Untitled Part 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Nguyên tắc tự do biển cả

      Biển cả tồn tại khách quan cùng với các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia ven biển. Do không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào nên quy chế pháp lý của Biển cả là quy chế tự do, thể hiện trên hai khía cạnh: Thứ nhất, các quốc gia có quyền và lợi ích khác nhau trong khu vực biển cả; Thứ hai, không có sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia có vị trí và hoàn cảnh địa lý khác nhau khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.

      Theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, nguyên tắc tự do biển cả được cụ thể hóa thành các quyền tự do cơ bản, là cơ sở để hình thành quy chế pháp lý của Biển cả và Vùng. Quyền tự do này đặc biệt bao gồm: i) Tự do hàng hải; ii) Tự do hàng không; iii) Tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm; iv) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép; v) Tự do đánh bắt hải sản; vi)Tự do nghiên cứu khoa học. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện quyền tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như các quyền được Công ước thừa nhận liên quan đến hoạt động trong Vùng (Điều 87 Công ước Luật Biển 1982).

      2. Nguyên tắc đất thống trị biển

      Nguyên tắc “đất thống trị biển” là sự thể hiện cụ thể của thuyết Mere Clausum. Đây là nguyên tắc của Luật Tập quán, hình thành từ thực tiễn xét xử của Tòa án Công lý Quốc tế. Trong phán quyết lịch sử của Tòa án về phân định Thềm lục địa Biển Bắc ngày 20/02/1969, Tòa đã khẳng định: Thềm lục địa của bất kỳ quốc gia nào cũng phải là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của nó và không được cản trở sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của nước khác.

      Theo nguyên tắc, việc mở rộng chủ quyền quốc gia ra biển không thể tách rời yếu tố chủ quyền lãnh thổ. Yếu tố lãnh thổ theo ghi nhận của nguyên tắc này là lãnh thổ đất (bao gồm cả đảo tự nhiên và quần đảo). Nguyên tắc “đất thống trị biển” có ý nghĩa quan trọng đối với các quốc gia ven biển nhất là các quốc gia đang phát triển. Nó là cơ sở để khẳng định chủ quyền, quyền tài phán của quốc gia trên biển, góp phần giải quyết công bằng và hiệu quả tranh chấp trên biển giữa các quốc gia.

      Nguyên tắc này được ghi nhận tại Điều 76 Công ước Luật Biển 1982. Công ước đã khẳng định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phận kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn”.

      

      4. Nguyên tắc Vùng và tài nguyên thuộc Vùng là di sản chung của nhân loại

      Khái niệm di sản chung của loài người được chính thức hình thành qua Nghị quyết 2749 ngày 17/12/1970 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc. Khái niệm này đã xác định khối tài sản không thể phân chia, thuộc quyền sở hữu của cộng đồng quốc tế, thay mặt cho tất cả quốc gia. Khái niệm này sau đó đã được thể hiện và cụ thể hóa trong các quy định của Công ước Luật Biển 1982.

      Theo Điều 136 Công ước Luật Biển 1982, Vùng và tài nguyên của Vùng là di sản chung của loài người. Quy định này loại bỏ sự độc quyền chiếm đoạt đối với bất kỳ nguồn tài nguyên nào trên Vùng. Nguyên tắc này và nguyên tắc tự do biển cả là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và đảm bảo thực thi chế độ pháp lý đối với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của Vùng. Trong cách xử sự chung liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo quy định của Công ước Luật Biển 1982, các nguyên tắc được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, với sự quan tâm giữ gìn hòa bình, an ninh, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và hiểu biết lẫn nhau (Điều 138 Công ước Luật Biển 1982).

     

      7. Nguyên tắc công bằng

      Nguyên tắc công bằng là nguyên tắc được áp dụng phổ biến trong quá trình phận định biển. Trong phán quyết của Toàn án Công lý quốc tế về phân định Thềm lục địa Biển Bắc ngày 20/02/1969, Tòa đã đưa ra nguyên tắc khi phân định biển: “Công bằng không có nghĩa nhất thiết phải bằng nhau”. Tòa cũng đã nêu ra một số khả năng áp dụng nguyên tắc công bằng. Lưu ý rằng phải xem xét để đảm bảo các quốc gia sẽ áp dụng các phương thức công bằng một cách tự do, không có giới hạn, từ đó đưa ra một sự cân bằng hợp lý. Nhiều yếu tố phải được xem xét tới trong quá trình phân định để đưa đến một giải pháp công bằng như: yếu tố địa chất (phụ thuộc về địa chất của các nước ven bờ), yếu tố địa lý (hình dạng bờ biển), sự thống nhất của các mỏ, tỷ lệ giữa bề rộng thềm lục địa với chiều dài bờ biển. Trong phân định biển, áp dụng công bằng không có nghĩa là sửa chữa lại tự nhiên mà là đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một vùng biển đúng và công bằng, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan.

      Công ước Luật Biển 1982 còn ghi nhận nguyên tắc này trên một số khía cạnh:

      - Thừa nhận các quốc gia có quyền và nghĩa vụ như nha trong khu vực Biển cả. Không đặt biển cả dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ quốc gia nào. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia dù có biển hay không có biển. Các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý cũng được sử dụng biển cả như các quốc gia có biển.

      - Thừa nhận Vùng và tài nguyên của Vùng là di sản chung của loài người, các quốc gia có biển hay không có biển trong khuôn khổ quy định của luật pháp quốc tế đều có quyền sử dụng Vùng vào những mục đích hòa bình. Mọi hoạt động được tiến hành trong Vùng vì lợi ích của toàn thể loài người.

3. Nguyên tắc sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình

      Biển cả là vùng biển chung của cộng đồng quốc tế với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng. Việc sử dụng biển cả đúng cách sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nhân loại, ngược lại, sử dụng biển cả một cách tiêu cực sẽ đe dọa tới hòa bình và an ninh quốc tế. Vì vậy, quy chế pháp lý của biển cả phải được xây dựng đảm bảo vùng biển này chỉ được sử dụng vì các mục đích hòa bình.

      Nguyên tắc sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình đã được ghi nhận trong Công ước Luật Biển 1982. Điều 88 Công ước quy định: “Biển cả được sử dụng vào các mục đích hòa bình”.

 5. Nguyên tắc bảo vệ và khai thác hợp lý các sinh vật sống trên biển

      Nội dung của nguyên tắc này bao hàm việc các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ các sinh vật sống trên biển. Trong trường hợp tiến hành khai thác, việc khai thác sinh vật sống này phải được tiến hành một cách khoa học, hợp lý để đảm bảo bảo tồn và phát triển bền vững. Liên quan đến nội dung của nguyên tắc này, Công ước Luật Biển 1982 đã xây dựng những quy định cơ bản về việc bảo tồn nguồn sinh vật sống trên biển (Phần 7 Mục 2 từ Điều 116 đến Điều 120 Công ước quy định về việc bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của biển cả).

      6. Nguyên tắc bảo vệ môi trường biển

      Thế kỷ XX là thế kỷ nhân loại đạt được những bước tiến lớn trong phát triển khoa học - kỹ thuật. Nhưng cùng với quá trình phát triển kinh tế khu vực và toàn cầu, môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng đang đối mặt với nguy cơ bị ô nhiễm nghiêm trọng từ hoạt động khai thác của con người. Nếu không có những biện pháp khắc phục kịp thời, một khi sự cân bằng sinh thái của biển bị phá vỡ, biển sẽ có những tác động xấu trở lại tới cuộc sống con người. Nhận thức được điều này, vấn đề bảo vệ môi trường biển đã được các quốc gia quan tâm. Nhiều Công ước quốc tế về Bảo vệ môi trường biển đã được ra đời như: Công ước London 1972 về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các chất thải do tàu  và các chất thải khác; Công ước 1973 về Ngăn ngừa ô nhiễm biển từ các chất thải do tàu; Công ước Brukxen 1969 về các biện pháp chống ô nhiễm dầu do các vụ tai nạn trên biển cả; Công ước Luật Biển 1982… Những Công ước này đã tạo cơ sở và hành lang pháp lý cho việc gìn giữ môi trường biển, ngăn ngừa ô nhiễm trên biển.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro