ls 2007-2011

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Biến động lãi suất năm 2007   

Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp lực tăng lãi suất trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất USD.Nhưng lãi suất vẫn tăng, mở đầu năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy động, tạo nên một áp lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Mở hàng lãi suất năm nay là Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) với quyết định tăng lãi suất “Tiết kiệm điện tử”, áp dụng ngay từ ngày đầu tiên của năm (1/1/2007). Lãi suất “Tiết kiệm điện tử” tiền VND của Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn 12 tháng với mức tăng từ từ 0,12%/năm đến 0,17%/năm, lên 9,42%năm, 9,45%/năm và 9,48%/năm, tương ứng với các mức tiền gửi dưới 50 triệu VND, 50-200 triệu VND và từ 200 triệu VND. Nhưng cuộc đua tăng lãi suất mới chỉ thực sự khởi tranh trong vài ngày trở lại đây, với sự tham gia của một loạt ngân hàng cổ phần. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm. Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9.5%/năm

Lãi suất đầu năm tăng do theo lộ trình giảm thuế được cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh nghiệp tăng nhập hàng và cần một lượng lớn USD để thanh toán. Chính tín hiệu vui từ thị trường này đã khiến đồng USD từ mức dư thừa hồi trước Tết trở nên có giá và các ngân hàng nhân cơ hội này gia tăng huy động.

Hơn nữa, theo Nghị định 1141 mà Ngân hàng Nhà Nước vừa ban hành, nhà băng phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10%. Điều này khiến chi phí đầu vào của ngân hàng gia tăng lên đáng kể và các nhà băng phải đau đầu với bài toán sử dụng hiệu quả nguồn vốn huy động.

Nhưng đến cuối năm, lãi suất lại có xu hướng tăng do trong quý III-2007 lãi suất tiết kiệm đã bị cắt giảm do các ngân hàng buộc nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nên bây giờ tăng lãi huy động cũng là cách bù vào. Cuối năm thường là khoảng thời gian các doanh nghiệp hoàn thành các hợp đồng đã ký, chuẩn bị nguồn lực tích trữ hàng hóa mà  giá cả nguyên vật liệu nhập khẩu đầu vào năm sau thường cao hơn năm trước nên nhu cầu vốn thường cao hơn. Có lẽ đây cùng là một trong những nguyên nhân khiến các ngân hàng chuẩn bị một lượng vốn lớn để giải ngân vào thời điểm này.

Biến động lãi suất năm 2008

Năm 2008 có thể được coi là năm của lãi suất khi lãi suất biến động trái chiều với một biên độ lớn chỉ trong vòng 12 tháng. Diễn biến lãi suất trong năm 2008 gồm 2 giai đoạn chính: Cuộc đua tăng lãi suất của các ngân hàng vào nửa đầu năm 2008 và một cuộc đua khác theo chiều hướng ngược lại, đua giảm lãi suất, dù mức độ quyết liệt kém hơn. Những sự kiện lớn đối với diễn biến lãi suất năm 2008 diễn ra như sau:

6 tháng đầu năm 2008, lãi suất tăng mạnh :

Từ mức lãi suất tháng 1 là 8,5%, các ngân hàng bắt đầu vào cuộc đua lãi suất, khởi đầu là các ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh. Lãi suất tăng cao đến đỉnh điểm vào tháng 6 năm 2008 là 18,5%. Hiện tượng người dân rút tiền từ ngân hàng có lãi suất thấp chuyển sang ngân hàng có lãi suất cao xuất hiện. Đây là lý do để có ngân hàng buộc phải cấp tốc điều chỉnh lãi suất. Có nhiều nguyên nhân khác nhau:

Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do rủi ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro thị trường… do lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động.

Mặc khác kinh tế Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa đầu năm 2008. Trước tình hình đó NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng, rút tiền khỏi thị trường thông qua việc phát hành 20,300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc 17/03/2008, đồng thời buộc Kho bạc rút 50.000 tỷ từ các Ngân hàng Thương mại làm cho tính thanh khoản của các ngân hàng bị chặn đột ngột điều này gây ra tình trạng thiếu vốn trầm trọng thể hiện rõ qua làn sóng đua nhau tăng lãi suất huy động vốn trong toàn hệ thống ngân hàng.

Mặc dù tùy thuộc vào chiến lược của từng ngân hàng nhưng nhìn chung các ngân hàng đều gặp phải sự mất cân đối giữa các kỳ hạn vốn huy động và cho vay. Trong tổng số dư tiền gửi tại các ngân hàng, có tới 80% là tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 6 tháng). Nhưng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh và đầu tư phát triển lại rất lớn với kỳ hạn thường kéo dài từ 1 năm trở lên. Trong khi đó, thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển nên gánh nặng về nguồn vốn trung và dài hạn chủ yếu dồn lên vai các ngân hàng thương mại. Bởi vậy, áp lực trong cân đối nguồn vốn các kỳ hạn của các ngân hàng là không hề nhỏ. Để thu hút nguồn vốn các ngân hàng đã tăng lãi suất để thu hút vốn.

Thêm vào đó, sự ấm lên của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản cũng có tác động nhất định đến nguồn vốn huy động của các ngân hàng. “Một nguồn vốn không nhỏ đã dịch chuyển từ ngân hàng sang các kênh đầu tư này”. Và cũng không phải ngẫu nhiên có những khoản vay trong các chương trình cho vay tiêu dùng của các ngân hàng với lãi suất khá cao đổ vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Đó là chưa kể những đợt sóng trên thị trường vàng và thị trường ngoại hối cũng khiến nhà đầu tư “sốt sắng” tham gia.

Không chỉ vậy vào cuối năm 2007 đầu năm 2008 nhằm phục vụ cho các nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu kinh doanh mùa cuối năm của khách hàng, nếu các ngân hàng cổ phần không tăng lãi suất sẽ khó thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân chúng, vì lạm phát tăng cao đã khiến người gửi tiết kiệm phải chịu lãi suất âm. Mặt khác, do hiện nay nền kinh tế chưa hấp thụ hết dòng vốn ngoại, trong khi nguồn vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam được dự đoán sẽ tiếp tục chảy vào nên phải tăng lãi suất huy động để hút tiền đồng.

6 tháng cuối năm lãi suất giảm mạnh:

Bắt đầu từ tháng 7 trở đi, các ngân hàng lại bước vào cuộc đua lãi suất mới nhưng với xu hướng ngược lại so với 6 tháng đầu năm. Cuộc đua ban đầu chỉ mới nhích nhẹ từ 18,5% xuống còn 17,5% và bắt đầu giảm mạnh từ tháng 10 năm 2008.

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do các ngân hàng đã giữ được tính thanh khoản của dòng tiền, đảm bảo được độ an toàn cao và tính rủi ro thấp. Mặt khác, sau 6 tháng đã huy động được một lượng tiền khổng lồ về thì nay các ngân hàng giảm lãi suất cho vay để kích thích người tiêu dùng trong hoạt động sản xuất cũng như cho các doanh nghiệp vay để đầu tư. NH nào cũng chỉ muốn cho vay khách hàng tốt, nhưng khách hàng tốt thì chỉ vay khi LS ở mức hợp lý (chỉ có khách hàng xấu là vay bằng mọi giá). Vì vậy để có vốn rẻ khuyến khích  nhu cầu vay của DN tốt thì phải hạ LS huy động.

Thứ hai, tín hiệu tích cực từ lạm phát và chuyển biến kinh tế vĩ mô cũng là cơ sở để có được sự điều chỉnh này. Lạm phát có chiều hướng giảm - Do dư nợ tăng thấp nên vốn khả dụng VND dư thừa tương đối nhiều, cộng thêm tình hình kinh tế có dấu hiệu giảm phát, các NH đã liên tục hạ LS tiền gửi VND. Từ 16,5%- 17,5%/năm  giảm về từ 10,5%-14,5%/năm.

Và thứ ba, trên cơ sở xem xét các nhu cầu tín dụng, cân đối khả năng huy động cũng như yêu cầu quản trị…, các ngân hàng đã có quyết định phù hợp với trường hợp của mình, cũng như theo hướng chung của hệ thống. Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, chi phí đầu vào tăng lên, khi có điều kiện các ngân hàng sẽ xem xét để có điều chỉnh hợp lý, tính đến cả mục tiêu lợi nhuận của mình nữa, cùng với nhận định việc giảm lãi suất huy động sẽ không ảnh hưởng lớn tới tốc độ huy động trong thời gian tới.

Biến động lãi suất năm 2009

Ngay từ những tháng đầu năm, lãi suất huy động của các ngân hàng tăng nhẹ (hình 6). Một lý giải chắc chắn cho đợt điều chỉnh lãi suất huy động mới của các NH, vốn không chỉ dừng lại ở khối các NHTMCP, là nhằm chuẩn bị một nguồn vốn dồi dào trước các dự báo cho rằng nhu cầu vốn của DN sẽ đặc biệt tăng mạnh trong năm 2009. Các điều chỉnh tăng vì thế được thực hiện với hầu hết các kỳ hạn, từ kỳ hạn tuần đến kỳ hạn 36 tháng. Ngày 12.3 của các NHTM gây chú ý khi công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất 8,7%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất  các kỳ hạn  lần lượt được điều chỉnh tăng, lên mức 8%/năm cho kỳ hạn trên 12 tháng, 7,32%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, và các kỳ hạn 6 - 9 - 12 tháng lần lượt nhận được mức lãi xuất 7,44%/năm, 7,524%/năm và 8,004%/năm.

Từ tháng 5 đến tháng 7/2009, làn sóng đua tăng lãi suất huy động Việt nam đồng (VND) ở các NHTM chưa có dấu hiệu dừng do nhu cầu hấp thụ vốn của nền kinh tế tăng cao, lãi suất huy động VND đang tiến sát về mức trần cho vay. Nhiều NHTM chỉ trong 2 tuần đã tăng lãi suất tiền gửi 2 đến 3 lần. Trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ. Ở khối NHTM Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối NHTM cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm. Đến tuần cuối của tháng 5, làn sóng tăng lãi suất huy động bằng VND tăng khá mạnh. Cụ thể, tại Ngân hàng An Bình, hiện mức lãi suất đỉnh đã lên tới 9,7% khi khách hàng gửi tiết kiệm bậc thang với kỳ hạn dài và số tiền lớn. Với kỳ hạn 18 tháng, người gửi tiền được hưởng lãi suất 9%/năm; 24 tháng: 9,2%/năm; 36 tháng: 9,4%/năm; 60 tháng: 9,5%/năm. trong tuần đầu tiên của tháng 5, lãi suất giao dịch mới chỉ tăng nhẹ, ở khối ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất huy động VND không kỳ hạn phổ biến là 2,88%/năm, kỳ hạn 3 tháng: 7,3%, 6 tháng: 7,5%/năm và 12 tháng là 7,85%/năm. Tại khối ngân hàng thương mại cổ phần, mức 2,87%/năm dành cho không kỳ hạn, các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng và 12 tháng có mức lãi suất tương ứng là 7,59%/năm, 7,75%/năm và 8,04%/năm.

Từ tháng 8 đến tháng10/2009, các ngân hàng gia tăng lãi suất và đỉnh cao nhất lên đến 9,5%. Cụ thể, Ngân hàng Hàng hải Việt Nam (Maritime Bank) lãi suất tăng mạnh ở các kỳ hạn dài đều trên 9% và 36 tháng đã lên đến đỉnh 9,5%. Với Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà TP.HCM (HDBank), ngay khi lãi suất của nhiều ngân hàng tăng mạnh, ngân hàng nay cũng đã áp dụng lãi suất cao nhất lên tới 9,5%/năm, kỳ hạn 36 tháng; các kỳ hạn 18 và 24 tháng cũng có mức cao, 9,1% và 9,3%.

Tiếp tục sau đó các ngân hàng thương mại đưa ra các mức lãi suất huy động cơ bản như  15 tháng (9,4%), 24 tháng (9,8%) hay 36 tháng (10,3%/năm) và tiếp tục tăng lãi  xuất huy động 0.3%. Đặc biệt, vào ngày 12/8 lãi suất huy động vốn VND đã lên tới đỉnh là 10.3%.

Đến đầu tháng 11 nhóm NHTM cổ phần điều chỉnh tăng lãi suất huy động VND với mức từ 0,1-0,3%/năm và tăng lãi suất huy động USD từ 0,1-0,2%/năm ở hầu hết các kỳ hạn, đặc biệt là lãi suất ngắn hạn. Hiện nay, lãi suất của các ngân hàng đã lên tới 9.99%/năm cho kỳ hạn 1 tháng.

Có thể thấy, thực tế lãi suất huy động tăng gần sát lãi suất cho vay đã phản ánh sự căng thẳng nguồn vốn của các ngân hàng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ngân hàng tiến vào cuộc đua lãi suất vào cuối năm.

Trước hết là do áp lực về vốn để thực hiện chính sách cho vay ưu đãi của chính phủ và nhu cầu đáo hạn các khoản tiền gởi vào cuối năm. Khi ngân hàng thực hiện hỗ trợ lãi suất, một yêu cầu bắt buộc là không được từ chối cho vay nếu đối tượng đủ điều kiện. Hơn nữa, những hợp đồng tín dụng đã ký từ trước đã đến ngày giải ngân cũng là một áp lực về vốn đối với ngân hàng. Trong bối cảnh hiện nay, khó khăn không chỉ đến với ngân hàng thương mại mà cả đối với Ngân hàng Nhà nước. Bởi lẽ, nếu giữ nguyên hoặc hạ lãi suất cơ bản để hạ giá vốn cho doanh nghiệp, hỗ trợ chống suy giảm kinh tế thì phải đối mặt với áp lực cung cầu vốn trên thị trường. Và điều này lại mâu thuẫn với việc nâng lãi suất cơ bản để giải tỏa cơn khát vốn cho ngân hàng.

Mặt khác, để ổn định tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, chính phủ phải bảo vệ sự ổn định của lượng tiền cung ứng tăng thêm, do thực tế, nếu phát hành thêm một đồng thì vòng quay của một đồng đó trong một năm lên tới 4,85 lần.

Ngoài ra, do tác động của việc nới lỏng chính sách tài khoá và tiền tệ, nhất là cơ chế hỗ trợ lãi suất trong 10 tháng đầu năm 2009, làm cho việc kiểm soát tốc độ tăng ở mức hợp lý của hai chỉ tiêu trên gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng không thuận lợi đối với việc kiềm soát lạm phát, ổn định lãi suất thị trường trong các tháng cuối năm 2009 và sẽ kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của tác động tiền tệ.

NĂM 2010

5-11-2010, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 2619/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo đó, lãi suất cơ bản đối với VND được nâng từ mức 8% lên 9%/năm, áp dụng kể từ ngày 5-11-2010. Như vậy, lãi suất cơ bản VND đã được điều chỉnh sau gần 1 năm giữ ổn định ở mức 8%/năm.

Trước đây, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng thương mại giảm lãi suất, nhưng đến nay tình hình đã thay đổi. Theo tính toán tăng trưởng GDP năm 2010 có thể đạt và vượt kế hoạch, trong khi CPI có nguy cơ tăng. Nếu duy trì lãi suất VND càng thấp thì đồng USD lại càng có giá so với VND. Vì vậy, Thường trực Chính phủ quyết định không đặt vấn đề giảm lãi suất VND nữa, mà để các ngân hàng thương mại tự điều chỉnh lãi suất theo thị trường

lãi suất huy động có tăng lên cũng chỉ khoảng 12-13% mà không có các khoản phụ phí. Mức cho vay khoảng 15%-17% là mức thị trường chấp nhận được.

Cùng với quyết định tăng lãi suất cơ bản,  Ngân hàng Nhà nước cũng điều chỉnh một số lãi suất chủ chốt khác của VND. Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 9%/năm; lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 7%/năm; lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng là 9%/năm. 

NĂM 2011

Năm 2011: Việt Nam sẽ tăng các lãi suất chủ chốt

Đây là dự báo của ngân hàng ANZ được đưa ra trong báo cáo mới đây của ngân hàng này. ANZ cho rằng NHNN cần tiếp tục nâng các lãi suất chủ chốt từ 14 - 15%/năm nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế đã đề ra.

Theo ANZ, mức lãi suất hiện tại là chưa đủ để thực hiện mục tiêu kinh tế của Chính phủ khi các số liệu củaTổng cục Thống kê cho thấy tăng trưởng chậm lại nhưng lạm phát vẫn cao và còn có thể trở nên nghiêm trọng hơn khi giá nhiên liệu tiếp tục tăng. 3 tháng đầu năm, GDP Việt Nam tăng trưởng 5,43%, chậm hơn nhiều so với 7,34% quý trước đó. Trong khi đó, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)3 tháng đầu năm tăng 13,89%.

Trước khi có báo cáo của ANZ, Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng từ 12%/năm lên 13%/năm. Quyết định này được đưa ra sau chưa đầy 1 tháng sau lần nâng lãi suất gần đây nhất (ngày 8/3).

Tính từ đầu năm đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã 4 lần điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn, với mức tăng lần lượt từ 9% lên 11%/năm (ngày 17/2), từ 11% lên 12%/năm (ngày  8/3) và từ 12% lên 13%/năm (ngày 1/4).14% ngày 1/5(lstck là 13%).ngày 17/5 lãi suất OMO lên 15%

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro