luat im lang p2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 6

Franky and Stace Sturzo sở hữu một cửa hàng bán đồ thể thao lớn ở Los Angeles và một ngôi nhà ở Santa Monica chỉ cách bãi biển Malibu năm mươi phút đi bộ. Cả hai đã từng lập gia đình, nhưng hôn nhân của chúng chẳng đi đến đâu, nên bây giờ chúng sống với nhau.

Chúng không nói với bất kỳ ai trong đám bạn bè chúng là anh em sinh đôi, mà chúng thậm chí cũng chẳng có vẻ gì là anh em ngoại trừ cả hai đều cả tin và mê thể thao. Franky hấp dẫn và có cá tính hơn. Stace nhanh nhạy hơn, chỉ hơi chút lạnh lùng, nhưng cả hai đều nổi tiếng về lòng tốt của mình.

Chúng là thành viên của một trong số những phòng tập thể thao rộng rãi và sang trọng rải rác khắp Los Angeles, một phòng tập có những máy tập thể hình kỹ thuật số và những chiếc tivi treo tường màn hình rộng để xem trong khi luyện tập. Nó có một sân bóng rổ, một bể bơi và cả một võ đài nữa. Ban huấn luyện của nó là những người đàn ông đẹp như tạc và những phụ nữ nom bắt mắt, rắn chắc. Hai anh em chúng dùng phòng tập để tập và cũng là để gặp gỡ những phụ nữ tập luyện ở đó. Đây là một bãi săn lớn cho đám đàn ông như chúng vì được vậy quanh bởi những nàng diễn viên tràn trề hy vọng đang cố giữ thân hình thon thả và những bà vợ ủ ê bệ rạc của những kẻ đầy quyền lực trong làng điện ảnh.

Nhưng nhìn chung Franky và Stace khoái chơi bóng rổ. Những cầu thủ giỏi thường lui tới phòng tập - thậm chí đôi khi có cả một cầu thủ dự bị của đội LA (1) Lakers. Franky và Stace thi đấu với anh ta và cảm thấy chúng cũng vững vàng. Điều đó gợi lại những kỷ niệm đầy mơ mộng khi chúng là những ngôi sao của trường trung học. Tuy nhiên chúng không hề ảo tưởng cũng sẽ may mắn như vậy trong một trận đấu thực sự. Chúng chơi đến mệt lử còn anh chàng cầu thủ của đội Lakers được một phen đùa cợt thỏa thích.

Tại nhà hàng bán đồ ăn bổ dưỡng tự nhiên của phòng tập, chúng kết bạn với những nữ huấn luyện viên và hội viên của phòng tập, thậm chí đôi khi cả với một vài người nổi tiếng. Chúng luôn được vui chơi, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ trong cuộc đời của chúng. Franky huấn luyện cho đội bóng rổ của một trường tiểu học. Gã làm việc này rất nghiêm túc. Gã luôn hy vọng phát hiện ra một siêu sao đang trong quá trình trưởng thành, và gã được bọn trẻ yêu quý vì tốt bụng và nghiêm khắc. Gã có một phương pháp huấn luyện nổi tiếng. "OK", gã nói.

- Các em còn kém hai mười điểm. Đây là hiệp cuối cùng. Các em ra sân và ghi mười điểm đầu tiên. Chỉ cần can đảm và tự tin các em sẽ luôn luôn thắng. Các em chỉ còn kém mười điểm, rồi năm, rồi hòa. Và các em thắng!

Đương nhiên, chuyện đó chẳng bao giờ thành hiện thực. Bọn trẻ không phát triển đầy đủ cả về thể chất lẫn tinh thần. Chúng vẫn chỉ là một lũ nhóc. Nhưng Franky biết những đứa thực sự có tài sẽ không bao giờ quên bài học này và nó sẽ còn giúp ích cho chúng sau này.

Stace tập trung vào việc điều hành cửa hàng và ra những quyết định cuối cùng anh em chúng sẽ làm những việc gì. Đó phải là những việc ít rủi ro nhất nhưng được trả giá cao nhất. Stace lúc nào cũng tin vào các tỷ lệ và là kẻ bi quan. Hai anh em chúng ít khi lại không nhất trí được với nhau về một vấn đề. Chúng có chung sở thích, chúng ngang sức ngang tài trong những kỹ năng về thể chất. Thỉnh thoảng chúng đấu tập với nhau trên võ đài hoặc ngoài sân bóng rổ.

Bây giờ chúng đã sang tuổi bốn ba và có cuộc sống ổn đinh, nhưng chúng vẫn thường bàn thảo về việc lập gia đình lần nữa. Franky cặp một cô bồ ở San Francisco, còn Stace có bạn gái ở Vegas, một ả vũ nữ. Cả hai ả đều tỏ ra không mặn mà lắm với chuyện chồng con nên hai anh em chúng có cảm giác rằng chúng chỉ là những kẻ chèo đò đang dài cổ trông tới ngày cập bến.

Vì hào phóng nên chúng kết bạn dễ dàng và khá bận rộn với hoạt động xã hội. Một năm sau ngày giết ông Trùm chúng vẫn sống trong tâm trạng lo lắng. Không thể giết một người như lão mà không gặp nguy hiểm.

Khoảng tháng Mười một Stace gọi một cú điện thoại cho Heskow về việc trả nột năm trăm ngàn lệ phí còn lại. Cú điện ngắn gọn và có vẻ tối nghĩa.

- Xin chào, Stace nói. Tụi này sẽ tới đích khoảng một tháng nữa kể từ hôm nay. Mọi cái đều ổn cả chứ?

Heskow có vẻ mừng rỡ khi nghe giọng Stace.

- Mọi cái đều hoàn hảo, y nói. Mọi cái đã sẵn sàng. Tụi mày có thể chi tiết hơn về thời gian không? Tao không muốn tụi mày tới khi tao đi đâu đó ra ngoài thành phố.

Stace cười và thản nhiên nói

- Tụi mày sẽ tìm, được chứ? Cứ tính một tháng đi. Sau đó gã cúp máy.

Tiền nong nhận được trong một hợp đồng như thế luôn luôn có yếu tố nguy hiểm. Đôi khi người ta ghét thanh toán cho những việc đã làm. Điều đó xảy ra trong mỗi vụ làm ăn. Với Heskow nguy hiểm chỉ là rất nhỏ - y luôn luôn là một nhà môi giới đáng tin cậy. Tuy nhiên, vụ của ông Trùm là đặc biệt, cả tiền cũng vậy. Vì thế chúng không muốn Heskow hiểu rõ kế hoạch của mình.

Hai anh em chọn quần vợt để tiêu khiển từ năm trước, nhưng với môn này, chúng luôn gặp thất bại. Mặc dù người ta giải thích cho chúng rằng đây là một môn thể thao đòi hỏi phải tập những cú giao bóng từ rất sớm, rằng nó thực sự dựa vào những kỹ thuật nào đó giống như học ngoại ngữ vậy, nhưng chúng có khiếu thể thao đến mức không thể chấp nhận thất bại. Thế là hai gã thỏa thuận ở lại khu nhà của sân quần ở Scottsdale, tiểu bang Arizona ba tuần để theo học một khóa nhập môn. Từ đó chúng sẽ tới New York gặp Heskow. Tất nhiên trong ba tuần này chúng có thể bỏ qua du hý vài đêm tại Vegas, nơi chỉ cách Scottsdale chưa đầy một giờ bay.

Khu nhà ở sân quần cực kỳ sang trọng. Franky và Stace được phân một ngôi nhà nhỏ hai phòng ngủ tường làm bằng gạch sống, có điều hòa nhiệt độ, một phòng ăn kiểu Ấn Độ, một phóng khách có ban công và một nhà bếp nhỏ. Từ đây có thể thấy phong cảnh hùng vĩ của vùng núi. Trong nhà còn có một quầy bar, một tủ lạnh lớn và một TV to đùng.

Nhưng ba tuần đầu đã diễn ra chẳng mấy suôn sẻ. Một trong các huấn luyện viên bắt Franky làm việc quá sức. Franky dễ dàng trở thành người giỏi nhất trong nhóm học viên mới. Gã đặc biệt tự hào về cú giao bóng của mình: nó rất là và dữ dội. Nhưng huận luyện viên, một người tên là Leslie, có vẻ đặc biệt khó chịu với cú giao bóng của gã.

Một buổi sáng Franky quật trái banh về phía đối thủ của gã. Gã quay sang tự hào với Leslie,

- Hiểm đấy chứ?

- Nhằm nhò gì, Leslie lạnh lùng đáp. Lỗi chân rồi. Ngón chân của anh đã chồm qua vạch giao bóng. Hãy thử lại một lần nữa với một cú giao bóng như vừa rồi, trái banh thường sẽ ra ngoài sân đấy.

Franky làm một cú giao bóng nữa, nhanh và chính xác

- Cũng hiểm hóc đấy chứ? Gã hỏi.

- Vẫn mắc lỗi chân, Leslie chậm rãi nói. Đánh banh như thế thì nước mẹ gì. Mới chỉ đưa được trái banh vào sân. Anh chỉ khá so với một Hacker(2) thôi.

Franky bực lắm nhưng gã kiềm chế được.

- Cứ xếp cho tôi đấu với một ai đó không phải là hacker đi, gã nói. Cứ mở mắt ra mà xem tôi chơi ra sao. Gã dừng lại. Thế còn anh?

Leslie khinh bỉ nhìn gã.

- Tôi không đấu với dân hacker, anh ta nói rồi chỉ vào một cô gái trẻ trạc cuối hai đầu ba chục

- Rosie đấy phải không? Leslie gọi. Tiếp ngài Sturzo một ván đi.

Cô giá vừa mới tới sân banh. Nàng có cặp giò rám nắng rất đẹp lộ ra ngoài chiếc quần sọc trắng, và nằng mặc một chiếc sơ mi hồng có biểu tượng khu nhà của sân quần. Khuôn mặt nàng xinh xắn và tinh nghịch. Tóc nàng buộc túm ra sau thành một cái đuôi ngựa.

- Chấp tôi nhé, Franky nói với vẻ khiêm nhường. Trông cô em phong độ gớm. Cô là huấn luyện viên à ?

- Không, Rosie nói. Tôi cũng chỉ mới tới đây để học mấy bài giao bóng. Leslie là huấn luyện viên bậc thầy về khoản đó đấy.

- Cứ chấp đi, Leslie nói. Ngài đây còn kém cơ cô mà.

Franky nói nhanh,

- Làm hai séc mỗi séc bốn bàn nhé ? Thực lòng, gã chỉ muốn thương lượng để hạ bớt.

Họ chơi dưới sự chứng kiến của Leslie. Franky thắng hai bàn đầu, nhưng sau đó Rosie giành lai ưu thế. Những cú vụt bóng của nàng thật hoàn hảo và nàng không gặp bất kỳ rắc rối nào với những cú giao bóng của gã. Nàng luôn có mặt tại nơi Franky vụt trái banh tới. Mặc dù đã vài lần cũng san bằng tỷ số hoà bốn mươi - bốn mươi, nhưng nàng vẫn hạ gã với tỷ số chung cuộc 6-2.

- Này, so với dân hacker thì anh khá đấy, Rosie nói. Nhưng anh chỉ bắt đầu chơi khi đã ngoài hai mươi tuổi phải không ?

- Phải, Franky bắt đầu thấy căm cái từ hacker.

- Người ta phải học đánh và giao bóng từ khi còn nhỏ, Rosie nói.

- Vậy ư ? Franky bỡn cợt. Nhưng tôi sẽ hạ cô em trước khi chúng ta rời khỏi nơi này.

Rosie toét miệng cười. Miệng nàng rộng so với khuôn mặt nhỏ của nàng.

- Được thôi, nàng nói. Nếu anh có một ngày may mắn nhất đời thì tôi sẽ có một ngày tồi tệ nhất. Franky phá lên cười.

Stace bước tới và tự giới thiệu. Sau đó gã nói, Mời cô đi ăn tối cùng tụi tôi. Franky không mời cô vì cô đã hạ chú ấy, nhưng chú ấy sẽ đến.

- Ồ, không phải thế, Rosie nói. Anh ấy cũng đang định mời tôi đấy. Tám giờ được chứ ?

- Tuyệt, Stace đáp. Gã gõ cây vợt vào Franky.

- Tôi sẽ tới, Franky làu bàu.

Họ ăn tối tại nhà hàng của khu nhà trong sân banh, một phòng lớn có mái vòm với những bức tường kính cho phép nhìn ra sa mạc và những dãy núi. Rosie đúng là cả một phát hiện, như Franky nói với Stace sau này. Nàng ve vãn cả hai đứa, nàng nói về thể thao và xem ra nàng rất thạo, quá khứ và hiện tại - những trận đấu lớn, những cầu thủ lớn, những khoảnh khắc thiêng liêng với mỗi cá nhân. Và nàng là một thính giả có hàng, nàng khích lệ chúng. Franky kể cho nàng nghe cả việc huấn luyện lũ trẻ và bằng cách nào cửa hàng của gã có thể cung cấp những mặt hàng tốt nhất, và Rosie hết lời tán thưởng,

- Ôi, thật tuyệt, thật tuyệt vời.

Rồi chúng bảo nàng chúng đã từng là những ngôi sao bóng rổ của trường trung học trong thời hoa niên.

Rosie ăn uống ngon miệng và anh em Sturzo chấp nhận được điều đó ở một người đàn bà. Nàng ăn chậm rãi, thanh nhã và có thói quen hạ thấp đầu nghiêng về một bên với một vẻ e lệ hầu như giả tạo khi nàng nói về mình. Nàng đang làm luận án tiến sỹ tâm lý tại Đại học tổng hợp New York. Nàng xuất thân từ một gia đình giàu có và nàng đã đi khắp châu Âu. Nàng đã từng là một ngôi sao quần vợt ở trường trung học, nhưng nàng nói tất cả những chuyện đó với một vẻ chẳng mấy hài lòng làm hai gã càng bị cuốn hút, và nàng liên tục chạm nhẹ vào tay chúng khi nàng nói.

- Tôi vẫn chưa biết làm gì khi tốt nghiệp, nàng nói. Với toàn bộ kiến thức có được từ sách vở tôi sẽ không thể nào hiểu được con người trong đời sống thực tế. Giống như hai anh thôi. Các anh đã kể cho tôi nghe những chuyện đã qua của mình, hai anh thật dễ mến, nhưng tôi không biết cái gì đã làm các anh vượt qua được ?

- Đừng có lo về chuyện đó, Stace nói. Cô em cầu gì khắc được nấy thôi.

- Đừng có mà hỏi tôi, Franky bảo nàng. Ngay bây giờ tôi chỉ tập trung vào một việc là làm sao thắng được cô em trong môn quần vợt.

Sau bữa tối hai gã đưa Rosie xuống con đường đất đỏ dẫn tới nhà nàng. Nàng hôn nhanh lên má chúng, rồi chúng bị bỏ lại một mình trong không gian vắng vẻ. Khuôn mặt vui nhộn của nàng đang ngời lên dưới ánh trăng là hình ảnh cuối cùng chúng mang theo.

- Tao nghĩ cô nàng hết sảy đấy. Stace lên tiếng.

- Còn hơn thế nữa, Franky nói.

Hai tuần cuối cùng ở sân banh, Rosie trở thành bồ của hai gã. Vào những buổi chiều tà sau khi chơi tennis họ lại cùng nhau đi đánh golf. Nàng chơi khá nhưng không bằng cả hai anh em. Chúng có thể đánh mạnh trái banh đi xa và rất bình tĩnh trên vạt lỗ bóng. Một gã tuổi sồn sồn ở khu sân quần đi cùng họ tới sân golf để làm thành một vặp đôi. Y năn nỉ được cùng phe với Rosie và chơi mười đô cho một lỗ. Và mặc dù rất khá nhưng y vẫn bị thua. Sau đó y thử nhập bọn với họ đi ăn tối. Rosie cự tuyệt y để làm vui lòng hai gã sinh đôi.

- Tôi đang cố thuyết phục hai anh bạn này kết hôn với tôi mà, nàng nói.

Chính Stace là người đưa được Rosie lên giường vào cuối tuần thứ nhất. Trước đó Franky đã đi Vegas để đánh bạc và cũng để Stace dễ "làm ăn". Nửa đêm khi gã trở về, Stace không có trong phòng. Sáng hôm sau khi gã xuất hiện. Franky hỏi

- Cô nàng sao hả ?

- Hết sảy, Stace nói.

- Anh không phản đối nếu tôi cũng làm một phát chứ ? Franky nói.

Việc này không bình thường chút nào. Chúng đã bao giờ cùng chia sẻ một người đàn bà đâu. Trong lĩnh vực này khẩu vị của chúng hoàn toàn khác nhau. Stace cân nhắc đề nghị đó. Rosie hoà hợp tuyệt vời với cả hai gã. Nhưng chúng sẽ không thể tiếp tục cặp kè cùng nhau nữa nếu Stace có được Rosie và Franky chẳng xơ múi được gì. Trừ phi Franky đưa được một cô nàng nữa về phối hợp - mà thế thì hỏng mất.

- Được thôi, Stace nói.

Thế là đêm hôm sau Stace mò xuống Vegas và Franky ăn nằm với Rosie. Cô nàng không làm khó dễ và còn tỏ ra thích thú - không có những tiểu xảo khác thường, chỉ có các sinh hoạt vui nhộn tử tế. Nàng không hề tỏ ra khó chịu chút nào.

Tuy vậy, sáng ra khi cả ba ngồi ăn sáng, Franky và Stace không biết phải xử sự ra sao. Chúng cũng khá đàng hoàng và lịch sự. Mối quan hệ hài hoà của chúng rạn nứt. Rosie nhanh chóng ăn hết phần của mình rồi ngả lưng vào ghế và hổi một cách thích thú.

- Em làm các anh khó chịu hay sao ? Em nghĩ chúng mình cùng là bồ bịch của nhau cơ mà.

Stace thành thật nói

- Chỉ là do cả hai đứa tụi anh đều phát điên vì em thôi, và bọn anh không biết chính xác phải làm thế nào để giữ mối quan hệ này.

Rosie cười nói,

- Em sẽ giữ. Em thích cả hai anh, rất nhiều. Chúng mình đang vui vẻ. Chúng mình đâu có lấy nhau, và sau khi rời khỏi đây có lẽ sẽ không còn gặp lại nhau nữa. Em sẽ trở lại New York, còn bọn anh sẽ quay lại L.A. Vì thế đừng làm hỏng mối quan hệ của chúng ta trừ phi một trong hai anh có máu ghen tuông. Trong trường hợp đó chúng ta chỉ cần ngưng khoản sex.

Bỗng chốc hai gã trở nên thoải mái với nàng.

Franky nói.

- Tụi anh đâu có ghen, và anh sẽ hạ em một ván Tennis trước khi mình rời khỏi đây.

- Anh không có những quả vụt, Rosie nói như đinh đóng cột, nhưng nàng chìa tay ra xiết chặt tay cả hai gã.

- Thế thì làm luôn hôm nay đi, Franky nói.

Rosie nghiêng đầu bẽn lẽn.

- Em sẽ chấp anh mỗi bàn ba điểm, nàng nói. Và nếu thua, anh sẽ không được ra oai với em nữa đấy.

Stace nói

- Tao sẽ cược một trăm đô cho Rosie.

Franky cười với cả hai người, một cái cười dữ tợn. Không khi nào gã cho phép mình thua Rosie với ba điểm chấp.

Rosie nở một nụ cười tinh nghịch.

- Và nếu em thắng, Stace sẽ qua đêm nay với em.

Cả hai gã cười vang. Việc Rosie không hoàn hảo như thế, việc nàng có đôi chút ác tâm làm chúng thích thú.

Trên sân banh, không gì có thể cứu được Franky - Cả cú phát bóng như chớp của gã, cả những cú đánh trả khéo léo, cả số điểm được chấp. Rosie với kiểu đánh xoáy cực hay mà nàng chưa từng sử dụng trước đó đã hoàn toàn hạ gục gã. Nàng thắng gã với tỷ số 6-0. Khi trận đấu kết thúc, Rosie hôn lên má Franky và thì thầm.

- Đêm mai em sẽ chiều anh. Như đã hứa, sau khi cả ba ăn tối xong, nàng ngủ với Stace. Việc này cứ luôn phiên cho đến cuối tuần.

Ngày Rosie đi, hai gã đưa nàng ra sân bay.

- Nếu các anh đến New York nhớ phone cho em, nàng nói. Hai gã cũng đã ngỏ ý mời nàng về ở chỗ chúng bất kỳ khi nào nàng đến L.A. Rồi nàng làm chúng sửng sốt. Nàng lấy ra hai hộp quà nhỏ được gói kỹ.

- Làm kỷ niệm, nàng nói và nở nụ cười hạnh phúc. Hai anh em sinh đôi mở hộp và mỗi đứa thấy một chiếc nhẫn Navajo đính mặt đá xanh.

- Để mà nhớ em.

Sau đó, khi đi mua sắm trong thành phố, chúng thấy những chiếc nhẫn được bán với giá ba trăm đô.

- Lẽ ra cô nàng chỉ cần mua cho tụi mình mỗi đứa một chiếc cà vạt hoặc một trong số những chiếc thắt lưng cao bồi ngồi ngộ với giá năm mươi đô là được, Franky nói. Cả hai đều sướng rơn.

Chúng ở lại khu sân quần một tuần nữa nhưng chỉ dành ít thời gian để chơi tennis. Chúng chơi golf và đến tối lại bay xuống Vegas. Nhưng chúng đặt ra một quy định không qua đêm ở đó. Bởi lẽ người ta có thể mất rất nhiều - chấp nhận một thảm bài vào sáng sớm khi năng lực đã bị suy giảm và óc phán đoán không còn tỉnh táo.

Trong bữa tối chúng nói về Rosie. Không gã nào nói một lời khiếm nhã về nàng, dù rằng trong thâm tâm chúng chẳng tôn trọng gì nàng vì nàng đã ăn nằm với cả hai anh em chúng.

- Cô nàng thực sự khoái cái đó, Franky nói. Nàng chẳng khi nào mệt mỏi hoặc cau có sau khi mãn cuộc.

- Ừ, Stace tán thành. Cô nàng dữ dội thật. Tao nghĩ tụi mình đã vớ được một con mái hoàn hảo.

- Nhưng người ta luôn luôn thay đổi, Franky nói

- Tụi mình sẽ gọi cho nàng khi đến New York chứ ? Stace hỏi.

- Tôi sẽ gọi, Franky nói.

Một tuần sau khi rời Scottsdale chúng đăng ký ở khách sạn Sherry Netherland khu Manhattan. Sáng hôm sau chúng thuê một chiếc xe và lên đường tới nhà Heskow ở Long Island. Khi rẽ vào con đường cho xe đi chúng thấy Heskow đang quét lớp tuyết mỏng trên sân bóng rổ. Y giơ tay chào, sau đó ra hiệu cho chúng đưa xe vào ga ra xây liền với ngôi nhà. Chiếc xe của y đỗ ở bên ngoài. Trước khi Stace lái vào ga ra Franky nhảy ra khỏi xe để bắt tay Heskow nhưng thực ra là để đặt y trong tầm khống chế nếu như xảy ra bất cứ chuyện gì.

Heskow mở khoá và dẫn chúng vào nhà.

- Tất cả đã sẵn sàng, y nói rồi đưa chúng lên lầu, đến bên chiếc hòm lớn trong phòng ngủ và mở khóa.

Bên trong có hàng đống tiền được cột bằng cao su thành những bó cao khoảng sáu inch, thêm vào đó là một chiếc túi xếp bằng da to như một chiếc valy. Stace ném những bó tiền lên giường. Sau đó hai anh em chúng lật nhanh từng chồng để đảm bảo rằng tất cả đều là tờ một trăm đô và không có tiền giả. Chúng chỉ đếm số tờ giấy bạc trong một chồng rồi nhân với một trăm. Sau đó chúng nhét tiền vào chiếc túi da. Xong xuôi, chúng nhìn Heskow. Y đang mỉm cười.

- Hãy làm một tách cà phê rồi hãy đi, y mời.

- Cảm ơn, Stace nói. Ở đây có gì tụi tao cần phải biết không ? Có gì lộn xộn khong ?

- Chẳng có gì cả Heskow noi. Mọi cái đều hoàn hảo. Đừng có tiêu xài xả láng đấy.

- Cái này để tụi tao dưỡng già đây, Franky nói và anh em chúng phá lên cười.

- Thế còn đám bạn của lão thì sao ? Stace hỏi.

- Người chết làm gì có bạn, Heskow đáp.

- Còn con cái lão ? Franky hỏi. Chúng không làm ầm lên à ?

- Chúng được nuôi dạy thành những người ngay thẳng. Stace nói. Chúng không là dân Sicily. Chúng là những nhà chuyên môn thành đạt. Chúng tin vào pháp luật và chúng thấy mình may mắn không phải là những kẻ bị tình nghi.

Hai thằng sinh đôi à Heskow cười vang.

- Tao lấy làm lạ, Stace nói. Một người đầy quyền lực như vậy mà lại ít ồn ào thế này.

- Ơn trời, một năm qua rồi mà chẳng phải mắt la mày lét nữa, Heskow nói.

Những người anh em uống hết tách cà phê rồi bắt tay Heskow.

- Hãy bảo trọng, Heskow nói. Tao có thể sẽ gọi lại cho tụi mày.

Trở lại thành phố anh em Sturzo nhét tiền vào két an toàn rồi quay về khách sạn và gọi điện cho Rosie.

Nàng ngạc nhiên và vui mừng vì nhận tin của chúng sớm như vậy. Giọng nàng thật thiết tha khi nàng nài nỉ chúng đến ngay căn hộ của nàng. Nàng sẽ cho chúng xem New York, sự tiếp đãi của nàng. Thế là tối hôm đó chúng đến với nàng. Nàng tiếp chúng đồ uống trước khi cả bọn kéo nhau đi ăn tối rồi vào nhà hát. Rosie đưa chúng đến Le Cirque mà nàng bảo là nhà hàng tốt nhất New York. Đồ ăn thật tuyệt, và mặc dù không có trong thực đơn, nhưng theo yêu cầu của Franky người ta vẫn làm cho gã một đĩa mì ống. Đó là món mì ống ngon nhất mà gã chưa từng được nếm. Anh em chúng không biết một thực tế là một nhà hàng hảo hạng có thể phục vụ bất kì món ăn nào khách hàng yêu thích. Chúng thấy cô em Rosie thật đặc biệt và điều đó gây ấn tượng với chúng. Đây là lần đầu tiên chúng thấy nằng ăn mặc sang trọng.

Lúc uống cà phê hai đứa tặng Rosie món quà đựng trong một chiếc hộp nhung màu nâu đỏ chúng mua chiều hôm đó ở cửa hàng Tiffany. Đó là một sợi dây chuyền gắn một hộp trang điểm bằng bạch kim nạm kim cương. Món quà trị giá năm ngàn đôla.

- Của anh và Stace, Franky nói. Bọn anh mua chung mà.

Rosie sững sờ. Mắt nàng đẫm lệ. Nàng đeo sợi dây chuyền lên cổ để cho chiếc hộp trang điểm nằm ở giữa cặp vú của nàng. Rồi nàng nhoài người hôn cả hai gã. Đấy là một nụ hôn ngọt ngào có mùi mật ong.

Anh em Sturzo đã có lần thổ lộ với Rosie chúng chưa bao giờ đến nhà hát Broadway, vì thế đêm hôm sau nàng đưa chúng đi xem vở Những người khốn khổ. Nàng đảm bảo với chúng rằng chúng sẽ thực sự thích vở này. Và chúng thích thật, nhưng với đôi chút hoài nghi. Sau buổi diễn, trong căn hộ của nàng, Franky nói

- Tôi không tin lão lại không giết thằng cớm Jarvet khi có cơ hội.

- Đó là nhạc kịch, Stace nói. Nhạc kịch không thể hiện được nhiều như phim ảnh. Đấy không phải việc của chúng.

Nhưng Rosie không chấp nhận ý kiến đó.

- Nó cho thấy Jean Valjean đã thực sự trở thành một người tốt, nàng nói. Nó nói về sự hối cải. Một người phạm tội và ăn cắp sau đó vẫn hòa nhập được với xã hội.

Điều này làm cho ngay cả Stace cũng bực mình.

- Gượm đã, gã nói. Cha nội này khởi sự là kẻ cắp. Một lần là kẻ cắp thì mãi mãi vẫn cứ là kẻ cắp. Tao nói đúng không, hả Franky?

Rosie nhảy vào chữa lửa

- Các anh biết gì về một con người như Valjean hả?

Thế là những người anh em tịt ngòi. Rosie nở nụ cười tinh quái.

- Ai trong các anh sẽ ở lại đêm nay? Nàng hỏi.

Nàng đợi câu trả lời, rồi cuối cùng nàng nói.

- Em không chơi tay ba. Các anh phải lần lượt thôi.

- Em muốn ai ở lại nào? Franky hỏi.

- Đừng bắt đầu như vậy, Rosie cảnh báo. Ngược lại chúng mình sẽ có một mối quan hệ đẹp như trong phim ảnh vậy. Không ràng buộc. Mà em cũng không thích thế. Nàng nói và mỉm cười nhằm làm dịu tình hình. Em yêu cả hai anh.

- Đêm nay anh sẽ về nhà, Franky nói. Gã muốn nàng biết rằng nàng đừng hòng chế ngự được gã.

Rosie hôn gã, chức gã về ngủ ngon và tiễn gã ra tận cửa. Nàng thì thầm

- Em sẽ đặc biệt vô cùng đêm mai.

Họ có sáu ngày bên nhau. Ban ngày Rosie phải lo làm luận án, nhưng tối đến nàng hoàn toàn rảnh rỗi.

Một đêm anh em Sturzo đưa nàng đi chơi Knics ở Garden. Chúng hài lòng nhận thấy nàng đánh giá cao những nét đẹp của trò chơi. Sau đó họ đi ăn tại một nhà hàng đặc sản nổi tiếng và Rosie bảo chúng rằng ngày hôm sau, một ngày trước Noel, nàng phải rời thành phố một tuần. Anh em chúng đoán nàng sẽ nghỉ lễ Giáng sinh cùng gia đình. Nhưng rồi lần đầu tiên kể từ ngày quen biết nhau chúng thấy nàng buồn.

- Không, em sẽ nghỉ Giáng sinh một mình tại một ngôi nhà gia đình em sở hữu ở phía Bắc. Em muốn tránh xa mọi thứ giả dối của ngày Giáng sinh, cũng chỉ để học hành và sắp xếp lại cuộc sống của em thôi mà.

- Thế thì đình lại đã, ở lại đón Giáng sinh cùng tụi anh, Franky nói. Tụi anh sẽ đỏi chuyến bay về L.A.

- Em không thể, Rosie nói. Em còn phải học, mà đấy lại là nơi tốt nhất.

- Một mình thôi ư? Stace hỏi.

Rosie gật đầu.

- Em là một con ngốc như vậy đấy

- Tại sao tụi anh lại không đi cùng em vài hôm nhỉ? Franky hỏi. Một ngày sau Giáng sinh tụi anh sẽ chuồn.

- Ừ, Stace tán thành, tụi mình sẽ có những phút giây thanh bình.

Mặt Rosie ửng đỏ.

- Các anh nói thật chứ? Nàng mừng rỡ hỏi. Tuyệt thật, chúng mình có thể đi câu vào ngày Giáng sinh. Ở đó có một trung tâm nghỉ ngơi chỉ cách nhà có ba mươi phút. Và em sẽ nấu một bữa tiệc Giáng sinh. Nàng dừng lại một lát rồi nói, Nhưng hãy hứa các anh sẽ đi ngay sau Giáng sinh, em thực sự còn phải làm việc.

- Tụi anh phải quay về L.A mà, Stace nói. Tụi anh còn phải điều hành việc kinh doanh.

- Chúa ơi, em yêu các anh quá. Rosie nói.

Stace nói tưng tửng,

- Franky và anh vẫn nhắc mãi. Em biết đấy, tụi anh chưa từng đến Châu âu, và tụi anh tính hè này khi em học xong, tụi mình sẽ cùng đi. Em sẽ là người dẫn đường cho tụi anh. Chỉ vài tuần thôi. Tụi anh rất vui nếu có em đi cùng.

- Đúng đấy, Franky nói. Tụi anh đâu có đi một mình được.

Quả là một ý kiến hay, Rosie nói. Em sẽ cho các anh xem London, Paris và Rome. Các anh sẽ thích Venice cho mà xem. Có thể còn chẳng muốn về ấy chứ. Nhưng, quỷ ạ, còn lâu mới đến hè. Em lạ gì các anh, đến lúc ấy các anh lại bám theo những bóng hồng khác mất thôi.

- Tụi anh mến em mà, Franky nói pha chút bực bội.

- Em sẽ sẵn sàng khi các anh gọi.

Sáng ngày 23 tháng Mười hai Rosie đến khách sạn đón hai anh em Sturzo. Nàng lái chiếc Cadilac. Trên thùng xe chất đầy những chiếc va ly to tướng và những gói quà Giáng sinh của nàng, nhưng vẫn còn đủ chỗ để đồ cho hai gã.

Stace lên băng ghế sau, nhường Franky ngồi băng trước cùng Rosie. Radio đang mở và tất cả lặng thinh trong khoảng một tiếng đồng hồ.

Trong lúc chờ Rosie đến đón, hai anh em Sturzo vừa ăn sáng vừa trao đổi với nhau. Stace có thể nhận ra Franky không thoải mái với gã. Điều đó hiếm khi xảy ra giữa anh em chúng.

- Có gì thì cứ nói ra, Stace nói.

- Đừng làm hỏng việc. Tôi không ghen bóng ghen gió gì. Nhưng liệu anh có bỏ được Rosie khi tụi mình lên tới đó không?

- Được mà, Stace đáp. Tao sẽ bảo cô nàng là tao dính bệnh lậu ở Vegas.

Franky nhăn răng cười.

- Anh không cần phải đi xa như thế. Tôi chỉ muốn thử chiếm hữu cô nàng cho riêng tôi. Nếu không xong, tôi sẽ bỏ và anh cứ việc sở hữu nàng.

- Mày ngu quá, Stace nói. Mày sẽ làm hỏng mọi thứ thôi. Mở mắt ra mà coi, tụi mình đâu có xí phần, đâu có lừa cô nàng. Chính cô nàng muốn thế cơ mà. Mà tao nghĩ, với tụi mình thế là nhất rồi còn gì.

- Tôi chỉ muốn tụi mình thử việc này. Franky nhắc lại. Chỉ một thời gian ngắn thôi.

- Thôi được, Stace nói. Tao là anh mày, tao phải canh chừng cho mày. Đây là một tình huống kỳ cục của chúng, vì quả thực, nó làm cho Stace có vẻ già hơn Franky vài tuổi chứ không phải chỉ vỏn vẹn có mười phút.

- Nhưng mày thừa biết, chỉ mất hai giây cô nàng đã có thể đi guốc vào bụng mày, Stace nói. Rosie là người thông minh. Nàng sẽ biết mày phải lòng nàng.

Franky kinh ngạc nhìn thằng anh.

- Tôi phải lòng cô nàng hả ? Gã nói. Tôi cần cái đó ư ? Thế thì khác gì Jesus đéo Christ. Cả hai thằng cười vang.

Lúc này xe đã ra khỏi thành phố và đang lăn bánh qua những cánh đồng của quận Westchester. Franky phá vỡ sự im lặng.

- Anh chưa bao giờ thấy nhiều tuyết như vậy trong đời, gã nói. Người ta sống ở đây thế quái nào được nhỉ ?

- Vì ở đây mọi thứ đều rẻ, Rosie trả lời.

Stace hỏi,

- Còn xa lắm không ?

- Khoảng một tiếng rưỡi nữa, Rosie nói. Bọn anh cần dừng hả ?

- Không, Franky đáp. Cứ đến đó đã.

- Trừ phi em phải dừng lại, Stace nói với Rosie.

Rosie lắc đầu. Trông nàng rất kiên quyết, tay giữ chặt vô lăng, mắt dán vào những bông tuyết đang rơi chầm chậm.

Chừng một tiếng sau họ di qua một thị trấn nhỏ. Rosie nói,

- Chỉ còn mười lăm phút nữa.

Chiếc xe bò lên một đoạn dốc đứng, và trên đỉnh một quả đồi nhỏ có một ngôi nhà màu xám trông như một con voi, bao quanh nhà là những cánh đồng tuyết trắng, không một tỳ vết, không dấu chân người, không vết xe qua.

Rosie dừng xe trước hiên nhà và tất cả xuống xe. Nàng chuyển đồ và những gói quà Giáng sinh xuống cho chúng.

- Vào đi, nàng nói. Cửa mở đấy. Chúng em không khóa cửa khi rời khỏi đây.

Franky và Stace bước lên thềm và mở cửa. Chúng thấy mình ở trong một phòng khách rộng thênh thang được trang trí bằng những đầu súc vật treo trên tường. Một chiếc lò sưởi to như cả một chiếc hang nằm trên bệ.

Bất thình lình chúng nghe thấy tiếng rú của động cơ Cadilac ở bên ngoài. Cùng lúc đó sáu người đàn ông xuất hiện từ hai cửa ra vào của ngôi nhà. Tất cả đều cầm súng. Tên cầm đầu, một người to lớn có bộ ria rậm, ra lệnh bằng một giọng lơ lớ :

- Không được động đậy. Không được buông hành lý.

Rồi những họng súng thúc vào người chúng.

Stace hiểu ngay lập tức, nhưng Franky vẫn lo cho Rosie. Phải mất chừng ba mươi giây gã mới liên kết được sự việc - tiếng động cơ và Rosie biến mất. Rồi với cảm giác tồi tệ nhất mà gã chưa từng có trong đời, gã nhận ra sự thật. Rosie là một con mồi.

(1) LA viết tắt của Los Angeles.

(2) Hacker: người chơi quần vợt cuối tuần

Chương 7

Đêm trước Giáng sinh Astorre đến dự buổi dạ tiệc do Nicole tổ chức. Khách mời là các đồng nghiệp, thành viên của nhóm pro bono và "Phong Trào Chống Án Tử Hình" yêu quý của nàng.

Astorre thích các buổi tiệc tùng. Chàng khóai tán dóc với những người khác biệt với chàng. Thỉnh thoảng chàng gặp những người đàn bà thú vị và có những cuộc tình ngắn ngủi với họ. Mỗi lần chàng hy vọng được yêu là một lần chàng thất bại. Đêm nay, không rụt rè hay bỡn cợt mà với một thái độ vui vẻ Nicole đã nhắc chàng nhớ lại chuyện tình lãng mạn tuổi hoa niên của hai người.

- Anh đã làm tan nát trái tim tôi khi nghe lời cha tôi rồi sang châu Âu, nàng nói.

- Chắc thế, Astorre xác nhận. Nhưng nó cũng không ngăn được chị gặp gỡ những anh chàng khác.

Vì lý do nào đó đêm nay Nicole rất quan tâm dến chàng. Nàng cầm tay chàng tình tứ, nàng hôn lên môi chàng, quấn quýt bên chàng như thể nàng biết rằng chàng sắp sửa thoát khỏi nàng lần nữa.

Điều đó làm chàng bối rối bởi lẽ con người mềm yếu năm xưa của chàng lại được đánh thức. Nhưng chàng hiểu, quay lại với Nicole sẽ là một sai lầm khủng khiếp tại giao lộ này của đời chàng. Với những quyết định phải thực hiện chàng không thẻ quay lại với nàng được nữa. Cuối cùng nàng dẫn chàng đến với một nhóm người và giới thiệu chàng với họ.

Đêm nay ở đây có cả một ban nhạc sống và Nicole mời chàng thể hiện chất giọng nay đã khàn nhưng vẫn trầm ấm của chàng. Họ cùng hát một bản ballad trữ tình Italy.

Khi chàng hát đoạn dạ khúc, Nicole đứng sát vào chàng và nhìn sâu vào mắt chàng tìm kiếm một điều gì đó trong tâm hồn chàng. Rồi, với một nụ hôn buồn chung cuộc, nàng để chàng đi.

Sau đó, Nicole dành cho chàng một sự ngạc nhiên. Nàng dẫn chàng tới bên một phụ nữ có vẻ đẹp kín đáo cùng đôi mắt xám thông minh.

- Astorre à, nàng nói, Đây là Georgette Cilke, chủ tịch Phong Trào Chống Án Tử Hình. Chúng tôi thường cộng tác với nhau.

Georgette bắt tay chàng và khen ngợi giọng hát của chàng.

- Anh làm tôi nhớ tới một Sinatra còn trẻ.

Astorre lộ vẻ vui mừng.

- Cảm ơn, chàng nói. Ông ấy là thần tượng của tôi. Tôi thuộc lòng toàn bộ những bài hát của ông.

- Chồng tôi cũng là một người rất hâm mộ Sinatra, Georgette nói. Tôi cũng thích âm nhạc của ông ta, nhưng tôi không thích cách ông ta xử sự với mọi người.

Astorre thở dài vì biết rằng chàng đang ở thế bất lợi trong một cuộc tranh luận, nhưng dù sao chăng nữa, giống như một người lính, chàng không được bỏ cuộc.

- Vâng, nhưng chúng ta phải tách bạch giữa một nghệ sỹ và một con người.

Việc Astorre dũng cảm tự vệ làm Georgette kinh ngạc.

- Chúng ta phải làm vậy sao ? Chị hỏi, mắt ánh lên tinh nghịch. Tôi không cho rằng chúng ta phải tha thứ cho thái độ vô ý thức và thô lỗ như vậy. Về bạo lực thì không còn gì để nói.

Astorre nhận thấy Georgette sẽ không chịu thua trong vấn đề này nên tất cả những gì chàng có thể làm là cất giọng ngâm nga vài đoạn của một trong những bản tình ca nổi tiếng nhất của Chaiman. Chàng nhìn sâu vào đôi mắt chị trong khi vẫn lắc lư theo điệu nhạc, và chàng thấy chị bắt đầu nở nụ cười.

- Tuyệt lắm, chị nói. Tôi phải công nhận rằng bài hát rất hay. Nhưng tôi vẫn không thể tha cho ông ta được. Chị âu yếm đặt tay lên vai chàng trước khi bị cuốn đi. Từ lúc đó Astorre luôn quan sát chị. Vẻ đẹp tự nhiên và tấm lòng nhân hậu của chị loại trừ bất kỳ hiểm họa nào mà sắc đẹp mang lại. Như tất cả mọi người ở trong phòng, Astorre cũng phải lòng chị chút ít. Tuy nhiên chị dường như thực sự chẳng biết gì về ảnh hưởng mình gây ra cho mọi người. Chị hoàn toàn không phải là loại phụ nữ thích được tán tỉnh.

Trước đó Astorre đã đọc những tài liệu của Marcantonio về Cilke, một thám tử bướng bỉnh trong việc truy lùng tội phạm, một người có năng lực trong công tác. Chàng cũng đọc được rằng vợ Cilke thực sự yêu ông. Quả là bí ẩn.

Giữa chừng buổi dạ tiệc Nicole tới bên chàng và nói nhỏ rằng Aldo Monza đang có mặt trong phòng lễ tân.

- Tôi xin lỗi, Nicole. Astorre nói. Tôi phải đi rồi.

- Ok, Nicole đáp. Tôi đang hy vọng anh sẽ tìm hiểu Georgette kỹ hơn. Chị ấy là một phụ nữ thông minh nhất và tốt nhất mà tôi từng gặp.

- Ừ, nàng đẹp thật, Astorre nói, và chàng thầm nghĩ chàng vẫn còn dại gái làm sao - mới chỉ một lần gặp gỡ mà đã mơ mộng như thế rồi.

Khi Astorre vào phòng lễ tân, chàng thấy Aldo Monza đang ngồi không yên trên một trong những chiếc ghế bành mảnh dẻ nhưng rất đẹp và quý giá của Nicole. Monza nhổm dậy và thì thầm với chàng:

- Chúng tôi đã tóm được hai thằng anh em sinh đôi. Bọn nó đang chờ cậu.

Astorre cảm thấy chán nản. Việc đó bắt đầu rồi đây. Thế là chàng một lần nữa được thử thách.

- Mất bao lâu mới lên tới đó? Chàng hỏi.

- Ít nhất là ba tiếng. Chúng mình gặp bão tuyết đấy.

Astorre nhìn đồng hồ. Đã mười rưỡi đêm.

- Ta đi thôi, chàng nói.

Khi họ rời tòa nhà tuyết rơi đầy trời, những chiếc ô tô bị tuyết vùi phân nửa. Chiếc xe Buick đen to đùng của Monza đang nằm đợi.

Monza cầm lái, Astorre ngồi cạnh hắn. Trời rất lạnh, và Monza bật hệ thống sưởi. Dần dần chiếc xe biến thành một cái lò nướng sặc mùi thuốc lá và rượu.

- Ngủ đi, Monza bảo Astorre. Chúng mình có một chuyến đi dài phía trước và một đêm bận rộn đấy.

Astorre để mặc thể xác chàng thư giãn và tâm trí chàng chìm vào những giấc mơ. Tuyết che mờ con đường. Chàng nhớ cái nóng như thiêu như đốt của Sicily và khoảng thời gian mười một năm ông Trùm đã chuẩn bị chàng cho nhiệm vụ cuối cùng này. Chàng biết rằng định mệnh của chàng là bất khả kháng.

Khi Astorre Viola mười sáu tuổi, ông Trùm Aprile thu xếp cho cậu đến London học tập. Astorre không hề ngạc nhiên. Lão đã gửi tất cả con cái mình tới các trường tư và để chúng lớn lên trong trường đại học. Làm như thế không chỉ vì lão tin vào hệ thống giáo dục mà còn vì lão muốn giữ chúng cách ly với việc làm và lối sống của riêng lão.

Ở London, Astorre sống cùng một đôi vợ chồng khá giả. Họ từ Sicily di cư đến và hình như có một cuộc sống rất dễ chịu ở Anh quốc. Họ ở độ tuổi trung niên và khong có con cái. Họ đã đổi tên mình từ Priola thành Pryor. Trông họ cực kỳ giống người Anh. Khí hậu Anh quốc đã làm nước da họ trở nên trắng trẻo. Cách ăn mặc và đi đứng của họ không còn dáng dấp Sicily. Khi đi làm ông Pryor đội chiếc mũ quả dưa và mang theo chiếc ô gấp, bà Pryor mặc những bộ đầm hoa và đội mũ trùm như những phụ nữ Anh mộc mạc.

Riêng ở nhà mình họ lại trở về với gốc gác của mình. Ông Pryor mặc những chiếc quần vá víu rộng thùng thình và những chiếc sơ mi đen cổ lọ, trong khi bà Pryor mặc một bộ váy áo đen rất rộng và nấu ăn theo kiểu Italy. Ông gọi bà là Marizza và bà gọi ông là Zu.

Ông Pryor là chủ tịch hội đồng quản trị của một nhà băng tư nhân, chi nhánh của nhà băng khổng lồ Palermo. Ông đối xử với Astorre như một đứa cháu họ yêu quý của mình nhưng vẫn giữ khoảng cách với cậu. Bà Pryor cho cậu ăn uống thỏa thuê và dành cho cậu tình yêu thương như thể cậu là thằng cháu đích tôn của bà vậy.

Ông Pryor giao cho Astorre một chiếc xe và một khoản sinh hoạt phí hậu hĩnh. Việc học hành đã được ấn định tại một ngôi trường nhỏ tối tăm gần London chẳng những nổi tiếng về đào tạo các chuyên ngành kinh doanh và ngân hàng mà còn cả trong lĩnh vực nghệ thuật. Astorre ghi tên vào chương trình bắt buộc nhưng niềm say mê đích thực của cậu là học hát và diễn xuất. Cậu hoàn thiện thời khóa biẻu của mình với hai môn tự chọn là âm nhạc và lịch sử. Trong thời gian ở London, cậu quay ra say mê hình tượng môn thể thao săn cáo - không phải cậu mê việc bắn giết hay rượt đuổi mà là vẻ lộng lẫy của nó - những chiếc áo choàng đỏ, những con chó nâu và những chú ngựa ô.

Tại một trong các lớp diễn xuất, Astorre quen một cô gái trạc tuổi cậu, Rosie Connor. Nàng cực kỳ xinh xắn với một dáng vẻ ngây thơ có thể hủy diệt những chàng trai trẻ và khích động cả những người có tuổi. Nàng là người thông minh và đóng vài vai chính trong các vở diễn do lớp dàn dựng. Astorre ngược lại được phân những vai nhỏ hơn. Cậu cũng khá điển trai nhưng có cái gì đó trong cá tính ngăn cậu giãi bày cùng khán giả. Rosie không hề có vấn đề như vậy. Nàng diễn cứ như đang mời gọi từng khán giả quyến rũ nàng.

Họ còn học cùng tại các lớp xướng âm, và Rosie ngưỡng mộ giọng hát của Astorre. Hiển nhiên tay giáo viên không được nàng để ý đến, thế là y khuyên Astorre bỏ các khóa học nhạc lý. Ngoài giọng nói dễ chịu ra y chẳng có gì, tệ hại hơn, y chẳng hiểu quái gì về âm nhạc.

Chỉ sau hai tuần Astorre và Rosie đã là một cặp tình nhân. Trong việc này nàng có phần chủ động hơn cậu, dù lúc đó cậu yêu nàng điên cuồng - yêu điên cuồng như mọi chàng trai mười sáu tuổi. Cậu hoàn toàn quên Nicole. Rosie xem ra ngạc nhiên nhiều hơn là vui mừng. Nhưng vốn là một người tràn đầy sức sống, nàng vẫn thích cậu mỗi khi hai người bên nhau; ở trên giường nàng rất nồng nàn và luôn luôn hào phóng. Một tuần sau khi đã cặp với nhau nàng mua cho cậu một món quà tặng đắt tiền. Một chiếc áo khoác đi săn màu đỏ cùng một chiếc mũ da mềm màu đen và một chiếc roi da rất đẹp. Nàng tặng chúng phần nào cũng chỉ để rỡn chơi.

Như những cặp tình nhân trẻ vẫn làm, họ kể cho nhau những chuyện đời mình. Rosie kể với cậu rằng cha mẹ nàng sở hữu một khu nhà lớn ở Nam Dacota, rằng nàng đã trải qua thời thơ ấu tại thị trấn Plains tẻ nhạt. Cuối cùng nàng phải năn nỉ xin đi học kịch nghệ ở Anh quốc để thoát khỏi nơi đó. Tuy nhiên tuổi ấu thơ của nàng không hoàn toàn chỉ là mất mát. Nàng đã học cưỡi ngựa, đi săn và trượt tuyết, và ở trường trun học nàng là một ngôi sao của câu lạc bộ kịch nghệ cũng như sân quần vợt.

Astorre mở lòng mình ra với nàng. Cậu nói cậu muốn trở thành ca sỹ, cậu yêu lối sống Anh với những kiến trúc thời trung cổ, với quang cảnh tráng lệ huy hoàng của nó, với những trận đấu polo (1) và săn cáo. Nhưng cậu không hề hé răng với nàng về ông bác của mình, Trùm Raymonde Aprile, và những lần viếng thăm Sicily của cậu thời thơ ấu.

Nàng bắt cậu mặc bộ đồ đi săn và rồi lại cởi đồ của cậu ra.

- Anh đẹp quá, nàng nói. Có lẽ anh là một nam tước người Anh thuở trước cũng nên.

Đây là vai diễn duy nhất của nàng làm Astorre khó chịu. Nàng thực tâm tin vào sự đầu thai. Nhưng rồi khi làm tình với cậu nàng quên hết sự đời. Có vẻ như cậu chưa bào giờ hạnh phúc đến thế, trừ quãng thời gian sống ở Sicily.

Nhưng rồi cuối năm ông Pryor gọi Astorre vào phòng riêng để báo cho cậu vài tin xấu. Ông mặc quần dài và áo khoác của nông dân, đội một chiếc mũ lưỡi trai kẻ ca rô kéo trễ xuống tận mắt.

Ông bảo Astorre:

- Chúng tôi rất vui được có cậu ở cùng. Bà nhà tôi thích nghe cậu hát. Nhưng bây giờ rất tiếc chúng tôi phải nói lời từ biệt. Ngài Raymonde đẽ yêu cầu cậu phải đến Sicily sống cùng người bạn tốt Bianco của ngài. Có vài việc cậu phải học ở đó. Ngài muốn cậu trở thành một người Sicily. Cậu biết việc đó có ý nghĩa như thế nào rồi.

Tin này làm Astorre bị sốc nhưng cậu không bao giờ thắc mắc về những gì cậu phải chấp hành và mặc dù mong mỏi được trở lại Sicily, cậu vẫn không thể nào chịu đựng nỗi ý nghĩ sẽ không bao giờ gặp lại Rosie. Cậu hỏi ông Pryor:

- Nếu như mỗi tháng tôi đến London một lần, liệu tôi có thể về ở cùng hai bác?

- Tôi sẽ bị mếch lòng nếu cậu không làm thế, ông Pryor nói. Nhưng tại sao hả?

Astorre kể về Rosie, bày tỏ tình yêu của cậu với nàng.

- À, ông Pryor buông một tiếng thở dài nhẹ nhõm. Cậu thật may mắn được chia tay với người mình yêu. Sướng thật. Còn cô bé đáng thương đó, làm sao cô ấy sẽ chịu đựng được đây. Nhưng cứ đi đi, đừng lo lắng gì. Cứ để lại cho tôi tên và địa chỉ, tôi sẽ trông nom cô ấy.

Astorre và Rosie có một cuộc chia tay đầy nước mắt. Cậu hứa mỗi tháng sẽ bay về London một lần để gặp nàng. Nàng hứa sẽ không bao giờ nhìn một người đàn ông nào nữa. Đó là một cuộc chia xa đầy thú vị. Astorre lo lắng về nàng. Ngoại hình của nàng, tính tình nhí nhảnh của nàng, nụ cười của nàng luôn luôn mời chào quyến rũ. Chính những phẩm chất mà vì chúng cậu đã yêu nàng lại luôn luôn là một mối nguy hiểm. Cậu đã thấy nó nhiều lần. Như những người đang yêu khác, cậu tin rằng tất cả đàn ông trên đời đều thèm muốn người đàn bà cậu yêu, rằng họ cũng bị sắc đẹp, trí thông minh và vẻ hoạt bát của nàng hấp dẫn.

Ngay ngày hôm sau Astorre đáp máy bay đi Palermo. Bianco đón cậu. Lão đã thay đổi nhiều. Người đàn ông to lớn bây giờ mặc bộ đồ vét bằng lanh cắt may và đội một chiếc mũ trắng rộng vành. Lão ăn mặc như vậy cho hợp với địa vị của mình vì bây giờ cosca của Bianco thống lĩnh phần lớn công cuộc xây dựng tại chiến địa Palermo. Mảnh đất này đã khấm khá lên nhưng lại phức tạp hơn nhiều so với ngày xưa. Lão phải mua chuộc cá quan chức thành phố và cả ở Rome, đồng thời phải bảo vệ lãnh thổi của mình trước các cosca thù địch như cosca hùng mạnh Corleone.

Octavious Bianco làm Astorre bối rối. Lão nhắc lại vụ bắt cóc nhiều năm trước rồi nói về chỉ thị của ông Trùm Raymonde. Astorre phải được huấn luyện thành vệ sỹ của Bianco và phải học các hợp đồng kinh doanh. Việc này sẽ kéo dài ít nhất năm năm, đến lúc đó Astorre hẳn đã trở thành một người Sicily chính cống, hoàn toàn xứng đáng với niềm tin của ông bác cậu. Cậu có một lợi thế ban đầu: Vì đã tới đây hồi nhỏ nên cậu có thể nói thổ ngữ Sicily như tiếng mẹ đẻ.

Bianco sống trong một biệt thự khang trang ngay tại ngoại ô Palermo cùng những người hầu và một đội bảo vệ suốt ngày đêm. Nhờ giàu sang và đầy quyền lực, giờ đây lão có quan hệ gần gũi với tầng lớp thượng lưu Palermo. Ban ngày Astorre được học bắn súng và chất nổ, được hướng dẫn cách giết người bằng dây thừng. Tối tối Bianco đưa cậu đi gặp gỡ bạn bè tại tư gia của họ và tại các quán cà phê. Thỉnh thoảng họ tới dự các vũ hội nơi Bianco là bồ bịch của những bà góa giàu có và Astorre hát những bản tình ca mượt mà cho đám con gái họ.

Cái làm Astorre ngạc nhiên nhất là một vụ hối lộ công khai các quan chức cấp cao ở Rome.

Vào một ngày chủ nhật, bộ trưởng bộ Tái thiết đến thăm và vui vẻ, không hề có một biểu hiện ngượng ngập nào, cầm lấy chiếc cặp đựng đầy tiền mặt. Ông ta cảm on Bianco hết lời. Bằng một giọng đầy hối lỗi ông ta giải thích rằng một nửa số tiền phải nộp cho đích thân ngài thủ tướng Italy. Sau đó, khi Astorre và Bianco trở về nhà, Astorre thắc mắc liệu chuyện đó có thực hay không.

Bianco nhún vai.

- Một nửa thì không, nhưng ta hy vọng cũng có chút ít. Âu cũng là vinh dự được biếu ĐỨC ÔNG một ít tiền tiêu vặt.

Năm sau Astorre thường tới London thăm Rosie, mỗi lần cả đi lẫn về hết một ngày đêm. Đó là những đêm tràn đầy hạnh phúc đối với cậu.

Cũng năm đó cậu lần đầu tiên được thử lửa. Một cuộc ngưng chiến được sắp đặt giữa Bianco và cosca Corleone. Thủ lĩnh đám Corleone tên là Tosci Limona, một người mắc bệnh ho nặng. Limona có cái nhìn dữ tợn và cặp mắt sâu. Ngay cả Bianco cũng ít nhiều e sợ lão.

Cuộc hội kiến giữa hai thủ lĩnh phải diễn ra trên phần đất trung lập và có sự góp mặt của một trong những thẩm phán cấp cao nhất Sicily.

Vị thẩm phán, được gọi là "Sư tử xứ Palermo" rất tự hào về những việc làm đồi bại của mình. Y giảm án cho những tên mafia phạm tội và từ chối cho phép các cuộc điều tra được tiếp tục. Y không hề giấu diếm tình bạn của y với cosca Corleone và Bianco. Y có một khu dinh thự đồ sộ nằm cách Palermo mười dặm. Và cuộc hội kiến được trù tính sẽ diễn ra ở đó nhằm bảo đảm rằng bạo lực sẽ không được sử dụng.

Hai thủ lĩnh được phép mang theo mỗi người bốn vệ sỹ. Đồng thời họ phải trả lệ phí cho "Sư tử" vì đã thu xếp cuộc hội kiếm và phải chịu trách nhiệm về việc đó, và đương nhiên cả vì phải thuê nhà y.

Với bờm tóc trắng rậm rịt gần như che kín khuôn mặt, "Sư tử" quả là hình ảnh về ngành luật đáng tôn kính.

Astorre chỉ huy nhóm vệ sỹ của Bianco, và mối thịnh tình giữa hai thủ lĩnh đã gây ấn tượng với cậu. Limona và Bianco dành cho nhau những cái ôm hôn và bắt tay rõ chặt. Họ cười và thì thầm thân mật trong suốt bữa tối thịnh soạn mà "Sư tử" đã khoản đãi họ.

Vì thế cậu rất ngạc nhiên khi bữa tiệc kết thúc, chỉ còn Bianco và cậu bên nhau, Bianco bỗng nói với cậu,

- Chúng ta phải hết sức cẩn thận. Thằng con hoang Limona này đang tính hạ tất cả chúng ta đấy.

Và hóa ra Bianco đã đúng.

Một tuần sau, một thanh tra cảnh sát có tên trong danh sách trả lương của Bianco bị ám sát khi rời nhà cô bồ của mình. Hai tuần sau vụ đó, một trong những nhân vật nổi bật của xã hội ở Palermo, một khách hàng trong lĩnh vực xây dựng của Bianco, bị giết bởi một nhóm người đeo mặt nạ. Bọn người này xông vào nhà và hạ thủ y bằng nhiều phát đạn.

Bianco đáp lại bằng việc tăng cường thêm vệ sỹ và áp dụng những biện pháp đặc biệt để bảo vệ những chiếc xe lão thường sử dụng. Cánh Corleone nổi tiếng về kỹ năng sử dụng thuốc nổ nên cuối cùng Bianco cũng chẳng muốn đi đâu xa, chỉ quanh quẩn nơi biệt thự của lão.

Nhưng rồi một ngày Bianco phải đi Palermo để hối lộ hai viên chức cấp cao của thành phố và lão quyết định ăn tối tại một nhà hàng yêu thích của mình. Lão chọn một chiếc Mercedes và một lái xe kiêm vệ sỹ hàng đầy. Astorre ngồi ở băng sau cùng lão. Một chiếc xe chạy trước, một chiếc chạy sau, mỗi xe ngoài tài xế còn có hai người đàn ông có vũ trang.

Khi họ đang đi trên con đường rộng rãi có trồng cây ở giữa thì bất thình lình một chiếc xe mô tô chở hai người từ một lề đường lao rút ra. Tên ngồi sau cầm khẩu súng trường Kalashnikov nhả đạn về phía chiếc xe Mercedes. Nhưng Astorre đã kịp đẩy Bianco xuống sàn xe và bắn trả khi chiếc môtô lao vút qua. Nó lăn xuống phía bên kia đường rồi biến mất.

Ba tuần sau, một đêm tối trời, năm gã đàn ông đã bị bắt và đưa về biệt thự của Bianco, ở đây chúng bị trói chặt và tống vào hầm chứa.

- Chúng là bọn Corleone đấy, Bianco bảo Astorre. Hãy xuống hầm chứa cùng ta.

Những kẻ xấu số bị trói theo kiểu nông dân của Bianco, chân tay bị khóa chặt. Những người gác có vũ trang đứng bên trên chúng. Bianco giật lấy một trong những khẩu súng của đám lính gác rồi không nói không rằng bắn vào gáy cả năm.

- Ném chúng ra đường phố Palermo, lão ra lệnh. Sau đó lão quay sang Astorre, khi cậu đã quyết định giết người thì không được nói năng gì với chúng. Điều đó sẽ làm cho cả hai bên đều bối rối.

- Họ có phải là bọn đi mô tô không? Astorre hỏi.

- Không, Bianco trả lời. Nhưng chúng sẽ được việc đấy.

Và đúng như vậy. Từ đó trở đi hòa bình đã ngự trị giữa hai cosca Palermo và Corleone.

Đã hai tháng rồi Astorre chưa quay lại London thăm Rosie. Một sớm cậu nhận được điện thoại của nàng. Cậu đã cho nàng số điện thoại chỉ để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.

- Astorre, giọng nói của nàng rất bình tĩnh. Anh có thể về ngay được không?

- Nói anh nghe có chuyện gì vậy? Astorre hỏi.

- Em không thể nói qua điện thoại được. Rosie đáp. Nhưng nếu anh thực sự yêu em, anh sẽ về.

Khi Astorre xin phép Bianco cho cậu lên đường, lão nói, mang tiền đi. Rồi lão đưa cho cậu một gói tiền bảng to tướng.

Khi Astorre gõ cửa căn hộ của Rosie, nàng cho cậu vào rất nhanh rồi cẩn thận khóa cửa lại. Mặt nàng trắng bệch, nàng khoác một chiếc áo choàng rộng thùng thình trước đây cậu chưa từng nhìn thấy. Nàng trao cho cậu một nụ hôn chứa đựng lòng biết ơn.

- Anh sẽ giận em mất thôi, nàng buồn rầu nói.

Lúc đó Astorre nghĩ rằng nàng có mang, và cậu nói nhanh.

- Em yêu, anh không bao giờ giận em cả.

Nàng ôm chặt lấy cậu.

- Anh đi biền biệt hơn một năm. Em đã cố gắng chờ đợi. Nhưng anh đi lâu quá.

Ngay lập tức Astorre hiểu ra vấn đề. Cậu như bị dội một gáo nước lạnh. Một lần nữa lại là sự phản bội. Nhưng ở đây còn có gì hơn thế nữa. Tại sao nàng lại muốn cậu về ngay như vậy chứ?

- Được rồi, cậu nói, tại sao anh lại phải về?

- Anh phải giúp em, Rosie nói, rồi nàng dẫn cậu vào phòng ngủ.

Có một cái gì đó trên giường. Astorre lật tấm khăn trải giường ra và thấy một người đàn ông trung niên đang nằm ngửa, hoàn toàn trần truồng nhưng với một dáng vẻ trang nghiêm, một phần là bởi chòm râu dê bạc trăng, nhưng hơn cả có lẽ bởi những đường nét tao nhã trên mặt ông ta. Cơ thể ông ta gầy gò, có một mớ lông rậm rì vắt ngang trên ngực, và lạ lùng hơn cả, ông ta đeo một chiếc kính mạ vàng và trên đôi mắt vẫn mở trừng trừng. Mặc dù cái đầu quá to so với thân hình nhưng ông ta vẫn là người điển trai. Ông ta hình như đã chết tuy trên người không hề có thương tích. Chiếc kính bị cong và Astorre cầm lên nắn lại cho thẳng.

Rosie thì thầm

- Chúng em đang làm tình thì anh ấy lên cơn co thắt dữ dội. Hẳn là anh ấy bị bệnh tim.

- Chuyện xảy ra khi nào? Astorre hỏi. Cậu hơi bị choáng.

- Đêm qua, Rosie trả lời.

- Sao em không gọi cấp cứu? Astorre hỏi. Đó có phải là lỗi của em đâu?

- Anh ấy đã có vợ và có lẽ em cũng có lỗi. Bọn em xài amyl nitrate. Anh ấy có trục trặc trong việc đạt khoái cảm. Nàng nói ra điều đó mà không hề bối rối.

Sự bình tĩnh của nàng làm Astorre kinh ngạc. Nhìn vào xác chết, cậu có một niềm thương cảm kỳ lạ, bống thấy cần phải mặc đồ cho nó. Ông ta quá già để mà trần truồng, ít nhất cũng năm mươi - cứ để thế này thật không phải. Cậu hỏi Rosie với một thái độ ngờ vực của giới trẻ.

- Em cần cái gì ở thằng cha này?

- Anh ấy là giáo sư sử học của em, Rosie nói. Anh ấy thực ngọt ngào và tốt bụng. Đây chỉ là một việc bốc đồng. Mà cũng chỉ mới là lần thứ hai. Em cô đơn quá. Nàng ngừng lại, rồi nhìn thẳng vào mắt cậu, anh phải giúp em.

- Có ai biết lão ta hú hý với em không? Astorre hỏi.

- Không.

- Anh vẫn nghĩ chúng mình phải gọi cho cảnh sát.

- Không được. Nếu anh sợ em sẽ tự lo liệu việc này.

- Thay đồ đi, Astorre nói với một cái nhìn nghiêm khắc. Cậu kéo tấm ra đắp lên xác người đàn ông.

Một tiếng sau họ có mặt tại nhà Pryor, đích thân ông ra mở cửa. Không nói một lời, ông dẫn họ vào phòng riêng và chăm chú lắng nghe câu chuyện của họ. Ông rất có cảm tình với Rosie. Ông vỗ nhẹ tay nàng an ủi, và thế là Rosie òa khóc. Pryor bỏ mũ ra rồi tắc lưỡi thông cảm.

- Đưa chìa khóa căn hộ cảu cháu cho ta, ông bảo Rosie. Đêm nay ở lại đây. Ngày mai cháu có thể về nhà và mọi thứ sẽ đâu vào đấy như cũ. Người bạn của cháu lúc đó đã biến mất. Cháu sẽ ở lại đây một tuần trước khi về Mỹ.

Ông chỉ phòng ngủ cho họ cứ như thể ông cho rằng những gì vừa xảy ra chẳng hề làm hoen ố cuộc tình của họ. Và rồi ông bỏ họ lại để đi lo công việc của mình.

Astorre nhớ mãi đêm hôm đó. Cậu nằm trên giường với Rosie, an ủi nàng, lau nước mắt cho nàng.

- Đấy mới chỉ là lần thứ hai, nàng thì thầm với cậu. Em chẳng cần gì cả. Chúng mình thân thiết với nhau thế cơ mà. Em nhớ anh. Em chỉ ngưỡng mộ trí tuệ của anh ấy, và rồi một đêm chuyện đó xảy ra. Anh ấy không đạt được khoái cảm, mà em ghét phải nói điều này về anh ấy, nhưng anh ấy thậm chí không thể duy trì tình trạng cương cứng. Thế là anh ấy đòi dùng nitrate.

Nàng tỏ ra quá tổn thương, quá đau khổ, quá suy sụp tinh thần bởi toàn bộ tấn bi kịch này. Astorre chỉ còn nước an ủi nàng. Nhưng có một cái gì đó kẹt lại trong tâm trí cậu. Nàng đã ở trong nhà cùng một xác chết hơn hai mươi tư tiếng đồng hồ cho đến khi cậu tới. Đấy là một điều bí ẩn, và nếu đã có một điều bí ẩn thì có thể còn những bí ẩn khác. Nhưng rồi cậu vẫn lau sạch nước mắt nàng, hôn lên má nàng để làm nàng yên lòng.

- Anh có còn gặp lại em không? Nàng hỏi cậu, đồng thời nàng áp mặt vào vai cậu, làm cho cậu cảm nhận được cơ thể mềm mại của nàng.

- Tất nhiên anh sẽ gặp lại em, Astorre đáp. Nhưng trong thâm tâm cậu không dám chắc lắm.

Sáng hôm sau ông Pryor lại xuất hiện và bảo Rosie rằng đã có thể trở về căn hộ của nàng. Ông nồng nhiệt nhận cái ôm tỏ lòng biết ơn của Rosie. Một chiếc xe của ông đang chờ nàng.

Sau khi nàng đi rồi, ông Pryor, đường hoàng với chiếc mũ quả dưa và cây dù xếp, đưa Astorre ra sân bay.

- Đừng lo lắng về cô gái, ông Pryor nói. Chúng tôi sẽ quan tâm đến tất cả mọi cái.

- Cho tôi biết đi, Astorre đề nghị.

- Tất nhiên rồi. Đây là một cô gái tuyệt vời. Một nữ Mafiso. Cậu phải tha thứ cho chút tội lỗi của cô ấy.

(1) Polo: Môn thể thao người chơi ngồi trên ngựa sử dụng những câu sào dài để đưa banh vào gôn.

Chương 8

Ở Sicily những tháng năm ấy Astorre được huấn luyện thành một NGƯỜI CÓ NĂNG LỰC. Có lần chàng còn chỉ huy một nhóm sáu người của cosca Bianco xông vào cosca Corleone hạ tên chuyên gia đánh bom hàng đầu của chúng. Chính tên này đã dùng bom giết một đại tướng Italy và hai trong số những thẩm phán chống Mafia năng nổ nhất ở Sicily. Cuộc đột kích táo bạo này đã củng cố tiếng tăm của chàng ở đẳng cấp cao của cosca Bianco.

Astorre còn là một người giao thiệp rộng rãi. Chàng thường lui tới các quán cà phê và các hộp đêm của Palermo - chủ yếu để gặp gỡ những phụ nữ đẹp. Palermo đầy rẫy Mafia picciotti trẻ tuổi hoặc đám đàn em vô số của những cosca khác nhau. Tất cả đều muốn khẳng định lòng can đảm của mình, đều cầu kỳ làm dáng bằng những bộ đồ cắt may đẹp, bằng việc tỉa tót móng tay và chải tóc bóng mượt. Tất cả đều muốn được nổi tiếng - để được nể sợ và được yêu. Những đứa trẻ nhất trong bọn chúng chỉ ở tuổi vị thành niên, ria mép xén kỹ, môi đỏ như san hô. Chúng chẳng coi những người đàn ông khác ra gì. Chúng là những đứa liều lĩnh, sẵn sàng giết cả những người có địa vị cao trong thế giới của chúng và vì vậy bảo đảm chúng ta đã cầm chắc cái chết. Giết một thành viên Mafia cũng như chim chuột vợ gã là bị xử tội chết. Để hạn chế tính ngạo mạn của đám picciotti này, Astorre luôn tỏ ra tôn trọng chúng. Và chàng được chúng yêu mến. Thế là chàng nửa thì phải lòng một cô vũ nữ có tên Buji, nửa kia lại phải xoa dịu lòng ganh ghét của các tình địch để vẫn có thể sử dụng chúng trong những vấn đề quan trọng.

Mấy năm liền Astorre là cánh tay phải của Bianco trong cuộc chiến chống cosca Corleone. Theo định kỳ chàng vẫn nhận được chỉ thị của Trùm Aprile. Lão sắp thực hiện chuyến viếng thăm hàng năm của mình tới Sicily.

Vấn đề chiến lược là sự tranh chấp nghiêm trọng giữa cosca của Bianco và của Corleone. Cosca của Corleone đã quyết định chọn khủng bố để chống lại nhà chức trách. Chúng ám sát các thẩm phán đang thụ lý các vụ án, chúng đánh bom các tướng lĩnh được điều về trán áp Mafia ở Sicily. Còn Bianco tin rằng bất chấp những lợi ích trước mắt, việc này về lâu về dài là có hại. Thế nhưng những phản đối chỉ dẫn tới kết cục là những bạn bè của chính lão bị giết. Bianco trả đũa, và cuộc tàn sát lan rộng đến nỗi cả hai bên lại phải tìm kiếm một cuộc hưu chiến.

Những năm sống ở Sicily Astorre có một người bạn thân. Nello Sparra lớn hơn Astorre năm tuổi và chơi cho một ban nhạc tại một hộp đêm Palermo, nơi có các tiếp viên cực kỳ xinh đẹp và một số gái điếm cao cấp.

Nello không thiếu tiền - dường như y có những nguồn thu dồi dào. Y diện rất bảnh theo phong cách Mafioso xứ Palermo. Y lúc nào cũng vui và sẵn sàng phiêu lưu. Đám con gái ở hộp đêm khoái y vì hay được y tặng những món quà nhỏ nhân dịp sinh nhật hay những kỳ nghỉ của họ. Và còn bởi họ ngờ rằng y là một trong số những chủ nhân bí mật của hộp đêm - một nơi làm việc tuyệt vời và an toàn nhờ sự bảo vệ nghiêm ngặt của cosca Palermo. Cosca này kiểm soát toàn bộ lĩnh vực giải trí trong tỉnh. Đám con gái sướng rơn khi được đàn đúm với Nello và Astorre trong những buổi tiệc tùng hay những chuyến đi dã ngoại về vùng nông thôn.

Buji là một cô gái tóc nâu sẫm, làn da ngăm đen, cao, hấp dẫn và khêu gợi. Cô ả là gái nhảy tại hộp đêm cảu Nello Spara. Ả có tiếng là nóng tính và độc lập trong việc chọn bạn tình. Ả không bao giờ ve vãn một picciotto: Người đàn ông cặp với ả phải có tiền và quyền lực. Ả nổi đình nổi đám ở kiểu đòi tiền thẳng thắn và công khai chỉ có ở Mafioso. Ả đòi những món quà đắt tiền, nhưng sắc đẹp và vẻ đam mê của ả luôn làm cho những người đàn ông giàu có ở Palermo háo hức thỏa mãn những đòi hỏi đó.

Trong nhiều năm Buji và Astorre đã thiết lập một mối quan hệ già nhân ngãi, non vợ chồng bên giới hạn nguy hiểm của một tình yêu thật sự. Tuy rất yêu Astorre nhưng ả không hề lưỡng lự dứt bỏ chàng để đi nghỉ cuối tuần với một thương gia giàu có ở Palermo. Khi ả làm việc đó lần đầu Astorre đã chỉ trích ả, nhưng bằng lý lẽ của mình ả đã áp đảo chàng.

- Em đã hai mươi mốt là vàng rơi, ả nói. Sắc đẹp là vốn liếng của em. Khi ba mươi tuổi em có thể làm một bà nội trợ với một bầy con hoặc cũng được mở mày mở mặt với một cửa hiệu nho nhỏ của riêng mình. Ừ, chúng mình có một thời vui vẻ, nhưng anh sẽ chuồn về Mỹ, nơi em chẳng hề muốn tới - và cũng là nơi anh chẳng hề muốn đưa em tới. Ngay bây giờ cứ vui vẻ với nhau như những kẻ không có gì ràng buộc. Bất chấp mọi cái, anh sẽ nhận được những gì tốt đẹp nhất của em trước khi em chán anh. Vậy thì chấm dứt những điều nhảm nhí này đi. Em phải tạo dựng cuộc sống cho riêng mình. Rồi ả ranh mãnh nói thêm, hơn nữa, em không thể trông cậy vào anh vì anh có một nghề quá nguy hiểm.

Nello sở hữu một biệt thự đồ sộ ở ngoại ô Palermo, nằm ngay trên bờ biển. Với mười phòng ngủ, nó dễ dàng đáp ứng các buổi tiệc tùng. Dưới sân có một bể bơi hình dạng giống đảo Sicily và hai sân tennis bằng đất nện rất ít khi được sử dụng.

Vào những ngày nghỉ cuối tuần đại gia đình Nello từ nông thôn lại đổ về ngôi biệt thự. Những đứa trẻ không biết bơi bị nhốt vào sân tennis cùng những món đồ chơi của chúng, những cây vợt cũ và những trái banh tennis màu vàng nhỏ bé. Lũ trẻ chơi bóng đá bằng những trái banh tennis cho đến khi chúng rải la liệt trên mặt sân những con chim vàng nhỏ xíu.

Astorre cũng tham gia vào sinh hoạt của gia đình này và được đón nhận như một đứa cháu yêu. Nello thì coi chàng như đứa em vậy. Ban đêm Nello còn mời chàng tham gia một sàn diễn ngoài trời và họ hát những bản ballard trữ tình Italy cho một đám đông khán giả nhiệt tình cổ vũ họ, đồng thời làm vui lòng đám nữ tiếp viên.

"Sư tử xứ Palermo", vị quan tòa hủ bại, một lần nữa lại dành căn nhà và sự hiện diện của y cho một cuộc hội kiến giữa Bianco và Limona. Một lần nữa họ được phép mang theo mỗi người bốn vệ sĩ. Bianco thậm chí còn sẵn lòng từ bỏ một phần nhỏ đế chế xây dựng Palermo của lão để bảo đảm hòa bình.

Astorre không hề khinh suất. Chàng và ba vệ sĩ của chàng vũ trang đầy đủ để đi dự cuộc hội kiến.

Khi Bianco, Astorre và các vệ sĩ tới nơi, Limona và tùy tùng đang chờ họ tại nhà vị thẩm phán. Một bữa tối thịnh soạn đã được chuẩn bị. Không ai trong số vệ sĩ ngồi vào bàn ăn, chỉ có thẩm phán - mái tóc trắng của y được cột chặt ra phía sau bằng một sợi nơ hồng; Bianco và Limona. Limona ăn rất ít nhưng tỏ ra vô cùng thân thiện và nhanh chóng tiếp thu những lời nói thân thiện của Bianco. Lão hứa sẽ không còn bất kỳ một vụ ám sát các quan chức nào nữa, đặc biệt là người của Bianco.

Cuối bữa ăn, khi họ chuẩn bị sang phòng khách để thảo luận lần cuối, "Sư tử" xin lỗi và nói rằng y sẽ quay lại trong vòng năm phút nữa. Y nói vậy với một nụ cười bối rối làm họ tưởng rằng y cần đi tiểu hay đại tiện.

Limona mở một chai rượu nữa và rót đầy ly của Bianco. Astorre đi tới bên cửa sổ và nhìn xuống con đường lớn cho xe đi trong khuôn viên. Có một chiếc xe đang tới, và cái đầu trắng to tướng của "Sư tử xứ Palermo" xuất hiện trên đường. Vị thẩm phán lên xe và nó nhanh chóng lao vút đi.

Astorre không lưỡng lự một giây. Đầu óc chàng ngay lập tức chắp nối các sự kiện lại với nhau. Thậm chí không kịp suy nghĩ, khẩu súng đã nằm trong tay chàng. Limona và Bianco khoác tay nhau và đang uống. Astorre bước lại gần họ, nâng khẩu súng lên và bắn vào mặt Limona. Viên đạn trúng chiếc li trước khi chui vào mồm hắn, và những mảnh ly như những viên kim cương rơi tung tóe đầy bàn. Astorre quay súng cấp kỳ về phía bốn tên vệ sĩ và khai hỏa. Người của chàng cũng nổ súng. Những xác người đổ xuống sàn nhà.

Bianco nhìn chàng sửng sốt.

Astorre nói

- Lão Sư tử đã rời biệt thự, và Bianco ngay tức khắc hiểu rằng đây là một cái bẫy.

- Cậu phải cẩn thận, Bianco bảo Astorre, hất đầu về phía xác Limona. Bạn bè nó sẽ đeo theo cậu đấy.

Một kẻ cứng đầu có thể là một kẻ trung thành, nhưng để giữ mình khỏi những rắc rối lại không dễ dàng như vậy đối với y. Và điều này lại đúng với Pietro Fissolini. Sau khi được Don Raymonde chiếu cố tha mạng, Fissolini không khi nào phản bội ông Trùm, nhưng y lại phản bội chính gia đình mình. Y đã ve vãn vợ của Aldo Monza, cháu y. Và chuyện này xảy ra nhiều năm sau ngày y hứa với ông Trùm, khi y đã sáu mươi tuổi.

Đây là một việc làm vô cùng khinh suất. Khi Fissolini tằng tịu với vợ của đứa cháu, y đã hủy hoại vai trò thủ lĩnh của mình trong cosca. Bởi vì trong các băng nhóm Mafia, để duy trì quyền lực, người ta phải đặt gia đình lên trên hết. Việc cô vợ kia lại là cháu gái Bianco càng làm cho tình hình trở nên nguy hiểm hơn. Bianco sẽ không cho phép bất kỳ hành động trả thù nào của người chồng nhằm vào cháu lão. Đức ông chồng tất yếu phải giết Fissolini, người bác thân yêu của hắn và là thủ lĩnh của cosca. Hai lãnh địa sẽ rơi vào một cuộc xung đột đẫm máu và nó sẽ tàn phá cả một miền quê. Astorre nhắn tin đến ông Trùm xin lão chỉ giáo.

Câu trả lời được gửi đến

- Cháu đã cứu nó một lần; một lần nữa cháu phải tự quyết định.

Aldo Monza là một trong những thành viên đáng giá nhất của cosca và của đại gia đình. Hắn là một trong số những kẻ đã được ông Trùm tha chết nhiều năm trước. Vì vậy khi được Astorre triệu tập, hắn đã đến một cách hăm hở. Astorre ngăn không cho Bianco tới cuộc thương lượng với bảo đảm rằng chàng sẽ bảo vệ cháu gái lão.

Monza là kẻ cao lớn so với người Sicily, hắn cao gần sáu bộ. Và có một thân hình đẹp. Cơ thể hắn được tôi luyện bởi lao động nặng nhọc từ thời thơ ấu. Nhưng đôi mắt hắn sâu hoắm và mặt hắn chỉ được thịt phủ qua loa nên đầu hắn trông giống một hộp sọ. Nó làm cho hắn có vẻ không được hấp dẫn - và, theo một cách hiểu nào đấy, thê thảm. Monza là kẻ thông minh nhất, có học thức nhất của cosca Fissolini. Hắn đã học ở Palermo để trở thành một nhân viên thú y và hắn luôn luôn mang chiếc túi chuyên dụng của mình. Hắn có mối thiện cảm tự nhiên với động vật và luôn luôn được mọi người cần đến. Monza trung thành cao độ với luật danh dự của Sicily, như một nông dân. Sau Fissolini, hắn là người có quyền lực nhất cosca.

Astorre đưa ra quyết định của mình.

- Tôi đến đây không phải để cầu xin tha mạng cho Fissolini. Tôi biết cosca của anh đã đồng ý cho anh báo thù. Tôi hiểu nỗi buồn của anh. Tuy nhiên, tôi đến đây để xin tha cho người mẹ của các con anh.

Monza nhìn chàng chằm chằm.

- Nó là đứa phản bội tôi và các con tôi. Tôi không thể để nó sống.

- Hãy nghe tôi, Astorre nói. Sẽ không có ai trả thù Fissolini. Nhưng con vợ anh lại là cháu Bianco. Ông ấy sẽ báo thù cho cái chết của nó. Cosca của ông ấy mạnh hơn của anh. Đó sẽ là một cuộc chiến đẫm máu. Hãy nghĩ về các con anh.

Monza phẩy ta tỏ ý coi thường.

- Ai mà biết được chứ? Nó là con đàn bà lang chạ. Mặt hắn đằng đằng sát khí. Hắn đang lên cơn thịnh nộ. Hắn sẵn lòng hủy diệt cả thế giới.

Astorre cố hình dung cuộc sống của hắn chốn quê nhà, một mình nuôi con, nhân phẩm bị ông bác và vợ hắn chà đạp.

- Hãy nghe cho kỹ đây, Astorre tiếp tục. Nhiều năm trước đây Don Aprile đã tha mạng cho anh. Bây giờ ông ấy đòi hỏi ân huệ này. Hãy mang sự báo thù của anh đến với Fissolini như chúng tôi biết anh phải báo thù. Nhưng hãy tha cho vợ anh, rồi Bianco sẽ thu xếp cho nó và lũ nhóc sang Brazil ở với họ hàng. Còn với riêng anh, tôi có lời đề nghị đã được ông Trùm chấp thuận. Hãy đi cùng với tôi, với tư cách là trợ lý riêng của tôi, một người bạn của tôi. Anh sẽ có một cuộc sống giàu sang. Và anh sẽ tránh được nỗi nhục sống ở quê mình. Thêm vào đó anh sẽ an toàn không lo đám bồ bịch của Fissolini trả thù.

Việc Aldo Monza không có biểu hiện tức giận hay ngạc nhiên làm cho Astorre vui mừng. Chàng giữ im lặng và suy nghĩ cẩn thận trong năm phút. Sau đó Monza nói

- Cậu sẽ chi tiền cho cosca của tôi chứ? Em tôi sẽ điều hành nó.

- Nhất định rồi, Astorre trả lời. Nó quý giá với chúng ta mà.

- Vậy thì sau khi tôi khử Fissolini, tôi sẽ đi với cậu. Bất luận thế nào cả cậu và Bianco đều không được can thiệp. Con vợ tôi sẽ không đi Brazil chừng nào nó chưa nhìn thấy xác thằng bác tôi.

- Đồng ý, Astorre nói. Và chàng nhớ khuôn mặt vui vẻ, hưng phấn và nụ cười tinh quái của Fissolini, chàng cảm thấy day dứt vì tiếc nuối. Khi nào điều đó xảy ra?

- Chủ nhật, Monza đáp. Tôi sẽ đến với cậu vào thứ hai. Cầu Chúa thiêu cháy Sicily và con vợ tôi dưới một nghìn tấng địa ngục.

- Tôi sẽ đi cùng anh về quê anh, Astorre nói. Tôi sẽ đặt vợ anh dưới sự bảo vệ của tôi. Tôi sợ rằng anh có thể đổi ý.

Monza nhún vai.

- Tôi không thể để cái mà một con đàn bà nhét vào trôn. Nó định đoạt số phận của tôi.

Sáng sớm chủ nhật đó cosca của Fissolini họp mặt. Các cháu trai và con rể phải quyết định có giết luôn cả em trai của Fissolini để trừ hậu họa hay không. Đương nhiên, ông em hẳn phải biết chuyện gian díu, song bằng thái độ im lặng, y đã cho qua việc đó. Astorre không hề tham gia vào cuộc tranh luận. Chàng đơn giản chỉ cần biết rõ con vợ và lũ trẻ không bị hại. Sự tức giận của những người xem ra không bị xúc phạm nghiêm trọng lắm làm chàng tê tái. Bây giờ chàng mới hiểu rằng ông Trùm đã nhân từ với Fissolini biết bao.

Chàng hiểu đây không chỉ là vấn đề tình dục. Khi con vợ phản bội chồng đến với nhân tình, ả sẽ đặt một con ngựa thành Troa vào cơ cấu chính trị của cosca. Ả có thể để lộ bí mật và làm suy yếu khả năng phòng thủ, ả giúp cho nhân tình mạnh hơn gia đình chồng ả. Ả là gián điệp trong một cuộc chiến. Tình yêu không thể bào chữa cho một hành động phản trắc như vậy.

Thế rồi cả cosca tụ tập vào sáng chủ nhật để ăn sáng ở nhà Aldo Monza, và sau đó đám đàn bà đi tập hợp lũ trẻ. Ba người đàn ông của cosca dẫn em trai của Fissolini ra ngoài - đi vào chỗ chết. Những người khác lắng nghe Fissolini. Chỉ có Aldo Monza kông cười những câu chuyện tếu táo của y. Astorre với tư cách khách mời danh dự, ngồi cạnh Fissolini.

- Aldo này, Fissolini nói với nụ cười kẻ cả. Nom mày khó chịu quá.

Monza lườm lại bác hắn. Tôi không thể vui như bác được, thưa bác. Suy cho cùng, tôi đếch sài chung vợ bác, phải không nào?

Đúng lúc ấy, ba người đàn ông của cosca túm lấy Fissolini và ấn y xuống ghế. Monza vào trong bếp rồi quay ra với cái túi đựng dụng cụ hành nghề thú y của hắn.

- Này bác, hắn nói. Tôi sẽ dạy bác những gì bác quên.

Astorre quay mặt đi.

Dưới ánh nắng chói chang của sáng chủ nhật, trên con đường bẩn thỉu dẫn đến nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh một con ngựa bạch đang đi nước kiệu nhỏ. Trên lưng ngựa là Fissolini. Y bị trói chặt vào yên ngựa, và một cây thánh giá bằng gỗ to tướng đỡ lưng y. Nom y như còn sống. Nhưng trên đầu y, giống như chiếc mão gai trên đầu Chúa, là một cái tổ kết bằng nhánh cây được nhồi thêm cỏ xanh để tạo thành một cái ổ. Dương vật và hai hòn dái của y được đặt trên cái tổ ấy. Những dòng máu nhỏ vẫn đang chảy từ trên ổ xuống trán y.

Aldo Monza và cô vợ trẻ đẹp của hắn đứng bên thềm nhà thờ trông ra. Cô ả bắt đầu làm dấu thánh giá trên ngực, nhưng Monza ấn vai ả xuống và giữ chặt đầu ả, bắt nhìn thẳng. Rồi hắn đẩy ả ra đường để đi theo cái thây ma.

Astorre đi theo ả và dẫn ả tới chiếc xe của chàng để đưa ả đi an toàn về Palermo.

Monza tiến một bước về phía chàng và ả đàn bà, mặt hắn đầy thù hận. Astorre im lặng nhìn hắn chằm chằn rồi giơ một ngón tay cảnh cáo. Monza để hai người ra đi.

Sáu tháng sau ngày giết Limona, Nello mời Astorre đến biệt thự của y nghỉ cuối tuần. Họ sẽ chơi tennis và tắm biển. Họ sẽ thưởng thức món cá ngon nổi tiếng của địa phương, và họ sẽ đàn đúm với hai trong số các nữ tiếp viên kháu khỉnh nhất hộp đêm, Buji và Stella. Ngôi biệt thự sẽ không có một bóng họ hàng: Tất cả đang đi dự một đám cưới linh đình trong họ ở chốn quê nhà.

Thời tiết hôm đó thật đẹp. Astorre và Nello chơi tennis cùng hai ả - những kẻ trước đó chưa từng nhìn thấy cây vợt, nhưng vụt khá mạnh và cũng đánh được banh qua lưới. Cuối cùng Nello đề nghị cả bọn cùng đi dạo trên bãi biển, rồi đi bơi.

Bốn vệ sĩ đang giải trí trong bóng mát của hàng hiên. Đám gia nhân đang mang đến cho chúng đồ ăn và thức uống. Nhưng điều đó cũng không làm chúng mất cảnh giác. Có điều là, chúng khoái chí ngắm nghía thân hình uyển chuyển của hai ả đàn bà trong bộ đồ tắm và đoán xem ả nào cừ hơn ở trên giường, rồi tất cả nhất trí chọn Buji. Tiếng cười và cách ăn nói hoạt bát của ả là bằng chứng về một khả năng khêu gợi rất cao. Thế rồi chúng vui vẻ sửa soạn để theo chủ đi dạo trên bãi biển, chúng đang sắn ống quần.

Nhưng Astorre ra hiệu cho chúng.

- Bọn này sẽ ở trong tầm nhìn, chàng nói với chúng. Cứ uống thoải mái.

Bốn đứa bước xuống bãi biển, chỉ cách bãi tắm một con sóng. Astorre và Nello ở phía trước, hai ả ở sau lưng họ. Khi ra xa được năm mươi bộ, hai ả cởi bỏ bộ đồ tắm. Buji gỡ chiếc áo đầm có dây đeo của ả để phô ra cặp vú rồi lấy tay che chúng lại như để chống ánh mặt trời.

Tất cả bọn họ nhảy qua con sóng lăn tăn. Nello là tay bơi siêu hạng. Y lặn xuống và ngoi lên giữa hai chân Stella để khi y đứng lên cô ả đã ngồi chễm chệ trên vai mình. Y gọi Astorre

- Ra ngoài này đi nào! Astorre làm theo. Buji đeo cứng lấy chàng từ phía sau. Chàng nhấn ả xuống nước rồi ngụp xuống cùng ả, nhưng thay vì sợ hãi, Buji chộp lấy quần bơi của chàng và lột truồng chàng từ phía sau.

Ở dưới mặt nước, chàng cảm thấy có tiếng rung đều đều bên tai. Cùng lúc đó chàng nhìn thấy cặp vú nõn nà của Buji lộ ra lơ lửng trong làn nước xanh và khuôn mặt đang tươi cười của ả ở rất gần chàng. Sau đó tiếng rung đều đều bên tai chàng biến thành tiếng gầm rú, và chàng ngoi lên mặt nước, Buji bấu vào hai bên hông trần của chàng.

Cái đầu tiên đập vào mắt chàng là một chiếc thuyền cao tốc đang vun vút lao tới. Động cơ của nó như một cơn giông khuấy tung bầu không khí và mặt nước. Nello và Stella đã ở trên bờ. Làm sao họ lên được bờ nhanh thế nhỉ? Xa hơn, chàng thấy các vệ sĩ của mình, quần sắn cao đang bắt đầu từ biệt thự chạy về phía biển. Chàng đẩy Buji xuống nước và ra xa mình rồi cố lội vào bờ. Nhưng đã quá muộn. Chiếc thuyền cao tốc đến rất gần, và chàng thấy một người đàn ông giương súng ngắm rất cẩn thận. Tiếng súng bị động cơ át đi.

Viên đạn thứ nhất quất Astorre xoay tròn, thế là chàng trở thành một mục tiêu lớn cho tên sát thủ. Cơ thể chàng dường như bị hất tung lên khỏi mặt nước rồi chìm xuống. Chàng mơ màng nghe thấy con thuyền đang tăng tốc, và rồi chàng cảm thấy Buji đang giật mạnh chàng, kéo lê chàng, và đang cố gắng đưa chàng vào bờ. Khi các vệ sĩ tới nơi, chúng thấy Astorre nằm sấp trên mặt sóng, một viên đạn trúng gần cổ họng, và bên chàng Buji đang thổn thức.

Phải mất sáu tháng Astorre mới bình phục. Bianco đã đem giấu chàng vào một bệnh viện tư nhỏ bé ở Palermo, nơi chàng được bảo vệ và chữa trị tốt nhất. Ngày nào Bianco cũng tới thăm chàng, còn Buji chỉ đến được vào những ngày không làm ở hộp đêm.

Gần cuối thời gian điều trị Buji mang cho chàng một dải ruy băng rộng hai inch bằng vàng. Ở giữa là tấm huy hiệu khắc hình Đức Mẹ Đồng Trinh. Ả đeo dải ruy băng vào cổ chàng. Chiếc huy hiệu che đi vết thương. Nó đã được xử lý bằng keo để kính chặt vào da. Không to hơn đồng một đôla bạc, chiếc huy hiệu che được vết thương và trông như một vật trang điểm.

- Ổn rồi, Buji trìu mến nói. Em không thể chịu nổi cảnh nhìn thấy nó. Ả âu yếm hôn chàng.

- Một ngày nào đó cậu chỉ việc rửa sạch chất keo là được, Bianco nói.

- Rồi một kẻ ham vàng sẽ cắt cổ tôi mất, Astorre giễu cợt. Có thực cần thiết phải làm như thế không?

- Cần chứ, Bianco nói. Một người đáng kính không thể khoe khoang một vết thương do kẻ thù gây ra. Hơn nữa, Buji nói đúng. Không ai có thể chịu đựng nổi nhìn thấy nó.

Cái duy nhất làm chàng chú ý là Bianco đã gọi chàng là một người đáng kính. Octavious Bianco, một Mafioso cao cấp, đã ban cho chàng vinh dự này. Chàng rất ngạc nhiên và lấy làm hãnh diện.

Sau khi Buji ra đi - đi nghỉ cuối tuần cùng một tay buôn rượu giàu có nhất Palermo - Bianco mang đến cho chàng một chiếc gương soi. Dải ruy băng bằng vàng được làm rất đẹp. Đức Mẹ Đồng Trinh, Astorre nghĩ, có mặt ở khắp Sicily, tại các điện thờ bên đường, trên ô tô và ở nhà, trên đồ chơi con trẻ.

Chàng bảo Bianco

- Tại sao người Sicily lại thờ Đức Mẹ Đồng Trinh thay cho Chúa Cứu Thế?

Bianco nhún vai

- Chúa Jesus, trước hết, là một người đàn ông, và vì vậy không thể tin tưởng hoàn toàn được. Mà thôi, quên tất cả những cái đó đi. Nó đã an bài. Trước khi quay về Mỹ, cậu sẽ sống một năm ở London với ngài Pryor để nghiên cứu nghiệp vụ quản lý nhà băng. Lệnh của bác cậu đấy. Còn một việc nữa. Thằng Nello phải bị khử.

Astorre đã rà soát kỹ càng toàn bộ sự cố rất nhiều lần trong đầu và biết rõ Nello có tội. Nhưng cái gì là nguyên nhân đây? Họ đã là bạn bè tốt của nhau lâu như thế, và đó là một tình bạn chân chính. Nhưng rồi kẻ giết người của bọn Corleone xuất hiện. Hẳn Nello đã có mối liên hệ nào đó với cosca Corleone và y không có quyền lựa chọn.

Còn một thực tế nữa, Nello không đến bệnh viện thăm chàng. Thực ra, y đã biến khỏi Palermo. Y không còn chơi ở hộp đêm nữa. Tuy vậy, Astorre vẫn hy vọng chàng có thể nhầm.

- Ngài có chắc thằng Nello phản thùng không? Astorre hỏi. Nó là đứa bạn thân nhất của tôi đấy.

- Thế chúng còn sử dụng được đứa nào? Bianco bẻ lại. Kẻ thù không đội trời chung của cậu ư? Đương nhiên là bạn cậu rồi. Trong bất kỳ trường hợp nào cậu cũng sẽ phải tự mình xử nó như một người được kính trọng. Vậy thì cứ làm cho tốt.

Vào lần đến thăm sau đó của Bianco, Astorre nói với lão

- Chúng ta chẳng có bằng chứng nào chống lại Nello. Thôi, cứ gác việc này lại đã, ngài phải giữ hòa khí với bọn Corleone. Đừng để ý đến chuyện đó nữa, tôi chết cũng đâu có sao.

Lúc đầu Bianco điên tiết phản đối, nhưng sau đó lão nhất trí với sự khôn ngoan trong lời khuyên của Astorre và thừa nhận chàng là người thông minh. Lão có thể giảng hòa với nhà Corleone và điểm số sẽ cân bằng. Còn về phần thằng Nello, nó chỉ là con tốt, có đáng kể gì. Cứ để nó cho một dịp khác, ngày khác.

Những việc phải thu xếp ngốn mất một tuần. Astorre sẽ trở về Hoa Kỳ qua ngả London để được ông Pryor hướng dẫn chi tiết. Bianco bảo Astorre rằng Aldo Monza sẽ được gửi thẳng sang Mỹ ở với Trùm Aprile và sẽ đợi chàng tại New York.

Astorre sống một năm ở London cùng Pryor. Đó là khoảng thời gian vô cùng bổ ích.

Trong phòng riêng của Pryor còn một bình rượu, điều đó chứng tỏ rằng ở đây có quá nhiều việc dành cho chàng. Việc chàng đến Sicily là một phần trong kế hoạch đặc biệt của ông Trùm nhằm chuẩn bị cho chàng một vai trò thực sự quan trọng.

Astorre hỏi Pryor về Rosie. Chàng vẫn luôn nhớ tới nàng - vẻ khả ái, niềm vui thuần khiết trong lối sống, tính hào phóng của nàng trong mọi phương diện, kể cả làm tình. Chàng nhớ nàng da diết.

Ông Pryor nhướng cặp lông mày.

- Cô gái Mafioso đó chứ gì, ông nói. Tôi biết cậu không quên cô ấy mà.

- Bác có biết cô ấy ở đâu không? Astorre hỏi.

- Nhất định rồi, ông Pryor đáp. Ở New York.

Astorre rụt rè nói

- Tôi cứ nghĩ mãi về cô ấy. Xét cho cùng, tôi thì đi biền biệt, cô ấy lại còn trẻ. Những gì xảy ra cũng là đương nhiên. Tôi đang hy vọng sẽ gặp lại cô ấy.

- Tất nhiên, sao lại không chứ? Sau bữa tối tôi sẽ cho cậu tất cả những thông tin cậu cần.

Thế là đêm hôm đó, trong phòng riêng của Pryor, Astorre đã biết tất cả tin tức về Rosie. Ông ta mở cuốn băng những cuộc điện đàm của Rosie. Nó phơi bày những cuộc gặp gỡ riêng tư với những người đàn ông khác trong căn hộ của nàng. Những cuốn băng cho thấy rằng nàng đã tằng tịu với họ, rằng họ đã tặng nàng những món quà đắt giá và tiền bạc. Quả là một cú sốc đối với Astorre khi nghe giọng nói của nàng, cái âm điệu mà chàng nghĩ chỉ dành cho mình - tiếng cười trong trẻo, những lời nhận xét dí dỏm thông mình và đầy yêu thương. Nàng vô cùng quyến rũ và không hề thô tục hay tầm thường. Nàng như một nữ học sinh trung học đang đến dự một buổi khiêu vũ. Vẻ ngây thơ của nàng là một tác phẩm thiên tài.

Ông Pryor đội chiếc mũ lưỡi trai sùm sụp ngay trên đôi măt, không ngừng quan sát Astorre.

Chàng hỏi

- Cô ấy rất tốt phải không ạ?

- Một phụ nữ lý tưởng, ông Pryor nói.

- Có phải những cuốn băng này được thu khi tôi đang cặp với cô ấy không? Astorre hỏi.

Ông Pryor làm một cử chỉ phản đối.

- Tôi có trách nhiệm phải bảo vệ cậu. Đúng thế đấy.

- Vậy mà bác không nói gì hay sao?

- Cậu thực sự điên cuồng trong yêu đương. Tại sao tôi lại phải làm hỏng niềm vui của cậu chứ? Cô ấy không tham lam, cô ấy đối xử với cậu chu đáo. Tôi cũng có thời trai trẻ nên hãy tin tôi, trong tình yêu sự thật không có ý nghĩa gì. Và bất chấp mọi cái, cô ấy là một cô gái tuyệt vời.

- Một gái điếm hạng sang ư? Astorre cay đắng nói.

- Không hẳn thế, ông Pryor nói. Cô ấy phải sống bằng trí thông minh của mình. Cô ấy đã xa gia đình từ năm mười bốn tuổi, rất thông minh và ham muốn học hành. Cô ấy muốn sống một cuộc đời sung sướng. Và rất biết cách làm cho cánh đàn ông sung sướng, một tài năng hiếm có. Việc người ta phải trả giá cũng là công bằng thôi.

Astorre bật cười.

- Bác là người Sicily văn minh. Nhưng còn hai mươi tư tiếng đồng hồ ở bên xác người tình thì sao ?

Ông Pryor cười vui vẻ.

- Nhưng đấy lại là phần tốt nhất của cô ấy. Một Mafioso thực sự. Cô ấy có trái tim nóng hổi và cái đầu băng giá. Một sự kết hợp tuyệt vời. Nhưng cậu phải hết sức cảnh giác với cô ấy. Một người như thế luôn luôn nguy hiểm.

- Thế còn Amil Nitrate ? Astorre hỏi.

- Về cái đó cô ấy vô tội. Người ta đã đi lại với ông giáo sư trước khi gặp cậu, và ông ấy cứ khăng khăng đòi chơi ma túy cho bằng được. Không, cái chúng ta có ở đây là một cô gái thẳng thắn tìm kiếm hạnh phúc của riêng mình bất chấp mọi thứ. Cô gái này không bị ràng buộc. Lời khuyên của tôi dành cho cậu là phải duy trì mối quan hệ. Có thể cậu cần tận dụng một số khả năng của cô ấy đấy.

- Đồng ý, Astorre nói. Chàng ngạc nhiên vì không thấy giận Rosie. Vẻ quyến rũ của nàng đủ để nàng cần được tha thứ. Chàng nói với ông Pryor rằng chàng sẽ cho qua.

- Tốt lắm, ông Pryor nói. Cậu ở đây một năm rồi sẽ về với Don Aprile.

- Chuyện gì sẽ xảy ra với Bianco? Astorre hỏi.

Ông Pryor lắc đầu rồi thở dài.

- Bianco phải nhượng bộ thôi. Cosca của Corleone quá mạnh. Họ sẽ thôi không truy lùng cậu nữa. Don Aprile đã hòa giải rồi. Thực ra thì thành công của Bianco đã làm ông ấy quá lịch sự đấy thôi.

Astorre giữ được mối liên lạc với Rosie. Chàng biết rằng nàng đã trở lại trường và đang cố đoạt học vị tiến sĩ tâm lý tại Đại học New York và nàng đang sống trong một căn hộ chung cư kiên cố ngay gần đó. Tại đây rốt cuộc nàng đã trở nên lão luyện hơn với những gã đàn ông già hơn và giàu có hơn.

Nàng rất khôn ngoan. Nàng tằng tịu với ba người cùng một lúc và nhận được những món quà đắt tiền, đồ nữ trang và những chuyến du hý đến những nơi nghỉ mát sang trọng của đám nhà giàu. Không ai có thể bảo nàng là một gái gọi chuyên nghiệp, vì nàng không đòi hỏi bất cứ thứ gì, nhưng nàng chưa hề từ chối một món quà tặng nào.

Việc đám đàn ông phải lòng nàng là một kết cục tất yếu. Tuy nhiên nàng đời nào chấp nhận những lời cầu hôn của họ. Nàng một mực cho rằng họ là chỗ bạn bè, rằng hôn nhân không phù hợp với nàng và với cả họ. Phần lớn đám đàn ông chấp nhận quyết định của nàng với một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Nàng không phải là kẻ đào mỏ; nàng không vòi vĩnh tiền bạc, và chứng tỏ mình không có tính tham lam. Nhưng nàng có thói quen cất tiền để phòng ngày khốn khó. Nàng có năm tài khoản ở nhà băng và thuê hai két an toàn.

Vài tháng sau cái chết của ông Trùm, Astorre quyết định gặp lại Rosie. Chàng tin chắc cuộc gặp này chỉ nhằm giành được sự giúp đỡ của nàng cho các kế hoạch của mình. Chàng tự nhủ chàng biết các bí mật của nàng và nàng không thể lòe chàng lần nữa. Nàng mắc nợ chàng, và chàng đang nắm giữ một bí mật chết người của nàng.

Chàng còn biết chắc nàng là một người trụy lạc. Với nàng, lạc thú có sức hút như một tín ngưỡng. Bằng cả trái tim mình, nàng tin rằng nàng có quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền đó phải được ưu tiên hàng đầu.

Nhưng hơn hết, chàng muốn gặp lại nàng.

Như phần lớn đám đàn ông, thời gian trôi qua góp phần làm giảm đi những vụ phản bội và tôn vinh nét quyến rũ của nàng. Giờ đây những tội lỗi của nàng xem ra gần với tính bất cẩn của giới trẻ hơn, không có cơ sở nào cho thấy nàng không yêu chàng. Chàng nhớ cặp vú của nàng, khi nàng làm tình chúng nổi rõ những đốm hồng. Cái cách nàng cúi đầu e lệ, vẻ hoạt bát và tính tình vui vẻ của nàng. Cách nàng đi đứng khoan thai với đôi chân thon dài và cái nóng đến khó tin của miệng nàng vẫn còn lưu lại trên môi chàng. Dẫu vậy, Astorre tự nhủ chuyến thăm này chỉ thuần túy bàn công việc.

Nàng đang sắp đi vào căn hộ chung cư của mình thì chàng dừng trước mặt nàng, mỉm cười và cất tiếng chào. Cánh tay phải của nàng đang ôm một chồng sách và nàng thả chúng rớt xuống vỉa hè. Khuôn mặt nàng rạng rõ niềm vui, đôi mắt nàng long lanh. Nàng vòng tay ôm lấy chàng và hôn lên miệng chàng.

- Em biết sẽ gặp lại anh mà, nàng nói. Em biết anh sẽ tha thứ cho em. Rồi nàng kéo chàng vào tòa chung cư, dẫn chàng leo một dãy cầu thang lên căn hộ của nàng.

Ở đó nàng rót rượu cho cả hai, rượu vang cho nàng, rượu mạnh cho chàng. Nàng ngồi xuống bên chàng trên ghế sô pha. Căn phòng bài trí xa hoa và chàng biết tiền này từ đâu đến.

- Sao anh đi lâu thế? Rosie hỏi đồng thời nàng tháo những chiếc nhẫn ra khỏi tay, gỡ hoa tai, thả ba chiếc vòng ra khỏi cổ tay trái. Tất cả đều bằng vàng và đều nạm kim cương.

- Anh bận, Astorrre nói. Và anh tìm em khá lâu.

Rosie nhìn chàng dịu dàng, âu yếm.

- Anh vẫn còn hát chứ? Anh vẫn mặc bộ đồ màu đỏ ngộ nghĩnh ấy để đi cưỡi ngựa chứ? Nàng hôn chàng lần nữa, và Astorre cảm thấy một luồng hơn ấm sộc lên óc chàng.

- Không, chàng đáp. Rosie này, chúng mình không thể quay lại được.

Rosie làm chàng hụt hẫng.

- Đấy là thời gian hạnh phúc nhất của đời em, nàng nói. Sau đó họ vào phòng ngủ, và vài giây sau cả hai đã trần truồng.

Rosie lấy ra một lọ nước hoa từ bàn trang điểm rồi xịt lên người mình trước, sau đó cho Astorre.

- Không còn thời gian để tắm nữa, nàng vừa nói vừa cười. Rồi họ cùng lên giường và chàng thấy những đốm màu hồng từ từ nổi lên trên khắp cặp vú của nàng.

Với Astorre, đây là một kinh nghiệm quái đản. Chàng khoái làm tình nhưng không thể khoái Rosie. Hình ảnh nàng canh chừng xác chết của ông giáo sư suốt một ngày một đêm cứ cộm lên trong tâm trí chàng. Nếu ông ta chưa chết liệu ông ta có được cứu sống không? Một mình nàng có liên quan gì đến cái chết và ông giáo sư?

Đang nằm ngửa, Rosie với tay sờ vào má chàng. Nàng cúi đầu xuống và thỏ thẻ

- Cái phép thuật cũ ấy chẳng còn mầu nhiệm nữa rồi. Đang mân mê chiếc huy hiệu bằng vàng trên cổ chàng nàng bỗng nhìn thấy một vết thương khủng khiếp. Nàng đặt lên đó một nụ hôn.

- Nó lành rồi, Astorre nói.

Rosie ngồi dậy, phần thân và cặp vú để trần của nàng lơ lửng bên trên chàng.

- Anh không thể tha thứ cho em vì ông giáo sư, vì em đã để ông ấy chết rồi cứ ở lại cùng ông ấy. Có đúng thế không?

Astorre không trả lời. Chàng sẽ chẳng bao giờ nói cho nàng hay chàng đã biết những gì về nàng. Nàng vẫn thế, ngựa quen đường cũ.

Rosie rời khỏi giường và bắt đầu mặc quần áo, chàng cũng làm như vậy.

- Anh là một người kinh khủng hơn nhiều, Rosie nói. Cháu nuôi của Don Aprile cơ mà. Cả ông bạn anh ở London nữa, người đã dọn giùm cái mớ bòng bong của em. Ông ta làm việc rất chuyên nghiệp, với tư cách một chủ nhà băng người Anh, nhưng không hẳn thế nếu anh biết ông ta đến từ Italy. Chẳng khó gì mà không hiểu ra.

Họ sang phòng khách và lại uống nữa. Nàng nghiêm trang nhìn vào mắt chàng.

- Em biết anh là người như thế nào. Và em không thắc mắc, không hề. Chúng mình thực sự là những người bạn chí cốt. Điều đó chẳng hoàn hảo hay sao?

Astorre cười.

- Cái cuối cùng anh muốn tìm là một người bạn chí cốt, chàng nói. Nhưng anh tới gặp em vì công việc.

Rosie trở nên lạnh lùng. Tất cả nét quyến rũ biến khỏi khuôn mặt nàng. Nàng bắt đầu đeo những chiếc nhẫn vào lại các ngón tay.

- Giá của em cho một chuyến tàu nhanh là năm trăm đô, nàng nói. Em có thể nhận séc. Nàng cười tinh nghịch - đây là một câu nói đùa. Chàng biết nàng chỉ nhận những món quà vào những kỳ nghỉ hay ngày sinh nhật, và những thứ đó có giá hơn nhiều. Thực tế, căn hộ này là một món quá sinh nhật của một gã si tình.

- Không giỡn đâu, việc nghiêm túc đấy, rồi chàng nói về anh em Sturzo và những gì chàng muốn nàng làm. Bây giờ anh sẽ gửi em hai mươi nghìn đô cho các khoản chi phí, chàng nói. Và một trăm ngàn nữa khi em hoàn thành công việc.

Rosie trầm tư nhìn chàng.

- Và chuyện gì sẽ xảy ra sau đó? Nàng hỏi.

- Em không cần phải lo.

- Rõ rồi. Nếu em từ chối thì sao?

Astorre nhún vai. Chàng không muốn nghĩ về điều đó. Chẳng sao cả, chàng nói.

- Anh không nộp em cho nhà chức trách Anh quốc đấy chứ?

- Anh không đời nào làm thế với em, Astorre nói và nàng không thể nghi ngờ tính trung thực trong giọng nói của chàng.

Rosie thở dài.

- OK. Và rồi chàng thấy mắt nàng long lanh. Nàng toét miệng cười. Lại một cuộc phiêu lưu nữa, nàng nói.

Khi xe chạy qua Weschester, Aldo Monza hích vào chân Astorre lôi chàng ra khỏi những hồi tưởng của mình. Monza nói

- Còn đi nửa tiếng nữa. Cậu phải chuẩn bị cho anh em Sturzo.

Astorre nhìn những bông tuyết tinh khôi đang rơi bên ngoài cửa xe. Nếu không có rừng cây to trụi lá với đám cành sống động thò ra như những chiếc gậy thần màu nhiệm thì họ đang đi trên một vùng nông thôn cằn cỗi. Lớp tuyết phát quang làm cho những khối đá bị vụi lấp trông giống như những ngôi sao sáng. Vào thời điểm đó, Astorre cảm thấy một nỗi buồn tê tái trong lòng. Qua đêm nay thế giới của chàng sẽ thay đổi, chàng sẽ thay đổi, và trong một chừng mực nào đấy cuộc sống thực của chàng sẽ bắt đầu.

Ba giờ sáng Astorre tới nơi. Khi đó cảnh vật trắng toát một vẻ ma quái, tuyết ùn thành từng đống lớn.

Trong nhà, anh em Sturzo bị còng tay, xích chân và những chiếc áo bó đặc biệt được lồng vào người chúng. Chúng đang nằm trên sàn của một phòng ngủ, được hai người đàn ông mang vũ khí canh gác.

Astorre nhìn chúng đầy thông caả.

- Đáng khen lắm, chàng bảo chúng. Bọn tao đánh giá cao sự nguy hiểm của chúng mày.

Thái độ của hai anh em Sturzo hoàn toàn khác nhau. Stace có vẻ bình tĩnh và cam chịu, nhưng Franky nhìn họ trừng trừng với một nỗi căm hờn làm bộ mặt bình thường vốn dễ coi của gã biến dạng thành kỳ dị.

Astore ngồi lên giường.

- Tao đoán hai đứa chúng mày đã hiểu ra vấn đề rồi, chàng nói.

Stace lí nhí trả lời:

- Rosie là con mồi. Cô nàng ngon lành lắm, đúng không Franky?

- Hết sảy, Franky đáp. Gã đang cố giữ cho giọng mình không vang lên cuồng loạn.

- Ấy là vì nàng thực sự thích chúng mày, Astorre nói. Nàng điên lên vì chúng mày, đặc biệt là thằng Franky. Thật xui xẻo cho nàng.

Franky khinh bỉ hỏi

- Vậy tại sao cô nàng lại làm thế hả?

- Vì tao cho nàng nhiều tiền, Astorre nói. Nhiều tiền lắm. Mày có biết bao nhiêu không hả Franky?

- Không, tao cóc biết.

- Tao nghĩ phải trả một giá rất cao cho hai đứa thông minh như chúng mày để thực hiện hợp đồng vụ ông Trùm Aprile, Astorre nói. Một triệu phải không? Hay hai triệu?

Stace nói

- Mày nhầm rồi. Tụi tao không làm vụ đó. Tụi tao đâu có ngu như vậy.

Astorre nói

- Tao biết chúng mày là xạ thủ. Chúng mày sẽ bị trừng phạt vì tội to gan. Tao đã kiểm tra kỹ chúng mày. Bây giờ, cái tao muốn ở chúng mày là tên đứa môi giới.

- Mày nhầm, Stace nói. Chẳng có cơ sở nào để mày có thể gán vụ đó cho tụi tao cả. Mà mày là thằng quái nào chứ?

- Tao là cháu ông Trùm, Astorre đáp. Tao là người bọc lót hàng đầu của ông ấy. Và tao đã kiểm tra chúng mày suốt gần sáu tháng nay. Vào lúc xảy ra vụ ám sát chúng mày không có mặt ở Los Angeles. Hơn một tuần lễ chúng mày không xuất hiện. Franky, mày đã bỏ hai buổi huấn luyện lũ nhóc. Stace, mày không hề bén mảng tới xem cửa hiệu làm ăn ra sao. Ngay cả điện thoại chúng mày cũng không gọi. Vậy, hãy trả lời tao chúng mày đi đâu?

- Lúc đó tao đang đánh bạc ở Vegas, Franky nói. Mà chúng ta có thể nói chuyện thoải mái hơn nếu mày nới mấy cái áo bó này ra một chút. Tụi tao có đang đéo nhau ở Houdinis đâu.

Astorre tặng cho gã một nụ cười thông cảm.

- Chờ chút nữa, chàng nói. Stace này, còn mày thì sao?

- Tao với con bồ của tao đi Tahoe, Stace trả lời. Nhưng thăng chó nào nhớ được chứ?

Astorre bảo bọn chúng

- Có lẽ tao sẽ có phước hơn nếu nói chuyện riêng rẽ với chúng mày.

Chàng bỏ chúng lại rồi đi xuống bếp. Ở đó Monza đã pha cà phê và đang đợi chàng. Chàng bảo Monza đưa anh em Sturzo đến những phòng khác nhau và cắt hai người liên tục canh chừng mỗi đứa. Aldo đang phụ trách một nhóm sáu người.

- Cậu có chắc chúng là thủ phạm không? Monza hỏi.

- Tôi cho là đúng, Astorre đáp. Nếu không phải chúng, thì đây chỉ là cái vận đen của chúng. Aldo này, tôi không muốn yêu cầu anh, nhưng có lẽ anh phải giúp chúng mở miệng.

- Thì có phải lúc nào người ta cũng mở miệng đâu. Monza nói. Thật khó tin, nhưng con người vốn ương ngạnh. Và hai thằng này nom có vẻ chì đấy?

- Tôi không thích cậu mềm yếu vậy, Astorre nói.

Chàng đợi nửa tiếng đồng hồ rồi mới lên căn phòng giam giữ Franky. Màn đêm đã buông, nhưng trong ánh đèn phản chiếu chàng có thể nhìn thấy những bông tuyết đang xoay vòng từ từ rơi xuống ở bên ngoài. Chàng thấy Franky bị trói chặt đang nằm trên sàn nhà.

- Thật đơn giản, Astorre bảo gã. Cho bọn tao biết tên đứa môi giới rồi chúng mày có thể sống mà ra khỏi đây.

Franky phẫn nộ nhìn chàng.

- Tao đéo nói gì với mày cả, đồ cà trớn. Mày tóm nhầm người rồi. Tao nhớ cái mặt mày, cả con khốn Rosie nữa.

- Nói thế hoàn toàn sai, Astorre bảo gã.

- Mày cũng đéo con nhỏ mãi rồi phải không?

Franky nói.

- Mày là thằng ma cô à?

Astorre hiểu. Franky sẽ không bao giờ tha thứ sự phản bội của Rosie. Thật là một phản ứng ngu ngốc trong một tình huống nghiêm trọng thế này.

- Tao nghĩ chúng mày ngu quá, Astorre nói. Và chúng mày sẽ bị trừng phạt thôi.

- Tao đéo quan tâm đến những gì mày nghĩ, Franky nói. Mày chẳng thể làm gì nếu không có bằng chứng.

- Vậy sao? Thế là tao đang phí thì giờ với mày. Tao đi tâm sự với thằng Stace vậy.

Astorre xuống bếp uống thêm cà phê trước khi lên gặp Stace. Chàng cân nhắc kỹ một thực tế là trong một giới hạn nguy hiểm như thế mà Franky ngó bộ vẫn tự tin và ăn nói hỗn xược. Với Stace chàng có lẽ thu được kết quả khả quan hơn. Chàng bắt gặp Stace đang chống đỡ một cách bất lực ở trên giường.

- Cởi áo trùm ra cho nó, Astorre ra lệnh. Nhưng kiểm tra lại khoá tay và xích.

- Tao nghĩ ra rồi, Stace bình tĩnh nói. Mày biết chúng tao giấu tiền. Tao có thể thu xếp để mày đến lấy rồi chấm dứt cái trò nhảm nhí này.

- Tao vừa trao đổi với thằng Franky, Astorre nói. Tao thất vọng về nó quá. Mày và em mày lẽ ra phải khôn ngoan chứ. Bây giờ mày nói với tao về tiền bạc, và mày thừa biết nó liên quan đến việc chúng mày giết ông Trùm Aprile.

- Mày nhầm rồi, Stace nói.

Astorre vẫn nhẹ nhàng

- Tao biết mày không có mặt ở San Francisco, tao cũng biết thằng Franky không mò tới Vegas. Và chúng mày là hai nghệ sĩ tự do duy nhất có lá gan đủ to để nhận nhiệm vụ này. Hai thằng xạ thủ cũng thuận tay trái như mày và Franky. Vì vậy, tất cả những gì tao muốn là ai thuê chúng mày.

- Tại sao tao phải nói vơi mày chứ? Stace nói. Tao biết câu chuyện đã đến hồi kết thúc. Tụi mày không đeo mặt nạ, mày đã làm lộ con nhỏ Rosie, vì thế tụi mày sẽ không đời nào để tụi tao sống sót mà rời khỏi đây, bất kể mày có hứa hẹn những gì đi chăng nữa.

Astorre thở dài.

- Tao không muốn lừa mày. Kết cục là như vậy. Nhưng mày vẫn có cái để mà mặc cả. Nhẹ nhàng hay đau đớn. Tao có mang theo một đứa rất thạo việc. Khi nói điều này, Astorre vẫn cảm thấy trong người nôn nao. Chàng nhớ lại cảnh Aldo Monza hành hạ Fissolini.

- Mày đang phí thì giờ đấy, Stace nói. Franky sẽ không nói đâu.

- Có thể không, Astorre đồng tình. Nhưng nó sẽ bị xẻ thành từng miếng, và từng miếng một sẽ được mang đến cho mày kiểm tra. Tao nghĩ mày nên nói để cứu nó khỏi cảnh đó. Nhưng tại sao lại phải đi con đường đó? Stace, tại sao mày muốn bảo vệ thằng môi giới ấy? Lẽ ra nó phải che chở cho chúng mày, vậy mà nó đã không làm.

Stace không trả lời. Sau đó gã nói

- Sao mày không thả thằng Franky ra?

Astorre trả lời

- Mày biết rõ mà.

- Làm sao mày biết tao sẽ không lừa mày? Stace hỏi.

- Vì cái chết tiệt gì mày phải làm thế hả? Mày được gì nào? Stace, mày có thể giữ cho thằng Franky không phải trải qua những điều thực sự khủng khiếp. Mày sẽ phải chứng kiến tận mắt đấy.

- Tụi tao chỉ là những tay súng làm công việc của mình, Stace nói. Thằng cha mày cần có địa vị cao hơn chứ. Tại sao mày không thả tụi tao ra?

Astorre vẫn kiên nhẫn.

- Stace, anh em mày đã nhận nhiệm vụ giết một người quan trọng. Tiền nào thì của nấy, điều đó đã khuyến khích chúng mày. Chúng mày chỉ việc bắn rồi lặn một hơi, và bây giờ chúng mày phải trả giá nếu không hoá ra thế giới này bị nghiêng à. Bây giờ, tất cả những gì mày có là lựa chọn, nhẹ nhàng hay đau đớn. Trong vòng một tiếng đồng hồ nữa kể từ lúc này, mày sẽ được thấy một bộ phận rất quan trọng của thằng Franky trên chiếc bàn kia. Tin tao đi. Tao không muốn làm điều đó. Thực thế đấy.

Stace nói

- Làm sao tao biết được bụng mày không đầy cứt chứ?

Mày nghĩ xem làm sao tao lừa được chúng mày đến với Rosie hả. Mất rất nhiều thời gian và lòng kiên nhẫn đấy. Tao đã đưa được chúng mày đến đây và tao có tới tám tay súng. Chi phí nhiều và rắc rối cũng lắm. Mà lại ngay trước đêm Giáng sinh nữa chứ. Tao là thằng nghiêm túc, mày thấy rồi đấy. Tao cho mày một tiếng đồng hồ để nghĩ kỹ về đề nghị của tao. Tao hứa nếu mày nói, thằng Franky sẽ không biết gì hết.

Astorre lại xuống bếp. Monza đang đợi chàng.

- Sao hả? Monza hỏi.

- Tôi không biết. Nhưng ngày mai tôi phải có mặt tại bữa tiệc Giáng sinh của Nicole, vì vậy chúng ta phải kết thúc việc này đêm nay.

- Tôi sẽ không mất đến hơn một giờ, Monza nói. Nó sẽ mở miệng hoặc chết.

Astorre thư giãn một lát bên chiếc lò sưởi rồi lại lên lầu gặp Stace. Gã nom có vẻ cam chịu và mệt mỏi. Gã đã nghĩ kỹ rồi. Gã biết Franky sẽ không hề hé răng - nó vẫn còn hy vọng. Stace tin rằng Astorre đã đặt tất cả các quân bài lên bàn. Và bây giờ Stace mới hiểu nỗi sợ hãi của những người gã đã giết, những hy vọng hão huyền và không kết quả của họ vào một phép màu nào đó cứu giúp họ. Bấu víu vào mọi khả năng. Và gã không muốn Franky chết như thế - bị xẻo từng miếng một. Gã nghiên cứu khuôn mặt Astorre. Nó cứng rắn, lạnh tanh bất chấp tuổi đời còn trẻ của người mang nó. Chàng có cái uy của một viên chánh án toàn thượng thẩm.

Tuyết rơi dầy bám đầy cửa kính giống như một lớp lông trắng mịn màng. Trong căn phòng của mình Franky đang mơ tưởng về chuyến đi châu Âu cùng Rosie, tuyết đang phủ kín những đại lộ của Paris, tuyết đang rơi đầy xuống những con kênh xứ Venice. Tuyết như có phép lạ - Rome lung linh diệu kỳ.

Stace nằm trên giường lo lắng cho Franky. Chúng đã gây chuyện và phải trả giá. Và đây là đoạn kết của câu chuyện. Nhưng gã có thể giúp Franky nghĩ rằng chúng vẫn còn cơ hội.

- Tao chấp nhận, Stace nói. Mày phải bảo đảm Franky không biết cái gì đang diễn ra, được chứ?

- Tao hứa, Astorre nói.Nhưng tao sẽ biết ngay nếu mày nói dối.

- Không, Stace đáp. Bắt đầu từ cái gì nhỉ? Thằng môi giới tên là Heskow, nó sống ở một thị trấn có tên Brightwaters, qua Babylon một chút. Nó đã ly dị, hiện sống một mình và có một thằng con mười sáu tuổi, cao lớn. Thằng nhỏ là một cầu thủ bóng rổ xuất sắc. Thằng Heskow đã thuê tụi tao vài vụ qua nhiều năm nay. Giá cả là một triệu, nhưng tao và Franky vẫn nghi ngờ về việc nhận số tiền này. Nó quá lớn. Tụi tao nhận nhiệm vụ này vì nó nói tụi tao đếch phải lo về đám FBI, cũng đếch phải lo cớm. Nó nói rằng đây là một vụ sắp xếp lớn. Nó còn nói với tụi tao ông Trùm đếch còn các mối quan hệ đầy quyền lực nữa. Nhưng rõ ràng nó đã nhầm. Tụi mày đang ở đây đấy thôi. Thế là công toi.

- Quả là nhiều thông tin để cung cấp cho người mày nghĩ là đầy bụng cứt, Astorre nói.

- Tao muốn mày tin rằng tao đang nói sự thật. Tao hiểu rõ, câu chuyện đến hồi kết. Tao không muốn Franky biết điều này.

- Đừng lo, Astorre nói. Tao tin mày.

Chàng rời căn phòng rồi đi xuống bếp để ra chỉ thị cho Monza. Chàng cần thẻ căn cước, bằng lái xe, thẻ tín dụng và những đồ lặt vặt của chúng. Chàng giữ lời với Stace: Franky sẽ bị bắn và gáy mà không được báo trước. Và Stace cũng sẽ bị hành quyết không đau đớn.

Astorre rời khỏi căn nhà lái xe về New York. Tuyết ngừng rơi và chuyển thành một cơn mưa, rửa sạch cả miền quê tuyết phủ.

Rất ít khi Monza trái lệnh, nhưng với tư cách là một đao phủ hắn cảm thấy hắn có quyền bảo vệ mình và người của hắn. Sẽ không dùng súng. Hắn sẽ sử dụng dây thừng.

Trước hết hắn nhờ bốn vệ sĩ giúp hắn xiết cổ Stace. Stace thậm chí không hề kháng cự. Nhưng với Franky thì khác. Suốt hai mươi phút gã cố thoát khỏi sợi dây thừng. Suốt hai mươi phút kinh hoàng ấy Franky Sturzo biết rằng gã đang bị hành hình.

Sau đó hai xác chết được cuốn trong vải trải giường và được khiêng qua những chỗ trống lầy lội trong rừng khi cơn mưa đã tạnh và tuyết lại rơi dày đặc. Xác chúng được bỏ trong rừng phía sau nhà. Một cái hang nằm trong một bụi cây rậm rạp là nơi cất giấu. Chắc chắn cho đến mùa xuân chúng sẽ không bị phát hiện. Đến lúc đó cơ thể chúng sẽ bị thiên nhiên huỷ hoại đến mức, Monza hy vọng, nguyên nhân gây tử vong sẽ không thể xác định được.

Monza không tuân lệnh sếp không hẳn chỉ vì thực tế đó. Vì cũng giống như ôngTrùm Aprile, hắn cảm nhận sâu sắc rằng lòng nhân từ chỉ có thể đến từ đức Chúa. Hắn ghét cay ghét đắng bất kỳ một hình thức nhân từ nào dành cho những kẻ sát nhân. Đấy là việc của Chúa. Đối với con người, nại cớ nhân từ chỉ là thói kiêu hãnh vô giá trị và thiếu hẳn lòng tôn kính. Hắn chẳng muốn bất kỳ một hình thức nhân từ nào như vậy cho bản thân mình.

Chương 9

Kurt Cilke tin vào luật pháp, vào những luật lệ mà con người đã tạo ra để sống một cuộc sống thanh bình. Ông luôn luôn cố tránh những thoả hiệp có thể làm suy yếu một xã hội công bằng, và ông đấu tranh không khoan nhượng với những kẻ thù của đất nước. Sau hai mươi năm tranh đấu lòng tin của ông đã rơi rụng nhiều.

Chỉ có vợ ông vẫn sống như ông mong đợi. Những chính khách là những kẻ nói dối, người giàu tàn nhẫn trong ham muốn quyền lực, người nghèo thì sa đọa. Và còn có những kẻ lừa đảo bẩm sinh, những kẻ bịp bợm, vũ phu và giết người. Những người thừa hành pháp luật chỉ tốt hơn chút ít, nhưng bằng cả tấm lòng ông vẫn tin tưởng rằng Cục Điều tra Liên bang là tốt đẹp nhất. Năm ngoái ông có một giấc mơ luôn tái diễn. Trong mơ ông là một cậu bé mười hai tuổi và ông phải dự một kỳ thi quan trọng của trường. Kỳ thi sẽ kéo dài cả ngày. Khi ông rời khỏi nhà, mẹ ông khóc, và trong giấc mơ ông hiểu vì sao. Nếu thi trượt, ông sẽ không gặp lại mẹ mình.

Trong mơ ông hiểu nạn giết người đã tràn lan đến mức một bộ luật đã được soạn thảo nhờ sự trợ giúp của cộng đồng tâm thần nhằm triển khai một kế hoạch kiểm tra y tế về tâm thần cho phép phát hiện sớm những đối tượng mười hai tuổi khi lớn lên có thể trở thành kẻ giết người. Những đứa trẻ thi trượt sẽ biến mất một cách đơn giản. Y học đã chứng minh rằng nhiều kẻ ham muốn trở thành sát nhân vì việc giết người mang lại cho chúng khoái lạc. Do đó cần phải loại bỏ những kẻ có gen giết người từ khi chúng còn nhỏ.

Sau kỳ thi ông trở về nhà. mẹ ông ôm chặt lấy ông và hôn ông. Các cô các chú của ông đã chuẩn bị một bữa tiệc mừng thịnh soạn. Sau đó, còn lại một mình trong phòng ngủ, ông run lên vì sợ hãi vì biết đã có một nhầm lẫn. Lẽ ra ông không vượt qua được kỳ thi, và rồi đây ông sẽ lớn lên thành kẻ giết người.

Giấc mơ lặp lại hai lần, và ông không kể cho vợ nghe vì ông biết giấc mơ nói lên điều gì.

Mối quan hệ của Cilke với Timonona Portella đến nay đã được hơn sáu năm. Nó bắt đầu khi Portella giết một thuộc hạ trong cơn nóng giận mù quáng. Ngay lập tức Cilke phát hiện ra các khả năng. Ông đã thu xếp để Portella trở thành một kẻ cung cấp tin về Mafia, đổi lấy việc không bị truy tố tội giết người. Ngài giám đốc đã chuẩn y kế hoạch, và phần còn lại đã đi vào lịch sử. Nhờ có Portella, Cilke đã dẹp tan Mafia New York nhưng lại phải nhắm mắt làm ngơ trước việc làm của Portella, kể cả việc y kiểm soát hoạt động kinh doanh ma túy.

Nhưng Cilke, được sự chấp thuận của giám đốc, đã có kế hoạch hạ bệ Portella một lần nữa. Người ta xác định Portella đã giành được việc sử dụng các nhà băng của Aprile để rửa tiền buôn bán ma túy. Tuy nhiên Aprile tỏ ra khá cứng đầu. Tại một cuộc gặp mặt quan trọng Portella đã hỏi Cilke,

- FBI có theo dõi Aprile khi lão đến dự lễ thêm sức của cháu lão không?

Cilke hiểu ngay tức khắc, nhưng ông do dự trước khi trả lời. rồi ông nói chậm rãi

- Tôi bảo đảm người ta sẽ không làm chuyện đó. Nhưng còn NYPD thì sao?

- Việc đó đã được lo liệu, Portella trả lời.

Và Cilke biết ông sẽ là tòng phạm với tội sát nhân. Nhưng chẳng lẽ lão Trùm Aprile không xứng đáng với điều đó hay sao? Phần lớn cuộc đời mình lão là một tội phạm. Lão đã về hưu với số tài sản khổng lồ mà pháp luật không thể đụng tới. Và hãy nhìn vào cái được. Bằng việc giành quyền sử dụng các nhà băng của Aprile, Portella sẽ đâm thẳng vào bẫy của ông. Tất nhiên, ở hậu trường luôn luôn có mặt Inzio với mơ ước có kho vũ khí hạt nhân của riêng mình. Cilke biết rằng với một chút may mắn là ông có thể kết thúc toàn bộ vụ này và chính phủ có thể thu hồi những nhà băng trị giá mười tỷ đô la của Aprile theo luật RICO, vì, chẳng nghi ngờ gì nữa, những kẻ thừa kế của lão sẽ bán các nhà băng, sẽ ký kết một hợp đồng với những sứ giả bí mật của Portella. Và mười hay mười một tỷ đôla sẽ là một vũ khí hiệu nghiệm chống lại chính tội ác.

Nhưng Georgette sẽ coi thường ông, vì vậy không được để nàng biết. Xét cho cùng, nàng sống trong một thế giới khác.

Nhưng bây giờ ông phải gặp lại Portella. Còn cả vụ những người Đức chăn cừu bị giết và ai đứng đằng sau vụ này. Ông sẽ phải bắt đầu với Timmona.

Hiếm có người Italia thành đạt nào lại giống Timmona Portella: Năm mươi tuổi mà vẫn chưa vợ. Nhưng hắn lại chẳng độc thân chút nào. Hắn dành hầu hết các đêm thứ sáu sống chung với một người đẹp từ các đường dây do thuộc hạ kiểm soát. Chỉ thị của hắn là cô nàng phải trẻ, không quá dai sức trong cuộc chơi, phải đẹp và mỡ màng. Cô nàng phải hưng phấn và vui vẻ nhưng không được quá mức. Và không được đề xuất những trò quái đản. Timmona là một kẻ làm tình theo lối chân phương. Hắn có những thói quen lạ lùng nhưng vô hại, chẳng hạn các cô nàng phải có cái tên Anglo - Saxon dễ nghe như Jane hay Susan, hắn có thể gọi chệch thành Tiffany hay thậm chí Merle. Rất ít khi hắn xài một ả tới hai lần.

Những cuộc hẹn hò kiểu này luôn diễn ra trong một khách sạn nho nhỏ ở khu East Side do một trong các công ty của hắn sở hữu. Ở đó hắn được sử dụng cả một tầng bao gồm hai căn hộ khép kín. Một căn có nhà bếp chứa đầy đồ ăn ( vì Portella là một đầu bếp nghiệp dư có tài) kiểu Bắc Italy, mặc dù cha mẹ hắn sinh ra tại Sicily. Và hắn rất khoái nấu nướng.

Đêm nay cô gái được chủ đường dây đưa đến Tên này ở lại uống với hắn chút đỉnh ròi biến mất. Sau đó Portella vừa nấu nhanh bữa khuya cho hai người vừa nói chuyện và làm quen. Tên ả là Janet. Portella nấu rất nhanh. Hắn nấu những món khoái khẩu của mình: bê thui kiểu Milan, mì ống nấu với nước sốt thêm chút pho mát Gruyere, cà tím nướng, salad trộn với cà chua. Món tráng miệng là đủ loại bánh ngọt lấy từ một cửa hiệu bánh ngọt nổi tiếng của Pháp ở gần đấy.

Hắn tiếp Janet một cách lịch sự. Là kẻ ục ịch, đầy lông lá cái đầu to và da dẻ sần sủi nhưng khi ăn hắn luôn chơi cả sơ mi, cà vạt và áo khoác. Trong bữa ăn, với một vẻ quan tâm hiếm thấy ở một người hung ác, hắn hỏi Jannet về cuộc sống của ả, và tỏ vẻ thích thú lắng nghe câu chuyện về những bất hạnh ả kể ra. Để cứu cái gia đình nghèo khó của mình ả đã bị cha, các anh, đám nhân tình và đám đàn ông quyền thế phản bội. Thông qua áp lực của đồng tiền và những lần mang thai ngoài ý muốn chúng đã đưa ả vào một cuộc sống tội lỗi. Hắn sửng sốt trước những nhơ nhuốc mà những kẻ cùng giới với hắn đã thể hiện và ngạc nhiên về lòng tốt với phụ nữ của chính mình. Vì với phụ nữ, hắn nổi tiếng hào phóng không chỉ bởi cho họ nhiều tiền.

Sau bữa ăn, hắn mang rượu vào phòng khách và cho Janet xem sáu hộp nữ trang: một chiếc đồng hồ vàng, một nhẫn hồng ngọc, đôi khuyên tai kim cương, một vòng cổ bằng ngọc bích, một chiếc kim băng tay khảm đá quý và một chuỗi hạt ngọc trai hoàn hảo. Hắn bảo Janet chọn lấy một thứ làm kỷ niệm. Tất cả đều có giá vài ngàn đôla.

Nhiều năm trước một trong các nhóm của hắn đã đánh cướp một xe tải nhỏ chở nữ trang và hắn đã giữ lại nhiều hơn là đem bán. Vì thế quà tặng chẳng đáng giá gì với hắn.

Trong khi Janet cân nhắc thứ mà ả muốn và cuối cùng ả chọn chiếc đồng hồ thì hắn chuẩn bị cho ả tắm. Hắn cẩn thận kiểm tra độ nóng của nước, sắp sẵn cho ả những loại nước hoa và xà phòng hảo hạng. Chỉ sau khi ả đã thư giãn hắn mới đưa ả lên giường ân ái nồng nàn như một cặp vợ chồng hạnh phúc.

Nếu đặc biệt hứng, hắn có thể giữ cô gái đến bốn hoặc năm giờ sáng, nhưng hắn không bao giờ đi ngủ khi cô ả vẫn còn trong căn hộ của mình. Đêm ấy, hắn cũng cho Janet về sớm.

Hắn làm chuyện đó cũng là vì sức khỏe của mình. Hắn biết bản tính phóng đãng có thể dẫn hắn đến rắc rối. Những cuộc hẹn hò hàng tuần như thế làm hắn dịu lại. Đàn bà nhìn chung có tác dụng vỗ về và hắn chứng minh công hiệu của nó bằng việc thứ bảy nào cũng tới bác sỹ của mình. Hắn thỏa mãn khi biết rằng huyết áp của hắn đã trở lại bình thường. Khi hắn kể cho bác sỹ nghe phương pháp điều trị của mình, tay này chỉ biết lắp bắp, "tuyệt quá". Portella rất thất vọng về tay bác sỹ.

Còn một thuận lợi nữa ở địa điểm này. Các vệ sỹ của Portella bị cách ly ở mặt trước căn hộ. Nhưng vẫn còn lối cửa say dẫn tới căn hộ kế bên có cửa vào một hành lang riêng biệt. Đấy là Portella có các cuộc tiếp xúc mà hắn không muốn những cộng sự thân cận nhất của mình được biết. Gặp một nhân viên đặc biệt của FBI là một việc làm rất nguy hiểm đối với một thủ lĩnh Mafia. Hắn sẽ bị nghi ngờ là kẻ cung cấp thông tin, và Cilke có thể bị tình nghi là người nhận hối lộ.

Chính Portella đã cung cấp số điện thoại để ghi âm, chỉ ra những kẻ nhu nhước không chịu được áp lực, những manh mối dẫn đến thủ đoạn giết người, và giải thích rõ các thủ đoạn đó thực thi ra sao. Và cũng chính Portella đã làm một số việc bẩn thỉu mà FBI không được phép làm.

Trong nhiều năm họ sử dụng mật mã cho việc sắp xếp các cuộc tiếp xúc. Cilke có chìa khóa mở cửa căn hộ đối diện phía bên kia hành lang vì vậy ông có thể vào mà không bị đám vệ sỹ của Portella phát hiện rồi chờ ở căn hộ phụ. Portella sẽ tống khứ ả đàn bà và cuộc gặp sẽ bắt đầu. Đêm nay Portella đang chờ Cilke.

Trong những cuộc gặp kiểu này Cilke luôn không cảm thấy thoải mái. Ông biết tất nhiên, ngay cả Portella cũng không dám làm hại một nhân viên FBI, nhưng con người này có tính tình gần như điên khùng. Cilke mang vũ khí, nhưng để che giấu tên chỉ điểm của mình ông không thể mang theo vệ sỹ.

Portella cầm ly rượu trên tay, và lời chào đầu tiên của hắn là

- Có cái đéo gì không ổn thế?

Nhưng hắn cười vui vẻ và ôm Cilke một nửa vòng tay. Cái bụng phệ của Portella được giấu kín trong chiếc áo choàng tao nhã của Trung Quốc buông trùm bên ngoài chiếc quần Pijamas màu trắng.

Cilke từ chối ly rượu, ngồi xuống ghế và bình tĩnh nói

- Vài tuần trước tôi đi làm về và thấy hai con chó của tôi đầu lìa khỏi cổ. Tôi nghĩ anh có thể có đầu mối? Ông quan sát kỹ Portella.

Nỗi kinh ngạc của Portella có vẻ như thật. Hắn đang lút mình trong chiếc ghế bành và dường như bị giật ra khỏi chỗ ngồi. Hắn nổi cơn thịnh nộ. Cilke không hề bị gây ấn tượng. Theo kinh nghiệm của ông, kẻ có tội dư sức phản ứng với vẻ hoàn toàn vô tội. Ông nói

- Nếu anh đang định cảnh cáo tôi một điều gì đó thì sao không nói thẳng ra?

Đến lúc này Portela nói, giọng đẫm nước mắt

- Kurt, anh mang vũ khí đến đây, tôi đã sờ thấy khẩu súng của anh. Tôi không có vũ khí. Anh có thể giết tôi rồi đổ thừa do tôi kháng cự. Tôi tin anh. Tôi đã đặt vào tài khoản của anh hơn một triệu đôla. Chúng mình là chỗ thân tình. Tại sao tôi phải dở cái ngón Sicily cũ kỹ ấy ra hả? Có kẻ nào đó đang cố đánh động chúng mình đấy. Anh phải thấy rõ điều đó chứ.

- Nó là ai? Cilke hỏi.

Portella trở nên đăm chiêu.

- Đấy chỉ có thể là thằng nhãi Astorre. Nó cứ tưởng mình quan trọng vì đã một lần thoát khỏi tay tôi. Hãy kiểm tra thằng nhãi, còn tôi sẽ có một hợp đồng cho nó.

Cuối cùng Cilke cũng bị thuyết phục.

- Ok, ông nói. Nhưng tôi nghĩ chúng ta phải thận trọng, không được đánh giá thấp thằng nhỏ.

- Đừng lo, Portella nói. Mà này, anh có muốn ăn chút gì không? Tôi có ít thịt bê, mì ống, salad và cả rượu ngon mà.

Cilke cười.

- Tôi tin anh. Nhưng tôi không có thì giờ để mà ăn uống.

Sự thật thì ông không muốn ăn nhậu với một kẻ ông sắp tống vào tù.

Lúc này Astorre đã có đủ thông tin để vạch ra kế hoạch tác chiến. Chàng tin rằng FBI đã nhúng tay vào cái chết của ông Trùm Aprile, và rằng Cilke phụ trách chiến dịch này. Lúc này chàng cũng đã biết ai là kẻ môi giới. Chàng biết Timmona Portella đã đề xuất hợp đồng. Song vẫn còn một vài bí ẩn. Ngài đại sứ, thông qua Nicole, đã đề nghị được cùng các nhà đầu tư nước ngoài mua các nhà băng. Cilke đã ngỏ ý muốn chàng hợp tác để lừa Portella vào một tình huống phạm tội. Đây là những thay đổi đáng lo ngại và nguy hiểm. Chàng quyết định tham khảo ý kiến Craxxi ở Chicago và mời ông Pryor về giúp mình.

Astorre đã yêu cầu ông Pryor sang Mỹ để điều hành các nhà băng của Aprile. Pryor chấp nhận, và thật khác thường, ông đã thay đổi một cách nhanh chóng, từ một quý ngài lịch lãm xứ Ăng - lê thành một vị giám đốc Hoa Kỳ đầy quyền lực. Ông đội mũ phớt thay cho mũ quả dưa, ông bỏ cây dù xếp của mình để cầm một tờ báo gấp. Ông đến cùng vợ và hai người cháu. Vợ ông từ một quý bà đoan trang trở thành một phụ nữ quần lụa áo là hoàn toàn đúng mốt. Hai đứa cháu của ông là dân Sicily nói toàn tiếng Anh hoàn hảo và có bằng kế toán. Cả hai đều là dân mê săn bắn. Họ để những dụng cụ đi săn của mình trên thùng chiếc limousine do một trong số họ cầm lái, thực tế, cả hai là những vệ sỹ của Pryor.

Gia đình Pryor về sống tại một ngôi nhà ở khu Thượng West Side. Ngôi nhà được những toàn tuần tra an ninh của một hãng tư nhân bảo vệ. Nicole, lúc đầu phản đối việc bổ nhiệm này, cũng nhanh chóng bị ông Pryor cuốn hút. Không nghi ngờ gì nữa, ông Pryor có sức hấp dẫn của một người cha đối với phụ nữ. Nicole rất ngưỡng mộ ông. Và hiển nhiên ông có thể điều hành các nhà băng - đến mức Nicole cũng phải kinh ngạc bởi kiến thức của ông về hệ thống ngân hàng quốc tế. Chỉ bằng buôn bán ngoại tệ ông đã làm tăng đáng kể mức lợi nhuận. Astorre vốn biết rằng Pryor là bạn thân của ông Trùm Aprile song nay ông vẫn nói rõ về mối quan hệ của họ.

- Tôi đã bảo bác cậu, ông Pryor nói, rằng các nhà băng sẽ giành được nhiều lợi nhuận mà lại ít rủi ro hơn cái kiểu kinh doanh của ông ấy. Cách làm ăn kiểu cũ như thế đã lỗi thời rồi. Chính phủ quá mạnh và quá quan tâm đến bọn ta. Đã đến lúc phải thay đổi. Các nhà băng là những xưởng đúc tiền nếu ta có kinh nghiệm, có những mối liên hệ cá nhân và chính trị. Không hề khoác lác, tôi có thể nói rằng tôi có được thiện chí của các chính khách Italy cũng là nhờ tiền. Ai cũng trở nên giàu có và chẳng có ai bị thương tổn hay phải ra trước vành móng ngựa. Tôi có thể trở thành một giáo sư đại học dạy mọi người làm sao để trở thành giàu có mà không phạm pháp và không phải dùng tới bạo lực. Cậu chỉ phải nắm chắc luật pháp. Cuối cùng, học vấn là chiếc chìa khoá dẫn đến một nền văn minh cao hơn.

Pryor đang giỡn chơi, tuy nhiên ông có phần nghiêm chỉnh. Astorre cảm thấy có một mối quan hệ mật thiết và sâu sắc với ông và dành cho ông niềm tin tưởng tuyệt đối. Trùm Craxxi và Pryor là những người chàng có thể trông cậy vào. Không chỉ xuất phát từ tình bạn: Cả hai người đó làm giàu nhờ mười nhà băng của Aprile.

Khi Astorre và Pryor đến nhà Trùm Craxxi ở Chicago, chàng ngạc nhiên thấy Pryor và Craxxi ôm hôn nhau vô cùng thân mật. Rõ ràng họ đã quá quen biết nhau.

Craxxi thết họ một bữa ăn gồm có trái cây và pho mát. Trong bữa ăn lão toàn chuyện hàn huyên với Pryor. Astorre lắng nghe với một vẻ hiếu kỳ hiếm thấy. Craxxi và Pryor nhất trí rằng những cách thức làm ăn cũ có quá nhiều nguy hiểm.

- Ai cũng bị cao huyết áp, ai cũng bị bệnh tim, Craxxi nói. Sống theo cách đó thật là kinh khủng. Còn đám lau nhau bây giờ chẳng hề biết đến danh dự. Được chứng kiến chúng bị quét sạch quả là điều đáng mừng.

- Ừ, ông Pryor nói. Nhưng tất cả chúng ta cũng phải bắt đầu ở mọt nơi nào đó chứ. Cứ nhìn vào chúng mình bây giờ mà xem.

Toàn bộ câu chuyện này khiến Astorre ngần ngại trình bày trực tiếp vấn đề. Hai anh già này đang làm cái quái gì thế? Ông Pryor cười thầm cái nhìn của Astorre.

- Đừng lo, chúng tôi còn chưa được phong thánh mà. Và tình thế đang thách thức mối quan tâm của chính chúng tôi. Vì vậy hãy nói cho chúng tôi biết cậu cần gì. Chúng tôi sẵn sàng bàn bạc.

- Tôi cần lời khuyên của các ngài, không thuộc lĩnh vực điều hành, Astorre nói. Đấy là việc của tôi.

- Nếu chỉ là việc báo thù thì ta khuyên cậu hãy quay về với nghiệp cầm ca của cậu. Nhưng ta nhận thấy, cũng như ta hy vọng cậu sẽ làm như vậy, đó là việc bảo vệ gia đình cậu trước mối nguy hiểm, Craxxi nói.

- Cả hai, Astorre nói. Nhưng bác tôi đã cho tôi được tập dượt chỉ để đối phó với tình huống này. Tôi không thể thất hứa với bác ấy.

- Tốt lắm, Pryor nói. Nhưng hãy hình nhận thực tế này: Những gì cậu đang làm là phản tự nhiên của cậu. Hãy cẩn thận với những mạo hiểm mà cậu sẽ phải đương đầu. Đừng để bị lôi cuốn đấy.

Trùm Craxxi ôn tồn nói:

- Vậy ta giúp được gì cho cậu đây?

- Ngài đã nhận định đúng về anh em thằng Sturzo, Astorre nói. Chúng đã thú nhận làm vụ đó và còn khai với tôi đứa môi giới là John Heskow, một kẻ tôi chưa từng nghe tới. Vì thế bây giờ tôi phải tìm ra nó.

- Còn anh em Sturzo? Craxxi hỏi.

- Chúng đã xong rồi.

Hai lão già im lặng. Sau đó Craxxi nói

- Ta biết Heskow. Nó làm nghề môi giới đã hai mươi năm nay. Có những lời đồn về việc nó đã môi giới một số vụ ám sát chính trị nhưng ta không tin. Còn bây giờ, bất kỳ phương pháp nào cậu đã sử dụng để buộc anh em thằng Sturzo lên tiếng cũng sẽ không nên áp dụng với Heskow. Nó là một nhà thương lượng có hạng, và nó sẽ nhận ra rằng nó phải mặc cả để khỏi mất mạng. Nó sẽ biết cậu rất cần những thông tin mà chỉ nó mới có thể cung cấp cho cậu.

- Nó có một đứa con trai và nó hết mực cưng chiều, Astorre nói. Một cầu thủ bóng rổ, thằng nhóc là tất cả đối với Heskow.

- Đấy là một kế sách cũ mà nó sẽ dùng đến, Pryor nói, bằng việc giữ lại những thông tin quan trọng và cung cấp cho cậu những thông tin không quan trọng. Cậu phải hiểu Heskow. Nó suốt đời mặc cả với cái chết. Hãy tìm phương pháp khác.

- Còn nhiều điều tôi muốn biết trước khi tôi có thể đi xa hơn, Astorre nói. Ai đứng sau vụ giết người, và nhất là tại sao? Tôi nghĩ, việc này phải liên quan đến các nhà băng. Có kẻ nào đó đang nhòm ngó các nhà băng.

- Thằng Heskow có lẽ biết ít điều về chuyện đó, Craxxi nói.

- Cái làm tôi lo lắng, Astorre nói, là không có sự theo dõi của cớm và FBI tại nhà thờ vào bữa làm thánh lễ. Anh em Sturzo bảo tôi rằng chúng được bảo đảm sẽ không có việc giám sát ở đó. Tôi có thể tin cớm và FBI đã biết trước về vụ mưu sát không? Có khả năng ấy không?

- Có thể, Craxxi lên tiếng. Và trong trường hợp đó cậu phải thận trọng. Đặc biệt với thằng Heskow.

Pryor lạnh lùng nói

- Astorre này, mục đích cơ bản của cậu là giữ các nhà băng và bảo vệ các con của Don Aprile. Báo thù chỉ là phụ và thậm chí, có thể bỏ đi được.

- Tôi cũng không biết nữa, Astorre lập lờ nói. Tôi còn phải nghĩ đã, chàng nở một nụ cười chân thật với cả hai lão. Nhưng còn phải xem nó tiến triển ra sao đã chứ.

Hai lão già không tin chàng ngay. Trong đời mình họ đã biết và nhận ra chân tướng những gã chíp hôi như Astorre. Họ xem chàng là hiện tượng lại tổ của các trùm Mafia thời kỳ đầu, loại người mà bản thân họ không thích hợp vì thiếu cái uy và ý chí - những phẩm chất chỉ có ở những người vĩ đại: những con người đáng kính cai quản các lãnh địa, dám coi thường luật lệ của nhà nước và chỉ biết đến chiến thắng. Họ nhận ra trong Astorre ý chí, nét quyến rũ và cả sự kiên định đó, những cái mà bản thân chàng cũng không biết. Ngay cả vẻ ngây ngô, đam mê hát hò và ngựa nghẽo cũng không làm thay đổi định mệnh của chàng. Chúng chỉ là những thú vui của tuổi trẻ và bộc lộ tấm lòng nhân hậu của chàng mà thôi.

Astorre kể cho họ nghe việc viên tổng lãnh sự Mariano Rubio và Inzio Tulippa đang cố mua các nhà băng, việc Cilke muốn sử dụng chàng để bẫy Portella. Hai lão già lắng nghe hết sức chăm chú.

- Lần tới hãy gửi chúng cho tôi. Pryor nói. Theo những nguồn tin của tôi thì Rubio là giám đốc tài chính của mạng lưới buôn bán ma tuý toàn cầu.

- Tôi sẽ không bán các nhà băng, Astorre nói. Ông Trùm đã lệnh cho tôi như vậy.

- Tất nhiên, Craxxi nói. Chúng là tương lai và có thể che chở cho cậu. Hãy để ta kể cậu nghe một mẩu chuyện. Trước lúc nghỉ hưu, ta có một người bạn, một nhà kinh doanh ngay thẳng, một niềm tự hào cho xã hội. Ông ấy mời ta tới ăn trưa tại công ty, trong phòng ăn riêng của ông ấy. Ăn xong ông ấy dẫn ta đi tham quan và chỉ cho ta thấy một ngàn chiếc máy tính được các nam nữ thanh niên vận hành. Ông ấy bảo ta

- Căn phòng kia mang về cho tôi mỗi năm một tỷ đôla. Trên đất nước này có gần ba trăm triệu người, và chúng tôi tận tâm làm cho họ mua các sản phẩm do chúng tôi làm ra. Chúng tôi chuẩn bị những xổ số, những giải thưởng và những món tiền thưởng đặc biệt, chúng tôi hứa hẹn đủ điều, tất cả đều hợp pháp để bắt họ nướng tiền vào tất cả các công ty của chúng tôi. Và ngài có biết cái gì mới là quan trọng không? Chúng tôi phải có các nhà băng. Chúng sẽ cung cấp tín dụng cho ba trăm triệu người này để họ tiêu những khoản tiền mà họ không có. Các nhà băng là chìa khoá của thành công, ngài phải nắm các nhà băng trong tay mình.

- Đúng thế, Pryors nói. Và hai bên đều có lợi. Dù lãi suất cao, nhưng những khoản nợ ấy thôi thúc họ, làm cho họ thành đạt hơn.

Astorre cười.

- Tôi mừng vì việc giữ các nhà băng là sáng suốt. Nhưng điều đó cũng chẳng có ý nghĩa gì. Ông Trùm Aprile bảo tôi không được bán. Với tôi thế là đủ. Và việc chúng nó giết bác ấy mới là vấn đề.

Craxxi nói với Astorre một cách cứng rắn

- Cậu không được làm hại thằng Cilke. Chính phủ bây giờ quá mạnh, thừa sức giáng trả những hành động như vậy. Nhưng ta đồng ý với cậu, trong một chừng mực nào đó, nó là một đứa nguy hiểm.

- Bước đi sắp tới của cậu là thằng Heskow, Pryor nói. Nó là nhân vật quan trọng, nhưng một lần nữa cậu phải cẩn thận. Hãy nhớ rằng, cậu có thể nhờ Don Craxxi giúp đỡ và chính tôi cũng có lực lượng. Chúng tôi không hoàn toàn về hưu. Và chúng tôi có quyền lợi trong các nhà băng - đấy là chưa kể đến lòng yêu thương của chúng tôi đối với Don Aprile, người đang yên nghỉ ở cõi vĩnh hằng.

- Ok, Astorre nói. Chúng ta có thể gặp lại sau khi tôi kiếm được thằng Heskow.

Astorre hiểu rõ tình thế nguy hiểm của mình. Chàng biết rằng thành công là rất nhỏ mặc dù chàng đã trừng phạt hai tên sát thủ. Chúng chỉ là một sợi chỉ được kéo ra từ những bí ẩn của vụ ám sát Trùm Aprile. Nhưng chàng trông cậy vào khả năng nghi ngờ cực kỳ chính xác đã ăn sâu vào chàng trong những năm học tập ở Sicily, nơi mà sự phản bội là không giới hạn. Bây giờ chàng phải hết sức thận trọng. Heskow có vẻ là một mục tiêu dễ ngắm, nhưng cũng có thể y chỉ là một cái bẫy.

Có một thứ làm chàng ngạc nhiên. Chàng đã nghĩ chàng sẽ sống hạnh phúc với một chân doanh nhân nhỏ và một ca sỹ nghiệp dư, nhưng bây giờ chàng cảm nhận thấy một niềm hoan hỷ mà trước đây chàng chưa từng biết tới. Có cảm giác rằng chàng đang quay về mọt thế giới mà ở đó chàng là một thành viên. Và rằng chàng có một sứ mệnh: Bảo vệ các con của Trùm Aprile, trả thù cho cái chết của người chàng hằng yêu quý. Chàng đơn giản chỉ phải bẻ gãy ý chí của kẻ thù. Aldo Monza đã đưa từ Sicily tới đây mười người xuất sắc. Theo chỉ thị của Astorre, hắn đã bảo đảm sinh kế cho gia đình của họ suốt đời dù bất cứ điều gì xảy đến với họ.

- Đừng có tin vào lòng biết ơn về những gì đã làm cho con người trong quá khứ, chàng nhớ ông Trùm đã dạy chàng. Cháu phải bắt họ mang ơn vì những gì cháu sẽ làm cho họ trong tương lai. Các nhà băng là tương lai của gia đình Aprile, Astorre và đội quân đang lớn mạnh của chàng. Đó là một tương lai đáng để đấu tranh bảo vệ bằng mọi giá.

Trùm Craxxi cung cấp cho chàng thêm sáu người và lão hoàn toàn chịu trách nhiệm về họ. Astorre đã biến ngôi nhà của mình thành một pháo đài với những hệ thống an ninh hiện đại nhất. Chàng đã chuẩn bị cả một ngôi nhà bí mật làm nơi " trải nệm" phòng khi nhà chức trách muốn tóm chàng vì một lý do bất kỳ nào.

Chàng không sử dụng vệ sỹ. Thay vào đó, chàng trông cậy vào sự nhanh nhẹn của chính mình và sử dụng lực lượng bảo vệ của mình như những trinh sát trên những tuyến đường chàng sẽ đi qua.

Trước mắt chàng chưa sờ đến Heskow. Chàng lấy làm lạ về việc Cilke nổi danh như một người đáng kính, dù rằng Trùm Aprile đã mô tả về ông ta như vậy.

- Có những người đáng kính dành cả đời mình chuẩn bị cho một hành vi phản bội lớn nhất, ông Pryor đã nói thế với chàng. Nhưng bất chấp hết thảy, chàng cảm thấy tự tin. Tất cả những gì chàng sẽ phải làm là sống sót như những mẩu nhỏ trong bộ đồ xếp hình khớp lại với nhau.

Cuộc thử nghiệm thực sự sẽ đến từ những kẻ như Heskow, Portella, Tulippa và Cilke. Chàng sẽ phải đích thân nhúng tay vào máu một lần nữa.

Astorre mất cả tháng trời để tính toán một cách chính xác phải đối xử với John Heskow như thế nào. Y sẽ chết khiếp, quỷ quyệt, dễ khử nhưng khó mà moi được thông tin ở y. Dùng con trai y làm áp lực thì quá nguy hiểm - nó sẽ buộc Heskow âm mưu chống lại chàng trong khi vẫn vờ hợp tác. Chàng quyết định sẽ không để Heskow biết việc anh em Sturzo đã khai với chàng chính Heskow là tài xế trong vụ mưu sát. Điều đó có thể là y sợ mất mật.

Trong lúc đó, chàng thu thấp thông tin cần thiết về thói quen hàng ngày của Heskow. Dường như y là một kẻ ôn hoà dành hết tình cảm của mình vào việc trồng hoa rồi đem bán buôn cho những cửa hàng, thậm chí đôi khi y còn đích thân bán ở bãi đỗ xe lề đường ở Hamptons. Thú vui duy nhất của y là tới xem đội bóng rổ của con trai thi đấu. Y theo dõi lịch thi đấu của đội Villanova một cách đều đặn.

Một đêm thứ bảy của tháng Giêng Heskow dự định đi xem trận đấu giữa hai đội Villanova và Temple tại Madison Square Garden ở New York. Trước khi rời khỏi nhà y không quên bấm nút hệ thống báo động tinh xảo. Y luôn luôn thận trọng từng ly từng tý trong sinh hoạt hàng ngày, luôn luôn tin rằng y đã dự phòng rủi ro có thể. Và niềm tin của y là cái Astorre muốn dập tắt ngay khi cuộc gặp gỡ của họ vừa bắt đầu.

John Heskow lái xe vào thành phố và ăn tối một mình tại một nhà hàng Trung Hoa - gần Garden. Mỗi khi đi đây đó y luôn luôn ăn cơm Tầu vì đó là món y không thể tự nấu ngon hơn. Y thích người Trung Hoa. Họ lưu tâm đến công việc của mình, không bàn chuyện phiếm hay tỏ thái độ săn đón. Và chưa bao giờ y thấy một sai sót trong phiếu tính tiền. Y luôn kiểm tra cẩn thận vì thường gọi nhiều món ăn.

Đêm nay y đặc biệt thích món vịt Bắc Kinh, tôm nước ngọt và món sốt tôm hùm Quảng Đông. Y gọi cả một suất cơm rang, vài chiếc bánh bao nướng nhân trái cây và sườn heo tẩm gia vị. Y kết thúc bữa ăn bằng món kem trà xanh, món này phải tập mới thưởng thức được, nhưng nó chứng tỏ rằng y là người sành các món ăn Phương Đông.

Khi y đến Garden, khán đài mới kín một nửa. Y tìm chỗ ngồi ở giữa khu vực sân bóng.

Trận đấu không mấy hấp dẫn. Đội Temple đè bẹp đội Villanova, nhưng Jocko là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng trong trận đấu. Cuối cùng y quay lại phòng thay đồ.

Con trai y ôm chầm lấy y.

- Ồ ba, con rất mừng vì ba đã đến. Ba có muốn đi chơi rồi ăn với tụi con không?

Heskow rất hài lòng. Thằng con y là một đàn ông thực sự rồi. Đương nhiên lũ nhóc này đâu có muốn một anh già như y lẵng nhẵng bám theo chúng suốt đêm. Chúng muốn say sưa, chúng muốn vui vẻ, và có lẽ cả khoản tươi mát nữa.

- Cảm ơn con, Heskow nói. Ba ăn tối rồi, và ba còn phải về nhà. Đêm nay con chơi tuyệt quá. Ba tự hào về con. Cứ đi chơi đi, chúc con vui vẻ. Y hôn tạm biệt con và tự hỏi sao y lại may mắn đến thế. Ừ, con trai y có một người mẹ tốt, mặc dầu ả là một con vợ lăng loàn.

Heskow chỉ mất một tiếng đồng hồ là về đến nhà ở Brightwaters - các đại lộ ở Long Island hoàn toàn vắng ngắt vào giờ đó. Y mệt đừ khi về tới nơi, tuy nhiên trước khi vào nhà y không quên kiểm tra khu nhà trồng hoa để bảo đảm rằng nhiệt độ và độ ẩm đều tốt.

Dù kính trên mái nhà trồng hoa phản chiếu ánh trăng, nhưng những bông hoa vẫn có một vẻ đẹp hoang dã đáng sợ, hoa đỏ lại có màu đen, hoa trắng trông như những quầng hơi nước ma quái. Y thích nhìn chúng, nhất là khi y chuẩn bị đi ngủ.

Y tản bộ trên lối đi rải sỏi về nhà và mở khoá cửa. Vào trong nhà y nhanh nhẹn nhấn những con số trên tấm panô để tắt hệ thống báo động rồi đi vào phòng ngủ.

Bỗng y bủn rủn cả chân tay. Hai người đàn ông đang đợi y. Y nhận ra Astorre. Y quá hiểu cái chết và nhận ra nó trong nháy mắt. Bọn này sứ giả của thần chết đây.

Tuy nhiên y phản ứng với một phương pháp tự vệ hoàn hảo.

- Làm thế đéo nào mà hai đứa mày vào được đây, và tụi mày muốn cái quái gì hả?

- Đừng hốt hoảng, Astorre nói. Chàng tự giới thiệu, bổ xung thêm chàng là cháu của ông Trùm Aprile quá cố.

Heskow cố trấn tĩnh. Trước đây y đã từng rơi vào những tình huống khó khăn nhưng y luôn luôn bình an vô sự. Y ngồi xuống ghế xô pha nhằm mục đích để tay lên tay vịn và vươn tới chỗ giấu khẩu súng.

- Nào tụi mày muốn gì?

Trên mặt Astorre rạng rỡ nụ cười thích thú như trêu ngươi Heskow. Y đang chờ thời cơ thuận lợi. Thế rồi y bật ngón tay mở chiếc tay vịn và với lấy khẩu súng. Trong hộc rỗng không.

Đúng lúc đó ba chiếc xe hơi xuất hiện ở lối đi, đèn pha rọi vào phòng. Thêm hai người đàn ông nữa bước vào.

Astorre vui vẻ nói

- Tôi không hề đánh giá thấp anh, John ạ. Chúng tôi đã lục soát ngôi nhà. Chúng tôi tìm thấy một khẩu súng trong ấm pha cà phê, một khẩu nữa buộc dưới giường, một khẩu trong thùng thư giả, và một khẩu trong nhà tắm dưới cái chậu. Chúng tôi có bỏ sót khẩu nào không hả?

Heskow không trả lời. Tim y lại đập thình thịch. Y có thể thấy nó sắp phòi ra ngoài lồng ngực.

- Anh đang trồng cái quái gì trong khu nhà trồng hoa kia thế? Astorre cười hỏi. Cây thuốc phiện, cây gai dầu, cây cô ca, cây gì hả? Tôi đã nghĩ anh sẽ chẳng thèm bước vào nhà.

- Chấm dứt vòng vo với tao đi cho rồi, Heskow khẽ nói.

Astorre ngồi vào chiếc ghế tựa đối diện với Heskow rồi thảy hai chiếc ví hiệu Gucci - một màu vàng, một màu nâu - lên trên chiếc bàn uống cà phê giữa hai người.

- Xem đi, chàng nói.

Heskow với lấy và mở chúng ra. Cái đầu tiên đập vào mắt y là những tấm bằng lái xe của anh em Sturzo có dán ảnh của chúng. Dịch vị trào lên họng y chua lòm làm y phát buồn nôn.

- Chúng cắt đứt liên hệ với anh rồi, Astorre nói. Anh là kẻ môi giới vụ Don Aprile. Chúng còn nói anh đã bảo đảm sẽ không có sự theo dõi của NYPD và FBI tại buổi thánh lễ.

Heskow rà lại tất cả những gì đã xảy ra. Dù anh em Sturzó đã toi mạng người ta cũng không giết y được. Y cảm thấy hơi thất vọng vì sự phản bội đó. Nhưng hình như Astorre không hề biết y là kẻ lái xe. Vậy là sẽ có đàm phán, cái quan trọng nhất trong cuộc đời y.

Heskow nhún vai

- Tao không biết mày đang nói gì.

Aldo Monza vẫn cảnh giác lắng nghe, mắt dán vào Heskow. Thế rồi hắn xuống bếp và quay lại vơi hai tách cà phê đen. Hắn đưa một tách cho Astorre, tách còn lại cho Heskow. Hắn nói:

- Xem này, ông bạn có cả cà phê Italy cơ đấy - khá thật. Heskow ném cho hắn một cái nhìn khinh bỉ.

Astorre uống cà phê rồi chậm rãi nói với Heskow:

- Tôi nghe nói anh là một người thông minh, rằng đó là lý do duy nhất khiến anh chưa mất mạng. Vì vậy hãy nghe tôi và nghĩ cho kỹ. Tôi là người truy lùng tội phạm của Don Aprile. Tôi nắm tất cả các nguồn lực mà ông có trước khi về hưu. Anh biết ông ấy Aprile, anh cũng biết việc đó nói lên điều gì. Anh sẽ không đời nào dám làm kẻ môi giới, nếu ông không về hưu. Đúng thế chứ?

Heskow không trả lời. Y tiếp tục quan sát Astorre, cố gắng xét đoán chàng.

- Anh em thằng Sturzo đã tiêu rồi, Astorre tiếp tục. Anh có thể theo chân chúng. Nhưng tôi có một đề nghị, và ở đây anh phải hết sức tỉnh táo. Trong vòng ba mươi phút nữa anh sẽ phải thuyết phục được tôi rằng anh đứng về phía tôi, rằng anh sẽ hành động như người đại diện của tôi. Nếu không, anh sẽ được chôn dưới những gốc hoa trong nhà kính. Bây giờ, để tôi nói với anh những điều dễ chịu hơn. Tôi sẽ không lôi thằng con anh vào vụ này. Tôi không làm thế, hơn nữa, một hành động như thế sẽ làm anh trở thành kẻ thù của tôi và sẵn sàng phản tôi. Nhưng anh phải hiểu rằng tôi là người duy nhất giữ được tính mạng cho con trai anh. Kẻ thù của tôi muốn tôi chết. Nếu chúng thành công, bạn bè tôi sẽ không tha cho con anh. Số phận của nó gắn liền với tôi.

- Vậy cậu muốn gì? Heskow hỏi.

- Tôi cần thông tin, Astorre đáp. Anh cứ nói. Nếu tôi hài lòng thì chúng ta sẽ có một hợp đồng. Nếu tôi không hài lòng, anh sẽ chết. Vấn đề cấp bách của anh là vẫn còn sống đêm nay. Bắt đầu đi.

Heskow không mở miệng ít nhất là năm phút. Trước tiên y đánh giá Astorre - một thằng bảnh trai thế này, không hung ác hay đáng sợ. Nhưng anh em Sturzo đã ngoẻo đấy thôi. Rồi còn cả việc đột nhấp vào nhà qua hệ thống an ninh và nẫng hết súng ống nữa. Đáng ngại nhất Astorre còn chờ cho y với lấy khẩu súng không tồn tại. Thế thì đây không phải là trò hù doạ rồi, lại càng không phải là trò hù doạ mà y có thể thách thức. Cuối cùng Heskow uống hết tách cà phê và đưa ra quyết định của mình với thái độ dè dặt.

- Tôi phải đứng về phía cậu, y nói với Astorre. Tôi phải tin tưởng cậu để làm những việc đúng đắn. Người thuê tôi làm môi giới và trả tiền cho tôi là Timmona Portella. Tôi đã hối lộ để NYPD không theo dõi. Tôi là tay hòm chìa khoá của Timmona. Tôi đã trả thanh tra cảnh sát New York Di Benedetto năm trăm ngàn và cấp phó của y, Aspinella Washington, hai trăm năm mươi ngàn đô. Về sự bảo đảm của FBI, Portella bảo tôi rằng hắn chi phối được thằng cha Cilke, sếp FBI ở New York. Chính thằng Cilke đã bật đèn xanh cho vụ giết ông Trùm.

- Trước đây anh có làm việc cho Portella không?

- Ôi chao, có chứ. Hắn buôn lậu ma tuý ở New York nên có nhiều cảm tình đối với tôi. Trong liên minh của ông Trùm hắn không được mến mộ. Tôi chẳng có liên quan gì. Thế đấy.

- Tốt lắm, Astorre nói. Vẻ mặt chàng rất chân thành. Bây giờ tôi muốn anh phải cẩn thận. Vì chính quyền lợi của anh đấy. Anh còn muốn nói thêm điều gì với tôi không?

Và ngay lập tức Heskow hiểu y chỉ cách cái chết trong gang tấc. Y tin vào bản năng của mình. Y cười gượng gạo.

- Còn một việc nữa, y bổ xung. Ngay bây giờ. Tôi có một hợp đồng với Portella về cậu đấy. Tôi sẽ hối lộ nửa triệu cho hai thám tử để hạ cậu. Chúng tới tóm cậu, cậu chống lại và thế là chúng bắn cậu luôn.

Astorre có vẻ bối rối.

- Làm gì phải phức tạp và tốn kém đến thế? Chàng hỏi. Tại sao không thuê một thằng giết mướn?

Heskow lắc đầu.

- Người ta đánh giá cậu cao hơn thế. Sau cái chết của ông Trùm, một vụ giết người như thế sẽ thu hút quá nhiều sự quan tâm. Cậu là cháu ông ấy. Giới truyền thông sẽ đổ xô vào. Làm theo cách này che đậy được.

- Anh đã trả tiền cho chúng chưa?

- Chưa, Heskow trả lời. Tụi này phải gặp nhau đã.

- Được lắm, Astorre nói. Cứ tổ chức gặp gỡ mà không có hối lộ gì hết. Cho tôi biết trước chi tiết. Còn một việc nữa. Sau cuộc gặp không được đi cùng chúng.

- Chó chết, Heskow nói. Thế là thế nào hả? Ở đấy có nhiều cớm lắm.

Astorre ngã người trên ghế.

- Là thế đấy, chàng nói. Chàng đứng dậy thân tình ôm lấy Heskow. Hãy nhớ rằng, chúng ta phải giữ cho nhau được sống.

- Tôi có thể lấy đi một ít tiền không? Heskow hỏi.

Astorre cười.

- Không. Thế mới tuyệt chứ. Bọn cớm giải thích nửa triệu đô chúng có trong người ra sao hả?

- Chỉ hai mươi ngàn thôi vậy, Heskow đề nghị.

- Cũng được, Astorre hoà nhã nói. Nhưng không hơn đâu nhé. Chỉ một chút quà cáp thôi.

Lúc này tình hình rất cấp bách đòi hỏi Astorre phải gặp lại Trùm Craxxi và Pryor để lắng nghe lời khuyên của họ cho kế hoạch của chàng.

Nhưng tình hình đã thay đổi, Pryor đòi mang hai đứa cháu đến Chicago làm vệ sỹ. Và khi đến ngoại ô Chicago họ thấy điền trang hiện đại cảu Craxi đã biến thành một pháo đài. Con đường dẫn vào nhà bị những bót canh với đám tay chân hết sức côn đồ án ngữ. Một chiếc xe thông tin đỗ trong vườn cây ăn quả. Có ba gã trực cửa điện thoại đồng thời kiểm tra thẻ thông hành của khách.

Eric và Roberto, hai đứa Pryor gọi bằng cháu, là những gã trai chắc nịch và cường tráng, chuyên gia trong lĩnh vực vũ khí và rất mực tôn sùng bác mình. Họ hình như cũng biết chuyện của Astorre ở Sicily và tỏ ra rất kính nể chàng, làm giúp chàng từ những việc nhỏ nhất. Họ mang hành lý của chàng lên máy bay, rót rượu cho chàng trong bữa tối, họ trả khoản tiền boa và mở cửa cho chàng để chàng hiểu họ coi chàng là một người vĩ đại. Astorrre cố làm cho cả hai thoải mái, nhưng họ không lần nào tỏ ra quá trớn.

Những người bảo vệ Trùm Craxxi không lịch sự được như vậy. Chúng là những kẻ nhã nhặn nhưng cứng nhắc, hoàn toàn tập trung vào công việc của mình. Và tất cả đều mang vũ khí.

Tối hôm đó, khi Trùm Craxxi, Pryor và Astorre đã dùng xong bữa và đang ăn tría cây tráng miệng, Astorre hỏi Craxxi

- Tại sao an ninh lại nghiêm ngặt thế này?

- Chỉ để phòng xa thôi, chủ nhà thản nhiên trả lời. Ta đã nghe một số tin đáng lo ngại. Kẻ thù cũ của ta, thằng Inzio Tulippa đã đến Hoa Kỳ. Nó là đứa tham lam, và rất ẩu, vì thế cứ chuẩn bị sẵn là thượng sách. Nó đến để họp bàn với ông bạn Timmona Portella của chúng ta. Chúng phân chia lợi nhuận từ ma tuý và triệt phá kẻ thù của chúng. Tốt nhất là phải sẵn sàng. Nhưng lúc này cậu đang nghĩ gì, hả Astorre?

Astorre trình bày với cả hai những thông tin chàng đã nghe được và việc chàng đã xoay chuyển Heskow. Chàng kể cho họ về Portella, Cilke và hai thám tử.

- Bây giờ tôi phải hành động, chàng nói. Tôi cần một chuyên gia đánh bom và ít nhất mười người xuất sắc. Tôi biết cả hai ngài đều có thể giúp tôi. Song.... Chàng cẩn thận gọt vỏ quả lê màu vàng hơi xanh chàng đang ăn. Các ngài hiểu việc này sẽ nguy hiểm ra sao và tôi không muốn liên quan quá nhiều.

- Nhảm nhí, ông Pryor nóng này nói. Chúng tôi có được cuộc sống thế này là nhờ Don Aprile. Tất nhiên chúng tôi sẽ giúp. Nhưng hãy nhớ rằng, đây không phải là cuộc trả thù. Đây là vấn đề tự vệ. Vì vậy cậu không được làm hại Cilke. Chính phủ Liên bang sẽ làm cho cuộc sống của chúng ta vô cùng khốn đón đấy.

- Nhưng thằng đó phải bị dằn mặt, Trùm Craxxi nói. Nó sẽ luôn luôn là một mối nguy hiểm. Tuy nhiên, phải căn nhắc việc này. Cứ bán quách các nhà băng và tất cả mọi người đều vui vẻ.

- Tất cả mọi người trừ tôi và người nhà của tôi. Astorre nói.

- Đó là cái phải cân nhắc, ông Pryor lên tiếng. Tôi sẵn sàng hy sinh cổ phần của mình tại nhà băng cùng Don Craxxi, dù tôi thừa biết nó sẽ trở thành một gia sản lớn. Nhưng điều quan trọng vẫn là một cuộc sống yên bình.

- Tôi không bán các nhà băng, Astorre nói. Chúng đã giết bác tôi thì chúng phải trả giá, chúng không thể đạt được mục đích. Tôi không thể sống trong một thế giới, nơi vị trí của tôi được ban cho bởi lòng nhân từ của thiên hạ. Bác tôi đã dạy tôi điều đó.

Astorre ngạc nhiên, quyết định của chàng đã làm cho Trùm Craxxi và Pryor trông dễ chịu hẳn ra. Họ cố giấu nụ cười. Chàng nhận ra rằng hai lão già này, dù đang ở đỉnh cao quyền lực, đều trọng nể chàng, họ nhận thấy ở chàng những cái họ không thể nào có được.

Craxxi nói,

- Bọn ta biết bổn phận của cậu đối với Don Aprile, cầu cho hương hồn ông ấy được an nghỉ và bọn ta cũng biết bổn phận của mình đối với cậu. Nhưng lưu ý điều này : Nếu cậu hấp tấp, và nếu có chuyện gì xảy ra với cậu thì bọn ta buộc lòng phải bán các nhà băng.

- Phải đấy, ông Pryor nói. Phải thận trọng.

Họ tiếp tục bữa tráng miệng. Trùm Craxxi hình như chìm trong suy nghĩ. Sau đó lão nói

- Tulippa là trùm ma tuý thế giới. Portella là bạn hàng của nó. Chúng cần phải có nhà băng để rửa tiền.

- Vậy thì làm sao Cilke nhập bọn với chúng được?

- Ta không biết, Craxxi nói. Mặc dù vậy, cậu không được hại Cilke.

- Làm như thế sẽ là một thảm hoạ, Pryor phụ hoạ.

- Tôi sẽ ghi nhớ điều đó, Astorre nói.

Nhưng nếu Cilke thực sự có tội thì chàng còn có thể làm gì?

Trước khi đưa con đi ngủ thám tử Aspinella Washington phải biết chắc rằng đứa con gái tám tuổi của mình đã ăn khuya, đã làm bài tập về nhà và cầu nguyện. Mụ rất mực yêu thương con và từ lây đã đẩy người cha ra khỏi cuộc đời cô bé. Cô giữ trẻ, con gái một cớm mặc đồng phục, tới nàh lúc 8 giờ tối. Aspinella hướng dẫn cô cách sử dụng thuốc cho con gái mình và nói mụ sẽ quay về trước nửa đêm.

Sau đó chuông báo hiệu ngoài cổng vang lên và Aspinella chạy xuống cầu thang. Mụ chẳng bao giờ sử dụng thang máy. Paul Di Benedetto đang đợi trong chiếc Chevrolet không mác màu nâu vàng. Mụ nhảy lên xe và buộc dây an toàn. Y là một tài xế đêm mệt mỏi.

Di Beneletto đang hút một điếu xì gà dài nên Aspinella mở cửa kính.

- Đi cỡ một tiếng đấy, y nói. Chúng ta phải nghĩ lại việc này. Y biết đây là một bước nhảy dài cho cả hai. Việc đầu tiên là nhận lấy khoản hối lộ và tiền buôn bán ma tuý, việc thứ hai là thực hiện một vụ giết người.

- Sao lại phải nghĩ lại? Aspinella hỏi. Chúng ta nhận nửa triệu để hạ một thằng đáng phải nằm trong biệt giam tử tội. Anh biết tôi có thể làm gì với một phần tư triệu chứ?

- Không, Di Benedetto nói. Nhưng tôi biết tôi có thể làm gì. Khi về hưu, tôi sẽ mua một toà nhà thật oách ở Miami. Nhớ rằng, chúng ta sẽ phải chịu đựng việc này đấy.

- Nhận hối lộ từ ma tuý giống như đi trên dây vậy. Aspinella nói. Tiên sư chúng nó.

- Đúng thế, Di Benedetto tán thành. Chúng ta phải kiểm tra xem thằng Heskow có mang tiền theo đêm nay không, Phải bảo đảm rằng nó không cho chúng ta leo cây.

- Nó luôn luôn đáng tin cậy, Aspinella nói. Nó là ông già Noel của tôi mà. Nếu nó không có một bọc tiền lớn thì nó sẽ là một ông già chết.

Di Benedetto cười ngất.

- Cưng ơi, cô đang bám theo thằng Astorre vậy mà cô có thể tống khứ nó đi ngay vậy sao?

- Vâng. Tôi đã đặt thằng Astorre dưới sự giám sát rồi. Tôi biết kho macaroni là nơi có thể tóm được nó. Đêm nào nó cũng làm việc rất khuya.

- Cô đã có tang vật để gài nó rồi à? Di Benedetto hỏi.

- Tất nhiên, Aspinella đáp. Nếu nó không mang theo tang vật tôi cũng chẳng thèm quan tâm.

Họ đi trong im lặng cỡ mười phút. Sau đó Di Benedetto thản nhiên hỏi

- Ai sẽ bắn.

Aspinella ném cho y một cái nhìn thích thú.

- Ồ Paul, anh đã mài đũng quần vào bàn giấy suốt mười năm qua. Anh đã thấy sốt cà chua nhiều hơn máu. Tôi sẽ bắn. Mụ có thể thấy y thờ phào nhẹ nhõm. Đàn ông chỉ là một lũ chó dái vô dụng.

Một lần nữa họ rơi vào im lặng. Cả hai mải suy nghĩ về những gì đã đưa đẩy họ đến bước ngoặt này của cuộc đời. Ba mươi năm trước, khi còn là một thanh niên, Di Benedetto đã gia nhập lực lượng cảnh sát. Sự tha hoá của y diễn ra từ từ không cách gì tránh nổi. Y khởi sự bằng những ảo tưởng về mình, y sẽ được kính trọng và ngưỡng mộ vì dám hy sinh cả cuộc đời mình để bảo vệ mọi người. Nhưng rồi thời gian đã làm phai mờ điều đó. Đầu tiên là những khoản lót tay của những kẻ bán hàng rong trên đường phố và những cửa hiệu nhỏ. Tiếp đó là vụ giúp một gã thoát khỏi trọng tội. Đó dường như là một bước nhỏ dẫn đến việc nhận tiền của những kẻ buôn bán ma tuý cỡ bự. Cuối cùng là của Heskow, kẻ rõ ràng đại diện cho Timmona Portella, trùm Mafia lớn nhất còn lại ở New York.

Đương nhiên, luôn luôn hiện hữu một lý do bào chữa thuyết phục. Con người ta có thể nhận mọi thứ hối lộ. Y thấy những quan chức cấp cao đang trở nên giàu có abừng tiền lại quả của những vi phạm buôn bán ma tuý, và những viên chức thấp hơn thậm chí còn hủ bại hơn, cuối cùng, y còn phải lo cho ba đứa con ăn học lên đại học. Nhưng trên hết vẫn là thái độ vô ơn của những người mà y bảo vệ. Các nhóm tự do cá nhân sẽ phản đối hành vi tàn bạo của cảnh sát nếu anh tẩn một tên buôn lậu da đen ở nơi này hay nơi khác. Giới truyền thông sẽ ỉa vào đồn cảnh sát mỗi khi có cơ hội. Dân chúng kiện cáo cả cớm. Cớm thì bị thải hồi sau nhiều năm phục vụ, bị cúp cả lương hưu, thậm chí còn ra toà. Bản thân y đã mọt lần phải ra toà rồi bị kỷ luật vì bị buộc tội đã tách riêng các tội phạm da đen. Y biết y không có thành kiến về vấn đề chủng tộc. Có phải đấy là lỗi của y khi hầy hết tội ở New York là dân da đen? Lẽ ra người ta phải làm gì - cấp cho chúng giấy phép đi ăn cắp như biện pháp giúp đỡ những người bị thiệt thòi hay bị đối xử bất công chắc? Y đã cất nhắc đám cớm da đen. Ở cơ quan y là cố vấn của Aspinella, tạo điều kiện để mụ thăng tiến bằng việc gieo kinh hoàng cho những tên tội phàm cùng màu da với mụ. Và người ta không thể khép mụ vào tội phân biệt chủng tộc. Nói tóm lại, xã hội ỉa vào cớm, những người bảo vệ họ. Tất nhiên, trừ phi họ bị giết khi đang thi hành công vụ. Làm một cớm trung thực chẳng được lợi lộc gì. Tuy nhiên, y không hề nghĩ việc này sẽ dẫn đến tội giết người. Xét cho cùng, y vẫn an toàn, ở đây chẳng có mạo hiểm, ở đây có rất nhiều tiền, và nạn nhân lại là kẻ giết người. Nhưng dù sao...

Aspinella cũng đang tự hỏi bẳng cách nào cuộc sống của mụ lại đi đến một tình trạng rối beng như vậy. Có Chúa chứng giám, mụ đã đấu tranh chống lại thế giới ngầm với một niềm say mê và nghiêm khắc, những phẩm chất đã làm mụ trở thành một huyền thoại của New York. Chắc chắn mụ đã nhận những khoản tiền hối lộ. Mụ chỉ bắt đầu cuộc chơi muộn hơn, khi Di Benedetto thuyết phục mụ nhận tiền buôn bán ma tuý. Đã nhiều năm nay y là cố vấn của mụ và vài tháng nay kiêm luôn cả người tình - không đến nỗi tồi, chỉ như một con gấu vụng về sử dụng tình dục như một phần của động cơ ngủ đông.

Nhưng sự tha hoá của mụ thực ra đã bắt đầu ngay từ ngày làm việc đầu tiên sau khi được giới thiệu làm thám tử. Tại phòng giải trí của đồn, một cớm da trắng có tính độc đoán tên là Gangee đã vui vẻ cợt nhả với mụ.

- Này, Aspinella, gã nói. Với cái trôn của cô và cơ bắp của tôi, chúng ta sẽ quét sạch tội ác trong thế giới văn minh đấy. Đám cớm, trong đó có vài đứa da đen phá lên cười.

Aspinella nhìn gã lạnh lùng và nói

- Anh sẽ không bao giờ là bồ của tôi. Một thằng đàn ông dám xúc phạm một phụ nữ chỉ là một thằng bé dái.

Gangee cố giữ vẻ thân mật.

- Cái nhỏ bé của thằng này có thể lấp đầy cái trôn khổng lồ của cô bất cứ khi nào cô muốn thử. Còn tôi dù sao tôi cũng muốn thử vận may của mình.

Aspinella ngoảnh cái mặt lạnh tanh của mụ về phía gã

- Da đen còn hơn một thằng hèn, mụ nói. Đi mà thủ dâm, người đâu mà đần như cứt.

Cả phòng dường như chết điếng bởi ngạc nhiên. Mụ đã làm Gangee đỏ mặt. Một thái độ coi thường độc địa như vậy thể nào cũng dẫn tới ẩu đả. Gã tiến về phía mụ, thân hình lực lưỡng của gã đang vượt qua khoảng trống.

Aspinella mặc đồng phục. Mụ rút súng nhưng không chĩa vào gã.

- Cứ thử xem, rồi tao sẽ thổi bay hai hòn dái của mày, mụ nói, và trong phòng không ai dám nghi ngờ mụ sẽ bóp cò. Grangee dừng lại và lắc đầu ghê tởm.

Vụ xô xát, tất nhiên được báo cáo. Về phần Aspinella, đấy là một hành động phạm luật nghiêm trọng. Nhưng Di Benedetto đủ khôn ngoan để biết rằng một cuộc kiểm tra của ngành sẽ là một thảm hoạ chính trị đối với NYPD. Y dập tắt toàn bộ sự việc và có ấn tượng với Aspinella đến nỗi y điều mụ về nhóm của mình và trở thành cố vấn của mụ.

Việc có ít nhất ba cớm da đen ở trong phòng và không một ai trong số họ đứng lên bảo vệ mụ đã tác động đến mụ nhiều hơn bất cứ điều gì. Thực vậy, họ cười cợt với những trò đùa của tên cớm da trắng. Mối liên kết về giới mạnh hơn mối liên kết về chủng tộc.

Sau đó việc làm của mụ đã chứng mimh rằng mụ là một cớm cừ nhất trong đơn vị. Mụ thẳng tay với bọn buôn bán ma tuý, buôn lậu, cướp có vũ trang. Mụ không dung tha cho chúng, dù là da trắng hay da đen. Mụ bắn chúng, nện chúng, sỉ nhục chúng. Những lời buộc tội được đưa ra chống lại mụ nhưng chẳng ăn thua gì và công trạng của mụ đã biện minh cho mụ. Tuy nhiên những lời buộc tội đã khơi ngòi cho cơn thịnh nộ của mụ chống lại chính xã hội. Làm sao người ta dám chất vấn mụ khi mụ bảo vệ họ khỏi đám cặn bã xấu xa nhất trong thành phố? Di Benedetto ủng hộ mụ hoàn toàn.

Có một tình huống tế nhị khi mụ bắn chết hai thằng choai choai trấn lột mụ trên phố Harlem sáng trưng, ngay bên ngoài căn hộ của mụ. Một thằng đấm vào mặt mụ, còn thằng kia giật lấy cái ví của mụ. Aspinella rút súng và hai thằng nhãi sợ chết khiếp. Rất từ từ mụ bắn cả hai đứa. Không chỉ vì một cú đấm vào mặt, mà còn để gửi một lời cảnh cáo không được giở trò trấn lột trong khu vực nhà mụ. Các nhóm đòi quyền tự do dân sự tổ chức một cuộc phản đối, nhưng Sở phán quyết rằng mụ đã sử dụng sức mạnh hợp pháp.

Chính Di Benedetto đã thuyết phục mụ nhận khoản hối lộ đầu tiên về một hợp đồng mà tuý rất quan trọng. Y thân mật như một ông chú đáng yêu.

- Aspinella, y nói, ngày nay cớm đếch phải lo lắng nhiều về hòn tên mũi đạn. Nhưng phải dè chừng các nhóm đòi quyền tự do dân sự, các công dân và lũ tội phạm đòi bồi thường thiệt hại. Phải dè chừng các thủ lĩnh chính trị trong ngành, họ sẵn sàng lôi cô ra trước vành móng ngựa để hốt phiếu bầu. Cô chỉ là một nạn nhân bình thường liệu cô có chấp nhận kết cục như đám con nghiện đáng thương trên đường phố, những kể chuyên hiếp dâm, cướp bóc và trấn lột hay không? Hay cô sẽ tự bảo vệ mình? Vậy thì làm tới đi. Cô sẽ nhận được sự che chở nhiều hơn từ những nhân vật có thế lực trong ngành, những người đã bị mua đứt. Sau năm sáu năm nữa cô có thể về hưu với một đống tiền. Và cô sẽ chẳng phải lo lắng về việc phải ra toà vì tội làm rối vài sợi tóc của một thằng trấn lột.

Vậy là mụ đã được đưa đường chỉ lối. Dần dần mụ say mê với việc gửi tiền hối lộ vào những tài khoản bí mật. Những cũng không vì thế mụ thả lỏng đám tội phạm.

Nhưng vụ này thì khác. Đây là một vụ giết người. Astorre là một thành viên quan trọng của Mafia đáng bị loại bỏ. Thật khôi hài, lúc đó mụ đang thi hành công vụ. Tuy nhiên vụ này ít rủi ro mà thù lao lại hậu hĩnh. Một phần tư triệu cơ mà.

Di Benedetto lái xe rời đại lộ Southem State và ít phút sau y dừng lại tại bãi đỗ xe của một khu buôn bán. Tất cả các gian hàng đã đóng cửa, kể cả tiệm bánh pizza phô trương bảng quảng cáo bằng ánh đèn nêông đỏ nơi cửa sổ. Cả hai bước xuống xe.

- Đây là lần đầu tiên tôi thấy một hiệu bánh pizza đóng cửa sớm như vậy, Di Benedetto nói. Mới có 10 giờ đêm.

Y dẫn Aspinella đến cửa ngách của tiệm bánh pizza. Cửa không khoá. Họ leo lên mười hai nhịp cầu thang. Ở đó có một căn hộ hai phòng ở bên tay trái và một phòng ở bên tay phải. Y làm hiệu, và Aspinella kiểm tra căn hộ bên tay trái trong khi y đứng gác. Sau đó họ bước vào căn phòng bên tay phải. Heskow đang chờ họ.

Heskow đang ngồi ở cuối một chiếc bàn gỗ dài với bốn chiếc ghế gỗ ọp ẹp vây quanh. Trên bàn có một chiếc túi vải len mịn kích thước bằng một bao cát tập đấm và có vẻ đầy ự. Heskow bắt tay Di Benedetto và gật đầu chào Aspinella. Mụ nghĩ mụ chưa từng thấy một người da trắng nào nom trắng như vậy.

Căn phòng chỉ có một bóng đèn tròn lờ mờ và không cửa sổ. Họ ngồi quanh bàn, Di Benedetto chồm lên vỗ vỗ vào cái túi.

- Đủ cả chứ? Y hỏi.

- Nhất định rồi. Heskow run rẩy trả lời. Ừ, một kẻ mang tới 500000 đô trong một chiếc túi vải len căng thẳng cũng phải thôi, Aspinella nghĩ. Tuy nhiên mụ vẫn quan sát căn phòng xem nó có bị đặt máy nghe trộm hay không.

- Cho xem thử, Di Benedetto đề nghị.

Heskow nới lỏng sợi dậy buộc quanh miệng túi và đổ ra một nửa. Khoảng hai mươi bó tiền được cột bằng dây cao su trút lên bàn.

Hầu hết là các bó tiền một trăm đô, không có loại năm mươi đô và hai bó tiền hai mươi đô.

Di Benedetto thở dài.

- Đ. mẹ những tờ hai mươi đô. Y nói. Thôi được, bỏ chúng vào túi.

Heskow bỏ những cọc tiền vào túi rồi cột lại sợi dây.

- Khách hàng của tôi đề nghị vụ này phải làm càng nhanh càng tốt.

- Trong vòng hai tuần, Di Benedetto nói.

- Tốt, Heskow tán thành.

Aspinella đeo chiếc túi lên vai. Nó không nặng đến

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro