Quyển 1: Bằng trình vạn lý(1 - 10 )

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng


Chương 1

Hố đào chơi cho đỡ buồn thôi các bạn đừng nhảy vào làm gì. À quên, thực ra đào hố vì một nhân vật trong này mà hết quyển 1 thì người đó cũng chết mất tiêu. -_-

Trình Tiềm tính tuổi mụ là mười tuổi, mà vóc dáng phát triển rất chậm, không theo kịp tuổi tác.

Gần giữa trưa, nó ôm củi từ cổng sân vào nhà chính, nguyên bó củi ôm hơi khó, thành thử phải chạy qua chạy lại hai chuyến, xong rồi mới lau mồ hôi nhễ nhại, an tâm cắm đầu vào nhóm lửa nấu cơm.

Mấy bữa nay nhà có khách, cha nó bận tiếp đãi, các việc như rửa rau nấu cơm nhóm lửa chẻ củi rơi hết xuống đầu Trình Tiềm, khiến nó y hệt một con quay chân ngắn, có thể quay vòng vòng nổi gió bất cứ lúc nào và nơi nào.

Do quá lùn nên tuy đã với tới bệ bếp, nhưng Trình Tiềm loay hoay xoong nồi vẫn không tiện lắm, nó liền tìm một cái ghế nhỏ trong góc nhà chính mà đứng lên.

Bốn chân ghế cái dài cái ngắn, cọc cà cọc cạch, bắt đầu từ hồi sáu tuổi, Trình Tiềm đã biết leo lên ghế nấu cơm, sau vô số lần suýt nữa ngã vào nồi biến thành canh thịt người, thì nó đã biết cách đệm cái ghế chân so le này để chung sống hòa bình, giữ sự cân bằng bấp bênh.

Hôm nay, nó đang đứng trên ghế đổ nước vào nồi thì đại ca về.

Trình gia đại ca đã mười lăm, thành một tiểu tử rồi, hắn mang theo mùi mồ hôi, im lặng đi vào nhà chính, nhìn lướt qua bốn phía, rồi một tay xách ấu đệ xuống ghế, không biết nặng nhẹ đẩy lưng một phát, giọng ồm ồm: "Để ta, đệ đi chơi đi."

Trình Tiềm đương nhiên sẽ không thật sự vô tâm vô tư đi chơi, nó ngoan ngoãn gọi một tiếng đại ca, kế đó im lặng ngồi xổm bên cạnh, hì hục kéo ống bễ.

Trình Đại Lang cúi đầu nhìn nó một cái, không nói gì, chỉ là ánh mắt hơi phức tạp.

Trình gia có ba nhi tử, Trình Tiềm thứ hai, cho đến tối qua, trước khi vị khách kia đến, thì Trình Tiềm còn gọi là "Trình Nhị Lang".

Đại Lang biết, hiện giờ e rằng hai chữ "Nhị Lang" sắp thôi dùng rồi, nhũ danh đơn giản này sẽ cùng nhị đệ thay hình đổi dạng, bỏ đến quê khác.

Vị khách đến lúc chiều hôm qua là một đạo sĩ, họ gì tên chi thì chẳng ai hay, huênh hoang tự xưng là "Mộc Xuân chân nhân", nhưng xem tướng mạo thì hẳn chân nhân chưa chắc đã có chân bản lĩnh gì. Chỉ thấy ông ta nuôi bộ râu dê lưa thưa, đôi mắt ti hí(1) nửa mở nửa khép, dưới trường bào bay bay lộ ra đôi chân quắt queo, chẳng thấy tiên phong đạo cốt chi hết, trái lại y chang thầy tướng số lừa bịp vậy.

Chân nhân vốn là trên đường du lịch đi ngang qua đây, vào xin bát nước, nào ngờ nhìn thấy Trình Nhị Lang.

Trình Nhị Lang khi đó vừa từ bên ngoài chạy về – cổng thôn có một học trò già thi mãi không đỗ, bèn nhận đệ tử dạy học, học vấn thì chẳng bằng ai mà tiền học phí thu rõ là đắt, thịt rau nông gia lão chẳng thèm, chỉ chịu nhận vàng bạc tiền vuông, hơn nữa số tiền không quy rõ – mỗi khi xài hết là lại ngửa tay đòi học trò.

Loại người này thật sự không xứng truyền đạo thụ nghiệp dạy sách thánh hiền, nhưng đành chịu thôi, trẻ nông thôn học hành đâu dễ, trong phương viên mấy chục dặm, không tìm được tiên sinh dạy học thứ hai.

Với gia cảnh của Trình gia, chắc chắn không có dư tiền cho các con đi học, nhưng một số chi, hồ, giả, dã đọc không trôi này, giống như trời sinh có sức hấp dẫn kỳ dị với Trình Nhị Lang, nó không thể quang minh chính đại đi học, đành phải thường xuyên tới nghe trộm.

Lão học trò thấy rằng mỗi một giọt nước miếng đều phải dốc hết tâm huyết mà ra, nên không chịu cho nghe ké, cứ giảng được một nửa là lại cảnh giác đi tuần tra một phen.

Trình Nhị Lang đành hóa thân làm khỉ, ẩn nấp trên cây hòe già ngay trước sân nhà lão, mỗi lần nghe lén đều vã hết mồ hôi như khi "tu thân tề gia bình thiên hạ".

Đêm qua, Trình Nhị Lang mướt mồ hôi bị phụ thân sai rót nước cho khách, ông khách cổ quái kia lại không nhận, mà thò một bàn tay gầy đét như que củi, không sờ xương(2), cũng chẳng sử dụng công pháp chi lạ lùng cổ quái, chỉ nhẹ nhàng nâng mặt Nhị Lang lên, cùng đứa trẻ cố hết sức bắt chước "thư sinh hủ lậu" này nhìn nhau một cái.

Chẳng biết chân nhân thấy được gì từ cái nhìn này, nhìn xong liền làm bộ thần bí gật đầu, ăn không nói có bảo với người của Trình gia: "Ta thấy cậu bé này tư chất rất tốt, tương lai có thể đằng thiên tiềm uyên, chưa biết chừng có đại tạo hóa, không phải vật trong ao." (Đằng thiên tiềm uyên: bay lên trời cao, lặn xuống vực sâu)

Lúc chân nhân nói câu này, Đại Lang cũng có mặt, Đại Lang đi theo chưởng quầy học việc, gặp một số người từ nam chí bắc, tự thấy có chút kiến thức, nhưng còn chưa bao giờ nghe nói một đôi mắt mà có thể nhìn ra được tư chất tốt hay xấu.

Đại Lang đang tính khinh miệt cãi lại tay giang hồ bịp bợm này, nhưng chưa kịp mở miệng thì đã phát hiện cha mình lại đi tin chuyện xằng xiên này, tức khắc hoảng hồn hiểu được điều gì đó.

Trình gia vốn không giàu, năm ngoái mẹ hắn lại đẻ thêm một tiểu đệ, tiểu đệ rất khó sinh, khiến mẹ hậu sản vẫn ốm yếu liệt giường; cứ thế, nhà vừa mất một lao động khỏe mạnh vừa thêm một người bệnh cả ngày uống thuốc, vốn đã không dư giả gì, giờ thì càng nghèo rớt mồng tơi.

Năm nay mùa màng không tốt, mấy tháng liền chẳng được một giọt mưa, sắp tới hẳn sẽ phải mất mùa, ba huynh đệ... chỉ sợ nuôi không nổi nữa.

Đại Lang biết cách nghĩ của cha mẹ. Bản thân hắn học nghề đã một năm rưỡi, thêm một năm rưỡi nữa là có thể cho gia đình khoản hồi lại, là niềm hi vọng của Trình gia tương lai, mà tiểu đệ còn quấn tã, hiển nhiên cha mẹ cũng tuyệt đối không bỏ được, vậy chỉ còn một Nhị Lang ở giữa là dư thừa, giữ lại cũng chẳng ích chi, nếu có thể đuổi cổ theo ông đạo sĩ qua đường đi tu tiên thì cũng tốt.

Tu thành thì là mộ Trình gia mọc cỏ trúng đại vận, tu không thành thì cũng chẳng sao, để nó theo người ta lang bạt giang hồ hay lừa bịp cũng được, có cơm ăn áo mặc, có thể trưởng thành, coi như là một lối thoát.

Mộc Xuân chân nhân và chủ Trình gia tầm nhìn hạn hẹp có qua có lại, nhanh chóng bàn xong vụ "mua bán" này, chân nhân đưa cho một thỏi bạc vụn, một tay giao tiền một tay giao người, Trình Nhị Lang từ đây đổi tên thành Trình Tiềm, buổi chiều hôm nay sẽ cắt đứt duyên trần, khởi hành theo sư phụ.

Đại Lang và nhị đệ này hơn kém vài tuổi, không thân thiết lắm, bình thường ở cùng nhau cũng chẳng có chuyện gì để nói, nhưng nhị đệ từ nhỏ đã biết điều, không khóc không quấy, cũng chưa từng gây chuyện, áo quần mặc thừa của đại ca, ăn uống đều nhường tiểu đệ và người mẹ đau bệnh, chỉ có làm việc là luôn gương mẫu, chưa từng oán thán.

Tuy không nói ra miệng nhưng trong lòng Đại Lang rất thương đệ đệ này.

Thế nhưng đành chịu thôi, nhà nghèo không nuôi nổi, còn chưa tới lúc Trình gia Đại Lang hắn cáng đáng gia đình, việc lớn việc nhỏ hắn đều không quyết được.

Dẫu sao cũng là máu mủ ruột rà, nói bán là bán ngay được à?

Đại Lang càng nghĩ càng khó chịu, muốn cầm muôi sắt đập lỗ đầu lão bịp bợm kia, nhưng suy trước tính sau rồi rốt cuộc vẫn không dám – hơn nữa, nếu thực sự quyết đoán thì hắn đã khỏi cần đi học việc làm chi, đi ăn cướp chẳng phải càng giàu hơn à?

Với tính toán của cha mẹ và sự khó chịu của đại ca, Trình Tiềm không phải là hoàn toàn không hiểu gì.

Nó không có trí tuệ hơn người, chẳng cách nào sánh bằng những thần đồng bảy tuổi làm thơ, mười ba bái tướng, chỉ là lòng dạ hơi thâm sâu hơn mức bình thường thôi.

Cha đi sớm về khuya, đại ca một nắng hai sương, trong mắt mẹ có đại ca và tiểu đệ, không chứa thêm nó nữa, bởi vậy ở Trình gia, tuy không ai đánh mắng, song cũng chẳng ai coi nó ra gì, Trình Tiềm đều hiểu rõ, nó trời sinh cũng thức thời, cố hết sức không ồn ào khiến người ta ghét, chuyện khác thường nhất từ lúc lọt lòng chẳng qua là trèo lên gốc đại thụ nhà lão học trò, nghe sách thánh hiền chả hiểu cái quái gì mà thôi.

Nó cẩn thận, cần cù và thật thà, coi mình là một đứa hầu, một đứa ở – nhưng không coi là một nhi tử.

Trình Tiềm không biết cảm giác làm nhi tử là thế nào.

Trẻ con vốn nên lắm mồm, nhảy nhót tinh nghịch, nhưng Trình Tiềm đã không phải là nhi tử, thì đương nhiên không có đặc quyền lắm miệng và nghịch ngợm, có chuyện một mực nhẫn nhịn không thổ lộ, cứ thế mãi, mọi việc đều không thể tỏ bày, đành phải đâm vào trong, chọc thành bao nhiêu lỗ gồ ghề trong lòng.

Trình Tiềm trong lòng lỗ chỗ như mưa rơi xuống bờ cát biết cha mẹ đem bán mình, lại có chút bình tĩnh lạ lùng, giống như sớm đoán được có một ngày sẽ như vậy.

Trước khi đi, người mẹ ốm yếu phá lệ xuống giường, run rẩy gọi Trình Tiềm lại, rưng rưng dúi cho một cái gói nhỏ, bên trong có ít quần áo và một mớ bánh bột nở; quần áo đương nhiên vẫn sửa từ số đại ca không mặc được nữa, bánh thì do cha làm suốt đêm hôm trước.

Dù sao cũng là máu mủ, mẹ nhìn nó, không nhịn được lục tìm trong tay áo. Trình Tiềm thấy bà run rẩy lấy ra một xâu tiền. Những đồng tiền đen sì lồi lõm kia đột nhiên kích thích cõi lòng lạnh lùng của Trình Tiềm, nó như một con thú nhỏ lạnh cóng, hấp háy mũi giữa trời băng đất tuyết, ngửi được một chút mùi của mẹ.

Nhưng xâu tiền ấy cũng bị cha nhìn thấy, ông ở bên ho lớn một tiếng, mẹ đành phải nuốt nước mắt cất tiền đi.

Thế là mùi của mẹ như hoa trong gương trăng đáy nước, chỉ chập chờn một chút, chưa cho Trình Tiềm nghe rõ, đã tan thành mây khói một lần nữa.

"Nhị Lang qua đây," Người mẹ không có mùi mẹ kia kéo tay dẫn Trình Tiềm vào buồng trong, đi chưa được hai bước đã thở hổn hển.

Bà mệt mỏi tìm một cái ghế ngồi xuống, chỉ ngọn đèn nhỏ treo trên trần nhà, yếu ớt hỏi: "Nhị Lang, con có biết đó là cái gì không?"

Trình Tiềm hờ hững ngẩng đầu nhìn: "Đèn chong của tiên nhân."

Ngọn đèn nom tầm thường này là bảo vật gia truyền của Trình gia, nghe nói là hồi môn của bà cố Trình Tiềm. Ngọn đèn to bằng bàn tay, không có bấc, cũng chẳng dùng dầu, trên cái đế gỗ mun kiểu cổ có khắc mấy hàng phù chú, giúp nó có thể tự sáng lên, chiếu rọi khoảng một thước vuông rất lâu.

Nhưng Trình Tiềm nghĩ hoài không thông, cái đèn quèn này treo ở đó, ngoại trừ mùa hè gọi sâu tới thì còn tác dụng gì nữa?

Bất quá đã là tiên bảo, thì cũng chẳng cần có tác dụng gì thực tế, chỉ cần lúc láng giềng qua chơi có thể lấy ra khoe khoang là đủ. Đối với thôn phu hương dã mà nói, nó chính là món bảo bối có thể truyền lại nhiều đời.

"Tiên bảo" là thứ được "tiên nhân" khắc phù chú lên, phàm phu tục tử bắt chước cũng không nổi – tiên bảo có nhiều phẩm loại, công dụng càng vô số kể, nào đèn không dùng dầu, nào giấy không sợ lửa, nào giường đông ấm hạ mát...

Ngày trước có một tiên sinh kể chuyện lang bạt giang hồ đi qua cổng thôn, nói trong đại thành phồn hoa có những tòa nhà cất bằng "gạch tiên nhân", mái ánh mặt trời như mạ lưu ly, vàng son lộng lẫy hệt hoàng cung, bên ngoài bát ăn cơm nhà phú quý có một lớp phù chú do tiên nhân viết, có thể tránh bách độc, xua bách bệnh, một mảnh gốm của cái bát vỡ giá bốn lượng vàng mà vẫn được săn lùng không thôi.

"Tiên nhân", cũng chính là "người tu chân", còn gọi là "đạo nhân" hoặc "chân nhân" – cách trước thông thường là tự xưng, nghe có vẻ hơi khiêm tốn hơn.

Nghe nói họ lấy dẫn khí nhập thể, câu thông thiên địa làm nhập môn, tu vi sâu hơn thì còn có thể không cần ăn uống, lên trời xuống đất, thậm chí trường sinh bất lão, độ kiếp thành tiên... đủ các truyền thuyết truyền lưu rộng rãi, nhưng tiên nhân thật mặt mũi dài ngắn ra sao thì chưa ai từng gặp, chỉ đồn đại rõ là thần kỳ thôi.

Các vị tiên nhân rày đây mai đó, tiên khí tốt ngàn vàng khó cầu, quan to quý nhân chạy theo như vịt.

Trình gia nương tử khom người, buồn bã nhìn Trình Tiềm, ôn hòa hỏi như lấy lòng: "Chờ Nhị Lang học thành quay về, cũng làm một ngọn đèn chong cho mẹ được không?"

Trình Tiềm không trả lời, chỉ nhướng mí mắt nhìn mẹ một cái, lạnh lùng nghĩ bụng: "Nghĩ hay nhỉ, hôm nay bà đuổi tôi đi, mai sau bất kể tôi học thành hay không, dù là sống hay chết, là heo hay chó, tôi đều tuyệt không quay về thăm bà."

Trình gia nương tử bỗng ngẩn ra, phát hiện đứa trẻ này không giống cha mẹ, trái lại thấp thoáng hình bóng đại ca bà.

Đại ca bà là một làn khói xanh bốc lên trên phần mộ tổ tiên, từ nhỏ đã không giống con nhà nông, mặt mày như họa, phụ mẫu táng gia bại sản cho đi học, y cũng biết cố gắng, mười một tuổi đã đậu tú tài, mọi người đều nói nhà có sao Văn Khúc.

Nhưng sao Văn Khúc đại khái không muốn ở nhân gian lâu, còn chưa kịp thi cử nhân thì đã đổ bệnh đi đời nhà ma.

Khi đại ca chết, Trình gia nương tử còn nhỏ, chút ấn tượng đã mơ hồ từ lâu, nhưng hiện tại bỗng nhiên nhớ ra, lúc còn sống người kia cũng là như thế, bất kể trong lòng vui mừng vô cùng hay lửa giận bừng bừng, y đều chỉ nhìn bâng quơ như vậy, thận trọng không lộ ra vẻ, lại khiến người ta sinh lòng sợ hãi, không tài nào thân cận nổi.

Trình gia nương tử không tự chủ được buông lỏng bàn tay đang kéo Trình Tiềm, đồng thời, Trình Tiềm cũng lặng lẽ lùi nửa bước.

Nó cứ thế, ngoan ngoãn mà không nói một lời, cắt đứt sinh ly tử biệt của hai mẹ con.

Trình Tiềm tự nhận là hành vi của mình không do oán hận, bởi oán hận là vô lý – cha mẹ có ơn sinh thành và dưỡng dục, dẫu rằng ân tình bỏ dở nửa chừng, dưỡng dục một nửa đã vứt nó đi, dù gì cũng là ưu khuyết điểm bù nhau.

Nó cúi đầu nhìn mũi chân, nhủ thầm với lòng, trong mắt cha mẹ không có nó, không sao, bán nó cho một đạo sĩ mắt ti hí, cũng không sao nốt.

Nguyên gốc là mắt tam giác, đại khái là mí chùng xuống làm cho mắt híp lại, thường gặp ở người già.Sờ xương là một môn thuật số.

Chương 2

Edit: Yển

Trình Tiềm đi theo Mộc Xuân chân nhân.

Mộc Xuân chân nhân gầy gò tiều tụy, y như ba cọng gân đỡ một cái đầu, trên đầu đội cái mũ lắc lư muốn rơi, một tay dắt Trình Tiềm, như một bầu gánh sơn dã lang thang giang hồ bán nghệ dẫn đứa hầu mới lừa được.

Tướng mạo còn là nhi đồng song bên trong Trình Tiềm lại có một trái tim thiếu niên.

Nó đi rất trầm mặc, nhưng rốt cuộc vẫn không nhịn được ngoảnh đầu nhìn lại.

Nó nhìn thấy mẹ địu một cái gùi sau lưng, trong đó là tiểu đệ đang ngủ say, ngoài gùi là mẹ khóc sướt mướt, khuôn mặt mơ hồ, mà cha thì cúi đầu đứng im bên cạnh, không biết là thở dài hay áy náy, chẳng chịu ngẩng đầu nhìn nó lần nào, chỉ đứng đó thành một cái bóng xám xịt.

Trình Tiềm chẳng hề lưu luyến thu tầm mắt lại. Con đường phía trước mịt mù như bóng đêm vô biên, mà nó nắm bàn tay gầy đét của sư phụ thì giống như nắm ngọn đèn quý gia truyền của Trình gia – dù cho huênh hoang gắn thêm hai chữ "tiên nhân" đằng trước thì vẫn chỉ có thể chiếu quầng sáng ra mấy tấc dưới chân, nhìn đẹp mà vô dụng.

Xuất hành bình thường có hai cách, một gọi là "du lịch", còn một là "chạy trốn".

Trình Tiềm đi theo sư phụ, ăn gió nằm sương vẫn chưa nói, lại còn toàn phải nghe lão kia lải nhải vớ va vớ vẩn, quả thật ngay cả "chạy trốn" cũng không bằng.

Nói tới tu tiên cầu đạo, Trình Tiềm cũng từng nghe qua.

Thế gian muôn vàn những ý tưởng lạ lùng, có một độ, những kẻ muốn vấn tiên môn nhiều như lá mùa thu vậy.

Thời tiên đế, các môn phái lớn nhỏ trên phố như ễnh ương sau mưa, nào Trương Tam nào Lý Tứ nào Vương Nhị, chỉ cần nhà đông con cháu, thì tất cả đều như ong vỡ tổ đổ xô đi tạo dựng quan hệ, đưa đến môn phái nào đó cầu tiên vấn đạo, học một số kỹ năng "đập đá trên ngực" nọ kia, ngoài ra chẳng thấy ai cầu ra trò trống gì hết.

Lúc ấy kẻ luyện đan còn nhiều hơn nấu cơm, kẻ tụng kinh đông hơn cả làm ruộng, thậm chí có một độ bao nhiêu năm cũng chẳng ai chịu đọc sách tập võ đàng hoàng, dẫn đến đám giang hồ lừa đảo vô công rồi nghề chạy khắp nơi.

Nghe nói thời điểm cầu tiên vấn đạo phổ biến nhất, trong một huyện chẳng qua mười dặm tám thôn, mà từ đầu đông tới đầu tây, môn phái tu tiên mọc lên như nấm, mua một quyển tâm pháp chó má dở cũ dở mới từ chỗ quán hàng rong, cũng dám dựng cờ hiệu tu tiên vơ của gom người.

Nếu những người này thật sự đều có thể bay lên trời hết, chẳng biết Nam Thiên môn có chứa nổi từng ấy chó mèo hay không.

Ngay cả bọn sơn phỉ cướp bóc cũng làm trò, đổi tên "Hắc Hổ trại", "Ngạ Lang bang" thành "Thanh Phong quan", "Huyền Tâm quán", lại làm ba cái trò "lấy đồ trong chảo dầu", "há miệng phun lửa", trước khi đánh cướp còn biểu diễn một phen, hù người qua đường nhao nhao khẳng khái giúp tiền.

Tiên đế xuất thân binh nghiệp, là người thô lỗ nóng tính. Ngài cảm thấy nếu bách tính còn tiếp tục tu đến chướng khí mù mịt như vậy, thì nhất định quốc không thành quốc, liền ra một chỉ dụ, bắt hết những "thần tiên" lớn nhỏ hoành hành nông thôn này lại, bất kể chân thần hay giả tiên, nhất loạt sung quân tất.

Chỉ dụ vốn nên kinh thiên động địa này chưa kịp ra cửa cung, thì trọng thần cả triều đã nghe thấy phong thanh, nguyên một đám sợ tới mức hồn bay phách tán, ngay đêm ấy lăn khỏi ổ chăn chạy tới đại điện xếp hàng – quan nhỏ xếp trước, quan to làm trục, dự bị đâm đầu vào cột đại điện lấy cái chết can gián, chỉ sợ Hoàng thượng đắc tội với tiên nhân mà mất quốc tộ.

Hoàng thượng chung quy không thể để cả triều văn võ thật sự máu chảy đầu rơi, vả lại cây cột bàn long kia cũng đâu chịu nổi.

Tiên đế bất đắc dĩ, đành phải thu hồi mệnh lệnh đã ban, hôm sau liền lệnh cho khâm thiên giám phân ra "Thiên diễn xứ", Thái sử lệnh trực tiếp giám quản, vòng vo mời vài vị chân nhân hàng thật giá thật tọa trấn, quy định sau này tiên môn lớn nhỏ đều phải báo cho Thiên diễn xứ thẩm tra, sau khi xác minh thật giả sẽ ban phát thiết quyển, mới có thể tuyển nhận đệ tử, cấm dân gian tự lập môn phái.

Đương nhiên, đại quốc rộng lớn trải khắp chín châu, đông tây ngàn dặm, nam bắc không thông, kỷ luật nghiêm minh cơ bản không khả thi, pháp lệnh áp đặt vẫn có kẽ hở để lợi dụng, huống chi chính lệnh chó má lỏng lẻo này.

Triều đình ngay cả trộm cướp lừa đảo còn chẳng dẹp sạch nổi, thì quản thế nào được tiên môn nhận đệ tử hay không?

Tiên môn thật căn bản chẳng coi lão Hoàng thượng ra gì, việc ta ta cứ làm, bọn giang hồ bịp bợm chột dạ ít nhiều biết điều hơn, nhưng cũng rất có hạn – quyển sắt quyển đồng chi đó làm giả cái một.

May mà nỗi khổ tâm của tiên đế cũng không hoàn toàn uổng phí, qua năm lần bảy lượt thanh tra, chỉnh đốn, tuy hiệu quả rất thấp, nhưng đã làm lòng nhiệt tình tu tiên trong dân gian yếu đi rất nhiều, lại thêm chưa từng nghe nói ai thật sự tu được trò trống gì, dần dà mọi người liền yên phận trồng trọt chăn nuôi, không còn mơ mộng hão huyền nữa.

Đến kim thượng lên ngôi, tập tục tu tiên ở dân gian chỉ còn lay lắt, sự điên cuồng đã qua, kim thượng biết rõ nước quá trong ắt không có cá, đa phần mắt nhắm mắt mở với đám lừa đảo mượn danh tu tiên, dân không nói quan cũng chẳng truy.

Những tiền nhân hậu quả này, Trình Tiềm từng nghe lão học trò giảng qua một lần, bởi vậy trong mắt nó, cái chày gỗ(1) dắt mình chính là một cây chày gỗ thuần túy... cùng lắm là chày gỗ nuôi cơm, chứ chẳng có gì đáng để đặc biệt kính trọng.

Mộc Xuân như chày gỗ vuốt hai chòm râu rung rung, vẫn còn lảm nhảm: "Phái ta tên là 'Phù Dao', nhóc, con biết phù dao là gì không?"

Lão học trò ghét cay ghét đắng mấy thứ này, đương nhiên không chịu giảng, Trình Tiềm căn bản ít nhiều bị ảnh hưởng từ lão ta, bởi vậy hết sức khinh thường, nhưng vẫn phải miễn cưỡng ra vẻ rửa tai lắng nghe.

Mộc Xuân liền đưa tay chỉ trước mặt Trình Tiềm, giống như có cảm ứng, chỉ đến đâu là chỗ đó tự dưng nổi gió, cuốn cỏ khô dưới đất bay lên không, phiến lá lõm vào có một đường khô vàng sắc bén, bị tia chớp trời giáng chiếu sáng lên, cơ hồ lóa mắt Trình Tiềm.

Ngón tay linh thông quái lực loạn thần này khiến cậu nhóc há hốc mồm.

Kỳ thực, chính Mộc Xuân cũng không liệu được biến cố này, ngay lập tức sửng sốt, có điều thấy mình hù được nhóc con cả mặt lẫn lòng đều lạnh tanh này, lại thuận dốc xuống lừa thu tay về.

Ông ta rụt đôi tay gầy đét vào tay áo, thản nhiên khoe khoang: "Bằng chi tỷ ư nam minh dã, thủy kích tam thiên lý, đoàn phù dao nhi thượng giả cửu vạn lý, khứ dĩ lục nguyệt tức giả dã(2) – vô hình vô thúc, lượn vòng như gió, bay đến tận vực thẳm, nơi đi cũng vô biên, đây chính là 'phù dao' (gió lốc), con hiểu chưa?"

Trình Tiềm đương nhiên không hiểu, sự kính sợ với sức mạnh không rõ cùng sự phản đối với những bàng môn tà đạo này dây dưa khó phân trong lồng ngực nho nhỏ, cuối cùng, nó ôm sự kính sợ không cho là đúng với sư phụ, đặt Mộc Xuân và cây đèn quèn trên tường nhà lên cùng một vị trí, lơ mơ gật đầu.

Mộc Xuân đắc chí vểnh râu, đang định dựa vào đây phát triển thêm, ngờ đâu ông trời không thèm giữ thể diện cho nữa, chưa kịp mở miệng thì đã lòi đuôi chuột – chỉ thấy sau tiếng sấm là một cơn gió to chợt thốc vào mặt, dập đống lửa trước mặt hai sư đồ tắt ngấm thành một mớ tro tàn, ngay sau đó là cuồng phong gào thét, sấm chớp đì đùng, sắc trời đằng tây đã xấu hẳn.

Mộc Xuân không giả thần giả quỷ nữa, gào lên: "Không hay rồi, có mưa to."

Nói xong nhảy dựng lên, một tay vác hành lý, một tay xách Trình Tiềm, cất đôi chân y hệt hai que củi, như gà rừng cổ dài, bước nhỏ chạy trối chết.

Đáng tiếc mưa tới quá nhanh, dù là gà rừng cổ dài thì cũng không thể tránh khỏi vận mệnh ướt như chuột lột.

Mộc Xuân ôm Trình Tiềm vào lòng, cởi ngoại sam chớp mắt đã ướt sũng, méo mó có còn hơn không, che cho đứa bé trong lòng, vừa co cẳng chạy như điên, vừa kêu la: "Ôi, hỏng rồi, mưa to quá, ôi, phải trốn đâu đây?"

Trong đời Trình Tiềm từng vô số lần dùng chim bay thú chạy thay đi bộ – nhưng chỉ sợ đây là con xóc nảy nhất, lắm lời nhất.

Mưa gió sấm sét lẫn với tiếng ồn ào của sư phụ, đầu trùm áo bào của người, hai mắt bị che lấp, lại ngửi thấy trên ống tay áo kia thoảng mùi gỗ khó tả rõ.

Sư phụ dùng một tay ôm nó vào lòng, tay còn lại từ đầu đến cuối vẫn che trên đầu Trình Tiềm, ông già này xương xẩu cấn rõ là đau, nhưng vòng tay ôm và sự che chở lại đều là thật.

Không biết vì sao, dù lão cổ gà này ban nãy còn trâng tráo lừa bịp nó, nhưng Trình Tiềm dường như có sự thân cận trời sinh với ông ta.

Trình Tiềm trùm áo ngoài của Mộc Xuân, im lặng nhìn lén sư phụ ướt đẫm dưới màn mưa qua khe hở, từ thuở lọt lòng lần đầu tiên hưởng thụ đãi ngộ nên có của một đứa trẻ. Nó trải nghiệm giây lát, liền cam tâm tình nguyện nhận sư phụ, hơn nữa hạ quyết tâm – cho dù miệng ông sư phụ này chỉ giỏi đánh rắm, bụng đầy bàng môn tà đạo, nó cũng tha thứ được.

Trình Tiềm cưỡi một sư phụ gầy giơ xương, cuối cùng ướt sũng mà đến một đạo quán đổ nát.

"Thanh đạo" quy mô lớn thời tiên đế đã dẹp rất nhiều môn phái rởm, cũng để lại không ít đạo quán của các môn phái này, sau đó đều thành nơi nghỉ chân cho ăn mày không nhà để về cùng lữ khách lỡ mất chỗ trọ.

Trình Tiềm thò cái đầu be bé khỏi ngoại sam của Mộc Xuân, vừa ngẩng lên liền bắt gặp ánh mắt đại tiên cung phụng trong đạo quán, lập tức bị đại tiên bằng bùn dọa mất mật – chỉ thấy vị kia quấn hai búi tóc, mặt mâm không cổ, nét mặt dữ tợn, hai gò má tròn quay đỏ chót, phía dưới là cái miệng như cả một chậu máu, cười nhe hàm răng so le cái thụt cái thò.

Sư phụ hiển nhiên cũng nhìn thấy, vội đưa tay che mắt Trình Tiềm, giận dữ mắng: "Áo hồng đào bào xanh lá, cách ăn mặc dâm tà như vậy mà vẫn không biết xấu hổ nhận cung phụng ở đây, thật là lố lăng!"

Trình Tiềm bé tí do kiến thức có hạn, một mặt không rõ nguyên do, một mặt lại hơi kinh hãi.

Mộc Xuân chính trực nói: "Người tu chân thanh tâm quả dục, phải luôn luôn chú ý lời nói và việc làm, ăn mặc như hát tuồng thế này, còn ra thể thống gì!"

Ông ta lại còn biết thể thống là gì... Trình Tiềm quả thật phải lau mắt mà nhìn.

Chính lúc này, mùi thịt thoang thoảng từ đằng sau đạo quán đổ nát bay ra, cắt ngang sự căm ghét thế tục của ông sư phụ "thanh tâm quả dục".

Họng Mộc Xuân không tự chủ được động nhẹ, tức khắc hết nói nổi, vẻ mặt cổ quái dẫn Trình Tiềm ra đằng sau pho tượng dâm tà kia, nhìn thấy một thằng nhỏ ăn mày chỉ hơn Trình Tiềm một hai tuổi là cùng.

Tiểu khiếu hóa không biết dùng thứ gì đào ra một lỗ ở hậu đường đạo quán để nướng một con gà ăn mày(3), nó đập lớp đất sét, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt.

Mộc Xuân lại nuốt nước miếng.

Nếu một người gầy gò đến mức nhất định thì có một số việc sẽ rất bất tiện, thí dụ như lúc thèm ăn, cái cổ quắt queo sẽ không dễ che giấu phản ứng bản năng.

Mộc Xuân chân nhân thả Trình Tiềm xuống đất, kế đó tự mình biểu diễn cho tiểu đồ đệ xem "người tu đạo phải luôn luôn chú ý lời nói và việc làm" là thế nào.

Đầu tiên ông ta lau nước mưa trên mặt, nặn ra nụ cười cao nhân tiên phong đạo cốt, rồi mới lắc lư cất bước hoa sen, bay tới bên cạnh tiểu khiếu hóa, ngay trước mặt Trình Tiềm, đĩnh đạc tuôn ra một tràng lời ngon tiếng ngọt thao thao bất tuyệt, miêu tả một tòa tiên môn dát vàng được ăn no mặc ấm ngoài khơi xa, khiến tiểu khiếu hóa đần thối ra.

Mộc Xuân nhiệt tình lừa gạt tiểu khiếu hóa đầu to người teo kia: "Ta thấy con tư chất rất tốt, tương lai có thể đằng thiên tiềm uyên, chưa biết chừng có đại tạo hóa – hài tử, con họ gì tên chi?"

Trình Tiềm cảm thấy câu này nghe hơi quen.

Tiểu khiếu hóa tuy lưu lạc thiên nhai khá giảo hoạt, xét cho cùng vẫn còn nhỏ, bị sư phụ lừa chảy nước mũi, ngốc nghếch đáp: "Tiểu Hổ, không biết họ gì."

"Thế thì theo vi sư, họ Hàn đi," Mộc Xuân vuốt chòm râu dê, xác định danh phận sư đồ, y như lặng lẽ dâng hiến vậy, "Vi sư còn ban cho con cái tên – tên một chữ Uyên, được không?"

Trình Tiềm: "..."

Hàn Uyên, hàm oan(4)... Quả là vừa may mắn vừa đáng mừng.

Chắc sư phụ đói tới hồ đồ rồi, nên đối mặt với con gà ăn mày thơm nức mũi mới ít nhiều không thể lựa lời.

Chày gỗ chỉ những người dốt đặc, thẳng tuột hoặc là đơn giản.Chim bằng dời xuống biển Nam, nó đập nước tung tóe lên ba ngàn dặm rồi nương gió lốc cuốn lên cao chín vạn dặm. Nó xuống biển Nam vào tháng 6, lúc gió nổi lên. – Nguyễn Hiến Lê dịch.

Đoạn này trích từ Tiêu dao du của Trang Tử, có thể đọc thêm ở , hoặc có bản dịch khác của Nguyễn Duy Cần tại .

Gà ăn mày tức gà nướng đất sét, là món ăn nổi tiếng của Chiết Giang. Có thể xem thêm wiki để hiểu rõ hơn về nguồn gốc cái tên.Hàn Uyên và hàm oan đồng âm.

Chương 3

Edit: Yển

Tuy Hàn Uyên hơi lớn hơn Trình Tiềm, nhưng dựa theo thứ tự nhập môn, ngược lại thành tứ sư đệ. Trình Tiềm làm "đệ tử quan môn" mới được vài ngày thì đã thành sư huynh rồi.

Đủ thấy cửa sau của Phù Dao phái đóng không kín lắm.(1)

Về phần con gà ăn mày kia... đương nhiên phải hiếu kính vào bụng sư phụ mất quá nửa.

Gà cũng chẳng chặn nổi cái miệng Mộc Xuân chân nhân lải nhải không thôi, chẳng biết ở đâu ra cái sở thích thuyết giáo như thế, vừa ăn còn vừa hỏi: "Gà ở đâu vậy?"

Lưỡi Hàn Uyên hơi bị siêu – gặm xương gà không cần tay, nhét nguyên miếng vào miệng, má phồng lên nhai sụn rồn rột, rồi có thể phun ra nguyên khúc xương sạch bóng.

Chỉ thấy gã thô lỗ phun xương cái "phụt", đáp lời sư phụ: "Trộm trong thôn đằng trước."

Tử rằng: "Ăn không nói, ngủ không nói."

Gà ăn mày đương nhiên thơm phưng phức, Trình Tiềm vốn đang do dự không biết có nên xé một cái chân theo sư phụ, thấy tình cảnh này rồi lại nghe chân tướng, liền dứt khoát rụt tay về, im lặng gặm cái bánh nướng cứng như đá.

Hàn Uyên phẩm cách thế này, có thể kiếm được con gà có phẩm cách gì sao?

Chỉ xét từ khía cạnh này, dù còn nhỏ thì đạo tâm và nguyên tắc của Trình Tiềm đã kiên định hơn xa ông sư phụ chày gỗ.

Mộc Xuân chân nhân hiển nhiên không hề vì vậy mà mất ngon, trong lúc nhai ngấu nghiến còn có thể lắc lư đầu nói: "Không hỏi tự lấy là kẻ trộm, người tu chân ta sao có thể trộm gà bắt chó được? Chao ôi, còn ra thể thống gì nữa, lần sau không được làm thế nữa nhé!"

Hàn Uyên lí nhí đáp một tiếng, tiểu khiếu hóa chẳng hiểu gì nên không dám phản bác.

"Trộm gà bắt chó không được, nhưng lừa bịp thì được." Trình Tiềm ở bên cạnh khắt khe nghĩ bụng, kế đó nhớ tới sự khoan dung lúc ban nãy giữa mưa to đã bí mật dành cho sư phụ, đành phải thầm thở dài một cách tang thương, "Thôi."

Tứ sư đệ Hàn Uyên này mũi nhỏ mắt nhỏ, cằm còn hơi nhô ra, đôi mắt ti hí thường xuyên lóe lên vẻ gian manh láu cá, thoạt nhìn chẳng đáng yêu chút nào.

Trình Tiềm vừa thấy Hàn Uyên là mất vui. Hàn Uyên ngoại hình khó coi thì chớ, lại còn chiếm danh hào "sư đệ" nữa chứ. Mà hết thảy những chữ liên quan đến "huynh" và "đệ", Trình Tiềm đều khó lòng sinh ra hảo cảm. Nhưng nó chỉ tự mình không thích trong im lặng, ngoài mặt vẫn ra vẻ hữu hảo ôn hòa không khéo léo lắm.

Ở Trình gia, quần áo mới là của đại ca, sữa thêm đường là của tiểu đệ, chuyện tốt thì chưa bao giờ đến lượt Trình Tiềm, trái lại còn hay bị sai làm việc. Trình Tiềm bản tính không rộng lượng, đương nhiên phải sinh lòng oán phẫn, song lão học trò mở mồm ra là "phụ từ tử hiếu, huynh hữu đệ cung", nó cũng có nghe lọt, bởi vậy lại thường xuyên cảm thấy mình oán phẫn vô lý.

Một cậu bé như vậy, tu dưỡng còn chưa kịp đủ, Trình Tiềm không thể nào thật sự không hề oán thán, đành phải làm bộ không hề oán thán – hiện giờ vào môn phái rồi, nó vẫn diễn trò này.

Sư phụ lật lọng mở cánh cửa đã đóng lại, Trình Tiềm cũng đành phải làm một sư huynh cho ra dáng.

Dọc đường có việc cần chạy chân thì sư huynh nó làm, có đồ ăn thức uống thì nhường sư phụ xong lại nhường sư đệ, việc này chưa bao giờ dễ làm, bởi vậy Trình Tiềm phải luôn luôn kiểm tra bản thân, tránh để mất sự ôn lương cung kiệm nhượng.

Trình Tiềm thường xuyên khắt khe bản thân như vậy – phụ thân nó cả đời khốn cùng chán nản, thô lỗ nóng nảy, đối xử với nó cũng chẳng tốt, Trình Tiềm nghe lời lão học trò, không dám công khai hận cha, đành phải thầm tội nghiệp ông. Những khi đêm khuya tỉnh mộng, cậu bé thường xuyên nghĩ, mình thà chết cũng không biến thành nhân vật như cha.

Bởi vậy chút thể diện ôn lương nó phải hao hết tâm cơ mới chèo chống được giữa sự mù mờ, vô luận thế nào cũng không được phép đánh mất.

Song Trình Tiềm nhanh chóng phát hiện, tuy mình làm không tệ, nhưng sư đệ này thật sự không xứng được chiếu cố – chẳng những mặt mày đáng ghét, tính nết cũng hết sức khó ưa.

Đầu tiên, tên Hàn Uyên này rất lắm mồm, trước khi nhặt được tiểu khiếu hóa này, toàn bộ hành trình do mình sư phụ chịu trách nhiệm ồn ào, sau khi nhặt được gã ta, thì ngay cả Mộc Xuân chân nhân cũng có vẻ điềm đạm nho nhã hơn hẳn.

Tiểu khiếu hóa giống như bị ngôn luận về "trộm gà bắt chó" của sư phụ dẫn dắt, thuận miệng bịa ra câu chuyện mình đánh bại con chồn dài hơn một trượng, trộm được con gà béo như thế nào.

Gã ta hoa tay múa chân, khởi thừa chuyển hợp lên xuống trầm bổng, làm bật lên sự anh minh thần võ của cá nhân gã.

Trình Tiềm muốn chất vấn có lý, hỏi: "Sao lại có chồn dài tới một trượng?"

Bị gây hấn, Hàn Uyên lập tức ưỡn ngực ngẩng đầu biện giải: "Đương nhiên là thành tinh rồi, sư phụ, chồn có thể thành tinh chứ?"

Sư phụ nghe chuyện chồn tinh, không biết bị chữ nào đụng chạm mà sắc mặt hơi kỳ lạ, vừa giống đau răng vừa giống tiêu chảy, rất lâu sau mới lơ đãng đáp: "Vạn vật có linh, đại khái đều có thể thành tinh."

Hàn Uyên giống như được sự khẳng định mạnh mẽ, khó nén đắc chí hất cằm nói với vẻ âm dương quái khí: "Sư huynh, đấy là huynh ít thấy việc lạ thôi, người có thể tu thành tiên nhân, thì động vật đương nhiên cũng có thể tu thành yêu tinh."

Trình Tiềm không đáp, chỉ thầm cười khẩy.

Nếu một con chồn thực sự dài tới một trượng thì bốn chân hẳn không đủ dùng, thân thể dài ngoằng kia chắc chắn phải quệt bụng xuống đất mới lết nổi.

Chẳng lẽ yêu tu vất vả tu luyện, chỉ để mài ra một cái bụng sắt rắn chắc trụi lủi lông?

Yêu tu mưu cầu gì, Trình Tiềm không lý giải được, nhưng nó biết Hàn Uyên có mưu đồ gì.

Tiểu khiếu hóa này y như một con đỉa trong cái cống hôi rình, hễ ngửi được mùi máu tươi là liều mạng hút lấy, bản chất đã có sự hung ác – Hàn Uyên đang muốn giành sự cưng chiều của sư phụ.

Tiểu khiếu hóa lợi dụng mọi cơ hội để phô bày sự dũng mãnh bất phàm cho sư phụ thấy, đồng thời tận dụng triệt để bôi nhọ sư huynh "nhu nhược dễ bắt nạt", Trình Tiềm thấy gã ta nhảy nhót như loi choi, buồn cười hết sức, liền học lão học trò kia, bụng thầm cho tứ sư đệ kết luận đóng nắp quan tài(2): "Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hĩ(3) – tiểu súc sinh!"

Sau khi nghe câu chuyện "dũng đấu chồn tinh" của Hàn Uyên, ngày hôm sau, Trình Tiềm lại chính mắt được thấy thêm sự "anh dũng bất phàm" của sư đệ tiểu súc sinh.

Bữa đó sư phụ dựa gốc cây ngủ trưa, Trình Tiềm ngồi bên xem một quyển sách cổ trong gùi của ông, từ ngữ hơi khó nuốt, Trình Tiềm lại tài hèn học ít, với hầu hết kinh văn đều "tương kiến bất tương thức", nhưng nó rất thích thú, không hề cảm thấy buồn tẻ – bất kể trong kinh thư của sư phụ viết gì, dù sao đây cũng là lần đầu tiên kể từ lúc lọt lòng nó được quang minh chính đại sờ vào sách.

Hai tiểu đệ tử Mộc Xuân chân nhân nhặt được, một tĩnh như cọc gỗ, một động như khỉ đột, cọc gỗ Trình Tiềm không hề nhúc nhích, khỉ đột Hàn Uyên thì không thể ngừng nghỉ giây lát.

Lúc này, Hàn Khỉ Đột chẳng biết đã chạy đến đâu, Trình Tiềm rất vui vì tai được thanh tịnh, ai ngờ thanh tịnh chưa được bao lâu, Hàn Uyên lại nức nở quay về.

"Sư phụ..." Hàn Uyên ồn ào làm nũng.

Câu trả lời của sư phụ là ngáy o o trầm bổng.

Hàn Uyên liền tiếp tục gào như khóc tang, vừa gào vừa liếc nhìn Trình Tiềm bên cạnh.

Trình Tiềm hoài nghi sư phụ thực tế đã dậy rồi, chỉ giả bộ ngủ để xem hai sư huynh đệ đối đãi nhau thế nào thôi. Trước mắt sư đệ khóc tu tu thế này, nó làm sư huynh không tiện nhắm mắt làm ngơ, đành phải bỏ kinh thư xuống, ôn hòa hỏi: "Sao vậy?"

Hàn Uyên: "Đằng trước có con sông, đệ vốn định bắt cá cho sư phụ và sư huynh ăn, nhưng bờ sông có một con chó to đùng, nó rượt đệ."

Trình Tiềm thầm thở dài một hơi. Nó đương nhiên cũng sợ chó dữ, nhưng Hàn Uyên kia mắt đảo lung tung, đã nói đến mức này, rằng sư đệ hiếu thuận bắt cá cho sư phụ và sư huynh, bị súc sinh ức hiếp, muốn sư huynh ra mặt, sư huynh lý nào lại rụt đầu?

Nó đành phải nhặt một cục đá to dưới đất, cầm trong tay xóc xóc, đứng dậy theo Hàn Uyên đến hướng bờ sông, tiếp tục ôn hòa nói: "Được, để ta cùng đệ đi xem thử."

Trình Tiềm chuẩn bị sẵn sàng, vạn nhất gặp phải chó dữ thật thì nó sẽ tương cục đá trong tay vào đầu sư đệ, phải nện tiểu súc sinh đó thành một quả dưa leo nát bét lòi cả ruột, rồi lại giao cho chó huynh xử trí.

Tiếc rằng hai người đến bờ sông thì chó đã đi mất rồi, chỉ để lại mấy dấu chân nhỏ thôi.

Trình Tiềm cúi đầu nghiên cứu hai hàng dấu chân một phen, phỏng đoán hình thể của con "chó dữ" kia chưa đến một thước, có khả năng là một con chó hoang còn non.

Tiểu súc sinh Hàn Uyên này, làm chẳng bằng ai mà ăn thì chẳng ai bằng, nịnh hót như thái giám, mặt dày như thớt, mật bé bằng đầu kim, chỉ giỏi bốc phét với tranh giành tình cảm.

Trình Tiềm nghĩ như vậy, chắp đôi tay cầm gạch ra sau lưng, ôn hòa nhìn sư đệ không nên thân này, cũng chẳng muốn đập gã nữa – Trình Tiềm lười chấp nhặt với gã ta.

Hai người xách cá quay về, sư phụ đã "dậy", đang hiền hậu vui mừng nhìn cả hai.

Vừa bắt gặp ánh mắt sư phụ, Trình Tiềm liền cảm thấy dạ dày nặng trịch, buồn nôn kinh khủng.

Nó còn chưa kịp nói gì, Hàn Uyên đã nịnh nọt sán tới trước mặt sư phụ thêm mắm dặm muối miêu tả câu chuyện "sư huynh muốn ăn cá, mình đánh bại con chó dữ đầu to như trâu, trăm cay nghìn đắng nhảy xuống sông bắt cá".

Trình Tiềm: "..."

Nó sắp phải tức đến bật cười vì tên sư đệ thiên phú dị bẩm này rồi.

Cứ thế, Trình Tiềm theo một lão lừa bịp và một thằng nhãi dóc tổ đi hơn mười ngày nữa.

Ba người rốt cuộc đến môn phái.

Trình Tiềm từ thuở lọt lòng lần đầu tiên đi xa nhà, bởi vì có sư phụ và sư đệ kỳ hoa làm bạn, thấy quá nhiều hiện trạng quái dị của thế gian rồi, nên đã có chút trầm ổn gặp núi lở cũng chẳng sợ.

Nó vốn không hề hi vọng vào "Phù Dao phái" nghe tên y như gánh hát rong, bụng nghĩ, không chừng đó chỉ là một đạo quán xập xệ nơi hoang giao dã ngoại, vào cửa còn phải thắp hương khấu đầu trước "tổ sư gia" ăn vận không dâm tà nhưng luôn cười toe toét.

Thế nhưng môn phái lại khác xa dự liệu của Trình Tiềm.

Chỉ thấy Phù Dao phái một mình chiếm nguyên một ngọn núi nhỏ, nước bao quanh ba mặt, đứng dưới chân núi ngẩng đầu lên, thấy xanh non mơn mởn, gió qua lưu dấu.

Giữa tiếng chim chóc và côn trùng thỉnh thoảng còn xen vài tiếng hạc kêu, ngẫu nhiên có thể nhìn thấy bóng trắng lướt qua, lập tức phủ lên một tầng tiên khí như phù quang lược ảnh.

Trên núi có thềm đá bằng phẳng, hiển nhiên thường xuyên có người quét tước, một dòng suối nhỏ róc rách chảy xuống từ đỉnh núi.

Thập cấp lên đến giữa sườn núi, Trình Tiềm nhìn thấy đỉnh núi lờ mờ có đình viện nhà cửa, một cổng đá rêu phong đứng sừng sững ngay lưng chừng núi, trên viết hai chữ "Phù Dao" như rồng bay phượng múa.

Chữ viết xấu khiếp, Trình Tiềm không đọc được, nó chỉ cảm thấy hai chữ đó như muốn bay lên, quả có sự kiêu ngạo như đằng thiên tiềm uyên vậy.

Nơi đây không hề là thế ngoại tiên sơn mây mù lởn vởn không động vào thức ăn nhân gian, trên núi lại ẩn chứa sự linh tú khó nói thành lời, Trình Tiềm vừa bước lên núi liền cảm thấy, trong lúc hô hấp, cả người đã nhẹ bớt không ít.

Nó nhìn thấy không trung chỉ to bằng bàn tay giữa bóng cây rợp kín, cảm giác trời cao đất rộng khi ếch ngồi đáy giếng đập thẳng vào mắt, khoan khoái tới mức chỉ hận không thể hò hét cười to.

Nhưng Trình Tiềm nhịn – ở nhà nó đã không dám làm ồn, vì sợ cha đánh. Ở nơi đây đương nhiên cũng sẽ không, vì sợ mất thể thống quân tử nghe lén được ở trước mặt tiểu nhân Hàn Uyên hèn hạ này.

Sư phụ vỗ hai cái đầu chó của hai đồ nhi mới nhặt được, hòa ái nói: "Lát nữa theo vi sư đi đốt hương tắm rửa thay quần áo, rồi vi sư dẫn các con đi bái kiến..."

Trình Tiềm hờ hững nghĩ bụng: "Tổ sư gia luôn cười toe toét à?"

Sư phụ nói: "Đại sư huynh."

Đệ tử quan môn tức đệ tử cuối cùng, từ nay sư phụ không nhận thêm đệ tử nữa. Quan môn cũng có nghĩa là đóng cửa, thành thử mới nói là cửa Phù Dao phái đóng không kín.Người sống vẫn sẽ thay đổi rất nhiều nên chưa thể nói được gì, phải đợi vào hòm đóng nắp mới có thể kết luận.Câu này trích trong Luận ngữ, Vệ Linh Công, nghĩa là: Người quân tử lúc cùng vẫn giữ vững khí tiết, kẻ tiểu nhân gặp lúc cùng ắt làm bậy tràn.

Chương 4

Edit: Yển

Đường đường một sư phụ, vì sao phải "bái kiến" đại sư huynh?

Trình Tiềm và Hàn Uyên đều bị sương mù che phủ, mà sư phụ còn giải thích như chỉ lo thiên hạ chưa đủ loạn: "Khỏi cần đa tâm, đại sư huynh của các con vô tâm lắm, không cần phải sợ y, cứ giống vi sư là được rồi."

Chờ đã, "cứ giống vi sư" là ý gì?

Tóm lại, Mộc Xuân chân nhân điểm hóa thành công khiến màn sương mù mỏng manh trên đầu hai tiểu đệ tử biến thành một vũng hồ đặc sệt.

Qua sơn môn, liền có mấy đạo đồng thiếu niên theo tiếng nước róc rách ra đón.

Các đạo đồng lớn thì mười bảy mười tám, nhỏ thì mười ba mười bốn, ai cũng mi thanh mục tú, như một nhóm kim đồng tử ngồi dưới thần tiên, chỉ có tay áo không gió tự lay động.

Hàn Uyên trợn mắt há hốc mồm thì khỏi cần phải nói, ngay cả Trình Tiềm dọc đường hơi kiêu ngạo cũng hơi có cảm giác tự thẹn kém người.

Bởi một chút tự thẹn kém người này mà Trình Tiềm bất giác dùng đến chống cự, vô thức thẳng lưng nghiêm mặt, giấu kín sự hiếu kỳ và thiếu kiến thức của mình.

Đạo đồng dẫn đầu từ đằng xa thấy Mộc Xuân chân nhân, người chưa tới đã cười trước, thái độ khá tùy ý: "Chưởng môn lần này lại du lịch đến đâu vậy, sao lại y như chạy nạn thế – ôi, đây là... tiểu công tử lừa từ đâu vậy?"

Trình Tiềm thầm bẻ vụn từng chữ từng câu chào hỏi thân thiết này, cũng chẳng thể tìm thấy mảy may tôn sùng, đạo đồng giống như không phải đang chào "chưởng môn", mà là "Hàn đại thúc thôn bên" vậy.

Mộc Xuân chân nhân cũng không để ý, trên mặt thậm chí hiện ra nụ cười hơi vô tâm, ông chỉ Trình Tiềm và Hàn Uyên mà nói: "Đệ tử ta mới thu, còn nhỏ, phiền ngươi bố trí cho."

Đạo đồng cười nói: "Bố trí vào đâu?"

"Đứa này dẫn đến Nam viện," Mộc Xuân chân nhân tùy tay chỉ Hàn Uyên, sau đó cúi đầu như cố ý như vô tình, đối thẳng với tầm mắt Trình Tiềm đang nhìn từ dưới lên trên, trong đôi mắt trắng đen rõ ràng của tiểu thiếu niên kia có sự khắc chế sinh ra đã mang theo, và một chút kích động khó thấy đối với hoàn cảnh lạ lẫm nữa.

Mộc Xuân chân nhân bỗng thu lại nụ cười không đứng đắn nơi khóe môi, giây lát sau, ông dùng thái độ gần như nghiêm nghị chỉ chỗ của Trình Tiềm: "Để Trình Tiềm đến ở Biên đình đi."

"Biên đình" không hề là đình, mà là một tiểu viện vị trí rất chếch, trông như xa rời quần chúng vậy, bên này tường viện có dòng suối nhỏ lặng lẽ chảy qua, bên kia thì là một rừng trúc lớn, cực kỳ yên tĩnh.

Rừng trúc hẳn đã lâu năm, ngay cả gió nhẹ thoảng qua cũng có thể vương màu xanh biếc, cả viện như nằm giữa biển trúc, xanh đến độ hơi thanh tâm quả dục.

Cửa viện treo hai ngọn đèn chong, cũng có khắc phù chú, nhưng tinh xảo hơn "báu vật gia truyền" của Trình gia, quầng sáng êm dịu, gió thổi bất động, người đi bất kinh, một trái một phải, thanh u xa xưa kẹp một tấm hoành vào giữa, trên viết hai chữ "Thanh An".

Dường như xuất từ cùng một tay người với hai chữ "Phù Dao" ở sơn khẩu.

Đạo đồng dẫn đường cho Trình Tiềm tên là Tuyết Thanh, tuổi tác xấp xỉ đại ca Trình Tiềm. Tuyết Thanh không cao không thấp, không mập không ốm, nhìn kỹ còn khá thanh tú, nhưng ngũ quan tẻ nhạt, là người ít được chú ý nhất trong các đạo đồng, tính cũng kiệm lời, dường như không thích khoe mẽ lắm.

"Đây là Biên đình trên núi chúng ta, còn gọi là Thanh An cư, nghe nói trước kia chưởng môn từng ở đây, sau lại bỏ không, cũng từng dùng làm trai đường nữa." Tuyết Thanh thong thả giải thích, "Tam sư thúc biết trai đường là gì chứ?"

Trình Tiềm kỳ thực không rõ lắm, nhưng vẫn làm bộ không để ý mà gật đầu, theo Tuyết Thanh vào tiểu viện, chính giữa có một cái hồ nhỏ tầm một trượng vuông, trên cái khay bằng gỗ du đen có khắc phù chú, chắc là có tác dụng cố định – nước trong ao ngưng đọng lại đó chứ không chảy.

Nhưng đến gần nhìn kỹ, Trình Tiềm mới phát hiện, thì ra đó không phải hồ nước gì, mà là một viên bảo thạch to hiếm thấy.

Bảo thạch nọ không phải ngọc cũng chẳng phải thúy, chạm vào thấy lành lạnh, trong xanh lục thẫm hơi phiếm một chút lam, có sự tĩnh mịch lạnh giá mà thâm u.

Trình Tiềm chưa bao giờ thấy vật hiếm lạ như vậy, dù không muốn giống một đứa nhà quê thì nhất thời vẫn không tự chủ được ngây ra.

Tuyết Thanh nói: "Đây cũng chẳng biết là thứ gì, bất quá chúng con đều gọi là thanh tâm thạch, do chưởng môn tìm đến, trước kia khi trai giới người thường xuyên lót nó để sao kinh, có nó trấn, viện này mùa hè mát mẻ hơn nhiều."

Trình Tiềm không nhịn được chỉ minh phù trên cái khay bằng du đen, hỏi: "Tuyết Thanh ca, phù chú này dùng làm gì vậy?"

Tuyết Thanh dường như không ngờ Trình Tiềm khách khí như vậy, sửng sốt giây lát mới đáp: "Tam sư thúc đừng làm con tổn thọ – đây không phải phù chú đâu ạ."

Trình Tiềm nhìn hắn một cái, Tuyết Thanh đọc thấy một chút nghi hoặc thận trọng kỳ dị trong mắt thiếu niên này, ánh mắt giống như biết nói, so với vị còn lại chưởng môn nhặt về thì càng có vẻ tinh tế hơn.

Tuyết Thanh không biết nên hình dung như thế nào. Kỳ thực hắn nhận ra đứa trẻ này xuất thân không cao, vị tất từng học hành, nhưng cậu bé tựa hồ đang cố gắng ép mình thành một quân tử một cách cứng nhắc, giơ tay nhấc chân đều câu nệ, giống như không biết nên dùng gương mặt nào để gặp gỡ người ta.

Đơn giản mà nói, thì là có chút làm bộ – mà còn không có mục tiêu và đối tượng mô phỏng nào.

Những người bình thường làm bộ đều không khỏi hơi đáng ghét, cho dù chỉ là một đứa trẻ, nhưng không biết vì sao mà Tuyết Thanh không hề ghét Trình Tiềm, ngược lại tự dưng thấy hơi thương hại, bởi vậy dịu giọng đáp: "Tam sư thúc, Tuyết Thanh chỉ là một hạ nhân lo tạp dịch tư chất không tốt, chú ý sinh hoạt thường ngày của chưởng môn và các tiểu sư thúc, đạo phù chú bác đại tinh thâm, chúng con chẳng hiểu tí tẹo nào, cũng chỉ nghe chưởng môn nói qua dăm ba câu rồi học vẹt mà thôi, chi bằng công tử đến hỏi thử chưởng môn hoặc là nhà con... đại sư huynh người."

Trình Tiềm nhanh nhạy nghe thấy hai chữ "nhà con", lại liên tưởng đến thái độ thân thiết có thừa nhưng cung kính không đủ của các đạo đồng này với chưởng môn, trong lòng càng nghi hoặc hơn.

Tuyết Thanh nhanh chóng đưa nó đến Thanh An cư bày biện quen thuộc, vội vàng hầu hạ nó tắm sạch gió bụi dọc đường, lại thay một bộ quần áo vừa vặn, chỉnh trong chỉnh ngoài gọn gàng, bấy giờ mới dẫn đi.

Trình Tiềm vừa duy trì hình tượng không để lòi cái dốt, vừa thăm dò từ Tuyết Thanh xem đại sư huynh là thần thánh phương nào. Biết đại sư huynh này họ Nghiêm, tên là Nghiêm Tranh Minh, xuất thân phú quý.

Phú quý đến mức nào? Điều này thì Trình Tiềm không rõ – nó là một đứa trẻ cùng khổ, không có khái niệm gì với "phú quý", người "phú quý" nó từng được thấy, chẳng qua là hạng Vương viên ngoại ở đầu thôn, Vương viên ngoại kia ngoài sáu mươi tuổi, cưới tiểu thiếp phòng thứ ba, đối với Trình Tiềm, đã là phú quý bức người rồi.

Nghe nói năm Nghiêm Tranh Minh bảy tuổi, chẳng biết bởi chuyện vặt vãnh gì mà trốn nhà đi, bị lão cáo già... sư phụ đa mưu túc trí của họ nhặt được, tuệ nhãn thức châu.

Lão bịp dùng tới cái lưỡi không xương, lừa thành công đại sư huynh lúc ấy còn nhỏ, chưa biết tình đời hiểm ác nhập môn, thành đại đệ tử khai sơn.

Nhưng tiểu công tử Nghiêm gia lạc mất, người nhà đương nhiên phải lo lắng, mất bao công sức mới tìm được Nghiêm Tranh Minh đã lạc lối – Nghiêm thiếu gia chẳng biết là bị Mộc Xuân cho uống mê hồn dược, hay chỉ là bản thân không muốn học theo gương tốt, dù chết dù sống cũng không chịu về nhà, khăng khăng ở lại tu hành với sư phụ, y như bị quỷ ám vậy.

Vị thiếu gia này được nuông chiều từ bé, Nghiêm gia đương nhiên không thể nhìn cục cưng nhà mình đi theo bọn giang hồ bịp bợm như gánh hát rong để chịu khổ, sau nhiều lần cãi vã không kết quả, họ đành phải thỏa hiệp, bỏ tiền nuôi môn phái này, coi như nuôi gánh hát cho thiếu gia chơi vậy.

Đương thời môn phái tu chân rất đa dạng, nhưng danh môn chính phái cùng tà ma ngoại đạo hàng thật giá thật đều rất ít, rải rác khắp Cửu Châu phần nhiều là mấy môn phái dã kê mà thôi.

Trình Tiềm tính thầm trong bụng, môn phái như Phù Dao phái, có nhà giàu cung dưỡng, tồn tại khá có thể diện, chắc có thể gọi là "môn phái gia cầm".

Bởi vậy nó xem như đã hiểu, đại sư huynh không chỉ là đại sư huynh, y còn kiêm cả các vai như "phụ mẫu áo cơm của bản môn", "kim chủ của chưởng môn", cùng "đại đệ tử khai sơn của Phù Dao phái", đương nhiên là cái ghế hàng đầu(1) của bản phái, ngay cả sư phụ cũng phải nịnh bợ.

Về phần bản thân cái ghế hàng đầu này – Trình Tiềm nhìn là biết ngay, y là một bại gia tử một lời khó nói hết.

Bốn chữ "kiêu xa dâm dật", trừ lúc ấy đại sư huynh mới mười lăm chưa có gan "dâm", thì ba chữ "kiêu" "xa" "dật" còn lại đủ hết không sót chữ nào.

Khi Mộc Xuân chân nhân lần đầu tiên dẫn đôi tiểu đệ tử đã tắm rửa sạch sẽ đến chỗ Nghiêm thiếu gia, vị thiếu gia kia đương bận chải đầu – không phải chưởng môn già cả hồ đồ không biết lễ phép, nhè ngay sáng sớm người ta đang rửa mặt chải đầu để đến quấy rầy, mà là đại sư huynh mỗi ngày phải chải đầu bao nhiêu bận.

May mà còn trẻ, không sợ rụng tóc hói đầu.

Có tư cách chải đầu cho đại sư huynh, đầu tiên phải là nữ, tuổi không thể quá nhỏ, cũng không thể quá lớn, tướng mạo không thể có một chỗ không đẹp, sở thích không thể có một tẹo bất nhã, từ sáng đến tối trừ chải đầu đốt hương thì khỏi cần làm gì cả, đôi tay nhất định phải mềm mại, phải trắng sáng như ngọc, không thể có một nốt chai phá đám.

Đạo đồng như Tuyết Thanh, thì ra đều là gia nô của Nghiêm gia, chọn kỹ lựa khéo một nhóm đưa lên núi cho môn phái sai sử.

Việc bên cạnh thiếu gia không cần tới đạo đồng, nghe nói là vì y không thích nam giới lắm, chê họ vụng về, bởi thế giữ lại trong viện hầu hạ là tiểu cô nương thuần một sắc, làm cho viện này luôn muôn hồng nghìn tía như mùa xuân vậy.

Trước lúc vào cửa, Trình Tiềm trộm nhìn chằm chằm bộ râu dê của sư phụ cả buổi, cho ra một kết luận: râu của sư phụ đã được dùng lược chải.

Trên đường đến đây, Tuyết Thanh đã nói, Mộc Xuân chân nhân sắp xếp cho nó ở Thanh An cư, là để nó thanh tâm an thần, trong lòng Trình Tiềm lờ mờ có chút khó chịu, không muốn thừa nhận mình tâm thần bất an, hiện giờ đến chỗ đại sư huynh, ngửa đầu nhìn thấy ba chữ "Ôn Nhu hương", tim rốt cuộc thả vào bụng – xem ra không phải nó tâm thần bất an, mà là sư phụ già cả hồ đồ rồi.

Hàn Uyên bên cạnh ngô nghê coi vô tri là đáng yêu, hỏi: "Sư phụ, cổng chỗ đại sư huynh viết gì vậy ạ?"

Mộc Xuân liền vuốt râu đọc cho gã nghe, Hàn Uyên đần thối hỏi tiếp: "Ý là khuyến khích sư huynh về sau ôn nhu hơn ạ?"

Mộc Xuân nghe thế, sợ tái mặt dặn dò: "Câu này tuyệt đối không thể để đại sư huynh con nghe thấy đâu đấy!"

Trình Tiềm và Hàn Uyên thấy đường đường chưởng môn lại cụp đuôi như chó nhà có tang, hiếm khi tâm linh tương thông cùng nghĩ bụng: "Đây rõ là buồn cười, coi nhẹ thiên lý luân thường!"

Cả hai nghĩ như vậy, liếc nhìn nhau, đều nhận thấy sự kinh hãi trên mặt đối phương, vì thế vội cụp đuôi theo sư phụ, tập được kỹ năng quan trọng hàng đầu bản môn – Giáp Vĩ thần công. (giáp vĩ tức cụp đuôi)

Kỳ thực, khi lần đầu tiên gặp đại sư huynh, Trình Tiềm phải giật nảy mình.

Người nọ dáng vẻ còn non nớt mà đã khó ưa vô cùng, vận áo bào gấm trắng như tuyết, trên thêu vân mờ chẳng ai nhìn thấy, chỉ khi cử động mới hơi thấy có vẻ rực rỡ sắc màu. Y dặt dẹo dựa lưng lên cái ghế khắc hoa như không xương, mí mắt buông hờ, một tay chống cằm, tóc xõa ra như vẩy mực.

Nghe thấy âm thanh, Nghiêm Tranh Minh hờ hững nâng mí mắt, khóe mắt như mực nhạt màu quét qua, dài mà cong lên, tự dưng tạo thành vẻ âm nhu kiêu căng. Thấy sư phụ mà y không hề có ý muốn đứng dậy, mông vẫn ngồi vững trên ghế, rì rì mở miệng hỏi: "Sư phụ, người ra ngoài một chuyến, lại nhặt về được hai món gì vậy?"

Hình như y lớn hơi chậm hơn người khác, giọng thiếu niên còn chưa kịp vỡ, đã vậy lại còn hơi nũng nịu, thành thử càng khó mà phân biệt trống mái.

Thế nhưng y õng ẹo một cách đúng lý hợp tình, bất nam bất nữ như vậy, thoạt nhìn lại không hề kỳ cục chút nào.

Chưởng môn lão nhân gia cười theo, xoa tay giới thiệu: "A, đây là tam sư đệ con Trình Tiềm, đây là tứ sư đệ con Hàn Uyên, đều còn nhỏ chưa hiểu chuyện, sau này con làm đại sư huynh, phải giúp sư phụ nhắc nhở chúng."

Nghiêm Tranh Minh nghe tên Hàn Uyên, mày dài giật nhẹ, da mặt dường như cũng hơi co rút, y hé mắt ra, hạ mình liếc tứ sư đệ nóng sốt mới ra lò một cái rồi ngay lập tức nhìn sang nơi khác, giống như bị làm bẩn mắt vậy.

"Hàn Uyên?" Đại sư huynh dường như bất mãn, rì rì bình luận, "Quả nhiên người y như tên, trông hơi oan uổng thật."

Mặt Hàn Uyên đã trắng đến tái nhợt.

Nghiêm Tranh Minh bỏ qua gã, lại chuyển hướng sang Trình Tiềm.

"Tiểu hài kia," Y nói, "Qua đây ta coi nào."

Trung Quốc từ xưa đã có truyền thống sắp xếp thứ tự theo thân phận. Cái ghế thứ nhất này chính là tượng trưng cho quyền lực hoặc địa vị cao nhất.

Chương 5

Edit: Yển

Nghiêm Tranh Minh tỏ thái độ ngạo mạn, vẫy tay gọi Trình Tiềm y như gọi chó vậy.

Hành vi của y thành công khiến Trình Tiềm chỉ chớp mắt đã thoát khỏi sự choáng ngợp.

Bởi từ nhỏ đã không được ai thương yêu, nên trong lòng Trình Tiềm vẫn hết sức tự ti, dần dà sự tự ti này lắng vào xương cốt, hóa thành một bầu tự tôn mãnh liệt đến gần như cố chấp, chỉ một ánh mắt cũng có thể khiến nó mẫn cảm, nói chi vẫy tay như ghẹo chó mèo.

Trình Tiềm giống như giữa mùa đông giá rét bị hắt nước lạnh ngay vào đầu, khiến ngũ quan cũng đóng băng, trên khuôn mặt kết băng không hề có biểu cảm, nó tiến lên một bước, né tay Nghiêm Tranh Minh, chắp tay chào lấy lệ: "Đại sư huynh."

Nghiêm Tranh Minh thò đầu nhìn nó một cái. Y hơi nhô ra như vậy, mùi hoa lan thoang thoảng theo đó bao phủ Trình Tiềm. Chẳng biết bộ quần áo chết tiệt này xông bao nhiêu hương mà nồng nặc dư sức xua côn trùng rồi.

Vị đại sư huynh thiếu gia này chắc hẳn không giỏi xem sắc mặt, hoàn toàn không thấy vẻ tức giận sắp không kìm nén nổi của Trình Tiềm.

Y thậm chí thong dong nhìn Trình Tiềm một lần từ đầu đến chân như xem ngựa vậy, sau đó chắc cảm thấy cũng vừa mắt, Nghiêm Tranh Minh liền thờ ơ gật đầu, hoàn toàn không thèm để ý phản ứng của người ta, cho sư đệ mới gặp một câu chân thành.

Y nói như chày gỗ: "Cũng được, về sau đừng có xấu đi nhé."

Nói xong, để biểu hiện sự hiền hòa nên có của đại sư huynh, thiếu gia miễn cưỡng lướt bàn tay trên đỉnh đầu Trình Tiềm một tấc, làm bộ sờ đầu nó, kế đó phân phó lấy lệ: "'Hàm Oan' kia và 'Đới Khuất' con đều gặp xong rồi, sư phụ dẫn đi đi – ừm, Tiểu Ngọc Nhi, cho nó... cho hai đứa nó, mỗi đứa một nắm kẹo hạt thông."

Khuôn mặt già nua của Mộc Xuân chân nhân hơi co giật, ông bỗng có cảm giác kỳ lạ, giống như mình dẫn vào cho đồ đệ không thèm cười này xem không phải hai sư đệ, mà là hai đại a đầu thông phòng đưa về từ xa tít vậy.

... Còn là đại a đầu không được đẹp lắm!

Kẹo không phải kẹo hạt thông bình thường, chúng được đựng trong túi thơm nhỏ tinh xảo, từng viên tròn vo, còn có một lớp đường áo sáng lóng lánh, pha lẫn mùi hoa khó tả, hương thơm thấm vào ruột gan.

Món ăn tinh tế như vậy, con nhà bần dân bách tính đâu từng được thấy, nhưng Trình Tiềm lại không thích chút nào, vừa ra khỏi cửa đã đưa cả kẹo lẫn túi cho Hàn Uyên, hờ hững nói: "Thứ này nên cho sư đệ ăn đi."

Sự "hào phóng" của nó khiến Hàn Uyên lập tức sững ra, gã nhận túi thơm với tâm tình phức tạp, hiếm khi hơi ngượng ngùng.

Tiểu khiếu hóa lớn bằng này, xưa nay toàn phải tranh giành thức ăn. Mọi người lăn lộn đều là vì mạng sống, ai cũng sống như chó hoang, thì nào ai có sức lo cho người khác?

Ngực Hàn Uyên nóng lên, gã rất cảm động, đồng thời trong lòng sinh ra một hiểu lầm lớn – e rằng tiểu sư huynh mới nhận này không hề yếu đuối dễ khinh, mà là thật sự không thèm so đo, đối tốt với mình.

Mộc Xuân chân nhân lại không dễ lừa như vậy, ông thấy rõ Trình Tiềm phủi tay ghét bỏ, như từng dính phải thứ gì bẩn, lập tức hiểu, tiểu tử này cho kẹo, tuyệt đối không phải do phẩm chất tốt khiêm nhường gì đó, mà chỉ là không thèm nể mặt đại sư huynh yêu ma quỷ quái kia thôi.

Song nói đi cũng phải nói lại, kỳ thực sự hấp dẫn lớn nhất nhóc con tuổi này có thể gặp được, chẳng qua là ăn và uống mà thôi, vậy nhưng Trình Tiềm có thể nhịn, có thể không nhận tình cảm, có thể không nhìn lấy một cái.

Mộc Xuân chân nhân cảm khái nghĩ bụng: "Tiểu vương bát đản này lòng dạ quá cứng rắn, tương lai nếu không thành đại khí thì tất thành đại họa."

Cứ thế, tiểu vương bát đản Trình Tiềm chính thức gia nhập Phù Dao phái.

Đêm đầu tiên ở Thanh An cư của mình, nó ngủ một giấc đến tận giờ Dần ba khắc ngày hôm sau, chẳng mộng mị chi hết, không lạ giường cũng chẳng nhớ nhà.

Sáng sớm hôm sau, Tuyết Thanh giúp Trình Tiềm thay trường bào, chải búi tóc, ăn mặc nom rất đàng hoàng.

Trẻ con vốn không cần buộc tóc đội mũ, nhưng Tuyết Thanh nói, đây là do nó đã vào tiên môn, không thể xem là hài đồng thế tục nữa.

Khác biệt lớn nhất của môn phái gia cầm và môn phái dã kê chính là, môn phái dã kê chỉ giỏi làm bừa, môn phái gia cầm tuy uyên nguyên không rõ, nhưng ngoài mặt cũng có ít vốn liếng thật.

Đầu tiên là phù chú, phù chú tiên nhân ngàn vàng khó cầu trong truyền thuyết ở nơi đây cơ hồ đâu đâu cũng có, ngay cả trên đá và cây cối cũng khắc đầy, Tuyết Thanh chỉ phù chú trên một rễ cây, nói với Trình Tiềm: "Tam sư thúc nếu lạc đường trên núi, chỉ cần hỏi số đá và cây này là được."

Rồi Tuyết Thanh tiến lên một bước làm mẫu, nói với rễ đại thụ: "Xin đến 'Bất Tri đường' – Bất Tri đường là nơi chưởng môn ở, sư thúc vừa mới nhập môn, hôm nay phải đến chỗ chưởng môn thụ giới."

Trình Tiềm quên cả trả lời, sửng sốt nhìn rễ cây trước mặt phát ra một tầng huỳnh quang nhàn nhạt.

Lúc này trời còn chưa tỏ, ánh sáng ấy thành từng cụm nho nhỏ, sáng trong như ánh trăng, chiếu rọi núi rừng bỗng dưng sinh ra vài phần tiên khí, bám vào một số đá và cây khác, uốn lượn thành một con đường be bé rõ ràng giữa rừng.

Tuy không phải là tiên bảo đầu tiên Trình Tiềm được thấy, lại là tiên bảo hữu dụng đầu tiên!

Tuyết Thanh cực giỏi thăm dò sắc mặt, biết đứa trẻ này chỉ làm bộ thôi chứ thực ra rất lập dị, nhưng cũng không vạch trần, chỉ chờ Trình Tiềm tự mình nhìn qua, mới bình tĩnh nhắc nhở: "Tam sư thúc mời đi bên này, hãy đi theo ánh sáng."

Đi trên con đường trải bằng ánh huỳnh quang, Trình Tiềm mới có cảm giác như mình đang biến thành một loại người khác, và sắp sửa sống một cuộc sống khác.

Trình Tiềm hỏi: "Tuyết Thanh ca, mấy cái này do ai làm vậy?"

Tuyết Thanh không sửa nổi xưng hô của Trình Tiềm, bèn mặc kệ luôn, nghe hỏi liền đáp: "Là chưởng môn ạ."

Trình Tiềm lấy làm kinh hãi, có phần khó tin nổi.

Mới không lâu trước, chưởng môn sư phụ trong cảm nhận của Trình Tiềm còn là một con gà rừng cổ dài hơi đáng yêu, vừa xấu vừa vô dụng – vậy chẳng lẽ ông ta lại không phải là kẻ lừa đảo?

Chẳng lẽ ông ta còn có bản lĩnh gì mà người khác không biết?

Sư phụ cũng có thể hô phong hoán vũ, khiến gió thổi cỏ rạp như trong truyền thuyết sao?

Trình Tiềm ôm vài phần ao ước lạ lùng tưởng tượng thử, lại phát hiện mình vẫn khó lòng sinh ra sự kính sợ chân chính với sư phụ.

Tuyết Thanh dẫn Trình Tiềm đi dọc theo con đường nhỏ phát sáng, đến Bất Tri đường của Mộc Xuân chân nhân.

"Bất Tri đường" kỳ thực là gian nhà tranh nhỏ, không có tiên bảo chi, cũng chẳng có bảng tên, ngoài cửa viện treo một tấm gỗ to bằng bàn tay, trên khắc một cái đầu thú gồ ghề. Trình Tiềm thấy cái đầu thú nọ hơi quen mắt, nhưng nhất thời không nghĩ ra đó là con gì. Cạnh đầu thú còn có một hàng chữ nhỏ, viết "Nhất vấn tam bất tri".

Gian nhà tranh khiến Trình Tiềm trong chớp mắt còn tưởng mình đã quay về căn nhà ở nông thôn, nơi này quá giản dị, hầu như không có gì cả.

Vào cổng gặp ngay một tiểu viện trơ trọi, giữa viện là một cái bàn gỗ nhỏ ba chân, chỗ vốn nên có chân bị cụt một đoạn, phải dùng đá kê, trên mặt bàn gỗ đầy các vết nứt, mà Mộc Xuân chân nhân ngồi nghiêm chỉnh sau bàn thì đang say sưa nhìn chằm chằm cái khay nhỏ trên đó.

Khay bằng gốm làm ẩu, tay nghề rất kém, tạo hình dở vuông dở tròn, ngay cả đế cũng không bằng, bên trên rải rác mấy đồng tiền bằng đồng(1) cũ rích rỉ sét, chúng nằm cạnh nhau, tự dưng sinh ra một chút u ám cũ kỹ.

Trình Tiềm không tự chủ được dừng chân, trong chớp mắt, nó cảm thấy sư phụ đang nhìn chằm chằm mấy đồng tiền có vẻ rất nghiêm nghị.

Tuyết Thanh bên cạnh cười nói: "Hôm nay chưởng môn nhìn thấy thiên mệnh gì trong quẻ vậy?"

Chưởng môn nghe vậy, nghiêm trang cất đồng tiền đi, hai tay co về tay áo, thản nhiên nói: "Thiên đạo có lệnh, bữa ăn hôm nay phải thêm món gà hầm nấm."

Lúc nói câu này râu ông hơi vểnh lên, đôi mắt ti hí xoay vài vòng, chóp mũi hơi rung, lộ vẻ mê mẩn thật sự.

Trình Tiềm cảm thấy thần sắc ấy quen mắt, sau đó nó bỗng dưng liên hệ đầu đuôi lại, trong chớp mắt như phúc đến lòng sáng mà nhớ ra – cái đầu thú trên mộc bài ở cửa Bất Tri đường là đầu chồn!

Ngu dân nông thôn không biết thánh hiền là gì, càng mù tịt kinh Phật kinh đạo, cầu thần bái Phật toàn là làm bừa thôi, "Hoàng đại tiên" và "Thanh đại tiên" các "thần tiên" dã lộ cũng trà trộn trong đó, nhà nhà đều biết.

"Hoàng đại tiên" là chồn tinh, "Thanh đại tiên" thì là xà tinh, còn gọi là "hộ gia xà", nghe nói cung phụng hai vị đại tiên này thì có thể giữ nhà coi sân, bảo vệ một phương bình an.

Trình Tiềm hồi nhỏ từng thấy bài vị cung phụng Hoàng đại tiên ở trong thôn, trên đó cũng có cái đầu thú như vậy.

Nghĩ đến đây, nó lại nhìn Mộc Xuân, chỉ thấy lưng dài chân ngắn, gầy trơ cả xương, cộng thêm đầu bé mặt gà... nhìn sao cũng thấy giống một con chồn thành tinh cả!

Trình Tiềm ôm mối nghi ngờ khó tả như vậy, tiến lên một bước, tâm tình phức tạp lấy mắt thịt thai phàm, chào ông sư phụ như con chồn.

Sư phụ cười ha hả xua tay, nói: "Không cần đa lễ, rườm rà quá, Phù Dao phái chúng ta không chuộng trò này."

Trình Tiềm cay đắng nghĩ: "Thế chuộng cái gì? Gà hầm nấm hả?"

Chính lúc này, Hàn Uyên cũng đến, từ xa tít đã gọi: "Sư phụ! Sư huynh!"

Gã trái lại tự mình thực hiện "không chuộng lễ phép", vừa vào cửa đã ngạc nhiên nói: "Ôi chao, sư phụ, sao người lại ở nơi rách nát thế này!"

Kêu la xong, tiểu khiếu hóa kia lại dạo một vòng trong sân Bất Tri đường như tới quen lắm rồi, cuối cùng dừng chân trước mặt Trình Tiềm.

Tiểu khiếu hóa tầm nhìn hạn hẹp này đã bị một gói kẹo hạt thông mua chuộc hoàn toàn, nhận định Trình Tiềm tốt với mình, nên không kêu sư huynh một cách nhạo báng nữa, bước lại thân thiết kéo tay áo Trình Tiềm: "Tiểu Tiềm, sao hôm qua không tới tìm ta chơi?"

Trình Tiềm thấy gã là chán, lập tức bình tĩnh lui nửa bước, rút tay áo khỏi tay gã, chào một cách lễ độ: "Tứ sư đệ."

Tuyết Thanh thay quần áo kiểu người lớn cho nó, để lộ ra vầng trán trơn nhẵn và khuôn mặt thanh tú xinh đẹp, trông như một người ngọc vậy. Mà một người nếu thật sự làm bằng ngọc, thì dường như cũng có thể tha thứ khi hơi lầm lì.

Bản thân Hàn Uyên là một đứa ăn mày không cha không mẹ không giáo dưỡng, thấy ai không vừa mắt là làm gì cũng ngứa mắt, thấy ai tốt thì làm gì cũng tốt – hiện tại với gã mà nói thì Trình Tiềm chính là kiểu nhìn sao cũng tốt, bởi vậy gã không hề để ý sự lãnh đạm của đối phương, còn khoái trá nghĩ thầm: "Trẻ con nuôi trong nhà kiểu này không giống với loại lang bạt khắp nơi như mình, chuyên môn ngại ngùng, về sau phải chiếu cố nhiều hơn mới được."

Mộc Xuân chân nhân tuy mắt hí, tầm nhìn lại như đuốc, đứng ngoài quan sát giây lát, liền lên tiếng cắt ngang Hàn Uyên bị coi khinh như cái quang gánh cạo đầu bên nặng bên nhẹ(2): "Tiểu Uyên, lại đây."

Hàn Uyên hớn hở bước tới trước cái bàn con muốn đổ kia: "Sư phụ, có chuyện gì ạ?"

Mộc Xuân chân nhân nhìn gã, nghiêm mặt nói: "Con tuy nhập môn sau, nhưng tuổi tác hơi lớn hơn tam sư huynh, vi sư dặn con vài câu trước."

Sư phụ dù như chồn thì cũng là sư phụ, thấy ông hiếm khi nghiêm túc, Hàn Uyên không tự chủ được ưỡn ngực.

Mộc Xuân nói: "Con trời sinh nhanh nhẹn, tiếc rằng lỗ mãng, bởi vậy vi sư tặng con hai chữ 'bàn thạch' đặng mà cảnh giác. Thiên đạo kị đầu cơ trục lợi, kị kiêu căng tự mãn, kị dụng tâm không chuyên(3), về sau phải thường tự xét lại mình, không thể lơi lỏng một ngày, hiểu chưa?"

Hàn Uyên giơ tay quẹt nước mũi. Mấy câu cảnh cáo này gã chẳng hiểu nổi nửa chữ, đành lơ mơ "a" một tiếng.

Cũng may Mộc Xuân không truy cứu sự thất lễ của gã, nói xong liền quay sang Trình Tiềm.

Lúc này Trình Tiềm mới phát hiện, kỳ thực sư phụ không phải trời sinh mắt tam giác, mà chỉ là mí lót, bình thường mắt luôn khép hờ, tầm mắt có vẻ dao động, khiến dáng vẻ trông hèn hạ, lần này ông mở mắt, nhất thời lại hiện ra vài phần trong suốt trắng đen rõ ràng, màu mắt hơi sẫm, thần sắc đối với Trình Tiềm gần như là nghiêm khắc.

1. Mấy đồng tiền này làm bằng đồng, nhưng từ đây về sau mình chỉ để là đồng tiền thôi, các bạn cứ mặc định là tiền đồng nhé.

2. Quang gánh cạo đầu bên nặng bên nhẹ có thể tạm hiểu là hai phương một nhiệt tình một lãnh đạm. Căn bản ngày xưa không có hiệu cắt tóc cố định mà người ta phải dùng quang gánh để gánh đi khắp các hang cùng ngõ hẻm, và cái quang gánh này đầu nặng đầu nhẹ.

Chương 6

Edit: Yển

"Trình Tiềm."

Không biết vì sao, sư phụ gọi Hàn Uyên là "Tiểu Uyên", nhưng luôn gọi cả tên lẫn họ của Trình Tiềm, chẳng rõ là thích hơn hay là không, nghe luôn có cảm giác trịnh trọng tỉa tót câu chữ.

Trình Tiềm ngẩng đầu, có phần luống cuống, đôi tay giấu trong tay áo nắm chặt lại.

"Tới đây." Mộc Xuân chân nhân nhìn nó, rồi ngay lập tức, đại khái là ý thức được mình nghiêm túc quá mức, ông hơi hạ mí mắt xuống, lại biến mình thành một con chồn mặt mũi hiền lành, giọng cũng dịu dàng hơn, "Con tới đây."

Mộc Xuân vừa nói vừa giơ một tay đặt trên đỉnh đầu Trình Tiềm. Lòng bàn tay ông hơi nóng, hương cỏ cây thoang thoảng nơi cổ tay áo, muộn màng truyền cho Trình Tiềm.

Nhưng chẳng có tác dụng an ủi, Trình Tiềm vẫn hoảng hốt.

Nhớ lại bình luận "lỗ mãng nhanh nhẹn" của sư phụ dành cho Hàn Uyên, rồi nó lo sợ nghĩ bụng: "Sư phụ sẽ nói gì mình?"

Trình Tiềm vội vã xem lại một lần từ đầu đến cuối cuộc đời cũng vội vã của mình, định tự tìm khuyết điểm trước, và tiện chuẩn bị tâm lý sẵn sàng trước khi sư phụ mở lời.

Trình Tiềm thầm tính tỉ mỉ: "Ông ấy sẽ nói mình bụng dạ hẹp hòi? Hay không đủ nhân nghĩa? Không đủ hữu ái?"

Nhưng Mộc Xuân chân nhân rốt cuộc không hề nói ra khuyết điểm và khuyên răn ngay trước mặt như lúc đánh giá Hàn Uyên, chưởng môn sư phụ thậm chí hơi trù trừ, dường như đang đặc biệt khó khăn trong việc tìm kiếm một cách diễn đạt thích hợp.

Cho đến khi tay chân Trình Tiềm lạnh ngắt, đợi chẳng biết đã bao lâu, mới nghe thấy Mộc Xuân thận trọng nhấn từng chữ: "Trong lòng con đã nắm được, nên ta sẽ không nói thừa nữa, chỉ cho con hai chữ 'tự tại' làm răn."

Từ này quá đơn giản, lại rộng lớn vô biên, khiến người ta nhất thời khó mà hiểu nổi. Trình Tiềm không nhịn được nhíu mày, một đống chuẩn bị trong lòng bỏ phí cả, hơi thở nén trong lồng ngực chưa thở phào nổi, ngược lại còn căng thẳng hơn.

Thoạt đầu Trình Tiềm buột miệng hỏi luôn: "Sư phụ, 'tự tại' là gì ạ?"

Hỏi xong lại hơi hối hận, bởi không muốn biểu hiện mình đầu to mà óc bé như Hàn Uyên.

Trình Tiềm cố gắng định thần lại, kèm theo một chút thăm dò và thiếu tự tin, sính mạnh, khiên cưỡng ghép lại, hỏi: "Ý sư phụ là bảo con thanh tâm an thần, cố gắng tu hành ạ?"

Mộc Xuân dừng một chút, không hề giải thích gì, cuối cùng chỉ gật đầu lấp lửng: "Hiện tại... cứ coi như vậy đi."

Hiện tại vậy, thế về sau không phải vậy sao?

Hơn nữa "cứ coi như" là ý gì?

Nghe câu trả lời như thế, Trình Tiềm càng khó mà hiểu nổi. Nó thậm chí mẫn cảm nghe ra một chút manh mối của tiền đồ chưa biết từ lời Mộc Xuân chân nhân nói. Nhưng cũng nhận thấy sư phụ không muốn nhiều lời, xuất phát từ sự thức thời nhờ trưởng thành sớm, nó đành miễn cưỡng nuốt lại nghi vấn vào lòng, chỉ khom người đáp theo quy củ: "Vâng, đa tạ sư phụ dạy bảo."

Mộc Xuân chân nhân lặng lẽ thở dài. Ông thoạt nhìn là một nam tử tráng niên không cường tráng lắm, thực tế đã già muốn thành tinh rồi, đương nhiên nhận ra được một số việc – Trình Tiềm này tiến thoái lễ phép chu toàn, gọi các đạo đồng hầu hạ thường ngày là huynh, hiển nhiên không phải vì cảm thấy người chung quanh đặc biệt đáng tôn trọng, mà là không chịu để mất sự "văn nhã" của các lễ nghi phiền phức trước mặt những "người ngoài" này.

Có câu "Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ"(1). Đứa trẻ này dù ngộ tính tốt hơn, thiên tư tuyệt hơn, thì thiên tính cũng rất xa đại đạo. Trình Tiềm lại còn suy nghĩ nhiều, nên sẽ không được thích lắm... Nhưng nếu đã kiêu căng thì chắc hẳn nó cũng chẳng thèm ai thích đâu.

Mộc Xuân chân nhân buông Trình Tiềm ra, hơi lo là mai sau nó sẽ lầm đường lạc lối.

Ông lấy cái bàn gỗ ba chân lại, gọi Hàn Uyên và Trình Tiềm cùng đến.

Chỉ thấy mặt trái cái bàn kia chi chít các lỗ lớn nhỏ do mọt đục, giữa những lỗ mọt đó lại còn khắc kín các chữ nhỏ nữa chứ.

Mộc Xuân nói: "Đây là môn quy Phù Dao phái ta, khi nhập môn vi sư phải truyền cho các con trước tiên, hai con phải nhớ không sai một chữ; bắt đầu từ hôm nay, mỗi ngày chép một lần, chép đủ bảy bảy bốn mươi chín ngày mới thôi."

Đối mặt với từng môn quy này, Trình Tiềm rốt cuộc lộ ra sự kinh ngạc thích đáng – nó luôn cảm thấy thứ thần thánh như môn quy một phái không nên khắc vào dưới một cái bàn gỗ cũ kỹ.

... Còn là bàn gỗ ba chân.

Hàn Uyên bên cạnh cũng kinh ngạc y như nó vậy.

Tiểu khiếu hóa kia thò đầu ra sửng sốt nói: "Ôi trời, cái gì đây ạ? Sư phụ, nó biết con nhưng con không biết nó!"

Trình Tiềm: "..."

Một sư phụ có khả năng là do chồn biến thành, một câu răn dạy chẳng hiểu cái quái gì, một môn quy khắc dưới cái bàn gỗ mục, một vị sư huynh ẻo lả, và một sư đệ ăn mày mù chữ... Khởi điểm kiếp tu hành của nó sao mà khác thường quá vậy, sau này liệu có tu được trò trống gì không đây?

Trình Tiềm cảm thấy tiền đồ thật là mịt mù.

Nhưng đến tối quay về, tâm trạng Trình Tiềm liền vui vẻ hẳn, bởi vì nó biết mình cũng có một gian thư phòng, trong đó chẳng những có từng chồng sách mà nó hằng ước ao, còn cả giấy bút Tuyết Thanh chuẩn bị cho nữa chứ.

Trình Tiềm chưa bao giờ viết chữ trên giấy – học thức của cha mẹ ruột cộng lại còn chưa viết được từ một đến mười, nên trong nhà đương nhiên cũng chẳng chuẩn bị những thứ này. Mấy năm nay, nó dựa vào bản lĩnh xem qua là nhớ, học lỏm được từ lão học trò không ít chữ, cất hết trong đầu, rồi về nhà dùng cành cây vẽ trên mặt đất ngay trước cửa, thực sự là nằm mơ cũng muốn được sờ thử văn phòng tứ bảo.

Trình Tiềm bất tri bất giác liền mê mẩn, bởi vậy nó không nghe lời sư phụ – sư phụ chỉ bảo mỗi ngày viết môn quy một lần, nhưng chờ đến khi Tuyết Thanh vào gọi đi ăn cơm, Trình Tiềm đã viết đến năm lần như bị nghiện, và có vẻ như không định dừng lại.

Bút lông sói khác với cành cây, Trình Tiềm lần đầu tiên sờ vào giấy bút, chữ viết đương nhiên khó đọc. Nhưng có thể nhận thấy, nó đang cố gắng bắt chước nét chữ viết môn quy trên cái bàn gỗ. Lúc xem ở Bất Tri đường, nó không chỉ phân tích cặn kẽ môn quy rồi cất vào đầu, mà còn tham lam cuỗm hết các nét dọc ngang.

Tuyết Thanh phát hiện cứ viết xong một lần, là nó sẽ sửa lại một lần những chỗ không đẹp, bắt chước hết sức chăm chú, hoàn toàn không để ý đến xung quanh, ngồi hơn nửa canh giờ liền chẳng buồn nhúc nhích, thậm chí hoàn toàn không để ý thấy mình đã vào thư phòng.

Đêm đầu tiên Trình Tiềm ngủ rất ngon, hôm nay lại vì hơi hưng phấn mà mất ngủ. Nó vừa nhắm mắt là có thể cảm giác được cổ tay mỏi nhừ, trong đầu toàn là những dòng chữ trên môn quy.

Môn quy chắc chắn cũng do người viết hoành khắc, Trình Tiềm thích chữ của người này vô cùng, nhưng hoành thì đã đành, lại còn cái bàn gỗ mục khắc môn quy thoạt nhìn chẳng tồn tại được mấy năm nữa chứ, nó suy đoán thời gian khắc môn quy hẳn không lâu lắm.

Đó là chữ của ai nhỉ? Chẳng lẽ là sư phụ?

Cho đến khi bất tri bất giác ngủ thiếp đi, nó vẫn còn không quên nghĩ ngợi lung tung, trong cơn mơ màng dường như có thứ gì đó dẫn nó đi lung tung trên Phù Dao sơn, lòng vòng một hồi liền đến "Bất Tri đường" lúc ban ngày đã đến, Trình Tiềm ù ù cạc cạc nghĩ bụng: "Mình tới chỗ sư phụ làm gì?"

Nhưng nó không tự chủ được mà đi vào, sau đó nhìn thấy một người ở trong viện.

Người nọ vóc dáng cao to, hẳn phải là nam giới, nhưng diện mạo lại rất mơ hồ, mặt phảng phất như ẩn sau một lớp sương đen, đôi tay khớp xương rõ ràng, trắng đến tái nhợt, trông như cô hồn dã quỷ vậy.

Trình Tiềm lấy làm kinh hãi, theo bản năng lùi hai bước, rồi lại hơi lo lắng cho sư phụ, bèn lớn gan mở miệng hỏi: "Ngươi là ai? Sao lại ở trong viện của sư phụ ta?"

Người nọ khoát tay, Trình Tiềm liền cảm thấy một lực hút cực lớn, hút nó lên lơ lửng, chớp mắt đã đến trước mặt nam nhân nọ.

Đối phương giơ một tay lên, từ trên cao nhìn xuống, chạm vào mặt Trình Tiềm.

Trình Tiềm giật mình, tay người này thật là lạnh, lạnh đến mức vừa bị y chạm đến, thì cả người đã lạnh cóng hết.

Ngay lập tức, người nọ nắm lấy bả vai Trình Tiềm, khẽ cười nói: "Nhóc con, gan to thật, mau về đi!"

Trình Tiềm cảm thấy mình bị đẩy mạnh, rồi nó chợt giật mình thức giấc ngay trên giường mình, mà trời hãy còn chưa hửng sáng.

Giấc mơ như vậy khiến nó rốt cuộc không ngủ nổi nữa, đành phải dậy mặc quần áo, rồi chạy vào viện tưới hoa giết thời gian, làm cho Tuyết Thanh mãi đến lúc dẫn nó tới Truyền Đạo đường, vẫn còn xấu hổ vì mình dậy muộn hơn.

Truyền Đạo đường là một tiểu đình, bên trong kê một số bàn ghế, chung quanh là một dải đất trống, bọn Trình Tiềm đến từ rất sớm, nhưng đã có đạo đồng quét dọn, đun nước sẵn sàng, đang chuẩn bị pha trà rồi.

Trình Tiềm im lặng tìm một chỗ ngồi xuống, tiểu đạo đồng lập tức thành thạo rót cho một bát trà nóng.

Trình Tiềm tuy vẫn duy trì sắc mặt lãnh đạm, nhưng cái mông trên ghế đá từ đầu đến giờ chỉ dám dè dặt ngồi ngay mép – quen thói thành tự nhiên, không có cách nào cả, nó chịu tội được, nhưng không hưởng phúc nổi, chỉ ngồi một bên uống trà xem người ta làm việc, khiến trong lòng có cảm giác bất an khó chịu.

Đợi hết một chén trà, Trình Tiềm mới nghe tiếng bước chân, ngẩng đầu thấy một thiếu niên xa lạ từ con đường mòn bên kia đi tới.

Thiếu niên nọ mặc áo bào màu xanh đen, ôm trong lòng một thanh mộc kiếm to bản bằng hơn một bàn tay, bước đi nhanh chóng, không hề nhìn ngang liếc dọc, đạo đồng đi sau đuổi theo hơi mệt.

Tuyết Thanh nhỏ giọng nói với Trình Tiềm: "Đó là nhị sư thúc."

Nhị sư huynh Lý Quân, Trình Tiềm từng thấy mộc bài viết cái tên này trên cánh cửa gỗ ở Bất Tri đường, vội đứng dậy chào: "Nhị sư huynh."

Lý Quân tựa hồ không ngờ đã có người ở trong đình, nghe tiếng dừng bước, ngẩng đầu liếc nhìn Trình Tiềm một cái, đôi mắt gã hình như hơi to hơn người khác, cho nên ánh mắt trông không ôn hòa lắm, lúc nhìn người ta có vẻ lạnh lùng.

... Chắc không phải có vẻ lạnh lùng, mà là vốn đã lạnh lùng rồi.

Lý Quân nhanh chóng nhìn Trình Tiềm một cái, kế đó đột ngột lại nở nụ cười gượng gạo, trông không có hảo ý: "Ta nghe nói sư phụ dẫn về hai tiểu sư đệ, chính là đệ à?"

Trình Tiềm theo bản năng không thích ánh mắt Lý Quân, cảm giác âm trầm, chẳng tốt đẹp gì, bởi vậy chỉ đáp đơn giản: "Là đệ và tứ sư đệ Hàn Uyên."

Lý Quân tiến lên một bước, hứng thú ghé sát lại, hỏi: "Vậy đệ tên gì?"

Sự hứng thú của gã phảng phất như khi sói nhìn thấy thỏ, Trình Tiềm suýt nữa muốn lui lại, nhưng vẫn nhịn được; nó đứng thẳng tại chỗ, mặt không biểu cảm mà trả lời: "Trình Tiềm ạ."

"À, Tiểu Tiềm." Lý Quân gật đầu ra chiều thân thiết, vẻ mặt ngoài cười mà trong không cười, "Chào đệ."

Trước mắt Trình Tiềm là nguyên một hàm răng trắng. Đến lúc này, nó đã xác định, trong cả Phù Dao phái, trừ sư phụ ra, thì không còn người thứ hai có thể làm cho nó hơi thích một chút.

Có điều, sư phụ còn chưa chắc có phải là người hay không.

Một lát sau, Hàn Uyên và sư phụ cũng đến. Hàn Uyên không hề khách khí ngồi ngay trước mặt, độc thoại trách móc Trình Tiềm không tới chơi với mình, đồng thời gã còn tận dụng lúc ngừng nghỉ cầm trà bánh trên bàn lên nếm mỗi loại một miếng.

Hàn Uyên khi thì mặt mày hớn hở nịnh nọt sư phụ, khi lại muốn quay đầu nháy mắt ra hiệu với Trình Tiềm, bận mà không loạn, giải thích câu "xấu xí thích gây sự chú ý" không sai một chữ nào.

Mà đại sư huynh Nghiêm Tranh Minh thì muộn hai khắc mới ngáp ngắn ngáp dài tới đây.

Y tuyệt đối không chịu tự đi, mà bắt hai đạo đồng khiêng ghế mây đưa y từ Ôn Nhu hương tới.

Một thiếu nữ xinh xắn bước nhỏ theo sau quạt cho y, một đạo đồng khác thì ở bên che ô.

Nghiêm Tranh Minh kia một mình dẫn Hanh Cáp nhị tướng(2), bạch y phiêu phiêu, vạt áo như mây.

Vị thiếu gia này giống như không phải đến buổi học sớm, mà là đến làm mưa làm gió vậy.

Vào Truyền Đạo đường, đại sư huynh thoạt đầu ngông nghênh liếc Lý Quân một cái, chữ ghét sáng loáng nằm trên đuôi lông mày, kế đó lại nhìn Hàn Uyên cùng một bàn bánh ngọt chẳng còn nguyên vẹn. Đại sư huynh vừa nhìn đã phải "phạch" một phát xòe cây quạt trong tay ra che mắt, tránh để tầm mắt thuần khiết bị vấy bẩn.

Cuối cùng hết đường lựa chọn, y đành phải hậm hực đi đến bên cạnh Trình Tiềm. Đạo đồng đi theo thành thạo tiến lên một bước, lau ghế bốn lần liền, lót thêm tấm đệm, pha trà xong xuôi, rồi lại đem trà nóng đặt trên đĩa trà có khắc phù chú bên cạnh, đĩa trà kia trong chớp mắt đã làm nguội chén trà vừa còn bốc khói ngùn ngụt, đến khi bên ngoài chén đọng một lớp nước mỏng, Nghiêm Tranh Minh mới uể oải cầm lên uống.

Làm xong xuôi đủ các bước không sót bước nào, cái mông tôn quý của Nghiêm thiếu gia kia mới chịu ngồi xuống.

Lý Quân không hề lấy làm lạ, coi như y không tồn tại, Hàn Uyên trợn mắt há hốc mồm như muốn nói "Cái quái gì thế này".

Mà Trình Tiềm ở gần xem toàn bộ quá trình, tuy bình thường vẫn khắt khe, lúc này cũng cảm thấy chẳng thể nói gì nổi.

Buổi học sáng nhốn nháo của Phù Dao phái, cứ thế bắt đầu trong sự ngứa mắt lẫn nhau của bốn đệ tử Mộc Xuân chân nhân.

Câu "Phù lễ giả, trung tín chi bạc nhi loạn chi thủ" được trích từ Đạo đức kinh của Lão Tử. Theo như bản dịch của Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ thì là: Mà Lễ là trung tín đã đi đến chỗ mỏng manh, và là đầu mối loạn lạc.Hanh Cáp nhị tướng là hai nhân vật trong Phong Thần diễn nghĩa, tác giả dựa vào hai vị môn thần Phật giáo thủ hộ tự miếu để ghép thành hai viên thần tướng.

Chương 7

Edit: Yển

Chẳng biết có phải là sư phụ lão nhân gia đã tính ra tình cảnh này hay không, cái đĩa lồi lõm và mấy món đồ rỉ sét kia không chừng hữu dụng. Dù sao thì ông thoạt nhìn đã sớm có chuẩn bị rồi.

Mộc Xuân chân nhân hạ mí mắt xuống, bước lên bục, lơ đi bốn đồ đệ tiểu quỷ đang gườm gườm nhau bên dưới, lờ đờ mở miệng: "Buổi học sáng hôm nay, chúng đệ tử cùng đọc 'Thanh tĩnh kinh' với thầy."

"Thanh tĩnh kinh" không phải "Thái Thượng Lão Quân thuyết thường thanh tĩnh kinh", mà là một bài lải nhải lạ lùng lặp đi lặp lại, chưa biết chừng là do sư phụ tự biên cũng nên, nội dung thì chẳng hiểu cái quái gì hết.

Chắc để tỏ ra thanh tĩnh, trong lúc đọc, mỗi một chữ Mộc Xuân chân nhân đều phải ngân dài gấp đôi, dài quá lại khó tránh khỏi hụt hơi, bởi vậy âm cuối các câu đều run run một cách kỳ quặc, y như mấy bà già móm điên điên khùng khùng trong tuồng vậy.

Trình Tiềm nghe một hồi, chỉ cảm thấy ù hết cả tai, khiến lòng nó thấp tha thấp thỏm – chỉ lo sư phụ tự làm mình đứt hơi mà chết.

Sư phụ thều thào đọc xong lần thứ nhất, chậm rãi cầm chén trà trước mặt lên làm trơn họng, Trình Tiềm vội vàng đập rớt hết đám da gà da vịt đang nổi khắp người, chờ nghe cao luận phi thiên độn địa, kết quả là tuyệt vọng nghe thấy sư phụ dùng thanh âm khiến người ta ngứa ngáy da đầu lề mề nói: "Tốt, đọc lại lần nữa."

Trình Tiềm: "..."

Vai Trình Tiềm bị vỗ không chút khách khí. Đại sư huynh bề ngoài vàng ngọc bên trong thối rữa kia chủ động nói chuyện với nó.

Đại sư huynh bảo: "Này, nhóc con, ngươi dịch qua bên kia một chút, nhường chỗ cho ta đi."

Đại sư huynh là bảo vật trấn phái, y đòi chỗ, Trình Tiềm không dám không nhường.

Chỉ thấy Nghiêm thiếu gia hé mí mắt lên, đạo đồng bên cạnh lập tức chạy đến đưa y một cái ghế mỹ nhân(1) bằng trúc, y không chút khách khí nằm luôn ra đó, ngay trước mặt sư phụ, công khai nhắm mắt lại, làm một giấc giữa sự "thanh tĩnh" như sấm rền bên tai.

Trình Tiềm quan sát một hồi, phát hiện đại sư huynh yêu quái này mà cũng có ưu điểm – thí dụ như, ngủ không ngáy chẳng hạn.

Những người khác đại khái đã quá quen với việc này, đại sư huynh ngủ gật chẳng thèm kiêng dè, nhị sư huynh thì chỉ trong một lúc đã dụ dỗ được tiểu sư đệ ăn mày nóng sốt mới ra lò một cách hoàn mỹ, đồng thời cũng không buông tha cho Trình Tiềm, liên tục nháy mắt ra hiệu.

Bốn người ở đây, chỉ có Trình Tiềm là còn coi như khoan dung với sư phụ. Sự khoan dung của nó phân chia rạch ròi với khắc bạc, lại đều là từ đầu đến cuối, và còn cẩn thận tỉ mỉ nữa. Trong cảnh nhốn nháo thế này, để sư phụ không đến mức phải tự biên tự diễn, Trình Tiềm ngồi nguyên tại chỗ bất động như núi, đọc theo sư phụ hết "bài học sáng thường lệ" của ngày đầu tiên.

Lý Quân thấy Trình Tiềm chẳng thèm ngó ngàng đến mình, tròng mắt xoay một vòng, liền nảy ra chủ ý. Gã lôi một cái lọ sứ nhỏ trong tay áo ra như phường trộm cắp, huơ huơ trước mắt Hàn Uyên, thì thào: "Đệ biết đây là cái gì không?"

Hàn Uyên nhận lấy mở ra, tức khắc choáng váng vì mùi tanh, ngay cả Trình Tiềm phía sau cũng bất hạnh bị ảnh hưởng.

Lý Quân đắc ý dương dương: "Đây là kim cáp thần thủy ta làm đấy."

Trình Tiềm chớp thời gian trong khi đọc kinh theo sư phụ, nhất tâm nhị dụng khịt mũi dè bỉu: "Chẳng lẽ đây không phải là nước rửa chân của kim cáp?" (kim cáp: cóc vàng)

Hàn Uyên bịt mũi trả lọ "nước rửa chân thần thánh" này, cố nén mùi tanh hỏi: "Dùng làm gì vậy?"

Lý Quân cười hì hì vo tròn tờ giấy Tuyên Thành trên bàn, sau đó nhỏ vài giọt thần thủy. Chỉ thấy mấy giọt nước ấy nhanh chóng ngấm vào, cục giấy trong chớp mắt đã biến thành một con cóc hàng thật giá thật.

Chim bay cá nhảy đầy rẫy trên thế giới không chơi, lại đi chơi cóc, chí thú gì thế này?

Trình Tiềm đột nhiên hơi hiểu vì sao ánh mắt đại sư huynh nhìn nhị sư huynh lại như nhìn một đống phân vậy.

Lý Quân bắt gặp ánh mắt Trình Tiềm, lập tức cười xấu xa dùng cán bút chọc chọc con cóc trên bàn, chỉ Trình Tiềm mà nói: "Tìm đệ ấy đi."

Con cóc nghe vậy "Ộp" một tiếng, chạy tới chỗ Trình Tiềm, nửa đường bị một bàn tay gầy đét kẹp lấy – sư phụ không biết đã đi đến bên cạnh từ khi nào, con cóc kia lại hóa thành một cục giấy ở trong tay ông.

"Bàng môn tà đạo," Mộc Xuân chân nhân than thở như tụng kinh, "Tiểu Quân à, con tài thật!"

Lý Quân le lưỡi.

Sư phụ nói: "Đã như vậy, thì con dạy các sư đệ đọc kinh đi."

Lý Quân đành phải dùng chất giọng như thái giám xướng trước đại điện, đọc đi đọc lại một đoạn ngắn Thanh tĩnh kinh hơn mười lần trong gần một canh giờ, sư phụ rốt cuộc mới đại phát từ bi cho dừng lại, để sự tra tấn lê thê này kết thúc.

Hàn Uyên run rẩy rỉ tai Trình Tiềm: "Huynh ấy mà còn đọc tiếp, chắc ta đái ra quần quá!"

Trình Tiềm ngồi ngay ngắn, làm bộ như không biết gã ta.

Sư phụ nhắm mắt dưỡng thần hơn một canh giờ ở đằng trước thần thái hồng hào, nói: "Một tĩnh cũng nên có một động, các đồ nhi theo thầy ra đình nào – À, Trình Tiềm, gọi đại sư huynh của các con dậy đi."

Trình Tiềm bị tai bay vạ gió nghe vậy sửng sốt, nghiêng đầu dòm dòm thiếu niên bạch y kia, rồi kiên trì thò một ngón tay chọc chọc vai y như chạm vào lửa, đồng thời kinh hồn táng đảm thầm nghĩ: "Là sư phụ bảo ta gọi ngươi, đừng có trút giận vào ta."

Đại sư huynh đã ngủ hai giấc liền đại khái là ngủ no rồi nên không hề nổi giận. Y mở mắt ra, ánh mắt trống rỗng nhìn chằm chằm Trình Tiềm một lúc lâu, mới hít sâu một hơi mà bò dậy, uể oải khoát tay: "Biết rồi, các ngươi đi trước đi."

Nghiêm thiếu gia chưa tỉnh ngủ thoạt nhìn lại tốt tính hơn rất nhiều, trên đôi mắt hoa đào kia như phủ một lớp sương mù, ánh mắt nhìn Trình Tiềm cũng nhu hòa hơn không ít.

Sau đó, Nghiêm Tranh Minh thần sắc ôn hòa hỏi: "Đúng rồi, ngươi tên gì nhỉ?"

"... Trình Tiềm."

"À." Nghiêm Tranh Minh hờ hững gật đầu. So với sự ghét bỏ không hề che giấu khi nhìn Lý Quân, cử chỉ dùng quạt che mặt khi ở trước mặt Hàn Uyên, y đối đãi Trình Tiềm quả thực có thể nói là hết sức khách khí.

"À" xong, Nghiêm Tranh Minh chẳng buồn quan tâm tới Trình Tiềm nữa, dùng tay che miệng ngáp một cái, sau đó ngồi nguyên tại chỗ không hề nhúc nhích, chờ thị nữ Tiểu Ngọc Nhi chải đầu cho mình.

Lúc trong đầu Trình Tiềm toàn là người với yêu, từng có một lần, nó hoài nghi đại sư huynh ất ơ này có khả năng là một con chim trĩ thành tinh với cái đuôi lòe loẹt, nhưng thấy tình cảnh này, nó liền gạt phăng suy đoán ấy – cho dù là chim trĩ thật, ngày ngày chải lông như vậy, chắc hẳn cũng phải trụi lủi chỉ còn trơ cái mông với cặp giò thôi.

Mà lông trên đầu đại sư huynh vừa dài vừa chắc, chưa biến thành cái chổi lông gà, chứng minh y có khả năng là một loài động vật càng khó tưởng tượng hơn.

Trong viện, một đạo đồng đã đi tới, dùng hai tay dâng một thanh mộc kiếm cho sư phụ.

Tức khắc, tinh thần Trình Tiềm và Hàn Uyên đều chấn động. Cả hai đều nghe chuyện tiên nhân bằng phong ngự kiếm từ bé, dù cho Trình Tiềm bị sách thánh hiền đầu độc, xét cho cùng cũng chỉ là một tiểu nam hài, tuy nó không thừa nhận, nhưng sâu trong nội tâm vẫn rất hướng đến những sức mạnh hô phong hoán vũ trong truyền thuyết đó.

Mộc kiếm đơn giản mộc mạc, cơ hồ ngưng tụ sự nặng nề bất động thanh sắc nào đó. Trong lòng đám tiểu nam hài, thì việc luyện đan thần kỳ, những kinh văn huyền bí, trò xem sao bấm tay tính ra tiền thế kim sinh, thậm chí là các loại thần thông khắc ra phù chú hàng thật giá thật... chẳng cái nào có sức hấp dẫn bằng hai chữ "ngự kiếm" cả.

Độ kiếp phi thăng là cái gì đây?

So với nhất kiếm sương hàn thập tứ châu(2), đại khái ngay cả đằng vân giá vũ trong truyền thuyết cũng phải xếp sau thôi.

Chỉ thấy Mộc Xuân chân nhân vung vẩy tay chân loắt choắt trên thân hình tong teo, rề rà đi đến giữa tiểu viện, y như một cái sào phơi quần áo vậy.

Hàn Uyên tràn đầy chờ mong hỏi vấn đề Trình Tiềm vẫn muốn hỏi nhưng ngại mở miệng: "Sư phụ muốn chúng con luyện kiếm à? Khi nào thì chúng con mới có thể cầm kiếm đây?"

Mộc Xuân: "Không vội, có kiếm gỗ."

Nói xong, trước mắt chúng đồ đệ, ông giơ hai tay làm thức mở đầu yếu xìu xìu, đoạn bắt đầu diễn luyện từng chiêu từng thức, vừa diễn luyện còn vừa lải nhải: "Phù Dao – mộc kiếm pháp – cường thân – lại kiện thể – thông khí – còn hoạt huyết – sống lâu – hơn cả thần tiên -"

Trình Tiềm: "..."

Giấc mộng hô phong hoán vũ vừa manh nha, cứ thế tan tành trong "đao quang kiếm ảnh" "keng keng – chát chát chát".

Kiếm pháp tinh diệu tuyệt luân của sư phụ nhanh chóng thu hút một con chim sẻ đậu lại trên cây cọc gỗ bên cạnh, nghỉ chân quan sát.

Đây thực sự là bộ kiếm pháp yên tĩnh nhất trên thế giới. Chỉ thấy mộc kiếm nọ lướt qua, phảng phất như vô vật, ngay đến chút gió cũng không nổi lên, ôn hòa tột cùng. Trong thời gian mũi kiếm rì rì đi một vòng, dù là ốc sên cũng leo lên ngọn cây rồi.

Phối hợp với giảng giải tiêu hồn "cường thân kiện thể hơn cả thần tiên" của sư phụ, hiệu quả thực khiến người ta thán phục vô cùng.

Chỉ thấy sư phụ nhấc chân tiến một bước, xoay tay khom lưng chém ngang thanh mộc kiếm, run rẩy tiếp cận con chim sẻ trên cây cọc gỗ.

Con chim gan to bằng trời, mở đôi mắt ti hí như hạt đậu đen, nhìn thấy mộc kiếm tập kích tới mà chẳng buồn nhúc nhích.

Mộc Xuân khoác lác cảnh cáo: "Tiểu súc sinh còn không mau tránh ra, coi chừng mộc kiếm bản môn lấy mạng mi đó!"

Nói xong một câu dài như vậy, mộc kiếm trong tay mới đến dưới chân nó, con chim nghe cảnh cáo dữ tợn này, thủng thỉnh giơ một chân nhích sang bên một bước, nguyên vẹn bước qua "lợi kiếm" của Phù Dao phái, bình tĩnh như thường nhìn bóng kiếm ôn nhu kia phiêu nhiên đi xa.

Hàn Uyên đã buồn cười vô cùng, Trình Tiềm cũng thấy hết sức khó lý giải. Trò múa võ bán nghệ ở cổng thôn mà nó từng xem cũng chẳng vớ vẩn như thanh mộc kiếm này. Nhưng nó không hề tùy tiện bật cười, bởi vì nó phát hiện các sư huynh đều không cười – nếu nói đại sư huynh đương bận vuốt lại tóc, không tiện ngả tới ngả lui, vậy nhị sư huynh thích cóc sẽ có chút giá trị tham khảo hơn.

Lý Quân ban nãy còn nhấp nhổm không yên như mông mọc nhọt lúc này chẳng những không cười, trên khuôn mặt luôn có vẻ xấu xa lại còn xuất hiện vài phần chuyên chú, nhìn chằm chằm động tác như lên đồng của sư phụ.

Sư phụ diễn luyện thức thứ nhất của Phù Dao mộc kiếm một cách hoàn chỉnh, cuối cùng đứng lại ở động tác Kim kê độc lập, hai tay dang ngang, tay cầm mộc kiếm, thò cái cổ vừa gầy vừa dài ra trước, tạo dáng đứng trên cao trông về phía xa, lắc lư muốn ngã: "Đây là thức thứ nhất của Phù Dao mộc kiếm ta, Bằng trình vạn lý!"

Tiếc rằng trông ông chẳng giống đại bàng giương cánh lắm, ngược lại hơi bị giống gà trống gáy.

Hàn Uyên che miệng, nén cười đến đỏ bừng mặt.

Sư phụ lần này không nuông chiều, giơ tay dùng mộc kiếm gõ đầu gã một cái – động tác này trái lại nhanh nhẹn hơn ban nãy không ít.

Mộc Xuân chân nhân cả giận nói: "Ta đã nói gì với con hả? Trầm liễm thu tâm! Xốc nổi! Không ra thể thống gì! Tối nay chép Thanh tĩnh kinh năm lần, ngày mai mang đến cho ta xem."

Hàn Uyên do còn chưa biết chữ nên ngay cả bước sao chép môn quy cũng hoãn lại, nghe vậy lập tức dày mặt dùng đến kim bài miễn tử: "Sư phụ, con còn chưa biết chữ mà."

Mộc Xuân nói: "Thì bắt chước mà vẽ – Lý Quân!"

Nhị sư huynh tiến lên một bước.

Sư phụ nói: "Con dạy các sư đệ luyện thức mở đầu và thức thứ nhất, lát nữa ta sẽ chỉ con thức thứ hai."

Trình Tiềm nghĩ bụng: "Nghe nói gã ta nhập môn đã hơn một năm, mà mới học đến thức thứ hai thôi. Chẳng lẽ luyện chiêu gà trống gáy nguyên một năm?"

Nó còn chưa kịp kinh ngạc cảm khái xong, thì Lý Quân đã theo lời đứng yên, tay cầm mộc kiếm, lưu loát triển khai thức mở đầu, lại thực sự có vài phần đắc ý của thiếu niên, loại tinh khí thần này đương nhiên không thể vơ đũa cả nắm với ông sư phụ đã vào độ tuổi trung lão niên lờ đà lờ đờ. Thiếu niên kia tên như thúy trúc, thân cũng như thúy trúc, khuôn mặt không lấy gì làm đứng đắn nghiêm lại, mộc kiếm trong tay như chẻ gió, kiếm phong đâu đâu cũng thấy, sắc bén như gió thổi cỏ rạp vậy.

Đó là nhuệ khí thiếu niên, sắc nhọn vô cùng.

Con chim sẻ ban nãy còn bình tĩnh không chịu nổi nữa, lập tức giật mình đập cánh phóng lên cao.

Trình Tiềm và Hàn Uyên chưa kịp định thần lại, đã thấy nhị sư huynh nghiêm mặt, dồn khí vào đan điền, gằn từng chữ quát: "Phù Dao mộc kiếm pháp! Cường thân lại kiện thể! Thông khí còn hoạt huyết! Sống lâu hơn cả thần tiên!"

... Kiếm khách thiếu niên trong chớp mắt đã thành một tay bán đại lực hoàn mất rồi.

Thế nhưng Lý Quân chẳng mảy may lấy làm hổ thẹn, gào xong còn ung dung quay đầu lại làm mặt quỷ với hai sư đệ đang trợn mắt há hốc mồm.

Thời xưa nữ tử khuê các không được tùy tiện ra ngoài, phải ngồi trên mấy cái ghế kê quanh sân, ngóng nhìn thế giới bên ngoài, nên ghế này mới được gọi là ghế mỹ nhân. Tương truyền ghế này do Phù Sai làm riêng cho Tây Thi.Nhất kiếm sương hàn thập tứ châu là một câu trong bài Hiến tiền thượng phụ của Quán Hữu.


Chương 8

Edit: Yển

Nghiêm Tranh Minh đủng đỉnh dùng một tấm lụa tơ tằm lau mộc kiếm của mình, ở bên cạnh xem các sư đệ luyện kiếm.

Kiếm của các sư đệ quả là trò cười, ngoại trừ Lý Quân còn ít nhiều giống người, thì hai tên nhóc kia cơ bản chính là hai con khỉ đột múa gậy, ở đó cầm mộc kiếm làm xiếc khỉ, sư phụ còn đang sửa lại động tác cầm kiếm cho tay chúng.

Sư phụ lúc thì nói với đứa này: "Mộc kiếm tuy lưu tình, nhưng đao kiếm thật lại không có mắt, gặp chỗ đao binh thì phải hết sức thận trọng – Trình Tiềm, ngón tay con không được đặt trên lưỡi kiếm, mười ngón liền tâm không cảm giác được à?"

Lúc lại nói với đứa kia: "Đông Hải có trọng kiếm nặng đến ba trăm cân, mới cầm bằng hai tay, Tiểu Uyên à, ta thấy con không phải đang luyện kiếm, mà là rèn sắt thì đúng hơn."

Khi thì lại phải xắn tay áo, chạy qua chạy lại dập lửa do tên Lý Quân như cây gậy chọc cứt kia đốt lên: "Không được làm loạn, không được làm loạn, ôi trời, cẩn thận chọc vào mắt!"

... Quả thực, nói "khó coi" cũng là xem trọng mấy tên nhãi này rồi.

Ánh mắt Nghiêm thiếu gia dạo qua một vòng, cuối cùng dừng ở Trình Tiềm, nhìn đứa trẻ đó vài lần.

Lòng y hiểu rõ sự thật mình là một kẻ quần áo lụa là, nhưng y cho rằng mình một không thương thiên hai không hại lý, cũng chẳng ảnh hưởng tới ai, vì thế yên tâm thoải mái, chưa từng hối cải, và luôn tùy theo tâm tình mà ngày một tệ hơn.

Đồng thời, Nghiêm thiếu gia cũng thừa nhận, mình có chút nông cạn – y rất tự biết mình, hiểu rõ mình vô luận là "học thức" hay "nhân phẩm", cơ bản đều chẳng có chút nào. Bản thân y đã không có hai thứ này, thì cũng không tiện khắt khe đòi hỏi người khác lắm, bởi vậy khuynh hướng tốt xấu của Nghiêm Tranh Minh đối với một người, tự nhiên cũng chỉ còn lại mỗi "xem mặt" thôi.

Dựa theo tiêu chuẩn này, trong mắt y thì hạng như Hàn Uyên thuộc về tội ác tày trời.

"Xem người xem mặt" là nguyên tắc xử thế bền như thép của Nghiêm Tranh Minh, và y chỉ chịu ngoại lệ cho hai người: một là sư phụ, hai là Lý Quân.

Dù diện mạo sư phụ thuộc loại tội ác chồng chất, nhưng Nghiêm thiếu gia theo ông tu hành suốt tám năm, cơ hồ được ông nuôi nấng trưởng thành, trên tình cảm rất thân cận, vậy nên sẵn lòng võng khai nhất diện tha thứ cho điểm này.

Mà Lý Quân... Cho dù Lý Quân trông rất đàng hoàng, Nghiêm Tranh Minh vẫn quyết định bất cộng đái thiên với gã ta, tên đó thực sự chẳng ra gì hết.

Về phần Trình Tiềm, thực tế Nghiêm Tranh Minh nhìn nó rất thuận mắt, bằng không cũng chẳng có chuyện vừa gặp mặt đã cho kẹo như đá đơm hoa vậy – tiếc rằng tam sư đệ không thèm cảm kích.

Đương nhiên, sự thuận mắt này cũng cực kỳ có hạn. Dù sao thì Trình Tiềm vẫn còn nhỏ, tương lai đẹp hay xấu còn chưa biết, chưa đủ để Nghiêm thiếu gia có hứng thú nhìn chằm chằm một tên nhóc con múa gậy gỗ.

Các sư đệ do sư phụ nuôi đang ồn ào chạy nhảy khắp sân, Nghiêm Tranh Minh vô công rồi nghề cầm mộc kiếm, công khai đứng bên ngoài thất thần, suy nghĩ về tiến độ đang giậm chân tại chỗ của mình.

Nghiêm Tranh Minh theo sư phụ luyện kiếm đã sắp tám năm rồi, mà Phù Dao mộc kiếm mới miễn cưỡng luyện đến thức thứ ba thôi.

Tuy rằng thức mở đầu bị sư phụ múa may thành Ngũ Cầm Hí(1), nhưng bản thân kiếm pháp không đùa được đâu.

Nghiêm Tranh Minh không phải là tiểu khiếu hóa Hàn Uyên vô tri. Trước khi bái nhập Phù Dao phái, gia đình từng mời sư phụ kiếm thuật giỏi nhất dạy cho y, dù y học nghệ không tinh, nhưng mắt vẫn chưa mù.

Phù Dao mộc kiếm tổng cộng năm thức, lần lượt là "Bằng trình vạn lý", "Thượng hạ cầu sách", "Sự dữ nguyện vi", "Thịnh cực nhi suy", và "Phản phác quy chân"(2), mỗi một thức có hai mươi lăm chiêu, biến hóa không đếm nổi. Mấy năm nay tuổi tác lớn dần, theo đó, đôi khi Nghiêm Tranh Minh cơ hồ có ảo giác rằng trong bộ kiếm pháp này bao quát thiên địa, dừng lại trên mỗi một điểm mà nghĩ kỹ, đều có thể suy ra vô vàn khả năng.

Nhưng những điều này sư phụ chưa bao giờ giảng giải, Mộc Xuân chỉ biết run rẩy múa may chiêu cơ bản, hết thảy còn lại phải tự lĩnh ngộ.

Nghiêm Tranh Minh năm lần bảy lượt muốn hỏi ông vì sao không chịu giảng giải tỉ mỉ những chiêu kiếm tinh diệu đó, nhưng không một lần nào ngoại lệ, đều bị lão chồn kia giả ngây giả dại lảng đi.

Nghiêm Tranh Minh tự mình suy tư một hồi, rồi đứng dậy, thử một lần thức thứ ba "Sự dữ nguyện vi".

Nói tới thực không vẻ vang cho lắm. Dù y vừa không truy cầu văn thành, cũng chẳng truy cầu võ tựu, chỉ là một kẻ lười nhác, nhưng kẹt ở thức này suốt hai năm, thì ít nhiều cũng phải xấu hổ.

Cái tên "Sự dữ nguyện vi" này không biết do ai đặt mà thật sự rất thích đáng, y đã sửa lại vô số lần, nhưng vẫn không biết mình bị kẹt ở chỗ nào, cảm giác không xuôi trong chiêu thức chẳng cách nào xua đi được.

Nghiêm Tranh Minh luyện một nửa liền dừng lại, nhìn chằm chằm mộc kiếm mà nhíu mày.

Chúng đạo đồng và thị nữ bày thế trận sẵn sàng ở bên kia vội vàng ùa hết tới, kẻ thì quạt, kẻ thì lau mồ hôi cho y.

Đáng tiếc lần này đã vỗ mông ngựa trúng đùi ngựa, thiếu gia luyện kiếm không thông, vốn đang nôn nóng, bị đám ngu xuẩn này phá rối, càng không bắt nổi chút linh cảm như ẩn như hiện trong lòng.

Y bỗng dưng phất tay, hung dữ quát: "Tránh ra hết, đừng ở đây cản trở! Về sau lúc ta luyện kiếm, không cho phép các ngươi tới gần!"

Thị nữ Tiểu Ngọc Nhi vội rụt rè hỏi: "Thiếu gia, đây là quy củ mới ạ?"

Câu này từ đâu mà đến? Chỉ vì Nghiêm thiếu gia rảnh phát sợ, vô cớ sinh sự lập bao nhiêu "quy củ" – như là quần áo và giày phải cùng màu, khi nào phải chải đầu cho y, bàn trong thư phòng một ngày cần lau mấy lần, sáng dậy chưa uống một chén trà lạnh vừa miệng thì không mở miệng... vân vân và vân vân, toàn là do mình y tự nghĩ ra.

Thay bằng kẻ đầu óc không tốt chỉ sợ chẳng nhớ nổi, có khi ngay cả ông Hoàng đế cũng không lắm thói xấu như y.

Nghiêm thiếu gia sắc mặt còn chưa dịu đi, môi trên vừa chạm môi dưới thì một quy củ mới còn nóng sốt liền ra lò: "Về sau lúc ta luyện kiếm, không gọi các ngươi, thì không cho phép tùy ý vây lại, mất mặt."

Trình Tiềm bất hạnh nghe thấy câu này giật nảy mình, không ngờ đại sư huynh lại còn biết "mất mặt" là gì.

Mộc Xuân chân nhân đang dạy Trình Tiềm ở bên cạnh ho một tiếng, kêu: "Đồ nhi."

Nghiêm Tranh Minh vừa quay đầu lại, ánh mắt liền rơi vào Trình Tiềm, đứa trẻ đó cũng đang liếc trộm y, dáng vẻ rõ ràng là một tiểu gia chưa biết việc đời, "e lệ" cúi đầu, theo đuôi đằng sau sư phụ.

... Ở nơi người khác không nhìn thấy "e lệ" chế giễu môn phái quá nhiều hiện trạng quái dị.

Mộc Xuân chỉ Trình Tiềm nói: "Nhị sư đệ con một mình không lo nổi, lát nữa con chỉ cho tam sư đệ một chút đi."

Lý Quân đâu chỉ là không lo nổi, gã sắp dạy Hàn Uyên leo nóc lật ngói luôn rồi.

Kiếm chiêu của chính Nghiêm Tranh Minh còn chưa luyện thông, nào có tâm tình chỉ người khác, nghe vậy không thèm che giấu nhíu mày, được sủng mà kiêu phun trào một bụng oán khí với sư phụ.

Đâu biết Trình Tiềm còn tràn ngập oán khí hơn, nó không hiểu vì sao sư phụ không chịu tự thân chỉ dạy mình. Đại sư huynh thì làm được gì?

Dạy nó soi gương làm sao để mũi cao hơn à?

Bất quá Nghiêm Tranh Minh rốt cuộc không làm mất mặt sư phụ ngay trước mặt sư đệ, dằn dị nghị cơ hồ muốn buột miệng mà ra, kiên nhẫn hỏi: "Sư phụ, cái thức 'Sự dữ nguyện vi' này con luyện hình như luôn có chỗ nào đó không đúng."

Mộc Xuân chân nhân vẻ mặt ôn hòa hỏi: "Không đúng chỗ nào?"

Chỗ nào cũng không đúng, toàn thân không thông thuận, khi luyện thức này, Nghiêm Tranh Minh cảm thấy trên người như có sông lớn chảy ngược vậy, vô cùng trầy trật.

Nhưng tuy trong lòng hiểu được, ngoài miệng y nhất thời lại không hình dung nổi cảm giác lạ lùng ấy, thiên ngôn vạn ngữ chen chúc trên đầu lưỡi, không biết phải nói từ đâu, cuối cùng, Nghiêm Tranh Minh như bị cái gì đó ám, buột miệng nói luôn: "Hình như là... không dễ coi lắm."

Trình Tiềm đang bàng quan một lần nữa xác nhận, đại sư huynh này chính là một tên bị thịt dát vàng đeo bạc.

Sư phụ cười tươi rói, hàm hồ lảng đi: "Dục tốc tắc bất đạt, thức này con có thể chờ thêm chút nữa."

Mộc Xuân chân nhân vĩnh viễn là đức hạnh này. Ông sư phụ chó má này, bất kể đồ đệ hỏi vấn đề gì, đều không bao giờ trả lời trực tiếp, mà nhất định phải vòng vo ra vẻ cao thâm mới được.

Nghiêm Tranh Minh tuy đã sớm thành quen, lại vẫn không nhịn được truy hỏi như làm nũng: "Đợi đến khi nào?"

Mộc Xuân chân nhân ôn hòa nói: "Chờ con cao thêm mấy tấc đi."

Nghiêm Tranh Minh: "..."

Lười nhác như y mà một tháng cũng luôn có vài ngày muốn khi sư diệt tổ.

Nói xong, Mộc Xuân liền đường hoàng ném Trình Tiềm cho "bảo vật trấn phái" của bản môn, thản nhiên quay vào trong đình uống trà.

Phù Dao phái quán triệt truyền thống cổ xưa "sư phụ dắt vào cửa, tu hành do cá nhân". Ông sư phụ như que củi này chưa từng để lộ mảy may chân tài thực học, vĩnh viễn chỉ cho một cái sườn, còn bên trong đó có gì thì nhất loạt không quản.

Nghiêm Tranh Minh tâm phiền ý loạn liếc tam sư đệ vẻ mặt nghiêm túc một cái, cũng chẳng có chuyện gì để nói với đứa nhóc này, liền tìm đại một chỗ mà đặt mông như dỗi, dựa bàn đá bên cạnh ngồi chẳng ra thể thống gì. Một đạo đồng tiến đến, hai tay nâng mộc kiếm đi, cẩn thận dùng lụa trắng lau chùi.

Khéo đạo đồng rửa mặt mình cũng chẳng ôn nhu chở che như vậy.

Sau đó, Nghiêm thiếu gia vốn đã ngồi xuống không biết lại có chuyện gì mà đứng bật lên như xác chết vùng dậy.

Chỉ thấy y nhíu nhíu đôi chân mày thanh dài, liếc nhìn Tiểu Ngọc Nhi bên cạnh vẻ không vui, rồi lại không chịu mở miệng nói rõ, khiến tiểu cô nương dưới ánh mắt y trắng bệch cả mặt, luống cuống muốn bật khóc.

Cuối cùng, vẫn là Tuyết Thanh chờ ở bên cạnh Trình Tiềm không nhìn nổi, nhẹ giọng chỉ điểm: "Đá lạnh."

Tiểu Ngọc Nhi lúc này mới nhớ, mình vừa để thiên kim thiếu gia trực tiếp ngồi trên ghế đá, khiến lão nhân gia bị lạnh!

Cô vội vàng ra vẻ tội đáng muôn chết, khóc sướt mướt chạy đến, chớp nhoáng lót ba lớp đệm cho thiếu gia.

Nghiêm Tranh Minh lúc này mới trừng mắt nhìn cô một cái, vô cùng không hài lòng hạ mình ngồi xuống, uể oải hất cằm bảo Trình Tiềm: "Ngươi luyện đi, ta xem, chỗ nào không hiểu thì hỏi."

Trình Tiềm trực tiếp coi đại sư huynh này là một đám khí bẩn chỉ nghe nhìn thôi cũng khó chịu, chẳng thèm đáp tiếng nào, hạ quyết tâm không đếm xỉa đến đối phương, tự mình tập trung vào mộc kiếm.

Trình Tiềm từ nhỏ đã leo cây nghe trộm, khi đó nó không có sách vở gì hết, càng không thể mở miệng hỏi, cho nên mới luyện được tuyệt kỹ xem qua là nhớ.

Sư phụ biểu diễn lại thanh tịch hòa hoãn như vậy, Trình Tiềm nhớ lại một chút, là động tác giơ tay nhấc chân của Mộc Xuân chân nhân liền hiện ra hết trong đầu.

Nó toàn dựa vào trí nhớ, cẩn thận bắt chước động tác run rẩy của sư phụ, thường xuyên so sánh động tác của mình với ký ức, để tự sửa lại trước khi cái tên chó liếm rèm cửa lộ mỏ nhọn ở đằng sau mở miệng chỉnh cho.

Khả năng bắt chước như vậy, khỉ nhìn cũng phải tự ti mặc cảm, Nghiêm Tranh Minh mới đầu còn hơi thờ ơ, dần dà ánh mắt chậm rãi tập trung vào người Trình Tiềm – tên nhóc con lại tự tiện theo khẩu quyết của sư phụ, giải mấy chiêu của thức thứ nhất ra để luyện.

Chiêu thức giải ra nó sẽ luyện vài lần theo phương thức chậm rì rì của sư phụ, sau khi hơi quen, ánh mắt nó đột nhiên sắc bén hẳn, trong thoáng chốc, Nghiêm Tranh Minh không tự chủ được bỏ bàn tay đang thò đến bát trà xuống – y phát hiện tinh khí thần chứa đựng ở mũi kiếm cực kỳ quen thuộc, tiểu tử này đang bắt chước Lý Quân!

Trình Tiềm dù sao cũng chỉ là bắt chước, lại thêm tuổi còn nhỏ, khí lực không đủ, kém xa cỗ nhuệ khí thiếu niên mạnh mẽ như bát gạo thổi nốt của Lý Quân, nhưng cỗ tinh khí thần này vừa gia nhập, thì mộc kiếm trong tay tức khắc thay đổi – giống như vốn là một tờ giấy nằm dưới đất, lúc này lại dần dần phồng lên, có hình lập thể!

Hình dạng còn mơ hồ, bởi vì chưa nói đến chuyện so sánh với Lý Quân, kiếm của Trình Tiềm ngay cả chiêu thức cơ bản phải chăng chuẩn xác, cũng còn cần bàn thêm.

Nghiêm Tranh Minh trong nháy mắt ấy chạm đến cái gì đó, y cảm thấy mình đã nhìn rõ kiếm ý của Phù Dao mộc kiếm.

Kiếm ý không hề là đào trên cây, cá dưới nước, không có công phu vài thập niên, không có cảnh giới người và kiếm hợp nhất, là không thể ngưng tụ được kiếm ý – về phần Trình Tiềm, đứa nhóc đó đương nhiên càng không thể múa may ra "kiếm ý" gì, nó có thể cầm chắc kiếm không để đập vào chân mình là rất không tệ rồi.

Nhưng thức "Bằng trình vạn lý" này, cực xảo diệu mà phù hợp với tâm tình của người thiếu niên mới vào tiên môn, Nghiêm Tranh Minh nhớ tới cảm giác của mình năm đó khi nhìn thấy phù chú khắp núi, mới mẻ, hiếu kỳ, không thể ức chế tưởng tượng về tương lai...

Đó có lẽ không thể nói là "kiếm ý", mà là bản thân Phù Dao mộc kiếm ám hợp với tâm tình của người cầm kiếm, là kiếm pháp đang tự mình dẫn dắt người mang kiếm.

Nghiêm Tranh Minh đứng phắt dậy. Y xem kiếm của Trình Tiềm, cơ duyên xảo hợp chạm đến những điều trước kia mình nghĩ mãi không hiểu – thiên biến vạn hóa không nhìn thấy không sờ được trong kiếm pháp, và tại sao sư phụ chưa bao giờ giải thích – bởi vì bản thân kiếm pháp này là sống.

Tại sao bắt đầu từ thức thứ hai "Thượng hạ cầu sách", Nghiêm Tranh Minh liền cảm thấy lực bất tòng tâm, đến thức thứ ba "Sự dữ nguyện vi" thì càng khó mà tiếp tục – bởi vì y vừa không biết cảm thụ khi Thượng hạ cầu sách, cũng không hiểu được Sự dữ nguyện vi là gì.

Mộc kiếm đã không cách nào chỉ dẫn y được nữa.

Ngũ Cầm Hí là năm bài tập khí công dưỡng sinh cực kỳ đơn giản nhưng hiệu quả cao do Hoa Đà sáng tạo ra, dựa trên cơ sở vận động của năm loài: Gấu, hạc, hổ, khỉ, nai.Năm thức trong Phù Dao mộc kiếm lần lượt là Bằng trình vạn lý (bay xa vạn dặm), Thượng hạ cầu sách (tìm kiếm khắp nơi), Sự dữ nguyện vi (không như mong muốn), Thịnh cực nhi suy và Phản phác quy chân (trở lại nguyên dạng), ứng với những thăng trầm trong cuộc đời một phàm nhân, cũng chính là tên của năm quyển. Lưu ý nhỏ rằng Phản phác quy chân là bỏ hết những điểm tô bên ngoài để quay lại vẻ mộc mạc vốn có.

Chương 9

Nghĩ thông suốt mấu chốt này, Nghiêm Tranh Minh liền hiểu, mình nên xuống núi du lịch một phen.

Nước sôi lửa bỏng có thể rèn nhục thể, hoan du ly hận có thể rèn tinh thần.

Phù Dao mộc kiếm tuy là kiếm pháp nhập môn, lại âm thầm ứng với những thăng trầm trong cuộc đời phàm nhân, điều này không phải bế môn tạo xa mà làm được. Y cả ngày ru rú trong Ôn Nhu hương trên Phù Dao sơn, e rằng ngàn vạn năm vẫn chỉ như một năm, vĩnh viễn chẳng hợp được với bánh xe hồng trần quay cuồng không nghỉ. (Bế môn tạo xa: đóng cửa làm xe không quan sát đường sá, xa rời thực tế)

Không phải ai cũng có thể cơ duyên xảo hợp được điểm hóa thế này, để biết nút thắt của mình ở chỗ nào. Bình thường người trong tu hành gặp phải tình huống kiểu này, đương nhiên sẽ mừng rỡ như điên, ngược dòng mà lên, phá vỡ thành chắn.

Nhưng Nghiêm thiếu gia y là người bình thường sao?

Bốn chữ "xuống núi du lịch" chỉ lướt qua một chớp mắt trong bộ óc như bình hoa ấy, rồi lập tức bị đủ các suy tưởng ăn gió nằm sương, tha hương bất tiện dưới chân núi bao phủ mất tăm.

Vừa nhắc đến xuống núi, riêng chuyện phải mang bao nhiêu hành lý đã khiến Nghiêm Tranh Minh thấy đầu đau muốn nứt ra, gân lười toàn thân nhao nhao tạo phản, dù chết dù sống vẫn cản bước chân y tiến về phía trước.

"Du lịch?" Cuối cùng, thiếu gia lòng thoáng như thiên địa nghĩ thầm, "Ai thích đi thì đi, còn ta dù sao cũng không đi – nút thắt thích thì cứ thắt, ai thèm quan tâm chứ!"

Nghiêm Tranh Minh hạ quyết tâm, tính lơ đi chút trúc trắc và không thông thuận trong kiếm pháp này. Dù sao thì kiếm chiêu đã nhớ rồi, cứ coi như mình đã học xong đi, mai lại hỏi sư phụ học thức thứ tư vậy.

Đại sư huynh không có chí lớn, được chăng hay chớ này, yên dạ yên lòng mà trộm lười nhác. Y phất tay bắn mấy hòn đá nhỏ, giúp sư phụ đập tứ sư đệ đang leo cây dùng mộc kiếm khều ổ chim rơi xuống, phương hướng tinh chuẩn, lực đạo thích hợp.

Nghiêm Tranh Minh nhìn Hàn Uyên nằm bò dưới đất gào khóc, tự thấy công phu đã có chút thành tựu, có thể không cần quá tích cực.

Sau giờ Ngọ, cuộc tra tấn lẫn nhau trong ngày hôm nay của sư phụ và các đệ tử rốt cuộc đã kết thúc.

Ngoại trừ đại sư huynh, những người khác quay về các viện, ăn cơm nghỉ ngơi, buổi chiều đều tự dụng công – ai không muốn dụng công thì có thể chơi với lũ khỉ ở trên núi.

Mộc Xuân chân nhân đối với đệ tử nhất loạt thả rông, chỉ dặn tuân thủ môn quy, đêm mùng một và mười lăm mỗi tháng ngoan ngoãn chút, không được đi lung tung trên núi.

Chỉ có Nghiêm Tranh Minh buổi chiều còn phải ở lại tiếp tục đối diện với khuôn mặt sư phụ.

Thấy các đạo đồng lục tục đem gỗ và dao khắc đến, Lý Quân liền giải thích cho hai tân sư đệ: "Đó chính là phù chú. Phù chú chia thành minh phù và ám phù; minh phù là loại khắc lên thứ gì đó, thường thấy nhất chính là gỗ, nếu là cao thủ thì kim thạch nọ kia cũng có thể dùng làm vật liệu; ám phù thì lợi hại hơn, nước và khí, thậm chí tâm niệm cũng có thể thành phù chú – nhưng đó đều chỉ là truyền thuyết thôi, chưa ai từng thấy cả, chắc phải là người đại năng mới làm được."

Trình Tiềm vờ như không tò mò chút nào, kỳ thực đã dỏng thẳng tai lên.

Dù sao thì phù chú cũng là căn bản của tiên bảo, mà tiên bảo lại là ấn tượng trực quan nhất của bách tính tầm thường đối với tu tiên.

Hàn Uyên thân thiết sấn tới hỏi: "Nhị sư huynh, đại năng là gì?"

Lý Quân nhe răng cười nói: "Trên đời ai dám xưng 'năng', đại năng thật sớm đã thăng thiên cả rồi."

Hàn Uyên chẳng có ấn tượng gì tốt với đại sư huynh, nhưng cũng biết mình không thể trêu vào y; huống chi tiểu khiếu hóa không sĩ diện như Trình Tiềm, ghi thù cũng chẳng sâu, một gói kẹo hạt thông là đủ để gã xóa hết ân thù.

Gã hâm mộ nhìn bóng lưng tự do tản mạn của Nghiêm Tranh Minh, hớn hở hỏi Lý Quân: "Thế sư huynh à, khi nào thì chúng ta có thể học khắc cái đó?"

"Chúng ta không học được đâu," Lý Quân khoát tay, làm bộ tiếc nuối, "Muốn học phù chú, thì phải có khí cảm trước – đệ đừng hỏi ta khí cảm là gì, ta cũng không biết đâu. Nhưng nghe sư phụ nói đó là một loại cảm giác huyền diệu có thể câu thông thiên địa... Còn về sư phụ, sau này đệ sẽ biết thôi, không cần quá để ý đến lời người nói, để ý cũng chẳng hiểu đâu."

Lý Quân môi mỏng, khóe miệng hơi cong lên, không cười cũng có ba phần ý cười, cười thì càng chẳng tốt đẹp gì. Nói đến đây, gã cố ý dừng giây lát, kế đó làm bộ làm tịch nhíu mày: "Nhưng có người cả đời cũng không cảm nhận được khí cảm, một số là do tư chất không tốt, còn một số là vì vận khí chẳng ra sao."

Hàn Uyên nghe vậy sắc mặt căng thẳng, bất tự giác ưỡn thẳng lưng: "Thế thì đáng tiếc thật!"

"Đương nhiên là đáng tiếc," Lý Quân nói, "Không có khí cảm, dù chúng ta luyện mộc kiếm giỏi hơn nữa, cũng chỉ là cường thân kiện thể, không có tác dụng gì lớn."

Lúc ban đầu nghe Lý Quân nói, Trình Tiềm không hề để ý lắm, bởi vì trong lòng nó đã nhận định Nghiêm Tranh Minh là cái gối thêu hoa, vậy mà cũng có thể tìm được khí cảm trong vòng bảy tám năm, nếu nó còn thua cả một cái gối, thì chi bằng sớm bỏ ý định cầu tiên vấn đạo này đi, quay về trồng trọt buôn bán cho rồi.

Nhưng Lý Quân nói đến đây, đã bị Trình Tiềm nhận ra thoại lý hữu thoại.

Trình Tiềm quay đầu lại nhìn vào mắt Lý Quân, rề rà mở miệng: "Nghe ý tứ, thì hình như nhị sư huynh biết cách gì có thể thức tỉnh khí cảm?"

Lý Quân nhìn nó nở nụ cười, cả mày lẫn mắt đều cong lên, như một đôi móc câu đen trắng rõ ràng, ẩn ý nhìn Trình Tiềm, nhưng chỉ nhìn chứ không đáp.

Trình Tiềm còn khuya mới mắc mưu, thờ ơ nói: "Ồ, thế thì tốt quá rồi, chúc sư huynh sớm được như mong muốn."

Nếu thực sự có biện pháp rèn luyện khí cảm, Lý Quân nhập môn một năm có thể không làm sao? Rõ ràng là có chủ ý tồi tệ nào đó, muốn tìm kẻ chết thay lấy thân thử nghiệm thôi.

Tên nhãi này rất có kiến thức và nhãn lực, đôi mắt như móc câu của Lý Quân lập tức giật giật.

Hàn Uyên lại là kẻ mông không khi nào chịu ngồi yên, nghe vậy lập tức hỏi đến cùng: "Cái gì, phương pháp gì?"

Lý Quân liền buông tha cho Trình Tiềm, quay đầu ra vẻ bí hiểm với Hàn Uyên: "Không thể nói, trái với môn quy."

Miệng gã bảo "không thể nói", ngữ khí lại là "mau hỏi đi".

Lý Quân đào nguyên cái hố to đùng trước mặt gã, Hàn Uyên cũng rất phối hợp, không nói hai lời bước ngay một chân vào.

Hàn Uyên giống như sau đợt đại biến cóc vừa nãy đã tâm đầu ý hợp với nhị sư huynh mới quen biết, ra sức truy hỏi, Lý Quân "bất đắc dĩ", "từ chối đủ kiểu mà không được", rốt cuộc thì thào: "Ta từng xem một quyển sách, chép phong cảnh Phù Dao sơn chúng ta, nói dưới núi này trấn đại yêu, đêm sóc vọng – cũng chính là mùng một và mười lăm mỗi tháng – yêu khí của đại yêu và ánh trăng phối hợp với nhau, thanh khí và trọc khí trên núi khuấy động, sẽ tụ vào sơn huyệt, lúc này trong sơn huyệt ở hậu sơn, ngay cả phàm nhân chưa nhập môn cũng có thể có khí cảm."

Lý Quân đổi giọng: "Đương nhiên, chưởng môn sư phụ có lệnh, cấm chúng đệ tử mùng một và mười lăm mỗi tháng ra khỏi viện, sơn huyệt càng là cấm địa không thể đến."

Hàn Uyên nghe vậy hơi suy tư.

Lý Quân vờ vịt khuyên nhủ: "Các sư đệ mới nhập môn, có thể còn chưa bắt đầu đọc bảy bảy bốn mươi chín lần môn quy nhỉ? Trong đó viết rất rõ, tư chất tốt như tiểu sư đệ, nhất thiết phải tu hành tuần tự từng bước, rồi đến một ngày sẽ có khí cảm thôi, tội gì suốt ngày muốn đi đường tắt, vi phạm môn quy, phải chứ, tam sư đệ?"

Trình Tiềm ngoài cười trong không cười tiếp lời: "Nhị sư huynh nói đúng lắm!"

Lý Quân: "..."

Lý Quân nhìn Trình Tiềm từ trên xuống dưới một phen. Tam sư đệ không thích nói chuyện này giống như còn chưa tới tuổi phát triển chiều cao, vừa gầy vừa nhỏ, cúi đầu xuống là chẳng ai thấy mặt.

Lý Quân nhất thời không rõ lắm, tam sư đệ này rốt cuộc là tuổi nhỏ nhát gan, không giỏi ăn nói, hay là chỗ nên phát triển đã phát triển nhãn lực và lòng dạ hết rồi?

Câu phụ họa này của Trình Tiềm chặn họng khiến gã hơi tiến thoái lưỡng nan, Lý Quân miễn cưỡng nở nụ cười: "Tam sư đệ thật là thông minh."

Cách đó không xa, Nghiêm Tranh Minh nhận một bát nước mơ hoa quế do đạo đồng dâng cho, ngẩng đầu lên vừa vặn nhìn thấy màn này. Y luôn cảm thấy tiểu tử Lý Quân này tâm thuật bất chính, lúc gã nhe răng cười, y nhìn ra cả đống mưu mô trong đôi mắt đó.

Nghiêm Tranh Minh đột nhiên tâm huyết dâng trào, nghiêng đầu nói với đạo đồng: "Ngươi kêu tiểu... tiểu hài lùn nhất kia, ta lại quên mất rồi, tên là gì nhỉ?"

Đạo đồng lo lắng trả lời: "Đó là tam sư thúc Trình Tiềm ạ."

"A, chính là nó đó," Nghiêm Tranh Minh gật gật đầu, "Kêu nó chờ ta một lúc, chờ ta luyện xong phù chú, cứ nói là sư phụ bảo ta chỉ điểm kiếm pháp cho nó."

"Lúc bảo chỉ thì không thèm hé răng một tiếng, giờ lại giương cờ hiệu vi sư lên." Mộc Xuân chân nhân nghe vậy lề mề nghĩ bụng, nhưng đưa mắt nhìn Nghiêm Tranh Minh một cái, lại không hề mở miệng vạch trần – thiếu gia ở trên đỉnh núi rộng lớn đến bây giờ cũng rất tịch mịch, hiếm lắm mới có một đứa trẻ bầu bạn.

Đạo đồng chạy chầm chậm đến truyền lời, Trình Tiềm nghe xong không nói gì, chỉ nghĩ chắc đại sư huynh uống lộn thuốc rồi.

Hàn Uyên lại lưu luyến lẩm bẩm: "Ta còn muốn lát nữa đến chỗ ngươi chơi mà."

Trình Tiềm nhìn gã một cái, nghĩ bụng: "Ngươi nên bị nhị sư huynh kia chơi đi."

Nó thầm trào phúng như vậy, rồi điềm nhiên cáo biệt Lý Quân và Hàn Uyên, vâng lời lẳng lặng ở một bên chờ đợi – đương nhiên không phải để chờ Nghiêm thiếu gia chưa biết là sư huynh hay sư tỷ kia, mà kỳ thực Trình Tiềm rất tò mò về cái gọi là "phù chú".

Tiếc thay, nó nhanh chóng phát hiện, kẻ không có khí cảm sẽ chẳng cảm nhận được sự huyền diệu của phù chú – chí ít trong mắt nó, đại sư huynh nguyên một buổi trưa chẳng làm gì, chỉ ở trong tầm mắt sư phụ, cầm dao khắc đường thẳng trên khúc gỗ.

Thu hoạch duy nhất của Trình Tiềm chuyến này, chính là được thấy mặt nghiêm khắc của sư phụ lão nhân gia.

Đại sư huynh không ngoài dự liệu, là một cái gối thêu hoa không hơn không kém, mới ngồi một lát mà đã như mọc nhọt ở mông, lắc lư trái phải, đồng thời sai sử đám đạo đồng thị nữ chung quanh quay như chong chóng.

Y lúc thì chê búi tóc chặt quá, muốn chải lại, khi thì than người có mồ hôi, phải về thay quần áo, lúc lại đòi xuất cung(1), khi lại muốn uống nước... Nước bưng tới, không kêu lạnh thì sợ bỏng miệng, chê nọ chê kia, chẳng chịu ngồi yên.

Y còn thường xuyên thất thần, thường xuyên nhìn đông ngó tây, thường xuyên mắng thầm Lý Quân và Mộc Xuân, thỉnh thoảng hát thầm một khúc do bọn thị nữ mới biên, tâm tư dù thế nào cũng hoàn toàn không tập trung vào việc khắc gỗ.

Trình Tiềm tuy không hiểu gỗ thì có gì mà khắc, nhưng nhìn điệu bộ của đại sư huynh, vẫn hơi chướng mắt nghĩ bụng: "Lãn lư thượng ma."(2)

Mộc Xuân chân nhân sớm biết tên đệ tử không nên thân này sẽ làm trò như vậy, nên đã đặt một cái đồng hồ cát trên bàn Nghiêm Tranh Minh. Đây là một tiên bảo tinh xảo, chỉ cần nửa canh giờ là chảy hết, xong rồi thì việc luyện tập của Nghiêm Tranh Minh có thể kết thúc, nhưng chỉ cần y vừa thất thần thì cát sẽ lập tức ngưng trệ, đồng hồ cát nửa canh giờ có thể kéo dài tới khi trời tối.

Nghiêm Tranh Minh vốn tưởng rằng, ở phương diện "được chăng hay chớ" này, hai sư đồ có thể làm một đôi tri âm, nhưng hễ đến thời điểm luyện phù chú, là sư phụ đều khác hẳn bình thường, có phần không hợp tình hợp lý.

Mộc Xuân chân nhân từng nói, kỳ thực y có thể tính là lấy kiếm nhập đạo, người lấy kiếm nhập đạo đại đa tâm chí kiên định, nhưng cũng có ngoại lệ, như Nghiêm thiếu gia chẳng hạn, bởi vậy phải rèn luyện gấp bội, mới không đến mức bị phế.

Trình Tiềm ở bên nhìn một lúc, cảm thấy chẳng bổ ích gì, liền thu hồi tầm mắt, nhỏ giọng nhờ đạo đồng bên cạnh lấy giấy bút cho, bắt đầu bài học ngày hôm nay, trước viết môn quy, sau lại viết "Thanh tĩnh kinh" mà sư phụ đọc lúc sáng.

Mộc Xuân thấy thế, thần sắc nghiêm khắc rốt cuộc nhu hòa hơn, vẫy tay gọi: "Trình Tiềm lại đây, ở chỗ đó ngược sáng."

Nghiêm Tranh Minh chau mày, ngẩng đầu nhìn đôi mắt ti hí của sư phụ.

Giữa trưa mà làm gì có chỗ nào ngược sáng? Rõ ràng là sư phụ muốn khiến y mất mặt, để y thấy mình còn không kiên định bằng tên nhóc hạt tiêu này.

Nghiêm Tranh Minh nghiêng đầu liếc nhìn nét chữ của Trình Tiềm, nhất thời quên là mình muốn giữ nó lại, bất chấp lý lẽ mà giận cá chém thớt: "Dấu chân chó cũng còn ngay ngắn hơn."

Trình Tiềm dù sao cũng còn nhỏ, khôn ngoan có hạn, nghe vậy chẳng thèm ngẩng đầu phản kích luôn: "Đa tạ sư huynh dạy bảo, dấu chân chó ngay ngắn hơn cũng vô dụng, bởi vì súc sinh đó căn bản không ngồi được."

Nói xong nó còn ẩn ý liếc cái đồng hồ cát kia một cái, mà Nghiêm Tranh Minh thì tức sùi bọt mép phát hiện, cái đồng hồ đáng chết kia quả nhiên lại dừng nữa rồi.

Thời xưa trong khoa cử có đặt ra thẻ bài "xuất cung" và "nhập kính", tránh để sĩ tử tự ý rời khỏi vị trí. Sĩ tử trước khi đi nhà xí phải lấy thẻ bài này. Vì vậy tục xưng đi nhà xí là xuất cung. Xuất đại cung là đại tiện, tiểu cung là tiểu tiện.Nguyên văn là Lãn lư thượng ma thỉ niệu đa – con lừa lười nhác kéo cối xay lề mề mà chỉ giỏi ỉa đái. Đại ý là mắng lười.

Chương 10

Edit: Yển

Mộc Xuân chân nhân vốn tính rất hay – đại đồ đệ tuy nghĩ thoáng, nhưng tính tình xốc nổi, tiểu đồ đệ mặc dù có thể ngưng thần tĩnh tâm, lại chuyên để tâm vào chuyện vụn vặt, nếu hai đứa nhóc có thể dung hòa lẫn nhau, thì không thể tốt hơn nữa.

Đáng tiếc, xem ra còn chưa kịp trung hòa, thì cả hai đã muốn lao vào cấu xé nhau rồi.

Mộc Xuân chân nhân đành phải dùng bạo lực tách cả hai ra, lệnh cho đạo đồng dẫn Trình Tiềm luyện kiếm vã mồ hôi đi tắm rửa thay quần áo, rồi tập trung hỏa lực đối phó đại đồ đệ không dễ đối phó lắm, một lần nữa lải nhải "Thanh tĩnh kinh".

Sư phụ đọc kinh đã hoàn mỹ cho thấy "nghe nhìn không nổi" là thế nào, dùng diện mạo con chồn, chất giọng vịt đực, phá rối thành công làm cái đồng hồ cát trên bàn không hề nhúc nhích, khiến đại đệ tử khai sơn bực bội muốn cắn người.

Nghiêm Tranh Minh không nhịn được nữa, ném dao lên bàn, cả giận nói: "Sư phụ, người đang làm gì đây?"

Sư phụ chẳng buồn nhướng mí mắt, nói: "Đồ nhi, tâm con không tĩnh, vi sư niệm một đoạn Thanh tĩnh kinh để con thanh tâm."

Sư phụ đang dùng miệng đọc kinh khiến Nghiêm Tranh Minh khổ muốn chết, thì Trình Tiềm quay lại. Nghiêm Tranh Minh đang rất đau đầu, rốt cuộc tìm được cơ hội trút giận, y khịt mũi, phẫn nộ nói: "Các ngươi dùng đàn hương xông quần áo nó? Bệnh gì vầy? Mai muốn xuất gia làm hòa thượng hả?"

Đạo đồng khúm núm vâng dạ, không dám nói là do chính Trình Tiềm thích thế.

Nghiêm Tranh Minh quát đạo đồng: "Đổi thành phù dung..."

Tiếng Mộc Xuân chân nhân bên cạnh càng cao hơn: "... Cố thiên thanh địa trọc..."

Âm thanh kẽo cà kẽo kẹt như cưa gỗ, Nghiêm Tranh Minh quả thực phục rồi: "Sư phụ, tâm con có chỗ nào không tĩnh!"

Mộc Xuân hé mí mắt, tâm bình khí hòa nói: "Tâm không tĩnh mới bị ngoại vật quấy nhiễu, mới cố kỵ đàn hương phù dung hương gì đó. Chi bằng thế này đi, đừng coi tam sư đệ như lư hương nữa, để giúp con tu hành, hôm nay cứ để vi sư dọn đến Ôn Nhu hương, đọc kinh văn cả đêm cho con được không?"

Nghiêm Tranh Minh: "..."

Lão chồn này nghiện tụng kinh, về phương diện này tuyệt đối nói được làm được, để lão tụng nguyên đêm thì sống thế nào nổi?

Nghiêm Tranh Minh đành phải nén giận ngồi xuống, ngửi mùi đàn hương y như gỗ mục, hậm hực cầm dao khắc đường thẳng trên gỗ như tiên thi vậy.

Cái lư hương Trình Tiềm yên lặng ngồi xuống tiếp tục việc học, cảm thấy bên cạnh mình là một con thỏ cỡ bự đang xù lông nhím lên.

Sư phụ nói Hàn Uyên nóng nảy, nhưng không biết ai mới thật sự là nóng nảy, ít ra Hàn Uyên người ta chỉ tự mình nông nổi, vị này thì khác, còn phải gây họa cho hết mọi người xung quanh.

Trình Tiềm bắt đầu phát hiện điểm tốt khi mình ở cùng đại sư huynh – cao thấp hiện rõ.

Trình Tiềm mà nghiêm túc, thật sự có thể làm đến "không để ngoại vật quấy nhiễu". Nó so đối với môn quy trên tấm gỗ trong trí nhớ, cẩn thận dựng lên vách chắn, nhanh chóng chìm vào lạc thú của việc viết chữ, mà mùi đàn hương vấn vít xung quanh giống như cũng giúp an thần, nó dần quên mất đại sư huynh không hề có định lực ở bên cạnh.

Nghiêm Tranh Minh âm thầm giận dỗi, lại đòi ăn bánh ngọt, ăn xong thấy nghẹn, đành phải đứng dậy đi qua đi lại vài vòng trong đình.

Rất nhanh chóng, y phát hiện chẳng ai thèm để ý đến mình. Sư phụ ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, mắt nhìn mũi, mũi nhìn miệng, không hề nhúc nhích mà ngồi thiền, miệng còn rầm rì, vẫn đang chìm trong kinh văn ban nãy chưa chịu thôi; mà tên nhãi mới tới kia thì chỉ cắm cúi viết cái đám chữ thua cả heo chó, hệt như thêu hoa vậy, đầu cũng không ngẩng lên một lần nào.

Có hai người một già một trẻ này, bầu không khí trong đình yên tĩnh đến gần như ngưng trệ, ngay cả các đạo đồng đứng hầu bên cạnh cũng không nhịn được nín thở ngưng thần.

Sự yên tĩnh này khiến Nghiêm thiếu gia cảm thấy một chút vô vị xấu hổ. Y đành phải quay về trước cái đồng hồ cát, vô công rồi nghề ngồi đó ngẩn ra một hồi, sau đó lại cam chịu cầm dao lên, tiếp tục bài luyện tập ngày nào cũng như ngày nấy.

Lần này y lại không gây chuyện nữa, cho đến khi đồng hồ cát trên bàn đột nhiên phát ra một tiếng vang nhỏ, Nghiêm Tranh Minh mới chợt định thần lại, phát hiện thời gian học phù chú của hôm nay đã kết thúc trước giờ.

Mấy ngày kế tiếp đều là như vậy, sáng sớm, bốn tên buồn chán nghe sư phụ đọc kinh.

Chẳng biết sư phụ tìm đâu ra lắm kinh như vậy, mỗi ngày đọc một bộ, hầu như không lặp lại, đọc xong đạo kinh thì đọc phật kinh, hết phật kinh lại đến kinh tự biên, nội dung phong phú không gò bó, chưa từng bị môn phái hạn chế, thế nên thường xuyên tự mâu thuẫn.

Đọc kinh xong thì luyện mộc kiếm.

Nghiêm Tranh Minh quả nhiên không biết xấu hổ làm bộ như mình đã thấu hiểu ba thức trước, mới hiểu biết sơ sài đã đòi sư phụ dạy thức thứ tư, Lý Quân cũng bởi vì kiếm chiêu mới học mà bớt lại, không còn suốt ngày trêu chó ghẹo mèo trên đỉnh núi nữa, Trình Tiềm đương nhiên không cần phải nói, chỉ có Hàn Uyên còn đang kiên định kéo chân toàn thể, vô tâm vô phế phá hoại hết các ổ chim gần Truyền Đạo đường.

Buổi chiều Nghiêm Tranh Minh bị nhốt trong Truyền Đạo đường, lầm lũi khắc gỗ, Trình Tiềm thì ngồi bên tập viết, hoặc là giúp sư phụ cắt tỉa hoa cỏ. Sư phụ như cố ý muốn bù lại những yêu thương ngày bé mà nó chưa từng được nhận, luôn để cho nó ít quà vặt mà lũ trẻ cảm thấy hứng thú. Nhiều khi Nghiêm Tranh Minh đang bừng bừng căm hận khắc gỗ, ông còn cố ý dặn dò Trình Tiềm nghỉ ngơi một lát, kể cho nó nghe mấy câu chuyện dân gian lạ lùng nữa chứ.

Đôi lúc Nghiêm Tranh Minh cảm thấy tên lùn này chỉ đến giành sự cưng chiều thôi; song không thể phủ nhận, có Trình Tiềm ở bên cạnh, y cũng gần đèn thì rạng, có thể ngồi thêm một lúc.

Hôm nay, đồng hồ cát đã chảy hết, tay Nghiêm Tranh Minh cầm dao còn hơi tê, cả người ngây ra, mới ban nãy, y cảm giác được dao và gỗ ma sát nhau, sinh ra sức mạnh huyền diệu nào đó.

Một giọng nói hơi khàn vang lên bên tai: "Ngưng thần, dẫn khí nhập hải, Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản(1), tuần hoàn qua lại, tác dụng vô cùng..."

Trình Tiềm cực tinh mắt, không cần đợi sư phụ nói, đã tự động đứng dậy lui ra sau một bước, cùng lúc đó, nó cảm thấy một luồng khí khó tả xoay quanh thân giây lát, tiếp sau như sông lớn đổ ra biển, quy về người đại sư huynh.

Đó là lần đầu tiên nó chạm đến bí cảnh đầy áp lực của thế giới này. Trình Tiềm không biết lúc ấy Nghiêm Tranh Minh có cảm thụ gì, còn về phần mình, nó nghe thấy một thanh âm mơ mơ hồ hồ. Lúc này tịch dương đã ngả về bên kia Phù Dao sơn, trên ngọn núi tràn ngập linh khí này toàn là những tiếng vọng như muốn nói lại thôi, vô số người hội tụ vô số âm thanh, Trình Tiềm đột nhiên có cảm thụ kỳ quái, tựa hồ thoáng chốc ấy, là quá khứ xa xôi và tương lai mơ hồ cách muôn trùng thời gian thầm thì vào tai, mà khi nó liều mạng muốn nghe rõ, những tiếng nói ấy lại như cát chảy trong dòng năm tháng, nhanh nhẹn bỏ nó lại đằng sau.

Trình Tiềm cơ hồ ngây ra.

Đột nhiên, một bàn tay nắm lấy vai nó, Trình Tiềm như bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng kỳ quái, giật mình quay đầu lại, nhìn thấy Mộc Xuân chân nhân.

Mộc Xuân từ trên cao nhìn xuống, Trình Tiềm thấy mặt hơi lành lạnh, đưa tay chùi thử, mới phát hiện mình chẳng biết từ khi nào đã rơi lệ đầy mặt rồi.

Nó một mặt xấu hổ, một mặt lại không rõ nguyên do, đành phải mù mờ nhìn sư phụ.

"Ngũ sắc lệnh nhân mục manh, ngũ âm lệnh nhân nhĩ lung, ngũ vị lệnh nhân khẩu sảng.(2)" Thanh âm của Mộc Xuân chân nhân như ngưng tụ thành một sợi mảnh, chọc thẳng vào tai Trình Tiềm, "Gặp nhiều nghe nhiều suy nhiều nghĩ nhiều, con còn tu tự tại gì nữa? Tỉnh lại!"

Câu "tỉnh lại" ấy như một đòn cảnh cáo ngay vào đầu, "Uỳnh" một tiếng, Trình Tiềm choàng mở mắt ra, thấy đại sư huynh vẫn ngồi tại chỗ, tựa hồ nhập định rồi, trên bàn là một đống gỗ bị khắc lộn xộn.

Trình Tiềm ngơ ngác để Mộc Xuân chân nhân vê một lọn tóc, hỏi: "Sư phụ, con vừa mới nghe thấy có người nói chuyện..."

Mộc Xuân chân nhân đáp: "À, đó là liệt tổ liệt tông phái ta."

Trình Tiềm lấy làm kinh hãi.

Mộc Xuân chân nhân nói: "Phái ta truyền thừa đến nay đã hơn một ngàn năm, có một đám tổ tông thì có gì lạ đâu?"

Trình Tiềm: "Họ hiện giờ đang ở đâu?"

Mộc Xuân chân nhân nói: "Đương nhiên là chết hết rồi."

Trình Tiềm trợn tròn mắt: "Không phải là đắc đạo thăng thiên ạ?"

Mộc Xuân chân nhân cúi đầu, hiền từ nhìn nó, hỏi ngược lại: "Đắc đạo thăng thiên với chết, có gì khác biệt à?"

Trình Tiềm nói: "Đương nhiên là có khác biệt rồi. Không phải đắc đạo thăng thiên nghĩa là trường sinh bất tử ạ?"

Mộc Xuân chân nhân ngẩn người, lập tức như bị nó chọc cười, không trả lời trực tiếp, chỉ nói: "Con đấy... Bé hạt tiêu, nói gì mà chết hay không, những việc này chờ trưởng thành là con sẽ hiểu thôi."

Nói xong, ông đi vài bước, quay về chủ vị của Truyền Đạo đường, ngồi xuống, nhìn Nghiêm Tranh Minh đang nhập định, hơi nhíu mày sầu não, Trình Tiềm nghe ông lẩm bẩm: "Sao lại nhập định vào lúc này? Thật biết chọn thời gian mà, bữa tối phải đi đâu dùng đây?"

Trình Tiềm: "..."

Kết quả là cơm tối bị dọn vào Truyền Đạo đường dùng để "truyền đạo thụ nghiệp giải thích nghi hoặc", giữa phù chú và kinh văn rải rác, một con gà quay phơi trần ngọc thể, xung quanh là một đống rau dưa, cùng với một đại sư huynh đã nhập định không còn biết gì.

Mộc Xuân để Trình Tiềm ngồi bệt dưới đất với mình, như Hàn đại gia thôn bên, cưng chiều gắp cho nó một miếng thịt, còn lôi tờ giấy chẳng biết ai dùng sao kinh đến lót mặt bàn khắc phù chú, dặn: "Ăn nhiều vào để còn lớn – đây, nhả xương vào đây."

Trình Tiềm im lặng bưng bát cơm lên, cảm thấy về sau mình khó mà sinh ra mảy may kính sợ với Truyền Đạo đường này nữa.

Sau khi ăn xong, Mộc Xuân phải ở lại hộ pháp cho đại sư huynh. Ông dặn đạo đồng gói nửa cân bánh cho Trình Tiềm, tránh để nửa đêm nó đói. Hôm nay là mười lăm, ngày cấm vào sơn huyệt trong truyền thuyết, nhưng Mộc Xuân không hề dặn dò Trình Tiềm nhiều, tựa hồ nhận định là buổi tối nó sẽ ngoan ngoãn tập viết môn quy, không ra ngoài phá phách.

Trình Tiềm quả thật không đi đâu, nhưng không có nghĩa là người khác cũng thế.

Nó vừa quay về Thanh An cư thì Hàn Uyên đã chạy đến theo. Hàn Uyên vừa vào cửa, mới đầu ngạc nhiên một phen, sau đó thuận tay lấy mất gói bánh Trình Tiềm để trong viện, tấm tắc khen ngon mà ăn hết già nửa, bấy giờ mới phun vụn bánh nói: "Ngươi cả ngày ở với đại sư huynh thì có gì thú vị – còn không bằng đi theo chúng ta cho rồi. Nhị sư huynh đã dạy ta mấy chiêu, thức thứ nhất ta sắp học xong rồi đấy."

Trình Tiềm né vụn bánh như đại tuyết bay tán loạn, chỉ cười nhìn sư đệ ngu xuẩn này mà không nói gì, bụng nghĩ, giờ đã học xong thức thứ nhất, vài hôm nữa chắc phải lên trời được rồi.

Hàn Uyên lại chỉ trỏ tiểu viện của Trình Tiềm: "Chỗ ngươi ở tồi tàn quá, chỉ khá hơn chỗ sư phụ chút thôi. Ngày mai ngươi qua xem thử viện của ta đi, bên đó lớn gấp chục lần nơi này, đằng sau còn có một hồ nước to, mùa hè có thể nhảy xuống bơi lội – ngươi biết bơi không? Ôi, thôi quên đi, đám con nít nuôi trong nhà như các ngươi chẳng đứa nào dám ra ngoài, nói chi đến xuống nước, sau này ta dạy ngươi, cam đoan một mùa hè là biến thành Lãng Lý Bạch Điều liền."(3)

Đối với hảo ý như vậy, Trình Tiềm thực sự kính tạ bất mẫn, nó quả thật không muốn nhập bọn với hạng cặn bã như Hàn Uyên.

Tiểu khiếu hóa lợi dụng thời gian nói nhăng nói cuội để ăn hết số bánh Trình Tiềm mang về, rốt cuộc dừng cuộc tán dóc vô nghĩa mà đi vào chủ đề.

Gã ợ một cái, ngồi thẳng lại, hạ giọng hỏi: "Ngươi còn nhớ nhị sư huynh từng nói... chuyện sơn huyệt chứ?"

Trình Tiềm sớm đoán được gã sẽ nói chuyện này, vì thế chẳng mảy may giật mình, đáp: "Sư đệ, làm thế là vi phạm môn quy – đệ đã học gần xong kiếm pháp bản môn, vậy chữ trên môn quy cũng biết hết luôn rồi à?"

Hàn Uyên cảm thấy sư huynh còn nhỏ hơn mình có phần bất chấp lý lẽ, liền tràn trề cảm giác ưu việt, giáo huấn: "Học môn quy thì ích gì? Ta thật chưa từng gặp ai cố chấp hơn ngươi! Ngươi không nghe nhị sư huynh nói à, không có khí cảm, thì học xong nguyên bộ kiếm pháp cũng chỉ lên đồng được thôi! Lề mề từng bước một thì phải đến bao giờ? Làm người không thể quá bảo bảo... bảo cái đó."

Trình Tiềm: "Bảo thủ lề thói cũ."

Hàn Uyên xua tay: "Thích bảo cái gì thì kệ, tóm lại ta muốn đến sơn huyệt, ngươi đi không?"

Trình Tiềm trưng vẻ mặt "trung hậu thành thật" cho Hàn Uyên nhìn, nói: "Ta không dám đâu."

Nó từ chối ngay không thèm suy nghĩ, Hàn Uyên thoạt đầu thất vọng, ngay lập tức lại hơi khinh thường – nhóc con đầu óc đơn giản tứ chi phát triển như thế này, thông thường đều không ưa nổi trẻ "ngoan" luôn "vâng vâng dạ dạ", chỉ biết làm từng bước như Trình Tiềm.

"Đúng là nuôi trong nhà." Hàn Uyên cạo cao răng, mất hứng nhìn Trình Tiềm một cái.

Về phần Trình Tiềm, thì hoàn toàn coi sư đệ là một con chó ghẻ trí lực đáng ngại, cảm thấy hết thảy yêu hận tình thù với tên này đều lãng phí cả, vì thế không hề tỏ thái độ, bưng chén trà lên.

Hàn Uyên nhìn nó thêm hai cái, nể gói kẹo hạt thông hôm trước, dần không còn nóng giận nữa, ôm một chút thương hại khi "Ai kì bất hạnh, nộ kì bất tranh(4)", và một bầu cao cao tại thượng của chó hoang khi gặp mèo nhà, lại nhìn Trình Tiềm lắc đầu thở than: "Trẻ con ru rú trong nhà, đều bằng gốm cả."

Buổi chiều ở Truyền Đạo đường, Trình Tiềm đã cảm giác được linh tính và huyền cơ ẩn tàng của ngọn núi này, đồng thời, nó cũng biết cách nghĩ của Lý Quân, chắc chắn là Lý Quân tò mò mùng một và mười lăm chỗ sơn huyệt có cái gì, lại không chịu tự mình mạo hiểm vi phạm môn quy, đại khái đã sớm lên kế hoạch tìm kẻ chết thay rồi.

Hàn Uyên ăn chực bữa khuya chỗ Trình Tiềm, tuy không thuyết phục được người ta, cũng không định trắng tay quay về. Trình Tiềm "bằng gốm" nho nhã lễ độ tiễn Hàn Uyên đến cửa, nhìn gã rời khỏi, chờ xem kết cục của tên oan đại đầu này.

"Vi phạm môn quy sẽ bị xử thế nào đây?" Trình Tiềm thờ ơ thầm nghĩ, "Ăn gậy? Khẻ tay? Chép kinh – nếu như chép kinh thì cũng chẳng có gì đáng lo."

Nhưng nó không ngờ, mãi đến ngày hôm sau mà Hàn Uyên vẫn chưa về.

1. Câu này trích trong Đạo Đức Kinh, chương 25 – Tượng Nguyên. Xin phép trích dẫn cả đoạn và bản dịch của Nhân tử Nguyễn Văn Thọ:

Phiên âm: Hữu vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kỳ danh; tự chi viết Đạo, cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản. Cố Đạo đại, thiên đại, địa đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kỳ nhất yên. Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp Đạo, Đạo pháp tự nhiên.

Dịch xuôi: Có một vật hỗn độn mà nên, sinh trước trời đất; yên lặng, trống không; đứng một mình mà chẳng thay; đi khắp nơi mà không mỏi. Có thể làm mẹ thiên hạ. Ta không biết tên, đặt tên chữ đó là Đạo. Gượng gọi tên đó là Lớn. Lớn là đi, đi là xa, xa là trở lại. Cho nên Đạo lớn, Trời lớn, Đất lớn. Người cũng lớn. Trong đời có bốn thứ lớn, mà Người là một. Người bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời; Trời bắt chước Đạo; Đạo bắt chước tự nhiên.

2. Năm màu khiến người mù mắt. Năm giọng khiến người điếc tai. Năm mùi khiến người tê lưỡi. – Trích trong Đạo Đức Kinh, Nguyễn Duy Cần dịch.

3. Lãng Lý Bạch Điều (một đường trắng giữa sóng nước) là ngoại hiệu của Trương Thuận trong Thủy Hử.

Trương Thuận da thịt trắng như tuyết, có thể nấp dưới đáy nước bảy ngày bảy đêm, bơi lội giỏi như cá, hệt như một đường màu trắng lướt qua, bởi vậy mới có biệt hiệu này. Thực ra bạch điều còn là tên gọi khác của loài cá xán điều, phía bụng loài cá này có màu trắng bạc, khi lên mặt nước phản xạ ánh mặt trời sẽ lóng lánh sắc trắng, chúng rất thích vọt lên mặt nước và cũng nhảy rất giỏi, nên còn có bản gọi Trương Thuận là Lãng Lý Bạch Khiêu.

Ở đây tác giả còn chơi chữ nữa, câu trên Hàn Uyên vừa nói sẽ thành Lãng Lý Bạch Điều – một đường trắng giữa sóng nước, câu dưới Trình Tiềm lại nghĩ bụng không muốn nhất khởi lãng – nhập bọn chơi chung.

4. Ai kì bất hạnh, nộ kì bất tranh: gặp cảnh bất hạnh mà buồn thay, thấy không chống lại mà giận thay. Câu này của Lỗ Tấn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro