Biên giới lãnh thổ

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LÃNH THỔ TRONG LUẬT QUỐC TẾ

Câu 1: Định nghĩa và phân loại lãnh thổ?

1/ Định nghĩa:

Lãnh thổ quốc tế là toàn bộ trái đất, bao gồm các bộ phận cấu thành là vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất, để cả khoảng không vũ trụ và các hành tinh.

2/ Phân loại.

- Lãnh thổ quốc gia: đây là bộ phận lãnh thổ thuộc chủ quyền quốc gia nhất định. Quốc gia có quyền tối cao trong phạm vi lãnh thổ của mình theo đúng quy định của LQT.

- Lãnh thổ quốc tế: là bộ phận lãnh thổ thuộc sở hữu chung của cộng đồng quốc tế, có quy chế pháp lý quốc tế. Lãnh thổ quốc tế bao gồm vùng biển quốc tế, vùng trời quốc tế, vùng đáy biển quốc tế, khoảng không quốc tế và các hành tinh, Châu Nam Cực.

- Lãnh thổ có quy chế hỗn hợp: là bộ phận lãnh thổ mà quy chế pháp lý của chúng bao gồm cả các quy định của quy chế pháp lý quốc gia và các quy định của quy chế pháp lý quốc tế. Vùng lãnh thổ này bao gồm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của quốc gia có biển.

- Lãnh thổ quốc gia được sử dụng quốc tế: bộ phận lãnh thổ quốc gia nhưng có vị trí địa lý, kinh tế, chính trị,… quan trọng. Vì vậy chúng được sử dụng quốc tế, có tính khu vực hoặc toàn cầu. Vùng lãnh thổ này bao gồm kênh quốc tế và sông quốc tế.

Câu 2: Định nghĩa và các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia?

1/ Định nghĩa.

Theo LQT, lãnh thổ quốc gia là một phần của trái đất, bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời, vùng lòng đất, thuộc chủ quyền hoàn toàn tuyệt đối, hoàn toàn riêng biệt hoặc hoàn toàn đầy đủ của một quốc gia. Lãnh thổ quốc gia là toàn vẹn và bất khả xâm phạm.

2/ Các bộ phận cấu thành lãnh thổ quốc gia.

* Vùng đất quốc gia

: bao gồm đất liên của lục địa và các đảo của quốc gia thuộc chủ quyền hoàn toàn và tuyết đối của chúng.

- Các vùng nước nội địa

như ao, hồ, sông ngòi,… thuộc quy chế pháp lý của vùng đất liên.

- Vùng nước biên giới

được sử dụng là biên giới thiên nhiên.

VD: sông Cửu Long (VN – TQ), LQG và LQT quy định trong Hiệp định đường biên giới 1999 về đường biên giới quốc gia trên bộ giữa VN và TQ.

VD: vùng nước Ngũ Hồ giữa Mỹ và Canada: quy chế pháp lý không chỉ do một quốc gia quy định mà cả 2 nước xác định trong một Hiệp định dành cho 2 quốc gia.

- Quốc gia quần đảo

: được cấu thành bởi nhiều hoàn đảo, quần đảo gần nhau.

VD: Philippin với 17.000 đảo; Indonexia: 24.000 đảo

- Lãnh thổ kín

: lãnh thổ quốc gia nằm gọn trong lãnh thổ quốc gia khác, không có đường ra biển.

VD: Tây Ban Nha có Lavia nằm gọn trong lãnh thổ Pháp, không có đường ra biển.

- Lãnh thổ hình giẻ quạt

: bao gồm đất liền, lòng đất, nước nằm trong hình giẻ quạt.

VD: Liên Xô cũ, Canada

- Lãnh thổ Bắc Cực

: n~ quốc gia giáp Bắc cực.

- Lãnh thổ hải ngoại

: Hawai

à

quần đảo ở Thái Bình Dương thuộc Mỹ

* Vùng nước:

- Là tất cả vùng nước nằm phía trong đường biên giới quốc gia trên biển của quốc gia có biển bao gồm:

+ Vùng nội thủy

: có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia

+ Vùng lãnh hải

: thuộc chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ của quốc gia ven biển.

* Vùng trời quốc gia:

là khoảng không bao trùm lên vùng đất, vùng nước của quốc gia, và thuộc chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt của chính quốc gia này. Do đặc điểm đặc biệt nhạy cảm của vùng lãnh thổ này nên phải xác lập chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt.

* Vùng lòng đất

: là vùng đất nằm dười vùng đất và vùng nước của quốc gia, LQT mặc nhiên thừa nhận vùng lãnh thổ này chạy tới tận tâm trái đất và chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối của quốc gia.

Câu 3’: Chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ?

Gồm hai phương diện:

- Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.

- Xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ (câu 3’’).

1/ Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.

Một quốc gia có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền đó gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.

* Nội dung của quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ được thể hiện ra ở hai phương diện:

# Phương diện quyền lực.

- Đây là sự tồn tại và phát triển của hệ thống cơ quan nhà nước với các hoạt động nhằm thực hiện quyền lực bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống một quốc gia.

- Quyền lực này mang tính hoàn toàn, riêng biệt, không chia xẻ với bất cứ quốc gia nào khác và là chủ quyền thiêng liên của từng quốc gia. Tất cả dân cư và hoạt động diễn ra trên lãnh thổ quốc gia đề thuộc về quyền lực này.

- Quốc gia thực hiện quyền tài phán của mình đối với người và tài sản trong phạm vi lãnh thổ một cách không hạn chế (trừ trường hợp vì lợi ích của toàn cộng đồng hay vì lợi ích của một số quốc gia nhất định và ý chí chủ quyền của nhân dân).

- Trên phạm vi lãnh thổ quốc gia được quyền tiến hành mọi hoạt động với điều kiện các hành vi đó không bị LQT cấm. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành các hoạt động hợp pháp, quốc gia cũng phải lưu ý đến một nguyên tắc có tính tập quán là không sử dụng chủ quyền lãnh thổ của mình làm thiệt hại đến chủ quyền lãnh thổ của quốc gia khác.

- Quyền tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ không loại trừ các ngoại lệ đã xuất hiện trong thực tiễn quan hệ quốc tế như không áp dụng luật nước mình đối với các công dân nước ngoài trên lãnh thổ của mình (viên chức ngoại giao – lãnh sự) hoặc ko loại bỏ hiệu lực của luật nước ngoài trên phạm vi lãnh thổ của mình nếu điều này được quy định trong luật quốc gia cũng như trong ĐƯQT. Ngược lại hiệu lực của các cơ quan quyền lực tư pháp có thể được mở rộng ra ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia nếu luật nước sở tại và ĐƯQT hữu quan cho phép.

- Đi đôi với việc thực hiện chủ quyền lãnh thổ, quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng và bảo đảm quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác. Nguyên tắc bất khả xâm phạm và toàn vẹn lãnh thổ có một số nội dung:

+ Cấm đe dọa dùng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ;

+ Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm;

+ Không sử dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự đồng ý của quốc gia đó;

+ Không cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước thứ ba.

# Phương diện vật chất.

- Môi trường tự nhiên của quốc gia – đất đai, nước, không gian, rừng, khoáng sản, tài nguyên vùng lòng đất… là nội dung vật chất của lãnh thổ quốc gia và thuộc về quốc gia trong phạm vi được giới hạn bởi đường biên giới quốc gia.

- Quốc gia có quyền sở hữu một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cở sở phù hợp với lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên vùng lãnh thổ đó và phù hợp với các quyền dân tộc cơ bản. Mọi sự thay đổi hoặc định đoạt liên quan đến số phận của một vùng đất nào đó của lãnh thổ quốc gia phải dựa trên quyền dân tộc tự quyết mới được coi là hợp pháp.

- Trong trường hơp thuê lãnh thổ quốc gia thì vùng lãnh thổ cho thuê vẫn là một bộ phận lãnh thổ quốc gia của nước cho thuê. Nước thuê lãnh thổ có quyền áp dụng quyền tài phán của mình (không phải chủ quyền) phù hợp với thỏa thuận được ghi nhận giữa hai bên.

* Quy chế pháp lý của lãnh thổ quốc gia.

- Quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với nguyện vọng của cộng đồng dân cư sống trên lãnh thổ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài, dưới bất kỳ hình thức nào;

- Quyền tự do lựa chọn phương hướng phát triển đất nước, thực hiện n~ cải cách kinh tế - xã hội phù hợp với các đặc điểm của quốc gia. Các quốc gia có nghĩa vụ phải tôn trọng sự lựa chọn này;

- Quyền tự quy định chế độ pháp lý đối với từng vùng lãnh thổ của quốc gia;

- Quyền sở hữu hoàn toàn đối với tất cả tài nguyên thiên nhiên trong lãnh thổ của mình;

- Thực hiện quyền tài phán đối với mọi công dân, tổ chức, kể cả các cá nhân, tổ chức nước ngoài trong phạm vi lãnh thổ quốc gia (trừ trường hợp pháp luật quốc gia hoặc ĐƯQT mà quốc gia tham gia hoặc ký kết có quy định khác);

- Quyền của quốc gia áp dụng các biện pháp cưỡng chế, điều chỉnh, kiểm soát hoạt động của các pháp nhân và người nước ngoài, kể cả các trường hợp quốc hữu hóa, tịch thu, trưng thu tài sản của tổ chức, cá nhân nước ngoài có bồi thường hoặc không có bồi thường;

- Quyền quyết định sử dụng, thay đổi lãnh thổ phù hợp với pl và lợi ích của cộng đồng dân cư sống trên phần lãnh thổ đó.

2/ Xác lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia.

Câu 3’’: Phương thức xác lập chủ quyền quốc gia đối với lãnh thổ?

* Điều kiện pháp lý để xác lập hợp pháp danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ của quốc gia.

- Việc xác lập này phải dựa vào các phương thức thu đắc lãnh thổ hợp pháp. Một phương thức thụ đắc lãnh thổ được coi là hợp pháp khi nó được tiến hành trên một đối tượng lãnh thổ phù hợp. Chủ thể xác lập danh nghĩa chủ quyền phải có tư cách quốc gia và được thực hiện theo đúng cách thức mà LQT về thụ đắc lãnh thổ đòi hỏi.

- Xác lập chủ quyền lãnh thổ cần phải dựa trên quyền dân tộc tự quyết của cư dân sống trên phần lãnh thổ được thụ đắc, bởi việc xác lập chủ quyền lãnh thổ không chỉ dựa trên một phương thức duy nhất.

* Thụ đắc lãnh thổ bằng phương thức chiếm cứ hữu hiệu.

- Chiếm cứ hữu hiệu được hiểu là

hành động của một quốc gia nhằm mục đích thiết lập và thực hiện quyền lực của mình trên một lãnh thổ vốn không phải là bộ phận của lãnh thổ quốc gia với ý nghĩa thụ đắc lãnh thổ đó.

- Đối tượng lãnh thổ

được áp dụng phương thức thụ đắc hữu hiệu là lãnh thổ đó vô chủ hoặc lãnh thổ bị bỏ rơi.

+ Lãnh thổ vô chủ:

_Lãnh thổ phải không có người ở vào thời điểm quốc gia thực hiện việc chiếm cứ;

_Lãnh thổ này chưa từng thuộc quyền sở hữu của bất cứ một quốc gia nào vào thời điểm quốc gia chiếm cứ thực hiện việc chiếm cứ lãnh thổ đó.

+Lãnh thổ bị bỏ rơi

: là kết quả của cả hai yếu tố về hai phương diện vật chất (đó là sự vắng mặt của một sự quản lý thật sự trên lãnh thổ) và tâm lý (là ý định từ bỏ lãnh thổ của quốc gia đã từng là người chủ của lãnh thổ đó), cụ thể:

_Lãnh thổ này không còn là đối tượng điều chỉnh, áp dụng của pl quốc gia nữa;

_Quốc gia từ bỏ duy trì đời sống kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế hoặc trong lãnh thổ như không tiến hành thu thuế, khai thác tài nguyên, khoáng sản,…

_Quốc gia xóa bỏ các thiết chế quản lý trên lãnh thổ;

_Quốc gia không thực hiện các hoạt động bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, từ bỏ việc bảo hộ lợi ích của cư dân sống trên lãnh thổ;

- Hành động chiếm cứ hữu hiệu luôn được thực hiện bởi cơ quan nhà nước hoặc các tổ chức công được nhà nước ủy quyền.

- Nội dung của chiến cứ hữu hiệu:

+ Đó phải là sự chiếm cứ hợp pháp (đúng đối tượng và bằng biện pháp hòa bình). Mọi hành vi sử dụng vũ lực chiếm cứ một lãnh thổ đã có chủ đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế.

+ Phải có sự chiếm cứ thực sự. Biểu hiện cụ thể của hành vi chiếm cứ thực sự là đưa công dân của nước mình tới định cư trên lãnh thổ mới, thiết lập trên đó bộ máy quản lý hành chính, chính thức đưa vào bản đồ quốc gia vùng lãnh thổ mới đó…

+ Chiếm cứ phải liên tục, hòa bình trong một thời gian dài không có tranh chấp;

+ Việc chiếm cứ lãnh thổ phải được thực hiện với mục đích nhằm tạo ra một danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ.

- Là phương thức thụ đắc lãnh thổ có giá trị pháp lý cao.

* Phương thức thụ đắc lãnh thổ dựa trên sự chuyển nhượng tự nguyện

.

- Đây là sự chuyển giao một cách hòa bình danh nghĩa chủ quyền trên một lãnh thổ từ quốc gia này sang quốc gia khác thông qua nhiều hình thức như qua ĐƯQT, qua trao đổi, mua bán. Phương thức này chuyển cho người chủ mới một danh nghĩa hợp pháp.

Câu 4: Định nghĩa và các bộ phận cấu thành biên giới quốc gia?

1/ Định nghĩa.

Biên giới quốc gia là ranh giới phân định lãnh thổ của quốc gia này với lãnh thổ của quốc gia khác hoặc với các vùng mà quốc gia có quyền chủ quyền trên biển.

Ranh giới này hoặc là đường ranh giới được ghi nhận trên bản đồ và được đánh dấu trên thực địa hoặc là mặt thẳng đứng đi quan đường ranh giới nói trên xác định giới hạn bên ngoài của lãnh thổ quốc gia. Đây chính là giới hạn không gian của quyền lực tối cao của quốc gia đối với lãnh thổ.

2/ Các bộ phận cấu thành biên giới quốc gia.

- Biên giới trên bộ

: là đường biên giới được xác định trên đất liền, trên đảo, trên sông, hồ, kênh, biển nội địa,… Biên giới trên bộ phổ biến được quy định trong các ĐƯQT giữa các nước hữu quan (trừ một số trường hợp ngoài lệ) và một số ĐƯQT đặc biệt hoặc các quyết định của cơ quan tài phán quốc tế khi các bên hữu quan đồng ý.

- Biên giới trên biển

: là đường vạch ra để phân định vùng lãnh hải của quốc gia với vùng biển tiếp liên mà quốc gia ven bờ có quyền chủ quyền với vùng nội thủy, lãnh hải của quốc gia khác có bờ biển đối diện hay kề bên bờ biển của quốc gia này.

+ Trong trường hợp vùng biển của quốc gia là độc lập, không có sự chồng lấn với vùng biển của quốc gia khác.

+ Trong trường hợp chồng lấn: đường biên giới quốc gia trên biển sẽ được xác định giữa các quốc gia có liên quan và được ghi nhận trong ĐƯQT.

- Biên giới trên không và biên giới trong lòng đất

: Được LQT thừa nhận chung dưới dạng TQQT trên cơ sở đường biên giới trên bộ, trên biển.

Câu 5: Nguyên tắc xác định biên giới quốc gia trên bộ?

 

Câu 6: Nguyên tắc xác định biên giới quốc gia trên biển?

* Ng

uyên tắc thỏa thuận:

Thỏa thuận là một nguyên tắc cơ bản, có tính tập quán của luật quốc tế, trong giải quyết các tranh chấp quốc tế. Khi hai quốc gia có bờ biển đối diện hay tiếp giáp nhau và có các danh nghĩa pháp lý chồng nhau thì họ phải có nghĩa vụ đàm phán một cách thiện chí và có ý định thực sự đạt tới một kết quả thực định. Các bên được tự do thỏa thuận với điều kiện các thỏa thuận đạt được không vi phạm các nguyên tắc mệnh lệnh của luật quốc tế (nguyên tắc jus cogens), hay làm tổn hại đến quyền lợi chính đáng của nước thứ ba.

* Nguyên tắc trung tuyến hay cách đều:

Điều 15 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982 quy định việc áp dụng nguyên tắc này cho vùng lãnh hải vì tính chất gần bờ của chúng sẽ không làm sai lệch nhiều đường trung tuyến (cách đều), gây ra những kết quả không công bằng. Phương pháp đường trung tuyến được sử dụng để vạch một con đường xuất phát, đường đàm phán và xem xét. Sau đó, căn cứ vào các hoàn cảnh hữu quan, đường trung tuyến thuần túy sẽ được điều chỉnh để đi đến một giải pháp công bằng.

* Nguyên tắc phân định công bằng:

Công bằng trong phân định là xem xét, cân nhắc tất cả các hoàn cảnh hữu quan như: hình dạng bờ biển, đảo, luồng hàng hải, tài nguyên… để tìm ra một giải pháp mang lại công bằng chứ không phải là sự áp dụng máy móc, khắt khe một loại các quy tắc, nguyên tắc hình thức. Muốn đạt được kết quả công bằng cần phải áp dụng, điều chỉnh các quy tắc và nguyên tắc công bằng của luật phân định biển phù hợp với thực tế và các hoàn cảnh hữu quan của khu vực phân định, trong đó các yêu tố địa lý là trọng điểm xem xét của quá trình phân định.

* Nguyên tắc áp dụng các dàn xếp tạm thời:

Nguyên tắc này được quy định tại một số điều khoản trong Công ước luật biển 1982. Tại khoản 3 Điều 74 về hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau quy định: “Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các thỏa thuận dứt khoát trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không phương hại đến hoạch định cuối cùng”. Như vậy, nguyên tắc này chủ yếu áp dụng trong thời kỳ quá độ khi các quốc gia đang trong quá trình thỏa thuận để phân định các vùng biển.

Câu 7: Quá trình xác định biên giới quốc gia trên bộ?

* Hoạch định biên giới quốc gia.

- Khái niệm:

Là quá trình các bên cùng thỏa thuận xác định phương hướng, vị trí, tính chất của đường biên giới trên văn bản điều ước, kèm theo các tài liệu cần thiết và bản đồ mô tả chi tiết đường biên giới theo thỏa thuận. Đây là giai đoạn quan trọng với n~ hoạt động pháp lý nhằm xác định vị trí, hướng đi của đường biên giới và thống nhất các nguyên tắc xác định biên giới và lựa chọn các yếu tố tạo nên một đường biên giới hoàn chỉnh.

- Cách thức tiến hành:

Toàn bộ việc hoạch định phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Để tiến hành giai đoạn này, các bên thường thành lập và ủy quyền cho cơ quan thay mặt mình tiến hành công việc gọi là ủy ban liên hợp hoạch định biên giới hai nước.

- Điều ước quốc tế về hoạch định biên giới

do ủy ban này dự thảo phải được nguyên thủ quốc gia hoặc đại diện toàn quyền của nguyên thủ quốc gia đứng ra ký kết và được cơ quan cơ thẩm quyền theo đúng hiến pháp của mỗi bên phê chuẩn.

- Phương pháp hoạch định

là thông qua đám phán và các con đường hòa bình khác. Nếu có tranh chấp các bên không tự giải quyết được phải nhờ đến bên thứ ba, kể cả thông qua con đường đàm phán quốc tế.

- Yêu cầu của hoạch định biên giới:

+ Phải đưa ra được các nguyên tắc để làm cơ sở cho việc xác định đường biên giới.

+ Các điểm được lựa chọn để xác định vị trí, hướng đi của đường biên giới phải rõ ràng, tránh mơ hồ hay gây khó dễ, gây tranh chấp cho quá trình phân giới, cắm mốc sau này. Yêu cầu việc lựa chọn phải vừa đạt độ chính xác cao, vừa phù hợp với các yếu tố địa hình thực tế.

- Hình thức hoạch định:

+ Hoạch định biên giới mới

: ở đây, loại biên giới tự nhiên và biên giới nhân tạo là hai loại chủ yếu được áp dụng để xác định biên giới mới.

Biên giới tự nhiên: đa dạng, có thể được xác định dựa theo địa hình thực tế (núi, sông, hồ…). Mỗi địa hình cụ thể có nguyên tắc xác định khác nhau. VD: địa hình sông biên giới có thể được xác định dựa trên bờ sống, đường trung tuyến của sông hay nguyên tắc Thalweg… Địa hình núi thì có thể theo các sống núi, đường phân thủy,…

Biên giới nhân tạo, bao gồm:

_Biên giới thiện văn: biên giới được xác định theo các đường kinh tuyến, vĩ tuyến.

_Biên giới hình học: là đường biên giới được xác định bằng các đường hình học hoặc các đường thẳng nối hai điểm xác định, hay đường vòng cung mà tâm điểm và bán kinh đã được thỏa thuận.

+ Sử dụng các đường ranh giới đã có (nguyên tắc Uti possidetis).

* Phân giới và cắm mốc thực địa

.

- Phân giới là

quá trình thực địa hóa đường biên giới trong hiệp định. Đây là công việc mang tính vật chất, cụ thể để đưa đường biên giới được hoạch định trong các văn bản và bản đồ ra thực địa, cố định nó bằng các mốc dấu quốc giới với các phương pháp kỹ thuật đo đạc chính xác.

- Việc cắm mốc

có thể tiến hành theo phương pháp cuốn chiếu (phân giới đến đâu cắm mốc đến đó) hoặc phân giới xong mới thực hiện cắm mốc.

- Các mốc dấu biên giới đóng vai trò

là cơ sở để xác định vị trí, hướng đi của đường biên giới trên thực địa. Vì thế yêu cầu mức độ chính xác của các mốc dấu rất cao và hai bên phải cùng làm.

- Căn cứ vào địa hình cụ thể, cột mốc biên giới thường đặt tại

:

+ Mỗi cửa khẩu;

+ Các điểm chuyển hướng trọng yếu của đường biên giới, ở đỉnh núi, chân núi hoặc các địa điểm quan trọng;

+ Các điểm trên đường quốc lộ, đường Fe, sông, suối mà đường biên giới cắt ngang qua…

- Đối với mỗi cột mốc được xây dựng đều phải lập hồ sơ cột mốc

. Mỗi khi cần sửa chữa, thay đổi, phục hồi hay hủy bỏ mốc dấu biên giới đều phải do hai bên thỏa thuận cùng tiến hành nhưng ko được làm thay đổi hướng đi của đường biên giới đã được hoạch đinh, phân vạch, cắm mốc chính thức.

- Kết thúc quá trình cắm mốc trên thực địa

, Ủy ban hỗn hợp phải lập bản đồ về biên giới kèm theo hiệp định về biên giới để các quốc gia ký kết hay phê chuẩn.

- Trường hợp

đường biên giới quốc gia đã được hoạch định, phân giới nhưng do nguyên nhân nào đó, cần phải kiểm tra lại hoặc vạch lại cho phù hợp với địa hình thực tế đã thay đổi thì người ta chỉ cần phân giới lại từng đoạn, ít có trường hợp phân giới lại toàn tuyến.

Câu 8: Chế độ pháp lý biên giới quốc gia?

1/ Cơ sở hình thành chế độ pháp lý biên giới quốc gia.

- Do pl trong nước và do các ĐƯQT về biên giới mà quốc gia đó ký kết với các nước láng giềng có chung đường biên giới quy định. Các điều ước về biên giới bao giờ cũng là n~ điều ước vô thời hạn.

2/ Nội dung.

Qua quy định của pl quốc gia và ĐƯQT có thể thấy chế độ biên giới của một nước gồm:

- Những nguyên tắc và quy định chung về biên giới quốc gia;

- Quy chế biên giới như quy chế qua lại, hoạt động ở khu vực biên giới, quy chế sử dụng nguồn nước, sử dụng sống suối biên giới, khai thác tài nguyên… ở vùng biên giới;

- Quy chế quản lý, bảo vệ biên giới;

- Quy chế giải quyết các tranh chấp nảy sinh ở khu vực biên giới.

Về nguyên tắc, n~ vấn đề biên giới – lãnh thổ luôn thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan trung ương như QH, Chính phủ, theo nguyên tắc có đi có lại và tôn trọng sự bất khả xâm phạm của biên giới quốc gia.

Mọi việc kiểm soát biên phòng, hải quan, kiểm tra vệ sinh dịch tễ, thú y, kiểm dịch thực vật… ở của khẩu nước nào thì theo quy định của pl nước đó (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác).

Ngoài ra, các nước đều có quy định chặt chẽ quy chế bảo vệ biên giới quốc gia, chống lại các hành vi xâm nhập biên giới bất hợp pháp cũng như trừng trị nghiêm khắc các hành vi xâm phạm quy chế biên giới. Cùng với việc quy định, mỗi quốc gia đều đặc biệt chú trọng việc thực hiện quy chế bảo vệ biên giới quốc gia.

à

thực tế, chế độ pháp lý biên giới càng đầy đủ, tỷ mỉ thì việc xây dựng, phát triển, bảo vệ đường biên giới càng có hiệu lực, góp phần củng cố, tăng cường quan hệ hữu nghị và sự hợp tác lâu dài giữa các nước làng giềng ở từng khu vực và khi có tranh chấp lãnh thổ hay biên giới thì nghĩa vụ của các quốc gia là phải giải quyết những tranh chấp ấy bằng biện pháp hòa bình.

Câu 10: Các trường hợp đặc biệt về lãnh thổ quốc gia?

1/ Bắc cực.

* Khái quát.

- Là một bộ phận của Trái đất, có nhiều nước tiếp giáp là Nga, Mỹ, Canada, Na Uy, Đan Mạch, Thụy Điển, Phần Lan và Aixolen.

- Tháng 5/1925, Canada chính thức tuyên bố khu vực Bắc cực thuộc Canada là bộ phận cấu thành lãnh thổ Canada, Canada có chủ quyền trên các vùng đất và đảo ở khu vực này.

- Năm 1916, Chính phủ Nga trong công hàm gửi cho các nước đồng mình và láng giềng đã thông báo việc sáp nhập các đảo, các vùng đất nằm ở khu vực phía bắc bờ biển châu Âu và châu Á của nước Nga vào lãnh thổ của Nga.

- Đan Mạch chiếm hữu phần Tây Nam của đảo Groenland trong thời gian 100 năm.

- Một số nước khác cũng tuyên bố chủ quyền của mình đối với phần đất Bắc cực trên cở sở của thuyết lãnh thổ kế cận (áp dụng riêng cho vùng Bắc cực với tên gọi là “Thuyết những khu vực của Bắc cực”) và sự thỏa thuận của các quốc gia hữu quan.

* Chế độ pháp lý Bắc cực.

Chế độ pháp lý của từng vùng biển Bắc cực riêng biệt được đánh giá riêng, xuất phát từ thực tế hình thành trật tự pháp luật đã được công nhận từ lâu trên cơ sở các lợi ích quân sự, kinh tế, chính trị và các lợi ích khác của các nước Bắc cực.

Hiện nay, quá trình quốc tế hóa Bắc cực đã đạt được kết quả nhất định, cụ thể là sự thành lập Hội đồng Bắc cực được thông qua tại Ottaoe năm 1996. Thành viên của Họi đồng Bắc cực gồm Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Hà Lan, Na Uy, Nga, Thụy Điển, Mỹ (các nước Bắc cực) và Hiệp hội những người thiểu số bản xứ ở Bắc cực, Xiberi, Viễn đông.

2/ Nam cực.

* Khái quát.

- Bao gồm châu Nam cực, các đảo tiếp giáp với châu Nam cực và các phần của Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương ở khu vực Nam cực với diện tích khoảng 50 km2.

- Có nhiều quốc gia đưa ra yêu sách để thiết lập danh nghĩa chủ quyền lãnh thổ:

+ Sắc lệnh Hoàng gia Anh vào năm 1908, 1917 quy định các đảo và lãnh thổ nằm giữa kinh tuyến tay 200  và 500 từ vĩ tuyến 560 xuống phía nam là “vùng phụ thuộc” thuộc quyền quản lý của Thủ tướng – toàn quyên thuộc địa Anh ở đảo Falklend.

+ Pháp đưa yêu sách lãnh thổ tại Nam cực vào năm 1924, khi vùng đất Adel được tuyên bố nằm dưới quyền quản lý của Thống trưởng toàn quyền Madagaska. Năm 1938, Pháp tuyên bố chủ quyền của mình đối với vùng đất này và cuối cùng vào năm 1955 tuyên bố thành lập lãnh thổ hải ngoại của Pháp bao gồm Pawen, Amstecdam, Kvoze, Kergenlen.

+ Một số nước như Chi Lê (tuyên bố 1940), Achentina (1940) cũng có yêu sách đối với Nam cực.

-Cùng với các yêu sách là sự xuất hiện của học thuyết “Khu vực Nam cực” mà đỉnh của khu vực này là điểm cực Nam, đường ranh giới bên cạnh là các kinh tuyến, đáy là bờ biển của các nước tiếp giáp hoặc là đường vĩ tuyến.

* Chế độ pháp lý quốc tế Nam cực.

- Cơ sở pháp lý: Hiệp ước về Nam cực 1959 xác lập chế độ pháp lý quốc tế của Nam cực. Cùng với đó là các ĐƯQT khác có mối quan hệ với hiệp ước Nam cực và các biện pháp có hiệu lực trong khuôn khổ các hiệp ước nêu trên (Công ước bảo vệ tài nguyên sinh vật biển của Nam cực 1980, Công ước về điều chỉnh nghiên cứu các tài nguyên khoáng sản Nam cực 1988…) tạo thành hệ thống các hiệp ước về Nam cực để điều chỉnh chế độ pháp lý quốc tế Nam cực.

- Đoạn 1 Điều 1 Hiệp ước về Nam cực 1959: “Nam cực được sử dụng chỉ hoàn toàn vào mục đích hòa bình. Nghiêm cấm các hoạt động mang tính chất vũ trang như xây dựng các căn cứ, công trình quân sự, không được phép tiến hành các hoạt động vũ trang cũng như việc thử bất cứ loại vũ khí nào”.

Như vậy, Nam cực và các vùng trong giới hạn 60 vĩ độ nam là vùng được sử dụng vào mục đích hòa bình. Điều 5 của CƯ nghiêm cấm làm phát nổ vũ khí hạt nhân và nghiêm cấm việc thải các chất phóng xạ xuống khu vực biển Nam cực.

Đối với các yêu sách lãnh thổ của các nước: CƯ không làm ảnh hưởng gì cũng k công nhận nó.

Để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên ở Nam cực: thành lập UB bảo vệ tài nguyên sinh vật biển Nam cực (Theo CƯ 1980), UB tài nguyên khoáng sản Nam cực (theo CƯ về điều chỉnh nghiên cứu các tài nguyên khoáng sản Nam cực 1988).

Câu 11: Khái niệm, quy chế pháp lý của vùng nội thủy?

1/ Khái niệm:

- Điều 8 Công ước 1982

quy định:

“1. Trừ trường hợp đã được quy định ở Phần IV, các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở của lãnh hải thuộc nội thủy của quốc gia.

2. Khi một đường cơ sở thẳng được vạch ra theo đúng phương pháp được nói ở Điều 7 gộp vào nội thủy các vùng nước trước đó chưa được coi là nội thủy, thì quyền đi qua không gây hại nói trong Công ước vẫn được áp dụng ở các vùng nước đó.”

- Một quốc gia có thể có một hay nhiều vùng nước nội thủy với các chế độ pháp lý khác nhau như: nội thủy, nội thủy trong đó quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền được tôn trọng:

+ Nội thủy

: các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải, tiếp liền với bờ biển như Vịnh, cửa sông,… là nội thủy đích thực, tại đó không tồn tại quyền qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài:

+ Nội thủy trong đó quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền được tôn trọng:

nội thủy trong đó cho phép tàu thuyền nước ngoài có quyền qua lại vô hại, là vùng nước có các đường hàng hải quốc tế đi quan mà trước đó chưa được coi là nội thủy, nhưng do việc xác định đường cơ sở thẳng, vùng nước này trở thành nội thủy, và quyền qua lại vô hại vẫn được duy trì để đảm bảo lưu thông hàng hải quốc tế vẫn phát triển bình thường, không bị trở ngại.

- Vùng nước hoặc vịnh lịch sử là các vùng biển, không phải là nội thủy nhưng do tính chất lịch sử của mình, chúng được hưởng quy chế nội thủy. Một vịnh được coi là lịch sử phải thỏa mãn 3 điều kiện sau đây:

+ Quốc gia ven biển thực hiện một cách thực sự chủ quyền của mình trên đó;

+ Việc sử dụng vùng biển trên được thực hiện một cách liên tục, hòa bình, lâu dài.

+ Có sự công nhận của cộng đồng quốc tế bằng sự chấp nhận công khai hoặc sự im lặng ko phản đối của các quốc gia quan tâm, nhất là các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này.

VD:

Hiệp định về vùng nước lịch sử ký ngày 7/7/1982 tại tp.HCM giữa CHXHCNVN và CHND Campuchia quy định một “vùng nước lịch sử chung” căn cứ vào các điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế và quốc phòng. Vùng này được giới hạn bởi các bờ biển Hà Tiên và Kampot, đảo Phú Quốc và các đảo ngoài khơi Thổ Chu và Poulo Wai. Vùng này được hai bên coi như đặt dưới chế độ nội thủy và có chế độ quản lý chung về đánh cá, tuần tra và kiểm soát trong khi chờ đợi việc giải quyết đường biên giới trên biển trong vùng nước lịch sử.

2/ Quy chế pháp lý của vùng nội thủy.

- Tính chất chủ quyền

: trong nội thủy quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối.

- Chế độ qua lại của tàu thuyền:

+ Mọi sự ra vào của tàu thuyền cũng như phương tiện bay nước ngoài trên vùng trời nội thủy đều phải xin phép.

Tàu thuyền thương mại vào các cảng biển quốc tế trên cơ sở nguyên tắc tự do thông thương và có đi có lại.

Tàu thuyền nhà nước dùng vào mục đích không thương mại và tàu thuyền quân sự phải xin phép. Các thủ tục xin phép cho tàu thuyền nước ngoài hoạt động tại nội thủy của mỗi quốc gia được điều chỉnh bởi quy định của Luật biển quốc tế và LQG.

- Quyền tài phán của quốc gia ven biển:

+ Khi hoạt động trong nội thủy nếu tàu thuyển nước ngoài có sự vi phạm, quốc gia ven biển có quyền thực hiện quyền tài phàn dân sự.

+ Đối với tàu thuyền được hưởng quyền miễn trừ như tàu thuyền nhà nước dùng vào mục đích phi thương mại và tàu thuyền quân sự nước ngoài vi phạm, quốc gia ven biển có quyền buộc tàu thuyền đó rời khỏi vùng nội thủy của mình và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của quốc gia mà tàu mang cờ trừng trị các vi phạm đó. Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại do hành vi phạm pháp của tàu thuyền đó gây ra.

+ Đối với các vi phạm hình sự và dân sự trên tàu thuyền nước ngoài, luật áp dụng là luật của quốc gia mà tàu mang cờ. Quốc gia ven biển chỉ can thiệp:

_Nếu hành vi phạm tội do một người ngoài thủy thủ đoàn thực hiện;

_Nếu thuyền trưởng yêu cầu chính quyền sở tại can thiệp;

_Nếu hậu quả của nó ảnh hưởng tới an ninh trật tự của cảng.

Câu 12: Khái niệm, quy chế pháp lý của lãnh hải?

1/ Khái niệm.

Lãnh hải là vùng biển nằm giữa vùng nước nội thủy và các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phàn quốc gia.

Ranh giới của lãnh hải được xác định theo Công ước luật biển 1982 như sau:

- Điều 3 về chiều rộng của lãnh hải

: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước.”

- Điều 4 về ranh giới phía ngoài của lãnh hải

: “Ranh giới phía ngoài của lãnh hải là một đường mà mỗi điểm ở trên đường đó cách điểm gần nhất của đường cơ sở một khoảng cách bằng chiều rộng của lãnh hải.”

Ranh giới phía ngoài của lãnh hải được coi là đường biên giới quốc gia trên biển.

2/ Xác định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải.

* Đường cơ sở thông thường:

Đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng của lãnh hải của một quốc gia chính là ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc theo bờ biển như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận. Đối với các đảo được cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, phương pháp đường cơ sở thông thường cũng được áp dụng.

Việc xác định đường cơ sở thông thường được quy định tại Công ước luật biển 1982 như sau:

- Điều 5 về đường cơ sở thông thường

: “Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.”

- Điều 6 về các mỏm đá (recifs

): “Trong trường hợp những bộ phận đảo cấu tạo bằng san hô hoặc các đảo có đá ngầm ven bờ bao quanh, thì đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất ở bờ phía ngoài cũng của các mỏm đá, như đã được thể hiện trên các hải đồ được quốc gia ven biển chính thức công nhận.”

Ưu điểm của phương pháp này là phản ánh đứng đường bờ biển của các nước và hạn chế bớt sự mở rộng các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia.

Hạn chế chủ yếu là rất khó áp dụng đối với các bờ biển khúc khuỷu, phức tạp.

* Đường cơ sở thẳng.

Đường cở sở thẳng được xác định tại Điều 7 Công ước luật biển 1982 như sau:

“1. Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.

2. Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.

3. Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.

4. Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ởđó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.

5. Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một sốđoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.

6. Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.”

Ngoài ra, Công ước luật biển 1982 còn quy định về việc kết hợp các phương pháp để xác định đường cơ sở tại Điều 14 về sự kết hợp các phương pháp để vạch đường cơ sở: “Quốc gia ven biển, tùy theo hoàn cảnh khác nhau, có thể vạch ra các đường cơ sở theo một hay nhiều phương pháp được trù định ở các điều nói trên.”

Điều 15 quy định về việc hoạch định ranh giới lãnh hải giữa các quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau

: “Khi hai quốc gia có bờ biển kề nhau hoặc đối diện nhau, không quốc gia nào được quyền mở rộng lãnh hải ra quá đường trung tuyến mà mọi điểm nằm trên đó cách đều các điểm gần nhất của các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mỗi quốc gia, trừ khi có sự thỏa thuận ngược lại. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng trong trường hợp do có những danh nghĩa lịch sử hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác cần phải hoạch định ranh giới lãnh hải của hai quốc gia một cách khác.”

3/ Quy chế pháp lý của lãnh hải.

* Tính chất chủ quyền

: trong lãnh hải, quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ. Chủ quyền trên lãnh hải không phải là tuyệt đối do sự thừa nhận quyền qua lại vô hại của tàu thuyền nước ngoài qua lãnh hải. Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng một cách hoàn toàn và riêng biệt đến vùng trời trên lãnh hải cũng như đến đáy và lòng đất dưới đáy của vùng biển này. Trong vùng trời bên trên lãnh hải không tồn tại quyền qua lại không gây hại cho các phương tiện bay.

* Chế độ qua lại của tàu thuyền.

- Kn:

Theo truyền thống qua lại không gây hại là một quyền mang tính tập quán, quyền này được thừa nhận vì lợi ích phát triển, hợp tác, kinh tế và hàng hải của cả cộng đồng cũng như của từng quốc gia. Đi qua không gây hại được hiểu là việc đi qua nhưng không làm phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự hay lợi ích của quốc gia ven biển.

Điều 18 Công ước luật biển 1982 quy định về nghĩa của thuật ngữ “Đi qua” (Passage):

“1. “Đi qua” là đi ở trong lãnh hải, nhằm mục đích

a) Đi ngang qua nhưng không đi vào nội thủy, không đậu lại trong một vũng tàu hoặc một công trình cảng ở bên ngoài nội thủy; hoặc

b) Đi vào hoặc rời khỏi nội thủy, hoặc đậu lại hay rời khỏi một vũng tàu hay một công trình cảng trong nội thủy.

2. Việc đi qua phải liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, nhưng chỉ trong trường hợp gặp phải những sự cố thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm nguy hoặc mắc nạn.”

- Các hoạt động không liên quan đến việc đi qua mà tàu thuyền nước ngoài khi đi quan lãnh hải không được tiến hành

được quy định tại Điều 19 Công ước 1982 về nghĩa của thuật ngữ “đi qua không gây hại” (Passage inoffensif):

“1. Việc đi qua là không gây hại, chừng nào nó không làm phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển. Việc đi qua không gây hại cần phải được thực hiện theo đúng với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.

2. Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:

a) Đe dọa hoặc dùng vũ lục chống lại chính quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc của pháp luật quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;

b) Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;

c) Thu nhập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;

d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;

e) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;

f) Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;

g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;

h) Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;

i) Đánh bắt hải sản;

j) Nghiên cứu hay đo đạc;

k) Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;

l) Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.”

- Các quốc gia ven biển không được phép đặt điều kiện cho các tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình phải xin phép hoặc thông báo trước. Đi qua không gây hại tồn tại đồng thời với chủ quyền quốc gia trong lãnh hải nhưng không làm mất đi chủ quyền đó.

- Đối với tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác, quy định tại Điều 20 Công ước luật biển 1982

:

“Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch.”

- Đối với tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân và tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất vốn nguy hiểm hoặc độc hại tại Điều 23 Công ước 1982

:

“Các tàu thuyền nước ngoài có động cơ chạy bằng năng lượng hạt nhân cũng như các tàu thuyền chuyên chở các chất phóng xạ hay các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, buộc phải mang đầy đủ các tài liệu và áp dụng những biện pháp phòng ngừa đặc biệt theo quy định của các điều ước quốc tế đối với loại tàu thuyền đó.”

- Các quốc gia viên biển có thể định ra các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại

theo quy định tại Điều 21 Công ước luật biển 1982:

“1. Quốc gia ven biển có thể định ra, phù hợp với các quy định của Công ước và các quy tắc khác của pháp luật quốc tế, các luật và quy định liên quan đến việc đi qua không gây hại ở trong lãnh hải của mình về các vấn đề sau đây:

a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông đường biển;

b) Bảo vệ các thiết bị và các hệ thống bảo đảm hàng hải và các thiết bị hay công trình khác;

c) Bảo vệ các đường giây cáp và ống dẫn;

d) Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển;

e) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển liên quan đến việc đánh bắt;

f) Gìn giữ môi trường của quốc gia ven biển và ngăn ngừa, hạn chế, chế ngự ô nhiễm môi trường;

g) Nghiên cứu khoa học biển và đo đạc thủy văn;

h) Ngăn ngừa những sự vi phạm các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven biển;

2. Các luật và quy định này không áp dụng đối với cách thiết kế, việc đóng hoặc đối với trang bị của tàu thuyền nước ngoài, nếu chúng không có ảnh hưởng gì đến các quy tắc hay quy phạm quốc tế được chấp nhận chung.

3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các luật và quy định này.

4. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại ở trong lãnh hải tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ các luật và quy định này, cũng như tất cả các quy định quốc tế được chấp nhận chung có liên quan đến việc phòng ngừa đâm va trên biển.”

- Các quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc phân chia các luồng giao thông dành cho tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình

.

Các tuyến được này được định ra phải phù hợp với các quy định của Công ước luật biển năm 1982 và LQT.

Điều 22 Công ước luật biển 1982 quy định về các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông ở trong lãnh hải

như sau:

“1. Quốc gia ven biển khi cần bảo đảm an toàn hàng hải có thể đòi hỏi tàu thuyền nước ngoài đi qua không gây hại trong lãnh hải của mình phải đi theo các tuyến đường do mình ấn định và phải tôn trọng các cách bố trí phân chia các luồng giao thông do mình quy định nhằm điều phối việc qua lại các tàu thuyền.

2. Đặc biệt, đối với các tàu xi-teec (navires-citernes), các tàu có động cơ chạy bằng năng lượng hại nhân và các tàu chở các chất hay các nguyên liệu phóng xạ hoặc các chất khác vốn nguy hiểm hay độc hại, có thể bị bắt buộc chỉ được đi theo các tuyến đường này.

3. Khi ấn định các tuyến đường và quy định cách bố trí phân chia luồng giao thông theo điều này, quốc gia ven biển lưu ý đến:

a) Các kiến nghị của tổ chức quốc tế có thẩm quyền;

b) Tất cả các luồng lạch thường được sử dụng cho hàng hải quốc tế;

c) Các đặc điểm riêng của một số loại tàu thuyền và luồng lạch;

d) Mật độ giao thông.

4. Quốc gia ven biển ghi rõ các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông nói trên lên hải đồ và công bố theo đúng thủ tục.”

- Trong trường hợp có vi phạm, đe dọa hòa bình an ninh, trật tự của quốc gia ven biển

,

quốc gia này hoàn toàn có thể sử dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ chủ quyền của mình, kể cả biện pháp tạm thời đình chỉ quyền đi qua không gây hại. Việc tạm thời đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục và trong thực hiện không có sự phân biệt đối xử gì về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài.

* Quyền tài phán trong lãnh hải.

# Quyền tài phán dân sự.

- Điều 28 Công ước luật biển 1982

quy định về quyền tài phán dân sự đối với tàu thuyền nước ngoài như sau:

“1. Quốc gia ven biển không được bắt một tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại hay thay đổi hành trình của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một người ở trên con tàu đó.

2. Quốc gia ven biển không thể áp dụng các biện pháp trừng phạt hay biện pháp bảo đảm (mesures conservatoires) về mặt dân sự đối với con tàu này, nếu không phải vì những nghĩa vụ đã cam kết hay các trách nhiệm mà con tàu phải đảm nhận trong khi đi qua hoặc để được đi qua vùng biển của quốc gia ven biển.

3. Khoản 2 không đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng các biện pháp trừng phạt hay bảo đảm về mặt dân sự do luật trong nước của quốc gia này quy định đối với tàu thuyền nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đang đi qua lãnh hải, sau khi đã rời nội thủy.”

à

Quốc gia ven biển không được bắt tàu nước ngoài đang đi qua lãnh hải phải dừng lại thay đổi lịch trình của nó để thực hiện quyền tài phán dân sự của mình đối với một con người trên tàu đó nhưng quốc gia này lại có quyền áp dụng mọi biện pháp trừng phạt hay đảm bảo về mặt dân sự mà luật trong nước mình quy định đối với tàu nước ngoài đang đậu trong lãnh hải hay đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.

# Quyền tài phán hình sự:

- Điều 27 Công ước luật biển năm 1982

quy định về quyền tài phán hình sự trên một tàu nước ngoài như sau:

“1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường hợp sau đây:

a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;

b) Nếu vị vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;

c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc

d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất kích thích.

2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp mà luật trong nước mình qui định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.

3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu. Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các biện pháp đang được thi hành.

4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.

5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy.”

à

Theo đó, luật không có quy định quyền tài phàn hình sự của quốc gia ven biển đối với một tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải; nhưng quốc gia ven biển có thể thực hiện quyền tài phán nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển; vụ vi phạm đó có tính chất phá hoại hòa bình, an ninh, trật tự của quốc gia ven biển; thuyền trưởng hay viên chức lãnh sự hoặc ngoại giao của quốc gia mà tàu mang cờ yêu cầu; và biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay kích thích.

à

Quốc gia ven biển có thể áp dụng mọi biện pháp mà luật trong nước mình quy định nhằm tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm đối với con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy. Ngược lại đối với một vụ vi phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu xuất phát từ một càng nước ngoài, đi vào lãnh hải mà không đi vào nội thủy thì quốc gia ven biển không can thiệp.

# Đối với tàu quân sự và các tàu khác của nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại:

- Về định nghĩa “tàu chiến”

theo Điều 29 Công ước luật biển 1982: “Trong Công ước, tàu chiến là mọi tàu thuyền thuộc lực lượng vũ trang của một quốc gia và mang dấu hiệu bên ngoài đặc trưng của các tàu thuyền quân sự thuộc quốc tịch nước đó; do một sĩ quan hải quân phục vụ quốc gia đó chỉ huy, người chỉ huy này có tên trong danh sách các sĩ quan hay trong một tài liệu tương đương; và đoàn thủy thủ phải tuân theo các điều lệnh kỷ luật quân sự.”

- Đối với tàu chiến không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển

(Điều 30 CƯ): “ Nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức.”

- Điều 31

về trách nhiệm của quốc gia mà tàu mang cờ đối với hành động của một tàu chiến hay một tàu khác của Nhà nước: “Quốc gia mà tàu mang cờ chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hoặc về mọi thiệt hại gây ra cho quốc gia ven biển do một tàu chiến hay bất kỳ tàu thuyền nào khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua lãnh hải hay vi phạm các quy định của Công ước hoặc các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.”

- Điều 32

về các quyền miễn trừ của các tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại: “Ngoài những ngoại lệ đã nêu ở Tiểu mục A và ở các Điều 30 và 31, không một quy định nào của Công ước đụng chạm đến các quyền miễn trừ mà các tàu chiến và các tàu khác của Nhà nước dùng vào những mục đích không thương mại được hưởng.”

à

Theo đó, các tàu quân sự và các tàu khác của nhà nước không dùng vào mục đích thương mại được hưởng quyền miễn trừ tài phán hình sự và tài phán dân sự nhưng các quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm trước các vi phạm do chúng gây ra trong lãnh hải của quốc gia ven biển.

Câu 13: Khái niệm, chế độ pháp lý vùng tiếp giáp lãnh hải?

1/ Khái niệm.

Vùng tiếp giáp lãnh hải là vùng biển nằm ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, tại đó quốc gia ven biển thực hiện các thẩm quyền có tính riêng biệt và hạn chế đối với các tàu thuyền nước ngoài.

2/ Chế độ pháp lý.

- Sự tồn tại của vùng tiếp giáp lãnh hải trong thực tiễn nhằm:

+ Ngăn ngừa n~ vi phạm đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.

+ Trừng trị những hành vi vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.

- Vùng tiếp giáp lãnh hải không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải và bộ phận đặc thù của vùng đặc quyền kinh tế.

- Tại vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven biển có thẩm quyền đối với các hiện vật có tính lịch sử và khảo cổ nằm trên đáy biển của vùng tiếp giáp lãnh hải mà không có sự thỏa thuận của mình là sự vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển ở trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình.

Câu 14: Khái niệm, chế độ pháp lý đối với vùng đặc quyền kinh tế?

1/ Khái niệm.

Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong Phần V – Công ước luật biển năm 1982.

Điều 57 CƯ quy định về chiều rộng của vùng này

như sau: “Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.”

2/ Chế độ pháp lý.

Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng biển đặc thù, trong đó thể hiện sự cân bằng giữa “các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển” với “các quyền và quyền tự do của các quốc gia khác”.

* Quyền, quyền tài phán và nghĩa vụ của quốc gia ven biển.

- Theo quy định của Điều 56 CƯ luật biển 1982, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có các quyền, quyền tài phán và nghĩa vụ như sau:

“1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:

a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.

b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:

i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;

ii. Nghiên cứu khoa học về biển;

iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;

c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.

2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước.

3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong điều này được thực hiện theo đúng phần VI.”

- Tính đặc quyền của quốc gia ven biển thể hiện trong việc quốc gia ven biển có toàn quyền đánh giá nguồn tiềm năng đối với các tài nguyên sinh vật, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho việc khai thác, duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thể giới chỉ có thể tham dự vào việc duy trì các nguồn lợi sinh vật này ở mức độ “hợp tác một cách thích hợp” với quốc gia ven biển. Tuy nhiên đối với tài nguyên sinh vật, đặc quyền này chấp nhận ngoại lệ nếu tổng khối lượng cho phép đánh bắt lớn hơn khả năng khai thác của quốc gia ven biển, có nghĩa là tồn tại một số dư của khối lượng cho phép đánh bắt thì quốc gia ven biển lại có nghĩa vụ “tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền kinh tế” mà không phương hại đến đặc quyền bảo tồn tài nguyên nguyên sinh vật của mình. Quốc gia ven biển cho phép các quốc gia khác, thông qua các điều ước hoặc các thỏa thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý.

- Quốc gia ven biển có quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình. Cùng với đó quyền tài phán của quốc gia ven biển còn mở rộng đối với các đảo nhân tạo, các thiệt bị và công trình đặt trong cột nước trong vùng đặc quyền kinh tế mà còn đối với cả các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình đặt trên đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của vùng.

- Công tác nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế và ở trên thềm lục địa phải được tiến hành với sự thỏa thuận của quốc gia ven biển và không được gây trở ngại một cách phi lý cho các hoạt động do quốc gia ven biển tiến hành trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền và quyền tài phán mà CƯ đã trù định.

 

* Quyền và nghĩa vụ của quốc gia khác.

Điều 58 CƯ

quy định về các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền về kinh tế:

“1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều kiện trong những quy định thích hợp của Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.

2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích hợp khác của pháp luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong chừng mực mà chúng không mâu thuẫn với phần này.

3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và trong chừng mực mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.”

- Theo đó, quốc gia khác đều được hưởng 3 quyền tự do cơ bản:

+ Quyền tự do hàng hải;

+ Quyền tự do hàng không;

+ Quyền tự do đặt dây cáp và ông dẫn ngầm.

Câu 14: Khái niệm, chế độ pháp lý của thềm lục địa?

1/ Khái niệm thềm lục địa địa chất và thềm lục địa pháp lý.

* Thềm lục địa địa chất.

Thềm lục địa địa chất là một bộ phận của rìa lục địa. Rìa lục địa chiếm 22% bề mặt đại dương, là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi 3 thành phần:

- Thềm lục địa

: là phần nền lục địa ngập dưới nước với độ dốc thoai thoải (độ dốc trung bình 0.07 – 1­0) thường kéo dài đến độ sâu 200m.

- Dốc lục địa:

là phần nằm giữa thềm lục địa và bờ lục địa, phần biệt với thềm lục địa bằng một sự thay đổi độ dốc đột ngột, trung bình khoảng 4 – 50, đôi khi tới 450.

- Bờ lục địa

: vùng tiếp theo dốc lục địa khi độ dốc thoải trở lại, thường rất nhỏ 0,50 mở rộng từ chân dốc lục địa cho đến khi gặp đáy đại dương.

Thềm lục địa địa chất được mô tả trong hình sau:

           

* Thềm lục địa pháp lý.

# Thềm lục địa pháp lý theo quy định của CƯ luật biển 1958

:

“Điều 1. Theo mục đích của các điều khoản này, thuật ngữ "thềm lục địa" được sử dụng để nói đến:

(a) phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của các khu vực biển tiếp giáp với bờ nhưng ngoài khu vực lãnh hải

, tới độ sâu 200 mét, hoặc vượt ra ngoài giới hạn đó, tới độ sâu của các vùng nước chồng lên nhau cho phép khai thác được các nguồn tài nguyên thiên nhiên của các khu vực đã nói;

(b) phần đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của các khu vực tương tự tiếp giáp với các bờ của các đảo.”

# Thềm lục địa pháp lý theo CƯ luật biển 1982:

Điều 76 CƯ 1982

định nghĩa về thềm lục địa như sau:

“1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần hơn.

2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4 đến 6.

3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao gồm lòng đất dưới đáy của chúng.

4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải bằng:

i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,

ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;

b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc.

5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá 100 hải lý.

6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.

7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.

8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát và có tính chất bắt buộc.

9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.

10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.”

- Như vậy,

khi bờ ngoài của rìa lục địa ở khoảng cách gần hơn 200 hải lý, thềm lục địa được xác định

như sau:

- Trường

trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở

, quốc gia ven biển có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục đại theo 2 cách:

+ Theo bề dày trầm tích

: Đường vạch nối các điểm cố định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng 1% khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa,

+ Theo khoảng cách

: đường vạch nối các điểm cố định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý.

Trong cả hai cách tính trên thì chiều rộng tổng cộng của thềm lục địa tính từ đường cơ sở cũng không được vượt quá 350 hải lý (648,2 km) hoặc cách 

đường đẳng sâu

 2.500 mét một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý.

Ngoài ra, để hạn chế việc mở rộng quá 200 hải lý này, quốc gia ven biển phải xác định rõ tọa độ, thông báo các thông tin tính toán cho Ủy ban ranh giới thềm lục địa với hạn cuối cùng là năm 

2009

và có nghĩa vụ đóng góp bằng tiền hay hiện vật đối với việc khai thác các tài nguyên phi sinh vật của phần nằm ngoài phần thềm lục địa cơ bản (200 hải lý đầu). Các khoản đóng góp được nộp hàng năm tính theo toàn bộ sản phẩm thu hoạch được ở một điểm khai thác nào đó, sau năm năm đầu khai thác điểm đó. Năm thứ 6 tỉ lệ đóng góp là 1% của giá trị hay của khối lượng sản phẩm khai thác được ở điểm khai thác. Sau đó, mỗi năm tỷ lệ này tăng lên 1% cho đến năm thứ 12 và bắt đầu từ năm thứ 12 trở đi tỷ lệ đó ở mức 7%. Sản phẩm không bao gồm các tài nguyên được dùng trong khuôn khổ của việc khai thác.

2/ Chế độ pháp lý.

- Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình

. Đây là những quyền có tính chất đặc quyền, do đó nếu quốc gia ven biển không thăm dò hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa thì quốc gia khác cũng không có quyền tiến hành các hoạt động như vậy khi không có sự thỏa thuận rõ ràng của các quốc gia sở tại.

- Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào.

- Tài nguyên thiên nhiên trên thềm lục địa không chỉ bao hàm các tài nguyên không sinh vật mà còn cả tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư. Quốc gia ven biển không chỉ có quyền chủ quyền đối với tài nguyên của thềm lục địa mà còn đối với cả chính thềm lục địa.

Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì, theo Điều 85: “Quyền của quốc gia ven biển được khai thác lòng đất dưới đáy biển bằng cách đào đường hầm, bất kể độ sâu của các vùng nước ở nới ấy là bao nhiêu”.

Điều 79 CƯ luật biển 1982:

“1. Tất cả các quốc gia có quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa theo đúng điều này.

2. Trong điều kiện thi hành các biện pháp hợp lý nhằm thăm dò thềm lục địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa và ngăn chặn, hạn chế
và chế ngự ô nhiễm do ống dẫn gây ra, quốc gia ven biển không được cản trở việc lắp đặt hay bảo quản các ống dẫn và dây cáp đó.

3. Tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được sự thỏa thuận của quốc gia ven biển.

4. Không một quy định nào ở phần này đụng chạm đến quyền của quốc gia ven biển đặt ra các điều kiện đối với các đường dây cáp hay các đường ống dẫn đi vào lãnh thổ hay lãnh hải của mình, cũng như, không đụng chạm đến đường tài phán của quốc gia này đối với dây và ống dẫn được đặt, hoặc sử dụng trong khuôn khổ của việc thăm dò thềm lục địa của mình hay việc khai khác tài nguyên thiên nhiên của mình, hoặc của việc khai thác các đảo nhân tạo, thiết bị hay công trình thuộc quyền tài phán của quốc gia này.

5. Khi đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải tính đến các dây cáp và ống ngầm đã được đặt trước. Đặc biệt họ cần lưu ý không làm hại đến khả năng sửa chữa các đường dây cáp và ống dẫn đó.”

- Quốc gia ven biển có quyền tài phán

đối với các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình trên thềm lục địa, quyền tài phán về nghiên cứu khoa học biển, quyền tài phán về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Trong khi thực hiện các quyền của mình, các quốc gia ven biển có nghĩa vụ tôn trọng các quyền của các quốc gia khác.

- Quy chế pháp lý của thềm lục địa

khẳng định, các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước. Do đó, quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các quốc gia khác đã được Luật biển thừa nhận.

Câu 15: Các vùng biển không thuộc quyền tài phán quốc gia?

1/ Biển cả.

* Khái niệm.

Biển cả là tất cả những vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đào của quốc gia quần đảo.

* Chế độ pháp lý.

Quy chế pháp lý của biển cả dựa trên nguyên tắc tự do biển cả. Chế độ này có nguồn gốc tập quán và đã được pháp điển hóa trong các công ước quốc tế hiện hành về biển.

# Quyền:

- Các quyền tự do của các quốc gia tại Điều 87

như sau:

“1. Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có biển. Quyền tự do trên biển cả được thực hiện trong những điều kiện do các quy định của Công ước hay và những quy tắc khác của pháp luật quốc tế trù định. Đối với các quốc gia dù có biển hay không có biển, quyền tự do này đặc biệt bao gồm:

a) Tự do hàng hải;

b) Tự do hàng không;

c) Tự do đặt các dây cáp hoặc ống dẫn ngầm với điều kiện tuân thủ Phần VI;

d) Tự do xây dựng các đảo nhân tạo hoặc các thiết bị khác được pháp luật quốc tế cho phép, với điều kiện tuân thủ phần VI;

e) Tự do đánh bắt hải sản trong các điều đã được nêu ở Mục 2;

f) Tự do nghiên cứu khoa học với các điều kiện tuân thủ các Phần VI và VIII.

2. Mỗi quốc gia khi thực hiện các quyền tự do này phải tính đến lợi ích của việc thực hiện tự do trên biển cả của các quốc gia khác, cũng như đến các quyền được Công ước thừa nhận liên quân đến các hoạt động trong Vùng.”

- Điều 90 quy định về quyền hàng hải:

“1. Mỗi quốc gia quy định các điều kiện cho phép tàu thuyền mang quốc tịch của nước mình, các điều kiện đăng ký các tàu thuyền trên lãnh thổ của mình và các điều kiện cần phải có để cho tàu thuyền được quyền treo cờ của nước mình. Các tàu thuyền mang quốc tính của quốc gia mà chúng được phép treo cờ. Cần phải có một mối quan hệ thực chất giữa quốc gia và các con tàu.

2. Quốc gia nào cho phép tàu thuyền treo cờ nước mình thì cấp cho tàu thuyền đó các tài liệu có liên quan đến mục đích đó.”

- Điều 95 về quyền miễn trừ của các tàu chiến trên biển cả

: “Các tàu chiến trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.”

- Điều 96 về quyền miễn trừ của các tàu thuyền chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại

: “Các tàu thuyền của Nhà nước hay do Nhà nước khai thác và chỉ dùng cho một cơ quan Nhà nước không có tính chất thương mại trên biển cả được hưởng quyền miễn trừ hoàn toàn về tài phán của bất kỳ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu mang cờ.”

- Điều 97 về quyền tài phán hình sự về tai nạn đâm va hoặc bất cứ sự cố hàng hải nào:

“1. Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va hay bất kỳ sự cố hàng hải nào trên biển cả mà trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm kỷ luật thuộc về thuyền trưởng hoặc thuộc về bất kỳ thành viên nào trong đoàn thủy thủ của con tàu, chỉ có thể yêu cầu truy tố hình sự hay thi hành kỷ luật họ trước các nhà đương cục tư pháp hay hành chính của quốc gia mà tàu mang cờ hoặc là của quốc gia mà đương sự mang quốc tịch.

2. Về mặt kỷ luật, quốc gia nào đã cấp bằng chỉ huy hay giấy chứng nhận khả năng hoặc giấy phép, là quốc gia duy nhất có thẩm quyền công bố, với việc tôn trọng các thủ tục họp pháp, thu hồi các bằng hay chứng chỉ đó không thuộc quốc tịch của quốc gia đó.

3. Không thể ra lệnh bắt hay giữ chiếc tàu, ngay cả trong khi tiến hành công việc dự thẩm, nếu không phải là nhà đương cục của quốc gia mà tàu mang cờ.”

- Điều 110 về quyền khám xét:

“1. Trừ những trường hợp mà việc can thiệp là căn cứ vào những quyền do hiệp ước mang lại, một tàu chiến khi gặp một tàu nước ngoài ở trên biển cả không phải là một tàu được hưởng quyền miễn trừ như đã nêu ở các Điều 95 và 96, chỉ có thể khám xét chiếc tàu đó nếu có những lý do đúng đắn để nghi ngờ chiếc tàu đó:

a) Tiến hành cướp biển;

b) Chuyên chở nô lệ;

c) Dùng vào các cuộc phát sóng không được phép, quốc gia mà chiếc tàu mang cờ có quyền tài phán theo Điều 109;

d) Không có quốc tịch; hay

e) Thật ra là cùng quốc tịch với chiếc tàu chiến, mặc dù chiếc tàu này treo cờ nước ngoài hay từ chối treo cờ của mình.

2. Trong những trường hợp nêu ở khoản 1, tàu chiến có thể kiểm tra các giấy tờ cho phép mang cờ. Vì mục đích này, tàu chiến có thể phái một chiếc xuồng, dưới sự chỉ huy của một sĩ quan, đến gần chiếc tàu bị tình nghi. Sau khi kiểm tra các tài liệu, nếu vẫn còn nghi vấn thì có thể tiếp tục điều tra trên tàu với một thái độ hết sức đúng mực.

3. Nếu việc nghi ngờ xét ra không có cơ sở thì chiếc tàu bị khám xét được bồi thường về mọi tổn thất hay thiệt hại xảy ra, với điều kiện là chiếc tàu này không phạm một hành động nào làm cho nó bị tình nghi.

4. Các điều quy định này được áp dụng mutatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với các phương tiện bay quân sự.

5. Các điều quy định này cũng được áp dụng đối với tất cả các tàu thuyền hay phương tiện bay khác đã được phép một cách hợp lệ và mang những dấu hiệu bên ngoài chỉ rõ rằng chúng được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước.”

- Điều 111 về quyền truy đuổi:

“1. Việc truy đuổi một tàu nước ngoài có thể được tiến hành nếu những nhà đương cục có thẩm quyền của quốc gia ven biển có những lý do đúng đắn để cho rằng chiếc tàu này đã vi phạm các luật và quy định của quốc gia đó. Việc truy đuổi phải bắt đầu khi chiếc tàu nước ngoài hay một trong những chiếc xuồng của nó đang ở trong nội thủy, trong vùng nước quần đảo, trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp của quốc gia truy đuổi, và chỉ có thể được tiếp tục ở ngoài ranh giới của lãnh hải hay vùng tiếp giáp với điều kiện là việc truy đuổi này không bị gián đoạn. Không nhất thiết là chiếc tàu ra lệnh cho tàu nước ngoài đang đi trong lãnh hải hay trong vùng tiếp giáp dừng lại cũng phải có mặt tại các vùng biển ấy khi mà chiếc tàu nước ngoài này nhận được lệnh. Nếu chiếc tàu nước ngoài ở trong vùng tiếp giáp, được quy định ở Điều 33, việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu nếu tàu đó đã vi phạm các quyền, mà việc thiết lập vùng tiếp giáp có nhiệm vụ bảo vệ.

2. Quyền truy đuổi được áp dụng matatis mutandis (với những sửa đổi cần thiết về chi tiết) đối với những hành động vi phạm các luật và quy định của quốc gia ven biển có thể áp dụng, theo đúng Công ước, cho vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, kể cả các vùng an toàn bao quanh các thiết bị ở thềm lục địa, nếu các vi phạm này đã xảy ra trong các vùng nói trên.

3. Quyền truy đuổi chấm dứt khi chiếc tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc gia khác.

4. Việc truy đuổi chi được coi như bắt đầu, nếu chiếc tàu truy đuổi bằng các phương tiện có thể sử dụng được mà mình có, biết một cách chắc chắn là chiếc tàu bị đuổi, hay một những trong chiếc xuồng của nó hoặc các phương tiện đi biển khác hoạt động thành tốp và dùng chiếc tàu bị truy đuổi làm chiếc tàu mẹ, đang ở bên trong ranh giới của lãnh hải, hay tùy theo trường hợp đang ở trong vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế hay ở trên thềm lục địa. Việc truy đuổi chỉ có thể bắt đầu sau khi đã phát tín hiệu nhìn hoặc nghe bắt nó dừng lại, ở một cự ly cần thiết để chiếc tàu nói trên nhận biết được.

5. Quyền truy đuổi chỉ có thể được thực hiện bởi các tàu chiến hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay phương tiện bay khác có mang các dấu hiện ở bên ngoài chỉ rõ rang rằng, các tàu hay phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ này.

6. Trong trường hợp mà chiếc tàu bị một phương tiện bay truy đuổi:

a) Các khoản 1 đến 4 được áp dụng mutatis mutandis (với những thay đổi cần thiết và chi tiết);

b) Phương tiện bay nào phát lệnh dừng lại phải tự mình truy đuổi chiếc tàu cho đến lúc một chiếc tàu hay phương tiện bay khác của quốc gia ven biển; sau khi được phương tiện bay nói trên thông báo, đã đến những vị trí để tiếp tục cuộc truy đuổi nếu như phương tiện đầu tiên không thể tự mình giữ được chiếc tàu. Để chứng minh cho việc bắt một chiếc tàu dừng lại ở ngoài lãnh hải là đúng, thì riêng việc phát hiện chiếc tàu này đã vi phạm hay bị nghi ngờ là vị phạm là chưa đủ, mà còn phải xác định đồng thời xem nó có bị phương tiện bay hay tàu khác yêu cầu dừng lại và việc truy đuổi này phải không hề bị gián đoạn.

7. Không thể đòi hủy lệnh giữ một chiếc tàu bị bắt ở địa điểm thuộc quyền tài phán của một quốc gia và bị dẫn độ về một cảng của quốc gia này để cho các nhà đương cục có thẩm quền tiến hành điều tra với lý do duy nhất là vì hoàn cảnh bắt buộc chiếc tàu đó đã đi có hộ tống qua một phần của vùng đặc quyền về kinh tế hay của biển cả.

8. Một chiếc tàu đã bị bắt dừng lại hay bị bắt ở ngoài lãnh hải trong những hoàn cảnh không chứng minh được cho việc sử dụng quyền truy đuổi thì được bồi thường về mọi tổn thất hay tổn hại nếu có.

- Điều 112 về quyền đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm:

“1. Mọi quốc gia có quyền đặt các dây cáp hay ống dẫn ngầm ở đáy biển cả bên ngoài thềm lục địa.

2. Điều 79, khoản 5, được áp dụng đối với đường dây cáp và ống dẫn ngầm này.”

# Nghĩa vụ của các quốc gia:

- Điều 94 quy định về nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ:

“1. Mọi quốc gia đều thực sự thi hành quyền tài phán và sự kiểm soát của mình trong các lĩnh vực hành chính, kỹ thuật và xã hội đối với các tàu thuyền mang cờ của mình.

2. Đặc biệt mọi quốc gia:

a) Có một sổ đăng ký hàng hải có ghi tên và đặc điểm của các tàu thuyền mang cờ nước mình, trừ các tàu thuyền do kích thước nhỏ không nằm trong quy định quốc tế được chấp nhận chung;

b) Thi hành quyền tài phán theo đúng luật trong nước mình đối với bất kỳ tàu thuyền nào mang cờ nước mình, cũng như đối với thuyền trưởng, sĩ quan và đoàn thủy thủ về các vấn đề hành chính, kỹ thuật và xã hội liên quan đến tàu thuyền.

3. Mọi quốc gia phải có các biện pháp cần thiết đối với các tàu thuyền mang cờ của nước mình để đảm bảo an toàn trên biển, nhất là về:

a) Cấu trúc, trang bị của tàu thuyền và khả năng đi biển của nó;

b) Thành phần, điều kiện làm việc và việc đào tạo các thủy thủ, có tính đến các văn bản quốc tế có thể áp dụng được;

c) Việc sử dụng các tín hiệu, tình trạng hoạt động tốt của hệ thống thông tin liên lạc và việc phòng ngừa đâm va.

4. Các biện pháp này bao gồm các biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng:

a) Tàu thuyền nào cũng phải được một viên thanh tra hàng hải có trình độ kiểm tra trước khi đăng ký vào sổ và sau đó, trong những khoảng thời gian thích hợp và trên tàu thuyền cần có các hải đồ, các tài liệu về hàng hải, cũng như dụng cụ và máy móc hàng hải mà sự an toàn hàng hải đòi hỏi;

b) Tàu thuyền nào cũng phải được giao cho một thuyền trưởng và các sĩ quan có trình độ chuyên môn cần thiết, đặc biệt là việc điều động, hàng hải, thông tin liên lạc và điều khiển các máy, thủy thủ có trình độ chuyên môn cần thiết và đủ số so với loại tàu thuyền, kích thước, máy móc và trang bị của tàu thuyền;

c) Thuyền trưởng, các sỹ quan và ở mức độ cần thiết, đoàn thủy thủ hoàn toàn nắm vững và sẵn sàng tôn trọng các quy tắc quốc tế có thể áp dụng được về việc cứu sinh trên biển, việc phòng ngừa các tai nạn đâm va, việc ngăn ngừa hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường biển và việc duy trì thông tin liên lạc bằng vô tuyến điện.

5. Khi thi hành các biện pháp nói ở các khoản 3 và 4, mỗi quốc gia buộc phải tuân thủ các quy tắc, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung và thi hành mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo cho các quy tắc, thủ tục và tập quán nói trên được tôn trọng.

6. Quốc gia nào có những lý do đúng đắn để nghĩ rằng quyền tài phán và quyền kiểm soát thích hợp đối với một tàu thuyền đã không được thi hành, thì có thề thông báo những sự kiện đó cho quốc gia mà tàu mang cờ. Khi được thông báo, quốc gia mà tàu mang cờ phải tiến hành điều tra và nếu cần, có các biện pháp điều chỉnh cần thiết.

7. Mỗi quốc gia ra lệnh mở cuộc điều tra do một hay nhiều nhân vật có đầy đủ thẩm quyền tiến hành, hoặc là cuộc điều tra được tiến hành trước những nhân vật đó về bất cứ tai nạn nào trên biển hay sự cố hàng hải nào xảy ra trên biển cả có liên quan đến một chiếc tàu mang cờ của nước mình và đã gây ra chết người hay gây trọng thương cho những công dân của một quốc gia khác, hoặc đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho tàu thuyền và công trình thiết bị của một quốc gia khác hay cho môi trường biển. Quốc gia mà tàu mang cờ và quốc gia hữu quan đó tổ chức về một tai nạn trên biển hay một sự cố hàng hải thuộc loại này.”

- Điều 98 quy định về nghĩa vụ giúp đỡ:

“1. Mọi quốc gia đòi hỏi thuyền trưởng của một chiếc tàu mang cờ của nước mình, trong chừng mực có thể làm được mà không gây nguy hiểm nghiêm trọng cho con tàu, cho đoàn thủy thủ hay cho hành khách trên tàu, phải:

a) Giúp đỡ bất kỳ ai đang gặp nguy khốn trên biển;

b) Hết sức nhanh chóng đến cứu những người đang bị nguy cấp nếu như được thông báo những người này cần được giúp đỡ, trong chừng mực mà
người ta có thể chờ đợi một cách hợp lý là thuyền trưởng phải xử lý như thế;

c) Trong trường hợp xảy ra tai nạn đâm va, giúp đỡ chiếc tàu kia, đoàn thủy thủ và hành khách của nó và, trong phạm vi có thể, cho chiếc tàu đó biết tên và cảng đăng ký của tàu mình, và cảng gần nhất mà tàu mình sẽ cập bến. 2. Tất cả các quốc gia ven biển tạo điều kiện dễ dàng cho việc thành lập và hoạt động của một cơ quan thường trực về tìm kiếm và cứu trợ thích hợp và hiệu quả, để đảm bảo an toàn hàng hải và hàng không, và nếu có thể, thì hợp tác với những nước láng giềng của mình trong khuôn khổ của những dàn xếp có tính chất khu vực, để thực hiện mục đích nói trên.

- Điều 99 quy định về cấm chuyên chở nô lệ

: “Mọi quốc gia đều thi hành các biện pháp có hiệu quả để ngăn ngừa và trừng trị việc chuyên chở nô lệ trên các tàu được phép mang cờ của nước mình, và để ngăn ngừa việc lạm dụng sắc cờ của mình vào mục đích nói trên. Mọi người nô lệ ẩn náu ở trên một chiếc tàu, dù con tàu này mang cờ của bất kỳ quốc gia nào, cũng được tự do ipso-facto (ngay tức khắc).”

- Điều 100 về nghĩa vụ hợp tác để trấn áp nạn cướp biển

: “Tất cả các quốc gia hợp tác với nhau, bằng mọi khả năng của mình, để trấn áp cướp biển trên biển cả hay ở bất kỳ nơi nào khác không thuộc quyền tài phán của quốc gia nào.”

+Đn~ cướp biển (Điều 101

): “Một trong những hành động sau đây là hành động cướp biển:

a) Mọi hành động trái phép dùng hành động hay bắt giữ hoặc bất kỳ sự cướp phá nào do thủy thủ hoặc hành khách trên một chiếc tàu hay một phương tiện bay tư nhân gây nên, vì những mục đích riêng tư, và nhằm:

i. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay khác, hay chống lại những người hay của cải ở trên con tàu hoặc phương tiện bay đỗ ở biển cả;

ii. Chống lại một chiếc tàu hay một phương tiện bay, người hay của cải, ở một nơi không thuộc quyền tài phán của một quốc gia nào;

b) Mọi hành động tham gia có tính chất tự nguyện vào việc sử dụng một chiếc tàu hay một phương tiện bay, khi người tham gia biết từ những sự việc rằng chiếc tàu hay phương tiện bay đó là một tàu hay phương tiện bay cướp biển;

c) Mọi hành động nhằm xúi giục người khác phạm những hành động được xác định ở điểm a hoặc b hay phạm phải với chủ định làm dễ dàng cho các hành động đó.”

+ Đn~ một tàu hay một phương tiện bay cướp biển (Điều 103):

“Những tàu hay phương tiện bay mà kể kiểm soát nó thực sự, chủ trương sử dụng để phạm một trong những hành động được nêu ở Điều 101, được coi là những tàu hay phương tiện bay cướp biển. Những chiếc tàu hay phương tiện bay đã được dùng để phạm những hành động nói trên cũng được coi là tàu hay phương tiện bay cướp biển chừng nào nó còn ở dưới quyền kiểm soát của những người gây ra những hành động đó.”

+ Giữ hay mất quốc tích của một con tàu hay một phương tiện bay cướp biển (Điều 104):

“Một con tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển có thể giữ quốc tịch của mình. Việc giữ hay mất quốc tịch do luật trong nước của quốc gia đã trao quốc tịch đó điều chỉnh.”

+ Bắt giữ một chiếc tàu hay phương tiện bay cướp biển (Điều 105):

“Mọi quốc gia ở biển cả, hay ở bất cứ nơi nào khác không thuộc quyền tài phán của bất kỳ quốc gia nào, đều có thể bất giữ một chiếc tàu hay một phương tiện bay đã trở thành cướp biển, hoặc một chiếc tàu hay một phương tiện bay bị chiếm đoạt sau một hành động cướp biển và đang nằm trong tay bọn cướp biển, và đều có thể bắt giữ người và của cải ở trên con tàu hay phương tiện bay đó. Các tòa án của quốc gia đã tiến hành việc bắt đó có thể công bố các hình phạt cũng như các biện pháp áp dụng đối với chiếc tàu, phương tiện bay hay của cải, trừ những người lương thiện trong cuộc.”

+ Các tàu và phương tiện bay có đủ tư cách để thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển (Điều 107):

“Chỉ có các tàu chiến hay phương tiện bay quân sự, hoặc các tàu thuyền hay phương tiện bay khác mang các dấu hiện bên ngoài chứng tỏ rõ ràng là của một cơ quan Nhà nước và được tiến hành nhiệm vụ này, mới có thể thực hiện việc bắt giữ vì lý do cướp biển.”

2/ Vùng – di sản chung của loài người.

* Khái niệm.

Vùng là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia. Tài nguyên của vùng bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể rắn, lỏng hoặc khí in situ (ngay tại chỗ), kể cả các khối đa kim (nodules polymetalliques) nằm ở đáy đại dương và trong lòng đất dưới đáy.

* Chế độ pháp lý.

- Vùng và tài nguyên của nó là di sản chung của loài người. Điều này thể hiện

:

+ Vùng và tài nguyên của vùng không phải là đối tượng của việc chiếm hữu.

+ Vùng được sử dụng vào n~ mục đích hoàn toàn hòa bình.

+ Mọi hoạt động trong vùng được tiến hành vì lợi ích của toàn thể loài người. Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của vùng được tiến hành thông qua một tổ chức quốc tế được gọi là cơ quan quyền lực quốc tế. Cơ quan quyền lực quốc tế bảo đảm việc phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử, những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong vùng, thông qua bộ máy của mình.

- Điều 137 quy định chế độ pháp lý của vùng và các tài nguyên của nó:

“1. Không một quốc gia nào có thể đòi hỏi thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc chủ quyền ở một phần nào đó của Vùng hoặc đối với tài nguyên của Vùng; không một quốc gia nào và không một tự nhiên nhân hay pháp nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ một phần nào đó của Vùng hoặc tài nguyên của Vùng. Không một yêu sách, một việc thực hiện chủ quyền hay các quyền thuộc quyền chủ quyền này cũng như một hành động chiếm đoạt nào được thừa nhận.

2. Toàn thể loài người, mà Cơ quan quyền lực là người thay mặt có tất cả các quyền đối với các tài nguyên của Vùng. Những tài nguyên này không thể chuyển nhượng được. Còn các khoáng sản đã được khai thác từ Vùng thì chỉ có thể chuyển nhượng theo đúng phần này và phù hợp với các nguyên tắc, quy định và các thủ tục của Cơ quan quyền lực.

3. Một quốc gia hay một tự nhiên nhân hay pháp nhân chỉ được đòi hỏi, giành lấy hoặc thực hiện các quyền đối với các khoáng sản đã được khai thác ở Vùng theo đúng phần này. Các quyền đã đòi hỏi, giành được hay được thực hiện bằng cách khác đều không được thừa nhận.”

à

Quyền:

+ Điều 142 quy định các quyền và lợi ích chính đáng của các quốc gia ven biển:

“1. Trong trường hợp các vỉa tài nguyên của Vùng trải rộng ra ngoài ranh giới của Vùng, thì những hoạt động tiến hành trong Vùng cũng được mở rộng như thế, nhưng phải tính đến các quyền và lợi ích chính đáng của quốc gia ven biển có quyền tài phán đối với các vỉa tài nguyên nói trên.

2. Một phương thức tham khảo ý kiến với quốc gia hữu quan, và nhất là phương thức thông báo trước, đặt ra để tránh bất kỳ sự xâm phạm nào đến các quyền và lợi ích đó. Trong những trường hợp mà các hoạt động tiến hành trong Vùng có thể dẫn đến việc khai thác các tài nguyên ở phía trong các ranh giới thuộc quyền tài phán quốc gia của một quốc gia ven biển thì cần phải có sự đồng ý trước của quốc gia này.

3. Phần này cũng như các quyền được thừa nhận hay được sử dụng theo phần này, không xâm phạm đến quyền của quốc gia ven biển được thi hành những biện pháp phù hợp với các quy định tương ứng của phần XII có thể cần thiết để ngăn ngừa, hạn chế hay loại bỏ một mối nguy hiểm nghiêm trọng và sắp xảy ra đối với vùng duyên hải của họ hoặc đối với các lợi ích có liên quan do một tình trạng ô nhiễm hay một sự đe dọa ô nhiễm nảy sinh từ tất cả các hoạt động tiến hành trong Vùng hay do tất cả các tai nạn khác gây ra bởi các hoạt động đó.

+ Điều 143 quy định việc nghiên cứu khoa học biển:

“1. Việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng được tiến hành nhằm những mục đích hoàn toàn hòa bình và vì lợi ích của toàn thể loài người theo đúng phần XIII.

2. Cơ quan quyền lực có thể thực hiện các công trình nghiên cứu khoa học biển đối với Vùng và các tài nguyên của Vùng và có thể ký các hợp đồng nhằm mục đích này. Cơ quan quyền lực tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích việc nghiên cứu khoa học biển trong Vùng; phối hợp, phổ biến các kết quả của các công trình nghiên cứu và phân tích đó khi chúng sẵn sàng sử dụng được.

3. Các quốc gia thành viên có thể tiến hành các công trình nghiên cứu khoa học biển trong Vùng. Các quốc gia này tạo điều kiện dễ dàng cho việc hợp tác quốc tế về nghiên cứu khoa học biển trong vùng, bằng cách:

a) Tham gia các chương trình quốc tế và khuyến khích việc hợp tác về nghiên cứu khoa học biển do nhân viên của các nước và nhân viên của Cơ quan quyền lực thực hiện;

b) Quan tâm đến việc các chương trình, được soạn thảo qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay tùy theo tình hình, qua trung gian của các tổ chức quốc tế khác, vì lợi ích của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia kém phát triển về mặt kỹ thuật, nhằm:

i. Tăng cường tiềm lực nghiên cứu của họ;

ii. Đào tạo nhân viên của quốc gia đó và nhân viên của Cơ quan quyền lực về kỹ thuật và về ứng dụng công trình nghiên cứu tiến hành trong Vùng;

c) Phổ biến một cách có hiệu quả các kết quả nghiên cứu và phân tích, khi các kết quả này có thể sử dụng được, qua trung gian của Cơ quan quyền lực hay nếu có thể, qua các bộ máy quốc tế khác.”

à

Nghĩa vụ:

+ Điều 141 quy định sử dụng vùng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình:

“Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có biển, sử dụng vào những mục đích hoàn toàn hòa bình, không phân biệt đối xử và không phương hại đến các điều quy định khác của phần này.”

+ Điều 145 về bảo vệ môi trường biển

: “Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, các biện pháp cần thiết phải được thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có hiệu quả môi trường biển chống lại những tác hại có thể do các hoạt động đó gây ra. Vì mục đích đó, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp, đặc biệt nhằm để:

a) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự nạn ô nhiễm môi trường biển, kể cả vùng duyên hải và đối phó với những nguy cơ khác đe dọa môi trường đó,
cũng như với bất kỳ sự biến động nào về tình trạng cân bằng sinh thái của môi trường biển, bằng cách, đặc biệt chú ý đến sự cần thiết phải bảo vệ môi trường chống lại những tác hại của những hoạt động như khoan, nạo vét, đào, loại bỏ các chất thải, xây dựng và khai thác hay bảo dưỡng các thiết bị, ống dẫn và các phương tiện khác được sử dụng vào các hoạt động này;

b) Bảo vệ và bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của Vùng và phòng ngừa thiệt hại đối với hệ thực vật và động vật ở biển.”

+ Điều 146 về bảo vệ sự sống của con người

: “Đối với các hoạt động tiến hành trong Vùng, những biện pháp cần thiết phải được thi hành để bảo đảm việc bảo vệ có hiệu quả sự sống của con người. Vì mục đích ấy, Cơ quan quyền lực định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích hợp để bổ sung cho pháp luật quốc tế hiện tại như đã ghi trong các hiệp ước về vấn đề này.

Câu 16: Vùng nước quần đảo?

1/ Khái niệm.

- Theo Điều 46 CƯ về luật biển 1982: “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác nữa.

“Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý, kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.”

- Vùng nước quần dảo gắn liên với học thuyết của các quốc gia quần đảo

, do Indonexia và Philippin đưa ra từ 1950. Vùng nước quần đảo là vùng biển nằm bên trong của đường cơ sở quần đảo dùng để tính chiều rộng lãnh hải, do quốc gia quần đảo ấn định. Các vùng biển lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia quần đảo đều được tính từ đường cơ sở quần đảo.

- Đường cở sở quần đảo có thể do quốc gia quần đảo đơn phương vạch ra nhưng phải đáp ứng các điều kiện của LQT

. Theo Điều 47 Công ước luật biển 1982:

“1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.

2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.

3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh chung của quần đảo.

4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng lãnh hải.

5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế.

6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.

7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ phận của đất.

8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ này.

9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.”

 

2/ Chế độ pháp lý.

Trong vùng nước quần đảo:

- Các quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các điều ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền đánh bắt hải sản truyền thống với những hoạt động chính đáng của các quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo của các quốc gia quần đảo.

- Các quốc gia quần đảo có nghĩa vụ tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có do những quốc gia khác đặt và đi qua các vùng nước của quốc gia quần đảo mà không đụng đến bờ biển của mình.

- Tàu thuyền của các quốc gia khác đều được hưởng quyền đi qua không gây hại trong vùng nước quần đảo. Chế độ pháp lý của quyền đi qua không gây hại này gần giống với chế độ pháp lý của quyền quá cảnh qua các eo biển quốc tế.

Câu 17: Eo biển quốc tế?

1/ Khái niệm.

Eo biển dùng cho hàng hải quốc tế là eo biển giữa một bộ phân của biển cả và một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.

2/ Chế độ pháp lý.

- Tại các eo biển quốc tế, tàu thuyền và phương tiện bay của các quốc gia được hưởng quyền quá cảnh.

- Quá cảnh là

việc thực hiện quyền tự do hàng hải và tự do hàng không với mục đích là đi quan liên tục và nhanh chóng qua eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.

Đòi hỏi quá cảnh liên tục và nhanh chóng không ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia ven eo biển, để rời khỏi hoặc lại đến lảnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh thổ của quốc gia đó.

- Quyền quá cảnh không được áp dụng trong 3 trường hợp đối với

:

+ Các eo biển mà việc đi lại đã được quy định toàn bộ hay từng phần trong công ước quốc tế đặc biệt nhằm vào các eo biển này đã có từ lâu đời và vẫn đang còn hiệu lực. VD: eo biển của Thổ Nhỹ Kỳ, Đan Mạch, Magela…

+ Các eo biển có thể vượt qua nó bằng một con đường ở biển cả hay một con đường qua một vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy cạn. VD: các eo biển Môzămbic, eo biển Berin,…

+ Các eo biển được thành bởi lãnh thổ đất liền của một quốc gia và một đảo cùng thuộc quốc gia này và tồn tại ở phái ngoài đảo này một đường ở biển cả hay một con đường qua vùng đặc quyền kinh tế cũng thuận tiện như thế về phương diện hàng hải và về các đặc điểm thủy văn hay các eo biển nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay với một vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia khác. Đối với các eo biển này, áp dụng chế độ quyền qua lại không gây hại. VD: eo biển Corfu, Messine,…

- Quyền quá cảnh

này áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay. Các phương tiện bay được hưởng quyền tự do cao hơn so với tàu thuyền vì các phương tiện này thực hiện quyền tự do bay không theo các hành lang như trường hợp tàu thuyền phải tôn trọng các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông do các quốc gia ven eo biển thiết lập phù hợp với các quy định quốc tế đã được chấp nhận chung. Nghĩa vụ các phương tiện bay khi thực hiện quá cảnh là tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế đã đề ra và thương xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không phân bổ cho hoặc tần số quốc tế về nguy cấp cho tàu ngầm được phép thực hiện quyền quá cảnh ở trạng thái chìm.

- Trong khi thực hiện quyền quá cảnh eo biển quốc tế, các tàu thuyền và phương tiện bay có nghĩa vụ (Điều 39):

“1. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh, các tàu thuyền và phương tiện bay:

a) Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;

b) Không được đe dọa hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc;

c) Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần cho sự quá cảnh liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng hoặc trừ trường hợp nguy cấp;

d) Tuân thủ các quy định thích hợp khác của phần này.

2. Trong khi quá cảnh các tàu thuyền tuân thủ:

a) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về mặt an toàn hàng hải, nhất là các quy tắc quốc tế để phòng ngừa đâm va trên biển;

b) Các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm do các tàu thuyền gây ra.

3. Trong khi quá cảnh, các phương tiện bay:

a) Tôn trọng các quy định về hàng không do Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế đề ra để áp dụng cho các phương tiện bay dân dụng; bình thường các phương tiện bay của Nhà nước phải tuân thủ các biện pháp an toàn do các quy định này đề ra và khi hoạt động vào bất kỳ lúc nào, các phương tiện bay cũng phải chú ý đến an toàn hàng không.

b) Thường xuyên theo dõi tần số điện đài mà cơ quan có thẩm quyền được quốc tế chỉ định làm nhiệm vụ kiểm soát giao thông hàng không đã phân bổ cho, hoặc tần số quốc tế về nguy cấp.”

- Quốc gia ven biển có quyền:

+ Ấn định các tuyến đường và quy định các cách phân chia luồng giao thông trong các eo biển quốc tế (Điều 41 về các tuyến đường và các cách bố trí phân chia luồng giao thông trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế):

“1. Theo đúng phần này, các quốc gia ven eo biển khi có nhu cầu bảo đảm an toàn cho tàu thuyền đi qua các eo biển, có thể ấn định các tuyến đường và quy định các cách phân chia luồng giao thông.

2. Các quốc gia nói trên, khi hoàn cảnh đòi hỏi và sau khi đã công bố theo đúng thủ tục biện pháp này, có thể ấn định các tuyến đường mới hay quy định các cách mới phân chia luồng giao thông thay thế mọi tuyến đường hay mọi cách phân chia luồng giao thông đã được ấn định hay quy định trước đó.

3. Các tuyến đường và cách bố trí phân chia luồng giao thông cần phải phù hợp với quy định quốc tế đã được chấp nhận chung.

4. Trước khi ấn định hay thay thế các tuyến đường hoặc trước khi quy định hay thay thế các cách phân chia luồng giao thông, các quốc gia ven eo biển gửi các đề nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền thông qua. Tổ chức này chỉ có thể chấp nhận các tuyến đường và cách phân chia luồng giao thông nào đã có thể thỏa thuận với các quốc gia ven eo biển; khi đó, các quốc gia này có thể ấn định, quy định hoặc thay thế các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông này.

5. Khi đề nghị thiết lập trong một eo biển các tuyến đường hay cách phân chia luồng giao thông có liên quan đến vùng nước của nhiều quốc gia ven eo biển, các quốc gia hữu quan hợp tác với nhau để soạn thảo các đề nghị, có sự tham khảo ý kiến của tổ chức quốc tế có thẩm quyền.

6. Các quốc gia ven eo biển ghi rõ ràng lên các hải đồ tất cả các tuyến đường hay tất cả các cách phân chia luồng giao thông mà mình đã thiết lập và công bố các hải đồ này theo đúng thủ tục.

7. Trong khi quá cảnh, tàu thuyền tôn trọng các tuyến đường và các cách phân chia luồng giao thông đã được thiết lập theo đúng điều này.

+ Có thể quy định các luật và các văn bản liên quan đến việc quá cảnh eo biển (Điều 42 về các luật và quy định của quốc gia ven eo biển liên quan đến việc quá cảnh):

“1. Với điều kiện chấp hành mục này, các quốc gia ven eo biển có thể ra các luật và quy định liên quan đến việc đi qua eo biển về các vấn đề sau:

a) An toàn hàng hải và điều phối giao thông trên biển như đã được nêu ở Điều 41;

b) Ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường, bằng cách thi hành quy định quốc tế có thể áp dụng được về việc trút bỏ dầu, cặn dầu và các chất độc hại trong eo biển;

c) Việc cấm đánh bắt hải sản đối với các tàu đánh bắt hải sản; kể cả quy định việc xếp đặt các phương tiện đánh bắt;

d) Xếp, dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay nhập cư của quốc gia ven eo biển.

2. Các luật và quy định này không được dẫn đến bất kỳ một sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài, việc áp dụng các luật và quy định này không được có tác dụng ngăn cản, hạn chế hay gây trở ngại cho việc thực hiện quyền quá cảnh như đã được xác định trong mục này.

3. Các quốc gia ven eo biển công bổ những luật và quy định này theo đúng thủ tục.

4. Các tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền quá cảnh qua eo biển phải tuân thủ các luật và quy định này.

5. Trong trường hợp một tàu hay một phương tiện bay được hưởng quyền miễn trừ về chủ quyền vi phạm các luật và quy định này, quốc gia mà con tàu mang cờ hay quốc gia đăng ký phương tiện bay phải chịu trách nhiệm quốc tế về mọi tổn thất hay thiệt hại có thể gây ra cho eo biển.”

Bên cạnh đó, quốc gia ven biển còn có nghĩa vụ: “Các quốc gia ven eo biển không được gây trở ngại cho việc quá cảnh và phải thông báo đầy đủ và mọi nguy hiểm đối với hàng hải trong eo biển hoặc đối với việc bay trên eo biển mà các quốc gia này nắm được. Việc thực hiện quyền quá cảnh không thể bị đình chỉ.” (Điều 44).

Câu 18: Thực tiễn quá trình xác định biên giới quốc gia ở VN?

Ở VN, quan hệ biên giới với các nước láng giềng CHDCND Lào, CHND Campuchia, CHND Trung Hoa được giải quyết trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, làng giềng thân thiện và cùng tồn tại hòa bình. Đường biên giới vẽ trên bản đồ của Pháp tương đối phù hợp với đường biên giới thực tế và là căn cứ chung để giải quyết các vấn đề biên giới.

- Lào và VN:

Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước 18/7/1977 và Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa hai nước ngày 24/1/1986. Ngày 16/10/1987, hai bên đã ký Nghị định thư bổ sung ghi nhận kết quả phân giới cắm mốc.

à

với n~ hiệp ước này, về cơ bản hai nước đã có một đường biên giới chung chính thức dài 2067 km.

- Campuchia – VN:

+ 20/7/1983: Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa 2 nước (gồm 4 điểm).

+ 27/12/1985: Hiệp ước hoạch định biên giới giữa hai nước.

à

Trên thực tế, VN có chung với Campuchia 1137 km đường biên giới đất liền và tính đến 1988 đã phân giới được 207 km. Hiện nay đang xúc tiến đảm phán đề giải quyết toàn vẹn vấn đề đất liền và biên giới trên biển.

+

Ngày 7/7/1977, giữa Việt Nam và Campuchia đã ký kết Hiệp định về vùng nước lịch sử của nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia.

- VN – TQ:

+ Căn cứ: Công ước Pháp – Thanh năm 1887 và 1895 về phân chia biên giới giữa Bắc kỳ và nhà Thanh.

+ 30/12/1999: Hiệp ước về biên giới đất liền Việt Trung được ký kết tại Bắc Kinh.

à

6/7/2000: trao đổi để phê chuẩn hiệp ước này.

+ 25/12/2000: Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ.

Câu 19: So sánh vùng đặc quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải?

* Giống nhau:

- Quốc gia có quyền chủ quyền riêng biệt.

- Có quy chế pháp lý hỗn hợp.

- Tiếp liền lãnh hải.

- Đều là vùng nước biển.

- Các quốc gia ven biển đều có quyền kinh tế trong cả 2 vùng.

* Khác nhau.

 

Vùng tiếp giáp lãnh hải

Vùng đặc quyền kinh tế

Cách xác định

Không quá 24 hải lý tính từ đường cơ sở

Không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở

Quy chế pháp lý

- Có quyền của vùng đặc quyền kinh tế và một số quyền khác.

- Quy định thẩm quyền riêng biệt và giới hạn đối với tàu thuyền nước ngoài.

- Quốc gia ven biển có nhiều quyền hơn

- Chỉ có quyền trong lĩnh vực kinh tế, không có 3 quyền: ngăn ngừa, trừng trị, hiện vật lịch sử như vùng tiếp giáp lãnh hải

- Có sự cần bằng quyền quốc gia ven biển với quốc gia khác.

- Ít quyền hơn

Phạm vi thẩm quyền

Quy chế pháp lý không bao trùn lên vùng đặc quyền kinh tế

Quy chế pháp lý bao trùm lên vùng tiếp giáp lãnh hải

Câu 20: So sánh chế độ pháp lý thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế?

* Giống nhau:

- Rộng 200 hải lý tình từ đường cơ sở, ngoài lãnh hải

- Có đặc quyền kinh tế;

- Là vùng biển.

- Đều có quyền chủ quyền và quyền tài phán.

- Ở một số quốc gia thì hai vùng này chồng khít (chiều rộng đều bằng 200 hải lý)

* Khác nhau:

 

 

 

Vùng đặc quyền kinh tế

Thềm lục địa

Chiều rộng

Rộng 200 hải lý

Một số quốc gia có thể kéo dài 350 hải lý từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý từ đường đẳng sâu 2.500 m

Xác định chủ quyền của quốc gia ven biển

Quốc gia ven biển phải đưa ra tuyên bố khẳng định quyền chủ quyền của mình

Quốc gia ven biển mặc nhiệm có quyền chứ không cần tuyên bố

Phạm vi quyền

Có 3 quyền tự do: hàng hải, hàng không, đặt dây cáp và ống dẫn ngầm

Không có 3 quyền tự do này

Câu 21: Các nguyên tắc của Luật biển quốc tế?

* Nguyên tắc tự do biển cả:

- ND nguyên tắc: biển cả được đẻ ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là những quốc gia có biển hay không có biển. Nguyên tắc này không cho phép bất cứ một quốc gia nào đó có thể áp đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình.

- Các quyền tự do biển cả bao gồm:

+ tự do hàng hải;

+ Tự do đánh bắt hải sản;

+ Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm;

+ Tự do hàng không;

+ Tự do nghiên cứu khoa học biển;

+ Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho phép.

- Vai trò với xác định quy chế pháp lý các vùng biển:

+ Vai trò quyết định trong xác định quy chế pháp lý của vùng biển quốc tế (cốt lõi, nền tảng, cơ sở pháp lý chủ yếu của quy chế).

+ Góp phần xây dựng quy chế pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.

+ Có tác động đến việc xây dựng quy chế pháp lý lãnh hải: đi qua không gây hại.

+ không tác động đến nội thủy, một số nội thủy vẫn có áp dụng quyền đi qua không gây hại nhưng là việc áp dụng có tính chất truyền thống do xác định đường cơ sở đã gộp vào nội thủy.

* Nguyên tắc đất thống trị biển.

- ND: cho phép quốc gia ven biển mở rộng chủ quyền quốc gia hướng ra biển. Việc mở rộng quyền lực quốc gia ra hướng biển được quyết định bởi các nhân tố chính trị và khoa học kỹ thuật nhưng ko thể tách rời cơ sở pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Điều 2 CƯ luật biển 1982

quy định: “Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải (merterritoriale). Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải, cũng như đến đáy và lòng đất của biển này.”

Điều 49 CƯ quy định

: “Chính chủ quyền của quốc gia quần đảo trên các đảo của mình là cơ sở cho cộng đồng quốc tế chấp nhận học thuyết quốc gia quần đảo và mở rộng chủ quyền đó ra vùng nước quần đảo, bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ của chúng thế nào”.

Nguyên tắc này còn thể hiện trong phân định biển bằng yêu cầu không được sửa chữa lại tự nhiện, theo đó mỗi quốc gia được hưởng phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ của mình ra biển. Ngay cả  khi một vùng đáy biển gần lãnh thổ của một quốc gia hơn lãnh thổ của mọi quốc gia khác người ta cũng ko thể coi rằng nó thuộc quốc gia này nếu nó không phải là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó ra biển.

Tuy nhiên, quốc gia không thể làm dụng nguyên tắc đất thống trị biển để mở rộng mãi thầm quyền của mình ra biển hoặc đơn phương yêu sách n~ vùng biển rộng lớn hơn, ko phù hợp với LQT.

- Vai trò:

+ có vai trò quyết định hình thành quy chế pháp lý nội thủy và lãnh hải

+ góp phần xây dựng quy chế pháp lý vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.

+ không có tác động đến vùng biển quốc tế.

* Nguyên tắc di sản chung của loài người.

Xác định khối tài sản không thể phân chia, thuộc sở hữu cộng đồng quốc tế, thay mặt cho tất cả các quốc gia. Nó có lợi cho quốc gia đang phát triển, tạo điều kiện cho các quốc gia này tham gia vào việc quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên của vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, nằm ngoài quyền tài phán quốc gia mà trước đó chỉ có các quốc gia công nghiệp tự do thăm do khai thác.

* Nguyên tắc công bằng.

- Thừa nhận n~ quyền của các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý được sử dụng biển cả như các quốc gia có biển ở phạm vi mà Luật biển cho phép và nghĩa vụ không làm gì phương hại đến quyền sử dụng biển của của các quốc gia khác.

- Không đặt biển cả dưới chủ quyền riêng biệt của bất kỳ quốc gia nào. Quy định như vậy nhằm loại bỏ mọi yêu sách về chủ quyền đối với biển cả cũng như đối với vùng – di sản chung của loài người.

- Vùng đáy biển (vùng) có chế độ pháp lý là di sản chung của loài người. Vùng để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có biển, để sử dụng vào mục đích hòa bình, không phân biệt đối xử. Mọi hoạt động trong vùng được tiến hành là vì lợi ích của toàn thể loài người, ko phụ thuộc vào vị trí địa lý của các quốc gia, dù là quốc gia có biển hay không có biển.

- Trong phân định biển, áp dụng công bằng không có nghĩa là sửa chữa lại tự nhiên mà là đảm bảo cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một vùng biển đúng và công bằng, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro