phục vậy mà bệ hạ vẫn có thể tìm đường sống trong cõi chết, phản công ngay tại bước đường cùng, ta tự cảm thấy hổ thẹn."

Nguyên Thú đế cao giọng cười: "Ván cờ cũng như triều cục, ta đã chơi được hơn hai mươi năm nay, đạo lý duy nhất hiểu được chính là dù cho có tình huống khẩn cấp đến đâu đi nữa cũng đều phải ngồi vững Điếu Ngư Đài, bởi vì trời không tuyệt người, trời không tuyệt trẫm!"

Khang vương phát hiện trong lời nói của lão có ý ám chỉ: "Bệ hạ vui vì có thể gom góp đủ tiền cứu nạn ở Hoài Nam sao?"

Nguyên Thú đế: "Là một."

Khang vương: ""Còn có hai nữa à?"

Nguyên Thú đế liếc nhìn đại thái giám bên cạnh, lúc này ông ta mới bước ra, miêu tả án oan của Đặng Vấn An ở huyện Giang Dương, phủ Dương Châu một cách sinh động, ầm ĩ một trận ở pháp trường, chẳng bao lâu sau đã truyền khắp nam bắc đại giang.

Khang vương: "Người phụ trách án oan Đặng Vấn An có Huyện lệnh huyện Giang Dương, Tri phủ Dương Châu và An Hoài Đức, còn có bộ Hình, vừa có người của Thái tử, lại vừa hay xảy ra ở Hoài Nam nơi chúng ta đang đau đầu, đây chẳng phải là một lưỡi đao sắc đâm vào Thái tử đảng ở Hoài Nam hay sao?"

"Không sai!" Nguyên Thú đế cười híp mắt nói: "Tri phủ Kinh Đô mới nhậm chức đã lật tẩy 'bộ phí', biết rằng ngân lượng cứu nạn Hoài Nam là lửa xém lông mày, cũng đã khiến cho án oan trước mắt trở thành dao bén đâm vào nội địa Hoài Nam, chỉ cần sử dụng đúng cách là có thể nhổ tận gốc."

"Nhưng mà, ta nên chọn ai là người cầm đao?" Khang vương chần chừ: "Hiện tại triều đình không có ai để dùng, người trẻ tuổi thì quá lỗ mãng, không có đủ kinh nghiệm, cũng không đủ gian xảo, sẽ không đấu lại đám người An Hoài Đức được. Kẻ có lai lịch thì lại quá gian xảo, lại hiểu quá rõ cách đối nhân xử thế, hai bên không dám đắc tội, sợ rằng đến cuối cùng cũng chỉ dẫn đến kết cục hòa giải vô kỷ luật mà thôi."

Nguyên Thú đế: "Ai nói không có người nào để dùng?"

Khang vương: "Trong lòng bệ hạ đã chọn được rồi sao?"

"Ai phát hiện ra án oan trước nhất thì để cho người đó đi xử lí!"

Khang vương nghĩ ngợi một chút, nhanh chóng hiểu ra: "Triệu Bạch Ngư?!" Sau đó do dự đáp: "Nó mới mười chín, bàn về kinh nghiệm lẫn tài trí sợ là chưa đủ tư cách, sao bệ hạ lại nhìn trúng thằng bé thế? Là vì Tử Uyên sao?"

Nhắc tới Hoắc Kinh Đường, nụ cười trên mặt Nguyên Thú đế nhạt đi: "Bàn về thân phận, Triệu Bạch Ngư là Lâm An quận vương phi, là con trai của đương kim Tế chấp, bàn về kinh nghiệm, tài trí và tính tình, y có kinh nghiệm ba năm ngục tụng, dám ngự tiền cứu ân sư, lại thêm thúc đẩy bãi bỏ giới nghiêm, còn khiến cho Thái tử, lão Ngũ, Phùng Xuân Sơn cùng với Tam ty lăn qua lộn lại quan trường, tính kế một lần hết thảy, không chọn y thì chọn ai?"

Nghe vậy, Khang vương ngạc nhiên không thôi, hóa ra bộ phí Tam ty bị cắt bỏ cũng là do một tay Triệu Bạch Ngư tính cả ư? Quan ngũ phẩm đến tam phẩm đều suýt bị kéo vào, trái lại y có thể trở mình rút lui, ẩn thân hoàn hảo?

Cháu dâu của ông vậy mà lại tài trí đến nhường này sao?

Khang vương nửa muốn nói nửa lại không: "Nếu nói về người có điều kiện tốt nhất, thì có lẽ Tử Uyên thích hợp hơn. Nếu như hắn ở Hoài Nam có thể giải quyết thỏa đáng thì càng có thể được lòng dân, cũng có thể thuận tiện đào tào mấy người bên cạnh. Còn để cho Triệu Bạch Ngư đi... có lẽ sẽ trực tiếp thu hút oán hận của đám người Hoài Nam kia, không thể bảo đảm bản thân an toàn —— "

"Tử Uyên còn phải làm những chuyện khác!" Nguyên Thú đế không vui, nhắc nhở Khang vương: "Triệu Bạch Ngư chính là người cầm đao tốt nhất! Nếu như Triệu Bạch Ngư có thể xử lí mọi chuyện ở Hoài Nam thuận lợi, đồng nghĩa với việc chứng minh y có tài thừa tướng. Còn đệ nữa, đệ ít dạy dỗ mấy cái sở thích chẳng tốt lành gì của đệ cho Tử Uyên đi, dạy nó hư hết rồi!"

Khang vương im bặt, biết Nguyên Thú đế tán thưởng năng lực của Triệu Bạch Ngư, hơn hết chính là bất mãn thận phận quận vương phi của y.

Còn sở thích chẳng tốt lành gì của ông, Khang vương nhún vai rời khỏi Văn Đức điện, không nạp tiểu thiếp, hậu trạch thanh tĩnh, không dạo chơi thanh lâu sở quán chỉ ra vào hí lâu, giữ mình trong sạch, không tốt chỗ nào?

Đang suy nghĩ, ông chợt nhìn thấy trước mặt là một hoạn quan đã đứng chờ sẵn ven đường, người nọ nghe tiếng bước chân liền quay đầu cười tươi: "Vương gia."

==

Chương 27

"Chỉ dụ, trẫm nghe dân gian có oan tình, dư tình* trăm họ không dứt, tiếng than sục sôi, cũng biết Thiếu doãn phủ Kinh Đô khắc cần khắc kiệm, sự tất cung thân** , là người đầu tiên phát hiện và chủ động đứng ra tố giác oan tình, đặc khiển làm Phủ dụ sứ tỉnh Hoài Nam, nhận lấy trọng trách triều đình, xuôi xuống Hoài Nam án sát quan lại, tìm hiểu dân tình, tra rõ án "giết vịt trắng" tại huyện Giang Dương, Dương Châu, chiếu chỉ ban thưởng Triệu Bạch Ngư một thanh thượng phương bảo kiếm, cho phép ngươi tùy cơ ứng biến."

(*) Dư tình: ý kiến và thái độ của công chúng

(**) Khắc cần khắc kiệm: chăm chỉ tiết kiệm; Sự tất cung thân: việc gì cũng phải tự làm lấy

Đại thái giám bên người Nguyên Thú đế đứng giữa đại sảnh Lâm An quận vương phủ, cười nịnh đỡ Triệu Bạch Ngư dậy: "Ngài đứng dậy đi, tiểu Triệu đại nhân."

Rồi sau đó lão nhìn về phía Hoắc Kinh Đường vẫn còn chưa dậy, nụ cười lấy lòng càng rõ rệt: "Tiểu quận vương, ngài cũng mau đứng dậy thôi, bệ hạ gửi nô tỳ hỏi thân thể ngài gần đây khỏe không, ăn uống ra sao? Khẩu vị thế nào?"

Hoắc Kinh Đường đứng dậy, hai tay rút vào tay áo bào rộng, uể oải liếc mắt nhìn Đại thái giám: "Cũng được."

Đại thái giám: "Ngài không có gì muốn nói với bệ hạ sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Ngài giúp ta thưa lại, thân thể khỏe không? Ăn uống ra sao? Khẩu vị thế nào? Nhé."

Lời thăm hỏi qua loa đến mức khiến người ta không biết phải về báo cáo thế nào, Đại thái giám bị làm khó thì đành vậy, cũng không dám cưỡng ép đưa ra yêu cầu nữa, đổi lại là Thái tử hoặc vị hoàng tử nào khác căn bản không cần ông nhắc nhở, ai nấy đều chỉ hận không thể moi móc tim gan ra biểu dạt lòng ái mộ bệ hạ, chỉ ngoại trừ Lâm An tiểu quận vương này từ khi chui ra khỏi bụng mẹ đã là một hỗn thế ma vương.

Đừng nói chi đến ái mộ, bắt hắn thể hiện một chút tình cảm bên cạnh bệ hạ thôi cũng đã khó lắm rồi.

Không thể làm Hoắc Kinh Đường thông suốt, Đại thái giám chuyển mục tiêu sang Triệu Bạch Ngư kế bên đang ngắm nhìn thượng phương bảo kiếm. bước lên phía trước nói: "Trong đoàn kịch thường có người hát Khâm sai đại nhân* về Giang Nam thể nghiệm dân tình, vì dân chờ lệnh, tiểu Triệu đại nhân, lần này ngài đã trở thành 'Khâm sai' rồi đấy!"

(*) Khâm sai: là chức vụ tạm thời được sử dụng nhiều nhất. Chức vụ này là một chức vụ đặc phái ra ngoài để giải quyết các công việc nội chính hoặc ngoại giao. (Wikipedia)

Tuy Phủ dụ sứ không có phẩm cấp nhưng lại có thể thay thế Hoàng đế thị sát, đến cả đại quan nhất phẩm thấy cũng phải quỳ, chính là Bát phủ tuần án*, Khâm sai đại nhân mà hí văn trên truyền hình hay nhắc đến.

(*) Triều Minh đặt ra chế độ Ngự sử xuất tuần địa phương tức Ngự sử thay mặt Hoàng đế đi tuần các địa phương, gọi là Tuần án Ngự sử (巡按御史), tục gọi là Bát phủ tuần án (八府巡按).

Triệu Bạch Ngư để lộ lo lắng: "Trước đây hạ quan cũng chỉ là thất phẩm, tuy nói có quản chuyện ngục tụng ba năm, nhưng bàn về kinh nghiệm thì lại không theo kịp các đại thần trong triều, làm sao bệ hạ có thể quyết định chọn ta làm Khâm sai đi Hoài Nam được chứ? Ta, ta bước ra khỏi Nha môn một cái quan nào ở phủ Kinh Đô cũng chẳng nhận ra nổi, đến Hoài Nam là càng mù tịt, hỏi ta phải tra làm sao đây? Nếu như ta phụ lòng thánh quyến bệ hạ, bản thân sẽ phải chịu đòn nhận tội —— cũng biết ngài đi theo bệ hạ nhiều năm, có thể tiết lộ cho hạ quan biết một chút không, vì sao bệ hạ lại chọn trúng ta đến Hoài Nam tra vụ án của Đặng Vấn An?"

Đại thái giám: "Tiểu Triệu đại nhân xem nhẹ mình rồi, ngài dám đến ngự tiền cứu ân sư là cao nghĩa, gan dạ không thua gì vạn phu làm quan. Tám mươi bảy người phạm cấm đêm ngài vẫn luôn bảo vệ, khăng khăng phải tra án rồi mới dùng hình, là việc mình phải tự làm, cũng là yêu dân như con, cả Kinh Đô này không tìm ra đưuọc quan tốt nào nghiêm túc và có trách nhiệm hơn ngài! Về phần năng lực, tiểu Triệu đại nhân quá khiêm tốn rồi, sáng nay lâm triều Trần đại nhân ân sư của ngài còn khen ngài có tài Trạng nguyên, ông ấy đã vỗ ngực khen ngài trong lòng có ngàn khe suối*, không những thế còn có tác phong quân tử ngay thẳng công bằng!"

(*) Nguyên văn - 胸有千壑 (Hung hữu thiên hách): theo mình tìm hiểu thì có một câu gần giống nghĩa là "Hung hữu khâu hác" – 胸有丘壑 trong lòng đã có đồi cao lũng sâu; khi vẽ tranh, làm văn, trong lòng đã có hình ảnh, ý tưởng cao thâm; giống như đối với sự việc đã có nhận định, giải quyết.

Lão vỗ vỗ cánh tay Triệu Bạch Ngư, ý cười thâm sâu: "Bệ hạ không phải là người tai mắt không nhạy, ai tầm thường, ai có thể trọng dụng, trong lòng bệ hạ rõ như gương sáng. Trước đây không có cơ hội, trước mắt gặp được rồi còn chẳng phải đã trọng dụng ngài đó sao? Đây chính là thời cơ vô cùng tốt để ngài thể hiện năng lực của mình cho bệ hạ xem đấy!"

"Tiểu Triệu đại nhân, phải biết quý trọng nhé."

Triệu Bạch Ngư treo nụ cười nhạt nhòa trên môi, vừa quay đầu nhìn Hoắc Kinh Đường bất động không muốn đi theo tiễn khách, vừa nhét vào trong tay Đại thái giám hai đĩnh bạc lớn rồi đưa người đến tận cửa: "Nhờ ngài chỉ điểm, đây là chút lòng thành, mong ngài nhận cho."

"Tiểu Triệu đại nhân khách sáo quá." Đại thái giám áng chừng trọng lượng đĩnh vàng, vui vẻ bảo ban thêm đôi câu: "Thật ra thì trong điểm không phải ở án oan này, mà chính là tất cả các quan lớn nhỏ ở Hoài Nam."

Tim Triệu Bạch Ngư chùn xuống: "Là thế nào?"

Đại thái giám ngó bốn phía vắng lặng rồi mới hạ thấp giọng nhắc nhở: "Trước đó Giám sát ngự sử Chương Tòng Lộ bị thiêu chết ở dịch trạm Từ Châu là do về quê thăm người thân, thuận tiện phụng mệnh điều tra phẩm hạnh của An phủ sứ Hoài Nam - An Hoài Đức, kết cục lại chôn xương nơi đất khách."

Triệu Bạch Ngư không kìm được hỏi ngược lại: "Dây dưa lắm mối như vậy, bệ hạ yên tâm giao cho ta ư?"

"Điều này chứng tỏ bệ hạ hết sức coi trọng ngươi, tiểu Triệu đại nhân!" Đại thái giám tận tình khuyên bảo, bày ra vẻ mặt sao ngươi còn chưa thông suốt thế, "Được rồi, tiểu Triệu đại nhân dừng bước đi thôi."

Đưa Đại thái giám đi rồi, Triệu Bạch Ngư mới quay về đại sảnh, thấy Hoắc Kinh Đường đang cầm cây kéo nhỏ tỉa tót chậu cây la hán. Triệu Bạch Ngư đứng bên cạnh xem, sắc mặt dần trở nên kỳ lạ, giương mắt nhìn cây cột nhà khắc mười tám vị La Hán, sau đó nhìn mấy phiến đá lộ ra dưới gốc cây la hán đang được cắt tỉa.

Trước đây cứ tưởng chỉ là đá bình thường, lúc này nhìn mới thấy rõ đó chính là mười tám tượng La Hán lớn chừng bàn tay.

"Hoắc Kinh Đường, ta hỏi ngươi một chuyện, ngươi phải thành thật trả lời ta, không được lừa ta."

Hoắc Kinh Đường nheo mắt nhìn y một cái rồi lại chậm rãi rũ mắt xuống: "Hỏi đi."

Trên cổ tay hắn đeo chuỗi tràng hạt gỗ đàn màu tím, bối vân* treo bảo thạch màu lam trĩu xuống đong đưa khiến Triệu Bạch Ngư đau mắt, chợt nhớ lại tối hôm qua Hoắc Kinh Đường còn dùng nó để tăng thêm hứng thú chuyện giường chiếu.

(*) Bối vân: là cái phần đá kèm dây tua rua móc thêm vào vòng hạt.

"Ngươi có nghĩ đến việc xuất gia tu hành không?"

Hoắc Kinh Đường lẳng lặng nhìn Triệu Bạch Ngư một hồi, nghiêng đầu không nói lời nào, tay vẫn tiếp tục tỉa cây.

Ánh mắt của hắn tịch mịch sâu thẳm, chúng đáp xuống cánh môi, sau tai, gáy và vài chỗ không thể miêu tả được trên cơ thể Triệu Bạch Ngư một cách lặng lẽ.

Nhưng ngay lúc này, Triệu Bạch Ngư vẫn đang tích cực hỏi: "Ý ta là đã từng, trước đây có phải ngươi từng muốn trở thành hòa thượng hay không?"

Nếu không thì y rất khó để mà giải thích lý do bộ sưu tập của Hoắc Kinh Đường tại sao không phải là La Hán thì chính là Bồ Tát, Diệp Công thích rồng* dù gì cũng đã từng có lòng hướng tới, không lý nào Hoắc Kinh Đường lại không có ý muốn đến cướp chén cơm của cao tăng ở Bảo Hoa tự được.

(*) Diệp Công hiếu long - 叶公好龙: Lấy từ điển tích Diệp Công thích rồng, đồ vật trong nhà đều khắc, vẽ hình rồng. Rồng thật biết được bèn đến thò đầu vào cửa sổ. Diệp Công nhìn thấy sợ hãi vắt giò lên cổ bỏ chạy. Ví với trên danh nghĩa thì yêu thích nhưng thực tế lại không như vậy.

"Không có." Hoắc Kinh Đường đặt cây kéo nhỏ xuống, xoay người nằm xuống ghế nằm bên cạnh, mười ngón tay đan lại đặt trên bụng, thoáng chớp mi rũ mắt nói: "Lệ khí của ta nặng, không đủ thành tâm kính Phật."

Lệ khí nặng ư?

Triệu Bạch Ngư hoài nghi, năm xưa không qua lại, y từng nghe không biết là bao nhiêu câu chuyện, tin vịt được mọi người truyền đi rằng nhân vật Lâm An quận vương này hung ác thế nào, sau khi gả vào phủ rồi mới phát hiện hắn thường xuyên ở thư phòng hậu viện, thỉnh thoảng ra ngoại ô mấy ngày, cuộc sống có quy luật, không có chiếu chỉ nhất quyết không đụng vào công vụ, hoàn toàn mang dáng vẻ mẫu mực của một kẻ giàu sang nhàn nhã.

So với những người bên ngoài tự cho rằng mình là người lương thiện hay vài kẻ chính nhân quân tử thì quả thật vẫn còn ôn hòa chán.

Vậy mà hắn còn nói mình không có lòng thành, sở thích nếu không phải chơi vòng phật thì cũng là khắc Bồ Tát, đọc kinh Kim Cương, từ chú vãng sanh đến chuyện đời được lưu truyền đều thuộc nằm lòng lại bảo mình không đủ thành tâm kính Phật, giống hệt như một tên giả vờ học kém thức trắng đêm ôn tập trước kì thi rồi lại bảo mình chẳng học gì vậy.

Hoắc Kinh Đường vươn tay ngoắc Triệu Bạch Ngư đến.

Bàn tay vừa đặt lên, Triệu Bạch Ngư đã bị hắn kéo xuống cùng nằm lên ghế dựa, tìm một tư thế thoải mái để ngủ cho ngon, y lại nghe Hoắc Kinh Đường nói: "Sát nghiệt của ta nặng, sợ vạ lây người thân bạn bè, lễ Phật chỉ dám cố gắng tận tâm hết mức, hy vọng có thể hóa giải được đôi chút, tránh bị báo ứng. Kính Phật chú trọng không ham không cầu, cần phải xuất phát từ nội tâm. Còn ta thì không, ta có dục vọng, cũng có sở cầu."

Giọng nói của Hoắc Kinh Đường nhẹ bẫng, rõ ràng không xen lẫn bất kì ưu tư nào, thế nhưng Triệu Bạch Ngư nghe mà lòng rất xót xa, y nhớ mình có từng nghe kể chuyện hắn khắc chết mẹ ruột giết hại anh em, thanh danh không được cha ruột công nhận, cũng nhớ hắn xuất chinh năm mười hai tuổi, mũi đao nhuộm máu, da ngựa bọc thây, mười một năm sống cuộc sống quân đội, ở Tây Bắc nhà nhà lập bia trường sinh của hắn, Hoắc Kinh Đường đã được vạn người kính yêu.

Vốn là vị tướng trẻ hăng hái, nhưng ngay tại thời điểm có thể đắc ý nở mặt lại bị trúng cổ độc, buộc phải trao trả lại binh quyền, co đầu rụt cổ ở một vùng ven kinh thành rồi tự mình chịu đựng nỗi đau do cổ độc hành hạ cùng với những lời bịa đặt vô căn cứ, cảm thụ khi ấy không thể nào giãi bày được hết chỉ trong đôi ba câu.

Từ một tướng quân trẻ tuổi vạn người tôn sùng, đến lúc phải chấp nhận kết cục của số phận nhuốm màu tà dương nơi núi Tây, y cũng chẳng biết năm đó Hoắc Kinh Đường đã dùng cách gì để thích ứng với sự sa sút này, để rồi mài dũa dáng vẻ của bản thân thành mũi nhọn ngày hôm nay.

Triệu Bạch Ngư túm chặt cánh tay Hoắc Kinh Đường, gò má nhẹ nhàng cọ lên cằm hắn. Râu trên cằm chi chít xử lí chưa sạch sẽ, cọ xát khiến gò má Triệu Bạch Ngư nhanh chóng đỏ ửng lên một mảng.

Đôi mắt lưu ly của Hoắc Kinh Đường híp lại, dùng ngón trỏ xoa lên má Triệu Bạch Ngư hỏi: "Ngươi thắc mắc vì sao thái độ của ta đối với Thánh thượng lúc thì cung kính, lúc lại hời hợt đúng không?"

"Ừ." Triệu Bạch Ngư suy nghĩ một chút, đáp: "Lúc nói chuyện công thì ngươi rất kính cẩn. Nhưng nhắc đến chuyện riêng là lại có hơi lạnh nhạt."

Mà Nguyên Thú đế thì ngược lại. Mặc dù có đôi lúc đế vương cũng sẽ quan tâm đến chuyện riêng của bề tôi để bày tỏ vua tôi tương nghi, nhưng sự quan tâm mà ông ấy dành cho Hoắc Kinh Đường không được bình thường lắm, lúc ở gần hắn cũng có hơi mất tự nhiên.

Như cảnh vua tôi chung sống mà Triệu Bạch Ngư nhìn thấy trước mắt, có thể cảm giác được sức nặng của Hoắc Kinh Đường trong lòng Nguyên Thú đế rất lớn, giống như trưởng bối vẫn luôn nghĩ sâu nghĩ xa...

Hoặc phải nói là giống như cha mẹ.

Ví dụ như lệnh cho Hoắc Kinh Đường đảm nhiệm chức Đại lý tự khanh giải quyết án gian lận thi cử, để hắn được một lần giành lấy chút tiếng tăm giữa môn sinh của Thiên tử và đám văn nhân sĩ tử, sau đó bảo vệ hắn tránh khỏi bị cuốn vào đại ngục.

Nhưng lợi dụng hôn sự của Hoắc Kinh Đường để thăm dò Triệu Bá Ung và triều thần, trơ mắt nhìn hắn cưới nam thê, đi đường ngang ngõ tắt trong mắt thế nhân thì lại chẳng nhìn ra được phần yêu mến thành khẩn nào.

Càng không nhắc đến thân phận bất tiện của Hoắc Kinh Đường, hắn là con trai trưởng của Tĩnh vương - người mà Nguyên Thú đế cực kì căm ghét, dù được ủy thác toàn bộ sự tin tưởng, ấy vậy mà binh quyền nhung mã nửa đời của hắn nói lấy đi là lấy đi ngay, không lưu lại chút tình cảm gì cả.

Tóm lại, đối với việc của Hoắc Kinh Đường, Nguyên Thú đế lúc nào cũng hành xử mâu thuẫn khiến người ta khó mà hiểu được.

"Cha và bệ hạ đấu tranh nửa đời cuối cùng cũng suy sụp, chức vụ, thế lực đều bị diệt trừ gần hết mà bệ hạ vẫn kiêng kị. Để xóa bỏ hoài nghi của bệ hạ, cha đưa ta vào hoàng cung làm con tin khi chỉ mới hai, ba tuổi. Từ ba tuổi đến chín tuổi, ta lớn lên trong cung, coi bệ hạ như cha. Năm mười tuổi bị trả về Tĩnh vương phủ, xảy ra cãi vả với huynh đệ trong phủ, có một ngày hắn không cẩn thận ngã chết, người hầu sợ bị đánh chết nên thừa nhận là ta giết huynh đệ của mình."

Thịch! Trái tim Triệu Bạch Ngư như bị bóp nghẹn lại, hai tay lần mò chạm lên mặt Hoắc Kinh Đường, lặng lẽ xoa một cái.

"Ta hy vọng bệ hạ có thể đón ta về cung, nhưng ông ta không thèm quan tâm. Hậu trạch vừa xấu xa lại phức tạp, ta chịu khổ không ít, hai năm sau dứt khoát theo ngoại công và các cữu cữu đi Tây Bắc, trong thời gian này có bị điều đến Định Châu hai năm. Sau khi tiếng tăm lẫy lừng, bệ hạ có ý bồi dưỡng nên để ta trú đóng Tây Bắc. Mấy năm trước trúng cổ độc, lại bỏ qua tin tức của huyết phách ngàn năm, thái y quả quyết rằng ta không sống được bao lâu nữa, vậy nên ta trả lại binh quyền, bệ hạ cũng không nói gì nhưng thật ra là đã muốn vứt bỏ ta lần nữa rồi."

Triệu Bạch Ngư cảm động lây một cách khó hiểu, Hoắc Kinh Đường cũng không được cha ruột yêu thương giống như y, tuy đã có Nguyên Thú đế bù đắp vào vị trí phụ thân nhưng rồi cũng thu hồi, lấy được rồi lại mất đi, không thể nói được tình huống nào bi thảm hơn như thế nữa.

"Trước đây một mình ta quá cô đơn, luôn muốn thiết lập ràng buộc với một người nào đó, để cho tâm hồn ta có một nơi để tựa vào."

Một thân một mình ở bên ngoài, xa hơn nữa là ra nước ngoài đã cảm giác được nỗi cô đơn quạnh quẽ vô tận rồi, mà y quay về tận cả trăm ngàn năm trước, thậm chí không phải là một triều đại lịch sử mà y quen thuộc, sự thống khổ mà cảm giác linh hồn phiêu bạt không chốn an thân đó mang đến thường xuyên hành hạ Triệu Bạch Ngư, người vẫn chưa thể nào dung nhập vào thời đại.

"Ta hầu hạ song thân, yêu mến huynh đệ, tự cho rằng đó là hiếu thuận nhưng bọn họ lại mắng là ta làm bộ làm tịch. Ta muốn thân mật, muốn khiêm nhường thì nói ta hai mặt, có mục đích khác, vậy nên bây giờ ta không cần bọn họ nữa." Triệu Bạch Ngư nhắm hai mắt, áp gò má của mình vào má Hoắc Kinh Đường: "Hoắc Kinh Đường, ngươi từng nói với ta nếu cần, ta có thể xem ngươi là cha ta, là huynh trưởng, ta cũng muốn nói bắt đầu từ bây giờ, ngươi có thể tin tưởng ta sẽ không chủ động rời bỏ ngươi."

Bởi vì Hoắc Kinh Đường đã dành cho y khao khát cả đời này, trói buộc linh hồn kia bên cạnh mãi rồi.

Hoắc Kinh Đường vén lọn tóc mai của Triệu Bạch Ngư móc vào bên tai, mắt Bồ Tát màu lưu ly trong veo khép mở phản chiếu khuôn mặt y, dịu dàng, yêu thương, từ bi ngập tràn.

Quản gia dừng chân đứng sát tường, vốn định đến báo cáo, vừa nghe thấy Hoắc Kinh Đường nhắc đến bệ hạ, trong lòng rơi lộp độp một chút.

Càng nghe càng không nói nổi, Hải thúc không nhịn được trợn trắng mắt, lòng dâng lên nỗi thương xót cho Triệu Bạch Ngư bị lừa gạt.

À đúng vậy, bệ hạ đúng là đã nhẫn tâm đưa tiểu quân vương chín tuổi đi, nhưng Hoắc Kinh Đường có dám nói rằng lúc ấy hắn giơ đao kêu đánh kêu giết với bệ hạ, còn mẹ nó đòi chơi cái trò cát bào đoạn nghĩa* gì đấy nữa hay không!

(*) Nguyên văn 割袍断义 – Cát bào đoạn nghĩa: Quản Ninh và Hoa Hâm cùng cuốc đất trồng rau trong vườn, họ trông thấy dưới đất có một miếng vàng. Quản Ninh vung cuốc không ngừng, xem đó như gạch đá không khác. Hoa Hâm nhặt miếng vàng lên rồi sau mới quăng đi. Hai người thường ngồi chung chiếu đọc sách. Có một vị quan ngồi xe cao bốn bên có buông rèm đi ngang qua cửa. Quản Ninh vẫn cứ đọc sách như cũ, còn Hoa Hâm thì bỏ sách xuống chạy ra ngoài xem. Quản Ninh liền cắt chiếu chia chỗ ngồi, nói rằng: "Ông không phải là bạn của tôi." Về sau dùng "cát bào đoạn nghĩa" để hình dung việc tuyệt giao với bạn bè. (Phi Yến Nhược Lam)

Mặc dù có bị mưu hại ở Tĩnh vương phủ, nhưng cũng không lâu sau đó trong Kinh Đô truyền ra tin đồn trước kia Tĩnh vương ái thiếp diệt thê, năm đó đoạt đích* thất bại làm bẩn cái danh vị vương hiền đức, cuối cùng gần như bị tiêu diệt.

(*) Đích ở đây ý là con trưởng, dòng chính.

Tuy hung tàn làm bậy chỉ là lời bịa đặt, nhưng đánh giá hắn là hỗn thế ma vương thì không sai, từ tận trong xương tủy của tiểu quận vương không có bao nhiêu phần nhân từ.

Đó gọi là từ bất chưởng binh*, nhà nhà ở Tây Bắc lập bia trường sinh cho hắn, hắn có thể là chủ tử bị người ta ức hiếp hay sao?

(*) Từ bất chưởng binh - : Là một lời dạy của người xưa về thống binh, dùng lời của Tôn Tử để nói chính là: "Sâu nặng mà không thể sai, yêu thương mà không thể lệnh, hỗn loạn mà không thể trị, ví như kiêu tử, cũng không thể dùng. Có thể thấy, chưởng binh không phải là không được có lòng nhân ái, mà chính là không được quá nhân từ. Nếu như cần nghiêm mà không nghiêm, mềm lòng nương tay, nhân nhượng cả nể, ấy là quá bao dung, thậm chí "không thể sai", "không thể lệnh", "không thể trị", tất nhiên sẽ không thể chưởng binh được.

Có điều bệ hạ đúng là đã bỏ rơi tiểu quận vương hai lần, đặc biệt là khi thái y vừa mới chẩn đoán hắn không sống được bao lâu nữa, phía Giang Nam cũng truyền tin về báo huyết phách ngàn năm không rõ tung tích, bệ hạ đã ngay lập tức đưa Lục hoàng tử đi Định Châu nhập ngũ.

Tuy là lấy đại cục làm trọng, suy cho cùng vẫn khiến cho lòng người rét lạnh thôi.

"Khụ —— Ờm!"

Mới vừa ho nhẹ hai tiếng nhắc nhở, ánh mắt cảnh cáo của Hoắc Kinh Đường đã lập tức quét qua, Hải thúc nhanh chóng dừng lại nhưng bị sặc nước miếng, suýt chút nữa là không lấy hơi nổi.

"Khụ khụ khụ!"

Cơn ho bất ngờ đánh tan không khí thân mật của hai người trong phòng, Triệu Bạch Ngư vội vàng nhảy ra, đưa lưng về phía Hải thúc, cúi đầu chỉnh lại tóc tai quần áo cho thẳng thóm.

Hoắc Kinh Đường vô cảm, ngón trỏ vươn ra chỉ nước trên bàn bên cạnh: "Uống nước đi, đừng để bị sặc chết."

Hải thúc cúi đầu: "Lão đến hỏi tiểu Triệu đại nhân có chuẩn bị hành lý lên đường ngay bây giờ luôn không, còn có sổ cái khoản chi của quý này cần tiểu quận vương ngài xem qua."

Hoắc Kinh Đường: "Để đi."

Triệu Bạch Ngư không thích xưng hô quận vương phi, vậy nên người trong phủ đều gọi y là 'tiểu Triệu đại nhân'.

"Hỏi Nghiên Băng là được." Triệu Bạch Ngư sờ cổ đáp.

Hải thúc nói xong chuyện cần nói liền nhanh chóng lui ra, đến cửa còn không quên quay đầu hỏi: "Lão nô đóng cửa và cửa sổ lại hết nhé?"

Keng một tiếng, Hoắc Kinh Đường ném cái tách tới trúng cạnh cửa vỡ tan tành. Hải thúc nhanh chân bỏ chạy, người hầu tới dọn dẹp mảnh vụn, lau chùi xong cũng biết thân biết phận chạy cho mau.

Triệu Bạch Ngư vân vê mép tay áo, rúc hai tay vào trong rồi liếc nhìn Hoắc Kinh Đường nói: "Ít ngày nữa là lên đường đi Hoài Nam rồi, vụ án của Đặng Vấn An không khó, chỉ là đã dính vào quan trường Hoài Nam thì cần được giải quyết triệt để, còn nếu muốn bảo toàn chính mình thì có lẽ sẽ không dễ chút nào."

"Không chỉ bắt ngươi đi xử lý vụ án Đặng Vấn An thôi đúng không."

Triệu Bạch Ngư vô thức ngẩng đầu, đối mặt với ánh mắt đương nhiên của Hoắc Kinh Đường: "Ngươi đoán ra được sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Giám sát ngự sử Chương Tòng Lộ bị thiêu chết ở Từ Châu, Hoài Nam, không lâu sau bệ hạ liền điều Trịnh Sở Chi đến nhậm chức Chuyển vận phó sứ, lệnh cho Tiêu Vấn Sách tạm thời giữ chức Thường bình sứ, dụng ý là để khiến cho bọn chúng lơ là, đồng thời để trấn an, nói đơn giản thì chính là hạn chế và cân bằng lại Hoài Nam."

Hắn bóc tách quan trường Hoài Nam, giải thích từng việc một, tất thảy mọi thứ đều mở ra trước mắt Triệu Bạch Ngư.

"Trịnh Sở Chi là người cần thận nhưng lại thù dai, lão sẽ không chủ động gây khó dễ nhưng sẽ cố tình khuấy nước đục, đoán chừng lão được đưa tới đó chỉ là để làm một kẻ vô lại làm loạn. Quan trường Hoài Nam sẽ đề phòng Trịnh Sở Chi, chỉ là không chú ý những nguy hiểm tiềm ẩn. Trước mắt đang có nạn lụt Hoàng Hà, Hoài Nam trở thành củ khoai nóng bỏng tay vô cùng khó giải quyết, ta đoán bệ hạ cũng khổ sở vì không có cách nào bóc trần Hoài Nam vốn luôn vững chắc. Vừa hay án oan Đặng Vấn An xuất hiện ngay lúc dầu sôi lửa bỏng, có thể nói là ông trời tương trợ, đưa chuôi đao vạch trần Hoài Nam vào trong tay bệ hạ, tất nhiên ông ta sẽ nhanh chóng nắm bắt thời cơ."

"Việc tiếp theo chính là chọn ra người cầm đao, gần đây ngươi biểu hiện rất tốt nên đã lọt vào trong mắt bệ hạ, rõ ràng ngươi là sự lựa chọn tốt nhất. An đô tri là tâm phúc của bệ hạ, thể nào cũng sẽ tìm cách nói cho ngươi biết sự việc Chương Tòng Lộ chết cháy, nhắc nhở rằng ngươi không chỉ phải tra án Đặng Vấn An, mà quan trọng hơn là phải tận diệt quan trường Hoài Nam."

"Ngươi đoán không sai, An đô tri quả thật có ám chỉ với ta."

"Có điều..."

"Có điều gì?" Triệu Bạch Ngư hỏi.

Hoắc Kinh Đường nghịch bối vân ngọc lam, nụ cười phảng phất trên môi, trong ánh mắt có chút chế giễu: "Có điều không ai cho rằng ngươi thật sự có thể trở thành một thanh đao tốt."

"Bản chất của ta và Trịnh Sở Chi không khác nhau là mấy, đều là cái bia bị đẩy tới phía trước để thu hút thuốc súng, Khâm sai có năng lực lật đổ quan trường Hoài Nam mà bệ hạ chân chính nhắm vào, thật ra là một người khác sao?"

Số lượng kinh quan đông đảo đến thế, Triệu Bạch Ngư không biết rõ lắm, không chừng có vô số thế lực môn đảng vẫn còn ẩn giấu, y cũng không hề hay biết, hiện giờ bắt y phân tích xem kinh quan nào trong triều là người mà bệ hạ nhắm vào, quả thật không tài nào đoán ra nổi.

Đợi chút, Hoắc Kinh Đường có nói quan trường Hoài Nam là đại bản doanh của đảng Thái tử, tiêu diệt Hoài Nam chẳng khác nào chém đứt cánh tay đắc lực của Thái tử ư?

Phong ba này sẽ thành tội gán lên người Thái tử, nhưng vì sao Nguyên Thú đế lại nhắm vào Thái tử?

Là vì bất mãn với Thái tử nên có ý định phế trữ, hay chỉ đơn thuần là chĩa mũi nhọn vào Tư Mã thị có ham muốn ngày càng lớn?

Nếu như là cái sau, chỉnh đốn quan trường Hoài Nam thì trữ quân sẽ mang tội, hoạn lộ đứt đoạn. Nếu như là cái trước, thì đã nói rõ trong lòng Nguyên Thú đế đã có một trữ quân khác.

Người đó mới là người mà Nguyên Thú đế gửi gắm niềm hi vọng!

Những hoàng tử còn lại, người vừa độ tuổi chỉ còn mỗi hai vị Lục, Thất hoàng tử, sau lưng Lục hoàng tử có phủ Trịnh Quốc công, mà người này cũng đã theo nhà ngoại đến Định Châu nhập ngũ, nghe nói danh tiếng không tệ, cũng là tướng quân trẻ hồng anh* lẫm liệt, kiếm như sao rơi.

(*) Hồng anh: Chùm tua rua đỏ ở đầu cây giáo.

"Là Lục hoàng tử sao?" Triệu Bạch Ngư dò hỏi.

Hoắc Kinh Đường ôm eo Triệu Bạch Ngư, vùi mặt vào bụng y nhắm mắt đáp: "Đại Cảnh dựng nước bằng việc đoạt quyền trên lưng ngựa, vì vậy con em hoàng thất đều phải song toàn cưỡi ngựa bắn cung, Tĩnh vương... Bệ hạ và cha ta năm đó đều là tiểu tướng dưới quyền ngoại công, vì bị thương nên bệ hạ đã giải ngũ, còn cha ta là người dũng mãnh thiện chiến, danh tiếng lấn át bệ hạ, hơn nửa quan viên trong triều đều nghiêng về phía cha ta, đến cả Nguyên Phong đế cũng có ý định phế trữ, muốn đổi cha ta làm trữ quân tân nhiệm, tuy nhiên ngoại công và Triệu tế chấp thì lại kiên quyết ủng hộ bệ hạ —— "

Yên lặng hồi lâu, Hoắc Kinh Đường mới nói tiếp: "Cũng không thể nói rằng đây là lệ tổ, chẳng qua các quân vương Đại Cảnh đều từng tòng quân, nhưng đến phiên bệ hạ thì suýt nữa bị huynh đệ cùng tham gia quân ngũ cướp mất vị trí trữ quân, vậy nên sau khi lên ngôi, có một khoảng thời gian ông ta rất ghét những đứa trẻ hoàng thất nào nhập ngũ, về sau từ Thái tử, Tần vương đến các hoàng tử khác tuy có luyện tập cưỡi ngựa bắn cung, nhưng không ai tự đến doanh trại rèn luyện nữa."

"Năm Lục hoàng tử mười lăm tuổi đã tự cầu bệ hạ cho phép hắn đến doanh trại Định Châu, ban đầu bệ hạ rất giận nhưng cuối cùng vẫn đồng ý." Hoắc Kinh Đường cười nhạt: "Người ngoài đều cho rằng Lục hoàng tử chủ động buông bỏ ngôi vị Hoàng đế để lót đường cho huynh trưởng Tần vương của mình, Nào ngờ trong lòng bệ hạ vẫn lấy việc đoạt thiên hạ trên lưng ngựa làm vinh như tổ tiên năm xưa."

Lòng Triệu Bạch Ngư hơi hoảng, cảm giác Hoắc Kinh Đường đã tiết lộ quá nhiều bí mật không thích hợp để y biết được.

"Mấy chục năm trước, trong tay bệ hạ không có binh quyền nên chỉ đành nhượng bộ khắp nơi, nâng đỡ quan văn trên triều đình, hạn chế quyền lực của võ tướng, tự tay vực dậy phủ Trịnh quốc công cùng quân Ký Châu để chống lại quân Tây Bắc, nhưng dưới mắt lại đề phòng phủ Trịnh quốc công, lệnh cho Lục hoàng tử đến Định Châu bồi dưỡng một thế lực quân đội thuộc về mình. Trong tay đã có binh quyền còn sợ không trụ vững hay sao?"

"Thế nhưng ngươi đã giao lại binh quyền Tây Bắc rồi cơ mà?"

"Quân Tây Bắc chia làm bốn khu, ta giữ một khu nay đã giao trả cho bệ hạ. Một khu ở chỗ ngoại công trước nay đều nghe theo lệnh bệ hạ. Một khu nằm trong tay Ngạc Khắc Thiện, một khu còn lại vẫn đang do cha nắm giữ, bọn họ đề phòng lẫn nhau nhưng lòng người khác nhau. Nếu không thì quân Tây Bắc thần dũng thiện chiến làm sao có thể bị Đại Hạ và Nam Cương kiềm hãm đến nay?"

Tim Triệu Bạch Ngư đập loạn, đầu óc không kiểm soát được liên tưởng đến quá nhiều việc.

Ý của Hoắc Kinh Đường rất rõ ràng, trữ quân mà m lòng Nguyên Thú đế đã lựa chọn chính à Lục hoàng tử, tạm thời không bàn đến kết cục sau cùng trong nguyên tác người chiến thắng là Thái tử, từ những ý nghĩ đứt đoạn này có thể đưa ra được suy luận, Hoắc Kinh Đường tòng quân năm mười hai tuổi, đầu tiên là đến quân Ký Châu ở Định Châu, sau đó là vào quân Tây Bắc, Nguyên Thú đế đều giống trống khua chiêng ủng hộ.

Hơn nữa, tuy hiện tại hắn không đảm nhiệm bất kì chức vụ nào, nhưng hắn rất rõ ràng sự phân bố của các đảng phái triều đình, cực kì quen thuộc với lối suy luận của giới quan lại cùng với việc định ra cân bằng triều đình, mánh khoé chính trị cũng giống như là đã thấm nhuần quan trường nhiều năm, lòng dạ lẫn cách xử sự đều nằm trên đường ngay sáng sủa, đa mưu túc trí, nhất định không phải chí hướng của một thần tử.

Liên hệ với những gì đã nói trước đó, sau khi bị Nguyên Thú đế từ bỏ, việc Hoắc Kinh Đường trúng cổ độc giao lại binh quyền và việc Lục hoàng tử nhập ngũ dường như xảy ra một trước một sau, thật sự khiến người ta phải suy nghĩ nhiều.

Triệu Bạch Ngư cũng ôm lại Hoắc Kinh Đường, vỗ về sau lưng hắn, vẻ mặt như có điều suy nghĩ: "Ta nên làm như bệ hạ mong muốn, chủ động lội vào vũng nước đục, hay là giả vờ ngốc nghếch bo bo giữ mình đây?"

Hoắc Kinh Đường kéo tay Triệu Bạch Ngư, hôn lên đầu ngón tay mang mùi thơm của mực: "Cứ làm chuyện ngươi muốn làm thôi."

***

Phủ Thái tử.

"Thân phái Phủ dụ sứ, còn ban thượng phương bảo kiếm đến Hoài Nam xử lý án oan?" Ngũ hoàng tử uống sạch nước trà, lòng đầy hoài nghi: "Không phải chỉ là một án oan thôi à? Chỉ cần trả về huyện Giang Dương phúc thẩm là được rồi mà! Chẳng lẽ phụ hoàng còn sợ quan lại bên quan, muốn truy cứu toàn bộ quan trường Hoài Nam hay sao?"

"Chỉ sợ là có dụng ý khác! Cô đã sớm đoán được chuyện Chương Tòng Lộ chết cháy không thể dễ dàng bị bỏ qua như vậy rồi, chẳng qua là vì có lũ lụt Hoàng Hà lẫn công tác cứu giúp dân bị nạn cản trở trước mặt, An Hoài Đức mới có thời gian xử lí đầu đuôi trước sau, nào ngờ có một vụ án tự nhiên đâm ngang, chẳng lẽ là ý trời thật?"

"Ý trời chó má! Thân thế Nhị ca là rồng quý chân chính, đừng nói là giết một tên Giám sát ngự sử, dù có nửa đường chặn giết Khâm sai thì cũng chẳng ai dám nói gì!" Ngũ hoàng tử tàn nhẫn nói: "Nếu Khâm sai thật sự là đến tra chuyện Chương Tòng Lộ, chi bằng chúng ta gửi mật lệnh cho An Từ Đức nửa đường khiến cho hắn —— "

"Đệ muốn chết nhanh hơn hay sao?" Thái tử khoát tay, nhàn nhã uống trà: "Đừng nóng nảy, Khâm sai có đến Hoài Nam cũng không chắc sẽ tra ra được gì, tất cả chứng cứ đều đã bị thiêu cháy thành tro theo Chương Tòng Lộ rồi. Cứ để cho Khâm sai đi, đi bình an, về bình an, để chính miệng hắn nói rằng quan trường Hoài Nam sạch sẽ, lòng cương thần kính nể có thừa, người đó thay chúng ta làm trăm ngàn chuyện tốt càng có thể dễ dàng xóa bỏ nghi ngờ của phụ hoàng."

Ngũ hoàng tử ngẫm nghĩ một chút, cảm thấy Thái tử nói có lý: "Vậy chúng ta có cần phái người đi trước không?"

"Không cần vẽ rắn thêm chân. Chỉ cần viết một bức thư kín, dặn An Hoài Đức và Tư Mã Kiêu chú ý chút là được, còn Tiêu Vấn Sách nữa, bảo hắn mau chóng xử lý vụ Đặng Vấn An cho xong, đừng để cho Khâm sai kéo theo bọn An Hoài Đức vào."

"Vâng." Ngũ hoàng tử chợt nhớ đến điều gì đó, lên tiếng hỏi: "Ai được phái làm Khâm sai vậy?"

"Triệu Bạch Ngư."

"Lại là y?!" Ngũ hoàng tử phản ứng mạnh mẽ, mặt mày nhăn nhó: "Ta và y trái ngược nhau, xung khắc! Y kì lạ —— Nhị ca, huynh cũng thấy rồi, Triệu Bạch Ngư không bình thường, chúng ta căn bản không đoán ra được mưu kế của y."

"Thôi, người bớt kích động đi! Cũng do ngươi xem thường người khác trước, tự đặt mình vào thế yếu mới có thể ra tay thất bại, hơn nữa ngươi ta ở Kinh Đô này lúc nào nơi đâu cũng phải cẩn thận để tránh bước sai đường, không được so đo với Triệu Bạch Ngư. Chờ y đến Hoài Nam rồi, những quan lớn nhỏ ở đó đều là chúa đất, đã đến đó rồi còn chưa chắc ai mới là người bị chỉnh chết trước."

"Đúng vậy, đúng vậy." Đầu óc Ngũ hoàng tử bắt đầu chạy tới chạy lui, vỗ tay phụ họa: "Người dưới đáy quen thói a dua, qua loa tắc trách trì hoãn công việc, thủ đoạn chấn chỉnh khiến người ta ngậm đắng nuốt cay nhiều vô số kể."

Có như vậy, Ngũ hoàng tử mới yên tâm phần nào, thần kinh không còn căng thẳng lo lắng vì Hoài Nam bị đem ra làm bia đối phó nữa.

***

Triệu phủ.

Trong thư phòng, Triệu Bá Ung đang xem đề án mở cửa chợ đêm đang được tiến hành gần đây, thấy những chính sách hữu hiệu đâu ra đó thì không nhịn được vỗ bàn khen ngợi, đến nỗi Tạ thị đi vào cũng không phát hiện ra.

"Tốt!"

Tạ thị sợ hết hồn quở mắng lão: "Nhìn cái gì? Làm ta giật mình đấy."

Triệu Bá Ung buông bút đang phê đề án, nói với Tạ thị: "Là đề án mở cửa chợ đêm, từ luật pháp đến trị án bảo vệ, an toàn hỏa hoạn lẫn quân phòng các thứ đều nói rất kĩ càng, suy nghĩ tỉ mỉ, thủ đoạn lão luyện, chủ bút Mộ Quy tiên sinh này đúng là người đại tài."

Tạ thi: "Mộ Quy tiên sinh là người phương nào?"

Triệu Bá Ung: "Một ẩn sĩ có tài thừa tướng." Ông xúc động sâu sắc, trong mắt tràn đầy tán thưởng: "Nhân tài như thế đáng tiếc không muốn vào triều làm quan, nếu không nhất định có thể đem lại hạnh phúc cho trăm họ, ổn định được từng tấc đất."

Triệu Bá Ung còn trẻ tuổi đã thành danh, tự xưng là thông minh ngạo mạn, Tạ thị hiếm khi thấy ông khen ngợi một người như vậy, vậy thì Mộ Quy tiên sinh kia nhất định là rất xuất sắc.

"Uống chén canh ngọt đã, nói với ông chuyện này, Tứ lang muốn đi Hoài Nam nên cứ đến cầu xin tôi, tôi không chịu nổi thằng bé cứ ra vẻ nũng nịu nên đành đồng ý, nhưng tôi vẫn bảo Tam lang đi theo nó, còn đang chuẩn bị viết thư thông báo cho nhà mẹ ở Dương Châu, dặn bọn họ chăm sóc Tứ lang cho kĩ."

Triệu Bá Ung cau mày, không có vẻ gì là đồng ý: "Đường đi vất vả dễ tổn hại thân thể. Huống chi Hoài Nam đang gặp nạn lũ, phần lớn dân chạy nạn đều vào Dương Châu, nhỡ bị thương thì làm sao?"

Ta thị: "Tôi cũng nói với Tứ lang như vậy, nhưng nó cứ khăng khăng muốn đi giúp cứu nạn, muốn chăm sóc cho dân bị tạn. Chí hướng của nó là vào triều làm quan, lại ngại vì người yếu không thể không buông bỏ khoa thi, cảm thấy mình không làm nên trò trống gì, gần đây tâm trạng cũng kém, tôi muốn để nó đi Dương Châu quan sát mấy người bị nạn thử, sẵn đi thể nghiệm dân tình, xem coi nó nghĩ về việc làm quan thế nào."

Triệu Bá Ung vẫn còn cau mày.

Tạ thị cầm tay chồng mình, giọng ôn tồn lời nhỏ nhẹ: "Sang năm là Tứ lang đã tròn hai mươi rồi, tôi muốn cho nó tham gia khoa cử."

Môi Triệu Bá Ung giật giật, muốn nói con trai nhỏ nhà mình người yếu nhiều bệnh chỉ sợ là không gánh nổi áp lực, nhưng quả thực mấy năm nay thân thể đã khỏe lên rất nhiều, hơn nữa các huynh đệ trong nhà đều vào triều làm quan, ai cũng có tiền đồ, nếu như hắn có chí hướng cao xa thì cũng không nên bó buộc nữa.

Con trai của Triệu Bá Ung, có mong muốn nào mà không thể đạt được?

"Được rồi."

Cuối cùng Triệu Bá Ung cũng gật đầu.

===

Chương 28

Huyện nha huyện An Dương, Dương Châu, Hoài Nam.

Huyện lệnh Lữ Lương Sĩ tháo mũ quan xuống, đầu đổ đầy mồ hôi, mất hết hồn vía nói: "Làm sao đây? Làm sao đây! Vụ án Vương Quốc Chí không phải đã sớm kết thúc rồi sao? Tại sao đột nhiên lại lòi ra một tên Đặng Vấn An? Pháp trường cũng lên rồi sao còn trả vụ án trở lại? Còn phái Phủ dụ sứ tới —— Phủ dụ sứ đấy!"

Hai chân Lữ Lương Sĩ mềm nhũn, tê liệt ngồi bệt xuống băng ghế, vẻ mặt đờ đẫn: "Nếu như tra ra được năm ba chuyện thì mất chức là chuyện nhỏ, ta chỉ sợ không giữ nổi đầu."

Sư gia đi qua đi lại, vắt sạch óc suy nghĩ đối sách: "Thật ra vụ án Đặng Vấn An rất dễ giải quyết."

Lữ Lương Sĩ tựa như bắt được cọng rơm cứu mạng hỏi: "Giải quyết thế nào? Phủ trạch của Vương Quốc Chí vẫn còn ở huyện Giang Dương, hàng xóm láng giềng đều biết, Đặng Vấn An cũng còn người cha già ở Giang Đô, đến lúc đó tìm đủ người đối chứng ngay mặt, vụ án liếc cái thấy ngay, làm sao còn có thể tranh cãi được?"

Sư gia: "Những người đó có thể làm chứng thân phận của Đặng Vấn An, nhưng có thể bảo đảm Đặng Vấn An không tham gia cướp bóc giết người hay không? Có xác định được Đặng Vấn An có phải là đồng bọn của Vương Quốc Chí hay không?"

Lữ Lương Sĩ nhanh chóng sắp xếp lại suy nghĩ, "Ý ngươi là —— "

Sư gia: "Nhất quyết phải phán Đặng Vấn An là đồng bọn của Vương Quốc Chí, xử trảm theo luật, đại nhân ngài không chỉ thoát tội mà còn được khen thưởng!"

Lữ Lương Sĩ vỗ tay: "Đúng! Ý hay! Cứ nói như vậy đi." Sau đó lão đứng dậy cười ha hả, càng nghĩ càng cảm thấy thây chính là diệu kế bèn chống nạnh lắc đầu nói: "Đúng là mưa qua trời trong, núi lượn đường vòng, bước vào cảnh khó tìm được lối thoát!"

"Đại nhân, ngài cũng đừng vội vui mừng." Sư gia khuyên bảo: "Chỉ một án oan sao lại đáng giá để bệ hạ đích thân phái Khâm sai tới tra? E là mượn án Đặng Vấn An đến đây tra xem quan viên giúp nạn thiên tai ở Hoài Nam có ăn bớt ăn xén, đứng giữa kiếm lợi hay không! Ta nghe nói trước đây khi hai tỉnh Kinh Đông, Kinh Tây xảy ra nạn lụt, lần nào cứu trợ thiên tai cũng đều phái Khâm sai cải trang vi hành, âm thầm điều tra xem có ai nuốt riêng ngân lượng hay không, đoán chừng Khâm sai lần này cũng có bản chất như vậy thôi."

"Cải trang vi hành?" Lữ Lương Sĩ nhăn mặt: "Còn chơi trò này với lão gia ta ư, thật là muốn quỳ đấy. Bảy trăm ngàn lượng phát xuống cứu trợ xem ra không thể ăn quá nhiều, lấy hai trăm năm mươi ngàn lượng... Để xem, thêm năm mươi ngàn nữa đi cứu người dân bị nạn."

"Đại nhân có lòng nhân từ, ta về sẽ chi ra."

"Ài đợi đã, trước tiên cứ sắp xếp cho đám dân bị nạn đó ở gò chém đầu bên ngoài huyện đi, đừng cho bọn chúng vào thành, vừa vào là ầm ĩ cướp bóc lương thực, đến lúc đó túm cả đám vào nhà lao lại khóc lóc kêu oan nữa. Mấy ngày này cứ dùng gạo cũ trước, trộn lẫn với cám trấu, dù sao cũng chỉ là đám dân thường, có thể lắp đầy cái bụng là đã tốt lắm rồi. Chờ đến khi xác nhận tin Khâm sai đến thì hãy nấu cháo." Lữ Lương Sĩ bẻ ngón tay nói: "Một đám tỳ hưu chỉ có vào không có ra, tiêu hết biết bao nhiêu là bạc của lão gia ta đây."

***

Lưng đeo vạn quan tiền, cưỡi hạc đến Dương Châu.

Dương Châu sầm uất, giàu có và đông đúc, tửu lầu ngõa xã mười bước một gian, oanh ca yến hót không ngưng nghỉ, hình dung thế này không cường điệu hóa chút nào. Người chưa tới Dương Châu nằm mơ cũng nghĩ đến câu nói "Trên có thiên đường dưới có Tô Hàng", Dương Châu phồn vinh hưng thịnh, đã đến Dương Châu thì chẳng ai muốn rời đi nữa.

Không chỉ có bách tính hướng về Tô Hàng, quan trong kinh đến địa phương càng muốn nhảy vào chậu châu báu này, Quan trường vẫn còn đang truyền nhau một truyền thuyết ít người biết, nói về một thanh quan sau khi đến Dương Châu thì đến sông Tần Hoài rải kim sa, rắc vàng miếng, sắc vàng rực rỡ phản chiếu ánh lửa lên bầu trời vô cùng đẹp mắt.

Không biết truyền thuyết là thật hay giả, nhưng cũng đủ thấy địa vị của Dương Châu trong lòng tất cả mọi người, nói thẳng ra là vì có liên quan đến vàng bạc.

Đáng tiếc lần này Triệu Bạch Ngư đi Hoài Nam không được đến Dương Châu phồn hoa mà là đến Giang Dương, một huyện trực thuộc phủ Dương Châu, cũng vì không thuận đường nên không có cơ hội tận mắt nhìn ngắm một vùng sông nước trong thơ văn làm người ta thương nhớ.

Đi theo trục đường chính rời khỏi phủ Kinh Đô, vừa vào Hoài Nam liền chuyển sang đường thủy, thuyền bè lênh đênh xuôi dòng, lắc lư sóng nước hơn nửa tháng, Nghiên Băng mới đầu còn vô cùng phấn khởi, bây giờ ngồi ở mũi thuyền ủ rũ cúi đầu, mặt mũi xanh xao.

"Ngũ lang ơi, lộ trình còn bao lâu nữa ạ?"

"Thấy được bến tàu rồi." Triệu Bạch Ngư mân mê chuỗi hạt trên cổ tay trái, nhìn về phía mặt sông mịt mờ, xa xa có một tấm bia thủy tắc*, chữ "Bình" (平) thoắt ẩn thoắt hiện chứng tỏ mực nước đã đến mức cảnh báo, có điều so với vùng mênh mông ngập nước của thời gian trước thì nước lũ đã xuống không ít rồi. "Vào khoang thuyền thay y phục khác thôi."

(*) "tắc" trong "thủy tắc" ý là "quy tắc". Bia thủy tắc được sử dụng như một thước đo mực nước dể phòng chống nạn lụt của Trung Quốc thời xưa. Thủy tắc thời đầu là ba tượng người đá do Lý Băng dựng nên ở Đô Giang Yển, dùng mực nước lên đến một vị trí nào đó trên cơ thể người đá để so sánh mực nước và lượng nước.

Nghiên Băng: "Tại sao lại thay y phục ạ?"

Triệu Bạch Ngư: "Có từng nghe đến cải trang vi hành chưa?"

Hai mắt Nghiên Băng sáng lên: "Hí văn thường hay hát!" Nó vội vàng chạy vào thay bộ đồ chắp vá đủ chỗ, bước ra đã thấy Triệu Bạch Ngư mặc một bộ quần áo vải ngắn đã bạc màu. "Ngũ lang, trông ngài cứ như một thư sinh bất hạnh vào Kinh đi thi mà gặp nạn vậy đó."

"Ý ngươi muốn nói là da mỏng thịt mềm chứ gì?" Triệu Bạch Ngư rút dây lụa buộc tóc xuống cột đại một kiểu khác rồi cào tung tóc lên: "Chúng ta ăn mặc chỉnh tề quá, chưa đủ phong trần, cũng chưa đủ xanh xao vàng vọt, không giống dân tỵ nạn."

Nghiên Băng cũng làm theo y, nghe nói vậy thì tò mò: "Tại sao ta phải giả làm dân tỵ nạn?"

Triệu Bạch Ngư: "Vì phải đến khu bố trí dân bị nạn nhìn thử trước đã."

Nghiên Băng nhận lấy lọ nghẹ đen sì không biết Triệu Bạch Ngư chuẩn bị từ hồi nào bôi lên mặt: "Nhưng không phải chúng ta đến đây để tra án Đặng Vấn An hay sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Ta đoán bây giờ ở cổng thành có không ít người kiểm tra người qua lại, muốn tìm ra Khâm sai sớm nhất có thể." Y vén rèm, ra hiệu cho Nghiên Băng nhìn ra đằng trước: "Ngay cả bến tàu cũng có Nha dịch kiểm tra, một lát nữa ngươi đừng nói gì cả, bọn họ sẽ nghi ngờ vì khẩu âm phủ Kinh Đô."

Nghiên Băng cuống cuồng lên: "Ta, ta ,ta giả dạng thế này có thể qua mắt bọn họ được không? Trông có giống dân tỵ nạn không?"

Triệu Bạch Ngư: "Ngươi là đệ đệ của ta, tên là Triệu Tiểu Vi, ta là Triệu Đại Vi, nhà có sản nghiệp nhỏ, vì lũ lụt đột ngột xảy ra, ruộng nương bị ngập úng hết nên mới chạy nạn đến đây."

Nghiên Băng gật đầu liên tục.

Lúc này thuyền cập bến, bên ngoài có quan sai lớn tiếng gọi người bên trong mau chóng bước ra, cùng trên thuyền có ba bốn mươi người, từng người một đều bị kiểm tra. Đến lượt Triệu Bạch Ngư và Nghiên Băng, quan sai tinh mắt chỉ riêng hai người cảnh giác hỏi là từ đâu tới.

Triệu Bạch Ngư cúi đầu nói là đến từ Từ Châu, ruộng đất ở nhà đều bị nhấn chìm cả, chỉ đành phải đưa đứa em trai bị câm chạy nạn đến huyện Giang Dương mà thôi.

Quan sai nghe khẩu âm của y quả thật không phải đến từ phủ Kinh Đô, vừa hay bên cạnh cũng có người lên tiếng khai mình chạy nạn từ Từ Châu, khẩu âm giống với Triệu Bạch Ngư nên gã mới tin bảy, tám phần.

Sau đó gã đi quanh hai người, nhìn ngó một lượt từ trên xuống dưới, mặc dù da mỏng thịt mềm nhưng ánh mắt hoang mang, sắc mặt tái nhợt như chim sợ ná, đúng là giống hệt mấy tên công tử bột lâm vào cảnh khổ.

Nha dịch bên cạnh bèn nói: "Đừng để phí thời gian, ta dám đảm bảo hai người bọn họ nhất định không phải Khâm sai đâu! Nếu Khâm sai có cải trang vi hành thì cũng không cần phải cải trang làm dân tỵ nạn. Những tên Khâm sai kia không phải quan nhị phẩm thì cũng là dòng dõi Hoàng thân quý tộc tự xưng là môn sinh của Thánh nhân, cận thần của Thiên tử, sao có thể làm chuyện tự nhục như thế? Yên tâm đi, ta chưa từng thấy Khâm sai nào giả làm ăn mày hay dân tỵ nạn cả, dù sao thì cũng là thay trời tuần thú*, đại điện cho mặt mũi Thánh thượng và triều đình."

(*) Ngày xưa, vua Thiên Tử đi kinh lý các nước chư hầu gọi là đi tuần thú (巡狩), nghĩa là đi tuần thăm các địa hạt đã phong cho các vua chư hầu.

Nói cũng phải, người có học tính khí kiêu căng, chứ đừng nói đến người có học làm quan lớn, mấy chục năm cao ngạo ngấm vào trong xương thịt, bắt họ cởi áo vải lăng la tơ lụa xuống không phải làm nhục hay sao?

Hơn nữa, Khâm sai nào lại không có người đi theo bảo vệ?

Hai người này một kẻ câm, một kẻ tay trói gà không chặc, nếu thật sự là Khâm sai thì ngay bây giờ đã nhân lúc hỗn loạn giết chết bọn họ rồi.

Quan sai nghĩ vậy bèn phất tay xua đuổi: "Đi mau đi mau!"

Cách một quãng xa rồi, Nghiên Băng mới nói: "Có phải bọn chúng có tật giật mình không?"

Triệu Bạch Ngư: "Liếc mắt là thấy ngay."

Nghiên Băng đột nhiên nhớ đến vụ kiện: "Có khi nào Đặng Vấn An sẽ bị diệt khẩu không ạ?"

"Người trên đầu sóng ngọn gió, ai dám diệt khẩu? Dư luận bách tính vẫn còn đó không để đè xuống ngay được, huống chi Đặng Vấn An còn đang bị giam trong đại lao phủ Dương Châu, huyện lệnh Giang Dương không dài tay đến mức đó. Còn Tri phủ Dương Châu thì... Nếu không đến nỗi chó cùng rứt giậu thì sẽ không tự hủy trường thành." Triệu Bạch Ngư như có điều suy nghĩ: "Theo như lộ trình của Ngụy bá và Thôi phó quan thì có lẽ đã đến huyện Giang Dương rồi."

"Tìm bọn họ hội họp ư?"

Triệu Bạch Ngư không lên tiếng, đến chỗ một người bán cá hỏi thăm nơi sắp xếp cho dân bị nạn ở đâu, người bán cả trả lời: "Gò chém đầu ở bên ngoài thành."

"Luật lệ không cho phép mở cửa thành để dân tỵ nạn đi vào sao?"

"Ôi! Trời cao vua xa, lời của quan huyện chính là luật!" Người bán cá thấy Triệu Bạch Ngư lịch sự, vậy nên cũng dùng lòng tốt chân thật để đáp lại: "Ta thấy ngươi nói năng nhã nhặn, chắc cũng là người nhà giàu biết chữ, ta khuyên ngươi nên vào thành tìm việc, đừng có mà đến khu dân tỵ nạn làm chi."

Người bán cá nhìn trái ngó phải rồi thấp giọng nói: "Thúc phụ của ta nấu cháo ở trong đấy, cháo thì nấu từ gạo cũ được phát từ ba bốn năm trước, chưa kể bọn chúng còn cho dân ăn thứ cám chỉ heo mới ăn, đã vậy ở đó... Còn có người ngã bệnh nữa!"

Tim Triệu Bạch Ngư thắt lại, mặt biến sắc cực nhanh: "Đó là bệnh vì không thích nghi với nơi ở hay là cảm sốt thông thường?"

Người bán cá lắc đầu: "Cũng không biết nữa, vài ngày gần đây liên tiếp mấy người bị bệnh, nghe bảo còn có người chết. Nếu như không thích nghi với nơi này thì đã biểu hiện từ hai tháng trước rồi chứ."

Triệu Bạch Ngư: "Có gọi đại phu đến xem không?"

Người bán cá lộ ra nụ cười kì lạ: "Đại phu? Nạn lụt trước mặt, ai mà quản một đám dân chạy nạn? Mời đại phu không cho tiền? Uống thuốc không trả tiền? Ông huyện lệnh của chúng ta mà chịu khoét miếng thịt trong lòng hay sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Nhưng thái y và thuốc thang triều đình đều đã chuyển xuống, chẳng lẽ không đưa đến ư?"

Người bán cá: "Triều đình sao? Lúc muốn thuế cần lương thì yêu dân như con, nhưng thiên tai thật sự xảy ra trước mắt thì không ai đứng ra làm chủ, nếu không phải tại đám tham quan ô lại này ăn hết bạc sửa sông thì bờ đê có vỡ hay không?"

Một đồng nghiệp bên cạnh trách cứ: "Nói bậy gì thế? Ngươi không muốn sống nữa à!"

Người bán cá đột nhiên im bặt.

Triệu Bạch Ngư ngăn người bán cá vội vàng rời đi lại, không ngớt lời truy hỏi chuyện tham ô bạc sửa sông là chuyện gì, người bán cá không kiềm lòng được, chỉ đành lén nói cho y biết việc Giám sát ngự sử tra ra được chuyện tham ô tiền chửa sông nhưng bị diệt khẩu đã sớm truyền đi khắp Hoài Nam rồi.

"Ai truyền?"

Đến cả Nguyên Thú đế cũng không biết chuyện Chương Tòng Lộ đã tra ra được chuyện này, sao lại có thể bị truyền đi khắp Hoài Nam được?

"Ta không biết, dù sao mọi người đều nói vậy. Ta thấy quan lại chẳng mấy ai tốt đẹp cả... Bỏ đi bỏ đi, không nói nữa."

Nghiên Băng khá cảnh giác ngăn Triệu Bạch Ngư lại: "Không được! Ngài tuyệt đối không được đến nơi đó! Nói không chừng là dịch bệnh đó, nạn lụt rất dễ xuất hiện dịch bệnh, đã vậy nơi này còn không có đại phu cũng chẳng có thái y, ngài đi đường đã vất cả, thân thể cũng không mấy cường tráng, nếu bị lây bệnh thì phải làm thế nào? Làm sao ta có thể báo cáo với Lâm An quận vương đây? Ngài muốn đi cũng được, nhưng trước hết phải đi tìm Ngụy bá và Thôi phó quan đã, còn phải viết thư báo tin cho tiểu quận vương, hắn đồng ý thì ngài mới được đi."

Hoắc Kinh Đường không đi cùng y đến huyện Giang Dương, ban đầu hắn dùng giọng đùa giỡn nói không muốn chạy tới đây chịu khổ, sau đó Triệu Bạch Ngư chẳng nói chẳng rằng cứ kè kè bên cạnh hắn, Hoắc Kinh Đường không đành lòng mới nói hắn đã được giao một nhiệm vụ quan trọng khác rồi.

Triệu Bạch Ngư chớp chớp mắt: "Nhưng ta còn không biết Hoắc Kinh Đường đang ở đâu thì làm sao liên lạc được?"

Nghiên Băng: "Ngài thôi đi! Trước khi đi tiểu quận vương cho ngài một con Hải Đông Thanh, còn đặc biệt đưa ngài đến sơn trang ở ngoại ô dạy ngài làm quen với nó. Người khác không có cách nào liên lạc với tiểu quận vương chẳng lẽ ngài không có?"

Tiểu quận vương chán ngán thể lực chẳng đâu vào đâu của Ngũ lang như vậy, sao có thể yên tâm để y một thân một mình xông vào Giang Dương?

Triệu Bạch Ngư bá vai Nghiên Băng đi về phía cổng thành: "Lúc chưa đến quận vương phủ, ngươi cảm thấy ta thế nào?"

"Cực khổ. Khó khăn. Cũng may ngài phúc lớn mạng lớn, nếu không đã chết trẻ ở hậu trạch Triệu phủ kia rồi." Nghiên Băng trả lời không do dự.

"Không phải kết thúc cả rồi sao? Tự dưng ta lập gia đình, các ngươi liền đối xử với ta như thể nâng món đồ sứ trên tay, trước khi gặp Hoắc Kinh Đường, ta là một kẻ thường lên núi đao xuống biển lửa, không sợ trời cũng chẳng sợ đất. Sao bây giờ biến thành một tên rụt rè nhút nhát rồi, làm có tí chuyện cũng phải báo cáo với hắn? Hoắc Kinh Đường nói ta có thể làm chuyện mình muốn, hắn là chồng ta mà còn không xem ta là đồ dễ vỡ, các ngươi còn hà khắc với ta hơn cả hắn nữa."

Nghiên Băng bị thuyết phục, cảm thấy không có chỗ nào sai để mà phản bác lại.

"Hơn nữa, ta là Khâm sai, thể xét dân tình chính là chức trách. Ngươi muốn ta làm một tên quan ngồi vào cho đủ số sao? Hay là một tên tham quan rác rưởi chỉ lấy bổng lộc không làm việc?"

"Nào có đâu ạ. Nhưng chức trách trước tiên của ngài chính là giải quyết án oan, giúp Đặng Vấn An lấy lại trong sạch."

Triệu Bạch Ngư vỗ vai Nghiên Băng: "Án oan phải giải quyết, dân bị nạn và tình hình dịch bệnh cũng phải tra cho rõ." Y dừng một chút, sắc mặt trở nên nghiêm túc, giọng trầm xuống: "Nghiên Băng, ngươi biết dân tỵ nạn có dáng vẻ thế nào không? Biết khi dịch bệnh tràn lan đáng sợ đến thế nào không? Nếu như không quản, đến lúc đó núi thây khắp nơi, trăm dặm xương khô, tiếng kêu khóc thảm thiết sẽ vang khắp mọi nơi đấy."

Các biện pháp cứu nạn thời cổ đại không nhanh chóng cà đầy đủ như hiện đại, người chạy nạn có thể chết đói trên đường đi, nghiêm trọng hơn còn có thể xuất hiện các hành vi trao đổi trẻ em để lấy thức ăn, vô cùng thê thảm. Lũ lụt rút xuống, cứu viện thiên tai chậm trễ, thứ đáng sợ thật sự chính là dịch bệnh, vì không có điều kiện chữa trị như hiện đại, từ xưa đến nay bệnh dịch được xem như nước lũ và thú dữ, tuy có hàng ngàn kim phương, nhưng bệnh tật thay đổi xoành xoạch, tính lây lan cũng cực mạnh, chỉ sợ vạn nhất*!

(*) Có câu "Không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất": là một câu thành ngữ bắt nguồn từ dân gian Trung Quốc với ý nghĩa nôm na các bạn có thể hiểu là: Không sợ việc to tát, chỉ sợ việc không may xảy ra bất ngờ.

Dọc đường đi gặp được người thì hỏi được, rốt cuộc Triệu Bạch Ngư và Nghiên Băng mới đến được gò chém đầu.

Đứng ở chỗ cao nhìn xuống phía xa xa có thể thấy được một vùng nước sông mênh mông, ở giữa đồng bằng là mấy ngàn căn nhà tranh có thể bị gió mưa thổi sụp bất cứ lúc nào, còn có cả những nơi trú ẩn được dựng lên tạm thời bằng các loại tre, trúc và một miếng vải rách. Người dân bị nạn nằm ngổn ngang trên bùn đất, người ngợm dơ bẩn, ai nấy đều như chết lặng, có người cha ôm thi thể trắng nhợt của con mà khóc lóc, có người mẹ ôm đứa trẻ đã cứng ngắt mà kêu rên, còn có người dù đang canh giữ xác người thân chỉ vì mấy đồng tiền bạc mà bán mình đi, giữa đám hỗn loạn là những người ăn mặc gọn gàng đi tới đi lui, đều là những kẻ nhân cơ hội mua bán phụ nữ để kiếm lời.

Bầu trời âm u, cuồng phong gào rít.

Nỗi vất vả đau đớn của dân chúng ở tầng lớp thấp nhất dù không tiếng động nhưng vẫn cực kì nặng nề.

Nghiên Băng lo lắng không thôi, cũng không ngăn cản Triệu Bach Ngư đi sâu vào khu dân tỵ nạn nữa.

Đi được nửa đường, bên cạnh có một đứa con nít đột nhiên ôm bụng nôn mửa, khạc dịch chua ra đầy đất rồi ngã xuống đất hôn mê, mấy người dân liền vây lại kiểm tra.

Không lâu sau thì có quan sai đến, hùng hổ đẩy đám người ra một bên, kêu vài người dân dùng tấm ván đơn sơ khiêng đứa bé đó ném vào khu bệnh dịch.

Một nam tử trẻ tuổi phẫn nộ: "Nó đã ăn cám trấu, gạo cũ mà các ngươi dùng để cứu nạn mới bị bệnh rồi nôn mửa, các ngươi không tìm đại phu chữa trị cho nó, trái lại mượn cái cớ 'bệnh dịch' đưa nó đến chỗ chết, đám tham quan ăn hối lộ, làm việc trái pháp luật các ngươi có còn lương tâm hay không?"

Thanh niên nọ bị quan sai tung cước đạp ngã, gã rút đao ra uy hiếp dân bị nạn: "Lấp đầy cái bụng đã là tốt lắm rồi, có biết triều đình cho ta bao nhiêu bạc đút no chúng mi không? Bạc triều đình cũng moi không ra nữa rồi, lão gia huyện chúng ta cũng đều ăn cháo cùng dưa muối, tiết kiệm khẩu phần lương thực để cứu trợ thiên tai, chúng mi còn muốn thế nào nữa? Còn muốn ồn ào không? Ồn hả! Toàn bộ xử tội loạn đảng hết!"

Lời này vừa ra đã đủ làm cho mọi người đều kinh sợ, rối rít lùi bước không dám la lối nữa.

Mắt thấy đứa bé đã được đưa lên tấm ván, có một đại phu lớn tuổi được đỡ ra ngoài, run rẩy nói: "Là dịch bệnh!"

"Cái gì?"

"Ta là đại phu của Tế Thế đường ở Phi Châu, những ngày qua xem bệnh cho rất nhiều bệnh nhân, nôn mửa, mất sức, không ăn uống nổi, thân thể dần yếu ớt dẫn đến suy kiệt mà chết. Không sai đâu, trong năm loại dịch bệnh tất cả đều có tính lây lan, dù nặng hay nhẹ thì triệu chứng đều giống hệt nhau —— là dịch bệnh đấy!"

"!!"

Mọi người hoảng hốt, tránh né về phía sau như tránh hổ, đến cả những người dân khiêng ván cũng không nhịn được lui lại, không dám đến gần nữa.

Quan sai dẫn dầu kịp phản ứng: "Mau lên! Mang người đến khu dịch bệnh cách ly đi, ngươi là đại phu đúng không? Ngươi đi theo bọn chúng vào xem bệnh. Đi, đi nhanh rồi về bẩm báo!"

Nha dịch hành động nhanh lẹ, có điều chỉ tầm hai ba giờ sau đã điều doanh binh từ Tuần kiểm ty tới bao vây gò chém đầu, lệnh cho người rải vôi chung quanh, tìm kiếm đại phu từ trong thành chuyển đến một ít dược liệu thanh nhiệt giải độc, chính là vào rồi không được ra, nói đúng hơn là muốn để cho bọn họ chờ chết.

Triệu Bạch Ngư giận đến mức ngón tay cũng run rẩy, "Xem mạng người như cỏ rác! Khá lắm huyện lệnh Giang Dương! Ta cứ tưởng lão muốn chấm dứt vụ Đặng Vấn An qua loa là do muốn gây dựng sự nghiệp, hóa ra không phải ngoại lệ, tàn sát dân lành mới là tình trạng bình thường! Hoắc Kinh Đường nói đúng, cương thần coi khinh lòng triều đình, ngang ngược điên cuồng!"

Y không tin huyện lệnh Giang Dương còn chưa biết tin Khâm sai đã đến Dương Châu, đã biết mà còn dám coi rẻ mạng sống người khác như thế, có thể thấy bình thường quen thói chúa đất, đã sớm quên mất sư uy hiếp từ triều đình, quên mất chức trách của một quan phụ mẫu!

Nghiên Băng: "Hay là bây giờ chúng ta để lộ thân phận?"

Triệu Bạch Ngư không bị cơn giận làm cho hồ đồ: "Chúng ta chỉ có hai người, để lộ thân phận thì quá mạo hiểm. Trước tiên cứ xem tình hình lây lan của dịch bệnh, đến tối hãy truyền tin cho Thôi phó quan và Ngụy bá, ta đoán hẳn là bọn họ đã đến huyện Giang Dương rồi, không nên chủ động để lộ thân phận, Huyện lệnh Giang Dương rồi sẽ tự vác mặt đến đây thôi."

***

Cùng lúc đó, Ngụy bá và Thôi phó quan tới huyện Giang Dương muộn hơn nửa ngày, đi qua biết bao nhiêu quán trọ trên phố lớn, chuyện trò hỏi thăm dân tình, những bất bình và ý kiến của người dân về oan tình trong dân gian và quan phụ mẫu ở địa phương, họ vẫn luôn nói bằng khẩu âm ở phủ Kinh Đô, nha dịch tuần tra phát hiện ngay lập tức hồi phủ báo cho Lữ Lương Sĩ biết.

Lữ Lương Sĩ cuống cuồng nhảy xuống giường: "Tới rồi à? Nhanh lên, theo ta đi đón Khâm sai! Cái mũ... Cái mũ của ta đâu? Giày nữa, mau mang vào cho ta." Lão chạy vội đến cửa thì đụng phải sư gia, không nén nổi cơn giận: "Hấp tấp cái gì!"

Vẻ mặt sư gia đau khổ: "Đại họa trước mắt rồi lão gia! Gò chém đầu đã xuất hiện dịch bệnh rồi, hạ sai tự chủ trương cho người phong tỏa khu dân bị nạn lại, nghe nói bên đó đã có người chết rồi —— nếu như Khâm sai biết được thì phải làm sao đây ạ?"

Lữ Lương Sĩ suýt nữa ngã xuống: "Dịch bệnh xuất hiện sao ngươi không nói? Ngươi muốn hại chết ta hay sao?"

Sư gia chột dạ đáp: "Dược liệu phủ Dương Châu phát xuống không có bao nhiêu —— "

"Ta thấy không phải là không có bao nhiêu, mà là ngươi đều ăn hết cả rồi đấy!"

Đúng là tham quan hiểu rõ tham quan nhất, Lữ Lương Sĩ và sư gia cá mè một lứa, kẻ thì tham ngân lượng cứu trợ, kẻ kia thì tham dược liệu chữa bệnh, đại nạn ập xuống đầu chỉ muốn bưng bít hết để bảo toàn bản thân mình, hoàn toàn không để ý đến sự sống chết của bách tính.

Lữ Lương Sĩ: "Vậy phải làm sao bây giờ?"

Sư gia: "Hay là nhân lúc dịch còn chưa bùng lên ta giải quyết khu dân bị nạn đi? Chặn hết cái miệng đám bọn chúng lại —— "

"Dân bị nạn có bao nhiêu người? Hàng ngàn hàng vạn, ngươi dám giết hết không? Ta thật sự không nhìn ra, lòng dạ ngươi còn ác hơn cả ta nữa." Lữ Lương Sĩ lườm sư gia một cái, ra hiệu cho nha dịch trói gã lại: "Dù sao cũng phải tìm một kẻ chịu tội, có thể tìm ai được chứ? Tự ngươi mưu tính không sạch sẽ, cũng đừng trách ta khí xa bảo suất*!"

(*) Khí xa bảo suất - 弃车保帅: Trong cờ tướng có nghĩa là bỏ xe bảo vệ soái/tướng.

Sư gia bị trói tay chân lại, miệng cũng bị bịt kín, lúc này đang trợn mắt liều mạng giãy giụa.

Lữ Lương Sĩ: "Đưa đi đi. Nhớ trước khi treo cổ, đến nhà trọ của Khâm sai truyền tin, nói hắn tham ô ngân lượng cùng dược liệu cứu trợ thiên tai, âm mưu bại lộ, sợ tội nên tự vẫn." Lão bước qua người, không ngừng nghĩ ngợi: "Phiền thật, sao lại phiền phức như vậy? Đến bạc trong túi cũng móc ra rồi mà sao lại xui xẻo thế nhỉ?"

***

Tri phủ Dương Châu - Tiêu Vấn Sách nhanh chóng nhận tin từ huyện Giang Dương nói là bên đấy đang bùng dịch, yêu cầu điều người của Thái y cục và phát thêm nhiều dược liệu xuống.

"Hừ! Vụ án Đặng Vấn An thì không giải quyết còn chẳng biết xấu hổ xòe tay đòi tiền đòi người!" Tiêu Vấn Sách không giận tự uy, gõ bức thư nói: "Nếu không phải An Hoài Đức và Tống Linh cắn xé lẫn nhau, bổn phủ căn bản cũng sẽ không bị dính vào vụ án kia, đến nỗi bây giờ cũng bị cột vào cùng thuyền với cái lão Lữ Lương Sĩ ngu xuẩn kia nữa."

An Hoài Đức thuộc đảng Thái tử, Tống Linh là Hình ngục sứ Hoài Nam cũng là môn sinh của Thập vương, tính tình cứng nhắc, có khuynh hướng đối đầu với An Hoài Đức, Tiêu Vấn Sách nhìn mối quan hệ ông tế* của Thái tử và ân sư Lư tri viện cho nên mới nể mặt An Hoài Đức mấy phần.

(*) Ông tế: Mối quan hệ giữa cha vợ và con rể nhưng xem nhau như cha con ruột thịt.

Vụ án của Đặng Vấn An vốn do Hình ngục sứ Tống Linh phụ trách, nhưng An Hoài Đức cứ khăng khăng giành lấy cho bằng được, Tiêu Vấn Sách muốn cho ông ta mặt mũi nên chỉ đành đứng cùng chiến tuyến với An Hoài Đức, từ đó bị buộc chung với Lữ Lương Sĩ.

Lữ Lương Sĩ vừa tham vừa dại, vậy mà lần nào lần nấy cũng gặp may mắn, bên trên ngầm đấu đá nhau, trời xui đất khiến làm sao mà cho lão hai bức tượng Phật lớn che chở, xảy ra chuyện một cái là tìm ngay tới cửa.

Tả phán quan nói: "Tạm dẹp yên đã, chờ Khâm sai đi rồi tìm lý do giải quyết là được."

Chủ sự: "Không được phát tiền, lão nuốt bao nhiêu phải ói ra bấy nhiêu, nếu không cứ được voi đòi tiên. Dược liệu và thái y thì vẫn phải cho, không thể để cho dịch bệnh lan tràn, đến lúc đấy thì ván cờ thật sự kết thúc mất!"

Tiêu Vấn Sách: "Ta lo rằng Khâm sai sẽ để ý đến khu dân bị nạn vì dịch bệnh này, vào đó tra ra được Lữ Lương Sĩ hốt ngân lượng cứu trợ, gộp vào án oan xử lý thì chúng ta sẽ không tránh khỏi dính líu."

Tả phán quan: "Lữ Lương Sĩ nói đã tìm được người đội tội, tạm tin lão một lần đi. Chỉ cần không tra sâu vào hai vụ Chương Từ Lộ và bạc chữa sông bị chiếm đoạt thì không cần quá đề phòng Khâm sai. Huống chi ta nghe nói, Khâm sai này còn quá trẻ tuổi, chưa trải quan trường nên thủ đoạn chắc chắn sẽ rất non nớt, hắn cũng dễ đối phó thôi."

Tiêu Vấn sách suy nghĩ nhiều chuyện, gật đầu: "Cũng được. Phái ba xe dược liệu và hai thái y qua đó. Rồi đến Tuần kiểm ty điều thêm doanh binh sang trông coi khu dân bị nạn, phải canh phòng nghiêm ngặt ở khu dịch bệnh, đến con ruồi cũng không được lọt ra dủ chỉ một con!"

Một hồi sau, gã thở dài nói: "Chỉ mong là kinh sợ không nguy, đừng có sai sót nữa."

***

Thôi phó quan nhận được tin tức từ Hải Đông Thanh, còn chưa kịp định hình, Ngụy bá đã xách kiếm muốn phóng đến khu dân bị nạn lôi Triệu Bạch Ngư ra.

"Ngài gấp cái gì?"

"Bây giờ ta không gấp, nhưng Ngũ lang nhà chúng ta chết thì có gấp không?"

"Ngài đi thì có ích lợi gì? Chưa kể bây giờ khu dân bị nạn được canh giữ rất nghiêm ngặt, doanh binh đều đóng quân ở đó, dù ngươi có đứng đấy nói Phủ dụ sứ ở trong đám dân cũng chẳng ai mở cửa cho mà vào! Phong tỏa khu dịch bệnh là pháp luật mà Đại Cảnh đã quy định, ai đi cũng vô dụng cả thôi! Huống chi ngươi đến kêu la tương đương rút dây động rừng, hù cái tên Lữ Lương Sĩ khiến lão có lý do không mở cửa vùng, dược liệu và lương thực không vào được lại gây bất lợi cho Triệu đại nhân nữa."

Ngụy bá tỉnh táo lại nhưng vẫn nổi giận đùng đùng: "Ngươi nói xem nên làm gì đây?"

Thôi phó quan: "Tiểu Triệu đại nhân dặn chúng ta giả làm Khâm sai, ta có thể lợi dụng thân phận này ở đây hăm dọa dể Lữ Lương Sĩ không dám làm quá trớn."

Vừa dứt lời đã nghe thấy một trận xôn xao từ ngoài truyền tới, tiếp đến lại yên ắng, không lâu sau có tiếng bước chân vội vàng đến gần, ngừng trước cửa phòng rồi cất tiếng hô lớn: "Huyện lệnh huyện Giang Dương Lữ Lương Sĩ mang tội nhân chiếm đoạt dược liệu cứu trợ thiên tai tới tạ tội Phủ dụ sứ đại nhân!"

Thôi phó quan cười nhạt: "Đấy, đến rồi."

==

Chương 29

"Sư gia là phụ tá được mời tới từ Huyện nha, bởi vì là người được Huyện lệnh tiền nhiệm hết lòng đề cử nên hạ quan mới dùng đến nay, lòng tín nhiệm cũng sâu đậm. Không gờ hắn lại lợi dụng nạn lụt đứng giữa kiếm lợi, biển thủ dược liệu được phát xuống, đến lúc dịch bệnh bùng lên thì lại thiếu thuốc thang. Lúc hạ quan truy ra được tội của hắn thì phát hiện hắn đã sợ tội tự vẫn rồi."

"Có điều, hạ quan đã kịp thời thông báo cho Tri phủ Dương Châu biết, thượng sai bên đó đã đồng ý phân phát thêm một lượng dược liệu lớn, cũng phái thái y đến, ngày mai là được đưa tới khu bị nạn."

Lữ Lương Sĩ cúi đầu báo cáo, thỉnh thoảng trộm liếc động tĩnh trong phòng.

Trong phòng, Thôi phó quan thấp giọng nói: "Lão cho rằng chúng ta là Khâm sai, tạm thời không dám coi thường mạng người. Chúng ta cứ giữ nguyên kế hoạch làm việc, chủ yếu điều tra vụ án Đặng Vấn An rồi âm thầm phối hợp với tiểu Triệu đại nhân."

Ngụy bá vẫn còn lo lắng, suy nghĩ vẩn vơ.

Thôi phó quan: "Có Hải Đông Thanh lúc nào cũng truyền tin được, không sợ lỡ mất thời cơ biết được tình huống của tiểu Triệu đại nhân đâu."

Ngụy bá yên lặng chốc lát: "Mở cửa đi."

"Đại nhân?" Lữ Lương Sĩ hơi hoài nghi bèn lớn giọng gọi, thấy lâu không có ai trả lời nên định đánh bảo đẩy cửa ra, một giây sau liền có người kéo cửa ra từ bên trong, lão bị dọa sợ nên vội vàng lui về phía sau: "Ty chức có hơi mạo phạm, xin đại nhân thứ tội."

"Lữ Lương Sĩ?"

"Có hạ quan." Lữ Lương Sĩ ngẩng đầu nhìn thanh niên trước mặt, tuổi tác cũng phù hợp với 'Khâm sai trẻ tuổi' trong lời đồn, tuy nhiên trông không giống với một văn thần, trái lại giống với người trong quân đội hơn, "Đại nhân có gì phân phó."

Thôi phó quan: "Tin tức ngươi nhận cũng nhanh đấy. Vừa dừng chân đã tìm ngay tới cửa, ghế còn chưa kịp ấm lên đây này."

Lữ Lương Sĩ cười xòa, không dám tiếp lời.

Thôi phó quan chắp tay sau lưng nói: "Ta cũng không nói nhảm nữa. Thánh quyến bệ hạ lệnh cho ta làm Phủ dụ sứ đến huyện Giang Dương của ngươi thể xét dân tình, nhất định phải mau chóng xử lý vụ Đặng Vấn An. Xử trí dân bị nạn thế nào, giải quyết dịch bệnh ra sao, chỉ cần ngươi không mắc sai lầm lớn, bổn quan sẽ không vượt quyền quản ngươi."

Gã liếc mắt nhìn thi thể trên đất: "Cũng không cần phải mang cái xác này đến thị uy với ta đâu, mấy chuyện này ngươi đi tìm Tri phủ Dương Châu cấp trên của mình đi."

Lữ Lương Sĩ gấp gáp đáp: "Hạ quan sợ lắm, nào dám đe dọa đại nhân? Cho một trăm lá gan cũng không dám! Chẳng qua hạ quan... Chẳng qua hạ quan lo rằng ngài hiểu lầm —— "

"Không làm trái lương tâm hà cớ gì sợ người khác hiểu lầm? Lẽ trời rành rành, trời đất còn đó! Những tên hạ quan các ngươi quen thói chúa đất, to gan làm việc không theo lệ. Đưa một cái xác đến gặp ta là muốn ta nhớ lấy đòn phủ đầu này, thật sự cho rằng ta là người trẻ tuổi dễ mắc lừa, không nhìn ra thủ đoạn mà các ngươi mưu tính hay sao?"

Mặt mũi Lữ Lương Sĩ co giật, lắc tay lia lịa, lúc này Thôi phó qua mới chuyển sang chủ đề chính: "Bổn quan không có thời gian để chơi đùa với những mánh khoé để thăm dò của ngươi, đừng có mà dùng trò quỷ quái nhằm đùa bỡn bổn quan! Ta sẽ mượn vài người bên cạnh ngươi để trợ giúp, ngươi có dị nghị gì không?"

Lữ Lương Sĩ miễn cưỡng cười đáp: "Hạ quan sẽ cố gắng phối hợp."

Thôi phó quan nhìn chằm chằm Lữ Lương Sĩ một lúc, bỗng nhiên lên tiếng: "Nói Lữ đại nhân bất hạnh thì bất hạnh, nói may mắn lại may mắn."

Lữ Lương Sĩ không hiểu: "Lời này của đại nhân là sao ạ?"

Thôi phó quan: "Thì bất hạnh ấy mà, ngươi xử lý không trọn án oan thì thôi không nói, nếu dịch bệnh phát sinh mà ngươi còn không giải quyết ổn thỏa thì ngươi sai. Đến lúc đó đừng nói là mũ cánh chuồng, cái đầu ngươi có giữ được hay không cũng chẳng biết nữa! Nhưng nếu nói may mắn thì thật sự sẽ rất may mắn, ngươi nhanh tay khắc phục dịch bệnh một cách gọn gàng, sạch sẽ, nói không chừng còn có thể lập công chuộc tội."

Lữ Lương Sĩ sững sốt, nghĩ một chút thấy như vậy cũng có lý.

Tuy sư gia đã nói cho lão biết vài biện pháp cần làm nhưng chưa chắc đã an toàn, suy cho cùng thì việc Đặng Vấn An có là tòng phạm hay không vẫn còn phải phụ thuộc vào ý kiến cá nhân của Khâm sai.

Dịch bệnh phát sinh ngay trước mắt, quả thật là có thể lấy được chính tích!

Sau khi Hoàng Hà mắc lũ, dịch bệnh hoành hành là điều mà mọi người đều lường trước được, không phải lỗi của mình lão, nếu xử lý hoàn hảo, khống chế được con số thương vong, đến lúc nộp hồ sơ lên sửa lại số liệu một chút cho đẹp mắt là đã có thể lập công lớn rồi.

Đừng nói chỉ là lập công chuộc tội, thăng thêm một cấp bậc cũng không phải là không có khả năng!

Có điều tại sao vị Phủ dụ sứ này lại cố tình nhắc nhở lão?

Nghi ngờ vừa mới dấy lên đã nghe thấy Thôi phó quan nói: "Thật ra thì bổn quan cũng có quan hệ mật thiết với Quy Đức tướng quân."

Quy Đức tướng quân chính là Chuyển vận sứ Hoài Nam mới nhậm chức Trịnh Sở Chi đó phải không?

Lòng Lữ Lương Sĩ vừa bị lay động lại có hơi lưỡng lự chưa thế quyết, trước khi Tần vương ngã ngựa, lão vẫn luôn ở trên chiếc thuyền này, có điều vì địa vị thấp kém, lời nói không đủ sức thuyết phục nên mới không bị kéo vào trong bè đảng, Tần vương rớt đài rồi, lão liền như bèo nước mất rễ, trên không trời dưới không đất, muốn dựa vào An phủ sứ Hoài Nam để được vào phe cánh Thái tử, nhưng người ta đường đường là đại quan nhị phẩm muốn gặp là gặp, muốn vào là vào được hay sao?

Trái lại lão muốn thông qua cấp trên của mình là Tri phủ Dương Châu để ngồi lên cái ghế An phủ sứ Hoài Nam hơn, tuy nhiên trừ mỗi quý đến Nha môn báo cáo ra thì căn bản không có cơ hội bước chân vào cửa Tri phủ.

Giờ đây được vị Khâm sai đại nhân này nhắc nhở, lại chủ động nói gã có quan hệ với phủ Trịnh quốc công, chẳng lẽ ngụ ý mình thuộc đảng Tần vương, làm việc cần phải nể mặt phủ Trịnh quốc công, là đang chỉ điểm lão đây sao?

"Khụ!"

Lữ Lương Sĩ đắm chìm vào suy nghĩ của mình bị tiếng ho làm cho hoàn hồn, vội vàng đáp lời: "Biết rồi! Hạ quan biết rồi! Hạ quan nhất định sẽ kiểm soát dịch bệnh thật tốt, nhất định sẽ không để xảy ra chuyện không may! Đại nhân, nhà trọ này không đủ thoải mái, chi bằng theo hạ quan về phủ tạm trú đi?"

Thôi phó quan phất ống tay áo nói: "Có phải bổn quan đi đâu ở đâu ngươi cũng muốn sắp đặt không?"

"Không không không... Hạ quan không dám, vậy thì hạ quan cáo lui, đại nhân nghỉ ngơi cho khỏe."

Lữ Lương Sĩ vội vã kêu bọn nha dịch lui xuống khỏi nhà trọ, lệnh cho một vài tên nha dịch ở lại làm những việc Phủ dụ sứ sai phái, kêu thêm mấy tên bộ đầu để ý động tĩnh của Phủ dụ sứ để kịp thời về báo cáo hành tung. Vừa về đến Huyện nha đã không nhịn được gọi đám phụ tá đến, thuật lại những lời nói của Phủ dụ sứ lại một lần nữa, hỏi phụ tá xem trong lời này có ngụ ý gì.

Phụ tá râu dài nói: "Ý trên mặt chữ thì đúng là giống như là để bảo vệ ngài. Dịch bệnh có thể nghiêm trọng cũng có thể không, nếu như để nó phát triển thành đại nạn thì bao nhiêu cái đầu cũng không đủ chém, ngược lại nếu kịp thời khống chế được thì chính là chính tích cứu được vạn người, dù có mười vụ án như vụ Đặng Vắn An cũng có thể chuyển nguy thành an."

Lữ Lương Sĩ: "Ta cũng nghĩ vậy, nhưng Phủ dụ sứ đến đây đầu tiên là cải trang vi hành, sau đó kẹp thương mang gậy một phen, lời trong lời ngoài muốn xử lý vụ án công bằng, ta thấy không giống như có lòng tốt."

Phụ tá phe phẩy quạt: "Cũng không phải, hành động của Phủ dụ sứ này nói rõ hắn thật sự muốn chỉ điểm đại nhân đấy! Hắn mở đầu bằng cách kẹp thương mang gậy gọi là sát uy bổng ra oai phủ đầu, dù sao cũng chỉ là phần mở đầu bình thường nhất trong quan trường thôi, hơn nữa ngài đã mang thi thể sư gia đến đó rồi, tuy nói là để phủi sạch quan hệ, nhưng cũng vì quá đường đột nên Phủ dụ sứ mới không vui, âu cũng là tình hữu khả nguyên*. Khâm sai nhấn mạnh hắn đến là vì vụ của Đặng Vấn An ý muốn nói rằng sẽ không quản ngài trị người bên dưới thế nào, phải biết chức trách của Khâm sai chủ yếu là thể xét dân tình, nếu tra ra được chuyện gì từ bách tính, hoặc là dựa vào đám dân bị nạn kia lẫn bệnh dịch lan tràn để tố cáo, đại nhân ngài chạy không thoát khỏi đường chết."

(*) Tình hữu khả nguyên - 情有可原: chỉ tình huống hợp lý, có thể tha thứ được.

Nhắc đi nhắc lại mấy từ chém đầu dọa cho hồn vía Lữ Lương Sĩ bay mất, nhưng nghe bọn họ phân tích xong lão lại miễng cưỡng an tâm.

"Nói vậy thì hắn đúng là người của phủ Trịnh quốc công rồi. Các ngươi nói xem, lão gia có nên đến cửa thăm hỏi Trịnh vận phó hay không?"

"Có thể viết bức thư tỏ rõ lòng thành, tạm thời đừng đến tận nơi thăm hỏi, vì án Đặng Vấn An mà bị cột vào cùng một thuyền với Tri phủ và An phủ sứ, tùy tiện đến đó chỉ càng khiến ngài bị hiểu lầm thôi, kiểu gì ngài cũng sẽ bị bọn họ vứt bỏ."

"Đúng rồi!" Lữ Lương Sĩ đột nhiên nghĩ ra một chuyện: "Phủ dụ sứ là người của phủ Trịnh quốc công, tất nhiên sẽ phải tìm cách đấu đá với đảng Thái tử, hắn vẫn luôn nhấn mạnh vụ án Đặng Vấn An thật ra là có ý đồ khác đúng không? Có phải muốn nhân cơ hội này đem vụ án đi xử lý đám người An Soái ty, cho nên ám chỉ ta chuyển sang chiếc thuyền kia giúp bọn họ đối phó với soái sứ không?"

Hai phụ tá điên cuồng động não, từ do dự "có thể" đến "tất nhiên" chắc như đinh đóng cột thuyết phục Lữ Lương Sĩ: "Chúng ta tạm thời đừung làm gì cả, cứ để cho bọn họ đấu pháp với nhau đi, đến thời khắc mấu chốt ngài hãy nhảy ra. Vụ án của Đặng Vấn An này... Hồ sơ sơ thẩm là do ngài đưa lên, không có cách nào chối bỏ được, chỉ còn cách dùng dịch bệnh để lập công chuộc tội thôi, còn lại khâu phục thẩm có thể đem ra làm thành bài báo."

Lữ Lương Sĩ gật đầu liên tục.

***

Triệu Bạch Ngư trò chuyện cùng với người dân, triệt để hiểu được tình hình ở khu tỵ nạn.

"Ban đầu còn được ăn gạo ngon, sau đó là gạo cũ rồi đến cám trấu, rất nhiều người đã chết đói. Có người đói không chịu được bèn tìm cách vào trong thành tìm cái ăn, cướp cả xe lương nên bị bắt lại, kết tội loạn đảng chém đầu thị chúng, dọa cho những người dân bị nạn khác và không cho phép bọn họ vào thành náo loạn trật tự trong thành. Ngươi hỏi vì sao dân bị nạn không đến phủ Kinh Đô, cũng chẳng đến phủ Dương Châu phồn hoa? Bởi vì nửa đường đã bị quân lính xua đuổi hoặc giết chết, không muốn để cho bọn ta đến phá hỏng bộ mặt của phủ lớn!"

"Hoang đường! Đúng là coi trời bằng vung!"

Triệu Bạch Ngư giận đến mức tim cũng đau.

"Ngươi cứ nhìn mà xem, dân bị nạn ở huyện Giang Dương này ước chừng mấy chục ngàn người, toàn bộ đều không được phép vào thành, vẫn đang tràn vào như nước lũ thế kia! Ngươi lại nhìn đi, trước cửa Tri phủ, Tào ty, Soái ty đêm đêm ca múa, vô cùng sạch sẽ, nơi đó có mấy ai liếc mắt đến đám dân bị nạn?" Người dân ôm đứa trẻ đã đói bụng đến chết lặng, kể lể: "Bây giờ dịch bệnh còn bộc phát, phía đằng sau kia chỉ làm một hàng rào ngăn khu dịch, chỉ để cho vào nhưng lại không cho ra —— Đây không phải là hại người sao? Không phải là muốn đẩy người ta vào hố lửa sao?"

Bên cạnh có người nhích tới: "Nghe nói bệ hạ cử Khâm sai tới rồi, nói không chừng hắn có thể mang oan khuất của chúng ta về Kinh Đô đấy."

"Quan lại bao che nhau hết cả thôi!" Dân bị nạn ôm con cười nhạt: "Dù sao ta cũng không ôm hy vọng gì, có thể sống sót rời khỏi khu dịch bệnh này thì chính là vô cùng may mắn, ai còn dám mong đợi có người giúp mình tố oan khuất chứ? Chỉ vài ngày nữa thôi, dịch bệnh sẽ càng trở nên nghiêm trọng hơn, đêm qua ta thấy bên kia mang ra ba thi thể ném vào sau khe núi, có thể thấy đã đến lúc dịch hoành hành, đã vậy còn chẳng có đủ thuốc để dùng nữa."

Nghe vậy, lòng ai nấy đều lạnh xuống, bên ngoài lớp lớp doanh binh, tùy tiện chạy trốn chỉ có nước bị đánh chết tại chỗ, cứ coi như có thể rời khỏi khu bị nạn thì cũng sẽ không có bất kì huyện phủ nào chào đón bọn họ đến, bởi vì đã xem bọn họ như nước lũ mãnh thú, e sợ bọn họ mang dịch tới khắp nơi.

Mặt Triệu Bạch Ngư tái mét, ngũ cảm xuất hiện cùng lúc, tâm tình trở nên phức tạp, chỉ nói có thể tin tưởng triều đình, tin tưởng bệ hạ vẫn luôn sốt ruột vì lũ, lo lắng cho dân bị tai nạn, tham quan tương hỗ từ xưa đã vậy, nhưng phải tin tưởng trời xanh trăng tỏ, dịch bệnh, hồng hoang và cả tham quan đều sẽ được xử lí cả.

Người ngoài không quá tin tưởng Triệu Bạch Ngư, chỉ xem như đó là lời an ủi vô vọng dư thừa mà thôi.

Đến gần khu dịch bệnh, tâm trạng của Triệu Bạch Ngư càng nặng nề hơn nữa, vừa vặn nhìn thấy ba xe dược liệu và hai thái y đi vào, một lát sau thì có một đứa trẻ đẩy xe thùng gỗ đi ra, y liền đuổi theo sau.

Trong thùng gỗ đều là dịch nôn của các bệnh nhân, đứa nhóc thuần thục dọn dẹp, Triệu Bạch Ngư xắn tay áo lên, không sợ hôi thối bước đến giúp một tay, tiện thể hỏi thăm tình hình bên trong.

Đứa nhóc này là dược đồng bên cạnh lão đại phu, nhờ sự trợ giúp của Triệu Bạch Ngư mà lên tiếng khai thật: "Không lạc quan mấy. Họ nói đây chính là loại dịch chưa từng xuất hiện trước đây, tính lây cực cao, cũng không có triệu chứng nào nằm trong toa thuốc, hai vị thái y vừa tới lúc nãy đã xem bệnh nhân trước, sau đó nghe đại phu miêu tả kĩ các triệu chứng phát bệnh nhưng mặt mày ủ dột ngay, lắc đầu liên tục, có vẻ rất khó giải quyết."

"Không nói nhiều nữa, ta còn phải đi vào hỗ trợ, bên trong không đủ người, bận đến nỗi chân không chạm đất luôn."

Đưa mắt nhìn dược đồng chạy đi, Triệu Bạch Ngư liền tự thuật lại tình hình mình nghe ngóng được trong ngày rồi đưa cho Hải Đông Thanh giao đi, Nghiên Băng cũng chạy đôn chạy đáo hỏi thăm, đến chạng vạng tối mới quay về.

"Ngũ lang, tình hình không ổn rồi."

Chân mày Triệu Bạch Ngư nhíu lại: "Nói đi?"

"Lão thái y có kinh nghiệm dường như cũng không biết phải bắt đầu từ đâu, một vài loại thuốc cũng đã được thử nghiệm nhưng không có hiệu quả. Hơn nữa tính lây rất cao, chỉ trong một ngày thôi mà có đến mười bệnh nhân được đưa vào, ba xe dược liệu cũng sẽ nhanh chóng cạn kiệt thôi, thái y lại quá ít."

"Ngươi đi vào khu dịch bệnh sao?"

"Ta lén vào, phát hiện bọn chúng đang chôn xác người ở phía sau, đoán chừng đã chết tầm bảy, tám người rồi. Lúc dịch bệnh vừa bắt đầu thường sẽ chết nhiều như vậy đấy, tạm thời thì vẫn chưa có loại thuốc nào có thể áp chế được, tình trạng về sau sẽ càng không lạc quan hơn."

Triệu Bạch Ngư gặp khó khăn rồi, đời trước y theo ông ngoại học thuộc lòng rất nhiều toa thuốc ngàn vàng, chỉ là ít tiếp xúc với các toa liên quan đến dịch bệnh, bởi vì y học thời hiện đại rất phát triển, hoàn toàn trực tiếp nghiên cứu thuốc ngừa, vậy nên ông cũng không bắt Triệu Bạch Ngư học cho thuộc những toa thuốc kia.

Chuyện này y không thể giúp được gì cả.

"Trước tiên báo cho Thôi phó quan lấy danh nghĩa Phủ dụ sứ tấu lên phủ Dương Châu, xin tiếp thêm dược liệu và cử thêm thái y đến nghĩ cách ngăn chặn tình hình dịch bệnh."

***

Thôi phó quan nhận được thư hồi âm, gây áp lực cho Lữ Lương Sĩ bắt hắn yêu cầu cấp trên là phủ Dương Châu tăng thêm dược liệu và thái y, Tri phủ Dương Châu Tiêu Vấn Sách ném thư đi, nói với tả hữu phán quan: "Lữ Lương Sĩ được voi đòi tiên!"

Tả phán quan: "Lữ Lương Sĩ thuận lợi đủ đường, trước đây vót nhọn đầu đến phủ Dương Châu cho bằng được muốn vào đảng Thái tử, cơ mà mấy nay đã biệt tăm biệt tích, giống như đã tìm ra được núi dựa mới rồi vậy."

Tiêu Vấn Sách: "Ngươi muốn nói rằng gã đang dựa vào Khâm sai?" Đột nhiên lão cười nhạt: "Phủ dụ sứ kia tới đây là để bắt cái đuôi của gã mà, dựa vào Khâm sai chẳng phải tự chui đầu vào lưới hay sao?"

Hữu phán quan: "Nhưng vẫn còn có Trịnh vận phó kia nữa. Trước đây Lữ Lương Sĩ thuộc đảng Tần vương, Tần vương vừa ngã ngựa gã đã muốn tìm cây cột mới, hiện giờ điều tới một Vận phó Hoài Nam, vậy mà lại là người đến từ phủ Trinh quốc công, đều nói rằng đây là môn sinh bạn cũ vương vấn không dứt được. Thay vì leo lên cành cây khác khì cứ lui trở lại nhánh ban đầu còn hơn, Lữ Lương Sĩ kia chỉ là cỏ mọc đầu tường*, muốn bấu víu cả hai bên thế lực cũng là điều dễ hiểu thôi. Có điều ta thấy Trịnh vận phó chưa chắc đã coi gã ra gì, gã còn dám nhiều lần yêu cầu dược liệu và thái y từ chỗ chúng ta, chỉ sợ là muốn nhân cơ hội dịch bệnh xảy ra tìm công trạng, lập công chuộc tội."

(*) Cỏ mọc đầu tường (墙头草): cỏ mọc trên đầu tường vốn yếu ớt nên luôn đong đưa theo gió => chỉ người lập trường không kiên định; gió chiều nào nghiêng theo chiều đó.

Tiêu Vấn Sách phỏng đoán dựa trên suy nghĩ của phán quan: "Ý ngươi là Lữ Lương Sĩ đã nói láo, làm nghiêm trọng tình hình dịch bệnh lên lừa ta cung cấp thêm dược liệu và thái y, để về sau gã gộp vào thành tích đẹp đẽ của mình bù đắp vào án oan của Đặng Vấn An ư?"

Hữu phán quan đáp: "Chính là như thế! Bằng không tại sao dịch bệnh lại đột nhiên bùng lên được, tình huống ngay lập tức trở nên nghiêm trọng, mà lại còn có chuyện cấp dưới trộm dược liêu đi bán nữa chứ? Nhiều việc rối loạn lại với nhau đến vậy, sao lại có thể trùng hợp như thế được?"

Tiêu Vấn Sách: "Nếu chỉ là trùng hợp, thì Lữ Lương Sĩ đúng là muốn nhờ dịch bệnh này lấy công chuộc tội, cùng lúc đó lại có Phủ dụ sứ đến huyện Giang Dương dán mắt vào gã, gã không dám giở trò chậm trễ, vậy nên mới đưa chiết tử lên phủ Dương Châu nhiều lần sao?"

"Có khả năng là vậy." Tả phán quan suy nghĩ một chút rồi nói: "Chi bằng ta phái người đến khu dịch bệnh thăm dò tình hình thử, sau đó kêu thêm người đến huyện Giang Dương tra thật hư ở chỗ Phủ dụ sứ, theo lý mà nói, nếu như phủ dụ sứ đến rồi, đại nhân ngài cũng nên tự mình đến cửa thăm hỏi. Còn chiết tử yêu cầu phát thêm dược liệu và cử người đi này thì có thể đưa đi một ít, nhưng không thể nhiều, cứ bảo bên chúng ta cũng phát hiện có mấy bệnh nhân có triệu chứng dịch bệnh, đang triệu tập thái y bàn bạc đối sách. Đến lúc đó dù Phủ dụ sứ có khiển trách thì ta cũng có lý do để mà phản bác lại."

"Cũng là một cách." Tiêu Vấn Sách vỗ bàn: "Cứ làm như vậy đi."

***

Lữ Lương Sĩ nhận được thêm một xe dược liệu và một thái y cùng bốn năm tên học nghề, gã đã sắp điên rồi, chỉ tay ra bên ngoài Nha môn về hướng phủ Dương Châu mắng: "Coi mạng người như cỏ rác! Tiêu Vấn Sách ông là một tên coi thường mạng người! Đã là lúc nào rồi? Có biết bao nhiêu người mắc bệnh rồi không? Dược liệu ít như vậy, chọn ra mấy người này nữa là muốn hại chết ta sao?"

Phụ tá vội khuyên: "Nghe nha dịch nói, dân bị nạn mắc bệnh đã tăng từ mười mấy người lên đến hàng trăm, ba xe dược liệu đã dùng sắp hết rồi, thái y vật lộn cả ngày lẫn đêm, có một người đã ngất rồi, xét thấy chúng ta thật sự không thể đợi kịp nữa, chi bằng trước hết cứ vơ vét sạch dược liệu và đại phu trong huyện đưa sang đó đi ạ?"

Lữ Lương Sĩ: "Ừ! Được! Cứ làm như vậy đi —— Khoan đã, phải để lại ba tên, không, năm tên đại phu và hai xe dược liệu trong Huyện nha. Đúng rồi, nhất định không được để cho Khâm sai đại nhân biết tình hình dịch bệnh —— "

"Vậy có cần sai người đi tìm Tào ty hay Soái ty không ạ? Tri phủ không tin tưởng chúng ta, sao lại không đến tìm cấp cao hơn chứ?"

"Không được!" Lữ Lương Sĩ nhất quyết cự tuyệt: "Nếu như Tào ty và Soái ty cũng biết được tình hình dịch bệnh ở huyện Giang Dương, rồi khắp cả Hoài Nam này cũng đều biết thì tin tức sớm muộn gì cũng truyền đến phủ Kinh Đô, Thánh thượng mà biết có nhiều người chết như vậy, làm sao ta có thể lấy công chuộc tội được?"

"Còn nữa, tình trạng ở khu dịch bệnh phải giấu đi hết, không được hé miệng tiết lộ nửa lời!"

Đầu Lữ Lương Sĩ rịn đầy mồ hôi lạnh, vốn cứ tưởng có thể kiểm soát được dịch bệnh để lấy thành tích, ai ngờ tình thế chuyển đổi, bệnh dịch ngày càng hung hãn, chưa qua mấy ngày mà đã không thể khống chế được xu hướng tăng lên, báo hại gã dù phải liên tục dâng chiết tử thỉnh cầu lên phủ Dương Châu cũng không dám nói là nó đã nghiêm trọng quá mức.

"Phải giấu đi —— nếu như có người hỏi đến, nhất định không được nói ra, đề phòng Khâm sai đại nhân lại vi hành, phải nói nhẹ về tình hình trong đó!"

Phụ tá bất ngờ, tất nhiên là vì không nghĩ rằng giới hạn của Lữ Lương Sĩ lại thấp đến mức này.

***

Người đến điều tra vùng dịch bị lừa, cho rằng tình hình dịch bệnh không nghiêm trọng, quay trở về báo cáo đúng sự thật với Tri phủ Dương Châu.

Tiêu Vấn Sách nổi nóng, nghiêm nghị chọn lời khiển trách Lữ Lương Sĩ thích việc lớn hám công to, bảo gã làm việc cho đến nơi đến chốn, suy nghĩ kĩ cho cái đầu trên cổ mình.

Nghĩ đến Phủ dụ sứ, chỉ sợ Lữ Lương Sĩ đứng giữa viết văn*, Tiêu Vấn Sách bèn lấy lý do phủ Dương Châu cũng phát hiện dịch bệnh, chỉ phát xuống một ít dược liệu, thậm chí không định cử thêm thái y đi.

(*) Nguyên văn là 做文章: làm văn; viết văn (dựa vào một việc nào đó để rêu rao, thổi phồng.)

Lữ Lương Sĩ nhận thư hồi âm tất nhiên là sốt ruột đến nỗi trước mắt đen sì, dán kín một phong thư gửi vào phủ Dương Châu.

***

Quan Hoài Nam bận rộn đẩy qua đẩy lại, đảo mắt một cái khu dịch bệnh đã trải qua bảy, tám ngày trời rồi, chỉ trong thời gian ngắn ngủi đó thôi mà con số thương vong đã lên đến hàng trăm, tất cả thi thể đều bị kéo đi chôn sau núi, dùng thêm một lượng vôi lớn để ngăn chặn mầm độc lây lan.

Trong khoảng thời gian này, chỉ có tổng cộng bảy xe dược liệu và hai thái y cùng với mười một, mười hai đại phu trong huyện Giang Dương được đưa tới, Triệu Bạch Ngư tìm cơ hội chạy vào trong khu vực có dịch để giúp đỡ, nhờ đề ra được một vài phương pháp hiệu nghiệm nên đã có thể hòa hợp vào đoàn đại phu, thường xuyên nghe ngóng bọn họ bàn bạc cách để ngăn dịch bệnh lây lan,

Nghe một chút, trong đầu Triệu Bạch Ngư hiện lên một vài toa thuốc ra đời từ rất xa xưa, bởi vì cũng đã trải qua quá lâu rồi, trí nhớ cứ mơ mơ hồ hồ, rất khó mà nhớ lại được, thế nhưng mấy ngày qua y vẫn luôn cố hắng nhớ lại về chúng.

Lúc này, có người vén rèm lên nói với đại phu bên trong: "Lại đưa tới thêm một nhóm bệnh nhân rồi, chắc là khoảng tám mươi người. Dược liệu chỉ còn lại hai xe rưỡi thôi, hãy dùng tiết kiệm đi, nếu mà còn không tiếp tế thêm nữa thì mỏ vàng cũng cạn!"

Một lão thái y tóc hoa râm nặng nề đáp: "Hôm nay đã lên đến 451 người rồi! Nếu cứ tiếp tục như thế, thì không tới một tháng nữa thôi, sợ rằng cả khu dân bị nạn này sẽ thất thủ mất! Chẳng lẽ tin tức không truyền về Huyện lệnh sao? Sao Phủ Dương Châu cũng không có động tĩnh gì? Tỉnh Hoài Nam nữa? Bốn ngày rồi mà còn chẳng đưa thêm người và dược liệu tới, thật sự muốn đưa hơn mười ngàn dân chúng ở nơi này vào đường chết ư?"

Một thái y khác nói: "Nói không chừng thật là như vậy đấy! Ta nghe nói Thánh thượng đã phái Phủ dụ sứ đến tra án oan, nếu như dịch bệnh bộc phát thì chính là tội chồng thêm tội, hiện tại đã có mấy chục người chết rồi, cứ cho là kịp thời giải quyết dịch bệnh thì Huyện lệnh vùng này cũng đừng mong thoát khỏi trách nhiệm. Thà rằng bị truy cứu thì vò đã mẻ cho sứt luôn, đến chết cũng phải giấu nhẹm đi!"

Lão thái y bị lây bệnh nên mệt mỏi cùng cực, run rẩy mắng: "To gan làm bậy! Nếu lão phu may mắn tránh được kiếp khổ này, nhất định sẽ hồi kinh tố cáo cho bệ hạ biết, phạt nặng một trận để cho dân chúng ở Kinh Đông, Hoài Nam một câu trả lời mới được."

Mười mấy đại phu ngồi chung quanh cũng than thở: "Chỉ sợ kiếp này khó thoát."

"Ta hiểu rõ Huyện lệnh vùng này nhất, gã chính là một con chó sói lòng tham vô đáy, Vụ án của Đặng Vấn An ta cũng biết, ta từng tiếp một bệnh nhân kia, nàng ta là đầu bếp nhà Vương Quốc Chí, đến chuyện Đặng Vấn An bị Vương Quốc Chí đe dọa phải đổi tên thay thế nàng cũng biết. Chỉ tiếc rằng khoảng thời gian Đặng Vấn An đồng ý nhận tội là lúc nàng ta hôn mê vì bệnh, lúc nàng tỉnh lại muốn đi làm chứng thì người kia đã bị đưa đến tỉnh Hoài Nam rồi."

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Thật không?"

"Tất nhiên!" Lão đại phu đáp.

Triệu Bạch Ngư hỏi tên họ, nơi ở của lão đại phu xong rồi hỏi ông ta, nếu như bị Phủ dụ sứ triệu ra công đường làm chứng ông ta có sẵn lòng hay không, lão đại phu hùng hồn đáp lại: "Có chứ sao không? Làm đại phu, hành nghề y là phải cứu người cứu đời, lên công đường cứu được một mạng người thôi mà, đây vốn chính là quy tắc sống mà lão phải gắn bó cả đời."

Lòng Triệu Bạch Ngư tràn ngập kính nể, chữa bệnh cứu người, lão tiên sinh quả thật là một thầy thuốc giàu lòng nhân ái.

Không chỉ có ông ấy, mà tất cả đại phu thông thường cùng với quan thái y đều không ai lùi bước, vị thái y bị bệnh thậm chí uống hẳn một liều thuốc mạnh, đảm bảo đầu óc mình tỉnh táo để nghiên cứu và bốc thuốc đúng bệnh, so với quan trường Hoài Nam, có thể nói trắng ra là một bên cao thượng, một bên hèn hạ.

Lão tiên sinh còn nói: "Nữ đầu bếp kia cũng bằng lòng đến công đường làm chứng, chúng ta người nghèo nhưng không thiếu chí, có việc không giúp, thấy chết không cứu thì làm sao có thể an tâm được?"

Triệu Bạch Ngư cúi người với ông, cảm ơn ông và nữ đầu bếp vì đã bênh vực lẽ phải trước.

Trên thế gian này, thật sự không phải ai cũng thờ ơ và lạnh lùng.

Ấy vậy mà ông lão lại nhận ra điều kì lạ: "Ngươi là người phương nào?"

Triệu Bạch Ngư đáp: "Chỉ là một nho sinh thanh bạch, mượn dũng khí anh hùng thực thi công lý chính nghĩa mà thôi."

Nét mặt lão tiên sinh hơi nghiêm lại, ánh mắt sáng rực lên, không nói lời nào trịnh trọng chắp tay hành lễ.

Sau đó nghe thấy đại phu và thái y bên kia đang tranh luận về một toa thuốc, tinh thần lão tiên sinh trở nên phấn chấn hơn, lớn tiếng phát biểu ý kiến của mình.

Triệu Bạch Ngư đứng ở cửa lều vén rèm lên, ánh sáng bên trong hắt ra ngoài, người người vội vàng qua lại, ánh lửa của bếp sắc thuốc cùng với mùi thuốc ngập tràn, tranh đấu cùng với hoàng quyền tối cao, những kẻ đó tự mình chui vào chiến trường nơi có đầy rẫy âm mưu quỷ kế, cũng vì ngồi tít trên cao nên khinh thường trăm họ dưới chân là lẽ đương nhiên, nhưng khi sống chết sờ sờ trước mắt thì đám người cao quý ấy hành xử còn chẳng bằng đám con ong cái kiến trong mắt bọn chúng nữa.

Triệu Bạch Ngư nhắm mắt định thần, bước nhanh về lều vải dựng tạm của mình, đề bút viết thư: "Bổn quan có lệnh, lệnh cho Đề điểm Hình ngục sứ Hoài Nam - Tống Linh điều động hai nhóm doanh binh quân Hoài, quân Nam đến Giang Dương, yêu cầu Đề cử Thường bình sứ Hoài Nam kiêm Tri phủ Dương Châu - Tiêu Vấn Sách lập tức cử người, cấp tiền và phân phát dược liệu tiếp viện cho dịch bệnh ở huyện Giang Dương, cho người bắt Huyện lệnh Giang Dương Lữ Lương Sĩ lại, đợi bổn quan hỏi chuyện! Tai tình khẩn cấp, không được làm lỡ!"

***

Nhận được chiết tử có con dấu quan trên nắp, Ngụy bá lập tức cầm thượng phương bảo kiếm đến gặp Đề điểm Hình ngục sứ Hoài Nam – Tống Linh. Tống Linh nhận chiết tử, không nói hai lời lập tức điều động doanh binh quân Hoài, quân Nam.

Đô tổng quản hai khu thì nghiêm túc chất vấn: "Đề điểm Hình ngục sứ không có quyền điều động doanh binh, trừ phi có thủ dụ* của An phủ sứ Soái ty!"

(*) Thủ dụ: Chỉ thị viết tay

Tống Linh lập tức đưa chiết tử ra, cũng để cho bọn họ nhìn thượng phương bảo kiếm trên tay Ngụy bá: "Phủ dụ sứ thay thế Thiên tử tuần thú, phụng mệnh tùy cơ ứng biến, theo luật có thể vượt quyền điều phái khu doanh binh ở địa phương tỉnh của chư vị!"

Lúc này các Đô tổng quản mới lui về phía sau, mỗi người dẫn dắt một tuyến doanh binh theo Tống Linh tiến về phía phủ Dương Châu vận chuyển dược liệu và người, hai ngày sau đã đến huyện Giang Dương, bắt giữ Huyện lệnh huyện Giang Dương Lữ Lương Sĩ.

***

Bấy giờ, tại khu dịch bệnh.

Ba vị thái y và mười mấy vị đại phu không ngủ nghỉ nhiều ngày, nghiên cứu xem làm sao để ngăn chặn dịch bệnh, đến nay vẫn chưa có manh mối gì, dường như bởi vì hưởng ứng nạn lụt lớn nhất từ khi khai quốc, nên là dịch bệnh này đến cũng khó mà vượt qua nhất, thậm chí đã có hai đại phu bị lây bệnh, không thể không cách li.

Đôi khi Triệu Bạch Ngư sẽ vào xem tình hình một chút, phần lớn thời gian y phụ trách chỉ huy trấn giữ khu dịch, bởi vì người đứng đầu lúc trước đã chạy biến, chỉ còn lại mấy tên lính quèn chạy loạn như mấy con ruồi mất đầu vì đường ra thì vẫn luôn bị doanh binh chặn lại.

Triệu Bạch Ngư bất đắc dĩ phải tạm thời làm chỉ huy, đơn giản là vì y quen với việc đứng trước mọi người, cũng nhờ phong thái điềm tĩnh đã tôi luyện từ bao năm qua, Triệu Bạch Ngư đã thuyết phục được những người đang dần trở nên hoảng loạn.

Khi y lần nữa quay vào lều tạm, vừa vặn nghe được lão thái y có kinh nghiệm lâu năm nhất cảm thán: "Nếu như có thần y Từ Minh Bích ở đây thì đơn giản hơn nhiều rồi."

==

Chương 30

Min: Hai tuần sắp tới mình phải thi rồi nên mình giãn ngày ra truyện một xíu nhaa, khi mình thi xong thì tiến độ sẽ như cũ lại ạ, vậy nên là hôm nay mình up 2 chương luôn đây ^^ chúc mọi người đọc truyện vui vẻ!!!

==

"Từ Minh Bích là người phương nào?" Triệu Bạch Ngư hỏi.

"Là thần y Giang Nam, xuất thân từ gia đình mấy đời thái y, Từ lão thái gia từng là Viện trưởng Thái y viện, ở triều đại trước do có liên quan đến một chuyện bí mật trong cung mà bị lưu đày biên cương, ông ấy thấy cung môn tựa biển, quan trường tối tăm, phẫn nộ lắm nên đã thề sẽ không vào cung cũng như quan trường nữa, con cháu đời sau chỉ còn có mỗi mình Quỷ thủ Từ Minh Bích thôi. Mấy năm trước, Từ Minh Bích bị một quan lớn ở Giang Nam vu oan giá họa hắn tư thông với tiểu thiếp hậu trạch, suýt nữa là bị chém đầu nhưng được người khác cứu, rồi hắn cũng thề độc rằng sẽ không bao giờ xem bệnh cho quan lại quyền quý nữa, có cho nhiều tiền bạc cũng không xem mà chỉ lang bạt khắp nhân gian, vậy nên gặp phải những nơi có dịch bệnh nguy hiểm, nếu đại phu địa phương bó tay, thì hắn chính là người chủ động ra tay giúp đỡ."

Đại phu vuốt râu, nói bằng giọng kính nể: "Nghe nói hắn bốc thuốc rất khác lạ, gan dạ không đi đường thường, mặc dù vẫn tuân theo quy tắc, cũng mang lại hiệu quả rõ ràng, có điều..."

Triệu Bạch Ngư: "Có điều gì?"

Lão đại phu: "Tính tình người này rất kì quặc, hắn luôn khịt mũi xem thường cách đại phu chăm sóc người bị thương." Rồi ông lắc đầu một cái: "Không có lòng trị bệnh cứu người thì sao có thể gọi một tiếng đại phu? Tuy lão không ưa cách làm việc của hắn, nhưng cũng không khỏi bội phục. Với y thuật của Từ Minh Bích, nếu như hắn ở đây, nói không chừng có thể giải quyết được vấn đề đang làm chúng ta đau đầu."

Triệu Bạch Ngư: "Có lẽ chúng ta nên đi tìm thôi, vị Từ thần y này đang ở đâu?"

Lão đại phu lắc đầu: "Lần cuối cùng hắn được nhìn thấy là ba năm về trước, có người gặp hắn ở phủ Kinh Đô. Tuy nhiên sau đó không gặp lại được, nghe bảo hắn không hành nghề chữa bệnh ở dân gian nữa, hình như là vì bị cái gì đả kích, nản chí ngã lòng nên lánh đời không muốn gặp ai."

Triệu Bạch Ngư lầm bầm: "Nếu như hắn thật sự có thể giải quyết được dịch bệnh này, dù cho có phải đến cùng trời cuối đất cũng phải tìm ra bằng được."

Không chỉ mỗi lão đại phu sùng bái Từ Minh Bích, mấy vị thái y y thuật cao siêu lại có kinh nghiệm phong phú cũng hết sức tán thành, Triệu Bạch Ngư ngay lập tức truyền tin về cho Thôi phó quan.

***

Ngụy bá: "Từ Minh Bích? Có từng nghe đến, thông thạo y thuật nhưng tính nết kì quái, không phải là bệnh nan y thì không muốn ra tay, không xem bệnh cho quan lại quyền quý, cũng không cứu sống người bị thương, chỉ xem bệnh dựa theo tâm trạng tốt xấu, cũng không ai đoán được ý nghĩ của hắn, không biết làm cách nào mới có thể mời hắn xuống núi. Ba năm trước đã từng xuất hiện, sau đó hành tung bí ẩn nhưng có vẻ như đã về vùng sông nước Giang Nam quy ẩn thì phải? Ta tìm người bạn giang hồ hỗ trợ tìm tung tích của hắn —— Thôi phó quan?"

Thôi phó quan ngẩn người, đột nhiên bật cười, vỗ tay nói: "Ha ha ha —— suýt chút nữa là ta quên mất, còn có Từ Minh Bích kia mà!"

Ngụy bá: "Ngài biết hành tung của Từ Minh Bích sao?"

"Ta không chỉ biết mà còn quen hắn nữa!" Phó quan đỏ mặt đáp: "Mấy năm trước Từ Minh Bích bị một quan Giang Nam đổ oan hắn tư thông với phu nhân của mình, suýt nữa là bị chém đầu, chúng ta đem quân đến cứu hắn, giúp hắn rửa sạch nỗi oan. Vì vậy dù đã thề độc rằng sẽ không xem bệnh cho quý nhân, hắn vẫn phá lệ chữa trị cổ độc cho tướng quân, vị thuốc huyết phách ngàn năm kia cũng là do hắn nói."

Ngụy bá mừng rỡ ra mặt: "Tốt quá, vậy ngài viết bức thư đi, hoặc là cầu tiểu quận vương để lại con dấu gì đó, để ta ra roi thúc ngựa chạy đến Giang Nam mời hắn xuống núi!"

Phó quan vén tay áo lên vừa định cầm bút, đột nhiên thôi cười, sắc mặt ỉu xìu: "Không được đâu."

Ngụy bá: "Sao vậy?"

Thôi phó quan: "Ba năm trước Từ Minh Bích bị thương nản lòng, quay về Giang Nam lánh đời không gặp ai, nếu không phải nợ tướng quân một mạng, e là đến y lý hắn cũng không muốn đụng vào nữa."

Ngụy bá: "Mạng người quan trọng, tính mạng của hơn mười ngàn người dân, chẳng lẽ hắn cũng không quan tâm sao?"

Thôi phó quan nhíu mày: "Tính tình Từ Minh Bích thất thường, trái lại không đến nỗi máu lạnh vô tình đến vậy, chỉ là bệnh tương tư khó chữa, thầy thuốc không thể tự chữa, hắn phạm phải cả hai! Hơn mười ngàn dân bị nạn cũng có thể lay động khiến hắn xuống núi, ta chỉ sợ hắn mắc bệnh tương tư nặng, lòng lẫn trí đều không tỉnh táo, không thể nghĩ ra cách cứu người!"

Gã nóng lòng đến độ đi tới đi lui: "Từ Minh Bích ơi Từ Minh Bích, rộng lượng phóng khoáng nửa đời lại nhảy vào một chữ tình không thoát ra được! Những năm qua chúng ta tìm kiếm tung tích của huyết phách ngàn năm, vồ trượt nhiều lần, mà cổ độc của tướng quân càng lúc càng nghiêm trọng, chỉ đành phải mời Từ Minh Bích nghĩ một toa thuốc hiếm lạ nào đó để trừ độc, hắn nhốt mình trong phòng ba ngày ba đêm, vậy mà chẳng nghĩ ra được cách gì, còn nói là bệnh tương tư đã lấy đi thiên phú của hắn rồi —— mấy tên độc thân thô kệch bọn ta không thông không tài nào hiểu nổi, cũng hoàn toàn không nghĩ ra được vì sao, nhưng mà bọn ta không có cách nào ép buộc hắn cắt đứt đoạn tình, thiên phú y thuật cũng không phải là thứ có thể ra lệnh quay về là quay về được."

"Ôi, từ xưa tình cảm đã khiến cho người ta vô cùng phiền muộn rồi,"

Thôi phó quan độc thân hai mươi mấy năm chân thành phát biểu một câu cảm thán.

Ngụy bá: "Cô gái mà Từ Minh Bích đem lòng thương là ai? Có thể tìm nàng ta không?"

"Nếu mà ta biết được ta sẽ đến quỳ lạy nàng ta ngay luôn." Thôi phó quan đột nhiên nhớ ra gì đó, nói: "Có điều hình như tướng quân có biết cô gái mà Từ Minh Bích lưu luyến không quên là ai, hình như có liên quan đến một bài thơ."

"Bài thơ gì?"

"Để ta nhớ một chút... Kinh sư giam cầm ngọc quý, thiên hạ ngập tràn lưu ly. Hoa cỏ tựa thơm đài ngọc, tâm nguyện như ý như như.*"

(*) Nguyên văn Hán – Việt: "Kinh sư cấm châu thúy, thiên hạ tận lưu ly. Nùng phương y thúy ngạc, như ý ý như như." (京师禁珠翠, 天下尽琉璃. 秾芳依翠萼, 如意意如如). Vì tác giả cũng có giải thích nên phần chú thích này mình để ở cuối cùng. Và với trình độ thơ ca = 0, mình xin được phép chém gió, nếu có gì sai sót thì cmt giúp mình nhé!

Đây rõ ràng là một bài thơ chấp nối, hai câu trước ý chỉ tiền triều từ những ngày Đại Cảnh khai quốc đã cấm cản làn gió lãng phỉ vào những món trang sức hoa ngọc xa hoa, vậy nên thời đó người ta thường cài trâm lưu ly, trâm lưu ly vốn rất đắt đỏ, chỉ vì sản xuất số lượng lớn mà phải hạ giá thành một sản phẩm rẻ tiền, trở thành món hàng mà người bình thường cũng có thể mua dùng được.

Tuy giá lưu ly rẻ nhưng thợ làm vừa tinh xảo vừa độc đáo vô cùng, vậy nên nó thịnh hành ở khắp mọi nơi.

Câu thứ ba được là một câu đầu của bài thơ khác, vốn là để miêu tả phong cảnh đẹp hiếm thấy, để ở đây chính là muốn nói trâm lưu ly đẹp đẽ đến nhường nào. Còn câu cuối cùng cũng được trích ra từ một bài thơ nào đó nhưng đã bị sửa lại hai chữ đầu, câu thơ không hề gieo vần hay có vế đối rất dễ khiến người ta không thể hiểu ngay được.

Ngụy bá mông lung: "Câu cuối có ý nghĩa gì?"

Thôi phó quan gãi ót nói: "Ta không hiểu, tướng quân từng nói, thơ này tình thật nhưng không lưu loát. Ngươi chờ một chút, ta tìm một kẻ có học đến hỏi thử."

Đẩy cửa ra, Thôi phó quan gọi Tiêu Vấn Sách vẫn luôn chờ bên ngoài vào, đọc lại đoạn thơ một lần nữa rồi hỏi lão câu cuối cùng phải lý giải thế nào.

Dẫu sao Tiêu Vấn Sách cũng là môn sinh của Thiên tử, học thức tuy không thể xứng với đại nho, nhưng nếu chỉ là giải thích thơ văn thôi thì không thành vấn đề.

Nghe xong thơ mà Khâm sai đọc, suy nghĩ chân thật trong nội tâm lão chính là diễn đạt không lưu loát, đúng là sỉ nhục Thánh nhân, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì thơ này phát ra từ miệng Phủ dụ sứ, lão liền nhanh chóng ngẩng mặt, hồ hởi dáp: "Hai câu đầu miêu tả thú chơi trang sức lưu ly đang thịnh hành ngày nay, câu thứ ba thì nói về vẻ đẹp tinh xảo, trong sáng chỉ lưu ly mới có, nhưng ngay sau đó đề tài xoay chuyển đột ngột, ca ngợi trâm Như Ý mới là tuyệt đẹp nhất trong tất thảy, loại này vừa tao nhã xinh đẹp vừa óng ánh đáng yêu. Lại dùng "như như" là lời kệ* của Phật gia, mang ý vĩnh viễn, có thể thấy là vô cùng yêu thích Như Ý. Đây chính là mượn vật để gửi gắm tình cảm."

(*) Kệ (偈): Các bài thơ của Phật gọi là kệ.

Tiêu Vấn Sách bày ra vẻ mặt suy tư: "Trâm lưu ly Như Ý là đồ vật phụ nữ thường cài, có thể là mượn lưu ly để ẩn dụ việc yêu thích, tưởng nhớ đến một cô gái. Cô gái mà tác giả tư mộ có lẽ vô cùng thích trâm lưu ly Như Ý, có lẽ bởi vì nàng ấy cũng xinh đẹp thanh tao như lưu ly, thế nên trong lòng hắn, nàng vĩnh viễn chiến thắng bất kì một cô nương 'hoa cỏ tựa thơm đài ngọc' nào trên đời này."

Lão che giấu lương tâm, khen ngợi: "Tình cảm sâu đậm, có thể nói đây là một tấm chân tình cảm động đến rơi lệ."

Phó quan và Ngụy bá nhìn nhau, cô gái thích cài trâm lưu ly ư?

Ở phủ Kinh Đô có rất nhiều mà!

Thôi phó quan nhỏ giọng nói với Ngụy bá: "Được rồi, cứ để tướng quân giải quyết đi, chúng ta tội gì phải vò đầu bứt tai ở đây để đoán xem người trong lòng của Từ Minh Bích là ai?"

Ngụy bá: "Chỉ mong cô nương mà Từ Minh Bích luôn thầm thương nhớ vẫn chưa bị gả đi làm vợ người khác, nếu không có biết người ta là ai cũng vô ích thôi."

Lòng Thôi phó quan chùng xuống, cảm giác thật khó mà tả nổi.

Có thể khiến cho Từ Minh Bích cao ngạo trở nên rối ruột rối gan, tổn thương vì tình thì nhất định không phải là một cô gái bình thường. Dù cho thân phận cao quý, chỉ cần chưa lập gia đình là đã có thể cầu xin nàng ta ra mặt nói giúp rồi, vì cứu người nên chắc chắn thanh danh của nàng sẽ không bị tổn hại, người ngoài sẽ chỉ khen ngợi nàng cao nghĩa thôi. Nhưng nếu như đã là người phụ nữ của người khác rồi, thì dù là cứu người đi chăng nữa cũng khó mà tránh khỏi những lời đồn đãi về tư tình của hai người, vô cùng bất tiện cho cuộc sống của cô gái ở nhà chồng.

Từ Minh Bích không theo đuổi được người trong lòng, liệu có yêu luôn vợ người khác hay không?

Vậy thì cũng cầm thú quá rồi!

Thôi phó quan đang suy nghĩ miên man, đột nhiên nghe thấy Tiêu vấn Sách tiếp tục phân tích: "... Nếu như là dùng thơ gửi tình, thì rất có thể sẽ giấu tên trong thơ, một lời hai nghĩa. Hạ quan cho rằng, có khả năng nhất là hai chữ "như ý" hoặc "ý như."

"Ông nói gì?"

Thôi phó quan đột nhiên hoảng hốt hỏi, Tiêu Vấn Sách nớm nớp lo sợ mình đã nói sai lời nào rồi: "Hạ, hạ quan nói tên có khả năng bị giấu trong thơ, dĩ nhiên hạ quan tài hèn học ít nên chỉ kiến giải vụng về, cũng có thể nói sai, nói không chừng đây là mượn tình yêu nam nữ để ẩn dụ... Ẩn dụ những tình cảm không được như ý khác, còn phải kết hợp với cuộc đời của người sáng tác thì mới xác nhận được. Cả gan hỏi đại nhân, tác giả của bài thơ này là ai?"

Thôi phó quan nhìn chằm chằm Tiêu Vấn Sách, thấy lão cứ thấp tha thấp thỏm, bỗng dưng bật cười, vẻ mặt sáng bừng thấu hiểu, rồi lại chợt ngạc nhiên, vô cùng mừng rỡ nhưng cũng cảm thấy kì diệu.

Tiêu Vấn Sách: "Đại nhân?"

"Không phải chuyện của ngươi, lui ra đi."

Tiêu Vấn Sách lui đi, lòng tràn ngập hoài nghi.

Trong phòng, Thôi phó quan vỗ tay cười to: "Như Ý? Ý Như... Ba năm trước... Ta nhớ ra được rồi, ba năm trước Từ Minh Bích đến phủ Kinh Đô chữa bệnh cho tướng quân, tình cờ đến đường Kim Hoàn xem bệnh cho các nữ tử ở đó, không bao lâu sau đã bệnh tương tư, sau đó hồn bay phách lạc rời khỏi Kinh Đô, khi đó cũng là lúc thanh danh hoa khôi của Lý nương tử vừa mới phất lên!"

Ngụy bá kinh ngạc: "Ngươi bảo cô nương mà Từ Minh Bích nhớ nhung là Lý cô nương?"

"Không thể sai!" Thôi phó quan nói cực nhanh: "Ta cứ cảm thấy lạ, tướng quân cần gì phải tự mình đến Hoa Trà phường điều tra Trịnh Hữu, còn có lòng muốn chuộc người ta, thậm chí ngài ấy bảo ta nếu như tiểu Triệu đại nhân dám vui chơi hưởng lạc thì cứ đến cướp các cô nương về. Ngày đó ta còn nghi ngờ tướng quân bị cái gì nhập rồi, hôm nay xem ra tất cả mọi chuyện đều có nguyên do, tình hữu khả nguyên*!

(*) Tình hữu khả nguyên: Vì tình mà có thể tha thứ được.

"Hay! May mắn! Sinh mạng của dân bị nạn không phải kết thúc rồi! Có Lý nương tử ra mặt, dù cho Quỷ thủ Từ Minh Bích có bệnh liệt giường thì cũng phải bò đến khu bệnh dịch huyện Giang Dương thôi!"

Ngụy bá ngẩn ngơ, ông vẫn không dám tin, thật sự là trùng hợp quá mức.

"Lý nương tử có thể khiến cho y thuật biến mất của Từ Minh Bích trở lại chỉ trong một câu nói sao?"

"Ngươi không hiểu. mấy người trai gái này một khi đã dính vào tình yêu thì giống như phát điên vậy, không thể dùng lẽ thường để suy đoán về họ đâu. Ta thấy đây quả thật rất may mắn, cứ giống như nội dung trong thoại bản vậy, tiểu Triệu đại nhân đúng là ——" Nụ cười trên mặt Thôi phó quan dần biến mất, thay vào đó là cạn lời sụp đổ.

Kỳ lạ!

Ngạc nhiên vui mừng khiến cho đầu óc trở nên choáng váng, cũng làm cho gã quên phải để ý đến sự trùng hợp luôn bắt nguồn từ Triệu Bạch Ngư.

Nếu là người ngoài cuộc, Thôi phó quan sẽ nói chuyện may mắn tốt đẹp này là do trời xui đất khiến, nhưng đây lại là chuyện xảy ra trên người Triệu Bạch Ngư, gã lại không hiểu vì sao cảm thấy kỳ cục.

Ít nhất tướng quân còn biết Lý nương tử là người trong lòng Từ Minh Bích, nhưng Triệu Bạch Ngư thì không, y cũng không ngờ là dịch bệnh sẽ xuất hiện ngay lúc này nữa.

Tất cả mọi sự việc đều vừa khéo như vậy, vận may này đúng là quá kỳ lạ.

Ngụy bá không hiểu nổi sự rối bởi của Thôi phó quan, chỉ nói: "Nếu quả thật như chúng ta đoán, vậy thì cũng đủ để chứng minh người tốt sẽ nhận được đền đáp xứng đáng. Ngũ lang làm nhiều việc tốt nên được trời thương, mới có thể khéo gặp may như vậy."

Nghe lời Ngụy bá nói, Thôi phó quan bỗng nhiên hiểu rõ, nỗi khó chịu và tan vỡ trong lòng như sương mù thoáng chốc tản đi.

Gieo nhân nào gặt quả nấy, chính là như thế.

***

Hải Đông Thanh xé rách màn đêm xuyên qua tầng tầng lớp lớp mây mù, rồi sau đó nó đâm vút xuống dưới vách núi như mũi tên nhọn rời khỏi dây cung, hàng chục con chiến mã khoác trên mình giáp nặng phi như bay qua con hẻm nhỏ trong khe núi, từng nơi đi qua đều để lại âm vang khiến đất đá run rẩy.

Kỵ binh dẫn đầu đột nhiên siết chặt dây cương, chiến mã hí lên, giơ cao vó trước rồi rơi xuống đất, kỵ binh đầu đội giáp đen, chỉ để lộ ra đôi mắt dường như cũng bị bóng đêm che giấu, hắn lập tức nâng cánh tay lên, chim dữ trên không trung kêu lên một tiếng vỗ cánh đáp xuống, móng vuốt sắc như dao thậm chí không thể hằn lại bất kỳ dấu vết nào trên áo giáp đen tuyền nặng trịch.

Đoàn kỵ binh phía sau dường như đồng thời kéo dây cương dừng lại, yên tĩnh chờ lệnh.

Xem xong bức thư Hải Đông Thanh mang đến, Hoắc Kinh Đường hừ lạnh một tiếng, chẳng nói chẳng rằng, chỉ giơ cánh tay ra hiệu cho bọn họ tiếp tục đi tới, rồi sau đó quay đầu ngựa lại rẽ vào đường nhỏ nhanh chóng trở về phủ Kinh Đô.

Ở dịch trạm phủ Kinh Đô, hắn thay giáp nặng trên người rồi vào kinh ngay trong đêm, cột bức thư vào một viên đá rồi ném thủng cửa sổ phòng Lý Ý Như.

Lý Ý Như mở cửa sổ kiểm tra trước tiên, không thấy có kẻ xấu mới mở thư ra, xem thư xong nàng chạy ra ngoài tìm Tú ma ma ngay tức khắc rồi nói rõ ngọn nguồn mọi chuyện.

Tú ma ma cả kinh: "Đây là đại công đức cứu ngàn người, nương tử ắt phải tương trợ."

"Nếu như ta không muốn giúp đỡ là đã không đến đây tìm bà rồi." Lý Ý Như chắp tay vái chào Tú ma ma, giọng ôn tồn nhỏ nhẹ nói: "Ngày ta còn nhỏ cũng ở trong gia đình quan lại, bởi vì phạm tội nên bị tịch thu hết nhà cửa, nữ quyến buộc phải trở thành quan kỹ, vốn ở Giang Nam bán tiếng cười để mà sống, đại xá gặp được ân khách giúp chuộc thân, chàng ấy và ta cũng xem như có ân tình, đối xử trọng hậu có thừa. Rồi chàng nhận một chức quan nhỏ, ra vào Kinh báo cáo công việc đều đưa ta theo cùng, ai ngờ trong nhà xảy ra biến cố, cấp hỏa công tâm* nên trở bệnh, đến chức quan cũng bị đoạt đi, nhanh chóng dùng hết số ngân lượng sẵn có. Ta muốn cứu chàng thì chỉ còn cách bán mình vào lầu xanh lần nữa, đưa số tiền đó để tiễn chàng ấy một đoạn đường cuối."

(*) Cấp hỏa công tâm - 急火攻心: Chỉ việc một người gặp phải những chuyện không hay liên quan đến tình cảm dẫn đến tinh thần bị dồn nén, lâu ngày hình thành tâm bệnh, tinh thần không thoải mái chắc chắn sức khỏe sẽ xuống dốc, cơ thể cũng sẽ trở nên ốm yếu bệnh tật, lúc nào cũng hậm hực trong lòng.

Tú ma ma không ngừng xúc động, nắm chặt lấy tay Lý Ý Như, thỉnh thoảng vuốt ve, dùng hành động để sưởi ấm cho cô gái sổ khổ này.

Lý Ý Như cười nhẹ: "Ba năm trước vô tình gặp được Từ Minh Bích, ta phát hiện lúc còn bé hắn và ta có hôn ước với nhau. Hắn lớn hơn ta mười tuổi, khi gia đình hắn gặp chuyện, nhà ta lại không giúp đỡ được gì nhưng cũng không hủy hôn. Sau đó đến nhà ta lâm vào cảnh khó, hắn không hay biết, mà cho dù có biết thì một dân thường như hắn có thể giúp được gì? Tóm lại là có duyên không phận."

"Tuy bọn ta có hôn ước, nhưng hai mươi mấy năm không gặp mặt. Bên người hắn có hồng tụ thiêm hương, ta cũng đã đi qua nhiều cánh buồm rồi."

(*) Hồng tụ thiêm hương - 红袖添香: Chỉ thư sinh đọc sách ngày xưa có mỹ nữ ở bên cạnh.

"Đừng tự xem thường bản thân mình, nhân gian thế đạo này mắc nợ cô, không phải là lỗi của cô."

Lý Ý Như lắc đầu một cái: "Ta chưa bao giờ khinh thường mình, cũng không cảm thấy ta thấp kém hơn người khác một bậc. Từ Minh Bích muốn chuộc thân cho ta, muốn lấy ta làm vợ, nhưng ta từ chối."

"Vì sao?"

Tú ma ma cảm thấy khó hiểu, Từ Minh Bích mang kiệu tám người khiêng đến thực hiện hôn ước đúng là chân thành, trong bức thư gửi từ Dương Châu tới cũng có thể nhìn ra, Từ Minh Bích đối với Lý Ý Như tình sâu ý nặng, vì sao lại từ chối? Chẳng lẽ gả cho một người có tình còn khó khăn hơn là sống hết đời ở lầu xanh kia hay sao?

"Vì trả ân."

"Cái gì?"

"Người có ân tình với ta là con trai trưởng của gia đình giàu có nhất Giang Nam – Hoàng Hữu Thiện. Hoàng lão gia và cha ta từng có giao tình, không hề coi rẻ thân phận quan kỹ của ta, ngược lại trong một khoảng thời gian dài còn đi đi lại lại, thành công giúp ta thoát khỏi tiện tịch. Tuy chỉ là sắp xếp cho ta ra ngoài ở, bí mật chuộc thân cho ta không cho bất kỳ ai biết, nhưng đối với ta mà nói đây vẫn là việc thiện lớn lao."

Tú ma ma nghĩ ngợi: "Ta có ấn tượng, thảm án diệt môn gia đình giàu có nhất Giang Nam mấy năm trước, nỗi khiếp sợ tràn khắp nam bắc đại giang, đến nay còn chưa tìm được hung thủ nên án bị liệt vào án treo. Chẳng lẽ là...?"

"Chính là nó." Lý Ý Như nói: "Ta từ chối Từ Minh Bích ngoại trừ không muốn giao phần đời còn lại cho một người đàn ông thì còn có một nguyên nhân khác nữa, đó là vì lúc ấy có người theo dõi ta. Ta không biết bọn họ là ai, nhưng thông qua một vài đường dây thì biết được Hoàng gia còn có một bé gái mồ côi lưu lạc bên ngoài, ta lo rằng Hoàng thị đến tìm ta, càng sợ hãi đám người đó thông qua ta để bắt Hoàng thị, nhổ cỏ tận gốc, vậy nên không dám tùy tiện rời đi. Cho đến gần một năm nay, đám người đó mới không xuất hiện nữa, vô tình tai nạn chết người kia lại xảy ra, may nhờ tiểu Triệu đại nhân cứu giúp chúng ta mới có thể thoát khỏi bể khổ này."

"Là duyên phận cả." Tú ma ma vui vẻ nói: "Cô nương dịu dàng hào hiệp, là người mà đời này ma ma kính nể nhất."

"Ma ma quá khen, tri ân báo đáp là nhân chi thường tình." Lý Ý Như nhẹ nhõm vạch trần mình, rồi quay trở lại chuyện dịch bệnh ở Giang Dương: "Ta tới đây là vì muốn lấy lại trâm lưu ly Như Ý lúc trước đã tặng cho tiểu Triệu đại nhân, đó là tín vật đính hôn của ta và Từ Minh Bích. Ta gửi một phong thư kèm theo trâm Như Ý, thỉnh cầu Từ Minh Bích xuống núi giải trừ nỗi khổ bệnh dịch."

Tú ma ma đứng dậy ngay lập tức: "Bây giờ ta đi lấy ngay đây!"

Trên mái hiên, Hoắc Kinh Đường mặc trường bào đứng chắp tay sau lưng, híp mắt nhìn hai người phụ nữ hấp tấp trong sân. Người tập võ tai mắt cũng hơn người thường, đoạn đối thoại giữa Tú ma ma và Lý Ý Như vừa rồi hắn đều nghe được hết, không khỏi có điều suy nghĩ.

Đã như vậy, ngược lại có thể giải thích được vì sao huyết phách ngàn năm vô giá kia lại nằm trong tay Lý Ý Như rồi.

Năm đó, hắn tra ra được huyết phách nằm trong kho phủ nhà giàu nhất Giang Nam, Khang vương phủ cùng Lâm An quận vương phủ bắt tay nhau phái người đi tìm, vậy mà lại đến chậm một bước, cả nhà kia đều đã bị giết, cũng không rõ tung tích huyết phách ngàn năm, thủ đoạn xử lý cả nhà họ Hoàng vô cùng sạch sẽ gọn gàng, không giống như phường trộm cướp bình thường, về sau đầu mối cũng hoàn toàn đứt đoạn.

Mong muốn chưa thành, chúng bắt đầu để ý đến Lý Ý Như, người đang ở lầu xanh phủ Kinh Đô xa xôi, theo dõi nàng hai năm chỉ để chờ nữ cô nhi Hoàng thị tự sa mình vào luới.

Đến cả đứa trẻ mồ côi chúng cũng không bỏ qua, trừ phi hận thù sâu như biển, hoặc là vì lợi ích kinh người, bằng không sẽ không kiên trì như vậy.

Năm đó tiền của trong kho phủ Hoàng thị đều bị lấy đi hết, còn lại phần sản nghiệp đáng tiền thị bị quan phủ lấy lại, lúc ấy cũng đã điều tra kỹ càng rằng không còn tài sản nào khác nữa, vậy nên không phải là tháo chạy vì lợi.

Hoàng thị làm ăn buôn bán, khó tránh khỏi phát sinh lục đục cùng người khác, chẳng qua là dù có hận cũng không đến nỗi phải diệt cả nhà người ta.

Không vì tiền, cũng chẳng vì thù, tại sao đã giết sạch rồi còn đuổi giết tận cùng không tha?

Lúc này Lý Ý Như bước ra, đặt hộp gỗ và bức thư lên chiếc bàn đá giữa sân nhà, hướng về phía hư không cúi người lạy một cái rồi rời đi.

Một lát sau, Hoắc Kinh Đường lấy hộp gỗ và thư quay về dịch trạm Kinh Đô, lúc quay trở ra đã mặc lại trọng giáp cưỡi ngựa, bốn vó tuấn mã đạp lên ánh trăng băng qua hẻm nhỏ hiểm trở, bỗng nhiên dây cương ghìm ngựa, một vật màu đen từ bầu trời đêm sà xuống.

Hoắc Kinh Đường cột hộp gỗ và thư vào chân Hải Đông Thanh, vung cánh tay thả nó đi, lúc dắt dây cương quay đầu ngựa, hắn bỗng nhiên khựng lại, ánh mắt nhìn về phía bụi cây hoa dại và đám dây leo mọc trên đất hoang.

Một hồi lâu sau, tiếng huýt sáo lanh lảnh phát ra từ trong miệng hắn, bỗng chốc lại có thêm bóng đen đáp xuống, đó là một con Hải Đông Thanh giống đực đẹp đẽ khác.

***

Hải Đông Thanh đến huyện Giang Dương nhanh hơn Từ Minh Bích, giao tín vật cho Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư đút thức ăn cho nó xong mới mở thư, bỗng dưng có một chùm hoa nhỏ màu vàng vẫn còn tươi non rơi ra, đài hoa bị dây leo mơn mởn quấn chặt lấy thân.

"?"

Có ý gì?

Triệu Bạch Ngư đọc nội dung thư, là nét chữ của Hoắc Kinh Đường.

Đoạn đầu chỉ đơn giản nhắn rằng Từ Minh Bích đang trên đường đi, đoạn sau ý trách móc Triệu Bạch Ngư không nên vào khu dịch bệnh một mình không quá rõ ràng, xử lý không thỏa đáng, ngược lại làm mình mệt mỏi, dẫu là vì dân thỉnh mệnh cũng không nên mạo hiểm bản thân, làm người ta lo lắng bất an.

Mở đến tờ thứ hai, y nhìn thấy một bài thơ: "Lang là đóa hoa leo, ta là dây mây trèo. Tim tận trời xanh ngắt, đường xa cùng đi theo*."

Cái, cái gì vậy! Sao đột nhiên lại bày vẽ thế này!

Triệu Bạch Ngư vỗ vỗ gò má nóng bừng, cố gắng làm cho sóng lòng dâng trào yên tĩnh trở lại nhưng khóe môi vẫn vô thức cong lên, nhìn những đóa hoa quấn quít vào nhau chẳng biết hái từ đâu, y không nhịn được đọc lên từng chữ bài thơ mà Hoắc Kinh Đường viết, bộp một tiếng, vất vả lắm mới có thể hạ nhiệt luồng hơi nóng sắp sửa xông lên má lần nữa.

Đại sự còn đó, sao Hoắc Kinh Đường lại có tâm trạng nghĩ đến chuyện yêu đương? Còn nữa, không dễ gì mới có thể thuần hóa Hải Đông Thanh vua của vạn ưng, vậy mà ai kia lại dùng nó chỉ để mang tặng một bức thư tình cùng với loài hoa vàng bé nhỏ không biết tên ư?

Phí của trời! Lão già không đứng đắn!

"Ngũ lang —— " Nghiên Băng vén rèm lên, ngẩng đầu phát là thấy tiểu lang quân tựa như gió mát trăng thanh của nó đang đứng cười ngây ngốc, y cứ nhìn mãi bức thư trong tay, rồi lại không ngừng lưu luyến vuốt ve nhúm hoa dại hái ven đường, nó không kìm lòng được hít một ngụm khí lạnh: "Yêu quái ở đâu ra dám đoạt xá lang quân nhà ta!"

Triệu Bạch Ngư nheo mắt nhìn Nghiên Băng: "Đừng nói bậy!"

Nghiên Băng không khỏi lo lắng: "Có phải ngài làm việc suốt ngày suốt đêm nên hồ đồ rồi không?"

Triệu Bạch Ngư bỏ thư và hoa vào phong thư, định tìm một chỗ phù hợp để cất vào, nhưng y nhận ra khu dịch bệnh không có nơi nào kính đáo, vậy nên cẩn thận giấu vào ngực áo.

Nghiên Băng thấy vậy, khó hiểu hỏi: "Chỉ là hoa dại hái ven đường thôi mà, đáng để ngài trân trọng như vậy ư?"

"Hoa leo từ đường xa tới, đáng thương đáng yêu, tình sâu ý nặng, sao có thể không trân trọng cho được?"

Nghiên Băng: "..." Nhưng mà nó là hoa dại không có giá trị đấy ạ, hóa ra Ngũ lang thích hoa cỏ dại sao?

"Tìm ta có chuyện gì?"

"Bên ngoài có một tốp doanh binh mới được điều tới, năm xe dược liệu và bốn năm thái y, còn có mười xe lương thực, đều là gạo tốt, cuối cùng thì dân bị nạn cũng có thể ăn no rồi."

"Coi như chúng vẫn còn kiêng dè Thiên uy." Triệu Bạch Ngư không ngạc nhiên chút nào.

"Hiện tại để lộ thân phận được chưa ạ?"

"Vẫn chưa đến lúc, đợi thêm chút nữa." Triệu Bạch Ngư xắn tay áo lên nói: "Chuẩn bị bút giấy mực đi, ta nhớ lại vài phương thuốc mà ta từng đọc trong sách cổ, mặc dù chỉ vụn vặt thôi nhưng ta sẽ viết ra thử để các đại phu suy nghĩ, mọi người đồng tâm góp lực, cố gắng mà làm."

Nghiên Băng lập tức nghe lệnh.

***

Lúc này, tâm tư của các phe cánh ở huyện Giang Dương đều không giống nhau, tạm thời không đề cập đến Lữ Lương Sĩ đã bị tháo mũ quan, Tri phủ Dương Châu Tiêu Vấn Sách cùng với Đề hình ti Hoài Nam Tống Linh đều đang ngồi ở đại sảnh nhà trọ, trước sau và ngoài kia đều là doanh binh, đêm dần tối nhưng đuốc vẫn cháy sáng tựa ban ngày.

Tiêu Vấn Sách thỉnh thoảng lau đi mồ hôi lạnh chảy đầy đầu, trong lòng phẫn nộ, sợ hãi đều có, có lúc lão thầm mắng Lữ Lương Sĩ ngu ngốc, trên đời này lão chưa từng thấy người nào ngu như vậy!

Đến dịch bệnh mà cũng có thể láo lếu cho được?!

Thái độ mập mờ, chiết tử tấu lên không chắc không thật, còn bảo mấy người canh giữ ở khu dịch bệnh giấu tiệt tình hình thật sự, không cho truyền ra ngoài, làm cho lão cũng tin rằng dịch bệnh không có gì nghiêm trọng, vậy nên cũng không thể đáp ứng yêu cầu kịp thời, liên lụy lão bây giờ ở trước mặt Phủ dụ sứ chẳng có đủ sức để nói chuyện nữa.

Ngay sau đó, Tiêu Vấn Sách bắt đầu hối hận, lẽ ra ban đầu lão không nên dính vào vụ án Đặng Vấn An, nếu như xử lý công bằng thì sao có thể dây vào cả Lữ Lương Sĩ kia?

Nếu không phải là vì án oan bị lật lại, lão đã sớm đẩy hết mọi tội lỗi lên đầu Lữ Lương Sĩ, còn mình sạch sẽ thoát thân rồi.

Tống đề hình và An soái sứ ngấm ngầm đấu đá, lão lại mù quáng dính vào làm cái gì chứ?

Tiêu Vấn Sách hối hận đã muộn.

Tống Linh ở bên kia thì vẫn ngồi thẳng người, ung dung không loạn, bất kể là án oan hay dịch bệnh cũng không thể trách tội hắn, có thể nói là cả người nhẹ nhõm, chắc hẳn Phủ dụ sứ vượt An Hoài Đức giao quyền điều khiển doanh binh cho hắn, âu cũng là có nguyên nhân.

Có điều hắn không ngờ, một Huyện lệnh nho nhỏ thôi mà lại dám giấu diếm dịch bệnh nghiêm trọng như thế, hắn chỉ mong có thể giải quyết chuyện này mau chóng, Hoài Nam không thể chịu nổi một trận đại hỗn loạn nào nữa.

Tuy nhiên hắn nghe nói Phủ dụ sứ đến huyện Giang Dương chỉ ở nhà trọ, tuy có mượn vài người từ Huyện nha nhưng chỉ điều tra vụ án của Đặng Vấn An, không hề đi đến khu dân bị nạn ở ngoài thành, sao lại có vẻ như biết rõ hết tình hình dịch bệnh như thế?

Hơn nữa Phủ dụ sứ trẻ tuổi kia nhìn không giống như quan văn, còn có hơi quen mắt, hình như là hắn đã gặp ở đâu rồi?

Tống Linh không nghi ngờ người bên trong không phải Phủ dụ sứ, chỉ nhớ trước kia hồi Kinh báo cáo công việc thì vô tình nhìn thấy, tin tức mà ân sư đưa tới cho hắn biết thân phận và những việc mà Phủ dụ sứ từng trải rất truyền kỳ, từ một người không được mấy ai yêu thích, một tiểu quan thất phẩm thôi mà nhảy một cú trở thành tâm phúc của bệ hạ, có thể thấy năng lực không hề tầm thường.

Trong phòng, Thôi phó quan vừa nhận được tin từ Giang Nam, mở ra xem xong liền thở phào một hơi nhẹ nhõm: "Từ Minh Bích xuống núi rồi, hai ngày nữa đến huyện Giang Dương!"

==

Tác giả muốn nói:

1) Kinh sư cấm châu thúy, thiên hạ tận lưu ly – Sử thời Tống.

2) Nùng phương y thúy ngạc – Nùng phương thi thiếp.

3) Như ý ý như như – đổi từ "Ngã phương ý như như", ý nghĩa của như như chính là chân như* vĩnh viễn, chân như là thật thể tồn tại mãi mãi, là thật thể của vạn vật trong vũ trụ. Đây là thuật ngữ Phật giáo.

(*) Giải thích thêm về chân như, thì đây là một khái niệm quan trọng của Đại thừa Phật giáo, chỉ thể tính tuyệt đối cuối cùng của vạn sự. Chân như chỉ thể tính ổn định, thường hằng, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Chân như nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân thuộc tâm.

4) Đường xa cùng đi theo – viễn đạo cộng truy tùy, nguyên văn là "viễn đạo tương truy tùy" - (Văn Thiên Tường).

==

Min: Mình có đọc lướt bản cv thì biết được cái này, là có vẻ như tuổi của anh già không đứng đắn họ Hoắc giấu tên khoảng tầm 26-28 tuổi, còn bé Cá ngây ther lần đầu tiên nhận thơ tình cũng là lần đầu tiên cười ngốk trong đời chỉ mới 1,9 tủi (thì chắc ai cũng biết rồi). Vị chi hai người sẽ cách nhau tầm 7-9 tuổi đó ạ, mình sẽ kiểm chứng lại sau, nếu như tìm được nguồn thông tin chính xác (〃ω〃)

Và nhân dịp tướng quân tỉnh tò vợ thì cho cả nhà ngắm một bức fanart xinh xinh của đôi chim koo, đây là hàng hiếm đó ạ vì lục tung cõi mạng chỉ tìm được nhiêu đây ☺️

(cre trong ảnh)

==

Chương 31

Từ Minh Bích lên đường, ngựa không ngừng vó, dùng thời gian ngắn nhất để đến huyện Giang Dương, nhanh chóng được đưa vào khu dịch bệnh.

Triệu Bạch Ngư thấy mặt mũi hắn sắc sảo, tuy phong trần nhưng ánh mắt trong trẻo, tuổi chừng ba tư ba lăm, giơ tay nhấc chân không câu nệ lễ giáo, hắn được gọi là 'Quỷ y' có lẽ cùng là nhờ điều này.

Từ Minh Bích đến nơi cũng chẳng nghỉ ngơi gì, trước tiên đến xem các triệu chứng mà đại phu tổng kết được, sau đó đi xem người bệnh, hỏi chết bao nhiêu người, mỗi ngày số bệnh nhân tăng nhiều hay ít vân vân, bận bịu đến lúc mặt trời lặn mới có thời gian rảnh dừng tay uống ngụm nước.

Triệu Bạch Ngư cũng bận quản lý chuyện khác, thỉnh thoáng mới ghé tới quan sát, phát hiện Từ Minh Bích luôn nhắc đến một vài quan điểm, hoặc dù là vấn đề gì đi nữa thì cũng có thể đánh trúng chính xác điểm yếu của dịch bệnh, y thuật quả thật rất cao siêu.

Bận rộn như thế hai ba ngày, một nhóm thái y và Từ Minh Bích đã trấn áp được, mặt dù số lượng bị lây nhiễm lẫn số người chết có giảm xuống, nhưng họ vẫn chưa nghiên cứu ra được toa thuốc nào có tác dụng ngặn chặn dịch bệnh lây lan.

Khu dịch không ngừng được mở rộng, số người bị nhiễm bệnh đã tăng lên đến bảy ngàn năm trăm người, là một con số cực kì đáng sợ.

Bầu không khí căng thẳng nóng ruột bao trùm lấy khu dân bị tạn, bóng tối tang thương vô vọng và cái chết bủa vây lòng người. Từ Minh Bích khẳng định mình chưa từng thấy căn bệnh này bao giờ, hầu hết các phương thuốc trị bệnh dịch trước đây đều không thể sử dụng, cần phải tổng kết một toa thuốc mới mới được.

Thời gian gấp rút, cho dù có tiếp nhận các ý kiến hữu ích thì vẫn không có hiệu quả gì lớn.

Tối hôm đó, Từ Minh Bích lật sách y thuật cổ và xem toa thuốc mà các đại phu đã vắt kiệt óc để suy nghĩ, bỗng nhiên ánh mắt sắc bén liếc thấy một tờ giấy viết "Thuốc sắc Liên Hoa Thanh Ôn", nó thu hút sự chú ý của Từ Minh Bích, vì hắn chưa từng nghe đến cũng chưa từng thấy qua.

"Ma hoàng, hạnh nhân, cam thảo, thạch cao sống..."

Đây là Ma Hạnh Thạch Cam thang có trong Thương Hàn Luận, chính là toa thuốc lọc phổi giải nhiệt thường sử dụng để kháng bệnh dịch.

Phía dưới còn có hai toa thuốc nữa, đều là toa không có ghi chép trong sách cổ, có vài loại cũng dùng để giải nhiệt, xuất mồ hôi trừ độc, có loại có thể cải thiện ho khan và đau cổ họng, trong đó còn có cả rễ hoa hồng với tác dụng lưu thông khí huyết, đả thông kinh mạch nhằm giảm hen suyễn.

"Đại hoàng, hoa kim ngân, ngân kiều, quán chúng, rễ bản lam..."

Đây đều là toa thuốc kháng bệnh, chỉ thấy từng cái tên được ghi dưới mỗi toa thuốc là "Đạt Nguyên Tán" và "Ngân Kiều Tán", trong sách y học cổ không có hai toa thuốc này, đây là người phương nào mà lại nghiên cứu chế tạo ra được?

Từ Minh Bích phát hiện bên dưới còn có một tờ giấy nữa, trông cứ như là một toa thuốc khác, nhưng dấu vết bôi xóa tương đối rõ ràng, còn có rất nhiều chấm mực, dường như bản thân người viết cũng không xác định rốt cuộc là phải dùng loại thuốc gì mới được.

Định thần nhìn lại, Từ Minh Bích chợt nhận ra toa thuốc này là sự kết hợp giữa Ma Hạnh Thạch Cam thang, Đạt Nguyên Tán và Ngân Kiều Tán, chẳng lẽ đây chính là Liên Hoa Thanh Ôn?

Cẩn thận nghiên cứu ba toa thuốc lẻ và một toa kết hợp, Từ Minh Bích càng lúc càng nóng lòng đến nỗi quên ăn quên ngủ, vừa tra sách y học vừa bôi bôi sửa sửa, thâu đêm suốt sáng mà vẫn còn tinh thần, phấn chấn gọi tất cả đại phu tới, công khai hỏi người viết ba toa thuốc kia là ai.

Một đám đại phu và thái y liên tục lắc đầu, lúc truyền đến tay một lão đại phu bản địa, ông lão nhìn kỹ một lúc bỗng nhiên nói: "Cái này giống như nét bút của tiểu Triệu vậy."

Từ Minh Bích: "Tiểu Triệu là ai?"

Thái y bên cạnh nói: "Triệu Đại Vi, chạy nạn từ Từ Châu đến đây, nhờ có y đứng ra quản lý mọi chuyện, khu dịch bệnh này mới không sụp đổ." Dừng một chút, ông lão lại chậm chạp cất tiếng: "Toa thuốc này là tiểu Triệu viết sao? Y là đại phu à? Sao trước giờ không nói, cũng chưa từng đưa mấy phương thuốc này ra?"

Từ Minh Bích: "Mau gọi y tới đây."

Thái y vội sai dược đồng đi mời Triệu Bạch Ngư đến.

Bên kia, Triệu Bạch Ngư làm xong công việc thường ngày quay trở về ngồi nhớ lại phương thuốc đắt giá kia, vậy mà y tìm mãi cũng không ra tờ giấy mà lúc trước mình đã viết sơ ra, hỏi Nghiên Băng mới biết nó tưởng nhầm nên đã đưa luôn toa thuốc sơ sài đó đến lều tạm của các thái y rồi.

Nghiên Băng bối rối: "Toa thuốc đó chưa hoàn chỉnh ạ?"

"Ta nhớ không hết." Triệu Bạch Ngư ấn huyệt thái dương nói: "Được rồi, đưa qua đó kêu đại phu xem thử một chút cũng được, ba Gia Cát Lượng tất hơn kẻ đánh giày* là ta, nói không chừng còn có thể hoàn thiện toa thuốc đó luôn đấy."

(*) Câu gốc là "Ba anh thợ da vượt xa Gia Cát Lượng", ý nói trí tuệ tập thể bao giờ cũng sáng suốt hơn cá nhân, dù cá nhân đó tài giỏi đến mấy. Ở đây TBN đảo lại, nói mình là thợ da, còn đại phu thái y là Gia Cát Lượng.

Ba toa thuốc lẻ đều đến từ "Thương Hàn Luận" thời Đông Hán, "Ôn Dịch Luận" thời Minh và 'Ôn Dịch Điều Biện' từ thời Thanh, đều là các phương thức kháng dịch, 'Liên Hoa Thanh Ôn' được chế ra bằng cách tổng hợp ba phương thuốc của ba triều đại với hơi hai ngàn năm lịch sử, hiệu quả trị bệnh vô cùng rõ rệt.

Nhưng đã quá lâu rồi, Triệu Bạch Ngư thật sự không nhớ liều lượng cụ thể, mấy ngày gần đây vẫn luôn nhớ lại, vậy nên những gì viết ra đều rất vụn vặt.

Lúc này dược đồng đã đến mời Triệu Bạch Ngư, chắc là tới đây vì phương thuốc vàng kia rồi.

Triệu Bạch Ngư vừa bước vào, lập tức thu hút sự chú ý của mọi người.

Từ Minh Bích đi đến bên cạnh y, quan sát y một phen rồi nói chắc như đinh đóng cột: "Ngươi không phải đại phu."

Triệu Bạch Ngư: "Sao ngươi biết?"

Từ Minh Bích: "Trên người ngươi không có mùi dược liệu."

Đây là cách phân biệt đơn giản nhất, còn có một vài nguyên nhân khác nữa, đối phương có phải là người trong nghề hay không không ai rõ ràng hơn y sư.

Triệu Bạch Ngư bật cười: "Từ đại phu nhạy bén vô song."

"Không cần phải khen ngợi." Từ Minh Bích đi thẳng vào vấn đề: "Mấy toa thuốc này đều do ngươi viết sao?"

"Ta tìm thấy phương thuốc vàng này trong một quyển sách y thuật cổ, quyển sách cổ kia ta đọc được khi còn nhỏ lúc ở trong trấn, lâu năm rồi không tìm lại được, đó cũng là lúc ta mới biết đọc chữ, nhìn thấy cái gì là thuộc ngay cái đó. Nhưng đã quá lâu nên quên mất rất nhiều, mấy ngày rồi ta có cố gắng bao nhiêu đi nữa cũng không tài nào nhớ được hết, chỉ có thể nghĩ được vài chi tiết nhỏ thôi."

"Đáng tiếc!" Từ Minh Bích không hề nghi ngờ lời Triệu Bạch Ngư nói, sách y học dân gian ít nhiều đã bị hủy hoại bởi chiến tranh khói lửa, có may mắn được lưu truyền lại cũng sẽ bị người không biết phân biệt thiêu hủy, thậm chí nhiều bài thuốc mà hắn truyền lại cho đời sau cũng xuất phát từ sách y học cổ. "Đêm qua ta thử bổ sung vào toa thuốc của ngươi, nấu các loại dược liệu lên rồi nếm thử một lần, cũng nhờ các đại phu đưa ra ý kiến, cuối cùng biên soạn lại 'Thuốc sắc Liên Hoa Thanh Ôn' mà ngươi viết. Ngươi tới xem thử một chút, có thể nào gợi nhớ lại được điều gì không?"

Triệu Bạch Ngư kinh ngạc, chẳng lẽ chỉ cần một đêm là đã có thể biên soạn lại phương thuốc chống dịch nổi tiếng đời sau rồi ư?

Y nhận lấy toa thuốc xem qua, có tổng cộng mười ba vị thảo dược, trong số đó, một vài loại có dược tính rất mạnh, ví như quán chúng có độc, đại hoàng ăn vào sẽ đau bụng, vậy nên dùng thuốc cần phải cẩn thận, chính xác từng li từng tí.

Ở sau mỗi loại dược liệu đều được chú thích liều lượng, trừ mấy vị không chắc chắn ra thì liều lượng chính là thứ y thật sự không nhớ nổi, cũng không dám ghi bừa.

Nhìn thấy toa thuốc hoàn thiện thế này, kí ức ngày theo ông ngoại học về các bài thuốc đột nhiên bị thức tỉnh, lòng Triệu Bạch Ngư liền ngập tràn ấm áp.

"Triệu tiên sinh?"

Triệu Bạch Ngư đang sững sờ bị gọi choàng tỉnh, cười nói: "Gọi ta là Tiểu Triệu được rồi. Từ đại phu không hổ là thần y đương thời, toa thuốc này được biên soạn lại đúng là giống với toa thuốc trong trí nhớ của ta như đúc! Đã thử nghiệm qua rồi chứ? Bệnh nhân đã được uống chưa? Hiệu quả thế nào?"

Từ Minh Bích: "Không có sự xác nhận của ngươi, đâu ai dám tự tiện dùng thuốc. Có điều bây giờ đã có thể để người bốc thuốc sắc thử theo toa thuốc này, trước tiên cho bệnh nhân uống rồi quan sát, nếu như có hiệu quả thì tiếp tục phát huy."

"Được."

Cổ đại không có vật thí nghiệm dùng để nghiên cứu như hiện đại, chỉ có thể thí nghiệm thẳng lên người bệnh nhân, bởi vì không còn cách nào khác nữa.

Nói làm là làm ngay, bếp lửa trong khu dịch nhanh chóng được thổi lên để sắc thuốc, khói bếp lượn lờ, tới trưa số thuốc đó được nấu xong thì đem phân phát xuống, mỗi vị đại phu đều tự thân đến quan sát, ghi chép lại tình huống của bệnh nhân.

Trông coi một ngày một đêm, đến sáng sớm ngày hôm sau, khi mặt trời vừa ló dạng khỏi đỉnh núi, khu dịch bệnh truyền đi một tin tức làm lòng người phấn chấn, phương thuốc đáng giá ngàn vàng được mang ra chữa trị đã có hiệu quả rõ rệt!

Nghiên Băng huơ tay múa chân nói: "Người bị nhẹ đã giảm thân nhiệt, ăn cháo được cũng xuống đất đi lại được rồi. Người bị nặng tuy vẫn còn nằm liệt giường chưa dậy nổi, nhưng đã không còn nôn mửa nữa, tình hình cũng chuyển biến rất tốt, nếu như kiên trì uống thuốc, có lẽ sẽ vượt qua được căn bệnh này thôi!"

Triệu Bạch Ngư khoác thêm lớp áo, mang giày xong thì ra ngoài: "Có thật không?"

Nghiên Băng cười ngây ngô: "Ta có bệnh mới lừa ngài chuyện này, không phải sao?"

Bước ra khỏi lều vải, quả nhiên không khí như được đổi mới hắn, dùng mắt thường cũng có thể thấy người bệnh và sai dịch chăm sóc người bệnh, cùng với những dân bị nạn ngoài kia treo trên mặt niềm vui, lúc gặp mặt nói chuyện luôn nở nụ cười tươi, hoàn toàn trái ngược với dáng vẻ chán ngán thất vọng ngày hôm qua.

"Triệu tiên sinh." Mấy người phụ nữ tới khu dịch bệnh chăm sóc người bệnh nhìn thấy y, bèn nhét vào trong tay y bốn cái bánh bao không nhân: "Nghe các đại phu nói Triệu tiên sinh là người nghĩ ra toa thuốc cứu bọn ta, trong lòng mọi người vô cùng biết ơn ngài!"

"Nếu không phải có Triệu tiên sinh chủ động đứng ra giữ gìn trị an khu dịch bệnh khiến người ta an tâm, chỉ sợ tất cả mọi người đã sớm mất hết lý trí đi khỏi khu dân bị nạn, bị quân lính bên ngoài giết hại rồi. Những ngày qua Triệu tiên sinh giúp người dân bọn ta không hề ngơi nghỉ, quên ăn quên ngủ, chúng ta đều nhìn thấy cả, cũng nhớ lấy ân tình của ngài."

"Ngài cầm đi, đây là bánh bao hấp được làm từ bột mì đặc biệt ở tỉnh chúng ta đấy."

Triệu Bạch Ngư từ chối: "Thức khuya dậy sớm, cứu chữa vạn dân, chống đỡ tất thảy nhứng thứ sắp sửa sụp đổ chính là các thái y, là các đại phu huyện Giang Dương, cũng nhờ Từ thần y lấy thân thử thuốc mới có thể biên soạn lại toa thuốc cứu mạng, phải cảm tạ, phải biết ơn bọn họ chứ không phải là ta. Còn nữa, đừng kêu ta là tiên sinh, cứ gọi tiểu Triệu là được rồi."

"Tiên sinh khiêm tốn quá. Bọn ta đã đưa bánh bao đến chỗ đại phu rồi, ngài cứ cất đi tiên sinh à. Đại nhân không ăn thì đứa nhỏ cũng phải ăn chứ. Em trai ngài cũng chịu khổ không ít kia kìa, gầy đến nỗi hai má cũng lõm vào mất rồi."

Nghiên Băng đột nhiên được nhắc đến nên bối rối: "A? Ta ư?"

"Hai cái bánh bao là cho ngươi, tiểu Triệu vẫn luôn bận bịu trước sau, bọn ta đều nhìn thấy hết mà."

Trong nháy mắt, gò má Nghiên Băng đỏ lên, trước kia nó đi theo Ngũ lang cũng từng được hưởng ké quang vinh, đây là lần đầu tiên được khen riêng, cảm kích đến độ mắc cỡ tay chân luống cuống.

Nghiên Băng nhận lấy lòng tốt, đưa những người phụ nữ đó đi xong, nó gãi ót cười hì hì: "Hóa ra làm người tốt việc tốt, nhận được báo đáp rồi tâm tình lại vui như vậy."

Triệu Bạch Ngư: "Nếu ngươi làm quan thì sẽ giúp được nhiều chuyện hơn cho bá tánh."

Nghiên Băng không đáp lại nữa, mà là đang nghiêm túc suy nghĩ đến khả năng mình có thể thi đậu công danh.

Nó vừa đi vừa quay đầu lại nhìn về phía khu dân bị nạn, phát hiện bọn họ vấn rất thoải mái vui vẻ với những tên sai dịch trong khu, sẽ đích thân rót nước đưa cho bọn hắn, nở nụ cười chân thành không chút oán hận.

Huyện lệnh nơi này là một kẻ ngu ngốc, chỉ vì lợi riêng mà làm lỡ tình hình dịch bệnh, quan trên lẫn lãnh đạo ngươi dối ta gạt, lục đục với nhau, trong mắt nào có trăm họ, vậy nên đã hại chết không biết bao nhiêu là người.

Dân chúng trải qua sinh tử coi như là giận cá chém thớt lên sai dịch cũng tình hữu khả nguyên, nhưng bọn họ ân oán rõ ràng, dễ dàng hài lòng, tâm tính cũng lạc quan, cuộc sống dù có khổ đi chăng nữa cũng vẫn mỉm cười, vùng vẫy sống sót.

Tầng lớp bình dân dưới đáy không phải là nham tùng hàn mai mà văn nhân ca tụng, chẳng qua chỉ là hoa cỏ hoang dại mọc ở nơi đất đá cằn cỗi tùy tiện cũng có thể thấy được, các quan lão gia cao cao tại thượng dù có cúi đầu khom lưng cũng chẳng để đám bụi rậm như bọn họ vào mắt.

Nhưng Triệu Bạch Ngư nhìn thấy, y không cúi đầu khom lưng nhìn bọn họ, mà là tự mình hòa vào trong dân thường để nhìn ngắm trăm họ, cảm giác như trăm họ, khổ sở như trăm họ.

Từ trước Nghiên Băng đã không tại nào hiểu nổi, tiểu lang quân nhà nó sao lại cứ hướng về tầng lớp phía dưới mà không phải là hướng lên trên, rõ ràng phấn đấu vươn lên mới là trạng thái thường thấy của thế gian này, là phẩm đức mà người người ca ngợi như một lẽ đương nhiên.

Đến cả Triệu Ngọc Tranh người yếu nhiều bệnh cũng hướng về quan trường, thành ra luôn được khen ngợi là thế hệ sau có chí lớn, tiền đồ xán lạn.

Còn Ngũ lang thì chống lại tình đời mà đi, quả thật khó hiểu.

Mà nay, Nghiên Băng hình như đã hiểu rồi, có lẽ Ngũ lang mới là người sống thông suốt nhất trên đời này.

***

Bảy ngày sau, tình hình dịch bệnh đã hoàn toàn được khống chế, nhưng đến lượt châu, phủ và huyện dưới quyền Hoài Nam bắt đầu bùng nổ dịch bệnh, triệu chứng giống hệt với dịch bệnh ở khu bị nạn huyện Giang Dương.

Nhờ có Triệu Bạch Ngư gõ nhịp sau màn, mượn lời Thôi phó quan truyền đạt chỉ thị, đưa các đại phu ở khu dân bị nạn huyện Giang Dương phân phát đến các khu vực có dịch khác, chưa đến nửa tháng, bệnh dịch muốn hoành hành đã bị dập tắt từ trong trứng nước.

Dịch bệnh lần này là hung hiểm nhất từ khi Đại Cảnh khai quốc đến nay, nhưng cũng là trận dịch được khống chế và giải quyết nhanh nhất.

Luật pháp cũng quy định, quan địa phương phải báo cáo tình hình dịch bệnh đúng với sự thật, phải công khai số người chết, số người bị lây nhiễm, mức độ nặng nhẹ lẫn tình hình thực tế, đồng thời các phủ được quyền thông xử, Đề hình ty được quyền giám sát để ngăn ngừa quan địa phương báo cáo gian dối hay sai sót, đảm bảo tin tức qua lại thật chính xác.

***

Phủ Kinh Đô, Tam ty.

Độ chi sứ Đỗ Công Tiên xem tấu chương đầu tiên mà Phủ dụ sứ viết, dù cho đã có con dấu quan của Phủ dụ sứ rồi mà ông ta vẫn cứ lật tới lật lui xem hai ba lần, trong lòng dấy lên một nỗi nghi ngờ.

Diêm thiết sứ Lê Yến Kỳ ở bên cạnh hỏi: "Tấu chương này có vấn đề sao?" Ông cẩn thận xem lại, nhưng chỉ thấy mỗi tin tức Hoài Nam lâm vào đại dịch: "Quả nhiên dịch bệnh bộc phát ở Hoài Nam rồi! Mau tấu thỉnh bệ hạ, phải sớm sắp xếp phân phát gạo lương tiền bạc và thuốc men đến... Trong đó có ghi chép lại số người bệnh, khu bệnh dịch và mức độ nặng nhẹ của dịch bệnh không? Đỗ độ chi? Ông ngây ra cái gì, mau nói xem! Cứu người như cứu hỏa, sao mà còn đứng ngẩn ngơ thế kia? Chưa tỉnh thì đến uống tách trà đậm đi, đem tới đây cho tôi xem thử."

Lê Yến Kỳ cầm lấy tấu chương, xem xong cũng sững sốt, trong lòng hiện lên một đống dấu hỏi.

Cùng lúc đó, Hộ bộ phó sứ đi đến, thấy vậy hỏi: "Thế nào rồi?"

Đỗ Công Tiên tự lẩm bẩm: "Kỳ lạ! Thật là kỳ lạ!"

Lê Yến Kỳ: "Ta làm quan hai mươi năm, đi qua hai triều, trước sau trải qua bốn năm cơn bệnh dịch lớn nhỏ, triều đình phản ứng nhanh chóng nhất, cũng bắt tay vào giải quyết nhanh nhất, nhưng để xử lý sạch sẽ thì ước chừng cũng phải nửa năm! Nhưng các ông xem đi —— đến đây mà xem."

Hộ bộ phó sứ nhận lấy tấu chương xem thử, đột nhiên tỏ ra xúc động: "Chưa đến hai tháng đã giải quyết được dịch sao?"

Lê Yến Kỳ: "Ông xem, nửa tháng trước số bệnh nhân lên đến gần mười nghìn người! Số người chết mỗi ngày từ cả chục đến hàng trăm, có thể nói đây chính là đại dịch bệnh, cần có sự nỗ lực của cả nước, cỏ cây đều là binh lính, nếu như không thể kiểm soát được, thì chỉ trong vòng hai tháng thôi, e là sẽ... Trấn giết! Đốt thành! Đến lúc đó núi thây chất chồng biển máu, đồng đầy xương khô, vạn người thống khổ."

Biểu cảm ngạc nhiên của Hộ bộ phó sứ càng rõ ràng hơn, lão hít một ngụm khí lạnh, liên tục gật gù nói: "Nhưng tấu chương này lại nói tình hình dịch bệnh đã được khống chế hoàn toàn, tuy rằng gần mười ngàn người đã bị lây nhiễm, mỗi ngày có đến hàng trăm người chết nhưng con số đó vẫn ít hơn một ngàn, và số bệnh nhân còn lại đã chuyển biến tốt lên, thuốc và ngân lượng lại chỉ dùng trong số vật liệu cứu nạn Hoài Nam, thậm chí còn chưa dùng hết?!"

"Làm sao có thể như thế được! Phủ dụ sứ này coi chúng ta là mấy lão già dốt nát chắc? Đại dịch nghiêm trọng đến vậy há có thể dập vừa nhanh vừa mạnh đến thế?" Hộ bộ phó sứ ngạc nhiên sinh cáu bẳn: "Phủ dụ sứ được phái đi Hoài Nam là kẻ nào? Sao hắn dám làm việc dối trên gạt dưới, xem thường mạng sống của bá tánh như này?"

Lê Yến Kỳ: "Phủ dụ sứ là Triệu Bạch Ngư."

Hộ bộ phó sứ ngạc nhiên: "Là y sao?" Ông nhíu mày, nhớ lại cử chỉ cao thượng khi cứu ân sư của Triệu Bạch Ngư thời gian trước, giọng không khỏi hòa hoãn lại: "Tính tình Triệu Bạch Ngư không giống như người sẽ làm điều ngang ngược, có lẽ do tuổi còn quá nhỏ, thủ đoạn non nớt nên bị đám quan lại dưới kia lừa gạt. Ngươi ta tấu báo chỉ cần sửa chữa mấy câu thôi, sau đó gửi lại một phong thư chỉ điểm Triệu Bạch Ngư, coi như là nể mặt Trần Sư Đạo và Lâm An quận vương vậy."

Đó chính là cho Triệu Bạch Ngư một cơ hội sửa đổi, nói thật, các ông rất tán thưởng Triệu Bạch Ngư, nếu như về sau có một ngày bọn họ có thể trở thành quan đồng môn, các ông cũng yên tâm tín nhiệm mấy phần, thậm chí có thể kết làm tri kỷ với người này nữa.

Đỗ Công Tiên đáp: "Ông xem thêm hai bức thư này nữa đi, có cả con dấu quan phòng của Thông phán Dương Châu và Đề hình sứ Hoài Nam đây này."

Hộ bộ phó sứ cầm lấy đọc nhanh, trong lòng cả kinh, ngạc nhiên sắp sửa phá thủng lồng ngực rồi.

Phải nói rằng hai người đó dược quyền giám sát, cho dù một bên bị hối lộ làm chuyện dối trên gạt dưới thì vẫn còn lời nói của bên kia để đối chiếu. Hơn nữa, người có quyền giám sát rất có sức nặng, bình thường cần chọn người không theo bất kì đảng phái nào hoặc là bề tôi mà bệ hạ tin tưởng đảm nhiệm, tấu chương hồi kinh có mức độ đáng tin vô cùng cao.

Hai sớ tấu trước mắt có nội dung tương tự nhau, nói rõ ràng tấu chương của Phủ dụ sứ chính là tai tình chính xác ở huyện Giang Dương.

"Ông xem sớ tấu này đi —— Hoài Nam bộc phát dịch liên tục, Triệu Bạch Ngư quả quyết phân công đại phu, thái y ở khu dịch huyện Giang Dương đi đến các khu dịch khác ở địa phương để tiến hành phòng chống, tai họa dịch bệnh từ Hoài Nam có thể lan ra cả nước cứ như vậy bị bóp chết từ trong trứng."

"!" Hộ bộ phó sứ đọc đi đọc lại tấu chương của Triệu Bạch Ngư, cảm giác bản thân mình sống uổng mười mấy năm làm quan rồi. "Sao có thể làm được?"

Đỗ Công Tiên đáp: "Huyện lệnh Giang Dương có án oan trong người, sau khi dịch bệnh bùng nổ lại sợ bị truy cứu trách nhiệm nên có ý đồ muốn lừa gạt, dây dưa làm lỡ việc phòng chống và khống chế khu dịch. Cũng may Triệu Bạch Ngư cảnh giác, đưa ra quyết định nhanh chóng bắt gọn Huyện lệnh Giang Dương, vượt cấp điều động hai nhánh doanh binh Hoài Nam, sau đó mời được cả thần y Từ Minh Bích từ Giang Nam xa xôi ngàn dặm, nhờ thái y và đại phu dân gian đồng tâm góp sức, các dân bị nạn trên dưới một lòng mới có thể đánh thắng dịch bệnh này."

"Cả bài chẳng kể công, chỉ khen ngợi người khác, thật hiếm thấy." Lê Yến Kỳ xúc động.

Hộ bộ phó sứ: "Người có thể gõ trống kêu oan cứu ân sư, nhất định là có lòng chân thành. Nếu như không nhờ có Phủ dụ sứ đa mưu túc trí điều động, nắm lấy thời cơ ứng biến, e rằng dịch bệnh này đã giết chết bao nhiêu người rồi! Đổi lại là người khác, thì dù có là chuyện mình không làm cũng sẽ treo hết công lao lên người, nhưng Triệu Bạch Ngư lại chẳng tự khen mình câu nào, các ông xem này —— quả nhiên là ta không nhìn lầm người."

"..."

Thiếu điều muốn viết mấy chữ "Muốn kết giao" lên trên mặt.

Đỗ Công Tiên và Lê Yến Kỳ dọn dẹp tấu chương, đứng lên nói: "Chúng ta mang sự tình đến tâu với bệ hạ trước đã."

***

Phản ứng của Nguyên Thú đế cũng giống như bọn họ vậy, không dám tin lẫn hoài nghi Triệu Bạch Ngư giở trò bịp bợm, nhưng nhờ có hai tấu sớ của quan viên có quyền giám sát làm chứng, lão không thể không tin cho được.

Lại nghe thấy Đỗ Công Tiên và Lê Yến Kỳ cho Triệu Bạch Ngư những lời khen ngợi hiếm hoi, nói y vừa có thể đưa ra những mưu kế đúng đắn vừa không kiêu ngạo tranh công, xứng đáng được gọi là một quan thanh liêm có tài năng.

Nguyên Thú đế vốn luôn lo lắng vì Hoài Nam mắc lũ, càng lo dịch bệnh bộc phát về sau hơn, nhưng phàm là càng lo thì càng có khả năng xảy ra, quả thật một khắc khi chuyện đó xảy ra, tảng đá treo ngược trong đầu lão bỗng rơi xuống, một nỗi lo lắng nòng lòng khác bị treo cao lên, nào ngờ ngọn cờ lo âu vừa mới bị treo lên ấy đã được người ta nhẹ nhàng lấy xuống.

Lão xem đi xem lại hai tấu chương giám sát ba lần, nỗi ưu sầu tích tụ trong lòng nhiều ngày rốt cuộc cũng có thể buông lỏng rồi bị ngạc nhiên cướp lấy, thay vào đó là mấy phần tán thưởng và yên tâm vui vẻ, mặc dù vẫn còn vương vấn vài sợi ưu tư phức tạp và khó chịu xen lẫn trong đó.

Triệu Bạch Ngư...

Nguyên Thú đế lặng lẽ đọc thầm tên Triệu Bạch Ngư, đây chính là lần đầu tiên lão thẳng thắn nhìn nhận đứa cháu ngoại từ khi ra đời đã không được ai yêu thương này, thật sự rất bất ngờ vì năng lực của y vượt xa khỏi suy đoán và mong đợi của lão, đúng là người có sự khôn ngoan, đủ khả năng thừa tướng.

"Phủ dụ sứ thăm viếng, an ủi làm yên lòng dân, tận dụng lợi ích của dân, buông bỏ các quy tắc và hành xử theo tình hình, bất kể là trị tham quan hay là phòng chống, khống chế dịch bệnh đều là bổn phận của Triệu Bạch Ngư, chưa nói là công lao to lớn được." Nguyên Thú đế phê bình, chủ đề đã thay đổi: "Mặc dù nói rằng đang tại vị cần phụng sự, nhưng có thể làm tốt năm sáu phần chức vụ của mình đã là lương thần hiếm có rồi."

Nguyên Thú đế gõ ngón áp út lên tấu sớ, im lặng hồi lâu mới nói: "Triệu Bạch Ngư không phụ kỳ vọng của trẫm, nhưng có thể gánh nổi hai tiếng lương thần hay không còn phải xem biểu hiện của nó ở Hoài Nam nữa."

Lão vừa nói dứt lời, Đỗ Công Tiên và Lê Yến Kỳ đã nhìn nhau, không ai đoán được thái độ của Nguyên Thú đế.

Rốt cuộc là lão đã coi trọng Triệu Bạch Ngư hay chưa?

Nếu như không coi trọng y, thì cần gì phải ra sức gạt bỏ lời dị nghị của mọi người phái y đến Hoài Nam làm Phủ dụ sứ?

Còn nếu như coi trọng y, thì có được chính tích vẻ vang thế này phải khen thưởng mới đúng chứ!

Như lời Nguyên Thú đến nói, có thể làm tốt năm sáu phần chức vụ thì chính là lương thần danh tướng hiếm có, Triệu Bạch Ngư còn chưa đến mười ohần, nhưng có ít thì cũng bảy, tám phần rồi, làm sao không thể nhận hai tiếng lương thần?

"Trước tiên cách chức Lữ Lương Sĩ, để Triệu Bạch Ngư tạm thời thế chức Huyện lệnh Giang Dương, toàn quyền quản lý và giải quyết án oan, tai tình và dịch bệnh, có quyền tham dự vào tất cả hoạt động cứu trợ thiên tai, cứu nạn cho dân ở tỉnh Hoài Nam, toàn bộ điều động trong tình hình dịch bệnh, các quan viên Hoài Nam cần phải tiếp nhận ý kiến của Phủ dụ sứ!"

***

Phủ Dương Châu.

Việc phòng chống dịch bệnh ở vùng thiên tai được triển khai, các nạn nhân được sắp xếp lần lượt chuyển vào trong thành, quan phủ phải quy hoạch lại khu tái định cư mới cho dân bị nạn, cơ chế xã hội từng bước được khôi phục lại trạng thái bình thường.

Nhà trọ huyện Giang Dương.

Doanh binh bảo vệ Khâm sai ở bên ngoài đã rút đi hơn nửa, chỉ còn lại lác đác vài tên, có thủ dụ của Phủ dụ sứ, nhà trọ vẫn kinh doanh như thường, Triệu Bạch Ngư và Nghiên Băng lặng lẽ vào thuê trọ, Từ Minh Bích cũng vào theo.

Công việc phòng bệnh ở khu dịch bệnh đã được giao lại dần cho quan địa phương, Triệu Bạch Ngư được thoát thân nghỉ ngơi, buổi tối cùng ngày liền mời Từ Minh Bích ăn cùng một bữa cơm.

Bàn bát tiên trong phòng bày một vò rượu và năm món ăn, trước mặt là Từ Minh Bích vừa đến chỗ hẹn, Triệu Bạch Ngư nâng ly rượu kính hắn.

"Từ thần y là thầy thuốc giàu lòng nhân ái, không ngại khổ cực ngàn dặm đến Dương Châu, cứu lấy vạn dân từ trong dầu sôi lửa bỏng, dốc túi truyền lại phương thuốc nghìn vàng, cũng là cứu bá tánh khắp Hoài Nam này một mạng, Ngũ lang không có của cải quý giá gì, chỉ có rượu nhạt này bày tỏ lòng tôn kính mà thôi."

Từ Minh Bích để lộ vẻ xúc động, ngăn Triệu Bạch Ngư lại nói: "Từ mỗ không nhận nổi ly rượu này của Phủ dụ sứ đại nhân."

Triệu Bạch Ngư giương mắt ngạc nhiên.

Bị nhận ra rồi sao?

Từ Minh Bích đứng dậy, cúi người bái Triệu Bạch Ngư thật sâu: "Lòng Triệu đại nhân buộc với trăm họ, một mình dấn thân vào hiểm cảnh, đồng cam cộng khổ cùng nhân dân, xứng danh quan thanh liêm lương thiện. Trước có toa thuốc quý giá của đại nhân, sau mới là Từ mỗ ăn mót ăn nhặt, người cứu vạn dân là đại nhân ngài, không phải là ta. Nghe nói đại nhân chu đáo tỉ mỉ, ra thẳng pháp trường cứu người tra án oan, phải có tài mới có thể trở thành Khâm sai đến Dương Châu này, đại nhân xứng với một câu trời xanh tái thế!"

Từ Minh Bích cúi người bái một cái xong, rót liền ba ly rượu uống cạn rồi nói: "Từ mỗ hổ thẹn, tự xưng là kỳ tài ngút trời nhưng không thể đánh bại chữ tình, không thể thoát khỏi mỏi mệt cùng nỗi tương tư, lánh đời bỏ bê y thuật, nếu như không nhờ có Lý cô nương đưa trâm lưu ly Như Ý đến thức tỉnh ta, e rằng ta sẽ tiếp tục lãng phí cho đến khi lỡ mất bệnh dịch ở Dương Châu, hại chết nhiều người dân bị nạn hơn nữa."

Tuy tính tình Từ Minh Bích kì lạ, nhưng hắn vẫn luôn tu dưỡng phẩm hạnh nghề y, không thật sự thấy chết mà không cứu.

Nếu như bởi vì ẩn dật mà bỏ qua bệnh dịch Dương Châu, chắc chắn hắn sẽ áy náy không chịu nổi.

Triệu Bạch Ngư cau mày: "Lý cô nương?"

"Lý Ý Như." Từ Minh Bích lại cúi người cảm tạ: "Ta mới biết Triệu đại nhân là ân nhân cứu mạng Lý cô nương, hôm nay cũng là ân nhân của Từ mỗ. Ngày sau nếu có gì phân phó, mỗ tất tòng mệnh."

Giọng nói Triệu Bạch Ngư lạnh lùng: "Chuyện gì xảy ra vậy?"

Từ Minh Bích liền giải thích đơn giản mối quan hệ và duyên phận dính dáng giữa hắn và Lý Ý Như, sau đó phiền muộn cười khổ: "Là do ta đơn phương thầm mến nên mắc bệnh, không chỉ sống ẩn dật mà còn xao nhãng y thuật, đầu óc đúng là hồ đồ mất rồi."

"Vậy sao bây giờ ngươi không giả điên nữa đi? Nói vậy là trâm Như Ý của Lý cô nương chữa hết bệnh tương tư cho ngươi phải không?" Sắc mặt Triệu Bạch Ngư lạnh xuống, trông có hơi hùng hổ dọa người.

"Cái gì?" Từ Minh Bích ngạc nhiên hỏi.

"Không có gì." Triệu Bạch Ngư khống chế biểu cảm, giọng dịu lại: "Bàn thức ăn và rượu này là để kính công cứu nạn của Từ đại phu, nếu như không có thuốc, tình hình dịch bệnh lại kéo dài thêm một ngày nữa, tốn thêm thời gian sẽ có càng nhiều người chết hơn, Từ đại phu đúng là có công cứu vạn người."

Triệu Bạch Ngư vẫn uống cạn rượu trong ly: "Bổn quan còn có việc quan trọng cần làm, Từ đại phu cứ tự nhiên." Nói xong liền đứng lên rời đi, đến cửa đột nhiên xoay người lại, nghiêng đầu hỏi: "Từ đại phu cảm thấy, Lý cô nương tặng trâm Như Ý là đáp lại tình cảm của ngươi sao?"

Từ Minh Bích kinh ngạc: "Làm sao ta dám nghĩ như vậy?"

Sắc mặt Triệu Bạch Ngư chầm chậm bình thường trở lại, không nói nhiều nữa, cất bước đi khỏi phòng.

==

Tác giả muốn nói:

Bé Cá có hơi tức giận ó, ẻm cho rằng Lý Ý Như vì làm như vậy mà bị bó buộc với Từ Minh Bích, nhưng mà chẳng qua là do hiểu lầm thôi, (tui không muốn spoil), nhưng trước có cô em gái bình luận phân tích hơi dài một chút, là bé Cá vẫn chưa thể chấp nhận được các loại hành động chà đạp nhân cách con người ở thời phong kiến, giống như thân phận của Lý Ý Như căn bản không có khả năng để chống cự yêu cầu.

Trước kia bé ép mình không để ý những chuyện này, nhưng về sau sẽ càng để ý hơn nhiều nữa.

Cho nên ở chương này, bé hiểu lầm Từ Minh Bích ép ân, Lý nương trở thành công cụ nhờ món đồ tặng được đưa đến.

Việc này rất thường thấy ở thời cổ đại, ý tương tự như dùng lòng tốt của quân tử phong lưu giúp người khác hoàn thành mong ước, nói là hợp tác, nhưng thật ra thì người có thân phận thấp hơn nào có tư cách từ chối?

Bé Cá cảm thấy đó chính là chà đạp nhân cách, cũng sợ rằng mình vô tình trở thành người tiếp tay hại chị Ý.

Ý nghĩa của việc sắp đặt nhân vật Lý Ý Như vào truyện chính là như vậy đó.

==

Chương 32

Bến tàu thủy vận Từ Châu, Hoài Nam.

Huyết mạch Tứ Thủy bắt ngang Kinh Đông, Giang Hoài và Dư Hàng, chảy qua nhiều tỉnh và cả đường thủy hoàng kim của Kinh Đô – sông Biện, giao nhau với dòng Từ Châu, vì Hoàng Hà chuyển dòng mà trở thành phụ lưu của nó, ba nhánh đường thủy đều giao với Từ Châu biến nơi này trở thành một trung tâm giao thông quan trọng hơn trong tương lai.

Hoàng Hà chuyển dòng, nước ngập Từ Châu, từ tháng bảy đến giữa tháng tám, toàn bộ Từ Châu đã trở thành một vùng ngập úng mênh mông là nước, giữa tháng chín nước xuống dần, tới đầu tháng mười, lũ lụt đã rút lui toàn bộ, để lộ một mảnh đất đai hoang tàn.

Người xuôi Nam chạy nạn chỉ có số ít, phần lớn đều ở lại, nhờ sự giúp đỡ của triều đình và quan phủ chuẩn bị xây dựng lại gia viên. Bởi vì Từ Châu, Phi Châu và Tứ Thủy là những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề, vậy nên Từ Châu và Phi Châu nhận được một nửa phần bạc trong bốn trăm vạn lượng phát xuống để cứu trợ.

Tứ Thủy ở Kinh Đông cũng nhận được một khoản bạc khác, không liên quan gì đến bạc cứu trợ thiên tai của Hoài Nam.

Lúc này, một chiếc thuyền quan đang chậm rãi di chuyển trên mặt nước, bóng đêm bao trùm, mặt sông mịt mờ, trên thuyền thắp đuốc sáng ngời, mũi thuyền có quân lính tuần tra. Thuế án ty bộ Hộ bước ra khỏi khoang thuyền, thấy được ánh đèn lấp ló ở bến thuyền liền lệnh cho sai dịch mang cờ hiệu đại diện thân phận treo lên mũi thuyền.

Sai dịch vừa mới cầm cờ hiệu chạy ra, nhác thấy có bóng đen lướt qua trên mặt sông, trong lòng hoảng sợ, vội vàng cất tiếng báo hiệu, nhưng chỉ một giây sau cổ họng chợt lạnh toát, trong mắt tràn ngập máu tươi và ánh lửa đang nhún nhảy.

Máu tươi văng lên mặt Thuế án ty, bấy giờ ông ta mới rút kiếm ra chém loạn: "Địch tấn công! Địch tấn công! Mau ra đây tiếp địch —— " Một bên quát hỏi hắc y nhân che mặt vừa ngoi lên khỏi mặt nước leo vào thuyền: "Các ngươi là ai? Là thủy tặc ở đây sao? Có biết đây là thuyền quan triều đình phái tới cứu trợ thiên tai hay không?"

Quân lính vội vàng chạy đến nghênh địch, đạo tặc hắc y đều là người luyện võ, quân lính căn bản không phải đối thủ của chúng, vậy nên chúng nhanh chóng giải quyết hơn phân nửa.

Đạo tặc cầm đầu nghe thế cười nhạt: "Thuyền quan ư? Cướp là cướp thuyền quan triều đình! Còn giết là giết đám cẩu quan các ngươi!"

Thuế án ty bộ Hộ kinh hãi, vội vàng nói: "Đây là thuyền chở lương thực cứu trợ thiên tai, nếu như bị cướp thì hàng vạn dân bị nặn sẽ ăn đói mặc rách, sẽ chết đói đấy!"

"Lương thực cứu trợ đến Hoài Nam sẽ vào túi của tham quan phú thương hết cả, đem đến tay dân bị nạn lúc nào? Có cho hay không cho thì dân bị nạn cũng chết đói thôi! Chẳng thà để cho Ngư Gia Trại chúng ta ra tay làm hảo hán Lục Lâm*, cứu một lần tất cả dân bị nạn ở Hoài Nam này!"

(*) Lục Lâm vốn là tên núi Đại Đồng ở Hồ Bắc, từng là căn cứ của nghĩa quân Vương Khuông, Vương Phượng thời Hán, sau chỉ những người ở rừng núi để cướp bóc hoặc để chống đối quan lại.

Ngư Gia Trại?!

Thuế án ty thương tích đầy mình vẫn khó khăn chống cự: "Bổn quan khuyên các ngươi nên suy nghĩ lại, dừng tác oai tác quái ngay lập tức, bổn quan sẽ không nhắc chuyện cũ, nhưng nếu cứ khăng khăng làm theo ý mình, triều đình nhất định không bỏ qua cho các ngươi! Dù cho các ngươi có đủ loại kỹ năng, dù cho có mai danh ẩn tích đi chăng nữa cũng không đấu lại thiên quân vạn mã của triều đình đâu! Binh mã của Tri phủ Từ Châu đang trên đường tiếp ứng rồi, bọn họ sẽ nhanh chóng phát hiện ra các ngươi đang cướp bóc làm ác, điều động quân đội cho bảy mươi hai trại quanh một tỉnh mười bốn châu của các ngươi chầu trời, đến lúc đó Ngư Gia Trại máu chảy thành sông, các ngươi có hối hận cũng không kịp!"

"Không cần tham quan các ông bận tâm!"

Hắc y nhân vung kiếm đâm về phía ngực Thuế án ty, phía sau có đồng bọn đi lên nói: "Tìm được bạc rồi!"

"Đem đi." Hắc y nhân đáp lại xong thu kiếm về, đạp Thuế án ty rơi xuống nước.

Cùng lúc đó, bến tàu bên bờ sông sáng rực đèn đuốc, tiếng bước chân đều tăm tắp vang dội từ xa đến gần, một hắc y nhân khác nói: "Thủ lĩnh, doanh binh Từ Châu tới!"

"Đi."

Trước khi đi hắn thả một cây đuốc vào giữa thuyền, thoáng chốc lửa vọt lên ngút trời.

Quân lính trên bờ lập tức múc nước dập lửa, cuối cùng kéo được xác thuyền quan bị đốt cháy chỉ còn trơ khung cùng với một đống xác người, lúc này một quân lính đột nhiên hô to: "Đại nhân, ở đây có một người còn sống!"

Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu vội vàng xuống ngựa chạy đến, thấy người này thương tích đầy mình đã bị ngâm nước đến trắng bệnh ra, mặt như giấy vàng, thở ra thì nhiều hít vào thì ít, hơn nửa là không thể cứu được rồi, nhưng ông vẫn gọi đại phu tới.

Thuế án ty để lại một hơi tàn, giùng giằng níu lấy vạt áo quan của Hạ Quang Hữu nói đứt quãng: "Hai trăm vạn... Bạc cứu trợ thiên tai bị, bị cướp rồi..."

"——" Hạ Quang Hữu hít một ngụm khí lạnh, vội ngồi xổm người xuống hỏi: "Là ai đã cướp tiền cứu trợ hả?"

"Ngư, Ngư Gia Trại —— "

"Ngư Gia Trại? Ông chắc chắn là Ngư Gia Trại sao? Hai trăm vạn cứu trợ thiên tai đều bị chúng cướp à? Bạc cứu trợ có còn được chở đến bằng đường nào khác không? Ông là người ở đâu? Ông —— " Hạ Quang Hữu luôn miệng truy hỏi, nhưng phát hiện người này đã trợn trắng hai mắt nhìn trời, không còn hô hấp nữa.

Thông phán Từ Châu trầm trọng lên tiếng: "Hai trăm vạn bạc cứu trợ thất lạc ở ranh giới Từ Châu, ngươi ta không thoát khỏi truy trách."

Hạ Quang Hữu sốt ruột sắp chết rồi, ngực phập phồng: "Ta còn không rõ sao? Nhưng cuối cùng là ai đã cướp đi hai trăm vạn đó? Người đó muốn dùng hai trăm vạn để làm gì?"

Thông phán Từ Châu: "Ông ta nói là... Ngư Gia Trại cướp tiền cứu trợ thiên tai sao?"

Hạ Quang Hữu: "Người khác không biết Ngư Gia Trại là cái gì, chẳng lẽ chúng ta không biết? Bao đời nay bọn họ sống quanh nơi sơn thủy, bắt cá bán cá để kiếm sống, gan lớn đến nỗi có thể làm mấy chuyện như cướp quan ngân này sao?"

Thông phán Từ Châu: "Nghe nói hai năm gần đây, Ngư Gia Trại thu nhận không ít người trong giang hồ, thường xuyên lui tới, thành phần phức tạp, không chắc sẽ không tiềm ẩn vài nhân tố liều mạng."

Hạ Quang Hữu: "Ngư Gia Trại hai ba ngàn người, già trẻ gái trai đều có, mấy đời an cư lạc nghiệp, không thể chỉ vì vậy mà kết luận là do bọn họ làm, cũng không thể nói suông rằng bọn họ chứa chấp tội phạm được."

Hạ Quang Hữu nặng nề than thở, ngực nghẹn đầy buồn rầu thật sự không cách nào phát ra ngoài, ông cảm thấy việc này rất khó mà giải quyết: "Đầu tiên báo cho Soái ty, sau mới tấu lên triều đình, trước đó cần phải điều động toàn bộ các huyện dưới quyền Từ Châu, bảo họ phải đặc biệt chú ý những người lạ mặt hoặc nhóm giang hồ tụ tập, ra vào thành quách, trong ngoài phủ châu đều phải nghiêm túc kiểm tra người đi đường qua lại, nhất định phải để ý đến những người nào mang theo bên mình hành lý to nặng."

Xoay người leo lên ngựa, Hạ Quang Hữu thở ngắn thở dài: "Hai trăm vạn cứu trợ thiên tai đấy! Vậy mà lại bị mất ở Từ Châu này, ta còn chưa biết phải giải thích với bệ hạ và triều đình như thế nào, càng không biết làm sao nói rõ với dân bị nạn đây! Công tác cứu trợ không được chậm trễ một khắc nào, bây giờ ngân lượng gom góp trước đó và tiền trong kho thuế phủ cơ bản đã dùng hết rồi, chống đỡ không được bao lâu đâu, vẫn là phải mau mượn ít bạc ở phủ châu xung quanh để xoay sở thôi."

Thông phán Từ Châu đồng ý với Hạ Quang Hữu: "Cứu dân như cứu hỏa, cứ cứu trước đã rồi nghĩ cách tìm lại số bạc đó sau, ta đoán rằng bên trên sẽ rộng lượng cho ngài thêm ít ngày giờ. Chuyện sau này cứ để sau này rồi nói, bây giờ thu xếp cho dân ổn định đã."

Hạ Quang Hữu gật đầu, vô thức nhẹ nhàng vuốt ve mũ quan, chỉ sợ mình không còn đội nó được bao lâu nữa.

Hai người cưỡi ngựa, đạp lên ánh trăng trở về phủ Nha Từ Châu.

***

Trong bụi lau sậy bên bờ sông, có một đôi nam nữ đang nín thở không nói chuyện, bọn họ đã ngồi xem toàn bộ quá trình hắc y nhân cướp giết thuyền quan, trước khi doanh binh Từ Châu đến đã lặng lẽ rời đi, chạy như điên mười mấy dặm mới dám dừng lại thở dốc.

"Quả nhiên có kẻ cướp ngân lượng cứu trợ thiên tai, chỉ tiếc chúng ta đến chậm một bước." Người phụ nữ vô cùng ảo não, đấm vào bàn tay nói: "Ngươi nhìn thấy được mặt của tên cầm đầu không?"

Người đàn ông mặt đầy hoảng sợ, nghe vậy thì nghiêm túc gật đầu: "Quan tham nghị Soái ty Hoài Nam Tôn Phụ Ất!"

Người phụ nữa suy nghĩ chốc lát: "Viết một tờ giấy đưa đến phủ Nha Từ Châu, nhắc nhở Hạ Quang Hữu đi."

Người đàn ông không đồng ý: "Chúng ta không biết Hạ Quang Hữu là địch hay bạn, nếu như ông ta cùng đảng với An Hoài Đức thì sao? Liệu có làm phản tới giết chúng ta diệt khẩu hay không? Hay là cứ tìm Tam thúc công bàn bạc trước đi, để cho ông ấy quyết định."

Người phụ nữ suy tư rồi đáp: "Vậy bây giờ chúng ta mau về Ngư Gia Trại thôi."

***

Tấu chương quan ngân bị cướp nhanh chóng đến Soái ty, Soái sứ An Hoài Đức nói với tả hữu tham mưu và một đám quan viên: "Tuy là chuyện xảy ra ở khu vực Từ Châu, nhưng cũng coi như là chuyện xảy ra trong vùng quản lý của ta, tìm lại bạc, giết kẻ xấu, ta không thể đổ trách nhiệm cho người khác được."

Gã đẩy tấu chương dến trước tả hữu tham mưu bên cạnh: "Thuế án ty bộ Hộ phụ trách vận chuyển bạc cứu trợ thiên tai trước khi chết có nói côn đồ cướp quan ngân chính là Ngư Gia Trại, theo trinh sát báo lại, tuy bao thế hệ Ngư Gia Trại đều theo nghiệp bắt cá, nhưng hai ba năm nay thường xuyên có một nhóm giang hồ ra vào, bọn chúng thường xuyên tụ tập, bàn bạc thời sự, là đảng phái có khả năng phản bội rất lớn."

Tả tham mưu đề nghị: "Chi bằng phái binh bao vây Ngư Gia Trại, lục soát bảy mươi hai trại, ba mươi sáu đường thủy, nếu quả thật là do đám phản bội kia gây nên, ta có thể bắt lại ngay lập tức!"

Hữu tham mưu đưa ra ý kiến: "Soái ty hành động không thể nói toạc ra được, cứ lệnh cho doanh binh lặng lẽ lẻn vào bảy mươi hai trại, không được rút dây động rừng, càng không cần phải báo cho Tri phủ Từ Châu. Tôi xem tấu sớ của hắn, từng câu từng chữ đều có ý bác bỏ trách nhiệm của Ngư Gia Trại, vậy nên không chắc Hạ Quang Hữu có liên quan gì đến Ngư Gia Trại hay không."

Những quan viên khác cũng phụ họa, rối rít đưa ra nhận xét của mình.

Trấn an ty hay còn gọi là Soái ty, tuy quản lý binh quyền nhưng An Hoài Đức không xuất thân võ tướng, chẳng qua do gã ngồi trên trung đường, tuổi tác chừng bốn lăm bốn sáu, chính là độ tuổi sinh lực khỏe mạnh, vóc dáng cũng khôi ngô cường tráng, trái lại có chút giống như người trong quân ngũ.

Biểu cảm của gã không giận tự uy, ánh mắt liếc một cái như có thể nhìn thấu tâm tư người khác, vô cùng sắc bén đáng sợ.

Đám quan viên thấy gã không nói gì, ai nấy đều thấp thỏm: "Soái sứ, không biết ý ngài thế nào ạ?"

"Ừ." An Hoài Đức đặt hai tay trên đầu gối, nhắm mắt ung dung nói: "Đề nghị của các ngươi cũng không tệ." Dừng một lát rồi hỏi: "Tấu sớ của Từ Châu đã đến Kinh Đô rồi chứ hả?"

Tả tham mưu: "Nếu đúng lộ trình, nên đến rồi ạ."

An Hoài Đức: "Trước có Chương Tòng Lộ chết ở dịch trạm Từ Châu, bây giờ hai trăm vạn cứu trợ thiên tai cũng mất ở Từ Châu, xem ra phong thủy nơi này không tốt."

Hữu tham mưu: "Hai chuyện xảy ra cách nhau quá gần, chỉ sợ bệ hạ hiểu lầm ngài thôi."

An Hoài Đức cười hai tiếng, giọng vừa thong thả lại điềm đạm: "Người thường được phán vô tội, kẻ tài lại bị khép tội. Lão phu làm quan ba mươi năm, hiểu đạo lý này hơn ai hết. Huống chi lão phu thân là Soai sứ Hoài Nam, quản lý quân vụ trị an của một tỉnh mười bốn châu phủ, trong khu vực này xảy ra bất kỳ chuyện gì đều cần bổn sứ chịu trách nhiệm, lý nào mà lại khoanh tay đứng nhìn."

"Ân đức mà bệ hạ dành cho lão thần sâu nặng như núi, lão thần lại vì quân phân ưu, không thể đổ trách nhiệm cho người khác. Vậy nên dù là lửa thiêu cháy Giám sát ngự sử hay là bạc cứu trợ bị cướp đi, lão phu đều phải quản. Cứ cho là bệ hạ sẽ trách lên đầu ta, muốn lấy cái mũ của ta xuống cũng là chuyện đương nhiên thôi. Là do ta không làm tròn bổn phận của mình, bất kỳ hình phạt nào được đưa ra, ta cũng cam tâm tình nguyện chấp nhận."

Một đám quan viên nghe vậy thì nhao nhao kính nể: "An soái sứ ăn lộc vua, một lòng trung quân, thật sự là lương thần, bọn ta hổ thẹn không bì nổi."

Lúc này, quan tham nghị Trấn an ty Tôn Phụ Ất bước ngang đại sảnh nhìn vào bên trong, đối mặt với quan trên An Hoài Đức đang mở mắt thì khẽ gật đầu một cái.

An Hoài Đức nhắm mắt lần nữa, thản nhiên nói: "Trước khi lệnh vua đến, bổn sứ sẽ tự mình đến Từ Châu xử lý án cướp tiền cứu trợ thiên tai, hy vọng có thể mất bò mới lo làm chuồng, lập công chuộc tội."

Khựng lại mấy giây, An Hoài Đức có ý ám chỉ nói: "Ngư Gia Trại có hiềm nghi lớn nhất, cứ làm theo lời tham mưu đi, trước tiên bao vây thẩm vấn. Nếu như có kẻ cầm vũ khí chống đối, chắc chắn kẻ đó chính là loạn đảng."

***

Ba ngày sau, Ngư Gia Trại.

Sắc trời hửng sáng, ánh bình minh phá vỡ tầng mây rọi xuống mặt đất, màn sương mù mỏng bao lấy dãy núi, mặt hồ lóe lên sắc vàng nhạt, giữa núi non trùng điệp là một khoảng đồng ruộng trải dài, nhà gỗ chằng chịt mọc lên, đây đã từng là nơi thôn xóm khói lửa sung túc, vậy mà giờ đây chỉ còn lại một đống đổ nát hoang tàn, cửa trại bằng gỗ bị sụp mất một bên, ba chữ "Ngư Gia Trại" cũng bị chém nát để lại vết đao sâu hoắm, bên cạnh vương vãi nông cụ và máu tươi.

Có tiếng "ầm ầm" vang lên, từng cơn vó ngựa như có thiên quân vạn mã giậm chân bước tới, bụi mù cuồn cuộn bay, một hàng kỵ binh đeo giáp nặng đạp nắng ban mai đi tới, đoàn kỵ binh đạp lên cả Ngư Gia Trại tan hoang, đi sâu vào vùng trung bộ, khắp nơi toàn là vết đao búa, chỉ là không thấy bất cứ một xác chết nào.

Cách đó không xa bỗng nhiên truyền đến tiếng thét chói tai, kỵ binh dẫn đầu giá ngựa phóng qua hàng rào chắn đã sụp đổ, khi tuấn mã đang bay vùn vụt thì nhanh chóng tung người xuống ngựa, bước hai ba bước vụt lên phía trước, dùng trường thương đẩy tên đàn ông lực lưỡng đang đè lên trên người phụ nữ với ý đồ làm bậy, rồi hắn nhấc chân mạnh mẽ đạp về phía ngực tên tráng hán, thoáng cái xương ức gã ta lõm vào trong, mất mạng tại chỗ.

Nhìn lại đường đi phía sau lưng kỵ binh, những nơi hắn đi qua là dấu chân lún sâu đến hai ba xăng-ti-mét, đủ thấy sức lực kinh khủng đến nhường nào.

Người phụ nữ hoảng sợ nhìn bọn họ, ôm cánh tay mình co ro người lại, trên đỉnh đầu bỗng chốc tối sầm lại, vô thức vươn tay bắt lấy, xúc cảm trong tay nói cho nàng biết đó là một mảnh vải, rồi sau đó nàng nghe thấy một giọng nói trầm thấp lạnh lùng vang lên: "Ngươi là người của Ngư Gia Trại còn sống sót sao?"

"Không, không phải, ta không phải... Ta là, ta là người của Diêm bang, vốn là đến đây để thu sổ muối của tháng trước, không ngờ gặp phải quan phủ đến Ngư Gia Trại tiêu diệt loạn đảng, lúc ấy hai bên chém giết lẫn nhau, ta sợ bị dính líu mới tìm chỗ trốn, thấy trời vừa sáng đi ra ngoài, kết quả gặp phải sơn tặc đến sửa mái nhà dột, suýt nữa là bị hắn —— nhờ có đại nhân cứu giúp, Tam nương vô cùng cảm kích! Đại nhân, ta không phải là loạn đảng Ngư Gia Trại, ta thật sự là người của Diêm bang ở Thanh Sơn, Từ Châu, chúng ta còn có công văn chấp thuận cho đào giếng muối của Diêm thiết ti trong vùng —— "

"Ngư Gia Trại bị Tri phủ Từ Châu lấy tội loạn đảng mang binh tới vây quét sao?"

Tam nương chần chừ: "Lúc ấy ta đang trốn, không nhìn thấy người, nhưng có nghe thấy quân lính gọi thống lĩnh là 'Tôn tham nghị', còn nghe bọn họ nhắc đến 'bạc cứu trợ thiên tai', 'An soái ty' gì đó?"

"Ngư Gia Trại có còn người nào sống sót không?"

"Chắc là giết khoảng tám, chín người, những ngư dân còn lại thì bị bắt vào đại lao, muốn định tội bọn họ chứa chấp tội phạm, cấu kết với loạn đảng."

"Đi đi. Sau khi rời khỏi đây đừng nói ngươi đã từng gặp chúng ta."

"Tam nương đã biết." Đến cả việc đến Ngư Gia Trại nàng cũng sẽ không nói, trước mắt ai dám có liên quan đến loạn đảng chứ?

Do dự tiến về phía trước mấy bước, Tam nương quay đầu lại nhìn mười mấy kỵ binh mang giáp nặng đứng yên tại chỗ, dáng người cường tráng cùng với tuấn mã cao lớn bên người càng tăng thêm sức mạnh, đâu đấy mang khí phách mạnh mẽ phảng phất như thiên binh thiên tướng trị ác phạt tham trong thoại bản, khí thế không giận tự uy làm lòng người run sợ.

Tam nương không dám ở lâu, nhanh chân rời đi.

"Tướng quân, chúng ta đến chậm một bước rồi. Ngư Gia Trại vẫn bị bắt làm dê thế tội, đoán chừng Trấn an sứ bên kia đã chuẩn bị xong nhân chứng vật chứng cả rồi, chỉ chờ ba đường hội thẩm, đồng ý kết án, lúc ấy vụ án Chương Tòng Lộ và hai trăm vạn lượng bạc bị cướp chỉ còn nước chấm dứt thôi."

Tháo khóa cởi bỏ mũ sắt che kín đầu, Hoắc Kinh Đường để lộ khuôn mặt khôi ngô: "Phải cứu ngư dân, tra rõ vụ án, bạc cứu trợ thiên tai cũng phải tìm ra cho bằng được."

Tán chỉ huy kỵ binh hạng nặng: "Nhưng bây giờ chúng ta chỉ biết là Chương Tòng Lộ chết trong tay An Hoài Đức, không biết bạc cứu trợ ở nơi nào, cũng không có chứng cứ An Hoài Đức tham ô bạc chữa sông, hoàn toàn mơ hồ, không biết ra tay từ đâu, đừng nói chi đến việc cứu ngư dân."

Hoắc Kinh Đường xoay người phóng lên ngựa: "Ở lại Từ Châu âm thầm điều tra trước đã."

"Rõ!" Tán chỉ huy xoay người lại, đặt ngón tay lên môi phát ra tiếng rít.

Mười mấy kỵ binh hạng nặng giải tán tại chỗ, không tiếp tục đi vào núi, không còn thấy bóng dáng, đến cả dấu vết từng đến cũng bị xoá bỏ sạch sẽ.

***

Đại nội Kinh Đô, hồ Long Đình.

Nguyên Thú đế đang câu cá, đứng bên cạnh là Khang Vương, chỉ chốc lát sau đại thái giám vội vã chạy tới, nhỏ giọng nói thái giám nội thị bên cạnh Hoàng hậu đưa canh ngọt tới, đang đợi hầu ở bên ngoài.

Nguyên Thú đế: "Bưng vào đây, nói là trẫm đột nhiên muốn ăn thịt vịt quay ở chỗ Hoàng hậu làm, buổi tối sẽ qua đó."

Đại thái giám nhận lệnh đi đáp lời, nhanh chóng mang canh ngọt quay lại, Nguyên Thú đế tự tay cầm lấy.

Khang vương khuyên nhủ: "Bệ hạ, canh nóng, hay là để cho nguội chút đã."

Nguyên Thú đế: "Ta thì cảm thấy uống xong lòng sẽ nguội lạnh."

Lời có ý sâu, nhưng chuyện liên quan đến đế hậu, Khang vương không dám tùy tiện tiếp lời.

Nguyên Thú đế uống hết canh ngọt, nhìn chằm chằm cần câu, trái lại chủ động lên tiếng: "Hoàng hậu là tới thăm dò ta, muốn xem thái độ của ta đối với việc bạc cứu trợ thiên tai bị mất."

Khang vương: "Thái tử thật sự dám đụng vào số bạc đó sao?"

Nguyên Thú đế: "Nó không hồ đồ đến nỗi này đâu."

Khang vương: "Vậy là Ngũ hoàng tử?"

Nguyên Thú đế: "Mặc dù lão Ngũ cậy mạnh ngang ngược, không có lòng nhân ái, nhưng nó rất nghe lời Thái tử."

Khang vương cau mày: "Không phải Thái tử, cũng chẳng phải Ngũ hoàng tử, chẳng lẽ là loạn đảng? Nhưng mà chưa từng nghe nói có loạn đảng dám cướp quan ngân ở Từ Châu —— tấu chương mà An Hoài Đức truyền về nói rằng có loạn đảng dùng vũ khí giết quân lính, sau đó bị tiêu diệt toàn bộ, mà những người chứa chấp loạn đảng cũng đã bị nhốt vào nhà lao, chẳng qua là vẫn chưa thẩm tra ra được tung tích của khoản tiền kia."

Nguyên Thú đế: "Chậm chạp quá."

"Bệ hạ đã sớm đoán được hành tung của An Hoài Đức rồi sao?"

"Tấu chương của Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu có nhắc đến Ngư Gia Trại, trẫm đã nghi ngờ bọn họ bị làm dê thế tội, sẵn tiện giải quyết hai vụ án Chương Tòng Lộ và bạc cứu trợ bị cướp, cho nên đã lệnh cho Tử Uyên mang mười lăm thiết kỵ Đường Hà ra roi thúc ngựa đến Ngư Gia Trại Từ Châu rồi. Trẫm nhận được tin tức muộn hơn so với An Hoài Đức, lệnh triệu tập đưa tới đưa lui, cũng đã đoán trước được tình huống dây dưa lỡ việc."

Nguyên Thú đế đứng dậy, hai tay chắp sau lưng đi về phía trước: "Cũng may An Hoài Đức không dám tàn sát một trại cá mấy ngàn người, lão ta chỉ biết lựa ra mấy người cho là loạn đảng rồi đánh chết tại chỗ, để cho bọn họ chết không có đối chứng, không có cách nào mở miệng kêu oan mà thôi. Những ngư dân khác thì gánh phải tội danh 'chứa chấp', phải chờ ba đường hội thẩm, nhưng lời buộc tội đều đã bị thêu dệt cả rồi, mấy ngàn cái miệng cũng khó mà tả nổi."

Khang vương kinh hãi không thôi: "An Hoài Đức này chẳng phải coi trời bằng vung quá rồi sao?"

Ông càng nghĩ càng cảm thấy lạ, bạc cứu trợ thiên tai bị cướp đi đều không phải do Thái tử và Ngũ hoàng tử làm, An Hoài Đức là người của Thái tử, cho nên bạc đó cũng không phải là do lão cướp.

An Hoài Đức chỉ là đang lợi dụng việc này để đội cái nồi Chương Tòng Lộ chết cháy lên đầu loạn đảng thôi ư?

Vậy thì bạc cứu trợ kia là do ai cướp?

Khang vương trăm mối không lời giải, lại nghe Nguyên Thú đế nói: "Bạc cứu trợ thiên tai bị cướp sẽ làm cháy nhà lòi mặt chuột."

"Cái gì?

Nguyên Thú đế khoát khoát tay: "Đợi ta truyền một thủ dụ, lệnh cho Tử Uyên ở lại Hoài Nam tra rõ mọi chuyện, không tra được thì cứ ở đấy đi đừng về nữa. Đỡ phải ngày nào cũng nhàn rỗi chẳng làm nên chuyện gì, chướng mắt."

Khang vương: "..."

***

Đông cung.

Thái tử tháo mũ quan ném lên bàn quát hỏi: "Có phải đệ đụng vào bạc cứu trợ thiên tai không hả?"

Ngũ hoàng tử: "Đệ không có đụng! Đầu sóng ngọn gió, làm sao đệ dám? Nếu như đệ thật sự đụng vào, thì dù có là hoàng tử vương tôn, phụ hoàng cũng nhất định sẽ lấy cái đầu đệ mất!"

Thái tử thấy gã thành khẩn: "Thật sự không phải đệ làm à?"

Ngũ hoàng tử cảm thấy mình rất oan ức: "Đệ không bất lực đến nỗi đó! Lúc đệ biết số bạc đó bị cướp mất, sau lưng cũng rịn đầy mồ hôi lạnh, bà mẹ ông đây, ai mà có gan lớn dám nhúng tay vào bạc cứu trợ thế? Hắn muốn đối nghịch với cả triều đình này hay sao?"

Thái tử: "Bất kể thế nào đi nữa, phải để cho An Hoài Đức xử lý cho xong chuyện này, hai trăm vạn lượng bạc phải do chúng ta tìm ra được. Chỉ cần ta tìm được bạc trước, thì quyền chủ động sẽ nằm trong tay chúng ta ngay."

Ngũ hoàng tử: "Đệ biết rồi."

***

Chùa Nhất Sơn ngoài thành Bành, Từ Châu.

Hoắc Kinh Đường mở thư gửi từ huyện Giang Dương tới, trong bức thư đầu tiên nói ngắn gọn tình hình dịch bệnh ở Giang Dương cơ bản đã khống chế được, may mắn được thần linh phù hộ nên không bị lây bệnh, thân thể vẫn khỏe mạnh.

Sang bức thư thứ hai mặc dù không viết lời nhung nhớ nhưng lại tràn ngập nỗi nhớ mong, Triệu Bạch Ngư tỉ mỉ kể từng bữa ăn của y ở huyện Giang Dương, nhắc đến các món đặc sản ngũ vị ở nơi đó, y bảo 'Chăm tỳ dưỡng dạ, vô cùng có lợi. Mỗi ngày ba lần đến tâm sự với chủ quán, chủ quán còn rộng rãi tặng cho bánh ngọt'."

Y nói mình vốn định cố gắng thử một chút nhưng suýt nữa là đốt cháy phòng bếp, thế là bị Nghiên Băng đuổi ra, tự giác biết mình không có tài nấu nướng, vậy nên không có cửa bỏ nghề đi nấu canh cho lang quân uống rồi.

Người ta thì đi dập lửa, Triệu Bạch Ngư ngồi trong đình xem, trông thấy ánh trăng như nước, bỗng nhiên muốn viết thơ, đáng tiếc vốn từ quá nghèo nàn, bản thân cũng không có thiên phú làm thơ, 'Chỉ là nhìn núi ngắm sông, trăm ngàn suy nghĩ rối bời, lòng ta vẫn muốn vì chàng làm thơ, nhưng nào ngờ lại thấy cô đơn.'

Một quả cầu tròn trĩnh bay thẳng vào giữa lồng ngực Hoắc Kinh Đường, hắn nhìn đi nhìn lại mấy câu này biết bao lần, ngón trỏ vuốt ve lên dấu mực còn mới, tự lẩm bẩm: "Tiểu lang tài hoa hơn người, sao lại có khuyết điểm không biết làm thơ chứ? Đợi việc ở Hoài Nam xong xuôi, phải mời đại nho dạy tiểu lang cách làm thơ mới được."

Cuối thư còn nhắc đến dây mây hoa vàng quấn quít gì đó, chỉ vẻn vẹn một câu 'Giữ chặt trong tim, vô cùng trân quý' thôi cũng đủ để Hoắc Kinh Đường tựa vào cửa sổ cười mãi không ngớt với đám hoa cỏ trong sân rồi.

Tán chỉ huy mặc thường phục mới đi điều tra về, nhìn từ xa thấy vậy bèn hỏi người bên ngoài: "Tâm trạng của tướng quân tốt lắm sao?"

Đồng liêu: "Tiểu Triệu đại nhân gửi thư tới, từ sáng sớm tướng quân đã đọc thư xong, ở trong sân múa thương, một bộ bao nhiêu chiêu thức đều múa xong bấy nhiêu rồi, sau đó cầm bức thư thứ hai lên đọc, đọc hết thư thì trở thành thế kia, trông cứ như là bị ma quỷ yêu tinh trên núi đoạt xá ấy." Nói rồi đẩy vào người Tán chỉ huy: "Ôi, có chuyện gì thì nhân lúc này nói đi, dù có sai sót gì đó, tướng quân cũng sẽ không nổi giận đâu."

Tán chỉ huy lắc đầu: "Tiếc quá, tin tức ta mang về không tốt cũng không xấu, lãng phí cơ hội tốt mất rồi."

Nói xong liền đi đến chỗ Hoắc Kinh Đường, mà lúc này, Hoắc Kinh Đường đã cầm bức thư thứ ba lên để đọc.

Tán chỉ huy lặng lẽ không tiếng động bước lên, đứng yên sau lưng Hoắc Kinh đường, chỉ nghĩ đợi lát nữa rồi báo cáo, bất ngờ nghe thấy tướng quân hỏi: "Có chuyện gì?"

Lòng gã không khỏi lộp độp một chút, nghe giọng nói kia kiểu gì cũng thấy lạnh như đóng băng, là ảo giác ư? Không phải mới xem xong thư của tiểu Triệu đại nhân gửi tới, tâm trạng tốt lắm sao?

"Đã tra được tung tích bạc cứu trợ thiên tai rồi."

"Ở đâu?"

"... Ở sơn trang Ký Sướng, Dương Châu."

Hoắc Kinh Đường bỗng dưng quay đầu: "Không tra sai chứ?!"

"Tiêu hạ chạy chết hai con ngựa, không ngủ không nghỉ ba ngày, vận dụng tất cả mối quen trong giang hồ mới truy được tung tích của bạc cứu trợ, nhất định sẽ không có sai sót gì!"

Hoắc Kinh Đường gác tay lên khung cửa sổ, ánh mắt rơi trên bụi cỏ cây tươi tốt bên ngoài, mặt vô cảm, chỉ ngưng đọng một tầng sát y mong mỏng.

"Phái người theo dõi sát sao chưa?"

"Toàn bộ hành trình đều có người theo dõi. Bên trong phòng thủ rất nghiêm ngặt, canh phòng dường như xuất thân Cấm quân. Liên quan đển việc lớn, thuộc hạ không dám hành động thiếu suy nghĩ."

"Ừ." Hoắc Kinh Đường nói: "Lui xuống đi."

Tán chỉ huy cả gan đề nghị: "Tướng quân, nhân lúc này lập tức ra tay đi, nhanh chóng khống chế sơn trang Ký Sướng, lấy lại bạc cứu trợ mới có thể nhìn thấu kế hoạch của An Hoài Đức để thoát khỏi tội thiêu chết Chương Tòng Lộ, giải cứu ngư dân bị giam trong ngục tù. Huống chi nếu để người khác tra được chuyện này trước, tiền rơi vào tay người khác sau đó đại tác văn chương, tướng quân ngài sẽ chỉ bị liên lụy —— "

"Lăn đi!"

Đột nhiên bị mắng, Tán chỉ huy cả kinh run rẩy vài cái, vội vàng rời khỏi phòng, đến khi ra ngoài sân cũng còn chưa dám ngẩng đầu, đồng liêu lặng lẽ lại gần hỏi chuyện gì xảy ra.

Nghe miêu tả xong, đồng liêu không khỏi ngạc nhiên: "Chẳng phải tâm trạng tướng quân rất tốt sao? Là bởi vì bạc cứu trợ thiên tai ở sơn trang Ký Sướng... Nhưng mà cái này thì có liên quan gì đến tướng quân? Sao ngươi lại nói là nó liên lụy đến ngài ấy?"

Tán chỉ huy lau mồ hôi lạnh trên trán đáp: "Sơn trang Ký Sướng là quà mà tiên đế ban cho Bát hoàng tử Tĩnh vương năm Nguyên Phong thứ bảy."

"!" Đồng liêu hít một ngụm khí lạnh, hạ thấp giọng: "Bạc cứu trợ bị cướp có liên quan đến Tĩnh vương... Đó không phải là sẽ liên lụy đến tướng quân hay sao?" Rồi gã lại nghĩ: "Nhưng mà quan hệ của tướng quân và Tĩnh vương không tốt, cha con sống chung mà như kẻ thù của nhau, sao mà lại tức giận như vậy? Ta ở ngoài cũng nghe thấy tướng quân mắng ngươi, từ khi ngài ấy bắt đầu lễ Phật thì rất ít khi nổi giận đến thế."

"Dù gì cũng là cha con, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Nếu thật sự có dính dáng đến Tĩnh vương, chẳng phải sẽ đẩy tướng quân vào chỗ chết sao?" Tán chỉ huy cũng cảm thấy lòng nguội lạnh: "Đại nghĩa diệt thân thì bất hiếu, bao che thì bất trung, tiến thoái lưỡng nan thật."

Hai người đồng thời nhìn về phía đình viện, vô cùng thổn thức.

Vậy mà đâu biết lúc này trong đầu Hoắc Kinh Đường làm gì có Tĩnh vương, chút tình cảm cha con giữa hắn và lão già đó đã sớm hao mòn từ những cuộc ám sát không hồi kết rồi, điều đang khiến cho hắn tức giận là bức thư thứ ba của Triệu Bạch Ngư.

Trong thư, Triệu Bạch Ngư nhắc đến chuyện Từ Minh Bích và Lý Ý Như, tuy không nói rõ, nhưng có thể nhìn ra thái độ của y chính là không đồng ý với việc Lý Ý Như dùng tín vật đính hôn là trâm Như Ý để đại diện cho bản thân, còn nói Lý Ý Như là một người không lệ thuộc ai, không nên để nàng tới làm công cụ thuyết phục Từ Minh Bích xuống núi.

Dĩ nhiên lời nói không sắc bén như cách Hoắc Kinh Đường tự diễn giải, trên thực tế giọng điệu của y mềm mỏng không rõ ràng, thậm chí còn thông cảm cho Hoắc Kinh Đường vì đã giúp y trong lúc nguy cấp, mới mượn một tay Lý Ý Như mời Từ Minh Bích lộ diện.

Nhưng mà Hoắc Kinh Đường vẫn không vui.

Khảy vòng phật khiến cho mọi phiền não bay biến để lại thanh tĩnh, trước đây thì có tác dụng, nhưng bây giờ thì lại không, càng khảy càng loạn, Hoắc Kinh Đường không khỏi suy nghĩ, chẳng biết tại sao Triệu Bạch Ngư lại cố tình viết một bức thư cho Lý Ý Như?

Thư được đưa tới tổng công có ba bức, tính tới tính lui cũng chỉ có một phong thư kín nói lời tương tư, còn bức thứ ba chỉ toàn giấy tờ và nói về người khác.

Tình cảm của y đối với Lý Ý Như là gì?

Hoắc Kinh Đường không phải là người dễ tức giận, nhưng lúc này nhấc bút viết thư hồi âm, lại chỉ có một dòng chữ:

"Tiểu lang trách ta?"

==

Tác giả muốn nói:

Lão Hoắc: Tôi giận rồi.

Rất nhanh rồi sẽ dỗ được thôi, cãi nhau ầm ĩ chút chíu mới là thú vui nơi khuê phòng ~

==

Min: Chồng chồng đầu giường dỗi nhau cuối giường hoà, lão Hoắc đến ôm em hun em lăn lăn lăn cái là hả giận thôi à 🥰

🤔 Hmm chuẩn bị đổi xưng hô được chưa ta ~

==

Chương 33

Phủ Dương Châu, huyện Giang Dương.

Trong con hẻm cũ thưa thớt nhà chỉ còn một một gia đình ở, gió thổi đèn lồng treo cửa phát ra tiếng cọt kẹt, tựa như một ông lão kéo dài hơi tàn trong đêm gió tàn ác.

Đột nhiên có một thân ảnh nhỏ gầy, bước chân tập tễnh ngã xuống trước cánh cửa treo đèn, cửa được mở ra từ bên trong, một lão bá tóc hoa tâm bước ra, ông lật người trên mặt đất lên, thấy được khuôn mặt xinh đẹp dưới mái tóc tán loạn.

Lão bá nhìn chằm chằm hai cái lỗ xỏ trên tai, có hai lỗ xỏ, quả nhiên là một cô gái.

Lão bá nhìn bốn phía, một lát sau đưa cô gái đã bất tỉnh vào nhà.

Bóng đêm dần buông xuống, dấu chân người ít dần, gió đêm rít qua con phố lấn át cả tiếng bước chân của người đi đường. Một bóng người cao to cường tráng dừng lại dưới đèn lồng, giơ tay lên gõ cửa, liền nghe thấy bên trong có người hỏi là người phương nào đang gõ cửa.

"Xin hỏi nơi này có phải nhà của Đặng Vấn An, người huyện Giang Dương trong vụ án oan chấn động phủ Dương Châu không?"

Một lát sau, có tiếng bước chân vội vã đến gần cửa, khuôn mặt ẩn giấu dưới nón lá của bóng người cao lớn nở một nụ cười đắc ý, giọng nói già nua kia vừa hỏi hắn vừa mở cửa: "Đây là nhà của Đặng Vấn An, xin hỏi ngươi là?"

Người ngoài cửa rút đao ra, ánh sáng lóe lên trên lưỡi đao phản chiếu ánh mắt hung ác dưới vành nón: "Ta là người Phủ dụ sứ đại nhân huyện Giang Dương phái tới đón ngài đến công đường đối chất với nha dịch."

"Không phải bảo ngày mai mới đi sao?"

"Bên huyện Giang Dương thúc giục gấp quá, ta cũng không có cách nào khác."

Lão bá nhìn xuyên qua khe cửa, thấy người bên ngoài quả thật mặc quần áo nha dịch nên không nghi ngờ quá nhiều, quả thật trước đây cũng có nha dịch huyện Giang Dương đến đón ông đến công đường đối chất, nhưng khi đó ông đang bị bệnh nên không đi theo được, đã làm trễ nãi không ít ngày rồi.

Đang định mở cửa, từ bên cạnh có một cánh tay vươn ra đè tay ông lại, lão bá quay đầu nhìn sang, ấy vậy mà lại là cô gái mà sáng nay ông cứu được.

Cô gái rút dao ra, ra hiệu cho lão bá lui về phía sau, người bên ngoài đợi lâu mà không thấy cửa mở ra liền đá một cước văn cửa, mặt mày hung ác vung đao lên chém xuống, nếu không nhờ cô gái kia cảnh giác, lão bá đã bỏ mạng ở nơi này rồi.

Cô gái võ nghệ cao cường, chặn được một cú trí mạng rồi vươn tay bổ về phía hung đồ, dùng cán dao đánh về phía ngực hắn rồi nhấc chân đá vào thân dưới của hắn, lúc này hung đồ mất đi sức lực hành động, quỳ xuống đất đau đớn kêu rên.

Cô gái gác dao trên cổ hung đồ, cắt ra một vết máu, hỏi hắn: "Ngươi là ai?"

"Đừng, đừng giết ta! Ta là Ban đầu sai dịch địa phương! Ngươi mà dám giết ta thì chờ bị quan phủ truy tội đi!"

Cô gái gọi lão bá đến nhận mặt hắn, lão bá mở to mắt nhìn, gật đầu khẳng định: "Tên này chính là Ban đầu huyện Giang Đô, lúc trước hắn từng dẫn sai dịch huyện Giang Dương đến gặp ta." Ngay sau đó hoài nghi: "Tại sao ngươi phải giết ta?"

Ánh mắt Ban đầu lóe lên: "Cầm tiền của người, giúp kẻ khác tiêu tai."

"Giúp ai tiêu tai?" Lão bá chợt hiểu ra, "Được lắm! Là cẩu quan Huyện lệnh Giang Dương xúi giục ngươi tới giết người diệt khẩu, có đúng hay không?"

Ban đầu cười nhạt: "Ông biết thì tốt! Tôi nói cho ông biết, vụ án của con trai ông dính dấp đến An phủ sứ Hoài Nam và Tri phủ Dương Châu, đây chính là quan viên nhị phẩm, ngũ phẩm trong triều! Có thể để cho một tên thường dân như ông kéo xuống ngựa sao? Lần này mà rửa sạch oan khuất, các người sẽ đắc tội với Tri phủ Dương Châu, sau này còn có thể có cuộc sống tốt sao? Ông không phát hiện nha dịch bảo vệ an toàn cho mình đều đã đi hết rồi sao? Bởi vì Huyện lệnh địa phương cũng đã sợ vì ông mà đắc tội quan trên đấy!"

Sắc mặt lão bá hoảng hốt, tựa như trời có sập cũng không dám tin.

Trái lại cô gái quát lên: "Ngươi nói láo! Án oan trong sạch, Tri phủ Dương Châu nhiều lắm là bị cách chức, nhưng cũng có thể chỉ bị trách phá án không thuận lợi, phạt bổng lộc thôi. Còn Huyện lệnh Giang Dương kia đã bị tháo mũ quan, bản thân còn khó bảo toàn, lấy đâu ra năng lực hối lộ ngươi đến giết người? Ta thấy không phải là Lữ Lương Sĩ, mà là ngươi muốn giết nguời diệt khẩu!"

Mặt mũi Ban đầu co quắp hung tợn, có chút luống cuống, hung dữ trợn mắt nhìn nàng.

Cô gái tiếp tục suy đoán: "Ta nghe nói tội phạm giết người thật sự tên là Vương Quốc Chí, trà trộn vào trong đội ngũ sai dịch lợi dụng chức quyền, chẳng lẽ là hắn đang trốn ở huyện Giang Đô, không chỉ lẻn vào đội sai dịch địa phương mà còn làm Ban đầu nữa?"

Ban đầu kinh hãi, chân tướng đã bại lộ.

Cô gái và lão bá đều ngạc nhiên vì quan liêu địa phương lại thối nát vô liêm sỉ đến vậy, không chỉ cho một tội phạm giết người bỏ trốn mà còn đế cho hắn chạy đến một huyện khác tiếp tục làm việc, đợi tình thế qua đi chẳng phải còn lạm dụng quyền thế làm chuyện ác hơn nữa sao?!

Kể cũng lạ, hơn phân nửa đội ngũ sai dịch tại huyện nha các nơi ở Đại Cảnh đều không phải là công chức chính thức, mà là được Nha môn thuê, đến những quý nào bận rộn quá liền tuyển người làm rộng rãi, vì vậy cỏ đuôi chồn* hay trộm cắp mới thường xuyên trà trộn vào.

(*) Cỏ đuôi chồn ý chỉ kẻ xấu

Nhất là gần đây chế độ sương phường thay đổi, cần nhiều người làm hơn, người bên dưới phụ trách xét duyệt chỉ nhận tiền chứ không nhìn lai lịch của nha dịch được thuê, mới dẫn đến họa ngày hôm nay.

Cô hái đánh ngất Ban đầu, trói lại ném vào trong phòng, sau đó bái tạ ơn cứu mạng của lão bá.

Lão bá lại nói: "Cô nương mới là người cứu mạng ta và con trai ta, hẳn là ta thiếu cô nương một mạng mới đúng. Ta nghe khẩu âm của cô giống như không phải người Dương Châu, cô tới đây là để tìm người thân sao?"

Cô gái do dự một chút, quỳ xuống đất nói: "Ta có một nỗi oan tình vô cùng lớn muốn mượn oan án của lệnh lang để tố cáo lên Khâm sai, xin lão bá tương trợ!"

Đặng lão bá hỏi: "Là oan tình thế nào?"

Cô gái ngẩng đầu, ánh mắt kiên định: Ta tên là Hoàng Thanh Thường, là nữ cô nhi của Hoàng gia đệ nhất hoàng thương ở Dương Châu, trạng cáo Trấn an sứ quan tham nghị Soái ty Hoài Nam mưu tài hại mệnh, giết cả nhà Hoàng thị ta, cướp bạc cứu trợ thiên tai Hoài Nam, bôi nhọ ba ngàn ngư dân là loạn đảng, tội ác tày trời!"

***

Quán trọ huyện Giang Dương, Triệu Bạch Ngư cầm tờ giấy ghi công thức canh ô mai từ bên ngoài về, bị Nghiên Băng nhìn như nhìn kẻ địch đang đến gần.

"Ngũ lang, ta thay ngài bồi thường bạc còn phải xin lỗi quá chừng, chủ trọ mới không đuổi chúng ta ra ngoài đó, ngài ngàn vạn lần đừng đụng vô nhà bếp nữa, người xưa đều nói quân tử nên tránh xa bếp núc, ngài vẫn là nên làm quân tử đi ạ."

Triệu Bạch Ngư: "Ta chỉ đốt củi nấu ít nước đường thôi à, không có dùng dầu nóng không xào thức ăn đâu."

Nghiên Băng làm thinh, nhìn y chằm chằm.

Triệu Bạch Ngư ngượng ngùng: "Thôi được rồi, ngày mai là khai đường thẩm án rồi, ta nghiên cứu vụ án thôi."

Nghiên Băng lầm bầm: "Vậy mới được chứ." Vừa quay đầu lại liền nhìn thấy Thôi phó quan đi ngang qua cửa viện, mặt đầy oán hận khiến cho nó bị dọa cho nổi đầy da gà: "Thôi phó quan hai ngày gần đây sao thế? Mặt đầy oán khí như bị ai vứt bỏ vậy, lão cứ chạy tới đây mà chẳng nói lời nào, cứ oán giận mà dòm ngài —— Úi! Có phải hắn nảy sinh tâm tư làm loạn ngài gì đó không!"

"Bậy nào! Có những lời không thể tùy tiện nói ra đâu."

Triệu Bạch Ngư có hơi lúng túng, làm sao y có thể nói là vị kia nhà mình bỗng nhiên nổi giận, bộ hạ đi theo hắn cũng cảm giác được áp lực nặng nề như núi đè, vậy cho nên đã thông qua thư ép Thôi phó quan tìm Triệu Bạch Ngư nói vài lời mềm mỏng dễ nghe, Thôi phó quan nổi tiếng kém may mắn, thỉnh thoảng đánh cược hai cây nên thiếu không ít tiền, lại còn bị đồng liêu ném cái áp lực quỷ quái kia sang cho, bảo sao gã không trưng cái mặt ai oán ra mỗi ngày cho được?

Y nhớ lại lúc viết thư, mỗi một câu văn viết xuống y đều lựa lời tới lui, chắc chắn không mạo phạm tiểu quận vương rồi mà, làm sao hắn còn tức giận đến như vậy chứ?

Mà hai ngày này y cũng nhận được thư từ phủ Kinh Đô, Lý Ý Như đã nói ra mối quan hệ giữa mình và Từ Minh Bích cùng nguyên nhân nàng ở lại lầu xanh, còn cả việc vì sao huyết phách ngàn năm nằm trong tay nàng, tất cả đều nói rõ mồn một, giọng điệu sửng sốt nhưng thản nhiên: "Khuyên Từ đại phu rời núi bất quá chỉ là một cái nhấc tay thôi, còn là công đức cứu lấy vạn người, sao ta có thể không thể tình nguyện chứ? Còn về tiền duyên của ta và Từ đại phu có nối lại được hay không, còn phải xem ông trời sắp đặt như thế nào. Ta thuận theo lòng trời, Từ đại phu cũng không ép buộc, tùy duyên mà đi, tùy duyên mà định. Nhưng mà —— "

"Tiểu Triệu đại nhân, ta vô cùng cảm ơn ngài vì đã quan tâm và tôn trọng ta, ngài có lẽ sẽ không hiểu được nỗi xúc động sâu sắc nhường nào trong nháy mắt khi ta đọc bức thư mà tiểu quận vương gửi đến đâu."

Triệu Bạch Ngư đúng là không thể cảm động lây nỗi xúc động của Lý Ý Như, chẳng qua y chỉ đang làm chuyện mà mình cho là rất đỗi bình thường, cũng rất đúng đắn mà thôi, lòng tôn trọng tư cách của một người không bị ràng buộc bởi thứ gì bất kể là nam hay nữ, dù là hèn hạ hay cao quý chính là con dấu đã khắc sâu vào trong xương tủy cùng y đi qua thời đại.

Người xưa thích dùng trò lấy thân báo đáp, phụ nữ có thân phận cao quý còn bị lấy làm công cụ kết giao, Lý Ý Như chỉ là người thường, thân phận của nàng có thể tránh khỏi cái số phải giao nộp số mệnh của mình đi sao?

Cho dù ngoài miệng Từ Minh Bích nói là "Không dám nghĩ", nói hắn "Tôn trọng", và Hoắc Kinh Đường chỉ là người nhờ vả Lý Ý Như mở miệng bán ân huệ, y vẫn sợ rồi sẽ có người mổ xẻ nó thành ý đồ khác.

Có điều Lý Ý Như lại cố tình gửi bức thư này tới đã xóa tan băn khoăn của Triệu Bạch Ngư, trái lại khiến cho y nảy sinh lòng áy náy, vì y quá lo lắng mà hiểu lầm Hoắc Kinh Đường, tuy nhiên bản chất cũng là do y vẫn chưa thấu hiểu Hoắc Kinh Đường.

Dòng dõi thiên hoàng quý tộc trong phủ Kinh Đô nhiều vô số kể, dù có là quyền quý bình dị gần dân cũng từng đánh chết mấy tên nô tài mạo phạm, chứ đừng nhắc đến ca cơ được tặng vào trong các phủ, ba năm phá án, Triệu Bạch Ngư nhìn thấy không biết bao nhiêu vụ đầm đìa máu thịt, cho dù là sau khi kết hôn, sống chung vài tháng với Hoắc Kinh Đường để cho y biết được hắn có lòng dạ chính nhân quân tử, nhưng chủ quan vẫn là theo bản năng hoài nghi người ta.

Thật ra Triệu Bạch Ngư biết Hoắc Kinh Đường không giống như những kẻ quyền quý khác trong Kinh Đô xem phụ nữ là công cụ trao đổi, là bởi vì y xem thường nơi này, chứ không hẳn là vì y tôn trọng nhân cách của mỗi một cá nhân.

Vương quyền phong kiến nào có quan niệm tất cả mọi người đều bình đẳng, tìm đâu ra tôn trọng nhân cách?

Triệu Bạch Ngư hiểu, cho nên y chưa bao giờ cưỡng cầu Hoắc Kinh Đường phải có tư tưởng giống mình, thư gửi đi cũng cố gắng hết sức tránh đi những chữ tương tự, cũng che giấu đi một vài suy nghĩ không hợp thời đại rồi.

Nhưng bất kể là nguyên nhân gì đi chăng nữa, thì y cũng đã hiểu lầm Hoắc Kinh Đường mất rồi.

Mấy ngày mới nhận được một bức thư, thế mà chỉ có một lời hỏi 'Tiểu lang trách ta?', nhưng lá thư vô cớ của Lý Ý Như bỗng nhiên tới tay đã giải thích được lý do tính tình Hoắc Kinh Đường thay đổi như vậy, hắn lôi kéo Lý Ý Như giải thích nhưng chẳng nói lời nào, lại im lặng tỏ thái độ 'tiểu lang sai còn trách ta', sao mà cảm giác có chút tủi thân nhỉ?

Triệu Bạch Ngư che miệng, không nhịn được bật cười, tính nết này của Hoắc Kinh Đường sao lại đáng yêu thế này chứ?

Y không thể làm gì khác hơn là ngày nào cũng gửi đi hai phong thư, Hoắc Kinh Đường đã đến Dương Châu rồi, cách nhau không quá xa, bằng không bồ câu đưa thư sẽ mệt chết —— cũng may không nhờ Hải Đông Thanh bay đi giao thư nhà của đôi chồng chồng, nếu không lại phải xin lỗi vua của vạn ưng trân quý mất.

Trong thư lời tốt lời xấu đều nói ra một lượt, Triệu Bạch Ngư vắt sạch óc, suýt chút nữa là định chép lại hết mấy lời tỏ tình mà mọi người hay dùng đời trước, may nhờ tôn nghiêm của người có học ra lệnh cho y chừa lại ranh giới cuối cùng.

Vả lại,

Triệu Bạch Ngư thấp giọng rầm rì: "Ta cũng không muốn dùng lời tỏ tình người khác đã từng dùng viết cho Hoắc Kinh Đường, không lễ phép lắm."

Không thể không lễ phép, không thể không tôn trọng, phải chân thành, phải thật lòng, nhưng mà khó dỗ quá đi.

Tính tình của Hoắc Kinh Đường kém thật.

Triệu Bạch Ngư vừa viết xong mấy lời dụ dỗ, vừa bất đắc dĩ lắc đầu, y nghĩ thầm, cuối cùng y cũng phải tin lời Hải thúc nói rằng tính tình của tiểu quận vương rất kém.

Nghe miêu tả thì tiểu quận vương giống như là một người được muôn vàng yêu thương trở nên ngỗ ngược vậy, cả Kinh Đô náo nhiệt kia đều coi hắn là hỗn thế ma vương, đến cả khi đứng trước Nguyên Thú đế còn có thể vứt hết mặt mũi cơ mà.

Ào ạt sao rơi, yên bạc bạch mã, khí phách hiên ngang, cùng với Hoắc Kinh Đường trưởng thành, luôn không mấy phấn chấn và dễ nóng nảy bên cạnh Triệu Bạch Ngư tưởng chừng như là hai người khác nhau.

"Khanh khanh phu lang —— khụ!" Hai tai Triệu Bạch Ngư ửng đỏ, ngẫm nghĩ một chút vẫn cảm thấy quá khó chịu, vậy nên đổi một tờ khác viết thành 'phu quân', vừa đặt bút lại cảm thấy với sự tức giận và độ khó dỗ dành Hoắc Kinh Đường, sợ rằng không dễ gì giải quyết như vậy, thế là y cố nhịn lại lòng xấu hổ mãnh liệt mà viết xuống: "Khanh khanh phu quân*, thấy thư như gặp người, mở thư giãn mi mắt."

(*) Khanh khanh phu quân là kiểu gọi như chồng ơi chồng à á, để dỗ chồng mà con zai tui bán hết mọe thúng giá rùi =))))))

Hạ bút vết như thần, chân thành viết đầy năm trang giấy, viết xong nhìn lại mở đầu 'Khanh khanh phu quân' liền ổn định trở lại, không chút gợn sóng.

Nhìn một lượt thư dùng bao nhiêu lần 'khanh khanh', 'phu lang', 'phu quân', còn có cái gì mà trăm mối tương tư, ngàn vạn nỗi nhớ, trái tim của Triệu Bạch Ngư đã được tôi luyện đến mức vô cùng vững vàng rồi.

Viết xong liền mang thư đi gửi ngay, nhìn thấy ven đường có một cây hoa đào nở tháng mười kết một chùm nụ hoa nhỏ, Triệu Bạch Ngư ngắt thêm một mảng lá xanh mở thư ra để vào, giấu hoa lá trong thư cùng đưa đến Dương Châu.

Sau khi xong xuôi, quay về thì gặp một cô gái và ông lão đang đứng trước cửa quán trọ, nhưng đang bị quan sai ngăn lại.

Tuy có thủ dụ của Khâm sai không được phép ngăn cản người khác đến tìm chỗ nghỉ trọ, nhưng kiểm tra danh tính của lữ khách cũng là nhiệm vụ thông thường phải làm.

Cô gái nói: "Ta tên Hoàng Thanh Thường, là người Giang Nam. Vị này là cữu gia của ta, người Giang Đô. Bởi vì bệnh dịch đột phát, người nhà bệnh đã mất rồi, vậy nên đến huyện Giang Dương nhờ cậy người thân, nhưng thân thích lại lạnh lùng đuổi chúng ta ra khỏi nhà, chỉ có thể đi mướn phòng trọ thôi."

"Vậy có giấy phép đi đường không?"

"Ngài xem."

Quan sai nhìn giấy phép xong, nhác thấy phía sau bọn họ không xa còn có một chiếc xe ba gác bèn hỏi: "Đó là gì của các ngươi?"

Ông lão run rẩy đáp: "Là con trai lão, bị liệt nhiều năm rồi, xin quan gia tha cho..."

"Được rồi được rồi, vào đi thôi." Quan sai không làm khó nữa, thở dài thườn thượt: "Đúng là đáng thương."

Triệu Bạch Ngư đi ngang qua từ bên cạnh, tận mắt thấy bọn họ đi vào đường nhỏ đối diện sân, không tránh khỏi để ý nhiều hơn, mới vừa rồi người phụ nữ kia nói nàng là người Giang Nam, rõ ràng khẩu âm Từ Châu rất nặng.

Lúc đến huyện Giang Dương đi đường thủy, Triệu Bạch Ngư cố tình học giọng Từ Châu từ mấy người chạy nạn, vậy nên chỉ nghe qua là nhận ra ngay.

Trái lại ông lão kia thật sự nói giọng Giang Đô, nhưng càng kỳ lạ hơn chính là người đàn ông nằm trên xe kia, vóc dáng to khỏe nhưng lại không động đậy, toàn thân trên dưới đều bị chăn bọc lấy, còn có thể ngửi thấy mùi máu tanh.

Là một tổ hợp kỳ quái.

Triệu Bạch Ngư sờ mũi, chắp tay sau lưng tránh tai mắt quan sai đến viện của Thôi phó quan, nói hết mối nghi ngờ của mình cho Ngụy bá.

Ngụy bá: "Để tối nay ta đi thăm dò thử."

Triệu Bạch Ngư: "Đừng rút dây động rừng."

Ngụy bá: "Yên tâm đi, chỉ cần không phải người có thân thủ tầm cỡ tiểu quận vương, rất ít người có thể nhận ra ta."

***

Màn đêm buông xuống, Ngụy bá mò tới nơi dừng chân của đám người Hoàng Thanh Thường, núp ngay chân tường nghe lén ý đồ của Hoàng Thanh Thường cùng lão bá chính là vào nhà trọ nào để tố cáo lên Khâm sai, kinh hãi hơn là, Ngụy bá lẻn vào phòng bên cạnh, tìm đường Vương Quốc Chí đang bị trói lại, gân tay gân chân đều đã đứt hết.

Tìm được một hình xăm của băng trộm cướp trên ngực, đại khái đoán được thân phận của người này rồi, Ngụy bá lập tức quay lại phòng Triệu Bạch Ngư, thuật lại tin thám thính cho y nghe,

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên không thôi: "Hoàng Thanh Thường là nữ cô nhi hoàng thương Giang Nam và cha của Đặng Vấn An, còn có hung thủ thủ thật sự Vương Quốc Chí? Cũng kỳ lạ, mấy người chẳng có liên quan gì đến nhau tụ lại một chỗ, muốn trạng cáo quan tham nghị An phủ sứ Hoài Nam, thật sự là đâm Hoài Nam một nhát thủng trời rồi."

Đi qua đi lại, nghĩ tới nghĩ lui, Triệu Bạch Ngư đột nhiên nhớ đến một chuyện, dường như y chưa từng nghĩ sâu xa vì sao Hoắc Kinh Đường lại xuất hiện ở Dương Châu, không phải hắn nên ở phủ Kinh Đô hay sao?

Lúc đầu không nghĩ nhiều, cho rằng hắn đến đây vì y, nhưng vì sao lại dừng chân ở Dương Châu?

Là đến vì quan trường Hoài Nam sao?

Nguyên Thú đế thấy hắn chữa khỏi cổ độc rồi liền nhạt lại lòng tin ư? Vậy còn Lục hoàng tử thì sao?

Trữ quân hợp ý nói đổi liền đổi, không phải trò đùa, thật sự không giống như tác phong cẩn thận trước sau như một của Nguyên Thú đế.

Triệu Bạch Ngư càng ngày càng không đoán ra được tâm tư của Nguyên Thú đế, y lắc đầu một cái, trong đầu nghĩ, thôi không nghĩ nữa, chi bằng quay về thế cục trước mắt mình. Hoắc Kinh Đường ở Dương Châu chắc là vì quan trường Hoài Nam, chẳng lẽ hắn đã tra ra được gì rồi?

Hai trăm vạn cứu trợ thiên tai bị cướp ở Từ Châu là một cú tát giáng xuống mặt mũi triều đình và Nguyên Thú đế, Thái tử và Ngũ hoàng tử sẽ không ngu xuẩn đến mức này.

Hoài Nam hiện tại chính là một thùng thuốc nổ, tùy tiện châm lửa là có thể nổ tung, Thái tử không dám đạp vào vết sai, càng sợ hãi khi chuyện này xảy ra so với những người khác, vậy nên chuyện mất bạc này không liên quan gì đến hắn.

Nhưng mà rõ ràng Hoàng Thanh Thường nói nàng tận mắt thấy người cướp quan ngân là quan tham nghị An phủ sứ Hoài Nam, là bộ hạ của An Hoài Đức, hay là An Hoài Đức chủ trương gài bẫy Thái tử?

Hoặc là, gã phản chủ.

"Nào có chuyện nói phản chủ liền phản chủ dễ dàng như vậy?"

Người xưa nói về lễ nghi trung hiết, một lần bất trung trăm lần bất dụng, An Hoài Đức dám phản chủ có nghĩa là tiền đồ sắp đứt rồi, trù mưu tranh công làm việc trong suốt mấy thập niên mai kia coi như tát nước hết, người có đầu óc sẽ không làm như vậy.

"Ai có vấn đề?"

Hoàng Thanh Thường nói dối, hay là An Hoài Đức trị dưới không nghiêm, bộ hạ lạm dụng chức quyền?

Ngụy bá: "Ta cảm thấy lời nói của Hoàng Thanh Thường rất đáng tin."

Triệu Bạch Ngư: "Thế nào?"

Ngụy bá: "Sai dịch phái đi đón cha của Đặng Vấn An buổi chiều quay lại nói không thấy người, trong nhà còn có dấu vết ẩu đả, trên cửa có vết máu. Ngoài ra hai trăm vạn lượng cứu trợ thiên tai đúng là bị cướp ở khu vực Từ Châu, Cấm quân điều động tra được là do loạn đảng mà bảy mươi hai trại ngư dân chứa chấp gây nên, lúc trước đi bắt gặp phản kháng nên đã xử tử toàn bộ tại chỗ, ngư dân chứa chấp loạn đảng cũng bị bắt, chờ ba đường hội thẩm."

Triệu Bạch Ngư: "Dối trên gạt dưới, một tay che trời, An Hoài Đức không sợ triều đình tra được lên đầu gã sao." Y gõ bàn, trái lo phải nghĩ nhưng cũng tò mò: "Hoàng Thanh Thường và ngư dân Từ Châu, loạn đảng có quan hệ gì?"

Ngụy bá: "Chi bằng tự minh hỏi nàng đi?"

Triệu Bạch Ngư nhìn đậu đèn sáng nhấp nháy, lầm bầm: "Nước Hoài Nam sâu hơn tưởng tượng nhiều, xem ra thời tiết muốn thay đổi rồi."

Một lát sau, Triệu Bạch Ngư cười một tiếng đứng dậy: "Đi, đi gặp Hoàng Thanh Thường."

***

Mới đầu Hoàng Thanh Thường không tin Triệu Bạch Ngư, cầm dao lên đánh nhau với Ngụy Bá, chưa đến mười chiêu dao sắc đã bị đánh rơi, hạn chế hành động, Triệu Bạch Ngư nhân cơ hội cầm ấn tín quan phòng Phủ dụ sứ ra cho nàng nhìn.

Hoàng Thanh Thường lộ vẻ ngạc nhiên, bấy giờ mới quỳ xuống: "Dân nữ Hoàng Thanh Thường gặp qua Phủ dụ sứ đại nhân, cầu xin đại nhân minh oan cho dân nữ."

Đặng lão bá bên cạnh cũng quỳ xuống theo, Triệu Bạch Ngư đỡ hai người dậy: "Nếu như không phải vì oan tình của Đặng Vấn An cùng ba ngàn ngư dân Từ Châu, ta cũng sẽ không tùy tiện viếng thăm lúc đêm khuya."

Hoàng Thanh Thường bỗng dưng ngẩng đầu, kích động hỏi: "Đại nhân biết chuyện Ngư Gia Trại ở Từ Châu sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Hai trăm vạn bạc cứu trợ thiên tai bị cướp, ba ngàn ngư dân đang ở nhà giam, không phải là mánh khỏe nhỏ có thể giấu giếm được. Nói cho ta nghe, rốt cuộc là có chuyện gì xảy ra?"

Hoàng Thanh Thường lập tức kể lại toàn bộ những gì mình thấy được đêm đó cho Triệu Bạch Ngư nghe, y nghe xong hỏi: "Vì sao các ngươi biết Tôn Phụ Ất muốn cướp quan ngân?"

"Bởi vì bọn ta vẫn luôn theo dõi hành tung của Tôn Phụ Ất, biết gã điều khiển cấm quân, căn cứ vào hành động đường đi của gã là suy đoán ra được, chẳng qua bọn ta không có chứng cứ, nếu có nói cho Tri phủ Từ Châu, e là sẽ không được tin tưởng, trái lại rút dây động rừng." Dừng một chút, giọng Hoàng Thanh Thường xen lẫn chút mất mác: "Một nguyên nhân khác là do ta muốn bắt tại trận... Không ngờ lại liên lụy đến Ngư Gia Trại."

"Tại sao lại theo dõi Tôn Phụ Ất?"

"Bởi vì gã là đầu sỏ giết cả nhà ta!" Thanh âm Hoàng Thanh Thường sục sôi, ánh mắt vụt ra lửa giận và ý hận mãnh liệt.

Triệu Bạch Ngư hoảng hốt, nhìn nàng chằm chằm, trầm ổn nói: "Thảm án diệt môn đệ nhất hoàng thương Giang Nam đáng sợ xảy ra bốn năm trước là do Tôn Thừa Ất làm? Còn ngươi là nữ cô nhi duy nhất may mắn còn sống sót?"

Hoàng Thanh Thường: "Vâng. Sao ngài biết Hoàng gia còn có người sống sót?"

Triệu Bạch Ngư: "Nhớ Lý Ý Như không?"

Hoàng Thanh Thường sững sốt một hồi, gật đầu đáp: "Nhớ. Nàng là hồng nhan tri kỷ của anh ta, năm đó cha bôn ba khắp nơi chỉ vì để xóa bỏ tiện tịch cho nàng ấy." Rồi nàng lại trở nên ngẩn ngơ, vô cùng đau lòng nói: "Anh ta mắc bệnh chết ở Kinh Đô, nghe nói nàng vì cứu anh mà hai lần bán mình vào lầu xanh. Ta rất cảm kích nàng, nhưng trong người không tiền của, thù lớn còn chưa trả được, đến nay vẫn như thể đến gặp nàng."

Lúc này Ngụy bá mới lên tiếng: "Đại nhân nhà ta đã chuộc thân cho Lý cô nương rồi, hiện giờ cô ấy đang học cách quản lý quán rượu, cũng không tệ lắm."

Hoàng Thanh Thường kích động, lặng lẽ lau sạch nước mắt nói cảm ơn: "Đại nhân có lòng nhân hậu, anh của ta dưới cửu tuyền cũng có thể nhắm mắt."

Triệu Bạch Ngư: "Trước để cảm ơn qua một bên đi, ta hỏi ngươi, vì sao Tôn Thừa Ất lại giết cả nhà ngươi? Là vì tham của nhà ngươi hay sao?"

Hoàng Thanh Thường lắc đầu: "Mới đầu ta cho ràng là gã tham gia tài của nhà ta, nhưng sau đó phát hiện chúng chỉ cướp đi vàng bạc châu báo giấu trong kho phủ, mà đó chỉ chiếm một phần ba gia sản. Ngoài ra còn có một cửa hàng vải và quán rượu dưới danh nghĩa, hai phần ba số đồ cổ và vàng bạc trong tiền trang căn bản không bị lấy đi, về sau nữa, ta lại nhớ Tôn Thừa Ất đó còn vào nhà người ta cướp tiền, vì sao gã không phạm án ở Hoài Nam, mà lại chạy đến Giang Nam xa xôi ngàn dặm? Hẳn là gã có mục đích khác, nhưng ta không đoán ra được."

"Gia tài nhà ta bạc triệu, vật phẩm quý giá không phải không có, nhưng nhiêu đó đáng giá để gã đường đường là quan tham nghị của một tỉnh lại giả làm cướp giết chết cả nhà ta sao? Cha ta thích làm việc thiện, kết nối thiện duyên, gã thích bảo vật nào cứ nói thẳng là được, cha ta không phải là không thể nhẫn tâm từ bỏ những thứ ông yêu thích."

"Cho nên ta không nghĩ ra vì sao?"

Hoàng Thanh Thường không nhịn được rơi lệ: "Ta may mắn nhặt được cái mạng về, được môn khách của cha thu nhận. Môn khách nhận ân huệ của cha, thề lấy mạng báo đáp, vậy nên trăn trở mang ta đến Hoài Nam, dừng chân ở Ngư Gia Trại Từ Châu. Bình thường bắt cá mà sống, đồng thời để ý hành tung của Tôn Phụ Ất, vất vả lắm mới đoán ra gã muốn cướp quan ngân, liền cho rằng có thể bắt gọn một lưới..."

Triệu Bạch Ngư rót một ly nước trà đưa nàng, trong lòng không đành, cảm giác cực kỳ tức giận, giết cả nhà người ta, cướp bóc quan ngân, còn đem cái nồi ụp lên đầu đứa trẻ mồ côi cùng bộ hạ cũ, đừng nói đến chuyện chém tận giết tuyệt người khác, mưu toan đem ba ngàn ngư dân ra phán tội đồng bọn với loạn đảng đã là tội có thể phạt, cũng có thể giết, gã đáng phải chết!

Không phải là tình huống bất đắc dĩ, Triệu Bạch Ngư không muốn phán tội tử hình cho phạm nhân, nhưng lúc này thật sự đã động sát tâm rồi.

"Tôn Phụ Ất chính là quan tham nghị, không dám gây tội ngút trời, nhất định sau lưng gã còn có người giật dây."

"Là An Hoài Đức! Còn có Thái tử —— ta biết An Hoài Đức là môn đảng Thái tử! Cho nên dù bọn họ có giết người thì vẫn có thể ung dung thoát khỏi quan phủ và sự trừng trị của luật pháp!"

Hoàng Thanh Thường hận đến mức cắn răng nghiến lợi.

Triệu Bạch Ngư cũng không cảm thấy phải là Thái Tử, kẻ cầm đầu vẫn còn nghi là An Hoài Đức, chẳng qua là ông ta có động cơ gì để làm ác?

Đột nhiên nhớ ra một chuyện, Triệu Bạch Ngư hỏi: "An Hoài Đức tham ô bạc chữa sông, giết Giám sát ngự sử diệt khẩu, vang rền Hoài Nam, có liên quan gì đến các ngươi không?"

"Là do bọn ta truyền ra." Hoàng Thanh Thường có hơi ngượng ngùng: "Chúng ta quá lỗ mãng rồi sao?"

"Không." Triệu Bạch Ngư bật cười: "Dư tình sục sôi, trái lại có thể khiến cho chúng lòi đuôi chuột."

==

Tác giả muốn nói:

Bé Cá: Khanh khanh phu lang, thấy tin như gặp mặt.

Lão Hoắc (run chân khảy vòng Phật, đọc thuộc lòng bức thư): Không biết xấu hổ, không biết xấu hổ.

==

Min: Đố các chị Cá con có dỗ được chồng hông 🤣

==

Chương 34

Ở hậu viện một biệt trang bên ngoài thành Dương Châu, Hoắc Kinh Đường đang múa thương trong sân, đầu thương lóe ánh bạc vút lên rồi trườn lướt như dải lụa bạc, dáng người nhanh nhẹn vũ dũng, thương bạc bỗng nhiên rời tay, vững vàng cắm vào giá để đồ binh, hồng anh khẽ run, bóng người màu đen lăn lộn trên không trung, bay qua giá đồ rút một thanh trường kiếm đổi chiêu thức, từ thương pháp bá đạo đến kiếm chiêu nhẹ nhàng linh hoạt, chuyển đổi tự nhiên, giống hệt như một kỳ tài võ học.

Tán chỉ huy nhìn lén bên ngoài: "Hôm nay lại vui rồi sao?"

Đồng liêu: "Tiểu Triệu đại nhân một ngày gửi hai phong thư, một bức viết đầy năm sáu tờ giấy, dụ dỗ tướng quân ngoan ngoãn thuận theo. Ngươi không biết đâu, tướng quân còn lựa ra mấy tờ trong đó giấu vào tay áo, ngực áo, bên hông, trong túi thơm cũng có, hừ! Nhớ người ta thì lấy thư ra đọc liền, có lần ta liếc trộm... Thấy khanh khanh, phu lang cái gì đó mà cũng nói được, thật sự không nhìn ra tiểu Triệu đại nhân còn có một mặt không đoan chính thế này."

"Vậy đó hả?" Tán chỉ huy ngạc nhiên: "Tiểu Triệu đại nhân trông như chính nhân quân tử khoáng đạt thế mà còn có sở thích khuê phòng như này sao?"

Đồng liêu lắc đầu lia lịa, chậc chậc cảm thán, tưởng tượng rồi xoa cánh tay nổi đầy da gà: "Hai vị này đúng là nồi nào úp vung nấy. Không thể chỉ nhìn vẻ bề ngoài của tiểu Triệu đại nhân được, tướng quân của chúng ta cũng không phải dạng vừa."

Tán chỉ huy: "Nhưng đến giờ tướng quân cũng chưa viết thư hồi âm, ta thấy là không động lòng chút nào rồi, còn chưa bớt giận à?"

Đồng liêu cười nhạt: "Sao lại chưa bớt giận? Cái cơn giận kia từ hồi sáng sớm đã tan tành mây khói theo mấy tiếng 'khanh khanh phu lang' rồi, ngươi không thấy tướng quân đang ra vẻ kiểu cách, làm bộ thờ ơ nâng cao giá trị lừa gạt tiểu Triệu đại nhân viết thư tiếp đấy sao. Mấy thứ sa vào tình yêu nam nữ gì đó, nam nam cũng giống vậy thôi, ta đã nhìn ra từ lâu rồi."

Tán chỉ huy: "..." Hóa ra là đó là cả một câu chuyện à.

Tán chỉ huy: "Chúng ta tới Dương Châu nhiều ngày rồi mà vẫn ở trong nhà, không có công chuyện gì để làm hết, dù sao cũng nên hỏi tướng quân xem tiếp theo nên làm gì thôi."

Đồng liêu: "Vậy ngươi vào đi, nhân lúc tâm tình tướng quân còn phơi phới kìa."

Tán chỉ huy vỗ vỗ bả vai đồng liêu rồi bước vào sân, vừa đúng lúc Hoắc Kinh Đường thu thế, cầm khăn ướt lên lau tay hỏi: "Tới hỏi bạc cứu trợ xử lý thế nào sao?"

"Tướng quân liệu sự như thần." Tán chỉ huy dè dặt nói: "Từ khi bạc cứu trợ vào sơn trang Ký Sướng thì không có động tĩnh gì nữa, trái lại danh tiếng của An Hoài Đức bên kia đã vang dội rồi, gã ta muốn giải quyết dứt khoát nên nhanh chóng định tội Ngư Gia Trại, tuy nhiên còn cần phải qua ba đường hội thẩm, Đề hình sứ và Chuyển vận sứ đều sẽ đến. Tư Mã Kiêu thuận miệng tỏ thái độ hưởng ứng An Hoài Đức, có điều vẫn luôn không hành động, chắc là vẫn còn đang theo dõi, ngược lại Trịnh vận phó đang kích động vui sướng vì vụ án quan ngân bị cướp này, liên tục gửi thư kín dến Từ Châu, hỏi An Hoài Đức xong bèn hỏi đến Tri phủ Từ Châu. Lúc thì tra hỏi An Hoài Đức quan ngân bị cướp có thật là do loạn đảng gây ra hay không, có chứng cứ hay không, lúc lại thúc giục Tri phủ Từ Châu vội vàng điều tra, nhảy nhót hai đầu, chỉ mong lửa càng cháy càng to."

"Đề hình sứ ở huyện Giang Dương, vì bệnh dịch và oa nán của Đặng Vấn An nên đã bị tiểu Triệu đại nhân giữ lại."

"Tướng quân, chúng ta nhân lúc còn sớm đi lấy lại bạc cứu trợ đi. Tiền đó giấu ở đâu cũng chẳng tốt, giấu trong sơn trang Ký Sướng, chỉ... Chỉ sợ rằng không thoát khỏi liên can đến Tĩnh vương." Tán chỉ huy cẩn thận cân nhắc lời nói: "Nếu như chúng ta vờ như không thấy, thì sẽ tương đương với việc buông bỏ ba ngàn ngư dân ở Từ Châu, phụ lòng kỳ vọng lớn lao của bệ hạ. Nhưng nếu để cho người khác vạch trần, ngài sẽ khó tránh bị liên lụy, còn sẽ bị bệ hạ hoài nghi có mưu đồ."

Tuy nói thiên địa quân thân sư, nhưng đại nghĩa diệt thân là do không còn cách nào khác, lại còn bị sĩ phu khinh thường, trong quan trường cũng có người cảm thấy đại nghĩa diệt thân không phải là cao nghĩa, vậy nên đều tranh nhau né xa.

Các triều đại đều lấy nhân hiếu làm đầu, cha có thể giết con, nhưng con lại không thể giết cha, như vậy là bất hiếu.

Tướng quân vốn mang tiếng xấu bất kính giết anh, nếu lại bị chụp thêm một tội bất hiếu giết cha nữa thì danh tiếng thật sự không tài nào cứu nổi mất, nhưng đem so với Tĩnh vương khiêu khích triều đình, thậm chí có mưu đồ soán vị, danh tiếng có kém thêm một chút thì cứ cho kém đi.

Trong lòng Tán chỉ huy không ngừng mỏi mệt, hai bên cân nhắc mấy ngày trời chỉ cảm thấy tiến thoái lưỡng nan, tướng quân cũng xui xẻo khi gặp phải một người cha chưa từng hết hi vọng, cũng không coi hắn là con trai.

"Nếu như tướng quân lo lắng rút dây động rừng thì không điều động Cấm quân địa phương nữa, chỉ cần mười lăm thiết kỵ cũng đã đủ để bắt gọn một lưới sơn trang Ký Sướng rồi."

Lời đồn trong tay Hoắc Kinh Đường còn có một đội binh thần quỷ ở phủ Kinh Đô cũng không hẳn là không có lửa làm sao có khói, khác nhau ở chỗ đội binh thần quỷ này vẫn luôn tồn tại ở bên ngoài, chính là sáu ngàn thiết kỵ Đường Hà tiếng tăm lẫy lừng Đại Cảnh.

Thiết kỵ Đường Hà đi theo Thánh tổ chinh chiến Nam Bắc, từng lấy sáu ngàn người chống lại binh mã tinh nhuệ Đột Quyết đông hơn mười lần mà vẫn giành được toàn thắng, chém bay một nửa số đầu quân Đột Quyết cao to hơn thân mình gấp bội, khiến cho cả binh mã Đột Quyết, Đại Hạ và Nam Cương nghe tiếng là mất hồn mất vía.

Sáu ngàn kỵ binh một người kết hợp năm ngựa, chú trọng trang bị giáp cứng, không chỉ thành thạo thoải mái vung lưỡi thương móc câu nặng mười lăm ký, mà còn có thể kéo căng cán cung nặng một trăm ký, ai nấy đều dũng mãnh lạ thường, một người có thể chiến đấu với một tiểu đoàn kỵ binh.

Đáng tiếc đã bị Thánh tổ ngầm cho phép phân tán, về sau thiết kỵ Đường Hà tuy vẫn còn lưu giữ được kỳ danh, nhưng chỉ còn là làn gió không còn uy mãnh mà thôi.

Mãi đến khi Hoắc Kinh Đường mười lăm tuổi đại bại Đột Quyết, Nguyên Thú đế mới ngầm bằng lòng cho hắn lần nữa thành lập một nhánh ba ngàn thiết kỵ Đường Hà, hạ gục Nam Cương, chỉnh đốn Tây Hạ, danh tiếng vang xa.

Nhưng người trong thiên hạ chỉ biết quân Tây Bắc đánh đâu thắng đó, chứ không biết thiết kỵ Đường Hà đã thay da đổi thịt.

"Tướng quân?"

Tán chỉ huy không nhịn được hối thúc.

Hoắc Kinh Được đã được Triệu Bạch Ngư dụ dỗ cả người dễ chịu, trước mắt không hoảng không vội, ung dung trấn định, tâm trạng cũng hòa hoãn, hắn khảy tràng hạt niệm một hai đoạn kinh Phật, chậm rãi uống trà khuyên nhủ Tán chỉ huy: "Ngươi nóng nảy quá rồi, uống chút trà mát dập lửa đi."

Tán chỉ huy: "..." Đúng là Hoàng đế không vội thái giám vội mà.

Hoắc Kinh Đường lại cầm khăn ướt lau mặt và tay, xong rồi dùng chiếc khăn tay cũ - quà 'đáp lễ' ép buộc của Triệu Bạch Ngư lau khô ngón tay, thong thả nói: "Bổn vương không muốn phải mang tiếng bất hiếu, cũng không muốn vờ như không thấy những chuyện đang diễn ra."

Tán chỉ huy: "... Có ý gì?"

Sau khi tướng quân tin Phật, càng ngày càng giống thầy đồng*, nói chuyện lúc nào cũng mông lung làm cho đám đàn ông già đầu to mù còn không có học thức như bọn họ đoán già đoán non.

(*) Nguyên gốc: Thần côn (神棍):chỉ những người giả danh ma quỷ để lừa bịp người khác.

Hoắc Kinh Đường: "Nếu như hai trăm vạn cứu trợ thiên tai thật sự bị loạn đảng cướp, thì rơi vào tay ai người đó sẽ lập công lớn. Nhưng mà nó lại dính dấp không rõ ràng với cha của bổn vương, cho nên nếu nó nằm trong tay bổn vương thì chính là một củ khoai phỏng tay, ở trong tay người khác cũng vậy."

Tán chỉ huy rơi vào mộng mị: "Tại sao?" Gã nhỏ giọng nói ra nghi ngờ: "Tiền triều chỉ còn sót lại hai vấn đề, bệ hạ không phải rất ghét Tĩnh vương ư? Có một tội danh như vậy giáng xuống là có thể hoàn toàn đóng cọc Tĩnh Vương, thu hồi một nhánh quân Tây Bắc trong tay Tĩnh Vương rồi. Ai thay bệ hạ giải quyết tâm phúc đại họa, ai là người có thể lập công lớn, làm sao biết là phỏng tay?"

Hoắc Kinh Đường chỉ cười không nói, lòng Tán chỉ huy liền hiểu rõ, bỏ qua vấn đề này liền đề cập đến vấn đề khác.

"Tướng quân không sợ bị liên lụy sao?"

"Vốn là nên lo, nhưng không trùng hợp không thành văn, cũng là tự tạo nghiệp thôi..." Giọng nói Hoắc Kinh Đường hạ xuống, một lúc nữa lại khôi phục giọng bình thường: "Có Lý Ý Như và thảm án hoàng thương Giang Nam bị diệt môn ở phía trước, ta cũng sẽ không bị liên lụy đâu."

Vuốt ve chiếc khăn tay cũ, Hoắc Kinh Đường cười nói:"Quả nhiên tiểu lang là phúc tinh của ta."

Tán chỉ huy: "..." Sao tự nhiên có cảm giác bị công kích.

***

Lữ Lương Sĩ bị tước cái mũ, nhốt tại huyện nha chờ đến ngày kết án oan của Đặng Vấn An sẽ cùng xử phạt, lúc này lão đã không dám nghĩ đến việc giữ được chức quan nữa, chỉ cần mình sống là được.

Lão tìm người chia hai hướng đi truyền lời cho Tiêu Vấn Sách và Trịnh Sở Chi, nói với người trước là hai bên vẫn còn đang đứng cùng trên một thuyền, nếu như lão xảy ra chuyện gì thì khó tránh khỏi dính chùm, mong bọn họ ra tay tương trợ.

Còn kẻ sau thì vừa trò chuyện tình cảm bộ hạ Tần vương năm xưa, vừa chủ động khai báo ban đầu là do An Hoài Đức cùng Tống Linh xoay chuyển đầu mối, Tống đề hình cảm thấy vụ án kỳ lạ, đề nghị bác bỏ vè trọng thẩm, An Hoài Đức có quyền can dự vào chuyện nghị ngục mượn cơ hội phát huy, tranh lấy vụ án, không hỏi ngọn nguồn gì mà vẫn giữ nguyên phán xử ——

Bản chất chính là vì một chút tâm tư ích kỷ, đại nhân hãy dùng cái này luận văn chương công kích An Hoài Đức.

Lữ Lương Sĩ bày tỏ lão nguyện giúp Trịnh vận phó một tay.

Đồng thời không quên truyền tin cho Phủ dụ sứ, Thôi phó quan xem thư xong thì cười nhạt: "Nếu như vì dân thỉnh mệnh cũng có đầu óc sáng suốt và hành động nhanh nhạy như này thì đã sớm thăng quan rồi, hà cớ gì đợi đến lúc tình thế nguy cấp đến vậy chứ?"

Triệu Bạch Ngư: "Ngươi đừng ra mặt, ta đi gặp ông ta."

Thôi phó quan không nhiều lời.

Triệu Bạch Ngư vào tù gặp Lữ Lương Sĩ, trước thể hiện thân phận của y là thị vệ thiếp thân của Khâm sai, Lữ Lương Sĩ thần hồn nát thần tính, mới đầu không tin, đến khi Triệu Bạch Ngư lấy thượng phương bảo kiếm ra mới dám tin lời y nói.

"Ông định làm gì?"

Lữ Lương Sĩ liền thuật lại kế hoạch mà mình đã nói với Trịnh Sở Chi: "Tiêu Vấn Sách không muốn gánh vác trách nhiệm, đã sớm chuẩn bị xong chứng cứ, bêu rếu Đặng Vấn An là đồng bọn của kẻ trộm, theo luật chém đầu."

Rõ ràng là sư gia giúp lão đưa ra chủ ý, lão quay đầu nói cách này với Tiêu Vấn Sách, bây giờ đến tai Khâm sai thì lại thay đổi, đổi thành Tiêu Vấn Sách đưa chủ ý, Lữ Lương Sĩ này cũng thật là một kẻ gió chiều nào xuôi chiều ấy, lão già này nói láo đã thành quen.

"Ông ta tìm ra chứng cứ gì?"

"Ba nhân chứng. Một tú bà hoa lâu, Vương Quốc Chí đã từng dính dấp đến mấy vụ thông đồng với tú bà gạt bán phụ nữ, thường xuyên đến hoa lâu chơi đùa. Phía sau hoa lâu là một sòng bạc, Vương Quốc Chí chơi bời ở hoa lâu xong sẽ đến sòng bạc chơi đến nghiện, gã hay thua cược, không có tiền liền kêu người trong phủ đưa tiền tới, lần nào cũng sai Đặng Vấn An đi, không ít người đã từng nhìn thấy hắn cầm tiền ra vào hoa lầu và sòng bạc."

"Nhân chứng thứ hai chính là tên côn đồ trong sòng bạc. Còn người thứ ba chính là một tên lưu manh từng làm công ở nhà Vương Quốc Chí một thời gian, tên đó không chỉ có thể làm chứng Đặng Vấn An là đồng bọn của Vương Quốc Chí, mà còn lục ra được ngân lượng dưới tháp nằm của Đặng Vấn An nữa. Mà ngân lượng này chính là của cải trong nhà của gia đình giàu có bị giết kia, dưới đáy mỗi thỏi bạc đều có ký hiệu, tiền trang địa phương có thể làm chứng."

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Bạc đó ở đâu ra?"

Ánh mắt Lữ Lương Sĩ lóe lên: "Hạ quan... Không không, không phải, kẻn hèn lục soát ngân lượng trong nhà người chết, cất giữ trong phủ nha coi như là vật chứng của người chết, Tiêu tri phủ biết chuyện này, sau nhận tin bệ hạ phái Phủ dụ sứ đến Hoài Nam liền lập tức cầm đi."

Giọng Triệu Bạch Ngư trở nên êm dịu hơn: "Tiếp theo thì sao? Làm thế nào?"

Lữ Lương Sĩ: "Tiêu tri phủ muốn Đặng Vấn An chết oan, nhưng tôi đã biết sai rồi, tôi biết tội lỗi của mình rồi, trên thật xin lỗi bệ hạ, dưới thật xin lỗi trăm họ, cho nên tôi muốn chuộc tội —— đại nhân, đại nhân ngài thay ta cầu tình Khâm sai đại nhân với, ta nguyện ý lấy công chuộc tội, giúp đại nhân kéo cả Tiêu tri phủ và An soái sứ xuống ngựa, chỉ cầu ngài tha cho ta một mạng!"

Triệu Bạch Ngư: "Nhưng chỉ với một vụ án này thôi thì không có cách nào bảo toàn mạng của ngươi, cũng không có cách nào kéo hai người kia xuống ngựa cả, đại nhân nhà ta cũng rất khó xử. Nói thật, Lữ đại nhân ông là bộ hạ cũ của Tần vương, nhìn mặt mũi phủ Trịnh quốc công, thì dù thế nào cũng phải cứu ông, nhưng mà... Ôi!" Y hạ thấp giọng nói: "An Hoài Đức tham ô bạc chữa sông, thiêu chết Giám sát ngự sử, chuyện này ông biết không?"

Lữ Lương Sĩ chần chừ: "Có nghe qua."

Triệu Bạch Ngư ngồi xổm xuống, lắc lư làm bộ thân thiết: "Ta biết ông là một người thông minh, nhất định có thể đoán ra được bệ hạ đặc biệt phái ta tới đây căn bản không phải vì vụ án của Đặng Vấn An. Ông suy nghĩ thử xem, án oan bị đưa ra phúc thẩm rồi, một Hoài Nam mười bốn châu, phủ chừng trăm huyện lớn như vậy, hơn ngàn quan lại lớn nhỏ, chẳng lẽ một người được việc cũng chẳng có?"

Lữ Lương Sĩ lắng nghe đến nỗi thất thần, thấy y hỏi vậy thì hoàn hồn: "Làm sao có thể."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy thì kết thúc rồi?"

"Có, có ý gì? Tôi nghe không hiểu."

"Một câu đơn giản thôi, ta không phải đến đây vì ông, cũng không phải đến vì án oan, mà là đến vì bạc chữa sông bị tham ô!"

"Dạ dạ biết rồi! Tôi biết rồi, tôi đã đoán ra được từ lâu."

"Ầy. Ông suy nghĩ thử xem, vụ án vốn không được điều tra rầm rộ, nhưng lại bởi vì An Hoài Đức làm lớn chuyện, cái mạng của ông, chức quan này bị tước đi, ai chịu trách nhiệm? Ông nghĩ đi, nếu như có đại nhân vật chắn trước đầu sóng, bệ hạ sẽ còn để ý đến ông sao? Ông nói bệnh dịch là một cơ hội tốt để lập công chuộc tội, vậy mà ông cứ thế bỏ lỡ nó! Vậy bây giờ ông ghìm ngựa vách đá có ích lợi gì? Trừ phi chủ động tố giác, làm một nhân chứng đã bị vấy bẩn, có điều ông lại bộ hạ cũ của Tần vương, không cùng chiếc thuyền với An Hoài Đức, nhất định sẽ không có chứng cứ lão ta tham ô bạc rồi."

Triệu Bạch Ngư lắc đầu thở dài, tiếc nuối sâu sắc: "Ta cũng muốn cứu ông, đáng tiếc không thể ra sức."

Lữ Lương Sĩ đột nhiên cuống cuồng: "Tôi có chứng cứ!"

Triệu Bạch Ngư chớp mắt, bày tỏ hoài nghi, thành tâmkhuyên nhủ: "Ta biết ông là đang có bệnh mới lo tìm thầy, nhưng có mấy lời không thể nói càn đâu."

"Không có nói càn, ta có sổ sách chứng minh Chuyển vận sứ Tư Mã Kiêu trốn thuế." Lữ Lương Sĩ cắn răng nhẫn tâm nói.

"Trốn thuế? Là giấu ruộng hay giấu người?"

Thời cổ đại lấy thuế đất đai làm chủ yếu, thứ yếu là thuế buôn bán, làm quan không được kinh doanh, cho nên đầu tiên Triệu Bạch Ngư loại bỏ thương thuế mà hỏi hai thứ thuế còn lại, cái trước thường dùng nhiều thủ đoạn nhau để che giấu một số lượng lớn đất đai đứng tên mình để trốn thuế, trong khi cái sau dùng cách che giấu quan hệ với người trong hộ khẩu để trốn thuế, đối với các quan lại triều đình Đại Cảnh thì điều này không có gì lạ.

"Thái độ của bệ hạ lần này là tha thứ, cho dù ông tố cáo Tư Mã Kiêu giấu ruộng giấu người, cũng sẽ chỉ để cho hắn bổ sung cho xong thuế là được."

"Là tham ô khoản thuế. Tư Mã Kiêu thông qua việc sở hữu đất đai riêng, phân loại đất sản xuất vào đất không thể sản xuất miễn thuế,viết ruộng tốt thành ruộng cằn vân vân, nhưng vẫn thu thuế bá tánh như ruộng tốt. Như vậy tạo thành hai bản sổ sách, ăn chặn của dân ít nhất bốn thành về dùng cho bản thân!"

"Bốn thành?" Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên đứng dậy, xoay người vừa sửa lại tay áo vừa suy nghĩ về con số này.

Hằng năm Đại Cảnh thu thuế được số tiền lên đến ba, bốn triệu lượng bạc trắng, cũng là do mấy năm nay mưa thuận gió hòa, buôn may bán đắt nhưng bị cấm đêm trói buộc, thuế buôn bán chiến gần bốn năm thành, trong đó Giang Nam và Lưỡng Chiết giàu có nhất, Hoài Nam đứng thứ hai.

Giang Nam, Lưỡng Chiết chủ yếu lấy thuế buôn bán, Hoài Nam chủ yếu lấy thuế đất đai.

Số tiền thuế thu được mỗi năm ít nhất phải hai ba triệu, một năm ăn chặn bốn thành, vậy bốn năm năm qua đã có được bốn năm triệu lượng bạc trắng, cộng thêm bạc chữa sông đã tham ô bao nhiêu năm qua, còn có hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai nữa, tổng cộng phải hơn mười triệu lượng bạc.

Tất cả đều vào túi của Thái tử và nhà mẹ Hoàng hậu?

Nhưng Ngũ hoàng tử lại người quản bốn kênh thủy vận phương Bắc, nơi này cũng là một giỏ tiền, mỗi năm ôm được biết bao nhiêu tiền? Bọn họcần số tiền này để làm gì? Đã ở vị trí chí tôn chỉ dưới một người, cần gì phải tham số bạc đó?

Huống chi Tư Mã thị tự xưng là thế gia thanh quý, ở phủ Kinh Đô nổi tiếng khiêm tốn bần hàn, cũng coi như là riêng một góc trời, tham tiền như vậy là xài đi đâu?

Triệu Bạch Ngư: "Ông đừng có lừa gạt ta, bọn họ tham tiền không thấy tiêu xài, chẳng lẽ giấu làm đồ trang trí à?"

Đầu Lữ Lương Sĩ đã rịn đầy mồ hôi, vì để sống mà không thèm đếm xỉa đến điều gì nữa, vẻ mặt như đưa đám nói: "Đại nhân, ngài tin ta đi, bọn họ, bọn họ nuôi binh ở Hoài Nam."

Khá lắm!

Đóng binh nuôi quân hao tổn tiền nhất, thì ra là như vậy.

Đảng Thái tử ở quân Ký Châu, quân Tây Bắc và Cấm quân Trung Ương không có người, Triệu Trường Phong và Triệu tam lang làm việc ở Cấm quân Trung Ương căn cơ không quá ổn, tuy rằng ủng hộ Thái tử, nhưng có lúc thái độ không quá rõ, luôn có cảm giác hai bên dò xét lẫn nhau.

Thái tử và Hoàng hậu không có sức mạnh, lợi dụng An Hoài Đức ở Hoài Nam đóng binh nuôi quân, trái lại không phải không có khả năng.

"Ông biết An Hoài Đức nuôi binh ở đâu không?"

Lữ Lương Sĩ: "Đại nhân, ngài phải đảm bảo cái mạng này của ta bình an vô sự trước, ta mới nói được."

Triệu Bạch Ngư nhìn ông ta chằm chằm, hồi lâu mới đáp: "Được thôi. Có điều sao ông lại biết nhiều như vậy?"

Lữ Lương Sĩ gật gù đắc ý, vô cùng hả dạ: "Tất nhiên là nhờ tôi ăn cơm bảo toàn tính mạng rồi, người khác đều cho rằng tôi ngu xuẩn, tôi đã nhún nhường giống như bọn chúng mong muốn, mà người nào ngu ngốc thì thường sẽ không bị đề phòng."

Đúng là có mấy phần thông minh.

Triệu Bạch Ngư: "Ta trở về sẽ nói rõ đầu đuôi gốc ngọn cho Triệu đại nhân, nhất định sẽ trở lại cứu ông."

Nhất thời Lữ Lương Sĩ cảm động đến rơi nước mắt.

***

Phủ Chuyển vận phó sứ Hoài Nam.

Phụ tá hỏi: "Đại nhân, lời của Lữ Lương Sĩ có thể tin được hay không?"

Trịnh Sở Chi dù bận vẫn nhàn nhã uống trà: "Có thể tin một nửa."

Phụ tá: "Nếu có thể tin một nữa, vậy là có thể đem đi làm văn rồi. Bạc cứu trợ thiên tại Từ Châu mất tích đã định là do loạn đảng gây nên, chúng và đồng bọn đều đã bị doanh binh của An Hoài Đức trực tiếp không chế rồi, Tri phủ Từ Châu không thể đụng vào nội tình dù chỉ một chút, trái lại còn bị tố cáo bao che loạn đảng, suýt chút nữa không thể tiếp tục làm quan. Chuyện bạc cứu trợ thiên tai này, An Hoài Đức làm một giọt nước cũng không lọt nổi, chúng ta cũng không chạm vào được, vậy sao không mượn án oan của Đặng Vấn An khuấy động vũng nước đục này?"

Trịnh Sở Chi: "Dĩ nhiên ta biết, nhưng vụ án này còn chưa đủ oan."

Phụ tá: "Ý của ngài là?"

Trịnh Sở Chi: "Ta muốn Tiêu Vấn Sách cùng Tư Mã Kiêu bắt tay bức ép Khâm sai phán quyết tử hình Đặng Vấn An, sau đó, mới đến lượt ta ra sân."

Phụ tá suy nghĩ kĩ một phen, không hiểu ý đồ của Trịnh Sở Chi lắm.

Trịnh Sở Chi lộ ra nụ cười cáo già: "Nếu như bị người khác tùy tiện đoán trúng tâm tư, vị trí mà ta ngồi sớm đã đổi thành kẻ khác rồi."

***

Triệu Bạch Ngư hứa riêng với Đặng lão bá là sẽ cứu Đặng Vấn An, nhưng cần phải kiên nhẫn chờ đợi, bởi vì việc tốt thường gặp trắc trở, sẽ có biến đổi bất ngờ, hy vọng Đặng lão bá có thể tin tưởng y.

Đặng lão bá trông thấy Triệu Bạch Ngư vừa ôn hòa lại tràn đầy kiên nhẫn, yên lặng một hồi rồi nói: "Cả đời này ta chưa từng thấy đại quan nào kiên nhẫn lắng nghe thường dân chúng ta kể lể oan khuất, càng không có cao quan nào sẽ an ủi, lo lắng cho tâm trạng của bá tánh cả. Cho nên ta tin tưởng ngài, đại nhân."

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên rồi đáp: "Cảm ơn."

Bởi vì người thân của người bị hại vốn nên có tư cách nghi ngờ, căm thù, thậm chí phản đối phối hợp kế hoạch của y, nhưng ông ấy lựa chọn tin tưởng, còn vô cùng cảm kích, Triệu Bạch Ngư không thể không cảm ơn lòng tin của dân.

***

Quán trọ huyện Giang Dương.

Đám người Triệu Bạch Ngư đang bàn xem nên xử lý các vụ án thế nào.

"Phụ tá của Hoàng gia đều bị chúng xem là loạn đảng giết chết cả rồi, chết không đối chứng, chỉ dựa vào một mình Hoàng Thanh Thường thì rất khó để thay đổi thế cục. An Hoài Đức dám trắng trợn đổ oan cho ba ngàn ngư dân, tất nhiên là lão đã làm xong chứng cứ, ta sợ rằng chúng ta bị lợi dụng ngược, thay gã làm sáng tỏ rằng cái chết của Chương Tòng Lộ và bạc cứu trợ bị cướp không liên quan gì đến gã."

Thôi phó quan phân tích như vậy.

"Cũng không hẳn." Triệu Bạch Ngư nói: "Phụ tá Hoàng gia bị hại, không thể thay Hoàng Thanh Thường làm chứng, cũng giống như không cách nào mở miệng chứng minh bọn họ chính là loạn đảng, toàn chỉ từ một phía An Hoài Đức nói, nhưng có đến ba ngàn dân có thể kêu oan. Chỉ cần có người kêu oan là đã viết văn được rồi, có thể xử lý mơ hồ, nhưng vấn đề chính là chúng ta cần phải cho bọn họ có cơ hội kêu oan, còn An Hoài Đức sẽ không đ cơ hội này xảy ra. Còn vật chứng có hiệu lực mạnh nhất là hai triệu lượng bạc, trừ phi tìm được số bạc đó trong tay loạn đảng, nếu không thì bất kì vật chứng nào cũng không có đủ hiệu lực, có thể trả án về."

"Mấu chốt là phải đi tìm lại hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai."

"Còn nữa, chúng ta nên dùng danh nghĩa nào để can thiệp vào vụ án cướp bạc. Mặc dù Phủ dụ sức có quyền can dự, nhưng nếu muốn nhúng tay trực tiếp, chỉ sợ sẽ bị tìm các loại lý do lấy lệ, càng tăng nhanh tiến độ che miệng định tội của chúng."

Triệu Bạch Ngư thức trắng cả đêm, nghĩ đến nỗi trọc đầu, cuối cùng gõ bàn quyết định: "Trước tiên cứ thẩm vấn vụ Đặng Vấn An, mượn vụ án này để kéo An Hoài Đức xuống nước, cuốn lấy gã, khiến cho gã không để ý tới vụ án ở Từ Châu bên kia. Ngoài ra, tìm người đến đưa mật báo cho Tư Mã Kiêu, nói trong tay Lữ Lương Sĩ có sổ sách âm dương, đang nắm giữ chứng cứ ông ta tham ô thuế thu nhập triều đình."

Thôi phó quan hoảng hốt: "Đây không phải là đang rút dây động rừng sao?"

"Cái này gọi là lùa vịt vào lồng." Triệu Bạch Ngư cười nói: "Đuổi hết bọn chúng vào lồng, cho thêm một ít mồi nhử, để chúng tranh đấu với nhau, đấu đến cuối cùng là có thể dẫn ra được một con lớn nhất mập nhất."

Thôi phó quan không hiếu kế hoạch của Triệu Bạch Ngư, chỉ cần biết làm theo là được: "Vâng, nghe ngài."

***

Ngày khai đường, Thôi phó quan ngồi ở vị trí chủ vị, trái phải là Tống đề hình cùng Tiêu tri phủ, bên dưới chính là Lữ Lương Sĩ, Đặng Vấn An cùng với ba tên nhân chứng giả.

Triệu Bạch Ngư đứng theo dõi bên ngoài công đường.

Đầu tiên, ba tên nhân chứng chứng minh Đặng Vấn An là đồng bọn của Vương Quốc Chí, còn cầm theo bạc làm vật chứng, nhân chứng vật chứng đều ở đây, dù cho hai cha con Đặng lão bá và Đặng Vấn An nhận nhau, chắc chắc thân phận của Đặng Vấn An cũng không thể rút lui khỏi phán quyết tử hình.

Tiêu tri phủ thúc giục: "Hôm nay nhân chứng vật chứng đều ở dây cả, cho dù Đặng Vấn An không phải Vương Quốc Chí thì cũng là đồng lõa, theo luật phải tuyên án tử hình, Lữ Lương Sĩ chẳng những vô tội, còn có thể nói là có công."

"Đúng không?" Thôi phó quan hỏi: "Lữ Lương Sĩ, ông có lời muốn nói không?"

Lữ Lương Sĩ quỳ xuống đất dập đầu: "Thanh giả tự thanh, kẻ hèn không còn lời gì để nói."

"Ông!" Thôi phó quan cau mày: "Chẳng lẽ ông không có gì để nói thật? Ví như quan hệ thật sự của ba nhân chứng với vụ án kia?"

Lữ Lương Sĩ sợ hãi: "Nhân chứng vật chứng không phải là do Khâm sai đại nhân tìm được sao? Không phải Khâm sai đại nhân nên hiểu rõ quan hệ của bọn họ với vụ án này hơn kẻ hèn này ư?"

Thôi phó quan chau mày, lòng ngập lửa giận, không ngờ Lữ Lương Sĩ trong tù nói hay nói tốt, lúc này đột nhiên trở mặt không nhận, quả nhiên như tiểu Triệu đại nhân đoán, lão chỉ là cỏ đầu tường thôi.

Nếu như không có đại phu ở khu dịch bệnh và nữ đầu bếp nhà Vương Quốc Chí làm chứng, nếu không nhờ Đặng lão bá cứu Hoàng Thanh Thường bắt được hung thủ, e là lúc này bọn họ đã rơi vào cái bẫy, bị hai người Lữ Lương Sĩ vàTiêu tri phủ bắt tay nhau giở trò.

Triệu Bạch Ngư quan sát bên ngoài vẫn luôn bình tĩnh, Lữ Lương Sĩ giữ liên lạc với hai đầu, lúc nào cũng có thể phản bội căn cứ vào tiền cược bên nào cao hơn, bản thân lão cũng không quá tin tưởng mối quan hệ giữa Khâm sai và Trịnh Sở Chi.

Trên công đường chỉ thấy Tiêu Vấn Sách, còn Trịnh Sở Chi không tới, Lữ Lương Sĩ sợ bị thả bồ câu, tất nhiên tạm thời phản bội Tiêu Vấn Sách.

Tiếp theo không cần đoán, thời cuộc vẫn còn nằm trong tay Triệu Bạch Ngư.

Thôi phó quan chợt vỗ kinh đường mộc quát hỏi: "Cứ cho rằng Đặng Vấn An là đồng bọn của kẻ cướp, nhưng hắn giả mạo Vương Quốc Chí nhận tội, từ Huyện lệnh đến Tri phủ rồi đến Đề hình sứ, Trấn an sứ không một ai phát hiện điểm sai, không một ai xem xét theo quy củ, để mặc cho hung thủ nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật, đây chính là không làm tròn trách nhiệm!"

Tiêu tri phủ: "Hạ quan không làm tròn bổn phận, cam nguyện chịu phạt. Chẳng qua có sai nên phạt, làm đúng phải thưởng, theo như luật pháp Đại Cảnh, phán xử của chúng ta không có chỗ nào không làm tròn bổn phận."Gã vẫn ngồi đó, chắp tay giơ cao quá đầu: "Nên phạt thế nào, thưởng ra sao, xin đại nhân nói cho rõ ràng."

Thôi phó quan hết sức do dự, đứng ngồi không yên trên công đường.

Tiêu tri phủ thúc giục không ngừng, còn ép kéo theo cả Tống linh: "Tống đề hình, ông quen luận tội kiện tụng, ở đây không ai hiểu luật Đại Cảnh hơn ông, chi bằng đến nói một chút xem chuyện này nên xử thế nào?"

Tống Linh một mực im lặng giả chết không thể không nhắm mắt đáp lời: "Theo như luật lệ Đại Cảnh... Đồng bọn của trộm cướp cần xử tử hình, duy trì nguyên phán, bác bỏ khiếu nại của phạm nhân. Nhất thẩm Huyện lệnh, phúc thẩm Tri phủ tuy không làm tròn bổn phận nhưng không phạm sai lầm lớn, trừng phạt chút ít là được."

Thôi phó quan bày ra vẻ mặt kiềm chế tức giận, nắm chặt kinh đường mộc, chậm chạp không đưa ra phán quyết.

Lữ Lương Sĩ không nhịn được lộ ra niềm vui sướng.

Mặt mũi Đặng Vấn An ngập tràn tuyệt vọng, Đặng lão bá mờ mịt theo, cũng còn may lão nhớ đến lời Triệu Bạch Ngư, tuy nhiên ông lão vẫn đau xót từ trong lòng, giọt nước mắt già nua không kìm được nữa rơi xuống.

Tiêu tri phủ chợt đứng phắt dậy chất vấn: "Vì sao đại nhân lại cứ chần chừ không phán quyết? Ngài không tin Lữ Lương Sĩ, không tin bổn quan, chẳng lẽ cũng không tin nhân chứng vật chứng đầy đủ dưới công đường kia sao? Hình ngục kiện tụng chú trọng chứng cứ, mà nay chứng cứ rành rành trước mắt, cớ sao đại nhân còn do dự mà không quyết đi? Chẳng lẽ dân gian nói bóng nói gió làm dao động phán đoán của đại nhân, hay là những tên điêu dân kia ra vẻ đáng thương vô tội lừa gạt đại nhân mới khiến cho ngài xúc động, luôn mãi lưỡng lự?"

"Đại nhân!" Tiêu tri phủ chắp tay nói: "Xin đại nhân hãy đưa ra quyết định!"

Thôi phó quan không làm như gã mong muốn: "Bản án còn có điểm khả nghi, tạm giữ tái thẩm. Thoái đường!"

Nói xong không thèm quan tâm Tiêu Vấn Sách đang bức bách, chuẩn bị rời khỏi công đường, nhưng ngay lúc này lại có người hô: "Khoan đã!"

Đám người lập tức tách ra, có quân lính xông vào chia làm hai phía, từ trong bước ra là một quan văn khí chất nho nhã, tuổi chừng bốn mươi. Ông đứng dưới công đường, tự giới thiệu: "Chuyển vận sứ Hoài Nam Tư Mã Kiêu gặp qua Phủ dụ sứ đại nhân."

Thôi phó quan hỏi: "Đô tào đại nhân đến có việc gì?"

Tư Mã Kiêu đáp: "Bổn quan thân là Chuyển vận sứ một tỉnh, có được quyền giám sát, bên dưới xuất hiện án oan chính là vì quản lý có thiếu sót, trọng thẩm án oan, bổn quan không thể đổ trách nhiệm cho người khác. Mới vừa rồi dự thính toàn bộ quá trình bên ngoài, sinh lòng nghi ngờ, bổn quan muốn hỏi Khâm sai đại nhân, nhân chứng vật chứng đều ở đây, bản án còn điểm gì khả nghi nữa?"

Thôi phó quan: "Bổn quan là Phủ dụ sứ do bệ hạ thân tứ, lại là bản án duy nhất làm chủ thẩm, bổn quan nói để sau phúc thầm thì phải để sau phúc thẩm, Đô tào dựa vào cái gì đến chất vấn bổn quan?"

Tư Mã Kiêu: "Dựa vào bổn quan làm người có lương tâm! Bằng mũ quan trên đầu bổn quan cùng với thân phận nhà ngoại của Hoàng hậu, Thái tử, là một tấm gương sáng cho thiên hạ, càng vì bổn quan thân là Chuyển vận sứ một tỉnh có quyền lợi và chức trách giám sát xem Khâm sai có làm việc công bằng hay không? Cho nên bổn quan ở đây để thực thi quyền giám sát đô tào một tỉnh, xin hỏi đại nhân, bản án có gì khả nghi? Nếu như không có, xin đại nhân lập tức tuyên bố kết án!"

Từng câu từng chữ nói ra đều có khí phách, quang minh chính đại, rốt cuộc bản án cũng thành công tiến vào hồi ác liệt.

Triệu Bạch Ngư đứng dưới công đường đè vòng Phật nơi cổ tay xuống, trên môi treo nụ cười ung dung.

==

Tác giả muốn nói:

Lão Hoắc: Tự mình đi lạc trong mấy tiếng gọi khanh khanh phu lang.

Chương 35

Hai má Thôi phó quan giật giật, giống như con thú bị nhốt, ép buộc đến cực hạn, gã nhìn một vòng công đường, thấy Tiêu Vấn Sách hùng hổ dọa người, Tư Mã Kiêu giả nhân giả nghĩa, thấy Tống Linh vờ chết không dám ra mặt, còn có Lữ Lương Sĩ đang đắc ý vì tránh được một kiếp, lại nhìn hai cha con Đặng Vấn An bị hại tứ cố vô thân, bằng chứng vững như núi còn có thể bị hắt nước bẩn vào người.

Đây chính là bá tánh bình dân dưới sự cai trị của triều đình đây, có miệng khó tả, có oan khó tố.

Còn đây chính là một phe quan phụ mẫu, quan bảo hộ quan, cấu kết với nhau làm việc xấu, chỉ vài ba lời là khiến người ta vô tội chết oan, thậm chí bức bách Khâm sai thay Thiên tử tuần thú, tương đương với uy hiếp bệ hạ, uổng công triều đình tin tưởng, quả nhiên chúng thật sự chẳng thèm kính nể, cực kỳ cuồng vọng.

Thôi phó quan nhìn ra xa mấy chục thước bên ngoài, tìm được Triệu Bạch Ngư lẫn trong đám quần chúng vây xem, thấy y khẽ gật đầu ra hiệu một cái lập tức bắt đầu mở màn diễn, trên trán và mu bàn tay nổi đầy gân xanh, cưỡng chế kìm lửa giận xuống, gã vỗ kinh đường mộc, không dám nhìn cha con Đặng Vấn An: "Đặng Vấn An và Vương Quốc Chí vào nhà giết người, theo luật xử chém, Lữ Lương Sĩ, Tri phủ Dương Châu cũng không làm tròn bổn phận... Vì vậy giữ nguyên phán xử!"

Nói xong liền đứng dậy vội vàng hạ đường.

Mặt mũi Đặng Vấn An đờ đẫn, Đặng lão bá liên tục dập đầu khóc oan, quần chúng bên ngoài công đường xúc động phẫn nộ.

Ngay lúc này lại có người đi vào: "Phủ dụ sứ đại nhân, tôi có lời muốn nói!"

Thôi phó quan dừng chân: "Bên dưới là người nào?"

"Nguyên Tuần kiểm sứ Định Châu, bệ hạ thân phong Quy Đức tướng quân, kiêm quận công, nay là Chuyển vận phó sứ Hoài Nam Trịnh Sở Chi, trạng cáo nguyên Huyện lệnh Giang Dương Lữ Lương Sĩ cấu kết với Tri phủ Dương Châu Tiêu Vấn Sách vu hãm Đặng Vấn An, muốn nhanh chóng chấm dứt án oan mà phán quyết sai lầm!"

"Có chứng cứ không?" Thôi phó quan nhanh chóng quay lại chính vị công đường, giọng hỏi gấp gáp.

Trong lòng Lữ Lương Sĩ có dự cảm bất thường, quay lại nhìn Thôi phó quan cùng Trịnh Sở Chi, dầu óc quay cuồng, mơ hồ đoán được mình bị đem ra làm cầu nối.

Trịnh Sở Chi cầm một phong thư nói: "Đây là thư Lữ Lương Sĩ viết cho ta, trong thư báo cáo cặn kẽ lão và Tiêu Vấn Sách dụ dỗ ba tên nhân chứng tạo bằng chứng giả hãm hại Đặng Vấn An như thế nào, bao gồm cả việc ban đầu An soái ty cùng Tống đề hình ngấm ngầm tranh đấu, mượn chức quyền làm lợi, để lộ ân oán cá nhân, không thèm để ý vụ án khả nghi trăm mối, làm Đặng Vấn An chết oan."

Lữ Lương Sĩ nghe vậy, đao chém trên đỉnh đầu đã rơi xuống rồi, quả nhiên con chốt thí bị bỏ rơi để đối phó với Tiêu Vấn Sách và An Hoài Đức chính là lão, là lão tự dâng mình đến miệng cọp.

Kế hoạch bạn đầu chẳng qua là vì để tăng thêm tiền cược cho mình, mà biến bản thân thành một con dao để bị lợi dụng, trao đổi với Trịnh Sở Chi và Khâm sai đại nhân cam kết giữ cho lão một mạng, lại không nghĩ tới kẻ phí sức cứu lão là đảng Thái tử, trái lại Khâm sai và Trịnh Sở Chi lúc trước ném cho lão cành ô liu bây giờ qua cầu rút ván!

Chính vì giao tình đều là bộ hạ cũ của Tần vương, Khâm sai vừa đến còn giúp lão bày mưu tính kế, nhiều lần cho thấy nguyên nhân đứng về phía lão, trong tiềm thức Lữ Lương Sĩ liền đặt nhiều niềm tin hơn vào hai người đó.

Nào ngờ cuối cùng tự lấy đá đập chân mình, cả đời lần đầu tiên trao lòng tin tưởng mà chỉ nhận lại phụ lòng và lợi dụng.

Lữ Lương Sĩ chỉ cảm thấy đầu ong ong, huyệt thái dương đau nhức, trong lòng vừa hối hận vừa tuyệt vọng, chẳng lẽ đó chính là báo ứng dành cho ngọn cỏ đầu tường lão đây?

Ban đầu, Tiêu Vấn Sách cùng Tư Mã Kiêu cho rằng Trịnh Sở Chi cố tình nhân cơ hồi này chạy đến khuấy nước đục, vốn không đáng lo, sau đó thấy sắc mặt Lữ Lương Sĩ ảm đạm như tai họa giáng xuống đầu, thoáng chốc nhận ra cái tên ngu xuẩn này có bệnh thì vái tứ phương lại hại ngược lại mình, còn viết thư báo cáo cả quá trình bọn họ âm thầm tìm cách ép chết án oan cho Trịnh Sở Chi biết.

Gã cho rằng biến mình làm dao chĩa về phía họ là có thể đầu hàng thành công, để Trịnh Sở Chi kéo gã ra ngoài sao?

Đúng là ngu hết chỗ nói!

Lữ Lương Sĩ một không tài hai thất đức, tự tin ở đâu ra để gã cảm thấy Trịnh Sở Chi sẽ làm một chuôi đao bảo đảm?

À không, Lữ Lương Sĩ còn không xứng làm dao, cùng lắm là cây gậy quấy nhiễu chó chết thôi!

Đầu Tiêu Vấn Sách giật đau, gã không cần tin tưởng Lữ Lương Sĩ nữa, đúng là một mớ hỗn độn, một bãi bùn nát càng lún càng sâu, trước mắt không thể nào rút người ra được, sắp tới e là phải đi trên con đường tăm tối rồi.

Tư Mã Kiêu cũng cảm thấy khó tin, quan sát Lữ Lương Sĩ một lượt, nội tâm viết to hai chữ 'hoang đường', sao mà lại có người đần đến nông nỗi này?

Nắm trong tay chứng cứ lão tham ô thu nhập từ thuế, chẳng khác nào cầm kim bài miễn tử.

Bất kể vụ án có khó đến đâu, lão vẫn sẽ nghĩ đến chuyện giữ Lữ Lương Sĩ lại, nếu không giữ được mới chết.

Nhưng mà Lữ Lương Sĩ gã có kim bài miễn tử, lại còn quay đầu tự đặt mình vào trong tay người khác, Tư Mã Kiêu làm quan mười mấy năm, giao thiệp với lão toàn là người thông minh, đúng là lần đầu thấy người có thể đần độn đến mức này, quả thật khiến người ta kinh ngạc.

Dĩ nhiên lão biết thư mật kia không phải là do Lữ Lương Sĩ đưa đến, Lữ Lương Sĩ phải biết một khi gã tiết lộ ra ngoài rằng trong tay mình có bằng chứng tham ô của đám người Tư Mã Kiêu, thì kết cục chỉ có thể là im hơi lặng tiếng chết trong nhà lao.

Cho dù có may mắn tránh được một kiếp, thì sau khi gã ra khỏi ngục cũng sẽ bị giết để bịt miệng, cho nên Lữ Lương Sĩ ngậm miệng rất chặt, chỉ dám tiết lộ một hai cho Khâm sai sứ biết.

Thôi phó quan nhìn hết từng người dưới công đường một lần, vẫy tay nói: "Mang thư lên."

Xem thư xong, Thôi phó quan tức giận vỗ bàn: "Khá cho quan bao che quan, chỉ tay đổi trắng thay đen! Tiêu tri phủ, Tiêu thương sứ, ông có muốn đích thân đến xem phong thư này hay không?"

Mặt Tiêu Vấn Sách tái xanh, lão ấp úng, lắc đầu liên tục, không dám lại.

Thôi phó quan quay lại hỏi Tư Mã Kiêu: "Đô tào đại nhân, ngài có muốn đọc hay không?"

Biểu cảm Tư Mã Kiêu trở nên khó coi: "Ai có thế đảm bảo phong thư này là do Lữ Lương Sĩ tự tay viết mà không phải là có người giả tạo, cố tình hãm hại mệnh quan triều đình?" Đột nhiên lão nghĩ đến chuyện gì đó, chất vấn: "Thư này được viết từ khi nào? Lúc nào đến tay Trịnh vận phó? Trong khoảng thời gian này, không phải Lữ Lương Sĩ đang bị giam trong tù sao? Thế lão viết thư bằng cách nào, lại còn có thể đưa thư đi? Nhớ không lầm, Khâm sai đang tạm thay chỗ Huyện lệnh Giang Dương, nghị ngục hình kiện tất cả đều quy về đại nhân ngài quản lý, phạm nhân dưới tay ngài tự do truyền tin ra ngoài có phải là do ngài không làm tròn bổn phận hay không?"

"Ông!" Thôi phó quan nghiêng đầu hỏi Trịnh Sở Chi: "Trịnh vận phó nói cho cấp dưới của ông biết đi, ông nhận được phong thư này từ khi nào?"

Trịnh Sở Chi: "Buổi trưa ngày hôm trước."

Tư Mã Kiêu tra hỏi: "Có chứng minh được thư này được chính tay Lữ Lương Sĩ gửi đi không?"

Trịnh Sở Chi: "Tra nét chữ của lão là có thể chứng minh thật giả."

Tư Mã Kiêu giễu cợt: "Đến cái hầm cầu nào đó tùy tiện túm một tên mải võ là có thể bắt chước nét chữ, có gì mà hiếm lạ? Các người nói Lữ Lương Sĩ cấu kết với Tiêu Vấn Sách hãm hại một dân thường, ta đang muốn hỏi Tiêu đại nhân vì sao lại cấu kết với lão đây? Vụ án phúc thẩm có sai sót, cùng lắm là phạt chút bổng lộc, nhưng cấu kết với Lữ Lương Sĩ, cố ý hãm hại người, theo luật cách chức, ta cảm thấy phàm là người có đầu óc sẽ không thể làm ra chuyện này, trừ phi Tiêu đại nhân và Lữ Lương Sĩ nặng tình anh em sống chết mới bằng lòng giả mạo chứng cứ."

Rồi gã xoay người lại hỏi: "Tiêu đại nhân, ông nói quan hệ của ông với Lữ Lương Sĩ là thế nào?"

Tiêu Vấn Sách lấy lại tin thần, vội vàng đáp: "Bổn quan ngoài quan hệ cấp trên cấp dưới thì không có dây mơ rễ má gì cả! Còn chứng cứ giả trong thư này nhắc tới, bổn quan vốn chẳng biết gì. Hơn nữa, theo như kế hoạch, thì Lữ Lương Sĩ được bổn quan và Đô tào đại nhân cứu, vậy tại sao lão ta còn tự vạch trần mình hãm hại Đặng Vấn An với Trịnh vận phó? Chẳng lẽ lão vách đá ghìm ngựa, lấy người làm mồi nhử, học Đức Phật cắt thịt cho ưng ăn, chỉ để bắt đám 'tham quan' bọn ta sao?"

Gã nhìn vòng quanh công đường, lạnh lùng quét qua Trịnh Sở Chi, cuối cùng nhìn chằm chằm Thôi phó quan, lời lẽ như chính nghĩa: "Đại nhân hoài nghi hạ quan mưu hại bách tính, nhưng hạ quan lại nghi ngờ đại nhân và Trịnh vận phó xáo trộn thị phi, quấy nhiễu để đẩy hạ quan vào tình cảnh bất nghĩa!"

Tiêu Vấn Sách tháo mũ quan ngay trên công đường, giận dữ chất vấn: "Hôm nay bổn quan lấy mũ quan trên đầu xuống làm chứng, xin Khâm sai hãy tra rõ lại chân tướng, nếu như bổn quan phạm tội, thì sẽ bắt lại ngay đây, tất không hai lời! Nhưng nếu như có người không có ý tốt, cố ý đổ tội, mà đại nhân nghe theo lời của một phía đưa bổn quan vào tình thế không thể tiến lui, bổn quan chỉ đành phải theo lệ hành quyền giám sát, quay về phủ Kinh Đô, mời bệ hạ cân nhắc quyết định!"

Tư Mã Kiêu nhanh chóng tiến lên hai bước, nghiêm nghị quát hỏi: "Lữ Lương Sĩ, lá thư này là do ông tự tay viết sao?"

"Không phải!" Lữ Lương Sĩ đã tỉnh táo từ lúc bọn họ tranh luận, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng chối: "Một án Đặng Vấn An, kẻ hèn này tự biết mình quản lý sơ xuất, nhưng mà Đặng Vấn An kia rõ ràng luôn miệng tự nhận hắn chính là Vương Quốc Chí, vì sao đến lúc ra pháp trường mới kêu oan? Nếu như lúc đó hắn kêu oan, tôi đã có thẻ phát hiện sai sót rồi... Là tôi không đủ tài cán, không thể nhận ra đỉểm khả nghi kịp thời, khi tin tức vụ án được phúc thẩm truyền về huyện Giang Dương, tôi đã áy náy đến mức đứng ngồi không yên, lập tức hỏi người, tận tâm tận lực, lúc này mới tra được Đặng Vấn An là đồng bọn của Vương Quốc Chí —— "

Đặng Vấn An lắc đầu nguầy nguậy, liên tục lắc tay chối, bị suy luận của đám người kia cuốn vào vòng xoáy, hắn đã không biết chen miệng vào thế nào nữa rồi.

Lữ Lương Sĩ tiếp tục khóc kể: "Tôi thiếu tài năng, ngu ngốc bất lực, xử án sai người vô tội, cho dù Đặng Vấn An không kêu oan ở pháp trường, dù hắn thật sự mất mạng, thì theo luật tôi cùng lắm cũng chỉ bị cách chức đẩy đi làm lao dịch, hà cớ gì lại mắc thêm lỗi lầm, cố tình hãm hại người ta nữa? Huống chi tôi đã điều tra rõ ràng Đặng Vấn An là đồng bọn của tội phạm, giết cũng chẳng có gì sai, nhiều nhất thì phạt bổng lộc thôi, vì sao tôi còn phải tự tìm đường chết chứ?"

Một đám quan liêu ở Hoài Nam không hổ là đã làm quan mấy chục năm, ai cũng có thể nói đen thành trắng, nói trắng thành đen, thật sự là một bầy quỷ dữ đội lốt người.

Tư Mã Kiêu nghiêm nghị trách mắng: "Khâm sai đại nhân, Triệu đại nhân! Ngài nhìn xem các quan liêu Hoài Nam bị ngài ép thành cái dạng gì rồi! Mặt đỏ tía tai cuồng loạn, xúc phạm quan viên, hành vi bất kinh —— ngài đang muốn bức chết đám quan viên này sao? Ngài có gánh vác nổi hậu quả khi hơn ngàn quan viên Hoài Nam liên danh tố cáo ngài hay không?"

"Ta!"

Dẫu sao Thôi phó quan cũng là quan võ, quanh năm trú đóng ở Tây Bắc, rất ít đi sâu vào quan trường.

Da mặt dày, miệng lưỡi nhanh lẹ cùng với suy luận ngôn ngữ điên đảo trắng đen không thể thiếu thứ nào, dù gã có đủ ba yếu tố đó nhưng kinh nghiệm không nhiều, lập tức bị ép đến nổi đầu óc trắng trơn, không còn lời gì để phản biện, không biết vì sao lại rơi vào trong bẫy rập suy luận của đám người Tư Mã Kiêu, không thể nghĩ thêm điều gì nữa.

"Khâm sai không làm tròn bổn phận, nên trách nên phạt, tự có Thánh tài, không đến lượt các ngươi uy hiếp."

Thanh âm bất ngờ vang lên chen vào, hấp dẫn ánh mắt của mọi người, lại thấy từ phía sau công đường có một thanh niên vận áo lụa trắng dài bước ra, da dẻ trắng mềm, dáng vẻ anh tuấn tràn ngập khí chất tao nhã.

Y vừa ra sân đã khai hỏa tấn công, không để cho bọn họ kịp có cơ hội phản ứng lại, vươn lên dẫn trước, mồm miệng lanh lợi, khí thế mạnh mẽ.

"Hành quyền giám sát, liên danh tấu tố là chức trách của chư vị đại nhân, cũng là quyền lợi mà bệ hạ ban cho, Khâm sai không làm tròn bổn phận, muốn tố liền tố, muốn mắng cứ mắng, tất thảy đều nghe theo! Nhưng một án là một án, Khâm sai quản lý án oan của Đặng Vấn An, không thể bỏ qua bất kì điểm khả nghi của bất kì quan viên nào! Khâm sai thẩm án xét hỏi cũng là làm theo quy trình, Đô tào chưa từng thẩm án, không biết quy trình cũng có thể hiểu, nhưng Tống đề hình, Tiêu tri phủ, còn có Lữ Lương Sĩ, dưới tay các ông không biết có bao nhiêu vụ án, còn cần Khâm sai tới dạy các ông thẩm án thế nào sao?"

Tiêu Vấn Sách muốn lên tiếng, nhưng Triệu Bạch Ngư nói dường như không cần dừng lại hít thở, ngữ tốc rất nhanh: "Hạ quan không biết hóa ra quy trình thẩm án bình thường ở chỗ chư vị đại nhân lại thành Khâm sai muốn giết chết hết các ông? Các ông muốn liên danh tấu tố, Khâm sai đại nhân cũng muốn hỏi thử bệ hạ và các đại thần trong triều xem, quy trình tra án bình thường vậy mà cũng có thể bức chết một đám quan viên Hoài Nam hay sao."

Thôi phó quan gật gù, đầu mũi chua xót, tiểu Triệu đại nhân chính là cái miệng của gã đó.

Tư Mã Kiêu giật môi muốn nói chuyện, nhưng bị Triệu Bạch Ngư ngăn lại, từng chữ như châu ngọc: "Lữ Lương Sĩ làm quan ở huyện Giang Dương nhiều năm, có chút thủ đoạn và mạng giao thiệp thì có gì khó hiểu chăng? Chỉ là nhờ một kẻ đưa thư mà thôi, cho mấy lượng bạc thì biết bao nhiêu lính canh sẽ tranh nhau mà làm, chư vị đại nhân làm quan hơn mười năm, đừng nói với ta các ông ngạc nhiên khi thấy có cai ngục dám thu hối lộ... Nếu không tại sao bây giờ lại tố cáo Khâm sai trị dưới không nghiêm? Chẳng lẽ các người dám vỗ ngực đảm bảo người phía dưới mình ai nấy cũng đều trong vắt như nước?"

"Nếu đã nói trị dưới không nghiêm, thì trách nhiệm vẫn phải do Lữ Lương Sĩ gánh chịu, dẫu sao Khâm sai cũng chỉ mới tiếp quản huyện Giang Dương chưa đầy một tháng, không có thời gian dạy dỗ ngần ấy người dưới trướng ngài được."

"Lại nói thư này có phải chứng cứ giả hay không, có thể tìm một cai ngục hỏi cho rõ, chứng cứ thu nhận hối lộ, giấy mua bán, bút mực nghiên mực hãy còn đó không bị tiêu hủy, đại nhân chờ chút là được. Còn về việc bắt chước nét chữ, nội dung trong phong thư dính dấp đến đại quan tam tứ phẩm tại địa phương, nếu không có bằng chứng thì đây chính là bêu rếu mệnh quan triều đình, theo luật không chỉ phạt ba mươi trượng mà còn phải làm lao dịch, chi bằng Đô tào đại nhân ngài nói cho ta biết vị dũng sĩ đường phố nào dám vì mấy lượng bạc vụn mà phỉ báng quan lại trong triều đây?"

Lúc này Tư Mã Kiêu cũng lên tiếng: "Có lẽ chỉ có một vài môn khách xuất chúng mới có thể làm thế."

Trịnh Sở Chi nghiêng đầu: "Đô tào nghi ngờ tôi ngụy tạo thư để bôi nhọ các người sao?"

Tư Mã Kiêu: "Đó cũng chỉ là một suy đoán hợp lý thôi, nếu như Vận phó trong sạch thì cần chi để ý?"

Trịnh Sở Chi cười nhạt: "Khâm sai đại nhân căn cứ vào phong thư này đưa ra nghi ngờ, cũng là suy đoán hợp lý, nếu như chư vị đồng liêu trong sạch thì cần gì phải để ý? Vậy sao mà còn phải quả quyết sống chết tựa như trong sạch mất ráo hết rồi thế?"

Tư Mã Kiêu bị chận lời, sắc mặt khó coi: "Không thể chứng minh phong thư là ngụy tạo, nhưng cũng không thể chứng minh được nó không phải ngụy tạo."

Triệu Bạch Ngư: "Lữ Lương Sĩ muốn liên lạc với bên ngoài phải thông qua cai ngục, tìm cai ngục hỏi rõ là được."

Lúc này Tư Mã Kiêu mới nhớ tới Triệu Bạch Ngư: "Ngươi là ai?"

Triệu Bạch Ngư: "Bộ Binh Cấm quân Trung Ương Đô ngu hầu, thị vệ thân quân tòng ngũ phẩm, phụng chỉ bảo vệ Phủ dụ sứ."

Thôi phó quan bước lên phía trước: "Đúng vậy, y là thị vệ bảo hộ bổn quan."

Triệu Bạch Ngư mang khí chất văn nhân khắp người, có điều vào giai đoạn trước Đại Cảnh trọng văn khinh võ, nhiều võ tướng phát triển theo hướng quan văn, cho nên trên người Triệu Bạch Ngư có khí chất văn nhân cũng không kỳ lạ.

Triệu Bạch Ngư: "Hồi bẩm đại nhân, tiêu hạ mới lệnh cho người phía sau công đường đi hỏi cai ngục, chắc hẳn bây giờ có câu trả lời rồi, có thể cho truyền đến."

Thôi phó quan: "Tốt lắm, truyền cai ngục lên tra hỏi."

Cai ngục nhanh chóng được đưa lên công đường, đối mặt với một đám cao quan bị dọa sợ quỳ sụp xuống đất, run rẩy xin tha: "Đại nhân tha mạng! Đại nhân tha mạng! Tiểu nhân mê tiền hám của, chỉ thu Lữ đại nhân... Không phải, chỉ thu Lữ Lương Sĩ năm lượng bạc vụn, giúp lão ta mua giấy bút mực và đưa thư —— "

Triệu Bạch Ngư: "Ngươi đưa tổng cộng mấy phong thư? Chia ra đưa đi đâu?"

"Hai phong. Đưa một cái đến phủ nha phủ Dương Châu, còn lại đưa đến nơi ở của Vận phó Hoài Nam, tiểu nhân đảm bảo không nói láo, thu bạc cũng chỉ dùng một hai không hết."

"Quay về chủ động đền bù và giao nộp bạc mà ngươi thu hối lộ lại là được, đi xuống đi." Triệu Bạch Ngư nói.

"Tạ ơn đại nhân, đa tạ đại nhân khoan dung độ lượng." Cai ngục vừa tạ vừa lui ra khỏi công đường.

Triệu Bạch Ngư nhìn về phía Thôi phó quan, người nọ phản ứng ngay: "Lời của cai ngục, các vị đều đã nghe rõ rồi chứ?"

Tư Mã Kiêu hừ lạnh một tiếng: "Cai ngục chỉ chứng minh Lữ Lương Sĩ viết thư, đưa tin, nhưng có nói phong thư Trịnh vận phó lấy tới là thư mà Lữ Lương Sĩ viết sao? Nếu như Lữ Lương Sĩ cấu kết Tiêu Vấn Sách hãm hại Đặng Vấn An, thì sao mà dám tự đào mộ tố cáo chính lão? Tại sao không tố cáo với bổn quan và Khâm sai đại nhân, mà là tố với Trịnh vận phó vốn chẳng liên quan gì đến án này?"

Tiêu Vấn Sách chen vào: "Không sai, suy luận hoàn toàn phi lý. Mục đích đưa thư là để tự cứu, Lữ Lương Sĩ không tìm Tống đề hình, không tìm dại nhên ngài, vậy mà lại tìm Trịnh vận phó không chút quan hệ, có lý không? Nói tới nói lui, cho dù lời Lữ Lương Sĩ có là thật, thì Trịnh vận phó một là không có quyền tra án luận tội, hai không phải Khâm sai do bệ hạ bổ nhiệm, căn bản không có quyền nhúng tay vào án này, vì sao Lữ Lương Sĩ lại tìm ông ta?"

Lữ Lương Sĩ gật đầu liên tục: "Đúng đúng, Tiêu tri phủ và Đô tào đại nhân nói quá đúng!"

Triệu Bạch Ngư giễu cợt, hai tay vọng ra sau lưng bước tới: "Các vị đại nhân muốn tranh cãi đến cùng sao?"

"Nghi ngờ hợp lý, suy luận bình thường, sao lại nói là tranh cãi? Không muốn chấp nhận nỗi oan khiên là tranh cãi hay sao?"

Triệu Bạch Ngư cười, "Trước đây ta có đọc một câu chuyện cười, nói về một người chết ba ngày rồi, toàn thân trên dưới đều mềm nhũn ra, chỉ có cái miệng là còn cứng, giống hệt như tình trạng bây giờ."

"Láo xược!" Tiêu Vấn Sách tức giận: "Một thị vệ tòng ngũ phẩm như ngươi mà cũng dám nhục mạ cấp trên ở công đường ư?"

Triệu Bạch Ngư lạnh lùng đáp: "Tiêu hạ không chỉ mặt gọi tên, Tiêu đại nhân cũng đừng có tự thay mặt mình vào chứ."

Tiêu Vấn Sách nộ khí công tâm, mấp máy không thể đáp lại gì.

Tư Mã Kiêu lạnh nhạt nói: "Khâm sai không lên tiếng, thị vệ ngươi nhảy vào châm chọc các quan trên ngồi đây thì đúng là thứ được nuông chiều sinh cuồng vọng."

Thôi phó quan đúng lúc đáp lại: "Đô ngu hầu lanh lợi tháo vát, đã giúp bổn quan phá án nhiều lần, nói gì làm gì cũng đại diện cho ý kiến của bổn quan, có vấn đề gì không?"

"Đại nhân không thèm để ý cấp dưới lạm quyền, các ông lão bọn tôi tất nhiên không nhiều lời." Tư Mã Kiêu trừng mắt hung ác nhìn Lữ Lương Sĩ, nói: "Nếu vụ án vẫn còn nghi vẫn, vậy thì tạm giữ tái thẩm."

Thôi phó quan theo bản năng thuận theo nói thoái đường, nhưng Triệu Bạch Ngư nhanh hơn gã một bước nói: "Không cần, điểm khả nghi được giải quyết hết rồi."

Đám người Tư Mã Kiêu, Tiêu Vấn Sách đồng loạt nhìn về phía Triệu Bạch Ngư, đầu óc mờ mịt đồng thời nảy sinh lòng bất an.

Triệu Bạch Ngư xoay người, chắp tay về phía Thôi phó quan nói: "Khởi bẩm đại nhân, tiêu hạ cũng đã bắt được hung thủ Vương Quốc Chí, thẩm vấn từ hắn moi ra được biết bao nhiêu vụ án mà hắn phạm phải mấy năm qua, vào nhà giết người lẫn quá trình hắn uy hiếp dụ dỗ Đặng Vấn An giả danh thế mạng như thế nào, chữ ký chấp thuận đơn cáo trạng ở đây, mời đại nhân xem qua."

Nói xong liền lấy đơn cáo trạng trong tay áo ra.

Sắc mặt Tư Mã Kiêu co quắp rất khó coi, Tiêu Vấn Sách thở hắt một tiếng ngã ngồi tại chỗ, mặt vàng như giấy, hai bên tai Lữ Lương Sĩ ong ong, choáng váng nghiêng người ngã nhào xuống đất.

Vương Quốc Chí... Khâm sai bắt được Vương Quốc Chí đang chạy trốn bên ngoài rồi!

Có lời khai của hung thủ, thì dù chứng cứ bôi nhọ Đặng Vấn An có đầy đủ đi chăng nữa, dù đám người Lữ Lương Sĩ có tranh cãi thế nào đi chăng nữa, thì cũng không đủ sức xoay chuyển trời đất.

Lữ Lương Sĩ cùng Tiêu Vấn Sách cấu kết mưu đồ hãm hại, đầu tiên không thoát khỏi mất chức, mạng có thể giữ thì đúng là cực kỳ may mắn, Tư Mã Kiêu vốn không liên quan nhưng vì nói giúp hai người đó, e rằng cũng sẽ mang tiếng quan bao che quan.

Chỉ sợ rằng Vương Quốc Chí đã bị bắt từ sớm, đơn cáo trạng cũng được chuẩn bị trước đó, nhưng Khâm sai và người của mình vẫn biểu diễn tiếc mục bị buộc ép vào thế bí ở công đường, chẳng phải đang chơi trò gậy ông đập lưng ông hay sao?

Phải biết sai lầm không làm tròn bổn phận và cố tình làm việc trái pháp luật vì tình riêng là hai tội khác nhau một trời một vực.

Đám người Lữ Lương Sĩ và Tiêu Vấn Sách còn có thể tranh cãi vốn là vì bản thân chỉ mắc lỗi phán xử, có thể mượn lúc người bị hại còn chưa chết để tranh thủ giảm bớt tội. Nhưng bọn họ cứ thích vẽ rắn thêm chân, khiến cho sai trái rành rành thành chịu oan không đáng, bất kể Đặng Vấn An có chết hay chưa thì cũng sẽ bị xử tội nặng.

Liên lụy đến cả An Hoài Đức, người tham dự phúc thẩm án oan cũng không tránh khỏi bị thẩm vấn lại.

Khá lắm, hay cho thiếu niên Khâm sai, trí tuệ vô song.

Hóa ra là ở đây chờ cho bọn họ vào tròng, hóa ra là đã dự tính một lưới gom hết cả quan trường Hoài Nam rồi.

Thôi phó quan đọc đơn cáo trạng xong là nổi cơn tam bành: "Lữ Lương Sĩ, Tiêu Vấn Sách, hai vị còn có lời gì muốn nói không? Đô tào đại nhân, ngài còn giữ vững nghi ngờ mà mình cho là hợp lý không?"

Tư Mã Kiêu nghiêng người sang bên, không dám đối mặt.

Thôi phó quan lớn tiếng quát: "Đô ngu hầu, ngươi nói thử xem làm sao bây giờ?"

"Đặng Vấn An vô tội phải thả, tùy theo tình hình bồi thường, do một tay triều đình gánh chịu."

Đối với Đặng Vấn An, giọng Triệu Bạch Ngư dịu xuống, vừa nói xong đã chuyển sang tốc độ nhanh cực kì tàn nhẫn.

"Nguyên Huyện lệnh Giang Dương Lữ Lương Sĩ phạm tội để lạc người đột nhập, bởi vì phán xử có sai sót mà xử nhầm người vô tội, theo luật cách chức. Nhưng Lữ Lương Sĩ còn mắc thêm tội nữa, là trù tính án oan, cố tình bôi nhọ hãm hại người vô tội, chính là cố ý phạm tội, làm việc trái luật vì lợi riêng, theo luật cách chức, xử tử! Tri phủ Dương Châu Tiêu Vấn Sách biết pháp còn phạm pháp, đảo lộn trắng đen, cùng Lữ Lương Sĩ gây nên án oan không nói, lại mắc thêm lỗi tái phạm, theo luật cách chức, nhận ba năm lao dịch. Trừ hai người vi phạm luật pháp đã xác nhận, còn có một kẻ tuy không phạm pháp nhưng còn ghê tởm hơn bọn họ nữa —— chính là ông!"

Triệu Bạch Ngư chợt chỉ về phía Tư Mã Kiêu, người nọ ngạc nhiên hoảng sợ.

"Tư Mã Đô tào ông ngàn dặm chạy tới huyện Giang Dương, không hiểu rõ chân tướng, chỉ nghe từ một phía mà bức bách Phủ dụ sứ tuyên án người vô tội thành có tội, không làm tròn bổn phận, sơ xuất trong giám sát, vậy thì đáng tội gì? Còn có An Hoài Đức, vì ân oán cá nhân mà gây hại đến người vô tội, nên xử phạt thế nào đây? Còn có ông —— "

Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên xoay người lại, chỉ vào người trông lương thiện vô tội nhất ngay từ đầu vụ án – Tống Linh.

Tống Linh bối rối: "Ta?"

Triệu Bạch Ngư: "Ông thân là Đề hình nắm giữ nghị ngục một tỉnh, vì dân thỉnh mệnh, vạch tội quan lại tham ô, nhưng bởi vì hành động theo cảm tính, ngấm ngầm đấu đá thua An Hoài Đức liền dứt khoát vung tay mặc kệ bất kể đó là oan án, ông biết rõ vụ án này đầy rẫy điểm khả nghi, vậy mà đến cùng vẫn không muốn nhúng tay quản lý, dù bị Soái sứ dùng quan uy cưỡng ép, dù ông không có quyền hỏi tới vụ án, nhưng vẫn là Đề hình có quyền giám sát một tỉnh, được tấu lên Kinh Đô, cầu oan cho dân!"

Vẻ mặt Tống Linh trở nên kinh ngạc, làm quan mười năm, không nhắc đến tội lớn nhưng cũng là một quan có chút tiếng tăm, mà nay lại bị một thị vệ nho nhỏ nói cho á khẩu không thể đáp lời, càng chết người nữa là ông cảm thấy người trước mắt mình nói không sai, câu nào cũng đánh vào điểm yếu khiến cho ông xấu hổ không chịu nổi.

"Nhưng Tống đại nhân ông lại không làm vậy, vẫn luôn đứng bên cạnh theo dõi, bởi vì quan trường Hoài Nam nước sâu, sẽ ảnh hưởng đến mình, ngài không dám vươn tay khuấy động, sợ bị kéo thẳng vào chết chìm trong đó, cho nên nghêu cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi, thậm chí ngài còn cảm thấy mình cẩn thận, thông minh, tài trí nhất trần đời. Nhân vật nhỏ như Đặng Vấn An bị kéo xuống là do hắn xui xẻo, ngài cần phải lo nghĩ cho đại cuộc, không thể vì công đạo cho mình hắn mà làm hỏng tình hình Hoài Nam, có phải hay không?"

Biểu cảm Tống Linh nghiêm lại, trong lòng áy náy: "Bổn quan đúng là không làm tròn bổn phận của mình, thiếu đôn đốc kiểm tra, sau chuyện này sẽ tự vạch tội, cung thính Thánh tài, không một câu oán hận. Nhưng xin Đô ngu hầu ăn nói cẩn thận, tự tiện đo lường quan trường Hoài Nam không thua gì bêu xấu đồng liêu, chính là đại kỵ."

Trước khi Khâm sai đến Hoài Nam, Tống Linh đã được ân sư Khang vương dặn dò, đoán được Nguyên Thú đế muốn chỉnh đốn quan trường Hoài Nam, vậy nên vẫn luôn bo bo giữ mình chờ thời cơ đến, theo như lời Triệu Bạch Ngư, tự xưng lấy đại cuộc làm trọng, trái lại không nhìn thấy oan khuất cao như núi của bách tính.

Triệu Bạch Ngư giễu cợt: "Dân gian có một câu châm ngôn, làm quan mà không làm chủ cho dân thì còn không bằng về nhà trồng khoai lang."

Tống Linh giơ tay lên, dùng tay áo che mặt: "Tống Linh xấu hổ."

Triệu Bạch Ngư mắng cho một phen, sớm đã phát tiết xong cơn giận khi nhìn thấy quan trường Hoài Nam tăm tối thối rữa mà y đã tích lũy bấy lâu, trông Tống Linh không đến nỗi không có thuốc chữa liền cảm thấy dễ chịu.

Triệu Bạch Ngư xoay người nhìn Thôi phó quan, chắp tay nói: "Người tắc trách không làm tròn bổn phận trước án oan, nên phạt đã phạt, nhưng vẫn còn một người chưa đến, xin đại nhân cho đòi hắn đến Huyện nha tra hỏi."

Thôi phó quan với y kẻ xướng người họa: "Ý ngươi là ai?"

Triệu Bạch Ngư: "An phủ sứ Hoài Nam An Hoài Đức."

Thôi phó quan: "Đô tào đại nhân cảm thấy thế nào?"

Dáng vẻ kiêu ngạo của Tư Mã Kiêu đã biến mất, trong lòng còn đang tính toán giết Lữ Lương Sĩ bịt miệng thế nào, bất chấp An Hoài Đức: "Vậy Khâm sai cứ phân phó."

Lúc này Thôi phó quan mới lên tiếng: "Bổn quan truyền lệnh, cho đòi An Hoài Đức đến huyện Giang Dương thẩm vấn về vấn đề sơ suất trách nhiệm vụ án Đặng Vấn An!"

==

Chương 36

Hành dinh Từ Châu.

Chân tướng một án làm thịt vịt trắng ở huyện Giang Dương đã rõ ràng, Tiêu Vấn Sách và Lữ Lương Sĩ leng keng xích sắt ngục tù, Đô tào tỉnh Hoài Nam mất sạch mặt mũi, Tống đề hình bị thị vệ bên người Khâm sai khiển trách đến nỗi hổ thẹn lẫn ân hận, đã truyền đi khắp Hoài Nam.

Chuyện này vốn không được truyền đi nhanh cũng không phổ biến như vậy, nhưng có mấy người xấu tính bên phía Trịnh Sở Chi giúp quấy nhiễu, vất vả lắm mới có được cơ hội còn không chịu đánh vào chỗ hiểm của đảng Thái tử hay sao?

Người của Hoắc Kinh Đường ở Dương Châu cũng lục tục thêm dầu vào lửa, hành dinh của An Hoài Đức ở Từ Châu xa xôi nhanh chóng biết được ngọn nguồn và phát triển của sự tình.

Sau khi tiếp đãi Khâm sai, nghe xong lời truyền, An Hoài Đức ngồi trong đại sảnh phủ đệ hành dinh, dù bận vẫn nhàn nhã uống trà.

Tả quan tham mưu nói: "Khâm sai đi bước nào rào bước ấy, trang bị đầy cạm bẫy trên công đường, lợi dụng án oan này, một mình Lữ Lương Sĩ cũng có thể kéo theo Tiêu Vấn Sách và Tư Mã Kiêu vào tròng, còn liên lụy Soái sứ ngài bị truyền đi thẩm vấn, lòng dạ khá sâu, không thể xem thường được."

Hữu tham mưu: "Quả nhiên Khâm sai ý tại Bãi Công, mượn án oan này chỉnh đốn quan trường Hoài Nam. Soái sứ ngài là tấm gương sáng của quan trường Hoài Nam, quan viên lớn nhỏ đều bắt chước làm việc theo ngài, nếu như ngài gặp phải chuyện gì, toàn bộ nơi này đều có thể đập tan dễ như trở bàn tay, những gì Thái tử bố trí nhiều năm mai kia sẽ thành vô ích cả."

Tả tham mưu: "Cuộc chiến lần này là nhằm vào Soái sứ! Lữ Lương Sĩ, Tiêu Vấn Sách bất quả cũng chỉ là tiểu lâu la, mục đích thật sự là Soái sứ, nếu như đến Giang Dương, chỉ sợ bị bắt bí tiền trảm hậu tấu, sau chuyện này Khâm sai sẽ có cớ để chụp tội."

Hữu tham mưu khẳng định: "Đây là Hồng Môn yến nơi nơi là gông cùm xiềng xích, đúng là đặc biệt nhắm vào Soái sứ ngài."

An Hoài Đức: "Nhưng Khâm sai đại nhân đại diện cho Thánh thượng, mà ta không thoát khỏi liên can với án oan này, Khâm sai cho truyền không thể không đi. Đi là thành chui vào rọ, không đi là tát vào mặt mũi bệ hạ, các ngươi nói xem ta nên làm gì?"

Hữu tham mưu nghĩ kĩ chốc lát rồi nói: "Có rồi, lấy cớ đại nhân phải ở lại Từ Châu tìm lại bạc cứu trợ thiên tai bị cướp đi, điều tra loạn đảng để từ chối lời truyền của Khâm sai, phái một thân tín thay mặt đi báo lên là được rồi."

An Hoài Đức: "Thế có được không?"

Hữu tham mưu đáp chắc như đinh đóng cột: "Chỉ là một án oan mà thôi, tuy có xen lẫn ân oán riêng của ngài và Tống đề hình, nhưng suy cho cùng chủ thẩm chính là Lữ Lương Sĩ, cấu kết với lão ta, biết pháp còn phạm pháp, cố ý hãm hại Đặng Vấn An là Tiêu Vấn Sách, không có liên quan gì nhiều đến đại nhân đâu, cùng lắm coi như làm việc tắc trách, nhưng nếu có thể tìm lại bạc cứu trợ cho hơn mười ngàn dân bị nạn Từ Châu, thật sự không đáng là gì. Cho dù đó là Khâm sai, thì một khi liên quan đến hai triệu cứu trợ, dân bị nạn Hoài Nam cùng với loạn đảng thì hắn cũng phải cân nhắc thôi, việc nào nặng việc nào nhẹ, hắn còn không phân biệt được sao?"

"Ừ nhỉ." An Hoài Đức ngẫm đi ngẫm lại: "Chẳng qua chuyện xử lý loạn đảng không thể kéo dài, trước mắt đã có thể khẳng định chuyện Chương Tòng Lộ bị thiêu chết cũng là do loạn đảng gây nên, nhưng ngư dân Ngư Gia Trại chứa chấp loạn đảng lại không thể định án ngay, còn phải qua ba đường hội thẩm mới được. Tống đề hình và Tư Mã đô tào đều bị giam lại huyện Giang Dương rồi, không phải lão phu nên tự mình đi đòi người ư?"

"Hạ quan cho rằng cần phải kéo dài. Bởi vì dịch bệnh, Khâm sai điều động hai nhánh doanh binh quân Hoài và quân Nam trấn thủ Giang Dương, bây giờ ngài đi chính là tự chui đầu vào lưới. Hạ quan nghe nói bệnh dịch được giải quyết rất nhanh chóng, theo luật Đại Cảnh, khi nào dịch có chuyển biến tốt thì hai nhánh doanh binh đã phải trở về rồi, không thể trú đóng thời gian dài ở một chỗ được. Chờ doanh binh rời đi rồi ngài hãy viết thư, để quân Dương Nhị đích thân đến Giang Dương mời Tống đề hình và Tư Mã đô tào về. Chỉ cần trong tay Khâm sai không có binh, ta liền có thể nhân cơ hội vào cướp người mang đi, nhanh chóng giải quyết vụ loạn đảng ở bên này. Đợi bụi lắng xuống, chúng ta muốn nói thế nào thì nói, Khâm sai muốn lật lại án cũng khó, đến lúc đó thuận theo hắn bám víu vụ Đặng Vấn An gây khó dễ thế nào cũng được."

An Hoài Đức suy nghĩ thật kĩ nhiều điều, cuối cùng cười lên: "Đúng là một kế hay ho."

Hữu tham mưu dè dặt hỏi: "Không biết trong lòng đại nhân có được người nào để phái đi Giang Dương chưa ạ?"

Bọn họ cũng có chút lo lắng người bị đưa đi là mình, vậy nên lúc này đã bắt đầu sốt vó đề phòng.

An Hoài Đức nhìn ra tâm tư của bọn họ, cười to trấn an: "Yên tâm đi, lão phu sẽ không phái các ngươi đi Giang Dương chịu đựng để Khâm sai trút giận đâu. Còn người được chọn thì, để cho Tôn tham nghị đi đi."

Tả hữu tham mưu cảm kích rơi nước mắt, vội vàng đứng dậy, hai miệng đồng thanh: "Soái sứ anh minh."

***

Đợi tả hữu tham mưu đi hết, Tôn Phụ Ất mới bước ra từ sau đại sảnh.

An Hoài Đức: "Nghe hết rồi chứ?"

Tôn Phụ Ất gật đầu.

An Hoài Đức: "Lần này phái ngươi đích thân đi Giang Dương, một là dò xét ý đồ của Khâm sai, hai là để bảo vệ Lữ Lương Sĩ."

Tôn Phụ Ất Nghe vậy thì ngạc nhiên: "Tại sao lại bảo vệ Lữ Lương Sĩ? Lão ta vừa ngu xuẩn vừa vô dụng, không chỉ làm liên lụy ngài mà còn liên lụy đến bộ hạ cũ của Tần vương, ta thấy lão không dùng được nữa đâu, chết sớm mới tốt."

An Hoài Đức uống trà, bình tĩnh ung dung: "Lữ Lương Sĩ là một tên tiểu nhân ngu đần, nhưng tiểu nhân cũng có cách sống của tiểu nhân. Ngươi biết tại sao Tư Mã Kiêu lại tự mình đến Giang Dương cứu Lữ Lương Sĩ hay không?"

Tôn Phụ Ất cau mày: "Không phải Tư Mã Kiêu đi cứu Tiêu Vấn Sách sao?"

An Hoài Đức: "Tiêu Vấn Sách mới bị lôi kéo không lâu nhưng bỏ cũng không tiếc, Tư Mã Kiêu cần gì phải vì gã mà chọc mình tức giận?"

Tôn Phụ Ất: "Lữ Lương Sĩ lấy đâu ra giá trị thuyết phục Tư Mã Kiêu bảo vệ mạng lão?"

"Nuốt riêng tiền thuế của dân." An Hoài Đức nhoẻn môi cười: "Ta cũng mới phát hiện gần đây Lữ Lương Sĩ vẫn luôn tuồn phụ nữ vào nhà sau của người khác, bởi vì năm nào cũng gặp thiên tai, kiểu gì cũng sẽ xuất hiện một nhóm người buôn bán phụ nữ, Lữ Lương Sĩ liền phái người đến mua lại. Người nào xinh đẹp thì mang đi dạy dỗ cho tốt rồi đưa vào phủ cấp trên, cứ đưa một cô tặng một cô, đến cả trong hậu viện phủ Tư Mã Kiêu cũng nhét vào mấy người của lão. Thoáng một cái, Lữ Lương Sĩ đã tìm ra được biết bao nhiêu cách để bảo toàn tính mạng mình."

"Về việc xử lý loạn đảng, Tư Mã Kiêu chỉ đứng ngoài xem nói rõ gã đã nghi ngờ ta rồi."

Thái tử và Ngũ hoàng tử không đụng vào bạc cứu trợ là chuyện rõ rành rành, cũng không tin là do loạn đảng gây nên, chỉ có duy nhất hai người có khả năng đụng vào số bạc đó nhất lại còn tự biên tự diễn là Tư Mã Kiêu và An Hoài Đức.

Loại trừ Tư Mã Kiêu, tất nhiên chỉ còn lại An Hoài Đức, Tư Mã Kiêu không tránh khỏi việc sinh nghi.

"Nếu như ta có vấn đề, Tư Mã Kiêu nhất định sẽ nghĩ đủ cách để tiêu diệt ta, mau mau tìm người thay thế vị trí của ta đi. Cứ để gã trông ngóng, cần ta toàn quyền xử lý chuyện loạn đảng Từ Châu, bao gồm cả vụ án Chương Tòng Lộ, trọng tâm của gã là ở Từ Châu, án oan và Khâm sai chưa đủ để thu hút gã tự mình đến huyện Giang Dương, trừ phi nơi đó có thứ muốn lấy mạng gã."

"Sổ sách nuốt tiền thuế của dân."

An Hoài Đức gật đầu.

"Lữ Lương Sĩ... Còn có bản lĩnh bảo vệ tính mạng này sao?" Tôn Phụ Ất không khỏi khiếp sợ, nói tiếp: "Nhưng nó có dính líu gì đến ngài không?"

"Tư Mã Kiêu đề phòng ta, nếu không phải gã muốn nuôi binh nhưng hoàn toàn không biết luyện binh thế nào, ta cũng sẽ không biết chuyện gã lấy hết tiền thuế của dân hằng năm. Tuy nói mỗi quý tiền đó sẽ đưa đến chỗ ta một khoản lớn, nhưng gã không dám để lộ rằng Thái tử nuôi binh riêng, nếu như bị tra ra, thì sẽ đi thiêu hủy sổ sách gửi bạc ở nơi này."

An Hoài Đức nhìn Tôn Phụ Ất: "Trước khi bại lộ, Tư Mã Kiêu sẽ nghĩ cách để tiêu diệt Lữ Lương Sĩ, mà mục đích của ngươi là bảo vệ lão."

Tôn Phụ Ất gật đầu: "Cẩn tuân lệnh Soái sứ."

***

Nhà trọ huyện Giang Dương.

Thôi phó quan nhanh chân vọt vào đình viện nơi Triệu Bạch Ngư ở, tháo mũ xuống chịu đựng cơn giận nói: "An Hoài Đức từ chối ba bốn lần không chịu tới, chỉ sắp xếp cho một tên quan tham nghị tới chờ thẩm vấn, lần nào lão cũng mượn cớ truy xét loạn đảng và giúp tìm bạc cứu trợ Từ Châu bị mất, ta thật sự không có cách nào nữa. Tiểu Triệu đại nhân, ngài nói xem nên làm gì đây?"

Triệu Bạch Ngư đưa cho gã một ly trà: "Bình tĩnh."

Thôi phó quan há miệng uống ực chén trà, xong thở hổn hển: 'Tiểu Triệu đại nhân, ta không phải người thông minh giống ngài, ngài bước một bước có thể nhìn xa mười bước, còn ta bước một bước mà còn chẳng thấy rõ được dưới chân mình có loại người như vậy, trong lòng bây giờ nóng như lửa đốt, nếu như không có cách lừa An Hoài Đức tới, chẳng phải là sẽ không cứu được ngư dân ở Từ Châu hay sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Vốn là không trông cậy vào án oan để lừa gạt lão ta tới đây mà."

Thôi phó quan tò mò: "Còn chiêu à?"

Triệu Bạch Ngư: "Mục tiêu của ta là Tôn Phụ Ất."

"Tôn Phụ Ất..." Thôi phó quan sững sốt, chợt hiểu ra: "Đúng vậy! Còn có Hoàng Thanh Thường ở đây, nàng có thể xác nhận Tôn Phụ Ất tham gia hai vụ thảm án hoàng thương Giang Nam diệt môn và án cướp bạc cứu trợ, vậy là có thể nói rõ việc này không phải do loạn đảng gây ra, không liên quan gì đến Ngư Gia Trại."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy ngươi đã đi bắt người chưa?"

Thôi phó quan liền vội vàng đứng bật dậy: "Tôn Phụ Ất đang ở dịch trạm, bây giờ ta đưa người đi bắt đây. Tiểu Triệu đại nhân cứ yên tâm, bàn về quan trường thì ta không có âm mưu quỷ kế, nhưng bàn luận về võ công bắt người, không có tên giặc nào có thể chạy trốn khỏi tay ta."

"Chờ đã." Triệu Bạch Ngư gọi gã lại: "Sau khi bắt Tôn Phụ Ất lại thì nhốt ở phòng giam bên cạnh Lữ Lương Sĩ đi."

"Vì sao?" Thôi phó quan không hiểu.

Triệu Bạch Ngư: "Ta muốn moi sổ sách trong miệng Lữ Lương Sĩ ra, có người muốn giết lão, mà sau khi Tôn Phụ Ất biết được, ông ta sẽ nghĩ đủ mọi cách bảo vệ Lữ Lương Sĩ."

Có ý gì?

Hoàn toàn không hiểu gì hết.

Thôi phó quan vờ như hiểu lắm gật đầu, xoay người rời đi, chưa đến một canh giờ, tin tức gã đã khống chế được người đã truyền về, cũng đã nhốt người lại cạnh phòng giam của Lữ Lương Sĩ.

Triệu Bạch Ngư nghe xong, chỉ đáp lại một câu "Biết rồi", sau đó lại tập trung chú ý vào sách, hương sợi trên bàn cạnh cửa sổ đã cháy hết, một khúc tro tàn cuối cùng cũng rơi xuống, ngoài cửa có tiếng Nghiên Băng vọng vào.

"Ngũ lang, có thư rồi."

Triệu Bạch Ngư ngẩng đầu: "Mang vào đây."

Nghiên Băng đưa thư cho Triệu Bạch Ngư: "Là thư của tiểu quận vương... Quái lạ, trước đây đều để Hải Đông Thanh đưa thư, tại sao bây giờ chỉ dùng bồ câu đưa thư?"

Triệu Bạch Ngư mở thư: "Hoắc Kinh Đường ở Dương Châu, rất gần đây thôi, không cần dùng ưng."

Nghiên Băng không có hứng thú gì với nội dung trong thư của hai người họ, nó xoay người đến trước cửa sổ đổi hương sợi mới, tiện tay thay luôn hoa tươi trái cây trong phòng. Triệu Bạch Ngư đọc thư nhanh như gió, tuy rằng y đã sớm đoán trước được, nhưng khi đã được xác nhận rồi thì vẫn ngạc nhiên.

Sau khi ngạc nhiên xong thì bắt đầu tìm cách đối phó, y nên làm cách nào để lập tức rút lui thân mình khỏi đống bùn nát của quan trường Hoài Nam, đồng thời một lưới bắt gọn?

Triệu Bạch Ngư bước đến trước bàn dọc sách, nhấc bút lên nhưng không viết nổi chữ nào, Lúc này Thôi phó quan vội vã chạy vào phòng, suýt nữa là đụng phải Nghiên Băng.

Thôi phó quan: "Đang thẩm vấn Tôn Phụ Ất, nhưng lão rất cứng rắn, cực hình gì cũng chịu nhưng không chịu nhận tội. Ta đưa Hoàng Thanh Thường đến trước mặt lão để xác nhận, người này còn mạnh miệng cãi là Hoàng Thanh Thường nhận nhầm người, còn mắng ta mưu hại mệnh quan triều đình... Chó thật! Lão mà là mệnh quan triều đình cái gì? Tên cẩu quan giết người cướp của!"

"Đúng rồi, không phải Lữ Lương Sĩ bị nhốt ở phòng bên cạnh sao? Ta đặc biệt chọn một phòng để lão ta có thể nhìn thấy Tôn Phụ Ất luân phiên lãnh khốc hình, con chó đó bị dọa sợ choáng đầu, suýt nữa là són đái."

Thôi phó quan cười ha ha, ngay sau đó liền đau khổ nói: "Nhưng bị dọa sợ thành cái dạng này rồi, Lữ Lương Sĩ vẫn không nhả chuyện sổ sách ra."

"Trong dự đoán." Triệu Bạch Ngư: "Sổ sách là cọng rơm cứu mạng duy nhất của Lữ Lương Sĩ, ném đi là mất mạng, huống chi chúng ra từng lừa lão một lần, đoán chừng bây giờ đã phòng bị chúng ta nhiều hơn rồi."

Thôi phó quan gật đầu, lại hỏi: "Tôn Phụ Ất thì sao đây? Hay là chúng ta đưa tin đứa trẻ mồ côi của Hoàng thị còn sống, nhân chứng giết cả nhà họ Hoàng cùng với cướp bóc bạc cứu trợ là Tôn Phụ Ất ra ngoài, để dọa An Hoài Đức tức nước vỡ bờ?"

"Nếu An Hoài Đức dễ dàng bị hù dọa như vậy, ông ta sẽ không làm nổi Soái sứ một tỉnh."

"Vậy làm sao bây giờ? Tôn Phụ Ất đến Giang Dương bị bắt, sớm muộn gì An Hoài Đức cũng sẽ biết, hơn nữa quân Hoài, quân Nam trú đóng ở Giang Dương sáng sớm mai nhất định phải rút lui về hành doanh rồi, nếu An Hoài Đức mang quân đến giết, chúng ta bất ngờ không kịp đề phòng thì thế nào?"

"Chúng ta vẫn còn một chiêu lớn chưa tung."

Nghiên Băng chạy đến góp vui: "Chiêu lớn gì ạ? Ngũ lang mau nói ta nghe với."

Triệu Bạch Ngư không ngước mắt lên: "Đã thuộc chương ba mươi hai Trung Dung chưa? Có hiểu ý nghĩa không?"

Nghiên Băng lập tức ngừng công kịch, âm thầm quay vào trong góc đọc thầm Tứ Thư*.

(*) Tứ Thư gồm: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.

Thôi phó quan tiếp lời Nghiên Băng hỏi thăm chiêu lớn, Triệu Bạch Ngư nói đó là hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai.

"Nhưng mà chúng ta đâu có biết số bạc đó đang ở đâu."

"Tiểu quận vương của các ngươi biết."

"Tiểu quận vương biết... Tướng quân biết ư? Tướng quân đến Hoài Nam tra vụ án này sao? Tra được tung tích bạc rồi? Ở đâu? Khi nào thì đi đoạt lại?"

Hành tung của Hoắc Kinh Đường bí hiểm, Thôi phó quan không theo bên cạnh hắn làm việc, tất nhiên cũng bị giấu nhẹm luôn.

"Bạc ở Dương Châu."

"Cách đây không xa mà, tiểu Triệu đại nhân, ngài lập tức điều binh đi lấy lại ngay —— "

"Khoản bạc đó bây giờ chính là củ khoai nóng, rơi vào tay chúng ta không có tác dụng gì cả."

"Là sao?"

Triệu Bạch Ngư lắc đầu một cái: "Không nói được."

Thôi phó quan: "..." Tiểu Triệu đại nhân càng ngày càng thích vòng vo giống tướng quân, khó chịu thật. "Vậy thì như đã nói, là tướng quân báo cho ngài biết chuyện bạc đúng không?"

"Ta đoán, viết thư hỏi, hắn nói."

Sao tiểu Triệu đại nhân lại có thể đoán được tướng quân biết tung tích bạc? Chẳng lẽ đây chính là thần giao cách cảm chỉ những người yêu nhau mới có thôi ư?

Thôi phó quan vô thức hỏi ra nỗi nghi ngờ, sau đó nhận được ánh mắt kì lạ của Triệu Bạch Ngư: "Trí óc của ngươi đỉnh thật, lúc Hoắc Kinh Đường báo tin cho ta nói hắn ở Dương Châu, ta còn nghĩ hắn không có việc thì đến Dương Châu làm gì, nếu như hắn tới vì ta thì tại sao không đến thẳng Giang Dương? Còn nếu tới vì dịch bệnh hay vụ án Chương Tòng Lộ, việc trước đã giải quyết xong, việc sau cần một mình Khâm sai ta là đủ rồi, tất cả nguyên nhân đều loại trừ hết, vậy thì chỉ còn một thứ cuối cùng là có khả năng thôi."

"Bạc cứu trợ thiên tai Từ Châu bị cướp."

Triệu Bạch Ngư nghĩ ra chuyện muốn nói, lúc này nhấc bút lên viết: "Bạc ở Từ Châu bị cướp, tại sao Hoắc Kinh Đường dừng chân ở Dương Châu? Trừ phi hắn biết bạc đang ở đó."

Thôi phó quan hỏi theo bản năng, nếu biết bạc ở Dương Châu vì sao không đi lấy lại, hỏi xong mới nhận ra vấn đề nằm ở chỗ 'tại sao bạc lại phỏng tay', mà Triệu Bạch Ngư vẫn viết thư, dường như không nghe thấy.

Trong lòng tự hiểu nguyên nhân đó không thể biết, Thôi phó quan liền thông minh ngậm miệng.

Trong lòng Triệu Bạch Ngư lúc này cũng không dễ chịu, vốn là bạc đến tay ai người đó có quyền chủ động, đâu ai ngờ được kẻ cướp số tiền đó lại có thể có quan hệ với Tĩnh vương, người có danh hiền vương tiền triều?

Trong thư Hoắc Kinh Đường có viết:

【 Tộc Hoa thị từng cùng Thánh tổ lật đổ tiền triều thống trị, chia đều thiên hạ. Thánh tổ đến Kinh Đô xưng đế trước một bước, Hoa thị không thể không thoái lui làm thần, để làm yên lòng Hoa thị, Thánh tổ ban cho bọn họ đan thư thiết quyển*, nói rõ sau này con cháu Hoa thị dù có phạm pháp gì cũng đều không thể định tội. Có kim bài miễn tử trong tay, Hoa thị mới cam tâm nhượng bộ, nhưng hậu nhân ba đời sau suy tàn, nhanh chóng sa sút, cho đến khi con gái Hoa thị ra đời, nhà không có nhiều con cháu. Nữ cô nhi Hoa thị vào Đông cung làm Lương đệ, hiền lương thục đức, sau được phong làm Thục phi, sinh một con trai, sau khi trưởng thành ban cho tước hiệu Tĩnh vương. 】

(*) Tiền thân Kim bài miễn tử gọi là "Đan thư thiết quyển" (丹书铁卷), tức một mảnh sắt hình dạng như viên ngói (thiết quyển), trên đó có khắc những dòng chữ bằng chu sa (đan thư). Nội dung thường liệt kê tên họ, công trạng kèm những lời khen của vua đối với những vị trọng thần, song chỉ có ý nghĩa như một bằng khen tạo cơ hội thăng quan tiến chức mà không có đặc quyền miễn tử.

Nữ cô nhi Hoa thị là bà nội của Hoắc Kinh Đường.

【 Hoa thị để lại đan thư thiết quyển cho Tĩnh vương, bất cứ lúc nào cũng có thể đảm bảo giữ cho lão ta một mạng. 】

【 Mấy năm trước bệ hạ lên ngôi, triều cục hỗn loạn, mọi chuyện đều bị môn đảng của Tĩnh vương cản trở, còn suýt bức cung. Những chuyện cha ta làm năm xưa đủ cho lão chết mấy lần, chỉ tiếc có đan thư thiết quyển trong tay, bệ hạ cũng không có biện pháp nào khác. 】

Đây chính là nguyên nhân chủ yếu cho thấy bạc nóng phỏng tay.

Bạc cứu trợ thiên tai được giấu trong sơn trang Ký Sướng dưới danh Tĩnh Vương, ai là người cướp quan ngân liếc cái thấy ngay.

Chỉ nhiêu đây thôi cũng đã có thể giải thích được vì sao An Hoài Đức là môn đảng Thái tử mà còn muốn cướp giết lấy bạc, bởi vì trên thực tế lão ta là môn đảng Tĩnh vương.

Bề ngoài là giúp Thái tử nuôi binh, thật ra là nuôi nhánh quân Tây Bắc trong tay Tĩnh vương, hai mươi mấy năm qua chưa từng buông bỏ mưu triều soán vị, đúng là vô cùng kiên trì.

Trong tay Tĩnh vương còn có kim bài miễn tử, dù có vạch trần lão cướp bạc cứu trợ thiên tai, dù có giết mệnh quan triều đình cũng không giết được lão, nhưng chí ít có một lý do để lấy lại binh quyền trong tay lão, không giết được người nhưng có thể giam lại.

Vấn đề là trong sơn trang Ký Sướng xuất hiện số lượng lớn Cấm quân, thể hiện rõ Tĩnh vương nuôi binh ngay tại phủ Dương Châu.

Mưu triều soán vị là tội tru di cửu tộc, không thích hợp dùng trên người Tĩnh vương, vì dù sao Nguyên Thú đế cũng nằm trong cửu tộc này, nhưng mà với trọng tội như thế, nhất định có thể giết Tĩnh vương được đúng chứ?

Ai, cũng không thể.

Có thể coi thường đan thư thiết quyển mà Thánh tổ khai quốc ban cho được sao?

Tất nhiên là không, nhất là sau khi lập quốc, ba đời Hoa thị tàn lụi vốn đã làm cho lòng người hoài nghi, người ngoài không nói, chỉ riêng người bên dưới thôi cũng đã đoán được có phải Hoàng gia sợ Hoa thị không cam lòng, một ngày nào đó đột nhiên nhảy ra soán vị, thế là lặng lẽ mưu hại con cháu của người ta hay không.

Khỏi nói, lời đồn còn có lý có chứng cứ, trước đây Triệu Bạch Ngư còn có hơi tin tưởng nữa.

Nếu như phế bỏ đan thư thiết quyển, thì chẳng khác nào chứng thực lời đồn, muốn đẩy đời sau của Hoa thị vào chỗ chết?

Vả lại Thánh tổ miệng vàng lời ngọc, ai dám động vào?

Trở lại vấn đề ban đầu, không thể phế bỏ đan thư thiết quyển vì mâu thuẫn với luật pháp Đại Cảnh, giải quyết thế nào bây giờ?

Ai vạch trần, ai giải quyết, ai là người đầu tiên ló đầu cướp công, người đó là chim đầu đàn.

Ai đến cũng không có cách nào giải quyết nó, một khi đâm toạc thì chính là trực tiếp cấu xé mặt mũi Nguyên Thú đế, năm đó tiên đế suýt chút nữa là phế vị Thái tử, đổi lập Tĩnh vương, Nguyên Thú đế vượt bao gian nan hiểm trở để lên ngôi.

Sau khi lên ngôi còn bị môn đảng Tĩnh vương gây khó dễ khắp nơi, cũng phải qua một phen chịu đựng cực khổ mới có thể loại bỏ được bọn họ, nhưng mà hơn hai mươi năm rồi vẫn không có cách nào xử lý Tĩnh vương, càng bất lực hơn khi không thể thu phục quân Tây Bắc trong tay lão ta, từ lâu Tĩnh vương đã là tâm bệnh mà Nguyên Thú đế căm hận muốn trừ khử.

Tứ hoàng tử bổn triều đã từng rất được Hoàng đế yêu thương, lúc còn nhỏ dại nói vài lời giúp Tĩnh vương, bị Nguyên Thú đế ghét bỏ đến giờ, sau khi trưởng thành rồi yên lặng chuyển ra khỏi Hoàng cung, không được ban phủ đệ lẫn phong tước hiệu, cũng nhờ mẫu phi hắn đến chỗ Hoàng hậu cầu xin mới được Thái tử làm chủ ban cho một phủ đệ để ở.

Như vậy, có thể thấy Nguyên Thú đế căm ghét Tĩnh vương biết bao nhiêu.

Trước mắt phải tố giác Tĩnh vương, lại ngại vì đan thư thiết quyển không có cách nào giết lão, tương đương với vả mặt Nguyên Thú đế lần nữa, đây là một cú đánh tàn nhẫn trước giờ chưa từng có, Nguyên Thú đế nhất định sẽ vô cùng giận dữ, triều thần không cho phép ông phế bỏ đan thư thiết quyển và Thánh tổ ban cho, lửa giận không có chỗ phát tiết, ai là người chủ động vạch tội, vứt vấn đề nan giải này lại cho Nguyên Thú đế là phải đứng mũi chịu sào.

Cho nên nó rất phỏng tay.

Triệu Bạch Ngư còn tra ra được tiền mà Tĩnh vương dùng nuôi binh vì muốn soán vị đến tử môn đảng Thái tử và Tư Mã thị vơ vét mồ hôi nước mắt của dân, cũng đến từ quốc khố và kho riêng của Nguyên Thú đế, nếu tất cả mà bị lột trần ra ánh sáng, chỉ có thể nói đây chính là đem một thùng dầu sôi đổ vào ngọn lửa đang cháy hừng hực.

"Chẳng trách Hoắc Kinh Đường phòng thủ ở Dương Châu lâu như vậy mà chẳng động đậy gì. Có điều nếu như không có đan thư thiết quyển, hắn cũng không thể tự ý ra tay."

Tuy là đại nghĩa diệt thân, cũng khó mà bảo đảm được sẽ không có người nói hắn giết cha cướp công, suy cho cùng thì cố nhân nặng hiếu, có lòng gièm pha một người là đã có thể tìm ra một đống đạo lý của thánh nhân để mổ xẻ, mượn chúng công kích kẻ thù, không thể không thừa nhận hiệu quả rất tốt.

May thay, độ nóng của vụ việc này đã lấn át đi bớt chút lòng hiếu thảo, hai người Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư người này càng khôn khéo hơn người kia, không định tự mình nhận lấy củ khoai đó.

Triệu Bạch Ngư nhấc bút hỏi: 【 Chuyện liên quan đến ổn định triều cục và công đạo của trăm họ, không thể trốn tránh được, có điều nó có làm liên lụy đến chàng không? 】

Không cần biết những bí mật sâu xa của Hoắc Kinh Đường là gì, ít ra ngoài mặt hắn và Tĩnh vương vẫn là quan hệ cha con.

Sau đó, y viết ra toàn bộ kế hoạch và điều tra việc Tư Mã thị trộm lấy tiền thuế của dân, muốn lợi dụng An Hoài Đức giúp luyện binh, kết quả ngược lại bị cho là cái sọt lợi dụng làm mấy chuyện, tất cả đều kể cho hắn nghe.

Viết thư xong đưa đi, chạng vạng tối ngày hôm sau đã nhận lại thư hồi đáp của Hoắc Kinh Đường ngay: 【 An Hoài Đức phái người giả làm ăn cướp giết cả nhà hoàng thương Giang Nam Hoàng thị, là vì để cướp huyết phách ngàn năm. 】

Triệu Bạch Ngư sáng tỏ, y cũng không nghĩ ra vì sao An Hoài Đức không thù không oán lại chạy đến Giang Nam giết cả nhà người ta rồi để uổng công vô ích, hóa ra là vì huyết phách ngàn năm!

Suy nghĩ thêm một chút về thời gian là xác thực được, có thể nói Hoắc Kinh Đường là con át chủ bài trong tay Nguyên Thú đế, nếu như không có chuyện hắn trúng cổ độc, vậy chỉ cần cho hắn thêm mười năm là đã thu phục được quân Tây Bắc rồi.

Tĩnh vương cảm giác mình bị uy hiếp mạnh mẽ, chỉ mong Hoắc Kinh Đường mau chết đi cho rồi, vậy nên đã đi trước một bước giết cả nhà họ Hoàng, muốn cướp lấy huyết phách, chỉ là không ngờ đến huyết phách được giấu kĩ ở khuê phòng của người phụ nữ lầu xanh, đúng là người tính không bằng trời tính.

"Ngay cả khi không có tình cảm cha con, nhưng lúc mưu tính lấy mạng cũng nên có chút do dự chứ, trực tiếp giết cả nhà người ta không sợ nghiệp chướng quấn thân, cảm giác không chỉ đơn giản là tính toán vì lợi ích, mà có lẽ còn có mấy phần... thù hận?" Triệu Bạch Ngư lầm bầm.

Có lẽ Tĩnh vương cũng nghi ngờ quan hệ giữa Hoắc Kinh Đường và Nguyên Thú đế?

Mối quan hệ yêu hận tình thù của thế hệ trước đúng là phức tạp.

***

Đêm khuya.

Mười mấy hắc y nhân lặng yên không tiếng động chạy vào nhà giam huyện Giang Dương, tìm thấy mục tiêu trong phòng giam liền hung hăng chém đứt xích sắt vọt vào, hướng về phía bóng người trên đống rơm chém xuống không chút lưu tình.

Thế nhưng chém mấy chục nhát cũng không thấy máu chảy ra, vội vàng kéo đống rơm ra mới phát hiện bên dưới chỉ là chồng cỏ, nơi đó vốn không có người!

Nguy to, trúng kế rồi!

Hắc y nhân lập tức xoay người muốn chạy, kết quả bắt gặp ánh lửa sáng choang, bên ngoài phòng giam quân lính đứng đầy, người dẫn đầu là Thôi phó quan.

Thôi phó quan: "Bất luận là kẻ nào, bắt tất cả chúng lại!"

Quân lính và thích khách chém giết lẫn nhau, Thôi phó quan giơ đao vọt vào, đao pháp chính xác nhanh lẹ, trong nháy mắt áp đảo thế cục, mà đám người bên ngoài chính là mấy tên nha dịch mà Nghiên Băng gọi tới: "Mau lên! Ra gõ cái chiêng to vào, gõ cả trống nữa, kêu 'Có kẻ cướp ngục', kêu to chút nha —— to hơn nữa đi!"

Bên ngoài kêu trời kêu đất, phạm nhân trong nhà lao đều bị đánh thức, Lữ Lương Sĩ bị giam tận gian phòng trong cùng bị dọa sợ run người, vọt đến bên cửa luôn miệng truy hỏi cai ngục tình huống gì đang xảy ra.

Cai ngục: "Ông cũng sắp chết rồi, còn quan tâm người ta cướp ngục làm chi? Tâm tư cũng lớn ghê."

Một tên cai ngục khác: "Cướp ngục cái gì? Tôi thấy đây là giết người diệt khẩu! Nào phải cướp ngục, kẻ kia chui vào phòng giam chém mê chém loạn kia kìa."

Cai ngục vờ như chuyện nghiêm trọng lắm: "Ừ đúng! Tôi thấy mấy kẻ đó tám phần là không chừa chuyện ác, bị giam vào tù rồi mà vẫn không đủ để hả giận, đặc biệt chạy vào đây ám sát... Có điều hình như tìm nhầm người rồi?"

Cai ngục kia đáp: "Tìm sai rồi. Thê thảm quá, bụng cũng bị chém đứt, chỉ còn lại miếng da lủng lẳng, ruột rớt đầy đất, túm lấy ống quần Khâm sai kêu 'Cứu mạng... Cứu ta với...' "

"Đừng nói nữa, xúi quẩy."

Hai tên cai ngục đi xa dần, để lại Lữ Lương Sĩ tê dại ngã nhào xuống đất, hồn vía bị dọa cho bay hết, đến khi hoàn hồn lại chợt phát hiện ra bốn phía lặng như tờ, không tránh khỏi khiếp sợ túa mồ hôi lạnh, đột nhiên có một bóng đen nhảy tới trước dãy nhà giam, chém đứt xích sắt phòng giam bên cạnh hỏi người ở trong: "Mày có phải Lữ Lương Sĩ không?"

Giọng nói suy yếu cách vách vang lên: "Tôi không phải, nếu như muốn tìm nguyên Huyện lệnh huyện Giang Dương Lữ Lương Sĩ, thì ông ta ở phòng giam kế bên đấy."

Cái gì! Lữ Lương Sĩ hoảng hốt, khóe mắt liếc thấy bóng đen đi tới, lúc này mới mò ra cửa phòng giam hô lên: "Người đâu! Người đâu —— có thích khách! Cứu mạng —— cứu tôi với, tôi nói... Tôi nói cho các người biết sổ sách ở đâu —— Á!"

Hắc y nhân giơ cao dao phay, trước lúc chém tới thì bị bẻ gãy cổ trong chớp mắt, thi thể ngã xuống, lộ ra Tôn Phụ Ất trên người đầy rẫy những vết thương do lãnh khốc hình.

Ánh mắt Tôn Phụ Ất tàn nhẫn, nói: "Lữ Lương Sĩ, nếu như ông muốn giữ được cái mạng già này, thì tốt nhất nên đổi một đại thụ khác, dù là Khâm sai hay phủ Trịnh quốc công đi nữa, cũng không ai bảo vệ được ông đâu, ngoại trừ An soái sứ!"

Soái sứ? Lữ Lương Sĩ vội vàng leo trèo: "Tôi nguyện ý bỏ tối theo sáng, cầu xin Tôn tham nghị cứu lấy tôi một mạng!"

Tôn Phụ Ất: "Nói cho ta biết, sổ sách ở đâu? Ta sẽ dùng cái mạng này để cứu ông, nếu không thì ta sẽ chết không được tử tế, sau khi chết sẽ vào mười tám tầng địa ngục nhận hình phạt muôn đời!"

Lời thề vừa độc vừa ác, nhưng vào thời khắc này, đối với Lữ Lương Sĩ mang lòng hoang mang lo sợ chẳng khác nào một cây định hải thần châm, thế là lão bèn nói cho gã biết nơi cất giấu sổ sách, không sót một chữ.

Vì để một kẻ lén lút chạy trốn được, Thôi phó quan cũng theo đuôi đến đây ẩn núp trong bóng tối, nhìn thấy toàn bộ quá trình, cũng nghe được hết cuộc đối thoại của bọn họ.

Sau khi biết được câu trả lời, Thôi phó quan cố gắng gây ra tiếng động, hỏi những phạm nhân khác: "Có nhìn thấy một tên thích khách chạy đến đây không?"

Ngạc nhiên thay Tôn Phụ Ất đã đưa Lữ Lương Sĩ về phòng giam, dặn dò lão tuyệt đối không được tin Khâm sai và phủ Trịnh quốc công, rồi sau đó rút đao trên người thích khách ra tự chém mình, ngã xuống đất làm bộ như vô cùng yếu ớt.

Thôi phó quan bước vào kiểm tra thi thể, xác nhận người chết rồi thì mới ngó đến Tôn Phụ Ất: "Thương thế nặng vậy mà còn có thể giết thích khách được, mạng cứng đấy, công phu cũng không tệ, tiếc cho người tài chẳng được trọng dụng, cũng không thích đi đường ngay."

Tôn Phụ Ất chợt bắt lấy cổ tay Thôi phó quan uy hiếp: "Ta là quan tham nghị An phủ sứ Hoài Nam, đường đường chính chính là mệnh quan triều đình, chúng bây chưa đủ chứng cứ, không thẻ giết ta! Tìm đại phu... Cứu ta!"

Thôi phó quan: "Yên tâm đi, mạng của ông còn có ích."

Lúc này Tôn Phụ Ất mới yên lòng ngất đi.

***

Nhà trọ.

Thôi phó quan nói cho Triệu Bạch Ngư biết chỗ giấu sổ sách, "Đã phái người đi tìm sổ sách rồi, chắc trời sáng là có thể tìm ra thôi."

Triệu Bạch Ngư: "Tìm đại phu xem Tôn Phụ Ất chưa?"

Thôi phó quan: "Thưa chưa."

Triệu Bạch Ngư: "Ta đoán lão ta sẽ mượn việc này nghĩ cách truyền tin nơi cất giấu sổ sách đi, ngươi không cần cố gắng ngăn cản, cứ mặc lão gửi tin đến chỗ An Hoài Đức. Ngoài ra thì, bây giờ lập tức triệu các thầy ký* làm sổ sách toàn huyện đến đây."

(*) Thầy ký: người trông nom sổ sách thời xưa.

Thôi phó quan hoài nghi: "Để làm gì?"

"Ta cần bọn họ làm ngay một quyển sổ giả trong đêm nay." Triệu Bạch Ngư cười nói: "Ngươi đem sổ giả đặt ở chỗ sổ thật, chờ đến khi nó vào tay An Hoài Đức, sau đó tìm cách để Tư Mã Kiêu biết. Bọn họ bất tiện rồi liền đến lượt ta làm giúp tí chuyện, đá cho một cái là xong."

==

Chương 37

Note: nhắc cho ai bị rối bùm bum, đầu chương này có flashback về khoảng thời gian đầu dịch bệnh một tí nha!!!

.

.

.

Nhà mẹ của Tạ thị là đại nho ở vùng Dương Châu, chưa nói đến đào mận khắp thiên hạ, nhưng cả phủ Dương Châu này hơn nửa là học sinh của con cháu Tạ thị. Vậy nên hai đường quan thương đều dùng được, các dòng tộc ở địa phương, bọn cường hào ác bá lẫn trăm họ cũng rất tôn trọng Tạ thị, không ai ngu ngốc mà đi đắc tội bọn họ cả.

Dương Châu sầm uất, là lựa chọn đầu tiên của dân chạy nạn, nhưng Tri phủ sợ phiền toán nên từ sớm đã sai người chặn trên đường cái để ngăn dân bị nạn vào, xua đuổi đến những huyện khác như Giang Dương, dân bị nạn đuổi cũng không đi, nhưng cũng chỉ có thể nhắm mắt nhắm mũi xây dựng một khu tái định cư ở cùng bình nguyên bên ngoài thành.

Triệu Ngọc Tranh đến Dương Châu ở lại Tạ gia, tìm người hỏi thăm tình hình dân bị nạn, biết được chuyện Tri phủ Dương Châu Tiêu Vấn Sách xua đuổi dân bị nạn thì vô cùng tức giận, từ mình đến khu tái định cư hỏi dò, chuẩn bị ghi nhớ sự việc này, chờ đến lúc hồi Kinh sẽ nói lại cho cha hắn, để Triệu tế chấp tố cáo Tiêu Vấn Sách.

Xem xong thảm trạng của dân, Triệu Ngọc Tranh quyết định mở kho cứu trợ thiên tai.

Hàng cháo mở ngay tại khu dân bị nạn nằm đối diện với hàng cháo cứu trợ của quan phủ, nếu không phải nhờ nhà ngoại hắn là đại nho địa phương, cha lại là nhất phẩm đương triều, Tiêu Vấn Sách đã đập cái hàng cháo của Triệu Ngọc Tranh từ lâu rồi.

Mở một hàng cháo nấu cháo đặc hơn ở ngay chỗ quan phủ cứu trợ thiên tai, không phải là công khai tát vào mặt gã một cú sao?

Tiếc là bối cảnh của Triệu Ngọc Tranh hùng hậu, mặt mũi Tiêu Vấn Sách bị đánh bầm dập mà vẫn phải cười xòa, trong lòng Triệu Ngọc Tranh khinh thường Tiêu Vấn Sách bè lũ xu nịnh, nhưng cũng không trực tiếp vạch trần.

Hắn nhanh chóng xin ông ngoại cho ra mặt, triệu tập phú thương ở phủ Dương Châu gom góp tiền từ thiện, đồng thời viết thư cho Thái tử, cầu xin một ân điển, nói là phú thương địa phương cứu trợ thiên tai nào góp khoản nhiều nhất, vị trí Hoàng thương Hoài Nam năm sau để người đó tới ngồi.

Các phú thương địa phương nghe tiếng động lòng, thi nhau chen chúc tới.

Chỉ trong nửa tháng ngắn ngủi thôi mà đã góp được xấp xủ bảy trăm ngàn lượng cứu trợ thiên tai, bấy giờ Triệu Ngọc Tranh được coi như là người đại diện cho số tiền quyên góp đó, đem gần một triệu lượng bạc toàn bộ quyên cho phủ Dương Châu.

Tiêu Vấn Sách vừa nghe đã thấy vui, những lời phàn nàn vì Triệu Ngọc Tranh không chừa mặt mũi cho mình bị gã nuốt hết vào bụng, nhất thời hóa thành tán thưởng, tự tay viết giấy khen ngợi, trong tấu chương về thiên tai lần này cũng khen không ngớt lời, tên của Triệu Ngọc Tranh đặt ngay hàng đầu, vô cùng nổi bật.

Tấu chương gửi về Kinh Đô, rơi vào tay Thái tử.

Thái tử vung bút một cái, thứ hạng của Triệu Ngọc Tranh tăng lên vài thứ tự nữa, trở thành một trong những nhà hảo tâm xuất sắc đã cống hiến cho thiên tai ở Hoài Nam, đây sẽ là một điểm cộng rất lớn vào phẩm chất đạo đức khi học sinh tham gia khoa thi năm tới.

Huyện Giang Dương làn truyền tin tức dịch bệnh đến, cũng là lúc khu dân bị nạn ngoài thành Dương Châu bùng nổ một trận dịch quy mô nhỏ.

Triệu tam lang và người nhà họ Tạ không đồng ý cho Triệu Ngọc Tranh tiếp tục đến khu dân bị nạn, Triệu Ngọc Tranh phản đối không có hiệu quả, sau đó được đưa đến hậu viện chính mắt nhìn thấy thảm trạng của người làm bị mắc bệnh, hắn bị dọa sợ mặt trắng bệnh, không dám tùy hứng đòi đi nữa.

Lúc ấy, người dân trong thành Dương Châu ai nấy cũng đều tự biết nguy hiểm, Triệu Ngọc Tranh không bước chân ra ngoài, trái lại Triệu tam lang ngày nào cũng hỗ trợ vận chuyển dược liệu, giữ trật tự khu bị nạn.

Không quá mấy ngày, Triệu Ngọc Tranh đứng trong vườn hoa Tạ gia nghe tỳ nữ nói chuyện dịch bệnh đã được giải quyết cả rồi.

Các nàng nói Khâm sai quyết đinh thật nhanh, mang binh đến bắt lại Huyện lệnh Giang Dương độc chức, triệu tập đại phu khắp thành, cùng với thái y và các dân bị nạn đồng tâm hiệp lực, nghiên cứu ra kim phương mới để chữa bệnh, sau đó lệnh cho quan Hoài Nam sắp xếp gạo lương nước, dược liệu và bạc, phân phối ngẫu nhiên các đại phu ở Giang Dương đến các nơi khác ở Hoài Nam giúp đỡ, cứu được hàng ngàn dân bị nạn Hoài Nam này.

Các nàng còn nói: "Khâm sai đại nhân mới đến này là thanh quan, danh tiếng đang truyền khắp bá tánh Hoài Nam. Nghe nói mắt y tinh tường như đuốc, lúc ở pháp trường liếc mắt một cái liền nhìn ra Đặng Vấn An bị oan, khi ấy y vẫn còn là tiểu quan thất phẩm. Một tên tiểu quan mà chẳng sợ quyền uy, mang chuyện này thẳng đến chỗ bệ hạ, bây giờ mới có thể thành Khâm sai về Dương Châu."

"Đâu chỉ vậy! Nếu không phải Khâm sai nắm bắt đúng thời cơ, không biết còn phải chết oan bao nhiêu người... Cô biết không? Tri phủ Dương Châu của chúng ta cũng bị gọi đến huyện Giang Dương. Ta thấy, chuyện Tri phủ đuổi dân bị nạn ra khỏi thành sẽ không gạt được Khâm sai đâu, sớm muộn gì cũng bị xử lý thôi."

"Đáng đời."

"Nhưng mà sao cô biết nhiều chuyện thế?"

"Tiểu lang quân mới tới phủ chúng ta ngày nào cũng muốn ăn bánh gạo trong quán rượu bên ngoài kia bán, ta tự đề cử mình làm nhiệm vụ, ngày nào cũng chạy đi chạy về, nghe thấy người trong quán rượu kể chuyện nên biết. Trong miệng mấy người kể chuyện đó, Khâm sai đại nhân chính là nhân kiệt đời này, là đại lão gia thanh thiên, còn rêu rao nếu bọn họ là người dân huyện Giang Dương làm áo dù của dân tặng cho Khâm sai nữa!"

"Nói như thật vậy..."

Triệu Ngọc Tranh bước ra khỏi hòn núi giả, sắc mặt tái mét, biểu cảm cũng khó coi, hắn thở gấp, ngực phập phồng hít thở khó khăn, bước chân lảo đảo chạy về phòng, nằm trên giường một mình chịu đựng nỗi đau nhói châm chích trong tim.

Từ lúc mặt trời treo cao đến khi tối, Triệu Ngọc Tranh tự mình chống chọi lại sự đau đớn của cơn bệnh, chờ đến lúc Triệu tam lang trở về nhà, hắn đã khôi phục lại như thường, dùng phấn tô môi đỏ mọng lên, vờ như chẳng có chuyện gì xảy ra, sau đó bày ra dáng vẻ mình nghĩ đi nghĩ lại vẫn phải đến khu bị nạn xem xét tình hình một chuyến, nếu không thật sự là lương tâm khó an.

Triệu tam lang hiểu được hoài bão trong lòng Triệu Ngọc Tranh, nghĩ đến việc đại phu Giang Dương đã được phái đến, dược liệu cũng đầy đủ hết nên không ép buộc hắn nữa.

"Được thôi, nhưng đệ phải dẫn người theo bên mình, nếu không tam ca không thể báo cáo với cha mẹ."

"Cảm ơn tam ca, tứ lang biết tam ca hiểu đệ nhất mà."

Triệu tam lang thu nụ cười, không đúng lúc nhớ đến Triệu Bạch Ngư.

Bệnh dịch huyện Giang Dương là trận chiến đầu tiên của Khâm sai ở Hoài Nam, Triệu Bạch Ngư không chỉ đánh thắng, mà còn thắng cực kì đẹp.

Không ngờ y lại có năng lực chính trị như vậy, chẳng lẽ Trần Sư Đạo nói y có tài Trạng nguyên không phải là phóng đại? Ban đầu bọn họ vì Tứ lang nên đã ngăn cản Triệu Bạch Ngư tham gia thi cử, vậy là thật sự đã làm đứt đoạn đường làm quan của y rồi ư?

Triệu Ngọc Khanh càng nghĩ càng thấy hoảng, không dám suy nghĩ kĩ hơn nữa, gã mơ hồ cảm thấy nếu như càng mổ xẻ Triệu Bạch Ngư, thì bản thân sẽ càng thêm hối hận áy náy.

Lúc Triệu Bạch Ngư ra đời, gã mới có bốn tuổi, khi ấy đã có thể ghi nhớ được mọi chuyện rồi, bây giờ gã vẫn còn nhớ lúc ấy mẹ sinh khó lại còn băng huyết, tiếng kêu rất thê lương. Lúc đó sấm chớp ầm ầm, cha vẫn đang trên đường trở về, công chúa ở một viện khác cũng sinh, đòi hết đại phu và bà mụ cha gọi cho mẹ đi, chỉ để lại một hai người, dáng vẻ bọn họ hấp tấp tựa như lâm vào đại dịch vậy.

Tia chớp xé rách bầu trời, ánh sáng chợt lóe chiếu lên nét mặt sợ hãi của bọn họ, giống hệt những con quỷ từ trong địa ngục bò ra, trở thành đoạn ký ức sâu sắc nhất trong trí nhớ của Triệu tam lang.

Vì thế mà Triệu tam lang càng ghét Triệu Bạch Ngư hơn là hai người anh trai của mình, công chúa ác độc để lại cho tất cả mọi người trong Triệu phủ một cơn ác mộng khó mà xóa nhòa đi được, mà về sau gã cũng thường xuyên ở bên cạnh Triệu Ngọc Tranh, thấy hắn cứ hai ngày ba bữa là bệnh, cha mẹ sốt ruột vì hắn mà không ngủ nổi mấy đêm liền, mẹ cũng cầu thần bái phật khắp nơi, còn Triệu Bạch Ngư thì lại không bệnh không tai, khỏe mạnh lớn lên, gã khó mà không giận chó đánh mèo lên Triệu Bạch Ngư cho được.

Ác cảm của cha dành cho Triệu Bạch Ngư thì lại càng rõ ràng, thường mắng y làm bộ làng tịch, ngu ngốc không ra gì cũng chẳng biết lễ phép, dần dần, Triều Bạch Ngư không còn thể hiện mình trước mặt bọn họ nữa, càng lúc càng im lặng, đến khi y lớn rồi thì chỉ còn lại một bóng dáng u tối mờ mịt trong trí nhớ mà thôi.

Triệu tam lang hồi tưởng lại Triệu Bạch Ngư trong kí ức của mình, từ nhiệt tình sáng sủa đến trầm lặng ít nói, dù thế cũng không quên phép tắc kính già yêu trẻ, chẳng qua là khi một người ghét bỏ một người khác, thì bất kể đối phương có bao nhiêu lòng tốt vẫn có thể tìm mọi lời độc đoán để giải thích những hành động của y.

Triệu Bạch Ngư trầm tĩnh, không thích biểu hiện, cam tâm ở lại phủ Nha phủ Kinh Đô làm một tiểu quan thất phẩm, trong lòng Triệu Ngọc Khanh khi ấy vẫn còn thành kiến coi như y vô học, không đủ tài năng.

Thậm chí y chỉ bày tỏ lòng tốt và sự thân thiện thôi cũng bị xem là có ý xấu, bởi vì không ai đứng trước mục tiêu của mối thù hận mà có thể không sinh lòng oán giận.

Triệu tam lang vô thức vuốt ve bụng ngón tay, không dám nghĩ nếu như tất thảy đều là do thành kiến và hiểu lầm của gã mà ra, thì gã nên tự giải quyết thế nào bây giờ?

"Tam ca... Tam ca..."

Triệu tam lang hoàn hồn, nhìn thấy ánh mắt hoài nghi xen lẫn lo lắng của Triệu Ngọc Tranh đang nhìn mình thì hỏi: "Sao thế?"

Triệu Ngọc Tranh vẫn nhìn gã chằm chằm, yên lặng một lúc mới nói: "Ngũ lang làm Khâm sai, hẳn là vẫn ở huyện Giang Dương rồi, cách Dương Châu không xa, có phải chúng ta nên đi thăm y hay không?"

"Không cần đi." Triệu tam lang phản đối ngay lập tức: "Y là Khâm sai, cần quản lý dịch bệnh và xử án, đấu pháp với đám quan anh anh em em kia, chúng ta đi có khi lại làm phiền y nữa."

Triệu Ngọc Tranh rất ngạc nhiên, tim nặng nề trĩu xuống.

"Vả lại," Triệu tam lang chuyển đề tài câu chuyện: "Triệu Bạch Ngư đã xuất giá, đã không còn tình nghĩa gì với chúng ta nữa, không có quan hệ gì với nhau, vậy nên cũng chẳng cần phải liên lạc, tránh cho hai bên không vui."

Nghe vậy, Triệu Ngọc Tranh như gạt mây thấy trăng, tâm trạng trong nháy mắt thoải mái hơn.

"Dù gì Ngũ lang cũng là người Triệu gia, là anh em của chúng ta, chặt đứt xương thì vẫn còn gân, dòng máu chảy trong người không thể nào cắt đứt được. Lại nói Hoài Nam liên quan đến Thái tử quá nhiều, nếu như có thể lôi kéo Ngũ lang, hoặc là thăm dò chiều hướng một chút, thì cũng có thể giúp Thái tử một tay..." Thấy dáng vẻ cau mày không quá đồng tình của Triệu tam lang, Triệu Ngọc Khanh lựa lời nói: "Mặc dù cha không tỏ thái độ, nhưng đại ca và nhị ca cũng đứng về phía Thái tử, cha không phản đối chắc có lẽ có ý ủng hộ dòng chính, cho nên đệ chỉ là muốn giúp cha và hai anh thôi."

Sắc mặt Triệu tam lang hòa hoãn lại, nói với hắn: "Đệ không cần dây vào những chuyện này, chuyến này đi là để làm gương tốt, sang năm tham gia khoa thi, từng bước đi lên, có cha và các anh ở đây, nhất định có thể che chở để hoạn lộ của đệ thuận lợi. Nhưng ngôi vị Hoàng đế cạnh tranh tàn khốc, nước sâu không lường được, chỉ cần vô ý thôi đầu đệ sẽ rơi xuống đất, đệ không nên dính vào."

Triệu Ngọc Tranh do dự gật đầu: "Đệ biết rồi."

Triệu tam lang bật cười xoa đầu an ủi Triệu Ngọc Tranh, tạm thời quên đi những suy nghĩ liên quan đến Triệu Bạch Ngư.

Thời gian thấm thoắt trôi qua, Triệu Ngọc Tranh và Triệu tam lang đã ở Dương Châu sắp đầy ba tháng, lúc này tình hình dịch bệnh lẫn thiên tai đều đã có xu hướng ổn định, còn án oan làm thịt vịt trắng cũng đã phát triển đến mức Đặng Vấn An vô tội được thả ra, Lữ Lương Sĩ nhốt lại vấn trảm, chức quan của Tiêu Vấn Sách cũng khó mà giữ nổi, trăm họ ở phủ Dương Châu tranh nhau để ý, thảo luận từng lời nói hành động của Khâm sai ở Giang Dương.

Tình cờ một lần, Triệu tam lang vào nhầm quán rượu nghe được người kể chuyện ba hoa khoác lác câu chuyện Khâm sai về Dương Châu, say mê nghe đến nỗi người ta nói sang câu chuyện mới rồi mới đi lên phía trước tìm một chỗ ngồi tốt.

Hôm nay chuyện kể về việc Đặng Văn An bị coi là đồng phạm của kẻ giết người, quan viên Hoài Nam cùng nhau ép định án, trong thời khắc mấu chốt, Khâm sai gọi hung thủ thật sự Vương Quốc Chí ra, tiết mục xoay chuyển tình thế ở bước đường cùng được kể liên tục trong ba ngày, mỗi ngày mười suất vậy mà vẫn nghẹt kín chỗ ngồi, người nghe chỉ càng lúc càng nhiệt huyết hơn chứ không kém đi chút nào.

Nhất là khi Khâm sai tức giận trên công đường, chất vấn một đám quan viên Hoài Nam thiếu đôn đốc kiểm tra, không làm tròn bổn phận, vừa đòi gập sổ kiện lên triều đình liền được cả sảnh đường ủng hộ.

Tiết mục Khâm sai tức giận một đám quan viên thiếu đôn đốc kiểm tra, không làm tròn bổn phận cũng được kể liên tục trong ba ngày, vẫn là một ngày mười suất, người nghe vẫn đông nghẹt chỗ, không khí chỉ có càng lúc càng sôi nổi hơn.

"... Khâm sai nói 'Làm quan nếu không thể làm chủ cho dân, thì còn không bằng về nhà trồng khoai' !"

"Hay!" Trong một gian phòng Triệu tam lang vỗ bàn khen, một đám dân trong sảnh cũng hô to theo: "Nói hay!"

Một gian phòng khác, Triệu Ngọc Tranh thờ ơ nghe kể chuyện, thấp giọng hỏi ám vệ sau lưng: "Lời người đó kể là thật sao?"

Ám vệ đáp: "Có điều không đúng."

Triệu Ngọc Tranh: "Nói."

Ám vệ: "Người bắt được hung thủ Vương Quốc Chí trước thời hạn, ở trên công đường tức giận mắng một đám quan viên Hoài Nam khiến bọn họ á khẩu đều là Đô ngu hầu, thị vệ bên người Khâm sai làm, bao gồm cả câu nói ở dưới lầu mới nãy, cũng là do thị vệ thân quân Đô ngu hầu nói."

Giọng nói Triệu Ngọc Tranh cất cao: "Thật không?"

Ám vệ: "Câu nào thuộc hạ cũng nói thật."

Rất khó để thấy Triệu Ngọc Tranh mỉm cười: "Đi xuống đi."

Hóa ra công lao hoàn toàn không phải của Triệu Bạch Ngư, mà là Đô ngu hầu bên người y, có lẽ Lâm An quận vương sắp xếp không ít dị sĩ tài giỏi giúp y ở Dương Châu, bề ngoài Triệu Bạch Ngư đứng đầu, thực tế người thao túng phía sau là Lâm An quận vương và bệ hạ, đối phó với quan trường Hoài Nam cũng là bọn họ, Triệu Bạch Ngư chẳng qua chỉ là con cờ.

"Sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu như biết được đang đánh cờ cùng ai."

Tâm trạng căng thẳng mấy ngày của Triệu Ngọc Tranh cuối cùng cũng được thả lỏng, tiếng kể chuyện dưới lầu cứ văng vẳng bên tai, nhàn nhã không lo lắng uống trà.

Hắn không biết tình huống mà ám vệ điều tra được nói thật cũng đúng, nói không thật cũng đúng, ngày đó những người vây xem đoạn đối chất xuất sắc ở công đường chỉ biết người chủ đạo là một thị vệ, không ai biết Triệu Bạch Ngư đã đổi thân phận với người khác từ trước.

Người ngoài thêm mắm dặm muối, tai miệng truyền nhau, mang tình cảnh sáng chói khi thị vệ Đô ngu hầu chủ trì công đường đội lên đầu Khâm sai, râu ông nọ cắm cằm bà kia, nếu như Khâm sai thật sự giả trang làm Đô ngu hầu, trời xui đất khiến trật tự lập lại, hóa ra chẳng có ai nói sai.

Biết được được chân tướng rồi, Triệu Ngọc Tranh chẳng còn hứng thú nghe nội dung chuyện, đứng dậy rời khỏi quán rượu, lúc bước vào kiệu còn quay đầu liếc nhìn người dân tung hô, cùng với tiên sinh vui vẻ ngẩng đầu kể chuyện trong sảnh quán.

"Người ta nói sao, bào hao nói vậy, sắc thái của thế gian này trước giờ là vậy."

Qua hai ngày khu tai nạn đã bị tháo dở, đó là lệnh của Khâm sai, di dời các dân bị nạn đến những ngôi nhà bỏ trống, trong miệng dân bị nạn nào cũng không ngớt lời khen ngơi, công lao suốt ba tháng của Triệu Ngọc Tranh hoàn toàn bị xóa sạch sẽ.

Triệu Ngọc Tranh mặc lan sam màu xanh nhạt đứng trên đỉnh ngọn đồi cách đó không xa, nhìn về phía khu bố trí tạm thời vô thức vuốt ve ngón tay lầm bần: "Dám dân ngu ngốc kia làm sao biết được..."

Sự thật là như thế nào?

Không cần sự thật, chỉ cần một đại lão gia thanh liêm có thể thay bọn họ đòi lại công đạo, có thể làm chủ giúp bọn họ là được rồi, nhân phẩm này hành vi thế nào, tài năng thế nào, có giở trò bịp bơm hay không, tất cả đều không nằm trong phạm vi suy tính của đám dân ngu ngốc.

Triệu Ngọc Tranh than thở, khuôn mặt xinh đẹp trắng nõn tràn đầy tính công kích toát ra một nỗi đồng tình đầy phiền muộn: "Dốt nát là phúc."

Sau khi ngắm nhìn một lúc, Triệu Ngọc Tranh liền lên ngựa rời đi, ngựa phi nhanh trên đường núi đầy bùn sình, hai bên xanh ngắt ẩm thấp, vào đông rồi nhưng không thấy cây cỏ tàn lụi, giữa núi đồi trùng điệp thấp thoáng bóng dáng của những mái đình chùa cổ kính, tiếng chuông mờ mịt vang vọng khắp núi rừng, trong lúc vô tình đi sâu vào trăm nghìn khe núi, cứ cho rằng sắp đến đường ra, nào ngờ vạch lên mấy chùm cây dây leo, bên dưới còn có một con đường mòn khác.

Triệu Ngọc Tranh xuống ngựa đi vào đường mòn đó, nhìn thấy cuối đường mòn có một thân ảnh quảng tụ trường bào, thân hình cao ráo như chim hạc, dung mạo phảng phất như tiên nhân, dần dần chồng lên bóng người quen thuộc nằm sâu trong lòng hắn.

Hắn nói với người hầu đã đuổi kịp phía sau mình: "Ta vào đó một mình thôi rồi ra, các ngươi đừng theo." Nói xong liền nhanh chân chạy theo bóng người kia.

Phía bên trái cuối đường mòn có một cổng đá hình vòm, bóng dáng kia mới vừa lóe lên ròi biến mất không thấy đâu, chắc hẳn là đi vào trong đó rồi.

Triệu Bạch Ngư vội vàng chui qua cổng đá đó, phát hiện bên trong là cảnh trí lâm viên Hàng Tô, hòn non bộ suối chảy róc rách, đẹp như động tiên, có lẽ là biệt viện trong núi ngoại thành mà một phú thương viên ngoại nào đó ở Dương Châu để lại.

Nếu như không nhận sai, thì hóa ra người nọ đến nhậm chức làm việc ở Dương Châu, chẳng trách sao nhiều lần viếng thăm lầu Sơn Hà ngoài phủ Kinh Đô cũng bị từ chối.

Phải nói vì sao Triệu Ngọc Tranh khẳng định người này đến nhậm chức làm việc chứ không phải định cư ở Dương Châu, lý do đơn giản thôi, là bởi vì hắn biết lầu Sơn Hà vốn là thuộc về Hoàng gia, lúc hắn mới chỉ tám, chín tuổi đã được Nguyên Thú đế ban cho một bề tôi có công trạng.

Hắn nhớ rất rõ, năm đó Thái tử vừa đúng lúc làm xong việc trong triều, lại còn làm rất hoàn hảo, lúc luận công ban thưởng muốn xin lầu Sơn Hà để đưa Triệu Ngọc Tranh đến lầu Trích Tinh ngắm trăng, cuối cùng lại bị ban thưởng cho người khác trước một bước rồi.

Sau đó Thái tử phát cáu rồi nổi giận một trận, cũng là nhờ Triệu Ngọc Tranh dỗ dành mới đỡ được.

Triệu Ngọc Tranh ghi nhớ cái tên lầu Sơn Hà này, mấy năm sau có duyên đi lạc vào, nhìn thấy thanh niên tựa như trích tiên, rất khó mà quên được.

Đang vu vơ tìm người, Triệu Ngọc Tranh chợt nghe có tiếng bước chân vội vã đi tới, hắn nhanh chóng núp sau núi giả, nhìn đám người kia bước nhanh qua cầu chín khúc, hướng về phía người trong đình nghỉ mát báo cáo, có thể mơ hồ nghe được Khâm sai huyện Giang Dương, quan tham nghị Trấn an sứ cùng với bạc cứu trợ thiên tai bị cướp.

Triệu Ngọc Tranh tĩnh tâm lắng nghe.

"... Khâm sai giam Tôn Phụ Ất lại rồi, sớm muộn gì cũng tra đến chỗ An Hoài Đức thôi, cho dù không tìm được khoản bạc thì cũng sẽ không động đến An Hoài Đức. Nhưng ta chỉ lo đêm dài lắm mộng, hay là mau chóng xử lý khoản bạc kia đi."

"Không ai có thể tra ra được bạc cứu nạn giấu trong sơn trang đâu, đừng lo nữa, nơi này mà không an toàn thì còn chỗ nào an toàn nữa? Khâm sai ư? Hừ, một con thỏ con chưa dứt sữa thôi, An Hoài Đức đối phó được. Ta hỏi các ngươi, tra được hành tung của Hoắc Kinh Đường chưa?"

"Vẫn còn ở quận vương phủ, chưa thấy ra ngoài."

"Một chút động tĩnh cũng không có sao?"

"Người của ta vẫn luôn theo dõi, quận vương đóng cửa không tiếp khách, quả thật không có động tĩnh gì."

"Hồ đồ! Ngày một ngày hai không có động tĩnh còn chấp nhận, hai ba tháng rồi mà không có động tĩnh? Dù nó có xuất gia làm hòa thượng thì cũng phải ra đường niệm Phật khất thực chứ! Ngu xuẩn! Các ngươi bị lừa gạt mà còn không tự biết đi, bây giờ Hoắc Kinh Đường nhất định đang ở Hoài Nam, bạc cứu trợ thiên tai Từ Châu bị cướp, còn gây ra chuyện ba ngàn loạn đảng nữa, vị trên long ỷ kia không thể không phái người mình thật sự tin tưởng tới đâu.

"Vậy nên làm gì bây giờ?"

"Đi thăm dò đi, Hoắc Kinh Đường đến đây là vì bạc cứu trợ, nếu đã ra tay truy xét thì sẽ để lại dấu vết thôi, từ đó là tra ra được."

"Vâng!"

Triệu Ngọc Tranh sợ hãi mất tinh thần, tay chân lạnh như băng, chờ đến khi người đi hết mới bước dọc theo con đường cũ lặng lẽ quay về, cả đường mất hồn mất vía nghĩ, bạc? Là số bạc cứu trợ bị cướp ở Từ Châu kia sao? Ở trong tay bọn họ? Mấy người đó chính là loạn đảng cướp quan ngân sao?

Lại còn có quan hệ với An Hoài Đức?

Ba ngàn ngư dân Từ Châu và loạn đảng bị xử tử tại chỗ lại là chuyện gì nữa?

Triệu Ngọc Tranh phiền muộn trong lòng, về đến Tạ gia liền vội vàng viết thư, để chim bồ câu đưa đến Dương Châu, đến lúc rãnh rỗi mới thể suy nghĩ về bóng người mà mình vô tình gặp được.

Hắn là ai?

Có quan hệ thế nào với loạn đảng cướp bạc?

Không ai có thể nói cho hắn biết câu trả lời, rốt cuộc bị đám suy nghĩ rối bời nhấn chìm vào giấc ngủ.

***

Triệu Ngọc Tranh lén lút theo sau lưng, tự cho rằng áo tiên không thấy vết chỉ khâu, nhưng Hoắc Kinh Đường đã phát hiện ra từ lâu, chỉ là hắn không có hứng để ý đến.

Những lời mà Triệu Ngọc Tranh nghe lén được trong đình nghỉ mát cũng đều bị Hoắc Kinh Đường thu vào tai mắt, hắn cũng ở hiện trường, thà nói là ẩn núp không bằng nói hắn quang minh chính đại nghe lén thì đúng hơn, chẳng qua không ai phát hiện hắn đứng trên đỉnh tháp sau núi giả, từ trên cao nhìn xuống lắng nghe toàn bộ âm mưu quỷ kế mà bọn họ sắp đặt.

Hoắc Kinh Đường về đến biệt viện liền ra lệnh cho bộ hạ theo dõi Triệu Ngọc Tranh: "Nếu như trong viện của hắn có bồ câu bay ra, thì hãy chặn thư phát lại, đọc thư xong thì để lại như cũ."

Tán chỉ huy nhận lệnh, đêm đó chặn được thư, nội dung chính là những gì Triệu Ngọc Tranh nghe thấy ban ngày. Tán chỉ huy nhét thư vào lại y nguyên như cũ, suy nghĩ một chút rồi trở về phục mệnh.

"Là thư mật báo cho Thái tử. Vừa nhận được thư, Thái tử liền có thể đoán ra An Hoài Đức hai lòng, tất nhiên sẽ phản kích. Nhưng trước sau gì bọn họ cũng là đồng đảng nhiều năm, biết rõ đối phương làm không ít việc xấu xa, cưỡng ép cắt đứt chỉ sợ thương gân động cốt."

"Thương gân động cốt còn hơn đầu rơi xuống đất."

"Không phải Hoài Nam sẽ loạn hơn sao?"

"Càng loạn càng tốt." Hoắc Kinh Đường cắt sửa cây vân tùng mà hắn mua được từ chùa gần núi, thuận miệng hỏi: "Trong thư có nhắc đến sơn trang Ký Sướng không?"

"Không có."

"Ừ... Ngươi tìm người bắt chước nét chữ của Triệu Ngọc Tranh đi, viết bốn chữ 'Sơn trang Ký Sướng' vào. Đây chính là lời nhắc nhớ rất tuyệt đấy," Hoắc Kinh Đường bật cười: "Làm văn chương cũng tuyệt, đội nồi cũng tuyệt nốt, đừng lãng phí cơ hội ta cho không."

Tán chỉ huy không hiểu.

Hoắc Kinh Đường: "Đồ Tiên đế ban thưởng cho hoàng tộc, khoản nào cũng được nội thị trong tỉnh ghi chép kĩ càng, phàm là có đầu óc, Thái tử cũng biết đi lật ghi chép của nội thị tỉnh."

Tán chỉ huy vẫn không thể nào hiểu, gã biết sơn trang Ký Sướng thuộc về Tĩnh vương, tương đương với việc đoán được An Hoài Đức là người của Tĩnh vương, chẳng lẽ có thể đẩy chuyện lão, Ngũ hoàng tử tham ô bạc và hành động của Tư Mã thị ở Hoài Nam lên đầu Tĩnh vương và An Hoài Đức hết?

Làm thế nào?

Không phải tướng quân nói bạc cứu trợ đó phỏng tay sao... Cho nên là để cho Thái tử tự nhận củ khoai nóng đó?

Vậy rốt cuộc là bạc cứu trợ đó phỏng tay chỗ nào?

Hoắc Kinh Đường: "Đi đưa thư đi."

Tán chỉ huy đáp lại, lập tức lui xuống.

Trong phòng chỉ còn lại một mình Hoắc Kinh Đường, hắn ngắm nghía chậu cây mà mình đã tỉa tót lại, sau đó gọi người bên ngoài thuê một tên chạy việc, đưa chậu cây đó đến Giang Dương.

Hoắc Kinh Đường lười biếng tựa người lên ghế thái sư, lúc khảy lúc ngừng nghịch vòng Phật: "Chuyện kể trong thành ấy, đoạn mới nhất kể đến đâu rồi?"

Chốc lát có một bóng đen từ xà nhà nhảy xuống nói: "Đến chỗ tiểu Triệu đại nhân đối chất ở công đường, tức giận mắng mấy đại viên tam tứ phẩm rồi."

"Kể được bao lâu?"

"Chắc phải bốn năm ngày rồi."

"Nên đổi đi." Hoắc Kinh Đường vỗ đầu gối, nghĩ chút rồi nói: "Đổi thành 'Khâm sai cơ trí bắt Soái sứ, trọng thẩm thảm án diệt môn hoàng thương Giang Nam' mà kể."

"Nhưng người tiểu Triệu đại nhân bắt là tham nghị quan Soái sứ... Sẽ không biến thành tung tin đồn cho mệnh quan triều đình sao?"

"Tên của vở kịch thôi mà, phải giật gân một chút mới được."

"Vậy thuộc hạ đi làm ngay, đảm bảo sáng mai là có thể truyền khắp phủ Dương Châu, ba ngày sau sẽ truyền khắp Hoài Nam."

Hoắc Kinh Đường nhắm mắt lại, đọc thầm kinh Phật.

Người kia cũng là thiết kỵ Đường Hà, ấn nấp trong góc tối bảo vệ Triệu Bạch Ngư, giương mắt nhìn tốc độ khảy vòng Phật của Hoắc Kinh Đường cũng đủ biết là hắn đang tụng kinh siêu độ cho các anh em đã chết, vậy nên rời đi không gây ra tiếng động nào.

***

Nhà trọ huyện Giang Dương.

Triệu Bạch Ngư chuyên tâm dời qua dời lại chậu vân tùng mà Hoắc Kinh Đường đưa tới, dựa theo dáng vẻ của nó vẽ lại, từng nét bút buông xuống nhanh chóng phác họa một bức tranh đẹp đẽ, phải cảm ơn thầy đã vừa dạy y kiến thức vừa dạy cầm kỳ thi họa, y được học vẽ tranh thủy mặc, nếu không hôm nay sẽ không thể vẽ lại được cây vân tùng mà Hoắc Kinh Đường tặng cho.

Nghiên Băng nhíu mày: "Giữ lại có nuôi được không?"

Triệu Bạch Ngư không ngẩng đầu, chuyên chú vẽ vời: "Ta nuôi sẽ chết."

Nghiên Băng càng nhíu chặt mày hơn: "Thế ta nuôi giúp ngài nha?"

Triệu Bạch Ngư: "Chàng tặng ta, ta lại để cho người khác nuôi thì coi sao được? Không phải phép."

Nhất thời Nghiên Băng không hiểu Ngũ lang là đang yêu thích hay không yêu thích món quà mà tiểu quận vương tặng nữa, trong đầu nó chạy số, chắc đây có lẽ là lý thuyết vợ chồng tôn trọng nhau như khách mà trong sách nói, xem bọn họ đối xử với nhau có biết bao nhiêu là lễ phép kia kìa.

Nó rút thư từ Dương Châu gửi tới trong tay áo ra đưa cho Triệu bạch Ngư: "Thư hôm nay ạ."

"Để bên cạnh đi, ta còn chút xíu nữa thôi." Triệu Bạch Ngư ổn định tay, nhẹ nhàng móc lên một cái, mực bút nồng đậm đều đều, cuối cùng vẽ ra một cây vân tùng đẹp nhất, chuẩn bị đem đi hong khô, để trong bảo khố như một vật cực kỳ quý giá.

Triệu Bạch Ngư vừa lau tay vừa hỏi: "Bên kia Thôi phó quan đã làm xong rồi à?"

Nghiên Băng gật đầu: "Sổ giả thả về nơi giấu sổ thật, đã bị người của An Soái sứ đem đi rồi. Thôi phó quan còn nói đã sai người đưa tin tức đi, hẳn là Đô tào cũng biết rồi."

Triệu Bạch Ngư mở thư xong xong, nhướn mày cười nói: "Kịch hay bắt đầu rồi, Ngũ lang của ngươi phải ra hát mở màn đây."

==

Min: Hmuhmu đọc đến đoạn nội tâm của anh Ba mà đau lòng cho em Cá quá đi mất 😿 thật ra cha mẹ Triệu, ba anh trai và mọi người nói chung rất đáng trách vì đã đối xử với Cá như vậy trong khi em chẳng có tội gì cả, nhưng họ cũng đáng thương vì đã bị mụ công chúa kia lừa gạt xoay mòng mòng suốt mười mấy năm trời, và lẽ ra đứa nhỏ ngoan ngoãn cần được yêu thương, tương lai sẽ có một con đường làm quan rộng mở là em Cá mới đúng!!!

Vụ án này cũng dần đi vào hồi kết rồi, Cá nhỏ và lão Hoắc sắp gặp lại nhau sau quãng thời gian dài xa cách đó, xì poi là tầm c41 nhen 😽

==

Chương 38

Tư Mã Kiêu bị người ta hung hăng vả mặt, Trịnh Sở Chi rất hài lòng, nào ngờ Khâm sai đã nhanh chóng bẫy gạt quan tham nghị Soái sứ Tôn Phụ Ất tới, nhốt thẳng vào đại lao, rồi lại đột nhiên nhảy ra một nữ cô nhi Hoàng thị gõ trống kêu oan, tố cáo Tôn Phụ Ất đem người đến sát hại cả nhà hoàng thương Giang Nam Hoàng thị, đúng là niềm vui từ trên trời rơi xuống!

Trịnh Sở Chi mừng rỡ, kế hoạch vốn là định quay về Dương Châu lập tức bị gạt sang một bên, ở lại quán trọ huyện Giang Dương tiếp tục theo dõi, chờ đợi cơ hội sử dụng kĩ năng khuấy nước đục xấu xa của mình.

Trong khoảng thời gian ở nhà trọ, Trịnh Sở Chi phát hiện 'Khâm sai' trong mắt lão thường xuyên chạy đến chỗ 'Thị vệ Đô ngu hầu' phía đối diện, nhìn thái độ kính trọng cái tên 'Đô ngu hầu' phảng phất khi bọn họ ở cùng nhau thì cảm thấy vô cùng quái đản.

Trịnh Sở Chi không coi việc Lâm An quận vương cưới nam thê là thật, nhưng nhớ rằng nam thê của quận vương tên là Triệu Bạch Ngư?

Nguyên Thú đế lệnh cho Triệu Bạch Ngư làm Khâm sai, Trịnh Sở Chi đoán chỉ là để che giấu tai mắt người khác, thực tế người giật dây sau lưng là Hoắc Kinh Đường, mà Hoắc Kinh Đường lại trung thành với Nguyên Thú đế, suy cho cùng thì chính là Nguyên Thú đế cố tình muốn chỉnh đốn quan trường Hoài Nam.

Tất nhiên lão cũng đoán rằng bề ngoài Triệu Bạch Ngư là quận vương phi, thực chất chỉ là con cờ biết vâng lời, 'Thị vệ Đô ngu hầu' đại diện cho Hoắc Kinh Đường, vậy nên Khâm sai cũng tự cảm giác được mình thấp kém trước cấp dưới Đô ngu hầu mà thôi.

Và từ cuộc đối đầu ở công đường cũng có thể nhìn ra 'Đô ngu hầu' này miệng lưỡi lanh lợi và có khả năng kiểm soát tình hình hơn nhiều so với cái người gọi là Khâm sai kia.

"Không đúng." Trịnh Sở Chi suy nghĩ trong lòng, vẫn luôn cảm giác có gì đó là lạ. "Ta luôn cảm giác 'Khâm sai' rất quen mắt, giống như là đã từng gặp ở đâu rồi, không phải là gặp ở phủ Kinh Đô."

Án gian lận khoa cử bị vạch trần, thân là cậu của Tần vương, lão không chỉ phải tránh hiềm nghi, mà còn vì mới vừa hồi kinh báo cáo công việc nên không cần vào triều, bỏ lỡ ngày Triệu Bạch Ngư ngự tiền cứu ân sư, về sau cũng ít giao du bên ngoài, cho đến nay vẫn chưa biết mặt Triệu Bạch Ngư.

Nhưng mà lão từng điều tra Triệu Bạch Ngư rồi, trước khi y đảm nhiệm chức Khâm sai thì chưa từng rời phủ Kinh Đô, theo lý mà nói không nên khiến cho lão sinh ra ấn tượng như đã quen mặt từ trước.

Kỳ quái hơn nữa chính là trên người 'Khâm sai' còn có khí chất chỉ người trong quân ngũ mới có.

Trịnh Sở Chi cũng là quân nhân, bắt được điểm này rồi suy nghĩ sâu xa hơn, càng nghĩ càng cảm thấy lạ, Triệu Bạch Ngư là quan văn không chạy, hình như y còn là trẻ sinh non, nhưng 'Khâm sai' trên công đường thì lại có cơ thể khỏe mạnh cường tráng, nhịp bước nhẹ nhàng vững vàng, ánh mắt sắc bén, nhất là tay phải có thói quen trụ ở bên hông, bình thường người lính thường treo một chiếc Hoàn Thủ Đao ở đó, chẳng lẽ ——

'Khâm sai' là Đô ngu hầu, còn 'Thị vệ Đô ngu hầu' mới là Khâm sai?

Nếu như tên 'Khâm sai' kia mới là thị vệ, thì rất có thể là người được điều từ quân Tây Bắc tới, vậy là giải thích được vì sao lão lại cảm thấy quen mắt, hẳn là đã từng gặp qua ở biên giới.

"Không sai! Thế là hiểu rồi, mặc dù Khâm sai chỉ là con cờ, nghe lệnh bệ hạ cũng Hoắc Kinh Đường, nhưng lại dám đến ngự tiền dùng lý để tranh luận, còn có thể chỉ từ một phần nhỏ trong hồ sơ mà phát hiện ra án oan, Triệu Bạch Ngư không phải là một tên dốt tài." Trịnh Sở Chi tự lẩm bẩm: "Y mới là Khâm sai. Khâm sai đi sâu vào khu dịch bệnh, đích thân trải qua cơn dịch, lừa gạt xoay Lữ Lương Sĩ mòng mòng, quả nhiên là nước cờ lạ lùng, quân bài không đi theo lẽ thường."

Trịnh Sở Chi đi qua đi lại, chợt vỗ tay cười to: "Hay! Hay lắm! Đúng là một quái tài! Để xem y có thể quật ngã Thái tử được không, cho dù không quật được, thì cũng sẽ thật vui nếu như y bị ngã ngược lại."

"Y vẫn chưa định tiết lộ danh tính của mình, chắc là thật sự muốn đối phó với An Hoài Đức, sẵn tiện lừa gạt Tư Mã Kiêu," Trịnh Sở Chi cảm giác mình đã đoán trúng tâm tư của Triệu Bạch Ngư, gật đầu liên tục tự đắc ý: "Thế mà y lại không thể nào nghĩ ra được ta có thể đoán trúng, coi như ta làm hoàng tước một lần vậy, xem bọn họ chiến đấu với nhau đến cùng."

Trịnh Sở Chi đoán ra được chút chân tướng bèn ở lại nhà trọ, mỗi ngày đều quan sát động tĩnh của Triệu Bạch Ngư, một ngày trước hơn nửa đêm thấy y vơ vét bắt được một nhóm người, trong sân đốt đèn cả đêm, ngày hôm sau lặng lẽ đưa người đi như chưa có chuyện gì, sau đó lại có thêm mấy người thân thủ không tầm thường đến, dường như nhận được mệnh lệnh gì đó, chạy gấp tám trăm dặm.

Trịnh Sở Chi khó chịu muốn biết được kế hoạch của Triệu Bạch Ngư, cũng muốn tới gần chút để nghe lén, nhưng chẳng thể làm gì được vì trong sân viện có không dưới ba cao thủ đang ẩn mình, kỹ năng của bọn họ tốt hơn rất nhiều so với lão tướng sa trường như lão.

Kế hoạch nghe lén bị đẻ non, Trịnh Sở Chi chỉ đành dời sự chú ý lên người Đô tào và An Hoài Đức, không để ý thì tốt, để ý một cái liền phát hiện ra Tư Mã Kiêu và An Hoài Đức cùng thuộc đảng Thái tử nhưng hình như đang đấu tranh với nhau rất kịch liệt.

An Hoài Đức tóm Khâm sai đặt nghi vấn vì sao lại cưỡng ép giam giữ Tôn tham nghị, cũng hỏi về việc dùng nghiêm hình để tra khảo, còn nói người tự xưng là nữ cô nhi Hoàng thị không rõ lai lịch, có phải đúng là người đó hay không, rồi hỏi có những chứng cứ nào khác hay không, nếu không chỉ bằng lời nói của một bên, không dám đảm bảo đây không phải là vu hãm mệnh quan triều đình.

Chọn lời chặt chẽ, thậm chí suy đoán rằng Khâm sai chỉ vì cái lợi trước mắt, vượt tỉnh vượt cấp truy xét án oan Lưỡng Giang, theo luật gọi là lạm quyền, nếu như lời Hoàng thị nói là thật, vậy thì vụ án cũng cần được chuyển giao cho Đề hình ty Lưỡng Giang.

Tư Mã Kiêu thì quát hỏi một án loạn đảng Từ Châu, không có bằng chứng nào khác cho thấy ba ngàn ngư dân Ngư Gia Trại chính là đồng bọn của phe phản loạn, cũng chưa qua ba đường hội thẩm, sao có thể nhốt toàn bộ những người đó vào đại lao?

Còn chỉ ra mặc dù có nhân chứng, tức là 'loạn đảng' đã bị vây bắt, chống trả bằng vũ khí và bị hành quyết ngay tại chỗ, nhưng không thể chứng minh bọn họ thật sự là loạn đảng, bởi vì bọn họ đều chết cả rồi, bản cung của cả vụ án đã biến thành bản cung chết.

Mà bản cung chết thì không được thừa nhận!

Nhưng cũng không hẳn là vô dụng, chỉ là cần có điều kiện tiên quyết, tạm thời không nhắc đến ở đây.

Hai bên một kẻ mượn chỗ sơ hở của án cả nhà họ Hoàng bị giết để hói Khâm sai, còn Tư Mã Kiêu thì mượn mối nghi ngờ trong chuyện loạn đảng Từ Châu quở trách An Hoài Đức, ngăn chặn nhịp bước dùng pháp trấn áp Khâm sai để cứu Tôn tham nghị của An Hoài Đức.

Trịnh Sở Chi rơi vào mông lung, không nghĩ ra vì sao Đô tào và An Hoài Đức đều là môn đảng Thái tử mà bây giờ lại ầm ĩ trở mặt? Chẳng lẽ là do Triệu Bạch Ngư ly gián bọn họ từ bên trong?

Ly gián như thế nào được?

Trịnh Sở Chi trăm mối không lời giải, lại thấy Triệu Bạch Ngư không khen cũng chẳng chê, bình chân như vại, mỗi ngày đều ở trong sân vẽ vời, rất phong nhã.

Làm quan hai mươi năm, Trịnh Sở Chi không khỏi không bội phục tâm tính của Triệu Bạch Ngư, chỉ chờ đợi thời gian thôi, là có thể phong hầu bái tướng, đứng hàng Tam công.

An Hoài Đức cùng Tư Mã Kiêu tranh đấu đến mưa máu gió tanh, Trịnh Sở Chi nóng nảy vì không tài nào thể hiện được bản lĩnh khuấy nước đục của mình, vậy nên cứ đi tới đi lui ngoài viện của Triệu Bạch Ngư.

Ngày hôm đó, Trịnh Sở Chi cũng đang quanh quẩn bên ngoài viện, phát hiện Khâm sai giả vội vã chạy vào trong sân, thậm chí suýt nữa vấp ngã, không lâu sau, Triệu Bạch Ngư đã nghiêm mặt đi ra.

Trịnh Sở Chi nảy lòng tò mò, nhanh chân theo phía sau bọn họ, nghe thấy Triệu Bạch Ngư thấp giọng hỏi: "Ngươi chắc chắn không tra sai chứ?"

Khâm sai giả: "Tướng quân ở Hoài Nam đã âm thầm điều tra, có thể sai được sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Ta cũng tin tưởng năng lực của quận vương, nếu hắn đã mở miệng thì tám chín phần mười là thật. Nếu tin này là thật, thì chúng ta phải mau chóng đuổi hết vật cản phía trước di thôi."

Khâm sai giả: "Bây giờ ta đưa thủ dụ của ngài đi gọi doanh binh bao vây sơn trang đó lại."

Triệu Bạch Ngư: "Đừng gây sự chú ý quá nhiều, chủ yếu là bạc, nhất định phải lấy lại được hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai về tay! Chỉ cần số bạc đó về tay, ta liền có thể bắt lại cẩu quan An Hoài Đứuc coi mạng người như cỏ rác!"

"——!"

Tìm được hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai rồi sao?

Quả nhiên là có liên quan đến An Hoài Đức và Thái tử!

Tư Mã Kiêu xích mích với An Hoài Đức, chẳng lẽ cũng là vì khoản bạc này?

Lòng Trịnh Sở Chi như có lửa nóng, trăm móng tay nhọn cào ngứa tâm can, chỉ muốn biết là bạc đang ở sơn trang nào, lão muốn cướp công.

Bởi vì sự việc của Tần vương mà trong lòng Nguyên Thú đế đã tồn tại hiềm khích, hồi kinh báo cáo công việc theo lý mà nói chỉ là đi làm thủ tục mà thôi, gặp được một hai cấp trên rồi lại để cho lão quay về biên giới Định Châu chưởng binh, kết quả là bị điều nhiệm tạm thời đến Hoài Nam làm Chuyển vận phó sứ quái gì đó.

Hành động này của Nguyên Thú đế có ý gì, Trịnh Sở Chi hiểu rõ ràng.

Làm sao lão dám khuấy đụng nước quan trường Hoài Nam mà không có chút kiêng kỵ nào?

Bởi vì ý của Nguyên Thú đế chính là hy vọng lão châm thêm đuốc, lão thuận thế mà làm thôi.

Làm quan lâu không nhất định phải thành tinh, nhưng chắc chắn có thể nghĩ thấu tâm tư trên đỉnh đầu của Thánh thượng, làm theo ý giả vờ ngốc nghếch mà khoe tài mới đáng là bề tôi. Nhưng một bề tôi tốt ngoại trừ tính toán Thánh ý và giả vờ ngu ngốc ra, thì còn phải biết nắm bắt thời cơ kiến công lập nghiệp, trước mắt chính là một cơ hội rất tốt để cho lão kiếm được một thành tích đẹp đẽ ——

Nhanh tay phá án bạc cứu trợ Từ Châu bị cướp.

Trịnh Sở Chi tính toán thời cơ, bước nhanh về phía trước, đụng phải Triệu Bạch Ngư đang quẹo qua cửa viện đi vào, "Kẻ nào đi không có mắt nhìn đường?"

Triệu Bạch Ngư chắp tay nói xin lỗi trước: "Tiêu hạ lỗ mãng, mong đại nhân thứ tội."

Trịnh Sở Chi định thần nhìn lại, chậm rãi đổi sắc mặt: "Là ngươi à. Ngày ở công đường biểu hiện của ngươi rất vũ dũng, một lời vạch trần, lập luận sắc sảo, làm cho một đám đồng liêu Hoài Nam xấu hổ chịu không nổi."

Triệu Bạch Ngư tỏ vẻ nhún nhường: "Tiêu hạ sợ hãi."

"Đừng có nói gì mà lỗ mãng sợ hãi với ta, ta là con nhà võ, không chịu nổi cái nết chua ngoa của quan văn đâu, nói thật, ta rất tán thưởng dũng khí dùng lý tranh luận cho bá tánh của ngươi ngày trên công đường. Nhắc mới nhớ, bổn quan còn chưa biết tên người là gì."

"Tiêu hạ Triệu Đại Vi."

Họ Triệu à.

Trịnh Sở Chi lời ong tiếng ve như nói chuyện nhà: "Ngươi là bộ binh Đô ngu hầu... Xuất thân Tam nha sao? Ngươi đi ngự tiền, gốc rễ đỏ thắm, tương lai rộng mở. Một ngày nào đó thả ra ngoài, đến Tây Bắc hoặc Đông Bắc đánh một vòng quay về, cất nhắc một chức quan, chắc là ta còn phải gọi ngươi một tiếng cấp trên."

Triệu Bạch Ngư vội vàng chắp tay: "Tiêu hạ sợ hãi, đại nhân chớ chiết sát tiêu hạ."

(*) Chiết sát: ý chỉ người hưởng thụ quá mức mà giảm phúc giảm thọ, cũng có nghĩa là không thể thừa nhận nổi.

Trịnh Sở Chi phát tay một cái: "Lời ta nói xuất phát từ trong lòng, ngươi sợ cái gì? Ta nói ta tán thưởng ngươi thì không phải là nói bừa, ngày nào ngươi thật sự được đưa ra ngoài thì đến quân Ký Châu, làm tiểu tướng môn hạ của ta."

Triệu Bạch Ngư mím môi cười một tiếng, đáy mắt ẩn chứa nỗi chờ mong: "Tiêu hạ vô cùng cảm kích." Trên mặt còn đúng lúc toát lên một tia cảm kích lẫn dã tâm.

Nếu như không phái đoán ra được thân phận của y rồi, chắc là sẽ bị y lừa gạt thật.

Trịnh Sở Chi thầm cười nhạt, nét mặt ôn hòa hơn: "Mới vừa rồi ta thấy ngươi và Khâm sai coi bộ vội vàng quá, mặt còn lộ vẻ khó khăn, là có liên quan gì đến vụ án Tôn tham nghị giết cả nhà hoàng thương Giang Nam sao?"

Nụ cười của Triệu Bạch Ngư trở nên gượng gạo: "Có hơi khó giải quyết, nhưng dân có oan tình, Khâm sai không thể đổ trách nhiệm cho người khác."

Trịnh Sở Chi: "Suy cho cùng thì cũng là vụ án vượt tỉnh, không có thủ dụ của bệ hạ thì chính là lạm quyền, dù cho có tra được chân tướng, trả lại công đạo cho dân, cũng không tránh khỏi bị tố cáo, mất chức là chuyện nhỏ, hoạn lộ đứt đoạn tại đây mới là chuyện lớn."

"Có nghiêm trọng như vậy không?" Triệu Bạch Ngư sững sốt, nhếch mép một cái, trong mắt là nóng nảy không thể che giấu được: "Nhưng mà ta... Khâm sai của chúng ta chẳng qua là đang thực hiện chức trách thôi, trả lại công đạo cho dân, làm thiện trừ ác, người Khâm sai bắt là tham quan, làm sao mà mất chức được?"

Trịnh Sở Chi: "Ngươi phải làm theo quy trình, phải có khẩu dụ hoặc chiếu chỉ do bệ hạ chính tay biết, đồng ý cho ngươi vượt tỉnh chấp pháp. Đây chính là quy củ, không có quy củ thì không đúng chuẩn."

Triệu Bạch Ngư: "Nhưng bệ hạ đã ân chuẩn Khâm sai được phép tùy cơ ứng biến —— "

"Nhưng có phải bệ hạ chỉ kêu ngươi tra vụ án Đặng Vấn An thôi đúng không? Có bảo ngươi đến tra quan trường Hoài Nam, hay là bảo ngươi đến thăm thú châu huyện trong thiên hạ chưa? Ôi, ta thấy ngươi và Khâm sai đại nhân ấy, đều là người trẻ tuổi mà, không hiểu đạo lý nói ít làm nhiều, ngươi cứ hoàn thành bổn phận và trách nhiệm của mình là được rồi, không đến lượt ngươi quản cũng như xen vào việc của người khác. Trừ phi khẩu dụ bệ hạ nói rõ, nếu không thà không làm còn hơn, ngươi ở đây dâng trào nhiệt huyết, kêu oan cho bá tánh ở tỉnh xa, thế thì mặt mũi quan viên Lưỡng Chiết để chỗ nào? Không phải là rõ ràng nói quan viên Lưỡng Chiết không có bản lĩnh, còn cần một mình Khâm sai tuần thú Hoài Nam ngươi với tay phá án giúp hay sao? Nếu như ngươi không chuyển giao vụ án cũng là vả mặt người ta, không tin tưởng bọn họ, nội hàm bọn họ có chức mà ăn không ngồi rồi, hỏi trời hỏi dân thấy thế nào? Bệ hạ thấy thế nào?"

Trịnh Sở Chi chắp tay sau lưng, tận tình khuyên can: "Trong chốc lát không biết sẽ ra sao, nhưng về sau sẽ có những kẻ đào bới mấy lỗi sai lặt vặt liên danh tố cáo ngươi, ngươi sẽ không chịu đựng được đâu. Ngươi quản án oan cách tỉnh, bên trong có rất nhiều chỗ có thể làm văn chương —— "

Triệu Bạch Ngư nhắc nhở: "Không phải ta, là Khâm sai đại nhân."

"Ừ phải phải, quen miệng thôi, là Khâm sai đại nhân của các ngươi, ta chỉ lo lắng ngươi bị liên lụy thôi, chuyến này ngươi theo Khâm sai về Dương Châu, chắc là bệ hạ muốn bồi dưỡng ngươi, để cho ngươi một cơ hội kiến công lâp nghiệp, phải xem ngươi có biết nắm bắt được không, bắt được mới có thể biểu hiện xuất sắc, tuyệt đối không được làm lỡ tương lai."

"Đa ta đại nhân nhắc nhở, tiêu hạ vô cùng cảm kích."

Trịnh Sở Chi xua tay bảo chuyện nhỏ thôi mà, sau đó cân nhắc dò hỏi: "Mới này ta nghe thấy Khâm sai nói chuyện, hình như nghe thấy là muốn mượn doanh binh nơi nào hả? Là mượn binh để bắt An soái sứ sao?"

Triệu Bạch Ngư chần chừ một chút, ngập ngừng đáp lại.

Trịnh Sở Chi: "Soái sứ nắm giữ quân vụ một tỉnh, trong số đó, quân Dương Nhị là thân quân của Soái sứ, có ba xe bàn nỏ, còn có cung thủ kiêu dũng thiện chiến. Quân Hoài, quân Nam không có quan hệ thân cận với Soái sứ, nếu như Khâm sai muốn điều binh thì nên chọn hai đầu quân đó, nhưng phải đề phòng có người mật báo tin tức, ngàn vạn lần đừng để cho Soái sứ có thời gian điều binh chống cự."

Lúc này Triệu Bạch Ngư mới nghiêm túc nói: "An soái sứ dám! Không có thiên tai làm loạn dân chúng, không có họa ngoại địch công thành, làm sao có thể tự ý điều binh chống lại lời truyền tra án của Khâm sai? Lão dám điều binh ra chống cự thì chính là mưu phản, Khâm sai có thể tiền trảm hậu tấu!"

Trịnh Sở Chi: "Đề phòng thì hơn, ta chỉ đề nghị thôi. Lão phu nhập ngũ nhiều năm, cũng từng trú đóng hành doanh Hoài Nam, Đô giám hành doanh Dương Châu là bộ hạ trước kia của ta, thời gian trước gã còn đến cửa viếng thăm... Chi bằng thế này, cho lão phu ra mặt bán một ân huệ đi, để Khâm sai sứ điều khiển hành doanh Dương Châu, có ta đảm bảo, bọn họ sẽ cố thủ nghiêm ngặt, không thể truyền đến bên tai Soái sứ."

Triệu Bạch Ngư vốn định từ chối, vừa nghe thấy Đô giám hành doanh Dương Châu liền do dự.

Trịnh Sở Chi thu hết biểu cảm của y vào trong mắt, lòng suy đoán nhiều điều, xem ra bạc cứu trợ thiên tai không có ở trong thành Dương Châu, hẳn là được giấu ở xung quanh Dương Châu,

"An Hoài Đức đa mưu túc trí, đừng chỉ thấy bây giờ lão sống chết với Đô tào, từ đầu đến cuối bọn họ vẫn là môn đảng Thái tử, quyền lợi vướng mắc khó mà phân được, nhưng nếu để cho bọn họ kịp phản ứng chỉ sợ rằng sẽ bắt tay đối phó với Khâm sai ngươi. Lại nói về Tôn tham nghị, cho dù gã có giết cả nhà người ta thật, vụ án cũng không cần chuyển giao cho Lưỡng Giang thì có liên quan gì đến An Hoài Đức? Đánh ngã một Tôn tham nghị, một Tiêu Vấn Sách, nhưng sẽ không đánh lại một đám quan văn thâm căn cố đế đâu."

Triệu Bạch Ngư để lộ vẻ sợ sệt, đáp vừa đủ lý: "Đại nhân nói cẩn thận, dân có oan thì cần phải rửa sạch oan, trả lại công đạo, không vì một mối tư lợi nào, càng không phải là để đánh ngã bất cứ một bị quan nào, xin đại nhân đừng suy đoán lung tung."

Trịnh Sở Chi sờ râu: "Lão phu nhỏ mọn, mong được tha thứ." Đi tới lối rẽ, lão chắp tai từ giả Triệu Bạch Ngư, cố tình nói: "Ta thật lòng thật ý muôn giúp đỡ, nếu như Khâm sai có ý, có thể đến tìm ta bất cứ lúc nào."

Nói xong liền quay người về viện của mình.

Triệu Bạch Ngư đưa mắt nhìn theo bóng lưng lão, vừa quay lại đã hừ cười: "Cáo già."

***

Rẽ vào sân, Thôi phó quan vốn đã rời đi đột nhiên ló đầu ra: "Lão cáo già Trịnh Sở Chi đó nói gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Muốn đưa người vào nằm vùng."

Thôi phó quan: "Để lão được như mong muốn sao?"

Giọng Triệu Bạch Ngư ôn tồn nhẹ bẫng: "Người ta có chút mong cầu, chúng ta có thể giúp đỡ. Chạy đến đây một chuyến xa xôi như vậy, đặc biệt là để san sẻ nỗi lo giúp bệ hạ, cũng vô cùng phối hợp với chúng ta làm một cây gậy khuấy nước, vậy nên không thể để cho người ta về tay không được."

Thôi phó quan: "..." Trịnh Sở Chi có biết công lao mà lão hao tâm tốn sức giành giật chính là củ khoai nóng mà tiểu Triệu đại nhân và tướng quân hận không thể ném đi không?

"Bây giờ cứ kì kèo thêm một hai ngày đã, nổ đại bác lừa Trịnh Sở Chi, sẵn tiện giúp Đô tào dọa An Hoài Đức một phen." Triệu Bạch Ngư ra chủ ý xấu mà vẫn cười ấm áp: "Khuấy đục nước rồi, là có thể sờ được cá lớn."

Thôi phó quan thật lòng khâm phục, không ngại học hỏi người nhỏ tuổi: "Là làm gì?"

Triệu Bạch Ngư nghịch ngón tay, ngẫm nghĩ một chút rồi thuận miệng đáp: "Ngươi thấy thích đoàn doanh binh nào thì vào trong doanh trại của bọn họ đi tới đi lui đi, nói mấy lời giống thật mà giả, đừng vạch trần vụ bạc, những chuyện khác như Chương Tòng Lộ bị hại, hoàng thương bị diệt môn... Tùy tiện chọn một hai chuyện mà nói, bọn chúng là một bầy chim sợ cành cong, nghe xong là gà bay chó chạy ầm ĩ ngay thôi."

Ánh mắt Thôi phó quan sáng rực lên: "Công việc này, ta rất quen làm!"

Thôi phó quan cười to: "Tướng quân của bọn ta thích chơi trò này lắm, trêu chọc cho mấy tên hay cố tình ngáng chân quân Tây Bắc và quân Ký Châu, đặt vài điểm pháo, phao tin giả, hai bên quân trang đều bày tỏ thái độ mập mờ, ghẹo đám Đại Hạ và Nam Cương bên kia, cơ bản có thể ghẹo chết người."

Triệu Bạch Ngư à một tiếng, càng tò mò hơn, "Vậy chắc là Hoắc Kinh Đường bị rất nhiều người ghét nhỉ."

Thôi phó quan nghiêm mặt: "Nói 'ghét' chính là sỉ nhục tướng quân đấy, hận không thể bị hắn ngũ mã phân thây, cắn nuốt tâm hồn mới là sự tôn kính cao quý nhất."

Triệu Bạch Ngư: "..." Đột nhiên cảm thấy sự sùng bái của Thôi phó quan có hơi vặn vẹo.

Thôi phó quan xoa tay: "Không nói chuyện nữa, ta phải đi bố trí hành trình thôi, hạ quan cáo lui."

***

Trinh Sở Chi quay về phòng, lập tức truyền người gửi lời đến Đô giám hành doanh Dương Châu, để người dưới quyền gã vào trong thành Dương Châu và ngoại ô tìm người khả nghi, bất cứ nơi nào có khả năng giấu bạc cũng đều cần lục soát.

"Nhất định phải bắt được chứng cứ An Hoài Đức cướp bóc bạc cứu trợ, sát hại mệnh quan triều đình trước Thái tử!" Trịnh Sở Chi hưng phấn đến nỗi mắt phát sáng, lầm bầm: "Bây giờ là lúc chỉnh chết Thái tử và môn đảng, làm cho bọn chúng cả đời này cũng không thể trở mình được nữa!"

***

Thôi phó quan làm theo lời dặn của Triệu Bạch Ngư, bên ngoài thì lấy thân phận thị vệ Đô ngu hầu, đi dạo một vòng quanh hành doanh phủ Dương Châu, Thông Châu, Lô Châu, trong lời nói để lộ một chút ý đồ của Khâm sai, đó là cương quyết mang binh lùng bắt An Hoài Đức đưa đến huyện Giang Dương thẩm vấn.

Mấy tên Đô giám hành doanh không hẹn mà cùng dùng bồ câu đưa thư báo cho An Hoài Đức biết

An Hoài Đức lập tức dặn dò xuống dưới, doanh binh châu phủ nào bị điều động, thì đến Từ Châu phải thông qua Đô giám hành doanh hoặc Tri phủ trước để trì hoãn càng lâu càng tốt, nhưng chân trước chạy khắp nơi căn dặn, chân sau người của Khâm sai đã chạy đến một châu phủ khác khiến cho các Đô giám luống cuống, vừa mới bố trí xong nhưng lại vồ hụt, người đã chạy đến một châu phủ khác rồi.

Khâm sai không ra lệnh rõ ràng, doanh quân ở các hành doanh châu phủ Hoài Nam đều mệt đến độ người ngã ngựa đổ, cuối cùng tất cả mọi người mới biết Khâm sai vẫn còn đang nhàn nhã ở Giang Dương, không hề có ý điều binh khiển tướng cưỡng ép bắt An Hoài Đức nữa, nhất thời sững sờ, binh mã các nhánh của bọn họ chạy sắp gãy cả chân, và nội dáng vẻ hoảng sợ lo lắng kia thôi cũng đã biến thành một trò cười rồi.

Tư Mã Kiêu thấy loạn nhưng chẳng thèm để ý xem Khâm sai có mục đích gì, nắm được mấu chốt 'Hành doanh châu phủ Hoài Nam chỉ tôn trọng ý kiến Soái sứ chứ không coi uy khiêm của Khâm sai và triều đình ra gì', bắt đầu dốc sức công ích.

Đáng thương cho các hành doanh còn chưa kịp mắng chửi Khâm sai, quay đầu đã phải vắt óc giải thích tấu chương tố cáo của Đô tào cho triều đình và Nguyên Thú đế nghe.

Trịnh Sở Chi ở ngoài xem toàn bộ quá trình, đứng trong sân vỗ tay cười khoái chí, "Triệu Bạch Ngư đúng là thông minh, chỉ tiếc chỉ là một đám khôn vặt thôi. Ác mãi là ác, không phải chính đạo."

Phụ tá hoài nghi: "Khâm sai có ý gì?"

Trịnh Sở Chi: "Y không tin lời ta nói, chuyến này là để thăm dò xem quân doanh nào có thể dùng được. Quả nhiên là không ngoài dự đoán của ta, dường như tất cả hành doanh các châu phủ ở Hoài Nam đều nằm trong tay An Hoài Đức, chỉ có doanh quân phủ Dương Châu đã bị ta thu về dưới quyền từ lâu, ông ta không nhúng tay vào nổi thôi."

Lão ung dung nói, vô cùng rảnh rỗi dễ chịu: "Chờ đi, Triệu Bạch Ngư sẽ còn đến tìm ta. Ta muốn y tự tay đưa công lao phá vụ án bạc cứu trợ thiên tai Từ Châu này vào trong tay ta —— không, phải là cầu xin ta! Y phải cầu ta ra mặt, đưa quân Dương Châu đi đối phó với An Hoài Đức, này thì khác gì chắp tay nhường lại công lớn chứ? Ha ha ha..."

Phụ tá: "Đại nhân anh minh uy vũ, Triệu Bạch Ngư kia cũng chỉ là một con cá vặt thôi, y còn phải ngoan ngoãn làm đá lót đường cho ngài đấy."

Lúc này, ngoài cửa có người truyền lời: "Đại nhân, Khâm sai cho đòi gặp ngài."

Trịnh Sở Chi đứng bật dậy, "Thấy không, đến rồi."

***

Đông cung.

Thái tử nhận được thư Triệu Ngọc Tranh, chỉ hơi suy nghĩ một chút đã đoán ra đưuọc ngay An Hoài Đức phản chủ, Ngũ hoàng tử tức giận: "Sao An Hoài Đức dám!"

Con chó một tay nâng đỡ lên, một ngày nọ quay lại cắn ngược chủ, cũng là một kích trí mạng, khiếp sợ tức giận cũng không đủ để hình dung tâm trạng giờ phút này.

"Nhị ca, làm sao bây giờ?" Ngũ hoàng tử nghĩ đến chuyện bọn họ tham ô bạc sông và nuôi tư binh là tâm hoảng ý loạn, thiêu chết Chương Tòng Lộ và cướp bạc cứu trợ giờ chỉ còn là việc nhỏ mờ nhạt. "Cắt đứt với An Hoài Đức còn kịp không? Khâm sai giam quan tham nghị bên người An Hoài Đức lại rồi, cũng không rõ y đã tra ra cái gì nữa? Y thật sự động đến An Hoài Đức sao? Hay mục đích của Triệu Bạch Ngư là chúng ta... Sẽ bị tịch thu tài sản, đầu sẽ rơi xuống đất, kết quả còn nghiêm trọng hơn cả tam ca nữa, tiêu rồi."

Thái tử vung tay tát một cái lên mặt Ngũ hoàng tử, sắc mặt trầm xuống, lạnh lùng trừng mắt nhìn đứa em trai không nên thân: "Hoảng cái gì? An Hoài Đức phản chủ là chuyện tốt, tham ô bạc sông, Chương Tòng Lộ chết, ngay cả bạc cứu trợ bị cướp thì có liên quan gì đến chúng ta? Biết đâu là do chủ tử sau lưng lão xúi giục thì sao?"

Ngũ hoàng tử sững người, một lúc lâu mới phản ứng lại, mừng như điên: "Đúng! Có liên quan gì đến chúng ta đâu? An Hoài Đức vờ đầu hàng, thực tế nghe theo lệnh của người khác, lợi dụng ân đức và danh tiếng của Thái tử để ra ngoài lằm xằng làm bậy —— Nhị ca, cứ để cho Khâm sai vạch rõ sự thật, chi bằng chúng ta chủ động tố cáo An Hoài Đức đi?"

Thái tử: "Không vội, phải mau chóng tìm được bạc cứu trợ bị giấu đi, sẵn tiện bắt luôn cả chủ tử sau lưng An Hoài Đức nữa."

"An Hoài Đức toàn quyền trông coi tư binh, không thấy trong tấu chương tố cáo của Đô tào sao, có viết các khu doanh binh đều chỉ nghe theo Soái sứ, không nghe lệnh của Khâm sai đại diện cho triều đình, Hoài Nam đây là thấy chết không sờn sao?"

"Cương thần khinh rẻ triều đình, không mang lòng kính sợ —— " Ngũ hoàng tử đột nhiên nhận ra: "An Hoài Đức cầm tiền của chúng ta, cho chúng ta mượn thế lực, là để giúp chủ tử lão nuôi binh sao?!"

Thái tử cười nhạt: "Đúng là con chó ngoan." Đáng tiếc sự trung thành đó không dành cho hắn. Thái tử ném một quyển sổ lấy được từ nội thị tỉnh: "Xem thử đi."

Ngũ hoàng tử nhanh chóng xem, chú ý đến một hàng chữ quen thuộc: "Sơn trang Ký Sướng Dương Châu... Năm Nguyên Phong thứ bảy, ban cho Duẫn Vĩnh sơn trang Ký Sướng —— Duẫn Vĩnh là ai?"

"Là tự của Bát thúc của chúng ta."

"Tĩnh vương?!"

Ngũ hoàng tử trợn mắt há mồm, đầu trống rỗng, không thể nghĩ thêm gì nữa.

Thái tử gõ lên sổ nói: "Tĩnh vương chỉ cách ngôi vị Hoàng đế một bước, những năm này vẫn luôn bị chèn ép, ít giao du với bên ngoài, nếu không nhờ có một chi quân Tây Bắc trong tay thì sớm đã bị thêu dệt tội danh thanh toán cho qua chuyện rồi. Lão có mưu đồ tạo phản thì cũng có lý, nhưng lão không nên tính lên người cô, không thể ngang ngược trên đầu cô mà còn có thể an toàn rút lui!"

"Cũng nhờ trời giúp ta, Tứ lang tình cờ đi vào sơn trang, nghe được bọn họ nói chuyện, mới nói cho cô biết được âm mưu." Trong phòng không có người ngoài, Thái tử không kìm nén nổi tình yêu của mình. "Quẻ bói mệnh của cao tăng chùa Bảo Hoa năm đó quả nhiên đúng rồi, Tứ lang chính là phúc tinh của ta."

Ngũ hoàng tử vô cùng tán thành: "Nhưng trước mắt nên giải quyết làm sao đây?"

Thái tử: "Truyền lệnh cô, bảo Tư Mã Kiêu mượn binh từ Lưỡng Chiết, bao vây sơn trang Ký Sướng."

==

Chương 39

Có người mật báo Lữ Lương Sĩ nắm giữ bằng chứng gã tham ô tiền thuế của dân, Tư Mã Kiêu mới tỉnh ngộ.

Gã chưa từng xem cái tên thất phẩm Huyện lệnh Lữ Lương Sĩ tham lam, nhát gan lại còn ngu xuẩn dốt nát này ra gì, vậy nên không kịp thời phát hiện phụ nữ được đưa vào cơ bản đều đi ra từ một lò dạy dỗ của Lữ Lương Sĩ.

Không biết bao nhiêu lần, Tư Mã Kiêu ngồi xử lý sổ sách ngay trước mặt những người phụ nữ tự xưng là mình không biết chữ kia.

Những người phụ nữ hậu trạch mà gã cho rằng nhu nhược như cành lá hương bồ lại lén lút sao chép sổ sách, cũng có bản lĩnh lặng lẽ tuồn số sổ sách đó ra ngoài, mãi đến khi Lữ Lương Sĩ dùng nó để uy hiếp, gã mới phát hiện ra.

Gã và Tiêu Vấn Sách đều bị Lữ Lương Sĩ ngu ngốc kia bày kế, từ lúc thẩm vấn trên công đường, xem xét lại vụ án, suy nghĩ kĩ lạ, cuối cùng Tư Mã Kiêu cũng hiểu.

Khâm sai kia và Trịnh Sở Chi là cùng một phe, bọn họ lợi dụng tình bộ hạ cũ, bắt tay lừa đảo Lữ Lương Sĩ, vạch ra một đường cho lão đi. Lữ Lương Sĩ lại là người ngu, bị mắc lừa thôi không nói, còn kéo theo cả Tiêu Vấn Sách vào trong cái bẫy mà Khâm sai đã sắp đặt sẵn.

Tuy mặt mũi bị vạch trần một cách độc địa, nhưng sổ sách trong tay Lữ Lương Sĩ mới là quan trọng nhất.

Tư Mã Kiêu phái người diệt khẩu Lữ Lương Sĩ, nhưng lại ám sát thất bại, mấy ngày sau trong lòng vẫn hoảng sợ, biết rằng bất cứ lúc nào cũng có thể bị tịch thu tài sản thậm chí diệt tộc nhanh chóng ép cho gã phát điên lên được.

Ăn ngủ không yên nhiều ngày, Tư Mã Kiêu đột nhiên phát hiện, Khâm sai chẳng những không nhắm vào gã, trái lại bắt tham nghị quan dưới quyền An Hoài Đức, mà còn liều lĩnh vạch trần vụ án cả nhà Hoàng thương Giang Nam bị giết?

Tư Mã Kiêu vừa vui mừng vì sự chú ý của Khâm sai đã dời đi, vừa lo lắng An Hoài Đức làm liên lụy Đông cung, đưa thư xuyên đêm đến Từ Châu chất vấn. Còn chưa chờ được thư hồi âm của An Hoài Đức, thì có nha dịch trong nhà lao đến mật báo, nỗ lực ám sát Lữ Lương Sĩ thất bài vì Tôn Phụ Ất đã ra tay.

"Quan tham nghị họ Tôn kia thề bảo đảm cho Lữ Lương Sĩ một mạng mới moi ra được chỗ giấu sổ sách ngài tham ô tiền thuế của dân bao năm qua trong miệng lão."

Nghe vậy, đuôi mắt Tư Mã Kiêu giật lên một cái: "Ngươi không nghe lầm chứ?"

Nha dịch cẩn thận đáp: "Tiểu nhân dám lấy mạng mình ra bảo đảm! Thích khách vào trong lao giết người, ta không chạy kịp nên trốn vào chồng cỏ của một phòng giam, tặc tử họ Tôn và Lữ Lương Sĩ nói gì tôi cũng nghe hết, còn biết được sổ sách giấu ở đâu."

"Ở đâu?"

Nha dịch cười òa: "Đô tào đại nhân, Khâm sai đại nhân sắp đến lúc quay về Kinh Đô phục mệnh* rồi, vị trí Huyện lệnh Giang Dương sẽ trống, trước kia tiểu nhân nghe sư gia nói quan tứ phẩm trở lên là có thể tiến cử người khác vào chỗ thiếu, ngài xem..."

(*) Phục mệnh: báo cáo lại sau khi chấp hành mệnh lệnh

"Nếu như ngươi nói sự thật, sổ sách cũng an toàn về tay bổn quan, thì không ai tranh với ngươi chức Huyện lệnh đâu."

"Đa tạ đại nhân dìu dắt!" Nha dịch luôn miệng cảm ơn, thấp giọng nói nơi giấu sổ sách.

"Được, ta biết rồi, ngươi lui xuống đi, đừng để lộ tin này ra ngoài, nếu không ta không chắc có thể chỉ cho mình ngươi chỗ đó đâu." Đưa mắt nhìn nha dịch lui đi, Tư Mã Kiêu nói với tùy tùng: "Mấy tên nha dịch dưới huyện này thích ăn chơi rượu chè, nói không chừng có ngày uống say rồi vô tình ngã xuống sông chết chìm, không còn mạng hưởng phúc."

Tả hữu vừa nghe lập tức hiểu ý Đô tào, không hẹn mà cùng phụ họa theo.

Tư Mã Kiêu rất hài lòng, gọi người nhanh chóng đi lấy lại sổ sách.

Khoảng chừng hai giờ sau, thuộc hạ thở hồng hộc chạy trở lại bẩm báo: "Đại nhân —— nguy rồi! Chúng ta đến chậm một bước, sổ sách đã bị quan tham mưu của An Hoài Đức lấy đi mất rồi!"

Tư Mã Kiêu vụt dậy, cầm ly trà đập tới: "Vô dụng!" Rồi gã xoay người đá ngã cái ghế, rống lên: "An Hoài Đức, ông muốn làm gì? Ông thật sự muốn phản chủ sao?"

Trái lo phải nghỉ, Tư Mã Kiêu nói: "Chuẩn bị bút mực, đợi ta viết thư hỏi An Hoài Đức xem có phải lão muốn đối nghịch với Đông cung và Tư Mã thị ta hay không, rồi các ngươi chạy nhanh đưa đi Từ Châu cho ta."

Thư đến Từ Châu rồi được An Hoài Đức hồi âm ngay tựa như đang đánh Thái Cực, đầu óc Tư Mã Kiêu ong ong, lại kêu dịch trạm chạy gấp tám trăm dặm, chỉ trong vòng một ngày mà đã gửi bốn bức thư quát hỏi, An Hoài Đức dứt khoát đóng cửa không tiếp khách, từ chối người đưa thư.

Thái độ lần này khiến cho tim Tư Mã Kiêu đập rộn lên, lệnh cho tâm phúc đến hành doanh Từ Châu đòi binh mã mà Đông cung nuôi, thế là bị An Hoài Đức trả lại một câu 'Binh mã trong hành doanh đều thuộc triều đình, nhận chiếu mới động, nếu Đông cung cần điều lệnh binh mã, chỉ cần xuất trình con dấu quan phòng là được. Tùy ý tìm lão phu đòi binh mã, làm sao lão phu có thể cho?' ——

Thái độ của lão vô cùng nghiêm túc như thể nói 'Ta không quen biết môn đảng Đông cung và Tư mã thị', bỗng nhiên trở mặt không nhận người, tiền cũng ăn hết, binh mã cũng giữ hết, không kiêng kỵ gì, ngang ngược phách lối.

An Hoài Đức thật sự nghĩ đến chuyện làm phản sao? Hay là chỉ tạm thời phản bội thôi —— nhưng lão có thể phản bội ai? Ai mới là chủ tử của lão?

Tư Mã Kiêu chỉ hận không thể ăn tươi nuốt sống An Hoài Đức, cơ mà gã cũng không dám bất chấp lật bàn.

Tham ô mấy triệu lượng tiền thuế của dân, hoàn toàn dùng vào việc nuôi binh, việc nào việc nấy cũng đều là tội lớn rơi đầu, bây giờ cái chuôi bị An Hoài Đức nắm chơi trong tay, Tư Mã Kiêu không dám hành động thiếu suy nghĩ, lại chẳng dám nói cho Thái tử biết việc này.

Đông cung đã cảnh cáo gã phải biết tiết chế lòng háo sắc, nếu không sớm muộn gì cũng chết trên bụng đàn bà.

Tư Mã Kiêu ngoài mặt hưởng ứng, thực tế người khác đưa đến bao nhiêu phụ nữ gã thu bấy nhiêu, gã không tham tiền, lại chẳng thích cờ bạc, duy chỉ có phụ nữ là không từ chối được. Gã xem thường phụ nữ vì bọn họ cần phải dựa vào đàn ông mới sống được, cũng xem thường việc những người đó có thể đe dọa tính mạng của mình, nào ngờ cuối cùng lại vấp ngã ngay tại chỗ chỉ vì điều đó.

Cũng may Khâm sai vẫn còn giam giữ Tôn Phụ Ất, cố tình dùng việc này để đổ trách nhiệm lên An Hoài Đức, lôi kéo sự chú ý của lão.

Tư Mã Kiêu gửi gắm hy vọng vào Khâm sai, trước đây gã chỉ khao khát cho Khâm sai đi về tay không, bây giờ lại vô cùng mong mỏi Khâm sai có thể mượn thế chỉnh đốn Hoài Nam giết luôn cả An Hoài Đức.

An Hoài Đức yêu cầu Khâm sai chuyển giao thảm án diệt môn và Tôn Phụ Ất lại cho Lưỡng Giang, Tư Mã Kiêu lập tức nhảy ra dùng quan ngân Từ Châu bị mất và ba ngàn ngư dân để công kích An Hoài Đức.

Hai bên đấu đá nhau từ xa, mấy vụ án đồng thời giằng co, mãi đến khi thư từ Đông cung tới đánh vỡ cục diện không kế nào ổn của Tư Mã Kiêu.

Tư Mã Kiêu đọc thư xong, vỗ đùi kêu lên: "Quả nhiên An Hoài Đức hai lòng! Hóa ra người lão ta thần phục thật sự là Tĩnh vương. Được lắm, nằm vùng nhiều năm như vậy, mượn thanh thế của Đông cung, hút sạch máu thịt Tư Mã thị ta, bây giờ lợi dụng xong rồi thì ném đi, trên đời này lấy đâu ra chuyện tốt đẹp như vậy? Người đâu, người đâu —— "

"Đem con dấu quan phòng của ta cùng với khẩu dụ Thái tử đến Lưỡng Chiết điều binh, theo ta đến Dương Châu bao vậy sơn trang Ký Sướng.

***

Sắc trời u ám, đường núi quanh co được ánh đuối rọi sáng tạo thành một hàng nối dài, đoàn quân đang hướng về phía sơn trang Ký Sướng, mà phía sau lưng núi cũng có một đoàn rồng lửa đi ngược theo triền núi, từng bước áp lại gần.

Trên đỉnh núi, một người một ngựa đang nhìn xuống đoàn binh mã rầm rộ đi qua, sau lưng chính là một hàng kỵ binh vũ trang trọng giáp, trên giáp sắt đen tuyền dính đầy máu tươi chảy thành dòng theo vảy giáp nhiễu xuống đất giờ đã khô lại, cả người lẫn ngựa bị mùi máu tanh và cái tiêu điều xơ xác vây quanh.

Bọn họ chính là mười lăm thiết kỵ Đường Hà do Hoắc Kinh Đường lãnh đạo, một giờ trước đã xông vào sơn trang Ký Sướng giết sạch Cấm quân bên trong, mới vừa rời đi trong phút chốc, dừng chân trên đỉnh núi ngắm nhìn hai đội ngũ va chạm.

Người của Trịnh Sở Chi cùng Tư Mã Kiêu bao vây sơn trang, hai đội quân đụng mặt nhau, không đợi Tư Mã Kiêu kịp phản ứng, Trịnh Sở Chi đã dẫn binh cướp bước vọt vào bên trong.

Tư Mã Kiêu sửng sốt một chút, ngay sau đó thẹn quá hóa giận: "Ngăn lão lại —— không, vào mau lên! Giành bạc lại trước lão đi!"

Binh mã giơ đuốc cầm gậy chạy vào sơn trang, tất nhiên Tư Mã Kiêu không giỏi đánh giặc kém hơn một bậc, binh mã mà gã mang đến là quân mượn từ Lưỡng Chiết, thần tốc ngày đêm đi không ngừng nghỉ đến đây, nhanh chóng rơi vào tình thế bất lợi, không sánh bằng quân mã của hành doanh Dương Châu tại địa phương tinh thần sung mãn.

Trịnh Sở Chi giỏi chiến thuật, lệnh cho quân mình chia ra thành nhiều nhóm nhỏ, nhanh chóng chui vào núi giả, bay qua đình nghỉ mát, chợt có kẻ hô lên: "Ở đây có xác chết!"

Trịnh Sở Chi nghe vậy thì kinh ngạc, chẳng lẽ còn có người giành trước nữa?

Lão cùng Tư Mã Kiêu đồng thời bước về phía trước, bên kia lại vọng tới tiếng kêu của binh sĩ: "Báo cáo Đô tào —— Trong sân viện phát hiện có chừng mười xác chết, mặc giáp Cấm quân, trang bị Hoàn Thủ Đao quân dụng, chết vì một đao cắt cổ hoặc trường thương xuyên ngực, không còn ai sống sót!"

Có lẽ đây là đội quân mà An Hoài Đức đã âm thầm huấn luyện, đối với phương thức huấn luyện của Cấm quân Tây Bắc, thì bất kỳ người nào cũng kiêu dũng thiệt chiến, hơn nữa còn có đội bộ binh hoàn chỉnh, hôm nay lại bị diệt khẩu nhẹ nhàng không tiếng động thế ư?

Trịnh Sở Chi nhanh chân bước tới kiểm tra thi thể, phát hiện cái xác vẫn còn ấm, máu chưa khô, rõ ràng người đến trước bọn họ còn chưa đi xa. Có thể chỉ vừa mới đi thôi là bọn họ đến, nhưng mà được núi trước sau đều đã bị binh mã bao vây, căn bản không gặp được phe thứ ba, chẳng lẽ là bay lên trời chui xuống đất?

Nhìn đến vết thương của người chết, rõ ràng là vết thương do Hoàn Thủ Đao quân dụng cùng với thương hai móc câu chỉ kỵ binh biên giới mới sử dụng gây ra, là nhánh binh mã nào chạy tới đây từ ngàn dặm biên giới xa xôi?

Nếu không có chiếu chỉ, ai dám tự tiện rời biên giới?

Lòng Trịnh Sở Chi nảy sinh dự cảm chẳng lằng, chẳng qua lão còn chưa bắt được cảm giác đó, đã nghe được có người kêu lên ở phía trước: "Tìm thấy bạc rồi! Tổng cộng mười rương, mỗi rương hai trăm ngàn lượng —— chính là bạc cứu trợ thiên tai Từ Châu bị cướp đi! Không sai đâu!"

Trên mặt Tư Mã Kiêu lóe lên niềm vui sướng, cất bước đi về phía trước, đột nhiên bị một lưỡi dao trắng sáng kề ở cổ, gã bị dọa sợ tay chân run rẩy, đầu cứng đờ quát lên: "Trịnh, Trịnh Sở Chi, ông cầm dao kề vào... Kề vào cổ đại quan tam phẩm của triều đình, ông, ông không muốn sống nữa ư!"

"Sắp tới ngài không còn là đại quan tam phẩm nữa rồi, Tư Mã đô tào. Mời ngài lên tiếng, để binh dưới tay ngài lui về phía sau, nếu không dao này của tôi không có mắt, nói không chừng sẽ chọt mấy cái lỗ trên người ngài đó. Tôi cũng không sợ không có cách nào báo cáo cho bệ hạ đâu, chỉ cần đảm bảo để ông sống là được thôi, chứ cách để ông sống không bằng chết thì tôi có nhiều lắm."

Trịnh Sở Chi cười nhạt: "Đô tào đại nhân, ngài muốn nếm thử không?"

Ánh mắt Tư Mã Kiêu âm trầm hung ác: "Thái tử là do Trung cung sinh ra, ngoại trừ Đại hoàng tử chết yểu, thì hắn chính là đích trưởng, người được hoan nghênh nhất, được trăm quan ủng hộ, là trữ quân mà bệ hạ bổ nhiệm, tuân theo mệnh trời, nối tiếp kỳ vọng của thiên hạ vạn dân, tất nhiên phải kế thừa đại thống, đến lúc đó ngươi và cả phủ Trịnh quốc công nhà ngươi đều sẽ phải trả giá đắt cho những gì mà ngươi làm hôm nay để mưu hại Đông cung! Trịnh Sở Chi, bổn quan khuyên ngươi đừng làm chuyện khiến mình hối hận!"

Trịnh Sở Chi: "Tiên đế không phải là đích trưởng mà vẫn kế thừa đại thống, ngoại trừ lúc tuổi già có bị lên án nhưng vẫn là một đời minh quân. Tiền triều có rất nhiều hoàng đế không phải con dòng chính mà vẫn là hoàng đế đấy thôi, lập trữ quân thì sao? Tiền triều cũng từng hai năm đổi trữ quân một lần, còn có người làm trữ quân hai mươi năm, cuối cùng lại bị một Long Võ đế, người không phải đích cũng chẳng phải trưởng gì cướp ngôi, ông xem, việc đời khó liệu, chừng nào bụi còn chưa lắng xuống, kẻ nào có thể biết chắc được người chiến thắng cuối cùng là ai?"

Mặt mũi Tư Mã Kiêu tái xanh: "Quả nhiên các ngươi mơ ước vị trí trữ quân."

Trịnh Sở Chi: "Người không vì mình thì trời tru đất diệt. Trời sinh ra chúng ta bình đẳng, có tài năng, vậy tại sao không thể cùng xứng có tâm chí mạnh mẽ?" Bàn tay cầm dao đột nhiên run rẩy một cái, cắt một đường lên cần cổ Tư Mã Kiêu, lão nghiêng đầu quát lên: "Nhìn rõ Tư Mã đô tào của các ngươi trong tay ta đây —— không muốn lão chết, thì quân hành doanh Lưỡng Chiết mau rút lui!"

Tiếng hô trấn áp quân Lưỡng Chiết to dần lên, bọn họ thấy lãnh đạo của mình bị uy hiếp, nhất thời nhìn nhau, không biết nói sao cho phải.

Tư Mã Kiêu vừa mới mở miệng, định kêu đừng để ý lão, liền bị Trịnh Sở Chi vỗ cho một chưởng cứng họng, cơn đau tấn công, một câu cũng chẳng nói nổi.

Không có chỉ thị, doanh quân Lưỡng Chiết đứng yên tại chỗ, không dám tiến thêm, lúc ấy Đô giám hành doanh Dương Châu cũng đã mang mười rương bạc chất lên xe đẩy chở đi, sau đó đến phục mệnh: "Bẩm tướng quân, lấy hết rồi."

Tư Mã Kiêu nghe vậy, tuyệt vọng nhắm mắt, trong lòng tự biết gã và Tư Mã thị xong đời rồi.

Đông cung muốn lợi dụng số bạc này để ném cái nồi đi, đồng thời đối phó với Tĩnh vương và Hoắc Kinh Đường, mơ tưởng đến hai chi quân Tây Bắc trong tay bọn họ, nhưng đối với Tư Mã Kiêu, gã càng muốn mượn việc này lợi dụng điểm yếu để uy hiếp An Hoài Đức, lấy lại sổ sách gã tham ô tiền thuế hơn.

Vừa là chứng cứ gã tham ô tiền thuế của dân, vừa là chứng cứ Đông cung nuôi binh riêng!

Đông cung và Tư Mã thị, chỉ có thể bảo vệ một, không thể trọn vẹn cả hai!

Trịnh Sở Chi vỗ vai Tư Mã Kiêu cười to: "Mặc dù không biết Cấm quân trong sơn trang đều bị giết, chỉ để lại hai triệu lượng bạc cứu trợ này là do ai làm ra, nhưng lão phu cũng cảm ơn Đô tào, không chỉ chắp tay nhường nhịn phú quý to lớn này, mà còn chủ động đưa chuôi vào tay tôi —— " Lão thấp giọng, đắc ý nói: "Vì sao Đô tào lại mạo hiểm xông vào sơn trang lúc nửa đêm thế này? Có phải là phát hiện gì rồi, nên muốn dời bạc đi trước không? An Hoài Đức cướp bạc cứu trợ, có liên quan gì đến Tư Mã thị và Đông Cung?"

Tư Mã Kiêu vừa nghe đã giãy giụa, lại bị áp chế mạnh mẽ, gã chợt ngẩng đầu, trợn mắt nhìn Trịnh Sở Chi, mắt sáng quắc như đuốc, trong đầu có ánh chớp trắng lóe lên, có một cái gì rất quan trọng mà gã đã quên mất rồi.

Tâm trạng thay đổi nhanh chóng, Tư Mã Kiêu chợt nở nụ cười khoái trá: "Hóa ra ngươi không biết."

"Biết cái gì?"

Tư Mã Kiêu tràn đầy ác ý đáp: "Bổn quan đợi ngươi tuyệt vọng khi nhận ra mình tính toán mưu mô hết cả nhưng lại là vác đá đè chân mình ha ha ha... Trịnh Sở Chi, ngươi tự cho rằng mình thông minh nhưng lại không biết sao!"

Trịnh Sở Chi cau mày, nhổ một bãi nước bọt, cố làm ra vẻ huyền bí.

"Mang hết đi!"

Ánh nến sáng rực, binh mã các doanh đều lui về trả lại yên tĩnh.

Trên đỉnh núi, Tán chỉ huy: "Tướng quân, có cần theo sau không?"

Hoắc Kinh Đường siết chặt dây cương, quay đầu ngựa lại: "Quay về Dương Châu, đến gặp cha ta thôi."

***

Thôi phó quan chạy vào, hai mắt sáng quắc nhìn Triệu Bạch Ngư: "Tiểu Triệu đại nhân, y như ngài đoán, Trịnh Sở Chi đem binh mã hành doanh Dương Châu đi đã tìm được bạc cứu trợ nhưng không về phục mệnh, lão ta muốn độc chiếm công lao, còn bắt luôn Tư Mã Kiêu, đây chính là muốn chĩa gươm vào Đông cung."

Triệu Bạch Ngư: "Có lẽ bước kế tiếp chính là điều binh khiển tướng bắt An Hoài Đức rồi, có điều An Hoài Đức không dễ bắt như vậy, trong tay lão còn có đội binh, nếu làm không tốt, lão ta thật sự sẽ tạo phản ở Từ Châu này luôn đấy."

Thôi phó quan sốt ruột: "Bắt giặc phải bắt vua trước —— ngài có quyền trực tiếp điều động binh mã địa phương, lập tức hạ lệnh, ta sẽ dẫn đầu bao vây hành doanh của An Hoài Đức."

"Dĩ nhiên không sai, nhưng ngươi bắt nhầm người rồi." Triệu Bạch Ngư cầm giấy viết thư, giương mắt nói: "Bắt vua, thì phải bắt Tĩnh vương."

Thôi phó quan sững sốt, sao kéo đến Tĩnh Vương rồi —— chờ đã!

"An Hoài Đức không tận hiến với Đông cung, mà là Tĩnh vương? Cha ruột của tướng quân, Tĩnh vương sao?" Thôi phó quan dường như thất thanh, trố mắt hồi lâu rồi đột nhiên nói: "Không được, chúng ta phải ngăn Trịnh Sở Chi lại, lão mà tố giác Tĩnh vương mưu phản là sẽ liên lụy tướng quân mất. Tiểu Triệu đại nhân đã biết kẻ xúi giục sau màn là Tĩnh vương từ lâu... Sao ngài không nói sớm một chút?"

"Nếu không phải sợ Hoắc Kinh Đường bị liên lụy, ta còn cần vòng vo sắp xếp đủ thứ sao?"

Thôi phó quan phản ứng cực nhanh, thoáng chốc mây mờ thấy trăng: "Đúng nhỉ, bằng sự thông minh và tài trí của tiểu Triệu đại nhân, nhất định ngài sẽ không trơ mắt nhìn tướng quân bất lực rơi vào cục diện khó cả đôi đường."

Triệu Bạch Ngư cong mắt người nhìn gã: "Ngươi luyện công phu nịnh hót càng ngày càng xuất sắc rồi."

Thôi phó quan cười ha hả: "Nói thật mà. Đúng rồi, vậy bây giờ ta đi bắt Tĩnh Vương hay sao?"

"Chắc bây giờ Hoắc Kinh Đường đã đến gặp tĩnh vương rồi, ngươi đi Từ Châu một chuyến, đừng để cho Trịnh Sở Chi thấy, chỉ nói Hoắc Kinh Đường đưa thiết kỵ Đường Hà đi tìm Tĩnh vương trò chuyện gia đình rồi."

"Thế thôi à?"

"Vậy là đủ rồi. An Hoài Đức là một người thông minh." Triệu Bạch Ngư gấp thư lại, cảm thán: "Thông minh, vô cùng trung thành, chỉ đang tiếc chọn sai đường, làm chuyện sai trái, chết không có gì đáng tiếc."

***

Tư Mã Kiêu bị giam lại, doanh quân Lưỡng Chiết tuy nhận được quân lệnh, nhưng với tội nuôi binh riêng, có ý đồ mưu phản đại nghịch bất đạo như vậy, không ai dám làm việc qua loa.

Trịnh Sở Chi thì nhân cơ hội mang theo doanh binh Dương Châu, không hề báo tin, chỉ lặng lẽ liên lạc với Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu, đi ngay trong đêm, lặng yên không tiếng động hội họp với Hạ Quang Hữu ở Từ Châu, nhanh chóng đánh bọc sườn hành doanh Từ Châu.

An Hoài Đức ở ngay trong doanh trại Từ Châu, tả hữu tham mưu cực kì sợ hãi, nói chuyện cũng không trôi chảy, vất cả bình tĩnh lại rồi nghĩ kế, tám trăm dặm tốc hành tấu bẩm về Đông cung, rồi phái người đi Giang Dương xin Khâm sai đến giải vây... Những cách có thể làm đều nói hết ra, vậy mà cuối cùng An Hoài Đức vẫn thờ ơ.

Tả tham mưu: "Trịnh Sở Chi lấy binh ở đâu ra?"

Hữu tham mưu: "Là Đô giám hành doanh Dương Châu, ta nhận ra hắn, hắn là bộ hạ cũ của Trịnh Sở Chi! Chẳng lẽ bọn họ phụng chỉ Khâm sai cưỡng ép bắt Soái sứ đi sao?"

Tả tham mưu: "Trịnh Sở Chi bắt tay với Khâm sai từ khi nào?" Gã đi qua đi lại, lẩm bẩm: "Hoang đường, đúng là hoang đường! Án oan của Đặng Vấn An hay là án Tôn tham nghị giết cả nhà người ta, cũng không có bất kì chứng cứ nào chứng minh là có liên quan đến Soái sứ, dù có quyền lợi lớn hơn nữa, có cả ngàn vạn lý do đi nữa thì cũng không được điều động doanh binh ép bắt đại quan nhị phẩm triều đình!"

Hữu tham mưu: "Soái sứ, lập tức cử người tám trăm dặm tốc hành đi ạ, Đông cung không thể ra mặt, thì cứ dứt khoát gập sổ kiện lên triều đình, tấu bẩm bệ hạ... Trịnh Sở Chi và Khâm sai làm việc không theo quy trình, làm sai lệnh luật pháp Đại Cảnh, đúng là cực kỳ hoang đường!"

An Hoài Đức, nhắm mắt nghỉ ngơi, trông vẫn rất ung dung: "Trịnh Sở Chi có nói lý do bắt ta hay không?"

Tả tham mưu do dự.

An Hoài Đức: "Cứ nói đừng ngại."

Tả tham mưu nhắm mắt: "Lão ta nói ngài cướp bạc cứu trợ thiên tai, sát hại mệnh quan triều đình, xử oan dân chúng vô tội, còn... Nuôi riêng binh mã!"

Hữu tham mưu nuốt ực một ngụm nước bọt, nghe xong tội danh thì hai bắp đùi bắt đầu run bần bật, mặt viết đầy hai chữ 'hoang đường': "Không phải chứ, đây là muốn giết oan Soái sứ hay sao?"

An Hoài Đức bật cười thành tiếng: "Ta có ngàn vạn suy nghĩ, tất cả mọi người đều nghĩ tới, bao gồm cả tiểu Khâm sai chưa dứt sữa kia, ta cũng từng cho rằng mình sẽ thua trong tay y, ta xem thường cái tên Trịnh Sở Chi mang địch ý rõ ràng nhất, không ngờ lão ta lại là người đầu tiên phát hiện ta."

Lời này có ý gì?

Ý tứ rất rõ ràng, tội mà Trịnh Sở Chi liệt kê thì tám chín phần mười là sự thật.

Tả hữu tham mưu nghe hiểu, bị dọa cho hai mắt trắng trợn, lảo đảo té nhào xuống đất, đầu rỉ đầy mồ hôi lạnh, rất lâu cũng không đứng dậy nổi.

"Sợ cái gì?" An Hoài Đức liếc mắt nhìn hai người: "Nể tình các ngươi đi theo lão phu nhiều năm, làm việc tận tụy, lão phu để lại cho các ngươi một mạng." Sau đó nói với tướng lĩnh: "Mời Trịnh quận công vào nói chuyện."

Lúc này, có người ở bên ngoài vào bẩm báo: "Soái sứ, phó quan đi theo Lâm An quận vương, phủ Thôi quốc công Thôi thị Thất lang cầu kiến."

An Hoài Đức: "Không gặp."

Giọng bộ hạ khó xử: "Soái sứ, hắn nói nếu ngài không gặp sẽ hối hận, chuyện có liên quan đến vị quý nhân trong thành Dương Châu."

An Hoài Đức chợt mở mắt, suy nghĩ xa xăm: "Gọi hắn vào trước đi."

Thôi phó quan xuống ngựa, tránh Trịnh Sở Chi đi gặp An Hoài Đức, nói hết những lời mà Triệu Bạch Ngư dặn dò ra.

An Hoài Đức nhìn gã: "Lão phu không biết ngươi nói thật hay giả, làm sao biết có phải phô trương thanh thế hay không."

Thôi phó quan gãi đầu: "Tiểu Triệu đại nhân của bọn ta nói ngài là người thông minh tuyệt đỉnh, sẽ biết phải làm thế nào."

"Tiểu Khâm sai?" An Hoài Đức đột nhiên cười thành tiếng, vỗ đùi nói: "Hay! Tiểu Khâm sai khá lắm, Lâm An quận vương khá lắm." Bỗng dưng lão thu vẻ mặt vui vẻ lại, ngửa đầu thở dài: "Vị bệ hạ này của chúng ta thật sự giỏi tính toán, chẳng trách năm đó Tĩnh vương lại thua trong tay lão."

Thôi phó quan nghe vậy, trong lòng có dự cảm lạ thường, gã không nhìn thấu được hành động tối nay, cũng không nhìn ra được tình thế phức tạp ở Hoài Nam, chỉ có thể mơ hồ hiểu được từ trong sự xúc động của An Hoài Đức, rằng chỉ bằng một câu nói của tiểu Triệu đại nhân thôi mà đã chạm tới tất cả sự thật rồi.

Có lẽ An Hoài Đức đúng là thông minh tuyệt đỉnh, có thêm cả lòng tận tụy, nếu không thì sẽ không từ một kẻ vô danh làm lên đại quan nhị phẩm một tỉnh, vốn là đi theo Đông cung, tương lai sáng rực, vậy mà lại rẽ vào đường tối, tiếp tục cống hiến sức lực cho chủ cũ, trước mặt luôn vì an nguy của chủ cũ, bây giờ thì bó tay chịu trói.

Khi Thôi phó quan rời khỏi hành doanh, Trịnh Sở Chi đã đi vào bắt giữ An Hoài Đức không còn phản kháng, gã không khỏi xúc động: "Đáng tiếc, vốn cũng là một anh hùng."

Vó ngựa tung trời, cả người lẫn ngựa nhanh chóng lẩn khuất vào sương mù buổi sớm.

***

Nhà bên cạnh Tạ gia có diện tích rất lớn, nhưng rất yên tĩnh. So với Tạ gia đông đúc như hội, thì nói nơi này vắng như chùa bà đanh chính là lời khen ngợi.

Lúc nào cửa cũng đóng chặt, nửa tháng cả năm cũng không thấy có ai ra vào.

Triệu Ngọc Tranh từng có hứng thú với người ở nhà bên cạnh Tạ gia, hỏi người ta ai nấy cũng đều lắc đầu, nói là không biết, chỉ biết tổ tiên nó đã từng rất sung túc, nhưng bây giờ sa sút rồi.

Hỏi qua nhiều người nhưng chỉ nhận được cùng một câu trả lời, Triệu Ngọc Tranh liền hết hứng.

Nhưng lúc rạng sáng, khi Triệu Ngọc Tranh kéo Triệu tam lang lên nóc nhà uống rượu ngắm trăng, nghe trên đường phố vọng lại tiếng vó ngựa ầm ầm, nhìn kỹ lại, ấy vậy mà lại thấy một hàng kỵ binh uy vũ trang nghiêm phá vỡ màn sương mờ ban sáng, đứng trước cửa nhà bên cạnh.

Một lát sau tất cả đều vào trong, vì có góc khuất nên sau đó không thấy được động tĩnh bên trong nữa.

Triệu Ngọc Tranh hơi tò mò: "Tam ca, huynh biết đó là ai không?" Đợi mãi không nghe được câu trả lời, hắn hoài nghi quay đầu: "Tam ca?"

Chỉ thấy Triệu tam lang đang hít thở dồn dập, mặt đỏ ửng lên: "Là thiết kỵ Đường Hà trong truyền thuyết!"

Triệu Ngọc Tranh truy hỏi: "Thiết kỵ Đường Hà là cái gì?"

"Là đội kỵ binh mạnh nhất hiện nay —— từng giúp Thánh tổ lập được công lao hiển hách, một nửa giang sơn là do thiết kỵ Đường Hà đánh lấy lại, có thể tưởng tượng được là lớn mạnh biết mấy. Nhưng họ đã lụi tàn mấy thập niên rồi, bây giờ rất ít người biết nó đã từng rất huy hoàng, cha từng nói, thiết kỵ Đường Hà là con át chủ bài mà bệ hạ luôn cất giấu, ít nhất mười năm trước, họ đã sống lại. Chắc là đệ không biết, đại ca luôn muốn vào thiết kỵ Đường Hà, nhưng chẳng được vì không đủ tư cách."

"Đại ca võ nghệ cao cường thế mà cũng không vào được?"

"Thiết kỵ Đường Hà không chỉ cần võ nghệ cao cường, mà còn cần những yêu cầu cứng nhắc khác... Thôi không nói nhiều nữa, Tứ lang, ta muốn qua đó xem thử."

Triệu Ngọc Tranh bắt lấy cổ tay Triệu tam lang: "Tam ca, đưa đệ đi với."

Triệu tam lang do dự hồi lâu, không từ chối được lời khẩn cầu của em trai bèn đưa hắn theo cùng.

Chạy sang nhà bên cạnh, lần theo ánh nến, Triệu tam lang núp trên cái cây to cách đó chừng trăm mét, nín thở nhìn ánh sáng trong phòng khách, mắt Triệu Ngọc Tranh không tỏ bằng gã nên chỉ có thể thấy được ánh sáng và bóng người mơ hồ.

"Đệ không thấy, cũng không nghe bọn họ nói gì."

"Suỵt!" Triệu tam lang: "Đến gần nữa sẽ bị phát hiện, tiếng đệ nói chuyện lớn quá cũng sẽ bị phát hiện đấy."

Ngay cả Triệu tế chấp và Triệu đại lang đều vô cùng tôn sùng thiết kỵ Đường Hà, Triệu Ngọc Tranh sẽ không ngây thơ đến nỗi cho rằng Triệu tam lang nói chuyện giỡn chơi, vậy nên cũng cố gắng hít thở nhẹ nhàng, chuyên tâm nhìn chằm chằm vào tình cảnh bên trong đại sảnh.

Lúc này, Tĩnh vương đang ngồi ở chính vị đại sảnh, gã đã bốn mươi tuổi, nhưng cơ thể vẫn duy trì được đường nét tráng kiện khỏe mạnh, với vẻ ngoài nở nang và khí chất tao nhã có được sau hàng chục năm khổ luyện bản thân, gã pha cho mình một ấm trà ngon rồi nếm thử.

Hoắc Kinh Đường vào trong sảnh, tìm một chỗ ngồi xuống, vắt chéo chân nghiêng người, thoải mái ngang ngược không phép tắc, tự nhiên trước mặt Tĩnh vương trông rất đoan chính.

Hoắc Kinh Đường chậm rãi khảy vòng Phật, cảm thấy mình rất biết kính già yêu trẻ, vậy nên là một người lễ phép, hắn chọn cách lên tiếng trước: "Già mà không chết thì cũng làm giặc*."

(*) Nguyên Nhưỡng ngồi xổm đợi. Khổng tử nói: Lúc nhỏ ngươi không biết tôn trọng anh em và người lớn, khi lớn không làm được việc đáng khen, về già mà chưa chịu chết, ấy là làm hại luân thường, phong tục. Nói xong Khổng tử lấy gậy gõ vào ống chân Nhưỡng.

==

Chương 40

Tĩnh vương không hề nâng mắt lên: "Ngươi vẫn là con trai ta."

Hoắc Kinh Đường: "Già rồi thì nên chịu thua đi, cứ đi tìm chỗ chết mãi, liên lụy đến người nhà chẳng tốt lành gì."

"Cảm giác bị Hoàng đế nghi kỵ, bỏ rơi chắc là cũng không dễ chịu nhỉ. Binh quyền nói thu là thu, cứ cho ăn kẹo ngọt, ép khô giá trị của ngươi, lót đường cho con trai yêu dấu của lão, còn ngươi thì chỉ biết làm một con chó ngoan ngoãn."

Tĩnh vương biết Hoắc Kinh Đường xem Hoàng đế như cha.

Hoàng đế rõ ràng biết Tĩnh vương phủ là đầm rồng hang hổ, vậy mà vẫn đuổi Hoắc Kinh Đường ra khỏi hoàng cung khi hắn chỉ vừa tròn mười tuổi, không chút lưu tình. Dù vậy, Hoắc Kinh Đường cũng chỉ tức giận, không mang chút hận thù nào với Hoàng đế.

Người trúng cổ độc còn bị thu binh quyền, cưới nam thê, bị lợi dụng đến mức chẳng còn gì, ép khô xương máu, vậy mà hắn vẫn làm con chó trung thành với tên Hoàng đế chó chết kia, hắn xem Hoàng đế là cha hiền, lại có thể không thèm nhìn người cha này suốt mười năm.

Mối quan hệ của Hoắc Kinh Đường và Hoàng đế tựa như cha con cũng như vua tôi làm Tĩnh vương cảm thấy kinh tởm, tim như ngâm vào nọc độc, chỉ hận không thể giết được Hoắc Kinh Đường, để rồi nhìn xem Hoàng đế có đau khổ hay không.

Chỉ cần Hoàng đế có thể đau đớn, Tĩnh vương sẽ cảm nhận được niềm khuây khỏa sâu sắc.

Gã không thể đến gần Hoàng đế được, vậy nên quyết định chọn cách khác, đó là nghĩ đủ mọi phương thức làm tổn thương Hoắc Kinh Đường, như vậy cũng đủ để gã vui vẻ.

Vậy nên gã đặc biệt đâm vào chỗ đau của Hoắc Kinh Đường.

"Mấy năm này vương phủ có em trai em gái nào ra đời không?" Quan tâm trưởng bối nên lựa chọn nói từ chuyện trong nhà. Hoắc Kinh Đường vô cảm nói: "À, xin lỗi, lâu quá không về nhà, quên là hình như thái y chẩn đoán cha... Không sinh được nhỉ? Đoạn tử tuyệt tôn... Xin lỗi, lại nhắc đến chuyện khiến cha đau lòng, là bổn vương sai rồi."

Tĩnh vương hạ ly trà trong tay xuống "cạch" một tiếng, trên thân ly xuất hiện vết nứt nhỏ: "Năm đó là do ngươi cố ý."

Mặt Hoắc Kinh Đường nghiêm lại: "Cha, nếu như không phải là do ban đầu ngài tin lời người hầu điêu ngoa, cầm dao muốn chặt tay ta, ta cũng sẽ không gắng sức giãy giụa, không cẩn thận đạp phải —— " Hắn liếc mắt xuống nửa thân dưới của Tĩnh vương, không nói thẳng ra. "Bệ hạ dạy ta, người ta nhỏ sức cũng nhỏ, gặp ai muốn hại đến tính mạng của ta thì phải đánh vào nửa thân dưới... Ta cũng là vì tự vệ thôi, sau chuyện này cha cũng không hối hận vì ngày đó quá kích động sao?"

Hoắc Kinh Đường khảy vòng Phật với tốc độ nhanh hơn, cảm thán: "Nhắc đến còn thấy mừng, cũng may lúc đó ta nhanh chân, nếu không cha chém đứt tay ta thật rồi, chờ đến lúc bình tĩnh lại được, nói không chừng hối hận ruột gan đứt từng khúc."

"Ta còn phải cảm ơn ngươi sao?"

"Làm chuyện con cái nên làm thôi, còn cảm ơn tới lui làm gì?"

Răng rắc một tiếng, cái ly trong tay Tĩnh vương vỡ thành năm bảy mảnh, gã thuận tay ném đi, cầm lấy khăn không nhanh không chậm lau khô máu tươi trong tay: "Ngươi biết được bao nhiêu?"

"Cần biết đều biết."

"Mang theo bao nhiêu người đến?"

"Cộng thêm ta, không hơn không kém mười sáu kỵ."

"Kỵ? Là kỵ binh sao?" Không cần phải nói, Tĩnh vương dường như luôn ẩn thân trong chính sự vẫn tương đối quen thuộc với công việc ở biên giới: "Ngươi thừa biết trong tay ta có một chi quân Tây Bắc, Hoài Nam còn có binh do An Hoài Đức nuôi, chỉ mười sáu kỵ làm sao dám vào hang hổ? Ngươi mang theo chi kỵ binh nào?"

Hoắc Kinh Đường chỉ cười không nói.

Cánh tay Tĩnh vương co chặc lại: "Không thể nào. Vào thời Thánh tổ, thiết kỵ Đường Hà đã bị chia rẽ, mấy chục năm qua sớm đã chẳng còn uy danh rồi... Trong tay người có một đội binh thần quỷ không phải là tin đồn sao? Không đúng, không thể nào, bốn chi quân Tây Bắc ta đều biết rõ ràng, có thêm một đội thiết kỵ Đường Hà kiêu dũng thiện chiến, không thể nào giấu được qua mắt ta."

Hoắc Kinh Đường: "Thiết kỵ Đường Hà bặt vô âm tính nhưng có mặt khắp mọi nơi, chỉ nghe lệnh của ta."

Tĩnh vương nhìn Hoắc Kinh Đường chằm chằm, từ đầu đến cuối trong mắt vẫn luôn cất giấu nỗi hoài nghi, gã cũng có kinh nghiệm hành quân phong phú, bắt đầu suy nghĩ về những lời Hoắc Kinh Đường nói, bỗng nhiên cảm xúc thay đổi, trấn tỉnh tinh thần lại, ánh mắt giật lên: "Thiết kỵ Đường Hà thuộc quân Tây Bắc, bất kỳ binh sĩ quân Tây Bắc nào cũng có thể là thiết kỵ Đường Hà, nhưng chỉ khi ngươi ra lệnh mới có thể tập hợp lại thành một đội thiết kỵ Đường Hà chân chính —— lão biết không?"

Hoắc Kinh Đường biết "lão" trong miệng Tĩnh vương là ai, hắn không lên tiếng đáp lại, chỉ bình tĩnh ngước nhìn.

Tĩnh vương hiểu ngay, tự lầm bầm: "Lão biết, lão còn tin ngươi? Vì sao? Chẳng lẽ thật sự coi ngươi là con trai ư? Ha! Ngũ ca của ta đúng là kẻ si tình, Thôi thị sống chết gì cũng đều là người của ta, vậy mà lão còn dám đối xứ với con trai của nàng như con ruột —— Không, sợ là đến con trai ruột cũng không để tâm tới vậy. Đến cả Thánh tổ còn sợ thiết kỵ Đường Hà, lại mặc cho ngươi tái thành lập, còn chỉ cho phép nghe lệnh mình ngươi... Chẳng trách, chẳng trách ngươi cam tâm đuổi theo lão, còn ta thì không làm lại mưu tính của Ngũ ca."

Tĩnh vương tự nói, tựa như đang rơi vào kí ức của hai mươi mấy năm trước, ánh mắt hơi ngây ra.

Hoắc Kinh Đường vô cùng buồn chán, hắn khảy vòng Phật một cái, quấn lấy bối vân giữa vòng, hiếm khi không quấy rầy Tĩnh vương rong ruổi trong vui thú quá khứ.

Tĩnh vương bỗng dưng hoàn hồn, đột nhiên hỏi, "Cổ độc của ngươi được giải rồi sao?"

Hoắc Kinh Đường lạnh nhạt nói: "Bổn vương cho rằng đến lúc chết ông mới phát hiện."

Mắt Tĩnh vương tràn ra màn sương mờ mịt, "Ta gắng sức đánh một trận, chưa chắc không có phần thắng."

Hoắc Kinh Đường: "Người cầm con dấu quan phòng của ông đi Tây Bắc dẫn binh, là phó tướng thiết kỵ Đường Hà. Cấm quân trong sơn trang Ký Sướng đều bị tiêu diệt, Trịnh Sở Chi mang hai triệu lượng bạc đi bắt An Hoài Đức rồi."

Tay Tĩnh vương nắm chặt thành quyền, gân xanh nổi lên chằng chịt trên mu bàn tay, trợn mắt hung tợn nhìn Hoắc Kinh Đường: "Nghịch tử..."

"Người mà tiểu lang quân nhà ta phái đi Từ Châu hẳn là đã nói cho An Hoài Đức biết, bổn vương mang thiết kỵ Đường Hà đến phủ ôn chuyện cũ với ngài rồi. An Hoài Đức trung thành như thế, chỉ sợ là cũng phải bó tay chịu trói thôi."

"Nghịch tử ngươi dám!"

Tĩnh vương gào lên, rút một thanh Hoàn Thủ Đao giấu dưới bàn chém về phía Hoắc Kinh Đường, bàn ghế bị chia làm hai, mà Hoắc Kinh Đường dù đã tránh khỏi đao hiểm, gò má vẫn bị cơn gió của lưỡi dao sắc bén rạch một vết thương nhỏ máu.

Thiết kỵ bên ngoài nghe tiếng muốn động, Hoắc Kinh Đường giơ tay lên ngăn lại, xoay vòng Phật trên cổ tay mình, cong môi nở một nụ cười, trong mắt tràn đầy vui vẻ: "Nói mới nhớ, cha con chúng ta thù sâu như biển, nhưng chưa bao giờ chính thức giao thủ. Ta vẫn luôn rất muốn biết so tài với ngài, thì nước cờ bệ hạ dạy ta mạnh hơn, hay là sát chiêu ngài luyện trên chiến trường lợi hại hơn."

Tiếng nói vừa dứt, thân thế cao lớn lập tức thẳng tắp, khí thế hoàn toàn biến đổi, cả người mặc giắp sắt đen trông tựa như một tên sát nhân hung ác.

Đối với Đột Quyết, Nam Cương và Đại Hạ, Hoắc Kinh Đường chính là sát nhân hung tàn nhất trên đời này.

Lời nói của hắn đã kích thích Tĩnh vương thành công, con ngươi gã đầy tơ máu, giống hệt như xuyên qua khuôn mặt Hoắc Kinh Đường nhìn Nguyên Thú đế người mà cả đời này gã căm hận nhất.

Mẹ gã chính là thanh mai trúc mã với tiên đế, bà mới là người mà đế vương chân thành yêu thương, nhưng bởi vì Thánh tổ Hoàng đến nghi kị cùng nhà mẹ sa sút nên không thể không tình nguyện lui lại một bước, Đông cung phi vị phải cho đi, ngai vàng Hoàng hậu phải cho đi, đến cả Thái tử vị của lão cũng phải cho đi nốt!

Trước khi tiên đế lâm chung nhiều lần muốn thay đổi di chúc, phế Đông cung, cải lập Thái tử, nhưng bởi vì đám triều thần đáng chết kia lấy cái cớ không thể phế đích trưởng, cưỡng ép cướp mất ngôi vị hoàng đế của lão, hỏi làm sao không hận cho được?

Khi Hoắc Kinh Đường còn chưa có thanh danh hiển hách, cái tên Chiến Thần Tây Bắc thuộc về Tĩnh vương.

Năm tháng để lại dấu vết trên người gã, nhưng lại không cướp đi thiên phú võ học, chỉ cần một thanh Hoàn Thủ Đao thôi cũng có thể múa gió uy vũ, chiêu thức đại khai đại hợp, khí thế hào sảng, không đủ hoa lệ nhưng sát khí đè ép người khác, đều là sát chiêu mà gã luyện ra được từ trên chiến trường.

Hoắc Kinh Đường chỉ phòng thủ chứ không tấn công, hổ khẩu tê dại, lui từng bước về phía sau, chống tay lên bàn, lộn người nhảy sang phía bên kia, còn bàn thì bị chém thành hai nửa.

Tĩnh vương: "Sao lại không ra tay?"

Hoắc Kinh Đường tránh chiêu: "Đao kiếm không có mắt, dẫu sao ngài vẫn là cha ta."

Một tiếng "keng" vang lớn, Hoàn Thủ Đao của Tĩnh vương hung hăng vụt tới cánh tay phải của Hoắc Kinh Đường, ánh mắt đỏ au dữ tợn, "Sự tồn tại của ngươi chính là nỗi giễu cợt lớn nhất đời ta, ngươi không chết, chính là bất hiếu!"

Lông mi Hoắc Kinh Đường động đậy, đao trong tay rơi xuống đất, tựa như buông bỏ chống cự.

Tĩnh vương nở nụ cười vui sướng, một giây kết tiếp khóe mắt nhác thấy có ánh sáng bạc lướt qua, cánh tay phải bị va đập mạnh đau đến tê dại, sẩy tay đánh rơi Hoàn Thủ Đao, trên cổ có một thanh đao khác kề sát, cán đao nằm trong bàn tay trái của Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường cười thích thú: "Xem ra chiêu bệ hạ dạy mạnh hơn phụ vương rồi."

Gân xanh bò đầy trên trán Tĩnh vương: "Ngươi dùng đao tay trái?"

"Cha không biết sao? À, dù gì thì ta mới hai tuổi đã bị ngài đưa vào cung làm con tin rồi, trước mười tuổi ta quen dùng tay trái, là bệ hạ nắm tay ta nắn nót, dạy ta dùng thương tay phải, dùng đao tay trái, ngài không biết cũng là chuyện thường thôi."

Tĩnh vương khinh thường: "Bù đắp mà thôi. Lão tốt với ngươi chẳng qua là vì áy náy với mẹ ruột của ngươi. Cân nhắc thiệt hơn để có thể không nhân từ nương tay mà lợi dụng ngươi đúng lúc, năm đó mẹ ngươi tình sâu ý nặng với lão ta, mà lão chỉ vì ngôi vị Hoàng đế, nhưng lúc tiên đế ban hôn cho một câu cũng không dám nói. Rác rưởi! Hèn nhát! Giả vờ bất đắc dĩ, tình sâu nghĩa nặng gì cũng là giả dối cả, vậy mà vẫn có thể lừa mẹ con người liều sống liều chết vì lão."

Hoắc Kinh Đường nhìn lão chằm chằm, con ngươi màu lưu ly giống hệ như Bồ Tát trách trời thương người, khiến cho Tĩnh vương nhớ đến mẹ của mình.

Mẹ lão tin Phật, trong cung có một Phật đường nho nhỏ, dùng để thờ Quan Âm Bồ Tát đại từ đại bi.

Ánh mắt đó của Hoắc Kinh Đường còn giống như mẹ ruột của hắn Thôi Thanh Như, Tĩnh vương không tránh khỏi nhớ lại cuộc sống khi nhập ngũ Tây Bắc, gã, Ngũ ca và Như nương cùng xưng là tiểu tướng Tây Bắc chém giết trên chiến trường, kề vai sát cánh trở về, uống rượu ngắm trăng trên sa mạc, múa kiếm bên lửa trại, mãi cho đến khi trời hửng sáng mới phóng ngựa quay về doanh trại.

Tĩnh vương định thần, toát ra ý hận.

Hoắc Kinh Đường giống với Thôi Thanh Như sẽ không gợi dậy hoài niệm cho gã, ngược lại mang đến nỗi nhục nhã vô tận.

Năm đó cùng nhập ngũ vào quân Tây Bắc trong tay Thôi quốc công, người từng có giao tình sinh tử với Thôi Thanh Như là gã, người có hôn ước với Thôi Thanh Như cũng là gã, vậy mà Ngũ ca lại muốn cướp đi!

Thôi Thanh Như thì lại cho gã sự sỉ nhục lớn nhất từ lúc sinh ra tới đó.

Môi Hoắc Kinh Đường giật giật, giọng nói gằn ra nhỏ như muỗi kêu: "Biết rõ mẹ ta và bệ hạ tình đầu ý hợp, còn cố tình xin tiên đế ban hôn cho, làm ra chuyện cường thủ hào đoạt giành lấy tình yêu của người khác*, ai mới là người ghê tởm hơn? Đêm tân hôn mẹ ta không muốn lừa gạt ông nên đã cầu xin ông bỏ qua cho bà ấy, mà ông biết bà châu thai ám kết rồi lập tức trở mặt, dung túng để thiếp thị hậu trạch ức hiếp bà, ai mới là kẻ dối trá?"

(*) Câu gốc là "Hoành đao đoạt ái" - 横刀夺爱: cầm ngang đao đoạt ái tình – đại loại là chỉ người thứ 3 vô duyên nhảy vào công nhiên cướp đoạt ái tình của người khác.

Con ngươi Tĩnh vương mở lớn, cực kì hoảng loạn: "Ngươi..."

"Hại mẹ ta chết, ở trước mặt bệ hạ lại vờ như đau đớn tận xương tủy, sang tay đưa ta vào cung làm con tin, là muốn xem bệ hạ và ta chém giết lẫn nhau nhỉ?"

Giọng nói của Hoắc Kinh Đường xuống đến mức thấp nhất: "Nhưng cha à, từ lúc mẹ còn chưa gả cho ông, bệ hạ đã biết đến sự tồn tại của ta rồi."

Ầm một tiếng nặng nề, Tĩnh vương bị sấm sét giữa trời quang làm cho té ngã ra đất, thần sắc điên cuồng, không ngừng lắc đầu: "Không thể nào... tuyệt đối không thể... Tại sao hắn lại thắng? Như nương, Như nương, sao nàng có thể đối xử với ta như vậy? Làm sao có thể bất công đến vậy, sao có thể phụ ta như vậy?"

Hoắc Kinh Đường liếc nhìn Tĩnh vương thất thố, trở tay ném đao ra sau lưng, mũi đao cắm sâu vào vách tường, rồi hắn đá văng Hoàn Thủ Đao rơi dưới chân đi, mặt không đổi sắc lấy một chiếc khăn tay cũ ra... Sau đó lại nhét vào, lôi một chiếc khăn mới ra nhấn vào vết thương trên bả vai, "Trông cho kỹ, ăn uống cũng phải cho, đừng để người chết."

Nói xong đi ra khỏi phòng khách.

Tán chỉ huy phất tay một cái, ra hiệu cho bộ hạ giam Tĩnh vương lại, đồng thời hỏi: "Tướng quân, ngài định đi đâu nữa?"

Hoắc Kinh Đường nheo mắt nhìn Tán chỉ huy: "Các ngươi không cần đi theo, trông coi Tĩnh vương cho kỹ vào, ai tới nói giúp cũng không cần quan tâm."

Tán chỉ huy đưa cho hắn thuốc có hiệu quả trị liệu cao: "Cầm máu liền sẹo, hiệu quả rất tốt."

Hoắc Kinh Đường liếc nhìn gã: "Ta nhớ sang năm, ngươi hai mươi sau rồi nhỉ?"

Tán chỉ huy không hiểu nhưng vẫn rất ngạc nhiên xen lẫn vui vẻ: "Tướng quân còn nhớ à."

Hoắc Kinh Đường: "Ngươi phải chăm chỉ hơn thôi, cố lên, ta bằng tuổi ngươi đã cưới được tức phụ rồi."

Tán chỉ huy: "...?"

Hoắc Kinh Đường: "Ngươi không quan tâm ta đi đâu một mình sao?"

Tán chỉ huy lắp bắp: "Một mình ngài đi đường đêm, vậy là muốn đi đâu?"

Hoắc Kinh Đường nhìn vết thương trên bả vai, có chút phiền muộn: "Chia xa tiểu lang ba tháng, vừa gặp lại để để cho y nhìn thấy vết thương của ta rồi, có lẽ sẽ lo sốt vó lên cho xem." Vừa nói hắn vừa nhìn Tán chỉ huy, trông giống như là đang khoe khoang: "Có thể ngươi không biết, tiểu lang rất dễ mềm lòng, xưa nay đều lo nghĩ cho nỗi khổ của trăm họ. Người không có quan hệ gì còn thế, nói chi là bổn vương?"

"Ờ." Tán chỉ huy lạnh lùng đáp.

"Chắc là y sẽ khóc mất." Hoắc Kinh Đường bổ sung.

Tán chỉ huy cúi đầu cạy móng tay.

Hoắc Kinh Đường không thèm để ý đến thái độ của tán chỉ huy, sau đó đội mũ sắt lên, đột nhiên nhớ đến gì đó: "Thuốc này của ngươi có hiệu quả trị liệu rất tốt sao?"

"Cầm máu tốt lắm."

"Sẹo thì sao?" Thấy Tán chỉ huy thất thần, Hoắc Kinh Đường vươn tay cầm thuốc, "Thôi, có tác dụng là được."

Nói xong liền đi ngay.

Đồng liêu đẩy Tán chỉ huy: "Sao đứng đờ ra cả buổi vậy?"

Tán chỉ huy nhìn đồng liêu thắm thiết: "Tôi thừa nhận mấy câu mà ông nói hồi trước đúng là có con mẹ nó lý." Tình nhân trên đời này đều là chó.

Đồng liêu hoài nghi, hắn từng nói quá chừng chân lý như vậy, ai biết là câu nào?

***

Một người một ngựa đạp lên ánh nắng ban mai nhạt màu biến mất ở cuối con phố, Triệu tam lang dẫn Triệu Ngọc Tranh chạy về Tạ trạch, không nhịn được vỗ ngực thở mạnh: "Không hổ là thiết kỵ Đường Hà, Tứ lang, ngươi có phát hiện ra mới nãy lúc người kia đi khỏi đó, đã liếc nhìn đến chỗ nấp của chúng ta không? Hắn biết chúng ta nấp ở đây đấy, chắc chắn là hắn biết!

Ánh mắt Triệu Ngọc Tranh đờ đẫn, vẫn còn đắm chìm trong rung động trong khoảnh khắc nhìn thấy khuôn mặt không đội nón sắt của người đàn ông khi bước ra khỏi phòng khách, bóng dáng trong trí nhớ vốn mơ hồ giờ đây trở nên rõ ràng.

Mười hai mười ba tuổi, hắn đã bị kinh ngạc trước sự xinh đẹp tươi sáng của người này rồi, ở ngoài thậm chí còn đẹp hơn so với trong kí ức.

Đầu ngón tay của Triệu Ngọc Tranh chạm lên ngực, nơi đó đang đập thình thịch tràn trề sức sống.

"Tứ lang... Tứ lang?"

Triệu Ngọc Tranh hoàn hồn, nhìn thấy vẻ mặt đầy lo lắng của Triệu tam lang: "Tam ca, huynh biết người lúc nãy có thân thế ra sao không?"

Triệu tam lang: "Nếu như ta biết thì hay quá. Có điều ta có thể xác định được hắn chính là thủ lĩnh của thiết kỵ Đường Hà, chuyến này đi làm việc, sau đó sẽ hồi kinh báo cáo công vụ, đến lúc đó tìm người để ý. Chỉ cần hắn thường xuyên đi lại trong triều, sớm muộn gì cũng có thể tìm được thôi."

Triệu Ngọc Tranh nghe vậy thì cươi, trong lòng dâng trào một nỗi mong chờ mãnh liệt.

***

An Hoài Đức, Tư Mã Kiêu và hai triệu lượng bạc cứu trợ đều ở Nha môn phủ Dương Châu, Trịnh Sở Chi lệnh cho doanh binh Dương Châu bao vây lại, vốn định viết sổ tấu lên Thánh thượng, lại lo rằng Thánh thượng chuyển tay cho Khâm sai, vậy chẳng lẽ lão tiện tay vô ích hay sao?

Phụ tá đề nghị lão ghi thêm "Phủ dụ sứ còn trẻ có triển vọng, đa mưu túc trí, không thẹn với lời khen 'nhân ái chính trực' mà Đông cung khen ngợi'" trong chiết tử đi, Trịnh Sở Chi do dự, "Được sao?"

Phụ tá biết lão đang lo lắng mọi chuyện loạn lên, bèn kiên nhẫn giải thích: "Chuyện liên quan đến quốc mẫu, trữ quân thì không phải chuyện đùa, Đông cung từng bảy tỏ lời tán thưởng Khâm sai trước mặt mọi người, có nghĩa là có thể nghi ngờ là kết bè đảng, tra đại án này, dù có quan hệ gì cũng phải tránh đi. Loại bỏ hiềm nghi ta dính líu đến Khâm sai, Tần vương bị phế rồi, phủ Trịnh quốc công phải khiêm tốn, tuy có hiềm khích với Đông cung nhưng cũng nói được là do ngài phá án, không còn sơ hở nào để lợi dụng nữa."

Trịnh Sở Chi: "Có lý. Vậy ta viết chiết tử đây... Nhưng ta nhớ Ngũ hoàng tử mới là người khen Triệu Bạch Ngư cơ mà? Thôi bỏ đi, anh em đồng lòng, ai khen cũng thế thôi, thái độ của Ngũ hoàng tử chính là thái độ của Đông cung."

Hạ bút như có thần, với tài lẻ của lão ta thì chỉ ngắn ngủi một khắc đồng hồ đã thành văn, câu nào câu nấy đều chan chứa chân tình.

Trịnh Sở Chỉ dán kín thư dặn dò: "Ra roi thúc ngựa, đưa về Kinh Đô." Rồi lão xoay người lại nói với tùy tùng: "Gọi lão cai ngục có nhiều kinh nghiệm nhất trong phủ ra đây, để bọn họ thẩm vấn An Hoài Đức cho đàng hoàng, nhất định phải cạy được miệng chúng!"

Phong thư từ phủ Dương Châu nhanh chóng được đưa về Văn Đức điện, Nguyên Thú đế đọc nhanh thư: "Là Trịnh Sở Chi tranh được công sao?"

Không đúng lắm.

Theo lý mà nói, Hoắc Kinh Đường mới là người đầu tiên tìm được bạc cứu trợ thiên tai, dù cho hắn không tiện ra mặt cũng có thể đưa công này cho Triệu Bạch Ngư, trừ phi nó phỏng tay đến nỗi Triệu Bạch Ngư cũng không dám nhận, nói rõ mấy năm nay Tĩnh vương ở Hoài Nam đã làm ra những chuyện khiến cho trời giận người oán.

Bạc cứu trợ bị cướp ở Từ Châu, An Hoài Đức lo lắng không yên chạy tới, ý đồ là muốn mau chóng kết án khiến Nguyên Thú đế hoài nghi, cho người điều tra An Hoài Đức mới phát hiện lúc trước lão chỉ là tên nô dịch chăn ngựa mà Tĩnh vương mang về từ Tây Bắc.

Được hủy nô tịch, một tay Tĩnh vương nâng đỡ đến Soái sứ một tỉnh, chẳng trách vô cùng trung thành với chủ.

Đến thời điểm này, Nguyên Thú đế cho rằng những việc kinh khủng nhất mà Tĩnh vương đã làm là tham ô tiền cứu trợ thiên tai và mưu hại mệnh quan triều đình, có đan thư thiết quyển của Thánh tổ trong tay nên không thể giết lão được, nhưng lại có thể cắt bớt binh quyền, cấm túc vào chùa Tôn Chính.

Giải quyết được đại họa trong lòng, không phải Nguyên Thú đế không thể khoan dung tha thứ cho Tĩnh vương thọ chung chính thẩm*, nhưng nếu như ngay cả Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư cũng đều cảm thấy không gánh vác nổi vụ án của Tĩnh vương, vậy thì ở Hoài Nam lão ta đã làm ra đến chuyện nhân thần cộng phẫn gì nữa?

(*) Thọ chung chính thẩm - 寿终正寝: sống thọ và chết tại nhà.

Nguyên Thú đế vuốt ve ngón tay, trái tim lại nặng trĩu xuống, vô số lần dâng lên sát ý đối với Tĩnh vương.

Lúc này, Đại thái giám vào báo: "Bệ hạ, Triệu tế chấp cầu kiến."

Nguyên Thú đế: "Truyền."

Triệu Bá Ung vào điện: "Thần tham kiến bệ hạ —— "

"Miễn, ngươi xem thử tấu sớ Trịnh Sở Chi dâng lên đi." Nguyên Thú đế ném chiết tử xuống.

Triệu Bá Ung nhặt lên xem, trong lòng căng thẳng, mặt lại không lộ biểu cảm gì, chẳng qua là dè dặt hơn.

Nguyên Thú đế: "Ngươi thấy thế nào?"

Triệu Bá Ung: "Nếu đây là thật, thì việc rất quan trọng, cần áp giải An Hoài Đức và Tư Mã Kiêu vào kinh, giao cho bộ Hình và Đại lý tư thẩm tra.

Nguyên Thú đế: "Ngươi thấy ai có thể làm chủ thẩm vụ này?"

Đầu Triệu Bá Ung chạy số: "Đông cung quản Hình bộ, theo lý phải tránh hiềm nghi, Đại lý tự tạm thời chưa bổ nhiện Đại lý tự khanh chính thức, người bên dưới bàn về năng lực và lý lịch đều không có ai. Muốn xử lý vụ án này, thì không thể thiếu cả hai thứ đó, cũng càng không thể dính dáng đến Đông cung, phải đảm bảo có thể công bằng... Lâm An tiểu quận vương năng lực vượt trội, lại trung thành với bệ hạ, đã được chứng thực từ lâu, chưa kể không lui tới với các môn đảng trong triều —— "

Vừa nói chuyện vừa cẩn thận quan sát biểu cảm của Nguyên Thú đế, Triệu Bá Ung tự biết nên đổi ý.

"Tuy nói hắn là người sáng giá nhất có thể xử lý vụ án này, nhưng điểm khả nghi vẫn còn nhiều, lại có quan hệ vợ chồng với Phủ dụ sứ, chỉ sợ khó mà thuyết phục được người dưới trướng. Thần cho rằng, người thẩm tra xử lý án này, vẫn là nên giao cho Trịnh Sở Chi."

"Bổ nhiệm Trịnh Sở Chi, không lo các quan triều nghị luận lão ôm hận trả thù hay sao?"

"Ai cũng đều có thể ôm hận, duy chỉ có Trịnh Sở Chi thì không! Phủ Trịnh quốc công và Tư Mã thị xưa nay bất hòa, trăm quan đều biết, có ân oán thì cũng như tình ngay lý gian thôi, Trịnh Sở Chi sẽ không dám thiên vị. Liên quan đến quốc mẫu và trữ quân là sự vụ quan trọng nhất trong thiên hạ, phàm là xảy ra chuyện có liên quan đến ân oán cá nhân, thì Trịnh Sở Chi cũng là tự rước họa sát thân. Hoàng hậu là gương sáng cho mệnh phụ, đức dung ngôn công đều chưa từng mắc lỗi nào, Đông cung lại tài đức vẹn toàn, chiêu hiền đãi sĩ, có thể giải quyết chính sự trong triều, không dám phạm sai lầm lớn tự khắc có mệnh phụ yêu thương, triều thần sẽ ở bên cạnh giám sát chủ thẩm vụ án. Trên dưới triều đình cũng theo dõi sát sao, dù Trịnh Sở Chi có ân oán với Đông cung thì cũng phải làm việc công bằng, không dám để lẫn thù hận riêng vào đó."

Nguyên Thú đế xem xét biểu tình của Triệu Bá Ung, tính toán theo lời ông nói, quả thật là không để lộ sơ hở gì.

"Vậy đi, trẫm sẽ giao vị trí chủ thẩm vụ án này cho Trịnh Sở Chi, lệnh cho lão đưa An Hoài Đức, Tư Mã Kiêu và đám người phạm tội kia vào kinh chờ xét xử. Phủ dụ sứ Triệu Bạch Ngư tiếp quản hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai, đảm bảo một cắc cũng phải dùng cho dân, sẵn tiện chuyển giao toàn bộ phạm nhân, nhân chứng vật chứng án Hoàng thương Giang Nam diệt môn cho Trịnh Sở Chi."

***

Trên đường rời khỏi hoàng cung, Triệu Bá Ung thở phào một hơi nhẹ nhõm, vẫn còn kinh hồn bạt vía sau khi xem tấu chương xong, An Hoài Đức và Tư Mã Kiêu cùng thuộc đảng Thái tử, nếu như cướp bóc quan ngân, sát hại mệnh quan triều đình, trữ quân gì đó cũng phải phế hết.

Vấn đề là Thái tử và Ngũ hoàng tử sẽ không ngu xuẩn đến mức đụng vào bạc cứu trợ trong thời kỳ nhạy cảm này, Tư Mã Kiêu và Hoàng hậu, Đông cung thường bắt tay nhau hành động, nếu đã không dám đụng vào thì đều là do An Hoài Đức tự tiện chủ trương.

Ông biết con người An Hoài Đức, tham tiền nhưng thông minh, nếu như lão ta là người trung thành, phải biết đụng vào số bạc đó chính là tăng nhanh tốc độ diệt vong của đảng Thái tử, trừ phi lão có chủ khác.

Ông cũng có thể nhìn ra được vấn đề, vậy thì không có khả năng Nguyên Thú đế không nhìn ra.

Nguyên Thú đế biết sau lưng An Hoài Đức có người giật dây, vụ án lần chém đứt cánh tay đắc lực của Tư Mã thị, cũng cắt gọt bớt kiêu căng của Đông cung, vả lại phế bỏ trữ quân là chuyện hệ trọng, bất luận là có nỗi băn khoăn gì, nhất định cũng sẽ không phế Đông cung và Hoàng hậu.

Xử lý Tư Mã thị tương đương với chấn nhiếp một vài thế gia triều đình, chèn ép dáng vẻ kiêu ngạo đồng thời mượn cơ hội trừng phạt một hai nhà, đối với Nguyên Thú đế mà nói là chuyện tốt, nhưng mà trên mặt hoàng đế vẫn không nén được cơn giận ——

Vậy hẳn là không phải hướng về phía Đông cung và Hoàng hậu, mà là hướng về Hoài Nam? Là người mà An Hoài Đức thành tâm dốc sức ư?

An Hoài Đức thành tâm dốc sức cho ai?

Hoài Nam...

Bạc cứu trợ thiên tai được phát hiện ở sơn trang Ký Sướng tại Dương Châu...

"!" Triệu Bá Ung trầm ngâm một lúc, đột nhiên hít sâu một hơi: "Là Tĩnh vương?"

Đến cửa cung, Triệu Bá Ung bỗng dừng chân, nghĩ đến Triệu Bạch Ngư ở Hoài Nam.

Chỉ với tấu chương của Trịnh Sở Chi thì không thể nhìn hết được thế cục của quan trường Hoài Nam, chẳng qua nếu như chuyện này không liên quan đến Triệu Bạch Ngư, vì sao trong tấu lại cố ý nói một hai câu biểu thị mối quan hệ giữa Triệu Bạch Ngư và Đông cung?

Lão ta sợ Triệu Bạch Ngư cướp công chăng?

Nếu như bạc cứu trợ là do lão phát hiện, người do lão bắt, vụ án cũng do lão phá, thì lẽ ra lão phải tự tin ngẩng cao đầu mới đúng, hà cớ gì lại sợ Triệu Bạch Ngư cướp công?

Trừ phi người phá án thật sự là Triệu Bạch Ngư.

Ánh nắng sớm chiếu vào trên mặt Triệu Bá Ung, không nhìn ra được biểu tình khẽ biến hóa, nội tâm có tư vị thế nào cũng chỉ có mỗi mình lão biết được.

Triệu Bá Ung cố đè xuống nỗi chán ghét Triệu Bạch Ngư, cứ vừa nghĩ đến y là không cách nào khống chế được nhớ đến người phụ nữ kia, Triệu Bá Ung để mình tỉnh táo lại, dùng thái độ của người ngoài cuộc lần nữa vạch rõ tình hình Hoài Nam.

Nếu như thật sự có liên quan đến Tĩnh vương, sợ rằng khó mà xử lý tốt được.

Nguyên Thú đế ngồi trên ngai vàng ngày càng vững, Tĩnh vương bị đánh ép co đầu rút cổ về Hoài Nam đã mười năm không nghe thấy tên, hơn nữa Hoa thị hữu danh vô thực, rất ít người biết được bọn họ có kim bài miễn tử trong tay.

Tội của Tĩnh vương mâu thuẫn với di huấn của Thánh tổ, Nguyên Thú đế khó phạt, cũng khó mà nhìn mặt mũi triều đình.

Chỉ có lão thần trải qua khoảng thời gian tranh đấu ngôi vị hoàng đế năm đó mới biết được Nguyên Thú đế luôn hận không thể nghiền nát xương Tĩnh vương thành tro, vốn nghĩ những năm nay Nguyên Thú đế đã quên đi sự tồn tại của Tĩnh vương rồi, cũng vô cùng yêu thương Hoắc Kinh Đường, vậy nên ai nấy đều cho rằng Nguyên Thú đế thật sự không còn nhớ đến nữa.

Có lẽ Nguyên Thú đế cũng cho ràng lão có thể quên, chỉ cần giam cầm Tĩnh vương là được, nhưng chờ đến khi thật sự đối mặt với Tĩnh vương, trực tiếp nhìn nhận những tội mà Tĩnh vương đã phạm phải ở Hoài Nam, lại bị di huấn của Thánh tổ ép phải tha thứ, mới hiểu rằng nếu mối hận chất chứa trong lòng hơn hai mươi năm không thể giải tỏa được thì nó chỉ càng ngày càng điên cuồng hơn thôi.

Cho nên...

"Ai làm chủ thẩm kẻ đó xui xẻo."

Đáng thương thay, Trịnh Sở Chi còn tưởng rằng mình sắp giàu to, tranh được củ khoai nóng mà người ta tranh không kịp tránh, chắc là vẫn còn đang ôm mộng thăng quan phát tài rồi.

Chậm rãi đi về nhà, Triệu Bá Ung không nảy sinh chút lòng thương hại nào, ông vuốt thẳng ống tay áo, biểu cảm bỗng nhiên thay đổi, nếu như suy đoán của ông không sai, như vậy Triệu Bạch Ngư đúng là bị cướp công... Hay thật ra là y đoán được hậu quả, chủ động né tránh?!

==

Tác giả muốn nói:

Lão Hoắc – vết thương không ngừng chảy máu: Tiểu lang quân khóc rất đẹp.

Lão Hoắc – dùng thuốc tiên trừ sẹo: Vết sẹo là vinh quang của đàn ông, nhưng cũng không thể quá xấu.

==

Min: Sự thật đã được phơi bày, Hoắc Kinh Đường thật ra là con trai ruột của Nguyên Thú đế chứ không phải Tĩnh vương, đây cũng chính là lý do để quàng thượng luôn bảo vệ và dung túng cho anh Hoắc dù cho anh ta chĩa kiếm vào mình đòi đoạn tuyệt, vì anh là quàng tử mà em 🤡

Chương sau lão Hoắc đến Giang Dương bắt cóc vợ giữa bàn dân thiên hạ kkk ~

Chương 41

Phó tướng bên người Tĩnh vương là một thành viên trọng yếu của thiết kỵ Đường Hà, cũng là người mà Hoắc Kinh Đường đã nhắc đến trong thư với Triệu Bạch Ngư.

Để ra lệnh cho quân binh Tây Bắc trong tay Tĩnh vương thì cần phải có con dấu quan phòng của lão, Hoắc Kinh Đường ẩn náu nhiều năm mới nhận được lòng tin, một khi đã lấy được con dấu thì lập tức thúc ngựa ra roi đi thu nạp và tổ chức chi binh Tây Bắc đó, còn binh nuôi ở Hoài Nam thì chỉ nghe lệnh An Hoài Đức.

An Hoài Đức đã bị kiểm soát, binh Hoài Nam cũng không dám động đậy, về sau tìm thời gian rã ra dần dần là được.

Vấn đề khởi binh tạo phản mà Triệu Bạch Ngư lo lắng nhất đã dễ dàng bị đánh tan mà không cần hao tổn một binh lính nào, khó có thể nói rằng bên trong không có công lao mưu tính nhiều năm của Nguyên Thú đế.

Phó tướng thiết kỵ Đường Hà vậy mà lại có thể mai phục bên người Tĩnh vương, đã thế còn làm một đường từ tiểu binh đến tâm phúc có tài mà lão tin tưởng!

An Hoài Đức cũng là tâm phúc của Tĩnh vương, nhưng lại đến ẩn mình nơi Đông cung, cũng trở thành một kiện tướng đắc lực, hiệu quả như nhau.

Cần nói không nói*, Tĩnh vương và Nguyên Thú đế đúng là kẻ thù máu mủ không đội trời chung.

(*) Nguyên văn: Cai thuyết bất thuyết – (该说不说): Nghĩa là lúc cần nói thì không nói, lúc không cần nói thì nói, tức là nói sai thời điểm

Chỉ có anh em ruột thịt hiểu rõ tính tình nhau nhất, cũng chỉ có kẻ thù không đội trời chung mới có thể hiểu rõ suy nghĩ của đối thủ nhất, đồng thời ra sức đánh nhau thì đúng là cực kì thỏa mãn.

Nghiên Băng đang nấu đường đỏ (đường mật) bên ngoài sân viện, lúc Triệu Bạch Ngư đi tới thì nói như phản xạ có điều kiện: "Ta học xong Trung Dung rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Đã thuộc làu chưa?"

Nghiên Băng trề môi mếu máo, ủ rũ cúi đầu, có hơi muốn khóc: "Ta sẽ tiếp tục cố gắng."

"Ôn cái cũ học cái mới, còn phải học đến khi nào biết dùng mới được." Triệu Bạch Ngư thấy Nghiên Băng sa sút, mặt mũi cũng căng thẳng lên bèn dịu dàng vỗ vai nó nói: "Có điều người bình thường học mấy năm cũng chưa chắc có hiệu quả như ngươi học mấy tháng nay đâu, quả nhiên Nghiên Băng của chúng ta có tiềm năng trở thành tú tài công lắm."

Nghiên Băng cố cong môi nở nụ cười: "Không, không có chuyện đó đâu ạ."

Triệu Bạch Ngư nhét vào trong tay nó một miếng ngọc trắng: "Bắt đầu từ bây giờ, người cũng có thể nói mình là một người có học rồi. Người có học thì sau phải thi công danh, lấy việc tu thân tu đức làm trọng, quân tử đeo ngọc, phẩm hạnh rạng rỡ, dù không phải là ngọc thượng đắng gì cả, nhưng cũng có thể coi như là lời chúc tốt đẹp của ta. Tuy ta thường nói sau này ngươi phải làm quan, nhưng không muốn ép ngươi làm quan, thật ra thì làm một người có đạo đức thôi là được rồi."

Xúc động trong lòng Nghiên Băng dâng lên, sụt sịt mũi nhìn chằm chằm miếng ngọc trắng trong lòng bàn tay, bỗng nhiên hối hận vì bao nhiêu lâu nay thái độ học tập của mình không đủ chăm chỉ khắc khổ, còn làm phiền Ngũ lang lo nghĩ cho nó suốt từ đầu đến cuối.

"Ta xin lỗi."

"Hả? Sao đột nhiên lại xin lỗi?"

"Thái độ của ta không nghiêm túc, không học hành chăm chỉ, phụ lòng kỳ vọng của ngài."

Triệu Bạch Ngư bật cười, xoa cái đầu hay nghĩ linh tinh của Nghiên Băng: "Ngươi còn chưa đủ chăm chỉ, nói cho học sinh trong học đường biết, bọn họ phải tự phạt thế nào đây?"

Những ngày này vẫn luôn bề bộn công việc, không có nhiều thời gian quan tâm Nghiên Băng, nhưng y biết bình thường Nghiên Băng bận chăm sóc ba bữa ăn và sinh hoạt thường ngày của y, thời gian còn lại đều chuyên tâm khổ luyện, ban đêm đốt nến học đến tận giờ Tý, trời tờ mờ sáng đã vội vàng thức dậy tiếp tục học phần chưa học xong, nếu không vì sao y lại cố tình đi mua ngọc thưởng cho nó chứ?

"Đừng ăn năn hối lỗi nữa, ở trong lòng ta, Nghiên Băng của chúng ta chăm chỉ thông minh hơn ai hết —— đang nấu đường đỏ à? Học được từ người dân trong huyện phải không. Đường đỏ này ngon, nhưng nếu như có thể nấu thành đường hạt thì hay biết mấy."

Triệu Bạch Ngư xắn tay áo lên, không nhịn được muốn thêm củi.

Nghiên Băng mới vừa cảm động đến phát khóc vội vàng ngăn Triệu Bạch Ngư lại: "Ngài đừng —— tay nghề làm chảy nhà bếp của ngài sẽ làm hỏng nước đường mà ta vất vả lắm mới nấu xong đấy. Đường này quý lắm, ngài đừng có làm bậy nha."

"..." Triệu Bạch Ngư hậm hực hất tay, vòng ra sau lưng làm văn nhân nho nhã, liếc mắt nhìn cái lò lửa suýt bị y quậy phá đốt hỏng, nhưng Nghiên Băng chỉ cần tùy tiện động chạm nó liền nghe theo ngay tức khắc, không thể không thừa nhận có một số việc cần có thiên phú mới làm được, "Có nấu thành đường trắng được không?"

Thời này chỉ có thể nấu được nước đường cơ bản, không có kỹ thuật làm đường hạt trắng như thời hiện đại, muốn chế biến ra đường trắng, tức đường phèn hay đường viên cũng cần phải xem vận may thế nào.

Nghiên Băng: "Ngài đoán thử xem?"

Triệu Bạch Ngư thì vẫn muốn chế biến đường hạt, chỉ tiếc đời trước y không có kiến thức liên quan đến phương diện này, bây giờ muốn ra oai thể hiện cũng không có chỗ để mà ra. Phất tay từ bỏ, Triệu Bạch Ngư chỉ đành xoay người đi ra hướng cửa trọ, gặp được Thôi phó quan.

Thôi phó quan cưỡi ngựa xuyên đêm mới về, vừa gặm bánh bao vừa hỏi Triệu Bạch Ngư ăn không.

Triệu Bạch Ngư từ chối: "Ta muốn uống cháo thôi."

Thôi phó quan: "Bây giờ án oan đã xong rồi, An Hoài Đức cũng bị bắt, vụ án Từ Châu chuyển giao cho Trịnh Sở Chi, chúng ta còn cần làm gì nữa?"

Triệu Bạch Ngư buông tay: "Không có việc nhẹ cả người." Y nhìn trởi một chút, nói: "Cứ việc ăn chơi đi, không lâu nữa phải hồi kinh báo cáo công việc rồi. Sau này không có cơ hội đến đây chơi nữa đâu, chỉ tiếc chưa ghé qua Dương Châu phồn hoa được thôi."

Thôi phó quan gật đầu một cái: "Cũng được. Ta mua nhiều bánh bao lắm, bây giờ đi hỏi tên nhóc Nghiên Băng có muốn ăn hay không đây."

Nói lời tạm biệt Thôi phó quan xong, Triệu Bạch Ngư tiếp tục đi không mục đích, sắp đến tháng mười một, thời tiết cũng thay đổi rõ rệt, ai cũng mặc thêm quần áo giữ ấm, cây cỏ khô héo, hai gốc cây đầy lá xanh đã rụng hết, cành nâu trơ trụi đen kịt lặng lẽ đứng giữa nền trời xanh xám.

Cây đào trước cửa nhà trọ đã kết nụ, nhưng còn chưa kịp nở đã héo, hoa nở trái mùa đúng là khó khăn.

Triệu Bạch Ngư nhìn cái cây chăm chú tới nỗi xuất thần, mãi đến khi nghe thấy tiếng vó ngựa lộc cộc liền vô thức lùi vào bên trong muốn tránh cho người ta đường đi, vài sợi tóc bị cơn gió từ đâu thổi đến xòa xuống, đột nhiên trước mắt y hoa lên, dư quang nơi khóe mắt liếc thấy một cánh tay áo bó sát màu đen đang vươn dài trên khoảng không, sau đó bên eo căng chặt, y bị kéo leo lên ngựa, vụt nhanh qua cửa nhà trọ.

Nghiên Băng đuổi theo phía sau kêu lên: "Ăn cướp —— không phải, bắt cóc! Có kẻ bắt cóc, cứu mạng —— Ngũ lang —— " Nó quýnh quáng lên: "Thôi phó quan, ngài mau chạy theo cứu Ngũ lang đi chứ!"

Thôi phó quan thong thả gặm bánh bao, quạu quọ nói: "Không cứu, bó tay, sự trong sạch của Ngũ lang nhà ngươi khó mà giữ được rồi, nấu sẵn một rổ trứng gà đỏ đi."

Nghiên Băng khó hiểu quay đầu: "Ngài biết kẻ xấu đó hả?"

Mặt Thôi phó quan đầy tâm sự: "Cái tên xấu xa kia chính là người nhiều lần cướp đi trong sạch của tiểu Triệu đại nhân đó."

Nghiên Băng sững sốt một chút, ngay sau đó cạn lời: "... Là tiểu quận vương."

Thôi phó quan nhún vai: "Nấu trứng gà đường đỏ đi, nghe nói bổ thận."

Nghiên Băng: "Không phải bổ máu ạ?"

"Vậy hả? Sao cũng được." Thôi phó quan liếm môi, vui vẻ xin xỏ: "Ta muốn ăn, làm cho một chén đi."

Nghiên Băng trợn mắt, quay đầu tiếp tục nấu nước đường.

***

Tuấn mã vụt qua cây cầu nhỏ, ra khỏi cổng thành, chạy thẳng xuống bãi nước cạn, nước chảy róc rách, trên đồng bằng phía trước có một hàng cỏ lau, nhìn kỹ mới phát hiện là cỏ khô dân thường gom lại, đi xa một chút lại thấy những đống cỏ khô giống vậy đang bốc cháy rừng rực.

Gió nhẹ phảng phất thổi qua gò má mang lại cảm giác hơi lạnh. Triệu Bạch Ngư thả lỏng người, tựa vào lồng ngực rộng rãi và ấm áp phía sau lưng, nhìn cánh tay đang nắm chặt dây cương, cổ tay đeo vòng Phật, còn cánh tay ôm siết lấy eo y thì cột khăn tay, mùi hương thiền quen thuộc vờn quanh chóp mũi, những suy nghĩ chộn rộn, nỗi nhớ nhung đứt quãng vốn quấn lấy y khoảng thời gian này trong phút chốc được xoa dịu.

Triệu Bạch Ngư vén lọn tóc bị gió thổi bay ra sau tai, không phát hiện đáy mắt và khóe môi mình đều chan chứa ý cười.

Khí chất của y mềm mỏng nhã nhặn, da thịt cũng trắng trẻo nhẵn nhụi, đường nét khuôn mặt cũng nghiêng về dịu dàng, quần áo tóc tai luôn chỉnh chu không tùy tiện, lúc nào cũng sạch sẽ trong sáng khiến cho người ta rất thoải mái, cũng yên lòng tin tưởng y, yêu thích y, vô thức cảm thấy rằng nếu như bỏ công yêu mến thì nhất định sẽ nhận được báo đáp làm cho mình vui vẻ.

Ngựa chạy dần đến cuối đồng bằng, rẽ vào một mảnh rừng cây khô, càng vào sâu trong rừng càng nhìn thấy được lớp sương lạnh dày bám trên rễ và ngọn cây.

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Đi đâu thế?"

Hoắc Kinh Đường không trả lời, chỉ phóng ngựa đến nơi sâu nhất rừng cây khô, đi vào một thung lũng, có lẽ là do bốn phía đều bị vách đá cao dựng đứng bao vây, cũng có lẽ là do bên dưới có mạch nước nóng ngầm, nên thảm cỏ trong thung lũng vẫn xanh mươn mướt, hoa dại mọc khắp nơi, còn có thể nghe được tiếng suối chảy róc rách.

Băng qua một hẻm núi rất dài nữa, tầm mắt liền được mở mang, có một cái động thiên khác, thác nước đổ xuống lưng núi từ tận trên đỉnh cao chót vót, đánh lên bọt nước trắng xóa, cách thác nước tầm mười thước là một cái ao, mặt nước vừa trong vừa tĩnh đủ để nhìn thấy được một đàn cá nhỏ đang tụ tập bên bờ ao.

Cách thêm hai mươi thước nữa từ ao sâu, chính là một căn nhà gỗ nhỏ.

Nhìn bề ngoài có hơi cũ nhưng rất sạch sẽ, không bị đóng bụi bặm, trước cửa nhà còn có một cái lò dựng bằng đá đơn sơ làm bếp, có lẽ là chỗ ở mà thợ săn trong rừng xây lên, mùa đông đi săn thú nếu gặp phải ngày tuyết rơi nhiều chắn đường ra thì có thể vào đây ở luôn, có điều không biết chủ nhân của nó là ai, vì sao Hoắc Kinh Đường lại biết ở đây có một nơi như thế này?

"Làm sao chàng biết chỗ này..."

Triệu Bạch Ngư vừa mới lên tiếng hỏi, đã bị Hoắc Kinh Đường siết lấy eo ôm xuống ngựa, rồi một tay đỡ lưng, một tay vòng qua hai chân giống như bế em bé, sải bước đi vào trong nhà gỗ, dường như là đang rất nôn nóng, thậm chí không mở cửa đàng hoàng mà giơ chân đá tung cửa rồi bước thẳng tới giường.

Trong phòng có cửa sổ trên mái nhà nên rất sáng sủa, chính giữa có một lò sưởi, sau cửa còn có mấy tảng than đá, bên phải thì chất một đống dụng cụ săn thú, còn bên trái chính là giường, trên giường có chăn gối mới sạch sẽ.

Triệu Bạch Ngư còn chưa kịp quan sát nhiều hơn thì trời đất trước mắt đã quay cuồng, đợi đến lúc hoàn hồn thì đã bị đẩy ngã trên chăn mềm. Tiểu lang quân giương mắt nhìn thấy Hoắc Kinh Đường cúi người xuống, quen đường tìm kiếm cánh môi của mình, dường như đang vội vàng muốn cho y nhớ lại hơi thở bao ngày đêm về trước.

Bàn tay của hắn cũng không thành thật, trêu chọc khắp nơi, bắt lấy bàn tay Triệu Bạch Ngư đang không biết để đâu đặt lên nút thắt đai lưng, nói: "Ta giúp em, tiểu lang cũng giúp ta nhé."

Hai tai, cần cổ đến xương quai xanh của Triệu Bạch Ngư nhanh chóng đỏ ửng lên như đánh phấn, y cũng kích động, không hề dè dặt hơn Hoắc Kinh Đường bao nhiêu.

Dù sao cũng đã bái đường thành thân, thông báo cho trời đất cha mẹ rồi, có làm quái gì thì thần linh cũng không dám nhìn lén.

Leng keng hai tiếng, đai lưng bạc rơi xuống đất, trường sam cũng tuột ra, giày bị đá văng sang chỗ khác, cửa sổ mái đang mở, nhìn lên thấy được bầu trời màu xanh xám không một gợn mây trắng, như thể thông qua giếng trời này nhìn ra được hết một vùng rừng khô hoang vu giữa mùa đông lạnh giá bên ngoài kia vậy. Sự yên tĩnh bao vây khắp nơi, các giác quan của con người ta cũng bị kích thích một cách lạ thường.

Tiếng thác nước chảy vang như sấm, nhưng qua tai chỉ còn là âm vang nhẹ nhàng tí tách, mồ hôi thấm ướt mái tóc dài đen nhánh, dây buộc tóc cũng đã bị rút ra, vài sợi tóc ngắn hơn rũ xuống dính sát gò má, Triệu Bạch Ngư nằm bên mép giường, thở hắt ra một hơi nong nóng, mi mắt rủ xuống, liếc nhìn sắc trời bên ngoài, hơi muộn.

"Giờ nào rồi?"

Cánh tay Hoắc Kinh Đường nhiễu mồ hôi, ngón tay thon dài giúp Triệu Bạch Ngư vén tóc bết dính trên mặt ra sau tai, ăn no thỏa mãn rồi lười biếng nói: "Chắc là giờ Mùi."

Triệu Bạch Ngư hoảng hồn, vậy mà quấn nhau hai giờ rồi?

"Ban ngày ban mặt tuyên dâm, không đứng đắn gì cả." Triệu Bạch Ngư nghịch bối vân của vòng Phật rủ trên người mình, thúc vai vào ngực Hoắc Kinh Đường nói: "Dính quá, không thoải mái."

Hoắc Kinh Đường: "Tắm nhé?"

Triệu Bạch Ngư ỉu xìu: "Lạnh."

Hoắc Kinh Đường cắn tai y, đáp: "Nước ấm." Nói rồi ôm lấy y, "Đi thôi, đi ngâm suối nước nóng."

Triệu Bạch Ngư ôm cổ Hoắc Kinh Đường mới thấy sau lưng hắn đều là vết cào mới cóng, trên bả vai còn có dấu răng rướm máu, ngón trỏ hơi dùng sức nhấn xuống chỗ đó.

"Ưm."

"Đau hả?" Triệu Bạch Ngư chọt chọt: "Sao lúc chàng đâm rút lung tung không biết làm chậm một chút?"

"Gấp quá." Hoắc Kinh Đường biết sai nhưng không hối lỗi, còn tự hào nói: "Không dằn lòng nổi, cứ tưởng nhà sắp cháy luôn rồi, lần sau chắc chắn sẽ mang theo hương cao theo bên người."

Hoắc Kinh Đường thả Triệu Bạch Ngư vào hồ nước ấm rồi cũng chui xuống theo, tựa vào thành hồ để cho y nằm trên người hắn.

Triệu Bạch Ngư: "Sao chàng biết chỗ này?"

Hoắc Kinh Đường: "Lúc tới ta tìm dân địa phương hỏi thăm." Hắn khựng lại, bổ sung: "Nhà trọ đông đúc tạp nham, phiền lắm."

Triệu Bạch Ngư lại vỗ vai Hoắc Kinh Đường một cái, nghe thấy tiếng rên khẽ của hắn thì ngạc nhiên nhìn sang, phát hiện gần chỗ đó còn có một vết thương rất hiểm, hình như không được xử lý và băng bó đàng hoàng, trải qua buổi vận động kịch liệt thì nứt ra, trở nên nghiêm trọng hơn một chút.

"Sao lại bị thương rồi?"

Hoắc Kinh Đường nhìn chằm chằm mặt Triệu Bạch Ngư: "Không có gì."

Triệu Bạch Ngư không dám đụng vào vết thương của hắn, mắt không di chuyển: "Sao có thể không có gì được? Vết thương còn mới mà, là bị cha chàng đâm à? Đừng nói với ta chàng không trả chiêu mặc cho lão đánh đấy nhé."

Hoắc Kinh Đường nuốt nước bọt, con ngươi đồng sắc dần dần tối lại, lòng bàn tay siết chặt chuỗi vòng, cố gắng kìm nén cảm xúc hưng phấn trong lòng.

Triệu Bạch Ngư không cảm giác được gì: "Có mang thuốc không?"

"Ở trong quần áo."

Quần áo để trong nhà rồi.

"Đừng ngâm nước nữa, vào nhà rồi nói." Triệu Bạch Ngư vẫn nhìn vết thương dữ tợn, cảm thấy cũng đau, mặt vô thức nhăn lại, mày cũng nhíu chặt như muốn khóc, "Chàng cũng thật là, có cái gì quan trọng hơn thân thể chứ?"

"Em."

"Chàng bớt lắm lời, cũng may không phải ở chỗ có nhiều mạch máu, bằng không dày vò cỡ đấy đã chết luôn trên giường rồi, có mời đại phu cũng không dẹp sạch nổi tin đồn chàng sắp chết đâu."

Triệu Bạch Ngư vừa nói chuyện vừa nhấc chân định bò lên bờ, ấy vậy mà lại đụng phải cái thứ mà y không thể tượng tượng nổi, lập tức ngẩng đầu trừng Hoắc Kinh Đường: "Chàng đứng đắn chút đi!"

"Ta đảm bảo, ta thề, tiểu lang bỏ qua cho ta một lần thôi nhé."

Bàn tay Hoắc Kinh Đường rất lớn, ngón tay cũng dài, tóm lấy gáy Triệu Bạch Ngư dễ như trở bàn tay, lật mình giam y cạnh vách đá của hồ nước, sóng nước dập dờn, Triệu Bạch Ngư trắng nõn như ngọc, tương phản thị giác mạnh mẽ đánh thẳng vào con ngươi.

Hoắc Kinh Đường cũng nhanh chóng dùng ngón trỏ chạm đến mắt Triệu Bạch Ngư, người nọ vô thức nhắm mắt lại, ngón tay kia liền vuốt ve lông mi mô tả dung mạo.

Triệu Bạch Ngư đang nhắm mắt, không nhìn thấy được niềm hăng hái ngập tràn trong đáy mắt Hoắc Kinh Đường, y cũng không biết dáng vẻ y nhịn khóc có thể kích thích người ta biết bao nhiêu, quanh mắt đỏ ửng, mày hơi nhíu lại, chóp mũi và gò má cũng nhuộm sắc hồng nhạt mà còn cố ép mình giữ vẻ mặt căng thẳng, dáng vẻ muốn khóc mà không khóc ấy vừa cứng rắn vừa mong manh, sạch sẽ muốn chết, cũng đáng yêu muốn chết.

Hoắc Kinh Đường phải siết chặt vòng Phật mới có thể nhịn xuống thôi thúc bắt nạt Triệu Bạch Ngư đến hỏng, vẫn là nên làm vừa phải thôi, dù sao thì hai người chỉ mới vừa kết hôn, nền móng tình cảm còn chưa sâu, da mặt của tiểu lang quân cũng mỏng quá, bắt nạt người ta đã đời xong mà bị ngó lơ nữa thì nguy to.

Thác nước bắn tung bọt nước trên phiến đá màu đen văng xuống mặt nước làm nó lay động, có con cá lội tới bị giật mình, vẫy đuôi bơi mất, còn mặt nước thì vẫn sóng sánh không ngừng.

***

Triệu Bạch Ngư khoác chiếc áo choàng to sụ của Hoắc Kinh Đường đi chân trần ra ngoài hiên, nhướn mày ngồi trước cửa xâu lại chuỗi hạt bị đứt vì vận động quá mạnh, sau đó nhìn Hoắc Kinh Đường nướng cá, có hơi khó mà chấp nhận được: "Cá này bắt từ dưới hồ đó lên sao?"

Hoắc Kinh Đường đang trét trái cây rừng lên thân cá, nghe vậy thì liếc nhìn Triệu Bạch Ngư: "Tiểu lang còn ghét bỏ đồ của mình sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Ta ghét chàng."

Hoắc Kinh Đường đáp lời với hàm ý sâu xa: "Tiểu lang thích thì cứ việc ăn thẳng."

Triệu Bạch Ngư: "... Mới ba tháng không gặp, tiểu quận vương thành lưu manh rồi sao?"

Hoắc Kinh Đường đưa cho y cá đã nướng chín, nhận lấy vòng Phật trong tay y, xoay mình nhảy lên hàng rào thấp ngồi xuống, một chân gác lên cột, một chân thả xuống đất, trên người chỉ khoác trung y lỏng lẻo, ở dưới thì mặc một chiếc quần dài gần khô, trông như chẳng sợ bị lạnh.

Tóc hắn xõa xuống, kết hợp với tướng ngồi ngang ngược buông thả kia, nói lời dễ nghe thì giống như Ngụy Tấn cuồng sĩ, nói khó nghe thì chính là lôi thôi lếch thếch.

Hoắc Kinh Đường tay xâu chuỗi hạt, chân nhấc lên cọ vào thắt lưng Triệu Bạch Ngư: "Ở Tây Bắc, ta nổi tiếng nhã nhặn đấy."

Triệu Bạch Ngư co lưng: "Chàng nhã nhặn? Ta thấy chàng lẳng lơ thì đúng hơn."

"Vậy tiểu lang thích thế nào?"

"Thích chàng im miệng."

"—— "

Gặm một miếng cá nướng, Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Tay nghề được đó." Hồi lâu không nghe thấy ai kia nói gì, thế là y quay đầu lại hỏi: "Tại sao không nói chuyện?"

Hoắc Kinh Đường đã xâu chuỗi hạt xong, đang nghịch vòng trên cổ tay mình, liếc nhìn Triệu Bạch Ngư một cái rồi làm động tác đừng lên tiếng.

"... Bây giờ thì ta thích chàng ít nói."

Hoắc Kinh Đường liền đáp: "Kỹ năng cần thiết khi hành quân."

"Tài nấu ăn hay là nướng cá?"

"Em đoán ta nhập ngũ là đi lên từ tiểu binh gì không?"

Triệu Bạch Ngư ngập ngừng: "Không phải là hỏa đầu quân chứ hả?" Thấy Hoắc Kinh Đường cười, y đứng bật dậy, cũng nhảy lên hàng rào ngồi, vừa gặm cá nướng vừa ngạc nhiên hỏi: "Thật à? Sao lại thế được, chàng đường đường là tiểu quận vương, lại còn ở trong quân đội của ông ngoại, sao mà một đãi ngộ đặc biệt cũng chẳng có? Có phải là do số chàng xui quá rồi không? Ôi, với tính tình của chàng lúc nhỏ thì nhất định là cái gai trong quân đội rồi, đối tượng cần được quan tâm chú ý."

Hoắc Kinh Đường cười nhìn Triệu Bạch Ngư đang liên tục chớp mắt, đột nhiên hắn nhận ra, dáng vẻ này của Triệu Bạch Ngư còn đáng thương đáng yêu hơn cả lúc y muốn khóc mà chỉ cố nhịn nữa.

A, lại phát hiện được một mặt khác của tiểu lang quân rồi.

"Có từng bị đánh mông không?"

"Có."

"Có thật à!" Triệu Bạch Ngư cũng không nhận ra con cá y chê đã bị ăn gần đến cái đuôi rồi, nhưng y chỉ cầm trong tay không ăn tiếp, "Mau kể xem, chuyện gì đã xảy ra?"

Hoắc Kinh Đường tự nhiên nhận lấy cá trong tay y giải quyết nốt phần còn lại: "Nửa đêm đói bụng chạy khỏi doanh trại, chạy ra bên ngoài bắt chó sói ăn."

Triệu Bạch Ngư bừng bừng hứng thú: "Bắt chó sói!"

Hoắc Kinh Đường vốn chính là nói đại vậy thôi, trong quá khứ hắn thật sự có hơi ngốc, chỉ thấy trong ánh mắt của Triệu Bạch Ngư toát ra sùng bái thì ngạc nhiên, lúc bị hắn làm khóc, lúc biết hắn là thủ lĩnh của thiết kỵ Đường Hà cũng không có như vậy, chỉ nghe hắn giết mỗi con thú dữ thôi mà sùng bài đến thế sao?

—— đúng là tức cười, nhưng có cơ hội tốt như vậy, Hoắc Kinh Đường chắc chắn sẽ không bỏ qua!

Hắn miêu tả đơn giản tình cảnh nguy hiểm nhất, từ lúc gặp chó sói, đến lúc bắt được sói, rồi làm bạn cùng con sói đầu đàn, sau đó là bị người ta phát hiện tự ý rời doanh trại rồi ăn đòn năm mươi gậy, phạt đến hỏa đầu quân phụ trách cơm nước cho cả doanh.

Từ lúc nào, Triệu Bạch Ngư đã ngồi vào sát bên cạnh Hoắc Kinh Đường. nắm lấy cánh tay hắn và vẫn luôn căng thẳng nắm chặt, cuối cùng cũng thở phào nhẹ nhõm: "Thú vị ghê."

Giống hệt như hiệp khách thiếu niên truyền kỳ trong thoại bản ở dân gian vậy.

Triệu Bạch Ngư tránh chỗ vết thương đã bôi thuốc, bóp bóp cánh tay Hoắc Kinh Đường, rất rắn chắc, vừa nhìn đã biết nó tràn đầy sức mạnh, quả thật là sức khỏe có thể đánh bại sói đầu đàn.

Không biết dáng vẻ của Hoắc Kinh Đường thời niên thiếu như thế nào, có phải là một kẻ ngang ngạnh khó thuần như sói, ánh mất nhìn người khác lúc nào cũng tàn bạo và đầy phòng bị hay không?

Triệu Bạch Ngư nói suy nghĩ mà mình hoài nghi ra, Hoắc Kinh Đường lập tức lân la nói sang chuyện khác: "Còn đói không?"

"Cũng hơi."

"Năm đó ta ở hỏa đầu quân còn học được nhiều lắm, đợi một lát nữa vào núi bắt thỏ hoang, buổi tối làm đồ ăn ngon một chút..."

"Buổi tối không về thành sao?"

"Ngủ ở đây một đêm."

"Được thôi."

Chủ đề nói chuyện cứ như vậy vui vẻ kết thúc, Hoắc Kinh Đường thầm thở phào trong bụng.

Triệu Bạch Ngư cười híp mắt ngắm nhìn cảnh vật trong thung lũng, trong đầu tính đến chuyện về nhà sẽ tìm Hải thúc hoặc là Thôi phó quan hỏi thăm, dù sao Hoắc Kinh Đường cũng không muốn nói, có nói thì trăm phần trăm cũng sẽ giấu giếm đủ thứ, không bằng đi tìm người khác hỏi.

***

Mặt trời ngã về phía tây, Nghiên Băng nấu xong trứng gà đường đỏ rồi mà không thấy Ngũ lang và tiểu quận vương quay về, nó chỉ đành cùng Thôi phó quan ngồi trước cửa mỗi người uống một chén, vừa uống vừa nói chuyện phiếm.

"... Kể cũng lạ, vì sao tiểu quận vương lại là tiểu quận vương? Hắn cũng đâu còn nhỏ nữa đâu."

"Mười lăm tuổi tướng quân đã đại thắng Đột Quyết, khải hoàn hồi triều, trong tiệc rượu, khi đang nói đùa thì bệ hạ bảo muốn cho tướng quân tập tước ngay lập tức. Theo luật, con cái tập tước phải thấp hơn một bậc, cha của tướng quân là vương gia thì thấp hơn là quận vương. Ngươi biết quân không nói đùa mà, mặc dù không hạ chỉ, nhưng trên dưới trong triều đều biết chuyện này, lại có thêm Khang vương thích đùa nên cứ luôn gọi hắn là tiểu quận vương, bệ hạ cũng không phản đối, dần dà cũng gọi như vậy rồi, không đổi được. Hơn nữa..."

"Hơn nữa gì?"

Thôi phó quan ngó trước sau trái phải, ngẩng đầu nhìn nóc nhà và ngoài tường: "Ngươi không biết, dáng dấp của tiểu quận vương năm mười lăm tuổi như thế nào đâu."

"Tất nhiên là ta không biết rồi, ngài đừng vòng vo nữa, nói nhanh chút đi ạ." Nghiên Băng đang rất nôn nóng.

"Trông giống như tiên nữ vậy."

"Hả?"

Thôi phó quan gật đầu như đinh đóng cột: "Vô cùng giống như cô của ta."

"Cô của ngài?"

"Mẹ của tướng quân chính là cô của ta, nghe nói bà ấy là đệ nhất mỹ nhân phủ Kinh Đô, nữ tướng duy nhất của Tây Bắc, cũng là diễm quan Tây Bắc. Đến năm mười tuổi, vóc người tướng quân vẫn còn nhỏ nhắn chứ không chịu trổ mã, lại được nuôi dưỡng trong hoàng cung, tên chó đó đúng là biết cách làm cho người ghét quỷ ngại. Lúc mới đến Tây Bắc, hắn chính là một mầm họa đấy, ngươi có biết dùng mũi nhìn người khác là như thế nào không?"

Thôi phó quan còn làm thử biểu cảm nhìn người bằng mũi, cực kỳ buồn cười.

"Mặc dù cách xử sự của tên chó này đúng là khiến người ta muốn đánh, nhưng doanh trại mà, trong đám đàn ông thối cao to thô kệch đột nhiên có một đứa con nít vô cùng chú trọng sạch sẽ, người ngợm trắng trẻo còn thơm mùi đàn hương, thậm chí không thể phân biệt rõ là nam hay nữ xuất hiện. Ôi thôi, có kẻ thật sự nuông chiều cái tính tình đáng ghét của tướng quân đấy, nam nữ gì cũng không thiếu."

"Trong quân doanh còn có phụ nữ sao?"

"Là phụ nữ trong huyện thành gần đó, đặc biệt là —— nữ hương binh Tây Bắc. Các nàng lợi hại lắm, không thua gì nam nhi Tây Bắc, cũng là người tình trong mộng của đấng đàn ông ở đây. Chỉ tiếc không có cô nào thèm để ý đến hán tử Tây Bắc hết." Thôi phó quan đau lòng nói: "Ấy vậy mà các nàng lại đi thích tướng quân!"

Nghiên Băng vừa tò mò vừa cảnh giác: "Tiểu quận vương được chào đón ở Tây Bắc như vậy, thế mà không có hồng nhan tri kỷ sao?"

"Ai mà chịu nổi cái nết chó má của hắn được?" Thôi phó quan lại lén lút tiết lộ cho nó nghe: "Nhưng thật ra lúc tướng quân còn nhỏ cũng từng có cả nam lân nữ tâm cơ tự tiện leo lên giường hắn, thủ đoạn dơ bẩn, hắn liền đánh gãy chân rồi đuổi ra ngoài hết. Tướng quân là tướng tài trời sinh hiếm thấy, cũng là kỳ tài võ học, trừ ông nội và bác cả của ta ra, mười ba tuổi hắn đã đánh khắp Tây Bắc không ai sánh bằng rồi. Chậc chậc, ngươi chưa từng thấy tướng quân ra tay đâu, vừa độc vừa ác, cực kỳ nham hiểm..."

"Có lẽ vì vậy mà tướng quân rất ghét chuyện đó, sau này lớn lên rồi thì không bị nhận nhầm thành nữ nữa, mặt mũi càng ngày càng khó ưa, mắt cũng sắc, vậy nên căn bẳn không ai dám lại gần hắn."

"Mà này, ngươi có thể đừng nói cho tiểu Triệu đại nhân biết được không. Bây giờ tướng quân của bọn ta đã trưởng thành chững chạc, tính tình cũng mềm mỏng lương thiện hơn rồi."

Lúc nói ra lời này, lương tâm Thôi phó quan nhói đau.

Nghiên Băng vùi đầu ăn trứng chần: "Dạ dạ, ta không nói đâu."

***

Thủ dụ của Nguyên Thú đế đã đến phủ Dương Châu, Trịnh Sở Chi vô cùng vui vẻ, vội cho người thu dọn gia sản, yêu cầu phủ Dương Châu phái binh bảo vệ phạm nhân, đưa Tư Mã Kiêu cùng An Hoài Đức về Kinh Đô.

Nhân chứng quan trọng như Tôn Phụ Ất và Hoàng Thanh Thường cũng cần phải đưa về Kinh, có điều Trịnh Sở Chi vẫn hơi lo sẽ bị Triệu Bạch Ngư cản trở.

Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, thì bệ hạ đã bổ nhiệm cho lão làm chủ thẩm vụ án, Triệu Bạch Ngư mà dám cản thì chính là kháng chỉ.

Trịnh Sở Chi vỗ đầu: "Xem ta vui tới nỗi hồ đồ này." Rồi nhanh chân tìm người dặn dò: "Đến huyện Giang Dương nói một tiếng đi, ta phải đưa Tôn Phụ Ất và Hoàng Thanh Thường đi rồi."

Chương 42

Tờ mờ sáng hôm sau, Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường lặng lẽ chạy về nhà trọ, thay bộ quần áo nhăn nhúm ra, giúp đối phương chải đầu, hai người ở bên cửa sổ thì thầm to nhỏ.

"Sang năm là hai mươi rồi, muốn chọn ngày tốt làm lễ nhược quán* không?"

(*) Nhược quán: thời xưa gọi thanh niên khoảng 20 tuổi là nhược quán.

"Tùy chàng thôi."

Triệu Bạch Ngư không để tâm lắm.

Hoắc Kinh Đường liếc nhìn Triệu Bạch Ngư, gật đầu một cái: "Ta biết rồi."

Triệu Bạch Ngư nghiêng đầu: "Chàng không sao chứ?"

Hoắc Kinh Đường cầm gương đồng soi kiểu tóc y: "Thế nào?"

Tóc đen được búi lên cẩn thận gọn gàng trên đỉnh đầu, dùng một cây trâm ngọc màu xanh để cố định lại, quanh búi tóc quấn một dây vải màu xanh nhạt, cái gáy trắng nõn lộ ra, dấu vết màu đỏ tím như ẩn như hiện nơi cổ áo, tất nhiên là Triệu Bạch Ngư không hề nhìn thấy nó.

Y ngắm nhìn một chút, chắc chắn không có vấn đề gì nữa liền đứng dậy, giũ giũ tay áo bào rộng, đứng nghiêm người nói: "Ngày nào đó nếu chàng sa sút thì có thể dùng tay nghề này ra ngoài làm thợ tóc được đấy, cỡ này thì cũng đủ để người ta tha thứ cho thói xấu chỉ biết chặt đầu không biết cạo đầu của chàng rồi."

Hoắc Kinh Đường bị y chọc cười: "Nếu ta mà sa sút thì chỉ cần tiểu lang nuôi ta thôi."

"Nuôi, bây giờ nuôi luôn." Triệu Bạch Ngư hào phóng vẫy tay: "Đi ăn cháo không, ta biết chỗ bán cháo ngon nhất ở đây."

Nói xong thì đi về phía trước, Hoắc Kinh Đường chắp hai tay sau lưng khảy vòng Phật, nhàn nhã đi theo bên cạnh Triệu Bạch Ngư. Hai người vừa ra đến sân đã gặp Hoàng Thanh Thường và Thôi phó quan, thế là chia nhau chào hỏi.

Triệu Bạch Ngư: "Các ngươi đi đâu thế?"

Thôi phó quan: "Tín sứ* của Trịnh Sở Chi đang chờ ở Nha môn, nói là phụng khẩu dụ của bệ hạ, phải đưa Hoàng cô nương và Tôn Phụ Ất hồi Kinh để điều tra."

(*) Tín sứ: người đưa tin/thư

"À, thế đã ăn gì chưa?"

Hai người đều hơi sững sốt, không biết làm sao lại chuyển đến chủ đề này rồi.

Triệu Bạch Ngư cười dịu dàng: "Ta mời các ngươi đi ăn cháo."

Thôi phó quan: "Nhưng tín sứ của Trịnh Sở Chi..."

Hoắc Kinh Đường: "Cho dù muốn đi Kinh Đô thì cũng phải lấp đầy cái bụng đã rồi mới lên đường chứ, đi thôi."

Tướng quân đã lên tiếng, Thôi phó quan không dám nói hai lời.

Hoàng Thanh Thường thấp giọng hỏi: "Tín sứ có khẩu dụ của bệ hạ, tiểu Triệu đại nhân làm như vậy... Có khi nào bị nói là kiêu căng liều mạng, bất kính với lời Thánh thượng không?"

"Trời cao hoàng đế xa, huống chi người tới cũng chỉ là tín sứ của Trịnh Sở Chi thôi, không phải tâm phúc của bệ hạ, ngươi ta băn khoăn, nhưng tiểu Triệu đại nhân và tướng quân thì không. Lại nói Trịnh Sở Chi kia tự cho rằng mình tính kế tiểu Triệu đại nhân thành công, nếu tiểu Triệu đại nhân không bị trêu đến nỗi tức giận, có lẽ sẽ khiến cho lão ta cảm thấy khó chịu đấy."

Hoàng Thanh Thường không hiểu quan trường trăm mối rắc rối, vậy nên cũng dứt khoát không nghĩ đến nữa, dù sao thì nàng cũng tin tưởng Triệu Bạch Ngư.

Lúc này, trong Nha môn huyện Giang Dương, tín sứ của Trịnh Sở Chi đợi mãi mà cũng không thấy Khâm sai đưa Hoàng Thanh Thường tới, đến cả Tôn Phụ Ất vốn bảo sẽ đưa tới cùng cũng vẫn còn đang bị nhốt trong nhà lao, không có tên nha dịch nào chịu nghe lời, gã tức tối đến mức mắng không thèm lựa lời, nói Khâm sai đã quái gở mà đầu óc bụng dạ còn hẹp hòi, không chịu nổi vì bị cướp công, còn kiêu căng liều mạng xem thường bệ hạ vân vân.

Sai dịch trong Nha môn đa số là người bình thường, dùng hai con mắt cũng nhìn ra được Khâm sai là quan thanh liêm, nào nhẫn nhịn được cái tên ăn nói bậy nói bạ này? Thế là cứ tiếp tục rót nước trà, nhốt gã lại trong phòng, bất kể có đập cửa thế nào cũng không mở.

Chờ đến lúc đám người Triệu Bạch Ngư về đến Nha môn gặp tín sứ, vừa đi đến cửa đã nghe mùi lạ, đồng loạt lui về phía sau ba bước, im lặng nhìn tín sứ đang đi tiểu vào ấm trà.

Người nọ xấu hổ mắt trợn trắng. ngất xỉu ngã xuống, nha dịch đi theo sau cùng nên không nhìn thấy cảnh tượng đó, vội vàng nhấc ấm trà lên tưới vào mặt tín sứ gọi gã tỉnh lại.

Tín sứ chậm chạp tỉnh lại, thấy Khâm sai liền nhớ lại mình mới bị tưới nước lên mặt, nhất thời nộ khí công tâm, vô thức liếm giọt nước lăn trên mặt, kết quả nếm được vị khai, rồi gã nhìn ấm trà trong tay sai dịch, tự khẳng định rằng Khâm sai bỡn cợt mình nên tức thở hổn hển không ngừng.

"Chuyện hôm nay, ta chắc chắc sẽ bẩm báo với Vận phó đại nhân, Khâm sai ngươi đùa bỡn với tín sứ, coi thường Thánh dụ, thân là Khâm sai mà làm việc qua loa, cố tình giam giữ phạm nhân và bằng chứng làm trễ nãi đại án, tội trạng này mà cáo đến ngự tiền, để ta xem coi ngươi gánh tội thế nào!"

"Khâm sai gánh tội thế nào cũng không cần ngươi quan tâm. Nhưng trừng trị cấp dưới ngươi tội xem thường cấp trên, cũng đủ để bổn vương lấy cái mũ trên đầu ngươi xuống rồi."

"Bổn vương...? Ngài là?"

Thôi phó quan trừng mắt quát: "To gan! Thấy Lâm An quận vương mà không quỳ xuống?"

Bịch một tiếng, tín sứ quỳ sụp xuống đất, đầu đầy mồ hôi hột, mà cũng không biết là mồ hôi lạnh hay là nước tiểu nữa.

"Hạ quan tham kiến quận vương điện hạ."

"Ngươi vậy mà lại dám chó cậy thế chủ, một tên tiểu quan thất, bát phẩm mà dám mắng chửi Khâm sai, người mà quan nhất phẩm thấy cũng phải lễ độ không tiếc lời, mũ cao trên đầu y chính là từ Ngự sử đài mà ra, nghe thấy bản lĩnh này của ngươi cũng phải chịu thua đấy."

"Hạ quan, hạ quan không dám! Hạ quan sợ hãi!"

Hoắc Kinh Đường ngồi trên công đường, rất tự nhiên vỗ băng ghế bên cạnh, ra hiệu cho Triệu Bạch Ngư ngồi xuống theo mình, sau đó liếc nhìn người đưa tin hồi lâu mà không nói gì, đến khi gã ta bị nhìn đến độ lòng sợ loạn lên mới cất tiếng: "Nói thử ta nghe, tiểu lang quân nhà ta làm việc qua loa, xem thường Thánh dụ thế nào."

"Cái này, không phải, ta... Hạ quan, y..." Tín sứ lắp ba lắp bắp: "Thủ dụ của Thánh, Thánh thượng, lệnh cho Trịnh vận phó toàn quyền xử lý vụ án An Hoài Đức và Tôn Phụ Ất, kêu Khâm sai tiếp nhận hai triệu lượng bạc đi cứu nạn Từ Châu, vốn, vốn Vận phó đại nhân bảo ta đến điều Tôn Phụ Ất và nhân chứng quan trọng là nữ cô nhi Hoàng thị hồi kinh, hạ quan là... Vì chức trách thôi —— "

"Bệ hạ có nói ngày giờ nào hồi kinh không?"

"Bệ hạ chỉ nói lên đường ngay trong ngày."

"Nhưng không có ý nói giờ giấc cụ thể, Trịnh Sở Chi sốt ruột nên cuống cuồng lên, đến cả thời giờ để người ta ăn sáng cũng không cho, là vì chột dạ hay là sợ bị người khác đoạt công?"

Tín sứ không nhịn được, gã lau khuôn mặt ướt sũng của mình, ấp úng không nói nên lời.

Hoắc Kinh Đường không trông đợi gã có thể nói ra nguyên nhân gì, hắn chỉ cần ngồi đây nửa buổi không nói lời nào thôi cũng đủ dọa cho tín sứ kia bệnh nặng một trận rồi.

Thời gian trôi qua từng phút một, cuối cùng Triệu Bạch Ngư cũng lên tiếng: "Nếu là ý của bệ hạ, tự khắc không thể trễ nãi. Thôi phó quan, phiền ngươi vào nhà lao một chuyến, đưa Tôn Phụ Ất ra giao cho vị này, cũng làm phiền Hoàng cô nương hồi kinh cùng với tín sứ, Đại lý tự và bộ Hình sẽ tự tra rõ oan án năm đó, đòi lại công bằng cho Hoàng thị nhà cô."

Thôi phó quan: "Vâng."

Hai mắt Hoàng Thanh Thường rưng rưng nước: "Đa tạ đại nhân."

Tín sứ cũng liên tục nói cảm ơn.

Triệu Bạch Ngư: "Ta còn có lời mong tín sứ thay mặt truyền đạt giúp."

Tín sứ: "Xin đại nhân cứ việc dặn dò."

Triệu Bạch Ngư: "Trịnh đại nhân nhìn rõ mồn một, bổn quan bái phục. Chẳng qua là ăn một miếng cũng không thể mập nổi, đừng để bụng khó tiêu hại chết bản thân. Tất nhiên bổn quan chân thành chúc mừng Trịnh đại nhân một bước lên mây, mọi việc như ý, nhưng chớ lộn nhào quá trớn, coi chừng lộn mất mạng đấy."

Tín sứ sợ hãi nuốt nước bọt, lời này tràn đầy mùi khói thuốc, quả nhiên Khâm sai đã ghi thù Vận phó chơi y một cú.

"Đúng rồi, sẵn tiện giúp bổn quan nói thêm một câu nữa." Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên nói: "Trịnh đại nhân nói ông ấy tán thưởng bổn quan, bổn quan cũng rất tán thưởng ông ta, quận vương phủ luôn mở cửa, lúc nào cũng chờ đại nhân ghé chơi."

Tín sứ: "Hạ quan chắc chắc chắn sẽ truyền đạt đầy đủ lời của ngài, tuyệt đối không dám nói sai nửa câu!"

Triệu Bạch Ngư cười điềm đạm: "Vậy ta an tâm rồi. Ơ kìa, có chuyện gì xảy ra thế này? Không ai nhắc nhở bổn quan cho tín sứ ngồi sao? Ngươi đứng đi, đứng lên ngồi."

Tín sứ: "Hạ quan không dám, hạ quan sợ hãi."

Triệu Bạch Ngư: "Bổn quan bảo ngươi ngồi thì cứ ngồi, tránh để truyền ra là bổn quan nhỏ nhen, mượn tay ngươi vả mặt Trịnh đại nhân, rồi người ta thừa cơ tố cáo bổn quan thì sao."

Tín sứ vội xếp re ngồi xuống, bị ăn một gậy phủ đầu nên sợ hãi cụp mắt cúi đầu, không kiêu căng hống hách như lúc nãy nữa, càng không dám nghĩ đến chuyện tỏ ra bất kính.

Tuy nói chó cậy thế chủ đúng là lẽ thường tình, cứ cho rằng Triệu Bạch Ngư bị cướp công, nhưng trước mắt y vẫn là Khâm sai, là quận vương phi, cũng là con trai của Tể tướng, nếu còn chưa đến độ sa sút, không phải nói đạp là có thể đạp hay sao?

Cũng chỉ có tín sứ thấy lúc Trịnh vận phó nhắc tới Khâm sai luôn dùng giọng điệu khinh miệt, bày ra thái độ Phủ dụ sứ không đủ gây sợ hãi cho lão, thật sự cho rằng có Thánh dụ làm chỗ dựa nên có thể không lễ độ với Khâm sai, há mồm ngậm miệng là mắng Khâm sai xem thường triều đình và bệ hạ, trong lời nói dường như còn có ý muốn đến ngự tiền tố cáo người ta.

Nếu những lời này thật sự bị truyền vào phủ Kinh Đô, tới tai Ngự sử đài, nói không chừng sẽ bị gấp sổ tố lên đến ngự tiền mất.

Đổi lại là người khác đã sớm tìm lý do trừng trị cái tên tín sứ này rồi, Triệu Bạch Ngư chẳng qua chỉ hù dọa gã chứ chưa làm khó dễ, đúng là một người vô cùng khoan dung.

***

Thôi phó quan hành động nhanh chóng, đưa Tôn Phụ Ất vai đeo gông xiềng đến chỗ tín sứ. Lúc tín sứ ngẩng đầu nhìn mặt Thôi phó quan liền bị dọa tới nỗi mềm chân, bật thốt lên 'Khâm sai thứ tội', nhưng gã lại nghe Thôi phó quan chế nhạo, chỉ Triệu Bạch Ngư phía sau nói y mới là Khâm sai.

Vì từ đầu đến cuối tín sứ bị Hoắc Kinh Đường uy hiếp không dám ngẩng đầu lên, cho nên cũng không biết dáng vẻ của Khâm sai thế nào, đến lúc nhìn rõ rồi liền bối rối.

Đây không phải là thị vệ của Khâm sai sao?

Y mới là Khâm sai thật?

Tín sứ ôm lòng hoài nghi quay về Dương Châu phục mệnh, báo cáo việc này cho Trịnh Sở Chi biết, coi thái độ thờ ơ của Trịnh Sở Chi, hiển nhiên là đã biết từ lâu rồi.

Suy tính một chút, tín sứ chợt hiểu ra, vậy là đại nhân đã biết thân phận của Khâm sai từ trước, mượn việc này bày mưu tính kế người ta, đặt trường hợp là ai cũng sẽ không thoải mái gì cho cam, mà gã còn tới địa bàn người ta để khiêu khích, còn chẳng phải là làm bao cát để trút giận sao?

Vẻ mặt tín sứ trở nên đau khổ, tự nhận mình xui xẻo.

Trịnh Sở Chi lại hỏi gã còn gặp phải chuyện gì ở Giang Dương, tín sứ khó khăn miêu tả lại buổi gặp gỡ đó.

Trịnh Sở Chi nghe xong, vuốt bộ râu quai nón cười nói: "Nếu Triệu Bạch Ngư thờ ơ, ta mới lo lắng y đào hố bẫy chờ ta nhảy xuống. Y mượn ngươi trút giận là để chửi xéo ta, nhưng cũng nói rằng y thua ta một nước, lúc này chắc là đang tức tối lắm đây. Lui xuống đi, lệnh cho người lập tức lên đường hồi kinh, tránh cho đêm dài lắm mộng."

Tín sứ lui ra, phụ tá nghiêm mặt bước đến: "Ta thấy trong lời nói của Khâm sai dường như có ý khác."

"Trò lừa bịp vặt vãnh để bắn tiếng đe dọa mà thôi." Trịnh Sở Chi khoát tay: "Y đã ngã trước mặt ta, nhất định sẽ tìm lại mặt mũi từ nơi khác rồi. Có điều ta hành quân đánh giặc nhiều năm, lúc ta đang bày binh bố trận ngoài kia, Triệu Bạch Ngư vẫn còn đang trong bụng mẹ —— y vẫn còn quá non nớt."

Phụ tá: "Đánh chó phải nhìn mặt chủ, hơn nữa quan trường hiểm ác, vốn là nơi ngươi chết ta sống, năng lực của Khâm sai không bằng người nên phải chịu thua thôi, làm sao dám ngang ngược trên đầu ngài chứ?"

Trịnh Sở Chi đáp: "Một con chó thôi, đánh cũng đánh rồi, coi như là ta đền bù cho Khâm sai đi." Lắc lắc đầu, lão lại nói: "Khâm sai còn trẻ tuổi, bị ta dùng làm đá lót đường, nuốt không trôi cục tức này mà cũng chỉ có thể chót lưỡi đùa ác, ta cần gì phải so đo với y chứ?"

Phụ tá: "Đại nhân độ lượng."

***

Đại án Hoài Nam truyền ra, triều đình khiếp sợ.

Bắt An Hoài Đức và Tư Mã Kiêu, tỏ rõ chĩa mũi dùi về phía Đông cung, nhất thời môn đảng Thái tử ai nấy đều tự biết nguy hiểm.

Quan triều cũng cho rằng đợt sóng gió ở Hoài Nam này sẽ do Khâm sai vén màn, nào ngờ người đó là Trịnh Sở Chi thâm sâu thuần thục vẫn luôn bo bo giữ mình, chẳng lẽ tranh chấp giữa phủ Trịnh quốc công và Đông cung lại rõ ràng không che đậy nữa?

Nhưng mà Tần vương vừa ngã xuống không lâu... Suýt chút nữa đã quên, còn có Lục hoàng tử nữa.

Một đối thủ mạnh trên bàn cờ tranh trữ quân đã bị lơ là nhiều năm trời, không ít triều thần nhanh trí nhớ đến Lục hoàng tử, trong lòng bắt đầu tính toán lại toàn cuộc.

Đông cung và phủ Ngũ hoàng tử không phải chuyện triều thì không tiếp khách, cửa điện trung cung cũng đóng chặt, không thấy mệnh phụ, lại tựa như không quá mức khác biệt so với thường ngày, chẳng lẽ đã sớm có sắp xếp? Nhưng khí thế của phủ Trịnh quốc công mãnh liệt, đại án Hoài Nam lại không phải chuyện đùa, thậm chí sâu hơn cả án gian lận thi cử ở Giang Nam, làm sao ứng phó kịp?

Quan triều cũng là người trong cuộc, nhưng lại không đoán ra được gì, hoảng sợ tìm đến phủ chư vị Tế chấp cầu tìm biện pháp.

Nhưng Tế chấp cũng làm quan thành tinh rồi, mở miệng chỉ nói chuyện trời trăng mây gió, ngậm miệng không nói quốc sự chính sự, tỏ rõ không quan tâm, quan triều cũng gấp đến độ vây quanh rồi nhưng không thể làm được gì.

***

Đông cung.

Ngũ hoàng tử phiền muộn: "Nhị ca, chuyện gì xảy ra với Tư Mã Kiêu vậy? Không phải là chúng ta đã gửi tin từ sớm bảo ông ta cướp lại bạc cứu trợ rồi sao, sao có thể bị họ Trịnh kia hớt tay trên chứ?"

Thái tử ấn lên huyệt thái dương đau nhức: "Trong thư hồi âm có nói, Tư Mã Kiêu chậm một bước, nhưng có nói cho ta biết một chuyện cũ có liên quan đến Tĩnh vương và Hoa thị năm xưa."

"Đã là lúc nào rồi còn nói chuyện xưa? Bây giờ đệ chỉ sợ An Hoài Đức cắn chết chúng ta thôi, những năm nay bên ngoài lão ta là môn đảng của chúng ta, không ai biết lão có quan hệ với Tĩnh vương, Tĩnh vương dễ dàng thoát khỏi hiềm nghi, lại kéo chúng ta xuống nước đơn giản như trở bàn tay." Ngũ hoàng tử nói: "Mấu chốt chính là thái độ của phụ hoàng, đến giờ phút quan trọng này mà ông ấy còn có ý để cho huynh giám quốc, chuyện triều lớn nhỏ gì cũng ném cho huynh, một thân một mình đi câu cá ở hồ Long Đình cả ngày, không gặp mẫu hậu, nhưng cứ luôn dặn người bên chỗ mẫu hậu lo cơm nước, rốt cuộc là đang tin tưởng mẫu hậu và Nhị ca thật, hay là muốn khiến chúng ta buông lỏng cảnh giác đây?"

Thái tử: "Đệ cũng biết thời gian gấp gáp, chẳng lẽ Tư Mã Kiêu không biết ư? Sao bỗng dưng lão lại nhắc đến chuyện xưa? Lão nói cho ta biết trong tay Tĩnh vương có đan thư thiết quyển, chính là dù có mưu phản cũng không chết được. Ôi, đệ còn nhớ Tứ đệ không?"

"Tứ ca?" Ngũ hoàng tử không hiểu lúc này còn nhắc đến Tứ hoàng tử dường như đã ẩn mình kia rồi, "Tứ ca không được phụ hoàng thương yêu, có liên quan đến chuyện này... Đệ biết, Nhị ca muốn mượn chuyện năm xưa Tứ ca nói giúp Tĩnh vương khiến cho phụ hoàng ghét bỏ, để nói cho đệ biết phụ hoàng căm thù Tĩnh vương bao nhiêu đúng không?"

"Ừ." Thái tử đáp: "Thiên tai nhân họa, dân chúng Hoài Nam đã vào thế dầu sôi lửa bỏng, triều đình và phụ hoàng cũng chẳng tốt hơn, Tĩnh vương còn rưới thêm dầu sôi, độ điên nói là ác còn chưa đủ, trên còn có di huấn của Thánh tổ, không ai lay chuyển được lão ta, không Thiên tử nào đủ sức nhẫn nhịn trước nỗi khuất phục này! Ta thật sự không dám tưởng tượng được sao phụ hoàng có thể dễ dàng tha thứ cho chiếc xương cứng kẹt trong cổ họng hai mươi mấy năm như Bát thúc, đổi lại là ta, dù cho có mang tiếng xấu trong thiên hạ này ta cũng phải diệt trừ ông ta!"

"Huống chi chuyện đóng binh còn chưa được phơi bày, nếu như tung ra, thật sự không biết phụ hoàng sẽ ra sao, càng không biết ngươi ta sẽ vượt qua kiếp nạn này thế nào."

Ngũ hoàng tử: "Binh nằm trong tay An Hoài Đức, Tư Mã Kiêu không đụng đến binh Hoài Nam, người dưới trướng cũng không có dấu vết lui tới, đóng binh thì có liên quan gì đến chúng ta chứ? An Hoài Đức không cho Tư Mã Kiêu đụng vào tư binh, lão thường tức đến độ nhảy dựng lên, Nhị ca còn từng hoài nghi lão có dụng ý khác, nhưng trước mắt đây đã thành cơ hội để chúng ta lẩn thoát, có gì đâu mà lo lắng?"

Thái tử thở dài, giữa hai hàng lông mày ẩn chứa sự tức giận không thể giải bày: "Nếu như người bên dưới không từng lui tới thì tốt! Cái lão Tư Mã Kiêu ngu xuẩn này thật sự nên chết trên bụng đàn bà, lão chiếm đoạt tiền thuế của nhân dân ở Hoài Nam, sổ sách bị An Hoài Đức giữ, bạc hằng năm chúng ta chuyển cho An Hoài Đức đều bị ông ta ghi chép lại, vừa vặn có thể đối chiếu với sổ sách trong tay Tư Mã Kiêu, đó mới là chứng cứ thiết thực nhất để quật ngã cô!"

Ngũ hoàng tử như nghe như sấm giữa trời quang, gã ngã ngồi xuống ghế, hồn vía lạc mất, hỏi: "Vậy, làm sao đây?"

Thái tử: "Nghĩ cách moi sổ sách trong tay An Hoài Đức ra, nếu không được nữa thì chặn đánh giữa đường!"

Ngũ hoàng tử sửng sốt: "Nhưng nếu như xảy ra chuyện gì, chúng ta sẽ bị nghi ngờ mất."

Thái tử: "Chỉ cần chết không đối chứng là được, sự thật không phải chỉ cần để người sống nói thôi sao? Huống chi một mình An Hoài Đức chết, còn có Bát thúc ra đón đầu mà."

Ngũ hoàng tử suy ngẫm một phen, vẫn không yên tâm hỏi: "Nếu như hướng này không ổn thì sao?"

"Nếu hướng này không ổn thì..." Thái tử mở mắt, nhìn về phía bầu trời ngoài cửa sổ: "Nếu không ổn, thì chỉ có thể muối mặt tìm Lục đệ nói chuyện thử thôi."

***

Từ Châu, Hoài Nam.

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường chở hai triệu lượng bạc cứu trợ thiên tai tự tay giao cho Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu, sau khi kiểm tra sổ nhỏ cứu trợ năm trước liền yên tâm giao tất cả cho Hạ Quang Hữu, dù sao thì việc này có nhiều danh mục cần làm rõ, vẫn nên giao cho người có kinh nghiệm lại tận tâm đi làm thì tốt hơn.

Triệu Bạch Ngư nói thêm chuyện thả ba ngàn ngư dân ra: "Hạ tri phủ không cần phải khó xử, An Hoài Đức có phải là chủ mưu cướp bạc cứu trợ hay không trước mắt còn chưa đưa ra phán quyết rõ ràng, nhưng tám chín phần mười đã có Hoàng cô nương làm chứng cho thân phận của 'loạn đảng' đã chết, còn việc chứng minh ngư dân trong sạch chỉ là vấn đề ngày giờ, trước hết cứ thả bọn họ về nhà đi, bổn quan sẽ chịu trách nhiệm mọi việc."

Hạ Quang Hữu cung kính đáp lại: "Dù Khâm sai không phân phó, hạ quan cũng sẽ mở cửa nhà giam cho ngư dân về nhà."

Lúc An Hoài Đức không kiêng dè gì bắt ngư dân Ngư Gia Trại, Hạ Quang Hữu cố gắng hết sức cho rằng không đủ bằng chứng để bắt ngư dân, cũng nói rằng mấy đời Ngư Gia Trại an phận thủ thường, sẽ không có chuyện làm náo loạn như vậy với ý đồ gây rối chuyến đi của lão, còn vì vậy mà bị đảng phái của An Hoài Đức tố cáo, Triệu Bạch Ngư ở tận Giang Dương xa xôi mà cũng có nghe đến.

"Đại nhân nhậm chức bốn năm, lo lắng cho nỗi lo của dân mà trị dưới trong sạch, trăm họ an cư lạc nghiệp, cứu trợ cứu nạn thiên tai lũ lụt lần này, đại nhân cũng đã hao tâm tổn sức suốt bao ngày đêm rồi, bệ hạ mắt sáng lòng lại rộng, đều đã nhìn thấy rõ hết, Bạch Ngư cũng vô cùng kính nể ngài." Triệu Bạch Ngư chắp tay xá Hạ Quang Hữu một cái.

Hạ Quang Hữu thụ sủng nhược kinh, vội vàng đỡ Triệu Bạch Ngư dậy: "Quang Hữu nào có tài đức gì mà có thể nhận sự nhún nhường của người cao nghĩa? Tiểu Triệu đại nhân cứu ân sư, một thân một mình vào khu dịch, cống hiến kim phương, phải đòi công đạo cho một người mà bắt trói cả quan trường Hoài Nam, ngài là kẻ sĩ cao thượng nhất mà đời này Quang Hữu kính trọng. Ngài khen ngợi một câu là vận may ba đời Quang Hữu có được."

Triều đình Đại Cảnh hội tụ nhiều người tài trí trong thiên hạ, Hạ Quang Hữu tự giác đặt mình vào một chỗ không hề nổi bật trong số đó, vậy nên không tìm cách thoát ra, cũng không đi sâu vào mà vẫn luôn giậm chân tại chỗ, vùi đầu chăm chỉ, xây dựng cái danh 'quan thanh liêm có tài có đức', trông đợi một ngày nào đó có thể vào Chiêu Huân các, ghi danh sử sách.

Chình vì vậy mà Hạ Quang Hữu không thể chống đối lại những người cao nghĩa trí tuyệt.

Có trời mới biết được khi gã nhận tin Triệu Bạch Ngư đến Từ Châu thì vui sướng biết bao nhiêu, trước khi gặp mặt đã tắm rửa thay quần áo mới, còn ngồi thư giãn trước đàn hương hồi lâumới ôm tâm trạng vui vẻ thấp thỏm đến gặp Khâm sai. Thoạt nhìn gã đã cảm thấy y xứng với cái danh kẻ sĩ cao nghĩa, nhưng y còn tốt đẹp hơn gã tưởng tượng, vừa tới chuyện đầu tiên nhắc đến chính là thả ngư dân, gã càng cảm thấy hình tượng của y trong lòng mình đã rất vững chắc rồi, có lẽ dù chết gã cũng có thể cười tủm tỉm nơi chín suối.

Nếu như Triệu Bạch Ngư biết được vận động nội tâm của Hạ Quang Hữu, chắc hẳn sẽ biết được đây chính là lòng hâm mộ, nhưng y không biết, chỉ cảm thấy vô cùng an tâm, cũng may quan trường Hoài Nam không đến nỗi tệ hết thuốc chữa.

"Hạ đại nhân khiêm tốn quá." Triệu Bạch Ngư đoan trang lịch sự đáp: "Ta còn một chuyện muốn nhờ Hạ đại nhân giúp thúc giục chu đáo, chính là triều đình cũng sẽ phát một khoản bạc để trấn an Ngư Gia Trại, nếu như có người trong tù bị thương hoặc tàn tật, thì xin dựa theo luật Đại Cảnh để bồi thường tương ứng và chăm sóc thêm. Theo luật Đại Cảnh, thì chỉ cần ba ngàn ngư dân vô tội bị oan, có thể nhận bồi thường của triều đình, sau chuyện này ta sẽ viết chiết tử tấu bẩm bệ hạ, trừ vào thuế thu của Từ Châu năm sau."

Hạ Quang Hữu mừng như điên: "Hạ quan thay mặt Ngư Gia Trại cảm ơn Khâm sai! Nhưng mà vì sao lại khấu trừ trong thuế năm sau của Từ Châu? Sang năm thì hạ quan cũng kết thúc nhiệm kỳ rồi, chỉ sợ người kế nhiệm làm lỡ việc thôi ạ."

Triệu Bạch Ngư: "Từ Châu gặp phải nạn lớn, theo lý mà nói hẳn sẽ được miễn thuế lao dịch năm sau. Ngươi cứ yên tâm dùng tiền của công, làm xong sổ sách là được."

Mặt mũi Hạ Quang Hữu đỏ hồng, liên tục nói cảm ơn, luôn miệng mời Triệu Bạch Ngư ghé qua phủ một chuyến.

Triệu Bạch Ngư cười đáp: "Ta còn có người nhà đang chờ, bất tiện quá, mong Tri phủ thứ lỗi."

"Thứ lỗi thứ lỗi, tất nhiên phải thứ lỗi rồi. Cái gọi là tề gia trị quốc, đại nhân trọng gia đình sẽ khiến hậu trạch hòa thuận về dài, gia đình vui vẻ, vợ chồng chim bay nối cánh tình sâu đậm, người ngoài ao ước..." Khen tới khen lui, Hạ Quang Hữu dần mất đi nụ cười.

Hình như tiểu Triệu đại nhân gả cho một người đàn ông, người này chính là Lâm An quận vương mang tiếng hung ác xấu xí như Tu La thì phải?

Hạ Quang Hữu nhất thời đau lòng ôm đầu, cảm thấy uất ức thay tiểu Triệu đại nhân.

Hạ Quang Hữu đích thân đưa Triệu Bạch Ngư ra đến cửa, phát hiện ở ngoài có một chiếc xe ngựa thông thường đang đậu sẵn bên ngoài, người trong buồng xe vén rèm sang nhảy xuống, giương mắt nhìn tới, đến lúc gã nhìn thấy hắn thì không nhịn được tán thưởng.

Hạ Quang Hữu: "Dám hỏi vị lang quân này là?"

Câu hỏi vừa cất lên, Triệu Bạch Ngư cũng vừa đến bên cạnh Hoắc Kinh Đường nói: "Lâm An quận vương, là vị kia nhà ta, hắn đến đón ta về."

Hạ Quang Hữu theo bản năng chào hỏi quận vương, đến khi lấy lại tinh thần mới giật mình vì phong thái của Lâm An quận vương quá xuất sắc, tướng mạo không tầm thường, sao người ta cứ truyền tai nhau hắn xấu như quỷ sứ Tu La? Chẳng lẽ tiêu chuẩn của người trong phủ Kinh Đô rất cao chăng?

Đã vậy hắn còn tự đón đưa tiểu Triệu đại nhân nữa, xem khí thế lẫn sắc mặt không quá điềm đạm, nhưng không đến nỗi phải gọi là hung ác, hay là mọi người ở phủ Kinh Đô đều thích kiểu đàn ông ôn nhu như nước ở Giang Nam hơn?

Triệu Bạch Ngư gật đầu: "Đại nhân hãy dừng bước."

Hạ Quang Hữu đưa mắt nhìn Triệu Bạch Ngư vào xe ngựa, lúc y cúi đầu, gã còn tinh mắt liếc thấy dấu vết đỏ tím sau gáy, không khỏi sửng người, thân là đàn ông, tất nhiên gã biết đó là dấu vết gì, chẳng qua ở cổ áo đã dày đặc như vậy, bên dưới còn đáng sợ đến cỡ nào nữa?

Hạ Quang Hữu mới vừa cảm thán Triệu Bạch Ngư và Lâm An quận vương xứng đôi xong đã đau lòng, uất ức thay cho tiểu Triệu đại nhân.

***

Trong xe ngựa, Triệu Bạch Ngư thấp giọng nói: "Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu này yêu thương trăm họ, trung thành với triều đình và bệ hạ, có thể làm lương thần."

Hoắc Kinh Đường: "Thành tích bốn năm nhậm chức của Hạ Quang Hữu đủ để chứng minh. Trước mắt Hoài Nam không có ai để dùng, tiểu lang cố tình đẩy Hạ Quang Hữu một cái sao?"

Triệu Bạch Ngư đáp: "Để xem Thánh thượng có xem trọng hay không, còn phải nhìn vào vận may của Hạ Quang Hữu nữa. Hoàng Hà đổi dòng, họa vào Hoài Nam, cũng không phải một sớm một chiều là giải quyết xong, cứ như vậy về sau, nguồn nước và đất đai đều sẽ bị ảnh hưởng, hơn nữa lũ mùa xuân sẽ nhanh chóng đổ đến, phải để lại Hoài Nam một vị quan quen thuộc tình thế Hoài Nam, đứng đầu sửa chữa gia cố bờ đê, đường sông, xây dựng lại nền móng cho tốt, để người sau kế nhiệm càng phải làm tốt hơn."

Nếu để lại một mớ lộn xộn, quan mới nhậm chức sẽ nhức đầu, thẳng tay bỏ lơ, vừa đụng liền bỏ chạy, họ sẽ không cứu nổi Hoài Nam nữa.

Hoắc Kinh Đường nắm tay Triệu Bạch Ngư, nhét vào lòng bàn tay y một hạt thông đã bóc sạch vỏ, "Tiểu lang lo lắng chu toàn, có em đề cử, bệ hạ sẽ yên tâm bổ nhiệm Hạ Quang Hữu hơn."

Triệu Bạch Ngư nghe vậy cũng biết là ổn rồi, vừa ăn hạt thông vừa nói: "Chuyện Hoài Nam tạm thời đã xong, chắc là ở Kinh Đô thần hồn nát thần tính hết rồi... Hạt thông mua ở đâu thế? Đại án này phải tra đến cùng, quan trường Hoài Nam chắc chắn phải trải qua một cơn địa chấn, chàng nói xem có thể nào lại hưng đại lao nữa không?"

Hoắc Kinh Đường lột vỏ bao nhiêu hạt thông đều đưa cho Triệu Bạch Ngư hết, thong thả lau ngón tay đáp: "Mua ở tiệm mứt quả đầu đường ấy, lát lại mua thêm hai gói nữa. Giết một đám, cách chức một đám, quy trình thường thấy thôi, nhưng chủ mưu là ông cha tốt của ta, nói không chừng ta cũng sẽ bị dây vào."

Triệu Bạch Ngư cau mày, trong lòng chịu không nỗi cảm giác đó.

Ngón trỏ của Hoắc Kinh Đường nhẹ nhàng vuốt ve mi tâm Triệu Bạch Ngư: "Tiểu lang yếu lòng quá."

Triệu Bạch Ngư: "Phía sau đại lao toàn là oan hồn thê lương. Có kẻ làm quan thất đức, cũng có người không đáng tội chết, nhưng quan lại cũng là trăm họ, ngoại trừ quỷ thần có thể định đoạt đời người thì chỉ có quốc pháp. Không nên chỉ vì suy nghĩ của Hoàng đế hay vì lợi riêng của một ai đó mà để người chết oan uổng được."

Biểu cảm của Hoắc Kinh Đường không thay đổi nhiều, nhưng ánh mắt chợt sắc bén hơn, khí thế cũng đột ngột khác hẳn: "Tiểu lang, cẩn thận lời nói."

Triệu Bạch Ngư mở to mắt, đây là lần đầu tiên y đối diện trực tiếp với vẻ mặt lạnh lùng nghiêm túc của Hoắc Kinh Đường, nỗi tủi thân dâng lên một cách khó hiểu, y cúi đầu gảy đám hạt thông trong lòng bàn tay, không nói gì, cũng không nhìn đến Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường nắm cổ tay Triệu Bạch Ngư, y không giãy ra cứ mặc cho hắn nắm, tay còn lại cầm một hạt thông lên cắn nửa, đột nhiên cảm thấy nó không còn thơm bùi như lúc đầu nữa.

"Ta biết tiểu lang quân của ta thông minh, có tầm mắt, có năng lực, biết bao dung với người khác, còn có lòng lo dân lo nước, cũng biết đồng tình, thương hại nhân dân khốn khổ, ôm trong mình hoài bão mở đường công lý cho trăm họ, nhưng là người trên quan trường, cho dù với ta thì cũng không phải là muốn nói gì cũng được."

"Ta không tốt đến vậy."

Triệu Bạch Ngư vẫn cúi đầu, buồn bực chặn lời, không muốn Hoắc Kinh Đường suy nghĩ lung tung.

"Thánh nhân có ca tụng công đức của văn nhân đến đâu đi nữa, cũng không thể che đậy được sự thật hoàng quyền chí cao vô thượng. Mệnh của Hoàng đế là quy định, chiếu của Hoàng đế là tuyên bố, quốc pháp không thể giết người nhưng Hoàng đế có thể giết, quốc pháp không cho thả người nhưng Hoàng đế có thể thả. Cũng giống như luật pháp không thể giết được Tĩnh vương mưu triều soán vị, bởi vì lão ta có chiếu lệnh của Thánh tổ che chở, bệ hạ không lay chuyển được lão, đó chính là hoàng quyền bị hoàng quyền đánh bại."

Hoắc Kinh Đường nhìn ra được tấm lòng non dại của Triệu Bạch Ngư, dù nó quá đỗi khờ khạo, hắn không dám gật bừa nhưng sẽ bằng lòng bảo vệ nó, với điều kiện là Triệu Bạch Ngư không thể bị nó làm liên lụy.

Lấy lại nửa hạt thông trong tay Triệu Bạch Ngư bỏ vào miệng, Hoắc Kinh Đường tựa cằm lên đỉnh đầu Triệu Bạch Ngư, ôm y chặt vào lòng: "Quan trường hiểm ác, ta hy vọng em một bước lên mây, cũng mong cho em bình an vô sự."

Triệu Bạch Ngư siết chặt lòng bàn tay, hồi lâu mới nhỏ giọng nói: "Chàng đừng hung dữ với ta nữa, ta sẽ sợ."

Thoáng chốc tim Hoắc Kinh Đường mềm nhũn như bùn.

==

Min: Cá con bị mắng nên tủi thân chút xíu, nhưng cuối cùng thì cũng có lão Hoắc ở bên cạnh em rồi, Tiểu Ngư không còn phải nhịn uất ức một mình nữa đâu 🥺

==

Chương 43

Dịch trạm phủ Kinh Đô.

Trịnh Sở Chi lau khô vết máu tươi trên đao, binh lính đến dọn đi hai thi thể dưới chân lão, phụ tá cũng đến bẩm báo cổng thành đã mở rồi.

"Đoạn đường từ Dương Châu đến phủ Kinh Đô ám sát nhiều quá thể, hay là đại nhân sáng suốt, trước tiên viết thư gửi đến Định Châu xin Tam gia đưa một nhóm dị sĩ tài giỏi hộ tống đi ạ." Phụ tá nói: "Càng đến gần phủ Kinh Đô, thích khách càng nhiều, càng có thể nói rõ Đông cung đã giận quá mất khôn rồi, nhất định lần này bọn họ không thể trở mình được đâu."

Trịnh Sở Chi không tỏ rõ vui mừng, chân mày cau chặt để lộ ra dáng vẻ lo âu.

Phụ tá hoài nghi: "Đại nhân nghi ngờ điều gì sao?"

Trịnh Sở Chi: "Có một chuyện ta không nghĩ ra."

Phụ tá: "Chuyện gì?"

Trịnh Sở Chi: "Ngươi nói xem, vì sao Đông cung phải cướp bạc cứu trợ thiên tai?"

"Thì..." Phụ tá ngạc nhiên vì câu hỏi: "Có lẽ là quen thói tham ô. Quan viên Hoài Nam đều biết An soái sứ không yêu sắc cũng không mê cờ bạc, chỉ tham tiền, mỗi năm đều chiếm đoạt không biết bao nhiêu bạc chữa sông, còn giết chết cả Chương Tòng Lộ nắm giữ bằng chứng lão ta tham ô. Nguyên nhân chính là do An Hoài Đức tham tiền, mới gây nên tai họa Hoài Nam năm nay."

"Ta nghĩ tới nghĩ lui cũng cảm thấy là lạ." Trịnh Sở Chi lắc đầu: "An Hoài Đức tham tiền, nhưng chuyện lão tham ô bạc sông không phải ý từ Đông cung, Ngũ hoàng tử cũng từng ngầm thừa nhận, mà hai vị vương tôn đây có hồ đồ đến nỗi nào đi chăng nữa, thì cũng biết được bạc cứu trợ trong thời khắc quan trọng không thể đụng vào. Điều khiến ta thấy lạ chính là Tư Mã Kiêu, vì sao ông ta lại đồng thời đến sơn trang Ký Sướng với ta để cướp lại bạc? Lúc đó ta cứ cho rằng ông ta biết tin từ sớm nên muốn đến chuyển bạc đi trước, xem ra không phải. Còn nữa, ông ta điều binh từ Lưỡng Chiết."

"Có vấn đề gì ạ?" Phụ tá ngẫm nghĩ, chợt hiểu ra: "Lúc đó Tư Mã Kiêu cũng mới biết được tung tích của bạc cứu trợ! Ông ta không tin An Hoài Đức nên mới điều binh từ Lưỡng Chiết, Đông cung và An Hoài Đức đã lục đục rồi sao?!"

Trịnh Sở Chi gật đầu: "Ta vừa nghĩ ra được khúc mắc trong đó. Ngươi thử nghĩ xem, nếu An Hoài Đức trung thành với Đông cung, vì sao lão lại không thông báo cho Đông cung biết điều kiện tiên quyết để đoạt lấy bạc đó? Lão lấy lá gan đâu mà làm vậy? Lão sẽ không sợ âm mưu bại lộ, liên lụy đến Đông cung hay sao? Còn thái độ của Tư Mã Kiêu cũng khiến cho ta khó hiểu, hành động cướp bạc cứu trợ thiên tai của An Hoài Đức chẳng khác nào phản bội Đông cung, cách làm tốt nhất chính là tìm cơ hội định tội An Hoài Đức ở Hoài Nam, nhưng lúc Tư Mã Kiêu đấu với An Hoài Đức hình như có chút kiêng dè... Ông ta kiêng dè cái gì?"

"Lúc bị bắt ở sơn trang Ký Sướng, lời Tư Mã Kiêu nói cũng làm ta lo lắng. Ăn phải trái đắng... Phá một vụ án chồng chất phải nhận kết cục thảm hại chăng? Càng đến gần Kinh Đô, lòng ta càng không yên, luôn cảm giác bản thân đã bỏ quên chỗ nào rồi?"

Phụ tá: "Có lẽ không có nguyên nhân nào khác, mà là do An Hoài Đức tự ý hành động? Khi chúng ta thẩm vấn Tôn Phụ Ất vì sao lại cướp bạc cứu trợ, hắn cứ một mực phủ nhận chủ mưu, ụp hết tội lỗi lên người mình, gã bảo mình tra được 'tin đồn' An Hoài Đức thiêu chết Chương Tòng Lộ truyền khắp Hoài Nam, lại phát hiện nữ cô nhi Hoàng thị và bộ hạ cũ nhà họ Hoàng đang lẩn trốn ở Ngư Gia Trại. Cho nên gã mới cướp bạc cứu trợ thiên tai, giá họa cho Ngư Gia Trị, diệt trừ hậu hoạn lưu lại năm xưa, sẵn tiện giải quyết án Chương Tòng Lộ... Không có ý của An Hoài Đức, Tôn Phụ Ất chỉ là một tên quan tham nghị mà lại dám giết người phóng hỏa ư?"

"Ý ngươi là, An Hoài Đức đã phát hiện ra nữ cô nhi Hoàng thị từ trước, sợ đêm dài lắm mộng nên tự mình gây nên họa lớn, giết người diệt khẩu sao?"

"Không gì là không thể."

Trịnh Sở Chi miễn cưởng chấp nhận lời giải thích của phụ tá, nhưng trong lòng vẫn chưa thỏa mãn, từ trước đến giờ lão vẫn luôn tin vào trực giác của mình, vì vậy nhấc bút kể chi tiết ngọn nguồn sự việc vào trong thư, đưa đến Định Châu, nhờ người cha khôn khéo của mình, tức Trịnh quốc công xem qua thử.

Đến khi trời sáng, đám người chờ áp giải phạm nhân vào Kinh Đô, đưa thẳng đến bộ Hình.

***

Đại lao bộ Hình.

Ngũ hoàng tử muốn vào trong gặp An Hoài Đức, nhưng lại bi cai ngục ngăn lại bên ngoài.

"Hỗn xược! Các ngươi xem thử ta là ai! Thứ gì mà cũng dám cản ta?" Ngũ hoàng tử giận sôi máu, rút đao định chém về phía cai ngục đang cản đường.

Hình bộ ty Lang trung lập tức chạy đến: "Điện hạ bớt giận, điện hạ bớt giận, hắn chỉ là một tên tiểu tốt chưa hiểu sự đời thôi, nhắm mắt nhắm mũi đắc tội ngài, lát nữa tôi sẽ phạt hắn, ngài đừng vì tên nhóc thối này mà làm hại thân thể."

Ngũ hoàng tử vứt đao: "Hừ! Ông tới đúng lúc lắm, ta muốn gặp An Hoài Đức."

Lang trung khó xử đáp: "An Hoài Đức là phạm nhân quan trọng của đại án lần này, ngoại trừ quan chủ thẩm và bệ hạ... Thì không cho ai gặp —— "

Bấy giờ Ngũ hoàng tử chỉ biết chõ vào mũi người ta mắng: "Đồ khốn! Đừng có mà lấy lông gà làm lệnh tiễn, ta nói cho ông biết, ta là hoàng tử, Đông cung còn chưa phế đâu, Thái tử vẫn còn là Hình bộ Thượng thư, là cấp trên của ông đấy! Sao nào, lời của ta và Đông cung ở bộ Hình không có sức nặng hả?"

Hình bộ ty Lang trung liên tục cúi người: "Dạ không không, hạ quan không dám, mời điện hạ vào."

Ngũ hoàng tử đẩy gã một cái, tức giận đùng đùng đi vào trong đại lại, tìm được An Hoài Đức đang ngồi ngay ngắn trong phòng giam, "Mở cửa ra."

Lang trung vội vàng mở cửa.

Ngũ hoàng tử: "Lăn đi."

"Hả?" Hình bộ ty Lang trung do dự một lúc, cuối cùng cũng không dám đối nghịch, dẫn cả đám người lui xuống.

Trong phòng giam chỉ còn lại Ngũ hoàng tử và An Hoài Đức, người nọ nhắm mắt ngồi yên, tựa như nơi này không phải là đại lao bộ Hình mà là phủ Soái sứ của lão vậy. Ngũ hoàng tử nhìn chằm chằm An Hoài Đức, miếng thịt nhỏ dưới mắt không nhịn được giật giật, để lộ ý hận không thể giết chết An Hoài Đức ngay lập tức.

"An Hoài Đức, Đông cung đã có lỗi gì với ông? Hả? Ông nói đi, có phải những năm nay nhờ Thái tử đề bạt, ông mới có cơ may ngồi lên vị trí đại quan nhị phẩm này không? Phàm là con người đều phải biết báo ân, bọn ta cũng không mong ông phải vào nơi dầu sôi lửa bỏng, nhưng sao ông lại lấy oán báo ân?"

"Một bề tôi không thể có hai chủ." An Hoài Đức mở mắt, chắp tay bình tĩnh nói, "Hoài Đức biết mình đã phụ lòng bồi dưỡng của Thái tử, nếu như có kiếp sau, nguyện làm trâu làm chó ra sức nghe lệnh."

Ngũ hoàng tử: "Không cần chờ kiếp sau đâu, bây giờ ông có cơ hội báo đáp ngay đây." Gã bước lại, trong mắt toát ra vẻ hung ác, hạ thấp giọng nói: "Giao sổ sách ra mau."

An Hoài Đức nhìn Ngũ hoàng tử chằm chằm, lại nhắm mắt lần nữa: "Lão phu thẹn với lòng tin của Thái tử, thứ cho không thể tuân mệnh."

"Ông không sợ chết thật à?"

Ngũ hoàng tử giận đến nỗi lao đến bóp cổ An Hoài Đức: "Rốt cuộc là Bát thúc có ơn gì với ông, có thể khiến cho ông tuyệt vọng rồi mà vẫn thành tâm cống hiến cho lão? Bọn ta lại đắc tội gì với ông? Ông muốn kéo đảng Thái tử xuống nước, bảo vệ Tĩnh vương cũng phải xem bệ hạ có thích hay không! Ông thật sự cho rằng bệ hạ không biết ai là người khuấy nước đục ở Hoài Nam sao? Ta nói cho ông biết, nếu không thể xoay chuyển tình thế, Bát thúc cũng đừng nghĩ đến chuyện sống dễ dàng! Có chết thì phải cùng chết!"

An Hoài Đức: "Trên đường đến suối vàng có trữ quân đi theo, chính là phước ba đời của Hoài Đức."

"Ông!" Mặt mũi Ngũ hoàng tử tái mét, gã nhăn nhó, cố kiềm nén ngọn lửa giận dữ đáp: "Chúng ta thương lượng đi, Thái tử giúp ông bảo vệ Tĩnh vương, còn ông đưa lại sổ sách, mọi chuyện ở Hoài Nam để một mình ông gánh vác, thế nào?"

"Ở Hoài Nam ông còn vợ con gia quyến đúng chứ, ông muốn cửu tộc mình cũng bị liên lụy ư? Nhẫn tâm để bọn họ đi chết theo ông à?"

Gò má An Hoài Đức giật lên, cho thấy rằng lão không đành lòng khiến gia quyết vất vả.

Ngũ hoàng tử thấy vậy, cảm thấy có khả năng chuyển biến tốt liền dùng nhược điểm này thuyết phục: "Nếu như ông chịu tội đại án Hoài Nam, chẳng những có thể giữ được mạng cho Bát thúc, mà còn có thể bảo vệ gia đình, đảm bảo sẽ giúp bọn họ không lo cơm áo, ta nhớ con trai lớn của ông đã tròn mười sáu rồi, trong nhà còn có mấy cô nhóc, nhỏ nhất cũng ba bốn tuổi. Nếu như chuyện đóng binh bại lộ thì đó là tội mưu phản, kiểu nào cũng dây dưa đến cửu tộc, đàn ông tròn mười sáu trở lên toàn bộ đều phải chém đầu răn chúng, nữ quyến sung vào trại lính hoặc vào tiện tịch, nam làm nô, nữ làm kỹ, ông chịu được sao?"

An Hoài Đức nắm chặt hai tay thành quyền, vẫn còn nhịn được.

"Gia huấn An thị ta là trời cao không đo được mây gió, con người một sớm một chiều cũng nhận được họa phúc, Gia quyến trong phủ theo ta, cũng được hưởng nửa đời vinh hoa phú quý, nửa đời sau cũng sẽ đồng cam cộng khổ cùng ta. Điện hạ yên tâm, bọn ta cam chịu."

"Ông đúng là! Dầu muối không vào!"

Ngũ hoàng tử giận dữ, phất tay áo rời đi.

Đi tới phòng giam nhốt Tư Mã Kiêu, gã hung hăng vung một cái tát lên mặt lão, rồi mắng: "Sao ông không chết thẳng trên người đám đàn bà của mình luôn đi? Nhị ca giao việc làm không xong, ông đúng là hồ đồ rồi! Nếu không phải còn thấy ông mang cái họ Tư mã, ta đã giết chết ông từ lâu rồi!"

Tư Mã Kiêu khóc lóc, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng: "Điện hạ, ta biết lỗi rồi! Muốn giết muốn lăng trì đều theo ý bệ hạ, chuyện ở Hoài Nam do một mình ta gánh vác, nhất định sẽ không bán đứng Thái tử, nhưng cầu xin Thái tử phải bảo vệ cho toàn tộc Tư Mã thị. Đông cung không thể ngã xuống, không thể không có sĩ tộc làm chỗ dưa, coi như ta đã nhìn ra rồi, Trịnh quốc công giả heo ăn hổ, trữ quân chân chính mà bọn họ nhìn trúng e là Lục hoàng tử —— "

"Cần ông nhắc nhở chắc? Chờ ông phát hiện ra chỗ này, mộ bọn ta đã xanh cỏ rồi." Ngũ hoàng tử đá mạnh một phát khiến Tư Mã Kiêu văng ra, ép mình đè nén cơn giận hỏi: "Một mình ông thì có thể gánh tội gì? Tội nuôi binh gánh thế nào?"

Tư Mã Kiêu: "Trong tay An Hoài Đức chỉ có sổ sách ta tham ô, ta có thể tranh luận mình không biết chuyện nuôi binh này."

Ngũ hoàng tử: "Những năm nay các ngươi không thư từ qua lại chứ?"

Tư Mã Kiêu nghe vậy thì chán nản cụp vai xuống, lão và An Hoài Đức có gửi qua nhận lại mấy phong thư.

Ngũ hoàng tử làm như không thấy, chỉ có thể hy vọng giao dịch giữa Nhị ca và Lục hoàng tử có thể thành công. Trước khi đi, Ngũ hoàng tử còn nói với Tư Mã Kiêu: 'Nhớ lấy, tất cả mọi chuyện ở Hoài Nam đều là do một mình ông gây ra. Thái tử và ta sẽ nghĩ mọi cách để bảo vệ Tư Mã thị."

Tư Mã Kiêu quỳ xuống dập đầu, mãi một hồi lâu sau vẫn không dậy nổi.

***

Trong ngục, roi dài thấm ướt nước muối đang quất vào người Tôn Phụ Ất, tiếng xé gió liên tục vang lên đày đặc.

Trịnh Sở Chi giơ tay lên, nha dịch liền dừng lại.

"Bổn quan hỏi ngươi lần cuối cùng, đến cùng là ngươi và An Hoài Đức bị kẻ nào xúi giục, Giám sát Ngự sử Chương Tòng Lộ bị hại có liên quan gì đến ngươi không, vì sao lại giết gia đình Hoàng thị, vì sao lại cướp bạc cứu trợ thiên tai và giết chết quan binh? Nói! Là An Hoài Đức xúi giục, hay sau lưng còn có người khác?"

Giọng Tôn Phụ Ất nhỏ như muỗi kêu: "... Là tôi thấy tiền nổi lòng tham, tự mình đầu têu, không có người khác."

"Vô liêm sỉ! Ngươi coi ta là thằng đần hả? Cũng nghĩ bệ hạ và cả triều văn võ đều ngu ngốc hay sao? Có là tên nông dân chân lắm tay bùn thì cũng không tin nổi lời ngươi nói nữa! Ta nói cho ngươi biết, ta có một trăm cách hành hạ ngươi, cho ngươi sống không bằng chết!"

Tôn Phụ Ất cười nhạt, không đáp lại.

"Con mẹ nó! Được lắm! Ta cũng không tin là mình không cạy được cái miệng của ngươi, uổng phí một ngày của ông đây. Tới, đi nấu canh sâm giữ mạng cho hắn, cho hắn tỉnh rồi tiếp tục thẩm vấn cho ta."

Trịnh Sở Chi không tin là đám người này có thể dám so tài xem ai cứng rắn hơn ai, lão đến thẩm vấn An Hoài Đức, cho người đánh gãy chân An Hoài Đức ném xuống đất kéo lê, ai ngờ An Hoài Đức đúng là lão hán tử, không hé miệng nói tiếng nào.

Làm việc cả đêm, lời khai không có tiến triển, Trịnh Sở Chi chỉ đành quay về phủ, giận đến mức đập vỡ mấy bình hoa.

"Đi, đi tìm người giỏi thẩm vấn phạm nhân nhất phủ Kinh Đô này đến đây. Nếu như có thể lấy được lời khai, thăng quan tiến chức, tiền thưởng ngàn lượng cũng không thành vấn đề."

"Vâng."

***

Sau khi giải quyết xong việc ở Hoài Nam, Triệu Bạch Ngư liền cùng đám người Hoắc Kinh Đường hồi Kinh báo cáo công việc. Trần Sư Đạo mời y đến phủ chơi, Triệu Bạch Ngư bận rộn đến nỗi chân không chạm đất nhưng vẫn đưa Hoắc Kinh Đường theo cùng ghé phủ thầy làm khách.

Trần Sư Đạo thiết đãi rất nhiệt tình, đặc biệt sai người làm đi mua ba món ăn đặc sắc, còn mở mấy vò rượu ngon.

"Sự vụ lần này làm tốt lắm, thầy ở Kinh Đô cũng có thể nghe được tiếng tăm Khâm sai ghét ác như thù." Trần Sư Đạo uống rượu, vô cùng xúc động: "Lúc thầy dạy con cũng đã biết, con rất hợp làm quan, một quan tốt có thể xẻo đi miếng thịt thối rửa của quan trường Đại Cảnh từ xưa! Năm đó con bị lỡ mất kì thi, thầy không thể ra sức, sau đó cảm thấy Nha môn phủ Kinh Đô có thể rèn luyện, cho nên mới cử con ở lại đó làm việc."

"Quan, để trở thành một quan tốt không phạm phải bất cứ sai lầm nào trong xử án, cần phải học luận kiện tra án trước, trong ngục, trong Nha môn, bao gồm cả việc giao thiệp với các huyện bên dưới thế nào, còn có thu thuế hàng năm, sổ sách bị thiếu hụt ở Nha môn... Đều là kiến thức cả, chờ con được đưa ra ngoài Kinh làm quan rồi, sẽ nhận ra còn có nhiều điều cần phải học hơn."

Trần Sư Đạo uống cạn rượu trong ly, Triệu Bạch Ngư vội rót đầy lại, cụng ly với ông.

"Nha môn phủ Kinh Đô nhiều việc, nhưng thật sự rất yên tĩnh, trên đầu có Thái tử làm Phật trấn, Tam ty Lục bộ ai mà không nể mặt? Con vừa rời phủ đã vét được cái chức Phủ dụ sứ thay Thiên tử tuần thú, mặc dù quan Hoài Nam nhiều tâm tư, nhưng ai mà không sợ Khâm sai con? Ai dám lên mặt với con chứ?"

Trần Sư Đạo gõ bàn, vừa ăn đậu phộng vừa nói: "Thầy không có ý chối bỏ năng lực của con, mà là muốn nói cho con biết, đợi một ngày nào đó con ra ngoài Kinh làm việc, trên đầu có Phật lớn, dưới chân có quỷ nhỏ, giám tỉnh châu phủ quân nào cũng có thể lấy quy tắc quan trường ra để trấn áp con. Đến lúc đó, con phải biết nhún nhường, yếu thế, học được cách ngồi xem đối thủ tranh đấu lẫn nhau mới coi như là vững chãi trong quan trường."

Triệu Bạch Ngư lắng nghe, sau đó gật đầu một cái: "Học sinh cảm ơn ân sư dạy dỗ."

Trần Sư Đạo vỗ tay một cái, cười ha hả: "Thầy có nói nhiều đi nữa cũng không bằng để con tự thân trải nghiệm ha, con nghe chút thôi là được rồi, nếu như về sau có gặp phiền toái thật thì đến tìm thầy. Nhắc mới nhớ, lão phu còn chưa kính quận vương một ly này." Cầm ly rót đầy rượu, ông chân thành nói: "Thần biết chuyến đi Hoài Nam này của học sinh thần có thể thuận lợi như vậy, đều là nhờ có quận vương điện hạ hộ tống. Coi như thầy của Bạch Ngư, ta cảm kích ngài."

Trần Sư Đạo ngửa đầu uống rượu xong nói: "Ta cạn trước."

Hoắc Kinh Đường nhận ân tình, tiếp đến đổ đầy rượu kính lại Trần Sư Đạo: "Ly này kính ngài nhiều năm dạy dỗ tiểu lang."

Trần Sư Đạo uống hơi nhiều, đầu ong ong, thoáng chốc hình như nghe thấy quận vương điện hạ gọi học sinh là 'tiểu lang'? Phải gọi là Ngũ lang mới đúng chứ nhỉ?

Có lẽ ông nghe nhầm.

Sau đó Hoắc Kinh Đường rót ly thứ hai: "Ly này kính người làm thầy yêu thương tiểu lang như cha."

Nào phải nghe lầm, gọi là tiểu lang này.

Mặt Trần Sư Đạo trở nên trầm tư, chân mày vô thức nhíu lại, thoắt nghĩ, tiểu lang cũng có ý gọi tiểu lang quân, cũng là một cách gọi bình thường, chắc vì giả làm vợ chồng trước mặt mọi người đã thành quen.

Không tệ, hành động này đúng là cẩn thận.

Rồi ông lại thấy Hoắc Kinh Đường rót ly thứ ba: "Ba kính ngài... Ta dùng thân phận hậu bối kính ngài."

Trần Sư Đạo liền đáp: "Lão phu sợ hãi, tiểu quận vương khách sáo rồi."

Nếu như tối nay ông không uống nhiều rượu quá thì sẽ phản ứng nhanh thôi, đường đường là quận vương, cận thần Thiên tử, sao lại lấy thân phận hậu bối để kính ông cho được? Ông có tài đức gì để mà nhận ly rượu này?

Chỉ tiếc Trần Sư Đạo uống đến nỗi mơ màng, không kịp nhận ra, ngày hôm sau tỉnh rượu cũng quên mất chi tiết chuyện tối qua.

Ngay tức khắc trong lòng ông chỉ còn lại sự bùi ngùi, tiểu quận vương đúng là một chủ công tốt đáng để đi theo, ông có thể yên tâm để Triệu Bạch Ngư đi trên con đường này vào quan trường.

Trần phủ tụ họp một bữa, khách khứa đều vui mừng, mãi đến đêm khuya mờ sương, Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư mới cùng nhau ra về, mà trong cơn gió lạnh phần phật, chợ đêm vẫn còn ánh nến ấm áp, trong quán rượu có hơi nóng của nồi lẩu bốc lên nghi ngút, đâu đó rộn ràng tiếng hò reo không ngớt của những trận cược xúc xắc vang đến tận đường cái, bánh xe ngựa lăn nhanh qua con phố dài, hướng đến con đường trở về nhà.

***

"Ngươi nói ai?" Trịnh Sở Chi đứng vụt dậy, trên mặt là vẻ khó tin.

Người làm lau mồ hôi trán nói: "Là thật ạ! Cả Kinh Đô này người có nhiều kinh nghiệm thẩm tra nhất đều ở Đại lý tự, nhưng bọn họ đều không hẹn mà cùng để cử Thiếu doãn phủ Kinh Đô Triệu Bạch Ngư."

"Tại sao lại là y? Chẳng lẽ ông trời thật sự muốn y đến giành công với ta sao?" Trịnh Sở Chi kiên quyết hất tay nói: "Ta nhất định không tìm y!"

Dừng một lát, Trịnh Sở Chi hỏi: "Tại sao mấy tay lão luyện ở Đại lý tự lại đề cử Triệu Bạch Ngư?"

"Nói là hồi trước có nhiều phạm nhân không chịu khai nhận, nhờ Triệu Bạch Ngư kia đến giúp là có thể dễ dàng cạy miệng ngay."

Trịnh Sở Chi nghĩ ngợi một chút rồi nói: "Đến Đại lý tự mượn mấy tên đi, giao Tôn Phụ Ất và Tư Mã Kiêu cho bọn họ xử lý, bảo nếu không tra ra được kết quả, thì đừng quay về Đại lý tự nữa."

Như vậy, bọn họ nhất định sẽ nhờ Triệu Bạch Ngư đến giúp. Nếu Triệu Bạch Ngư có thể cạy miệng Tôn Phụ Ất được thì đương nhiên là chuyện tốt, y cũng không thể nào cướp công được nữa, không là có thể tố y lạm quyền.

Suy nghĩ thấu đáo mọi chuyện xong, Trịnh Sở Chi bèn nhàn nhã chờ đợi tin tức.

***

Mấy tay lão luyện trong nhà lao Đại lý tự có giao tình với Triệu Bạch Ngư, trước kia có từng lui tới nhờ giao nhận hồ sơ, không làm khó Triệu Bạch Ngư mới vào quan trường, thậm chí còn dạy y mấy chiêu thức nhà nghề.

Bọn họ tìm đến xin giúp đỡ, hiển nhiên Triệu Bạch Ngư cũng phải có qua có lại cho toại lòng nhau, y cũng đoán được kế của Trịnh Sở Chi, có điều không sao, y cũng muốn vụ án tiến triển nhanh lên nên đã chỉ cho mấy người bên Đại lý tự mấy chiêu.

"Không thể ép cung Tư Mã Kiêu, gã sẽ dùng cái chết để bảo vệ Hoàng hậu, Đông cung và Tư Mã thị, cho nên các ngươi không được ép. Phải chờ, chờ phản ứng tiếp theo của An Hoài Đức. Còn Tôn Phụ Ất... Xét cho cùng thì quan võ cũng rất cứng rắn, có thể nhịn khổ nhịn đau, cho nên phải hành hạ bọn họ về mặt tinh thần. Ta đã quan sát rồi, Tôn Phụ Ất không nhạy với cơn đau, cho nên các ngươi có dùng hình cũng vô dụng thôi, phải để cho gã biết được cảm giác sắp chết là thế nào thì gã mới biết sợ."

"Không có ai không sợ chết, người không sợ chết là người chưa từng chết thử. Ngoại trừ nghĩa sĩ, tất nhiên Tôn Phụ Ất không phải."

"Ta có một hình phạt không đổ máu có thể khiến người ta sinh ra cảm giác sợ hãi trước cái chết, gọi là trấn nước, chính là ở trên mặt phạm nhân..."

Nghe theo lời Triệu Bạch Ngư, các lão luyện dùng chiêu này tra khảo Tôn Phụ Ất, Tôn Phụ Ất dù bị roi quất trầy da tróc thịt cũng cắn chặt răng không hé miệng quả nhiên không chống đỡ nổi ba khắc đã đầu hàng, thừa nhận cướp đoạt bạc cứu trợ thiên tai vì muốn giải quyết hoạ ngầm là nữ cô nhi Hoàng thị, người chủ mưu là An Hoài Đức, gã còn thừa nhận An Hoài Đức là người sai khiến mình sát hại cả nhà họ Hoàng, mục đích chính là huyết phách ngàn năm.

Trịnh Sở Chi cho người tiếp tục dùng hình: "Vì sao lại cướp huyết phách ngàn năm?"

Tôn Phụ Ất há mồm thở dốc, cảm giác muốn chết đến nơi khiến lòng gã sợ hãi: "Lâm An quận vương cần huyết phách để cứu mạng, Soái sứ... Soái sứ không muốn quận vương sống, nếu như Lâm An quận vương chết, là có thể, là có thể chỉ định người vào quân Tây Bắc..."

Trịnh Sở Chi ở phía sau đứung phắt dậy: "Quân Tây Bắc? An Hoài Đức muốn quân Tây Bắc sao? Có phải do Đông cung xúi giục không —— Đi hỏi rõ nhanh lên!"

Lão luyện truyền lời lại, Tôn Phụ Ất cứ luôn chần chừ, nhác thấy tên cai ngục cầm hai tờ giấy vàng lên thì hít thở khó khăn, đau đớn làm gã thành thật trả lời: "Là Tĩnh vương! Tĩnh vương cố ý mưu phản, Soái sứ là bộ hạ cũ của Tĩnh vương, vô cùng trung thành với lão ta, gã ở Hoài Nam hốt bạc là vì để đóng nuôi binh! Trong tay Tĩnh vương có một chi binh Tây Bắc, triều đình không trả tiền, cắt xén quân tư để ép Tĩnh vương giao lại binh quyền, An soái sứ mới để mắt đến bạc cứu trợ!"

Trịnh Sở Chi xông ra, đứng sững trước mặt Tôn Phụ Ất, không khỏi khiếp sợ: "An Hoài Đức không phải là người của Đông cung ư?!"

Tôn Phụ Ất đáp: "Soái sứ là con cờ ngầm mà Tĩnh vương cài cắm vào đảng Thái tử."

Trịnh Sở Chi nhanh chóng vặn óc, rất nhiều chi tiết bị lão lơ là giờ đây hiện lên vô cùng rõ ràng, những mấu chốt mà lão nghi ngờ giờ đây đều đã thông suốt.

Vì sao An Hoài Đức đụng vào bạc cứu trợ thiên tai, vì sao Tư Mã Kiêu và An Hoài Đức đấu đá nhau ở Hoài Nam, thì ra là như vậy!

Không đúng.

Trịnh Sở Chi hưng phấn đến độ cơ mặt cũng co giật, lão trợn trừng mắt nhìn Tôn Phụ Ất: "Nếu An Hoài Đức không phải người của Đông cung, tại sao còn phái người dọc đường diệt khẩu?"

An Hoài Đức chết, Đông cung sẽ không thoát khỏi hiềm nghi.

"Tư Mã Kiêu chần chừ không nhận tội, cũng không kêu oan, cố tình chờ An Hoài Đức tỏ thái độ, có phải cái chuôi nằm trong tay An Hoài Đức hay không? Chuôi này có thể dồn lão vào chỗ chết không?"

"Soái sứ lừa gạt Tư Mã Kiêu nuôi binh ở Hoài Nam, thực chất thì nhóm binh đó đều đến từ quân Tây Bắc, những năm nay, tiền nuôi binh ở Hoài Nam lẫn tiền nuôi binh Tây Bắc đều là do Tư Mã Kiêu tham ô tiền thuế mà có. Soái sứ... Có sổ sách Tư Mã Kiêu tham ô, cũng có thư riêng nói đến việc nuôi tư binh."

Trịnh Sở Chi hài lòng cười, khóe môi từ từ kéo căng, bởi vì quá sung sướng mà nụ cười trông rất vặn vẹo: "Một công đôi việc à."

Diệt trừ Tĩnh vương là có thể lấy về một chi binh Tây Bắc, nhất định bệ hạ sẽ thu về trong tay. Chi Tây Bắc chỉ còn lại Ngạc Khắc Thiện cùng với con em Thôi thị, càng về sau thanh thế càng lớn, đóng quân Tây Bắc mấy chục năm, có thể nói là quyền hành che trời. Bệ hạ không thể bổ nhiệm lớp sau của Thôi thị tiếp tục quản binh trong tay Tĩnh vương nữa, trước mắt Tây Bắc cũng chẳng có tướng nào có thể dùng.

Bây giờ chính là cơ hội của Lục hoàng tử và phủ Trịnh quốc công bọn họ, cha chưa từng ngừng mơ ước đội quân Tây Bắc đã đánh là thắng từ rất lâu rồi, nhưng chỉ cần đầu óc bệ hạ không hồ đồ, cả đời bọn họ cũng không được đụng tới quân Tây Bắc.

Bây giờ thì khác rồi.

Phủ Trịnh quốc công không thể đụng, Lục hoàng tử có thể.

Dù gì cũng là con trai ruột của bệ hạ, nhận được bao nhiêu phần tin tưởng thì sẽ nắm được bấy nhiêu phần thắng giữ quân Tây Bắc.

Trịnh Sở Chi gật gù: "Bắt gã ký tên trên giấy chấp thuận đơn kiện đi." Sau đó ra lệnh cho lão luyện thẩm án: "Các ngươi thẩm vấn An Hoài Đức trong đêm nay đi, dùng bất cứ biện pháp gì cũng được, nhất định phải cạy được miệng lão!"

Trong tay An Hoài Đức có sổ sách bằng chứng Tư Mã Kiêu chiếm đoạt thuế thu của Hoài Nam, thể nào cũng cắn Đông cung một nhát. Mặc dù người lão thật sự muốn tận sức là Tĩnh vương, Đông cung biết được nội tình, sẽ mượn cớ này cắn ngược lại, xoay chuyển ván cờ, nhưng Tư Mã Kiêu đã chiếm đoạt tiền thuế tỉnh nhiều năm qua, lại hư thực tham gia đóng binh, đủ để áp chế Tư Mã thị, cắt đứt cánh tay của Thái tử.

"Ông trời chiếu sáng bậu cửa họ Trịnh ta, có thể để lại tiếng thơm rồi!"

Trịnh Sở Chi như mở cờ trong bụng, lão về phủ, vừa mới đến cửa thì có người từ Định Châu ra roi thúc ngựa đến, ngừng trước cửa, vọt đến dâng thư: "Báo —— thư Định Châu đến!"

Trịnh Sở Chi ngăn hắn lại: "Đưa đến đây!"

Người nọ nhận ra Trịnh Sở Chi, vội vàng giao thư cho lão.

Trịnh Sở Chi mở thư, đọc nhanh một lượt: 【 Quân đài đã xem: Thấy trong thư có nhắc đến sơn trang Ký Sướng, là đồ ban cho Tĩnh vương năm Nguyên Phong thứ bảy, án này liên quan đến Tĩnh vương, không phải chuyện đùa. 】

Xem đến đây, Trịnh Sở Chi liền hiểu ý cười một tiếng, quả nhiên cha vẫn rất lợi hại, chỉ một cái tên sơn trang thôi đã đoán được ngay ai là người đứng sau màn đại án.

Án này đúng thật không phải chuyện đùa, nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều triển vọng.

Lão tiếp tục xem: 【 Bệ hạ và Tĩnh vương là tay chân nhưng như thù địch kết thù hơn bốn mươi năm, đến hết đời cũng không gì có thể phá băng được. Nếu như không ngoài suy đoán, bệ hạ có thể sẽ lợi dụng vụ án này để kết liễu người kia. Chỉ tiếc Tĩnh vương có đan thư thiết quyển Thánh tổ ban cho, lão vẫn còn có cơ hội làm cái đinh vĩnh viễn ghim trong mắt bệ hạ. 】

【 Chúng ta không hóa giải được thế cục này, nhất định không nên ôm đại án Hoài Nam. Nếu ngươi một người một ngựa thì chính là đứng mũi chịu sào. Án này, phủ Trịnh quốc công không được quan tâm đến. Nhớ lấy. 】

Nhất thời Trịnh Sở Chi hơi hồi hộp, trong thư dùng quá nhiều từ ngữ nặng nề, cho thấy cha lão rất chú trọng và sợ hãi trước vụ án này.

Lão Trịnh quốc công là nguyên lão hai triều, đi theo tiên đế, có công đi tiếp nối dòng dõi của rồng, đã từng thấy thủ đoạn trị nước anh minh thiết huyết của tiên đế năm xưa, cũng biết tiên đế tàn bạo hồ đồ muốn đổi lập trữ quân, đích thân trải qua mấy năm tranh đấu mưa máu gió tanh của Nguyên Thú đế và Tĩnh vương, biết rõ mồn một thù oán khắc sâu tận lòng của hai người là không thể hóa giải được.

Trịnh Sở Chi cũng từng trải qua nó, đến này lão vẫn còn nhớ rằng bầu trời ở Kinh Đô ngày đó rất u ám, những con phố có nhà của quan triều cứ cách vài tháng lại có một nhà trống huơ trống hoác, có khi hai ngày tịch thu ba bốn căn nhà của bọn họ.

Nền đá Ngọ môn bị máu tươi nhuộm thành màu đỏ nhạt, gia đình của các quan triều bị tịch thu tài sản, bị diệt tộc, tiếng khóc than rầm trời vì đất đai bị cướp, nữ quyến và con trai từ mười sáu tuổi trở xuống xếp thành một hàng dài bước đi, trông vừa chật vật vừa rẻ mạt, mấy đời đều phải đi làm nô làm kỹ.

Đoạn thời gian ấy vẫn in sâu trong kí ức thời trẻ của Trịnh Sở Chi, trở thành cơn ác mộng tái diễn không ngưng nghỉ.

Trịnh Sở Chi cho rằng mình đào Tĩnh vương ra là đã có thể giúp đỡ bệ hà loại trừ đại họa, vui càng thêm vui, không ngờ Tĩnh vương còn có đan thư thiết quyển Thánh tổ ban cho... Sao tự nhiên lại có trở ngại thế này?

Cái gì cũng được, ấy vậy mà lại là đan thư thiết quyển!

Chẳng trách năm đó Nguyên Thú đế ra tay tàn bạo như thế để loại bỏ môn đảng của Tĩnh vương mà lại tha cho lão một mạng, lão còn tưởng rằng bệ hạ niệm tình tay chân, hóa ra trong tay Tĩnh vương có bùa hộ mệnh!

Chẳng trách, chẳng trách lúc Tư Mã Kiêu bị bắt lại nói tự lấy đá đập chân mình... Gã đã biết, gã đã biết từ lâu!

Biểu cảm Trịnh Sở Chi hung tợn như ác quỷ: "Tư Mã Kiêu... Tư Mã Kiêu!"

Người hầu bên cạnh thấy lo lắng, dè dặt gọi một tiếng, thấy cặp mắt lão gia trợn to, vằn đầy tơ máu, cơn giận của võ tướng giết người như ngóe ngoài chiến trường tích tụ thành sát khí kinh khủng khiếp, người hầu bị dọa sợ quỳ sụp xuống đất, run rẩy không ngừng.

Sớm biết như vậy, lúc ở Hoài Nam đã không nên cướp công rồi, bước một bước sai nát bét!

Cứ tưởng cướp được một chậu châu báu, ai biết được là củ khoai nóng bừng, nếu như ban đầu không tính kế Triệu Bạch Ngư, thì đại án phỏng tay này nên là Triệu Bạch Ngư đau đầu nhức óc... Đợi đã.

Trịnh Sở Chi bỗng dưng sững người, nhớ lại chi tiết những việc Triệu Bạch Ngư làm ở quán trọ huyện Giang Dương, rốt cuộc cũng cảm nhận được điều kì lạ.

Triệu Bạch Ngư thật sự đi sai nước cờ mới bị lão tính kế sao?

Nếu y là Khâm sai, công lớn trong tay bị cướp đi mà chỉ gây khó dễ cho tín sứ, đánh con chó của lão xong rồi chịu để yên ư? Và cả khi lão luyện ở Đại lý tự đến hỏi thăm cách thẩm vấn Tôn Phụ Ất thế nào, y vẫn vô tư thụ kế nữa?

"Trừ phi là Bồ Tát! Trừ phi Triệu Bạch Ngư là Bồ Tát biến —— "

Tim Trịnh Sở Chi quặn đau, nghĩ lại lúc đó lão dương dương tự đắc coi mình là hoàng tước, ở trước mặt Triệu Bạch Ngư luôn ra vẻ hả hê, ôm lấy củ khoai nóng mà người ta vội ném đi, coi nó như bảo bối, còn chẳng biết được Triệu Bạch Ngư ở sau lưng mình đã vui vẻ thành cái dạng gì, lão tức muốn nổ tim, cổ họng chợt có vị tanh ngọt, khụ một tiếng nôn ra búng máu tươi.

"Triệu Bạch Ngư —— mi đúng là quân khốn nạn!!!"

==

Chương 44

Trịnh Sở Chi hộc máu bất tỉnh, vừa tỉnh lại đã gọi người giống trống khua chiêng đi gọi đại phu, cáo bệnh không đến bộ Hình, nằm trong phủ rên rỉ thở than cả ngày, suy nghĩ xem nên tránh kiếp nạn này thế nào.

Nghĩ tới nghĩ lui, lão vẫn chọn nhờ cha già ở Định Châu xa xôi cứu một mạng.

Sau đó, ông lão Trịnh quốc công sáu mươi tuổi nhận được thư con trai trưởng gửi đến, đầu ong lên một cái, mắng lão là con lừa ngu đần, bảo Trịnh Sở Chi có thể cáo bệnh một thời gian, không thể cáo cả đời được.

Nguyên Thú đế biết Trịnh Sở Chi bị bệnh lập tức phái thái y ghé phủ chẩn mạch, Trịnh Sở Chi vốn giả bệnh tới nước này rồi không thể không bệnh thật.

Đêm hôm đó Trịnh Sở Chi ngâm nước lạnh, đêm đông gió buốt ra ngoài hóng gió, thành công bị thương hàn quật ngã.

Lúc thái y đến chẩn mạch, phát hiện lão đã bị quấn ba lớp chăn bông, đang nói mê sảng cái gì đấy.

Thái y cho thuốc, dặn dò chú ý rồi hồi cung phục mệnh, Nguyên Thú đế đương nhiên đã nhìn ra được chút tâm tư này của Trịnh Sở Chi, trái lại không luống cuống, ngoài mặt làm ra vẻ quan tâm đến bề tôi, lệnh cho thái y đến phủ Quốc công chẩn mạch cho Trịnh Sở Chi mỗi ngày, nhất định phải bảo đảm cho uống thuốc mau hết bệnh.

Quan chủ thẩm bị bệnh, nhưng tiến độ của vụ án không thể bị trì hoãn, cũng may còn có ba vị quan bồi thẩm là Đại lý tự Thiếu khanh, Hình bộ Thị lang và Khang vương tiếp tục thẩm vấn.

***

Phủ Trịnh quốc công.

Có quan bồi thẩm ra đón đầu, Trịnh Sở Chi tạm thở phào nhẹ nhõm, lão nằm trên giường, mặt mũi tái nhợt hỏi: "Định Châu đưa thư đến chưa?"

Quản gia trong phủ: "Bẩm lão gia, chưa đến."

Trịnh Sở Chi: "Đông cung thì sao? Đông cung không có động tĩnh gì sao?"

Phụ tá tiến lên chắp tay nói: "Đông cung vẫn đang rất thận trọng."

Ánh mắt Trịnh Sở Chi trống rỗng: "Bệ hạ đưa Khang vương vào làm bồi thẩm, chính là vì biết Khang vương sẽ không làm việc vì tình riêng, cũng sẽ không dễ dàng tha thứ cho ta vì tư tâm mà thay đổi lời khai, mà hai triệu lượng bạc cứu trợ được dời ra khỏi sơn trang Ký Sướng đã viết trong hồ sơ, dù là Khang vương hay bệ hạ, chỉ cần nhìn thấy bốn chữ "sơn trang Ký Sướng" thôi sẽ biết ngay vụ án có liên quan đến Tĩnh vương rồi. Vì vậy Thái tử sẽ không sợ hãi, hắn không cần phí tâm phí sức chứng minh trong sạch, ta chỉ cần viết sơn trang Ký Sướng trong hồ sơ, thì chính là đã giúp hắn thoát khỏi hiềm nghi tội tham ô bạc chữa sông, giết Chương Tòng Lộ và cả bạc cứu trợ bị cướp!"

Lão kích động ho sù sụ, quản gia vội vàng tiến lên hầu, Trịnh Sở Chi khoát tay, chậm rãi nói tiếp: "Tư Mã Kiêu chiếm đoạt thuế Hoài Nam, cấu kết với An Hoài Đức đóng binh không phải là giả. Ta thấy An Hoài Đức đã quyết bảo vệ Tĩnh vương, có điều không dám đảm bảo, dù vậy lời khai của ông ta vẫn đủ tạo thành đòn công kích môn đảng Thái tử mạnh mẽ, nhưng vì sao Đông cung vẫn bình tĩnh như vậy?"

Phụ tá nghĩ không ra: "Cõ lẽ là... Có lẽ là bó tay rồi, dứt khoát ngồi chờ chết?"

Trịnh Sở Chi: "Có thể tâm tính của đương kim trữ quân không bì nổi với bệ hạ thời trẻ, nhưng cũng không phải hạng người ngu ngốc vô dụng, nhất định là hắn còn có chiêu nữa." Lão níu tay phụ tá, yếu ớt mà vẫn cố nói: "Môn khách Đông cung đông đúc, hiển nhiên đã sớm đoán ra người đứng sau màn là Tĩnh vương trước ta một bước, cũng biết được trong tay Tĩnh vương có kim bài, đoán ra ta sẽ gây rối nên cũng không dám nhúng tay vào đại án!"

Phụ tá vội khuyên nhủ: "Lão gia, ngài cứ dưỡng bệnh đã, đại án xưa nay không phải có vụ đến ba năm mà còn chưa xử lý xong sao? Đây còn là án liên quan đến Tĩnh vương và Đông cung, dính vào cả quan trường Hoài Nam, chuyện phức tạp cần kiên trì, không phải nói vài ba lời, một sớm một chiều là có thể giải quyết được. Hoặc là dùng chiêu "kéo dài", kéo đến khi bệ hạ quên đi, để Đông cung bọn họ tự thỏa hiệp —— "

"Kéo dài? Bệ hạ sẽ cho ta kéo dài ư? Ngươi tưởng mỗi ngày một tên thái y khác nhau tới phủ xem bệnh, là vì bệ hạ quan tâm đến lão thần thật sao? Rõ ràng là đang nhắc nhở ta mau hết bệnh, mau chóng xử lý vụ án Hoài Nam này!" Trịnh Sở Chi vỗ mép giường than thở: "Bệ hạ đoán ra ta vờ bệnh để trốn tránh, ngươi nói xem, ta nên làm gì đây?"

Phụ tá đề nghị: "Chi bằng ngài tự tố cáo mình đi, để bệ hạ chọn ra lương quan khác, cùng lắm là bị khiển trách một trận thôi, không đến nổi vì vậy mà cách chức ngài đâu."

"Trịnh Sở Chi: "Nếu bị cách chức thật thì sao?"

Phụ tá bị hỏi khó: "Hạ sai cảm thấy không đến nổi..."

"Đến nổi!" Trịnh Sở Chi kích động mãnh liệt: "Hiện giờ triều đình không thể dùng ai ngoài ta, không ai thích hợp là chủ thẩm vụ án này cả! Sao ta lại ôm đồm cái việc chết người này thế nhỉ? Đông cung... Đông cung không thể thờ ơ như vậy được, ai nấy đều nhìn chằm chằm vào động tĩnh hai bên Đông cung và phủ Ngũ hoàng tử, nhất định chúng bày mưu rồi mới quyết định, còn ra chiêu chờ ta nhảy vào! Biển thường lặng trước giông bão, bây giờ phải bình tĩnh đã!"

Phụ tá cảm thấy cấp trên đang đánh giá thấp mình: "Có lẽ Đông cung chỉ giả vờ bình tĩnh thôi, không chừng trong lòng ai nấy cũng đều hoang mang lo sợ đấy ạ."

Cơ mặt Trịnh Sở Chi giật lên, ánh mắt tang thương: "Ngươi không hiểu đâu. Tuy ngươi đầy bụng học thức, nhưng sẽ không theo kịp lục đục trong phủ Kinh Đô này đâu. Chúng ta rời khỏi Kinh Đô quá lâu rồi, làm sao biết được nước Kinh Đô sâu bao nhiêu? Cũng làm sao biết được những tên Kinh quan này miệng thì đạo đức nhân nghĩa, thật ra tim phổi thối nát không thể ngửi nổi!"

Triệu Bạch Ngư chưa tròn hai mươi tuổi đã có thể mặt không đổi sắc làm bộ để lão lợi dụng, nhìn lão rơi vào cái bẫy, còn ra vẻ oan ức như mình là người bị hại, sau đó chu đáo diễn hết vở kịch, khiến cho lão tin rằng mình đã khống chế được toàn cục, chơi đùa với thiếu niên Khâm sai.

"Thật đáng sợ! Mới mười chín tuổi đã mưu tính đến cỡ này, chúng ta trú đóng ngoài biên giới quanh năm suốt tháng, gặp gỡ võ tướng thẳng thắn, làm gì cũng động đao động thương, dù có âm mưu quỷ kế cũng không đến nỗi này!" Trịnh Sở Chi không nhịn được lên án: "Dã tâm của những tên Kinh quan này rất lớn, trăm tám mươi trái tim chơi với ngươi, ngươi vượt qua thế nào?"

Phụ tá: "..." Đại nhân bệnh đến nỗi hồ đồ rồi.

***

Lều vải doanh trại Ký Châu, Định Châu.

Tiểu tướng trẻ tuổi mặc nguyên giáp đỏ vén rèm lều trại, ôm tay hành lễ: "Tiểu tướng tham kiến Nguyên soái!"

Giữa lều bày một chiếc bàn thấp, bên phải có một sa bàn dài chừng bốn năm thước tái hiện địa hình Đột Quyết và Định Châu, bên trái treo một tấm bản đồ da dê, áo giáp bút mực từng thứ một đều có đủ.

Sau chiếc bàn thấp có một ông già tóc hoa râm nhưng tinh thần còn khỏe mạnh, lúc này đang tỉ mỉ đọc thư gửi từ phủ Kinh Đô tới, ông chính là Trịnh quốc công.

Nghe tiếng tiểu tướng, Trịnh quốc công ôn tồn vẫy tay: "Lúc không nói đến công việc thì không càn phải xưng theo cấp bậc."

"Vâng." Tiểu tướng trẻ ngẩng đầu, làn da đã chuyển màu lúa mì vì hành quân nhiều năm trời, mặc dù không giống như kiểu trắng hồng căng muốt thường thấy trong Kinh Đô, nhưng khuôn mặt mang mày kiếm mắt sáng lại rất tuấn tú, phong thái ung dung, có thể thấy rằng không tầm thường. "Tôn nhi tham kiến ngoại tổ."

Ngươi này chính là đương kim Lục hoàng tử Hoắc Chiêu Vấn, năm nay mười chín, tuổi quân đã bốn, năm năm.

"Sang đây xem hai bức thư gửi từ Kinh Đô này, một bức từ chỗ đại cữu con, một bức từ Đông cung."

Lục hoàng tử nhận lấy hai bức thư xem nhanh, cơ bản hiểu được thế cục của phủ Kinh Đô ngày nay, cùng với vị trí mà phủ Trịnh quốc công bọn họ đang bị vùi lấp, cùng lúc đó, Trịnh quốc công cũng quan sát thấy biểu cảm của Lục hoàng tử thay đổi.

"Thế nào?"

"Cục diện khó phá." Lục hoàng tử rũ mắt, bình tĩnh phân tích: "Ngoại tổ, ngài biết rõ nhất ân oán giữa phụ hoàng và Bát thúc, bây giờ đã tra ra được sơn trang Ký Sướng, Thập thúc cũng nằm trong số quan bồi thẩm, chắc hẳn phụ hoàng cũng đã nhận ra án này không khỏi liên quan đến Bát thúc, bây giờ chỉ xem coi vụ án mà Bát thúc phạm phải có lớn hay không thôi. Ta đoán, trong lòng phụ hoàng đã tính toán xong cả rồi, nhưng ông ấy không ngờ tay Bát thúc lại dài hơn."

"Đúng vậy." Trịnh quốc công vuốt râu gật gù, vô cùng vui vẻ, "Tuy con ở xa biên giới, nhưng lại có thể suy đoán ngắn gọn thế cục triều đình trong Kinh thông qua bức thư này, quả là kỳ tài ngút trời. Với nhận biết của ta về bệ hạ, thì sự bình tĩnh ngay lúc này cho thấy ông ta có hiểu biết nhất định về quan trường Hoài Nam và đại án, hoặc là nói, ông ta nắm chặt trong lòng bàn tay."

"Tĩnh vương là cái gai trong mắt bệ hạ, quân Tây Bắc trong tay lão là đại họa trong lòng bệ hạ, bệ hạ không thể để cho lão co đầu rút cổ ở Dương Châu mà không bị giám sát, cho nên có một số việc trong lòng bệ hạ đã rõ ràng. Chẳng qua trời cao Hoàng đế xa, luôn có những hoạt động ngầm, ví như... Nuôi binh tạo phản!"

Trịnh quốc công nói với Lục hoàng tử: "Bộ tướng ủng binh còn khó mà dễ dàng tha thứ, huống chi là nuôi binh soán vị. Cho nên ta nghĩ bệ hạ còn chưa biết chuyện đóng nuôi binh, nếu không ông ta không bình tĩnh nổi đâu, Đông cung cũng sẽ không có nỗi một giây nhàn rỗi để gửi thư giao dịch với con."

Trịnh quốc công: "Cục diện khó phá, nhưng không có nghĩa là hết cách tự bảo vệ mình. Con thử nói xem, Đông cung và Hoàng hậu có ý gì? Phủ Trịnh quốc công nên làm thế nào để vừa có thể thoát thân khỏi thế khó đồng thời lấy được lợi đây?"

Lục hoàng tử: "Cục diện khó phá, nhưng ta có thể hạ độ khó của ván cờ. Phụ hoàng biết một không biết hai, chúng ta sẽ làm như ông ấy đoán vậy, chỉ vạch trần cục diện 'một', còn 'hai' thì che. Đông cung nhường quân Tây Bắc trong tay Tĩnh vương, hợp tác với phủ Trịnh quốc công, có thể dùng An Hoài Đức làm bước đột phá, lấy sổ sách bằng chứng Tư Mã Kiêu tham ô cùng với thư từ qua lại mấy năm nay, đổi lại tội đóng nuôi binh ở Hoài Nam của bọn họ sẽ vĩnh viễn trở thành bí mật."

"Tĩnh vương giết mệnh quan triều đình, đụng vào bạc cứu trợ thiên tai, nhưng vì trong tay có kim bài miễn tử nên có thể được miễn tội chết, tội sống lại khó thoát, chỉ cần Đông cung cam kết ngày sau có thể chiếu cố nhiều hơn, ta có thể thuyết phục An Hoài Đức. Trái lại, nếu như vạch trần chuyện nuôi binh ở Hoài Nam, chắc chắn sẽ mắc tội động đến sát tâm của phụ hoàng, Đông cung và phủ Trịnh quốc công không dễ chịu, Tĩnh vương nhất định cũng sẽ không khá hơn chút nào. Không thể giết cửu tộc thì cũng san bằng tam tộc, không giết được Tĩnh vương thì giết vợ con họ hàng, cho dù có phải lăng trì lóc thịt, Tĩnh vương cũng phải trơ mắt nhìn, khiến lão từ nay về sau phải đau đớn đến nỗi sống không bằng chết —— "

Khi Lục hoàng tử nhắc đến lăng trì lóc thịt, biểu cảm không có thay đổi quá lớn, không cảm thấy mình lòng dạ ác độc, chỉ nói: "Cách để khiến cho người sống còn thống khổ hơn cả chết thì có nhiều lắm, phụ hoàng căm hận Tĩnh vương đến vậy, có cái gì mà ông ấy không làm được?"

Trịnh quốc công cười, ông chăm chú nhìn Lục hoàng tử: "Đất đai biên giới hoang vu, lại cần phải vùng vẫy như hồ cá chật hẹp, không thích hợp để con thể hiện tài năng, chỉ có Kinh Đô, chỉ có non sông tươi đẹp của triều Đại Cảnh ta mới xứng với hoài bão và tài trí của con. Cai trị một nước không thể không cân bằng ba yếu tố kinh tế, chính trị và quân sự, nay con đã đứng vững trong quân đội, Lưỡng Giang có Quý phi nương nương và phủ Quốc công gây dựng nền móng kinh tế. Trừ cái này ra, chỉ có chính sự triều đình mới có thể luyện được lòng dạ, cần con tự dấn thân vào, đích thân cảm nhận một phen. Cả triều văn võ, Tam ty Nhị phủ, Tam tỉnh Lục bộ, chỉ khi nào thuần phục được bọn họ, điều khiển được bọn họ, con mới thật sự có tư cách tranh giành vị trí kia, bằng không con sẽ không thể ngồi yên được ngay cả khi đã lấy được nó."

Lục hoàng tử cúi người bái một cái thật sâu: "Tôn nhi xin nhận lời dạy bảo."

Trịnh quốc công vỗ vỗ cánh tay Lục hoàng tử nói: "Con không hề kém cạnh trữ quân, bệ hạ cũng chưa hẳn có ý xem thường con. Đến phủ Kinh Đô, nhớ cho kỹ, phải nghĩ rồi mới làm, bất cứ việc gì đều phải có kế hoạch mới thành, không có kế hoạch thì bại."

Lục hoàng tử: "Tôn nhi đã biết."

Đột nhiên nhớ đến con trai trưởng, Trịnh quốc công không nhịn được lắc đầu: "Đại cữu con sống đến ngần tuổi này rồi mà còn không trầm ổn bằng con! Nó không ham mê cờ bạc, cũng chẳng tham tiền tham sắc, vậy mà lại tham công lớn! Bất luận là quan trường hạy là tòng quân đánh giặc, điều kiêng kỵ lớn nhất chính là tham công, dễ làm liều, một khi đã liều sẽ dính bẫy rập bên trong, chết rồi cũng không biết chết thế nào nữa! Lăn lộn trong quân đội bao nhiêu năm, ta cũng tận tâm chỉ bảo bấy nhiêu năm, vậy mà một lần vào Kinh Đô liền xòe móng lừa chạy, rơi vào bẫy của tiểu Khâm sai còn dám vênh mặt tự đắc, tiểu Khâm sai kia còn nhỏ hơn cả con trai lớn của nó đấy!"

Trịnh quốc công tuổi đã cao mà tính tình vẫn nóng nảy, hùng hổ vỗ bàn rầm rầm: "Vứt hết mặt mũi vào bãi phân cho ông đi! Lâm An tiểu quận vương còn trẻ hơn nó gần một giáp, chẳng phải trước kia nó cũng so đo bản lĩnh hành quân đánh giặc với tiểu quận vương đó sao, cái gì cũng chẳng bằng. Rồi bây giờ vào Kinh, cũng đi so tâm tư với Khâm sai trẻ tuổi hơn mình rất nhiều, so mưu tính kế với quan trường, bị bẫy thành con rùa đen co cổ mất rồi! Nghe bảo tiểu quận vương và Khâm sai còn là vợ chồng thì phải? A, con nói thử xem, tỷ võ không bằng người làm chồng, so văn cũng chẳng bằng một tiểu tức phụ, ông đây cũng mất mặt thay nó!"

Trịnh quốc công mắng con trai không phải ngày một ngày hai, từ ngữ cũng nặng nề, Lục hoàng tử nghe đã thành quen, huống chi bọn họ đều là trưởng bối của hắn, khuyên bảo thế nào cũng không phải phép, không bằng cứ im lặng chịu đựng.

Lục hoàng tử nhìn chằm chằm mấy bức thư trên bàn, nhớ đến vị tiểu Khâm sai mà người cậu thích công to nhưng không đần độn lắm của hắn nhắc đến trong thư.

Triệu Bạch Ngư, Triệu thị Tứ lang... Bây giờ phải gọi là Ngũ lang rồi.

Bằng tuổi với hắn và Triệu Ngọc Tranh, thời gian ra đời cách nhau không xa.

Triệu tế chấp quyền cao chức trọng, rất được Nguyên Thú đế tin tưởng, khi đó Hoàng hậu và Quý phi đều muốn lôi kéo Triệu Bá Ung, thường xuyên cho đám nhóc bọn họ chơi chung với nhau.

Tuổi tác của Thái tử, Tam ca, Ngũ ca bọn họ thì xấp xỉ với ba lang quân Triệu gia, đang cùng lúc học vỡ lòng, mà ba lang quân rất yêu thương em trai nhỏ trong nhà, thường xuyên cõng hoặc ôm Triệu Ngọc Tranh nhỏ xíu đi theo, bọn họ cùng nhau tham gia các loại hoạt động khác nhau của trẻ con cùng lứa.

Dù bắt nguồn từ mục đích nào đi chăng nữa, thì mấy vị anh trai lớn của Lục hoàng tử cũng cưng chiều và yêu thương Triệu Ngọc Tranh vô điều kiện.

Lục hoàng tử lớn hơn Triệu Ngọc Tranh hai ba tháng, hắn và Triệu tam lang thường phải nhường nhịn, bảo vệ Triệu Ngọc Tranh, những lúc đến Triệu phủ cũng toàn chỉ tụ tập trong sân viện của Triệu Ngọc Tranh.

Một lần tình cờ tìm bắt con mèo xổng ra ngoài, đi nhầm vào một khoảnh sân rách nát hẻo lánh, Hoắc Chiêu Vấn nhìn thấy Triệu Bạch Ngư ở đó.

Một đứa trẻ nhỏ thó, cao bằng năm đầu người, da rất trắng, đôi mắt giống hệt như con nai con mà Tam ca nuôi, y ngồi trong sân nhẹ nhàng gãi cằm con mèo trắng, con mèo kia rất nóng tính, gặp người là cắn, ấy vậy mà ở trước mặt Triệu Bạch Ngư lại tỏ vẻ như mình ngoan ngoãn lắm.

Hoắc Chiêu Vấn thích người đẹp, đây cũng là lý do hắn cưng chiều Triệu Ngọc Tranh, cả Kinh Đô này không có đứa trẻ nào xinh xắn bằng Triệu Ngọc Tranh, thế cho nên khi nhìn thấy nhóc Triệu Bạch Ngư dịu ngoan đáng yêu không có chút kiêu căng nào, hắn lập tức có cảm tình.

Trước khi ma ma trong cung đến tìm, Hoắc Chiêu Vấn đã hỏi tên y, biết được y tên là Triệu Bạch Ngư, cảm tình trong lòng tiêu tan ngay tức khắc, hóa thành nối tiếc nuối không vui nhàn nhạt thoáng qua.

Con nít yêu ghét rõ ràng, rất dễ bị ảnh hưởng bởi những người xung quanh.

Triệu tam lang thường ghé tai hắn nói xấu Triệu bạch Ngư, Hoắc Chiêu Vấn còn chưa đủ năng lực phân biệt thiện ác đã tin lời Triệu tam lang, nghe nói Triệu Bạch Ngư chính là đầu sỏ hại Triệu Ngọc Tranh bị bệnh, hắn liền lạnh lùng ôm mèo trắng đi.

Nhìn gương mặt xinh xắn đó, rốt cuộc Hoắc Chiêu Vấn cũng không trách cứ Triệu Bạch Ngư tội bất kính nữa.

Đó là lần đầu tiên gặp mặt, cũng là lần duy nhất.

Lục hoàng tử hoàn hồn, hắn đã quay về lều mình từ lúc nào, đang lau chùi hồng anh đầu thương, bỗng nhiên trở tay phóng thương đi, thương dài cắm thẳng vào chính giữa tấm bia.

"Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư... Không ngờ hai người lại có thể đi cùng nhau, lại còn là quan hệ vợ chồng." Lục hoàng tử bật cười, "Đúng là thế sự khó lường."

So với Triệu Bạch Ngư, hắn càng tò mò Hoắc Kinh Đường đóng vai gì trong đại án Hoài Nam lần này hơn.

***

Phong thư từ Định Châu làm Trịnh Sở Chi chết đi sống lại, "Không ngờ sẽ có lúc ta đứng trên cùng một thuyền với Đông cung. Bây giờ, quan trọng nhất chính là phải thuyết phục An Hoài Đức giấu giếm chuyện đóng binh ở Hoài Nam, cũng chẳng biết lão có thể chấp nhận đồng tâm hiệp lực với ta không nữa."

Phụ tá: "Chi bằng ngài viết một bức thư đi, tôi thúc ngựa ra roi đưa đến Dương Châu đưa cho Tĩnh vương? Chuyện bạc cứu trợ thiên tai không thể gạt ai được, chi quân Tây Bắc trong tay Tĩnh vương phải lấy lại, dù bệ hạ có không quan tâm đi nữa, thì Đông cung và lão Quốc công cũng cùng mơ ước, nhưng giấu việc nuôi binh ở Dương Châu, chúng ta có thể đảm bảo với Tĩnh vương sẽ mắt nhắm mắt mở... Ít ra, Tĩnh vương còn có thể đánh cược mình vào thế đông sơn tái khỏi, tôi không tin lão không động tâm."

Trịnh Sở Chi suy nghĩ rồi đồng ý: "Cứ làm như vậy đi."

***

Đông cung.

Ngũ hoàng tử sa sầm mặt: "Nhị ca, chúng ta thật sự chắp tay nhường nhịn quân Tây Bắc hay sao? Đây chính là quân Tây Bắc kiêu dũng thiện chiến đó! Mạnh hơn binh chúng ta tiêu một số tiền lớn nuôi ở Hoài Nam rất rất nhiều... Đây còn không phải là binh của chúng ta, nhưng quân Tây Bắc trong tay Bát thúc là thật, nếu đã có cơ hội nắm vững rồi sao còn để vụt mất? Nhường cho Lục đệ được?"

Thái tứ: "Vậy chẳng lẽ ta không muốn cho là có thể không cho sao? Không cho đồ tốt, Trịnh quốc công chịu dốc túi giúp đỡ ư? Không chỉ là quân Tây Bắc trong tay Bát thúc thôi đâu, cô còn phải nhờ mẫu hậu đến chỗ Thái hậu nói một tiếng, điều Lục đệ hồi Kinh đấy."

Ngũ hoàng tử sốt ruột, "Kêu Lục đệ trở về, không phải để nó quang minh chính đại cướp đồ của ta sao?"

Thái tử: "Đệ ấy ở Định Châu nhiều năm, bố trí, nội tình thế nào chúng ta đều không biết, chi bằng điều về Kinh Đô, ở gần theo dõi. Huống chi thế lực của chúng ta ở Kinh Đô phức tạp khó gỡ, cản trở Lục đệ không phải rất đơn giản hay sao? Vả lại, quân Tây Bắc trong tay Bát thúc không phải nói cho là có thể cho được, đó là miếng thịt trong miệng phụ hoàng. Nói là nhường cho không bằng nói là đưa người vào nằm vùng, ta nhớ không lầm, mùa xuân năm tới là An phủ sứ tỉnh Thiểm Tây kết thúc nhiệm kỳ rồi, cô định sẽ điều Phủ doãn phủ Kinh Triệu, Thái Trọng Thăng giữ chức An phủ sứ."

An phủ sứ một tỉnh có quyền điều động binh tướng, còn có quyền giám sát hạn chế quân Tây Bắc, Phủ doãn phủ Kinh Triệu tỉnh Thiểm Tây tất nhiên là môn đảng Thái tử.

Ngũ hoàng tử vỗ tay: "Xem đệ này, hoảng đến độ nào mà quên mất Thái Trọng Thăng chứ? Nếu như đề cư Thái Trọng Thăng làm An phủ sứ tỉnh Thiểm Tây, e là quân Tây Bắc của Lục đệ không đòi được bao nhiêu chỗ tốt."

Thá tử: "Nếu không thì sao cô có thể nhường lại quân Tây Bắc của Bát thúc cho được? Cô nào ngu xuẩn đến mức tự hủy trường thành như vậy?"

Ngũ hoàng tử cười ha ha: "Là đệ ngu ngốc. Nhị ca sáng suốt uy vũ, không bỏ sót kế nào!" Gã quay lại nói: "Như vậy đầu tiên, chỉ cần giải quyết lời khai của An Hoài Đức là được."

Thái tử: "Giao cho Trịnh Sở Chi đi, đệ đừng nhúng tay. Ăn nhiều của ngon vậy rội, người của phủ Trịnh quốc công nên làm việc hết mình đi chứ."

Tâm trạng của Ngũ hoàng tử lại tốt lên: "Đương nhiên. Vậy tiếp theo, ta ngồi xem kịch vui thôi là được."

***

Phủ Lâm An quận vương.

Hải Đông Thanh chao lượn trên bầu trời phủ quận vương hồi lâu mới đáp xuống, đưa tin tức mới nhất từ Dương Châu đến.

Hoắc Kinh Đường mở thư, xem xong thì cho một mồi lửa.

Triệu Bạch Ngư ôm hồ sơ vào phòng, liếc thấy tro giấy xám đen trong lư hương bèn hỏi: "Ta thấy Hải Đông Thanh bay chơi ngoài sân, là tin tức bên Dương Châu à?"

"Ừ." Hoắc Kinh Đường nâng chung trà lên, nhấp một ngụm làm ấm cổ họng.

Triệu Bạch Ngư: "Không định áp giải Tĩnh vương vào Kinh sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Trước đây chưa đến lúc, bây giờ có thể rồi."

Triệu Bạch Ngư đặt hồ sơ xuống, ngồi đối diện Hoắc Kinh Đường: "Vì sao? Trịnh Sở Chi đã nghĩ ra cách giải cục rồi ư?"

"Xem như là vậy." Hoắc Kinh Đường không muốn nói nhiều, chỉ nắm lấy tay Triệu Bạch Ngư, xoa bóp khớp xương cho y: "Bây giờ gánh nặng Phủ dụ sứ đã có thể đặt xuống rồi, vẫn muốn về đảm nhiệm Thiểu doãn phủ Kinh Đô sao?"

Triệu Bạch Ngư đành chịu, chỉ đống hồ sơ trên bàn: "Ta mới ra ngoài làm việc mấy tháng, Phùng Xuân Sơn đã đấy cớ công vụ bề bộn, cất nhắc người bên dưới lên thế chỗ. Ta vừa về đã phải giao nhận với tân Thiếu doãn, bây giời chỉ có thể về làm lên lại từ Phán quan, hoặc là từ chức, ta chẳng thích làm cấp dưới của loại người như Phùng Xuân Sơn lâu dài đây, nên là dứt khoát từ chức cho xong."

Hoắc Kinh Đường nói: "Tiểu lang tiếp tục ở lại phủ nha làm tiểu quan thất phẩm như thế đúng là uổng phí, hay cứ làm quận vương phi thôi là được rồi."

Triệu Bạch Ngư khẽ vào mu bàn tay Hoắc Kinh Đường: "Đứng đắn lên nào."

Hoắc Kinh Đường: "Vợ chồng ở trong phòng tân hôn còn làm bộ đứng đắn, tội tình gì phải vậy hả?"

Triệu Bạch Ngư không nói lại hắn: "Nói chuyện nghiêm túc với chàng này, chàng nói thử xem, ta xong chức Phủ dụ sứ có thể ngồi vào chỗ thiếu nào?"

Hoắc Kinh Đường lười nhấc mi mắt: "Ta đoán không chừng sẽ có rất nhiều người đến cướp tiểu lang đây. Bộ Hình và Đại lý tự không khả thi lắm, Cửu tự Ngũ giám* cũng coi như nhàn rỗi, bình thường không ai đến, cũng không ai muốn đến, nhàn rỗi nói rõ ổn định, không có chỗ trống thì thôi không nói, nhưng quan hệ tình nghĩa phức tạp hơn bất kì bộ, ngành nào. Bộ Binh... Em không phải quan võ, không thể vào. Chỉ còn lại hai bộ Công, Lại, hai ty Diêm thiết, Đạc chi là có cơ hội có thể vào."

(*) Cửu tự Ngũ giám (九寺五监): là các ban ngành độc lập với chức năng trung ương, thành lập vào thời Đường. Về cơ bản là cùng cấp quan chức với Thượng thư Lục bộ, không có quan hệ lệ thuộc về pháp định với Lục bộ, nhưng chức quyền lại chồng chéo với Lục bộ rất nhiều, thực tế thì tồn tại quan hệ phân công cùng chế ước lẫn nhau. Lục bộ chủ quản chính lệnh, Cửu tự Ngũ giám phân biệt phụ trách các mặt sự vụ cụ thể.

"Tam ty hả... Ta thấy hơi xa vời." Triệu Bạch Ngư đáp: "Hai ngày nay ta đến bộ Lại báo cáo công việc, ở đó có ít nhất ba bốn mươi quan địa phương đang chờ chỗ trống của Tam ty, nhất là khi phủ Kinh Đô đang để trống vị trí Đô Thương thuế sứ, cơ bản là ai cũng đổ xô vào đó."

Đô Thương thuế sứ quản lý thuế thu nhập của tất cả các đường thủy và thương nhân, cửa tiệm ở phủ Kinh Đô, là một vị trí rất béo bở, thường chỉ bố trí ba giám quan, cung không đủ cầu, lần nào thừa ra chỗ trống cũng đều có một đám Kinh quan và quan địa phương chen chân đến giành.

"Có lẽ do ta làm việc không tệ, trước đó cũng là Phủ dụ sứ một tỉnh, người ngoài nghĩ ta hẳn là có tiền đồ xán lạn lắm, vậy nên lúc đến bộ Lại được tiếp đãi rất nồng hậu, họ đưa ta đến phòng khách riêng ngồi chờ kết quả. Phòng khách riêng chỉ cách phòng chính một bức tường, có thể nghe được quy trình xét hỏi quan lại của bọn họ." Triệu Bạch Ngư không nhịn được bật cười, "Khỏi phải nói, vui lắm."

"Thế nào?"

Triệu Bạch Ngư bừng bừng hứng thú kể: "Có một quan địa phương được điều về từ một huyện xa xôi nào đó, tự thuật chính tích làm việc bao nhiêu năm qua, nào là Huyện lệnh sáu năm, Tri phủ năm năm, Nha môn chẳng năm nào thiếu hụt, còn nhận được hai đỉnh dù vạn dân. Theo lý mà nói, chính tích này quá là đẹp, nhưng quan hỏi xét bộ Lại lại chẳng mấy hứng thú, đến khi tên quan địa phương mong cầu chức Đô Thương thuế này nói gã là một trong những học sinh của đương kim Tế chấp Lư tri viện, bấy giờ đám quan lại kia mới khách sáo, mềm mỏng hơn. Nhưng hỏi kỹ chút nữa, mới biết tên này có vào phủ Lư tri viện bái thiếp hơn một tháng mới được vào phủ gặp mặt, tuy nhiên cũng chỉ là ngồi đợi ở một cái phòng nhỏ nào đó trong phủ thôi, vốn chẳng biết mặt Lư tri viện, quan bộ Lại đều là người dày dặn kinh nghiệm, lấy lệ qua loa đôi ba câu rồi đuổi người đi mất."

Triệu Bạch Ngư nói đến đây, ngón trỏ vô thức quấn vào bối vân trên vòng Phật xoay nó vòng vòng.

"Trong quan trường muốn xin việc vào vị trí trống cũng phải xem quan hệ, không xem thành tích. Nhận thức chung của cả quan trường chính là nếu không làm quan bằng đường thi cử, vậy chỉ có thể làm đến ngũ phẩm là coi như hết, thật ra không phải vậy, chàng cứ nhìn những vị quan ta gặp ở bộ Lại đi, ai nấy đều là môn sinh của Thiên tử, bọn họ đường đường chính chính thi lên, nhưng không phải vì quan hệ không đủ thân cận với đại quan mà bị quét sạch hết hay sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Thế tiểu lang có vừa ý chỗ nào không?"

Triệu Bạch Ngư: "Không đặc biệt chú ý chỗ nào, đợi sắp xếp thôi. Chàng đừng phí tâm đi tìm quan hệ giúp ta, không cần thiết."

Hoắc Kinh Đường bật cười một tiếng: "Tiểu lang lại xem thường mình nữa rồi, ta đi tìm quan hệ giúp em ở đâu được đây?"

Triệu Bạch Ngư đã được Hoắc Kinh Đường khen nhiều thành quen, mặt không đổi sắc lái qua những chuyện phiếm khác.

***

Phủ Lâm An quận vương lời ong tiếng ve chuyện gia đình, ngày nào cũng thoải mái nhàn hạ, Trịnh Sở Chi nhận được thư hồi âm từ Dương Châu, mà Đông cung lại luôn theo dõi phủ Trịnh quốc công sát sao, tất nhiên đã biết tiến triển vụ việc.

Sau khi nhận thư, Trịnh Sở Chi liền vội vã chạy đến đại lao bộ Hình, một mình đến gặp An Hoài Đức, không biết đã thỏa thuận như thế nào, chỉ biết đêm đó An Hoài Đức đã khai ra bằng chứng và đồng ý nhận tội.

Tư Mã Kiêu cũng ở trong tù, thoát hiểm từ đường tơ kẽ tóc, như trút được gánh nặng, trong khoảng thời gian dài từ Hoài Nam đến phủ Kinh Đô, rốt cuộc cũng được ngủ ngon một giấc.

Bộ Hình là địa bàn nơi thế lực Đông cung cắm rễ, dù cho Thái tử không phải chủ thẩm, từng chuyện xảy ra trong này một giây hắn cũng biết rõ ràng. Lời khai của An Hoài Đức vừa ra, đã có người chạy ngay đến Đông cung báo tin.

Đêm đó, rất nhiều phe cánh đều thở phào nhẹ nhõm, duy chỉ có phủ Khang vương chong đèn trắng đêm, là một trong những quan bồi thẩm có nhiệm vụ giám sát đại án Hoài Nam, Thập vương bất lực, tiếc nuối thở than.

Ông nhận được thư từ phủ Lâm An quận vương, là thư chặn từ Hoài Nam gửi về, Đông cung và phủ Trịnh quốc công đều vì tự bảo vệ mình mà có thể khoan nhượng lẫn nhau, bắt tay hợp tác, nếu như tấm lòng này là vì dân vì nước, tất nhiên Khang vương sẽ vui vẻ an tâm phần nào.

Nhưng đây là vì lợi ích của riêng mỗi người, bất kể an nguy của quốc gia và dân chúng, bọn họ thà rằng thả hổ về rừng, bảo vệ một tặc tử đại nghịch bất đạo có ý đồ mưu triều soán vị?!

Từ kẻ thân là nhân thần, hoàng tử thậm chí là trữ quân, một mặt cũng là người thân, là con trai của bệ hạ, cách làm của bọn họ đúng là khiến người ta nhói lòng.

Khang vương khó ngủ, ông thức trắng một đêm suy nghĩ, nội tâm đau đớn, cuối cùng vẫn thiêu hủy thư mà phủ quận vương gửi đến, ông hiểu ý của Hoắc Kinh Đường.

Về công về tư, nếu Hoắc Kinh Đường đã không thể bỏ qua cho Tĩnh vương, thì sẽ không cho phép kế hoạch của đám người Đông cung và phủ Trịnh quốc công thành công.

Bọn họ càng muốn dàn xếp ổn thỏa, Hoắc Kinh Đường càng muốn xé rách trời xanh!

Đây chính là sự tàn nhẫn của Hoắc Kinh Đường, nhưng việc Hoắc Kinh Đường đưa thư từ qua lại giữa Đông cung và phủ Trịnh quốc công đến phủ Khang vương, để tùy ông quyết định tấu bẩm chuyện đóng binh, hay là sau chuyện này ba bên cùng lừa gạt Nguyên Thú đế, lại chính là lòng nhân từ của hắn.

"Hắn biết chắc là ta sẽ mềm lòng mà!"

==

Cá con phiên bản mini và mèo con 🥺🔫 phải ôm cả hai đứa về giấu thôi...

Chương 45

Hoắc Kinh Đường chắc chắn Khang vương trung thành với Nguyên Thú đế và triều đình, ông vừa sẽ không để mặc cho mưu kế của Đông cung và phủ Trịnh quốc công thành công, vừa không nỡ lòng để vụ án bị xé ra to, để kết quả cuối cùng chính là mưa máu gió tanh, không thể xoay chuyển.

Ví như đại án Hoài Nam lần này, sau khi Nguyên Thú đế biết được sự thật, dù lửa giận sẽ trút hết lên Tư Mã thị và Trịnh Sở Chi, nói sao thì cũng còn một Tĩnh vương ở đầu lãnh bớt nửa pháo lửa, nhưng nếu biết chuyện là do Đông cung và phủ Trịnh quốc công âm thầm bắt tay gây ra, Nguyên Thú đế sẽ hoàn toàn mất khống chế.

Thiên tử mất khống chế, trăm ngàn xác người ngã xuống không phải sao?

Chỉ sợ Hoàng hậu và Đông cung đều sẽ bị Nguyên Thú đế nổi trận lôi đình hạ lệnh chém chết, các môn đảng cũng hết đường chạy trốn.

Đại ngục nửa năm trước đã dấy lên vì Tần vương thật ra không là gì so với hành động của các đế vương triều đại trước, dù sao thì tất thảy đều nằm gọn trong lòng bàn tay của Nguyên Thú đế, chẳng qua việc diệt trừ vây cánh đã nằm trong danh sách săn giết của lão từ lâu, những kẻ bị tóm vào tù ai cũng nói mình bị oan, nhưng không biết là oan chỗ nào.

Một khi Thiên tử đã mất đi lý trí giơ đao lên thì chính là mất hết tình người, mang họa đến cho thiên hạ, máu chảy ngàn dặm, đến lúc đó dù ông có ra khuyên can, nói không chừng cũng sẽ bị Nguyên Thú đế giết người đỏ mắt tịch thu tài sản rồi chém đầu mất.

Khang vương không hề nói quá chút nào, cũng may là ông hiểu rõ Ngũ ca của mình nên mới dám khẳng định như vậy, đừng thấy bình thường Nguyên Thú đế thể hiện mình coi trọng thiên luân lạc sự*, thực ra luôn ngầm mưu tính mấy đứa con trai của mình không hề nương tay, bản chất là người bạc tình tuyệt nghĩa.

(*) Thiên luân lạc sự - 天倫樂事hay thiên luân chi lạc - 天倫之樂 được dùng để chỉ niềm lạc thú của gia đình, sự đoàn tụ của mọi người trong nhà

"Chuẩn bị xe ngựa và triều phục đi, bổn vương muốn gặp vua."

***

Ngày hôm sau lâm triều, trăm quan đứng cúi đầu, vẫn tấu bẩm chuyện triều như thường ngày, không quá khác thường.

Đến giờ Thìn, Đại thái giám liếc mắt nhìn thời gian rồi chậm rãi tiến lên, thấp giọng báo bên tai Nguyên Thú đế.

Nguyên Thú đế không ngừng xoay nhẫn ban chỉ trên ngón tay cái tay trái, ánh mắt tuần tra thái độ của trăm quan trong điện Thùy Củng, sắc mặt vẫn như thường ngày, đến cả Đại thái giám hầu lạ lão nhiều năm cũng không nhìn ra được tâm trạng lão bây giờ ra sao.

"Trịnh Sở Chi." Nguyên Thú đế bỗng nhiên lên tiếng.

Trịnh Sở Chi hồi hộp, lập tức bước ra khỏi hàng: "Có thần."

Nguyên Thú đế: "Ừ... Vụ án Hoài Nam đã tra đến đâu rồi?"

Trịnh Sở Chi nuốt nước bọt, khóe mắt liếc nhìn bóng dáng cao ngất mà sừng sững bất động của Đông cung và Ngũ hoàng tử trước mặt, lão thấy vậy liền vội đánh mắt đi, trong lòng liên tục thuyết phục mình sẽ không xảy ra chuyện gì, ngoại trừ Đông cung, phủ Trịnh quốc công và Tĩnh vương thì không ai biết toàn bộ chân tướng vụ án, mà ba bên bọn họ chẳng người nào muốn tìm đường chết cả.

"Bẩm Thánh thượng, thần đã tra rõ chân tướng đại án Hoài Nam, bốn năm trước, quan tham nghị An phủ sứ Hoài Nam Tôn Phụ Ất giết cả nhà Hoàng thương Giang Nam Hoàng thị cướp bảo vật..."

Từ sáng sớm, Trịnh Sở Chi đã ngồi trong phủ soạn sẵn lời trần tình vụ án, chắc chắn không thể có sai sót mới dám đứng ở ngự tiền nói ra, mà chân tướng vụ án lão nói không chênh lệch nhiều với tình hình thật, có điều đã giấu giếm một vài chi tiết.

Ví như Tôn Phụ Ất giết người cướp của, bảo vật bị bị cướp chính là huyết phách ngàn năm.

Ví như An Hoài Đức chiếm đoạt bạc chữa sông, cướp bạc cứu trợ thiên tai, việc trước giấu Ngũ hoàng tử bày mưu lập kế, việc sau giấu công dụng thật sự của việc cướp bạc cứu trợ —— "Thần đã thẩm vấn bộ hạ và tâm phúc của An Hoài Đức mới biết hóa ra ông ta là bộ hạ cũ của Tĩnh vương, giả vờ phục tùng mê hoặc Thái tử, mà Thái tử quen dùng người giỏi, tiến cử nhiều lần. An Hoài Đức chẳng những không cảm ơn, trái lại mượn uy danh Đông cung hành hung làm ác, quả thật là tội ác tày trời, không thể dung thứ."

Thái tử hưởng ứng tấu bẩm của Trịnh Sở Chi, lập tức bước ra khỏi hàng quỳ xuống: "Phụ hoàng, bưng tai bịt mắt, không nhìn ra An Hoài Đức lòng lang dạ sói phản bội chủ, để mặc ông ta làm bậy ở Hoài Nam, lấn áp trăm họ, sâu hơn là nhi thần chỉ vì cái lợi trước mắt, muốn giúp phụ hoàng thu hút nhiều hiền thần lương lại hơn, từng nhiều lần khen thưởng, tiến cử An Hoài Đức, người bên dưới chỉ xem thái độ của nhi thần làm việc, không ai dám tố cáo An Hoài Đức trước mặt nhi thần làm cho ông ta càng kiêu căng liều mạng, coi thường uy nghiêm triều đình, tùy tiện sát hại mệnh quan... Đây là lỗi của nhi thần, xin phụ hoàng trách phạt nhi thần tội sơ xuất trong giám sát, không làm tròn bổn phận."

Ngũ hoàng tử cũng vội bước ra khỏi hàng: "Phụ hoàng, chuyện không liên quan đến Thái tử, là nhi thần hết sức tiến cử An Hoài Đức, một mực bảo đảm người này có tài kinh quốc, Thái tử mới cất nhắc ông ta nhiều lần. Muốn trách muốn phạt cứ để nhi thần gánh chịu, nhất định không dám hai lời!"

Thái tử trách: "Ra làm gì? Không phải chuyện của đệ!"

Ngũ hoàng tử giả điếc không nghe, cố chấp quỳ tại chỗ: "Phụ hoàng, nhi thần không có nhiều bản lĩnh, không thích đọc Tứ thư Ngũ kinh, không hiểu đạo lý lớn là gì, chỉ có câu "Xây dựng bản thân lấy hiếu đễ làm nền móng" là tự thân sâu sắc cho là đúng, khắc ghi trong lòng. Nhi thần biết không thể tu dưỡng trung tín lễ nghĩ liêm sỉ nến mức tận cùng, vậy nên dốc lòng rèn luyện hai chữ hiếu đễ đứng đầu tám đức*. Không thể nói rằng đã rèn 'hiếu đễ' đến nỗi có thể khiến cho người ta khen ngợi, nhưng lại dám khoe khoang, sai lầm của nhi thần khi ở dưới quyền hành của Thái tử chính là vì hai chữ 'hiếu đễ' này mà so ngực với bụng, có qua có lại."

(*) Tám đức gồm hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ

Từng câu từng chữ ra, thiên quân rơi xuống đất.

Quan triều nghe vậy, nội tâm bắt đầu cảm thán, đều nói thiên gia không có cha con, không có anh em, vậy mà tình cảm giữa đương kim Thái tử và Ngũ hoàng tử lại làm cho người ta vô cùng cảm động.

Cũng không phải là tất cả quan triều đều đang cảm khái tình anh em thấu trời xanh kia, ít ra Trần Sư Đạo ngoài mặt rũ mắt cúi đầu nhưng trong lòng đang cảm thấy khinh bỉ.

Nghiêu Thuấn còn không dám tự khen chí hiếu chí đễ, hắn là người đầu tiên đấy.

Bệ hạ còn chưa lên tiếng, hai vị này đã phấn son lên sân khấu, không phải là muốn dùng hiếu đễ để làm Nguyên Thú đế động lòng đấy chứ?

"Bây giờ còn chưa phải là lúc các ngươi bước ra nhận sai đâu." Nguyên Thú đế gác khuỷu tay lên long ỷ, vuốt ve nhẫn ban chỉ, biểu cảm lạnh như băng: "Còn thích quỳ thì cứ quỳ đi."

"——!"

Tim đám người Thái tử nặng trĩu xuống, thái độ này của Nguyên Thú đế không nằm trong dự liệu khiến cho bọn họ mất đi thái độ tự tin trong tay. Nguyên Thú đế có chán ghét Tĩnh vương đến đâu đi nữa thì cũng không thể giận cá chém thớt hai người được, còn ở ngay trước mặt toàn triều văn vỏ nói 'không phải lúc nhận sai' ——

Có ý gì?

Chẳng lẽ Nguyên Thú đế biết được chuyện gì trước rồi?

Nguyên Thú đế nhìn thắng Trịnh Sở Chi: "Tấu xong rồi sao?"

Da đầu Trịnh Sở Chi tê dại, tim đập mạnh, không dám đáp lại ánh mắt xuyên thấu lòng người của Nguyên Thú đế, lão cố nén sợ hãi, lắp bắp: "Thần... Thần đã tấu xong."

Nguyên Thú đế lại hỏi quan bồi thẩm: "Đại Lý tự Thiếu khanh, Hình bộ Thị lang, các ngươi không có lời gì để nói sao?"

Bây giờ kẻ ngu cũng biết có vấn đề đã xảy ra, hai vị mệnh quan triều đình bước ra khỏi hàng, nhắm mắt trả lời: "Bẩm bệ hạ, chúng thần chỉ phối hợp với Trịnh đại nhân nghị tội hỏi cung, đầu đuôi vụ án đều do... Do Trịnh đại nhân toàn quyền phụ trách, chúng thần không dám lạm quyền."

Nguyên Thú đế yên lặng, cả điện câm như hết, những người có liên quan đã đổ mồ hôi lạnh ướt lưng.

Nguyên Thú đế: "Có người mật báo cho trẫm, nói có rất nhiều loạn đảng nổi dậy ở vùng hương dã Hoài Nam, thường kết thành đội ngũ đi lại ở vùng núi, có cả khẩu hiệu, trang bị áo giáp và đao thương quân dụng, ý đồ bất chính."

Trịnh Sở Chi sợ hãi quỳ rạp xuống đất, trán cụng vào nền đất lạnh như băng, bất chấp đau đớn, lão nhanh trí xoay chuyển: "Thần, thần không biết..."

"Thái tử, tiểu Ngũ, các ngươi có biết không?"

Hai người cũng sợ đến nỗi tay chân lạnh ngắt mà vẫn cố bình tĩnh: "Nhi thần, không biết."

Giờ phút này bọn họ đều đang nghĩ, cuối cùng là do ai mật báo? Còn ai biết được chuyện đóng binh ở Hoài Nam nữa?

Triệu Bạch Ngư sao?

—— không, y không thể nào biết được!

... Y thật sự không biết ư?

Nếu như không phải vua đang ở trước mặt, Trịnh Sở Chi đã vò đầu bứt tai, đau đớn không chịu nổi rồi, làm sao chuyện có thể thay đổi xoành xoạch làm người ta phát điên thế kia? Rốt cuộc Triệu Bạch Ngư là thần thánh phương nào? Có phải y tính toán sau lưng lão hay không? Nếu như không phải là y, vậy thì ai mật báo? Đối phương còn biết được bao nhiêu?

Câu hỏi giống vậy cũng thoáng qua suy nghĩ của Thái tử và Ngũ hoàng tử, nhưng không ai nói cho bọn họ biết đáp án.

Nguyên Thú đế hỏi lại lần nữa: "Bao năm nay Tư Mã Kiêu chiếm đoạt gần bốn thành thuế thu Hoài Nam, trong tối cấu kết với An Hoài Đức, đóng binh nuôi binh ở Hoài Nam, có chuyện này không?"

Thái tử đập đầu bộp bộp mấy tiếng hô lên: "Tuy nhi thần thường xuyên qua lại với nhà ngoại, nhưng Tư Mã gia mang danh thanh quý, ai nấy đều biết, gia phong Tư Mã thị chất phác kính cẩn, cúi đầu trước gương sáng, cũng rất nhiều người biết. Mẫu hậu đoan trang hiền thục, có tài có đức, làm gương cho mệnh phụ trong thiên hạ, hai mươi mấy năm qua chưa từng giẫm đạp kẻ dưới, không thể có được đức hạnh này nếu không có sự ảnh hưởng của truyền thống gia đình. Tư Mã Kiêu đã ra ngoài Kinh làm việc mấy chục năm, tuy cô không quen thân với ông ấy nhưng tin tưởng gia phong Tư Mã thị nghiêm khắc, có lẽ trong đó có hiểu lầm... Phụ hoàng nói có người mật báo, nhi thần cả gan, dám hỏi là người phương nào? Có nhân chứng vật chứng không? Làm sao đê chứng minh chứng cứ không phải là ngụy tạo?"

Nguyên Thú đế: "Ngươi muốn chứng cứ sao?"

Thái tử cúi đầu thấp hơn: "Đánh giá theo tình hình chủ yếu để luận tội, luật pháp như vậy, nhi thần chỉ làm việc theo luật pháp."

Nguyên Thú đế hỏi những người khác: "Các ngươi cũng muốn chứng cứ sao?"

Không ai dám đáp lại, nhưng Trịnh Sở Chi đã hoàn hồn, đứng vững trên áp lực đáp: "Bệ hạ, không có lời khai không thể kết án, xin chỉ ra chứng cứ, cho chúng thần tâm phục khẩu phục."

Nguyên Thú đế: "Khang vương đâu rồi?"

Tiếng vừa dứt, Khang vương đầu đầy mồ hôi liền chạy vào: "Thần tham kiến bệ hạ, thần đến muộn, mong bệ hạ thứ tội."

Nguyên Thú đế: "Miễn có phí lời vô ích đi, trẫm hỏi đệ, có chứng cứ chứng minh Tư Mã Kiêu chiếm đoạt thuế Hoài Nam và An Hoài Đức bí mật đóng binh hay không?"

Khang vương: "Hồi bẩm bệ hạ, trước đây lúc thẩm vấn Huyện lệnh Giang Dương Lữ Lương Sĩ, gã đã thừa nhận hành vi lợi dụng thiên tai để mua bán con gái nhà lành, đưa những cô gái xinh đẹp vào hậu trạch của các cấp trên, trong số đó có Đô tào Hoài Nam Tư Mã Kiêu..."

Căn nguyên câu chuyện đều nói rõ từng chi tiết một, trong điện vang vọng âm thanh rõ ràng của Khang Vương.

Thái tử quỳ không nhúc nhích, Ngũ hoàng tử chợt quay đầu, ánh mắt khó tin, Trịnh Sở Chi cắn chặt hàm răng, gò má căng lên, tay chân run rẩy, cứ nhìn chằm chằm xuống đất.

Nguyên Thú đế: "Chư vị khanh gia, đều nghe được rồi chứ?"

Trăm quan như trăm con chim cút, đầu chôn sâu xuống ngực.

Nguyên Thú đế lại hỏi Thái tử và Trịnh Sở Chi: "Các ngươi có lời muốn nói không?"

Trịnh Sở Chi cắn răng rồi chối đẩy trách nhiệm, la làng lên: "Thần bất lực! Thần hổ thẹn quá, từ đầu đến cuối An Hoài Đức, Tư Mã Kiêu cấu kết với loạn thần tặc tử lòng sâu không thấy đáy, giấu giếm tội nặng như vậy mà vẫn dương dương tự đắc ở ngự tiền, ba hoa khoác lác, thần đúng là kẻ dốt nát vô dụng, không tài không đức!"

Thái tử cũng dập đầu, nói theo: "Phụ hoàng, không phải nhi thần làm việc không công bằng, nhưng nếu chỉ dựa vào lời của mình Lữ Lương Sĩ, làm sao biết được đó không phải là trong lòng gã đang oán hận, trước khi chết cắn bậy người khác?"

Nguyên Thú đế giận, trái lại cười nói: "Hay, hỏi rất hay, phàm là con đối với chuyện triều, đối với trăm họ có nhường này cố chấp đào bới đến cùng, cũng không ngừng theo đuổi công lý công đạo, trẫm cũng sẽ không cần phải hao tâm tổn sức —— Thập đệ, chuyện liên quan đến Đông cung cũng như Trung cung, nếu như không có bằng chứng, trẫm sẽ trừng trị đệ tội tung tin đồn sai sự thật, sao chém cả nhà!"

"Thần đệ không dám nói láo nửa câu!" Khang vương chỉ trời thề với đất, "Đêm qua An Hoài Đức bỗng nhiên nghĩ thông suốt. cho đòi cai ngục đến truyền lời, nói rằng muốn lấy công chuộc tội trước khi chết, đệ là quan bồi thẩm, vừa hay đêm qua ở đại lao bộ Hình nên đã tự chủ trương thẩm vấn An Hoài Đức, đến tận khi trời sáng mới kết thúc. Bởi vì chuyện vốn quan trọng, còn chưa kịp rửa mặt đã vội chạy đến gặp bệ hạ, nào dám có nửa lời dối gạt?"

Ông nói xong liền đưa chứng cung mới cóng ra, Đại thái giám đem chứng cung lên cho Nguyên Thú đế đọc.

Nguyên Thú đế đọc xem, mạnh mẽ ném chứng cứ xuống trước mặt Thái tử: "Thái tử của trẫm, con trai ngoan của trẫm, nhìn thử xem người cậu mà ngươi kiên trì bênh vực là thứ lòng lang dạ sói gì!"

Thái tử nhanh tay cầm chứng cung lên xem, phút chốc trong mắt ngùn ngụt ngọn lửa âm u, vì sao An Hoài Đức đột nhiên phản bội bọn họ? Không phải ông ta chính là con chó trung thành của Bát thúc sao? Hay là nói, An Hoài Đức và Bát thúc bắt tay nhau đùa bỡn bọn họ?!

Còn cả Thập thúc bình thường im ắng như đồ bỏ sao không tiếp tục quần là áo lượt đi? Ai đã mật báo cho ông ta biết? Sao ông ta lại nghĩ đến Lữ Lương Sĩ? Hay An Hoài Đức nói cho ông ấy biết?

Chiêu này chính là giải quyết tận gốc, bọn họ giống hệt như mấy con vịt bị lùa vào bẫy, một lưới bắt gọn!

Bát thúc và An Hoài Đức đúng là cao tay, còn Thập thúc lại giả heo ăn cọp, ai mà ngờ được ông ấy lại đột nhiên xoay chuyển cục diện bằng cách này, xoay vần bọn họ đến choáng váng!

Đợi đã ——

Biến cố đột nhiên xuất hiện, phụ hoàng không liệu trước được sao?

Tất cả mọi chuyện Thập thúc làm đều không liên quan gì đến phụ hoàng ư?

Nhớ lại ngày Tần vương bị phế, Nguyên Thú đế cũng tỏ vẻ không quan tâm đến tựa như lần đầu tiên biết chuyện, sau đó Tam tỉnh Lục bộ, Cửu tự Ngũ giám không ít quan mới bổ khuyết không phải là người của hắn, cũng không phải là môn đảng phủ Trịnh quốc công, lại càng không phải là bất kỳ ai thuộc số những học sinh của Tế chấp.

Thái tử biết, những người như vậy chỉ thành tâm cống hiến cho đế vương.

Suy nghĩ sâu xe một phen, Thái tử đã rõ ràng, cả người không khỏi phát rét.

Đương lúc sấm chớp ầm ầm, trái lại Ngũ hoàng tử phản ứng nhanh chóng, cướp lời nói: "Tư Mã Kiêu một tội là chiếm đoạt khoản thuế, hai tội là đóng binh, ỷ vào thân là quốc cữu, là người thân của Hoàng hậu và Thái tử nên ở ngoài gây sự, ngang ngược làm loạn, lòng kiêu ngạo bành trướng, không đếm xỉa đến ân đức của bệ hạ, cũng không niệm lòng tin tưởng của Hoàng hậu và Thái tử, vô pháp vô thiên, đại nghịch bất đạo, dù có tịch thu tài sản diệt tộc cũng không quá đáng! Nhưng Tư Mã Kiêu một mình làm ác, từ trước đến nay luôn khiêm tốn cẩn thận, Tư Mã gia sao có thể trách một quân tử không a dua? Hoàng hậu là gương sáng của mệnh phụ, Thái tử tại vị vẫn luôn tận chức tận trách vô tội biết bao? Nhi thần biết Thái tử nặng hiếu, không đành lòng để Hoàng hậu suy nghĩ về người bên ngoại quá nhiều mới nói thay cho tội nhân Tư Mã Kiêu... Phụ hoàng, nhi thần cầu xin phụ hoàng minh giám, tội của Tư Mã Kiêu không liên quan gì đến Thái tử."

Triệu Bá Ung đứng hàng trước nghe vậy, sâu trong lòng âm thầm than thở, Nguyên Thú đế đã tỏ rõ mình đang nổi giận, Ngũ hoàng tử có muốn cầu tình cũng không nên nói vào lúc này.

Lư tri viện do dự chốc lát, chỉ đành bất lực nhắm mắt bước ra: "Bệ hạ, thần cho rằng lời Ngũ điện hạ nói không hẳn không có đạo lý, tạm thời không bàn đến nề nếp gia đình Tư Mã thị như thế nào, nhưng có thể thấy nhiều năm qua Hoàng hậu chưa từng mắc sai lầm, thận trọng từ lời nói đến hành động, Thái tử lại là trữ quân một nước, chẳng lẽ lại không biết tự ý đóng binh là tội nặng hay sao? Huống chi người mà An Hoài Đức chân thành cống hiến chính là Tĩnh vương, nếu Tư Mã Kiêu còn có lo nghĩ đến Hoàng hậu và Thái tử thì sẽ không vơ vét của cải xương máu của dân tài trợ cho An Hoài Đức nuôi binh! Vì thế, thần cho rằng, tội của Tư Mã Kiêu đều do hắn tự làm tự chịu, không kiên quan gì đến Hoàng hậu và Đông cung!"

Lư tri viện vừa lên tiếng, các quan triều cũng lục tục bước ra khỏi hàng nói lên ý kiến của mình, nội dung hầu hết là cố tách rời dính líu giữa Đông cung và Tư Mã Kiêu.

Biểu cảm của Nguyên Thú đế vẫn khó hiểu, đột nhiên bật cười một tiếng: "Trẫm chưa nói lời nào trách cứ Hoàng hậu và Đông cung cả, chư vị khanh gia đã vội vàng phủi sạch quan hệ giúp Thái tử rồi, có lúc trẫm còn hoài nghi cuối cùng ai mới là vua, ai mới là thần đấy?"

Lời vừa nói ra như sấm nện xuống đất, quan triều đồng loạt quỳ xuống, trán ướt mồ hôi, không dám cầu xin tha nữa.

Nguyên Thú đế: "Trịnh Sở Chi. Trẫm cho ngươi thêm một cơ hội cuối cùng, tra rõ chân tướng đại án Hoài Nam, tất cả những người liên quan đến án này, bất kể là hoàng tử vương tôn, tam công cửu khanh hay quan viên địa phương, tôi tớ tiểu thương, tất cả đều bắt lại hỏi bằng được, tội nặng phải trị nghiêm, tuyệt đối không được bỏ qua bất kì một loạn thần tặc tử nào có ý đồ mưu triều soán vị! Nếu như còn có người mật báo, nói ra chuyện mà ngươi không tra ra được, thì không chỉ đơn giản là mũ cánh chuồn rơi xuống đất đâu, mà là cẩn thận cái đầu trên cổ ngươi đấy!"

Trịnh Sở Chi bị dọa sợ run lên bần bật: "Thần... Vi thần lĩnh chỉ!"

Nguyên Thú đế: "Khang vương, đệ đến Dương Châu thẩm vấn Tĩnh vương và gia quyến, hễ có liên quan đến danh sách những người trong phủ Kinh Đô hoặc quan trường Hoài Nam, đệ đều có thể bắt lại!"

"Thái tử, lão Ngũ, nếu các ngươi khăng khăng mình vô tội thì chính là không sợ bị lửa bén, ai nấy tự ở trong phủ của mình đi, đừng ra ngoài nữa."

Lời này không quá tuyệt tình, nhưng có ý cấm túc.

Sắc mặt Thái tử và Ngũ hoàng tử cùng trở nên chán nản, không dám nhiều lời.

Lư tri viện còn muốn lên tiếng nhưng ngay lập tức đón nhận ánh mắt sắc lạnh của Nguyên Thú đế: "Ai cầu xin tha thứ nữa, đều xử lý theo tội đồng đảng!"

Nhất thời quan triều đều ngậm chặt miệng, tự biết nguy hiểm.

Nguyên Thú đế: "Bãi triều!"

***

Thái tử và Ngũ hoàng tử đuổi kịp Tĩnh vương, đám người Trịnh Sở Chi đi theo sau lưng.

"Thập thúc, có thể nói cho cô biết, ai là người mật báo không?" Bị đâm một nhát dưới mắt Thiên tử, Thái tử lười nói nhảm mà đi thẳng vào vấn đề.

"Nếu muốn người không biết, thà rằng mình đừng làm." Khang vương lắc đầu, "Là một bề tôi, ta không thể nói cho ngươi nội tình vụ án. Là thập thúc của ngươi, ta khuyên các ngươi đừng hành động thiếu suy nghĩ, các ngươi không đấu lại Tĩnh vương, đừng ngu xuẩn mà bày mưu với hổ, các ngươi sẽ bị lão ta ăn sạch sẽ đến xương cũng không còn."

Đã nói đến nước này, chứng cứ giống hệt như Thái tử đoán.

"Quả nhiên là do Bát thúc gây ra. Lão chưa từng muốn bảo toàn Hoài Nam... Mà muốn nhân cơ hội này lay động triều đình Đại Cảnh, đấu với trữ quân ta đây, được lợi hơn bất kỳ giao dịch nào khác."

Buồn cười thay hắn không nhận ra lòng dạ cay độc đến nỗi muốn ngọc nát đá vỡ của Tĩnh vương.

Chỉ một câu nói đã bại lộ thủ đoạn của đám người Thái tử và Tĩnh vương, Khang vương vô cùng thất vọng, nhưng ông vẫn dửng dưng: "Thái tử cẩn thận lời nói."

Thái tử sững người một cái, rồi vội vàng hỏi: "Thập thúc, phụ hoàng có biết cô và Bát thúc —— "

"Thần không biết! Người cấu kết với Tĩnh vương chỉ có Tư Mã Kiêu, Thái tử chớ hồ đồ."

Thái tử mấp máy môi, nhìn chằm chằm Khang vương: "Cô cảm ơn Thập thúc."

Khang vương không đáp lời, xoay người bỏ đi.

Trịnh Sở Chi bước xuống bậc thang, không để ý nên trượt chân té lăn xuống đất, đập đầu chảy đầy máu me.

Người ngoài hô lên nhưng không ai dám đỡ lão dậy, Trịnh Sở Chi chật vật đứng lên, lảo đảo muốn nói chuyện với đồng liêu. Thế nhưng đồng liêu cũng bị dọa sợ khoát tay lia lịa chứng minh trong sạch, nói hắn không liên quan gì đến Tĩnh vương, Tư Mã Kiêu và Đông cung gì sất. Trịnh Sở Chi sững người, cổ họng không phát ra nổi tiếng nào, bầu trời tuyệt vọng đã ập xuống đầu lão.

Nguyên Thú đế nổi giận rồi, chiến trận lần này dùng mắt thường cũng đủ thấy nghiêm trọng hơn nhiều so với khoa thi Giang Nam lần trước, chỉ sợ không thể dùng mưa máu gió tanh để mà hình dung.

Người chủ trì đại lao lần trước là lão thần Triệu Bá Ung, sau khi thăm dò được tâm tư Nguyên Thú đế thì chỉ phạt trừ môn đảng của phủ Trịnh quốc công bọn họ, để lại một số vốn liếng cho bọn họ đối phó với đảng Thái tử, trên thực tế không khiến cho vụ án trở thành án oan trời giận người oán.

Còn bây giờ, Nguyên Thú đế đã giận đến nỗi phán ra mấy câu nặng nề như "tội nặng sẽ trị nghiêm", "mưu triều soán vị" và "loạn thần tặc tử", một khi cái mũ này rớt xuống, chính là không chết không được.

Chuyện này coi như môn đảng Thái tử xui xẻo, phủ Trịnh quốc công được lợi, nhưng sau khi biết chuyện rồi, Đông cung có chĩa mũi dùi vào phủ Trịnh quốc công bọn họ hay không?

Trăm phương ngàn kế che dấu tội nuôi binh ở Hoài Nam bị bệ hạ biết được, Tĩnh vương nổi lên mặt nước, thế cục khó khăn đã xuất hiện, lão nên xử lý thế nào đây?

***

Tư Mã Kiêu trong nhà lao cũng đã được biết kế hoạch bị bại lộ, phòng tuyến trong lòng đổ sụp, lại bị nghiêm hình tra khảo không chút lưu tình, gã tùy tiện chỉ ra những quan triều mình đã từng đưa quà cáp, hoặc tặng lại quà cho lão kèm theo thư từ, liệt kê được một chuỗi danh sách dài.

Trịnh Sở Chi chỉ đành đưa Cấm quân bao vây nhà cửa của những quan có tên trong danh sách, Nguyên Thú đế còn phái ra hai thị vệ đi cùng lão qua phủ tịch thu tài sản, một trong hai thị vệ đó là Triệu Trường Phong.

Người đang bị tịch biên lúc này là Trung thư xá nhân, Trung thư xá nhân nhoài người bò đến nắm vạt áo Trịnh Sở Chi hô oan, không lâu sau thì có người ép vợ hắn đi ra sảnh chính, người phụ nữ đó run lên bần bật, sau đó đột nhiên giãy thoát khỏi ràng buộc xông về phía cột nhà, đập đầu tự vẫn.

Biết được thê tử kết tóc của mình đập đầu mà chết, Trung thư xá nhân thả Trịnh Sở Chi ra, đau lòng trách: "Trịnh đại nhân! Quận công đại nhân! Ăn máu xương đồng liêu mà leo lên, ông vui vẻ ư?! Cẩu quan nhà ông! Nịnh thần! Tàn bạo vô lương tâm, làm sao ông biết được ta hôm nay không phải là ông ngày sau! Trịnh Sở Chi, ông nhìn thấy chưa? Đồng liêu của ông, bị ông đẩy vào tù chết oan uổng, đều đang đứng chờ ông ở điện Diêm vương —— "

Trịnh Sở Chi trên chiến trường giết người không ghê tay, trước mắt tay chân vẫn lạnh như băng, có một loại đau khổ tựa như một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ.

Bước qua khỏi người nọ, Trịnh Sở Chi thấp giọng: "Đưa vào thiên lao."

Nói xong liền định đi nhưng bị Triệu Trường Phong ngăn lại: "Đại nhân, còn phải đến nhà khác nữa."

Sắc mặt Trịnh Sở Chi phờ phạc ngay tức khắc.

***

Đại lao bộ Hình không đủ chỗ nhốt phạm nhân, thế là mở cả nhà lao của Đại Lý tự, ngày nào cũng vọng ra tiếng kêu khóc thảm thiết của phạm nhân bị nghiêm hình tra khảo, cảnh tượng mưa máu gió tanh này cũng diễn ra ở quan trường Hoài Nam.

Cái gọi là đánh cho nhận tội không chỉ áp dụng lên dân thường không quyền không thế, nhưng đối với những quan triều bị liên lụy vào ngục mà nói, ít ra dân thường còn có thanh quan niệm tình giúp đỡ, cũng có thể cáo ngự trạng để cứu mạng, mà bọn họ thì không có.

Thanh quan có gương sáng treo cao cũng không dám sóng đôi với Thiên tử, cáo ngự trạng cũng không thể cáo, bởi chỉ có Hoàng đế mới có thể mở cuộc hưng ngục này để trả lại sự trong sạch cho người dân mà thôi!

Ai có thể cứu người vô tội?

Ai có thể giải quyết công bằng nơi ngục tù này?

Bậc thềm công đường chưa khô máu, ngàn vạn oan hồn không nơi cáo.

"Oan quá ——!"

Tiếng kêu oan vang lên chói tai bị ngăn lại trong đại lao bộ Hình, không truyền đến tai Thiên tử. Trịnh Sở Chi vốn đã đầy tay máu tanh, nay trực tiếp xem quá trình tra tấn ép cung, đêm về còn gặp ác mộng rồi trở bệnh nặng một trận, nhưng vì lần này không được phép ngơi nghỉ, Nguyên Thú đế thẳng tay ban cho thái y, bạc và thuốc thang, yêu cầu duy nhất chính là không được cắt đứt vụ án.

Trịnh Sở Chi một thân một mình bước vào quán rượu, gọi một đĩa đậu phộng và một vò rượu, cảm thán sâu sắc rằng quan trường biến hóa thất thường, lão cứ nghĩ tình hình đối địch ở biên giới đã hết sức nguy ngập rồi, hóa ra quan triều ở phủ Kinh Đô tưởng chừng như an nhàn hưởng lạc cũng đều đang bước đi trên băng mỏng.

Ít ra người ở biên cương còn có da ngựa bọc thây, chết có ý nghĩa, còn ở gần vua, chỉ cần hơi vô ý thôi là đầu rơi xuống đất, bước chân vào điện Diêm vương rồi chắc cũng không kêu nổi chữ oan.

"Nghe kể, lúc tiểu Khâm sai ở trên công đường miệng toàn phun châu ngọc, mắng quan trường Hoài Nam bảo vệ lẫn nhau, lời nào lời nấy như tuyên truyền giác ngộ vậy!"

Tiểu Khâm sai?

... Triệu Bạch Ngư ấy à.

Trịnh Sở Chi tự giễu: "Hay cho kẻ thông minh, chuyện phiền não không dính đến ngón tay, rõ ràng là người đâm phá quan trường Hoài Nam, cuối cùng lại là người duy nhất không bị kéo vào. Người tài đần độn*, đây mới là người tài đần độn... Người khác cho rằng Triệu Bạch Ngư lùi bước là thua cuộc, nhưng nào ngờ lui chính là tiến, y đã bỏ người khác lại ở phía sau đi xa xa đến đâu rồi!"

(*) Nguyên văn là 'đại trí nhược ngu –大智若愚: ý nói người có tài thường trầm tĩnh, khiêm tốn nên trông bề ngoài có vẻ đần độn

"Y đã đoán ra cục diện hiện tại từ lâu..."

Trịnh Sở Chi đột nhiên khựng lại, nhưng là ai mật báo?

Nếu như là Triệu Bạch Ngư, nói rõ y biết về vụ án này nhiều hơn lão tưởng tượng.

Trịnh Sở Chi không nhịn được nghĩ tới nghĩ lui, nhớ lại những lời Triệu Bạch Ngư đã nói, từng chuyện Triệu Bạch Ngư đã làm như bò nhai lại cỏ, bỗng nhiên hiểu ra rõ ràng, lại nhớ Triệu Bạch Ngư từng nhờ Tín sứ nói lại một câu: "Y nói 'Phủ quận vương luôn mở, lúc nào cũng cung kính chào đón'... Chẳng lẽ đã đoán ra được tình thế lúc này, cố tình ám chỉ ta đến thăm hỏi nhờ giúp đỡ?"

"Y liệu sự như thần vậy sao?" Trịnh Sở Chi cứ chần chừ mãi, cắn răng giậm chân: "Thôi, cứu một mạng người còn hơn xây bảy tòa tháp. Lục hoàng tử sắp hồi Kinh rồi, ta không thể đắc tội nhiều Kinh quan quá, càng không thể đón nhận phản công điên cuồng từ Đông cung. Con cháu Trịnh thị ta đều đang ở tiền tuyến biên giới, nếu như đắc tội quan triều, để bọn họ động tay động chân vào lương thảo cũng đủ khiến cả nhà họ Trịnh ta tử trận."

Suy nghĩ sâu xa một phen như vậy, Trịnh Sở Chi đứng dậy đi về phía phủ Lâm An quận vương.

Đến trước cửa, Trịnh Sở Chi quanh quẩn chốc lát rồi mới đến gõ cửa.

"Người nào đến thăm?"

"Phiền giúp truyền lời, Trịnh Sở Chi cầu kiến tiểu Triệu đại nhân."

==

Chương 46

Ngày giờ này, tuy nói quan trường ai nấy tự nguy, nhưng cũng không phải là không có người vui vẻ khi thấy thời cuộc trước mắt hỗn loạn, mỗi lần quan trường không ổn định là sẽ có kẻ được bộc lộ tài năng.

Ví như Môn hạ tỉnh Chương thị trung*, một trong số những chức vụ chính là phụ trách những phán quyết mà bộ Hình và Đại Lý tự bác bỏ, lần này cũng có cơ hội nhúng tay vào đại án Hoài Nam.

(*) Môn hạ tỉnh: chuyển lệnh vua đến các quan, tâu vua việc các quan thi hành lệnh vua, điều khiển lễ nghi trong cung; Thị trung là thủ trưởng của Môn hạ tỉnh.

Lại vừa hay, trong số quan bồi thẩm tham dự đại ngục có hai người là học sinh của Chương thị trung, trước khi tiến hành nghị tội, hai người đã đến thăm hỏi Chương thị trung, xin lời khuyên về cách tiến hành tra án.

Chương thị trung là Chính tam phẩm, lại có quyền Tể tướng, tuy đều là Tể tướng nhưng trên triều đình không chỗ nào sánh bằng Triệu Bá Ung, lão đã có ý đào tạo môn đảng dưới gối từ lâu, khổ nỗi không có cơ hội.

Vụ án lần này đến như trời hạn gặp mưa, trống đi mấy trăm chỗ, không có Tần vương, Thái tử tranh đấu với lão, còn Triệu Bá Ung lần trước mới vừa chủ trì một án, không dám ló đầu quá nhiều để tránh bị bắt được cái chuôi, vậy nên căn bản không ai tranh cơ hội này.

Có thể nói, đây chính là cơ hội tốt mà ông trời đưa đến trước mặt lão, để cho lão một bước vút lên tầng mây xanh!

"Các ngươi muốn hỏi có nên siết chặt tay một chút hay không, nhưng sợ đồng thời đắc tội Đông cung, Trung cung và phủ Trịnh quốc công đúng chứ?"

Hai vị đại nhân đật đầu lia lịa: "Dạ đúng đúng! Ân sư anh minh."

Chương thị trung: "Ta hầu hạ trước sau hai triều, hai giai đoạn tiên đế tuổi già và bệ hạ lên ngôi ta đều đã trải qua, ngày đó nếu thường có nhà quan triều bị tịch thu, thì sẽ xuất hiện một hai oan ngục mà phải không? Nhưng các ngươi từng thấy oan ngục nào được lật lại bản án chưa? Đó là đại ngục mà Thiên tử mở ra, lời của vua chính là khuôn vàng thước ngọc không thể thay đổi được! Bất kể có tội hay không, chỉ cần tên xuất hiện trong danh sách thì sẽ không tha cho."

Lão nói đến đây thì kích động vỗ bàn, tận tình khuyên nhủ: "Thân là triều thần, nghe lệnh làm việc chính là hành động thông minh nhất của đạo làm nội quan."

Hai người bốn mắt nhìn nhau, rồi đồng loạt chắp tay: "Xin nhận lời ân sư dạy bảo."

Bầu không khí vừa thích hợp, Chương thị trung để lộ ra mục đích của mình, rút một tờ giấy từ trong tay áo ra nói: "Ta quan sát đã nhiều năm nay, những người này đều có tư chất hiền thần lương lại, chỗ nào còn trống có thể lấp bọn họ vào. Các ngươi xem kỹ một chút, đừng ngộ thương, cũng đừng bắt nhầm bọn họ, ôi, nếu gây ra oan ngục thật, ảnh hưởng sẽ không tốt."

Hai vị kia cũng làm quan nhiều năm, trong nháy mắt hiểu được mục đích của ân sư, nhưng cùng là bè đảng, tất nhiên là người mình càng nhiều càng tốt, vậy nên lập tức đáp ứng.

"Có điều Trịnh Sở Chi thân làm chủ thẩm, nếu như cố tình làm bậy, bọn ta sợ rằng đó là vượt quá bổn phận."

"Bản thân lão còn khó bảo toàn, chỉ biết nghĩ cách bo bo giữ mình, nào dám manh động?" Chương thị trung vuốt râu nói: "Hôm nay không ai dám ló đầu, còn các ngươi có ý chỉ của bệ hạ hộ giá hộ hàng, là cơ hội ra mặt, nếu như không nắm chặt thì còn đợi đến lúc nào nữa?"

Hai người bị giựt dây, sóng lòng dâng trào, rục rịch, chỉ hận không thể nhanh chóng trở về bộ Hình để lấy lời khai của đồng liêu.

Bái biệt ân sư, trên đường về bộ Hình hai người có nhắc đến danh sách kia: "Ông có phát hiện sự trùng hợp trong danh sách không?"

"Mấy đồng liêu dự bị bổ khuyết hình như đến từ Lưỡng Giang... Là quan viên Lưỡng Giang sao?"

"Chẳng lẽ là đảng Tần vương —— "

"Không đâu! Quan trường Lưỡng Giang còn phức tạp hơn cả Hoài Nam, nơi đó cũng không chỉ có mỗi đảng Tần vương."

Không cần nói thêm nhiều lời, trong lòng đôi bên biết rõ rồi thôi.

***

Triệu Bạch Ngư giao nhận với Thiếu doãn phủ Kinh Đô mới nhậm chức xong xuôi, rồi đến bộ Lại báo cáo công vụ, trong thời gian ngắn không thể nhận việc mới, chẳng có chuyện gì để làm nên bị Hoắc Kinh Đường dụ dỗ đi lầu Sơn Hà ở ngoại ô nghỉ dưỡng, vậy nên không kịp theo dõi tiến triển đại án Hoài Nam.

Vừa mới về phủ, Trịnh Sở Chi đã đến tận cửa viếng thăm, lúc đầu Triệu Bạch Ngư còn không kịp phản ứng.

"Ông ta đến tìm ta làm gì?"

Triều Bạch Ngư ôm lòng khó hiểu đi đến nhà trên, vừa thấy Trịnh Sở Chi, người nọ đã nhào đến hô cứu mạng: "Tiểu Triệu đại nhân, ở Dương Châu là tôi có lỗi với ngài, ngài muốn đánh muốn phạt cứ việc ra tay, Trịnh Sở Chi tôi phàm là dám đánh trả lại, cánh tay này coi như cắt đứt!"

Trịnh Sở Chi rút Hoàn Thủ Đao ra nhét vào trong tay Triệu Bạch Ngư: "Tiểu Triệu đại nhân, ngài đâm tôi hai nhát để trút giận đi!"

Ngụy bá và Hải thúc lặng yên không tiếng động xuất hiện hệt như môn thần ngăn trước mặt Triệu Bạch Ngư, người trước chộp lấy vũ khí, người sau nham hiểm nói: "Đại nhân nhà ta thân thể yếu ớt, không nên thấy máu và đồ vật sắc bén, xin ngài thứ lỗi."

Chỉ vừa mới giao thủ bằng cách đoạt đao đơn giản vậy thôi, mà Trịnh Sở Chi đã biết hai vị trước mặt mình là cao thủ, đã vậy ông còn đang muốn cầu cứu người ta, lần này nào dám lỗ mãng?

Triệu Bạch Ngư ngồi trên chủ vị: "Trịnh đại nhân không ở bộ Hình xử án, chạy đến nhà ta làm gì?"

Trịnh Sở Chi lộ vẻ nóng ruột: "Tiểu Triệu đại nhân, tôi đến cầu xin ngài cứu lấy ba trăm tám mươi bảy quan triều cùng người nhà họ hàng của họ, tổng cộng hơn hai ngàn người. Tôi thật sự không đành lòng nhìn xương trắng hồn oan khắp nơi rồi mới đến cầu ngài, ngài là Bồ Tát đại từ đại bi, còn có trí tuệ cứu khổ cứu nạn, tôi thay mặt hơn hai ngàn mạng người cầu xin ngài ra tay cứu bọn họ."

Triệu Bạch Ngư vô thức buông vòng phật trên cổ tay trái xuống, đến lúc nhận ra mới tiếp tục khảy nó, nhìn về phía Ngụy bá.

Ngụy bá mới đến bên cạnh rỉ tai y, kể rõ những thay đổi trong triều những ngày gần đây.

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Các ông không nghĩ ra được cách phá cục sao?"

Nghe vậy, Trịnh Sở Chi ra vẻ vui mừng: "Tiểu Triệu đại nhân, quả nhiên ngài đã rõ ràng vụ án rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Vì sao bệ hạ lại biết chuyện đóng binh?"

Trịnh Sở Chi bật thốt lên: "Không phải là do đại nhân mật báo sao?"

"Không phải ta. Ta vốn chỉ mong mọi chuyện được sắp xếp ổn thỏa, càng giết ít càng tốt, sao lại chạy đi mật báo để uổng công vô ích chứ?" Triệu Bạch Ngư cau mày.

Trịnh Sở Chi cười lúng túng: "À, phải, đại nhân có lòng nhân hậu."

Nhìn biểu cảm của ông ta là biết không tin, không chừng còn cho rằng Triệu Bạch Ngư y tự biên tự diễn tự chơi, chờ đến cuối cùng mới ngăn cơn sóng dữ, ngư ông đắc lợi.

Triệu Bạch Ngư lười giải thích, chỉ nói: "Ta không có cách nào hết."

Mặt Trịnh Sở Chi lập tức biến sắc, liên tục khẩn cầu: "Tiểu Triệu đại nhân, xin ngài hãy để mắt đến những dân chúng vô tội dính phải vụ án này mà giúp đỡ một chút. Tôi biết ngài đa mưu túc trí, năng lực thần kỳ có thể hóa mục nát thành nguyên vẹn, lúc trước Trần thị lang tử hình đã là chuyện chắc như đinh đóng cột, cũng không phải đã được ngài cứu sống sao? Chủ mưu đại án Hoài Nam đúng là đáng tội chết vạn lần, một vài tên quan lại bất nhân chết cũng không có gì để tiếc, nhưng ngài có biết bệ hạ tức điên lên mở đại ngục sẽ kéo biết bao nhiêu người vô tội vào hay không? Lại nói vợ của người kia đập đầu vào cột nhà chết, cả nhà Trung thư xá nhân đó từ già trẻ lớn bé đều đang ở trong tù, mẹ già bảy mươi tuổi, còn có cô nương mang thai tám tháng, con trai trên mười sáu, con gái dưới mười tuổi, trong nhà tổng cộng hơn hai trăm người!"

"Mặc dù chủ thẩm đại ngục lần này là tôi, nhưng tôi cũng chỉ là nghe lệnh làm việc thôi, chủ đạo chân chính là ba quan bồi thẩm mà bệ hạ phái tới. Bọn họ quen tra tấn ép cung, trong hình đường đã đánh chết hai đại viên tứ phẩm rồi, nếu như Trung thư xá nhân cũng bị đánh cho nhận tội, chấp nhận chịu tội, hơn hai trăm người kia đều sẽ bị kết án cùng! Hơn hai trăm mạng người đấy tiểu Triệu đại nhân à!"

"Ngài có biết vì sao Trung thư xá nhân lại có tên trong danh sách không? Bởi vì sinh nhật mẹ hắn hằng năm đều nhận quà mà Tư Mã Kiêu đưa đến, trong số đó có một món quà là bức tranh được Tĩnh vương vẽ từ tận mười năm trước, vì vậy nên đã bị kết luận chủ quan, trở thành đồng đảng của Tĩnh vương. Những vị quan giống như vậy trong danh sách nhiều không kể xiết, một nửa trong đó thuộc quan trường Hoài Nam, không ít quan lại nhỏ không quyền không thế, dựa thế người quyền quý vốn là xu hướng, chẳng ai làm gì được, nhưng sao có thể bị kết án chỉ vì điều đó?"

"Tiểu Triệu đại nhân, ngài cũng cảm thấy bọn họ đáng chết ư?"

Ánh mắt phân rõ trắng đen của Triệu Bạch Ngư nhìn lão chằm chằm: "Sao ông không đi cầu mấy vị Tế chấp trong triều?"

Trịnh Sở Chi: "Bọn họ... Bọn họ không dám ra tay tương trợ, có lẽ, có lẽ là có tâm nhưng bất lực..."

Triệu Bạch Ngư: "Trịnh đại nhân, ta cảm ơn ngài đã khen ngợi và tin tưởng ta, còn chuyện ngài bày kế ta ở phủ Dương Châu, nói thật ta đã quên rồi. Ta là người rộng lượng, không đến nỗi phóng hỏa giết người thì sẽ không dễ thù dai, tội gì chứ, không cần thiết. Còn ngài nữa, ngài đừng đội mũ cao cho ta nữa, đội bao nhiêu cũng vô dụng thôi, ta không có cách thật đấy."

Trịnh Sở Chi không rảnh mắng lại Triệu Bạch Ngư làm hoàng tước còn bày đặt đem so với bọ ngựa, chỉ sốt ruột thuyết phục: "Ngày ở Dương Châu, ngài nói cửa phủ quận vương lúc nào cũng chào đón mà? Đó chẳng phải là ý nói trong lòng ngài đã dự đoán được, nắm bắt cục diện trong lòng bàn tay nên muốn phá cục rất dễ dàng hay sao? Tiểu Triệu đại nhân, ngài mau phát từ bi, hành thiện tích đức, cứu tất cả mọi người đi?"

Triệu Bạch Ngư: "Ta nói thật với ngài vậy, nếu như ta có cách phá cục thì từ đầu đã không để mặc cho nó rối rắm rồi."

Cơ mặt và mí mắt Trịnh Sở Chi co giật, cuối cùng Triệu Bạch Ngư cũng thừa nhận ban đầu y vờ để mình bị đùa bỡn là vì muốn buông bỏ cục diện rối rắm, nhưng Trịnh Sở Chi thà rằng y đừng nói vậy, thà rằng y thật sự vẫn còn chiêu nữa.

Triệu Bạch Ngư đột nhiên hỏi: "Trịnh đại nhân, ngài cũng nói thật đi, ngài mong ta giải vây đến tột cùng là vì hơn hai ngàn người vô tội, hay là vì bản thân ngài?"

Trịnh Sở Chi: "Đương nhiên là vì người khác rồi!"

Triệu Bạch Ngư chỉ cười không nói.

Trịnh Sở Chi ấp úng: "Vì người khác... Cũng là vì muốn tốt cho mình."

Mục đích cơ bản vẫn là vì lợi ích của bản thân mình, đây chính là nhân chi thường tình, suy cho cùng thì Trịnh Sở Chi đã có thể nhẫn tâm hơn một chút, nhân cơ hội này giải quyết đảng Thái tử rồi nâng đỡ người mình lên, nhưng ông ta chưa mất sạch lương tâm, còn biết đường chạy đến phủ quận vương nhờ giúp đỡ, vậy nên không thể dùng luân lý hà khắc để ràng buộc người ta được.

Triệu Bạch Ngư rũ mắt, nụ cười đã tiêu tan, y mất hứng nói: "Ta thật sự không có cách nào tốt hết, dù là Tư Mã Kiêu, An Hoài Đức, Tĩnh vương hay những người tương tự, hành động mà họ làm đều đã vượt qua ranh giới cuối cùng của bệ hạ, lẽ ra lúc ngài tích cực ôm đồm vụ án này đã phải nghĩ đến việc sẽ giết chết rất nhiều người rồi."

Sắc mặt Trịnh Sở Chi tái nhợt: "Tôi không nghĩ có nhiều người chết oan như vậy... Tiểu Triệu đại nhân, không dối gạt gì ngài, ta chinh chiến sa trường mấy chục năm, tay giết không mười ngàn cũng hơn ngần ấy mạng người, tôi không sợ tay nhuộm máu tươi, càng không sợ bị vong hồn về lấy mạng, bởi vì tôi biết người mình giết chết không vô tội, xuất trận nổi danh. Nhưng lần này, tôi thật sự sợ rồi."

Trịnh Sở Chi đứng dậy, chắp tay cúi người nói với Triệu Bạch Ngư: "Vẫn là câu nói ấy thôi, tiểu Triệu đại nhân, ngài có ân oán với tôi thì cứ trả, tôi chỉ cầu ngài ban phát lòng nhân từ."

Nói xong, Trịnh Sở Chi rời đi.

Nhìn thấy bóng lưng già nua đã còng xuống rất nhiều của Trịnh Sở Chi, Triệu Bạch Ngư bỗng nghĩ, không biết một tên quan bè lũ xu nịnh như Trịnh Sở Chi sao có thể làm tướng quân Ký Châu đến tận mấy thập niên nữa.

Hải thúc đổi trà của Triệu Bạch Ngư, nhẹ giọng nói: "Coi như Trịnh Sở Chi có gan, nhưng quan trường ngươi dối ta gạt, vốn luôn hung hiểm. Chuyện lần này liên quan đến Tĩnh vương và đóng binh ở Hoài Nam, từng chuyện đều kích thích sát tâm của Nguyên Thú đế, bây giờ ai cũng muốn bò ra khỏi vũng nước đục, chỉ sợ chậm một bước là chết chìm. Tiểu Triệu đại nhân, ngài đã không quan tâm rồi thì đừng nên nghĩ đến nữa, những người đó bị chết oan cũng không liên quan gì đến ngài."

Triệu Bạch Ngư cầm ly trà rồi thất thần, một hồi lâu sau mới hỏi: "Hơn hai ngàn người đó đều vô tội à?"

Hải thúc: "Ít nhất có một nửa vô tội, còn lại một nửa đến chín phần không đáng tội chết."

Triệu Bạch Ngư ngỡ ngàng hỏi lại: "Bọn họ đều sẽ chết sao?"

Hải thúc nhìn y trìu mến: "Vua muốn thần chết, thần không thể không chết."

Một lúc lâu sau, Triệu Bạch Ngư mới uống hớp trà nguội lạnh, thấp giọng lầm bầm: "Không ai có thể giết người mà không lấy pháp luật làm chuẩn."

Hải thúc không nghe rõ: "Tiểu Triệu đại nhân, ngài mới vừa nói gì thế?"

Triệu Bạch Ngư ngẩng đầu cười một tiếng: "Hoắc Kinh Đường đi đâu rồi? Hôm nay ta không thấy hắn."

Hải thúc: "Có lẽ là đi giải quyết nhiệm vụ rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Bệ hạ thường sắp xếp nhiệm vụ mật vậy sao?"

Hải thúc: "Không phải nhằm vào quận vương đâu, nhiệm vụ trực tiếp phát đến thiết kỵ Đường Hà, quận vương là thủ lĩnh thiết kỵ, có vài nhiệm vụ không thể không đích thân xử lý. Có điều cũng chỉ đến năm nay mới bận rộn hơn một chút, ngày trước quanh năm đều ở trong phủ rảnh rỗi chẳng làm gì."

"Vậy à..."

Hoắc Kinh Đường nhận nhiệm vụ gì, trong lòng Triệu Bạch Ngư tự có câu trả lời.

Có người mật báo với Khang vương hai chuyện sổ sách và đóng binh, Trịnh Sở Chi cho rằng y làm, lão không biết Hoắc Kinh Đường cũng tham dự trong đó. Ngày ấy Hoắc Kinh Đường nhận được thư Dương Châu, nói Trịnh Sở Chi và Đông cung nghĩ ra cách phá cục rồi, còn lại không chịu nói thêm gì hết.

Triệu Bạch Ngư đoán phủ Trịnh quốc công và Đông cung đã bắt tay nhau lừa gạt hai chuyện kia, còn Hoắc Kinh Đường muốn chọt phá, hắn muốn ép Nguyên Thú đế vì cơn thịnh nộ mà không màng đến di huấn của Thánh tổ, giết chết Tĩnh vương sao?

Hoắc Kinh Đường muốn lấy mạng Tĩnh vương không khó, chẳng qua lão ta chết đi dễ dàng như vậy, phần mộ còn được hạ táng theo cách thức dành cho thân vương, thậm chí lưu danh sử sách, đó không phải là kết quả mà hắn muốn thấy.

Hắn muốn Tĩnh vương bị cách chức biếm làm thứ dân, bị phỉ nhổ trong tiếng rủa xả của thiên hạ, chết phải thê lương mang tiếng loạn thần tặc tử.

Triệu Bạch Ngư sờ thấu được tâm tư của Hoắc Kinh Đường, kinh hãi với mối thù hận giữa hắn và Tĩnh vương.

Y như có điều suy nghĩ, tay vuốt ve vòng Phật, địa vị của Hoắc Kinh Đường trong lòng bệ hạ không phải chuyện đùa, hắn hoàn toàn có thể trực tiếp vào cung gặp vua, cần gì phải uổng công vô ích, mượn lời Khang vương báo cho Nguyên Thú đế biết?

Trừ phi Hoắc Kinh Đường chắc chắn Khang vương sẽ mềm lòng, giấu giếm vài chuyện.

Mà một khi nói ra những chuyện này, đại ngục sẽ càng lớn hơn, đẫm máu hơn bây giờ nhiều.

Triệu Bạch Ngư mở to mắt, có thể tưởng tượng được rung chấn trong lòng, chẳng lẽ việc này có liên quan đến cách phá cục của phủ Trịnh quốc công và Đông cung? Bọn họ sẽ không hồ đồ đến mức bắt tay với Tĩnh vương giấu nhẹm chuyện đóng binh và sổ sách chứ?

Nên nói không nói, Triệu Bạch Ngư đoán trúng phóc.

Nếu như Hoắc Kinh Đường không mật báo, thế cục này sẽ bị Đông cung bọn họ phá cho tan nát.

Đương lúc do dự, Triệu Bạch Ngư nghe thấy tiếng gõ cửa, y ngẩng đầu nhìn lên, thấy Hải thúc gõ vào khung cửa nói: "Tiểu Triệu đại nhân, quận vương đang trốn ở Phật đường chép kinh Phật."

"Trốn?"

Hải thúc hài lòng với sự nhạy bén của tiểu quận vương phi, vui vẻ đáp: "Những lúc quận vương phiền lòng thì sẽ trốn vào Phật đường chép kinh. Lúc trước, mỗi khi đi đánh giặc về là có rất nhiều thời gian rỗi rảnh, lần nào hắn cũng vào trong đền miếu lân cận thắp cho các tướng sĩ đã chết một ngọn đèn trường minh rồi ngồi lại trong Phật đường chép kinh, đọc kinh. Quận vương ấy mà, thật ra không thích người chết đâu."

Triệu Bạch Ngư yên lặng.

Hải thúc lặng lẽ quan sát Triệu Bạch Ngư, rồi ông bắt đúng thời cơ nói: "Trời sinh quận vương tính tình cố chấp, đến cả bệ hạ cũng không nói được hắn mà. Từ khi biết được nguyên nhân cái chết của mẹ ruột mình thì hắn đã thầm hận Tĩnh vương rồi, nếu không khiến lão thân bại danh liệt được, thì sau khi loại trừ cũng sẽ không bỏ qua. Nhưng đan thư thiết quyển trong tay Tĩnh vương quá khó giải quyết, muốn đạt được mục đích ắt sẽ tổn thương đến người vô tội... Chắc chắn bây giờ tiểu quận vương không dễ chịu chút nào."

Mẹ ruột của Hoắc Kinh Đường không phải mất vì sinh khó sao?

Triệu Bạch Ngư hỏi điều mình nghi ngờ.

Hải thúc chớp mắt do dự, vẫn biết điều mà nói với y: "Khó nói lắm, nếu tiểu quận vương bằng lòng, hắn sẽ chính miệng nói cho ngài thôi."

Triệu Bạch Ngư thở dài: "Ta đến Phật đường tìm hắn."

Tiếng vừa dứt, một chiếc chìa khóa bằng đồng lập tức xuất hiện trước mặt, Triệu Bạch Ngư giương mắt lên nhìn, bắt gặp nụ cười ôn tồn của Hải thúc.

"..." Ra là mưu tính đã lâu.

Phật đường nằm ở vị trí hẻo lánh sâu trong hậu viện, đây là lần đầu Triệu Bạch Ngư đi vào đó.

Cửa viện đỏ thẫm bị một cái ổ khóa loang lổ gỉ sắt khóa lại, chưa từng có dấu vết bị mở ra, nghe Hải thúc nói Hoắc Kinh Đường đến đây thường leo tường nhảy luôn qua sân, cho nên đến giờ này chiếc chìa khóa đồng cũng chưa được sử dụng qua.

Lách cách một tiếng, khóa đồng được mở ra dễ dàng, Triệu Bạch Ngư đẩy cửa vào, trước mắt t là một khoảnh rừng trúc, chính giữa là con đường đá mòn dẫn đến phòng thiền u nhã tĩnh mịch.

Cửa phòng thiền không khóa, thoắt cái đã nhìn thấy bóng lưng Hoắc Kinh Đường.

Trên mặt đất có hai tấm đệm hương bồ, phía trước là một cái bàn bát tiên, vách tường trên bàn treo một bức tranh chữ, chỉ viết một chữ "Nhẫn".

Hoắc Kinh Đường chắp hai tay sau lưng, tay phải đeo chuỗi vòng Phật đang khảy theo từng nhịp, nghe thấy tiếng động cũng không quay đầu lại: "Chữ của mẹ ta."

"Tự xét lấy mình, động tâm nhẫn tính. Chữ hay."

Hoắc Kinh Đường cầm tay Triệu Bạch Ngư, nhìn tranh chữ trên tường nói: "Năm thứ hai sau khi mẹ sinh ta, nghe lén được Tĩnh vương đồng mưu với một bang giang hồ, bệ hạ khi ấy vẫn còn là trữ quân, trên đường hồi Kinh phải đi qua nơi mai phục. Sau khi mẹ biết chuyện thì phóng ngựa rời phủ, cứu được người rồi để cha trốn đi nơi khác, còn bà thì thay quần áo của ông ấy đánh lạc hướng sát thủ, lúc chết vạn tên xuyên tim. Di thể của mẹ được bệ hạ mang đi, mà Tĩnh vương muốn trói buộc tên bà ấy, muốn bà sau khi chết vẫn phải hạ táng dưới danh phận Tĩnh vương phi, vậy nên đẩy lùi thời gian sinh ta về sau nửa năm, nói với bên ngoài nguyên nhân bà ấy chết là sinh khó, nói ta khắc chết mẹ mình."

Triệu Bạch Ngư vô thức trở tay, nắm tay Hoắc Kinh Đường, mười ngón tay đan chặt, trái tim không nén nổi đau đớn.

"Lúc mẹ đi ta còn quá nhỏ, năm mười tuổi trở về phủ Tĩnh vương mới biết khắp nơi đều là ánh mắt tràn đầy địch ý nhằm vào ta, còn có người cha trên danh nghĩa luôn bộc lộ ý hận không rõ ràng khiến cho ta sinh lòng hoài nghi, vậy nên ta đã đi tìm bộ hạ cũ của mẹ. Từ lời bọn họ nói mới biết được ân oán giữa bà, bệ hạ và Tĩnh vương, còn cả việc sau khi mẹ gả vào nhà đó chịu đủ loại lăng nhục, ức hiếp, mà Tĩnh vương chỉ vờ như không thấy, thậm chí dung túng."

Biểu cảm của Hoắc Kinh Đường trở nên lạnh lùng: "Năm đó, nếu như bệ hạ không lên ngôi mượn cớ cần con tin, mà Tĩnh vương lòng dạ khôn lường đã chọn đưa ta vào cung... Chỉ sợ ta đã trúng phải mưu kế xấu xa mà chết ở hậu trạch vương phủ từ lâu rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Cho nên chàng muốn báo thù?"

Hoắc Kinh Đường: "Là con người, ta không nên ư?"

Triệu Bạch Ngư mấp máy môi, không biết nói thế nào, suy cho cùng thì Tĩnh vương chính là tên đầu sỏ hại chết mẹ ruột Hoắc Kinh Đường, ơn sinh, ơn dưỡng đều không có, trái lại mang đến sát cơ vô cùng tận, có bảo là kẻ thù cũng không quá đáng.

Bất kể là vì chính hắn, vì những dân chúng chết oan dưới lợi riêng của Tĩnh vương, hay vì cái chết của mẹ ruột do lão ta quá ích kỷ, Hoắc Kinh Đường trả thù cũng là điều dễ hiểu.

Chẳng qua nếu Hoắc Kinh Đường thật sự máu lạnh tàn nhẫn như hắn biểu hiện ra ngoài, chỉ vì trả thù mà không tiếc để người vô tội bị dính líu, thì hắn sẽ không tự nhốt mình ở Phật đường chép kinh Phật không ngừng nghỉ.

Triệu Bạch Ngư nhìn về phía lò lửa, thấy bên trong có một lượng tro giấy lớn, đó chính là kinh Phật mà Hoắc Kinh Đường chép xong rồi đốt hủy.

"Tiểu lang đến là để khuyên ta thu tay phải không?"

Triệu Bạch Ngư vươn tay ôm lấy mặt Hoắc Kinh Đường, đầu ngón tay leo lên chân mày hắn vuốt nhẹ: "Quân tử báo thù mười năm chưa muộn mà, huống chi lang quân nhà ta không chỉ chờ đợi mười năm, làm sao ta có thể tàn nhẫn đến nỗi yêu cầu chàng ấy phải tốt bụng cho qua được chứ? Cơ mà ta biết chồng ta là người có nguyên tắc nhất trên đời này, chàng không hề muốn người khác bị giết hại, bởi chàng e ngại cái chết, cũng không thích lạm sát người vô tội."

Hoắc Kinh Đường nhìn y, đôi con người màu lưu ly phản chiếu bóng dáng ôn hòa như nước của Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư nói: "Chàng tìm đến Thập thúc mật báo là vì không muốn rắc rối vượt tầm kiểm soát, đại án Hoài Nam bị tố cáo, Thánh thượng mở đại ngục đã là chuyện có thể đoán trước, cũng là chuyện tất nhiên sẽ xảy ra, có điều lúc trước chàng nhắc với ta chuyện này, câu trả lời lại không quá chắc chắn. Cho nên ta đoán chàng chỉ muốn giết Tĩnh vương, không muốn dây vào người vô tội."

Hoắc Kinh Đường: "Không có cách nào không dính líu người vô tội."

Triệu Bạch Ngư nhìn hắn cười tủm tỉm: "Thật sự không có cách à?"

Hoắc Kinh Đường nhìn y chằm chằm, rất lâu mới tựa như thỏa hiệp, tiếng thở dài nhỏ xíu như muỗi kêu, hắn nắm lấy bàn tay Triệu Bạch Ngư trên tay mình, bối vân khẽ cọ vào mu bàn tay: "Tiểu lang hiểu ta."

Triệu Bạch Ngư: "Nói cho ta biết đi, ta có thể giúp chàng."

Hoắc Kinh Đường: "Rất mạo hiểm, ta cũng không xác định được là có thể được hay không."

Hắn dắt Triệu Bạch Ngư đến ngồi xuống hai đệm cói dưới đất, ngó ra rừng trúc bên ngoài phòng thiền, gió nhẹ lướt qua, lá trúc đan cài vào nhau vang lên tiếng xào xạc.

"Có liên quan đến đan thư thiết quyển nhỉ."

Mấu chốt chính là kim bài miễn tử trong tay Tĩnh vương, trừ phi giải quyết được nó, mới có thể tiêu trừ được lửa giận không có chỗ phát tiết của Nguyên Thú đế.

"Sát ý của bệ hạ chủ yếu nằm ở chỗ không thể diệt Tĩnh vương, Tư Mã Kiêu tham ô và An Hoài Đức đóng binh chẳng qua là dầu thêm vào lửa, nhưng cũng vì vậy mà khiến cho bệ hạ càng rộng lòng giết hại, ông ấy hoài nghi từng vị quan triều một, lo rằng bọn họ đều là bộ hạ cũ của Tĩnh vương còn lưu lại, nghĩ rằng thật ra những ké đó đều là người trung thành với Tĩnh vương, chỉ khi giết chết toàn bộ mới có thể yên tâm được."

Triệu Bạch Ngư phân tích: "Cách ngăn cản đại ngục chính là giết chết Tĩnh vương trước mặt thiên hạ, xóa bỏ hiềm nghi của bệ hạ đối với quan triều. An Hoài Đức là bộ hạ cũ của Tĩnh vương, ta không tin bệ hạ không tra ra được, hoặc do đã không đề phòng, cho nên nguyên nhân chính khiến ông ấy trở nên nghi ngờ chính là Tư Mã Kiêu. Tư Mã Kiêu có quan hệ quá gần gũi với Đông cung, Trung cung, gần ngư nằm cạnh tháp canh người ngủ say, bệ hạ mới phản ứng mạnh mẽ như thế."

Hoắc Kinh Đường mân mê bàn tay Triệu Bạch Ngư: "Nói tiếp đi."

Triệu Bạch Ngư: "Xóa bỏ hiềm nghi không khó, giải quyết từ gốc rễ là được."

Hoắc Kinh Đường giương mắt nhìn y: "Giải quyết thế nào?"

Triệu Bạch Ngư mím môi cười: "Sổ sách. Sổ sách trong tay An Hoài Đức là giả, ta đổi đồ thật đi rồi, chỉ cần Tư Mã Kiêu cắn chết cũng không nhận là được, đi tìm tiên sinh tính sổ đến kiểm tra là có thể phát hiện ra vấn đề ngay."

Hoắc Kinh Đường cười: "Tiểu lang đúng là biết lo trước tính sau."

Triệu Bạch Ngư: "Xông bừa đánh bậy thôi. Cuối cùng, cũng là trọng điểm, chính là cần dùng lý do chính đáng nhất phế bỏ di huấn của Thánh tổ trước mặt thiên hạ, giết Tĩnh vương." Do dự một chút, y nói: "Ta nhớ lúc trước chàng có từng nói một cậu, đó là hoàng quyền sẽ bại bởi hoàng quyền."

Nụ cười của Hoắc Kinh Đường tăng thêm mấy phần vui vẻ: "Tiểu lang biết ta hiểu ta. Di huấn của Thánh tổ không hẳn là không thể phế bỏ, mấu chốt ở chỗ triều thần có chịu hay không, nếu không ủng hộ, thì đây sẽ trở thành chiến tranh giữa hoàng quyền và hoàng quyền. Triều thần phản đối Thánh thượng phế bỏ di huấn của Thánh tổ, là sợ một ngày nào đó ông ấy có ý muốn phế bỏ quốc pháp, đánh mất khống chế, lạm sát lạm thương, nhưng một khi triều thần rơi vào hiểm cảnh, tình hình cũng trở nên hết sức nguy cấp, lại phát hiện phế bỏ di huấn của Thánh tổ có thể bảo toàn tính mạng thì sẽ thúc giục bệ hạ mau phế trừ đan thư thiết quyển mà Thánh tổ để lại."

Triệu Bạch Ngư: "Nhiều người nói xói chảy vàng, tích nhiều xương cốt cũng hủy." Cái gọi là không thế giết Tĩnh vương nằm ở chỗ khó khống chế lòng dân, mà lòng người khó lường, dân chúng có thể giết chết Tĩnh vương, cũng có thể cứu mạng Tĩnh vương.

Trước kia triều thần đã nhiều lần buộc Nguyên Thú đế tuân theo di huấn của Thánh tổ, nhưng Nguyên Thú đế không thể không bực bội bỏ qua cho Tĩnh vương.

"Bây giờ triều thần sẽ phải ép bệ hạ giết Tĩnh vương... Ừm, không đúng, nói là 'cầu xin' cũng không quá đáng."

==

Tác giả muốn nói:

Nguyên Thú đế ngày xưa: Bực thiệt. Tức chết tôi mất thôi.

Nguyên Thú đế bây giờ: Đờ mờ vui quá xá ta ơi ~

.

Min: BaHoắc lụm lại thằng con trai được nhận kèm thêm đứa con dâu, cực phẩm x2 phá đảo rùm beng nguyên cái cơ quan, ba vui quá nên chửi thề kkk =))))))))))))

Mà nhá cứ mỗi lần vợ chồng quận vương xuất hiện cùng nhau thì dù có nói chuyện công cũng là cả một bầu trời dịu dàng chu choe mìm xèo nhá 🥺

Chương 47

Triệu phủ.

Tạ thị vừa xem sổ sách trong ngoài phủ sau một quý vừa gảy bàn tính, trước tầm tay có thư nhà đến từ Lưỡng Giang.

Triệu Bá Ung cầm thư lên mở ra xem: "Nhà chúng ta chỉ có Nhị lang là giống bà nhất, tài tính sổ không ai bì nổi."

Triệu gia Nhị lang Triệu Trọng Cẩm đang làm việc ở Diêm thiết ty, năm trước được điều đi Lưỡng Giang, thành tích không thể nói là xuất sắc nhưng cũng khá đẹp, chờ đến khi kết thúc nhiệm kỳ chắc hắn có một suất vào thẳng Tam ty, không vớt được phó sứ thì cũng phải là phán quan.

Tạ thị: "Gần đây ông có quan tâm đến Tam lang và Tứ lang không đấy?"

Triệu Bá Ung: "Sao thế? Bệnh của Tứ lang lại tái phát à?"

Tạ thị lắc đầu, bất đắc dĩ nói: "Sao ông không hỏi Tam lang?"

Triệu Bá Ung bật cười: "Thân thế Tam lang cường tráng, đầu óc cũng linh hoạt, thân thủ đánh khắp thiên hạ này không ai sánh bằng, sức tự vệ có thừa. Nó không đi bắt nạt người ta là tôi an tâm rồi. Trái lại là Tứ lang, gần đây trời vào đông lạnh giá, con nó đóng cửa cực khổ học hành, hai tai không nghe chuyện bên ngoài, không nên học quá mệt mà để đổ bệnh mới đúng."

Tạ thị cau mày: "Gần đây Kinh Đô không ổn định đúng không?"

Triệu Bá Ung nghe vậy, biểu cảm trên mặt nhạt đi một chút: "Đại án Hoài Nam không phải chuyện đùa, dính líu đến Tĩnh vương nhưng lại không thể giết Tĩnh Vương, nỗi căm ghét và tức giận mà bệ hạ tích lũy nhiều năm sẽ bị kích thích vào mai kia thôi, không ai có thể làm nó lắng xuống được, chỉ có giết chóc, đổ máu đủ nhiều mới khiến cho bệ hạ lấy lại lý trí."

Tạ thị nghe mà kinh hãi: "Lại là đại ngục sao?"

Triệu Bá Ung: "So với thuở đầu bệ hạ lên ngôi, thì đây là đại ngục cực kỳ hung hiểm."

Tạ thị: "Phải cảnh cáo Nhị lang và Tam lang, nhất định không được để bị cuốn vào... Gần đây Đại lang cũng đi sớm về trễ, chẳng lẽ là gặp chuyện gì rồi?"

Triệu Bá Ung: "Nó là cận vệ của Thiên tử, nghe lệnh làm việc, đại án không thể ảnh hưởng đến nó."

Tạ thị thở phào nhẹ nhõm, nhìn chằm chằm sổ sách một hồi lâu mà một chữ cũng chẳng thể chui vào đầu, do dự mãi mới hỏi: "Đứa trẻ kia... Ta nghe nói lúc trước được nhận chức Phủ dụ sứ đến Hoài Nam tra án, cuối cùng lật quan trường Hoài Nam long trời lở đất, nhưng đã lâu rồi không nghe được tin tức gì, bây giờ thế nào rồi?"

"Nó thậm chí rút lui an toàn, không màng quan tâm đến nữa." Triệu Bá Ung nhắc đến Triệu Bạch Ngư, biểu cảm và tâm trạng đều trở nên phức tạp. "Để ý đến nó làm gì?"

Tạ thì cười một tiếng: "Tùy tiện hỏi thôi mà."

Đôi vợ chồng hơn hai mươi năm nhỏ giọng nói với nhau đôi lời, bỗng dưng Triệu Trường Phong bước vào phòng, sắc mặt hơi kì lạ. Tạ thị nhìn thấy con trai cả trước, vội vàng ra hiệu cho Triệu Bá Ung nhìn về phía sau.

Triệu Trường Phong chào hỏi: "Cha, mẹ."

Triệu Bá Ung chắp tay sau lưng: "Có chuyện gì?"

Triệu Trường Phong: "Triệu Bạch Ngư nói muốn gặp cha, đang chờ ở tiền thính."

Triệu Bá Ung đáp không chút nghĩ ngợi: "Không gặp."

Triệu Trường Phong: "Y nói y muốn thương lượng với cha cách làm lắng đại ngục xuống —— "

"Nói khoác mà không biết ngượng!" Triệu Bá Ung lớn tiếng quát, bỗng nhiên cảm thấy bất mãn, Tam công Cửu khanh còn không kịp tránh đại ngục, vậy mà một đứa con nít chỉ mới mười chín tuổi như y không biết xấu hổ chạy tới đĩnh đạc nói muốn cản trở ư?

"Đuổi ra ngoài!"

Triệu Trường Phong nhớ lúc trước Triệu Bạch Ngư bình định vùng dịch ở Hoài Nam, sửa lại án sai, một ổ sạn quan trường Hoài Nam bị lật tẩy, hỗn loạn ngày nay làm cho lòng người bàng hoàng, thế nhưng y vẫn có thể giữ được mình, hắn rất khó mà hiểu được, cảm thấy Triệu Bạch Ngư đã làm được đến chuyện này rồi thì không thể nào nói ngoa được.

"Cha, chi bằng thử nghe ý tưởng của y xem, có lẽ sẽ được?"

"Ta đi theo bệ hạ gần ba mươi năm, từ khi lão còn là Đông cung đến tận lúc chính mắt thấy lão và Tĩnh vương chém giết lẫn nhau, lần nào cũng đấu không chết không thôi, cuối cùng chẳng bao giờ giết được Tĩnh vương mà chỉ có thể vạ lây người vô tội. Năm đó cha con suýt nữa chết trong mưu tính của Tĩnh vương, sau đó bệ hạ lên ngôi, còn từng rơi vào kế ly gián Tĩnh vương bày ra nên đã nghi ngờ ta. Đại lang, con được bệ hạ giao cho trách nhiệm nặng nề, trợ giúp Trịnh Sở Chi thẩm vấn trăm quan, ắt phải nhớ kĩ con chỉ cần trợ giúp chứ không được lạm quyền hỏi cung, cũng không có quyền luận tội."

Triệu Trường Phong cúi đầu: "Đại lang nhớ kỹ lời cha dặn." Dừng một chút, hắn nói tiếp: "Vậy con đi báo cho Triệu Bạch Ngư quay về."

Tạ thị cau chặt mày, vô thức vỗ lên mu bàn tay của chồng, môi giật giật, rốt cuộc cũng không nói ra lời khuyên nhủ nào. Dù sao bà cũng không hiểu quan trường, sao có thể tùy tiện đóng góp lời khuyên?

Ngay lúc Triệu Trường Phong xuống đến bậc thang cuối cùng của thư phòng, Triệu Bá Ung đột nhiên cất giọng: "Chờ đã."

Triệu Trường Phong quay đầu: "?"

Triệu Bá Ung yên lặng một lúc lâu: "Đến xem thử đi."

***

Triệu Bạch Ngư chuyên tâm nhìn hoa văn trên khung cửa sổ, nghe thấy tiếng bước chân liền xoay người chắp tay: "Hạ quan tham kiến Triệu tế chấp."

Triệu Bá Ung dừng chân, nhìn Triệu Bạch Ngư kính cẩn lễ phép hành lễ giống hệt như bất kì một cấp dưới nào khác, trong lòng dâng lên cảm xúc không mấy vui vẻ, nhưng ông vẫn nén xuống như thường, bước qua Triệu Bạch Ngư ngồi lên chủ vị tiền thính, không thèm nhìn y lấy một cái đã hỏi: "Ngươi nói ngươi có cách dẹp yên đại ngục?"

"Có cách, có thể thử một lần."

"Chỉ biết nói lời ngông cuồng."

Triệu Bạch Ngư gật đầu một cái: "Ta biết rồi." Sau đó chắp tay bái biệt, dứt khoát xoay người rời đi.

Triệu Bá Ung hơi sững sốt, lửa giận bốc lên ngùn ngụt ngay tức khắc, ông vỗ một chưởng lên mặt bàn, chấn động khiến ly trà kêu lên leng keng: "Triệu Bạch Ngư, thái độ này của ngươi là sao?"

Triệu Bạch Ngư vẫn không dừng bước: "Ta còn chưa nói lời nào, ngài đã vội bác bỏ ta, phủ nhận ta, nói ta chỉ biết nói lời ngông cuồng chẳng phải trong lòng có thành kiến hay sao? Nếu tận sâu trong lòng ngài đã không tin hạ quan, hạ quan cần gì phải tự chuốc họa vào thân? Chẳng qua đường đường là Tế chấp, lòng dạ vốn nên rộng rãi, hải nạp bách xuyên, nào ngờ lại giống đám lưu manh đầu đường xó chợ, chỉ vì ghi hận chút chuyện cỏn con trong quá khứ mà giữ lòng thành kiến với người có liên quan, còn muốn hòa lẫn thành kiến đó vào chuyện triều, không tiếc dối lừa tính mạng đồng liêu! Triệu tế chấp, ngài đúng là quân tử! Đúng là quan tốt! Hay cho đại thần xương cánh tay của Đại Cảnh!"

Đi đến giữa phòng, giọng nói của y càng lớn hơn khiến cho người hầu đang lau dọn nhà cửa trong phủ đều ngẩng đầu nhìn lại, phát hiện người nói là Triệu Bạch Ngư đã xuất giá thì rối rít ngạc nhiên, nghe những lời kia lại như là đang trào phúng lão gia nhà họ thì càng ngạc nhiên hơn nữa.

Chẳng lẽ cuối cùng hai cha con cũng xé rách da mặt, chính thức trở thành thù địch sống chết cũng không gặp nhau nữa hay sao?

Triệu Bá Ung giận đến nỗi tay phát run, ông cầm ly trà đập vỡ: "Chuyện cỏn con? Ngươi cảm thấy đó là chuyện cỏn con ư? Ta là lưu manh đầu đường xó chợ, còn ngươi là cái thá gì? Công chúa mẹ ngươi là cái thá gì? Một đám hạ cửu lưu sao!"

Triệu Bạch Ngư dừng chân, nghiêng người sang một bên, sống lưng thẳng tắp đón lấy ánh sáng, ánh mắt lạnh lẽo như băng: "Công chúa là người gieo họa cho hậu trạch Triệu phủ, gieo họa cho Tạ thị và đứa bé trong bụng bà ấy, nhưng đã gieo cho ngài họa gì? Người cưới công chúa về không phải ngài sao? Biếm thê làm thiếp không phải ngài sao? Người ngủ với công chúa không phải ngài sao? Hừ, được tiên đế cưng chiều, quyền thế của công chúa như mặt trời ban trưa, còn ngài cần phải nâng đỡ Đông cung, sợ bị liên lụy nên không thể không bấm bụng chịu đựng, ngài vì người trong họ, vì người nhà mà hy sinh bản thân ngài đúng không? Ngài đúng là một người vĩ đại, nhưng thật sự là vì người trong họ hay là vì muốn có công trạng, để có được tiền đồ Tể tướng mà làm như thể hy sinh bản thân mình, thực ra là hy sinh vợ con của mình, chắc hẳn rồi Tế chấp đại nhân, trong lòng ngài đều biết rõ cả!"

Triệu Bá Ung trợn tròn mắt: "Ngươi ——!"

Triệu Bạch Ngư không có ý định bỏ qua cho ông: "Là người làm Tế chấp nhiều năm như vậy rồi, từ trước đến giờ ngài vẫn không cách nào quên được chuyện đó, vậy là xuất phát từ việc vợ con bị tổn thương, hay bởi vì quá quan tâm sự trong trắng của mình bị một người đàn bà làm nhục?"

"Khụ!" Triệu Trường Phong suýt nữa là sặc nước miếng mà chết, ánh mắt hắn trở nên sắc bén, quát lên: "Ngũ lang. đệ biết mình đang nói chuyện với ai không? Lời mà đệ nói truyền ra ngoài chính là tội bất hiếu bất kính. Ngự sử đài mà gấp sổ tổ cáo, dù có Lâm An quận vương thì quan đồ của đệ cũng chấm dứt từ đây đấy!"

Triệu Bạch Ngư ngước cao cằm, để lộ ra dáng vẻ không chịu khuất phục mà bọn họ chưa từng thấy: "Chết ta còn không sợ, chẳng lẽ phải sợ không thể thăng quan?"

Triệu Bá Ung gào lên: "Triệu Bạch Ngư, ngươi nhớ những lời hôm nay mình nói đi!"

Triệu Bạch Ngư nói rõ từng chữ: "Khắc sâu trong lòng."

Triệu Bá Ung giận đến nỗi tim cũng quặn đau: "Cút."

Triệu Bạch Ngư không nói hai lời quay người đi, coi như y uổng công đến Triệu phủ một chuyến, còn tưởng rằng ít nhất Triệu Bá Ung sẽ không bị cảm xúc ảnh hưởng, thì ra y đánh giá cao quá rồi.

Tạ thị dự thính bước ra, đỡ Triệu Bá Ung rồi nhẹ giọng trấn an, bà nháy mắt với Triệu Trường Phong, người nọ hiểu ý bèn vội vàng đuổi theo Triệu Bạch Ngư.

Đắn đo một lúc, Triệu Trường Phong mới nói: "Ta biết trong lòng đệ vẫn trách..."

"Không có." Triệu Bạch Ngư phủ nhận: "Đừng cứ mãi dùng những ý nghĩ mà các người cho là đúng để suy đoán ta nữa, vả lại huynh có thể phản bác lời ta nói lúc nãy sao?"

Triệu Trường Phong nhìn y chằm chằm: "Công chúa vào phủ cũng là lúc ta có thể nhớ chuyện. Tuy tuổi còn nhỏ nhưng vẫn biết khi ấy triều cục khó khăn, thời thế không ổn định, dù là cha hay hai nhà Triệu, Tạ, thì bước đi bước nào cũng hiểm trở, chỉ cần lơ là sẽ rơi xuống vực sâu vạn trượng, tan xương nát thịt. Năm đó tiên đế có ý định phế Thái tử, cha lại là cánh tay đắc lực của Đông cung, Xương Bình công chúa và Thái tử lại là anh em ruột, vậy nên họ lợi dùng bà ấy để chia rẽ Đông cung... Tình thế ngày ấy, không phải cha muốn lui là có thể lui."

Triệu Bạch Ngư dừng bước, xoay người nhìn hắn: "Triệu chỉ huy, ngài dừng bước đi. Cùng là quan triều, không cùng chính kiến mà sinh ra vết rạn là chuyện thường tình, không cần phải lo ta vì vậy mà sẽ oán sẽ hận, nói không chừng về sau còn có cơ hội làm cộng sự."

"Chờ chút đã." Triệu Trường Phong đi đến trước mặt Triệu Bạch Ngư: "Phiền đệ tới cửa viếng thăm, ắt hẳn là đệ rất nóng lòng vì đại ngục. Nếu như có cách, đệ cứ nói cho ta nghe cũng được, ta sẽ quay về khuyên cha giúp đỡ, dù sao cũng là việc thiện cứu người, tránh khỏi cảnh máu chảy thành sông."

Nếu như có mấy vị Tế chấp dẫn đầu, hiệu quả sẽ tốt hơn.

Triệu Bạch Ngư không phải kiểu người tùy hứng, chuyện công là chuyện công, chuyện riêng là chuyện riêng, cảm xúc của Triệu Bá Ung bị kích thích là vì bị chuyện xưa làm ảnh hưởng, nhưng nếu tỉnh táo suy nghĩ thì quả thật không đáng, vậy nên y đã nói rõ kế hoạch sắp tới của mình ra.

Triệu Trường Phong ngạc nhiên: "Khuyên thẳng ngay miệng chẳng khác gì đổ dầu vào lửa, lấy thân nuôi cọp, ai dám hành động thiếu suy nghĩ? Đệ... Ý tưởng của đệ hay, nhưng nó quá ngây thơ."

Có thể làm quan, đến cùng ai mới là người hồ đồ thật sự?

Là một Tế chấp đã dịnh đứng trên nhân thần, ai làm việc mà không phải nhìn trước ngó sau, vô cùng cẩn thận? Ngăn đại ngục, càng ít sóng gió càng tốt, nhưng muốn nhường cho bọn họ xung phong đi đầu thì khó như lên trời, quan làm lớn chỉ sợ bị liên lụy, sau lưng kẻ nào không có ba trăm gia quyến, bàn ngàn môn đảng, sĩ tộc mọc lên như rừng?

Ngay cả Triệu phủ cũng không chỉ có duy nhất một Triệu gia, bên dưới dây mơ rễ má với bao nhiêu môn đảng sĩ tộc, nếu không vì sao Triệu Bá Ung dù hận công chúa thấu xương nhưng lại dễ dàng tha thứ cho bà ta hưởng phúc ở Lưỡng Giang?

Triệu Bá Ung nhát gan hay là mềm lòng?

Ông ta chỉ sợ vươn tay quá dài, vả mặt Thiên tử, kéo một sợi tóc động đến cả người.

"Nghe lời ta khuyên, chớ nhúng tay vào đó. Đại án lần này là ý của vua, ông ấy nhất định phải có cách xả giận, dù đệ có là Gia Cát tái thế, thì người đáng chết đệ cũng không bảo vệ được!"

"Ai đáng chết? Người vô tội đáng chết sao? Không đáng tội chết cũng phải chết sao? Thiên tử nói giết là giết, quốc pháp có cũng uổng, đó chính là quốc không phải quốc, pháp không hợp pháp, còn nói gì đến thịnh thế? Văn tướng chết răn, võ tướng chết trận, là một bề tôi cũng chỉ như vậy mà thôi!"

Triệu tam lang nghe tin Triệu Bạch Ngư tới phủ thăm hỏi thì vội vàng chạy đến, vừa vào đến cửa phủ đã nghe thấy được những lời lẽ khí thế như này, trong lòng xúc động, ấy vậy mà lại nghe đến ngây người tại chỗ.

Triệu Trường Phong xúc động không thua gì Triệu tam lang, trước đây hắn đã nghe tiếng Triệu Bạch Ngư đi Hoài Nam làm việc rất xuất sắc, nhưng dù có giỏi thế nào đi nữa thì qua lời của người kể chuyện, hình ảnh của Triệu Bạch Ngư vẫn không khớp với y trong trí nhớ của hắn, bây giờ nghe những lời như tuyên truyền giác ngộ này, cảm giác hình ảnh tiểu thanh thiên trong câu chuyện kia dường như đã trở nên chân thực.

"Đó là..." Triệu Trường Phong chăm chú đối mắt với Triệu Bạch Ngư: "Đó là lời chó má mà kẻ có học ngu dốt mới tin."

Hắn thường ở trong cấm cung, dù không nói nhiều, nhưng thấy nhiều rồi.

Hậu cung tranh đấu tàn khốc, huynh đệ hoàng thất tính kế lẫn nhau. Trăm quan giao hữu che đi bảy phần, trong lời nói giấu kim. Thiên tử nhìn như anh minh dung thứ, thực ra là bàng quang nhìn trăm quan triều đình ngươi dối ta gạt, luôn luôn nhúng tay làm rối lên, đẩy bên này một cái, động bên kia một chút, ai cũng có thể trở thành con cờ trong tay ông ấy, ai ai cũng là con cờ của vua.

Có ai thật lòng nghĩ cho người khác?

Lòng ai có thể chứa cả triều đình lẫn trăm họ?

Chính cha cũng thường dạy bọn họ, thân là nhân thần, cần phải suy nghĩ trù tính thật nhiều cách để bảo vệ mình, sau đó mới đến triều đình và trăm họ, có thể dành một phần tấm lòng cho dân cũng đã là một quan tốt rồi.

"Vậy coi như ta đọc sách trong bụng chó đi."

Triệu Bạch Ngư đáp xong bỏ đi ngay.

Triệu tam lang vô thức gọi: "Ngũ lang..."

Triệu Bạch Ngư giả điếc không nghe, bước chân không dừng lại.

Triệu tam lang siết chặt quả đấm, chạy đến chỗ Triệu Trường Phong, khó nén tức giận nói: "Đại ca, đệ không ngờ huynh có thể nói lời như vậy đấy! Đệ cứ nghĩ cha và huynh dù không phải người cao nghĩa, nhưng ít nhất phải là một vị quan tốt, một lòng một dạ vì triều đình, vì dân chúng!"

Triệu Trường Phong liếc nhìn Tam đệ ngây thơ: "Người tốt không thể làm quan. Con cháu Triệu gia cũng không thể làm người tốt."

Triệu tam lang không phục: "Nhưng Triệu Bạch Ngư có thể."

Triệu Trường Phong: "Vậy nên y và Triệu gia mới kết thúc rồi."

Triệu tam lang bị chặn lời nghẹn họng, gã cúi thấp đầu, vô cùng phiền muộn.

***

Lúc Triệu Trường Phong quay về tiểu viện, lại bị Triệu Bá Ung gọi đến thư phòng, sau đó hắn đứng giữa phòng, nhìn Triệu Bá Ung viết đầy một bàn chữ, phê hơn nữa sổ con rồi mà cũng không chủ động lên tiếng.

"Một hồi lâu sau, Triệu Bá Ung mới hỏi: "Nó nói gì?"

Triệu Trường Phong: "Ai?"

Triệu Bá Ung đặt bút xuống, đan chéo mười ngón tay, ông nhìn Triệu Trường Phong một lúc rồi nói: "Lui xuống đi."

Triệu Trường Phong ho nhẹ hai tiếng nói xin lỗi: "Con nói. Đệ ấy muốn Tế chấp ra mặt, dẫn dắt quan triều lấy lý do Tĩnh vương mưu triều soán vị, làm lung lay xã tắc quốc gia, khuyên bệ hạ phế bỏ di huấn của Thánh tổ, giết Tĩnh vương có trong tay đan thư thiết quyển."

Mi tâm Triệu Bá Ung giật giật, không phát biểu ý kiến.

Triệu Trường Phong thấy vậy nói tiếp: "Con cảm thấy ý tưởng này quá ngây thơ, đừng nói Tế chấp quyền cao chức trọng, tội gì phải tiếp xúc với rủi ro của bệ hạ, bảo trăm quan khuyên bệ hạ giết Tĩnh vương là có thể ngừng đại ngục ư, đúng là suy nghĩ đơn giản. Tư Mã thị là Đông cung đều có dính dấp trong đó, huống chi những năm gần đây Đông cung hành động liên tục, án Tần vương lần trước còn muốn mượn Cấm quân cung nội trong tay con, nào ngờ bệ hạ nắm rõ mọi chuyện trong lòng bàn tay. Bệ hạ dễ dàng tha thứ cho Đông cung và Hoàng hậu đã là cực hạn rồi... Tóm lại, lòng Triệu Bạch Ngư tốt, nhưng ý tưởng thì rất khó mà thực hiện được."

"Trừ cái này ra, nó còn nói gì nữa?"

"Không có —— " Triệu Trường Phong nhớ đến lời bị hắn ngó lơ: "Đúng rồi, Triệu Bạch Ngư còn nói, tội Tư Mã Kiêu tham ô hãy để y giải quyết. An Hoài Đức đang nắm giữ chứng cứ, bọn họ chỉ muốn hại chết Đông cung, nhưng Triệu Bạch Ngư sẽ giải quyết thế nào?"

Triệu Bá Ung như có điều suy nghĩ: "Nó nói được lời này chứng tỏ trong lòng đã có dự tính. Ban đầu cha cũng cảm thấy lạ, dù bệ hạ không quá coi trọng Triệu Bạch Ngư, nhưng vì sao người khuấy lật quan trường Hoài Nam lại là Trịnh Sở Chi? Triệu Bạch Ngư chủ thẩm án oan, hầu một công đường, Tư Mã Kiêu và Trịnh Sở Chi không nên xuất hiện cũng xuất hiện, còn lôi cả An Hoài Đức không đến hiện trường vào, đây là trùng hợp trời xui đất khiến thôi sao? Làm sao biết được đây không phải là âm mưu của Triệu Bạch Ngư?"

Triệu Trường Phong sững người: "Ngũ lang mưu tính được sâu xa đến vậy ạ?"

Triệu Bá Ung: "Khâm sai đến Hoài Nam, đầu óc và tâm tư của tất cả mọi người đều căng thẳng, trong lòng đương nhiên biết rõ dụng ý thật sự của bệ hạ khi phái Khâm sai đến, hẳn là họ đã đề phòng từ sớm. Kết quả đại quan tam phẩm rối rít ngã ngựa, rơi vào trong nước đục, trái lại người trong tâm vòng xoáy thoắt cái đã leo lên bờ, không dính giọt nước nào, thoát thân sạch sẽ, người bình thường khó mà làm được như thế."

"Nó thông minh như vậy, nhưng có bản lĩnh hay không thì chưa biết." Triệu Bá Ung gõ bàn, nói với con trai cả: "Nếu như có thể xóa được tội danh tham ô của Tư Mã Kiêu thì sẽ cứu được một nửa quan viên trong danh sách đại ngục, ít nhiều gì bọn họ cũng từng lui tới Đông cung. Tiếp theo là giải quyết đại họa Tĩnh vương trong lòng bệ hạ, giận cá chém thớt giết nhiều quan hơn nữa, cũng không bằng lấy ký do danh chính ngôn thuật giết Tĩnh vương, khiến cho bệ hạ càng cảm thấy sung sướng!"

Triệu Trường Phong: "Nói như vậy, cách của Triệu Bạch Ngư thật sự có thể dùng ạ?"

Triệu Bá Ung không nói, chỉ nhìn chằm chằm mặt bàn gỗ tử đàn, ưu tư trong lòng đã phức tạp đến cực điểm.

Là ông, ông cũng khó mà nghĩ ra được cách phá cục hoàn mỹ đến như vậy.

Mà cho dù ông có nghĩ ra được cách này, cũng sẽ không mạo hiểm đi cứu một người xa lạ không liên quan gì đến mình, dù cho "người xa lạ" đó là đồng liêu đã cùng làm quan với ông mười mấy năm.

Triệu Bạch Ngư, vì sao y lại có một người mẹ khốn nạn như vậy chứ?

***

Phủ Khu mật sứ.

Lư tri viện cung kính đưa Hoắc Kinh Đường đến cửa, Hoắc Kinh Đường khoát tay: "Bổn vương tin Lư lão là người thông minh. Đến đây thôi, không cần tiễn nữa."

Lư tri viện đưa mắt nhìn bóng lưng Hoắc Kinh Đường biến mất, vừa xoay người lại, nụ cười trên mặt đã biến mất, quay về thư phòng suy nghĩ thật kỹ, sau đó thuật lại ý đồ của Lâm An quận vương cho phụ tá nghe.

Phụ tá cảm thấy khó hiểu: "Vị Lâm An quận vương này tự giao nộp binh quyền lên, thái độ thờ ơ không màng thế sự, trừ phi được bệ hạ sai phái, nếu không thì chỉ ở trong phủ nhàn rỗi, cũng không kết giao bè đảng, thậm chí rất ít khi qua lại với bộ hạ cũ. Hôm nay làm như vậy là có ý gì?"

Một phụ tá khác nói: "Có phải hắn muốn nhân cơ hội này lôi kéo triều thần hay không? Lúc này hắn ra mặt, hơn ba trăm người còn sống sót kia đều sẽ thiếu tiểu quận vương ơn cứu mạng đấy."

Phụ tá: "Vậy mà hắn lại nhường cơ hội làm người tốt này cho Tri viện!"

Phụ tá cầm quạt lại nói: "Quan trường không có bí mật nào kín gió, nếu tiểu quận vương có lòng cứu quan triều, e là sẽ không chỉ tìm đến Tri viện mà sẽ còn đến nhờ những Tể tướng khác nữa."

Lư tri viện: "Hai ngày trước, ta có nghe nói Triệu Bạch Ngư đến Triệu phủ thăm hỏi, sau đó phát sinh tranh cái lớn với Triệu Bá Ung, nói không chừng là gây gổ vì chuyện này."

Phụ tá sững sốt một chút, hỏi: "Tri viện cho rằng cách này có thể không?"

Lư tri viện yên lặng chốc lát rồi đáp: "Ngựa chết thành ngựa sống, có thể cứu Đông cung, vì Uyển nhi, lão phu cũng phải gắng gượng mang bộ xương già này đến trước điện Thùy Củng quỳ một chuyến, vả lại cách đó cũng không phải không được."

***

Phủ phó Khu mật sứ.

Trên bàn cờ, cờ trắng bị cờ đen bao vây, Triệu Bạch Ngư nghĩ nát nước cả buổi trời, cuối cùng ném cờ trắng vào hũ trở lại, thoải mái cười một tiếng nhận thua: "Tài đánh cờ của đại nhân tuyệt vời, Bạch Ngư tự thẹn không bằng."

Trước mặt Triệu Bạch Ngư là Cao đồng Tri viện, một trong ba Tế chấp đương triều.

Cao đồng tri kéo sợi râu cằm, nhìn Triệu Bạch Ngư cười híp mắt nói: "Anh hùng xuất thiếu niên, đạt quan xứng phong hầu. Với tài học của ngươi, chỉ cần ba năm thôi là có thể đỗ tiến sĩ, mà ngươi cũng chỉ mới mười chín, vẫn còn rất nhiều thời gian để làm lại. Lần này không cần phải lo có người cản trở ngươi đi thi nữa, ngươi bái môn hạ của ta, ta nhất định bảo hộ ngươi một đường."

Triệu Bạch Ngư: "Bạch Ngư* tạ đại nhân đã khen ngợi, nhưng khoa thi không có công dụng gì nhiều. Thay vì tranh vị tiến sĩ với ngàn vạn học sinh trong thiên hạ, làm lên từ tiểu quan cửu phẩm, chi bằng nhân lúc này tận dụng chức vụ đang có được, dành thêm thời gian đền đáp triều đình, làm chút chuyện giúp đỡ trăm họ, nhờ vậy cũng có thể để lại vị trí tiến sĩ cho người khác, coi như tích đức, đại nhân nói xem lý này có đúng hay không?"

(*) Thường thì ở cổ đại khi xưng tên với người khác trong một hội thoại người ta sẽ xưng tự chứ không xưng tên nhé. Mà vì bé Cá của chúng ta không được đặt tên tự (rồi sẽ có thui đừng lo) nên bé đã xưng tên đó. Ở một hai chương nào đó mình quên mất rồi, tác giả cũng từng nhầm lẫn giữa tên và tự của 2 nhân vật Hạ Quang Hữu và An Hoài Đức khi đã để 2 người xưng tên, dù không sửa lại nhưng chị ấy có đính chính rồi mà mình không edit thêm vào, nhưng nếu ai có để ý thì giờ hiểu rồi hen.

Cao đồng tri nhìn y cười: "Tiểu thanh thiên tâm thiện."

Triệu Bạch Ngư cũng cười: "Dân gian đồn bậy đồn bạ, khen nhầm Bạch Ngư thôi, đại nhân nhất định đừng coi là thật ạ."

Cao đồng tri nhìn bàn cờ thở dài: 'Ta cũng già rồi, chẳng biết từ khi nào mà đã làm quan ba mươi năm, đến được đây cũng coi như quyền khuynh triều đình, có điều làm quan ngày càng to, trái lại không có cái gan bàn trắng luận đen như tiểu Triệu đại nhân đây."

Triệu Bạch Ngư: "Ta cũng kính trọng Cao đại nhân, hai mươi năm trước một mình xông vào trại địch, trong vạn quân ngựa bắt thủ lĩnh giặc, khí nuốt ngàn dặm, lòng giấu triệu binh, không phải có gan lắm sao?"

Cao đồng tri nghe vậy thì cười to, ông làm quan trên đã nhiều năm, lời nịnh hót nào mà ông chưa từng nghe qua? Nhưng đây là lần đầu cam tâm tình nguyện đội mũ cao cho Triệu Bạch Ngư, tâm trạng còn vui sướng lạ thường.

"Hiếm thấy có tiểu bối nào nhớ đến chuyện cũ của lão phu. Ôi, tên nhóc nhà ngươi còn có dũng khí không sợ chết khuyên kẻ trên, lão thất phu ta nghe còn sợ, sau khi truyền ra ngoài rồi nào còn mặt mũi nhìn mấy bô lão Giang Đông đây?"

Triệu Bạch Ngư lập tức đứng dậy, cúi người trước Cao đồng tri: "Bạch Ngư thay Cao đại nhân hành đại nghĩa!"

Cao đồng tri vươn một tay ra đỡ y: "Sắc trời cũng tối rồi, sao tiểu Triệu đại nhân không ở lại phủ dùng cơm tối đi?"

Triệu Bạch Ngư ngượng ngùng từ chối: "Nhà còn có người đợi, Nếu tối nay ta không về, chỉ sợ hắn xông vào phủ đại nhân, mạo phạm đến đại nhân và gia quyến thì không hay."

Cao đồng tri gật đầu, tỏ ý mình đã hiểu, nhà vừa có hãn thê vừa có hãn phu*, đúng là làm khó người ta.

(*) Ở đây ý nói cả quận vương và tiểu Triệu đại nhân đều là người khôn ngoan, nếu cả hai người cùng ở đó thì gia đình Cao đồng tri sẽ rất khó xử.

Đợi Triệu Bạch Ngư đi rồi, Cao phu nhân mới bước ra, vươn tay nghịch bàn cờ hỏi: "Được không?"

Cao đồng tri: "Có thể thử một lần."

"Từ ngày trước, quan triều đã luôn ép bệ hạ phải nghe theo đan thư thiết quyển mà Thánh tổ để lại, ông ấy không thể không nhịn cục tức mà bỏ qua cho Tĩnh vương, mà nay trong triều cũng có không ít quan dùng đủ loại đạo lý bức bách bệ hạ phải tuân theo tổ huấn, cứ để cho bọn họ tự vả miệng mình, khuyên bệ hạ giết Tĩnh vương đi, nếu là tôi, tôi sẽ vui đến nỗi đốt pháo ăn mừng suốt ba ngày ba đêm luôn ấy chứ."

Đám người kia đứng trên lập luận đạo đức cao khuyên ngươi thông cảm cho kẻ thù của mình, đột nhiên một ngày quay lại cầu xin ngươi đừng lương thiện nữa, cũng đừng nương tay giết chết con mẹ nó kẻ thù đi, chẳng lẽ không vui ngất trời hay sao?

Cao phu nhân khẽ cười: "Đúng là làm khó tiểu thanh thiên phải nghĩ ra chiêu độc quá mà."

Cả buổi trời không nghe thấy Cao đồng tri đáp lời, Cao phu nhân giương mắt nhìn lại, hiểu rõ mồn một y hệt như con sâu trong bụng chồng, hỏi: "Ghen tị với Trần thị lang có được học sinh như vậy sao?"

Cao đồng tri liếc mắt hờ hững với Cao phu nhân một cái: "Kẻ làm con còn nhận người ngoài làm cha được, huống chi là thầy. Mà nói đi cũng phải nói lại, ai cũng có điểm tốt để mình học hỏi đấy thôi*."

(*) Nguyên văn三人行必有我师: nghĩa là trong ba người đi cùng nhau chắc chắn sẽ có người là thầy, có chỗ đáng để mình học hỏi người đó. (Cảm ơn bạn Juyune Yu đã giải nghĩa giúp mình).

Cao phu nhân cười không dứt, biết Cao đồng trí đánh giá Triệu Bạch Ngư rất cao nhưng vẫn phải trêu ghẹo ông bằng được: "Triệu Bạch Ngư ấy, thằng bé này thế nào?"

Cao đồng tri yên lặng hồi lâu, đáp: "Đa trí cận yêu*, lòng như Bồ Tát."

(*) Đa trí cận yêu - 智多近妖: trí khôn xuất sắc vượt trổi, gần như là một con quái vật.

***

Trong triều, hơn nửa đại quan Tể tướng nhất phẩm là bị thuyết phục, đến Lư tri viện cũng bị thuyết phục giống như kéo theo cả Đông cung, cấp trên để lộ ý đồ, quan triều dưới trướng tự dưng nhanh chóng bắt lấy cái phao cứu mạng, cực kì hưởng ứng.

Chỉ có Chương thị trung mong chờ đại ngục là còn chẳng hay biết gì, viết cả danh sách quan viên mà mình chuẩn bị cất nhắc vào tấu chương, đã đưa vào điện Diên Hòa.

Lúc lâm triều, một đám triều thần chờ ngoài điện, thấy cấp trên hoặc đồng liêu lập tức chào hỏi nhau, hai ba người tụ lại thành nhóm nhỏ, ung dung trò chuyện, không thấy buồn phiền lẫn sợ hãi như hai ngày trước nữa như thể chẳng có đại án Hoài Nam và đại ngục vậy.

Chẳng lẽ ông đang nằm mơ?

Chương thị trung hoài nghi, bước đến gần Triệu tế chấp định chắp tay hỏi, người nọ đột nhiên phất áo mũ xoay người, sau đó sải bước vào điện Thùy Củng, hóa ra đã đến giờ vào triều, các quan triều lục tục tiến vào điện chờ Nguyên Thú đế xuất hiện.

Quá trình tảo triều vẫn diễn ra như thường, đến tảng sáng, Nguyên Thú đế mới nhắc tới tiến triển đại án Hoài Nam.

Quan chủ thẩm Trịnh Sở Chi bước ra khỏi hàng tấu bẩm: "Hồi bẩm bệ hạ, thần ngày dài đêm thâu không lơ là truy xét và thấm vấn, rốt cuộc cũng hỏi ra được chân tướng, An Hoài Đức đúng là bộ hạ cũ của Tĩnh vương, giả vờ quy phục Đông cung, mượn tên tuổi của Đông cung để tham ô bạc chữa sông, cậy chức quyền đóng binh..."

Nhắc đến chuyện lão ta làm theo lời Tĩnh vương sát hại cả nhà họ Hoàng ở Giang Nam là để cướp đoạt huyết phách ngàn năm, trong mắt Nguyên Thú đế ánh lên lửa giận, nắm đấm co chặt, lòng bàn tay bị hằn dấu chảy máu.

Chuyện này còn làm cho Nguyên Thú đế giận hơn cả lúc đầu khi nghe được chuyện Tĩnh vương đóng binh.

"... Đồng thời, thần cũng đã lệnh cho người hạch toán sổ sách trong tay An Hoài Đức, xác nhận đó là sổ giả mới được làm cách đây không lâu, có nhiều số liệu mật không khớp với thuế thu của Hoài Nam bao năm qua, vì vậy thần chắc chắn An hoài Đức xác nhận Tư Mã Kiêu tham ô thuế Hoài Nam chính là bêu xấu, mượn cớ này cắn càn Đông cung, lay chuyển vị trí trữ quân, ý đồ dùng tội bè đảng cấu kết để tấn công triều đình và quan trường Hoài Nam —— " Trịnh Sở Chi đột nhiên cao giọng nói, lời lẽ và sắc mặt tràn trề chính nghĩa: "Lòng mưu triều soán vị của Tĩnh vương bất tử, ý đồ mưu hại mệnh quan triều đình, làm lung lay giang sơn xã tắc, tội lỗi vô cùng ác ôn, tội chết không thể dung thứ, xin bệ hạ trị nghiêm!"

Nguyên Thú đế cứ nghĩ rằng phản ứng của bọn họ vẫn y như cũ, trên mặt phủ đầy sương lạnh, chỉ chờ đợi quan triều khuyên can, sát ý trong lòng đã lao đến vùn vụt.

Đúng như dự đoán, Triệu Bá Ung bước ra khỏi hàng: "Từ khi bệ hạ còn là trữ quân Đông cung, Tĩnh vương đã mơ ước ngôi vị hoàng đế, đến khi bệ hạ kế thừa đại thống, Tĩnh vương vẫn không ngừng gian trá, nhiều lần hành động uy hiếp đến sự ổn định của triều đình, chắc chắn là vì trong tay có đan thư thiết quyển mà Thánh tổ đặc biệt ban cho, cùng với Thánh thượng nhân từ niệm tình anh em nên lần lượt nhận được khoan hồng. Thánh tổ gia miệng vàng lời ngọc, Thiên tử nói vậy, cũng là gia quy tổ huấn không thể làm trái, thế nhân tuân theo gia pháp là lẽ thường, là hiếu đạo, Thiên tử tuân theo tổ huấn là vì nước, vì dân..."

Đấy, lại thế nữa!

Không tuân theo tổ huấn, không buông tha cho Tĩnh vương thì ông là kẻ bất hiếu bất nghĩa, sẽ lưu lại tiếng sấu với nước với nhà, nhưng sao bọn họ không mở to mắt ra mà xem Tĩnh vương làm như thế coi là việc con người có thể làm hay sao?

Tất cả những việc mà Tĩnh vương gây ra kia, tùy tiện lôi một việc ra cũng đủ khiến cho lão ta bị lăng trì xử chết rồi!

Nguyên Thú đế nổi cơn tam bành, con ngươi đỏ bừng, đến giờ đã không còn kiềm chế được sát ý nữa, lại nghe thấy Triệu Bá Ung nói thế này: "Nhưng cứ theo nề nếp cũ mãi, thì không ngừng phát triển thay đổi không hợp với Thiên gia, càng không hợp với một vương triều có xu hướng hưng thịnh, thánh nhân có nói 'Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu'*, tiền triều có tội với chiếu thư của mình, chính lệnh của Thiên tử cũng không hẳn là không có sai sót, cho dù là di huấn của Thánh tổ thì cũng có chỗ không hợp lý, vậy nên phải tìm cách khắc phục nó, hoặc là phế trừ."

(*) Câu này có nghĩa là sự vật phát triển tới cực điểm khi đến cùng tận, thì tất phải biến hóa, sau khi biến hóa thì phải thông đạt, nhờ thông đạt mà được dài lâu.

Nguyên Thú đế: ... Ờ?

Triệu Bá Ung hùng hồn đáp: "Hành động của Tĩnh vương chồng chất tội lỗi cao ngút trời, nếu như không xử lý theo quốc pháp, không trừng trị nghiêm hình, quốc pháp còn có oai phong của nỏ không? Kỷ luật nghiêm minh kia có còn ai chấp nhận nghe theo không? Trăm họ vẫn sẽ tuân theo pháp luật hay sao? Do đó —— "

Sắc mặt Nguyên Thú đế khẽ biến, vậy thì tốt quá rồi.

"Thần khẩn cầu bệ hạ xử tử Tĩnh vương để răn đe!"

==

Chương 48

Triệu Bá Ung bước ra khỏi hàng, lời kể hùng hồn, Chương thị trung nghe lọt tai được đoạn đầu thì mừng thầm, những lời này không khác gì đổ dầu vào lửa, chỉ có chọc giận Nguyên Thú đế, dính líu nhiều người hơn.

Chương thị trung trộm nhìn sắc mặt Nguyên Thú đế, trong nháy mắt lòng ngập tràn nỗi sợ.

Quả nhiên mặt ông đã tối sầm lại, mà Triệu Bá Ung thì không nhận ra nên cứ nói mãi không ngừng, đến cả lão cũng không kìm được nghi ngờ sự thông minh thường ngày của Triệu tế chấp chạy đi đâu mất rồi, sao mà câu nào cũng như đang nói khích Nguyên Thú đế?

Đang lúc hoảng sợ, chợt nghe thấy Triệu Bá Ung đột nhiên chuyển đổi đề tài, từ chiếu thư tiền triều đến ví dụ Long Võ đế phế trừ chính lệnh của tiên đế, rồi dấu hiệu thịnh thế của Đại Cảnh nằm ở chỗ biến hóa linh hoạt... Từng câu từng chữ đều khuyên nhủ Nguyên Thú đế phế trừ đan thư thiết quyển mà Thánh tổ ban cho Hoa thị.

Ý đồ chỉ liếc thôi đã thấy ngay —— ban chết cho Tĩnh vương!

Ban chết cho Tĩnh vương không phải là tâm nguyện của Nguyên Thú đế hay sao?

Đạt được mong muốn, Nguyên Thú đế có còn tức giận hay không, đại ngục có còn tiếp tục diễn ra không?

Phát hiện điểm bất thường, Chương thị trung vừa định bước ra khỏi hàng liền nghe thấy giọng nói đều đều vang lên: "Tội Tĩnh vương không thể dung thứ, chúng thần khẩn cầu bệ hạ phế trừ đan thư thiết quyển, ban chết cho Tĩnh vương!"

Chương thị trung ngạc nhiên quay đầu, phát hiện ba vị Tể tướng đã dẫn dắt triều thần quỳ xuống hết cả, nhìn lại mới thấy lão và hai quan bồi thẩm chủ trì đại ngục vẫn đang đứng yên tại chỗ, vô cùng nổi bật.

Biểu cảm trên mặt Nguyên Thú đế thay đổi: "Chương thị trung không có cùng quan điểm sao?"

"Thần..."

Chương thị trung vắt óc cũng không nghĩ ra được kế ứng phó, lão không hề nghĩ đến chuyện trăm quan vì để bảo vệ mà tự vả miệng mình, cũng là đám người này, mấy ngày trước còn cố gắng bảo vệ đan thư thiết quyển Thánh tổ ban cho, ngăn cản Nguyên Thú đế giết Tĩnh vương nhiều lần, lời chó má gì cũng nói được.

Ngự sử trung thừa già cỗi lúc này cũng run lẩy bẩy, nhớ lại ngày trước lão tràn đầy khí thế, tức giận dùng màn đập đầu vào cột nhà uy hiếp Nguyên Thú đế, bây giờ đã phục sát đất, vừa run vừa nói 'Tĩnh vương không chết thì không thể xoa dịu lòng căm phẫn của dân chúng."

Lão thật sự đang lo nghĩ cho triều đình và bệ hạ sao?

Không, lý do là vì cháu rể của lão cũng bị bắt vào đại lao bộ Hình!

Không chỉ một mình Ngự sử trung thừa vì tình riêng mà vứt hết mặt mũi, quan triều quỳ xuống trước điện, ai dám nói mình không phải cầu vì tình riêng?

Tuy nhiên, lợi ích của riêng bọn họ cùng với tâm nguyện của Nguyên Thú đế không hẹn mà hợp, ăn khớp với nhau, kết cục đã định xong.

"Thần khẩn cầu bệ hạ xử tử Tĩnh vương để răn đe!"

Chương thị trung cắn răng hùa theo số đông, trong lòng thầm oán rốt cuộc là kẻ nào nghĩ ra kế này hại lão khổ tâm trù mưu vô ích, còn phải nghĩ cách để lấy lại chiết tử mà mình đã đưa vào điện Diên Hòa.

Chỉ cần Nguyên Thú đế nhìn thấy được tấu chương viết đầy tên bổ khuyết là sẽ đoán ra tâm tư của lão ngay, còn không phải sau đó sẽ tìm cơ hội chèn ép lẽo và môn đảng hay sao?

Nghĩ đến những gì sẽ xảy ra sau này, cổ họng Chương thị trung ngọt ngắt, suýt chút nữa là nôn ra máu.

Thậm chí lão bực bội không hiểu nổi, ba vị Tể tướng trong triều gồm Triệu tế chấp, Lư tri viện và Cao đồng tri từ trước đến giờ bên nào cũng cho là mình đúng, sao đột nhiên lại có cùng nhịp bước được?

Nguyên Thú đế vô thức vuốt ve nhẫn ban chỉ, cả người thả lỏng, sống lưng thẳng tắp cũng hơi sụp xuống, biểu cảm không thay đổi quá rõ ràng nhưng không khống chế được khóe môi hơi cong lên: "Đan thư thiết quyển mà Thánh tổ ban cho Hoa thị mang ý nghĩa khác thường, nói phế liền phế sẽ làm tổn hại đến uy tín triều đình và mặt mũi hoàng gia."

Đại thái giám lặng lẽ liếc mắt nhìn Nguyên Thú đế đang cố ra vẻ, trong lòng thừa biết bệ hạ chỉ đang giả vờ.

Triệu Bá Ung: "Làm ác không trị, có tội không phạt mới có thể làm tổn hại uy tín triều đình. Bệ hạ phế đan thư thiết quyển để bảo vệ quốc pháp là đã thể hiện được cử chỉ công chính liêm minh của hoàng gia rồi."

Cao đồng tri bước ra khỏi hàng: "Triệu tế chấp nói phải. Cái gọi là 'Làm việc phải không màng lợi riêng, lợi riêng không mất thì công bằng mất', nước không có công bằng thì nước mất, diệt trừ Tĩnh vương chính là hành động bỏ đi cái lợi bảo vệ công bằng cho nhân gian."

Trần Sư Đạo cũng bước ra, thấp mi rũ mắt nói: "Một người phạm pháp nếu như chí hiếu chí thiện, mà triều đình lại cảm thông cho người đó nghĩa là triều đình có lòng bao dung, nhưng tất cả phẩm chất và tư cách của Tĩnh vương đều kém, từng lời nói hành động đều làm hại triều đình và trăm họ, thử hỏi hắn có xứng đáng để được triều đình tha thứ cho lỗi lầm* của mình hay không? Thánh tổ ban cho đan thư thiết quyển là đế khen ngợi tổ tiên Hoa thị có công dựng nước. Tổ tiên Hoa thị vì Đại Cảnh mà lập biết bao nhiêu công lao hiển hách, cũng vì triều đình và trăm họ gầy đựng nền móng vững chắc, hưng thịnh một thời, còn Tĩnh vương đã giúp được việc lớn gì cho triều đình đâu?"

(*) Nguyên văn là Võng khai nhất diện (網開一面). Ban đầu, thành ngữ này đọc là Võng khai tam diện (網開三面). Ngày nay thành ngữ này được dùng để chỉ tấm lòng nhân hậu, khoan dung, độ lượng của một người, thông qua việc cho người có lỗi một lối thoát hoặc cho phép họ có một cơ hội để sửa chữa lỗi lầm của mình.

"Nói đúng ra thì Tĩnh vương cũng chỉ là cháu ngoại của Hoa thị, không mang họ Hoa, không thể kéo dài huyết mạch, vậy thì hắn có tư cách gì hưởng thụ đan thư thiết quyển? Tĩnh vương thân là người thuộc hoàng thất, nhận được sự cung phụng của vạn dân nhưng không có chí tiến thủ, không nhớ ân đức của tổ tiên, trái lại lợi dụng chức quyền để lấn át trăm họ, vì lý gì mà triều đình cứ mãi mở lòng khoan dung?"

Lời nói của Trần Sư Đạo còn sắc bén nghiêm nghị hơn ba vị Tể tướng.

"Hôm nay nếu bệ hạ còn không xử phạt tội nặng của Tĩnh vương, trả lại công bằng cho dân, thần sẽ học hỏi Ngự sử đài, đập đầu cột nhà, đổ máu tại chỗ thử xem, thế là đúng với chí hướng văn chết răn, tướng chết trận!"

Cánh tay Nguyên Thú đế căng cứng, dùng hết sức lực kiềm chế đến nỗi cơ gò má hơi giật lên, mặc dù cảm thấy kỳ quái vì có thế nào cũng không thể cất tiếng cười to được, nhưng tâm trạng thật sự rất sung sướng.

Từ khi lên ngôi đến nay, ông đã muốn giết Tĩnh vương rất nhiều lần mà đều bị cản lại, hết lần này đến lần khác bị đám đại thần văn võ này khuyên can, rồi mấy lão già Ngự sử đài cứ rêu rao đập đầu trên điện Thùy Củng mà đã thấy chết đâu, Nguyên Thú đế cũng không muốn nhận lấy tiếng xấu hôn quân, vậy nên cứ lần lượt nhượng bộ.

Mà nay cuối cùng cũng có người muốn đập đầu nhưng là ép ông giết Tĩnh vương, cũng là chết vì khuyên răn, sao có thể khiến cho người ta vui sướng như vậy?

Rồi ông lại nhìn Ngự sử đài, so sánh với Trần Sư Đạo, cùng là nguyên lão ba triều, sao giữa người và người lại có chênh lệch lớn đến thế?

Nguyên Thú đế tằng hắng: "Trẫm sẽ suy nghĩ thử xem."

Bịch một tiếng, Trần Sư Đạo quỳ xuống dập đầu, giọng nói run rẩy: "Bệ hạ... Nhất định không được mềm lòng nương tay!"

"..."

Trong điện hoàn toàn yên tĩnh.

... Đến mức này luôn sao?

Trước đây không nhìn ra Trần thị lang giỏi như vậy.

Lần trước lúc bị oan ở tù, còn tưởng rằng Trần Sư Đạo chỉ là một lão nho sinh bảo thủ không hiểu nhân tình quan trường, không ngờ ông chỉ giả heo ăn cọp, đợi cơ hội đến một cái là lập tức mạnh mẽ bắt lấy, những người khác có muốn cũng đã chậm mất một bước rồi.

"Khụ! Ừ!" Nguyên Thú đế không nhịn được nữa, khóe môi lại cong lên thêm một chút nữa, vội vàng xuống khỏi long ỷ, đỡ Trần Sư Đạo dậy rồi sắp xếp lại biểu cảm sau đó siết chặt tay Trần Sư Đạo, vỗ lên mu bàn tay ông, kìm lòng không đặng nữa nói: "Sao lại thế được? Sao lại làm thế! Khanh là lão thần ba triều, là trọng thần, là xương cánh tay của trẫm! Dám nói dám khuyên, ngay thẳng chính trực, nếu như trẫm không nghe theo lời khuyên, làm tổn thương lòng thành khẩn yêu triều đình của lão thần thì sao."

Buông tay Trần Sư Đạo ra, Nguyên Thú đế nhìn quanh điện một vòng, lên tiếng thỏa hiệp: "Chư vị khanh gia một lòng một dạ với triều đình, tất nhiên trẫm sẽ không phụ lòng thỉnh nguyện của các ngươi. Có điều nói thế nào thì đan thư thiết quyển cũng vẫn là di huấn của Thánh tổ, trẫm không phế trừ nó thì sẽ không thể nói rõ với triều đình và trăm họ, còn nếu phế trừ tức là bất hiếu. Nhưng trẫm thà làm đứa con cháu bất hiếu của Hoắc thị, chứ không muốn làm tội nhân của Đại Cảnh! Từ hôm nay trở đi, trẫm sẽ thu hồi đan thư thiết quyển trong tay Tĩnh vương, về sau nó chỉ thuộc về con cháu trực hệ Hoa thị, nếu như phạm tội nặng như mưu triều soán vị, cấu kết với ngoại địch thì không được miễn xá."

"Còn Tĩnh vương, phạm tội gì dùng pháp đó."

Lư tri viện nhân lúc Nguyên Thú đến chuẩn bị nói bãi triều thì vội vàng lên tiếng: "Bệ hạ, Đô tào Hoài Nam Tư Mã Kiêu không tham ô thuế Hoài Nam, kết tội tư thông với An Hoài Đức có thể là do Tĩnh vương thêu dệt để hãm hại Đông cung. Danh sách đồng đảng tra khảo trong miệng lão ta, e là do lão không chịu nổi hình phạt, bị hoảng nên nói bậy nói bạ thôi. Các quan triều và quan viên Hoài Nam đang bị nhốt trong tù hiện tại có những người không đáng tội chết. Như vậy đại ngục trước mắt..."

Nguyên Thú đến nhìn Lư tri viện, quét qua đám người Đông cung đang hạ thấp cảm giác tồn tại của mình xuống hết mức, ông xoay nhẫn ban chỉ, cảm giác vui vẻ khi giải quyết được họa lớn trong lòng không hề khiến cho ông trở nên hồ đồ.

"Có tội hay không thì bộ Hình sẽ tự kiểm tra thẩm vấn. Tuy nhiên với hình phạt nghiêm khắc như thế thì cũng dễ khiến cho nhiều người chết oan. Trịnh Sở Chi, cả những quan bồi thẩm khác nữa, trẫm lệnh cho các ngươi lúc luận tội không được lạm dụng cực hình, không được để nhân viên thương vong, chỉ cần điều tra rõ, lấy được chứng cung rồi thì giao cho Đại lý tự phúc thẩm, sau đó đến nói rõ ràng cho trẫm, chém ai lưu đày ai, trẫm sẽ định đoạt."

Lời này vừa dứt, Trịnh Sở Chi thở phào nhẹ nhõm, nhưng hai tên quan bồi thẩm đã lạm dụng tư hình làm chết hai đại quan tứ phẩm thì tê liệt ngã xuống đất, mặt mũi tái nhợt tựa như sắp tắt thở đến nơi.

Nguyên Thú đế nhận ra được sự khác thường bèn hỏi: "Hai vị khanh gia có ý kiến gì khác sao?"

Hai người liên tục lắc đầu, lau mồ hôi lạnh: "Không, không có, bệ hạ anh minh, thần không có ý kiến khác."

Nguyên Thú đế nhìn bọn họ chằm chằm: "Tốt nhất nên vậy. Trẫm không muốn vừa mới thả người trong sạch ra đã lại nhốt người mới vào đâu."

Hai người không nhịn được run rẩy, Nguyên Thú đế cũng lười nhìn bọn họ nữa.

"Đô tào Hoài Nam tuy không tham ô tiền thuế, nhưng không thể phủ nhận hắn có âm thầm qua lại với An Hoài Đức. Tư Mã Kiêu ham mê nữ sắc, thu nhận hối lộ của cấp dưới, dẫn đến hậu trạch không an ổn, bị đàn bà tính kế là sự thật. Đô tào quản thủy vận một tỉnh, nhưng đường sông Hoài Nam dưới tay hắn quản lý lại xảy ra hiện tượng sụp đổ, có người tham ô mà Tư Mã Kiêu không biết cũng là sự thật." Nguyên Thú đế lạnh nhạt tuyên bố: "Tra cho rõ chân tướng, xử lý theo luật là được. Rồi cái chức quan Đô tào Hoài Nam cũng đừng làm nữa, đức không xứng với vị, khiến người ta phải chê cười, trở về làm quốc cữu cho tốt rồi thôi."

Nghe vậy, Đông cung và Ngũ hoàng tử cũng thở phào một hơi.

Tuy tổn thất một chức Đô tào Hoài Nam, nhưng lại giữ được Tư Mã thị, trải qua một lần xoay chuyển quan trường này, thế lực của Đông cung bị áp chế mạnh mẽ, cơ mà kết quả thế này còn tốt hơn nhiều so với việc bị nhổ tận gốc.

Nguyên Thú cảm thấy hơi mệt mỏi bèn khoát tay: "Bãi triều đi."

***

"Triệu tế chấp dừng bước." Thái tử ngăn Triệu Bá Ung lại: "Hôm nay Triệu tế chấp ở trên điện bên vực lẽ phải vì trăm quan, cô thay triều thần văn võ trong thiên lao cảm ơn tế chấp có lòng tốt.

Triệu Bá Ung bước sang một bên, tránh lời cảm ơn của Thái tử: "Cũng chỉ là chức trách của bề tôi mà thôi, điện hạ quá khen."

Thái tử không nhịn được nhìn Triệu Bá Ung, khẩn thiết hỏi: "Hôm nay Tế chấp ra mặt, là bởi vì Tứ lang sao?"

Tứ lang?

Triệu Bá Ung cau mày, cũng ngẩng đầu lên nhìn lại, vừa đúng lúc thấy được tình cảm mà Thái tử chưa kịp che giấu, ông vừa sốc vừa không kiềm được cơn giận: "Triều cục ra sao, Tứ lang không hề hay biết. Thái tử tự trọng."

Thái tử né tránh ánh mắt của ông, "Cô không có ý gì khác... Đúng rồi, cuối tháng này ở ngoại ô có một bữa tiệc ngắm mai, văn nhân nhã sĩ trong Kinh Đô đều sẽ tham dự, cô muốn —— "

"Trời đông tuyết phủ gây trở ngại cho thân thể Tứ lang, cả mùa đông này Tứ lang cũng sẽ không ra ngoài."

Giọng nói và ánh mắt của Triệu Bá Ung lạnh đến mức có thể đóng băng, mà Lư tri viện phát hiện ra động tĩnh của bọn họ ở bên này, liên tục nhìn lại, Thái tử sợ nói tiếp sẽ khiến cho người ta nghi ngờ bèn vội giữ khoảng cách.

"Năm sau Tứ lang sẽ tham gia kì thi, cần tĩnh tâm học tập, nếu như điện hạ thật lòng lo nghĩ vì tương lai của Tứ lang, thì xin đừng làm Tứ lang phải bận lòng."

"Cô... Cô biết rồi."

Triệu Bá Ung nghe hắn đáp vậy không vui cũng chẳng giận, bước đi trước một bước.

***

Đợi đến khi triều thần đã đi cả, Chương thị trung mới rẽ vào điện Diên Hòa định lấy lại chiết tử, nhưng làm sao được khi hàng ngũ canh gác rất nghiêm ngặt, không tìm được cơ hội đi vào.

"Chương thị trung, ngài ở đây làm gì thế? Muốn gặp bệ hạ sao?"

"Ối!" Chương thị trung bị dọa giật mình, quay đầu lại nhìn thấy quan nội thị Cao đô tri mới thở phào nhẹ nhõm, đột nhiên nhớ ra người này có thể tùy ý ra vào trong điện, thế là lão viết hai chữ lo lắng lên mặt, nói: "Đô tri cứu mạng ta với!"

Cao đô tri bối rối: "Sao thế? Ngài cứ từ từ nói."

Chương thị trung: "Ta có một bản tấu chương liên quan đến Lưỡng Giang, vì thời gian eo hẹp, không chú ý nên đã đưa nhầm vào điện Diên Hòa, sáng nay người bên dưới báo lại, nói là trong đó có một chuyện nghĩ sai rồi, là tin đồn mà thôi. Ta nghĩ là bệ hạ chưa phê duyệt tấu chương nên muốn lấy về, nhưng mà lại không vào trong được... Cao đô tri, ngài giúp ta một tay với."

Cao đô tri: "Đừng vội, là chiết tử ngày hôm qua sao?"

Chương thị trung: "Hình như ta để nó trong chiết tử sáng nay ấy."

Cao đô tri: "Được rồi, ta giúp ngài lấy ra."

Chương thị trung: "Đa tạ Cao đô tri! Cao đô tri đại thiện."

Cao đô tri vào điện Diên Hòa giúp Chương thị trung tìm bản tấu chương kia, mở ra xem mới thấy trong đó là tên của chừng trăm người, có cả mấy cái tên rất quen thuộc, gã nhớ mang máng là quan viên Lưỡng Giang.

Bị lòng hiếu kỳ thôi thúc, Cao đô tri đọc lướt tấu chương nhanh như gió, trong lòng tự hiểu rõ mục đích của Chương thị trung khi nộp tấu chương này lên.

"Cùng là quan triều, người khác đều muốn đồng tâm hiệp lực, Chương thị trung này thì ngược lại, định nhân cơ hội đạp xương cốt đồng liêu để mà leo lên." Cao đô tri lắc đầu giễu cợt, giấu chiết tử vào trong tay áo rồi đi ra ngoài.

Hoài Nam vừa mới gặp nạn lụt, quan trường lại trải qua một trận động đất, chính là thời điểm hỗn loạn, nếu như lúc này Lưỡng Giang cũng nhảy ra trước mặt Nguyên Thú đế chắc chắn sẽ lại khiến cho dư luận xôn xao nữa.

Cao đô tri giao lại chiết tử cho Chương thị trung, lời nói mang ý sâu xa: "Đại nhân, theo như những gì ta hiểu về bệ hạ của chúng ta, thì ngài ấy thật sự không thích kết bè đảng và đám bè lũ xu nịnh đâu, hy vọng đại nhân tự biết trân trọng bản thân mình."

Chương thị trung lúng túng cười trừ, vừa về phủ đã lập tức thiêu hủy tấu chương đó.

Hai tên quan bồi thẩm nghe theo lời lão nghiêm hình tra hỏi hai vị đại quan tứ phẩm làm người ta chết thảm trong ngục, vừa mới đó đã vội chạy đến Chương phủ thăm hỏi, nhưng lại bị chặn ngoài cửa.

Quản gia truyền lại lời dặn của Chương thị trung, nhét vào trong tay mỗi người một lọ thuốc màu đen, nửa dặn nửa uy hiếp: "Hai vị là người thông minh, hẳn phải biết người nào có liên quan đều phải... Chắc các vị cũng không muốn người nhà bị liên lụy, đều hy vọng sau khi chết rồi, có người chăm sóc người nhà mình thật tốt chứ?

Thoáng chốc, sắc mặt hai người nọ ảm đạm, run rẩy cầm lấy lọ thuốc nói: "Xin ông truyền lời giúp cho, nếu như không chăm sóc tốt cho người thân của bọn ta, thì bọn ta có thành quỷ cũng không thể an lòng!"

Quản gia: "Đại nhân chúng ta đã nói là sẽ làm."

***

Hoài Nam.

Khang vương nhận được thư từ phủ Kinh Đô, không khỏi cười phá lên: "Tuyệt vời!"

Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu nghe tiếng mà đến bước vào trong phòng khách: "Hạ quan tham kiến vương gia, vương gia đang xem gì thế?"

Khang vương thuật lại đơn giản chuyện xảy ra ở phủ Kinh Đô, sóng lòng Hạ Quang Hữu dâng trào, kích động không thôi: "Vậy là hiện tại họa quan trường Hoài Nam đã qua rồi sao?"

Khang vương nở nụ cười: "Đúng vậy nhỉ?"

Hạ Quang Hữu cầm lấy thư xem tới xem lui, nỗi xúc động cứ dâng lên không ngừng: "Hay, hay quá, tài trí của tiểu Triệu đại nhân có thể sánh với Gia Cát, tâm địa hiền lành, vốn đã thoát thân khỏi đại án Hoài Nam, lại vì không đành lòng thấy người vô tội gặp nạn mà kiên quyết nghĩ kế tương trợ, đúng là hiền thần! Đúng là hiền thần!"

Khang vươn không vui, "Ngươi coi kĩ xem, cháu ta mới là người đứng sau màn quyết định tình hình kia mà."

Nụ cười trên mặt Hạ Quang Hữu tự dưng phai nhạt đi một chút: "À, tiểu quận vương quả là không tệ."

Khang vương cau mày, cảm thấy thái độ của Hạ Quang Hữu rất kỳ lạ.

Hạ Quang Hữu lơ đễnh nói: "Suy cho cùng thì vẫn là tiểu Triệu đại nhân trù tính toàn cục, xem thư thì thấy hình như tiểu Triệu đại nhân đã viếng thăm phủ Triệu tế chấp và phủ Cao đồng tri nhỉ. Đúng rồi, trong thư còn nói Trần thị lang ngự tiền đòi chết răn —— nhớ không lầm, Trần đại nhân là ân sư của tiểu Triệu đại nhân nhỉ? Có thầy ắt sẽ có trò, có lẽ là tiểu Triệu đại nhân đã đi thuyết phục Trần đại nhân đấy."

"..." Khang vương rút thư lại, có hơi ghét bỏ mà cách xa Hạ Quang Hữu, suy đi nghĩ lại rồi cảnh cáo: "Ngươi có biết Triệu Bạch Ngư và Lâm An quận vương đã thành thân rồi không, bọn họ là do bệ hạ ban hôn, người ngoài không thể nhúng tay vào?"

"Dĩ nhiên là hạ quan biết." Hạ Quang Hữu nhìn Khang vương bằng ánh mắt kì quái, sau đó than thở: "Cực khổ cho tiểu Triệu đại nhân rồi."

Khang vương xoa xoa tay, rút một phong thư khác trong tay áo ra.

Hạ Quang Hữu thấy vậy hỏi: "Là thư của tiểu Triệu đại nhân sao?"

Khang vương: "Là thư nhà."

Hạ Quang Hữu nghe vậy liền tự giác tránh tầm mắt đi, không theo dõi thư nhà của Khang vương nữa, có điều chưa từng nghe nói Khang vương lập gia đình.

Khang vương xem thư nhà xong thì chân mày cau lại, Chương thị trung và Lưỡng Giang?

Đại án gian lận thi cử cũng không thể chấn chỉnh được quan trường Lưỡng Giang hay sao?

***

Nhờ Nguyên Thú đế không tức giận và không có nỗi lo về sau đại ngục, hiệu suất luận tội vụ án của Trương Sở Chi tăng cao, nhanh chóng tra rõ sự thật lẫn chứng minh quan triều vô tội trong sạch.

Tất nhiên không phải là tất cả quan triều đều trong sạch, vẫn có kinh quan thu nhận hối lộ của Tĩnh vương và An Hoài Đức mà thuận lợi đẩy cửa, những kẻ như vậy nên tịch thu tài sản thì tịch thu, nên chém đầu phải chém đầu, nhất định không được nhân nhượng.

Trái lại hai đại quan tứ phẩm bị quan bồi thẩm dùng hình ép chết quả thật là chẳng có tội gì, Trịnh Sở Chi mang chứng cung có con dấu của Đại Lý tự đi bắt người, nào ngờ hai người họ đã sợ tội tự sát ngay trong nhà mình.

Nếu đã đền tội, lại có Chương thị trung ở bên cạnh cầu tha thứ, tội mới không đội lên đầu người nhà, Nguyên Thú đế chỉ ra lệnh tước đoạt công danh và chức quan của hai người, tịch thu gia tài, quan trạch phải trả về cho triều đình, chuyển đi khỏi Kinh Đô ngay trong ngày hôm đó.

Tư Mã Kiêu ở trong tù bị dùng hình, thân thể đổ bệnh gốc, đường làm quan đến đây là chấm dứt, cũng may lão giữ lại được cái mạng, còn mang được cái danh quốc cữu, nửa đời sau không phải lo ăn lo mặc, chẳng qua là số tiền thuế Hoài Nam mà lão ăn chặn đều phải giao ra hết cho Tri phủ Từ Châu Hạ Quang Hữu, giữ lại dành riêng cho việc quản lý lẫn tái xây dựng đường sông ở Hoài Nam.

Tiền tham ô không thể không nhả ra, bởi vì sổ sách thật nằm trong tay Triệu Bạch Ngư. Đông cung, Ngũ hoàng tử và Tư Mã thị có mà táng gia bại sản thì mới gom góp đủ bạc để trả về Hoài Nam.

Mấy năm nay lợi dụng chức vụ để hốt bạc, cơ hồ đã đền sạch cả rồi, còn dư lại chẳng có mấy, bây giờ Đông cung nghèo đến mức chỉ còn mỗi cái khố.

Vì vậy, mặc dù Triệu Bạch Ngư đã ra tay giúp Đông cung, đám người Thái tử vẫn vừa yêu vừa hận y, yêu y mưu trí vô song, hận y không ra sức vì Đông cung.

Trái lại ở Định Châu xa xôi, Trịnh quốc công và Lục hoàng tử nghe ngóng được triều cục trong Kinh Đô chỉ mấy ngày mà biến đổi bất ngờ thì cảm thấy vô cùng ngạc nhiên, bắt đầu nhìn lại sự việc từ gốc đến ngọn.

Trịnh quốc công hiểu được đại khái đã tính toán xong rồi, còn Lục hoàng tử thì cứ mãi nghĩ đi nghĩ lại.

Từ lúc Triệu Bạch Ngư đảm nhiệm chức Khâm sai đến Hoài Nam, đến khi vén màn đại án Hoài Nam, còn cả Hoắc Kinh Đường tưởng chừng như vô hình lại thoắt ẩn thoắt hiện xuyên qua đầu đuôi, Lục hoàng tử đoán được tận tám chín phần mười.

Hoắc Kinh Đường có ưng giỏi chó tài, tuy nhiên chỉ có Nguyên Thú đế mới có thể ra tay thúc giục, Lục hoàng tử chưa phát hiện được điều gì kì lạ, nhưng Triệu Bạch Ngư biết cách gây khó dễ và nắm bắt lòng người như thể đã dày công tôi luyện lại khiến cho hắn khó mà không ngạc nhiên cho được.

Muốn ngồi vững ngôi vị hoàng đế, muốn quan trường như cá gặp nước phải biết bắt bí lòng người, khiến người ta trở thành con cờ của mình, vừa có thể khuấy động mây gió, vừa có thể rút lui toàn vẹn bất cứ lúc nào.

"Triệu Bạch Ngư..." Lục hoàng tử vô thức lên tiếng.

Trịnh quốc công nghe thấy được bèn hỏi: "Người này thế nào?"

"Nếu như có thể ra sức vì ta thì sẽ như hổ thêm cánh." Lục hoàng tử bật cười, bổ sung thêm một câu, "Còn nếu như không thể, thì cũng là hiền thần Đại Cảnh."

Đánh giá quá cao.

Trịnh quốc công gật gù, không phát biểu ý kiến của mình.

***

Phủ Lâm An quận vương.

Hoắc Kinh Đường nằm trên ghế, nhắm mắt niệm kinh Phật, bên ngoài tuyết rơi nhiều, trong phòng đốt một chậu than không khói, Triệu Bạch Ngư đang ngồi sau bàn đọc sách bắt chước vẽ lại danh họa của danh gia.

Không khí trong phòng yên tĩnh mà hòa hợp vô cùng.

Bỗng nhiên có một con mèo mun nhảy từ ngoài cửa sổ vào, trông nó nặng cỡ bảy tám kí, cả người đầy thịt. Mèo mun này tên Hoa Tuyết, nó là con mèo mà Hoắc Kinh Đường mang theo về từ ngoại ô vào cái ngày mà hắn bị trúng cổ độc hồi kinh, có lẽ lớn tầm năm tuổi.

Tuyết trắng dính khắp người Hoa Tuyết, nó giũ mình để tuyết rơi xuống, tan ra thấm ướt thảm, sau đó nhảy lên bàn đọc sách chậm rãi lượn quanh chỗ Triệu Bạch Ngư, nũng nịu kêu rồi lỡ chân đạp vào nghiên mực, giật mình meo một tiếng để lại vài dấu hoa mai trên giấy Tuyên, tặng luôn cho Triệu Bạch Ngư mấy vết mực đen lên áo bào màu xanh nhạt.

Triệu Bạch Ngư xoa cái gáy của con mèo mun mập ú, Hoa Tuyết vô cùng thoải mái nên ngẩng đầu kêu rừ rừ, chẳng được bao lâu đã bị Triệu Bạch Ngư nhẫn tâm đuổi xuống bàn.

Hoa Tuyết kêu meo meo nhìn Triệu Bạch Ngư bằng ánh mắt khó hiểu.

Triệu Bạch Ngư chỉ vào Hoắc Kinh Đường ý bảo nó chạy qua đó, Hoa Tuyết đứng sững tại chỗ một hồi mới rảo bước đến ghế nằm, dồn sức bật nhảy, thân thể mập mạp dán sát lên bụng của người đang chợp mắt. Hoắc Kinh Đường chợt mở mắt, bàn tay nhanh lẹ bóp gáy mèo mun nhấc nó lên.

Hoa Tuyết giãy giụa như một phản xạ tự nhiên, lông đen rụng xuống mặt Hoắc Kinh Đường, Triệu Bạch Ngư thấy vậy thì bắt đầu nhịn cười.

"Đừng nhịn, muốn cười thì cứ cười đi."

Triệu Bạch Ngư cười hi hi mấy tiếng, cười xong bèn hỏi: "Chàng thấy Hoa Tuyết có nên giảm cân một tí không?"

Hoắc Kinh Đường cau mày: "Tích mỡ mùa đông thôi." Hắn ném Hoa Tuyết xuống đất, thấy nó tiếp đất thành công thì hài lòng nói: "Thấy chưa, thân thủ nhanh nhẹn, có đứa mèo mập nào làm được vậy không hả? Đến mùa xuân sang năm là gầy lại ngay ấy mà."

Triệu Bạch Ngư không muốn nói ngày hôm trước y còn nghe thấy Hải thúc than phiền rằng Hoa Tuyết quá mập rồi, và Hoắc Kinh Đường thì cứ luôn lấy lý do tích mỡ mùa đông để từ chối cắt giảm khẩu phần ăn của nó.

Có điều Hoa Tuyết mập thật, ngày khác phải dặn Hải thúc kiểm soát cân nặng của nó mới được, nếu Hoắc Kinh Đường hỏi tới thì cứ để y chịu trách nhiệm vậy.

"Lau mặt đi."

"Tiểu lang đến lau giúp ta."

"Chàng không có tay à?"

"Không có khăn."

Triệu Bạch Ngư đặt bút xuống, rút khăn tay ra thấm nước rồi đến lau sạch lông mèo trên mặt cho Hoắc Kinh Đường, liếc thấy chiếc khăn cũ mà hắn thường cột trên cổ tay ẩn núp trong tay áo bèn hỏi: "Đây không phải là khăn hả?"

"Không được." Hoắc Kinh Đường kiên quyết từ chối, ôm eo Triệu Bạch Ngư lầu bầu: "Không được làm bẩn nó."

Triệu Bạch Ngư chẳng hiểu gì: "Chẳng lẽ đây là tín vật mà tiểu lang hay cô nương nào đó tặng chàng sao?"

Hoắc Kinh Đường nhìn y chằm chằm: "Là của một tiểu lang tặng cho."

Triệu Bạch Ngư: "Ai?"

Hoắc Kinh Đường vẫn cứ nhìn y không chớp mắt, không nói lời nào.

Triệu Bạch Ngư rụt cổ, đưa mắt nhìn hoa văn của chiếc khăn tay cũ trên cánh tay Hoắc Kinh Đường, trong đầu có một vệt sáng lóe lên: "Là cái của ta —— chàng vẫn luôn mang theo bên mình sao?!" Y bối rối trong chớp nhoáng, rồi lại lấy làm lạ nói: "Đâu phải ta tặng chàng, là chàng không trả cho ta mà."

Hoắc Kinh Đường buông eo Triệu Bạch Ngư ra rồi xoay người lại, dùng cái ót nhìn Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư kề sát lại: "Giận à?"

Hoắc Kinh Đường cất giọng như chẳng có chuyện gì xảy ra: "Không giận. Vi phu sẽ không tức giận với tiểu lang đâu."

"À, vậy có thể trả khăn lại cho ta không? Ta dùng quen —— "

Hoắc Kinh Đường chợt trở mình, vươn cánh tay dài câu lấy eo Triệu Bạch Ngư kéo y xuống đè lên ghế, nửa người áp sát cơ thể Triệu Bạch Ngư, ôm đầu y chôn vào trong lồng ngực của mình rồi ngang ngạnh nói: "Đi ngủ."

"Ban ngày ban mặt ngủ cái gì? Hoắc Kinh Đường, chàng đừng quậy mà."

Hoắc Kinh Đường giơ chân gác lên hai chân Triệu Bạch Ngư, càng bị nói càng làm tới.

Triệu Bạch Ngư bất động, không tài nào nghĩ ra được vì sao cửa đóng kín một cái là Hoắc Kinh Đường lại trở nên giống đứa con nít như vậy.

"Ta có món quà thật sự dày công chuẩn bị muốn tặng cho chàng này, chàng không buông ta ra là ta không lấy ra được đó."

Hoắc Kinh Đường thoáng thả Triệu Bạch Ngư ra, hé mở một mắt: "Là cái gì?"

"Buông trước đã nào."

Hoắc Kinh Đường do dự: "Em đừng lấy lại khăn tay đã tặng ta nhé."

"Ta không tặng... Thôi được rồi, cho chàng, tặng chàng luôn đấy."

Hoắc Kinh Đường hài lòng buông Triệu Bạch Ngư ra, trông như chẳng làm gì cả nhưng thật ra đang dán mắt vào y.

"..." Triệu Bạch Ngư liền trở nên hồi hộp, không lấy nổi quà ra.

Y ho nhẹ hai tiếng rồi móc trong ngực áo ra hai món quà khác nhau, một món là thẻ làm dấu sách được y tự chế lại từ dây leo hoa mà Hoắc Kinh Đường gửi đến, món còn lại chính là tranh thủy mặc vẽ lại chậu cây hắn tặng, bên dưới tàng cây còn vẽ thêm Quan Âm mặt mùi hiền lành.

Chẳng qua tướng mạo của Quan Âm không giống với Quan Âm thường gặp trong chùa hay miếu, trái lại là nét mặt hơi quen thuộc.

Triệu Bạch Ngư nhỏ giọng nói: "Thôi phó quan kể chuyện cho Nghiên Băng nghe, nói thời niên thiếu chàng giống mẹ ruột, giống nhất là đôi mắt, còn nói mẹ chàng —— "

"Là 'mẹ'." Hoắc Kinh Đường sửa lại.

Triệu Bạch Ngư bật cười: "Còn nói mẹ cũng tin vào Bồ Tát. Ta liền nghĩ nếu như mẹ ở trên trời có linh, nói không chừng đã cảm nhận được lòng thành của chàng, biết đâu sẽ xuất hiện dưới cây vân tùng mà chàng tự tay chăm sóc, hoặc là giữa những dòng kinh Phật mà chàng chép, cũng có thể ở trong tranh vẽ Quan Âm... Ta tìm Hải thúc hỏi tranh vẽ của chàng lúc trước và dung mạo của mẹ, dựa vào tưởng tượng trong lòng để vẽ —— " Y có chút thấp thỏm, cũng hơi áy náy, "Không giống lắm, đúng không?"

"Không đâu." Hoắc Kinh Đường vuốt ve hình ảnh nữ tử bên dưới tàng cây vân tùng: "Giống lắm."

Nói rồi, hắn xoa nắn ngón tay của Triệu Bạch Ngư: "Tiểu lang có lòng rồi."

Triệu Bạch Ngư mỉm cười, ánh mắt cong thành mảnh trăng lưỡi liềm: "Chàng vui là được."

Hai người đang tình tứ thắm thiết, bên ngoài vọng vào tiếng bước chân vội vã, màn cửa bị vén lên, kèm theo gió tuyết tràn vào trong phòng chính là giọng nói oang oang của Thôi phó quan: "Tướng quân, tiểu Triệu đại nhân, tin tốt đây! Đại ngục ngưng rồi!"

"Ớ —— " Thôi phó quan một chân bước vào phòng, chân sau vẫn còn ở ngoài bậc cửa, "Hình như tôi đến không đúng lúc nhỉ?"

"Không, rất đúng lúc." Hoắc Kinh Đường ngước mặt cười ôn hòa với Thôi phó quan, con ngươi người nọ kịch liệt co lại, dùng mắt thường cũng có thể thấy là đang sợ quắn lên. "Tuyết rơi ngập cả phủ rồi, không đủ người, ngươi đi quét đi."

Thôi phó quan ngơ ngác, gã đã đắc tội cái tên tướng quân nhỏ mọn hồi nào vậy?

Hoắc Kinh Đường gằn từng chữ rõ ràng: "Quét không sạch thì đừng sống nữa."

==

Min: Tướng quân ở trước mặt người ngoài thì lạnh lùng sát phạt, ở trước mặt ông cha thì ngang bướng thiếu đòn, ở với đám thuộc hạ thì phũ phàng nhỏ mọn, còn về đến nhà đóng cửa ở với vợ thì làm chồng trẻ con nhỉ =)))))))) mà anh giai dỗi vợ hơi nhiều nhé, dỗi ba láp ba xàm gì đâu xong để người ta dỗ rồi bảo anh không giận đâu 🤣

Chương 49

Đại ngục ngưng, ba trăm quan vô tội được thả ra, hơn hai ngàn tính mạng được an toàn, đương nhiên là một chuyện đáng để ca ngợi, song Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư không màng đến công danh, lúc này còn đang bận bàn việc đến chùa Bảo Hoa ở ngoại ô quyên tiền nhang đèn.

Triệu Bạch Ngư: "Có rất nhiều nguồn tiền được đưa tới chùa Bảo Hoa, không thiếu chút tiền nhang đèn này của chúng ta đâu... Chàng đã cúng bao nhiêu ngọn đèn trường minh ở đó rồi?"

Hoắc Kinh Đường: "Chắc khoảng ba ngàn ngọn rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Thay vì quyên tiền nhang đèn, chi bằng tiêu tiền vào việc sửa chữa và trông coi đèn trường minh, dặn hòa thượng ở chùa bình thường chú ý thêm một chút là được... Còn nữa, quy mô trại lính già và trẻ mồ côi của hai ta ở ngoại ô nay đã phát triển thành làng nhỏ rồi, Tú ma ma cho rằng nên để hai làng mở thông để qua lại, thuê binh lính bảo vệ phụ nữ và trẻ em. Nếu như quán rượu, tiệm vải trong phủ có cần người bảo vệ thì cũng có thể ưu tiên cho bọn họ đến làm việc, đây cũng là một cách kinh doanh để hai bên cùng có lợi."

Hoắc Kinh Đường nhìn dáng vẻ nghiêm túc của Triệu Bạch Ngư, thỉnh thoảng gật đầu bày tỏ rằng mình đồng ý: "Em quyết định hết đi."

Hải thúc và ma ma đang giám sát Thôi phó quan quét tuyết trong sân viện, ló đầu nhìn vào phòng lặng lẽ xem xét tình hình bên trong, không khỏi nhìn nhau bật cười: "Ma ma này, bà thấy tiểu quận vương và tiểu Triệu đại nhân khi sống chung với nhau có giống như vợ chồng của cậu ở phủ Quốc công không?"

"Giống."

Ma ma là người hầu được phủ Thôi quốc công điều tới để xử lý mọi việc ở hậu trạch phủ quận vương, bà chăm mẹ ruột của Hoắc Kinh Đường từ bé đến lớn, tình cảm rất đặc biệt.

Ma ma cười ha ha nói: "Tính tình của mấy vị lang quân ở trong phủ đều giống hệt như lão Quốc công, dù là chuyện nhỏ cũng để cho phu nhân tự quyết định, cho nên ông nhìn xem, tìm đâu ra hậu trạch nhà ai ở Kinh Đô này hòa thuận vui vẻ và yên tĩnh như phủ Quốc công. Tiểu quận vương cũng là đứa nhỏ nhà Quốc công chúng ta, chút ưu điểm này hẳn là đã ăn vào trong xương máu rồi."

Vừa dứt lời, tiếng "À hú" như sói tru vang lên, hai người cùng giương mắt nhìn, thấy Thôi phó quan lớn già đầu còn cầm chổi vung vẩy tuyết lên rồi chạy loanh quanh như tên hâm khiến cho mặt đất vốn đã được quét tước sạch sẽ lại phủ đầy tuyết bẩn.

"..."

Ma ma bất lực nói: "Tre tốt sinh măng xấu, việc gì cũng có ngoại lệ hết."

***

Tuyết trong Kinh Đô rơi nhiều như lông ngỗng, rơi suốt mấy ngày liền, mãi đến những ngày gần hết năm trời mới chịu trong lại, sạp gánh hàng quán trên phố lớn hẻm nhỏ nhộn nhịp khai trương, bày ra vô số thủ đoạn chèo kéo khách hàng, vô cùng sôi nổi, phố xá náo nhiệt cả ngày chưa đủ, chợ đêm cũng treo đèn hoa rực rỡ, người qua kẻ lại nườm nượp, mùi thịt dê tươi rói nóng hổi bay ra từ quán rượu quán ăn, từ sớm đến khuya vẫn không ngưng nghỉ.

Càng gần về cuối năm, rong ngoài Kinh Đô lại càng sực nức không khí tết.

Phủ Lâm An quận vương đã mua sẵn hết đồ đạc đón từ giao thừa đến tết nguyên tiêu từ lâu, nhân ngày trời đẹp tổng vệ sinh toàn phủ, từ kho đồ, kho sách đến các nơi bí mật đều được kiểm tra lại một lần, Hải thúc vốn định giao sổ sách đến cho Triệu Bạch Ngư xem, nhưng Triệu Bạch Ngư lấy lý do công vụ bề bộn để từ chối.

Có trời mới biết y còn chưa được sắp xếp giữ chức gì.

Triệu Bạch Ngư lại đến bộ Lại báo cáo công việc, Nguyên Thú đế cũng hỏi han mấy câu nhưng không bố trí cho y đảm nhiệm vị trí nào, bộ Lại cũng cứ chần chừ đắn đo, phiền não suốt một thời gian dài song chẳng biết nên cho Triệu Bạch Ngư đi đâu.

***

Lúc này, ở bộ Lại.

Thị lang bộ Lại phiền đến nỗi sắp rụng hết tóc, Lại bộ Thượng thư cấp trên của hắn đi qua, không khỏi tò mò hỏi: "Đang bực dọc gì thế?"

"Năm nay quan lớn quan nhỏ khắp nơi đua nhau hết nhiệm kì, đều đến bộ Lại báo cáo công việc, trước cuối năm cơ bản đã bố trí xong cấp bậc rồi. Người nên thăng quan đã thăng, kẻ cần xuống chức đã xuống, ngoại trừ Phủ dụ sứ Triệu Bạch Ngư đi một chuyến đến Hoài Nam, hạ quan thật sự không biết nên thu xếp thế nào."

Vẻ mặt Thị lang đầy lo lắng: "Ngài xem, Triệu Bạch Ngư này nửa năm trước vẫn còn là quan thất phẩm ai cũng có thể chà đạp, đột nhiên ló đầu ra trước mặt bệ hạ, vượt qua cả đại quan nhất phẩm của tam ty lưỡng phủ chụp được cái chức Phủ dụ sứ Hoài Nam, chúng ta đều biết Triệu Bạch Ngư là người vén màn đại án Hoài Nam, nhưng bề ngoài —— lúc báo cáo thì phủi sạch hết thành tích của mình chẳng còn gì, Thánh thượng không đưa ra ý kiến gì về việc này, cũng không giải thích gì thêm, chẳng biểu lộ thái độ gì cả. Phải nói Phủ dụ sứ đã làm việc rất tốt, kiểu gì cũng phải được làm đến quan tứ phẩm, nhưng mà y không xuất thân tiến sĩ, trước đây lại là quan thất phẩm, hồ sơ do y tự nộp lên, thành tích cũng đã viết vào chiết tử theo quy định, nếu như cho y thăng thẳng lên cấp bốn cấp năm... Chẳng phải sẽ khiến cho bá quan văn võ lời ra tiếng vào hay sao?"

"Người ta học hành gian khổ hai mươi năm mới có cơ hội làm quan, cặm cụi dăm ba năm mới có thể thăng một hai cấp quan, nếu như nói rằng cho tăng hơn ba cấp là chuyện bất khả thi. Trong tay ngươi có chức quan lục phẩm hay tòng ngũ phẩm nào không?"

"Vậy thì không thích hợp lắm, lục phẩm có Huyện lệnh, ngũ phẩm có mấy chỗ Tri phủ nhưng đều là quan ngoại phóng*, đại nhân đừng quên Triệu Bạch Ngư còn là quận vương phi, sao có thể không hỏi ý đã xếp cho người ra ngoài làm việc được?"

(*) Ngoại phóng nghĩa là nhậm chức ở các tỉnh ngoài phủ Kinh Đô.

Thượng thư bộ Lại chặc lưỡi hít hà: "Ừ, cũng đúng. Trong kinh thật sự không có vị trí nào phù hợp hay sao?"

Thị lang bộ Lại do dự: "Trong phủ có một chức Thương thuế vụ sứ tòng ngũ phẩm còn trống, chủ quản thủy vận..."

"Không được!" Thượng thư bộ Lại dứt khoát bác bỏ: "Đô thương thuế vụ sứ xưa nay đều do đại quan nhị tam phẩm trong triều kiêm nhiệm, đã bị Tam ty khống chế gần mấy chục năm, người người đều lăm le cái chức béo bở này, ai nấy đều muốn có, nhưng ngoại trừ Tam ty thì không người nào vớ được. Triệu Bạch Ngư không thuộc môn đảng nào, có tài đức gì mà lấy được chức này? Tùy tiện xếp vào có thể sẽ kết thù với Tam ty mất."

Thị lang bộ Lại: "Cho nên ti hạ mới khó xử, không biết nên đưa Triệu Bạch Ngư đi đâu."

Thượng thư bộ lại: "Ta thấy cái chức Tri phủ phủ Kinh Đô kia Phùng Xuân Sơn không ngồi vững nữa rồi, nói không chừng lúc nào té xuống cũng chẳng biết, nhân lúc này thì xếp cho Triệu Bạch Ngư vào đó đi."

Thị lang ngạc nhiên: "Tri phủ ngũ phẩm là cho Triệu Bạch Ngư thăng ba cấp mà ạ?"

Thượng thư bèn đáp: "Cho nên ngươi mới phải tìm một chức quan lục phẩm nào đó đi, mấy vị trí không cố định ấy, thuận lợi để Triệu Bạch Ngư chuyển đi và lấp vào chỗ trống kia bất cứ lúc nào."

Thị lang bộ Lại ngẫm nghĩ chốc lát, cảm giác như cách này cũng được thì không khỏi than thở: "Chỉ mới nửa năm trước thôi, sao chúng ta có thể nghĩ tới chuyện ngày hôm nay sẽ trái lo phải nghĩ, băn khoăn đủ đường nhằm tìm giúp cho tên tiểu quan thất phẩm tầm thường một công việc được chứ?"

Thượng thư bộ Lại: "Thế sự vô thường, quan trường còn khó đoán trước hơn đời người mà."

Bọn họ cùng nhau cảm thán, đúng lúc đó có người đến thăm hỏi, vậy mà lại là tiểu hoàng môn từ Đông cung tới.

Thượng thư bộ Lại khách sáo nói: "Công công đến đây là vì Đông cung có việc chi cần căn dặn?"

Tiểu hoàng môn chắp tay nói: "Năm nay nhiều việc, hai lần đại ngục liên tiếp nhau, tuy đã ngưng lại kịp thời nhưng vẫn trống đi rất nhiều chức vị, nhân viên bên dưới cũng không đủ dùng. Hơn nữa đã gần cuối năm, bộ Lại tuyển chọn quan viên các nơi, công vụ bộn bề, hẳn là không có thời gian sắp xếp vị trí trống cho bộ Hình và bộ Hộ."

Thượng thư vội vàng phân trần: "Xin công công truyền lời giúp cho, bộ Hình, bộ Hộ là bộ phận quan trọng của triều đình, thần biết không thể trì hoãn nên đã thu xếp xong để các quan lại có năng lực vượt trội nhậm chức từ sớm rồi."

Tiểu hoàng môn: "Điện hạ không có ý gì đâu, chỉ là quan tâm chút thôi... À đúng rồi, tiểu Khâm sai về từ Hoài Nam ấy, sau y sẽ nhậm chức mới nào thế?"

"Triệu Bạch Ngư hả?" Thượng thư bộ Lại không biết vì sao Đông cung lại quan tâm đến Triệu Bạch Ngư nhưng cũng thành thật trả lời: "Bệ hạ không đưa chỉ ý, bọn ta không dám tự tiện sắp xếp."

"Vậy là chưa có sao? Thế thì tốt quá rồi." Tiểu hoàng môn nhận thấy ánh mắt khó hiểu của hai người kia bèn nói: "Đông cung cầu hiền như khát, tiểu Khâm sai có năng lực, sao lại không đến làm môn khách Đông cung để thể hiện khát vọng của mình chứ?"

Ý của Đông cung là muốn ôm Triệu Bạch Ngư về tay.

Thượng thư bộ Lại đã hiểu, ông nói với tiểu hoàng môn: "Xin công công quay về truyền lời, thần đã hiểu ý Đông cung."

"Đại nhân hiểu là được rồi." Tiểu hoàng môn cười toe toét: "Đông cung nhiều việc nhưng thiếu người, ta không nói nhiều nữa, xin cáo từ."

Đưa tiểu hoàng môn đi xong, Thượng thư và Thị lang đều thở phào nhẹ nhõm, tâm trạng chợt thoải mái hơn, Đông cung muốn có được Triệu Bạch Ngư, trái lại giải quyết được vấn đề khó khăn của bọn họ.

Không ngờ mới vừa ngồi xuống thôi, Đạc sai sứ Tam ty Đỗ Công Tiên đã đến bộ Lại của bọn họ.

Thượng thư bộ Lại cảm thấy khó xử, bình thường ngoại trừ mấy lúc đòi tiền hay muốn xóa nợ mới qua lại, thì những lúc khác hầu như là đều tránh nhau như tránh tà ——

Đương nhiên là lúc bộ Lại cần tiền, Đỗ Công Tiên sẽ lượn qua bọn họ đi mất. Còn khi Tam ty cần tiền, Thượng thư bộ Lại sẽ tự giác tránh mặt bọn họ.

Căn bản là vì hai bộ không có chút ăn ý nào với nhau.

Đỗ Công Tiên nở nụ cười, chắp tay chào hỏi trước: "Anh Vấn Niên có khỏe không?"

Trong lòng Thượng thư bộ Lại căng thẳng, có hơi sợ hãi mà vắt óc thầm nghĩ, nợ nần năm nay đã thanh toán với Tam ty hết cả rồi, Đỗ Công Tiên còn muốn vẽ vời thêm hạng mục gì để moi tiền từ bộ Lại nữa?

Bộ Lại là nơi giàu có, trăm quan đều biết.

Người trong thiên hạ đều biết làm quan là có tiền, nhưng không biết làm quan cũng phải tiêu rất nhiều tiền.

Chữ 'thanh' trong 'Ba năm thanh tri phủ, mười vạn hoa tuyết bạc'* thật ra mang nghĩa một là nghèo hai là trắng, bởi vì Tri phủ đến kỳ nhậm chức cũng phải tiêu biết bao nhiêu tiền qua lại, vét sạch từng tầng tuyết trắng, đến cuối cũng ít nhất một nửa đổ vào trong túi bộ Lại.

(*) Nguyên văn 三年清知府,十万雪花银: dùng để nói một cách trào phúng những quan chức xưng là trung thực, nhưng thực chất cũng muốn bòn rút của cải của nhân dân.

Dùng tiền để móc nối quan hệ, tất nhiên là mọi vị trí ở bộ Lại đều béo bở, cho nên bộ Lại có rất nhiều tiền.

Những lúc Tam ty thiếu tiền đều thích đến vặt lông bộ Lại, Thượng thư sợ nhất là mấy con hổ biết cười* ở Tam ty.

(*) Nguyên văn笑面虎: đồng nghĩa với khẩu phật tâm xà, bên ngoài cười nói vui vẻ, bên trong lại suy tính chuyện ác.

Thượng thư bộ Lại: "Đạc chi đến có việc gì?"

Đỗ Công Tiên không đếm xỉa đến sắc mặt khó coi vủa Thượng thư, bật cười ha hả nói: "Không có gì, tôi đến đây vì chức vụ của một người."

"Hở? Tuyển chọn quan lại các nơi dù phải qua khâu khảo sát và đề cử của bộ Lại, nhưng quyết định cuối cùng còn phải dựa vào ý của bệ hạ. Nếu như Đạc chi muốn vất vả luồn cúi đi cửa sau giúp người khác thì xin hãy về đi, tôi nể tình chúng ta cùng là quan triều nên sẽ coi như chuyện ngày hôm nay không xảy ra."

Đỗ Công Tiên: "Tôi nào có móc nối quan hệ giúp người khác đâu, tôi chỉ muốn đưa một người đến Tam ty... À, tốt hơn hết là đến làm môn khách của tôi." Lão kéo tay Thượng thư bộ Lại vào một góc để nói chuyện: "Nếu như anh Vấn Niên sắp xếp giúp, sổ sách báo tiêu của bộ Lại năm sau tôi sẽ dốc sức giải quyết cho."

Thượng thư bộ Lại được voi đòi tiên: "Vậy thì Tam ty sẵn tiện tìm cách lập danh mục trả nợ tiền moi từ bộ Lại đi này —— "

"Vậy thì không được."

"..."

Nhìn Đỗ Công Tiên vô liêm sỉ từ chối ngang, tâm trạng Thượng thư không tốt lắm: "Nếu vậy thì thôi, không bàn việc vớ vẩn nữa."

"Thật à? Tôi nhớ không lầm, sổ sách báo tiêu của bộ Lại đã chất chồng hai ba năm rồi, còn cả tiền chi cho quan lại đi nhậm chức nữa —— " Đỗ Công Tiên vỗ lên cánh tay đồng liêu, thành khẩn nói: "Anh Vấn Niên này, cần gì phải dùng bạc gây khó dễ chứ?"

Gò má Thượng thư giật giật, cắn răng hỏi: "Vậy anh tới đây vì ai?"

Đỗ Công Tiên dứt khoát đáp: "Triệu Bạch Ngư."

"Tại sao lại là y?"

"Lại?"

"Người của Đông cung mới vừa đi."

Có kẻ cướp mất thuộc hạ đắc lực mà mình nhìn trúng chứng tỏ mắt nhìn của lão tốt, Đỗ Công Tiên không vội chút nào, vẫn dùng giọng sâu xa để khuyên: "Chẳng ai dùng tiền bạc gây khó dễ cho người khác bao giờ cả."

Đông cung có như mặt trời ban trưa đi nữa thì cũng không bằng một góc đống sổ sách chất chồng ba năm trời của bộ Lại.

Thượng thư bộ Lại thật sự động tâm, dù sao ông ta cũng không có theo đội ngũ nào, không cần quan tâm mình có đắc tội với Đông cung hay không.

"Chuyện này khó nói, tôi cũng khó mà quyết định được."

Thượng thư úp úp mở mở đáp lời, không đồng ý cũng chẳng từ chối, nhưng cũng đã thể hiện rõ ràng Đỗ Công Tiên nắm chắc năm phần thắng.

Đỗ Công Tiên không sốt ruột: "Gần đến cuối năm rồi, được nghỉ chín ngày, anh Vấn Niên có ngần ấy thời gian để cân nhắc. Có điều dù sắp xếp cho Triệu Bạch Ngư vào đâu thì chắc chắn anh Vấn Niên cũng đau đầu, chỗ tôi có một chức quản lí kênh đào còn trống... Nếu như anh Vấn Niên thấy thích hợp, ta về sẽ viết tâu chương đề cử với bệ hạ ngay."

Quản lí kênh đào... Chẳng lẽ đó chính là ngũ phẩm Đô thương thuế sứ?

Nếu như là do Đỗ Công Tiên đề bạt, Thượng thư sẽ không phải lo lắng quan triều hoài nghi nữa, còn có thể giải quyết được vấn đề việc làm cho Triệu Bạch Ngư khiến bộ Lại đau đầu, đúng là không thể không xiêu lòng mà!

Đỗ Công Tiên biểu hiện ý đồ rồi nên không ở lại thêm nữa, Thượng thư bộ Lại còn đang bối rối vì bị dồn vào thế tiến thoái lưỡng nan giữa hai sự lựa chọn, Thị lang bộ Công Phạm Văn Minh đã hùng hổ chạy đến, không nói một lời thừa thãi nào mà thẳng thắn tỏ rõ mong muốn, hắn hy vọng Thượng thư bộ Lại sắp xếp cho Triệu Bạch Ngư đến bộ Công làm việc.

Thượng thư sững người, còn chưa đợi ông ta trả lời, Phạm Văn Minh đã đùng đùng chạy đi.

Đến chiều, Diêm thiết sứ Lê Yến Kỳ và phó sứ bộ Hộ chia nhau lặng lẽ chạy đến chỗ Thượng thư bộ Lại, trước trò chuyện, sau ám chỉ về vị trí trống của bộ, cần thêm nhân viên, khi Thượng thư đề cử mấy vị quan có thành thích tốt, bọn họ đều biểu hiện mình không hài lòng hoặc là không mấy hứng thú.

Bấy giờ Thượng thư bộ lại đã được như ý nguyện nên hỏi thẳng bọn họ có phải đến vì Triệu Bạch Ngư hay không, nhận được câu khẳng định xong thì nét mặt và trong lòng đều chết lặng.

Trước ngày hôm nay, ông còn không biết nên xử lý vấn đề nhậm chức của Triệu Bạch Ngư như thế nào, lo rằng mình sẽ bị chỉ trích nếu như giao ra một công việc quá tốt, vậy nên đã xoắn quýt tìm một chức quan cấp bậc lưng chừng núi cho y.

Vậy mà sau ngày hôm nay, Triệu Bạch Ngư đến đâu nhậm chức vẫn còn là một trở ngại.

Thượng thư bộ Lại tự hành hạ mình hai ngày, sau đó chọn cách ném vấn đề sang cho Nguyên Thú đế, tấu bẩm đúng sự thật rằng Tam ty Lưỡng phủ Lục bộ chỗ nào cũng muốn có được Triệu Bạch Ngư, mà ông thì không lựa chọn được nên đành giao cho bệ hạ quyết định.

Lúc ấy, trên chiếc bàn trước mặt Nguyên Thú đế đã chất chồng một xấp tấu chương, gần nửa số sổ con nhắc đến chuyện bộ mình còn trống chỗ, lời lẽ uyển chuyển, vòng vo tam quốc toàn là lời bóng gió khen ngợi Triệu Bạch Ngư, Đỗ Công Tiên và phó sứ bộ Hộ thì da mặt dày hơn, thẳng thắn nói ra yêu cầu của mình, nói bọn họ cần người.

Nguyên Thú đế cảm thấy nhức đầu gấp mười lần bình thường, sau đó lấy cớ gần cuối năm rồi phải mừng đón năm mới cùng dân chúng rồi đẩy chuyện này đến sang năm hẵng nói, thế là Triệu Bạch Ngư vừa rời chức Phủ dụ sứ xong thì có được một khoảng thời gian nhàn rỗi, ở trong nhà cho đến tận khi hết tết nguyên tiêu.

***

Một ngày trước đêm giao thừa, tuyết bỗng rơi dày hơn, người đi trên phố vẫn đông nghìn nghịt, quầy hàng và tiệm nhỏ đều đã đóng cửa, chỉ có xóm làng chơi và quán rượu là còn mở cửa đón khách.

Bất thình lình, một con hãn huyết mã Tây Vực xinh đẹp phi nhanh như chớp băng qua phố, vó ngựa đi qua nơi nào, bông tuyết nơi ấy tung lên khắp nơi. Cương ngựa bỗng dưng bị siết lại, tuấn mã cất cao vó lên, ngẩng đầu hí vang, ngựa dừng lại trước cửa thiên lao Đại Lý tự, người đàn ông khoác áo choàng da, mặc đồ đen tuyền từ trên xuống dưới lạnh lùng nhảy xuống ngựa.

Bước chân hắn trở nên vội vã, lệnh bài trong tay lóe sáng, bước qua cửa thiên lao đi thẳng một đường không ngừng lại, thẳng xuống phòng giam sâu nhất nằm ở tầng thứ bảy của thiên lao, nơi đang nhốt tù nhân phạm tội cực nặng.

Cai ngục đi theo hắn từ bên ngoài vào, mở cửa phòng giam rồi cung kính nói: "Mời quận vương, theo quy định, ngài có hai nén nhang dừng chân."

Đuốc được đốt sáng, chiếu lên mặt của phạm nhân tội nặng trong lao, Tĩnh vương.

Tĩnh vương giễu cợt: "Sao, tới giết cha à?"

Hoắc Kinh Đường vô cùng nhàn hạ, hắn lấy bài vị của mẹ mình từ trong ngực áo ra, liếc nhìn Tĩnh vương từ trên cao: "Đưa mẹ ta đến xem kết cục bị ba ngàn đao lăng trì dành cho ông đấy."

Tĩnh vương nhìn chằm chằm bài vị trong tay Hoắc Kinh Đường, thớ thịt trên gò má đang run bần bật: "Bài vị của nàng không ở trong cung sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Mẹ thích Tây Bắc, bà ấy thích tự do."

Tĩnh vương ngạc nhiên: "Nàng ấy không được chôn cất vào hoàng lăng? Ngũ ca chấp nhận ư?" Rồi chợt khinh thường: "Làm bộ làm tịch! Cút đi, ngươi muốn coi hình phạt? Hay là muốn tự tay hành hình?"

Hoắc Kinh Đường lạnh lùng liếc lão, hắn không nói gì nữa, càng chẳng có ý muốn tâm sự chuyện cũ, đạt được mục đích rồi thì chuẩn bị xoay người đi.

"Đợi đã." Tĩnh vương gọi hắn lại, trong mắt hằn đầy tơ máu: "Đặt bài vị của Như nương lại, để nàng nhìn ta chết! Nếu như nàng ấy ở trên trời có linh thì sẽ nguôi giận thôi."

Hoắc Kinh Đường hỏi ngược lại: "Sau đó xóa bỏ ân oán kiếp này, kiếp sau ông lại tiếp tục làm tổn thương bà ấy ư?" Hắn cong môi, đôi mắt màu lưu ly thờ ơ đáp: 'Lúc mẹ ta đi cứu bệ hạ đã viết một phong thư rồi nhét trong tã của ta, bà ấy nói bà chưa từng hận ông. Biết không? Cha, trong lòng mẹ ta không có ông, không hận ông nhưng cũng chẳng yêu ông."

Tĩnh vương sững người một cái, bất ngờ phóng người về phía trước định cướp bài vị trong tay Hoắc Kinh Đường đi, nhưng lại bị xích sắt móc vào xương bả vai mạnh mẽ kéo giật lại, tóc tai lão bù xù, khắp người toàn là vết máu, miệng gào lên 'Như nương', dáng vẻ điên cuồng chật vật biết bao nhiêu.

Hoắc Kinh Đường không hiểu, Tĩnh vương nhìn như yêu thương mẹ hắn đến tận xương tủy, nhưng tại sao khi phát hiện ra người mặc quần áo của bệ hạ là mẹ, lão còn hạ lệnh bắn ngàn mũi tên, khiến cho bà ấy chết không toàn thây?

Miệng thì bảo thương yêu mà lại khiến cho bà ấy thương tích đầy mình, Hoắc Kinh Đường chỉ cảm thấy tình yêu này lạnh lẽo đến thấu xương.

Tĩnh vương sẽ bị hành hình vào đêm trước giao thừa, từ tận sâu trong đáy lòng, Hoắc Kinh Đường vội vàng xóa bỏ đi bóng mờ mà thứ Tĩnh vương xem là tình yêu mang tới, nhanh chóng thúc ngựa chạy về phủ quận vương trong màn gió tuyết còn dày hơn lúc trước.

Vào đến phòng khách nhỏ ấm áp, lúc này Hoắc Kinh Đường mới phát hiện ra trong ngoài nhà đều dán đầy giấy cắt hoa và câu đối đỏ, nhành hoa mai đỏ xinh đẹp được cắm gọn vào bình, nồi lẩu trên bàn bốc khói nghi ngút, Hoa Tuyết mập mạp đang nằm trên chiếc bàn sát cửa sổ ngẩng đầu nhìn trời tuyết, Triệu Bạch Ngư thì đang nằm nghiêng trên giường nhỏ, cầm quyển thoại bản dân gian đọc đến là say sưa, trong tầm tay còn có một cái hộp sơn mài, trong hộp có đủ loại mứt quả kẹo bánh.

Giường nhỏ cũng kê cạnh cửa sổ, cửa hé ra một cái khe đủ để nhìn thấy cảnh tuyết bên ngoài cùng với mái đình nhỏ lắt nhắt cánh hoa mai đỏ rơi xuống, Hoắc Kinh Đường bước đến hạ cửa sổ, cởi giày ra rồi chen lên giường nằm.

Triệu Bạch Ngư vẫn chăm chú đọc truyện, tay thì kéo chăn lông cừu đắp lên người Hoắc Kinh Đường, đụng phải bàn tay của hắn thì rụt lại ngay: "Gió tuyết bên ngoài lớn như vậy mà chàng chạy đi đâu thế?"

Cơ thể cao lớn của Hoắc Kinh Đường co ro trên giường nhỏ, hắn rúc đầu vào bụng Triệu Bạch Ngư, bàn tay không an phận âm thầm chui vào trong mấy lớp quần áo của y, xúc cảm lạnh như băng đột ngột ập tới khiến cho bụng Triệu Bạch Ngư nổi da gà.

Triệu Bạch Ngư thở dốc: "Đừng quậy, còn đang nấu lẩu kia kìa... Chờ chàng về ăn đấy."

Hoắc Kinh Đường nào có quan tâm, hắn chui hẳn vào chăn lông cừu, quyển thoại bản yêu thích của Triệu Bạch Ngư rời khỏi tay chủ, loạt soạt rơi xuống bên cạnh giường.

Bọt nước trong nồi lẩu sôi sùng sục, hơi nóng bốc lên, gió tuyết kêu gào ù ù, một bàn tay xương khớp rõ ràng từ trong khối cong bên dưới tấm chăn lông cừu vươn ra đỡ lấy sau gáy Triệu Bạch Ngư, rồi bỗng dưng túm y kéo vào bên trong.

"Meo!"

Mèo mun nghe thấy tiếng động kì lạ vang lên, nó hoảng hốt ngoảnh đầu nhìn về nơi phát ra âm thanh, thấy chăn lông cừu trên giường nhỏ nhô lên tròn vo, một bàn tay mềm mại thò ra túm lấy mép chăn, ngón tay siết chặt đến nỗi trắng bệch nhưng kéo dài xuống dưới thì đỏ ửng, lan đến những ngóc ngách tận sâu trong tay áo.

Chợt cánh cửa sổ lại bị bật mở ra, tiếng gió ồ ạt kéo vào trong phòng, mèo mun tìm được nguồn âm thanh rồi liền an tâm tiếp tục chìm vào giấc mơ của nó.

Hồi lâu, tỳ nữ mang nước ấm đến, xử lý chỗ than đá đã bị đốt cháy sạch sẽ chỗ nồi lẩu, đổi thành một nồi lẩu mới. Cách một lớp rèm châu, người bên ngoài đi ra đi vào mà không dám ghé mắt nhìn vào bên trong phòng, nhưng có thể lờ mờ thấy được tiểu quận vương trước giờ thờ ơ lạnh nhạt đang vắt khô khăn ướt, sau đó mới đưa tay vào trong chăn, có lẽ là đang lau chùi cái gì đó, rồi hắn còn cúi người thì thầm giống như đang dỗ dành người kia vậy.

Mà người ấy thì đang giận dỗi túm chăn lông cừu quấn chặt lấy người mình, không chịu nhìn hắn.

Cửa sổ mở toang ra, gió tuyết đã dịu lại, hơi lạnh, tuyết trắng và cánh mai đỏ lả lướt bay vào phòng, không ai cảm nhận được bầu không khí kì lạ.

Chờ người lui ra hết, Hoắc Kinh Đường cũng lau chùi cơ thể mình rồi dỗ trái dỗ phải, dù gì thì vẫn phải dụ cho tiểu phu quân ngại ngùng đến nỗi không dám nhìn mặt người khác chui ra khỏi chăn chứ.

"Có ai phát hiện đâu, dù có biết cũng chẳng đứa nào dám hó hé một câu."

Triệu Bạch Ngư hung hăng tung cước đá vào bắp chân Hoắc Kinh Đường: "Ta ghét chàng lắm!"

Hoắc Kinh Đường: "Được rồi mà, ta im miệng đây, có cần ta ôm em đến bàn ăn không?"

Triệu Bạch Ngư: "Xê ra."

Hoắc Kinh Đường được ăn no bụng nên rất dễ bảo, Triệu Bạch Ngư kêu hắn làm cái gì hắn làm cái nấy, ở cạnh bàn phục vụ người ta ăn thỏa thuê, niềm nở muốn chết.

Triệu Bạch Ngư vô thức đặt tay lên bụng, chỗ đó vẫn còn hơi xót, y có thể cảm nhận được rất rõ ràng, vậy nên lúc liếc nhìn Hoắc Kinh Đường phản ứng đầu tiên chính là rùng mình, bưng cái chén lên vùi đầu vào ăn, mắt nhìn thẳng, buồn bực nói: "Ngày mai là giao thừa rồi, cả một núi việc phải làm, buổi tối chàng đừng có mà táy máy tay chân nữa đấy."

Tâm trạng Hoắc Kinh Đường cực kì tốt: "Ta nghe tiểu lang."

Giọng Triệu Bạch Ngư hơi khàn, y ăn no lưng bụng, cơ thể cũng khỏe hơn nên bắt đầu nói việc chính: "Ta nhớ giao thừa hằng năm trong cung đều tổ chức yến tiệc, mọi người từ khắp nơi đều đến để dự tiệc mừng?"

Hoắc Kinh Đường lời ít ý nhiều: "Là hội triều."

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Ta cũng phải đi sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Ừ. Không cần lo lắng, bá quan văn võ đều đưa người nhà theo cùng, ngày mai từ giờ Thân đến giờ Dậu một khắc sẽ diễn ra tiệc rượu chiều. Có hoàng thất dẫn đầu nghi thức đuổi tà, trăm quan đều sẽ đeo mặt nạ, hoặc là cải trang thành thần Chung Quỳ, Táo quân đi từ hoàng cung ra đường phố, đi một vòng quan phủ Kinh Đô, ngụ ý chung vui cùng dân chúng."

Nghe thì giống với lễ Halloween ở thời hiện đại, nhưng không khí cổ xưa và náo nhiệt hơn, nghi thức trừ tà ở các triều đại trước còn nghiêm túc và kinh khủng hơn nữa, nhưng phát triển đến triều này thì đổi thành hoạt động vui chơi giải trí, hoàng thất cũng sẽ phái đội ngũ trừ tà chuyên nghiệp ra ngoài, diễu hành dọc theo đường lớn của phủ Kinh Đô biểu diễn nhiều màn đặc sắc với độ khó cao, dịp này dân chúng đều ra đường tham dự lễ hội, cầu nguyện cho sang năm không bị ma quỷ quấy nhiễu, là hoạt động nhộn nhịp và thú vị nhất chỉ diễn ra vào năm mới.

Trước đây, cứ hễ sang xuân là Triệu bạch Ngư sẽ cùng với đám người Nghiên Băng, Tú ma ma đóng vai môn thần Chung Quỳ hòa vào dòng người, chơi đã đời đến rạng sáng mới về nhà đón giao thừa.

Mà năm nay Triệu Bạch Ngư đã lập gia đình, y muốn cùng Hoắc Kinh Đường trải qua đêm giao thừa đầu tiên trong đời của bọn họ, còn được tham gia tiệc rượu trong cung, trong lòng y thật sự là vô cùng háo hức.

Dù bao nhiêu tuổi, dù ở cùng ai, chỉ cần năm mới đến, tự nhiên tâm trạng sẽ cực kì phấn khởi.

Tuy Triệu Bạch Ngư đã cảnh cáo Hoắc Kinh Đường đêm nay không được quậy phá y nhưng lại không thể ngủ sớm nổi, đèn phòng khách nhỏ sáng rực, y gọi đám người Nghiên Băng đến chơi đập ngựa treo, đổ xúc xắc và các trò đánh cược khác, đánh khắp cả phủ rồi mà vẫn không tìm ra đối thủ.

Ồn ào một trận, cuối cùng mọi người đều từ chối cho Triệu Bạch Ngư chơi đánh cược.

Triệu Bạch Ngư hậm hực quay về giường nhỏ nằm kề vai với Hoắc Kinh Đường - người đàn ông bị hắt hủi khỏi mọi ván cược ngay từ đầu, vừa cắn mứt quả vừa tiếp tục say sưa với đoạn truyện dang dở, đọc xong thì nằm nói chuyện với Hoắc Kinh Đường.

Đêm đã muộn, mọi người tản đi, phòng khách nhỏ lấy lại sự yên tĩnh, chỉ có ánh nến là vẫn cháy sáng, Triệu Bạch Ngư chơi mệt, hai mắt nặng trĩu sắp sụp xuống.

Hoắc Kinh Đường bế y vào trong phòng, lúc đóng cửa tắt đèn, đột nhiên hắn ngẩng đầu nhìn về hướng nhà lao Đại Lý tự một chút, sau đó mới thổi nến buông rèm, vừa chui vào chăn, Triệu bạch Ngư quen lối rúc vào trong ngực hắn, theo thói quen lần mò chạm lên gò má của hắn, người thì cọ tới cọ lui giống hệt như con mèo quấn chủ.

Hoắc Kinh Đường ghì chặt Triệu Bạch Ngư vào trong lòng mình, hơi thở dịu dàng yên tĩnh trên người Triệu Bạch Ngư khiến cho nỗi cáu kỉnh lạnh lẽo trong lòng hắn bay biến ngay tức khắc.

==

Min: Thương mèo mun mập đang ngủ mà bị hai ba lăn giường làm cho giật mình, nhỏ ngơ ngác ngỡ ngàng luôn =))))))) cũng may con nó là bé mèo bíu dô tri chỉ thích ăn thui chứ hổng có tò mò

Chương 50

Ngày giao thừa, trời vừa hửng sáng, tiếng pháo nổ tưng bừng đã văng vẳng truyền đến trước cửa nhà.

Triệu Bạch Ngư mơ màng nói mớ mấy câu, sau đó kéo chăn qua đầu, tìm được nguồn nhiệt rồi thì lập tức quẳng luôn chăn đi, chui vào trong ngực Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường từ trong tiềm thức ôm lấy Triệu Bạch Ngư, bàn tay ấp vào sau gáy y rồi ngủ tiếp.

Lúc này, mọi người trong ngoài phủ Kinh Đô đều bắt đầu bận rộn, vẩy nước quét nhà, đổi thần giữ cửa, đóng câu đối, bày quả hạch và mứt hoa quả và các loại quà vặt khác, đến khi mấy đứa trẻ trong nhà ăn lén hết rồi bèn cấp tốc chạy ra ngoài chợ mua thêm, chợ xuân bán đủ thứ đồ, không khí vô cùng náo nhiệt.

Phủ quận vương cũng không ngoại lệ, trời còn chưa sáng, trên dưới trong phủ đã bận đến độ chân không chạm đất, mới sáng ra, Nghiên Băng đã đốt pháo trước cửa phủ, ngụ ý trừ cũ đổi mới, đuổi tai trừ tà. Trời vừa sáng hẳn, Tú ma ma đã mang đồ đạc và nước rửa mặt đến chủ viện, đứng ngoài gõ cửa, không nuông chiều chủ nhân ngủ nướng thêm một giây phút nào nữa.

Triệu Bạch Ngư vẫn còn lim dim chưa tỉnh: "Giờ nào rồi thế?"

Hoắc Kinh Đường: "Cuối giờ Mẹo."

Chưa đến bảy giờ nữa?

Triệu Bạch Ngư thở dài thườn thượt, buồn ngủ không muốn dậy nên lại chui vào trong chăn, nhưng tiếng của ma ma đã ở ngay ngoài rèm.

Tú ma ma: "Ngũ lang à, không được ham ngủ nữa, đừng quên hôm nay là giao thừa."

Có lẽ là do không khí vừa sôi nổi vừa thoải mái của mùa xuân bao năm trước đã khắc vào trong xương, Triệu Bạch Ngư hiếm khi nũng nịu đòi hỏi: "Không phải ngày này năm trước có thể ngủ đến hết giờ Thìn sao?"

Tú ma ma: "Năm trước ngài là ai? Năm nay ngài ở đâu? Năm ngoái còn ở Triệu phủ, các viện khác phải dậy từ lúc bình minh cơ, tiểu viện của chúng ta thì chẳng ma nào ngó, ta mới để cho ngài ngủ thêm chút nữa, nhưng bây giờ là ở phủ quận vương đấy! Sáng nay còn có khách đến thăm, vài người thì đám bọn ta còn chống đỡ được, nhưng có người thì chủ nhà phải tiếp mới được."

Triệu Bạch Ngư: "... Để chiều rồi gặp không được ạ?"

Tú ma ma quả quyết không đồng ý: "Không được. Buổi chiều thì đến lượt ngài phải đi đấy, chẳng lẽ ngài muốn để cho tiên sinh tự đến nhà mình hay sao? Ăn cơm trưa xong thì khách sẽ tới khoảng một giờ, sau đó quay về tắm rửa để còn vào cung tham gia yến tiệc, buổi tối diễu hành Kinh Đô, đón giao thừa, ngày mai mới có thể ngủ thêm... Ngũ lang, nghe rõ không?"

Triệu Bạch Ngư ngâm nga kéo dài: "Ta biết rồiiii ~"

Một chiếc khăn ấm được đắp lên mặt, con sâu ngủ lập tức bị đuổi chạy mất, Triệu Bạch Ngư tỉnh táo trong nháy mắt, rửa mặt xong liền đi tìm đồ ăn sáng.

Như lời Tú ma ma nói, phủ quận vương đông đúc như hội chợ, người đến chúc tết nối liền không ngớt.

Hải thúc nói với Triệu Bạch Ngư: "Tĩnh vương bị cách chức biếm làm thứ dân, xử tội chết, Lâm An quận vương vẫn thuộc Thánh quyến không thay đổi, vẫn nằm trong dòng dõi thiên hoàng quý tộc của phủ Kinh Đô dù vốn là sự tồn tại cách biệt. Bình thường tiểu quận vương không thích kết giao với người khác, cũng chỉ đến hôm giao thừa hắn mới đến cửa phủ gặp gỡ những người đến chúc tết, mấy kẻ muốn nịnh hót hoặc lấy lòng tất nhiên đều sẽ nắm bắt cơ hội hiếm có này, đạp bẹp cửa phủ quận vương để vào. Huống chi gần đây tiểu quận vương và tiểu Triệu đại nhân đồng tâm hiệp lực ngưng đại ngục, những người nợ ân tình đều đến cả."

Triệu Bạch Ngư: "Hóa ra là vậy."

Hải thúc cười nói: "Không cần phải gặp tất cả mọi người đâu, tiểu Triệu đại nhân xem danh sách khách khứa trước đi, muốn gặp thì gặp, không muốn gặp thì cứ gọi người đuổi đi."

Danh sách mà Triệu Bạch Ngư nhận được là bản đã được sàng lọc, gặp mặt, uống trà nói chuyện thật ra cũng không phải việc gì khó lắm.

"Dù sao cũng đang tết nhất, hay cứ gọi tất cả các vị khách đến phòng khách gặp nhau đi. Các trò bạc trong phủ có thể nào đặt hết trong phòng khách không?"

"Ném thẻ, đấu trà, xúc xắc, bài cửu và bài giấy đều đã đưa lên cả rồi. Ta còn chuẩn bị cả trò đánh bóng nữa, phía sau phòng khách có một cánh cửa nhỏ không khóa, đi qua cửa nhỏ đó là sân đánh bóng.

Đánh bóng tương tự với đánh golf ở thời hiện đại, thời này nó cũng là một trong những trò chơi vô cùng phổ biến.

Triệu Bạch Ngư đi vào phòng khách, trong phòng có mười mấy người, đều là quan viên tam đến lục phẩm, còn có người dắt theo con cháu tới, mỗi một trò chơi đều có người đang tham gia. Chủ vị phòng khách đặt một chiếc giường nhỏ, Hoắc Kinh Đường đang cong một chân nằm nghiêng người dọc theo giường, tư thế tự nhiên buông thả, khóe miệng treo nụ cười nhàn nhạt, làm ra vẻ như đang lắng nghe đại nhân bên cạnh bàn luận viễn vông.

Y vừa vào trong phòng, Hoắc Kinh Đường đã ngước mắt nhìn tới, vỗ vào vị trí bên cạnh mình nói: "Tiểu lang, bên này."

Những người đang tán ngẫu về đấu trà đều là quan tam tứ phẩm. Bọn họ dùng ánh mắt nhã nhặn nhìn Triệu Bạch Ngư, gật đầu cười chào hỏi rồi chủ động giới thiệu mình, ví như người đàn ông trung niên tóc búi cài trâm, mặc áo bào đen tuyền đứng bên trái Hoắc Kinh Đường là Đạc sai sứ Đỗ Công Tiên, còn nho sinh râu dê có cùng kiểu tóc, mặc áo vào màu sáng bên cạnh ông ta là Phó sứ bộ Hộ.

Cũng có rất nhiều quan triều chưa từng nói chuyện nhiệt tình chủ động trò chuyện với Triệu Bạch Ngư, ai nấy đều niềm nở hỏi y quan điểm của y đối với triển vọng tương lai lẫn quan trường.

Triệu Bạch Ngư chỉ trả lời qua loa cho có lệ, y không nhìn xa về sau, một khi y nói ra quan điểm thật lòng của mình về quan trường, chỉ sợ là sẽ làm mất lòng tất cả mọi người.

Tuy nhiên các quan triều không tiếp tục nói về quan trường và công việc nữa mà chỉ nói chuyện trên trời dưới đất, giảng kinh luận đạo, phân tích hợp lý, nhận xét độc đáo, cũng may Triệu Bạch Ngư ở thời hiện đại vẫn luôn cảm thấy những thứ chuyện này thú vị nên bị bọn họ dẫn dắt, dần dần lắng nghe vô cùng chăm chú.

Gần đến tiệc trưa, được Hải thúc nhắc nhở, Triệu Bạch Ngư mới phát hiện ra thời gian đã lặng lẽ trôi qua rất lâu, bấy giờ y mới nhận ra việc gặp gỡ khách đến thăm nhà cũng không đến nỗi qua quít nhàm chán, thậm chí còn rất có lợi cho mình.

Theo lễ thì Hoắc Kinh Đường phải giữ quan triều lại dùng bữa, nhưng sẽ không có ai ở lại nhà người khác ăn bữa cơm giao thừa cả, vậy nên mọi người khéo léo từ chối rồi rồi lục tục ra về, phòng khách ồn ào cả một buổi trưa trong nháy mắt yên tĩnh trở lại.

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường ra cửa tiễn khách xong thì sóng vai nhau quay vào, Triệu Bạch Ngư đề nghị: "Gọi Nghiên Băng, Thôi phó quan và Lý nương tử ra quán rượu ăn trưa nhé."

Hoắc Kinh Đường: "Thức ăn trong phủ đều chuẩn bị xong rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy thì để cho Hải thúc và các ma ma ăn đi."

Hoắc Kinh Đường: "Nguyên liệu ở ngoài quán không tươi bằng trong phủ, đầu bếp cũng không bằng, sao lại muốn đến quán rượu?"

"Vui mà." Triệu Bạch Ngư thu tay híp mắt cười: "Buổi sáng nhà chúng ta phải tiếp khách vì là ngoại lệ, thật ra nhiều nhà không tiếp khách đâu, cũng chẳng đi thăm nhà người ta nữa, đều chỉ vẩy nước quét nhà trừ tà rồi chuẩn bị các việc vặt đón giao thừ thôi, bận đến nỗi không thở được ấy, nào còn có thời gian chuẩn bị cơm trưa? Thế thì chỉ cần dứt khoát hẹn hàng xóm bạn bè, đưa người nhà ra quán ăn thôi. Năm ngoái ta có ra ngoài quán một lần, dùng bữa cùng với những người chẳng quen biết gì hết, gặp gia đình ít người thì còn đỡ, nhà nào dắt díu bốn năm thế hệ theo thì ôi thôi, đám nhóc cứ chạy tới chạy lui la hét om sòm, đáng sợ lắm. Có lần ta còn thấy một đứa con nít đốt pháo ở trong phòng ăn nữa..."

Ánh mắt Triệu Bạch Ngư sáng lấp lánh, nụ cười tươi roi rói, nói không ngưng nghỉ, chia sẻ những câu chuyện thú vị mà trước kia y gặp phải.

Hoắc Kinh Đường nghiêng tai lắng nghe, nhìn biểu cảm thay đổi sinh động trên mặt Triệu Bạch Ngư không chớp mắt, nhớ lại lúc y tự nhiên nói ra ba chữ 'nhà chúng ta', mà trước đây, Triệu Bạch Ngư đều vô thức dùng 'phủ quận vương' hoặc 'vương phủ của chàng' để giữ khoảng cách giữa hai người, giống hệt như vị khách qua đường đến ở nhờ, cảm giác như vẫn chưa muốn thừa nhận.

Triệu Bạch Ngư tạm dừng câu chuyện, chăm chú nhìn Hoắc Kinh Đường vì trông hắn như đang suy nghĩ điều gì đó: "Trông chàng rất vui đấy."

Hoắc Kinh Đường cười nói: "Đây là lần đầu tiên ta trải qua năm mới đúng nghĩa là cùng với người nhà, khó mà không vui cho được."

Về phương diện này Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường giống nhau, có người nhà chi bằng không có, mặt dù bên cạnh y có Ngụy bá, Nghiên Băng và Tú ma ma, Hoắc Kinh Đường cũng có đám người Hải thúc, nhưng thật ra vẫn có chút khác biệt.

Triệu Bạch Ngư không thể miêu tả chính xác sự khác biệt này, có điều y hiểu được cảm nhận của Hoắc Kinh Đường.

"Ta cũng vậy." Triệu Bạch Ngư thấp giọng đáp lại.

***

Bữa trưa có mời Nghiên Băng, Thôi phó quan và Lý nương tử, không ngờ Từ thần y cũng đang ở phủ Kinh Đô, gã còn mang cả rượu Đồ Tô mà mình tự nấu ủ đến, rượu được chứa trong ống trúc dài cỡ bàn tay, gặp được người nào phát cho người nấy, mỗi người một ống.

Đại Cảnh có tục lệ uống rượu Đồ Tô vào ngày giao thừa, vì nó có tác dụng tránh rét trừ tà.

Đến quán rượu lại vô tình gặp được các bộ hạ cũ ở Nha môn, bọn họ đều đến hỏi thăm Triệu Bạch Ngư, sau đó gặp được Khang vương và thái giám nội thị Cao đô tri đi cùng nhau, thế là cũng ghé qua chào hỏi.

Chừng mười cái bàn gộp lại thành một, trong quán rượu chỗ bọn họ là náo nhiệt nhất.

Trái cây và canh khai vị được đưa ra, tiếp đến là rượu và thức ăn nóng hổi, không biết là ai động đũa trước, bữa tiệc nhanh chóng trở nên linh đình.

Triệu Bạch Ngư nhấp một chút rượu, từ trong ra ngoài cơ thể ấm dần lên, rồi sau đó gắp những món Hoắc Kinh Đường thích vào trong chén của hắn rồi lựa mấy món hắn không ưa ra, liếc mắt nhìn thấy Khang vương ngồi bên tay phải cũng rất tự nhiên gắp thức ăn còn thừa trong chén Cao đô tri vào chén mình ăn, không khỏi ngạc nhiên.

Khang vương và Cao đô tri ư?

Triệu Bạch Ngư sinh nghi, đến giữa tiệc rượu còn chú ý nhiều hơn, phát hiện ra Khang vương sẽ ăn thịt và những gì Cao đô tri không thích ăn, còn Cao đô tri thì phụ trách gắp đồ ăn suốt buổi, rót rượu múc canh, hành động của hai người đều vô cùng tự nhiên.

Nếu như là quan hệ chủ tớ, Cao đô tri làm vậy có lẽ là vì nghĩa vụ của mình, nếu như là bạn bè thì đó hành động vượt quá giới hạn. Nhưng đã ăn thức ăn còn thừa trong chén của người làm thì nhất định không phải chủ tớ, càng không thể chỉ đơn giản là bạn bè.

Khang vương đã gần bốn mươi, đến giờ vẫn chưa lập gia đình.

Hoắc Kinh Đường cưới nam thê, hoàng thất và triều đình tuy có bất ngờ nhưng cũng không lên án mạnh mẽ như thể trời sắp sập xuống, có lẽ nguyên nhân là do triều đại này cởi mở, cũng vì đã có tiền lệ.

Đoán ra được nguyên nhân, Triệu Bạch Ngư liền xí xóa sự chú ý và lòng hiếu kỳ của mình.

Tiểu nhị mang một mâm tôm sông hấp lên, Triệu Bạch Ngư vừa mới nhấc đũa, mâm tôm đã trống trơn.

Hoắc Kinh Đường thấy vậy, hỏi y: "Muốn ăn sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Thời tiết này thì mặt sông cũng kết băng rồi, không ngờ lại có mẻ tôm sông tươi ngon như vậy... Tôm sông hấp chín, thịt thơm ngọt răng," Y tỏ rõ thất vọng: "Chắc là ngon lắm nhỉ?"

Hoắc Kinh Đường: "Thế gọi một mâm nữa nhé?"

Triệu Bạch Ngư đáp: "Nhiều người quá, không tranh nổi đâu."

Khang vương nghe thấy đoạn đối thoại của bọn họ thì ghé lại gần: "Hay ta gắp một nhúm cho mấy đứa nha?"

Lúc nói chuyện với Hoắc Kinh Đường, Khang vương đã đang nhìn chằm chằm món tôm sông, hốt vào cả nửa mâm.

Triệu Bạch Ngư thấy ngại, nhưng da mặt Hoắc Kinh Đường đâu có mỏng, hắn đẩy cái chén trong tầm tay tới: "Dù gì cũng là cháu dâu, còn có cả đứa cháu ruột rà này nữa cơ mà, không cho gấp đôi ngài không thấy mất mặt sao?"

Khang vương không chỉ không mất mặt mà còn không biết xấu hổ quay người bưng đĩa tôm đã bóc sạch vỏ từ chỗ vỏ tôm của Cao đô tri lên, giả điên hỏi: "Úi cha, sao không nhắc ta chớ, đầu tôm cũng lột ra hết rồi, mấy đứa còn muốn không? Tiểu Bạch Ngư, ngươi có muốn ăn không?"

Đến nước này rồi, ai mà thèm nữa?

Khóe môi Triệu Bạch Ngư giật giật: "Không cần đâu ạ. Ngài cứ ăn đi."

Khang vương thở dài, gật gù đắc ý: "Lúc nhỏ nó được chăm sóc bên cạnh bệ hạ, thật ra thì toàn do ta chăm, khi ăn cơm nó còn dùng hết tâm tư để nhìn ta cơ mà."

"..."

Triệu Bạch Ngư nhủ thầm trong lòng, mau ra tay đi.

Hoắc Kinh Đường ngồi thẳng người, dùng khăn ẩm lau tay, ánh mắt hướng về phía cửa phòng nói: "Ta mới vừa xem thực đơn rồi, bàn chúng ta cũng có hai mâm tôm sông lớn. Đợi một lát nữa bưng lên, em cầm chén, ta cướp tôm... Chuẩn bị nào."

Triệu Bạch Ngư vội vàng cầm chén lên: "Không nhanh vậy đâu —— " Y còn chưa dứt lời, tiểu nhị đã bưng một mâm tôm sông lên thật, không khỏi ngạc nhiên: "Sao chàng biết?"

Hoắc Kinh Đường: "Nghe được."

À, người tập võ có thính giác phi thường.

Mâm tôm sông vừa được đặt xuống đã có người cầm đũa lên, Triệu Bạch Ngư căn bản không thấy rõ động tác, dường như trước mặt có ảo giác thoáng qua giống như gió cuốn mây tan, đến lúc nhìn lại, mâm tôm đã trống trơn, mà tôm hấp thì chất đầy trong chén của y thành một ngọn núi nhỏ.

Ngẩng đầu nhìn lên thì thấy những người không cướp được tôm đều bóp cổ tay tỏ ý tiếc nuối, quay sang nhìn Hoắc Kinh Đường, y thấy hắn đang cầm khăn ướt thong thả lau tay, mắt mày giãn ra, nhưng Triệu Bạch Ngư có thể thấy hắn đang giấu đi vẻ đắc ý.

Hoắc Kinh Đường liếc sang, con ngươi màu lưu ly phản chiếu hình bóng Triệu Bạch Ngư, "Tiểu lang, em thấy vi phu thế nào?"

Triệu Bạch Ngư giơ hai ngón cái lên: "Võ nghệ cao cường tuyệt vời, nhanh như chớp không kịp bịt tai, khí thế một người giữ cửa vạn người không mở được, không hổ là chồng ta."

"Mát tay mát tay."

Động tác lau tay của Hoắc Kinh Đường tăng nhanh trong nháy mắt, lưng dựng thẳng hơn, cảm giác nếu không phải là hắn đang giữ hình tượng, chắc hiện tại đã ngồi rung chân rồi.

Triệu Bạch Ngư bóc vỏ tôm, định chia cho Hoắc Kinh Đường một nửa.

Hoắc Kinh Đường nói hắn ăn tôm là sẽ bị nổi mẩn, Triệu Bạch Ngư chỉ đành lấy về.

Tuy vậy hắn vẫn cố tình oán giận trước mặt Khang vương rằng mình không thể ăn tôm sông, tiếc nuối làm sao tấm lòng bé nhỏ của tiểu lang.

Khang vương khó hiểu trợn mắt, nghiêng người lười phản ứng lại Hoắc Kinh Đường.

... Đúng là ngây thơ.

Triệu Bạch Ngư bình tĩnh ăn tôm, không muốn phối hợp.

Dùng cơm hết một giờ, những người khác còn muốn đi chơi nên chia tay nhau, Cao đô tri thì mời bọn họ đến vườn mai trên danh nghĩa của gã đấu trà, còn có thể chơi mã cầu.

Đến nơi mới biết vườn mai mở cửa bảy ngày cho người ngoài vào chơi, người mang thân phận nào cũng có thể vào vườn tham gia đấu trà hoặc chơi mã cầu, chia thành hai nhóm mở cuộc thi, đội bóng lợi hại nhất cùng với bậc thầy đấu trà trên sân hiện giờ đều là người của Cao đô tri.

Dù có rơi vào tình thế nào, bọn họ vẫn đánh bại nhà cái.

Cao đô tri cười ha hả nói: "Thật ra không kiếm được bao nhiêu, bạc thu được cũng sẽ tốn cho việc bảo vệ vườn mai hết."

Người quản lý kho bạc của Thiên tử nói hắn không kiếm được bao nhiêu tương đương với sẽ không kiếm tiền, Triệu Bạch Ngư có thể tin được sao? Có điều không được tiết lộ của cải, Triệu Bạch Ngư hiểu đạo lý nên chỉ cười đáp lại tỏ ý mình tin.

Cao đô tri mời y: "Tiểu Triệu đại nhân có muốn đánh cược thử một lần không?"

Triệu Bạch Ngư khoát tay lia lịa, ra vẻ khiêm tốn: "Ta không giỏi đâu."

Cao đô tri chỉ thích những người có học vừa giỏi giang lại trong sáng như Triệu Bạch Ngư, có ra sao đi nữa cũng sẽ không nóng nảy mà gây chuyện ầm ĩ, càng sẽ không dễ dây vào nghiện ngập cờ bạc, vì vậy nên cố gắng lắm mới mời được Triệu Bạch Ngư chơi một ván quan phác.

Vườn mai cũng được bố trí rất nhiều trò chơi, quan phác và xúc xắc là hai trò được yêu thích nhất, tất nhiên không thể thiếu được.

Trong vườn có không ít quan triều, các phu nhân, tiểu thư nhà quan và bách tính bình dân chuộng đánh bạc, từ giao thừa đến tết nguyên tiêu là khoảng thời gian duy nhất mà Đại Cảnh cho phép đánh bạc, từ Thiên gia bề trên cho tới tiểu thương tôi tớ đều có thể chơi.

Phong thái thanh tú và nụ cười xấu hổ nhã nhặn của Triệu Bạch Ngư vừa xuất hiện trên bàn cược đã hấp dẫn nhiều người vây lại xem.

Xu hướng thấm mỹ của thời đại này chính là văn nhân khí chất điềm đạm nho nhã, vẻ ngoài thanh tú, người như vậy dù là trai hay gái gì cũng chuộng, Triệu Bạch Ngư lại vô cùng phù hợp với thẩm mỹ trong lòng bọn họ, phu nhân và tiểu thư các nhà nhanh chóng kéo nhau đến gần bàn luận.

Dù Triệu Bạch Ngư đã lập gia đình thì vẫn không gây trở ngại gì cho các nàng thưởng thức và nói về người đẹp, phong tục và giáo hóa Đại Cảnh bấy giờ cũng rất cởi mở, không quá khắt khe và trói buộc người phủ nữ.

Cao đô tri hỏi: "Bài cửu hay xúc xắc?"

Triệu Bạch Ngư: "Mấy năm không chơi rồi, đều không quen tay như nhau, cho nên cái nào cũng được."

Những người khác vừa nghe đã cảm thấy tiếc nuối sâu sắc, chẳng qua điều này nằm trong dự tính của bọn họ, quả nhiên là y không biết chơi, đồng thời tiếc vì có lẽ hôm nay y sẽ tổn thất rất nhiều đây. Nhưng mà tiếc thì tiếc, có đôi lúc thấy người khác thua thảm quá vẫn có thể an ủi rằng kỹ thuật đánh bạc của mình tốt, vậy nên người tụ tập đến ngày càng nhiều mà không một ai nhắc nhở Triệu Bạch Ngư chơi cẩn thận.

Cao đô tri chọn xúc xắc giúp y, cách chơi rất đơn giản, chỉ cần cược lớn nhỏ thôi là được.

Mọi người đều nhìn chằm chặp cái cốc lắc xúc xắc trong tay nhà cái, đầu óc xoay chuyển tính toán, do dự nên đặt bên lớn hay nhỏ, Mà Triệu Bạch Ngư đợi đến khi xúc xắc vừa rơi xuống bàn liền hô đặt con báo.

Một bên cạnh y không nhịn được nhắc nhở: "Ta ở đây xem ba mươi ván rồi còn chưa thấy ai đặt con báo, ngươi đừng nói không biết con báo có nghĩa là gì nhé? Đó là ba viên xúc xắc phải lắc ra được ba số giống nhau, rất khó mà làm được như vậy."

"Là thế à?" Triệu Bạch Ngư cười nói: "Đa tạ đã nhắc."

Tuy nói vậy nhưng Triệu Bạch Ngư vẫn không lấy thỏi bạc về: "Ta cảm thấy tỉ lệ bồi rất cao, nếu như đặt trúng thì chẳng khác nào chơi bốn mươi tám ván, cho nên ta vẫn sẽ chọn nó không thay đổi."

Quả nhiên là lính mới, chỉ có lính mới thì mới bị tỷ lệ bồi cao hấp dẫn, nhưng về cơ bản là không được như mong muốn.

Cô gái nghe vậy đỏ mặt, lúng túng không nói nên lời, trái lại Cao đô tri cũng nói cho y biết con báo rất khó ra, nhưng đặt lớn thì xác suất trúng tương đối cao.

Triệu Bạch Ngư xua tay, lắc đầu cười nói: "Ta có dự cảm lần này con báo sẽ xuất hiện."

Chỉ có tay mơ mới đánh cược hoàn toàn bằng trực giác, nhưng cũng vui, thôi thì cứ theo y vậy.

Cao đô tri chắp tay đứng sau lưng Triệu Bạch Ngư, không khuyên can nữa.

Lúc này nhà cái hô lên mua bỏ trắng tay, mở cốc lắc ra, miệng còn nhanh hơn não nói: "Ba viên năm, con báo —— con báo ư?" Rồi gã ngạc nhiên nhìn về phía Triệu Bạch Ngư, người duy nhất đặt con báo."Một bồi bốn mươi tám, ngài hãy cầm bạc của mình đi!"

Cao đô tri cũng vô cùng ngạc nhiên, Triệu Bạch Ngư vừa hốt bạc vừa bình tĩnh nói: "Hình như hôm nay vận may rất tốt."

... Là vận may tốt sao?

Cao đô tri còn chưa kịp thắc mắc, Triệu Bạch Ngư đã chạy đi chơi bài cửu, tư thế cầm bài xem bài quả thật rất không thạo, nhưng chỉ ván đầu tiên thôi y đã trở thành người thắng cuộc.

Cứ chơi xong một trò là đổi sang trò khác, trò nào cũng có độ khó cao mà vẫn thắng, tàn sát toàn bộ không có địch thủ.

Cao đô tri biết kẻ ngốc cũng sẽ không cảm thấy đây chỉ đơn giản là vận may tốt, gã đi đến bên cạnh Khang vương, cảm thán: "Không thể chỉ nhìn bề ngoài của người này được."

Khang vương phe phẩy cái quạt làm duyên làm dáng trong trời đông, nghe vậy trả lời: "Nước biển không thể đong đếm, không thể nhìn bề ngoài mà đánh giá một người được, ngươi thấy hôm nay ta thế nào?"

Cao đô tri quan sát ông rồi đáp: "Ngài bôi phấn hả?"

"Ôi dào." Khang vương thở dài một cái, lại gần cho gã xem: "Ta sửa tóc mai đó. Nhìn thử coi, có phải trâm hoa cũng đẹp hơn không?"

Cao đô tri qua loa đáp lại: "Đẹp, vô cùng xinh đẹp."

Triệu Bạch Ngư đánh thắng sạch tất cả trò chơi, vừa cất túi nhỏ đầy tiền vào áo vừa đi đến chỗ Hoắc Kinh Đường vừa chơi mã cầu xong, Hoắc Kinh Đường cũng đưa cho y túi tiền mà hắn thắng được.

"Thắng không nhiều bằng ta."

"Thì ta không bằng tiểu lang mà."

Triệu Bạch Ngư được dỗ vui vẻ, ngồi xuống xem thi đấu mã cầu.

Chỉ vui đùa chút thôi mà thời gian đã trôi qua rất nhiều, sắp đến giờ vào cung tham gia yến tiệc, Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường về phủ quận vương tắm rửa thay đồ mới, xong xuôi mới ngồi xe ngựa vào cung.

Yến tiệc được tổ chức ở điện Tập Anh, trong điện rất đông quan triều ngồi chờ, mệnh phụ có cáo mệnh cũng được mời tham gia quốc yến, trong bữa tiệc còn tiếp đón những người nước ngoài đến chúc mừng, Nguyên Thú đế thì phát biểu vài lời theo chương trình rồi cũng ban ngồi. Tuy nói là tiệc chung vui cùng dân chúng, nhưng lại cử hành tại hoàng cung, nhờ có thêm ngoại bang mới được xem như là quốc yến, vậy nên không thể thiếu độ lễ phép và trang trọng.

Quan triều tán ngẫu với người ngồi gần mình, Nguyên Thú đế cũng chỉ nói chuyện với Thái hậu và Hoàng hậu ngồi bên cạnh, bởi vì ca múa lễ nhạc dường như đồng thời diễn ra, mà chỗ ngồi của từng người cũng cách nhau hơi xa, người đầu tiên không thể nào đứng hô cho cả một hàng dài nghe nhìn được.

Triệu Bạch Ngư nhâm nhi rượu trái cây ngọt ngấy cổ họng, tò mò cẩn thận quan sát quốc yên, trông cũng có không khí của đêm xuân, nhưng mà nghiêm trang hơn, không xuất hiện vấn đề bất ngờ gây khó khăn như trong phim cổ trang chiếu trên ti vi, dù sao cũng là bữa tiệc của quốc gia, cần phải cẩn thận trong từng khâu một, đừng nói chỉ có cung nhân thị vệ phải lo lắng đề phòng, thần kinh căng thẳng, quan triều và mệnh phụ đều không thể lơ là.

Ngoại bang tới thăm, dù có là người mang lòng muốn làm loạn, thì cũng sẽ không ngu xuẩn đến mức lên tiếng khiêu khích trong bữa tiệc chung vui quan trọng của một nước, việc vả một cái tát có khả năng sẽ chọc giận nước lớn, và chiến tranh sẽ diễn ra chỉ trong một cái chớp mắt mà thôi.

Đánh người không đánh mặt, huống chi là cả một quốc gia.

Phim truyền hình tạo ra xung đột là để tăng hiệu suất người xem, thực tế thì nó vừa thận trọng vừa an ổn nhưng lại vô cùng nhàm chán.

Có lẽ là do buổi trưa cũng uống rượu, sau đó chạy tới chạy lui ở vườn mai, đến khi ngồi tại điện Tập Anh bị bao vây bởi đàn sáo tưng bừng, Triệu Bạch Ngư mới thấy mơ màng buồn ngủ.

Hoắc Kinh Đường chắn trước mặt, thấp giọng nói với Triệu Bạch Ngư: "Tựa vào vai ta ngủ một chút đi, đợi thêm nửa khắc nữa, ta sẽ lặng lẽ đưa em đến nơi ở trước đây của ta trong cung."

Triệu Bạch Ngư ép mình lên tinh thần: "Không sao, ta có thể đợi được." Vừa nói y vừa dùng tay áo che miệng ngáp một cái.

Nửa khắc trôi qua rất nhanh, Hoắc Kinh Đường âm thầm đưa y đến nơi mà hắn từng sống năm trước mười tuổi, cửa cung đã bị khóa lại, từ lúc hắn rời khỏi hoàng cung thì chưa từng có ai vào ở, đây giống như là sự bù đắp mà Nguyên Thú đế dành cho hắn vậy.

Cánh cửa màu son đóng chặt, Hoắc Kinh Đường bế Triệu Bạch Ngư phi qua tường nhảy xuống sân nhà, đối diện là cửa chính, bảng hiệu trên cửa viết điện Phúc An. Điện Phúc An lớn hơn một chút so với chủ viện ở phủ quận vương, trong sân có núi giả lẫn ao cá, tiếng nước cứ chảy róc rách liên tục, trở thành thứ âm thanh duy nhất tồn tại trong đêm đen yên tĩnh.

Lúc đi ngang qua ao cá, nhìn vào bên trong mới thấy có một bầy cá chép đang nép sát vào bên bờ, không nhúc nhích, chắc là ngủ rồi.

Hai bên trái phải theo thứ tự là chái phòng, ở giữa là nhà chính, hai bên hông đều có phòng phụ, góc mái hiên nghiêng xuống treo hai cái đèn lồng, vẫn luôn lập lòe sáng.

Hoắc Kinh Đường chắp tay sau lưng, liếc nhìn đèn lồng, đột nhiên hắn quay đầu lại kéo cánh cửa ra, Triệu Bạch Ngư mới biết được ổ khóa ngoài cổng kia chỉ móc vào chứ không khóa.

Triệu Bạch Ngư sáng tỏ: "Là đoán được chàng sẽ đến, hay là luôn hy vọng chàng sẽ đến?"

Hoắc Kinh Đường đóng cửa lại: "Không biết, sau khi ta rời cung rồi chưa từng quay về lại."

Hắn không hận Nguyên Thú đế, nhưng không có nghĩa là hắn tha thứ cho quá khứ đã bị bỏ rơi nhiều lần.

Cá chép được nuôi mập, nền nhà và vách tường đều sạch sẽ, chăn gối trong phòng vừa mềm vừa thơm, than xương bạc và đèn cầy đều được trữ sẵn, rõ ràng là có cung nhân dọn dẹp thường xuyên, chỉ chờ Hoắc Kinh Đường đẩy cửa, bất cứ lúc nào.

Đối diện cửa phòng chính có một cái bàn bát tiên, trên bàn có bày sẵn hoa quả tươi và quả hạch, mứt quả, quẹo sang phải là một phòng khách nhỏ, hai bên đều có bàn ghế và giường nhỏ, đi vào sâu hơn mới thấy một tấm rèm đang buông xuống, bên trong là chỗ ngủ. Nếu quẹo sang bên trái, đi sâu vào trong là một mặt tường đầy sách, bàn đọc sách, văn phòng tứ bảo* đều có đủ, trên tưởng treo cung tên cỡ trẻ con chơi và một vài món binh khí chưa được mài nhọn.

(*) Văn phòng tứ bảo gồm: bút, mực, giấy, nghiên

Bàn ghế lẫn đồ đạc trong phòng vẫn còn lưu lại vết khắc, vết nứt vỡ, dây cung cũng đứt, trên mặt các binh khí chưa mài có rất nhiều chỗ lõm, nếu như cẩn thận tìm thì sẽ tìm được một vài vết trầy tương ứng trên các dụng cụ trong phòng.

Triệu Bạch Ngư: "Đồ đạc đều được giữ gìn rất tốt."

Hoắc Kinh Đường vừa vào trong phòng đã im lặng hơn nhiều, mặc kệ Triệu Bạch Ngư dạo lòng vòng như đi kiếm kho báu, tìm một chút dấu vết thuộc về tiểu Hoắc Kinh Đường từ những món binh khí cũ được giữ gìn kĩ lưỡng.

"Chẳng có gì thú vị."

Hoắc Kinh Đường cởi giày ra, xoay mình lên giường nằm đối diện với mặt tường.

Triệu Bạch Ngư cũng nằm xuống theo, y đặt cằm lên đầu vai Hoắc Kinh Đường, lại thấy trên tường có mấy vết khắc kì quái bèn hỏi: "Chàng khắc sao? Khắc cái gì thế?"

"Vẽ."

Triệu Bạch Ngư bừng bừng hứng thú: "Nội dung là cái gì?"

Hoắc Kinh Đường chỉ hai cái người que nói: "Đó là tiểu cung nữ đã chăm sóc ta, có một ngày ả hạ độc vào trong trà của ta, bị bệ hạ phát hiện nên thẳng tay ban chết tại chỗ."

Triệu Bạch Ngư: "..." Bỗng nhiên mất đi hứng thú với tuổi thơ của Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường đột nhiên bật cười, bất ngờ xoay mình ôm Triệu Bạch Ngư khi y chẳng mảy may đề phòng: "Lừa em thôi. Thật ra đó là bệ hạ lúc đang dạy kiếm thuật cho ta, ta bị ngã, ông ấy đến ôm ta, đau đớn còn hơn người bị ngã là ta nữa... Lúc đó ta chỉ mới hơn ba tuổi. Còn chuyện cung nữ muốn hạ độc giết ta là thật, bà ấy là ma ma nuôi dưỡng ta, sau đó bà ta bị bệ hạ phạt gậy tại chỗ, còn bắt ta đứng bên cạnh nhìn, không được phép nhắm mắt."

Triệu Bạch Ngư: "Lúc ấy chàng bao tuổi?"

Hoắc Kinh Đường: "Chắc là bảy, tám tuổi gì đó."

Triệu Bạch Ngư ôm mặt Hoắc Kinh Đường, hôn lên môi hắn một cái nói: "Cũng may tâm lý không bị biến đổi."

Hoắc Kinh Đường cau mày: "Có ý gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Khen chàng đức hạnh cao thượng đó."

Trực giác của Hoắc Kinh Đường nói cho hắn biết ý đó không phải là thế này, chẳng qua hắn lười truy hỏi, chỉ vuốt ve đầu vai Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư lắng tai nghe tình hình ở điện Tập Anh xa xa: "Có phải họ đang đuổi tà rồi không?"

Hoắc Kinh Đường: "Em cũng muốn diễu hành quanh Kinh Đô sao?"

Triệu Bạch Ngư nằm xuống: "Đi mười mấy năm rồi, bây giờ không muốn đi nữa. Tối nay chúng ta đón giao thừa ở đây nhé, thế nào?"

Hoắc Kinh Đường: "Tùy em."

Triệu Bạch Ngư cố tình dò hỏi: "Nơi này hẻo lánh quá nhỉ."

Hoắc Kinh Đường nhắm mắt đáp: "Đúng vậy."

"Thế... Sẽ không có ai đó đột nhiên xông vào đâu ha? Vậy chẳng lẽ cũng không có nơi để nấu nước nóng sao?"

"Em muốn uống nước à? Trong phòng phụ bên cạnh có nồi đồng, chỉ cần đổ nước sạch vào sau đó đặt lên lò nấu là được."

Triệu Bạch Ngư rũ mắt, có hơi xấu hổ, tâm trạng hồi hộp nhưng kích thích, y nắm chặt vạt áo của Hoắc Kinh Đường, nắm đến nỗi ngón tay trắng bệch, cúi người nhỏ giọng rỉ rả bên tai hắn: "Đêm nay có thể..."

Suốt cả đêm.

Hoắc Kinh Dường chợt mở mắt, đồng tử màu lưu ly sáng rực bỗng tối lại, đôi mắt sâu hun hút chìm vào sắc dục vô cùng tận.

"Tiểu lang không còn giống như ngày xưa nữa rồi, vì sao lại thế?"

"Thực sắc tính dã," Triệu Bạch Ngư nhoẻn miệng cười, rút đai thắt lưng ra trói hai tay Hoắc Kinh Đường lại, cúi người thầm thì: "Ta cũng là đàn ông đấy."

(*) Thực sắc tính dã - 食色性也: Thực (ăn uống) và Sắc (chuyện nam nữ) là bản tính của con người.

==

Tác giả muốn nói:

Điền khuyết nào: Cưỡi ...

🐴🐴🐴

Min: Một đêm giao thừa quá tình củm ấm cứng và đau lưng mỏi gối tê tay =)))))))))

Mà có ai bất ngờ với tình yêu tình báo của chú Mười và chú Cao không nè, cho bạn nào chưa để ý thì mùi gian tình đã xuất hiện (một cách khó hiểu 👁️🫦👁️) ở cuối chương 26 đó nha keke

Chương 51

Đêm qua lăn lộn quá lâu, đến lúc mặt trời lên cao ba sào, Triệu Bạch Ngư mới thức dậy.

Khi tỉnh lại, y phát hiện mình đang nằm sau lưng Hoắc Kinh Đường, hai nửa thân trên đều để trần, đắp cùng một chiếc chăn kéo lên đến xương quai xanh, lò than đốt lửa cả đêm đã tắt ngúm, Triệu Bạch Ngư tỉnh giấc vì lạnh.

Y chớp mắt mông lung nhìn chằm chằm dấu răng gần trong gang tấc, dấu vết nằm ngay trên bả vai của Hoắc Kinh Đường, Triệu Bạch Ngư chi cần há miệng là vừa khớp, bên ngoài đột nhiên truyền vào tiếng động nhỏ xíu, ngay sau đó là tiếng trách móc bị người nào đó cố tình đè thấp xuống.

Triệu Bạch Ngư bị dọa giật mình, vội vàng vớt quần áo dưới đất choàng lên người, đi chân trần đến gần tấm màn phòng khách nhỏ thò đầu ra nhìn cánh cửa đóng chặt, nhìn thấy mấy chục cái bóng người mờ mờ ảo ảo đứng bên ngoài không nhúc nhích.

Thái giám mắng một tiểu cung nữ: "Nước lạnh rồi hả? Đi, mau đổi nước ấm đến đây. Bên trong có thể dùng bất cứ lúc nào đấy, ngươi muốn để quý nhân chờ ngươi sao? Không biết phân biệt tốt xấu gì cả!"

"Là cung nhân."

Chẳng biết từ lúc nào Hoắc Kinh Đường đã xuất hiện bên cạnh Triệu Bạch Ngư, nửa người trên khoác một chiếc áo mỏng, tay xách theo một chiếc áo lông chồn trắng phủ lên vai y.

"Trời lạnh. Không sợ bị cóng à."

Triệu Bạch Ngư hơi lúng túng: "Chẳng phải nói cung nhân sẽ không tới sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Ta chưa có nói vậy."

Triệu Bạch Ngư cẩn thận nhớ lại, đúng Hoắc Kinh Đường chỉ nói nơi này hẻo lánh, nên theo lẽ thường mà nói thì nơi đèn sáng đèn, không thể nào không có cung nhân trông chừng được, y ngượng ngùng che mặt: "Bọn họ chờ bao lâu rồi?"

"Thường thì trời chưa sáng đã tới."

Vậy chẳng phải đã đợi một hai giờ rồi hay sao?

Triệu Bạch Ngư bực bội thở dài, chỉ sợ cung nhân trong cung đều biết đêm qua bọn họ lén lút chạy đến đây quấn quít nhau.

Người khác đón giao thừa, hai người họ thì tỉnh bơ làm chuyện bậy bạ.

Triệu Bạch Ngư nghẹn giọng lầu bầu: "Không còn mặt mũi gặp ai hết." Y nắm góc áo choàng quấn cả người mình vào trong, ngột ngạt khó chịu hỏi: "Bệ hạ sẽ biết chứ?"

Hoắc Kinh Đường yên lặng hồi lâu mới đáp lại y: "Bệ hạ trăm công nghìn việc, sẽ không để ý đến những chuyện nhỏ nhặt này đâu."

Thật ra với cái tính đa nghi của Nguyên Thú đế, tất nhiên là gió thổi cỏ lay hậu cung đều nằm trong lòng bàn tay của ông ấy.

Có điều bây giờ Triệu Bạch Ngư chỉ muốn biến thành con rùa rụt cổ, cho nên y chọn cách tin lời Hoắc Kinh Đường, ít ra thì trái tim có được chút an ủi.

Hoắc Kinh Đường bỗng lớn tiếng gọi: "Vào đi."

Hắn vừa ra lệnh, cung nhân ngoài cửa đã nối đuôi nhau vào, rửa mặt, thay quần áo đến cả hàng nút cũng đều có cung nhân làm thay, Triệu Bạch Ngư cảm thấy vô cùng khó chịu, lúc cung nữ giúp y thắt đai lưng bèn lên tiếng từ chối, tự mình làm luôn.

Hoắc Kinh Đường lại thích ứng rất tốt, tự nhiên giơ tay nhấc chân tiếp nhận sự phục vụ của cung nhân, thần sắc lạnh lùng lộ ra hời hợt và kiêu ngạo, cũng đứng đắn hơn, cất bớt sự tùy tiện ngang ngược không chịu trói buộc khi ở phủ quận vương.

Thời khắc này Hoắc Kinh Đường mới khiến cho Triệu Bạch Ngư tin chắc rằng hắn thật sự sinh sống trong hoàng cung gần mười năm trời, là dòng dõi thiên hoàng quý tộc hàng thật giá thật.

Triệu Bạch Ngư rửa mặt xong, Hoắc Kinh Đường đã đứng chờ y ở hành lang.

"Về phủ quận vương sao?"

Hoắc Kinh Đường còn chưa lên tiếng, thái giám dẫn đầu đã nhanh miệng đáp: "Bệ hạ truyền lệnh, mời tiểu quận vương và quận vương phi đến cung Phúc Ninh dùng bữa. Quận vương điện hạ, bệ hạ còn chưa dùng bữa sáng, nói phải đợi hai vị, cũng không cho phép nô tỳ thúc giục, rằng là năm mới vừa đến, khắp chốn mừng vui, cho hai vị dậy muộn một chút. Trừ Thái hậu và Quận vương điện hạ, nô tỳ chưa từng thấy ai có thể để cho bệ hạ chờ đợi. Điện hạ nhìn điện Phúc An này xem, mười năm sau khi ngài đi, mỗi ngày đều có người lau dọn quét tước nhưng không cho ai dọn vào ở, cũng không được phép làm hư hại bất kì món đồ nào bên trong... Bấy giờ trong cung cũng đã có rất nhiều tiểu hoàng tử công chúa, nhưng trong lòng bệ hạ vẫn hiểu ngài rõ nhất đấy, tiểu quận vương."

Hoắc Kinh Đường cuộn tay trong tay áo, sắc mặt lạnh lùng: "Công công lắm mồm lắm miệng vậy, chi bằng vặn bớt lại đi thôi."

Thái giám như phản xạ có điều kiện che miệng lại, sau đó cười gượng buông tay: "Ngài thật biết nói đùa đó, quận vương điện hạ."

Hoắc Kinh Đường: "Trông bổn vương giống như đang nói đùa ư?"

Biệt danh hỗn thế ma vương chắc chắn không phải là một cái danh hão, tuy hắn không vặn lưỡi thật nhưng cũng sẽ đủ khiến cho người kia đau khổ. Thái giám dẫn đầu vội vàng cung kính cúi đầu, không dám vạ miệng tự cho là đúng nữa.

Có lẽ do Hoắc Kinh Đường thế đơn lực bạc, mười mấy năm hắn không sống trong hoàng cung nên đám cung nữ thái giám này vẫn luôn xem thường khinh rẻ, một tên thái giám thôi mà cũng dám mặc sức cậy già lên mặt khuyên nhủ.

Đến cung Phúc Ninh, đồ ăn đã được chuẩn bị xong xuôi, nhưng Nguyên Thú đế không có ở đây.

Đại thái giám cung kính thỉnh an rồi giải thích: "Thái hậu nghe nói quận vương điện hạ qua đêm ở trong cung, còn định ở lại cung dùng bữa nên nói muốn sang đây, bệ hạ đã tự mình đi đón lão nhân gia, điện hạ, quận vương phi xin hãy chờ chốc lát."

Triệu Bạch Ngư có chút hồi hộp, tình cảnh này hoàn toàn khác với những lúc bình thường luôn phải cẩn trọng khi gặp hoàng đế, bây giờ ông ấy đứng trên cương vị là người thân ruột rà của Hoắc Kinh Đường, đến nhà gặp bậc phụ huynh của bạn trai tất nhiên là y phải luống cuống tay chân rồi, Triệu Bạch Ngư chỉ sợ mình cư xử thiếu tự nhiên trên bàn ăn.

Đang lúc bối rối, một đoàn người đã bước vào điện, hơn nửa thái giám bị giữ lại bên ngoài, một nhóm nhỏ theo vào hầu hạ, đi đằng trước chính là Nguyên Thú đế trong bộ thường phục màu đỏ thẫm và Thái hậu với tư phục xanh đậm.

Năm nay Thái hậu đã sáu mươi tuổi, năm hoa giáp vốn nên tổ chức tiệc mừng thọ lớn, không may vướng phải nhiều việc, nạn lụt Hoài Nam và dịch bệnh đồng thời bùng nổ, Nguyên Thú đế cố chấp làm theo ý mình, tính không thèm màng đến dư tình của bá tánh nên định tổ chức luôn nhưng bị Thái hậu ra mặt ngăn cản, chỉ làm bữa tiệc nhỏ ở điện Từ Minh của bà thôi là được.

Người già có thể sống đến sáu mươi tuổi cũng coi như sống lâu rồi, người nhà bình thường cũng sẽ chú trọng việc ăn mừng chứ đừng nói chi Thái hậu một nước.

Nhưng cuộc sống nhân dân cực khổ, Thái hậu kiên quyết kêu ngưng, khuyên can Nguyên Thú đế không được tự làm theo ý mình, có thể thấy rằng đây là một người đàn bà có tầm nhìn xa về chính trị và rất quyết đoán.

Thái hậu từ ngoài điện đi vào, vóc dáng cao và đầy đặn, tuy đã sáu mươi nhưng được chăm sóc rất tốt nên tóc đen còn dày, nếp nhăn trên mặt cũng ít, da dẻ căng bóng, loáng thoáng có thể thấy được dáng vẻ phong nhã hào hoa thời trẻ.

Hoắc Kinh Đường chắp tay cúi đầu: "Kinh Đường tham kiến hoàng tổ mẫu, tham kiến bệ hạ."

Triệu Bạch Ngư cũng hành lễ theo: "Thần tham kiến Thái hậu, tham kiến bệ hạ."

Hoắc Kinh Đường nghiêng đầu nhìn y, khẽ nói: Gọi sai rồi.

Triệu Bạch Ngư căng thẳng đến nổi đau thận chỉ coi như không nhìn thấy gì.

"Đứng lên đi." Thái hậu bước đến trước mặt Hoắc Kinh Đường, nâng gò má của hắn lên quan sát: "Khí sắc không tệ, khỏi bệnh rồi sao?"

Hoắc Kinh Đường vẫn giữ nguyên sắc mặt: "Bệnh nhẹ mà thôi, ai lại đi khua môi múa mép chuyện này đến bên tai ngài thế?"

"Còn gạt ta à?" Thái hậu vỗ lên cánh tay Hoắc Kinh Đường, kéo hắn đến bên bàn: "Nếu không phải ngày trước bên chỗ Tĩnh vương làm ầm lên, thì chờ linh đường của con cũng bày xong rồi mới cho ta hay đúng không? Mấy đứa con cháu các ngươi cứ học thói báo tin mừng không báo tin buồn, chỉ sợ trưởng bối lo lắng mà gọi là 'hiếu thuận' sao! Sau này không được làm như vậy nữa!"

Bàn tay kéo Hoắc Kinh Đường đi vẫn không thả ra, Thái hậu giống hệt như một bà nội bình thường trên đời này, dặn dò liên miên không dứt: "Nếu như con xảy ra chuyện gì, ta phải giải thích với phủ Thôi quốc công thế nào đây? Rồi sau này xuống suối vàng, bà già này có mặt mũi đâu mà gặp mẹ con?"

Hoắc Kinh Đường cười xòa đáp lời: "Tôn nhi người hiền tự có thiên tướng, bây giờ chẳng phải vẫn khỏe mạnh sao ạ?"

Thái hậu chắp tay niệm a di đà phật: "Bớt sát sinh, niệm phật nhiều, Phật tổ có linh, chắc chắn sẽ phù hộ các con bình an... Con có thường chép tâm kinh không? Mỗi ngày có đọc thầm tâm kinh không? Mùng một mười lăm có đến chùa Bảo Hoa ăn chay niệm phật không?"

Hoắc Kinh Đường: "Mùng một mười lăm không thường đi, nhưng có trai giới."

Thái hậu nghe vậy thì hài lòng gật đầu, ánh mắt nhìn Hoắc Kinh Đường tràn đầy yêu thương: "Trong số con cháu dưới gối ai gia, chỉ có Tử Uyên tâm thiện nhất."

Triệu Bạch Ngư: "..." Hôm nay có lẽ y đã biết được người dẫn dắt Hoắc Kinh Đường vào cửa Phật là ai rồi.

Thái hậu ngồi trên chủ vị, Nguyên Thú đế ngồi bên cạnh bà, Hoắc Kinh Đường thì ngồi bên kia, Triệu Bạch Ngư còn đang ngập ngừng tại chỗ.

Hoắc Kinh Đường bỗng nhiên lên tiếng: "Tiểu lang, ngồi đây."

Triệu Bạch Ngư theo bản năng chú ý đến phản ứng của Nguyên Thú đế và Thái hậu, sắc mặt của Nguyên Thú đế vẫn như thường, không nhìn y, ngược lại Thái hậu thì tặng cho y một nụ cười ôn hòa.

"Đến đây đi." Mắt thấy Triệu Bạch Ngư ngồi xuống, Thái hậu mới đánh giá y một lượt, hồi lâu mới nói: "Không giống Xương Bình, mà giống với Trạng nguyên lang hai mươi năm trước. Hoàng đế, con thử nhìn xem có giống hay không?"

Nguyên Thú đế ngước mắt nhìn Triệu Bạch Ngư: "Đúng thật là không giống Xương Bình một chút nào."

Thái hậu đột nhiên nói: "Tính tình cũng không giống."

Mi mắt Triệu Bạch Ngư run lên, cánh tay buông lỏng bên người vô thức căng chặt, tựa như lúc này mới nhận ra ngoài mặt y và Thái hậu, Nguyên Thú đế còn có một mối quan hệ thân duyên thế này.

Thái hậu: "Căng thẳng à?"

Triệu Bạch Ngư cúi đầu, nhẹ giọng nói: "Thần thấp cổ bé họng, kiến thức nông cạn, lần đầu dùng bữa với Thái hậu và bệ hạ, chỉ sợ ngự tiền thất lễ."

Thái hậu bật cười: "Ngươi ngược lại rất thành thật, tâm cũng thiện." Bà liếc thấy vòng Phật trên tay Triệu Bạch Ngư, không khỏi thắc mắc: "Ngươi cũng tin Phật sao?"

Triệu Bạch Ngư nắm vòng Phật, chưa kịp trả lời, Hoắc Kinh Đường đã cầm tay y nói với Thái hậu, "Ngày đại hôn của tôn nhi, hoàng tổ mẫu ra ngoài lễ Phật nên không gặp, bây giờ có thể bù lại một tách trà tân nhân được không ạ?"

Câu hỏi này khiến Thái hậu thoải mái cười to: "Hoàng đế, con nói xem có phải trong lời Tử Uyên có ý gì không?"

Nguyên Thú đế cười nhạt: "Đòi quà ngài ấy mà. Ngày tân hôn, nó chỉ nhận quà còn người thì chặn ngoài cửa không cho vào, cả Kinh Đô này chưa từng thấy ai hồ đồ chẳng sợ gì như nó đấy!"

Thái hậu vô cùng vui mừng, gọi Triệu Bạch Ngư đến bên cạnh mình, sau đó cởi vòng ngọc bội tinh xảo thuần chất trên cổ tay trái của mình ra nhét vào tay y, bấy giờ mới cẩn thận nhìn ngũ quan y, tựa như muốn xuyên qua đường nét ấy tìm kiếm bóng dáng của Xương Bình.

Cuối cùng vẫn không tìm được chỗ nào tương tự, sự nhiệt tình của Thái hậu có giảm sút một chút, chỉ vỗ mu bàn tay Triệu Bạch Ngư nói: "Đây là quà ra mà mắt mẫu phi ban cho ta, nhân ngày ta cùng tiên đế vào cung gặp mặt sau ngày cưới."

Triệu Bạch Ngư từ chối: "Quý giá quá..."

"Dù có quý đi nữa thì người cũng đi rồi, không so được với người sống. Ngươi vừa là cháu ngoại của ta, cũng là cháu dâu của ta, quan hệ gần gũi thế này mà còn chẳng đáng giá bằng chiếc vòng cỏn con này hay sao?" Thái hậu nhìn chằm chằm vòng ngọc một lúc, thuận miệng hỏi: "Những năm này có thư từ qua lại với Xương Bình hay không?"

Triệu Bạch Ngư giương mắt đáp: "Không có."

Thái hậu nhìn y chằm chằm: "Chẳng lẽ từ khi ngươi ra đời vẫn luôn không gặp mặt Xương Bình sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Thái hậu quên rằng công chúa thân mang tội, bị cách chức đến Giang Nam, không có chỉ không được trở về rồi ạ."

"À, phải, ai gia hồ đồ rồi." Thái hậu chợt nhớ ra chuyện gì đó, nói: "Xem ta ham nói chuyện này, tất cả đều ngồi xuống ăn đi, hôm nay là tiệc nhà, cứ tự nhiên như đang ở nhà mình thôi."

Triệu Bạch Ngư cười một tiếng đáp lại, nhưng suốt cả buổi không dám lơ là chút nào.

Ăn không nói ngủ không nói, bàn tiệc yên lặng đến tận lúc dùng bữa xong, Thái hậu mới nói với Nguyên Thú đế: "Ta về điện Từ Minh đây, không quấy rầy các con nữa, Tử Uyên ở lại lâu thêm chút nữa ôn chuyện với Hoàng đế đi."

Hoắc Kinh Đường: "Ngày trước ta lục soát được một bản kinh đơn mà đại sư Huyền Trang đi Tây Thiên thỉnh về ở hoàng thất Đại Hạ, đã cho người phiên dịch thành kinh văn, trở về sẽ phái người đưa vào cung cho hoàng tổ mẫu."

Thái hậu là người thật lòng kính Phật, vui đến nỗi cười không khép nổi miệng: "Tốt quá, ai gia chờ."

Cung tiễn Thái hậu xong, Nguyên Thú đế cho người dọn dẹp bàn tiệc rồi lui ra.

Hoắc Kinh Đường lập tức chắp tay: "Nhà thần còn có việc bận, xin được cáo lui trước."

"Đứng lại!" Nguyên Thú đế trợn mắt nhìn hắn, tức giận mà không thể bộc phát, giống như người cha cảm thấy áy náy nhưng không giữ được lý trí. Rồi ông phất tay áo, hạ ngón tay về phía Triệu Bạch Ngư: "Ngươi ở lại đánh cờ với trẫm."

Hoắc Kinh Đường nghiêng người ngăn trước Triệu Bạch Ngư, biểu cảm lạnh như băng: "Hắn là tiểu lang của ta, phải cùng vào cùng ra với ta."

Một tiếng xưng thần, hai tiếng gọi tiểu lang, đều là mồi lửa nhạy cảm đốt lên cơn giận của Nguyên Thú đế.

"Trẫm không có hỏi ngươi. Triệu khanh, ngươi nói đi."

Triệu Bạch Ngư bước ra, cung kính chắp tay nói: "Hồi bẩm bệ hạ, thần làm chủ trung quỹ trong phủ quận vương, một đêm không về nhà, chỉ sợ công việc trong phủ đã chất chồng, cần phải mau trở về nhà mới được."

"Nếu như trẫm lấy danh nghĩa là cậu ngươi giữ ngươi lại, ngươi cũng từ chối sao?"

Đại thái giám đứng phía sau lưng Nguyên Thú đế không ngừng nháy mắt, ra hiệu cho hai người đừng cố chấp, mau nghe lời Nguyên Thú đế ở lại đi, không thấy giọng của bệ hạ đang rất tức giận à?

Ấy vậy mà Triệu Bạch Ngư vẫn rũ mắt đáp: "Tôn ti khác biệt, vi thần không dám."

Đại thái giám quyết định làm ngơ luôn, nhìn thấy Lâm An quận vương nhếch mép là mặt mũi nhăn nhíu lại khổ sở, ôi, hai vị này đúng là kẻ nắp người nồi phối hợp với nhau, cái tính khí đáng ghét của tiểu quận vương là do bệ hạ dung túng mà ra chứ còn đâu, còn tiểu quận vương phi nữa, lá gan sao còn lớn hơn cả ngày trước nữa vậy nhỉ?

"Giỏi! Hay cho tôn ti khác biệt! Cút —— cút về cho trẫm, nếu như đã thích ở nhà, thì thời gian này cũng đừng ra khỏi phủ nữa!"

Cấm túc?

Đại thái giám bị dọa sợ lập tức quỳ xuống, liều mạng cầu nguyện cho hai vị chủ tử mau nhận ra sai lầm, nói lời xin lỗi, hạ một bậc thang cho bệ hạ là được.

Nhưng Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư lại đồng loạt chắp tay, nhất trí bước cùng một bước: "Tạ chủ long ân."

Nói xong cùng lui ra ngoài.

Nguyên Thú đế: "——!" Ông cáu giận vỗ ngực, tuy vậy không thể nào mặt dày mà kêu hai người lăn trở lại đây được.

Vì vậy vào sáng sớm của ngày đầu năm mới, Nguyên Thú đế vẫn đi qua đi lại trong tẩm cung của mình, trong đầu tự hoài nghi về chính bản thân ông, chẳng lẽ ông đã bị người hận quỷ ghét đến mức này rồi, chứ cớ vì sao mà hai thằng oắt con kia chẳng có chút gì gọi là kính sợ ông chứ?

Đến trưa, Đông cung, Ngũ hoàng tử cùng các hoàng tử khác đều tập trung đến chờ được gặp vua.

Nguyên Thú đế vẫn còn đắm chìm trong nỗi phiền muộn, không chút nghĩ ngợi gì thẳng thừng từ chối gặp, tuy nhiên đã gọi Đại thái giám quay lại, lệnh cho lão đem bánh ngọt trong điện đưa ra ngoài, nói là thưởng cho các hoàng tử, ai nấy đều có phần.

Đại thái giám đi một lượt rồi quay lại, Nguyên Thú đế bèn hỏi: "Đám người Thái tử nhận được bánh ngọt phản ứng thế nào?"

Đại thái giám đáp: "Các hoàng tử cảm động đến rơi nước mắt lã chã, ngưỡng mộ và biết ơn đến nỗi không nói ra thành lời."

Nguyên Thú đế hài lòng gật đầu, tâm trạng được an ủi đôi chút.

Đại thái giám: "..."

Nói như vậy, mọi chuyện là thế nào?

***

Trên ngự đạo, Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường chậm rãi đi về phía trước.

"Lúc nãy ta căng thẳng quá, chưa ăn no nữa."

"Nhìn thấy rồi." Hoắc Kinh Đường móc một phần bánh ngọt được gói bằng khăn tay trong tay áo rộng ra, liếc nhìn y cười: "Thuận tay trộm đấy, chắc tiểu lang không phát hiện đâu nhỉ."

Triệu Bạch Ngư vô cùng ngạc nhiên: "Trước mặt mọi người mà khả năng tiện tay trộm dê vẫn tuyệt vời như vậy!"

Hoắc Kinh Đường hất cao cằm: "Trò cũ thôi. Tiệc rượu hoàng gia rất chán, mở đến mấy giờ mới kết thúc, nếu không trộm bánh ngọt lót dạ nhất định đói lép kẹp thành tờ giấy."

Triệu Bạch Ngư: "Chiêu này hay, dạy ta với nhé."

Hoắc Kinh Đường: "Đó gọi là đánh tráo lừa người, chú trọng thị lực và tốc độ tay, tiểu lang giỏi đánh cược, cũng yêu cầu thị lực và tốc độ tay tốt, hiệu quả giống hệt như nhau... Về phủ ta dạy em."

(*) Nguyên văn: Di hoa tiếp mộc - 移花接木, có nghĩa là lấy một loại hoa gắn vào 1 cây khác – hình dung ngầm dùng thủ đoạn đánh tráo người hoặc vật để lừa người khác

Triệu Bạch Ngư thích thú, vừa đi vừa cắn bánh ngọt.

***

Cung Từ Minh.

Thái hậu vừa trở về từ cung Phúc Ninh đã chuyên tâm lễ Phật, thiêu hủy tâm kinh mà mình đã chép lại, vừa làm xong đã thấy Nguyên Thú đế chờ ở phòng khách. Nguyên Thú đế thay ma ma đỡ Thái hậu ngồi xuống tháp, còn mình thì ngồi ở mặt bên.

"Không giữ người lại sao?" Thái hậu sáng tỏ, tự châm trà đưa cho Nguyên Thú đế: "Chúng nó lớn rồi, có chút nóng nảy cũng rất bình thường."

Nguyên Thú đế uống một hơi cạn sạch trà trong ly, không nhịn được trách: "Nhưng cái tính tình này của nó cũng tệ quá đi chứ! Tục nói cha con ruột không thể qua đêm thành thù, nó và ta —— "

"Hoàng đế!" Thái hậu uy nghiêm trách một tiếng, nhìn quanh cung một lượt, cũng may đã cho người lui hết cả. "Nếu như Tử Uyên giận con thật, thì thằng bé sẽ hết lòng nghe lời con, hoàn thành nhiệm vụ mà con giáo phó, trấn thủ giang sơn Đại Cảnh vì con sao? Ấy là dù không có quan hệ, những năm nay nó chinh chiến Tây Bắc, đánh bại Đột Quyết, Đại Hạ cùng Nam Cương, ở trong tối thay con giải quyết biết bao nhiêu chuyện không nhìn được chút ánh sáng, đứa nhỏ còn trẻ tuổi thích quậy phá còn tin Phật hơn cả bà già sắp xuống lỗ như ta, cáu kỉnh ra vẻ một chút thôi thì thế nào? Ta nói này, thằng bé còn cần phải ngang ngược thêm chút nữa, mới đáng với những gì mà bao năm nay nó bỏ ra."

Nguyên Thú đế ngượng ngùng: "Trẫm cũng chỉ than phiền đôi câu mà thôi, cũng không thật sự làm gì nó cả... Huống chi gần đây nó hành xử quá hoang đường, cưới một nam thê về nhà mà còn tưởng thật. Đó là biểu đệ của nó cơ mà."

"Anh chị em họ vẫn có thể kết hôn, vả lại nếp sống tiền triều cởi mở, không phải chưa từng có tiền lệ nam thê. Huống chi trong chuyện này, Hoàng đế cũng không từ chối mà đúng chứ?"

Dù sao cũng là con trai ruột, Thái hậu dễ dàng đoán được tâm tư của Nguyên Thú đế.

Nguyên Thú đế yên lặng, hồi lâu mới thấp giọng nói: "Trẫm chỉ là —— "

"Chỉ là thấy gương vỡ khó lành."

Ban đầu biết Hoắc Kinh Đường hết thuốc chữa nên định lợi dụng đến cùng, phát hiện người này tốt lại đổi ý, cuối cùng cũng không tài nào nhẫn tâm nổi, thế là nghĩ đến chuyện bù đắp, thậm chí muốn đẩy hắn trở về hoạn lộ thênh thang mà mình cất công bày sẵn lần nữa, lại không ngờ rằng một khi lòng người đã xuất hiện vết nứt, nào có thể dễ dàng chữa lành như thế được?

Thiên gia bạc tình lạnh lẽo, Hoàng đế càng hơn thế nữa.

Có vài đạo lý, Thái hậu đã thuộc nằm lòng, nhưng bà sẽ không nói ra, dù người đàn ông đối diện là Hoàng đế từ trong bụng bà chui ra.

"Đứa trẻ kia rất giống Triệu tế chấp." Đột nhiên Thái hậu thấp giọng nói, "Chẳng có điểm nào là giống Xương Bình cả, mặt không giống, tính tình cũng không nốt. Cũng chẳng biết nó giống ai, kể cả Triệu tế chấp. Không giống cha cũng chả giống mẹ, trái lại giống hệt như Bồ Tát giáng trần độ kiếp vậy."

Nguyên Thú đế khó nén ngạc nhiên, Thái hậu tin Phật, với bà mà nói, dùng hai chữ 'Bồ Tát' để hình dung một người chính là lời đánh giá cao, Triệu Bạch Ngư kia có đáng không?

Thái hậu giương mắt, ánh mắt sáng suốt thấu đáo, nhìn thẳng vào lòng người: "Những năm nay, để duy trì thăng bằng mấy phương, cũng là để làm lắng cơn giận của Triệu gia xuống, cùng ở trong Kinh Đô hai mươi năm trời, Hoàng đế và ai gia đành phải ngó lơ, chỉ có thể không nghe không hỏi, mặc cho nó lớn khôn ở hậu trạch Triệu phủ. Người nhà họ Triệu mang lòng oán hận, chỉ sợ chẳng hề đối xử tốt với thằng bé hơn chút nào, thế nên việc thay mận đổi đào cũng là do chúng ta nhắm mắt làm ngơ mà ra."

Nguyên Thú đế: "Lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn như vậy mà vẫn giữ được lòng trung nghĩa không vướng bụi trần, đúng là đáng quý."

Thái hậu từ từ nhắm mắt, tay khảy vòng Phật: "Chỉ hỏi một chút thôi, ai gia mới biết Xương Bình quá nhẫn tâm khi bỏ rơi Triệu Bạch Ngư, hai mươi năm qua mặc kệ chẳng ngó ngàng gì đến con, nhưng lúc nhắc đến Xương Bình, trong mắt y không hề có ý oán trách, giọng điệu bình tĩnh, không hề ghi hận Xương Bình."

Nguyên Thú đế cau mày, không dám gật bừa.

Theo ông, dù cho cha mẹ có làm sai chuyện gì đi nữa, thì kẻ làm con cũng không được sinh lòng oán hận, nếu như đến cả cha mẹ ruột mà cũng hận, rõ ràng điều đó cho thấy được tính ích kỷ hẹp hòi, đi ngược với bản chất con người, vậy thì càng không thể coi là con người được.

Thái hậu biết Nguyên Thú đế yên lặng không phải là ngầm thừa nhận, mà là đang thể hiện hiếu đạo của ông.

Nguyên Thú đế làm Hoàng đế hơn hai mươi năm, quân quyền, phụ quyền đều đã đạt đến đỉnh cao, tất nhiên đã quên mất ngày mình còn là Đông cung, vì tiên đế thiên vị Tĩnh vương nhiều lần mà sinh lòng ghen tị, oán hận, đã từng nghĩ đến chuyện giết cha giết vua.

Song đó đều là chuyện cũ cả, Thái hậu biết thức thời nên sẽ không nhắc tới, tránh làm tổn thương tình mẹ con.

***

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường cùng về phủ, Hải thúc, Ngụy bá, Thôi phó quan, Nghiên Băng, các ma ma và mấy cô gái đều chạy đến như đàn ong về tổ, đều đang chờ ở phòng khách, nhất là các cô nương chen nhau thẳng tay đẩy Hoắc Kinh Đường ra, lo lắng hỏi Triệu Bạch Ngư vì sao đêm qua không về nhà.

Đến cả ma ma cũng nhỏ giọng than phiền tiểu quận vương không nên không hiểu chuyện, đưa tiểu lang quân trong phủ đi ra ngoài lăn lộn, sao lại không về nhà đón giao thừa?

Hoắc Kinh Đường ho nhẹ một tiếng, "Ta và tiểu lang đón giao thừa rồi qua đêm trong cung."

"Thật không? Là đón giao thừa bên cạnh bệ hạ sao?"

"Dùng bữa với Thái hậu, bệ hạ xong mới về."

Các ma ma và Hải thúc nghe vậy liền vui vẻ gấp bội, vì điều này nói rõ mối quan hệ giữa tiểu quận vương và bệ hạ đã có tiến triển rồi.

Tình hình thật sự khác hẳn với niềm mong đợi của mọi người trong phủ, Triệu Bạch Ngư vờ vịt bình thản đánh mắt sang nơi khác, thật ra hai tai đã lặng lẽ đỏ lên.

"Về là được rồi, hôm nay phải đến thăm nhà người ta đấy, ta sắp xếp danh sách rồi..."

Hải thúc vừa mới cầm danh sách ra, Ngụy bá đã cướp trước một bước đến bên cạnh Triệu Bạch Ngư nói: "Ngũ lang, đây là người mà hôm nay chúng ta phải đến thăm. Vị thứ nhất là ân sư của ngài, Trần tiên sinh."

Hãi thúc bất mãn: "Tiểu Triệu đại nhân phải đi cùng tiểu quận vương chứ."

Ngụy bá: "Được thôi. Có điều Ngũ lang của bọn ta cần phải đi thăm ân sư của ngài ấy trước."

Hải thúc xắn tay áo lên rồi tranh cãi với Ngụy bá, Triệu Bạch Ngư thành thạo đáp trả từng lời quan tâm của mọi người trong đám đông, dần dà tách mình khỏi đám người đó, chạy đến bên cạnh Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường nhàn hạ nói: "Đi ngủ một giấc đã nhé?"

Triệu Bạch Ngư: "Đi thôi."

Người trong phủ ồn ào náo loạn bị bỏ lại sau lưng, đôi chồng chồng mắt điếc tai ngơ dắt díu nhau về chủ viện ngủ bù.

Đám người cãi nhau đã đời xong mới phát hiện ra chẳng thấy người đâu nữa, thế là bèn chạy đến xin ý kiến xem nên sắp xếp thế nào, nhận được câu trả lời "Bị bệ hạ cấm túc rồi", không cần phải tranh giành nữa, lúc này mới chịu tan cuộc.

Nhắc đến cấm túc, bọn họ thật sự trải qua cuộc sống gia đình tạm ổn trong thế giới hai người ở phủ quận vương, song Triệu Bạch Ngư vẫn nhờ người đem quà và bái thiếp đến phủ Trần Sư Đạo, giải thích rõ lý do mình không thể đích thân đến phủ thầy mừng năm mới, lời nói khẩn thiết lại chân thành, đến nỗi Trần Sư Đạo đi ra ngoài chúc tết lần nào cũng cố tình hé miệng, để cho người ngoài biết được ông cụ có một học sinh ưu tú như vậy.

Khoảng thời gian này vẫn có quan triều đến phủ thăm hỏi, cùng nhau đàm kinh luận đạo, trời tuyết nấu trà thưởng mai, mãn nguyện trải qua thời kì bị giam chân.

Ngày giờ chậm rãi trôi đi, đến lễ Nguyên tiêu, Nguyên Thú đế hạ chỉ cho đòi hai người cùng vào cung, mới coi như là kết thúc cấm túc.

***

Kì nghỉ Nguyên tiêu vừa kết thúc, dân sinh bách thái ai về nhà nấy, triều đình hoạt động trở lại, quan triều điểm mão* đúng hạn, bắt tay vào giải quyết công vụ chất chồng từ đầu năm

(*) Điểm mão: thời xưa, vào khoảng từ 5 đến 7 giờ sáng điểm danh người đến làm việc

Chuyện khiến người ta đau đầu nhất vẫn là việc sắp xếp công việc cho Triệu Bạch Ngư, Nguyên Thú đế không cho hay, thì có nghĩa là ông để mặc cho bộ Lại sắp xếp, mà cũng có ai ngờ Triệu Bạch Ngư lại được lòng người như vậy đâu.

Tam tỉnh lục bộ và Tam ty đều tranh giành y, nhất là Đạc sai sứ cùng với Phó sứ bộ Hộ cứ điểm mão xong là chạy đến điện Văn Đức bàn công vụ, nói tới nói lui một hồi không ai là không lái sang Triệu Bạch Ngư.

Đạc sai sứ ngoài sáng trong tối ám chỉ chỗ lão thiếu nhân viên, chỉ còn kém nói trắng ra là 'Thần không giải quyết được công việc ở Đô thương thuế vụ ty, muốn Triệu Bạch Ngư đến bổ khuyết'.

Còn Phó sứ bộ Hộ thì thẳng thừng chẳng ai bì nổi, há mồm ngậm miệng là 'Triệu Bạch Ngư', trên mặt viết ba chữ 'Triệu Bạch Ngư'. Trên trán khắc hai chữ 'Tri kỷ', tâm tư muốn kết giao vô cùng rõ ràng.

Bộ Hình và bộ Công cũng muốn, nhưng Nguyên Thú đế loại lục bộ đầu tiên, quyền thế của Đông cung và các tể tướng ngấm vào lục bộ, dù Triệu Bạch Ngư lọt vào môn đảng của người nào cũng đều không phải là kết quả mà ông muốn nhìn thấy.

Nguyên Thú đế bèn thử xem xét Tam ty, bộ Hộ... Tất nhiên đều không được, vậy là chỉ còn lại Đạc chi ty.

Đô thương thuế vụ ty chính là Nha môn triều này mới được mở, chuyên quản lý thương thuế, trong đó thương thuế chuyển vận của phủ Kinh Đô chỉ mới phân từ bộ Hộ đến Thuế vụ ty được bốn năm năm, tính ra vẫn còn là một nha môn mới toanh.

Mà nay chợ đêm được hạn chế cấm vận, buôn bán phát triển vô cùng mạnh mẽ, không thể tránh khỏi xuất hiện tình trạng trốn thuế lậu thuế.

Thuế vụ sứ ban đầu do Đỗ Công Tiên kiêm nhiệm, nhiều năm rồi mà cũng không thấy hiệu quả, mà lão cũng chẳng còn nhiều sức để quản lý, giao cho Triệu Bạch Ngư ngược lại là một lựa chọn tốt.

Y biết mọi thứ về tấu tiêu và bộ phí của Nha môn dưới đấy trước kia, lại sử dụng khéo léo, có thể biến hóa những vấn đề khó khăn thành thứ có ích cho bản thân, nói không chừng chính là sự lựa chọn tốt nhất cho vị trí Đô thương thuế vụ sứ.

Suy đi nghĩ lại một phen, trong lòng Nguyên Thú đế đã có quyết định.

***

Đông cung.

"Bộ Lại đã điều nhiệm rồi, là Đô thương thuế vụ sứ, quản lý bốn kênh thủy vận, tòng ngũ phẩm, đối với Triệu Bạch Ngư mà nói, trừ giai đoạn là Phủ dụ sứ thì chính là thăng đến ba cấp, vô cùng hiếm thấy, có thể nói là tương lai xán lạn." Ngũ hoàng tử cười trên nỗi đau của người khác: 'Có điều Nha môn vận chuyển của Thương thuế vụ ty mới chỉ thành lập chưa đến năm năm, không có quy củ nào viết sẵn, không đủ uy tín, tốt xấu lẫn lộn, chỉ sợ chức quan này làm cũng không yên ổn."

"Đô thương thuế vụ sứ... Rất tốt. Cô không thể dùng, cũng không thể bị người khác sai sử, đến Nha môn mới khai hoang ấy vậy mà lại tốt." Thái tử có hơi lo lắng: "Nhưng thương thuế tàu vận chuyển là cái chính, đệ phải bảo vệ, không được để cho y đoạt lấy."

Tàu thuyền vận chuyển tức thuyền quan, hàng hóa được vận chuyển đều bị đánh thuế, lời vô cùng nhiều, do Nha môn vận chuyển của Đô thương thuế vụ ty chịu trách nhiệm, tuy nhiên bộ Hộ bộ sứ đã dùng chút thủ đoạn xấu xa chiếm đoạt từ lâu.

Ngũ hoàng tử: "Bộ hộ kinh doanh với bốn kênh nhiều năm, Triệu Bạch Ngư có quái gở đến đâu đi nữa cũng chẳng thể nói cướp là cướp liền được..."

Dẫu nói vậy, Ngũ hoàng tử vẫn không có tự tin, trong lòng lo lắng không yên.

"Nếu không thì, ta tìm người theo dõi thường xuyên nhé."

"Ừ."

Hai anh em đã từng hùng mạnh một thời đối mặt nhau, cố gắng che giấu sự chật vật trong tận đáy lòng.

Ngũ hoàng tử đổi sang chuyện khác: "Nhị ca, chuyện của Lục đệ phải giải quyết thế nào đây?"

Thái tử liếc nhìn Triệu Trường Phong đứng trong phòng khách, Ngũ hoàng tử ra hiệu, lệnh cho hắn ra ngoài.

Đám người vừa đi, Ngũ hoàng tử mới nói: "Triệu Trường Phong cùng chiến tuyến với chúng ra mà, sao hôm nay lại đề phòng hắn?"

Thái tử nghiêm mặt đáp: "Cả Triệu phủ đó chỉ có một mình Tứ lang là thật lòng với ta, còn những kẻ khác, Tế chấp, Triệu đại lang, Triệu tam lang... Thái độ của bọn họ đều mơ hồ không rõ ràng, đây là nhắm chừng ta ngồi vị trí này không ổn, không dám đặt cửa."

Ngũ hoàng tử kinh ngạc: "Người Triệu gia hai lòng!"

Thái tử: "Lòng trung thành của bọn họ chưa từng đặt ở Đông cung. Mà thôi, lại nói về chuyện của Lục đệ, vì cô đã hứa sẽ điều hắn hồi kinh, tất nhiên là nói được làm được, nhưng không thể không có nguyên do nào, cần phải tìm đúng thời cơ. Đại thọ sáu mươi của Hoàng tổ mẫu năm ngoái tổ chức qua loa vì nạn lụt Hoàng Hà, phụ hoàng lại là người hiếu thuận, ắt phải canh cánh trong lòng, nhất định năm nay sẽ tổ chức lớn, nhân cơ hội này góp lời, điều Lục đệ hồi kinh chúc thọ tổ mẫu. Về tình về lý, phụ hoàng sẽ không từ chối."

Ngũ hoàng tử gật đầu: "Vậy cũng được."

Hai người xì xào bàn tán, Triệu Trường Phong ở bên ngoài sân ngửa mặt nhìn trời đêm, không nghe lọt được chữ nào.

... Đô thương thuế vụ sứ sao?

Không dựa vào gia dình, không tham gia kì thi, kiếm được một chức quan tòng ngũ phâm, nếu như là con em người ta thì sẽ được gọi là làm rạng danh dòng họ.

==

Min: Huhu xin lỗi mọi người, tuần qua mình bận quá không có thời gian edit, bây giờ mới ngoi lên được đây ( ̄∀ ̄) tết nhất cũng khá là bận nên hy vọng mọi người thông cảm cho mình ra chương mới không đều nhe.

Chúc mọi người năm mới tràn đầy niềm vui nhá iuuu╰(*'︶'*)╯♡

Chương 52

Ý chỉ nhậm chức được ban xuống, Triệu Bạch Ngư cưỡi ngựa đến tham quan Nha môn mới.

Đô thương thuế vụ ti cách Nha môn phủ Kinh Đô không xa, chi qua hai con phố là đến, đối với Triệu Bạch Ngư mà nói, thì trừ được phân đến một cái Nha môn đổ nát hơn, thì không có gì khác biệt với việc mỗi ngày đến Nha môn phủ Kinh Đô điểm mão hết.

Bởi vì đây là Nha môn mới được mở ra vào triều đại này, cho nên cấp bậc quan lại có hơi lộn xộn, ví như Đô thương thuế vụ sứ có tổng cộng ba vị trí, trước đây chia cho đại quan nhị tam phẩm trong triều kiêm nhiệm, tòng ngũ phẩm chỉ có thể làm Chính phó hoặc các chức phó sứ khác, dù sao cũng chỉ là chức quan nhỏ.

Dưới Chính sứ còn có Phó sứ, Đô giám theo thứ tự là bát phẩm và cửu phẩm, có thể nói là chức quan thấp nhất Kinh Đô này rồi.

Có mỗi một chức Thuế vụ sứ còn phân cho bốn quan, công sứ mười người, nhiệm vụ xử lý công văn, nhưng thu thuế cần phải có một số lượng lớn nhân viên, chỉ bằng này người căn bản không đủ dùng, chỉ có thể âm thầm thuê người phụ trách thu thuế mỗi ngày.

Và khoản chi tiêu ngoài mức quy định này tất nhiên cần Tam ty tấu tiêu.

Thuế vụ ty phụ thuộc Tam ty, coi nhau là người một nhà, vì thế nên Triệu Bạch Ngư không cần phải lo lắng vấn đề khó khăn như vậy.

Nha môn mới là một tam tiến tứ hợp viện, tiền thính là nơi làm việc chủ yếu, sương phòng hai bên trái phải tiền viện và sân giữa đã bị hai thuế vụ sứ lớn kia chiếm cứ, còn nhánh thương thuế quản thủy vận thì bị đẩy đến căn phòng đơn sơ nhất nằm ở dãy nhà sau cùng.

Tiểu lại dẫn đường đưa Triệu Bạch Ngư đi vào từ cửa chính trước, luôn miệng giới thiệu, "Bọn họ thu thuế thương nhân đi qua phủ Kinh Đô, thuế cư trú, còn có cả những thứ thuế phức tạp khác nữa, đã vận hành mấy chục năm rồi, tự có cơ chế hoàn thiện, còn thiết lập quan hệ tốt đẹp với quan triều và tiểu thương lớn nhỏ ở phủ Kinh Đô, không so được với doanh thu từ thuế từ việc quản lý chuyển vận của chúng ta, một nơi cả quý chẳng thu được bao nhiêu thuế mà còn thiếu tiền triều đình. Cũng may Tam ty là người nhà, nếu không thật sự không có cách nào để mà tấu tiêu sổ sách với mấy khoản nợ dai dẳng từ xưa nữa."

Triệu Bạch Ngư nảy lòng nghi ngờ, chẳng qua y không biểu hiện ra toàn bộ, chỉ đứng yên tại chỗ, nhìn đám sai vặt không biết từ đâu đến cứ ôm hộp quà ra ra vào vào, nguyên cả quãng đường từ đó đến dãy nhà sau chỉ thấy bọn họ xếp thành một hàng dài, không khỏi tò mò hỏi: "Mấy người này là đến dóng thuế à?"

Tiểu lại: "Đến tặng quà đấy."

Triệu Bạch Ngư ho một cái, khiêm tốn hỏi: "Sao lại tặng quà? Chẳng lẽ trốn thuế?"

Tiểu lại phản ứng mạnh mẽ: "Cái này nói thì mất vui! Hôm nay ngài cưỡi ngựa nhậm chức, vừa đến Nha môn mới, khó tránh khỏi việc xem không hiểu một vài lề thói cũ không thể bỏ. Chờ sau này quen rồi, tự dưng có thể hiểu thôi."

Nói xong, gã vùi đầu đi về phía trước, nhỏ giọng lẩm bẩm: "Đáng tiếc chỉ quản thủy vận, không quá béo bở, đại quan ngũ phẩm còn chẳng bằng một kẻ chẳng có phẩm cấp gì như ta."

Triệu Bạch Ngư: "Ngươi nói gì?"

Tiểu lại: "Tiểu nhân chúc mừng đại nhân lên chức, thăng tiến đều đặn, một bước lên mây."

Triệu Bạch Ngư cười một tiếng, đi theo tiểu lại đến dãy nhà sau, dãy nhà gồm một chủ phòng và hai sương phòng, cửa sổ cũ kỹ, mạng nhện đóng đầy trên mái hiên, thềm đá cũng sứt mẻ đủ chỗ, bên trái sân có một cái lu nước lớn trồng hoa súng đã khô héo.

Tiểu lại chỉ vào hành lang nối liền sương phòng bên trái và chủ phòng rồi nói: "Ở đó có một cánh cửa nhỏ, nếu như đại nhân cảm thấy đoạn đường từ ngoài cửa đến dãy nhà sau quá dài, thì có thể trực tiếp đi vào bằng cửa sau, đợi một lát nữa sẽ cho người đưa chìa khóa đến cho ngài."

Đẩy cửa chủ phòng ra, giữa đại sảnh là bàn bát tiên và hai chiếc ghế thái sư, đi sâu vào phía trong bên trái chính là nơi cất giữ phần lớn hồ sơ sổ sách, bên còn lại chính là nơi làm việc, nơi trong cùng tựa vào tường có một bàn đọc sách bằng gỗ lim, chính là chỗ để Triệu Bạch Ngư xử lí công vụ.

Bên trong lác đác vài ba người đang gảy bàn tính, xem sổ sách, tiểu lại vừa vào đã cao giọng nói: "Thuế vụ sứ đại nhân mới nhậm chức đến rồi, chư vị mau ra ngoài nhận mặt, nghe đại nhân dạy bảo đi!"

Tiếng nói vừa dứt, liền nghe bên trong vọng ra tiếng động khá lớn, không lâu sau thì có năm người luống cuống tay chân đứng ngay đại sảnh, thận trọng nhìn Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư bình tĩnh quan sát năm người, có hai người chừng ba lăm, ba sáu tuổi, một người để râu dê, người thì râu cá trê, ba người đàn ông còn lại đều đương độ trung niên, bọn họ đều mặc trang phục nha dịch của Thương thuế vụ ti theo quy định thông thường.

"Hạ quan / tiểu nhân gặp qua Triệu đại nhân."

Năm người đồng thanh chắp tay hành lễ.

Tiểu lại xoay người bắt giọng: "Đại nhân, tôi còn có nhiệm vu khác, xin được cáo lui trước."

"Đi đi."

Triệu Bạch Ngư mặc công phục màu xanh đậm, mắt mày thanh tú, chờ tiểu lại đi rồi bèn khẽ cười rồi nói: "Làm quen một chút nhé, ta là Triệu Bạch Ngư, cấp trên mới nhậm chức của các ngươi, trước đây chủ yếu làm công việc tố tụng hình sự, đây là lần đầu quản lý thuế vụ, có chỗ không quen mong chư vị thông cảm giúp cho."

Lời này vô cùng khách sáo, cũng có tiểu quan tiểu lại chưa từng được tôn trọng thế này, năm người đều vô cùng sợ hãi, tuy vậy trong lòng cũng dâng lên cảm giác thỏa mãn khi được người khác coi trọng.

Người đàn ông râu dê nói: "Hạ quan là Đô giám, thượng sai cứ gọi Lưu đô giám là được."

Người râu cá trê là Mã ty lại, ba người kia đều là Công sứ, không có phẩm cấp, vậy nên không thể coi là quan triều.

Triệu Bạch Ngư: "Vì sao không thấy Phó sứ và những người khác? Họ đã ra bến tàu thu thuế rồi à?"

Mấy người Lưu đô giám trố mắt nhìn nhau, khá là không bằng lòng nhắc đến những người khác, chỉ mập mờ đáp: "Đã đi giải quyết công vụ rồi."

Bất kỳ Nha môn nào cũng đều có quan hệ phức tạp, khó tránh khỏi phát sinh lục đục, đây là chuyện bình thường, Triệu Bạch Ngư liền nhảy sang chủ đề khác, hỏi thăm công việc thường ngày.

Lưu đô giám: "Nha môn chúng ta vẫn còn nhàn hạ, chỉ việc đến cửa khẩu đường sông kiểm tra thuyền buôn đi qua hoặc chặn giữ thương nhân, thu tiền thuế của bọn họ là được."

"Nhàn hạ?" Triệu Bạch Ngư hoài nghi: "Bốn kênh lớn của Kinh Đô hội tụ thuyền buông từ nam chí bắc, nối liền Lưỡng Giang và Thiểm Tây, Kinh Đông, Hoài Nam, nối gót nhau vào phủ Kinh Đô, thông ra các nơi ngoài tỉnh, mỗi ngày tàu thuyền vận chuyển ra vào không dưới trăm chiếc. Bổn quan nhớ chỉ riêng năm trước thôi, số thuyền vận chuyển được chế tạo đã lên đến hơn một nghìn hai trăm chiếc. tính ra, thủy vận hẳn phải là Nha môn bận rộn nhất chứ, sao hãy còn nhạn hạ cho được?"

Mấy người nọ mặt lộ vẻ lúng túng khó xử.

Triệu Bạch Ngư: "Cứ nói đừng ngại."

Lưu đô giám: "Bọn ta địa vị thấp kém nên lời nói không có sức nặng, lại vì bảo toàn thân mình, chỉ có thể nghe lệnh làm việc, hy vọng đại nhân đừng trách phạt."

Triệu Bạch Ngư: "Tiểu quan tiểu lại, thân bất do kỷ. Bổn quan hiểu, sẽ không trách tội các ngươi."

Lưu đô giám nhìn quanh quất, chắc chắn không có người khác nữa mới nói với y: "Đại nhân nên biết, thời gian thành lập Đô thương thuế vụ chưa được lâu, nhìn như độc lập nhưng thật ra phải chịu sự cai quản của Tam ty. Trước đây bộ Hộ là nơi quản lý thủy vận, năm năm trước mới phân chia thành Nha môn của chúng ta, mặc dù phụ trách thủy vận trong phủ, nhưng đây đã ăn sâu vào gốc rễ bộ Hộ, tàu thuyền vận chuyển ra vào kinh chỉ cần thông báo với bộ Hộ một tiếng là đã được tự do đi lại qua cửa khẩu rồi."

Triệu Bạch Ngư cau mày, ngồi lên ghế Thái sư sau lưng, ra hiệu cho Lưu đô giám ngồi xuống cùng: "Nói từ từ thôi... Sao bộ Hộ lại vượt quyền quản đến thủy vận của Thuế vụ ty? Cho dù thế lực của hắn có sâu đến đâu, thì cũng không có quyền quyết định cho tàu thuyền vận chuyện ra vào."

"Thì vốn là vậy." Lưu đô giám cũng khổ sở: "Nhưng đại nhân có biết chúng ta lấy tiền thuế thu từ thuyền buôn như thế nào hay không? Đó là ngăn chặn tàu thuyền ở đầu cầu, cửa cống, bến đò hoặc bến tàu đường sông, thu thuế thông qua việc kiểm tra hàng hóa, nhưng chỗ chúng ta lại thiếu nhân viên, chỉ có thể xây dựng le que vài cửa khẩu, dù có chọn ngẫu nhiên một cửa nào, hoặc là đặt cửa khẩu ở đoạn cầu mà tàu thuyền qua lại, cũng không thể trông coi ở đó một ngày mười hai tiếng, bởi vì lúc nào cũng có thuyền buôn nhân lúc không có người lén lút ra vào phủ Kinh Đô. Thậm chí có thuyền tăng tốc lọt qua ải kiểm tra khi bọn ta đi thu thuế, thuyền lướt qua nước mất dấu vết, vừa không đuổi kịp, lại không có cách nào truy ra, cũng chỉ đành phải ở đầu bờ 'ngắm thuyền than thở' thôi!"

Triệu Bạch Ngư: "Năm năm qua đều như vậy sao?"

Lưu đô giám gật đầu.

Triệu Bạch Ngư: "Nếu vậy thì cũng tương đương với trốn thuế rồi... Có liên quan gì với bộ Hộ?"

Lưu đô giám: "Tàu thuyền vận chuyển muốn qua lại cần dâng sáu thành thuế cho bộ Hộ là đã có thể tự do ra vào phủ Kinh Đô, tự nhiên sẽ có người mật báo tin tức cho bọn họ biết, giúp cho họ tránh khỏi cửa khẩu thủy vận mà chúng tôi thiết lập. Nếu như là chủ thuyền có lòng tham thì nhất quyết không nộp sáu thành thuế, sau đó sẽ bị người của bộ Hộ theo dõi sát sao, mượn tay Thuế vụ ty chỉnh cho chủ thuyền ngoan ngoãn dâng bạc."

'Tự nhiên sẽ có người mật báo tin tức', người là ai Triệu Bạch Ngư đại khái suy đoán được.

Y chỉ bật cười thành tiếng: "Quan thương cấu kết mà."

Lưu đô giám căng thẳng: "Suỵt! Đại nhân, nói chuyện cẩn thận, tai vách mạch rừng. Thuế vụ sứ lúc đầu, chính là Đạc chi sứ Đỗ đại nhân, vốn cũng có lòng muốn chấn chỉnh, nhưng chẳng làm gì được vì bộ Hộ thế lớn, Đỗ đại nhân lại là đại thần trong triều có trăm công nghìn việc, quả thực là có lòng không có sức."

Triệu Bạch Ngư dường như còn khúc mắc: "Nếu muốn chỉnh đốn việc thu thuế thủy vận trong phủ thì không khó, ngại thiếu nhân viên thì cứ thuê thêm vài người, Đỗ đại nhân là Tam ty sứ, còn lo âu chuyện tiêu tiền hay sao? Chỉ khó ở chỗ có người mật báo tin tức, cho tàu vận chuyển nghe ngóng rồi chuồn... Những cũng không phải không có cách trị."

Lưu đô giám ngạc nhiên: "Có cách gì?"

Triệu Bạch Ngư vừa định nói, chợt thấy bên ngoài cửa có một cái bóng đứng sừng sững bất động, càng hiểu ý cười một tiếng, không đáp mà hỏi ngược lại: "Như đã nói, thuế tàu thuyền vận chuyển cũng do bộ Hộ kiểm. vậy thì mỗi quý các ngươi lấy thuế ở đâu ra?"

Lưu đô giám bất đắc dĩ nói: "Bộ Hộ không đuổi tận giết tuyệt, bọn họ sẽ bỏ qua cho thuyền đánh cá của dân."

Triệu Bạch Ngư: "Nốc no một bụng cá thịt rồi nên rỉ chút cháo loãng từ kẽ ngón tay để bố thí à."

Lưu đô giám: "Ai nói không phải sao?"

"Hiểu rồi. Trong Nha môn còn bao nhiêu sổ sách cũ chờ xử lý?"

Lưu đô giám chỉ về phía bàn làm việc của Triệu Bạch Ngư: "Hồ sơ và sổ sách cần ngài xem để để trên bàn ngài đấy."

Triệu Bạch Ngư đến trước bàn gỗ lim, tiện tay cầm một quyển sổ lên lật xem, chẳng được bao lâu đã ném xuống lại: "Đúng là Nha môn nhàn hạ, bổn quan đã đoán trúng rồi."

Vừa dứt lời liền vươn tay ngáp một cái, sau đó cuộn tay vào áo quay đầu ra ngoài.

Lưu đô giám ngạc nhiên: "Đại nhân, ngài đi sao?"

"À đúng rồi, đống sổ sách đó giao cho ngươi, các ngươi xử lý đi. Ta vừa nhìn thấy đống tiền bạc chất chồng, thu thuế gì đó là đã nhức đầu rồi, dù sao thì trước khi bổn quan đến đây các ngươi cũng đã xử lí đâu ra đấy được mà, sau này muốn làm thế nào thì cứ làm thế ấy thôi."

"..."

Lưu đô giám đã ở trong Nha môn đủ lâu, gặp qua đủ loại cấp trên, loại ra vẻ ta đây như Triệu đại nhân mới tới đây cũng nằm trong dự đoán của ông, sẽ không có một ai dũng cảm không sợ gì xắn tay áo ra sân sau khi đã hiểu được 'căn bệnh khó chữa" phức tạp hỗn loạn của Nha môn thủy vận ở Thuế vụ ty này.

Chẳng qua trước đây nghe ngóng được vị cấp trên mới nhậm chức này chính là thanh thiên lão gia cương trực công chính, thực tế thì ngược lại, Lưu đô giám khó tránh khỏi có hơi thất vọng.

"Hạ quan đã biết."

Triệu Bach Ngư đi đến cửa, bỗng nhiên quay đầu hỏi: "Ở chỗ này của các ngươi sẽ không có thượng sai đến kiểm tra đột ngột chứ?"

Lưu đô giám: "Đại nhân nói đùa, ngài chính là thượng sai, lấy đâu ra người kiểm tra đột ngột nữa?"

Triệu Bạch Ngư cười, "Vậy thì được. Thế là ta tới đúng chỗ rồi, một Nha môn nhàn ơi là nhàn."

Nói xong liền bước ra cửa sau, bốn năm ngày liền cũng không đến điểm mão.

***

"Năm ngày không đến Thuế vụ ty điểm mão?" Phó sứ thuế vụ thủy vận hỏi lại lần nữa: "Ngươi chắc chứ?"

Tiểu lại ngày đó dẫn đường cho Triệu Bạch Ngư gật đầu khẳng định: "Tiểu nhân thề, câu nào cũng là thật, không có nói láo một chữ! Vị thượng sai này của bọn ta, trừ ngày đầu tự mình đến điểm mão, sau đó chẳng thèm xuất hiện nữa, chỉ gọi một thằng sai vặt đến điểm mão thay. Sổ sách trong Nha môn thì không xem một quyển nào, không màng công chuyện cứ như là đang cưỡi ngựa xem hoa vậy."

"Hừm... Không được bình thường." Phó sứ thuế vụ thủy vận không đoán được đường đi nước bước của Triệu Bạch Ngư, trong lòng như có con chuột chạy tới chạy lui, vô cùng khó chịu.

Tiểu lại: "Đại nhân, tội gì ngài phải phiền lòng? Cấp trên ngu ngốc hồ đồ, không phải là chuyện tốt đối với chúng ta hay sao? Nếu như hắn cứ như vậy cho đến khi kết thúc nhiệm kỳ, thì đến lượt chúng ta ca tụng công đức rồi! Đây chính là trời thương chúng ta, muốn ta kiếm được bộn tiền đấy!"

"Ngươi thì biết các gì?" Phó sứ thuế vụ thủy vận vỗ đầu rầu rỉ: "Triệu Bạch Ngư không đơn giản, Ngũ hoàng tử bên kia đã dặn đi dặn lại rồi, bảo chúng ta phải chú ý y cho cẩn thận, cần đề phòng y, tuyệt đối không thể xem thường. Nếu như y đần độn chẳng biết gì, Ngũ hoàng tử có thể thận trọng thành như thế sao? Còn bảo chúng ta bây giờ nên thu liễm một chút, đến cả tàu thuyền vận chuyển lui tới cũng bảo ngừng, trước đây nào có bao giờ ra chỉ ý như vậy? Ấy là dù cho Đạc chi sứ có đích thân đến, Ngũ hoàng tử cũng chưa từng kêu tàu thuyền neo đậu!"

Tiểu lại: "Thần kỳ vậy sao?" Trong đầu gã đầy sương: "Ta thấy thượng sai mới nhậm chức nhã nhặn lắm, không quá cáu kỉnh, ngày đó hắn đến giao nhận việc chỉ hỏi vài tình huống, liên tục cảm thán đúng là một Nha môn nhàn hạ, nói chuyện như đúng rồi, rõ ràng là không được như ý... Đã vậy mấy ngày liên tiếp còn không đến điểm mão, biếng nhác đến mức này rồi thì có thể làm quan tốt hay sao?"

Phó sứ thuế vụ thủy vận chỉ hận rèn sắt không thành thép: "Ngươi không biết đại án Hoài Nam sao? Chưa từng đến quán rượu nghe kể chuyện Triệu thanh thiên à?"

Tiểu lại ngượng ngùng: "Ta, ta không có tiền đến quán rượu."

Phó sứ thuế vụ thủy vận trừng gã: "Bỏ đi! Thằng nhóc nhà ngươi cả ngày chỉ biết đến sòng bạc tiêu tiền thôi chứ gì!"

Tiểu lại cười lúng túng, không biết xấu hổ thừa nhận.

"Vậy... Còn phải theo dõi vị thượng sai này của chúng ta sao ạ?"

"Người cũng chả tới, theo gì mà theo? Ngươi định tìm y ở đâu hả?"

"Thế, thế làm sao bây giờ? Thương nhân vào phủ đều đang thúc giục, không thể trì hoãn thêm nữa. Cấm vận một ngày thì ít tiền ít đi một ngày, bạc trắng lóa chảy vào bốn kênh, tiểu nhân thấy nhức nhối lắm."

"Ta thì không đau lòng à?" Phó sứ thuế vụ thủy vận cũng cảm thấy kì lạ, hoàn toàn không đoán được ý đồ của Triệu Bạch Ngư: "Cuối cùng là đã xảy ra chuyện gì? Y có bản lĩnh thật hay không? Có phải là thanh thiên thật hay không? Sao lại không có chút động tĩnh gì vậy? Chẳng lẽ Ngũ hoàng tử là chim sợ cành cong, nói quá vậy thôi?"

Vừa quay người, Phó sứ thuế vụ thủy vận đã đấm vào lòng bàn tay nói: "Ta đi hỏi Ngũ hoàng tử trước rồi mới quyết định."

***

Bốn dòng sông Biện, sông Thái, sông Ngũ Trượng và sông Thông Huệ chảy xuyên qua Kinh Đô, xây dựng tổng cộng bảy cửa cống, mười bốn cây cầu, mỗi ngày thuyền bè lớn nhỏ lui tới với tần suất dày đặc, người kéo thuyền thường xuyên tụ tập ở bờ sông, bến tàu rất náo nhiệt, có thể thấy rằng thương nghiệp của Đại Cảnh thật sự phát triển cực kì mạnh mẽ.

Trên bờ sông cách cửa cống phía tây sông Biện không xa, Triệu Bạch Ngư đầu đội nón lá, thân mặc áo vải giống hệt ngư dân đang ngồi câu cá, y đã ngồi đến tận trưa mà trong giỏ mây chỉ có hai ba con cá nhỏ.

Nghiên Băng tay trái bưng trà tay phải bưng bánh thịt, vừa đi đến chỗ Triệu Bạch Ngư vừa nói: "Ngũ lang à, mười ngày nay ngài đi câu cá đủ chỗ, con mèo đen trong phủ mình ăn cá đến nỗi ngán ngẩm luôn rồi. Rốt cuộc ngài còn phải câu bao nhiêu cá nữa?"

Triệu Bạch Ngư nhận lấy bánh nhân thịt được đưa tới, nói: "Đến chừng nào con cá lớn ta muốn mắc câu là được."

"Hả?" Nghiên Băng nhìn mặt sông yên ả: "Sông này mà có cá lớn gì?"

Mặt sông đột nhiên trôi nổi từng tầng sóng nước, run lên rõ ràng, ngay sau đó nghe thấy ở đầu bên kia cửa cống có tiếng la truyền vào: "Mở cổng —— "

Cửa cống ầm ầm mở ra, tàu vận chuyển cực lớn chở đầy hàng hóa ùn ùn kéo vào Kinh Đô, đi qua cây cầu vòm đối diện với cửa cống, mà dù là đi qua cửa cống hay cầu vòm, cũng không có một ai ngăn tàu thuyền lại để thu thuế.

Nghiên Băng chợt hiểu ra, vội ngồi xổm xuống thấp giọng hỏi: "Ngũ lang, cá lớn mà ngài nói chính là chỉ những tàu thuyền này phải không?"

Triệu Bạch Ngư: "Cuối cùng cũng xuất hiện rồi."

Nghiên Băng nghi ngờ: "Mấy hôm trước chúng ta đi xem các cửa cống khác, thuyền bè đi qua hầu như là thuyền dân và thuyền đánh cá, nhưng đếm đi đếm lại cũng chỉ có mười mấy thuyền quan vượt qua khâu kiểm tra, họ đều nộp đủ thương thuế, không thấy có vấn đề gì, sao hôm nay bỗng nhiên có nhiều thuyền quan đi vào cửa cống phía Tây vậy?"

Triệu Bạch Ngư: "Ngươi thử nghĩ xem, thuyền vận chuyển lúc trước có gì khác so với tàu vận chuyển hôm nay?"

Nghiên Băng nghe vậy thì cẩn thận nhìn tàu thuyền qua lại hồi lâu, rốt cuộc cũng hiểu: "—— là hàng hóa! Tàu vận chuyển trước không chở hàng hóa, nhưng tàu hôm nay thì chở đầy hàng!"

Triệu Bạch Ngư: "Khoá thuế tính gộp cả khối lượng và chủng loại hàng hóa, muối sắt, tơ lụa, trà và gỗ bị đánh thuế cao nhất, tất cả còn lại đều thứ hai. Thuyền quan mấy ngày trước là dùng để thăm dò ta, nhịn mười mấy ngày cuối cùng cũng chịu hết nổi rồi. Dẫu sao thì không mở một ngày thì chính là vứt bỏ một mớ bạc lớn, có thể nhịn đến mười ngày, thật sự là để mắt đến ta."

Nghiên Băng bẻ ngón tay tính toán: "Triều đình quy định quy cách thấp nhất của thuyền vận chuyển là hai trăm năm mươi liệu, ta thấy tàu vận chuyện qua cửa này phải có đến hai mươi chiếc, mỗi chiếc ít nhất năm trăm liệu, nếu như đều không phải là hàng hóa miễn thuế, chỉ tính trọng lượng thôi cũng đã tốn một khoản thuế không nhỏ rồi."

Thuyền vận chuyển tức thuyền quan, liệu chính là đơn vị đo khối lượng của Đại Cảnh, hai trăm năm mươi liệu xấp xỉ mười bảy tấn, vậy thì năm trăm liệu tương đương với ba mươi lăm tấn, mà thuế thuyền buôn chia làm thuế quan* và tiền thắng, trong đó thuế quan thu bằng cách tính sức nặng của tàu thuyền.

(*) Thuế quan = thuế xuất nhập khẩu

Tuy thuế quan không phải là thuế chính của thương thuế, nhưng một chiếc thuyền vận chuyển lớn nặng ba mươi lăm tấn có thể thu được nhiều nhất bốn năm lượng bạc trắng. Còn khoản thuế chính là tiền thắng, tức là tính toán dựa trên giá trị hàng hóa tàu chở, lấy hai phần trăm thuế suất.

Nếu như một chiếc tàu vận chuyển có giá trị hàng hóa là mười nghìn lượng thì cần phải đóng hai trăm lượng tiền thắng. Một ngày có đến trên trăm tàu thuyền lui tới, vậy thì có thể nhận được hai mươi nghìn lượng thuế, vị chi thuế một năm sẽ thu được ít nhất là hơn bảy triệu lượng bạc trắng.

Dĩ nhiên đây chỉ là tính toán sơ bộ, hơn nữa tàu thuyền vận chuyển lương thực nằm trong danh mục miễn thu thuế.

"Có điều theo như tính toán hằng năm thì số tiền thuế thu được cũng đã lên đến bốn năm triệu lượng bạc trắng."

Song tổng thu vào hằng năm của triều đình cũng lên đến hai ba mươi triệu lượng, chỉ tính năm ngoái thì thuế thuyền vận chuyển mà phủ Kinh Đô thu gần đến ba trăm nghìn lượng.

"Ối —— " Nghiên Băng hít một ngụm khí lạnh, "Nhiều tiền quá. Thuyền buôn đang ở trước mắt rồi, chúng ta mau đem con dấu quan phòng đến cản đường thôi!"

"Gấp cái gì. Dù sao cũng phải dỡ hàng? Sau đó phải rời kinh nữa mà? Thậm chí vẫn còn bến tàu và cửa cống để có thể bắt bọn họ. Huống chi những chuyện thế này cần phải đầu tư lâu dài, không phải là việc chỉ chốc lát là giải quyết xong."

Nghiên Băng: "Vậy cũng không quản thuyền buôn hôm nay luôn sao?"

"Tại sao lại không? Một ngày hơn mấy nghìn lượng tiền thuế đấy."

"Thế ta thông báo cho Công sứ sang đây nhé ạ?"

"Hơn nửa số người trong Nha môn Thuế vụ ti thủy vận cấu kết với bộ Hộ rồi, bây giờ mà đi thì chẳng khác gì mật báo tin tức." Triệu Bạch Ngư thu cần câu và giỏ cá, nói: "Đi thôi, đến nha hàng thuê người đã."

***

Phó sứ thuế vụ thủy vận đi qua đi lại trong phòng, thấy tiểu lại từ bến tàu chạy trở về thì vội vàng hỏi: "Thế nào rồi?"

Tiểu lại thở hồng hộc: "Gió êm sóng lặng, mọi việc đều thuận lợi! Hôm nay có tổng cộng có một trăm hai mươi chiếc thuyền vào kinh, trong đó có năm mươi thuyền vận chuyển lương thực miễn thuễ, bảy mươi thuyền còn lại vận chuyển ngọc thạch, đồ sứ và trà muối, hôm nay phải thu thuế, theo như luật Đại Cảnh thì phải thu sáu thành thuế suất, nói ít cũng có thể nhập sổ bảy mươi ngàn lượng."

Ánh mắt của Phó sứ thuế vụ thủy vận sắc bén: "Biết là kỹ năng tính sổ của ngươi tốt rồi, nhưng có mấy lời nên nuốt lại trong bụng đến khi xuống mồ luôn đi nghe chưa."

Tiểu lại run rẩy, cúi đầu đáp: "Tiểu nhân đã biết." Lẽ ra gã nên dùng tiếng lóng để nói.

Nếu như Triệu Bạch Ngư ở đây, đoán chắc là y sẽ rất ngạc nhiên khi gã tính toán được như vậy.

Cách tính của gã chính là quy ước cho hàng hóa trên mỗi chiếc thuyền vận chuyển là mười nghìn lượng, mà thực tế những thuyền bè chuyển ngọc thạch, muối, trà thậm chí là chở vàng bạc châu báu từ nam chí bắc nói ít cũng phải từ năm trăm nghìn đến một triệu lượng.

Dĩ nhiên không phải là mỗi ngày đều thu thuế cao như vậy, đấy là bởi vì các thuyền buôn đã bị neo đậu suốt mười mấy ngày trời, tích lũy toàn bộ đến nay, chắc chắn không có việc gì mới cho vận hành trở lại.

Trong một năm, ít nhất có đến ba trăm ngày tiền thắng nhập sổ nhưng không đến mười nghìn, tuy nhiên nếu tổng cộng lại cũng chỉ có gần bốn đến gần năm trăm triệu lượng bạc nhập sổ.

Phó sứ thuế vụ: "Trước khi ta trở về từ chỗ điện hạ, đã kêu ngươi theo dõi phủ quận vương... Có chuyện gì xảy ra không?"

Tiểu lại khó xử: "Tiểu quận vương đúng là tướng quân Tây Bắc đánh đâu thắng đó... Người của ta ở quá gần đã bị phát hiện rồi tóm lên quan phủ. Nhưng mà! Từ phủ quận vương ra ngoài cách ba con phố đường nào cũng có người của chúng ta theo dõi sát sao, bảo đảm một con ruồi cũng không lọt qua nổi!"

"..."

Cách ba con phố mà dám đảm bảo không một con ruồi nào lọt qua nổi?

Phó sứ thuế vụ: "Bỏ đi. Không đáng tin cậy, trong lòng ta vẫn không yên nổi, cứ đập thình thịch đây này. Không được, ta phải bắt tay nghĩ cách chuẩn bị —— ngươi mau chóng giao giá trị hàng hóa của thuyền buôn tương ứng cùng với tên của thương nhân cho ta, ta đến Tam ty một chuyến."

Tiểu lại không hiểu vì sao Phó sứ lại cáu gắt, chỉ yên lặng làm theo.

***

Bảy mươi chiếc thuyền buôn chia nhau neo ở bến tàu trong phủ dỡ hàng xuống, lục tục bận rộn đến tận lúc hoàng hôn, quầy hàng nhỏ cùng quán rượu nhà trọ gần bến tàu đều đã đốt đen lồng lên, hơi nóng của thức ăn và tiếng rao hàng xen lẫn trong cơn gió rét, không khí làm ăn vô cùng hưng thịnh.

Chủ thuyền thỉnh thoảng lớn tiếng trách mắng: "Mau —— dọn nhanh lên một chút! Cẩn thận cái tay cái chân vào! Coi chừng hàng ở bên trong! Đó đều là bảo vật quý giá đấy, hư một hai món, có bán bọn mày đi cũng không bồi thường nổi đâu!"

Người kéo thuyền trên bến tàu hò hét lôi kéo thuyền buôn cập bến: "Hò dô! Hò dô ta! Hò dô!"

Ngay lúc này, có một đám người băng qua sạp nhỏ, quán rượu, nhanh chóng bao vây toàn bộ bến tàu, bảy tám tên chủ thuyền tuy bị dọa sợ, nhưng bao nhiêu năm qua bọn họ vẫn bình an vô sự nên sự sợ hãi đã sớm bay biến, đẩy toán người ra vọt đến phía trước cả giận thét: "Các ngươi là ai?"

"Đô thương thuế vụ sứ Triệu Bạch Ngư!"

Đám người cầm đuốc tản ra, Triệu Bạch Ngư mặc áo quan đi ra từ chính giữa, nhìn chủ thuyền cười nói: "Quản thủy vận, thu thuế."

Tiếng nói vừa dứt, nụ cười cũng thu lại, Triệu Bạch Ngư quát lên: "Đưa người về hết cho ta."

Các chủ thuyền không nhúc nhích, người dở hàng phía sau bước lên phía trước, mặt đầy vẻ không phục.

Ánh mắt Triệu Bạch Ngư trầm xuống: "Sao? Muốn làm loạn đảng, cãi lại mệnh quan triều đình đang thi hành công vụ sao?"

Chủ thuyền ngăn người sau lưng lại, rối rít chạy lên đằng trước: "Chúng ta sẽ đi cùng ngài, nhưng đại nhân à, ngài cần phải biết là bây giờ ngài đang cản trở tài lộ của ai đấy nhé!"

Triệu Bạch Ngư chỉ nở nụ cười hào nhã, giống hệt thư sinh chỉ biết cầm bút chưa từng thấy máu: "Không nhọc công ông lo lắng."

"Đưa đi!"

***

Tình huống giống hệt đồng thời diễn ra ở sáu bến tàu khác, hàng hóa của bảy mươi chiếc thuyền buôn bị giữ lại bến tàu, các chủ thuyền đều bị đưa về Đô thương thuế vụ ti, dãy nhà sau yên ăng mấy năm trời đột nhiên sáng như ban ngày.

Một bên khác, tiểu lại vây xem tận mắt nhìn thấy thuyền bị giam, người bị bắt bèn vắt chân lên cổ chạy đến đập cửa phủ Ngũ hoàng tử, báo việc này lên cho người kia biết.

Khi đó Phó sứ thuế vụ thủy vận đã báo cho Ngũ hoàng tử biết ý định của mình, nghe vậy thì cả kinh bật dậy: "Quả thật là xảy ra chuyện rồi? Ta cũng biết Thuế vụ sứ mới nhậm chức kia không ăn chay, nhưng y cứ luôn ngấm ngầm không chịu vạch trần, là muốn gác lại chờ thời, chỉ đợi đến hôm nay bắt gọn tại chỗ!"

Ngay sau đó, ông nhìn về phía Ngũ hoàng tử: "Điện hạ, chúng ta mau chóng ra tay thôi, để cho bộ Hộ cấp giấy thông quan, nói nhóm hàng này đã trả thuế ở nơi khác rồi đi."

Ngũ hoàng tử liếc ông một cái: "Còn cần ngươi nói sao? Bổn vương đã đoán trước được là Triệu Bạch Ngư vừa nhậm chức tất sẽ tìm chuyện, đúng như dự đoán. Cũng may ta đã nhanh tay chuẩn bị trước rồi, người đâu, —— "

Môn khách tham mưu của Ngũ hoàng tử cầm một cái hộp đi vào, Ngũ hoàng tử ra hiệu cho Phó sứ thuế vụ thủy vận cầm nó đi.

Phó sứ thuế vụ: "Đây là?"

Ngũ hoàng tử nhắm mắt, dáng vẻ như đang vô cùng đau đầu, cắn răng nghiến lợi nói: "Tháp phòng thuế! Đi nói rằng nhóm hàng kia đều giao cho tháp phòng thuế cả rồi!"

Tháp phòng thuế tức là kho hàng do quan phủ ra mặt xây cất ở gần bến tàu, thương nhân vận chuyển hàng đi đường dài, sau khi cập bến không thể kịp dở hàng, lại không trả nổi tiền mướn thuyền vận chuyển lớn dài hạn, hoặc không thể cất giữ hàng hóa trong khoang thuyền lâu ngày vì dễ gây ra tổn thất lớn, nên có thế thuê kho hàng này để lưu trữ hàng hóa.

Thương nhân có thể lựa chọn trả thuế quan và tiền thắng trong quá trình đi thuyền, cũng có thể chọn cất giữ hàng hóa tại kho hàng, lúc này chỉ cần đóng đủ ba phần trăm thuế giá trị hàng hóa là được, đấy chính là tháp phòng thuế.

Nếu đã nộp tháp phòng thuế rồi thì không cần nộp thêm tiền thắng nữa, trái lại dùng số tiền đó trả số ít phí mướn kho hàng, vì vậy bản chất của tháp phòng thuế cũng là giấy tờ thông quan.

Phó sứ thuế vụ nghe vậy thì vô cùng vui mừng, "Điện hạ phòng ngừa chu đáo, trí tuệ có thể so tài với Gia Cát!"

"Khoan đã." Ngũ hoàng tử cũng sẽ không chỉ tính toán như vậy, dặn dò thêm mấy câu: "Sau tối nay viết một phần chiết tử, tấu tố Triệu Bạch Ngư làm việc lỗ mãng, còn lơ là cương vị, mười mấy ngày liên tiếp không đến cơ quan điểm mão."

"Ti hạ biết!"

Đưa mắt nhìn Phó sứ thuế vụ rời đi, Ngũ hoàng tử đã không còn che giấu được cảm xúc đau lòng, bảy mươi nghìn lượng bạc trắng không cánh mà bay, còn bị hụt mất một trăm nghìn lượng!

Triệu Bạch Ngư à Triệu Bạch Ngư, thật sự xung khắc với gã sao?

Vừa đến Nha môn mới mấy ngày đã làm cho gã tốn bạc rồi.

Người ta nói hao tài tiêu tai, nhưng sao gã đã hao tài rồi mà tai thì không cách nào tiêu được vậy chứ?

==

Min: Cái chương này toàn từ khó thui, cấu trúc câu cũng dài và rối nên có vài chỗ mình diễn đạt không tốt lắm nhưng chưa biết sửa thế nào, có lẽ để sau này beta lại vậy Ọ_Ọ mong mọi người thông cảm nếu có chỗ sai sót và chưa hay ẹ 🥺

Chương 53

Dãy nhà sau Đô Thuế Vụ ty.

Đèn đuốc sáng trưng, bốn phía đều là đàn ông trưởng thành mặc áo tay cộc, chính giữa là bảy mươi chủ thuyền bị giải về.

Triệu Bạch Ngư cầm sổ sách điều đến từ các cửa cống phủ Kinh Đô lên xem, thuận miệng đọc một cái lên: "Thuyền vận chuyển năm trăm liệu nộp bốn lượng thuế cửa khẩu, ba lượng thuế qua cầu, hàng hóa là một tốp ngọc thạch Nam Chiếu trị giám tám mươi nghìn lượng, theo luật cần phải đóng một nghìn sáu trăm lượng tiền thắng... Còn chưa đóng mà nhỉ."

Sắc mặt của chủ thuyền kia trở nên khó coi, nhưng chẳng đáp lời nào.

Y không nhắc thêm về những vấn đề khác có liên quan, nộp thuế lên là được.

Triệu Bạch Ngư: "Trầm hương Đông Nam, đàn hương An Nam Lão Sơn, chất lượng cao cấp... Thuyền đến từ cảng Quảng Châu? Đóng ba chiếc thuyền vận năm trăm liệu, tính ra giá thuế phải gấp đôi chiếc thuyền ngọc thạch Nam Chiếu kia."

Y giương mắt nhìn nhóm thương nhân trước mặt, sắc mặt ai nấy đều trầm xuống nhưng chẳng có mấy phần sợ hãi, tư thế hệt như chẳng e ngại gì.

Triệu Bạch Ngư đột nhiên giận tái mặt: "Nghiên Băng!"

Nghiên Băng bước ra khỏi hàng: "Đại nhân có gì phân phó?"

"Chuẩn bị giấy mực bút và bàn tính đến đây, mời chư vị kết toán thuế ngay trong hôm nay. Bổn quan sẽ tự mình giám sát chư vị nộp thuế lên, chừng nào đem thuế đến đóng đủ thì chừng nấy được rời khỏi đây!"

Nghiên Băng lập tức kêu người dọn bàn đọc sách, giấy và bút cùng bàn tính ra rồi ngồi xuống, chỉ đại một chủ thuyền: "Mời ngài lên đây kết toán."

Chủ thuyền bị điểm mặt gọi tên vẫn ngoan cố đứng yên tại chỗ, trợn mắt nhìn Triệu Bạch Ngư cả buổi trời mới ấp úng một câu: "Ta muốn gặp Phó sứ Thuế vụ Nha môn thủy vận của các ngươi."

Triệu Bạch Ngư bước lên, thần sắc nghiêm nghị: "Đường đường là mệnh quan ngũ phẩm của triều đình mà không so được với cấp dưới bát phẩm, không xứng ra lệnh cho ngươi đóng thuế hay sao? Hôm nay bổn quan làm việc theo lệnh, dựa vào pháp luật quốc gia mời các ngươi đóng thuế, các ngươi thì một mực từ chối, phải gặp nhân tài mới chịu đóng à? Mà vì sao các ngươi phải đóng thuế có biết không? Là nhìn mặt mũi bệ hạ, nhìn triều đình và quốc pháp hay phải nhìn một tên Phó sứ thì mới chịu đóng thuế?"

Chủ thuyền bị chất vấn liên tục lui về phía sau, nhìn về phía những người khác như cầu cứu, nhưng Triệu Bạch Ngư đã ngăn trước mặt gã.

"Khỏi nhìn, bây giờ bổn quan làm chủ nơi này, dù cho bệ hạ có tự mình đến đây cũng không thể ngăn cản bổn quan làm việc theo luật được!" Triệu Bạch Ngư khảy vòng phật trên cổ tay, giọng lạnh như băng: "Nộp thuế càng sớm thì càng được đi sớm, chắc các ngươi không hy vọng hàng hóa của mình đều bị bỏ lăn bỏ lóc trên bến tàu đâu nhỉ. Chỉ cần kéo dài một ngày thì bạc trắng sẽ chảy trôi vào bốn kênh, ta cũng sẽ đau lòng thay đấy."

Chủ thuyền thả xuôi tay hai bên người, cúi đầu không nói, vẫn giữ được khí thế rơi vào đường cùng mà còn ngoan cố chống cự, đối phó một cách tiêu cực.

"Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!" Triệu Bạch Ngư tức giận: "Nếu đã thế thì cứ trì hoãn đi, để xem coi là bổn quan không chịu được trước hay là các ngươi không nỡ nhìn hàng hóa ở bến tàu tiêu tùng!"

Vừa dứt lời, một giọng nói xa lạ từ đâu truyền đến: "Triệu đại nhân đúng là oai phong! Hạ sai ở trung đình còn bị thanh thế ngay thẳng của ngài làm cho kinh sợ, thật tình, nếu như ai không biết còn tưởng rằng ngài là hiền thần không sợ quyền quý gì đó tái thế ấy!"

Đám người tách ra, người đàn ông trung niên mặc áo bào quan văn bước ra, đi theo sau là tiểu lại trông rất quen mắt và một người đàn ông đứng tuổi khác mà y không quen biết.

Lúc này, Lưu đô giám nghe ngóng được Thuế vụ ti đang ầm ĩ cũng chạy tới ngay trong đêm, gã chui vào từ cửa sau, vừa hay thấy được cảnh này thì bị dọa sợ đến nỗi cả người run cầm cập, ấy vậy mà vẫn cố nén nỗi sợ lết đến bên cạnh Triệu Bạch Ngư, hạ thấp giọng mách: "Đại nhân, vị này là Dương tham mưu trong phủ Ngũ hoàng tử, vị bên phải phía sau chính là Phó sứ Thuế vụ thuộc Nha môn chúng ta."

Quân cứu viện tới rồi sao?

Đúnglà bắt tin tức nhanh thật.

Triệu Bạch Ngư vẫn thản nhiên: "Dương tham mưu đến là vì phụng mệnh Ngũ hoàng tử, hay là mượn danh bộ Hộ đến nhúng tay vào chuyện Nha môn Thủy vận của ta đây?"

Dương tham mưu cười lạnh một tiếng: "Triệu đại nhân là tiểu Gia Cát, là tiểu thanh thiên, ti hạ nghe danh như nghe sấm bên tai, nào dám mượn tiếng tăm gì để đến lấy quyền áp chế ngài? Có điều Ngũ hoàng thủ nghe phong phanh mấy bến tàu trong phủ có chuyện gì ầm ĩ quá, sợ ảnh hưởng đến sinh hoạt của người dân nên đặc biệt phái ti hạ đến xem thử một chút thôi."

Sau đó lão nhìn quanh một vòng, hỏi: "Dám hỏi đại nhân, chuyện gì đang xảy ra ở đây vậy?"

Triệu Bạch Ngư có cảnh giác, nhưng vẫn chưa đoán ra lai lịch của đối phương: "Bổn quan đang khóa thuế theo luật."

"Hóa ra là vì chuyện này? Ta còn tưởng là có cái gì đáng phải để cho Triệu đại nhân đây dẫn người vây quanh bến tàu, nào ngờ mấy thương nhân này bị bắt đến Thuế vụ ty, gây ra động tĩnh lớn dến vậy chỉ vì mỗi việc này thôi sao?" Dương tham mưu dở khóc dở cười, làm bộ chỉ chỉ mấy chục thương nhân đứng trong viện nói: "Ta không có nói các ngươi, Triệu đại nhân làm việc là vì quốc gia, vì triều đình, khóa thuế theo luật chẳng phải chuyện bình thường thôi sao? Chỉ thiệt thòi cho các ngươi làm thương nhân bao nhiêu năm trời rồi, thường xuyên tiếp xúc với quan lại khóa thuế, chiến trận nào mà chưa từng thấy qua? Sao còn có thể bị đại lão gia thanh thiên dọa cho sợ thành cái dạng này!"

Mấy chục thương nhân trong viện trố mắt nhìn nhau, mặc dù Dương tham mưu đến đây vì bọn họ, nhưng những lời nói này đều khiến cho họ như rơi vào sương mù, không ai đoán ra được Dương tham mưu này đang muốn làm gì.

Dương tham mưu: "Ôi dào, các ngươi quên là mình đã nộp thuế lưu kho ở bộ Hộ rồi hay sao? Giấy mướn cũng đã được bộ Hộ đóng dấu, chỉ đợi phát ra cho mọi người, bị Triệu đại nhân hù một phen liền quên chuyện này rồi à?"

Thuế lưu kho là cái gì?

Triệu Bạch Ngư lòng đầy khúc mắc nhưng không biểu hiện ra, bình tĩnh nhìn đám thương nhân chuyển từ trạng thái căng thẳng, lo sợ không yên đến như trút được gánh nặng, trên mặt là nụ cười nhẹ nhõm, chắp tay nói đùa với Dương tham mưu.

Lưu đô giám thủ thỉ bên tai giải thích cho Triệu Bạch Ngư về thuế lưu kho, Triệu Bạch Ngư giật mình, cảm thấy ngạc nhiên, phương thức thuê kho tại cảng rồi mới đóng thuế này hơi giống với mô hình vận tải biển thời hiện đại, không ngờ Đại Cảnh đã phát triển nó ngay trong bối cảnh buôn bán chỉ vừa mới chớm nảy sinh.

Đại Cảnh coi trọng thương nghiệp, kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đề xướng quy mô thuế thương nghiệp cực lớn mà tiền triều không có, bởi vì động thái này xưa nay chưa từng có, thuế thương nghiệp gồm thuế chính lẫn thuế phụ, trong đó thuế phụ phức tạp, thậm chí các tỉnh khác nhau thu thuế các kiểu khác nhau, châu phủ cũng có vô vàn các loại thuế, mà Triệu Bạch Ngư chỉ vừa mới nhậm chức, bỏ lỡ một vài khái niệm thuế cũng chẳng có gì khó hiểu.

Để lọt một khoản thuế lưu kho, ngược lại bị bắt chẹt ngay miệng, rơi vào thế yếu, hiển nhiên là Triệu Bạch Ngư nhận thua ván này.

Dương tham mưu đi đến gần Triệu Bạch Ngư, cười xòa nói: "Triệu đại nhân đúng thật là hiền thần năng lại, nhậm chức chưa đến một tháng đã vội lập đại án, ngài không cần nghỉ ngơi chút sao? Đại án Hoài Nam ngài phất tay huênh hoang, trở lui toàn thân, còn chưa qua nửa năm mà ngài đã lại lật đật gây chuyện bắt mắt, không thấy mệt mỏi ư?"

Triệu Bạch Ngư: "Làm việc vì trăm họ là lý tưởng cao cả của ta."

Dương tham mưu bị nói lại phát nghẹn, nói thật là lão làm quan đã từng thấy nhiều kẻ miệng kêu "Vì nước vì quân vì dân", thật ra thì kết giao bè đảng, trắng trợn hốt bạc, đây là lần đầu tiên thấy người nói được làm thật như Triệu Bạch Ngư.

Nhưng lão chẳng thấy có gì để phải kính nể, chỉ thấy gai mắt.

"Triệu đại nhân, ngài chăm chỉ quá rồi." Dương tham mưu không cho rằng Triệu Bạch Ngư có thể tiến xa trên quan trường, lão nhìn từ trên cao xuống mở giọng khuyên nhủ: "Trước đây Đỗ đạc chi đảm nhiệm chức quan này của ngài, lão ta quen thuộc Tam ty, danh mục thu thuế của thiên hạ trên ba ngàn lão đều nằm lòng, nhưng cớ vì sao lão không dám quyết đoán cải cách Nha môn Thủy vận? Ngài có biết nguyên nhân hay không?"

"Mong được nghe rõ."

"Nghe nói đại nhân thông minh tuyệt đỉnh, ngài cứ từ từ mà suy nghĩ."

Nói xong, Dương tham mưu cười nhạt rồi rời đi.

Một đám thương nhân cũng đi theo, lúc bước qua Triệu Bạch Ngư còn trừng mắt với y, lắt nhắt vài tiếng cười mỉa vang lên, có một kẻ còn táo bạo hơn, nhổ một bãi nước bọt xuống đất.

Nghiên Băng giận dữ: "Ngươi dám làm nhục mệnh quan triều đình?"

Thương nhân kia đanh đá đáp lại: "Trong cổ vướng đờm ấy mà. Nếu như đại nhân cảm thấy tiểu nhân khạc đờm là vũ nhục ngài, thì cứ truy bắt ta vào đại lao đi."

Nghiên Băng giận đến xanh mặt: "Ngươi!"

Triệu Bạch Ngư ngăn nó lại, mà thương nhân kia chỉ cười giễu một tiếng rồi nghênh ngang bỏ đi.

Nghiên Băng cảm thấy oan ức vô cùng: "Ngũ lang, chúng ta bị chơi một vố rồi!"

Triệu Bạch Ngư cười: "Ta thì thấy chưa chắc đã thua đâu."

Nghiên Băng: "Ngài không tức ạ? Ta thấy mặt mũi bọn chúng hả hê liền giật không chỗ xã, rõ ràng chúng đã quen thói trốn thuế rồi, ngài vì chức trách, vào trong miệng chúng ngài lại biến thành kẻ mưu danh cầu lợi tham công!"

Tâm tính của Triệu Bạch Ngư thật sự nhã nhặn, đến cả vẻ tức giận biểu hiện ra lúc chất vất đám thương nhân kia cũng là y diễn.

"Lúc trước làm Thiếu doãn, quan nhỏ lời nhẹ, trên giận dưới khổ, khó khăn hơn bây giờ nhiều."

Nghiên Băng vẫn lầu bầu: "Có thể giống nhau sao... Ngày đó ngài là quan thất phẩm tép riu, bây giờ là kinh quan ngũ phẩm, đến cả Khâm sai thay vua tuần thú cũng từng làm qua, sau lưng còn có Lâm An quận vương làm chỗ dựa, sao phải chịu đựng đám người kia gây khó dễ chứ ạ!"

Triệu Bạch Ngư nghe lời này, thoáng cái sắc mặt nghiêm lại: "Nghiên Băng, nếu như ngươi còn muốn đi theo ta học hỏi thì tốt nhất nên suy nghĩ và giữ thái độ đúng đắn!"

Giọng nói nghiêm nghị dọa được Nghiên Băng, nó lúng túng đáp lại: "Dạ biết, biết rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Đi phát tiền cho những công nhân hôm nay đã đến đây đi. Nói cho bọn họ hay, nếu như còn muốn kiếm tiền, giờ thìn ngày mai lại đến đợi ở cửa sau, bảo rằng bổn quan cam kết sẽ thanh toán tiền công cho bọn họ trước."

"Vâng." Nghiên Băng nhanh chân đi làm ngay.

Triệu Bạch Ngư nhìn về phía Phó sứ Thuế vụ đang lặng lẽ xoay lưng muốn chạy: "Lao phó sứ hãy dừng bước."

Phó sứ Thuế vụ cười mỉa: "Hạ quan tham kiến đại nhân."

Triệu Bạch Ngư bước tới, đi một vòng quanh Phó sứ quan sát ông ta, sắc mặt bình tĩnh, thỉnh thoảng để lộ ý nghiền nghẫm, Phó sứ đoán không ra nên hoảng hồn, người ngợm khó chịu.

"Đại nhân có chuyện gì cần giao phó?" Phó sứ Thuế vụ dè dặt hỏi.

"Không có gì." Triệu Bạch Ngư dừng lại bên cạnh Phó sứ rồi vỗ vai lão một cái: "Chỉ là ta đột nhiên nhận ra không thể xem thường bất cứ ai, con người cũng như con kiến, một hạt gạo nhỏ thôi cũng có công dụng rất lớn rồi. Nhất là một vài lão quan bên dưới, chớ coi bọn họ là quan nhỏ cả đời không có tiền đồ, thật ra họ rất thông minh, thứ đồ béo bở ngon lành đều nhét đầy hầu bao, thậm chí còn nhiều hơn cả một vài kinh quan ngũ lục phẩm nữa kia."

Phó sứ Thuế vụ cười gượng đáp: "Đại nhân nói đùa."

Triệu Bạch Ngư: "Ta cũng đâu nói ông, ông căng thẳng làm gì?"

Phó sứ lau trán, cười xòa: "Hạ sai đi đường vội nên nóng, nóng thì đổ mồ hôi, không phải căng thẳng."

Triệu Bạch Ngư cũng cười, "Hơn nửa đêm Lao phó sứ chong đèn mà đến, ái cương kính nghiệp*, đúng là làm khó ông tuổi đã cao còn phải phí công chạy tới một chuyến. Như vậy đi, ngày mai ta vẫn còn phải thuê mấy công nhân kia, ông giúp ta ghi lại tên, chia thẻ bài cho bọn họ đi. À đúng rồi, ta còn cam kết trả tiền công trước hạn nữa đấy."

(*) Ái cương kính nghiệp (爱岗敬业): yêu công việc trên cương vị của mình và có thái độ nghiêm túc với công việc đó

Phó sứ Thuế vụ gật gù liên tục: "Nào dám không tòng mệnh. Nào dám không tòng mệnh." Nghe đến câu cuối cùng thì sững sốt: "Vậy, tiền công đó ở đâu ra? Bạc để thuê người của Nha môn chúng ta không có nhiều, không chịu được tổn thất lớn như vậy."

Triệu Bạch Ngư: "Ông ứng tiền giúp ta trước đi."

"À... Hả?" Trông Phó sứ Thuế vụ vô cùng đau khổ, cho rằng cấp trên mới nhậm chức của mình thua đau trước Dương tham mưu nên trút giận sang mình, vì vậy lão không thể không nghe lời, như đưa đám đáp lại không dứt câu: "Nào dám không tòng mệnh."

Bên kia Nghiên Băng đã phân phát tiền cho công nhân xong, vội vàng chạy theo sau Triệu bạch Ngư, Lưu đô giám cũng bị gọi theo, ba người cùng nhau đi ra từ cửa sau.

Triệu Bạch Ngư: "Ta phải phiền Lưu đô giám chỉ bảo cho tất cả khoản thương thuế của Nha môn Thủy vận, thêm cả tên gọi ý nghĩa của vài loại thế phụ bên dưới nữa."

Lưu đô giám khoát tay: "Sao lại nói là dạy bảo được? Nếu đại nhân muốn biết, hạ quan sẽ dốc túi truyền cho."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy ngày mai ta đến tìm ngài."

Lưu đô giám gật đầu, sau khi chia tay bọn họ thì đứng tại chỗ xoa tay, lúc này mới cảm thấy gió đêm thổi tới rét buốt, ông che kín áo lại không ngừng lắc đầu: "Hóa ra trước đây là giả vờ giả vịt lơ là à... Không phải là không được như ý, có lẽ Nha môn Thủy vận này thật sự đến lúc gió nổi nước lên rồi."

Một phía khác, Triệu Bạch Ngư trầm lặng đi một quãng đường xa mới nói với Nghiên Băng: "Ngày mai ngươi đừng đi theo ta."

Nghiên Băng như bị sét đánh, tim đập rộn lên cầu xin: "Ngũ lang ơi, ta biết sai rồi, hôm nay ta kích động quá, còn có suy nghĩ nịnh hót bề trên chèn ép kẻ dưới nữa, sau này ta sẽ không làm vậy nữa đâu, ngài đừng đuổi ta mà."

Triệu Bạch Ngư đành bảo: "Ta muốn để cho ngươi đi ra ngoài chợ, gầm cầu hoặc là mấy ngôi miếu đổ nát ngoài ngoại ô tìm mấy tên lang thang cả ngày ăn không ngồi rồi, hoặc là hiệp khách trong vòng mười dặm xóm làng rồi kết giao với họ."

Không phải là không cho phép nó đi theo làm việc cùng.

Nghiên Băng thở phào nhẹ nhõm: "Ngoài đó đa số là mấy tên du côn lưu manh, ngài cần bọn họ làm gì?"

"Nhân vật nhỏ có địa vị thấp kém đến đâu cũng sẽ có tác dụng không tưởng được, đừng trông mặt mà bắt hình dong." Triệu Bạch Ngư thu tay, mặc cho gió lạnh chui vào tay áo rộng, thổi vạt áo bay phấp phới, nhẹ bước từng bước về phía trước, từ tốn thong thả dạy cho Nghiên Băng: "Đại quan nhất phẩm thì sao? Quan bé cửu phẩm thì sao? Dân thường thì sao? Côn đồ lưu manh thì sao? Phân biệt được loại người chỉ có thiện ác chứ không phải là xuất thân hay địa vị. Bây giờ ta là kinh quan ngũ phẩm, nhưng trên đầu còn có quan lớn hơn, cần hơn một cấp thôi là cũng đủ đè chết người rồi. Chuyện ngày hôm nay là ta đi sai một nước cờ, dù chỗ dựa có là ai thì cũng không thể vượt qua quốc pháp, vì vậy người thật sự có lòng muốn chỉnh chết ta sẽ không kiêng kỵ quyền thế sau lưng ta."

"Vì sao đám thương gia hôm nay dám lên mặt với ta như thế? Chắc chắn là vì chỗ dựa của bọn họ có quyền thế lớn hơn ta, cho nên không hề sợ hãi. Mà hành động này của ta là thể thăm dò cắt đứt đường tiền của chúng, mà cắt đứt đường tiền như giết cha giết mẹ, quan trường không tới vì tài do có chỗ kiêng dè, cần phải trông trước ngó sau, nhưng đối với thương nhân thì tiền bạc là mạng! Dù ta có là dòng dõi thiên hoàng quý tộc hay đại quan nhất phẩm, chỉ cần đánh gãy tài lộ của người khác sẽ bị đám thương nhân chực chờ cơ hội này cắn chết. Kiến nhiều cắn chết voi, chớ xem thường thương nhân ăn tiền mà sống."

Nghiên Băng nghĩ ngợi rồi đáp: "Ngài dạy ta không được dùng thận phận, quan chức cao thấp xem thường bất kì người nào, cũng không cần quá để ý các thương nhân bất kính với ngài, bởi vì chuyện chúng ta làm là để cắt đứt tài lộ của bọn họ, nhận lấy ánh mắt căm thù mới là chuyện bình thường... Nhưng cứ để mặc cho bọn họ hiếp đáp vậy sao?"

Triệu Bạch Ngư: "Thương nhân trọng lợi, thấy gió được đà, đến cùng ta cũng không thật sự cắt đứt nguồn tiền của chúng, chúng xem thời cơ rồi cắn một nhát nhưng sẽ không dám liều mạng."

Nghiên Băng: "Nhưng lần này ta không bắt được cái chuôi của đám thương nhân, trái lại bị xem là quân cờ, thế nào cũng rút dây động rừng, tiếp theo nên làm gì đây ạ?"

Triệu Bạch Ngư: "Bây giờ ta và bộ Hộ cách không đấu pháp, phải ép đám thương nhân kia chọn phe đứng."

Nghiên Băng: "Hả? Là ý gì?"

Triệu Bạch Ngư: "Ngày mai ngươi..."

Y nói tỉ mỉ kế hoạch của mình, thi thoảng Nghiên Băng lại gật đầu.

Phía cuối đường là bóng đêm mờ mịt, tiếng vó ngựa lộc cộc vọng tới, Triệu Bạch Ngư giương mắt nhìn lên, đó là Hoắc Kinh Đường vừa trở về từ thao trường.

Nghiên Băng lanh lợi nói nó có chuyện phải đi trước một bước, nói xong co giò chạy mất.

Hoắc Kinh Đường xuống ngựa, sóng vai với Triệu Bạch Ngư về phủ.

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Ở thao trường bận lắm à?"

Hoắc Kinh Đường: "Mới chiêu mộ một đội Cấm quân, muốn bồi dưỡng thành Cấm quân triều đình, còn định chọn ra người kế nhiệm đến Tây Bắc làm việc hệ trọng từ đội đó." Hắn nhếch mép, vô cùng khinh thường: "Mơ mộng hão huyền."

Triệu Bạch Ngư không muốn đoán câu "Mơ mộng hão huyền" này là dành cho ai, chỉ hỏi: "Đưa đi tiếp nhận chi binh Tây Bắc trong tay Tĩnh vương à?"

"Ừ." Hoắc Kinh Đường đáp: "Phủ Trịnh quốc công và Đông cung đều tranh nhau, cũng chẳng màng nghĩ thử xem Thiên tử có muốn cho hay không."

Triệu Bạch Ngư không nhịn được hỏi: "Ta có một thắc mắc kì lạ. Trên đời này tìm đâu ra nhiều tướng tài trời sinh như chàng chứ? Vậy mà còn bảo chàng đích thân đi chọn, bồi dưỡng, cũng không biết là đang nể mặt hay là xem thường chàng nữa."

Nhờ Triệu Bạch Ngư tự giác lên tiếng bất bình thay mà tâm trạng vốn đang bức bối của Hoắc Kinh Đường bỗng bay biến hết ráo, đột nhiên hắn cảm thấy tình cha chỉ như một quả bóng, có thằng nhóc ranh chưa lớn mới muốn lấy được thôi.

"Gần đây em cũng thường đi sớm về trễ quá, Nha môn mới nhiều việc vậy sao?"

Triệu Bạch Ngư thuật lại chuyện hôm nay cho hắn nghe: "Lợi nhuận của thương thuế thủy vận rất lớn, nếu như có thể giao cho Thuế Vụ ti xử lí ổn thỏa, hằng năm triều đình có thể thu được hơn mấy triệu lượng thương thuế. Hơn nữa phủ Kinh Đô mà dẫn đầu hiệu quả thì sẽ đủ sức cảnh tỉnh cả mười tám tỉnh bên dưới, phỏng đoán giữ được ít nhất hơn mười triệu lượng bạc, vậy là xoa dịu được thiếu hụt của quốc khố và nội khố, cũng giảm bớt được căn bệnh sưu cao thuế nặng cho dân làm nông tự phát đã kéo dài từ khi mới lập triều."

Chế độ thương thuế của Đại Cảnh còn chưa hoàn thiện, vẫn lấy thuế đất làm chủ yếu, thiên tai nhân họa và chiến sự dồn dập dẫn đến việc thuế thu hằng năm tăng lên, trăm họ đã khốn khổ không tài nào tả nổi rồi.

Triệu Bạch Ngư cũng hy vọng có thể dằn bớt thương thuế lại, đồng thời san sẻ gánh nặng thuế đất cho người dân đỡ vất vả.

"Chỉ sợ thương thuế thủy vận không dễ nắm bắt."

"Chàng hiểu được gì?"

"Không chỉ bệ hạ nhìn thấy được mối hời to lớn mà thương thuế mang tới, những người khác cũng thấy được, nhất là những quan lại phụ trách quản lí thương thuế, bạc trắng đã từng qua tay bọn họ, ai mà không động tâm? Quan thương cấu kết, cành lá đan chen, chuyện bộ Hộ trong phủ có quan hệ mật thiết với thương nhân chẳng qua chỉ là một góc băng nhỏ của triều Đại Cảnh, những nơi khác như Lưỡng Giang, cảng Quảng Châu đã thối nát từ lâu, không phải bệ hạ không biết, mà là có tật khó sửa. Đương nhiên là ta kéo hơi xa thôi, lại nói về chuyện em gặp phải đi, người dưới trướng Hoắc lão ngũ không nói láo, Đỗ Công Tiên kiêm nhiệm Thuế vụ sứ ba năm mà không dám cải cách, có lẽ bởi vì thủy vận không chỉ dính líu đến một mình bộ Hộ."

"Hử?"

"Những thương nhân kia là nhà làm quan ở Kinh Đô, hoặc là nanh vuốt của kinh quan."

Triệu Bạch Ngư: "Đại Cảnh cấm quan triều thông thương."

"Nằm dưới ngũ phục* là được. Để lớp con cháu dưới ngũ phục hỗ trợ xử lý việc buôn bán, còn bản thân thì ở trong tối tạo điều kiện dễ dàng hết mức, đúng là tầm thường."

(*) Gia đình phụ hệ trong xã hội cổ đại của Trung Quốc có hậu duệ là đàn ông cùng với vợ con thường kéo dài trong phạm vi chín đời, từ đời cao tổ đến đời cháu chắt, ngũ phục là cỡ thời ông cố ông nội trở về trước đó.

Cũng đúng.

Ở hiện đại thì muốn làm quan chức không cần dưới ngũ phục, con hoặc cha mẹ vẫn có thể ra mặt thông thương được.

Không cần tìm đâu xa, anh họ hàng xa của Tần vương không phải kinh doanh đầy sòng bạc quán tượu tư nhân trong phủ đó sao?

Triệu Bạch Ngư im lặng tiếp tục bước đi, không kịp trở tay khi Hoắc Kinh Đường bất ngờ nói: "Phủ quận vương cũng có."

"Cái ——!" Triệu Bạch Ngư nghiêng đầu nhìn hắn, trong mắt khó nén nổi kinh ngạc.

Hoắc Kinh Đường bình tĩnh nói với y: "Tiền triều xa hoa lãng phí, triều này lấy đó làm gương, mặc dù nghiêm cấm làn gió hoa chương, nhưng đã ra ở riêng thì nhà to hơn, nô bộc cũng nhiều hơn, chỉ dựa vào bổng lộc và đất đai trên danh nghĩa thì không nuôi nổi nhiều người như vậy, mà vật vua ban cho phần lớn không thể đem bán, không ai muốn ăn không ngồi rồi, chỉ có thể nghĩ cách dùng tiền sinh tiền, tiền từ buôn bán chính là nguồn tiền nhanh chóng nhất."

Triệu Bạch Ngư chợt hiểu ra: "Chẳng trách."

Chẳng trách dưới chân thiên tử, món hời thương thuế thủy vận to lớn như vậy còn có thể bị tham ô mà chẳng ai dám tố cáo, bởi vì chuyện cũng liên quan đến bản thân mình, không một ai sạch sẽ.

Hoắc Kinh Đường đột nhiên hỏi lạ: "Tiểu lang có vì ta mà làm việc thiên tư* hay không?"

(*) vì tình riêng mà làm việc bất hợp pháp

Triệu Bạch Ngư mờ mịt trong sương, dùng biểu cảm kì quái hỏi ngược lại: "Vì sao phải thiên tư? Tìm người khác giúp chàng buôn bán cũng chẳng phải phạm pháp. Còn nếu người kinh doanh hộ chàng có giao sáu thành thuế cho bộ hộ hay không, hoặc mượn cơ hội trốn thuế... Ta không có ý định truy cứu ghi chép việc tàu thuyền vận chuyển qua lại trốn thuế, huống chi nó vốn không thể truy được. Chỉ mong rằng trong nhiệm kì này ta đảm bảo được thương thuế vận chuyển có thể qua tay mình chảy vào quốc khố, đồng thời đảm bảo trước khi từ chức, ít nhất phải thiết lập được một hệ thống thương thuế thủy vận tương đối ổn định và phải được thiết lập rộng rãi trên cả nước, không yêu cầu phải thanh liêm, chỉ cần bốn năm phần thuế ấy xung vào kho bạc, giảm được nỗi khổ sưu thuế cho trăm họ là được rồi."

Y chưa từng tự cao xem mình là chúa cứu thế, mưu toan dùng sức mình phá bỏ chế độ phong kiến mục nát cũ kỹ, chỉ luôn hy vọng rằng bản thân có thể hết sức cố gắng làm chuyện nằm trong phạm vi năng lực của mình.

Nhậm chức quan mới, mục tiêu từ đầu đến cuối của Triệu Bạch Ngư rất rõ ràng, trước mắt phải đảm bảo chuyển số thương thuế thủy vận từ bộ Hộ sang Thuế vụ ty, chưa từng muốn truy cứu ghi chép trốn thuế của các tàu thuyền vận chuyển.

Có ba nguyên nhân, một là không có ghi chép không chứng cứ, căn bản không thể truy. Thứ hai là luật pháp tương quan của thương thuế thủy vận vốn có rất nhiều sơ hở, gươm tiền triều không thể chém quan bổn triều, chờ đến lúc y chỉnh sửa chỗ sơ hở đó mà còn có người tái phạm nữa thì lại tra xét cũng không muộn. Ba là theo như Hoắc Kinh Đường nói, chỉ sợ nó thật sự dính líu đến không ít người.

Cũng giống như việc ba tỉnh sáu bộ thiếu tiền nội khố là tình trạng bình thường, đây là vấn đề còn sót lại thuộc cơ chế chính trị.

Có vài người thật sự không hề muốn trốn thuế, song vì hùa theo số đông, trong người không có quyền lực nên chẳng dám chống đối.

"Cơ mà phủ quận vương có nhu cầu dùng đến thuyền vận chuyển để làm ăn sao? Vận chuyển cái gì? Người khác thì ta không dám nói, nhưng chàng trốn thuế sao?"

Y quản lý thương thuế thủy vận, nếu phủ quận vương không dùng đường thủy để thông thương thì y cũng không quản nổi, càng không phải cấu kết gì với đám người bộ Hộ thì đương nhiên không thể gọi là trốn thuế được.

"Từng vận chuyển lương thực và củi đốt."

"Miễn thuế."

"Không có miễn."

Triệu Bạch Ngư lườm Hoắc Kinh Đường: "Chàng đùa ta đấy à?"

Hoắc Kinh Đường cười đáp: "Hy vọng tiểu lang yêu thương ta."

Chỉ nhìn bề ngoài thì trông tư thế của Hoắc Kinh Đường rất ưu nhã, hôm nay hắn mặc áo bó tay, khoác bên ngoài một chiếc áo choàng màu xanh lam thêu hạc, vạt áo bị gió thổi phất lên, dáng vẻ trầm tĩnh không nói lời nào giống như sắp mọc cánh thành tiên, nhưng chỉ cần vừa mở miệng thì chẳng khác nào kẻ vô tư lự khắc sâu dấu vết hồng trần vào xương tủy giấu mình trong lớp vỏ thần tiên.

Chẳng biết là người này đã chịu ảnh hưởng của thứ gì, đường đường là người quyền cao chức trọng hiểu biết lễ giáo nghiêm khắc của xã hội phong kiến, hẳn là phải quan tâm đến thể diện của mình hơn bất kì ai khác, ấy vậy mà lại có thể nói khoác không biết ngượng cầu xin tiểu lang quân nhà mình thương xót cho.

"Nào có ai như chàng..." Rõ ràng Triệu Bạch Ngư là người hiện đại, lúc này còn bảo thủ hơn cả Hoắc Kinh Đường, thấp giọng mắng: "Thú vui khuê phòng sao mà nói ra ở nơi đông người được chứ!"

Hoắc Kinh Đường vờ vịt nhìn quanh bốn phía: "Người ở đâu? Đông hồi nào? Huống hồ trông mong được tiểu lang quân thương yêu ưu ái là nguyện vọng mà tất cả cặp vợ chồng trên đời này đều khao khát, em ta thế tục vợ chồng, đâu thể thoát tục được?"

Triệu Bạch Ngư: "..."

Tâm tính Hoắc Kinh Đường co được dãn được, cần gì phải tranh đúng sai với hắn?

Bỏ đi, tùy hắn vậy.

Hoắc Kinh Đường gọi y: "Tiểu lang à."

Triệu Bạch Ngư liếc Hoắc Kinh Đường, người nọ thúc giục trong im lặng.

Thở dài.

Triệu Bạch Ngư bất lực: "Nếu như chàng ngồi tù, ta cùng chàng ngồi đến rục xương thì thôi được chưa."

Câu yêu thương xúi quẩy quá chừng.

Điều làm Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên chính là Hoắc Kinh Đường rất hài lòng với câu trả lời của y, mặc dù không nhìn ra được sự thay đổi biểu cảm quá lớn, nhưng khí tức vui vẻ bao quanh cả người hắn thì y cảm giác được.

"..."

Đúng là không giống ai.

***

Hôm sau.

Phó sứ Thuế vụ đến cửa sau của Thuế vụ ti đúng giờ, khó chịu ghi danh nhóm công nhân từ nha hàng tới, ước chừng khoảng hai trăm người, đều là đàn ông cơ thể lực lưỡng được chọn có chủ đích.

Có một ông già rõ ràng là người đứng đầu nhóm công nhân, treo bên hông tẩu thuốc, khập khễnh đi đến chỗ Phó sứ Thuế vụ nói: "Hôm qua Triệu đại nhân hứa với bọn ta sẽ tính tiền công trước khi bắt đầu làm việc, giờ thìn sẽ bắt đầu, ngài phải kết toán đi thôi."

Phó sứ Thuế vụ: "Bao nhiêu?"

Ông cụ đáp: "Mỗi người một trăm năm mươi văn, ở đây có hai mươi lăm người, bỏ qua số lẻ cho ngài, vậy tổng cộng là ba mươi hai lượng bạc."

Phó sứ Thuế vụ nghẹn họng trố mắt nhìn: "Nhiều vậy?!"

Ông cụ: "Đã tính rẻ hơn nhiều lắm rồi, thanh niên trai tráng ở đây bình thường đều chuyên dỡ hàng ngay bến tàu, một ngày họ có thể kiếm được hai trăm năm mươi văn đấy."

Phó sứ Thuế vụ vô cùng đau lòng, vô thức nhìn về phía Nghiên Băng, vậy mà nó chỉ làm ngơ nhìn đầu ngón tay, chẳng màng để ý.

Lao phó sứ không nhịn được thở gấp.

Dưới sự thúc giục liên hồi của ông cụ, Phó sứ Thuế vụ quay đầu nhìn đám người Lưu đô giám: "Ta không mang đủ tiền, không thì các ngươi bù giúp —— "

Lời còn chưa dứt, mấy người nọ đã tìm cớ bỏ chạy hết.

Phó sứ Thuế vụ bất lực, chỉ đành cắng răng bấm bụng trả tiền: "Cuối cùng là Triệu đại nhân thuê các ngươi để làm gì thế?"

Ông cụ liếc nhìn Nghiên Băng, không đáp.

Nghiên Băng chợt hoàn hồn: "À phải, Nha môn chúng ta đang thiếu người mà nhỉ? Đại nhân thuê bọn họ đến các cửa khẩu và bến tàu trong phủ kiểm tra xem có tàu thuyền nào ra vào Kinh Đô hay không, phát hiện chiếc nào cản chiếc nấy. Đại nhân còn cho phép bọn họ thay mặt Công sứ Nha môn, khóa thuế thuyền vận chuyển.

Phó sứ Thuế vụ không nhịn được chế giễu: "Đừng nói ta không nhắc, không phải trước đây chưa từng có người thử qua cách này, nhưng mười ngày nửa tháng cũng cản không nổi bảy tám chiếc tàu, thu chưa tới trăm lượng thuế, Triệu đại nhân giống trống khua chiêng vất vả một phen, chỉ sợ rằng không chèo chống nổi một tháng."

"Chẳng sao." Nghiên Băng không hề hấn gì: "Đại nhân nhà ta nói, cách này không hữu hiệu với người khác là bởi vì thiếu nhân viên, theo dõi không sát sao, cho nên đại nhân định thuê thật nhiều người, mỗi ngày mười hai canh giờ dán mắt vào bảy cửa cống, mười bốn cầu và bảy bến tàu phủ Kinh Đô này. Không cần một tháng, chỉ tốn nửa tháng thôi, thương nhân trong phủ sẽ đứng ngồi không yên ngay."

Nụ cười bỡn cợt trên mặt Phó sứ Thuế vụ đọng lại trên mặt, thất thần lẩm bẩm: "Nha môn nghèo nàn, hao tổn kinh phí không vực dậy nổi..."

"Không phải đại nhân bảo ngài ứng tiền trước sao?" Nghiên Băng ngjac nhiên hỏi.

Nhất thời Phó sứ tái mặt, hít thở dồn dập.

"Lao phó sứ sợ đại nhân nhà ta không tấu tiêu giúp ngài à? Đừng sợ, chờ thêm nửa năm Nha môn Thương thuế của chúng ta gom tiền đầy túi rồi sẽ bù lại cho lần hao hụt này của ông. Đại nhân còn nói, nếu như thuận lợi thu được số thuế thương nghiệp này, nhất định sẽ dâng tâu chương lên bệ hạ, tấu bẩm phần công sức mà Lao phó sứ ngài bỏ ra, công lao đó sẽ chiếm tận tám phần. Ngài yên tâm đi, đại nhân nhà ta có bao giờ cướp công ai đâu..."

Một ngày ba mươi hai lượng, nửa tháng xấp xỉ năm trăm lượng, nhà lão có là núi vàng núi bạc cũng không chịu nổi tiêu hao cỡ đó tiền!

Nha môn Thuế vụ thủy vận rách nát này sẽ phải chi ra bao nhiêu kinh phí?

Ít nhất ngàn lượng một năm!

Bù lại tiền cho lão kiểu gì?

Nếu như mười ngày nửa tháng không thấy hiệu quả, có phải còn cần tiếp tục vung tiền hay không?

Lại còn nửa năm thu triệu lượng thương thuế... Đỗ Công Tiên là đại quan nhị phẩm đương triệu quản thủy vận ba năm trời, năm ngoái cũng mới chỉ nhận được ba trăm nghìn lượng thương thuế, làm sao Triệu Bạch Ngư dám nói khoác không biết ngượng như vậy?

Ai góp sức cho Triệu Bạch Ngư?

Là y ứng tiền ra sao?

Phó sứ Thuế vụ càng nghĩ càng giận, năm giác quan dần mơ hồ, loáng thoáng nghe được tay sai của Triệu Bạch Ngư nói một câu "Lao phó sứ ngài có phải vui sắp ngất rồi không? Bao nhiêu người muốn có được cơ hội này mà đại nhân nhà ta đặc biệt trao nó cho ngài, đó là hết sức coi trọng ngài đấy", đột nhiên trong cổ họng ngọt ngọt, mắt trợn ngược lên, trời đất quay cuồng, ngất ngay tại chỗ.

==

Tác giả muốn nói:

Bé Cá: Cùng chàng ngồi tù rục xương.

Lão Hoắc: Sẵn lòng ngồi tù với ta... Quả nhiên em ấy rất thích ta!

-

Lao phó sứ: Ai góp sức cho Triệu Bạch Ngư? Là y ứng tiền ra sao?

Bé Cá: Đúng vậy.

==

Min: Mình đã mở lại wordpress và đang trong quá trình chuyển đổi dần truyện về bên đó, chương mới sẽ được up trên wattpad trước rồi mới đến wordpress.

Mọi người ghé qua nhà chơi nha ~

Nhà mình đây nè: https://dreaminadream04.wordpress.com

Thêm nữa là mình đang beta lại truyện "Đếm ngược thời gian sống sót" từ chương 1 - chương mới nhất vì cần thống nhất lại một vài từ - cụm từ, dò chính tả cũng như sửa lại mấy chỗ sai sót ngu ngók của mình, nên làm phiền các bạn nhận thông báo nếu mình có cập nhật lại truyện ở wattpad nhen (づ  ̄ ³ ̄)づ iu ~♥

Chương 54

Hai trăm công nhân quanh quẩn ở bến thuyền, cửa cống và cầu cảng suốt nhiều ngày liền, không cần phải làm việc gì nặng nhọc, chỉ cần theo dõi thuyền hàng, kiểm tra xem có nộp thương thuế hay chưa là được.

Nếu như không đóng thuế thì đưa người đến chỗ Công sứ của Thuế Vụ ty, giao lại cho bọn họ ghi tên, khảy bàn tính tính tiền đóng thuế ngay tại chỗ.

Từ sau chuyện Triệu Bạch Ngư làm ở bến thuyền mấy ngày trước, thương nhân trong phủ chỉ cần nghe nhắc đến là mặt biết sắc, rối rít tạm ngưng chở hàng, có người còn nghĩ số mình may mắn, nào ngờ đều bị bắt tại trận hết.

Tiếng tăm vang xa lòng người bàng hoàng, hàng hóa của bọn họ bị trì hoãn ngày nào, tiền bạc tổn thất ngày ấy nhiều không đếm xuể, xem ra ý đồ của Triệu Bạch Ngư chính là muốn kháng chiến trường kỳ với bọn họ.

Y tiêu hao đủ thứ cho cái Nha môn Thủy vận nát bét đó, nhưng đám tiểu thương bọn họ không thể nào bị hao hụt được!

Thế là thường xuyên có người cầu kiến Dương tham mưu, muốn thông qua lão để nói rõ tình huống cho bộ Hộ biết, bọn họ nộp sáu thành tiền thắng cho bộ Hộ, không lý nào mà đến nước này rồi trên đó vẫn cứ như con rùa đen rụt cổ, lẽ ra bộ Hộ nên âm thầm thương lượng với Nha môn thủy vận Thuế Vụ ty, nhanh chóng giải quyết vụ này mới phải.

Nhưng từ đầu đến cuối chẳng có động tĩnh gì, Dương tham mưu chỉ nói bọn họ vẫn đang nghĩ cách, bảo các thương nhân an tâm chớ nóng vội.

Triệu Bạch Ngư cách không đấu pháp với bộ Hộ, bộ Hộ nhẫn nhịn không tấn công, cũng không đáp lại không có nghĩa là không nắm bắt được tin tức.

Lý do thoái thác kiểu đấy, các thương nhân không thể chấp nhận được.

Bọn họ là thần là tiên, ngồi vững như thái sơn, biết nhìn xa trông rộng, có thế quyết định thắng bại thiên lý, nhưng Thuế vụ phó sứ chỉ là nhân vật thấp cổ bé họng, túi tiền bị tiêu sạch vô cùng bức bối.

Trả tiền công cho công nhân trong bảy ngày liên tục, Thuế vụ phó sứ không gánh nổi nữa.

Lão nghĩ tới nghĩ lui, quyết định cầu kiến Triệu Bạch Ngư, nhưng Triệu Bạch Ngư nhất quyết muốn lão sốt ruột, căn bản không tài nào chủ động gặp mặt được, vì vậy đến cả cửa phủ quận vương Thuế vụ Phó sứ cũng chưa từng đến gõ.

Lão quyết định há miệng chờ sung, nhưng Triệu Bạch Ngư không đến Nha môn điểm mão, ngay cả bóng dáng cũng chẳng thấy đâu.

Theo như lời Dương tham mưu nói, Ngự Sử đài đã nộp sổ con tố Triệu Bạch Ngư ngày qua ngày không đến Nha môn Thủy vận, thật ra là lơ là cương vị.

Cuối cùng trong triều lại có đại thần nói giúp Triệu Bạch Ngư, bảo tuy người không đến Nha môn nhưng cũng đã đích thân ra trận, bất chấp gió lạnh đi khắp cửa cống bến thuyền làm việc, có thể nói là cúc cung tận tụy lắm rồi.

Sau khi ngươi tới ta lui kéo đẩy qua lại, Nguyên Thú đế vô thưởng vô phạt mắng Triệu Bạch Ngư làm trái với quy tắc điểm mão của quan triều, nhưng lại khen y đúng là tận trung với cương vị, khuyên bảo quan triều có lúc đừng nên quá bảo thủ với cái cũ.

Tỏ thái độ một lần đã đủ để chu toàn mọi mặt, bất kể là tâm tư của ai đi nữa thì cũng đã được xoa dịu, cũng chẳng có ai bị phạt, chuyện này nhanh chóng được lật sang trang mới.

Thuế vụ phó sứ biết kết quả, bực dọc đến độ trở bệnh nặng một trận nên xin nghỉ phép ở nhà, còn muốn mượn cớ này thoát khỏi cảnh cấp trên nhờ "hỗ trợ ứng tiền trước", nào ngờ Nghiên Băng đưa hơn hai trăm công nhân vào trạch viện của lão, làm ồn hàng xóm láng giềng mấy hôm, ngay cả vợ con lão cũng phát cáu mà dọn về nhà mẹ đẻ ở.

Bệnh tình của Thuế vụ phó sứ khổ không tả nổi chuyển biến tốt hơn chút, thương nhân trong phủ đã tìm đến lão tố khổ.

"Đại nhân, ngài mau nghĩ cách đi, từ lúc vị Triệu đại nhân này nhậm chức, hàng hóa của các nhà buôn chúng tôi đã ở yên suốt cả tháng trời rồi, thật sự là không tiêu hao nổi nữa. Nếu như bộ Hộ không giải quyết chuyện này xong sớm thì thứ cho bọn ta đứng về phía Nha môn, dù sao cũng chỉ phải bù vào bốn thành tiền thắng, còn đỡ hơn là chẳng nhận lại được gì còn lỗ vốn."

"Vậy sao được?" Thuế vụ phó sứ bật thốt lên: "Chư vị có quan hệ thân thiết với bộ Hộ, hợp tác đã nhiều năm trời, chẳng lẽ còn không biết bản lĩnh của bộ Hộ? Huống chi nhận thua một lần, từ nay về sau cũng phải đóng hơn bốn thành tiền thắng. Chưa kể nhà ông chủ Vân ngài hàng năm chạy đi chạy về Nam Chiếu cũng chừng ba mươi chuyến, mỗi chuyến đóng nhiều lắm là hai mươi lăm nghìn lượng bạc thuế, nhiều năm liền chẳng phải sẽ tốn một khoản rất lớn hay sao."

Ông chủ Vân nghe vậy cũng đau lòng: "Đây không phải là tình trạng khó khăn bây giờ à? Nếu như bọn ta có thế thấy được hy vọng phá vỡ cục diện, tự khắc biết nên lựa chọn thế nào. Nhưng bộ Hộ chẳng có động tĩnh gì, trong lòng bọn ta quả thực không chắc chắn."

Những thương nhân khác rối rít hùa theo.

Thuế vụ phó sứ: "Các ngươi ráng chịu đựng thêm hai ngày nữa đi, để ta thương lượng với Dương tham mưu đã."

Nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo đến, Dương tham mưu đẩy cửa ra nói: "Bến thuyền, cửa cống ngoài kia đều đã đút lót xong hết rồi, tối nay giờ tý chia nhau ra bốn kênh rời khỏi phủ Kinh Đô. Hãy nhớ, dù cho trên bờ có kẻ nào ngăn cản, các ngươi đều phải bịt tai không nghe, giương buồm khởi hành rồi là không dừng lại nữa, binh lính canh phòng ở các cửa khẩu sẽ phối hợp với các ngươi."

Nghe vậy, mọi người lập tức trở nên vui vẻ hẳn, ai nấy trở về kiểm kê lại hàng hóa và tàu thuyền, chỉ đợi đến lúc là lên đường ngay.

***

Hành tung của thương nhân trong phủ đều rất bí ẩn, cố gắng đề phòng các công nhân Nha hàng, mà các công nhân đó chỉ quanh quẩn ở các địa điểm cố định, hiển nhiên là không phát hiện ra hành động lần này, tuy nhiên nó không gạt được những kẻ lang thang và hiệp khách ở khắp phủ.

Trong phủ vừa có động tĩnh, lập tức có người chạy đi báo cáo.

Nghiên Băng báo lại cho Triệu Bạch Ngư chuyện này: "Điệu bộ không nhỏ, quả nhiên là không chịu đựng được! Vậy thì ta đến Nha hàng triệu tập nhiều người hơn, đêm nay đi bắt cá lớn thôi!"

Bỗng chốc, Nghiên Băng nhớ đến tháp phòng thuế, cậu hơi lo lắng: "Bọn họ sẽ không có chuẩn bị kế khác, làm chúng ta vồ hụt lần nữa chứ."

"Bảy mươi chiếc thuyền lần trước đã khiến cho bộ Hộ tổn thất mấy trăm nghìn lượng rồi, công thêm một tháng qua không có thương thuế nhập sổ, tổn thất quá lớn, sẽ không thể dùng chiêu tháp phòng thuế được nữa." Triệu Bạch Ngư vuốt ve vòng Phật như có điều suy nghĩ: "Thương nhân trong phủ cũng ra tay rồi, chỉ e là đêm nay phải có chừng trăm con thuyền rời kinh. Dám cược nhiều thuyền hàng như vậy, ắt là đã có chuẩn bị."

Lưu đô giám dự thính giật giật môi, muốn nói gì đó, song do dự trong lòng một chút rồi lựa chọn im lặng.

Triệu Bạch Ngư để ý đến sắc mặt của ông ta, bèn hỏi: "Lưu đô giám có gì muốn nói?"

Lưu đô giám chần chừ: "Thật không dám giấu giếm, lúc trước khi Đạc Chi sứ kiêm nhiệm Thuế Vụ sứ, quản lý thủy vận không đến nửa năm đã bị cách chức. Lúc đó ông ấy cũng táo bạo như ngài vậy, chỉ tiếc quá cấp tiến, bị người ta nắm được chỗ sai nên cắt chức rời kinh, Khi đó ông ấy cũng thuê người theo dõi ở cửa cống và các bến thuyền, đám thương nhân đó pha trò mấy ngày, một đêm nào đó bỗng tập trung mấy trăm chiếc thuyền hàng lại, nhao nhao căng buồm khởi hành, thế như chẻ tre, vị đại nhân kia mang một lượng lớn nhân viên đến nhưng lại bất lực nhìn thuyền chạy đi xa."

Nghiên Băng cảm thấy kì quá: "Tàu thuyền rời kinh phải đi qua cửa cống to, chỉ cần đóng cửa chạn lại, hoặc là thả thuyền nổi chặn đường là được mà?"

Lưu đô giám để lộ vẻ mặt bất lực: "Vấn đề chính là ở đây này, người lái thuyền nổi và ở các trạm gác cầu cống ngày thường được đút tiền no, thường mắt nhắm mắt mở cho qua. Bây giờ ngài còn đang đấu pháp với bộ Hộ, người ở trạm gác sẽ không ai giúp ngài đâu, chúng chỉ đợi bộ Hộ dâng cúng thôi. Ta đoán bọn họ đã đánh tiếng rồi, đêm nay dù ai đi, trạm gác cũng sẽ không chặn cửa thả thuyền nổi, mà sẽ làm như không thấy mở cửa thả thuyền lớn. Đại nhân có tự mình đi cũng sẽ không thể phân thân ra nhiều trạm được, chỉ có thể trơ mắt mà nhìn thôi."

Nghiên Băng phẫn uất: "Nham hiểm trơ tráo!"

Lưu đô giám: "Thật ra thì đại nhân có thể ép đám người kia neo thuyền hàng suốt một tháng trời đã là việc không ai làm được rồi, trước đây Lộ đại nhân chỉ giữ được tám ngày, chi phí do nhà nước cung cấp cho Nha môn cũng không chịu được, tấu tiêu cuối năm lại bị ai đó cố tình làm vướng víu, đến khi thiếu hụt nghiêm trọng liền bị nắm thóp tố cáo lên trên."

Nghiên Băng vui mừng: "Cũng may tiền này là do Lao phó sứ bỏ ra."

Triệu Bạch Ngư cũng tự cho là đúng: "Lao phó sứ lao khổ công cao."

Khóe môi Lưu đô giám run run: "..." Lao phó sứ quen thói sống phách lối gặp phải đả kích nghiêm trọng, bệnh liệt giường đã nhiều ngày, tên "đầu sỏ" ngược lại còn nói cảm ơn.

... Có điều cũng khiến lòng người hả hê.

"Một khi thuyền hàng giương buồm, rời khỏi cửa ngõ, bến thuyền, đi ra cửa cống thì chính là trời cao biển rộng không gì có thể ngăn trở. Mặc dù công nhân ở Nha hàng có cơ thể khỏe mạnh nhưng cũng là một thân máu thịt, không thể chống lại thuyền lớn."

Triệu Bạch Ngư mỉm cười: "Cũng không phải không có cách. Lái buôn ở Nha hàng giao thiệp rộng, thần thông quảng đại. Nghiên Băng, ngươi đi tìm lão già vắt tẩu thuốc bên hông hỏi xem có thân thuyền bỏ hoang nào và xích sắt hay không, trong vòng hai ba giờ tới có thể kéo thân thuyền đó đến cửa cống ngoài bến thuyền hay không. Còn nữa, ta muốn một sợi xích dài có thể mắc qua bốn kênh, nếu không đạt được độ dài đó thì nối lại cũng được."

"Vâng." Nghiên Băng hoài nghi: "Nhưng xích sắt dài đó để làm gì ạ?"

Triệu Bạch Ngư: "Một cái khóa sông thô sơ."

Lưu đô giám và Nghiên Băng trố mắt nhìn nhau, cũng không biết khóa sông là cái gì.

***

Cổng thành trên bảy cửa cống lớn của phủ Kinh Đô đã lên đuốc sáng ngời, binh lính canh phòng nghiêm ngặt, Tràng vụ Giám quan đang cúi nhìn mặt nước đen ngòm như mực.

Lúc này đây, trên thành cửa cống phía tây, Dương tham mưu đang đứng sóng vai với Tràng vụ Giám quan.

Giám quan lấy lòng nói: "Xin đại nhân hãy yên tâm, chuyện này không phải lần đầu tiên, trong lòng các anh em đều hiểu rõ, bảo đảm thuyền hàng thuận lợi rời Kinh."

Sắc mặt Dương tham mưu không đổi, nhìn chằm chằm mặt sông: "Cẩn thận vẫn hơn, Triệu đại nhân mới đến kia chẳng phải ngữ hiền lành gì. Phải nhớ kĩ chúng ta đều đang trên một chiến tuyến, nếu như đấu thua, các ngươi cũng không thể kiếm tiền nữa đâu.'

Giám quan: "Hạ quan tất biết đạo lý có phúc cùng hưởng, ngài cứ an tâm, trừ phi Triệu Bạch Ngư tự mình đến nơi, nếu không ai mà dám đến cửa cống này gây chuyện, có thì lập tức tống hết đám người ô hợp này vô tù luôn cho nhanh!"

Dương tham mưu để lộ nụ cười, mặt sông xa xa lập lòe một chút ánh sáng: "Đến rồi."

Giám quan vội vàng vung tay lên quát: "Tỉnh táo hết cho ông xem, phấn chấn tinh thần lên đi nào! Chú ý thuyền đang đến —— mở cửa!"

Cửa cống dần mở ra, tiếng nước chảy ào ạt, tàu thuyền chất đầy hàng hóa xếp một hàng dài từng chiếc đến gần.

***

"Mau mau mau!"

Người đàn ông mặt áo quần ngắn đi đầu vẫy tay, hô to cho những người phía sau mình chạy nhanh hơn chút nữa, hơn hai mươi chàng trai trẻ tuổi lực lưỡng ôm xích sắt chạy như điên, đuổi về phía bến thuyền cửa cống.

"Những ai bơi giỏi thì lên thuyền nhỏ, mang xích sắt vắt ngang bến đò."

Cảnh tượng giống vậy cũng diễn ra ở sáu cửa cống gần bến đò, ông lão giắt tẩu thuốc bên hông dẫn người từ chỗ mình kéo một chiếc thuyền rẽ quạt ngăn giữa dòng nước, xích sắt ở hai bên bờ sông chia ra khóa chặt đầu và đuôi thuyền.

Sau đó ông cho người ngồi lên thuyền nhỏ, xếp thành một hàng ngăn sau hàng xích sắt, an tĩnh chờ đợi.

***

Lưu đô giám nhìn vào màn đêm, nghe xa xa từ trong núi rừng vọng đến tiếng quạ kêu mà sợ, bất chợt tim đập như đánh trống, sau đó nghe thấy có người kêu lên: "Cửa cống mở rồi! Có ánh lửa —— nhìn thấy thuyền rồi!"

Lưu đô giám vội vàng vọt ra bờ sông, trông ra ngoài xa, nhìn đấy đốm lửa lập tức nói: "Mau, châm lửa nhắc nhở người ở bờ bên kia đi."

Đuốc của bọn họ ở đầu này hơi lóe lên, ánh lửa ở bên kia bờ cũng sáng nhấp nháy như đáp lại.

Lúc ấy trên cổng thành cửa cống phía tây, tận mắt nhìn mấy chục chiếc thuyền hàng an toàn vượt qua cửa cống, lái về phía bến thuyền trong phủ, tâm tình căng thẳng của Dương tham mưu mới như được trút bỏ, chỉ cần bình an trôi qua bến thuyền nữa là có thể căng buồm đi xa, dù cho Triệu Bạch Ngư có đến cũng chẳng thể làm được gì.

Dương tham mưu nhìn chằm chằm chiếc thuyền dẫn đầu, dưới ánh trăng mơ hồ thấy được buồm đã rơi xuống thì không khỏi nở nụ cười, nhưng chỉ một giây sau thôi biến cố đã xuất hiện, trước đầu thuyền sáng lên ánh lửa, hàng đuốc vắt ngang mặt sông, trong nháy mắt tim đập thình thịch như đánh trống.

"Chuyện gì đang xảy ra thế!"

***

Tất cả mọi người trên thuyền đều lo lắng đề phòng, chú ý đến tình hình trên mặt sông, mãi đến khi mũi thuyền băng qua cửa cống, qua cả bến thuyền ngoài thành, trái tim treo cao của đám thương nhân mới rơi xuống.

"Giương buồm!"

Cánh buồm nặng nề nâng lên cao, rõ ràng cảm giác tốc độ thuyền tăng lên trông thấy, nhưng thuyền công đứng ngay mũi thuyền quan sát tình hình sông nheo mắt lại, trông thấy giữa sông có một chút ánh sáng, kinh nghiệm nhiều năm trời nói cho gã biết có điềm gở, vội vàng hô lên: "Có chuyện rồi!"

Tim chủ thuyền đập rộn lên, bước đến hỏi: "Chuyện gì!"

Thuyền công: "Trời tối quá, nhìn không rõ, phóng pháo xung thiên đi!"

Chủ thuyền: "Phóng nhanh!"

Pháo xung thiên hay còn gọi lại toản thiên hầu, sau khi đốt pháo lên phóng ra mặt sông sẽ phát nổ, sinh ra ánh sáng đủ sáng giúp bọn họ thấy được tình hình của mặt sông phía trước.

"Xì" một tiếng giòn giã, pháo xung thiên vụt ra nổ tung ra mấy chục mét xa trên mặt sông, lửa sáng chói mắt, một chiếc thuyền rẽ quạt hiện rõ mồn một trước mắt, hai đầu của con thuyền cũ nát buộc đầy xích sắt to dày, mà với tốc độ của thuyền vận chuyển đang căng buồm thì chỉ chốc lát nữa thôi là sẽ va chạm với thuyền rẽ quạt, cho dù có nhanh chóng xoay bánh lái để thay đổi phương hướng thì cũng sẽ bị dây xích chặn lại, chiếc thuyền dẫn đầu giờ đây đã trở thành chướng ngại chận đứng một hàng thuyền phía sau.

Thuyền công sợ hãi, cuồng loạn la lên: "Thu buồm! Neo thuyền —— neo thuyền!!!"

Buồm vừa nâng lên lại thu hồi khẩn cấp, người cầm lái đảo bánh lái thuyền mấy tên thuyền công hợp lực thả neo, dù hành động nhanh chóng nhưng thân thuyền khổng lồ vẫn va về phía xích sắt và thuyền rẽ quạt, phát ra tiếng "ầm" cực lớn, tàu thuyền phía sau nhận ra có điểm khác thường cũng nhanh chóng chuyển hướng thả neo, nhất thời mặt sông trở nên loạn cào cào.

Chủ thuyền đẩy một đám người ra chạy đến mũi thuyền: "Đây là cái quái gì? Ai lại kéo xích chặn trên mặt sông thế kia? Đi, mau gọi mấy tên biết bơi đi tìm ngọn nguồn dây xích, mau cởi dây xích ra!"

Lời vừa dứt, thuyền công bên cạnh đã nhìn chằm chằm về phía trước, giơ ngón tay lên chỉ rồi nói: "Ông chủ, ngài nhìn xem đó là gì?"

Chủ thuyền không nhịn được ngước lên nhìn, lại thấy từng ngọn từng ngọn đuốc được thắp sáng lên, sáng bừng mặt sông đen nhánh, cũng chiếu sáng khoảng cách năm sáu mét đến chỗ dây xích, thuyền nhỏ xếp thành một hàng ngang, mỗi chiếc thuyền có hai ba người đàn ông trưởng thành đang đứng, ai nấy đều cầm đuốc, chiếc thuyền nhỏ ở giữa có một người khá quen mặt.

Người nọ ngẩng đầu nhìn lên, cất giọng quát: "Ông chủ Vân, vẫn khỏe chứ!"

Ông chủ Vân, chủ chiếc thuyền thường đi lại Nam Chiếu chở hàng nhìn thấy người đến thì mặt mày tái mét, ngây ra như phỗng.

Thuyền công khó hiểu, đây là ai?

"Bản thân là quan nhỏ không đáng kể, chỉ sợ ngài và các ông chủ không biết, vậy ta đây xin giới thiệu —— ta là Đô giám Đô thương thuế vụ ty phủ Kinh Đô!" Lưu đô giám cười híp mắt nói: "Chư vị đã đóng đủ thương thuế hết chưa? Nếu như đã nộp tháp phòng thuế từ trước thì xin hãy đưa bằng chứng ra, còn nếu như chưa đóng cái gì cả, vậy thì hãy nộp hết ngay bây giờ đi! Các ngài làm ăn cũng không dễ dàng gì, đại nhân của bọn ta thông cảm cho chư vị cực khổ, đã gọi tiên sinh kế toán đến theo từ trước, sổ sách và bàn tính đã bày sẵn rồi, không cần các ngài vất vả chạy đến Nha môn một chuyến nữa!"

Chủ thuyền phía sau không biết chuyện gì đang xảy ra ở phía trước, nóng ruột chờ đợi một lúc thì có người chèo thuyền nhỏ đến, thông báo người ở Thuế Vụ ti đã đưa tiên sinh kế toán và sổ sách đến bến tàu thu thuế rồi, cả đám người sa sầm mặt mày, trợn mắt há mồm cũng khó mà hình dung được trong lòng bọn họ đã chấn động đến nhường nào rồi.

Trước sau có kẻ lục tục chạy đến báo tình hình từ các cửa cống khác, không ngoại lệ đều đương lúc giương buồm bị ngăn chặn ở ngoài bến đò, chỉ cần một nhóm hơn ba mươi người thường được thuê từ Nha hàng cùng với một sợi dây xích sắt thôi đã đập tan hết mọi tính toán của bọn họ.

Lúc Dương tham mưu xuống khỏi cổng thành tinh thần còn hoảng loạn, sẩy chân bước hụt một cái ngã đập đầu chảy máu.

"Không cần." Dương tham mưu ngăn lại hành động đỡ lấy mình của thuộc hạ, cầm khăn tay ra lau máu tươi chảy trên trán, mắt phủ mờ sương: "Bây giờ Triệu Bạch Ngư đang bày mưu tính kế gì nữa đây? Một sợi xích sắt, một đám công nhân Nha hàng, đưa đám người đó ra là để cản hết chừng trăm chiếc thuyền ra kinh à?"

Nước cờ kì lạ, đoán không ra, đoán không ra, ván này thua thê thảm chịu không nổi rồi.

"Chuẩn bị ngựa đi, đến phủ Ngũ hoàng tử."

***

Phủ Ngũ hoàng tử.

Ngũ hoàng tử ngồi trên ghế thái sư trong đại sảnh, duy trì tư thế nhìn chằm chằm mặt đất một hồi lâu.

Dương tham mưu không nhịn được lên tiếng: "Trăm chiếc thuyền hàng đều bị cản lại, nên làm thế nào mới được đây? Điện hạ? Điện hạ —— "

"Hử? À, thương thuế thuyền hàng..." Ngũ hoàng tử hít sâu một hơi, nói như thỏa hiệp: "Đóng đi, cho bọn họ nộp thuế đi."

Dương tham mưu cuống cuồng: "Không được đâu điện hạ! Nộp tiền này chẳng khác nào bộ Hộ chấp nhận nhường thương thuế thuyền hàng cho Thuế vụ ty Thủy vận, đám thương nhân trong Kinh Đô đều là chó hùa gió chiều nào theo chiều nấy! Đêm nay bộ Hộ không ra mặt chính là nói cho bọn họ biết trong trận đấu pháp với Nha môn Thuế vụ ty, bộ Hộ đã bị đánh bại rồi, không che chở được cho bọn họ nữa, từ nay về sau khi ra vào Kinh Đô, e là tiền thắng sẽ đưa thẳng đến Nha môn chứ không phải là bộ Hộ nữa mất!"

Lão sốt ruột chịu không nổi nữa, bước tới hai bước muốn khuyên Ngũ hoàng tử cách cứu vớt cục diện: "Đuổi theo đưa ra bằng chứng tháp phòng thuế như lần trước đi, mà thôi sao cũng được, thương thuế thuyền hàng tuyệt đối không thể lót vào túi Thuế vụ ty!"

Ngũ hoàng tử đảo mắt trừng lại, vừa mở miệng hỏi: "Bạc ngươi bỏ ra sao?"

Dương tham mưu: "Cái gì?"

Ngũ hoàng tử nhìn lão chằm chằm, ánh mắt đáng sợ: "Lần trước đưa bằng chứng tháp phòng thuế, bổ sung vào khoản mục hơn một trăm nghìn lượng, e là lần này phải gấp bội —— mấy trăm lượng bạc đó ngươi bỏ ra được không?"

Dương tham mưu lắp ba lắp bắp: "Ti hạ... Thuở nhỏ ti hạ nhà nghèo, không có tài sản tùy thân, thật sự là ti hạ có lòng nhưng mà, nhưng mà..."

Ngũ hoàng tử: "Cút."

"Ti hạ cáo lui." Dương tham mưu đáp nhanh, xoay người rời đi.

Đi đến cửa, Ngũ hoàng tử đột nhiên lên tiếng: "Quay lại đây!"

Dương tham mưu cứng đờ xoay người: "Điện hạ còn dặn dò điều chi?"

Ngũ hoàng tử: "Ngày mai ngươi đến mấy Nha hàng trong phủ thuê hết tất cả công nhân trẻ khỏe đi, để cho Triệu Bạch Ngư có lòng muốn trị cũng không có người để dùng."

Dương tham mưu: "Vậy số bạc kia?"

Ngũ hoàng tử: "Ngươi ứng tiền trước."

Dương tham mưu: "..."

Nhìn gương mặt như cha mẹ chết của Dương tham mưu, tâm trạng bực dọc của Ngũ hoàng tử cuối cùng cũng dịu xuống một chút, bấy giờ đã hiểu ra vì sao Triệu Bạch Ngư lại để cho Thuế vụ phó sứ ứng tiền, cảm giác tiêu tiền trong túi người khác để làm việc cho mình quả nhiên là rất sảng khoái.

Nhưng gã đã vội suy tư không dứt, vì sao Triệu Bạch Ngư lại không phải là môn đảng Đông cung?

***

Trời vừa hửng sáng, sương mù còn vương, trong một gian nhỏ tại quán trà gần cửa cống sông Thái, Triệu Bạch Ngư nhàn nhã chẳng lo lắng gì hớp một ngụm trà không đậm vị, nhưng đi kèm với không khí trong lòng và tiếng chim hót lanh lảnh thì đúng là ngon miệng hơn hẳn.

Tiếng vó ngựa vang tung trời, Ngụy bá nhảy xuống ngựa, đến trước mặt Triệu Bạch Ngư báo cáo tình huống đơn giản: "Ngũ lang, chừng trăm chiếc thuyền hàng đã bị ngăn lại, có bốn mươi chín thuyền thỏa hiệp, bổ sung thương thuế nên đã cho đi. Còn lại chín mươi lăm chiếc ngoan cố chống cự, hẳn là đang đợi bộ Hộ đến cứu, nhưng hiện tại chưa thấy động tĩnh... Bộ Hộ sẽ không đưa ra bằng chứng tháp phòng thuế lại chứ?"

"Sẽ không." Triệu Bạch Ngư đáp chắc nịch: "Kho bạc nhỏ của Đông cung không có tiền."

Nếu như khoản bạc mà Đô tào Hoài Nam tham ô kia không bị phát hiện, Đông cung sẽ không đời nào cắt thịt tự vệ, mà khi đó tà chiêu của Triệu Bạch Ngư nhất định sẽ không thực hiện được, cũng như trước đại án Hoài Nam bộ Hộ phô trương giàu có, bây giờ chỉ là đang tự rước lấy họa.

Trong ánh mắt Ngụy bá toát ra sự kinh ngạc, kiêu ngạo như tán thưởng 'đứa nhỏ nhà mình đúng là có triển vọng': "Ngũ lang tính toán không chỗ sai sót."

"Lợi dụng gió đông thôi, trò khôn vặt ấy mà." Triệu Bạch Ngư vẫn khiêm tốn như thường: "Người không chịu đóng thuế cũng dễ xử lý, giữ lại hàng hóa của bọn họ gửi ở vùng lân cận, tính tiền thuê theo luật pháp quy định, đóng đủ thương thuế trong hạn bảy ngày là sẽ chuộc được hàng hóa. Nếu như quá hạn mà chưa ai đến chuộc hàng, quan phủ có quyền quyết định đường đi kế tiếp của số hàng này —— truyền lời này của ta đến đó, nếu như có người khác có ý định mua số hàng đó thì vô cùng hoan nghênh, bởi vì chúng ta sẽ cam kết hàng hóa đặt ở Nha môn lấy giá thấp hơn so với giá bán ngoài kia."

Ngụy bá: "Vậy ta đi thông báo ngay."

Triệu Bạch Ngư muốn giữ ông lại uống ly trà nóng rồi hẵng đi, Ngụy bá khoát tay từ chối, người tập võ thân thể cường tráng không sợ gió rét, ngay lập tức phóng người lên ngựa chạy ra bến thuyền làm việc.

***

Hàng chính là tiền, tiền là mạng của thương nhân, cách của Triệu Bạch Ngư là gây khó dễ cho mạng sống của bọn họ.

Mắt thấy bộ Hộ chậm chạp không ai tới, nhưng đến tận giữa trưa rồi mà các công nhân mặc đồ ngắn vẫn đang qua lại chộn rộn, Công sứ Nha môn Thủy vận còn vô lại hơn cả lưu manh thì cứ nhìn lom lom, tinh thần của các thương nhân bị hành hạ đến nỗi đau đớn không sao tả xiết.

Mặt trời ngã về tây, mây trắng trên tầng không đã đổi màu mang theo dấu hiệu có mưa kèm tuyết, quả thực bọn họ đều sợ hành trình bị trễ nãi, không thể không cúi đầu thỏa hiệp, xếp thành hàng dài giữa mặt sông đóng đủ thương thuế.

Từng chiếc từng chiếc thuyền hàng được cho đi, mặt sông lại rộng mở thông thoáng.

Đến khi màn đêm lại buông xuống lần nữa, thuyền hàng ở bảy bến thuyền đều đã được cho đi hết, Nha môn Thủy vận vủa Đô thương thuế vụ ty trong vòng một ngày nhập sổ hai mươi ba nghìn lượng bạc trắng.

Lưu đô giám cả đời chưa từng cảm nhận được 'hương vị' của một đêm chợt giàu nhìn sổ sách thật lâu chẳng nói gì, mặc dù tiền đó không phải là tiền của lão, nhưng mỗi một khoản hạch toán đều phải qua tay lão, khoảnh khắc hô hấp dồn dập, khoái cảm làm lão phấn khởi đến nỗi run rẩy vẫn còn lưu lại trong lòng lão đây.

Lưu đô giám không nhịn được tính thử thương thuế một năm, không, một quý thôi, nếu như mỗi ngày nhập sổ hai mươi ba nghìn lượng bạc trắng, vậy thì một quý chính là hai mươi triệu...

"Xùy!"

Hai mươi triệu lượng bạc!

Nếu như đụng phải năm mất mùa, năm hạn, số tiền này đủ để bù cho thuế tài chính của cả nước đấy!

"Không không, không thể tính như vậy được." Lưu đô giám vỗ vỗ gò má lầu bầu: "Đêm nay là ngoại lệ, phải gom một tháng lại mới có thể thu được hai mươi ba nghìn lượng thương thuế, nếu cộng thêm tốp của chừng mười ngày trước kia, ước chừng tầm ba trăm nghìn lượng mà thôi. Vậy tính ra, chỉ riêng thương thuế thủy vận của phủ Kinh Đô một năm thôi cũng đã lên đến bốn triệu. Hơn nữa bốn kênh phủ Kinh Đô hội tụ thủy vận của thiên hạ, ngoài ra còn câu kết với thủy vận nội hà, cùng với thương thuế hàng năm của hải vận ngoại hải tại Lưỡng Giang, e là không đâu có thể sánh bằng."

***

Ba ngày sau, điện Văn Đức.

Nguyên Thú đế vùi đầu xử lý chính sự, bên cạnh là đại thái giám thỉnh thoảng châm thêm trà, đứng bên dưới chính là Hoắc Kinh Đường vừa mới từ sân tập trở về.

Dưới lớp áo choàng thêu hạc, bàn tay buông thõng bên người Hoắc Kinh Đường vẫn luôn khảy chuỗi vòng Phật, từ lúc bước vào điện Văn Đức đã bị Nguyên Thú đế cố tình làm lơ, hắn cũng không vội, đọc thầm tâm kinh ba lần rồi đổi sang bộ khác, dù sao thì lòng kiên nhẫn của Nguyên Thú đế cũng không bì nổi hắn.

Đại thái giám liếc mắt nhìn vết mực phê tấu đỏ thẫm ướt giấy mà Nguyên Thú đế làm ra, gân xanh trên mu bàn tay nổi lên, chỉ đành âm thầm kêu khổ, sao hai người lại so đo với nhau vậy chứ!

Lúc này có tiểu thái giám bước vào báo cáo: "Tam ty Đạc Chi ty cả đêm trình sổ con lên."

Nấc thang bỗng nhiên xuất hiện làm cho Nguyên Thú đế ném bút ngay tức khắc: "Lấy tới đây."

Nguyên Thú đế nhận lấy sổ con, vừa làm bộ đọc sổ vừa quan sát Hoắc Kinh Đường qua đáy mắt, thấy đối phương vẫn hờ hững mặc kệ liền bực mình, đọc tấu chương thật nhanh nhưng chẳng chữ nào lọt vào lòng, mãi đến lúc ánh mắt quét qua hàng chữ 'Tiền thắng thuyền hàng Kinh Đô nhập sổ một ngày hai mươi ba nghìn' thì lập tức lên tinh thần, bấy giờ mới ngồi đọc lại cẩn thận từ đầu đến đuôi hai lần.

Xem sổ xong càng không dám tin gọi đại thái giám đến: "Ngươi đến xem thử, là trẫm nhìn dư một chữ thập (十), hay là nhìn thiếu một chữ chỉ* (钱) vậy?"

(*) Chữ 钱 này còn có nghĩa là 'chỉ', đơn vị trong lượng, mười chỉ bằng một lượng.

Đại thái giám xem xong, trong lòng rung động như thế nào cũng không cần nhiều lời, để lộ ra phản ứng vui mừng cực nhanh: "Hồi bẩm bệ hạ, ngài không nhìn lầm đâu ạ! Không phải là hai mươi ba nghìn chỉ, mà là hai mươi ba nghìn lượng bạc ạ!"

Đúng là có tâm khi gằng giọng ở mấy chữ "hai mươi ba nghìn lượng bạc", Nguyên Thú đế nghe mà mở cờ trong bụng.

Rồi ông lại xem sổ con tiếp, thỉnh thoảng cười sang sảng: "Tốt! Tốt lắm! Một ngày nhập sổ hai mươi ba nghìn lượng bạc..." Lúc thì biểu lộ nghi hoặc, chặc lưỡi hít hà không ngớt: "Nha môn Thủy vận Thuế vụ ty mở chưa đến năm năm, những năm trước tổng khóa thuế nhiều nhất cũng chỉ ba trăm nghìn, sao mà khóa thuế một tháng vào xuân thôi mà đã bằng tổng của năm ngoái rồi thế này?"

Chuyện này không thể suy nghĩ sâu xa, một khi đã nghĩ nhiều là biết ngay bên trong ngấm ngầm biết bao nhiêu việc làm xấu.

Sắc mặt của Nguyên Thú đế từ vui chuyển thành thâm thúy, cuối cùng là không còn cảm xúc gì, không nói tiếng nào mà chỉ chuyển động nhẫn ban chỉ của mình, không nhìn ra trong lòng đang nghĩ gì.

Đại thái giám cảm thấy lo lắng, trực giác nói cho lão biết lại có người sắp gặp họa.

Nhìn lại con số tiền thuế mà Nha môn Thủy vận nhận được trong một ngày, đại thái giám cũng cảm nhận được tim mình đập rộn lên, đại khái là vì ở bên ngoài lão cũng mua chút sản nghiệp, mê tít mấy năm kiếm được rất nhiều tiền, sau đó cho tiền nhận một người bà con xa làm con nuôi, lệnh cho người đó vận chuyển một vài món đồ sứ tinh xảo được chế tác ở phủ Kinh Đô đến Giang Tây thông qua bốn kênh, ra hải vận nội hà rồi đi về phía khu vực Đông Nam.

Vậy là thương thuế không thoát khỏi liên quan đến bộ Hộ.

"Truyền chỉ lệnh Triệu Bạch Ngư..." Dừng một chút, Nguyên Thú đế bỗng nhiên đổi lời nói: "Kêu Đỗ Công Tiên đến trước, giải thích cho rõ xem Nha môn Thủy vận đây là đang làm trò gì, trẫm ngược lại muốn biết Triệu Bạch Ngư cắn một miếng thịt béo này từ trong miệng người khác bằng cách nào."

Đại thái giám lĩnh chỉ đi xuống.

Nguyên Thú đế vẫn xem đi xem lại sổ con mà Đạc Chi ty trình lên, trong lòng hiểu ý Đỗ Công Tiên, nếu như Đỗ Công Tiên không muốn vạch trần việc xấu của thương thuế thủy vận, thì ông ta sẽ không gửi sổ con đến nói về chuyện này.

Số lượng thương thuế thủy vận lớn đến thế, như vậy Đông cung, cả những người bên dưới nữa, những năm nay vừa ăn no rửng mỡ vừa to mắt nhìn thấy quốc khố, nội khố thiếu hụt, nhìn thấy vị hoàng đế này thường xuyên buồn rầu vì chuyện tiền nong, đang suy nghĩ điều gì trong lòng?

Ấy vậy mà Nguyên Thú đế không giận còn cười, ánh mắt dừng lại ở ba chữ Triệu Bạch Ngư, tiến sĩ mà ông khâm định trong cả triều văn võ, môn sinh Thiên tử mà chính miệng ông khen ngợi, đến cả trữ quân mà ông khâm định, Hộ bộ sứ cũng là con trai ruột của ông, chẳng có một ai so được với Triệu Bạch Ngư không phải xuất thân tiến sĩ cả!

Đóng sổ con lại, Nguyên Thú đế bỗng nhiên phát hiện Hoắc Kinh Đường vẫn còn đứng đó, tức giận quát: "Vấn đề khảo luyện tân binh ở thao trường lựa ngày khác bàn lại. Hết chuyện rồi, ngươi về phủ đi."

Hoắc Kinh Đường rũ mắt, thái độ nhượng bộ: "Lựa chọn lương tướng cho triều đình là bổn phận của thần, bệ hạ có chuyện quan trọng khác cần xử lý, thần chờ là được."

Kỳ lạ, Hoắc Kinh Đường luôn lạnh nhạt khi ở trước mặt ông, ở ngoài một kiểu sau lưng lại là một kiểu khác, thường xuyên chọc ông giận đến mức nội thương, sao bây giờ lại trở nên cung kính rồi?

Nguyên Thú đế đang nghi ngờ, nhác thấy ba chữ Triệu Bạch Ngư trên sổ con thì nhất thời rõ ràng, mặt mũi đen thui, tiện tay nhặt quyển sổ vô dụng ném tới: "Cút ra khỏi cung ngay cho trẫm!"

Hoắc Kinh Đường nhanh nhẹn né quyển sổ bay tới, ngẩng đầu nhìn chằm chằm Nguyên Thú đế hồi lâu, đột nhiên cong môi huýt sáo một tiếng.

Nguyên Thú đế trợn mắt, còn chưa kịp lên cơn, Hoắc Kinh Đường đã nghênh ngang bỏ đi.

"..."

Nguyên Thú đế ôm ngực, tự lẩm bẩm: "Tới đòi nợ, chính là tới đòi nợ đây mà."

==

Tác giả muốn nói:

Nguyên Thú đế: Con cái đều là nợ, nhất định kiếp trước tui đã nợ thằng cu này một nghìn tỷ!!!

Chương 55

Bảy ngày trước, Đô thương thuế vụ ty phủ Kinh Đô.

Mặt trời lên cao ba sào.

Thuế vụ phó sứ liếc nhìn mặt trời trên đỉnh đầu, rồi lại lặng lẽ liếc về phía Triệu Bạch Ngư đang ngồi trên ghế Thái sư cạnh bàn bát tiên giữa đại sảnh uống trà sau lưng mình, khuya ngày hôm qua người này đã chặn hơn trăm chiếc thuyền hàng ra kinh, tiêu phí cả ngày thu về hai mươi ba vạn tiền thuế, hành hạ người khác đến độ ngủ không yên giấc, còn mình thì chạy về phủ quận vương ôm chồng ngủ thẳng chân.

Sáng sớm hôm nay chạy đến Thuế vụ ty điểm mão, nói là đọc xong một quyển sách thì đã 'giác ngộ', bản thân hối lỗi nên quyết định từ hôm nay mỗi ngày đều sẽ đến báo cáo.

Có trời mới biết Thuế vụ phó sứ ủ rũ ỉu xìu đến giờ điểm mão có mặt, đưa mắt nhìn thấy Triệu Bạch Ngư, khỏi nói lão mừng như mở hội, kích động đến nỗi hít thở dồn dập, cuối cùng cũng bắt được vị cấp trên này, lão phải mau chóng tấu tiêu số tiền thuê công nhân ở Nha hàng để đòi tiền mới được!

Mấy hôm rồi Thuế vụ phó sứ hận đám công nhân đúng giờ đến báo cáo công việc đến ngứa răng, hôm nay cũng trông ngóng chờ đợi, chờ sốt cả ruột mà đến tận giờ thìn mới phát hiện ra cửa nẻo vắng tanh, tâm trạng nhiệt liệt như bị trời đông giá rét của tháng Chạp xối cho một chậu nước lạnh, lạnh đến nỗi thông suốt.

Lão chống khung cửa, chỉ đành hỏi Nghiên Băng: "Này thẳng nhỏ, sao hôm nay công nhân Nha hàng không tới?"

Nghiên Băng: "À? Nha hàng hả, đều bị người khác thuê rồi. Cũng không biết là ai ra tay rộng rãi như vậy nữa, công nhân ở mấy Nha hàng lớn trong phủ đều bị thuê đi hết rồi, nghe nói là bị thuê liên tục bảy ngày lận ấy."

Thuế vụ phó sứ cả giận: "Sao có thể như vậy được? Chẳng lẽ không hiểu được đạo lý trước sau? Còn cái đám công nhân đó nữa, dù sao chúng ta cũng giúp đỡ làm ăn lâu như vậy rồi, chẳng lẽ không nể mặt ta trước sao?"

Nghiên Băng quái lạ đáp: "Nhưng người ta trả tiền công một ngày ba trăm văn tiền! Chậc chậc, nói thật đến cả ta cũng động tâm đấy. Nha môn chúng ta một ngày chỉ cho một trăm rưỡi, bởi vì công việc hơi nhàn thôi, chứ thật ra giá thị trường của người ta là một ngày hai trăm năm mươi văn chứ chẳng đùa, ba trăm văn là hơn giá thị trường rồi."

Thuế vụ phó sứ vội vàng sửa lại: "Không phải Nha môn chúng ta, là ta, tiền của ta, là ta ứng tiền mà."

Nghiên Băng: "Ui, biết rồi, đại nhân và ta đều nhớ công lao của Lao phó sứ ông mà, chắc chắn không quên đâu."

Thuế vụ phó sứ há miệng muốn nói lão chẳng quan tâm công lao, chỉ muốn biết khi nào bọn họ sẽ trả tiền cho lão thôi, nhưng Nghiên Băng đã chạy tót vào phòng đổi trà cho Triệu Bạch Ngư.

Thuế vụ phó sứ lại quay đầu nhìn trời xanh, khóc không ra nước mắt, sau đó nhận ra rằng công nhân Nha hàng bị thuê đi cả rồi, nói rõ Triệu Bạch Ngư không có ai để dùng nữa, chẳng phải là thời cơ tốt nhất để thuyền hàng ra vào hay sao?

Thế là lão tìm thời cơ lặng lẽ chuồn đi, báo việc này cho Dương tham mưu biết.

Dương tham mưu lạnh lùng liếc lão một cái, nghiến răng nghiến lợi mắng: "Cần ngươi nhắc ta chắc? Người thuê công nhân là điện hạ đó! Ta là người ứng con mẹ nó tiền đây!"

Đều tại cái đồ đần độn này, để Triệu Bạch Ngư dẫn dắt ngược lại Ngũ hoàng tử, liên lụy khiến túi tiền của gã chảy máu.

"..."

Thuế vụ phó sứ lộ vẻ áy náy, đưa Dương tham mưu đi xong thì vỗ ngực tự lầm lầm: "Bỗng dưng cảm giác hết đau lòng nữa rồi."

***

Nghiên Băng đổi trà xong, Thuế vụ phó sứ đã chạy rồi.

"Ta thấy chính là chạy đi mật báo rồi đấy!" Nghiên Băng cầm hạt dẻ ngào đường mua trong chợ đến đưa cho Triệu Bạch Ngư.

Lưu đô giám buồn rầu: "Không thuê được công nhân Nha hàng, chỉ dựa vào mấy Công sứ ở Nha môn thôi là không thể xử lý hết số thuyền hàng trong phủ." Ông lắc lắc đầu cảm thán: "Ngũ hoàng tử này chân trước vừa ngã nhào ra đấy, chân sau đã tung chiêu, bọn họ tiền giắt đầy túi, người đông thế mạnh, chúng ta rất dễ rơi vào thế bị động."

Ông không muốn Nha môn Thủy vận vừa mới có được mở đầu tốt lại chết yểu.

Lưu đô giám nhớ ra Triệu Bạch Ngư còn có thân phận quận vương phi, mà Lâm An tiểu quận vương thanh danh hiển hách, nói không chừng có thể điều động Cấm quân trợ giúp... Không được! Không có chiếu mà âm thầm điều động Cấm quân là đại kỵ.

Đường này không thông, Lưu đô giám thật sự không nghĩ ra được thêm cách nào tốt: "Đại nhân, ngài có cách đối phó không?"

Triệu Bạch Ngư ung dung uống trà: "Chiêu này phải để Nghiên Băng đi phá thôi."

Nghiên Băng không hiểu: "Ta sao? Ta có chiêu gì thần thông quảng đại đâu chứ?"

Triệu Bạch Ngư: "Mấy tên lưu manh, hiệp khách lang thang trong ngoài phủ Kinh Đô mà cũng không quen với ngươi sao? Bọn họ trọng nghĩa khí, ghét ác như thù, căm ghét tham quan, tính tình giống hệt như hiệp khách trong thoại bản dân gian, chỉ cần ngươi nói với bọn họ là đấu với quan lại, tất sẽ được nhiều người ủng hộ thôi."

Nghiên Băng vỗ gáy một cái: "Sao ta quên bọn họ được chứ! Ngũ lang, ta sẽ đi tìm bọn họ ngay bây giờ!"

Triệu Bạch Ngư: "Đi đi."

Lưu đô giám không ngừng cảm thán, tiểu Triệu đại nhân đúng là tài giỏi, người không có thiên phú mới sợ không thể chống đỡ nổi một loạt mưu kế như thế, đầu tiên là công nhân Nha hàng, sau đó là dám lưu manh chơi bời lêu lổng trong ngoài phủ Kinh Đô bị người đời xem thường, ai nấy cũng đều để mặc y sử dụng, đó đều là kỳ chiêu dành thắng lợi của y, không thể không bội phục.

***

Tam ty, bộ Hộ.

Dương tham mưu băng qua đám quan lại đang làm việc, bước đến chỗ ngồi của Ngũ hoàng tử, nói nhỏ bên tai gã mấy câu, Ngũ hoàng tử lập tức biến sắc: "Đi với ta."

Xoay người đi đến phòng khách nhỏ cạnh Nha môn bộ Hộ, chắc chắn xung quanh không có ai rồi, Ngũ hoàng tử mới truy hỏi: "Thuyền hàng phái ra ngoài thăm dò đều bị Triệu Bạch Ngư bắt được rồi sao? Làm sao bắt được? Không phải bảo ngươi thuê hết công nhân ở Nha hàng rồi sao?"

Dương tham mưu khổ sở đáp: "Ti hạ đảm bảo đã thuê sạch mấy tên công nhân trẻ khỏe ở các Nha hàng lớn rồi, còn đặc biệt sai người rảo một vòng quanh Nha hàng nhỏ, chắc chắn Triệu Bạch Ngư kia không thuê được người ở Nha hàng rồi, Thuế vụ phó sứ vẫn luôn theo dõi Nha môn Thủy vận, Triệu Bạch Ngư không kêu ông ta ứng tiền nữa, mỗi ngày đều ở lại Nha môn làm việc, hoàn toàn không biết tai mắt thông thiên cho y ở đâu chui ra nữa, lạ thay là bọn họ vượt qua được phòng tuyến mà bộ Hộ giăng ra, cũng chẳng biết là tìm được đám người đó ở đâu, chúng biết ẩn núp, còn có chút tài nghệ, thường nhân lúc thuyền hàng khởi hành đột nhiên nhảy ra, quả là xuất quỷ nhập thần!"

Ngũ hoàng tử hoài nghi: "Thật sự đã thuê hết tất cả người ở Nha hàng rồi sao?"

Dương tham mưu trợn to mắt: "Điện hạ không tin ti hạ ư? Bạc góp được mấy năm nay của ti hạ đã dùng hết rồi đấy."

Ngũ hoàng tử ho nhẹ hai tiếng, qua loa đổi đề tài muốn lấp liếm luôn việc này.

Dương tham mưu oan ức trong lòng, có linh cảm bất thường, luôn cảm thấy điện hạ như có thể quỵt nợ bất cứ lúc nào.

Mà vào lúc này, có người đến báo Thuế vụ phó sứ Nha môn Thủy vận cầu kiến, Ngũ hoàng tử bèn vội vàng cho người đi vào.

Thuế vụ phó sứ vừa vào đã thấy trong phòng khách nhỏ đều là người mình, bèn vội nói ra việc Triệu Bạch Ngư tìm được mấy tên lưu manh côn đồ vờ làm công nhân Nha hàng, mai phục ở các bến đồ, cửa cống chờ thời bắt thuyền hàng.

Ngũ hoàng tử trợn mắt há mồm: "Một tên mệnh quan triều đình ngũ phẩm như y cấu kết với lưu manh côn đồ sao? Y có bệnh không đấy!" Gã thấy khó hiểu, thậm chí là thấy hoang đường: "Dù cho có làm Khâm sai xuôi Hoài nam, trà trộn vào khu dân bị nạn cũng là vì công việc, vì trăm họ, lúc ấy là kết giao với dân, với đại phu y quan, nhưng lúc này y đang làm gì? Cấu kết với lưu manh côn đồ không thấy mình đang bôi nhọ danh tiếng của quan lại, không thấy nhục nhã quan thể hay sao?"

Không thể hiểu được vì sao Triệu Bạch Ngư lại đắm mình trong trụy lạc, cuối cùng Ngũ hoàng tử cũng cảm thấy gã bắt được thóp của Triệu Bạch Ngư, lưu manh côn đồ, mấy kẻ du thủ du thực đó là những hạng người gì chứ? Là kẻ ác còn chẳng sánh bằng đám hạ cứu lưu, hèn hạ xấu xa, không có công ăn việc làm đàng hoàng chính là những từ treo trên người bọn họ, Triệu Bạch Ngư choàng vai bá cổ với đám vô lại này tức là xưng huynh gọi đệ với bọn họ, rành rành là đang bôi nhọ danh tiếng của quan triều Đại Cảnh, xem môn sinh Thiên tử chính trực ngay thẳng như kẻ ác không phẩm hạnh, văn nhân thư sinh trên thiên hạ sao có thể chấp nhận được?

Chỉ cần tận dụng lúc này xúi giục lòng văn nhân thư sinh, nói không chừng có thể nhờ vào dư tình ép Triệu Bạch Ngư thôi quan!

Nghĩ như vậy, Ngũ hoàng tử liền kích động đứng bật dậy chuẩn bị tính kế chu toàn, nhưng đã bị Thái tử lặng lẽ đến cắt đứt: "Đệ còn ngại chưa đủ mất mặt à?"

Ngũ hoàng tử dừng bước, sắc mặt hoang mang: "Nhị ca..."

Thái tử mắng những kẻ khác: "Lui xuống."

Đến khi trong phòng không còn người ngoài nữa, Thái tử mới lộ vẻ mệt mỏi nói: "Đừng đấu với Triệu Bạch Ngư nữa, đệ không đấu lại đâu. Ta đã cho người điều tra những kẻ gọi là côn đồ lưu manh đó rồi, có không ít người là hiệp khách lang thang ở gần khu miếu đổ nát, trong số đó còn có một cái tên khá nghĩa hiệp, danh tiếng trong đám con em quan lại không tệ chút nào, trong Kinh Đô có quan nhiều lần mời làm môn khách đều bị đối phương từ chối. Kẻ sĩ nghĩa hiệp như vậy lại đồng ý để Triệu Bạch Ngư sử dụng, đệ cho rằng chuyện to lên rồi, dư tình sẽ nghiêng về phía ai?"

Sắc mặt Ngũ hoàng tử trắng bệch, sau đó tức giận nói: "Đám người dưới này bất tài ngu xuẩn, đem một mới tin tức hư hư thật thật đến giành công, suýt nữa hại ta thua một ván rồi!"

"Được rồi!" Thái tử đau đầu không dứt, gần đây mọi chuyện không thuận lợi, quả thực hắn không đủ kiên nhẫn dung túng đứa em trai ruột ngu ngốc của mình nữa: "Tiếp tục đấu với Triệu Bạch Ngư chỉ có hai bên cùng thiệt, Thôi, từ khi phụ hoàng lệnh cho Triệu Bạch Ngư đảm nhiệm Thuế vụ sứ quản lý Nha môn Thủy vận, ta đã biết bạc thuế thủy vận trong phủ không gánh nổi rồi."

Ngũ hoàng tử sốt ruột: "Nhị ca, huynh thật sự muốn nhường lại số tiền thuế thủy vận đó sao? Đây chính là nguồn tiền vào túi nhanh nhất của chúng ta đó! Hoài Nam đã là vết thương nặng rồi, mũi nhọn thủy vận ngoài tỉnh không thể không thu liễm, nhưng ở Tây Bắc ăn nhiều bạc, bây giờ túi chúng ta rỗng rồi, không tìm bù vào từ nơi khác, chẳng lẽ thật sự phải cầm hết đồ trong kho phủ ư?"

Thái tử: "Nếu thật sự đến nước đó thì phải làm thôi, cô cũng không ngại mất mặt." Liếc nhìn Ngũ hoàng tử, hắn gõ bàn nói: "Bộ Hộ trông nom quản lý thuế thu của thiên hạ, hoàng tổ phụ và phụ hoàng vì để tránh độc tài độc quyền nên mới thành lập ra Thuế vụ ty, nhưng nói đi nói lại, Thuế vụ ty vẫn còn nằm dưới quyền quản hạt của Tam ty, bộ Hộ đã kinh doanh nhiều năm, cành lá đan chen, cũng không phải là vô ích, muốn động vào bộ Hộ e là sẽ phải thương gân động cốt."

Ngũ hoàng tử: "Đệ cũng nghĩ như vậy, không sợ Triệu Bạch Ngư động vào gân cốt bộ Hộ, chỉ là con cá thủy vận này quá mập..."

Thái tử: "Không thể cho toàn bộ thủy vận, bộ Hộ cũng phải nắm được ít nhất ba thành trong tay."

Ngũ hoàng thử do dự: "Chúng ta có thể nhượng bộ, nhưng Triệu Bạch Ngư có đồng ý hay không?"

"Y sẽ đồng ý." Thái tử nói: "Tìm thời gian gặp Triệu Bạch Ngư đi."

***

Đỗ Công Tiên được mời vào điện Văn Đức, hai tay buông xuôi bên người, cung kính đứng im.

Nguyên Thú đế đứng phía trên, chắp tay ra sau lưng, đưa lưng về phía Đỗ Công Tiên, nhìn chằm chằm bức tranh chữ viết "Quang minh chính đại" hồi lâu, tựa như đã bắt chước lấy lại được tinh thần rồi mới xoay người lại hỏi: "Nói nghe xem, mấy ngày qua Triệu Bạch Ngư đã làm gì."

Đỗ Công Tiên nói rõ từng việc Triệu Bạch Ngư làm để đấu pháp với bộ Hộ, từ ngữ phong phú, tình tiết du dương trầm bổng, Nguyên Thú đế nghe cực kì nhập tâm.

Đỗ Công Tiên nói xong, Nguyên Thú đế còn tỏ vẻ mình nghe chưa đã.

"Công nhân Nha hàng được thuê cả ngày quanh quẩn ở bến tàu, nhìn chòng chọc thuyền hàng tới lui, thương nhân trong phủ nghe nhắc đến là biến sắc. Trạm cửa cống không phối hợp với y, cửa khẩu thuyền nổi đại khai, thuyền hàng được đi suông sẻ, nhân lực không đủ để cản trở, y lại chỉ cần mấy sợi dây xích sắt là đã cản được tận trăm chiếc thuyền hàng —— y còn đưa kế toán ở Nha môn đến bến thuyền, trực tiếp thu thuế ở ngay giữa sông luôn cơ mà! Lão Ngũ thuê đứt đám công nhân ở Nha hàng, ngược lại làm Triệu Bạch Ngư nảy ra tà chiêu, chạy đi tìm du hiệp ở Kinh Đô tương trợ nữa. Ha,"

Nguyên Thú đế lắc đầu bật cười, càng nghĩ càng thấy vui, "Ha ha ha..."

Đỗ Công Tiên phối hợp nói: "Hành vi hơi bất chấp một chút, đúng là có lỗi với đạo lý của Thánh nhân."

Nguyên Thú đế không đồng tình: "Làm quan chứ không phải làm thầy giáo, cần biến quyền lực thành sức nặng, cần gì phải đi đâu cũng tuân theo đạo lý Thánh nhân. Y làm việc đó tự cho rằng là hiển nhiên, có chút không đàng hoàng, cũng hơi bất chấp, nhưng đánh bừa vẫn trúng đấy thôi. Có điều cũng vì vậy, trẫm mới biết món lời thủy vận lại to lớn như thế."

Ông đổi sắc mặt: "Thuế một năm nhiều nhất cũng chỉ có một triệu rưỡi, có lẽ là nhờ có bộ Hộ quản lý mới thu được lượng thuế như vậy, trẫm còn cho rằng đây là một cái nghề nghèo nàn, cho rằng trước đây bộ Hộ có cách quản lý, vậy nên gần đây lại nghĩ không biết có nên phế cái Nha môn mới vô dụng này hay không, giao lại thủy vận trong phủ cho bộ Hộ lần nữa. Đỗ khanh gia, ngươi nói xem có phải mấy năm nay trẫm quá nhân từ nương tay rồi không, mà người người đều có thể cưỡi lên đầu cổ trẫm? Năm ngoái là đại án khoa thi Giang Nam, rồi đến đại án Hoài Nam, bằng đấy cũng không đủ để chấn nhiếp đại thần văn võ dưới đáy ư? Bọn họ phải ép đến khi trẫm giết hết sạch mọi người mới biết cái sợ chân chính là gì có đúng không?"

Đỗ Công Tiên vội vàng quỳ xuống: "Bệ hạ bớt giận."

Nguyên Thú đế nhìn chăm chú Đỗ Công Tiên bằng sắc mặt không mấy cảm xúc, bây giờ ông không còn muốn suy đoán dụng ý của Đỗ Công Tiên nữa, đám đại thần văn võ này làm việc làm người trước chỉ biết xem nên bảo vệ bản thân mình thế nào, tìm đường lui tốt cho mình trước, sau đó mới là triều đình, mới là hoàng đế này, cuối cùng là trăm họ.

Vấn đề thương thuế thủy vận vẫn luôn diễn ra như vậy, bị bộ Hộ nắm trong tay, Đỗ Công Tiên không thể vượt quyền quản lý, im lặng mà chèo chống cũng là điều dễ hiểu.

Về sau thủy vận trong phủ được phân chia cho Thuế vụ ty, giao cho Đỗ Công Tiên quản lý mấy năm trời, tất nhiên lão đã hiểu được biết bao nhiêu việc xấu trong đó, vậy mà vẫn lựa chọn không lên tiếng.

Nguyên Thú đế lười nghĩ xem đến tột cùng là cái gì đã làm thay đổi tư tưởng của Đỗ Công Tiên, để cho lão muốn vạch trần tội lỗi của thủy vận trong phủ, chỉ biết rằng lão dù có nguyện vọng vạch trần nhưng lại không dám đắc tội người khác, vậy nên dùng mọi cách vẫy gọi Triệu Bạch Ngư đến, giao chuyện này cho y làm.

Quả nhiên Triệu Bạch Ngư là sự lựa chọn tốt nhất, y chính là một thanh đao bén tốt, sau lưng không có môn đảng, có tiếng cứu ân sư và đại án Hoài Nam phía trước, mang trong mình cái danh tiểu thanh thiên, cộng thêm năng lực bản thân xuất sắc, cho dù có quậy thành họa cũng sẽ không gây ra thương tổn quá lớn cho chính mình.

Đỗ Công Tiên có lòng thay đổi vấn đề tham ô thối nát nghiêm trọng của thủy vận trong phủ, cũng là thật lòng khen ngợi Triệu Bạch Ngư, có ý bồi dưỡng nhưng vẫn ngấm ngầm mưu tính, lợi dụng Triệu Bạch Ngư không chút nương tay.

Làm quan thế nào quyết định bởi cân bằng, tùy vào cách làm thế nào để tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu thiệt hại, coi như Đỗ Công Tiên đã tận tình làm quan đến mức tận cùng rồi.

"Về thủy vận, Đông cung đã nhúng tay vào bao nhiêu?"

Đỗ Công Tiên đáp: "Bốn tỉnh Kinh Đông, Hoài Nam, Hà Bắc, Hà Đông cùng với thủy vận phủ Kinh Đô đều nằm dưới tay bộ Hộ, trong đó thủy vận Kinh Đô và tỉnh Hoài Nam là phát triển nhất. Trải qua nạn lụt Hoàng Hà và đại án Hoài Nam, lại thêm mở cửa chợ đêm, buôn bán ngày càng phồn vinh, tham hủ thương thuể thủy vận ngoài tỉnh có thu bớt lại. Còn thủy vận trong phủ... Nói là Đông cung nhúng tay, chi bằng nói rằng nó gắn bó chặt chẽ với trăm quan trong kinh."

Nguyên Thú đế: "Nói kĩ xem."

Đỗ Công Tiên bèn nói rõ từng tình hình hiện tại ra, như trăm quan nhận bổng lộc không đủ nuôi cả nhà, không thể không lệnh cho người kinh doanh sản nghiệp riêng, dấn thân vào các hạng thương nghiệp chỉ để duy trì cuộc sống hằng ngày sao cho thoải mái vừa đủ.

Nguyên Thú đế: "Thuở đầu dựng nước Đại Cảnh loạn trong giặc ngoài, quốc gia túng thiếu, đúng là không thể phát bổng lộc quá cao được, nhưng Đại Cảnh đã khôi phục lại chế độ quản ruộng mà tiền triều đã phế trừ, căn cứ vào phẩm cấp lớn nhỏ, mỗi một mệnh quan triều đình đều được phát một số lượng chức điền nhất định, dùng để bổ sung vào bổng lộng cho quan viên, chẳng lẽ còn chẳng đủ thỏa mãn lòng ham muốn của bọn họ sao?"

Đỗ Công Tiên: "Tuy là có chức điền, nhưng lại thu thuế nặng hơn!"

Bắp thịt trên gò má của Nguyên Thú đế căng chặt lạ thường, tất nhiên là đang tức giận: "Nói như vậy là do triều đình sai vì hậu đãi không đủ sao?"

Đỗ Công Tiên dập đầu, không hề kinh sợ gì nói: "Thần sợ hãi. Nhưng như bệ hạ nói, Đại Cảnh dựng nước là khi còn loạn trong giặc ngoài, thiên tai nhân họa không ngừng đến, quốc khố nội khố thiếu hụt nghiêm trọng, thiên hạ đều biết, vì thế nên ban đầu tiền triều mới không ủng hộ mở cửa chợ đêm, chưa khao khát dùng thương thuế bù đắp vào quốc khố, cải thiện đời sống nhân dân, nhưng buôn bán phát triển chỉ là chuyện một sớm một chiều. Quốc khố là tài sản của cả nước, mà tài sản ấy từ dân mà ra, thuế má dân gian rườm rà, trăm quan được triều đình ban cho chức điền còn sống lay lắt qua ngày, bình dân dưới kia không quan không tước, vốn dựa vào thời tiết bốn mùa quyết định xem sang năm mình có thể ăn no hay không, đã thế nhỡ gặp phải năm thu hoạch không tốt, còn phải đóng hơn nửa phần thuế cấp dưỡng triều đình đánh giặc, hoặc là cứu lấy một tỉnh lớn khác đang chịu đủ thứ thiên tai hành hạ, mà những thứ này vốn nên do quốc gia, do triều đình dốc sức giải quyết, chứ không nên để cho trăm họ gánh vác, không nên để cho con dân ta đến cả cơm ăn cũng không đủ no bụng."

Nguyên Thú đế: "Nhưng cái này có liên quan gì đến việc bộ Hộ tham ô tiền thuế thủy vận? Nếu như những năm nay bộ Hộ không tham ô số bạc đó, thì thủy vận trong phủ nộp thuế lên đã đủ để giải quyết một vài khoản khẩn cấp trong quốc khố và nội khố rồi, cũng chẳng cần phải tăng thêm tiền thuế cho dân."

Đỗ Công Tiên: "Tuy số bạc thuế thủy vận khả quan, nhưng để nói tương đối thì chỉ như muối bỏ biển. Hơn nữa từ nhỏ nhìn lớn, thấy mầm biết cây, thuế má trăm họ nặng nhọc, tên gọi các loại thương thuế hỗn loạn, thuế linh tinh rất nhiều, thần từng nghe nói các huyện trong phủ Kinh Đô cứ mỗi mười dặm thì có một đồn trú thu thuế, thu thuế đi đường của thương nhân đi qua, thương nhân còn chưa ra khỏi tỉnh đã bị mấy thứ thuế lặt vặt ép tới nỗi khổ không thể tả, ngược lại bộ Hộ là nơi quyết định danh mục nộp thuế, quy định bất kể là người buôn bán dù cho đi đường thủy hay đường bộ, chỉ cần nộp một mức thương thuế nhất định là sẽ được thông suốt một đường không gặp trở ngại. Bạc thuế thủy vận bị tham ô, nhưng bộ Hộ không động đến những thương thuế khác..."

Trong điện Văn Đức, Đỗ Công Tiên không nhanh không chậm nói liên tục không dứt.

***

Mà lúc này, trong một sương phòng nằm ở sân sau ít người qua lại của một quán rượu ở phủ Kinh Đô, Đông cung và Ngũ hoàng tử đang mở tiệc mời Triệu Bạch Ngư.

Hôm nay cả ba đều không mặc công phục, hai người trước mặc áo cà sa nhẹ nhàng tiện lợi, bên ngoài khoác áo lông cừu được chế tác tinh xảo, chỉ cần đưa mắt nhìn một cái là đã biết đây chính là người ở tầng lớp cao. Còn trang phục của Triệu Bạch Ngư hôm này là áo cổ chéo trắng muốt bên trong, khoác ngoài một chiếc áo màu vàng hơi đỏ có cổ đứng, ống tay rộng, vừa giống như văn nhân vừa giống như cư sĩ nhàn rỗi nằm ì ở nhà, hiếm khi thấy y mặc quần áo có màu sắc tươi mát, cũng vì ăn mặc như vậy mà trông y càng hoạt bát hơn lúc bình thường nữa.

"Triệu khanh, ngồi đi." Thái tử rót ly rượu, tự tay đưa cho Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư ra vẻ cực kì sợ hãi nhận lấy ly rượu nhưng không uống, đi thẳng vào vấn đề, hỏi: "Điện hạ mời thần tới là vì chuyện riêng hay việc công?"

Thái tử: "Vì cả hai."

Triệu Bạch Ngư rũ mắt làm dáng dễ bảo, nhưng lời nói ra chẳng khách sáo chút nào: "Nếu là chuyện riêng, thần và điện hạ không quá thân thiết, lại càng chẳng có tình riêng, vậy nên không có chuyện riêng gì để nói. Còn nếu vì việc công, mong điện hạ đến thẳng Thuế vụ ty tìm vi thần."

Hai hàng lông mày của Ngũ hoàng tử nhíu lại: "Triệu Bạch Ngư, ngươi bớt nói nhảm đi, vì sao chúng ta ở đây, trong lòng ngươi hiểu rõ! Nếu ngươi đã đi thẳng vào vấn đề, vậy ta cũng nói thẳng cho ngươi biết, thương thuế thủy vận trong phủ có thể để cho Nha môn thủy vận của ngươi quản lý, nhưng cũng phải cho phép bộ Hộ nhúng tay vào!"

Triệu Bạch Ngư buông ly rượu xuống, không nể mặt: "Vậy thì không còn gì để nói nữa, cũng chẳng cần phải lãng phí thêm thời gian, thần cáo lui trước." Nói xong đứng dậy muốn đi.

"Ngươi không muốn biết bạc thuế thủy vận mà bộ Hộ thu được mấy năm nay đều tiêu đi đâu sao?" Thái tử bỗng nhiên lên tiếng.

Bước chân của Triệu Bạch Ngư không ngừng lại: "Nếu như ngài chịu lấy sổ sách thật sự của bộ Hộ ra cho thần xem, thần vô cùng cảm kích."

"Bị đê Hoàng Hà vỡ làm ảnh hưởng, bạc thuế thủy vận bộ Hộ thu năm ngoái tổng cộng hai triệu, toàn bộ đã dùng cho cứu nạn cùng với sửa chữa đường sông. Bạc thuế năm trước nữa nhận được là ba triệu năm trăm bảy mươi nghìn lượng, chia ra dùng cho nạn châu chấu ở Lưỡng Triết, nạn lụt ở Sơn Đông và để Định Châu đánh giặc. Ba năm trước bạc thuế thủy vận là ba trăm bảy mươi nghìn lượng, đều đã được phát cho quân tư quân Tây Bắc, tu sửa lại đường sá trong phủ, còn có bảo vệ đường sông bốn kênh... Còn cần cô nói thêm nữa sao?"

Triệu Bạch Ngư vẫn không dừng lại, Thái tử đứng dậy cất cao giọng: "Triệu Bạch Ngư, ngươi tự xưng là một lòng vì nước vì dân, cô cũng thừa nhận ngươi thật sự có tài tể tướng, là lương thần năng lại hiếm gặp, ngươi là thanh kiếm sắc có thể đâm rách quan trường Đại Cảnh, nhưng mà bộ Hộ không phải là bộ Hộ của một mình cô, bộ Hộ quản thuế thủy vận không phải chỉ mình cô nuốt bạc, cô là trữ quân của Đại Cảnh, ngươi cho rằng cô không vì nước vì dân hay sao? Bộ Hộ thu thuế của thiên hạ, có hai ty Đạc Chi, Diêm Thiết bình quyền, có thêm Thuế vụ ty ngăn giữa, ngươi nghĩ muốn tham là có thể tham ư? Thuế mà bộ Hộ thu được cũng vào quốc khố, đó là kho bạc của triều đình, là kho bạc của Thiên tử, không phải là môn đảng của cô mà muốn điều khiển là có thể tùy ý điều khiển được!"

"Ngươi hiểu rõ đạo lý thấy mầm biết cây, chỉ từ việc bộ Hộ nhúng tay vào thuế thu thủy vận trong phủ liền cho rằng mình đã nhìn thấy toàn diện, lấy nguyên nhân quốc khố, nội khố thiếu hụt trách lên đầu bộ Hộ, nhưng ngươi cần phải biết, nếu như những năm này không nhờ có bộ Hộ cố gắng nghĩ cách, cân nhắc nhiều mặt, vét tiền khắp nơi, thì triều đình lấy đâu ra bạc để đánh giặc, đâu ra bạc để cứu nạn thiên tai?"

"Với triều đình mà nói, ba bốn triệu lượng bạc thuế thủy vận hàng năm cũng chỉ như muối bỏ biển mà thôi, cứ cho rằng ngươi gộp nó vào trong quốc khố, cũng không xoa dịu được bao nhiêu."

Triệu Bạch Ngư dừng chân, nghiêng người lạnh lùng nhìn sang: "Ta chỉ hỏi một câu, điện hạ có thể đảm bảo được bạc thuế thủy vận hàng năm bộ Hộ thu được đều dùng cho triều đình, cho dân sinh hay không?"

Gò má của Thái tử co giật dữ dội, cắn răng đáp: "Con chuột năm nào cũng đánh, đánh mãi không bao giờ xong, chỉ cần có người, có thị phi, tham ô trong quan trường cũng không bao giờ là đủ, giết không hết được! Nước trong không có cá, thông minh như ngươi ắt sẽ hiểu được đạo lý này."

Triệu Bạch Ngư: "Làm sao biết được đây không phải là ngụy biện?"

Thái tử nổi cơn tức giận: "Triệu Bạch Ngư, ngươi đúng là ngoan cố! Bằng nhừng lời này của ngươi thôi, cô có thể trị tội ngươi rồi đấy! Quốc khố chỉ muốn bộ Hộ đưa tiền chứ chưa từng hỏi bộ Hộ thu thuế có bao nhiêu khó khăn, không hỏi lúc nhân dân oán hận sôi trào, bộ Hộ trấn an như thế nào, không hỏi lúc dưới đáy lập loạn danh mục thu thuế đất thuế hàng thuế lặt vặt, bộ Hộ đi giải quyết như thế nào! Bộ Hộ cần dùng người, cũng cần tiền, ngươi cho rằng mấy người ở đó đều ăn sương mà sống sao? Triệu Bạch Ngư ta nói cho ngươi biết, phải giao cho bộ Hộ quản ít nhất ba thành thuế thuyền hàng, ngươi cho thì cho, không cho cũng phải cho!"

Hắn bước nhanh vài bước đến bên cạnh Triệu Bạch Ngư, dùng mắt thường cũng có thể thấy được hắn đang vô cùng tức giận: "Ngươi nghĩ xem vì sao Đỗ Công Tiên không dám đụng vào thương thuế thủy vận? Bởi vì đám thương nhân lợi dụng thuyền hàng để buôn bán này hơn nửa là làm việc cho kinh quan, bao gồm cả Trần Sư Đạo mà ngươi tôn kính nhất! Ông ta nghèo khổ, nhưng ông ấy và người nhà cũng mình cũng muốn ăn cơm, người trong họ lợi dụng danh hiệu của ông ấy để buôn bán ở bên ngoài, nếu thật sự muốn so đo tính toán, thì Trần Sư Đạo cũng có cấu kết với bộ Hộ!"

Vẻ mặt của Triệu Bạch Ngư hơi động, ánh mắt nhanh chóng hướng về ánh mắt của Thái tử, chắn chắn hắn không nói láo thì không khỏi cau mày.

Y lui về phía sau một bước, muốn nói vài lời phản bác lại nhưng đầu óc hơi loạn, nhất thời không thể suy nghĩ rõ ràng.

Thái tử đã lấy lại bình tĩnh: "Bạc thuế thủy vận không dễ thu như vậy, thương thuế tạp thuế có rất nhiều danh mục, không có bộ Hộ chu toàn bên trong, chỉ bằng một cái Nha môn mới mở đã lụi tàn của ngươi căn bản không quản nổi thương thuế thủy vận bên ngoài phủ Kinh Đô."

Hắn bước qua khỏi Triệu Bạch Ngư, Ngũ hoàng tử theo sát phía sau.

"Ngươi quản được trong phủ, không quản được bên ngoài! Ngươi giết chết được lòng tham mà mắt mình có thể nhìn thấy, nhưng sẽ không bao giờ có thể loại bỏ được sự thối rữa vô hình vô tận trên đời này!"

Dưới ánh nắng, gió rét vẫn lạnh đến thấu xương, bông hoa mai lìa cành rơi xuống.

Triệu Bạch Ngư vươn tay đón lấy, nhìn cánh hoa đỏ tươi ướt sương trong lòng bàn tay mình, đôi con ngươi đen láy tối lại, không nhìn thấy chút ánh sáng nào.

***

"Thương nhân cần bộ Hộ, thủy vận càng cần bộ Hộ hơn!"

Trong điện Văn Đức, Đỗ Công Tiên nói như đinh chém sắt: "Nhưng bộ Hộ không thể là duy nhất được, cần phải có sự trợ giúp từ các bên khác, chừng nào triều đình lập được cơ chế hoàn thiện, chừng nấy mới có thể diệt sạch được nạn tham ô hoành hành trong quan trường."

Sâu trong mắt Nguyên Thú đế như có ánh lửa bập bùng, ông lạnh lùng nhìn Đỗ Công Tiên hồi lâu mới lên tiếng: "Ngươi đã có lòng tính toán đến hồi này, chung quy không nên đến nói thay bộ Hộ."

Đỗ Công Tiên chỉ thể hiện bình tĩnh ra ngoài, thật ra sau lưng đã thấm đẫm mồ hôi lạnh.

Nguyên Thú đế xoay nhẫn ban chỉ, trầm tư hơn nhiều: "Bộ Hộ quản lý thuế thu trong thiên hạ, nhưng mới vừa rồi ngươi chỉ nhắc đến bốn tỉnh Hoài Nam, không đề cập đến Lưỡng Giang... Ý ngươi muốn nói là đến cả bộ Hộ cũng không quản được nơi đó sao?"

Đỗ Công Tiên vội vàng dập đầu nhấn mạnh: "Không phải thần cố ý nhằm vào Lưỡng Giang, nhưng bạc thuế thủy vận của cả Kinh Đô một năm đạt đến ba triệu, Lưỡng Giang nối liền hai cảng hải vận lớn sao chỉ thu được ba triệu? Từ khi dựng nước Đại Cảnh đã khích lệ người dân buôn bán, còn hải vận là hình thức thông thương đã được thúc đẩy từ tiền triều, dù không phát triển mạnh như phủ Kinh Đô, nhưng đến nay bạ thuế thủy vận chỉ nhiều hơn so với khoản ở phủ Kinh Đô một chút thôi. Dám hỏi bệ hạ, đây là điều hợp lý hay sao?"

Nguyên Thú đế không biến sắc: "Kết án cần bằng chứng, ngươi có bằng chứng không?"

Đỗ Công Tiên cắn răng nói: "Chỉ cần dựa vào danh Kế tương*của thần là được!"

(*) Kế tương: Hộ bộ Thượng thư, Tam ty sứ, phàm là chức vị cao nhất quản lý tiền bạc của quốc gia đều có thể xưng là Kế tương – tể tướng giỏi tính tiền quản tiền.

Nguyên Thú đế nhắm mắt lại: "Không bằng không cớ, làm sao tra được Lưỡng Giang?"

Đỗ Công Tiên: "Bệ hạ —— "

"Được rồi!" Nguyên Thú đế thấp giọng rầy một tiếng, sau đó dịu lại: "Về lỗ hỗng trong hệ thống thủy vận và tranh chấp giữa Nha môn Thủy vận Thuế vụ ti và bộ Hộ, trẫm sẽ tìm các tể tưởng trong triều để giải quyết. Triệu Bạch Ngư có công với triều đình, trẫm sẽ tự khen thưởng. Lui xuống đi."

Đỗ Công Tiên còn muốn khuyên nữa, nhưng Nguyên Thú đế đã bước qua người lão, khoát khoát tay tỏ rõ ý không muốn đi sâu vào vấn đề của Lưỡng Giang, chỉ đành hành lễ rồi rời khỏi điện Văn Đức.

Đỗ Công Tiên cúi đầu, dáng vẻ vội vàng, chợt có người kêu lão từ phía sau: "Đỗ đạc chi đang định xuất cung sao?"

Quay đầu nhìn lại, Đỗ Công Tiên thấy đó là Hoắc Kinh Đường thì chắp tay: "Thần ra mắt tiểu quận vương."

Hoắc Kinh Đường cười một tiếng: "Cùng đi được chứ?"

Đỗ Công Tiên không đoán được ý tiểu quận vương, cuối cùng cũng không từ chối lời mời đồng hành của Hoắc Kinh Đường.

==

Tác giả muốn nói:

(Min: Dưới đây là vài lời giải thích về tình tiết truyện, tác giả nói có thể là spoil, hãy lướt qua nếu bạn không thích đọc ~)

Ở chương này, Tiểu Ngư đã xé bỏ được một mặt quy tắc ngầm vô cùng tàn khốc của quan trường, y không thể không thỏa hiệp.

Một là bộ Hộ chiếm bạc thuế thủy vận, có tham, nhưng cũng đúng thật là có làm việc, đảm bảo quốc khố thiếu hụt ở một mức nhất định chứ không đến nỗi hoàn toàn không xoay sở được.

Hai là thu thuế thương nhân, thế lực bộ Hộ rắc rối phức tạp nhưng vẫn hỗ trợ giải quyết đống thuế lặt vặt, đảm bảo thương nhân và việc buôn bán vẫn phát triển ổn định, không bị thuế kéo chân.

Ba là quan triều hoặc tự nguyện hoặc bất đắc dĩ tham dự trốn thuế, không thể đuổi tận giết tuyệt được.

Bốn, chuyện tốt ở chỗ là Nguyên Thú đế biết rồi, sẽ nghĩ cách giải quyết vấn đề thuế má, đây chính là chuyện mà Hoàng đế nên lo nghĩ, không liên quan gì đến bé Cá hết.

==

Min: Tự nhiên năng suất nên hôm nay tặng mọi người hai chương siu dài nhoa kekeke ^^

Chương 56

Hoắc Kinh Đường chắp tay đi phía trước, cả đường không nói lời nào.

Đỗ Công Tiên không đoán ra thái độ của hắn, lòng sinh thấp thỏm, thi thoảng liếc mắt về phía Hoắc Kinh Đường, ánh mặt trời vàng nhạt đậu lên gò má tiểu quận vương tỏa ra phong thái mạnh mẽ khiến cho lão nhớ đến tiểu quận vương mười lăm tuổi đánh bại Đột Quyết, hồi kinh dự Quỳnh Lâm yến mà mình tình cờ gặp được.

Tiểu quận vương vội vàng dự tiệc, chốc lát lại rời đi hệt như một thoáng kinh hồng, hình ảnh ngày đó dường như đã in sâu vào trong lòng tất cả mọi người.

Về sau nữa, tin tức có liên quan đến tiểu quận vương chỉ còn lại việc hắn trở về từ Nam Cương, trao trả binh quyền, im hơi lặng tiếng ở trong phủ quận vương, cả Kinh Đô đều đồn đại tiểu quận vương này tướng mạo xấu xí, tính tình lại còn hung tàn.

Mấy lần gặp mặt tiểu quận vương đều đeo mặt nạ sắt, càng chứng mình tin đồn mặt mũi hắn xấu là thật.

Năm ngoái hắn trở về từ Hoài Nam, tuy ít giao du với bên ngoài, nhưng thỉnh thoảng ra vào triều cũng không đeo mặt nạ nữa, dáng vẻ và phong thái đẹp đẽ đến độ khiến cho đám quan lại trẻ tuổi chưa trải sự đời phải kinh ngạc.

Nếu như tiểu quận vương sóng vai với Triệu Bạch Ngư nữa, thì hiểu quả đẹp mắt sẽ tăng lên gấp đôi đó!

Chỉ sợ rằng Lâm An quận vương và Triệu Bạch Ngư không biết với vẻ ngoài xuất sắc ấy, bọn họ đã trở thành đôi vợ chồng tình cảm sâu đậm nhất Kinh Đô trong lời của các phu nhân các nhà trong phủ, đến cả một vài văn nhân sĩ tử cũng từng nghe đến và cho rằng đúng thật là vậy.

Mọi người thường khoan dung hơn với những người đẹp, nhất là văn nhân và phu nhân các nhà, bọn họ không hề che giấu việc theo đuổi giá trị nhan sắc cao, cũng xem đó là thứ tình cảm có ý nghĩa.

"Đỗ đại nhân."

Hoắc Kinh Đường bỗng nhiên lên tiếng, Đỗ Công Tiên bèn chắp tay theo phản xạ: "Xin tiểu quận vương hãy phân phó."

Vừa nói xong mới kịp phản ứng, lúng túng thả tay xuống.

Hoắc Kinh Đường quấn vòng Phật quanh cổ tay, sau đó lại cởi từng vòng ra, nhàm chán lặp đi lặp lại động tác đó, hờ hững đáp: "Đỗ đại nhân rất tán thưởng tiểu lang quân nhà ta sao?"

"Tiểu Triệu đại nhân có kỳ tư diệu kế, không thiếu gan trung gan nghĩa, tất nhiên là ta sẽ không keo kiệt mà tán thưởng rồi."

"Cho nên ông lợi dụng y giúp ông đối phó với bộ Hộ? Được Đỗ đại nhân yêu thích, bổn vương đúng là phải xin miễn thứ cho kẻ bất tài."

Lòng Đỗ Công Tiên run rẩy, biết tiểu quận vương đây là đang bao che khuyết điểm, vì vậy chỉnh cho giọng mình nhún nhường hơn một chút: "Tiểu Triệu đại nhân có chí thanh vân, trước đây liên lụy chuyện nhà, bỏ phí mấy năm ở Nha môn phủ Kinh Đô, uổng mất tài hoa, nếu không chỉ bằng một bụng kinh luân đó, y nên sớm danh quan Kinh Đô, chậm rãi ổn định leo đến kinh quan ngũ phẩm, nay cần gì phải lăn lộn trong cái Nha môn nghèo nàn lụi bại kia chứ?"

Hoắc Kinh Đường như cười như không: "Hóa ra Nha môn Thủy vận trong mắt Đỗ đại nhân là một nơi nghèo nàn lụi bại, không phải là ván cầu sao?"

Đỗ Công Tiên: "Là nơi nghèo nàn lụi bại, cũng là một cơ hội hiếm có. Thân phận của tiểu Triệu đại nhân phức tạp, chẳng hạn như nguyên nhân y chỉ có năng khiếu bẩm sinh chứ không phải tiến sĩ cũng khiến cho quan vận của y khó khăn, nếu không có cơ hội chỉ có thể ở ngũ phẩm đến cuối đời. Muốn đứng hàng tam công, làm tể tướng trên vạn người thì nhất định phải nghiêng người cầm kiếm, làm chuyện người khác không dám làm, dùng chính tích đẹp đẽ có một không hai chặn hết miệng chỉ trích của đám người ngoài kia."

Hoắc Kinh Đường: "Rõ ràng là chiếm phần lợi ích về cho mình, qua miệng ông nói ngược lại biến thành đối xử chân thành với người khác. Chẳng trách Đỗ đại nhân không kết bè đảng với ai, không đè đầu chèn ép người khác mà vẫn có thể ngồi vững vị trí Tam ty sứ này. Hơn hết, đòi nợ xóa sổ là việc mà ai cũng e ngại, nhưng từ trước đến giờ trăm quan triều đình vẫn đánh giá Đỗ đại nhân không tệ, trừ Lại bộ Thượng thư. Trước kia bổn vương chưa nghĩ ra nguyên nhân, bây giờ mới tỏ hóa ra Đỗ đại nhân suy nghĩ nhanh nhẹn, rất có tài tranh biện, có thể nói đen thành trắng."

Đỗ Công Tiên: "Mỗ thật sự sợ hãi, làm sao gánh nổi suy đoán của quận vương điện hạ? Mỗ không chèn ép ai, không kết bè đảng là vì tốt cho người khác, hơn nữa là vì năng lực bình thường, không thể tranh đúng sai với người khác. Không bàn thị phi, tất không thù oán."

Lời qua tiếng lại như giáo như khiên, Đỗ Công Tiên đáp lời không để lọt một giọt nước, giữ nguyên điệu bộ nhún nhường từ đầu đến cuối.

Hoắc Kinh Đường liếc lão một cái, cũng không giận chỉ hỏi: "Đỗ đại nhân muốn cải cách thủy vận sao?"

Đỗ Công Tiên: "Nha môn Thủy vận nghèo khó lung lay, việc cấp bách trước mắt tất nhiên là cải cách."

Hoắc Kinh Đường: "Liên quan đến thu thuế, trong lòng Đỗ đại nhân biết rõ, nhưng ông phải dán cho chặt cái miệng vào, bổn vương không thích lượn quanh nút thắt với ông. Bạc thuế thủy vận có liên quan đến cơ chế thương thuế, một sớm một chiều không thể tách rời khỏi sự quản lý của bộ Hộ, coi như bệ hạ có lòng chỉnh lý thủy vận, đại thần văn võ cũng đồng ý, nhưng đó chỉ là một Nha môn mới mở, không uy tín, không nhân mạch, thế đơn lực bạc, căn bản không thể lay chuyển được. Trước đây tiểu lang chưa từng tiếp xúc qua biến động lớn của một cơ chế, không biết để thúc đẩy một chính lệnh cần phải hao phí bao nhiêu sức người, sức vật, tiền của, nhưng Đỗ đại nhân làm quan hai ba mươi năm rồi, chẳng lẽ ông cũng không biết sao?"

Đỗ Công Tiên: "Muôn sự tại người."

Không biết từ lúc nào hai người đã đi đến cửa cung, đương lúc sắp mỗi người một ngã, Hoắc Kinh Đường đột nhiên dừng chân, xoay người nhìn về phía Đỗ Công Tiên, ánh mắt sắc bén như lưỡi dao lạnh giá đâm vào sâu trong nội tâm không thể lẩn trốn được của lão.

"Là vì Lưỡng Giang?"

Giọng Hoắc Kinh Đường rất nhỏ, nhưng rơi vào tai Đỗ Công Tiên thì chẳng thua gì sấm sét kinh người, tâm tình vốn đã bình tĩnh ung dung thời khắc này đã tan thành mây khói.

Đỗ Công Tiên không nhịn được ngẩn đầu, nhìn Hoắc Kinh Đường mà hãi hùng, đôi con ngươi màu lưu y của đối phương tựa như nhìn thấy được tất cả yêu ma quỷ quái trên thế gian này vậy.

Đỗ Công Tiên ngập ngừng: "Làm sao ngài..."

Làm sao lại đoán được Lưỡng Giang?

Phải tích lũy ít nhất mười năm kinh nghiệm với thế cục triều đình, mới có thể hiểu rõ như lòng bàn tay, nếu không thì sẽ không thể nào thông qua một Triệu Bạch Ngư lão đề bạt đến Nha môn mới làm việc mà đã thấy được Lưỡng Giang ở rất xa phủ Kinh Đô.

Sao Hoắc Kinh Đường có thể tường tận thế cục triều đình như vậy?

Mười hai tuổi hắn đã rời khỏi trung tâm chính trị, sau khi hồi kinh nhàn nhã ở nhà, trong tay còn chẳng có thực quyền, đường tắt nào để hắn nắm rõ được tình hình đến thế?

Đấy là kỳ tài ngút trời, nếu không có mạng lưới giao thiệp, không có dây mơ rễ má, thì không có khả năng chỉ nhìn một hai việc nhỏ là suy ra đại cuộc được!

Trừ phi hừng hực dã tâm, ý tại hoàng vị.

"Đỗ đại nhân bớt để tâm đi thì hơn. Bổn vương thích cuộc sống nhàn nhã, tất nhiên cũng hy vọng tiểu lang có thể làm một người giàu sang rảnh rỗi. Chỉ là y có chí lớn, bổn vương đành phải ủng hộ, nhìn y làm mọi việc suông sẻ, chứ không phải trở thành thương giáo để các ngươi lần một lần hai tùy ý cầm đi sai khiến." Ánh mắt Hoắc Kinh Đường nguy hiểm, giọng lạnh lẽo khẽ vang: "Mưu tính của vị trong cung kia thì thôi, kẻ làm bề tôi không cách nào bác bỏ, nhưng để tay lên ngực tự hỏi đi, ông là cái thá gì?"

Đỗ Công Tiên sinh lòng tức giận, nể tình Hoắc Kinh Đường vì yêu mà nóng lòng, quan tâm ắt loạn, lão bèn nhẫn nại nguyên bảo: "Chưa nhắc đến quan trường vốn luôn tính toán lẫn nhau, phải mắc mưu mới chứng minh được tiểu Triệu đại nhân không phải người vô dụng tầm thường, lại bàn đến việc quận vương điện hạ ngài muốn che chở cho tiểu Triệu đại nhân, ngài có thể che chở cho cả đời quan đồ của y suông sẻ hay sao? Y cũng đường đường là nam tử hán, giỏi giang hơn hàng vạn nghìn nam nhi khắp thiên hạ, là người có tài đứng hàng tể tướng, cớ sao phải để cho y núp dưới bóng một người đàn ông khác hưởng thụ đời người bình an nhưng tầm thường? Để yên cho Triệu Bạch Ngư ở lại cái Nha môn rách trong phủ Kinh Đô, không bằng buông tay đưa y ra tỉnh ngoài lăn lộn."

Cái mà Đỗ Công Tiên gọi là tận tình khuyên bảo đều xuất phát dựa trên mong muốn mài giũa Triệu Bạch Ngư thành thanh đao bén nhọn bổ xuống Lưỡng Giang, cho nên lão chẳng khuyên được Hoắc Kinh Đường dù chỉ là nửa câu.

Hoắc Kinh Đường nhìn sắc trời, khảy vòng Phật, vừa đọc thầm kinh Phật tiêu trừ lệ khí vừa nói: "Đáng tiếc khi không có cùng suy nghĩ với Đỗ đại nhân, có điều lời nên nói bổn vương cũng nói hết rồi. Nếu như Đỗ đại nhân thật sự có lòng chỉnh đốn Lưỡng Giang thì có thể đích thân ra trận, đừng đến gieo họa cho tiểu lang quân của ta, nếu không —— "

Bàn tay khảy vòng Phật khựng lại một chút, Hoắc Kinh Đường chỉ hơi mạnh tay bóp một cái, một viên tròn trong chuỗi hạt gỗ tử đàn vỡ tan thành bụi.

Hù dọa không cần nói miệng cũng đã khiến đối phương sợ đến mức hồn bay phách lạc.

Đỗ Công Tiên nuốt nước bọt, lúc Hoắc Kinh Đường bước đi lão như có phản xạ tự nhiên nhảy ra sau lưng Cấm quân canh phòng ở cửa cung, tốc độ chạy trốn nhanh như người tập võ, hồi lâu mới dám ló đầu ra nhưng phát hiện trước cửa đã trống trơn, Hoắc Kinh Đường đi từ lâu rồi.

Đỗ Công Tiên còn chưa hoàn hồn, chạy về kiệu của mình ngồi lau mồ hôi lạnh trên trán, vừa nghĩ đến lúc lão thúc đẩy Nguyên Thú đế nghe tiến trình kế hoạch, không khỏi lắc đầu thở dài đầy khổ sở.

Quan trường Lưỡng Giang nguy hiểm, nhưng cũng có nghĩa chỉnh đốn được nơi đó là có thể trở thành danh thần một đời, còn được vào chiêu huân các, cơ hội vô cùng tốt để ghi danh sử sách!

"Bao nhiêu tân khoa tiến sĩ muốn trở thành danh thần thiên cổ, khao khát có được một cơ hội đại triển quyền cước, nhưng cũng có biết bao nhiêu người cả đời hèn hạ không có chí tiến thủ, tên tuổi không lưu sử xanh. Tiểu Triệu đại nhân có chí lớn, sao lại không buông tay cho y xông vào núi đao biển lửa một lần?"

Đỗ Công Tiên không nghĩ ra, tiếp tục thở dài.

***

Buổi đàm phán cùng Đông cung giải tán trong không vui, Triệu Bạch Ngư đi lang thang không đích đến trong phủ Kinh Đô, từ khu chợ sầm uất đến tận cầu Châu, hai bên đầu cầu bày đầy sạp nhỏ, dưới vòm tròn giữa cầu là vô số thuyền hàng chở đầy lương thực qua lại, bị trạm thu thuế gần đó cản lại đòi phí qua cầu.

Triệu Bạch Ngư đứng trên cầu nhìn Công sứ thu thương thuế, lái buôn ở bên cạnh hỏi: "Tiểu lang quân, có muốn thưởng thức thử cua say rượu, vịt kho không?"

Triệu Bạch Ngư nhìn gã, đó là một người đàn ông da ngăm chừng bốn mươi tuổi, trước mặt là hai chiếc tủ hình chữ nhật lớn, có thể thoang thoảng ngửi thấy mùi hương của món ăn trong đó.

"Mùa này mà vẫn có cua ngon à?"

"Tiểu lang quân chưa từng nghe câu xuân ăn cua hạ ăn sam sao? Cua xuân không béo khỏe bằng cua thu, nhưng có mùi vị đặc biệt, thịt cua rất tươi, mới vừa bắt từ sông lên ngâm qua nước lạnh, bóc vỏ ra là có thể ăn sống thịt cua bên trong, nếu như ngâm vào trong rượu chưng hai ngày một đêm rồi lấy ra ăn là vừa có thịt tươi lại vừa có rượu thơm, không có một chút mùi tanh nào cả."

"Cho ta bốn con cua rượu và bốn lạng vịt kho."

"Có liền!"

Trong lúc chờ hàng Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên hỏi chuyện: "Các ngươi bày sạp ở chỗ này, quan phủ có thu thuế không?"

"Không thu. Kinh doanh nhỏ thôi, tiền đâu mà đóng thuế? Có điều nghe nói dưới phủ Kinh Đô có một vài huyện thành phải thu đấy, ra vào huyện là thu, bày sạp hàng trên vỉa hè cũng thu, qua cầu lại thu tiếp... Chúng tiểu dân làm sao chịu nổi? Thế là ai nấy đều ra ngoài làm ăn, hoặc là chỉ rao hàng trong thôn, miễn cưỡng sống qua ngày thôi."

"Triều đình có mệnh lệnh rõ ràng, không thu bất kì đồng bạc thuế nào của sạp buôn nhỏ."

"Hỡi ôi! Trên có chính sách dưới có đối sách, lão hoàng đế ở tít trên cao, nào có nhìn thấy chúng hạ dân dưới đáy sống ra làm sao chứ." Gã bán hàng đóng gói thức ăn cho Triệu Bạch Ngư, cẩn thận quan sát khí chất, áo quần của y, rồi đến mặt mũi sạch sẽ, không nhịn được cúi người gật đầu: "Tiểu lang quân đừng trách, tôi đây không phải đang oán hận thiên gia và triều đình. Thánh thượng đại phát từ bi, mở chợ đêm khích lệ buôn bán, lại miễn thuế kinh doanh cho buôn bán nhỏ lẻ chúng tôi, cho chúng tôi ăn cơm no còn có thể để tiền tiết kiệm, chúng tôi còn chưa kịp biết ơn nữa mà!"

Triệu Bạch Ngư cười ôn hòa: "Không cần căng thẳng, ta không phải nhân vật lớn gì đâu. Mà trong phủ Kinh Đô không có ai thu thuế lung tung sao?"

Người bán hàng do dự một chút rồi đáp: "Mấy năm trước cứ năm dặm là có một trạm thu thuế, sau đó không biết vì sao mà có rất nhiều trạm bị dỡ bỏ đi, vậy nên nhiều danh mục thuế ngặt nghèo lặt vặt còn thiếu lắm."

Triệu Bạch Ngư nói cảm ơn, nhận thức ăn trả tiền xong rồi đi, y lại đến chỗ mấy cây cầu, bến thuyền và cửa cống trong phủ quan sát, không biết từ khi nào đã đi đến ngự nhai*, gặp được Trần Sư Đạo mới vừa tan ca trực.

(*) Ngự nhai là con đường nơi mà vua đi lại trong Kinh Đô

Trần Sư Đạo gọi y lại: "Không tập trung tinh thần gì cả, đang lo lắng chuyện gì sao?"

Triệu Bạch Ngư cười đáp: "Công việc gặp phải chút phiền toái thôi ạ, không có gì đáng ngại."

Trần Sư Đạo nhìn y chằm chằm, khịt mũi ngửi ngửi: "Có rượu có đồ tươi sống... Là cua say rượu à?"

Triệu Bạch Ngư mở hộp thức ăn tinh xảo ra: "Thầy này, lão ham ăn đúng là danh bất hư truyền."

Trần Sư Đạo xoa tay cười khà khà, nắm cánh tay Triệu Bạch Ngư lôi y vào quán rượu gần đó, tìm một chỗ sát bên cửa sổ ngồi xuống, đối diện phía dưới là dòng sông Biện, ông cụ gọi thêm mấy đĩa thức ăn và hai bình rượu, nhất quyết bắt Triệu Bạch Ngư uống cùng với mình.

Triệu Bạch Ngư không từ chối được, liều mình uống cùng thầy mấy ly, đến khi ngà ngà say rồi, thần kinh căng thẳng mới được thả lỏng ít nhiều, giương mắt thấy thầy đã ăn xong hai con cua rượu, ông cụ còn đang định xử đẹp con thứ ba, y đã vội vàng vươn tay giữ khư khư phần còn lại như bảo vệ, sau đó cũng đẩy luôn vịt kho ra ngoài.

"Hoắc Kinh Đường còn chưa ăn, phải để lại hai con cho hắn."

Trần Sư Đạo trợn mắt: "Ăn một con lấy vị là được rồi, ăn hai con sẽ nghiện đấy, hăng quá hóa dở."

Triệu Bạch Ngư rất kính trọng Trần Sư Đạo, trước kia không có đại nho nào nguyện ý dạy y học, chỉ có Trần Sư Đạo là chỉ dạy không phân biệt, luôn đối xử công bằng với y, sau đó phát hiện ra trí tuệ và thần dị của y nên hết lòng dạy dỗ, dành cho Triệu Bạch Ngư tình yêu thương và sự quan tâm của một trưởng bối.

Nếu như không có Hoắc Kinh Đường, hoặc là y đang không say, nhất định sẽ để cho Trần Sư Đạo hưởng hết số cua đó.

Nhưng bây giờ y đã là người có gia đình, tuy ngà say nhưng ý thức vẫn tỉnh táo, chỉ là hơi buông lỏng tâm trạng mà thôi.

Vì vậy, Triệu Bạch Ngư nghiêm túc nói với Trần Sư Đạo: "Thầy hai con, Hoắc Kinh Đường hai con, con không thể bên nặng bên nhẹ được."

Trần Sư Đạo vốn không cảm thấy gì, nghe được lời này, trong lòng lập tức mất cân đối: "Bên nặng bên nhẹ là thế nào? Tiểu quận vương có thể so với thầy sao?"

Triệu Bạch Ngư tỏ vẻ khó xử.

Trần Sư Đạo không dám tin, chủ công và ân sư bên nào thân cận hơn chẳng lẽ còn cần phải lựa chọn à? Còn do dự đến thế cơ đấy? Ông cụ nghĩ quan hệ với chủ công tốt nhất chỉ nên dùng từ tri kỷ mà thôi, nhưng giờ mới nhận ra hình như y đã thật sự yêu hắn, thương hắn, rõ ràng xem là người nhà rồi!

Vẫn chưa tròn một năm, trong lòng cậu học sinh bé nhỏ, chủ công đã quan trọng hơn cả ân sư rồi sao?

Sau khi xoắn quýt nội tâm một phen, Triệu Bạch Ngư quyết định đợi lát nữa lại chạy ra mua thêm mấy con cua ngâm rượu mang về phủ quận vương, thế là y đẩy hộp cua trong ngực ra bàn: "Thầy, thầy ăn đi."

Trần Sư Đạo: "Thầy không thèm nữa, ăn chút đậu phộng là được rồi."

"..." Cũng may Triệu Bạch Ngư là cao thủ vuốt lông, chậm rãi nói: "Cua sống tính hàn, kèm thêm rượu nếp càng không tốt cho dạ dày, ân sư vốn cũng có bệnh đau dạ dày, còn thích nhắm rượu, cho nên học sinh cảm thấy ân sư chỉ cần nếm lấy vị thôi là được."

Trần Sư Đạo vuốt ve sợi râu nhỏ, khóe môi muốn cong mà không chịu cười: "Đau dạ dày thôi, cũng chẳng phải vấn đề gì lớn lao, kêu thái y kê chút thuốc là được. Con đúng là lo nghĩ nhiều, bệnh vặt vãnh thôi mà cũng để trong lòng..."

Đây nào phải bệnh vặt, Hoắc Kinh Đường cũng bị đau dạ dày.

Triệu Bạch Ngư lắc lư chơi đùa ly rượu trong tay, vừa để tinh thần đi dạo đâu đấy, vừa nghe Trần Sư Đạo lải nhải, đây chính là thiên phú một công đôi việc của y.

Trần Sư Đạo đột ngột chuyển chủ đề: "Đã quen với Nha môn mới chưa?"

Triệu Bạch Ngư choàng tỉnh, hơi sững sốt một hồi mới đáp lại: "Cũng được ạ."

Trần Sư Đạo: "Vậy là gặp vấn đề rồi." Hớp một ngụm rượu nhỏ, ông chắc chắn nói: "Con là học sinh của ta, lòng bồi dưỡng cho con của ta còn nhiều hơn cả thằng nhóc Phương Nhung nữa. Phương Nhung chỉ khôn vặt thôi, còn con là người vô cùng thông minh. Có một câu nói dung tục nhưng rất có lý, đó là 'khôn ngoan hại người'. Con đó, người như con thật ra thì thích hợp làm một ẩn sĩ hơn, học đòi văn vẻ, ngắm núi hỏi nước, mai thê hạc tử*, thỉnh thoảng có quý nhân trong nhân gian đến cầu con, con vừa ra chiêu đã quyết thắng thiên lý... Như vậy, truyền miệng truyền tai, con liền trở thành truyền kỳ."

(*)Dịch nghĩa: lấy cây mai làm vợ, lấy chim hạc làm con.

Hoa mai và chim hạc là hai hình ảnh gợi lên nét thanh khiết, xuất trần nên thường được liên tưởng đến tiên tử và cõi tiên trong nhiều nền văn hóa như Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Vì lẽ đó, câu thành ngữ này ám chỉ người ở ẩn, mang khí chất cao khiết thoát tục. (Chu Diệp Hi)

Triệu Bạch Ngư bật cười: "Thầy xem nhiều truyện quá rồi phải không?"

Trần Sư Đạo hớp một ngụm rượu, lắc đầu thở dài: "Con không hợp vào quan trường. Tiểu Bạch Ngư, quan trường dơ dáy lắm, không ai có thể thoát khỏi bùn lắng mà không bị nhiễm bẩn." Ông cụ giương mắt, ánh mắt mãnh liệt không hề vẩn đục, chất chứa vẻ thông suốt của một lão thần đã bước qua ba triều: "Quan trường muốn có người thông minh, cũng phải cần có kẻ hồ đồ, người thông minh làm chuyện của người thông minh, còn chuyện vớ vẩn giao cho kẻ hồ đồ, đã vào quan trường cần trông trước ngó sau, không được để lọt một giọt nước, cũng không được để lại sơ hở, còn phải ứng xử linh hoạt trước quyền biến, chọn người đúng khả năng, những thứ này con đều biết, thậm chí con còn giỏi hơn cả thầy. Nhưng một khi đã chân chính bước vào quan trường, con phải học cách thỏa hiệp, biết tiến biết lui, phải hòa mình vào trong quy tắc ngầm của quan trường, tạo cho mình một lớp vỏ bọc mà ngay cả chính con cũng không quen không biết."

Triệu Bạch Ngư mím môi không nói, đầu ngón tay cầm ly rượu trắng bệch.

Trần Sư Đạo: "Có nhớ lời trước kia thầy từng nói không? Khi con học được cách nhún nhường, yếu thế, tọa sơn quan hổ đấu, thì mới được coi như là đã bước vào quan trường, bởi vì chừng đó con đã biết vận dụng quy tắc của quan trường để làm việc. Chỉ lúc ấy, con mới nhận ra quan trường sẽ không tuân theo lòng con, ý con, mà chính con phải khuất phục trước chúng."

Triệu Bạch Ngư thấp giọng hỏi: "Thầy biết họ hàng của mình lợi dụng danh tiếng của thầy để buôn bán ở ngoài sao?"

Trần Sư Đạo: "Ừ, bọn họ chỉ muốn sống ổn định cho qua ngày thôi, chỉ cần không vượt quá giới hạn, thầy sẽ mắt nhắm mắt mở không quan tâm."

Triệu Bạch Ngư: "Vậy thầy cũng biết chuyện thủy vận trốn thuế chứ?"

Trần Sư Đạo: "Trên đời này không có bức tường nào không lọt gió."

Triệu Bạch Ngư nhìn sông Biện dập dềnh sóng nước, nơi đó đang có ba chiếc thuyền hàng chở đầy hàng hóa, lái về phía cửa khẩu, trên dưới cầu nhộn nhịp, buôn bán sôi nổi, có thể từ đó nhìn thấy được quang cảnh thịnh thế trong tương lai.

"Chỉ là con hy vọng thời thế thái bình, có thể giảm bớt vất vả cho dân chúng mà thôi."

Ở thời đại này, cuộc sống của người dân thật sự khốn khổ quá, người ta luôn cho rằng y hiền lành, khen y lòng dạ Bồ Tát, chỉ là bởi vì bọn họ không biết y đã từng được nhìn thấy cuộc sống của con người ở nơi mà nhân phẩm được coi trọng.

Trần Sư Đạo nói: "Thầy đã từng tận mắt chứng kiến sự sụp đổ của các triều đại, cũng trải qua vô vàn cuộc tranh đấu, chém giết lẫn nhau trong quan trường, từ nhiều cuộc chiến loạn, dịch tử nhi thực*, một nghèo hai trắng cho đến khi biên giới được dẹp yên, trăm họ ăn cư lạc nghiệp. Đại Cảnh ngày càng không ngừng đi lên, Hoàng đế dốc lòng xây dựng đất nước, dù triều đình không trong sạch như nước, thiên gia cũng không đến nỗi khoan dung độ lượng, nhưng ít nhất trên dưới đồng tâm, cả triều văn võ đều có lòng dạ riêng, cũng không hẳn không có người gây chuyện thật... Cho nên, thầy cũng tin rằng mình sẽ nhìn thấy được cảnh thời thế thái bình, Tiểu Bạch Ngư, rồi con cũng sẽ được nhìn thấy thời thế thái bình như mong muốn thôi."

(*) Lỗ Tấn trích dẫn 4 chữ "dịch tử nhi thực" (易子而食) nghĩa là "đổi con cho nhau mà ăn thịt" trong Xuân Thu Công Dương truyện, năm Tuyên công thứ 15, lúc ấy nước Tống bị nước Sở vây khốn, trong thành hết lương, người dân nước Tống phải đổi con cho nhau mà ăn thịt, chặt xương mà nhóm lửa (易子而食之,析骸而炊之)

Không giống nhau.

Triệu Bạch Ngư quay đầu nhìn Trần Sư Đạo đáp: "Dạ."

Thịnh thế trong mắt Nguyên Thú đế, Trần Sư Đạo chính là trăm họ không đói không rét, nhưng thịnh thế trong mắt Triệu Bạch Ngư không chỉ có như vậy.

"Con hiểu rồi." Triệu Bạch Ngư cười, "Con tin lời thầy."

Bộ Hộ muốn ba thành thương thuế thủy vận mà thôi, kỳ vọng ban đầu của y cũng chỉ là muốn bốn năm phần thuế thủy vận được chảy vào quốc khố, nhìn lại, nếu bộ Hộ lấy đi ba thành thuế đó cũng coi như có thể giúp y một tay, bảo vệ chế độ thuế ổn định đã là chuyện tốt ngoài dự liệu rồi.

Triệu Bạch Ngư hít sâu một hơi: "Con đúng là điên rồ mà."

Y bị lòng hơn thua nhấn chìm, cứ luôn nghĩ đến chuyện đấu pháp giữa Nha môn Thủy vận và bộ Hộ, muốn được chiến thắng, nhưng đã quên mất mục đích ban đầu.

Đến sòng bạc còn có tỷ số hòa, không phải chỉ có hai kết quả thắng và thua, huống chi là quan trường?

Trần Sư Đạo nhìn Triệu Bạch Ngư chằm chằm, chắc chắn y đã suy nghĩ thông suốt rồi mới an tâm.

Ông cụ chỉ sợ không thể lay chuyển cậu học sinh mà mình tâm đắc nhất, nếu không là lại phải tranh thị phi trong quan trường một phen rồi, cũng may Tiểu Bạch Ngư vô cùng thông minh, không hổ là học sinh vừa ý nhất của ông!

Trần Sư Đạo bắt đầu nói vào chính sự, nếu như Triệu Bạch Ngư nghĩ không thông, ông sẽ không nói tiếp đến nước này.

"Thật ra thì thuế thủy vận trong phủ chỉ chiếm một phần nhỏ trong thương thuế hàng năm của Đại Cảnh mà thôi." Trần Sư Đạo ra dấu bằng đầu ngón tay út, thần bí nói: "Tuy thủy vận trong phủ nối liền nam bắc, nhưng phần lớn thuyền hàng đi qua Kinh Đô đều không dừng lại, chỉ ghé qua kiểm tra thuế, còn hơn nửa thuyền hàng vận chuyển lương thực thì đều được miễn thuế, thương thuế có thể thu được không nhiều. Đông cung cũng không tầm thường, nhưng tay hắn lại chỉ có thể với đến bốn kênh phía bắc, tiền tham ô được dùng đề kết bè đảng riêng, không phủ nhận rằng hắn cũng dùng vào chuyện khác, nhưng nói chung thương thuế trong phủ được ổn định không thể thiếu sự kiểm soát của bộ Hộ. Nội hà tiền triều chỉ cho phép vận chuyển quan lương, cấm tiệt thông thương, đến giờ này mới thả lỏng ra, cho nên nền móng không sâu, bạc thuế thu vào quốc khổ chỉ vừa đủ chữa cháy cho những việc cấp bách của quốc gia mà thôi,"

"Phần chính thật sự nằm ở thủy hải vận phía nam."

Ánh mắt Triệu Bạch Ngư lay động.

"Hẳn là con đã dùng số bạc thuế bị bộ Hộ tham ô của Nha môn Thủy vận để tính toán sơ bộ bạc thuế thủy vận cả nước rồi phải không?"

Triệu Bạch Ngư gật đầu.

"Là con số thiên văn* đúng chứ?"

(*) Số thiên văn ý chỉ những con số rất lớn từ hàng trăm triệu trở lên.

"Gấp đôi tổng thuế thu một năm của cả nước."

"Con cho rằng bộ Hộ tham hết sao? Thầy nói cho con biết, không phải đâu." Trần Sư Đạo nói như đinh chém sắt.

"Phương nam giàu có sung túc, tù xưa đến giờ đã vậy. Tiền triều mở cảng Quảng Châu, cảng Tuyền Châu, khuyến khích buôn bán qua đường biển, thành lập Thị Bách ty, thiết lập quan hệ với bảy mươi nước, đặt nền tảng vững chắc và hoàn hảo cho thương mại hàng hải với các quốc gia đó, xuất khẩu lá trà, đồ sứ, tơ lụa trong nước, đổi lấy bảo vật từ nước ngoài, không ngừng xoay chuyển, đổ vào Giang Tây, đến nay còn có chính sách khích lệ thương mại thủy vận, con cảm thấy lợi nhuận của nó thế nào?"

"Con số rất lớn."

"Nhưng từ khi dựng nước đến nay, hải vận phương nam vẫn bình thường, bạc thuế thu vào hàng năm chỉ được chừng bốn triệu lượng."

Con ngươi Triệu Bạch Ngư co rút nhanh, y đoán được nạn tham ô hải vận ở phương nam nghiêm trọng, nhưng sự thật vẫn quá sức tưởng tượng.

"Thuyền hàng hải vận cần đi vào dòng sông nội địa, con có biết nơi trung chuyển nằm ở đâu không?"

"Lưỡng Giang."

"Thầy tính toán qua loa thôi, chỉnh đốn một Lưỡng Giang, ta có thể nuôi sống Đại Cảnh năm mươi năm."

Triệu Bạch Ngư mở to mắt, con số này khiến cho y ngạc nhiên.

"Danh hèn ngũ phẩm chui rúc Nha môn Thủy vận làm sao có thể ngăn cản được con? Con là giao long sao có thể bị vây ở bãi cạn được? Kinh quan không ngoại phóngthì tìm kiếm thành tựu lớn cho sự nghiệp như thế nào? Chỉ bằng này chính tích sao có thể xếp vào hàng tế tướng? Tiểu Bạch Ngư, thầy nói con không phù hợp với quan trường, nhưng thầy biết lòng dạ con buộc với thiên hạ, là thứ con không thể tách rời, nếu như con hy vọng bản thân mình không bị quan trường chi phối thì phải làm tể tướng, vào hai phủ, mà đường tắt tốt nhất có thể trợ giúp con bước vào trung tâm chính trị nằm ngay tại Lưỡng Giang! Chính là ở —— "

Trần Sư Đạo vươn ngón tay ướt rượu của mình ra viết chữ lên mặt bàn, ánh mắt nóng bỏng nhìn Triệu Bạch Ngư không rời, mà dường như đến bây giờ, Triệu Bạch Ngư mới hiểu ra trong lòng thầy mình vẫn luôn có kế hoạch bá nghiệp to lớn, Trần Sư Đạo cũng muốn nhìn thấy sự xuất hiện của một thời đại thái bình, ông cụ muốn tận mắt nhìn thấy thịnh thế ra đời trong tay Triệu Bạch Ngư.

Triệu Bạch Ngư dời tầm mắt, dừng lại trên mặt bàn, Trần Sư Đạo đã viết ra hai chữ.

Hồng Châu.

==

Min: Mấy chương gần đây dài và cũng khá khó nhưng mình sẽ cố gắng cập nhật nhanh nhất có thể cho mọi người để không bị đứt đoạn nội dung quá lâu ^^ có gì sai sót thì cmt nhắc mình với nhe 😘🫶🏻

Chương 57

Hoắc Kinh Đường vào nhà, nhìn thấy Triệu Bạch Ngư đang nằm trên tháp ngoài phòng khách nhỏ đọc sách, rồi hắn liếc nhìn sắc trời, tự hỏi vì sao hôm nay người nọ lại về nhà sớm như vậy.

Bước tới chỗ Triệu Bạch Ngư mà không hề gây ra một tiếng động nào, Hoắc Kinh Đường chỉ vừa mới nâng tay lên định đặt lên bả vai của Triệu Bạch Ngư thôi đã nghe thấy tiếng y vang lên như bắt quả tang: "Hôm nay được thả đi sớm vậy?"

Hoắc Kinh Đường cảm thấy hơi không vui, ôm vai Triệu Bạch Ngư chen lên tháp nằm, nửa thân trên dính vào người y sát rạt, "Hôm nay đá rớt mấy kẻ mà trung cung nhét vào, người ta vào thẳng cung tố cáo, nói ta thiên vị, dùng việc công báo thù riêng, bệ hạ triệu ta vào tra hỏi đủ điều."

Triệu Bạch Ngư: "Không phải gần đây trung cung an phận rồi à? Sao bây giờ lại làm chỗ dựa cho một tên tiểu tốt trong thao trường vậy?"

Hoắc Kinh Đường nhắm mắt nghỉ ngơi, nghe vậy thì chế nhạo: "Người không an phận nhất là Hoàng hậu, toàn tộc Tư Mã thị đã bị vứt bỏ rồi, bà ta cũng phải sốt ruột chứ?"

Triệu Bạch Ngư thả quyển truyện xuống, xoa huyệt thái dương cho tiểu quận vương: "Nghe như có ẩn tình?"

Hoắc Kinh Đường: "Hoàng hậu hay đố kỵ, thích cậy thế lộng quyền, những năm trước trung quỹ hậu cung không nằm trong tay bà ta là vì con cờ của bà ta nằm vùng khắp nơi, còn âm thầm đưa người vào hậu trạch phủ quận vương, chọc giận bệ hạ nên trung quỹ mới bị tước đoạt. Vất vả lắm năm ngoái mới tìm được lỗi sai của quý phi, lấy lại được kim ấn tỷ thụ rồi nên không kịp chờ đợi nữa mà giở trò cũ... Có nhớ thị nữ vào buổi sáng ngày hôm sau đại hôn của hai ta không?"

Triệu Bạch Ngư nhớ lại: "Là người đã giúp chàng thắt đai lưng sao?"

Hoắc Kinh Đường mở mắt, đôi con ngươi màu lưu ly chất chứa ý cười: "Một khuôn mặt thôi mà, tiểu lang nhớ rõ vậy à?"

Triệu Bạch Ngư: "Cô ta rất xinh đẹp mà."

Câu trả lời không như trong lòng mong đợi, Hoắc Kinh Đường nắm cằm Triệu Bạch Ngư, cúi đầu nhích lại gần cho y nhìn rõ một chút: "So với vi phu thì sao?"

Triệu Bạch Ngư vỗ nhẹ lên cánh tay của Hoắc Kinh Đường, không nhịn được bật cười: "Dù gì cũng là đại tướng quân bình định Tây Bắc, sao lại không biết xấu hổ so sánh nhan sắc với một cô gái vậy chứ?"

Hoắc Kinh Đường thuận thế buông tay, tìm một tư thế dễ chịu để nằm xong thì lười biếng đáp: "Không phải so xấu đẹp với một cô gái, ta so sức nặng trong lòng tiểu lang mà. Ta thường thấy tiểu lang mê mẩn nhìn ta, nhất định là yêu khuôn mặt ta hơn tấm lòng và tài hoa của ta rồi, người ta thường nói sắc suy ái trì*, ta phải thường xuyên xác nhận mới được, làm sao ta biết trong lòng tiểu lang, vi phu có phải xấu xí nên bị em chê bai rồi hay không?"

(*) Câu này dùng để chỉ một người được ưu ái bởi sắc đẹp, đến khi dung mạo già nua xấu xí thì sẽ bị bỏ rơi

"Bớt lắm lời đi." Triệu Bạch Ngư nhớ đến đám thi thể bị đưa ra khỏi phủ quận vương mấy năm trước, thế là nói ra suy đoán: "Đều là thủ đoạn của Hoàng hậu sao?"

Hoắc Kinh Đường chơi đùa đầu ngón tay xinh xắn đều của Triệu Bạch Ngư: "Không chỉ Hoàng hậu. Khi đó ta vừa hồi kinh, rất nhiều người muốn lôi kéo, tin vào lời đồn, cho rằng ta vừa xấu xí lại tàn bạo, nhất định là có sở thích đặc biệt gì đó." Nhắc đến những chuyện phiền lòng, hắn không khỏi thở dài: "Thủ đoạn nhiều vô số kể, cũng may vi phu dẫu có chết cũng không phục, nếu không khó mà giữ được trong sạch, làm sao có thể sánh đôi với tiểu lang đây?"

Cuối cùng Triệu Bạch Ngư cũng không nhịn được nữa, cười đến nỗi hai vai run lên, vỗ bẹp bẹp lên mu bàn tay của Hoắc Kinh Đường: "Chàng đừng lảm nhảm nữa, đứng đắn chút đi được không hả? Học làm dáng ra vẻ ở đâu vậy?"

Hoắc Kinh Đường nhìn Triệu Bạch Ngư cười cong đôi mắt đẹp, ngón tay vuốt ve chân mày đã chịu giãn ra của y, không hề hỏi đến một câu về đôi mày phiền muộn và khói mù lo âu nơi đáy mắt mà hắn bắt gặp được lúc vừa mới về nhà.

Triệu Bạch Ngư chỉ ra bàn nhỏ nói: "Mua cho chàng cua ngâm rượu đấy, mới vừa ngâm vào nước đá... Ấy chết! Ta quên cua đồng cũng là đồ tươi sống, chàng có ăn được không?"

"Ăn được."

Hoắc Kinh Đường há miệng cắn lên cần cổ của Triệu Bạch Ngư, tâm trạng vui vẻ nhìn dấu răng nhạt màu lưu lại trên da thịt trắng nõn, sau đó ôm lấy y lèo nhèo hồi lâu mới hài lòng dời gót đến bàn ăn.

"Nghe nói tiểu lang đoạt lại hai mươi ba nghìn lượng thương thuế thủy vận chỉ trong một ngày?"

Triệu Bạch Ngư tò mò: "Sao chàng biết được?"

Con số tiền thuế nhập sổ rất bí mật, ngoại trừ Nha môn và bên có liên quan thì sẽ không ai được truyền ra ngoài, y cũng chưa từng nói chuyện này với Hoắc Kinh Đường.

"Đỗ Công Tiên cố ý biểu tấu chuyện này, bệ hạ có vẻ rất vui."

Triệu Bạch Ngư mang giày xuống tháp rồi rảo bước đến bên cạnh bàn, vừa mới ngồi xuống liền được nhét cho một miếng thịt cua tươi đã được lột vỏ, thịt tươi kèm theo hương rượu Thiệu Hưng tinh khiết như tan ra trong miệng, nháy mắt tiếc nuối vì đã không quay lại mua thêm hai con nữa.

"Chuyện này thì có gì tốt mà biểu tấu?" Triệu Bạch Ngư dở khóc dở cười: "Đỗ đại nhân quan tâm Thuế Vụ ty quá rồi."

"Ông ta để ý thủy vận thiên hạ thì có."

Triệu Bạch Ngư: "Sao nghe như chàng đang oán giận Đỗ đại nhân vậy?"

"Ta là người rộng lượng, sao có thể oán giận người khác?"

Hắn chỉ ăn miếng trả miếng ngay tại chỗ thôi.

Hoắc Kinh Đường lóc hết thịt cua để vào khay nhỏ, vừa ăn vừa đút Triệu Bạch Ngư ăn, mặt không đổi sắc nói: "Ông ta là Dạc Chi sứ, suốt ngày đụng vào tiền bạc, khó tránh khỏi để ý đến thương thuế thủy vận. Có tiền nhập sổ quốc khố, cũng làm giảm bớt nỗi lo của ông ấy khi bị các Nha môn dưới đáy đuổi theo đòi tiền."

Triệu Bạch Ngư cười, "Cũng đúng."

Hoắc Kinh Đường: "Tiểu lang đấu pháp với những thương nhân xảo quyệt ngoan cố ngoài kia, bắt người ở bến thuyền, ra giữa sông thu thuế... Rất nhiều câu chuyện được truyền ra khắp phủ Kinh Đô, mấy tên tân binh ngoài thao trường thật sự coi em là thanh thiên trong thoại bản tái thế, cứ có thời cơ là đến hỏi ta bình thường em kết án thế nào, đọ sức với đại thần văn võ ra sao, còn hỏi em làm cách nào mà kéo được An Hoài Đức ngã ngựa —— phiền chết đi được, ta phạt bọn chúng chạy hai mươi vòng thao trường, chừng nào mệt thở không nổi nữa thì thôi, thế là không tên nào dám đến nói nhảm với ta nữa."

Triệu Bạch Ngư nghe kể say sưa.

Hắn lại đẩy một miếng thịt cua tươi rói vào miệng Triệu Bạch Ngư, "Có điều vẫn có mấy tên Lăng Đầu Thanh không phục, nói vài lời bôi bác em."

(*) Lăng Đầu Thanh, là một từ thường dùng nói về người làm việc không có đầu óc, hoặc không động não, chưa bao giờ phân tích, phán đoán tình hình nội dung, tính chất, đúng sai, phải trái vân vân của sự việc đã hành động mù quáng, gây ra mâu thuẫn với tình hình phát triển của sự việc, cuối cùng vấn đề nhỏ không đáng để mắt tới thành ra vấn đề lớn hậu quả nghiêm trọng, chuyện tốt biến thành chuyện xấu

Triệu Bạch Ngư nhíu mày, như thể có thần giao cách cảm đoán được câu sau của Hoắc Kinh Đường: "Là người vào cung tố cáo chàng thiên vị đó sao?"

"Người hiểu ta chỉ có tiểu lang thôi." Hoắc Kinh Đường hỏi: "Tiểu lang có trách ta nhân tư ngộ công* không?"

(*) Ý nói vì tình riêng / việc của cá nhân mà gây hại đến tập thể / việc công.

"Những kẻ đến cả cái gì nên nói, cái gì không nên nói, lãnh đạo trên cao là ai mà cũng không rõ nữa thì nên tránh xa quan trường sớm cho rồi, miễn cho đến ngày đầu rơi xuống đất rồi cũng chẳng biết bản thân vì sao mà chết." Vẻ mặt Triệu Bạch Ngư bình tĩnh, hiển nhiên là không hề đồng tình chút nào với đám người cứ thích nhắm vào Hoắc Kinh Đường. "Huống chi có tên còn chưa từng ra chiến trường, cũng chưa từng tham gia thi cử, trong người không có phẩm cấp gì, nói chi đến ngộ công?"

Hoắc Kinh Đường rất thích được Triệu Bạch Ngư yêu thương bao che và đứng về phía mình, hắn vén sợi tóc trên gò má Triệu Bạch Ngư, bỗng nhiên lên tiếng hỏi: "Có muốn đến thăm Tây Bắc không?"

Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên: "Chàng phải về Tây Bắc sao?"

Hoắc Kinh Đường: "Đột Quyết đã sẵn sàng gươm ngựa, Đại Hạ cũng không ngừng làm chuyện mờ ám, chúng cứ liên tục âm thầm lui tới với Nam Cương, không lâu sau nữa ta sẽ phải quay về Tây Bắc. Cứ coi như em là quân sư tuỳ tùng, khi ấy ta phóng ngựa đưa em đi xem phong cảnh đại mạc."

Nói nghe như không phải đi đánh giặc, mà là đi du lịch ấy.

Triệu Bạch Ngư: "Trong người ta có chức quan, không có kinh nghiệm hành quân đánh giặc, cũng chưa từng đọc qua quyển binh thư nào, sao có thể nói làm quân sư tùy tùng là thuyên chuyển ngay được? Không gây trở ngại đã là tốt lắm rồi."

Hơi dừng chốc lát, y nhíu mày: "Thật sự phải đi đánh trận hửm?"

Hoắc Kinh Đường lại vươn tay xoa chân mày của Triệu Bạch Ngư: "Không hẳn, đừng lo lắng cho ta." Hắn chần chừ một lát, lại hỏi: "Đông cung đã đến tìm em phải không?"

Triệu Bạch Ngư: "Chàng biết?"

"Đoán thôi. Đông cung không thể bỏ Nha môn Thủy vận, không lay động được em thì sẽ tự động hẹn gặp riêng để thương lượng với em, là điều dễ thấy thôi mà."

"Nếu như ta thỏa hiệp với Đông cung, thì có được tính là hai chân đã lún vào vũng lầy chưa?"

Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên tò mò, Hoắc Kinh Đường suy nghĩ thế nào về việc y có thỏa hiệp chuyện đó hay không, có khi nào hắn cảm thấy y không thấu đáo, không cao thượng như người hắn từng biết không?

"Dù tiểu lang của ta có đưa ra bất cứ quyết định gì, thì từ đầu đến cuối ta vẫn luôn tin tưởng y là vì trăm họ chứ không phải vì lòng riêng." Hoắc Kinh Đường mân mê bàn tay Triệu Bạch Ngư, "Không thẹn với trời đất, không thẹn với lòng, tiểu lang của ta là người sạch sẽ nhất trên đời này."

Triệu Bạch Ngư rướn người đến: "Hoắc Kinh Đường, vì sao chàng lại thích ta?"

Vì sao lúc nào cũng cảm thấy tất cả những gì thuộc về ta đều tốt đẹp?

Hoắc Kinh Đường chỉ híp mắt cười: "Không phải thích, là yêu. Ta yêu tiểu lang."

Mũi Triệu Bạch Ngư chua xót, ngũ vị tạp trần*, không thể miêu tả được hiện giờ mình đang có cảm xúc gì: "Tại sao?"

(*) Ngũ vị tạp trần (五味杂陈): miêu tả cảm xúc phức tạp không rõ ràng.

Trên đời kiếm đâu ra lắm yêu thương vô duyên vô cớ như vậy?

Hoắc Kinh Đường: "Tiểu lang muốn vi phu cho em lý do, ta có thể đưa ra rất nhiều. Bởi vì em chính là tiểu lang quân của ta, là nhân duyên mà ta đã ký kết, là người sẽ cùng ta trải qua trăm năm bạc đầu, tình cảm mà ta cho đi là chuyện đương nhiên biết bao. Cũng bởi vì em là người xinh đẹp nhất ta từng thấy, nội tâm của em mềm mại, rất sạch sẽ, rất dũng cảm, bởi vì em cao quý kiêu ngạo tựa như tiên hạc trong mây, chính trực không a dua, luôn lên tiếng vì trăm họ... Em thử nói xem, em có nhiều lý do đáng để ta yêu như vậy, dựa vào cái gì mà em cho rằng ta sẽ không phải lòng em?"

Hắn cũng nghiêng người về phía trước, nói khẽ như thở than: "Em là Bồ Tát từ bi nhất trong lòng ta, là Phật trong lòng ta..."

Hoắc Kinh Đường dịu dàng hôn lên cánh môi Triệu Bạch Ngư, liên tục ma sát mút mát, dường như hắn có thể cảm nhận được giờ phút này người trong lòng đang vô cùng yếu ớt và mờ mịt, vậy nên mới cẩn thận trấn an, chỉ sợ mình vô tình làm Triệu Bạch Ngư đang bất lực lập tức sụp đổ.

Triệu Bạch Ngư giải bày: "Thật ra ta đã có thể thỏa hiệp với bộ Hộ, cũng chẳng phải đứa con nít chưa từng nhìn thấy cảnh đời, không biết nhân thế hiểm ác, ta biết quan trường phức tạp, hơn nữa nếu như có bộ Hộ kiểm soát sẽ lợi nhiều hơn hại, cho nên không cảm thấy quá tủi thân... Thật đấy."

Hoắc Kinh Đường chống cằm nhìn y cười: "Nhưng ta tủi thân thay tiểu lang đây này."

Triệu Bạch Ngư: "Không cần phải —— "

Hoắc Kinh Đường: "Bởi vì ta muốn bao che khuyết điểm." Hắn thở dài, "Bụng dạ vi phu hẹp hòi lắm, cảm xúc cá nhân nhiều nên thường thiên vị một phe, cho nên mới cần tụng niệm Phật pháp mỗi ngày, để cầu sớm ngày nhìn chúng sinh bình đẳng, không thể đối xử ngang nhau là do chưa tu hành đủ... Đợi hôm nào tìm thời gian rảnh giúp Thái tử dãn gân cốt vậy, mấy năm rồi không đánh, chỉ biết được nước làm tới thôi."

Triệu Bạch Ngư được dỗ dành, khói mù trong lòng đã hoàn toàn tiêu tan, mũi chân nghịch ngợm nhẹ nhàng đá vào bắp chân của Hoắc Kinh Đường: "Trữ quân một nước đấy, nói đánh là đánh, chàng cũng tự cao quá rồi." Y quở trách nhưng lại không nén nổi tò mò: "Trước đây chàng thường đánh Thái tử lắm sao?"

Hoắc Kinh Đường đáp: "Lúc nhỏ Thái tử rất thích làm bộ làm tịch, một bụng đầy ý xấu, ta không ưa gì hắn nên thích đánh hắn. Lớn hơn chút nữa thì lười so đo với hắn, về sau ta bị đưa ra khỏi cung, mười mấy năm không gặp mặt, hắn đã càng ra vẻ hơn trước, chắc là đã quên mất cơn đau năm đó bị đánh rồi."

Triệu Bạch Ngư bỗng nhiên có hứng thú: "Nói thêm mấy chuyện lúc chàng nhập ngũ nữa đi, như là ban đầu được đi Tây Bắc, vì sao về sau lại chuyển đến Định Châu?"

Hoắc Kinh Đường: "Hai chi quân đội đánh tan lẫn nhau, sau đó tái tổ hợp, ta chỉ là lình quèn, mặc cho người ta sắp xếp, chẳng biết kiểu gì mà bị chuyển đi Định Châu, lại còn là hỏa đầu quân. Có một lần, ban đêm ta phát hiện ra một tên do thám Đột Quyết chui vào lều trại, kẻ đó là dân du mục, cách cầm đao phóng đao khác hẳn Trung Nguyên ta..."

Hoắc Kinh Đường kể rất nhiều chuyện, Triệu Bạch Ngư cũng nghe đến nhập tâm, nhanh chóng quên béng nỗi phiền muộn trong lòng, bây giờ y có muốn chỉnh đốn Lưỡng Giang cũng không thể nói đi là đi ngay được, dù Nguyên Thú đế có ý định cầm đao trên tay chỉ thẳng về Lưỡng Giang, cũng không nhất thiết phải là chỉ chính y đi.

Huống chi Nguyên Thú đế cũng chẳng có ý này, hết thảy chẳng qua chỉ là ý kiến của thầy...

Mà thôi, thuyền đến đầu cầu tự nhiên thẳng*.

(*) Nguyên văn 既来之则安之- ký lai chi tắc an chi: thành ngữ "ký lai chi, tắc an chi" có nghĩa sơ khai nhất là dân đã đến rồi, nhất định phải làm cho họ được sống yên ổn, phải an dân. Ngoài ra còn có nghĩa là mình đã đến một nơi nào đó rồi thì phải thấy thoải mái, bình tâm lại mà yên ổn sinh sống. Hay còn có thể hiểu theo một nghĩa khác nữa đó là chuyện gì đến cũng đã đến, phải bình tĩnh đối mặt với nó.

***

Nha môn Thủy vận Thuế Vụ ty thỏa hiệp với bộ Hộ, bộ Hộ muốn quản ba thành thương thuế trong phủ, nhượng bộ bằng cách cam kết các trạm thu thuể ở cửa cống, bến thuyền không cản trở Nha môn làm việc, hơn nữa còn phải duy trì việc thu các loại thương thuế trong phủ Kinh Đô cho ổn định, ngăn chặn tình trạng quan sau dưới đáy tùy tiện lập các danh mục thuế mới, đảm bảo cho thương nghiệp phát triển mạnh mẽ.

Như thế, vụ án thương thuế thuyền hàng ồn ào huyên náo chấm dứt sau đúng một tháng Triệu Bạch Ngư nhậm chức.

Sổ sách ở Nha môn Thủy vận Thuế Vụ ty không còn thiếu hụt nữa, cấp trên còn phân phát xuống một số kinh phí, có tiền thuê nhiều người làm Công sứ hơn, bên cạnh đó tu sửa lại Nha môn. Chỉ trong vòng mấy ngày ngắn ngủi, Nha môn Thủy vận liền đổi mới rực rỡ hẳn lên, dán giấy tường mới, sơn phết lại tất cả mọi thứ, đến cả nền gạch bị nứt cũng được thay mới, rốt cuộc cũng nhìn ra được khí thế của một Nha môn dưới chân Thiên tử.

Triệu Bạch Ngư ngày ngày đến điểm mão, vừa hết ca trực là chạy về nhà, thi thoảng đi dạo chợ đêm cùng Hoắc Kinh Đường, vừa vui thích vừa ấm áp, vô cùng nhàn hạ.

Đến tiết Thượng Tỵ mùng 3 tháng 3, núi tuyết sông băng dần tan, nước xuân ấm lên, rừng đào mười dặm ở ngoại ô, hoa mai trong phủ chen chúc đua nở, đâu đó một nhóm các thiếu nữ xinh đẹp hoạt bát tung tăng ra khỏi rừng hoa hạnh mùa xuân, mà bên dốc nước cong cong có một tốp thiếu niên phong lưu tuấn mỹ ngâm xướng thơ ca, liếc mắt đưa tình với những cô nương nọ, có lẽ một đoạn nhân duyên tuyệt vời nào đó đã chớm nở từ dạo ấy.

Triệu Bạch Ngư cưỡi ngựa chầm chậm băng qua rừng cây hạnh, gió xuân phảng phất làm rối tung vài lọn tóc mai, dây lụa buộc tóc màu xanh cùng với vạt váy dài thêu hạc bay bay theo gió, có quả hạnh rụng theo ngọn gió vụt qua trước mắt, Triệu Bạch Ngư nhắm mắt lại theo bản năng, y phất tay áo lên, lơ đãng đụng phải cành cây cong rũ xuống như lông quạ, thế là một tràng hoa hạnh lả tả bay như mưa rơi.

Khí phách thiếu niên phút chốc lan tỏa khắp đoạn đường, các cô gái xinh đẹp vừa ra khỏi rừng hạnh thoáng chẳng còn hứng thú gì với bọn con trai bên kia nữa, cô nào cũng quay sang thám thính xem thiếu niên đang cưỡi tuấn mã kia là con trai nhà ai, ấy vậy mà lại là người đã kết hôn rồi.

Chỉ tiếc người như kinh hồng, còn chưa kịp đáp lời đã không thấy bóng dáng đâu nữa, biến mất chỉ để lại nuối tiếc.

Triệu Bạch Ngư giục ngựa đi xa khỏi rừng hạnh, ôm một bụng nghi ngờ chạy đến Văn miếu, sáng sớm nay cấp trên Đỗ Công Tiên đến Nha môn Thủy vận, nói là đặc biệt cho phép y nghỉ hai ngày, bảo y cứ để việc đó mà về nhà đi.

Sau đó y về phủ quận vương, kết quả người làm bảo Hoắc Kinh Đường đang ở Văn miếu chờ y, nói là có việc gấp.

Triệu Bạch Ngư cũng không tìm thấy mấy người Hải thúc, Ngụy bá, Tú ma ma và Nghiên Băng đâu, Hoắc Kinh Đường thì đã chẳng thấy bóng dáng từ sáng sớm, y hoàn toàn không biết gì hết.

Rốt cuộc cũng đến Văn miếu, Triệu Bạch Ngư vừa xuống ngựa đã bị Tú ma ma và Lý Ý Như đón đưa vào một căn phòng nhỏ, không ai nói lời nào mà chỉ giúp y thay sang thâm y, sau đó bị đẩy đến Linh Tinh môn trong Văn miếu, Hoắc Kinh Đường đang chờ y sau cửa.

"Mấy người đang làm gì thế? Cứ giấu giấu giếm giếm, không nói cho ta biết gì hết." Triệu Bạch Ngư đi đến chỗ Hoắc Kinh Đường.

Hoắc Kinh Đường dắt tay y vào trong miếu, đầu tiên chuẩn bị lễ vật tế trời đất, sau đó cáo lễ, cuối cùng chương chúc, mà Triệu Bạch Ngư chỉ mơ màng như cái tượng gỗ lắc lư đi theo hắn, mãi đến lúc nghe thấy Hoắc Kinh Đường nói: "Em trai của Hoắc Kinh Đường, Triệu bạch Ngư, năm nay đã lớn, lấy ngày mùng ba tháng ba làm lễ gia quan*, xin dùng..."

(*) Lễ Gia Quan đánh dấu sự trưởng thành của người con trai trong gia đình. Trong lễ Gia Quan, người con trai đi giày vuông, đội mũ tròn. Trong ngày đó, người con trai được lấy tên tự. Ví dụ, Phan Bội Châu tự là Sào Nam. Tên tự như là ý niệm chủ đạo trong cuộc đời con người. Đây là đặc trưng của Nho gia.

Gia Quan?

Triệu Bạch Ngư chần chừ giơ tay sờ lên đỉnh đầu, hoảng hốt nhớ ra năm nay y đã hai mươi rồi, là năm nhược quán*, con trai nhà người ta đều được cha mẹ đứng ra làm lễ Gia Quan cho.

(*) Thời xưa gọi thanh niên khoảng 20 tuổi là nhược quán

Lễ Gia Quan bình thường sẽ được cử hành tại gia miếu, sẽ do cha hoặc anh cả thay mặt tiến hành.

Chắc chắn là Triệu Bá Ung và là ba anh lớn nhà họ Triệu không bao giờ thực hiện nó cho y, nhưng dù gì thì linh hồn của Triệu Bạch Ngư cũng là người hiện đại, không có khái niệm đến hai mươi tuổi phải làm lễ Gia Quan, y vốn còn chẳng nghĩ đến nó, càng không ngờ lại có người giúp y tổ chức như thế này.

Triệu Bạch Ngư vẫn còn lơ tơ mơ, tay chân luống cuống, không biết đáp lại thế nào.

"Ta nên làm cái gì dây?" Triệu Bạch Ngư hỏi nhỏ.

Hoắc Kinh Đường đáp: "Không làm gì cả, cứ giao cho ta là được rồi."

Việc đầu tiên trong trình tự lễ là phải về gia miếu cáo với trời đất và tổ tiên, nghiêm túc mà nói thì hai người bọn họ đều không có gia miếu, cho nên Hoắc Kinh Đường mới chọn Văn miếu.

Kế tiếp chính là đội mũ và lấy tự, cần phải mời chính tân đến làm.

Theo như thường lệ, người lớn trong nhà sẽ mời trưởng lão đức cao vọng trọng có mối quan hệ tốt thay mặt đội mũ, trước đó còn cần phải hoàn thành thêm một vài thủ tục khác nữa, tất nhiên những việc này không cần Triệu Bạch Ngư phải nghĩ nhiều.

Hoắc Kinh Đường đưa Triệu Bạch Ngư về phủ quận vương, chính tân đã được mời đến phủ quận vương từ ba ngày trước.

Triệu Bạch Ngư vẫn còn mặc thâm y, bị Hoắc Kinh Đường đẩy tới đại sảnh, nhìn thấy nụ cười hiền từ trên Trần Sư Đạo thì lòng chợt ấm áp: "Thầy ơi..."

Trần Sư Đạo không đáp lời y, nhìn về phía Khang vương đang chờ việc ở cửa, người sau ngầm hiểu ý, tự mình đưa Triệu Bạch Ngư đi theo quy trình, dạy y từng lễ nghi thủ tục một. Các ma ma trong phủ bưng các lễ vật dành cho lễ nhược quán trước sau ra ngoài để Trần Sư Đạo làm lễ đội mũ cho Triệu Bạch Ngư, đầu tiên là khăn quán, sau là mũ, cuối cùng là khăn vấn đầu, còn có cả y sam phù hợp, ủng đen và thắt lưng da, ý nghĩ là kể từ hôm nay y có thể làm quan văn, đảm tướng võ, đã đủ khả năng san sẻ gánh nặng cho gia đình, không còn là đứa trẻ cần được gia đình che chở nữa.

"Trên đầu có bụi này." Trần Sư Đạo nhẹ nhàng phủi tóc cho Triệu Bạch Ngư, cười một tiếng hiền hòa: "Từ hôm nay trở đi, con có thể nói cho tất cả mọi người biết con xuất sư Trần Sư Đạo này, là học sinh xuất sắc nhất trong đời thầy, là đệ tử mà thầy tự hào nhất."

Thần sắc Triệu Bạch Ngư hơi thay đổi.

"Không có gia miếu thì có Văn miếu. Không có tổ tiên thì có Thánh nhân lắng nghe. Không có cha anh thì có tiểu quận vương chủ trì cho con. Có ta, cả Khang vương điện hạ, còn có người trước kẻ sau bôn ba bên cạnh con nhiều năm, chúng ta đã chuẩn bị cho lễ Gia Quan này từ rất lâu rồi, cả bè bạn ở trời năm đất bắc cũng gửi thư đến tha thiết chúc mừng con."

Nghiên Băng nhỏ giọng chen vào một câu: "Có thư và quà mừng của sư huynh ngài và Trần gia đại lang, còn có cả thư của Kỷ đại nhân và Hạ đại nhân ở Từ Châu nữa."

Triệu Bạch Ngư thấp giọng hỏi lại: "Sao bọn họ đều biết vậy?" Đến y còn không biết nữa là.

Nghiên Băng liếc về phía Hoắc Kinh Đường ở phía sau bên trái, không huỵch toẹt ra cũng hiểu.

Hoắc Kinh Đường bước lên, bỏ thiếp hồng vào trong lòng bàn tay Triệu Bạch Ngư: "Theo lý thì phải để chính tân lấy tự cho em, nhưng dù sao tiền triều đã từng phế bỏ lễ Gia Quan một lần, đến nay tuy có đại nho khởi xướng khôi phục lễ nghi của thánh hiền, thì văn nhân đương thời vẫn không đủ coi trọng, thủ tục lễ nghi về sau đều bị giảm bớt dần, vậy nên ta cũng đã tự ý tranh quyền lấy tự..."

Giọng hắn trầm thấp, chỉ có mỗi Triệu Bạch Ngư nghe thấy: "Lòng đố kị của vi phu lớn lắm, dù người lấy tự cho em có là thầy đi chăng nữa, ta thật sự chẳng muốn tiểu lang dùng tự không phải do ta chọn đến hết đời sau của mình đâu."

Anh trai cáo lễ chương chúc, cha lấy tự, làm anh, làm cha, làm tri kỷ, Hoắc Kinh Đường vẫn luôn thực hiện từng lời hứa mà hắn từng hứa vào ngày đại hôn hôm ấy.

Triệu Bạch Ngư mở thiếp hồng ra, nhìn thấy trước mắt một kiểu chữ ngay thẳng, đường nét cứng cáp.

Vô Miên.

Triệu Vô Miên.

"Cúi xuống cửa son, nhìn kẻ thao thức, chẳng nên ân hận." Triệu Bạch Ngư nhỏ tiếng trả lời: "Là lấy từ câu này sao?"

(*) Nằm trong Thủy điệu ca đầu – Trung thu (Tô Thức) (thivien.net)

Phiên âm: Đê ỷ hộ, chiếu vô miên, bất ưng hữu hận

Hoắc Kinh Đường khẽ đáp: "Ừm."

Triệu Bạch Ngư: "Ta cứ nghĩ là sẽ lấy chữ 'Mộ Quy'," y giương mắt, sóng nước gợn lên: "Thanh thoa hoàng nhược thường y, hồng tửu bạch ngư mộ quy*."

(*) Ét ô ét gặp lại câu này lần 2 rồi mà vẫn chưa chế được thơ nên xin thông cảm cho mình tạm giữ nguyên phiên âm ạ TvT

"Em biết sao?" Hoắc Kinh Đường bật cười, trái lại chẳng cảm thấy lạ: "Mộ quy, quy mộ, thật ra không xuôi tai lắm, nghe cứ già cỗi giống như mặt trời sắp lặn núi tây vậy."

Triệu Bạch Ngư: "Hoàng hôn trở về nhà, vốn từ người ta khoát đạt như vậy, chàng nói vậy là mê tín."

Hoắc Kinh Đường: "Nhũ danh là đại tự, phải thật cẩn thận, mê tín chút cũng không sao. Tiểu lang vẽ công xuất sắc, nếu thật sự thích hai chữ 'Mộ Quy' đó thì ra ngoài cứ gọi là Mộ Quy thôi, chỉ là còn cần phải tìm ý nghĩa hay hơn mới được."

Triệu Bạch Ngư bật cười: "Hay thế nào?"

Tuy vốn từ hết sức khoát đạt, nhưng câu kia đúng là có hơi sầu não thật.

"Hay như "chẳng nên ân hận", hy vọng tiểu lang cả đời không tiếc, trăm năm không lo, mãi mãi bình an."

Triệu Bạch Ngư khẽ chớp mắt, người khác lấy tự gửi gắm rất nhiều chí nguyện to lớn, nếu không phải là khao khát tài hoa hơn người thì cũng mong cho bản thân có được đại tác, trái lại Hoắc Kinh Đường thì đi theo lối riêng*, chỉ mong y bình an không tiếc là tốt rồi.

(*) Nguyên văn là "Lánh ích hề kính" (另辟蹊径) thường dùng để hình dung những phương pháp mới thoát ra hẳn những lề thói, quan niệm cố hữu.

"Khụ!" Trần Sư Đạo cau mày: "Tên ấy, tên thì phải ăn khớp với tự chứ, Bạch Ngư với Vô Miên thì khớp chỗ nào? Còn chẳng hay bằng bạch ngư nhập chu, bạch ngư đăng chu* nữa." Giọng ông cụ mang ý trách móc: "Quận vương điện hạ, ban đầu ngài lằng nhằng ở chỗ ta mấy ngày, ta thấy ngài có thành ý nên mới giao phó cho ngài đảm nhiệm, kết quả ngài lại lấy chữ đó... Khang vương điện hạ, ngài nói xem chữ này được không?"

(*) Hai câu này đều chỉ điềm lành

Khang vương suy nghĩ rồi đáp: "Ý nghĩa rất tốt, dù thật sự không quá liên quan đến tên. Chẳng qua dù có là đăng chu hay nhập chu gì cũng đều mang ý dụng binh bất khả chiến bại, nhưng cháu ngoại nhỏ của ta là văn thần kia mà!"

Trần Sư Đạo ngoan cố nhưng cũng cảm thấy không ổn, vuốt râu trái lo phải nghĩ, cùng đám người Khang vương, Ngụy bá chụm đầu suy nghĩ xem có thể nào tìm đổi một cái tự khác hợp hơn hay không.

Triệu Bạch Ngư không ngờ lại thành ra như vậy, thoáng chốc bắt gặp ánh mắt của Hoắc Kinh Đường, hai người chỉ đành nhìn nhau cười bất lực.

Chờ bọn họ thương lượng xong xuôi đưa ra kết quả, Triệu Bạch Ngư đã quyết định rồi, vẫn chọn tự là Vô Miên.

Trần Sư Đạo dù không hài lòng nhưng cũng đã hết cách, không phải ông không nghĩ ra tự xứng với Triệu Bạch Ngư, đầu óc ông cụ vẫn còn rất tỉnh táo, nhớ quyền thêm tự của học sinh ông thuộc về tiểu quận vương.

Từ lúc tiểu quận vương mời ông đến phủ quận vương chỉ vì để tranh quyền thêm tự cho Triệu Bạch Ngư, thậm chí đến phòng ông tĩnh tọa một ngày một đêm, Trần Sư Đạo đã không thể không thỏa hiệp rồi.

... Ai mà chịu nổi lệ khí và mùi máu tanh vô hình quanh quẩn khắp người tiểu quận vương chứ, đã vậy cái khuôn mặt vô cảm đó còn cứ nhìn ông chằm chằm không ngơi!

Trần Sư Đạo bị dọa cho gặp ác mộng cả đêm, đến giờ vẫn còn mơ màng lắm, không ngừng lẩm bẩm trong lòng, Lâm An quận vương quả thật đối xử với Triệu Bạch Ngư rất tận tâm tận sức, đến cả lễ nhược quán cũng tự mình sắp xếp, một tay chuẩn bị mọi việc.

Suy nghĩ này khiến ông cụ cảm động rơi nước mắt, than thở đúng là tri kỷ khó tìm.

... Chỉ là vẫn thấy hơi không phù hợp.

Trần Sư Đạo vẫn còn đang nghĩ xem không hợp chỗ nào, vừa nghiêng đầu đã nhìn thấy tiểu quận vương và Triệu Bạch Ngư đang sóng vai nhau dưới tàng cây nhỏ, hai người tựa gần vào nhau, có cánh hoa rơi xuống đậu trên đầu và vai Triệu Bạch Ngư, tiểu quận vương bèn thuận tay phủi nó xuống, sắc mặt của Triệu Bạch Ngư vô cùng tự nhiên, dường như hành động đó không phải là lần thứ nhất ——

Tuy nói kẻ sĩ chết vì tri kỷ, nhưng quan hệ giữa hai người bọn họ có chăng còn thân mật hơn cả tri kỷ nữa?

Trần Sư Đạo cảm thấy lạ lùng, lặng yên không tiếng động đến bên cạnh Khang vương, "Vương gia."

Khang vương bối rối chắp tay: "Tiên sinh, gọi tên học sinh là được rồi."

Khang vương cũng từng là học sinh của Trần Sư Đạo, đã ba bốn mươi tuổi đầu rồi mà vẫn còn sợ hãi tiên sinh từ trong xương.

Trần Sư Đạo: "Chuyện cũ không đáng kể, nhiều năm rồi, vương gia không cần câu nệ."

Dường như ông cụ cũng không quá muốn nhớ đến chuyện mình có một người học sinh như vậy.

Trần Sư Đạo bày ra vẻ mặt hòa ái, hỏi: "Nghe nói vương gia giao hữu khắp thiên hạ, tri kỷ đầy giang hà, dù cho thân phận giàu nghèo, từ vương công cho đến du hiệp đều có thể làm bạn, còn có một đoạn tình hữu nghị nhiều năm với nội thị Cao đô giám, thường xuyên chong đèn tâm sự suốt đêm khuya, nhiều người ca tụng... Lão hủ không có ý gì khác, chỉ là muốn hỏi một câu, vương gia có vì tri kỷ mà làm lễ Gia Quan, lấy tự, phủi hoa rơi trên vai, hay là đi sóng vai nhau không chừa lại khe hở nào hay không?"

Khang vương im lặng chốc lát, "Đâu chỉ có thế. Ta cùng Cao đô giám mới gặp mặt mà như đã quen từ lâu, chỉ hận không thể cùng ăn cùng ở, cùng ngủ chung giường thôi."

Biểu cảm của Trần Sư Đạo rõ ràng rất chấn động, dường như thốt lên: "Đó cũng là tri kỷ sao?"

Khang vương gật đầu, giọng trầm lại: "Đúng vậy. Đó là tri kỷ!"

Đáng thương thay Trần Sư Đạo đi qua hai triều đại, đã từng tiếp thu dân tình cởi mở của tiền triều, nhưng ông là người nghiêm túc thẳng thắn, không nhìn ra được điểm khác nhau giữa bạn bè tri kỷ và người yêu, bây giờ trong lòng mới mơ hồ thấy lạ, lại còn bị Khang vương thuyết phục, cũng đã nghĩ đến lời đảm bảo mà tiểu quận vương từng nói với ông, rằng là sau khi cưới đợi mấy năm nữa hai người sẽ hòa ly.

Giằng co phải trái trong lòng, rối rắm hồi lâu, cuối cùng vẫn dùng "quan hệ tri kỷ" để phong quang đại táng chút "cảm giác không hợp" kia.

Lễ Gia Quan hoàn tất cũng là lúc hoàng hôn chậm rãi buông xuống, tất cả mọi người được giữ lại phủ quận vương tham gia tiệc rượu, bữa tiệc được tổ chức linh đình, cười nói vui vẽ, cơm nước xong, ai nấy đều cầm nhánh đào hoặc nhánh hoa hạnh ra chợ đêm, đi dạo Kinh Đô.

***

Cùng lúc đó, tại gia miếu Triệu phủ cũng đang cử hành lễ gia quan cho Triệu Ngọc Tranh, Triệu Bá Ung đặc biệt mời đại nho đức cao vọng trọng trong triều, người đã từng dạy dỗ cho Đông cung và các hoàng tử đến làm chính tân, cử hành lễ Gia Quan cho con trai nhỏ.

Tứ lang được Tế chấp cưng chiều nhất làm lễ Gia Quan, tự nhiên có vô số kẻ nghe tiếng mà động, gửi quà đến chúc mừng, Nguyên Thú đế, Thái hậu và Hoàng hậu cùng mấy người trong cung cũng sai người đến đưa quà, biểu đạt một phần tấm lòng.

Triệu Ngọc Tranh mặc thâm y, đeo ngọc quan xuất hiện giữa một đám khách mời, bên cạnh là Triệu Bá Ung, Tạ thị và hai vị anh lớn tài giỏi như long phượng, chính tân và khách mời trước sau trái phải nếu không là đại thần đương triều thì cũng là đại nho đời này, còn có cả quà cáp của Đông cung, có thể thấy Triệu Bá Ung vẫn là tể tướng quyền thế mạnh mẽ nhất, quyền hành ngút trời.

Từ lúc hoàng hôn xuống đến lúc màn đên phủ đầy trời, phủ Tế chấp đèn đuốc rực rỡ, tân khách ai nấy đều vui mừng.

Có người đi đến chỗ Triệu Ngọc Tranh truyền tin, nói là Đông cung đang ở ngoài chờ hắn.

Triệu Ngọc Tranh bèn hào hứng chạy đến ôm cánh tay Tạ thị nũng nịu, "Mẹ, con muốn đi ra ngoài..."

Tạ thị dịu dàng nhìn Triệu Ngọc Tranh, vươn tay phớt nhẹ qua ngọc quan trên đỉnh đầu hắn, lòng bà vừa mềm mại vừa đau nhói, đây là đứa trẻ mà bà thiếu nợ, bị cha mẹ làm liên lụy mà nửa đời bệnh yếu không chịu nổi.

Đều nói con cái là nợ, sao đến lượt nhà bà lại là cha mẹ thiếu nợ con thế này.

Tứ lang từ một đứa bé nhỏ xỉu, giờ đây đã thành thiếu niên tuổi đôi mươi rồi, thiếu niên ấy phong thái đẹp đẽ sáng chói như tạ đình lan ngọc, nhưng bà chưa từng cầu con phong hầu bái tướng, chỉ mong cả đời cậu được bình an vô sự.

"Để các anh đi theo bảo vệ con."

Lễ đã đến hồi cuối, chỉ còn các trưởng bối ở lại tiếp đãi tân khách, Tạ thị không đành lòng từ chối yêu cầu nho nhỏ của con trai, mềm lòng dung túng cậu.

"Cảm ơn mẹ, mẹ thương tứ lang nhất!"

Vui vẻ reo lên một tiếng, Triệu Ngọc Tranh xoay người chạy nhanh ra phủ.

==

Tác giả muốn nói:

Thật ra lúc viết đến đoạn người nhà họ Triệu yêu thương Triệu Ngọc Tranh, tui còn muốn viết cho đã tay cơ kkk, bởi vì tất cả lòng yêu thương của bọn họ hiện tại dành cho Ngọc Tranh ngang bằng với việc không thèm quan tâm tới Tiểu Ngư, đến lúc sự thật được phơi bày, nó sẽ trở thành lưỡi dao cắt vào máu thịt bọn họ.

Min:Từ chương này mình sẽ để đại từ nhân xưng của Ngọc Tranh là "cậu" nhe, về sau cũng vậy luôn, vì chương sau nhiều nhân vật quá nên đổi cho không bị lẫn lộn ^^

Chương 58

Quán rượu trong chợ đêm mọc lên như nấm, mái đình cong cong treo đầy đèn lồng, ánh lửa cam vàng thắp sáng một nửa Kinh đô, dưới lòng đường cứ năm bước là có một sạp nhỏ, người bán hàng nào cũng đang ra sức chèo kéo khách.

Vẫn chưa vào hạ mà dưới đầu cầu đã có người bán nước ô mai ướp đá và cam thảo tuyết lạnh, buôn bán rất chạy, ra là vì du khách ăn nhiều thức ăn dầu mỡ, rất cần các món thức uống mát lạnh để giải khát.

Dọc đường đi, Triệu Bạch Ngư đã thưởng thức không dưới mười món ăn ngon, không hề sợ dạ dày nhỏ không chứa nổi, dù sao cũng có dạ dày lớn Hoắc Kinh Đường giúp y thu gom 'tàn cuộc'.

Ăn đến tận đầu cầu thì miệng lưỡi đã khát khô, y bèn mua hai chén nước ô mai lạnh lạnh chua chua, nếm thử một ngụm, trước lạnh sau ngọt, quả ô mai đã được ướp nấu có mùi thơm đậm đà, Triệu Bạch Ngư thích tít cả mắt.

Nguyên liệu và phương pháp chế biến món ăn thời xưa đúng là phong phú, chỉ cần một chén là đã thỏa mãn rồi.

"Ngon quá đi à."

Đột nhiên có một tiếng hô "Hay!" vang lên, ấy là nhóm người diễn màn nhào lộn ở bờ cầu bên kia, màn trình diễn đến khúc cao trào, khách xem không khỏi hoan hô khen ngợi.

Dưới cầu có chiếc thuyền trôi lơ lửng, từ trong thuyền vọng ra tiếng hát uyển chuyển, hai bên bờ sông, người đi thành tốp ba tốp năm vô cùng nhộn nhịp

Trên cầu có vài sạp bán đèn lồng, mặt nạ và cành đào, cành hạnh cùng các vật phẩm khác, lúc Triệu Bạch Ngư đi qua thì dừng bước, nhìn trúng một chiếc mặt nạ mạ vàng được chế tác tinh xảo, y bèn lấy nó xuống so tới so lui trên mặt Hoắc Kinh Đường.

"Chàng từng nói lúc trước luôn đeo một chiếc mặt nạ xinh đẹp mà nhỉ, những kẻ tung tin đồn tướng mạo chàng xấu xí chắc là sẽ phải suy nghĩ lại đấy."

Hoắc Kinh Đường nhìn y qua hai mắt mặt nạ: "Xấu chút bớt việc."

Triệu Bạch Ngư cười, lúc mua chiếc mặt nạ vàng này liền nghe người bán hàng nói: "Hay là tiểu lang quân cũng mua luôn chiếc mặt nạ vàng còn lại đi ạ, hợp với chiếc này lắm đấy?"

Người bán hàng lấy một chiếc mặt nạ mạ vàng xinh đẹp giống như vậy ra, kiểu dáng hơi khác so với chiếc trong tay Triệu Bạch Ngư, có điều đặt bên cạnh nhau thì rất hợp, đúng là có thể ghép thành một cặp.

"Hóa ra phố xá chợ phường sầm uất cũng có tạo vật tuyệt đẹp như vậy sao?"

Tiếng thán phục xen đến từ phía sau lưng, bóng người màu đỏ nhạt đột ngột xuất hiện lướt qua Triệu Bạch Ngư, cầm lấy chiếc mặt nạ vàng mà người bán hàng đang đưa đến, đáy mắt nhác thấy Triệu Bạch Ngư mới xoay người sang, cất tiếng hỏi: "Ngũ lang?"

Là Triệu Ngọc Tranh.

Cậu mặc thâm y màu đỏ nhạt, đầu đội ngọc quan, trước ngực ôm cành đào, tóc cài trâm hoa, tướng mạo trông xinh đẹp như con gái.

Thâm y ủng đen cũng không phải là quần áo may mặc ngày thường, chỉ khi nào đến lễ Gia Quan mới được mặc, Triệu Bạch Ngư và Triệu Ngọc Tranh cùng mặc thâm y, đứng mặt đối mặt, chắc chắn là do duyên phận tài tình, đôi bên đều chọn cùng một ngày lành cử hành lễ Gia Quan.

Triệu Bạch Ngư nhìn phía sau lưng Triệu Ngọc Tranh, hai con trai lớn nhà họ Triệu và đương kim Thái tử cùng mặc thường phục theo sát bên cạnh Triệu Ngọc Tranh, bọn họ đều đã thấy thâm y trên người Triệu Bạch Ngư, rõ ràng Triệu Trường Phong và Triệu tam lang hơi sững sốt, nhất là Triệu Ngọc Khanh tựa như mới vừa nhận ra hai em trai của mình bằng tuổi nhau.

Hôm nay gia quan, gã lại không có chuẩn bị sẵn bất kì lời chúc mừng hay món quà gì, nhất thời luống cuống tay chân.

Triệu Ngọc Tranh do dự: "Ngũ lang, hôm nay là lễ Gia Quan của ngươi sao?"

Sắc mặt Triệu Bạch Ngư hờ hững: "Ta cùng tuổi với ngươi."

Triệu Ngọc Tranh lắp ba lắp bắp: "Ừ, ừ nhỉ." Nghĩ ngợi chốc lát, cậu tháo miếng ngọc Dương Chi bên hông ra nhét vào trong tay Triệu Bạch Ngư: "Ta tặng quà Gia Quan cho ngũ lang này." Nói xong rũ mắt, nhác thấy mặt nạ vàng mà Triệu Bạch Ngư đang cầm liền nhận ra ngay rồi nói: "Mặt nạ này rất giống với cái trong tay ngũ lang... Nó là một đôi à? Ngũ lang muốn mua một đôi sao?"

Cậu chần chừ, trả lại mặt nạ vàng vào tay Triệu Bạch Ngư: "Xin lỗi, mới nãy ta không phát hiện... Trả cho ngươi đấy."

Tầm mắt của Thái tử vẫn luôn ở trên mặt Triệu Ngọc Tranh, tất nhiên nhìn thấy rõ yêu thích và tiếc nuối trong đáy mắt cậu, rõ ràng ngày hôm nay Triệu Ngọc Tranh đã nhân nhượng với Triệu Bạch Ngư quá nhiều, thậm chí là dè dặt như thể lấy lòng, Thái tử hiểu ngay rằng có lẽ Triệu Ngọc Tranh đang cảm thấy thẹn vì chuyện Triệu Bạch Ngư bị gả đi thay cậu.

Nhưng chuyện này là do bọn họ âm thầm làm, chẳng liên quan gì đến Triệu Ngọc Tranh cả.

Huống chi từ khi ra đời, Triệu Ngọc Tranh đã yếu ớt nhiều bệnh, tất cả là do Xương Bình công chúa gây ra.

Đều bảo mẹ nợ con đền, nói đến thiếu nợ thì Triệu Bạch Ngư mới là người thiếu họ nhiều hơn.

Lúc còn nhỏ Triệu Ngọc Tranh đã đáng yêu như ngọc tuyết, sau khi lớn lên vô cùng cao ngạo, là ánh mặt trời chói sáng nhất Kinh đô, đã bao giờ thấy cậu cẩn thận từng li từng tí như vậy đâu?

Thái tử không khỏi đau lòng bèn trách móc: "Mặt nạ có một đôi, Triệu khanh một mình một chiếc thôi, cần gì phải tranh giành món đồ người khác yêu thích chứ?"

Triệu Bạch Ngư cầm hai chiếc mặt nạ, nghe vậy nhếch mép cười: "Sao hôm nay điện hạ có thời gian dạo đêm Kinh đô vậy? Công việc nhàn rỗi quá, bên dưới không ai tìm đến làm phiền nên hiếm khi ngài được an tĩnh sao?"

Thái tử nghĩ đến đống việc chất chồng do Triệu Bạch Ngư rước lấy làm mình tổn thương mình mẩy lại còn phiền hà đủ điều, nội tạng nhộn nhạo hết cả lên, cơ thể căng thẳng, cổ họng khô khốc, huyệt thái dương căng lên đau nhức, phản xạ đầu tiên của hắn là buồn nôn.

Triệu Ngọc Tranh nhắc nhở: "Ngũ lang, không được bất kính với Thái tử."

Triệu Bạch Ngư: "Miệng lưỡi ngài cũng tài thật, lần nào gặp cũng đội cho thần chiếc mũ cao, nhưng thứ cho thần không nhận nổi. Có điều đó chỉ là lời chào thăm hỏi thường ngày trong quan trường mà thôi, nếu điện hạ cảm thấy thần đang xúc phạm ngài, thần sẽ lựa ngày đến Đông cung chịu đòn nhận tội?"

"Không cần."

Thái tử đau đầu từ chối, hắn cảm giác Triệu Bạch Ngư chắc chắn sẽ chạy đến biểu diễn tiết mục chịu đòn nhận tội thật, nói không chừng còn quậy cho ầm ĩ lên để cả triều văn võ biết hắn là phường hẹp hòi, tất nhiên quan trọng hơn hết chính là Thái tử phi và Lư tri viện đều sẽ biết được hắn lén lút đi dạo đêm Kinh đô với Triệu Ngọc Tranh.

Người nhà họ Triệu và Đông cung thân cận, Triệu Ngọc Tranh thường xuyên ra vào hoàng cung, nếu như nói Thái tử tham gia lễ Gia Quan của Tứ lang một cách quang minh chính đại thì sẽ không ai hoài nghi tư tình của hắn, nhưng lén lút trộm đến, vấn đề đã không còn là chuyện nhỏ nữa rồi.

Có lẽ Thái tử phi sẽ không nghi ngờ gì, nhưng Lư tri viện luôn sốt ruột thay cho con gái thì chưa chắc.

"Cô cải trang vi hành, thể xét dân tình, vui vầy cùng dân, hôm nay không có phân biệt vua thần, có nói sai cũng không tính là xúc phạm, nhưng chúng ta cũng sẽ không nhắc đến chuyện công."

Bấy giờ Triệu Trường Phong mới lên tiếng: "Tứ lang còn chưa thi đậu công danh, hôm nay gia quan nên vui vẻ hơn bình thường, vui quá mà quên, mới nãy bị nhiều người ngăn cản tầm mắt không nhìn thấy đệ, vì vậy mới lấy đi mặt nạ vàng trước đệ một bước, không phải là cố ý nhắm vào."

Khựng lại một chút, hắn nhìn thâm y trên người Triệu Bạch Ngư nói: "Cũng khéo thật, không ngờ đệ cũng chọn ngày này làm lễ Gia Quan... Đệ không đến gia miếu cáo lễ chương chúc, thế đã đi nơi nào vậy?"

Triệu tam lang không chờ nổi nữa tiếp lời: "Đúng vậy đúng vậy, bọn ta đều không nhìn thấy đệ."

Che chở Triệu Ngọc Tranh trước đã trở thành thói quen của bọn họ.

"Đệ, hôm nay đệ Gia Quan, sao không nói với chúng ta? Nếu như nói, chắc chắn mẹ sẽ đồng ý để đệ vào gia miếu, cha, có lẽ cha cũng sẽ đồng ý thôi. À đúng rồi, ta không đem theo quà đáng tiền trong người, chỉ có hồng tiên* này thôi, là bùa cầu đề tên bảng vàng sáng sớm ta đi cầu ở chùa Bảo Hoa..."

(*) Giấy viết thư màu đỏ

Đang nói hăng say bỗng nhiên nhỏ tiếng dần, tất nhiên bùa linh này là gã cầu cho Triệu Ngọc Tranh rồi.

"Ấy, về nhà ta sẽ chuẩn bị quà sau nhé?"

Triệu tam lang cũng không biết vì sao gã lại chột dạ áy náy, giọng nhỏ như muỗi kêu, từ từ im lìm luôn, trên mặt viết đầy chữ bối rối.

Triệu Ngọc Tranh bước ra giảng hòa: "Ta không biết quy củ quan trường, khiến mọi người cười chê rồi, hy vọng ngũ lang khoan dung độ lượng, đừng trách ta mới phải."

"Ngươi không nói ra, có lẽ chẳng ai cảm thấy tiểu lang đang trách ngươi đâu."

Một giọng nói lạnh lùng hơi trầm đột nhiên chen vào, có cơn gió đêm thoảng qua, thổi cánh hoa hạnh gần đó tới, đầu tiên là một thoáng đàn hương thanh nhã ngào ngạt quyến luyến bên cánh mũi, sau đó là một góc áo choàng lông cừu thêu hạc bị gió thổi phất lên, tầm mắt Triệu Ngọc Tranh dời từ áo choàng hạc màu xanh đậm lên trên, hai mắt hơi mở to ra nhưng không dễ phát hiện, dáng vẻ đẹp đẽ ấy chậm chạp nở rộ trong mắt cậu, thế nhưng chỉ trong lòng cậu hiểu được còn người ngoài thì chẳng thể nhận ra.

Lúc này Triệu Bạch Ngư đứng ở chỗ sáng, mà Hoắc Kinh Đường vừa vặn giấu mình ở nơi đèn không chiếu tới, cộng thêm việc hắn giỏi che giấu hơi thở, lại có mùi hoa hạnh thơm ngát che kín Phật hương trên người, lúc hắn không lên tiếng đúng là không ai có thể phát hiện được.

Mãi đến khi hắn đột nhiên mở miệng, âm thanh đó mới tựa như xé toạc ánh sáng hấp dẫn ánh mắt của tất cả mọi người.

Hoắc Kinh Đường đứng bên cạnh Triệu Bạch Ngư, hai người đều toát ra vẻ lạnh lùng giống nhau như đúc, ánh mắt hắn liếc về phía Triệu Ngọc Tranh giống như nhìn con kiến nhỏ yếu, vô cùng khinh thường.

Trong phút chốc Triệu Ngọc Tranh cảm thấy không cam lòng.

Nhưng lòng không cam vừa dâng lên đã bị niềm vui sướng theo đuôi nhấn chìm, người trước mắt này chính là thân ảnh ở lầu Sơn Hà bên ngoài thành, là vị thủ lĩnh thiết kỵ Đường Hà mà cậu nhìn thấy ở phủ Dương Châu, sau khi hồi kinh đã từng đến chỗ của không ít nhân mạch xin tìm kiếm giúp, nhưng làm sao được khi thiết kỵ Đường Hà quá cơ mật, tin tức có liên quan đều bị che giấu cực kì nghiêm ngặt, đã bốn năm tháng qua rồi mà cậu vẫn không biết người nọ có thân phận thế nào.

Ai mà ngờ được lúc này đây cậu lại có thể nhìn thấy người mà mình vẫn luôn muốn gặp chứ.

Ngay ngày lễ Gia Quan của cậu, ngay ngày cậu trưởng thành, hình ảnh lướt qua vội vã ấy bỗng nhiên chớp nhoáng xuất hiện thành người thật ngay trước mắt.

Triệu Ngọc Tranh nghe tiếng tim mình đập mạnh: "Ngươi..."

Lời nói của cậu còn chưa tròn đã bị Thái tử cắt ngang: "Hoắc Kinh Đường, tứ lang cũng không có ý gì với y, ngươi đừng có mà suy đoán bậy bạ. Nếu như ngươi tiếp xúc với tứ lang sẽ biết tâm tính hắn rất thuần lương, chưa từng ôm lòng hại người."

Hoắc Kinh Đường...?

Triệu Trường Phong và Triệu tam lang chắp tay về phía Hoắc Kinh Đường, không hẹn mà cùng chắn trước mặt Triệu Ngọc Tranh: "Ra mắt tiểu quận vương."

Triệu Ngọc Tranh ngây người tại chỗ, con ngươi co rút, cánh môi như mất đi màu máu, cậu giương mắt nhìn về phía người mà mình đã luôn nhớ mong từ năm mười tuổi, lúc này đây người ấy đã xuất hiện trong ngày quan trọng nhất đời cậu, nhưng thái độ của người đó rất lạnh lùng, một ánh mắt cũng chẳng muốn cho cậu.

Điều khiến Triệu Ngọc Tranh sợ hãi hơn cả thái độ lạnh nhạt của người trong mộng, đó là lẽ ra cậu đã từng có được duyên phận trăm kiếp mới tu được với hắn, hai người bọn họ đã từng có một mối nhân duyên, từng suýt trở thành một đôi có quan hệ thân mật nhất trên đời của đối phương.

Nhưng mà người thân của cậu đã chặt đứt đoạn nhân duyên này, mà cậu thì hèn hạ như gặp phải nước lũ và thú dữ, Triệu Ngọc Trang thừa biết Triệu Bạch Ngư vô tội, nhưng trong khoảnh khắc nghe được chuyện y bị thay mận đổi đào, cậu vẫn sinh lòng do dự, giả câm giả điếc giả ngu như thể đó là chuyện đương nhiên.

Cậu cũng đã tự tay trao duyên phận đó vào tay Triệu Bạch Ngư kia mà?

"Cứ coi như không nhìn thấy bổn vương thì khi bước đến thấy chủ sạp đang nói chuyện với người khác, chỉ cần không phải kẻ mù là có thể nhìn ra được chủ sạp vì mời hàng tiểu lang nên mới lấy ra một chiếc mặt nạ nữa. Nếu không phải tiểu lang thì sao, đổi lại là một người nào đó khác, Triệu Ngọc Tranh ngang nhiên chạy đến giật lấy cũng đủ gọi là ăn cướp rồi. Đây là vấn đề nhân phẩm và thái độ, liên quan gì đến quy tắc quan trường thế?"

Hoắc Kinh Đường lạnh giọng gãi đúng chỗ ngứa, chọc một nhát khiến cho đám người Thái tử lúng túng không thôi.

Thái tử: "Hôm nay là ngày đặc biệt của tứ lang, hắn đang phấn chấn nên khó tránh khỏi sơ xuất, Lâm An quận vương sẽ không để ý chút chuyện cỏn con này mà chèo kéo không tha chứ?"

Hoắc Kinh Đường: "Bổn vương để ý."

"——!" Thái tử lập tức cứng họng, môi run lên đứt quãng: "Ngươi là đàn ông sao mà... Cũng không phải tứ lang cố tình, cũng đã lên tiếng nhún nhường rồi, người cần tha nên tha đi chứ..."

Hắn vừa nói vừa thấy khó hiểu, vốn là muốn giúp tứ lang đòi lại công bằng, sao cảm giác như đang nói "sai ở tứ lang" nhỉ?

Hoắc Kinh Đường: "Thôi bỏ đi, ngày đó còn có thể không nói nguyên nhân dám khiêu khích bổn vương ở ngoài phố, chắc là vì đã quen thói ngang ngược, chẳng bằng tiểu lang quân nhà ta biết lễ thủ lễ."

Triệu Trường Phong nghe vậy sa sầm mặt, Triệu tam lang vừa bối rối vừa tức giận.

Hoắc Kinh Đường nhếch mép, liếc nhìn mấy người bọn họ, kéo dài giọng như thể muốn gằn rõ từng chữ: "Dẫu sao cũng được muôn vàn kẻ yêu thương, ai mà nỡ lật tẩy nhỉ, đến cả họa do chính mình gây ra cũng ép buộc người không liên can đến gánh chịu cơ mà. Lại nói người vì tình riêng là chuyện bình thường, cho nên bổn vương cũng yêu thương thiên vị tiểu lang hơn ai hết, chắc hẳn Thái tử cũng hiểu được miệng ta hay buông lời tự phụ mà nhỉ. Được rồi, các ngươi đi dạo tiếp đi."

Nói xong liền dắt tay Triệu Bạch Ngư: "Tiểu lang, chúng ta qua bờ bên kia thôi, ở đó một hộ gia đình, nghe nói nước giếng nhà đó trong ngọt lạ lắm, còn có thể trừ xui, chúng ta đến xin một bình mang về."

Mặt Thái tử u ám, nhìn chằm chằm bóng lưng Hoắc Kinh Đường, từ nhỏ đối phương đã chẳng nể mặt hắn, khi đó hắn còn chưa là trữ quân, nhưng giờ này hắn đã là Thái tử của Đại Cảnh rồi, dù Hoắc Kinh Đường có xuất sắc đến đâu đi nữa thì cũng là bề tôi của hắn thôi, vậy mà dám làm hắn bẽ mặt giữa nơi đông người thế này, thật sự là...

Tội đáng muôn chết!

"À phải." Hoắc Kinh Đường bỗng nhiên quay đầu nói: "Gần đây Thái tử bận bịu chuyện triều, buông lơi võ nghệ, ngày mai ta vào cung xin Thánh thượng cho phép Thái tử nghỉ mấy ngày đến thao trường tập luyện một chút."

Thao trường ——

Thái tử hít một hơi lạnh, chợt nhớ hồi tháng trước, Hoắc Kinh Đường đột nhiên nổi điên, đứng trước mặt phụ hoàng nói thân thể hắn bị suy nhược, không chịu lo luyện tập võ nghệ, về sau chừa cho hắn chút thời gian đến giáo trường rèn luyện một hai giờ, Hoắc Kinh Đường vừa bày ra bộ dáng chừa mặt mũi cho hắn vừa đánh hắn tơi tả.

Kí ức ùa về, Thái tử cảm giác xương cốt mình còn đau, cơ mặt không nhịn được giật run lên, trong lòng dâng trào hối hận.

"Chờ đã." Không ai nghĩ đến Triệu Ngọc Tranh lại lên tiếng lúc này, cậu nhìn chằm chằm sang đó: "Ngài là Lâm An quận vương Hoắc Kinh Đường sao? Có tin đồn Hoắc Kinh Đường bạo ngược, dung mạo như quỷ dạ xoa, xấu không nhìn nổi, lúc nào ra ngoài cũng đeo chiếc mặt nạ xấu xí —— Sao ngài có thể là Lâm An quận vương được?"

Triệu Bạch Ngư đáp: "Không thể hoàn toàn tin vào lời đồn, đứa trẻ ba tuổi còn hiểu đạo lý này, Triệu tiểu lang quân không hiểu hay chăng? Huống chi vì sao bên ngoài lại có tin đồn chồng ta xấu xí, ngươi nên hỏi bản thân mình mới đúng."

Triệu Bạch Ngư nhìn chằm chằm Triệu Ngọc Tranh, trong lòng thầm lẩm bẩm, cảm giác ánh mắt khi nhìn Hoắc Kinh Đường của cậu rất lạ, tựa như ẩn giấu một ngọn lửa, không phải là căm ghét oán giận, ngược lại như buồn vui đan xen?

Triệu Bạch Ngư rùng mình một cái, kéo tay Hoắc Kinh Đường rời đi, trong đầu nghĩ Triệu Ngọc Tranh trong truyện gốc đúng là vẫn còn trong trạng thái mơ hồ, dù đến kết truyện mới chấp nhận Thái tử, nhưng tình yêu của bọn họ không quá rõ ràng.

Theo như lời cô y tá, vì tác giả muốn thể hiện thuộc tính vạn nhân mê của nhân vật Triệu Ngọc Tranh, cho nên việc cậu ta đơn phương thích một ai đó gần như là không xuất hiện.

... Triệu Bạch Ngư kiến thức hạn hẹp lại còn mắc bệnh nằm viện nên cũng chẳng buồn hiểu rốt cuộc là đơn phương và thuộc tính vạn nhân mê thì có liên quan gì đến nhau, vậy nên không tìm hiểu sâu hơn.

Hôm nay nghĩ lại mới thấy vấn đề này bất thường.

"Không thể nào."

Triệu Bạch Ngư lí nhí, nhìn Hoắc Kinh Đường ở bên cạnh mình, người này lúc không mở miệng nói chuyện quả thật có mang dáng vẻ một thoáng kinh hồng, vậy chẳng lẽ hắn cũng là nhân vật chính à!

Nhưng mà trong truyện chưa từng nhắc đến việc Triệu Ngọc Tranh có ý với Hoắc Kinh Đường.

Cũng có thể là vì cốt truyện chính Hoắc Kinh Đường không lấy lại được nhan sắc, phải không?

—— lại nói, kí ức của y về truyện gốc dường như càng lúc càng mơ hồ, tất nhiên không loại trừ trường hợp y tá không nhớ kĩ nội dung nên lúc kể lại đã thêm thắt không ít suy nghĩ cá nhân vào.

Cho nên sau án gian lận thi cử, nội dung kế tiếp của truyện gốc là gì? Có phải y đã làm thay đổi rất nhiều tình tiết rồi không? Được Hoắc Kinh Đường bảo vệ, sau này y có còn phải chết không?

Y sẽ chết như thế nào?

Hoắc Kinh Đường: "Sao lại nhìn ta vậy?"

Triệu Bạch Ngư hoàn hồn, chớp mắt nói: "Đột nhiên phát hiện ra chàng rất được chào đón."

Hoắc Kinh Đường bóp tay Triệu Bạch Ngư nói: "Nhiều người cũng ái mộ tiểu lang lắm đấy."

Triệu Bạch Ngư bật cười, rất thích Hoắc Kinh Đường khen ngợi y như thể việc đó đã trở thành thói quen của hắn, giúp cho y lấy lại được tâm trạng lạc quan thoải mái của đời trước, thoát khỏi hai mươi năm dù có cố gắng thế nào cũng chỉ nhận lại thành kiến, bị ghét bỏ mà dần tự nghi ngờ bản thân mình.

"Nhà có giếng nước trừ xui mà chàng nói ở đâu?"

"Ta lừa bọn họ thôi."

...

Bóng người cả hai hòa vào dòng người, biến mất trong ánh đèn lung linh của chợ đêm, Triệu Ngọc Tranh rũ mắt, mất hứng dạo chơi Kinh Đô, thấp giọng nói với Thái tử và hai anh mình sẽ quay về phủ.

Thái tử rất tiếc nuối, tâm trạng đi chơi đêm với Triệu Ngọc Tranh cũng bị phá hỏng chẳng còn gì, thế nên cũng không nhiều lời nữa mà hộ tống Triệu Ngọc Tranh về đến phủ tướng.

Triệu Trường Phong và Triệu tam lang im lặng đưa Triệu Ngọc Tranh trở về đến tận sân viện của cậu, lần đầu tiên không hề an ủi nỗi buồn trong lòng Triệu Ngọc Tranh, chỉ dặn dò mấy câu đơn giản cho người hầu rồi rời đi.

Trong ánh sáng mờ tối của hành lang dài, Triệu tam lang cũng cảm thấy mất mát.

"Đại ca, hình như hôm nay đệ mới nhận ra Triệu Bạch Ngư và tứ lang cùng tuổi, hóa ra hôm nay đệ ấy cũng làm lễ Gia Quan, nhưng đến cả gia miếu đệ ấy cũng không được vào." Triệu tam lang hơi thất thần.

"Là do y không muốn vào gia miếu."

Triệu tam lang không đồng tình, "Đại ca, vì sao bây giờ huynh vẫn còn chĩa mũi nhọn vào ngũ lang vậy? Lần nào nhắc đến ngũ lang, huynh cũng đều nghĩ đủ cách đẩy vấn đề lên người ngũ lang như thể mọi tội lỗi đều là do đệ ấy làm ra vậy. Nhưng Triệu Bạch Ngư thật sự có làm sai gì đâu, đệ ấy vẫn là con trai nhà họ Triệu, đúng ra phải vào gia miếu chứ."

Bỗng nhiên giọng gã như hụt hẫng: "Tứ lang làm lễ Gia Quan, cả triều văn võ tranh nhau chúc mừng, quà chất thành núi, đến cả Thánh thượng, Thái hậu và Hoàng hậu cũng đưa lời thăm gỏi, còn ngũ lang thì... Theo lý mà nói, thân phận của đệ ấy vốn cũng nên là một thiên chi kiêu tử."

Ánh mắt Triệu Trường Phong như dao sắc: "Triệu Ngọc Khanh, quản cái đầu đệ cho tốt! Đệ thông cảm cho Triệu Bạch Ngư chính là thừa nhận Xương Bình công chúa, chấp nhận cho mọi kế hãm hại của ả ta với mẹ và chúng ta năm đó! Đệ có biết đệ bất bình giúp con trai của kẻ thù chính là phản bội mẹ và tứ lang sau khi ra đời suýt chết không? Đệ nghĩ vì sao người ngoài lại tranh nhau đến chúc mừng? Vì sao Thánh thượng và Thái hậu lại quan tâm đến tứ lang?"

"Đệ..." Triệu tam lang ấp úng không thành lời, ủ rũ cúi đầu.

Đến khi Triệu Trường Phong rời đi rồi, Triệu tam lang mới lầm bầm: "Nhưng mà Triệu Bạch Ngư cũng không sai mà. Không phải người sai là công chúa và cha —— Ối!" Hắn vội im miệng ngay, phi phi hai tiếng: "Làm con cái, sao có thể dị nghị người lớn xằng bậy được chứ?"

Đi tới giữa vườn hoa, Triệu tam lang không nhịn được than thở: "Nhưng đại ca đúng là cố chấp thật..."

"Ai cố chấp?"

Một giọng nữ dịu dàng vang lên, Triệu tam lang giật mình xoay người, thấy là Tạ thị mới vuốt ngực nói: "Mẹ, mẹ hù chết con rồi."

"Không làm chuyện trái lương tâm thì cần gì phải sợ ai?" Tạ thị nói: "Lại cãi nhau với anh cả con sao?"

"Không có ạ." Đến tuổi này rồi, Triệu tam lang không muốn để lộ mâu thuẫn giữa anh em họ trước mặt cha mẹ, lập tức hỏi ngược lại: "Đã muộn thế này rồi, sao mẹ còn chưa ngủ?"

Tạ thị nói: "Mấy anh em các con chưa về, làm sao mẹ an tâm đi ngủ cho được?"

Triệu tam lang biết chủ yếu là Tạ thị lo cho Triệu Ngọc Tranh, gã đỡ tay Tạ thị, vừa trò chuyện câu được câu chăng với mẹ vừa đi về phía cửa viện của Triệu Ngọc Tranh.

Tạ thị: "Được rồi, không cần đi cùng mẹ nữa, con về phòng đi."

Triệu tam lang vui vẻ ra mặt: "Dạ." Bỗng nhiên gã nhớ đến Triệu Bạch Ngư, do dự một lúc rồi nhỏ giọng nói: "Mẹ, hôm nay ngũ lang cũng làm lễ Gia Quan."

Nụ cười trên mặt Tạ thị khựng lại, cuối cùng chỉ thờ ơ đáp: "Mùng 3 tháng 3 là ngày lành, có rất nhiều người chọn ngày này để làm lễ Gia Quan, cũng bình thường thôi mà."

Thấy Tạ thị bình tĩnh như vậy, Triệu tam lang lưỡng lự, sau đó dạ một tiếng rồi quay về viện của mình.

Tạ thị chỉ đưa một ma ma theo hầu, bà im lặng vào sân viện của Triệu Ngọc Tranh, nhìn thấy người hầu lại bị đuổi ra khỏi phòng.

Nhất là bà vú nuôi Triệu Ngọc Tranh đang mang vẻ mặt đau xót, thấy Tạ thị tới bèn vội vàng xoay người chạy đến, sốt ruột nói: "Phu nhân ơi ngài đến rồi! Từ lúc về nhà, tứ lang đã trông rất buồn bực, đuổi hết bọn ta ra ngoài, trốn trong phòng một mình không nói lời nào, cũng không chịu uống thuốc, đám ma ma chúng ta sốt ruột chịu không nổi mất thôi!"

Tạ thị có nhiều kinh nghiệm trong chuyện này: "Các ngươi ở lại bên ngoài hết đi."

Nói xong rồi bà mở cửa đi vào, vào đến phòng trong ngồi xuống dầu giường.

"Ra ngoài!"

Tạ thị nhìn Triệu Ngọc Tranh quấn mình trong chăn, ôn tồn nhỏ nhẹ nói: "Mẹ cũng phải ra ngoài sao?"

Triệu Ngọc Tranh chợt vén chăn ngồi dậy, cậu nhìn Tạ thị, hai vai rũ xuống, mà Tạ thị nhìn thấy vành mắt cậu ứng hồng, mũi cũng đỏ lên thì không khỏi chau mày, sắc mặt cũng lạnh đi: "Con ra ngoài bị ai ức hiếp thế?"

Triệu Ngọc Tranh lắc đầu, mím môi không trả lời.

Tạ thị thăm dò cậu: "Là vì con gặp được ngũ lang phải không?"

Triệu Ngọc Tranh ngầm thừa nhận.

Tạ thị hiểu ra: "Xảy ra chuyện gì không vui vậy? Tứ lang kể cho mẹ nghe được không?"

Triệu Ngọc Tranh cắn răng, nắm tay siết chặt: "Mẹ, con đã làm sai một chuyện, bây giờ hối hận rồi, phải làm thế nào đây?"

Tạ thị: "Chuyện đó có quan trọng với con hay không? Con có thể buông bỏ được không, có thể bù đắp hay không? Bù đắp được rồi, trong lòng con có dễ chịu hơn chút nào không?"

Triệu Ngọc Tranh kề trán vào lòng bàn tay ấm áp của Tạ thị, đột nhiên cậu muốn khóc, thấp giọng nghèn nghẹn: "Bỏ không được đâu mẹ ơi, con đã tìm người đó rất lâu. Nếu như gắng sức bù đắp có thể đổi lại được bất cứ thứ gì, trong lòng con sẽ dễ chịu hơn rất nhiều."

Tạ thị nghe thấy sai sai, người đó? Tứ lang có người trong lòng rồi sao?

"Còn nếu không bù đắp được thì sao? Đến lúc đó con có buông được không?"

"Con sẽ đau lòng mà chết, hối hận mà chết mất."

Động tác xoa dịu Triệu Ngọc Tranh của Tạ thị cứng đờ, bà lộ ra vẻ không vui, đôi mày đẹp cũng vô thức nhíu chặt lại, từ nhỏ tứ lang đã yếu ớt nhiều bệnh, thường xuyên bơi bên bờ vực sinh tử, vậy nên cậu sống rất tích cực, cũng rất thiện lương, sao hôm nay mở miệng khép miệng đều đòi "chết"?

Chỉ là một người mà thôi, đáng để cậu u mê đến vậy sao?

Tạ thị dẫn dắt từng bước: "Có thể kể lỗi lầm của con với mẹ được không? Mẹ sẽ phân tích cho con nghe, nói không chừng có thể đưa ra được ý kiến gì đó có thể giúp con."

Triệu Ngọc Tranh được Tạ thị ôm vào lòng, hoàn toàn thả lỏng, trao lòng tin tưởng cho mẹ, thất thần đáp: "Con tìm người ấy rất lâu rồi, nhưng con không biết hai người đó là cùng một người, hóa ra hắn và con đã từng có duyên phận sâu đậm như vậy, bọn con vốn đã có thể ký kết nhân duyên..."

Biểu cảm của Tạ thị hoàn toàn cứng đờ, mắt trừng to nhìn vào khoảng không, bàn tay ôm bả vai Triệu Ngọc Tranh mất kiểm soát bấu chặt, mãi đến lúc nghe thấy tiếng kêu đau của cậu, bà mới nhanh chóng lấy lại vẻ mặt dịu dàng.

"Mẹ?" Triệu Ngọc Tranh hỏi: "Mẹ sao thế?"

Tạ thị vuốt tóc Triệu Ngọc Tranh mắc qua tai con xong thì nhìn cậu: "Tứ lang của mẹ trưởng thành rồi, con đã trở thành chàng trai hiểu được tình yêu và phiền muộn, đủ lông đủ cánh rồi, trong lòng mẹ ngổn ngang cảm xúc —— nhưng gia huấn Triệu gia nói làm người phải có đủ đức hạnh, ngay thẳng và tuân theo nề nếp gia đình, con là đứa trẻ cha mẹ thương yêu nhất, chớ bôi nhọ đức hạnh chính trực của con, đừng làm những chuyện như bất chấp đoạt lấy tình yêu của người khác."

Sắc mặt Triệu Ngọc Tranh ảm đạm dần, cậu hơi né tránh ánh mắt của Tạ thị, không dám nhìn chăm chăm vào bà, ngón tay vô thức quặp lấy góc chăn, trên mặt có vẻ do dự thoáng qua: "Con, con biết rồi."

Nhận được lời bảo đảm nhưng Tạ thị không cười nổi, chỉ trấn an Triệu Ngọc Tranh vài câu để cậu uống thuốc, trông đến khi cậu ngủ sau rồi mới khẽ khàng rời đi.

Ma ma xách lồng đèn, bước chân vội vã, thậm chí phải chạy bước nhõe mới theo kịp, "Phu nhân à, chậm thôi, cẩn thận dưới chân —— "

Đột nhiên Tạ thị dừng bước, lảo đảo suýt nữa là ngã, cũng may có ma ma nhanh tay lẹ mắt nhào tới đỡ lấy bà, thì lúc này Tạ thị đã ngã nhào ra đất rồi.

Ma ma sợ mất hồn mất vía, đỡ Tạ thị đến băng ghế đá ngồi xuống, bà ta cầm đèn chiếu lên, nhìn thấy ánh mắt Tạ thị cứ mông lung, sắc mặt khó coi đến dọa người, để lộ ra mấy phần buồn bã xen lẫn lo sợ, ma ma hoảng hốt đến nỗi phải vuốt ngực mấy lần.

"Phu nhân... Phu nhân? Ngài bị làm sao vậy?"

Tạ thị hoàn hồn, nhìn ma ma chằm chằm, ánh mắt lúc này khiến người ta vô cùng sợ hãi.

Ma ma run rẩy hỏi: "Phu nhân, ngài đang, đang bị mộng du à?"

Tạ thị chậm rãi di chuyển tầm mắt, chuyển xuống nhìn đầu ngón tay thất thần: "... Không nên như vậy."

Đứa nhỏ chui ra từ trong bụng bà bị kẻ khăng khăng chạy đến cướp đoạt tình cảm của bà hãm hại, suýt nữa bỏ mạng, lớn lên cùng với bệnh ốm liên miên, đứa nhỏ này chịu biết bao nhiêu đau đớn, hai mươi năm cuộc đời sống cùng ác mộng như hình với bóng, sao cũng muốn cướp đoạt tình cảm của người khác, đã biết rõ còn cố phạm? Thậm chí nhất định muốn làm như vậy?

Không lẽ là như vậy thật.

Làm sao có thể như vậy được?

Ma ma sốt ruột chịu không nổi: "Cái gì mà không nên như vậy? Phu nhân làm sao thế? Ngài đừng dọa ta nha! Ta, ta đi gọi đại phu tới ngay!"

"Ta không sao." Tạ thị đảo mắt qua, ma ma liền bình tĩnh lại."

Sắc mặt Tạ thị dần hồng hào trở lại, tỉnh táo nhìn vào màn đêm, đột nhiên hỏi: "Ma ma nói xem, tứ lang giống lão gia ở chỗ nào?"

"Giống gương mặt sao?" Ma ma không hiểu vì sao đề tài nói chuyện lại thành thế này, nhưng bà vẫn nghiêm túc trả lời: "Mày, mũi và môi giống hệt lão gia, đều là mũi túi mật, mày kiếm, môi châu, cũng tuấn tú diễm lệ như lão gia —— ối."

Bà ngượng chín cả mặt, vừa kịp nhận ra không thể nhận xét đàn ông "diễm lệ" được.

Tạ thị: "Ma ma cũng cảm thấy vẻ ngoài của tứ lang quá thanh tú sao?"

Nói thanh tú là nói lịch sự thôi chứ cũng không hẳn là vậy, tướng mạo của tứ lang xinh xắn rực rỡ nhất, lúc mặc trường bào màu đỏ thẫm thường khiến cho người ta nhìn nhầm là nữ cải trang thành nam.

Có điều Tạ thị và Triệu Bá Ung lúc còn trẻ cũng là một đôi tài sắc vẹn toàn bậc nhất Kinh Đô, mà mặt mũi Triệu tứ lang lại nghiêng về giống Triệu Bá Ung, song trò giỏi hơn thầy nhưng thầy vẫn thắng.

Ma ma: "Đợi đến lúc tứ lang thành gia lập nghiệp, chững chạc một chút có lẽ vẻ ngoài cũng sẽ không còn ngây thơ nữa."

Tạ thị: "Ma ma cảm thấy đôi mắt của tứ lang là kiểu mắt gì?"

"Đó... Không phải là giống với mắt phượng của lão gia sao? Mày kiếm mắt phượng, tuấn tú vô song."

"Mắt phượng à? Là vậy sao?"

Vì sao vừa rồi lúc bà hỏi về những điểm tương tự, ma ma lại không nhắc đến đôi mắt?

Ma ma lo lắng không thôi: "Phu nhân, rốt cuộc ngài làm sao vậy?"

Tạ thị lắc đầu: "Có lã là do ta nghĩ nhiều, do ta nghĩ nhiều thôi." Bà trố mắt thật lâu, đột nhiên nhấn mạnh lại câu nói: "Nhất định là do ta đã suy nghĩ nhiều rồi."

==

Chương 59

Vừa qua canh ba, kinh đô cũng ngừng hoạt động buôn bán, yên lặng bao trùm khắp mọi nơi, trời đêm không sao đất tối không người.

Trên mái hiên cao của căn phòng, một thân ảnh màu đen bỗng nhiên nhảy vụt xuống, bước chân nhẹ nhàng tránh khỏi Cấm quân tuần tra rồi dừng lại ở cửa sau của một căn nhà nào đó, người này xoay mình nhảy lên tường, vừa đáp xuống đất thì bị tiếng xé gió vùn vụt qua tai nhào đến tấn công.

Bóng đen có thân thủ nhanh nhẹn nên tránh được, nhưng sau đó là chân phong và quyền phong dày đặc đánh tới khiến cho bước chân của gã loạng choạng, bóng đen không còn sức đánh trả, chỉ đành lui từng bước về phía sau, lao lên cành cây đạp xuống mái ngói tháo chạy, nhưng xông tới trước mặt chính là một nắm đấm rất mạnh.

Vì né tránh đòn đó mà bóng đen đã nhảy xuống khỏi đầu tường, đang định phản kích nhưng lại phát hiện cao thủ tấn công hắn đang đứng trên đầu tường bên kia, đưa lưng về phía ánh trăng sáng như lưỡi hái, không nhìn rõ mặt mũi.

Bóng đen siết chặt nắm tay, bị đánh chảy máu rồi mà vẫn còn muốn nghiêm túc tỷ thí lại một trận nữa, ngay lập tức có một cánh tay đột ngột giữ vai hắn lại: "Ngươi không đánh lại hắn đâu."

Bóng đen giật mình, quay đầu lại nhìn thấy khuông mặt quen thuộc: "Đại ca?" Gã tháo miếng vải đen che mặt xuống, thì ra là Triệu tam lang.

"Sao huynh cũng ở đây vậy?"

Triệu Trường Phong nhìn thứ gồ lên trong ngực áo của Triệu tam lang: "Đến tặng quà sao?"

Triệu tam lang che ngực, ấp úng: "Đệ không ngủ được, dù sao cũng không có việc gì làm, lại nghĩ cũng là anh em, nếu ngũ lang làm lễ Gia Quan mà lại chẳng bày tỏ, quả thật không thể nói nổi... Đệ tính lén chạy vào, thả quà rồi đi ngay, không cần gặp mặt, cũng chẳng cần nói chuyện, vẫn có thể biểu hiện tấm lòng."

"Ừ," Hiếm khi Triệu Trường Phong không khiển trách gã, chỉ xoay người rời đi: "Mọi ngóc nghách ở phủ quận vương đều có người trông chừng, đệ không vào trong được đâu, chớ uổng phí tâm tư. Nếu như có lòng, chờ ngày Triệu Bạch Ngư đi làm, đệ đến thẳng Nha môn đưa quà cho y là được."

Triệu tam lang đi được ba bước thì dừng, không cam lòng, chỉ thấy cao thủ kia vẫn còn đang ở trên đầu tường không nhúc nhích, phỏng chừng sẽ đợi đến khi bọn họ ra khỏi phạm vi phủ quận vương mới dừng tay, không nhịn được lầm bầm: "Một tòa phủ quận vương thôi mà, sao phải cần nhiều người trông chừng vậy? Lâm An quận vương võ công cao cường, lại là thủ lĩnh thiết kỵ Đường Hà, vậy mà vẫn cần người khác giúp hắn canh giữ vương phủ hay sao?"

"Đệ nói gì?"

"Hở?" Triệu tam lang vội đi theo: "Không, không có gì."

Gã vô thức giấu nhẹm chuyện hôm qua mình đã nhận ra Hoắc Kinh Đường chính là thủ lĩnh thiết kỵ Đường Hà mà ngày đó gã rình thấy được ở Dương Châu, thiết kỵ Đường Hà thần bí phi phàm, đó là đội quân giúp triều đình giết gian thần, đánh bại Đột Quyết trong thoại bản, nhất định là một chi đặc thù cần phải đi trong đêm đen, âm thầm bảo vệ đất nước, gã phải giữ lấy bí mật đó mới được.

"Đại ca, huynh còn chưa nói vì sao huynh cũng ở đây đấy."

Triệu Trường Phong đỡ tay phải, cổ tay vẫn còn tê dại kéo theo cơn đau âm ỉ chưa tiêu tan được vì mới vừa đánh nhau cách đó không lâu lắm, trong ống tay áo cất ngọc quân tử mà hắn giữ gìn vô cùng kĩ lưỡng.

"Tuần tra giờ giới nghiêm sau canh ba, hôm nay đến ta trực."

Triệu tam lang gãi đầu, nhưng đây có phải là nơi để đi tuần tra giờ giới nghiêm đâu.

Không nghĩ ra thì lười nghĩ tiếp, Triệu tam lang nhún vai buông tha cho bộ não của mình, không cho nó thắc mắc nữa, lại tiếp tục nghĩ xem làm cách nào để có cơ hội đến gần Lâm An quận vương, hơn nữa phải thuận lợi hợp lẽ đưa quà đến tận tay Triệu Bạch Ngư, từng bước hành động có lẽ đều sẽ rất khó khăn đây.

Triệu tam lang bóp cổ tay, ai bảo trước đây hắn cứ làm căng mối quan hệ giữa bọn họ làm chi, bây giờ muốn hàn gắn thật sự là khó như lên trời.

***

Bên ngoài có tiếng va chạm truyền tới, một lúc sau lại ngừng, Hoắc Kinh Đường thắp đèn đi vào từ bên ngoài phòng, Triệu Bạch Ngư lim dim, ngái ngủ hỏi có chuyện gì đang xảy ra.

Hoắc Kinh Đường tắt đèn, leo lên giường ôm Triệu Bạch Ngư đáp: "Có hai con chuột mù mắt quậy phá ở ngoài tường phủ, bị bắt rồi."

"Ưm..." Triệu Bạch Ngư mơ mơ màng màng, hồi lâu mới đáp lại: "Là Hoa Tuyết bắt được hả? Đã ăn chưa?"

Hoắc Kinh Đường: "Bẩn quá. Ném đi rồi."

Triệu Bạch Ngư không trả lời, lâu đến nỗi Hoắc Kinh Đường cho rằng y lại ngủ mất rồi, thì bỗng nghe tiểu lang quân mở miệng nói: "Có chuột thì phải giết chết, nếu không chúng sẽ ăn hết lương thực mất."

Hoắc Kinh Đường phì cười: "Về sau lại tới nữa thì giết."

Mà lần này Triệu Bạch Ngư đã thật sự ngủ say như chết.

***

Chuyện tặng quà không thành, cuối cùng để lỡ mất thời gian thích hợp nhất, về sau cũng chẳng còn cơ hội nào, dù Triệu tam lang có chờ thời cơ đến được lần nào đi nữa, thì cứ hễ gã nhìn thấy Triệu Bạch Ngư là mặt đơ lưỡi cứng, quả thật là không có cách nào thản nhiên đưa quà cho y.

Đến cuối cùng, cả Triệu Trường Phong và Triệu tam lang đều không thể tặng món quà Gia Quan mà mình chuẩn bị đến tận tay Triệu Bạch Ngư.

Đồng thời, Triệu tam lang và Triệu Ngọc Tranh đều muốn tìm cách tiếp cận Hoắc Kinh Đường, người nào cũng có mục đích riêng, nhưng người trước công vụ bề bộn, dường như bận đến nỗi không có thời gian làm việc khác, người sau thì chuẩn bị đi thi, bị người mà Tạ thị tìm đến trông coi nghiêm ngặt, suốt một khoảng thời gian dài không thể ra khỏi nhà.

Triệu Bạch Ngư và Hoắc Kinh Đường không biết những chuyện này, nhưng cho dù có biết thì hai người cũng sẽ làm lơ cho qua, thậm chí sẽ nghĩ đủ cách để mặc kệ bọn họ, có điều không bị ai quấy rầy đúng là một chuyện may mắn.

Mỗi ngày đều lặp đi lặp lại việc vào ca điểm mão, thu thuế, học thêm được nhiều điều về thuế vận ở chỗ Lưu đô giám, tích lũy cho mình một phần kiến thức và mở rộng hơn thế nữa.

Sau đó tan làm là trở về phủ, hoặc thường đi dạo chợ đêm cùng Hoắc Kinh Đường, cứ đến ngày nghỉ là dắt díu nhau ra Sơn Hà Lâu ở ngoại ô làm ổ mấy ngày, hoặc là đến bãi săn trong nũi săn thú, Hoắc Kinh Đường đã dạy y bắn cung.

Thời gian hưởng thụ cuộc sống nhàn nhã cứ thế trôi qua rất mau.

Vượt qua đợt lũ lụt mùa xuân, nghe Hạ Quang Hữu nói tình hình của Hoài Nam hiện tại đang trên đà ổn định, cuộc sống của dân chúng đã đi vào nề nếp, có ngân lượng từ tộc Tư Mã thị cùng với Đông cung phát đến bù đắp vào kho bạc nhỏ của Hoài Nam, đường sông đã được sữa chữa lại đây vào đấy.

Trần Phương Nhung ở huyện Tứ Thủy, Sơn Đông xa hơn bởi vì xử lý nạn lụt năm ngoái rất xuất sắc, thành tích nổi bật, nghe nói có khả năng cao cuối năm sẽ được thăng quan, chẳng qua là còn chưa đủ tư cách để điều về kinh đô.

Hắn đã gửi rất nhiều đặc sản địa phương về, chúc mừng Triệu Bạch Ngư gia quan.

Còn ân sư Trần Sư Đạo chủ trương cải cách chợ đêm, thủ đoạn cao siêu, có hy vọng được lên chức.

Quan đồ của hai cha con đều suôn sẻ, nhất thời người kéo đến nhà đông như trẩy hội, cũng may Trần Sư Đạo rất tỉnh táo, đóng cửa không tiếp khách, tỏ rõ bản thân ông cụ sẽ không kết bè kết phái với bất kì người nào, đồng thời nổi trận lôi đình chấn nhiếp người trong họ, vì vậy không có tai họa nào xảy ra.

Gia đình trong sách, thanh tỉnh hiếm thấy, lại còn có thể bồi dưỡng được người học sinh như Triệu Bạch Ngư, nói chuyện còn vô cùng dễ nghe, chỗ nào cũng hợp ý, làm sao Nguyên Thú đế có thể không coi trọng cha con Trần Sư Đạo cho được?

Bước vào mùa hạ, một mùa hạ nóng bức khó chịu.

Hoắc Kinh Đường giống hệt con cá khô, hơn nửa thời gian một ngày là hắn dùng để nằm ở thủy tạ nơi có gió mát thổi tới, bên góc còn phải bày một chậu đá cục, tiểu quận vương không chịu ăn đồ nóng, chỉ chấp nhận món bánh phô mai lạnh, trái cây ướp lạnh các kiểu như thể bản thân luôn trong tình trạng bị say nắng.

Nhìn lại Triệu Bạch Ngư, ngày ngày y đều nhẹ nhàng khoan khoái, không sợ nóng chút nào, đứng dưới bóng cây tựa như mang theo gió lạnh, chỉ cần nhìn thấy y liền có cảm giác mát mẻ an tĩnh.

Về sau trong phủ không ít nam nữ cũng học theo trang phục của y, tóc búi cao dùng thêm dây vải màu xanh làm trang sức, áo vải tay hẹp lồng thêm một lớp áo lụa dài bên ngoài, hoặc xanh thẫm hoặc vàng nhạt, nhưng không có người nào tạo được hiệu quả sạch sẽ thoải mái như Triệu Bạch Ngư.

Dường như nhà nào trong kinh đô cũng dự trữ một số lượng lớn đá viên, hơn nữa việc buôn bán phát đạt nên đã sản sinh ra nhiều sản phẩm làm từ đá hoặc đi kèm với đá, có thể giúp người dân giải tỏa sự nóng bức mà ông trời thổi tới.

Cho đến tận khi vào thu, tiết trời chuyển lạnh, lá cây héo khô rồi rụng, trong chợ dần xuất hiện trái cây và thức ăn theo mùa, cua thu béo khỏe và hoa cúc vàng rực rỡ được vận chuyển dần vào kinh.

Quan lại quý nhân thường xuyên tổ chức các buổi tiệc thưởng cúc, ăn cua, phủ quận vương nhận được một xấp thiệp mời, cả Triệu Bạch Ngư lẫn Hoắc Kinh Đường đều không muốn đến điểm hẹn.

Quan điểm của hai người giống nhau, thà đến bữa tiệc có đầy khách khứa, chi bằng cùng bạn bè đến quán rượu thưởng thức cua thu, trong tiếng người huyên náo uống say tí bỉ còn có ý nghĩa hơn.

Đảo mắt đã đến tháng chín, đại thọ của Thái hậu.

Năm nay các nơi mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, không cần phải lo đến việc triều thần lấy cớ phô trương lãng phí để phản đối Nguyên Thú đế tổ chức tiệc mừng thọ cho Thái hậu.

Đại thọ sáu mươi hồi năm ngoái không làm được khiến cho ông vô cùng bực bội, năm nay Nguyên Thú đế đã tỏ ý từ sớm, nhất định phải tổ chức lớn cho thỏa thuê mới được.

Chiêu cáo thiên hạ, đại xá thiên hạ.

Quan viên các nơi trên cả nước đều dốc hết khả năng gửi quà tặng tới, những địa phương xa xôi quả thật nghèo khổ cũng bấm bụng móc hầu bao gửi về kinh một con gà cảnh tượng trưng cho cát tường.

Đến cả Triệu Bạch Ngư bận rộn ở Nha môn Thủy vận suốt cũng có thể cảm giác được bầu không khí gấp rút một cách khó hiểu kia, Thiên gia đại thọ, khắp chốn mừng vui, cả nước gắng sức lấy lòng để một người vui vẻ, đại xá thiên hạ thì tốt với kẻ phạm tội, còn lại đối với người khác thì vô cùng hao tài tốn của.

Thủy vận trong phủ tỏa ra các hướng, lễ thọ mà các nơi gửi về hơn phân nửa là đi đường thủy, vận chuyển không ít cống phẩm, phải chú ý nhiều hơn, vậy nên Triệu Bạch Ngư bận bịu không thể rời chỗ, thường không kịp ăn cơm trưa đã phải ra thẳng bến thuyền tự mình kiểm hàng.

Ngày hôm đó, có một chiếc thuyền hàng đến từ phương nam đi vào cửa Kim Thủy, nói là cống phẩm vận chuyển từ Giang Tây đến, Triệu Bạch Ngư đích thân đến ghi chép lại.

Đến chỗ cửa cống, nhìn thấy bên bờ là chiếc thuyền hơn năm trăm liệu được những người kéo thuyền lôi vào, đáy thuyền chìm sâu xuống mặt sông, thu hút người dân vây đến xem cực kì nhộn nhịp.

Triệu Bạch Ngư hỏi: "Trọng lượng không nhẹ, cũng là cống phẩm sao?"

Lưu đô giám đáp: "Đá Anh Đức từ Quảng Đông, tiên đế nhìn thấy một lần liền yêu thích không thôi, sau đó loại đá này thịnh hành ở kinh đô, các quý nhân và văn nhân cũng yêu thích, cho nên vào thời tiên đế nó đã được liệt kê vào danh sách cống phẩm. Nghe nói trong số hàng này toàn là vật quý báu, người ta tìm thấy một khối đá Anh Đức thiên nhiên, hình dạng như long phượng hòa ca, đá trong vắt như suối, gõ vào kêu leng keng vang dội như tiếng châu ngọc, được coi là vật hiếm lạ, vừa đúng dịp đại thọ Thái hậu, cho nên đã phái người ra roi thúc ngựa đưa tới."

Ở đời sau, đá Anh Đức, đá Thái Hồ, đá Linh Bích và đá Lạp được gọi là tứ đại kỳ thạch, tiền triều trọng đá Thái Hồ, đến Đại Cảnh vì tiên đế thích đá Anh Đức nên cũng dần thành trào lưu, trong nhà văn nhân mặc khách nào cũng có ít nhất một khối đá Anh Đức cực lớn để trưng trong vườn làm cảnh.

Triệu Bạch Ngư: "Là quà tỉnh Quảng Đông gửi tới trên danh nghĩa chúc thọ sao?"

Lưu đô giám: "ĐácAnh Đức đó là quà mà Tri phủ Hồng Châu thủ phủ Giang Tây và Xương Bình công chúa liên danh gửi đến, ngụ ý chúc Thái hậu sống lâu muôn tuổi."

Triệu Bạch Ngư nhìn mặt nước, nghe vậy thì bật cười: "Vậy ra công chúa mượn danh Tri phủ Hồng Châu, vận chuyển đá Anh Đức từ Quảng Đông xa xôi ngàn dặm đến mà không sợ hao tài tốn của, không thể không khen một câu giàu có hào sảng."

Tim Lưu đô giám đập thình thịch: "Đại nhân ăn nói cẩn thận, chớ để cho người ta nắm được thóp."

Triệu Bạch Ngư: "Ta nói lời này ra cũng không phải để lôi kéo tình riêng, Lưu đô giám đừng lo. Thôi, công việc quan trọng... Ai là người phụ trách số cống phẩm lần này vậy?"

Lưu đô giám xoay người chỉ thẳng về phía một chiếc thuyền cỡ trung được trang hoàng như tranh vẽ: "Ở trong đó."

Triệu Bạch Ngư cau mày: "Hắn tới đây nghỉ phép du lịch hay là tới làm việc thế?"

Lưu đô giám không nhịn được đáp: "Dân địa phương đến chỗ vua một cõi, không phách lối kiêu căng, không ăn chơi sa đọa đã là coi là yên phận rồi. Quý ông này đến đây làm việc, nhất quyết một bước cũng không rời thuyền hoa đậu cách thuyền chở cống phẩm một dặm. Có lẽ là người tới trước lúc cống phẩm chưa tới, hoặc là cống phẩm đã ngừng ở bến thuyền non nửa tháng rồi, mà người vẫn còn đang vui chơi trong son phấn đến quên lối về."

Triệu Bạch Ngư: "Không ai truy cứu à?"

Lưu đô giám: "Không làm sai gì, ai mà ngó đến mấy chuyện vặt vãnh này?"

Cũng đúng.

Triệu Bạch Ngư: "Đã xác nhận cống phẩm không có sai sót gì rồi chứ?"

"Đã xác nhận rồi, không có sai sót." Lưu đô giám ngước nhìn sắc trời rồi nói: "Bên phía bến thuyền đang kẹt, ta thấy chắc đến tối chiếc thuyền này cũng không cập bến được mất, chắc là phải chuyển hàng xuống ngay trong đêm thôi, chỉ mong là không gặp trở ngại gì. Ta thấy thuyền này lún sâu xuống nước quá rồi, chỉ sợ nó bị chìm thôi."

Triệu Bạch Ngư: "Đi thôi, đến gặp người phụ trách cống phẩm đã."

Hai người ngồi thuyền nhỏ đến gần thuyền hoa giữa sông, sau khi trình bày thân phận xong, còn phải đợi thông báo cho người bên trong nữa mới được phép lên thuyền.

Triệu Bạch Ngư không khỏi tò mò, người phụ trách này đảm nhiệm chức vụ gì ở tỉnh ngoài mà bước đến kinh đô lại chẳng sợ gì.

Vừa bước vào bên trong thuyền hoa đã nghe thấy tiếng đàn sáo, còn có tiếng cười nói mềm mại mang phương ngữ Giang Nam truyền vào trong tai, xen lẫn với giọng nam ngâm nga một câu hát nào đó.

Triệu Bạch Ngư bước qua khỏi một bình phong ngọc vẽ cảnh núi rừng, đập vào mắt là mấy cô gái vùng sông nước Giang Nam đang khảy nhạc cụ, ở giữa là một chiếc bàn gỗ tròn, trên bàn bày đầy của ngon vật lạ, cạnh bàn là một người đàn ông chừng ba mươi tuổi, gã đang nhắm mắt lại, rung đùi gật gù theo nhịp điệu của bài hát.

Gã sai vặt dẫn bọn họ vào xong thì đứng yên tại chỗ, không hề có ý tiến lại nhắc nhở.

Lưu đô giám thấy vậy thì vô cùng tức giận, đang định lên tiếng trách mắng, Triệu Bạch Ngư đã tiến lên một bước, đĩnh đạc ngồi đối diện người đàn ông đang thường đàn nhạc.

Gã sai vặt tựa như chết đứng lúc này tỉnh lại, định ngăn cản Triệu Bạch Ngư ngang ngược: "Ngươi —— " Lưu đô giám nhanh tay lẹ mắt bèn lôi kéo tay chân, bịt miệng gã lại.

Ca nữ bị giật mình đàn sai âm, người đàn ông lập tức lên tiếng: "Phạt bổng năm mươi. Lần tới còn đánh sai nữa, thì sẽ phạt đánh mười gậy."

Sắc mặt các ca nữ tái mét, vội chuyên tâm gảy đàn.

Người đàn ông mở mắt ra, quan sát Triệu Bạch Ngư mới vừa thẳng lưng ngồi xuống, tùy tiện chắp tay nói: "Phán quan Hồng Châu Giang Tây Ma Đắc Dung bất tài, dám hỏi đại nhân là?"

Triệu Bạch Ngư giơ ngón tay út lên ra dấu: "Mỗ họ Triệu, quan hạt mè, ở phủ Kinh đô này thì chỉ như một hòn đá nhỏ rơi vào trong bốn kênh thôi, đến âm thanh cũng không nghe được."

Ma Đắc Dung cảm thấy y thú vị: "Vì sao Triệu đại nhân lại lên thuyền của ta?" Ánh mắt gã liếc về phía gã sai vặt đang bị giữ lại, sắc mặt lạnh xuống: "Là đễn chỗ Ma mỗ ra oai phủ đầu ư?"

"Ma huynh nói gì thế?" Triệu Bạch Ngư ngạc nhiên quay đầu, thấy vậy thì mắng Lưu đô giám mau buông tay, ông ta hiểu ý nên cũng bày ra tư thế nhận sai.

Triệu Bạch Ngư vô cùng thành khẩn: "Cấp dưới không hiểu chuyện, cứ tưởng ngài giống như mấy tên tỉnh nghèo đâu ra tới làm thân ấy mà, nhưng làm sao có thể so sánh được chứ? Có điều ông ấy là người dưới tay ta, vả mặt ngài chính là ta vả, xúc phạm ngài chính là ta xúc phạm, ở đây ta kính ngài ba ly rượu, mong ngài đừng trách."

Ma Đắc Dung, phán quan một phương tưởng thật nhìn Triệu Bạch Ngư uống rượu nhận tội, chỉ là đến ly thứ ba thì vội vàng ra tay cản lại: "Ôi, người không biết vô tội, huống chi mọi người đều làm việc vì triều đình mà, vì chức trách, nào có mạo phạm hay không mạo phạm! Vậy đi, ta cũng mời lại ngài hai ly, vừa mới đến, đắc tội chỗ nào cũng mong được tha thứ."

Thế là gã uống ực hai ly rượu không so đo tính toán gì, coi như là bỏ qua chuyện này.

Ma Đắc Dung: "Rốt cuộc các ngươi là đến làm việc gì? Ở Nha môn nào?"

Triệu Bạch Ngư: "Ài, có thể đi loanh quanh bến tàu, trừ Nha môn Thủy vận thì còn có thể ở đâu được?"

Ma Đắc Dung ngồi thẳng người dậy: "Hả? Ngươi là?"

Triệu Bạch Ngư: "Đô giám Nha môn Thủy vận, quan nhỏ cửu phẩm, chỉ làm việc lặt vặt nên thu nhập chẳng béo bở gì, nghèo ơi là nghèo!"

Ma Đắc Dung: "Làm gì đến nỗi, thủy vận xưa nay béo bở sung túc, dù có chán nản đi nữa thì cũng đâu còn nơi nào chán hơn."

Triệu Bạch Ngư không biết xấu hổ đáp: "Tiền thì ta có thể kiếm được một ít nhờ thích chơi mấy trò cược, vui vui thì chơi hai cây, nhưng tiền tới tay còn chưa nóng thì đã phải tiêu hết rồi."

Ma Đắc Dung thích thú: "Biết chơi mấy thứ?"

Triệu Bạch Ngư: "Ngài cũng thích sao? Ngài chơi được cái gì?"

Ma Đắc Dung dương dương tự đắc: "Bài cửu, xúc xắc, quan quác, bài lá... Phàm là có liên quan đến đánh cược ta đều chơi được, không dám chắc vào cuộc là thắng, nhưng nói chung là thắng nhiều hơn thua."

Triệu Bạch Ngư: "Thử hai cây không?"

Ma Đắc Dung: "Ta thì không có ý kiến gì, nhưng mà trên người ngươi có đủ tiền hành nghề không đó?"

Triệu Bạch Ngư hừ một tiếng, lục lọi ống tay áo và thắt lưng, cuối cùng lục được một miếng bạch ngọc, cắn răng do dự một chút rồi đặt xuống mặt bàn: "Ngọc Nam Chiếu, trị giá ngàn lượng bạc trắng đấy, chúng ta cược mười cây, thế nào?"

"Được."

Ma Đắc Dung muốn lấy bạch ngọc lên xem, nhưng Triệu Bạch Ngư cứ cầm chặt không buông, vẻ mặt khó xử: "Đây là đồ gia truyền mà ông già để lại cho ta để cưới vợ đấy, nếu không phải hôm nay thấy Ma đại nhân ngài mang khí thế sâu bạc trên bàn cược đầy mình, còn là người đồng đạo với ta, ta nhất định sẽ không lấy nó ra đâu!"

Bình thường Ma Đắc Dung được bợ đỡ tâng bốc nhiều, tài nghệ a dua nịnh hót tầm thường thì hắn không coi trọng, nhưng những lời ra vẻ ta đây của Triệu Bạch Ngư hình như đã thành công lấy lòng gã rồi.

Gã lệnh cho gã sai vặt dọn hết thức ăn trên bàn đi, mang cốc và ba viên xúc xắc đến so lớn nhỏ.

Bảy ván thì Triệu Bạch Ngư thắng bốn ván đầu, y vui vẻ ra mặt, Ma Đắc Dung thấy vậy càng nghiêm túc hơn, cuối cùng thua năm ván, phải chung cho Triệu Bạch Ngư thắng cuộc sáu trăm lượng.

Triệu Bạch Ngư cầm lấy ngân phiếu cười không khép được miệng: "Xin lỗi, hôm nay ra cửa có xá thần tài nên mới may mắn như vậy, ngài xem bình thường ta thua sạch của cải, hóa ra là để hôm nay phát tài... Ma đại nhân thứ lỗi nhé, cái này —— để ta cất nó đi đã."

Ma Đắc Dung quan sát Triệu Bạch Ngư lần nữa: "Kỹ thuật không tệ, là do ta xem thường ngươi."

"May mắn thôi." Triệu Bạch Ngư chợt nghĩ ra gì đó, tán dóc với gã: "Nói thật là lúc lên thuyền, mấy lời ta tâng bốc ngài chỉ có ba phần thật lòng thôi, nhưng bây giờ thấy ngài thua sáu trăm lượng mà vung tiền không chớp mắt, quả thật kính nể ngài rồi! Ngài nói xem, phải là nam tử hán như thể nào mới có thể thua sáu trăm lượng vẫn ném tiền xuống nước chứ, không đau lòng chút nào sao?"

Ma Đắc Dung nghe vậy bật cười ha hả, nhưng giọng vẫn nhỏ xíu: "Thế mỗ làm vậy thì không thể coi là nam tử hán ư?"

Triệu Bạch Ngư quýnh quáng: "Sao mà không thể được? Ngài có biết anh hào hiệp khách trong thoại bản được miêu tả thế nào không? Tiêu tiền như nước, anh hùng trùm đời, hán tử trong hán tử, anh hùng trong anh hùng!" Y bật ngón cái lên: "Ngài chính là cái này!"

Ma Đắc Dung bị y chọc cho vui vẻ hết sức: "Ngươi cũng biết nói chuyện đấy."

Triệu Bạch Ngư: "Ma đại nhân ra tay rộng rãi như vậy, là nhờ gia sản tổ tiên để lại, hay là nhờ biết cách làm giàu vậy?"

Ma Đắc Dung giơ ngón trỏ lên không trung, gật đầu với Triệu Bạch Ngư: "Quả nhiên có tâm tư. Thôi, ngươi là người thông minh, ta sẽ nói cho ngươi vậy. Ta ấy à, không có cách làm giàu gì hết, chỉ đơn giản là nhờ đi theo quý nhân. Quý nhân mà vui vẻ, rót vài món đồ từ kẽ ngón tay thôi cũng đủ cho ta tiêu xài phung phí rồi."

Triệu Bạch Ngư: "Quý nhân của ngài là?"

Ma Đắc Dung muốn nói lại thôi, sau đó cười to: "Chẳng phải Tri phủ Hồng Châu đó sao? Chúng ta chơi ván nữa nào, một ván định thắng thua, ngươi đặt hết ngọc và ngân phiếu sáu trăm lượng ra. Nếu ngươi thắng, ta tăng thêm ba ngàn lượng cho ngươi, thế nào?"

Triệu Bạch Ngư lộ vẻ do dự, nhưng rốt cuộc là vẫn không từ chối được sự cám dỗ của sâu bạc.

"Vậy ta đánh thêm ván nữa, thêm ván nữa." Triệu Bạch Ngư hớp một ngụm rượu, đặt miếng ngọc và ngân phiếu xuống, đè miệng chén lại nói: "Ta lắc đây! Cược lớn hay nhỏ!"

Ma Đắc Dung tiếp lời: "Ta cược nhỏ."

Đã mua là xác định trắng tay, Triệu Bạch Ngư lắc loạn xạ, hai chữ lo lắng hiện rõ mồn một trên mặt, nuốt ực một ngụm nước bọt rồi mới hé miệng cốc ra xem.

Nhìn kỹ lại, hai ba sáu nhỏ!

Triệu Bạch Ngư lập tức ỉu xìu ngồi xuống ghế, dáng vẻ giống hệt như chó bại sạch gia tài, Ma Đắc Dung gặp nhiều rồi nên không lạ gì.

"Triệu huynh, vậy ta nhận hết nhé?" Nói xong, Ma Đắc Dung lấy ngọc bội và ngân phiếu lại, gã vẫn khẽ ngâm nga khúc hát Giang Nam, mở miệng tiễn khách: "Thế là hết việc rồi chứ? Mời ngài xuống thuyền."

Triệu Bạch Ngư hồn bay phách lạc leo lên thuyền nhỏ, thuyền rời khỏi sông Kim Thủy, vừa nhảy lên bờ đã lập tức bơm đầy tinh thần.

Lưu đô giám nhìn thấy mà trợn mắt há mồm: "Đại nhân, ngài không sao chứ?"

"Hử?" Triệu Bạch Ngư: "Tất nhiên là ta không sao rồi."

Lưu đô giám: "Nhưng lúc nãy ngài thua bạch ngọc trị giá ngàn lượng đấy."

Triệu Bạch Ngư: "Đồ chợ ấy mà. Sáng nay ta mua ở sạp hàng đầu cầu đó, có mười lạng bạc thôi."

"..." Lưu đô giám không hiểu: "Vậy sao ngài lại cố tình nói thế?"

Triệu Bạch Ngư: "Ngươi cảm thấy Ma Đắc Dung là người thế nào?"

Lưu đô giám khó hiểu đáp: "Phán quan Nha môn Hồng Châu, đúng là giống kẻ dựa vào quý nhân mà sống, cũng biết cách kiếm tiền, có lẽ gã ta là một tên chúa đất địa phương."

Triệu Bạch Ngư: "Gã là hoạn quan."

Lưu đô giám khiếp sợ: "Ta thấy gã cao to, còn có ít râu nữa, không khác mấy đàn ông bình thường."

"Giọng nói gã nhỏ nhẹ, lưng khom theo thói quen, trong khoang thuyền có ca nữ nhưng không động vào ai, khỏi cần phải nhắc đến những động tác nhỏ, nếu như thường xuyên qua lại với thái giám là nhìn ra được ngay."

Lưu đô giám vừa ngạc nhiên vừa sinh nghi: "Vì sao ở Hồng Châu lại có thái giám? Mà thái giám sao có thể làm Phán quan Nha môn?"

Đương nhiên là lão không nghĩ đến chuyện tội này nằm trên người Xương Bình công chúa.

Xương Bình công chúa bị cách chức nến Hồng Châu đã hai mươi năm, dường như không có một chút tin tức nào, lặng lẽ như thể chưa từng có một người như vậy, nhưng năm nay sinh nhật của Thái hậu được tổ chức lớn ả lại khổ tâm bỏ phí chuyển đá Anh Đức từ tận Quảng Đông vào kinh.

Điểm mấu chốt chính là người ở Hồng Châu Giang Tây xa xôi, lại có thể lệnh cho người vận chuyển số đá này một đường đến phủ kinh đô chứng tỏ đã hao tốn không ít sức người, sức của và tiền bạc.

Trong truyện gốc, Xương Bình trưởng công chúa và Triệu Bạch Ngư là hai đường thẳng song song, về sau người này xuất hiện với thân phận con cờ ẩn của Nguyên Thú đế ở Lưỡng Giang, sau khi về kinh thì hộ giá hộ tống Triệu Ngọc Tranh.

Triệu Bạch Ngư không rõ quyền thế của Xương Bình công chúa ở Giang Tây thế nào, nhưng hôm nay đã thấy được một hai qua việc đối phương vận chuyển đá Anh Đức.

***

Gã sai vặt rót đầy rượu cho Ma Đắc Dung: "Đại nhân, có phải tên quan nhỏ họ Triệu này đến để thăm dò không?"

Ma Đắc Dung: "Y chỉ là một con chó cờ bạc muốn moi tiền trên người ta thôi."

"Không thể nào? Ai mà lại dám nhúng tay vào chuyện của ngài chứ?" Gã sai vặt hỏi: "Sao đại nhân nhìn ra được?"

Ma Đắc Dung phì cười: "Câu trước y nói đây là ngọc Nam Chiếu, câu sau lại nói là bảo vật mà thằng cha ma quỷ của y truyền lại, trước sau không khớp, đúng là láo toét. Nhìn biết là kẻ ở trên bàn cược chuyện quái gì cũng có thể nói ra được."

Gã sai vặt hơi sững sốt: "Còn ngọc kia thì sao?"

Ma Đắc Dung: "Đồ chợ thôi."

***

Trước khi mặt trời lặn, hai chiếc thuyền hàng vận chuyển đá Anh Đức chỉ có một chiếc cập bến, thuận lợi dỡ hàng. Màn đêm dần buông xuống, sắc trời thay đổi như mưa to gió dữ sắp ập tới, thuyền hàng vẫn còn ở giữa sông nóng lòng vào bờ, nhưng những ngày gần đây có quá nhiều tàu thuyền ngoài tỉnh dồn dập vào kinh, làm cho bến thuyền bị tắc nghẽn.

Chính giữa có hai chiếc thuyền đến từ Lưỡng Chiết, bởi vì là thuyền vận chuyển quan lương, sợ nhất là mưa xuống làm ướt hàng, bèn thổi còi gọi những thuyền khác nhanh chóng nhường đường.

Từ xưa đến nay lương thảo quan trọng bậc nhất, những tàu khác nghe còi nên vội vàng chừa đường đi.

Giám quan phụ trách áp tải quan lương lớn giọng hô hào: "Đừng thu buồm! Tăng tốc đi! Xoay bánh lái —— " Bóng đêm và màn mưa mờ mịt đồng thời ảnh hưởng tầm mắt, gã mơ hồ nhìn thấy đường nét của một chiếc thuyền hàng, vì quá ngạc nhiên cho nên lập tức bảo người thổi còi lên, lao đến mũi thuyền điên cuồng hét lên: "Nhường đường! Nhường đường đi! Quan lương đến rồi, phia trước nhường đường đi —— "

Nhưng người trên thuyền hàng trước đầu tàu có tai như điếc, cố tình ngăn cản trước mặt thuyền chở quan lương như muốn cướp đường đến bến thuyền đầu tiên, kết quả bởi vì hướng gió thay đổi, cộng thêm thuyền quan lương nóng lòng cần đường đi nên không thu buồm, dù có xoay bánh lái hay đi chậm lại cũng đều không kịp nữa rồi.

Đội ngũ hai bên đều vô cùng sợ hãi, hai thuyền va chạm cực mạnh.

Tiếng "ầm" vang lên rất lớn, thuyền chở quan lương bị tông vỡ làm đôi, còn chiếc thuyền chở đá Anh Đức thì ngay lập tức lật úp xuống nước.

***

Mưa xối như thác đổ, sai dịch mặc áo tơi lồm cồm bò vào bên trong dịch trạm, đẩy gã sai vặt đang ngăn cản gã ra: "Mau cho người bẩm báo với Ma phán quan đi, thuyền hàng chở cống phẩm lật rồi! Còn đụng vỡ một chiếc thuyền chở quan lương nữa, có sáu người chết, giám quan trên thuyền quan lương kia cũng chết tại chỗ rồi!"

Gã sai vặt kinh hãi, mau chóng xông vào trong lôi Ma Đắc Dung đánh cược đến mù quáng ra, bẩm báo việc này lên.

Đầu óc bị rượu chè và bài bạc kích thích quá độ của Ma Đắc Dung choáng váng trong tích tắc, gã chợt giật mình một cái, sắc mặt thoáng trở nên kinh khủng: "Ngươi nói gì?!"

Lời còn chưa dứt, bộ Hình đã đuổi tới nơi bắt người.

Hình bộ Thị lang dẫn binh lính vây quanh dịch trạm, liếc nhìn căn phòng hỗn loạn, cười lạnh một tiếng: "Đưa đi!"

Chương 60

AĐiện Văn Đức.

Nguyên Thú đế vùi đầu xử lý chính sự, bên dưới điện là Triệu tế chấp và Đông cung Thái tử.

Lật xong sổ gấp đến từ Định Châu, Nguyên Thú đế gấp sổ lại, thần sắc khẽ động, nói: "Lão nhị, con tới xem thử sổ con này đi."

Thái tử ở gần, lên cầm sổ gấp đọc nhanh như gió.

Nguyên Thú đế: "Tiểu lục nói nó săn được một con chim ưng thuần trắng móng ngọc, nhớ ngày đó trẫm từng nắm tay dạy nó săn ưng, thuần ưng, nên cho người ra roi thúc ngựa đưa chim ưng về kinh. Đưa cả đá Thái Sơn mang điềm lành và bạch nam khách về —— chim công là động vật ở phương nam, tên cổ là nam khách, trẫm rất tò mò vì sao tiểu lục ở phương bắc lại có thể bắt được một con công trắng."

Bạch nam khách là chim công trắng, trong Phật giáo, khổng tước minh vương được tôn làm Phật mẫu, đây có lẽ sẽ là món quà ý nghĩa nhất trong số những món được đưa đến đại thọ của Thái hậu.

"Tâm tư của lục đệ khéo léo, không giới hạn kiểu cách, thích kết giao bạn bè không quan trọng xuất thân, vậy nên có bạn bè trong giang hồ giúp đệ ấy tìm ra chim công trắng cũng không phải chuyện gì hiếm lạ." Thái tử cân nhắc tìm từ rồi nói: "Nhắc đến Lục đệ, đệ ấy đến Định Châu nhập ngũ cũng năm sáu năm rồi, tuy nói con em Hoắc thị chúng ta trấn thủ biên giới, bảo vệ quốc gia là nền móng không thể quên, cũng là chức trách của mỗi người, nhưng lúc đệ ấy mới mười bốn mười lăm tuổi đã tách khỏi phụ hoàng, tách khỏi hoàng tổ mẫu, rời kinh đô và người thân quen, đến nay chưa từng hồi kinh, cũng không biết bây giờ đệ ấy thế nào. Lính thú trông ra biên ải xa, lòng buồn mặt khổ nhớ quê nhà, tất nhiên là lục đệ cũng rất nhớ nhà, rất nhớ phụ hoàng, hoàng tổ mẫu và quý phi nương nương."

(*) Nguyên văn: 戍客望边邑, 思归多苦颜 - bài thơ Quan sơn nguyệt của Lý Bạch, phiên âm: Thú khách vọng biên ấp, tư quy đa khổ nhan; Dịch nghĩa Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa, lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ.

Nguyên Thú đế: "Tiểu lục rời kinh được một thời gian dài rồi nhỉ, quả thực đã rất lâu không về nhà."

Thái tử: "Đại thọ hoàng tổ mẫu là chuyện vui khắp chốn ăn mừng, sao phụ hoàng không nhân cơ hội này truyền lục đệ hồi kinh, để cha con chúng ta đoàn tụ, cũng có thể làm cho hoàng tổ mẫu vui vẻ. Nhi thần nhớ hoàng tổ mẫu rất thích tiểu lục, người thường khen tiểu lục hiếu thuận, cũng hay nhắc đã lâu không gặp đệ ấy."

"Con cũng có hiếu tâm." Dù là thật hay giả, dù cẩn thận giấu giếm lòng mình, thì nhìn thấy con cái hiểu thuận, anh em vui vẻ là Nguyên Thú đế đã hài lòng rồi. Ông suy nghĩ một chút, than thở: "Thái hậu đúng là nhớ tiểu lục lắm rồi, quý phi ngoài miệng không nói, nhưng trong lòng cũng nhớ. Thôi vậy, bảo nó tự hộ tống cống phẩm hồi kinh đi. Dặn là phải về trước sinh nhật của Thái hậu, nếu như lỡ mất ngày đấy thì không cần về nữa, cứ ở lại Định Châu của nó luôn đi."

Trong lòng Thái tử run rẩy, câu này suýt chút nữa là đụng ngã tâm tư của hắn, cũng may hắn tỉnh táo, vì việc chặn đường lục đệ không hẳn sẽ thành công. Lục đệ bỏ lỡ sinh nhật của Thái hậu chắc chắn chọc giận Nguyên Thú đế, nhưng có lẽ ông sẽ không truy cứu thật.

"Lục đệ biết mình có thể hồi kinh nhất định sẽ rất vui, anh em chúng con cũng có thể tụ họp một chút."

Nguyên Thú để tỏ ra dễ chịu, môi câu nụ cười, tầm mắt khẽ hướng xuống, nhìn thấy một xấp tấu chương mà Triệu tế chấp đưa tới hôm nay, đều là do các nơi ở tỉnh ngoài đưa vào kinh, ông cứ cho rằng đó là chúc thọ nên không để ý lắm, tiện tay cầm một quyển mở ra xem, lông mày vô thức nhíu lại.

Thái tử quan sát kĩ biểu cảm của Nguyên Thú đế, tất nhiên cũng phát hiện ra thay đổi nhỏ xíu này, không khỏi nhìn về phía tấu chương, chỉ tiếc hắn đứng ở vị trí khó mà nhìn rõ những gì viết trong sổ con, chỉ đành lặng lẽ đưa mắt nhìn Triệu tế chấp.

Triệu Bá Ung thấp mi rũ mắt, mặt không cảm xúc, không đoán ra được ông ta đang nghĩ gì.

Lúc này Nguyên Thú đế đã cầm bản sớ thứ hai lên, liếc xem hai ba lần rồi ném về, sau đó xem liên tục năm sáu quyển sổ con khác, chợt vỗ lên tấu chương một phát, trên mặt lộ ra vẻ tức giận.

Thái tử vội cúi đầu lui về sau hai bước, đáy mắt liếc thấy thái độ vẫn còn bình tĩnh ung dung của Triệu tế chấp, không khỏi cảm thán mấy lão thần này đúng là giỏi bất động khi đối mặt với nguy hiểm.

"Sổ con hôm nay đều đến từ phía nam sao?"

Triệu Bá Ung đáp: "Đến từ Lưỡng Giang, Phúc Kiến và bốn tỉnh Quảng Đông, tổng cộng một trăm tám mươi sổ con."

Nguyên Thú đế: "Ngươi đã xem qua những sổ con này, đều biết bọn họ biểu tấu cái gì rồi chứ?"

Triệu Bá Ung: "Bốn tỉnh ba mươi tám phủ và Môn hạ tỉnh Chương thị trung Chương Duyệt Linh, cộng với một trăm tám mươi người liên danh biểu tấu bảo vệ Phán quan Hồng Châu Giang Tây Ma Đắc Dung. Tội của Ma Đắc Dung là trên đường áp tải cống phẩm đá Anh Đức, gặp phải thuyền chở quan lương không chịu nhường đường, dẫn đến việc thuyền bị lật, quan lương và cống phẩm đều bị chìm xuống sông, làm chết mười người."

Thái tử nghe vậy thì kinh hãi, cống phẩm gặp chuyện bất trắc xưa nay phải hỏi tội Giám quan thất trách, nhẹ thì mất chức, nặng thì đầu rơi, đá Anh Đức cát tường tuy không phải là thứ Thái hậu yêu thích, nhưng đó là quà mừng mà Xương Bình trưởng công chúa mượn danh nghĩa Tri phủ Hồng Châu đưa vào kinh, là vật thay thế cho tấm lòng của cô con gái ruột hai mươi năm không gặp mặt, mang ý nghĩa rất đặc biệt đối với Thái hậu.

Chuyện đá Anh Đức bị chìm được truyền vào cung, Thái hậu đau lòng buồn bã, Nguyên Thú đế nổi trận lôi đình, lệnh cho người bắt Giám quan Ma Đắc Dung lại, đem nhốt vào thiên lao, nhìn ý là xử tội nặng, tuyệt đối không nhân nhượng.

Huống chi đối phương còn mắc phải tội làm hỏng quan lương, có lẽ sẽ bị tử hình.

Nhưng hắn không ngờ cái tên Ma Đắc Dung này lại còn có thể tìm được đường sống trong cõi chết, hơn một trăm quan viên từ bốn tỉnh phương nam liên danh lên tấu bảo vệ gã, mà người dẫn đầu chính là người xứng danh phó tể tướng Chương thị trung, chẳng lẽ tiểu quan thất phẩm Ma Đắc Dung này là một thanh quan lương lại đáng quý đến vậy?

Nhưng chỉ là phán quan một phủ, phải là nhân tài chưa xuất đầu lộ diện kiểu gì mới khiến một trăm tám mươi quan viên cùng bảo tấu chứ?

Nguyên Thú đế giơ tay lên: "Thái tử, con lui xuống đi."

Thái tử cung kính: "Nhi thần cáo lui."

Thái tử lui ra khỏi điện Văn Đức, không có cách nào thám thính cuộc đối thoại bên trong, hắn nghĩ trong chuyện này có vẻ như còn nhiều ẩn ý, thế là bèn vội vàng tìm môn khách Đông cung đến bàn bạc.

Trong điện Văn Đức, người biết chuyện chỉ có ba người gồm Nguyên Thú đế, Triệu Bá Ung và đại thái giám, Nguyên Thú đế chầm chậm xoay nhẫn ban chỉ, ánh mắt gay gắt vẫn luôn hướng về phía Triệu Bá Ung đang đứng phía dưới, mặt không biến sắc nhưng có thể khiến cho người ta nhìn ra được trong lòng lão đang mưu tính, chỉ là không thể đoán được nội dung mưu kế đó là gì.

Trong điện yên tĩnh đến nỗi chỉ nghe được tiếng hít thở, đại thái giám cúi đầu thấp nhất có thể, bị không khí căng thẳng ép mồ hôi lạnh chảy ròng ròng khắp người, ông ta lặng lẽ quan sát Triệu Bá Ung, phát hiện vị tế chấp này vô cùng thờ ơ, dường như không nhạy bén nhận ra Nguyên Thú đế đang không vui.

Một lúc lâu sau, Nguyên Thú đế mới lên tiếng: "Thừa Giới, ngươi nói xem có nên tha cho Ma Đắc Dung hay không?"

Triệu Bá Ung: "Hồi bệ hạ, Ma Đắc Dung không làm tròn bổn phận, tội đáng muôn chết. Nhưng nếu như không phải hiền thần lương lại, làm sao có thể xuất hiện một trăm tám mươi bảo tấu của quan viên bốn tỉnh ba mươi tám phủ? Một trăm tám mươi viên quan này không phải cùng một nhóm tiến sĩ, không phải là đồng liêu, không phải bộ hạ cũ cũng chẳng có cùng thầy dạy, nghĩ lại cũng chẳng phải bè đảng gì. Dù cho có là bè đảng đi nữa, thì ai sẽ vì một tên quan thất phẩm địa phương mà liên danh bảo tấu chỉ để đổi lại nghi ngờ kết bè kết phái của bệ hạ chứ?"

Nguyên Thú đế: "Ý ngươi là muốn tha cho Ma Đắc Dung? Không nhường đường theo luật còn gây ảnh hưởng đến quan lương là tội phải cách chức lưu đày, huống chi phần cống phẩm mà hắn phụ trách cũng vì hắn mà bị chìm, vừa là điềm báo chẳng may, lại khiến cho Thái hậu thất vọng đau lòng, trẫm không chém đầu hắn đã là khai ân rồi, còn muốn tha ư? Đúng là nằm mơ!"

Triệu Bá Ung: "Nếu như Ma Đắc Dung mất bò mới lo làm chuồng, lấy công chuộc tội, trái lại là có thể tha cho."

Nguyên Thú đế: "Mất bò mới lo làm chuồng? Vậy chẳng lẽ phải lệnh cho người đi mò hai trăm thạch lương thực và đá Anh Đức vận chuyển từ Quảng Đông bị chìm xuống sông kia sao?"

Triệu Bá Ung: "Tri phủ Hồng Châu gửi tin tới, nói là Ma Đắc Dung đã giải tán hết gia sản tổ tiên, phân cho Quảng Đông để vận chuyển một lượng đá Anh Đức thượng đẳng tới lần nữa, còn nữa, hắn đã ra giá cao để mua lại hơn hai triệu thạch lương thực từ thương nhân Lưỡng Chiết, trước mắt đã đến phủ kinh đô, đều đang ở ngoài thành, chuẩn bị qua cửa cống."

"Hửm?" Nguyên Thú đế hứng thú, nghiêng người hỏi: "Hắn còn có bản lĩnh này sao? Vận chuyển cả đoạn đường đó, người vật tiền đều sẽ hao phí không ít. Tiêu hết cả gia tài... Ồ, gia sản tổ tiên không tệ nhỉ."

Triệu Bá Ung: "Giang Nam giàu có sung túc, nền móng dày dặn, là chuyện bình thường."

Nguyên Thú đế: "Cũng làm đến nước này rồi, trẫm không thể không khai ân."

Triệu Bá Ung quỳ xuống: "Bệ hạ thánh minh."

Nguyên Thú đế: "Thôi, dù sao cũng là sinh nhật của Thái hậu, không thích hợp thấy máu, nếu như đã đại xá thiên hạ thì cứ để cho Ma Đắc Dung nhận mấy phần ân điển. Nếu như có thể làm cho Thái hậu vui vẻ, trẫm không chỉ không phạt hắn mà còn phải thưởng cho hắn nữa."

Triệu Bá Ung lại nói: "Bệ hạ nhân từ!"

Nguyên Thú đế: "Tấu chương hôm nay cũng đã đưa đến rồi, ngươi lui đi làm việc đi."

Triệu Bá Ung: "Thần cáo lui."

Từng bước lui về sau, lúc đến cửa điện gặp được Khang vương vừa tới, hai bên chào hỏi lẫn nhau xong thì kẻ ra người vào.

Khang vương đi mấy bước, bỗng nhiên quay đầu nhìn Triệu Bá Ung dần đi xa, suy đi ngẫm lại một hồi mới bước đến bên cạnh Nguyên Thú đế: "Hoàng huynh, lễ thọ của các nơi đã đưa vào cung cất giữ tại điện Từ Minh. Thần đệ vẫn còn đang thu thập vài trò ca hát tạp kỹ trong dân gian, rất thú vị, không ít đạt quan quý nhân trong phủ đều mời vào phủ mình biểu diễn, nghe nói gần đây bọn họ sửa soạn bài Bát Tiên chúc thọ nhưng còn chưa bắt đầu diễn. Thần đệ đã tự chủ trương mời bọn họ đến diễn vào ngày sinh nhật Thái hậu."

Nguyên Thú đế: "Đệ có lòng rồi."

Dường như Khang vương thấy lòng Nguyên Thú đế không an, bất giác cảm thấy kì lạ, vị hoàng huynh này của ông là người hiếu thuận nhất, năm ngoái vì không thể tổ chức sinh nhật lớn cho Thái hậu nên luôn canh cánh trong lòng, đến năm nay tự thân lo liệu mọi chuyện, sao lúc này lại tỏ ra không quan tâm chứ?

"Hoàng huynh có tâm sự sao? Là vì có liên quan đến Triệu tế chấp ư?"

Nguyên Thú đế gõ bàn: "Đệ lên đây xem những tấu chương này đi."

Khang vương biết lắng nghe, xem kĩ ba bản tấu chương cảm giác không đúng lắm, vội vàng xem qua thêm sáu bảy bản nữa, trong lòng rất khiếp sợ: "Đều là cầu tha thứ giúp cho Ma Đắc Dung? Ma Đắc Dung này là kẻ nào mà lại có bản lĩnh lớn như vậy, có thể chỉ trong mười ngày đã vận động được một lượng đá Anh Đức nữa từ Quảng Đông, lại còn mua đến tận hai triệu thạch lương thực từ lương thương Lưỡng Chiết nữa chứ!"

Nguyên Thú đế: "Trẫm để ý trong danh sách bảo tấu này, một trăm tám mươi người có đủ từ Lưỡng Chiết, Phúc Kiến đến bốn tỉnh Quảng Đông."

Khang vương: "Là bè đảng sao? Nhưng hắn chỉ là một Phán quan thất phẩm thôi, sao có thể khiến cho nhiều người bảo tấu cho hắn như vậy? Dù có là cấp trên của hắn, Tri phủ Hồng Châu Quản Văn Tân, đệ cũng không tin là có nhiều người đứng ra bảo tấu như vậy."

Nguyên Thú đế: "Biết đá Anh Đức từ Quảng Đông tiến cống đến là dưới danh nghĩa của ai không?"

"Mượn danh Quản Văn Tân, thực ra là hiếu tâm của Xương Bình công chúa —— " Khang vương cả kinh, ngạc nhiên nhìn ánh mắt tối sầm của Nguyên Thú đế: "Là Xương Bình?"

Nguyên Thú đế không đáp, nghĩa là ngầm thừa nhận.

Khang vương vẫn thấy lạ: "Quản Văn Tân và Ma Đắc Dung đều là người của Xương Bình? Chỉ vì một Ma Đắc Dung mà để lộ con át chủ bài của mình ư, trưởng công chúa không ngu ngốc đến vậy đâu."

Nguyên Thú đế: "Hẳn là đang ra oai với ta. Người ở Giang Tây mà lại có thể đưa đá Anh Đức từ Quảng Đông tới, nhân dịp đại thọ Thái hậu, ngoài mặt tiến cống lễ thọ nhưng thật ra là muốn mượn danh Quản Văn Tân để bán thảm với Thái hậu hơn. Đá Anh Đức bị chìm là chuyện bất ngờ, nhưng đối với Xương Bình mà nói không chừng là cơ hội tốt, còn đối với Thái hậu đó là táng gia bại sản, người mà Thái hậu hao tâm lo nghĩ cho không phải là Ma Đắc Dung, mà là Xương Bình."

Khang vương cẩn thận hỏi: "Trưởng công chúa hành động như vậy là có ý gì?"

Nguyên Thú đế gằn ra hai chữ: "Hồi kinh."

Khang vương lập tức phản ứng: "Triệu tế chấp sẽ không đồng ý."

Nguyên Thú đế: "Cho nên từ sáng sớm lão ta đã tự mình đưa tấu chương kia đến cho trẫm, từng câu từng chữ chối bỏ trách nhiệm giúp Ma Đắc Dung, nhưng thật ra nhắc nhở ta, đây đều là kiệt tác của Xương Bình! Lão ta còn ghi hận, phàm là tìm được cơ hội, chắc chắn sẽ cắn chết Xương Bình."

Khang vương: "Nhưng trưởng công chúa ra chiêu này, chỉ sợ Thái hậu thương con gái mà nóng lòng."

Nguyên Thú đế: "Đệ vẫn chưa hiểu điểm chính ở đâu."

Khang vương: "Hả?"

Nguyên Thú đế thở dài nặng nề: "Trẫm thật sự không muốn ầm ĩ ngươi chết ta sống với em gái ruột của mình, càng không hy vọng Thái hậu thêm đau lòng. Chỉ mong... Chỉ mong sẽ không xuất hiện thêm bất cứ trắc trở nào nữa."

Khang vương không hiểu rõ nỗi phiền muộn của Nguyên Thú đế lắm, chỉ cho rằng ông đang lo lắng Thái hậu sốt ruột vì cô con gái kia, đến lúc đó không cách nào cân bằng quan hệ của Xương Bình trưởng công chúa và Triệu phủ được nữa.

***

Cuối tháng chín, sinh nhật Thái hậu, mọi việc đều ổn thỏa, trăm quan đến chúc phúc.

Trước điện Từ Minh là một sân đầy cúc vàng, cung nhân qua lại liên tục, vũ đài được dựng sẵn, gánh hát đã xuất hiện trên đài biểu diễn, phía dưới có mệnh phụ và trăm quan ngồi xem.

Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư cũng ở trong số đó, thỉnh thoảng lặng lẽ rỉ tai nhau đôi ba câu.

Lúc Thái hậu đi vào, tất cả mọi người đều quỳ xuống chúc mừng đại thọ của Thái hậu. Thái hậu cười ha hả lệnh cho mọi người đứng dậy, không cần đa lễ, vì vậy bữa tiệc mừng thọ cũng trở nên thoải mái hơn một chút.

Lúc này có một nhóm người nối đuôi nhau vào, đi đầu là một thanh niên tư thế oai hùng rạng rỡ, phía sau là một đám thái giám đẩy chiếc xe ba gác theo sau, trên xe có một cái lồng cao bằng đầu người, trong lồng nhốt một con công trắng đẹp như hư ảo.

Triệu Bạch Ngư: "Nghe nói lục hoàng tử từ Định Châu mang điềm lành hồi kinh chúc thọ Thái hậu từ sớm, chắc đó là hắn rồi."

Tiếng y vừa dứt, thanh niên oai hùng đã nghiêm túc quỳ xuống trước mặt Thái hâu hành đại lễ: "Tôn nhi ra mắt hoàng tổ mẫu, chúc hoàng tổ mẫu phúc như Đông hải, thọ tỷ Nam sơn."

Hắn khấu đầu chín cái xong mới bái kiến Nguyên Thú đế, lễ nghi đầy đủ đến mức không ai bắt lỗi được.

Con cháu đều đã ở bên người, hôm nay Thái hậu vui vẻ đến nỗi cười không khép miệng được, quay đầu hỏi Nguyên Thú đế: "Nghe nói kỳ thạch từ Giang Tây gửi tới đã đưa vào cung rồi?"

Nguyên Thú đế thừa biết bà sẽ hỏi, liền cung kính trả lời: "Đang ở trong vườn hoa nhỏ của điện Từ Minh, bố trí thành một hòn non bộ. Nếu ngài muốn xem, con đưa ngài sang đó."

Thái hậu: "Vậy đến xem thử đi."

Triệu Bạch Ngư ở khá xa, không nghe thấy rõ đoạn đối thoại của bọn họ, chỉ có thể đưa mắt nhìn họ rời đi.

Hoắc Kinh Đường hỏi y: "Muốn đi xem không?"

Triệu Bạch Ngư: "Trái phải đều là chuyện nhà của bọn họ, ta không có hứng thú." Đang nói, ánh mắt sắc bén thoáng thấy đại thái giám bên cạnh Nguyên Thú đế đang rẽ vào từ cửa viện phía trước, đi về hướng vườn hoa điện Từ Minh, Ma Đắc Dung đang đi theo sau lưng lão.

"Sao lại là hắn?"

Hoắc Kinh Đường: "Hửm?"

Triệu Bạch Ngư: "Là Ma Đắc Dung."

Hoắc Kinh Đường nghĩ ngợi một lúc: "Ma Đắc Dung, thuyền chở đá Anh Đức bị lật, kéo luôn cống phẩm và quan lương chìm xuống sông? Không phải hắn đang ở đại lao bộ Hình chờ chịu phạt sao?"

"Chuyện xảy ra trong vòng mười ngày, hắn bán gia sản lấy tiền vận chuyển đá Anh Đức và hơn hai triệu thạch quan lương đền bù cho triều đình." Triệu Bạch Ngư cau mày: "Theo lý mà nói, với phẩm cấp của hắn còn chẳng đủ tư cách tham gia thọ yến, huống chi lần này chỉ là lấy công chuộc tội, không thể nào mà triệu vào cung được."

Nếu có thể được triệu vào cung vào ngày thọ yến diễn ra, trăm phần trăm là chuẩn bị khen thưởng.

Hoắc Kinh Đương ngẫm lại: "Ma Đắc Dung là người của Xương Bình công chúa chăng?"

Triệu Bạch Ngư hít một hơi: "Nửa năm nay cái người luôn ở thao trường đánh đấm là chàng phải không đó? Ta không nói gì hết, sao chàng biết được?"

Hoắc Kinh Đường: "Bí mật quan trường kiểu gì cũng bị gió lùa ra, vốn là không nhiều người biết, nhưng mười ngày nửa tháng trước vụ chìm thuyền nổ ra, ít nhất là chuyện Xương Bình công chúa mượn danh nghĩa của Quản Văn Tân tiến cống đá Anh Đức, có không muốn biết cũng bị ép biết. Nhưng lý do có thể khiến cho Thái hậu mất bình tĩnh, không màng hiềm khích năm xưa triệu kiến Ma Đắc Dung, chỉ có Xương Bình công chúa thôi."

Triệu Bạch Ngư: "Chàng nghĩ Xương Bình công chúa dựng nên vở kịch này là vì cái gì?"

"Trừ cúi đầu lấy lòng muốn được hồi kinh thì còn có thể là gì?" Hoắc Kinh Đường dùng một tay chống cằm, nhìn y chằm chằm: "Tiểu lang quan tâm đến thế, trong lòng đang phiền muộn sao?"

Triệu Bạch Ngư cười khẽ, lắc đầu một cái: "Ta và công chúa cũng chẳng có tình mẹ con gì."

Hoắc Kinh Đường xoa đầu Triệu Bạch Ngư một cái, bàn tay trượt dần ra sau gáy khẽ vuốt ve, âm thầm an ủi y: "Tất nhiên là Thái hậu rất mong công chúa được hồi kinh, dù gì cũng còn tình cảm mẹ con, chỉ tiếc quan hệ giữa Triệu phủ và công chúa khó mà giảng hòa. Chỉ cần bệ hạ còn chú ý đến mặt mũi nhà họ Triệu thì sẽ không có chuyện Thái hậu không thức thời mà triệu Xương Bình công chúa về."

Trong lòng Thái hậu, sức nặng của Hoàng đế rất lớn, đại cuộc càng nặng hơn.

"Có điều việc gửi đá Anh Đức chỉ là quá trình làm tan băng, từ từ toan tính, cùng lắm là hai ba năm nữa thôi, hạ một chính lệnh đại xá thiên hạ là có thể nghênh đón người về rồi."

Triệu Bá Ung phải bị ép thành cái dạng gì mới có thể đồng ý để Xương Bình công chúa trở lại? Triệu Bạch Ngư không nghĩ ra nguyên nhân, cũng lười nghĩ thêm nữa bèn ném hết mọi thứ ra sau đầu.

Đến khi sinh nhật kết thúc, trăm quan xuất cung, đại thái giám bên người Nguyên Thú đế cũng vừa kịp lúc đến tiễn Hoắc Kinh Đường và Triệu Bạch Ngư rời khỏi điện Từ Minh.

Hoắc Kinh Đường đi thẳng vào vấn đề: "Thái hậu triệu kiến Ma Đắc Dung à, đã thưởng cho hắn cái gì?"

Đại thái giám cười xòa: "Cũng không có gì, chỉ có một lâm viên ở Giang Nam, ngàn khoảnh ruộng tốt, ngoài ra còn có một ít vàng bạc châu báu, bệ hạ thì cất nhắc hắn lên làm Thông phán Hồng Châu."

Vàng bạc châu báu là Thái hậu ban thưởng, e là Thái hậu mượn Ma Đắc Dung thưởng cho công chúa, trái lại không ngờ Nguyên Thú đế thẳng thừng trạc hắn làm Thông phán. Dù cho Ma Đắc Dung có là hoạn quan hay vốn là Phán quan thất phẩm đi chăng nữa, thì hắn cũng không đủ tư cách đảm nhiệm chức Thông phán, phải biết triều đình có lệnh, trải qua ba lần đảm nhiệm Thông phán là sẽ được thăng làm Tri phủ.

Tri phủ một châu, đại quan ngũ phẩm, biết bao nhiêu tiến sĩ cả đời cũng kiếm không ra cái chức quan này.

Chẳng lẽ Nguyên Thú đế biết Ma Đắc Dung là người của Xương Bình công chúa, để trấn an Thái hậu, cũng để Xương Bình công chúa ở Hồng Châu có người săn sóc cho nên mới đặc biệt đề bạt Ma Đắc Dung?

Hoặc cũng có thể là Xương Bình công chúa giúp ông quản thúc Lưỡng Giang đang gặp phiền toái, mới trạc Ma Đắc Dung lên chức để giúp bà ta?

Triệu Bạch Ngư gãi mũi, không phát biểu thắc mắc của mình.

Đại thái giám đưa hai vị Phật ra khỏi điện Từ Minh xong liền co chân chạy nhanh như ngựa, còn lại hai người đi trên đường rời cung, đi một lúc thì gặp được đoàn người của lục hoàng tử. Trong số đó còn có Trịnh Sở Chi, sau khi trải qua đại án Hoài Nam, Trịnh Sở Chi đã tự hạ thấp mình đi rất nhiều, ít ra lúc gặp Triệu Bạch Ngư lão ta còn biết tỏ ra khiêm nhường.

Lục hoàng tử chủ động tiến lên phía trước, khuôn mặt tuấn tú treo thêm nụ cười không khiến người ta ghét bỏ chút nào: "Tiểu lục ra mắt đường ca, ra mắt đường tẩu." Ánh mắt hắn quét nhanh qua mặt Triệu Bạch Ngư rồi sau đó nhìn Hoắc Kinh Đường, vô cùng thẳng thắn, thậm chí thoải mái hơn lúc ở với Đông cung nhiều.

(*) Đường ca, đường tẩu là anh họ, chị dâu họ.

Hoắc Kinh Đường gật đầu: "Bây giờ về phủ sao?"

Lục hoàng tử: "Nhị ca và Ngũ ca hẹn đệ đến Đông cung tụ họp, đường ca đường tẩu có muốn đi cùng đệ không?"

Hoắc Kinh Đường: "Không đi, ngươi đi đi."

Triệu Bạch Ngư: "Ta nghe theo tiểu quận vương."

Lục hoàng tử: "Vậy thôi. Hôm nay đệ mới về đến kinh đô, đi gặp phụ hoàng trước rồi mới đến chỗ mẫu phi, vốn còn muốn đến chùa Tôn Chính gặp tam ca, nhưng không có chiếu không thể vào." Nhắc đến anh cả, trên mặt hắn thoáng qua vẻ ảm đạm, "Phụ hoàng không cho đệ đến chùa Tôn Chính."

Hoắc Kinh Đường: "Đợi mấy ngày nữa, bệ hạ bớt giận thì ngươi lại đến thỉnh chỉ. Dù sao cũng là anh em, tình cảm tay chân sâu đậm, suy cho cùng thì bệ hạ cũng không thể nhẫn tâm. Có điều chùa Tôn Chính xưa nay là nơi nhốt tội nhân hoàng thất, ngươi vừa mới về thì đừng nên đi, tránh xui xẻo."

Lục hoàng tử cười đáp: "Đệ ở Định Châu giết địch, máu tươi đầy mình, nào có sợ xui? Xui xẻo đến gần đệ chắc sẽ bị sát khí xé nát hết thôi." Đến cuối đường cung chuẩn bị mỗi người một ngã, hắn nhìn Triệu Bạch Ngư nói: "Đường tẩu vang danh thanh thiên cao nghĩa, Chiêu Vấn nghe như sấm đánh bên tai, hôm nay nhìn thấy mới tỏ danh bất hư truyền. Ngày khác Chiêu Vấn mời đường tẩu uống trà, chỉ mong đường tẩu không chê bai cách xử sự của đệ."

Triệu Bạch Ngư: "Mỗ lấy làm vinh hạnh."

Hai bên chia tay, đi thêm một quãng đường dài nữa.

Triệu Bạch Ngư: "Mở miệng ngậm miệng là gọi đường tẩu, đúng là kì quặc."

Hoắc Kinh Đường: "Ta cũng sắp hoài nghi người ngủ cùng ta không phải tiểu lang rồi, lần tới bảo nó đổi cách gọi đi."

"Ngày mai ta nghỉ làm, còn chàng?"

"Tiểu lang định làm gì?"

"Ta định đến chùa Bảo Hoa dự tiệc chay hàng tháng, nếu như chàng không đến, một mình ta đi cũng chẳng vui."

"Ngày mai ta đưa nhóm trinh sát lượn quanh mấy ngọn núi ở ngoại ô đến chiều, vẫn còn đủ thời gian."

Bóng của hai người bị ánh sáng kéo dài trên con đường rời cung, xa dần rồi biến mất.

***

Đầu mùa đông, thời tiết chuyển lạnh.

Thuyền hàng trên sông đã giảm bớt, Triệu Bạch Ngư ở trong Nha môn Thủy vận xem sổ sách, Nghiên Băng vẫn luôn chuyên tâm học tập trong phủ bỗng chạy vào, thở hồng hộc nói: "Ngũ lang, Kỷ, Kỷ phu nhân cầu kiến!"

Triệu Bạch Ngư: "Kỷ phu nhân nào? Là phu nhân của Kỷ tri phủ sao?"

Nghiên Băng gật đầu lia lịa.

Triệu Bạch Ngư vội vàng đứng dậy: "Không phải bà ấy đã theo Kỷ đại nhân đến nhậm chức ở Giang Tây rồi sao?" Trước khi rời đi, y dặn dò Lưu đô giám làm cho xong việc ở Nha môn hôm nay, sau đó theo Nghiên Băng chạy về phủ quận vương.

"Kỷ tri phủ bị đưa vào nhà lao rồi, chuẩn bị áp tải về kinh đô, Kỷ phu nhân đến tìm ngài cứu mạng đó!"

"Chuyện gì đã xảy ra vậy?"

"Cụ thể thì ta không biết, hình như là tham ô."

Triệu Bạch Ngư biết rõ tính tình của Kỷ Hưng Bang, huống chi trước đây y đã cố tình nhắc nhở, lẽ ra ông ấy không gặp chuyện mới đúng, chẳng lẽ đi sai nước cờ, sập bẫy mất rồi?

Không lãng phí thời gian đoán mò vớ vẩn, Triệu Bạch Ngư chạy không dừng bước về phủ quận vương, nhìn thấy Kỷ phu nhân mặt mũi vương đầy gió bụi, tiều tụy ngồi trong phòng khách, người phụ nữ vừa thấy mặt Triệu Bạch Ngư là lập tức lao đến quỳ rạp trước chân y.

"Tiểu Triệu đại nhân, xin ngài hãy cứu lão gia nhà tôi với!"

Triệu Bạch Ngư đỡ người dậy: "Đứng lên nói chuyện đã. Nghiên Băng, mau mang nước ấm tới, gọi người chuẩn bị chút đồ ăn. Tẩu tử, chị đừng hoảng sợ, lại đây ngồi nói cẩn thận lại cho tôi nghe đi."

Kỷ phu nhân không màng quan tâm xem Triệu Bạch Ngư có đồng ý giúp mình hay không, hoảng loạn bận rộn giải thích: "Lão gia nhà tôi bị người ta tố cáo tham ô năm trăm ngàn lượng bạc trắng, chứng cứ rành rành, không tài nào phản bác được, nhà cửa tài sản bị tịch thu hết, gia quyến đi theo cũng gặp nạn, lúc quan sai tới tra hỏi là tôi đang ở trong chùa gần phủ dâng hương mới thoát được một kiếp, cầu mong ngài nể nang tình cảm trong quá khứ, giúp lão gia chúng tôi một tay."

"Tham ô năm trăm ngàn lượng là tội chết! Nhưng tôi biết Kỷ đại nhân làm việc công bằng chính trực, lúc đảm nhiệm Tri phủ kinh đô đã rất tận trung tận trách, chưa từng thu hối lộ, chưa từng tham lam một chút gì. Tôi không tin chỉ chưa đến một năm mà Kỷ đại nhân đã đổi tính." Triệu Bạch Ngư chọn từ tốt khen Kỷ Hưng Bang, trấn an Kỷ phu nhân đang thất thần, "Chị nói tiếp đi, là có người hãm hại sao?"

Kỷ phu nhân nghẹn ngào chực khóc, lão gia gặp chuyện như sấm sét chợt giáng xuống, đúng là bất ngờ không kịp đề phòng, từ lúc đó đến nay, bà tìm bạn cũ của lão gia ở khắp nơi mà không ai giúp đỡ, thậm chí đã tìm người nhà mẹ để nhờ vả, nhưng ngay cả người nhà mẹ cũng mắng lão gia hồ đồ, căn bản không ai tin rằng ông ấy vô tội, chỉ có Triệu Bạch Ngư, bộ hạ cũ ngày xưa của lão gia là vẫn luôn tin tưởng ông không làm ra chuyện như vậy.

"Đó là một cái bẫy do thương bang ở Giang Tây sắp đặt!" Kỷ phu nhân cắn răng nói: "Lão gia phụ trách Chuyển vận sứ cũng quản chút thủy vận, nhậm chức chưa bao lâu là thương bang địa phương đã kéo đến kết giao. Lão gia chỉ muốn vượt qua ba năm nhiệm kỳ an ổn, chỉ sợ lui tới quá mật thiết với bọn họ sẽ tạo thành cớ bị hại, ông ấy mới từ chối lời mời gọi của thương bang nhiều lần, chặn thuyền buôn ở bến thuyền cũng chỉ là vì chức trách thôi, nào ngờ đắc tội đám thương nhân Giang Tây đó. Lão gia biết thương bang địa phương thế lớn, đã cẩn thận lắm rồi, cũng dặn dò chúng tôi nhất định không được nhận bất kì quà tặng nào, dù cho có là một cây vải, một thùng dầu, tất cả đều phải từ chối hết!"

"Vậy, vậy sao lại trúng kế?"

"Cẩn thận mấy cũng có sai sót thôi, đám người đó lợi dụng đủ đường! Cậu cũng biết lão gia thích tranh chữ, thích nhất là luyện chữ, ở nơi đó có một học nho gửi bái thiếp đến, nói muốn dùng văn kết giao, dùng chữ làm bạn. Lúc gặp mặt cũng khen tranh chữ của lão gia có hình có thần, trên đời này không ai sánh bằng, không biết ngại yêu cầu lão gia viết mười chữ "phó" cho hắn. Chưa đến nửa tháng đã lại tới cửa, nói mười chữ "phó" trong tay hắn đều đã được bán đi với giá nghìn vàng, dâng tiền lên cầu xin lão gia viết thêm chữ."

Triệu Bạch Ngư cau mày, không phải y từng nói với Kỷ đại nhân phải viết chữ như thế nào rồi sao, trong lòng ông ấy không tính toán à?

Kỷ phu nhân cười khổ: "Ông ấy phải viết như thế nào, trong lòng sao có thể không tính đến? Nhưng người đẩy chữ là học nho địa phương, người mua chữ còn chẳng biết người viết chữ là ai, cũng chẳng đến cầu xin việc gì, dù chẳng tìm được chút lợi lộc gì trong chữ mà vẫn vung tiền như rác, trừ thật lòng thưởng thức chữ của ông ấy, thì còn có nguyên nhân nào khác nữa? Thân mình trong cuộc, u mê không tỉnh ngộ, càng lún càng sâu, đến cuối cùng giấy Lạc Dương đắt*, một chữ nghìn vàng!"

(*) Nguyên văn: Lạc Dương chỉ quý, ý chỉ tác phẩm nổi tiếng một thời

"Một chữ ngàn lượng bạc trắng?"

"Là ngàn lượng vàng!" Kỷ phu nhân rũ vai: "Chưa đến nửa năm đã lên đến năm trăm ngàn lượng, thương bang tìm tới tận cửa muốn ông ấy mở cửa thủy vận. Nhưng không biết vì cớ gì, ông ấy đến phủ công chúa một chuyến, trở về đã bắt đầu dặn dò việc về sau. Tôi thấy hoang mang lắm, ban đầu cũng thấy không có gì, chỉ biết lão gia đã từ chối yêu cầu của thương bang Giang Tây, không lâu sau đó thì có người tố cáo ông ấy bán chữ là thu hối lộ trá hình."

Nghe xong toàn bộ câu chuyện, Triệu Bạch Ngư biết Kỷ đại nhân đã bị sập bẫy rồi.

Thương bang địa phương thế lớn, bọn họ còn giống như chúa đất hơn là quan địa phương nữa, Kỷ đại nhân không nể mặt, tất nhiên bọn họ sẽ nghĩ đủ cách đá Kỷ đại nhân xuống ngựa, đổi một kẻ nghe lời hơn bước lên.

Đời trước nằm trên giường bệnh nhàm chán nên y đã đọc hết một quyển lịch sử cổ trên dưới năm ngàn năm, trong đó cũng có rất nhiều bài viết về nguồn gốc của việc hối lộ và nhận hối lộ.

Có tổng cộng bốn cách hối lộ và nhận hối lộ, một là hối lộ dựa trên giao tình (nhã hối), hai là hối lộ trong buôn bán (thương hối), ba là trộm cắp, bốn là bá quyền, cũng có thể thay chữ "hối" trong đó thành chữ "tham", hai ý sau thuộc về các triều đại đầu nữa, lấy quyền thế mà tham ô, nội dung không nói nhiều về kĩ thuật.

Ví như lúc trước, Tào ti Hoài Nam Tư Mã Kiêu lợi dụng chức quyền che giấu đồng ruộng phì nhiêu, ruộng tốt rồi trắng trợn vơ vét thuế đất của dân, tham ô một số tiền thuế cực lớn, đó cũng là một loại tham nhờ ăn cắp.

Còn nhã hối chính là mượn văn chơi tranh chữ, dùng những vật này để tiến hành hối lộ tham ô, sau đó lấy cớ này hãm hại thanh quan lương lại, khiến cho bọn họ không thể không bị buộc tội thông đồng làm bậy.

Kỷ đại nhân đã rơi vào cái bẫy "nhã hối", chiêu này nếu như thả vào triều Đại Thanh tham ô thành tính thì không phải ngữ cao siêu gì, nhưng bây giờ, chỉ tiện tay tung một chiêu là đã có thể tiêu diệt những quan lại không hợp tác rồi.

==

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro