LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Tình dục là bộ môn thuộc, chi phối và bao trùm ngũ dục, nhất là khi đã nhận thức rằng trong mọi bộ môn thuộc khoa học nhân văn, nó luôn hiện diện, ẩn hiện lung linh... càng làm chúng ta thêm khoan dung, tăng thêm hiểu biết. Mà biết thêm rằng cùng tột của tính dục lại là nghệ thuật kềm chế, thì đó là sự hành dâm cao thượng hơn hết thảy.

Các cảm quan đủ vẻ do ngũ dục đem lại, nếu hiểu là đáng buồn rầu, thì là buồn rầu thanh bai. Nếu hiểu (cuốn này) chỉ cốt viết ra để khuyến khích sự đắm đuối dục lạc thì đấy là loại dục lạc thô trọc. Tính dục được loài người nghiên cứu, viết ra, đã từng lưu hành ở khắp nơi, qua mọi thời đại như Kama-Sutra (Ấn Độ), Nhục Bồ Đoàn, Đạo Ma Mật Truyền, Ngọc Phòng Bí Kiếp (Trung Hoa), ... thì độc giả sẽ không coi bản dịch này chỉ chứa hậu ý khuyến dâm.

Bản chất của tính dục thì có một. Cảm quan tính dục thì khác nhau, tuỳ cách tuỳ người, tuỳ thời: Nếu ăn ngon chả là điều nhân loại luôn tán thưởng, phải chăng nghệ thuật nấu nướng đã chẳng luôn luôn được đề cao? Tình dục cũng có điểm chung như thế. Xưa, Tố Nữ Bí Truyền được coi là pho sách phải cấm, dành riêng cho tầng lớp thuợng lưu, Trưởng giả phong kiến của Trung Hoa, nay chúng tôi cố thực hiện qua Việt ngữ với thiện ý và cẩn trọng. Cách thế tương quan giữa nhân loại ngày nay ngày càng mật thiết hơn: Đúng, sai, xấu, tốt... không hoàn toàn bị ai độc quyền giải thích, tách bạch giản dị như xưa. Những tàng ẩn, bí truyền cấm kỵ, phải tránh né của một thời, ngày càng được bạch hóa. Tính dục, lâu nay đã là một đề tài nghiêm cẩn, đúng đắn... đến với bất cứ ai muốn tìm hiểu, suy ngẫm...

Nhà xuất bản Xuân Thu

LỜI DỊCH GIẢ

Trung Hoa có nhiều chuyện gợi trí tò mò của thiên hạ, ngoài pho dịch lý - kho tàng vô giá của Đông Phương - Trung Hoa còn có "TỐ NỮ KINH", pho sách nói lên cái tuyệt vời của chuyện lứa đôi vượt hẳn Kama Sutra - pho kinh điển về nghệ thuật yêu đương của xứ Ấn Độ.

Tiếc thay, người xưa cố chấp, mang nặng tinh thần bảo thủ, khăng khăng cho rằng thố lộ chuyện ái ân là hành động làm đồi phong bại tục, phạm điều răn cấm của thánh hiền! Bởi quan niệm hẹp hòi như vậy mà Tố Nữ Kinh bị giấu kín ở Viện Bảo Tàng đến cả hàng ngàn năm chẳng mấy ai biết đến. (Ngoại trừ các bậc vua chúa, hàng Vương tôn và các quyền thần ở triều nội dành độc quyền hưởng thụ).

Trong khi đó thì thế giới Tây phương quan niệm ngược lại, cho rằng sinh lý cũng là một trong những nhu cầu cần thiết như đói ăn, khát uống, như không khí và sự sống hàng ngày không thể thiếu được. Thế thì mang vấn đề sinh lý ra luận bàn ngoài đại chúng cũng như đưa vào học đường đâu phải là sự xấu? Nếu có xấu chăng là bởi ta lạm dụng quá đáng, vượt cả vòng kỷ cương làm thương tổn đến luân thường đạo lý...

Nhiều người khắt khe cho rằng Tố Nữ Kinh là tập sách trăng hoa dâm dật, hướng dẫn con người đi đến hành động bất chính. Thật là một điều lầm lẫn đáng tiếc, họ có biết đâu rằng chính vì sự thiếu hiểu biết về nghệ thuật ái ân mà bao nhiêu gia đình phải tan vỡ. Tố Nữ Kinh không phải là một pho kinh " bướm lả ong lơi" mà chính là một hướng đi, một lẽ sống, là kim chỉ nam, là vị lương y lỗi lạc, một nhà cố vấn tuyệt vời đời sống lứa đôi đến răng long đầu bạc.

Bác sĩ Huệ Hồng Anh.

Tài liệu được tổng hợp & chuyển sang ấn bản điện tử (ebook: PDF, CHM) bởi zeroman_ltk

HIỂU BIẾT CÁC BÍ QUYẾT HÀNH SỰ

DỰA TRÊN ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH

Hoàng Đế nói với Tố Nữ rằng: "Ta cảm thấy mình khí suy nhược, khi giao hợp thì không đồng nhịp với người nữ. Bình thường thì lòng chẳng cảm thấy vui, lại luôn luôn lo sợ hồi hộp như sắp có chuyện gì nguy hiểm xảy ra cho mình. Tại sao vậy?"

Tố Nữ đáp: "Tất cả hiện tượng nói trên đều do âm dương không điều hoà mà sinh ra.Âm dương không điều hoà vì sinh hoạt phòng sự không đúng cách. Nếu tinh lực của nữ nhân cường thắng hơn nam nhân thì chẳng khác nào như nước tạt vào ngọn đuốc, đuốc sẽ tắt; nam nhân không kham nỗi nên không còn hứng thú.

Nói cách dễ hiểu, sinh hoạt phòng sự như nấu nương thức ăn phải phối hợp diều hòa giữa lửa và nước mới có món ăn ngon. Nếu thấu triệt nguyên tắc trên và thực hiện được thì sẽ hưởng thụ sự lạc thú của nhân gian, bằng không thì thân thể trở nên suy nhược có thể đến tán mạng nữa. Lúc đó đâu còn gì vui thú nữa.

Bởi vậy nhân gian phải thận trọng trong việc phòng the, tránh đi ra ngoài nguyên tắc không đồng điệu nói trên."

GHI CHÚ:

1. Hoàng Đế là một trong ba vị vua thời thái cổ: Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Tương truyền Phục Hy phát minh ra bát quái, nghiên cứu về âm dương ngũ hành. Âm dương là những thể đối nghịch nhau của sự vật như trời-đất, mặt trời-mặt trăng, nam-nữ, trắng-đen, ngày-đêm...

Phục Hy cũng là vị vua chỉ dạy cho nhân dân sự kết hôn. Trong việc phòng sự nam nữ, Phục Hy bàn rằng: "Trời (dương) chuyển từ phải sang trái, đất (âm) chuyển từ trái sang phải. Nam nhân trong lúc giao hợp, theo thuộc tính dương đó, chuyển động (sàng) sang trái trong khi nữ nhân chuyển động (sàng) sang bên phải. Nam nhân như trời ở trên trùm phủ xuống dưới. Nữ nhân như đất ở dưới nghinh tiếp lên trên. Vị thế cơ bản của phòng the giao hợp là vậy, hai bên sàng ngược chiều nhau và trên thúc xuống, dưới hẩy lên".

2. Hoàng Đế vốn người thuộc lưu vực sông Hoàng Hà, là người lãnh đạo của mấy bộ lạc lớn tại đây. Theo sử, ông sanh sống vào khoảng 2.550 trước Công-nguyên, thông tuệ, đã phát kiến ra kim chỉ nam, đã quan sát được sự vận hành của Thái dương hệ. Trên mặt đất thì ông quan sát về những dấu vết để lại do cầm thú chim muông từ đó xác định phái đực cái của từng con. Về nhân văn, ông thiết lập ra hệ thống chữ viết của người Trung Quốc thời đó. Nhờ sự phát minh này, người Trung Hoa mới bắt đầu ghi lại các chuyện xảy ra chung quanh mình lưu truyền lại cho đời sau.

3. Về Y khoa, Hoàng Đế và sáu vị y sĩ trong nhóm Chi-Bách hoàn thành một bộ Bách Khoa Y-Học có tên là "Y học trọng điển" mà "Hoàng Đế nội kinh" là một quyển ở trong bộ đó. Chi-Bách và những vị danh sư lúc bấy giờ là những người cố vấn của Hoàng Đế về những vấn đề y dược và là y sĩ của Hoàng Đế.

oOo

Hoàng Đế có nhiều cung nữ nhưng giao hợp không đúng phương pháp cho nên khi niên tuế vào độ ngũ tuần thì thần sắc suy nhược không còn tráng kiện nữa. Ông mới đi hỏi Chi-Bách và Tố Nữ về cách thế giao hợp dúng cách để khỏi suy nhược thân thể. Trong sách Hoàng Đế nội kinh, thiên "Thượng cổ thiên chân luận" có ghi sự vấn kế nầy như sau:

"Trẫm thường nghe người thời xưa sống hàng trăm năm mà động tác (tình dục) không suy yếu. Người thời nay tuổi mới vừa khoảng năm mươi mà động tác (tình dục) đã suy nhược...".

Chi-Bách đáp rằng: "Người xưa sở dĩ được trường thọ vì họ hiểu thấu đáo đạo âm dương, từ đó chuyện gối chăn được thực hành hợp lý. Lão tử nói: "Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa". Bốn mùa, trời đất, âm dương, con người phải "thuận theo" đó là nguyên tắc cơ bản của sống còn, nếu nghịch lại hay vi phạm nguyên tắc tự nhiên này thì sẽ sinh ra rất nhiều tai hại. Ví dụ như nguyên tắc xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng (muà xuân gieo mạ trồng lúa, mùa hạ lúa lớn, mùa thu gặt lúa, mùa đông gặt lúa cất vào kho). Nếu bây giờ không thuận theo mà mà mùa thu hay đông lại gieo mạ trồng lúa thì lúa sẽ khô chết, không lớn lên được.

Tố Nữ trả lời như sau: "Vấn đề Hoàng thượng đưa ra đó, giải đáp trả lời có thể căn cứ theo thuyết âm dương ngũ hành. Như tính nước cực mạnh sẽ tiêu diệt được tính lửa, đó là nguyên tắc gây ra thể lực suy yếu ở người nam. Trong trời đất có năm yếu tố chánh (ngũ hành) là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Chúng tương khắc nhau là mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ... cứ như vậy mà tuần hoàn mãi mãi.

Vậy thì nếu thuỷ tính (nữ nhân) quá mạnh thì dễ hại tới hỏa tính (đàn ông). Mặt khác trong lúc giao hoan cao trào tuyệt hứng của đôi bên so le thì cũng gây nên hậu quả không tốt.

Một điều nữa là nam nhân sau khi xuất tinh xong quá mệt lăn ra ngủ, trong khi đó nếu nữ nhân chưa hoàn thành cao trào, còn đầy cảm hứng thì hậu quả sự bất hòa hợp nầy là một bệnh trạng cần phải sửa đổi hay chữa trị.

Nay Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược động tác (tình dục) là vì không hiểu biết sinh hoạt phòng sự một cách bình thường. Hậu quả là không cảm thấy thống khoái mà là một trạng thái mệt mỏi. Tất cả vì Hoàng Đế không thông hiểu thuỷ tính và hỏa tính, không thông hiểu tệ quả của bất điều hòa âm dương."

oOo

GHI CHÚ:

1. Bác sĩ Kim Soai cho rằng sau khi bắn tinh xong, nam nhân từ trạng thái sung sướng cực độ trở về trạng thái không còn cảm giác và rất buồn ngủ. Bởi vậy mới có nhiều trường hợp bẽ bàng trong đêm tân hôn. Trước đó thì nữ nhân e dè, sợ sệt, nam nhân "hoa ngôn xảo ngữ" để được tiến hành, nhưng khi xong phần mình liền lăn ra ngủ đuốc hoa bỏ đó mặc nàng nằm trơ khiến cho cô dâu từ đó có một tâm trạng chán sợ chuyện chăn gối ái ân, có thể thành bệnh lãnh cảm sau nầy.

2. Bác sĩ Kim Soai cũng cho biết là âm đạo càng được dương vật cọ xát, người đàn bà càng cảm thấy sướng thú hứng tình đến nỗi muốn từ chối ái ân vì một lý do nào đó cũng không thể nào từ chối được. Điều xác định nầy phù hợp với lời của Tố Nữ nam nhân hỏa tính, nữ nhân thủy tính. Khi nước dâng lên cao (nước nôi tràn đầy đầm đìa) lửa bị tắt (bắn khí, xìu, mệt). Khi nước bị lửa đun sôi (cọ xát, chọc, đâm) thì nước sôi ào ạt, phùn phụt...

TỨ THỜI VÀ NGŨ TẠNG

(Tạng con người và bốn mùa)

Hoàng Đế nói với Huyền Nữ rằng: "Đạo âm dương Tố Nữ đã lý giải với ta rồi, nhưng ta muốn nàng giải thích tường tận hơn."

Huyền Nữ đáp: "Đạo âm dương có thể tóm lược trong câu căn bản nầy: Dương đắc âm nhi hóa dục, âm hộ dương nhi thành trưởng, âm dương tương hỗ tương thành, hỗ tương cảm ứng, tuần hoàn tương sinh, nghĩa là vạn vật mọi sự trong trời đất đều theo đạo âm dương giao hợp mà sanh ra. Dương được âm mà hóa dục, âm bảo vệ dương mà lớn lên, âm dương cùng nhau phụ trợ cùng nhau hóa thành, cùng nhau cảm ứng cùngnhau tuần hoàn.

Bởi vậy khi dương cụ tiếp xúc với nữ nhân thì nó tự động dương lên. Còn nữ nhân khi âm hộ được kích thích thì tự nhiên biết mở rộng. Khi giao hợp thì hai tinh khí âm dương của hai bên giao hòa mà tạo sướng khoái.

Khi giao hợp nam nhân phải tuân thủ theo bát giới là tám điều cấm kỵ, nếu coi thường mà vi phạm thì dễ sanh tật bệnh. Trong khi đó nữ nhân cũng phải tuân thủ cửu luật là chín điều luật không thể phạm, nếu phạm phải thì kinh nguyệt sinh biến chứng bất thường, âm hộ tì vết có khi phải táng mạng nữa."

GHI CHÚ:

1. Chương nầy sách Tố Nữ kinh không nói về bát giới và cửu luật nhưng ta có thể thấy những điều này trong các chương kế tiếp. Huyền Nữ và Tố Nữ là những người có thẩm quyền bàn về thuật phòng sự vì những lời bàn của hai vị đó căn cứ trên triết học, tâm lý, đạo giáo và kinh nghiệm của nhiều cung nhân trong hoàng cung.

2. Hậu thế sau nầy có lưu truyền các sách ghi lại những nguyên tắc phòng the của hai vị trên là "Tố Nữ Kinh" và "Huyền Nữ Kinh". Trên căn bản hai sách tương tự nhau, chỉ khác một vài tiểu tiết không đáng kể. Kinh Huyền Nữ đề cập đến quy luật tự nhiên, tiết độ, áp dụng luật âm dương. Sách nhấn mạnh đến những cái lợi của những lời răn nầy nếu theo thì hưởng thống khoái, cường thân ích thọ, bằng trái lại thì sanh ra nhiều bệnh và có khi còn táng mạng.

3. Người Nhật cũng theo đạo âm dương. Một bác sĩ Nhật mới đây trong sách ông viết có bàn rằng: "Trời đất có âm dương, con người có trai gái, thân thể con người ta cũng vậy, các bộ phận ở đàng trước bụng là âm. Ngũ tàng tim gang tì phổi thận thuộc âm. Lục phủ, mật bao tử, ruột già ruột non, bàng quang và tam tiêu thuộc dương. in nhắc lại theo y học Trung quốc, miệng trên của bao tử là thượng tiêu, khoảng giữa bao tử là trung tiêu, miệng trên bàng quang là hạ tiêu". Công dụng của ngũ tạng lục phủ là trung hoà với nhau, nếu hai bên chênh lệch về âm dương thì con người không thể nào kiện khang được, chắc chắn là sinh bệnh.

4. Sách "Hoàng Đế Nội Kinh" quyển hai có nói: "Trời đất có tứ thời và ngũ hành", lại có nói "thiên sanh thu tàng" và "hàn thử táo thấp phong", là những khái niệm giống như "xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng" đã trình bày ở trên. Mùa đông thuộc thuỷ cho nên hàn (lạnh), mùa hạ thuộc hỏa cho nên nóng, mùa thu thuộc kim cho nên khô ráo, xuân thuộc mộc cho nên có gió sách "Nội Kinh" khi nhắc đến ngũ tạng có nhắc đến ngũ khí là hỉ, nộ, bi, ưu, khủng nghĩa là vui, giận, buồn, lo, sợ. Vui giận làm thương tổn khí, nóng lạnh làm thương tổn hình, người mà hay giận thì không thể tiết chế khí được (dễ xuất tinh), bị nóng lạnh quá sức chịu đựng tất nhiên sanh ra bệnh hoạn.

5. Sách thuốc Trung quốc có nói tới "ngủ lao thất thương" tức là con người ta hao tổn về một thứ tâm trạng nào đó thì các bộ phận tương ứng trong thân thể sẽ bị thương tổn. Vui quá hại tới tim, phẫn nộ quá hại tới gan, bi thương quá hại tới phổi, ưu tư quá hại tới tì (bao tử), kinh khủng quá hại tới thận. Do đó để bảo vệ ngũ tạng, con người trong khi tình tự ái ân không được để cho tâm bất ổn định, vui buồn bất thường, trái lại giữ cho tâm được bình ổn để có sức khỏe đầy đủ. Con người mà luôn luôn khẩn trương và quá độsẽ chịu hậu quả của mình là quá vui thành buồn "cực lạc sanh ai" gặp những điều không hay cho bản thân. những người hư phổi và bộ phận hô hấp, tóc, da là những người ở trong trường hợp nầy. Họ nhìn chung giống nhau ở điểm tóc rụng, da mặt sần sùi xấu xí, dó là chưa kể bên trong họ mang những bệnh như suyển, hay những bệnh thuộc đường hô hấp. Ngũ tạng suy yếu không những chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày mà còn ảnh hương đến những giấc mơ nữa.

Hoàng Đế Nội Kinh chương 24 có nói:

· Người mà phế khí (phổi và các cơ quan phụ thuộc) suy nhược thường nằm mộng thấy binh khí và những chuyện giết người, cắt cổ gà vịt. Nếu ông ta nằm mộng trong mùa thu thì sự thấy còn nặng hơn vì mùa thu thuộc dương nên hình ảnh lúc nầy là hình ảnh hai người giao đấu hay hai đạo quân tử chiến với nhau.

· Người thận khí suy vi trong mùa hạ thấy mình đi thuyền trôi theo dòng nước, hay trôi giữa dòng. Nếu ông ta nằm mộng trong mùa đông (đông thuộc thủy) thì thấy mình ở trong rừng, trong đám lá rậm rạp.

· Người tâm khí hư thì thấy lửa cháy, hay thấy dương vật. Nếu mà nằm mộng trong mùa hè (mùa hè thuộc hỏa) thì thấy lửa cháy núi hay thấy chuyện chữa lửa.

· Người tì khí suy nhược thường mơ thấy đói, khó chịu.

6. Vậy thì trong ngoài có liên hệ nhau đã đành mà cộc sống thật và cuộc sống mộng cũng có ảnh hưởng nhau nữa (Sigmund Freud nhấn mạnh nhiều trong các nghiên cứu về giấc mơ của ông). Các nhà âm dương có nói "trời là dương, địa là âm", mặt trời là dương, ban đêm là âm. Kinh Tố Nữ có nói: "Dương đắc âm nhi hóa, âm đắc dương nhi dạ, nhất âm nhất dương tương thuận nhi hành" có nghĩa là nam nhân cần phải có nữ nhân mới phát triển thay đổi hay hơn được, nữ nhân cần có nam nhân là nguyên tắc bất di bất dịch. Nam nữ phải đi đôi với nhau. Đó là giải thích đạo âm dương bằng chuyện nam nữ phòng the. Huyền diệu thay lời trong kinh Tố Nữ.

CHÍN LẦN CẠN MỘT LẦN SÂU

(Cửu thiển nhất thâm)

Tố nữ nói với Hoàng đế: "Khi hành sự thì phải coi người con gái như ngõa thạch (gạch ngói), tự coi mình như ngọc quí (kim ngọc). Khi nhận thấy người con gái tới mức khoái cảm, thân thể vặn vẹo luôn thì phải mau mau rút dương vật ra khỏi âm hộ."

Nếu muốn chinh phục nữ nhân thì khi giao hợp phải đặc biệt cẩn thận. Trên mình người đẹp, khi hứng tình muốn giữ cho khỏi bắn khí không phải là dễ, nó kéo mình theo khó lòng kềm chế, cẩn thận lắm mới kềm chế được. Sự kiện nầy chẳng khác nào thắng sợi dây cương mục rã sắp đứt vô con ngựa chứng, hay đang đứng trên bờ vực thẳm của chóp núi cao. Chỉ cần sơ ý một chút thì tai hại sẽ xảy ra không lường được.

GHI CHÚ:

1. Căn cứ trên các trắc nghiệm y học người ta thấy rằng nam nhân rất dễ hứng tình và khi tình hứng tới cao độ, bắn khí thì không còn làm gì được nữa, dương cụ trở nên xìu mềm, vô năng, ở bên cạnh người đẹp lòng cũng dửng dưng nguội lạnh. Nữ nhân trái lại thời gian bắt trớn hứng tình chậm, sự sờ mó rờ rẫm (ái phủ) trong giai đoạn đầu rất cần thiết để đưa nàng đến tình trạng sẵn sàng nhập cuộc. Vì vậy khi hai người xáp lại, đã có một sự so le về thời gian hứng cảm. Lúc nam nhân đạt tới cao điểm hứng thú thì nữ nhân nhiều khi chưa đạt được cao điểm nầy. Nếu không cẩn thận, không kềm được cương con nộ mã mà bắn khí thì cuộc giao hợp chấm dứt trong sự bẽ bàng của nữ nhân.

2. Tố Nữ nói:

· "Coi nữ nhân như ngõa thạch' là muốn nói phải nhẹ nhẹ nương tay đừng mạnh bạo quá mà ngói gạch vỡ bể đi. Sờ mó nhè nhẹ, ái phủ khắp toàn thân nữ nhân để kéo đến sự đồng bộ hứng tình sau này, cũng là để chuẩn bị cho có đồng điệu trong lúc tuyệt cùng sướng khoái.

· "Coi mình như ngọc thạch" là mình phải quý mình, tiết kiệm tinh khí không bắn khí quá sớm, chưa phải lúc. Đối phương chưa sẵn sàng thì sự xuất tinh, riêng mình cũng chưa hưởng tuyệt cùng của đời sống ái ân.

3. Vấn đề tuyệt hứng phải phối hợp, phải đồng bộ trong sự giao hợp nam nữ rất là quan trọng. Nam nhân không được chỉ nghĩ đến cái sướng bắn khí của mình mà phải đoán coi thái độ của nữ nhân nữa.

4. Tập quán của người Do Thái kết tội "cưỡng dâm sau hôn nhân" (hậu hôn cưỡng dâm) nếu người chồng chỉ muốn thỏa mãn dục tính tiến hành giao hợp trong khi người vợ chưa sẵn sàng cuộc mây mưa hay không thể có được đồng bộ sướng khoái.

5. Ở đời cổ Trung quốc có một số ngưới biết lợi dụng nguyên lý châm cứu để kích thích dục tình của nữ nhân trước khi giao hợp, và họ đã đạt được kết quả là khiến cho nữ nhân "xuân tình bộc phát" sẵn sàng đáp ứng để cùng nhau đạt tớt cao điểm sướng khoái cùng lúc. Nguyên tắc châm cứu là "kích thích 14 kinh mạch và các đường huyệt đạo liên quan tới tình dục" (thập tứ kinh lạc huyệt đạo tuyến).

Thời xưa kỹ thuật vuốt ve trước khi ái ân là:

· Mân mê từ các ngón tay, bắt đầu từ ngón giữa tới ngón cái, các ngón cọ sát vào nhau. Ban đầu còn thoa bóp các ngón sau rờ rẫm từ từ lên cánh tay rồi lên bả vai.

· Xoa bóp nựng nịu ban đầu là ngón chân cái rồi sang ngón bên cạnh, từ từ rờ lên mu chân tiến lên tới phía bên trong đùi.

· Sau đó thì sờ mó nựng nịu toàn thân. Kế tiếp nam nhân dùng tay trái ôm sát lưng nữ nhân tay phải từ từ di động lên vuốt ve những vùng mãnh cảm nhất của nữ nhân đồng thời tiến hành những động tác hôn hít. Hôn hít thì cũng tiến hành chậm chậm, đầu tiên hôn cổ, sau hôn trán. Dùng lưỡi liếm cổ, phía trước và phía sau cổ là những vùng cần được liếm nhất. Kế tiếp là liếm đầu vú nàng, cắn nhẹ lổ tai nàng để cho nàng rùng mình xúc cảm.

6. Sau đó khi thấy tình trạng đã chín mùi thì áp dụng nguyên tắc "cửu thiển nhất thâm hữu tam tả tam bãi nhược hoạnh hoành". Đây là bí quyết của đàng trai để tạo hứng thú tuyệt đại cho nữ nhân cùng mình giao hợp mà cũng là phương cách chống xuất tinh sớm, một căn bệnh đem đến bẽ bàng cho nhiều nam nhân.

· "Cửu thiển" là chín lần đâm cạn, đâm nhẹ nhàng để chuẩn bị cho nữ nhân ý xuân phơi phới, tâm hồn bồn chồn như là khỉ chuyền ngựa chạy. Lúc đó mới áp dụng "nhất thâm", đâm mạnh lút vào sâu không chừa chút nào. Cho em hết những gì anh có. Thâm sâu, quy đầu cọ sát vào âm hộ tạo một trạng thái hứng thú tột độ. Âm hộ lúc đó có khả năng mở ra bóp lại. Nở ra để đón nhận hết, rút lại để bóp chặt ôm khít dương thể trong trạng thái nhất thể hoà đồng.

· "Hữu tam tả tam" là kích động hai bên bờ của âm hộ. Cọ xát bên trái ba lần, bên phải ba lần. Nữ nhân lúc nầy cảm thấy đâu đâu cũng có dương thể cọ vào, sự sung sướng không thể nào lường được. Như vậy động tác aí ân không chỉ là một cách tiến vào rút ra mà biến hóa dương vật bơi lội như con cá, thân mình thằng nhỏ chuyển động hai bên, bò như con trùng khi lên khi xuống. Tất cả mọi vùng khoái cảm của âm đạo đều được tiết xúc cọ xát, bên mép, trong sâu, bên nầy, bên kia; nữ nhân không thể nào cưỡng lại mình được nữa, khoái cảm sẽ lên đến tột độ kịp thời với tột độ của nam nhân.

7. Thời Tuỳ Đường có cuốn sách nói về chuyện ái ân là "Ngọc Phòng Bí Quyết" bàn về nghệ thuật phòng trung, trong đó có câu thiệu "bát thiển nhị thâm, tử vãn sanh hoàn" cũng tương tự nhưng bổ xung cho nguyên tắc "cửu thiển nhất thâm tả tam hữu tam" nói trên.

· "Bát thiển nhị thâm" chẳng qua là thay đổi số lần sâu đâm vào, thường là theo lời yêu cầu của nữ nhân. Nên nhớ phải có cạn sâu, không được sâu cả như nhau vì đâm vô một chỗ khoái cảm sẽ bị tê liệt đi giống như gãi lưng gãi nhẹ mạnh khác nhau, thay đổi chỗ này chỗ khác thì khoái và đã ngứa, nếu chỉ gãi mạnh một nơi thì chỉ có tróc da tróc thịt đau đớn mà thôi.

· "Tử vãn sanh hoàn" là "khi chết đi vào, khi sống đi ra". Dương vật ở trong âm hộ đã lâu, ấm áp khoái lạc rất dễ không thể tự thắng mà phải bắn khí, khi thấy nó có mòi dương lên cực đại sắp xuất tinh thì phải rút ra khỏi âm đạo - đi ra khi còn cứng còn sống - Bên ngoài nó nghỉ ngơi một chút thì bị xìu, đó là lúc cho nó xung trận lại nữa - đi vào lúc mềm, lúc chết - Cứ thế quá trình tử vãn sanh hoàn thì cuộc vui kéo dài được nhiều lần khoái cảm.

· Có sách nói "nhược nhập cường xuất" cũng là cách nói khác của tử vãn sanh hoàn mà thôi. Lúc hơi mềm, xìu cho vào, lúc cứng quá độ sắp bắn khí thì phải rút ra. Càng theo các nguyên tắc trên càng hưởng được cuộc vui kéo dài mà hòa thuận vợ chồng vì kéo được lúc cực điểm khoái lạc của hai người nam nữ về cùng thời điểm.

VUỐT VE MƠN TRỚN

Trong Tố Nữ kinh có thuật lời Huyền Nữ vấn đáp với Hoàng Đế về chuyện kích thích trước khi nhập cuộc như sau, thiết nghĩ cũng cần ghi lại.

Hoàng Đế hỏi: "Lắm khi trong lúc giao tình, người nữ không cảm thấy có hứng thú, âm đạo vì thế không trơn, dâm thủy không ướt khiến cho nam nhân mất sự hứng khởi, không đủ sức kiên cường, ấy là tại sao?"

Huyền Nữ đáp: "Trong bất cứ chuyện nào, nguyên lý âm dương cũng đều phải tương ứng tương sinh. Nữ nhân không được nam nhân kích thích thì làm sao mà bộc khởi cường lực được. Do đó khi giao hợp, nam nữ cần phải hữu tình, hữu ý với nhau, lúc ấy cảm hứng mới nẩy sinh, người nữ mắt, mi đưa đẩy; người nam khởi hứng, tự nhiên nơi qui đầu tiết ra một vài giọt dịch thể (chưa phải là tinh dịch) giúp đỡ cho sự trơn hoạt của dương cụ để xâm nhập xuân cung. Người nữ sẵn sàng phối hợp, cửa thành mới mở rộng nghênh đón. Thành thử trong cuộc giao đấu này, sức khoẻ đôi bên sẽ không bị hao tổn mà sự sướng khoái lại càng tăng. Lúc ấy nam nhân sẽ hấp được tinh khí người nữ để bồi bổ thể lực.

Tuy nhiên, chẳng người nào giống người nào, trình độ cũng vậy, người mau, người chậm, người nóng, người lạnh. Nếu cứ miễn cưỡng nhảy vào cuộc hành lạc ngay, không chịu chờ đợi, làm bừa, điều lợi chẳng được, điều hại lại càng thêm.

Huyền Nữ lại chỉ điểm thêm rằng: "Trong trường hợp chậm lục ấy của phái nữ tất nam nhân phải cần đến sự "tiền hí" tức là khai vị để dẫn khởi. Đó là những xảo thuật vỗ về mơn trớn gọi là "các món ăn chơi". Trong những phương pháp "Phòng trung" cuả Trung quốc cũng chủ trương nữ nhân phải được mơn trớn cho nhiều để dễ đạt đến cao độ và để nam nhân dưỡng hơi sức đỡi lúc dùng đến sau nầy cho dũng mãnh, cương liệt. muốn thế thì trước tiên người nữ phải dược nơn trớn vuốt ve toàn thân, sau đó được bóp nắn toàn bộ "ngọc môn" rồi mới được chú trọng đến cái nhân bé nhỏ gọi là âm hạch. Nhưng nam nhân nào cũng phải dùng kinh nghiệm bản thân mà dò xét xem nữ nhân đang đối đầu vơí mình thích vuốt ve ở những bộ phận nào, và nữ nhân này thích nhẹ nhàng hay mạnh bạo.

Thường tình thì phải nhẹ trước mạnh sau. Người nữ, cũng như nam, tình hứng phát động thì cứ tự nhiên các mạch máu đều căng cứng làm phồng nở "tính bộ". Xem cảm giác ở dưới tay mình nam nhân chỉ cần một chút chú ý cũng biết cảm hứng của đôi bên đã nổi tới trình độ nào rồi. Để cho đôi bên lên đến cao độ hứng tình phương pháp mơn trớn cũng phải đạt đến mức nghệ thuật vậy, nghiã là biết cách và biết áp dụng.

Huyền Nữ lại nói thêm về sự biểu hiện của nghệ thuật mơn trớn: "Nghệ thuật dầu sao cũng phải có dẫn dắt nên sự thi hành phải có tuần tự và tự nhiên".

Phải bắt đầu từ trên trước đã, từ đầu từ cổ trở xuống, từ sau lưng trước rồi mới vòng tới nhũ hoa, mông trước rồi mới tới âm bộ, lại ngoài trước trong sau, gõ cửa rồi mới vào nhà v.v... lại nông trước sâu sau, đừng vội hấp tấp; ít trước nhiều sau, nhẹ trước mạnh sau v.v... và khi mơn trớn phải vận dụng đầy đủ hình thức và bộ phận: mắt phải thiết tha, hơi thở ứng nhịp, tận dụng bàn tay, ngón tay, ngón chân, bả vai bộ ngực, chót lưỡi, môi, răng v.v...

GHI CHÚ:

1. Bản tính nữ nhân thường thụ động, lại hay e lệ nên trượng phu cần phát động trước và khi nữ nhân chớm động xuân tình thì sẽ dễ hoà theo, đáp ứng. Ta sẽ thấy người nữ môi sẽ hơi khô, miệng sẽ hơi hé, đầu vú sẽ căng căng, và thân mình sẽ ngúng nguẩy lắc lư. Thảng hoằc người nữ gặp phải nam nhân vụng về thì lúc nầy cũng nên giúp sức và bỏ tính e lệ đi, tự tay mình sẽ hướng dẫn tay nam nhân tìm đúng địa điểm nhậy cảm của mình, có khi ở đầu nhũ hoa, có khi ở vòng mông, có khi ở ngoài âm thần, có khi ở trong âm đạo.

2. Người nữ cũng đừng quá e lệ, trái lại phải hoà hợp để cùng nhau tìm đến thú vui chung, muốn vậy phải tỏ ý của mình ra sao, cả bàn tay hay một hai ngón, mình thích mưa xuân hay bão táp v.v... để nam nhân theo đó mà hành sự. Lại cũng đừng cố ép mình, hãy để cho cơ thể mình vòng vèo uốn éo tùy theo xúc cảm của thần kinh; và đáp ứng, tay nữ nhân cũng nên biết tìm "cây nấm linh chi", dò tìm từ gốc, từ rễ ra đến hoa nấm. Cũng có khi nên dùng đầu lưỡi mà hôn hít thưởng thức sự tuyệt diệu của "nấm linh chi" và cũng là để mở đầu cho người nam cúi xuống "nói chuyện" với "đóa hải đường" của mình.

3. Tuy nhiên có một điều nên nhớ, chớ có tham lam thái quá. Nếu nữ nhân bộc lộ sư nồng nhiệt thái quá trong lúc tận hưởng các món ăn chơi lại gặp phải nam nhân không "vững tâm", không "an khí", tất sẽ không ẩn nhẫn được, trào ra, đến khi nhào vào việc chính thì không còn kềm chế được nữa, sẽ bị tảo tiết và khi ấy cả hai sẽ bẽ bàng, cuộc vui khộng vẹn, ấm tức.

TỨ HẬU VÀ CỬU KHÍ

Như ở một chương Hoàng Đế hỏi về cách thức xử trí khi nữ nhân chưa bột hứng mà nam nhân thì khí lực tràn trề, nay Hoàng Đế lại hỏi về một trường hợp trái lại, đó là tình trạng của nam nhân một khi xông trận mà rụt rè, vấp váp... Đáp lời, Huyền Nữ giải rằng:

Để chuẩn bị cho sự giao ái hòa hợp người nam cần biết đến "Tứ chí" hay "Tứ hậu" (tức là khí thế) và người nữ cần biết đến "Cửu khí".

Huyền Nữ giải thích về "Tứ Hậu" như sau:

1. Người nam, dương cụ không phấn chấn ấy là thể lực không đầy đủ.

2. Dương cụ phấn chấn mà không đủ ni tấc, ấy là bắp thịt không ra gì.

3. Đủ ni tấc mà chẳng cương cường ấy là do gân sức yếu kém.

4. Có cương cường mà thiếu hăng hái là do nội khí không đầy đủ.

Về "Cửu khí" của nữ nhân, Huyền Nữ nói:

1. Thở ra hít vào gấp rút ấy là phế khí (khí ở phổi) đầy đủ.

2. Rên rên rỉ, ấy là tâm khí sung mãn.

3. Hai tay quấn chặt nam nhân ấy là Tỳ khí thịnh vượng.

4. Âm hộ ẩm ướt ấy là thận khí no ấm.

5. Thái độ ân cần, miếng cắn yêu nam nhân, ấy là cốt khí không thiếu.

6. Hai chân quặp lấy đùi nam nhân ấy là gân sức thừa thãi.

7. Thân hình mềm dẻo, bóp nắn lấy dương cụ ấy là khí huyết tràn đầy.

8. Đê mê rối rít xoa nắn bộ ngực nam nhân ấy là nhục khí có dư.

GHI CHÚ:

1. Đưa ra những nhận xét về Tứ Hậu và Cửu Khí là để đo lường tình trạng về sinh lý của nam nữ. Muốn xem nam có phần nào yếu kém thì do sức của dương cụ. Muốn xem nữ phần thiếu suy thì nhận định qua những động tác khi người nữ giao hoan.

2. Đại để biết được phần suy, phần thịnh ta mới có thể tìm phương pháp sửa trị cho quân bình âm dương, tạng phủ cường mạnh mà cầu được khoái lạc trong sinh lý, lại cầu được ích thọ diên niên.

TƯ THẾ VÀ TÌNH THÚ

(Hoàn cảnh và hứng thú)

Hoàng Đế nói: "Nguyên tắc tiết độ trong việc nam nữ giao hợp là nguyên tắc nào ?".

Tố nữ đáp: "Nam nữ giao hợp là thuận theo căn bản âm dương của trời đất. Nhưng không nên để lệch đi khiến cho nam nhân càng ngày càng suy hoại thân thể trong khi nữ nhân được bách bệnh tiêu trừ. Đôi bên phải thân tâm sướng khoái, thân cường khí thạnh, mạnh mẽ sung khí mới là nguyên tắc. Nếu không theo đạo âm dương thì thân thể ngày càng suy vi. vì vậy các yếu tố căn bản của giao hợp là:

· An định sự háo hức.

· Tâm trạng hứng thú.

· Tinh thần sung mãn.

Khi đã có đủ ba thứ nầy tức là tập trung được tinh khí thần thì tự nhiên không còn sợ nóng lạnh, không quá no không quá đói. Khi thân thể khỏe khoắn, tình tự tự nhiên nổi lên, đó là chuyện bình thường. Khi giao tình, phải từ từ mà tiến hành, giữ ba nguyên tắc trên thì tinh lực của nam nhân không bị suy nhược, khoái cảm của nữ nhân lên đến cực điểm".

GHI CHÚ:

1. Tố Nữ vạch cho Hoàng Đế biết đạo giao hợp là phải điều hoà và an dưỡng thân tâm. muốn vậy phải học cách và chuẩn bị có phương pháp, bởi vì khi lâm trận mà tình tự an định (không có tâm trạng quá bồn chồn háo hức), tâm trạng hứng thú không miễn cưỡng, tinh thần khỏe khoắn sung mãn thì bên ngoài và bên trong đều mạnh, không thể nào mà bại trân được.

2. Sách vở xưa của người Do Thái cũng có nói chuyện đưa đến hứng thú gối chăn: "Nếu vợ chồng tương thân tương ái thì dầu cho giường chật ngủ cũng thoải mái vui thú. Nếu phu phụ bất hòa dầu cho giường rộng bao la vẫn thấy chật hẹp tù túng". Điều nói trên cốt nhắc nhở gái trai trong đời sống vợ chồng tạo nên c1i "tâm bình khí hòa", thanh thản, hòa thuận, vui vẻ.

3. Làm cho tăng gia tính cảm (độ sướng trong khi giao hợp) là do ba yếu tố:

· Phản ứng của trung khu thần kinh.

· Kích thích của ngoại giới.

· Kỹ thuật của tính giao (giao hợp).

Cả ba thứ trên tuy nói là tương quan mật thiết với nhau nhưng hai thứ sau tùy thuộc nơi nam nhân rất nhiều. Họ có thể làm tăng hai yếu tố nầy lên để tăng phần khoái cảm trong cuộc giao tình.

4. Các nhà tâm lý học phát hiện rằng đối với phụ nữ cái hoàn cảnh, cái không khí của tính giao quan trọng nhất. Theo báo cáo của bác sĩ Kim Soai thì nam nhân chỉ cần tưởng tượng thì cũng gợi hứng dược dương vật sừng lên và cảm thấy hứng thú, trong khi đó nữ nhân thì không vậy. Họ cần phải có những yếu tố hiện thực mới động tình, phải có mắt thấy (rõ ràng những điều gợi dục) tai nghe (thì thầm lời yêu đương hay dâm ngữ) xúc giác (hai bên thi thể chạm nhau, rờ rẫm sờ soạng thoa nắn) mới tạo cho họ hứng tình gợi dục. Bởi vậy trước và trong khi giao tình nam nhân phải nhớ đến các yếu tố nầy mà tăng cường mới mong chinh phục được nữ nhân.

5. Ngoại giới kích thích thì ngoại giới cũng có thể làm tiêu hao hứng khởi của nữ nhân. Họ rất dễ bị ngoại cảnh làm nguội lạnh tình dục. Bác sĩ Kim Soai cho biết hầu hết nữ nhân không thích làm tình mà mở đèn trong khi nam nhân thích mở đền để xem thân thể mình và thân thể̉ người tình quyện nhau như thế nào, xem sự uốn éo vặn vẹo khi sướng khoái của nàng ra làm sao. Nữ nhân ban ngày hay đèn sáng chắc chắn là không thể đạt đến cao trào sướng khoái như làm tình ban đêm hay khi trong bóng tối.

Cũng vậy, giữa nam và nữ có sự khác biệt về sự "tắt đèn làm lại" nam nhân khi đương mê trận mà bị phá đám sau dó vẫn có thể tiếp tục như thường, trái lại nữ nhân hứng tình đã tiêu tan không còn hứng thú để tiếp tục làm lại nữa. Trong khi hai đàng quấn quýt nhào lộn mà phải buông nhau để chàng đi trả lời điện thoại thì chắc chắn là cuộc vui nên kết thúc, có kéo dài thêm nữ nhân cũng không còn lòng dạ nào.

6. Giữa hiện tượng "cầu ái" (nhu cầu giao hợp) và hiện tượng "sinh vật" (nhu cầu sinh sản truyền giống) có quan hệ mật thiết với nhau. Trong thế giới loài vật và thế giới của loài người chưa được khai hóa thì sự sinh hoạt tính dục đều do mùa và chu kỳ định đoạt. Động vật cao đẳng thường có chu kỳ tính giao là một năm một lần hay một năm hai lần (mùa rượng đực). Nhiều dân tộc chưa văn minh còn có tập quán nầy. Họ tổ chức Hội mùa Xuân hay Hội mùa Thu cho thanh niên thiếu nữ tới tuổi dậy thì có cơ hội tính giao mà đi đến hôn nhân truyền giống.

7. Có khi vợ chồng đối với nhau sự hứng tình cũng không đồng bộ về thời gian, bởi vậy nhiều khi phải "bồi dưỡng khí thế" nghĩa là tạo hoàn cảnh và khí thế để hai bên cùng cảm thấy hứng tình. Theo Von Krafft Ebing và Kos Smann thì đàn bà trước hoặc sau thời gian có kinh mấy ngày là giai đoạn hứng tình quyết liệt. Đàn ông theo quan sát của Julius Nelson thì sự tuần hoàn của hứng tình là 28 ngày. Các ông Perry Coste và Von Roemet cũng có báo cáo đàn ông chu kỳ cũng giống như vậy và có đỉnh điểm là ngày đầu tháng và ngày 18 của tháng.

Nếu các báo cáo trên là đúng thì phù hợp với cuộc sống tính dục của người bán khai, họ mở những cuộc liên hoan nam nữ vào đầu tháng và các ngày 18, 19 trong tháng.

8. Thời gian hứng tình của nam nữ không giống nhau. Khi hứng tình rồi thì sẵn sàng lâm trận cũng chênh lệch về thái độ hăng hái nhập cuộc, bởi vậy cần có chiến lược bồi dưỡng khí thế. Tránh ánh sáng vì nữ nhân thẹn thùng khi tự thấy mình làm chuyện đó. Sờ soạng để tạo xúc giác, nói lời âu yếm để tăng lòng thích được vuốt ve... Nên nhớ nữ nhân cũng như động vật có hiện tượng chống cự vì thời kỳ kêu xuân chưa tới. Tâm lý đó cộng với những thích thú về viễn tượng sướng khoái khiến nữ nhân có thái độ "bán nghinh bán cự" nửa như mời mọc nửa như chối từ, như con thú cái bị con thú đực theo đuổi lúc thì vừa chạy trốn lúc thì đón nhận.

Hiểu được tâm lý đó của nữ nhân (thẹn thùng và chạy trốn, muốn thấy và cần vuốt ve) nam nhân muốn có một cuộc xuân tình phải chủ động tấn kích. Muốn bắt được con thú đẹp để ôm ẵm phải giăng một cái bẫy thật đẹp. Cái bẫy đó là bồi dưỡng khí thế trước khi giao hợp. Khí thế càng hoàn chỉnh, hứng thú tình ái càng gia tăng.

Theo kinh Tố Nữ, bồi dưỡng khí thế cũng chỉ là thể hiện đạo âm dương mà thôi: "Tạo nên sự hài hòa giữa hai bên nam nữ, không trục trặc. Nếu theo nguyên lý nầy mà thực hành mọi sự sẽ thông suốt vĩnh lạc, coi thường nó, không đúng nguyên tắc, thiếu chuẩn bị chỉ đem đến mệt mỏi và thất vọng trong đời sồng gối chăn thôi, mất đi hạnh phúc của trần gian."

TÂN HÔN MỘT KHẮC ĐÁNG NGÀN VÀNG

Hoàng Đế hỏi: "Tại sao gọi là nguyên tắc âm dương giao hợp ?"

Tố Nữ đáp: "Nam nữ giao hợp là chuyện tự nhiên của trời đất, của sự tạo thành chủng tộc không mất. Do thuận lẽ âm dương mà nam nhân tinh cường khí tráng. Do thuận lẽ âm dương mà nữ nhân bách bệnh tiêu trừ. Hai bên đều cảm thấy sướng khoái. Nếu không hiểu nguyên lý giao hợp thì thân thể̉ ngày càng thương tổn, suy yếu.

Vậy cái đạo giao hợp phải như thế nào?

Đó là chỉ giao hợp khi:

· Tâm tình an định.

· Ý khí hòa hài.

· Tình tự ổn định.

· Thân tâm nhất chí.

· Y thử dưỡng sinh.

· Không nóng quá, lạnh quá.

· Không no quá, đói quá

· Tâm tư quang minh, hành vi rõ ràng.

· Tính tình tự nhiên, thần thái ung dung.

GHI CHÚ:

1. An định, hài hòa, ổn định, tự nhiên, thung dung có nghĩa như không bộp chộp hấp tấp. Bắt đầu giao hợp phải từ từ đâm vô, từ từ chuyển động. Càng ít đâm vô rút ra càng tốt bởi vì như vậy thì sự sớm bắn khí không xảy ra và giúp cho ta kéo dài trường hợp giao hoan, thõa mãn nữ nhân mà không có cảnh nam nhân bẽ bàng vì "khóc ngoài biên ải".

2. Kinh Tố Nữ đặt nặng vấn đề tâm lý trong khi giao hợp nên chú trọng đến sự ổn định thân tâm, tâm cảnh bình hòa. Trạng thái thong dong tự tin nầy làm tăng sự sướng khoái đã đành mà còn tăng thêm cường thận, ích thọ (sống lâu, không bị chết sớm).

3. Thong dong, từ tốn còn có mục đích kéo thời điểm sướng khoái của nữ nhân về cho đồng nhịp với sự sướng khoái của nam nhân vì trong sinh hoạt phòng sự ít khi có sự đồng bộ nầy, nếu bốc hốt, lộp chộp thì chỉ có mình mình tới còn nàng mãi lẹt đẹt ngoài sau. Sự lỡ làng đó rất có hại cho sự hoà thuận hai bên và ảnh hưởng tới những lần sau.

4. "Khóc ngoài biên ải" bắn tinh sớm còn do sự thiếu kinh nghiệm của nam nhân, nhất là trong đêm tân hôn. Một cuộc thống kê của một bác sĩ nhật Bản cho biết như sau:

· Thành công: 73.4 %

· Thất bại: 36.0 %

Vậy sự thất bại, nghĩa là không hưởng được đêm tân hôn đúng nghĩa lớn hơn ta tưởng.

5. Đi tìm nguyên nhân thất bại để cho người đi sau biết mà tránh, ông bác sĩ trên làm cuộc phỏng vấn khác, kết quả như sau:

· Dương cụ không cứng 4.8 %

· Khóc ngoài quan ải 11.3 %

· Giao hợp đau đớn 37.1 %

· Không thấy cửa động 17.7 %

· Nguyên nhân không rõ 20.1 %

· Không có ý kiến 5.3 %

Thống kê nầy cho thấy vì quá "khẩn trương" tinh thần bồn chồn lo lắnǵ kích thích quá độ khiến cho mới đút vô chưa tới đâu là đâu thì đã xuất tinh là trường hợp khá phổ biến trong đêm tân hôn. Mặt khác sự không an định tinh thần cững khiến cho dương cụ không cương, từ đó không thể tiến hành một đêm tân hôn cho ra hồn được.

5. Sự gấp rút bồn chồn bộp chộp sanh ra tệ hại là nữ nhân chưa được vuốt ve đầy đủ tinh thần cộng tác chưa được khơi dậy, dâm thủy chưa có khiến cho sự nghênh đón chưa đầy đủ, rõ ràng là cuộc ân ái trở thành một sự thất bại, mất đi mỹ cảm ban đầu mà có khi vỡ tan hạnh phúc vì tạo nên tâm lý sợ hãi ái ân hay khinh thường người phối ngẫu.

6. Kiếm không ra lỗ âm đạo vì bộp chộp cũng có mà mà vì thiếu kinh nghiệm cũng có. bổ túc kiến thức về cấu tạo cơ quan sinh dục của phụ nữ trước đêm tân hôn không phải là điều vô ích.

7. Sự thất bại trong đêm tân hôn đưa đến kết quả như thế nào, cuộc thống kê cho thấy:

· Sau đó thì mỹ mãn 73.4 %

· Sau đó mỹ mãn nhưng ly dị 19.2 %

· Ly dị vì trật vuột 1.9 %

· Lý do khác 4.5 %

· Không trả lời, chỉ có 1.0 %

Tổng quan ta thấy vì thất bại trong đêm tân hôn mà cặp vợ chồng ly dị chiếm một phần tư. Tránh tình trạng nây và biến nó thành phút ngàn vàng trong đời chẳng phải là quí lắm sao? Muốn vậy phải chú ý đến những nguyên nhân phát sinh trở ngại đã nói ở trên và cũng nên tạo cho mình một sự tự tin rằng mình sẽ làm được, nhất là đối với những người từng thủ dâm. Những người nầy vì sợ rằng với cái tật mình đã có mình không thể hướng dẫn người đàn bà tuyệt đỉnh khoái lạc như họ mong muốn hay là mình không còn cảm thấy hứng thú bằng như mình tự thỏa mãn bằng tưởng tượng như trước đó. Tâm lý tự tin, thong dong ổn định là một sự chuẩn bị cần thiết và ích lợi.

9. Sau lần thất bại đầu dĩ nhiên là làm lại, nhưng tắt đèn làm lại không có nghĩa là lần sau đó thì thành công ngay. Thống kê cho biết:

· Lần thứ hai thành công 30.1 %

· Lần 3-5 mới thành công 43.8 %

· Lần 6-10 mới cáo thành 10.8 %

· Lần 11 hay hơn nữa 8.8 %

· Không trả lời 6.6 %

10. Sớm xuất tinh người đàn ông có tâm trạng bất an và xấu hổ, nữ nhân trong trường hợp này không nên chế diễu hay hỏi mắng mỏ "ra rồi đó hà, dở ẹt", "xong rồi à, sao nhanh thế?"... Những câu hỏi nầy càng khiến cho trượng phu của mình mất hết lòng tự tin và tự ái có thể kéo đến tình trạng bất lực về sau. Gặp tình trạng nầy nữ nhân cần phải an ủi nam nhân cho biết sự bất tương hợp như vậy là chuyện có thể xảy ra và làm lại lần nữa thì có thể khá hơn, không có gì mà phải áy náy. Có thể khuyên trượng phu mình nghĩ dưỡng sức một lúc hay nhủ một giấc "rồi ta lại vui chơi, đêm còn dài mất đâu mà hòng sợ."

11. Trong trường hợp thất bại vì nữ nhân quá đau đớn thì nên ngừng ngay. Lúc này nam nhân phải biết vuốt ve mơn trớn cho người bạn mình hứng tình lên, ngoài vuốt ve nên nói những lời yêu đương để tạo một không khí thuận tiện chờ khi cả hai cơ quan trơn nhuận (đầm đài lá liễu) mới nên tiến hành trở lại.

Có thể sự đau đớn sanh ra do màng trinh dai hơn bình thường, không chịu rách, trường hợp nầy cũng có nhưng mà rất ít. Phần nhiều cô dâu đau vì sợ sệt, vì có khuynh hướng chống cự nên tiến hành "cuộc vui" một cách miễn cưỡng khiến nên âm hộ không mở ra lớn đầy đủ. Sự mơn trớn mân mê rất cần trong trường hợp nầy.

12. Muốn có một đêm tân hôn hoàn mỹ, cả hai nên tham khảo sách về cấu tạo cơ quan của bạn mình. Nhưng câu dạy của Tố Nữ vẫn là quan trọng: "Bình tâm khí hoà" mới có thể hoàn tất cái lễ vợ chồng bởi vì "xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim" đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng, không thể bỏ cho lãng phí dược, nghiên cứu cẩn thận sách này thì bảo toàn được sự kiện khang và luôn luôn gặt hái được khoái cảm!

NHIẾP BỔ VÀ CƯỜNG TINH

(Bổ thận và cường dương)

Tố Nữ nói: "Có một người con gái tên Thái Nữ rất thâm hiểu đạo âm dương", Hoàng Đế sai Thái Nữ đi mời Bành Tổ cho mình thỉnh giáo về phương pháp diên niên ích thọ (sống lâu).

Bành Tổ trả lời: "Giữ tinh khí, thu dưỡng tinh thần. uống các thứ thuốc bổ dưỡng thì có thể trẻ mãi không già. Tuy nhiên nếu đã có ba thứ trên mà không biết cách giao hợp cho phải phép thì cũng vô ích thôi.

Đạo giao hợp là hợp thành nhất thể với người giao hợp. Xem kìa trời đất liền nhau thành nhất thể nên mãi mãi trường tồn. Con người cũng vậy, không khác gì. Nếu không biết nguyên tắc đó thì bị thương thân bại thể có khi còn táng mạng nữa"

GHI CHÚ:

1. Hoàng đế vì trăm công ngàn việc nên người đã mệt mỏi. Thêm chuyện tửu sắc nên thần kinh không nhiều thì ít bị suy hoại, luôn luôn cảm thấy như mình đang mang bệnh. Để cho Hoàng Đế tin tưởng thuốc thang công dụng, các y sư trong triều mới bàn nhau đi mời Bành Tổ tiên sinh là một vị triết nhân thông hiểu thuật dưỡng sinh. Tương truyền Bành Tổ tiên sinh rất thọ và dùng phương pháp nhiếp bổ (dùng thuốc bổ) và cường tinh (làm cho tinh khí mạnh hơn, cường dương) nên khi đã già mà vẫn thấy như thanh xuân và khí thế giao hợp vẫn không giảm.

2. Thái Nữ, như Tố Nữ, là người con gái thật đẹp lại thấu hiểu các phương cách phòng sự. Những điều chỉ dạy của bà ta rất ích lợi cho cuộc dưỡng sinh và đời sống chăn gối.

3. Sách "Liệt tiên toàn truyện" có ghi lại truyện Thái Nữ vâng lệnh của vua Chân Mục Vương (976 tr. Công nguyên) đi hỏi Bành Tổ tiên sinh về bí thuật phòng trung để về truyền lại cho vua. Từ đó về sau mục Vương là người hưởng được kết quả diệu kỳ của hành sự giao hoan theo đúng phương pháp.

4. Sách "Thập di ký" có ghi chuyện Vương mẫu xuống trần ăn ở cùng với Mục Vương của vùng Vị Châu thời Đông Tấn. Lúc nầy Mục Vương đã hơn 50 tuổi. Vương mẫu chỉ dẫn Mục Vương cách giao hoan và hai người đã hưởng một đêm sung sướng tuyệt trần.

Sách có nói thêm là trong đêm dó Vương mẫu lấy ra trong âm đạo một "hạch tổ" bảo vương nuốt đi vì rất bổ cho việc dưỡng sinh và cường tinh. Sách y học Trung quốc có ghi là hạch nầy dùng chữa bệnh tạng suy, cải lão. Hạch còn trị được bệnh tinh thần không an định, giúp cho người bệnh cảm thấy an định thơ thới tâm hồn.

5. Từ thời Hán y giới Trung Hoa đã có "Cam mạch đại tổ thang" là thang thuốc an thần trị bệnh cho phụ nữ mà chất chính vẫn là hạch tổ lấy từ trong âm đạo.

6. Trung quốc vốn nổi tiếng về các thang thuốc cường tinh tráng thể. Các thứ nầy vốn khác xa với các thứ thuốc kích dâm ngày nay. Thuốc kích dâm kích động thần kinh cho hứng tình gợi dục mà không giúp thân thể bổ dưỡng, không giúp cho nam nhân tiết khí (tiết giảm xuất tinh). Thuốc cương tinh tráng thể của trung quốc trái lại là thứ giúp thân thể chống lại bệnh suy nhược do các cách giao hợp không đúng phương pháp sanh ra mà vẫn giúp được người dùng cảm thấy thích thú trong khi giao hoan.

DƯỠNG SANH VÀ LUYỆN KHÍ

Hoàng Đế hỏi Tố nữ rằng: "Nay ta muốn ngưng việc giao hợp một thời gian dài lâu rồi mới trở lại có được không?"

Tổ Nữ đáp: "Không nên, trời đất có hiện tượng mỡ đóng, khí âm khí dương có hiện tượng thi hoá, như bốn mùa xuân hạ thu đông và hiện tượng ngày đêm tối sáng đều do thứ tự của thời gian mà biến hoá thành khác nhau. Con người ta cũng phải tuỳ theo nguyên lý âm dương này mà hành động. Nếu ngưng giao hợp thì tinh khí không tuần hoàn, cái đạo âm dương bị cắt đứt như vậy làm sao tiếp nhận cái tiến trình bình thường để nhiếp bổ thân thể (bổ thân)? Phải theo cách luyện khí hành công nhiều lần, phải thải ra phế khí, phải thu vào tiễn khí (khí tươi mới) để tăng tiến sự tráng kiện thân thể".

1. Dương vật nếu không thường giao hợp thì chẳng khác nào con rắn hổ vì không cử động mà phải nằm chết cóng trong hang. Do đó người khôn phải tuân theo lời chỉ dẫn đạo lý trên để tạo dịp cho tinh khí lưu thông trong toàn thân thể tới xương cốt, gân, thịt. Trong khi giao hợp mới dùng phép hoàn tinh khiến cho tinh dịch không bị cảnh lãng phí vì ở một chỗ không dùng.

2. Đọc Tố Nữ kinh ta khám phá thấy ngày xưa phối hợp nhiều phương pháp dưỡng sinh chứ không phải chỉ theo một cách nào đó mà bỏ quên những cách khác. Trong các phương pháp này có nghệ thuật phòng the là một, và nghệ thuật phòng the lại phối hợp nhiều phương pháp dưỡng sinh khác.

3. Ở Trung Quốc từ lâu người ta nghiên cứu các cách sinh hoạt, tập quán ăn uống, cách giao hợp... của các loại động vật sống lâu để đưa ra các "thuật dưỡng sinh" như đạo dẫn, luyện khí, thai tức, bích cốc, thực tiếp, giao hợp,... Sách Tố Nữ là sách dạy về phòng trung, giao hợp hay nhất, vì rất là hiệu nghiệm. Đạy là bí kiếp cho các bậc Đế Vương và giai cấp quý tộc, họ dành riêng để theo đó mà hưởng của Trời.

"Đạo dẫn" tổng quan có thể coi như là một loại thể dục nhịp điệu cùa phép thể dục ngày nay, Trang Tử có truyện Hoa Đà (145-280 Công nguyên) là danh y của Trung Quốc thời cổ đại. Hoa Đà rất rành về phép đạo dẫn cổ truyền. Quan sát loài gấu leo cây, ông sáng tác ra cách luyện tập tứ chi. Quan sát năm cách vận động của phi cầm, ông đặt ra cách luyện tập để thân thể tráng kiện, tinh thần thoải mái. Nhờ theo phép đạo dẫn Hoa Đà sống trường thọ, năm 99 tuổi tay mắt vẫn còn sáng tỏ, răng chưa rụng cái nào.

Ngày nay, ta nói mà không sợ, phép đạo dẫn là những động tác co duỗi, xấp ngửa, đi ngồi, đứng lên quỳ xuống, đi bộ, hô hấp... có tác dụng lưu thông máu huyết để cường sinh khang kiện thân thể.

4. Đồng thời với Hoa Đà có ông Lãnh Thọ Quang cũng là người thực hành viên mãn phép đạo dẫn. Ông thường vận động đầu cổ và hít thở thật sâu lại áp dụng thành công các bí quyết phòng trung nên khi đã hơn 160 tuổi tuy đầu tóc đã bạc mà thần khí vẫn như người thanh xuân. Bí quyết phòng sự của ông ta là "thái âm bổ dương" gặt hái thu lượm cái âm khí để làm bổ cái dương khí.

5. Sách Hậu hán thư, trong các truyện về phương thuật có ghi ở quận Thượng Đãng, tỉnh Sơn Tây có người tên Vương Chân tuổi gần 100 mà mặt hồng hào rạng rỡ như người chưa quá ngũ tuần. Bí quyết trường thọ của ông nầy là thực hiện phép "thai tức" và phép "thai thực".

"Thai thực" có nghĩa là chỉ ăn những gì sanh ra từ bào thai mà thôi, tỷ dụ như thịt bò, thịt heo... không ăn những gì có nguồn gốc mễ cốc.

6. Thời cổ Trung quốc thuật dưỡng sinh ngoài những vận động thân thể và hô hấp còn để ý đến sự ăn uống đầy đủ (thai thực) và thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Như vậy sự sinh hoạt mới quân bình không vì một mặt nào của đời sống mà hủy bỏ mặt khác của đời sống. Sự quân bình đó làm cho con người được kiện khang và trường thọ.

7. Theo khoa học hiện đại thì:

· "Đạo dẫn" là thể thao thể dục, các loại hoạt động làm cho giãn gân cốt, bắp thịt được cứng rắn, thân thể được kiện toàn.

· "Luyện khí" là phương pháp thở hít không khí đúng cách, thở ra hết chất hơi đã bị phổi thải hồi, hít vô không khí mới để giúp cơ thể lọc máu.

· Hai cách nầy ngày nay ai năng chăm chỉ thực hành thì sẽ có sức khỏe lâu dài diên niên ích thọ, trẻ trung thoải mái.

8. Đồng hương với Vương Chân có Diệc Mạnh Tiết thực hành phép ngưng thở, ông ngồi yên tạm ngưng hô hấp, thân mình bất động trong khoảng 100 ngày. Điều nầy phù hợp với những khám phá về thuật du già ở Ấn Độ, có loại khiến cho người luyện tập có khả năng "công đông miên", ngủ trong mùa đông, lúc đó hô hấp thật chậm nhẹ nhàng như gần đứt, động mạch đập rất khẽ cơ hồ như không còn nữa, Những người nầy có thể chôn mình trong hầm sâu dưới đất không ăn trong vòng một tháng mà không nguy hiểm gì đến tính mạng bởi vì chính họ hít thở thật ít không khí, uống một số lượng cực nhỏ nước và tiêu thụ một phần nhỏ thể lực của họ để bù trừ.

9. Người xưa dùng phương pháp hô hấp ép bụng phối hợp với phép thực tiếp để trừ căn bệnh già nua suy nhược, bệnh áp huyết cao và táo bón. Họ còn dùng khí công để trừ bệnh thần kinh suy nhược, bệnh đau bao tử và bệnh kết hạch. Hai phép dưỡng sinh nầy chẳng qua là ngồi yên hô hấp (phép tĩnh tọa của võ lâm)

10. Thái cực quyền và Bát đoạn cẩm

· "Thái cực quyền" là do Hoa Đà quan sát ngũ cầm mà đặt ra. Thái cực quyền gồm 24 động tác. Tuy các động tác thay đổi nhưng từ động tác nầy sang động tác kế tiếp không đứt đoạn mà là các động tác liên tục của nhau, biến chuyển tương hợp từ từ mà thành, rất ích lợi cho sự luyện tập thân thể nhất là khi hơi có tuổi.

· "Bát đoạn cẩm" cũng tương tự như thế. Các yếu tố luyện tập là tập trung ý chí, thống nhất tinh thần để điều hòa hô hấp, tuy toàn thân vận động nhưng phải giữ phịp thở sao cho tự nhiên, nhẹ mà sâu. Mỗi ngày càng tập hít thở sâu càng tốt.

Cả hai phép thể dục phịp điệu nầy dùng phòng ngừa và trị các chứng áp huyết cao, tinh thần khẩn trương, đau bao tử bệnh tim và nhiều bệnh khác. Đối với hệ thống tuần hoàn và hệ thống thần kinh, cơ quan hô hấp, cơ quan tiêu hóa cũng rất có hiệu quả.

11. Kinh Thái Cực Quyền có ghi người luyện tập phải hô hấp do đan điền. Đan điền là danh từ dùng trong khoa châm cứu chỉ một trong ba vị trí trong người. thứ nhất là trên đầu (đại não), thứ hai ở hoành cách mô, thứ ba ở rốn. Căn cứ vào các sách vở của đạo gia thì đan điền là chỗ trọng yếu nhất trong cơ thể con người. Vậy chữ đan điền nói trong kinh thái cực quyền là chỉ chỗ nầy. Khi hô hấp có thể để dưỡng khí tồn trữ tại đây để duy trì "tâm bình khí hòa tình tự an định" (cái tâm hồn được bình tĩnh, cái khí được điều hòa, cái dục vọng đầu mối của tình dục được an định). Y giới Mỹ gần đây nghiên cứu về Thái Cực Quyền và Bát Đoạn Cẩm đều công nhận khả năng làm cho tâm an và bình ẩn cái tình dục.

12. Phép hô hấp đan điền được luyện tập dùng cho trường hợp phòng sự mà thiết giảm xuất tinh, có mục đích điều tức dưỡng khí tăng gia khí lực trong trường hợp bất lực hành sự.

Nội dung hô hấp đan điền người xưa có ghi lại trong sách. Trang Tử có nói: "Chân nhân hô hấp thâm nhập cước, phàm nhân hô hấp tiển tại hầu" nghĩa là bậc chân nhân hít thở không khí vô đến chân, người thường chỉ hít thở được không khí vô đến họng mà thôi. Đại ý khuyên luyện tập hít thở không khí mới để bài trừ mệt mỏi trong người

13. Đời Động Tấn có người Cất Hồng đề xướng lối "thai tức" nghĩa là thở như thai nhi trong bụng mẹ, thở bằng mũi, không thở bằng miệng, hgít vào thật lâu sau mới từ từ thở ra. Cát Hồng khuyên sau khi hít vào phải đếm đến 120 tiếng mới từ từ thở ra mà số lượng không khí thở ra phải ít hơn số lượng không khí hít vào có như vậy không khí trong lành mới tòn tại trong thân thể. người siêng năng luyện tập có thể kéo dài thời gian giữ hơi trong bụng đếm đến 1000 mới phải thở ra. Ai luyện đến mức nầy có thể phản lão hoàn đồng, vĩnh bảo thanh xuân không bao giờ già.

14. Phép thai tức là phương pháp giảm bớt thở ra thán khí, tích tụ dưỡng khí trong cơ thể, phù hợp với quan điểm y học ngày nay.

Áp dụng nguyên tắc nầy trong việc phòng sự là cách giữ lại không cho xuất tinh bằng cách hít hơi thật dài vô phổi nìn hơi thật lâu mới thở ra tư từ. Lám như vậy nhiều lần khi thấy mình sắp bắn tinh. Ở Trung Hoa có thuật "thái âm bổ dương" tức thâu lượm âm khí để bổ cho dương khí và "thái dương bổ âm" là nguyên tắc áp dụng cho nữ nhân sẽ bàn đến ở những chương kế tiếp.

15. Nam nhân không thể lãng phí tinh dịch của mình, mỗi lần xuất tinh là mỗi lần phải có hiệu ích. Khi nữ nhân lên đến cực độ khoái lạc thì âm hộ sẽ có sức hút rất mạnh, quy đầu của nam rất khó lòng mà cưỡng lại để rút ra, lúc đó âm đạo sẽ hút tinh dịch của nam nhân vào cơ thể của nữ nhân để sau đó biến thành tinh dịch của nàng.

16. Cổ truyền ở Trung quốc có phương pháp luyện tập gọi là "tiểu châu thiên" là khi ngồi yên tĩnh tọa dương khí từ đan điển (chỗ rốn), tiến lên hội âm (giữa cơ quan sinh dục và bàng quang) xuyên qua giáp-suy (giữa xương sống) vào ngọc-chẩm (sau ót) tới nê-hoàn (đại não), xuống đài trung (giữa hai vú) trở về lại đan điền là xong một quá trình. Cứ như vậy mà điều khiển dưỡng khí chu du, công phu nầy phải luyện đến hai ba năm mới xong. Nam nhân đạt được pháp môn "tiểu châu thiên" khi giao hợp dương cụ và âm hộ phối hợp với nhau mà thực hiện quá trình tiểu châu thiên. Nữ nhân trong lúc tuyệt hứng, nguyên khí bị hút sẽ phần khoái lạc không bao giờ nghĩ đến chuyện chia tay.

Tố nữ khi nói về luyện tập thứ phương pháp tuyệt diệu nầy có bảo phải phối hợp với phương pháp đạo dẫn, cả hai phối hợp sẽ giúp cho nam nhân đạt được mục đích hoàn tinh.

17. Trong quyển "Ngọc Phòng Bí Quyết" có nói nếu đàn ông tập luyện được cách hô hấp đằng bụng, cho không khí vào sâu tới bụng (thật ra là hít thật nhiều hơi) thì sẽ tăng thể lực và trì lực (sức chống chỏi), khi giao hợp chống lại xuất tinh chỉ cần hít hơi dài vào đan điền đếm từ một đến 30 mới thay hơi khác, như vậy dương cụ sẽ cương cứng lâu hơn và chống chỏi lại khuynh hướng xuất tinh. Cho có hiệu quả hơn, áp dụng thêm phương pháp "tử vãn sinh lai" đã nói ở trên nghĩa là khi cương cứng quá phải rút ra, đợi hơi xìu xuống mới tiến hành trở lại.

18. Nữ nhân có phương pháp "hành khí" do nàng Triệu Phi Yến đời hán truyền lại. Nàng luyện tập bằng cách lấy dây lụa cột ngang lưng và tập chuyển động phần từ eo xuống mà phần trên không cần chuyển động. Sau đó nàng dùng thuật "bế khí chỉ tức" nín thở một hơi thật lâu. Với phương pháp hành khí, nữ nhân có thể co rút bóp mở âm hộ khiến dương vật cảm thấy sung sướng tuyệt đỉnh và từ đó rùng mình bắn tinh.

Công dụng của phương pháp nầy là làm cho dương vật được bóp chặt, nam nhân cảm thấy nữ nhân như mới, bóp, từ đó không thể cưỡng nỗi chuyện xuất tinh.

Sách "Hương Muội" nói rõ ràng hơn về phương pháp co bóp nầy. Khi tiến hành giao hợp phải có thứ tự: khi thằng nhỏ tiến vào thâm cung, cửa thâm cung phải mở ra đón chào. Khi chàng đã vào đến nơi thì cửa thâm cung đột nhiên đóng lại ôm chặc chàng, như mừng rỡ. Quá trình đâm vô rút ra của dương vật được quá trình mở bóp của âm hộ phối hợp tạo cho nam nhân cảm giác tuyệt vời.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro