Lop thiet giap ham Colorado

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên gọi: Lớp thiết giáp hạm Colorado

Xưởng đóng tàu: New York Shipbuilding Corporation

Newport News Shipbuilding

Bên sử dụng:Hải quân Hoa Kỳ

Lớp trước: Tennessee

Lớp sau:South Dakota (1920) (thiết kế)North Carolina (thực tế)

Thời gian đóng:1917 - 1923

Đặc điểm khái quát

Kiểu:Thiết giáp hạm

Trọng tải choán nước:32.600 tấn

Độ dài:190,3 m (624 ft 3 in)

Sườn ngang:29,7 m (97 ft 4 in)

Mớn nước:8,7 m (28 ft 5 in)

Động cơ đẩy:4 × Turbine hơi nước điện,4 × trục,công suất 28.900 mã lực (22 MW)

Tốc độ:39 km/h (21 knot)

Tầm xa:14.800 km ở tốc độ 18,5 km/h(8.000 hải lý ở tốc độ 10 knot)

Thủy thủ đoàn:1.080

Vũ trang:8 × Hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber (4×2).12 hoặc 14 × pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber.2 × ống phóng ngư lôi 21 inch.(1929:) 8 × pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber

Lớp thiết giáp hạm Colorado là một lớp bốn chiếc thiết giáp hạm thế hệ dreadnought được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất.Tuy nhiên, chỉ có ba chiếc được hoàn tất:Colorado (BB-45), Maryland (BB-46) và West Virginia (BB-48). Chiếc thứ tư Washington (BB-47) đã hoàn thành được 75% khi nó bị hủy bỏ theo những điều khoản của Hiệp ước Hải quân Washington vào năm 1922.Do đó, lớp Colorado trở thành những thiết giáp hạm cuối cùng được Hải quân Mỹ chế tạo cho đến khi lớp North Carolina đi vào hoạt động vào lúc sắp nổ ra chiến tranh Thế giới thứ hai.Lớp Colorado là một phần của chương trình "Thiết giáp hạm kiểu Tiêu chuẩn" của Hải quân Mỹ,một nhóm các lớp thiết giáp hạm được thiết kế có tốc độ và vận hành tương đương để đơn giản hóa việc cơ động trong hàng thiết giáp hạm. Những con tàu này là sự lặp lại của lớp Tennessee.Khác biệt chủ yếu là lớp Colorado được trang bị tám khẩu hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber thay vì mười hai khẩu hải pháo 356 mm (14 inch)/50 caliber trên các lớp trước đó.Việc thay đổi sang kiểu pháo mới có cỡ nòng lớn hơn là nhằm đối phó lại lớp thiết giáp hạm Nhật Bản Nagato, vốn cũng được trang bị tám khẩu pháo 16 inch.Cả ba chiếc trong lớp đều hoạt động tích cực trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.Maryland và West Virginia đều đã hiện diện tại Trân Châu Cảng khi xảy ra cuộc tấn công vào ngày 7 tháng 12 năm 1941; Maryland thoát được mà không bị hư hại, nhưng West Virginia bị đánh chìm tại vùng nước nông trong cảng. Trong cuộc chiến tranh, cả ba chiếc đều đã phục vụ như những tàu hỗ trợ hỏa lực trong các chiến dịch đổ bộ. Maryland và West Virginia đã hiện diện trong cuộc đối đầu cuối cùng giữa những thiết giáp hạm, trận chiến eo biển Surigao trong Trận chiến vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944.Cả ba chiếc trong lớp đều được đưa về lực lượng dự bị sau khi chiến tranh kết thúc, và đều được tháo dỡ vào cuối những năm 1950.

Thiết kế

Lớp Colorado là một phần của chương trình "Thiết giáp hạm kiểu Tiêu chuẩn" của Hải quân Mỹ, một khái niệm thiết kế để Hải quân có được một hàng thiết giáp hạm gồm những tàu chiến đồng nhất (rất quan trọng, vì nó cho phép vạch kế hoạch cơ động cả hàng tàu chiến thay vì phải tách ra "cánh nhanh" và "cánh chậm")Khái niệm "Tiêu chuẩn" bao gồm hỏa lực tầm xa, tốc độ trung bình 39 km/h (21 knot), bán kính lượn vòng hẹp khoảng 640 m (700 yard) và cải thiện việc kiểm soát hư hỏng.Những lớp thiết giáp hạm "Tiêu chuẩn" khác bao gồm Nevada, Pennsylvania, New Mexico và Tennessee.Thiết kế của lớp Colorado căn bản được dựa trên lớp Tennessee. Ngoài thay đổi lớn đáng chú ý khi tám khẩu hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber bố trí trên bốn tháp pháo nòng đôi thay thế cho mười hai khẩu Hải pháo 356 mm (14 inch)/50 caliber bố trí trên bốn tháp pháo ba nòng của các lớp trước đó, không có sự khác biệt lớn đáng kể nào khác giữa hai thiết kế.Thiết kế lớp Tennessee là kết quả của việc cải tiến lớp Mexico.Đa số các thay đổi được tích hợp vào lớp Tennessee trước khi lườn của chúng được đặt. Tuy nhiên, các kế hoạch bảo vệ dưới nước, sự phòng thủ chính của con tàu chống lại ngư lôi cũng như đạn pháo rơi ngay trước con tàu và tiếp tục di chuyển dưới nước trước khi và đánh trúng con tàu bên dưới mực nước, không thể thực hiện kịp lúc.Vấn đề là nhờ kết quả của một loạt thử nghiệm các thùng chắn được chế tạo (thực ra là các ngăn lườn tàu được đề nghị chế tạo) và thử nghiệm với cả vỏ giáp bên ngoài và bên trong; việc thử nghiệm đã chứng minh rằng một loạt các ngăn kín nước luân phiên đổ đầy dung dịch rồi chừa trống là một giải pháp phòng thủ rất hiệu quả chống lại ngư lôi; không may thay lại chưa hoàn tất.Để tiến hành chế tạo các con tàu càng nhanh càng tốt, bản chào thầu gửi đến các hãng đóng tàu đều lưu ý rằng: nếu họ được chọn thầu để chế tạo con tàu, được phép có sự thay đổi trong thiết kế con tàu trong vòng ba tháng sau khi đặt lườn.Sơ đồ bảo vệ dưới nước mới bao gồm năm ngăn kín nước riêng biệt phân cách bởi những vách ngăn ở cả hai bên mạn tàu:lớp ngoài cùng để trống,ba ngăn được đổ đầy, và một ngăn trống trong cùng.Thêm vào đó, tám nồi hơi được dời chỗ từ vị trí nguyên thủy trên các lớp trước đó sang những chỗ riêng biệt bên mạn phải và mạn trái của động cơ turbo điện, tạo nên một lớp phòng thủ mới;con tàu vẫn có thể di chuyển khi một hay thậm chí cả một dãy bên nồi hơi không hoạt động nếu bị hư hại trong chiến đấu.Sự sắp xếp mới này buộc thay đổi vẽ thẩm mỹ bên ngoài so với hai lớp New Mexico và Tennessee:một ống khói lớn duy nhất trước đây được thay bằng hai ống khói nhỏ hơn.Các cải tiến khác của lớp Tennessee bao gồm một nỗ lực chuyển chỗ phòng ngư lôi phía trước cách xa hầm đạn của dàn pháo chính 356 mm (14 inch),vì phòng này được xem là mong manh; cũng như thiết kế mới yêu cầu sử dụng đai giáp bên ngoài thay vì bên trong, để cho "một lổ trống trong sự liên tục của cấu trúc hông"không tồn tại trên con tàu.Góc nâng của dàn pháo chính được tăng lên đến 30 độ một phần là do những lời đồn đại rằng các tàu chiến chủ lực của Đế quốc Đức có thể nâng đến 30 độ cũng như xuất hiện một bức ảnh chụp các khẩu pháo trên chiếc thiết giáp hạm dreadnought Anh Quốc Queen Elizabeth cho thấy các tính năng tương tự

Chế tạo và nâng cấp

Với kế hoạch tài khóa 1917 được chuẩn y, việc đấu thầu bốn chiếc thuộc lớp Colorado được mở vào ngày 18 tháng 10 năm 1916; và mặc dù Maryland đặt lườn sớm vào ngày 24 tháng 4 năm 1917, ba chiếc thiết giáp hạm còn lại chỉ được khởi công vào năm 1919-1920. Cùng với sự hủy bỏ lớp South Dakota thứ nhất, lớp Colorado là những thiết giáp hạm Mỹ cuối cùng được đưa vào phục vụ trong gần hai thập niên. Chúng cũng là những thiết giáp hạm Mỹ cuối cùng có tháp súng đôi; khi lớp North Carolina và lớp South Dakota thứ hai trang bị chín khẩu hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6 và lớp Iowa có chín khẩu hải pháo 406 mm (16 inch)/50 caliber Mark 7 bố trí trên ba tháp pháo ba nòng.Kế hoạch hiện đại hóa các lớp Tennessee và Colorado được trù định vào tháng 10 năm 1931.Chúng bao gồm các biện pháp bảo vệ chống lại đạn pháo hóa học vốn có chứa khí độc,mặc dù Ủy ban Tướng lĩnh từng khẳng định vào cuối những năm 1920 là không thể khử độc một thiết giáp hạm trúng phải loại đạn pháo này, mà cần phải đánh chìm nó.Ngoài ra, đai giáp chính sẽ được ghép thêm thép tấm 36kg (80 lb) tôi đặc biệt (STS);vốn sẽ làm tăng thêm 1.319 tấn vào lượng rẽ nước của con tàu, cũng như lớp giáp trên nóc tháp pháo sẽ được làm dày hơn, hệ thống kiểm soát hỏa lực sẽ được cải tiến với những kỹ thuật mới nhất, và kiểu đạn pháo mới dành cho dàn pháo chính sẽ được thiết kế.Hai (sau này là bốn) pháo pháo tự động 28 mm (1,1 inch)/75 caliber sẽ được bổ sung,và hệ thống động lực đang có sẽ được thay thế bằng thiết bị mới hơn nhằm giúp cho con tàu không bị giảm tốc độ trong khi có lượng rẽ nước gia tăng đáng kể.Những cải tiến này sẽ tốn phí khoảng 1,5 triệu Đô la cho mỗi chiếc (tổng cộng 71.723.000 Đô la),nhưng khi đất nước đang phải chịu đựng đợt Đại suy thoái,không có sẵn nhiều tiền cho Hải quân.Một phương án có thể tiết kiệm đến 26.625.000 Đô la bằng các biện pháp chỉ đại tu các động cơ thay vì đổi mới toàn bộ (sẽ làm giảm tốc độ các con tàu), không bổ sung bảo vệ chống đạn pháo hóa học, và không thiết kế hay chế tạo đạn pháo mới;nhưng những đề xuất tiết kiệm này không được chấp nhận. Hải quân yêu cầu Quốc Hội cấp ngân khoản trong năm tài chính 1933 để hiện đại hóa hai lớp tàu, nhưng cuộc suy thoái ngày càng tồi tệ và các kế hoạch này không bao giờ được thực hiện, cho dù vẫn còn các đề nghị cải tiến.Đầu năm 1934,Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa đề nghị rằng "Năm Ông Lớn" (hai chiếc lớp Tennessee và ba chiếc lớp Colorado) sẽ được trang bị đai giáp chống ngư lôi để được hưởng lợi từ sự gia tăng sức nổi; vì cùng với các yếu tố khác, hoạt động thường lệ khi rời cảng với lượng nhiên liệu tối đa cho phép sẽ làm các con tàu quá tải và đi khẳm trên mặt nước. Ví dụ như vào tháng 6 năm 1935, Tennessee có lượng rẽ nước hoạt động bình thường là 38.200 tấn, vượt quá 2.000 tấn so với tải trọng khẩn cấp tối đa mà thiết kế nguyên thủy cho phép; làm cho tầm nước của nó tăng thêm 1,6 m (5 ft 4 in).Đề nghị của Văn phòng chế tạo và Sửa chữa về đai giáp trên chiếc Colorado sẽ có lượng rẽ nước khoảng 2.000 tấn và nâng cao tàu lên 0,5 m (20 inch). Việc trang bị đai giáp sẽ kéo dài một năm làm việc, trong đó mỗi con tàu sẽ trải qua sáu tháng trong ụ theo thời biểu như sau: tháng đầu tiên trong ụ tàu để xác định hình dáng lườn tàu, sáu tháng tiếp theo con tàu vẫn đi biển trong khi đai giáp được chế tạo, và năm tháng cuối cùng trải qua trong ụ tàu để trang bị nó.Ba năm sau 1937, các văn phòng của Hải quân Mỹ mở cuộc họp chung để thảo luận phương án khả thi hiện đại hóa một phần các tàu chiến trong lớp Tennessee và Colorado. Chúng khác biệt nhiều so với những thay đổi được đề nghị vào năm 1933,không tăng cường lớp vỏ giáp sàn tàu, nhưng có nhiều bổ sung và thay thế.Để có chỗ cho hệ thống kiểm soát hỏa lực mới, các nồi hơi được thay thế.Hệ thống điều khiển dàn pháo chính và pháo hạng hai được thay thế, bao gồm các bộ đo tầm xa mới và các thiết bị cho phòng định vị dàn pháo chính, cùng bộ điều khiển hỏa lực phòng không Mark 33.Cột buồm chính và súng máy M2 Browning được tháo dỡ, và tiến hành nghiên cứu về việc bổ sung một đai giáp chống ngư lôi, điều mà Văn phòng Chế tạo vàSửa chữa tin là hết sức quan trọng, sẽ làm tăng mạn thuyền lên 32,9 m (108 ft) và lượng rẽ nước của con tàu sẽ là 39.600 tấn.Nhiều kế hoạch khác nhau cho công việc này được hoàn tất vào tháng 10 năm 1938; không có phương án nào là tái cấu trúc toàn bộ,và chi phí thay đổi từ 8.094.000 đến 38.369.000 Đô la cho mỗi con tàu.Tuy nhiên, do ngân quỹ dành cho việc cải tiến sẽ làm giảm đi số tiền dành cho việc đóng thiết giáp hạm mới,và việc này sẽ tốt hơn là tái cấu trúc thiết giáp hạm cũ, Bộ trưởng Hải quân bác bỏ các dự án này vào tháng 11.Dù sao Quốc Hội cũng chấp thuận chi 6.600.000 Đô la vào năm 1939 cho một số cải tiến, bao gồm đai giáp chống ngư lôi.Cùng với việc Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ tại Châu Âu, Hải quân bắt đầu áp dụng các bài học mà Anh Quốc có được cho các tàu chiến Mỹ.[Ủy ban King vào những năm 1940 - 1941 đề nghị tráo đổi dàn pháo hạng hai trên các thiết giáp hạm cũ với sự gia tăng phòng thủ chống lại sự tấn công từ trên không.Chúng bao gồm việc tháo dỡ toàn bộ pháo chống hạm 127 mm (5 inch)/25 caliber và pháo phòng không 127 mm (5 inch)/51 caliber, thay thế bằng kiểu pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber đa dụng, bổ sung sáu pháo tự động 28 mm (1,1 inch) bốn nòng, cắt bỏ một số phần của cấu trúc thượng tầng để tạo góc bắn cho các vũ khí phòng không mới.Một cấu hình sau cùng được ủy ban đề nghị vào năm 1941 bao gồm mười sáu nòng 127 mm (5 inch)/38 caliber đa dụng trên các tháp pháo đôi, mười sáu pháo Bofors 40 mm trên các tháp bốn nòng và tám khẩu Oerlikon 20 mm nòng đơn; cho dù vẫn không chắn chắn là con tàu có thể chịu đựng tải trọng bổ sung, cũng như thời gian cần thiết trong ụ tàu để thực hiện các cải tiến.Với những mối lo ngại đó, một biện pháp trung gian bổ sung bốn khẩu đội 28 mm (1,1 inch) được ủy ban đề nghị.Tuy nhiên, các khẩu pháo 28 mm (1,1 inch) không thể sản xuất số lượng lớn trong thời gian nhanh chóng, nên một biện pháp trung gian thứ hai được thực hiện, với kiểu pháo 76 mm (3 inch)/50 caliber được tăng cường cho mọi chiếc thiết giáp hạm Mỹ ngoại trừ Arizona và Nevada vào tháng 6 năm 1941;chúng được thay thế bởi kiểu pháo 28 mm (1,1 inch) vào tháng 11 năm đó trên ba chiếc thiết giáp hạm bố trí tại Đại Tây Dương,sở dĩ được chọn vì chúng đang ở gần vùng chiến sự hơn.Vì những cải tiến này được tiến hành trên nhiều thiết giáp hạm khác nhau, trọng lượng nặng thêm lại chất lên những con tàu vốn đã quá tải, buộc phải bổ sung đại giáp chống ngư lôi để duy trì độ nổi phù hợp.Công việc này tốn kém 750.000 Đô la và khoảng ba đến bốn tháng trong ụ tàu. Ủy ban King đề nghị rằng vỏ giáp sàn tàu nên được lót thêm cũng như bổ sung pháo đa dụng 127 mm (5 inch)/38 caliber,nhưng Trưởng phòng tác chiến Hải quân phản đối vì bất kỳ sự thay đổi lớn như vậy cần phải chờ đợi bởi chiến tranh đã ầm ỉ quanh thế giới.Tuy nhiên, việc bổ sung đai giáp chống ngư lôi được chấp thuận cho "Năm Ông Lớn",mỗi chiếc sẽ trải qua ba tháng trong ụ tàu tại Xưởng hải quân Puget Sound, Washington. Maryland sẽ bắt đầu trước tiên (từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 20 tháng 5 năm 1941),tiếp nối bởi West Virginia (10 tháng 5 đến 8 tháng 8),Colorado (28 tháng 7 đến 28 tháng 10),Tennessee (19 tháng 1 đến 21 tháng 4 năm 1942) và California (16 tháng 3 đến 16 tháng 6).Tuy nhiên, việc ước lượng trong bao lâu sẽ trang bị xong đai giáp chống ngư lôi được thực hiện quá chậm;Xưởng hải quân Puget Sound tin rằng họ có thể hoàn tất công việc trên chiếc Maryland trong 123 ngày (khoảng ba tháng) nếu như công việc được dành sự ưu tiên ngang với việc tái trang bị tàu sân bay Saratoga và cao hơn so với việc đóng mới.Chỉ có hai chiếc được bổ sung đai giáp theo chương trình này, Maryland (hoàn tất vào ngày 1 tháng 8 năm 1941) và Colorado (26 tháng 2 năm 1942);cuộc tấn công Trân Châu Cảng đã ngăn trở việc tái trang bị dự định dành cho West Virginia và hai chiếc lớp Tennessee.Cuộc tấn công bất ngờ đã không đụng chạm gì đến Colorado vốn đang ở xưởng hải quân Puget Sound, và không gây hư hại lớn cho Maryland;tuy nhiên West Virginia bị hỏng nặng và cần có một đợt sửa chữa tái trang bị tối thiểu.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Hầu như không có thay đổi lớn nào cho hai chiếc thuộc lớp Colorado đang hoạt động vào những tháng đầu tiên sau khi Mỹ tham gia chiến tranh; tất cả các thiết giáp hạm Mỹ thuộc hạm đội Thái Bình Dương phải liên tục thường trực chiến đấu hoặc sẵn sàng lên đường trong vòng 48 giờ trong trường hợp Nhật Bản dự định tấn công Hawaii hay bờ Tây Hoa Kỳ,nên không thể dành thời gian lâu trong ụ t̀au. Colorado hối hả tận dụng thời gian còn lại trong ụ tàu trang bị những thiết bị rất cần thiết như radar, bảo vệ chống mảnh pháo, 14 pháo phòng không Oerlikon 20 mm và bốn súng phòng không hạng nhẹ 28 mm (1,1 inch);Maryland được nâng cấp tương tự sau đó, chỉ khác biệt với 16 khẩu 20 mm và không có khẩu 28 mm (1,1 inch) nào. Cho dù các cột ăn-ten dạng trụ được đặt chế tạo cho Colorado và Maryland, và phần lớn cột buồm dạng lồng đã được thủy thủ đoàn tháo dỡ vào đầu năm 1942, các con tàu đã không thể dành thời gian cần thiết để trang bị chúng; cột ăn-ten dạng cột mới được chứa trong kho và chỉ được sử dụng vào đầu năm 1944.Colorado và Maryland được cần đến trong vùng chiến sự, nên không thể được hiện đại hóa đáng kể cho đến năm 1944; cho dù có những bổ sung và thay thế nhỏ, chủ yếu là vũ khí phòng không, được thực hiện trong giai đoạn đó.Trong suốt cuộc chiến, cả hai con tàu có cấu hình hỏa lực phòng không thay đổi liên tục.Bắt đầu từ năm 1942, chúng mang tám khẩu 127 mm (5 inch)/25 caliber, bốn khẩu đội 28 mm (1,1 inch) bốn nòng,một số lượng lớn nhưng khác biệt pháo Oerlikon 20 mm và tám súng máy 0,50 caliber.Vào tháng 6 năm 1942, Colorado có 14 khẩu 20 mm; chỉ năm tháng sau, chúng được nâng lên 32, rồi sau đó là 36 khẩu.Đến tháng 2 năm 1943, cả Colorado và Maryland đều có thêm hai khẩu đội 28 mm (1,1 inch) bốn nòng (tổng cộng là 6) và 48 khẩu 20 mm; một tháng sau chúng được tăng cường thêm mười súng máy 0,50 caliber.Sang tháng 11 năm 1943,chúng được tháo dỡ hai trong số pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber chống tàu,sáu khẩu 28 mm (1,1 inch) bốn nòng, một số nhỏ pháo 20 mm (sáu trên Colorado và tám trên Maryland; để thay bằng 32 khẩu Bofors 40 mm (sáu khẩu bốn nòng và hai khẩu hai nòng)Cuối cùng cả hai chiếc được tái trang bị đáng kể vào năm 1944.Lần này phần cột buồm dạng lồng còn lại được tháo dỡ toàn bộ thay thế bằng cột ăn-ten dạng cột; hai khẩu đội 40 mm nòng đôi được thay thế bởi bốn nòng, và một bộ radar mới. Cho dù được Đô đốc Ernest J. King đề nghị cải tạo rộng rãi hơn với tám khẩu 127 mm (5 inch)/ 38 caliber nòng đôi, thiết bị điều khiển hỏa lực tiên tiến hơn và một lớp giáp bảo vệ sàn tàu thứ hai;Văn phòng Tàu chiến, sau khi lập kiểu mẫu những gì cần tháo dỡ để bù trừ cho tải trọng bổ sung theo ý tưởng của King, đã phản biện rằng một sự cải tạo nhỏ hơn, giống như từng làm cho lớp New Mexico, sẽ phù hợp hơn.Tuy nhiên,không có động tác nào được thực hiện cho đến khi Maryland bị một máy bay kamikaze đánh trúng.Trong khi được sửa chữa, tám khẩu 127 mm (5 inch)/ 38 caliber nòng đôi được bổ sung, nhưng không có gì khác nữa; cầu tàu chỉ huy được tháo dỡ thay thế bằng một cấu trúc mới làm từ thép tấm 22,7 kg (50 lb) tôi đặc biệt (STS) để cân bằng lại trọng lượng tăng thêm của các khẩu pháo 127 mm (5 inch) mới bổ sung

Những chiếc trong lớp

USS Colorado

Colorado (BB-45) là tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 38. Nó được đặt lườn tại Camden, New Jersey bởi hãng New York Shipbuilding Corporation vào ngày 29 tháng 5 năm 1919, được hạ thủy vào ngày 22 tháng 3 năm 1921, và được đưa ra hoạt động động vào ngày 30 tháng 8 năm 1923 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân R. R. Belknap.Trong suốt cuộc đời hoạt động Colorado tham gia nhiều lễ hội và các đợt thao diễn hạm đội cũng như cứu hộ trận động đất tại Long Beach, California vào năm 1933. Năm 1937,nó là một trong số nhiều tàu tham gia tìm kiếm Amelia Earhart khi máy bay của bà mất tích.Colorado đang ở tại xưởng hải quân Puget Sound vào lúc diễn ra Trận Trân Châu Cảng,nơi nó quay lại vào tháng 4 năm 1942. Từ tháng 11 năm 1942 đến tháng 9 năm 1943,nó đặt căn cứ tại khu vực Tây Nam Thái Bình Dương.Vào tháng 11 năm 1943,Colorado tham gia các hoạt động chống quân Nhật trong các chiến dịch Gilbert và Marshall cùng Mariana và Palau;cũng như nả pháo xuống Luzon và Okinawa chuẩn bị cho các cuộc đổ bộ tại đây.Sau khi chiến tranh kết thúc Colorado tham gia Chiến dịch Magic Carpet trước khi ngừng hoạt động vào năm 1947. Nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1957

USS Maryland

Maryland (BB-46) là tàu chiến thứ ba của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 7. Nó được đặt lườn tại Newport News, Virginia bởi hãng Newport News Shipbuilding vào ngày 24 tháng 4 năm 1917, được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3 năm 1920, và được đưa ra hoạt động động vào ngày 21 tháng 7 năm 1921 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân C.F. Preston. Trong cuộc đời hoạt động Maryland từng thực hiện chuyến đi hữu nghị đến Australia và New Zealand vào năm 1925,và chuyên chở Tổng thống Herbert Hoover trong chuyến đi đến Mỹ La Tinh vào năm 1928.Vào năm 1940, Maryland chuyển căn cứ đến Trân Châu Cảng, và nó đã có mặt trong hàng thiết giáp hạm dọc theo đảo Ford khi xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.Bị hư hại trong trận đánh, nó buộc phải quay về xưởng hải quân Puget Sound để sửa chữa và hiện đại hóa. Maryland đã hỗ trợ cho cuộc đổ bộ trong trận Tarawa, rồi sau đó tham gia chiến dịch Gilbert và Marshall,chiến dịch Mariana và Palau,trận Peleliu,chiến dịch Philippines và trận Okinawa.Sau khi chiến tranh kết thúc Maryland tham gia Chiến dịch Magic Carpet trước khi ngừng hoạt động vào năm 1947.Nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1959.

USS Washington

Washington (BB-47) là tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 42. Nó được đặt lườn tại Camden, New Jersey bởi hãng New York Shipbuilding Corporation vào ngày 30 tháng 6 năm 1919,và được hạ thủy vào ngày 1 tháng 9 năm 1921. Nhưng vào ngày 8 tháng 2 năm 1922,hai ngày sau khi ký kết Hiệp ước Hải quân Washington để giới hạn việc chạy đua vũ trang trong hải quân, mọi công việc chế tạo bị ngừng khi nó đã hoàn tất được 75,9%.Cuối cùng, lườn tàu chưa hoàn tất của nó được kéo ra biển nơi nó bị đánh chìm như một mục tiêu tác xạ vào ngày 25 tháng 11 năm 1924 bởi các thiết giáp hạm New York và Texas

USS West Virginia

West Virginia (BB-48) là tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 35. Nó được đặt lườn tại Newport News, Virginia bởi hãng Newport News Shipbuilding vào ngày 12 tháng 4 năm 1920,được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1921, và được đưa ra hoạt động động vào ngày 1 tháng 12 năm 1923 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng,Đại tá Hải quân Thomas J. Senn.Cho dù chịu đựng một tai nạn mắc cạn vào đầu cuộc đời phục vụ, West Virginia được ngưỡng mộ do hỏa lực và giáp bảo vệ, và đã tham gia nhiều cuộc tập trận phòng thủ quần đảo Hawaii trong những năm 1930. Sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941, West Virginia có mặt trong hàng thiết giáp hạm dọc theo đảo Ford khi xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng và bị hư hại nặng,nhưng nhờ biện pháp cho ngập nước đối xứng, nó chỉ chìm xuống vùng nước nông ở tư thế cân bằng. Được cho nổi lên ngày 17 tháng 5 năm 1942, West Virginia quay về xưởng hải quân Puget Sound để sửa chữa và hiện đại hóa. Vào tháng 7 năm 1944 nó tái gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương vào lúc chuẩn bị chiến dịch Philippines,và nó đã tham gia trận chiến eo biển Surigao, cuộc đối đầu cuối cùng trên thế giới giữa những thiết giáp hạm.Đến tháng 2 năm 1945, West Virginia tham gia trận Iwo Jima, trước tiên là bắn pháo chuẩn bị,và sau đó là bắn pháo hỗ trợ theo yêu cầu của lực lượng trên bờ.Hoạt động tác chiến cuối cùng của nó là trong trận Okinawa;và sau chiến tranh nó tham gia Chiến dịch Magic Carpet trước khi ngừng hoạt động vào năm 1947.Nó bị bán để tháo dỡ vào năm 1959

USS Colorado (BB-45) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ từng tham gia Chiến tranh Thế giới thứ hai.Nó là chiếc dẫn đầu trong lớp của nó,và là tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 38 của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.Trong chiến tranh,nó hoạt động thuần túy tại mặt trận Thái Bình Dương,và đã tham gia nhiều chiến dịch quan trọng cho đến khi chiến tranh kết thúc.Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1947 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Colorado được đặt lườn ngày 29 tháng 5 năm 1919 bởi hãng đóng tàu New York Shipbuilding Corporation tại Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 22 tháng 3 năm 1921, được đỡ đầu bởi Bà Max Melville,Denverite,con gái của Thượng nghị sĩ tiểu bang Colorado Samuel D. Nicholson;và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 8 năm 1923 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng, Đại tá Hải quân R. R. Belknap.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc thế chiến

Colorado khởi hành từ New York vào ngày 29 tháng 12 năm 1923 thực hiện chuyến hải trình đầu tiên đến Portsmouth, Anh Quốc; Cherbourg và Villefranche tại Pháp; Naples thuộc Italy và Gibraltar trước khi quay trở về New York vào ngày 15 tháng 2 năm 1924.Sau khi được hiệu chỉnh và các thử nghiệm sau cùng, nó khởi hành đi sang Bờ Tây Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 7 và đến San Francisco, California vào ngày 15 tháng 9.Từ năm 1924 đến năm 1941,Colorado hoạt động cùng với Hạm đội Thiết giáp hạm tại Thái Bình Dương, tham gia các cuộc tập trận cơ động hạm đội cùng các lễ hội khác, và thỉnh thoảng quay trở lại bờ Đông tham gia tập trận hạm đội tại vùng biển Caribbe.Nó còn thực hiện chuyến đi phô trương lực lượng đến Samoa, Australia và New Zealand từ ngày 8 tháng 6 đến ngày 26 tháng 9 năm 1925.Tám khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) trước đây được thay thế bằng số lượng tương đương pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber trong những năm 1928-1929.Colorado tham gia cứu nạn trận động đất tại Long Beach,California trong các ngày 10 và 11 tháng 3 năm 1933,và trong chuyến đi từ ngày 11 tháng 6 đến ngày 22 tháng 7 năm 1937,nó trợ giúp vào việc tìm kiếm Amelia Earhart bị mất tích.

Chiến tranh Thế giới thứ hai

Colorado đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng từ ngày 27 tháng 1 năm 1941, và hoạt động tại vùng biển Hawaii trong các chuyến đi huấn luyện và tập trận khẩn trương cho đến ngày 25 tháng 6, khi nó khởi hành đi đến bờ Tây để tiến hành một đợt đại tu tại xưởng hải quân Puget Sound, vốn kéo dài cho đến tận ngày 31 tháng 3 năm 1942.Vì vậy, chiếc thiết giáp hạm đang ở trong ụ tàu khi trận Trân Châu Cảng diễn ra vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.Hai trong số 12 khẩu pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber nguyên thủy được tháo bỏ trong đợt đại tu này, và số lượng pháo 127 mm (5 inch)/ 25 caliber được thay thế bởi số pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber tương đương.Ngày 31 tháng 5,Colorado và Maryland khởi hành từ cầu Golden Gate để hình thành một hàng phòng thủ đề phòng mọi dự định tấn công của quân Nhật nhắm vào San Francisco.Sau đợt huấn luyện tại bờ Tây,Colorado quay lại Pearl Harbor vào ngày 14 tháng 8 để hoàn tất việc chẩn bị cho các hoạt động chiến đấu.Nó hoạt động tại khu vực lân cận quần đảo Fiji và New Hebrides từ ngày 8 tháng 11 năm 1942 đến ngày 17 tháng 9 năm 1943 để ngăn ngừa sự bành trướng mở rộng lãnh thổ chiếm đóng của quân Nhật. Chiếc thiết giáp hạm rời Trân Châu Cảng ngày 21 tháng 10 năm 1943 để bắn pháo chuẩn bị rồi hỗ trợ hỏa lực cho cuộc tấn công chiếm đóng Tarawa, rồi quay trở về cảng nhà vào ngày 7 tháng 12 năm 1943.Sau khi được đại tu tại vùng bờ Tây, Colorado quay trở lại Lahaina Roads thuộc quần đảo Hawaii vào ngày 21 tháng 1 năm 1944 rồi khởi hành ngay ngày hôm sau thực hiện các hoạt động tại quần đảo Marshall, bắn pháo chuẩn bị và hỗ trợ hỏa lực cho cuộc chiếm đóng Kwajalein và Eniwetok cho đến ngày 23 tháng 2 năm 1944, khi nó hướng về Xưởng hải quân Puget Sound để đại tu.Gia nhập các đơn vị khác đang tập trung tại San Francisco chuẩn bị cho chiến dịch quần đảo Mariana, Colorado khởi hành vào ngày 5 tháng 5,đi ngang qua Trân Châu Cảng và Kwajalein để tiến hành bắn pháo chuẩn bị và hỗ trợ hỏa lực cho cuộc chiếm đóng Saipan, Guam và Tinian từ ngày 14 tháng 6. Ngày 24 tháng 7 năm 1944,trong khi đang nả pháo xuống Tinian,Colorado bị bắn trúng 22 phát đạn pháo từ các khẩu đội duyên hải trên bờ, nhưng vẫn tiếp tục hỗ trợ lực lượng tấn công cho đến ngày 3 tháng 8. Sau khi được sửa chữa tại bờ Tây,Colorado đi đến vịnh Leyte vào ngày 20 tháng 11 năm 1944 hỗ trợ cho lực lượng Mỹ đang tác chiến trên bờ. Một tuần sau,nó bị hai máy bay tấn công cảm tử kamikaze đánh trúng làm 19 người chết cùng 72 người khác bị thương cùng một số hư hại trung bình.Dù vậy, nó vẫn tiến hành bắn phá Mindoro theo như kế hoạch định sẵn từ ngày 12 đến ngày17 tháng 12 năm 1944 trước khi đi đến đảo Manus để được sửa chữa.Quay trở lại Luzon vào ngày 1 tháng 1 năm 1945,Colorado tham gia bắn pháo chuẩn bị xuống vịnh Lingayen.Vào ngày 9 tháng 1,một tai nạn tác xạ pháo trúng phải cấu trúc thượng tầng của nó khiến 18 người chết cùng 51 người khác bị thương.Sau khi được tiếp liệu tại Ulithi,Colorado gia nhập đội các tàu chiến hỗ trợ hỏa lực tại Kerama Retto vào ngày 25 tháng 3 chuẩn bị cho cuộc chiếm đóng Okinawa.Nó ở lại chiến trường này bắn pháo hỗ trợ cho đến ngày 22 tháng 5, khi nó quay về vịnh Leyte.Quay trở lại Okinawa đã bị chiếm giữ vào ngày 6 tháng 8, Colorado khởi hành từ đây để tham gia cuộc chiếm đóng Nhật Bản đã đầu hàng,hỗ trợ cho cuộc đổ bộ đường không xuống sân bay Atsugi tại Tokyo vào ngày 27 tháng 8.Rời vịnh Tokyo ngày 20 tháng 9, chiếc thiết giáp hạm về đến San Francisco ngày 15 tháng 10, rồi sau đó đi đến Seattle, Washington tham gia lễ hội mừng Ngày Hải quân 27 tháng 10.Sau đó nó tham gia Chiến dịch Magic Carpet,thực hiện ba chuyến đi đến Trân Châu Cảng chuyên chở 6.357 cựu chiến binh quay trở về nhà; trước khi đi đến Xưởng hải quân Bremerton để cho ngừng hoạt động.Colorado được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 7 tháng 1 năm 1947,và được bán để tháo dỡ vào ngày 23 tháng 7 năm 1959.

USS Maryland (BB-46) (Fighting Mary) là một thiết giáp hạm của Hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong Thế chiến II.Nó thuộc lớp Colorado, và là chiếc tàu chiến thứ ba của Hải quân Mỹ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ bảy của Mỹ.Nó từng là mục tiêu được quân Nhật nhắm đến trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941,nhưng chỉ bị hư hỏng nhẹ.Sau khi được sửa chữa, nó tiếp tục hoạt động tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến hết Thế chiến II.Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày 3 tháng 4 năm 1947,và bị bán để tháo dỡ vào ngày 8 tháng 7 năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Maryland được đặt lườn vào ngày 24 tháng 4 năm 1917 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia.Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 3 năm 1920,được đỡ đầu bởi E. Brook Lee,phu nhân của Kiểm soát viên bang Maryland và là con dâu của nghị sĩ bang Maryland Blair Lee;và được đưa vào hoạt động ngày 21 tháng 7 năm 1921 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng C.F. Preston.

Lịch sử hoạt động

Giữa hai cuộc chiến tranh

Với một loại máy phóng thủy phi cơ mới và các khẩu pháo 406 mm (16 inch) lần đầu tiên được trang bị cho một tàu chiến Hoa Kỳ, Maryland là niềm tự hào của Hải quân Mỹ.Sau chuyến đi chạy thử máy dọc theo bờ Đông nước Mỹ, nó được yêu cầu tham gia vào nhiều sự kiện đặc biệt.Nó xuất hiện tại Annapolis, Maryland trong dịp lễ tốt nghiệp năm 1922 của Học viện hải quân Hoa Kỳ và tại Boston, Massachusetts nhân dịp kỷ niệm trận Bunker Hill và Ngày Độc lập của nước Mỹ.Từ ngày 18 tháng 8 đến ngày 25 tháng 9 lần đầu tiên nó viếng thăm một cảng nước ngoài khi chở Ngoại trưởng Charles Evans Hughes đến Rio de Janeiro tham dự triển lãm Một trăm năm Brazil.Năm 1923,sau các cuộc tập trận hạm đội ngoài khơi khu vực kênh đào Panama,Maryland đi qua kênh đào vào cuối tháng 6 để gia nhập lực lượng hạm đội tại bờ Tây nước Mỹ.Nó thực hiện chuyến viếng thăm hữu nghị đến Australia và New Zealand vào năm 1925,và chở Tổng thống Herbert Hoover trên chặng Thái Bình Dương trong chuyến đi vòng quanh các nước Châu Mỹ Latin vào năm 1928.Trong những năm 1928- 1929, tám khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) được thay thế bằng số lượng tương đương pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber.Trong suốt những năm của thập niên 1930, nó là lực lượng nòng cốt của hạm đội qua hàng loạt các cuộc thực tập huấn luyện. Đến năm 1940 Maryland và các thiết giáp hạm khác thuộc lực lượng tàu chiến chuyển căn cứ đến Trân Châu Cảng.Nó có mặt tại hàng thiết giáp hạm neo đậu dọc theo đảo Ford khi Hải quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941.

Thế Chiến II

Thủy thủ Leslie Short là người đầu tiên trên chiếc Maryland đã khai hỏa khẩu súng máy của mình và đã bắn rơi một trong hai máy bay ném ngư lôi vừa mới tấn công chiếc Oklahoma.Neo đậu bên trong chiếc Oklahoma, và do đó tránh được cú tấn công phủ đầu bằng ngư lôi,Maryland đã tìm cách đưa được tất cả các súng phòng không vào hoạt động.Dù vậy,Maryland vẫn bị hai quả bom xuyên thép đánh trúng.Quả thứ nhất đánh trúng khoang phía trước tàu tạo một lổ thủng 3 x 5 m (12 x 20 ft).Quả thứ hai phát nổ sau khi xuyên qua sàn tàu đến mức ngấn nước 22 ft tại khung số 10,gây ngập khoang tàu và làm tăng độ ngập nước phía trước thêm 1,5 m (5 ft).Maryland vẫn tiếp tục chiến đấu,và sau đợt tấn công đã gởi các đội cứu hỏa đến giúp các con tàu chị em.Người Nhật tuyên bố rằng chiếc thiết giáp hạm đã bị đánh chìm, nhưng vào ngày 30 tháng 12,bị hư hại nhưng vẫn còn chắc chắn, con tàu đi vào ụ sửa chữa của Xưởng hải quân Puget Sound,Washington.Hai trong số 12 khẩu 127 mm (5 inch)/51 caliber ban đầu được tháo dỡ, và số pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber được thay thế bằng số lượng tương đương pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber.Nó rời Puget Sound ngày 26 tháng 2 năm 1942, không chỉ được sửa chữa mà còn được hiện đại hóa và sẵn sàng chiến đấu.Tuy nhiên trong trận Midway mang tính quyết định, những chiếc thiết giáp hạm cũ quá chậm chạp không thể đủ tốc độ để tháp tùng các tàu sân bay nên chỉ hoạt động như những lực lượng dự phòng.Vì vậy,Maryland hầu như chỉ tham gia các cuộc diễn tập huấn luyện cho đến ngày 1 tháng 8 khi nó quay về Trân Châu Cảng.Được giao nhiệm vụ canh giữ dọc theo tuyến đường vận chuyển phía Nam đến Australia và các chiến trường khu vực Tây Nam Thái Bình Dương,Maryland cùng Colorado hoạt động ngoài khơi quần đảo Fiji trong tháng 11 năm 1942 rồi tiến sang quần đảo New Hebrides vào tháng 2 năm 1943. Nó quay về Trân Châu Cảng sau mười tháng tại các điểm nóng ở Nam Thái Bình Dương để được trang bị thêm các khẩu pháo phòng không 40 mm.Trong một loạt các chiến dịch tại Thái Bình Dương,hỏa lực mạnh mẽ của thiết giáp hạm Maryland và những con tàu chị em với nó đóng một vai trò quyết định.Rời quần đảo Hawaii ngày 20 tháng 10 năm 1943 hướng đến khu vực nam Thái Bình Dương,Maryland trở thành soái hạm cho Lực lượng tấn công phía Nam của Chuẩn Đô đốc Harry W. Hill trong cuộc tấn công vào quần đảo Gilbert,cùng Trung tướng Julian.C.Smith Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 2 trên tàu. Sáng sớm ngày 20 tháng 11,dàn pháo chính của nó bắt đầu đợt bắn phá kéo dài năm ngày và nả pháo theo yêu cầu để hỗ trợ cho một trong những chiến dịch đổ bộ dũng cảm nhất trong lịch sử lên Tarawa.Sau khi chiếm đóng được hòn đảo, nó tiếp tục ở lại khu vực này bảo vệ việc vận chuyển cho đến khi nó quay trở về Hoa Kỳ ngày 7 tháng 12.Maryland khởi hành từ San Pedro,California vào ngày 13 tháng 1 năm 1944, gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 53 tại Hawaii,di chuyển đến vùng biển ngoài khơi Kwajalein, là một cứ điểm được củng cố rất vững chắc trong quần đảo Marshall, vào buổi sáng ngày 31 tháng 1. Được giao nhiệm vụ áp chế các công sự phòng thủ trên đảo Roi, chiếc thiết giáp hạm cũ nả đạn pháo trong suốt ngày và cả buổi sáng ngày hôm sau, cho đến khi các đợt tấn công chỉ còn cách bờ biển tiền duyên 450 m.Sau chiến dịch này, nó quay trở về Bremerton, Washington, để được đại tu và trang bị các khẩu pháo hạng trung thế hệ mới hơn.Hai tháng sau Maryland quay lại tình trạng sẵn sàng chiến đấu, và khởi hành ngày 5 tháng 5 năm 1944 về hướng Tây để tham gia chiến dịch đổ bộ lớn nhất từng thực hiện tại mặt trận Thái Bình Dương xuống Saipan.Phó Đô đốc Richmond K. Turner bố trí Lực lượng Đặc nhiệm TF 52 một thời hạn ba ngày để vô hiệu hóa hàng rào hỏa lực phòng thủ trên hòn đảo.Việc bắn phá được bắt đầu lúc 5 giờ 45 phút ngày 14 tháng 6.Khóa miệng được hai khẩu pháo duyên hải,Maryland chỉ bị chống trả một cách yếu ớt khi nó tiếp tục các đợt nả pháo vào các mục tiêu đối phương.Tuy nhiên quân Nhật đã tìm cách đáp trả bằng không quân.Ngày 18 tháng 6,xạ thủ súng phòng không trên tàu đã ghi được chiến công đầu tiên, nhưng bốn ngày sau một chiếc G4M Betty bay thấp ngang qua các ngọn đồi còn đang tranh chấp trên đảo và phát hiện ra hai chiếc tàu chiến đang buông neo.Vượt qua phần mũi chiếc thiết giáp hạm Pennsylvania,nó thả một quả ngư lôi trúng đích làm xé toang một lổ hổng bên mạn trái phần trước mũi chiếc Maryland.Con tàu chỉ bị thiệt hại nhẹ,và sau 15 phút nó lên đường đi Eniwetok,rồi sau đó quay về Trân Châu Cảng để sửa chữaNhờ những nỗ lực suốt ngày đêm của công nhân xưởng tàu, vào ngày 19 tháng 8 năm 1944,34 ngày sau khi vào xưởng, chiếc thiết giáp hạm lại lên đường hướng về khu vực chiến sự.Sau một đợt diễn tập ngắn tại quần đảo,nó gia nhập Đội Đặc nhiệm TG 32.5 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf, à lực lượng hỗ trợ hỏa lực hướng Tây tiến đến quần đảo Palau.Bắt đầu các đợt bắn phá vào ngày 12 tháng 9 hỗ trợ các hoạt động quét mìn và các đội công binh người nhái dưới nước, nó tiếp tục việc bắn phá mục tiêu cho đến khi các xuồng đổ bộ tiếp cận các bãi biển vào ngày 15 tháng 9.Sau bốn ngày, mọi sự đề kháng của đối phương bị áp chế hoàn toàn cho phép các con tàu hỗ trợ hỏa lực quay về quần đảo Admiralty.Được phân về Hạm đội 7, Maryland lên đường ngày 12 tháng 10 năm 1944 để hỗ trợ cuộc đổ bộ quan trọng lên đảo Leyte thuộc quần đảo Philippines.Cho dù bị phong tỏa bởi thủy lôi, lực lượng đổ bộ vẫn tiến vào vịnh Leyte ngày 18 tháng 10.Công việc bắn phá vào ngày hôm sau và việc đổ bộ vào ngày 20 tháng 10 tiến triển tốt đẹp,nhưng quân Nhật quyết định phản công bằng cả máy bay cảm tử kamikaze lẫn ba gọng kìm tàu chiến.Được cảnh báo trước bởi tàu ngầm và máy bay trinh sát, lực lượng thiết giáp hạm và tàu tuần dương Mỹ lên đường ngày 24 tháng 10 năm 1944 hướng đến cực nam của vịnh Leyte để bảo vệ eo biển Surigao.Sáng sớm ngày 25 tháng 10,các thiết giáp hạm đối phương Fusō và Yamashiro dẫn đầu hải đội Nhật Bản tiến qua eo biển,và bị lực lượng phục kích đang chờ đợi tấn công quyết liệt.Trước tiên là những quả ngư lôi từ những chiếc PT boat,rồi thêm nhiều ngư lôi từ những tàu khu trục đã tiêu diệt chiếc Fusō.Sau đó là hỏa lực từ các tàu tuần dương,và cuối cùng lúc 3 giờ 55 phút là các khẩu pháo chính từ hàng thiết giáp hạm.Các loạt đạn pháo cỡ lớn bắn dồn dập đã khiến hàng ngũ đối phương đi chậm lại và các thiết giáp hạm Nhật bốc cháy.Bỏ lại những chiếc thiết giáp hạm có số phận bi đát,hải đội Nhật còn lại rút lui,nhưng chỉ có một số nhỏ thoát khỏi các cuộc không kích tiếp theo sau.Tương tự như vậy,các lực lượng Mỹ khác đã tiêu hao và đánh lui các đợt tấn công phía Bắc của đối phương trong Trận chiến vịnh Leyte mang tính quyết định.Sau chiến thắng quan trọng này,Maryland tuần tra tại các ngỏ đường dẫn đến eo biển Surigao cho đến ngày 29 tháng 10 năm 1944.Sau một đợt nghỉ ngơi tiếp liệu tại Manus, Admiralties, nó tiếp tục nhiệm vụ tuần tra vào ngày 16 tháng 11.Các đợt không kích của máy bay Nhật tiếp tục là mối nguy hiểm tiềm táng.Trong một đợt không kích vào ngày 17 tháng 11,các khẩu pháo của Đội Đặc nhiệm TG 77.2 đã bắn rơi 11 máy bay tấn công.Hai ngày sau đó, không lâu sau lúc hoàng hôn,một máy bay tự sát ló ra khỏi đám mây và đâm trúng chiếc Maryland giữa các tháp súng số 1 và số 2, làm 31 thủy thủ thiệt mạng trong vụ nổ và đám cháy bùng lên sau đó.Đến ngày 29 tháng 11,Maryland một lần nữa bị hư hại bởi một cuộc tấn công cảm tử kamikaze khác;tuy nhiên, chiếc thiết giáp hạm kiên cường vẫn tiếp tục nhiệm vụ tuần tra của nó cho đến khi được thay phiên vào ngày 2 tháng 12.Nó về đến Trân Châu Cảng ngày 18 tháng 12,và trong hai tháng tiếp theo, công nhân xưởng tàu đã sửa chữa và tái trang bị cho "Fighting Mary".Sau một khóa thực tập huấn luyện,Maryland khởi hành ngày 4 tháng 3 năm 1945 hướng đến khu vực tây Thái Bình Dương, và đi đến Ulithi ngày 16 tháng 3.Tại đây nó gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF 54 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc M.L. Deyo và vào ngày 21 tháng 3 lên đường tiến hành cuộc tấn công chiếm đóng Okinawa.Nó tiến đến gần bờ biển Okinawa ngày 25 tháng 3 và bắt đầu bắn phá các mục tiêu được chỉ định dọc theo phần Tây Nam của hòn đảo pháo đài này.Ngoài ra nó còn bắn pháo yểm trợ cho một cuộc tấn công phân tán vào bờ biển Đông Nam nhằm đánh lạc hướng đối phương khỏi hướng đổ bộ chính tại các bãi biển hướng Tây.Ngày 3 tháng 4,nó nhận được lời yêu cầu hỗ trợ hỏa lực từ Minneapolis (CA-36).Chiếc tàu tuần dương đã không thể áp chế các khẩu đội pháo duyên hải đối phương bằng các khẩu pháo 203 mm (8 inch),nên đã nhờ cậy đến các khẩu pháo 406 mm (16 inch) của "Fighting Mary" trợ giúp.Sáu loạt pháo cỡ nòng lớn từ chiếc thiết giáp hạm kỳ cựu đã tiêu diệt được toàn bộ pháo đối phương.Maryland tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực cho đến ngày 7 tháng 4 năm 1945,khi nó khởi hành cùng Lực lượng Đặc nhiệm TF 54 đi đánh chặn một lực lượng tàu nổi Nhật Bản về phía Bắc.Lực lượng này, bao gồm cả chiếc thiết giáp hạm khổng lồ Yamato,đã chịu những đợt không kích căng thẳng cùng ngày hôm đó, và máy bay của Lực lượng Đặc nhiệm tàu sân bay nhanh đã đánh chìm sáu trong số mười tàu chiến của hạm đội này,kể cả chiếc Yamato.Chập tối ngày 7 tháng 4,Maryland trúng phải cú không kích tự sát thứ ba trong vòng mười tháng, khi một máy bay cảm tử mang theo một quả bom 230 kg (500 lb) đâm trúng nóc tháp pháo số 3 từ mạn phải.Vụ nổ bắn tung toàn bộ các khẩu súng 20 mm bêm trên tháp và gây 53 thương vong.Tuy vậy, như những lần trước, nó vẫn tiếp tục nhiệm vụ bắn phá bờ biển đối phương bằng những quả đạn pháo 406 mm (16 inch).Và trong khi canh gác khu vực vận chuyển phía tây trong ngày 11 tháng 4,nó bắn rơi được hai máy bay đối phương trong một đợt không kích chiều hôm đó.Ngày 14 tháng 4 năm 1945,Maryland rời khu vực chiến trường để hộ tống cho đoàn tàu vận tải quay trở về căn cứ.Đi ngang qua quần đảo Mariana và Trân Châu Cảng, nó về đến xưởng hải quân Puget Sound tại Bremerton, Washington ngày 7 tháng 5, và ngày hôm sau tiến hành đợt đại tu rộng rãi.Tất cả các khẩu pháo 127 mm (5 inch) cũ được tháo bỏ thay thế bằng 16 khẩu pháo 127 mm 5"/38 caliber bố trí trên các tháp pháo đôi mới.Hoàn tất các việc việc sửa chữa vào tháng 8,giờ đây chiếc thiết giáp hạm tham gia vào các Chiến dịch Magic Carpet.Trong bốn tháng tiếp theo sau, nó thực hiện năm chuyến đi giữa bờ Tây nước Mỹ và Trân Châu Cảng,hồi hương hơn 8.000 cựu chiến binh về lục địa Hoa Kỳ.

Sau chiến tranh

Về đến Seattle,Washington ngày 17 tháng 12 năm 1945, nó hoàn tất nhiệm vụ vận chuyển Magic Carpet.Nó vào xưởng hải quân Puget Sound ngày 15 tháng 4 năm 1946 và được xếp vào lực lượng dự bị vào ngày 16 tháng 7.Nó được cho ngừng hoạt động tại Bremerton ngày 3 tháng 4 năm 1947 nhưng được giữ lại trong Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.Cuối cùng vào ngày 8 tháng 7 năm 1959 Maryland được bán cho hãng Learner tại Oakland,California để được tháo dỡ.

USS West Virginia (BB-48) (tên lóng "Wee Vee"), là một thiết giáp hạm thuộc lớp Colorado, và là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này nhằm tôn vinh tiểu bang thứ 35 của nước Mỹ.Là một thiết giáp hạm thuộc kiểu "Siêu-dreadnought",West Virginia từng là mục tiêu bị Hải quân Nhật nhắm đến trong vụ tấn công Trân Châu Cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941.Sau khi được vớt lên, sửa chữa và hiện đại hóa, từ năm 1944 nó tiếp tục tham gia chiến đấu tại mặt trận Thái Bình Dương cho đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc.Nó được cho ngừng hoạt động vào năm 1947,và được bán để tháo dỡ vào năm 1959.

Thiết kế và chế tạo

Là một trong những chiếc "siêu-Dreadnought" mới nhất,West Virginia tích hợp các kiến thức mới nhất của kiến trúc hải quân;các ngăn kín nước của lườn tàu và quy mô của vỏ giáp khiến cho nó có ưu thế đáng kể so với những chiếc thiết giáp hạm được chế tạo hay thiết kế trước trận Jutland.Nó được đặt lườn vào ngày 12 tháng 4 năm 1920 bởi hãng Newport News Shipbuilding tại Newport News, Virginia.Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng 11 năm 1921,được đỡ đầu bởi Cô Alice Wright Mann, con gái ngài IsaacT.Mann,một nhân vật nổi bật tại West Virginia;và được đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 12 năm 1923 dưới quyền chỉ huy của Thuyền trưởng Thomas J. Senn.

Lịch sử hoạt động

1923 - 1941

Trong những tháng tiếp theo sau,West Virginia tiến hành các chuyến đi chạy thử và các cải biến hiệu chỉnh. Sau một giai đoạn ngắn trong xưởng hải quân New York,con tàu thực hiện chuyến đi đến Hampton Roads,cho dù nó gặp phải trục trặc bánh lái trên đường đi.Thực hiện sửa chữa cần thiết trong thời gian ở lại Hampton Roads, West Virginia lại ra khơi vào buổi sáng ngày 16 tháng 6 năm 1924.Lúc 10 giờ 10 phút, trong khi con tàu đang di chuyển giữa luồng Lynnhaven, sĩ quan phòng lái báo cáo lên rằng đồng hồ chỉ thị bánh lái không hoạt động.Chuông báo động gửi đến phòng động cơ bánh lái không được trả lời;nên Thuyền trưởng Senn nhanh chóng ra lệnh cho ngừng tất cả các động cơ,nhưng máy điện báo của phòng động cơ cũng không trả lời.Cuộc điều tra sau này cho thấy điện năng đã không cung cấp đến máy điện báo của cả phòng máy lẫn phòng lái.Thuyền trưởng đã phải nhờ đến phương cách gửi mệnh lệnh đến phòng máy chính thông qua ống nói từ cầu tàu. Ông ra lệnh mở hết tốc độ động cơ bên mạn trái và tắt hết động cơ bên mạn phải.Mọi nỗ lực đều được cố gắng tối đa trong lúc đó nhằm lái con tàu bằng động cơ giữ cho nó trong luồng tàu. Không may là những nỗ lực này đều thất bại,và West Virginia bị mắc cạn lên trên nền đất bùn nhão. Điều may mắn là, như Trung tá (sau này là Đô đốc) Harold R. Stark,sĩ quan cao cấp, báo cáo: "...thân tàu đã không bị bất kỳ một hư hỏng nào dù là nhỏ nhặt."Cuộc điều tra của tòa án quân sự sau đó cho thấy con tàu đã được cung cấp những thông tin hải hành không chính xác và sai lầm.Chú thích trên các bảng biểu đã chỉ thị luồng tàu đi có độ rộng lớn hơn so với thực tế.Các phát hiện của tòa án quân sự đã miễn trừ cho Thuyền trưởng Senn và sĩ quan hoa tiêu của ông khỏi mọi trách nhiệm.Sau khi được sửa chữa,West Virginia trở thành soái hạm của Tư lệnh Hạm đội Thiết giáp hạm vào ngày 30 tháng 10 năm 1924, khởi đầu cuộc đời phục vụ như một phần "xương sống của hạm đội" như cách nhìn những chiếc thiết giáp hạm vào thời đó.Trong thời kỳ này;West Virginia trải qua những chu kỳ huấn luyện, bảo trì và thực hành, tham gia các cuộc thi kỹ thuật và tác xạ, cũng như cuộc tập trận "Vấn đề Hạm đội" được tổ chức hàng năm.Trong cuộc cơ động lớn của hạm đội này, lực lượng sẽ được chia ra hai phía đối kháng nhau, và một tình huống chiến lược hay chiến dịch sẽ được đề ra;những bài học thu lượm được sẽ góp phần vào việc xây dựng các học thuyết mà sau này sẽ được thử thách trong môi trường chiến đấu khắc nghiệt.Vào năm 1926, chiếc thiết giáp hạm tham gia vào một cuộc cơ động phối hợp Lục quân- Hải quân thử nghiệm việc phòng thủ quần đảo Hawaii rồi thực hiện chuyến đi cùng hạm đội đến Úc và New Zealand. Trong các cuộc tập trận hạm đội sau đó, West Virginia có mặt từ Hawaii đến vùng biển Caribbe và Đại Tây Dương cũng như trải từ Alaska đến vùng biển Panama.Nhằm theo kịp sự phát triển kỹ thuật trong lĩnh vực súng đạn và kiểm soát hỏa lực, cũng như cơ khí và hàng không, chiếc tàu chiến trải qua các đợt cải biến được thiết kế nhằm tăng cường khả năng để tthực hiện vai trò được giao.Các cải tiến bao gồm thay thế các khẩu pháo phòng không 76 mm (3 inch) nguyên thủy bằng kiểu pháo 127 mm (5 in)/25 caliber đa dụng; bổ sung thêm súng máy 0,50 inch ở cột buồm trước và giữa tàu;thêm các máy phóng trên boong trên phía sau, phía đuôi tàu và bên trên tháp súng III.Tuy nhiên, trong những năm cuối của thập niên 1930, điều trở nên rõ ràng đối với nhiều người rằng đây chỉ là vấn đề thời gian trước khi Hoa Kỳ phải can dự vào một cuộc chiến tranh nữa với quy mô lớn hơn.Do đó,Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ trở thành công cụ răn đe Nhật Bản, kẻ thù tiềm năng nhất;đó là lý do khiến có sự bố trí vội vã lực lượng hạm đội đến vùng biển Thái Bình Dương vào mùa Xuân năm 1939 và việc giữ hạm đội tại vùng biển Hawaii vào năm 1940 sau khi cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XXI kết thúc vào tháng 4 năm đó.Trong năm 1941, West Virginia thực hiện một lịch trình huấn luyện khẩn trương, đặt căn cứ tại Trân Châu Cảng và hoạt động trong nhiều lực lượng và đội đặc nhiệm khác nhau tại vùng biển Hawaii.Các hoạt động thường lệ này vẫn được tiếp tục cho dù tình hình bắt đầu căng thẳng từ cuối tháng 11 và tiếp tục kéo dài.Sau các giai đoạn hoạt động tích cực ngoài biển khơi là những lúc nghỉ ngơi bảo trì trong cảng, khi những chiếc thiết giáp hạm neo đậu dọc theo bờ Đông Nam đảo Ford ở Trung Tâm Trân Châu Cảng.West Virginia là một trong số 14 tàu chiến đầu tiên được trang bị kiểu radar đời đầu RCA CXAM-1

7 tháng 12 năm 1941

Vào ngày Chủ nhật 7 tháng 12 năm 1941, West Virginia neo đậu bên ngoài thiết giáp hạm Tennessee tại bến F-6 với độ sâu 12 m (40 ft) nước bên dưới lườn tàu. Ngay trước 08 giờ 00, máy bay Nhật xuất phát từ sáu tàu sân bay tiến hành cuộc tấn công Trân Châu Cảng được hoạch định khá chu đáo.Nhiều quả ngư lôi 457 mm (18 inch) phóng từ máy bay đã đánh trúng mạn trái West Virginia,trong đó một quả trúng phải đuôi tàu và làm gảy bánh lái.Ít nhất ba quả trúng bên dưới đai giáp, và một hoặc nhiều quả đánh trúng đai giáp làm buộc phải thay thế bảy tấm giáp thép.Một hoặc hai quả ngư lôi đã xuyên vào trong con tàu qua những lổ hổng tạo ra do đợt ngư lôi trước trong khi con tàu đã bị nghiêng và phát nổ trên sàn bọc thép thứ hai.Các khảo cứu gần đây cho thấy có ít nhất một trong các quả ngư lôi đánh trúng xuất phát từ một tàu ngầm bỏ túi.Việc phân tích các hình ảnh do Học viện Hải quân Hoa Kỳ tiến hành vào năm 1999 cho thấy một chiếc tàu ngầm bỏ túi Nhật Bản đã tìm cách lọt được vào bên trong cảng và đã phóng thành công một quả ngư lôi vào chiếc West Virginia.Số phận cuối cùng của chiếc tàu ngầm này hiện vẫn chưa rõ.West Virginia cũng trúng phải hai quả bom được chế tạo từ những quả đạn pháo xuyên thép 406 mm (16 inch) có gắn thêm các vây đuôi.Quả bom thứ nhất đánh trúng sàn tàu phía trước, xuyên qua sàn kiến trúc thượng tầng, và được tìm thấy không phát nổ trong đám mảnh vụn của sàn tàu thứ hai.Quả bom thứ hai đánh trúng phía đuôi tàu, phá hỏng một thủy phi cơ Vought OS2U Kingfisher trên máy phóng bên trên tháp pháo III và hất tung chiếc thứ hai trên máy phóng đặt dưới sàn tàu.Quả đạn đâm xuyên qua nóc tháp pháo dày 102 mm (4 inch),phá hỏng một khẩu pháo chính.Mặc dù quả bom này cũng tịt ngòi,xăng tràn ra từ chiếc máy bay hư hỏng bốc cháy gây một số thiệt hại.Sau đó West Virginia bị hư hỏng nghiêm trọng do mắc kẹt trong đám cháy dầu lan trên mặt biển xuất phát từ chiếc Arizona kéo dài đến ba mươi giờ do nhiên liệu rỉ ra từ cả hai con tàu.Các quả ngư lôi phát nổ đã làm thủng hai lổ lớn trải từ khoang 43 đến khoang 52 và từ khoang 62 đến khoang 97.Các hoạt động tức thời của Đại úy Claude V.Ricketts,sĩ quan phụ tá cứu hỏa vốn có chút kiến thức về kỹ thuật kiểm soát hư hỏng,đã cứu con tàu khỏi số phận như chiếc Oklahoma đang neo đậu phía trước mắc phải.Oklahoma cũng bị trúng phải nhiều quả ngư lôi, và nó đã bị ngập nước rồi lật úp.Những ví dụ về hành động anh hùng bên trên con tàu chiến bị hư hại nặng nề kéo dài trong suốt cuộc chiến nóng bỏng. Chỉ huy con tàu, Đại tá Mervyn S. Bennion có mặt rất sớm trên cầu tàu chỉ huy để rồi bị một mảnh bom bắn trúng, khi một quả bom cải tạo từ đạn pháo xuyên thép 406 mm (16 inch) đánh trúng khẩu súng giữa của tháp súng II trên chiếc Tennessee, trút một cơn mưa mảnh đạn lên cấu trúc thượng tầng West Virginia.Bennion bị thương vào bụng và ngã sấp xuống sàn tàu, rồi sau đó bị tử thương.Nhưng cho đến giây phút cuối cùng của cuộc sống, ông vẫn gắng gượng bám víu và tiếp tục chỉ huy việc phòng thủ con tàu cho đến phút cuối cùng.Do sự hết lòng tận tụy với nghĩa vụ, sự can đảm phi thường và đã hoàn toàn bất chấp đến mạng sống của bản thân,Đại táBennion được truy tặng Huân chương Danh dự.Doris Miller,một đầu bếp,đã giúp đưa Thuyền trưởng Bennion vào một nơi an toàn hơn, rồi đứng vào một khẩu súng cao xạ cho dù anh chưa từng có kinh nghiệm sử dụng.Anh là người Mỹ da màu đầu tiên được tặng thưởng Huân chương Chữ Thập Hải quân.West Virginia bị bỏ lại,bị chìm xuống đáy vịnh nhưng lườn tàu vẫn cân bằng, các đám cháy bên trên nó được cứu chữa bởi một nhóm tình nguyện quay trở lại tàu sau đợt bỏ tàu thứ nhất. Đến trưa ngày hôm sau, 8 tháng 12,đám cháy được dập tắt hoàn toàn.Chiếc sà lan tiếp liệu YG-17 đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nỗ lực trên,đã ở lại vị trí bên cạnh chiếc thiết giáp hạm bất chấp nguy cơ phát nổ các hầm đạn trên chiếc tàu chiến.Với các tấm thép được hàn bịt vào các lổ thủng, nước được bơm ra và con tàu được cho nổi trở lại vào ngày 17 tháng 5 năm 1942 và được đưa vào ụ tàu số 1 ngày 9 tháng 6.West Virginia được xem xét cẩn thận một lần nữa, và người ta thấy nó bị đánh trúng không phải sáu, mà là tổng cộng bảy quả ngư lôi.Trong quá trình sửa chữa con tàu, công nhân xưởng tàu đã phát hiện 66 thi thể của thủy thủ chiếc West Virginia bị kẹt lại bên dưới khi con tàu chìm.Nhiều thi thể được tìm thấy nằm úp trên các ống dẫn hơi nước trong các ô không khí còn sót lại trong các khoang ngập nước.Ba thi thể được tìm thấy tại một kho chứa nơi họ kéo dài cuộc sống nhờ những khẩu phần khẩn cấp và nước ngọt từ một vị trí chiến đấu.Một quyển lịch tìm được cùng với họ cho thấy họ đã sống sót cho đến ngày 23 tháng 12.Các thủy thủ và công nhân phải đối mặt với một nhiệm vụ cực kỳ khó khăn,do những thiệt hại rất lớn bên mạn trái của con tàu chiến.Dù sao,cuối cùng,West Virginia cũng rời Trân Châu Cảng hướng đến bờ Tây Hoa Kỳ và được cải tạo mới hoàn toàn tại xưởng hải quân Puget Sound ở Brementon, Washington.Được hiện đại hóa một cách rộng rãi, chiếc thiết giáp hạm thoát ra từ sự tàn phá của Trân Châu Cảng mang một diện mạo khác hẵn so với trước ngày 7 tháng 12 năm 1941.Vẻ bên ngoài của nó gần tương tự như Tennessee và California, vốn cũng được chế tạo lại cho giống những chiếc thiết giáp hạm thuộc lớp South Dakota,chỉ khác biệt những tháp súng chính chỉ gồm hai khẩu.Được tháo bỏ cột buồm dạng lồng hyperbol nâng đỡ ba tầng kiểm soát hoả lực cùng hai ống khói, các khẩu pháo 127 mm (5 inch)/25 caliber và các tháp pháo nhỏ mang pháo 127 mm (5 inch)/51 caliber.Một cấu trúc thượng tầng suôn thẳng cho phép con tàu mang một dáng vẻ hoàn toàn mới; trang bị pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber công dụng kép đặt trong các tháp pháo kín cung cấp cho con tàu hỏa lực phòng không đầy uy lực.Thêm vào đó, các khẩu đội cao xạ 40 mm Bofors và 20 mm Oerlikon được rãi khắp sàn tàu, cho phép chiếc thiết giáp hạm có một hỏa lực mạnh mẽ đối phó với những máy bay đối phương tiếp cận.West Virginia ở lại Xưởng Hải quân Puget Sound cho đến đầu tháng 7 năm 1944.Sau khi tiếp liệu đạn dược lên tàu trong ngày 2 tháng 7,chiếc thiết giáp hạm hoàn toàn mới lên đường không lâu sau đó nhằm thực hiện các cuộc chạy thử ngoài khơi Port Townsend, Washington.Nó thực hiện cuộc chạy thử hết tốc độ vào ngày 6 tháng 7,và tiếp tục công việc cho đến ngày 12 tháng 7.Sau khi quay về Puget Sound để thực hiện các sửa chữa cuối cùng, chiếc thiết giáp hạm hướng về San Pedro, California cho chuyến đi thử máy cuối cùng sau khi được hiện đại hóa.Sẵn sàng tái gia nhập hạm đội mà nó đã xa rời hơn hai năm trước đây,West Virginia hướng đến quần đảo Hawaii vào ngày 14 tháng 9. Được hộ tống bởi bởi hai tàu khu trục,nó đến Oahu vào ngày 23 tháng 9, rồi sau đó,như một thành phần của Hải đội Thiết giáp hạm 4,West Virginia cùng với tàu sân bay hạm đội Hancock,lên đường hướng đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty,và vào cảng Seeadler vào ngày 5 tháng 10.Ngày hôm sau, nó lại trở thành soái hạm khi Chuẩn Đô đốc Theodore Ruddock,tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4,chuyển cờ hiệu của mình từ chiếc Maryland sang "Wee Vee".

Đổ bộ lên Leyte

Lên đường ngày 12 tháng 10 để tham gia cuộc đổ bộ lên Philippine, West Virginia được bố trí trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Jesse B. Oldendorf.Vào ngày 18 tháng 10, hàng thiết giáp hạm tiến vào vịnh Leyte,West Virginia di chuyển phía sau chiếc thiết giáp hạm California.Lúc 16 giờ 45 phút,California cắt rời được một quả thủy lôi bằng máy cắt dây mìn ngầm (paravane);West Virginia né tránh được mối đe dọa, và ít phút sau nó bị phá hủy bởi hỏa lực pháo của một trong các tàu khu trục theo hộ tống.Ngày 19 tháng 10,West Virginia đi đến vị trí chiến đấu tại vịnh San Pedro lúc 07 giờ 00 thường trực ngoài khơi và bắt đầu bắn phá các mục tiêu tại khu vực Tacloban thuộc đảo Leyte.Trong ngày hôm đó, chiếc thiết giáp hạm đã nả 278 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và 1.586 quả đạn 127 mm (5 inch),giúp vô hiệu hóa hỏa lực pháo binh Nhật Bản và hỗ trợ cho các đội công binh phá mìn dưới nước (UDT, underwater demolition team) nhằm chuẩn bị các bãi đổ bộ vốn dự tính sẽ diễn ra vào ngày 20 tháng 10. Rút lui ra biển khi trời tối, chiếc thiết giáp hạm cùng các tàu hộ tống quay trở lại lúc bình minh để tiếp tục tiêu diệt các căn cứ Nhật Bản chung quanh khu vực Tacloban. Máy bay đối phương bắt đầu xuất hiện bên trên khu vực đổ bộ,và West Virginia đã tìm cách bắn hạ chúng nhưng không thành công.Ngày 21 tháng 10, khi tiếp tục bắn pháo hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ đang tiếp tục chiến đấu tiến lên bờ,West Virginia bị mắc cạn gây hư hại nhẹ ba trong số bốn chân vịt của nó.Sự rung động do vận hành những chân vịt bị hư hại khiến tốc độ hoạt động của con tàu bị giới hạn còn 29,6 km/h (16 knot) và 33,3 km/h (18 knot) lúc khẩn cấp.Trong hai ngày tiếp theo sau,West Virginia, cùng với dàn hỏa lực phòng không được tăng cường mạnh mẽ, tiếp tục bố trí ngoài khơi bãi đổ bộ lúc ban ngày và rút lui ra khơi vào ban đêm, tiếp tục hỗ trợ phòng không cho chiến dịch tấn công. Trong khi đó, người Nhật nhận ra cuộc tấn công vào Leyte của Đồng Minh được thực hiện với quy mô lớn, đã quyết định phản công.Theo đó,bất chấp hậu quả có thể có,họ tung ra bốn lực lượng riêng biệt để tấn công hạm đội tấn công Hoa Kỳ.

Hải chiến vịnh Leyte

Bốn tàu sân bay và hai tàu sân bay "lai" (các thiết giáp hạm-tàu sân bay Ise và Hyūga)hướng về phía biển Philippine từ vùng biển nội địa Nhật Bản; một lực lượng tàu nổi nhỏ của Đô đốc Kiyohide Shima hướng đến biển Sulu; hai lực lượng tấn công bao gồm các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục khởi hành từ Lingga Roads,Sumatra,trước khi tách ra ở phía Bắc Borneo.Lực lượng lớn hơn trong số hai nhóm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Takeo Kurita, băng qua phía Bắc đảo Palawan để đi qua biển Sibuyan.Các tàu ngầm Mỹ Darter và Dace, đã mở đầu trận chiến nổi tiếng vào ngày 23 tháng 10 năm 1944 được biết đến dưới tên gọi trận chiến vịnh Leyte,khi chúng đánh chìm hai tàu tuần dương của Kurita, Maya và Atago.Không nao núng, Kurita tiếp tục cuộc chuyển quân.Lực lượng của ông được xây dựng chung quanh các thiết giáp hạm khổng lồ Yamato và Musashi.Lực lượng nhỏ hơn trong số hai nhóm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Shoji Nishimura quay mũi về phía Nam Palawan và đi ngang qua biển Sulu giữa hai đảo Mindanao và Leyte. Lực lượng của Shima nối tiếp phía sau lực lượng của Nishimura,hướng đến vịnh Leyte như là gọng kìm thứ hai ở phía Nam nhằm tiêu diệt lực lượng tàu đổ bộ và tàu vận tải đang tập trung tại các bãi đổ bộ ở Leyte. Để đối đầu với lực lượng đối phương đang hướng về phía mình, Đô đốc Oldendorf bố trí lực lượng mạnh mẽ của mình, với sáu thiết giáp hạm, tám tàu tuần dương và 28 tàu khu trục tại eo biển Surigao.Lúc 22 giờ 36 phút ngày 24 tháng 10 năm 1944, các tàu phóng lôi-tuần tra (PT boat) Mỹ bố trí bên trong và ở lối vào eo biển phát hiện ra lực lượng của Nishimura qua radar, và tiến hành tấn công quấy rối, vốn gây ra khó khăn, nhưng không thể ngăn cản bước tiến của đối phương. Bắt đầu tiến vào eo biển lúc 03 giờ 00 ngày 25 tháng 10,Nishimura sắp xếp đội hình tàu chiến của mình khi năm tàu khu trục Mỹ tung ra đợt tấn công bằng ngư lôi được vạch kế hoạch hoàn chỉnh.Thiết giáp hạm Fusō trúng phải một số quả ngư lôi và bị lọt ra khỏi đội hình; đợt tấn công ngư lôi này cũng kết liễu hai tàu khu trục Nhật và phá hỏng một chiếc thứ ba.Cùng lúc đó, tàu chị em với Fusō là Yamashiro cũng bị trúng một quả ngư lôi và phải giảm tốc độ,để rồi trúng thêm một quả nữa chỉ sau 15 phút. Bản thân Fusō chịu đựng những tổn hại đáng kể do những đám cháy bùng phát do những quả ngư lôi, bị nổ tung và cắt làm đôi lúc 03 giờ 38 phút.Giờ đây West Virginia dẫn đầu hàng thiết giáp hạm bao gồm Maryland,Mississippi,Tennessee,California,Pennsylvania;bốn trong số chúng,giống như West Virginia,là những cựu binh của trận Trân Châu Cảng.Từ 00 giờ 21 phút ngày 25 tháng 10, chiếc thiết giáp hạm bắt đầu nhận được báo cáo về cuộc tấn công của những chiếc tàu phóng lôi-tuần tra rồi sau đó của các tàu khu trục.Cuối cùng lúc 03 giờ 16 phút,radar West Virginia bắt được tín hiệu từ lực lượng của Nishimura ở khoảng cách 38 km (42.000 yard) và có được phương án tác xạ ở khoảng cách 27 km (30.000 yard).Nó tiếp tục theo dõi khi đối phương tiến đến gần trong bóng đêm tối đen như mực.Lúc 03 giờ 52 phút,West Virginia khai hỏa tám khẩu pháo chính 406 mm (16 inch) ở khoảng cách 21 km (22.800 yard),tấn công chiếc thiết giáp hạm Nhật dẫn đầu với loạt pháo đầu tiên.Trong số sáu loạt pháo đầu tiên do nó bắn ra,năm loạt đã trúng mục tiêu;và tổng cộng nó đã bắn 16 loạt nhắm vào các tàu chiến của Nishimura khi lực lượng của Oldendorf cắt ngang chữ T hạm đội Nhật, đạt được ưu thế chiến thuật trong một tình huống mà hầu như mọi đô đốc hạm tàu nổi đều mơ ước.Đến 04 giờ 13 phút, "Wee Vee" ngừng bắn; phần còn lại của hạm đội Nhật Bản tháo chạy hổn loạn khỏi eo biển nơi chúng đã tiến vào,trong khi nhiều tàu chiến bị bắn cháy soi sáng cả vùng biển.West Virginia đã góp công vào việc kết liễu chiếc Yamashiro,trả thù được những hư hại mà nó phải gánh chịu trong cuộc tấn công Trân Châu Cảng.West Virginia đã tham gia trận hải chiến lớn cuối cùng giữa các tàu chiến tuyến trong lịch sử, và đến ngày 29 tháng 10 rời Philippines quay về Ulithi cùng với Tennessee và Maryland.Sau đó nó hướng đến Espiritu Santo trong quần đảo New Hebrides;và sau khi Đô đốc Ruddock chuyển cờ hiệu của mình từ West Virginia sang Maryland,nó trải qua một giai đoạn bảo trì trong ụ nổi di động Artisan (AFDB-1) để sửa chữa các chân vịt bị hư hại.

Chiến dịch Philippines

"Wee Vee" quay trở lại Philippine ngang qua Manus vào ngày 26 tháng 11, tiếp tục nhiệm vụ tuần tra trong vịnh Leyte và hoạt động trong thành phần yểm trợ phòng không cho lực lượng tàu vận tải và đổ bộ.Lúc 11 giờ 39 phút ngày 27 tháng 11,súng cao xạ của West Virginia đã bắn rơi một máy bay kamikaze và hỗ trợ trong việc bắn hạ nhiều chiếc khác trong phiên hoạt động ngày hôm sau.Sau khi Đô đốc Ruddock chuyển cờ hiệu của mình trở lại tàu vào ngày 30 tháng 11, West Virginia tiếp tục các hoạt động ngoài khơi Leyte cho đến ngày 2 tháng 12, khi chiếc thiết giáp hạm khởi hành hướng về quần đảo Palau.Tại đây, nó trở thành soái hạm của Đội đặc nhiệm 77.12 mới được thành lập và hướng đến biển Sulu hỗ trợ cho cuộc đổ bộ của lực lượng Tây Nam Thái Bình Dương lên đảo Mindoro. Đi đến vịnh Leyte chiều tối ngày 12 tháng 12, West Virginia đi qua eo biển Surigao vào ngày 13 tháng 12 và hướng đến biển Sulu cùng với một lực lượng tàu sân bay để hỗ trợ cho cuộc di chuyển của Đội đặc nhiệm 78.3.Sau đó nó hộ tống cho các tàu vận tải rút lui vào ngày 16 tháng 12, được tiếp nhiên liệu tại vịnh Leyte trước khi quay về Kossol Roads, Palau vào ngày 19 tháng 12.Tại đây West Virginia được nghỉ lễ Giáng Sinh 1944. Tuy nhiên, nhiều nhiệm vụ đang chờ đợi trước mắt, và chiếc thiết giáp hạm,khi nó lại tiếp tục lên đường hướng về Philippine.Vào ngày đầu năm mới 1945,Chuẩn Đô đốc Ingram C. Sowell thay thế Chuẩn Đô đốc Ruddock giữ chức Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4, khi còn tàu tiến hướng đến vịnh Leyte trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2.Đến nơi vào rạng sáng sớm ngày 3 tháng 1 năm 1945,West Virginia tiếp tục tiến đến biển Sulu. Sự kháng cự của quân Nhật, vốn bắt đầu khẩn trương từ lúc mở màn chiến dịch Philippine, ngày càng trở nên nguy hiểm. Người trên chiếc West Virginia tận mắt chứng kiến một máy bay Yokosuka P1Y "Frances" hai động cơ đâm bổ tự sát vào chiếc tàu sân bay hộ tống Ommaney Bay lúc 17 giờ 12 ngày 4 tháng 1. Các đám cháy và các vụ nổ nghiêm trọng cuối cùng đã buộc phải bỏ chiếc "tàu sân bay jeep",những người sống sót được các tàu hộ tống gần đó cứu thoát.Tàu khu trục Burns (DD-588) đánh chìm chiếc tàu bị bỏ lại đang bừng cháy bằng ngư lôi.Nhận lên tàu những người còn sống sót trên chiếc Ommaney Bay từ chiếc tàu khu trục Twiggs,West Virginia tiến vào biển Nam Trung Quốc sáng ngày hôm sau 5 tháng 1 năm 1945,bảo vệ các tàu sân bay khỏi các cuộc không kích của quân Nhật trong ngày hôm đó.Sau đó,chiếc thiết giáp hạm tách khỏi các tàu sân bay tiến sát gần bờ để tiến hành bắn phá San Fernando Point.West Virginia đã phá hủy các căn cứ Nhật Bản trên bờ bằng các khẩu pháo 406 mm (16 inch).Tuy nhiên, các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze ngày càng gia tăng cho dù phải đối mặt với hỏa lực cao xạ dày đặc và các máy bay tiêm kích tuần tra chiến đấu trên không.Thiệt hại gây ra cho các tàu chiến Đồng Minh tiếp tục tăng cao,khi chúng gây hư hại cho chiếc HMSA Australia và các thiết giáp hạm California và New Mexico trong ngày 5 tháng 1.West Virginia tham gia vào việc xây dựng một hàng rào hỏa lực phòng không trong các cuộc tấn công này, đã trải qua chiến đấu mà không bị thiệt hại.West Virginia,vốn còn đang chuyên chở thủy thủ đoàn chiếc Ommaney Bay,lại tiếp tục nhận lên bờ một nhóm người sống sót khác: thủy thủ đoàn chiếc tàu quét mìn cao tốc Hovey,đã bị ngư lôi Nhật đánh chìm vào ngày 6 tháng 1.Trước khi nó có thể chuyển người của chiếc tàu sân bay hộ tống và tàu quét mìn đến một nơi nào khác, trước tiên chiếc thiết giáp hạm còn phải thi hành những nhiệm vụ được trao phó cho nó.Vì thế, các khẩu pháo 406 mm (16 inch) của West Virginia lại phá hủy các vị trí Nhật Bản trên bờ ở San Fabian vào các ngày 8 và 9 tháng 1,khi lực lượng đổ bộ lên bờ vào ngày hôm sau.Mãi đến tận buổi tối ngày 9 tháng 1,chiếc thiết giáp hạm mới có dịp chuyển những hành khách "bất đắc dĩ" lên bờ.Sau khi hỗ trợ bắn pháo theo yêu cầu suốt ngày 10 tháng 1, West Virginia tuần tra ngoài khơi vịnh Lingayen trong một tuần lễ tiếp theo sau trước khi đi đến một địa điểm buông neo nơi nó được tiếp tế đạn dược.Trong đợt hoạt động bắn phá ngoài khơi San Fabian, West Virginia chứng tỏ được sự hữu ích của nó khi hỗ trợ các hoạt động công binh, tiêu diệt các vị trí súng cối, pháo và công sự đối phương cũng như san bằng thị trấn San Fabian.Thêm vào đó, "Wee Vee" còn phá hủy các kho đạn, đường sắt và các ga đầu mối, các vị trí súng máy và nhà kho.Trong thời gian này, nó đã sử dụng 395 quả đạn pháo 406 mm (16 inch) và trên 2.800 quả đạn 127 mm (5 inch).Lại lên đường lúc 07 giờ 07 phút ngày 21 tháng 1,West Virginia thực hiện nhiệm vụ bắn pháo theo yêu cầu lúc 08 giờ 15 phút,sẵn sàng hoạt động phối hợp với các đơn vị Lục quân trên bờ tại khu vực lân cận các thị trấn Rosario và Santo Tomas. Sau khi trải qua vài ngày hỗ trợ bắn pháo theo yêu cầu,West Virginia trở lại thả neo tại vịnh Lingayen ngày 1 tháng 2.Sau đó, trong thành phần của Đội đặc nhiệm 77.2, West Virginia bảo vệ cho các tàu bè đi đến các bãi đổ bộ tại Lingayen và sẵn sàng đáp ứng bắn pháo theo yêu cầu của bộ binh khi cần thiết.Sau khi hoàn tất nhiệm vụ,nó rời vịnh Lingayen vào ngày 10 tháng 2 hướng đến vịnh Leyte.Trước khi khởi hành, nó nhận được 79 bao thư từ gửi từ Hoa Kỳ, lần đầu tiên nó nhận thư kể từ lễ Giáng Sinh.Sau khi ghé qua vịnh San Pedro, Leyte, West Virginia đi đến Ulithi vào ngày 16 tháng 2 và được bố trí hoạt động cùng Đệ Ngũ hạm đội.Được lệnh chuẩn bị cấp tốc cho một nhiệm vụ tiếp theo, chiếc thiết giáp hạm được tiếp nhiên liệu cùng hàng tiếp liệu với mức độ ưu tiên cao nhất. Chiếc tàu hoàn tất việc chất lên tàu khoảng 300 tấn tiếp liệu lúc 04 giờ 00 phút ngày 17 tháng 2; rồi đến 07 giờ 30 phút,West Virginia lên đường hướng đến Iwo Jima cùng với các tàu khu trục Izard và McCall để gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 51.

Trận Iwo Jima

West Virginia nhìn thấy Iwo Jima từ khoảng cách 82 dặm (132 km) lúc 09 giờ 07 phút ngày 19 tháng 2.Khi đến gần, nó nhìn thấy nhiều tàu chiến khác đang bắn phá hòn đảo từ mọi phía và cuộc đổ bộ đầu tiên lên hòn đảo đang diễn ra. Đến 11 giờ 25 phút, chiếc thiết giáp hạm nhận các mệnh lệnh tác chiến, và 20 phút sau, tiến đến vị trí hỗ trợ hỏa lực đối diện các bãi biển.Lúc 12 giờ 45 phút, các khẩu pháo hạng nặng của nó bắt đầu hỗ trợ lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ, nhắm vào các vị trí pháo, công sự, xe cộ, hầm trú ẩn và kho tiếp liệu.Sáng ngày 21 tháng 2, chiếc tàu chiến quay trở lại vị trí trực chiến, và từ 08 giờ 00, tiếp tục vai trò hỗ trợ hỏa lực.Các quả đạn pháo hạng nặng 406 mm (16 inch) của nó tiếp tục bắn phá các hang động trú ẩn, phá hủy các vị trí đặt súng phòng không cùng các lô cốt;Một loạt đạn pháo đã bắn trúng một kho hoặc hầm đạn và nó phát nổ trong suốt hai giờ sau đó.Ngày 22 tháng 2,một quả đạn pháo cỡ nhỏ bắn trúng tàu gần tháp pháo số 2 khiến một thủy thủ bị thương.Cùng ngày hôm đó, một sự kiện đáng kể khác diễn ra trên bờ khi lực lượng Thủy quân Lục chiến chiếm được núi Suribachi, điểm cao nổi bật tại một đầu của hòn đảo núi lửa này.Từ trên tàu ở vị trí gần bờ, thủy thủ đoàn trên chiếc West Virginia có thể trông thấy được lá cờ cắm trên đỉnh cao này.Trong suốt thời gian còn lại của tháng 2,West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hằng ngày hỗ trợ hỏa lực cho lực lượng Thủy quân Lục chiến trên bờ.Một lần nữa, các vị trí Nhật Bản trên bờ phải chịu đựng hỏa lực của những quả đạn pháo hạng nặng 406 mm (16 inch) của chiếc thiết giáp hạm. Nó bắn trúng các vị trí tập trung lực lượng, doanh trại và các chiến hào.Trong khi đang trực chiến ngoài khơi bãi biển vào ngày 27 tháng 2, chiếc thiết giáp hạm phát hiện một khẩu đội pháo của quân Nhật trên bờ đang nhắm vào chiếc tàu khu trục Bryant.West Virginia tiến đến gần, và ở khoảng cách 550 m (600 yard), khác khẩu pháo hạng hai 127 mm (5 inch) của nó đã khiến pháo đối phương im tiếng.Được tiếp đạn vào sáng sớm ngày 28 tháng 2, West Virginia quay trở lại vị trí trực chiến trưa hôm đó,bắn pháo quấy phá đối phương và can thiệp, cũng như vô hiệu hóa các khẩu đội pháo inh bằng dàn pháo hạng hai.Trong ba ngày đầu của tháng 3,West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực của nó, chủ yếu tập trung vào các cứ điểm của quân Nhật tại bờ biển Đông Bắc Iwo Jima.Cuối cùng, vào ngày 4 tháng 3, chiếc thiết giáp hạm lên đường hướng về quân đảo Caroline,đi đến Ulithi vào ngày 6 tháng 3.

Trận Okinawa

Gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 64 để hoạt động trong chiến dịch Okinawa, West Virginia lên đường vào ngày 21 tháng 3, đi đến mục tiêu bốn ngày sau đó, 25 tháng 3. Trong giai đoạn đầu,West Virginia trải qua các ngày sau đó vô hiệu sự kháng cự tại Okinawa chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên đảo này dự định thực hiện vào ngày 1 tháng 4.Lúc 10 giờ 29 phút ngày 26 tháng 3, trinh sát viên trên tàu báo cáo về ánh lửa đạn pháo xuất hiện trên bờ, được tiếp nối bởi những cột nước cách con tàu khoảng 5,5 km (6.000 yard) bên mạn trái.Khai hỏa những loạt đạn pháo đầu tiên trong chiến dịch này, West Virginia đã nã 28 quả đạn pháo 406 mm (16-inch) xuống các khẩu đội pháo Nhật Bản gây sự.Ngày hôm sau, "Wee Vee" kháng cự lại các cuộc không kích của đối phương, khi một máy bay ném bom hai động cơ "Frances" trúng phải đạn phòng không và bốc cháy lúc 05 giờ 20 phút, đâm nhào xuống biển bên mạn trái tàu.Trong những ngày tiếp theo sau, sự kháng cự của đối phương thể hiện dưới dạng các cuộc tấn công tự sát của máy bay.Các quả thủy lôi Nhật Bản cũng chứng tỏ tác dụng hủy diệt của chúng, khi một quả đã đánh chìm chiếc tàu quét mìn Skylark cách mạn trái West Virginia 2,7 km (3.000 yard) lúc 09 giờ 30 phút ngày 28 tháng 3.Sau khi được tiếp đạn tại Kerama Retto,hòn đảo được chiếm để xây dựng một căn cứ tiền phương nhằm hỗ trợ cho lực lượng tấn công, West Virginia lại lên đường hướng đến Okinawa bắn pháo hỗ trợ trực tiếp cho cuộc đổ bộ.Trên đường đi,lúc 04 giờ 55 phút, nó bị buộc phải chạy lui động cơ hết mức khi một chiếc tàu khu trục không nhận diện được đã chắn ngang trước mũi tàu hầu tránh một cú va chạm.Dự định khai hỏa lúc 06 giờ 30 phút, chiếc thiết giáp hạm hướng đến vị trí trực chiến ngoài khơi các bãi biển Okinawa.Khi nó đang chuẩn bị thực hiện bắn pháo,West Virginia phát hiện một máy bay Nhật xuất hiện bên mạn trái con tàu.Các khẩu đội pháo phòng không đã ngắm theo mục tiêu và nổ súng, bắn rơi máy bay đối phương ở khoảng cách 180 m (200 yard).Sau đó có thêm bốn máy bay đối phương bay đến gần,và West Virginia bắn rơi được một trong số chúng.Cuối cùng, lúc 06 giờ 30 phút,West Virginia khai hỏa vào các vị trí trên bờ trong khi các xuồng đổ bộ chuẩn bị hướng vào các bãi biển Okinawa.Đến 08 giờ 42 phút, trinh sát viên trên tàu báo cáo trông thấy các hoạt động tác chiến diễn ra trên bờ.Trận chiến giành Okinawa chính thức bắt đầu.West Virginia tiếp tục nhiệm vụ hỗ trợ hỏa lực suốt ngày hôm đó, sẵn sàng phản pháo nhằm hỗ trợ cho lực lượng đổ bộ đang tấn công nhanh trên đất liền.Có vẻ như ít có sự kháng cự đáng kể trong ngày 1 tháng 4,và chiếc thiết giáp hạm tiếp tục tuần tra gần bờ chờ đợi nhận chỉ thị mới.Tuy nhiên, lúc 19 giờ 03 phút, một máy bay đối phương đã phá vỡ sự bình yên đang có trên West Virginia.Màn hình radar bắt được tín hiệu của ba máy bay đối phương và theo dõi chúng khi chúng đến gần. Màn hỏa lực phòng không dày đặc không ngăn được một trong số chúng tiếp cận bên mạn trái West Virginia và đâm bổ vào sàn cấu trúc thượng tầng ngay phía trước tháp pháo 127 mm (5 inch) số hai.Bốn người bị thiệt mạng trong vụ nổ, cùng bảy người khác bị thương tại một khẩu đội súng 20 mm gần đó. Quả bom mà chiếc máy bay mang theo rơi khỏi đế và xuyên qua sàn tàu đến hầm tàu thứ hai,nhưng may mắn là không phát nổ và bị vô hiệu hóa bởi sĩ quan vũ khí trên tàu.West Virginia báo cáo những hư hại của nó "có thể sửa chữa được",và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ bắn pháo chiếu sáng ban đêm cho lực lượng đổ bộ trên bờ.West Virginia mai táng những người chết trên biển trong khi vẫn đang tiếp diễn các đợt tấn công kamikaze trong ngày 1 tháng 4, và tiếp nối các nhiệm vụ bắn pháo hỗ trợ không lâu sau đó.Trong thời gian hoạt động gần bờ vào đầu tháng 4,hỏa lực phòng không của chiếc thiết giáp hạm đã bắn rơi một chiếc Aichi D3A "Val" vào ngày 6 tháng 4.Vào đầu tháng 4, quân Nhật dự định tấn công vào hạm đội Mỹ bằng một lực lượng hạm tàu nổi được hình thành chung quanh chiếc siêu thiết giáp hạm Yamato.Trong đêm 7 rạng sáng ngày 8 tháng 4, West Virginia di chuyển trong vùng biển phía Tây Okinawa sẵn sàng đánh chặn và đối đầu cùng lực lượng Nhật Bản đang hướng về khu vực này.Sáng hôm sau,Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm 68 thông báo rằng hầu hết các tàu chiến đối phương trong lực lượng này đã bị đánh chìm kể cả chiếc Yamato,khi trong hành trình cuối cùng này nó chỉ được tiếp đủ nhiên liệu để đi đến Okinawa mà không đủ để quay về.Vì vậy, lực lượng tự sát lớn nhất của Hải quân Nhật đã bị tiêu diệt khi còn cách rất xa mục tiêu của nó.Tuy nhiên, đối với West Virginia, nhiệm vụ của nó vẫn tiếp diễn, hỗ trợ bắn pháo sáng và phản pháo bằng cả dàn pháo chính lẫn pháo hạng hai;và là dịp cho các xạ thủ khẩu đội phòng không luôn luôn bận rộn không ngơi tay do sự xuất hiện dày đặc của những cuộc tấn công tự sát.Thiết giáp hạm Tennessee,tàu tuần dương Salt Lake City,các tàu khu trục Zellars và Stanly cùng các tàu chiến khác là những nạn nhân của những cơn "thần phong" này.West Virginia tiếp tục bắn pháo hỗ trợ cho Lục quân cho đến ngày 20 tháng 4, khi nó khởi hành hướng đến Ulithi để tiếp liệu, nhưng chẳng bao lâu sau bị gọi phải khẩn cấp quay trở lại Okinawa,vì thiết giáp hạm Colorado bị hư hại do thuốc nổ phát nổ trong khi nạp đạn tại Kerama Retto. Quay trở lại bãi Hagushi, West Virginia bắn pháo ban đêm và bắn can thiệp hỗ trợ cho Tập đoàn quân 10 và Quân đoàn 26 Lục quân.Cuối cùng,West Virginia lên đường hướng đến Ulithi, có tàu tuần dương San Francisco và tàu khu trục Hobson tháp tùng,đến nơi vào ngày 28 tháng 4 mà không bị gọi quay trở lại.Quay trở lại Okinawa sau một đợt nghỉ ngơi ngắn ngủi tại Ulithi, West Virginia tiếp tục hỗ trợ lực lượng Lục quân và Thủy quân Lục chiến đang tác chến trên bờ cho đến cuối tháng 6.Ngày 1 tháng 6,nó gửi máy bay trinh sát của mình định vị một công sự đối phương đã nhiều lần kìm hãm sự tiến lên của Lục quân.Một số loạt đạn pháo nhắm vào nó đã không có kết quả; chiếc tàu chiến chỉ tiêu diệt được một số phương tiện vận tải và điểm tập trung quân đối phương trong ngày hôm đó.Ngày hôm sau 2 tháng 6,trong khi hỗ trợ lực lượng của Quân đoàn 26,West Virginia bắn trúng đích bốn phát cùng bảy phát suýt trúng vào công sự ngoan cố này.Sau đó West Virginia hoạt động ngoài khơi bờ biển Đông Nam Okinawa, phá vỡ các điểm tập trung và hầm trú ẩn của quân Nhật.Nó cũng cắt đứt sự vận chuyển của đối phương khi bắn trúng đích một giao lộ và một bãi đậu.Vào ngày 16 tháng 6,trong khi nả pháo yểm trợ cho Sư đoàn 1 Thủy quân Lục chiến ngoài khơi bờ biển Đông Nam Okinawa,một chiếc thủy phi cơ Vought OS2U Kingfisher của nó trúng phải hỏa lực phòng không Nhật và cắm đầu bốc cháy,buộc cả phi công lẫn quan sát viên phải thoát ra ngoài và nhảy dù xuống lãnh thổ còn do đối phương kiểm soát.Được sự trợ giúp bởi tàu khu trục Putnam và một tàu đổ bộ,West Virginia nhanh chóng tiến sát gần bờ và áp chế các khẩu pháo đối phương trong một nỗ lực nhằm giải cứu đội bay đang ẩn náu chờ được giải thoát.Tuy nhiên, các nỗ lực để giải cứu đội bay bị thất bại;và sau khi mượn một chiếc Kingfisher khác từ thiết giáp hạm Tennessee, West Virginia tiếp tục các hoạt động bắn pháo hỗ trợ cho đến hết tháng 6.Hướng về vịnh San Pedro ở Leyte vào cuối tháng 6 và được tàu khu trục Connolly hộ tống, chiếc thiết giáp hạm đến nơi vào ngày 1 tháng 7.Tại đây vào sáng ngày 5 tháng 7, nó nhận được nhân sự thay thế lần đầu tiên kể từ khi ở Trân Châu Cảng năm 1944. Sau khi được tiếp đạn, West Virginia tiến hành huấn luyện tại khu vực Philippine kéo dài đến tận cuối tháng 7.Khởi hành vào ngày 3 tháng 8 hướng đến Okinawa,West Virginia đi đến vịnh Buckner vào ngày 6 tháng 8,đúng lúc quả bom nguyên tử đầu tiên của thế giới "Little Boy" được thả xuống thành phố Hiroshima.Ba ngày sau, quả bom nguyên tử thứ hai "Fat Man" phá hủy phần lớn thành phố Nagasaki.Hai sự kiện này đã thúc đẩy vào việc sụp đổ của Đế quốc Nhật Bản.Lúc 21 giờ 15 phút ngày 10 tháng 8,West Virginia bắt được một báo cáo lệch lạc trên radio rằng chính phủ Nhật đã đồng ý đầu hàng theo những điều khoản của Tuyên ngôn Potsdam,với điều kiện rằng họ được giữ lại Nhật Hoàng như người đứng đầu.Các tàu chiến Mỹ trong vịnh Buckner mau mắn ăn mừng; và việc sử dụng hỏa lực phòng không và pháo sáng một cách bừa bãi,không chỉ từ các tàu chiến hải quân mà còn của lực lượng bộ binh và thủy quân lục chiến trên bờ,đã gây nguy hiểm cho máy bay đồng đội.Tuy nhiên, việc ăn mừng như thế tỏ ra quá sớm,khi vào lúc 20 giờ 04 phút ngày 12 tháng 8,thủy thủ của West Virginia cảm nhận một vụ nổ lớn dưới nước,và đến 20 giờ 58 phút thì bắt được bức điện từ chiếc Pennsylvania báo cáo rằng nó đã bị đánh trúng ngư lôi.West Virginia gửi một tàu cứu hộ trang bị bơm lúc 00 giờ 23 phút ngày 13 tháng 8 đến trợ giúp chiếc Pennsylvania bị hư hại.Chiến tranh kết thúc vào ngày 15 tháng 8 năm 1945.West Virginia tiến hành thực tập cùng đội đổ bộ của nó nhằm chuẩn bị cho cuộc chiếm đóng chính quốc Nhật Bản sắp tới, rồi sau đó khởi hành vào ngày 24 tháng 8 đi đến vịnh Tokyo trong thành phần của Đội Đặc nhiệm 35.90.Nó đến vịnh Tokyo vào ngày cuối cùng của tháng 8,kịp lúc để chứng kiến buổi lễ ký kết văn kiện đầu hàng chính thức vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.Trong dịp này, năm nhạc công của dàn nhạc trên chiếc West Virginia được tạm thời chuyển sang chiếc thiết giáp hạm Missouri để trình tấu trong buổi lễ.

Sau chiến tranh

Ngày 14 tháng 9, West Virginia nhận lên tàu 270 hành khách trong chuyến đi về bờ Tây Hoa Kỳ.Nó lên đường vào nữa đêm 20 tháng 9 hướng đến Okinawa trong thành phần Đội Đặc nhiệm 30.4. Rời vịnh Buckner vào ngày 23 tháng 9, chiếc thiết giáp hạm về đến Trân Châu Cảng ngày 4 tháng 10. Tại đây, thủy thủ đoàn sơn lại con tàu, và chỉ giữ lại những hành khách cần chuyển đến San Diego, California.Khởi hành vào ngày 9 tháng 10, West Virginia buông neo tại bến tàu hải quân ở San Diego lúc 13 giờ 28 phút ngày 22 tháng 10.Hai ngày sau,Chuẩn Đô đốc I. C. Sowell tháo cờ hiệu Tư lệnh Hải đội Thiết giáp hạm 4 của mình khỏi con tàu.Vào Ngày Hải quân, 25.554 vị khách đã lên thăm con tàuBa ngày sau 30 tháng 10,West Virginia lên đường hướng đến vùng biển Hawaii tham gia Chiến dịch Magic Carpet giúp hồi hương các cựu chiến binh. Sau một chuyến đi giữa San Diego và Trân Châu Cảng,West Virginia thực hiện một chuyến đi khác, lần này có Chuẩn Đô đốc William W.Smith đặt cờ hiệu của mình trên chiếc tàu chiến trong chuyến đi quay trở về San Francisco, California.Sau khi thực hiện một chuyến đi khác giữa bờ Tây và Hawaii, West Virginia đi đến San Pedro, California, vào ngày 17 tháng 12.Tại đây, nó trải qua kỳ nghĩ Giáng Sinh sau khi đưa lượt hành khách thứ ba lên bờ.Chiếc thiết giáp hạm kỳ cựu nhổ neo vào ngày 4 tháng 1 năm 1946 hướng đến Bremerton, Washington.Nó đến nơi vào ngày 12 tháng 1,và không lâu sau chuẩn bị để ngừng hoạt động.Nó được chuyển đến Seattle, Washington vào ngày 16 tháng 1,nơi nó neo đậu cạnh con tàu chị em Colorado.West Virginia bước vào giai đoạn cuối cùng của việc chuẩn bị ngừng hoạt động vào tháng 2 năm 1946 và nó ngừng hoạt động vào ngày 9 tháng 1 năm 1947 và được đưa về lực lượng dự bị trong thành phần Hạm đội Dự bị Thái Bình Dương.Chiếc thiết giáp hạm không bao giờ được gọi quay trở lại phục vụ.Nó tiếp tục ở lại lực lượng dự bị cho đến khi được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 3 năm 1959; và đến ngày 24 tháng 8 năm 1959,nó được bán cho hãng Union Minerals and Alloys Corp.tại New York để tháo dỡ.West Virginia (BB-48),một cựu binh đầy kinh nghiệm của trận Trân Châu Cảng và của Thế Chiến II,được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến đấu trong cuộc chiến này.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro